<經 id="n1791">CHÚ ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG GIÀ KINH HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1791 CHÚ ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ KINH Sa-môn Bảo Thần ở Đông Đô soạn. <卷>QUYỂN 1 <詞>Phẩm 1: BÀI TỰA Lời tựa: Ngài Đạt-ma từ Tây trúc đến Đông Độ truyền giáo vốn không lập văn tự, trao truyền Kinh Lăng-già để ấn truyền tâm tông của Phật. Tuy trong chốn tòng lâm giai thoại này rất thịnh hành. Nhưng các thiền tăng vẫn còn mơ hồ. Ở đất Việt có Đại đức Thật-xoa-nan-đà xuất hiện vào khoảng niên hiệu Cửu Thị đời Lý Đường, Ngài nghiên cứu kỹ và tóm thâu phẩm đề đến ba phen, chứng minh đầy đủ diệu lý của một kinh, cách thức giống như các bộ trước đã dịch, văn diễn giải thông suốt mà nghóa thì rõ ràng sáng sủa, để lại cho người đời sau, không nhọc sức mà công đức nhiều gấp bội. Lúc bấy giờ cho là rất đầy đủ, chưa thấy có người nào giải thích văn nghóa, Bảo Thần liền gom góp tất cả các bộ sách chú giải, đổi thành bảy quyển thành tân thuyết, thêm vào những chỗ thiếu sót, tra xét so sánh kỹ những chỗ nghi lầm, chính vì cố gắng chuyên cần, dám bắt chước những bậc kỳ tài tự soạn, mong sao người học đạo hết lòng xem đọc bộ kinh này. Bài tựa kinh Đại thừa Nhập Lăng-già bản tân dịch. Thiên San Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế soạn. Phần mở đầu: Bởi nghe trên đảnh núi Ma-la vừa cao vừa rất trang nghiêm. Trong thành Lăng-già thật khó đến khó vào. Đầu tiên Đức Phật tuyên dương giáo pháp rộng khắp, trải qua chỗ các bậc Thánh tu hành, vì vậy có vị chủ thành hiệu là La-bà-na. Nương cung điện để yết kiến tôn nhan, hòa tấu âm nhạc mà cầu pháp mầu. Nhân núi cao để tiểu biểu sự hưng thịnh, chỉ kho tàng Phật giáo như biển để nói về tông môn. Cái gọi là kinh Nhập Lăng-già. Đây là then chốt mầu nhiệm của tâm lương các Đức Phật, ổ khóa mầu nhiệm của các kinh, rộng ví dụ ý chí sâu xa tuyệt diệu, nghóa thông suốt sâu xa, bất sinh bất diệt, chẳng phải hữu chẳng phải vô, bặt dứt hai đường đến đi, lìa hai chấp đoạn thường, là Đệ nhất nghóa đế, được châu báu nhiệm mầu cao quý. Thể của các pháp đều không, biết cảnh trước như huyễn, lẫn lộn giả danh phân biệt, bình đẳng sinh tử và Niết-bàn Ban đầu, Đại Tuệ bày tỏ đều thắc mắc, ý chỉ của Pháp vương do đó mà phát khởi trăm lẽ tám nghóa, ứng hợp thật tướng mà lìa thế gian. Ba mươi chín môn, phá tà kiến mà giảng nói chánh pháp, hiểu rõ danh tướng đều là giả, dứt bỏ sự mê chấp vọng tưởng, nương chánh trí để hiểu rõ như như, ngộ duyên khởi mà quay về lý mầu,, gió cảnh đã dứt, sóng thức mới vắng lặng, ba tự tánh đều không, ngã chấp pháp chấp đều diệt, nhập Như lai Tạng, dạo chơi trong cửa giải thoát. Nguyên văn của kinh này từ Tây Quốc đến. Đến niên hiệu Kiến Nguyên có ngài Bạt-đà-la dịch, nhưng chưa được truyền bá rộng rãi (bản dịch bốn quyển đầu đời Lưu Tống). Vào thời Hậu ngụy tiếp theo có bản dịch mười quyển) do ngài Lưu chi dịch, nghóa phần nhiều lẫn lộn. Vua kính trọng giao phó, lòng tha thiết làm sao cho Phật giáo hưng thịnh. Vào năm Canh tý, niên hiệu Cửu Thị năm đầu, Lâm Chung Kỷ Luật Viêm Đế Ty Thần bấy giờ tránh nắng, ngắm cảnh trong cung ở Tam Dương thuộc Dónh Thủy, lại đưa ra kinh này, giải thích bản thứ ba thành liễu gió bảy quyển, do Tam Tạng Sa-môn Đại Đức Thật-xoa- na-đà là vị tăng nước Vu-điền dịch, tăng phục lễ chùa Đại Phúc Tiên… và còn có tên là Truy An Viễn, đức khế hợp hương thơm tỏa khắp, noi theo đức hạnh và phương pháp của ngài Long Thọ, tham cứu nơi lưu trữ công văn bí mật của ngài Mã Minh, giới hương và giác hoa nở thơm bát ngát, ngọc như ý cùng với tánh mặt trăng đồng tròn đầy, cho nên có khả năng thộng đạt sự mầu nhiệm, phát huy nghóa lý sâu xa. Ngày mười lăm tháng giêng niên hiệu trường Thần An năm thứ tư, viết chép bày tỏ xong, tự cho mình là nhỏ nhen đơn bạc, nói tạ từ Ngọc Khuê chương, nhìn bốn biện mà thường hổ thẹn, xem nhất thừa mà không lường được, khó mà trái với thế tục, văn chương hội họa gượng gạo, lời vụng về lý trái ngược càng thêm hổ thẹn. Chịu khuất phục bởi kinh này nhiệm mầu rất là ít có, phá tan sự tối tăm mê muội, câu truyền đăng không cùng tận, công diễn bày trôi chảy, nghóa tuôn trào lưu loát vô tận, đề mục phẩm thứ lớp nêu ở đoạn sau: Giải thích đề kinh: Kinh Đại thừa Nhập Lăng-già, dề mục nêu lên nơi chốn nói kinh, nói Lăng-già, Hán dịch là “Nan Vãng”. Nghóa là do các báu hợp thành, ánh sáng ắt cả mặt trăng, mặt trời, giữa hư không nơi ở của Dạ-xoa. Thành này ở trên đảnh núi Ma-la, núi ấy cao chót vót, dưới thấu suốt cả biển lớn, bên cạnh không có cửa. Người nào có thần thông mới lên đó được, đây chính là để tiêu biểu pháp môn tâm địa, người vô tâm vô chứng mới vào được. Dưới thấu suốt cả biển lớn, là tiêu biểu biển tâm vốn tự thanh tịnh. Do cảnh gió di chuyển mà sóng thức lay động, muốn hiểu rõ cảnh tâm vốn không thì biển cũng tự vắng lặng, tâm cảnh đều vắng lặng thì chẳng có gì mà không chiếu soi, cũng như biển lớn không có gió thì mặt trời, mặt trăng, sum-la muôn tượng sáng sủa rực rỡ. Kinh này chỉ thẳng cho bậc Thượng căn, đốn thuyết hạt giống nghiệp thức thành Như lai Tạng, khác với người hai thừa diệt thức hướng đến sự vắng lặng, cũng khác hẳn với hàng Quyền giáo Bồ-tát tu không, chẳng tăng thêm sự cao siêu, nêu rõ thức thể bổn tánh hoàn toàn chân thật, bèn nói rõ thức thể tức thành trí dụng, như biển lớn kia không có gió thì cảnh tượng càng sáng rõ. Pháp môn biển tâm cũng giống như vậy. Kinh: Tiếng Phạm là Tu-đa-la, Hán dịch là Khế Kinh. Khế: Nghóa là khế pháp , khế cơ. Nếu chỉ khế pháp thì pháp không ứng hợp với căn cơ, còn chỉ khế cơ thì căn cơ không thông dạt đến pháp. Kinh gọi là Thường, lấy sự quán nhiếp làm nghóa, nêu rõ các điều mà các bậc Thánh xưa này đã nói như vậy, nên nói là Thường, giữ gìn đế lý mà không quên mất cho nên gọi là Quán. Quán các chúng sinh mà giáo hóa nên gọi là Nhiếp. Lại nói rằng như dệt sợi dọc, sợi ngang mà thành, đều là do người. Nói về người dịch: Ngài Tam Tạng Thật-xoa-nan-đà người nước Vu-điền đời Đường dịch. Xét rằng đời Đường ngài Thật-xoa-nan-đà dịch tại chùa Kỉnh Ái, Sa-môn Trí Nghiêm chú giải. Đây là bản kinh dịch vào thời Lưu Tống. Bài tựa đầu kinh nói rằng: Bản tiếng Phạm rộng lược gồm có ba bản: bản rộng nhất có mười muôn bài tụng; bản kế đó có ba muôn sáu ngàn bài tụng; bản tóm lược có bốn ngàn bài tụng. Ở trung quốc tính trước sau có đến bốn bản dịch, đều là tóm lược văn của bốn ngàn bài, có một bản bị thất lạc đã lâu, trong Đại tạng hiện còn có ba bản. Vào niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười hai đời Lưu Tống ở Thiên Trúc có Tam Tạng Cầu-na-bạt-đà-la, chùa thảo đường Kim Lăng dịch thành bốn quyển, chỉ có một phẩm sau văn chưa đầy đủ, đề tên là: Kinh Lăng-già A- bạt-đa-la Bảo (ở trong hòm chữ thân). Bản thứ hai vào niên hiệu Kiến Xương thứ hai Tam Tạng Bồ-đề-lưu-chi đời Hậu Ngụy dịch tại nhà ông Nhữ Nam Vương ở Lạc Dương, và chùa Kim Hoa ở Nghiệp Độ cùng bổ sung vào văn thiếu sót, gồm ba phẩm kinh dịch thành mười quyển, chia làm mười tám phẩm, tựa đề là Kinh Nhập Lăng-già (ở trong hòm chữ Phát). Bản dịch thứ ba vào đầu niên hiệu Cửu Thị đời Đường Tam Tạng Thật-xoa-nan-đà người nước Vu-điền, Sa-môn Phục lễ v.v… đã dịch xong Hoa Nghiêm Tân Kinh (tám mươi quyển), nhưng thấy hai bản dịch trước của kinh này rườm rà tóm lược chưa được thuần thục, ý muốn sửa chữa để lưu thông rộng khắp, lại vâng chiếu dịch lại. Bèn ở chốn núi cao giữa chốn hoang vắng, hội đủ ba bản văn (hai bản trên và bản tiếng Phạn) làm thành bảy quyển, gồm mười phẩm, tựa đề là kinh Đại thừa Nhập Lăng-già, cho nên vua ngự chế bài tựa rằng: Vào niên hiệu Kiến Nguyên bản dịch của Bạt-đà chưa truyền bá rộng rãi, vào niên hiệu Diên Xương, nghóa bản dịch của ngài Lưu-chi có nhiều sai sót. Nay bản chú thích này, là giải thích bản dịch đời Đường, vì bản dịch của ngài Lưu-chi dịch hơn tám phẩm đề, như thứ lớp xen vào chú văn, trong kinh cũng thành mười tám phẩm, để biết văn có đầu có đuôi, lý không hai, giúp cho người đọc dễ hiểu. Có chỗ nói người học cho rằng các bản dịch quá xa vời chỉ có bản bốn quyển là rõ ràng hơn bản dịch bảy quyển, bản bốn quyển dễ hiểu hơn. Đặc biệt không biết bản kinh dịch đầu tiên văn tự giản cổ văn, đầu đuôi thiếu, các vị học giả học rộng đức lớn, còn khó khăn đối với câu đọc, dẫn lời tựa và lời bạt tự có văn rõ ràng (Tô Đông Pha vốn thông minh vì Trương Văn Định Công viết. Bản kinh này bốn quyển, tự soạn lời bạt rằng: nghóa Lăng-nghiêm ý thú sâu mầu, văn tự giản cổ, người đọc có khi không thể chấm câu. Tương Dónh Thúc soạn bài tựa đầu cũng nói rằng: Kinh Lăng-già kỳ lạ khác thường khó đọc, thì người khác rất dễ hiểu). Kinh này tham đồng ba bản cú nghóa của kinh toàn rõ ràng, thử phát tâm đọc thì biết suy nghó quá phân nửa. Chánh thức vào chánh văn: Phẩm thứ nhất: La-bà-na Vương khuyến thỉnh. Bắt đầu từ đoạn dưới chính là giải thích nghóa văn kinh. Chia làm ba đoạn: Tựa, Chánh văn và Lưu thông. Phẩm này là phần Tựa. Bắt đầu từ phẩm vấn đáp đến phần gần cuối là phần trùng tụng gồm có mười bảy phẩm, gọi là phần Chánh tông. Một bài tụng cuối cùng gọi là phần Lưu thông. Đầu tiên là bản bốn quyển, một phẩm kinh này hoàn toàn thiếu, ban đầu có riêng hơn sáu hàng văn để làm bài tựa sơ lược. Nói Na-bà-la chưa thấy Chánh dịch, cũng tức là vua Dạ-xoa. Khuyến thỉnh Như lai vào trong núi báu nói về pháp tự chứng. Lại thỉnh Bồ-tát Đại Tuệ làm người đầu tiên thưa hỏi, cho nên nói khuyến thỉnh. Nói “Phẩm”: là nghóa cùng giống nhau gom trong một đoạn, nên gọi là “phẩm”. Kinh này gồm bốn ngàn bài tụng, có mười tám phẩm. Đây là phẩm đầu nên gọi là “đệ nhất”. Sáu thứ thành tựu: “Tôi nghe như vầy, là nêu lên pháp thể được nghe. Tức là nghóa của một bộ kinh như vậy, ngày xưa tôi đích thân được nghe Đức Phật nói, cho nên luận Phật Địa chép: Người truyền bá Phật giáo nói việc như vậy, ngày xưa tôi có nghe. Đây là tổng hợp giải thích tin nghe. Nếu thích riêng ra thì nói như thị là tín thành tựu. Luận Trí Độ chép: Phật pháp như biển lớn, tín thì vào được, trí là năng độ. Kinh không bắt buộc, nhưng nếu chẳng có lòng tin thì không bước vào được, nên nói là như vầy. Có chỗ nói rằng: Bậc Thánh nói pháp chỉ vì hiển rõ chữ Như, chỉ có như là thị. Lại nói rằng: Như là lời đúng lý, trí là lời vô phi. Ở đây thì nói: Như là chân không, thị là diệu hữu. Đã không có chân ngoài hữu, không mà chẳng dứt bỏ, không có tục ngoài chân, hữu mà chẳng thường, tức là đối trị phá quyền tông, tà tông, để hiển rõ Trung đạo. Cho nên nói rằng Như vầy. Tôi nghe: là văn thành tựu. Muốn truyền cho người chưa nghe, nếu có lời mà không truyền tức là lập suông, không ở năng thuyết, quý ở chỗ năng truyền, cho nên kế là nói tôi nghe. Tôi: là chỉ cho ngài Văn-thù, A-nan. Năm uẩn là giả danh thì vì sao nói là tôi (ngã)? Ngã có bốn nghóa: 1.Phàm phu chấp khắp; 2.Ngoại đạo tông chấp; 3.Các bậc Thánh thuận theo thế tục giả danh phân chia khách chủ; 4. Pháp thân chân ngã. Ở đây là hai thứ ngã sau, không có hai thứ chấp ngã của phàm phu, ngoại đạo ở trước. Ngã đã vô ngã, nghe cũng không nghe. Vì từ duyên không nên chẳng hoại giả danh, tức không nghe mà nghe như vậy. Nếu y theo tông chỉ của kinh này thì Bồ-tát truyền pháp lấy ngã, vô ngã làm chân ngã không hai, là pháp môn nghe chân tục không ngăn ngại. “Một thuở nọ Đức Phật”: Một thuở nọ là thời thành tựu. Thời: Cũng tùy theo thế tục giả danh lập ra thời phần. “Một”: là phân biệt khác với thời (khác). Đức Như lai nói kinh thì có vô lượng thời không thể nêu lên đầy đủ. Một là nói chung đại khái, cho nên nói một thuở nọ, tức là lúc đấng Pháp vương chỉ bảo, giảng dạy trong hội lớn. “Phật” là chủ thành tựu. Tiếng Phạm gọi Phật-đà, Hán dịch là Giác, nghóa là tự giác, giác tha, giác hạnh tròn đầy. Luận Khởi Tín chép: Có chỗ nói, giác, nghóa là tâm thể lìa niệm, tướng lìa niệm ấy đồng với cõi hư không, chẳng nơi nào mà không trùm khắp. Pháp giới một tướng, tức là pháp thân bình đẳng của Như lai, cho nên vô niệm gọi là giác, nhưng có ba nghóa: 1. Tự giác: giác biết tự tâm vốn vô sinh diệt. 2. Giác tha: giác biết tất cả pháp không có pháp nào chẳng là Như. 3.Giác mãn: mình và người lý viên, gọi là mãn, cho nên biết rằng có niệm thì không gọi là Giác. Luận Khởi Tín chép: Tất cả chúng sinh không gọi là giác, vì từ vô thỉ đến nay niệm niệm nối nhau, không hề lìa niệm. Lại nói rằng: Nếu có chúng sinh giác được vô niệm, thì hướng về trí Phật. Trụ ở trong thành Lăng-già trên đảnh núi Tân-ma-la giữa biển lớn. Đây là xứ thành tựu. Chân thân không ở đâu mà không đâu chẳng ở, cho nên kế là nói về chân thân. Nói trên đảnh núi Tân-ma-la giữa biển lớn là nêu chung về nơi chốn. Núi này ở giữa biển lớn, cao năm trăm do-tuần, nếu người không có thần thông thì không thể lên đến đó được. Lăng-già: là nêu riêng lên nơi nhóm họp đông người, Hán dịch là Nan Vãng, nghóa thấy như đề kinh ở trước. Nói Trung: Đức Phật ưa thích Trung đạo, bay lên giữa hư không, giáng xuống ngay giữa nước, trong đêm nhập diệt, đều tiêu biểu lý cho Trung Đạo, nay ở trong thành nói pháp Trung đạo mà Ngài tự chứng. Cùng chúng đại Tỳ-kheo và chúng Đại Bồ-tát: là chúng thành tựu. Từ quán Giả nhập vào quán Không, khắp phá sinh tử, tức trước hết nêu hàng Thanh văn. Từ quán Không nhập và quán Giả, khắp phá Niết- bàn, tức sau cùng nêu các Bồ-tát. Hai bên đã lìa thì lý Trung đạo tự hiển hiện. Đại Tỳ-kheo: nói đủ có năm nghóa: 1. Bố ma; 2. Khất só; 3.Phá ác; 4.Tịnh mạng; 5.Danh tự tăng. Đại Bồ-tát: nói đủ là Bồ-đề Tát-đỏa. Bồ-đề: Hán dịch là Giác, tức quả Phật sở cầu. Tát-đỏa: Hán dịch là hữu tình, chúng sinh được hóa độ. Lại nói đây là hữu tình cầu Bồ-đề. Cùng: là một thời gian một nơi chốn. Đây là sáu nghóa thành tựu tròn đầy, ba sự nghi ngờ chóng dứt. Nói về chúng nghe kinh: Từ câu “các vị Đại Bồ-tát kia đều đã thông đạt xa lìa…” cho đến “là những vị đứng đầu”. Đây là khen ngợi công đức của Bồ-tát. Ma-ha là Đại. Nói năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã, đó là bốn pháp nhiệm mầu, gồm thâu tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian. Đoạn dưới là phần chánh tông, sẽ nói đầy đủ rõ ràng nghóa này. Thảy đều đã thông đạt: nói các vị Bồ-tát đều đã thông đạt rốt ráo pháp vô ngại này. Nghóa khéo biết cảnh giới do tâm hiển hiện; nghóa là cảnh giới, y báo, chánh báo, mê ngộ sinh tử trong ba cõi chỉ do tự tâm hiện. Các vị Bồ-tát khéo biết như thật rõ ràng, không từ bên ngoài mà được. Các năng lực du hí vô lượng thần thông tam-muội tự tại: nghóa là du hí tự tâm sở hiện vô lượng giải thoát tự tại, tam-muội chánh thọ, sáu thông mười lực. Nói du hí là gì? Nghóa là đã được vô lượng tự tại, vừa thần vừa thông, quên mình vì chúng sinh, kia đây không dính mắc, thì chỗ nào cũng đều có sự an vui, nên nói là du hí. Tùy tâm chúng sinh hiện các thứ thân phương tiện điều phục, nghóa là tùy tâm chúng sinh, tức là trong tự tâm hiện ra cảnh giới, chúng sinh đã khác nhau, tâm sắc cũng khác nhau, tùy loại thị hiện, phương tiện điều phục. Tất cả các Đức Phật đều dùng tay rưới nước trên đảnh đầu các vị ấy, đây là do các vị ấy tu hành đã chứng đến địa thứ mười, được Phật quán đảnh thêm mà được vào địa vị tôn quý, đều từ các cõi nước của các Đức Phật mà đến trong hội này. Bồ-tát Đại Tuệ là người đứng đầu trong hội đó: nghóa là vị Bồ-tát này có đức độ, thần thông rộng lớn từ cõi khác đến, vì là vị Bồ-tát đứng đầu trí tuệ rộng lớn, nên gọi là Đại Tuệ, trên đây nói chung lời tựa chứng tín đã xong. Nơi chốn Phật nói kinh: Từ câu “bấy giờ, Đức Thế Tôn ở cung vua rồng biển nói pháp…” cho đến “mở bày pháp này”. Từ đây đến cuối phẩm là nói riêng về tựa phát khởi. Nói Thế Tôn: Nghóa là đầy đủ chín hiệu Như lai ở trên, được người thế gian tôn kính. Phạm: là Phạm Vương cõi Sắc, giải thích tức là Đế-thích. Đứng đầu cõi Dục che chở thế gian gọi là Tứ Thiên Vương. Các trời, rồng v.v… tức tám bộ trời rồng. Như lai tức các pháp như nghóa. Ứng chánh đẳng giác: Nghóa là chánh giác tức tự tâm như lý trí, khéo quán chân đế. Đẳng giác: Tức tự tâm như lượng trí, quán khắp tục đế. Đây gọi là Phật Phật Tổ Tổ, chỉ dùng một niệm tự tâm soi chân đạt tục, thành Vô thượng giác, cho nên nói xưa các Đức Như lai Ứng chánh đẳng giác. Các nghóa khác lời văn rất dễ hiểu. Dạ-xoa vương thỉnh Phật: Từ câu “bấy giờ, La-bà-na Dạ-xoa vương cho đến trong đêm dài được lợi ích lớn”. Là Nói Dạ-xoa vương nương oai thần Phật, thấy sóng biển không thể hiện tượng, quán sát chúng hội kia. Biểu tánh Như lai tàng thức chân như, cũng giống như vậy. Vì ở trong cảnh giới vô minh bị gió thổi động sinh ra sóng thức, không thể phát hiện vô biên đức dụng, liền khởi tâm vui mừng, nên đến thỉnh Phật vào trong thành này để giảng nói việc ấy, giúp cho các chúng sinh dừng gió vô minh, sóng thức không dậy, biển tâm vắng lặng thì chẳng đức nào mà không hiển bày. Từ câu “nói như vậy rồi liền cùng quyến thuộc cho đến ở trong đó nói kệ mà khen ngợi Phật rằng: Tâm tự tánh pháp tạng vô ngã lìa kiến chấp cấu uế cho đến nhất tâm nguyện nghe pháp: Báu Đại thanh nhân- đà-la bảo, bao trùm các vật tượng, đối liền biến ứng”. Nhạc khí mà Dạ- xoa này cầm đều là báu này, nhưng lại xen lẫn bằng cấc thứ báu như lưu ly, v.v… quấn bên trong bằng lực thượng vô giá. Âm thanh rất hay, âm điệu hòa vào nhau, trong âm điệu ấy nói ra ba bài kệ khen ngợi Phật. Ba câu trên của bài kệ đầu khen ngợi chân tâm tự tánh đã chứng, các pháp tạng này từ xưa đến nay, đầy đủ vô lượng tánh công đức, không có hai thứ ngã chấp, lìa nhơ năm kiến chấp, chỉ có Phật và Phật mới chứng biết. Một bài kệ thứ hai là khen ngợi thỉnh Phật vào thành, ba câu trên như thứ lớp khen ngợi ba thân. Một câu thứ tư là chính thức mời thỉnh. Một câu của bài kệ thứ ba là kể lại ngày xưa Đức Phật và các Bồ-tát đều có ở trong thành này, Đức Thế Tôn cũng nên như vậy, chúng con nguyện nghe pháp. Dạ-xoa vương nói kệ: Từ câu “bấy giờ, La-bà-na Lăng-già vương cho đến dùng tiếng ca mà nói kệ rằng: Thế Tôn ở trong biển Ma-kiệt bảy ngày cho đến nguyện xin thương xót nạp thọ: Lúc bấy giờ, La-bà-na vương, trên dùng âm nhạc khen ngợi thỉnh Phật, ở đây lại dùng âm thanh ca hát nói kệ thỉnh Phật, là tiêu biểu cho hữu tình và vô tình đồng nhau”. Đối trước Phật xưng tên mình, con là La-sát vương La-bà-na mười đầu, nghóa là vua loài La-sát, tiêu biểu cho các chúng sinh căn bản vô minh lang chủ. Mười đầu tiêu biểu cho mười sử lợi độn do vô minh sinh ra, đây là đầu mối của tất cả trần lao phiền não. Cúi mong Phật nhiếp thọ con và tất cả chúng sinh, cung điện thể nữ của con, cho đến đích thân cung cấp hầu hạ, cúi xin thương xót nạp thọ v.v… Như trong kinh có nói. Đại ý nói lên có khả năng thấu đạt thật tánh vô minh, tức là Phật tánh. Trần lao trong ngoài, tất cả phiền não tự nhiên thuận theo chánh biến tri giác, cho nên nói cung cấp hầu hạ nạp thọ. Nói dùng âm thanh Đô-tra-ca và Dụ-sa- thích-na ấy, chưa thấy chính dịch. Ma-ha-diễn, Hán dịch là Đại thừa. Từ câu “bấy giờ, Đức Thế Tôn nghe lời nói này rồi v.v… cho đến nói, như vậy rồi im lặng an trú”. Phật bảo vua Dạ-xoa rằng chấp nhận lời thỉnh cầu của vua Dạ-xoa, cho nên ngồi im lặng an trụ. Phật, Bồ-tát thọ cúng dường và nói pháp: Từ câu “bấy giờ, La-bà-na Vương liền nương vào cung diện Diệu Hoa cho đến pháp sâu xa” là nói Phật và các Bồ-tát thọ sự cúng dường rồi, đều nói pháp cho họ nghe. “Bấy giờ, La-bà-na Vương và các quyến thuộc cho đến mà khuyến thỉnh rằng. Nay con thỉnh Đại só thưa hỏi Đức Thế Tôn cho đến tất cả lầm lỗi. Vua kia lại cúng dường Bồ-tát Đại Tuệ: Xin vì chúng con và các Bồ-tát thưa hỏi Như lai trí pháp tự chứng (của Như lai), lìa các lỗi lầm, nhập vào đất trí của Phật. Phật hóa hiện y báo, chánh báo: “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng năng lực thần thông cho đến đều ở giữa hư không biến mất”. Nói Như lai dùng năng lực thần thông, ở nơi núi kia, hóa hiện y báo, chánh báo lớp lớp như trên vô tận cảnh giới, cho đến biến mất giữa hư không. Như trong hội Hoa nghiêm, ngài Di-lặc búng ngón tay, cửa lầu gác đều mở, Thiện Tài vào rồi thấy trong lầu gác kia rất trang nghiêm, có vô tận trăm ngàn lầu gác rộng lớn trang nghiêm, cũng giống như vậy. Trong vô tận trăm ngàn lầu gác kia, mỗi lầu gác đều có vô tận trăm ngàn lầu gác; trước mỗi lầu gác đều có Bồ- tát Di-lặc, trước mỗi Bồ-tát Di-lặc đều có đồng tử Thiện Tài, mỗi đồng tử Thiện Tài đều chắp tay đứng trước Bồ-tát Di-lặc, cho đến xuất định bỗng nhiên biến mất. Cả hai điều này là tiêu biểu cho pháp giới vượt tình lìa kiến, rộng lớn tự tại vô chướng ngại, tức các Đức Phật và chúng sinh giao tiếp thông suốt với nhau, cõi Tịnh và cõi uế dung thông lẫn nhau, pháp pháp đều trang nghiêm lẫn nhau. Mỗi hạt bụi đều trùm khắp pháp giới, nhập nhau tức nhau, lớp lớp vô tận, giúp cho ngộ tu tròn đầy, sáng suốt chứng nhập. Không lìa chỗ đang ở: “La-bà-na Vương chỉ tự thấy thân cho đến như vòng lửa xoay tròn: Các pháp đã ẩn mất, Lăng-già vương chỉ thấy tự thân, trú trong bổn cung. Đây là nói không lìa chỗ đang ở. Suy tư như vậy liền khởi tầm từ quán, quán xét các pháp, ai nói ai nghe, là vật gì, tìm kiếm các pháp tướng rõ ràng không thật có. “Lại suy tư tất cả các pháp cho đến không sinh khởi sự phân biệt, đó gọi là năng biến. Lại suy tư chánh niệm quán sát, được như thật quán, hiểu rõ tánh các pháp, không năng không sở, không thấy không nghe. Đó gọi là thấy chân thật. Dạ-xoa vương được khai ngộ: “Lúc bấy giờ, Lăng-già Vương liền khai ngộ cho đến Nhập Như lai Tạng hướng đến Phật địa”. Đây là nói Dạ-xoa Vương do quán như thật, nên liền khai ngộ chứng được tự tâm, an trụ trong trí vô phân biệt. Cái gọi là được cái thấy đúng như thật, không theo người khác mà ngộ. Nói mê ngộ nhiều ngã rẽ, cũng không có pháp riêng. Khi mê thì mê cảnh là vật, khi ngộ thì ngộ cảnh tức tâm. Ngộ là giác mê, chẳng phải có ngộ riêng từ ngoài đến, cho nên nói không theo người mà ngộ. Có khả năng dùng trí khéo léo quán sát, lìa hẳn sự ức đoán tà giải, nghóa là lý thì đốn ngộ, nương ngộ đều tiêu, nếu cho là thắng giải tức rơi vào tà chấp, chỉ khéo léo dùng trí quán sát tức tâm, không có thắng giải, khéo hiểu phương tiện biết rõ tướng tăng tiến của các địa thượng, nghóa là đã ngộ như thật, lại còn hiểu được phương tiện khéo léo thì các địa từ đầu đến cuối không bao giờ còn tướng tà vạy, cho nên ưa thích xa lìa tâm thức vọng kiến, hướng thẳng đến địa vị Phật, ba nghóa nối nhau như đoạn dưới nói rộng. Nghe tiếng nói trong hư không và trong cung điện: “Nghe trong hư không và trong cung điện, cho đến nên thấy tất cả các pháp như vậy”. Nói vua Dạ-xoa đã khai ngộ, hư không cung điện liền khen ngợi. Nói nên học như vậy, nên thấy như vậy: Như vậy là thuận theo lời đúng như thật, bằng lòng với sự học và sự thấy kia đều đúng như thật. Các Đức Phật Như lai thấy tất cả pháp cũng đồng thấy như vậy. Trước sau đã dùng cảnh hóa hiện mà nói pháp cho nghe, ở đây lại dùng cung điện khen ngợi là sao! Đâu chẳng phải “phát chân về nguồn”, cung điện trong hư không tự nhiên biến mất, sắc không, y báo, chánh báo đồng một pháp giới, sao được như vậy! Khuyên xa lìa dị kiến: “Nếu dị kiến thì đó là chấp đoạn, cho đến cũng không nên trụ trong sáu định”. Ở đây nói các thứ khuyên bảo xa lìa dị kiến, nếu có dị kiến thì đó là chấp đoạn, nghóa là nếu khác với cái thấy như thật này thì gọi là chấp đoạn diệt. Ông nên xa lìa hẳn tâm, ý, ý thức, nên khuyên quán sát xa lìa tất cả các pháp, là nói tự chứng, chẳng phải cảnh giới của tâm, ý, thức cho nên phải xa lìa. Nên tu mật hạnh, nghóa là nên ngầm tu mật hạnh. Chớ chấp vào hình thức bên ngoài, tức đoạn dưới có chỗ nói cảnh giới các nghóa của Hai thừa, ngoại đạo. các kiến Vi-đà tức Bà-la-môn ngoại đạo, vâng theo bốn bộ Vi-đà do Phạm Thiên nói, có đến mười muôn bài kệ được tương truyền bằng miệng, ngoài ra không có sách ghi chép đầy đủ. Cũng không nên trú trong sáu định, tức ngoại đạo dị chấp, ưa thích hay chán ghét sáu hành, hàng phục các hoặc v.v… như một thứ ngoại đạo chấp tầng trời Vô tưởng thuộc là Thiền thứ tư Niết-bàn mà ở cõi Dục tu định Vô tưởng, nhàm chám cõi thiền dưới và cõi Dục là khổ thô chướng. Ưa thích cõi Vô tưởng ở trên là tịnh diệu ly, cho nên được ba cõi thiền dưới và cõi Dục hàng phục các hoặc mà không thực hành, khi qua đời liền sinh lên cõi Vô tưởng dị thục, trải qua năm trăm kiếp, lại bị đọa lạc trôi lặn trong sinh tử, sáu hạnh như vậy hàng phục các hoặc tà định, đều không nên an trụ. Khuyên chớ sinh chấp đắm ngoại đạo và vọng tưởng của Hai thừa: “Nếu có thể như vậy tức là như thật, cho đến đối với tánh không loạn tưởng phân biệt”: Ý nói rằng nếu không có các kiến chấp của Hai thừa, ngoại đạo thì mới có thể như thật tu hành, phá dẹp được các luận thuyết ác kiến khác và xả bỏ ngã chấp v.v… Có thể dùng trí tuệ cao siêu chuyển thức sở y, tức bốn trí chuyển tám thức. Nhập vào địa vị Như lai tự chứng, là ý nói đồng đắc, đồng chứng với các Đức Phật. Khéo tu tam-muội tam-ma-bát-để: Tam-muội, Hán dịch là Chánh định, cũng dịch Chánh thọ, vì chánh định bất loạn, năng thọ các pháp, vì phân biệt với tịnh trì; lại vì không có cảnh lay động, gọi là chánh định, không có vật đáng thọ gọi là chánh thọ. Tam-ma-bát-để, Hán dịch là Đẳng chí, vì chánh định có công năng phát sinh trí tuệ chân chánh v.v… gìn giữ các pháp cho đến địa vị cao siêu, pháp này nên khéo tu. Ngoại đạo chấp ngã kiến có tướng ngã và thật. Cầu-na chấp đắm, cầu-na Hán dịch là công năng, nghóa là ngoại đạo chấp có tướng ngã và bốn đại, năm uẩn mười bát giới, mười nhị xứ, có công năng thật, chấp đắm sắc thanh, hương, vị, xúc, pháp, và Hai thừa thấy có mười nhị nhân duyên, chẳng rõ tánh không, ở trong đó loạn tưởng phân biệt, cho nên khuyên ở đây chớ sinh chấp đắm ngoại đạo và hai thừa vọng tưởng. Suy nghó ý nghóa như thật chính là chân thật thấy Phật: “Lăng-già Vương! Pháp này cao siêu cho đến suy nghó như vậy chính là thấy Phật”. Cái gọi là pháp này là pháp gì! Là pháp tự tâm, an trụ vô phân biệt. Pháp cao siêu chẳng phải là pháp tối tăm yếu kém, mới thành tựu tự chứng Thánh trí. Đối với các hữu, thọ sinh thượng diệu: nghóa là có khả năng chứng được pháp cao siêu này, quyết có khả năng các hữu thọ sinh thượng phẩm, không hướng đến chỗ thấp kém. Cái gọi là phá sự che lấp của vô minh, diệt trừ sóng thức: vô minh làm chướng ngại mắt trí tuệ, sóng nghiệp thức cổ động nguồn tâm, pháp Đại thừa tu hành có khả năng phá diệt các điều này. Hai nghóa thức tánh, vì ngoại đạo chấp đắm ngã kiến, đối với dị luận, không thể giảng nói nghóa lìa kiến thức tánh pháp, phi pháp. Ông trước thấy Phật, suy nghó như vầy: ý nói vua Dạ-xoa, ông trước thấy Phật, có thể suy nghó như thật ý nghóa này, chính là chân thật thấy Phật. Phật lại hiện thân lần nữa: “Lúc bấy giờ, vua La-bà-na lại nghó rằng cho đến các việc như vậy đều không khác nhau”. Nói vua Dạ-xoa lại nghó muốn được thấy Như lai lần nữa. Đức Phật liền biết sẽ ngộ pháp sâu xa, nên lại hiện thân, khiến việc giáo hóa như cũ không khác. Hóa thân thân kia trùm khắp tất cả, nhiều lớp vô tận. Lúc bấy giờ, Vua nước đầu tự thấy thân mình khắp trước các Đức Phật, đều có Đại Tuệ, Dạ-xoa vây quanh, nói pháp Thánh trí tự chứng, cũng thấy tất cả cõi Phật, các việc như vậy, không khác với trước. Phật quán sát đại chúng, muốn nói pháp cho đại chúng nghe: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn quán sát khắp hội chúng cho đến trên đỉnh núi Lăng-già hớn hở cười lớn”. Đây là nói Đức Như lai quán sát khắp trong hội chúng muốn nói pháp cho đại chúng nghe: Nói mắt tuệ chẳng phải nhục nhãn, vì nhục nhãn bị chướng ngại không thông suốt, không thể thấy khắp, cho nên dùng mắt tuệ quán sát. Ở giữa hai đầu chân mày, bắp vế, sườn, lưng cổ, cho đến vai, cánh tay trong đó có đầy đủ đức độ, mỗi sợi lông đều phát ra ánh sáng, nghóa là Đức Như lai phát ra ánh sáng phải tiêu biểu cho pháp, chẳng phải vô ý nghóa. Nay trong hội chúng này, bảy chỗ như giữa hai đầu chân mày v.v… đều phát ra ánh sáng, đều là tiêu biểu cho trung đạo tròn sáng, lìa biến kế y tha, thành tựu các đức. Lúc bấy giờ Thích Phạm, các trời trong hư không từ xa nhìn thấy Như lai ngồi trên đỉnh núi Lăng-già như núi Diệu Cao, vui mừng cười lớn. Đại chúng thắc mắc: “Lúc bấy giờ, các Bồ-tát và các thiên chúng, cho đến quán thấy La-bà-na nhớ nghó pháp như thật”. Lúc ấy Bồ-tát và các vị trời đều suy nghó Đức Phật vì sao lại vui vẻ mỉm cười, thân phát ra ánh sáng, nhập vào sự an vui của tam-muội, bèn đi vòng khắp rồi ngoảnh lại nhìn vua Dạ-xoa, nghó phải có lý do. Bồ-tát Đại Tuệ thưa hỏi Phật và được Phật khen: “Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ cho đến và các ngoại đạo đều không thể suy lường”: Ý nói Đại Tuệ biết tâm của các Bồ-tát trong hội chúng, và thấy sự mê hoặc chấp đắm của tất cả chúng sinh đời vị lai, vì muốn cởi mở thắc mắc cho họ, mà thưa hỏi Phật. Đức Phật khen: Lành thay! Vì lợi mình lợi người mà nêu câu hỏi. Nghóa là vua Dạ-xoa đã từng hỏi Phật quá khứ về hai nghóa này, nay cũng muốn hỏi, đời vị lai cũng vậy. Là điều mà ngoại đạo, hai thừa không thể suy lường, đã từng hỏi qua, nay cũng muốn hỏi, đời vị lai cũng như vậy đối với hai nghóa này, quả thật không biết. Chỉ có vua Dạ-xoa chứng đắc, các vị còn lại thì không: “Lúc bấy giờ, Đức Như lai biết vua Lăng-già, cho đến trời Phạm Thích, v.v… không hề thấy ánh sáng”. Lúc ấy Như lai biết vua Lăng-già muốn thưa hỏi. Đức Phật dạy hãy mau hỏi, ta sẽ giải thích đầy đủ nguyện kia. Nói khéo biết các địa tức là biết Sơ địa cho đến Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa và Phật địa. Tu tập đối trị chứng nghóa chân thật, tức đối với các địa gia công dụng hạnh, trị chướng sở trị không gặp đường tà. Ở trong cung hoa sen báu lớn rưới nước tam-muội trên đảnh đầu, nghóa là công hạnh đồng với Phật, thành pháp vương tử, trụ vào quán đảnh. Đức Phật lại dạy, vua Lăng-già khởi nhất bình đẳng hạnh, và vô lượng hạnh khác nữa, quyết định phải chứng đắc cảnh giới như trên đã nói, chỉ có vua Lăng-già đích thân chứng đắc, còn hai thừa, ngoại đạo, Thích Phạm chẳng thể thấy được. Vua Dạ-xoa biến hóa các thứ trang nghiêm cúng dường Phật: “Lúc bấy giờ, vua Lăng-già cầu xin Đức Phật hứa khả cho rồi, cho đến ông nên hỏi ta sẽ nói cho ông nghe”. Nói vua Lăng-già được Phật yên lặng hứa khả, liền biến hóa đầy đủ các thứ trang nghiêm, như là hoa thơm, cờ phướn, lọng lụa, anh lạc, tức các dụng cụ trang nghiêm. Hiên là thuộc màn trướng. Lại hóa độ tất cả cõi Dục, và trải qua trời rồng,v.v… Thế gian cõi nước các Đức Phật, tất cả nhạc khí để cúng dường, là tiêu biểu sự kính pháp. Lại ở giữa hư không, các thứ cúng dường rơi xuống như mưa, là tiêu biểu thỉnh pháp phải khiêm nhường cung kính. Ý nói các Đức Như lai quá khứ đã nói cho ta nghe, là Như lai ba đời đồng một pháp. bạch Đức Thế tôn! Hai nghóa do Như lai biến hóa nói ra chẳng phải Đức Phật căn bản nói, nghóa là báo thân, hóa thân chẳng phải Phật chân thật, cũng chẳng phải người nói pháp, cho nên muốn Đức Thế Tôn, là Đức Phật căn bản nói. Bạch Đức Thế tôn! bảo rằng sẽ nói hai nghóa cho ông nghe. Làm sao bỏ được hai nghóa pháp và phi pháp: “Lúc bấy giờ, vua Dạ-xoa lại chấp các thứ, cho đến pháp tánh như vậy làm sao có thể bỏ”. Đây là hỏi Như lai hai nghóa pháp và phi pháp làm sao bỏ được? Trước dùng các vật trang nghiêm để cúng dường, ở đây lại dùng các vật trang nghiêm, để trang nghiêm thân là vì sao? Đây là tiêu biêu hỏi về oai nghi không dám xem thường. Các nghóa khác trong văn kinh có nói. Ba thí dụ nói về sự khác nhau giữa pháp và phi pháp: “Lúc bấy giờ, Phật bảo vua Lăng-già rằng, cho đến Ngoại pháp có vô lượng sự khác nhau như vậy”. Đây là đáp câu hỏi trước, Đức Như lai trước nêu lên bình v.v… vô thường, và tánh ngọn lửa, hạt giống nẩy mầm chồi, ba thí dụ để nói về sự khác nhau giữa pháp và phi pháp, giúp cho chúng sinh dễ hiểu. “Nội pháp cũng như vậy, nghóa là duyên vô vi, cho đến nên biết tất cả đều là tướng phân biệt”: Đây là nêu ba nội pháp hợp với thí dụ trước, lấy vô minh làm duyên. Hợp với thí dụ bình ở trước, lấy các thức hợp với thí dụ tánh lửa, dùng sự tu quán hạnh hợp với thí dụ hạt giống. Nhưng bình dùng tạo tác nghóa, do duyên vô minh năng tạo căn thân, khí giới, các thứ khác nhau. Lửa nghóa là huân xông biến hóa. Do các thức năng huân biến tất cả các pháp nhiễm tịnh khác nhau. Hạt giống nghóa là phát sinh, do tu quán hạnh, trí tuệ tự phát sinh. Cũng lại thấy có các sự khác nhau, pháp dụ như vậy đều có nguyên nhân. Ba pháp này nói chung về hai nghóa, đều là tướng phân biệt. Phật giải thích về pháp: “Này vua Lăng-già! Thế nào gọi là pháp? Cho đến ông trước hỏi ta đã nói xong”. Đoạn trên chính là đáp hai nghóa pháp và phi pháp, như kinh có nói. Kim Cương Kinh Vô Trước Thích luận chép: Pháp còn nên bỏ, vì thật tướng sinh; huống gì phi pháp, vì lý không đúng. Cũng đều phá tình chấp hữu vô khiến tự chứng nhập, như voi hương lớn bứt đứt xiềng xích không tự tại mà đi. Nói Tỳ-bát-xá-na, Hán dịch là Quán, nêu quán phải đồng với tu chỉ. Chỉ: Tiếng Phạm là Xa-ma-tha. Các giáo thiên viên, giải thích nghóa khác nhau, đại ý nói nhất niệm xứng lý, gồm thâu tán loạn trở về vắng lặng, gọi là chỉ, vắng lặng mà thường chiếu soi gọi là quán. Luận Khởi Tín hợp hai hạnh này thành một môn, cộng tướng giúp thành, không lìa bỏ nhau. Nếu chỉ quán không đầy đủ thì không thể vào đạo Bồ-đề. Kinh Thâm Mật chép: Chúng sinh bị sự trói buộc và bị thô nặng trói buộc, cần phải siêng tu Chỉ quán, nhờ đó mà được giải thoát, cho nên tông Thiên thai lấy Chỉ quán từ bi dẫn dắt thân, miệng, ý nghiệp đến thệ nguyện, làm hạnh an vui, đây là lấy Chỉ quán làm sự năng tu, muôn điều lành làm sở tu. Các kinh Thâm Mật, Lăng-nghiêm, Niết-bàn, các luận Du-già, Khởi Tín, Chỉ Quán có nói rộng về nghóa ấy. Phật nêu lên và bác bỏ các chấp phân biệt luống dối: “Này vua Lăng-già! Ông nói ta ở đời quá khứ, cho đến lấy Như lai Tạng làm cảnh giới”. Đây là nói Như lai lại vì vua Dạ-xoa nêu phá các kiến chấp phân biệt luống dối, giúp cho vua Dạ-xoa lìa niệm, vắng lặng, phát sinh chánh kiến. Vua Lăng-già ông nói ta ở đời quá khứ ở chỗ các Đức Như lai đã hỏi nghóa này, các Đức Như lai kia đã nói cho ta nghe. Ông nói quá khứ chỉ là phân biệt, vị lai cũng thế, ta cũng đồng như kia. Pháp của các Đức Phật kia đều lìa phân biệt, cho đến vì muốn cho chúng sinh được sự an vui, đây là ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai chẳng khác nhau. Đức Như lai dùng trí làm thân, không thể dùng tướng ngã, nhân, chúng sinh để phân biệt cho đến lìa năng sở phân biệt, nghóa là ba thứ tâm, Phật, chúng sinh không khác nhau. Thí như trên vách vẽ chúng sinh không có hay biết chúng sinh thế gian cũng giống như vậy. Không nghiệp không báo, các pháp cũng giống như vậy không nghe không nói. Đây là trước nêu ví dụ, kế đến hợp với pháp. Lại nói thí như có người trên mặt nước, trong gương soi thấy bóng mình, ở trong đèn trăng thấy ảnh, ở trong hang núi nghe tiếng dội. Đây đều dụ cho chúng sinh dùng tự tâm chấp tự tâm, đối với không có sắc tượng khởi chấp sắc tượng, pháp và phi pháp phân biệt cũng giống như vậy. Nếu hiểu rõ hư không vắng lặng mộtduyên, sinh trí tự chứng, ra khỏi phải quấy thì hợp với Như lai Tạng diệu tịnh minh tâm làm cảnh giới. Đáng tin thay! Phẩm này tuy gọi là phát khởi chánh tông, tức có khả năng hiểu rõ vô minh căn bản, nhập tri kiến Phật. ------------------------------ <詞>Phẩm 2: VẤN ĐÁP 1. Nói về năm môn: Để sắp giải thích phẩm này xin lược chia ra năm môn: 1. Nói lý do có ra phẩm này; 2.Tông thú; 3. Giải thích chướng nạn; 4. Giải thích tên; 5. Giải thích văn. Nói lý do: Bài tựa phẩm trước đã nói lý do rõ ràng, phần chánh tông nên nói rõ cho nên có ra phẩm này. Nói về tông thú: tất cả các kinh đều tự có tông thú, cho nên bậc tiên đức nói nương lời để hiểu tông chỉ ở đây nói riêng về tông thú của kinh này. Nhưng Phẩm hạ lại nói tất cả các pháp bất sinh, không nên lập tông này, đây nói giúp cho dính mắc. Nếu là tông của vô tông thì tông, nói gồm thông suốt. Luận Khởi Tín chép: Có pháp có khả năng sinh khởi gốc tin Đại thừa, cho nên phải nói. Pháp là tâm chúng sinh, tâm ấy gồm thâu tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian. Nương vào tâm này hiển bày nghóa Đại thừa. Vì sao? Vì tâm tướng chân như tức là thể (Đại thừa), là tâm sanh diệt, tướng nhân duyên, có thể mở bày tự thể tướng dụng, quả đại thừa, là sở thừa gốc của tất cả Chưa Phật, tất cả Bồ-tát đều nương vào pháp này mà đạt đến địa vị Như lai, vì vậy cho nên phải biết tự tánh thanh tịnh tròn sáng của chân thể này, đức dụng khó suy nghó bàn luận, xưa nay đầy đủ, đều là tông mà tất cả các Đức Phật và chúng sinh vốn nương vào đó, cũng là tất cả, hoặc phàm hoặc Thánh đều nương vào pháp này, mà đạt đến Như lai địa, lấy đó làm tông thú. Nhưng chúng sinh không tự hiểu biết mà thuận theo ngộ nhập, vì các vọng tưởng ô nhiễm cho nên mê muội. Giải thích chướng nạn: Bản tiếng Phạm chỉ có một, vì sao có tới ba nhà dịch, phẩm mục một nhiều khác nhau? Đáp rằng: Thiên Thai nói: Về phẩm, hoặc Phật tự nói, hoặc khi kiết tập đặt ra, hoặc chỉ dịch nghóa thêm vào cho đủ. Lại nói rằng chia đoạn văn kinh đều do các bậc tiên hiền chuyên phân tích rõ ràng, kẻ học sau không nên phê phán phải trái mà tranh cãi, không có ba điều lợi ích, mất một đạo. Ba điều lợi ích là ba thứ như tất-đàn thế giới v.v… Nhất đạo là Đệ nhất nghóa tất-đàn. Vì vậy cho nên phải biết phẩm mục ly hợp hoặc một hoặc nhiều đều là phương tiện. Giải thích tên phẩm: nghóa là đầu phẩm của phần chánh tông này, là đại vị hỏi đáp chung của một kinh. Từ phẩm Tập Nhất Thiết Pháp, chương Chư Thức ở đầu đã dứt sự ăn thịt, gồm có mười bốn phẩm gọi là hỏi đáp riêng. Ngài Đại Tuệ dùng trăm lẻ tám câu đồng làm một kiết để hỏi chung Như lai, đức Như lai đều nhận lấy từng câu hỏi một, tùy theo từng câu mà trả lời. Có chỗ nói: Câu sinh phi sinh câu, thường câu phi thường cú, cho đến trăm lẻ tám câu, đều đáp bằng chữ “phi”. Muốn lìa niệm kia nhập môn tâm chân như, cho nên nói Phẩm Vấn đáp. Kế là dứt văn kinh: dưới chính thức giải thích văn. 2. Bồ-tát Đại Tuệ nói kệ: Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến cúi mình cung kính mà nói kệ rằng: Ma-đế, Hán dịch Tuệ. Nói vén y bày vai phải, đầu gối sát đất, là nghi thức ở Tây vực. Tiêu biểu cho gánh vác Phật pháp. Khen ngợi đức của Phật: Thế gian lìa sinh diệt, như hoa đốm trong không, trí chẳng thấy hữu vô, mà khởi tâm đại bi: Dưới đây đến câu thứ tám là nói chung khen ngợi đức của Phật. Nói thế gian, là chúng sinh thế gian khen ngợi Phật hiểu rõ chúng sinh hư giả như hoa đốm trong hư không cho nên không sinh diệt, nghóa là Như lai dùng chánh trí quán sát chúng sinh này chẳng phải có, chẳng phải không, cho nên vô duyên đại bi nhậm vận sinh khởi. Nếu chấp có chúng sinh mà khởi đại bi, thì gọi là ái kiến bi. Khen Phật quán sát quán như huyễn để thành đại bi: “Tất cả pháp như huyễn, xa lìa nơi tâm thức, trí chẳng thấy có không, mà khởi tâm đại bi”. Tất cả pháp: là năm uẩn thế gian. Nghóa là năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới… tất cả các pháp. Pháp đã như huyễn thì tâm thức cũng mất. Đây là khen ngợi Như lai quán sát pháp như huyễn để thành đại bi. Hữu tình và khí thế gian cũng vọng chấp có sắc: “Thế gian thường như mộng, xa lìa chấp đoạn thường, trí chẳng thấy có không, mà khởi tâm đại bi”. Đây là nói chung hữu tình và khí thế gian cũng vọng chấp có sắc. Sắc hoại gọi là dứt, lại chấp có thức, thức lại thọ sinh gọi là thường. Đức Phật biết thế gian như những điều thấy trong mộng, tức là thức không có sắc mà chấp đoạn thường. Đây là khen ngợi Như lai hiểu rõ hai chấp như mộng để thành đại bi. Khen Phật thông đạt người và pháp đều không: “Biết người pháp vô ngã, phiền não và sở tri, thường thanh tịnh vô tướng, mà khởi tâm đại bi”. Phiền não là phiền não chướng. Nhó diệm tức sở tri chướng. Do ngã chấp pháp chấp, mới sinh ra hai chướng, chướng vốn chẳng có. Đây là khen ngợi Như lai thông đạt người pháp cả hai đều không. Hai chướng thanh tịnh để thành đại bi. Hỏi: Người pháp đều không, đều vắng lặng, hai chướng vốn không, tại sao Như lai lại khởi đại bi! Đáp: Chúng sinh không biết lý này, cho nên mê vọng điên đảo trôi lăn không cùng tận. Nay muốn cho chúng sinh ngộ nhập pháp này, đây là chân thật mà khởi đại bi, cho nên kinh Tịnh Danh chép: Nên vì chúng sinh nói pháp như vậy, đó là lòng từ chân thật. Hai chấp đều xa lìa: “Phật không trụ Niết-bàn, Niết-bàn không trụ Phật, xa lìa giác sở giác, hoặc có hoặc chẳng có”. Đối với sinh tử mà nói Niết-bàn, đối với chúng sinh mà nói Phật. Phật biết sinh tử như mộng huyễn không có tự thể, cho nên không trụ Niết-bàn. Biết chúng sinh như hoa đốm trong hư không chẳng thật có, nên không trụ nơi Phật. Thí như người bị bệnh thì nói thuốc, không bệnh thì không nói thuốc, cho nên nói Phật không trụ Niết-bàn, Niết-bàn không trụ Phật. Không có Phật cho nên không có Năng giác, không có Niết-bàn cho nên không có Sở giác. Có Phật không Phật, có Niết-bàn không Niết-bàn, cho đến có không v.v… hai chấp thảy đều xa lìa, cho nên nói “xa lìa giác sở giác, hoặc có hoặc chẳng có”. Phật ra đời hay không ra đời thì pháp cũng thường như vậy: “Pháp thân như huyễn mộng, làm sao đáng xưng tán, biết vô tánh vô sinh, gọi là khen ngợi Phật”. Kinh Đại Bát nhã chép: Tất cả các pháp đều không có tự tánh, vô tánh cho nên không, không cho nên vô tướng, vô tướng cho nên vô nguyện, vô nguyện cho nên vô sinh, không sinh cho nên không diệt. Vì vậy cho nên các pháp xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn. Nếu Phật ra đời, hoặc không ra đời thì pháp cũng thường như vậy, đạt được như vậy gọi là khen ngợi Phật. “Phật không tướng căn cảnh, không thấy tên thấy Phật, vì sao gọi Mâu-ni, mà có khen hay chê”: Lìa tướng căn cảnh, ra khỏi lượng phàm Thánh, đó gọi là thấy Phật. Mâu-ni, Hán dịch là Tịch tịnh (vắng lặng), lìa kiến siêu tình, ai có thể khen chê? Đời này đời sau xa lìa đắm mê chấp đắm: Bồ-tát “Nếu thấy đấng Mâu-ni, vắng lặng xa lìa sinh, đời nay và đời sau lìa đam mê chấp đắm”. Nói xa lìa sinh là lìa tướng lưu chú hai thứ sinh. Một bản ghi là vắng lặng lìa sinh diệt, quán này gọi là chánh quán, cho nên nói người này đời này đời sau, xa lìa sự đam mê chấp đắm”. Bồ-tát Đại Tuệ nói kệ: “Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ nói kệ khen Phật xong, tự nói tên họ, con tên là Đại Tuệ thông đạt được Đại thừa, nay xin một trăm lẻ tám câu thưa hỏi bậc Tôn tối thượng”. Đại Tuệ tự nói có căn cơ Đại thừa, nay thưa hỏi bậc Tôn tối thượng nghóa một trăm lẻ tám câu. Đức Phật là bậc tối thượng trong các bậc tôn quý. Phật nghe kệ ấy rồi: Bấy giờ, bậc Thế gian giải nghe kệ kia rồi, quán sát khắp chúng hội, bảo các Phật tử rằng: Phật tử các ông! Nay cho phép các ông mặc tình hỏi, ta sẽ nói cho các ông nghe về cảnh giới tự giác. Thế Gian Giải là một trong mười hiệu. Trên nói thế gian sinh diệt như hoa đốm trong hư không v.v… Đây là cảnh giới tự chứng của Đức Phật. Bồ-tát Đại Tuệ thưa hỏi Phật một trăm lẻ tám câu: “Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến dùng kệ hỏi rằng”: Sau đây gồm bốn mươi tám bài kệ rưỡi, hỏi về một trăm lẻ tám câu kiến chấp. Trăm lẻ tám thứ kiến chấp, hoặc một câu là một nghi vấn; hoặc hai câu là một nghi vấn, hoặc ba câu là một nghi vấn, cho đến mười câu là một nghi vấn, hoặc hai câu là hai nghi vấn, có rộng lược khác nhau, không thể mỗi mỗi như số lượng trăm lẻ tám môn này là hỏi về năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai thứ vô ngã trên. Pháp môn đối trị để độ chúng sinh cho nên Đại Tuệ: Nêu những điều trên cùng với việc thấy Bồ-tát Ma-đế đến các cõi Phật, cho nên đoạn dưới hỏi núi, biển, mặt trời, mặt trăng v.v… tức danh, tướng, vọng, tưởng trong năm pháp. Đoạn dưới hỏi các thiền giải thoát v.v… tức pháp chánh trí, như như trong năm pháp. “Thế nào khởi kiến chấp, làm sao tịnh kiến chấp, vì sao khởi mê hoặc, thế nào tịnh mê hoặc”, hai câu trên hỏi kiến chấp tánh, luống dối sinh diệt nhiễm tịnh. Hai câu dưới hỏi vô minh duyên khởi, lưu chuyển hoàn tịnh. Như ở dưới là đáp riêng về hai thứ Sa-môn và Bà-la-môn. “Vì sao gọi Phật tử, và vô ảnh thứ đệ”: Là hỏi vì sao Bồ-tát gọi là Phật tử, và hỏi trong pháp chân thật vô tướng vì sao có thứ lớp. Đã có thứ lớp vì sao gọi là vô tướng! Vô ảnh là vô tướng, nhưng văn dịch thay đổi. “Thế nào hóa tướng cõi nước? Và các chúng ngoại đạo”. Hỏi Như lai ở trong cõi nước biến hóa ra hóa tướng chúng sinh và bác bỏ các ngoại đạo. “Giải thoát đến chỗ nào? Ai buộc ai giải thoát?” Là hỏi pháp vốn không bị trói buộc thì ai cầu giải thoát. Cả hai đều mất lại đến chỗ nào, như đoạn văn dưới nói nghóa sâu xa của tất cả pháp, và đáp riêng trong nghóa tướng giải thoát. “Những gì cảnh giới thiền! Tại sao có ba thừa?”: Câu trên là hỏi về các thiền, thế nào là cảnh giới? Câu dưới nói Phật thừa vốn chỉ có một, vì sao có ba thừa khác nhau. Như đoạn dưới đáp riêng về bốn thứ thiền, ba thừa, nhất thừa giác. “Nhân duyên chỗ nào sinh?Thế nào tác sở tác?” Là hỏi về nhân duyên sinh khởi vốn tự vô sinh. Nếu thể bất sinh thì vì sao có nhân năng sinh và quả sở tác. Như đoạn dưới đáp riêng trong tướng nhân duyên của tất cả pháp. “Ai nói hai đều khác? Thế nào các hữu khởi”? Câu trên là hỏi bốn câu vọng kiến của các ngoại đạo, ở đây là nêu hai câu giữa để bao gồm cả trên dưới. Như đoạn dưới là đáp riêng lìa một, khác, câu, bất câu. Câu dưới hỏi vì sao cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc có sinh khởi. “Thế nào là định vô sắc? Cùng với định diệt tận? Thế nào là tưởng diệt? Thế nào từ định giác”? Hai câu trên hỏi tứ không định của Tiểu thừa, ngoại đạo và diệt chánh thọ. Hai câu dưới hỏi định diệt thọ tưởng. Tưởng thọ đã diệt, vì sao lại từ định giác. Nếu từ định giác thì nghóa diệt không thành. “Vì sao tạo tác sinh? Lui tới và giữ thân?”: Là hỏi thần thông đi đứng tự tại do thiền định giữ gìn. Tiến là đi, trì là đứng. Như đoạn dưới đáp riêng trong phần ba thứ ý thành thân. “Thế nào thấy các vật? Thế nào nhập các địa?” Là hỏi ngoài tâm không có vật, sao làm thấy biết năm pháp, ba tự tánh, v.v… để ngộ nhập các địa. Đầy đủ các phật pháp đến địa vị Như lai. Đoạn dưới là đáp riêng trong phần nói về tướng năm pháp, ba tự tánh, các thức, vô ngã khác nhau. “Vì sao có Phật tử? Ai phá được ba cõi? Ở đâu! Thân thế nào? Vãng sinh đến chỗ nào?” Hai câu trên hỏi các Phật tử. Ai là người phá ba cõi sinh tử. Hai câu dưới hỏi chỗ phá ba cõi và thân gì phá ba cõi. Đã phá ba cõi lại sinh ở chỗ nào! “Thế nào được thần thông? Tự tại và tam-muội?” Là hỏi về thần thông tam-muội lấy gì mà đắc, đây là sinh khởi tu nhân. Như đoạn dưới đáp riêng các Đức Phật có hai thứ trì. “Tướng của tâm tam-muội? Xin Phật nói con nghe!” Câu trên là hỏi tâm tam-muội như thế nào, có tướng chẳng phải tam-muội. Một câu dưới là kiết thúc thỉnh nói. “Thế nào gọi tàng thức? Thế nào gọi ý thức”. Đây là hỏi tám thức do đâu mà có tên. Một câu dưới nói thế nào là ý và thức! Như đoạn dưới đáp riêng chương Chư Thức. “Thế nào khởi các kiến? Thế nào thối các kiến?” Là hỏi tướng sinh trụ kiến và tướng diệt kiến của các thức. Như đoạn dưới đáp riêng trong phần nói về hai thứ sinh trụ diệt. “Thế nào tánh phi tánh? Thế nào duy tâm này?” Là hỏi đã có sự khác nhau giữa ba thừa và năm tánh. Vì sao lại nói chỉ là tâm lượng? Đoạn dưới đáp riêng trong phần nói về năm thứ chủng tánh. “Vì sao lập ra tướng? Thế nào thành vô ngã?” Là hỏi về lập ra hữu tướng và vô tướng ngã. Đoạn dưới đáp riêng lập ra chê bai. “Thế nào vô chúng sinh? Thế nào tùy tục nói? Vì sao không sinh khởi? Chấp thường và chấp đoạn?” Hai câu trên hỏi chân đế là vô, tục đế là hữu. Hai câu dưới hỏi hai kiến chấp vì sao không sinh khởi. Chẳng phải có lập có gọi là chấp thường, chẳng phải vô lập vô gọi là chấp đoạn. “Thế nào Phật, ngoại đạo? Tướng đó chẳng trái nhau? Thế nào đời sau này? Có các thứ bộ khác?” Hai câu trên hỏi vì sao tà chánh không chống trái nhau. Như đoạn dưới đáp riêng Phật nói sinh diệt vô thường, ngoại đạo cũng nói sinh diệt vô thường. Câu dưới hỏi đời vị lai có mười tám bộ phái khác nhau. “Thế nào là tánh không? Thế nào sát-na diệt?” Hai câu trên hỏi tất cả các pháp vì sao là tánh không, đoạn dưới đáp riêng trong phần nói về tất cả các pháp là không, vô sinh, không hai. Câu dưới hỏi sát-na diệt, sát-na gọi là niệm, hoại gọi là vô thường. Như đoạn dưới đáp riêng trong phần nói về tướng hoại của sát-na. “Thai tạng vì sao sinh? Vì sao thế bất động?” Câu trên hỏi nương Như lại tạng mà có sinh tử. Nói thai tạng, cùng với thai sinh tử làm tạng. Như đoạn dưới đáp riêng trong phần ta nói cho nghe về ấm, giới, nhập sinh diệt. Câu dưới hỏi các pháp thế gian thể tánh sinh diệt vì sao bất động. “Vì sao các thế gian như huyễn cũng như mộng? Và thành Càn- thát-bà? Cho đến trăng đáy nước”: Là hỏi vì sao nói năm ví dụ này! Vì hiển bày các pháp vốn lìa sinh diệt mà nêu lên ví dụ này. Như đoạn dưới đáp riêng về Sa-môn, Bà-la-môn trong phần nói về quán tất cả các pháp không có tự tánh. “Thế nào Bồ-đề phần? Giác phần do đâu khởi?”: Là Hỏi về chỗ ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần này sinh khởi. “Vì sao cõi nước loạn? Vì sao thấy các hữu?” Câu trên hỏi trong pháp danh, tướng, vọng, tưởng vì sao có cõi nước loạn. Câu dưới hỏi các pháp đã không có tự thể vì sao chúng sinh thấy các hữu? “Thế nào pháp thế gian? Thế nào lìa văn tự?”: Câu trên hỏi vì sao biết các pháp thế gian. Như đoạn dưới đáp riêng hai thức giác trí. Câu dưới hỏi vì sao các pháp tánh lìa văn tự. Như đoạn dưới đáp riêng trong phần nói về tướng tông thú. “Thế nào hoa trong không? Không sinh cũng không diệt”? Là hỏi vì sao nói thế gian như hoa đốm trong hư không chẳng sinh diệt. Như đoạn dưới đáp riêng trong phần nói về ý thành pháp thân chẳng có sinh diệt. “Chân như có mấy thứ? Mấy tâm Ba-la-mật?” Câu trên hỏi chân như có mấy thứ, như đoạn dưới riêng đáp trong phần nói về bảy thứ Đệ nhất nghóa. Câu dưới hỏi mấy tâm Ba-la-mật, như đoạn dưới đáp riêng trong phần nói về sáu thứ Ba-la-mật. “Thế nào như hư không? Thế nào lìa phân biệt?” Câu trên hỏi ai biết các pháp như hư không. Câu dưới nói làm cách nào lìa vọng tưởng phân biệt. Như đoạn dưới đáp riêng nay sẽ nói tướng tự tánh phân biệt. “Thế nào địa thứ lớp? Thế nào được vô ảnh?”: Là hỏi thứ lớp các địa vì sao vô tướng được. Thứ lớp là có sự khác nhau về thứ bậc, như đoạn dưới đáp riêng tất cả Bồ-tát nhập diệt định, tướng thứ lớp nối nhau. “Những gì hai vô ngã? Thế nào tịnh sở tri?” Như đoạn dưới khéo quán sát hai thứ vô ngã, và đáp riêng trong phần nói về hai câu hỏi này trong phần nói về hiện lưu của tự tâm thanh tịnh. “Thánh trí có mấy thứ? giới chúng sinh cũng thế?” Câu trên hỏi trí có khác nhau, giúp cho bỏ thấp kém tu cao hơn. Như đoạn dưới đáp riêng trong phần nói về trí thức. Câu dưới là hỏi tánh ham muốn của chúng sinh chẳng phải một. Như lai chế giới có mấy thứ. “Các báu ma-ni thảy, đây đều làm sao sanh? Ai sinh các thật tánh? Ai sinh các lời nói? Chúng sinh và các vật!” Hai câu trên hỏi nhân sinh các báu. Hai câu dưới hỏi ai sinh khởi lời nói, hữu tình và tư cụ. Như đoạn dưới đáp riêng trong phần nói về tướng phân biệt bốn thứ lời nói. “Minh xứ và kỹ thuật, người nào đã hiển bày?” Là hỏi pháp ngũ minh và kỹ thuật thế gian ai đã tạo ra. Năm minh luận: 1. Nội luận, là tất cả Phật pháp; 2.Ngoại luận; 3.là nhân luận; 4.Thanh luận; 5.Y phương luận và công xảo luận. Năm luận này mỗi luận đều có công năng phát sinh trí tuệ, nên gọi là Minh xứ. “Già-tha có mấy thứ? Câu văn xuôi cũng thế”: Già-tha, Hán dịch Phúng tụng. Trường tức là thiên dài. Cú, hoặc câu bốn chữ hay năm chữ. “Có mấy thứ đạo lý? Giải thích mấy khác nhau?” Là hỏi lý thú giải thích có bao nhiêu thứ khác nhau. Phần lý thú trong Kinh Đại Bát- nhã, nói các pháp đều không, vô sinh vô diệt, tánh vô tự tánh, lìa tất cả tướng, không thể mong cầu. Nhưng Đệ nhất nghóa vắng lặng thường trú. Kinh Giải Thâm Mật nói ứng theo căn cơ mà giải thích, nói chung có sáu: Chân nghóa lý thú, nghóa là hai chướng tịnh trí sở hành chân thật. tri. Chứng đắc lý thú, nghóa là đối với nghóa chân thật được như sở Giáo đạo lý thú, nghóa là tự chứng rồi mở bày cho chúng sinh. Ba thứ này là gốc, ba thứ sau giải thích. Lý thú lìa hai bên, nghóa là có người hỏi rằng: Thế nào gọi là chân nghóa lý thú, nên đáp người ấy rằng: Chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải thường chẳng phải đoạn. Lý thú bất tư nghị, có người hỏi rằng: Thế nào là chứng đắc, nên đáp kia rằng: Gọi bất tư nghị là nếu đối với các pháp xa lìa nói suông, lúc bấy giờ chứng đắc tánh thắng nghóa chân thật, cho nên biết rằng lời nói đều chẳng chân thật. Lý thú tùy sự ưa thích của chúng sinh: có người hỏi rằng: Thế nào là giáo đạo, nên đáp người ấy rằng: Tùy theo ý ưa thích của chúng sinh đều khác nhau, thuận theo sự ưa muốn kia mà phương tiện mở bày. “Ăn uống cùng ai làm? ái dục làm sao khởi?” Là hỏi ăn uống ái dục làm sao sinh khởi. Kinh Tịnh Danh nói: Từ si mà có ái, thì bệnh ta sinh. “Thế nào gọi là vua Chuyển luân và Tiểu vương? Thế nào vua thủ hộ?”: là hỏi về các đại vương, tiểu vương và cách thủ hộ. “Thiên chúng có mấy thứ? Đất, trời, trăng, các sao? Các thứ này ra sao?” Là hỏi các trời, mặt đất, các sao và mặt trời, mặt trăng. Như trong kinh Đại Tập, Lâu Thán v.v… có nói rộng. “Người tu hành giải thoát, mỗi bậc có mấy thứ?” Là hỏi giải thoát tức là hàng vô học, tu hành tức là hàng hữu học, mỗi hàng có bao nhiêu thứ. Như đoạn dưới đáp riêng trong phần nói về tướng khác nhau của quả Tu-đà-hoàn. “Sao là A-xà-lê? Đệ tử có mấy thứ?” Xà-lê, Hán dịch là giáo sư. Môn sư lập giáo và đệ tử thọ giáo. “Như lai có mấy loại, có mấy thứ bản sinh?” Hỏi Như lai và nhân duyên bản sinh mỗi loại có mấy thứ. “Các ma và dị học, mỗi loại có mấy thứ?” Ma-la, Hán dịch là năng hại, hễ cái gì làm chướng ngại, hạnh lành, làm hại tuệ mạng đều gọi là ma. Gồm có bốn thứ: phiền não ma, ma chết, chết ma năm ấm và ma trời: Đây hỏi các ma và dị học. Người muốn tu hành hiểu biết sinh tử, các kiến căn bản. “Tự tánh có mấy loại, tâm có bao nhiêu thứ”? Như đoạn dưới tự tánh đáp riêng trong phần nói về khéo biết tướng của ba tự tánh khác nhau, đáp riêng tâm này do bốn nhân duyên nhãn thức chuyển. “Thế nào chỉ giả thiết, xin Phật mở bày cho”. Là hỏi vì sao các pháp là vọng tưởng, mà giả thi thiết lượng. Đoạn đáp riêng ở dưới như Đức Phật nói, biết cảnh giới chỉ là giả danh, đều không thật có. “Thế nào là gió mây? Niệm trí do đâu khởi?” Câu trên có bản ghi là thế nào không, gió, mây. Đoạn dưới hỏi bốn trí chánh niệm do đâu mà có, cũng gọi là thế tục niệm trí. “Thế nào là rừng cây? Do ai tạo ra chúng?” Là hỏi rừng rậm cỏ cây là vật vô tình do ai làm ra!  CHÚ ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ KINH <卷>QUYỂN 2 1. Nói tiếp trăm câu hỏi: “Thế nào thú voi, ngựa? Thế nào là bắt lấy? Thế nào người thấp hèn? Xin Phật nói con nghe?” Là hỏi voi ngựa các loài cầm thú, vì sao mà bị bắt, giết hại lẫn nhau, và hỏi do nghiệp gì mà bị thấp hèn như vậy. “Thế nào thuộc sáu thời? Thế nào nhất-xiển-đề? Nam nữ và huỳnh môn, đây đều do đâu sinh?” Câu trên hỏi ngoại đạo có sáu tiết làm thầy. Lại nói ở Tây vực cứ hai tháng là một thời, mỗi năm chia làm sáu tiết. Câu kế hỏi nhất-xiển-đề. Như đoạn văn dưới là đáp trong phần nói về riêng nhất-xiển-đề. Câu kế hỏi nam nữ, huỳnh môn, như trong kinh Chánh pháp niệm có nói. “Thế nào tu hành tiến? Thế nào tu hành lui?” Là hỏi người học tu hành tại sao lại có sự khác nhau giữa tiến và lui. “Sư Du-già có mấy? Giúp người trụ trong đó?” Du-già, Hán dịch là tương ưng, nghóa là tương ưng với tất cả thừa cảnh, hạnh quả v.v… Như trong Ngũ Phần Thập Địa thứ bảy của luận Du-già Sư Địa có nói. “Chúng sinh sinh các đường, thân gì sắc tướng gì? Giàu có đại tự tại, do nhân gì mà được?” Là hỏi do nhân gì mà chúng sinh các đường có hình tướng, giàu sang, tự tại. “Thế nào dòng Thích-ca? thế nào dòng Cam giá?” Là hỏi dòng họ thế tục của Đức Như lai ở trong các kinh. Sơ lược như Thích-ca gia phổ Phương chí v.v… có nói. “Vị Tiên tu khổ hạnh là được ai dạy trao?” Là hỏi vị tiên tu khổ hạnh, cho là được sống lâu, những vị kia dùng pháp gì để dạy trao đệ tử. “Vì sao Phật Thế Tôn, trong tất cả cõi hiện, các sắc loại khác tên! Chúng Phật tử vây quanh?” Là hỏi Đức Thế Tôn ở khắp mọi nơi ứng vật hiện hình, phàm Thánh vây quanh, do nhân duyên gì mà được như vậy? “Tại sao không ăn thịt? Vì sao cấm ăn thịt? Ăn thịt các chúng sinh, vì nhân gì ăn thịt?” Hỏi ăn thịt do nhân duyên gì mà cấm ăn thịt. Như đoạn dưới là đáp riêng trong phần cấm ăn thịt. “Vì sao các cõi nước, giống như hình trời, trăng, cho đến như dây đàn lưng trống”: Là hỏi hình tướng của thế giới khác nhau không đồng, nói chỉ tất cả do tâm tạo ra. Kinh Hoa Nghiêm chép: Vì hạt giống khác nhau nân quả trái sinh không đồng, hành nghiệp bao nhiêu thứ, cõi Phật nhiều thứ khác nhau, đủ như trong phẩm Thế Giới Thành Tựu có nói. Nhân-đà-la là tên khác của trời Đế-thích. “Thế nào biến hóa Phật? Thế nào là báo Phật? Chân như trí tuệ Phật, xin đều nói con nghe?” Là hỏi nghóa danh hiệu Phật. Tùy căn cơ mà đến, cảm ứng hóa Phật, báo đáp nhân đời trước gọi là báo Phật. Chân như Phật thể tánh không hai, trí tuệ Phật bản giác hiển chiếu. “Tại sao ở cõi Dục, chẳng thành Đẳng chánh giác, cho đến ai người giữ chánh pháp”: Là hỏi cõi Phật Lô-xá-na thành Bồ-đề, và hỏi sau khi nhập Niết-bàn thì ai giữ gìn chánh pháp, sơ lược như trong kinh Ma-ha-ma-da v.v… và phó pháp tạng truyện có nói. “Thế tôn trụ bao lâu? Chánh pháp trụ chừng nào?” Là hỏi Đức Như lai trụ ở đời lâu mau, và chánh pháp trụ thời gian ngắn dài. “Tất-đàn có mấy thứ, các chấp có mấy thứ?”. Câu trên hỏi là Tất- đàn, Hán dịch nghóa tông. Câu dưới hỏi các kiến chấp thế đế. Lại nữa, tông Thiên Thai có bốn tất-đàn: Tất-đàn thế giới. Tất-đàn vị nhân. Tất-đàn vị nhân. Tất-đàn Đệ nhất nghóa. Cho nên nói nếu mất ý bốn Tất-đàn thì tự tu hành, giáo hóa chúng sinh đều gọi là chấp pháp. Nếu được ý bốn Tất-đàn thì mình và người đều không chấp. “Cớ sao lập Tỳ-ni, cùng với các Tỳ-kheo?” Tỳ-ni là giới. Tỳ-kheo ở trong giới này, được giải thoát từng phần. “Thế nào được thế thông? Thế nào được xuất thế?” Là hỏi năm thông thế gian, và sáu thông xuất thế gian, vì sao mà được. Nói sáu thông gồm: Thiên nhãn, thiên nhó, tha tâm, túc mạng, thần túc, lậu tận thông. Sáu thông này bao gồm người tu theo ba thừa. Nhưng có sâu, cạn, sáng tối khác nhau. Thế gian thông không có lậu tận, dù là phần được năm thông trước nhưng cũng chỉ thuộc về hữu lậu. “Lại do nhân duyên gì? Tâm trụ trong Địa thứ bảy?” Là hỏi tâm lượng địa của Địa thứ bảy, nghóa là công dụng địa vị cùng cực, ý bao gồm trước sau. “Tăng-già có mấy thứ? Thế nào thành phá tăng?” Là hỏi tăng có bao nhiêu hạng, ý nói chân hay ngụy, và hỏi phá hoại tăng, giúp cho tăng không hòa hợp, mắc tội báo lớn. Lại có chỗ nói hai thứ tăng là Yết-ma-tăng và Pháp-luân-tăng. Có chỗ nói ba thứ tăng: Hòa hợp tăng, Giả danh tăng và Chân thật tăng. Có chỗ nói bốn thứ tăng: Hữu- tu-tăng, Vô-tu-tăng, Á-dương-tăng và Chân-thật-tăng. Nghóa phá hoại tăng như trong luận Tạp Tâm có nói. “Thế nào là chúng sinh? Rộng nói y phương luận?” Là hỏi y phương luận của thế gian và xuất thế gian, đều có nhiều phương, nên gọi là nói rộng. “Cớ gì Đại Mâu-ni? Nói lời như thế này? Ca-diếp, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm là ta”. Các kinh có nói như vậy, cho nên Đại Tuệ hỏi, nghóa là dấu vết ứng hóa có sự khác nhau, nhưng đức thể không khác. Như đoạn dưới đáp riêng bốn thứ bình đẳng. “Cớ sao nói đoạn thường, và cùng ngã vô ngã, sao không thường nói thật, tất cả chỉ tâm này!” Là hỏi Đức Như lai sao không thường vì chúng nói pháp chân thật, mà lại vì chúng sinh nói đoạn, nói thường, nói ngã, vô ngã, nói pháp tâm lượng vọng tưởng là vì sao! Như đoạn dưới có đáp riêng trong phần nói về đời vị lai có các tà trí. “Thế nào rừng nam nữ, ha-lê, am-ma-lặc?” Là hỏi trái cây ở thế gian vì sao mà khác nhau. Ha-lê là quả Kha-lê-lặc. Am-ma-la là quả a-ma-lặc. “Kê-la và Thiết vi, cùng với núi Kim cương, cho đến xin Phật nói con nghe”. Luân vi cũng dịch là Thiết vi. Càn-thát-bà, tức là các vị trời đánh nhạc. Hai câu sau kiết thúc lời thỉnh. “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nghe Bồ-tát Đại Tuệ thưa hỏi, cho đến: sẽ theo thứ lớp như lời ông hỏi mà đáp”: Như lai nghe Bồ-tát Đại Tuệ hỏi tâm pháp nhiệm mầu như vậy, cho nên khen ngợi: Lành thay! Răn bảo lắng nghe. Không dùng tâm hạnh sinh diệt nghe pháp thật tướng. Dưới đây gồm ba mươi chín bài kệ đều do Đức Như lai nói cho Bồ-tát Đại Tuệ nghe. “Hoặc sinh hoặc vô sinh, Niết-bàn không sát-na, trôi lăn không tự tánh”: Ý nói Đại Tuệ hỏi pháp hữu vi sinh, pháp vô vi bất sinh, pháp Niết-bàn hư không trôi lăn từng sát-na, đều do vọng tưởng hiển hiện, đều không có tự tánh. “Phật tử, Ba-la-mật, Thanh văn, Bích-chi-phật, ngoại đạo vô sắc hành”: Đoạn trên là hỏi về người và pháp mà người thực hành. Phật tử, Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo là người. Các Ba-la-mật là pháp sở hành của người tu theo ba thừa. Hành vô sắc là pháp sở hành của ngoại đạo. Ý nói người này và pháp của người thực hành, đều dùng vô tự tánh để kiết thúc. Đây là ý chỉ sâu kính do Phật lược đáp. “Tu-di, bể cả, núi lớn, châu, đảo, cõi nước, quả đất”. Dưới đây tám hàng nửa bài kệ là Đức Như lai theo thứ lớp nhận lãnh trăm lẻ tám câu hỏi của Bồ-tát Đại Tuệ. Núi Tu-di ở giữa biển lớn, cho nên nói Tu- di, biển cả, núi lớn, ở lưng chừng núi Tu-di. Biển lớn, trên hỏi trong đây không có. Châu, đảo, cõi nước, quả đất, là lãnh nhận trên mặt đất. “Sao, mặt trời, mặt trăng, chúng trời A-tu-la, cho đến diệt và như ý túc”. Tu-la lực, như ý túc, trên hỏi trong đây không có, nghóa lẽ ra là có. “Bồ-đề phần và đạo thiền định và vô lượng, cho đến tâm sinh khởi nói năng”. Các uẩn và qua lại, nhận lãnh chúng sinh sinh ra các đường. Tâm sinh khởi nói năng, nhận lãnh trên ai sinh khởi lời nói. “Tâm ý thức vô ngã, năm pháp và tự tánh, cho đến chúng sinh có hay không”. Là Đại chủng trên không có văn. Một Đức Phật, Ca-diếp v.v… trên là ta, chúng sinh có hay không, trên nói ngã, vô ngã. “Thú Voi ngựa vô nhân, làm sao mà bắt lấy, cho đến kỹ thuật và minh xứ”. Chỉ do tâm không có cảnh giới. Trên cho rằng tất cả đều chỉ do tâm. Các điều khác đều y theo câu hỏi trên. “Các núi Tu-di, quả đất, biển lớn lượng mặt trăng, chúng sinh bậc thượng, trung, hạ; thân mỗi người có bao nhiêu hạt bụi ”. Tu-di các núi, quả đất trở xuống gồm chín bài kệ, nói Đại Tuệ đã hỏi danh tướng, vì sao không hỏi các núi, biển lớn, mặt trời, mặt trăng, các sao, cõi nước của chúng sinh, và do-tuần, đẩu, hộc, cân, lạng, bốn đại các căn, như vậy do trần lượng tạo thành. Đã nói ta tên là Đại Tuệ thông đạt Đại thừa, vì sao không hỏi tên hạt bụi và số lượng chứa nhóm, ý nói có hỏi mà không đến nơi đến chốn. Lại nữa, vì giúp cho chúng sanh xả bỏ tình chấp, các vật đã chứa nhóm nhiều như cát bụi mà thành, làm gì có thể tánh. “Mỗi cõi có bao nhiêu hạt cát bụi, mỗi cung có bao nhiều khuỷu tay, cho đến rận rệp, dương mao, khoáng mạch ”: Nói nhỏ như hạt bụi gọi là thố hào trần. Bảy thố hào trần là một dương mao đầu trần. Bảy dương mao đầu trần là một hạt bụi qua kẽ hở. Bảy hạt bụi qua kẽ hở thành một con rận Bảy con rận thành một con chí. Bảy con chí thành một khoáng mạch trần. Bảy khoáng mạch trần thành một lóng tay. Một trăm mười lóng tay thành một gang tay. Hai gang tay thành một khuỷu tay. Bốn khuỷu tay là một cung. Năm trăm cung gọi là một câu-lô-xá. Mười câu lô xá gọi là một do-tuần. Tam thiên đại thiên thế giới làm một cõi hóa Phật. Nghóa là các pháp này đều chứa nhóm như cát bụi mà thành thể. Vì sao không hỏi đủ mỗi thứ có bao nhiêu hạt cát bụi tạo thành. “Nửa đấu và một đấu, mỗi thứ có bao nhiêu khoáng mạch, cho đến mỗi thứ có số bao nhiêu?” Đây đều là tên gọi trong đấu và hộc dùng để chứa trong nhà Phật, hoặc gọi ngàn muôn na-do-tha, gọi tần bà la. “Bao nhiêu hạt bụi thành hạt cải, bao nhiêu hạt cải thành một hạt cỏ, cho đến vì sao không hỏi ta”: Đoạn trên đây đều là Như lai nói. Ý nói danh tướng như vậy cũng nên hỏi. “Vì sao được giàu có? Thế nào vua Chuyển luân? Thế nào vua thủ hộ? Vì sao được giải thoát?” Dưới đây gồm hai mươi bài kệ, lại nhận lãnh câu hỏi của Đại Tuệ. Tài phú, giống như giàu có ở trên. “Thế nào văn xuôi, câu? Dâm dục và ăn uống, cho đến do nhân gì mà có các mùi vị”: Các thứ vị, câu hỏi trên không có. “Thế nào là nam nữ và bắt đầu, Phật Bồ-tát trang nghiêm, cho đến thế nào hữu nhân tác”: Vô nhân tác, hữu nhân tác. Hiểu rõ hai câu đều khác nhau. “Thế nào chuyển các kiến, thế nào khởi so chấp? Cho đến thế nào khởi tam-muội”. Dứt bỏ các tưởng, hiểu rõ trên vì sao gọi là tưởng diệt. Khởi tam-muội, hiểu rõ trên vì sao từ định giác. “Phá ba hữu là ai? Ở đâu! Và thân gì, cho đến Và chỗ hỏi chẳng phải ngã”. Không có thân ngã, hiểu rõ đoạn trên nói không có chúng sinh. Tướng nó như thế nào, hiểu rõ đoạn trên nói vì sao lập ra tướng. Chẳng phải ngã, đoạn trên nói thành vô ngã. “Thế nào là thai tạng và các chi phần khác, cho đến Thông minh, ma, thi thiết”: Thi thiết, là nhắc lại đoạn trên nói vì sao chỉ giả thiết. Thông minh ma, đoạn trên không hỏi. “Thế nào là hàng cây, là điều mà ông hỏi, cho đến nay ông đều hỏi ta”: Từ Sơ địa đến Địa thứ bảy là địa hữu tâm. Quán ba cõi tâm, ý, thức lượng. Đây là tổng kiết một trăm lẻ tám câu trên. Các nghóa khác, là số cát bụi chứa nhóm v.v… đều là tướng phân biệt trong ba cõi, là pháp sở quán của Địa thứ bảy, cho nên nói vì sao giúp cho tâm được trụ vào Địa thứ bảy. Nay ông đều hỏi ta, là tổng kiết văn nhắc lại. Khuyên nên lắng nghe: “Một trăm lẻ tám câu như các Phật trước đã nói, cho đến Phật tử nên lắng nghe”. Các Phật trước đã nói, lìa câu kiến tướng, đều trái với thật tướng, không tướng thì tự nhiên xa lìa các lỗi ác kiến, cũng xa lìa pháp do lời nói thế gian hình thành đều là không thật nghóa. Sẽ nói cho ông nghe, là lời răn dạy giúp cho lắng nghe. Cho nên ngài Long Thắng nói: Nghe là chăm chú như khát uống. Nhất tâm nhập vào trong lời nói, nghe pháp tụng tâm hớn hở vui buồn, người được như vậy hãy nói cho họ nghe. Như lai đáp trăm lẻ tám câu theo môn tâm chân như: “Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến câu thường là vô thường”. Dưới đây là Như lai y theo môn tâm như chân mà đáp. Trên nói chúng sinh đối với vô sinh chân thật, vọng khởi sinh kiến, vốn tự chẳng sinh, cho nên nói câu sinh là bất sinh. Nếu pháp hữu sinh có thể nói có thường, vì không sinh cho nên nói không có thường, cho nên nói câu thường chẳng phải câu thường. Hai câu này đã như vậy thì các câu khác đại loại đều lấy câu dưới bỏ sót câu trên. Nếu vọng kiến không có thì chân thật tự hiện. “Câu tướng chẳng phải câu tướng, câu trụ dị chẳng phải câu trụ dị”. Vì thành câu sinh từ tướng mà đến, hai câu trụ dị, đoạn trên không có hỏi. Xưa không nay có gọi là sinh, pháp chẳng phải bất động gọi là dị, pháp có tạm dụng gọi là Trụ. “Câu sát-na chẳng phải câu sát-na, cho đến câu hằng chẳng phải câu hằng”. Đoạn trên không có câu này. Gồm có ba thứ thường: 1. Ngoại đạo chấp tánh của bốn đại là thường. 2.Nghiệp thói quen nối nhau được quả bất đoạn gọi là thường. 3.Thể của Như lai Tạng là chân thật thường trụ Thường. Ba thứ thường này đều là do kẻ ngu luống dối vọng chấp. Bản chú giải xưa gồm có ba thường khác với ở đây. “Câu duyên phi duyên, câu Nhân chẳng phải câu nhân, cho đến câu phương tiện chẳng phải câu phương tiện”: Đại phiền não có sáu thứ. Tùy phiền não có hai mươi thứ. Văn trên không có phương tiện. “Câu thiện xảo chẳng phải câu thiện xảo, cho đến câu ba luân phi ba luân”. Câu ba luân văn trên không có. “Câu tiêu tướng chẳng phải câu tiêu tướng, câu hữu chẳng phải câu hữu, cho đến câu nước chẳng phải câu nước”: Như một giọt nước trong sông Hằng mà bốn cách thấy khác nhau. “Câu cung chẳng phải câu cung, câu đại chủng chẳng phải câu đại chủng, cho đến câu quả chẳng phải câu quả”: Xét câu đại chủng ở trên như câu thật. Câu quả văn trên không có. “Câu diệt chẳng phải câu diệt, câu khởi chẳng phải câu khởi, cho đến câu tướng chẳng phải câu tướng”: Tướng có ba thứ: Thể tướng, tiêu tướng và pháp tướng. Trước là hình sắc thể tướng, kế là tiêu tướng, đây là pháp tướng. “Câu chi phần chẳng phải câu chi phần, câu thiền chẳng phải câu thiền, cho đến câu ký chẳng phải câu ký”: Câu nhiếp thọ, câu ký, văn trên không có. “Câu nhất-xiển-đề chẳng phải câu nhất-xiển-đề, cho đến câu vị chẳng phải câu vị”. Câu vị văn trên không có. “Câu tác chẳng phải câu tác, câu thân chẳng phải câu thân, cho đến câu nhân quả chẳng phải câu nhân quả”. Câu hữu vi, câu nhân quả văn trên không có. “Câu sắc cứu cánh chẳng phải câu sắc cứu cánh, cho đến câu chủng chủng chẳng phải câu chủng chủng”. Câu chủng chủng văn trên không có. “Câu giảng nói chẳng phải câu giảng nói, cho đến câu văn tự chẳng phải câu văn tự”. Câu Trụ trì, Cầu-na dịch là câu xứ. Trên đây là y theo môn tâm chân như, đáp chung một trăm lẻ tám câu, đều nói là “phi”, như ngài Mã Minh nói: Phải biết chân như tự tánh chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải không hữu tướng, chẳng phải không vô tướng, chẳng phải hữu vô câu tướng, chẳng phải nhất tướng, chẳng phải dị tướng, chẳng phải không nhất tướng, chẳng phải không dị tướng, chẳng phải nhất dị câu tướng. Từ xưa đến nay tất cả pháp ô nhiễm và tất cả chúng sinh do có vọng tâm niệm niệm phân biệt đều không tương ưng, tức là chân tâm thường hằng bất biến, tịnh pháp đầy đủ, cũng không có tướng đáng chấp, vì lìa cảnh giới niệm, chỉ chứng mới tương ưng. Tổng kiết lời khuyên: Này Đại Tuệ! Đó là trăm lẻ tám câu, cho đến Ông và các đại Bồ- tát phải nên tu học”. Đây là tổng kiết lời khuyên. Các Bồ-tát… phải nên học Bồ-tát đạo, tu Bồ-tát hạnh như vậy. Trước nêu lên Phật đều là phát minh sự thành tín. <篇> <詞>Phẩm 3: TẬP NHẤT THIẾT PHÁP 1. Giải thích về phẩm này: Giải thích phẩm này có bốn môn: 1.Nguyên nhân có phẩm này. 2. Giải thích chướng nạn. 3. Giải thích tên gọi. 4. Giải thích văn. Nguyên nhân có phẩm này: phẩm trên nói chung về hỏi đáp đã xong. Dưới đây các phẩm đều hỏi đáp riêng cho nên đặt ở kế sau. Giải chướng nạn rằng: Trăm lẻ tám câu đã nói chung, vì sao các phẩm dưới mỗi thứ đều hỏi riêng, ý lời nói đều không ra ngoài phần chung, đâu thể chẳng rườm rà! Đáp: Chung riêng gồm nhiếp, chấp đoạn thường mới tiêu, chân tục viên dung, bỏ chấp tình mới bặt dứt. Giải thích tên gọi: Luận rằng nương nhất tâm mà mở ra hai môn. Phẩm trên đã nói về tâm chân như môn, gồm nhiếp tất cả pháp. Phẩm này nói về tâm sinh diệt môn, gồm nhiếp tất cả pháp sinh tất cả pháp, do đó hai môn không lìa nhau. Luận rằng tâm sinh diệt, nương vào Như lai Tạng cho nên có tâm sinh diệt. Cái gọi là bất sinh bất diệt hòa hợp với sinh diệt, chẳng phải một, chẳng phải khác, gọi là thức A-lại-da. Thức này có hai nghóa; năng gồm thâu tất cả pháp sinh tất cả pháp. Hai nghóa: a) Nghóa giác; b) Nghóa bất giác. Nghóa giác tức là tâm thể lìa niệm, tướng lìa niệm là bình đẳng với hư không giới, không chỗ nào là không trùm khắp. Pháp giới một tướng tức là pháp thân bình đẳng của Như lai, nói theo pháp thân này thì gọi là bản giác, nương vào bản giác mà có bất giác, cho đến ba tế sáu thô lên xuống trong biển khổ. Nương vào bất giác cho nên nói có Thỉ giác. Lại do nguồn tâm giác nên gọi rốt ráo giác, nguồn tâm bất giác gọi là chẳng phải rốt ráo giác. Vì vậy, cho nên trong mười pháp giới hoặc Thánh hoặc phàm, hoặc nhân hoặc quả, y báo chánh báo nhiễm tịnh đều nêu lên trong đó. Cho nên gọi là phẩm “Tập nhất thiết pháp”. Kế văn kinh dưới là giải thích văn. Nói riêng về hỏi đáp: “Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến các thức có mấy thứ sinh, trụ, diệt?” Từ phẩm này đến phẩm cấm ăn thịt gồm mười bốn phẩm nói rõ riêng về hỏi đáp, cho nên mỗi phẩm thường nhắc lại. Bạch Đức Thế Tôn! Đây là chương đầu, tức hỏi đáp riêng về tâm ý thức. Nghóa là thức sát-na ban đầu khác với gỗ đá, sinh được nhiễm tịnh, đều tự có thể làm vô lượng vô số thức gốc nhiễm tịnh. Từ sát-na đầu không thể nói là kiếp, cho đến Kim cương dụ định, trải qua một sát-na có không thể nói không thể nói thức. Sinh các hữu tình, hai pháp sắc tâm thì có tịnh có nhiễm, có sinh có diệt. Thức này y theo sinh diệt môn. Có mấy thứ sinh, trú, diệt (nhưng từ vô thỉ kiếp lâu xa, làm sao gọi là sơ? Nghóa là lúc này bỗng nhiên khởi lên một niệm. Vọng niệm trái với chân, gọi là thức ban đầu. Chẳng phải quá khứ có thức mới sinh khởi gọi là thức ban đầu). Chân như diệu tánh chỉ có Phật mới biết: “Đức Phật bảo ngài Đại Tuệ, thức có hai thứ sinh, trụ, diệt, suy nghó chẳng thể biết được”. Chân như diệu tánh vốn tự vô sinh, một niệm theo duyên sự phần đều khởi, tức là chân tâm không giữ gìn tự tánh, theo vô minh duyên thành các thức sinh, trụ, dị, diệt. Trí tuệ của phàm phu, Tiểu thừa chẳng thể biết được, cho đến Bồ-tát ở giai vị rốt ráo cũng không thể biết hết, chỉ có Phật mới biết hết. Sinh, trụ, diệt nối nhau: “Cái gọi là sinh ra nối tiếp và sinh nhau nối tiếp trụ và trụ lẫn nhau, nối nhau diệt và diệt lẫn nhau”. Nối nhau tức trôi chảy. Có bản khác cũng nói trôi chảy. Nói trôi chảy, chỉ gọi thức thứ tám. Ba tướng nhớ nhiệm (tức nghiệp tướng, chuyển tướng và hiện tướng, như trong luận Khởi Tín có nói), chủng hiện không dứt, gọi là trôi chảy. Do duyên vô minh mà sơ khởi nghiệp thức, cho nên nói là sinh. Nối nhau nhiều kiếp cho nên gọi là Trụ, đến định Kim cương. Một niệm Đẳng giác nhổ gốc vô minh, gọi là trôi chảy diệt. Tướng sinh, trụ, diệt, nghóa là bảy thức còn lại tâm cảnh thô hiển, cho nên gọi là Tướng. Tuy bảy duyên tám, nhưng mong sáu làm tế, có đủ bốn hoặc, cũng gọi là Thô. Nương vào hiện thức kia tự gieo trồng các cảnh, duyên hợp sinh ra bảy, gọi là tướng sinh. Nhiều kiếp huân tập gọi là tướng Trụ. Từ ngọn hướng đến gốc, dần dần hàng phục dứt bỏ. Đến Địa thứ bảy đầy đủ gọi là tướng diệt. Nương vào sinh diệt trước mà lập mê ngộ y, nương vào sinh diệt sau mà lập nhiễm tịnh y. Sau ngắn trước dài sự chai ra hai thứ khác nhau, tức là lưu chú sinh trụ diệt, tướng sinh trụ diệt. Vì sao gọi thức là sanh diệt: “Các thức có ba tướng, đó là nghiệp tướng, chuyển tướng và chân tướng”: Trên tuy đáp các thức có hai thứ sinh trụ diệt, nhưng chưa nói rõ vì sao thức gọi là sinh diệt. Đây lại nói ba tướng. Muốn phân biệt đối với các thức có sinh diệt, không sinh diệt. Nói chân tướng, là Như lai Tạng tâm tại triền bất nhiễm, tánh tự thần giải, gọi là tự chân tướng. Vô minh căn bản khởi tịnh khiến động, động gọi là nghiệp thức, tức là tướng lại-da rất nhỏ nhiệm, gọi là Nghiệp tướng. Chuyển tướng là nương vào nghiệp tướng trước chuyển thành năng duyên và cảnh sở duyên, sinh bảy chuyển thức, đồng gọi là chuyển tướng. Lại, từ tịnh khởi động gọi là Nghiệp, từ nội hướng ngoại gọi là chuyển. Như lai Tạng tâm, không thể thêm bớt, gọi là chân tướng, cũng gọi là chân thức. Song, tuy ba tướng tên gọi khác nhau nhưng cũng đồng hai nghóa nhất tâm là tùy duyên, bất biến, nghóa là chân tâm bất biến tức tùy duyên, cho nên gọi chuyển tướng nghiệp tướng. Vì tùy duyên tức bất biến cho nên gọi chân tướng. Luận nói rằng tâm này từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh, do bị vô minh ô nhiễm cho nên có nhiễm tâm, đó là bất biến tức tùy duyên. Lại nói rằng tuy có nhiễm tâm mà thường hằng bất biến, đó là tùy duyên tức bất biến. Tám thức và hai thức: “Này Đại Tuệ! Thức nói rộng thì có tám thứ, nói lược thì có hai thứ, là hiện thức và thức phân biệt sự”. Đức Như lai ở trên nói các thức có ba tướng, đó là đã nói vừa chừng, nhưng ở đây lại nói các thức rộng lược, vì chúng sinh căn tánh khác nhau, sự thọ nhận hiểu biết có khác nhau. Nói rộng thì có tám: 1. Nhãn thức biết rõ đối với sắc. 2. Nhó thức biết rõ đối với thanh. 3.Tỷ thức biết rõ đối với hương. 4.Tỷ thức biết rõ đối với vị. 5. Thân thức biết rõ đối với xúc. 6. Ý thức nhận biết với các pháp. 7.Thức mạt-na (Hán dịch nhiễm ô ý), thường xét nét so lường, chỉ duyên kiến phần của tạng thức, cũng gọi thức truyền tống. 8. Gọi thức A-lại-da (Hán dịch là tạng thức) nghóa là tám thức này đều là chúng sinh từ vô thỉ đến nay không rõ tự tâm, theo vọng duyên khởi, trong đó thức thứ tám là thức căn bản, lập tức biến thành hạt giống căn thân khí giới, chuyển sinh nảy thức đều có khả năng biến hiện tự phần sở duyên (sở duyên tức là cảnh. Sắc là nhãn thức tự phần sở duyên, cho đến ba cảnh là thức A-lại-da tự phần sở duyên, không bao giờ có tâm ngoài pháp, có thể làm duyên cho tâm, nhưng từ tự tâm sinh, lại làm tướng cho tâm). Ngoài tám thức này thật không có ngã pháp. Nói về thức biến: Hỏi: Biến như thế nào? Đáp: Vì năng lực huân tập của phân biệt ngã pháp nên khi các thức sinh thì biến dường như có ngã pháp. Thức thứ sáu, thứ bảy bị vô minh che lấp, duyên chấp này làm thật ngã thật pháp, như người nằm ngủ, do năng lực của chiêm bao cho nên tâm dường như có nhiều tướng cảnh bên ngoài hiện ra, khi mộng chấp là thật có cảnh bên ngoài, khi thức mới biết chỉ do mộng biến hiện, thân tướng này của ta và các pháp sắc không ở thế giới bên ngoài, cũng giống như vậy. Chỉ do thức hiện ra, mê cho nên chấp có ngã và các pháp, khi ngộ mới biết do tâm thức hiện, vì như thật biết không có cảnh giới trước, các thứ phương tiện sinh khởi hạnh thuận theo. Chuyển tám thức thành bốn trí Bồ-đề, an trụ bí tạng, rốt ráo Niết-bàn, cho nên ngài Tào Khê nói rằng: Trí Đại viên cảnh tánh thanh tịnh, Trí bình đẳng tánh tâm vô bệnh, Trí diệu quán sát thấy chẳng có công, Trí thành sở tác đồng viên cảnh. Thứ năm thứ tám thứ sáu thứ bảy quả nhân xoay chuyển, chỉ chuyển tên gọi mà không thật tánh. Nếu đối với chuyển xứ không dính mắc, mãi mãi ở trong na-già định, thì thức này chuyển thành trí. Lược thì chỉ có hai: Nghóa là chuyển thức và thức phân biệt sự. Bản dịch của ngài Cầu-na nói rằng lược có ba thứ, trong hiện thức thêm một chân thức. Nếu giải thích ba thức, chân nghóa là tánh tịnh bản giác, hiện nghóa là lại-da hiện thức, còn bảy thức khác đều gọi là thức phân biệt sự. Tuy thức thứ bảy không duyên ngoại trần, duyên thức thích cũng gọi là thức phân biệt sự. Chân là bản giác, tức thức thật tánh. Ở đây giải thích rằng: Hiện thức thuộc lại-da, thức phân biệt sự thuộc sáu thức trước, không nói thức thứ bảy, nghóa là thức thứ bảy mạt-na chấp bên trong làm ngã, thuộc lại-da, chấp bên ngoài làm ngã sở thuộc sáu thức trước. Chân tức là thức thật tánh, cũng thuộc lại-da tịnh phần. Vì vậy nói lược thì chỉ có hai, thường không xâm lạm với thuyết này. Nói về hiện thức: “Này Đại Tuệ! Thí như gương sáng hiện các sắc tượng, hiện thức cũng giống như vậy”: Đây là nêu ví dụ hợp để nói rõ hiện thức. Nói hiện thức như gương, cảnh giới sở hiện như tượng, nên luận Khởi Tín chép: Ba cõi luống dối do tâm tạo ra, lìa tâm thì không có cảnh giới sáu trần. Lại nói rằng tạng thức thứ tám làm nơi nương tựa, chuyển sinh thức thứ bảy, trong đó, thức thứ sáu tạo ra nghiệp dẫn mãn, chiêu cảm quả báo chung riêng như gương hiện hình tượng, mảy may không sai. Nói quả báo chung riêng: 1.Quả báo chung, thuộc thức thứ tám. 2.Quả báo riêng, ở trong sáu thức trước. Vả lại, nói theo nghiệp lành hữu lậu thì như giữ gìn năm giới chiêu cảm được làm thân người, đó là nghiệp báo chung. Do trong nhân có sân nhẫn v.v… nên ở trong nghiệp báo chung của loài người mà có tốt, có xấu v.v… gọi là nghiệp báo riêng, cũng gọi là dẫn mãn nghiệp, tức có công năng chiêu cảm thức thứ tám dẫn dị thục quả, gọi là dẫn nghiệp. Năng chiêu cảm quả mãn dị thục của thức thứ sáu gọi là mãn nghiệp. Nhưng suy nghó về dẫn nghiệp năng tạo kia, phải là ý thức thứ sáu dẫn khởi, hoặc mãn nghiệp kia, suy tư năng tạo từ năm thức dẫn khởi. Tuy tạo mãn nghiệp cũng chẳng phải tự có khả năng, do ý thức dẫn mới có thể tạo tác. Thức thứ bảy kia chỉ có hai chướng câu sinh hoặc trí: Nghiệp chướng báo chướng. Bảy thức kia đều không, tuy có bốn hoặc, chỉ duyên bên trong nên thuộc về tánh hữu phú vô ký, thì không thể gây ra hai nghiệp thiện ác, chỉ có sáu thức trước khởi hoặc tạo nghiệp. Nghiệp thành khó tránh chiêu cảm các dị báo, như gương hiện bóng, không sót mảy may. Cho nên Kinh Lăng-nghiêm chép: Sáu thức tạo nghiệp chiêu cảm báo ác từ sáu căn ra, hoặc chú giải kinh này chỉ ra thức thứ bảy có khả năng gây ra nghiệp thiện ác, giáo không có văn nói rõ. (Chỉ bộ Tông cảnh lục, bảy mươi ba quyển đầu, nhờ nương vào phần chú giải xưa, mà nói thức thứ bảy tạo nghiệp. Lại cùng với Lục này tiết mục dẫn kinh luận nghóa rõ ràng các thức xứ đều trái nhau, suy đoán sẽ thấy). Hiện thức và thức phân biệt sự không khác nhau: “Này Đại Tuệ! Hiện thức và thức phân biệt sự, hai thức này không khác nhau làm nhân cho nhau”. Nói lại-da hiện thức và thức phân biệt sự không có tướng khác, đều do một niệm đầu tiên làm duyên. Nay tâm chân như không giữ tự tánh, tùy duyên mà thành có, các thức huân tập lại làm nhân lẫn nhau, trôi lăn không dứt. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm, ý các tình căn, do sự thường trôi lăn này mà không thể chuyển. Sớ kia giải thích rằng: Nói lấy đây, nghóa là dùng tám thức trên tự làm năng huân, sở huân, xoay vần làm nhân, cho nên mà thường trôi lăn không phân biệt ngã nhân, cho nên nói vô năng chuyển. Lại nói rằng ngoài thức chẳng có pháp cũng là không, cho nên nói hai thức này không có tướng khác, làm nhân lẫn nhau. Nói rộng nguyên nhân sinh trụ của các thức: “Này Đại Tuệ! Hiện thức lấy bất tư nghị huân và bất tư nghị biến làm nhân, cho đến thói quen hý luận làm nhân”. Ở đây lại nói rộng nguyên nhân sinh trụ của các thức. Nói chung thì hai thức thô tế đều nương vào Vô minh trụ địa mà khởi. Vì vô minh căn bản, làm động tâm thanh tịnh kia mà khởi thức nhỏ nhiệm, nương vào thức nhỏ nhiệm này chuyển khởi tâm thô, cho nên dùng vô minh thông làm gốc. Nếu nói riêng thì nương vô minh làm nhân, sinh ba tâm bất tương ưng nhỏ nhiệm. Nương cảnh giới làm duyên, sinh ra ba tâm tương ưng thô, cho nên nói hai thức thô tế, mỗi thức đều có đủ hai nhân, mới được sinh trụ. Nói bất tư nghị huân, nghóa là vô minh năng huân chân như, vì chỗ không thể huân mà huân được nêu, gọi là bất tư nghị huân. Lại, huân thì không huân; luận chủ không huân gọi là bất tư nghị huân. Nói bất tư nghị biến, nghóa là tâm chân như bị vô minh huân, không thể biến dị mà biến dị, cho nên gọi bất tư nghị biến. Lại, biến tức bất biến; biến của bất biến gọi là bất tư nghị biến. Dẫn kinh luận làm sáng tỏ: Kinh Thắng-man chép: Bất nhiễm mà nhiễm, khó rất dễ hiểu rõ, nghóa là bất tư nghị này. Nhưng sự huân biến này rất nhỏ nhiệm lại ẩn kín, cho nên hành tướng của hiện thức sinh khởi rất nhỏ nhiệm, ở trong đó cũng có chuyển thức, nghiệp thức. Nêu thô để bày tế, cho nên chỉ nói hiện thức, tức luận Khởi Tín nói bất tương ưng tâm. Nói phân biệt cảnh giới, tức là hiện thức sở hiện các thứ cảnh giới, trở lại làm động biển tâm kia, khởi các sóng sự thức. Nói thói quen hý luận từ vô thỉ, tức hòa hợp trong biển tâm kia, vọng niệm thói quen hý luận, từ vô thỉ đến nay thói quen không dứt, không hề lìa niệm, cho nên cảnh giới này và vọng niệm hý luận huân động biển tâm sinh ra các thức. Do vọng niệm và cảnh giới, thô nên hiển hiện, vì thế sinh khởi thức phân biệt sự hành tướng thô hiển, tức luận Khởi Tín gọi là tương ưng tâm. Ở đây nghóa là hiện thức nương bất tư nghị huân cho nên được sinh, nương bất tư nghị biến cho nên được trụ. Thức phân biệt sự nương cảnh giới cho nên được sinh, nương biển tâm cho nên được trú. Đoạn trên Phật nói các thức có hai thứ sinh trụ diệt đến đây đã xong. Nghóa là do vô minh huân tập chân như thành nhiễm duyên khởi. Cho nên luận nói: Phải biết vô minh có công năng sinh ra tất cả pháp nhiễm, tất cả pháp nhiễm đều là tướng bất giác. Nói về thức A-lại-da: “Này Đại Tuệ! Thức A-lại-da luống dối phân biệt, cho đến đó gọi là danh tướng diệt”. Dưới đây là nói, nếu hiểu được nguồn gốc của vọng thì duyên tịnh khởi. Nói thức A-lại-da hòa hợp trong biển tâm. Nếu vọng niệm phân biệt các thứ thói quen diệt, thì tất cả căn thân diệt. Nói tất cả căn, nghóa là ý căn khởi thức mà phân biệt được tất cả các pháp, thì gọi là Nhất thiết căn thức, tức là tướng ý thức thứ sáu, và sở y thứ bảy mạt-na hiện hành thức diệt, gọi là tướng sinh trụ diệt thức diệt. Có chỗ nói các thứ thói quen ấy, là y theo tông Duy thức, nói các thói quen gồm có ba thứ: 1.Thói quen danh ngôn: Nghóa là pháp hữu vi mỗi pháp đều có thân chủng. Danh ngôn có hai: a. Nêu nghóa danh ngôn, tức có khả năng giải thích nghóa, âm thanh khác nhau; b. Hiển cảnh danh ngôn, tức có khả năng hiểu rõ cảnh tâm tâm sở pháp, tùy hai thức danh ngôn sở huân thành hạt giống, tạo ra pháp hữu vi, đều có nhân duyên riêng. Thói quen Ngã chấp: nghóa là luống dối chấp ngã và ngã sở. Ngã chấp có hai: a. Câu sinh ngã chấp, tức chấp ngã, ngã sở do tu mà dứt; b. Phân biệt ngã chấp, tức chấp ngã, ngã sở do thấy đạo mà diệt, tùy hai thứ ngã chấp huân thành hạt giống, giúp cho loài hữu tình v.v… mình và người khác nhau. 3.Thói quen hữu chi: Nghóa là chiêu cảm quả dị thục trong ba cõi. Hữu chi có hai: a. Thiện hữu lậu, có công năng chiêu cảm nghiệp quả đáng ưa; b. Các bất thiện, có công năng chiêu cảm nghiệp quả chẳng đáng ưa, tùy theo hai hữu chi huân tập mà thành hạt giống, giúp cho quả dị thục chia đường thiện ác khác nhau. Các thuyết về thói quen, đều y theo đây nên biết. Nói nhân sở y và sở duyên diệt: “Này Đại Tuệ! Nối nhau diệt, cho đến tự tâm sở kiến phân biệt ảnh giới”: Nói nhân sở y và sở duyên diệt, tức nối nhau diệt, nghóa là chỗ nương thói quen căn bản vô minh từ vô thỉ diệt, và cảnh giới sở duyên pháp duyên nhiễm diệt, tức là thức lưu chú sinh trụ diệt nhỏ nhiệm thức diệt. Nói nhân sở y, là thói quen hý luận từ vô thỉ. Sở duyên, nghóa là tự tâm cảnh giới phân biệt sở kiến. Kinh có nhắc lại giải thích vô minh bị diệt, và ý nghóa cảnh giới vọng làm nghóa nhân duyên, cho nên luận chép: Do vô minh diệt cho nên tâm không sinh khởi, do tâm không khởi nên cảnh giới theo đó mà diệt. Vì nhân, duyên đều diệt nên tâm tướng đều hết, gọi là chứng đắc Niết-bàn thành nghiệp tự nhiên. Nêu hai ví dụ: “Này Đại Tuệ! Thí như nắm đất và hạt bụi, cho đến vàng và các thứ trang sức cũng giống như vậy”. Đây là dẫn hai ví dụ, ví dụ trên là hai duyên nhiễm và tịnh khởi: 1. Thể của chân vọng chẳng phải một, chẳng phải khác. 2.Chỉ có vọng diệt chứ chân không mất, nghóa lời văn tiếp theo sẽ giải thích. “Này Đại Tuệ! Nếu khối đất và hạt bụi khác, cho đến khối đất và hạt bụi lẽ ra không khác nhau”. Nếu nói khối đất và hạt bụi thật có khác nhau thì khối đất lẽ ra chẳng phải do hạt bụi tạo thành, mà thật do hạt bụi tạo thành, cho nên không thể nói khác. Nếu thật không khác thì khối đất và hạt bụi lẽ ra không khác nhau. Đã là nhân quả thô, tế có khác nhau, cũng chẳng thể nói đồng nhất. Nói về chuyển thức và tàng thức: “Này Đại Tuệ! Chuyển thức và tàng thức nếu khác nhau, cho đến nhưng chân tướng kia chẳng diệt”. Dùng pháp hợp để ví dụ, nói chẳng phải một, chẳng phải khác. Nói các thức chuyển và tàng thức khác nhau khi gió vô minh huân động, thể của tàng thức lẽ ra không tùy duyên, rơi vào lỗi thường. Nhưng Như lai Tạng tàng thức ấy là nhân lành hay không lành đều tùy duyên. Nếu không khác thì khi chuyển thức diệt thì tàng thức lẽ ra cũng phải diệt, thì rơi vào lỗi đoạn. Nhưng chân tướng của tàng thức rốt ráo không diệt. Cho nên luận Khởi Tín chép: Vì tướng của tất cả tâm thức đều là vô minh; tướng vô minh không lìa giác tánh, không thể hoại, chẳng phải không thể hoại, như nước của biển lớn, do gió mà sóng động, tướng nước tướng gió không xa lìa nhau, nhưng nước chẳng phải tánh động. Nếu gió dừng diệt tướng động thì tánh ướt không hoại. Như vậy tâm chúng sinh tự tánh thanh tịnh, bị gió vô minh làm động, tâm và vô minh đều không có hình tướng, không lìa bỏ nhau. Nhưng tâm chẳng phải tánh động, nếu vô minh diệt thì thức nối nhau diệt, trí tánh không hoại. Như lai tạng bị ác tập luống dối từ vô thỉ huân tập: “Này Đại Tuệ! Chân tướng của thức chẳng diệt, cho đến thì chẳng khác đoạn diệt hý luận của ngoại đạo”. Như đoạn kinh ở dưới nói: Như lai Tạng bị ác tập luống dối từ vô thỉ huân tập, gọi là tàng thức. Cho nên luận nói không sinh không diệt hòa hợp với sinh diệt, chẳng phải một, chẳng phải khác gọi là cụ phần A-lại-da thức, vì vậy trong tàng thức này không sinh không diệt, tịnh phần chân tướng không bao giờ diệt, nhưng nghiệp tướng nhiễm phần sinh diệt bị diệt, nếu chân tướng diệt thì thật tánh của tàng thức lẽ ra cũng diệt, nếu thật tánh của tàng thức diệt, thì giống với chấp đoạn của ngoại đạo, cho nên luận rằng: Nói diệt, là chỉ cho tâm tướng diệt, chẳng phải tâm thể diệt. Lại nói rằng chỉ vì si diệt nên tâm tướng diệt theo, chẳng phải tâm trí diệt. Vọng chấp của ngoại đạo: “Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo kia nói như vầy, cho đến thì thức nối nhau từ vô thỉ cũng diệt” nghóa các ngoại đạo thấy khi chết thân tan rã, sáu thức không thể chấp cảnh, một đời thức nối tiếp nhau sinh thì tùy theo lúc bốn đại duyên chia lìa, tức chấp đắm nối nhau từ vô thỉ diệt hẳn, không còn có nghiệp báo thọ sinh nối nhau, nên gọi là rơi vào chấp đoạn. Vì vậy nên bài kệ dưới nói, sắc thức dù chuyển diệt, nhưng nghiệp không hoại mất, khiến đối với các hữu, sắc thức lại nối nhau, nếu sắc thức chuyển diệt, các nghiệp hoại mất, thì không còn sinh tử, cũng không có thường, vô thường, tức hai kiến chấp đoạn, thường cũng đều lìa. Đâu có đồng với vọng chấp đoạn diệt của ngoại đạo! Ngoại đạo chấp thắng tánh: “Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo kia nói thức nối nhau, cho đến chỉ nói tác giả làm nhân sinh”: Các ngoại đạo nói, sáu căn chấp lấy cảnh giới sáu thức, chấp từ thần ngã tà nhân v.v… sinh, không nói các thức như nhãn thức v.v… Từ các nhân duyên như sắc v.v… sinh ra, chỉ vì chấp tác giả làm nhân sinh cho nên gọi là ngoại đạo. “Tác giả là gì? Kia chấp thắng tánh, hoặc trượng phu, hoặc tự tại, hoặc thời và hạt bụi làm người năng tác”. Thắng tánh cũng dịch là thắng diệu, là vị thiên chủ sống ở tầng trời phạm thiên. Trượng phu là tên khác của ngã. Tự tại là trời Đại Tự Tại, cho đến chấp thời tiết, hạt bụi v.v… làm người năng tác. Lại còn chấp các thứ khác như đoạn dưới nói rộng. Tự tánh có bảy thứ: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Có bảy thứ tự tánh, cho đến Duyên tự tánh thành tự tánh”. Từ đoạn dưới lại nói về hai duyên nhiễm tịnh chân vọng thức thể. Bảy tự tánh này thành thân vọng thức sinh diệt trên, nghóa là thể tánh phiền não có công năng chứa nhóm các nghiệp thiện ác, cho nên gọi phiền não là Tập tự tánh. Đã có tập nhân thì sẽ có tánh quả khổ ở vị lai, cho nên nói tánh tự tánh. Đã có quả khổ, thì sẽ có hình tướng, cho nên nói tướng tự tánh. Đã có hình tướng, thì là từ bốn đại chủng sinh, cho nên nói đại chủng tự tánh. Đã có bốn đại, thì từ nhân duyên tạo thành, cho nên nói nhân tự tánh, duyên tự tánh, thành tự tánh. Nhưng vọng không có thể tánh riêng, tùy theo sự chấp đắm mà đặt tên. Nghóa bậc nhất có bảy thứ: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Có bảy thứ Đệ nhất nghóa, cho đến Như lai tự chứng trí sở hành”: Đệ nhất nghóa đế đạo lý không hai, vì người chứng khác nhau mà có hơn kém. Bảy thứ này thành pháp thân chân thức bất sinh bất diệt ở trên. Sở hành, bản dịch khác gọi là cảnh giới, tức cảnh giới sở hành, nghóa là phát tâm Bồ-đề, duyên Đệ nhất nghóa pháp tánh Như lai Tạng tâm, cho nên gọi là tâm sở hành thắng giải hạnh địa Bồ-tát v.v… Mỗi thứ đều sinh khởi mười trí tuệ, duyên theo chân như, nên gọi trí sở hành sơ địa Bồ-tát, chánh chứng chân như, thấy hai thứ vô ngã, nên gọi là hai chấp sở hành. Bồ-tát Địa thứ tám khởi Hai thừa, vượt Địa thứ bảy, cho nên gọi siêu hai kiến chấp sở hành. Địa thứ mười vượt qua địa thứ chín, cửu địa gọi là nhất tử địa. Hai sở hành sau tức là Phật địa. “Này Đại Tuệ! Đây là quá khứ, vị lai, hiện tại cho đến pháp tự tánh Đệ nhất nghóa tâm”. Bảy thứ Đệ nhất nghóa này, là pháp tánh Đệ nhất nghóa mà các Đức Phật ba đời đã chứng. Như lai tạng tâm, chẳng phải duyên lự vọng thức. Nói về đức dụng của chân tâm: “Do pháp tự tánh Đệ nhất nghóa tâm này mà thành tựu pháp thế gian, xuất thế gian tối thượng của Như lai”. Từ đoạn này trở xuống là nói về đức dụng của chân tâm. Vì có Đệ nhất nghóa tâm, cho nên có công năng thành tựu pháp thân Như lai và tất cả các pháp thế gian, xuất thế gian, tối thượng Bồ-đề, Niết-bàn tịnh diệu v.v… Nếu không có tâm này thì không thể thành tựu. “Vì Thánh mắt tuệ nhập tự tướng, cộng tướng an thứ các lập, không đồng với ác kiến của ngoại đạo”: Ý nói Thánh mắt tuệ nhập tất cả pháp tự tướng, cộng tướng các thứ an lập. Chỉ là nhất tâm, chỗ an lập kia đều giúp cho ngộ nhập tri kiến Phật, không đồng với ác kiến của ngoại đạo. Lại nói rằng bảy thứ Đệ nhất nghóa tâm này là trí tuệ sở kiến của bậc Thánh, lập ra bảy thứ khác nhau làm tự tướng, cùng thành pháp thân làm cộng tướng, các nghóa khác như trên nói. Nêu lên giải thích ác kiến: “Này Đại Tuệ! Thế nào là đồng với ác kiến của ngoại đạo nói, cho đến thấy có thấy không mà khởi bàn luận hai kiến chấp”: Đây là nêu giải thích ác kiến, nghóa là các hàng ngoại đạo kia không biết tất cả pháp trong cảnh giới đều do tự tâm phân biệt hiện ra, đối với tự tánh Đệ nhất nghóa nói là hữu vô. Lìa vọng niệm chỉ có chân tâm: “Này Đại Tuệ! Nay ta sẽ nói nếu hiểu rõ cảnh như huyễn, cho đến và không biết ái, nghiệp duyên, Phật dạy nếu hiểu rõ cảnh giới do tự tâm hiển hiện”. Như huyễn không thật, thì tất cả vọng tưởng v.v… đều diệt. Nói khổ ba cõi là quả. Vô tri, là vô minh, ái là phiền não, nghiệp là các nghiệp hữu lậu thiện ác, ba thứ này đều là nhân. Cho nên luận nói nếu lìa vọng niệm thì không có tướng tất cả cảnh giới, chỉ có một chân tâm. Người khởi tà kiến là hai thừa và ngoại đạo: “Này Đại Tuệ! Nếu có các Sa-môn, Bà-la-môn v.v… cho đến nương vào duyên sinh trụ hữu rồi liền diệt”. Nói người khởi tà kiến, không ngoài hai chúng xuất gia và tại gia, cũng là hai chúng hai thừa và ngoại đạo. Phi hữu, nghóa là chấp hư không tự nhiên là nhân. Và hữu nghóa là chấp cát bụi thế tánh tự tại thiên v.v… là nhân. Tức là chấp vô nhân, tà nhân là nhân năng sinh. Chính là ở ngoài nhân quả chấp các vật hiển hiện, nương thời gian mà trụ đều là sở chấp của ngoại đạo, hoặc chấp năm uẩn, mười tám giới, mười hai xứ, nương nhân duyên sinh trụ, vô thường thay đổi. Sinh rồi liền diệt, không rõ chân tâm thường trụ, là sở chấp của Hai thừa, đều mê chấp tự tâm hiện. Nhắc lại chấp để bác bỏ: “Này Đại Tuệ! Kia hoặc chấp nối nhau, hoặc chấp tác dụng, cho đến không thể thấy được nguồn gốc”. Ở đây nhắc lại để bác bỏ. Nói hoặc nối nhau, tức nói chung nhân quả kia không dứt. Hoặc chấp tác dụng, tức nhắc lại trong sự sinh diệt kia tạm thời hữu dụng. Hoặc các hữu, hoặc ấm, giới, nhập diệt gọi là Niết-bàn, hoặc hướng về Niết-bàn gọi là đạo; hoặc các nghiệp hữu lậu, hoặc tu đạo chứng đắc gọi là quả, hoặc hai mươi lăm đế như minh sơ, v.v… Trên đây đều là nhắc lại chấp. Nói là phá hoại đoạn diệt. Phá chấp nghóa là nói ngoại đạo từ vô chủng mà sinh, tức là phá hoại nhân quả. Lại nói từ hữu chủng sinh, sinh rồi diệt, là nói về luận thuyết đoạn diệt. Nói vì cớ sao? Tức là nêu lời tổng kiết, nghóa là vọng chấp ở trên tức thể phi hữu, cho nên nói không được hiện pháp. Vì sao chỉ hiện chấp vốn không, cùng cực nhân ban đầu cũng không thật có. Cho nên nói không thể thấy được cội gốc. Nêu thí dụ để làm sáng tỏ: “Này Đại Tuệ! Thí như cái bình bể không thể làm được việc của cái bình, cũng như hạt giống bị cháy không thể làm được việc nẩy mầm”. Kế là dẫn thí dụ để làm sáng tỏ. Nói như cái bình đã bể, không có tác dụng làm được việc, dùng để thí dụ vô chủng thì vô pháp. Không thể làm nhân cho ấm, giới, nhập. Lại như tuy có hạt giống cũng bị cháy không thể nảy mầm được. Lấy thí dụ tuy có trời Tự tại v.v… làm hạt giống, không thể làm nhân cho ấm, giới, nhập nối nhau sinh. Hợp với pháp: “Ở đây cũng vậy, nếu tánh của ấm, giới, nhập, diệt, cho đến chỉ là tự tâm, tâm luống dối mà thấy”. Sau là nói pháp hợp. Vì hai nhân trên không thành, tức không có tánh ấm, giới, nhập để diệt. Nay ngoại đạo nói có tánh ấm, giới, nhập. Nói trong ba đời diệt được chứng Niết-bàn, là tự tâm vọng tưởng. Ấm, giới, nhập kia không nối nhau sinh, vì hữu chủng, vô chủng không thành nhân cho nên nói chỉ là tự tánh luống dối mà thấy. Lặp lại câu lại nữa ở văn trước: Lại nữa, Này Đại Tuệ! Nếu vốn không có thức, cho đến nếu có tạo sự nghiệp thảy đều luống uổng, vô ích: Lặp lại câu lại nữa ở văn trước, bác bỏ chuyển chấp nghóa là phá chuyển chấp sở sinh, cùng với vô chủng, hữu chủng, ba duyên hòa hợp mà sinh. Rùa lẽ ra sinh lông, cát lẽ ra ép ra dầu; nhưng rùa vốn không có lông, cát vốn không có dầu. Hợp cũng không sinh, thể của ba duyên vốn không thì làm sao sinh quả. Tông của ông đã hoại, trái với nghóa quyết định. Dụ bác bỏ không thành, cho nên nói tông hoại. Vì trái với nghóa quyết định năng sinh của ông, lại, đối với nhất tướng vọng chấp. Ba duyên trái với nghóa Đại thừa quyết định của ta. Sự nghiệp làm ra đều luống uổng, vô ích, vì sự tức là quả, nghiệp chính là nhân. Nói nhân quả sự nghiệp, đều chỉ là nói dối, đều không có nghóa thật. Nhắc lại lỗi ấy: “Này Đại Tuệ! Ba thứ hợp lại làm duyên, là tánh nhân quả, cho đến huân tập khí còn lại mà nói như thế”: Đây là nhắc lại lỗi kia, nghóa là hàng ngoại đạo kia dùng ba thứ hợp lại làm duyên, đó là tánh nhân quả, có thể nói là thành pháp ba đời. Đây là điều lầm lẫn truyền thừa nhau và tự ác kiến nói như thế. Phàm phu ngoại đạo bị ác kiến làm hại: “Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si bị ác kiến nuốt sống, cho đến lối xưng là do bậc Nhất thiết trí nói”: Ý nói phàm phu, ngoại đạo bị ác kiến say mê loạn nuốt sống, không thể tự biết mình là ngu si vô trí, nói dối là do bậc Nhất thiết trí nói. Ngoại đạo là chỉ cho sáu vị giáo chủ ngoại đạo và tất cả người trí. Hai thừa chấp quyền trí là thật trí. Chánh quán là gì? “Này Đại Tuệ! Lại có Sa-môn, Bà-la-môn, cho đến suy tư như vậy thường hằng không bỏ”. Từ đoạn dưới đây là nói người chánh kiến, quán tất cả pháp đều vô tự tánh, như huyễn mộng, v.v… không lìa tự tâm, vô năng thủ sở thủ và sinh trụ diệt, quán sát như thế không xen hở. Đây gọi là chánh quán. Nói về sự tu hành của các Bồ-tát Đăng địa: “Này Đại Tuệ! Vị Đại Bồ-tát này, cho đến chuyển nương thứ lớp thành thân Như lai”. Đại Bồ-tát này, tức các vị Sa-môn, Bà-la-môn chánh kiến ở trên. Thực hành đạo vô tướng, nghóa là muôn hạnh đều tu, ba luân thể vắng lặng. Dần dần tiến lên các địa, đầu tiên trước lên Hoan hỷ địa thứ bảy, cho đến địa Viễn hành thứ bảy. Chứng pháp vô sinh, nghóa là chứng đắc vô công dụng đạo, dưới lên địa Bất động thứ tám. Nhập Kim cương dụ tam-muội, nghóa là Bồ-tát Sơ địa mới chứng được trí vô phân biệt, dứt chướng dị sinh tánh. Bồ-tát từ địa thứ hai đến địa thứ mười như thật tu hành, dần dần dứt bỏ các chướng, thêm lớn công đức cao quý. Đến địa thứ mười một tức là Bồ-tát Đẳng giác dùng trí phương tiện của Kim cương dụ định chóng dứt bỏ hạt giống câu sinh hai chướng, chuyển nương thứ lớp thành thân Như lai, tức sau Đẳng giác nhớ nghó đạo giải thoát, dứt bỏ thói quen hai chướng, liền chứng được Vô thượng Bồ-đề và Đại Niết-bàn của Như lai. Quả hai chuyển y: 1. Chuyển nhiễm thành tịnh; 2.Chuyển mê thành ngộ. Lại nữa, Bồ-đề gọi là sinh đắc. Hai chướng không sinh, nay dứt chướng được sinh. Niết- bàn gọi là hiển đắc. Bản tánh thanh tịnh, bị khách trần che lấp nên nay dứt mà kia hiển. Giai vị chuyển y chung riêng có sáu thứ, cho nên nói chuyển y thứ lớp mà thành thân Như lai. Các nghóa khác như đoạn văn dưới có thể lấy ý mà hiểu. Muốn chứng đắc thân Phật thì phải xa lìa hai quả, ba khoa: “Bồ-tát Này Đại Tuệ! Cho đến Tự tất-đàn phải khéo tu học”. Ý nói chỉ trụ tâm lượng quán sát ba cõi. Lại nói rằng giúp cho thông đạt duy tâm, dần dần nhập vào các địa, nghóa là pháp môn nhất tâm này, là điều căn bản của phàm lẫn Thánh, nếu mê thì bị rơi vào vòng sinh tử của thế gian, nếu ngộ thì chứng Bồ-đề xuất thế gian. Cho nên các bậc tiên Thánh nói: Thế gian không vượt ngoài ba khoa, xuất thế gian không vượt ngoài hai quả. Hai quả: tức như trên giải thích thành thân Như lai quả hai chuyển y. Ba khoa: tức các pháp vọng tâm như năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới này. Cho nên nói muốn chứng đắc thân Phật, thì phải xa lìa, cho đến quán sát giúp cho thông đạt duy tâm, đối với tự tâm tông khuyên khéo nên tu học. Nói về sóng biểu tàng thức, cảnh giới pháp thân: “Lúc ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến biển sóng tàng thức cảnh giới pháp thân”. Đại Tuệ ở trong đó. Tuy thỉnh chung nói về tâm, ý, ý thức, năm pháp, tự tánh, ý muốn Như lai đáp lời hỏi trước, cho nên tổng kiết thưa thỉnh chỉ nói: Thuận theo các Đức Phật nói sóng biển tàng thức cảnh giới pháp thân. Nói các Đức Phật dạy tâm xứng với nghóa chân thật, để phân biệt với tâm thức chẳng luống dối. Nói tâm, là tóm lược nêu bày danh thể chung có bốn thứ, tiếng Phạm đều có khác nhau phiên dịch cũng khác nhau: 1. Hột-lî-đà-da, Hán dịch là Nhục đoàn tâm, là trái tim trong sắc thân. Như trong Ngũ tạng luận của Huỳnh Đình Kinh ở Trung Quốc nói. 2.Tâm duyên lự, đây thức thứ tám cùng năng duyên lự tự phần cảnh, thức thứ tám này đều có tâm số cũng gọi là tâm sở, trong đó hoặc vô ký, hoặc chung cho thiện nhiễm khác nhau, là tự tâm sở trong các kinh luận, pháp gọi chung là tâm, gồm tâm thiện, tâm ác v.v… 3. Chất-đa-la, Hán dịch tập khởi tâm, là chỉ cho thức thứ tám căn bản, chứa nhóm hạt giống các pháp mà sinh khởi hiện hạnh. 4.Càn-lật- đà-da, Hán dịch là Trinh thật tâm, cũng gọi là Kiên thật tâm, đây là tâm chân thật. Nhưng thức thứ tám không có tự thể riêng, chỉ là chân tâm, vì bất giác và các vọng tưởng mà có nghóa hòa hợp, không hòa hợp. Nghóa hòa hợp, có khả năng bao gồm pháp tịnh và nhiễm, gọi là tàng thức. Nghóa bất hòa hợp là thể thường bất biến, gọi là chân như. Đây tức là giáo tâm của các Đức Phật, xứng với nghóa chân thật, lìa tướng sở hành. Tuy bốn thứ này thể đồng, nhưng mê ngộ chân vọng nghóa có khác. Như chấp vàng thật, phải biết rõ ngói gạch và vàng giả nên bỏ hết, dù không biết vàng, nhưng thể của vàng cũng tự hiện. Do bốn nhân nên nhãn thức chuyển: “Khi ấy, Thế Tôn bảo Bồ-tát Đại Tuệ rằng, cho đến Muốn thấy các thứ sắc tướng”. Phật dạy có bốn nhân duyên nên nhãn thức chuyển, chuyển sinh. 1. Là do bất giác trần bên ngoài nên tự tâm hiện mà chấp đắm. 2. Từ vô thỉ đến nay huân tập vọng tưởng chấp sắc không dứt. 3. Bản tánh của thức là như vậy, có công năng biết rõ tự tánh. 4.Muốn thấy các sắc tướng. “Này Đại Tuệ! Do bốn duyên này, cho đến giống như gió mạnh thổi nước biển cả”. Ý nói đây là bốn duyên này, giúp cho dòng nước tàng thức và sóng chuyển thức sinh. Nếu nhãn thức đã như vậy thì các thức khác cũng như vậy. Đối với tất cả các căn, lỗ chân lông, hạt bụi, các chuyển thức như nhãn thức v.v… hoặc liền sinh ra, thí như gương sáng hiện các sắc tượng, không có trước sau hoặc dần dần sinh như gió mạnh thổi nước biển cả. “Sóng trước dậy, sóng sau dậy theo”. Là nói hạt bụi, lỗ chân lông, tức là thân căn sắc trần. “Gió cảnh giới bên ngoài trôi giạt biển tâm cũng như vậy, khởi các sóng thức nối nhau không dứt”. Ý nói bên ngoài vì gió cảnh giới làm kích động biển tâm Như lai Tạng, các sóng thức nổi dậy, tạo nghiệp cảm quả báo sinh tử không dừng cũng giống như vậy. Các thức xoay vần làm nhân lẫn nhau: “Này Đại Tuệ! tướng sở tác của Nhân chẳng phải một, chẳng phải khác, cho đến cảnh tướng khác nhau mà có ý thức sinh”. Đây là nói các thức xoay vần làm nhân lẫn nhau. Nói tướng sở tác của nhân chẳng phải một, chẳng phải khác, nhân tức là Như lai Tạng thức thứ tám, tướng sở tác, nghóa là bảy chuyển thức từ thức thứ tám sinh. Chẳng phải một, là hành tướng của các thức khác nhau. Chẳng phải khác là đều do duyên khởi vô tự tánh. Nói nghiệp và tướng sinh trói buộc nhau càng chặt, nghóa là thức thứ tám biến khởi căn thân, khí giới gọi là tướng sinh. Hai thức thứ sáu thức thứ bảy bị vô minh che lấp, do đây chấp làm thật ngã, thật pháp, ý thức thứ sáu dẫn khởi thức trước tạo dẫn mãn nghiệp, chiêu cảm quả báo sinh tử không dừng, cho nên nói nghiệp và tướng sinh. Trói buộc nhau càng chặt, đều do không biết rõ các trần như sắc, v.v… từ tâm vọng hiện, nên năm thức thân chuyển. Này Đại Tuệ! Năm thức như nhãn… khởi chung năm trần, hoặc do hiểu rõ riêng sắc… các cảnh tướng khác nhau mà ý thức sinh, cho nên phải biết căn thân, trần cảnh tất cả các pháp đều do tự tâm vọng thức của chúng sinh làm nhân quả lẫn nhau mà hiện ra. Cho nên kệ nói: Các pháp đối tàng thức, thức đối pháp cũng thế, làm nhân tướng lẫn nhau, cũng làm quả tướng nhau. Thức thứ tám lìa Như lai tạng thì không có tự thể riêng: “Nhưng các thức kia chẳng nghó rằng, cho đến Tướng không khác nhau, đều có tự cảnh”. Các thức kia đều hiểu rõ tự cảnh, đây là nói rõ thức thứ tám đều có khả năng hiểu rõ cảnh tự phần, không biết chỉ do tự tâm vọng hiện, nghóa là sắc là cảnh của nhãn thức, cho đến A-lại-da kiến phần là cảnh của thức thứ bảy. Hạt giống căn thân khí giới là cảnh của tàng thức. Nhưng nếu thức thứ tám này lìa Như lai Tạng thì không có tự thể riêng, vì chúng sinh không biết chấp là thức thứ tám. Các Đức Phật đã chứng đắc, nêu thành dụng bốn trí. Nếu mê muội thì thức thứ tám khởi chấp danh hiệu của tàng. Thức thứ bảy được gọi là nhiễm ô. Thức thứ sáu khởi tâm chấp khắp. Năm thức theo tướng căn trần. Nếu hiểu biết thức lại-da thành thể viên cảnh, giữ cửa công đức. Mạt-na là nguồn bình đẳng, một tánh tự tha, ý thức thứ sáu khởi nhiệm mầu quán sát, xoay bánh xe chánh pháp. Năm thức trước khởi công tạo tác, để lại dấu vết ứng hóa, đây là nhất tâm bất động, thức trí tự phân, không chuyển thể kia chỉ chuyển tên kia, không phân biệt lý mà phân biệt sự kia. Các thức xoay vần làm nhân cho nhau: “Này Đại Tuệ! Người tu hành nhập tam-muội, cho đến gọi là thức diệt”. Đoạn trên nói các thức xoay vần làm nhân cho nhau, đều biết rõ tự cảnh, vọng tưởng nối nhau. Muốn chuyển các thức thành trí dụng, nhưng vì tạng thức căn bản nhỏ nhiệm khó biết, cho nên nêu hai thừa tu tam-muội yếu kém, không biết hạt giống thói quen của các thức nương tạng thức bất diệt, tự cho rằng ta diệt các thức nhập vào tam-muội, mà thật ra thì chưa được. Chỉ hàng phục thức thứ sáu, không chấp trần cảnh kia sẽ bị diệt. Chỉ có Phật biết, người khác không biết: “Này Đại Tuệ! Hành tướng của tàng thức nhỏ nhiệm như thế, cho đến năng lực của định trí tuệ đều không thể biết”: Ở đây là nói người có khả năngbiết, nghóa là các thức nương vào hành tướng nhỏ nhiệm của tàng thức, chỉ có Đức Phật mới hiểu rốt ráo bờ mé và Bồ-tát trụ địa mới biết được, còn ngoài ra các Thanh văn, Độc giác và ngoại đạo tu hành dù được trí tuệ tam-muội nhưng đều không thể biết được. “Chỉ có các hành giả tu hành như thật, cho đến tự tâm thấy được rất dễ hiểu”. Nói biết được, khó biết, cho nên, dùng năng lực trí tuệ hiểu rõ tướng các địa, khéo thông đạt câu nghóa, là nhân hữu liễu. Đức Phật rộng huân tập gốc lành vô biên, là nhân hữu duyên. Vốn có chánh nhân do đó hiện tiền, tự nhiên thấy rõ vọng tưởng trôi chảy, cho nên nói năng tri. Có chánh nhân nhưng phải nhờ phương tiện nơi hiển lộ: “Này Đại Tuệ! Những người tu hành ngồi yên nơi núi rừng, cho đến Đại thiện tri thức như thật tu hành”: Nói các bậc tu hành Thượng trung hạ tùy phần lượng của mỗi vị. Phân biệt lưu chú tức là hai thứ sinh trụ diệt ở trên. Các nghóa khác lời văn có nói, đều nên gần gũi thiện tri thức, như ngài Mã Minh nói: Pháp của các Đức Phật có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ mới được thành tựu. Như tánh lửa trong gỗ, lửa ấy là chánh nhân, nếu không nhờ phương tiện mà tự cháy gỗ thì không có việc đó. Chúng sinh cũng vậy, tuy có năng lực của chánh nhân huân tập, nhưng không gặp các Đức Phật, Bồ-tát, tri thức chỉ dạy lợi ích, từ bi nhiếp hộ làm dyên, mà tự dứt bỏ được phiền não, nhập Niết-bàn thì không có việc đó. Có bốn thứ kệ tụng khác nhau: “Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghóa này, nói kệ rằng”: Nói chung kệ tụng có bốn thứ khác nhau, âm Phạm cũng khác, vẫn có tám ý, không dẫn lại đầy đủ nữa, nay ở đây chỉ nói đại lược: 1. Chỉ đủ ba mươi hai chữ thì thành một bài tụng. 2.Phúng tụng; hoặc gọi là trực tụng, nghóa là dùng kệ nói pháp, không tụng văn xuôi. 3. Ứng tụng: Tụng lại văn văn xuôi, hoặc vì người độn căn mà nói lại, hoặc vì kẻ học đời sau, hoặc vì muốn cho rõ ràng lời nói ở trước. 4. Tập thi tụng: Nghóa là dùng ít lời mà thâu tóm nhiều nghóa, giúp người khác tụng trì. Nay trong kinh này, trong bốn thứ trước, phần thứ hai thứ ba gồm thâu toàn bộ. Nhưng văn văn xuôi và kệ tụng dựa vào nhau, nêu ra có năm cặp: Hữu vô, quảng lược, ly hợp, tiên hậu, ẩn hiển, trong văn sẽ nói rõ. Nói về biển tàng thức: “Ví như sóng biển cả, là do gió mạnh thổi, cho đến đối hiện cảnh nói năm”: Bài tụng này nói biển hiện thức trước tánh tự thường trụ, bị gió của cảnh giới sáu trần kia thổi làm lay động. Thể của bảy thức hiện thức lấy làm nhân bên ngoài, cảnh giới sáu trần lấy làm ngoại duyên, làm hưng khởi sáu tướng thô nặng, cho nên nói thí như sóng biển cả, đây do gió mạnh thổi, sóng lớn xao động cả biển lớn, không lúc nào dừng, biển tạng thức thường trụ, gió cảnh giới thổi động các sóng thức vọt lên cao mà chuyển sinh. Thế nào gọi là gió cảnh giới? Gió kia tướng trạng như thế nào? Đó là xanh, đỏ, v.v… các thứ hiển sắc, có công năng sanh khởi nhãn thức. Các thứ ngọc quý như kha bối v.v… phát ra các âm thanh hay ho, có công năng sanh khởi nhó thức. Các thứ mùi thơm lan tỏa khắp nơi có công năng sanh khởi tỷ thức. Các thứ gỗ thơm, lụa là, thạch mật xúc chạm bao nhiêu tốt đẹp đầy đủ an vui, có công năng sanh khởi thân thức. Các hương vị mặn lạt tùy theo sở thích mà phát ra bao nhiều mùi vị, có công năng sanh khởi hoa thiệt thức hiện tại. Quả vị lai, các thứ pháp trần, tùy theo cảnh giới mà thức kia duyên, có công năng sanh khởi ý thức. Nay trong văn này nêu trần chấp thức phải quán xét kỹ. Thức Mạt-na kia tức là phần vị nhỏ nhiệm của ý thức, không có tự thể riêng. Như vậy sáu trần năng động tâm thể giúp cho tán loạn. Thí như gió mạnh, nên gọi là phong, vì thế nói các màu sắc xanh, đỏ, v.v… Các thứ ngọc quý, sữa đường, muối các mùi vị hoa quả. Bảy thức như vậy cùng với tàng thức là đồng hay khác ư! Chẳng phải đồng chẳng phải khác, lìa hai bên, thí như mặt trời và ánh sáng, nước và sóng, chẳng phải đồng chẳng phải khác. Bảy thức tàng thức nghóa chẳng phải đồng chẳng phải khác, cũng giống như vậy, cho nên nói mặt trăng mặt trời và ánh sáng, chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Bảy thức như ý, v.v… nên biết cũng giống như vậy. Như biển và sóng, tâm cùng hòa hợp sinh. Như vậy bảy thức từ chỗ nào đến nhập vào tạng thức làm số thứ bảy, trôi lăn khởi động không lúc nào dừng. Như vậy, bảy chuyển thức không từ trong đến, không từ ngoài đến, không từ ở giữa đến, chỉ do tàng thức thể biến thành bảy thức, thí như nước biển chuyển động thành sóng, cho nên nói thí như nước biển động, các sóng nổi dậy, tạng thức cũng giống như vậy. Các thứ thức sinh, tâm, ý và ý thức, vì các tướng nên nói. Hiện thức như vậy và bảy chuyển thức, tám thứ tâm thức, chỉ có tướng sinh diệt vô thường hay sao! Cũng có tướng thật tướng thường trụ ư! Tám thức như vậy từ vô thỉ đến nay ba đời bất động, bốn tướng không dời đổi, chân thật thường trú, tự tánh thanh tịnh, công đức đầy đủ, không có hai tướng, cho nên nói tám thức có tướng riêng, không có năng tướng, sở tướng. Thí như sóng biển, cho nên không khác nhau. Các thức tâm như vậy, khác cũng không thể được. Các thức vốn vắng lặng, vọng trần không tự thể, do bất giác cho nên năm thức trước chuyển khởi, hiện ra trần cảnh. Thức thứ sáu phân biệt khởi hoặc tạo nghiệp thức truyền tống thứ bảy chấp ngã, ngã sở, có công năng chứa nhóm, đồng năng huân tàng thức thứ tám, thọ trì huân tập hạt giống, chứa nhóm không mất, xoay vần làm nhân, trôi lăn không ngừng, cho nên nói tâm có công năng chứa nhóm các nghiệp, ý có công năng rộng chứa nhóm rõ biết, cho nên gọi là Thức, đối hiện cảnh nói có năm, vậy nên biết cảnh lìa tâm, văn lý đều không, tức thức trần giải thích so lường có y theo cuồng tâm không dứt, dứt tức Bồ-đề, các cấu thanh tịnh thì tâm sáng, xưa nay là Phật. Nhắc lại lời hỏi đáp bằng mười tám bài kệ: “Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi Phật”: Dưới đây là ba phen nhắc lại lời hỏi đáp theo trước mà phát khởi. Gồm mười tám bài kệ, đều có kinh gia sinh khởi. Đây trước xét hỏi về sinh khởi. Đoạn dưới y theo đây. “Xanh, đỏ, các sắc tượng, chúng sinh hiện các thức, các thứ pháp như sóng, thế nào xin Phật nói”. Đoạn trên nói các trần xanh, đỏ phát sinh, các thức như sóng biển đều chẳng phải một khác. Lại nói tâm chứa nhóm v.v… hành tướng có khác nhau, cho nên có câu hỏi này. “Lúc ấy, Đức Thế tôn đáp bằng bài kệ: Các sắc tượng xanh, đỏ, sóng mòi đều không có, nói tâm khởi các tướng, khai ngộ các phàm phu”. Ba câu đầu nói sắc tức là không, cho nên không thật có. Câu tiếp nói không tức là sắc, cho nên khởi các tướng. Một câu cuối giải thích câu thứ ba. “Tướng kia vốn không khởi, tự tâm chấp đắm, lìa năng thủ và sở thủ, đồng với sóng mòi kia”. Bài kệ này hợp pháp nói về các sắc tượng xanh, đỏ, và câu thứ hai nói sóng mòi không thật có. “Thân tư tài an trụ, do thức chúng sinh hiện, cho nên thấy đây khởi không khác gì với sóng” sắc thân chánh báo. Tư sinh tài vật và nơi chốn an trụ. Bài kệ này nói lại về pháp hiện nói tâm khởi các tướng, tạo nghiệp chiêu cảm quả báo, y báo chánh báo khác nhau, đều do tự tâm chúng sinh vọng hiện. “Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại nói kệ hỏi: Tánh biển cả sóng mòi, nổi dậy phân biệt được, tạng thức cũng khởi như thế, vì sao chẳng giác biết”. Đây là y theo pháp dụ mà vặn hỏi. “Lúc ấy, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp: Tàng thức như biển cả, chuyển thức vì sóng mòi. Phàm phu không trí tuệ, thí dụ rộng khai diễn”. Người vào thí dụ biển cả kia nói rộng, giúp kẻ ngu thông hiểu. “Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại nói kệ rằng: Thí như mặt trời lên, trên dưới đều được chiếu đèn, thế gian đăng cũng thế, vì ngu nói chân thật”. Đại Tuệ do ở trên nói tâm khởi các tướng, khai ngộ các phàm phu. Tức là Như lai phương tiện không nói thật pháp cho nên hỏi: Như khi mặt trời mọc, bình đẳng soi chiếu muôn vật. Như lai đã xuất thế, vì chúng sinh ngu muội mà nói, bình đẳng nói chân thật. “Đã mở bày các pháp, sao chẳng nói chân thật?” Như lai đã vì chúng sinh mà mở bày các pháp, vì sao không vì những kẻ ngu muội mà nói pháp chân thật! Phật đáp bằng bài kệ: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn đáp rằng bài kệ: Nếu nói chân thật ấy, tâm kia không chân thật, cho đến tâm cảnh giới cũng thế”. Bài kệ này hai câu đầu nói về pháp, nghóa là không có căn khí thì không thể nghe hiểu thật ra chẳng phải không bình đẳng, kế ba câu nêu ba ví dụ, so sáng với tâm kia không thật. Một câu thứ ba lấy pháp hợp ví dụ, cho nên nói cũng vậy. “Vì cảnh giới chẳng có, thứ lớp mà chuyển sinh, cho đến không thứ lớp chắc chắn”. Kế một bài kệ rưỡi nói về duyên cảnh bên ngoài nếu không đầy đủ nội thức tức thứ lớp chuyển sinh. Cho nên Thành Duy Thức chép: Nương vào thức căn bản, các thức tùy duyên hiện, hoặc câu hoặc bất câu, như sóng mòi nương nước. Nghóa là duyên hoặc đồng thời đầy đủ thì đều hiện, như gương hiện hình bóng không có trước sau. Bài kệ này nói về duyên khác nhau, tức thứ lớp chuyển sinh. Do ý thức thứ sáu phân biệt các pháp trần, cho nên nói thức có khả năng hiểu biết. Ý duyên A-lại-da khởi chấp ngã, ngã sở, cho nên nói ý lại ý như thế. Năm thức tùy theo thứ lớp mà hiện trần cảnh, đâu có định thứ lớp. “Thí như người thợ vẽ, và học trò thợ vẽ, cho đến hòa lẫn thành các hình”. Bài kệ thứ hai nói vẽ sắc vốn không hình, tùy hình tức vẽ tượng, để so sánh đức Như lai vốn không pháp, tùy căn cơ liền nói pháp, đâu được chỉ nói một thứ pháp. “Nói năng thì biến đổi, chân thật lìa văn tự, cho đến đó là chẳng phải nói”. Ba bài kệ rưỡi này nói về. Như lai ứng theo căn cơ nói có khác nhau. Hai câu trên nêu chung về thuyết ý, năm câu kế là cho rằng đối với hạng lợi căn nói pháp Nhất thừa chân thật. Năm câu kế là đối với các hạng độn căn còn lại nói các pháp như huyễn. Mỗi pháp đều lời văn. Hai câu cuối cho rằng pháp được nói không ứng hợp căn cơ gọi là nói dối, cho nên gọi là phi thuyết. “Thí như những người bệnh, thầy thuốc tùy bệnh cho thuốc, Như lai vì chúng sinh, tùy tâm ứng lượng nói”. Một bài tụng này lại nói thầy thuốc tùy bệnh mà cho thuốc khác nhau. Để so sánh Như lai ứng lượng nói pháp có khác, cho nên không được như mặt trời soi chiếu muôn vật, để tổng kiết câu hỏi trước. “Y hỗ giả của đời, chỗ chứng trí thực hành, ngoại đạo chẳng cảnh giới, Thanh văn cũng như vậy”. Y Hổ giả là Như lai. CHÚ ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ KINH <卷>QUYỂN 3 Phải lìa sự chìm nổi của giác quan xấu ác mà chân thật tu hành: Lại nữa, Đại Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến phải thông đạt tướng phân biệt tự tâm hiện”. Năng thủ, sở thủ cũng gọi là năng duyên, sở duyên, tức là hai phần kiến tướng của tâm thức, cho nên Kinh Hoa Nghiêm chép: Nhờ năng lực năng duyên, sở duyên mà các pháp sinh ra. Ý các văn cho rằng muốn biết rõ điều này thì phải xa lìa sự chìm nổi của giác quán xấu ác mà chân thật tu hành. “Lại nữa, Đại Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến phải siêng năng tu học”: Trụ trong tướng mà tâm trí tuệ an trụ, tức đoạn trên nói, thông đạt tướng phân biệt của tự tâm. “Ba tướng gồm vô tướng ảnh tượng, cho đến đối với ba tướng này phải nên tu hành, không nên xả bỏ”. Nói con lừa què, nghóa là chưa đạt đến vô công dụng tuệ. Hướng về về Phật địa: “Này Đại Tuệ! Tướng vô ảnh tượng, cho đến hướng về Phật địa cho nên sinh khởi”. Tướng vô ảnh tượng là trí vô phân biệt lìa hai thứ chấp thủ. Nhưng người Hai thừa ngoại đạo tu tập còn thấp kém, Đức Như lai thường quở trách. Ở đây là trái với chỗ chấp kém ấy, muốn cho họ hồi tâm, bỏ đường tà quy về nẻo chánh, các Đức Phật nguyện giữ gìn. Tướng, là nói các Đức Phật đều phát thệ nguyện thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Tự chứng tướng mà Thánh trí hướng về, nghóa là tướng tự giác Thánh trí của pháp thân Như lai, các văn khác rất dễ hiểu. “Này Đại Tuệ! Đó gọi là ba tướng Thánh trí bậc thượng, cho đến phải siêng tu học”: Ý nói nhờ ba tướng này đạt đến quả vị Như lai, cho nên khuyên tu học. Bồ-tát Đại Tuệ nương thần lực Phật mà nêu câu hỏi: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến Thánh trí sự tự tánh pháp môn”. Tâm các vị Bồ-tát nghó rằng năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã đều là pháp môn để bậc Thánh độ chúng sinh. Như lai trên đã nói tám thức rồi, xin vì chúng con nghe chỗ nương khác nhau của một trăm lẻ tám câu. Năm pháp Thánh trí sự, ba tự tánh các pháp môn có ý nghó này, cho nên Đại Tuệ nương nhờ thần lực các Đức Phật mà nêu câu hỏi này. Nói Thánh trí sự, tức năm pháp. Thỉnh Phật nói các pháp môn như năm uẩn: “Tất cả Như lai Ứng chánh đẳng giác, cho đến tầng trời Sắc cứu cánh, thành thân Như lai”. Nói tự tướng, cộng tướng, là nói về khổ đế trong bốn đế. Như trong khổ đế, tất cả các pháp trong ba cõi như y báo, chánh báo, năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới v.v… Mỗi pháp khác nhau gọi là tự tướng. Khổ đế tức gọi cộng tướng, nghóa là trong bốn môn khổ đế, vô thường là tướng chung của tất cả pháp hữu vi, khổ là tướng chung của tất cả pháp hữu lậu; không và vô ngã đều là tướng chung của tất cả pháp. Lại như năm ấm khác nhau gọi là tự tướng, chung thành thân người gọi là cộng tướng. Mười hai xứ, mười tám giới, v.v… cũng giống như vậy, cho đến tất cả các pháp mỗi pháp lại có tự tướng cộng tướng. Đâu-suất-đà, Hán dịch là Tri túc, cung trời Đâu-suất kia là chỗ ở của Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ. Trời Sắc cứu cánh là nơi báo Phật hạnh đã tròn đầy thành Chánh giác. Các văn khác đều có nói, xa lìa thói quen tội lỗi. Nêu bày các đức, thành tựu pháp thân Như lai, để có lợi này cho nên thỉnh Phật nói pháp môn như trên. Các chấp khác nhau của ngoại đạo: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Có một hạng ngoại đạo, cho đến do đây nghó là trâu có sừng” dưới đây Như lai y theo sừng trâu, sừng thỏ, phá chấp danh tướng khởi kiến chấp vọng tưởng. Đây là nói chấp đắm của Hai thừa, ngoại đạo. Nghóa là có một hạng ngoại đạo chấp tất cả các pháp theo nhân duyên diệt, vọng khởi phân biệt tưởng thỏ không có sừng. Lại một loại ngoại đạo khác thấy công năng của bốn đại chủng, khi duyên căn thân trần cảnh chưa tan rã, hình lượng khác nhau, chấp trâu có sừng do không hiểu, chấp dị kiến lẫn nhau, sinh hiểu quyết định. “Này Đại Tuệ! Kia rơi vào hai chiến chấp chẳng hiểu chỉ do tâm, cho đến tất cả đều do tâm phân biệt mà hiện ra”. Đây là nói nhắc lại bác bỏ kiến chấp của ngoại đạo kia. Văn có tám câu, bốn câu trên là bác bỏ nhân khởi chấp, bốn câu dưới chỉ bày vọng hiện. Cho nên Già- đà nói: Biết các pháp duy tâm, liền xả tướng trần bên ngoài, do đó dứt phân biệt, ngộ chân không bình đẳng. Suy nghó rất dễ hiểu. Khuyên nên lìa phân biệt: “Đại Tuệ nên biết! Sừng thỏ lìa có không, cho đến vì vậy cho nên đối với điều này không nên phân biệt”: Đoạn kinh này, bốn câu trên tổng kiết nên lìa vọng, trở xuống các câu nêu riêng việc bác bỏ kiến chấp. Thế nào là hạ? Là nêu riêng lên sự bác bỏ chấp kia, rơi vào chấp vô. Nói vì sao sừng thỏ lìa hữu vô? Bác bỏ nói rằng làm nhân đối đãi nhau, vì sừng thỏ kia không có, vì sừng trâu là có. Nếu không có sừng trâu, vì sao nhân kia mà nói không ư! Phân tích đoạn dưới, kế là bác bỏ riêng sự chấp kia rơi vào chấp hữu. Nghóa là nếu chấp trâu có sừng, phân tích sừng trâu đến chỗ rất nhỏ nhiệm làm gì có thật thể mà chấp có ư! Cho nên câu kệ dưới nói: Không có nhân có cho nên vô, là không gì không thành, không có đối đãi, vô cũng như vậy, xoay vần làm nhân cho nhau mà khởi, nói đều không thật. Việc là của Thánh trí thức hành là lìa kiến chấp kia, nghóa là như thật kiến, đều lìa cả hữu của chấp thường, chấp đoạn cũng lìa các vô của tà kiến chấp đoạn, cho nên kiết thúc khuyên răn nên lìa phân biệt. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi về sự đối đãi và Phật đáp: “Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến so sánh quán sát đối đãi vọng chấp vô”: Đại Tuệ do ở trên nói sừng thỏ v.v… lìa có không, làm nhân đối đãi lẫn nhau. Phân tích sừng trâu cho đến rất nhỏ nhiệm tìm kiếm không thật có, nhưng vì lìa vọng kiến kia nên lại hỏi Đức Phật rằng: Kia lìa kiến chấp, đã không các tưởng trâu có sừng, sao lại không so sánh quán sát đối đãi đồng với vọng chấp nói là vô. “Phật dạy: Không nên phân biệt, cho đến không do đối đãi nhau mà nói lên sừng thỏ là vô”. Đức Như lai đáp rằng: Lìa vọng kiến là không có phân biệt khởi tướng quán sát đối đãi để nói là vô. Vì sao? Vì vọng kiến kia dùng vọng tưởng phân biệt làm nhân sinh ra, vì sừng hữu vô mà khởi phân biệt làm sở y. Đã sở y làm nhân, tức vọng chấp có không, nhưng phân biệt và sừng đều không có tánh chắc chắn, lìa khác chẳng khác. Lìa phân biệt là chẳng phải do đối đãi nhau mà sừng trâu vô tánh hiển bày sừng thỏ không có. Nhắc lại để bác bỏ: “Này Đại Tuệ! Nếu vọng tưởng này khác với sừng thỏ, cho đến chấp có chấp không, cả hai đều chẳng thành”. Dưới đây nhắc lại phá chấp. Nói nếu phân biệt này chắc chắn khác với sừng thỏ, thì chẳng lấy sừng làm nhân. Nếu chắc chắn không khác thì lại do nhân kia mà khởi. Ý nói đều không có tự tánh. Phân tích sừng trâu cho đến rất nhỏ nhiệm, tìm không thật có, khác với có sừng, mà lại nói không có sừng. Phân biệt như vậy chắc chắn không đúng lý. Nghóa là nếu cho hữu là có, thì không là vô. Hữu đã không có, thì vô là không, cho nên nói cả hai đều có. Ai đối đãi ai, nên biết sừng trâu sừng thỏ cả hai đều vô tánh, mà đối với pháp gì mà nói có nói không ư! Nếu tướng đối đãi không thành đối đãi đối với có, cho nên nói sừng thỏ là không, không nên phân biệt, không phải là chánh nhân. Nghóa là có và không làm nhân, không và có làm nhân, nhân này không phải chánh nhân. Hai nhân đã không chánh, hai quả có không, lý tự không thành, cho nên phá chung rằng Hữu vô Luận giả chấp có chấp không, cả hai đều không thành. Bác bỏ chấp sừng trâu sừng thỏ: “Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo chấp hình trạng sắc v.v… cho đến dị hư không khởi phân biệt”. Trên là phân tích pháp, bác bỏ chấp sừng trâu, sừng thỏ. Đây là dùng pháp thể hợp với sắc không, nghóa là cái nghe mà chúng sinh chấp khác nhau, cho nên Đức Phật lập bày cách đối trị có khéo vụng khác nhau, cũng là phá sự chuyển chấp. Nói, lại có ngoại đạo chấp hình dáng của sắc là chất, ngại biến đổi, bờ mé hư không rộng lớn vô ngại, mà sinh chấp đắm cho rằng sắc khác không, khởi vọng phân biệt, đây gọi là Như lai trình bày về chấp kia. “Này Đại Tuệ! Hư không là sắc tùy nhập sắc chủng, cho đến bờ mé sắc không nên biết”. Dưới đây là bác bỏ chấp. Phật dạy Này Đại Tuệ! Không tức là sắc, tùy nhập vào sắc chủng, ngoài sắc chẳng có không, sắc tức là không, làm năng sở lẫn nhau mà dựng lập tánh, chẳng phải sắc diệt không. Sắc không bờ mé nên biết như vậy. “Này Đại Tuệ! Khi đại chủng sinh thì tự tướng đều khác, chẳng trụ trong hư không, chẳng phải kia chẳng có hư không”. Hợp lại quyền biến nói sắc không chẳng hai. Nghóa là trước bác bỏ chấp có ngã của ngoại đạo, mà nói có tạo sắc từ đại chủng sinh, tự tướng đều khác, nhưng vì mật hiển tạo sắc tánh tức không, lại không phân biệt sắc mà trụ không, cho nên nói không trụ, chẳng phải chẳng có hư không. Quán trâu có sừng, thỏ không có sừng: Này Đại Tuệ! Quán trâu có sừng, thỏ không sừng cũng giống như vậy, cho đến đối đãi các vật khác, kia cũng như vậy. Đây lại dẫn hai sừng trâu thỏ kia để hợp với sắc không, quán các pháp vọng thấy khác nhau. Mỗi mỗi đối phá nên biết cũng như vậy. Nhưng kiến chấp của ngoại đạo tuy nhiều, cũng không ra ngoài ác kiến và hai thứ nhân: vô nhân và tà nhân. Nói ác kiến: nghóa là các đế lý điên đảo suy đoán so lường nhiễm tuệ làm tánh, làm chướng ngại chánh kiến chiêu cảm nghiệp khổ. Người ác kiến chịu nhiều nỗi khổ. Kiến này hành tướng có năm thứ khác nhau: 1. Tát-ca-da kiến: nghóa là đối với năm thủ uẩn chấp ngã, ngã sở, tất cả kiến chấp nương làm nghiệp. 2.Biên kiến: tức hạng người kia tùy theo chấp đoạn, chấp thường, trong sự chướng ngại thực hành việc ra khỏi làm nghiệp. 3. Tà kiến: chê bai tác dụng thật sự của nhân quả, và chẳng phải bốn chấp và các tà thuyết khác, như tăng thượng duyên gọi nghóa là biến. 4. Kiến thủ: nghóa là đối với các kiến và sở y uẩn, chấp là trên hết, được sự thanh tịnh, tất cả sự tranh chấp sở y làm nghiệp. 5.Giới cấm thủ: nghóa là thuận theo các kiến chấp giới cấm và uẩn sở y, chấp là trên hết, được sự thanh tịnh, không lợi ích siêng năng khổ nhọc sở lìa làm nghiệp. Nghóa của hai thứ nhân, như đoạn dưới sẽ nói. Nên xa lìa dị kiến, vọng tưởng: Này Đại Tuệ! Ông nên xa lìa dị kiến vọng tưởng sừng thỏ, sừng trâu, cho đến quán sát pháp tu hành của tự tâm. Phật khuyên Bồ-tát nên thường quán sát tướng phân biệt do tâm hiện ra. Đã tự biết rồi, đối với tất cả mọi người xoay vần truyền trao cho nhau, giúp cho mọi người biết bệnh hiểu thuốc, giúp cho mau bình phục tu hành, đến nơi an vui. “Lúc ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Tâm sở kiến không có, chỉ nương tâm sinh khởi, cho đến cảnh giới của tự giác”. Năm hàng kệ trên văn nói rất dễ hiểu nên không giải thích nhiều. Đây là y theo ngoại đạo chấp sừng trâu, sừng thỏ quyết định có không và sự khác nhau giữa sắc và không để phá danh, tướng phân biệt trong năm pháp đã xong. “Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến dần dần thanh tịnh hay thanh tịnh ngay tức khắc”: Đây là y theo tâm chúng sinh thanh tịnh mà hiện lực. Trong năm pháp theo thứ lớp nói về nghóa chánh trí, nghóa là tự giác Thánh trí của người năng tịnh, người sở tịnh thì tự tâm hiện lưu. Dần dần thanh tịnh chứ không phải thanh tịnh ngay: “Phật dạy Đại Tuệ, dần dần thanh tịnh chứ không phải thanh tịnh ngay tức khắc, cho đến khiến lìa tất cả ác chấp hữu vô”. Đoạn trên nói về bốn tiệm bốn đốn, nghóa là tự tâm của chúng sinh thanh tịnh hiện lưu. Căn cơ Đại thừa là đốn, căn cơ tiểu thừa là tiệm. Tiệm là nói về quyền thừa, đốn là nói về thật. Quyền để đi đến thật, thật để dẫn dắt quyền. Cho nên bậc Thánh khai ngộ chúng sinh, hoặc đốn hoặc tiệm quyền thật thiên viên không hề không nương vào nhau, ngõ hầu giúp loài hàm thức tùy nghi được nhập vào. Lại nói rằng, Tiệm là y theo người tu hành chưa chứng nhập, là nói chúng sinh tu học thực hành Chỉ được tiệm. Đốn là y theo người tu hành đã chứng nhập. Các pháp không thật có, nhưng chúng sanh chấp đắm cho là thật: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Phật từ pháp tánh có ra, cho đến chấp cho là thật đều không thật có”. Đây là nói ba thân Phật, lập ra nói pháp, giải thích thành đốn tiệm để nói lên nghóa. Phật từ pháp tánh lưu xuất, tức là báo thân Phật. Nói tất cả pháp tự tướng, cộng tướng, tự tâm bản thức hiện thói quen nhân tướng và nhân tướng sở chấp của chuyển thức. Lại lệ thuộc lẫn nhau, các việc huyễn đều không có tự tánh. Cho nên luận Khởi Tín chép: Tất cả các pháp đều nhờ vọng tâm vô minh của chúng sinh mà được giữ gìn, như hình bóng trong gương không thật có tự thể, nhưng vì chúng sinh không hiểu biết, chấp đắm cho là thật, vậy không lầm lẫn hay sao! “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Vọng chấp tự tánh, chấp đắm duyên khởi tự tánh khởi”: Ý nói tất cả các pháp tự tướng, cộng tướng v.v… vốn không có tự tánh, nương vào các duyên khác hòa hợp sinh khởi, giống như việc huyễn, tức tánh y tha khởi. Nhưng vì chúng sinh vọng tưởng chấp đắm các thứ cho là thật, tức là vọng chấp tự tánh chấp đắm duyên khởi tự tánh mà khởi. Dẫn việc của nhà ảo thuật: “Này Đại Tuệ! Thí như nhà ảo thuật dùng khả năng ảo thuật, cho đến bao nhiêu hình sắc khác nhau đều không chân thật”. Nêu ví dụ để hiểu rõ duyên khởi không thật. Như nhà ảo thuật nương cỏ cây, ngói gạch tạo ra các thứ huyễn hóa. Thí như Như lai Tạng tánh, tùy duyên sinh khởi các pháp, cho nên Triệu luận chép: Muôn pháp giả lập không thật, thí như người huyễn hóa, không có gì chẳng phải người huyễn hóa, người huyễn hóa chẳng phải người thật, đều nói về duyên khởi không thật. Hợp với pháp: “Này Đại Tuệ! Ở đây cũng giống như vậy, cho đến ấy là tánh vọng chấp sinh”, đây là hợp với pháp, nghóa là trong tánh duyên khởi sinh vọng tưởng tự tánh cũng giống như vậy. Này Đại Tuệ! Đó gọi là pháp tướng do Phật từ pháp tánh lưu xuất nói. Tổng kiết nói các pháp do nhân duyên sinh, đều như huyễn không thật. Này Đại Tuệ! Phật pháp tánh lập ra trí tự chứng, sở hành lìa tự tánh tướng của tâm: lập ra cảnh giới mà tự giác Thánh trí chứng đắc, lìa tướng phân biệt tâm lượng tự tánh trần cảnh, gọi là pháp của pháp Phật. “Này Đại Tuệ! Hóa Phật nói thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, cho đến siêu vượt hạnh vô sắc”. Hóa Phật tám tướng thị hiện thành đạo, ứng duyên giáo hóa chúng sinh. Nói sáu độ trị sáu tế, lìa năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, giải thoát các thức tướng, tùy nghi lập ra các pháp khác nhau, siêu vượt kiến chấp của ngoại đạo và vượt sở hành vô sắc, nghóa là ngoại đạo chấp vô sắc cho là Niết-bàn. Nêu riêng pháp sở chứng của Phật để khuyên người tu chứng: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Phật pháp tánh chẳng bị phan duyên, cho đến phải mau xa lìa”: Phan duyên vọng niệm, pháp vọng sở duyên, vọng nghiệp sở tác. Các nghóa như trong văn. Đoạn trên đã nói rõ ba thân Phật nói pháp. Kiết thúc này riêng nêu lên pháp sở chứng của Phật pháp để khuyên người tu học. Cho nên Kinh Pháp hoa chép: Tuy nói các đạo kia thật vì nhất thừa. Lại nữa, Này Đại Tuệ! Thanh văn thừa, cho đến chấp đắm, phân biệt tự tánh tướng. Hai là y theo Thánh trí hàng thanh văn đã chứng, để nêu rõ nghóa chánh trí. Vì ở trên Đức Phật khuyên Bồ-tát tu tự chứng cảnh giới Thánh trí, nhưng hàng Thanh văn cũng có tướng tự chứng cảnh giới Thánh trí, muốn phân biệt khác với Thanh văn, cho nên nói Thanh văn có hai tướng khác nhau, tự chứng Thánh trí ban đầu khác với ngoại đạo kia, cho nên gọi là Thù Thắng. Thanh văn chỉ dứt bỏ phiền não hiện hành, chưa dứt bỏ phiền não thói quen: “Thế nào là tướng tự chứng Thánh trí thù thắng, cho đến tướng cảnh giới Thánh trí tự chứng”. Nói hàng Thanh văn ở trong ba cõi hữu tình, là nói thấy vô thường, khổ, không, vô ngã, và cảnh giới Bốn đế, chán lìa năm dục, tâm vắng lặng. Đối với uẩn, xứ, giới, hoặc tự mình, hoặc chung với bất hoại tướng, mà chưa đạt được pháp không, chỉ được trí tuệ người không, như thật biết rõ, tâm trụ nhất cảnh, trụ nhất cảnh rồi, liền đạt được các thiền định, tám giải thoát, ba môn tam-muội, tám phần Thánh đạo, bốn quả Sa-môn, mà được ra khỏi sinh tử. Nhưng chỉ dứt bỏ phiền não hiện hành, chưa dứt bỏ phiền não thói quen, chỉ dứt bỏ sinh tử phần đoạn, chưa lìa sinh tử biến dịch, cho nên gọi là tướng Thánh trí cảnh giới tự chứng của thừa Thanh văn . Đối với cảnh giới vui, Bồ-tát không nên tu học: “Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát cũng được Thánh trí cảnh giới, cho đến không nên tu học”. Nói Bồ-tát sở chứng hiểu rõ tất cả các pháp bản tánh vô sinh, chính thọ vui khác nhau với hàng Thanh văn dứt ấm, giới, nhập, cầu sự an vui Niết-bàn. Bồ-tát cũng chứng đắc cảnh giới Thánh trí này. Dùng bổn nguyện đại bi, không chấp chứng vắng lặng và cái vui tam-muội, cho nên răn dạy các các Bồ-tát, đối với cảnh giới vui không nên tu học. Phân biệt nhận thức giữa Thanh văn và Bồ-tát: “Này Đại Tuệ! Thế nào là phân biệt chấp đắm tự tánh tướng, cho đến dần dần trụ vào các địa”: Đây nói hàng Thanh văn tuy biết các thứ pháp như hình sắc hiển sắc v.v… của bốn đại kia, chẳng phải như ngoại đạo chấp có tác giả. Nhưng Như lai vì ngăn khác nên quyền thuyết, đối với tự tướng, cộng tướng phân biệt chấp đắm, Bồ-tát đối với kia nên biết chỉ do tự tâm vọng hiện, cho nên phải lìa bỏ, hiểu rõ ngã pháp vốn không, dần dần nhập trí địa, đạt đến cảnh giới Như lai. Bác bỏ chấp đắm của ngoại đạo: “Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến tác giả Thường bất tư nghị!”. Ba là bác bỏ chấp đắm của ngoại đạo, hiển bày nghóa chánh trí, do ở trên Đức Như lai nói đốn là hiển bày trí Thường bất tư nghị. Đại Tuệ nêu lên để bạch Phật, Như lai nói Thường bất tư nghị tức là nghóa Thánh trí bậc nhất tự chứng trong đây, cảnh chẳng đồng với các ngoại đạo nói tác giả Thường bất tư nghị, nghóa là ngoại đạo dùng tác giả làm nhân tướng Thường bất từ nghị. Chẳng phải do nhân duyên tác giả mà được thường bất tư nghị: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Chẳng phải các ngoại đạo tác giả, cho đến thường bất tư nghị chẳng thành”. Như lai bảo Đại Tuệ: Chẳng phải các ngoại đạo do nhân duyên tác giả mà được thường bất tư nghị. Đó là do nhân tự tướng không thành, cho nên Kinh Lăng-nghiêm chép: dùng tâm sinh diệt làm gốc tu hành để cầu Phật thừa không sinh không diệt thì không bao giờ có việc ấy. Phật khuyên Bồ-tát phải siêng tu học: “Này Đại Tuệ! Đệ nhất nghóa Thường bất tư nghị của ta, cho đến vì vậy Bồ-tát phải siêng năng tu học”. Đây là nói Như lai nêu Thường bất tư nghị trên có nhân, có tướng thành. Năng sở, nhân tướng đều lìa hữu vô, nghóa là cảnh giới tự chứng Thánh trí chẳng phải cảnh giới nào khác cho nên có tướng Đệ nhất nghóa. Trí là chánh nhân cho nên chẳng sinh diệt, cho nên có nhân. Năng sở nhân tướng lìa hữu vô cho nên không có tác giả. Thí như hư không Niết-bàn vắng lặng, không tác pháp cho nên Thường bất tư nghị, cho nên ta nói khác với các ngoại đạo có sự tranh luận. Thường bất tư nghị này, là chỗ chứng đắc Thánh trí tự chứng của các Như lai tự, cho nên Phật khuyên Bồ-tát phải siêng tu học. Nói về thường bất tư nghị của ngoại đạo: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Thường bất tư nghị của ngoại đạo, cho đến chẳng phải nhân lực của tự tướng, cho nên thường: là nói ngoại đạo dùng tướng vô thường biến dị làm Thường bất tư nghị nhân, cho nên nói thường, chẳng phải nhân lực của tướng tự giác thực hành cho nên thường. “Này Đại Tuệ! Thường bất tư nghị của các ngoại đạo, cho đến Vô thường đã không do đây nói là thường”. Nói ngoại đạo thấy pháp mà thế gian tạo tác có rồi lại không, đều là vô thường, vọng chấp thần ngã là thường, đợi vô thường rồi, so sánh biết là thường. Đức Phật thì trái lại, không do đó nói là thường. “Này Đại Tuệ! Ngoại đạo dùng nhân tướng như vậy, cho đến không có tự nhân tướng”. Nếu ngoại đạo dùng nhân tướng vô thường như vậy thì thành thường bất tư nghị, nhân tướng này chẳng chân thật cho nên đồng với sừng thỏ. Thường bất tư nghị chỉ là vọng tưởng nói năng vì sao? Vì không có tướng thường của nhân thường. Nói về thường bất tư nghị của Phật: “Này Đại Tuệ! Thường bất tư nghị của ta, cho đến điều này không nên nói”: Ở trước thì nói Phật trái với ngoại đạo, ở đây thì ngoại đạo trái với Phật, sẽ không biết được tướng tự nhân của thường bất tư nghị, lìa hữu vô, siêu tình thức, mà thường vọng chấp ngoài tướng sở hành của tự chứng Thánh trí, do đó mà Đức Như lai răn không nên nói. Nhưng đạo của ba thừa tốt xấu cao thấp đều khác nhau, đều là nội chứng. Nếu ngoài tâm thấy pháp mặc tình nói lý sâu mầu thì thành ngoại đạo. Nếu thấu đạt sinh tử vốn không thì đối với Niết-bàn cũng chẳng thật có: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Các Thanh văn sợ sinh tử vọng tưởng khổ mà cầu Niết-bàn, cho đến không thật có”. Bốn câu này y theo kẻ trí, người ngu có sự hiểu biết cao thấp, để nói về chánh trí, không biết sinh tử Niết-bàn có tướng khác nhau, đó là vọng phân biệt về hữu, nghóa là đối với sinh tử mà nói Niết-bàn, như đối với bệnh nói thuốc. Nếu thấu đạt được sinh tử vốn không thì đối với Niết-bàn cũng không thật có. Cho nên Kinh Tư Ích chép: Các Đức Phật ra đời không vì giúp cho chúng sinh vượt khỏi sinh tử, nhập Niết-bàn, mà chỉ độ hai thứ chấp sinh tử, Niết-bàn mà thôi. Vọng tưởng vô tánh tức là Niết-bàn. Sự mê lầm của phàm phu: “Vọng chấp đời vị lai các căn cảnh diệt, cho đến chuyển tàng thức sở y thành Đại Niết-bàn”. Do phàm phu không biết sinh tử tức là Niết-bàn, vọng chấp đời vị lai căn cảnh diệt, nghó là Niết-bàn, chẳng phải cảnh giới tự giác sở chứng. Cảnh giới trí tuệ mà Như lai sở chứng ấy vì có thức tàng cho nên vọng thấy sinh tử, chuyển thức tàng thì sinh tử tức Niết-bàn. Cho nên đoạn kinh dưới nói: Thức vọng tưởng diệt gọi là Niết-bàn. “Người ngu si kia nói có ba thừa, cho đến thường sinh tử luân hồi không dứt”. Người ngu cho rằng sinh tử khác Niết-bàn, vì người ngu này nói dứt sinh tử, hướng về Niết-bàn, cho nên nói chủng tánh ba thừa. Người trí nói sáu đường sinh tử này là do tâm lượng vọng tưởng chứ không có cảnh giới, nhưng người ngu kia không biết sinh tử vọng tưởng do các Đức Như lai ba đời nói là cảnh giới do tự tâm hiện. Do chấp tâm ngoài cảnh, chấp tướng sinh tử và Niết-bàn khác nhau cho nên bị trôi lăn trong sinh tử. Tất cả pháp bất sinh: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Tất cả pháp chẳng sinh, là do các Đức Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai nói ra, cho đến chẳng phải hai cảnh giới phân biệt của người ngu kia”. Nói Như lai ba đời nói ngoài tâm hiện tất cả các pháp bất sinh, vì sao nói tự tâm hiện, chẳng có tánh, cho nên không sinh? Lìa hữu vô, sinh hai thứ kiến chấp cho nên bất sinh! Đây là nói về người trí biết các pháp không sinh khởi chủng tánh Phật, như sừng thỏ sừng ngựa xưa nay bất sinh. Phàm phu không giác ngộ vọng chấp sinh diệt, chỉ nơi sở chứng tự giác của Như lai, tất cả pháp tự thể tánh tướng không sinh, chẳng phải cảnh giới phân biệt hữu vô của người ngu. Phải siêng tu học ý nghóa tâm này hiện tất cả pháp bất sinh: “Này Đại Tuệ! Thân và tài của sinh khí thế gian v.v… cho đến ông đối với nghóa này phải siêng năng tu học”. Nói sắc thân chánh báo và khí giới tư sinh, tất cả các pháp nguồn gốc là hình bóng của thức này, do hai thứ chấp năng, sở biến hiện, vọng tưởng vô tánh, mà các kẻ ngu rơi vào trong kiến chấp phân biệt hữu vô. Cho nên Đức Phật bảo Đại Tuệ, ông đối với ý nghóa tâm này hiện tất cả các pháp bất sinh, phải siêng năng tu học. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Có năm thứ chủng tánh, cho đến chủng tánh bất định, vô chủng tánh”. Năm là y theo chủng tánh để xét căn cơ. Nói về nghóa chánh trí. Do ở đoạn trên sợ khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn, sinh ra chủng tánh, cho nên kế là nói tướng chủng tánh. “Này Đại Tuệ! Làm thế nào biết đó là chủng tánh Thanh văn thừa, cho đến đây là chủng tánh Thanh văn thừa. Nếu khi nghe nói ấm, giới, nhập, tự tướng, cộng tướng, thân chứng đắc Niết-bàn”. Biết khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo, an ổn vui mừng và ưa thích tu tập. Đối với tướng duyên khởi phát ngộ không ưa quán sát, nên biết vì tu thượng pháp, đó gọi là chủng tánh Thanh văn Thừa. Thanh văn dứt hoặc phân biệt: “Hàng Thanh Văn-thùa tự thấy sở chứng của mình, cho đến cho đến hết sinh tử, được nhập Niết-bàn”. Đây nói rõ ràng Thanh Văn dứt hoặc phân biệt. Các Bồ-tát địa thứ năm, thứ sáu chỉ dứt phiền não hiện hành trong ba cõi, chưa dứt tập sử và sở tri chướng, hàng Thanh văn đã chứng đắc bốn trí rốt ráo giác cho nên hết sinh tử, chứng Niết-bàn giác. “Này Đại Tuệ! Lại có chúng sinh cầu chứng Niết-bàn, cho đến đây là Niết-bàn”. Nói có chúng sinh vọng chấp giác biết ngã, nhân, chúng sinh, nuôi lớn só phu mỗi mỗi khác nhau, chấp thần ngã là Niết- bàn, lại có ngoại đạo khác chấp rằng trời Tự tại v.v… là tác giả, gọi là Niết-bàn. Hai loại này thuộc về ngoại đạo vô chủng tánh. Ngoại đạo chấp có thần ngã tánh họ không có pháp giải thoát: “Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo kia không có giải thoát, cho đến nên siêng năng tu tập lìa bỏ ác kiến này”. Đây là nói ngoại đạo chấp có thần ngã, tánh họ không có pháp giải thoát Thanh văn chấp tự tướng, cộng tướng, chưa đạt được pháp không, đều không ngoài vọng giác, cho nên khuyên tu tập, chuyển ác kiến kia mà hướng về chủng tánh Như lai. Nói về chủng tánh thừa Duyên giác: “Đại Tuệ! Làm thế nào để biết đó là chủng tánh Duyên giác, cho đến nên nói cho họ nghe pháp Duyên giác thừa”: Nếu nghe nói các pháp duyên khởi, biết duyên thể không, không hề nhiễm đắm, hoặc khi nghe nói hiện các thứ thân, hoặc hợp nhiều thân thành một thân, hoặc chia một thân thành nhiều thân, cho đến dùng thần ngã biến hóa mà tin nhận không sai trái, vui mừng tu tập, đó gọi là chủng tánh Duyên giác thừa. Nhưng có hai thứ khác nhau: Hễ gặp Phật giảng nói mười hai nhân duyên, nương theo đó tu hành gọi là Duyên giác. Nếu ra đời không gặp Phật, không được gần gũi Phật, chỉ một mình tu hành tự ngộ thì gọi là Độc giác. Nói về chủng tánh thừa Như lai: “Này Đại Tuệ! Chủng tánh Như lai thừa, cho đến phải biết đây là chủng tánh Như lai thừa”. Pháp tự tánh, vô tự tánh, là pháp bí mật ba tự tánh ba vô tánh. Pháp tự chứng Thánh trí của nội thân, là Phật tự chứng nhất thừa liễu nghóa, là pháp chân thật không thể suy nghó, nói năng. Pháp ngoài các cõi Phật rộng lớn, nghóa là cõi Tịnh đại bi nguyện trang nghiêm nhiếp hóa chúng sinh. Là Pháp rốt ráo đến địa vị nhất thế trí, hoặc có nghe nói các pháp này, cho nên gọi là chủng tánh Phật thừa. Nói về chủng tánh bất định: “Này Đại Tuệ! Chủng tánh bất định, cho đến tùy sinh tín giải mà thuận theo tu học”. Đây là nói người chủng tánh bất định khi nghe nói pháp ba thừa, tùy bất cứ một thừa nào trong ba thừa đó mà sinh lòng tín nhập, thuận theo sự tu học mà thành. Tánh kia có thể đời đổi cho nên nói bất định. “Này Đại Tuệ! Đây là vì người ở Sơ trụ địa mà nói chủng tánh, cho đến Tạo tác lập ra”: Người ở bậc Sơ trụ địa tức chủng tánh bất định. Người ba thừa đều có thể vào được, nói cho họ nghe chủng tánh này, khiến họ tỏ ngộ quyền, hướng thẳng đến thật, siêu nhập đệ bát vô sở hữu thứ tám, thẳng đến Như lai địa, cho nên làm ra sự lập ra này. “Này Đại Tuệ! Kia trụ tam-muội lạc Thanh văn, cho đến cuối cùng sẽ được thân Như lai”: Ở đây nói về ba thừa năm tánh đồng nhập nhất Phật thừa của Như lai, nghóa là trước quyền nói ba thừa năm tánh, Hai thừa định tánh, xiển-đề vô tánh, không được thành Phật. Nay rốt ráo nói, tuy có sự khác nhau giữa ba thừa năm tánh, do tâm huân, nên xưa nay chỉ có một Phật thừa. Nêu một bày nhiều, vì vậy cho nên chỉ nói kia trụ tam-muội lạc Thanh văn. Đã tu tập dứt bỏ kiết phiền não, nếu hồi tâm chứng tri thức tánh, thấy pháp vô ngã, cuối cùng đều chứng được thân vô thượng trên hết của Như lai. Đức Phật nói kệ cho rằng các bậc Thánh của bốn quả Thanh văn tâm họ đều mê loạn: “Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, tất cả bậc Thánh này, tâm đều hoặc loạn”: Nói Tiểu thừa sơ tâm, tu bảy phương tiện, đến khi thấy được đế lý, có khả năng thấy đạo dứt bỏ được tám mươi tám sử trong ba cõi, bắt đầu dự vào dòng Thánh, nên gọi là “Dự lưu”, kế là từ đó phát sinh sáu vô ngại đạo, quả này đã dứt bỏ sáu phẩm tư hoặc trong cõi Dục, tu hoặc sở đoạn, chứng giải thoát thứ sáu, ở tầng trời, người còn một lần qua lại, gọi là quả Nhất lai. Sau đó lại phát ba vô ngại đạo, dứt hẳn chín phẩm tư hoặc trong cõi Dục và các phiền não, không còn trở lại thọ sinh ở cõi Dục nên gọi là quả Bất hoàn. Lại ở trong cõi Sắc tu hành, dứt hẳn tất cả phiền não ở hai cõi trên do tu mà dứt, được tận trí, vô sinh trí, không còn thọ thân đời sau, gọi là quả A-la-hán. Như lai phương tiện vì phàm phu sợ khổ sinh tử vọng tưởng, nên nói dứt phiền não trong ba cõi, chứng đắc quả vị khác nhau, nhưng đều không lìa tâm lượng, cho nên nói các bậc Thánh này, tâm họ đều mê loạn. “Ba thừa Nhất thừa và phi thừa do ta lập, là nói cho kẻ ngu ít trí tuệ, và các Thánh ưa lặng nói”: Phật ứng theo căn cơ mà thiết lập, ba thừa, Nhất thừa đều là quyền. Ba y theo một, một đối ba mà thiết lập. Ba thừa đã không còn thì một cũng chẳng có. Vì người ngu kia, ưa thích sự các bậc Thánh vắng lặng, cho nên nói. “Pháp môn Đệ nhất nghóa, xa lìa hai thứ chấp, trụ ở vô cảnh giới, sao dựng lập ba thừa”: Trong pháp môn Đệ nhất nghóa, là không thật có, sao lại có giáo pháp và có tên các thừa. “Các thiền và vô lượng, vô sắc tam-ma-đề, cho đến diệt thọ tưởng, chỉ tâm, không thật có”. Các thiền và vô lượng, nghóa là bốn tịnh lự và bốn tâm vô lượng. Vô sắc tam-ma-đề, tức là bốn không xứ định của cõi Vô sắc. Diệt thọ tưởng, tức định diệt tận của hàng Thanh văn. Như lai nói các pháp như các thiền tam-muội v.v… cũng không có thật, vì tâm lượng vọng tưởng của kẻ ngu nên nói như vậy, cho nên nói chỉ do tâm, không thật có. Như trên nói về chánh trí đã xong. Nói về Nhất xuển-đề: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Trong đây Nhất-xiển-đề, cho đến vì chúng sinh vô thỉ mà phát nguyện”. Ba câu trên y theo Bồ-tát xiển đề. Biết sinh tử, Niết-bàn không hai để nói về nghóa như như. Thế nào là xả bỏ tất cả gốc lành, cho đến vì gốc lành đều dứt nên không được nhập Niết-bàn. Hạng xiển đề này chê bai pháp tạng Đại thừa, và làm ác, nói pháp này chẳng phải trong kinh tạng nói, do dứt bỏ tất cả gốc lành nên không thể nhập Niết-bàn. “Thế nào là từ chúng sinh vô thỉ phát nguyện, cho đến đây là không có chủng tánh Niết-bàn, là bổn nguyện phương tiện của Bồ-tát”: Muốn dứt trừ sinh tử cho tất cả chúng sinh khiến họ được Niết-bàn thì hễ một chúng sinh chưa chứng nhập thì ta cũng không chứng nhập. Nói hạng nhất-xiển-đề chê bai Bồ-tát tạng cho nên không thể chứng đắc Niết-bàn, Bồ-tát nên biết sinh tử tức Niết-bàn, cũng lại không được Niết-bàn, vì không được Niết-bàn tên đồng, cho nên cũng nói trụ nhất- xiển-đề, đây là tướng của chủng tánh vô Niết-bàn. Bồ-tát biết sinh tử Niết-bàn nên không nhập Niết-bàn: “Đại Tuệ Bồ-tát bạch Thế Tôn, cho đến vì vậy Bồ-tát, nhất-xiển- đề chẳng vào Niết-bàn”. Nói Nhất-xiển-đề bỏ gốc lành lại nhờ thần lực Như lai nên có khi sinh gốc lành, được Niết-bàn, vì vậy Bồ-tát biết sinh tử tức Niết-bàn, cho nên nói không nhập, như trên là nói về Như Như đã xong. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát, cho đến duyên khởi tự tánh viên thành tự tánh”: Ở trên tuy phân biệt ba tự tánh thành năm pháp, nhưng chưa biết thế nào là ba tự tánh. Cho nên đoạn dưới đây nói rõ về thể của ba tự tánh. Nói vọng chấp tự tánh, nghóa là kẻ ngu vọng tưởng chấp đắm. Sở chấp uẩn, giới, nhập v.v… là thật ngã, thật pháp, gọi là chấp tánh vọng. Ở đây có hai thứ: 1.Tự tánh: chấp chung các pháp thật có tự tánh. 2.Khác nhau: chấp riêng thường vô thường v.v… thật có tự thể, hoặc nương vào danh mà vọng chấp nghóa, hoặc nương vào nghóa mà vọng chấp danh v.v… Y theo thể không ra ngoài hai thể người và pháp. Y theo chấp không ra ngoài hai chấp danh và nghóa. Lại nói rằng chúng sinh nhiễm tâm đối với tự tánh y tha khởi, có hai thứ vọng chấp tự tánh: 1. Tùy giác: tức hiện hành chấp. 2. Quán tập thói quen tùy miên: tức chấp hạt giống… Nói duyên khởi tự tánh, nghóa là y tha các duyên hòa hợp dậy lên, giống như sự huyễn, gọi là Duyên khởi tự tánh, cũng có hai nghóa: 1. Nương các chân lý khác, như sóng nương nước mà sinh khởi. 2. Nương các vọng duyên khác, như sóng nương gió mà dậy lên. Viên thành tự tánh, nghóa là vọng tưởng thể vốn không, duyên khởi vô tánh, tức là viên thành, cuối cùng chỉ một chân như, lại không thật có, cho nên Kinh Lăng-nghiêm chép: Vô lậu chân tịnh, tại sao trong đó lại dung nạp các vật, trên đã giải thích chung rồi, đoạn dưới sẽ giải thích riêng. Vọng tưởng vô thể, chỉ từ duyên khởi: “Này Đại Tuệ! Vọng chấp tự tánh từ tướng sinh, cho đến chủng loại hiển hiện sinh khởi chấp đắm”. Nói vọng tưởng vô thể, chỉ từ duyên khởi sự tướng sinh chấp đắm. “Này Đại Tuệ! Kia chấp đắm sự tướng, cho đến đó gọi là hai thứ vọng chấp tánh tướng”. Nói chấp tướng này khởi hai thứ vọng tưởng. Đó là các Như lai lập ra giảng nói, nghóa là pháp trong ngoài sanh ra các tên gọi nam nữ, bình áo, v.v… đó gọi là tướng chấp đắm tướng. Đối với pháp trong ngoài kia chấp đắm tự tướng công tướng, việc này gọi là tướng chấp đắm tướng, tức là hai thứ chấp đắm tự tánh khác nhau. Các pháp từ duyên sinh nên gọi là tánh duyên khởi: “Này Đại Tuệ! Từ sở y, sở duyên mà sinh khởi ra tánh duyên khởi này”: Là nương theo nhân, nghóa là các pháp từ duyên sinh nên gọi là tánh duyên khởi. Cho nên nói chẳng hề có một pháp nào không từ nhân duyên sinh. “Thế nào là viên thành tự tánh, cho đến đó gọi là viên thành tự tánh Như lai Tạng tâm”: Nói viên thành tự tánh không có tự thể riêng, chỉ ở nơi duyên khởi tự tánh, lìa danh tướng sự tướng phân biệt luống dối, tự giác Thánh trí sở chứng Như như. Đây là viên thành tự tánh pháp thân thật thể Như lai Tạng tánh thanh tịnh chân tâm. Vì vậy phải nhờ vào phương tiện như thật, lìa niệm quán sát mới ngộ nhập được, cho nên luận đại thừa nói rằng: tự tánh viên thành thật, nên biết giảng nói bốn pháp thanh tịnh: 1. Tự tánh thanh tịnh, nghóa là chân như thật tế thắng nghóa pháp giới. 2.Ly cấu thanh tịnh, nghóa là xa lìa tất cả chướng ngại nhơ bẩn. 3.Đắc được đạo thanh tịnh này, nghóa là tất cả các pháp Ba-la- mật-đa, Bồ-đề phần. 4. Sinh cảnh giới thanh tịnh này, nghóa là dạy bảo chánh pháp tối thượng thừa nhiệm mầu. Bốn pháp như vậy gồm thâu tất cả các pháp thanh tịnh không bỏ sót một pháp nào. Mê thì Niết-bàn thành sanh tử, ngộ thì sinh tử thành Niết-bàn: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghóa này bèn nói kệ rằng: “Danh tướng phân biệt, hai tự tánh tướng, chánh trí như như, ấy Viên thành thật”: Trước nói về pháp thế gian, xuất thế gian, hoặc nhân hoặc quả nhiễm tịnh khác nhau, không lìa năm pháp, Nhất hạnh kinh này, lại gồm thâu năm pháp thành ba tự tánh, nghóa là danh tướng phân biệt vọng chấp duyên khởi hai tự tánh, chánh trí như như tức Viên thành thật. Cho nên biết ba tánh không có bờ bến, bất cứ một pháp nào cũng gồm thâu hoàn toàn các pháp còn lại, chân vọng dung nhiếp lẫn nhau, tánh tướng không ngăn ngoại. Từ duyên khởi sinh phân biệt tức là vọng chấp; từ duyên khởi ngộ chân thật, tức là viên thành. Do phân biệt nên một phần thành sinh tử, do chân thật nên một phần thành Niết-bàn, vì hiểu rõ phân biệt tánh không thì sinh tử thành Niết-bàn. Mê chân thật tánh hữu thì Niết-bàn thành sinh tử, đều là một pháp, tùy duyên hiển nghóa mà thành ba, ba chẳng phải ba mà một tánh viên tròn. Một chẳng phải một mà ba tánh đầy đủ, quyển thư không lỗi, ẩn hiển thường như, chẳng phải một chẳng phải ba, dứt tánh tướng ở nơi thật địa. Vừa ba vừa một, sáng suốt khắp nghóa thiên, toát yếu chỗ quy thú chẳng gì hơn chỉ này. Tổng kiết khuyên tu học: “Này Đại Tuệ! Đó gọi là quán sát pháp môn năm pháp tự tánh, cho đến phải siêng năng tu học”. Tổng kiết thành pháp môn năm pháp ba tánh để khuyên tu học. Quán sát hai tướng người và pháp vô ngã: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát cho đến pháp là tướng vô ngã”: Đã tu học được năm pháp ba tự tánh rồi, lại phải quán sát hai tướng người pháp vô ngã. Người vô ngã, tiếng Phạm là Bổ-đặc-già-la, Hán dịch Sác thủ thú, nghóa là các loài hữu tình, khởi hoặc tạo nghiệp, tức là năng thủ năm đường ở vị lai gọi là Đường. Tuy là thường khởi hoặc tạo nghiệp, luân hồi năm đường nhưng đều không có chủ tể thật dụng tự tại cho nên nói vô ngã. Kinh dạy: Vô ngã vô tạo vô thọ, nghiệp thiện ác cũng không mất. Pháp vô ngã, nghóa là thể của Phật pháp tuy giữ gìn tự tánh làm khuôn phép giúp cho người nhìn vào thì biết, cũng không có thắng tánh thực dụng tự tại, nên nói vô ngã. Hai thứ ngã chấp này, hoặc có hữu tình gồm chấp Bổ-đặc-già-la làm ngã, hoặc có hữu tình chấp riêng sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm ngã. Cho nên luận Du- già chép: Bổ-đặc-già-la vô ngã, nghóa là lìa ngoài tất cả hạnh duyên sinh mà có thật ngã riêng thì không thể được. Pháp vô ngã, nghóa là tất cả các hạnh duyên sinh, tánh chẳng phải thật ngã đó là vô thường. Cho nên kinh dạy: Phải khéo quán sát. Như trên là giải thích sơ lược chung rồi, văn dưới là giải thích rộng riêng. Thế nào là người vô ngã: “Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng người vô ngã? Cho đến đều do tạng tâm hiển hiện”. Thế nào là người vô ngã nghóa là lìa ngã? Thế nào là lìa ngã? Nghóa là đối với ấm, giới, nhập… của ngã sở phân biệt quán sát, do vô minh nghiệp ái sinh, đối với các căn như nhãn thức… vọng chấp tự tâm hiện cảnh giới vọng tưởng, đều do tâm tạng vọng tưởng thi thiết lập ra; những thứ ấy đều không có ngã. Đây là y theo ấm, giới, nhập mà nêu bày vô ngã. “Sát-na nối nhau biến hoại không ngừng, cho đến lăng xăng không yên như vượn khỉ”: Dưới đây là y theo ví dụ nêu năm quán môn để nói về vô ngã. Đây là nêu lên vô thường môn. Ngã có nghóa là thường, nay đã vô thường cho nên không có ngã. Văn nêu sáu ví dụ. Năm ví dụ trên là huyễn thân, một ví dụ dưới là vọng tâm. Như nước theo dòng, hạt mầm thay đổi, đèn nhờ các duyên, gió thổi không ngừng, mây nổi khởi diệt. Dùng các ví dụ sát-na thay đổi này, thân này cũng giống như vậy, đâu có thường! Lại nữa, vọng tâm lăng xăng, v.v… như vượn khỉ, đã không thể giúp cho thân tâm thường trú, nghóa của ngã cũng vậy. Ưa chỗ bất tịnh như ruồi lằn, nêu pháp môn bất tịnh để nói về vô ngã ấy, nhưng tất cả thế gian tham ái thân bất tịnh này, thân này chứa đựng ba mươi sáu thứ ô uế, như chỗ ruồi lằn thường đậu. Ngã nghóa là tịnh, nên biết là vô ngã. Nêu khổ môn để bác bỏ ngã: “Không biết thỏa mãn như lửa dữ”. Là nêu khổ môn để bác bỏ ngã. Có chỗ nói như gió thổi lửa thì Ngã nghóa là vui. Nay tham dục không thỏa mãn như lửa dữ trong gió, gặp củi liền cháy, tìm kiếm không được. Bị khổ ép ngặt không có an vui, cho nên biết vô ngã. “Thói quen luống dối từ vô thỉ cho nên trôi lăn trong các đường không dừng như bánh xe quay nước”. Nêu pháp môn không tự tại để nói về vô ngã, nghóa là thói quen luống dối từ vô thỉ của nghiệp huân tập, qua lại trong ba cõi, như bánh xe quay nước xoay chuyển không dừng, vì ưa thích nước cho nên tưới nước, nghiệp nhân tức là nghiệp nhân xô đẩy, đâu có thật ngã. “Các thứ thân sắc, trong mọi cửa chỉ, cho đến cũng như con rối nhờ có sợi dây mà di động”. Đây là nói không môn để bác bỏ ngã, nghóa là quán sát ấm, giới, nhập các thứ sắc thân, như con rối có sợi dây, huyễn thuật làm thây chết đứng dậy đi, dù nói như thế nhưng thật chẳng phải ngã. “Nếu khéo biết tướng của nó thì gọi là trí về người vô ngã”: Trên là dùng pháp dụ để vặn hỏi. Khéo biết ấm, giới, nhập đều không có ngã. Như con rối có sợi dây v.v… đó gọi là về trí người không. Nói về pháp vô ngã: “Này Đại Tuệ! Thế nào là trí về pháp vô ngã? Nghóa là biết ấm, giới, nhập là vọng chấp tự tánh”: Nói Bồ-tát biết pháp duyên khởi ấm, giới, nhập. Nếu chấp là thật thì đó là tự tánh vọng chấp, xưa nay chẳng thật có. Cho nên Kinh Bảo Tích chép: Rõ sắc không bền chắc như chùm bọt nước, suy nghó các thọ v.v… như bọt nước, tưởng như ánh sáng mặt trời soi chiếu, đối với các hành nên quán sát, như người đời khéo huyễn thuật ca múa, sát-na liền hiện các sắc tượng, hiểu rõ thức dụng cũng như vậy. Người trí đối với việc này đều không mong muốn. Đây là bác bỏ phàm chấp phu có năm uẩn. Kinh Đại Bát-nhã chép: Khổ não như chùm bọt nước là tướng uẩn, đức Như lai biết là vô tướng. Kinh Bảo Tích lại chép: Trong ngoài mười hai xứ, ta nói tâm làm chủ, kia lại do nghiệp mà sinh, nghiệp do suy nghó mà tồn tại lâu dài, nhãn sắc đều là duyên mà sinh khởi thức, duyên thiếu thì bất sinh, thí như lửa không có củi. Như vậy sinh các pháp, hòa hợp sinh lẫn nhau. Vô tác vô thọ là hiện tác dụng như huyễn. Tất cả các pháp trong ngoài, ta đã biết không huyễn, kẻ ngu chấp điên đảo, phân biệt ngã, ngã sở. Đây là phá phàm phu chấp có mười hai xứ, mười tám giới. Kinh Đại Bát-nhã chép: Sinh trưởng môn là xứ tướng, Như lai giác là vô tướng, nhiều độc hại là giới tướng. Kinh Lăng-nghiêm cũng chép: Căn trần cùng nguồn, buộc mở không hai, thức tánh luống dối, như hoa trong hư không. “Như ấm, giới xứ lìa ngã ngã sở, cho đến phàm phu phân biệt chẳng phải các Thánh”. Như ấm, giới, nhập, không, vô ngã, ngã sở, chỉ cùng chứa nhóm nghiệp phiền não, như dây tự trói , xoay vần sinh nhau, không thật có tự thể. Tất cả các pháp cũng giống như vậy, lìa tự tướng, cộng tướng, do vọng phân biệt các thứ tướng cảnh. Kẻ ngu như thế chẳng phải các bậc Thánh, giúp cho họ biết ngộ tu, vượt phàm lên Thánh. Vì sao bậc Thánh không khởi vọng tưởng: “Quán sát tất cả các pháp như thế, cho đến trí về pháp vô ngã”. Nói các bậc Thánh hiền vì sao không khởi vọng tưởng, đó là do dứt tất cả danh tưởng vọng tưởng của tâm, ý, ý thức. “Chứng đắc trí này rồi, biết không có cảnh giới, cho đến mà ngồi trên đó”. Dưới đây là nói về quán sát pháp vô ngã ngã sở được lợi ích. Nghóa là thấy pháp vô ngã cho nên được nhập Sơ địa. Quán sát khai giác thứ lớp dần dần tiến đến Thập địa, việc phải làm đã làm xong, có hoa sen báu lớn, trên đó có các báu trang nghiêm, có cung điện báu lớn, tòa sen báu lớn. Bồ-tát tu tam-muội Như huyễn mà thành tựu, ngồi trên đó thọ chức vị Phật. Phật xoa đảnh Bồ-tát trao quả Phật: “Đồng hàng Phật tử trước sau vây quanh, cho đến được Phật rước nước trên đảnh”. Nói các Bồ-tát này muốn thọ nhận địa vị Phật, Bồ-tát cùng loại là quyến thuộc vây quanh trước sau, tất cả các Đức Phật từ mười phương đến, xoa tay trên đỉnh đầu thọ ký thành Phật. Như khi vua Chuyển luân trao ngôi vị cho thái tử, dùng chung vàng đựng đầy nước bốn biển lớn rưới lên đầu Thái tử, trao địa vị vua Chuyển luân. Thí như các Đức Phật đều dùng tay phải xoa lên đỉnh đầu các vị Bồ-tát trao địa vị Pháp vương. “Vượt lên địa vị Phật, được pháp tự chứng, cho đến phải riêng tu học”. Vì thấy pháp vô ngã, nương vào đây tăng tiến hành nhân tròn đầy, cho nên vượt địa vị Bồ-tát, được pháp thân Như lai, vì vậy cho nên nói các Bồ-tát phải nên tu học. “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến xin nói tướng dựng lập chê bai”. Do ở trên quán hai thứ vô ngã, lìa được hai chấp hữu vô, đoạn thường, cho nên thỉnh tướng dựng lập, chê bai. Chẳng có nói có gọi là lập ra, chẳng phải không nói không gọi là chê bai. “Giúp con và các Đại Bồ-tát, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Nếu Đức Như lai nói cho chúng con nghe, giúp chúng con lìa kiến chấp hữu vô, mau chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. “Chứng đắc Bồ-đề rồi, cho đến để không sinh tâm chê bai chánh pháp”. Nói chánh pháp lìa hữu vô, nếu nói hữu vô gọi là chê bai chánh pháp. Phật nhận lời Bồ-tát thỉnh liền nói kệ: “Phật nhận lời Bồ-tát Đại Tuệ thỉnh rồi liền nói kệ: Thân tư tài an trụ đều chỉ tâm ảnh tượng, cho đến lìa tâm không thật có”. Ý nói các pháp y báo, chánh báo, không biết tự tâm vọng hiện, mà khởi hữu vô, dựng lập chê bai, rơi vào hai kiến chấp. “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói về nghóa này, cho đến tánh vô hữu, tánh dựng lập có bốn thứ”. Đây là nêu bốn tên, gọi đó là trong chẳng có tướng, kiến, nhân, tánh, mà ựng lập một cách ngang trái. “Này Đại Tuệ! Sự chê bai, cho đến đó là tướng dựng lập chê bai”. Kia là pháp dựng lập, quán sát không được mà nói là vô, đó gọi là chê bai. “Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng hữu vô, tướng dựng lập, cho đến đó gọi là tướng hữu vô, tướng dựng lập. Nghóa là ấm, giới, nhập chẳng có tự tướng, cộng tướng mà vọng chấp đây như vậy, là tự tướng, đây chẳng khác, là cộng tướng. Đây là do lỗi vọng tưởng luống dối các thói quen từ vô thỉ sinh”. “Thế nào là không có kiến dựng lập kiến? Cho đến đó gọi là không có kiến dựng lập kiến”. Nghóa đối với ấm, giới, nhập vọng dựng lập ngã, nhân, chúng sinh, cho là năng kiến. “Thế nào là không có, nhân dựng lập nhân? Cho đến đó gọi là không có nhân, dựng lập nhân”: Ngoại đạo dựng lập thức ban đầu có nhân từ Minh Đế mà sinh. Phật dạy thức ban đầu này không từ Minh Đế nhân sinh, thức ban đầu kia vốn không sinh, sau nhãn, sắc, minh, niệm v.v… làm nhân, như huyễn mà sinh, một niệm không dừng trụ, sinh rồi có, có rồi diệt. Tất cả pháp lìa hữu vô: “Thế nào là tánh hữu vô, tánh dựng lập? Cho đến đó gọi là tánh hữu vô, tánh dựng lập”: Nói ngoại đối với ba pháp vô vi vô tác mà lập ra tánh hữu. Phật dạy ở đây lìa tánh phi tánh, nói tất cả các pháp lìa hữu vô. Giống như vòng lửa xoay, tóc rũ do dụi mắt mà sinh, như sừng thỏ, sừng ngựa… vốn tự chẳng có. “Này Đại Tuệ! Dựng lập chê bai, cho đến phải nên quán sát xa lìa kiến chấp này”. Tổng kiết lìa hai thức ác kiến, để khuyên tu học. “Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát, cho đến tướng năm pháp, ba tự tánh, hai vô ngã”: Phật dạy tám thức, năm pháp, ba tự tánh, hai vô ngã, là muốn giúp cho chúng sinh lìa danh tướng phân biệt, chứng đắc pháp thân Như lai, xoay vần nối nhau thành Phật không dừng. Không trụ trong hai thừa tất cả và Bích-chi-Phật: “Vì chúng sinh nên hiện các thứ thân, cho đến không trụ trong đạo Thanh văn, Bích-chi-Phật”. Vì lợi ích chúng sinh khiến hạt giống Phật không mất. Tùy theo gốc lành chúng sinh mà hiện bóng các thứ sắc thân, như nương duyên khởi mà sanh vọng chấp, để dụ cho Như lai nương gốc lành chúng sinh mà sinh, như hạt ngọc Ma-ni không có tác tâm mà tùy màu thay đổi, để dụ cho Như lai không tác ý, tùy theo nước tâm gốc lành của chúng sinh lớn hay nhỏ mà thay đổi, cũng như ngọc Ma-ni tùy vật mà biến hiện, để thí dụ Như lai tùy theo gốc lành của chúng sinh hiện chứng cõi Phật, đại chúng nhóm họp trong đó nói pháp. Nói tất cả các pháp như huyễn, như mộng không thật. Bồ-tát đã biết các pháp như huyễn, mà lìa kiến chấp sinh tử đoạn thường v.v… cũng lìa kiến chấp tự tướng, cộng tướng của hai thừa. “Nghe rồi thành tựu vô lượng trăm ngàn, cho đến xa lìa các kiến chấp hữu vô v.v…”. Nói Bồ-tát đã biết các pháp như huyễn, chứng đắc các địa vô lượng ức tam-muội hiện thành Chánh giác. Lại nói rằng pháp do tự tâm hiện lượng, khiến chúng lìa các chấp chư hữu vô v.v… “Lúc ấy, Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng: Phật tử thường quán sát, thế gian chỉ là tâm, cho đến tất cả đều thành tựu”. Nói quán sát sự sinh tử của thế gian chỉ do tự tâm vọng hiện, như ngọc ma-ni vô tư hiện ra nhiều màu, lìa sự tạo tác thì tất cả thành tựu. Đại Tuệ nêu lên pháp không để thưa hỏi Như lai: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến vô sinh, không hai, vô tự tánh tướng”. Ở trên nói tất cả các pháp như huyễn, như mộng, tức là nói pháp không, cho nên Đại Tuệ nêu lên pháp không này để thưa hỏi Như lai. Lại nói rằng dưới đây nêu không, vô sinh… để nói lên chí thú của bốn môn ở trên. Cái gọi là không là nói năm pháp ở trước chẳng phải thật có. Vô sinh để nói lên tám thức bất sinh. Không hai, là hai thứ ngã đều mất. Lìa tánh tức ba tánh vắng lặng. Cho nên đoạn kinh trên nói: Thấy cảnh giới sở hành của các Đức Như lai, rốt ráo lìa bỏ, năm pháp, ba tự tánh. “Con và các vị Bồ-tát đã ngộ được tướng này, cho đến đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Chúng con giác ngộ rồi, tức lìa vọng tưởng, mà chứng Bồ-đề. Phật hứa trả lời: Phật dạy: Lắng nghe! Ta sẽ nói cho các ông nghe, cho đến nói không, vô sinh, không hai không tự tánh”. Nói không, là thế gian vọng tưởng chấp đắm tánh cú nghóa, vì phàm ngu chấp tự tánh các pháp, cho nên ta nói các pháp không, vô sinh, không hai lìa tự tánh tướng. “Này Đại Tuệ! Lược nói tánh không có bảy thứ: Tướng không, tự tánh không, thành không, vô hành không, Nhất thiết pháp chẳng thể nói không, Đệ nhất nghóa Thánh trí đại không và bỉ bỉ không”. Các giáo nói về nghóa không, tự có thêm bớt. Kinh này tuy tóm lược, nghóa kia không khác nhau. “Thế nào là Tướng không? Nghóa là tất cả các pháp… cho đến thế nên nói tất cả các pháp tự tướng là không”. Nói tướng các pháp xoay vần làm nhân duyên cho nhau, chứa nhóm, không có tự thể. Tự tướng và cộng tướng đều bất sinh, cho nên tướng nương vào đâu mà an trụ? “Thế nào là Tự tánh không? Nghóa là tất cả pháp tự tánh bất sinh, đó gọi là tự tánh không” tức sinh tánh thể tự tánh bất sinh. “Thế nào là vô hành không? Nghóa là các uẩn xưa nay là Niết- bàn, cho đến đó gọi là vô hành không” tất cả các pháp bản tánh thường diệt, không còn diệt nữa, há có hành ư! “Thế nào là hành không? Nghóa là các uẩn do nghiệp và nhân, cho đến đó gọi là hành không”: Nói năm ấm các hành pháp, từ các duyên sinh khởi, không có ngã và ngã sở, pháp hữu vi hành không. e). “Thế nào là tất cả pháp không thể nói không, cho đến đó gọi là không thể nói không”: Tất cả pháp từ vọng tưởng sinh ra, không có tự tánh cho nên lìa lời nói. “Thế nào là Đệ nhất nghóa Thánh trí đại không, cho đến đó gọi là Đệ nhất nghóa, Thánh trí đại không”: Nghóa là khi Như lai đắc tự giác Thánh trí Đệ nhất nghóa thì tất cả vọng tưởng thói quen kiến chấp lỗi lầm thảy đều xa lìa. “Thế nào là bỉ bỉ không? Nghóa là đối với đây không kia, đó gọi là bỉ bỉ không?” Đây gọi là vô không lẫn nhau. Đối với đây không kia, đối với kia không đây nên gọi là bỉ bỉ không. Đối với kia có đây, đối với đây có kia, thì chẳng gọi là không. Nêu ví dụ để hiển bày rõ: “Thí như nhà Lộc Tử Mẫu không có voi ngựa trâu dê, cho đến chẳng phải không có chúng Tỳ-kheo”: Lộc Tử là tên người, mẹ của Lộc Tử là Ưu-bà-di, Tỳ-xá-khư, rất kính trọng Tam bảo, xây dựng tinh xá cho chúng Tỳ-kheo ở, trong đó không có các súc vật như voi ngựa, vì không có voi ngựa cho nên nói không. “Này Đại Tuệ! Chẳng phải nói là nhà không có tự tánh của nhà, cho đến chẳng phải các chỗ khác không có voi ngựa trâu dê”: Nhà và Tỳ-kheo có chẳng gọi là không. Nếu các chỗ khác có voi ngựa cũng chẳng thể nói voi ngựa là không. “Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp tự tướng, cộng tướng, cho đến rất thô trong cái không kia, ông phải xa lìa”. Nói không ấy rất thô, chẳng phải là chân không, cho nên khuyên xa lìa. Giải thích vô sinh: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Vô sinh, cho đến trừ người sống trong tam-muội đó gọi là vô sinh”. Đây là giải thích vô sinh. Nói y theo nhân duyên phá sinh, cho nên nói không tự sinh, nếu phá sinh nói vô sinh thì chẳng phải vô sinh chân thật, trừ người sống trong tam-muội như huyễn của Địa thứ tám trở lên, đó gọi là vô sinh chân thật. “Này Đại Tuệ! Vô tự tánh là do vô sinh, cho đến đó gọi là vô tự tánh”. Nói các pháp một niệm không dừng trụ, do dị tánh khởi, nên gọi là vô tự tánh. Thế nào là không hai: “Thế nào là không hai tướng. Này Đại Tuệ! Như bóng sáng, cho đến đều đối nhau độc lập thì không thành”: Nói thí như bóng sáng dài ngắn, trắng đen, đều do đối đãi mà lập không thật, không được nói hai. “Này Đại Tuệ! Chẳng phải ngoài sinh tử có Niết-bàn, cho đến vô tự tánh tướng, ông cần nên học”. Nghóa là nói vọng tưởng tánh không, ngay nơi sinh tử thành Niết-bàn, nếu mê tánh chân thật là có, ngay nơi Niết-bàn thành sinh tử. Nếu sinh tử Niết-bàn không hai thì tất cả các pháp cũng giống như vậy. Ngộ thì sinh tử là huyễn mộng, mê thì các nghiệp sinh tử không hoại: “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghóa này, nên nói kệ rằng: Ta thường nói pháp không, xa lìa đoạn và thường, sinh tử như huyễn mộng, mà nghiệp kia chẳng hoại”: Ý nói đạo lý chân thật thì sinh tử thật là không, giống như huyễn mộng, chỉ vì không hiểu được huyễn mộng, nên các nghiệp sinh tử không thể tan hoại. “Hư không và Niết-bàn, Diệt hai cũng như thế, kẻ ngu vọng phân biệt, các Thánh lìa hữu vô”: Là nói ba vô vi ở trên là không, không được đối với Niết-bàn mà nói sinh tử, cũng không được đối với sinh tử mà nói Niết-bàn, kẻ ngu vọng tưởng nên nói là hai, bậc Thánh thể đạt nên lìa hữu vô. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ-tát Đại Tuệ rằng, cho đến đều nói nghóa này”. Nói nghóa không v.v… vào khắp các kinh, không có một pháp nào chẳng chứa đựng lý này. Hội quyền về thật: “Này Đại Tuệ! Các kinh điển, cho đến muốn cho nghó là nước mà thật không có nước”. Đây gọi là hội quyền về thật. Nhưng trong các kinh hữu không nói không, vô sinh, là do chúng sinh hy vọng chẳng phải một. Cho nên Đức Như lai tùy tâm chúng sinh tạo ra các dị thuyết khác nhau, mà thật do tâm ngộ chứng, chẳng phải do lời nói. Thí như bầy nai quá khát nước, thấy ánh nắng mùa xuân mà tưởng là nước, mê loạn chạy đến tìm, nhưng là kia ánh nắng chứ thật chẳng phải nước. “Điều mà các kinh nói cũng giống như vậy, cho đến nên thuận theo nghóa chớ chấp lời nói”: Khuyên y theo thật nghóa chớ có chấp lời nói. Chúng sanh phiền não cũng có thân Như lai: “Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật, cho đến như hạt châu rất quý bỏ trong túi áo dơ”. Kinh Như lai Tạng cũng nói trong tất cả chúng sinh tham sân si phiền não cũng có thân Như lai, thường không bị ô nhiễm, đức tướng đầy đủ như ta không khác. Ngoại đạo nói ta là tác giả thường còn, cho đến đâu không đồng với ngã của ngoại đạo ư! Đây là lời hỏi văn Như lai, nếu nói có nghóa Như lai tàng thì trái với tất cả kinh điển ở trên đều nên nói không, tức đồng với ngoại đạo nói có thần ngã. Nhưng kia chấp ngã có ba nghóa: 1.Thể thường gọi là tác giả. 2. Tuy ở trong năm ấm mà lìa cầu-na. 3. Trải qua khắp các đường mà thật chẳng sinh diệt. Nay nói nghóa Tàng đâu chẳng phải đồng với ngã của ngoại đạo! Lời Như lai nói khác với thần ngã của ngoại đạo: “Phật dạy: Này Đại Tuệ! Ta nói Như lai Tạng, cho đến không nên ở đây khởi chấp đắm ngã”. Ý nói lời Như lai nói khác với thần ngã của ngoại đạo. Ngoại đạo nói ngã như mè, lúa mì, chỉ lập ra định tướng. Phật nói Như lai tàng, hoặc gọi là không, hoặc gọi là thật, cho đến vô nguyện, đây là thể một, ứng theo vật mà có tên khác, không đồng với thần ngã mà ngoại đạo nói, vì kẻ ngu sợ vô ngã đó nên Như lai phương tiện nói cảnh giới không thật có, tạo ra môn Như lai Tạng, khuyên các Bồ-tát không nên đồng chấp ngã như ngoại đạo. Nêu ví dụ để làm rõ nghóa: “Này Đại Tuệ! Thí như người thợ gốm đối với một đống đất, cho đến có các tên gọi khác nhau”. Như người thợ gốm đối với một đống đất, tùy theo việc cần làm, phương tiện làm ra các thứ, khí cụ để dụ cho Như lai đối với tất cả pháp đều vô ngã, nên ứng với căn cơ phương tiện hoặc nói Như lai tàng, hoặc nói vô ngã, các tên gọi khác nhau. Muốn lìa vọng kiến phải biết nghóa Như lai tàng vô ngã: “Này Đại Tuệ! Ta nói như Như lai tàng, cho đến nên biết nghóa vô ngã Như lai tàng”. Đây là muốn nói lìa vọng kiến, chứng Vô thượng Bồ- đề, phải biết nghóa vô ngã Như lai tàng. Nhưng nói Như lai tàng ấy, gồm có ba nghóa: 1.Nghóa ẩn phú, nghóa là che lấp Như lai cho nên nói tàng. Kinh Lý Thú Bát-nhã chép: Tất cả chúng sinh đều Như lai tàng. Kinh Thắng-man chép: Pháp thân Như lai không lìa phiền não tàng gọi là Như lai tàng. 2.Nghóa họp nhiếp, nghóa là pháp thân Như lai gồm nhiếp tất cả thân tướng, cõi nước thần thông đại dụng vô lượng công đức, cũng nghóa là gồm nhiếp tất cả chúng sinh, đều ở trong Như lai tàng. 3.Nghóa xuất sinh, pháp thân này đã gồm chứa các đức, biết rõ chứng nhập thì có khả năng sinh ra. Cho nên luận Thập Địa chép: Trí địa năng sinh nhân quả vô lậu, cũng năng sinh thành đạo hạnh trời, người. Ba nghóa này, trước hết y theo khi mê, sau y theo khi ngộ, trung gian in sâu vào thể. Cho nên Kinh Thắng-man chép: Nếu bị vô lượng phiền não trói buộc mà đối với Như lai tàng không nghi ngờ thì sẽ thoát khỏi sự trói buộc đối với vô lượng kho phiền não , pháp thân cũng không nghi ngờ, chỉ có quả hiển bày dễ tin, nhân ẩn khó nói, người hiểu biết nông cạn có hành động khinh nhân trọng quả, mong các người học tin sâu tâm mình. Phật nói kệ nói về sự nối nhau: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Só phu uẩn nối nhau, các duyên và cát bụi, thắng, tự tại tác giả, đây chỉ tâm phân biệt”. Ngoại đạo chấp do thần ngã nên làm cho ấm nối nhau, lại chấp cát bụi v.v… làm duyên với pháp, nhân duyên sinh, hoặc chấp tất cả đều do trời Tự tại thù thắng mầu nhiệm làm ra. Đây chỉ là tâm lượng vọng tưởng.  CHÚ ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ KINH <卷>QUYỂN 4 Thỉnh Như lai nói về Như: “Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ, cho đến thành đại tu hành”. Vì ở trên nhập ba giải thoát môn mau chứng Bồ-đề. Cho nên Đại Tuệ thỉnh Như lai nói Như. Các vị Đại Bồ-tát thực hành pháp phương tiện vô lậu. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát thành tựu, cho đến được gọi là đại tu hành”. Như lai nói đầy đủ bốn phương tiện có thể thành tựu tu hành đại phương tiện. Ở đây nêu lên bốn tên, đoạn dưới tự giải thích. Quán sát tự tâm hiện: “Này Đại Tuệ! Thế nào là quán sát tự tâm hiện, cho đến Quán sát tự tâm hiện như vậy”. Ở đây là nói pháp y báo, chánh báo v.v… trong ba cõi, chỉ do tự tâm huân tập tội lỗi thói quen từ vô thỉ, vọng tưởng phân biệt tùy nhập mà hiện ra. Như luận Khởi Tín chép: Vì tất cả các pháp từ tâm khởi lên, vọng niệm mà sinh. Quán sát như vậy gọi là chánh quán. “Này Đại Tuệ! Thế nào là Đại Bồ-tát lìa kiến chấp sinh trụ diệt? Cho đến chuyển sở y chỉ, được thân ý sinh”: Xa lìa kiến chấp sinh, nghóa là giai vị mãn công dụng ở Thập địa đã xong, đối với hai thứ sinh, mà lìa được tướng kiến chấp sinh kia, chứng tánh như huyễn, trụ địa thứ tám, hiểu rõ tâm thức v.v… Được thân ý sinh, tức vô công dụng đạo giác pháp tự tánh thân ý sinh. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi về thân ý sanh: “Đại Tuệ bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì gọi là thân ý sinh?” Vì Bồ-tát Địa thứ tám ở trên đã nói chuyển thức sở y tại sao lại gọi là thân ý sinh! Cho nên hỏi thân ý sinh là nhân duyên gì? “Phật bảo Này Đại Tuệ! Thân ý sinh… cho đến xa lìa kiến chấp đối với sinh trụ diệt”. Vì ý có ba nghóa cho nên lấy ý làm ví dụ: 1. Nhanh chóng. 2. Vô ngại. 3. Đến khắp. Dùng để dụ cho Bồ-tát chứng đắc tam-muội Như huyễn hiện thân khắp mười phương để hóa độ chúng sinh cũng có ba nghóa này. Từ thân ý sinh ấy cũng giống như vậy trở xuống, là dùng pháp hợp với thí dụ rất dễ hiểu. Nói về bốn thứ tu hành: “Này Đại Tuệ! Vì sao quán pháp bên ngoài là vô tánh, cho đến ông nên như vậy mà siêng năng tu học”: Ở đây là nói về bốn thứ tu hành đúng như thật, thành bốn pháp môn trên, nghóa là quán tự tâm sở hiện hành, thành tựu pháp môn tất cả pháp không ở trên. Xa lìa sự chấp đắm sinh trụ diệt, thành pháp môn vô sinh trên. Khéo biết ngoài pháp không có tánh hành, thành tựu pháp môn vô tự tánh ở trên. Chuyên cầu tự chứng Thánh trí hành, thành tựu pháp môn không hai ở trên. Đó gọi là Bồ-tát thành tựu bốn pháp, được tu hành đại phương tiện đúng như thật, cho nên khuyên ông phải siêng năng tu học. Nêu tướng nhân duyên để thưa hỏi: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Thế tôn, cho đến không vọng chấp các pháp tiệm sinh và đốn sinh”. Do kiến chấp vọng tưởng ở trên duyên sinh trong ba cõi, cho nên Đại Tuệ nêu tướng nhân duyên để thưa hỏi. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Tất cả pháp nhân duyên sinh, cho đến đó gọi là duyên bên ngoài trước sau chuyển sinh”. Nói đống đất làm nhân, nước gây, v.v… làm duyên mà thành cái bình là quả. Như đất bình nhân quả đã như vậy, nêu các thứ như tơ lụa v.v… chồng lên nhau thành bốn thứ cũng giống như vậy, đều dùng tơ lụa, lát chiếu, giống mầm, tô lạc làm nhân kia, chồng chất lên nhau, mầm mống tô lạc làm quả. Nghóa duyên rất dễ hiểu, đó gọi là pháp duyên sinh, chắc chắc trước nhân sau quả xoay vần mà sinh. Thân sinh khởi làm nhân, sơ trợ giúp làm duyên. “Bên trong, nghóa là vô minh ái nghiệp v.v… cho đến đây chỉ là phân biệt của người ngu”. Nội duyên: Nghóa là lấy vô minh ái nghiệp v.v… làm nhân duyên, sinh thân ấm giới nhập gọi là quả. Chỉ do kẻ ngu luống dối phân biệt, đều chấp khác nhau. Trong như phẩm Phá nhân duyên Trung luận có nói, rộng nhưng bên ngoài do bên trong biến đổi, gốc ngọn gồm thâu lẫn nhau thành một duyên khởi. Nhân có sáu thứ: “Này Đại Tuệ! Có sáu thứ Nhân: là nhân Đương hữu, nhân Tương thuộc, Tướng nhân, Tác nhân, nhân Hiển thị, Đãi nhân”. Ở trên nói chung tất cả các pháp nhân duyên trong ngoài đã xong. Dưới đây nói riêng sáu nhân và bốn duyên, đều là pháp mà kẻ ngu tự phân biệt. “Này Đại Tuệ! nhân Đương hữu là pháp trong ngoài tạo nhân sinh quả”: Nói khi quả sau sinh khởi gọi là đương hữu, tức là hiện tại làm nhân, đời sau được quả, gọi là nhân đương hữu. “Nhân Tương thuộc, nghóa là pháp trong ngoài làm sở duyên rồi sinh quả ấm, hạt giống, v.v…”: Nghóa là phan duyên rồi, pháp bên trong bên ngoài sinh, năng sở nhân quả lại lệ thuộc nhau. Uẩn quả cũng là nhân của hạt giống. “Tướng nhân, là tạo ra quả sinh nhau, nối nhau”: Nói làm quả tướng lẫn nhau, nối nhau không dứt gọi là tướng nhân. Luận Đối pháp chép: Câu hữu làm quả lẫn nhau, như đại tướng sở tướng, tâm đối với tâm tùy chuyển, nghóa là tướng hữu vi đối với pháp hữu vi, pháp hữu vi đối với tướng hữu vi. Tâm đối với pháp tùy tâm, pháp tùy tâm đối với tâm, làm quả lẫn nhau, cũng gọi là câu hữu nhân. “Nhân Năng tác, nghóa là làm việc tăng thượng mà sinh quả như vua Chuyển luân”: Tất cả pháp hữu vi chỉ trừ tự thể, vì tất cả pháp là nhân năng tác. Vì kia khi sống không bị chướng ngại mà ở, thí như người trong nước, do luân vương kia không bị tổn hại, đều nói rằng: ta nhờ luân vương mà được an vui. “Nhân Hiển liễu, nghóa là phân biệt sinh năng hiển cảnh tướng, như ngọn đèn soi chiếu các vật ý nói”. Nói vọng tưởng sự sinh rồi thì năng hiển cảnh tướng, năng sở nhân quả phát minh lẫn nhau, như ngọn đèn soi chiếu các vật. “Nhân Quán đãi, nghóa là khi diệt thì dứt thuộc nhau, không sinh vọng tưởng”. Như dài ngắn, cao thấp làm tướng nhân lẫn nhau. Nhân quả đối đãi cũng như vậy. Nhân diệt quả khởi cho nên nói khi diệt thì dứt thuộc nhau, không chấp pháp vọng tưởng sinh. Bác bỏ chấp sáu thứ nhân duyên sanh: “Này Đại Tuệ! Kẻ ngu này tự phân biệt… cho đến tìm nhân tướng kia chẳng thật có”. Dưới đây là bác bỏ chấp sáu thứ nhân duyên sinh, do tướng tự tâm vọng tưởng. Nếu nói đốn sinh, thì năng sở nhân quả không khác nhau, làm gì có tướng nhân. Nếu tiệm sinh thì tìm thể tướng kia cũng không thật có, như chẳng sinh con thì làm sao gọi là cha. Nói chẳng sinh con thì không thể gọi là cha, đây là một ví dụ bác bỏ cả hai kiến chấp. Nếu nhân quả đồng thời đốn sinh thì như cha con ngang nhau, cao thấp không phân biệt. Nếu trước nhân sau quả thì cha trước con sau. Nếu con chắc chắn sau cha thì gọi như thế nào, đây là lời vặn hỏi, hai chấp đều mất. Cha dụ cho nhân, con dụ cho quả. Lại nói rằng nếu không có cha thì không thể gọi là con. Phần trước đã diệt phần sau không được thứ lớp gọi tên. Vọng chấp bốn duyên sinh: “Có những người chấp đắm nói do nhân duyên… cho đến điều vì tướng chấp đắm vọng tưởng”: Ở đây nói vọng chấp bốn duyên sinh, nghóa là thân có thể khả năng phân biệt quả gọi là nhân duyên, lại nương nhau gọi là duyên sở duyên. Trước sau khai bày dẫn dắt gọi là thứ lớp. Không ngại nghóa sinh gọi là tăng thượng. Những người chấp đắm cho rằng bốn duyên năng sở sinh pháp thuộc nhau thứ lớp sinh, đều không thật có, chỉ do tâm lượng vọng tưởng chấp đắm tướng. Bốn duyên nghóa rộng như luận Duy thức nói. Nên lìa tướng nhân duyên hòa hợp: “Này Đại Tuệ! Thứ lớp và đốn nhanh đều bất sinh… cho đến tiệm đốn sinh kiến chấp”. Ngày xưa Đức Phật phương tiện nói tất cả các pháp đều do nhân duyên sinh, để bác bỏ tự nhiên vô nhân tà nhân của ngoại đạo. Lại nói duyên sinh vô ngã, bác bỏ chấp hữu ngã của ngoại đạo. Như bài kệ dưới nói: Vì ngăn dứt năng tác nên nói nhân duyên hòa hợp, vì ngăn lỗi thường nên nói duyên là vô thường. Nay đây sẽ khiến xả bỏ quyền thừa, thấu đạt duy tâm hiện. Cho nên kiết thúc phá rằng: nên lìa tướng nhân duyên hòa hợp, đốn tiệm sinh kiến chấp, ngăn dứt dị kiến. Trong quyền thật giáo gồm có ba thuyết: 1.Khiến các Bồ-tát biết tất cả các pháp do nhân duyên sinh, khác với kiến chấp của ngoại đạo. Biết từ tâm hiện, xả bỏ kiến chấp Hai thừa. 3.Duy tâm tánh khởi, không đồng với quyền giáo, người học nên biết. Đức Thế tôn nói kệ: “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Tất cả pháp vô sinh, cũng lại không có diệt, đối với các duyên kia, phân biệt tướng sinh diệt”. Do tất cả các các pháp là vô sinh cho nên không thể nói diệt, chỉ đối với các duyên không thật kia mà vọng phân biệt có tướng sinh diệt. “Chẳng ngăn các duyên hội, như thế diệt lại sinh chỉ vì dứt chấp đắm, vọng tình của phàm ngu”: Ở đây nói Phật không ngăn pháp duyên khởi diệt lại sinh, vì tự tánh của pháp là bất sinh, chỉ vì ngăn dứt vọng tưởng chấp đắm của phàm ngu si hoặc. “Pháp hữu vô trong duyên, thảy đều không có sinh, thói quen mê chuyển tâm, từ đây ba cõi hiện”. Nói duyên khởi hữu vô tất cả các pháp đều vô sinh. Chỉ do thói quen của tự tâm mê chuyển, cho nên ba cõi hiện ba cõi: nghóa là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Xưa nay không có sinh, cũng lại không có diệt… cho đến mà nói có sinh diệt”. Nếu lìa bỏ hai chấp tất cả vọng kiến thì biết pháp sở sinh, nhân duyên năng sinh thảy đều vốn không, chẳng lại tìm cầu giúp cho trở thành vô. Tâm: Bồ-tát Đại Tuệ hỏi về tướng nói năng phân biệt và pháp môn “Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật… cho đến đối với hai nghóa mà được thanh tịnh”: Vì ở trên nói chỉ tùy thế tục mà nói có sinh diệt, cho nên Đại Tuệ nêu lên tướng nói năng phân biệt và pháp môn tâm để thưa hỏi. “Này Đại Tuệ! Có bốn tướng nói năng phân biệt… cho đến đó là bốn thứ”. Bốn tướng nói năng văn nêu rõ rất dễ hiểu. Lại nữa, mộng lời nói, cũng gọi là địa thứ tám Bồ-tát đắc Vô sinh nhẫn giác rồi, duyên Thắng giải hạnh địa cho đến Địa thứ bảy. Trước trải qua cảnh giới không thật, nói các pháp như mộng nên gọi là lời nói trong Mộng. Chỗ phát ra lời nói do đâu sinh lời nói: “Đại Tuệ lại bạch Thế tôn… cho đến chỗ nào? Cớ gì? Tại sao sinh khởi?”. Hỏi chỗ phát ra lời nói, hỏi do đâu mà sinh lời nói. Phật bảo Này Đại Tuệ! Do đâu, ngực, cổ, họng, mũi, môi, lưỡi, nướu, răng hòa hợp mà khởi, đây là chỗ các duyên phát ra lời nói. “Đại Tuệ lại bạch Phật! Lời nói phân biệt, cho đến vì vọng tưởng là nhân khởi lời nói”. Nghóa là lời nói kia do phân biệt mà sinh. “Nếu khác thì phân biệt chẳng nên làm nhân… cho đến vì vậy cho nên chẳng phải khác cũng chẳng phải không khác”. Nếu lời nói và phân biệt khác thì phân biệt không hiển rõ nghóa nói năng cũng lẽ ra không hiển được nghóa, nhưng lời nói có công năng năng hiển nghóa cho nên đều bác bỏ. “Đại Tuệ lại bạch Thế Tôn!… cho đến do nói năng mà được vào, chẳng phải tức là lời này”: Do ở trên nói lời nói năng hiển nghóa, cho nên Đại Tuệ hỏi là lời nói tức Đệ nhất nghóa hay sở nói là Đệ nhất nghóa, và lặp lại nêu Đệ nhất nghóa tâm pháp trên để thỉnh hỏi. Nhưng Đức Phật đáp rằng: Chẳng phải nói năng cũng chẳng phải điều được nói. Vì sao? Vì Đệ nhất nghóa là tự chứng Thánh trí tam-muội lạc cảnh, do nói năng mà được vào, chẳng phải tức tức là lời này, vì vậy cho nên nói như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng thì biết rõ ngón tay kia chẳng phải mặt trăng. Ngôn ngữ là vô thường: “Đệ nhất nghóa là cảnh tự chứng trong Thánh trí v.v… cho đến đối với Đệ nhất nghóa không thể hiển bày. Lời nói sinh diệt dao động, đó là vô thường. Từ các duyên sinh tức không có tự thể, làm sao hiển được Đệ nhất nghóa! “Đệ nhất nghóa không có tướng tự tha… cho đến phải xa lìa tướng lời nói phân biệt”. Nói Đệ nhất nghóa bặt dứt tướng tự tha. Lời nói liên quan đến tướng hữu cho nên không thể hiển bày. Lại Đệ nhất nghóa chỉ chứng nhập tự tánh chân tâm, ngoài tâm không có pháp, các pháp bên ngoài đều không có tự tánh, nên nói năng vọng tưởng đâu thể hiển bày, cho nên khuyên lìa lời nói phân biệt, nương Đệ nhất nghóa. Đức Phật nói kệ: “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Các pháp không tự tánh, cũng lại không lời nói, nghóa sâu xa không không, kẻ ngu bị trôi lăn”. Vì các pháp không có tự thể, cũng không có lời nói, kẻ ngu không thấy nói năng không, điều được nói là không, cho nên trôi lăn trong sinh tử. “Tất cả pháp vô tánh, lìa lời nói phân biệt, các hữu như mộng huyễn, chẳng sinh tử, Niết-bàn”. Nói tất cả pháp và nói năng không thật, như mộng như huyễn. Như mộng huyễn thì đâu có tướng sinh tử Niết-bàn chắc chắn. “Như vua và Trưởng giả, vì muốn các con vui… cho đến tự chứng pháp thật tế. Bài tụng trên là nêu ví dụ, bài tụng dưới là hợp pháp. Nói nay ta giảng nói tự giác Thánh trí cảnh giới thật tế, không nói điều do lời nói ra. Nói ba pháp để nói về bốn câu: “Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến tự chứng Thánh trí cảnh giới sở hành”. Đại Tuệ do ở trên nói Đệ nhất nghóa đế, tức là tự chứng Thánh trí sở đắc chẳng phải cảnh giới nói năng phân biệt, tức nêu tự chứng Thánh trí sở đắc Đệ nhất nghóa để thưa hỏi. Nhưng Đệ nhất nghóa thể lìa bốn câu chấp, một khác, hữu vô, đoạn thường, câu bất câu. Đại Tuệ xin lìa pháp bốn câu. Trong đây nói ba pháp để nói về bốn câu, có mười hai câu, y theo văn có chín, ẩn hiển lẫn nhau có ra. Trong một khác có bốn câu, trong hữu vô có bốn câu, trong thường vô thường có hai câu. Kinh tóm lược đầy đủ như trong luận Tứ tông có nói. “Xa lìa vọng chấp tự tướng… cho đến tròn đầy đầy đủ tất cả công đức”. Nói chẳng phải chỉ lìa kiến chấp ngoại đạo, mà còn lìa chấp của Hai thừa ấm, giới, nhập, tự tướng, cộng tướng, giúp cho các Bồ-tát và các chúng sinh mau chứng vô thượng chủng trí của Như lai. Nêu ra pháp thể hữu vô: “Phật dạy Này Đại Tuệ! Lành thay! Lành thay!… cho đến Tất cả tự tánh vô Thường vô thường v.v…”. Ở trên tuy nói lìa hữu vô v.v… nhưng chưa biết thế nào là hữu vô. Nay nêu ra pháp thể hữu vô. Nói phàm phu ngu si, không biết tự tâm lượng vọng huân tập làm nhân biến hiện. Chấp đắm pháp bên ngoài là hữu là vô, khởi chấp bốn câu v.v… đây là hữu chấp thể hữu vô. Mười hai ví dụ dưới, so sánh với các pháp hữu vô, một khác này đều không chân thật phải nên xa lìa. Lời đáp trên nguyện vì con nói lìa các cảnh giới sở hành như một khác, hữu, vô, thường, vô thường, v.v… Phật nêu ví dụ để làm sáng tỏ: Này Đại Tuệ! Thí như bầy thú bị cơn khát ép ngặt… cho đến rơi vào trong các chấp đắm một khác, v.v…” Nai chạy theo bóng nắng so sánh với người ngu ưa muốn cảnh giới, kẻ phàm phu ngu si cũng giống như vậy. Hợp với bày thú ở trên, từ vô thỉ vọng tưởng luống dối huân tập ba độc đốt tâm. Hợp với ba khát ép ngặt ở trên, ưa cảnh giới sắc, chấp sinh, trụ, diệt, hợp với ánh nắng khi trời sáng ở trên mà tưởng là nước chấp pháp trong ngoài, rơi vào sự chấp đắm một khác, v.v… hợp với mê hoặc rong ruổi vào các đường, không biết chẳng phải nước. “Này Đại Tuệ! Như thành Càn-thát-bà… cho đến lìa hai pháp tự tánh khởi có tánh phân biệt”. Nói ba lượng là: 1. Hiện lượng. 2.Tỷ lượng. 3. Thánh ngôn lượng. Lượng là nghóa khuôn mẫu chắc chắn, thí như thăng đấu đong vật đo. Hiện lượng: Hiện là hiển hiện, nghóa là rõ ràng chứng cảnh, không lệ thuộc danh ngôn, tâm không tính toán đo lường, tự thân đắc pháp thể, lìa vọng tưởng phân biệt, mà chẳng lầm lẫn. Tỷ lượng: Tỷ là so sánh chủng loại, nghóa là dùng nhân để thí dụ, so sánh chủng loại tính toán đo lường mà biết được, như từ xa thấy khói thì biết có lửa, cách tướng thấy sừng biết chắc là có trâu, dù không đích thân thấy, cũng chẳng phải vọng tưởng. Thánh ngôn lượng: Nghóa là dùng Thánh giáo Như lai làm chuẩn mực, cho nên người xưa dạy sau khi Phật diệt độ lấy kinh luận làm khuôn phép, lấy tri thức làm kim chỉ nam để ngăn dứt ngoại đạo. Nói về năm phần luận: Ngũ phần luận: 1. Tông; 2. Nhân; 3. Dụ; 4. Hợp; 5. Kiết. Ba thứ tông nhân dụ, cũng gọi ba chi tỷ lượng, dụ hợp chỉ thành, vả lại nluống ngoại đạo vọng chấp. Chấp âm thanh là thường. Trong Thanh Minh lập lượng rằng: Thanh là hữu pháp, định thường là tông, nhân gọi là tánh sở tác, đồng dụ như hư không, nhưng hư không chẳng có tánh sở tác, trong nhân không chuyển dẫn dụ không đồng đều, lập âm thanh là thường bất thành. Nếu âm thanh trong Phật pháp là vô thường, cho nên lập lượng rằng: Âm thanh là hữu pháp, nhất định là vô thường làm tông. Nhân nói tánh sở tác, đồng dụ như bình chậu. Kinh Lăng-nghiêm chép: Âm thanh lẫn lộn lời nói, chỉ nương danh cú vị, chẳng lẽ là thường. Các thứ chấp đắm của ngoại đạo tự cho là hơn người. Nếu không loại bỏ kia để lập lượng so sánh phá trừ, thì do đâu mà phá chấp được, cho nên Ngũ phần luận do Đức Như lai nói, như dùng chêm để lấy chêm, dùng âm thanh dừng âm thanh. Có chỗ nói dẹp bỏ dị chấp của ngoại đạo, định ra giềng mối tông môn cho Phật giáo, giúp cho các chúng sinh ở trong cảnh giới sở chứng của bậc tự giác Thánh trí, lìa các dị kiến hữu vô… Kẻ ngu mê giáo còn chấp có tánh vọng tưởng phân biệt một khác, đoạn thường. Người tu hành nên dứt tâm, ý, thức: “Này Đại Tuệ! Những người tu hành chuyển tâm, ý, thức… cho đến chấp đắm ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả”. Những người tu hành, nên dứt tâm, ý, thức lìa hai tánh năng thủ sở thủ, nhập Như lai địa, đối với có và không chẳng sinh vọng tưởng. Nếu đối với cảnh do tự giác chứng được mà chấp hữu vô thì lại chấp ngã, ngã sở. “Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp tự tướng, cộng tướng… cho đến Tự chứng Thánh trí Thánh trí tam-muội lạc”. Nói vị hóa Phật chỉ thuận theo kẻ ngu chấp vọng khởi, tạo các thứ lời nói. Nói tự tướng, cộng tướng, khiến cho biết không phải thật pháp. Phi phi Phật, là hai bản dịch đời Tống và Ngụy đều gọi Phật pháp. Tà kiến có ba thứ: “Này Đại Tuệ! Thí như trong nước có bóng cây hiện… cho đến Tất cả phân biệt như câu bất câu v.v…” Như lai kiết khuyên đối với sở chứng nên lìa các ác kiến phân biệt của phàm phu ngoại đạo về sinh diệt một khác, hữu vô, đoạn thường, câu bất câu v.v… ở trên. Tà kiến ở Thiên Trúc đại khái có ba: 1. Ngoại đạo ngoài Phật pháp chấp đắm bốn câu ở trên, và sáu vị giáo chủ ngoại đạo, chín mươi sáu phái ngoại đạo. 2.Ngoại đạo nương gá Phật pháp: Xuất phát từ Độc Tử Phương quảng, tự cho mình là thông minh, đọc kinh sách Phật mà không hiểu rõ chánh kiến, sinh kiến giải khác, thí như trâu uống nước thành sữa, rắn uống nước thành chất độc, các sư đều không chấp nhận, đó là người tà kiến nương gá Phật pháp. 3. Kẻ học Phật pháp thành ngoại đạo, chấp giáo môn của Phật mà sinh phiền não, không được ngộ nhập. Đại luận chép: Nếu không chứng đắc Bát-nhã phương tiện, nhập A-tỳ-đàm thì rơi vào trong , nhập vào không thì rơi vào vô, nhập côn-lặc cũng rơi vào vừa hữu vừa vô. Trung luận chép: Chấp chẳng phải hữu chẳng phải vô gọi là ngu si luận: Điên đảo chấp đắm chánh pháp lại thành người tà kiến, lại nữa bốn môn của Đại thừa đều thành kiến chấp, thật ngữ là luống dối, sinh kiến chấp về ngữ. Niết-bàn là sinh tử, vì khởi tham đắm, thường uống cam lộ, tổn thương tánh mạng chết sớm, mất môn phương tiện, rơi vào tà chấp nên gọi là nội tà kiến. Vậy nên biết pháp không có tướng chắc chắn, hồi chuyển tùy tâm, chấp thì thành quấy, thông đạt thì không lỗi, như pháp bốn câu, thông hay bít đều do người, tại pháp gọi là bốn câu, ngộ nhập gọi là bốn môn, vọng chấp gọi là bốn chấp, hủy gọi là bốnbáng, bốn câu bất động được mất không tánh, một pháp không khác nhau, thăng trầm tự khác, chỉ có sở trọng sở y, lập tri lập giải, chỗ chấp mảy may cũng không quên mất, đều thành ngoại đạo, cho nên tri kiến còn thì là phàm, tình mất tức là Phật. Các ví dụ về ba cõi các pháp: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Các thức uẩn có năm, giống như bóng cây nước, điều thấy như mộng huyễn, không nên vọng phân biệt”. Ba câu tụng trên là ví dụ năm uẩn, không nên vọng khởi phân biệt. “Ba cõi như dương diệm, mộng huyễn và tóc rũ, quán sát được như vậy, rốt ráo được giải thoát”. Bốn câu này là ví dụ nói ba cõi không thật, cho nên quán sát sẽ chứng quả Bồ-đề. “Thí như sóng khi nắng, động chuyển tâm mê loạn… cho đến người ngu sinh chấp đắm”. Một bài tụng trước là nêu ví dụ, tiếp câu sau là hợp pháp. “Trong sinh tử vô thỉ, bị chấp đắm trói buộc”: Tụng chung về ý mười hai dụ, vì bị chấp đắm ngã pháp từ vô thì trói buộc, che lấp. “Xả lìa tham nhiếp thọ, như nhân chốt tháo chốt”. mười hai ví dụ trên. Như ngược chốt tham muốn bỏ chốt sinh tử. “Huyễn chú máy hoạt động, mây nổi mộng điện chớp. Quán đời thường như thế, dứt hẳn ba nối nhau”. Lại nữa bài tụng này có năm ví dụ: Quán thế gian như vậy dứt bỏ được ba cõi, không bao giờ còn nối nhau, mây nổi và điện chớp ở trên không có văn. “Trong đây không thật có, như dương diệm trong không, như vậy biết các pháp, tức là không thể biết”. Nói biết các pháp không có tự thể thì không thể biết. “Các ấm như tóc rũ, trong đó vọng phân biệt, chỉ thi thiết giả danh, tìm tướng không thật có”. Đây nói các ấm chẳng có, giả danh cũng không, không có tự tánh tướng. “Như vẽ, tóc rũ, huyễn, mộng thành Càn-thát-bà… cho đến kẻ ngu vọng phân biệt. Bài tụng gồm bảy ví dụ, nói về hữu, vô, một khác, thường, vô thường bốn câu kiến chấp không thật. Ví dụ vẽ văn trên không có. Gương sáng, nước, mắt trong, Ma-ni diệu bảo châu… cho đến cũng như gái bất dục đây là nói các pháp tuy hiện, đều không có thật. Mắt trong, gái bất dục, văn trên không có. Việc nói pháp của Đức Phật: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Các Đức Phật nói pháp… cho đến thời cát bụi v.v… mà cùng tương ưng”: Nói các Đức Phật ra đời hễ giảng nói pháp thì lìa bốn câu, dứt trăm phi, lập ra chê bai, phàm tình Thánh lượng đều không thể kịp, người có căn cơ đại chưa ngộ nhập, đều dùng pháp bốn đế, mười hai nhân duyên, chứng diệt tu đạo, giải thoát sinh tử chứng quả cao nhất, không cùng chung tướng với thắng tánh tự nhiên của các ngoại đạo, dù ban đầu chỉ nói nhân duyên Tiểu thừa, cũng đã huyền diệu hơn ngoại đạo. Nêu ví dụ để dụ cho Phật: “Này Đại Tuệ! Các Đức Phật nói pháp… cho đến giống như người dẫn đầu trong đoàn đi buôn dẫn đường mọi người”. Vì sạch hoặc chướng và trí chướng: cũng như người dẫn đường cả đoàn người buôn, biết đường thông hay bít, gặp nạn hay không, biết chỗ mà nghỉ đêm v.v… và lại khéo phân biệt các thứ vật báu, dụ cho Đức Như lai dẫn dắt chúng sinh dứt bỏ hai chướng, khiến an trụ trong chỗ an ổn của pháp vô tướng, mà lại khéo phân biệt vật báu ở những vị trí khác nhau giữa các thừa. Nói hoặc chướng và trí chướng. Như luận Khởi Tín chép: Sáu tâm nhiễm gọi là phiền não ngăn ngại, làm chướng ngại chân như căn bản trí. Nghóa vô minh gọi là trí ngại, làm chướng ngại nghiệp trí tự nhiên của thế gian. Nghóa này như thế nào? Vì nương tâm nhiễm năng kiến năng hiện, vọng chấp cảnh giới trái với tánh bình đẳng, vì tất cả pháp thường vắng lặng, không có khởi tướng, vô minh bất giác trái với pháp, cho nên không thật có, thuận theo thế gian, biết rõ tất cả các cảnh giới. Đây là y theo bổn mạt nương nhau để nói về nghóa của hai chướng, hoặc y theo hai chấp để nói về hai chướng, như ở sau sẽ dẫn luận Thành Duy Thức để giải thích nghóa đó. Có bốn thứ thiền: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Có bốn thứ Thiền… cho đến Phan duyên chân như Thiền, Chư Như lai Thiền”: Vì hai chướng trên làm chướng ngại Thánh đạo, không chứng Bồ-đề, Niết-bàn, hai quả chuyển y của Như lai. Là người học đạo nên tu thiền định, phát sinh trí tuệ vô lậu nhiệm mầu, mới dứt sạch hai thứ chướng kia, cho nên tiếp đến nói bốn thứ thiền cũng gọi là sáu Ba-ba-mật, thì hạnh tu thiền định rất thần diệu, làm phát sinh trí tuệ vô lậu trong tánh, muôn hạnh muôn đức cho đến thần thông, ánh sáng đều từ thiền định phát ra. Cho nên người ba thừa muốn cầu Thánh đạo thì phải tu thiền, đây là nói chung về bốn thứ thiền. “Này Đại Tuệ! Thế nào là thiền Ngu phu sở hành… cho đến đó gọi là Ngu phu sở hành thiền”. Nói hai thừa quán thông đạt được người vô ngã, thấy rõ tự mình và người, uẩn giới xứ đều là tướng vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, quán sát không bỏ, được Sơ tónh lự, dần dần chuyển lên đến vô tưởng, thọ diệt tận tam-muội, nhưng không lìa tướng, đó gọi là Ngu phu sở hành thiền. “Thế nào là thiền Quán sát nghóa?… cho đến đó gọi là Quán sát nghóa thiền”: Nghóa là thật tướng các pháp, Bồ-tát từ Sơ địa đến Địa thứ bảy quán các pháp của hai thừa, ngoại đạo đều biết là không thật, đối với pháp vô ngã và ý nghóa các địa tướng, thuận theo chánh quán, nên gọi là thiền Quán sát nghóa. “Thế nào là thiền Duyên chân như?… cho đến đó gọi là Duyên chân như thiền”: Thế nào gọi là vọng niệm? Nghóa là hai thứ vô ngã này là vọng niệm.Vì sao đối trị hai thứ ngã kiến, nói hai thứ vô ngã? Vì sở tri đã không thật, năng tri cũng là vọng, cho nên nói hai thứ vô ngã là vọng niệm luống dối. Nếu biết đúng như thật về bình đẳng, không khởi hai thứ vô ngã vọng niệm, thì đó gọi là thiền duyên chân như, có chỗ gọi là thiền chánh niệm chân như. “Thế nào là chư Như lai thiền… cho đến đó gọi là chư Như lai thiền”. Nói chứng được Như lai địa tự chứng Thánh trí pháp thân chân thật, thường trụ vắng lặng, giúp cho chúng sinh được ba thứ vui, và được pháp thân trí tuệ của Như lai bất tư nghị sự. Ba thứ vui: là Thiền định lạc, Bồ-đề vui và Niết-bàn lạc, đó gọi là Như lai thiền. Lại nữa, người xưa y theo chỗ nương khác nhau của phàm phu, ngoại đạo, ba thừa, Nhất thừa. Nói chung có năm thứ thiền: Nghóa là mắc kẹt vào dị chấp, ưa thích cõi trên, nhàm chán cõi dưới mà tu, đó là ngoại đạo thiền; chánh tín nhân quả, cũng ưa thích, nhàm chán mà tu, đó gọi là phàm phu thiền; Ngộ được lý ngã, không, thiên chân mà tu, đây là Tiểu thừa thiền; ngộ ngã, pháp cả hai đều không, hiểu rõ chân lý mà tu, đây gọi Đại thừa thiền. Nếu đốn ngộ tự tâm, xưa nay vắng lặng vốn không phiền não, trí tánh vô lậu vốn tự đầy đủ, tâm đây tức Phật, rốt ráo không khác, nương đây mà tu thì gọi là Tối thượng thừa thiền, cũng gọi Nhất hạnh tam-muội, cũng gọi Chân như tam-muội. Đây là căn bản của tất cả tam-muội, nếu niệm niệm tu tập, thì tự nhiên dần dần được vô lượng trăm ngàn các tam-muội. Thiền của ngoại đạo Thanh văn, Duyên giác: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Ngu phu sở hành thiền, quán sát tướng nghóa thiền, phan duyên chân như thiền, Như lai thanh tịnh thiền”. Bài tụng này là tên bốn thứ thiền. Người tu hành ở trong thiền định quán thấy hình mặt trời, mặt trăng, hoa sen hồng, tướng biển lặng sâu, lửa trong hư không và bức tranh. Đây là nói sự ngoại đạo tu thiền của Hai thừa. Nói ngoại đạo chấp đắm thần ngã, ở trong thiền khi quán hình mặt trời, mặt trăng sáng suốt trong lặng chiếu soi, hoặc thấy hoa sen hồng ở dưới biển sâu. Người hai thừa cho tự tướng, cộng tướng là thật có, nguội thân bặt trí, đồng với hư không, như củi hết lửa tắt cho là rốt ráo Niết-bàn. Chữ họa (bức tranh) sợ là lầm, hai bản khác đều viết là chữ Tận. “Các thứ tướng như thế, rơi vào pháp ngoại đạo, cũng rơi vào cảnh giới Thanh văn, và Duyên giác”. Như các tướng trên là cảnh giới thiền của ngoại đạo, Thanh văn và Duyên giác. “Lìa bỏ tất cả kia, trụ trong không thật có”: Câu trên Quán sát nghóa thiền, từ câu dưới trở xuống là Phan duyên chân như thiền. “Cho nên nhập vào được, tướng chân thật Như như… cho đến mà sờ đảnh người ấy”. Đây nói nhập Như lai Thanh tịnh thiền. Xin Như lai nói những pháp gọi là Niết-bàn: “Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật… cho đến những pháp gì gọi là Niết-bàn”. Do ngoại đạo ở trên chấp thần ngã là Niết-bàn. Người Hai thừa dùng nguội thân bặt trí như củi hết lửa tắt làm Niết-bàn, cho nên xin Như lai nói những pháp nào gọi là pháp Niết-bàn. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Tất cả thức, tự tánh, thói quen… cho đến tức là cảnh giới các pháp tánh không”. Nói các thức v.v… kiến, tập chuyển biến, gọi là Niết-bàn, nghóa là vô minh chuyển tức biến thành minh. Như băng tan thành nước, chẳng phải vật khác, không từ nơi khác đến, cho nên gọi là cảnh giới chân thật do các pháp tánh không hiển bày. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Niết-bàn là… cho đến sở hành của trí tự chứng của tất cả bậc Thánh”. Nói về cảnh giới Niết-bàn mà Như lai chứng, lìa tánh đoạn thường, hữu vô. “Thế nào là phi thường? Nghóa là trừ tự tướng, cộng tướng, vọng tưởng cho nên chẳng phải thường”. Thế nào là phi đoạn? Nghóa là ba đời Như lai được chứng đắc nên chẳng phải đoạn. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Đại bát Niết-bàn… cho đến là chỗ nương về của người tu hành”. Vì không thọ sinh nối nhau cho nên Niết-bàn bất tử, do chẳng phải pháp hữu vi sinh trụ diệt cho nên Niết-bàn bất hoại. Vì vô hoại bất tử nên gọi là chỗ nương của người tu hành. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Niết-bàn chẳng phải xả, chẳng phải đắc, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, chẳng phải một, chẳng phải khác, cho nên gọi là Niết-bàn”. Niết-bàn không có phiền não để xả, cho nên chẳng phải đoạn thường, một khác, chỉ chứng mới tương ưng, đó gọi là Niết-bàn của Như lai”. Niết-bàn của Thanh văn, Duyên giác chưa được tất cả giải thoát: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Thanh văn, Duyên giác… cho đến những vị kia đối với những thứ ấy nghó là Niết-bàn”. Người hai thừa hiểu biết trong ấm, giới, nhập không có Minh Đế Thần ngã, lìa xa nơi ồn ào, phiền não chướng dứt không sinh điên đảo, không khởi sinh tử vọng tưởng đời vị lai, các vị ấy đối với những thứ đó nghó là Niết-bàn. Cho nên Kinh Pháp Hoa chép: Chỉ biết sinh tử gọi là giải thoát. Các vị đó thật chưa được tất cả giải thoát. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Có hai thứ tự tánh tướng… cho đến do bất giác tự tâm hiện cho nên khởi”. Vì ở trên tất cả thức tự tánh thói quen xoay chuyển, gọi là Niết-bàn. Nhưng tự tánh của tất cả thức là pháp phàm phu, cho nên nói phàm phu chấp đắm tự tánh của tất cả thức khởi hai thứ tướng tự tánh. Nghóa là từ vô thỉ đến nay, vọng tưởng nói năng thói quen không dứt, chấp đắm có nói năng tự tánh tướng, không biết tự tâm sinh khởi các pháp, vọng chấp có tự tướng, cộng tướng, ấm, giới, nhập, tất cả các pháp, cho nên chấp đắm tự tánh tướng của pháp. Phật dùng hai thứ gia trì để che chỡ các Bồ-tát: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Các Đức Phật có hai thứ gia trì… cho đến tay rưới nước trên đảnh”. Vì ở trên phàm phu chấp đắm khởi lên hai thứ tự tánh tướng. Đức Như lai đối trị hai thứ tự tánh tướng ở trên cho nên dùng hai thứ gia trì che chở các Bồ-tát. “Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát Sơ địa… cho đến chính là Bồ-tát”. Nói Bồ-tát Sơ địa được thần lực Như lai che chở, được nhập Chiếu Minh Tam-muội của Đại thừa Bồ-tát, nhập rồi tất cả các Đức Phật đều hiện ra trước mặt, ba nghiệp gia trì như Kim cương tạng. Trong hội Hoa Nghiêm khi trụ Sơ địa và thành tựu các tướng công đức của Sơ địa, Bồ-tát cũng gia trì như vậy. Bồ-tát tu dần đến địa Pháp vân: “Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát này… cho đến được quán đảnh rồi mà được tự tại”. Bồ-tát được gia trì nhập định rồi, trong trăm ngàn kiếp chứa nhóm tất cả các điều lành, dần dần nhập các địa, có khả năng thông đạt tướng năng trị, sở trị đến Pháp Vân địa. Gồm thâu ý nghóa các địa, sơ lược có hai thứ: 1.Phần quả, quả này không thể nói, chỉ chứng mới tương ưng. 2. Phần nhân, có thể nương vào lời biện luận đối với hạnh giải dứt hoặc chứng chân v.v… cho nên đối với Thập địa này tu mười thắng hạnh, dứt mười thứ chướng, chứng mười chân như, lập ra mười địa. Hạnh có hai thứ: 1. Tướng chung, đối với mỗi địa, tu đầy đủ tất cả các hạnh lành. 2. Tướng riêng, đây lại có hai: a. Thập độ, tuy ở mỗi địa đều tu tập đầy đủ, nhưng riêng tướng địa mỗi lần nói một lần tăng, Sơ địa đàn tăng, Nhị địa giới tăng, cho nên đến mười địa thì trí độ tăng. Lại tu Thập hạnh, ở đây lược nêu, nghóa là Sơ Hoan hỷ địa tu hạnh nguyện lạc, nói mười đại nguyện, vì ưa thích lợi lạc, dứt bỏ được chướng dị sinh tánh, chứng đầy đủ chân như, chân như này do hai không hiển bày, chẳng pháp nào không có. Chứng được chân như hai không này thì được gọi là Hoan hỷ địa, nghóa là mới đạt được Thánh tánh, chứng đủ hai không, có thể tự lợi lợi tha, sinh tâm rất vui mừng cho đến địa thứ mười tu hạnh thọ vị, dứt bò chướng chưa tự tại đối với các pháp, liền chứng nghiệp tự tại v.v… Sở y chân như, chân như này ở khắp trong tất cả thần thông, tạo nghiệp tổng trì định môn, đều được tự tại. Chừng rồi liền được gọi là Pháp vân địa, nghóa là mây đại trí chứa đựng nước các đức, che khắp như hư không thô nặng, đầy đủ sở y pháp thân, nhưng mười địa có ở cả ba thừa, nhất thừa tuy giống nhau ký vị, nhưng nếu y theo ba học thì sơ địa nguyện, nhị địa giới, tam địa định, tứ địa trở lên đều thuộc về tuệ. Nếu y theo viên tu, các hạnh đều tu, gồm có ba đức: Đức Chứng đạo, là chứng trí khế hợp với Như. 2.Đức giáo đạo, tùy đức khác nhau. 3. Đức bất trụ đạo, bất trụ sinh tử Niết-bàn, trong một địa có đầy đủ tất cả công đức các địa, đầu cuối viên dung. Hoặc hoàn toàn khác nhau theo sự tu hành và địa vị mà thềm bực có khác. Hoặc hòan toàn đồng mất, tiến tu mà rơi vào vắng lặng, do đó mỗi địa vị đủ đức, đẳng cấp ngang nhau rõ ràng, lớp lớp luyện mài, bản vị bất động sẽ thọ chức vị Phật, ngồi tòa hoa sen, quyến thuộc vây quanh, các báu anh lạc trang nghiêm thân. Các Đức Phật trong mười phương đều đưa tay sờ trên đảnh đầu Bồ-tát. Thí như vua Chuyển luân Thánh tự tại và trời Đế- thích, Thái tử quán đảnh để truyền trao chức vị mà được tự tại. Hợp pháp hết thác chỉ bày: “Các Bồ-tát này cũng giống như vậy… cho đến khác thì không thể được”: Hợp Pháp kiết thúc chỉ bày, lời văn rất dễ thấy. Nếu không như vậy thì không thể thấy. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát… cho đến đều do hai thứ thần lực của Như lai”: Hễ trụ thì được thần thông, khéo nói pháp yếu, đều do hai thứ thần lực gia trì mà được. “Này Đại Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát… cho đến có tác dụng rộng lớn như vậy”: Ý nói nếu lìa thần lực gia trì mà nói được pháp ấy thì lẽ ra các phàm phu cũng biện thuyết, được nói ý phàm phu không thể. Huống chi là Phật, dùng đại bi gia trì tất cả các vật vô tình, còn giảng nói pháp âm, huống là có tâm ư! Việc thấy ánh sáng mặt trăng chiếu soi rõ ràng, chỉ có thấy nghe đều được lợi ích. Vì sao thần lực không gia trì nhị địa: “Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng… cho đến và ở trong Thù thắng địa đưa tay quán đảnh”. Đoạn trên Đức Phật dạy như Sơ địa và Thập địa, chưa hiểu rõ thần lực, cho nên Đại Tuệ thưa hỏi vì sao thần lực không gia trì Nhị địa. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Vì muốn xa lìa nghiệp ma phiền não… cho đến Như lai dùng thần lực gia trì các vị Đại Bồ-tát”. Vì lìa hai thứ lỗi nên hàng Sơ địa cần được che chở. Vì được hai thứ lợi ích nên bậc Thập địa cần được che chở, quên mất tâm Bồ-đề tu các gốc lành, đó gọi là nghiệp ma. Như trong kinh Hoa Nghiêm, kinh Đại Tập có nói. “Này Đại Tuệ! Nếu không như vậy… cho đến Như lai dùng thần lực nhiếp thọ các vị Đại Bồ-tát”. Nói Bồ-tát Sơ địa không được gia trì thì sẽ rơi vào ác kiến của ngoại đạo, và mười cõi của cảnh giới Thanh văn. Địa nào không được che chở thì không thể mau thành Bồ-đề. Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Thần lực Đức Thế Tôn, đại nguyện được thanh tịnh, tam-ma-đề quán đảnh, trong Sơ địa Thập địa, Tam-muội và quán đảnh”. Bồ-tát chứa nhóm gốc lành, được bổn nguyện của Như lai che chở, như ngọc Ma-ni vô tư mà ứng hiện, nên nói là thanh tịnh. “Khi ấy Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến nói duyên khởi chẳng phải có nghóa riêng”. Vì ở trên nói các Đức Phật nói pháp, lấy bốn đế duyên khởi diệt đạo giải thoát làm đầu, chẳng ở tướng chung với ngoại đạo nói thắng tánh tự tại, sự tạo tác tự nhiên, thời gian, cát bụi… cho nên Đại Tuệ nêu ở trên Phật tự nói duyên khởi thưa hỏi Thế tôn. Như Phật nói duyên khởi là do tạo tác khởi, chẳng phải tự thể của tâm sinh khởi. Ngoại đạo cũng nói trời tự tại thù Thắng v.v… sinh ra các pháp. Nay Đức Phật chỉ dùng tên khác để nói về duyên khởi, chẳng có nghóa khác. Vặn hỏi rằng lời Như lai nói giống như ngoại đạo: “Thế tôn! Ngoại đạo cũng nói do tác giả… cho đến vốn không mà sinh, sinh rồi lại diệt”: Ở đây vặn hỏi rằng lời Như lai nói giống như ngoại đạo. “Như Phật nói vô minh duyên hành… cho đến vì thế ngoại đạo nói thắng chẳng phải Như lai”. Nói Như lai nói trong mười hai nhân duyên, vô minh không có nhân, chẳng phải có nhân, lại nói vô minh có cho nên hành có, hành có nên thức có, chẳng phải dần dần thứ lớp đối đãi nhau, nghóa ấy không thành. Lại, vặn hỏi Như lai nói duyên khởi không như ngoại đạo, cho nên nói ngoại đạo nói thắng, chẳng đồng với Như lai. Lời Như lai nói không giống như ngoại đạo: “Vì sao ngoại đạo nói nhân… cho đến lại vì đây có nên kia có, cho nên không có nhân”. Vì sao ngoại đạo thắng Như lai! Nghóa là kia nói hạt cát bụi là nhân của thế tánh v.v… không từ nơi khác duyên sinh, mà sinh được vật khác, nhân thường làm nhân không làm quả, vì vậy cho nên ngoại đạo nói thắng. Như Phật nói quán hành là quả của vô minh, quán thức vừa là nhân, một pháp này vừa là nhân, vừa là quả, nhân duyên rối loạn. Vô minh sinh các hành, các hành sinh già chết, già chết sinh vô minh xoay vần như vậy, thành lỗi vô cùng. Lại vì, đây có cho nên kia có, thì không có nhân chắc chắn, do hai nghóa này giải thích lời Như lai nói không giống như ngoại đạo. Các pháp chỉ do tâm hiện: Phật bảo Này Đại Tuệ! Ta hiểu rõ các pháp chỉ do tâm hiện… cho đến chẳng phải lời ta nói”. Nghóa là hiểu rõ các pháp chẳng phải từ hữu vô sinh, chỉ do tâm hiện, cho nên không nói pháp nhân duyên lỗi lầm. Nếu không biết rõ các pháp như vậy, thấy cảnh ngoài tâm chấp đắm có không, tất cả lời nói đều thành nói suông. Nhân quả của lời nói: “Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn!… cho đến Nếu không có các pháp thì nói năng do đâu mà sinh”: Có danh từ nhân duyên lời nói thì phải có các pháp nhân duyên lời nói. Nếu không có tánh nhân duyên lời nói thì lời nói do đâu mà sinh. “Này Đại Tuệ! Tuy không có các pháp… cho đến có các pháp thì lý luận sẽ hoại”: Nói tất cả pháp chỉ có lời nói, đều không thật nghóa, cho nên dẫn lông rùa, rừng thỏ để ví dụ, để nói dù có tự tánh lời nói, cũng không nói tự tánh các pháp. “Này Đại Tuệ! Chẳng phải tất cả cõi Phật đều có lời nói, lời nói đều là giả an lập”: Đây lại nói rõ tánh lời nói cũng không. Cho nên luận Khởi Tín chép: Vì tất cả lời nói giả danh không thật, chỉ tùy tâm vọng hiện không thật có. Nếu nói năng có tánh thì tất cả cõi nước lẽ ra đều có lời nói. “Này Đại Tuệ! Hoặc có cõi Phật chỉ nhìn mà hiển bày pháp… cho đến chẳng phải do nói năng mà có các pháp”: Ở trên giải thích chẳng phải tất cả các cõi đều có nói năng để diễn tả pháp, vì vậy cho nên không có lời nói tự tánh. Loài vật không có lời nói: “Thế giới này sâu bọ, kiến, ong v.v… tuy không có nói năng mà mỗi loài đều làm việc xong xuôi”: Ở trên giải thích nói năng là giả lập không thật. Nói thấy kẻ ngu đây không biết các loài kiến ong, cho nên tạo nói năng để giải rõ pháp tướng. Cho nên kinh trên chép: Có các lời nói, đều do kẻ ngu mong muốn chấp sinh, cũng nói các loài trùng nhỏ nhít không có lời nói, mà mỗi loài đều làm việc xong xuôi. “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Thỉ hư không sừng thỏ, con của gái bất dục, không mà có lời nói, vọng chấp pháp như thế”. Trên nói ba vật đều không có thể tánh, chỉ có nói năng vọng chấp các pháp, gọi thật tự tánh cũng vậy. “Đối nhân duyên hòa hợp, kẻ ngu vọng cho là sinh, không thể hiểu như thật, trôi lăn trong ba cõi”. Có Phật hay không Phật, tánh tướng vẫn thường trụ: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến thường thanh đã nói nương vào chỗ nào còn nói?” Vì ở trên Phật dạy lời nói được đều không có tự tánh, cho nên không có pháp nhân duyên, vì thế Đại Tuệ nêu các kinh Phật tự nói mười hai nhân duyên, có Phật không Phật, tánh tướng vẫn thường trụ. Cho nên hỏi nếu âm thanh là thường thì nương vào đâu mà nói. “Phật dạy Này Đại Tuệ! Nương vào pháp vọng mà nói vì các pháp vọng bậc Thánh cũng hiện nhưng không điên đảo”. Nói tức nói pháp luống dối là thường. Vì người ngu chấp thấy pháp nhân duyên, luống dốichấp cho là thật, khởi kiến chấp sinh diệt. Nói năng Như lai ở đây tức là thường, vì pháp vọng kia các Thánh cũng hiện, nhưng không sinh khởi hữu vô điên đảo. Cảnh là một nhưng thấy có khác nhau: “Này Đại Tuệ! Thí như dương diệm, vòng lửa xoay tròn, tóc xõa… cho đến người có trí không phải như thế, chẳng phải không hiện”. Bảy ví dụ này nói cảnh là một mà thấy có khác nhau. “Này Đại Tuệ! Pháp vọng hiện thì có vô lượng khác nhau… cho đến tất cả người ngu hiểu theo nhiều cách khác nhau”: Kia khi pháp luống dối hiện ra, tuy có vô lượng sự khác nhau, như trăng đáy nước, nhưng chẳng phải vô thường. Vì sao không phải là vô thường, vì nói pháp luống dối lìa hữu vô. Chẳng phải vô thường làm sao lìa chỗ hữu vô mà sinh khởi? Kiến chấp luống dối nghóa là các thứ cảnh giới của những người ngu là lìa chỗ hữu vô, mà khởi lên các kiến giải luống dối. Bậc Thánh lìa điên đảo: “Như nước sông Hằng kia có loài thấy có loài không thấy… cho đến các bậc Thánh đối với pháp vọng lìa kiến chấp điên đảo”. Như nước sông Hằng, ngạ quỷ thấy là lửa, vật không phải lửa mà thấy là lửa, tức là thấy các thứ mình ưa thì người không thấy, thí như người ngu chỗ không luống dối thấy luống dối tức là thấy các thứ mà bậc Thánh không thấy. Vì vậy cho nên các bậc Thánh đối với pháp luống dối, đều lìa kiến chấp điên đảo hữu vô. “Này Đại Tuệ! Pháp vọng là thường… cho đến cho nên thể của pháp vọng kia là thường”: Nói các pháp vọng là chân thường, không có các tướng khác thật có, do kẻ ngu vọng tưởng phân biệt nói có khác. “Này Đại Tuệ! Vì sao gọi pháp vọng là chân thật… cho đến chẳng phải lời bậc Thánh nói”: Có chút ít phần tưởng nghóa là sinh tâm động niệm, niệm thì trái với pháp thể, do đó mất chánh niệm, đã mất chánh niệm thì chẳng phải là hý luận của kẻ ngu ư!. “Này Đại Tuệ! Nếu phân biệt pháp vọng là đảo và chẳng phải đảo… cho đến chủng tánh phàm phu”. Nếu kẻ ngu phân biệt duyên khởi pháp vọng là đảo, chẳng phải đảo thì có hai chủng tánh khác nhau. “Này Đại Tuệ! Thánh chủng tánh, lại có ba thứ… cho đến chấp đắm tự tướng, cộng tướng”: Kẻ ngu kia quán sát pháp vọng, chấp tự tướng, cộng tướng khởi chủng tánh Thanh văn thừa. Chủng tánh có ba thứ: “Này Đại Tuệ! Vì sao lại có kẻ ngu… cho đến xa lìa hoặc loạn”: Tức hàng Thanh văn kia quán luống dối chấp đắm pháp tự tướng, cộng tướng, xa lìa chấp đắm, khởi chủng tánh duyên giác thừa. “Này Đại Tuệ! Vì sao gọi là người trí phân biệt pháp vọng… cho đến không có pháp ngoài”. Người trí quán thật tướng pháp vọng này, hiểu rõ năng kiến sở kiến kia từ tâm hiện khởi, không có ngoài pháp vọng tưởng hữu vô, khởi chủng tánh Phật thừa. “Này Đại Tuệ! Có những người ngu phân biệt pháp vọng… cho đến đây là thành tựu sinh tử thừa tánh”. Đây giải thích chủng tánh hạng ngu phu thứ hai. Nói người ngu dối với pháp vọng này chấp các sự tánh tướng, quyết định chấp có thật ngã thật pháp, khởi chủng tánh thừa sinh tử. vật: Sự vật trong pháp vọng chẳng phải tức vật, chẳng phải không “Này Đại Tuệ! Các sự vật trong pháp vọng kia chẳng phải tức là vật, cũng chẳng phải không là vật”: Ý nói pháp luống dối này lìa hữu lìa vô, đó gọi là ba thừa và chủng tánh phàm phu. “Này Đại Tuệ! Đối với pháp vọng kia các bậc Thánh trí… cho đến đều lìa tất cả vọng tưởng phân biệt”: Đây là giải thích lại chủng tánh thành Phật thừa, lời văn rất dễ hiểu. Hỏi rằng: Ở trên nói pháp vọng là thường, do phân biệt vọng tưởng nên chẳng khác nhau, nghóa là ngay nơi chân như mà kẻ ngu phân biệt gọi là pháp vọng, đây nói tức là thói quen của pháp vọng kia chuyển y, tức vọng này gọi là chân như. Pháp vọng này tức là chân như không còn pháp vọng, do ai luận bàn về tức ấy ư! Đáp rằng: Như người không biết nước, chỉ băng nói là nước, chỉ nước là băng thì chỉ có tên gọi đâu có hai vật để nói về tức nhau, cũng như một hạt châu để dưới bóng mặt trăng thì sinh nước, hướng về mặt trời thì sinh lửa, không hướng thì không sinh nước lửa, một vật không hề có hai, mà có nước và lửa khác nhau. Pháp môn nhất tâm cũng giống như vậy. Ở phàm phu thì chân như gọi là pháp vọng, ở bậc Thánh thì pháp vọng gọi là chân như. Tình chấp phàm, Thánh hết, chấp chân vọng mất thì đâu còn gì để gọi tên. Như lai là có hay không: “Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật! Bạch Đức Thế Tôn! Nói pháp vọng là có hay không” Ở trên nêu ba thừa, phàm phu đồng quán pháp vọng, để hỏi Như lai là có hay không. “Phật dạy: Tướng như huyễn không chấp đắm… cho đến như ngoại đạo nói, tác giả sinh”: Ý nói pháp vọng như huyễn, không thể dùng hữu vô mà chấp đắm, nếu chấp đắm có tánh tướng, tức là chân thật không thể chuyển, thì các duyên khởi pháp vọng, lẽ ra đồng ngoại đạo chấp từ hữu vô sinh ra tất cả pháp. “Đại Tuệ lại bạch: Nếu pháp vọng đồng như huyễn, thì sẽ làm nhân cho các hoặc khác”: Nếu các pháp vọng đồng như huyễn thì huyễn này lẽ ra làm nhân cho pháp vọng của phàm phu, đời sau sẽ chiêu cảm quả báo khác. Chẳng phải huyễn làm nhân cho vọng hoặc: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Chẳng phải các việc huyễn… cho đến vì các việc huyễn không có phân biệt”. Chẳng phải huyễn làm nhân cho vọng hoặc, do huyễn không thật không khởi lỗi ác và phân biệt. Nếu khởi các lỗi, sinh ra phân biệt thì đó là làm nhân, cho nên chẳng làm nhân cho các vọng khác. “Này Đại Tuệ! Việc huyễn là từ các minh chú khác… cho đến chẳng phải các bậc Thánh”: Ở đây nói pháp vọng như huyễn, nếu tâm tưởng chấp đắm thì chỉ là kẻ ngu. “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Thánh chẳng thấy pháp vọng, khoảng giữa cũng không thật, vì vọng tức chân nên trung gian cũng chân thật”: Hai câu trên là nói bậc Thánh biết thể của vọng hoặc là không thật, cho nên không chấp đối với pháp vọng, hai câu dưới nói quán thật tánh của pháp vọng, vọng hoặc tức là chân thật. Các pháp lìa vọng huyễn không còn tương tự: “Nếu lìa pháp vọng, mà có tướng sinh thì đây cũng là vọng, như mắt bị màng che chưa thanh tịnh, lại nữa, Này Đại Tuệ! Thấy các pháp chẳng phải huyễn… cho đến nên nói tất cả các pháp như huyễn”: Ý nói các pháp vọng lìa huyễn lại không còn tương tự, cho nên nói tất cả pháp như huyễn. “Đại Tuệ bạch Thế tôn! Vì nương chấp đắm… cho đến đây là chấp đắm tướng điên đảo!”. Lại nói lìa huyễn không còn tương tự, vì chấp đắm các tướng huyễn nói như huyễn ư? Hay vì nương theo đây mà chấp đắm tướng điên đảo nói là như huyễn ư! “Nếu nương chấp đắm các tướng huyễn… cho đến thấy các thứ sắc tướng chẳng phải vô nhân”. Nếu chấp huyễn tướng cho rằng các pháp đều như huyễn, còn có pháp tức chẳng phải như huyễn, cho nên nói chẳng phải tất cả pháp đều như huyễn, vì sao không như huyễn thấy sắc tướng trời, người, nam nữ chẳng phải vô nhân, cũng chẳng phải do chú thuật mà khởi, cho nên không như huyễn. Tất cả các pháp như huyễn: “Thế Tôn! Đều không có nhân… cho đến nói tất cả pháp tương tự với huyễn”. Nói đều không có nhân riêng làm cho các sắc tướng khác nhau hiển hiện, có thể nói như huyễn, vì vậy không thể chấp huyễn tướng tương tự, nói tất cả các pháp như huyễn. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Không nương chấp đắm… cho đến không thật, mau biến mất như tia chớp cho nên nói như huyễn”. Chẳng phải tướng huyễn có nhiều thứ, trời, người có nhiều thứ, hai pháp tương tự. Nói tất cả pháp như huyễn, vì tất cả pháp đương thể không thật, liền khởi liền diệt, như tia chớp kia, cho nên nói như huyễn. “Này Đại Tuệ! Thí như tia chớp lóe lên rồi liền tắt mất… cho đến mà vọng chấp đắm các sắc tướng”. Thí như ánh chớp lóc lên trong khoảng sát-na, lóe lên rồi liền tắt mất, nhanh chóng vô thường, thế gian hiện thấy, hợp với các pháp, nương vọng tưởng tự tâm hiện cũng như vậy. Chẳng thể quán sát không thật chẳng phải hữu mà khởi chấp đắm tự sắc tướng, cộng sắc tướng. “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Chẳng huyễn, vô tương tự, cũng chẳng có các pháp, chẳng thật, mau như chớp, cho nên nói như huyễn”. Hai câu tụng trên nói chẳng phải huyễn, không có tương tự, cho nên nói tất cả pháp như huyễn, hai câu tụng dưới là là đáp. Lời nói của Phật trước sau có trái nhau không? “Lúc ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật… cho đến chẳng phải nói trước sau trái nhau”: Đại Tuệ do Đức Phật trước nói tất cả pháp không sinh, nay lại nói không thật, mà như ánh chớp, nói tất cả các pháp như huyễn, cho nên nói lời Thế Tôn nói trước sau tự trái nhau. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Không có trái nhau… cho đến vì bác bỏ ngoại đạo chấp nhân sinh nên ta nói vô tánh vốn không sinh”. Do biết rõ các pháp chỉ tự tâm hiện, thì biết sinh vốn vô sinh. Long Thắng nói: Các pháp không tự sinh, cũng không từ nơi khác sinh, không cộng, không vô nhân, cho nên biết vô sinh, do đây mà quán sát pháp ngoài hữu vô đều vô tự tánh, cho nên vốn bất sinh. “Này Đại Tuệ! Vì muốn lìa nghóa nhân sinh của ngoại đạo… cho đến chẳng phải hữu vô sinh nên gọi là vô sinh”. Ngoại đạo chấp tác giả làm nghóa nhân sinh, nghóa là từ hữu vô sinh tất cả pháp, nghóa là có hạt giống, tức tự tại cát bụi v.v… là nhân năng sinh. Vô là vô hạt giống, tức hư không tự nhiên v.v… Sinh, không nói từ tự tâm vọng tưởng sinh, cho nên ta nói tất cả pháp khác với ngoại đạo chấp vô nhân, tà nhân sinh, nên gọi là vô sinh. Sinh tử nối nhau là do nhân duyên bên trong: “Này Đại Tuệ! Nói các pháp… cho đến vì ngăn dứt kiến chấp có không đoạn diệt”. Phật bảo Này Đại Tuệ! Ta nói các pháp chẳng phải hữu vô sinh, chỉ do tự tâm phân biệt làm duyên, khiến thọ hóa là biết tất cả pháp tuy không có tác giả nhưng nghiệp không mất, cho nên nhiếp thọ hai thứ sinh tử, ngăn dứt tà kiến, đoạn diệt, hý luận kia vì thế Thức luận chép: Sinh tử nối nhau là do nhân duyên bên trong chứ không đợt duyên bên ngoài, cho nên chỉ có thức nhân, nghóa là hai nghiệp hữu lậu vô lậu, chiêu cảm sinh tử. Duyên nghóa là phiền não chướng và sở tri chướng, giúp cho sự chiêu cảm sinh tử. Vì sao? Vì sinh tử có hai: 1.Phần đoạn sinh tử, nghóa là các nghiệp hữu lậu lành, không lành do phiền não chướng trợ duyên thế lực, chiêu cảm quả dị thục thô trong ba cõi, thân mạng ngắn dài tùy năng lực nhân duyên mà có kỳ hạn chắc chắn, cho nên nói phần đoạn sinh tử. 2. Bất tư nghị biến dịch sinh tử, nghóa là các nghiệp vô lậu có phân biệt do sở tri chướng duyên trợ thế lực, chiêu cảm quả dị thục nhỏ nhiệm thù thắng, do nguyện lực từ bi sửa đổi thân mạng nên kỳ hạn không chắc chắn, cho nên gọi là biến dịch. Diệu dụng khó lường gọi là bất tư nghị. Kinh chép: Vô ngã không tạo không thọ, nghiệp thiện ác cũng không, chẳng lẽ đồng với ác kiến đoạn diệt luận hay sao? Đoạn trên Như lai đã nói ý vô sinh rồi, đoạn dưới văn nói như huyễn à đáp lại nghóa không trái nhau. Chỗ trụ như thật là vô sở trụ: “Này Đại Tuệ! Nói các pháp tướng giống như huyễn… cho đến tất cả các pháp chỗ trụ như thật”. Chỗ trụ như thật là vô sở trụ nên gọi là như thật trụ. Đây là chỗ sở chứng của bậc Thánh trí tự giác, vô sư trí, tự nhiên trí, không do người khác mà ngộ được. Nếu có chỗ trụ thì gọi là phi trụ. “Này Đại Tuệ! Thấy chỗ như thật tất cả pháp ấy thì sẽ thông đạt duy tâm sở hiện”. Từ vô trụ vốn lập tất cả pháp, chăng hiểu chỉ tự tâm ấy đâu thể thấy rõ ư! Vì vậy cho nên đức Như lai nói các pháp không sinh như huyễn chẳng có trái nhau. Các pháp tánh tướng như huyễn nên không có tướng để đắc: “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Vô tác nên vô sinh, hữu pháp thuộc sinh tử, rõ suốt như huyễn thảy, đối tướng không phân biệt”. Vì tánh vô tác nên nói vô sinh, vì ngăn dứt chấp đoạn cho nên nói nghiệp tánh thuộc sinh tử, quán các pháp tánh tướng như huyễn nên không có tướng để đắc, cho nên xa lìa duyên khởi phân biệt. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Ta sẽ nói… cho đến lại có khả năng khai ngộ tất cả chúng sinh”: Vì ở trên Như lai vì chúng sinh nên từ bi phương tiện nói các thứ khác nhau muốn cho chúng sinh hiểu rõ nghóa chân thật trong danh cú, chớ chấp lời nói, cho nên nói danh cú văn thân, bảo các Bồ-tát hãy quán cho thông suốt nghóa thú của tướng này, thì mau chứng đắc Bồ-đề, lại nhờ đó mà khai giác cho chúng sinh, vậy nên biết pháp này không phải hình tướng lời nói, chẳng phải lìa hình tướng lời nói. Nếu không có lời nói hình tượng nên mê hoặc đảo điên, chấp lời nói mà quên chân, cho nên bậc Thánh lập ra hình tượng giáo hóa, chẳng lẽ luống uổng ư! Danh thân cú thân, văn thân: “Này Đại Tuệ! Danh thân nghóa là tùy theo sự việc mà đặt tên… cho đến đó gọi là danh thân, như nương vào các vật làm ra bình chén, rồi đặt tên là bình chén v.v… Nghóa là một tên hai tên ba tên cho đến nhiều tên năng thuyên tự tánh, gọi là danh thân. Nói cú thân… tức nhân tên mà thành câu, do câu mà hiển nghóa. Như bình đồng thiết… cú nghóa đều khác nhau, nghóa là một câu, hai câu, nhiều câu có công năng giải thích khác nhau. Tên gọi cú thân do ở văn này có khả năng thành danh cú, nghóa là một chữ, hai chữ, nhiều chữ làm hai chỗ nương gọi là văn thân. Nếu theo bản dịch xưa dịch là vị, chỉ là sở hiển chẳng phải năng hiển. Thân là nghóa nhiều pháp gom nhóm. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Cú thân, nghóa là cú sự rốt ráo… cho đến nghóa là dài ngắn cao thấp”. Dưới đây là nói lại nghóa khác. Cú thân, nghóa là cú sự rốt ráo, là nếu có văn thì sẽ có danh, chưa chắc có cú, nếu có cú thì sẽ có danh và văn, cho nên nói cú sự rốt ráo. Danh thân, nghóa là các tên gọi đều khác nhau, như từ chữ “A” cho đến chữ “Ha”, như bốn mươi âm chữ A, Ha v.v… đều mới đầu ngắn kế là dài, cao thấp cũng giống như vậy, cho nên tiếp tục nói văn thân, nghóa là dài ngắn cao thấp, tức âm vận uyển chuyển dài ngắn cao thấp. Vì danh cú phải nương vào văn tự mà lập. <篇> CHÚ ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ KINH <卷>QUYỂN 5 Lại nói về danh thân, cú thân, văn thân: Lại, cú thân như dấu chân… cho đến Tướng danh cú, văn thân này ông phải nên tu học. Các pháp ở thế gian không ngoài năm ấm. Đây lại y theo năm ấm để nói về danh cú văn thân. Cú thân như dấu chân, là như người đời mất voi ngựa tìm được dấu chân, cho nên tam-muội thật tướng cũng nhờ lời nói mà ngộ, gọi là danh thân cú thân. Tướng sắc ấm hiện bày nên dùng dấu vết lời nói. Bốn uẩn: gồm thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng có hình tượng cho nên dùng tên mà nói. Nếu chiếu kiến vốn vắng lặng thì đều là thật tướng. Hai thứ do văn hiển rõ nên khuyên tu học. Các bậc Thánh đó mà ngộ nhập, cho nên xả toàn thân để cầu nửa bài kệ. Phật nói kệ về ba thân: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Danh thân và cú thân, và thân chữ khác nhau, phàm ngu thường chấp đắm, như voi mắc lầy sâu”. Đức Như lai muốn dứt tâm bệnh cho chúng sinh, dùng danh cú văn thân phương tiện nói, như dùng độc phá độc. Nếu những người ngu chấp đắm danh cú, không ngộ thật nghóa thì không hy vọng giải thoát, như voi mắc lầy sâu. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Trong đời vị lai… cho đến kia liền đáp rằng: Câu hỏi này chẳng đúng”. Vì ở trên nói tướng của danh cú văn thân, giúp cho các Bồ-tát hiểu rõ như thật nghóa, mau chứng Bồ-đề, mở bày chúng sinh, sợ kẻ ác giác quán đời vị lai dùng bốn câu tà kiến một khác, câu bất câu v.v… để hỏi các người trí, người ấy đáp rằng: Nghóa mà ta thông đạt là pháp chân thật lìa bốn câu, nay ông hỏi như vậy, đó gọi là hỏi chẳng đúng. Nói về tà trí ác tự giác: “Nghóa là sắc và vô thường là khác hay chẳng khác? Cho đến không giải thích”: Ở đây là nói tà trí ác tư giác, nghóa là lời luống dối so lường không đúng lý mà vặn hỏi. Nghóa là sắc và vô thường, cho đến trí và trí giả là khác hay không khác. Trí giả nên bảo rằng: Các câu hỏi ấy không thể ký sự, mà Phật gọi là vô ký đáp thẳng, do người ngu kia không có văn tuệ, cho nên không biết hữu vô là tà hay chánh, muốn giúp cho người ấy lìa đoạn thường tà kiến, các điều sợ hãi, nên không giải thích. Luận Câu-xá mười chín chép: Các khế kinh nói mười bốn thứ vô ký, tức là nghóa ấy, cũng gọi là trực đáp. Sở dó không đáp là vì đó là lời vô nghóa. Biết thì cũng không tránh khỏi sinh tử, không biết thì cũng không chướng ngại Niết-bàn. “Này Đại Tuệ! Không giải thích… cho đến các thuyết đó gọi là vô ký luận”: Nói không giải thích, là vì muốn cho ngoại đạo phải suy nghó lại mà tự hiểu, được lìa khỏi vọng kiến chấp đắm tác giả. Vì ngoại đạo ngay nơi ấm, lìa ấm mà chấp ngã, cho nên nói thân mạng là một hay là khác, v.v… đều là tà luận vô ký. Như lai dùng bốn thứ ký luận để độ sanh: “Này Đại Tuệ! Ngoại đạo si hoặc nói vô ký luận… cho đến khi ta nói ra vì người căn cơ chưa thuần thục”. Ở đây nói Như lai Ứng chánh đẳng giác, thường dùng bốn thứ ký luận để nói pháp độ sinh. Chỉ ký luận mục đích là ở thời gian riêng, vì chúng sinh căn cơ chưa thuần thục mà đáp thẳng, chẳng phải vì nói cho người căn cơ thuần thục, đó gọi là chỉ ký luận. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Vì sao tất cả các pháp bất sinh?… cho đến nên ta nói tất cả các pháp thường”. Nói Như lai vì chúng sinh căn cơ thuần thục, mở bày môn phương tiện tướng chân thật, tùy chủng loại kia hoặc nói bất sinh bất diệt, thường, vô thường v.v… Nghóa là lìa năng tác, sở tác, vô tác, cho nên nói tất cả pháp bất sinh, do chứng trí quán sát pháp tự tướng, cộng tướng không thật có. Nói tất cả pháp không có tự tánh, các pháp vốn không từ đâu đến, đi cũng không đi về đâu, cho nên nói tất cả các pháp không đến đi: Thể của các pháp vốn không, vô tự tánh tướng chẳng thật có, cho nên nói tất cả các pháp không diệt. Tất cả các pháp tướng khởi tức diệt, có tánh vô thường, cho nên nói tất cả các pháp vô thường. Các pháp tướng khởi tức không khởi, vốn vô sinh diệt, cho nên nói tất cả các pháp là thường. Đó nghóa là Như lai lìa năng thủ, sở thủ không khởi vọng tưởng phân biệt, khéo léo nói pháp. Phật dùng kệ để nói về bốn thứ ký luận: “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Ký luận có bốn thứ, một bề phản cật vấn, phân biệt và chỉ luận… cho đến tất cả đều vô ký”. Nói bốn thứ nói năng của Như lai: 1.Đáp theo câu hỏi: gọi là nhất tướng, như hỏi tất cả chúng sinh đều sinh tử, nên một bề đáp đều sinh tử. 2.Nói nếu có người hỏi, hỏi vặn lại họ để đáp. 3.Nghóa là người căn cơ thuần thục hỏi, nên giải thích rộng, cho họ nghe như hỏi tất cả chúng sinh chết rồi lại sinh, nên phải nói rộng, người có phiền não chết rồi lại sinh, người không phiền não chết rồi không còn sinh lại. 4.Vì chiết phục ngoại đạo nên cần phải gác qua một bên để đáp, như hỏi thân và phiền não, gà con và gà mẹ ai có trước ai có sau, cho nên dừng mà không đáp. Như số luận chấp hữu, thắng luận chấp phi hữu. Nói các ngoại đạo chấp hữu vô, đều không thể ký. “Khi dùng trí quán sát, thể tánh không thật có, vì lìa các lời nói, nên nói vô tự tánh”: Là nói chánh trí quán sát tự tánh chẳng thật có. Là chung tụng sáu môn như tất cả các pháp không sinh v.v… ở trước sau. “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn… cho đến Tu-đà-hoàn thực hành tướng khác nhau”. Đại Tuệ do pháp vọng phân biệt của kẻ ngu ở trên sinh chủng tánh Thanh văn thừa. Nhưng trong pháp Thanh văn có bốn quả khác nhau, cho nên nêu bốn quả khác nhau để thưa hỏi. Hành là nhân hành, bậc Tu-đà-hoàn tu nhân hạnh chính là muốn chứng đến quả A-la-hán, căn cơ lợi độn cho nên có sự khác nhau. Nói về bốn quả Thanh văn: “Con và các Đại Bồ-tát… cho đến làm lợi ích rộng cho tất cả chúng sinh”. Là nói tướng phương tiện, là tướng phương tiện của bốn quả tu hành. Tu-đà-hoàn, Hán dịch là Dự lưu, nghóa là từ địa vị phàm phu tu bảy phương tiện, khởi tám nhẫn tám trí, rơi vào ba cõi bốn đế xuống đến tám mươi tám sử phân biệt hoặc, dứt đến tám mươi bảy phẩm gọi là Sơ quả hướng, tám mươi tám phẩm hết gọi là Sơ quả, mới bước vào dòng Thánh, nên gọi là Dự lưu. Tư-đà-hàm, Hán dịch là Nhất vãng lai, nghóa là Sơ quả thấy đạo rồi, khởi chín đạo vô giáo, chín đạo giải thoát, dứt chín địa trong ba cõi và chín lần chín tám mươi mốt phẩm tu hoặc, còn chín phẩm tu hoặc trong cõi Dục, gồm bảy lần sinh xuống nhân gian, thân ở Sơ quả, dứt năm phẩm trước của cõi Dục, gọi là Nhị quả hướng, dứt hết sáu phẩm gọi là Nhị quả. Ngay đây qua đời lại phải một lần sinh lên tầng trời, một lần sinh xuống nhân gian, dứt ba phẩm hoặc còn lại nên gọi Nhất vãng lai. A-na-hàm, Hán dịch là bất lai, nghóa là thân đã ở Nhị quả, dứt chín phẩm tu hoặc cõi Dục, đến hết tám phẩm gọi là Tam quả hướng, dứt hết chín phẩm gọi là Tam quả, một phen trở lại các tầng trời cõi Sắc, không thọ sinh trở lại cõi Sắc, nên gọi là Bất lai, người chứng ba quả trên gọi là Hữu học. A-la-hán, có ba cách dịch: 1. Sát tặc. 2. Vô sinh. 3. Ứng cúng: Nghóa là thân ở trong ba cõi, dứt bảy mươi hai phẩm hoặc do tu mà dứt trong Địa thứ tám ở hai cõi trên, dứt đến bảy mươi mốt phẩm, gọi là Đệ tứ quả hướng, đoạn hết bảy mươi hai phẩm gọi là địa vị vô học quả thứ tư A-la-hán. Đây chỉ là hết phàm tình, không có Thánh giải riêng, Bồ-tát được phương tiện khéo léo giảng nói cho chúng sinh nghe pháp Thanh văn như vậy, pháp Bồ-tát như vậy, giúp cho họ chứng được người pháp vô ngã, sạch hoặc trí chướng, đối với tướng các địa rốt ráo thông đạt, đạt đến cảnh giới sở chứng của Như lai, được pháp thân pháp tài của Phật, thỉnh Như lai nói bốn quả khác nhau. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông nghe… cho đến sự khác nhau có ba là hạ, trung, thượng”: Trên hỏi các quả Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hoàn hành. Nay đáp rằng, các quả Tu-đà- hoàn, ý nói hiển bày lẫn nhau, lợi độn khác nhau, cho nên có ba. Nói về Tu-đà-hoàn và A-la-hán: “Này Đại Tuệ! Bậc hạ thì ở trong các hữu cho đến bậc thượng tức ngay đời này nhập vào Niết-bàn. Bảy lần sinh trở lại, nghóa là ở cõi Dục, chín phẩm câu sinh phiền não, gồm bảy lần sinh lại. Sơ phẩm trở lại hai lần sinh, kế ba phẩm đều một lần sinh, kế là nhị phẩm còn một lần sinh, ba phẩm sau cùng một lần sinh: Là nói về quả Tu-đà-hoàn thấp nhất, chưa dứt hoặc cõi Dục cho nên sinh ở tầng trời, người bảy lần mới đắc quả A-la-hán, thí như rắn độc cắn người, đi bảy bước liền chết, vì sao không phải bốn hay sáu! Vì sức mạnh. Vì sao không phải là tám! Vì năng lực chất độc. Lấy thí dụ Tu-đà-hoàn, vì sao không sáu lần sinh? Vì sức mạnh của phiền não, vì sao không tám lần sinh? Vì nghiệp vô lậu thành thục. Người trung căn hoặc ba lần sinh, năm lần sinh mới đắc quả A-la-hán Niết-bàn. Người Thượng căn ngay một lần sinh được quả A-la-hán, gọi là hiện diệt Tu-đà-hoàn, không nói trải qua hai quả trung gian mới đến A-la-hán. Nói về đắc quả A-la-hán: “Này Đại Tuệ! Ba bậc này dứt ba kiết… cho đến được quả A- la-hán.” Nói Tu-đà-hoàn tuy có lợi căn độn căn khác nhau, nhưng nói chung dứt ba thứ kiết. Nghóa là đối với năm thủ uẩn chấp ngã, ngã sở, gọi là thân kiến, là một kiết. Đối với các đế lý do dự không quyết định, nghi Phật và ngoại đạo, không biết đâu là chánh, đây là hai kiết. Nghóa là đối với vọng kiến thuận theo giới cấm phi lý của ngoại đạo, chấp là trên hết, sẽ được thanh tịnh, là kiết thứ ba. Nói về đắc quả Tu-đà-hoàn: Hỏi: Có khả năng dứt hẳn tất cả phiền não kiến đạo sở đoạn, đắc quả Tu-đà-hoàn, vì sao chỉ nói ba bậc này dứt nguy ba kiết? Đáp: Vì thuộc về trên hết, nghóa là ba thứ kiết này làm chướng ngại sự giải thoát rất là trên hết. Vì sao? Vì thân kiến, chấp thủ năm uẩn làm ngã, ngã sở, rất sinh mê đắm, cho nên đối với các nhóm khổ không sinh nhàm chán xa lìa, đối với sự giải thoát cao siêu không phát tâm hướng về; hoặc có hữu tình tuy đã phát tâm hướng về giải thoát nhưng do giới cấm thủ và nghi nên chấp nghiêng về tà đạo. Vì nghi ngờ chánh đạo xuất ly theo tà và xuất ly bất chánh. Lại, ba kiết này, là quên cảnh nhân sở tri, vì mê chấp nhân, mê nhân đối trị, như Kinh Đại Bát-nhã nói dứt ba kiết, gọi là quả dự lưu, mỏng dần tham, sân, si gọi là quả nhất lai, dứt năm phần thuận dưới gọi là quả bất hoàn, dứt năm kiết thuận phần trên thường gọi là quả A-la-hán. Nay tất cả tập pháp đều thành diệt pháp, gọi là Độc giác Bồ-tát. Dứt hẳn tất cả thói quen nối nhau gọi là Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đây đều là y theo Thông giáo nêu riêng chỗ quan trọng. Nói thăng tiến thượng thượng được quả A-la-hán, nghóa Tu-đà-hoàn đã dứt các phần kiết là chín phẩm, người dứt được các kiết là trí, cũng chia làm chín phẩm. Nếu người mới học trí tuệ yếu kém, gọi là trí hạ hạ, dứt được các kiết thượng thượng. Người có trí tuệ học hiểu đã lâu, gọi là trí thượng thượng, dứt được kiết hạ hạ, được quả A-la-hán Niết-bàn. Nói về xa lìa chấp người vô ngã: “Này Đại Tuệ! Thân kiến có hai thứ… cho đến chấp người vô ngã liền lìa bỏ”: Luận Duy thức chép: Tham sân si mạn nghi, thân kiến, biện kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, trong mười sử phiền não chung riêng này thì sáu thông câu sinh và khởi phân biệt, mặc cho sự suy xét đều được sinh. Hai thủ bốn thứ nghi và tà kiến chỉ phân biệt khởi, phải do bạn ác và năng lực của tà giáo, tự suy xét sâu xa mới được sinh. Kinh nói thân kiến có hai thứ: là câu sinh và phân biệt, thí như nương duyên khởi tự tánh, các thứ vọng chấp tự tánh chấp đắm sinh, như nương câu sinh mà có phân biệt khởi, nghóa là nương năm ấm mà khởi vọng tưởng thân kiến, do vọng tưởng kia không thật, nên chẳng có pháp hữu vô, kẻ ngu chấp ngang trái, như trong sóng nắng không có nước, bầy nai bị khát ép ngặt nên nghó là có nước, đây là phân biệt vọng tưởng thân kiến. Do không có trí tuệ chấp ngã, ngã sở lâu xa tương ưng. Tu-đà-hoàn quán tuy có năm ấm hợp thành người này, trong đó không có ngã. Nay quán xét kỹ cho nên thấy người vô ngã, tức thời lìa bỏ dứt kiến chấp phân biệt về thân. Dứt bỏ tướng chấp thân: “Này Đại Tuệ! Câu sinh thân kiến… cho đến tham thì bấtg sinh, đó gọi là tướng thân kiến”: Nói năng quán khắp thân mình và thân người là ngang bằng nhau. Các ấm thọ, tưởng, hành, thức đồng với sắc ấm, có danh không có thể, không có tự tánh tướng. Quán sắc ấm do bốn đại chủng tạo ra, xoay vần nhân nhau mà sinh. Trong bốn đại đã không có chủ tể thì ai có thể nhóm họp để thành sắc? Sắc ấm hữu chất còn không, huống chi là bốn uẩn như thọ uẩn… không có sắc tướng, chẳng lẽ chẳng phải không ư! Quán sát như vậy thấy rõ hữu vô đều là vọng không thật. Năm ấm không có tự thể, thân kiến liền dứt, hễ người tham ái thì chấp có thân kiến, xả thân kiến thì tham từ đâu sinh? Cho nên Kinh Pháp Hoa chép: Các khổ là nhân, tham dục là gốc. Nếu tham bất sinh, đó gọi là dứt bỏ tướng thân kiến. Dứt tướng nghi: “Này Đại Tuệ! Tướng nghi là đối với pháp sở chứng khéo thấy tướng… cho đến đó gọi là tướng nghi”. Nghóa là đối với pháp bốn chân đế sở chứng khéo thấy được tướng kia, quyết định cắt đứt hai thứ vọng tưởng thân kiến thì nghi không do đâu mà khởi, cũng không đối với phàm phu, ngoại đạo, thiên ma mà nghó họ là Đại sư, khởi chấp thanh tịnh, đó gọi là dứt tướng nghi. Dứt tướng giới cấm thủ: “Này Đại Tuệ! Vì sao Tu-đà-hoàn không chấp giới cấm!… cho đến đó gọi là tướng giới cấm thủ”: Nói Tu-đà-hoàn không chấp giới thọ sinh ở đời sau, quán có chỗ sinh thì có các khổ, không monh cầu chỗ thọ sinh an vui. Xét chấp thủ, là những người ngu ở trong ba cõi mong cầu năm thứ dục lạc, tu tập khổ hạnh, siêng năng giữ giới, ngụyện sinh về nơi ấy. Như Nan-đà vì mong cầu nữ sắc mà giữ giới, tức là hạng này. Bậc Tu-đà-hoàn, không chấp đời vị lai thọ sinh chỗ có năm thứ dục lạc, chỉ cầu sở chứng pháp trên hết vô lậu bốn chân đế lý không phân biệt, phương tiện thọ trì tu hạnh chánh giới, đó gọi là dứt tướng giới cấm thủ. Lìa hai thứ tham: “Này Đại Tuệ! Bậc Tu-đà-hoàn xả bỏ ba kiết… cho đến vì thế xả bỏ việc ấy chẳng phải tham Niết-bàn”: Phàm phu không thể bỏ ba kiết, không thấu đạt người vô ngã. Do chấp thân nên giữ gìn ngã này, tham danh lợi cho là vinh hạnh cái ngã, sân trái với tình cảnh sợ xâm hại, ngã ngu si lầm hiểu phi lý chấp chặt, không biết năm uẩn đều là vô ngã, không có chủ tể, chỉ là sắc tướng hình hài. Tâm vọng tưởng từ vô thỉ đến nay, do năng lực nhân duyên cho nên niệm niệm sinh diệt, nối nhau không cùng, như nước nhiễu từng giọt như ngọn đèn sáng mãi, thân tâm giả hợp dường như một dường như thường, phàm ngu bất giác chấp là ngã, cho nên khởi kiết. Người Tu-đà-hoàn quán sát-năm uẩn vô chủ như trên, vì xả ba kiết nên lìa tham, sân, si. Phàm phu tham đắm năm dục, Thanh văn tham pháp xuất thế nhập Niết-bàn, cho nên nói tham có nhiều thứ; nữ sắc là nặng nhất, cho nên nói riêng vì xả dục triền miên và chứng đắc tam-muội chánh thọ lạc, chưa thể dứt tham Niết-bàn, Bồ- tát thừa đối với hai thứ tham này đều có khả năng lìa bỏ. Nói về Tu-đà-hoàn: “Này Đại Tuệ! Thế nào là quả Tư-đà-hàm… cho đến mà nhập Niết-bàn, đó gọi là Tư-đà-hàm”. Không rõ sắc tướng, khởi lên phân biệt sắc. Tư-đà-hàm quán chiếu các thứ sắc tướng từ vọng tưởng sinh, cho nên còn một lần sinh trở lại vào tầng trời, cõi người, khéo tu thiền tịnh trí tuệ, ngã kiến chẳng sinh, hết sạch bờ mé khổ mà chứng đắc Niết-bàn, nên gọi là Tư-đà-hàm. Nói về A-na-hàm: “Này Đại Tuệ! Thế nào là quả A-na-hàm… cho đến không còn trở lại, đó gọi là A-na-hàm”: A-na-hàm còn gọi là ra khỏi bùn dục. Vì phiền não ở cõi Dục giống như bùn lầy. A-na-hàm đã vượt ra khỏi cõi Dục đều sinh lên cõi Sắc. Quán sát sắc tánh ba đời không thật, chấp phàm phu có chỗ sinh tức là có các khổ tội lỗi. Nếu phiền não thói quen không sinh khởi lìa bỏ các kiết thì không còn thọ sinh lại ở cõi Dục, tức là sinh lên các tầng trời cõi Sắc dứt hết các lậu, do đó gọi là A-na- hàm. Nói về A-la-hán: “Này Đại Tuệ! A-la-hán… cho đến vọng tưởng không còn gọi là A-la-hán”. Nói A-la-hán tu hành Bốn thiền và ba tam-muội, liễu ngộ tám giải thoát, phần chứng mười lực, ba minh, sáu thông đều đã thành tựu, dứt hẳn phiền não phát nghiệp chiêu cảm các khổ vọng tưởng, nên gọi là A-la-hán. Có ba loại A-la-hán: “Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Thế Tôn dạy A-la-hán có ba thứ… cho đến kia thị hiện sinh”: Luận Du-già và luận Pháp Hoa nói Thanh văn có bốn hạng: 1. Quyết định chủng tánh cũng gọi là Thú tịch. 2. Tăng Thượng mạn, đây là phàm phu đắc thiền thứ tư, gọi là A- la-hán. 3.Lui sụt rồi lại phát đại tâm Bồ-đề, cũng gọi là chủng tánh bất định. Như trong hội Pháp Hoa, ngài Xá-lợi-phất… được thọ ký Thanh văn, đó là loại này. 4. Ứng hóa không chân thật, nghóa là Phật và Bồ- tát biến hóa thị hiện dắt dẫn Thanh văn thật hướng đến Đại thừa. Kinh này hỏi trừ tăng thượng mạn chỉ có ba thứ, nghóa là nói như thế nào? Phật bảo Này Đại Tuệ! A-la-hán thú tịnh định tánh nói trên đã dứt bỏ bốn trụ phiền não, vượt khổ sinh tử, chứng được Niết-bàn, chẳng phải những người đã lui sụt rồi trở lại phát tâm đại Bồ-đề. Những người ấy đã từng phát hạnh nguyện rộng lớn khéo léo, thành thục loài hữu tình, được Phật hóa độ, làm trang nghiêm các cõi Phật và quyến thuộc trong chúng hội”, thị hiện làm A-la-hán. “Đại Tuệ ở trong chỗ luống dối nói pháp bằng mọi cách… cho đến tự tâm hiện ra, chứng được quả tướng”. Nói vì ở chỗ chúng sinh vọng tưởng nói pháp bằng mọi cách, dứt các phiền não, chứng đắc tứ quả, người hành thiền có sự hiểu biết đúng như thật và các thiền tam- muội đều là tánh lìa, do tự tâm lượng luống dối mà thấy, chứng đắc quả tướng. Chúng đắc bốn quả không nghó là mình chứng đắc bốn quả: “Này Đại Tuệ! Nếu Tu-đà-hoàn nghó rằng… cho đến và các kiết không dứt”. Đây là nói sơ quả dứt kiết, không hề nghó rằng, ta dứt bỏ được kiết. Nếu nghó thì có hai lỗi, sẽ rơi vào thân kiến và tam kiết v.v… đều không được dứt trừ, so sánh với ba quả còn lại cũng giống như vậy. Cho nên Kinh Kim cương, Phật hỏi Tu Bồ-đề: Tu-đà-hoàn đến A-la-hán, có được nghó rằng mình đắc bốn quả như Tu-đà-hoàn v.v… hay không? Tu-bồ-đề đều nói là không. Nếu nghó như vậy tức là chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Tuy nói quyền thừa yếu kém nhưng nếu không lìa vọng niệm thô nặng, cũng không thể dứt bỏ sinh tử phần đoạn. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Nếu muốn vượt qua vô lượng các thiền… cho đến không lìa tâm”. Ý nói muốn vượt qua các thiền Thanh văn, bốn tâm vô lượng và bốn không định của cõi Vô sắc, v.v… được tam-muội của Như lai thì phải lìa tướng tự tâm vọng tưởng trong ba cõi. Này Đại Tuệ! Cực quả Thanh văn cho, định tưởng, thọ, diệt làm rốt ráo. Nếu cho rằng siêu tâm lượng thì không đúng, vì sao! Vì tâm vọng tưởng chưa dứt . Phật nói kệ để tuyên lại nghóa trên: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn nói lại bài kệ rằng: Các thiền và vô lượng, vô sắc tam-ma-đề, và các thọ tưởng diệt, do tâm, chẳng thật có”. Các thiền là Bốn thiền. Vô lượng là bốn vô lượng tâm từ bi hỷ xả hóa độ chúng sinh. Vô sắc tam-ma-đề, là bốn vô sắc định thọ tưởng đều vắng lặng, đều duy tâm lượng, kia thảy vô hữu cho nên nói do tâm, chẳng thật có. Nói về bốn quả Thanh văn: “Quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, các bậc Thánh như thế, đều nương tâm vọng có”: Kế là nói về bốn quả, cũng không lìa tâm vọng tưởng, cho nên nói các bậc Thánh như thế, đều nương tâm vọng có. Kinh Viên Giác chép: Vì có vọng nghiệp nên vọng thấy trôi lăn, người nhàm chán sự trôi lăn vọng thấy Niết-bàn. Thiền và thiền sở duyên, dứt hoặc thấy chân đế, đây đều là vọng tưởng, liễu ngộ tức giải thoát. Câu tụng đầu nói về thành pháp sở tu, câu kế nói người có khả năng tu chứng, câu thứ ba năng sở hợp rõ, đều không lìa tâm lượng vọng tưởng. Nếu thật giác ngộ, vì vọng chấp sinh tử nên nói Niết-bàn. Sinh tử bị dứt bỏ đã không thì Niết-bàn là pháp năng trị cũng bỏ, cho nên đắc Bồ-đề thì tất cả giải thoát. Lại nữa, Này Đại Tuệ! Có hai thứ giác trí… cho đến và thủ phần phân biệt chấp đắm lập ra trí. Vì bài kệ trên nói biết rõ thì giải thoát, nhưng tri giác có mà không giải thoát, cho nên nêu hai thứ giác trí để phân biệt tốt xấu, nghóa là quán sát biết người vô ngã và pháp vô ngã, là Chánh giác trí, không biết hai thứ người vô ngã pháp vô ngã, vọng tưởng tướng chấp đắm lập ra hữu ngã, hiểu biết như vậy là tà giác trí, không được giải thoát. Như lai dùng nêm tháo nêm: “Quán sát trí, nghóa là quán tất cả các pháp… cho đến quán pháp như vậy, ông nên tu hành. Thế nào là chấp tướng phân biệt chấp đắm lập ra trí… cho đến đó là tướng của hai thứ giác trí”: Phàm phu chấp đắm có đại chủng tánh tướng, vọng tưởng phân biệt, dùng tông nhân dụ, pháp ngũ phần luận, thành tựu không thật mà vọng lập ra, đó gọi là tà chánh thứ hai giác trí tướng, Như lai dùng nên tháo nêm, như trước phá chấp của ngoại đạo, cũng nói ba chi tỷ lượng năm phần luận. “Đại Bồ-tát biết trí tướng này… cho đến ánh sáng chiếu soi cả trăm cõi Phật”. Đại Bồ-tát, đạt vọng tức chân, biết hai thứ giác này, hiểu rõ người và pháp không, ngã cũng không còn, do trí vô tướng lìa niệm. Nhưng hành vị thắng giải của Địa tiền, khéo léo quán sát thì nhập Sơ địa, đắc trăm môn tam-muội như Đại thừa quang minh v.v… Nhờ thắng lực kia thấy cả trăm Đức Phật… cho đến ánh sáng soi chiếu cả trăm thế giới Phật. Cho nên Nhiếp Luận chép: “Khi Bồ-tát nhập Sơ địa, chứng mười trăm minh môn: một là chỉ trong một sát-na chứng một trăm tam-ma-địa, hai là dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy trăm cõi Phật, ba là dùng năng lực thần thông, làm rung chuyển trăm thế giới Phật, bốn là có thể đến cả trăm thế giới Phật hóa độ chúng sinh, năm là có khả năng dùng một thân hóa thành trăm thứ thân hình, cho loài hữu tình trông thấy, sáu là có khả năng thành tựu trăm thứ hữu tình được hóa độ, bảy là nếu vì lợi ích thì có khả năng lưu thân trụ ở đời trăm kiếp, tám là có khả năng biết việc trăm kiếp trước sau, chín là dùng trí tuệ nhập bách pháp minh môn, thông suốt tất cả, mười là có thể dùng thân quán trăm loại quyến thuộc, các địa còn lại thì tăng lên gấp bội. “Khéo biết tướng các thứ địa trên… cho đến cảnh giới tự giác tam- muội thắng lạc”. Nói địa Ly cấu thứ hai cho đến Như lai đều thành tựu mười nguyện vô tận trong sơ địa, việc này trong Kinh Hoa nghiêm v.v… các kinh khác cũng có nói. Biết đại chủng tạo sắc là không thật: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải hiểu rõ bốn đại tạo sắc”: Vì ở trên ngoại đạo chấp có bốn đại chủng tánh, tạo ra sắc tướng bốn đại, kế là khuyên Bồ-tát khéo phải hiểu bốn đại tạo sắc là không thật. “Thế nào là Bồ-tát biết rõ bốn đại chủng v.v… cho đến trụ vào chỗ như thật, thành tựu tướng vô sinh”: Vô sinh, nói chung có hai: 1.Lý vô sinh, tánh viên thành thật vốn bất sinh. 2. Sự vô sinh, tướng duyên sinh tức là vô sinh. Nói trụ chỗ như thật, thành tựu tướng vô sinh, nghóa là quán ba cõi do tâm hiện, lìa ngã, ngã sở, năng chứng lý sự đều vô sinh. Ngoại đạo có bốn vọng chấp: “Này Đại Tuệ! Các đại chủng kia vì sao tạo sắc… cho đến Đại chủng tạo sắc sinh”. Đây là nêu ra ngoại đạo. Vọng chấp có bốn đại chủng sinh tạo sắc, nghóa là kia vọng tưởng chấp có tánh thấm nhuần là thủy đại chủng, sinh ra thủy giới trong ngoài, trong tức máu, mồ hôi, nước dãi, ngoài thì sông suối, biển nguồn. Có tánh nóng cháy thành thục là hỏa đại chủng, sinh trong ngoài cõi lửa, bên trong thì thể bao gồm hơi ấm, bên ngoài đốt cháy muôn vật, có tánh thổi động làm phong đại chủng, sinh ra phong giới trong ngoài, bên trong hơi thở vận động, bên ngoài thì muôn tiếng đều vang, có tánh sắc chất giới hạn là địa đại chủng; sinh ra địa giới trong ngoài. Bên trong tức da thịt, gân cốt, bên ngoài là đồng bằng, gò cao, vọng tưởng chấp có ẩm thấp, ấm động, xa lìa hư không. Do chấp tà đế, không rõ năm ấm, do hư giả chứa nhóm, vốn không có tự tánh. Nói do đại chủng tạo sắc sinh, cho nên ở trên Đức Phật bảo Bồ-tát phải khéo biết rõ. “Này Đại Tuệ! Vì thức chấp đắm các thứ… cho đến ở trong các đường nối tiếp thọ sinh”. Nói thức, tức vọng thức trong năm ấm ở trên, do mê chân tâm mà thành chấp đắm các thứ nói năng cảnh giới làm thân, khởi nhân, tạo nghiệp thọ sinh, ở trong các cõi nối nhau không dứt. Phải biết thân bên trong, cảnh bên ngoài, bốn đại năm ấm, chỉ tâm lượng vọng tưởng phân biệt biến hiện ra. Tướng đại chủng tạo sắc là do ngoại đạo phân biệt: “Này Đại Tuệ! Địa v.v… là nhân của tạo sắc đại chủng… cho đến ngoại đạo phân biệt cho rằng chẳng phải pháp do ta nói”: Chẳng phải bốn đại chủng là nhân đại chủng, nghóa là đều do tâm hiện, cho nên kiết luận rằng: tướng đại chủng tạo sắc này là do ngoại đạo vọng tưởng phân biệt. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Nay ta sẽ nói thể tướng của năm uẩn… cho đến chẳng phải các bậc Thánh”. Dưới đây lại bác bỏ năm uẩn đều không, chẳng có tự tánh tướng, chẳng phải chỉ có sắc ấm, bốn đại là không thật. “Các bậc Thánh chỉ nói các thứ sắc tượng như huyễn… cho đến đó gọi là tướng tự tánh của các uẩn”: Nói bậc Thánh tuy thấy năm uẩn, nhưng biết rõ không thật, chỉ là giả lập, lìa khác và không khác, như huyễn như mộng, cho nên Kinh Đạt Bát-nhã chép: Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết sắc đúng như thật cũng như chùm bọt nước, tánh không bền chắc, như thật biết thọ cũng như bọt nổi, luống dối không trụ, mau sinh mau diệt, như thật biết tưởng giống như sóng nắng, nước không thật có, luống dối khát ái mà nghó như vậy: biết về như thật hành giống như cây chuối, tách ra từng bẹ đều không thật có, như thật biết thức giống như việc huyễn, do các duyên hòa hợp giả lập mà có, tướng tuy dường như có mà không thật, cho nên năm uẩn không thật có riêng. Không biết cảnh giới sở chứng của Như lai, mà thấy có pháp uẩn, chấp đắm vọng tưởng phân biệt thường hiện trước mắt, đó gọi là vọng tưởng tướng tự tánh các uẩn. Thật tướng các pháp xưa nay không có tướng khởi: “Này Đại Tuệ! Vọng tưởng phân biệt như vậy, các ông phải nên lìa bỏ… cho đến giống như quả đất lợi ích cùng khắp cho tất cả chúng sinh”. Pháp vắng lặng, là thật tướng các pháp từ xưa đến nay không có tướng khởi, các nghóa còn lại lời văn. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Niết-bàn có bốn thứ”: Ở trên nói giác trí để hiển bày sinh đức tốt xấu. Ở đây nói Niết-bàn để phân rõ đức kia là tà hay chánh, đó gọi là Bồ-đề Niết-bàn hai quả đức chuyển y. Niết-bàn có bốn thứ: “Bốn thứ Niết-bàn là: các pháp tự tánh vô tánh Niết-bàn… cho đến chẳng phải pháp do ta nói”. Ngoại đạo chấp thể tánh các pháp là hữu danh tự tánh, sau đó dứt bỏ gọi là vô danh tự tánh, lấy minh đế làm Niết-bàn, lại chấp có các pháp tướng danh chủng chủng tướng gọi là, sau đó quán là vô danh vô tánh, cho thần ngã là Niết-bàn. Lại chấp chung tánh tướng là hữu danh tự tướng tánh, sau cũng quán là vô danh vô tánh, cho vọng giác là Niết-bàn. Ba thứ trên đây đều xuất xứ từ sự chấp đắm của ngoại đạo, lại dứt bỏ sự trôi lăn trong năm ấm sáu đường, cho người vô ngã là Niết-bàn, đó là Niết-bàn của Hai thừa, vì chấp có năm uẩn nên cũng đồng với ngoại đạo. Vì thế Kinh Lăng-nghiêm chép: Thanh văn, Duyên giác rơi vào định tánh, đều nói trái xa với viên thông, trái thành Niết-bàn. “Này Đại Tuệ! Điều ta nói, phân biệt sở tri thức diệt gọi là Niết- bàn”. Trước nói chứng cảnh giới tự trí, chuyển tạng thức sở y thành đại Niết-bàn. Lại nói tất cả thức tự tánh thói quen. Tạng thức, ý thức chấp đắm thói quen chuyển rồi, ta và các Đức Phật nói gọi là Niết-bàn. Đây lại nói riêng phân biệt sở tri cảnh giới thức diệt, gọi là Niết-bàn, lìa chung riêng gọi là khác, đều muốn cho thói quen của các thức hiện hành đều diệt. Kế là văn hỏi đáp rất dễ hiểu. Thức phân biệt diệt gọi là Niết-bàn: “Đại Tuệ bạch Phật! Bạch Đức Thế Tôn! Chẳng dựng tập thức thứ tám hay sao?… cho đến thức thứ bảy được sinh”. Như lai nói vọng tưởng thức diệt gọi là Niết-bàn, Đại Tuệ nghi ngờ khác với lời trước nói, cho nên hỏi sao không kiến tập thức thứ tám! Mà nói riêng thức diệt, chẳng phải bảy thức khác đều diệt. Phải bảo Này Đại Tuệ! Vì ý thức kia chung cho cả ba tánh, khởi hoặc tạo nghiệp, làm duyên với các thức, và duyên cảnh giới, bảy thức còn lại nương đó mà khởi. Nếu ý thức diệt thì các thức còn lại không sinh. “Này Đại Tuệ! Ý thức phân biệt cảnh giới… cho đến tư lương chuyển theo, không có thể tướng riêng”. Nói khi thức thứ sáu hiểu rõ cảnh khởi chấp đắm, sinh ba thứ thói quen, huân tập thêm lớn thức A-lại-da, do đó Mạt-na ý thứ bảy chấp ngã, ngã sở, thường xét nét so lường, nối nhau chuyển theo không có thể tướng riêng. “Tạng thức làm nhân làm sở duyên… cho đến tâm chứa nhóm sinh khởi xoay vần làm nhân”. Lại thức căn bản làm nhân, biến khởi căn thân, hạt giống, khí giới làm sở duyên, cho nên nói chấp đắm tự tâm hiện cảnh giới, các tâm chứa nhóm sinh, đó gọi là từ hạt giống khởi hiện. Do hiện sinh chủng, hiện chủng vô tánh giống như bó lau, thay nhau làm nhân, cho nên nói xoay vần làm nhân. Khi thức thứ sáu diệt thì bảy thức còn lại cũng diệt: “Này Đại Tuệ! Thí như biển và sóng… cho đến vì vậy khi ý thức diệt thì thức thứ bảy cũng diệt” như sóng ngoài biển thay nhau dạt vào bờ, cũng xoay vần sinh nhau, sắc thanh hương vị xúc là tự tâm hiện cảnh giới gió, thổi động các thức niệm niệm khởi diệt, cũng giống như vậy cho nên nói khi ý thức diệt thì thức thứ bảy còn lại cũng diệt. Lúc ấy, Đức Thế Tôn nói lại bài kệ rằng: “Ta không cho tự tánh, và không cho tướng tác”. Bài tụng trên nói bốn thứ Niết-bàn của ngoại đạo… cho là ngã không do tự tánh tác tướng mà diệt, lấy Minh đế v.v… làm Niết-bàn. “Phân biệt cảnh thức diệt, như thế nói Niết-bàn”. Câu tụng vọng chấp Niết-bàn thức diệt, đó là Như lai Niết-bàn”. “Ý thức là nhân tâm, tâm là cảnh giới ý, vì nhân và sở duyên, các thức nương tựa sinh”. Bài tụng trên nói tám thức xoay vần làm nhân lẫn nhau. “Như dòng nước lớn cạn, thì sóng mòi chẳng nổi. Như vậy, ý thức diệt, các thứ thức không sinh”. Như dòng nước lớn bị cạn thì không có sóng, để dụ cho ý thức diệt, bảy thức khác cũng không sinh, bài tụng trên thí dụ và hợp pháp. Hỏi đáp về lời Phật nói đâu khác hai thừa ngoại đạo: Hỏi: Trước nói các ngoại đạo nói chấp cảnh giới thức nối nhau diệt, tức thức nối nhau từ vô thỉ diệt. Lại nói Thanh văn vọng chấp đời vị lai căn cảnh diệt, cho là Niết-bàn. Căn cảnh đã diệt, thức cũng bất sinh. Nay nói ý thức diệt như vậy các thứ thức bất sanh thì đâu có khác gì với hai thừa ngoại đạo? Đáp: Ngoại đạo chấp khi chết thân hư hoại, sáu thức không chấp cảnh không biết chỉ lìa vọng duyên, cho rằng thức thứ sáu nối nhau diệt, tức thức nối nhau từ vô thỉ diệt, rơi vào chấp đoạn. Hai thừa tuy chấp đời vị lai căn cảnh diệt, sáu thức nối nhau chỉ hiện hành diệt, mà thói quen, hạt giống thật chưa diệt. Đây nghóa là thức trong thức A-lại-da huân tập các tướng nối nhau bị dứt hẳn thì bảy thức còn lại cũng diệt theo, cho nên khác nhau. Tướng khác nhau chung khi diệt thức vọng tưởng: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Nay ta sẽ nói… cho đến không còn chấp đắm tướng do vọng chấp tướng”: Ở trên nói thức vọng tưởng phân biệt sở tri diệt gọi là Niết-bàn. Nay là nói tướng chung khác nhau khi diệt thức vọng tưởng, giúp cho các Bồ-tát biết rõ là không thật, vượt các vọng tưởng đạt đến cảnh giới Như lai, biết các kiến chấp của ngoại đạo bất sinh, lìa năng sở phân biệt, đối với duyên khởi không còn vọng chấp. “Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng vọng chấp tự tánh khác nhau!… cho đến đó gọi là tướng vọng chấp tự tánh khác nhau” nêu mười hai tên khác của vọng tưởng phân biệt. Nghóa như trước đã giải thích. Mười hai tên gọi khác nhau của phân biệt luống dối: “Thế nào là Lời nói phân biệt?… cho đến đó gọi là lời nói vọng tưởng”: Vọng chấp các thứ âm thanh chương cú cho là có tánh, gọi là lời nói phân biệt. Thế nào là sở nói phân biệt?… cho đến đó gọi là sở thuyết phân biệt”: Chấp có năm pháp ba tự tánh, gọi là sở nói phân biệt. Thế nào là tướng phân biệt?… Đó gọi là tướng phân biệt” Nói chấp đắm có bốn đại tướng, đó gọi là tướng phân biệt. Thế nào là tài phân biệt?… cho đến đó gọi là tài phân biệt”. Chấp có tài lợi san tham chấp đắm, gọi là tài phân biệt. Thế nào là tự tánh phân biệt?… cho đến đó gọi là tự tánh phân biệt”: Như chấp có bốn đại tánh: Ý nói tánh đất vững chắc, tánh nước ẩm ướt, tánh gió chuyển động, tánh lửa là nóng, cho đến chân tục, mỗi thứ đều có tự tánh khác nhau, gọi là tự tánh phân biệt. “Thế nào là nhân phân biệt?… cho đến đó gọi là nhân vọng tưởng”. Nói hoặc nhân hoặc duyên, hữu vô phân biệt nhân sinh nhân, gọi đó là nhân phân biệt. “Thế nào là kiến phân biệt?… cho đến đó gọi là kiến phân biệt?” Nương vào hữu vô này mà khởi bốn câu chấp, đó gọi là Kiến phân biệt. “Thế nào là lý phân biệt?… cho đến đó gọi là lý phân biệt”: Trong năm uẩn chấp ngã, ngã sở, nói pháp luống dối, đó gọi là lý phân biệt. Thế nào là sinh phân biệt?… cho đến đó gọi là sinh phân biệt”. Chấp pháp hữu vô chắc chắn từ duyên sinh, đó gọi là sinh phân biệt. Thế nào là bất sinh phân biệt?… cho đến đó gọi là bất sinh vọng tưởng”: Chấp các pháp vốn không sinh, thể tánh hữu vô không nhờ duyên khởi. Từ nhân duyên sinh này không nhân không quả, đó gọi là bất sinh phân biệt. “Thế nào là tương thuộc phân biệt!… cho đến đó gọi là tương thuộc phân biệt”: Chấp các pháp hữu vi đều có nhân quả, thay nhau trói buộc, như kéo vàng thành sợi, vàng nằm trong sợi, sợi tức là vàng, đó gọi là tương thuộc phân biệt. “Thế nào là phược giải phân biệt?… cho đến đó gọi là phược giải phân biệt”: Chấp có phiền não trói buộc chúng sinh, về sau tu đạo sẽ cởi mở cho chúng sinh. Như có người trước bị trói, sau đó được cởi mở cũng giống như vậy, đó gọi là phược giải phân biệt. “Này Đại Tuệ! Đó là tướng khác nhau của tánh vọng chấp… cho đến hoặc có hoặc không”: Ý nói kẻ ngu vọng chấp hữu vô mà sinh ra sự phân biệt này. kẻ ngu chấp huyễn là thật: Này Đại Tuệ! chấp đắm duyên khởi… cho đến phàm ngu phân biệt, thấy khác với huyễn”: Đối với y tha duyên khởi sinh ra các thức vọng tưởng tự tánh, như nương chú thuật mà thấy các việc huyễn, kẻ ngu vọng tưởng thấy khác với huyễn, chấp có các vật thật. “Này Đại Tuệ! Huyễn và các thứ… cho đến đối với huyễn hữu lẽ ra sinh chấp đắm: Nói chú thuật và các vật lìa một, khác. Nếu các vật khác với chú thuật, thì chú thuật không nên làm nhân cho các vật. Nếu nói các vật và chú thuật là một, thì chú thuật và các vật lẽ ra không khác nhau, nhưng thấy chú thuật khác với các vật, cho nên lìa khác và không khác. Vì vậy Đức Phật bảo Đại Tuệ và các Bồ-tát, như nương ảo thuật sinh ra các vật, lìa một khác hữu vô chớ nên chấp đắm. Phật nói kệ về kẻ ngu vọng tâm bi cảnh giới sanh tử trói buộc: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn muốn nói lại bài kệ rằng: Tâm bị cảnh trói buộc, giác tưởng trí tùy chuyển”: Nói kẻ ngu vọng tâm bị cảnh giới sinh tử trói buộc, vọng tưởng trí tùy theo cảnh giới mà chuyển biến. Giác nghóa là vọng giác. “Chỗ trên hết, vô tướng, bình đẳng trí tuệ sinh”: Chỗ vô tướng là Địa thứ tám, chỗ trên hết là địa vị Phật. Nói hai địa trên chứng đắc Niết- bàn và sinh tử bình đẳng. “Ở vọng chấp là có, ở duyên khởi thì không”. Như sợi dây chấp là rắn, vọng tình cho là có, đối với sợi dây là duyên khởi, tướng không có thật. “Vọng chấp mê hoặc lấy, duyên khởi lìa phân biệt”: Ý nói vọng chấp hoặc tâm chấp sợi giây là rắn, duyên khởi sợi dây thể thật chẳng có tưởng rắn, một hàng này nêu duyên khởi phá vọng chấp. “Các thứ chi phần sinh, như huyễn không thành tựu, tuy hiện các thứ tướng, vọng phân biệt thì vô”: Nghóa là có các thứ danh tướng chi phần sinh, nếu do huyễn khởi thì không thành các thứ, tuy hiện các tướng, nhưng rõ vọng phân biệt thì đều không thật. Luận Duy Thức chép: Y tha khởi tự tánh phân biệt duyên sinh, một hàng này phá duyên khởi. “Tướng kia tức là lỗi, đều từ tâm phược sinh, vọng chấp không biết rõ, pháp phân biệt duyên khởi”: Duyên kia khởi tướng tức là lỗi, nghóa là từ tâm trói buộc phiền não mà sinh, người ngu không biết nên phân biệt cho là thật có không. “Các tánh vọng chấp này, đều là duyên khởi kia”: Ở trên nói Duyên khởi từ tâm vọng chấp trói buộc mà sinh. Ở đây lại nói tánh vọng chấp từ duyên khởi sinh, tức là duyên khởi. “Vọng tưởng có các thứ, trong duyên khởi phân biệt”: Tánh vọng chấp này có nhiều thức, đối với duyên khởi sinh chấp đắm, vọng tưởng. Cho nên Duy Thức nói: Do các thứ biến kế kia, chấp khắp các thứ vật. Đây là biến kế sở chấp, tự tánh không thật có. “Thế đế, Đệ nhất nghóa, thứ ba vô nhân sinh”: Ở đây rõ ràng có thế tục đế, Đệ nhất nghóa đế, không có thứ ba. Nếu nói đệ tam đế thì đồng với ngoại đạo vô nhân sinh. “Vọng chấp là thế tục, dứt thì cảnh giới Thánh”: Do vọng chấp duyên mà sinh ra tất cả các pháp sinh tử hữu vô trong ba cõi, tức là thế đế. Nếu hiểu rõ duyên vô tánh vọng tưởng diệt, tức là bậc Thánh cảnh giới sở hành Đệ nhất nghóa của. Cho nên luận Duy Thức chép: Các pháp tánh lược có hai thứ: 1.Luống dối, nghóa là vọng kế sở chấp. 2. Chân thật, nghóa là viên thành thật, lại có hai thứ: 1. Thế tục: là y tha khởi. 2.Thắng nghóa: là viên thành thật. Cho nên viên thành thật đối với kia thường xa lìa tánh trước, nghóa là đối với y tha, nếu lìa vọng chấp tức là viên thành thật, cho nên nói: dứt thì cảnh giới Thánh. “Như người tu quán hạnh, nơi một các thứ hiện, nơi kia không các thứ, tướng vọng chấp như thế”: Thí như người hai thừa ngoại đạo tu quán hạnh. Nếu khi thực hành quán tưởng màu xanh thì trời đất muôn vật đều là màu xanh; màu đỏ vàng trắng… cũng giống như vậy. Vốn chẳng phải chỗ màu xanh, chính do thực hành quán tưởng màu xanh thì là màu xanh, tức là chỗ không phải màu xanh mà thấy màu xanh. Lấy ví dụ phàm phu ngoại đạo, vọng chấp các pháp hữu vô sinh tử, cũng là nơi các pháp không sinh tử mà vọng chấp có. Cho nên nói tướng vọng chấp như thế. “Như mắt bị các màng che, vọng tưởng thấy chúng sinh, kia vô sắc phi sắc, vì không rõ duyên khởi”: Bất giác duyên khởi chỉ là giả lập, cũng như bất giác thấy tóc xõa, vòng lửa xoay tròn không thật. “Như vàng lìa bụi nhơ, như nước lìa bùn đục, như hư không chẳng mây, vọng tưởng tịnh cũng thế”: Ở đây nói lìa vọng chấp cấu uế, hiểu rõ duyên khởi màng che, mắt bệnh, tức là viên thành thật thanh tịnh thật tánh, cho nên lấy ba câu trên làm ví dụ. “Không có tánh vọng chấp, mà có ra duyên khởi, lập ra và chê bai, đều do phân biệt hoại”. Chấp duyên khởi là hữu danh lập ra, chấp vọng tưởng là vô danh chê bai. Nói sinh kiến chấp hữu vô này là do vọng tưởng phân biệt tự bác bỏ chánh kiến. “Nếu không tánh vọng chấp, mà có duyên khởi… cho đến mà được có duyên khởi”. Hai câu trên là nói nhắc lại chấp, câu kệ kế là nói do vọng tưởng mà sinh duyên khởi, tức là bác bỏ. “Tướng danh thường theo nhau mà sinh các vọng chấp, vì duyên khởi nương vọng, rốt ráo không thành tựu”: Hai câu trên nói về nhân duyên khởi lại sinh vọng tưởng, hai câu kế lại phá duyên khởi nương vọng tưởng, cũng đồng với vọng chấp không có tự tánh. Biết rõ vọng duyên rốt ráo không thành. “Bấy giờ hiện thanh tịnh, gọi là Đệ nhất nghóa”: Nếu dứt được vọng tưởng thì gọi là bậc Thánh Đệ nhất nghóa đế viên thành thật tánh. “Vọng chấp có mười hai, duyên khởi có sáu thứ”. Câu tụng trên có mười hai thứ phân biệt, do gió của cảnh giới sáu trần thổi động mà có. “Tự chứng cảnh chân như, kia không có khác nhau”: Cảnh giới tự chứng sở giác Thánh trí, rõ được vọng duyên kia nên không khác nhau. “Năm pháp là chân thật, ba tự tánh cũng thế, người tu hành quán đây, không vượt ngoài chân như”. Nói người tu hành, quán năm pháp ba tự tánh thể không có hai tướng, tức là như như. “Nương vào tướng duyên khởi, vọng chấp các thứ danh, các tướng vọng chấp kia, đều nhân duyên khởi có”: Nói duyên khởi vọng chấp lại sinh ra lẫn nhau, đều không có năng lực không thể tự lập. “Trí tuệ khéo quán sát, không duyên không vọng chấp, trong chân thật không vật, vì sao khởi phân biệt”. Nói khi bậc Thánh tự giác trí tuệ quán sát thì không có tánh duyên khởi, cũng không vọng chấp tự tánh, tức là chánh trí như như viên thành tự tánh, vì sao kẻ ngu khởi vọng tưởng giác tri để cầu mong điều gì? “Nếu viên thành là có, thì đây lìa hữu vô, đã là lìa hữu vô, vì sao có hai tánh?” Tánh viên thành thật là chân như hữu, viên thường tịnh diệu lìa vọng hữu vô, vốn không có hai tánh. “Vọng chấp có hai tánh, hai tánh là vọng lập, phân biệt thấy các thứ, sở hành Thánh thanh tịnh”: Vì vọng chấp cho nên có vọng chấp duyên khởi hai tự tánh, bậc Thánh phương tiện tùy hữu tình mà nói pháp, cũng quyền phương tiện thiết lập, giúp cho biết vọng tưởng các thứ thanh tịnh, đó là sở hành của bậc Thánh. “Vọng chấp các thứ tướng, trong duyên khởi phân biệt, nếu khác đây phân biệt, thì rơi luận ngoại đạo”: Ở đây nói Phật pháp biết sinh tử, biết pháp duyên khởi sinh tử, từ trong tự tâm vọng tưởng sinh. Nếu chấp các pháp sinh tử hữu vô khác với vọng tưởng từ cát bụi, minh đế, tự tại… sinh thì tức là ngoại đạo luận. “Vì các vọng nên chấp, vọng chấp đối vọng chấp, lìa bỏ hai chấp này, đó là pháp chân thật”: Các kiến là năm ác kiến, vì thấy cảnh bên ngoài đồng với vọng thức, cho nên sinh vọng tưởng, nói vọng chấp đối vọng chấp, lìa được duyên khởi, vọng chấp hai thứ vọng tưởng, tức là bậc Thánh trí đã chứng pháp chân thật như như. Không nhờ người dạy bảo mà tự mình ngộ nhập: “Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn… cho đến ở trong Phật pháp không từ người mà ngộ. Này Đại Tuệ! Do ở trên nói tự chứng cảnh chân như, biết rõ duyên vọng kia không có khác nhau, cho nên nêu lên năng chứng tự giác Thánh trí, và sở chứng nhất thừa hành tướng để thưa hỏi. Muốn được sự khéo léo này, không nhờ người dạy bảo mà tự mình ngộ nhập. Phật hứa nói lìa chấp vọng tưởng dần nhập vào Phật vị: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông… cho đến gọi là hành tướng tự giác Thánh trí”: Ở đây nói tự giác Thánh trí chẳng phải dùng lời nói bàn luận được, điều mà bậc tiên Thánh biết biết thương xót dạy bảo loài hữu tình, xoay vần truyền trao cho nhau, nói các pháp vô tánh, chỉ có vọng tưởng phân biệt là tội lỗi, nương lời Thánh dạy nên không vọng tưởng phân biệt, tức là tự chứng nhập. Nhưng vọng tưởng này vốn không có tự thể, nhưng vì từ vô thỉ đến nay huân tập thành tánh, phải nương vào duyên thanh tịnh quán chiếu tự giác, chẳng phải do người khác mà ngộ. Nếu lìa kiến chấp vọng tưởng, thì sẽ dần dần tiến nhập vào Phật vị, tu hành như vậy, cho nên gọi tướng tự giác Thánh trí. Lìa năng thủ sở thủ, như thật an trụ: “Thế nào gọi là hành tướng Nhất thừa… cho đến Phạm Thiên vương mới có khả năng được”: Nói Nhất thừa là nhất tâm, nghóa là gồm chứa, chuyên chở. Nếu phan duyên chấp cảnh thì chở vào sáu đường. Nếu vọng tưởng không sinh thì chở đến địa nhất thật. Cho nên Phật bảo Này Đại Tuệ! Lìa năng thủ, sở thủ, như thật an trụ, cho nên rõ được sinh tử là vọng tức là Niết-bàn chân thật, đốn ngộ nhất tâm thì không còn hướng về, cho nên phàm phu, hai thừa tâm hạnh thấp kém chẳng thể biết được. “Đại Tuệ bạch Thế tôn!… cho đến mà được giải thoát chẳng phải sở đắc của mình”: Trên nói nhất thừa, ngoại đạo, hai thừa, Phạm Thiên vương v.v… chẳng thể biết được. Tức biết Như lai phương tiện nói ba thừa, cho nên hỏi vì sao nói có ba thừa mà không nói nhất thừa. Phật bảo Này Đại Tuệ! Người Nhất thừa biết tự tánh sinh tử là Niết-bàn, các Thanh văn, Duyên giác không có tự pháp Niết-bàn, cho nên ta nói Nhất thừa vì hàng Thanh văn, Duyên giác chỉ nương vào sự nhàm chán, xa lìa thế gian, điều phục tu hành mà được giải thoát, chẳng thể tự sức mình mà được pháp Niết-bàn, cho nên không nói Nhất thừa. “Lại nữa, vì họ chưa dứt được trí chướng… cho đến cho nên ta nói ba thừa”. Nếu lỗi trên chưa dứt thì không thể thọ đại pháp cho nên đức Như lai nói ba thừa.. Như thật tu hành, công đức đầy đủ cũng được pháp thân tự tại của Như lai: “Này Đại Tuệ! Những người ấy dứt bỏ được tất cả lỗi lầm thói quen… cho đến được pháp thân tự tại bất tư nghị”. Nói Hai thừa mê đắm cái vui tam-muội, tưởng là Niết-bàn. Nếu dứt được trí chướng kia và thói quen nghiệp, ngộ pháp vô ngã, đạt đến thân biến dịch sinh tử bất tư nghị, lúc ấy mới lìa được sự say mê tam-muội, đối với tam-muội vô lậu được giác ngộ. Khi đã giác ngộ rồi, tự biết an trụ các địa khác, khởi thượng thượng thăng tiến, như thật tu hành, các công đức đầy đủ cũng được pháp thân tự tại của Như lai. Phật nói kệ nên tên các thừa: “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói lại kệ rằng: Thiên thừa và phạm thừa, Thanh văn, Duyên giác thừa, chư Phật Như lai thừa, ta nói các thừa này”. Bài tụng này nói tên các thừa. “Cho đến có tâm khởi, các thừa chưa rốt ráo… cho đến ta nói là Nhất thừa”: Nói có tâm động chấp thì có các thừa, tức chẳng phải rốt ráo. Nếu tâm vọng tưởng diệt thì không có các thừa, cũng không có người năng thừa các thừa, vì không có người cho nên cũng không lập ra các thừa, đó gọi là Nhất thừa. “Vì nhiếp hóa người ngu nói các thừa khác nhau… cho đến Bình đẳng trí giải thoát”: Vì dẫn dắt chúng sinh cho nên nói ba thừa giải thoát, lìa các phiền não là hai thừa giải thoát. Nghóa là chỉ hết sinh tử phần đoạn gọi là giải thoát, kỳ thật họ chưa được giải thoát tất cả, đại trí thông đạt pháp vô ngã bình đẳng, tức là giải thoát chân thật của Như lai. Nêu các ví dụ: Ví dụ một: “Như khúc gỗ trên biển, thường trôi theo sóng gió… cho đến vẫn bị thói quen buộc”. Nói Thanh văn tuy dứt bỏ phiền não hiện hành, chưa dứt sở tri và vô minh căn bản, thì vẫn bị gió thói quen phiền não, tự tướng, cộng tướng thổi làm kích động tâm, thí như khúc gỗ trên biển theo gió trôi đi, bị rượu tam-muội làm say, trụ trong cõi vô lậu… cho đến nhiều kiếp không giác ngộ. Đắm mê diệt định, an trụ vào người không cho cõi vô lậu là Niết-bàn, chưa đạt đến địa vị Phật rốt ráo, nhưng cũng không lui sụt làm phàm phu, vì được thân tam-muội, tự cho là Phật, cho đến trải qua nhiều kiếp không giác ngộ, chưa đạt đến quả Phật. Ví dụ hai: “Thí như người say rượu, khi tan rượu mới tỉnh, các Thanh văn cũng vậy, sau giác sẽ thành Phật”: Ý nói nếu ở cõi vô lậu mà giác, tự biết mình còn ở trong hóa thành, chưa đến đảo châu báu, lại khởi các thắng hạnh tu tập các công đức, về sau cũng được thân vô thượng của Phật. ----------------------------- <詞>Phẩm 4: PHẬT TÂM Chia làm ba môn để giải thích phẩm này: Giải thích nghóa phẩm này có ba môn: Nguyên nhân có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải thích văn kinh. Nguyên nhân có phẩm này: Phẩm trên nói chung về hai nghóa môn tâm sinh diệt, và giác bất giác, gồm thâu tất cả pháp, sinh tất cả các pháp, cho nên chỉ gọi chung phẩm “Tập Nhất thiết pháp”. Từ phần dưới gồm có mười ba phẩm, nói riêng về hai nghóa môn tâm sinh diệt, và giác bất giác, sinh nhiếp tất cả pháp, phẩm này nằm ở đầu nên nói là kế. Giải thích tên phẩm: Phật, tiếng Phạm là Phật-đà, Hán dịch là Giác giả. Tiếng Phạm Càn-lật-đà-da, Hán dịch là chân thật tâm, tức tất cả các Đức Phật tự tánh lìa cấu nhiễm, tâm được nhiệm mầu trong sáng, nên gọi là phẩm Phật tâm. Giải thích văn kinh: Văn trước của các phẩm khác cũng đều có ba môn, nên y theo đó suy mà biết, lại không cần giải thích nữa. Nói về ba thân ý thành (thân ý sanh): “Lúc bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ-tát Đại Tuệ rằng… cho đến Đại Tuệ nói xin vâng”: Vì ở trên nói tự giác Thánh trí chứng đạo nhất thừa để thành pháp thân, tức là nói pháp thân Đại bi khởi dụng, hiện các thứ thân để hóa độ chúng sinh. Cho nên kế là nói ba thứ thân ý thành. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Thân Ý thành có ba thứ… cho đến nhập Sơ địa rồi, dần dần chứng được”. Nói ba thứ ý thành thân, đó là những người tu hành đúng như thật từ Sơ địa lên đến Phật địa, thô tế hơn kém có ba loại này. Thân thứ nhất: “Này Đại Tuệ! Thế nào là nhập tam-muội lạc ý thành thân… cho đến nhập tam-muội lạc thọ ý thành thân”: Ở đây nói Bồ-tát từ Sơ địa đến Địa thứ bảy trở xuống thì phải nhập thiền định chánh thọ, mới hiện được các thứ thân hình, như ý khắp đến không có chướng ngại. Nói khi nhập tam-muội lạc chánh thọ thì lìa các vọng tâm, vắng lặng bất động, biển tâm thường phẳng lặng không dậy sóng thức, biết tất cả cảnh giới do tâm biến hiện, vốn không thật có, vì vậy nên gọi là tam-muội lạc chánh thọ ý thành thân. Nhà sớ kinh khéo lược nêu trong đó ba địa ý bao gồm trước sau, để nói về bảy địa. Thân thứ hai: “Thế nào là giác pháp tự tánh ý thành thân?… cho đến đó gọi là giác pháp tự tánh ý thành thân”. Là nói Bồ-tát Địa thứ tám, giác ngộ các pháp giống như huyễn mộng, không cần nhập định mà có thể hiện các thứ thân giống như ý sinh. Vì như huyễn cho nên tâm chuyển sở y, trụ mười tam-muội vương như huyễn… và vô lượng tam-muội khác, có thể hiện thần thông tự tại, nhanh chóng như ý v.v… chẳng phải do bốn đại tạo, nhưng hình dung dường như bốn đại tạo. Tất cả sắc tướng, các thứ chi phần đầy đủ trang nghiêm, đến khắp cõi Phật để hóa độ chúng sinh, thông đạt các pháp tánh như huyễn mộng không thật. Vậy nên gọi là giác pháp tự tánh ý thành thân. Thân thứ ba: “Thế nào là chủng loại câu sinh vô tác hành ý thành thân?… cho đến ba thứ thân phải siêng năng quán sát”. Đây là nói từ Thập địa đến Như lai địa, thông đạt các pháp tự chứng cảnh giới Thánh trí, vô lượng chủng loại, khác cơ đồng cảm, nên không có trước sau, sinh cùng một lúc, giống như ý sinh mà vô chướng ngại, hiện chủng loại này không cần tác ý, cho nên nói vô tác hành. Vì vậy pháp thân đại bi khởi dụng ba ý thành thân, phải siêng năng tu học. Phật nói kệ về Đại thừa của Phật: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Đại thừa ta chẳng thừa, Chẳng thanh, cũng chẳng chữ, Chẳng đế, chẳng giải thoát Cũng chẳng cảnh vô tướng.” Phật dạy: Ta không đối với Tiểu thừa mà nói Đại thừa, ở đây nói rõ Phật thừa chẳng phải âm thanh nói văn tự, chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng cởi chẳng trói, cũng chẳng phải cảnh giới có không. “Nhưng nương Đại thừa này, được chánh quán tự tại, các thứ ý thành thân, hoa trang nghiêm tự tại”: Nhưng Đức Như lai chứng đắc Đại thừa này, do tự giác Thánh trí chứng đạo nhất thừa ở trên, pháp thân khởi dụng hiện ý thành thân. Chánh quán tự tại, là nhập tam muội lạc ý thành thân trong bài tụng. Các thứ ý thành thân là chủng loại câu sinh vô tác hành ý thành thân. Hoa trang nghiêm tự tại, là giác pháp tự tánh ý thành thân. Nói về nhân vô lậu: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến sẽ nói cho ông nghe, Đại Tuệ nói xin vâng”: Vì ở trên nói ba thứ thân ý sanh, muốn hiểu rõ ba thứ thân ý sanh thì phải nhân vô lậu vô gián mà biết được năm thứ nghiệp vô gián bên trong, đó là nhân vô lậu. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Năm vô gián ấy… cho đến các tội phá hoại làm thân Phật chảy máu”: Đây là nêu tên tội, nghóa có trong ngoài, như ở dưới giải thích. Phật nói về năm tội Vô gián bên trong: Giết mẹ: “Này Đại Tuệ! Thế nào là mẹ chúng sinh? Nghóa là ái dẫn thọ sinh và tham hỷ đi đôi như mẹ dưỡng nuôi”. Ái là cội gốc, dẫn dắt sinh tử luân hồi, lại có tham ái sinh chung với thân, so sánh như đứa trẻ luôn đòi mẹ nuôi dưỡng mà thành người. Giết cha: “Thế nào gọi là cha! Cái gọi là vô minh… cho đến nhổ hai thứ cội gốc này gọi là giết cha mẹ”. Vì vô tri cho nên ái do đó mà sinh, thọ thân có thức, danh sắc, sáu nhập, nên gọi vô minh là cha của chúng sinh. Xóm làng sáu nhập là thân sáu nhập. Dùng trí vô gián dứt hẳn cội gốc si ái, gọi là giết cha mẹ. Cho nên Kinh Tịnh Danh chép: Từ si mà có ái tức là bệnh ngã sinh, nghóa là tất cả hoặc sử đều do đây sinh. Giết A-la-hán: “Thế nào là giết A-la-hán… cho đến đó gọi là giết A-la-hán”: Các hoặc tập tùy theo các hữu tình nằm ngủ yên trong tạng thức, nghóa là phiền não là kẻ thù, A-la-hán sáng suốt nên thói quen nhỏ nhiệm không hiện, như chuột cắn người, vết thương tuy đã lành, nhưng gặp sấm chớp thì lại phát sinh, để dụ cho A-la-hán thói quen nhỏ nhiệm tuy không hiện nhưng gặp duyên thuận thì lại phát. “Dứt bỏ hoàn toàn các sử và thói quen nhỏ nhiệm này gọi là giết A-la-hán”. Phá hòa hợp tăng: Thế nào là phá hòa hợp tăng? Cho đến dứt bỏ hoàn toàn các sử nhỏ nhiệm gọi là phá tăng”. Quán sát năm uẩn như mộng huyễn không thật. Không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức khác hòa hợp để thành thân, gọi là phá tăng. Hễ hòa hợp gọi là tăng. Nay năm uẩn cũng gọi là tăng, hiểu rõ năm uẩn không có tự thể, do đó gọi là phá tăng. Cho nên kinh Bát-nhã chép: Soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua tất cả khổ ách. Tâm ác làm thân Phật chảy máu: “Thế nào là tâm ác làm thân Phật chảy máu?… cho đến gọi là tâm ác làm thân Phật chảy máu”: Ở đây nói bất giác năm ấm các pháp tự tướng, cộng tướng, tự tâm này vọng hiện không thật, vọng chấp có tám thức thân, tức có vọng tưởng giác biết các cảnh giới, giác ngộ được cảnh giới gọi là Phật, nương đó khởi nhiễm nên còn gọi là máu. Dùng ba trí vô lậu không, vô tướng, vô nguyện dứt bỏ tám thức vọng giác nhiễm ô kia thì gọi là tâm ác làm thân Phật chảy máu. “Này Đại Tuệ! Đó là năm vô gián bên trong, nếu có tác giả vô gián tức là được hiện chứng thật pháp”. Năm vô gián bên trong là nhân vô lậu. Trái lại tức là thuận, nếu có tác giả thì vô gián tức là được tự giác Thánh trí, hiện chứng thật pháp đạo nhất thừa. Phật nói về năm tội Vô gián bên ngoài: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Nay ta sẽ nói cho ông nghe năm Vô gián bên ngoài… cho đến không sinh nghi ngờ”: Ở trên nói thực hành năm Vô gián bên trong không đọa vào địa ngục, được hiện chứng thật pháp, sợ người nghe điều đó cho rằng năm Vô gián bên ngoài cũng không đọa vào địa ngục. Cho nên tiếp theo nói gây ra năm Vô gián bên ngoài mắc khổ địa ngục. Nay nghe nghóa này không còn sinh nghi ngờ. “Thế nào là năm Vô gián bên ngoài!… cho đến đối với ba môn giải giải không thể hiện chứng”. Nói nếu gây ra ngoại vô gián này thì không được vô gián lạc của ba môn giải thoát, chỉ chịu khổ địa ngục Vô gián. “Chỉ trừ Như lai và các Đại Bồ-tát… cho đến liền sám hối trừ diệt thì chứng được giải thoát”: Là nói chỉ trừ Phật và các vị đại Thanh văn, thấy những người gây ra năm nghiệp vô gián, vì khuyến phát nên dạy họ trừ lỗi lầm nghi hối, dùng thần lực biến hóa thị hiện đồng với việc ấy. Như vua A-xà-thế giết cha, về sau bị bệnh khó chữa, ông vô cùng hối hận sám hối, Phật dạy ông quán thật tướng, quán rồi bệnh liền hết. Vua A-xà-thế này có lẽ là bậc Thánh hóa hiện. Hóa thân như vậy có lợi ích gì? Vì muốn khuyến hóa những người gây ra năm tội vô gián phát tâm sám hối. Mắc tội Vô gián thì hiện đời không được giải thoát: “Đây đều do hóa hiện chẳng phải thật tạo… cho đến không bao giờ hiện thân mà được giải thoát”: Không có người thật gây ra nghiệp vô gián nên không mắc tội Vô gián. Nói chắc chắn mắc tội vô gián thì không bao giờ hiện đời được giải thoát. “Chỉ trừ người giác biết do tự tâm hiện ra… cho đến lìa lỗi phân biệt mới chứng giải thoát”. Lại như vua A-xà-thế được sự chỉ dạy của Phật rồi, hiểu biết tự tâm vọng hiện ra không thật, lìa ngã, ngã sở vọng tướng kiến chấp. Hoặc đời vị lai thân ở đạo khác, gặp thiện tri thức, lìa lỗi tự tâm vọng tưởng kiến chấp, mới được giải thoát. Hai bài tụng nói về năm tội Vô gián bên trong: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Tham ái gọi là mẹ, vô minh tức là cha… cho đến đó gọi vô gián nghiệp”: Hai bài tụng này nói năm nghiệp Vô gián bên trong, như kinh có nói rõ. “Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến xin nói cho con nghe về thể tánh của các Đức Phật”: Vì ở trên hiểu rõ cảnh giới thì gọi là Phật, vì chẳng phải Phật chân thật nên phải dùng trí vô lậu của ba giải thoát để dứt bỏ. Phật ở trên không thật phải dứt, lại nói những gì mà gọi là chân Phật? Cho nên có thể tánh của Phật để thưa hỏi. Thể tánh của Phật là pháp thân: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Biết rõ người pháp vô ngã… cho đến dứt bỏ hai thứ phiền não, đó gọi là thể tánh của Phật”: Thể tánh của các Đức Phật là pháp thân, thường làm chỗ nương cho báo thân, hóa thân; tất cả chúng sinh nhiều kiếp nổi chìm, hoặc rơi vào tà thuyết Tiểu thừa nên không thể chứng, bởi do hai chướng. Hai chướng không dứt là do hai chấp. Muốn dứt hai chấp, phải nhờ vào hai thứ không. Chấp chướng đã hết thì hai món sinh tử dứt hẳn, Thánh tánh hiện tiền, ứng dụng cát bụi gọi đó là Phật. Cho nên nói giác tri người vô ngã và pháp vô ngã, trừ hoặc chướng, trí chướng, lìa sinh tử phần đoạn và biến dịch, dứt thói quen hiện hành và hai món phiền não, vì vậy nên gọi là Thể tánh của các Đức Phật. Nhưng trong các nghiệp chướng thì phiền não là nặng nhất nên lại chỉ bày riêng tướng của nó, muốn cho người học đau xót mà dứt bỏ. Kết thúc: Này Đại Tuệ! Các Thanh văn, Duyên giác đắc pháp này rồi… cho đến lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ: “Nếu biết hai vô ngã, Dứt hai chướng, hai não, Và bất tư nghị tử, Nên gọi là Như lai.” <篇> CHÚ ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ KINH <卷>QUYỂN 6 Nêu hai văn trái nhau để thưa hỏi Như lai: “Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đai Tuệ… cho đến Nguyệt Quang Diệu Nhãn như thế v.v…”: Nhân ở trên nói giác các pháp như hai vô ngã v.v… gọi là Phật. Các Đức Phật ở quá khứ đã giác ngộ pháp này, nên gọi là Phật. Vì ở quá khứ, Đức Thế Tôn đã giác ngộ, nay cũng giác được pháp này nên cũng gọi là Phật. Đạo giác ngộ tuy một, nhưng quá khứ, hiện tại khác nhau. Vì sao nói ta là tất cả các Đức Phật trong quá khứ, và kinh Bổn Sinh nói: Như lai trong quá khứ từng thọ sinh các loài, như làm vua quán đảnh và làm voi đầu đàn, chim đầu đàn, vị tiên Nguyệt Quang Diệu Nhãn v.v… trong trăm ngàn đời, lại nói ta là tất cả các Đức Phật quá khứ: nêu hai văn trái nhau để thưa hỏi Như lai. Nói về tự bình đẳng: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Như lai Ứng chánh đẳng giác… cho đến tên Phật không khác đó gọi là tự đẳng”: Các đức Phật tên gọi không hai, không khác, đó gọi là tự bình đẳng. Cũng như Ương-quật-ma-la cùng Văn-thù-sư-lợi đi khắp mười phương, thấy các Đức Phật trong mười phương, các Đức Phật ấy đều xưng là Phật Thích-ca. Nói về ngữ bình đẳng: “Thế nào là ngữ bình đẳng?… cho đến không có khác nhau gọi là ngữ đẳng”: Kinh Mật Tích Lực Só quyển hai chép: Âm thanh của Phật có tám chuyển, đó là thể thanh, nghiệp thanh, cụ thanh, sở vi thanh, tùng thanh, thuộc thanh, y thanh (ư cách) và hô thanh. Đó là tám chuyển thanh, mỗi thanh có đủ tám đức. Có chỗ nói tám chuyển là: Điều hòa thanh, nhu nhuyến thanh, đế liễu thanh, dị giải thanh, vô thố mậu thanh, vô thư tiểu thanh, quảng đại thanh, thâm viễn thanh, tám lần tám thành sáu mươi bốn thứ. Chẳng phải chỉ có Đức Phật Thích-ca mà tất cả các Đức Phật đều như vậy. Ca-lăng-tần-già là tên chim, tiếng hót của loài chim này êm tai, hay hơn các loài chim khác, nên dẫn ra đây làm ví dụ. Nói về thân bình đẳng: “Thế nào là thân bình đẳng?… cho đến hiện thân tùy loại gọi là thân đẳng”: Pháp thân, biết rõ hai thứ người pháp vô ngã… gọi là pháp thân. Sắc thân, là tướng tốt trang nghiêm gọi là sắc thân. Các Đức Phật đều chẳng khác nhau, trừ ra vì muốn điều phục các loài chúng sinh khác nhau trong các đường kia nên thị hiện các thứ thân hình khác nhau. Đây là đáp thế nào là Phật và trăm ngàn chủng loại thọ sinh, đó gọi là thân đẳng không có trái nhau. Nói về pháp bình đẳng: “Thế nào là pháp bình đẳng?… cho đến ở trong đại chúng nói rằng”: Ba mươi bảy Pháp phần Bồ-đề: Bồ-đề là giác, phần là nhân. Ba mươi bảy phần này là nhân giác ngộ của các thừa, cũng gọi là đạo phẩm. Cho nên kinh Tịnh Danh chép: Đạo phẩm là đạo tràng, là nhân của pháp thân. Nhưng ba mươi bảy phẩm gồm có bảy loại: 1.Đạo đối trị điên đảo, là bốn niệm xứ. 2.Đạo dứt các biếng nhác, tức bốn chánh cần. Đạo dẫn phát thần thông, là bốn thần túc. 4. Đạo hiện quán phương tiện, tức là năm căn. 5.Đạo thân cận hiện quán, là năm lực. 6.Đạo hiện quán tự thể, bảy giác phần. 7. Đạo hiện quán hậu khởi, tức tám chánh đạo. Nghóa như ở chỗ khác nói: Về thứ lớp của bảy loại này, nghóa là nghe pháp rồi trước phải nhớ giữ, kế là siêng; vì siêng tu cho nên nhiếp tâm điều nhu; vì điều nhu cho nên tín v.v… thành căn, căn tăng là năng lực, bảy giác phần khác nhau, tám chánh là chánh hành, đều dùng ví dụ để hiển bày. Pháp tánh như đất, niệm xứ như hạt giống, chánh cần là trồng trọt, thần túc như nẩy mầm, năm căn như sinh rễ, năm lực như thân lá thêm lớn. Nở bảy hoa giác ngộ. Tổng kiết tám chánh quả, tất cả các Đức Phật đều đồng chứng được, đó gọi là pháp bình đẳng. Ở bản khác, trong pháp Bồ-đề phần lại có sáu chữ mười lực, bốn vô úy thảy. Mật ý bốn thứ bình đẳng: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Ca-diếp, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm là ta, nương bốn thứ bình đẳng, nói cho các Phật tử nói”: Bài tụng trên nói tên bốn vị Phật và mật ý bốn thứ bình đẳng. “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến nương mật ý gì mà nói như vậy”: Vì ở trên nương bốn thứ bình đẳng, nói cho các Phật tử nghe, tức là Như lai có nói, cho nên nêu lên khoảng giữa hai đêm, trong khoảng giữa đó, thật không có nói để thưa hỏi. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Nương hai mật pháp… cho đến lìa tướng danh tự lìa tướng phân biệt”: Ở đây nói tự chứng pháp sở hành cảnh giới, Như lai ba đời rốt ráo bình đẳng, đều lìa tướng lời nói, tâm duyên, danh tự, cho nên nói không nói. Pháp trụ pháp vị đều là thường trụ: “Thế nào là pháp bổn trụ?… cho đến Pháp giới pháp tánh thảy đều thường trụ”: Như tánh vàng bạc v.v… xưa nay tự có, chẳng phải do người thợ bạc trau chuốt mới có, lấy đây dụ cho pháp tánh bổn trụ vốn tự sẵn, không phải do Như lai nói mới có. Nhờ Như lai ra đời nói ra, pháp giới cũng không thêm, nếu Phật không ra đời không nói, thì pháp giới cũng không giảm bớt. Nói pháp trụ pháp vị này thảy đều thường trụ, chẳng phải lời nói. Nói về pháp sẳn có: “Này Đại Tuệ! Thí như có người đi ở chỗ hoang vắng… cho đến cũng chẳng phải đã nói, cũng chẳng phải sẽ nói”. Cũng như con đường hướng đến ngôi thành cổ xưa nay sẵn có, không phải do só phu đi mới có. Đây là dụ cho chân như pháp giới xưa nay sẵn có, không phải do Như lai nói mới có, để nói là không nói. “Khi ấy, Đức Thế Tôn nói lại bài kệ rằng: Ta đêm ấy thành đạo, Đến đêm ấy Niết-bàn, Ở trong khoảng giữa ấy, Ta đều không nói”: Bài tụng trên nói ngày đắc đạo và nhập diệt, trong khoảng giữa ấy thảy đều không có nói. Ba đời không thể nói: “Tự chứng pháp bổn trụ, Nên nói mật ngữ này, Ta và các Như lai, Thảy đều không khác nhau”: Ở trên nói hai pháp, nên có mật ý ấy, nhưng nói mà đều không nói. Ở đây nói ta và các Đức Phật đồng chứng pháp không lời nói này, cho nên trong ba đời không thể nói. Hễ có lời nói thì đó là thuận theo tâm chúng sinh. Hai thứ chấp có không là luống dối: “Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ nói xin vâng”: Nhân ở trên nói ta ở trong đêm ấy thành Chánh giác tức là có, đến đêm ấy nhập Niết-bàn tức là không, cho nên nêu tướng có không để thưa hỏi, giúp cho con và các Bồ-tát biết hai thứ chấp có không là luống dối, mà tu hành đúng như thật, mau chứng Bồ-đề. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Chúng sinh ở thế gian… cho đến rơi vào hai kiến chấp, cho nên chẳng ra khỏi mà nghó là ra khỏi”: Hai thứ chấp có không chẳng thể ra khỏi thế gian thường tình, chẳng phải pháp xuất ly, chúng sinh thế gian rơi vào kiến chấp này lầm cho là lìa tưởng. Hữu kiến và Vô kiến: “Thế nào là hữu kiến?… cho đến nói như vậy thì thuộc về thuyết vô nhân”: Tất cả các pháp do nhân duyên sinh khởi, tánh lìa hữu vô. Nếu chấp thật có không rõ do tâm hiện thì nói thế gian vô nhân vô duyên mà sinh các pháp. “Thế nào là vô kiến? Nghóa là đã biết có tham, sân, si rồi mà vọng chấp nói không”. Trước cho tham, sân, si là có, sau diệt gọi là không, đó gọi là vô kiến. Người phá hoại Phật pháp: “Này Đại Tuệ! Nếu kia cho tánh tham, sân, si vọng tưởng là có… cho đến rồi sau lại không nhận gọi đó là hoại”: Như lai dùng hai ý trên hỏi Đại Tuệ: Trong đây nói ai là người phá hoại Phật pháp! Nhưng Đại Tuệ bạch Phật! Nhận lầm tánh tham, sân, si là có, về sau chấp là không, gọi đó là người phá hoại Phật pháp. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Ông hiểu như thế, lành thay! Lành thay… cho đến Thể tánh chẳng phải khác, chẳng phải không khác”. Như lai khen ngợi Đại Tuệ đã hiểu biết. Nói người này chẳng dứt sự lầm lẫn cho rằng tham, sân, si là có tánh, về sau bỏ gọi là vô, gọi người hoại Phật pháp, cũng hoại bậc Thánh ba thừa. Nghóa là vốn cho tham, sân, si là có, về sau bỏ tham, sân, si gọi là vô, được thành quả chánh. Vì sao? Vì đó là người phá hoại Phật pháp, phiền não trong ngoài không thật có, thể tánh chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Trong là thân, ngoài là trần. Nói trong thân ngoại trần vọng tưởng không thật thì chẳng có người thật có. Con người còn không thì phiền não tham, sân, si do đâu mà có, lìa tánh bốn câu, cho nên biết vọng chấp có người dứt phiền não được quả Thánh, đó là người phá hoại Phật pháp. Phiền não và chúng sanh đều không thật: “Này Đại Tuệ! Tánh tham sân si hoặc trong hoặc ngoài… cho đến không có năng phược và nhân phược”. Nói tham, sân, si không ở trong, không ở ngoài cho nên chẳng thật có, vốn không có thể tánh cho nên không thể chấp lấy. Bậc Thánh ba thừa biết đó là luống dối, tức là tự tánh giải thoát, chẳng phải do dứt bỏ tham, sân, si mới được giải thoát. Nếu dứt bỏ được giải thoát thì có tác pháp, không thể lâu dài. Trói buộc là phiền não, nhân trói buộc là chúng sinh. Đức Phật biết phiền não, và chúng sinh không thật, tức là không có người dứt phiền não được giải thoát. Nói về tự tánh giải thoát: “Này Đại Tuệ! Nếu có người bị trói buộc và nhân trói buộc… cho đến chẳng khởi chấp không, hoại tăng thượng mạn”: Chỗ trói buộc cũng là chúng sinh. Như sắt bị sét mà tự hỏng hình dáng sắt. Nay quán chúng sinh không, cho nên không có nhân trói buộc, cũng không có phiền não gọi là năng phược, năng phược đã không, sở phược cũng không. Đây là giải thích lại tự tánh giải thoát. Nếu như trên nói cho tham, sân, si là có, sau khi bỏ gọi là vô thì gọi đó phá hữu vi vô tướng, rơi vào đoạn diệt chấp không, cho nên phá hữu gọi là không, chẳng phải chân không, kẻ ngu cho đó là chân không, cho nên ta nương vào nghóa này thường bí mật nói: Thà khởi chấp nhân ngã là có bằng núi Tu-di, chứ chẳng nên chấp không, có tâm tăng thượng mạn. Nghóa là phá hữu vi, đều là chân không, kẻ ngu cho đó là chân không, chưa đắc mà cho là đắc, đó gọi là tăng thượng mạn. “Nếu khởi chấp này gọi là hoại… cho đến lìa tướng văn tự cũng thành hoại”: Nói rơi vào vọng tưởng tự tướng, cộng tướng, không rõ tự tâm hiện lượng, chấp có chấp không, cho đến phân biệt luống dối, lìa pháp văn tự, cũng thành hoại, đó gọi là người phá hoại Phật pháp. Phật nói kệ: “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Có không là hai bên… cho đến tâm sở hành, dứt sạch sở hành kia, tâm bình đẳng vắng lặng”: Đây là nói dứt sạch hữu vô, và cảnh giới vọng sở hành, thì được tâm bình đẳng vắng lặng. “Không chấp đắm cảnh giới, Chẳng diệt, không thật có, Có vật mầu chân như, Như sở hành các Thánh”. Nói biết tánh cảnh giới tham ái, luống dối không nên chấp, tức là thể tánh vắng lặng, chẳng phải diệt không còn gì cả mới gọi là vắng lặng. Vì ngoài tâm không có vật, có vật đều như như, như cảnh giới Thánh hiền. “Vốn vô mà có sinh, Sinh rồi thì lại diệt, Nhân duyên và hữu vô, Kia chẳng trụ pháp ta”: Bài tụng trên chấp sinh diệt, hữu vô, không trụ trong pháp giới thật tướng của Như lai. “Chẳng ngoại đạo chẳng Phật, Chẳng ngã chẳng chúng khác, Năng dùng duyên thành có, Làm sao mà không được”: Phật dạy sinh pháp chẳng phải ngoại đạo làm được, lại chẳng phải Phật làm, chẳng phải thần ngã làm, cũng chẳng phải hạt cát bụi tự tại thế tánh khác… làm, chỉ từ vọng tưởng sinh. Đã từ vọng tưởng nhóm họp mới được sinh khởi, tức là không có tự thể. Vì không có tự thể, tức là nói không thể sinh pháp này. Pháp sinh vốn không, đâu cần lại không! “Ai do duyên thành có, Mà lại nói rằng không? Ác kiến nói là sinh, Vọng tưởng chấp có không” Đây nói trong bốn đại năm uẩn đều không chủ tể, thì ai nhóm họp mà nói là nhân duyên có sinh. Có đã không có, sao lại nói là phá hữu gọi là vô được? Rõ ràng do tà kiến ngoại đạo mà nói có sinh pháp. Vì vọng tưởng nên chấp có không. “Nếu biết không chỗ sinh, Cũng lại không chỗ diệt, Quán thế gian vắng lặng, Có không hai đều lìa”. Phải biết trong nhân duyên vốn vô sinh, về sau cũng chẳng phải diệt, quán thế gian vắng lặng, tức không có hai chấp hữu vô. Nêu Như lai tự tông để thưa hỏi: “Khi ấy, Bồ-tát Đai Tuệ… cho đến ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ nói xin vâng”: Vì ở trên nói có không là tông ngoại đạo, cho nên nêu Như lai tự tông để thưa hỏi. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Tất cả người hai thừa… cho đến đó là pháp tướng tông thú, pháp tướng lời nói”: Tự giác quán sát, biết sinh tử không thật như hoa đốm trong hư không. Chứng cảnh giới thật tướng gọi là tông thú pháp tướng. Giảng nói cho người nghe pháp không thật này, khiến lý như thật ngộ tu chứng nhập, gọi là pháp tướng lời nói. Hai thứ tông pháp tướng này, bản khác nói là Tông thông và thuyết tông. “Pháp tướng Tông thú nghóa là tự sở chứng… cho đến đó gọi là Tông thú pháp tướng”: Ý nói tự giác Thánh trí chứng thật pháp, xa lìa văn tự lời nói luống dối phân biệt, nhập cõi chân tịnh, thành tựu Như lai tự giác địa hành, vượt qua các vọng tưởng tư giác của thế gian, chế phục ngoại ma, ánh sáng chiếu soi. Đây là cảnh giới nội tâm của Như lai, vốn không sinh diệt, gọi là tông thú pháp tướng. Tổng kết khuyên Bồ-tát nên tu học: “Lời nói pháp tướng… cho đến ông và các vị Bồ-tát phải nên tu học. Kinh gồm Đại thừa, Tiểu thừa có mười hai bộ. Nay nói chín bộ, như kinh Niết-bàn quyển ba chép: Hộ trì người tu Đại thừa, thọ trì chín bộ. Kinh pháp Hoa quyển một chép: Chín bộ pháp này ta thuận theo chúng sinh mà nói: Luận Du-già v.v… chép: Thanh văn tạng không có Phương Quảng, nhưng các kinh luận y theo nhất tướng, cho nên nói như vậy. Nếu nói như thật thì Đại thừa, Tiểu thừa đều đủ, như trong kinh Thâm Mật, Bồ-tát nương mười hai phần giáo tu thiền định. Luận Du- già quyển hai mươi mốt chép: Phật vì hàng Thanh văn giảng nói đầy đủ mười hai phần giáo, nhưng Kinh Niết-bàn nói Đại thừa chỉ có chín, vì nương ba bộ của Tiểu thừa cho rằng trong nhân duyên do việc mà chế giới, ở trong thí dụ nương đó mà dắt dẫn, trong luận nghị y theo bất liễu nghóa. Chín bộ Tiểu thừa trong Pháp Hoa là ba tướng của Đại thừa, trong phần thọ ký được thọ ký thành Phật. Trong phần tự thuyết nương người bạn không mời. Trong phần Phương Quảng nương sự lợi ích an vui rộng lớn. Chánh pháp kia rộng trình bày chung Đại thừa, Tiểu thừa. Nay đây đã nói tất cả người hai thừa và các Bồ-tát có hai thứ tông pháp tướng, thời hội quyền hướng thật, cũng bao gồm hai nghóa của Pháp Hoa và Niết-bàn. Cho nên nói các giáo pháp trong chín bộ lìa bốn câu kiến tướng một khác, hữu vô, dứt thường… phương tiện khéo léo thuận theo chúng sinh giúp được độ thoát. Vì vậy cho nên gọi là pháp tướng lời nói. Tổng kiết khuyên Bồ-tát phải nên tu học. Đức Phật nói kệ: “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Tông thú và lời nói, Tự chứng và giáo pháp, Nếu khéo hiểu biết được, Chẳng hiểu theo người khác tưởng”. Bài kệ này lược nêu giải thích hai nghóa tông và thuyết. Nếu khéo thông đạt thì không rơi vào vọng tưởng phàm phu. “Như kẻ ngu phân biệt, chẳng có tướng chân thật, kia há không cầu độ, không có pháp nào thật”: Nói tông thú của Phật, không như người ngu vọng phân biệt cho là có tánh chân thật, làm sao không khởi vọng được ư! Nếu biết các pháp chẳng có thật tánh, không thật có, tức là tông thú giải thoát của Như lai. “Quán sát các hữu vi, Sinh diệt thảy tiếp nối, Thêm lớn hai chấp này, Điên đảo không hiểu biết”. Đây nói đối với sinh diệt vọng chấp có thật thêm lớn và hai kiến chấp hữu vô, kẻ ngu điên đảo này không có chánh tri kiến. “Niết-bàn lìa tâm ý, Chỉ một pháp thật này, Quán đời đều luống dối, Như mộng huyễn cây chuối”. Nói lìa tâm thức tức là Niết-bàn, chỉ một Như này là chân thật. Trên đã nói tông thú của Như lai, nói Như lai có tự tông thông, cho nên biết pháp thế gian luống dối đều như mộng huyễn. “Không có tham, sân, si, cũng lại không có người, từ ái sinh các uẩn, chỗ thấy như huyễn mộng”. Một bài tụng này câu trên về nói năng. Phật nói tuy có tham, sân, si, đều là luống dối mà thấy, thật không có người, từ ái mà vọng sinh ra năm ấm, chấp năm ấm này là có, như điều thấy trong mộng. Thưa hỏi Phật về tướng luống dối phân biệt: “Lúc ấy Bồ-tát Đai Tuệ… cho đến xin nói cho con nghe tướng luống dối phân biệt”. Do tông thú ở trên nói. Quán sát đời luống dối, như mộng huyễn, cây chuối, cho nên lại nêu tướng vọng phân biệt luống dối để thưa hỏi. “Tướng luống dối phân biệt này vì sao mà sinh?… cho đến vì thế gọi là luống dối phân biệt”. Ở trên hỏi chung về tướng sở hành của vọng tưởng phân biệt. Đây là nhắc lại riêng, nghóa lại có năm: 1.Hỏi tướng phân biệt nhờ đâu mà sinh? 2.Hỏi tướng phân biệt sinh ở chỗ nào? 3. Hỏi nhân của phân biệt luống dối? 4. Hỏi thể của tướng vọng tướng là gì? 5.Hỏi tên của phân biệt luống dối. Phật đáp về tướng luống dối phân biệt: “Phật bảo Đai Tuệ! Lành thay! Lành thay!… cho đến sẽ nói cho ông nghe. Đai Tuệ nói xin vâng”. Tất cả dị sinh trôi lăn trong sinh tử đều do một niệm vọng tưởng làm duyên, cho nên Đại Tuệ do đó hỏi nghóa này, thật vì làm lợi ích an vui cho chúng sinh: Nhưng vọng tưởng không thật, tuy vốn vô tánh nhưng từ vô thỉ đến nay ác tập huân xông, từ rốt ráo không thành rốt ráo có mà chúng sinh không hiểu biết, cần phải nhờ phương tiện lắng nghe suy nghó quán sát, ngộ kia vô tánh vốn vô sinh diệt, chẳng khởi vọng tưởng phân biệt có không, mới có thể chứng nhập được cảnh giới Như lai. Nói lắng nghe ấy là văn tuệ, khéo suy nghó là tư tuệ, niệm là tu tuệ. Khi Đức Phật sắp Niết-bàn cuối cùng phó chúc: Nên vâng theo bốn pháp thì sẽ chứng Niết-bàn: Nương tựa gần gũi thiện tri thức. Lắng nghe chánh pháp. Suy nghó nghóa kia. Tu hành đúng như thật. Các kinh thì vô lượng mà hành môn thì khác nhau nhưng đều có thể chứng nhập. Chỉ cần gồm thâu tất cả các hành của viên môn này, thường khiến cho, lắng nghe hiểu rõ giáo nghóa khéo suy nghó nhớ lấy. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Tất cả chúng sinh… cho đến cho nên gọi là luống dối phân biệt”. Nói về các cảnh giới sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp của các chúng sinh là cảnh giới không thật là đáp ở trên hỏi, hành tướng của phân biệt luống dối không thể biết rõ tự tậm sở hiện là đáp ở trên hỏi vọng tưởng vì sao sinh ra, chấp đắm năng, sở luống dối khởi các phân biệt là đáp ở trên hỏi vọng tưởng từ chỗ nào sinh! Tùy chấp hữu vô mà thêm lớn thói quen vọng chấp của ngoại đạo là đáp ở trên hỏi về sở nhân của vọng tưởng! Khi tâm, tâm sở tương ưng khởi chấp có các nghóa bên ngoài có thể được là đáp ở trên hỏi về thể vọng tưởng là gì! Chấp đắm ngã và ngã sở nên gọi là vọng tưởng phân biệt là đáp ở trên hỏi về tên các vọng tưởng. Nói pháp tâm, tâm sở, nghóa là tám thứ thức tâm vương, sáu vị tâm sở, khi tương ưng khởi thì chấp có các pháp như sắc… là thật có. Các nghóa như trong văn có nói. Bồ-tát Đại tuệ hỏi về sự thiết lập: “Đại Tuệ bạch rằng: Nếu thế thì tánh của các nghóa bên ngoài lìa các tướng chấp của lỗi hữu vô”. Đoạn dưới đây Đại Tuệ nêu lên thế tục Đệ nhất nghóa hai đế để nói về sự thiết lập. “Như vậy” là chỉ lời Thế Tôn đáp ở trên. Nói là nếu như vậy. Điều Thế Tôn thấy các nghóa bên ngoài rơi vào tướng hữu vô, tức là tánh lìa hữu vô, vượt ngoài tướng chấp bốn câu. Nói về nghóa đế bậc nhất: Bạch Đức “Thế Tôn! Đệ nhất nghóa đế cũng giống như vậy, lìa lượng, tông, nhân, thí dụ của các căn”: Nói Đệ nhất nghóa đế, cũng như thế đế rơi vào bốn câu hữu vô, tức là lìa hữu vô bốn câu. Lìa lượng, tông, nhân, thí dụ của các căn, nghóa là Đệ nhất nghóa lìa vọng tưởng các căn và ba thứ lượng, năm phần luận, tướng tông, nhân, thí dụ. Bạch Đức “Thế Tôn! Vì sao các nghóa… cho đến có chỗ nói khởi một thì không nói”: Đây là nói vì sao Đức Thế Tôn nghiêng về thế đế lìa chỗ hữu vô mà nói khởi phân biệt, còn về Đệ nhất nghóa lìa chỗ hữu vô thì không nói khởi phân biệt ư, cho nên biết lời Thế Tôn nói trái lý, đã đồng lìa hữu vô vì sao có một chỗ nói khởi, một chỗ không khởi. Tà kiến điên đảo của thế gian: “Thế tôn lại nói luống dối phân biệt… cho đến lời nói này đâu không rơi vào kiến chấp thế gian ư?” Lại nói vọng tưởng phân biệt rơi vào kiến chấp hữu vô, như huyễn chẳng phải thật, cũng lìa tướng có không, vì sao lại nói rơi vào hai thứ tà kiến! Đây là tà kiến điên đảo của thế gian. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Vọng tưởng bất sinh bất diệt… cho đến hiểu rõ tự tâm hiện ra”. Phật bảo Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói chỗ Thế đế sinh vọng tưởng, Đệ nhất nghóa xứ diệt vọng tưởng, cho nên nói vọng tưởng bất sinh bất diệt, kế đoạn dưới nêu lên giải thích, lời văn rất dễ hiểu. Xả bỏ năm pháp tự tánh, các kiến chấp phân biệt: “Chỉ vì người ngu phân biệt tự tâm… cho đến xả bỏ năm pháp tự tánh, các kiến chấp phân biệt”: Các cảnh giới không thật nói ở trước sinh vọng tưởng phân biệt, vì những người ngu phân biệt tất cả các pháp của tự tâm, chấp các tướng cho là thật, giúp cho họ hiểu những việc thấy đó đều do tâm hiện, được lìa các nhân duyên ác như ngã, ngã sở, v.v…, giác tự vọng tưởng tâm lượng, chuyển tâm ý thức, hiểu rõ các địa, nhập cảnh giới Như lai, xả bỏ năm pháp, ba tự tánh v.v… đối với các vọng chấp Sa-môn. “Cho nên ta nói luống dối phân biệt… cho đến biết rõ như thật thì được giải thoát”: Do nhân duyên kẻ ngu vọng tưởng, ta nói sinh các thứ chấp luống dối phân biệt. Nếu biết được nghóa như thật thì được giải thoát, dứt các vọng tưởng. Phật nói kệ: “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Các nhân cùng với duyên, từ đây sinh thế gian, tương ưng với bốn câu, không biết rõ ngã pháp”. Nói thế gian từ nhân duyên sinh, kẻ ngu không hiểu nhân duyên tánh lìa, khởi chấp tú cú, không biết Như lai thông đạt từ duyên sinh, đó gọi là pháp vô sinh. “Thế chẳng hữu vô sinh, cũng chẳng câu bất câu, vì sao những người ngu, phân biệt nhân duyên sinh”: Nghóa là thế gian chẳng tương ưng với bốn câu. Tại sao kẻ ngu vọng tưởng phân biệt, pháp trong nhân duyên có sinh. “Chẳng có cũng chẳng không, cũng lại chẳng có không, như vậy quán thế gian, tâm chuyển chứng vô ngã”: Nói trong nhân duyên không sinh, lìa bốn câu, quán được như vậy thì vọng tâm dần dứt, đắc pháp vô ngã. “Tất cả pháp bất sinh, do từ duyên sinh ra, do các duyên tạo tác, pháp sở tác chẳng sanh”. Nói từ nhân duyên sinh là không có tự thể, biết tất cả pháp vô sinh. Đã từ duyên tạo tác, chẳng phải tự có sinh, tức nói về vô. “Quả không tự sinh quả, vì có lỗi hai quả, vì không có hai quả, chẳng có tánh thật có”: Như cái bình lại tự sinh bình, thì có lỗi hai quả năng sinh sở sinh. Đã không có hai lỗi, thì tánh vô sinh thật có. Trên đây trong các bài tụng nói kẻ ngu chấp đắm đối với các pháp không thật, từ nhân duyên sinh, khởi phân biệt có không. Trong đây phá các pháp nhân duyên sinh, lìa chấp vọng tưởng có không bốn câu. “Quán các pháp hữu vi, lìa năng duyên sở duyên, quyết định chỉ là tâm, nên ta nói tâm lượng”: Nói vọng tưởng niệm lự gọi là năng duyên. Cảnh giới sáu trần gọi là sở duyên, nói quán pháp hữu vi là luống dối, lìa năng duyên sở duyên, quyết định chỉ là nghóa tâm bậc nhất, cho nên ta cũng gọi là tâm lượng. Có bản nói là tâm lượng của vô tâm, ta nói là tâm lượng. “Chỗ tự tánh của lượng, duyên và pháp đều lìa, việc rốt ráo diệu tịnh, ta gọi là tâm lượng”. Nói chỗ tự thể của lượng, nhân duyên và pháp cả hai đều lìa, rốt ráo thanh tịnh diệu viên chân thật, đều là pháp môn đối trị, cũng nói là tâm lượng. “Lập bày ngã giả danh, thật ra không thật có… cho đến người tu hành quán sát”: Là nói ba cõi luống dối, ngã và các pháp đều không thật. Nói có bốn thứ bình đẳng: tướng hữu vi vô thường bình đẳng, nhân hữu lậu khổ bình đẳng, pháp sở sinh đều không, chẳng thật và vô ngã bình đẳng, là bốn thứ bình đẳng. Những người tu hành phải siêng năng quán sát. “Lìa tất cả các chấp, và năng sở phân biệt, vô đắc cũng vô sinh, ta nói là tâm lượng”. Nói người tu hành quán bốn thứ bình đẳng, lìa bỏ được các chấp, năng sở phân biệt, vô sinh vô đắc. Đây là nói đối đãi, cũng là tâm lượng. “Chẳng có cũng chẳng không, có không thảy đều lìa, tâm như vậy cũng lìa, ta nói là tâm lượng”: Nghóa là lìa hữu vô bốn câu, tâm lìa như vậy cũng lại lìa, cũng chưa thoát tâm lượng. “Mé chân như không thật, Niết-bàn và pháp giới, các thứ thân ý thành, ta nói là tâm lượng”. Đối với biến dị mà nói chân như. Đối có nói không, đối vọng nói mé thật, đối sinh tử nói Niết-bàn, đối sáu đường nói pháp giới, đối năm ấm nói thân ý thành. Đây đều là pháp môn đối trị. Nếu tâm lời chấp đắm có chỗ đắc đều là tâm lượng. Cho nên kinh Đại Bát-nhã chép: Nếu có một pháp nào hơn cả Niết-bàn thì ta cũng nói là như huyễn, như mộng, vì Niết-bàn vô tướng, nếu chấp ở tướng tức là tâm lượng, chẳng phải Niết-bàn chân thật. “Thói quen vọng tưởng buộc, các thứ từ tâm sinh… cho đến ta nói là tâm lượng”: Đây nói cảnh giới sáu đường sinh tử, y báo chánh báo, là tâm lượng vọng tưởng của thế tục. Như Đại Tuệ nói Đệ nhất nghóa đế cũng giống như vậy. Lìa các căn lượng, tông, nhân, thí dụ, nghóa là đối với tâm lượng thế đế mà nói lượng Đệ nhất nghóa. Lượng Đệ nhất nghóa cũng đều là đối trị mà nói. Cho nên kinh Lăng-nghiêm chép: Nói vọng hiển các chân, vọng chân hai đều vọng, vẫn chẳng chân chẳng chân, làm sao kiến sở kiến, đều dứt bặt tình kiến đối đãi, chân tục, muốn giúp cho như thật chứng nhập. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi về ngữ nghóa: “Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng… cho đến thế nào là ngữ? Thế nào là nghóa?” Vì ở trên nói biết rõ như thật thì được giải thoát, cho nên nêu lên Bồ-tát sẽ nương vào nghóa, chẳng chấp lời nói, mà hỏi thế nào là ngữ, là nghóa. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe, ta sẽ nói cho ông nghe… cho đến tương đối bàn nói, đó gọi là ngữ”: Nói thói quen vọng tưởng làm nhân, cổ họng môi lưỡi răng nướu cằm má làm duyên, phát ra các âm thanh văn tự bàn nói, cho nên gọi là ngữ. Thế nào là nghóa? Đại Bồ-tát, v.v… cho đến các thứ hành tướng đó gọi là nghóa”: Ở đây nói về thật nghóa, là Đại Bồ-tát ở chỗ vắng lặng dùng chánh niệm quán sát thấy người pháp đều không, hướng đến thành Niết-bàn, cảnh giới tự giác, dứt các vọng tập, thực hành các địa, thăng tiến hành tướng, đến Như lai địa, chứng được pháp thật, nên gọi là nghóa. Nhập nghóa thật tự chứng lìa lời nói: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát… cho đến nhập vào cảnh giới tự chứng lìa lời nói”. Đây nói các Đại Bồ-tát giỏi về ngữ nghóa, thông hiểu chẳng phải một khác, như đèn chiếu sắc mà sắc, chẳng phải đèn, nghóa là do đèn mà thấy sắc, không được nói khác, mà sắc chẳng phải đèn, cho nên không được nói một. Dùng thí dụ nhờ ngữ mà nhập nghóa, không được nói khác, mà nghóa chẳng phải ngữ cho nên không được nói một. Cho nên nói nhờ ngữ mà nói đèn, nhập vào nghóa thật tự chứng lìa lời nói. “Lại nữa, Đại Tuệ, nếu có người đối với bất sinh bất diệt… cho đến kẻ ngu chấp chẳng phải Thánh hiền”. Đây là nói nếu có người đối với các pháp nhiễm tịnh, như bất sinh bất diệt v.v… Như nói chấp nghóa, chấp lời nói và nghóa là một gọi là dựng lập, chấp lời nói và nghóa là khác gọi là chê bai. Nói khác là đối với kia mà khởi phân biệt, giải thích thành chấp khác, thí như thấy các thứ huyễn mà chấp cho là thật, đó là kiến giải luống dối của kẻ ngu chẳng phải Thánh hiền. Giải thích thành chấp một. Đức Thế tôn nói kệ: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Lời nói vọng tưởng kia, dựng lập ra các pháp, bởi do kia dựng lập, chết rơi vào địa ngục”. Nói các kẻ ngu theo ngôn chấp nghóa lập ra các pháp. Do chấp có pháp nên không khỏi rơi vào đường ác, chê bai cũng như vậy. “Trong uẩn không có ngã, uẩn chẳng phải tức ngã, chẳng như phân biệt kia, cũng lại chẳng hữu vô”. Trong ấm không có ngã, để so sánh với trong lời nói không có nghóa. Chẳng phải uẩn tức là ngã, để so sánh lời nói chẳng phải tức là nghóa. Nói nghóa chân thật không bằng người ngu kia vọng tưởng lập ra, cũng chẳng phải vô minh lìa hữu vô. “Như người ngu phân biệt, tất cả đều có tánh, nếu như kia đã thấy, thấy tất cả chân thật”. Nói nếu như người ngu kia kiến chấp phân biệt, tất cả nghóa lời nói đều có thật tánh, thì tất cả kẻ phàm ngu đều tức là người thấy được chân đế, nên gọi là Thánh hiền. “Tất cả pháp tịnh uế, thảy đều vô thể tánh, chẳng thật như kia thấy, cũng chẳng không thật có”. Vì kẻ ngu kia không thể thấy chân đế, các pháp nhiễm tịnh mà phàm ngu thấy đều không có tự tánh, cho nên nói chẳng thật như kia thấy, cũng chẳng không thật có. Nghóa chân thật chẳng quan hệ hữu vô, chỉ có bậc Thánh tự giác Thánh trí mới chứng được. Nói về tướng trí thức: Nói về trí: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Ta sẽ cho nói ông nghe… cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Đức Như lai nhân ở trên nói Bồ-tát phải khéo biết tướng ngữ nghóa, muốn biết rõ ngữ là thức, biết nghóa là trí, cho nên kế là nói về tướng trí thức. “Này Đại Tuệ! Trí có ba thứ, đó là trí thế gian… cho đến chấp pháp hữu vô”: Nói chấp đắm hữu vô, là trí của phàm phu ngoại đạo tình kiến thế gian. “Thế nào là trí xuất thế gian? Nghóa là người hai thừa chấp tự tướng, cộng tướng”: Người Hai thừa chấp đắm ấm, giới, nhập… tự tướng, cộng tướng, không hiểu pháp không, tu hành dứt sinh tử, hy vọng Niết- bàn, đó là trí xuất thế gian. “Thế nào là trí xuất thế gian thượng thượng?… cho đến chứng pháp vô ngã, người vô ngã, nhập Như lai địa”: Ở đây nói rõ tự giác Thánh trí, quán tất cả các pháp tự tướng, cộng tướng, vốn không sinh diệt, lìa hữu lìa vô, thấu đạt người vô ngã, pháp vô ngã, chứng nhập Như lai địa, đó gọi là Trí xuất thế gian thượng thượng. Nói về thức: “Này Đại Tuệ! Lại có ba thứ trí… cho đến trí biết sinh diệt, trí biết không sinh diệt”: Đây là nói Như lai nhất trí, tùy theo vật mà có khác nhau. Nghóa là dẫn dắt người Hai thừa, biết tự tướng, cộng tướng, ứng phàm phu biết sinh diệt, giống như Bồ-tát biết không sinh diệt, cho nên lại nói ba thứ. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Sinh diệt là thức… cho đến lìa tướng, vô tướng và nhân hữu vô là trí”. Nói sinh diệt rơi vào hữu vô và nhân hữu vô đều là thức, vô sinh diệt lìa hữu vô và nhân gọi là trí. “Có sự chứa nhóm là thức… cho đến không chấp tướng cảnh giới là trí”: Sự chứa nhóm hạt giống khởi hiện hạnh là thức, lại năng huân chứa nhóm hạt giống các pháp gọi là thức. “Ba hòa hợp tướng ứng sinh là thức… cho đến tướng vô đắc là trí”. Ngã và căn, trần ba việc hòa hợp tướng ứng sinh là thức, không nhờ duyên sinh, không do cảnh mà khởi. Tương ưng vô ngại, tánh tự thần giải gọi là trí. “Cảnh giới sở hành chứng tự Thánh trí chẳng ra chẳng vào như trăng đáy nước”: Nói tự Thánh trí giác ngộ các cảnh giới không thật, như trăng đáy nước, cho nên không ra không vào. Lại nói rằng trí tánh vốn sáng suốt, bền chắc chẳng sinh diệt, chỉ vì lìa vọng gọi là sinh, vọng bị che lấp gọi là diệt, như nước đứng yên trăng hiện, nước động ảnh tan biến, nhưng tánh trăng vẫn thường như vậy, vốn không đến đi. Đức Phật nói kệ: “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Gom nhóm nghiệp làm tâm, Quán sát pháp là trí, Tuệ năng chứng vô tướng, Làm sức mạnh tự tại”. Gom góp các nghiệp là nhân sinh tử, gọi là tâm thức, quán sát các pháp như mộng huyễn, hình bóng trong gương, không theo phiền não mà gây ra các nghiệp gọi là trí, chứng được pháp thân vô tướng thanh tịnh nhiệm mầu oai quang tự tại, đó gọi là tuệ. “Cảnh giới buộc là tâm, giác tưởng sinh là trí, vô tướng và tăng thắng, trí tuệ từ đó sinh”: Nói bị cảnh giới mộng huyễn trói buộc gọi là tâm vọng tưởng, hiểu rõ tất cả cảnh giới không thật đều do vọng tưởng sinh, gọi là trí. Vô tướng là Địa thứ tám, và tăng thắng là Như lai địa. Nói trí tuệ Phật từ Địa thứ tám Như lai địa sinh. “Tâm ý cùng với thức, lìa các tưởng phân biệt, được pháp vô phân biệt, Phật tử chẳng Thanh văn”: Tâm là tạng thức thứ tám. Ý là thức thứ bảy. Và cùng với thức là sáu thức trước. Cho nên bài kệ dưới nói: Tàng thức gọi là tâm, tánh tư lương gọi ý, rõ được các cảnh tướng, vậy nên gọi là thức. Nói giác tàng thức và các chuyển thức luống dối, không còn phân biệt. Phật tử là Bồ-tát. Nói đắc pháp không vọng tưởng phân biệt tức là Bồ-tát, chẳng phải là Thanh văn. “Nhẫn vắng lặng cao siêu, trí Như lai thanh tịnh, sinh ra nghóa thiện thắng, xa lìa các sở hành”: Trong kinh Nhân Vương nói có năm thứ nhẫn: là phục, tín, thuận, vô sinh và vắng lặng, mỗi thứ đều có phẩm thượng, phẩm trung, phẩm hạ. Người Địa tiền đắc phục nhẫn phẩm thứ ba, hàng Cửu địa như thứ lớp phối hợp ba nhẫn kế. Bậc Thập địa, Đẳng giác và Phật đắc vắng lặng nhẫn, cho nên nói nhẫn vắng lặng thù thắng, đó là trí thanh tịnh Như lai. Nói trí thanh tịnh Phật nhẫn từ thắng nghóa đế sinh cho nên xa lìa tất cả cảnh giới sở hành của tâm thức vọng tưởng. “Ta có ba thứ trí, bậc Thánh năng chiếu sáng, phân biệt đối các tướng, mở bày tất cả pháp”: Đức Như lai tùy căn cơ nói pháp có ba thứ trí: đó là bậc Thánh chiếu sáng biết các tướng phân biệt không thật, mở bày tất cả, giúp chúng sinh ngộ thật pháp. “Trí ta lìa các tướng, siêu vượt người hai thừa… cho đến biết rõ chỉ duy tâm”. Nói người hai thừa nhàm chán, sinh tử, cầu Niết-bàn, chấp có các pháp như năm ấm v.v… không thấu đạt duy tâm lượng. Trí Phật thanh tịnh biết rõ tướng ấm, giới, nhập không thật, nên gọi là đạt tâm lượng. Nói về luận thuyết chuyển biến của ngoại đạo: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Ngoại đạo có chín thứ chuyển biến kiến”: Nhân ở trên nói trong tướng trí thức thì trí ngoại đạo biết sinh diệt, cho nên kế là nói chín thứ sinh diệt chuyển biến của ngoại đạo, nghóa là hoặc cảnh chuyển tâm biến, hoặc tâm chuyển cảnh biến. “Cái gọi là hình chuyển biến, tướng chuyển biến… cho đến khởi hữu vô chuyển biến luận”: Y báo, chánh báo hình dáng khác nhau, gọi là hình chuyển biến. Tướng năm ấm sinh trụ dị diệt, một niệm không trụ, gọi là tướng chuyển biến. Nói vô nhân tà nhân năng sinh các pháp, gọi là nhân chuyển biến. Tâm sinh cảnh khởi năng sở tương ưng, gọi là tương ưng chuyển biến. Chấp hữu vô bốn câu, gọi là kiến chuyển biến. Nói pháp sở sinh từ Minh đế tự tại v.v… sinh ra, gọi là sinh chuyển biến. Các pháp hữu vi diệt, gọi là vật chuyển biến. Duyên năng hiển quả, gọi là duyên minh liễu chuyển biến. Duyên sở tác pháp khác nhau, gọi là sở tác minh liễu chuyển biến. Các ngoại đạo do chín thứ chuyển biến này mà khởi kiến chấp có không, sinh ra luận thuyết chuyển biến. Tướng chuyển biến, chẳng phải tánh chuyển biến: “Trong đây, hình chuyển biến? Nghóa là khác chấp khác… cho đến tất cả pháp biến cũng giống như vậy”. Nói đây là hình chuyển biến. Thí như dùng vàng làm ra các vật dụng thì có các thứ hình dạng khác nhau. Nói có chuyển biến, chẳng phải tánh vàng chuyển biến, tất cả các pháp chuyển biến cũng giống như vậy. Chân thể mầu nhiệm sáng tỏ thường trụ không thay đổi, phàm phu ngoại đạo không thể biết điều đó. “Có các ngoại đạo khác khởi các thứ chấp đắm… cho đến tất cả chuyển biến như thế nên biết”: Nói các ngoại đạo khác, cho đến sở tác minh liễu chuyển biến, các thứ chấp đắm chẳng phải một, chẳng phải khác, chỉ vì vọng tưởng nên tất cả đều chuyển biến như vậy. Nêu ví dụ để làm sáng tỏ: “Thí như sữa, lạc, rượu, quả v.v… đã chín… cho đến tự tâm hiện ra không phải vật bên ngoài”: Ngoại đạo vọng chấp tất cả tánh chuyển biến, chẳng phải một chẳng phải khác, thí như sữa, lạc, rượu, quả… đã chín. Từ sữa được lạc, không được nói là khác, hơi và mùi vị khác nhau, không thể nói một, kia thật không có pháp hữu vô để chuyển biến. Nói pháp hữu vô là tự tâm vọng hiện, tánh bên ngoài không thật. “Như thế đều là phàm ngu ngu mê… cho đến con của gái bất dục nói có sinh tử”: Đây là lời tổng kiết đều do phàm ngu vọng tưởng thói quen nói có chuyển biến, như mộng huyễn thấy sắc, gái bất dục sinh con, vốn không thật có, đâu được nói có sinh diệt chuyển biến. Đức Phật nói kệ: “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Hình, xứ, thời, chuyển biến, bốn đại chủng các căn, trung ấm thứ lớp sinh, vọng tưởng chẳng minh trí”. Ngoại đạo nói hình, xứ, thời tiết, bốn đại chủng làm các căn chuyển biến. Người hai thừa chấp có trung ấm dần dần nối nhau sinh ấm, đều là vọng tưởng. “Các Phật không phân biệt, duyên khởi và thế gian, nhưng các duyên thế gian, như thành Càn-thát-bà”: Đức Phật biết pháp do nhân duyên khởi là vô sinh, chẳng phải luống dối tưởng phân biệt kia, chấp trong nhân duyên có các pháp thế gian chuyển biến. Nhưng thế gian từ duyên khởi, như thành Càn-thát-bà vốn không thật. Cho nên biết dùng trí chiếu thì thế pháp thành Phật pháp, cho nên không phân biệt; dùng tình chấp thì Phật pháp thành thế pháp, cho nên luận chuyển biến, nhất tâm thật bất động, hai kiến chấp tự thành sai, cùng đồng trong một pháp, mà thành phàm Thánh riêng. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi Phật về nghóa chấp đắm thân mật và ng- hóa giải thoát: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến nghóa thâm mật và tướng giải thoát”. Đại Tuệ do bài kệ trên nói đại chủng và các căn, trung ấm thứ lớp sinh, tức là nghóa chấp đắm của thâm mật. Đã có chấp mật thì lẽ ra cũng có dứt, vì chấp mật được giải thoát. Ở đây nêu nghóa chấp đắm thâm mật trái với nghóa giải thoát để thưa hỏi? Bổn khác nói nghóa tất cả pháp nối nhau và nghóa giải thoát. “Giúp con và các Bồ-tát… cho đến không chấp đắm lời nói khiến chuyển sở y”: Không có vật tư ích, giống như mặt trời, mặt trăng, ma- ni, nước, lửa v.v… các nghóa khác như trong kinh có nói, nói biết nghóa tất cả pháp nối nhau và nghóa giải thoát không thật, có ích như vậy cho nên thưa hỏi. Chấp đắm các pháp luống dối mà không tự giác: “Phật bảo Đại Tuệ: Lành thay, lắng nghe, Ta sẽ nói cho ông nghe… cho đến chấp đắm hữu vô, dục lạc bền chắc”: Đây nói tất cả các pháp luống dối không có tự thể, không thể nói năng bậc Thánh phương tiện dắt dẫn chúng sinh, khiến biết không thật, nói năng bằng mọi cách phàm ngu không rõ, chấp đắm lời nói và chấp nghóa của nó, chấp đắm thâm mật nghóa là tướng chấp đắm, cho đến chấp đắm của ba thừa, Nhất thừa, các chấp thâm mật này số nhiều vô lượng, đều là chúng sinh ngoại đạo, phàm ngu, tự vọng tưởng chấp, như tằm làm kén tự trói buộc mình. Dùng sự chấp đắm này chuyển dạy người khác, đó gọi là trói buộc người khác, cho nên chấp đắm hữu vô dục lạc bền chắc mà không tự giác. các pháp luống dối tìm thật nghóa đều không thật có: “Này Đại Tuệ! Trong đây thật không có tướng mật, chẳng phải mật… cho đến tìm thể tánh kia không thật có”: Đoạn văn kinh trên đều nói chấp đắm. Đây chính nói rõ thật nghóa của các pháp, cho nên nói trong đây thật không có tướng mật và chẳng phải mật. Nếu chắc chắn có thì các Đại Bồ-tát không thể thấy các pháp vắng lặng, không có phân biệt. Nếu các ngoại đạo phàm phu hiểu rõ được do tâm hiện vốn không có vật bên ngoài, đều đồng vô tướng, thuận theo quán sát, đối với tất cả các pháp có không đều thấy vắng lặng thì không có tướng trói buộc và chẳng trói buộc. Nhưng đây chẳng phải xưa nay không trói buộc cũng không có mở, không ngộ thật nghóa các pháp, vọng chấp trói và mở đó thôi. Vì sao? Vì không có trói mở, nghóa là tất cả phàm tình Thánh lượng các pháp hữu vô thảy đều luống dối, tìm thật nghóa kia đều không thật có. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si… cho đến cho nên không có tướng mật và chẳng phải mật”: Nói có ba độc và ưa quả báo giàu sang đời sau sung sướng, đi chung với tham hỷ, cho nên ba cõi sinh tử nối nhau không dứt. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Nếu có chấp đắm… cho đến tất cả các trói buộc thảy đều không sinh”: Nói tâm trói buộc thì tất cả trói buộc, khởi chung với trần lao, cho nên các thức trói buộc nối nhau sinh khởi, tâm cởi mở thì tất cả đều cởi mở, tương ưng với thật tướng, cho nên nói tất cả trói buộc thảy đều bất sinh. Đức Phật nói kệ: “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Vọng phân biệt không thật, đó gọi là tướng mật, nếu biết đúng như thật, lưới các mật sẽ rách”: Vì vọng tưởng không thật nên nói có trói buộc. Nếu hiểu rõ chân thật, thì giải thoát còn không, lưới mật làm gì có. “Phàm ngu không hiểu biết, tùy lời mà chấp nghóa, như tằm nằm trong kén, nhả tơ mà tự nói”: Đây nói phàm ngu không biết các pháp vô tánh, theo lời mà chấp nghóa, cho nên vì vọng tưởng mà tự trói buộc mình. Không có trói cũng không có mở: “Lúc ấy, Đại Tuệ lại bạch Phật… cho đến đây chỉ là vọng chấp”: Nhân ở trên nói đối với tất cả các pháp chấp đắm thâm mật, số ấy nhiều vô lượng, đều là phàm ngu tự phân biệt chấp, buộc mở đều không. Đại Tuệ đem lời vặn hỏi trình bày tóm lược, sợ chúng sinh rơi vào chấp không, cho nên trước hỏi, như Thế tôn nói: Do các tâm phân biệt các pháp, tức Đức Phật dạy ở trên tướng mật chấp có vô lượng thứ, đều do phàm ngu tự phân biệt các văn. Chẳng phải các pháp có tự tánh, nên ở trên Phật dạy tất cả các pháp đều không có thể tánh. Đây chỉ do vọng chấp đó thôi! Dứt trên Phật dạy trong đây không có trói cũng không có mở, do không hiểu thật nghóa các pháp nên chấp có trói mở! Không có chúng sanh phiền não, không có bậc Thánh giải thoát: “Bạch Thế tôn! Nếu chỉ có vọng chấp không có các pháp thì các pháp nhiễm tịnh e rằng đều bị hoại?” Ở đây nói định tông chánh thức nêu vặn hỏi, nếu nói chỉ có vọng tưởng phân biệt, chấp có các thứ buộc mở, mà thật không có các pháp thì không có chúng sinh tạp nhiễm phiền não, cũng không có bậc Thánh thanh tịnh Niết-bàn, e rằng Như lai phá hoại tất cả pháp, rơi vào kiến chấp không ư! “Phật bảo Này Đại Tuệ! Đúng thế, đúng thế… cho đến đây chỉ có vọng chấp chẳng có tánh tướng”: Ở trên Đại Tuệ hỏi trong đây có hai thứ nạn: 1.Là vặn hỏi Như lai nói không trói mở, thì không có tất cả các pháp nhiễm tịnh. 2.Vặn hỏi Như lai rơi vào lỗi chấp không. Phật dạy đúng vậy v.v… là chấp nhận lời vặn hỏi của Đại Tuệ. Trước đáp lời vặn hỏi thứ nhất rằng: Đạo lý chân thật thật không có chúng sinh phiền não, cũng không có Niết-bàn thanh tịnh, đây chỉ là luống dối chấp đắm, vốn không có tánh tướng của các pháp. Lìa chấp thì chân tánh tự sáng tỏ: “Nhưng các bậc Thánh dùng Thánh mắt tuệ như thật thấy biết có tự tánh các pháp”. Đây là đáp lời vặn hỏi sau. Nói ta không rơi vào chấp không, tất cả bậc Thánh có pháp tự tánh chân thật, chỉ có bậc Thánh dùng Thánh trí mà biết, dùng mắt tuệ mới thấy được, không rơi vào chấp không. Cho nên biết ở trên đã bỏ có nói không, nay lại nêu chân bỏ đoạn, chỉ lìa tình chấp thì chân tánh tự sáng tỏ, cho nên nói tri kiến như thật. Đại Tuệ nêu năm câu hỏi xin Như lai giải thích: “Đại Tuệ bạch Phật: Nếu các bậc Thánh… cho đến không đồng với sở phân biệt của phàm ngu”. Nhân trên Phật dạy có tự tánh các pháp, không rơi vào chấp không. Đại Tuệ lại muốn vặn hỏi trình bày tóm lược, trở lại hỏi rằng: Nếu các bậc Thánh dùng Thánh trí rất dễ hiểu, dùng mắt tuệ có thể thấy, có tự tánh chân thật của các pháp, thiên nhãn, nhục nhãn chẳng thể thấy biết, không đồng với kiến chấp phân biệt luống dối của phàm ngu, cho nên Đại Tuệ nhân đây nối tiếp khởi nghi, bày tỏ năm thứ vặn hỏi mong Như lai giải quyết. “Làm sao phàm ngu lìa được phân biệt mà không thể giác liễu pháp của các Thánh!” Thứ nhất phàm Thánh mỗi thứ hỏi riêng. Nói ngoại đạo, ngu phu đã không thấy pháp tánh chân thật của bậc Thánh thì làm sao có thể nương chân để bỏ vọng được, cho nên nói không thể như thật hiểu biết các pháp của bậc Thánh. “Thế tôn! Họ chẳng điên đảo… cho đến chỗ thấy của bậc Thánh xa lìa tướng có không”: Thứ hai là chẳng phải điên đảo, chẳng phải không điên đảo! Cũng không được nói kẻ ngu kia là điên đảo hay chẳng phải không điên đảo. Vì sao chẳng phải điên đảo chẳng phải không điên đảo? Nghóa là phàm Thánh đã mỗi thứ vặn hỏi riêng, phàm ngu không thấy bậc Thánh lìa pháp hữu vô chân thật. Nếu từng thấy pháp do bậc Thánh thấy lại làm việc thế tục vọng tưởng thì đáng gọi là điên đảo, vì vốn không chân thật nên không thể nói điên đảo, chẳng điên đảo. “Bậc Thánh cũng chẳng như, sự phân biệt của phàm phu, vì đắc như thế cho nên chẳng lấy cảnh giới tự tướng làm giới tướng”: Thứ ba là nói Thánh đồng phàm điên đảo. Nói các bậc Thánh cũng chẳng như phàm phu phân biệt luống dối có tướng sở đắc là nói chẳng phải Thánh trí tự giác vì chẳng lấy cảnh giới tự tướng làm cảnh giới, cho nên chẳng đồng với phàm ngu được việc như vậy. Nếu thực hành tự cảnh giới, thì chẳng phải vô sở đắc, cũng đồng với phàm phu. “Kia cũng thấy có tánh tướng các pháp… cho đến rơi vào kiến chấp tánh tướng các pháp”: Đây chính thức lập vặn hỏi. Nói bậc Thánh kia lấy cảnh giới tự tướng làm cảnh giới, cũng có tánh tướng chân thật của các pháp, tức đồng với phàm ngu vọng tưởng chấp tánh mà hiển hiện, nhưng lại không nói nguyên người pháp tánh chân thật, nhân duyên, chẳng phải nhân duyên, vì rơi vào cái thấy tánh tướng của pháp vọng chấp của phàm phu. Đây gọi là bậc Thánh đồng điên đảo như phàm ngu. “Thế tôn! Các cảnh giới khác không đồng với ở đây… cho đến ai rõ biết được tánh tướng các pháp!”. Đây là lặp lại để giải thích thành. Các cảnh giới ấy tức cảnh giới ba cõi của phàm phu. Nói phàm trái với Thánh nên bị lỗi vô cùng, nếu Thánh khác phàm cũng giống như vậy. Hoặc Thánh hoặc phàm thì ai có khả năng hiểu biết như thật tánh tướng chân thật của các pháp. “Thế tôn! Tánh tướng các pháp không nhân phân biệt… cho đến chỗ thấy pháp tướng không có pháp như vậy”. Thứ tư vặn hỏi phàm cảnh chẳng phải vọng. Nói tánh tướng các pháp tự có, không do phân biệt mà có, vì sao Đức Phật nói do là mà có các pháp? Thế tôn, tâm tướng phân biệt luống dối cảnh tướng các pháp, hai tướng đều khác. Nhân không tương tự, vì sao các pháp do phân biệt mà có. Lại vì việc gì mà nói phàm ngu phân biệt các pháp, mà các pháp tánh chẳng phải có như vậy. Nói vì chúng sinh lìa sự phân biệt. Nói như pháp tướng phân biệt mà thấy, không có thật pháp như vậy. Đây là nói cảnh giới mà phàm phu thấy, là thật chẳng phải vọng, không do phân biệt mà có để đặt lời vặn hỏi. “Thế tôn! Vì sao khiến các chúng sinh… cho đến mà nói việc Thánh trí tự tánh”: Thứ năm là vặn hỏi rơi vào chấp có, nói Phật làm thế nào giúp cho các phàm phu lìa kiến chấp hữu vô, mà lại chấp đắm cảnh giới Thánh trí pháp tánh chân thật, rơi vào chấp có. Vì sao không nói không Như lai Tạng, pháp phi tâm hành xứ vắng lặng, mà nói việc Thánh trí sở hành tự tánh chân thật? Đây là rơi vào chấp có. Ở trên Phật lại nói phân biệt pháp tánh chẳng có như vậy, đó là rơi vào chấp không. Đây là vặn hỏi Thánh trí cũng rơi vào hữu vô. Lìa bỏ sự đối lập giữa phàm Thánh, hữu vô: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Ta chẳng phải không nói… cho đến xa lìa tất cả tất cả các chấp hữu vô”: Là nói Như lai phương tiện nói có Thánh trí tự tánh chân thật, tức không có tướng chân thật để được, dứt bặt lượng Thánh phàm, chỉ chứng mới tương ưng. Đáp chung năm vặn hỏi trước, cho nên bảo Đại Tuệ, Ta chẳng phải không nói không pháp lìa kiến vượt tình vắng lặng, rơi vào chấp hữu. Vì sao không rơi vào chấp hữu! Đã nói thật pháp Thánh trí sở chứng, vì không trái với việc chân không tự tánh. Ta vì chúng sinh từ vô thỉ giác, chấp đắm có không, đối với không pháp như thật dùng việc Thánh trí như thật bất không mà nói, giúp cho họ nghe pháp này rồi không sinh sợ sệt đoạn thường, cũng chứng được thật pháp như ta đã chứng, lìa tướng phân biệt hoặc loạn, nhập duy thức chân thật tánh, biết sở kiến ấy không có ngoại pháp riêng, chứng ngộ ba môn giải thoát: không, vô tướng, vô tác. Được pháp ấn như thật, hiểu rõ cảnh giới của bậc Thánh cho nên lìa tất cả chấp đắm của phàm tình và Thánh lượng hữu và vô. Lý do không được lập tông Bất sinh: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Tất cả pháp chẳng sinh… cho đến tướng nhân sinh của tông kia”: Đây nói tất cả pháp tự tánh chân thật vốn bất sinh, không nên lại lập bất sinh tông. Văn có sáu tiết để bác bỏ tình chấp về tông: Bác bỏ pháp vốn không sinh: Nói Bồ-tát không nên thành lập tất cả các pháp thảy đều bất sinh là nêu chung để khuyên. Vì sao không nên lập tông bất sinh! Vì tất cả các pháp xưa nay không có và tướng nhân sinh của tông kia xưa nay đều không có nên không được lập tông bất sinh. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp bất sinh…, cho đến tông kia có đối đãi mà sinh”. Bác bỏ pháp do nhân đối đãi sinh: Đây nói nếu lập tông bất sinh thì tự hoại nghóa bất sinh. Lại, nêu vì sao tự hoại nghóa bất sinh? Vì tông bất sinh sở lập kia, chủ yếu là do pháp đối đãi mà sinh. Nói bất sinh tông, nếu bất sinh nhân người khác sinh pháp mà nói thì tức là tự hoại nghóa bất sinh. Cho nên trong luận nói nếu pháp do đối đãi mà thành, thì pháp ấy lại thành đối đãi. 4 5. Tướng bất sinh cũng bất sinh: “Lại tông bất sinh ấy được xếp vào tất cả pháp, vì tướng bất sinh cũng bất sinh”. Phá vặn hỏi đồng với các pháp: Lại tông bất sinh kia, được xếp vào trong tất cả pháp số. Tất cả pháp ấy, tức là pháp thế gian, xuất thế gian, sinh, bất sinh, các pháp hữu vô, một khác, thường phi thường. Nếu lập bất sinh tông, thì xếp vào tất cả pháp số. Nói tướng tất cả pháp bất sinh vốn cũng bất sinh, cho nên không đối đãi mà lập. “Lại tông kia do các phần mà thành… cho đến tướng hữu vô cũng bất sinh”. Bác bỏ giả năm phần thành rơi vào có không: Kia lập tông bất sinh, phải nhờ vào nhân thí dụ hợp kiết năm phần mà thành, vì thế không nên lập. Lại, kia không sinh tông, đối với pháp hữu vô mà lập đều không đúng, tông này tức nhập vào tất cả pháp số, tánh tướng hữu vô vốn cũng bất sinh, chỗ nào mà lập tông bất sinh cho được. Cho nên tất cả pháp bất sinh… cho đến vì lần lượt làm nhân tướng khác: Bác bỏ lập tông nhiều lỗi: Cho nên nếu lập tông tất cả pháp bất sinh, tức là tự hoại nghóa bất sinh. Kiết thúc khuyên không nên lập tông như vậy. Vì năm phần luận thành nhiều lỗi. Ý nói vì thể tánh vốn bất sinh, lại lập tông bất sinh, cho nên là nhân xoay vần. Tướng khác là tất cả pháp thể tánh bất sinh, khác với tông bất sinh. 4 6. Các pháp không có tự tánh, chẳng nên lập tông: “Như bất sinh tất cả pháp, không vô tự tánh cũng giống như thế”. 6.Bác bỏ y theo nhau làm phép tắc so sánh: Nói nếu bất sinh đã như vậy, tất cả pháp không, vô tự tánh, không nên lập tông, cũng giống như vậy. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát… cho đến mà kinh sợ xa lìa Đại thừa: Ở trên phá chung không nên lập tông. Đây nói Bồ-tát nên nói tất cả pháp, thể đồng mộng huyễn, tánh lìa hữu vô. Như huyễn mộng hiện, nên sinh không thành sinh. Huyễn mộng không hiện, nên không sinh không thành bất sinh. Trong thành không có nhân lập tông, không được nói sinh, bất sinh. Cho nên nói như huyễn như mộng, dù thấy hay không thấy nhưng tất cả pháp đều là tướng vọng tưởng hoặc loạn. Nếu nói sinh, bất sinh, thì phàm ngu ngu si phần nhiều rơi vào hữu vô, mà sinh sợ hãi. Nếu nói như huyễn như mộng, hai thứ tình chấp tự bỏ, kiết hợp với trước nói có tự tánh chân thật, lìa hữu lìa vô, nên ngộ nhập như thế tức là khế hợp với Đại thừa. Đức Phật nói kệ: “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Vô tự tánh không nói, chẳng sự chẳng chỗ nương, phàm ngu vọng phân biệt, ác giác như thây chết”. Nói tất cả pháp vô tự tánh tướng, cũng không lời nói, hoặc sự hoặc lý, tâm năng y, chỗ sở y đều không, nhưng kẻ ngu này vọng tưởng ác giác, không có tuệ mạng, như thây chết kia. Bài tụng trên nói Như lai chấp nhận câu vặn hỏi, trước hết đáp vặn hỏi đầu. Nói các pháp tánh chẳng có như vậy, đây chỉ là vọng chấp, v.v… “Tất cả pháp bất sinh, do ngoại đạo thành lập, vì kia tất cả sinh, chẳng duyên được thành lập”. Đây là nói tánh tướng các pháp vốn bất sinh, ngoại đạo không hiểu, chấp pháp luống dối, thành lập có sinh, vì sinh do kia lập chẳng phải do nhân duyên hình thành. Chấp từ thần ngã, minh đế v.v… sinh ra. Nếu có thể hiểu biết pháp từ duyên sinh nên không có tự tánh, không có tự tánh nên tức là vô sinh. “Tất cả pháp bất sinh, người trí không phân biệt, vì tông kia nhân sinh, thì giác này liền hoại”. Nói người trí biết tất cả pháp tự thể không sinh, không phân biệt có không. Nếu tông bất sinh nhân nơi người khác mà sinh ra pháp, vọng giác như thế tức là hoại nghóa vốn bất sinh. Hai bài kệ trên đây nói tất cả pháp bất sinh không nên lập tông. “Ví như mắt bị nhặm, vọng tưởng thấy tóc rũ, các pháp cũng như vậy, kẻ ngu vọng phân biệt”: ý nói vọng tưởng phân biệt chấp có các pháp, thí như mắt bị nhặm, vọng thấy tướng tóc rũ. “Ba cõi chỉ giả danh, không có thể thật pháp… cho đến sống trong vô phân biệt”: Nói ba cõi có các pháp hữu vô, sinh tử chỉ có giả danh mà không có nghóa thật. Kẻ ngu không hiểu bậc Thánh phương tiện lập ngôn giáo là giả thi thiết. Do đó phân biệt vọng tưởng chấp đắm danh ngôn sự tướng cho là thật có. Tâm thức hoặc loạn, Bồ-tát Phật tử biết được Như lai phương tiện lời nói, không chấp đắm cảnh giới sở hành vượt qua tình lượng không có phân biệt. “Không phải nước tưởng nước, đây do khát ái sinh, kẻ ngu thấy pháp vậy, các Thánh không như vậy”. Do vì khát ái nên chỗ không có nước mà nghó lầm là có nước. Lấy thí dụ kẻ ngu do si ái, chỗ không sinh diệt có không, vọng tưởng sinh diệt có không. Bài kệ bốn câu trên đây nói Đại Tuệ giả lập năm câu hỏi. “Bậc Thánh thấy thanh tịnh, sanh ra ba giải thoát… cho đến cho nên sinh quả Thánh”. Ý nói ba giải thoát là từ tri kiến thanh tịnh của bậc Thánh mà sinh. Xa lìa sinh diệt, thường hành cảnh vô tướng, cũng chẳng có các pháp hữu vô, một khác v.v… Do đó mà hữu vô bình đẳng ngộ được thật tướng các pháp, cho nên có công năng sinh ra quả của bậc Thánh. “Thế nào pháp hữu vô? Thế nào thành bình đẳng?… cho đến khi ấy tướng loạn diệt”. Phật tự nêu câu hỏi thế nào là hữu vô? Thế nào là bình đẳng? Nghóa là người ngu kia không hiểu thấu các pháp luống dối mà chấp đắm hữu vô, hoặc loạn trong ngoài. Nếu hiểu được hữu vô, vọng tưởng xưa nay bình đẳng thì tướng loạn tự mất. Nửa bài kệ thứ ba ở trên nói Như lai đáp năm câu vặn hỏi của Đại Tuệ, kiết hợp các pháp có tự tánh chân thật, hữu vô bình đẳng, có công năng sinh ra quả Thánh. Cho nên chỉ có chứng mới tương ưng, chớ vọng phân biệt. Thưa hỏi về trí này không được phân biệt năng sở: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến không khởi phân biệt gọi đó là trí”: Đại Tuệ nhân ở trên nói ba cõi chỉ là giả danh, không có pháp thể chân thật. Lại nói tất cả pháp bất sinh, người trí không phân biệt, cho nên nêu trí đây không được phân biệt năng sở để thưa hỏi. “Thế tôn! Vì trí kia không được đối với cảnh… cho đến nghóa một khác cho nên nói chẳng được ư! Như một hạt gạo bỏ vào nhiều hạt gạo, vì tương tự nhau nên không thể phân biệt được, nêu trí chẳng thật có. “Vì các pháp tự tướng, cộng tướng, các thứ khác nhau, che đậy lẫn nhau mà không được ư?”. Như một ít muối bỏ vào trong nước nhiều thì mùi vị của muối bị lấn át nên không thấy mặn. “Vì núi non vách đá, nước, lửa, gió ngăn che, nên chẳng thấy được”: Bị có các vật bên ngoài ngăn che nên chẳng thấy được. “Vì quá xa quá gần, già trẻ mù lòa, các căn chẳng đủ nên chẳng thấy được”: Quá gần là lông mi mắt. Bốn tiết trên đây là Định tông. Dưới đây mỗi thứ nêu lên vặn hỏi. “Nếu bất giác tự tướng, cộng tướng khác chẳng khác… Vì có cảnh giới mà không biết”. Vì có việc đến mà không thể phân biệt được gọi là vô trí. “Nếu vì các pháp tự tướng, cộng tướng các thứ khác nhau… cho đến chẳng phải không biết”: Nói chẳng phải là không có tướng cảnh giới trước cùng với trí hòa hợp gọi là trí. “Nếu núi non vách đá… cho đến trí không đầy đủ mà không biết”. Do có các việc này không thể phân biệt, cho nên cũng là vô trí. Phật nói đây là thật trí: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Đây thật là trí… cho đến trí tuệ ở trong rốt ráo không được”. Như lai nói đây thật là trí. Chẳng phải như ông nói không có tướng cảnh giới trước gọi là vô trí. Ông nói có cảnh giới trước mà che lấp lẫn nhau nên trí tuệ chẳng thật có. Ta nói cảnh giới giả danh không thật nên trí tuệ chẳng được mà gọi là trí, vì biết các pháp chỉ do tâm hiện, lìa tánh hữu vô, trí tuệ ở trong đó hoàn toàn không thật có. “Vì vô đắc cho nên sở tri không khởi, nhập ba môn giải thoát, trí thể cũng quên”: Nói sự chẳng được, trí ở trong cảnh giới bất sinh, nhập ba môn giải thoát trí thể còn mất, huống chi các pháp bên ngoài khác. Kẻ ngu không biết nên gọi là vô trí: “Chẳng phải như tất cả giác tưởng của phàm phu… cho đến như vậy mà biết gọi là bất tri”: Ý nói chẳng phải như ác giác phân biệt của phàm phu, thói quen luống dối nói suông từ vô thỉ, huân tập vọng chấp hình tướng hữu vô của các pháp, khởi như vậy mà biết gọi là bất tri. Không biết các pháp do tâm hiện… cho đến tâm ấy ở trong chấp đoạn”. Nói kẻ ngu kia không biết các pháp chỉ là tự tâm hiện lượng, chấp ngã, ngã sở, phân biệt cảnh trí cho là thật có, vì chướng ngại các căn xa gần không đủ, nên không biết pháp bên ngoài là có hay không, tức gọi là vô trí, gọi là chấp đoạn. “Vì giúp cho lìa bỏ phân biệt như thế nên nói các pháp chỉ do tâm lập ra”: ý nói ba cõi muôn pháp chỉ do tâm lập ra, là Như lai ứng bệnh của chúng sinh mà cho thuốc, cho nên bài kệ nói: Biết các pháp duy tâm, liền bỏ tướng ngoại trần, do dứt phân biệt này, ngộ chân như bình đẳng, đó gọi là lìa vọng duyên, tức như như Phật. Phàm tình Thánh lượng không đợi lúc thực hành quán riêng mà tự tiêu mất. Phật nói kệ về chấp có nghóa sở duyên: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Nếu có chỗ sở duyên, trí tuệ chẳng quán thấy, đây vô trí phi trí, đó gọi là phân biệt”: Nhắc lại Bài tụng này chấp có nghóa sở duyên, tự tướng cộng tướng, một khác của tất cả pháp. Các việc cảnh giới không thể quán sát phân biệt mà biết được, dù cho biết được cũng không phải trí, không biết chẳng phải vô trí. Nếu nói biết không biết thì đó là trí mà vô trí, ấy là phàm phu vọng tưởng chấp đắm. “Vô biên tướng ẩn nhau, chướng ngại và xa gần… cho đến đó gọi là tà trí”: Hai bài tụng trên, ba câu đầu là nhắc lại văn trên, câu cuối cùng bác bỏ, lời văn tự nói rõ. <篇> <卷>QUYỂN 7 Pháp như thật tông thú và pháp nói năng: Lại nữa, Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si… cho đến thanh tịnh chân thật lìa pháp bốn câu”. Do bài kệ trên nói kia vô trí chẳng phải trí, đó gọi là vọng kiến. Vì ngu si không biết pháp tông thú như thật và pháp lời nói của Như lai, bị hư ngụy ác kiến tà kiến huyễn hoặc vọng tưởng từ vô thỉ làm huyễn hoặc, không thể giác biết tự tâm vọng tưởng, là nói Bồ-tát hiểu rõ hai thứ pháp này do tâm phân biệt, vậy nên kế là nói pháp như thật tông thú và pháp lời nói. “Đại Tuệ bạch Phật: Đúng thế, đúng thế… cho đến nói cho con nghe các giáo phương tiện”: Ba tạng mười hai bộ kinh tất cả các kinh điển, là do Như lai tùy tâm chúng sinh khác nhau mà dùng phương tiện nói khác nhau. Đặc biệt khế hợp chỉ có một, giải thích yếu chỉ mất hai, có thể nói pháp nói năng là chung. Tổng kết khuyên các Bồ-tát phải siêng tu học hai pháp này: “Pháp như thật nghóa là người tu hành… cho đến các Đại Bồ-tát phải khéo tu học”. Nói pháp như thật tông thông, là những người tu hành ở tự tâm hiện lượng không phân biệt luống dối, không rơi vào bốn câu, vượt ngoài tâm thức, tự giác Thánh trí sở chứng cảnh giới, lìa nhân duyên luống dối, và lìa năng thủ sở thủ, tương ưng kiến tướng, trí của hai thừa ngoại đạo không thể so lường được. Vì vậy gọi là pháp như thật tông thông. Cho nên tổng kiết khuyên các Bồ-tát đối với hai pháp này phải siêng tu học. Hỏi: Hai nghóa nói năng và tông thú văn trước đã nói, ở đây lặp lại, đâu chẳng phải là lặp lại nhiều lần sao? Đáp: Trước y theo ba thừa, ở đây y theo Nhất thừa. Lại nữa, trước thì nói tông trước nói sau, đây thì trước tông sau, cơ có khác nhau, cho nên phải lặp lại. Đức Thế tôn nói kệ: “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Ta nói hai thứ pháp, ngôn giáo và như thật, giáo pháp dạy phàm phu, thật vì người tu hành”: Giáo pháp dạy phàm phu, chỗ khác nói là trao cho người mới học, nói phàm ngu không biết cũng như người mới học. Như thật tông thông chẳng phải là lời nói, cho nên vì hành giả. --------------------------------- <詞>Phẩm 5: LÔ-CA-DA-ĐÀ Nói về chú thuật của ngoại đạo: “Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật… cho đến Thế Tôn, vì sao nói lời như thế?” Đại Tuệ do ở trên Phật dạy Như lai ba đời có hai thứ pháp: pháp nói năng và pháp như thật, tức có lời nói cho nên nêu Phật ngày xưa nói từ luận chú thuật của Lô-ca-da-đà, không nên gần gũi thưa hỏi Như lai, lời này dạy đã có nói năng, kia dạy vì sao lại nói như vậy. Lô-ca-da-đà chưa tìm thấy chính dịch, là luận sư ngoại đạo. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Lô-ca-da-đà… cho đến luân hồi trong các đường không bao giờ ra khỏi”. Nghóa là ngoại đạo có pháp nói năng, chỉ là câu văn trau chuốt làm mê hoặc thế gian, không đúng nghóa, không hợp lý, không thể chứng nhập pháp như thật, làm hoại mình hoại người, không bao giờ giải thoát. “Vì sao? Vì không hiểu biết các pháp chỉ do tâm hiện… cho đến chẳng thoát khỏi sinh già bệnh chết, lo buồn v.v… Vì sao? Ấy là Đức Phật tự trình bày. Không hiểu thì xem giải thích dưới, cho nên ở dưới tổng kiết, lời văn rất dễ hiểu. Không nên gần gũi chú thuật của ngoại đạo: “Này Đại Tuệ! Thích-đề-hoàn-nhân giải rộng các luận… cho đến kia có công năng làm nhân sinh khổ”: Ý nói cung Đế-thích phước trí đầy đủ cao quý, vẫn bị đệ tử thế luận hiện hình súc sinh, dùng văn từ mê hoặc khuấy rối chư thiên…, huống chi là người, vì vậy không nên gần gũi, vì thế luận kia là nhân khổ sinh tử. “Này Đại Tuệ! Thế luận chỉ nói cảnh giới do thân giác… cho đến cũng không tự biết là pháp mê hoặc thế gian”: Nói thế luận nói năng, chỉ nói thân này thấy nghe, hay biết cảnh giới luống dối, tất cả có trăm ngàn câu chữ, đời sau chia thành nhiều bộ, đều vượt ra ngoài Lô-ca-da- đà, nhân tướng khác nhau đều không tự biết là pháp mê hoặc thế gian, chấp là hiểu biết cao sâu. Bồ-tát Đại Tuệ vặn hỏi Như lai: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Thế Tôn!… cho đến Thế Tôn nói cũng đồng với ngoại đạo”: Đây là vặn hỏi Như lai cũng nói các thứ ngôn từ thế gian, rơi vào Thế luận. Chẳng phải pháp tự chứng, nếu như vậy cũng đồng với lời nói của ngoại đạo! “Phật bảo Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói thế luận, cũng không đến đi… cho đến gọi là giải thoát”: Đức Phật đáp ta không nói pháp thế luận sinh diệt, khác nhau với ngoại đạo rơi vào trong vọng tưởng, các pháp hữu vô bên ngoài chỉ do tự tâm hiện, lìa năng thủ, sở thủ, không khởi phân biệt luống dối, nhập vào nhất tâm, ba môn giải thoát, chứng pháp như thật. Phật nhắc lại việc cũ: “Này Đại Tuệ! Ta nhớ một hôm, dừng nghỉ ở một nơi… cho đến đó là thế luận thứ mười một”: Như lai nêu việc ngày xưa nói rộng về Thế luận. Nói tất cả pháp do Phạm thiên tạo ra. Vì trước hỏi cho nên đáp thế luận ban đầu, lại hỏi cho nên đáp thế luận thứ hai, sau bốn lần nữa hợp lại thành sáu. Lại sáu lần trước cộng với năm lần sau thành mười một phần. Cù-đàm là họ Phật, nghóa như chỗ khác nói. Này Đại Tuệ! Kia lại hỏi rằng: Tất cả hữu ký chăng?… cho đến thế luận của ông chẳng phải do ta nói”. Hư không Niết-bàn và phi trạch diệt, ba thứ này là pháp vô vi, các nghóa khác rất dễ hiểu, đều là thế luận của ngoại đạo, chẳng phải pháp do Như lai nói. Bà-la-môn! Ta nói do hý luận từ vô thỉ… cho đến huống gì là nói tác và phi tác. Phật dạy tất cả pháp, do vọng tưởng thói quen hý luận luống dối chấp đắm các thứ ác từ vô thỉ mà sinh ra ba cõi, kẻ ngu không biết chỉ do tự tâm vọng tưởng mà thấy, chấp lấy các pháp bên ngoài, và ngoại đạo nói ta và căn cảnh hòa hợp mà biết sinh. Đức Phật chẳng phải như vậy, nghóa là biết tất cả pháp đều là luống dối, không được nói có nhân, vô nhân, chỉ nương vọng niệm năng sở phân biệt, giả lập duyên khởi vốn không thật thể, chẳng chấp ngã là năng sở giác biết. Lại, Niết- bàn cũng chỉ là số có ba, huống gì là nói tác và phi tác. Phật nói về lý do sinh vào ba cõi: Này Đại Tuệ! Khi ấy, Bà-la-môn Thế luận… cho đến phân biệt cảnh bên ngoài đều là thế luận. Do vô minh ái nghiệp làm nhân duyên cho nên sinh ba cõi, và tất cả pháp đều nhập vào tự tướng, cộng tướng, đó là pháp Hai thừa… cho đến ít có tâm thức, trôi chảy bất tận, đều là thế luận. “Này Đại Tuệ! Khi ấy Bà-la-môn kia… cho đến nghóa lý tương ưng chẳng phải không tương ưng”: Bà-la-môn nói tất cả từ luận, các thứ cú vị của tất cả ngoại đạo, nhờ thí dụ mà trang nghiêm, chẳng phải không từ trong pháp của ta có ra, đều là thế luận. Có pháp nào chẳng phải thế luận chăng? Phật dạy có pháp chẳng được pháp thế luận, chẳng phải ông có, cho nên chẳng phải ông chấp nhận, chẳng phải thế luận không chấp nhận. Tuy lìa ngôn luận cũng nhờ vào các văn cú, nhân dụ trang nghiêm mới được ngộ, cho nên nói chẳng phải không nói các thứ văn cú, nghóa lý tương ưng chẳng phải không tương ưng. Các pháp bên ngoài không thật: “Kia lại hỏi: Chẳng lẽ có thế gian chấp nhận mà chẳng phải Thế luận ư!… cho đến chẳng phải ông có”: Là nói các pháp bên ngoài không thật, do luống dối phân biệt chấp đắm, không biết đều do tự tâm hiện lượng, cho nên không thể biết chẳng phải thế luận. Luận Khởi Tín chép: Tất cả các pháp chỉ nương vọng niệm mà có khác nhau, nếu lìa tâm niệm thì không có tướng tất cả cảnh giới, cho nên tất cả các pháp từ xưa đến nay lìa tướng lời nói, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng, không có thay đổi, không thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, cho nên gọi là chân như. Có thể trụ ở chỗ mình, không khởi vọng tưởng phân biệt hữu vô, đó là pháp của Như lai, ngoại đạo chẳng thể có được. “Bà-la-môn! Nói lược… cho đến đều là Thế luận của ông chẳng phải pháp của ta”: Là nói vọng thức chấp đắm các pháp khứ lai v.v… Đều là Thế luận. Thế luận giả nghó rằng Như lai nói không đúng: “Này Đại Tuệ! Thế luận Bà-la-môn… cho đến là nói phân biệt này bất sinh”: Nói Thế luận giả hỏi như trên, Phật đáp như trên, còn không thiếu giác, tự cho là Thánh minh, ông ấy không cáo từ mà lùi lại nghó rằng lời Như lai nói không đúng. “Này Đại Tuệ! Nay ông cũng lại hỏi ta nghóa này… cho đến chỉ được tài lợi không được pháp lợi”. Đây là nêu trước Đức Phật đáp nghóa Bà-la-môn, tổng kiết đáp lời thưa hỏi của Đại Tuệ. “Đại Tuệ bạch Phật: Nói tài pháp… cho đến hý luận phân biệt hai bên thường dứt”: Nói tài lợi thêm lớn tham ái, sinh già bệnh chết lo buồn khổ não, không nên gần gũi. Pháp lợi là được Phật quán đảnh, đối với tất cả pháp đều được tự tại, cho nên phải nên gần gũi thờ phụng cúng dường. “Này Đại Tuệ! Thế luận của ngoại đạo giúp cho những người ngu rơi vào hai bên…, cho đến phải siêng quán sát”. Ngoại đạo chấp năm ấm không từ nhân duyên sinh, cho nên khởi chấp thường; chấp tạo sắc diệt không thể sinh lại, gọi là chấp đoạn Như lai nói chỉ do tự tâm hiện lượng, không thấy sinh trụ diệt, hai thứ này khác nhau, khuyên phải siêng quán sát, chẳng phải như ngoại đạo chấp đắm không bỏ. Đức Thế tôn nói kệ: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Điều phục các chúng sinh, Dùng giới hàng phục ác, Trí tuệ diệt các kiến, Được thêm lớn giải thoát”. Như lai điều phục che chở chúng sinh, thường nói tu hành ba nghóa quyết định, đó là nhiếp tâm làm giới, do giới sinh định, do định phát tuệ, đó gọi là ba môn học vô lậu. Học đạo này cho nên giải thoát thêm lớn, chứng được thật tướng, nhưng giới là thể của định, tuệ là dụng của định. Kệ văn lược bày chẳng phải không nói. “Ngoại đạo nói luống dối đều là thế tục luận, chấp ngang tác, sở tác, không thể tự thành lập”. Nói phạm thiên v.v… là Năng tác, tất cả các pháp là sở tác, vọng chấp năng sở. Pháp thân Như lai chân thật tự tông, ngoại đạo không thể thành tựu. “Chỉ tự tông của ta, không đắm năng và sở, vì các đệ tử nói, khiến lìa các thế luận”. Là nói Như lai chỉ dùng một tự tông xuất hiện ở thế gian, năng sở ảnh tượng đều không, Phật nói cho đệ tử nghe, giúp xa lìa Thế luận. “Pháp năng thủ, sở thủ, do tâm, không thật có…, cho đến đều là thế pháp luận”. Bốn câu kệ trên lược văn xuôi thế luận chấp đắm, lời văn rất dễ hiểu. Nhưng ngoại đạo tà kiến tuy có chín mươi sáu thứ đều không lìa năm thứ kiến và hai nhân. Năm kiến là năm không lợi sử trong mười sử phiền não, như quyển thứ ba đã lược giải thích. Nói hai nhân là vô nhân và tà nhân; hoặc chấp hai mươi lăm đế, từ minh đế, v.v… sinh; hoặc chấp sáu câu do hòa hợp v.v… sinh; hoặc nói do trời tự tại v.v… sinh; hoặc cho là cát bụi, hư không, túc tác… mà thành thế gian và cội gốc Niết-bàn. Gồm thâu sự chấp đắm không ngoài bốn thứ, đó là Số luận chấp một, Thắng luận chấp khác, Lặc-sa-bà chấp một vừa khác, Nhã-đề-tử chấp chẳng một chẳng khác. Nếu chấp một thì gọi là trong nhân có quả, nếu chấp khác thì nói trong nhân không có quả, ba thì vừa có vừa không, bốn thì chẳng phải có chẳng phải không, ngoài ra các thứ chấp khác không ra ngoài bốn thứ chấp này. Tuy nhiều dạng khác nhau, nhưng tựu trung tổng kiết sơ qua thì không ra ngoài hai nhân, đó là từ hư không tự nhiên sinh, tức là vô nhân, các thứ khác đều là tà nhân. Ở Trung Quốc Nho giáo và Đạo giáo, nếu y theo về lễ quân thần, phụ tử, tam tài, ngũ thường v. v… thì chính là giới hạn phong hóa, cố nhiên không ở tại lời. Hơn nữa, ngoại đạo ở Thiên Trúc, nói rõ ba đời, cũng tin nhân quả, biết chán sinh tử, ưa cầu Niết-bàn, nhưng chỉ vì nguồn chân có chút khác nhau nên làm cho cách đạo rất xa, huống chi là cái học chuyên môn, chỉ một thân trên hết, dù có trọn đời lo buồn, nhưng chẳng lo buồn qua đời khác, tuy bằng sinh tử mạnh nhất thịnh suy, chỉ chấp tự nhiên, hoặc tìm thiên mạng, như cái gọi là người pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên. Nếu cho tự nhiên là nhân thì năng sinh muôn vật, thì tức là tà nhân. Nếu cho muôn vật do tự nhiên mà sinh, như con hạc màu trắng, con quạ màu đen, tức là vô nhân. Lại nói rằng dễ có thái cực là sinh hai nghi, hai nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, tám quái quyết định lành dữ, lành dữ sinh ra đại nghiệp. Nếu chấp thái cực làm nhân, tức là tà nhân. Nếu nói một âm một dương gọi là đạo, tức là chấp âm dương thay đổi, năng sinh muôn vật, cũng là tà nhân. Nếu chấp một là hư giả, không có tự nhiên, thì cũng là vô nhân. Nhưng vô nhân tà nhân là thành lỗi lớn. Cho rằng hư không tự nhiên v.v… sinh thì đáng lẽ thường sinh. Xưa nói nhân duyên Tiểu thừa đã bác bỏ sự sâu mầu của ngoại tông, họ cho rằng Phật pháp nông cạn không bằng sự sâu xa của ngoại đạo, cho nên biết sự khác nhau về phương vực đều do mê lầm nhân duyên chân chánh nên lăng xăng các chấp khác nhau. Họ không biết rằng ba cõi do tâm, vì si mà có ái xoay vần không cùng tận, đâu biết lý tánh không môn diệu hữu, chân như tùy duyên, tánh tướng không ngăn ngại, viên dung soi chiếu vào nhau, bước vào lớp lớp. Nói có điều gì đồng với đạo Phật đều là Phật pháp, đồng với ví dụ trộm trâu trong kinh Niết-bàn, không thể khéo nhận, lại thêm dùng nước tương, sữa mà còn khó được, huống chi muốn cho sữa lừa mà thành đề hồ, hoặc hiểu biết thấp kém lầm lẫn, vọng tìm thế trí, hoặc muốn cầu hư danh, quen theo tà kiến, trồng gốc khổ địa ngục, nhân sâu ngăn che hạt giống trí tuệ, đâu không thương xót ư! Nói rộng dị chấp, như luận Du-già quyển sáu, luận Hiển Dương quyển chín, mười, luận Bà-sa quyển mười một, mười hai, và luận Kim Thất Thập nói, Trung luận Bách luận cũng rộng bác bỏ. ------------------------------ <詞>Phẩm 6: NIẾT-BÀN Ngoại đạo vọng tưởng phân biệt, khởi chấp Niết-bàn: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến mà các ngoại đạo phân biệt các thứ”. Do ở trên ngoại đạo hỏi, hư không Niết-bàn và phi vắng lặng là sở tác, hay phi sở tác? Phật bảo Đại Tuệ, hư không Niết-bàn và phi vắng lặng, vốn không có thể tánh chỉ có số ba thôi! Cho nên nêu Như lai nói pháp gì gọi là Niết-bàn, mà các ngoại đạo đều vọng tưởng phân biệt, khởi chấp Niết-bàn. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Như các ngoại đạo… cho đến lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông”: Là nói chẳng phải ngoại đạo kia vọng chấp Niết-bàn, có thể chứng đắc Niết-bàn thuận theo chân thật. Phật nói về Niết-bàn Thanh văn: “Này Đại Tuệ! Hoặc có ngoại đạo nói thấy pháp vô thường… cho đến chẳng phải do kiến hoại gọi là Niết-bàn”. Có ngoại đạo nói thực hành quán vô thường v. v… cho nên không luyến tiếc cảnh giới, quán thành thì đắc định, các pháp sắc, tâm, tâm sở không hiện ra trước, cũng không duyên niệm cảnh giới ba đời. Nghiệp nhân si ái hết, như đèn hết dầu không thể sáng nữa, như hạt giống hư chẳng nẩy mầm được nữa, như lửa hết củi không thể cháy được. Năng thủ sở thủ không khởi phân biệt luống dối không sinh, đối với hữu dư, vô dư này khởi tưởng Niết- bàn, đây là Niết-bàn Thanh văn. Do kiến chấp diệt hoại sinh tử phần đoạn mới được Niết-bàn, cũng đồng với ngoại đạo. Thuyết khác về Niết-bàn: “Có chỗ cho rằng đến phương khác gọi là được cảnh giới Niết-bàn lìa tưởng, như gió dừng lặng”: Nói phương luận sư, chấp từ phương sinh người, người sinh trời đất, khi diệt rồi lại nhập phương. Nói phương là thường, gió là tiên luận sư, chấp gió có công năng sinh sát muôn vật, tánh gió cũng thường, đều gọi là đắc Niết-bàn. “Có chỗ cho rằng không thấy năng giác, sở giác… cho đến thường, vô thường gọi là Niết-bàn”. Luận Vi đà sư chấp phạm thiên có khả năng sinh ra tất cả gọi là năng giác, muôn vật gọi là sở giác. Luận sư Y- xa-na chấp tất cả từ y-xa sinh, vật là vô thường, mà kia là thường, nghóa là không thấy năng sở không khởi phân biệt, gọi là được Niết-bàn. “Hoặc có các thuyết nói phân biệt các tướng… cho đến rất sinh ái lạc chấp là Niết-bàn”. Luận sư Lõa hình khởi chấp như vậy, không biết tướng từ tâm hiện. Lại nói rằng có một loại ngoại đạo cho trời vô tưởng là Niết-bàn, và cho tứ không xứ là Niết-bàn, đều có chấp như ở đây. “Có chỗ cho rằng giác biết các pháp trong ngoài… cho đến có tánh bất hoại khởi tưởng Niết-bàn. Tỳ thế luận sự chấp hư không và tánh bốn đại, ba đời không hoại”. “Hoặc chấp ngã, nhân, chúng sinh, tuổi thọ và tất cả pháp không có hoại diệt, nghó là Niết-bàn”. Chấp thường luận sư chấp ngã và các pháp không còn hoại diệt. “Lại có ngoại đạo không có trí tuệ… cho đến tưởng tất cả vật là Niết-bàn”. Nữ nhân quyến thuộc luận sự chấp có tự tánh và só phu, công năng chuyển biến tạo ra tất cả vật. “Hoặc có ngoại đạo chấp phước chẳng phải phước hết… cho đến thật là người tạo cho là Niết-bàn”. Ngoại đạo khổ hạnh chấp tội phước đều hết. Luận sư Tịnh nhãn chấp không do trí tuệ các hoặc đều hết. Luận sư Ma-đà-la chấp trời Đại tự tại là chân thật có khả năng tạo tác chúng sinh sinh tử. “Có chỗ cho rằng chúng sinh xoay vần sinh nhau… cho đến vì không biết rõ cho nên chấp là Niết-bàn. Luận sư Ni-kiền-tử chấp vào kiếp sơ sinh một nam một nữ, hai bên hòa hợp, xoay vần sinh nhau, không biết đó là vô minh ái nghiệp mà làm cội gốc, nghóa là tất cả vật diệt hết rồi trở về chỗ đó cho là Niết-bàn. “Hoặc có ngoại đạo chấp chứng đạo đế, luống dối phân biệt cho là Niết-bàn”. Luận sư Tăng-khư chấp hai mươi lăm đế từ minh đế sinh, bốn đức tự nhiên, cho là chứng đạo đế chân thật. “Hoặc chấp cầu-na và cầu-na giả… cho đến câu và bất câu chấp là Niết-bàn”. Luận sư Ma-hê-thủ-la chấp Ma-hê-thủ-la một thể ba phần, có đại công năng hòa hợp với người có công năng, rơi vào chấp bốn câu, chấp là Niết-bàn. “Hoặc chấp các vật từ tự nhiên sinh… cho đến tức chấp tự nhiên cho là Niết-bàn”. Tự nhiên luận sư chấp có hai: hoặc cho tự nhiên làm nhân năng sinh muôn vật, tức là tà nhân, hoặc cho rằng muôn vật tự nhiên sinh ra tức là vô nhân. “Hoặc có người hiểu được hai mươi lăm đế… cho đến bảo vệ chúng sinh, thì được Niết-bàn” Luận sư Ca-tỳ-la nói cho rằng hai mươi lăm đế là Niết-bàn. Hoặc chấp người thọ sáu đức luận làm cho muôn dân an vui, tánh an vui ấy tức là Niết-bàn. “Hoặc có người chấp thời sinh thế gian, thời là Niết-bàn”. Luận sư thời Kính chấp thời tiết là nhân, năng sinh các pháp thế gian. “Hoặc chấp hữu vật là Niết-bàn… cho đến không khác với Niết- bàn là Niết-bàn”. Hoặc chấp hữu tánh là Niết-bàn, hoặc chấp vô tánh là Niết-bàn, hoặc chấp hữu tánh vô tánh là Niết-bàn, hoặc chấp muôn vật là xao động, Niết-bàn là vắng lặng, hai thứ này chẳng khác nhau gọi là Niết-bàn. Như trên các thứ vọng chấp của ngoại đạo khởi chấp Niết- bàn, đầy đủ như luận Đề-bà v.v… có giải thích rộng tướng ấy. “Này Đại Tuệ! Lại có các ngoại đạo khác nói… cho đến và cho ý thức được gọi là Niết-bàn”: Ở đây là nêu Niết-bàn chân thật của Như lai, giúp cho chúng sinh khai ngộ rồi thuận theo chứng nhập, như trong kinh có nói. Cho nên luận Thành Duy Thức chép: Y theo hàng ba thừa, vốn có tu hiển bày nghóa riêng Niết-bàn. Gồm có bốn thứ, các thứ khác đều là tà kiến: 1.Niết-bàn xưa nay tự tánh thanh tịnh: nghóa là tất cả pháp tướng lý chân như, tuy có khách trần phiền não làm nhiễm, nhưng vốn thanh tịnh, có vô số lượng công đức nhiệm mầu, vô sinh vô diệt trong lặng như hư không, tất cả loài hữu tình đều có một cách bình đẳng chẳng phải một, chẳng phải khác với tất cả pháp, lìa tất cả tướng, tất cả phân biệt, bặt dứt đường suy nghó, gọi là đạo dứt. Chỉ có bậc Thánh chân thật tự chứng ở bên trong, tánh kia vốn vắng lặng nên gọi là Niết- bàn. 2.Niết-bàn hữu dư y: nghóa là tức chân như vượt ra khỏi phiền não chướng, tuy còn có chỗ nhỏ nhiệm chưa dứt bỏ hết, nhưng chướng đã dứt hẳn, nên gọi là Niết-bàn. 3.Niết-bàn vô dư y: nghóa là chân như vượt ra khỏi khổ sinh tử, phiền não đã hết, dư y cũng diệt, các khổ dứt hẳn, cho nên gọi là Niết-bàn. 4. Đại Niết-bàn vô trụ xứ: Nghóa là chân như vượt ngoài sở tri chướng, đại bi Bát-nhã thường giúp đỡ, do đó không trụ sinh tử Niết-bàn, lợi lạc hữu tình cùng tận đời vị lai, dụng mà thường vắng lặng, cho nên gọi Niết-bàn. Trong đó tất cả loài hữu tình chỉ có một thứ Niết-bàn đầu, người Hai thừa vô học thì có ba loại trước là tự tánh, hữu dư và vô dư. Chỉ có Đức Thế Tôn mới có đầy đủ bốn loại Niết-bàn. Các ngoại đạo kia chấp các thứ khác nhau, tức là quên bản lai tự tánh thanh tịnh Niết-bàn này mà rơi vào tà kiến, đều phân biệt luống dối khởi chấp Niết-bàn. Trước hết tu quán vô thường, không nghó cảnh giới, như đèn tắt nghó là Niết-bàn, tức đây là Niết-bàn hữu dư và vô dư Ở trên nói biết rõ duy tâm hiển hiện thì vào được Phật địa, siêu vượt tâm, ý, thức v.v… gọi là đắc Niết-bàn, tức đây là Đại Niết-bàn vô trụ xứ. (Niết-bàn, xưa dịch là vô vi, cũng dịch là diệt độ, đời Đường dịch là Viên tịch, nghóa là đầy đủ công đức, dứt trừ hết các chướng). Khuyên nên xa lìa các chấp đắm: “Này Đại Tuệ! Các chấp đắm luống dối của các ngoại đạo như thế… cho đến ông và các Bồ-tát phải nên xa lìa”: Là nói các ngoại đạo, các thứ vọng chấp khởi nghó là Niết-bàn đã trái với chánh lý, rốt ráo không thành tựu được gì, chỉ tăng thêm vọng thức rong ruổi theo tán loạn, qua lại trong vòng sinh tử, không được giải thoát, vì vậy cho nên khuyên các Bồ-tát phải nên xa lìa. Đức Phật nói lại bài kệ: “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói lại kệ rằng: Ngoại đạo chấp Niết- bàn, đều phân biệt khác nhau… ngu si vọng phân biệt”. Là nói các ngoại đạo vọng chấp Niết-bàn, không giải thoát, phương tiện vọng sinh tưởng giải thoát, mỗi phái tà giải đều có hướng về khác nhau, đều là ngu si phân biệt luống dối. “Tất cả ngoại đạo si, vọng thấy tác sở tác… cho đến chân thật diệt nhân khổ”. Lời nói thế luận là gốc của sinh tử trong ba cõi, lìa thế luận nói năng, đó gọi là nhân diệt khổ chân thật. “Như hình bóng trong gương, tuy hiện mà chẳng thật… cho đến phân biệt thì bất sinh”. Nói trong gương tâm vọng tưởng hiện ra cảnh giới, vì không thật cho nên chẳng được nói hai, kẻ ngu không biết cho nên thấy có hai. Nếu hiểu biết duy tâm thì năng thủ, sở thủ vọng tưởng không sinh. “Tâm tức là các thứ, xa lìa tướng sở tướng… cho đến phàm ngu không thể rõ”: Nói từ vọng tâm sinh các cảnh giới, đã từ tâm phân biệt sinh cho nên không có năng tướng, sở tướng, như người ngu chấp phân biệt luống dối. Kiến tức là vô kiến, ba cõi cũng vậy, kẻ ngu không thể biết. “Các kinh nói phân biệt, chỉ là khác tên gọi, nếu lìa bỏ danh ngôn, thì nghóa ấy không thật”. Nói pháp phân biệt luống dối chỉ có lời nói không thật nghóa, nếu xa lìa danh tướng thì nghóa phân biệt luống dối không thật có. -------------------------- <詞>Phẩm 7: PHÁP THÂN Bồ-tát Đại Tuệ hỏi Phật về chứng đắc Niết-bàn của Phật: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật… cho đến khéo được tự ngộ ngộ tha”. Đại Tuệ do ở trên nói về Niết-bàn chân thật siêu vượt tâm, ý, thức, cho nên nêu năng chứng Niết-bàn pháp thân Như lai ứng chánh đẳng giác tự giác tánh để thưa hỏi, khiến Bồ-tát chúng con được tự giác giác tha khéo léo này. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Như lời ông hỏi… cho đến như vậy các câu hỏi này là khác hay không khác”. Nói Như lai pháp thân Ứng chánh đẳng giác, là tác pháp hay chẳng phải tác pháp? Là quả hay nhân? Là năng tướng hay sở tướng? Là lời nói hay sở thuyết? Là năng giác hay sở giác? Những câu như thế là khác hay chẳng khác với pháp thân Như lai! Những câu như vậy là pháp thân Như lai phải không? Phật nói về pháp thân Như lai: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Như lai ứng chánh đẳng giác… cho đến vì sao các câu ấy đều có lỗi”: Ở đây nói về ý pháp thân Như lai là tác hay phi tác v.v… các câu ấy đều có lỗi cho nên Đức Phật ngăn lỗi kia, nói chung để bác bỏ. “Này Đại Tuệ! Nếu Như lai là tác thì thuộc về vô thường… cho đến chẳng phải tác nhân mà thành”: Nếu pháp thân Như lai là tác thì là vô thường, Đức Phật không chấp nhận. Nếu chẳng phải tác pháp thì không có thể tánh, chẳng phải tác nhân mà thành, cho nên pháp thân chẳng phải tác chẳng phải chẳng tác. “Nếu chẳng phải câu nhân phi quả thì chẳng phải hữu chẳng phải vô… cho đến Như lai có tất cả cú nghóa”: Nếu chẳng phải tác, chẳng phải chẳng tác thì chẳng phải nhân, chẳng phải quả. Nếu chẳng phải nhân, chẳng phải quả thì là chẳng phải tướng, chẳng phải sở tướng, cho nên nói chẳng phải hữu chẳng phải vô. Nếu chẳng phải hữu chẳng phải vô thì phi thuyết, phi sở thuyết, cho nên nói siêu vượt bốn câu. Nếu rơi vào bốn câu gọi là thế gian, cho nên nói bốn câu ấy chỉ tùy theo thế gian mà có lời nói. Nếu vượt ngoài bốn câu chỉ có lời nói, thì như con của cô gái bất dục. Con của cô gái bất dục chỉ có lời nói, không rơi vào bốn câu, vì không rơi vào nên không thể đo lường, thì là phi giác phi sở giác. Người trí nên biết Như lai có tất cả cú nghóa cũng giống như vậy. Đâu có khác đây tức là lời câu này, đó gọi là pháp thân Như lai ư. Dẫu lời xưa để làm sáng tỏ cái thật ở đây: “Này Đại Tuệ! Như lời ta nói các pháp vô ngã… cho đến nên biết cú nghóa của Như lai cũng giống như vậy”: Đây là dẫn lời xưa quyền phương tiện để làm sáng tỏ cái thật ở đây. Ta thường phương tiện nói tất cả các pháp không có tánh ngã, cho nên nói vô ngã, chẳng phải không có tự tánh của các pháp ấm, nhập giới. Muốn so sánh pháp thân và ấm, giới, nhập hợp, không có tự tánh sinh tử của ấm, giới, nhập chẳng phải không có tự tánh pháp thân thường trú, cho nên nói cú nghóa của Như lai nên biết cũng giống như vậy. Cho nên trong kinh Địa Trì có nói hai thứ pháp tánh: 1. Sự pháp tánh, là tánh khác nhau. 2. Thật pháp tánh, là tánh chân thật. Đây là tự tánh các pháp ấm, giới, nhập tức là sự pháp tánh. Pháp thân Như lai tự tánh thường trụ tức là thật Pháp tánh. Loài nào có tự tánh của loài ấy: “Này Đại Tuệ! Thí như trâu không có tánh ngựa… cho đến tất cả các pháp không tự tánh đều cũng như vậy”. Thí như trâu ngựa hợp bầy, trâu chẳng có tánh ngựa, ngựa chẳng có tánh trâu. Trên thể ngựa không được nói tánh trâu là có hay không có tánh trâu, nhưng chẳng phải không có tự tánh của thể ngựa, huống chi pháp thân và các pháp ấm, giới, nhập hợp lại. Trong pháp thân không được nói tánh ấm, giới, nhập là có hay không, nhưng chẳng phải không có tự tánh của pháp thân, cho nên nói tất cả các pháp cũng giống như vậy. Không có tự tướng mà chẳng phải hữu tức hữu. Nói chẳng có, là không có tự tánh các pháp. Tức có là có tự tánh thường trú của pháp thân. Nhưng chỉ chứng mới tương ưng, các kẻ ngu chẳng thể biết được. Vì sao không biết! Vì kẻ ngu có phân biệt luống dối, cho nên không biết đó thôi! Nói tất cả pháp không, vô sinh, vô tự tánh cũng đều như vậy, là nói pháp thân Như lai có tất cả pháp không không sinh không tự tánh, siêu vượt có không tự tánh thường trú, cho nên đều biết cũng vậy. Pháp thân Như lai và pháp năm ấm lìa một, khác: “Đại Tuệ! Như lai và uẩn chẳng phải khác, chẳng phải không khác… cho đến tất cả các pháp cũng giống như vậy”: Nói pháp thân Như lai và pháp năm ấm lìa một khác, cho nên thí dụ như sừng trâu, như đối với năm ấm, đối với giới xứ v.v… Tất cả pháp cũng giống như vậy. Như kinh có nói. “Này Đại Tuệ! Như lai là nương giải thoát mà nói… cho đến nhưng có khác nhau cho nên chẳng phải không khác”: Trên đây là nói Pháp thân và ấm giới nhập trói buộc các pháp, lìa khác chẳng khác, ở đây lại nói cùng pháp giải thoát xuất thế lìa khác chẳng khác. Pháp thân Như lai lấy giải thoát làm tên gọi. Như lai và giải thoát chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Nếu Như lai khác với giải thoát thì đồng sắc tướng, tức là vô thường. Nếu Như lai và giải thoát là một thì người và pháp sở đắc sẽ không phân biệt. Người tu hành cái thấy lẽ ra không khác nhau, như có người năng chứng và pháp sở đắc khác nhau, cho nên chẳng phải một. Vì vậy cho nên đức Như lai và giải thoát, lìa khác chẳng khác. “Như vậy, trí và sở tri chẳng phải khác, chẳng phải không khác… cho đến không có diệt cho nên như hư không? Dưới đây nói về pháp thân chân thật của Như lai. Trí: là pháp thân. Sở tri: là ấm giới nhập. Nói pháp thân chân thật, biết tất cả cảnh giới lìa hữu vô, một khác, thường vô thường… bốn câu vọng kiến, siêu vượt khỏi thấy nghe hiểu biết, tất cả tâm lượng, chỉ có lời nói. Vô sinh vô diệt, cũng như hư không. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm chép: Muốn biết tâm các Phật, phải quán trí tuệ Phật, trí Phật không chỗ nương, như không chẳng chỗ nương. Pháp thân Như lai xa lìa căn, cảnh, giới: “Này Đại Tuệ! Hư không phi tác, phi sở tác… cho đến xa lìa hẳn tất cả các căn cảnh giới”: Theo trước giải thích lại tổng kiết đáp vặn hỏi. Nói pháp thân Như lai chánh đẳng giác xa lìa hẳn tất cả các căn cảnh giới, không thể dùng tình thức luống dối mà so lường được. “Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Xa lìa các căn lượng, không quả cũng không nhân, năng tướng và sở tướng, như vậy thảy đều lìa”: Có bảy bài kệ nói về pháp thân lìa niệm, thoát khỏi hai kiến chấp. Đây là nói chung đều lìa. “Uẩn duyên và Chánh giác, một khác chẳng thể thấy, nếu đã không còn thấy, làm sao mà phân biệt”. Uẩn duyên tức là ấm, giới, nhập. Chánh giác là pháp thân. Nói pháp thân và ấm, giới, nhập lìa một khác. Nếu không có thấy thì không thể phân biệt có một khác. “Phi tác, chẳng sở tác, chẳng phải câu nhân chẳng chẳng phải câu nhân, phi uẩn, chẳng phi uẩn, cũng chẳng có vật khác”. Nói pháp thân lìa các lỗi từ trước đến nay. “Chẳng có một pháp thể, như kia phân biệt thấy, cũng lại chẳng là vô, các pháp tánh như thế”. Nói pháp thân chẳng có một pháp thí, như người ngu kia vọng phân biệt tuy chẳng phải tánh mà kẻ ngu thấy, cũng lại chẳng phải là vô. Các pháp tánh như thế, nghóa là các pháp tánh xưa nay cũng thế, lìa hữu lìa vô không thể nói năng. “Đợi có nên thành không, đợi không nên thành có, có không đã chẳng thật, chấp có cũng không nên”: Phật phương tiện nói có không, bởi hình tướng đợi mà sinh, vì bỏ chấp hữu nên nói vô, giúp cho không rơi vào vô cho nên nói hữu. Nếu nói pháp thân thoát khỏi tất cả lượng thì đã không đáng chấp, có đâu dùng lời nói. “Không rõ ngã, vô ngã, chỉ chấp vào lời nói, chìm đắm vào hai bên, tự hoại, hoại thế gian”. Nói kẻ ngu không biết pháp thân Như lai, thể lìa hữu vô, chấp ngã, vô ngã, chấp vào lời nói, chìm đắm nơi tất cả lỗi làm hai bên, thì tự hoại mình, hoại người, trôi lăn trong sinh tử. “Nếu thấy được pháp này thì lìa tất cả lỗi, đó gọi là chánh quán, chẳng hủy đại đạo sư”. Nếu thấy được pháp thân Như lai này thì lìa tất cả tội lỗi hữu vô, cho nên gọi là chân chánh quán sát, chẳng hủy hoại pháp yếu do Đạo sư nói. Bất sanh bất diệt là tên khác của Như lai: Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật… cho đến Vì sao Thế tôn nói bất sinh bất diệt là tên khác của Như lai” Này Đại Tuệ! Do ở trên nói pháp thân Như lai không có sinh diệt. Lại như Đức Phật nói trong kinh, phân biệt nhiếp lấy bất sinh bất diệt. Nói bất sinh bất diệt là tên khác của Như lai. Nhưng bất sinh bất diệt, đây là vô pháp, vì sao lại nói là tên khác của Như lai, cho nên Đại Tuệ nêu lên hai vấn đề trái nhau này để xin Như lai hợp chung, đó gọi là vô tánh, gọi là tên khác của Như lai. “Như Thế tôn nói tất cả các pháp… cho đến cúi xin Thế Tôn nói cho con nghe”. Nếu pháp bất sinh thì không có chút pháp gì để chấp, ai là Như lai thì không còn chấp: Nếu nói nhiếp lấy bất sinh bất diệt là tên khác của Như lai, đã có thể nhiếp lấy thì rơi vào hữu kiến, cho nên lại thỉnh Thế Tôn nói cho con nghe, ngõ hầu không rơi vào hai kiến chấp. Chỉ có Phật hiểu rõ về bất sanh bất diệt này: “Phật bảo lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông… cho đến hàng Bồ-tát Địa thứ bảy không hiểu nghóa kia”: Ta nói tên khác của Như lai gọi là bất sinh bất diệt, chẳng phải là không có pháp, đáp câu hỏi trên nói đây là không có pháp. Cũng chẳng phải nhiếp lấy bất sinh bất diệt, là đáp câu hỏi trên bất sinh bất diệt là tên khác của Như lai. Cũng không đợi duyên là đáp không rơi vào chấp hữu. Cũng chẳng phải vô nghóa, là đáp không rơi vào vô kiến. Ta nói vô sinh chẳng phải tức, chẳng phải lìa, tức là danh hiệu khác của giác pháp tự tánh chủng loại câu sinh ý thành pháp thân. Nhưng bất sinh bất diệt này chẳng phải là cảnh giới của phàm phu ngoại đạo hai thừa yếu kém, Bồ-tát Địa thứ bảy tâm lượng chưa diệt, đều không thể hiểu.” Phật có danh hiệu khác nhau nhưng tự thể không khác: “Này Đại Tuệ! Thí như Đế-thích địa và hư không… cho đến mà có nhiều thể cũng chẳng phải vô thể”: Nói Phật tuy có danh tự khác nhau, nhưng không bao giờ có thể khác để nêu bày riêng, cho nên dẫn Đế-thích cho đến tay chân, tùy mỗi vật tuy có nhiều tên, nhưng thể chỉ là một. “Này Đại Tuệ! Ta cũng như vậy… cho đến mà không biết đó là tên khác của Như lai”: Như lai ở trên đáp câu hỏi của Đại Tuệ, trước hết dùng pháp nói, kế là dẫn dụ để làm sáng tỏ. Ở đây lại dùng pháp và hợp với dụ. A-tăng-kỳ, Hán dịch là vô số, văn còn lại rất dễ hiểu. Ví dụ về Phật có nhiều danh hiệu khác nhau nhưng tự thể không khác: “Trong đây, hoặc có người biết Như lai… cho đến như trăng hiện đáy nước không ra không vào”. Như trên lược nêu hoặc có người biết năm mươi tên để so với số nhiều. Tỳ-nữu, Hán dịch là đại lực, Ca-tỳ- la là tên thành, vì Phật sinh ra ở thành kia, nhân đó đặt tên Ca-tỳ-la tiên. Nhân-đà-la, Hán dịch là tôn trọng. Câu-tỳ-la và thú-ca, chưa thấy chánh dịch. Như vậy… đầy đủ ba vô số trăm ngàn danh hiệu, tên gọi khác nhau, nhưng thể tánh thì chỉ là một, không có thêm bớt. Ở Trung Quốc và các nước có người lợi căn, hiểu biết pháp thân Như lai tùy tâm chúng sinh mà hiện, thật không có đến đi, thí như trăng sáng hiện ở các dòng, đâu có đến đi”. Phật tùy tâm chúng sanh hiện các tên gọi: “Chỉ có những kẻ ngu tâm rơi vào hai bên… cho đến chẳng biết danh hiệu khác nhau của Phật”. Nói người ngu kia rơi vào chấp hai bên, tuy cũng kính thờ cúng dường, nhưng không biết danh nghóa, chấp đắm lời nói, mê chấp pháp thân chân thật Như lai không có đến đi mà cho rằng bất sinh bất diệt đồng với pháp vô, không hiểu rằng Phật tùy tâm chúng sinh hiện các thứ tên gọi. Lời nói có sinh diệt, nghóa chẳng sinh diệt: “Như Nhân-đà-la, Thích-yết-la… cho đến lời nói tức nghóa là ngoài không có nghóa thể riêng”. Thích-yết-la, Hán dịch là Dõng mãnh. Đẳng nghóa là các điều khác nhân-đà-là, Thích-yết-la v.v… đều là tên khác của trời Đế-thích, vì luống tin danh giáo, mê chấp nơi thật thể, đối với các pháp tùy lời chấp nghóa, các người ngu ấy nói rằng nghóa như lời nói không có khác nhau, nghóa là ngôn tức nghóa, thể tánh cũng không. Người ấy không biết lời nói sinh diệt, nghóa chẳng sinh diệt. “Này Đại Tuệ! Những người ngu ấy… cho đến lìa hữu lìa vô, cho nên vô sinh vô thể”: Ở đây nói tất cả ngữ ngôn rơi vào danh tự, nhưng nghóa chân thật không rơi vào danh tự. Vì lìa hữu vô, không thọ sinh, không thân tướng, cho nên không bị rơi vào. Phật nói pháp cùng khắp nhưng không rơi vào ngôn giáo văn tự: “Này Đại Tuệ! Như lai không nói pháp rơi vào văn tự… cho đến chỉ trừ không rơi vào văn tự”. Như lai ứng hợp căn cơ chúng sinh mà nói các pháp, dù khắp đầy cả cung rồng cho đến pháp giới nhưng thật không bị rơi vào ngôn giáo văn tự, vì văn tự lời nói, bản tánh vốn lìa, chỉ trừ phương tiện chánh hiển bày thật nghóa. Không rơi vào danh giáo, là thông đạt ý nghóa nên nêu lên việc Như lai nói pháp. “Này Đại Tuệ! Nếu có người nói rằng Như lai nói pháp rơi vào văn tự… cho đến chẳng phải không tùy nghóa mà phân biệt nói”. Ý nói nếu có người nói Như lai không khéo nói pháp, rơi vào văn tự ngôn giáo, thì gọi là nói luống dối. Như lai ba đời và các Bồ-tát, thật không hề nói giải đáp một chữ, vì lìa tánh tướng các pháp, cũng chẳng phải không rơi vào nghóa chân thật, giả phân biệt nói để hiển bày! Phật muốn cho chúng sanh hiểu nghóa nên giả lập nói năng: “Này Đại Tuệ! Nếu chẳng nói thì tất cả giáo pháp sẽ đoạn… cho đến chẳng có các Đức Phật, Bồ-tát, Thanh văn”: Đoạn trên Như lai muốn cho chúng sinh hiểu nghóa, nên giả lập lời nói, để nêu rõ kẻ ngu chấp đắm lời nói, không chứng đắc nghóa chân thật. Chúng sinh nghe điều này nghó rằng vì sao Như lai không nói nghóa chân thật, mà lập lời nói, giúp cho chúng sinh chấp đắm, không chứng đắc nghóa chân thật! Vì muốn dứt sự nghi ngờ này nên Như lai không nói thẳng pháp chân thật bất sinh bất diệt, giúp cho chúng sinh khởi nghi đoạn diệt, không có lỗi chấp không đối với ba thừa, v.v… chính là đắc phương tiện, giả nói văn tự. Nếu không giả lập phương tiện để nói thì giáo pháp bị hoại, không có bậc Thánh ba thừa, thì ai nói và vì ai? Vì vậy nên Bồ-tát chớ chấp văn tự, tùy nghi phương tiện nói rộng kinh pháp. Đây là nói phương tiện ngôn giáo, các Đức Như lai này tùy tâm chúng sinh ưa muốn hiểu biết khác nhau nên vì mở bày cho họ, giúp họ hiểu rằng các pháp do tâm hiện, xả bỏ sự phân biệt trong ngoài, chuyển diệt vọng thức, chẳng phải vì thành lập chỗ Như lai tự giác Thánh trí chứng đắc. Bồ-tát nương nghóa thật, chớ theo lời nói: “Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nên tùy theo nghóa… cho đến không thể khiến tâm người được giải ngộ”: Ở đây là nói Bồ-tát nên nương nghóa thật chớ theo lời nói. Nếu nương văn tự thì làm tổn hại mình và người, không thể ngộ được. “Nếu khéo biết được tất cả pháp tướng… cho đến nếu không làm hư hạt giống Phật thì được sự tốt đẹp”: Ý nói hiểu biết thật nghóa thì có lợi ích rộng lớn như trên. Sự tốt đẹp, tức là chỗ mà Thánh trí tự giác chứng đắc. Dùng mười năng lực giáo hóa loài hữu tình: “Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát sinh Thánh trí tự giác… cho đến pháp chân thật lìa văn tự”: Ở đây nói rõ Bồ-tát thân cuối cùng chứng đắc Thánh trí tự giác rồi, vượt chướng ngại được tròn sáng đến tận đời vị lai, dùng mười năng lực tự tại giáo hóa loài hữu tình, giúp cho họ ngộ chân thật, lìa văn tự, không nên khởi chấp đắm như trên. Nói mười năng lực tự tại, đó là ban đầu mạng tự tại, đối với tuổi thọ dài ngắn tùy theo vật, tâm tài nghiệp sinh nguyện tín các pháp như trí pháp… Cũng giống như vậy. Đầy đủ như trong kinh Hoa Nghiêm có nói. Nêu hai ví dụ: Chấp lời mà quên nghóa, và chứng nghóa mà bỏ lời: “Này Đại Tuệ! Ví như có người đưa tay chỉ vật… cho đến chớ đắm lời nói như nhìn ngón tay”: Người ngu chấp ngón tay lời nói, không hiểu nghóa thật. Có hai ví dụ: Trước dụ chấp lời mà quên nghóa, kế là dụ ứng chứng nghóa mà bỏ lời, mỗi thí dụ đều có pháp hợp lời văn có nói, vì thế kiết khuyên nên tu phương tiện. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: Nếu muốn cầu trừ diệt, vô lượng các lỗi ác, nên đối với Phật pháp, thường tinh tấn mạnh mẽ, chớ luống chấp danh giáo, như nhìn ngón tay không khác. “Này Đại Tuệ! Nghóa chân thật nhiệm mầu vắng lặng… cho đến chấp văn tự nên mau lìa bỏ”: Đây nói do ngộ nghóa chân thật, lìa các phân biệt tán loạn mà chứng đắc Niết-bàn. Nghóa chân thật từ học rộng mà được. Học rộng nghóa là nghe rồi khéo suy nghó tu tập thuận theo nghóa, chẳng phải chỉ giỏi về lời nói. Không để tự mình và người rơi vào ác kiến ngoại đạo mà gọi là học rộng, vì vậy cho nên muốn cầu nghóa thật thì phải nên gần gũi người học rộng. Người trái với nghóa thì cẩn thận chớ gần gũi. Ba pháp vô vi bất sanh bất diệt: “Khi ấy, Đại Tuệ lại nương oai thần Phật… cho đến và chẳng phải thường diệt bất sinh bất diệt”: Do ở trên Đức Phật nói vì kẻ ngu không thể nói thẳng nghóa chân thật bất sinh bất diệt, giống như đứa trẻ không nên ăn sống, cho nên lại hỏi Như lai nói bất sinh bất diệt chẳng có gì kỳ lạ, vì sao! Vì tất cả ngoại đạo cũng nói bất sinh bất diệt như vậy, không khác với Thế Tôn nói ba pháp vô vi bất sinh bất diệt. “Ngoại đạo cũng nói tác giả, nhân duyên… cho đến không khác với ngoại đạo nói”: Ở trên nói Đức Phật và ngoại đạo cùng nói pháp bất sinh bất diệt, ở đây lại nói cũng nói nhân duyên sinh các thế gian, cho nên cũng chẳng khác nhau. Ngoại đạo nói nghóa bất sanh bất diệt có chín vật thể: “Ngoại đạo nói hạt cát bụi, thắng diệu, tự tại… cho đến hoặc có hoặc không đều không thật có”: Ở đây nói ngoại đạo nói nghóa bất sinh diệt có chín vật thể: 1.Thời. 2.Phương. 3.Hư không. 4.Cát bụi. 5.Bốn đại chủng. 6. Trời Đại phạm thiên. 7. Trời Thắng diệu. 8. Trời Đại tự tại. 9.Chúng sinh chủ, tức là thân ngã. Nghóa là các ngoại đạo chấp chín vật này bất sinh bất diệt, làm nhận cho các pháp sinh tử. Gọi chung là tác giả, không khác với Đại thừa của Phật nói tất cả pháp vốn chẳng sinh diệt, hoặc hữu hoặc vô đều không thật có. Trong chín nêu một để lệ cho các vật còn lại: “Bạch Đức Thế tôn! Đại chủng không hư hoại, vì tự tánh ấy… cho đến như trước đã nói lẽ ra nên có”: Trong chín vật, nêu một đại chủng kiết vấn Như lai để lệ cho các vật còn lại. Nói bốn đại chủng cũng không hoại diệt, trôi lăn trong bảy đường, tự tánh thường trú, bất sinh bất diệt. Như lai phân biệt nói ra các pháp, tuy hơi khác nhưng kỳ thật đều là lời ngoại đạo đã nói, nếu có chỗ khác nhau xin nói rõ nguyên nhân, nếu không có nghóa khác thì tất cả ngoại đạo tức là Như lai. bạch Đức Thế tôn thường nói trong một thế giới có nhiều Đức Phật ra đời thì không có việc đó. Như vừa rồi nói thì lẽ ra nên có nhiều Phật, vì lời ngoại đạo nói không khác với Như lai. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Lời Ta nói… cho đến tất cả các pháp chẳng có chẳng không”: Nói Như lai nói nghóa bất sinh bất diệt, khác nhau với ngoại đạo, cho nên bất sinh vô thường sinh diệt luận. Ngoại đạo chấp tất cả các pháp có thật tánh tướng, được bất sinh bất diệt, Như lai không rơi vào phẩm hữu vô, hễ nói pháp gì đều lìa hữu vô sinh diệt. Vì sao lìa hữu vô? Vì như sắc huyễn mộng chính là khi ở trong mộng, không được nói không, Nhưng sắc tướng kia chẳng phải thật có, nên không được nói có, kiến chấp năng sở đều không thật có, cho nên nói các pháp bất sinh bất diệt, lìa hữu lìa vô. “Hoặc giác biết chỉ là tự tâm hiện lượng… cho đến phàm ngu, chẳng phải của Hiền Thánh”: Giác biết được chỉ là tự tâm hiện lượng, an trụ pháp thân tự tánh chân thật, không phân biệt luống dối, tạo tác sự nghiệp sinh tử ở thế gian đều vắng lặng, vọng tưởng mà làm các việc thì chẳng phải bậc Thánh. Phàm phu khởi vọng tưởng chẳng phải Thánh hiền: “Này Đại Tuệ! Vọng tâm phân biệt cảnh giới chẳng thật… cho đến khởi kiến chấp sinh diệt chẳng phải các bậc Thánh”: Đây là dẫn thí dụ đứa trẻ thấy thành Càn-thát-bà, và như người huyễn hóa làm người sinh mua bán ra vào, tâm cho là thật có, người ngu vọng khởi pháp sinh diệt, bất sinh diệt, là có là không, cũng giống như vậy, nhưng thật ra người huyễn không ra không vào. Các pháp cũng vậy. Lìa sinh lìa diệt, phàm phu vọng tưởng khởi các dị kiến, chẳng phải Thánh hiền. “Nói luống dối không đúng như pháp tánh… cho đến bất sinh bất diệt gọi là Niết-bàn”. Nói pháp do Như lai nói là pháp tánh chân thật và có sự đặc biệt. Vọng tưởng là nghóa không đúng như thật để ngộ pháp tánh, khởi các thứ vọng chấp điên đảo, chấp tất cả pháp có tánh tướng thật. Không thấy nghóa xưa nay vắng lặng, không thể lìa phân biệt luống dối. Cho nên chấp vô tướng, làm nhân Niết-bàn cho nên tốt đẹp, khác nhau tướng kiến, chấp chứng được bất sinh bất diệt là nhân thọ sinh. Thấu đạt vô tánh tướng, không có vọng tưởng sinh trụ dị diệt, vắng lặng diệu thường, đó là Niết-bàn. Đức Phật nói kệ: “Này Đại Tuệ! Nói Niết-bàn là thấy nghóa chân thật… cho đến lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Vì trừ chấp có sinh, thành nghóa vô sinh… cho đến vì sao là ta nói?” Ở đây nói vô sinh vô nhân, nghóa là chẳng phải như ngoại đạo. Vọng chấp tác giả, là nhân sinh ra các pháp. Cho nên kinh Lăng-nghiêm chép: Vọng vốn không nhân, đối với vọng tưởng lập tánh nhân duyên đều là vọng tưởng chấp đắm của chúng sinh. “Lìa các duyên hòa hợp, không thể thấy trí tuệ, cho nên ta nói rằng, không vô sinh vô tánh”: Lìa các vọng duyên không thể thấy, cho nên nói không vô sinh vô tánh. “Mỗi mỗi duyên hòa hợp, tánh hiện mà chẳng có… cho đến việc đời đều như thế”. Vọng duyên hợp thành, vốn không có tự tánh. Tuy hiện ra thấy được mà chẳng thật có. Cho nên luận hỏi rằng: Nếu tất cả pháp đều chẳng thật có, thì vì sao hiện tại lại thấy được rõ ràng? Đáp: Như hình bóng trong gương, trăng đáy nước, thành Càn-thát-bà, cảnh mộng việc huyễn, mặt trăng thứ hai… có thể thấy rõ ràng nhưng đâu có thật, Duy thức cũng chép: Hiện thấy như trong mộng, thấy chỗ thấy không đi chung, khi thấy không phân biệt, vì sao nói hiện thấy, dã mã tức là sóng nắng. “Bẻ dẹp hữu nhân luận, nêu bày nghóa vô sinh… cho đến ngoại đạo đều sợ hãi”: Nói ngoại đạo nghe nói vô nhân vô sinh, liền sợ là đoạn diệt. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi Phật: “Khi ấy, Đại Tuệ dùng kệ hỏi Phật: Thế nào? Do nhân gì? Lại do nhân gì sinh, do đâu nói hòa hợp, mà làm vô nhân luận?” Nói vì sao là có đại só hỏi ngoại đạo rằng: Ông nói pháp sinh vì sao sinh? Là từ hữu nhân sinh? Hay từ vô nhân sinh? Đáp: Từ hữu nhân sinh, nói cái gì là sở nhân, nghóa là từ hữu nhân sinh, tức hỏi cái gì là sở nhân? Đáp: từ hạt cát bụi thế tánh, bốn đại chủng v.v… làm nhân sinh. Lại nói vì sao lại sinh! Nghóa là lại hỏi đại chủng kia vì sao mà sinh? Đáp rằng bốn đại chủng v.v… không có sinh nhân. Nói ở chỗ nào hòa hợp mà làm vô nhân luận, nghóa là nếu bốn đại chủng v.v… vô nhân, vô nhân thì vô pháp, vô pháp thì vô xứ, vô xứ thì vô hòa hợp, vô hòa hợp thì vô sinh, làm sao mà lập bốn đại vô nhân sinh các thế gian luận được? Đại Tuệ nêu điều này lặp lại thưa hỏi Phật giải đáp điều nghi. Phật đáp bằng bài kệ: “Khi ấy, Thế Tôn dùng bài kệ đáp: Quán sát pháp hữu vi, chẳng nhân chẳng vô nhân, kia thuộc sinh diệt luận, chỗ thấy từ đó diệt”: Phật dạy nên quán tất cả pháp hữu vi, không phải hữu nhân sinh, không phải vô nhân sinh, cho nên nói vô sinh, vì muốn dứt sự sinh diệt nói suông của ngoại đạo, nên hỏi hiện thấy các pháp có sinh có diệt, vì sao nói không ư! Đáp: tất cả các pháp duyên khởi vô tánh, cho nên không sinh diệt tự thể có thể đắc, sinh tức vô sinh, diệt tức vô diệt, như nước sóng nắng vốn tự cạn khô. Cho nên kinh Kim cương Tam-muội chép: Nghóa nhân duyên sở sinh, là nghóa diệt chẳng sinh, diệt các nghóa sinh diệt, nghóa này sinh chẳng diệt. Chín bài kệ như trên phá ngoại đạo chấp từ tà nhân sinh, cho nên nói vô sinh. Nói về vô sinh bất sinh: “Khi ấy, Đại Tuệ nói bài kệ hỏi Phật: Vì vô nên bất sinh? Vì chờ đợi các duyên, là hữu danh vô nghóa, xin nói cho con nghe”: Vì vô nên vô sinh chăng? Vì đợi các duyên nên vô sinh ư! Đã có tên vô sinh, chẳng nên không có nghóa bất sinh này, vì phân biệt nói. Phật dùng kệ đáp: “Đức Thế Tôn lại dùng kệ đáp: Đều là pháp bất sinh, cũng chẳng do đợi duyên… cho đến đây là tướng vô sinh”: Như lai đáp tất cả đều phi, đây là pháp thân ý sinh gọi là vô sinh. Chẳng phải là cảnh giới của ngoại đạo, Hai thừa Bồ-tát Địa thứ bảy. “Xa lìa các nhân duyên, không có người năng tác… cho đến ta nói là vô sinh”: Lìa hai tánh là lìa hai tánh trong ngoài, văn còn lại rất dễ hiểu. “Vật ngoài có, chẳng có, tâm kia không chấp lấy… cho đến vô sinh nên nói không”: Chẳng phải như hư không là đoạn diệt không v.v… cho nên nói không, nghóa là pháp thân vô sinh cho nên nói không. Từ đây trở lên tám hàng kệ nói pháp thân ý sinh của Như lai là vô sinh. “Nhân duyên cùng nhóm họp, cho nên có sinh diệt… cho đến đều phi cũng như thế”: Nếu lìa vọng duyên, lại có pháp riêng mà gọi là nhân quả tánh một tánh khác, đó là các ngoại đạo phàm ngu phân biệt, hữu vô bất sinh đều chẳng phải bốn câu, cũng giống như vậy. “Chỉ trừ các duyên hợp, trong đó thấy sinh diệt… cho đến nghóa sinh không thật có”: Phàm phu không thể hiểu rõ các vọng duyên, cho nên nhiều kiếp bị ràng buộc, nối nhau không dứt, cho nên nói nhân duyên gọi là ràng buộc. Nếu lìa vọng duyên thì không sinh pháp riêng. “Ta nói chỉ ràng buộc, sinh vô nên bất sinh… cho đến có riêng các pháp ấy”. Một câu kệ cuối là lặp lại ngoại đạo chống chế lập pháp làm trước, phải đợi nhân duyên sinh, thí như vật trong nhà tối là có trước, phải đợi ánh đèn chiếu sáng mới thấy được, cho nên nói trói buộc hiện cũng như vậy, nghóa là pháp nhân duyên hiện sinh cũng như đèn sáng hiện rõ vật trong bóng tối. Phật dạy nếu như luận này, thì ngoài việc lìa nhân duyên, lại có sinh pháp riêng. “Vô sinh thì vô tánh, thể tánh hư hư không… cho đến ấy là vô sinh nhẫn”: Ý nói không có bốn tướng sinh trụ dị diệt của sát-na sinh kia, có thể gọi là vô sinh, đây gọi là vô sinh pháp nhẫn. “Tất cả các thế gian, thảy đều là trói buộc… cho đến cho nên chẳng phải giáo lý”. Đây là nói vô minh và nghiệp ái, đối với trong mười hai nhân duyên hữu chi, lược nêu ba đời, nếu nói đủ, tức vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên già chết lo buồn khổ não: Ở đây nói pháp vọng duyên khởi trong ba đời, là quá khứ có hai chi nhân: Vô minh. 2. Hành. Hiện tại có năm chi quả: 1. Thức. 2.Danh sắc. 3.Sáu nhập. 4.Xúc. 5.Thọ. Hiện tại có ba chi nhân: 1.Ái. 2.Thủ. 3.Hữu. Vị lại có hai chi quả: 1.Sinh. 2.Già chết. Nói tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, đều là vô minh mười hai nhân duyên, nhiều kiếp trói buộc, qua lại trong lao ngục ba cõi, không thể ra khỏi. Người trí liễu ngộ tu đạo dứt bỏ, liền được giải thoát. Cho nên nói vô minh diệt thì hành diệt… cho đến sinh diệt thì già chết diệt. Phải biết nhân duyên diệt vọng cho nên phải tu đạo. Hỏi đáp về tu đạo: Hỏi: Thế nào là tu đạo? Đáp: Suy tìm cội gốc mười hai nhân duyên chính là vô minh, do vô minh cho nên khởi nghiệp phiền não, do nghiệp cho nên khởi quả báo mà có các khổ, đều do vô minh làm cội gốc. Như người chặt cây phải chặt tận gốc. Hỏi đáp về vô minh: Hỏi: Vô minh là gì? Đáp: Vô minh là tâm bất giác. Do bất giác cho nên vọng khởi phân biệt, thấy pháp ngoài tâm, nói có nói không, nói phải nói trái, nói được nói mất, thân tâm chịu các quả báo khổ… Đều do vô minh. Nay ta muốn dứt bỏ vô minh thì trước phải tự giác nguồn tâm. Tùy tâm sinh khởi tất cả vọng tưởng đều do tâm bất giác sinh. Phải biết tánh của tự tâm vốn không sinh diệt, cũng không đến đi, làm sao biết được? Tất cả vọng niệm bỗng nhiên sinh khởi, giác thì bất sinh. Thế nào gọi là giác? Như khi tham, sân, si sinh khởi, lại dùng tự tâm quán sát suy tìm tham, sân, si này có hình dáng như thế nào, là xanh vàng hay đỏ trắng, là vị lai, là hiện tại, hay quá khứ, là ở trong, ngoài, hay giữa, suy tìm tham, sân, si đều không có hình dáng. Nếu xưa nay là có thì ngày nay khi giác ngộ lẽ ra cũng thấy. Nay giác đã không, cho nên phải biết do bất giác nên bỗng nhiên vọng khởi. Giác thì không sinh. Cho nên giác để đối trị vô minh. Đây hiện tại vô minh không có, vì không có vô minh nên tất cả phân biệt phiền não không sinh, phiền não không sinh cho nên nghiệp không sinh, nên không có hai nhân quá khứ. Không có hai nhân nên năm quả hiện tại không sinh. Năm quả không sinh nên ba nhân ái, thủ, hữu không sinh. Ba nhân hiện tại đã không thì hai quả báo vị lai không sinh, gọi là chặt đứt xiềng xích mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên này vô xứ, gọi là Niết-bàn. Đây là Thánh trí tự giác gọi là Bồ-đề. Nương mười hai nhân duyên này quán sát tu hành, gồm có ba loại: Bậc thượng trí quán thì đắc Bồ-đề của Phật, bậc trung trí quán thì đắc Duyên giác Bồ-tát. Bậc hạ quán thì đắc Thanh văn Bồ-đề. Cho nên Triệu luận chép: Hàng ba thừa quán pháp không khác, chỉ do tâm có tiểu đại là khác nhau thôi! Pháp nhân duyên làm nhân duyên: “Nếu sinh pháp chẳng có, kia làm nhân duyên ai, xoay vần sinh lẫn nhau, đây là nghóa nhân duyên”. Ý nói nếu pháp sinh chẳng thật có thì nhân duyên kia làm nhân duyên cho ai. Hai câu này lặp lại vọng chấp của ngoại đạo. Vì xoay vần sinh nhau, thì biết có nghóa nhân duyên, không có tánh sinh riêng. “Các tánh cứng, ướt, nóng, động, phàm ngu sinh phân biệt… cho đến tám chi đạo mát mẻ”: Do người khác cho nên nói khác, chẳng phải pháp tánh có khác, vì bệnh khác nên cách trị cũng khác, chẳng phải chân như có khác cho nên nói chỉ có một Đại thừa. tám chi đạo mát mẻ, tám chi đạo là nhân năng sinh quả Nhất thừa. Một tức tám, tám tức một. Viên dung soi chiếu lẫn nhau, không hai không khác, thọ một chẳng dư, đó gọi là chấp nghiêng lệch.  <卷>QUYỂN 8 <詞>Phẩm 8: VÔ THƯỜNG Vô thường có bao nhiêu thứ? “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến cái gọi là vô thường?” Vì ở trên nói phàm phu luống dối khởi kiến chấp sinh diệt, chẳng phải các bậc Thánh. Nghóa là ngoại đạo phàm phu không hiểu như thật, mà khởi vọng kiến vô thường sinh diệt cho nên nói vô thường. Bậc Thánh hiểu biết lý như thật, nên không khởi vọng kiến vô thường sinh diệt. Vì sao Đức Thế Tôn cũng nói các hành pháp vô thường là pháp sinh diệt, chẳng hay ở đây nói ai là tà, ai là chánh, cái gọi là vô thường có bao nhiêu thứ? “Phật bảo Này Đại Tuệ! Ngoại đạo nói có… cho đến sinh rồi thì không sinh tánh vô thường”: Có ngoại đạo nói bốn đại chủng tánh. Từ vô thỉ tạo ra các pháp sắc v.v… làm rồi thì bỏ, tức là chấp đắm pháp sở tác, đó gọi là vô thường. Bác bỏ vọng chấp bảy thứ vô thường: “Có thuyết nói hình xứ biến hoại, đó gọi là vô thường… cho đến đại chủng tự tánh xưa nay chẳng sinh khởi”: Dưới đây giải thích rộng phá vọng chấp bảy thứ vô thường. Ở đây trước là giải thích bác bỏ vô thường thứ sáu. Nói vật trong kia không có vật vô thường là chấp đắm, nghóa là năng tạo các câu dưới, tức giải thích bác bỏ. Nói năng tạo đại chủng, sở tạo các pháp, luống dối không thật tướng kia hoại diệt. Tự tánh của đại chủng không thật có, xưa nay không sanh, vì không sanh nên không diệt, thì đâu có thật pháp năng tạo, sở tạo mà nói vô thường ư! “Bất sinh vô thường nghóa là thường và vô thường… cho đến thì rơi vào nghóa sinh vô thường của ngoại đạo”: Kế là nhắc lại, bác bỏ vô thường thứ bảy: Ý nói tất cả pháp xưa nay vắng lặng, chẳng phải diệt sinh gọi là vô thường. Không biết rõ điều này thì chấp bất sinh, cho là có sinh pháp diệt, gọi là vô thường. Giải thích thí dụ nghóa vọng chấp kia: “Có vật vô thường nghóa là chẳng phải thường… cho đến tự chẳng hoại, đây cũng như thế”: thứ ba là nhắc lại, giải thích vô thường thứ năm. Ý nói phi thường, phi vô thường, ngoại đạo không hiểu chấp là vô thường, tự sinh phân biệt. Nghóa kia nói thế nào. Nêu giải thích thí dụ nghóa vọng chấp kia, như trong kinh có nói. “Này Đại Tuệ! Hiện thấy vô thường và tất cả pháp… cho đến giúp cho tất cả các pháp thành không”. Dưới đây nói Như lai bác bỏ sự chấp của ngoại đạo. Nói hiện thấy vật vô thường cùng với các pháp sở tác không có tự thể khác nhau, cho nên nói không có năng tác, sở tác khác nhau. Đã nói đây là vật vô thường! Đây là pháp sở tác không khác nhau thì năng tác, sở tác lẽ ra đều là thường. Vì sao? Vì không thấy có vật vô thường làm nhân, mà năng phá hoại các pháp sở tác, thành ra vô. Ngoại đạo không biết nêu lấy vật vô thường làm nhân: “Này Đại Tuệ! Các pháp hoại diệt thật cũng có nhân, phàm ngu ngoại đạo chẳng thể biết được”. Do ngoại đạo chấp trừ bỏ vật vô thường, không có khả năng giúp cho trời, người biến hóa có không, cho nên Phật dạy tất cả các pháp y báo, chánh báo sinh khởi diệt hoại của trời, người thật cũng có nhân, nhưng phàm ngu chẳng thể biết được. Nghóa là một niệm phân biệt là nhân sinh khởi diệt hoại, ngoại đạo không biết, cho nên lấy vật vô thường làm nhân. “Này Đại Tuệ! Dị nhân không sinh dị quả… cho đến làm sao dị nhân sinh dị quả?” Dưới đây Đức Như lai bác bỏ chuyển chấp. Ở trên nói không khác nhau, phá chấp vật vô thường tự không hoại diệt, năng hoại các pháp, đó gọi là có khác, lại bác bỏ chuyển chấp năng sinh các pháp, cho nên nói dị nhân không sinh dị quả. Nếu thật năng sinh thì tất cả pháp khác nhau lẽ ra đều sinh lẫn nhau, như giống lúa sinh gai, giống đậu sinh cây mì, hữu tình sinh vô tình, vô tình sinh hữu tình, pháp kia sinh pháp này, năng sinh ra sở sinh, nên không có khác nhau, mà người đời hiện thấy các pháp có khác nhau, vì sao vọng chấp nhân khác sinh ra quả khác? Vật tự là vô thường thì làm sao hoại diệt sinh khởi các pháp: “Này Đại Tuệ! Nếu tánh vô thường là có pháp thì pháp vô thường lẽ ra phải thường”. Nếu chấp vật có tánh vô thường là nhân năng sinh có pháp, thì lẽ ra đồng với tánh sở tác không rốt ráo, tự nó là vô thường. Tự nó là vô thường thì làm sao hoại diệt, các pháp sinh khởi, vậy pháp vô thường lẽ ra phải thường, vì sao? Vì đã đồng sở tác mà chấp thường trụ tự không hoại diệt, cho nên pháp sở tác đều là thường. “Này Đại Tuệ! Nếu tánh vô thường trụ trong các pháp… cho đến vì thế tự tánh kia cũng không hoại diệt”: Nếu chấp vật là tánh vô thường, thường an trụ trong tất cả các pháp, có các thì pháp sinh diệt, đã trụ trong các pháp lẽ ra đồng với các pháp rơi vào ba đời đều hoại diệt. Tự thể không có, thì đâu thể làm cho vật vô thường, tất cả ngoại đạo vọng chấp thể tánh đại chủng không hoại. Nói tạo sắc, hoại sắc, tức là đại chủng khác nhau hòa hợp mà có, lìa khác, không khác cho nên tự tánh của sắc kia cũng không hoại diệt. Tổng kết bác bỏ chấp vặt vô thường: “Này Đại Tuệ! Trong ba cõi năng tạo, sở tạo… cho đến năng sinh các vật mà không hoại diệt”: Đây là tổng kiết bác bỏ chấp vật vô thường, lời văn rất dễ hiểu. Như trên là bác bỏ muôn vật vô thường đã xong. “Mới tạo tức bỏ vô thường, chẳng phải đại chủng… cho đến nên biết đó chẳng phải mới tạo vô thường”: Đoạn thứ tư giải thích bác bỏ mới tạo thứ nhất tức bỏ vô thường, nghóa là sở chấp của các ngoại đạo, không ra ngoài ba tướng lẫn nhau, tứ tướng, cộng tướng, làm năng tạo. Nói chẳng phải đại chủng lẫn nhau làm chủng, nghóa là các sự cứng ướt… vốn không có tự tánh, dụng kia trái nhau, không thể cùng nhau tạo sắc, cho nên bác bỏ là đều khác nhau. Như bài kệ ở dưới nói đại chủng vô tự tánh, lại nói đại chủng trái lẫn nhau, đâu thể tạo sắc được. Nói chẳng phải tự tướng tạo, vì không khác, là tự riêng, nghóa là đại chủng tánh vốn tự vô sinh, không thể khởi riêng để tạo sắc. Cho nên bác bỏ rằng do không khác. Như bài kệ ở dưới nói: Đại chủng vốn vô sinh, nên không sở tạo sắc. Nói cũng chẳng chung tạo, vì là trái lìa nhau. Cùng là nghóa đồng hòa, nghóa là bốn đại chủng tánh tự trái lìa, lần lượt lấn đoạt hoại diệt lẫn nhau, như nước không dung nạp lửa v.v… đâu thể cùng đồng mà tạo sắc được. Cho nên bác bỏ rằng vì trái lìa. Như bài kệ ở dưới nói lửa để thiêu đốt sắc, nước lại làm hư hoại, gió làm cho tan diệt, làm sao sinh sắc được. Nên biết chẳng phải là mới tạo vô thường, là tổng kiết bác bỏ. “Hình dáng hoại vô thường, đây chẳng phải năng tạo… cho đến kiến chấp này rơi vào Số luận”: Đoạn thứ năm giải thích phá vô thường thứ hai. Chấp chỉ diệt hình dáng ngắn dài v.v… không diệt năng sở tạo thể, chấp này rơi vào Tăng-khư. “Sắc tức là vô thường, là nói sắc đây tức là hình dáng vô thường… cho đến chỉ có lời nói”: Thứ sáu là là nhắc lại, giải thích bác bỏ vô thường thứ ba. Chấp đại chủng tánh thường trụ bất diệt, là năng tác giả, nếu cũng vô thường thì không có thế sự, sở chấp như vậy rơi vào ngoại đạo chấp Lô-ca-da, vì ngoại đạo kia vọng chấp các pháp tự tướng sinh, chỉ có lời nói không có tự tánh tướng. “Chuyển biến vô thường, nghóa là sắc thể biến… cho đến vàng không thay đổi, ở đây cũng như thế”: Thứ bảy là nhắc lại giải thích bác bỏ vô thường thứ tư. Chấp sắc chất thay đổi gọi là vô thường, chẳng phải thể của đại chủng gọi là vô thường, cho nên nêu vàng làm các đồ trang sức để thí dụ. Các thứ trang sức có thay đổi gọi là vô thường. Nhưng vàng không thay đổi chẳng gọi là vô thường, thể của sắc pháp này thay đổi vô thường cũng giống như vậy. Tổng kết bảy thứ vô thường ở trên: “Này Đại Tuệ! Các loại ngoại đạo như thế… cho đến năng tạo sở tạo thảy đều dứt diệt”: Tổng kiết bảy thứ vô thường trên, và vọng tưởng phân biệt chấp tánh vô thường của các ngoại đạo. Như họ chấp cho rằng khi lửa đốt bốn đại thì không thể đốt tự tướng các đại. Nói nếu có thể đốt thì năng tạo, sở tạo sau cùng lẽ ra phải đoạn diệt, vì họ thấy không đọan nên chấp tánh đại chủng là thường. Mười nghóa giải thích thành chánh lý: “Này Đại Tuệ! Ta nói các pháp chẳng phải thường, vô thường… cho đến thì không phân biệt năng tạo, sở tạo”: Ở đây nói thật pháp mà Như lai tự giác Thánh trí sở chứng, hễ có nói bày như chỗ chứng mà nói, khác nhau với kiến chấp thường, vô thường của ngoại đạo. Vì sao? Vì hiểu rõ ngoại pháp luống dối không thật, lìa chấp đắm, cho đến lìa chấp hữu vô, không vọng phân biệt năng tạo sở tạo, gồm có mười nghóa giải thích thành chánh lý, lời văn rất dễ hiểu. “Này Đại Tuệ! Thế gian, xuất thế gian… cho đến các phàm ngu chẳng thể biết được”. Nói các pháp thế gian, xuất thế gian và xuất thế gian trên hết thượng thượng đều chỉ là tâm không có pháp ngoài, chẳng phải thường, vô thường nếu không biết rõ thì sẽ rơi vào ác kiến, y tự phân biệt mà chấp lời nói, chấp thường, vô thường. Ba pháp này có phương tiện lời nói phân biệt, phàm ngu chẳng thể giác biết được. Đức Phật nói kệ: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Mới tạo liền xả bỏ, Hình dạng có chuyển biến, Sắc vật thảy vô thường, Ngoại đạo vọng phân biệt”: Nói bảy thứ vô thường là do các ngoại đạo vọng chấp phân biệt. “Các pháp không hoại diệt, các đại tự tánh trụ, ngoại đạo các thứ chấp, như thế nói vô thường”: Pháp ấy trụ pháp bên ngoài, tướng thế gian thường trụ, cho nên nói các pháp không hoại diệt. Các đại tự tánh trụ, ngoại đạo không biết rõ, chấp đại chủng là thường, tạo sắc vô thường, cho nên nói ngoại đạo các thứ chấp, như thế nói vô thường. “Các chúng ngoại đạo kia, đều nói bất sinh diệt, các đại tánh tự thường, gì là pháp vô thường”: Lìa năng không có sở, lìa sở không có năng. Đã năng tạo đại chủng nói không sinh diệt, tánh kia tự thường, cái gì là vô thường sở tạo sắc pháp. “Năng thủ và sở thủ, tất cả chỉ là tâm”: Cho đến tất cả không thật có. Năng thủ là vọng kiến, sở thủ là vọng trần. Các pháp Phạm thiên… là luống dối không thật, lìa tâm lượng, đều không thật có. ---------------------------- <詞>Phẩm 9: HIỆN CHỨNG Đại tuệ hỏi Phật về tam-muội Diệt Tận và tướng các Địa: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến và các ngoại đạo trong chỗ sai lầm”. Vì ở trên nói các pháp thế gian, xuất thế gian và xuất thế gian thượng thượng, tức có Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, dứt sinh tử thế gian, nhập diệt tận tam-muội lạc xuất thế gian, và đắc tướng các địa thứ lớp nối nhau. Cho nên Đại Tuệ nêu tam-muội diệt tận và tướng địa thứ lớp nối nhau để hỏi Như lai, muốn nói lên chỗ hơn kém của ba thừa Thánh phàm, giúp người tu hành tinh tấn chứng được quả Phật, không rơi vào trong quyền thừa và các tà kiến mê hoặc. Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông nghe… cho đến tâm, ý, ý thức phân biệt vọng tưởng diệt”. Nói Bồ-tát đến địa thứ sáu và Thanh văn, Duyên giác cùng dứt sinh tử phiền não trong ba cõi, có khả năng nhập tam-muội diệt tận. Hàng Bồ-tát Địa thứ bảy khác với hai thừa, niệm niệm thường nhập không có xen hở. Người hai thừa có phiền não sinh tử để dứt, cho nên không thể niệm niệm thường nhập. Hàng Bồ-tát Địa thứ tám vô công dụng đạo thường ở trong tam-muội không có tướng xuất nhập, đồng với Niết-bàn của Thanh văn, Duyên giác, diệt vọng tưởng tâm thức. Khả năng của Bồ-tát Sơ địa đến địa thứ sáu: Bắt đầu từ Sơ địa đến Địa thứ sáu… cho đến tướng năng thủ, sở thủ mà sinh chấp đắm”: Nói hàng Bồ-tát từ Sơ địa đến Địa thứ sáu, tuy chưa dứt hết tâm, ý, ý thức, nhưng có khả năng tu hành quán sát các pháp, do phân biệt mà có, thô tưởng phân biệt không còn hiện hành. Phàm phu bất giác từ vô thỉ đến nay tội ác do thói quen luống dối xông ướp, tự tâm biến tướng năng thủ, sở thủ, cho nên khởi chấp đắm, như sắt thép rỉ sét tự làm tổn hại. Phật dùng bảy thứ gia trì che chở Bồ-tát bát địa: “Này Đại Tuệ! Hàng Bồ-tát Địa thứ tám ở trong tam-muội… cho đến vì vậy ở trong đó khởi tưởng Niết-bàn”: Nói hàng Địa thứ tám này, mới được Vô sinh pháp nhẫn, giác tất cả pháp như huyễn như mộng, tâm lượng vọng tưởng trừ diệt, các Đức Phật dùng bảy thứ gia trì khuyến khích, đối với Tam-muội môn không nhập Niết-bàn, nếu không nhờ sự gia trì khuyến phát thì không thể tu hành đại nguyện rộng lớn, từ bi hóa độ hữu tình, cũng như hàng Thanh văn, Duyên giác làm hư chủng tánh Phật, vì vậy Như lai nêu bày vô lượng công đức khó suy nghó bàn luận, giúp cho kia thành tựu quả Phật tròn đầy, không rơi vào người hai thừa không sinh tam-muội sinh tưởng Niết-bàn. Nhưng phẩm này nói Thanh văn, Duyên giác, là xưa Bồ-tát thối nguyện Bồ-đề, người hai thừa thú tịch định tánh kia, còn không thể biết pháp Sơ địa, huống chi có thể phần đồng với Bồ-tát Địa thứ tám đắc Vô sinh pháp nhẫn ư!. Nói về Bồ-tát Thất địa: “Này Đại Tuệ! Hàng Bồ-tát Địa thứ bảy khéo hay quán sát… cho đến dần dần nhập vào các địa, đầy đủ pháp Bồ-đề phần”. Nói Bồ-tát Địa thứ bảy khéo quán tâm thức vọng tưởng đoạn, ngã, ngã sở sinh diệt tự tướng, cộng tướng, vô ngại biện tài khéo léo quyết định. Tuy chưa thể dứt bỏ sự trôi chảy của tâm, ý, thức, nhưng đối với tam-muội đã được tự tại, thứ lớp vào trong các địa đầy đủ pháp Bồ-đề phần của Bồ-tát. Nói bốn biện tài vô ngại, nghóa là pháp nghóa từ và lạc thuyết, nghóa như ở chỗ khác giải thích. “Này Đại Tuệ! Ta sợ các Bồ-tát… cho đến ta và các Đức Phật nói như thế”: Muốn khiến cho Bồ-tát, giác ấm, giới, nhập tự tướng, cộng tướng v.v… hư giả không thật, khéo biết các địa nối nhau thứ lớp, đối trị vọng tưởng không rơi vào đường tà ác kiến của ngoại đạo cho nên nói như vậy. Nhưng các pháp kia hữu vô sinh diệt là không thể thật có. Kẻ ngu không biết, cho nên các Đức Phật đều dùng phương tiện nói như vậy. “Này Đại Tuệ! Hàng thanh văn Duyên giác cho đến Bồ-tát… cho đến sinh giác Niết-bàn, chẳng phải trí tuệ vắng lặng”. Thanh văn, Duyên giác thối Bồ-đề nguyện đối với địa thứ tám, đắm trước vô sinh tam-muội, vì họ say mê không thấu đạt ba cõi tự tướng, cộng tướng luống dối, vọng duyên hai thứ người pháp vô ngã không xứ, khởi tướng Niết- bàn, không thấy các pháp tự tánh vắng lặng là Niết-bàn chân thật. Lại nói về Bồ-tát Bát địa: “Này Đại Tuệ! Các đại Bồ-tát… cho đến được địa vị mà Như lai tự chứng”. Nói Địa thứ tám, tuy thấy cái vui của vô sinh tam-muội lạc, nhưng vì bổn nguyện thương xót đại bi thành tựu, đủ mười đại nguyện độ thoát chúng sinh, không chứng vô sinh cho là Niết-bàn, nhưng chẳng phải không khởi Bồ-đề phần chánh nhân Phật pháp, tùy trí tuệ như thật tu hành, như vậy cho nên được nhập vào Như lai địa. “Này Đại Tuệ! Như người nằm mộng, thấy dùng phương tiện qua sông… cho đến tâm, ý, ý thức trong mộng hiện”. Khi thức dậy không thấy nước, nương thuyền chẳng phải thật. Khi mộng thấy sông, chiếc thuyền chẳng vọng, để ví dụ đắc địa thứ tám rồi, vốn không còn sinh tử, cho nên Bồ-đề phần công đức chẳng chân thật. Địa thứ bảy chưa giác, tâm lượng chưa diệt, cho nên Bồ-đề phần công đức chẳng phải vọng, chỉ là thấy nghe hiểu biết từ vô thỉ đã từng huân tập không dứt, cho nên tâm, ý, thức phân biệt mộng hiện. Nói lìa niệm hữu vô, xét hai bản khác chép là rơi vào niệm hữu vô. Bồ-tát Sơ Địa đến thất địa: “Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát… cho đến Niết-bàn sở đắc chẳng phải hoại diệt”: Nói Bồ-tát từ Sơ địa đến Địa thứ bảy, tăng tiến tu hành: hợp ở trên nói như người trong mộng dùng phương tiện qua sông tức nhập vào địa thứ tám, được trí vô phân biệt. Hợp ở trên nói chưa qua sông liền thức giấc, thấy tất cả pháp rồi, hợp ở trên nói đã tư duy v.v… văn hiển bày lẫn nhau, chiếu soi lẫn nhau, có thể dùng ý để biết được. “Này Đại Tuệ! Đối với Đệ nhất nghóa không có thứ lớp…, cho đến đó gọi là pháp vắng lặng”. Trong Đệ nhất nghóa, bặt dứt suy tư nói năng, chỉ tự giác trí chứng đắc mới tương ưng, không được nói có Thập địa đối trị, tướng thứ lớp nối nhau, ở đây thì gượng gọi là pháp vắng lặng. Đức Phật nói kệ: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Các trụ và Phật địa, duy tâm không hình bóng… cho đến khác thì ta chứng được”: Trụ cũng là địa: Không có hình bóng tức vô sở hữu. Địa thứ bảy trở xuống gọi chung là tâm lượng chưa diệt. Từ Địa thứ tám trở lên gọi là không thật có. Thập địa trở lên mới gọi là Phật. Cho nên nói hai địa này gọi là Trụ. Còn những thứ còn lại thì ta đã chứng được. “Tự chứng và thanh tịnh, đây tức là địa ta… cho đến hoặc có khi trước hóa”: Nửa bài kệ đầu nói về pháp thân, bài kế tiếp nói về báo thân, bài thứ ba nói về hóa thân. Báo thân đều do pháp thân mà có. “Đối kia nói ba thừa, đều là Như lai địa… cho đến vô tướng, thứ lớp gì”: Như lai phương tiện tùy chúng sinh nói pháp, tức có các thừa. Trong Đệ nhất nghóa đâu có thứ lớp, cho nên kinh Tư Ích chép: Đắc các pháp chánh tánh, không từ một địa này đến một địa khác, vì vậy nếu dùng thật chiếu quyền, thì tướng phương tiện hết, đều không thật có. --------------------------- <詞>Phẩm 10: NHƯ LAI THƯỜNG VÔ THƯỜNG Như lai là thường hay vô thường: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến là thường hay vô thường”: Vì trên đây là lời các Đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại nói, nếu Như lai rơi vào ba đời thì là vô thường, cho nên hỏi Như lai ứng chánh đẳng giác là thường hay vô thường. “Phật bảo Này Đại Tuệ! Như lai ứng chánh đẳng giác… cho đến nhưng Phật Như lai thật chẳng dứt diệt”: Nói Phật là thường hay vô thường đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu Như lai là thường thì đồng với ngoại đạo chấp thần ngã v.v… là năng tác, vì năng tác là thường. Nếu Như lai là vô thường thì đồng với tác pháp hữu vi của thế gian, là năng tướng, sở tướng, cuối cùng bại hoại, trở thành không có, pháp thân nên dứt diệt, nhưng Phật Như lai thật chẳng phải đoạn thường. Như lai chẳng phải thường chẳng phải vô thường: “Này Đại Tuệ! Tất cả những gì làm ra đều vô thường, như cái bình, chiếc y… cho đến vì thế Như lai chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Nếu nói Như lai là vô thường thì đồng với cái bình, chiếc y, tất cả pháp làm ra có lỗi vô thường. Chánh nhân sở tu của Như lai là phước tuệ trang nghiêm, đều có lợi ích. Nhưng Phật Như lai công đức lưu lại muôn đời thường còn, đạo thông khắp ức kiếp vững bền. Lại tất cả thế gian có pháp làm ra, đều ứng với Như lai, vì đồng làm nhân sinh. Nhưng nói Như lai là thường, vô thường sẽ có lỗi như trên nên không thể nói năng. “Lại nữa, Đại Tuệ, Như lai chẳng phải thường, chẳng phải vô thường…, cho đến đồng như sừng thỏ, sừng ngựa, cá, rắn…”. Đây lại phá chuyển chấp. Nếu nói Như lai như hư không là thường thì không đợi tự giác Thánh trí tu nhân thành, vì hư không lìa bốn câu, phần đắc thí dụ cho Như lai. Lại nữa, nếu nói Như lai là vô sinh thường, thì như sừng thỏ sừng, ngựa, xưa nay không sinh. Nếu đồng hư không, thỏ ngựa nói là thường thì không thành nghóa phương tiện rộng lớn lợi ích chúng sinh, cho nên khác nhau. Có Phật hay không thì lý chân thường vẫn thường trụ: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Vì nghóa khác… cho đến nhưng phàm phu chẳng thể biết được”. Vì nghóa khác cũng được nói thường, nghóa là vì hiện tiền lìa niệm trí sáng, chứng pháp thân thường, cũng được nói thường. Đây là lý chân thường, có Phật hay không Phật vẫn thường trụ không thay đổi, trùm khắp tất cả pháp, chẳng phải đoạn diệt. Phàm phu ngoại đạo đâu thể giác biết. Cho nên kinh Pháp Hoa chép: Cùng đồng trong một pháp mà không được việc này. Này “Đại Tuệ, Như lai dùng trí tuệ thanh tịnh… cho đến Như lai không từ phân biệt luống dối sinh”. Nói Như lai là do sở chứng tự giác Thánh trí mà gọi tên, không phải do tâm, ý, thức, tự tướng, cộng tướng vọng huân tập mà gọi tên. Tất cả thế gian đều từ vọng tưởng không thật mà sinh, đức Như lai từ đó chẳng sinh. Người học nên dứt hai thứ phân biệt luống dối: “Này Đại Tuệ! Do hai pháp nên có thường vô thường… cho đến khi tâm phân biệt giác chớ để cho còn chút nào”. Có vọng chấp lấy bỏ sinh tử Niết-bàn nên mới có thường, vô thường, sở chứng của Như lai không có hai pháp, lìa thường và vô thường, không chấp vắng lặng. Người học nên dứt hai thứ phân biệt luống dối, khiến hết sạch không còn. “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Xa lìa thường, vô thường, mà hiện thường, vô thường… cho đến vì thế không trái nghịch”: Văn xuôi trong ba bài kệ trên văn kinh có nói rõ rất dễ hiểu. ------------------------ <詞>Phẩm 11: NHƯ LAI TẠNG TÁNH Nếu không có ngã thì ai biết khổ hết ai chứng Niết-bàn: “Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật… cho đến không cầu dứt khổ, không chứng Niết-bàn”. Do ở trên nói Như lai dùng tâm, ý, thức pháp ấm, giới, nhập vọng tập mà có tên. Lại, Đức Phật thường nói các pháp vô ngã, cho nên hỏi cúi mong vì chúng con nói tướng sinh diệt của uẩn giới xứ. Trong ấm, giới, nhập kia đã không có ngã, thì ai sinh ai diệt. Nhưng kẻ ngu y theo sinh diệt, bất giác khổ hết, chẳng chứng Niết-bàn là pháp vô sinh diệt. Nếu không có ngã, thì ai biết khổ hết! Ai chứng Niết-bàn? Như lai tàng có khả năng tạo dựng pháp sinh từ khắp trong sáu đường: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe… cho đến biến hiện các đường lìa ngã, ngã sở”. Như lai tàng là tên của tự tánh thanh tịnh tâm tại triền. Phật dạy trong ấm giới nhập tuy vô ngã mà có Như lai Tạng, năng thọ nhận lành, không lành, cho nên có khả năng tạo dựng pháp sinh tử khắp trong sáu đường, thí như cô đào hát nương chú thuật biến hiện pháp hình sắc trong sáu đường, vô ngã, ngã sở. Phàm phu nương Như lai Tạng khởi sáu đường sinh tử, vô ngã ngã sở cũng giống như vậy. “Vì bất giác nên có ba duyên hòa hợp… cho đến sinh bảy thức vô minh trụ địa”. Do hai thừa không biết Như lai tàng vô ngã, chấp ba duyên căn, trần, thức hòa hợp làm nhân sinh. Ngoại đạo không biết Như lai tàng vô ngã, chấp thần ngã tạo tác. Do ác tập từ vô thỉ huân xông, gọi Như lai Tạng là tàng thức, sinh ra bảy thức vô minh trụ địa. Hai câu dưới, có chỗ khác nói sinh vô minh trụ địa cùng chung với thức thứ bảy. Như biển lớn có sóng nối tiếp nhau: “Thí như biển lớn mà có sóng… cho đến lại sinh nhân khổ của tham và sở duyên”: Nên biết biển lớn kia nhân gió mà khởi sóng, tướng nước tướng sóng nối nhau không dứt, huống chi biển Như lai Tạng, do gió vô minh thổi động làm khởi sóng bảy thức. Sinh tử nối nhau không dứt cũng giống như vậy. Nhưng Như lai Tạng xưa nay tự tánh thanh tịnh không có cấu uế, lìa thường, vô thường và lỗi ngã luận của các ngoại đạo; còn các thức kia niệm niệm sinh diệt, vì nhân duyên luống dối hòa hợp nên sinh khởi sinh tử ba cõi; không biết rõ tất cả các pháp như sắc v.v… do tự tâm hiện. Chấp đắm danh tướng khởi các phiền não, gây ra nghiệp thiện ác chiêu cảm quả báo khổ vui, đã từ tham sinh, rồi lại sinh tham. Hoặc nhân và duyên trôi lăn trong sinh tử, không có lúc nào được giải thoát. Cho nên kinh Pháp Hoa chép: Nhân của các khổ thì tham dục là cội gốc. Từ đây trở lên nói về Như lai Tạng và ba cõi hữu lậu thiện ác làm nhân. “Các thủ căn diệt, không nối nhau sinh… cho đến liền vọng phát sinh, nghó là được giải thoát”. Đây nói nếu ái thủ các căn diệt, không nối nhau sinh, tự ác giác quán phân biệt khổ lạc thọ, tu hạnh như vậy, hoặc đắc tứ thiền diệt định, nhập bốn đế giải thoát, liền vọng sinh tưởng được giải thoát chân thật. Cho nên Kinh Pháp Hoa chép: Chỉ hết sinh tử gọi là giải thoát, kỳ thật chưa được tất cả giải thoát. Trên đây là nói Như lai Tạng và Thanh văn, Duyên giác xuất thế gian yếu kém, pháp lành vô lậu làm nhân. Thanh văn, Duyên giác chưa phải giải thoát chân thật: “Thật chưa xả chưa chuyển… cho đến chấp tự tướng, cộng tướng”: Ý nói Thanh văn, Duyên giác kỳ thật chưa xả bỏ thói quen luống dối, tức chưa thể chuyển tên tàng thức, chẳng phải giải thoát chân thật. Nếu không có tàng thức thì bảy thức không chỗ nương, thói quen cũng diệt, là giải thoát chân thật. Vì sao? Vì tàng thức kia là chỗ nương tựa, và tướng phần kia làm sở duyên, vì các thức khác sinh, nhưng chẳng phải cảnh giới của hai thừa, ngoại đạo, do vô minh pháp chấp kia chưa diệt. “Nếu thấy Như lai tàng thì năm pháp tự tánh… cho đến phải làm thanh tịnh tên gọi Như lai Tạng tàng thức”: Đây nói năng chuyển diệt tàng thức thấy tâm Như lai Tạng, năm pháp ba tự tánh hai vô ngã v.v… đối trị pháp môn thì diệt, công dụng ác giác không thể làm nghiêng động, trụ Bất động địa vô công dụng đạo, hiểu rõ mười thứ như huyễn tam-muội, như mộng qua sông, chưa qua mà thức giấc, được năng lực giác ngộ của tam-muội kia, giữ gìn nhậm vận tu hành Phật pháp khó suy nghó bàn luận, nguyện lực rộng lớn không trụ vô vi và vô sinh nhẫn, đạt được tự giác Thánh trí không chung với các thừa, mà chứng đạo Thập địa Thánh nhân, ý sinh pháp thân, lìa các hạnh tam-muội có công dụng, cho nên Bồ-tát muốn được Phật phát thắng tịnh nhiệm mầu phải làm thanh tịnh tên gọi của tàng thức vọng tập, không phải như hai thừa đều dứt sanh tử phần đoạn bèn cho là giải thoát chân thật. Phật thấy rõ Như lai tạng như thấy quả yêm-ma-lặc trong lòng bàn tay: “Này Đại Tuệ! Nếu không có Như lai Tạng… cho đến mà không bỏ sự tinh tấn mạnh mẽ”: Nếu không có tên gọi tạng thức thì không có hai món phần đoạn, biến dịch sinh tử của phàm Thánh, giả hành chân tu, tuy thấy tự thật tế, trụ hiện pháp lạc trụ tam-muội, nhưng không bỏ phương tiện hướng đến Phật địa, gọi là bậc Thánh sinh diệt. “Này Đại Tuệ! Như lai Tạng tàng thức này… cho đến như xem quả yêm-ma-lặc ở trong bàn tay”: Ngoại đạo vọng giác, hai thừa thiên giác, chẳng phải hiện tiền thấy. Bồ-tát phần giác tuy có hơn, nhưng cũng chưa rốt ráo. Như lai hiện thấy Như lai Tạng, như nhìn quả yêm- ma-lặc trong lòng bàn tay, rõ ràng không lầm lẫn. Như lai tạng là cảnh giới Phật: “Này Đại Tuệ! Ta vì phu nhân Thắng-man… cho đến chớ chỉ nghe rồi liền nghó là đủ”: Nói Như lai Tạng và tàng thức là cảnh giới Phật, chẳng phải là cảnh giới của ngoại đạo hai thừa, nên khuyên họ tu quán sát ba tuệ đầy đủ, chớ chỉ nghe hiểu mà nghó là đủ. “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Như lai tàng sâu kín, cùng chung thức thứ bảy, chấp đắm hai thứ sinh, biết rõ thì xa lìa”: Nói hai thứ sinh, tức là hàng phàm phu ở trên và bậc Thánh trên đều có sinh diệt. “Thói quen vô thỉ xông như bóng hiện trong tâm, nếu quán sát như thật, cảnh tướng đều không có”. Như gương do cảnh trước có sắc tượng luống dối hiện, cũng như Như lai tạng do thức thứ bảy huân tập nghiệp ác từ vô thỉ, nên có các pháp vọng y báo, chánh báo của ba cõi hiện, như thật quán sát thì tất cả đều vô. Người trí không nhìn ngón tay mà nhìn mặt trăng: “Như ngu thấy chỉ trăng, Nhìn tay chẳng thấy trăng, Người chấp đắm văn tự, Chẳng thấy ngã chân thật”. Người trí thấy tay chỉ thì biết có mặt trăng, người ngu thì trái lại, cho nên chỉ nhìn ngón tay văn tự, không được pháp chân thật. “Tâm như người diễn trò, Ý như kẻ phụ trò, Năm thức là bè bạn, Vọng tưởng chúng xem hát”. Nói Như lai tàng và tàng thức được sự huân tập giữ gìn, biến khởi căn thân khí giới, như người diễn trò, mạt-na nhiễm ô chấp ngã chấp pháp, như người phụ trò; năm chuyển thức trước chấp trần giúp nhau, thí như bạn bè, ý thức thứ sáu phân biệt luống dối, giống như người xem kia. <詞>Phẩm 12: NGŨ PHÁP MÔN Thưa hỏi về năm pháp, v.v… “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến địa vị Như lai tự chứng”. Do ở trên thấy Như lai Tạng, năm pháp ba tự tánh, các thức, vô ngã, đối trị pháp môn thì diệt. Cho nên nay lại nêu tướng năm pháp, ba tự tánh, các thức, vô ngã khác nhau để thưa hỏi. “Phật dạy: Lắng nghe, lắng nghe, ta sẽ nói cho ông v.v… cho mà sanh phân biệt chẳng phải các bậc Thánh”. Năm pháp v.v… này là pháp môn đối trị để độ chúng sinh, nếu không tu hành trị chướng, sở trị, chứng nhập chân thật thì tức là phàm phu phân biệt luống dối. Nói về năm pháp: “Đại Tuệ bạch Phật: Thế Tôn, thế nào là không rõ… cho đến thắng tánh mà sinh, theo dòng danh tướng”: Là nói người ngu không hiểu danh là giả lập, tâm trôi theo sự xao động, thấy có các pháp, chấp ngã, ngã sở sinh tử trôi lăn, chẳng giác các pháp tánh như huyễn v.v… chỉ do tự tâm phân biệt luống dối khởi lên, lìa năng thủ, sở thủ và sinh trụ diệt, nghóa là từ tự tại thắng tánh v.v… sinh, vọng tâm ngoại duyên trôi giạt theo trần. “Này Đại Tuệ! Tướng ở trong đây là vật mà nhãn thức nhìn thấy… cho đến như vậy v.v… ta gọi đó là tướng”. Năm căn, sáu cảnh gọi chung là tướng, cũng nói là vật mà nhãn thức nhìn thấy, gọi là hữu kiến hữu đối sắc, nhó, tỷ, thiệt, thân, ý sở đắc gọi là vô kiến hữu đối sắc, ý thức sở đắc gọi là vô kiến vô đối sắc. Ba thứ sắc tướng này gọi là tướng. “Phân biệt là đặt ra các tên gọi… cho đến quyết định không khác, đó gọi là phân biệt”. Đặt ra rất nhiều tên gọi, nói lên các tướng khác nhau, nghóa là có các tên voi ngựa v.v… sinh, tức có các tướng voi ngựa v.v… khởi. Việc này như vậy là nói lên tự tướng. Chắc chắn không khác là nói lên cộng tướng. Chấp có các danh tướng này nên gọi là vọng tưởng luống dối. “Chánh trí là quán danh tướng làm khách lẫn nhau… cho đến đó gọi là chánh trí”: Dùng chánh trí quán sát, vật không có tên thật, là công tên không có vật. Tự tánh vốn không, làm khách lẫn nhau, cho nên không phân biệt danh tướng thức sinh, đâu có liên quan đến đoạn thường, rơi vào địa vị phàm phu. “Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát… cho đến ta nói pháp này gọi là Như như”: Nói chánh trí này chẳng chấp pháp danh tướng là có, không bỏ pháp danh tướng là vô, xa lìa hai chấp tổn giảm và tăng ích. Danh tướng vọng thức vốn tự bất sinh, nên gượng gọi là Như như. “Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát… cho đến nhập vào Như như mà được”: Nói trụ như như là được nhập vào cảnh giới vô tướng vắng lặng, hạnh vượt ngoài thắng giải hạnh, lên Hoan hỷ địa cho đến công đức đầy đủ. Ở cõi Sắc cứu cánh chứng Như lai địa, làm thành thục chúng sinh, như trăng đáy nước soi chiếu hiện bày, vô lượng ứng thân tùy nghi nói pháp, thể tánh thanh tịnh, lìa tâm, ý, thức, thành tựu đủ nguyện xưa vô tận mười câu, đó gọi là Bồ-tát như thật tu hành năm pháp v.v… được pháp thân Như như. Nếu không tu thì sinh phàm phu điên đảo, trôi lăn trong chốn hoang vắng trong các đường. Ba tự tánh có tướng riêng hay không? “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ… cho đến vì không thể hoại cho nên thuộc về tánh viên thành”: Đại Tuệ trước nêu lên bốn môn để hỏi, Đức Như lai chỉ y theo môn năm pháp mà đáp, cho nên ở đây là hỏi ba tự tánh, nhập vào trong năm pháp;, ba tự tánh có tự tướng riêng hay không! Phật đáp: Ngoài ba pháp môn ra đều xếp vào năm pháp, do chỉ tu một môn thì các môn khác đều gồm thâu đầẵy đủ, ngoài ba pháp ra cũng giống như vậy. Nghóa là trong danh tướng kia sinh vọng chấp tự tánh, vọng chấp tự tánh này nhập vào trong danh tướng năm pháp. Nếu nương pháp tâm, tâm sở phân biệt kia thì sẽ theo danh tướng đồng thời mà khởi, thí như mặt trời và ánh sáng là chung, đó gọi là duyên khởi tự tánh nhập vào năm pháp phân biệt. Chánh trí, như như chẳng phải pháp làm ra, cho nên không thể hoại, đó là tánh viên thành nhập vào chánh trí như như trong năm pháp. Ở trên nói ba tự tánh nhập vào năm pháp đã xong. Các pháp được xếp vào năm pháp: Này Đại Tuệ! Do tự tâm hiện ra… cho đến thảy đều xếp vào năm pháp này”: Nói khi đối với pháp do tự tâm hiện mà sinh chấp đắm thì có tám thứ phân biệt của tâm, ý, thức, khởi tướng khác nhau này, tám danh tướng này tức xếp vào năm pháp gọi là tướng phân biệt, biết rõ danh tướng này đều là không thật, chỉ vọng chấp tánh, thì xếp vào chánh trí như như trong năm pháp, ở đây nói tám thức nhập vào trong năm pháp. Thiết lập đều không thật chỉ vọng chấp tánh, hoặc chấp thật có tên hai thứ ngã và hai tướng ngã, tức xếp vào danh, tướng phân biệt trong năm pháp, nếu giác được hai ngã kia không thật thì được trí sinh vô ngã là sinh và pháp, tức xếp vào chánh trí như như trong năm pháp. Ở đây nói hai thứ vô ngã nhập vào trong năm pháp, chẳng phải chỉ năm pháp thuộc về ba môn còn lại, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như lai, hoặc nhân hoặc quả tất cả các pháp đều xếp vào trong ấy. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Năm pháp… cho đến tâm, tâm pháp gọi là phân biệt”: Ở đây Đức Phật lại nói về nghóa năm pháp. Hai pháp danh, tướng rất dễ hiểu, khởi tâm tâm sở, duyên niệm danh tướng của bình, y v.v… thì gọi là phân biệt. Tâm pháp tức tám thức tâm vương, tâm sở pháp tức sáu vị tâm sở, cũng gọi tâm sở pháp, nghóa như ở chỗ khác nói: “Danh kia, tướng kia, rốt ráo không thật có… cho đến cho đến giác diệt đó gọi là Như như”: Biết rõ danh tướng kia không thật, cho nên không có phân biệt giác biết, đó gọi là Như như. “Này Đại Tuệ! Chân thật quyết định rốt ráo căn bản tự tánh có thể được… cho đến đó gọi là chánh trí”: Ở đây chỉ có một sự thật này, hai điều kia thì chẳng thật, cho nên nói quyết định rốt ráo căn bản tự tánh có thể được, còn ngoài ra đều là việc ma. Vì vậy cho nên các Đức Phật thuận theo chứng nhập, như thật tướng kia, vì chúng sinh kia mà mở bày giảng nói năm pháp môn v.v… giúp họ nhập vào chỗ như thật. Hai thừa ngoại đạo không thể chứng được, nên gọi là chánh trí. “Này Đại Tuệ! Đây gọi là năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai thứ vô ngã… cho đến tâm, quyết định không bị người khác chuyển”: Nói phải giác biết chánh trí như như, chớ để cho danh tướng phân biệt xoay chuyển. “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Năm pháp, ba tự tánh và cùng tám thứ thức, hai thứ pháp vô ngã, đều thuộc về Đại thừa”: Bài kệ trên nói bốn môn đều thuộc về tất cả pháp nghóa Đại thừa. “Danh tướng và phân biệt, thuộc hai thứ tự tánh, chánh trí và như như, đó là viên thành thật”: Bài kệ này nói ba tự tánh được xếp vào năm pháp. -------------------------- <詞>Phẩm 13: HẰNG HÀ SA Nói Phật nhiều như số cát sông Hằng: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật… cho đến như lời nói mà tin nhận hay là có nghóa khác”: Đại Tuệ do ở trên bài kệ trong phẩm. Hiện chứng chép: Đây là lời các Phật, quá hiện vị lai nói. Lại do ở trên nói thân kia thanh tịnh lìa tâm, ý, thức. Đã lìa tâm thức thì không thể thí dụ, cho nên nêu các kinh nói các Đức Phật ba đời nhiều như số cát sông hằng cho nên nói như lời nói mà tin nhận hay là có nghóa khác. Phật nhiều không thể so sánh với cát sông hằng: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Chớ như lời nói mà thọ trì… cho đến chỉ dùng chút phần làm ví dụ: Nói các Như lai ba đời vượt quá chỗ thế gian mong đợi, chẳng thí dụ phải thí dụ, không thể so sánh với cát sông Hằng. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: Tất cả pháp hữu vô ba cõi, không thể thí dụ với Phật được. Vì hóa thật dễ thấy nên nói nhiều như cát sông Hằng: “Ta vì phàm ngu các ngoại đạo… cho đến cho nên ta nói như cát sông Hằng”: Đây là dẫn dụ chung phàm phu và ngoại đạo, khiến họ nhàm chán sinh tử, nên vì họ nói Hóa Phật dễ thấy như cát sông Hằng, đều đã đắc đạo, nay ông không nên chịu sự sinh tử này. Nếu nói các Đức Phật như hoa ưu-đàm-bát-la khó thấy được, thì những người này liền sinh lui sụt sợ hãi, không còn cầu tiến. “Lại có khi ta thấy những người được hóa độ nói rằng, Phật khó gặp như hoa ưu-đàm-bát”: Ở đây nói lại thấy các đệ tử được hóa độ, mà không siêng năng tinh tấn, nói Phật khó gặp như hoa ưu-đàm-bát. Nay ông được gặp vì sao không siêng năng cầu tiến, xa lìa sinh tử. Vì thế, dụ Phật ít có như hoa Ưu-đàm: “Này Đại Tuệ! Hoa ưu-đàm-bát không có ai từng thấy… cho đến tất cả phàm ngu kia không thể tin nhận”: Nói hoa ưu-đàm trong ba đời không ai nhìn thấy: Như lai thì thế gian đều thấy, vì sao nói Phật như hoa ưu-đàm. Đây là nói vì chúng sinh nên thí dụ như vậy, cho nên nói hóa Phật khó thấy dễ thấy, chẳng phải nói từ pháp chân thật. Tự pháp là cảnh giới sở chứng của Như lai, thế gian không có ai bằng được, không thể ví du được, tâm thức phàm phu chẳng thể thấy được, như vậy đều không thể tin nhận. “Này Đại Tuệ! Như lai chân thật vượt ngoài tâm ý… cho đến nói cát sông Hằng không có sai trái”. Pháp thân chân thật lìa tâm duyên tướng, thí dụ chẳng thể sánh bằng, nhưng cũng có khi dùng phần ít để lập ra. Nói Phật nhiều như cát sông Hằng không có lỗi. Nhưng so sánh với cát sông hằng không có gì trái: “Này Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng… cho đến không có thương ghét, không có phân biệt”: Những người có trí lấy thí dụ được giải thoát, Như lai phương tiện dùng các đạo lý này so sánh với số cát sông Hằng không có gì trái. “Này Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng là tự tánh của đất này… cho đến như cát sông Hằng không bao giờ hoại diệt”. Cát sông Hằng không thể hoại được so sánh với pháp thân Như lai”. “Này Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng không có hạn lượng… cho đến chiếu khắp đại hội của tất cả các Đức Phật”: Nói chiếu soi tất cả các Đức Phật và đại chúng, như số cát sông Hằng không có hạn lượng, được so sánh với Như lai. Đức Như lai đã dứt nhân sinh ba cõi: “Này Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng trụ trong tự tánh cát… cho đến có các nhân sinh đều đã đoạn diệt”: Thuần là cát vàng không có gạch ngói để thí dụ pháp thân Như lai không có cát sinh tử sinh diệt, nghóa là Đức Như lai đã dứt nhân sinh ba cõi. “Này Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng lấy không thể bớt… cho đến vì pháp thân vô diệt hoại. Vì chẳng phải pháp sắc thân cho nên không thêm bớt. “Này Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng tuy khổ công ép lọc cũng không thể được dầu… cho đến thành tựu đầy đủ tâm đại từ bi”: Vì bổn nguyện đại bi tam-muội lạc cho nên không bỏ chúng sinh. “Này Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng trôi theo nước… cho đến nghóa đường là nghóa đoan mà kẻ ngu chẳng biết”. Chữ Thú hai bản dịch đời Tống, và đời Ngụy đều ghi là chữ khứ, nói Như lai nói pháp không trôi lăn theo các dòng nước, kẻ ngu không biết các pháp trôi lăn theo dòng Niết-bàn, không có đến đi. Ở trong sinh tử được giải thoát: “Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật… cho đến ở trong sinh tử mà được giải thoát”. Nếu chúng sinh sinh tử nguồn gốc mà không thể biết, làm sao về sau được giải thoá tmà rất dễ hiểu ư! Phật bảo Đại Tuệ! Thói quen luống dối từ vô thỉ… cho đến vì vậy không được nói là mé vô biên”. Nói nhân của thói quen luống dối từ vô thỉ diệt thỉ vọng tưởng phân biệt chuyển sở y, tức gọi là giải thoát, chẳng phải mé đoạn diệt, cho nên không được nói vô biên. “Này Đại Tuệ! Mé vô biên… cho đến tâm phân biệt sinh, nếu biết rõ thì diệt”: Nói có mé vô biên, không khác vọng phân biệt. Nếu lìa ngoài vọng phân biệt có chúng sinh, riêng thì tức có chúng sinh dứt sinh tử, được giải thoát. Nay quán sát tri và sở tri tất cả các pháp, xưa nay vắng lặng, chỉ do chúng sinh biết hay không biết mà thôi! Đức Phật nói kệ: “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Quán sát các Đạo sư, vì như cát sông Hằng… cho đến Phật thể cũng như thế”. Hai bài kệ trên đây nói về bảy thứ ví dụ cát sông Hằng, lời văn rất dễ hiểu. ----------------------------- <詞>Phẩm 14: SÁT NA Thưa hỏi về tướng hoại của sát-na: Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: bạch Đức Thế Tôn! Các pháp nào gọi là sát-na? Vì ở trên cho có thân thì có hoại diệt, tức là nói ấm, giới, nhập vô thường, cho nên nêu tướng hoại của sát-na của tất cả pháp để thưa hỏi. “Phật bảo lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông v.v… cho đến pháp có thọ, pháp vô thọ”: Như lai lại nêu bày đó chẳng phải sát-na, cho nên trước hết giải thích tất cả các pháp, nghóa là thuận chánh lý lợi ích mình và người, thì gọi là pháp lành. Trái với chánh trí làm tổn hại mình và người, gọi là pháp không lành. Vì có sinh diệt trói buộc thuộc nhân duyên có sở đắc, gọi là pháp hữu vi. Không có sinh trụ diệt thuộc về nhân duyên vô sở đắc, gọi là pháp vô vi. Thế, tức là nghóa che đậy, là che đậy nghóa cao siêu, lại có nghóa là phá hoại, ba đời dời đổi. Gian là rơi vào luống dối pháp che đậy tức là rơi vào luống dối thế tức là gian, gọi là pháp thế gian. Vượt ngoài luống dối gọi là xuất thế gian. Hữu là tam hữu. Lậu là nhiễm ô, nghóa là pháp tánh của ba cõi là ô nhiễm, gọi là pháp hữu lậu, không nhiễm ô gọi là pháp vô lậu. Thọ là chấp thọ, vì có chấp thọ gọi là sinh tử, không chấp thọ gọi là Niết-bàn. Năm cặp đối này, mỗi cặp bao gồm tất cả pháp. Xét bản dịch đời Lưu Tống không có chữ pháp lành, lại có ba chữ pháp vô ký. Nói về sát-na và chẳng phải sát na: “Này Đại Tuệ! Tóm lại tâm, ý, ý thức và thói quen, làm nhân năm pháp thủ uẩn v.v… cho đến mà sanh phân biệt là thiện, bất thiện: Vì các pháp sắc tâm như ấm, giới, nhập v.v… thêm lớn kẻ ngu phân biệt gọi là lành, không lành, đó là sát-na. “Bậc Thánh hiện chứng trụ trong đó nên về tam-muội lạc, tam- muội chánh thọ, hiện pháp lạc trụ, gọi là thiện vô lậu” tu tam-muội làm nhân. Chứng hiện pháp lạc trụ gọi là pháp lành vô lậu của bậc Thánh, chẳng phải sát-na. “Lại nữa Này Đại Tuệ! Lành, không lành… cho đến tâm, ý, ý thức và năm thức thân”: Một lần nữa muốn giải thích pháp lành, không lành ở trước, đó chẳng phải sát-na, vì thế nêu rằng: lại nữa. Cho nêu tám thức Như lai Tạng là nhân của sát-na, chẳng phải sát-na, nhưng thức A- lại-da thứ tám này chỉ thuộc về tánh vô phú vô ký. Mạt-na thứ bảy chỉ thuộc về tánh hữu phú vô ký. Sáu chuyển thức trước chung cho cả ba tánh thiện, bất thiện, vô ký. Giai vị chưa chuyển y, tám thức này đều gọi là sát-na, cho nên Như lai Tạng gọi là nhân sát-na. Nếu được chuyển y thì tám thức đều là pháp lành vô lậu. Như lai Tạng gọi là nhân phi sát- na.Tánh thiện, bất thiện nương vô ký mà có, cho nên tánh vô ký trong văn kinh có nói lược, chẳng phải không nói. Năm thức thân cũng niệm sanh diệt: “Này Đại Tuệ! Năm thức thân kia đi chung với, ý thức chung… cho đến chẳng khác thể sinh, sinh rồi liền diệt”: Nói năm thức chấp trần và chung với thức thứ sáu, thứ bảy. Thức thứ sáu tạo nghiệp tướng thiện, ác, xoay vần khác nhau, nghiệp tập thiện ác nối nhau không dứt. Năm thức thân sinh, năm thức thân này cũng niệm niệm sinh diệt. “Không biết cảnh do tự tâm hiện… cho đến ta nói những thứ này gọi là pháp sát-na”: Ở đây nói năm thức chẳng biết các pháp do tự tâm hiện, chấp các trần, hễ chấp thì liền diệt, cho nên nói thứ lớp diệt. Thời gian thứ lớp diệt thì thức thứ sáu sinh, cho nên nói thức riêng sinh khởi, ý thức và năm thức kia đi chung, chấp vào cái mà năm thức chấp, các hình tướng khác nhau, khi một niệm không dừng thì đó gọi là sát-na. “Thói quen vô lậu chẳng phải pháp sát-na, phàm ngu và sát-na luận chẳng thể biết được”. Nói thói quen vô lậu, huân xong Như lai Tạng tàng thức, lìa niệm mới tương ưng, chứng đắc quả Thánh, tức phi sát-na. Cho nên luận Khởi Tín chép: Đắc vô niệm thì biết sinh trú dị diệt của tâm tướng. Do vô niệm v.v… đối với điều này há phàm phu không hề lìa niệm, sinh diệt nói suông mà biết được ư! Lầm chấp của người chấp nhân, ngã: “Kia không thể biết tất cả các pháp… cho đến vô vi đồng các pháp hoại, rơi vào chấp đoạn”. Phàm ngu chẳng giác gọi là phi sát-na, thì chấp vô lậu chân như vô vi đòng với các tác pháp sinh diệt bại hoại, rơi vào chấp đoạn mà ngoại đạo chấp. Luận Khởi Tín chép: Người chấp nhân ngã, nghe kinh nói: vũ trụ muôn hữu hoàn toàn không có thật thể, thậm chí pháp xuất thế gian là Niết-bàn chân như cũng hoàn toàn là không, lìa tất cả tướng. Vì không biết lời này là để bác bỏ chấp liền cho rằng tánh Niết-bàn chân như chỉ là không, đâu không rơi vào kiến chấp đoạn diệt ư! “Này Đại Tuệ! Năm thức thân chẳng trôi lăn, không chịu khổ vui, chẳng phải nhân Niết-bàn”: Năm thức thân chẳng trôi lăn. Có thuyết nói: Bảy thức chẳng trôi lăn. Nói bảy thức kia niệm niệm sinh diệt, không tự tánh, không thể trôi lăn trong sáu đường cũng không biết khổ vui, cũng chẳng phải nhân Niết-bàn. “Như lai Tạng chịu khổ vui, cùng với nhân đều có sinh diệt”: Nói Như lai Tạng là thường, tùy nhiễm tịnh huân tập chuyển biến làm chỗ nương tựa giữ gìn, có thể giúp cho các thức biết khổ vui, cùng chung với nhân hoặc sinh hoặc diệt. Phàm phu bị năm trụ che lấp nên khởi chấp: “Bị bốn thứ thói quen mê mờ che lấp… cho đến không thể biết rõ khởi chấp sát-na”. Phàm ngu bị năm trụ huân tâm làm mê mờ che lấp, nên không biết Như lai Tạng là thường, khởi chấp sát-na nói bốn thứ thói quen tức tứ trụ phiền não và vô minh căn bản. “Này Đại Tuệ! Như vàng, kim cương, xá-lợi Phật có tánh đặc biệt trọn không bao giờ bị tổn hoại”: Nói Như lai Tạng không sinh diệt, giống như kim cương và xá-lợi Phật. “Nếu người chứng được pháp có sát-na… cho đến đối với tất cả pháp trong ngoài nghó là sát-na?” Phàm ngu không hiểu các pháp luống dối, cho nên ta phương tiện thuận theo nói cho họ nghe. Tất cả các pháp sát-na không dừng. Thói quen vô lậu chẳng phải sát-na. Nói về sáu pháp: “Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng… cho đến sáu pháp là gì? Thế nào là đầy đủ”. Do ở trên nói tu chứng tam-muội lạc trú, gọi là pháp vô lậu thiện của bậc Thánh. Cho nên nêu kinh khác Thế Tôn thường nói sáu pháp Ba-la-mật, nếu được đầy đủ thì thành chánh giác, nên hỏi pháp sáu là gì, thế nào là đầy đủ. Phật bảo Này Đại Tuệ! Ba-la-mật… cho đến thành tựu thần thông, sinh cõi Phạm thế”: Nói thế gian Ba-la-mật là chấp ngã, ngã sở, chấp lấy ác kiến có không hai bên, cầu thân trong ba cõi, tham đắm cảnh sắc, thanh hương vị xúc, thực hành các Ba-la-mật hữu lậu, được sinh giàu sang, hưởng lạc ở sáu tầng trời cõi Dục, cho đến phi phi tưởng xứ cõi Vô sắc, đều không thể thoát khỏi sự trôi lăn trong sinh tử. Nói về ba-la-mật xuất thế gian: “Này Đại Tuệ! Ba-la-mật xuất thế gian… cho đến tu tập các Ba- la-mật như thế”: Nói Ba-la-mật xuất thế gian, là người hai thừa nhàm chán sinh tử, ưa vui Niết-bàn, mong cầu tự độ, tu tập sáu hạnh vô lậu thấp kém, cho nên không được thành Phật. Lời văn dưới nói Ba-la-mật xuất thế thượng thượng là Như lai thường nói nếu được đầy đủ liền thành Chánh giác, phải biết sơ về tướng ấy, ở đây y theo mười môn mà các bậc tiên đức đã chỉ dạy sơ lược: Nêu lên mười môn: Giải thích tên gọi. Nêu ra tự thể. Nói về tướng. Lập ra. Thứ lớp. Thu nhiếp lẫn nhau. Tu chứng. Y theo giáo. Quán tâm. Giải thích văn. Giải thích tên gọi: Trước tên chung, sau tên riêng. Tên chung là Ba-la-mật, luận Duy thức chép: Phải tóm tắt nhiếp thọ bảy thứ trên hết mới được lập ra Ba- la-mật-đa: 1. An trú trên hết, nghóa là phải an trụ chủng tánh Bồ-tát. 2. Y chỉ trên hết, nghóa là phải nương tựa tâm Đại Bồ-đề. 3.Ý lạc trên hết, nghóa là phải từ bi thương xót tất cả loài hữu tình. 4.Sự nghiệp trên hết, nghóa là phải thực hành đầy đủ tất cả sự nghiệp. 5.Xảo tiện trên hết, nghóa là phải nhiếp thọ trí vô tướng. 6.Hồi hướng trên hết, nghóa là phải hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. 7. Thanh tịnh trên hết, nghóa là phải không gây hai chướng xen lẫn, tức ba thời không hối hận. Nếu bảy trên hết này hễ thiếu một thứ thì không thể đạt đến giải thoát. Cho nên sáu độ này mỗi độ có chia ra bốn câu. Về tên riêng, là giúp đỡ ân tuệ cho người gọi là thí. Ngừa quấy ngăn lỗi gọi là giới. Chịu đựng các pháp mà không bận lòng gọi là nhẫn. Đây y theo sinh nhẫn, lại nhẫn tức là nhẫn khả, nhẫn tức là tuệ, là sự lý của hai thứ nhẫn. Luyện tâm đối với pháp gọi là Tinh, chuyên tâm đạt cho được gọi là Tiến. Tiếng Phạm Thiền- na, Hán dịch là Tónh tự. Tiếng Phạm Bát-nhã, Hán dịch là trí tuệ. Nêu ra thể: Thí là không tham và khởi ba nghiệp kia làm tánh. Giới lấy thọ học giới Bồ-tát làm tánh. Nhẫn lấy vô sân, tinh tấn xét nét trí tuệ và khởi ba nghiệp kia làm tánh. Tinh tấn do siêng năng và khởi ba nghiệp kia làm tánh. Tịnh lự lấy đẳng trì làm tánh. Trí dùng trạch pháp làm tánh, khai ra thành mười độ, đối bốn độ cũng dùng trạch pháp làm tánh, gọi là căn bản hậu đắc trí. Nói về tướng: Thí có ba thứ: đó là tài thí, vô úy thí và pháp thí. Giới có ba thứ: đó là nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới. Nhẫn có ba thứ: là nại oán hại nhẫn, an thọ khổ nhẫn và đế sát pháp nhẫn. Tinh tấn có ba thứ: đó là bị giáp tinh tấn, nhiếp thiện tinh tấn và lợi lạc tinh tấn. Tónh lự tinh tấn: đó là an trụ tónh lự, dẫn phát tónh lự và biện sự tónh lự. Trí tuệ có ba thứ: đó là gia hành vô phân biệt trí, chánh thể vô phân biệt trí và hậu đắc vô phân biệt trí. Sau còn bốn độ biệt danh biện tướng, đây đã không có văn, như ở chương riêng có nói. Lập ra: Vì đối với Thập địa đối trị mười chướng, chứng mười chân như, cho nên chia ra thành mười, là để đối trị sáu tế, dần dần tu Phật pháp, dần dần thành thục hữu tình, cho nên chỉ nói sáu. Trong sáu thì thứ ba thứ trước tăng thượng phát sinh đạo, cảm đại tài thể và quyến thuộc. Ba thứ sau quyết định thắng đạo, có công năng hàng phục phiền não, thành thục hữu tình, đạt đến Phật pháp. Lại nữa, ba thứ trước là nhiêu ích hữu tình, thí tài không phiền não, chịu đựng phiền não kia. Ba thứ sau là đối trị phiền não, tăng thêm sự tinh tấn tu hành, hàng phục dứt hẳn thói quen, lại do ba thứ trước nên không trụ Niết-bàn, do hai thứ sau nên không trụ sinh tử, có khả năng làm tư lương cho vô trụ Niết-bàn. Khai nói mười độ, sau chỉ còn bốn độ, ấy là vì trợ giúp cho sáu độ khiến đầy đủ phương tiện, trợ giúp cho ba thứ trước. Nguyện giúp tinh tấn, lực giúp tónh lự, trí giúp cho Bát-nhã, như kinh Thâm Mật nói. Thứ lớp: Nghóa là do trước trước dẫn, phát sau sau và do hậu hậu giữ gìn thanh tịnh tiền tiền trước. Lại nữa trước thô sau tế, dễ khó tu tập thứ lớp như vậy. Thu nhiếp lẫn nhau: Trong sáu thứ này mỗi thứ đều gồm thâu tất cả Ba-la-mật, phần nhiều hòa thuận với nhau. Luận Bát-nhã chép: Đàn nghóa là thu nhiếp sáu pháp, giúp sinh pháp vô úy. Luận Trí Độ chép: Có người chưa trang nghiêm Ba-la-mật thì không gồm thâu, đã có trang nghiêm Ba-la-mật tức là gồm thâu. Nay văn kinh này ắt đầy đủ sự nhiếp thọ. Nếu chỉ nói sáu, sáu nhiếp bốn sau, hoặc chia thành mười, thứ sáu chỉ nhiếp trí vô phân biệt, bốn thứ sau đều thuộc trí hậu đắc. Tu chứng: Năm vị đều tu thì địa vị Phật mới rốt ráo. Sáu y theo nhân vị gồm có ba tên: Đó là vô số kiếp ban đầu bố thí v.v… thế lực còn rất nhỏ nhiệm, bị phiền não chế phục, chỉ gọi Ba-la-mật đa đệ nhị kiếp khứ thế lực dần dần thêm lớn, năng hàng phục phiền não gọi là cận Ba-la-mật đa. Đệ tâm tăng-kỳ thế lực chuyển thắng, có khả năng hoàn toàn hàng phục tất cả phiền não, gọi là Ba-la-mật đa. Cho nên kinh nói Xuất thế thượng thượng Ba-la-mật đa. Y theo giáo: Các giáo lý đáng suy nghó, giáo này mỗi giáo phải dung nhiếp nhau, suốt quả gồm nhân. Quán tâm: Có thể dùng ý mà đắc. Nếu không quán tâm, không dùng hết trí tuệ thì không thể mở phát kho báu tự tâm, dù phước trí đều tu, đều tùy vật chuyển biến, nhưng công đức cũng quy về sinh diệt, nhân vô lậu tốt đẹp đều không thành tựu. Cho nên kinh Tịnh Danh chép: Các Đức Phật giải thoát phải tìm trong tâm hạnh của chúng sinh. 1 0.Giải thích văn: kế là văn kinh ở dưới tức giải thích văn thứ mười. Ba-la-mật xuất thế gian thượng thượng: “Này Đại Tuệ! Xuất thế gian thượng thượng Ba-la-mật…, cho đến mà thường tu hành đàn Ba-la-mật”: Nói xuất thế gian thượng thượng Ba-la-mật, nghóa là Đại Bồ-tát đối với hai pháp trong ngoài của tự tâm giác biết chỉ là vọng tâm phân biệt hiện, không khởi thí, là phân biệt, không sinh thọ, là chấp đắm, không chấp trung gian thí vật sắc tướng, vì giúp cho chúng sinh được an vui vô úy mà thường hành thí, cho nên luận nói rằng, vì biết thể của pháp tánh là không san tham, thuận theo tu hành Đàn ba-la-mật. Nói về sáu Ba-la-mật: “Đối với các cảnh giới không khởi phân biệt…, cho đến ấy là Thiền ba-la-mật”: Luận nói rằng do biết pháp tánh vô nhiễm, lìa lỗi năm dục, thuận theo tu hành Thi ba-la-mật. Do biết pháp tánh không khổ, lìa sân não, thuận theo tu hành Sằn-đề ba-la-mật. Do biết pháp tánh không có tướng thân tâm, lìa biếng nhác, thuận theo tu hành Tỳ-lê- da ba-la-mật. Vì biết pháp tánh thường định, thể không lẫn lộn, thuận theo tu hành Thiền ba-la-mật. Nói về Ba-la-mật thứ sáu là Bát nhã Ba-la-mật: “Dùng trí tuệ quán sát, tâm không phân biệt… cho đến đó gọi là Bát-nhã ba-la-mật”. Luận nói rằng biết thể của pháp tánh sáng suốt, lìa vô minh, thuận theo tu hành Bát-nhã ba-la-mật. Cho nên kinh Hoa Nghiêm bài kệ nói về địa thứ sáu chép: Không chấp các tướng mà thật hành bố thí, vốn dứt các việc ác, giữ vững giới luật, hiểu rõ các pháp, không làm tổn hại, thường kham nhẫn, biết pháp tánh lìa, đầy đủ tinh tấn, dứt hết phiền não nhập thiền định, khéo hiểu tánh không, phân biệt các pháp. Bài kệ này nói về sự tu hành của Bồ-tát Địa thượng. cho nên nói thẳng đã dứt hết phiền não v.v… nói chung về hạnh thắng giải, phát tâm tu hành, chỉ nói thuận theo. Lại nữa, người xưa nói: Sáu độ muôn hạnh dung nhiếp lẫn nhau thành Bồ-đề phần, đều do Bát-nhã thành lập. Năm độ như người mù, Bát-nhã như người dẫn đường. Nếu bố thí mà không có Bát-nhã thì chỉ được một đời vinh hoa, đời sau chịu các tai ương trả nợ. Nếu giữ giới mà không có Bát-nhã thì tạm thời sinh ở cõi Dục, rồi lại rơi vào ngục nê-lê, nếu nhẫn nhục mà không có Bát-nhã thì được quả báo thân hình xinh đẹp, nhưng không chứng được nhẫn vắng lặng, nếu tinh tấn mà không có Bát-nhã thì luống khởi công phu sinh diệt, không hướng đến biển chân thường. Nếu thiền định mà không có Bát-nhã, cbỉ hành sắc giới thiền, không nhập Kim cương định. Nếu thực hành muôn điều lành mà không có Bát-nhã thì thành ra nhân hữu lậu, không khế hợp với quả vô vi. Bát-nhã nói nếu không hiểu rõ thì muôn hạnh lập ra luống uổng, cho nên trong kinh Bát-nhã muốn được tất cả pháp lành thế gian, xuất thế gian đều thành tựu, thì mỗi mỗi phải học Bát-nhã, cho nên chẳng phải hạnh chân thật lưu thông. Không khế hợp chân như thì không thể chứng hạnh chân thật, không từ chân mà khởi, cho nên nói sáu độ như vậy như thật tu hành, nếu được đầy đủ thì chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu không đầy đủ thì chẳng thể chứng nhập đạo Bồ-đề.  CHÚ ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ KINH <卷>QUYỂN 9 “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Ngu phân biệt hữu vi, không vô thường sát-na, phân biệt nghóa sát-na, như sông, đèn, hạt giống”: Các pháp hữu vi giống như huyễn mộng, kẻ ngu vọng chấp khởi chấp thường. Phật vì họ mà nói không sát-na vô thường, nhưng họ chẳng hiểu lại còn chấp vô thường, nghó là sát-na như sông như đèn. “Tất cả pháp bất sinh, vắng lặng vô sở tác, các việc tánh đều lìa, là nghóa sát-na ta”. Vì tất cả các pháp bị sát-na trôi lăn, ắt vô tự tánh, không có tự tánh tức là vô sinh. Nếu chẳng phải vô sinh thì không trôi lăn, khế hợp vô sinh mới thấy sát-na. Cho nên kinh Tịnh Danh chép: Bất sinh bất diệt là nghóa vô thường. “Sinh vô gián tức diệt, chẳng nói cho phàm phu, pháp nối nhau trong đây, các đường phân biệt khởi”: Nói các pháp sinh tức là tướng vô sinh vắng lặng. Vì người ngu không tin nên không được nói cho người ngu nghe, trong đó nếu chấp chắc chắn có pháp sát-na nối nhau thì sinh ra sáu đường vọng tưởng. “Vô minh làm nhân kia, tâm ắt từ kia sinh, khi chưa rõ được sắc, trung gian có gì sinh?” Đây nói vọng tâm thức từ vô minh kia sinh. Nếu vọng tâm chưa sinh, khi chưa thể phân biệt sắc thì trung gian không có pháp, vậy phải trụ chỗ nào ư! “Vô gián nối nhau diệt, nên có biết tâm sinh, khi chẳng trụ nơi sắc, duyên chỗ nào mà sinh”. Nói vô gián nối nhau niệm trước diệt rồi, niệm sau tiếp nối sinh. Nếu khi không trú nơi sắc, không có sở duyên, thì là vô sinh. “Nếu duyên tâm kia khởi thì nhận kia luống dối, do thể vọng không thành, vì sao sát-na diệt”: Niệm sau do từ niệm trước diệt mà khởi, cho nên nhân sinh ấy không thật. Nhân đã luống dối thì thể không thành lập, đó gọi là vô sinh, cho nên không được nói sát-na hoại diệt. “Người tu hành chánh thọ, Kim cương xá-lợi Phật, và tầng trời quang âm, việc chẳng hoại thế gian”. Đối với phàm phu vọng chấp tất cả pháp sát-na, nói pháp chánh thọ, v.v… này là phi sát-na. “Trí tròn đầy Như lai và Tỳ-kheo chứng đắc, các pháp tánh thường trú, vì sao chấp sát-na”: Như lai chánh trí đầy đủ và các Tỳ-kheo chứng đắc Địa thứ tám thật tánh các pháp, vì sao chấp sát-na, phi sát-na. “Càn-thát-bà huyễn sắc, vì sao chẳng sát-na, đại chủng vô thật tánh, vì sao nói năng tạo”. Không biết các pháp như huyễn mộng v.v… chấp các hình tướng khác nhau, sát-na không dừng, làm sao nói phi? Đại chủng luống dối không thật có tự tánh, cho nên không được nói năng tác giả. Bài kệ này đáng lẽ ở trước chương sáu độ, sợ rằng dịch lầm. --------------------------- <詞>Phẩm 15: BIẾN HÓA Bồ-tát Đại tuệ lược nêu mười thứ để thưa hỏi chung: Do Đức Phật ứng hóa tùy nghi nói pháp, ý thú khó hiểu, cho nên Đại Tuệ ở đây lược nêu lên mười thứ để thưa hỏi chung. Vì vậy, nên kinh Hoa Nghiêm chép: Tuy nói các đạo, kỳ thật vì Nhất thừa. Mười thứ ấy như sau: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật… cho đến được thọ ký thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”: Như chương trên nói Thanh văn, Duyên giác chấp đắm Niết-bàn, mong cầu tự an vui, tu sáu độ không được thành Phật, vì sao trong chủng tánh Bất định nói hàng Thanh văn trụ tam-muội lạc cuối cùng sẽ được thân Như lai? Mười thứ ấy là: “Không khác với Bồ-tát”: Trong năm tánh đã có ba thừa, chỗ nương chẳng phải một, nhập vào diệt chánh thọ, vì sao lại nói Bồ-tát Địa thứ sáu cùng Thanh văn, Duyên giác đồng nhập diệt tận tam-muội. Cầu-na dịch là bản hữu, tám chữ: Cùng các Bồ-tát thảy không khác nhau. Dưới đây đã có văn đáp, sợ chỉ thất lạc. “Vì sao lại nói không có pháp nhập Niết-bàn, chúng sinh được thành Phật đạo”: Chương Sát-na nói: Bảy thức chẳng trôi lăn, không chịu khổ vui, không phải nhân Niết-bàn. Bảy thức, là sinh thức của tất cả chúng, cho nên hỏi không có chúng sinh nhập Niết-bàn làm sao được thành Phật đạo. “Lại, vì sao nói từ khi thành Phật cho đến nhập Niết-bàn, trong khoảng giữa đó không nói một chữ?”. Phật dạy không nói một chữ không đáp một chữ. Vì sao trong bốn món bình đẳng của Phật có ngữ bình đẳng. “Lại nói Như lai thường ở trong định, không giác, không quán”: Chương Hằng hà sa nói: Phật không khởi một niệm phân biệt, sao lại khéo biết căn tánh mà nói pháp cho chúng sinh nghe. “Lại nói Phật sự đều là hóa ra? Đã nói tất cả các pháp tự tướng, cộng tướng là hóa Phật nói, tức là hóa Phật hóa ra Phật sự. Vì sao các kinh nói: Ứng hóa chẳng phải chân Phật, cũng chẳng nói pháp. Lại nói các thức sát-na biến hoại”: Trong chương Sát-na Phật nói các thức sát-na không dừng trụ, cớ sao ở trên nói biết nương các nghiệp nhiếp thọ sinh tử. “Lại nói thần Kim cương thường theo hộ vệ”. Chương Hằng sa nói Như lai trên hết, vượt các thế gian, thí dụ chẳng thể sánh kịp, đây là tướng không thể thấy, đâu cần lực só Kim cương bảo vệ. “Lại nói mé trước không thể biết mà nói có nhập Niết-bàn”: Trong chương Hằng sa nói mé gốc sinh tử không thể biết, vì sao lại nói có chúng sinh nhập Niết-bàn. Ở đây thì có thời gian kiết thúc rất dễ hiểu, nếu có kiết thúc thì có mé gốc. “Lại hiện có ma và nghiệp ma… cho đến vì sao chẳng lìa các lỗi ấy? Kệ Hằng sa nói đều lìa tất cả lỗi, vì sao Như lai mà có các lỗi này! Nghóa là từ khi Đức Phật thành đạo, thiên ma ở tầng trời thứ sáu và bốn binh phá, cầm các khổ cụ, đến dưới cây Bồ-đề quấy phá Như lai Bà-la-môn nữ Chiên-già buộc gỗ trong bụng chê bai Phật? Ngoại đạo Tôn-đà-lợi giết con gái để vu báng Phật, lại Đức Phật có lần khất thực khắp nơi không được, ôm bát không trở về, biết bao nhiêu việc không thể nói hết, như Ngài đã từng ăn lúa ngựa, đầu và lưng đều nhức. Điều-đạt muốn dành quyền thống lãnh, vua A-xà-thế nghịch hại, kiếm đâm chân thật, đào hầm lửa, bỏ thuốc độc vào thức ăn v.v… Ngài đã thành Phật, vì sao còn phải các mắc quả báo ấy? Phật phương tiện thọ ký cho Thanh văn: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông nghe… cho đến thọ ký cho Thanh văn là nói bí mật”: Vì hàng Thanh văn chứng Niết-bàn vô dư, tự cho là thành Phật, cho nên Phật phương tiện thọ ký cho họ. Nói Thanh văn trụ tam-muội lạc, cuối cùng sẽ được thân Như lai, tự khiến họ giác biết chẳng phải là Phật, tiến đến Niết- bàn vô dư của Đại thừa, Bồ-tát mới phát tâm ưa pháp Thanh văn, cũng khiến xả tâm này tiến tu hạnh đại thừa, và hóa Phật có thọ ký cho Thanh văn. Pháp tánh Như lai không có việc đó, đây đều là phương tiện bí mật nói. Đây là đáp câu hỏi thứ nhất. Y theo hai chấp để làm sáng tỏ hai chướng: “Này Đại Tuệ! Phật và người hai thừa không khác nhau… cho đến ý thức lìa bỏ, bấy giờ mới dứt”: Trí chướng, hoặc chướng cũng gọi là phiền não chướng và sở tri chướng. Thành Duy Thức chép: Do dứt phiền não chướng nối nhau sinh nên chứng giải thoát chân thật, do dứt đoạn ngại giải sở tri chướng cho nên được Đại Bồ-đề. Nói phiền não chướng, nghóa là chấp thật ngã của biến kế sở chấp, chấp tát-ca-da là đứng đầu thượng thủ, một trăm hai mươi tám phiền não căn bản, và các tùy phiền não lưu chú kia, đây đều do mê hoặc thân tâm hữu tình, làm chướng ngại Niết-bàn, gọi là phiền não chướng, cũng gọi là hoặc chướng. Nói sở tri chướng, nghóa là chấp thật pháp của biến kế sở chấp, chấp tát-ca-da làm thượng thủ, kiến nghi vô minh ái nhuế mạn v.v… chướng ngại trí dụng, đối với cảnh sở tri không có tánh điên đảo, mà không thể biết rõ, làm chướng ngại Bồ-đề, gọi là sở tri chướng, cũng gọi là trí chướng. Hai chướng như vậy phân biệt sinh khởi tức là kiến sở dứt, nhậm vận sinh khởi tức là tu sở dứt. Người hai thừa chỉ có thể dứt bỏ phiền não chướng, chỗ giải thoát sinh tử không khác với Phật, cho nên nói Phật không khác với người hai thừa, chẳng phải chỗ dứt trí chướng không khác. Đây là đáp câu hỏi thứ hai. Nhưng trong bốn quyển trên y theo đầu và cuối để làm sáng tỏ hai chướng. Ở đây thì y theo hai chấp để làm sáng tỏ hai chướng, cho nên văn hơi khác. Bảy chuyển thức v.v… chẳng phải nhân Niết-bàn: “Thói quen của tàng thức diệt, pháp chướng giải thoát mới được rốt ráo thanh tịnh”. Ở đây nói bảy chuyển thức, các pháp chướng ngại, thói quen tàng thức v.v… là tất cả tướng luống dối của chúng sinh luống dối vô thường, chẳng phải nhân Niết-bàn, không thể thành đạo. Nếu bảy thức diệt thì đối với tất cả pháp chướng được giải thoát, thói quen của tàng thức diệt, rốt ráo thanh tịnh, tức là phân biệt diệt, gọi là Niết- bàn, gọi là thành Phật đạo. Đây là đáp câu hỏi thứ ba. “Này Đại Tuệ! Ta y pháp bổn trụ mà nói mật ngữ này… cho đến trước có các lời văn như thế”: Nói nương pháp bổn nhiên thường trú, là mật ý của Như lai cho nên nói như vậy. Tuy có ngữ bình đẳng, nhưng chỉ là lời nói sinh diệt không có tự tánh. Đây là đáp câu hỏi thứ tư. Như lai nói pháp không đợi suy nghó: “Này Đại Tuệ! Như lai chánh tri không có vọng niệm, không đợt suy nghó, rồi mới nói pháp”. Từ bi trí tuệ của Như lai thường hiện tiền, không cần phải suy nghó vì chúng sinh mà giảng nói các pháp. Đây là đáp câu hỏi thứ năm. “Như lai đã dứt tứ trụ địa và vô minh trụ địa, thói quen hai thứ phiền não đã dứt, lìa hai thứ sinh tử, trừ hết hai thứ chướng”: Phật nói tứ trụ phiền não vô minh thói quen đã dứt nên gọi là chân Phật. Hóa Phật là phương tiện hiện hình để giáo hóa chúng sinh, chẳng phải chân Phật. Đây là đáp câu hỏi thứ sáu. Như lai tạng là thường: “Này Đại Tuệ! Ý và ý thức, bảy thức như nhãn thức… cho đến kẻ phàm ngu không biết vọng chấp không”: Nói bảy thức phân biệt thói quen là nhân, đó là tánh sát-na vô thường, lìa điều lành vô lậu, chẳng phải pháp trôi lăn, không thể qua lại trong sáu đường. Vì Như lai Tạng là thường, có công năng giữ gìn sinh tử trôi lăn đó là nhân khổ vui Niết- bàn, kẻ ngu chẳng giác biết vọng chấp nói không. Đây là đáp câu hỏi thứ bảy. “Này Đại Tuệ! Biến hóa ra Như lai Kim cương lực só… cho đến cảnh sở hành của tự chứng Thánh trí”. Hóa Phật phương tiện tùy tướng chúng sinh mà hiện, vì đồng người pháp nên giả gìn giữ, Như lai chân thật lìa tất cả căn lượng, tức là không thể thấy tướng, không nhờ bảo vệ, đó là tất cả hóa Phật tùy gốc lành của người sinh, không theo thật nghiệp sinh, chẳng phải là chân Phật, song y chân khởi hóa cũng không lìa chân Phật như bánh xe của người thợ gốm, do đất, nước các thứ hòa hợp mà tạo thành. Hóa Phật cũng giống như vậy. Chúng sinh luân hồi các tướng đầy đủ, trở lại nói pháp tự tướng, cộng tướng không nói cảnh giới sở hành của Thánh trí tự chứng của chân Phật. Đây là đáp câu hỏi thứ tám. Dứt phân biệt luống dối là giải thoát: Lại nữa, Này Đại Tuệ! Những kẻ phàm ngu… cho đến khi phân biệt diệt thì được giải thoát”. Nói phàm phu chấp thân này diệt mà không chấp đời vị lai sinh, cho nên khởi chấp đoạn, không biết tạng thức niệm niệm trôi chảy, cho nên khởi chấp thường, tự tâm phân biệt luống dối, đó là bờ mé sinh tử, vì vậy cho nên bờ mé không thật có. Dứt phân biệt luống dối gọi là giải thoát. Đây là đáp câu hỏi thứ chín. “Bốn thứ thói quen dứt xa lìa tất cả”: Hóa Phật tùy theo sự thích ứng của chúng sinh, phương tiện thị hiện các thứ tội lỗi. Như lai chân thật đối với tứ trụ địa phiền não và thói quen vô minh đều dứt hết, không có lỗi như vậy. Đây là đáp câu hỏi thứ mười. Đức Phật nói kệ: “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Ba thừa và phi thừa, không có Phật Niết-bàn, đều được Phật thọ ký, nói lìa các lỗi ác”: Nói phi thừa là không có pháp chúng sinh nhập Niết-bàn. “Thành tựu trí rốt ráo, và Niết-bàn Vô dư, dẫn dắt người thấp kém, nương đây mật ý nói”. Muốn kia thành tựu rốt ráo chủng trí thì phải dứt trừ sở tri chướng, chứng Đại bát Niết-bàn vô dư của Phật. Vì dẫn dắt người yếu kém nên phải nói kín đáo. “Trí các Phật chứng đắc, giảng nói đạo như thế, chỉ đây không còn khác, nên kia vô Niết-bàn”. Như lai chứng trí tuy nói các đạo, nhưng kỳ thật chỉ là Nhất thừa, không còn pháp nào khác, mà hàng Thanh văn kia chấp Niết-bàn sở đắc tự cho là Phật, chẳng phải Niết-bàn chân thật. Ba bài kệ trên đều trả lời câu hỏi thứ nhất, lược bao gồm các câu hỏi khác. “Các kiến cõi Dục, Sắc, bốn thói quen như thế, từ ý thức sinh khởi, tàng ý ở trong đó”: Kiến, tư, vô minh sinh tử trong ba cõi, đều do tâm ý thức của chúng sinh xoay vần làm nhân, huân xông phát hiện. Bài tụng này là hỏi đáp thứ mười. “Chấp ý thức nhãn thảy, vô thường nên đoạn diệt, mê ý khởi thường, tà trí cho Niết-bàn”. Bài tụng nầy là hỏi đáp thứ chín. Lời văn rất dễ hiểu. ----------------------------- <詞>Phẩm 16: ĐOẠN THỰC NHỤC Bồ-tát Đại Tuệ thỉnh Phật nói về việc cấm ăn thịt: Khi ấy, Bồ-tát Này Đại Tuệ!… Cho đến công đức và tội lỗi của việc ăn thịt và không ăn thịt: Như lai nói pháp trong cung vua quỷ, các Dạ-xoa nhớ đến giờ ăn sắp đến nhưng chẳng có thịt không ăn, Đại Tuệ muốn giúp cho các quỷ sinh lòng từ bi, nên thỉnh Như lai nói công đức và tội lỗi của việc ăn thịt và không ăn thịt. Tức là trong hội nói tâm của tất cả các Đức Phật, tâm Phật là tâm từ bi. “Con và các Đại Bồ-tát… cho đến rốt ráo sẽ thành Vô thượng Chánh giác”. Chúng sinh ở thế gian sinh tử trôi lăn oán kiết với nhau, rơi vào các đường ác, chịu nhiều khổ não, đều do ăn thịt giết hại lẫn nhau, tăng thêm phiền não không thể thoát khỏi. Nếu có thể xả bỏ mùi vị của thịt, tìm cầu pháp vị, dùng từ tâm hướng về nhau, thanh tịnh sáng suốt, như thật tu hành, thì chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nói về tội lỗi của việc ăn thịt: Bạch Thế tôn! Lộ-ca-da… cho đến mà cho phép mình và người được ăn thịt ư! Này Đại Tuệ! Nêu tà để so sánh với chánh, để nói về tội lỗi của sự ăn thịt. Nghóa là các ngoại đạo còn có sự ngăn cấm ăn thịt, huống chi là Như lai cứu hộ chúng sinh mà cho phép mình và người ăn thịt ư! Lộ-ca-da, không thấy Hán dịch. “Lành thay! Đức Thế Tôn có tâm đại từ bi… cho đến nghe rồi vâng làm, nói rộng người nghe”. Đây là Này Đại Tuệ! Khen ngợi Phật Thế Tôn có tâm đại bi cứu khổ ban vui, nguyện xin giải thích, chúng con sẽ vâng làm, cũng giúp cho tất cả chúng sinh không bao giờ còn ăn thịt. Cấm ăn cả năm thứ rau cay: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại nói kệ rằng: Các vị Bồ-tát kia, chí cầu vô thượng giác… cho đến thương xót nói con nghe”: Năm món cay hành… tanh nồng hôi hám bất tịnh, chúng sinh ăn vào sinh nóng giận, ăn thịt chín thì sinh tâm dâm, uống rượu thì tâm thần tán loạn, làm tổn hại các điều lành, phát sinh các điều ác, cho nên ăn những món cay nồng và uống rượu đều chướng ngăn nghiệp lành. “Phật bảo Đại Tuệ rằng… cho đến chỉ nói một ít phần? Có vô lượng nhân duyên không nên ăn thịt, dưới đây Như lai sẽ nói lược. “Này Đại Tuệ! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay… cho đến người tu hạnh từ không nên ăn thịt.” Tiếng Phạm Chiên-đà-la, Hán dịch sát nhân súc giả (kẻ giết người và súc vật). “Này Đại Tuệ! Người ăn thịt thân thể hôi hám… cho đến nếu nói cho phép ăn thịt thì người này chê bai ta”. Như lai thường nói hễ ăn uống thì phải nghó như ăn thịt con mình, chỉ ăn uống mà còn như vậy, huống chi đệ tử Phật mà lại ăn thịt hay sao? Nên ăn những thứ mà bậc Thánh ăn: “Này Đại Tuệ! Thức ăn ngon ngọt… cho đến thì được những người chẳng có các ác tánh như cọp sói yêu mến tôn trọng”. Đức Phật chỉ cho ăn những thức ăn tốt lành mà bậc Thánh thường ăn, còn ngoài ra đều không cho. Hễ là thịt thì tất cả không được ăn: “Này Đại Tuệ! Đời quá khứ có vị vua tên Sư Tử, ưa ăn các món thịt… cho đến ta cho phép hàng Thanh văn. Ăn những thứ thịt như vậy”: Nói ở đời không có thứ thịt nào không từ sự sát sinh mà được ăn, do nghóa đó nên Phật cho hàng Thanh văn ăn những thứ thịt như vậy ư! Ý nói không cho phép. “Này Đại Tuệ! Đời vị lai có người ngu si… cho đến hễ là thịt thì tất cả không được ăn”: Ở đây nói có nói nói rằng trong luật Đức Phật cho phép ăn thịt, những lời đó đều chê bai Phật. Trong các kinh nói ngăn mười thứ, hứa cho ba thứ vì chúng sinh thói quen xấu ác đã lâu mà tình dục không thể dứt ngay, cho nên dần dần cấm hẳn, y theo tình mà cấm chế, giúp cho họ tu tập, nay ở trong hội này nói tất cả các thứ thịt, tất cả thời, khai ngăn phương tiện tất cả đều cấm, đó gọi là lời dạy thanh tịnh sáng suốt cuối cùng của ta. Nói ngăn cấm mười thứ thịt đó là thịt người, rắn, voi, ngựa, rồng, cáo, heo, chó, sư tử, khỉ. Cho phép ăn ba thứ thịt là ăn mà không thấy, không nghe, không nghi. Nói thịt có hai loại: Người khác giết, tự chết. Thấy nghe không nghi là người khác giết, không thấy không nghe không nghi là tự chết. Hoặc nói cho phép ăn năm thứ, đó là ngoài không thấy nghe không nghi cộng thêm các loài chim giết hại lẫn nhau và tự chết, cộng thành năm thứ. Tuy nói ba thứ, năm thứ khác nhau, nhưng đều không ngoài một nghóa thịt của con vật tự chết. Phật xác nhận không hề cho đệ tử ăn thịt: “Này Đại Tuệ! Ta không hề cho đệ tử ăn thịt… cho đến huống là ăn thức ăn máu thịt bất tịnh sẽ”: Tất cả loài hữu tình đều nương vào việc ăn mà sống, nghóa là ăn để nuôi sống các căn đại chủng tâm tâm sở pháp, sinh ra hỷ lạc, tiếp tục duy trì. Tóm lại có bốn thứ: 1.Dứt thực: biến hoại là tướng, nghóa là ba thứ hương vị xúc trói buộc vào cõi Dục, khi biến hoại có thể lấy làm thức ăn. 2.Xúc thực: xúc cảnh là tướng, nghóa là hữu lậu xúc, khi vừa chấp cảnh thì được vui mừng… đem làm thức ăn. 3. Ý tư thực: hy vọng là tướng, nghóa là hữu lậu tư và dục đều chuyển, mong cảnh đáng ưa, có thể lấy làm thức ăn. 4.Thức thực: chấp trì là tướng, nghóa là thức hữu lậu, do thế lực của dứt thực, tư thực, xúc thực thêm lớn, có thể làm thức ăn. Bốn cách ăn này có công năng duy trì thân mạng loài hữu tình, khiến không dứt hoại, nên gọi là Thực. Dứt thực chỉ có ở cõi Dục. Xúc, ý, tư thực tuy ở khắp ba cõi, nhưng dựa vào thức mà chuyển, tùy theo thức mà có không. Đây là đối với sự ăn uống máu thịt của loài hữu tình, cho nên lại nói không ăn đoạn thực, đối với bốn nghóa này thì nên dứt, cho nên dứt dưới nói pháp thân chẳng phải tạp thực, nghóa là siêu tình thức, cả bốn thứ đều không. Pháp thân Như lai không tạp thực: “Này Đại Tuệ! Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát… cho đến nói lời ấy là không có việc đó”: Bậc Thánh ba thừa đều dùng pháp hỷ thiền duyệt làm thức ăn. Pháp thân Như lai không tạp thực. Như luận Trí Độ nói trừ thật tướng các pháp, ngoài ra đều là việc ma, phiền não sở tri, các thói quen hiện hành thảy đều dứt kiết, chủng trí tròn sáng bi tâm vô duyên, quán chúng sinh nghó như con một, chẳng lẽ cho đệ tử ăn thịt con mình ư! Lại tự ăn thịt con ư? Đức Phật nói kệ: “Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Đều từng làm quyến thuộc, Các thứ dơ sinh lớn, Làm các chúng sinh sợ, Do đó không nên ăn”. Một bài kệ này trong các nhân duyên trên, lược tụng ba bài. “Tất cả thịt và hành, Tỏi nén cùng rượu chè…, Cho đến trong đó rất sợ hãi”. Dưới đây các bài kệ phần nhiều nêu lỗi ăn thịt, đều khiến xa lìa. Có một vài bài văn xuôi nói nên lìa dầu mè, là phong tục ở nước ngoài là ủ mè đến lên men mới có dầu. Hễ càng nhiều dầu thì càng béo, làm sao nỡ ăn, giường ghế có kẽ hở thì thường có rệp, đều không nên nằm ngồi. “Ăn uống sinh buông lung, Buông lung sinh tà giác… Cho đến sinh tử không giải thoát”. Buông lung là một trong các đại tùy phiền não, uống rượu ăn thịt tâm sinh nhiều buông lung, các điều ác do đó mà thêm nhiều, cho nên sinh tử luân hồi, không thể lìa bỏ. “Vì lợi giết chúng sinh, dùng tiền mua các thịt… cho đến các Phật đều quở trách”. Đã không tưởng mà dạy đi tìm thì ba tịnh nhục chẳng có, phàm các thứ thịt đều là do giết sinh mạng mà có, như vậy làm sao có thể ăn. “Lần lượt lại ăn nhau, chết rơi vào đường ác… cho đến là quả báo ăn thịt”. Chiên-trà-la tức là chiên-đà-la. “Ăn rồi không hổ thẹn, đời đời thường si tối… cho đến ta đều cấm ăn thịt”. Tượng Hiếp, Đại Vân, Niết-bàn, Ương-quật-ma đều là tên kinh. “Trước nói thấy nghe không nghi, đã dứt tất cả thịt, do thói quen xấu nên người ngu dối phân biệt”. Trước Đức Phật dạy thấy giết, nghe giết, nghi giết thì không cho ăn, đã là dứt hết, nhưng kẻ ngu huân tập điều ác không hiểu ý Phật dạy, vọng khởi phân biệt nói là cho phép ăn thịt. “Như giải thoát chướng tham, thịt vân vân cũng thế… cho đến biết lượng mà khất thực”: Nói hễ ăn ăn thức ăn trong sạch còn tưởng như uống thuốc tưởng như ăn thịt con, huống chi ăn thịt, cho nên Tỳ-kheo ít muốn biết đủ mà thực hành khất thực, để dứt bỏ tham ái. Ăn thịt trái với đạo giải thoát và trái với biểu tướng của bậc Thánh, khiến chúng sinh sinh sợ hãicho nên không nên ăn. Trái với chánh giải thoát do không có từ tâm trí tuệ, mất sự lợi người, lợi mình, và trái với nghi biểu hộ sinh của bậc Thánh. “Người sống trong từ tâm, ta nói thường nhàm lìa, sư tử và cọp sói đáng lẽ cùng ở chung”: Tâm đã không hại vật, dù cho thú dữ như cọp, sói, sư tử cũng thường thuần phục. “Hoặc đối thịt rượu thảy, tất cả đều không ăn, được sinh trong dòng Thánh, giàu sang và trí tuệ”. Một bài kệ này nói không ăn thịt thì được quả báo là sinh trong hội các Đức Phật hay dòng Thánh hiền, giàu sang đầy đủ pháp tài, có chủng trí của Phật. ------------------------ <詞>Phẩm 17: ĐÀ LA NI Phật nói chú để che chở người không ăn thịt: Khi ấy, Phật bảo Đại Bồ-tát Đại Tuệ rằng… cho đến liền nói chú rằng: Đát-điệt-tha, đo-tra-đô-tra…., cho đến sa-ha”: Tông Thiên thai, đối với phẩm Đà-la-ni trong kinh Pháp Hoa đều dùng bốn Tất-đàn để dịch tên giải thích nghóa. Đà-la-ni, Hán dịch là Tổng trì, là giữ gìn điều ác không cho sinh khởi, điều lành không bỏ qua (là một), lại dịch là Năng già, Năng trì, là có công năng giữ gìn điều lành, có công năng ngăn tránh điều ác. Đây là có công năng ngăn dứt điều ác, có công năng giữ gìn điều trung thiện. Các kinh khai già khác nhau, hoặc chỉ dùng trị bệnh, như cư só Na-đạt, hoặc chỉ hộ pháp, lời văn này, hoặc chuyên dùng để diệt tội, như Phương đẳng, hoặc dùng chung để trị bệnh, diệt tội và hộ trì kinh, như thỉnh Quán Âm, hoặc Đại Minh chú, Vô thượng Minh chú, Vô đẳng đẳng Minh chú, thì chẳng phải trị bệnh, chẳng phải diệt tội, chẳng phải hộ kinh, nếu có công dụng chung khác cùng nên bao gồm, hoặc luận riêng phải nương kinh, chớ trái lời Phật dạy: Kế là giải thích nghóa rằng: các sư hoặc nói chú ấy là tên của vua Quỷ thần vương, xưng danh vua kia là do bộ lạc kính chủ không dám làm điều trái, cho nên có khả năng hàng phục tất cả quỷ mị. Hoặc nói chú ấy như mật hiệu trong quân, đề xướng hiệu tương ưng, không thể quở trách, nếu không tương ưng thì bị trị tội. Nếu không thuận chú thì đầu bị vỡ thành bảy phần, nếu thuận cbú thì không có tội. Hoặc nói chú ấy bí mật trị ác, thì điều ác tự dứt. Thí như kẻ thấp kém, từ nước này trốn qua nước khác lạm xưng con vua. Vua nước này lấy công chúa làm vợ, nhưng người này nhiều tức giận khó làm nên sự nghiệp. Một hôm, có một người sáng suốt từ nước kia đến, người chủ đến nói, người kia nói với chủ, ngay khi tức giận nói kệ rằng: “Không người thân đến nước khác, dối gạt hết mọi người, ăn dở là việc thường, nhọc gì lại nổi sân”, khi nói kệ đó rồi thì im lặng hết tức giận. Người chủ và tất cả mọi người chỉ nghe bài kệ này đều không biết ý. Chú cũng như vậy, mật ý ngăn ác, người không học đạo không thể hiểu được. Dẫn ví dụ trong kinh Niết-bàn: Có chỗ nói chú là mật ngữ của các Đức Phật, như vua đòi Tiên- đà-bà, tất cả mọi người không thể biết được, chỉ người có trí tuệ mới biết được, chú cũng giống như vậy, chỉ là một pháp khiến tất cả các pháp, bệnh chóng lành, tội tiêu trừ, gốc lành thêm lớn, phù hợp với đạo, vì nghóa này đều tồn tại trong bản âm, người dịch không dịch ý ở đây. Đời mạt pháp truyền bá kinh gặp nhiều khó khăn buồn lòng, nhờ chú hộ trì giúp cho đạo lưu thông. Nay kinh Lăng-già này, phẩm Đà-la-ni do Như lai nói cùng chuyên hộ pháp, giúp cho đạo lưu thông. Hoặc lại nói văn chú từ xưa đã không dịch có năm ý: 1. Là pháp ngữ bí mật của các Đức Phật, chỉ có Phật mới biết. 2.Tổng trì môn, bao gồm nhiều nghóa. 3. Hoặc là tên quỷ thần, gọi họ nhắc che chở người tu hành. 4.Hoặc là ấn bí mật của các Đức Phật, như ấn tín của vua không ai dám không vâng theo. 5. Năng lực che chở giữ gìn, không thể suy nghó bàn luận, thọ trì mật tụng, diệt tội sinh phước. Đây cùng với ý của tông Thiên Thai, đồng hay khác có thể biết. Chú có lợi ích cho cả chúng sanh vị lai: “Này Đại Tuệ! Trong đời vị lai nếu có người thiện nam, người thiện nữ… cho đến liền nói chú rằng: Đát-điệt-tha…. cho đến Sa-ha. Này Đại Tuệ! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ… cho đến tất cả câu văn đều đã đầy đủ”: Dạ-xoa, Hán dịch là Tiệp tật quỷ, cũng gọi là khổ hoạt. La-sát, Hán dịch là Khả úy, cũng gọi là Thực nhân quỷ. Hai loài này do Thiên vương Tỳ-sa-môn ở phương Bắc thống lãnh. ------------------------------ <詞>Phẩm 18: KỆ TỤNG Đức Phật nói kệ: “Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghóa rộng trong kinh mà nói kệ rằng: Các pháp không bền chắc, đều do phân biệt sinh, do phân biệt tức không, sở phân biệt chẳng có”. Nói tất cả pháp đều chẳng bền vững chân thật, nghóa là từ phân biệt luống dối mà sinh. Nếu liễu ngộ phân biệt thức không thì biết các pháp xưa nay vắng lặng. Hoặc sinh hoặc diệt đều do phân biệt: Nếu quên phân biệt thì pháp chẳng sinh diệt. Kinh Kim cương Tam-muội cũng chép: Pháp từ phân biệt sinh, lại từ phân biệt diệt, diệt các pháp phân biệt, pháp này chẳng sinh diệt. “Do luống dối phân biệt, cho nên có thức sinh, thức tám, chín, các thứ như sóng mòi của biển”: Ở đây lại nói thức thứ chín tức kinh Mật Nghiêm cho thức thứ chín là thuần tịnh thức. Trong các kinh luận lại cho chân như là thức thứ chín, đều là tên khác mà thể đồng, nghóa là chân tục hợp lại mà nói. Nhưng chân như ở đây tức là thật tánh của thức, chẳng phải nương nơi khác mà có tự thể riêng, cũng chẳng phải thể loại mà có thức thứ chín riêng, chỉ do A-lại-da thứ tám phân làm hai vì phần hữu lậu là nhiễm, phần vô lậu là tịnh, chung bảy chuyển thức cho nên nói chín thức. Như bài kệ dưới nói: “Nêu bày A-lại-da, tàng thức rất sâu xa, lìa năng thủ sở thủ (lìa phần nhiễm), ta nói là chân như (phần tịnh). Đây là khai, tức là văn xuôi thì hợp kệ thì lìa trong nghóa năm cặp của bài tụng. Dùng bốn câu để giải thích duyên khởi các thức: Lại nữa đây là duyên khởi các thức nên dùng bốn câu để giải thích: 1.Vì thật tánh của thức (ở đây gọi là thức thứ chín cũng gọi là chân như) chỉ có không sinh diệt, như tánh ướt của nước. 2.Bảy chuyển thức đều sinh diệt, như các sóng mòi. 3.Thức A-lại-da thứ tám vừa sinh diệt, vừa không sinh diệt, như biển gồm chứa động tịnh. Cho nên bài kệ trước nói: A-lại-da như biển, chuyển thức đồng sóng mòi. 4.Vô minh điên đảo chấp chẳng sinh diệt, chẳng phải không sinh diệt, như gió mạnh dậy sóng, chẳng phải nước chẳng phải sóng. Cho nên bài kệ trước nói: Thí như sóng biển lớn, đều do gió mạnh dậy. Nay phẩm kinh này gồm có sáu trăm sáu mươi sáu bài kệ, lặp lại các nghóa rộng trong kinh. Như bài kệ dưới nói: Niết-bàn có sáu, các sắc có tám, các uẩn và Phật đều có hai mươi bốn, loại danh số này rất nhiều. Trong các phẩm trước đều không có văn. Trong năm cặp nghóa văn xuôi không có kệ thì có, thấy kinh luận và chương sớ giải thích, nên không dám nói theo ý mình, đợi đến các bậc hiền triết phê phán, còn lại trong bốn cặp chưa giải thích cũng như vậy. Chuyển phiền não được Niết-bàn, chuyển chướng sở tri chứng Vô thượng giác: “Thói quen thường thêm lớn, bàn căn nương vững chắc… cho đến chuyển y tức giải thoát”. Nghóa chuyển y trước đã giải thích sơ lược. Thức luận lại chép: Bồ-tát khi chưa thấy đạo trở đi, vì dứt các nghiệp chướng, lại thường tu tập trí vô phân biệt… cho đến xả bỏ hai chướng thô nặng kia (hạt giống của hai chướng gọi là hai thô nặng), liền có thể chứng được chuyển y rộng lớn. Y, nghóa là y tha, tức là y tha khởi, cùng pháp nhiễm tịnh làm chỗ nương. Nhiễm, nghóa là biến kế sở chấp luống dối. Tịnh, là viên thành thật tánh chân thật. Chuyển, là hai phần chuyển xả chuyển đắc. Do thường tu tập trí vô phân biệt dứt hai thứ thô nặng chướng trong bản thức, cho nên có thể chuyển xả biến kế sở chấp trong y tha khởi, và năng chuyển được trong y tha khởi. Do chuyển phiền não được Đại Niết-bàn, chuyển sở tri chướng chứng Vô thượng giác. Hoặc y tức là duy thức chân như, là chỗ nương của sinh tử, Niết-bàn. Kẻ ngu điên đảo quên chân như đây, cho nên từ vô thỉ đến nay chịu khổ sinh tử, bậc Thánh lìa điên đảo mà chứng ngộ. Chân như này liền được Niết- bàn rốt ráo an vui, nghóa là thường tu tập trí vô phân biệt, dứt trừ hai chướng thô nặng trong bản thức, cho nên năng chuyển diệt y như sinh tử và năng chuyển chứng y như Niết-bàn, cho nên nói lìa trí sở tri chuyển y tức giải thoát. Các kinh nói có ba tánh: “Được như huyễn tam-muội, vượt qua Thập địa… cho đến chỗ các bậc Thánh tu hành”: Là hỏi đã chỉ có một tánh không hai, vì sao kinh này và các kinh nói có ba tánh, gồm nhiếp tất cả? Đáp: Nên biết ba tánh tuy tùy theo tướng phần nhưng mỗi tánh đều có hai nghóa, tướng bổn mạt gồm thâu chỉ có một tánh. Vọng chấp hai nghóa: 1.Tình hữu. 2.Lý vô. Duyên khởi có hai nghóa: 1.Dường như hữu. 2.Vô tánh. Viên thành có hai nghóa: 1.Bất biến. 2.Tùy duyên. Do bất biến trong viên thành, duyên khởi vô tánh, vọng chấp lý vô. Do ba nghóa này, ba tánh một tế không có khác nhau. Cho nên kinh nói: Tất cả chúng sinh tức Niết-bàn không còn diệt nữa, đây thì không hoại ngọn mà thường là gốc. Do tùy duyên trong viên thành, duyên khởi dường như có, vọng chấp hữu tình. Do ba nghóa này cũng không khác. Cho nên Kinh chép: Pháp thân trôi lăn trong năm đường gọi là chúng sinh, cho nên gốc bất động mà thường là ngọn. Cho nên chân bao gồm ngọn vọng, vọng suốt nguồn chân, tánh tướng dung thông không hai. Cho nên kệ nói: “Ta chỉ nói một tánh, tự tánh không có hai”. Hỏi đáp về tự tánh: Hỏi: Đã không hoại ba tánh mà nói một tánh, thì tại sao kinh này và các kinh lại nói tất cả pháp đều không có tự tánh? Đáp: Nên biết vì mật ý Như lai nói, cho nên Duy thức chép: Tức nương ba tánh này, lập ba vô tánh kia, nên Phật mật ý nói, tất cả pháp vô tánh, một là tướng vô tánh (nghóa là vọng chấp thể tánh tướng đều không), kế vô tự nhiên tánh (y tha duyên khởi chẳng phải tự nhiên), sau do xa lìa trước, sở chấp ngã pháp tánh (là viên thành tánh). Đây là nói ba tánh ba vô tánh, không phải y viên thể cũng không, chỉ không chấp đắm vọng tình, cho nên đều nói vô tự tánh, vậy nên biết rốt ráo chỉ là một thật tánh. Cho nên kế là kệ nói nghóa của các pháp tánh này cũng tức là chân như, vì thường như tánh kia, tức thật tánh duy thức. Luận Trí Độ chép: Trừ thật tướng các pháp, ngoài ra đều là việc ma (có thể hiểu rõ ba tánh ba vô tánh này, tức là đối với kinh này và các kinh, nói tất cả pháp tánh phi tánh, lý như chẻ tre). Các pháp là bất sanh bất diệt, rốt ráo thường trụ: “Như bốn đại không điều, thay đổi thấy huỳnh quang… cho đến không sinh cũng không diệt”. Kẻ ngu chấp tùy vọng duyên cho rằng có sinh diệt. Cho nên kinh Viên Giác chép: Tất cả chúng sinh đối với vô sinh vọng thấy sinh diệt, như thật quán là rõ vọng tức chân bất sinh bất diệt. Cho nên kinh trước nói: Tức nói vọng danh này là chân như. Nhưng nghóa không sinh diệt, ba tánh khác nhau, nghóa là vọng chấp tánh, không có thể tánh để sinh để diệt, y tha khởi tánh tức sinh bất sinh, tức diệt bất diệt, viên thành thật tánh tự thể vốn có, không đợi mới sinh, tận mé vị lai rốt ráo thường trú, không bao giờ dứt diệt. Nếu dùng ba tánh đối nhau thì mỗi tánh y theo tự tướng mà luận, tức là pháp vọng chấp vọng sinh vọng vọng diệt, viên thành chân tâm bất sinh bất diệt. Y tha có hai, nghóa là tướng đồng vọng chấp tợ sinh tợ diệt, tánh đồng viên thành bất sinh bất diệt. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm chép: Tất cả pháp không sinh, tất cả pháp không diệt, do y tha duyên khởi, không có tự tánh riêng, hoàn toàn đồng viên thành, mới ngộ được ý này. Các kinh Đại Thừa nói tất cả pháp bất sinh bất diệt, rốt ráo thường trú v.v… đều không có các uẩn khác. Nói về tám thức: “Thường hành vô phân biệt, xa lìa tâm tâm pháp… cho đến cho nên gọi là thức”. Tiếng Phạm A-lại-da, Hán dịch là tạng thức, nghóa là thức căn bản thứ tám có khả năng chứa đựng gom nhóm hạt giống của tất cả pháp thế gian, xuất thế gian, cho nên nói tàng thức gọi là tâm. Nhưng thức này có năng tàng, sở tàng. Nghóa chấp tàng, nghóa là xen lẫn với tạp nhiễm làm duyên. Hữu tình chấp làm ngã bên trong của mình, do ba nghóa này được gọi tên là tàng thức, nếu Bồ-tát này đến địa thứ tám, và bậc hai thừa vô học chỉ có năng tàng sở tàng, vì không có ngã ái chấp tàng, nên thức này gồm có ba vị và bảy thứ tên, như ở chương khác nói. Tiếng Phạm là Mạt-na, Hán dịch nhiễm ô ý, nghóa là truyền tống thức thứ bảy đi chung với bốn hoặc, thường xét nét so lường gọi là ý, cho nên nói tư lương dùng làm ý. Lại nêu tên ý làm giảm tâm (thứ tám). Thức (sáu thức trước) chứa nhóm biết rõ các thức yếu kém khác. Nêu tên tâm thức nên biết cũng như vậy. Sáu chuyển thức trước, tùy sáu căn cảnh, vì chủng loại khác gọi là nhãn thức… cho đến ý thức (tùy căn mà đặt tên), hoặc gọi sắc thức cho đến pháp thức (tùy căn mà đặt tên). Nghóa là đối với sáu cảnh rõ biết gọi là Thức. Nhưng ở đây tùy cảnh lập tên đại thức gọi là y ngũ sắc căn chưa tự tại nói. Nếu được tự tại các căn hỗ dụng. Một căn phát thức thì liễu tất cả cảnh, chỉ có thể tùy căn lập tên mà không có xen lạm nhau, cũng gọi là nghóa tâm chứa nhóm nghóa ý tư lương. Nghóa thức rõ biết, đều chia làm hai thứ, chứa nhóm có hai: 1.Chứa nhóm hành tướng. 2.Chứa nhóm hạt giống. Trước nêu chung các thức, sau chỉ có thức thứ tám. Tư lương có hai: 1.Vô gián ý. 2. Hiện tư tương. Ban đầu nêu chung các thức, sau chỉ thức thứ bảy. Rõ biết có hai: 1.Tế. 2. Thô. Tế thì có khắp các thức, thô chỉ cho sáu thức trước. Cho nên kinh Hoa Nghiêm dạy: Các nghiệp luống dối chứa nhóm gọi là tâm, Mạt-na tư lương, ý thức phân biệt, năm thức như nhãn thức… liễu cảnh khác nhau. Phàm phu ngu si không thể giác biết, nếu theo giáo lý Tiểu thừa thì chỉ nói có thức thứ sáu, nghóa chia ra tâm ý thức, đối với A-lại-da chỉ được tên gọi. Nếu Đại thừa quyền giáo đối với A-lại-da chỉ được một phần nghóa sinh diệt, mà đối với chân tánh chưa thể dung thông, tức nói chân như bất động, không tạo các pháp. Kinh này như thật nói, nghóa là nương Như lai Tạng cho nên có sinh tử, nương Như lai Tạng cho nên có Niết-bàn. Luận nói rằng tự tánh thanh tịnh, tâm bị vô minh làm nhiễm có nhiễm tâm. Tuy có nhiễm tâm mà thường bất biến, đó gọi là chân vọng hòa hợp, chẳng đồng chẳng khác, có thể thành pháp môn một tâm hai đế, không rơi vào kiến chấp đoạn thường, hữu vô. Ác tập luân vào tâm, hiện ra các tướng: “Tâm thường là vô thuyết, ý có hai thứ hành… cho đến mê hoặc chấp mao luân”: Ở đây nói ác tập huân vào tâm, hiển hiện các tướng. Lại nói vô minh huân vào tâm, hiện ra các chúng sinh, cho nên biết hữu tình chúng sinh, vô tình khí giới đều do vô minh huân tập ma ẵcó. Cho nên Trí Giác nói rằng: Nơi một viên trạm tách ra căn trần, chứa nhóm bốn đại bên trong làm thân, chia bốn đại bên ngoài làm cảnh. Nếu lìa duyên huân tập, chắc chắn không có pháp nào để đắc. Nói huân tập gồm có hai thứ: 1.Tập huân: nghóa là huân tâm thể thành nhiễm tịnh thức v.v… 2.Tư huân: nghóa là hiện hành tâm cảnh và các hoặc giúp nhau… cho nên luận Khởi Tín chép: Có bốn nghóa pháp huân tập, pháp nhiễm pháp tịnh sinh khởi không dứt. Bón nghóa ấy là: 1.Tịnh pháp gọi là chân như; 2, Tất cả nhân nhiễm gọi là vô minh; 3. Vọng tâm gọi là nghiệp thức; 4.Vọng cảnh, chính là sáu trần. Nghóa huân tập, như y phục ở đời, ban đầu chẳng có thơm hôi, tùy theo vật huân mà có mùi đó. Ở đây cũng vậy pháp thanh tịnh chân thật không ô nhiễm, chỉ do vô minh huân tập mà có nhiễm tướng, pháp nhiễm vô minh thật chẳng có nghiệp thanh tịnh, chỉ vì chân như mà huân tập cho nên có công dụng thanh tịnh. Tại sao huân tập khởi nhiễm pháp không dứt trừ. Có chỗ nói do có pháp chân như nên có vô minh, do có pháp nhiễm vô minh tức huân tập chân như, do huân tập cho nên có vọng tâm, do có vọng tâm tức huân tập vô minh, không hiểu pháp chân như, bất giác khởi niệm hiện cảnh giới vọng. Vì có cảnh giới pháp vọng duyên nhiễm, tức huân tập vọng tâm, khiến niệm kia chấp đắm tạo ra các nghiệp, nên cả thân tâm đều phải chịu khổ. Vì sao huân tập khởi pháp thanh tịnh thông dứt? Nghóa là do có pháp chân như, có công năng huân tập vô minh, vì năng lực nhân duyên huân tập nên khiến vọng tâm nhàm chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn, vì vọng tâm này có nhân duyên chán cầu, tức huân tập chân như, tự tin tánh mình, biết tâm vọng động chấp đắm cảnh giới, phải tu pháp xa lìa, để biết như thật về cảnh giới ấy mà phương tiện khởi hạnh thuận theo, không chấp lấy không nhớ nghó, cho đến nhờ năng lực huân tập đã lâu thì vô minh liền diệt. Do vô minh diệt nên tâm không sinh khởi, vì tâm không sinh khởi nên cảnh giới do đó mà diệt, vì nhân duyên đều diệt nên tâm tướng đều dứt, gọi là đắc Niết-bàn, thành nghiệp tự nhiên…, cho đến nói rộng. Kẻ ngu cũng giống như vậy, vọng chấp các cảnh giới… cho đến không có cảnh, chỉ là tâm. Hỏi đáp về nhãn thức thấy sắc và không thấy: Hỏi: Đã không có cảnh, chỉ là tâm thì kẻ tà kiến chấp cảnh bên ngoài lẽ ra bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu đều thấy có sắc, hoặc đều không thấy, vì sao khi thời xứ có sắc, chỉ có nhãn thức thấy sắc, còn khi thời xứ không sắc thì không thấy? Đáp: Như người trong mộng thấy các vật và cảnh giới, tuy tất cả đều không thật, chỉ do luống dối mộng tưởng tâm khởi, nhưng cũng không bằng thấy nơi có vật, thấy chỗ không vật, hoặc trước thấy sau không thấy, hoặc đầu không thấy sau thấy, chẳng phải mọi nơi đều thấy, cũng chẳng phải một thời gian dài mới thấy. Cho nên thức luận chép: Ở chỗ có sắc, nhãn thì thấy sắc, còn chỗ không có sắc thì không thấy sắc, nghóa này không như vậy. Vì sao? Vì trong mộng kia ở chỗ không có sắc thì thấy có sắc, ở chỗ có sắc thì không thấy có sắc. Tâm thức biến khởi tất cả các pháp, không mà thấy có, cũng giống như vậy. Hỏi: Nếu thế thì vì sao nhiều người cùng một chỗ, cung một lúc mà sao có chỗ thấy có, không chỗ thì thấy không, có thời thì thấy có, không thời thì thấy không ư? Đáp: Thí như trăm ngàn loài ngạ quỷ, đồng nương nghiệp lực, đều ở chỗ không có máu mủ lửa dữ… cùng lúc nhìn thấy, đâu phải dòng sông nước trong thật có lửa dữ ư! Cho nên nói không có cảnh chỉ có tâm thức. Bậc Thánh nội chứng, thường sống trong vô niệm: “Như lý chánh quán sát năng thủ, sở thủ đều diệt… cho đến thường trụ ở vô niệm”. Bậc Thánh nơi chứng thường trụ vô niệm, nghóa là chân tâm vô niệm là tông của Phật giáo. Cho nên luận Khởi Tín chép: Tất cả pháp xưa nay do tâm, thật vô niệm, mà do vọng tâm bất giác khởi niệm, thấy các cảnh giới cho nên nói vô minh. Nếu quán sát biết tâm vô niệm thì được thuận theo nhập chân như môn. Vì vậy cho nên người học tuy liễu ngộ tu hành, mong tròn đầy chủng trí chỉ lấy vô niệm làm tông. Nhưng được vô niệm thì việc tạo ác tự nhiên ít dần, bi trí tự nhiên thêm nhiều, tội nghiệp tự nhiên tiêu trừ, công hạnh tự nhiên tinh tấn, đối với giải thì thấy các tướng chẳng phải tướng, đối với hạnh thì gọi là vô tu, mà tu thì khi nghiệp chướng, thói quen hết thì sinh tử không còn sinh, diệt diệt rồi thì vắng lặng hiện ra, ứng dụng vô cùng gọi là Phật. Như lai nói theo căn cơ tiểu thừa: Tương ưng với nhân mê hoặc chấp thế gian là thật… cho đến chúng sinh nhãn thức sinh: Đoạn này là một bài kệ cuối Như lai thuận theo căn cơ Tiểu thừa mà nói. Khi nhãn thức của chúng sinh có duyên đủ năm duyên như căn, cảnh, v.v… thì từ tạng thức sinh, nhưng thức thứ tám đều nhờ duyên mới sinh. Nêu một để lệ nhiều, chỉ nói nhãn thức. Nếu y theo nghóa Đại thừa thì nhãn thức là một trong tám thức nương nhờ vào chín duyên mà sinh: đó là không, minh, căn, cảnh, tác ý, căn bản, nhiễm tịnh, phân biệt, hạt giống. Nhó thức chỉ nhờ tám duyên mà khởi tức là trong chín duyên trừ minh. Ba thứ tỷ, thiệt, thân đều nhờ bảy duyên thức mới được chuyển, tức là trong tám duyên trừ không. Ý thức thứ sáu nương năm duyên sinh, tức là trong bảy duyên trừ nhiễm tịnh và phân biệt. Thức thứ bảy có bốn duyên sinh, tức là trong năm duyên trừ căn bản, hoặc ba duyên sinh, vì căn và cảnh đều thuộc thức thứ tám. Thức thứ tám có bốn duyên sinh, tức là trong năm duyên trừ căn bản, vì thức thứ bảy là căn sở y cho nên nếu thêm Đẳng vô gián duyên thì như thứ lớp mười, chín, tám, sáu, bốn, năm các duyên mà sinh. Như có bài tụng rằng: Nhãn thức chín duyên sinh, nhó thức chỉ có tám mũi, lưỡi, thân thì bảy, ý năm mạt-na ba, A-lại-da có bốn. Nếu thêm Đẳng vô gián thì mỗi thức ở trước đều tăng thêm một. Cho nên kệ Duy thức chép: Y chỉ căn bản thức, các thức tùy duyên hiện, hoặc câu hoặc bất câu, như sóng mòi nương nước, ý thức thường hiện khởi, trừ sinh trời Vô tưởng, và hai định vô tâm, ngủ say và chết. Hỏi đáp về mười hai duyên khởi: “Thủ: là năng thủ sở thủ, danh sự đều không có… cho đến ta nói là duy tâm”. Hỏi: Mười hai hữu chi nhân duyên là pháp nhân quả trôi lăn trong ba đời của tất cả chúng sinh, đâu được nói không, chỉ là nhất tâm phải không? Đáp: Xưa nay vốn không, chỉ do một niệm gió vô minh, thổi động biển chân như, thành mười hai nhân duyên khởi, là lý do trôi lăn, nếu rõ đó là Phật, sóng mòi của biển trí, tối tăm thành nước chảy quanh trong sông sinh tử. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: Không hiểu Đệ nhất nghóa gọi là vô minh, nhân mê muội không hiểu biết, thành hoặc nghiệp các khổ. Hiểu rõ thật tánh của vô minh, thành tâm mầu nhiệm Niết-bàn. Nếu mê thì là hoặc nghiệp, trở thành ba đường: 1.Ba chi: Vô minh, ái, thủ là phiền não đạo. 2. Hai chi: Hành, hữu là nghiệp đạo. 3. Bảy chi: Thức, danh, sắc, sáu nhập, xúc, thọ, sinh tử là khổ đạo. Nếu ngộ thì thành ba nhân Phật tánh: 1.Thức, danh, sắc, sáu nhập, xúc, thọ, sinh tử là chánh nhân Phật tánh. 2. Vô minh, ái, thủ là liễu nhân Phật tánh. 3. Hành, hữu là duyên nhân Phật tánh. Các nghóa như vậy chỉ là nhất tâm, tùy duyên mê ngộ, phái thành nhiều thứ, tuy thành nhiều thứ không lìa nhất tâm (như kinh Hoa Nghiêm chép: Địa thứ sáu có mười thứ thuận nghịch quán mười hai nhân duyên đều không lìa duy tâm). Cho nên kinh Đại Tập chép: Mười hai nhân duyên, một người nhất niệm thảy đều đầy đủ, chỉ tùy một cảnh nhất niệm khởi thì không có gì là không đầy đủ (chẳng riêng như thường dùng Tam thế luận). Vả lại như nhãn căn thấy sắc mà không biết rõ gọi là vô minh sinh ái ác gọi là hành, trong đây tâm ý gọi là Thức. Sắc và thức hành tức là danh sắc. Sáu xứ sinh tham gọi là sáu nhập, sắc và nhãn đối nhau gọi là xúc, lãnh nạp gọi là thọ, đối với sắc bó trói buộc gọi là ái, tưởng sắc tướng gọi là thủ, niệm sắc tâm khởi gọi là hữu, tâm sinh gọi là sinh, tâm diệt gọi là tử… cho đến tai nghe tiếng, ý biết pháp, ở trong một niệm mỗi mỗi như vậy. Một ngày một đêm khởi bao nhiêu niệm, bao nhiêu niệm kiết hợp mười hai nhân duyên thành sáu đường sinh tử vô cùng tận, cho nên biết sinh tử vô tự thể, hoàn toàn là Như lai Tạng tâm Đệ nhất nghóa, mê ngộ nổi chìm hoàn toàn không thật có. Cho nên luận Khởi Tín chép: Có chỗ nói tất cả cảnh giới do tâm vọng khởi mà có, nếu tâm lìa vọng động thì cảnh giới diệt, chỉ một chân tâm chẳng có nơi nào không trùm khắp, chẳng lẽ không phải là duy nhất tâm ư! <篇> <卷>QUYỂN 10 Giới là nền tảng của định, tuệ: “Nghiệp Phiền não cùng thân và quả sở đắc của nghiệp… cho đến người tu hành không ăn”: Ở trên nói tiền tài, lúa gạo và vàng bạc, ruộng vườn nhà cửa và tôi tớ trở xuống đến đây, gồm mười bốn bài kệ. Phật dạy đệ tử không cố ý lầm phạm nhiếp luật nghi giới mới có thể thành tựu nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới, sinh định phát tuệ, đầy đủ tất cả pháp Phật. Nên biết giới là nền tảng của định và tuệ, ví như nước không thể một ngày không có vua. Người xưa dùng thí dụ lầu có nhiều tầng, tầng dưới được xây dựng chắc chắn thì tầng trên mới tồn tại được. Nói về hai thứ chấp: “Hành giả quán năng tướng và sở tướng của thế gian… cho đến đâu thể dứt hai chấp”. Giác trí: nghóa là hai trí vô ngã. Hai chấp: là ngã chấp, pháp chấp. Hai trí vô ngã để đối trị ngã chấp pháp chấp, khởi đạo năng trị như chương Nhị Vô Ngã ở trước đã nói. Nhưng sẽ nêu ra hai trí, thuốc mầu thích hợp thì đều biết nguồn gốc của hai thứ bệnh chấp. Luận Duy thức chép: Ngoại đạo hai thừa chấp ngã chấp pháp đều có hai thứ: Câu sinh. Phân biệt. Hai chấp câu sinh, nghóa là từ vô thỉ đến nay luống dối huân tập nhân lực bên trong, thường đi chung với thân (sinh một lượt với thân, đồng sự với tâm), không đối đãi tà giáo và tà phân biệt, nhậm vận mà chuyển cho nên gọi là câu sinh. Ở đây lại có hai thứ: Thường nối nhau, ở thức thứ bảy duyên thức thứ tám, khởi tướng tự tâm, chấp là thật pháp và thật ngã. Có xen hở, ở thức thứ sáu, duyên thức thứ tám biến ra, tướng uẩngiới xứ, hoặc chung hoặc riêng, khởi tướng tự tâm, chấp là thật pháp và thật ngã. Phân biệt hai chấp, nghóa là cũng do năng lực của ngoại duyên hiện tại, không đi chung với thân, phải đợi tà giáo và tà phân biệt, sau đó mới khởi, nên gọi là phân biệt, chỉ ở trong ý thức thứ sáu mới có. Đây cũng có hai thứ: Duyên tà giáo, nói uẩn xứ giới, các tướng, khởi tướng tự tâm phân biệt chấp đắm, chấp làm thật pháp và thật ngã. Duyên tà giáo, nói tự tánh các pháp v.v… và tướng ngã, khởi tướng tự tâm, phân biệt so đo chấp làm thật ngã và thật pháp (văn hai thứ chấp này trong luận không nói, ở đây hợp dẫn) Hai thứ chấp này phân biệt khởi, tức là thấy đế thì dứt, nếu câu sinh là tu thì dứt, đều do vô minh nhân duyên sinh nên như huyễn có chấp ngã, chấp pháp, vọng so lường, quyết định chẳng có. Cho nên Thế Tôn dạy: Các thức sở duyên chỉ do tâm hiện, tánh y tha khởi như việc huyễn…. Nếu hiểu rõ hai không, thì hai chấp sẽ dứt theo. Hiểu rõ hai thứ không kia, tức là hai thứ trí giác. Cho nên nói nếu không có giác trí sinh thì đâu thể dứt hai thứ chấp. Do giác tự tâm nên dứt được hai thứ chấp: “Do giác tự tâm cho nên dứt được hai thứ chấp… cho đến đều là do tâm tạo”. Hỏi: Ba cõi là nhân ban đầu, bốn sinh là nguyên thỉ, chẳng cùng tận gốc ngọn, không phân biệt được nhân duyên đầu mối. Ý chỉ của Trang lão cho là tự nhiên. Chu Khổng gọi đó là hỗn độn. Đối với điều này, Phật dạy từ cõi Vô sắc cho đến địa ngục, y báo chánh báo đều do tâm tạo, là chỗ sinh khởi ban đầu. Vì sao chỉ nam đáp: Muốn biết đầu mối chân thật về thân và cõi của loài hữu tình thì trước phải không có tâm ngã. Như Kinh Hoa Nghiêm chép: Nên quán pháp giới tánh, tất cả do tâm tạo, lại nói rằng tâm như người thợ vẽ, vẽ ra tất cả sự vật thế gian, năm ấm đều từ đó mà sinh, không có pháp nào mà không tạo vẽ được. Cho nên nói rằng khi các Bồ-tát khi mới bước vào Trụ địa, phải khéo quán sát, tùy thân kia tu tất cả pháp môn, tùy đó mà có trí tuệ sâu rộng, tùy nhân tu tập, tùy quả chứng đắc, tùy cảnh giới kia, tùy lực dụng kia, tùy theo thị hiện, tùy theo phân biệt, tùy theo mà chứng đắc, đều phải khéo quán sát, biết tất cả pháp đều do tâm tạo, nên không chấp đắm. Kinh Lăng-nghiêm cũng chép: Mê vọng có hư không, nương không lập thế giới, tưởng lặng thành cõi nước, tri giác là chúng sinh. Đến như thế giới, chúng sinh nghiệp quả, ba thứ nối nhau, đều là giác minh, tánh biết rõ sáng suốt, nhờ biết rõ mà phát ra tướng, từ vọng chấp sinh núi sông, đất đai các tướng hữu vi, thứ lớp trôi lăn, do sự luống dối đến cuối thì trở lại ban đầu. Cho nên biết rằng khi ánh sáng chưa phát hiện thì còn không có tên gọi khi nghó muốn thì sinh liền phân chia hình ảnh. Nếu có biết có giác, thì cõi chúng sinh khởi. Nếu vô tưởng vô lự thì cõi nước duyên sinh. Do pháp nhiễm mà luân hồi sáu đường, tùy tâm tịnh mà có thứ bậc bốn Thánh, có thể nói rằng gốc của Thánh phàm, nguyên nhân của thân cõi, nên cho rằng hư không thế giới đều tự tâm ta. Chẳng phải chỉ nói thái cực sinh lưỡng nghi, huyền tẫn là cội gốc của trời đất mà thôi. Xét về thiện ác báo ứng đều là nghiệp của bản thân ta. Chẳng phải chỉ nói thượng đế vô thường, lưới trời lồng lộng mà thôi, chẳng lẽ là lời hư dối ư! Phật nói nhiều đường nhưng thật ra là Nhất thừa: “Các tam-muội như huyễn, và do ý thành thân… cho đến giảng ba thừa, Nhất thừa”. Hỏi: Kinh này trước sau hoặc nói ba thừa Nhất thừa, hoặc nói năm tánh một tánh, hoặc nói vô thừa và thừa giả, cho đến các thuyết khác nhau, cuối cùng chỉ thú như thế nào? Đáp: Phật nói nhiều đường, nhưng thật ra là nhất thừa. Nếu tùy quyền thật đều có chỗ y theo, thì dường như trái nhau. Nếu hội thông thì đều không trái nhau, nghóa là y theo căn cơ thì có ba, y theo về pháp thì có một, tân huân có năm, bản hữu không hai. Nếu nhập vào lý cả hai đều vắng lặng, thì ba và một đều mất. Nếu y theo Phật hóa nghi thì có thể ba cũng có thể một, còn các thuyết khác, so sánh theo đây rất dễ hiểu. Vì vậy cho nên luận nói: Tranh chấp có đúng sai, người thông đạt thì không cần tranh cãi. “Phật có ba mươi sáu, mỗi pháp lại có mười… cho đến A-lại-da mạng căn”. Căn bản thức chủng gọi là Thọ vì có công năng duy trì thức. Chủng này có công năng giúp cho sắc tâm không đứt quãng, cùng gọi là mạng căn, tướng phần sắc pháp thân căn của thức này gọi là noãn, thức hiện hành gọi là thức. Các bậc Thánh đều tu tập hai thứ quán: “Ý và ý thức đều phân biệt khác tên… cho đến đó là điều mà bậc Thánh thực hành”: Ở đây nói các bậc Thánh đều tu hành chân như thật quán và duy tâm thức quán. Như kinh Tiến Thú Đại Thừa Phương Tiện chép: Nếu đối với cảnh giới nhất thật mà tu tín giải, lẽ ra phải học tập hai thứ quán: Duy tâm thức quán. Chân như thật quán. Học Duy Tâm thức quán: Cái gọi là bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, tùy thân miệng ý, tất cả các nghiệp đã tạo, đều phải quán sát biết duy tâm tạo, cho đến tất cả cảnh giới hoặc nghó tâm đến đều phải xét biết, chớ để tâm vô ký phan duyên không tự giác biết, từng niệm phải quán sát, tùy tất cả duyên niệm của tâm, sẽ khiến tâm chạy theo niệm kia, khiến tâm tự biết, biết rồi trong tâm tự sinh tưởng niệm. Chẳng phải tất cả cảnh giới đều có niệm có phân biệt. Cái gọi là trong tâm tự sinh các kiến chấp hay dở, tốt xấu, phải trái, được mất, thịnh suy, có không… vô lượng các tưởng, mà tất cả cảnh giới không hề có tưởng, khởi lên phân biệt. Nên biết tất cả cảnh giới tự nó không có tưởng phân biệt, tức tự nó chẳng có hay dở, chẳng có tốt xấu… cho đến chẳng có chẳng phải không, lìa tất cả tướng, như vậy quán sát tất cả các pháp do tâm tưởng sinh. Nếu khiến lìa tâm, thì không có một pháp một tướng nào để tự thấy có khác nhau. Chân như thật quán, là tư duy tâm tánh không sinh không diệt, không ở trong thấy nghe hay biết, lìa hẳn tất cả tưởng phân biệt. Cho nên nói chân như và duy thức là pháp thực hành của các bậc Thánh, như trên, lý hạnh song tu, mới gọi là quán pháp. Cho nên ngài Vónh Gia nói: Muốn qua biển thì trước phải lên thuyền, không có thuyền thì không thể qua sông. Cũng vậy, tu tâm cần phải nhập quán, không tu quán thì không thể minh tâm, tâm còn chưa sáng thì làm sao tương ưng được. Nếu không tu tập mà đắc Bồ-đề thì các loài mèo thỏ lẽ ra cũng nên chứng đắc. Bốn thứ bốn đế: Ở đây có lời hay không có lời, kia chẳng hiểu pháp của ta… cho đến đây là nghóa bốn đế, tông Thiên Thai y theo phẩm Thánh Hạnh kinh Niết-bàn, chia thành bốn thứ bốn đế, đó là sinh diệt, vô sinh diệt, vô lượng, vô tác. Sinh diệt: khổ tập là nhân quả thế gian, diệt đạo là nhân quả xuất gian, nghóa bức bách ép ngặt gọi là khổ, thì ba tướng thay đổi (Tập Luận nói rằng các hữu tình sinh và chỗ chúng sinh nương tựa đều gọi là khổ đế). Thêm lớn gọi là tập, thời bốn tâm lưu động (Tập Luận nói tất cả phiền não và phiền não tăng thượng sở tạo các nghiệp, đều gọi là tập đế). Trừ họa hoạn gọi là đạo, cho nên đối trị dễ đoạt, vắng lặng gọi là diệt, cho nên diệt hữu trở về vô, tức khiến chúng sinh biết khổ dứt tập, ưa diệt tu đạo, vì thế gian, xuất thế gian đều là biến dổi, cho nên gọi là sinh diệt bốn đế (Đế có hai nghóa: 1.Đế thật; 2.Thẩm đế). Nếu thông đạt tự đế từ duyên sinh cho nên không, thì vượt qua phương tiện ngộ được Thánh chỉ, thành tựu trí tuệ, nghóa là giải thoát được khổ không còn khổ, gọi là khổ Thánh đế, hiểu tập vô hòa hợp gọi là tập Thánh đế; hiểu diệt là vô diệt, gọi là diệt Thánh đế; hiểu đạo là vô đạo gọi là đạo Thánh đế, cho nên gọi Vô sinh bốn đế. Kinh Đại Niết-bàn chép: Khổ có vô lượng tướng, hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết dược, tập diệt đạo cũng giống như vậy, tức vô lượng bốn đế. Nếu biết rõ ấm nhập đều như, không có khổ để bỏ, vô minh phiền não tức là Bồ-đề, không có tập để dứt, sinh tử tức Niết-bàn, không có diệt để chứng, biên tà đều là trung chánh, không có đạo để tu. Vô tập vô khổ cho nên không có thế gian. Tất cả các pháp đều là thật tướng, ngoài thật tướng ra không có pháp nào khác, tức là vô tác bốn đế. Cho nên: Huyền nghóa chép: Do mê lý, Bồ-đề thành phiền não gọi là Tập đế, Niết-bàn thành sinh tử gọi là khổ đế. Vì hiểu được phiền não tức Bồ-đề gọi là đạo đế, sinh tử tức Niết-bàn gọi là diệt đế, ngay nơi sự mà trung, không lo không nghó, không ai tạo tác gọi là vô tác, cũng gọi là Nhất thật đế. Sở dó tám ngàn, vị Thanh văn trong hội Pháp Hoa thấy tánh Như lai như mùa thu thì thâu hoạch mùa đông thì cất chứa, lại vô sở tác. Do thấu hiểu được nguồn gốc, pháp vốn như vậy. Nếu người chưa thân chứng, thì không thể khoanh tay đứng nhìn an nhiên, bắt chước vô tác vô tu như dòng nước chảy ra sông tự nhiên nhậm vận, do đó bốn đế kiên cố phù hợp với các độ, có thêm có bớt. Đồng cư có bốn, phương tiện thì ba, thật báothì hai. Tịch quang chỉ có một, lại gọi chung là Bốn đế, nói riêng mười hai nhân duyên. Khổ là bảy chi: thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ, sinh tử… Tập là năm chi: vô minh, hành, ái, thủ, hữu. Đạo là phương tiện đối trị nhân duyên. Diệt là vô minh diệt, hành diệt, cho đến già chết diệt. Cho nên kinh Niết-bàn khai làm bốn thứ bốn đế, cũng khai làm bốn thứ mười hai nhân duyên. Bực hạ chí quán đắc Thanh văn Bồ-đề, bậc trung trí quán đắc Duyên giác Bồ-đề. Bậc thượng đắc Bồ-tát Bồ-đề. Bậc thượng thượng trí quán đắc các Đức Phật Bồ-đề. Cho nên Trung luận chép: Pháp do nhân duyên sinh tức là sinh diệt, ta nói tức là không, là vô sinh diệt, cũng gọi là giả danh, là vô lượng, cũng gọi nghóa trung đạo, là vô tác. Lại nói nhân duyên tức là tập, sở sinh tức là khổ, diệt tập phương tiện là đạo, khổ tập hết là diệt… Hỏi đáp về bốn đế: Hỏi: Pháp tánh còn chẳng phải một pháp, vì sao dùng một, hai, ba, bốn suy tìm ư! Đáp: Pháp tánh là sở mê, khổ tập là năng mê, năng mê có nặng nhẹ, sở mê có tức lìa, y theo phạm vi phân biệt trong ngoài thì có bốn thứ khổ tập, y theo căn tánh chứng lý, thì có một, hai, ba, bốn khác nhau. Nếu trong phạm vi người căn cơ thấp kém mê chân nặng thì khổ tập cũng nặng, người lợi căn mê chấp nhẹ, thì khổ tập cũng nhẹ. Bên ngoài phạm vi lợi độn nhẹ nặng cũng giống như vậy. Pháp tánh là sở giải, diệt đạo là năng giải, sở giải có tức lìa, năng giải có khéo léo vụng về, kẻ độn căn trong sở giải lìa, thì năng giải vụng về, người lợi căn sở giải thì năng giải cũng khéo, lợi độn của giới ngoại tức lìa khéo léo vụng về cũng như vậy. Hỏi: Tập đã có bốn, vì sao quả khổ có hai? Đáp: Mê hoặc tùy ở giải tập thì có bốn, giải tùy ở hoặc, nhưng chiêu cảm hai thứ tử. Chẳng hạn như Tiểu thừa hoặc tùy ở giải, thì có kiến đế, suy nghó. Nếu giải tùy ở hoặc thì chỉ là một phần dứt sinh tử. Hỏi: Khổ tập có thể là pháp do nhân duyên sinh, diệt đạo vì sao như vậy? Đáp: Khổ tập là sở phá, diệt đạo là năng phá, năng phá từ sở phá mà có tên gọi, đều là pháp do nhân duyên sinh. Cho nên Kinh Đại Niết- bàn nói rằng: Nhờ dứt bỏ vô minh nên được chứng Tam Bồ-đề rõ ràng, cũng là nhân duyên. Hỏi: Pháp tánh là sở mê, vì sao lại có hai? Vì sao có bốn? Đáp: Pháp tánh tùy quyền thật cho nên có hai, pháp tánh tùy cơ duyên cho nên có bốn. Nếu đạt được ý chỉ này thì thấy tướng nghe pháp v.v… chẳng hạn như soạn bốn trường hợp phân biệt thì không lầm lẫn, cho nên biết nhất tâm bốn đế, bao trùm ngang dọc, lý không chỗ nào không cùng tận, không pháp nào là không đầy đủ. Mười phiền não căn bản: “Vì phàm phu vọng phân biệt chấp ba tự tánh… cho đến dứt trừ thảy đều thanh tịnh”. Thấy người tu các phiền não, tức là thấy đạo dứt phân biệt phiền não và tu đạo dứt câu sinh phiền não. Nói cho cả ba thừa nói lược có mười thứ: Tham. Sân. Si (cũng gọi là vô minh). Mạn. Nghi. Thân kiến. Biên kiến. Tà kiến. Kiến thủ. Giới cấm thủ. Trong mười sử phiền não chung riêng như thế thì hai chấp nghi và tà kiến có bốn thứ, chỉ phân biệt khởi, tức phiền não do thấy đếmà dứt, còn lại sáu thứ như tham… phân biệt chung câu sinh bao gồm hai sở đoạn, nghóa là kiến sở đoạn và tu sở đoạn. Trong tám thức thì năm thức trước được khởi ba thứ đầu, cũng có cả phân biệt và câu sinh, do dụng trong ý thức, tà sư, tà giáo, và tà suy nghó, do ba nhân dẫn dắt nên có phân biệt khởi. Ý thức thứ sáu gồm có mười thứ, bốn chỉ là phân biệt, sáu có cả phân biệt và câu sinh, mạt-na thứ bảy chỉ có bốn câu sinh, nghóa là ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái. Thức này có tánh hữu phú vô ký. Thức thứ tám kia gồm có mười thứ không khởi, chỉ có tánh vô phú vô ký, này phân biệt câu sinh đều chung cho ba cõi, chỉ một thứ sân chỉ có ở cõi Dục. Hai cõi Sắc và cõi Vô sắc kia phiền não đều thuộc về tánh hữu phú vô ký. Trong bốn đế ở cõi Dục đều có mười sử, tức là bốn mươi, hai cõi trên đều trừ sân, mỗi đế riêng có chín, tức có bảy mươi hai sử, và cõi Dục hợp chung có một trăm mười hai. Câu sinh kia ở cõi Dục có đầy đủ sáu, hai cõi trên trừ sân mỗi cõi chỉ có năm, hợp thành mười sáu, chung cho phân biệt trước, gồm có một trăm hai mươi tám phiền não. Nếu căn cơ hai thừa dùng tám nhẫn tám trí dứt sự phiền não phân biệt của bốn đế trong ba cõi, được quả dự lưu. Kế là tu chín vô gián đạo, chín giải thoát đạo, dứt bỏ phiền não câu sinh trong ba cõi, đắc quả thứ ba, sở tri chướng và các đường kia vắng lặng, được nhập Niết-bàn vô dư, còn tất cả những thứ kia có dứt hay không dứt đều khác với pháp hai thừa, vì hai thừa chỉ dứt, phiền não chướng (đồng tâm hai thừa được hồi hướng tâm Bồ-tát, phần dứt sở tri chướng không đồng với ngu pháp của hai thừa, chỉ dứt phiền não chướng). Tiến thẳng đến Bồ-tát thì hai chướng đều dứt. Trong phiền não chướng không đồng hai thừa y theo giới phần vị (đồng tâm Bồ-tát dứt phiền não chướng, hoặc chủng loại hai thừa). Nhưng đối với hai chướng phân biệt khởi, hàng Địa tiền hàng phục hiện hành, khi hàng Sơ địa thật thấy đạo, chỉ trong một sát-na liền đốn đoạn chủng tử kia. Trong phiền não câu sinh kia, hàng Sơ địa đã đi đến tự tại năng dứt, lưu lại hạt giống cho nên không dứt. Vì sao thấm nhuần chúng sinh, thu nhiếp giáo hóa, không rơi vào người hai thừa! Vì dứt chướng sở tri, vì đắc đại Bồ-đề, phiền não của thức thứ bảy kia, tánh chẳng phải nhuận sinh, cho nên chẳng lưu lại, vì hành tướng nhỏ nhiệm. Người Thất địa trở xuống có khi tạm hiện, do quán trí có gián dứt, nên phải biết hạt giống phiền não chướng đến Kim cương vị, sở tri chướng kia hành tướng nhỏ nhiệm, chính làm chướng ngại đạo Bồ-đề, cho nên phân dứt của mỗi địa chủ yếu đến Phật địa mới hết không còn sót. Do đó nên nói hai chướng tu hoặc đều đến Phật địa. Cho nên Đối Pháp. Bồ-tát chỉ tu chướng sở tri chưa dứt phiền não chướng: Luận chép: Lại nữa, các Bồ-tát trong mười địa, chỉ tu sở tri chướng đối trị đạo, chẳng dứt phiền não chướng, khi đắc Bồ-đề liền dứt phiền não và sở tri chướng. Nếu theo thật giáo thì các vị Thanh văn đối với phiền não chướng chỉ có khả năng diết phục, huống gì là năng dứt sở tri chướng, còn hàng Bồ-tát đối với hai chướng không phân câu sinh và phân biệt, chỉ có chánh sử và thói quen, còn người Địa tiền hàng phục sử hiện, người Sơ địa dứt hạt giống sử. Bồ-tát Địa thượng dứt thói quen, Phật địa rốt ráo thanh tịnh, trong đó thói quen do dứt hạt giống chánh sử vô gián mới có thói quen còn sót. Nếu y theo thức thứ sáu, bảy, tám và hai chướng hòa hợp phân biệt thì có nghóa trong thức thứ tám chỉ có thói quen, trong thức mạt-na chỉ có hạt giống, thức thứ sáu chỉ có hiện hành. Hoặc nói thức thứ sáu, bảy, tám đều có cả hạt giống thói quen hiện hành, nhưng hai chướng này đều có công năng làm chướng trí, gọi chung là vô minh, vì đó là hai vô minh gốc ngọn. Như luận Khởi Tín chép: Y vào bổn mạt tương y môn để nêu rõ hai chướng, do vô minh khởi sáu tâm nhiễm, là phiền não chướng ngại (tức tứ trụ địa phiền não). Có công năng sanh khởi vô minh nhiễm tâm (căn bản) gọi là trí chướng, không gọi là trụ địa, phiền não chướng ngại kia cũng gọi là vô minh chi mạt (cũng gọi sở tri chướng). Vì sao? Vì năng nhiễm cảnh nghóa biên gọi là phiền não, vì năng chướng trí nghóa biên cũng gọi là vô minh. Vô minh có hai thứ: Cho nên luận Du-già chép: Vô minh có hai: Nếu đi chung với tham… thì gọi là tương ưng vô minh (chi mạt), nếu đi chung với chẳng tham… thì gọi là độc hành vô minh (căn bản), lấy đó làm chính. Duy thức lại chép: Không chung với vô minh có hai: 1.Thường hành bất cộng, chỉ mạt-na có (chi mạt). 2. Độc hành bất cộng, mạt-na không có (căn bản), do đó ngài Thiên Thai dùng thể chân chỉ từ giả nhập vào không quán, tương ưng với không tuệ, tức năng phá kiến tư hoặc (tứ trụ phiền não), thành mắt tuệ nhất thiết trí, trí năng đắc thể, đắc chân thể. Dùng phương tiện tùy duyên chỉ từ không nhập vào giả quán, phân biệt thuốc bệnh, các thứ pháp môn, tức phá vô tri hoặc (chi mạt vô minh), thành pháp nhãn đạo chủng trí. Trí năng đắc thể chứng, được tục thể. Do lìa hai bên phân biệt chỉ và hai quán trên làm phương tiện, được nhập trung đạo quán. Phá vô minh căn bản thành Phật nhãn nhất thiết chủng trí, trí năng đắc thể, đắc trung đạo Đệ nhất nghóa thể, vẫn gọi là khéo đạt thứ lớp nghóa vậy. Nếu y theo nhất tâm viên đốn chỉ quán, nghóa là pháp tánh vắng lặng gọi là chỉ, tịch mà thường chiếu gọi là quán. Dùng chỉ duyên ở đế, thì một đế mà ba đế, dùng đế buột nơi chỉ, thì một chỉ mà ba chỉ. Thí như ba tướng ở nơi một niệm tâm, tuy một niệm tâm mà có ba tướng, chỉ và đế cũng như thế, pháp sở chỉ tuy một mà ba, tâm năng chỉ tuy ba mà một, do quán quán ở cảnh, thì một cảnh như ba cảnh, do cảnh hiện phát khi quán, thì một quán như ba quán, như Ma-hê-thủ-la trên mặt có ba con mắt, tuy có ba mắt mà chỉ có một mặt. Quán cảnh cũng giống như vậy, quán ba tức một, phát một tức ba, không thể suy nghó bàn luận. Chẳng phải thế gian, xuất thế gian, không quyền, không thật, không tốt không xấu, không trước không sau, không chung không riêng, không lớn không nhỏ. Nói về pháp do nhân duyên sinh: Cho nên Trung Luận chép: Pháp do nhân duyên sinh, tức không tức giả tức trung, cho nên biết phá tất cả hoặc chẳng gì bằng không, vô giả vô trung và bất không, lập ra tất cả pháp không gì bằng giả, vô không, vô trung và bất giả. Rốt ráo tất cả tánh chẳng gì bằng trung, vô giả vô không và bất trung, đây đều là đối trị vô minh phiền não trong tâm bệnh của chúng sinh. Phương tiện lập ra như thế, ở tông Hiền Thủ vẫn thuộc nghóa Chung giáo, vô minh phiền não bị bác bỏ ở trên. Trong kinh Viên Giác cũng gọi lý chướng và sự chướng. Nếu theo Đốn giáo, thì hoặc tánh trí tánh đều vốn thanh tịnh, cho nên không thể nói dứt hay không dứt. Dẫu cho rằng có hoặc để dứt cũng không nương vào địa vị để dứt dần. Như luận Khởi Tín chép: Nếu lìa vọng niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới. Viên giáo lại không phân biệt các sử tập hiện, nghóa là tất cả phiền não không thể nói là thể tánh kia, cho nên toàn vọng là toàn chân chỉ là pháp giới lớp lớp vô tận, chúng sinh trong tâm các Đức Phật, các Đức Phật trong tâm chúng sinh, hòa nhập liên quan lẫn nhau. Cho nên một chướng tất cả đều chướng, một dứt là tất cả đều dứt. Nhưng người tu quán hạnh phải thông đạt năng dứt vô tánh, sở dứt vốn không, dứt mà không dứt mới gọi là chánh dứt. Nếu chấp chắc chắn là có thì rơi vào thường, không thể dứt. Nếu chấp chắc chắn là không thì rơi vào đoạn, đánh mất Thánh trí. Cho nên người xưa nói: Phật vốn vậy mà siêng tu, hoặc vốn không mà phải dứt. Phải nương Thánh giáo và chánh lý của Phật mà tu hành: “Bản tánh thanh tịnh tâm, chúng sinh bị mê hoặc… cho đến người trí không nên nói”: Nghóa là nương Thánh giáo năng thuyên chánh lý sở thuyên của Như lai mà như thật tu hành, dứt hoặc chứng chân thì không có thói quen luống dối. Nếu lìa bỏ điều này mà muốn dứt trừ phiền não thì đều là ma nói. Cho nên ngài Hiền Thủ dùng chánh lý Thánh giáo của Phật mà phát minh tông thú… khéo phù hợp với căn cơ, đều chia làm năm: (Thấy trong Hoa Nghiêm Giáo Chương và Khởi Tín Luận Sớ). Vả lại, Thánh giáo có năm: Thánh giáo có năm theo thuyết thứ nhất: Tiểu thừa giáo: vì tùy căn cơ, tùy theo lời người mà nói các pháp hoàn toàn khác nhau, để phân biệt chánh tà, biện rõ phàm Thánh, phân ra ưa thích nhàm chán, làm sáng tỏ nhân quả. Nhưng lý sở thuyết chỉ hiển bày rõ người không, chưa nói về pháp không, chỉ nương sáu thức ba độc, lập ra căn bản nhiễm tịnh, chưa tận nguồn pháp, cho nên phần nhiều tranh luận. Đại thừa Thỉ giáo, cũng gọi là phần giáo: Nghóa là hai thừa định tánh, xiển-đề vô tánh, đều không thành Phật. Đây là chưa cùng tận pháp lý Đại thừa, cho nên xếp đầu, họ không thành Phật cho nên gọi là phần. Nói rộng pháp tướng ít nói pháp tánh, pháp tánh sở thuyết tức pháp tướng số, quyết chọn rõ ràng cho nên ít tranh luận. Chung giáo, cũng gọi là Thật giáo: Nói Như lai Tạng tùy duyên thành thức A-lại-da, duyên khởi vô tánh, tất cả đều như, định tánh vô tánh đều sẽ thành Phật, mới cùng tận thuyết chí cực của Đại thừa, cho nên lập thành Chung, vì xứng với thật lý nên gọi là Thật, ít nói pháp tướng, thường nói về pháp tánh, dẫu nói pháp tướng cũng qui về tánh, cho nên không tranh luận. Hai giáo trên đều nương địa vị, thứ lớp tu thành, gọi chung là Tiệm. Nhưng pháp môn này khác với trước sau, nhưng giáo có thỉ chung đốn tiệm khác nhau, pháp chẳng có hơn kém sâu cạn khác nhau. Đốn giáo: Chỉ cần một niệm không sinh thì gọi là Phật, không nói theo địa vị thứ lớp, nên gọi là Đốn. Đều không luận về sự tướng, chỉ nói chân tánh, tất cả sở hữu chỉ là vọng tưởng, tất cả pháp giới chỉ là bặt lời, năm pháp, ba tự tánh đều không, tám thức, hai thứ vô ngã đều mất, khuyên bảo lìa bỏ, hủy tướng diệt tâm, sinh tâm là vọng, không sinh là Phật. Nhất thừa Viên giáo: Là nói rõ một vị là tất cả vị, tất cả vị tức một vị, cho nên Thập tín mãn tâm, tức gồm thâu năm vị, thành Chánh đẳng, chánh giác, v.v… Chủ bạn đầy đủ cho nên gọi là Viên giáo, sở thuyết đều là vô tận pháp giới, biển tánh viên dung, duyên khởi vô ngại, như lưới báu của trời Đế-thích lớp lớp vô tận (Nếu trong năm giáo này hiển bày trong đây, chính là chỉ cho Đốn giáo cũng bao gồm cả Chung giáo). Nhưng giáo chương riêng trong Viên giáo mà nói nhất thừa có hai: 1.Đồng giáo Nhất thừa, vì đồng đốn đồng thật. 2.Biệt giáo Nhất thừa, chỉ viên dung đủ đức, nghóa là Biệt giáo thì khác xa các giáo, đồng giáo tức đều gồm thâu các giáo: trước sau các Đại sư phê phán giáo nghóa, chẳng gì hơn ở đây, chỉ vì chưa hiểu rõ ngũ giáo các thừa, cũng đều có đồng có khác, chung và không chung, cho nên ở đây tiếp tục để thành lập thuyết ấy. Thánh giáo có năm theo thuyết thứ hai: Tiểu thừa giáo: Do cùng với nhân thiên thừa làm đồng giáo, vì chỉ hiển rõ bốn đế bốn quả là không chung với Biệt giáo. Cho nên Phẩm loại túc luận quyển sáu chép: Có cùng khác sinh pháp, không cùng khác sinh pháp. Thế nào là cùng? Nghóa là có định và có sinh. Ở đây lại thế nào? Nghóa là định như vậy, sinh như vậy. Bậc Thánh Dị sinh đều dung hợp mà có được. Thế nào là không cùng? Đó là bốn thông hạnh, bốn vô ngại giải, bốn quả Sa-môn… Đại thừa Thỉ giáo: Do đồng với hai thừa hồi tâm giáo, vì không cùng hai thừa tiến thẳng giáo là khác. Đây như Trí luận nói rõ có cùng và không cùng chương Bát-nhã giáo giáo Trực tiến của hồi tâm. Đại thừa Chung giáo: Do đồng với ba thừa trước. Kinh Pháp Hoa chép: Nhất Phật thừa phân biệt nói ba, các ông đều tu đạo Bồ-tát lấy bất cộng ba thừa chỉ Nhất thừa là khác. Kinh Pháp Hoa chép: Trong mười phương cõi Phật chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, chỉ một sự thật này, còn hai thì chẳng thật. Vì vậy nên biết Pháp Hoa Niết-bàn, đều đối với quyền giáo tiểu thừa để hiển nhất thừa? Đại thừa đốn giáo: Do đồng với Thỉ giáo, Chung giáo, Tiểu thừa, vì không chung với ba thứ trước, chỉ có Đốn giáo là khác. Như kinh Viên Giác chép: Kinh này gọi là Đốn Giáo Đại Thừa, chúng sinh đốn cơ nhờ đây khai ngộ. Nghóa là y theo cơ thẳng tiến của Biệt giáo. Lại nói, cũng thuộc về tiệm tu tất cả các phẩm. Đây là y theo căn cơ đồng giáo hồi tâm. Nhất thừa Viên giáo: Lời văn của chương biệt giáo ở trên. Trong năm giáo này, nếu lấy Đại thừa, Tiểu thừa làm đối nhau, thì một giáo ban đầu là Tiểu, bốn giáo sau là Đại. Nếu y theo quyền thật làm đối nhau, thì hai giáo trước là quyền, ba giáo sau là thật. Nếu lấy đốn tiệm làm đối thì ba giáo trước là tiệm, hai giáo sau là đốn. Nếu lấy Thiên Viên làm đối nhau thì bốn giáo trước là Thiên, giáo sau là Viên, mà trước trước không nhiếp sau sau, sau sau phải gồm thâu trước trước. Đây là y theo thuyết của Đồng giáo: Nếu y theo Biệt giáo, thì sau sau đều phá trước trước. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: Pháp tánh chân thường lìa tâm niệm, hai thừa ở đây cũng có thể được, không do đây mà được đời tôn trọng, chỉ dùng trí vô ngại sâu xa (đây là nghóa Viên giáo phá đốn). Kinh này chép: Sơ địa tức là Địa thứ tám, cho đến vô tướng có thứ lớp gì! (Đốn phá Chung tiệm). Kinh Pháp Hoa chép: Không hai cũng không ba (Chung giáo phá Thỉ giáo). Kinh Phạm Võng chê trách người Hai thừa là tà giáo (pháp quyền bác bỏ ngu) đều chỉ dứt bệnh kia, mà không dứt pháp kia. Nhưng trong Đồng giáo tuy đồng với trước nhưng ba giáo trung gian cũng được phân đồng như ở sau. Như kinh Viên Giác có Viên giáo pháp giới ba quán. Nhiếp luận v.v… có hành tướng của thật giáo, nhưng có chỗ giống, không có chỗ khác, có nghóa kia mà không có giáo kia, chỉ thành nghóa ngay trong giáo. Do các kinh lụận có các pháp môn đồng, khác, chung, không chung, ẩn hiện bất thường như thế, cho nên phương tiện lập năm giáo khác nhau. Hỏi đáp về năm giáo: Hỏi: Đã biết năm giáo mỗi giáo có đồng, có khác, xuyên suốt nhiều cách giải thích, do đó nói thời giáo trong một đời không còn các uẩn khác. Vì sao nhất tâm y theo các giáo mà có nghóa khác nhau như vậy ư? Đáp: Đây có hai nghóa, cho nên nói như vậy: Y theo pháp gồm thâu chung, nghóa là do sự duyên khởi sâu xa này mà nhất tâm có năm nghóa môn, cho nên bậc Thánh dùng bất cứ một môn nào để nhiếp hóa chúng sinh: 1. Nhiếp nghóa tùng danh môn, như thuyết của Tiểu thừa giáo. 2.Nhiếp lý tùng sự môn, như thuyết của Thỉ giáo. 3.Lý sự vô ngại môn, như thuyết của Chung giáo. 4.Sự tận lý hiển môn, như thuyết của Đốn giáo. 5.Tánh hải cụ đức môn, như thuyết của Viên giáo. Cho nên không động gốc (bổn) mà thường ngọn, không hoại ngọn mà thường gốc, năm nghóa tướng dung hợp chỉ là nhất tâm. Y theo phạm vi của căn cơ đắc pháp (cơ khí khác nhau), nghóa là có khi hoặc được danh mà không được nghóa, như Tiểu thừa giáo, có khi được danh và được phần nghóa, như Thỉ giáo, hoặc có khi được danh, được cả phần nghóa, như Chung giáo, có khi được mà không được danh, như Đốn giáo, có khi danh nghóa đều không được như Viên giáo. Cho nên biết Thánh giáo có muôn vàn khác nhau, nhưng chủ yếu chỉ là năm giáo này. Ban đầu thì rõ ràng không lẫn lộn, sau là toàn thể tướng gồm thâu, một vị dung thông, các nghi dứt hết. Tóm lại là Như lai dùng phương tiện khéo léo nhiếp hóa chúng sinh, còn các nghóa môn khác rộng như trong giáo ấy có nói rộng. Các bộ khác cho độc Tử bộ là ngoại đạo: Trước hết nên hiểu rõ về ngã và phân tích các chấp… cho đến thứ năm không thể nói: Nói ba đời và chẳng phải đời, thứ năm không thể nói, nghóa là Độc tử bộ ở Thiên Trúc cho rằng ngã pháp đều có, lấy đó làm tông thú, lập năm pháp tạng, đó là ba đời là ba, vô vi là bốn, tức là phi thế (chẳng phải đời), thứ năm không thể nói che giấu Ngã ở trong đó, không thể nói là hữu vi và vô vi. Cho nên bộ này, các bộ khác đều từ chối không chịu nhận, cho là ngoại đạo nương gá vào Phật pháp. Bài tụng cuối phá chúc lưu thông: “Sự hiểu biết của các Đức Phật… cho đến chớ có phân biệt”: Đây là bài tụng sau cuối, nghóa là y theo nghóa phó chúc lưu thông, giáo tích là tâm năng thuyên, lý bổn là tâm sở thuyên, chẳng phải bổn không do đâu có tích, chẳng phải tích thì không do đâu bày bổn. Nếu có thể tìm tích mà được bổn, thì tự nhiên bặt dấu vết qui về tông, cho nên nói giáo do lý mà thành, lý do giáo mới hiển bày. Giáo này là giáo liễu nghóa chân thật trong Đại thừa. Lý này là duyên khởi nhất tâm sâu xa chí lý. Cho nên kiết thúc khuyên răn bốn chúng đệ tử, tin hiểu tu hành như thật chứng nhập, không dứt chủng tánh Như lai, cho nên nói phải nương giáo lý này, chớ có còn sự phân biệt nào khác.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 140