<經 id="n1789">LĂNG GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO KINH CHÚ GIẢI HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1789 LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO KINH CHÚ GIẢI <卷>QUYỂN 1 (Phần 1) KÍNH GHI Ngày mồng mười, tháng bảy, niên hiệu Hồng Vũ năm thứ mười một, Thích Tông Lặc trụ trì Thiện Thế Thiền Tự ở Thiên giới, Như Dó trụ trì Diễn Phước Giáo tự, vâng chiếu soạn Tân Chú kinh Lăng-già, quan Giám lệnh. Đồng Khảo Công là Lý Vónh, dâng lên vua ở lầu Tây Hoa. Nhà vua xem ngay và ra chiếu chỉ đón rước kinh một cách long trọng; Kinh được chú giải đầy đủ, Vua ra lệnh khắc bản cho ấn hành, ban lệnh cho tăng chúng khắp trong nước giảng dạy và học tập theo. Cung Kính. BÀI TỰA DÂNG TÂN CHÚ KINH LĂNG GIÀ Thần nghe pháp mà tinh thần phấn khởi, tuy nói rằng do người, nhưng chắc cũng do thời, có người mà không có thời, có thời mà không có người thì dù muốn hưng khởi cũng không thể được ư! Cho nên, có vị vua thông minh Thánh trí thì khắp đất nước sẽ được an hưởng thái bình. Còn bộ Kinh Lăng-già do bậc Đại Giác Thế tôn nói vào hai ngàn năm trước, mà nay hai ngàn năm sau Hoàng Đế cho ban hành, đâu chẳng phải có người mà không có thời ư! Nếu không như vậy thì sao bộ kinh này từ Đông Độ truyền đến Trung Quốc hơn ngàn năm nay, các bậc Đế vương trước chưa hề có như ta. Thiên tử là bậc Thánh để tâm chú ý nghiên cứu chỉ thú bộ kinh và ban sắc cho tăng chúng nương vào bộ kinh mà tu tập, nên có sự hưng thịnh như thế. Song, Đức Phật của chúng ta sở dó nói kinh này vì muốn dứt sạch vọng tâm cho chúng sinh, giúp họ trở về đạo chân chánh giải thoát; mà tâm của Hoàng thượng muốn thiên hạ đời sau đều dứt vọng về chân, bỏ ác làm lành, bước vào bờ cõi của những người có đạo đức nhân hậu, như vậy mới khế hợp với tâm Phật. Vả lại, điểm quan trọng của kinh này không ngoài năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã, bao gồm cả chân vọng, tu tánh, nhân quả, Thánh phàm, đều không ngoài nhất tâm. Nếu suy xét được tâm này thì sợ ác mà sửa đổi thành thiện, bỏ vọng mà trở về chân, sẽ đạt đến địa vị tự chứng Thánh trí. Còn nếu không thể cứu xét tâm này thì tha hồ buông lung, theo dòng đời mà quên trở lại, đến nỗi đánh mất sự trung hiếu, làm bại hoại phong tục, làm rối loạn luân thường đạo lý, cam tâm dẫm đạp lên phép tắc của quần chúng, như đi trên lửa nước. Do đó nên Phật sinh tâm đại bi cứu giúp chúng sinh, cũng nhờ lòng nhân từ của Đế vương nuôi dưỡng lê dân bá tánh, bảo bọc như con đỏ. Thần Thích Tông Lặc, Như Dó ghi chép. Vâng theo Thánh dụ dùng ba kinh: Tâm Kinh, Kim Cương và Lăng-già làm pháp môn đối trị tâm, bỏ tình lìa chấp đầy đủ như vậy, chúng ta sao không cố gắng ư! Chúng thần từ khi nhận lệnh đến nay sớm tối canh cánh trong lòng lo sợ, sợ không xứng đáng việc nhà vua giao phó, vì vậy nên hết lòng suy nghó, chú thích hai kinh: Tâm Kinh và Kim Cương vào ngày hai mươi tám tháng Giêng niên hiệu Hồng Vũ năm thứ mười một, tâu vua xin cho truyền bá ở đời. Nhưng bộ Lăng-già này đến ngày mười hai tháng bảy mới chú giải xong, kính cẩn huân xông chép ra cúi đầu lễ bái, dâng lên Hoàng Đế. Nhiều lần suy nghó chúng thần tài hèn sức mọn, học lực yếu kém, cố nhiên không dám cho mình là người chú thích kinh, nhưng nhờ thấm nhuần ân mưa móc, nương ánh sáng trong suốt của mặt trời mặt trăng, truyền bá kinh này cho đời sau, ngõ hầu giúp ích trong muôn một, để khỏi cô phụ Thánh ân. Tháng bảy niên hiệu Hồng Vũ năm thứ mười một. Kính ghi lời tựa. <節>SỐ 1789 LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO KINH CHÚ GIẢI Tam Tạng pháp sư Cầu-na-bạt-đà-la, đời Tống vâng chiếu dịch.Tỳ-kheo Thích Tông Lặc trụ trì Thiện Thế Thiền Tự ở Thiên giới đời Đại Minh, Thích Như Dó trụ trì Diễn Phước Giảng tự vâng chiếu đồng chú giải. <卷>QUYỂN 1 (Phần 1) Kinh này có bốn bản dịch, nay chỉ còn lại ba bản, bản thứ nhất do ngài Cầu-na-bạt-đà-la đời Lưu Tống dịch thành bốn quyển gọi là Kinh Lăng-già A-bạt-đa-la Bảo. Bản thứ hai, ngài Bồ-đề-lưu-chi đời Nguyên Ngụy dịch gồm mười nquyển, tên là Kinh Nhập Lăng-già. Bản thứ ba do ngài Thật-xoa-nan-đà đời Đường cùng ông Phục Lễ v.v… dịch gồm bảy quyển, tên là Kinh Đại thừa Nhập Lăng-già. Nếu nói theo văn dịch dễ khó thì bản dịch bảy quyển đời Đường văn dễ hiểu nghóa rõ ràng, từ đầu đến cuối đầy đủ. Nay giải thích từ bản dịch bốn quyển đời Tống, truyền bá bản dịch đầu tiên này ở đời cho mọi người đọc tụng. Huống chi Đại sư Đạt-ma khi trao tâm pháp cho tổ Tuệ Khả có nói rằng: Kinh Lăng-già bốn quyển có thể dùng để ấn tâm, Trương Phương Bình có chép tuy bản này, Tô Tử xem soạn lời tựa về việc ấy. Cho nên biết qua nhiêu đời thường dùng bản này. Nhưng văn từ cô đọng khó hiểu cho đến câu văn có chỗ không đọc được, do đó dùng những đoạn văn nghóa rõ ràng của bản dịch bảy quyển để giải thích, và chọn bản chú giải xưa để so sánh. Kinh này dùng pháp dụ để đặt tên, Đệ nhất nghóa tâm làm thể, dứt vọng bày tánh làm tông, phân biệt chánh tà làm dụng, Phương đẳng Đại thừa làm giáo tướng, pháp dụ làm tên: Lăng-già là tên thành, Hán dịch là Bất Khả Vãng, vì thành kia ở trên đảnh núi Ma-la thuộc bờ biển phía Nam, người nào không có thần thông thì chẳng thể lên đó được. Phật ở tại thành ấy nói pháp, tức cảnh giới Phật, dùng xứ tiêu biểu cho pháp. A-bạt-đa-la, Hán dịch là vô thượng, cũng dịch là Nhập. Bảo: Là vật báu quý giá dụ cho kinh này rất tôn quý, cho nên nói pháp dụ đặt tên. Kinh: Là thông suốt, nghóa là thông suốt các nghóa. Đệ nhất nghóa tâm làm thể: Tức là kho Như lai tự tánh thanh tịnh Đệ nhất nghóa tâm. Tông chỉ là dứt vọng bày tánh: Nghóa là thấu đạt vọng, hiển bày chân, lìa tánh chấp. Bác bỏ Tiểu thừa, phân biệt tà chánh làm dụng: Nghóa là phá thiên chấp, của Tiểu thừa bẻ gãy tà kiến của ngoại đạo. Giáo tướng là Phương đẳng Đại thừa: Nghóa là nói kinh có cả ba thừa, nghóa thuộc viên đốn. Năm chương này đều là ý chỉ giải thích trong kinh. Nay chọn lấy giải thích đầu đề, muốn cho người học hiểu biết đại ý toàn kinh. ------------------- <詞>Phẩm 1: NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM Giải thích tên phẩm: Phật ngữ tâm: tức tâm pháp do các Đức Phật giảng nói. Nhưng pháp môn nói trong kinh, đại khái có bốn, đó là năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã. Chỉ nói về tâm: vì bốn pháp môn này là cương mục của toàn kinh, là tinh yếu để nghiên cứu tâm, như Kinh Nhập Lăng- già chép: năm pháp tự tánh… là các pháp môn nhiệm mầu, là tất cả các Đức Phật, Bồ-tát nhập vào cảnh tự tâm, lìa tướng sở hành, gọi là nghóa chân thật, là giáo tâm của các Đức Phật. Tôi nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Phật ngự trên đảnh núi Lăng- già ở bờ biển phía Nam, trang nghiêm bằng các thứ hoa báu, câu hội với các vị đại Tỳ-kheo tăng và chúng Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát này từ các cõi Phật khác đến, các Ngài có năng lực tự tại, vô lượng chánh định, và thần thông du hý, Đại Bồ-tát Đại Tuệ là bậc Thượng thủ. Các Ngài đã được tất cả các Đức Phật làm phép Quán đảnh và khéo hiểu nghóa cảnh giới do tự tâm hiện, các loài chúng sinh, các thứ tâm sắc, vô lượng độ môn tùy loài hiện khắp. Đối với năm pháp, ba tự tánh, tám thức và hai vô ngã, các Ngài đã thông đạt rốt ráo. Đây là phần tựa chung. Như vầy: là chỉ cho được nghe pháp, cũng là lời tin thuận. Tôi nghe: là ngài A-nan nghe Phật nói pháp này. Một thuở nọ: là thời gian vị Giáo chủ và đồ chúng ở trong hội. Phật: là giác, nghóa là giác đạo đã thành, tùy theo căn cơ mà nói pháp, dẫn dắt làm lợi ích an vui chúng sinh. Trụ trên đảnh núi Lăng-già thuộc bờ biển phía Nam: là nơi chốn nói pháp. Hoa báu trang nghiêm: là chỉ sự tốt đẹp quý giá. Chúng đại Tỳ-kheo, Bồ-tát: xếp vào chúng đồng nghe. Từ các cõi Phật khác đến: là nêu xa biết gần, để hiển rõ chúng đông. Vô lượng Tam-muội… là khen ngợi đức của Bồ-tát. Từ Đại Tuệ trở xuống là khen ngợi riêng đức của ngài Đại Tuệ. Được các Đức Phật đưa tay làm phép Quán đảnh: là nói giai vị kia ở bậc Đẳng giác, sẽ được trao địa vị Phật cho nên được Phật làm phép Quán đảnh. Cảnh giới tự tâm hiện: Là tất cả cảnh giới thiện ác đều do tự tâm hiện ra. Đại Tuệ khéo hiểu nghóa cảnh giới tự tâm hiện, trí tuệ siêu vượt cao xa. Các thứ sắc tâm chúng sinh: nghóa là tất cả loài hữu tình năm uẩn các thứ đều khác nhau. Đại Tuệ dùng vô lượng độ môn mà ứng hiện khắp, đó chính là pháp môn sâu rộng. Năm pháp là: danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí, và như như. Ba tự tánh là: vọng tưởng, duyên khởi và thành. Thức: tức là tám thức. Hai vô ngã: là người vô ngã và pháp vô ngã. Các pháp trên đây Đại Tuệ đều khéo léo thông đạt rốt ráo, vì mọi người mà làm người phát khởi. Đây là Đức Phật khen ngợi sâu xa. Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ và Bồ-tát Ma-đế cùng nhau đến tất cả cõi nước các Phật, nương oai thần Phật đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính dùng kệ khen ngợi Phật. Dưới đây là phần tựa riêng. Ma-đế, Hán dịch là Tuệ, tự vén y bày vai rất cung kính là nghi thức cung kính ở Thiên Trúc. Lý do khởi tâm đại bi: “Thế gian lìa sinh diệt. Như hoa đốm trong không. Trí chẳng thấy có không. Mà khởi tâm đại bi. Tất cả pháp như huyễn. Đều xa lìa tâm thức. Trí chẳng thấy có không. Mà khởi tâm đại bi. Xa lìa chấp đoạn thường. Thế gian thường như mộng. Trí chẳng thấy có không. Mà khởi tâm đại bi”. Tất cả chúng sinh ở thế gian đều bỏ giác theo trần, trôi lăn trong vòng sinh tử mà sinh khởi tâm thức vọng tưởng, lại chấp hai thứ đoạn thường, không thể vượt ra. Như lai dùng trí tuệ nhiệm mầu quán sát thông đạt tất cả các pháp sinh diệt… Như hoa đốm trong hư không, như mộng huyễn chẳng phải có chẳng phải không, sinh khởi tâm đại bi mà độ thoát, giúp cho chúng sinh đều được xa lìa. “Biết người pháp vô ngã. Phiền não và nhó diệm Thường thanh tịnh vô tướng. Mà khởi tâm đại bi.” Đây là lìa phiền não hoặc chướng của hoặc chướng, trí chướng. Nhó diệm là tiếng Phạm, nghóa là trí chướng. Trí vốn phá hoặc, hoặc tức là hai thứ chấp, người và chấp pháp. Vô ngã: là không có hai thứ chấp này. Nếu đối với trí, sinh chấp đắm trí cũng thành chướng, đức Như lai hiểu rõ người, pháp, hoặc, trí vốn không, cho nên nói “Thường thanh tịnh vô tướng”. Chúng sinh do mê mà chịu khổ, cho nên khởi tâm đại bi mà cứu giúp. Nói về lý bất sanh bất diệt: “Tất cả không Niết-bàn. Không Niết-bàn của Phật. Không có Phật Niết-bàn. Xa lìa giác, sở giác. Hoặc hữu, hoặc vô hữu. Cả hai thảy đều lìa”. Tất cả là: tất cả chúng sinh. Niết-bàn: là lý bất sinh bất diệt, Phật và chúng sinh đều có lý này. Không có sinh tử để dứt thì đâu có Niết-bàn để chứng, cho nên nói “Tất cả không Niết-bàn”. Nhưng chẳng chứng mà chứng, chứng Niết-bàn này. Cho nên Phật là người năng chứng, Niết- bàn là pháp sở chứng. Lìa pháp, không có người, cho nên nói “Không có Niết-bàn của Phật”. Lìa người vô pháp, cho nên nói không có Phật Niết-bàn. Kinh Nhập Lăng-già chép: Phật không trụ Niết-bàn, Niết- bàn không trụ nơi Phật. Lời tuy khác mà nghóa thì đồng. Giác là Phật sở giác, tức Niết-bàn, người, pháp đều mất, cho nên nói “xa lìa giác, sở giác”. Nhưng người pháp đều không là quên hữu mà chưa quên vô, cho nên nói “hoặc hữu, hoặc vô hữu, cả hai đều lìa”. Nói về lìa chấp đắm: “Quán Mâu-ni vắng lặng Cho nên xa lìa sinh Ấy gọi là chẳng chấp Đời nay, đời sau tịnh”. Mâu-ni là tiếng Phạm, Hán dịch là Tịch mặc, là tên Phật. Ở đây nói người quán được thể vắng lặng của Phật như thế thì sinh ra xa lìa, vì thế đối với Phật bất sinh chấp đắm, cho nên đời nay, đời sau đều được thanh tịnh. Kinh Nhập Lăng-già chép: Nếu thấy Mâu-ni vắng lặng, sinh xa lìa thì người ấy đời nay đời sau lìa chấp đắm, không còn chấp đắm, lời nghóa càng rất rõ ràng. Các bài kệ trên khen ngợi Phật đều nói lìa chấp đắm, do khen ngợi Phật được sinh điều lành, nếu không lìa chấp đắm thì không thể sinh điều lành sâu xa. Bồ-tát Đại Tuệ phát khởi: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ khen Phật xong, tự nói tên họ: Con tên là Đại Tuệ, Thông đạt được Đại thừa, Nay đem trăm tám câu, Thưa hỏi bậc Tối tôn”. Dưới đây là phần chánh tông, Đại Tuệ tự nói là căn cơ Đại thừa, vì chúng mà phát khởi. Đức Phật hứa nói: “Khi bậc Thế gian giải, Nghe Bồ-tát nói kệ, Quán sát tất cả chúng, Bảo các Phật tử rằng: Này Phật tử các ông! Nay cho mặc tình hỏi, Tôi sẽ vì các ông, Nói cảnh giới tự giác”. Thế gian giải là một trong mười hiệu của Như lai. Đại Tuệ hỏi một trăm lẻ tám câu, đều là pháp mà Như lai đã thân chứng, cho nên nói cảnh giới tự giác. Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi một trăm lẻ tám câu: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ do lời Phật nói, đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính dùng kệ hỏi rằng”. Bảo Thần chú Nhập Lăng-già chép: Sau đây là các bài kệ hỏi nghóa một trăm lẻ tám câu. Có trường hợp một câu là một nghi vấn, có trường hợp hai câu là một nghi vấn, có trường hợp ba câu là một nghi vấn, cho đến mười câu là một nghi vấn, có khi một câu là hai nghi vấn, nói chung, một trăm lẻ tám câu này là hỏi về năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã, là pháp môn đối trị để cứu độ chúng sinh. Vì vậy, Đại Tuệ nêu những việc đã thấy khi cùng Ma-đế đến các cõi nước của các Đức Phật, cho nên dưới đây hỏi núi, biển, trời, trăng v.v… danh, tướng, vọng tưởng trong năm pháp. Đoạn dưới hỏi các thiền giải thoát v.v… tức là chánh trí, như như trong năm pháp. “Làm sao thanh tịnh được niệm kia? Là hỏi làm thế nào thanh tịnh được vọng niệm kia mà sinh chánh niệm? Làm sao khiến niệm thêm lớn? Là hỏi tịnh niệm thêm lớn. Làm sao thấy si hoặc? Là hỏi về khởi kiến hoặc? Vì sao hoặc thêm lớn? Là hỏi thêm lớn kiến hoặc? Vì sao có tướng biến hóa các cõi và các ngoại đạo? Là hỏi Như lai ở trong cõi nước, thị hiện thân tướng biến hóa chúng sinh và các ngoại đạo. Vì sao không chịu thứ lớp? Kinh Nhập Lăng-già chép: Không có hình ảnh thứ lớp, nghóa là hỏi trong pháp vô tướng thì do đâu mà có thứ lớp? Vì sao gọi vô thọ? Do ở trên hỏi nếu có thứ lớp, vì sao gọi là pháp vô tướng. Vô thọ tức là nghóa vô tướng. Vì sao gọi là Phật tử? Là hỏi vì sao Bồ-tát gọi là Phật tử? Giải thoát đến chỗ nào? Là hỏi người tu hành đã được giải thoát thì có thể đến chỗ nào? Ai buộc, ai giải thoát? Là hỏi khi mê ai bị trói buộc, khi ngộ ai được giải thoát? Cái gì là cảnh giới thiền? Là hỏi các thiền định lấy gì làm cảnh giới? Tại sao có ba thừa? Cúi mong giải thích cho. Hỏi do đâu mà có ba thừa: Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Duyên khởi vì sao sinh? Thế nào tác sở tác?: Là hỏi duyên khởi thiện ác và nghiệp quả gây ra. Thế nào thuyết đồng khác? Là hỏi ngoại đạo tà kiến vì sao có thuyết đồng khác? Thế nào là thêm lớn? Kinh Nhập Lăng-già chép: Vì sao các hữu khởi? Nghóa là khởi ba cõi. Thế nào gọi là định Vô Sắc? Là hỏi về bốn không định của cõi Vô Sắc. Cùng với diệt chánh thọ? Là hỏi chánh thọ định diệt tận! Thế nào là tưởng diệt? Vì sao từ định giác? Là hỏi tâm thọ tưởng diệt là định, vì sao từ định mà khởi giác! Vì sao sở tác sinh? Tiến đi và giữ thân? Là hỏi từ định khởi dụng, phàm sở tác là do thân này tiến đi, an trụ được tự tại hoàn toàn. Vì sao hiện phân biệt? Là hỏi hiện thân nói pháp phân biệt các tướng khác nhau của các pháp? Làm sao sinh các địa? Là hỏi được ngộ nhập các địa vị. Kinh Nhập Lăng-già chép: Làm sao nhập vào các địa? Ai người phá ba cõi? Ở đâu? Thân ra sao? Là hỏi phá được các cõi, vượt ra ngoài ba cõi. Sao gọi là Phật tử? Kinh nhập Lăng-già chép: Làm sao có Phật tử có khả năng phá được ba cõi? Vãng sinh đến chỗ nào? Hỏi đã phá ba cõi rồi thì vãng sinh về cõi nào? nhất? Sao gọi Tối thắng tử? Là hỏi trong hàng đệ tử Phật, ai là bậc Nhờ đâu được thần thông? Và Tam-muội tự tại? Là hỏi thần thông tự tại do tu hành như thế nào mà được? Tâm Tam-muội là gì? Tối thắng vì con nói. Là hỏi tâm Tam-muội vì sao là tốt đẹp? Thế nào gọi là tạng? Là hỏi tàng thức thứ tám? Thế nào ý và thức? Là hỏi về ý căn và các thức. Vì sao sinh và diệt? Vì sao thấy rồi không? Là hỏi ý thức khởi thấy sinh diệt, thấy rồi cũng diệt? Kinh Nhập Lăng-già chép: Vì sao khởi các kiến? Vì sao thối các kiến? Thế nào là chủng tánh, phi chủng và tâm lượng? Hỏi chủng tánh khác nhau giữa ba thừa, ngoại đạo không có chủng tánh và tâm lượng bất định chủng. Vì sao lập ra tướng? Cùng với nghóa vô ngã? Là hỏi hữu tướng và tướng vô ngã? Vì sao không chúng sinh? Sao thế tục nói có? Là hỏi chân vô tục hữu. Thế nào là chấp đoạn, và chấp thường chẳng sinh? Là hỏi hai kiến chấp đoạn, thường? Tại sao Phật, ngoại đạo, tướng chẳng hề trái nhau? Là hỏi tà chánh không trái nhau? Vì sao đời tương lai lại sinh các bộ phái? Là hỏi sau khi Phật diệt độ đệ tử Ngài lại lập các bộ phái khác nhau. Sao gọi không gọi nhân? Sao gọi sát-na hoại? Hỏi tánh không của các pháp, sát-na niệm diệt, niệm sát-na rất nhỏ nhiệm? Thế nào thai tạng sinh? Là hỏi về gá thai thọ sinh? Vì sao đời bất động? Là hỏi tướng thế gian có tánh chất dời đổi, vì sao bất động. Do đâu như huyễn mộng? Và thành Càn-thát-bà, như ánh nắng thế gian, như trăng soi mặt nước. Đây là hỏi năm ví dụ: Dụ cho tướng sinh diệt của thế gian đều là nghóa không thật. Càn-thát-bà là tiếng Phạm, Hán dịch Tầm hương thành. Do đâu nói chi giác, cùng với Bồ-đề phần? Là hỏi bảy giác chi và tám chánh đạo. Vì sao cõi nước loạn? Là hỏi cõi nước nương ở, vì sao mà hư hoại rối loạn. Vì sao khởi chấp Hữu? Là hỏi các pháp không có tự thể tại sao khởi chấp Hữu, Hữu là ba cõi. Kinh Nhập Lăng-già chép: vì sao thấy các cõi? Thế nào bất sinh diệt? Đời như hoa trong không? Là hỏi tướng thế gian như hoa đốm trong hư không, vì sao nói bất sinh không diệt. Kinh nhập Lăng-già chép: Thế nào là hoa đốm giữa hư không, bất sinh cũng không diệt? Thế nào giác thế gian? Vì sao nói lìa văn tự? Là hỏi chúng sinh làm sao hiểu biết các pháp thế gian? Làm sao lìa tướng văn tự? Lìa vọng tưởng là ai? Vì sao ví hư không? Là hỏi ai biết các pháp như hư không lìa vọng tưởng phân biệt? Kinh Nhập Lăng-già chép: vì sao như hư không? Làm sao lìa phân biệt. Có mấy thứ như thật? Là hỏi chân như có bao nhiêu thứ. Mấy tâm Ba-la-mật? Có bao nhiêu độ tâm? Nhờ đâu vượt các địa? Ai đến vô sở thọ? Là hỏi ai có thể vượt qua thập địa, đạt đến Phật địa? Vô sở thọ là cảnh giới Phật. Hai vô ngã là gì? Là hỏi ai có khả năng không bị hoặc chướng, chấp hai thứ người pháp. Làm sao tịnh nhó - diệm? Là hỏi ai có khả năng làm thanh tịnh trí chướng? Các trí có mấy thứ? Là hỏi các chánh trí. Mấy giới, tánh chúng sinh? Là hỏi chúng sinh tánh khác nhau, có mấy thứ giới cấm? Ai sinh các thật tánh? Ngọc ma-ni chân châu? Là hỏi các vật báu do đâu mà sinh. Ai sinh các ngữ ngôn? Chúng sinh các thứ tánh? Là hỏi ngữ ngôn của chúng sinh khác nhau, chủng tánh khác nhau, do đâu mà khởi. Minh xứ và kỹ thuật, người nào đã hiển bày? Là hỏi pháp năm minh và kỹ thuật. Năm minh gồm: 1. Nội luận, nghóa là hết thảy Phật pháp. 2.Ngoại luận có bốn thứ: Nhân, Thanh, Y phương, Công xảo. Năm minh này mỗi thứ đều có công năng sinh ra trí tuệ cho nên gọi là “Minh xứ”. Già-đà có mấy thứ? Trường tụng và đoản cú? Già-đà là tiếng Phạm, Hán dịch là Cô khởi, cũng gọi là Phúng tụng, khác với trùng tụng. Hỏi cô khởi tụng và văn xuôi trùng tụng. Có mấy thứ lý luận? Là hỏi lý thú trong kinh. Kinh Nhập Lăng-già chép: bao nhiêu thứ đạo lý khác nhau. Thế nào gọi là luận? Là hỏi về luận giải thích kinh, Kinh Nhập Lăng-già chép: Giải thích mấy thứ khác nhau? Tại sao sinh ăn uống? Và sinh các ái dục? Là hỏi thức ăn do ai làm, ái dục vì sao mà khởi? Thế nào gọi là vua? Chuyển luân và tiểu vương. Thế nào giữ đất nước? Là hỏi các vua chuyển luân và tiểu vương cùng pháp giữ gìn cõi nước. Các trời có mấy thứ? Vì sao gọi mặt đất, các sao và trời trăng: Hỏi danh tướng cõi Dục. Người tu hành giải thoát, mỗi bậc có mấy thứ? Là hỏi về Hữu học, Vô học, người giải thoát là Vô học, người tu hành là học. Đệ tử có mấy thứ? Sao gọi A-xà-lê? Là hỏi thầy và đệ tử, A-xà- lê, Hán dịch là Giáo sư. Phật lại có mấy bậc? Lại có mấy chủng sinh? Là hỏi ba thân Phật và bổn sinh, bổn sự. Bổn sinh là việc làm đời trước của Phật. Kinh Nhập Lăng-già chép: Như lai có mấy bậc, bổn sinh, bổn sự cũng vậy. Ma và các ngoại đạo, mỗi loại mấy thứ? Là hỏi chúng ma và các ngoại đạo: Ma, tiếng Phạm Ma-la, Hán dịch là Năng hại, là làm hại pháp lành. Tự tánh và tự tâm, mỗi loại bao nhiêu thứ? Là hỏi tánh và tâm có bao nhiêu loại khác nhau. Thế nào thì thiết lượng? Cúi mong Tối Thắng nói? Là hỏi tâm lượng vọng tưởng thi thiết, Tối Thắng chính là Phật. Thế nào không gió mây? Là hỏi về danh tướng vô tình cõi Dục. Vì sao niệm thông minh? Là hỏi tâm niệm hữu tình cõi Dục làm sao có thể phát sinh trí tuệ. Thế nào là rừng cây? Thế nào là cỏ rậm? Thế nào voi ngựa nai? Thế nào là bắt lấy? Là hỏi cây cỏ do đâu mà sinh? Là hỏi voi ngựa do đâu mà sinh? Lại nữa ai có khả năng bắt lấy. Vì sao mà thấp hèn? Là hỏi do nhợp gì mà làm người thấp hèn. Vì sao chia thời tiết? Là hỏi một năm vì sao chia ra sáu tiết. Ở tây vực thì tháng làm một tiết, một năm chia làm sáu tiết. Sao gọi Nhất-xiển-đề? Nhất-xiển-đề là tiếng Phạm, Hán dịch là Cực ác. Lại dịch là Tín bất cụ (không có lòng tin). Nam, nữ và bất nam, họ làm sao mà sinh? Là hỏi người nam, người nữ và năm hạng bất nam ở thế gian do đâu mà sinh? Sao gọi tu hành thối? Sao gọi tu hành sinh? Là hỏi người tu hành do đâu mà thối đọa, do đâu mà sinh tinh tấn. Thiền sư dùng pháp gì? Lập ra hạng người nào? Là hỏi người tu thiền định dùng pháp gì dạy đạo. Chúng sinh sinh các đường, tướng gì và loại gì? Là hỏi về hình dáng, chủng loại chúng sinh trong sáu đường. Thế nào là tài phú? Vì sao được tài phú? Là hỏi giàu sang, của cải ở thế gian do đâu mà được. Thế nào là họ Thích? Do đâu có họ Thích chủng? Thế nào họ Cam-giá, xin Vô thượng tôn nói: hỏi dòng họ Thích-ca và dòng Cam- giá. Kinh Bản hạnh Tập chép: vua Đại Mao Thảo được thành vua tiên, bị người thợ săn bắn chết, máu nhỏ xuống đất mọc lên hai cây mía, bị ánh nắng mặt trời soi chiếu nên một gốc sinh một bé trai, một gốc sinh đứa bé gái, nam tên là thiện sinh, tức vua Cam-giá, dòng họ Thích chính là con cháu nối dõi. “Thế nào Trường khổ tiên? Kia dạy bảo những gì? Hỏi người tu tiên khổ hạnh ý cầu sống lâu, thọ giáo với ai”. “Như lai vì sao bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu hiện tất cả các loại danh sắc, Tối thắng tử vây quanh”: Hỏi Phật hiện thân ở các cõi nhiều như bụi nhỏ, tùy loại khác nhau, có đại chúng vây quanh, do nhân gì mà được như vậy! “Vì sao không ăn thịt? Tại sao cấm ăn thịt? Các chủng loại ăn thịt, nhân gì nên ăn thịt.” Là hỏi về nguyên nhân ăn thịt và cấm ăn thịt? “Hình trời trăng ra sao, Tu-di và hoa sen, cõi sư tử hơn hết! Thế giới nghiêng đứng che, như lưới trời Đế-thích”. Ở đây là hỏi hình tướng thế giới. Núi Tu-di là núi Diệu cao, thống lãnh một tứ thiên hạ, một mặt trời, một mặt trăng. Nhiễu hoa sen là thế giới Hoa tạng. Nói thế giới Sư tử là trên hết trong các cõi. Các thế giới hình loại khác nhau như có nghiêng, có che, có ngửa, có ngang. Mành lưới Nhân-đà-la tức là mành lưới của trời Đế-thích. Lưới này có ngàn hạt châu, mỗi hạt châu chiếu sáng lẫn nhau, dụ cho thế giới lớp lớp vô tận. “Hoặc đều là châu báu, như đàn cầm như trống, hình giống các loài hoa. Hoặc lìa ánh trời trăng, như vậy thảy vô lượng”. Đây cũng hỏi hình tướng thế giới khác nhau, hoặc do các báu tạo thành, hoặc hình tướng như đàn cầm, như trống, như hóa, hoặc không có mặt trời, mặt trăng chiếu soi nhờ đâu được sáng. “Thế nào là hóa Phật? Thế nào báo sinh Phật? Thế nào như như Phật? Thế nào trí tuệ Phật? ” Là hỏi thân Phật có các tên gọi khác nhau là vì sao? là thân ứng hóa của Phật, nghóa là trăm ngàn ức hóa thân. Báo sinh Phật khác với báo thân, nghóa là tùy căn cơ mà hóa hiện. Như như là pháp thân Phật, nghóa là thể tánh như như không thay đổi. Trí tuệ Phật là tự báo thân Phật, nghóa là tự mình tu nhân cảm quả, vì trí thỉ giác hợp với bản giác nên gọi là trí tuệ. “Vì sao ở cõi Dục? Không thành Đẳng chánh giác? Vì sao sắc cứu cánh, lìa dục được Bồ-đề?” Hỏi Lô-xá-na báo thân Phật, không đắc đạo ở cõi Dục mà ở cõi Sắc Cứu Cánh đắc đạo là vì sao? “Thiện thệ vào Niết-bàn, ai người giữ chánh pháp. Hỏi sau khi Phật diệt độ ai là người truyền trì chánh pháp. Thiên Sư trụ bao lâu? Chánh pháp trụ chừng nào? Là hỏi Phật trụ thế và sau khi diệt độ, chánh pháp tồn tại trong thời gian dài ngắn thế nào. Thiên Sư tức là thầy trời người. Tất-đàn cùng với kiến, mỗi loại có bao nhiêu? Hỏi cơ duyên được hóa độ và kiến giải. Tất-đàn là biến thí. Có bốn thứ: 1.Thế giới tất-đàn, thế giới là thứ lớp nghóa là nghe nói pháp dần dần được vui mừng lợi ích. 2.Đối trị tất-đàn, nghóa là nghe pháp tu hành đối trị nghiệp chướng đời trước được diệt nghiệp ác. 3.Vị nhân tất-đàn, nghóa là nhờ nghe pháp nên được lợi ích, sinh điều lành. 4.Đệ nhất nghóa tất-đàn, nghóa là người nghe pháp nên được lợi ích, ngộ chân lý. “Luật Tỳ-ni Tỳ-kheo, do nhân gì lập ra? Tỳ-ni là luật, là hỏi vì sao Phật đặt ra luật và Tăng trì luật. Kinh Nhập Lăng-già chép: Cớ sao lập Tỳ-ni và các Tỳ-kheo. “Các Tối Thắng tử kia, Duyên giác và Thanh văn vì sao trăm biến dịch? Thế nào trăm vô thọ?” Hỏi chỗ sinh của hàng Nhị thừa. Biến dịch: là biến dịch sinh tử ở cõi phương tiện nhân quả đổi dời. Vô thọ: nghóa là nhập Niết-bàn vô dư không thọ đời sau. “Sao gọi thế tục thông? Sao gọi xuất thế gian? Sao gọi đệ Địa thứ bảy? Cúi mong nói con nghe”. Là hỏi năm thần thông thế gian, đắc sáu thông xuất thế và trụ ở đệ Địa thứ bảy, danh từ đệ Địa thứ bảy đã giảng rõ. “Tăng-già có mấy loại? Thế nào là hoại tăng?”. Hỏi tăng ba thừa và tăng phá giới. Tiếng Phạm là Tăng-già, Hán dịch là chúng, cũng dịch là hòa hợp. “Sao gọi y phương luận? Đó do nhân duyên gì?”. Hỏi các luận y phương ở thế gian và xuất thế gian vì ai mà nói. Kinh Nhập Lăng-già chép: Tại sao vì chúng sinh nói rộng luận y phương. “Cớ gì Đại Mâu-ni? Xướng nói những câu này: Đức Phật Ca-diếp, Câu-na-hàm, Câu-lưu-tôn là ta”: Hỏi vì sao Phật nói các Đức Phật quá khứ là ta, nghóa này trong văn kinh quyển ba, quyển bốn giải thích rõ. “Vì sao nói đoạn thường? Và cùng ngã, vô ngã? Vì sao không phải bất cứ lúc nào cũng giảng nói nghóa chân thật, mà lại vì chúng sinh phân biệt nói tâm lượng”? Là hỏi Như lai sao không chỉ nói Đại thừa mà nói rộng các pháp khác. “Sao có rừng nam nữ? Ha-lê, A-ma-lặc”. Là hỏi cây trái rừng rậm như nam nữ thế gian. Hai thứ trái Ha-lê, A-ma-la đều là loại trái ở Tây Vực mới có. “Kê-la và Thiết vi, Kim cương thảy các núi, vô lượng báu trang nghiêm, thần tiên đều đầy đủ?”. Hỏi các núi và các báu trang nghiêm, tiên nhân nhạc thần ở đây đầy đủ là vì sao? Vì Càn-thát-bà là nhạc thần của Thiên đế. Dưới đây là Thế tôn chấp nhận nghi vấn của Đại Tuệ và giải thích. Đức Phật khen ngợi: “Vô thượng Thế gian giải nghe Bồ-tát Đại Tuệ nói kệ thưa hỏi về các pháp môn cứu độ của Đại thừa và tâm các Đức Phật là bậc nhất liền khen lành thay! Lành thay lời hỏi, Đại Tuệ khéo lắng nghe, nay ta sẽ lần lượt đáp đúng như lời ông hỏi. “Kinh Nhập Lăng-già chép: Khi ấy, Đức Thế tôn nghe Bồ-tát nói tâm các Đức Phật tối thượng nhiệm mầu là pháp môn Đại thừa, liền bảo rằng: lành thay Này Đại Tuệ! Lắng nghe, ta sẽ thứ lớp nói đúng như lời ông hỏi, liền nói kệ rằng: “Sinh cùng với bất sinh, Niết-bàn không sát-na, tiến đến không tự tánh”: Ở đây giải thích câu hỏi của Đại Tuệ, pháp hữu vi sinh, pháp vô vi bất sinh, các pháp Niết-bàn hư không sát-na trôi lăn, đều do vọng tưởng hiện ra, vốn không có tự tánh. Đức Phật trả lời một trăm lẽ tám câu hỏi: “Phật, các Ba-la-mật, Phật tử cùng Thanh văn, Duyên giác các ngoại đạo, cùng với Vô Sắc hành, các việc như thế đó”. Trên là hỏi người và pháp sở hành, pháp sở hành của ngoại đạo thuộc về hành Vô Sắc. “Tu-di, biển cả, núi lớn, châu, đảo, cõi nước, đất”: Trên là nói các danh tướng vô tình trong cõi nước. “Các sao và trời trăng, ngoại đạo, Trời, Tu-la, giải thoát, tự tại thông, lực, thiền, Tam-ma-đề, định và như ý túc, giác chi và đạo phẩm”. Hỏi danh tướng các pháp. Tam-ma-đề tức Tam-muội. Diệt tức vô thọ, như ý túc tức bốn như ý túc Dục, Niệm, Tấn, Tuệ. Giác chi tức là bảy Giác chi: Niệm, trạch, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả. Đạo phẩm tức là nói chung ba mươi bảy phẩm trợ đạo. “Các thiền định vô lượng, các ấm thân qua lại, chánh thọ, diệt tận định, Tam-muội khởi tâm nói. Tâm ý và các thức, pháp vô ngã có năm, tự tánh tưởng sở tưởng, và hai chấp hiện tại”. Các thiền định thế gian, xuất thế gian, thiền định Tiểu thừa, Đại thừa. Các ấm thân sinh tử trong sáu đường. Chánh thọ tức Tam-muội. Diệt tận định là thọ tưởng tâm diệt thân chứng định này. Tam-muội khởi tâm mà nói là từ định mà khởi, vận tâm nói pháp. Tự tâm ý và hai thứ chấp, gom chung là năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã. “Thừa và các chủng tánh, vàng bạc ma-ni thẩy, Nhất-xiển-đề đại chủng, hoang loạn và nhất Phật, trí, nhó-diệm đắc hướng chúng sinh hữu, vô hữu”. Thừa là ba thừa. Nhất-xiển-đề xem chú thích ở trước. Đại chủng là bốn đại chủng. Hoang loạn là cõi nước loạn lạc. Nhất Phật tức Phật Ca-diếp trước, Đẳng là ngã, Đắc hướng giống như ma được dịp làm hại. Hữu vô hữu tức không hữu. “Voi ngựa các cầm thú, vì sao bị bắt lấy: Ví nhân thành tất-đàn, cùng với tác, sở tác”: Ví là ví dụ. Nhân thành tức tương ưng. Tất-đàn là bốn Tất-đàn như trên đã giải thích. Tác, sở tác tức nghiệp năng tác, sở tác. “Tòng lâm mê hoặc thông, tâm lượng chẳng hiện hữu, các địa không đến nhau, trăm biến trăm vô thọ, luận y phương, công xảo, kỹ thuật các minh xứ”. Danh tướng đều như trước giải thích. Như trên là tất cả câu hỏi của Đại Tuệ. “Đất các núi Tu-di, lượng biển cả trời, trăng. Chúng sinh thượng, trung, hạ, thân đều như bụi nhỏ”. Từ đây đến lỗ chân lông, lông mày có bao nhiêu cọng, đều là Đức Phật hỏi ngược trở lại lời Đại Tuệ hỏi, số lượng độ không cùng khắp. Chúng sinh hạng thượng trung hạ chung trong mười cõi mà nói. Thân có bao nhiêu hạt bụi nhỏ, nghóa là thân lượng cao thấp nặng nhẹ. “Mỗi sát-na có bao nhiêu hạt bụi nhỏ, mỗi cung số có bao nhiêu, khuỷu tay, bước, câu-lô-xá, nửa do-diên, do-diên”. Sát là cõi nước, nghóa là thế giới Đại thiên là một sát độ, hai thước là một khuỷu tay, bốn khuỷu tay là một cung, năm trăm cung là một câu-lô-xá, mười câu-lô-xá là một do-diên, do-diên tức do-tuần. “Lông nhỏ, bụi qua cửa, lông dê, khoáng mạch trần”. Xưa chú giải rằng: Bảy hạt bụi nhỏ thành một hạt bụi qua cửa sổ, bảy hạt bụi qua cửa sổ thành một hạt bụi nhỏ như đầu lông thỏ, bảy hạt bụi nhỏ như đầu lông thỏ thành một hạt bụi nhỏ như đầu lông dê, bảy hạt bụi nhỏ như đầu lông dê thành một hạt bụi nhỏ như đầu lông trâu, bảy hạt bụi nhỏ như đầu lông trâu thành một con rệp, bảy con rệp thành một con rận, bảy con rận thành một hạt cải, bảy hạt cải thành hạt bắp. Khoáng tức là đại mạch. “Bát-tha mấy khoáng mạch”, Bát-tha là nửa đấu, “A-la mấy khoáng mạch”, A-la là một đấu. “Độc long Na-khư-lê! ” Độc long là một hộc, Na-khư-lê mười hộc. “Lặc-xoa và Cử-lợi”. Lặc-xoa là một muôn, Cử-lợi là một ức. “Cho đến tần-bà-la, mỗi số có bao nhiêu, tần-bà là một triệu. “Có bao nhiêu a-nâu” là trần. “Tên xá-lê-sa-bà” là hạt cải. “Bao nhiêu xá-lê-sa-bà”, gọi là một lại đề, là hạt cỏ. “Mấy lại đề thành ma-sa”, mấy hạt cỏ thành hạt đậu. “Mấy ma-sa, đà-na”, gọi là thù. “Lại bao nhiêu đà-na-la thành một ca-lê-sa-na” là lượng. “Bao nhiêu ca-lê-sa-na hợp thành một ba-la?” Là cân. “Những tướng chứa nhóm này bao nhiêu ba-la-Di-lâu?”. Di-lâu là núi Tu-di, nghóa là bao nhiêu cân hạt bụi nhỏ có thể tạo thành núi Di- lâu. Kinh Nhập Lăng-già chép: Bao nhiêu cân thành núi Tu-di. “Những thứ này là việc nên hỏi, sao lại hỏi việc khác? Thanh văn và Bích-chi-phật, Phật và các Bồ-tát, thân mỗi vị có bao nhiêu số? Vì sao không hỏi điều này?”. Nghóa là vì sao không hỏi Phật và thân ba thừa mỗi thừa có bao nhiêu hạt bụi nhỏ. “Ngọn lửa có mấy a-nâu? Phong a-nâu lại có mấy a-nâu” ý nói hỏa đại, phong đại mỗi đại có bao nhiêu số hạt bụi. “Mỗi căn có bao nhiêu a-nâu (trần)? Bao nhiêu lỗ chân lông và cọng lông mày?”. Căn căn là nói sáu căn. Dưới đây là giải đáp câu hỏi của Đại Tuệ. “Vua hộ tài tự tại. Vì sao gọi là vua. “Vua Chuyển Luân Thánh đế, sao là vua thủ hộ?”. Thế nào là hộ quốc. “Thế nào là giải thoát?” Người tu hành giải thoát này lại có bao nhiêu thứ. “Nói rộng và nói câu, như lời ông đã hỏi”. Già-đà có bao nhiêu, tụng dài và câu ngắn, Kinh Lăng-già chép: Thế nào là câu văn xuôi. “Chúng sinh các thứ dục”: Là Năm dục. “Cùng các thứ ăn uống”, là ăn thịt, không ăn thịt. “Thế nào là rừng nam nữ, núi Kim cương vững chắc, sao ví như huyễn mộng. Như nai đồng khát nước, sao có thiên tiên núi, Càn-thát- bà trang nghiêm”. Vô lượng báu trang nghiêm, tiên Càn-thát-bà đầy dẫy. “Giải thoát đến chỗ nào? Ai buộc ai giải thoát? ” Hai câu này lời hỏi giống. “Sao gọi cảnh giới thiền”. Những gì là cảnh giới thiền. “Biến hóa và ngoại đạo”. Hóa tướng cõi nước và các ngoại đạo. “Thế nào vô nhân tác? Thế nào hữu nhân tác, hữu nhân vô nhân tác, và phi hữu vô nhân”. Bốn câu này tại sao đều nói khác. “Vì sao hiện đã diệt”? Kiến hoàn toàn trở lại. Làm sao tịnh các giác? Vì sao các giác chuyển, và chuyển các sở tác? Vì sao tịnh niệm kia? Tại sao niệm thêm lớn. “Làm sao dứt các tưởng? Làm sao sinh Tam-muội? Phá ba cõi là ai? Ở đâu và thân gì?”. Phá ba cõi và thân ở chỗ nào. “Vì sao không chúng sinh, mà nói có ta người. Thế nào thế tục nói. Cúi mong phân biệt rộng”. Đây nói không có chúng sinh và thế tục nói. “Tướng đã hỏi ra sao? và chỗ hỏi phi ngã”. Lập ra tướng và nghóa vô ngã. “Làm sao thành Thai tạng? Và các thứ thân khác”. Là Thai tạng sinh và loại danh sắc. “Thế nào chấp đoạn thường? Vì sao nói đoạn thường.” “Tâm làm sao đắc định?” Thế nào là Tam-muội. “Lời nói và các trí”, các ngữ ngôn và các trí. “Giới chủng tánh Phật tử”, bao nhiêu giới tánh chúng sinh. “Sao gọi thành và luận?” Thành có bao nhiêu thứ, vì sao gọi là luận? nam. “Sao gọi thầy, đệ tử?” Đệ tử có mấy hạng và A-xà-lê là gì. “Các chủng loại chúng sinh, các thứ này thế nào? Nam, nữ và bất “Thế nào là ăn uống? Thông minh, ma, thi thiết?” Niệm thông minh, ma và bao nhiêu thi thiết lượng. “Sao gọi cây, dây sắn?” Hỏi rừng rậm cây cỏ. “Điều mà Tối thắng tử hỏi, thế nào các thứ cõi?” Hỏi thế nào là hình mặt trời, mặt trăng, cho đến vô lượng thứ như thế… “ Vị Tiên khổ hạnh lâu, thế nào là dòng họ?” Dòng họ Thích và dòng họ Cam-giá. “Từ đâu sư thọ học? Dựng lập cho những người nào? “Thế nào là xấu xa?” Hỏi vì sao thấp kém. “Thế nào người tu hành?” Hỏi người tu hành tiến tới, lui sụt. “Cõi Dục sao chẳng giác, thành A-ca-nị-tra”. Cõi Dục không thành Chánh Giác và trời sắc cứu cánh lìa Dục được Bồ-đề. A-ca-nị-tra là trời Sắc Cứu Cánh. “Sao gọi tục thần thông?” là thần thông thế tục. “Sao gọi là Tỳ-kheo?” Là hỏi phần Tỳ-ni Tỳ-kheo. “Thế nào là hóa Phật? Thế nào là báo Phật? Thế nào như như Phật? Bình đẳng trí tuệ Phật”. Hỏi về thân Phật. “Thế nào là chúng tăng? Phật tử hỏi như vậy”. Là hỏi tăng ba thừa. “Dây đàn, lưng trống, hoa, cõi nước lìa ánh sáng”. Là hỏi hình tướng cõi nước. “Tâm địa ấy có bảy”. Hỏi thế nào là Địa thứ bảy, Địa thứ bảy chính đã nói rõ ở địa, nghóa là tư hoặc đã hết, tuệ tâm hiển bày cho nên gọi Tâm địa. Tổng kết nêu lên: “Chỗ hỏi đều như thật”. Tổng kết nêu lên ngài Đại Tuệ hỏi đều đúng như nghóa thật. “Đây và các thứ khác rất nhiều, Phật tử cần phải hỏi”. Tổng kết chỉ cho lỗi của Đại Tuệ. “Mỗi mỗi tướng tương ưng, xa lìa các lỗi thấy, tất-đàn lìa nói năng, nay ta sẽ hiển bày, thứ lớp dựng lập câu”. Tổng kết đời trước đời sau, tức gồm chung các câu hỏi trên đều khế hợp lý lìa lỗi. Dùng ngay bốn tất-đàn làm một trăm lẻ tám câu nói về dựng lập. “Phật tử khéo lắng nghe”: Dạy lắng nghe lãnh thọ. “Một trăm lẻ tám câu trên, như các Phật đã nói”: Một trăm lẻ tám câu pháp này gồm có năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã, pháp các Đức Phật nói không ngoài bốn thứ này. Dưới đây là tổng kết chỉ các câu, mỗi câu giúp cho người phá tình bỏ chấp, cho nên đều nói phi cú. Kinh Nhập Lăng-già chép: Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là một trăm lẻ tám câu? Phật dạy Đại Tuệ: đó là câu sinh là phi sinh… Cách trả lời một trăm lẻ tám câu của Phật trong kinh Nhập Lăng-già “Câu bất sinh là sinh, câu thường là vô thường”: Hợp lại nói câu sinh là phi sinh, đây nói câu bất sinh là sinh, là lời ngược lại. Nói chúng sinh ở trong cảnh chân như vô sinh, do vọng khởi mà sinh chấp pháp, vốn tự chẳng sinh cho nên nói câu phi sinh, nếu chấp pháp sinh tức là có thường do không có sinh cho nên nói phi thường. “Câu tướng là vô tướng, câu trụ dị là phi trụ dị”: Chấp thường thì có tướng, phi thường thì vô tướng, do sinh mà có trụ do trụ mà có dị. Trụ là trụ ở thế gian, dị nghóa là từ trẻ đến già tướng kia đổi khác. Hai câu trụ dị ở trước không có lời hỏi, vì hỏi tuy lược đáp nhưng phải rõ ràng. “Câu sát-na chẳng phải câu sát-na, câu tự tánh lìa câu tự tánh”. Lìa tức là chẳng phải. “Câu không là bất không, câu đoạn là bất đoạn, câu biên phi biên, câu trung phi trung”. Hai câu này không hỏi. “Câu thường chẳng phải câu thường”. Trước nói câu thường là nói phàm phu đối với trụ chấp là thường. Ở đây nói câu thường là nói ngoại đạo chấp tánh bốn đại là thường. “Câu duyên chẳng phải câu duyên, câu nhãn chẳng phải câu nhãn, câu phiền não chẳng phải câu phiền não, câu ái chẳng phải câu ái, câu phương tiện chẳng phải câu phương tiện”. Các câu này không hỏi. “Câu xảo chẳng phải câu xảo, câu tịnh chẳng phải câu tịnh, câu thành chẳng phải câu thành, câu thí chẳng phải câu thí, câu đệ tử chẳng phải câu đệ tử, câu sư chẳng phải câu sư, câu chủng tánh chẳng phải câu chủng tánh, câu ba thừa chẳng phải câu ba thừa, câu sở hữu chẳng phải câu sở hữu, câu nguyện chẳng phải câu nguyện”. Các câu này không hỏi. “Câu ba luân chẳng phải câu ba luân”. Câu này không hỏi, ba luân: là thân luân hiện thần thông, khẩu luân nói pháp, và ý luân quán xét căn cơ. “Câu tướng phi tướng, câu hữu phẩm phi hữu phẩm, câu chung phi chung, câu duyên tự Thánh trí hiện pháp lạc phi hiện pháp lạc”. Kinh Nhập Lăng-già chép: Câu tự chứng Thánh trí chẳng phải câu tự chứng Thánh trí, câu hiện pháp lạc chẳng phải câu hiện pháp lạc. “Câu cõi nước phi cõi nước, câu a-nâu phi a-nâu, câu thủy phi thủy, câu cung phi cung, câu thật phi thật, câu số phi số”. Số là số hạt bụi nhỏ. “Câu số phi số”. Là số lượng thanh. “Câu minh phi minh, câu hư không phi hư không, câu mây phi mây, câu công xảo kỹ thuật minh xứ phi công xảo kỹ thuật minh xứ, câu phong phi phong, câu địa phi địa, câu tâm phi tâm, câu thi thiết phi thi thiết, câu tự tánh phi tự tánh, câu ấm phi ấm, câu chúng sinh phi chúng sinh, câu tuệ phi tuệ, câu Niết-bàn phi Niết-bàn, câu sở tri phi sở tri, câu ngoại đạo phi ngoại đạo, câu hoang loạn phi hoang loạn, câu huyễn phi huyễn, câu mộng phi mộng, câu diệm phi diệm, câu tượng phi tượng, câu luân phi luân”. Kinh Lăng-già chép: Câu hỏa luân. “Câu Càn-thát-bà phi Càn-thát-bà, câu thiên phi thiên, câu ẩm thực phi ẩm thực, câu dâm dục phi dâm dục, câu kiến phi kiến, câu Ba- la-mật phi Ba-la-mật, câu giới phi giới, câu trời trăng tinh tú phi trời trăng tinh tú, câu đế phi đế”. Nhắc lại Văn trên đúng như thật. “Câu quả phi quả”. Câu này không hỏi. “Câu diệt khởi phi diệt khởi”. Kinh Nhập Lăng-già nói: Câu diệt phi diệt, câu khởi phi khởi. “Câu trị phi trị”. Kinh Nhập Lăng-già chép: Câu y phương phi y phương. “Câu tướng phi tướng”. Lời đáp gồm có ba tướng: trước là thể tướng, kế là tiêu tướng, ở đây là pháp tướng. “Câu chi phi chi”. Kinh Nhập Lăng-già chép: Câu chi phần nghóa là chi hình phân đoạn. “Câu xảo minh xứ phi xảo minh xứ, câu thiền phi thiền, câu mê phi mê, câu hiện phi hiện, câu hộ phi hộ, câu tộc phi tộc, câu tiên phi tiên, câu vương phi vương, câu nhiếp thọ phi nhiếp thọ”. Một câu này không hỏi. “Câu thật phi thật, câu ký phi ký”. Một câu này không hỏi. “Câu Nhất-xiển-đề phi Nhất-xiển-đề, câu nam nữ bất nam phi nam nữ bất nam, câu muội phi muội”. Một câu này không hỏi. “Câu sự phi sự”. Một câu này không hỏi. “Câu thân phi thân, câu giác phi giác, câu động phi động, câu căn phi căn, câu hữu vi phi hữu vi, câu vô vi phi vô vi, câu nhân quả phi nhân quả, ba câu này không hỏi. “Câu Sắc Cứu Cánh phi Sắc Cứu Cánh, câu tiết phi tiết, câu rừng cây bìm sắn phi rừng cây bìm sắn, câu tạp phi tạp”. Một câu này không hỏi. Đức Phật tổng kết: “Câu thuyết phi thuyết, câu Tỳ-ni phi Tỳ-ni, câu Tỳ-kheo phi Tỳ- kheo, câu xứ phi xứ, câu tự phi tự. Này Đại Tuệ! Đó là một trăm lẻ tám câu, trước Phật đã nói, ông và các Đại Bồ-tát phải nên tu học. 1 3. Số câu của các bản dịch khác: Xét bản chính văn đời Tống, chỉ có một trăm lẻ bốn câu, trong đó thêm bản dịch bốn quyển đời Đường mới đủ. Như từ câu hữu phẩm phi hữu phẩm trở xuống, bản dịch đời Đường là câu hữu phi câu hữu, câu vô phi câu vô. Lại nữa, câu duyên tự Thánh trí hiện pháp lạc phi câu hiện pháp lạc, bản dịch đời Đường chia làm hai câu. Lại, câu khởi diệt phi khởi diệt cũng chia thành hai câu. Lại nữa, từ câu thuyết phi thuyết trở xuống, bản dịch đời Đường lại có câu quyết định phi quyết định. Đều thêm bốn câu. Một trăm lẻ tám nghóa này, văn có ba đoạn: ban đầu thì Đại Tuệ thưa hỏi, kế là Như lai giải thích, nhưng chỗ hỏi chỗ trả lời đều không thứ lớp, cho nên không thể dùng số chắc chắn khai hợp mà luận được, đến cuối cùng là kết thúc chỉ bày một trăm lẻ tám câu, mỗi câu rõ ràng, nhưng không nhiều không ít, số lượng đến đây, vì tiêu biểu đối lại một trăm lẻ tám phiền não có một trăm lẻ tám pháp môn, là pháp ấy. Có sự có lý, có tánh có tu, có chân có vọng, có mê có ngộ, có giáo có hạnh, có nhân có quả, có thể có dụng, có tức có lìa, có vong có chiếu. Đại ý của toàn kinh nêu lên ở đây. Đoạn văn dưới đây là hỏi riêng đáp riêng. Bồ-tát Đại tuệ thưa hỏi: Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Các thức có mấy thứ sinh, trụ, diệt? Phật bảo Đại Tuệ: “Các thức có hai thứ sinh, trụ, diệt, chẳng thể suy lường mà biết được. Các thức có hai thứ sinh, đó là lưu chú sinh và tướng sinh. Có hai thứ trụ, là lưu chú trụ và tướng trụ. Có hai thứ diệt, là lưu chú diệt và tướng diệt”. Từ đây đến cuối văn hỏi đáp riêng năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã. Ban đầu hỏi về các thức: Vì thức tức là tâm, tâm là gốc muôn pháp. Y theo thường đối lập các thức, nghóa là thức thứ chín yêm-ma- la tức tịnh thức chân thường thanh tịnh thuộc Phật. Thức A-lại-da thứ tám tức thức hàm tàng, thuộc Bồ-tát, thức A-đà-na thứ bảy thức truyền thống, thuộc hàng Nhị thừa, thức phân biệt sự thứ sáu cũng gọi thức ba lãng thuộc phàm phu. Hoặc có người dịch không lập thức thứ chín, đó là đệ cửu tức, tên khác của thức thứ tám. Kinh này nói rõ các thức khác với bình thường. Y theo văn kinh ở sau cho rằng Như lai tạng gọi là thức tạng, năm thức và ý căn ý thức nhãn v.v… cộng chung là tám thức. Do các thức này y theo môn sinh diệt mà nói, cho nên hỏi có mấy thứ sinh, trụ, diệt? Đức Phật đáp có hai thứ sinh, trụ, diệt: chẳng thể suy lường mà biết được, nghóa là chân như diệu tánh vốn bất sinh diệt. Sinh là nhân duyên sở sinh, trụ là dừng lại, dị là thay đổi, diệt là diệt hết. Đây không nói dị là do văn tóm lược! Nhưng tướng sinh diệt của các thức này chỉ có trí tuệ Phật mới hiểu rõ được, cho nên nói chẳng phải so lường mà biết được. Nói lưu chú sinh, trụ diệt, nghóa là ở trong thức ấm niệm niệm nối nhau, như dòng nước chảy suốt không hề tạm dừng. Nói tướng của sinh, trụ diệt, nghóa là tướng hiển hiện ra bên ngoài, căn cảnh đối nhau khởi sinh, trụ, diệt. Ba tướng của các thức: “Này Đại Tuệ! Các thức có ba tướng, đó là chuyển tướng, nghiệp tướng và chân tướng”. Chuyển tướng: Từ vô thỉ huân, biến giác thành bất giác. Nghiệp tướng: Vì bất giác cho nên động thì thành nghiệp. Chân tướng: Tùy duyên bất biến thể tánh chân tịnh. Theo luận khởi tín chép: Nghiệp tướng chuyển tướng hiện tướng, chính từ chân khởi vọng, vọng động thành nghiệp. Vì động cho nên càng thấy có cảnh giới thứ lớp phát hiện. Ở đây không nói hiện mà nói chân, vì nói thể tánh của thức này tùy duyên bất biến nên gọi là Chân. Nói lược, nói rộng: Này “Đại Tuệ! Nói lược có ba thức, nói rộng có tám tướng. Ba thức ấy là chân thức, hiện thức và thức phân biệt sự. Này Đại Tuệ! Ví như gương sáng chiếu các sắc tượng, hiện thức ở trong ấy mà hiện cũng giống như vậy” Lược: Các thức nói lược có ba thứ: a. 1) Chân thức: tức Như lai tạng thức; a. 2) Hiện thức: tức Như lai tạng sở chuyển, cũng gọi là thức tạng, gọi chuyển mà thể không chuyển; a. 3) Thức phân biệt sự: tức ý căn ý thức và năm thức thân. Đây chia tạng thức thành hai, hợp sự thức thành một. Rộng: Nói rộng có tám tướng: Y theo văn kinh sau, tức hợp chân thức, hiện thức trên thành một tạng thức; chia thức phân biệt sự trên thành bảy thức, đó là ý căn, ý thức, nhãn thức, nhó thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức. Nhưng các thức này rộng lược khai hợp khác nhau, bởi do Như lai tạng là nhân lành, không lành, tùy duyên nhiễm tịnh huân biến khác nhau, chúng sinh từ vô thỉ huân tập nghiệp ác, chỉ theo duyên nhiễm, Như lai tạng đổi tên thành Thức tạng, thứ lớp chuyển sinh các thức. Đây là toàn chân thành vọng, toàn lý thành sự. Nếu tùy theo tịnh duyên liễu đạt các thức đều là chân trí thì Như lai tàng không còn đổi tên, cho nên ngay nơi sự là lý, bỏ vọng về chân. Gương sáng dụ cho hiện thức, vì hiện thức có công năng sinh ra nguồn gốc các pháp, gây nhân cảm quả, như gương soi chiếu các vật không khác nhau. Nói về hai thức: Này “Đại Tuệ! Hiện thức và thức phân biệt sự, hai thức này tướng hoại và chẳng hoại lần lượt làm nhân lẫn nhau”. Hiện thức chứa đựng hạt giống thiện ác không mất, cho nên gọi là bất hoại. Sự thức dùng căn đối cảnh, khởi tâm thương ghét, niệm niệm sinh diệt cho nên gọi là hoại. Nhưng hai thức này tuy hoại, bất hoại khác nhau nhưng lần lượt làm nhân, cho nhau chẳng phải khác chẳng phải không khác. Này “Đại Tuệ! Bất tư nghị huân và bất tư nghị biến là nhân của hiện thức”. Huân là xông ướp. Biến là biến chuyển. Nói bất tư nghị huân, là toàn chân thành vọng, nói bất tư nghị biến là toàn lý thành sự, chân vọng không hai, sự lý một thể, không huân mà huân, không biến mà biến, tâm không thể suy lường miệng không thể bàn luận, huân biến như vậy thành nhân của hiện thức. Này “Đại Tuệ! Nhận lấy các trần cảnh và vọng tưởng huân tập từ vô thỉ làm nhân của thức phân biệt sự”. Các trần là sáu trần. Chấp: là sáu căn chấp lấy sáu trần mà khởi ái kiến. Vọng tưởng huân tập từ vô thỉ, là từ vô thỉ đến nay khởi vọng tưởng ái kiến này huân thành sự thức, đó gọi là Nhân. Này “Đại Tuệ! Nếu trở về chân thức kia thì các thứ không thật, các thứ luống dối ấy đều diệt thì tất cả căn thức cũng diệt, gọi là tướng diệt”. Phúc là trở lại, nghóa là nếu phản chiếu được chân thức thì tất cả vọng tưởng ái kiến tự nhiên tiêu diệt, vọng tưởng năng huân đã diệt thì căn thức sở huân cũng mất, đó gọi là tướng diệt. Nói về sở duyên: Này “Đại Tuệ! Vì nối nhau diệt là sở nhân nối nhau diệt, cho nên nối nhau diệt. Sở tùng diệt và sở duyên diệt nên nối nhaudiệt. Này Đại Tuệ! Vì sao? Vì là sở duyên. Nương là vọng tưởng từ vô thỉ. Huân duyên là thức cảnh vọng tưởng từ tự tâm hiện khởi. Nối nhau diệt: là lưu chú diệt. Sự nối nhau của thức là có nhân duyên, nếu nhân duyên diệt thì thức nối nhau diệt. Nhân là vọng tưởng từ vô thỉ, duyên là tự tâm hiện cảnh giới phân biệt. Vọng tưởng vô thỉ là vô minh căn bản. Này Đại Tuệ! Ví như khối đất và hạt bụi, chẳng khác, chẳng phải không khác; vàng và các món trang sức cũng giống như vậy. Này Đại Tuệ! Nếu khối đất và hạt bụi khác nhau thì khối đất không phải do hạt bụi hợp thành, nay khối đất thật sự do hạt bụi hợp thành, cho nên chẳng phải khác. Nếu chẳng phải chẳng khác thì khối đất và hạt bụi không nên phân biệt khác nhau. Đây là ví dụ rõ chuyển thức và tạng thức chẳng phải khác chẳng phải không khác, chính là nói chân tướng của tàng thức chẳng diệt, đó là cương yếu của kinh này. Cái gọi là Phật tâm ngữ chính là ở đây. Khối đất dụ cho chuyển thức, hạt bụi dụ cho tạng thức. Tạng thức là chân, chuyển thức là vọng. Khối đất nhân hạt bụi hợp thành, thể kia là một cho nên không thể nói khác. Nếu khối đất và hạt bụi chắc chắn là một thì không còn phân biệt khác nhau. Không thể nói không khác, là ví dụ từ chân khơi vọng, vọng diệt chân hiện. Vàng và các thứ trang sức, dụ kia cũng giống như vậy. Sau mới hợp pháp. Nói pháp chẳng phải một chẳng phải khác: “Cũng vậy, này Đại Tuệ! Nếu chuyển thức và chân tướng của tạng thức khác nhau thì tàng thức không phải nhân. Nếu không khác thì chuyển thức diệt tàng thức cũng phải diệt, nhưng tự chân tướng thật sự chẳng diệt”. Đây nói rõ pháp chẳng phải một, chẳng phải khác, nghóa là nếu các chuyển thức và tạng thức khác nhau thì khi gió vô minh kia huân động, thể của tạng thức lẽ ra không theo duyên, đó là rơi vào chấp thường, nhưng tàng thức là nhân lành không lành chẳng phải không theo duyên. Nếu không khác nhau thì khi chuyển thức diệt, tàng thức lẽ ra cũng diệt, đó là rơi vào chấp đoạn, nhưng chân tướng của tàng thức không bao giờ diệt, vì tự tánh thanh tịnh tâm của chúng sinh do gió vô minh làm động, tâm và vô minh đều không hình tướng, không có tướng lìa bỏ, mà tâm chẳng phải tánh động. Nếu vô minh diệt thì thức cũng nối nhau diệt, nhưng trí tánh không hoại. Chân vọng diệt không diệt: “Cho nên Này Đại Tuệ! Chẳng phải tự chân tướng thức diệt mà chỉ là nghiệp tướng diệt. Nếu tự chân tướng thức diệt thì tàng thức diệt. Này Đại Tuệ! Nếu tàng thức diệt thì chẳng khác luận nghi chấp đoạn” của ngoại đạo, ở đây nói lý do chân vọng diệt, không diệt, ở trên ý nói chuyển thức diệt, tàng thức không diệt, đã nêu rõ chẳng khác, chẳng phải không khác, vẫn sợ Đại Tuệ chưa thấu đạt ý sâu, nên lại bảo rằng: Chân tướng không diệt, chỉ có nghiệp tướng diệt, vì chân là tánh bất kiến, vốn lìa sinh diệt, nghiệp là tướng vô minh luống dối cho nên có sinh diệt. Đã bỏ vọng về chân thì vọng diệt mà chân không diệt. Nếu chân có diệt thì đâu khác luận nghị chấp đoạn của ngoại đạo. Luận nghị tức lời nói vô nghóa, nghóa là ngôn giáo của ngoại đạo không thật. Luận thuyết của ngoại đạo: Này “Đại Tuệ! Các ngoại đạo kia luận như vầy: cảnh giới nhiếp thọ diệt thì thức lưu chú cũng diệt. Nếu thức lưu chú diệt thì lưu chú từ vô thỉ lẽ ra cũng dứt mất. Này Đại Tuệ! Ngoại đạo nói lưu chú sinh nhân chẳng phải do nhãn thức, sắc, ánh sáng nhóm hợp mà sinh, mà có các nguyên nhân khác. Này Đại Tuệ! Về nhân kia nói rằng hoặc là thắng diệu, hoặc là só phu, hoặc tự tại, hoặc thời, hoặc bụi nhỏ”. Luận ngoại đạo không ra ngoài hai kiến chấp đoạn, thường. Cái gọi là cảnh giới nhiếp thọ diệt thì thức lưu chú cũng diệt, đây là chấp đoạn. Cảnh giới nhiếp thọ là trần cảnh mà tâm thức chấp lấy. Nội giáo cho rằng lưu chú diệt là nói tướng ấy diệt, nhưng tánh không hề diệt, ngoại đạo nói diệt là đoạn diệt, đâu biết thức tánh lưu chú vượt ngoài tạng thức từ vô thỉ ấy. Kia lại nói: trôi chảy làm sinh nhân, chẳng phải do bốn duyên nhãn thức, sắc, và ánh sáng hòa hợp mà sinh, mà có riêng nhân khác. Nhân khác, hoặc thắng diệu tức là thắng tánh, sinh này làm chủ cõi trời Phạm thiên, hoặc só phu cũng gọi là trượng phu, tức là một trong mười sáu tri kiến, tên khác của thần Ngã. Tự tại, nghóa là trời Đại tự tại và chấp thời tiết, bụi nhỏ, v.v… Là năng sinh, sinh nhân mà ngoại đạo chấp đều là loại này. Có bảy chủng tánh tự tánh: “Lại nữa, này Đại Tuệ! Có bảy chủng tánh tự, đó là: Tập tánh tự tánh, tự tánh tánh, tướng tánh tự tánh, đại chủng tánh tự tánh, nhân tánh tự tánh, duyên tánh tự tánh và thành tánh tự tánh. Đây là danh nghóa bảy thứ tự tánh. Nếu y cứ theo sự giải thích sai lầm thì phàm chẳng phải Thánh, sợ chẳng phải ý kinh, như đoạn văn dưới nói. Đây là tánh tự tánh Đệ nhất nghóa tâm của các Đức Phật ba đời. Lại nói rằng: phàm phu không có tánh tự tánh, chẳng lẽ không tánh nghóa là Thánh chẳng phải phàm ư! Cho nên phải y theo Thánh để giải thích. Trong bảy thứ tánh, sáu thứ trước không ra ngoài nhân quả, nói tập tánh tự tánh tức muôn điều lành chứa nhóm làm nhân, do tập nhân cho nên có tánh có tướng, tánh bên trong còn tướng bên ngoài. Đại chủng tự tánh, nghóa là quả của bốn đại chủng. Đại chủng vốn có cả phàm lẫn Thánh. Ở đây y theo Thánh báo, cái gọi là sắc là thường, v.v… Thường: là chân thường, tức quả của năm ấm pháp tánh, cho nên có nhân có duyên, nhân thân mà duyên sơ. Do nhân quả hợp thành, thành là thành tự tánh, tức là Đệ nhất nghóa tâm ở văn sau. Có bảy thứ Đệ nhất nghóa: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Có bảy thứ Đệ nhất nghóa. Tức là Tâm cảnh giới, Tuệ cảnh giới, Trí cảnh giới, Kiên cảnh giới, siêu nhị kiến cảnh giới, siêu tử địa cảnh giới và Như lai tự đáo cảnh giới”. Nói cảnh giới, Kinh Nhập Lăng-già chép: sở hành tức là cảnh giới sở hành, nhưng có chia ra chung riêng khác nhau. Sáu thứ trước Bồ-tát và Phật, Tự đáo cảnh giới thứ bảy chỉ nói về Phật, Tâm cảnh giới, tức Đệ nhất nghóa xứ do tâm tạo ra, tâm có công năng phát tuệ, năng lực của tuệ đã cao siêu thì thành trí dụng, trí dụng đã thành thì chánh kiến hiện ra, chánh kiến hiện ra thì vượt khỏi hai kiến chấp đoạn thường, cho đến vượt khỏi cảnh giới Bồ-tát, đến Như lai tự đáo cảnh giới. Phật tổng kết: Này “Đại Tuệ! Đây là tánh tự tánh Đệ nhất nghóa tâm của Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác ở quá khứ, vị lai, hiện tại”. Đây là tổng kết tự tánh Đệ nhất nghóa tâm, là sở chứng của Phật”. “Do tánh tự tánh Đệ nhất nghóa tâm mà thành tựu được pháp thế gian, xuất thế gian và xuất thế gian thượng thượng của Như lai”. Dưới đây là nói về Như lai nương tự tánh Đệ nhất nghóa mà thành tựu đức dụng tự hành hóa tha. Thành tựu thế gian là nêu đồng người pháp mà hóa tha. Pháp xuất thế gian có cả hàng ba thừa. Pháp xuất thế gian thượng thượng chỉ có Phật và Phật mới rốt ráo. “Thánh tuệ nhãn vào tự tướng cộng tướng dựng lập, như chỗ dựng lập không đồng với ác kiến luận của ngoại đạo”. Thánh tuệ nhãn là Phật biết, Phật thấy. Tự tướng là pháp tự chứng, cộng tướng là pháp hóa tha. Do tự ngộ nhập tri kiến Phật mà lập ra các thứ pháp môn, giúp cho các chúng sinh nương pháp tu hành cũng đều ngộ nhập tri kiến Phật. Nhưng chỗ lập ra pháp môn đều là toàn thể khởi dụng, cho nên khác với tà kiến nói suông của ngoại đạo. Luận ác kiến của ngoại đạo: Này “Đại Tuệ! Thế nào gọi là đồng với luận ác kiến của ngoại đạo, nghóa là tự cảnh giới do vọng tưởng mà thấy, không biết do tự tâm hiện, bờ mé không thông”. Ngoại đạo tu hành cũng phát tà tuệ, cảnh giới họ thấy không biết do tâm phát hiện, vọng tự phân biệt có không, ý nói do vọng tưởng mà thấy. Nói bờ mé không thông, nghóa là tướng cảnh giới hiện ra không thể thông đạt. Này “Đại Tuệ! Phàm phu ngu si đối với tánh, vô tánh, tự tánh, Đệ nhất nghóa khởi luận nhị kiến”. Phàm phu đối vô tánh, tự tánh, Đệ nhất nghóa, mê muội không biết rằng chẳng thật là không. Vì mê nên đối với tánh Đệ nhất nghóa chẳng phải có, chẳng phải không này khởi hai chấp hý luận có không. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Vọng tưởng trong ba cõi khổ được diệt mà không biết đó là duyên diệt ái nghiệp; huyễn cảnh tự tâm sở hiện do tùy theo cái thấy, theo đó mà hiện, nay sẽ nói”. Ba hữu là cõi dục, cõi sắc, cõi Vô Sắc. Nói hữu: là sinh tử không mất. Khổ: tức là sinh tử khổ. Vô tri là vô minh, Ái là tư hoặc, Nghiệp duyên là nghiệp duyên thiện ác, đây là nghiệp duyên sinh tử phiền não, tức là khổ hoặc, nghiệp trong ba đường, đều do tự tâm hiện ra cảnh hư huyễn. Nếu liễu đạt được như huyễn thì các cảnh tự diệt. Như Kinh Nhập Lăng-già chép: Nếu biết cảnh như huyễn do tự tâm hiện thì dứt vọng tưởng ba cõi khổ và, nghiệp, duyên ái vô tri. Nói về hai chúng khởi lên nhận thức sai lầm: Này “Đại Tuệ! Nếu có Sa-môn Bà-la-môn muốn làm cho nhân quả vô chủng, hữu chủng hiện ra và sự thời trụ, duyên ấm, giới, nhập mà sinh khởi và an trụ, hoặc nói sinh rồi diệt”. Sa-môn Hán dịch là cần tức, nghóa là siêng năng tu tập các điều lành, dứt các điều ác. Bà-la- môn, Hán dịch là Tịnh hành. Đoạn này nói hai chúng khởi lên nhận thức sai lầm về Có Không, đồng với ngoại đạo. Vô chủng: là chấp tánh tự nhiên. Hữu chủng: là chấp thân này từ hạt bụi sinh, từ thế tánh sinh, lấy đây làm nhân muốn cho thành quả, nên nói là nhân quả hiện. Và chấp y sự vật thời tiết mà trụ, hoặc duyên năm ấm, mười tám giới, mười hai nhập… sở sinh mà trụ, đây là chấp thường. Hoặc nói sinh rồi liền diệt, đây là chấp đoạn. Này “Đại Tuệ! Kia hoặc nối nhau, hoặc sự, hoặc sinh, hoặc hữu, hoặc Niết-bàn, hoặc đạo, hoặc nghiệp, hoặc quả, hoặc đế, đều thuộc phá hoại đoạn diệt luận. Vì sao? vì những điều này hiện ra không thật có và chẳng có kiến phần thỉ phần”. Nếu nối nhau nghóa là nhân quả nối nhau, hoặc sự, nghóa là sự vật, hoặc sinh, là ấm, giới, nhập… sinh, hoặc hữu, như các pháp thật ở trên, Là có: tức là hiển bày các pháp Niết-bàn v.v… Pháp Bốn đế đều là không. Và trở thành phá hoại đoạn diệt luận. Vả lại, Niết-bàn và đạo là pháp xuất thế gian. Hoặc nghiệp duyên, hoặc khổ quả là pháp thế gian. Đây nói bốn đế là pháp môn chân tục do Phật nói. Kia cho là không, thành luận thuyết đoạn diệt. Lại nêu giải thích nghóa kia rằng: Do pháp bốn đế này hiện ra mà kia đều cho là thật có, đối với chỗ trước tiên khởi ngã chấp, chấp có chấp không đều là tà kiến, chẳng phải là phần chánh nhân giải thoát. Nêu ví dụ để nói về chấp đoạn của ngoại đạo: Này “Đại Tuệ! Thí như cái bình bể không thể làm được việc của cái bình, cũng như hạt giống bị cháy không thể làm được việc nẩy mầm”. Lập hai ví dụ này để nói về chấp đoạn của ngoại đạo, ban đầu dụ không có quả, không quả thì không nhân, kế là dụ không nhân, không nhân thì không quả. “Như vậy, Này Đại Tuệ! Nếu tánh ấm, giới, nhập đã diệt, đang diệt và sẽ diệt, tự tâm vọng tưởng thấy là vô nhân”. Kia bất sinh theo thứ lớp, nếu nói rằng năm ấm, mười tám giới, mười hai nhập đã diệt, vậy thì không nhân, nay diệt thì không quả, sẽ diệt thì lại không nhân; do đó mà suy đều là tự tâm vọng tưởng hiện, nhân đã không thì không có thứ lớp nối nhau sinh. Phá chuyển chấp của ngoại đạo: Này “Đại Tuệ! Nếu lại nói vô chủng hữu chủng, thức ba duyên hợp mà sinh thì rùa lẽ ra phải mọc lông, cát nên ép ra dầu. Tông chỉ của người chấp sẽ phải bị hoại, vì trái với nghóa quyết định, thuyết hữu chủng, vô chủng có lỗi như vậy, nếu có làm được sự nghiệp gì thảy đều là không, là vô nghóa”. Đây nhiều lớp phá chuyển chấp của ngoại đạo, trên chỉ chấp có, chấp không, là nhân sinh pháp đã bị bác bỏ. Nếu còn chấp có chấp không và thức ba duyên hòa hợp mà sinh thì cũng không có việc đó, cho nên nói ví dụ dể hiểu. Rùa đã không thể mọc lông, cát cũng không thể ép ra dầu thì rơi vào nghóa chấp, cho nên tông ông sẽ bị hoại vì trái với nghóa quyết định của Đại thừa. Chấp của ngoại đạo lấy hai chấp có và chấp, không làm gốc, cho nên bác bỏ chung nói có lỗi như vậy, đã không có gốc kia thì sự nghiệp nhân quả tạo ra đều không thật nghóa. Nói ba duyên làm nhân năng sinh: Này “Đại Tuệ! Các ngoại đạo kia nói có ba duyên hòa hợp sinh, đó là sở tác phương tiện, tự tướng và nhân quả, quá khứ hiện tại vị lai, tướng hữu chủng vô chủng từ xưa đến nay đã thành việc, truyền thừa cho nhau giác tưởng địa chuyển, tự thấy thói quen sai lầm, nên nói như thế”. Trên chỉ nói ba duyên kia làm nhân năng sinh, chưa nói việc tạo tác. Tạo việc gì? Hoặc phương tiện, hoặc nhân quả, hoặc tướng chung ở cả ba đời. Phương tiện là giáo pháp ngoại đạo. Nhân quả là nhân quả sở tu nương vào giáo kia. Tự tướng là tướng tự tâm hiện ra. Việc ba đời này đừng là nói gần. Nếu xét về nguồn gốc thì tướng của hai thứ Hữu, Vô nối nhau từ giác tưởng địa chuyển. Cái gọi là trước tám muôn kiếp, từ nơi chỗ ban đầu tối tăm sinh ra Giác, Giác sinh tánh, Tánh sinh địa, dần dần chuyển sinh hai mươi lăm đế, đều từ các lỗi tà kiến của mình mà huân tập các thói quen khác nên nói như vậy. “Cho nên Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si bị ác kiến làm hại, vô trí tà vạy si mê, vọng cho là bậc nhất thiết trí nói”. Phàm phu ngu si cũng là ngoại đạo, do chấp ác kiến tà kiến mê muội không biết, tự cho là có trí lập giáo dạy người, vì thế vọng cho là bậc Nhất thiết trí nói. Nói về Phật giáo chánh thuyết: Này “Đại Tuệ! Nếu lại có các Sa-môn, Bà-la-môn khác thấy mây bay, vòng lửa, thành Càn-thát-bà, bất sinh huyễn, sóng nắng, trăng đáy nước, mộng lìa tự tánh, đó là vọng tưởng hiện khởi ở trong và ngoài tâm, luống dối từ vô thỉ, không lìa tự tâm. Nhân duyên vọng tưởng diệt hết thì lìa vọng tưởng năng thuyết sở thuyết, năng quán sở quán, thọ dụng, lập ra thân đều là tàng thức. Đối với cảnh giới thức thì năng nhiếp thọ và sở nhiếp thọ đều chẳng tương ưng. Không có cảnh giới nào lìa sinh trụ diệt, tự tâm sinh khởi chạy theo phân biệt”. Ở đây nói Phật giáo chánh thuyết tức là huyễn cảnh do thuyết trước hiện khởi. Kiến lìa tự tánh nghóa là thấy tất cả pháp đều lìa tự sinh tánh chấp, cũng lìa tha sinh, cộng sinh, vô nhân sinh tánh chấp. Ở đây nói lược chung về tự tánh, do lìa tánh chấp cho nên vô sinh. Thí như mây bay trong hư không, như vòng lửa xoay tròn, như thành Càn-thát-bà, như huyễn, như sóng nắng, trăng đáy nước, như mộng thấy, cùng với huyễn cảnh là một. Nếu thông đạt huyễn cảnh này vốn không trong ngoài, thấy có trong ngoài, nhưng do vọng tưởng luống dối từ vô thỉ tạo thành, không lìa tự tâm, tự tâm tánh lìa, cho nên nhân duyên vọng tưởng diệt hết, đây là vọng tưởng khổ quả trong ba cõi diệt. Và năng thuyết sở thuyết, năng quán sở quán, cho đến tàng thức thọ dụng lập ra thân tất cả đều lìa lời nói đối với thức cảnh giới nhiếp thọ, cảnh giới tức sáu trần, nhiếp thọ tức sáu căn. Nói sở nhiếp thọ tức sáu thức. Nói không tương ưng, là do biết cảnh giới vắng lặng cho nên không đối đãi, đâu còn có sinh trụ diệt, nhưng về sau tàng thức tự tâm sinh khởi, chạy theo tất cả cảnh giới, do chánh trí phân biệt nên tạo ra tất cả. Nói về Bồ-tát tự chứng: Này “Đại Tuệ! Bồ-tát kia chẳng bao lâu sẽ thấy được sinh tử, Niết-bàn bình đẳng, phương tiện khéo léo đại bi, phương tiện vô khai phát. Này Đại Tuệ! Kia thấy tất cả thế giới chúng sinh thảy đều như huyễn, chẳng cần nhân duyên, xa lìa cảnh giới trong ngoài, ngoài tâm không thấy gì, theo thứ lớp mà vào chỗ vô tướng, lần lượt bước lên từ địa này cho đến địa khác, là cảnh giới Tam-muội”. Pháp giới bình đẳng vốn bất sinh, diệt, mê là sinh tử, ngộ là Niết-bàn, mê ngộ tuy khác mà lý thường bình đẳng. Bồ-tát tu hành từ thấp đến cao, cho nên nói không bao lâu sẽ được sinh tử, Niết-bàn bình đẳng, đây là tự chứng. Tự chứng lý rồi, thì khởi dụng hóa tha, vận tâm đại bi, lập ra phương tiện khéo léo dẫn dắt chúng sinh, dạy cho họ tu hạnh vô tác, khai phát bổn tánh. Nói phương tiện không khai phát tức là hạnh vô công dụng, lý tuy mỗi người vốn đầy đủ nhưng chẳng có hạnh vô công dụng này thì tự hành hóa tha đều không thành tựu. Bồ-tát kia đã đạt được lý này thì hiểu rõ tất cả chúng sinh đều như huyễn hóa, không nhọc phải tác ý, xa lìa các tướng cảnh giới trong ngoài một cách tự nhiên, chỉ một chân tâm, hoàn toàn không còn thấy gì khác, đó gọi là vào chỗ vô tướng, chỗ vô tướng tức là chỗ sơ trụ, phá vô minh, hiển bày pháp tánh, thứ lớp nhập hành hướng địa. Từ địa này đến địa khác tức là từ địa thứ nhất đến địa thứ mười. Nói chuyển thân đắc Như lai: “Hiểu ba cõi như huyễn, phân biệt quán sát sẽ được Tam-muội như huyễn, vượt qua cảnh giới tự tâm, hiện vô sở hữu, được an trụ Bát- nhã Ba-la-mật. Lìa bỏ phương tiện sở tác từ kia sinh ra, vào Tam-ma-đề Kim cương dụ, theo vào thân Như lai, theo vào như như hóa, thần thông tự tại, từ bi phương tiện đầy đủ trang nghiêm, bình đẳng vào tất cả cõi Phật, vào chỗ ngoại đạo, lìa tâm ý, ý thức. Bồ-tát này thứ lớp chuyển thân liền được thân Như lai”. Trên nói rõ thế giới chúng sinh như huyễn thì biết ngoài tâm không có pháp, đến đây lại biết ba cõi như huyễn, đắc Tam-muội Như huyễn, vượt qua cảnh giới tự tâm hiện, không còn có các tướng và được an trụ trí tuệ bờ bên kia. Nói lìa bỏ phương tiện sở tác do kia sinh ra là lìa sở tác hữu sinh mà được phương tiện vô sinh vô tác. Kim Cương dụ là nói Bồ-tát Đẳng giác dùng trí Phật dứt trừ vô minh nhỏ nhiệm sau cùng, dứt bỏ được cái khó dứt bỏ. Vì kim cương là vật rất cứng rất sắc dụ cho trí Phật. Tam-ma-đề, Hán dịch là Đẳng trì, tức là thứ định chứng được sau tâm Kim cương, từ định này chuyển vào Phật địa. Như như là lý bản giác, thường an trụ lý này mà khởi các sự biến hóa, sẽ được thần thông tự tại, phương tiện từ bi đầy đủ trang nghiêm. Nói vào tất cả cõi Phật là vào cảnh giới Phật. Nói vào chỗ ngoại đạo là vào cảnh giới ma. Do có khả năng rốt ráo lìa tâm ý, ý thức, được trí vô phân biệt gọi là Tam-muội sắc thân cùng khắp. Nói chuyển thân đắc Như lai đây là tổng kết quả vị mà Bồ-tát tu chứng. Phải nên tu học nghóa bốn tất cả: Này “Đại Tuệ! Cho nên muốn được vào thân của Như lai thì phải xa lìa vọng tâm phân biệt ấm, giới, nhập, xa lìa vọng tưởng phân biệt các pháp sinh, trụ, diệt do nhân duyên hòa hợp tạo ra. Tâm thẳng một đường mà quán sát, lỗi luống dối từ vô thỉ, thói quen vọng tưởng là nhân của ba cõi, suy nghó không thật có, được Phật địa vô sinh, đến con đường Thánh tự giác, tự tâm tự tại, đến hạnh vô khai phát, như tùy ngọc ma-ni, có nhiều các màu sắc, tùy nhập tâm nhỏ nhiệm của chúng sinh mà dùng hóa thân tùy tâm độ lượng. Các địa thứ lớp nối nhau dựng lập. Cho nên Này Đại Tuệ! Tự tất-đàn, phải khéo tu học”. Nói muốn được thân Như lai thì phải nương vào quả mình tu chứng mà tu nhân hạnh, phải xả bỏ vọng tâm về năm, mười tám giới, mười hai xứ và các pháp sinh trụ diệt luống dối do nhân duyên hòa hợp sinh ra. Nói chỉ do tâm thẳng tiến quán sát, nghóa là quán các pháp duy tâm, không bước vào đường khác. Quán thẳng một niệm ba đường vốn không thật có. Nói lỗi luống dối là đường phiền não. Nói nhân thói quen là nghiệp đạo. Nói ba cõi là đường khổ. Đối với các vấn đề này, tư duy thấy rõ hoàn toàn không có một pháp thì khế hợp Phật địa vô sinh, đến cảnh giới của bậc Thánh thú tự giác, đã được tự tâm vô nhập mà không tự tại, cho nên nói đến hạnh vô khai phát, tức hạnh vô công dụng. Bồ-tát đạt đến giai vị này tùy căn cơ mà ứng hiện, như ngọc ma-ni tùy theo màu mà sắc thay đổi. Dùng trí nhỏ nhiệm nhập vào tâm nhỏ nhiệm của chúng sinh, tùy tâm lượng kia mà nói vô lượng pháp môn độ sinh, giúp chúng sinh được độ kia cũng từ các địa, dần dần thứ lớp nối nhau lập ra pháp môn. Bồ-tát độ sinh khuyến khích điều lành đối với bốn tất-đàn, cho nên tổng kết khuyên rằng phải nên tu học nghóa bốn tất-đàn, nghóa bốn tất-đàn đã chú thích ở trước. “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: bạch Đức Thế tôn! Đức Thế tôn nói tâm, ý, ý thức, năm pháp, tự tánh tướng, việc sở hành của tất cả các Đức Phật Bồ-tát do tự tâm biến hiện cùng với cảnh giới sở duyên chẳng hòa hợp, hiển bày tất cả thuyết, thành tướng chân thật, tất cả Phật ngữ tâm. Vì các Đại Bồ-tát ở trên núi Ma-la-da nằm trong biển thuộc nước Lăng-già nói Như lai khen ngợi biển sóng tàng thức cảnh giới pháp thân”. Từ Đức Thế tôn nói tâm, ý, ý thức, đến tất cả Phật ngữ tâm, là do Đại Tuệ nói lại pháp đã được nghe. Là sở hành của các Đức Phật, Bồ-tát, nhưng không lìa cảnh giới tự tâm của chúng sinh. Nói không hòa hợp là không hòa hợp với căn trần. Vì năm pháp ba tự tánh các pháp, mê ngộ đều do chân vọng đồng có mà thành ra sự khác nhau giữa hòa hợp và không hòa hợp. Hòa hợp là vọng thức, không hòa hợp là chân trí. Đã không hòa hợp thì điều đó nói lên tất cả những gì được nói đều là tướng chân thật, tức là điểm quan trọng của chư Phật giáo tâm. Đã nói điều được nghe rồi lại khởi thỉnh, cúi mong vì các Bồ- tát mà giảng nói pháp mà trước kia Như lai khen ngợi. Nói biển sóng tàng thức tức là thức thứ tám, thức này dung chứa các pháp thiện ác tùy duyên nhiễm tịnh, như biển dậy sóng, cảnh giới pháp thân chân lý rốt ráo của Như lai. Phật nói về chuyển thức nương tàng thức sinh: “Khi ấy, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Đại Tuệ: Vì có bốn nhân duyên nên nhãn thức chuyển. Bốn nhân duyên ấy là: 1.Tự tâm hiện nhiếp thọ; 2. Bất giác vô thỉ hư ngụy quá sắc tập khí; 3. Chấp đắm thức tánh tự tánh. 4. Muốn thấy các thứ sắc tướng. Này Đại Tuệ! Đó gọi là bốn thứ nhân duyên, dòng nước tàng thức và sóng chuyển thức sinh”. Ở đây đáp câu hỏi trên. Trước nói bốn duyên như nhãn… nói về chuyển thức nương tàng thức sinh. Cái gọi là bốn duyên, đó là căn duyên, sắc duyên, thức duyên và dục kiến duyên. Căn duyên: căn tức là nhãn căn, nhãn đối cảnh tự tâm phát hiện, do bất giác cho nên vọng sinh chấp lấy. Sắc duyên: Sắc trần vốn không, từ vô thỉ đến nay chấp lấy làm sắc, vọng tưởng huân tập giúp cho như thế. Thức duyên: Tánh của Thức là phân biệt, căn trần đối nhau mà sinh chấp. Dục kiến duyên: Tuy ba duyên hòa hợp, nếu không khởi tâm dục kiến thì các sắc tướng vẫn không thấy. Do bốn duyên này nên nhãn thức chuyển sinh, nếu suy tìm nguồn gốc mà khởi lên tàng thức, gọi là chỗ nước chảy. Do tàng thức mà sinh chuyển thức, như nước dậy sóng. Này “Đại Tuệ! Như nhãn thức sinh tất cả các căn, hạt bụi, lỗ chân lông đều sinh. Theo thứ lớp cảnh giới sinh cũng giống như vậy. Thí như gương sáng hiện các sắc tượng, cũng như gió lớn thổi nước biển cả”. Tâm thể như biển, tám thức như dòng nước chảy, bảy thức như dòng thác, sáu thức như sóng mòi. Nay nương tám thức trôi chảy, có nhãn… thì sóng chuyển thức sinh, như nhãn thức, năm căn, cho đến đối với một hạt bụi, một lỗ chân lông, đều đồng sinh với thức, chẳng có gì là không hay biết. Theo thứ lớp cảnh giới sinh cũng giống như vậy, là ý nói cảnh giới ngoại trần cũng thứ lớp sinh với thức, muôn pháp do thức hiện là như vậy, nhưng chỗ sinh thức có chậm có nhanh, như gương sáng hiện các hình ảnh, là dụ cho nhanh chóng sinh, như gió mạnh thổi nước biển cả, là dụ cho dần dần sinh. Gương hiện bóng không có trước sau, gió thổi nước biển cả thì sóng trước khởi động sóng sau nổi theo. Tâm bị trần bên ngoài làm lay động: “Gió cảnh giới bên ngoài làm xao động biển tâm, sóng thức không dừng. Vì tướng của nhân sở tác khác, chẳng khác, hợp với tướng do nghiệp sinh vào sâu trong chấp chặt, không thể biết rõ tự tánh của sắc, v.v… nên năm thức thân chuyển. Này Đại Tuệ! Tức là năm thức thân kia cùng chung khởi. Do đó biết tướng phần đoạn khác nhau chính là nhân của ý thức”. Tâm bị ngoại trần làm lay động như gió thổi biển cả, làm cho các sóng thức sinh nối nhau không xen hở. Tàng thức làm nhân chuyển sinh các thức, do đó vào sâu trong vọng tưởng chấp chặt, không biết tự tánh của sắc, v.v… thể vốn không, cho nên năm thức như nhãn v.v… thứ lớp chuyển sinh. Thân nghóa là nhóm họp tức là nhóm hợp các kiến trần thành một nhãn thức v.v… đã sinh năm thức thì có ý thức đồng duyên, cho nên nói tức là năm thức thân kia khởi chung, nhưng năm thức kia và do tướng phần đoạn khác nhau của năm trần mà sinh ra tri giác. Nhân ý thức của ý nói thức thứ năm là nhân của thức thứ sáu. Nói về thân kia chuyền: “Thân kia chuyển kia không nghó rằng, ta xoay vần làm nhân cho nhau. Tự tâm hiện vọng tưởng chấp đắm chuyển nên mỗi hoại tướng kia đều chuyển. Phân biệt cảnh giới phần đoạn khác nhau, nghóa là kia chuyển”. Thân kia chuyển: Là năm thức kia chuyển sinh thức thứ sáu, mà thức cũng không tự cho rằng xoay vần làm nhân cho nhau mà sinh, đều do tự tâm hiện vọng chấp cảnh trước, cảnh có sinh diệt thì chuyển cũng theo đó, hoặc do cảnh kia có tướng biến hoại, nên thức cũng đều chuyển. Lại do thức kia phân biệt các cảnh mà thức chuyển, nên gọi là kia chuyển. Người Nhị thừa nhập định Diệt Tận: “Như người tu hành nhập thiền Tam-muội, thói quen nhỏ nhiệm chuyển mà không hiểu biết lại nghó rằng: Thức diệt rồi mới nhập thiền chánh định. Nhưng thật ra thức chẳng diệt mà nhập chánh định, vì hạt giống thói quen chẳng diệt cho nên không diệt. Bởi cảnh giới chuyển, nhiếp thọ không có cho nên diệt”. Đây là nói người Nhị thừa nhập định diệt tận; lấy ví dụ nghóa tàng thức nhỏ nhiệm không diệt, vì người Nhị thừa nhập định này không thể biết là thức chuyển, tự cho rằng mình nhờ diệt các thức mà nhập chánh định, nhưng thật ra không hề diệt. Bất diệt là do hạt giống thói quen của thức nương nơi tàng thức. Định diệt tận kia chỉ hàng phục sáu thức không để chấp trần cảnh cho là diệt! Nhiếp thọ không có tức không chấp trần cảnh. Hành tướng của tàng thức nhỏ nhiệm: Này “Đại Tuệ! Như thế là bờ mé rốt ráo của tàng thức nhỏ nhiệm, trừ các Đức Phật và hàng Bồ-tát Trụ địa, còn các bậc Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo tu hành đạt được năng lực trí tuệ Tam-muội, đều không thể tính lường rành rõ”. Ở đây nói hành tướng của tàng thức nhỏ nhiệm, chỉ có các Đức Phật và Bồ-tát đăng địa mới đạt đến bờ mé rốt ráo, tất cả Nhị thừa ngoại đạo tu hành chứng đắc năng lực Tam-muội đều không thể biết. “Tướng các địa khác, dùng trí tuệ khéo léo phương tiện phân biệt quyết đoán cú nghóa, gốc lành tốt đẹp vô biên đã thành thục, lìa vọng tưởng luống dối do tự tâm hiện, ngồi yên nơi rừng núi, tu bậc hạ trung thượng, thấy được vọng tưởng trôi chảy của tự tâm, ở trong vô lượng cõi nước được các Đức Phật quán đảnh, được năng lực tự tại, thần lực Tam-muội, các thiện tri thức Phật tử làm quyến thuộc, các vị này đều đã vượt qua các thứ chấp tâm, ý, ý thức, cảnh giới tự tánh do tự tâm hiện khởi, các tưởng luống dối, biển hữu sinh tử, nghiệp ái vô tri. Cho nên, Này Đại Tuệ! Người tu hành nên phải gần gũi hàng tri thức tối thắng”. Tướng các địa khác nghóa là người tu tập như thật hành trì, dùng năng lực trí tuệ khéo léo phương tiện phân biệt tướng các địa. Quyết định cú nghóa tức khéo thông đạt các cú nghóa. Gốc lành thành thục nghóa là đối với vô biên Đức Phật, tu tập gốc lành trên hết. Dứt bỏ vọng tưởng luống dối do tự tâm hiện nghóa là không còn vọng tưởng phân biệt, tự tâm hiện liền biết được. Rừng núi là chỗ tu hành, bậc hạ, trung, thượng, căn khí khác nhau đều thấy được vọng tưởng trôi chảy tự tâm lưu chú, cho nên đối với vô lượng cõi nước, được các Đức Phật làm pháp quán đảnh, chính là được thần thông Tam-muội tự tại, các bậc tri thức và các vị Bồ-tát làm quyến thuộc. Các vị ấy đều biết tâm, ý, ý thức các cảnh giới sở hành nên có thể thoát khỏi nghiệp ái vô minh trong biển lớn sinh tử, cho nên khuyên bảo tu hành, là khuyên nên gần gũi những vị tu học đúng như thật. Lời nghóa của đoạn văn kinh này ẩn kín, xưa chú giải phần nhiều khác nhau, ở đây y theo những chỗ rõ ràng trong bản dịch đời Đường để giải thích. bài trùng tụng nói lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Ví như sóng biển cả Đây do gió mạnh thổi Sóng lớn dậy biển cả Không có lúc ngừng lặng Biển tàng thức thường trụ Cảnh giới gió lay động Lớp lớp các sóng thức Ào ạt mà chuyển sinh Các màu sắc xanh đỏ Sữa đặc và đường phèn Vị lạt sinh hoa quả”. Tám câu đầu nói cũng như gió mạnh thổi nước biển cả. Các màu xanh đỏ ở đây gồm sáu trần truy tìm cảnh giới bên ngoài, gió thổi trôi giạt biển tâm. Xanh đỏ là màu có khả năng sinh khởi nhãn thức. Kha bội là âm thanh có thể sinh khởi nhó thức. Đàn nhũ là hương vị làm cho sinh khởi tỷ thức. Mộc la, thạch mật là xúc làm sinh khởi thân thức. Cam đàm thuộc vị trần làm sinh khởi thiệt thức. Hoa hiện tại có công năng sinh ra quả vị lai, lớp lớp pháp trần làm sinh khởi ý thức, đó gọi là gió cảnh giới khởi động sóng biển tâm thức. “Trời trăng và ánh sáng, Chẳng khác chẳng không khác, Nước biển nổi sóng biển, Bảy thức cũng như vậy, Tâm cùng hòa hợp sinh”. Hai ví dụ này chính là nói thức tâm thứ tám cùng thức thứ sáu hòa hợp sinh chẳng khác, chẳng phải không khác, nói bảy thức là nói gồm có ý căn, ý thức, và năm thức thân, chẳng phải nói là thức thứ bảy. Trời trăng, nước biển cả dụ cho gốc, ánh sáng sóng mòi dụ cho ngọn. “Thí như nước biển động Lớp lớp sóng mòi dậy. Bảy thức cũng như vậy Tâm cùng hòa hợp sinh. Là chỗ tàng thức kia Các thức nghiệp chuyển dậy. Là do ý thức kia Suy nghó nghóa các tướng. Tướng bất hoại có tám Vô tướng cũng vô tướng Ví như sóng của biển Cho nên không khác nhau. Các thức tâm như thế Khác cũng không thể được”. Đây là y theo dụ sóng biển ở trên lại chia làm hai nghóa: Dụ ban đầu nói khác là y theo kinh Lăng-già, thường thì bảy thức này cũng giống như vậy, tâm cùng hòa hợp sinh. Vì bản này dụ tám thức chuyển sinh các thức như nước biển biến động dậy lên sóng mòi. Nói do ý thức kia tư duy các tướng là do ý thức tư duy tướng sáu trần… cho nên nói là khác. Ví dụ kế là ý nói chẳng khác, kệ chép: Tướng Bất hoại có tám, nghóa là tám thức không có hoại tướng. Vô tướng cũng vô tướng nghóa là tám thức vốn không có tướng nên không thể thấy được, các thức đồng nương tàng thức cũng không có tướng có thể thấy được, như sóng và biển tuy khác nhưng đồng một tánh ướt, chẳng khác nhau. Các thức đều do tâm nên nói khác cũng không thể được; cho nên nói rằng, khác cũng không thể được. “Tâm danh chứa nhóm nghiệp, Ý danh rộng gom góp, Các thức thức sở thức, Cảnh hiện ra nói năm”. Thích Luận chép: ba thứ tâm, ý, thức chỉ là một pháp, chỉ có tên khác; đối số gọi là tâm, năng sinh gọi là ý, phân biệt gọi là thức. Nói tâm danh chứa nhóm nghiệp, nghóa là tướng căn trần đối nhau, một niệm tâm khởi mà sinh chấp chặt thành nghiệp thiện ác. Nói ý danh rộng gom góp, là do tâm trước chuyển nhập ý căn, sanh tham sân si, gây ra các nghiệp. Các thức, thức sở thức là thức thứ sáu phân biệt, năm thức trước sở thọ năm trần, cho nên nói cảnh hiện thấy nói năm, năm là năm thức. Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi Phật, Đức Phật dùng kệ đáp: Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi Phật: “Xanh đỏ các sắc tượng, Chúng sinh phát các thức, Các thứ pháp như sóng, Thế nào cúi xin nói”. Trên nói các trần như xanh đỏ v.v… phát sinh năm thức như sóng biển, chẳng phải một chẳng phải khác. Lại nói rằng: Tâm có công năng chứa nhóm các nghiệp, cho nên có câu hỏi này. Khi ấy, Đức Thế tôn dùng kệ đáp rằng: “Xanh đỏ các thứ màu, Sóng mòi đều không có, Gom góp nghiệp nói tâm, Khai ngộ các phàm ngu”. Hai câu tụng trên là nói pháp dụ đều không, câu kế tiếp là nói tâm ý chứa nhóm thành nghiệp, giúp cho phàm phu biết do gây ra nghiệp mà ngộ bản tánh. “Nghiệp kia đều không có, Tự tâm sở nhiếp lìa, Sở nhiếp không sở nhiếp, Đồng với sóng mòi kia”. Bài kệ này nói rõ nghiệp sở tạo và tâm năng tạo đều vắng lặng cũng giống sóng mòi, nhiếp tức là chấp. “Thọ dụng lập ra thân, Là hiện thức chúng sinh. Đối kia hiện các nghiệp, Thí như nước, sóng mòi”. Bài tụng này nói y báo chánh báo và nghiệp sở tạo của chúng sinh đều do tự tâm vọng tưởng hiện, như nước dậy sóng, nhưng thấu đạt vọng tức là chân như, sóng tức là nước, đồng một tánh ướt, đâu có khác nhau. Bồ-tát Đại Tuệ lại dùng kệ hỏi, Đức Phật đáp: Bồ-tát Đại Tuệ lại nói kệ hỏi: Tánh biển và sóng mòi, Nổi dậy phân biệt được. Tàng và nghiệp cũng vậy, Vì sao chẳng giác biết”. Câu hỏi này ý nói pháp dụ là đồng, vì sao chúng sinh có biết, không biết. Đức Thế tôn dùng kệ đáp: “Phàm phu không trí tuệ, Tàng thức như biển cả. Nghiệp tướng như sóng mòi, Nương thí dụ mà biết”. Phàm phu vô trí không thể hiểu biết, tạng thức như biển thường trụ, nghiệp tướng như sóng chuyển sinh. Nêu ví dụ dẫn chứng so sánh để giúp cho kia thông hiểu. Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại nói kệ hỏi: Mặt trời mọc trước chiếu, Chúng sinh hạ trung thượng, Như lai chiếu thế gian, Vì ngu nói chân thật. Đã phân bộ các pháp, vì sao không nói thật”. Ý của câu hỏi, này là thỉnh nói cảnh giới pháp thân, xin nói thật cho chúng sinh nghe; song, Như lai chỉ nói các bộ pháp tướng tàng thức như biển…. Vì vậy cho nên lập thí dụ để hỏi. Đã phân các bộ sao không nói thật. Bấy giờ, “Đức Thế tôn dùng kệ đáp: Nếu nói chân thật ấy Tâm kia không chân thật Thí như biển, sóng mòi Bóng trong gương và mộng Tất cả đồng thời hiện Tâm, cảnh giới cũng vậy. Ý Như lai là muốn nói thật, mà chưa nói là vì căn cơ chúng sinh chưa thuần thục, cho nên nói tâm kia không chân thật, do không chân thật nên Như lai nói tạng thức chuyển sinh các thức, như biển dậy sóng và hình ảnh trong gương, việc trong mộng. Tuy đồng thời đều hiện nhưng chẳng chân thật; nên tâm, cảnh giới cũng giống như vậy. Cảnh giới bên ngoài chẳng phải tâm sẳn có: “Vì cảnh giới không có, thứ lớp nghiệp chuyển sinh. Thức là thức sở thức Ý là ý cho thế Năm thức do hiển hiện Không có định thứ lớp”. Ở đây nói cảnh giới ngoại trần chẳng phải tâm sẵn có, chỉ tùy nghiệp chuyển sinh, sáu thức phân biệt trần bên ngoài do năm thức sở chấp cho nên nói thức sở thức. Ý căn đối với pháp trần mà khởi ý thức cũng giống như vậy. Năm thức tùy theo năm trần mà hiển hiện, đâu có nhất định thứ lớp mà sinh. Và học trò thợ vẽ, Trên vải, vẽ các hình, Ta nói cũng như vậy. Màu sắc vốn không nét, Chẳng nét cũng chẳng vải. Vì làm vui chúng sinh, Hòa lẫn vẽ các hình”. Dụ này nói lên lời nói văn tự không có thật nghóa. Như lai tùy căn cơ nói pháp, như người thợ vẽ theo hình mà vẽ tượng. Nhưng vẽ tượng tuy do màu sắc và nét lụa mà thành, thật ra chẳng phải do màu sắc nét lụa, nhưng vì làm vui ý thích chúng sinh nên giả vẽ ra các ảnh tượng. Pháp còn bỏ huống chi phi pháp: “Lời nói khác việc làm, Chân thật lìa văn tự. Phân biệt vì sơ cơ, Tu hành bày chân thật, Chỗ chân thật tự ngộ, Lìa năng giác, sở giác. Đây nói cho Phật tử”. Lời nói khác việc làm… nghóa là đối với căn cơ mà lập ra ngôn giáo, chẳng thật ở tại ngôn giáo, vì sự chân thật kia vốn lìa danh tự, cho nên phân biệt là vì kẻ sơ cơ. Sơ nghiệp là người mới phát tâm. Nếu có tâm chân thật thì nêu bày pháp chân thật, giúp cho người kia tu hành và ngộ chỗ chân thật, cho nên năng giác sở giác đều bỏ, huống chi là lời nói! Nói pháp phải hợp cơ: “Người ngu phân biệt rộng, Các thứ đều như huyễn, Tuy hiện không chân thật, Nói các thứ như thế, Tùy việc lập ra riêng, Lời nói chẳng thích hợp, Kia cho là phi thuyết”. Ở đây lại giải thích-câu Ứng sơ nghiệp. Tuy vì người ngu rộng dùng ngôn giáo các thứ phân biệt; thật ra kia chẳng phải thật, cũng như nhà ảo thuật hóa ra các tướng đều chẳng chân thật, cho nên các thứ lời nói tùy căn cơ phương tiện lập ra đó thôi! Nói ra chẳng thích hợp là đối với người Tiểu thừa, nói pháp chân thật cho họ nghe thì chẳng thích hợp, họ lại cho là phi thuyết, cái gọi là nói pháp không hợp cơ, lại thành đại vọng ngữ. Thầy thuốc tùy bịnh cho thuốc: “Tất cả người bệnh kia, Thầy thuốc tùy chỗ dùng Như lai vì chúng sinh, Tùy tâm ứng lượng nói, Vọng tưởng chẳng cảnh giới, Thanh văn cũng chẳng phần. Vì thương người mà nói, Về cảnh giới tự giác”. Thầy thuốc tùy bệnh cho thuốc khác nhau, huống chi Như lai ứng lượng nói pháp cũng có khác nhau. Song Như lai nói cảnh giới tự giác chân thật, chẳng phải cảnh giới của Tiểu thừa. Vọng tưởng tức ngoại đạo, kinh Nhập Lăng-già chép: Ngoại đạo phi cảnh giới, Thanh văn cũng như vậy.  LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO KINH CHÚ GIẢI <卷>QUYỂN 1 (Phần 2) Tổng kết khuyến khích: “Lại nữa, này Đại Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát muốn biết cảnh giới vọng tưởng tâm nhiếp thọ và cảnh nhiếp thọ của tự tâm hiện lượng, thì phải xa lìa những thói quen ngủ say. Đầu hôm, nửa đêm cho đến gần sáng, thường tự giác ngộ phương tiện tu hành, phải lìa lời nói của kinh luận ác kiến và tướng các thừa Thanh văn, Duyên giác, phải thông đạt tướng vọng tưởng do tự tâm hiện khởi”: Đoạn này nói sự chân thật vững chắc chẳng phải cảnh giới của ngoại đạo Tiểu thừa, nhưng mà tâm vốn đầy đủ pháp môn, nếu tu hành được thì điều tốt nào mà không thành, cho nên ở đây tổng kết khuyến khích. Hiện lượng trần cảnh đều không ngoài tự tâm, do mê bất giác nên vọng tưởng chấp chặt. Nói nhiếp thọ là năng thủ; và nhiếp thọ giả là sở thủ; muốn hiểu rõ luống dối mà hiển bày chân thật thì ở ngay chỗ đó mà xả tục, lìa các sự mê loạn, nửa đêm, đầu hôm cho đến lúc gần sáng phải giác ngộ, đó gọi là pháp môn tu hành phương tiện. Kinh luận ác kiến là gốc của ngoại đạo, Tiểu thừa. Không tướng là bệnh của Thanh văn Duyên giác, nếu giải thoát xa lìa được các điều ấy thì sẽ thông đạt được tướng vọng tưởng của tự tâm hiện, mà xây dựng cảnh giới chân thật. Cảnh giới pháp thân là địa vị rốt ráo của Như lai: “Lại nữa này Đại Tuệ! Bồ-tát dựng lập tướng trí tuệ được an trụ rồi, đối với ba tướng Thánh trí phải siêng tu học. Ba tướng Thánh trí, phải siêng tu học là gì? Đó là tướng vô sở hữu, tướng tất cả Chư Phật tự nguyện xứ, và tướng tự giác Thánh trí rốt ráo. Tu hành được như đây rồi, có thể lìa bỏ tướng tâm trí tuệ lừa què, được địa thứ tám của bậc Tối thắng tử, thì đối với ba tướng trên do tu hành mà sinh. Này Đại Tuệ! Tướng vô sở hữu nghóa là tướng của Thanh văn Duyên giác và ngoại đạo, do tu tập mà sinh. Này Đại Tuệ! tướng Tự nguyện xứ là chỗ các Đức Phật quá khứ tự nguyện tu sinh. Này Đại Tuệ! Tướng tự giác Thánh trí rốt ráo là đối với tất cả pháp tướng không có chấp chặt, được thân như huyễn Tam-muội, chư Phật địa xứ tiến về tu hành mà sinh. Này Đại Tuệ! Đây gọi là ba tướng Thánh trí. Nếu người thành tựu ba tướng Thánh trí này thì sẽ đạt đến cảnh giới tự giác Thánh trí rốt ráo. Cho nên, này Đại Tuệ! Ba tướng Thánh trí phải siêng tu học”. Đoạn trên đây nói cảnh giới pháp thân là địa vị rốt ráo của Như lai, người tu hành muốn đạt đến địa vị này không có trí thì không tiến đến được. Cho nên dựng lập tướng trí tuệ, làm chỗ nương tựa cho người tu học. Nếu không tiến công thì do đâu mà thành tựu, cho nên có lời khuyên răn rằng: đối với ba tướng Thánh trí trên phải siêng tu học. Lại sợ Đại Tuệ chưa thông đạt ba tướng nên trích dẫn mà giải thích. Nhưng ba tướng này không phải hạnh tu hành của người Nhị thừa, cho nên dụ như lừa què. Tối thắng tử tức Bồ-tát địa thứ tám, không chung với người Nhị thừa cho nên nói năng xả. Vì kinh này là Đại thừa bao gồm cả Thông giáo. Nói do tu mà sinh là do tu hành mà phát sinh Thánh trí. Tướng vô sở hữu chẳng phải tướng của Nhị thừa, ngoại đạo. Tướng tự nguyện xứ là các Đức Phật từ xưa lập nguyện tu hành. Tướng Thánh trí rốt ráo là tướng tự chứng trung đạo trí tướng, trung đạo lìa hai bên không hữu cho nên nói không có sự chấp chặt. Thân Tam-muội tức báo thân. Các địa xứ v.v… nghóa là hóa thân khắp các cõi Phật, thị hiện tiến tu đến quả cho nên nói do tu hành mà sinh. Tổng kết khuyên những người cùng tu hành hãy biết. Một trăm lẻ tám câu lấy phân biệt tự tánh làm chỗ nương: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ biết rõ tâm niệm của chúng Đại Bồ-tát suy nghó, gọi là Thánh trí sự phân biệt tự tánh kinh, nương năng lực oai thần của tất cả Phật mà bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin Ngài nói về Thánh trí sự phân biệt tự tánh kinh là chỗ nương của một trăm lẻ tám câu phân biệt”. Năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã đều là những việc của Thánh trí nói trong kinh này. Các Bồ-tát đã nghe nói tám thức rồi, lại muốn nghe pháp ba tự tánh, cho nên Này Đại Tuệ! Vì chúng lại thỉnh; chỉ nói tự tánh kinh ấy là nêu chung mà thâu nhiếp riêng. Nói một trăm lẻ tám câu là sở y của phân biệt, nghóa là một trăm lẻ tám câu lấy phân biệt tự tánh làm chỗ nương. Nói về nghóa vọng chấp tự tánh khác nhau: “Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác dựa vào sự phân biệt này mà nói Đại Bồ-tát nhập tự tướng, cộng tướng, tự tánh vọng tưởng. Do phân biệt mà nói tự tánh vọng tưởng thì nên khéo léo để biết, quán sát cùng khắp người pháp vô ngã, dứt sạch vọng tưởng, soi sáng các địa, vượt ngoài tất cả các thú vui thiền định của Thanh văn Duyên giác và ngoại đạo. Quát sát cảnh giới sở hành không thể suy nghó bàn luận của Như lai, quả quyết lìa bỏ năm pháp tự tánh, khéo tự trang nghiêm bằng pháp thân trí tuệ của Như lai. Khởi cảnh giới huyễn, đến tất cả cõi Phật, tầng trời Đâu-suất cho đến tầng trời Sắc Cứu Cánh, liền được pháp thân thường trụ của Như lai”. Như lai lo lắng các Bồ-tát đối với pháp sinh chấp tự tướng, cộng tướng nên nói cho họ nghe nghóa vọng chấp tự tánh khác nhau, biết nghóa rồi quán sát khắp thì lìa chấp người, chấp pháp, chấp đã lìa rồi liền vào các địa, do đó mà vượt qua thiền định của Tiểu thừa, phàm phu, được nhập vào cảnh giới không thể suy nghó, bàn luận của Như lai thì sự vọng chấp năm pháp, ba tự tánh kia không lìa mà lìa. Pháp thân trí tuệ trang nghiêm: quả tự tu hành viên mãn. Khởi cảnh giới huyễn, là hiện cõi nước hóa độ chúng sinh, sanh đến tất cả cõi Phật, cõi trời, hễ có chúng sinh có thể thọ nhận sự hóa độ, thì không nơi nào là không thị hiện thọ sinh, thành Đẳng chánh giác. Đâu-suất-đà, Hán dịch Tri túc, nghóa là đối với năm dục biết đủ. Ngoại đạo chấp không ngoài hai thứ: “Phật bảo Đại Tuệ: Có một thứ ngoại đạo khởi vọng tưởng chấp Vô sở hữu, cho rằng các pháp không có nhân, như thỏ không có sừng; tất cả các pháp cũng giống như vậy. Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo khác thấy các thứ cầu-na cực vi đà-la-phiêu, hình xứ hoành pháp đều khác nhau. Thấy rồi cho rằng thỏ không có sừng, nhưng lại chấp mê là trâu có sừng”. Kiến chấp của ngoại đạo không ngoài hai thứ: 1.Chấp không, thấy tất cả các pháp tùy nhân mà hết, không còn nhân nào khác như thỏ không sừng, các pháp cũng giống như vậy, đó là Chấp đoạn. 2. Chấp có, thấy đại chủng nương cát bụi mà sinh. Đại chủng là bốn đại chủng. Cầu-na Hán dịch là y. Đà-la-phiêu dịch là trần. Đối với hình lượng xứ của các vật như bụi nhỏ v.v… thì cho rằng có những sự khác nhau rồi nảy sinh nghó tưởng là trâu có sừng, đó là chấp thường. Ngoại đạo sinh hai chấp có không: Này “Đại Tuệ! Ngoại đạo rơi vào hai kiến chấp, chẳng hiểu tâm lượng. Cảnh giới vọng tưởng trong tự tâm thêm lớn, thân thọ dụng được lập ra, vọng tưởng căn lượng. Này Đại Tuệ! tất cả pháp tánh cũng giống như vậy, lìa có, không, không nên nghó là. Này Đại Tuệ! nếu lìa có, lìa không, mà nghó là thỏ không sừng, đó gọi là tà tưởng, vì Ngoại đạo do quán đối đãi mà sinh ra chấp. Không nên nghó là thỏ không sừng, cho đến phân biệt tự tánh bụi nhỏ đều không thật có. Này Đại Tuệ! Cảnh giới bậc Thánh là lìa, không nên nghó là trâu có sừng”. Ngoại đạo kia sinh hai chấp có không, nên không biết các pháp do tâm, mà đối với cảnh giới tự tâm thêm lớn vọng tưởng phân biệt, còn các thứ nuôi thân của thế gian đều do tâm lượng vọng tưởng, gốc cũng do tâm. Nếu thấu đạt được cảnh giới do tâm lượng này hiện ra đều là luống dối thì hai chấp Có Không chắc chắn sẽ tiêu hết. Lại bảo này Đại Tuệ! Chẳng những tâm pháp vốn không mà tánh của tất cả các pháp cũng vốn lìa tướng có không, chẳng nên vọng chấp. Lại nữa, nếu nói rằng Có Không đều lìa mà lại nghó tưởng thỏ không có sừng, cũng là tà chấp. Nói đãi quán, đãi nghóa là đối đãi, là quán sừng trâu có, sừng thỏ không, cũng chẳng phải chân không, vì vậy nói không nên nghó là. Cho đến đối với tự tánh bụi nhỏ mà tìm cầu thể tướng đều chẳng thật có. Vì cảnh giới Thánh trí vốn lìa các kiến chấp kia, vì vậy cho nên ở đây không nên phân biệt. Bác bỏ chấp hữu vô của ngoại đạo đều chẳng phải chánh nhân: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Người đạt được vô vọng tưởng, thấy tướng bất sinh rồi theo đó suy nghó quán sát bất sinh vọng tưởng mà nói là vô chăng?”. Đã bác bỏ chấp hữu vô của ngoại đạo đều chẳng phải chánh nhân. Lại hỏi rằng: Nay trong Chánh giáo những người không còn vọng tưởng, chỉ thấy tướng vô sinh mà thôi, thì có khác gì với các ngoại đạo kia quán sát bất sinh vọng tưởng, mà nói là vô chăng? Đáp để phân biệt với phi: “Phật bảo Đại Tuệ: chẳng phải quán sát bất sinh vọng tưởng mà nói là vô. Vì sao? Vì vọng tưởng do đó mà sinh. Y sừng kia sinh vọng tưởng, cho nên nói là y nhân; phải lìa khác và chẳng khác. Cho nên chẳng phải quán sát vọng tưởng bất sinh rồi nói là không sừng”. Đáp trước là để phân biệt với chẳng phải. Nói chẳng quán sát, vì hiểu rõ tự tánh vọng tưởng là không, khác với sự phân biệt của ngoại đạo, đối với có mà nói không; do ngoại đạo dùng phân biệt vọng tưởng làm nhân sinh ra các pháp, như nhân sừng có không mà sanh phân biệt. Nói do nương sừng nên sinh vọng tưởng. Nói lìa khác, chẳng khác: khác nghóa là nương sừng mà sanh phân biệt có không; nói chẳng khác nghóa là đối với sừng, không khởi phân biệt, lìa bỏ chấp này cho nên nói chẳng phải quán sát vọng tưởng bất sinh mà nói không có sừng. Giải thích lại nghóa trên: Này “Đại Tuệ! Nếu vọng tưởng khác với sừng thì không do sừng mà sinh. Nếu không khác, thì phải do sừng mà sinh, cho đến, phân tích hạt bụi tìm cầu không bao giờ được. Vì chẳng khác với sừng cho nên vọng tưởng cũng chẳng có tánh. Cả hai đều vô tánh. Vì sao nói là không! này Đại Tuệ! vì không cho nên chẳng có sừng, quán có cho nên nói thỏ không sừng, chẳng nên nghó là như thế. Này Đại Tuệ! Vì không có chánh nhân cho nên nói hữu vô, cả hai đều không thành”. Ở đây lại nói vọng tưởng khác sừng v.v… là lại giải thích nghóa trên. Nếu cho rằng phân biệt và sừng khác nhau thì sừng chẳng phải nhân sở y. Nếu không khác thì do sừng mà sinh phân biệt. Nếu phân tích cho đến hạt bụi thì tất cả đều không thật có. Từ đó, hai chấp có sừng, và không sừng đều diệt mất. Nói không khác sừng tức vọng tưởng cũng không tánh. Chẳng phải tánh là chẳng phải thật tánh, nếu hai pháp hữu vô đều vô tánh thì chỉ cho pháp nào mà nói là vô. Nói vô cho nên không sừng, nghóa là khác với có sừng, vả lại, nói không sừng, chắc chắn không đúng lý, cho nên nói không nên nghó là. Nói không phải là chánh nhân, nghóa là không có được nhân chân chính để nói về hữu vô, hữu vô đều không có thật nghóa, cho nên cả hai đều không thành. Này “Đại Tuệ! Lại có các ngoại đạo, khác chấp đắm việc sắc, không, hình xứ, hoành pháp, không thể khéo biết giới hạn của hư không, nói sắc lìa hư không, khởi kiến chấp vọng tưởng giới hạn”. Lặp lại chấp vào nghóa sắc không của ngoại đạo, để phân biệt kia chẳng phải nhân. Như Kinh Nhập Lăng-già chép: lại có ngoại đạo chấp sắc, hình trạng, giới hạn hư không mà sinh chấp đắm, nói sắc khác với hư không mà sinh ra phân biệt. Khéo phân biệt sắc không: Này “Đại Tuệ! Hư không là sắc, tùy nhập sắc chủng. Này Đại Tuệ! Sắc là hư không, năng trì và sở trì được lập ra, tánh sắc không sự phân biệt nên biết. Này Đại Tuệ! Khi bốn đại chủng sinh thì tự tướng đều khác nhau, cũng không trụ hư không, chẳng phải kia chẳng có hư không”. Trên đây là nói về việc không khéo phân biệt Sắc và Không, ở đây nói, không tức là sắc, sắc tức là không. Năng trì sở trì nghóa là sắc là sở trì của hư không, ở chỗ sở trì lập ra các sắc, thì ngoài không không có sắc đề làm năng sở lẫn nhau. Vì sao mà nói lìa hư không sanh ra chấp bờ mé. Nói tánh sắc không sự ấy nghóa là sự tánh sắc tánh không, nên phân biệt như thế. Kinh Nhập Lăng-già chép: Giới hạn của sắc và không nên biết là như vậy. Bốn đại chủng: đất nước lửa gió, khi bốn đại này sinh, cứng ướt nóng động, tự tướng của chúng mỗi thứ đều khác nhau. Tuy chẳng trụ ở hư không, mà chẳng hề lìa hư không, cho nên nói chẳng phải nó không có hư không. Quán đối đãi: “Đúng thế, Này Đại Tuệ! Vì quán trâu có sừng nên thỏ không sừng. Này Đại Tuệ! Lại nữa, sừng trâu, phân tích thành bụi nhỏ, lại phân biệt bụi nhỏ ấy trong từng sát-na không dừng trụ. Đó là pháp sở quán gì mà nói là không ư! Nếu nói quán các vật khác thì pháp kia cũng giống như vậy”. Quán trâu có sừng v.v… là đối với trâu có sừng mà nói thỏ không có sừng. Sừng trâu này phân tích thành bụi nhỏ, lại phân tích hạt bụi gần với hư không, như vậy thì đối với tướng giác, vô giác, tìm kiếm tướng trụ trong từng sát-na cũng không thật có. Sát-na là niệm nhỏ nhiệm. Ngoại đạo kia chấp không, là nói theo sừng trâu có. Tìm kiếm sừng trâu, đã không có hạt bụi nhỏ thật có, thì chẳng biết đối với vật gì mà nói là không. Kinh Lăng-già chép: Tất cả các vật đối đãi cũng đều như vậy, đãi là đối đãi. Kết thúc, khuyến khích lìa hai chấp: “Khi ấy, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Đại Tuệ rằng, Phải lìa các vọng tưởng dị kiến về sừng thỏ, sừng trâu, hình sắc hư không. Đại Bồ-tát các ông phải suy nghó vọng tưởng do tự tâm hiện, tùy vào tất cả cõi nước, bậc Tối thắng tử dùng tự tâm hiện phương tiện mà dạy bảo họ”. Đây là kết thúc khuyến khích lìa hai chấp. Lại nói rằng: phải suy nghó vọng tưởng do tự tâm hiện, muốn biết vọng tưởng thật có hay không chỉ nên nhìn lại tự tâm mình là có quả hay không có quả, vừa có vừa không, chẳng phải có chẳng phải không, suy nghó sẽ tự biết được. Cũng phải dùng giáo lý này mà dẫn dắt người, cho nên nói tùy theo tất cả cõi nước. Tối thắng tử giống như Phật tử. Nói về tự tánh vọng tưởng chẳng ngoài ngoại trần và nội thức: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này mà nói kệ rằng: Sắc thảy và tâm không, Các sắc nuôi lớn tâm. Thân thọ dụng an lập, Thức tạng hiện chúng sinh, Tâm ý cùng với thức, Pháp tự tánh, có năm. Vô ngã hai thứ tịnh, Nói rộng điêù cần nói Dài, ngắn, có, không thảy, Xoay vần giúp nhau sinh, Vì không nên thành có, Do có nên thành không, Sự phân biệt bụi nhỏ, Chẳng khởi vọng tưởng sắc, Chỗ tâm lượng an lập, Người ác kiến chẳng ưa, Giác tưởng chẳng cảnh giới, Thanh văn cũng như vậy. Vì cứu đời, mà nói, Về Cảnh giới tự giác”. Sắc và tâm đều không: Bài tụng trên là nói về tự tánh vọng tưởng không ra ngoài các ngoại trần như sắc v.v… và nội thức, tâm dùng lý để nói thì vốn không thật có. Một chữ không này, là cây dao bén để chặt bỏ vọng, không gì hôn nó, nếu thể nhận được thì có tưởng nào mà không dứt bỏ được. Song, phàm phu không biết mà khởi vọng tưởng, trở lại nuôi lớn vọng tưởng tự tâm, cho nên các vật của thân thọ dụng v.v… từ đó lập ra. Nói theo gốc thì do tạng thức hiện bày, vì vậy, tâm, ý, ý thức, lần lượt sinh ra. Tự tánh pháp có năm, y theo ba tự tánh mà lập năm pháp danh, tướng v.v… và hai vô ngã. Nói rộng v.v… như bài tụng trên nói, vọng tưởng có không và quán sát đối đãi… đều chẳng phải chánh nhân. Việc phân biệt hạt bụi không khởi vọng tưởng sắc, v.v… bài tụng trên phân tích cho rằng, có sừng không sừng đều là vọng tưởng tà chấp. Chỗ Tâm lượng an lập: bài tụng trên nói, suy nghó biết được, tự tâm xa lìa kiến chấp có không, đó chính là chỗ an lập của nghóa bậc nhất, chẳng phải cảnh giới an vui của Nhị thừa, ngoại đạo, ác kiến giác tưởng, mà chính là cảnh giới tự giác mà Phật nói. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi: “Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ vì muốn dứt sạch tự tâm hiện lưu, nên lại thưa hỏi Như lai: Bạch Đức Thế tôn! Làm sao để dứt sạch tự tâm hiện lưu của tất cả chúng sinh, là Đốn hay Tiệm”: Tự tâm hiện lưu nghóa là phiền não lưu chú hiện hành của tám thức tự tâm, cũng gọi là lỗi lầm của thói quen do tự tâm hiện khởi. Đại Tuệ vì chúng sinh mà hỏi pháp trừ sạch này là đốn hay tiệm. Nêu tịnh tướng tiệm đốn: “Phật bảo: Này Đại Tuệ! Tiệm chứ chẳng phải đốn. Như trái yêm-la chín dần, chẳng thể chín ngay được, Như lai dứt sạch tự tâm hiện lưu của tất cả chúng sinh cũng như vậy, tiệm chứ chẳng phải đốn. Thí như người thợ gốm làm các mặt hàng, thành dần dần chứ chẳng phải thành ngay trong một lúc. Như lai dứt sạch tự tâm hiện lưu cho tất cả chúng sinh cũng giống như thế, tiệm chứ chẳng phải đốn… Thí như người học âm nhạc, hội họa, các thứ kỹ thuật, thành tựu dần dần chư chẳng phải chỉ trong một lúc: Như lai dứt trừ sạch tự tâm hiện lưu cho tất cả chúng sinh cũng giống như thế, dần thành chẳng phải thành ngay. Thí như gương sáng, hiện ngay tất cả sắc tượng vô tướng, Như lai dứt sạch tự tâm hiện lưu của tất cả chúng sinh cũng giống như thế, đốn hiện vô tướng; không có tất cả cảnh giới thanh tịnh. Như vầng trời trăng đốn chiếu hiển bày tất cả sắc tượng. Như lai vì muốn giúp chúng sinh lìa lỗi lầm của thói quen do tự tâm mình hiện cũng giống như thế, là hiển bày cảnh giới trí tối thắng không thể suy nghó bàn luận. Thí như tàng thức đốn phân biệt biết ngay cảnh giới thọ dụng do tâm mình hiện và thân an lập, chúng sinh nương nhờ Phật cũng giống như vậy, thành ngay cảnh giới chỗ ở của chúng sinh, đặt người tu hành vào tầng trời Sắc Cứu Cánh. Thí như Pháp Phật làm ra, nương vào ánh sáng chiếu soi của Phật, con đường tự giác của bậc Thánh cũng giống như thế, chúng sinh, đối với pháp tướng, có tánh, không tánh, ác kiến vọng tưởng, được nương vào sự chiếu soi khiến dứt trừ sạch”. Đoạn này nêu tịnh tướng tiệm, đốn. Phật bảo Đại Tuệ: Dưới đây là nêu tướng tiệm tịnh: Văn gồm có bốn dụ, có pháp, có dụ, có hợp đều rất dễ thấy. Thí như chiếc gương sáng v.v… trở xuống là nêu rõ tướng đốn tịnh cũng có bốn dụ, sơ vô tướng sắc tượng tức là sắc tượng được nói, thể của hình bóng vốn không; do trong pháp dụ thì cảnh giới vô tướng vốn không thật có cho nên nói không có tất cả tạng thức. Dụ rằng, Đốn phân biệt tri nghóa là chẳng phải tạng thức phân biệt, chính là phân biệt cảnh giới do tạng thức hiện ra, như các hình bóng ở trong gương. Dụ này là y theo cảnh sở cư mà Phật vì muốn các chúng sinh có căn cơ lớn thành thục một cách nhanh chóng cho. Nói nương Phật là báo thân Phật. dùng báo thân nương vào pháp thân. Nói thí như pháp Phật làm ra nương vào Phật, như Kinh Nhập Lăng-già chép: Thí như pháp thân Phật đốn hiện báo Phật và hóa Phật. Con đường Tự giác của bậc Thánh tức cảnh giới tự chứng. Người ngoại đạo, đối với tánh hữu và vô, chấp lấy một cách sai lầm, được chiếu soi khiến dứt trừ sạch. Tất cả chẳng thật, đều như huyễn: Này “Đại Tuệ! Nói theo Pháp thân, báo thân Phật, thì tất cả pháp nhập tự tướng cộng tướng là nhân của thói quen tự tâm hiện lượng, do chấp đắm của tự tánh vọng tưởng nối nhau, tất cả chẳng thật, đều như huyễn, các thứ chấp đắm đều không thật có Pháp nương Phật, pháp tức là thể của pháp thân, nương Phật tức dụng của báo Phật, nghóa là toàn thể khởi dụng cho nên nói tất cả pháp. Pháp tức là pháp Đại thừa. Nhập tự tướng cộng tướng v.v… là nói chúng sinh quên mất bổn tánh, chấp vào tự tướng cộng tướng, đó là phiền não hiện ra nơi tự tâm, cũng gọi là nhân của thói quen. Do phiền não nối nhau vọng chấp gây ra các nghiệp ác trói buộc, gọi là nhân chấp đắm. Do phiền não gây ra các nghiệp, chịu các thứ sinh tử luống dối, cho nên nói như huyễn không thật, ba đường này bao gồm cả chín cõi cho nên nói các thứ chấp đắm, nhưng ba đường này vốn là ba đức, chúng sinh quên ba đức ấy nên trôi lăn trong ba đường. Phật nói pháp này giúp cho chúng sinh thấu hiểu tự tánh vốn không, dứt vọng thành chân, chân vọng điều dứt, cho nên nói chẳng thật có. Tự tướng, cộng tướng đều không ngoài hai tự tánh: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Chấp đắm duyên khởi tự tánh, sinh tướng vọng tưởng tự tánh. Này Đại Tuệ! Thí như các nhà ảo thuật nương cỏ cây, ngói gạch tạo ra các thứ huyễn hóa, nương theo biết bao nhiêu thứ hình sắc của chúng sinh, khởi lên tất cả các thứ vọng tưởng. Tất cả các vọng tưởng đó cũng đều không thật. Ở đây nói tự tướng, cộng tướng, v.v… của các pháp đều không ngoài hai tự tánh. Do duyên khởi tự tánh mà sinh tướng vọng tưởng tự tánh, nên lại dùng thí dụ để nêu rõ. Nương cỏ cây… Làm các thứ huyễn, ở đây ví dụ duyên khởi tự tánh, hoặc bao nhiêu hình sắc… Nghóa là vọng tưởng tự tánh. Các vọng tưởng kia như nhà ảo thuật biến ra các tướng huyễn hóa, cho nên nói cũng không chân thật. Dùng pháp huyễn dụ cho các vọng tưởng: “Cũng thế, này Đại Tuệ! Y duyên khởi tự tánh, khởi vọng tưởng tự tánh; các tướng của các tâm vọng tưởng, các tướng vọng tưởng của hành và sự, các thói quen vọng tưởng chấp đắm, đó là tướng vọng tưởng tự tánh sinh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là nương Phật nói pháp”. Trên đây là dùng pháp huyễn dụ cho các vọng tưởng, ở đây hợp với dụ trước. Nói các tâm vọng tưởng v.v… tức là nhân có tâm thì có tưởng, có tưởng thì có hành, có hành thì có sự, đều do vọng tưởng, tức là tướng của ba đường trước, chỉ có khai hợp là khác! Kinh Nhập Lăng-già chép: Do năng lực chấp đắm cảnh giới thói quen, cho nên, trong tánh duyên khởi có tánh vọng chấp khiến các tướng hiện ra, đó gọi là tánh vọng chấp sinh. Văn rõ ràng cho nên chỉ dẫn lời chú thích ngang đây: Đó gọi là tướng nương Phật nói pháp. Danh của vô danh, tướng của phi tướng: Này “Đại Tuệ! Pháp Phật lìa tướng tự tánh của tâm, cảnh giới tự giác sở duyên của bậc Thánh, dựng lập tạo tác”. Pháp Phật là pháp thân tu đức. Nói lìa tướng tự tánh của tâm là, lìa vọng niệm, vả lại pháp thân rốt ráo chỗ nào mà không lìa, hơn nữa, đặc biệt nói tâm, vì tâm là gốc của muôn pháp, nếu tâm không mất thì tất cả pháp sinh. Ở đây nói lìa tướng thì các pháp vắng lặng. Tướng vắng lặng ấy gọi là Pháp thân. Đã nói lìa tướng thì danh tướng pháp thân từ đâu mà lập; cho nên nói cảnh giới sở duyên của bậc Thánh Tự giác, dựng lập tạo tác, nghóa là gắng gượng dùng pháp tánh làm pháp thân. Đây là “danh của vô danh, tướng của phi tướng”. Nói về hóa Phật: Này “Đại Tuệ! Hóa Phật là nói các thứ thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định và tâm trí tuệ, lìa ấm giới nhập, giải thoát thức tướng phân biệt, quán sát dựng lập, vượt hẳn kiến chấp ngoại đạo và kiến chấp Vô Sắc”. Hóa Phật tức là ứng thân Phật; nói pháp ba thừa độ thoát chúng sinh; nói sáu độ là pháp Bồ-tát, lìa năm ấm, mười tám giới, mười hai xứ và giải thoát thức tướng phân biệt, là pháp Nhị thừa: Quán sát dựng lập, tức như văn sau nói hai nghóa của chữ Giác là pháp tự hành hóa tha của Bồ-tát. Vượt ngoài kiến chấp ngoại đạo là lìa hai chấp đoạn, thường. Kiến chấp Vô Sắc: là chấp định Vô Sắc cho rằng đó chính là định Niết- bàn, tức tâm thọ tưởng diệt. Kết thúc khuyên tu học: Này “Đại Tuệ! pháp thân Phật lìa tâm phan duyên, phan duyên lìa rồi thì tất cả tướng căn lượng sở tác đều diệt; chẳng phải là cảnh giới sở chấp ngã tướng chấp đắm của phàm phu, Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo. Đó chính là tướng tự giác của bậc Thánh rốt ráo khác nhau tướng được dựng lập, cho nên Này Đại Tuệ! Đối với Tự giác Thánh cứu cánh khác nhau tướng phải siêng tu học. Các hiện chấp của tự tâm nên phải dứt bỏ. Lại nữa, pháp Phật là nói lại chỗ lìa. Trước nói lìa tâm thì tự thể lìa, nay lại nêu lìa cảnh năng lìa sở lìa. Lìa phan duyên thì khác với phàm phu, lìa phan duyên lìa thì khác với Nhị thừa. Bởi hàng Nhị thừa tuy lìa tiền trần nhưng lại chấp không, Phật thì không như vậy, tất cả tướng căn lượng sở tác diệt, là khác với ngoại đạo, cho nên nói chẳng phải các phàm phu cho đến cảnh giới chấp đắm. Sở lìa đã cùng cực thì chỉ là tự giác cảnh giới Thánh mà thôi, nói tướng rốt ráo khác nhau: Rốt ráo là quả vị cùng cực, khác nhau chính là pháp vô vi mà có khác nhau, khác nhau trong không khác nhau. Kết thúc khuyến khích có hai thứ, khuyên tu học, kết thúc văn này; dứt trừ là tổng kết hiện lưu của tự tâm ở trên. Khuyên Bồ-tát tu tự giác Thánh trí: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Có hai thứ Thanh văn thừa thông phân biệt tướng, nghóa là được tướng tự giác Thánh của bậc khác nhau, và tướng tánh vọng tưởng tự tánh chấp đắm. Thế nào là Thanh văn được tướng tự giác Thánh khác nhau? Nghóa là đối với cảnh giới vô thường, khổ, thông, vô ngã được chân đế, lìa dục, vắng lặng, dứt ấm, giới, nhập, tự tướng, cộng tướng, biết một cách đúng đắn các tướng bất hoại ở bên ngoài, Tâm được dừng lặng, tâm dừng lặng thì được Tam-muội thiền định giải thoát, đạo quả chánh thọ giải thoát, không lìa thói quen bất tư nghị biến dịch sinh tử, được tự giác Thánh lạc trụ Thanh văn. Ấy gọi là được tướng tự giác của bậc Thánh khác nhau.” Trên đây là khuyên Bồ-tát tu tự giác Thánh trí đã có Đại Tiểu khác nhau, vượt ngoài tướng Thanh văn sở chứng. Có hai thứ khác nhau: Tướng tự giác của bậc Thánh khác nhau, là sở chứng lý. Tướng tánh vọng tưởng tự tánh chấp đắm, là chấp giáo khởi biến. Tuy đồng là Thanh văn nhưng được mất khác hẳn. Vô thường, khổ, không, vô ngã là quán tích không mà hàng Thanh văn tu. Cảnh giới, là cảnh giới sở không. Chân đế là chân lý. Lìa dục vắng lặng, là lìa ái dục trong ba cõi, nhập Niết-bàn Vô dư. Tức diệt năm ấm, mười tám giới, mười hai nhập, tự tướng, cộng tướng, tự cộng tướng, tức là tướng chung riêng. Biết như thật tướng bất hoại bên ngoài nghóa là các Thanh văn không thể biết rõ một cách đúng như thật rằng tướng sinh tử tức là tướng Niết-bàn, cho nên thuộc về bên ngoài. Vì chắc chắn được vắng lặng, sau đó tâm mới dừng lặng, tâm đã dừng lặng nên được thiền định cho đến chánh thọ giải thoát. Không lìa thói quen, v.v… là phiền não bị dứt trừ có chánh, có tập, chỉ có thể dứt chánh, lìa phần đoạn sinh tử, chưa thể dứt tập, còn có biến định sinh tử. Phần đoạn chi hình sinh tử phần đoạn trong ba cõi; biến dịch là phương tiện độ, là nhân dời quả đổi sinh tử. Nói không thể suy nghó bàn luận nghóa là sinh tử biến dịch này phàm phu chẳng thể suy nghó bàn luận được. Lạc trụ là hàng Thanh văn lạc trụ ở chân không Niết-bàn. Bồ-tát chứng chân đế mà không mê đắm: Này “Đại Tuệ! Đại Bồ-tát được tự giác thanh trí khác nhau lạc trụ, chẳng phải ở diệt môn lạc mà ở chánh thọ lạc, vì đoái tướng thương xót chúng sinh, vì bổn nguyện cho nên không khởi chứng. Này Đại Tuệ! Ấy gọi là Thanh văn được tự giác Thánh khác nhau tướng lạc. Đại Bồ- tát đối với tự giác Thánh khác nhau tướng lạc đó, không nên tu học”. Ở đây ý nói Bồ-tát cũng chứng chân đế mà không đắm trước, nói chẳng phải diệt môn, không đồng với trụ môn vắng lặng, hướng đến chánh lạc thọ của Tiểu thừa. Nói đoái hoài thương xót chúng sinh… Nghóa là Bồ-tát dùng bi nguyện độ sinh, không chấp đắm Niết-bàn. Đây là lặp lại lời tổng kết rằng cái vui Tam-muội mà các Thanh văn chứng đắc thì đối với Bồ-tát Tam-muội này không nên tu học. Gạn lại để giải thích: Này “Đại Tuệ! Thế nào là tâm vọng tưởng tự tánh chấp đắm tướng Thanh văn? Đó là đại chủng xanh, vàng, đỏ, trắng, cứng, ướt, ấm, động, chẳng phải do tạo tác mà sanh, tự tướng, cộng tướng, bậc Tiên thắng khéo léo nói ra kiến rồi nhưng người Thanh văn khởi tự tánh vọng tưởng. Đại Bồ-tát đối với điều đó nên biết nên xả, tùy duyên nhập vào tướng pháp vô ngã, dứt trừ kiến chấp tướng người vô ngã, thứ lớp các địa tiếp nối dựng lập. Ấy gọi là các Thanh văn tánh vọng tưởng tự tánh chấp đắm tướng. Đoạn này gạn lại dẫn giải thích. Chấp tướng Thanh văn, trước hết là giải thích tánh vọng tưởng, nghóa là sắc bốn đại chủng, mỗi đại chủng có tánh tự nhiên. Như tánh của đất là sự cứng chắc tánh, của nước là sự ẩm ướt tánh của lửa là sự ấm nóng tánh của gió là sự chuyển động. Nói chẳng tạo tác sinh là chẳng do tạo tác mà sinh, nhưng đối với ấm giới nhập, tự tướng cộng tướng mà sinh chấp đắm. Tiên Thắng là Phật, nghóa là Đức Phật dùng phương tiện khéo léo giảng nói. Nói các Thanh văn chấp giáo không thể thấu hiểu tự tánh vốn không, thấy các tướng cảnh giới kia, khởi tự tánh vọng tưởng, là Bồ-tát phải biết đó là lỗi mà nên lìa bỏ, tùy duyên nhập vào pháp vô ngã tướng v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: lìa chấp người vô ngã, nhập tướng pháp vô ngã, dần dần vào các địa, đó gọi là hạ kiết. Như lai nói về không thể suy nghó, bàn luận: Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: bạch Đức Thế tôn! Lời Thế tôn nói thường không thể suy nghó bàn luận cảnh giới của con đường tự giác bậc Thánh và cảnh giới Đệ nhất nghóa. Thế tôn! Lời các ngoại đạo nói chẳng phải nhân duyên thường không thể suy nghó bàn luận ư! Như lai bàn luận về không thể suy nghó bàn luận với cái mà ngoại đạo nói, sợ người học lầm chân rơi vào vọng cho nên nêu lên để đặt câu hỏi, tên đồng nghóa khác thấy đầy đủ, ở văn dưới. Cái gọi là thường cùng bất tư nghị, không ra ngoài hai thứ cảnh giới, thường tức là tự giác Thánh thú, bất tư nghị tức là Đệ nhất nghóa, tự giác thường trí, Thánh thú là thường cảnh, do thường trí mà khế hợp với thường cảnh nên gọi là thường Đệ nhất nghóa thể dứt bặt nói năng suy nghó, gọi là bất tư nghị, ngoại đạo tà kiến làm sao đồng được. Nhân duyên của ngoại đạo chẳng được thường không thể suy nghó, bàn luận: “Phật bảo này Đại Tuệ! Nhân duyên của các ngoại đạo chẳng được thường bất tư nghị. Vì sao? Vì ngoại đạo thường bất tư nghị không nhờ tự tướng mà thành. Nếu thường bất tư nghị không nhờ tự tướng mà thành thì do đâu mà hiển hiện thường bất tư nghị. Lại nữa, Này Đại Tuệ! Nếu Bất tư nghị nhờ tự tướng mà thành thì kia lẽ ra phải thường. Do tác giả nhờ tướng nên thường bất tư nghị chẳng thành. Đáp rằng: chẳng phải các ngoại đạo nhân duyên v.v… bởi ngoại đạo tu chứng chẳng phải nhân duyên chân chánh, do chẳng phải chánh nhân, nên quả chẳng phải chánh quả, cho nên nêu ra giải thích để bác bỏ. Không nhờ tự tướng mà thành, nghóa là chẳng phải do tướng tự giác mà thành thì quả của cảnh giới thường bất tư nghị cũng không thành. Nếu nhân kia từ tướng tự giác mà thành, thì nhân thường mà quả cũng thường. Nói do làm tướng nhân, v.v… nghóa là do nhân sở tác là tà chấp cho nên thường bất tư nghị không thành quả. Nói về chỗ đúng của chánh giáo trải với ngoại đạo: Này “Đại Tuệ! Đệ nhất nghóa thường bất tư nghị của ta, tướng của nhân Đệ nhất nghóa, lìa tánh phi tánh, được tướng tự giác nên có tướng. Làm nhân của trí Đệ nhất nghóa cho nên có nhân. Vì lìa tánh phi tánh, thí như vô tác hư không, Niết-bàn diệt tận cho nên thường. Đúng thế! Này Đại Tuệ! Chẳng đồng với luận thường. Bất tư nghị của ngoại đạo. Đúng thế, này Đại Tuệ! Thường bất tư nghị này các Đức Như lai tự giác Thánh trí chứng đắc, như thế cho nên thường bất tư nghị tự giác Thánh trí chứng đắc này cần phải tu học. Đây là đối với lỗi của ngoại đạo, mà hiển bày chỗ đúng chánh giáo nói Đệ nhất nghóa nhân tướng thành v.v… Đệ nhất nghóa này tức là thật tướng trung đạo, do đó là nhân tức là thường nhân, do đó gọi tướng tức là thường tướng, xa lìa lỗi hữu vô. Nói lìa tánh thì chẳng đúng, lìa phi tánh thì chẳng phải vô, chẳng phải hữu chẳng phải vô chính là nói lên Trung đạo. Trung đạo dứt bặt sự đối đãi cho nên thường, thường cho nên mầu nhiệm mầu nhiệm nên không thể suy nghó bàn luận. Đó là do Như lai là bậc rốt ráo thường bất tư nghị, khác với ngoài đạo không có nhân tự tướng, cho nên lại nói có nhân, có tướng. Nói thí như vô tác, hư không v.v… hư không do vô vi cho nên thường, Niết-bàn do diệt tận cho nên thường. Thường bất tư nghị này thì sự tranh luận của ngoại đạo tự không thể sánh bằng. Nói các Như lai v.v… Phật dạy chẳng phải chỉ có pháp của ta như vậy, mà thường bất tư nghị của Chư Phật cũng đều như vậy. Cho nên khuyên Bồ-tát phải nên tu học. Bác bỏ tánh vô thường của ngoại đạo: Lại nữa, này Đại Tuệ! thường bất tư nghị của ngoại đạo là tánh vô thường, vì là nhân của tướng khác, chẳng phải tướng của nhân tự tác cho nên thường. Lại nữa, Này Đại Tuệ! Thường bất tư nghị của các ngoại đạo đối với tánh phi tánh sở tác là vô thường, thấy rồi suy nghó chấp là thường”. Đây là bác bỏ tánh vô thường của ngoại đạo, cho nên bắt bẻ họ không quả, vì nhân kia chẳng phải chánh nhân, cho nên đối với nhân trở lại bác bỏ. Nói nhân quả tướng khác, là chẳng phải tướng nhân của tự ngã. Kia nói thường, là chẳng phải lại thường do năng lực của tự làm chánh nhân thật tướng tạo thành, là thường của chẳng phải thường mà chấp là thường, đâu thể nói lên quả của tánh thường được. Lại nữa, ngoại đạo chấp thường bất tư nghị chính là nói pháp sở tác của thế gian có rồi hoàn không, đều là vô thường tánh phi tánh tức có không. Tác là thấy rồi vọng chấp là thần ngã, cho là thường bất tư nghị cho nên suy nghó chấp là thường. Thường bất tư nghị của ngoại đạo chỉ là môn thuyết vọng tưởng: Này “Đại Tuệ! Ta cũng dùng nhân duyên như vậy, tạo tác tánh, phi tánh vô thường thấy rồi, tự giác Thánh cảnh giới nói thường kia không nhân. Này Đại Tuệ! Nếu lại các ngoại đạo nhân tướng thành thường bất tư nghị, nhân tự tướng là tánh, phi tánh, đồng với sừng thỏ. Thường bất tư nghị này chỉ là lời nói vọng tưởng, các ngoại đạo có lỗi như vậy”. Vì sao? Vì chỉ có lời nói vọng tưởng mới đồng với sừng thỏ, tự nhân tướng chẳng có phần. Lại nói: ta cũng dùng nhân duyên như vậy, nghóa là Như lai cũng thấy tánh kia vô thường, nhưng tu thường để nói lên cảnh giới của bậc Thánh tự giác, về sau mới biết tánh kia vô thường nên nói thường vô nhân, lại nữa, nếu dùng tà nhân tà tướng của ngoại đạo thành thường bất tư nghị, thì nhân tự tánh tướng kia chỉ có lời nói mà không có thật nghóa, cho nên nòi đồng với sừng thỏ. Các bọn ngoại đạo có lỗi hạ kiết. Kia tóm lược có bốn: 1.Lời nói vọng tưởng. 2. Tự nhân tướng chẳng có phần. 3.Chẳng tự giác được tướng. 4.Suy nghó chấp thường. Cho nên nói có lỗi như thế. Thường bất tư nghị của Phật và ngoại đạo: Này “Đại Tuệ! Thường bất tư nghị của ta nhờ tự giác được tướng, lìa sở tác tánh phi tánh nên thường, chẳng phải ngoài đạo tánh phi tánh, vô thường suy nghó chấp là thường. Này Đại Tuệ! Nếu ngoại đạo tánh phi tánh vô thường mà suy nghó chấp là thường, bất tư nghị thường, vì kia không biết tướng thường bất tư nghị tự nhân, họ cách xa cảnh giới tự giác Thánh trí nên họ không nên nói”. Thường bất tư nghị của ta v.v… là Phật dạy chỗ chứng đắc bất tư nghị của Ngã, do tự chứng làm nhân tướng, không đồng với ngoại đạo có rồi lại không, là vô thường, dùng thần ngã suy lường chấp là thường. Nếu lại ngoại đạo tánh phi tánh v.v… lại bác bỏ ngoại đạo chấp cùng có bốn nghóa: 1.Bác bỏ suy lường chấp thường. 2.Bác bỏ không biết tướng là thường bất tư nghị tự nhân. Bác bỏ họ cách xa Phật. 4. Họ không nên nói. Là Bác bỏ họ chỉ có lời nói. Sinh tử và Niết-bàn đều là vọng tưởng: “Lại nữa, này Đại Tuệ! Các Thanh văn sợ sinh tử vọng tưởng khổ mà cầu Niết-bàn. Chẳng biết sinh tử, Niết-bàn khác nhau tất cả tánh vọng tưởng chẳng phải tánh, sau rồi các căn cảnh giới thôi dứt nghó là Niết-bàn, chẳng phải tự giác Thánh trí thú tàng thức chuyển. Cho nên phàm phu nói có ba thừa, nói tâm lượng thú không thật có. Cho nên Này Đại Tuệ! Kia chẳng biết quá khứ, vị lai, hiện tại đều là cảnh giới tự tâm của các Đức Như lai, chấp đắm cảnh giới ngoài tâm hiện, vòng sinh tử thường xoay chuyển”. Ngoại đạo Tiểu thừa ưa cầu Niết-bàn, không biết Niết-bàn tướng khác nhau giữa sinh tử và Niết-bàn đều là vọng tưởng không có thật tánh. Trí nhãn của người Tiểu thừa này thấy căn cảnh vị lai thôi dứt, nhận lầm Niết-bàn, chẳng phải nghóa chân thật là cảnh sở thú của tự giác Thánh trí, cũng chẳng phải chuyển tàng thức thành Niết-bàn. Phàm phu nói có ba thừa: cho là sinh tử tức Niết-bàn, pháp Đại thừa thì Tiểu thừa chẳng biết cho nên nói cho họ nghe Niết-bàn chân không của Tiểu thừa, tâm lượng không thật có tức là chân không. Nhưng lại không biết Niết-bàn diệu tâm của các Đức Phật ba đời là từ tâm phát hiện chẳng phải có riêng. Vọng chấp ngoài tâm có pháp, khởi hoặc tạo nghiệp, trôi lăn trong sinh tử. Pháp vô sinh còn không thật có, huống chi là tất cả pháp: “Lại nữa này Đại Tuệ! Tất cả pháp bất sinh là do các Đức Phật quá khứ vị lai hiện tại nói. Vì sao? Vì tự tâm hiện tánh phi tánh, lìa hữu phi hữu mà sinh này Đại Tuệ! Tất cả tánh bất sinh, tất cả pháp như sừng thỏ, ngựa v.v… Vì phàm phu ngu si chẳng giác vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng. Này Đại Tuệ! Tất cả pháp bất sinh, cảnh giới tự giác Thánh trí, tất cả tánh, tự tánh, tướng bất sinh. Chẳng phải hai cảnh giới của vọng tưởng kẻ ngu kia, tự tánh thân tài dựng lập thú tự tánh tướng. Này Đại Tuệ! Tạng thức năng nhiếp sở nhiếp tướng chuyển, kẻ ngu rơi vào hai kiến chấp sinh, trụ, diệt, hy vọng tất cả tánh sinh, hữu phi hữu vọng tưởng sinh, chẳng phải Thánh hiền. Này Đại Tuệ! Đối với kia nên phải tu học. “Phần trên Phật nói tìm kiếm vô sinh còn không thật có, huống chi là tất cả pháp ư! Do chúng sinh từ vô thỉ chấp đắm các pháp, cho nên các Đức Phật phá chấp đắm kia nên nói bất sinh, vì tất cả pháp chỉ tự tâm hiện không có thật tánh, đâu chỉ lìa hữu sinh, mà cũng lìa vô sinh. Kinh Niết-bàn chép: cái gọi là Bất sinh bất sinh”. Tất cả tánh bất sinh… lại y theo mê ngộ để nêu bày được mất, nghóa là không thể rõ hết sinh tức vô sinh, chỉ nói tất cả tánh bất sinh, chấp đắm tất cả pháp như thỏ, ngựa v.v… không có sừng, đây là kẻ kẻ ngu chẳng giác vọng tưởng là vọng tưởng của tự tánh, chẳng phải nay nói là bất sinh. Nếu nói tất cả pháp bất sinh, là cảnh giới tự giác Thánh trí của Phật, thì tất cả pháp tánh tướng đều bất sinh, đây là chân vô sinh. Chẳng phải kẻ ngu kia vọng tưởng phân biệt hai cảnh hữu vô. Nói tự tánh thân tài, v.v… như Kinh Nhập Lăng-già chép: Thân và tài sinh khí thế gian v.v… tất cả đều là hình bóng của tạng thức. Hai tướng sở thủ, năng thủ hiện, kẻ ngu không hiểu rơi vào hai chấp hữu vô, sinh, trụ, diệt, chấp đắm tất cả tánh sinh, không ngoài vọng tưởng hữu vô, thật chẳng phải vô sinh mà Thánh hiền chứng đắc. Nói đối với kia là đối với vô sinh mà các Đức Phật nói, phải nên tu học. Nói về năm thứ Vô gián: “Lại nữa này Đại Tuệ! Có năm chủng tánh Vô gián, năm chủng tánh ấy là: Thanh văn thừa Vô gián chủng tánh, Duyên giác thừa Vô gián chủng tánh, Như lai thừa Vô gián chủng tánh, bất định chủng tánh, và các biệt chủng tánh nói về chủng tánh kia vốn không khác nhau. Từ vô thỉ huân tập, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc định hoặc bất định, kinh này có nói. Có năm thứ Vô gián, hoặc chủng tánh kia thuần nhất không lẫn lộn. Chỗ yếu kém của Thanh văn: “Làm sao biết Thanh văn thừa Vô gián chủng tánh? Nếu khi nghe nói được ấm, giới, nhập tự tướng, cộng tướng dứt liền biết, toàn thân nổi ốc, vui mừng, và ưa tu tướng trí, chẳng tu tướng duyên khởi phát ngộ, đó gọi là Thanh văn Thừa Vô gián chủng tánh. Thanh văn Vô gián thấy địa thứ tám, dứt sinh phiền não nhưng thói quen phiền não chưa dứt bỏ, không qua được sinh tử biến dịch bất tư nghị, đã qua sinh tử phần đoạn, chính như Sư Tử hống nói: ta sinh đã hết sinh tử phạm hạnh đã lập, chẳng còn thân đời sau, biết đúng như thật, tu tập người vô ngã, cho đến được giác ngộ, nhập Niết-bàn. Thanh văn sợ khổ tâm tha thiết gấp cầu chứng, cho nên khi nghe nói Bốn đế, biết khổ dứt tập, mến diệt tu đạo thì thân tâm vui vẻ. Ấm giới nhập tự tướng, cộng tướng, tuy khai hợp khác nhau nhưng tức là khổ đế. Tướng trí là trí tổng tướng của Bốn đế. Hàng Thanh văn căn cơ chậm lụt, thích tu trí này, không tu tướng duyên khởi phát ngộ. Duyên giác tức mười hai nhân duyên, chính là hạnh tu của Duyên giác mà phát ngộ, nhưng hàng Thanh văn không thích tu. Hàng Thanh văn dùng Tam-muội Vô gián thấy địa Bích-chi- phật thứ tám dứt kiến tư hoặc phiền não hiện hành, chưa đoạn hoặc vô minh riêng. Nói thói quen phiền não tức là vô minh. Do chưa vượt qua biến dịch sinh tử, chỉ có thể vượt qua phần đoạn sinh tử khổ mà thôi. Sư tử hống tức là ý nói không sợ hãi, nghóa là đến địa thứ Tám nói: “ta đã hết sinh tử dứt khổ tập, phạm hạnh đã lập, không còn chịu thân đời sau, tu đạo chứng diệt, đều thật không luống dối, cho nên nói biết đúng như thật: Tu tập người vô ngã cho đến đắc Niết-bàn giác, nghóa là không chấp người mà được Niết-bàn chứng nhân không” Này “Đại Tuệ! Các biệt Vô gián là ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, nuôi lớn, só phu. Các chứng sinh kia khởi giác như vậy, cầu nhập Niết-bàn, lại thấy ngoại đạo khác nói thấy đều do tác giả, thấy tất cả tánh rồi, nói đây là bát Niết-bàn. Khởi giác như thế, đối với pháp vô ngã thấy họ vô phần, không có giải thoát. Này Đại Tuệ! Đây là chủng tánh của các Thanh văn thừa Vô gián ngoại đạo, chẳng xuất mà tưởng là xuất, vì chuyển ác kiến cho những người này nên phải tu học”. Các Vô gián khác nhau đây nói Thanh văn chấp tướng không khác ngoại đạo mà nói Vô gián, đối với ngã, nhân, thấy, biết v.v… các pháp khác nhau, chấp là Niết-bàn, mà không biết đây là cội gốc sinh tử, trái lại cho là giác mà chấp là chứng. Lại có một hạng người chấp tất cả các pháp đều do tạo tác mà có, chẳng phải nhân chấp là nhân, thấy tất cả tánh cho là Niết-bàn. Như Thanh văn ưa diệt tu đạo, nhưng đối với pháp vô ngã giải thoát thật chẳng có phần, gọi là Phật tử nhưng thật là ngoại đạo. Cho nên nói Vô gián ngoại đạo tuy muốn ra khỏi ba cõi, mà không thể vượt qua nên nói chẳng ra khỏi mà tưởng ra khỏi. Cũng khuyên khiến người học nên chuyển ác kiến kia, mà hướng về chủng tánh Như lai. Nói về Duyên giác và Độc giác: Này Đại Tuệ! Duyên giác thừa Vô gián chủng tánh, nếu nghe nói các biệt duyên Vô gián, khắp mình nổi ốc rơi lệ dầm dề, duyên chẳng gần nhau, tất cả chẳng chấp các thứ tự thân, các thứ thần thông, hoặc ly hoặc hợp các thứ biến hóa, khi nghe lời nói tâm họ liền nhập. Nếu biết họ là Duyên giác thừa Vô gián chủng tánh rồi, thì thuận theo nói cho họ nghe về Duyên giác thừa: Ấy gọi là tướng Duyên giác thừa Vô gián chủng tánh. Duyên giác, là từ Phật mà lãnh thọ giáo pháp, quán mười hai nhân duyên, quán lý chân đế, gọi là Duyên giác, cũng gọi là Độc giác; nghóa ra đời không gặp Phật, thấy duyên tự ngộ. Các biệt Duyên Vô gián: Nghe nói mười hai nhân duyên nhân quả xoay vần mà ngộ vô sinh, thích ứng với sở nguyện kia, thương cảm chứa nhóm đến nơi lệ dầm dề. Nói không gần gũi nhau, nghóa là ưa một mình nơi chỗ vắng lặng, tu hạnh xa lìa đối với tất cả các tướng đều không nên chấp. Hoặc có khi nói cho nghe thân hiện thần thông biến hóa, hoặc chia một thân thành nhiều thân, hoặc hợp nhiều thân thành một thân. Nghe nói như vậy khiến tâm có chỗ nhập. Bồ-tát biết kia là Duyên giác thừa Vô gián chủng tánh, nên nói pháp Duyên giác thừa này cho họ nghe. Nói về Như lai thừa: Này “Đại Tuệ! Như lai thừa Vô gián chủng tánh có bốn thứ: 1.Tự tánh pháp Vô gián chủng tánh. 2. Ly tự tánh pháp Vô gián chủng tánh. 3.Đắc tự giác Thánh Vô gián chủng tánh. 4.Ngoại sát thù thắng Vô gián chủng tánh. Này Đại Tuệ! Nếu người nghe bốn việc này, khi nói mỗi thứ và khi nói tự tâm hiện thân tài kiến tập cảnh giới bất tư nghị, thì tâm không kinh sơ. Ấy gọi là Như lai thừa Vô gián chủng tánh tướng”. Như lai chủng tánh Vô gián: Tánh ấy viên dung vô ngại. Nói bốn thứ: Tự tánh pháp, tức Như lai tạng, tự tánh thanh tịnh tâm. 2. lìa tự tánh pháp, nghóa là tánh này lìa tánh chấp. 3.Đắc tự giác Thánh, tức Như lai cứu cánh giác trí. 4.Ngoại sát thù thắng, nghóa là bi nguyện của Như lai trang nghiêm cõi nước, nhiếp hóa chúng sinh, các thứ tốt đẹp. Kinh Lăng-già chép: Pháp sở chứng có ba thứ: hợp tự tánh pháp, lìa tự tánh pháp thành một. Ba thứ này tức là ba thân: pháp thân, báo thân, ứng thân. Và nói tự tâm hiện thân tài… Kinh Nhập Lăng-già chép: Nghe tự tâm hiện thân tài lập ra thức A-lại-da cảnh bất tư nghị, không kinh không sợ không hãi. Phải biết đây là tánh Như lai thừa. Nói về chủng tánh bất định: Này “Đại Tuệ! Chủng tánh Bất định nghóa là khi nói ba tánh kia, tùy nghe nói bất cứ tánh nào mà vào, thì tùy đó mà thành. Này Đại Tuệ! Đây là sơ trị địa, là chủng tánh lập ra, vì siêu nhập vào địa vô sở hữu tạo tác lập ra. Kia tự giác tạng, thói quen phiền não, của mình thanh tịnh thấy pháp vô ngã, được Tam-muội, ưa trụ Thanh văn, sẽ được thân Tối thắng Như lai”. Bất định chủng tánh, khi nghe nói ba pháp Thanh văn, Duyên giác, Như lai thì liền sinh tin hiều mà thuận theo tu học từ Tiểu thừa vào Đại thừa, tánh kia có thể dời đổi cho nên nói bất định. Trị địa thứ nhất, tức là người chứng Càn tuệ địa, địa này là địa thứ bảy trong mười địa. Tạo tác lập ra, là nói lời như thế. Kia là tự giác tạng v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: kia trụ trong Tam-muội, ưa thích Thanh văn, nếu chứng biết từ thức nương tựa, thấy pháp vô ngã, trừ sạch thói quen phiền não, cuối cùng sẽ được chứng thân Như lai. Từ thức nương tựa tức thức thứ tám khi tự giác. Thói quen phiền não tức là vô minh. Nói về bốn quả Thanh văn: Khi ấy, Đức Thế tôn: muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Quả Tu-đà-bàn-na Vãng lai và bất hoàn. Đợi chứng A-la-hán Đó thảy tâm hoặc loạn” Tu-đà-bàn-na tức Tu-đà-hoàn, Hán dịch là Dự lưu, có khả năng dứt bỏ kiến hoặc trong ba cõi dự vào dòng Thánh, đây là Sơ quả. Vãng lai: Tiếng Phạm Tu-đà-hàm, có khả năng dứt bỏ sáu phẩm tư hoặc trước trong cõi Dục, ba phẩm sau chưa dứt, còn phải qua lại trong cõi trời, người một lần nữa, đây là quả thứ hai. Bất hoàn, Tiếng Phạm A-na- hàm, dứt hết tư hoặc trong cõi Dục, không còn thọ sinh lại trong cõi Dục, đây là quả thứ ba. A-la-hán là quả thứ tư. Người chứng quả thứ tư này tuy dứt bỏ kiến hoặc, tư hoặc chứng được Tiểu quả nhưng chưa thể dứt bỏ trần sa hoặc và vô minh hoặc, đó gọi là hoặc loạn: Nói về các loại thừa: “Ba thừa và Nhất thừa, Phi thừa ta đã nói Kẻ ngu ít trí tuệ Các bậc Thánh xa lìa tịch”. Tam thừa: là ba chủng tánh Thanh văn, Duyên giác và Bất định, Nhất thừa chủng tánh Như lai, chẳng phải thừa mỗi mỗi khác nhau chủng tánh. Ý Như lai chỉ nói Nhất thừa, vì chúng sinh căn khí khác nhau nên khi nói ba thừa chẳng phải thừa, dẫn quyền về thật. Các bậc Thánh xa lìa vắng lặng, là ưa vào nơi vắng lặng của bậc Thánh chứng quả thứ tư. Như lai trụ trong lý vắng lặng, không có lập thừa: “Pháp môn Đệ nhất nghóa, Xa lìa cả hai giáo, Trụ nơi Vô sở hữu, Sao dựng lập ba thừa” Pháp môn Đệ nhất nghóa là lý vắng lặng, đâu có quyền thật khác nhau. Như lai trụ trong lý vắng lặng này không lập một pháp, huống chi là ba thừa. “Các thiền vô lượng thảy, Tam-ma-đề Vô Sắc Thọ, tưởng đều vắng lặng, Cũng chẳng có tâm lượng”. Các thiền: tức Tứ thiền, Vô lượng là bốn tâm vô lượng. Vô Sắc là bốn định Vô Sắc. Tam-ma-đề: Nghóa là Đẳng trì, tức Tam-muội. Thọ tưởng vắng lặng, là định diệt tận của Tiểu thừa. Các pháp này tâm lượng đều dứt. Nói về Nhất-xiển-đề: Này “Đại Tuệ! Nhất-xiển-đề kia chẳng phải Nhất-xiển-đề, thế gian giải thoát ai chuyển? Này Đại Tuệ! Nhất-xiển-đề có hai thứ: Bỏ tất cả gốc lành và đối với chúng sinh vô thỉ phát nguyện. Thế nào bỏ tất cả gốc lành? Nghóa là chê bai Bồ-tát tạng và nói lời ác: “Đây không phải nói thuận theo kinh điển giải thoát”. Vì bỏ tất cả gốc lành nên không được vào Niết-bàn. Nhất-xiển-đề là tiếng Phạm, Hán dịch là “tín bất cụ”, cũng dịch là Cực ác. Phi Nhất-xiển-đề, không chắc chắn là cực ác, nếu chắc chắn là cực ác, thì mãi mãi không chuyển ác thành thiện được giải thoát. Nhưng xiển-đề hiện hành tuy là tánh ác nhưng không dứt mất gốc lành, nếu chiếu soi tánh cũng sẽ thành Phật. Cho nên lại bảo rằng xiển-đề có hai thứ: Xả tất cả gốc lành, người này thậc cực ác. Và đối với chúng sinh vô thỉ phát nguyện, đây là Bồ-tát xiển-đề. Vì sao bỏ tất cả điều lành? Trích dẫn giải thích nghóa cực ác, chê bai Bồ-tát tạng và nói lời ác, đây là người pháp đều chê bai, đâu chịu thuận theo kinh luật là pháp giải thoát mà nhập Niết-bàn, cái gọi là xiển-đề là người không tu, điều lành đã hết. Bồ-tát vốn tự nguyện phương tiện, chẳng phải không nhập Niết-bàn, vì tất cả chúng sinh mà vào Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Kia vào Niết-bàn, đó gọi là chẳng nhập pháp tướng Niết-bàn. Đây cũng đến cõi Nhất-xiển-đề”. Ý nói Bồ-tát Đại thừa do bổn nguyện phương tiện muốn cho tất cả chúng sinh nhập vào Niết-bàn, rồi sau mới Niết-bàn. Nói không vào pháp tướng Niết-bàn, là Bồ-tát hiểu rõ sinh tử tức Niết- bàn. Niết-bàn vốn đầy đủ chẳng phải có Niết-bàn riêng để nhập vào, nghóa là hành giả thanh tịnh không vào Niết-bàn. Nói cũng đến cõi Nhất-xiển-đề, vì Bồ-tát biết rõ ác tức là lành, không có điều lành để tu, thú hướng, đồng với Nhất-xiển-đề bỏ tất cả điều lành và không vào Niết-bàn. Lý do Bồ-tát xiển đề không vào Niết-bàn: “Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn: Trong đây vì sao rốt ráo chẳng vào Niết-bàn. Phật bảo Đại Tuệ: Bồ-tát Nhất-xiển-đề, biết tất cả pháp xưa nay đã vào Niết-bàn, rốt ráo không vào Niết-bàn, mà chẳng phải như Nhất-xiển-đề bỏ tất cả gốc lành. Này Đại Tuệ! Nhất- xiển-đề bỏ tất cả gốc lành, lại nhờ thần lực Như lai, hoặc có khi gốc lành sinh. Vì sao? Vì Như lai chẳng bỏ tất cả chúng sinh, do đó Bồ-tát Nhất-xiển-đề không nhập Niết-bàn“. Đây là nêu bày giải thích lý do Bồ-tát Xiển-đề không vào Niết-bàn. Nói xưa nay vào Niết-bàn v.v… Kinh dạy: Tất cả chúng sinh tức là tướng Niết-bàn, không thể còn diệt nữa. Nhưng Bồ-tát chẳng phải không bao giờ vào Niết-bàn, vì hiểu rõ tu tức tánh, lìa tướng Niết-bàn. Hoặc có khi gốc lành sinh… văn nói rõ có thể thấy. Phân biệt tự tánh: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải khéo biết về ba tự tánh, ba tự tánh ấy là gì? Đó là là vọng tưởng tự tánh, duyên khởi tự tánh và thành tự Thánh“. Phân biệt tự tánh là điểm quan trọng của kinh này, trước đã nói lược, nay lại nói kỹ. Nói về danh tướng chấp đắm và sự tướng chấp đắm: Này “Đại Tuệ! tự tánh vọng tưởng từ tướng sinh. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là tự tánh vọng tưởng từ tướng sinh? Phật bảo Này Đại Tuệ! Tự tánh duyên khởi tự tướng tương hành, tướng hiển hiện sự tướng, chấp đắm có hai thứ tự tánh vọng tưởng. Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác lập ra: Nghóa là danh tướng chấp đắm tướng và sự tướng chấp đắm tướng. Danh tướng chấp đắm tướng là nói chấp đắm các pháp trong ngoài. Sự tướng chấp đắm tướng là kia chấp đắm tự tướng, cộng tướng trong ngoài như vậy. Ấy gọi là hai thứ tướng vọng tưởng tự tánh. Hoặc y hoặc duyên sinh, đó là duyên khởi”. Nói tự tánh vọng tưởng từ tướng sinh, chính là từ tướng duyên khởi sinh ra. Duyên khởi là sự tướng từ nhân duyên khởi, sự tướng hiển hiện mà sinh hai thứ chấp đắm. Nói tướng tướng, là sự tướng chẳng phải một. Như lai lập ra, tức Như lai vì chúng sinh giảng nói tự tánh vọng tưởng để cho họ biết vọng, không vọng. Danh tướng chấp đắm tướng, nghóa là các pháp căn trần trong ngoài, chấp đắm danh tướng. Sự tướng chấp đắm tướng, tức đối với pháp căn trần kia không rõ tánh không mà chấp đắm tự tướng, cộng tướng. Hoặc y hoặc duyên sinh, chính là nói duyên khởi tự tánh. Y tức là nhân, nghóa là các pháp từ nhân duyên mà sinh. Nhân duyên có căn trần nhân duyên, có nghiệp hoặc nhân duyên, có nghiệp hoặc nhân duyên mà nghiệp lại từ căn trần sanh khởi. Tất cả các pháp thế gian xuất thế gian chẳng có pháp nào không từ nhân duyên sinh. Ngoài Long Thọ nói: Pháp do nhân duyên sinh. Nói về thành tự tánh: Thế nào là thành tự tánh? Nghóa là lìa vọng tưởng về danh tướng và sự tướng. Thánh trí sở đắc và tự giác Thánh trí thú hướng cảnh giới sở hành. Đó gọi là thành tự tánh Như lai tạng tâm. Thành là thành tựu. Nói lìa vọng tưởng danh tướng, sự tướng, nghóa là các Đức Phật, bậc Thánh, quán pháp do nhân duyên sinh tức quán không, quán giả và quán trung. Trí: tự giác Thánh trí tức như như. Hợp hai pháp này thành một tự tánh. Ấy gọi là Như lai tạng tâm. Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Danh, tưởng, giác, tưởng, Tự tướng tánh tướng, Chánh trí, như như Ấy là thành tướng”. Danh tướng tức duyên khởi tự tánh. Giác tưởng tức vọng tưởng tự tánh. Chánh trí như như thì thành tự tánh. Đây là nhiếp năm pháp làm ba tự tánh, cho nên biết năm pháp ba tự tánh, đặc biệt khai hợp khác! kết thúc khuyên tu: Này “Đại Tuệ! Ấy gọi là Kinh Quán Sát Ngũ Pháp Tự Tánh Tướng, tự giác Thánh trí đến cảnh giới sở hành. Đại Bồ-tát các ông phải nên tu học”. Một là kinh nói tuy có cả năm pháp ba tự tánh nhưng khuyên tu những điều quan trọng, chính là tự giác Thánh trí, ở đây kết thúc khuyến tu. Nói về người vô ngã: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải khéo quán hai tướng vô ngã. Thế nào là hai tướng vô ngã? Là người vô ngã và pháp vô ngã. Thế nào là người vô ngã? Là lìa ngã, ngã sở, ấm giới nhập nhóm họp vô tri nghiệp ái sinh, nhãn sắc v.v… nhiếp thọ chấp đắm sinh thức, tất cả các căn tự tâm hiện. Căn thân, khí giới là tướng tự vọng tưởng của tàng thức hiển bày lập ra”. Nói khéo quán sát tướng người pháp vô ngã, nghóa là dùng hai thứ không quán sát nhiệm mầu, phá hai chấp sinh pháp. Các kinh khác thì gọi là sinh không pháp, đây nói là người vô ngã, pháp vô ngã. Vô là không, người là giả danh của chúng sinh, pháp là năm ấm thật pháp. Phàm phu đối với điều này giả thật ngã kiến nghiêng nặng, cho nên dùng vô ngã để phá. Nếu đạt được vô ngã thì tất cả lìa chấp, hiển bày bản tánh người nhiệm mầu, pháp nhiệm mầu. Trong người vô ngã nói lìa ngã, ngã sở, ngã tức là giả danh, ngã sở là thật pháp. Vì giả không tự giả, nương thật pháp mà có giả danh. Nếu suy tìm giả phải bao gồm thật, cho nên nói nhóm ấm giới nhập. Vô tri tức phiền não, nghóa là thật pháp từ phiền não nghiệp ái mà sinh. Nhãn sắc v.v… là các thức như mắt, v.v… chấp lấy các trần như sắc, v.v… Căn thân, khí giới tạng, khí là y báo, nghóa là thế giới như khí, thân là chánh báo, tạng là tạng thức. Kinh Nhập Lăng-già chép: Lại nữa, thân khí, thế gian mà tự tâm thấy đều do tạng tâm hiển hiện, các pháp này cầu vọng chấp đều không thật có. Đó gọi là người vô ngã. b. “Như dòng sông, như hạt giống, như đèn, như gió, như mây, sát-na lần lượt hoại, thô động như khỉ vượn, ưa chỗ bất tịnh như ruồi lằn, không nhàm chán như gió thổi lửa. Do thói quen luống dối từ vô thỉ như bánh xe đạp nước, sinh tử trôi lăn trong các cõi, làm các thứ thân sắc. Như ảo thuật, thần chú, máy động hình đi. Khéo biết tướng kia, đó gọi là trí người vô ngã“. Năm ví dụ như ví dụ dòng sông… tướng hoại trong từng sát-na. Ba thứ thô động là tướng thức luống dối, cho nên dụ như ruồi lằn, khỉ vượn, gió lửa để ví dụ, nhưng đều do thói quen luống dối từ vô thỉ rơi vào sinh tử trôi lăn trong ba đường, cho nên ví dụ như đạp nước. Các thứ thân sắc… là dụ cho thân huyễn. Như ảo thuật giúp cho máy động, thần chú giúp cho thây đi. Kinh Nhập Lăng-già chép: Thí như thây người chết, nhờ năng lực chú thuật cho nên đi được. Cũng như người gỗ nhờ máy mà vận động. Khéo biết tướng kia, tức khéo biết các tướng như trên thí dụ. Đây là trí mầu quán người vô ngã. Nói về pháp vô ngã: “Thế nào là trí pháp vô ngã? Nghóa là biết rõ ấm, giới, nhập, tướng vọng tưởng tự tánh. Như ấm giới nhập lìa ngã, ngã sở. Ấm giới nhập chứa nhóm nhân nghiệp ái ràng buộc, xoay vần duyên nhau, sinh không dao động, các pháp cũng giống như vậy, lìa tự tướng, cộng tướng vọng tưởng không thật, năng lực vô tưởng lẫn nhau. Đây là phàm phu sinh, chẳng phải Thánh hiền. Tâm ý thức, năm pháp, ba tự tánh lìa”. Pháp vô ngã trí từ thật pháp chỉ bày thẳng, nghóa là giác biết tướng ấm giới nhập là tánh vọng tưởng. Như ấm giới nhập v.v… chẳng hạn như tiền người vô ngã, quán lìa ngã, ngã sở, chỉ do ấm giới nhập chứa nhóm, nghiệp ái trói buộc, làm duyên khởi lẫn nhau thấy tự tánh kia rõ ràng không thật có: cho nên nói không lay động, dao động tức là tạo tác. Kinh Nhập Lăng-già chép: không có người năng tác, đã không năng tác thì đâu thể sở tác các pháp được, cho nên nói lìa tự tướng, cộng tướng, nhưng tướng luống dối này là vọng tưởng phân biệt của phàm phu, chẳng phải của các bậc Thánh hiền. Đã rõ pháp pháp vốn không, đâu còn có vọng tưởng, cho nên nói tự tánh lìa. Xa lìa mà chẳng phải xa lìa tức thấu đạt tánh kia mất đi. Kết thúc khuyến khích lợi ích: Này “Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải khéo phân biệt tất cả pháp vô ngã, pháp lành là vô ngã, Đại Bồ-tát không bao lâu sẽ được Địa thứ nhất. Bồ-tát vô sở hữu quán tướng đất, quán sát khai giác vui mừng, thứ lớp tiến lên vượt đến Cửu địa. Nơi đó dựng lập vô lượng bảo trang nghiêm, hoa sen báu lớn, voi đầu đàn, cung điện báu lớn, cảnh giới tự tánh huyễn do tu tập sinh. Ngồi nơi kia mà đồng một loại với các vị Tối Thắng tử quyến thuộc vây quanh. Từ tất cả cõi Phật đến, Phật dùng tay làm phép quán đảnh như Thái tử con vua chuyển luân làm phép quán đảnh, vượt địa vị Phật tử, đến Tự giác Thánh trí pháp thú, sẽ được pháp thân tự tại của Như lai, vì thấy pháp vô ngã, đó gọi là tướng pháp vô ngã, Đại Bồ-tát các ông phải nên tu học”. Trong văn này kết thúc khuyến khích lợi ích. Nói sẽ được Địa thứ nhất, là Hoan hỷ địa. Vô sở hữu v.v… Nghóa là Bồ-tát dùng quán mầu Trung đạo, biết rõ tướng các địa không bị chướng ngại. Vì quán sát như vậy nên mở mà sinh vui mừng, hoặc siêu hoặc tiệm, đến Pháp Vân địa, trụ ở địa này rồi, có vô lượng cảnh giới các báu trang nghiêm hiện ra trước mặt. Tự Tánh huyễn: do tu tập pháp môn huyễn tánh nên chiêu cảm quả báo như vậy. Đồng một tượng loại v.v… nghóa là hàng Bồ-tát pháp thân đều đến vây quanh, các Đức Phật cũng đến dùng tay làm lễ quán đảnh, như văn dưới rất dễ thấy. Làm sao lìa được hai chấp này? “Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Tướng dựng lập chê bai, cúi mong Thế tôn nói giúp con và các Đại Bồ-tát lìa ác kiến hai bên dựng lập và chê bai, chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác: Đã lìa thường lập ra, dứt kiến chấp chê bai, không chê bai chánh pháp”. Trong thế giới chân như còn không thể nói có được, chẳng có thuyết, có danh là lập ra chấp thường. Chẳng phải vô thuyết vô danh là chê bai chấp đoạn. Này Đại Tuệ! Lập ra đây để hỏi: làm sao lìa hai kiến này để được Bồ-đề, không chê bai chánh pháp. Dựng lập và chê bai đều do tâm lượng: “Khi ấy, Đức Thế tôn nhận lời thỉnh của Bồ-tát Đai Tuệ mà nói kệ rằng: Dựng lập và chê bai, Không có tâm lượng kia Thân thọ dụng dựng lập Và tâm không thể biết Ngu si không trí tuệ Dựng lập và chê bai” Ở đây nói dựng lập và chê bai đều do tâm lượng, nhưng tâm lượng thật tìm không thật có, Như lai chỉ thẳng như thế, giúp cho hàng phàm phu mê mờ kia biết rõ vốn không có lìa các tà kiến. Nói thân thọ dụng lập ra, thân là sắc thân chánh báo, thọ dụng là tư tài y báo. Do ngu si vô trí không biết đó là tự tâm vọng hiện nên rơi vào hai kiến. Bác bỏ dựng lập và chê bai: “Đức Thế tôn nói nghóa kệ này rồi, muốn lặp lại cho rõ ràng nên bảo Đại Tuệ: Có bốn thứ chẳng thật có mà có dựng lập. Bốn thứ ấy là: chẳng có tướng dựng lập, chẳng có kiến dựng lập, chẳng có nhân dựng lập và chẳng có tánh dựng lập, đó gọi là bốn thứ dựng lập. Lại chê bai, là đối với sở lập kia không có sở đắc, quán sát chẳng có phần, liền khởi chê bai. Ấy gọi là tướng dựng lập chê bai”. Trên nói dựng lập chê bai là tà kiến đoạn thường, mà chưa nói rõ danh nghóa cho nên nêu danh kia rồi sau giải thích nghóa. Danh tướng tất nhiên là nhiều, kia tóm lược có bốn: Tướng, kiến, nhân, tánh. Đều nói chẳng phải có lập ra, nghóa là vốn không có kiến mà dựng lập kiến, tướng chê bai không từ nơi khác khởi, đối với việc dựng lập pháp mong cầu không thật có, do khởi không tưởng, cho nên nói đối với sở lập kia không có sở đắc. Nói quán sát không có phần. Kinh Nhập Lăng-già chép: Không khéo quán sát bởi không thể hiểu rõ chân không là bất không mà khởi lên kiến chấp chê bai. Giải thích tướng dựng lập ban đầu: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Vì sao chẳng có tướng mà dựng lập tướng? Nghóa là ấm, giới nhập chẳng có tự tướng, cộng tướng mà khởi chấp chặt, đây như vậy, đây chẳng khác. Đó gọi là chẳng có tướng dựng lập tướng, đây chẳng có tướng dựng lập, là do lỗi vọng tưởng luống dối từ vô thỉ, các thứ thói quen chấp chặt mà sinh”. Đây là giải thích tướng dựng lập ban đầu. Nói chẳng có tướng dựng lập: Nghóa là đối với ấm giới nhập, tự tướng, cộng tướng vốn không thật có mà sinh chấp chặt. Nói đây như vậy, đây không khác: Như vậy là tự tướng, không khác là cộng tướng. Nhưng đây chẳng có tướng lập ra tướng, chẳng phải mới đời này, cho nên nói vọng tưởng luống dối từ vô thỉ, các thứ thói quen chấp chặt mà sinh. Chẳng có kiến dựng lập tướng: Này “Đại Tuệ! Chẳng có kiến dựng lập tướng: là ấm giới nhập kia nhập vào ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, nuôi lớn, só phu được dựng lập. Ấy gọi là chẳng có kiến dựng lập tướng”. Chẳng có kiến v.v… Kiến này cũng từ ngã sở sinh ra, nghóa là đối với ấm giới nhập vọng khởi kiến chấp ngã, nhân, chúng sinh v.v… cho nên nói chẳng có kiến dựng lập. Chẳng có chân dựng lập tướng: Này “Đại Tuệ! Chẳng có chân dựng lập tướng, nghóa là thức ban đầu vô nhân sinh, sau bất thật như huyễn, vốn bất sinh, nhãn, sắc, minh, giới, niệm, trước sinh, sinh rồi thật có rồi lại hoại. Ấy gọi là chẳng có nhân dựng lập tướng”. Nhân này dựng lập thức ban đầu vô nhân sinh, nghóa là thức niệm đầu tiên vô nhân mà sinh, sau khi sinh bất thật như huyễn, đã như huyễn thì đâu có sinh! Nhãn, sắc, minh, giới… là nói thức đầu tiên vốn không, sau do bốn duyên như mắt v.v… một niệm trước sinh. Sinh đã thật có, rồi lại hoại. Đó là sinh diệt cho nêu đều phi. Chẳng có tánh dựng lập tướng: Này “Đại Tuệ! Chẳng có tánh dựng lập tướng, nghóa là hư không diệt, bát Niết-bàn, chẳng phải tạo tác, chấp đắm tánh dựng lập. Đây là lìa tánh, chẳng phải tánh. Tất cả pháp như sừng thỏ, sừng ngựa v.v… như tóc rũ hiện, lìa có chẳng phải có. Ấy gọi là chẳng có tánh dựng lập tướng”. Trong tánh dựng lập, nói hư không diệt, nhập Niết-bàn, tức ba thứ vô vi. Hư không là hư không, vô vi diệt là phi trạch diệt, vô vi bát Niết-bàn gọi là trạch diệt vô vi. Ba vô vi này đều không có tánh tạo tác. Nhưng tà kiến chấp chặt là hữu, nói lìa tánh, chẳng phải tánh: nghóa là tất cả các pháp xưa nay chẳng có chẳng không, như sừng thỏ, sừng ngựa, v.v… là ví dụ chẳng phải có, như tóc rũ do mắt bị nhặm mà sinh, ấy là ví dụ chẳng phải vô. Tổng kết bác bỏ: “Dựng lập và chê bai là kẻ ngu vọng tưởng, không khéo quán sát tự tâm hiện lượng, chẳng phải Thánh hiền. Cho nên lìa ác kiến dựng lập chê bai, phải nên tu học”. Đây là tổng kết bác bỏ, do kẻ kẻ ngu không khéo quán sát tự tâm hiện lượng chẳng phải có chẳng phải không, mà vọng chấp có không, thật chẳng phải Thánh hiền. Cho nên khuyên Bồ- tát lìa hai thứ chấp này, phải nên tu học. Bồ-tát khéo biết sẽ đạt đến địa vị rốt ráo: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát khéo biết tướng tâm, ý, ý thức, năm pháp, ba tự tánh, hai vô ngã, tiến đến rốt ráo. Vì an lập chúng sinh nên hiện các thứ hình tượng, như chỗ tự tánh vọng tưởng nương vào duyên mà khởi. Thí như các sắc hiện trong hạt châu như ý, hiện khắp tất cả cõi nước các Đức Phật, tất cả Như lai và có đại chúng nhóm họp trong đó thảy đều nghe nhận Phật pháp. Đó là các pháp như huyễn, như mộng, như ánh chớp, như hình ảnh trong gương, trăng đáy nước, đối với tất cả pháp lìa sinh diệt, đoạn thường, và lìa pháp Thanh văn, Duyên giác”. Đây là nói Bồ-tát khéo biết tướng tâm, ý, ý thức năm pháp, ba tự tánh, hai vô ngã, sẽ đạt đến địa vị rốt ráo, pháp tự hành đã thành, sẽ hóa độ chúng sinh, tùy loại hiện thân. Cho nên nói hiện các thứ thân. Nói luống dối tưởng… huống chi Bồ-tát tùy căn cơ lập ra giáo hóa, cũng như phàm phu vọng tưởng từ duyên mà khởi. Lại nói thí như các màu sắc… dụ cho Bồ-tát dùng một thân, tất cả thân hiện khắp tất cả cõi nước của các Đức Phật và các Đại Bồ-tát nghe thọ Như lai nói pháp. Pháp mà vị ấy nói như huyễn, như mộng, như hình ảnh trong gương, như trăng đáy nước, xa lìa sinh diệt và đoạn thường, không trụ trong giai vị Nhị thừa. Lìa Nhị thừa được Tam-muội: “Được trăm ngàn Tam-muội, cho đến trăm ngàn ức na-do-tha Tam-muội. Được Tam-muội rồi, sẽ đến cõi nước các Đức Phật, cúng dường các Đức Phật, sinh lên các tầng trời để truyền bá Tam bảo, thị hiện thân Phật, có Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đại chúng vây quanh, dùng tự tâm hiện lượng độ thoát chúng sinh, phân biệt giảng nói ngoại tánh là vô tánh, giúp họ xa lìa kiến chấp có không”. Đã lìa địa vị Nhị thừa thì được vô lượng Tam-muội của các Đức Phật, cho đến thị hiện thân Phật. Nói tự tâm hiện v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Vì các chúng sinh nói cảnh giới bên ngoài đều do tâm hiện, giúp họ xa lìa kiến chấp có không. Lìa hạnh sở tác: “Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Tâm lượng thế gian Phật tử quán sát Các thứ thân hình Lìa hành sở tác Được sức thần thông Thành tựu tự tại” Nói tâm lượng thế gian, nghóa là Bồ-tát dùng tự tâm hiện lượng. Quán sát chúng sinh thế gian tùy căn cơ ứng hiện khắp, nhưng đều vượt ra ngoài lòng từ vô duyên cho nên lìa hành sở tác, cũng do được năng lực Tam-muội như huyễn cho nên thành tựu. Nói theo tánh tướng: Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại thưa hỏi Phật: Cúi mong Đức Thế tôn vì chúng con nói tất cả pháp không, vô sinh, không hai, lìa tướng tự tánh. Chúng con và chúng Bồ-tát khác, giác ngộ pháp không, vô sinh, không hai, lìa tướng tự tánh rồi, sẽ lìa vọng tưởng có không, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó, nay ta sẽ nói rộng cho ông nghe. Đại Tuệ tất cả pháp sở sinh, không tự sinh tánh, gọi tự tánh Không. Trước đã nói không tánh, ở đây lại nói tánh không, trước là xét nhập vào không, cho nên tánh tướng đều là tướng, y theo tu. Ở đây thì vốn tự hai không, cho nên tánh tướng đều là tánh, y theo tánh. Nói về hành không: “Thế nào là hành không? Nghóa là ấm lìa ngã và ngã sở. Nhân sở thành nên chỗ tạo nghiệp phương tiện sinh, đó gọi là hành không”. Hành không nói ấm lìa chấp. Từ ấm thành ngã, từ ngã khởi hành. Nhân sở là nhân ngã sở, nghóa là nhân ngã sở khởi nghiệp, phương tiện hòa hợp mà sinh vọng chấp, thuận tánh tìm cầu đều không thật có, gọi là hành không. Này “Đại Tuệ! Tức hành không như thế ấy xoay vần duyên khởi tự tánh vô tánh, đó gọi là vô hành không”. Vô hành không là không lìa sở tác hành trước, chính là rõ thấu được các ấm xoay vần duyên khởi không có tự tánh, là hành vô hành, đó gọi là vô hành không. tất cả pháp lìa lời nói không: Thế nào là tất cả pháp lìa lời nói không? Nghóa là vọng tưởng tự tánh không có lời nói, nên tất cả pháp lìa lời nói. Ấy gọi là tất cả pháp lìa lời nói không. Tất cả pháp lìa lời nói không, là tất cả pháp vọng chấp tự tánh, tự tánh là thật có, đâu có dung hòa lời nói, đó gọi là lìa lời nói không. “Thế nào là tất cả pháp Đệ nhất nghóa Thánh trí đại không? Ng- hóa là người được tự giác Thánh trí thì tất cả lỗi thói quen kiến chấp không, đó gọi là tất cả pháp Đệ nhất nghóa Thánh trí đại không”. Tự giác Thánh trí vốn chẳng phải không, mà năng không lỗi thói quen kiến chấp kia, sở đã không, năng không cũng không, tức là rốt ráo không. Nói về chấp không của ngoại đạo: “Thế nào là bỉ bỉ không? Nghóa là đối với kia chẳng có cái không kia, đó gọi là bỉ bỉ không. Này Đại Tuệ! Thí như nhà Lộc tử mẫu không có voi ngựa, trâu dê… chẳng phải không có chúng Tỳ-kheo mà nói kia không. Chẳng phải nhà nhà tánh không, cũng chẳng phải chỗ khác không có voi ngựa. Đó gọi là tất cả pháp tự tướng. Kia đối với kia không có kia, đó gọi là bỉ bỉ không. Như trên gọi là bảy thứ không. Bỉ bỉ không là cái không rất thô, ông phải lìa bỏ”. Bỉ bỉ không, chính là nói chấp không của ngoại đạo, đối với đây mà nói thì chỉ không ở kia mà chẳng không ở đây. Cho nên nói đối với kia không có cái không kia. Thí như Lộc Tử v.v… Lộc Tử là tên người, kia tên Tỳ-xá-khư Mẫu Ưu-bà-di, tin sâu Tam bảo, xây dựng tịnh xá cho có Tỳ-kheo ở, trong tịnh xá đó không nuôi voi, ngựa… Nói nhà kia không, là chỉ nhà kia không có voi ngựa, chẳng phải nói chúng Tỳ-kheo cũng không. Chẳng phải nhà trở xuống là tổng kết bác bỏ ngoại đạo chấp không tà vạy, nghóa là dù cho nhà kia không có Tỳ-kheo nhưng chẳng thể không có hai tánh kia, dù cho rằng chỗ ấy không có voi ngựa là không thì chỗ khác cũng chẳng phải không, cho nên năng sở kia đây rõ ràng sao lại không có. Ấy gọi là tất cả pháp trở xuống tổng kết bác bỏ, chữ bỉ ban đầu chỉ cho ngoại đạo, nhưng đối với kia không kia mà chẳng thể không đây. Lại nói rằng bỉ bỉ không trong bảy thứ không là cái không rất thô, đó là tà chấp của ngoại đạo, cho nên răn bảo người học phải xa lìa. Thế nào là vô minh chân thật: Này “Đại Tuệ! Không tự sinh chẳng phải bất sinh, trừ người trụ Tam-muội, đó gọi là vô sinh”. Đây là giải thích câu hỏi vô sinh. Không tự sinh, nói đủ phải như Đại luận có bài kệ rằng: “Các pháp không tự sinh, không từ nơi khác sinh, chẳng cộng chẳng vô nhân. Cho nên nói bất sinh.” Chẳng phải bất sinh, nghóa là chẳng phải hoàn toàn bất sinh, vì nói về lý thì vô sinh mà không chỗ nào bất sinh. Ngài Vónh gia cũng nói rằng: Nếu thật vô sinh, vô bất sinh. Trừ người trụ Tam-muội, là trừ đăng địa thứ nhất sơ trụ phá vô minh hiển hiện pháp tánh, gọi là vô sinh Chân thật. Nói về lìa tự tánh: “Lìa tự tánh tức là vô sinh. Lìa tự tánh thì sát-na nối nhau trôi chảy và dị tánh, hiện tất cả tánh lìa tự tánh. Cho nên tất cả tánh lìa tự tánh”. Ở đây giải thích câu hỏi lìa tướng tự tướng, tức là vô sinh. Nói sát-na nối nhau trôi chảy chính là tâm, và dị tánh hiện, v.v… là pháp. Nghóa là nếu tâm biến động thì có dị tánh hiện tất cả các pháp, nếu rõ tâm không thì các pháp tự tiêu mất, cho nên nói là lìa tự tánh. 6 7. Giải thích câu hỏi không hai: “Thế nào là không hai? Nghóa là tất cả pháp như lạnh nóng, dài ngắn, đen trắng. Này Đại Tuệ! Tất cả pháp không hai chẳng phải đây Niết-bàn kia sinh tử, chẳng phải đây sinh tử, kia Niết-bàn, vì khác tướng nhân mà có tánh, đó gọi là không hai. Như Niết-bàn, sinh tử tất cả pháp cũng giống như vậy. Cho nên không và vô sinh chẳng phải hai, lìa tướng tự tánh, nên phải tu học”. Đây là giải thích câu hỏi không hai. Trước y theo sự để nêu hai tướng kia, tướng lạnh nóng, dài ngắn, trắng đen đối đãi rõ ràng không thể không phải hai. Lại nói tất cả pháp chẳng hai, là nói theo lý, vì lý là một, dung hợp với việc kia thì khác, cho nên tất cả pháp không hai. Nói chẳng phải đối với Niết-bàn v.v… sinh tử và Niết- bàn xưa nay bình đẳng, chẳng phải ngoài Niết-bàn có sinh tử riêng, chẳng phải ngoài sinh tử có Niết-bàn riêng, kia tức là ngoài. Nhưng hai thứ này không hai mà hai, hai mà không hai. Nếu không hiểu điều này mà nói có tướng khác, nhân khác thì mỗi thứ đều có tự tánh. Nói không hai là một, đã biết hai thứ này chẳng phải hai thì tất cả pháp đều giống như vậy. Cho nên nói đoạn dưới là tổng kết khuyến khích. Tổng kết nêu rõ sinh tử, Niết-bàn đều như huyễn mộng: “Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Ta thường nói pháp không Xa lìa đoạn và thường Sinh tử như huyễn mông Mà nghiệp kia chẳng mất Hư không và Niết-bàn Diệt hai cũng như vậy Người ngu sinh vọng tưởng Các bậc Thánh lìa hữu vô” Phật dạy: Ta nói lý Trung đạo diệu không thì có không đều dứt, cho nên nói xa lìa đoạn thường, đây là tổng kết nêu rõ, sinh tử, Niết-bàn đều như huyễn mộng, kế nói sinh tử, Niết-bàn đều lìa đoạn thường, thì biết sinh tử như huyễn mộng cho nên không thường, nghiệp kia không mất cho nên không đoạn, hư không và Niết-bàn tức ba pháp vô vi, đều là Niết-bàn. Niết-bàn này cũng như huyễn cho nên chẳng phải thường, chẳng đồng với Tiểu thừa là diệt vô cho nên không đoạn diệt hai không hai, nghóa là sinh tử Niết-bàn không hai, lìa đoạn thường cũng giống như vậy. Ngu vọng tưởng cho nên rơi vào đoạn thường, bậc Thánh đã lìa hữu vô thì không có hai pháp khác nhau. Tổng kết về các pháp không vô sanh: “Khi ấy, Đức Thế tôn lại bảo Bồ-tát Đại Tuệ rằng: Này Đại Tuệ! Không và vô sinh, không hai, lìa tướng tự tánh, vào trong tất cả kinh điển của các Đức Phật, tất cả các kinh đều nói nghóa này, các kinh đều tùy tâm mong cầu của chúng sinh, nên giải thích cho nghe, nêu bày nghóa kia, mà chẳng phải chân thật ở lời nói. Ví như nai khát nước nghó là mê loạn chạy tìm, nai đối với tướng kia chấp là tánh nước, nhưng kia không phải nước. Như vậy các pháp nói trong tất cả kinh điển vì giúp cho người ngu phát tâm vui mừng, cho nên chẳng phải thật là Thánh trí ở tại lời nói, cho nên phải nương vào nghóa, chớ chấp lời nói”. Đây là tổng kết về các pháp không vô sinh, chẳng phải chỉ có kinh này nói mà chính là ý chỉ giải thích của tất cả kinh giáo. Cảnh giới Thánh vốn không có lời nói, nhưng Như lai khéo léo phân biệt, vì muốn làm cho chúng sinh lìa chấp đắm, hiển bày tánh. Nếu hoặc chấp thì sai đối với lý, cho nên khuyên rằng chớ chấp lời nói, quý ở chỗ được ý quên lời, như dụ ngón tay chỉ mặt trăng, ở đây nên đạt được điều đó.  LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO KINH CHÚ GIẢI <卷>QUYỂN 2 (Phần 1) <詞>Phẩm 2: NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM Đại Tuệ hỏi về Như Lai Tàng của Phật: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn: Trong kinh Phật nói kho Như lai tự tánh thanh tịnh, chuyển ba mươi hai tướng vào trong thân tất cả chúng sinh, như hạt châu quí ở trong túi áo nhơ. Như lai tàng thường trụ không thay đổi cũng giống như vậy, cột trong chiếc áo nhơ ấm giới nhập và tham dục, sân si, vọng tưởng chẳng thật, các thứ bụi trần làm nhơ bẩn. Đây là lời giảng nói của tất cả các Đức Phật, tại sao Thế tôn đồng với ngoại đạo nói rằng ta nói có Như lai tàng ư! Bạch Đức Thế tôn! Ngoại đạo cũng nói có tác giả thường tồn, lìa ngoài hạt bụi nhỏ cùng khắp chẳng diệt. Bạch Đức Thế tôn! Họ nói có ngã”. Trong ngoài ngôn giáo hoặc có tương tự, nếu không phân rõ thì tà sẽ lẫn lộn với chánh, cho nên Đại Tuệ hỏi: “Phật nói có Như lai tàng đồng với ngoại đạo chấp đắm có thần ngã”. Trước hết nói Như lai tàng tánh thanh tịnh, thể lìa nhiễm ô gọi là thanh tịnh. Như lai tạng này chúng sinh và Phật vốn đồng hay các Đức Phật ngộ điều này khởi dụng ứng thân ba mươi hai tướng. Chúng sinh quên điều Phật ngộ nên chuyển tịnh thành nhiễm, cho nên nói chuyển nhập vào trong chân chúng sinh như hạt châu quí ở trong túi áo nhơ v.v… là ví dụ để hiển bày rất dễ hiểu. Vì sao Đức Thế tôn v.v… Chính là lời kiết vấn. Nói cũng nói có tác giả thường tồn… tức là ngoại đạo chấp thần ngã là thường, đó là năng tác. Lìa các duyên như ấm sở y… thì trùm khắp không diệt nên nói lìa hạt bụi nhỏ cùng khắp chẳng diệt. Kia nói có ngã là ý cho lời nói này đồng với Như lai tàng. Phật giải thích: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Ta nói Như lai tàng chẳng đồng với ngã của ngoại đạo nói. Này Đại Tuệ! Có khi nói không, vô tướng, vô nguyện, như thật tế, pháp tánh, pháp thân, Niết-bàn, lìa tự tánh bất sinh không diệt xưa nay vắng lặng tự tánh Niết-bàn. Những câu như vậy đều nói Như lai tàng. Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, vì dứt cái sợ vô ngã của kẻ ngu, cho nên nói lìa vọng tưởng vô. Nhân ấm nối nhau Duyên và bụi nhỏ Thắng tự tại tạo Tâm lượng vọng tưởng”. Nhân ấm nối nhau: Nhân là ngã, ấm là năm ấm. Ngã ấm này nối nhau không dứt, ngoại đạo chấp pháp này từ tà nhân duyên và bụi nhỏ cùng Thắng tự tại làm tác, tác tức là sinh. Nhưng kia không biết đây chỉ do tâm lượng vọng tưởng mà thôi!. Xin Phật dạy pháp tu hành không xen hở: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ quán chúng sinh đời vị lai, lại thỉnh Thế tôn: Cúi xin nói cho chúng con nghe pháp tu hành không xen hở như các Đại Bồ-tát tu hành đại phương tiện”. Đại Tuệ đã nghe nhập tam giải thoát môn mau chứng đắc Bồ-đề. Bồ-đề là đạo quả, quả chẳng có nhân hạnh thì không thành, hành chẳng có phương tiện thì chẳng tiến, cho nên vì căn cơ chúng sinh đời vị lai nên thưa hỏi cho rõ. Không xen hở, là không xen lẫn gián đoạn. Phật dạy thành tựu bốn pháp được tu hành đại phương tiện: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát thành tựu bốn pháp được tu hành đại phương tiện. Bốn pháp ấy là khéo phân biệt tự tâm hiện, quán ngoại tánh phi tánh, lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt, và được tự giác Thánh trí thiện lạc. Đó là Đại Bồ-tát thành tựu bốn pháp tu hành đại phương tiện”. Trong đây, đáp thành tựu bốn pháp là đại phương tiện, phương tiện có nhiều môn, bốn pháp là đại phương tiện, cho nên khác với các phương tiện kia. Nhưng bốn thứ này không ngoài tu tánh nhân quả, nghóa là toàn tánh khởi tu từ nhân đến quả. Ý nghóa của bốn pháp này thấy ở văn sau. Đại Bồ-tát khéo phân biệt tự tâm hiện: “Thế nào là Đại Bồ-tát khéo phân biệt tự tâm hiện? Nghóa là quán ba cõi chỉ do giới hạn của tâm, lìa ngã, ngã sở không dao động, lìa đến đi, do thói quen huân tập luống dối từ vô thỉ, các thứ sắc hành trong ba cõi trói buộc thân tài, lập ra vọng tưởng tùy nhập hiện. Đó gọi là Đại Bồ-tát khéo phân biệt tự tâm hiện”. Trong phần giải thích phân biệt tự tâm hiện. Nói quán ba cõi chỉ do giới hạn của tâm, ba cõi do vọng tưởng sanh khởi, vọng tưởng không ngoài tự tâm, giới hạn là giới hạn. Biết rõ ngoài tâm không có pháp thì hai thứ chấp người và pháp đều lìa, đâu còn có động tác đến đi, chỉ do huân tập vọng tưởng từ vô thỉ nên có các thứ năm ấm trong ba cõi trói buộc. Nói sắc hành là lược nêu hai ấm trong năm ấm. Do có thân năm ấm nên có tư thân tài vật lập ra. Các pháp như thế đều do tự tâm vọng tưởng hiển hiện, nếu biết xưa nay vắng lặng thì đâu có sinh diệt, đó là khéo phân biệt. Bồ-tát khéo quán ngoại tánh phi tánh: “Thế nào là Bồ-tát khéo quán ngoại tánh phi tánh? Nghóa là tất cả tánh như lửa, mộng v.v… tất cả cảnh giới Như lai tàng môn. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát đời vị lai, hiện tại không nên chấp đắm ngã kiến”. Trong đây đáp trước y theo pháp có phân chia khác nhau. Nói rằng: ta nói Như lai tàng ban đầu không có ngã tướng, chỉ là bày chân phá vọng nên nói ngã và vô ngã, khác với cái ngã do vọng chấp của ngoại đạo. Nói không, vô tướng, vô nguyện là ba không. Không là tánh không, vô tướng là tướng không, vô nguyện là tánh tướng đều không, chẳng có nguyện. Như mé thật, là mé thật chân như. Pháp tánh: Pháp là phép tắc, tánh là không thay đổi. Pháp thân: là phép tắc khuôn mẫu lại lấy pháp tánh làm thân. Niết-bàn là diệt độ. Hoặc nói lìa tự tánh, hoặc nói bất sinh bất diệt, hoặc nói xưa nay vắng lặng, hoặc nói tự tánh Niết-bàn. Các danh từ như vậy đều là tên khác của Như lai tàng. Như lai dùng nhiều danh từ để giảng nói nghóa Như lai tàng. Vì muốn cho chúng sinh lìa ngã, nhưng do căn cơ ưa thích khác nhau có người sợ nghe danh từ vô ngã, nói cảnh giới vô sở hữu lìa vọng tưởng. Lìa vọng tưởng tức vô ngã, đó gọi là Như lai tàng môn. Môn là năng thông, muốn chúng sinh nhập vào môn này, cho nên khuyên rằng không nên chấp chặt. Dẫn thí dụ tổng kết hiển bày: “Ví như người thợ gốm, với một đống đất, dùng phương tiện nhân công, nước, cây, bánh xe quay, mà tạo thành các món đồ. Như lai cũng giống như thế, nói pháp vô ngã lìa tất cả tướng vọng tưởng, dùng các thứ trí tuệ phương tiện khéo léo, hoặc nói Như lai tàng hoặc nói vô ngã. Do nhân duyên ấy nên nói Như lai tàng chẳng đồng với cái ngã của ngoại đạo nói, đó gọi là thuyết Như lai tàng. Vì khai mở dắt dẫn các ngoại đạo chấp ngã nên nói Như lai tàng, giúp họ lìa vọng tưởng ngã kiến chẳng thật mà vào cảnh giới ba môn giải thoát, hy vọng mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác khởi nói Như lai tàng như thế. Nếu không như vậy thì đồng với ngoại đạo. Cho nên Này Đại Tuệ! Vì lìa kiến chấp của ngoại đạo nên phải nương Như lai tàng vô ngã”. Thí như ở dưới trích dẫn thí dụ tổng kết hiển bày. Một đống đất vốn không có món đồ chắc chắn nhưng người thợ gốm dùng phương tiện nhân công có thể làm thành các món đồ. Dụ pháp vô ngã cũng giống như vậy. Vốn không chắc chắn có tên, do dùng trí tuệ phương tiện nói các thứ tên, như trước nói không, vô tướng, đến Niết-bàn… cho nên tổng kết nói: Hoặc nói Như lai tàng, hoặc nói vô ngã, tên tuy khác nhau nhưng nghóa thì không khác. Vì khai mở dẫn dắt ngoại đạo chấp ngã nên nói Như lai tàng, muốn cho họ lìa chấp chặt, nhập ba môn giải thoát thành Đẳng chánh giác, đâu có đồng với kiến chấp thần ngã của ngoại đạo. Ba giải thoát là tánh tịnh giải thoát, viên tịnh giải thoát, phương tiện tịnh giải thoát. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghóa trên: “Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Vọng tưởng luống dối vô thỉ tập, nhờ quán tất cả tánh, tự tánh. Đại Bồ-tát khéo khởi quán ngoại tánh phi tánh như vậy, gọi là Đại Bồ-tát khéo quán ngoại tánh phi tánh”. Trước quán trong tâm, ở đây tu quán bên ngoài, hai thứ tu quán này nên tùy nghi, chẳng phải dùng cả hai. Nói ngoại tánh phi tánh là biết rõ pháp tánh bên ngoài, chẳng phải do bốn tánh như tự tha… mà sinh, nghóa là các tánh dương diệm, huyễn, mộng. Tất cả pháp này đều do vọng tưởng thói quen từ vô thỉ làm nhân, cho nên đều chẳng thật như dương diệm, mộng v.v… Đó gọi là khéo quán ngoại tánh phi tánh. Bồ-tát lìa kiến chấp sinh trụ diệt: “Thế nào là Đại Bồ-tát lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt? Nghóa là tất cả tánh như huyễn, như mộng, tánh tự tha và chung bất sinh, tùy nhập giới hạn của tự tâm, cho nên thấy ngoại tánh phi tánh. Thấy thức bất sinh và duyên không chứa nhóm, thấy vọng tưởng duyên sinh ở trong ba cõi, tất cả pháp trong ngoài đều không thật có. Thấy lìa tự tánh thì chấp sinh sẽ diệt, biết tự tánh các pháp như huyễn v.v… đắc pháp nhẫn vô sinh. Đắc pháp nhẫn vô sinh rồi thì lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt, đó gọi là Đại Bồ-tát khéo phân biệt, lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt”. Lìa kiến chấp sinh, trụ, diệt, nghóa là như mộng, huyễn… là nhắc lại pháp quán ở trước. Thấy thức bất sinh trở xuống chính là nói về lìa kiến chấp. Nói do trước quán vì trong thấy tâm thức bất sinh, bên ngoài duyên trần không chứa nhóm, mỗi mỗi tìm kiếm tánh đều không thật có, cho nên nói bất sinh. Bất sinh mà sinh, do vọng tưởng duyên sinh trong ba cõi, các pháp trong ngoài đều đồng một lý, đều không thật có thì lìa tự tánh. Vì lìa tánh nên duyên sinh và kiến chấp đều vắng lặng. Như vậy chứng biết các pháp như huyễn, tức là pháp nhẫn vô sinh. Bất sinh thì không diệt, các kiến chấp sinh, trụ, diệt đều lìa. Bồ-tát được Tự giác Thánh trí thiện lạc: “Thế nào là Đại Bồ-tát được Tự giác Thánh trí thiện lạc? Nghóa là được pháp nhẫn vô sinh, trụ Địa thứ tám của Bồ-tát, được lìa tâm, ý, ý thức, năm pháp, ba tự tánh, hai tướng vô ngã, được thân ý sinh”: Tự giác Thánh trí này là được pháp nhẫn vô sinh, ban đầu phá vô minh hiển bày pháp tánh. Nói thiện lạc: Nghóa là đã được vô sinh rồi, lấy dó làm vui. Lại rói rằng: trụ địa Bồ-tát thứ tám, đây là địa thứ tám của Thông giáo. Bồ-tát đạt đến địa vị này thì mới chứng pháp nhẫn vô sinh, các giáo khác giải thích không thể được, lìa tâm ý thức… đã chứng vô sinh thì có pháp nào để lìa, là chẳng phải lìa mà lìa. Được thân ý sinh, là gốc khởi dụng cũng bỏ ý, được dụng của ý. Nói về ý sanh thân: Bạch Đức Thế tôn! Thân ý sinh là nhân duyên gì? Phật bảo Này Đại Tuệ! Thân ý sinh, Thí như ý đi nhanh chóng, không gì làm ngăn ngại, nên gọi là ý sinh. Thí như ý đi qua vách đá không ngăn ngại nơi phương khác cách vô lượng do-diên, nhân ngày trước đã thấy nhớ nghó chẳng quên, tự tâm trôi chảy chẳng dứt, nơi thân sinh vô chướng ngại. Này Đại Tuệ! Thân ý sinh như thế có đủ trong cùng một lúc. Thân ý sinh của Đại Bồ-tát do năng lực Tam-muội như huyễn tự tại thần thông diệu tướng trang nghiêm, thân chủng loại sinh trong cùng một lúc. Cũng như thân ý sinh không có chướng ngại, tùy chỗ nhớ nghó cảnh giới nguyện xưa, vì thành tựu chúng sinh mà được tự giác Thánh trí thiện lạc”. Thân ý sinh: ý có ba nghóa, lấy đó làm ví dụ: 1. Nhanh chóng. 2. Vô ngại. 3. Đến khắp. Vì nói Bồ-tát được Tam-muội như huyễn hiện thân nhiếp hóa chúng sinh cũng có ba nghóa này. Phàm phu ý đến mà thân không đến được, thân ý đều đến chỉ có bậc Thánh và người có thần thông mới được như vậy. Nói Tam-muội như huyễn tự tại thần thông, là ý năng sinh. Diệu tướng trang nghiêm thân chủng loại Thánh là thân sở sinh. Cùng sinh trong một lúc giống như ý sinh, là pháp dụ dẫn hợp. Thành tựu chúng sinh là giúp cho họ cũng được thiện lạc. Bồ-tát được pháp nhẫn Vô sinh: “Đại Bồ-tát được pháp nhẫn vô sinh như vậy, trụ địa Bồ-tát thứ tám của, chuyển xả thân, tâm, ý, ý thức, năm pháp, ba tự tánh, hai tướng vô ngã và được thân ý sinh, được tự giác Thánh trí thiện lạc”. Đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu bốn pháp, được tu hành đại phương tiện, phải học như thế. Bồ-tát nương bốn pháp này tu hành, thì được từ nhân đến quả, khởi dụng hóa tha, cho nên khuyên rằng thường học như thế. Về tướng nhân duyên của tất cả các pháp: “Khi ấy, đại Bồ-tát Đại Tuệ! Lại thỉnh Thế tôn: Cúi xin nói cho chúng con nghe tướng nhân duyên của tất cả các pháp. Nhờ hiểu được tướng nhân duyên, con và các Bồ-tát lìa tất cả tánh vọng chấp hữu, vô không có chấp vọng tưởng dần dần đồng sinh ra”. Trên nói tu hành chứng vô sinh nhẫn, nhưng lý vô sinh không hề lìa pháp do nhân duyên sinh. Nếu hiểu rõ ý chỉ này thì sẽ lìa các vọng chấp, cho nên Đại Tuệ vì chúng mà thỉnh. Nói dần dần đồng sinh ra, nghóa là các pháp tiệm sinh, đốn sinh này đều là tà kiến. Nghóa thấy ở văn dưới. Phật dạy tất cả các pháp có hai thứ duyên: Phật bảo Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp có hai thứ duyên tướng là bên trong và bên ngoài. Nhân bên ngoài duyên là hòn đất, cây cọc, bánh xe, nước, gỗ, nhân công, các thứ phương tiện làm thành cái bình. Như cái bình đất, tơ lụa, lát chiếu giống mần, tô lạc… phương tiện duyên sinh cũng giống như vậy. Đó gọi là duyên bên ngoài trước sau chuyển sinh. Nhân duyên trong ngoài đều có nghóa thân sơ, nghóa là thân sinh làm nhân, sơ trợ giúp làm duyên. Duyên bên ngoài, hợp có chữ nhân, hòn đất làm nhân, cây cọc bánh xe… làm duyên hòa hợp làm thành cái bình, bình tức là pháp sở sinh. Bình đất nhân duyên đã như vậy. Chẳng hạn như bốn thứ tơ lụa v.v… cũng giống như vậy. Nói trước sau chuyển sinh, nghóa là nhân trước duyên sau xoay vần mà sinh. Thế nào là duyên bên trong: “Thế nào là duyên bên trong? Nghóa là pháp vô minh ái nghiệp v.v… được gọi là duyên. Từ đó sinh pháp ấm, giới, nhập, từ duyên sinh khởi, không có khác nhau, mà người ngu vọng tưởng, đó gọi là pháp duyên bên trong”. Trước nói ngoại là y báo, ở đây nói nội là chánh báo. Nói vô minh nghiệp… sinh pháp ấm, giới, nhập: đây là mười hai nhân duyên. Do quá khứ vô minh hành, mà sinh ấm, nhập, giới, hiện tại cũng do nghiệp ái đời hiện tại sinh ấm, giới, nhập đời vị lai. Cho nên được gọi là pháp duyên bên trong khởi. Kia không khác nhau, nghóa là vốn không có tiệm sinh, đốn sinh khác nhau, chỉ do phàm phu vọng tưởng phân biệt. Nhân có sáu thứ: Này “Đại Tuệ! Nhân ấy có sáu thứ, đó là Đương hữu nhân, Nối tiếp nhân, Tướng nhân, Tác nhân, Hiển thị nhân và Đãi nhân. Đương hữu nhân là tạo nhân rồi pháp trong ngoài sinh. Nối tiếp nhân, là tạo phan duyên rồi pháp trong ngoài sinh ra hạt giống của ấm. Tướng nhân là tạo tướng không xen hở nối nhau sinh. Tác nhân là làm việc tăng thượng như vua chuyển luân. Hiển thị nhân là việc vọng tưởng sinh rồi tướng hiện năng tác sở tác như đèn chiếu sáng các hình sắc v.v… Đãi nhân, là khi diệt thì làm nối nhau dứt bỏ vọng tưởng sinh”. Đương hữu nhân, là nhân sở tác là pháp do căn trần sinh ra, là nhân hiện tại, có công năng chiêu cảm quả đương lai. Nối tiếp nhân, nghóa là căn trần phan duyên thành nghiệp thiện ác, tiếp tục hạt giống ấm về sau, quả lại làm nhân. Tướng nhân, nghóa là tạo nghiệp tướng thiện ác không xen hở, nhân quả nối nhau không dứt. Tác nhân, nghóa là đối với nhân lại làm nhân, như vua chuyển luân đã được quả báo tốt lại gieo trồng nhân tốt gọi là tăng thượng. Hiển thị nhân, nghóa là phàm phu vọng tưởng việc sinh phải có nhân, cảnh tướng năng tác, sở tác như ngọn đèn soi chiếu vật, rõ ràng thấy được. Đãi nhân, nghóa là khi vọng tưởng diệt thì trở lại tạo tác, khi tạo tác thì trở lại diệt. Nếu niệm nối nhau dứt thì không còn tánh vọng tưởng sinh, do vọng đối đãi với không vọng, đó gọi là đãi nhân. Pháp do sáu nhân sinh ra: Này “Đại Tuệ! Người ngu kia tự tướng vọng tưởng, chẳng thứ lớp sinh, chẳng đồng thời sinh. Vì sao? Vì nếu là đồng thời sinh thì năng tác, sở tác không phân biệt, không được nhân tướng. Nếu thứ lớp sinh, thì chẳng được ngã tướng. Cho nên thứ lớp sinh mà chẳng sinh, như bất sinh con thì không được gọi là cha mẹ” Đây là pháp lục nhân sinh, chẳng phải hai thứ tướng sinh, chỉ vì phàm phu vọng tưởng phân biệt, cho nên nói không thứ lớp sinh, không đồng thời sinh. Vì sao? Vì tổng kết bất sinh. Nếu tất cả pháp đốn sinh thì nhân năng tác, pháp sở tác không có phân biệt, tìm nhân tướng kia không thật có. Nếu tất cả pháp tiệm sinh mà tìm thể tướng kia cũng không thật có. Cho nên dụ rằng nếu bất sinh con thì đâu được gọi là cha. Nên lìa kiến chấp thứ lớp và đồng sinh: Này “Đại Tuệ! phương tiện nối nhau thứ lớp sinh, không đúng, chỉ do vọng tưởng mà thôi. Vì phan duyên với duyên thứ đệ, duyên tăng thượng v.v… làm năng sinh và sở sinh. Này Đại Tuệ! Thứ lớp sinh bất sinh, tự tánh vọng tưởng chấp đắm tướng. Thứ lớp và đồng sinh đều bất sinh, vì tự tâm hiện thọ dụng nên tự tướng, cộng tướng, ngoại tánh chẳng có tánh. Này Đại Tuệ! Thứ lớp và đồng sinh đều bất sinh, trừ tự tâm hiện, bất giác vọng tưởng nên có tướng sinh. Cho nên, nhân duyên làm việc tướng phương tiện phải lìa kiến chấp thứ lớp và đồng thời sinh”. Thứ lớp nối nhau phương tiện cầu tướng sinh kia đã không thật có, cho nên nói không đúng, chỉ vọng gọi là sinh! Nói nhân phan duyên v.v… nghóa là bốn duyên. Tâm duyên trần cảnh gọi là phan duyên, cũng gọi là nhân duyên. Pháp tâm số thứ lớp sinh gọi là thứ đệ duyên. Khi các pháp sinh, tùy tâm hiện bất sinh chướng ngại, gọi là tăng thượng duyên. Tâm gá vào duyên mà sinh, như tâm thức sinh nhãn thức, gọi là duyên duyên. Nói v.v… là đẳng ư duyên duyên. Nói sinh sở sinh nghóa là vọng tưởng từ bốn duyên này mà sinh, trong đó cầu cũng không thật có, cho nên nói thứ lớp sinh bất sinh. Vì bốn duyên này cũng là vọng chấp, cho nên tiệm và đốn đều bất sinh, chỉ tự tâm hiện thọ dụng. Nhưng đối với ngoại tánh tự tướng cộng tướng, suy cầu cũng vô tự tánh, chỉ trừ kẻ ngu tự sinh vọng tưởng. Cho nên khuyên rằng: nên lìa kiến chấp thứ lớp và đồng sinh. Các pháp thứ lớp và đốn siêu đều bất sinh: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Tất cả đều vô sinh, Cũng chẳng nhân duyên diệt Đối với sinh diệt kia, Mà nghó là nhân duyên Chẳng ngăn diệt lại sinh Nối nhau nhân duyên khởi Chỉ vì dứt phàm ngu, Duyên vọng tưởng si hoặc Pháp duyên khởi hữu vô, Thảy đều không có sinh, Bởi thói quen mê chuyển, Từ đây ba cõi hiện”. Tất cả đều vô sinh, là nói tất cả các pháp thứ lớp và đốn siêu đều bất sinh. Đã nói bất sinh thì đâu có diệt ư! Chỉ do gốc mê mà nghó là sinh diệt. Chẳng ngăn diệt lại sinh, sở dó Đức Phật dạy bất sinh không diệt, chẳng phải nói thật duyên khởi vô sinh diệt, mà vì dứt vọng tưởng cho phàm phu nên nói như vậy. Nếu nghiên cứu bản tánh kia sinh chỗ nào, diệt chỗ nào, chỉ do thói quen mê hoặc từ vô thỉ xoay vần nên có ba cõi sinh diệt. Ba hữu tức ba cõi. Chúng sanh kiến chấp sanh diệt đối với chân như thật lý: “Duyên vô sinh Chân thật, Cũng lại không có diệt, Quán tất cả hữu vi, Như hoa đốm trong không, Năng nhiếp và sở nhiếp, Lìa bỏ kiến hoặc loạn, Chẳng đã sinh sẽ sinh, Cũng lại vô nhân duyên, Tất cả vô sở hữu, Đây đều là lời nói” Ví như hoa đốm trong hư không là nói chúng sinh đối với chân như thật lý, mà sanh kiến chấp sinh diệt, như dụi mắt thấy hoa đốm. Năng nhiếp và sở nhiếp chính là năng thủ sở thủ, đối với cảnh giới căn trần này, không thấy có tướng hữu vô hoặc loạn… thì đã sinh, sẽ sinh, tất cả hữu vô là lời nói giả danh. Nói tất cả vô sở hữu: Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin vì nói Lời nói Vọng Tưởng Tướng Tâm kinh. Bạch Đức Thế tôn! Con và các Đại Bồ-tát nếu khéo biết Lời nói Vọng Tưởng Tướng Tâm kinh thì có thể thông đạt hai thứ nghóa lời nói và sở thuyết, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Dùng hai thứ lời nói và sở thuyết làm thanh tịnh tất cả chúng sinh. “Trên đây là nói tất cả vô sở hữu, ở đây đều là lời nói, nhưng phàm ngu đối với lời nói thường sanh các vọng tưởng, không thể hiểu lý. Này Đại Tuệ! Nêu câu hỏi rằng Tâm kinh tức danh tướng, vọng tưởng mà kinh này nói là hiển bày tâm Đệ nhất nghóa”. Hai thứ nghóa, Kinh Nhập Lăng-già chép: Thông đạt nghóa năng thuyết sở thuyết, mau chứng Vô thượng Bồ-đề, giúp cho tất cả chúng sinh đối với hai nghóa cũng được thanh tịnh. Bốn thứ lời nói là dùng lời bỏ lời: “Phật bảo Đại Tuệ: lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó ta, sẽ nói cho ông nghe, Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Lành thay, xin vâng thọ giáo. Phật bảo Này Đại Tuệ! Có bốn tướng lời nói vọng tưởng, đó là tướng lời nói, mộng lời nói, quá vọng tướng chấp đắm lời nói và vô thỉ vọng tưởng lời nói. Tướng lời nói, là từ vọng tướng sắc tướng chấp đắm của mình mà sinh. Mộng lời nói là cảnh trước đã trải qua tùy theo nhớ nghó một cảnh nào mà sinh, từ khi giác rồi cảnh giới vô tánh sinh. Quá vọng tưởng chấp đắm lời nói, là trước do oán tạo ra nghiệp, tùy theo sự nhớ nghó mà sinh. Vô thỉ vọng tưởng lời nói, là lỗi luống dối chấp chặt từ vô thỉ do tự chủng tập khí sinh. Đây gọi là bốn thứ tướng lời nói vọng tưởng”. Trong lý chân thật, lìa một tướng lời nói còn có thể được, đâu thể có bốn. Như lai nói bốn thứ ấy là dùng lời bỏ lời, tuy nói Đệ nhất nghóa tâm cũng nên lìa chấp, huống chi bốn thứ này đều nói chúng sinh vọng tưởng. Tướng lời nói, nghóa là từ vọng tưởng sắc tướng phân biệt tự tướng cộng tướng do tự tâm hiện mà sinh ra. Mộng lời nói, nghóa là nhớ nghó các cảnh giới đã trải qua, hình ảnh trong mộng mà có lời nói, nhưng khi thức dậy thì cảnh giới không thật, cho nên nói vô tánh. Quá vọng tưởng chấp đắm lời nói, nghóa là ngày xưa có kẻ thù làm hại ta, về sau nhớ lại mà sinh tức giận. Vô thỉ vọng tưởng lời nói, nghóa là thói quen nói những lời vô nghóa do thói quen vọng chấp sinh ra. Nếu lìa được bốn thứ vọng tưởng lời nói này thì hiển bày lý mầu chân thật. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi về cảnh giới do lời nói vọng tưởng hiện ra, và Phật trả lời: Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại dùng nghóa này khuyến thỉnh Thế tôn: Cúi xin lại nói cảnh giới do lời nói vọng tưởng hiện ra. Bạch Đức Thế tôn! Chỗ nào? Cớ gì? Tại sao? Vì nguyên nhân gì chúng sinh vọng tưởng lời nói sinh: Đây hỏi chỗ lời nói sinh khởi. “Phật bảo Đại Tuệ: Do đầu, ngực, cổ, họng, mũi, môi, lưỡi, nướu răng hòa hợp mà phát ra âm thanh. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Lời nói và vọng tưởng là khác hay chẳng phải khác? Phật bảo Đại Tuệ: Lời nói và vọng tưởng chẳng phải khác nhau, chẳng phải không khác nhau vì sao? Vì nhân ấy sinh ra tướng. Này Đại Tuệ! Nếu lời nói và vọng tưởng khác nhau, thì vọng tưởng chẳng phải là nhân. Nếu chẳng khác thì lời nói chẳng hiển được nghóa, mà thật có hiển được nghóa, cho nên chẳng phải khác, chẳng phải không khác” bảy chỗ đầu… hơi thở nương nhau hòa hợp phát ra âm thanh mà thành lời nói. Đã nương các duyên mà sinh thì âm thanh là vọng, cho nên có câu hỏi thứ hai là khác không khác, Phật đáp chẳng phải khác chẳng phải không khác, vì phân biệt làm nhân khởi lời nói đó thôi! Lại bảo: Khác thì lẽ ra không nên gọi vọng tưởng là nhân, không khác thì lời nói lẽ ra không hiển bày được nghóa, nhưng sao có lời nói hiển bày, cho nên nói chẳng phải khác chẳng phải không khác. Phải lìa các tướng nói năng vọng tưởng: “Đại Tuệ lại bạch Phật: bạch Đức Thế tôn! Lời nói tức là Đệ nhất nghóa hay sở thuyết tức là Đệ nhất nghóa? Phật bảo Đại Tuệ: lời nói chẳng phải là Đệ nhất nghóa, sở thuyết cũng chẳng phải là Đệ nhất nghóa. Vì sao? Vì Đệ nhất nghóa Thánh lạc, chỗ lời nói nhập vào, ấy là Đệ nhất nghóa, chẳng phải lời nói là Đệ nhất nghóa, Đệ nhất nghóa chỉ có Thánh trí tự giác mới đạt được. Chẳng phải lời nói vọng tưởng mà giác được cảnh giới. Cho nên lời nói vọng tưởng không hiển bày được Đệ nhất nghóa. Lời nói là sinh diệt dao động xoay vần do nhân duyên khởi. Nếu xoay vần do nhân duyên sinh khởi thì nó không hiển bày được Đệ nhất nghóa. Này Đại Tuệ! Vì tướng tự tha vô tánh, nên tướng lời nói chẳng hiển bày được Đệ nhất nghóa. Lại nữa Này Đại Tuệ! Vì tùy nhập tự tâm hiện lượng nên tánh của các tướng bên ngoài là chẳng có tánh. Lời nói vọng tưởng không hiển bày được Đệ nhất nghóa. Cho nên Này Đại Tuệ! Phải lìa tướng lời nói các tướng vọng tưởng”. Lời nói là giáo năng thuyên. Sở thuyết là lý sở thuyên, hỏi: ý nghóa của hai thứ này, đâu là Đệ nhất nghóa? Phật đáp năng thuyết, sở thuyết đều chẳng phải là Đệ nhất nghóa, tuy sở thuyên là lý mà chẳng phải các diệu của tự đắc, dường như phải mà chẳng phải. Nhưng chỗ Thánh lạc do lời nói mà vào được, chẳng phải lời nói là nghóa bậc nhất. Nhưng chỗ lạc của Thánh trí là diệu dụng tự đắc, cho nên nói chẳng phải lời nói vọng tưởng giác được cảnh giới. Lời nói không thể hiển bày được Đệ nhất nghóa, có ba: a) Lời nói vượt ra ngoài sinh tử dao động, xoay vần duyên khởi vô thường. b) Lời nói vấn đáp có tướng tự tha. c) Lời nói vọng tưởng không rõ các tướng duy tâm là vô. Cho nên răn rằng: Phải lìa các tướng lời nói vọng tưởng. Chỉ có bậc Thánh trí là chứng thật tế: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa trên nên nói kệ rằng: “Các tánh vô tự tánh Lại cũng không lời nói Nghóa sâu xa không không Ngu si không hiểu được Tất cả tánh tự tánh Pháp lời nói như bóng Con Thánh trí tự giác Thật tế ta đã nói” Các tánh vô tự tánh, lìa tâm duyên tướng. Cũng lại không nói năng, là lìa tướng lời nói. Đã bặt dứt lời nói suy tư, đó gọi là Đệ nhất nghóa không. Kẻ ngu mê muội lý này thì rơi vào tất cả tánh tự tánh của ba cõi… nghóa là tất cả pháp có tự tánh thì có lời nói, nhưng đều không thật như bóng, chỉ có bậc Thánh trí chứng thật tế là điều ta đã nói. Tổng kết khuyến thính giúp cho đầy đủ hạnh nguyện lợi tha: Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin vì nói lìa một, khác, cùng, chẳng cùng, hữu, vô, chẳng phải hữu, chẳng phải vô, thường, vô thường, chỗ chẳng thực hành của tất cả ngoại đạo, là chỗ thực hành của tự giác Thánh trí, lìa vọng tưởng, tự tướng, cộng tướng, nhập vào Đệ nhất nghóa chân thật. Các địa nối nhau tiến lên được tướng thanh tịnh, nhập vào bất cứ một địa tướng nào của Như lai, không khai phát bản nguyện. Vì như châu ma-ni có các hình sắc, cảnh giới vô biên tướng hành, tự tâm hiện các cõi, tất cả các pháp. Con và các Đại Bồ-tát lìa kiến chấp vọng tưởng tự tánh, tự tướng, cộng tướng như vậy… mau thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giúp tất cả chúng sinh được tất cả an vui đầy đủ sung mãn. Xét rằng “Lìa bốn câu dứt đoạn phi”, là cửa đầu tiên để Bồ-tát vào đạo, cho nên nêu lên để đặt câu hỏi. Trước nêu tướng bốn câu, bốn câu từ một khác đến vô thường có ba: Ban đầu bốn câu một khác hợp lại nói một, khác, vừa khác vừa không khác, không khác chẳng phải không khác, câu là vừa khác vừa chẳng khác, bốn câu là chẳng khác chẳng phải không khác. Bốn câu có không, hợp nói có, không, vừa có vừa không, chẳng phải có chẳng phải không. Bốn câu thường, vô thường, hợp nói thường, vô thường, vừa thường vừa vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Văn kinh tóm lược, không nêu đầy đủ. Ba điều nghi bốn câu này mỗi câu đều có tông chấp, tất cả ngoại đạo chính là chấp vào điều này. Nói chẳng hành là không thể lìa, chỉ có Thánh trí mới lìa được bốn câu, không chấp có tự tướng, cộng tướng, sẽ chứng giai vị Đệ nhất nghóa chân thật, dần dần trải qua các giai vị, chứng đến Phật địa. Bản nguyện không khai phát, Kinh Nhập Lăng- già chép: Vì năng lực bản nguyện vô công dụng, vì tự tu hành đã mãn lại dùng bổn nguyện đến khắp các cõi Phật hóa độ các chúng sinh. Ví như viên ngọc như ý hiện cảnh giới không nào là không hiện. Vô biên tướng hạnh, tướng là địa tướng, hạnh là hạnh tu hành, tuy vô biên đều do tâm hiện, tướng tất cả pháp khác nhau. Bộ phận tức là khác nhau. Con và các Đại Bồ-tát v.v… là tổng kết khuyến thỉnh giúp cho đầy đủ hạnh nguyện tự tha. Khởi chấp có hai lý do: “Phật bảo Đại Tuệ: Lành thay! Lành thay! Ông nên hỏi ta nghóa như vậy, được nhiều an vui, vì được nhiều lợi ích, thương xót tất cả các trời và người đời. Phật bảo Đại Tuệ: Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó, ta sẽ giải thích nói rộng cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Lành thay Thế tôn! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Phàm phu ngu si chẳng biết tâm lượng, chấp tánh trong ngoài, nương vào một khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường vô thường, tự tánh là tập nhân chấp đắm vọng tưởng”. Trong đây đáp, ban đầu y cứ chung vào pháp nói có hai: 1.Không biết tự tâm hiện lượng, đối với ấm thân bên trong chấp có pháp bên ngoài, đối với tướng đồng khởi kiến chấp đồng, đối với tướng khác khởi kiến chấp khác, nương hai thứ này mà khởi kiến chấp vừa, lìa hai thứ này mà khởi chấp không vừa, đối với có, không, thường, vô thường giống đều như vậy. 2. Tự tánh tập nhân, do thói quen nhiều đời huân tập mà khởi vọng kiến tà chấp. Đoạn văn dưới có mười hai ví dụ, đều có pháp có dụ có hợp, có đồng có khác, tùy văn chia ra từng mục. Nếu ví dụ để làm sáng tỏ: “Thí như bầy nai quá khát nước, thấy sóng nắng trong mùa xuân mà tưởng là nước, mê loạn chạy đến tìm, mà không biết chẳng phải nước. Cũng thế, người ngu luống dối vọng tưởng huân tập từ vô thỉ, ba độc đốt tâm ưa cảnh giới sắc, thấy sinh trụ diệt chấp tánh trong ngoài, rơi vào tưởng một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, vọng chấp nhiếp thọ”. Nai khát nước thấy sóng nắng không biết chẳng phải nước, người ngu ưa vui mà khồng biết vui là nhân khổ. Nói vọng tưởng huân tập là nghóa tự tánh tập nhân. Chấp tánh trong ngoài… chính là khởi chấp. Thành càn-thát-bà do vọng chấp mà có: “Như thành Càn-thát-bà, kẻ phàm ngu vô trí tưởng là có thành, do tập khí chấp đắm tướng từ vô thỉ hiện ra. Kia chẳng phải có thành, chẳng phải không thành. Như vậy, ngoại đạo có thói quen luống dối chấp đắm từ vô thỉ, y nơi chấp thấy một, khác, đồng, không đồng, có không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, không biết rõ tự tâm hiện lượng”. Càn-thát-bà vốn chẳng phải thành, kẻ ngu vô trí do vọng tưởng huân tập mà tưởng là có thành. Đây là dụ cho ngoại đạo không thấu đạt tự tâm hiện khởi vọng chấp một, khác v.v… Tâm khởi chấp nhớ nghó cảnh không bỏ: “Thí như có người nằm mộng thấy nam, nữ, voi, ngựa, xe cộ, thành ấp, vườn rừng, núi sông, ao hồ các thứ trang nghiêm, tự thân vào trong ấy, khi thức rồi vẫn nhớ này. Này Đại Tuệ! Ý ông nghó sao? Như vậy những kẻ só phu đối với việc mộng trước còn nhớ chẳng bỏ, vậy có thông minh chăng? Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Không. Phật bảo Đại Tuệ: Phàm phu cũng thế bị ác kiến nhai nuốt, ngoại đạo trí tuệ mà chẳng biết như mộng tự tâm hiện tánh, y nơi kiến chấp một, khác, vừa, chẳng vừa, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường”. Mộng thấy cảnh chẳng phải thật sự, mà còn nhớ nghó không bỏ, chẳng phải ngại thì là gì. Đây là dụ cho ngoại đạo tà chấp, không hiểu rõ do tâm khởi các kiến chấp. “Thí như tượng vẽ chẳng cao chẳng thấp, mà kẻ ngu kia tưởng có cao thấp. Ngoại đạo đời sau cũng thế ác kiến thói quen dẫy đầy, nương vào kiến chấp một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, tự hoại và hoại người. Còn có các luận thuyết khác lìa hữu, vô, vô sinh, cũng là lời nói vô, kiến chấp bài bác nhân quả, nhổ gốc lành, phá hoại nhân thanh tịnh. Người thắng cầu phải xa lìa. Nói như vậy là họ rơi vào kiến chấp tự, tha, đồng, là vọng tưởng có không, chìm trong lập ra và chê bai, do ác kiến ấy sẽ rơi vào địa ngục”. Ví dụ tượng vẽ để so sánh với ác tập khởi kiến: Đây là ví dụ tượng vẽ, để so sánh với ác tập khởi kiến của ngoại đạo hoại mình, hoại người. Còn luận thuyết lìa hữu, vô, vô sinh là chỉ cho chánh giáo, luận chánh giáo lìa kiến chấp vô sinh, mà kia trở lại cho đây là đồng, tự mình thấy cũng là lời nói vô. Thắng cầu, nghóa là cầu pháp thù thắng, nên lìa kiến chấp này. Vì ngoại đạo kia chấp vào tà kiến sẽ rơi vào đường ác, vậy không sợ hay sao! Ví dụ để nói về chẳng phải tánh, chẳng phải vô tánh: Thí như mắt nhặm thấy có tóc rũ, liền bảo mọi người rằng “các anh hãy xem đây”, mà tóc rũ thật chẳng phải tánh chẳng phải vô tánh, vì thấy và chẳng thấy. “Cũng thế ngoại đạo vọng kiến hy vọng, nương vào kiến chấp một, khác, đồng, không đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, chê bai chánh pháp, tự đọa và làm người đọa”. Trong đây ví dụ nói chẳng phải tánh, chẳng phải vô tánh, do chấp có tóc rũ cho nên nói chẳng phải vô tánh, do không chấp có tóc rũ nên nói chẳng phải tánh, các văn khác rất dễ thấy. Kiến chấp điên đảo của ngoại đạo: “Thí như vòng lửa chẳng thật có vòng, người ngu tưởng có vòng, là chẳng phải người có trí. Cũng vậy, ngoại đạo ác kiến hy vọng, nương vào kiến chấp một, khác, đồng, chẳng đồng, có không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, sinh tất cả tánh”. Đây là dụ cho tà tâm chấp cảnh của ngoại đạo, không mà cho là có, khởi các kiến chấp. “Thí như bọt nước giống như hạt châu ma-ni, đứa trẻ ngu không biết tưởng là ma-ni, chấp mê đi tìm. Nhưng bọt nước kia chẳng phải châu ma-ni, không chẳng phải châu ma-ni, chấp và chẳng chấp. Cũng vậy, ngoại đạo ác kiến vọng tưởng do thói quen huân tập, đối với vô sở hữu mà nói có sinh, duyên vào hữu nói diệt”. Trong ví dụ bọt nước, đối với vô sở hữu nói có sinh, nghóa như ví dụ trước. Do không phải phí nên không có nói có, và đối với nhân duyên chính nói có chỗ, thì lại nói đoạn diệt. Đây là kiến chấp điên đảo của ngoại đạo, các trường hợp khác đều như thế. Tu và mê muội không tu: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Có ba thứ lượng năm phần luận, mỗi thứ được lập ra rồi, đắc Thánh trí tự giác, lìa việc hai tự tánh, mà sinh vọng tưởng chấp đắm có tánh”. Ba thứ lượng: hiện lượng, tỷ lượng và Thánh ngôn lượng. Lượng: nghóa là khuôn mẫu chắc chắn, thí như đong lường các vật. Hiện lượng: Hiện là hiển hiện, tự thân chứng đắc pháp thể lìa vọng phân biệt, chẳng có sai lầm. Tỷ lượng: Tỷ là so sánh, so sánh đo lường mà biết các thứ kia, như cách núi mà thấy khói thì biết có lửa, cách tường mà thấy sừng thì biết có trâu, tuy chẳng phải đích thân thấy nhưng cũng chẳng phải luống dối. Thánh ngôn lượng: Nghóa là dùng chánh giáo của Như lai làm chuẩn mực. Năm phần luận gồm: 1.Tông. Nhân. 3.Dụ. 4.Hợp. 5.Kiết. Ba thứ tông, nhân, dụ cũng gọi là ba chi tỷ lượng. Hợp kiết chỉ thành ba nghóa này thôi! Như ngoại đạo vọng chấp âm thanh là thường, đối với âm thanh tập lượng rằng: Âm thanh có pháp chắc chắn thường làm tông. Nhân nói rằng: Vì tánh là sở tác cho nên đồng dụ như hư không, nhưng hư không chẳng làm ra tánh cho nên trong nhân bất chuyển, dẫn dụ không đều thì lập thành là thường không thành. Nếu trong Phật pháp, thì thanh là vô thường, lập lượng nói: Âm thanh là có pháp chắc chắn, vô thường làm tông. Nhân nói rằng: Vì có tánh sở tác, đồng dụ như bình chậu; như kinh Lăng-nghiêm chép: Âm thanh lẫn lộn lời nói, chỉ nương vào danh cú vị, chẳng lẽ là thường ư! Ngoại đạo chấp các thứ tự cho là lỗi của người. Nếu không phá bỏ lập lượng kia thì chấp do đâu mà phá, cho nên Như lai tóm lược ba thứ lượng, năm phần luận, tùy theo mỗi thứ dựng lập, tu thì được tự giác Thánh trí, lìa được duyên khởi vọng tưởng hai thứ tự tánh, nhưng kẻ ngu mê chấp giáo vẫn chấp có tánh, vọng tưởng phân biệt. Bốn chấp gọi là nuôi lớn: Này “Đại Tuệ! Tâm, ý, ý thức, thân tâm chuyển biến, tự tâm hiện năng nhiếp, sở nhiếp các vọng tưởng dứt. Như lai địa tự giác Thánh trí, người tu hành không đối với kia khởi nghó là tánh, phi tánh. Nếu người tu hành đối với cảnh giới thuộc về tánh, phi tánh như thế mà còn sinh chấp tướng thì đó là chấp nuôi lớn chấp ngã nhân”. Kinh Nhập Lăng- già chép: Các người tu hành chuyển tâm, ý, thức, lìa năng thủ sở thủ, trụ vào Như lai địa, tự chứng Thánh pháp, đối với hữu và vô không khởi vọng tưởng. Này Đại Tuệ! Những người tu hành, nếu đối với cảnh giới sanh ra chấp có, chấp không, thì chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, được gọi là nuôi lớn, là một trong mười sáu tri kiến. Ngoại đạo do cọng tập nêu khởi các kiến chấp: Này “Đại Tuệ! Nếu nói tánh kia tự tánh, tự tướng, cộng tướng, tất cả đều do hóa Phật nói ra, chẳng phải pháp Phật nói. Lại nữa, các lời nói đều do kẻ ngu hy vọng kiến chấp mà sinh. Chẳng phải vì dựng lập riêng hướng về pháp tự tánh, người được Thánh trí tự giác Tam-muội lạc thú mới phân biệt hiển bày! Như lai nói pháp có thật, có quyền”. Nếu nói các pháp tánh kia thì là pháp quyền do hóa Phật nói. Nếu nói cảnh tự giác Thánh trí Tam-muội lạc thì là pháp thật do chư Phật nói. Nói đều do kẻ ngu hy vọng kiến chấp mà sinh, thì thật ra căn cơ chưa thuần thục, chỉ nói pháp quyền thôi! “Thí như trong nước có bóng cây hiện, nó chẳng phải bóng, không phải chẳng phải bóng, chẳng phải hình cây, không phải chẳng phải hình cây. Cũng thế, ngoại đạo do kiến tập huân thành vọng tưởng chấp đắm, nương vào tưởng một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, mà không thể hiểu biết tự tâm hiện lượng. Thí như gương sáng tùy tâm hiển hiện tất cả sắc tượng mà không vọng tưởng. Kia chẳng phải tượng, không phải chẳng phải tượng, mà thấy tượng, chẳng phải tượng. Như thế, ngoại đạo ác kiến đối với tự tâm tượng hiện mà vọng tưởng chấp đắm, nương vào kiến chấp một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường. Thí như gió và nước hòa hợp phát ra tiếng. Kia chẳng phải tánh, không phải chẳng phải tánh. Cũng thế, ngoại đạo ác kiến vọng tưởng nương vào kiến chấp một, khác, đồng, chẳng đồng, có không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường. Ví như quả đất chỗ không có cỏ cây, do sức nắng nóng thấy như suối chảy, sóng dậy, mây nhóm, đó chẳng phải tánh, không phải chẳng phải tánh, vì tham và không tham. Cũng như thế, kẻ ngu bị thói quen luống dối huân tập từ vô thỉ vọng tưởng chấp đắm nương vào sinh, trụ, diệt, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, duyên vào sự môn tự trụ, cũng như nắng nóng, sóng mòi kia. Ví như có người dùng chú thuật làm cho máy phát động, chẳng phải trong số chúng sinh, do quỷ Tỳ-xá-xà phương tiện hợp thành dao động lăng xăng, kẻ ngu vọng tưởng chấp đắm có qua lại. Cũng như thế, ngoại đạo ác kiến hy vọng, nương vào kiến chấp một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, nói lời vô nghóa chấp đắm chẳng thật lập ra. Này Đại Tuệ! Cho nên muốn được việc tự giác Thánh trí thì phải lìa các ác kiến vọng tưởng như sinh, trụ, diệt, một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường…” Năm ví dụ trên từ ngữ đồng mà ý nghóa khác, đều dụ cho ngoại đạo vọng tập từ vô, thỉ, không biết các pháp duy tâm nên khởi các chấp bày một, khác, v.v… Nói ý của dụ, chủ yếu giúp cho lìa kiến chấp, hiển tánh. Tổng kết khuyên rằng: Cho nên muốn được tự giác Thánh trí phải lìa các ác kiến vọng tưởng như sinh, trụ, diệt, một đồng… Chú thuật làm cho máy phát động: ngoại đạo ở phía Tây Ấn Độ chú thuật giúp cho quỷ Tỳ-xá-xà vào trong người gỗ đi động như con người, thật chẳng phải chúng sinh, chẳng phải thuộc số chúng sinh. Phật lặp lại bảy ví dụ để nêu lên rằng vốn không có gì mà hiện có chúng sanh: “Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này mà nói kệ rằng: Huyễn mộng, nước bóng cây, Tóc rũ, như dương diệm Quán ba cõi như thế, Rốt ráo được giải thoát Ví như nai bị khát, Chạy tìm tâm mê loạn, Nai tưởng cho là nước, Mà thật không có nước Cũng vậy, hạt giống thức, Động chuyển thấy cảnh giới, Người ngu vọng tưởng sinh, Như mắt bị màng che Đối sinh tử vô thỉ, Chấp đắm tánh nhiếp thọ Như ngược chốt tháo chốt, Lìa bỏ tham nhiếp thọ, Như huyễn chú máy động, Mây trôi, mộng, điện chớp, Quán vậy được giải thoát, Dứt hẳn ba nối nhau Đối kia không có làm, Giống dương diệm, hư không Biết các pháp như thế, Tức là không biết gì Ngôn giáo chỉ giả danh, Kia cũng không có tướng Đối kia khởi vọng tưởng, Ấm hành như tóc rũ Như vẽ, tóc rũ, huyễn, Mộng, thành Càn-thát-bà Vòng lửa, như dương diệm, Vô mà hiện chúng sinh Thường, vô thường, một, khác, Đồng, chẳng đồng cũng vậy Lỗi vô thỉ nối nhau, Kẻ ngu si vọng tưởng Gương sáng, nước trong mắt, Hạt ngọc báu ma ni Trong ấy hiện các sắc, Mà thật chẳng thật có Tất cả tánh hiển hiện, Như vẽ, như dương diệm Các thứ sắc hiển bày, Như mộng, chẳng thật có” Bài kệ trên đây nói huyễn, mộng, bóng cây mặt nước… là tụng chung văn trên, nhưng ví dụ có lặp lại, văn xen lẫn nhau. Lặp lại ba điều, như dụ mắt nhặm, tóc rũ và mộng, gần bốn lần nêu ra, dụ dương diệm gồm ba lần nêu ra, dụ vẽ tượng lại hai lần nêu ra. Riêng văn tụng trên có bốn, như thành Càn-thát-bà… thiếu bài tụng chỉ nêu ra hai. Như âm thanh và bóng nước, nêu riêng có sáu, như chốt, như mây nổi, như điện, như nước, như mắt sáng, như ngọc ma-ni, đều không có trong văn xuôi. Vả lại ở đây còn tóm lược phân chia, tùy văn mà giải thích. Ban đầu bốn ví dụ mộng…, đều nêu rõ về huyễn, cho nên lấy việc huyễn làm đầu. Nhưng văn xuôi vốn nói rõ phàm phu ngoại đạo vọng khởi kiến chấp. Nay dùng huyễn quán ba cõi do họ không thông đạt lý huyễn, cho nên khởi kiến chấp lại nói về huyễn. Ba thứ nối nhau, y theo văn sau nêu tức ba độc. Nói không biết gì tức là không biết các pháp như huyễn, đó gọi là biết có giác. Đã biết như huyễn thì không biết gì. Ngôn giáo chỉ là giả danh, nghóa là bốn câu ngôn giáo hữu, vô, v.v… vốn chỉ là giả danh không có thật tướng, do họ không biết nên khởi vọng tưởng. Các ấm tưởng, hành….. tức là thật pháp. Lại nói rằng: Như vẽ, tóc, rũ, huyễn…. gồm lặp lại bảy ví dụ để nêu rõ vốn không có gì mà hiện có chúng sinh, đều là văn trong bài tụng, các văn khác đều rất dễ hiểu. Nêu chung nghi thức nói giúp: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Như lai nói pháp lìa bốn câu như thế, đó là một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường vô thường, xa lìa hữu vô, lập ra chê bai, phân biệt kiết tập chân đế duyên khởi, đạo, diệt, giải thoát. Như lai nói pháp lấy đó làm đầu, chẳng phải tánh, chẳng phải tự tại, chẳng phải vô nhân, chẳng phải hạt bụi nhỏ, chẳng phải thời, chẳng phải tự tánh nối nhau, nói pháp cho nghe. Lại nữa, Này Đại Tuệ! Vì sạch phiền não và chướng sở tri. Thí như người đi buôn thứ lớp dựng lập một trăm lẻ tám câu không thật có, khéo phân biệt các thừa và tướng các địa”: Đoạn này nêu chung nghi thức nói pháp. Vì Như lai nói pháp thường nương nhị đế như nói “lìa cú dứt phi”, thì chân đế không thể nói. Lại nói rằng ly bốn câu rồi không phòng bốn thuyết, thì tục đế có thể nói. Tức bốn thứ không thể nói trong kinh Niết-bàn, có nhân duyên nên cũng có thể được nói. Nói khéo phân biệt kiết tập: như trên nói bốn câu như một, khác… đều là ngoại đạo tà kiến tức là kiết tập, do khổ trôi lăn trong sinh tử, nên khéo phân biệt ngay nơi vọng bày chân, chẳng phải ngoài vọng có chân riêng, cho nên nói chân đế duyên khởi. Nếu mến diệt tu đạo thì được tất cả giải thoát. Giải thoát tức bất tư nghị tục đế. Hai đế này, không hai mà hai, hai mà không hai. Như lai chứng hai đế này tức tự tu hành và hóa độ chúng sinh cho nên nói lấy đó làm đầu. Chẳng phải tánh v.v… chẳng phải thắng tánh mà ngoại đạo chấp. Chẳng phải trời Tự tại… không có nhân duyên nói pháp cho người nghe. Lại bảo rằng: Vì sạch phiền não và sở tri chướng. Phiền não tức hoặc chướng, nhó-diệm tức trí chướng, thanh tịnh hai chướng này thì thứ lớp có thể nhập vào một trăm lẻ tám câu trong pháp vô tướng, đến nơi phân biệt các thừa và tướng các địa đều là lành. Như lai khéo dẫn dắt như vậy cũng như người đi buôn dẫn dắt những người đi buôn khác. Có bốn thứ thiền: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Có bốn thứ thiền, bốn thứ thiền ấy là ngu ngu sở hành thiền, quán sát nghóa thiền, Phan duyên như thiền và Như lai thiền”. Trên đây là nói lìa hoặc chướng và trí chướng, năng nhập pháp môn mà Như lai chứng đắc, nhưng chẳng phải định Thủ- lăng-nghiêm, thì không thể đến được. Lại nói về bốn thứ thiền định, vì chẳng phải dùng cạn để nêu rõ sâu, nêu gồm có ba cách nói: “Thế nào là kẻ ngu sở hành thiền? Nghóa là Thanh văn, Duyên giác ngoại đạo tu hành, quán người vô ngã, tự tướng, cộng tướng, các lóng xương, là tướng vô thường, khổ, bất tịnh, chấp đắm làm đầu. Tướng như vậy chẳng quán khác, trước sau chuyển tiến tướng chẳng dứt trừ. Ấy gọi là kẻ ngu sở hành thiền”. Kẻ ngu thiền, là nói ngoại đạo, Nhị thừa tu dùng pháp kia quán người vô ngã, không thể biết tự tâm hiện lượng, tự tướng, cộng tướng, tánh không đều do kẻ ngu vọng chấp. Lóng xương: là Tiểu thừa quán xương lóng của thân mình và người liền nhau đều do tướng khổ, vô thường, bất tịnh, đối trị vọng chấp quán này làm đầu. Nói tướng như vậy chẳng quán khác: nghóa là trong định thấy tướng không khác với quán, tướng quán này thành. Tuy thứ lớp tăng tiến đến định vô tưởng, nhưng không lìa tướng, đó gọi là kẻ ngu thiền. “Thế nào là Quán sát nghóa thiền? Nghóa là người vô ngã, tự tướng, cộng tướng, ngoại đạo, tự, tha đều vô tánh rồi, quán pháp vô ngã, nghóa tướng địa kia thứ lớp tăng tiến, đó gọi là Quán sát nghóa thiền”. Quán sát nghóa thiền là Bồ-tát thiên giáo tu, nghóa là nhân ngã v.v… lặp lại điều trước đã lìa. Ngoại đạo, tư, tha… Kinh Nhập Lăng-già chép: Cũng lìa ngoài đạo, tự, tha, đồng, tánh, đối với nghóa tướng các địa của pháp vô ngã mỗi pháp đều thuận theo quán sát. “Thế nào là phan duyên như thiền? Nghóa là vọng tưởng theo hai thứ vô ngã vọng tưởng, chỗ như thật bất sinh vọng tưởng, đó gọi là phan duyên như thiền. Phan duyên như thiền là hạnh tu của Bồ-tát Đốn giáo, Kinh Nhập Lăng-già gọi là Duyên chân như thiền. Duyên tức là quán, chân như tức là lý, nghóa là quán lý sẽ dứt vọng tưởng. Vọng tưởng chính là chấp người và chấp pháp”. Hai vô ngã, là quán hai chấp đều không. Nếu chỉ phân biệt, tâm còn chấp xả thì đó là vọng tưởng. Nếu hiểu rõ hai thứ chấp đương thể tức không, chẳng có đối đãi thì đó gọi là chỗ như thật bất sinh vọng tưởng. “Thế nào là Như lai thiền? Nghóa là vào cõi Như lai, được tướng giải thoát Thánh trí, ba thứ lạc trụ, thành tựu việc không thể suy nghó bàn luận cho chúng sinh. Đó gọi là Như lai thiền”. Như lai thiền tức là định Thủ-lăng-nghiêm, tu thiền định này được lên địa Diệu giác, rốt ráo tự giác Thánh trí. Ba thứ lạc trụ, Phật dùng định Thủ-lăng-nghiêm làm pháp năng trụ, cõi Thường tịch quang làm pháp sở trụ. Thường tịch quang tức ba đức Niết-bàn. Ba thứ lạc trụ kia là do đây. Sự không thể suy nghó bàn luận là công dụng nhiệm mầu vô tác, nghóa là toàn thể khởi dụng thành tựu chúng sinh.. Phật dùng bài kệ để lặp lại ý nghóa bốn thứ thiền: Khi ấy Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Thiền phàm phu thực hành, Thiền quán sát tướng nghóa Thiền phan duyên như thật, Như lai thanh tịnh thiền Thí như hình trời trăng, Bát-đầu-ma sâu hiểm Như hư không lửa hết, Người tu hành quán sát Các thứ tướng như vậy, Đạo thông thiền ngoại đạo Cũng rơi vào Thanh văn Và cảnh giới Duyên giác Lìa bỏ tất cả kia Tức là vô sở hữu Các Phật tất cả cõi Dùng tay không nghó bàn Cùng lúc đều xoa đảnh Thuận theo nhập tướng ấy”, Thí như hình mặt trời, mặt trăng, v.v… vượt ngoài tướng thiền để nói lên được mất, nghóa là ở trong định hoặc thấy như hình mặt trời, mặt trăng, hoặc thấy Bát-đầu-ma, Hán dịch là hoa sen hồng, hoặc thấy biển có hình dáng sâu thẳm nguy hiểm, hoặc như hư không, hoặc như lửa hết, đều thành tàn lửa. Nếu người tu hành thấy các tướng như vậy hiện ra thì không nên chấp đắm, chấp thì sẽ rơi vào trong tà thiền của ngoại đạo, và cảnh giới Nhị thừa. Phải khéo quán sát, đều phải lìa bỏ, chẳng thấy trong đó có một pháp thật có. Thì không có chỗ để nhập vào Như lai thiền. Phật nói có ba thứ Niết-bàn: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Nhập Niết-bàn, nói pháp gì gọi là Niết-bàn”. Niết-bàn có ba thứ, là ngoại đạo vọng chấp Niết-bàn, Nhị thừa chấp chứng Niết-bàn, Như lai rốt ráo Niết-bàn. Ba thứ Niết-bàn này tên tuy giống nhau mà thật thì rất khác nhau, nếu không dùng pháp để đính chính danh từ ấy, thì Như lai tạng và phàm phu Tiểu thừa lẫn lộn, không thể không làm rõ nghi vấn này. Dù chuyển nhưng tự thể không chuyển: “Phật bảo Đại Tuệ: Tất cả tự tánh, thói quen, tạng, ý, ý thức, kiết tập chuyển biến gọi là Niết-bàn. Các Đức Phật và Niết-bàn của ta là cảnh giới tự tánh không sự”. Tất cả tự tánh thói quen, Kinh Nhập Lăng- già chép: tất cả thức tự tánh thói quen vậy, tức là thói quen phân biệt tánh chấp của tâm thức tất cả chúng sinh. Tạng, ý, ý thức, tức tàng thức và sự thức: Ở đây nói tự tâm, đều nói là tập, do ái kiến vọng tưởng huân tập từ vô thỉ. Chuyển biến, nghóa là chuyển tạng thức sự thức thành cảnh giới tự giác Thánh trí, gọi là Niết-bàn. Nhưng tất cả chúng sinh tức là tướng Niết-bàn thì có gì để chuyển biến. Đó là chuyển mà thể không chuyển. Các Đức Phật và ta, Phật nghóa là Niết-bàn rốt ráo này, ta và các Đức Phật đồng chứng. Chứng không có chứng khác, chỉ thoát khỏi sinh tử tức là Niết-bàn. Tánh Niết-bàn cũng không thật có, đó gọi là cảnh giới không sự. Niết-bàn không hoại không diệt: Lại nữa, Này Đại Tuệ! Niết-bàn là cảnh giới Thánh trí tự giác, lìa đoạn thường, vọng tưởng tánh, phi tánh. Thế nào là phi thường? Nghóa là tự tướng, cộng tướng vọng tưởng dứt cho nên phi thường. Thế nào là phi đoạn? Nghóa là tất cả các bậc Thánh quá khứ, hiện tại, vị lai được tự giác gọi là phi đoạn”. Lìa tình cho nên phi thường, hiển bày tánh cho nên phi đoạn. Này “Đại Tuệ! Niết-bàn không hoại không chết. Nếu Niết-bàn chết thì, lại phải thọ sinh nối nhau. Nếu hoại thì lẽ ra rơi vào tướng hữu vi. Cho nên, Niết-bàn lìa hoại lìa chết. Vì vậy cho nên là chỗ nương về của người tu hành” Niết-bàn nói không hoại không chết, là đối với có hoại có chết mà nói. Vì Niết-bàn là lý bất sinh bất diệt. Nếu phàm phu là có hoại có chết, thì Tiểu thừa vào chân không Niết-bàn, nguội thân vô thân, diệt trí vô trí, cũng có thể gọi là bất hoại bất tử. Tuy lìa sinh phần đoạn, lại thọ sinh biến dịch, vậy là có tướng nối nhau. Tuy lìa chỗ có lại chấp chỗ không, là thuộc pháp hữu vi. Nay Niết-bàn của Như lai lìa các tướng này, đó gọi là chỗ trở về của người tu hành Đại thừa. Tổng kết nghóa trên: Lại nữa Này Đại Tuệ! Niết-bàn chẳng phải xả, chẳng phải đắc, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, chẳng phải một nghóa, chẳng phải nhiều nghóa, đó gọi là Niết-bàn. Tiết này là tổng kết nghóa trên. Nói chẳng phải một là phi không, chẳng phải nhiều là phi giả. Phi không phi giả là nói lên trung đạo Đại Niết-bàn. “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Niết-bàn của Thanh văn, Duyên giác là giác được tự tướng cộng tướng, cảnh giới chẳng tu tập gần gũi, chẳng có kiến chấp điên đảo, vọng tưởng chẳng sinh, các vị ấy đối với kia nghó là Niết-bàn. Nhị thừa đối với ấm giới nhập, tự tướng, cộng tướng, thực hành quán khổ không vô thường vô ngã, tha thiết nhàm chán sinh tử, không ưa tu tập gần gũi”. Nói chẳng có kiến chấp điên đảo là dứt kiến hoặc. Vọng tưởng bất sinh là dứt tư hoặc. Đã diệt khổ tập mà chứng chân không, cho nên nói đối với kia khởi nghó Niết-bàn. “Này Đại Tuệ! Hai tướng tự tánh. Hai tướng ấy là tướng lời nói tự tánh chấp đắm và sự tướng tự tánh chấp đắm. Lời nói tự tánh tướng chấp đắm là từ vô thỉ lời nói luống dối, thói quen khí chấp đắm sinh ra. Sự tự tánh tướng chấp đắm, là từ bất giác tự tâm hiện giới hạn sinh”. Hai thứ tánh tướng khởi mỗi thứ đều có nguyên nhân. Như kinh nói, nếu hiểu các pháp lời nói tánh không, chỉ do tâm hiện thì có gì để chấp đắm ư! Sự tức các pháp. Hai thứ thần lực kiến lập: “Lại nữa này Đại Tuệ! Như lai dùng hai thứ thần lực lập ra. Đại Bồ-tát đảnh lễ các Đức Phật nghe nhận hỏi nghóa. Thế nào là hai thứ thần lực lập ra? Nghóa là thần lực trong Tam-muội chánh thọ, vì hiện tất cả thân, vẻ mặt, lời nói và thần lực tay quán đảnh”. Hai thứ thần lực lập ra, Kinh Nhập Lăng-già chép: Các Đức Phật có hai thứ gia trì thì các Bồ-tát khiến đảnh lễ dưới chân Phật thưa hỏi các nghóa, Tam-muội tức là chánh thọ. Đây là Hoa Phạm gồm nêu, cũng dịch là chánh tâm hành xứ. Do thần lực Phật nên được thấy Phật: Này “Đại Tuệ! Đại Bồ-tát khi được Địa thứ nhất Bồ-tát trụ thần lực Phật, nghóa là nhập Tam-muội Bồ-tát Đại Thừa Chiếu Minh. Nhập Tam-muội này rồi thì tất cả các Đức Phật trong các thế giới ở mười phương, dùng năng lực thần thông, vì hiện tất cả thân, vẻ mặt, lời nói, như Đại Bồ-tát Kim Cương Tạng và các Bồ-tát khác tướng công đức như thế thành tựu Đại Bồ-tát”. Trụ thần lực Phật, do thần lực Phật có thể thấy Phật. Lại do gốc lành Tam-muội của Bồ-tát có công năng cảm ứng đến các Đức Phật, cho nên gọi là nhập Tam-muội Đại Thừa Chiếu Minh, tức định quang minh. Do định nên thấy Phật nghe pháp. Như Kim cương tạng, tức trong hội Hoa Nghiêm, một vị Bồ-tát được Phật lực che chở, so sánh một với nhiều, cho nên nói và các Bồ-tát khác. Tổng kết lại hiển bày: Này “Đại Tuệ! Đó gọi là Bồ-tát Địa thứ nhất. Đại Bồ-tát được thần lực Tam-muội chánh thọ của Bồ-tát trong trăm ngàn kiếp chứa nhóm gốc lành thành tựu, thứ lớp các địa đối trị sở trị, thông đạt rốt ráo đến Pháp Vân địa, trụ trong cung điện nhiệm mầu đại liên hoa, ngồi tòa sư tử báu Đại Liên Hoa, đồng loại với Đại Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, các thứ báu anh lạc trang nghiêm thân, như hoa chiêm bặc vàng ròng, sáng sáng mặt trời mặt trăng”. Các bậc Tối thắng tử từ mười phương đến, đến ngồi trên tòa trên cung điện Đại Liên Hoa, mà quán đảnh kia. Thí như Tự Tại chuyển luân Thánh vương và Thái tử của trời. Đế-thích được quán đảnh, đó gọi là Bồ-tát tay quán đảnh thần lực này. Này Đại Tuệ! Đây gọi là Đại Bồ-tát hai thứ thần lực. Nếu Đại Bồ-tát trụ hai thứ thần lực này, tạn mặt thấy các Đức Phật Như lai, nếu không như vậy thì không thể thấy trong trăm ngàn kiếp. Ở đây nói sở dó hàng Bồ-tát Địa thứ nhất được gia bị, thứ lớp các địa trở xuống từ cạn đến sâu. Thí như Tự tại trở xuống lại nêu ra việc quán đảnh. Nếu không như vậy thì không thể thấy, tổng kết lại hiển bày. Giải thích nghóa che chở: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát hễ có hành phân biệt Tam- muội thần túc các pháp, thì những vị ấy tất cả đều trụ trong hai thứ thần lực của Như lai. Này Đại Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát lìa thần lực của Phật mà giảng nói, được thì tất cả phàm phu cũng nên giảng nói được. Vì sao? Vì không trụ thần lực. Này Đại Tuệ! Núi đá cây cối và các thứ nhạc khí thành quách cung điện, do năng lực oai thần của Như lai khi nhập thành đều tự nhiên phát ra tiếng âm nhạc, huống chi là người hữu tâm, mù điếc câm ngọng, vô lượng các khổ, đểu được giải thoát. Như lai có vô lượng thần lực như thế làm lợi ích an vui chúng sinh”. Hễ có phân biệt trở xuống, lại giải thích nghóa che chở, huống chi sau khởi ý giải thích. Nghóa là Bồ-tát hễ có giảng nói các pháp Tam-muội, đều do trụ thần lực của Phật, tức do phàm huống chi Thánh, ý nói Bồ-tát nếu lìa thần lực thì không thể nói, huống chi là phàm phu. Nếu được thần lực thì tuy vật vô tình cũng đều hữu dụng. Huống chi hữu tình mà không được thoát khổ ư! Nhưng nói phàm phu không trụ thần lực, chính là Thánh lấn đoạt phàm! Lại nói rằng: Như lai có thần lực như vậy, tức Như lai ở trong đại định vắng lặng mà thường chiếu nói xứng tánh, lập bày muôn thứ không gì là chẳng được, cũng đâu có ý đối với kia ư! Lý do vì sao Như lai che chở Bồ-tát? “Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Vì saoNhư lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, vì sao khi Đại Bồ-tát khi trụ Tam-muội chánh thọ, và khi thắng tiến địa quán đảnh thì được Phật dùng thần lực che chở? Phật bảo Đại Tuệ? Vì lìa nghiệp ma phiền não và chẳng rơi vào thiền Thanh văn địa, vì được Như lai tự giác địa và tăng tiến pháp sở đắc. Cho nên Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác đều dùng thần lực lập ra các vị Đại Bồ-tát. Nếu không dùng thần lực lập ra thì sẽ rơi vào ngoại đạo ác kiến vọng tưởng, các chúng Thanh văn và chỗ hy vọng của chúng ma, không chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì lý do đó các Đức Phật Như lai đều dùng thần lực, nhiếp thọ các Đại Bồ-tát. Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Thần lực nhân trung tôn, Đại nguyện đều thanh tịnh, Tam-ma-đề quán đảnh, Địa thứ nhất và Thập địa”. Đoạn văn này lại hỏi lý do vì sao Như lai che chở Bồ-tát? Như lai đáp do bốn nghóa, xem kinh sẽ thấy. Vì Bồ-tát sơ tâm đạo lực chưa đầy đủ, nếu không nhờ vào thần lực Như lai che chở thì chẳng những không thể tăng tiến đến Như lai địa, mà còn không thể xa lìa Thanh văn và cảnh giới ma. Ý Như lai từ bi nhiếp thọ, có thể nói là rất sâu sắc. Kệ tụng có giải thích. Nhân duyên có chánh có tà: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Phật nói duyên khởi tức là nói nhân duyên, chẳng tự nói đạo. Thế tôn! Ngoại đạo cũng nói nhân duyên, nghóa là Thắng, tự tại, thời, hạt bụi nhỏ sinh, các tánh sinh như thế. Nhưng Thế tôn bảo là nhân duyên sinh các tánh nói năng, hữu gián tất-đàn và Vô gián tất-đàn” nói nhân duyên có chánh có tà, Phật nói là chánh, ngoại đạo nói là tà. Hai điều này không thể không biết, vậy nên Đại Tuệ đều nêu lên để hỏi. Không tự nói đạo nghóa là Phật nói duyên khởi. Vì không nói duyên khởi, cho nên nói không tự nói đạo, ngoại đạo nói do thắng tự tại v.v… nên các tánh sinh, các tánh tức các pháp, nhưng cùng pháp do nhân duyên sinh do Như lai nói trùng lắp căn cơ ngôn giáo, là hữu gián khác! Hay là Vô gián khác! Tất-đàn tức là căn cơ bốn tất-đàn. Bồ-tát Đại Tuệ thưa hỏi: “Thế tôn! Ngoại đạo cũng nói hữu vô có sinh, Thế tôn cũng nói không có sinh, sinh đã diệt. Như lời Thế tôn nói, vô minh duyên hành cho đến già chết. Đây là Thế tôn nói không nhân, chẳng nói có nhân. Thế tôn lập ra nói như vầy: “đây có nên kia có”, chẳng phải lập ra thứ lớp sinh. Xét ngoại đạo nói Thắng, chẳng phải Như lai. Vì sao? Bạch Đức Thế tôn! Vì ngoại đạo nói nhân, không từ duyên sinh mà có sở sinh. Thế tôn nói quán nhân có sự, quán sự có nhân, như vậy nhân duyên rối loạn, như vậy xoay vần không cùng”. Cũng nói hữu vô có sinh, ngoại đạo nói hữu từ vô hữu sinh, thì là vô nhân mà thôi! Cũng nói vô hữu sinh… Phật nói vô hữu, sinh sinh đã diệt, như vô minh duyên hành v.v… Đâu chẳng phải Phật nói cũng vô nhân ư! Thế tôn lập ra trở xuống, do lẫn lộn khó nói. Phật thường nói đây có nên kia có, thì sinh trong một lúc chẳng phải sinh dần dần, đó chẳng phải chỉ đồng đều mà thôi! Cũng lại thấy thuyết của ngoại đạo là hơn, thuyết của Ngoại đạo nhân là nhân khác. Phật nói không đồng, như quán nhân có sự v.v… đã có lẫn nhau thì thành lẫn lộn, cho nên có lỗi xoay vần vô cùng. Đây đều là chỗ vặn hỏi của Đại Tuệ. Bác bỏ câu hỏi và giải thích ý chính: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói thuyết vô nhân và nhân duyên lẫn lộn. Nói đây có nên kia có, là năng nhiếp sở nhiếp phi tánh, giác tự tâm hiện lượng. Này Đại Tuệ! Nếu chấp đắm năng nhiếp sở nhiếp, không giác tự tâm hiện tượng thì cảnh giới bên ngoài là tánh phi tánh, kia có lỗi như vậy chẳng phải ta nói duyên khởi. Ta thường nói rằng nhân duyên hòa hợp mà sinh các pháp, chẳng phải vô nhân sinh”. Trong đây đáp, trước phá chung nạn kia, tiếp giải thích ý chính. Đây có cho nên kia có, đây là sáu căn, kia tức sáu trần, nghóa là căn trần nương nhau mà khởi. Năng nhiếp, sở nhiếp phi tánh… là hiểu rõ pháp do nhân duyên sinh do tâm hiện, không có năng thủ, sở thủ. Phi tánh là lìa tánh chấp. Nếu chấp đắm năng nhiếp sở nhiếp, Kinh Nhập Lăng-già chép: Nếu không rõ các pháp do tâm hiện, chấp có năng thủ sở thủ, chấp đắm cảnh bên ngoài, hoặc có hoặc không, kia có lỗi như thế, chẳng phải lỗi ta nói, tức lẫn lộn. Kia tức ngoại đạo. Tánh phi tánh tức hữu vô. Nhân duyên hòa hợp mà sinh, chính là đáp câu hỏi vô nhân, đâu có đồng với tà chấp vô nhân của ngoại đạo. “Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Chẳng phải lời nói có tánh, mà có tất cả tánh ư! Bạch Đức Thế tôn! Nếu không tánh thì lời nói chẳng sinh. Cho nên lời nói có tánh. Có tất cả tánh, vì ở trên nói pháp do nhân duyên sinh, liền nghi lời nói có tánh, tất cả các pháp cũng đều có tánh ư! Nếu các pháp vô tánh thì lời nói từ đâu khởi, liền tổng kết thỉnh rằng: Lời nói có tánh, có tất cả tánh.” Tổng kết luận thuyết của đối phương sẽ hoại: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Vô tánh mà có lời nói, nghóa là như sừng, thỏ, lông rùa v.v… Thế gian hiện lời nói. Này Đại Tuệ! Phi tánh chẳng phải phi tánh, chỉ có lời nói mà thôi. Như lời ông nói lời nói có tánh, có tất cả tánh thì lý luận của ông sẽ bị hoại” Phật đáp: do vô tánh mà có lời nói, nghóa là nhân duyên vốn vô tánh, không ngại dùng lời nói để hiển bày, đâu nên cho lời nói là tánh ư! Như thế gian hiện nói lông rùa, sừng thỏ, gái bất dục, cũng vốn vô tánh mà có lời nói, thì phi tánh chẳng phải phi tánh. Nói phi tánh thì chẳng phải thật, chẳng phải phi tánh thì không ngại có lời nói, cho nên chỉ có lời nói mà thôi! Tổng kết bác bỏ rằng luận của ông sẽ hoại, nghóa là đều nói thuyết hữu tánh sẽ hoại. Tùy căn cơ chúng sanh nên việc hóa độ có khác nhau: Này “Đại Tuệ! Chẳng phải tất cả cõi nước có lời nói. Lời nói là tạo tác. Hoặc có cõi Phật nhìn thấy mà nói lên pháp. hoặc có cõi Phật tạo ra hình tướng, hoặc có cõi Phật nhướng mày, hoặc có cõi nước chớp mắt, hoặc cười, hoặc ngáp, hoặc tằng hắng, hoặc cõi nước suy nghó, hoặc dao động. Này Đại Tuệ! Như thế giới chiêm thị và Hương tích, cõi nước Phổ Hiền Như lai chỉ dùng nhìn xem, khiến các Bồ-tát được pháp nhẫn vô sinh và các Tam-muội cao quý. Cho nên chẳng phải lời nói có tánh, có tất cả tánh. Này Đại Tuệ! Thấy ở thế giới này ruồi lằn trùng kiến các chúng sinh ấy không có lời nói, mà mỗi một loài đều hiểu nhau và tất cả việc làm”. Chẳng phải tất cả cõi nước, v. v… chính là nói chưa hẳn đều dùng lời nói, mà lời nói chỉ là tùy duyên tạo tác, làm mà không làm há có tánh ư! Hoặc có cõi Phật nhìn xem mà hiển pháp… Đây là do tùy căn cơ chúng sinh nên việc hóa độ khác nhau. Vì các Đức Phật lập ra giáo hóa không chuyên về âm thanh giáo, hương vị xúc pháp đều là Kinh giáo, đều có thể hiển bảy pháp nhập đạo. Như các thiền gia có người cầm gậy đánh đập, có người dựng chổi, nhướng mày, nhíu mắt để dẫn dắt người, cũng đều không ra ngoài những điều này. Thế gian chỉ dùng lời nói làm giáo, đâu phải chỉ một hạn cuộc. Như Chiêm Thị tức thế giới Bất Thuấn (không nháy mắt). Trước chỉ nêu chung, đây là nêu riêng, như thế giới Hương Tích dùng hương thơm làm Phật sự, lệ theo các trần khác lập ra giáo hóa rất dễ hiểu, đâu phải bậc Thánh chỉ lập ra sự giáo hóa như thế, còn như các loài vật hữu tình nhỏ nhiệm, cũng có loài không nhờ vào lời nói mà vẫn làm xong mọi việc, cho nên thấy ở thế giới này ruồi lằn giòi tửa v.v… Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Như hư không sừng thỏ, Cùng với bàn đại tử. Vô mà có lời nói, Tánh vọng tưởng như vậy Pháp nhân duyên hòa hợp Phàm phu khởi vọng tưởng Không thể biết như thật, Luân hồi trong ba cõi”. Bàn đại tử là thạch nữ nhi (con của gái bất dục), cùng với sừng thỏ… đều dụ cho vốn không mà có tên gọi cũng có pháp vốn vô tánh mà vọng tưởng là tánh. Cho nên nói tánh vọng tưởng như vậy lấy ví dụ pháp do nhân duyên hòa hợp. Kẻ phàm ngu vọng tưởng không thể biết như thật, cho nên có việc luân hồi ba cõi. Vô thường tức là thường, không đồng phàm phu: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: bạch Đức Thế tôn! Tiếng thường ấy là nói việc gì? Phật bảo Đại Tuệ: vì hoặc loạn, vì hoặc loạn ấy các vị Thánh cũng hiện mà chẳng điên đảo. Này Đại Tuệ! Như dương diệm mùa xuân, vòng lửa, tóc rũ, thành Càn-thát-bà, huyễn, mộng, hình ảnh trong gương là điên đảo của thế gian chẳng phải minh trí, song chẳng phải không hiện. Này Đại Tuệ! Hoặc loạn kia có các thứ hiện, chẳng phải hoặc loạn gây ra vô thường. Vì sao? Vì lìa tánh và phi tánh”. Tiếng thường là nói thường pháp. Hỏi: Ý cho là Như lai nói thường, pháp nương vào việc gì mà nói. Hoặc loạn là vô thường, ý Phật chính cho rằng vô thường nói thường, phải thông đạt vô thường tức là thường, cho nên nói các bậc Thánh cũng hiện, nghóa là pháp hoặc loạn sinh tử vô thường, chẳng phải chỉ chúng sinh thật tạo, mà sau khi đắc quả Phật quyền thị hiện đồng chúng sinh, để hiểu rõ vô thường tức là thường, không đồng phàm phu, cho nên nói chẳng điên đảo. Bảy thí dụ như dương diệm mùa xuân, v.v… đó gọi là điên đảo, tuy chẳng phải pháp của bậc minh trí, nhưng cũng chẳng phải không hiện. Lại bảo Đại Tuệ rằng: Hoặc loạn kia v.v… ý nói khi kia vọng pháp hiện tuy có các thứ khác nhau, nhưng chẳng phải vô thường, vì các pháp vốn lìa có không, mỗi pháp tức là tánh, tức là tánh cho nên thường, lìa tánh phi tánh, tức lìa có không. Nói hoặc loạn là thường: Này “Đại Tuệ! Thế nào là lìa hoặc loạn tánh, phi tánh? Nghóa là các thứ cảnh giới của tất cả kẻ ngu. Như nước sông Hằng kia ngạ quỷ thấy chẳng thấy, không có tánh hoặc loạn, vì hiện đối với kẻ khác nên chẳng phải vô tánh. Hoặc loạn như vậy, các bậc Thánh lìa điên đảo và chẳng điên đảo. Cho nên hoặc loạn thường, vì tướng tướng chẳng hoại. Này Đại Tuệ! Chẳng phải các tướng hoặc loạn, tướng vọng tưởng hoại, vậy nên hoặc loạn thường”. Vì sao đoạn sau: Nói pháp hoặc loạn, bậc Thánh thấy tánh vốn thường nên sẽ nói rằng tánh phi tánh, vì sao không thể thông đạt, tức là cảnh giới của kẻ ngu. Như nước sông Hằng kia… Nương vào chỗ thấy của kẻ ngu kia mà nêu làm vì dụ. Ngạ quỷ tuy gần sông Hằng mà không thấy nước, vì thấy nước kia là lửa, cho nên nói thấy không thấy. Thấy tuy có khác, nhưng sông Hằng tự kia thể nó thường như vậy. Không tánh hoặc loạn, nghóa là vì không cho là thấy nên nói là có, không cho không thấy nên nói là không. Tự kia thấy nên nói, chẳng phải không có sông Hằng, cho nên nói thì hiện nơi kẻ khác nên chẳng phải vô tánh. Hoặc loạn như vậy v.v… chính là giải thích nghóa hoặc loạn thường, nghóa là các bậc Thánh do lìa kiến chấp điên đảo và chẳng điên đảo, tức hoặc loạn kia tự thể nó là thường trụ, vì pháp kia là pháp chẳng hoại. Lại nói chẳng hoặc loạn, nghóa là chẳng phải các vọng pháp tự có các tướng khác nhau do kẻ ngu vọng tưởng phân biệt, thấy có tướng khác. Nếu lìa phân biệt vọng pháp tức thường, cho nên nói hoặc loạn là thường. Có ít phần tưởng phải biết đó là lời nói suông của kẻ ngu: Này “Đại Tuệ! Thế nào là hoặc loạn chân thật? Nếu là nhân duyên thì các bậc Thánh đối với hoặc loạn này chẳng khởi điên đảo giác và giác chẳng phải điên đảo. Này Đại Tuệ! Ngoài các bậc Thánh, đối với hoặc loạn này có ít phần tưởng, là chẳng phải sự tướng của Thánh trí. Này Đại Tuệ! Hễ có thì đó là kẻ ngu nói, chẳng phải lời bậc Thánh nói, Kinh Lăng-già chép: Vì sao cho vọng pháp chân thật là các bậc Thánh, đối với vọng pháp, chẳng khởi điên đảo, chẳng giác điên đảo. Nếu đối với vọng pháp có ít phần tưởng, thì chẳng phải Thánh trí. Có ít phần tưởng, phải biết đó là lời nói suông của kẻ ngu, chẳng phải lời của bậc Thánh. Ba thứ chủng tánh của bậc Thánh: “Hoặc loạn kia có vọng tưởng điên đảo và chẳng điên đảo, khởi hai thứ chủng tánh, nghóa là chủng tánh của bậc Thánh và chủng tánh của kẻ ngu. Chủng tánh của bậc Thánh là ba thứ phân biệt, đó là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Phật thừa. Thế nào là kẻ ngu vọng tưởng khởi chủng tánh Thanh văn thừa? Nghóa là chấp đắm tự tướng, cộng tướng, khởi chủng tánh Thanh văn thừa, đó gọi là vọng tưởng khởi chủng tánh Thanh văn thừa. Này Đại Tuệ! Ngay nơi vọng tưởng hoặc loạn kia khởi chủng tánh Duyên giác thừa. Nghóa là ngay nơi hoặc loạn kia, tự tướng, cộng tướng chẳng gần gũi chấp đắm khởi chủng tánh Duyên giác thừa. Thế nào là người trí? Tức đối với hoặc loạn kia khởi chủng tánh Phật thừa? Nghóa là giác tự tâm hiện lượng ngoại tánh, phi tánh, chẳng có tướng vọng tưởng, khởi chủng tánh Phật thừa, đó gọi là tức hoặc loạn kia khởi chủng tánh Phật thừa”. Nói hoặc loạn kia, nghóa là phân biệt vọng pháp là điên đảo, phi điên đảo, thì thành hai thứ chủng tánh. Phi điên đảo là Thánh, điên đảo tức là phàm phu. Trước nêu chủng tánh của bậc lại có ba thứ: Thanh văn, Duyên giác, Phật thừa. Ban đầu trong Thanh văn thừa nói kẻ ngu vọng tưởng khởi, nghóa là kẻ ngu đối với tự tướng cộng tướng của năm ấm, hiểu rõ là vắng lặng mà sinh nhàm chán, xa lìa, liền thành chủng tánh Thanh văn. Duyên giác cũng gọi là tự tướng cộng tướng, đồng nghóa với lìa chấp, chỉ ưa tu xa lìa cho nên nói chẳng gần gũi chấp đắm, đó gọi là chủng tánh Duyên giác. Trong chủng tánh Phật, đặc biệt nói người trí khác với Nhị thừa, cho nên giác tự tâm hiện lượng, các nghóa thấy giải thích ở trước, đó gọi là chủng tánh Phật thừa. Lìa tâm bặt tưởng, chân như lìa niệm, hướng về thì tâm bặt: “Lại các thứ sự tánh, phàm phu lầm tưởng khởi chủng tánh của kẻ ngu. Kia chẳng phải có sự, chẳng phải không sự, đó gọi là nghóa chủng tánh. Này Đại Tuệ! Tức hoặc loạn kia chẳng vọng tưởng. Các bậc Thánh đối với tâm, ý, ý thức lỗi thói quen tự tánh, pháp chuyển biến tánh, đó gọi là Như. Cho nên nói như lìa tâm, ta nói câu này hiển bày lìa tưởng, tức nói lìa tất cả tưởng.” Trong chủng tánh của kẻ ngu nói các thứ sự tánh, nghóa là phân biệt vọng pháp các thứ sự vật, tùy sự chấp đắm để thành tánh kia. Nói kia chẳng có sự, v.v… nghóa là vọng pháp kia chẳng phải sự chẳng phải không sự, tức chẳng có chẳng không, đó gọi là chủng tánh của người ngu. Lại nói rằng: ngay nơi hoặc loạn kia không vọng tưởng, lại nêu lên chủng tánh Phật thừa. Chẳng những đối với vọng pháp không vọng tưởng mà thì còn đối với tâm, ý, ý thức lỗi lầm thói quen tự tánh, pháp chuyển biến tự tánh, thảy đều chuyển biến, chuyển biến cùng cực chính là trở lại tánh kia, đều là như một, vì đều là như nên lìa tâm bặt tưởng. Đây là câu lìa tâm bặt tưởng, nghóa là chân như lìa niệm, hướng về thì tâm bặt. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi, Phật đáp: “Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Có hoặc loạn hay không? Phật bảo Đại Tuệ: Như huyễn không có tướng chấp đắm. Nếu hoặc loạn có tướng chấp đắm thì tánh chấp đắm không thể diệt. Duyên khởi nên như ngoại đạo nói pháp do nhân duyên sinh”. Dưới đây là hỏi đáp có bốn: ban đầu hỏi hoặc loạn nhân có hay không. Trên cho rằng hoặc loạn là thường, là thật, lại cho là làm vọng tưởng, vậy thì quả có hay không? Phật đáp do tướng như huyễn không chấp đắm, ý nói rằng nếu nói vọng pháp là chắc chắn có hay chắc chắn không, đều sinh tánh vọng chấp không thể diệt. Do như huyễn mà nói, nếu không thể hiểu rõ như huyễn thì pháp duyên khởi đồng với tà chấp duyên khởi của ngoại đạo. Phân biệt vọng hoặc khởi lỗi chính là phàm phu: “Đại Tuệ bạch phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nếu hoặc loạn như huyễn thì sẽ làm nhân cho các hoặc khác. Phật bảo Đại Tuệ: Chẳng phải huyễn làm nhân cho hoặc, vì chẳng khởi lỗi. Này Đại Tuệ! Huyễn chẳng khởi lỗi, vì không có vọng tưởng. Này Đại Tuệ! Huyễn là từ minh chú sinh, chẳng phải lỗi từ vọng tưởng thói quen sinh. Cho nên chẳng khởi lỗi. Này Đại Tuệ! Đây là kẻ ngu tâm hoặc chấp đắm, chẳng phải Thánh hiền”. Đây hỏi do đáp mà khởi. Nếu do hoặc loạn như huyễn lại có thể khởi lỗi, làm nhân cho các hoặc khác mà sinh ra pháp phải không! Phật đáp: Huyễn chẳng phải nhân của hoặc có ba nghóa: 1. Huyễn bất sinh lỗi. 2. Vì không vọng tưởng. 3. Từ minh xứ mà sinh. Minh xứ, Kinh Nhập Lăng-già chép: Minh chú là huyễn, từ chú thuật mà sinh, chẳng phải tự phân biệt lỗi thói quen mà khởi. Nhưng ba nghóa này đều nói huyễn bất sinh ác, chẳng phải nhân của vọng pháp. Nếu phân biệt vọng hoặc khởi lỗi, chính là phàm phu, cho nên nói chẳng phải bậc Thánh hiền. 6 3.Rõ vọng tức chân lìa vọng bày chân: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Thánh chẳng thấy hoặc loạn, Chặng giữa cũng không thật Nếu chặng giữa chân thật, Thì hoặc loạn chân thật, Lìa bỏ tất cả hoặc Nếu như có tướng sinh Ấy cũng là hoặc loạn Bất tịnh như màng che”. Bốn câu trước nói Thánh trí Đại thừa hiểu rõ vọng tức chân, hoặc loạn vọng pháp chính là cảnh giới phàm phu. Phật nhãn thấy tất cả đều là chân thật, mà chân thật đây cũng chẳng có thật thể. Lìa không hữu này, đó là chân thật. Vì Thánh trí hiểu thấu vọng pháp tức là chân thật. Bốn câu sau nói kẻ tiểu trí lìa vọng bày chân, đối với chân chấp tướng cũng là hoặc loạn. Như mắt màng che thì cái thấy không đúng. <篇> <卷>QUYỂN 2 (Phần 2) Tất cả pháp như huyễn: Lại nữa Này Đại Tuệ! Nếu chẳng phải huyễn thì không có gì tương tự để thấy tất cả pháp như huyễn. Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Vì chấp đắm các thứ huyễn tướng nên nói tất cả pháp như huyễn, vì chấp đắm các tướng khác, hoặc vì chấp đắm các huyễn tướng nên nói tất cả tánh như huyễn. Bạch Đức Thế tôn! Có tánh thì không thể như huyễn. Vì sao? Vì các tướng sắc chẳng phải nhân. Bạch Đức Thế tôn! Không có nhân sắc nên các tướng hiện như huyễn. Bạch Đức Thế tôn! Cho nên không chấp đắm các tướng huyễn, tương tự tánh như huyễn. Ở trên nói tất cả pháp như huyễn, Đức Phật sợ Đại Tuệ nghi, vì sao chỉ dùng huyễn làm ví dụ, cho nên lại bảo rằng: Chẳng phải giả huyễn dụ cho các pháp, cũng không có tương tự cho nên nói tất cả pháp như huyễn. Đây là câu hỏi thứ ba, ý nói Phật dạy tất cả pháp như huyễn vì chấp đắm các tướng huyễn mà nói như huyễn, hay vì không chấp đắm các thứ tướng huyễn mà nói như huyễn? Nếu chấp đắm tướng huyễn nói các pháp như huyễn thì chưa chắc các pháp đều như huyễn, cho nên nói có tánh bất như huyễn, tánh tức là pháp. Lại nêu vấn nạn, ý cho rằng nếu nói chung thì hễ là các sắc tướng thì lẽ ra không có nhân riêng, nhưng thế gian chưa có sắc hữu nhân nên đều như huyễn, Thế tôn trở xuống là kết thúc vặn hỏi như văn. Vì không thể quán sát chẳng thật có mà vọng chấp các sắc tướng: “Phật bảo Đại Tuệ: Chẳng chấp đắm các tướng huyễn, tương tự tất cả pháp như huyễn. Này Đại Tuệ! Song tất cả các pháp bất thật chóng diệt như tia chớp, ấy là như huyễn. Này Đại Tuệ! Thí như tia chớp lóe sáng trong sát-na, hiện rồi mất ngay, chẳng phải kẻ ngu hiện. Tất cả tánh ấy, tự vọng tưởn,g tự tướng, cộng tướng, quán sát vô tánh chẳng hiện chấp đắm sắc tướng”. Trong đây đáp, nói các pháp như huyễn, chính chẳng phải chấp đắm tướng huyễn, chỉ vì tất cả pháp không thật, mau mất đi như tia chớp, chính là như huyễn. Lại lấy ví dụ tia chớp hiện trong khoảng sát-na, hiện rồi mất ngay, chỉ có bậc Thánh trí mới biết, chẳng phải tướng hiện của kẻ ngu. Tất cả như thế trở xuống Kinh Nhập Lăng-già chép: Tất cả các pháp nương tự phân biệt, tự tướng, cộng tướng hiện, cũng giống như vậy. Vì không thể quán sát chẳng thật có, mà vọng chấp các sắc tướng. Đức Phật lặp lại nghóa này bằng bài kệ: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Chẳng huyễn không có dụ, Nói pháp tánh như huyễn” Không thật mau như chớp, Cho nên nói như huyễn. Hai câu trên đáp chẳng phải huyễn thì không thể nào dùng để thí dụ cho các pháp. Hai câu dưới đáp tướng Huyễn như tia chớp. “Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Như Đức Thế tôn nói tất cả các Tánh là vô sinh và như huyễn, chẳng lẽ không Thế tôn trước sau nói trái nhau ư! vì nói vô sinh tánh như huyễn”: Đây là câu hỏi thứ tư, nghóa là Phật đã nói tất cả pháp vô sinh là không, lại nói như huyễn là có, chẳng lẽ không Có và Không trái nhau ư! “Phật bảo Này Đại Tuệ! Chẳng phải ta nói tánh vô sinh như huyễn, phạm lỗi trước sau trái nhau. Vì sao? Vì đối với sinh, vô sinh, biết rõ tự tâm hiện lượng, có mà chẳng phải có, ngoại tánh, chẳng phải tánh,vô sinh hiện. Này Đại Tuệ! Chẳng phải ta nói có lỗi trước sau trái nhau, nhưng vì phá ngoại đạo chấp nhân sinh nên ta nói tất cả tánh vô sinh. Này Đại Tuệ! Ngoại đạo quá si mê muốn giúp cho hữu vô có sinh, chẳng phải duyên tự vọng tưởng các thứ chấp đắm. Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói hữu, vô là có sinh, cho nên ta dùng thuyết vô sinh mà nói”. Phật đáp chẳng phải lời ta nói có trái nhau trở xuống, là nêu bày giải thích. Sinh vô sinh: là ta hiểu rõ sinh tức là vô sinh, chỉ do tự tâm hiện ra, hoặc có hoặc không, tất cả pháp ngoài, tánh kia vốn không có sinh. Ta nói vô sinh, đây là đáp chung. Trong phần đáp riêng có hai: 1.Vì phá nhân sinh của ngoại đạo sinh, như họ chấp các khác nhân có sinh nên nói tất cả tánh vô sinh. 2. Vì phá chấp hữu vô sinh ngoại đạo, chẳng từ chấp đắm vọng tưởng làm duyên. Lại bảo Đại Tuệ rằng: Ta chẳng nói hữu vô, nghóa là lìa kiến chấp hữu vô, ta dùng thuyết vô sinh mà nói vô sinh. Dùng nói pháp để nhiếp thọ sanh tử Này “Đại Tuệ! Nói tánh, vì nhiếp thọ sinh tử, vì phá hoại chấp Không và chấp Đoạn, vì đệ tử ta nhiếp thọ các chỗ nghiệp thọ sinh, dùng tánh âm thanh nói để nhiếp thọ sinh tử”. Từ “nói tánh trở xuống”, Kinh Nhập Lăng-già chép: Nói các pháp vì muốn đệ tử biết nương các nghiệp, mà nhiếp thọ sinh tử, ngăn chấp hữu vô, đoạn diệt, “vì đệ tử ta trở xuống” vì khiến đệ tử biết tùy nghiệp thọ sinh. Tánh âm thanh, tánh là pháp, âm thanh là nói, ý nói dùng nói pháp để nhiếp thọ sinh tử. Giải thích về nghóa huyễn: Này “Đại Tuệ! Nói huyễn tánh tự tánh tướng là lìa tánh tự tánh tướng. Rơi vào ác kiến hy vọng tướng của kẻ ngu, chẳng biết tự tâm hiện lượng, hoại nhân sở tác sinh, duyên tự tánh tướng chấp đắm. Nói huyễn mộng tự tánh tướng tất cả pháp, chẳng làm cho kẻ ngu ác kiến hy vọng, chấp đắm tự tha tất cả pháp, chỗ thấy như thật tạo ra bất chánh luận. Này Đại Tuệ! Thật thấy chỗ như tất cả pháp là vượt ngoài tự tâm hiện lượng”. Nói tánh trở xuống là giải thích về nghóa huyễn: 1.Biết tánh lìa, vì biết huyễn tánh tức lìa tự tánh. Kinh Viên Giác nói: biết huyễn tức lìa. 2.Phá kẻ ngu chấp đắm tướng, đây lại có ba: a. Không biết tự tâm hiện lượng. b. Hoại tánh nhân duyên sinh ra pháp. c. Duyên tướng tự tánh tạo tác thật có chấp đắm. Cho nên nói tướng tất cả pháp như huyễn, như mộng để phá; không giúp cho kẻ ngu v.v… là tổng kết lỗi, nêu bày đức. Ở chỗ như thật làm ra bất chánh luận, là tổng kết lỗi. Bất chánh luận là tánh hý luận chấp đắm của mình và người. Lại chỗ như thật v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Thấy chỗ như thật của tất cả pháp, nghóa là hiểu rõ tất cả pháp do tâm hiện. Y theo nghiệp mà nói về sinh tử: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Vô sinh tác phi tánh Hữu tánh thuộc sinh tử Quán sát như huyễn thảy Nơi tướng chẳng vọng tưởng”. Vô sinh tác phi tánh, Kinh Nhập Lăng-già chép: Vô tác nên vô sinh, nghóa là các pháp tánh vốn vô sinh cho nên nói vô sinh. Hữu tánh thuộc sinh tử: bài tụng trên y theo nghiệp mà nói sinh tử, nhờ quán sát như huyễn nên lìa vọng tưởng phân biệt. Dạy người học thấy được cánh cửa đi vào lý: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Sẽ nói tướng danh, cú, hình, thân. Đại Bồ- tát khéo quán danh, cú, hình, thân tùy vào, danh, cú, hình, thân, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Giác như thế rồi, giác cho tất cả chúng sinh. Này Đại Tuệ! Danh thân, nghóa là y sự đặt tên, đó gọi là danh thân. Cú thân, nghóa là cú có nghóa thân, tự tánh quyết định rốt ráo, đó gọi là cú thân. Hình thân, nghóa là nói lên danh cú, đó gọi là hình thân. Lại hình thân, nghóa là dài, ngắn, cao, thấp. Lại cú thân, nghóa là dấu vết, như dấu vết voi, ngựa, người, thú… đi để dấu chân lại, được gọi là cú thân. Này Đại Tuệ! Danh và hình, nghóa là dùng danh nói bốn ấm Vô Sắc nên gọi là Danh. Tự tướng hiện nên nói hình. Ấy gọi là danh, cú, hình, thân. Nói chừng hạn của tướng danh cú hình thân phải nên tu học”. Danh cú hình thân, luận Duy thức chép: Danh giải thích tự tánh, cú giải thích khác nhau. Văn tức là tự, là hai chỗ nương; hình tức là văn. Thân là nghóa chứa nhóm. Danh giải thích tự tánh như nói sáu căn, chỉ nói tên mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà thôi! Cú giải thích khác nhau, như nói nhãn là Phật nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn… các thứ khác nhau. Nhưng danh, cú, hình ba thân này, gọi là tam giả, giả là đối với thật mà nói, thì thanh là thật, một thật ba giả, này chính là giáo thể năng thuyên. Ở đây chỉ nói sẽ nói văn, cú, hình, thân mà không nói một thật, vì Đức Phật dùng âm thanh nói pháp tức là một thật. Khéo quán sát, nghóa là phải khéo quán sát danh, cú, hình, thân, giáo năng thuyên tức thông đạt nghóa sở thuyên, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chẳng phải chỉ do tự giác cũng có thể giác tha. Trên đã giải thích chung, từ Đại Tuệ trở xuống là giải thích riêng. Nói y sự đặt tên tức là danh thuyên tự tánh. Cú có nghóa thân, tức các giải thích khác nhau. Phàm cú do giải thích nghóa khác nhau làm tánh nên quyết định rốt ráo không lẫn lộn nhau, gọi là công của thân cú. Hình thân nghóa là hiển bày. Danh cú là do văn tự để nói lên danh cú, cũng tức danh cú để thành văn, cho nên gọi văn tức là chữ, làm hai chỗ nương. Lại, hình là dụ, dụ như hình người có dài ngắn, cao thấp, văn dài ngắn cũng giống như vậy. Cú thân nghóa là dấu vết, như nhờ dấu vết mới biết có voi, ngựa v.v… đi qua. Do tìm cú mà được nghóa. Như trên là dùng hình cú đối mà nói. Nếu danh và hình tương đối mà nói, thì như bốn ấm thọ, tưởng, hành, thức trong năm ấm không có sắc mà có danh, sắc ấm tự tướng hiển hiện cho nên nói có hình. Cũng như văn nhờ nghóa mà hiển bày. Phật nói danh cú hình thân này là dạy cho người học thấy được cánh cửa đi vào lý, lý nhờ hạnh mà hiển bày cho nên nói phải nên tu học. Đức Thế tôn lặp lại ý nghóa trên bảng bài kệ: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Danh thân và cú thân Và hình thân khác nhau Kẻ phàm ngu chấp đắm, Như voi mắc lầy sâu”. Văn tự tánh lìa tức là giải thoát. Nếu tùy văn khởi thấy thì lỗi đồng với ngoại đạo tà kiến, như voi mắc lầy sâu, có thể không răn dè ư! Lại nữa Này Đại Tuệ! Bậc trí ở đời vị lai do lìa một, khác, đồng, chẳng đồng, kiến, tướng là nghóa ta thông hiểu, đem hỏi người vô trí, kia liền đáp rằng: Câu hỏi này chẳng đúng. Nghóa là sắc v.v… là thường, vô thường, là khác, chẳng khác, như vậy các hạnh Niết-bàn tướng và sở tướng, cầu-na sở cầu-na, tạo và sở tạo, kiến và sở kiến, bụi và bụi nhỏ, tu và người tu, tướng so sánh lần lượt như vậy. Những câu hỏi như thế, Phật nói là vô ký chỉ luận, là điều mà người si mê kia chẳng thể biết. Vì họ không có văn tuệ, Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, muốn giúp họ lìa kinh sợ nên nói vô ký, chẳng nói ký. Lại ngăn luận kiến chấp của ngoại đạo mà chẳng nói cho nghe. Phật nói lìa bốn câu vốn giúp cho quay về chánh nên bảo Này Đại Tuệ! Bồ-tát đời vị lai sẽ dùng tướng lìa bốn câu hỏi người kia, ý chỉ bảo pháp môn nhập đạo, người vô trí kia không hiểu được ý này, liền đáp rằng: Đây chẳng phải chánh luận, nghóa là sắc v.v… là nói y theo các pháp ấm giới nhập ở trên mà chia ra bốn câu thường, vô thường, khác, không khác… Các hành Niết-bàn như vậy, hành tức hành năng hiển Niết-bàn. Năng hành sở hành, năng y sở y, năng tạo sở tạo, năng kiến sở kiến, bụi và bụi nhỏ, nghóa là bùn đất bụi nhỏ. Tu cùng người tu là người pháp. Tướng so sánh lần lượt như vậy, là nói hai pháp đối nhau ở trên. Như vậy… trở xuống, Kinh Nhập Lăng-già chép: Như vậy không thể nhớ việc thứ lớp mà hỏi, Thế tôn nói đây là chỉ ký đáp, kẻ ngu vô trí không thể biết được, Phật muốn giúp họ lìa sợ hãi, nên chẳng nói ký. Nói về chỉ kiến luận của ngoại đạo: Này Đại Tuệ! Ngoại đạo nói như thế này: mạng tức là thân, vô ký luận như thế. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo ngu si kia đối với nhân tác vô ký luận, chẳng phải điều ta nói. Này Đại Tuệ! Chỗ ta nói là lìa nhiếp, sở nhiếp vọng tưởng bất sinh, vì sao lại ngừng họ? Này Đại Tuệ! Nếu người chấp đắm nhiếp, sở nhiếp, không biết tự tâm hiện lượng cho nên ngừng họ. Này Đại Tuệ! Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, dùng bốn thứ ký luận nói pháp cho chúng sinh nghe. Này Đại Tuệ! Chỉ ký luận là khi ta nói ra vì người căn cơ chưa thần thục, chẳng phải vì người căn cơ đã thuần thục”. Chỉ kiến luận của ngoại đạo, là tùy theo lời nói sinh hiểu biết chấp là kiến luận, đều ngừng mà không nói, khiến họ suy nghó, mà tự chứng được. Mạng tức thân, do ngoại đạo chấp ngay ấm là ngã, lìa ấm là ngã. Nói thân mạng là một, khác v. v… Nói như vậy v.v… gọi là vô ký luận. Đối với nhân làm vô ký luận, là chấp vô nhân mà sinh, đó là vô ký. Những điều Phật nói là lìa năng thủ, sở thủ, không khởi vọng tưởng. Vì sao dừng họ? Nghóa là vì sao không làm thẳng như vậy mà nói để hiểu, mà ngăn là vì sao ư! Chỉ vì kia chấp đắm năng thủ, sở thủ không biết rằng chỉ do tâm hiện, cho nên bốn thứ chỉ luận như văn sau. Chỉ luận là một trong bốn thứ đó. Chẳng những chỉ dừng ngoại đạo kia, mà còn ngăn người căn cơ chưa thuần thục, bấy giờ lại nói! Nói về câu bất sinh: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Tất cả pháp lìa nhân duyên sở tác bất sinh, vô tác giả cho nên tất cả pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Vì sao tất cả tánh lìa tự tánh? Vì khi tự giác quán, thì tự tánh, cộng tánh, tướng không thật có, nên nói tất cả pháp chẳng sinh. Vì sao tất cả pháp không thể đem đến, không thể đem đi? Vì tự tướng cộng tướng muốn đem đến thì không có chỗ đến, muốn đem đi thì không có chỗ đi. Cho nên tất cả pháp lìa đem đến đem đi. Này Đại Tuệ! Vì sao tất cả các pháp chẳng diệt? Vì tánh, tự tánh, tướng là không, tất cả pháp không thật có, nên tất cả pháp chẳng diệt. Này Đại Tuệ! Vì sao tất cả pháp vô thường? Nghóa là tướng khởi là tánh vô thường, cho nên nói tất cả pháp vô thường”. Này Đại Tuệ! Vì sao tất cả pháp là thường? Vì tướng khởi tánh vô sanh, vô thường là thường, nói tất cả pháp là thường, tất cả pháp thường ở đoạn dưới, nói rõ câu bất sinh có hai ý: 1.Lìa nhân duyên sở tác nên bất sinh. 2. Lìa tự tánh cộng tánh tướng nên bất sinh. Không thể đem đến trở xuống, là dùng sự nói chẳng phải không có đến đi, chỉ vì bốn câu cầu mong tự tướng, cộng tướng không thật có, không thất có dấu vết đến đi. Kinh Tịnh Danh nói: Đến không từ đâu đến, đi cũng không có chỗ đi, đây là nói theo. Các pháp chẳng diệt, nghóa là tất cả các pháp vốn không có tánh tướng thì đâu có diệt, câu thường vô thường là nói theo tình lý. Hoặc dùng tình chấp tướng thay đổi trôi lăn, cho nên nói tướng vô thường khởi, dùng lý để nói thì pháp pháp tức tánh, cho nên nói khởi tướng vô sinh. Vô thường này tức là thường. Phật nói lại nghóa trên bằng bài kệ: Khi ấy, Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Ký luận có bốn thứ, Một bề vặn hỏi lại. Phân biệt và chỉ luận Để chế phục ngoại đạo Hữu và phi hữu sinh Sư Tăng-khư, Tỳ-xá Tất cả đều vô ký Kia hiển bày như thế Chánh giác đã phân biệt Tự tánh không thật có Vì xa lìa lời nói Nên nói lìa tự tánh”. Bốn thứ luận này, nói hoàn toàn gọi là đáp thẳng, nghóa là tùy câu hỏi mà đáp. Phản cật vấn, cũng gọi là phản chất, nghóa là vặn bẻ lại câu hỏi. Phân biệt, nghóa là đáp bằng cách nói rõ. Chỉ luận nghóa là gác lại không đáp. Chế phục các ngoại đạo, phần nhiều dùng chỉ luận hữu và phi hữu sinh, nghóa là Số luận chấp có, Thắng luận chấp không. Tăng- khư là Số luận. Tỳ-xá là Thắng luận. Các pháp như vậy đều thuộc về vô ký luận. Ngoại đạo kia chấp chẳng ngoài hữu vô, cho nên nói kia hiển bày như thế. Dùng chánh trí quán sát, cầu tánh tướng kia đều không thật có, huống chi là lời nói ư! Bồ-tát Phở hiền hỏi Phật về pháp Tiểu thừa: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin vì nói sự khác nhau giữa Tu-đà-hoàn và Tu-đà-hoàn thú. Nếu Đại Bồ-tát khéo hiểu sự khác nhau chung giữa Tu-đà-hoàn thú và tướng phương tiện của Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, phân biệt biết rồi, như thế như thế vì chúng sinh nói pháp. Nghóa là tướng hai vô ngã và hai chướng thanh tịnh, vượt qua các địa, rốt ráo thông đạt được cảnh giới rốt ráo không thể suy nghó, bàn luận của Như lai, như ngọc Ma-ni nhiều màu, có khả năng làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, dùng cảnh giới tất cả pháp vô tận thân tài để nhiếp dưỡng tất cả”. Đại Tuệ là người ta theo pháp Đại thừa thỉnh cầu nói pháp Tiểu thừa là sao? Vì Bồ-tát có tự hành, hóa tha khác nhau. Tự hành thì chỉ thắng đến cực quả, hóa tha thì pháp phải trùm khắp, vì chúng thưa hỏi pháp bốn quả: Tu-đà- hoàn Hán dịch là Dự lưu, là Sơ quả. Lại nói Tu-đà-hoàn thú, thú là thú hướng, nghóa là Sơ quả hướng. Tướng khác nhau chung, chung tức là đồng, nghóa là phân biệt tướng chung, tướng riêng. Và quả thứ hai, thứ ba, thứ tư, tu hành tướng phương tiện đều được khéo hiểu biết. Phân biệt biết rồi như thế như thế, nghóa là phân biệt như thế, như thế mà biết. Vì các chúng sinh nói bốn pháp này giúp họ chứng đắc tướng hai vô ngã và trừ sạch hoặc chướng và trí chướng, đối với các tướng địa dần dần thông được đạt cảnh giới trí tuệ của Như lai. Dùng pháp thân pháp tài lợi ích chúng sanh vô tận, như dùng ngọc báu ma-ni cứu giúp người không bỏ sót một ai. Nói về Tu-đà-hoàn: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó, nay ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Lành thay! Xin vâng nghe nhận. Phật bảo Đại Tuệ: có ba thứ Tu- đà-hoàn, quả Tu-đà-hoàn khác nhau. Thế nào là ba: đó là hạ, trung, thượng. Hạ: là cùng tột bảy lần sinh lại mới nhập Niết-bàn. Trung: hoặc ba hay năm lần sinh lại mới vào Niết-bàn. Thượng: tức đời này liền vào Niết-bàn”. Đáp trong Sơ quả nói có ba thứ thượng, trung, hạ khác nhau, căn tánh lợi độn khác nhau! Cùng cực bảy đời mới sinh vào Niết-bàn, nghóa là tột độn hạ căn, dứt kiến hoặc, chứng Sơ quả, sau tiến lên dứt tư hoặc, chín phẩm tư hoặc trong cõi Dục, trở lại trải qua đủ bảy lần sinh tử, mới dứt hoặc này, chứng quả thứ ba. Bảy lần trở lại, nghóa là con người bảy lần sinh lên cõi trời, bảy lần sinh làm trung ấm thành mười bốn, sinh hợp cộng chung thành hai mươi tám. Nay nói bảy lần trở lại là tóm lược. Ba hay năm lần sinh trở lại mới nhập Niết-bàn, nghóa là hạng người trung căn chứng Sơ quả, sau ba hoặc năm đời sinh trở lại, dứt hết hoặc này mới chứng quả thứ ba. Tức ngay đời này nhập Niết-bàn, nghóa là người thượng căn được Sơ quả thì liền siêu sinh lên quả thứ tư, mà nhập Niết-bàn chân không. Nói về hoặc mà quả Tu-đà-hoàn phải dứt: “Ba hạng này có ba kiết: Hạ, trung, thượng. Thế nào là ba kiết: Nghóa là thân kiến, nghi, giới thủ là ba kiết khác nhau, thăng tiến mãi lên đến A-la-hán”. Ba kiết chính là kiến hoặc và tám mươi tám sử sơ quả phải dứt, có rộng lược khác nhau. Nói cũng có hạ, trung, thượng, là do kiết hoặc từ căn tánh của người mà chia làm ba. Thăng tiến mãi… nghóa là đối với việc dứt hoặc chứng quả này gồm có dứt hoặc chứng quả thứ ba, siêu vượt đến quả thứ tư. Nói thượng thượng là y theo bậc Đài thừa siêu căn tánh. Nói về hai thứ thân kiến: Này “Đại Tuệ! Thân kiến có hai thứ, đó là câu sinh và vọng tưởng. Như duyên khởi vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng. Thí như nương duyên khởi tự tánh, các thứ vọng tưởng tự tánh chấp đắm sinh. Vì kia chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải có không vì tướng vọng tưởng không thật. Kẻ ngu vọng tưởng các thứ vọng tưởng tự tánh tướng chấp đắm. Như khi trời nóng có dương diệm, nai khát tưởng là nước. Đây là vọng tưởng thân kiến của Tu-đà-hoàn, kia do người vô ngã nhiếp thọ không tánh, đoạn trừ vô tri chấp đắm lâu xa”. Thân kiến, là kia đối với thân năm ấm chấp là chủ tể, ở đây chia làm hai thứ: 1. Câu sinh, nghóa là kiến và thân sinh cùng lúc, như thân kiến trước. 2.Vọng tưởng lại nương kiến mà khởi, như biên kiến ở sau, cho nên nói như duyên khởi v.v… nghóa là vì nương duyên khởi, khởi vọng tưởng tự tánh. Bởi kia chẳng phải có trở xuống là… giải thích thân kiến vọng tưởng trên. Vì vốn chẳng phải bốn kiến mà có bốn kiến, thì đó là tướng vọng tưởng không thật. Như duyên khởi kia mà kẻ ngu cho là vọng tưởng, khởi các thứ vọng tưởng tự tánh chấp đắm, cho nên thí dụ. Như khi trời nắng nóng, dương diệm chẳng phải nước mà cho là nước, tức là tướng ấy. Kia do người vô ngã nhiếp thọ vô tánh, tức là Sơ quả hướng. Nhờ quán người vô ngã, hiểu rõ vốn vô tánh cho nên liền dứt hoặc ấy. Nói vô tri, là nhiễm ô không biết. Tu-đà-hoàn quán sát thân mình thân người: Này “Đại Tuệ! Câu sinh là Tu-đà-hoàn thân kiến, vì bốn ấm của tự thân, tha thân… không có sắc tướng, vì sắc sinh tạo và sở tạo, vì tướng xoay vần làm nhân cho nhau, vì đại chủng và sắc chẳng nhóm họp. Tu-đà-hoàn quán phẩm loại hữu vô chẳng hiện thì dứt được thân kiến. Thân kiến dứt như thế thì tham chẳng sinh, đó gọi là tướng thân kiến”. Câu sinh thân kiến, là người chứng Sơ quả quán sát thân mình, thân người, tướng bốn ấm thọ, tưởng, hành, thức không có sắc, vì sắc do bốn đại chủng sinh ra. Tạo và sở tạo tức năng tạo và sở tạo, nghóa là bốn đại tạo sắc ấm. Xoay vần, là bốn đại làm nhân cho nhau. Không nhóm họp, nghóa là đại chủng và sắc tánh không hòa hợp; như thế quán năm ấm hữu vô đều không thật có, ai làm thân kiến, cho nên nói phẩm loại hữu vô chẳng hiện. Thân kiến đã dứt, tham cũng chẳng sinh. Tu-đà-hoàn đối với bốn đế: Này “Đại Tuệ! Tướng nghi, nghóa là đắc pháp khéo thấy tướng, vì trước dứt hai thứ thân kiến vọng tưởng, nên nghi pháp chẳng sinh. Không đối với chỗ khác khởi kiến chấp Đại sư là tịnh, là bất tịnh, đó gọi là tướng nghi Tu-đà-hoàn đã dứt”. Trong tướng nghi này, cho rằng người Sơ quả đối với pháp bốn đế biết rõ không sai lầm tức là sự khéo thấy. Vì trước dứt hai thứ phân biệt thân kiến, nên đối với các pháp không còn sinh nghi, tự nhiên hiểu rõ chánh tà, không còn đối với các ngoại đạo khác nghó là Đại sư. Là tịnh hay bất tịnh, đối với chỗ Phật không nghi là thiện, bất thiện. Đó gọi là tướng nghi chẳng sinh. Tu-đà-hoàn không chấp giới: Này “Đại Tuệ! Giới thủ, thế nào là Tu-đà-hoàn không chấp giới? Nghóa là vì khéo thấy tướng khổ ở chỗ thọ sinh, cho nên chẳng chấp. Này Đại Tuệ! Chấp là kẻ ngu quyết định chịu tu khổ hạnh, vì được các thứ vui nên cầu thọ sinh, kia thì chẳng chấp, trừ hồi hướng tự giác thắng, lìa pháp tướng vọng tưởng vô lậu, thực hành phương tiện thọ trì giới luật. Ấy gọi là Tu-đà-hoàn tướng chấp giới đã dứt”. Giới thủ, là chấp phi giới là giới. Ngoại đạo tà tu chẳng phải nhân chấp là nhân, như giữ giới gà giới chó v.v… người sơ quả chẳng chấp giới kia, nghóa là khéo thấy tướng khổ hành nhọc nhằn thọ quả báo kia nên không chấp. Người ngu thì chấp thủ, vì các thú vui năm dục nên cầu thọ sinh, nhưng chẳng phải vui Tam-muội. Tuy cầu quả vui nhưng thật ra làm gì có, người Sơ quả kia không chấp đó là giới, chẳng phải không có giới do tự mình giữ gìn, nên gọi Trừ hồi hướng tự giác thắng v.v… tức họ tu giới hành hồi nhân hướng quả. Chi Giới, chi là chi phần, như bảy chi phần và năm chi giới… Tuy không chấp nơi kia mà chấp nơi này, song chẳng phải Đại thừa không chấp giới, ấy cũng là chấp. Tu-đà-hoàn dứt ba đời: “Tu-đà-hoàn đoạn ba kiết, tham si bất sinh. Nếu Tu-đà-hoàn nghó rằng: Các kiết này ta chẳng có thì mắc hai lỗi rơi vào thân kiến và các kiết chẳng đoạn. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Thế tôn nói nhiều thứ tham dục, kia vì sao dứt tham dục? Phật bảo Đại Tuệ: Yêu thích người nữ, triền miên tham trước, các thứ phương tiện thân miệng gây nghiệp ác, hưởng cái vui hiện tại, gieo nhân khổ đời vị lai, Tu-đà- hoàn thì chẳng sinh. Vì sao? Vì được sự vui Tam-muội Thánh thọ. Cho nên kia dứt tham chẳng phải thú hướng Niết-bàn mà dứt”. Nói ba kiết là Kiến hoặc, nhờ chấp đoạn này mà lìa tham sân si, ba thứ này tức tư hoặc trong kiến hoặc. Nói hai lỗi: Thân kiến là gốc, các kiết là ngọn, gốc đã không nhổ trừ thì ngọn do đâu mà dứt. Tham có nhiều thứ, đặc biệt nói yêu thích người nữ, nêu điểm quan trọng kia mà nói: Người Sơ quả được Tam-muội thắng lạc có khả năng dứt dục này, tuy lìa hữu nhưng còn chấp đắm không, cho nên nói chẳng phải cái tham hướng dến Niết-bàn được dứt. Nói về tướng của quả thứ hai: “Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng Tư-đà-hàm? Nghóa chóng soi thấu tướng sắc, tướng vọng tưởng sinh nên kiến tưởng chẳng sinh, vì khéo thấy tướng thiền thú, chóng biết đời này hết bờ bến khổ được Niết-bàn. Cho nên gọi là Tư-đà-hàm”. Đây nói về tướng của quả thứ hai, nghóa là chiếu soi rõ sắc tướng vọng tưởng của năm uẩn, không đồng với Sơ quả tu quán bốn hạnh nên được gọi là Đốn. Sinh tướng tức là các kiết, kiến tướng tức là vọng tưởng, hai thứ này bất sinh, chỉ trí vô lậu thêm tu thiền định, thì khéo thấy tướng thiền thú, tiến lên dứt tư hoặc cõi Dục, đến hết sáu phẩm, chỉ còn lại một lần sinh, nên nói chóng đến đời này sạch bờ mé khổ, lìa sinh tử trong loài người, được Niết-bàn, chứng quả thứ hai. Nói về tướng của quả thứ ba: Này “Đại Tuệ! Thế nào là A-na-hàm? Nghóa là đối với sắc tướng tánh phi tánh quá khứ, hiện tại, vị lai, thấy lỗi lầm của sinh, khiến vọng tưởng chẳng sinh, và vì dứt kiết nên gọi là A-na-hàm, người đắc quả thứ ba này quán chung sắc tướng ba đời đều không, chẳng phải tánh tức không, lìa lỗi lẫm hữu vô phân biệt, cho nên nói vọng tưởng chẳng sinh”. Dứt kiết là dứt ba phẩm tư hoặc sau ở cõi Dục. Nói về tướng của quả thứ tư: Này “Đại Tuệ! A-la-hán có đủ các thiền định Tam-muội giải thoát, lực minh, các thứ phiền não, khổ vọng tưởng chẳng sinh, gọi là A-la-hán”. Các thiền Tam-muội tức trí định mà A-la-hán đã tu. Giải thoát lực minh là pháp sở chứng. Lực tức thần thông minh, chính là ba minh. Do đó quán chiếu rõ phiền não, các khổ phân biệt đều không, nghóa là sạch hết tư hoặc cõi sắc, cõi Vô Sắc, chứng quả Vô học. Phân biệt A-la-hán chung riêng: “Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Thế tôn nói ba thứ A-la- hán. Ở đây nói là A-la-hán nào? Thế tôn! Vì nói đạo tịch tịnh Nhất thừa, vị Đại Bồ-tát phương tiện thị hiện A-la-hán hay là do Phật hóa hóa ra? Phật bảo Đại Tuệ: là Thanh văn được đạo Nhất thừa tịch tịnh, chẳng phải hạng khác. Hạng khác là Bồ-tát thực hành hạnh Bồ-tát và hóa Phật hóa ra, vì bản nguyên nên dùng phương tiện khéo léo, ở trong chúng thị hiện thọ sinh, vì trang nghiêm quyến thuộc của Phật. Này Đại Tuệ! Ở trong chỗ vọng tưởng nói pháp bằng mọi cách, như đắc quả, đắc thiền, thiền giả nhập thiền thảy đều xa lìa. Thị hiện được tự tâm hiện lượng, được tướng quả, nói là đắc quả. Lại nữa Này Đại Tuệ! Người muốn siêu thiền vô lượng cõi Vô Sắc thì, phải lìa tướng tự tâm hiện lượng. Này Đại Tuệ! Thọ tưởng chánh thọ vượt tự tâm hiện lượng thì chẳng phải. Vì sao? Vì có tâm lượng”. Ở đây phân biệt với A-la-hán gọi là tướng chung riêng. Chung là gọi chung A-la-hán, riêng thì ba thứ khác nhau. Trong ba thứ một thật hai quyền. Được đạo Nhất thừa tịch tịnh, là Nhất thật. Bồ-tát phương tiện thị hiện và phật hóa hóa ra, là hai quyền. Phật đáp rằng đã nói La-hán là thật chẳng phải quyền. Nhất thừa, là một trong ba thừa, chẳng phải là Phật thừa. Bản nguyện phương tiện khéo léo tức là hai thức khác, vì đã từng phát thệ nguyện phương tiện khéo léo, thị hiện A-la-hán trang nghiêm Phật hội mà làm quyến thuộc. Ở chỗ vọng tưởng của chúng sinh, nói pháp cho họ nghe, cùng tu chứng với họ, cho nên nói đắc quả được thiền. Tuy nhập trong thiền mà không trụ thiền, cũng tùy tâm lượng thị hiện đắc quả mà không trụ ở quả. Lại không trụ quả, trụ thiền, đó gọi là siêu thiền. Cho nên nêu tướng siêu thiền giúp cho họ bỏ thiền thế gian được thiền xuất thế gian. Thiền thế gian thiền, tức là bốn thiền, bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc. Phải lìa tự tâm, tâm lượng đã cùng cực tức là Như lai thiền, nhưng định diệt thọ tưởng đâu chẳng siêu tâm lượng ư! Cho nên lại phân biệt chẳng đúng. Do kia chấp diệt thọ tưởng cùng là tâm lượng nên tất cả phải xa lìa đều không thật có. Kinh Viên Giác chép: Chiếu và sở chiếu đồng thời vắng lặng, đó là đắc. Thế tôn lặp lại nghóa trên bằng bài kệ: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Các thiền bốn vô lượng Tam-ma-đề Vô Sắc Tất cả thọ tưởng diệt Tâm lượng kia không có Quả Tu-đà-bàn-na Vãng lai và Bất hoàn Cùng với A-la-hán Các vị tâm hoặc loạn Thiền giả, thiền và duyên, Chân đế dứt tri kiến. Đây là lượng vọng tưởng, Nếu giác được giải thoát.” Trong kệ, bốn câu đầu là tướng siêu thiền. Bốn câu giữa là nói tứ quả. Hoặc loạn, nghóa là Tiểu thừa chấp tướng Niết-bàn, cũng là tâm hoặc loạn. Bốn câu sau thiền giả, thiền v.v… tức năng nhập sở nhập ở trên và thiền cảnh sở duyên, cùng dứt tập, biết khổ, thấy lý chân đế, đều là tâm lượng vọng tưởng. Trong tánh vắng lặng nếu giác biết rõ thì rốt ráo giải thoát không được mà được. Do đạo giác biết hai thứ nghóa giác: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Có hai thứ giác, đó là quán sát giác và vọng tưởng tướng nhiếp thọ chấp đắm kiến lập giác. Này Đại Tuệ! Quán sát giác, là nếu giác tướng tánh tự tánh, chọn lựa xa lìa bốn câu không thật có, đó gọi là quán sát giác…” Ở trên nói nếu giác được giải thoát, lại bảo do đạo giác biết hai thứ nghóa giác. Một phen đã nói, tuy khác với chân vọng, nhưng y theo văn tổng kết nói Bồ-tát thành tựu thì đại só đều quán mà chân tục khác nhau. Quán sát giác tức là giác chân đế. Lập ra giác tức giác tục đế. Vì Bồ-tát quán chân chẳng bỏ tục, chiếu tục không trái chân. Nếu giác được tánh tự tánh v.v… tức quán tự tánh tất cả pháp, tánh này xưa nay lìa tướng, không thể dùng bốn câu một, khác v.v… để phân biệt lựa chọn, cho nên nói không thật có. kết thúc khuyên tu học: Này “Đại Tuệ! Bốn câu kia là lìa một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường vô thường, đó gọi là bốn câu. Này Đại Tuệ! Lìa bốn câu này gọi là tất cả phá. Này Đại Tuệ! Bốn câu này quán sát tất cả pháp, nên phải tu học”. Phân biệt tướng bốn câu như trước. Nói lìa bốn câu, là không chấp đắm vọng tưởng. Nếu rơi vào chấp bốn câu thì chẳng phải dùng giác tánh tự tánh, nay mong cầu đều được thì lìa bốn câu kia. Lại đối với bổn tánh đó gọi là tất cả pháp. Dùng bốn câu này quán sát tất cả pháp, vô tình không lìa vô tánh không hiển, cho nên kết thúc khuyên rằng nên phải tu học. Nói về hai thứ kiến lập giác: Này “Đại Tuệ! Thế nào là tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp đắm lập ra giác? Nghóa là tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp đắm, chất cứng, ướt, nóng, động, là tướng vọng tưởng chẳng thật thuộc bốn đại chủng: tông, nhân, tướng thí dụ, chấp đắm chẳng thật dựng lập mà dựng lập, đó gọi là tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp đắm lập ra giác. Đây là tướng của hai thứ giác. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu hai tướng giác này thì tướng người pháp vô ngã được rốt ráo, khéo biết phương tiện giác vô sở hữu. Quán sát hạnh địa liền được Địa thứ nhất, nhập vào trăm Tam-muội, được Tam-muội sai biệt, thấy cả trăm Đức Phật và cả trăm Bồ-tát. Biết việc trăm kiếp về trước về sau, ánh sáng chiếu cả trăm cõi nước, biết tướng các địa trên, đại nguyện cao siêu thần lực tự tại, được địa Pháp Vân, vào vị Quán đảnh, sẽ được Như lai tự giác địa. Khéo buộc tâm trong mười vô tận cú, thành thục chúng sinh, các thứ biến hóa sáng suốt trang nghiêm được tự giác Thánh lạc Tam-muội chánh thọ”. Về hai thứ lập ra giác, Kinh Nhập Lăng-già chép: Nghóa là đối với các đại chủng tánh cứng, ướt, nóng, động vọng tưởng tướng chấp đắm luống dối phân biệt, do tông, nhân, dụ mà vọng lập ra. Đó gọi là vọng tưởng tướng phân biệt chấp đắm lập ra trí. Tông, nhân, dụ tức năm phần luận pháp tuy là không thật có lập ra, nhưng do thế đế nên có lập ra, chân tục hai hành không ngăn ngại nhau. Nếu Bồ-tát v.v… là tổng kết tướng thành của hai giác. Vì Sơ giác thành nên đối với người pháp biết tướng vô ngã, kế đến giác thành, hoàn toàn không có ngã tướng, không lìa người pháp, cho nên gọi rốt ráo khéo biết phương tiện giác vô sở hữu, trở lại dùng hai thứ giác, quán qua các hạnh địa thì về sau được nhập Địa thứ nhất. Nhập Tam-muội thấy Phật v.v… đều dùng trăm lời nói, vì Bồ-tát mới phá vô minh, có thể phân thân trăm cõi, nhập vào nhiều pháp môn đều như vậy. Cho nên Nhiếp Luận chép: Bồ-tát khi nhập Địa thứ nhất, minh môn trăm pháp: 1. Trong khoảng sát-na chứng trăm Tam-ma-địa. Dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy trăm cõi Phật. 3.Dùng năng lực thần thông làm rung chuyển trăm thế giới Phật. 4.Có khả năng đến trăm thế giới Phật giáo hóa chúng sinh. 5.Có khả năng dùng một thân hóa ra trăm thứ thân hình làm cho hữu tình thấy được. 6. Năng thành tựu trăm thứ giáo hóa hữu tình. 7.Nếu vì lợi ích, có khả năng lưu lại thân trụ đời trăm kiếp. 8.Hay biết việc trước việc sau cả trăm kiếp. 9.Có khả năng dùng trí tuệ nhập vào minh môn trăm pháp, thông đạt hoàn toàn. 1 0.Có khả năng dùng thân quán trăm loại quyến thuộc, các địa khác tăng lên gấp bội. Mười câu vô tận cú, như phẩm Thập Địa Kinh Hoa Nghiêm nói sơ Hoan hỷ địa có mười câu bất khả tận cú v.v… cũng như mười hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền đều nói vô tận, do đó khéo buộc tâm, làm thành thục chúng sinh, đến nơi tự giác Thánh lạc Tam-muội thì việc của Bồ-tát sẽ làm xong. Lặp lại về bốn đại: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải khéo biết sắc do bốn đại tạo ra. Thế nào là Bồ-tát khéo biết sắc do bốn đại tạo ra. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát khởi giác thế này: Đối với chân đế bốn đại chẳng sinh, đối với kia bốn đại chẳng sinh, khởi quán sát như thế, quán sát rồi, giác được phạm vi danh, tướng, vọng tưởng, phạm vị tự tâm hiện, ngoại tánh, phi tánh, đó gọi là phạm vi tâm hiện vọng tưởng. Nghóa là trong ba cõi, quán sắc do bốn đại tạo ra kia tánh lìa sạch hết bốn câu, lìa ngã và ngã sở, trụ tướng như thật, tự tướng phần đoạn, thành tựu tự tướng vô sinh”. Ở trên nói bốn đại là nói chưa rõ ràng cho nên lặp lại. Ban đầu nói về quán năng giác, thì gọi là Bồ-tát khởi giác thế này… nói chân đế kia bốn đại chẳng sinh, là đúng lý. Cũng nói theo quán sát đối với giác. Nhưng lý chẳng phải không có bốn đại, nói thẳng vô tướng nên gọi là bất sinh, do đó Bồ-tát khởi bất sinh quán sát, bất sinh mà sinh, đó đó là gốc sinh bốn đại, cho nên có bốn đại danh tướng vọng tưởng thứ lớp, cuối cùng bốn đại kia sinh khởi, cũng là phạm vi của tự tâm hiện. Đã hiểu rõ các pháp chỉ do tâm, tức thấu đạt ngoại tánh phi tánh. Cho nên quán sắc do bốn đại tạo tánh lìa. Tánh lìa thì bất sinh bốn câu, do đó bốn cú thanh tịnh có cả bốn đại, cũng tức là bốn đại viên mãn, lìa bốn tánh. Do đó lìa ngã, ngã sở, lìa nên trở về gốc. Trở lại gốc nên mỗi pháp không mất tự thể, cho nên nói trụ tướng như thật, tự tướng phần đoạn. Như thật tướng thì nhiều tướng như một, tự tướng phần đoạn thì có khác nhau, chỉ vì kia đồng khác không ngăn ngại nhau, cho nên tự tướng vô sinh như vậy mà thành. Đây là trí năng giác. Nói về pháp sở giác: Này “Đại Tuệ! Bốn đại chủng kia vì sao sinh ra tạo sắc? Nghóa là do thấm ướt đại chủng vọng tưởng sinh hỏa giới trong và ngoài, làm phiêu động đại chủng vọng tưởng sinh phong giới trong ngoài, cắt đứt đại chủng của sắc vọng tưởng, sinh địa giới trong ngoài. Sắc và hư không đồng chấp đắm tà đế, năm ấm nhóm họp, sắc do bốn đại tạo sinh ra”. Đây nói về pháp sở giác, văn trên giải thích tướng kia. Bốn đại kia nói theo chân đế mà nói, thì do bốn đại vì kia, nói theo bốn đại, thì cũng do chân đế vì kia. Nói bốn đại chủng sinh tạo sắc, tức đại chủng là năng tạo, như chất cứng, ướt, nóng, động. Bốn đại làm sở tạo, như thủy đại… trong ngoài sau gọi chung là sắc. Như Kinh Lăng-nghiêm thì xen nhau mà khởi, như giác sáng suốt rỗng không. Do mê muội đối đãi nhau nên thành dao động, do đó mà có phong luân… Nay mỗi thứ từ loại mà tạo, nên có thấm ướt đại chủng, sinh ra thủy đại… vì văn tuy riêng mà lý chung. Nói tạo pháp kia, phải chăng do tánh mà có tướng, từ nhỏ nhiệm cho đến chấp đắm tướng, nhân đó tưởng thành không do các thứ khởi, do đó phát sinh ra muôn loài, vốn là nhất tâm. Cái gọi là thấm ướt, kham năng, dao động, cắt dứt, mỗi thứ tùy theo tánh bốn đại mà mà nói rộngn. Lại thấm ướt… Cũng có thể y theo tham, sân, si… mà nói rộng, cho nên nhất nhất đều gọi là vọng tưởng tưởng, đại chủng chủng. Ở đây đều phát xuất từ nơi nhỏ nhiệm. Và kia đã chấp đắm thì gọi bốn đại trong ngoài, nghóa là chánh báo là trong, y báo là ngoài, đồng trùm khắp tất cả mà chung với không, cho nên gọi sắc và hư không v.v… ngoại đạo đối với kế chấp tà đế này, hoặc chấp có không, hoặc khởi giới hạn, đã như trước bác bỏ. Sắc do bốn đại tạo ra cho nên có năm ấm, do ấm mà có sáu căn, thứ lớp sinh ra nên gọi là sắc do bốn đại tạo sinh. Phật bác bỏ và phủ nhận: Này “Đại Tuệ! Thức ấy vì ưa các dấu vết cảnh giới nên các cõi nối nhau. Này Đại Tuệ! Bốn đại như đất, v.v… và tạo sắc v.v… có bốn đại duyên và chẳng phải bốn đại kia duyên. Vì sao? Vì tánh, hình, tướng, xứ, phương tiện làm ra vô tánh, đại chủng chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Tánh, hình, tướng, xứ, phương tiện làm ra hòa hợp sinh, chẳng phải vô hình. Cho nên tướng sắc do bốn đại tạo ngoại đạo vọng tưởng chẳng phải pháp của ta! Thức là sáu thức, nghóa là sáu thức ưa cảnh giới của các trần ra vào trải qua cho nên gọi là tích, đây là do vọng thức chấp đắm vọng cảnh liền thành kiết nghiệp, sáu đường thọ sinh nối nhau không xen hở. Lại nói bốn đại như đất v.v… nêu bốn đại không thể riêng tạo, phải gồm cả duyên, không chỉ có nơi duyên, cho nên gọi là chẳng phải bốn đại duyên kia. Vì vậy đoạn dưới giải thích nghóa kia. Nghóa là tánh thấm ướt v.v… hình tướng là nhân của bốn đại sắc tướng. Xứ và phương tiện duyên tạo tác. Nếu nhân bất sinh tánh thì duyên cũng bất sinh, cho nên nói đại chủng bất sinh, phải do các duyên hòa hợp thành hình. Chẳng phải vô hình, thì cũng do duyên. Đã không do chẳng phải không do, thì vốn vô thật tánh, vô tánh mà sinh, thì nghóa nhân duyên rõ ràng. Nói ngoại đạo vọng tưởng, đây cùng với lời tà đế chấp đắm trước đều là nhân mà bác bỏ chỗ sai trái, nghóa là tướng sắc do bốn đại tạo, khác với vọng chấp phân biệt của ngoại đạo cho nên nói chẳng phải pháp của ta. Nói về tự tánh năm ấm tướng số, phi số: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Sẽ nói tướng tự tánh các ấm. Thế nào là tướng tự tánh các ấm? Nghóa là năm ấm. Năm ấm gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm kia chẳng phải sắc, đó là thọ, tưởng, hành, thức. Này Đại Tuệ! Sắc là sắc do bốn đại tạo mỗi đại đều có tướng khác. Này Đại Tuệ! Chẳng phải Vô Sắc có số bốn như hư không. Thí như hư không vượt ngoài số tướng, lìa các số mà vọng tưởng nói một hư không. Này Đại Tuệ! Như thế ấm vượt ngoài số tướng, lìa các số, lìa tánh và phi tánh, lìa bốn câu, số tướng ấy là kẻ ngu năng, chẳng phải hiền Thánh nói”. Đây nói rõ năm ấm tự tánh, tướng số phi số. Nói số, là do sắc phi sắc, mỗi thứ có bốn số, cho nên gọi kia là bốn ấm chẳng phải sắc. Lại nói sắc là sắc do đại tạo mỗi đại có tướng khác, vì bốn đại khác nhau nên gọi chung là sắc, mà sắc cũng có bốn. Kế là nói có số, tức cõi sắc cõi Vô Sắc đều chẳng phải số. Vả lại, y theo cõi Vô Sắc nói, cho nên nói chẳng phải Vô Sắc có bốn số như hư không. Chánh là nói Vô Sắc bốn ấm vốn chẳng có bốn. Thí như hư không siêu vượt số tướng, nhưng vọng tưởng phân biệt nói hư không là một, ấm cũng giống như vậy, lìa các số tướng bốn câu hữu, vô v.v… chấp có số tướng là lời phàm phu nói, chẳng phải các bậc Thánh hiền nói. Như nói thân Phật vô vi không rơi vào các số. Lìa pháp chấp vô ngã thì sẽ nhập địa bất động: Này “Đại Tuệ! Bậc Thánh thấy các sắc tượng như huyễn, lìa lập bày khác chẳng khác, lại như mộng, bóng, thân só phu lìa khác chẳng khác. Này Đại Tuệ! Chỗ tiến đến của Thánh trí đồng ấm vọng tưởng hiện, đó gọi là tướng tự tánh của các ấm, ông nên dứt bỏ, dứt bỏ rồi nói pháp vắng lặng, dứt tất cả kiến chấp của ngoại đạo về cõi Phật. Này Đại Tuệ! Khi nói vắng lặng thấy pháp vô ngã được thanh tịnh và nhập bất động địa. Nhập Bất động địa rồi, được vô lượng Tam-muội tự tại, và được thân ý sinh, được Tam-muội như huyễn, thông đạt rốt ráo, thần lực ba minh tự tại, cứu hộ lợi ích tất cả chúng sinh, cũng như mặt đất là chỗ nuôi chúng sinh”. Đại Bồ-tát giúp lợi ích cho chúng sinh cùng khắp cũng giống như thế. Bậc Thánh hiểu rõ ấm như huyễn, tuy hiện các sắc tượng. Lìa lập bày khác chẳng khác, như trong mộng ảnh hiện tướng só phu đều không có thật thể, đâu có khác, chẳng khác! Nhưng kiến chấp khác chẳng khác chính là vọng tưởng của phàm phu. Phật sở dó lìa được là do hiểu rõ phàm Thánh thể của ấm xưa nay không hai, cho nên gọi chỗ tiến đến của Thánh trí đồng ấm vọng tưởng hiện. Phàm phu muốn trở lại bản thể, thì phải xa lìa tánh tướng ấm vọng, cho nên nói ông phải dứt bỏ. Nếu vọng chấp vắng lặng thì sẽ hiện rõ. Cho nên năng thuyết đây là pháp vắng lặng. Xa lìa tất cả kiến chấp của ngoại đạo. Khi nói pháp này đã lìa pháp chấp vô ngã, thì sẽ nhập Bất động địa, đắc vô lượng Tam-muội tất cả pháp môn, khắp cứu giúp chúng sinh, như quả đất là chỗ nuôi chúng sinh. Phật muốn nói chánh nên trước bỏ tà: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo có bốn thứ Niết-bàn. Bốn thứ Niết-bàn ấy là tánh tự tánh phi tánh Niết-bàn, các thứ tướng tánh phi tánh Niết-bàn, tự tướng tự tánh phi tánh giác Niết-bàn và các ấm tự cộng tướng nối tiếp lưu chú đoạn Niết-bàn. Ấy gọi là bốn thứ Niết-bàn của các ngoại đạo, chăng phải pháp của ta nói. Này Đại Tuệ! Ta nói ra đó, là thức vọng tưởng diệt gọi là Niết-bàn “Niết-bàn nói có tà có chánh, Phật muốn nói chánh là trước bác bỏ tà. Nói ngoại đạo có bốn thứ Niết-bàn, danh tướng như kinh đã nêu. Niết-bàn là quả, quả do nhân đắc, nhân kia đã tà thì quả cũng chẳng phải chánh, cho nên nói chẳng phải ta nói. Ta nói Niết-bàn là chỉ thẳng tâm diệt vọng thức. Bởi có ngoại đạo Niết-bàn không lìa thần ngã, vì thần ngã tức là vọng thức, do vọng tưởng thức diệt mà đối phá”. Gió dừng thì sóng diệt, nên nói ý thức diệt thì thức thứ bảy cũng diệt: “Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Có dựng lập tám thức hay không? Phật bảo: Có dựng lập. Đại Tuệ bạch Phật: nếu dựng lập, tại sao lìa ý thức chẳng phải bảy thức. Phật bảo Đại Tuệ: Vì nhân kia và phan duyên kia cho nên bảy thức bất sinh. Ý thức cảnh giới phần đoạn chấp đắm sinh, thói quen nuôi lớn trong tàng thức, ý câu, ngã, ngã sở, chấp đắm, tư duy nhân duyên sinh, chẳng hoại thân tướng của nhân tàng thức phan duyên cảnh giới do tự tâm hiện ra, rồi chấp đắm nhóm tâm liền sinh, xoay vần làm nhân nhau, thí như biển và sóng, gió cảnh giới do tự tâm hiện thổi hoặc sinh hoặc diệt, cũng giống như thế. Cho nên, ý thức diệt thì bảy thức cũng diệt”. Trên nói vọng tưởng thức diệt gọi là Niết-bàn, liền nghi tám thức cũng diệt. Phật đáp do bất diệt, nói lập ra không diệt. Lại nghi bảy thức không diệt. Phật đáp vì nhân kia và phan duyên nên bảy thức bất sinh, kia tức là sáu thức, ý nói nhân và phan duyên ở sáu thức, mà bảy thức chấp ngã không hề lìa nhau. Nếu sáu thức diệt thì bảy thức cũng bất sinh. Ý thức v.v… trở xuống, nêu chung các thức lần lượt làm nhân cho nhau. Chưa từng không theo nhau là một thể mà tướng khác. Lại có bốn ý: 1. Cảnh giới phần đoạn, là nói thức thứ sáu từ sáu trần sinh. 2.Thói quen nuôi lớn, là nói sáu thức không lìa thức thứ bảy thức thứ tám. 3. Chấp đắm ngã, ngã sở, là nói ngã chấp bảy thức, từ suy tư nhân kia, duyên kia mà sinh. 4.Không hoại thân tướng… tàng thức tức là thức thứ tám. Nói nhân phan duyên nên tự tâm hiện cảnh giới. Tám thức này do sáu thức năng duyên, trở lại duyên cảnh giới tự tâm hiện, tức sáu trần. Do chấp đắm mà sinh sáu thức, năng gồm có các tâm cho nên nói tâm nhóm liền sinh. Nghóa là thức thứ tám và thức thứ sáu lần lượt làm nhân nhau mà sinh, như tướng nhân đây có gốc có ngọn, gốc là tám thức chuyển sinh các thức, ngọn là sáu thức sinh thiện sinh ác. Thức thứ bảy thì truyền tống ở giữa cho nên nói lần lượt làm nhân nhau. Lại lấy ví dụ nêu bày, biển dụ cho thức thứ tám sóng dụ cho thức thứ sáu, do sáu trần làm gió cảnh giới. Cảnh giới là tự tâm hiện trở lại thổi biển tâm của thức thứ tám chuyển sinh các thức. Hoặc sinh hoặc diệt cũng do nương biển mà có gió, do gió mà có sóng dậy, lần lượt làm nhân nhau. Gió dừng thì sóng diệt, cho nên nói ý thức diệt, thức thứ bảy cũng diệt. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Ta không tánh Niết-bàn, Làm ra cùng với tướng Vọng tưởng, thức tri chướng, Đây diệt ta Niết-bàn. Kia nhân, kia phan duyên, Ý thú thảy thành thân. Cùng với nhân là tâm, Là chỗ nương của thức, Như dòng nước lớn cạn, Sẽ chẳng dậy sóng mòi. Như thế ý thức diệt, Các thứ thức chẳng sinh”. Ngoại đạo cho rằng có bốn thứ Niết-bàn, không lìa tánh và tướng, Phật bác bỏ, nói ta không cho tánh tướng là Niết-bàn, mà chỉ thẳng vọng tưởng trí chướng thức diệt là Niết-bàn! Kia nhân, kia phan duyên… là nói bảy thức do ý thú nhân… thành sáu thức thân. Cuối cùng nguồn nhân kia lại dùng tâm của tám thức, làm chỗ nương của các thức, như ví dụ nước v.v… trở xuống ý có thể thấy. Nói về tướng chung của vọng tưởng tự tánh phân biệt: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Nay sẽ nói về tướng chung của vọng tưởng tự tánh phân biệt. Nếu khéo phân biệt tướng chung của vọng tưởng tự tánh phân biệt thì ông và các Đại Bồ-tát lìa vọng tưởng đến tự giác Thánh, khéo thấy con đường chung của ngoại đạo, giác vọng tưởng năng nhiếp, sở nhiếp đoạn duyên khởi các thứ vọng tưởng tự tánh hành, không còn vọng tưởng”. Kinh Nhập Lăng-già chép: Nay ta sẽ nói tướng vọng tưởng tự tánh khác nhau, giúp ông và các Đại Bồ-tát khéo biết nghóa này, dứt các vọng tưởng, chứng Thánh trí, biết pháp ngoại đạo, xa lìa phân biệt năng thủ sở thủ, các tướng y tha khởi, không còn chấp tướng vọng tưởng. Tướng chung vọng tưởng tự tánh phân biệt: Này “Đại Tuệ! Thế nào là tướng chung vọng tưởng tự tánh phân biệt? Nghóa là lời nói vọng tưởng, sở thuyết sự vọng tưởng, tướng vọng tưởng, lợi vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng, nhân vọng tưởng, kiến vọng tưởng, thành vọng tưởng, sinh vọng tưởng, bất sinh vọng tưởng, đó gọi là tướng chung, vọng tưởng tự tánh phân biệt”. Vọng tưởng là một, tùy theo cảnh mà có khác. Trong đây trước chung, kế là riêng. Tên chung có thể thấy, tướng riêng gồm có mười hai. Ban đầu nêu mười hai, kế là giải thích ý nghóa. Này “Đại Tuệ! Thế nào là lời nói vọng tưởng? Nghóa là các thứ tiếng, hay ca vịnh vui đẹp chấp đắm, gọi là lời nói vọng tưởng”. Đây là chấp đắm các thứ âm thanh từ cú, cho là có tánh. Này “Đại Tuệ! Thế nào là sở thuyết sự vọng tưởng? Nghóa là có việc nói ra là chỗ Thánh trí biết, nương vào đó mà sinh lời nói vọng tưởng, đó gọi là sự sở thuyết vọng tưởng”. Sự sở thuyết tự tánh, hễ là sự sở thuyết cực kỳ tự tánh, chỉ có Thánh trí mới biết được, phàm phu không thể hiểu được, chỉ nương vào việc kia mà sinh vọng tưởng lời nói. Này “Đại Tuệ! Thế nào là tướng vọng tưởng? Nghóa là việc nói ra kia, như nai khát nước, tưởng các thứ chấp đắm rồi chấp đắm, như tướng cứng, ướt, ấm, động tất cả tánh vọng tưởng, đó gọi là tướng vọng tưởng”. Ở đây nói tùy sự khởi kiến, như nai khát nước thấy sóng nắỳng tưởng cho là nước, nghóa là đối với đất, nước, gió, lửa, chấp có tánh cứng, ướt, ấm, động, mà không biết tánh kia vốn dung hòa, đối với tất cả pháp vọng chấp danh tướng, tánh tức là pháp. Này “Đại Tuệ! Thế nào là lợi vọng tưởng? Nghóa là ưa các thứ vàng bạc châu báu ấy gọi là lợi vọng tưởng”. Tài vật quý giá ở thế gian vốn là vật huyễn, phàm phu không biết nên sinh tâm tham trước. Này “Đại Tuệ! Thế nào là tự tánh vọng tưởng? Nghóa là giữ gìn tự tánh này như thế chẳng đổi ác kiến vọng tưởng, đó gọi là tự tánh vọng tưởng”. Nói giữ gìn tự tánh này như thế. Trì là giữ gìn, tức là đối với các pháp khởi chấp tự tánh, chấp cho là đúng, các việc khác là sai, đâu khác gì ác kiến phân biệt của ngoại đạo. Này “Đại Tuệ! Thế nào là nhân vọng tưởng? Nghóa là hoặc nhân, hoặc duyên phân biệt hữu vô nên nhân tướng sinh, đó gọi là nhân vọng tưởng”. Nghóa là đối với pháp do nhân duyên sinh khởi kiến chấp hữu vô v.v… vọng tưởng phân biệt thành nhân sinh tử. j) Này “Đại Tuệ! Thế nào là kiến vọng tưởng? Nghóa là các thứ ác kiến có, không, một, khác, đồng, không đồng là vọng tưởng chấp đắm vọng tưởng của ngoại đạo, đó gọi là kiến vọng tưởng”. Đây là nói ngoại đạo ác kiến chấp đắm bốn câu phân biệt có, không, một, khác, đồng chẳng đồng. h) Này “Đại Tuệ! Thế nào là thành vọng tưởng? Nghóa là tưởng ngã và ngã sở tạo thành luận quyết định, đó gọi là thành vọng tưởng”. Đây là đối với giả danh thật pháp, chấp ngã, ngã sở mà khởi lời nói vọng tưởng. Này “Đại Tuệ! Thế nào là sinh vọng tưởng? Nghóa là duyên có tánh hữu vô sinh chấp đắm, đó gọi là sinh vọng tưởng”. Kinh Nhập Lăng-già chép: Nghóa là chấp các pháp hoặc có hoặc không từ duyên mà sinh, đó gọi là sinh phân biệt vọng tưởng. Này “Đại Tuệ! Thế nào là bất sinh vọng tưởng? Nghóa là tất cả tánh vốn vô sinh, không có hạt giống nhân duyên, sinh ra thân vô nhân, đó gọi là bất sinh vọng tưởng”. Nghóa là tất cả pháp chưa có nhân duyên mà trước có tự thê, không nhờ nhân duyên mà sinh nên khởi phân biệt bất sinh. Này “Đại Tuệ! Thế nào là nối tiếp vọng tưởng? Nghóa là kia nối liền nhau như kim với chỉ, đó gọi là nối tiếp vọng tưởng”. Kia nối liền với nhau như kim với chỉ, Kinh Nhập Lăng-già chép: Nghóa là đây cùng với kia lần lượt trói buộc vào nhau như kim với chỉ, đó gọi là nối tiếp phân biệt. Này “Đại Tuệ! Thế nào là phược bất phược vọng tưởng? Nghóa là chấp đắm nhân duyên phược và chẳng phược, như só phu dùng phương tiện hoặc trói buộc hoặc cởi mở, đó gọi là phược bất phược vọng tưởng”. Chấp đắm nhân duyên phược chẳng phược, là nói theo lý, pháp vốn tự lìa làm gì có ràng buộc. Tình chấp thành trói buộc chẳng thể nói không. Như só phu, Kinh Nhập Lăng-già chép: Như người dùng dây phương tiện gắng sườc buộc rồi mở, đó là đối với không buộc mở mà sinh chấp đắm. “Đây là tướng chung vọng tưởng tự tánh phân biệt, tất cả kẻ ngu chấp đắm hữu vô” Trên đây nói các chấp đắm không ngoài hữu vô cho nên tổng kết nói. Không nên chấp là khác, chẳng khác, hữu, vô: Này “Đại Tuệ! Chấp đắm duyên khởi mà chấp đắm, các thứ vọng tưởng chấp đắm tự tánh, như huyễn thị hiện các thứ thân. Phàm phu vọng tưởng thấy các thứ khác với huyễn. Này Đại Tuệ! Huyễn cùng các thứ chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Nếu khác thì huyễn chẳng phải các thứ nhân. Nếu không khác thì huyễn và các thứ không khác nhau, mà thấy khác nhau. Cho nên, chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Do đó nên Này Đại Tuệ! Ông và các vị Đại Bồ-tát đối với chuyên khởi vọng tưởng tự tánh như huyễn chớ chấp đắm là khác, chẳng khác, hữu vô”. Trước nói vọng tưởng phân biệt tự tánh, chưa nói sở chấp, cho nên kế là nói duyên khởi, lại dùng huyễn để ví dụ nói lên vọng tưởng vốn không, phàm phu không hiểu rõ thấy có các tướng khác nhau, cho nên dụ rằng huyễn và các thứ chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Xem xét kỹ càng nêu bày như trước rất dễ hiểu. Nếu hiểu rõ pháp không tự tánh, đối với duyên khởi vọng tưởng đều không thật có, vì thế không nên chấp đắm khác, chẳng khác, hữu, vô. Phật nói kệ để lặp nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Tâm cột vào cảnh giới, Giác tưởng trí chuyển theo Vô sở hữu và thắng, Trí tuệ bình đẳng sinh Vọng tưởng tự tánh có, Đối duyên khởi thì không Vọng tưởng hoặc nhiếp thọ Duyên khởi chẳng vọng tưởng Các thứ chi phần sinh, Như huyễn thì không thành, Tướng kia có nhiều thứ Vọng tưởng thì không thành”. Tâm trói buộc, nghóa là một niệm ở trước bị trần cảnh xoay chuyển, cho nên có nghiệp trói buộc. Nhưng vốn có giác trí cũng chuyển theo vọng, nếu rõ vọng tức chân, lìa các tướng hữu và thẳng đến địa vị Phật thì lại bình đẳng. Đại Tuệ. Thắng tức tối thắng xứ Phật địa. Vọng tưởng tự tánh trở xuống tám câu, là nói vọng tưởng duyên khởi là hữu vô. Bốn câu đầu y theo pháp, bốn câu sau y theo dụ… nghóa là vọng tưởng tự tánh nếu có thì duyên khởi không pháp nào thật có, cũng không đợi duyên khởi mà thành vọng tưởng. Nếu do vọng tưởng năng nhiếp thọ, chấp cảnh giới kia thành vọng tưởng, mà duyên khởi tự chẳng phải vọng tưởng, làm sao có thể thành vọng tưởng được? Dụ, nghóa là như nhà ảo thuật kiến ra các thứ chi phần huyễn. Nếu trước đã sinh thì không đợi ảo thuật mới thành. Tướng huyễn kia tuy có các thứ mà vọng tưởng tự chẳng có các thứ, cho nên nói chẳng thành. Đây đều nói lên hữu vô chẳng thật có. Duyên khởi vọng tưởng làm nhân lẫn nhau mà thành: “Tướng kia tức là lỗi Đều từ tâm phược sinh Vọng tưởng vô sở tri Đối duyên khởi vọng tưởng Tánh các vọng tưởng này Tức là duyên khởi kia Vọng tưởng có các thứ Đối duyên khởi vọng tưởng”. Tám câu này lại nói duyên khởi vọng tưởng làm nhân lẫn nhau mà thành. Nói lỗi tướng kia, nghóa là lỗi của tướng duyên khởi, do tâm trói buộc chấp mà thành lỗi: Tâm trói buộc tức là vọng tưởng. Nếu hiểu rõ duyên khởi thì không vọng tưởng, do vọng tưởng chẳng giác biết duyên khởi sinh các phân biệt. Duyên khởi này và tướng vọng tướng do đó mà có cái ban đầu, không có trước sau, khác nhau nên nói vọng tưởng tức duyên khởi, thể cố nhiên là không hai, nhưng kiết cuộc do duyên khởi mà có phân biệt. Dứt vọng tưởng là cảnh giới của bậc Thánh: Nghóa Thế đế đệ nhất, Thứ ba vô nhân sinh… Vọng tưởng nói thế đế Dứt là cảnh giới Thánh. Thế đế là tục đế. Đệ nhất nghóa là chân đế. Các Đức Phật nói pháp thường nương vào hai đế này. Ngoài ra đều là tà chấp của ngoại đạo, cho nên nói thứ ba vô nhân sinh. Kinh Niết-bàn nói: sự hiểu biết của người xuất thế gọi là Đệ nhất nghóa đế, sự hiểu biết của người thế gian gọi là thế đế. Ngoại đạo lập hai mươi lăm đế, nói rõ trong nhân có quả. Thứ nhất từ minh sơ sinh giác, thứ hai từ giác sinh ngã tâm, thứ ba từ ngã tâm sinh sắc, thanh, hương, vị, xúc… đây nói vô nhân, tức tánh tự nhiên. Vọng tưởng nói trở xuống là kết thúc thành tựu ba thứ tự tánh. Thế đế, là duyên khởi vọng tưởng hai thứ tự tánh. Cảnh giới Thánh, tức Đệ nhất nghóa đế thành tự tánh, nhưng mê là thế đế, ngộ là Đệ nhất nghóa đế, cho nên nói dứt là cảnh giới Thánh. “Thí như việc tu hành Đối một, các thứ hiện Đối kia, không các thứ Tướng vọng tưởng như thế Thí như các che ngăn Vọng tưởng các sắc hiện Không màng, sắc chẳng sắc Duyên khởi thì chẳng giác Thí như lọc vàng ròng Loại bỏ các chất tạp Hư không chẳng mây che Vọng tưởng sạch cũng vậy” Ở đây là nêu bốn ví dụ, ban đầu dụ cho tự tánh vọng tưởng. Nói việc tu hành, như thiền có mười thứ tất cả chỗ: nghóa là xanh, vàng, đỏ, trắng… đều trùm khắp tất cả, cảnh kia vốn là một, do tâm tưởng nên có các thứ cảnh: tướng vọng tưởng cũng giống như vậy, cho nên thật Vô Sắc chẳng phải sắc, duyên khởi bất giác cũng giống như vậy. Lại như như hai ví dụ lọc vàng ròng, và hư không chẳng mây che, đều dụ cho thành tự tánh. Ý nói không vọng tưởng kia duyên khởi hai thứ tự tánh thì như vàng ròng không có chất tạp, như hư không chẳng có mây che, cho nên nói vọng tưởng sạch cũng như vậy. Không theo vọng thì trở lại Thánh trí: Không có tánh vọng tưởng Và có duyên khởi kia Lập ra và chê bai Đều do vọng tưởng hoại Nếu Vọng tưởng vô tánh Mà có tánh duyên khởi Vô tánh mà có tánh Hữu tánh vô tánh sinh Do nương theo vọng tưởng Mà được duyên khởi kia Danh tướng thường theo nhau Mà sinh các vọng tưởng Rốt ráo chẳng thành tựu Dứt trừ các vọng tưởng Về sau trí thanh tịnh Ấy gọi Đệ nhất nghóa”. Không có tánh vọng tưởng v.v… là giải thích lại tự tánh duyên khởi vọng tưởng ở trên xưa nay chẳng phải có, chẳng phải không. Nói chắc chắn có thì rơi vào lập ra, nói chắc chắn không thì rơi vào chê bai, đều do vọng tưởng làm hoại chánh kiến. Nếu vọng tưởng vô tánh, nghóa là nếu không có tánh vọng tưởng mà có tánh duyên khởi thì có lỗi từ vô sinh thành vô nhân. Do vọng niệm phân biệt từ vô thỉ mà có duyên khởi, nhưng do vọng tưởng nương nơi danh tướng. Danh và tướng như bóng theo hình đều là luống dối. Do không hiểu đây mà khởi vọng tưởng, cùng tận nguồn gốc vọng không thành tựu được gì thì vọng tưởng tự diệt, trở lại tự giác Thánh trí, gọi là Đệ nhất nghóa. Độ tức là trừ. Mười hai thứ vọng tưởng đều chẳng ngoài như như: “Vọng tưởng có mười hai Duyên khởi có sáu thứ Tự giác biết trí chướng Kia không có khác nhau Năm pháp là chân thật Tự tánh có ba thứ Tu hành phân biệt đây Chẳng vượt qua như như”. Mười hai thứ vọng tưởng như trước đã nói. Duyên khởi có sáu, sáu tức sáu trần, nghóa là duyên khởi tự tánh. Do gió cảnh giới sáu trần thổi động mà khởi, có chỗ nói sáu nhân là sai. Nhưng vọng tưởng duyên khởi này, nói chung đều có tướng khác nhau. Trong tự giác Thánh trí thì không có sự khác nhau như thế. Nhó minh tức là trí. Năm pháp, ba tự tánh đều là pháp môn tự hành hóa tha của Như lai, người tu hành và giáo hóa chúng sinh của Như lai, người tu hành xứng tánh mà quán sát đều là chân thật một lý, cho nên nói chẳng ngoài như như: Lìa hai thứ tự tánh duyên khởi và vọng tưởng thì gọi là viên thành tự tánh: “Các tướng và duyên khởi Đó gọi khởi vọng tưởng Các tướng vọng tưởng kia Từ duyên khởi ấy sinh Giác tuệ khéo quán sát Vô duyên, vô vọng tưởng Thành rồi không có tánh Làm sao vọng tưởng giác? Tự tánh vọng tưởng kia Lập ra hai tự tánh Vọng tưởng các thứ hiện Cảnh giới Thánh thanh tịnh Vọng tưởng như màu vẽ Duyên khởi chấp vọng tưởng Nếu khác với vọng tưởng Là nương luận ngoại đạo Vọng tưởng nói sở tưởng Do thấy hòa hợp sinh Lìa hai thứ vọng tưởng Như vậy tức là thành”. Các tướng và danh đều là duyên khởi, danh và tướng kia đều là vọng tưởng. Vọng tưởng duyên khởi này đều từ danh tướng mà sinh, nhưng lại nói vọng tưởng từ duyên khởi mà sinh. Vì chỉ cho vọng niệm hiện ra sinh khởi từ căn trần hòa hợp mà sinh. Ở trên nói duyên khởi từ vọng tưởng sinh, vì chỉ mê chân từ vọng mà có pháp nhân duyên sinh, người học không thể không xét, nhưng do chánh trí quản cả hai đều không có, thành rồi thì không tánh, là nói trong tánh viên thành thật vốn không có tánh chấp, vì sao chúng sinh sinh vọng tưởng giác biết, đã quên tánh chân thật mà thành vọng tướng cho nên có hai thứ tự tánh danh tướng, sự tướng nhưng mê thì thấy các tướng hiện, ngộ thì đó là cảnh giới tu hành thanh tịnh của bậc Thánh. Vọng tưởng như màu vẽ, ý nói không khởi hữu, như vốn không có sắc tượng do vẽ mà có. Vọng tưởng vốn do duyên khởi, duyên khởi vốn do phân biệt, chấp duyên khởi mà sinh vọng tưởng. Vì vọng tưởng kia như cho nên Đức Phật phương tiện nói như thế, là muốn cho chúng sinh bỏ vọng về chân. Nếu khác đây mà nói vọng tưởng thì đó là hý luận tà chấp của ngoại đạo, cho nên nói “vọng tưởng nói sở tưởng, do thấy hòa hợp sinh”. Bởi do ngoại đạo vọng tâm phân biệt tướng vọng tưởng và luận ba duyên hòa hợp mà sinh, đều chẳng phải chánh luận. Nếu lìa hai thứ tự tánh duyên khởi, vọng tưởng, thì gọi là viên thành tự tánh. Bồ-tát Đại Tuệ thưa hỏi về sự tu hành chứng đắc của Phật: Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin ngài nói cho chúng con nghe về tướng tự giác Thánh trí và Nhất thừa. Nếu nói tướng tự giác Thánh trí và Nhất thừa, con và các Bồ-tát khác khéo hiểu rành tướng tự giác Thánh trí và Nhất thừa thì chẳng nhờ nơi khác mà thông đạt Phật pháp”. Đại Tuệ nhờ nghe rốt ráo các vọng hiển bày Đệ nhất nghóa, ở trên cho nên dùng hành tướng tự giác Thánh trí và hành tướng Nhất thừa, vì mọi người mà thưa hỏi sự suy tư tu chứng của Phật. Phật nói về sự tu hành chứng đắc của Ngài: Phật bảo Đại Tuệ: Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật. Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: “Sự hiểu biết của bậc Thánh truyền trao cho nhau vọng tưởng là vô tánh, Đại Bồ-tát ở một mình chỗ vắng vẻ, tự giác quán sát, chẳng do nơi khác lìa kiến chấp vọng tưởng, tiến thẳng lên trên, vào địa Như lai, đó gọi là tướng tự giác Thánh trí”. Sự hiểu biết của bậc Thánh trước, tức hành tướng tự chứng Thánh trí và hành tướng Nhất thừa, nghóa là các Đức Phật quá khứ đều từ hai thứ hạnh môn này mà thành Chánh giác, do đó xoay vần truyền trao cho nhau, cái gọi là “Phật Phật truyền trao, tổ tổ thọ nhận”. Đây là đáp chung lời cầu thỉnh trước. Vọng tưởng vô tánh trở xuống là đáp riêng về tự giác Thánh trí. Hành tướng các pháp xưa nay vắng lặng, người ngu không biết sinh vọng chấp phân biệt mà nói vọng pháp, vốn không tự tánh. Nhưng muốn tiến Tu-diệu hạnh thì phải ở chỗ vắng lặng để quán sát. Quán xong rồi thì các vọng tưởng không lìa mà lìa, dần dần trải qua các địa, vào cảnh giới Như lai, gọi đó là tự giác Thánh trí rốt ráo tự nhiên. Giải thích hành tướng Nhất thừa: Này “Đại Tuệ! Thế nào là tướng Nhất thừa? Nghóa là giác ngộ đạo Nhất thừa nên ta nói Nhất thừa. Thế nào là giác ngộ đạo Nhất thừa? Nghóa là chỗ năng nhiếp sở nhiếp vọng tưởng như thật chẳng sinh ra vọng tưởng, đó gọi là giác Nhất thừa. Này Đại Tuệ! Người giác ngộ Nhất thừa, các hàng ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, Phạm thiên vương… chẳng thể biết được, chỉ trừ Như lai, do đó nên gọi là Nhất thừa”. Đây là giải thích hành tướng Nhất thừa. Nói Nhất thừa là Nhất Phật thừa, nghóa là pháp Đại thừa của Như lai. Pháp Nhất thừa này không lìa nhất tâm của con người, cái gọi là pháp mầu tức là tâm. Vì tâm đầy đủ pháp mầu, không hai không khác với chỗ chứng của Phật. Muốn giác ngộ đạo Nhất thừa, cần phải cứu xét tự tâm, cho nên nói: năng nhiếp sở nhiếp vọng tưởng, nghóa là hiểu rõ căn trần vọng tâm năng thủ, sở thủ, dứt vọng hiển chân, như thật mà trụ, cho nên nói như thật chẳng sinh vọng tưởng. Nhưng giác ngô đạo Nhất thừa này chỉ có Phật và Phật mới cứu xét được cùng tận, cho nên nói các ngoại đạo… chẳng thể chứng được. Có ba lý do Như lai chỉ nói Tiểu thừa không nói Đại thừa: Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cớ sao nói ba thừa mà chẳng nói Nhất thừa? Phật bảo Đại Tuệ: “Chẳng tự nhập vào pháp Niết-bàn, nên chẳng nói với tất cả Thanh văn, Duyên giác về Nhất thừa, vì tất cả Thanh văn, Duyên giác, Như lai điều phục trao cho phương tiện vắng lặng để được giải thoát, chẳng phải năng lực của chính mình, cho nên chẳng nói Nhất thừa. Lại nữa, Đại Tuệ, vì phiền não chướng nghiệp, thói quen chẳng dứt bỏ, nên không nói với tất cả Thanh văn, Duyên giác về Nhất thừa. Vì chẳng giác pháp vô ngã, chẳng lìa phần đoạn tử cho nên nói ba thừa”. Ý này hỏi Như lai chỉ nói Tiểu thừa không nói Đại thừa. Phật đáp do ba nghóa cho nên không nói Nhất thừa. Chẳng tự nhập vào pháp Niết-bàn, là vì người Nhị thừa không hiểu sinh tử tức Niết-bàn, nên không nói nhất thừa. Nói điều phục trao cho phương tiện vắng lặng, là do vâng lãnh phương tiện giáo dưỡng mà tu chứng vắng lặng, chỉ lìa luống dối, gọi là giải thoát. Vì chưa chưa giải thoát tất cả nên không vì nói hai. Phiền não chướng v.v… do kia chỉ dứt bỏ bốn trụ, trụ ở hoặc chung, thói quen chưa dứt, các hoặc riêng hoàn toàn còn, cho nên không nói ba. Nhị thừa phá chấp người, chưa phá chấp pháp, nên nói bất giác pháp vô ngã. Tuy dứt bỏ phiền não thân ở phần đoạn, chưa gọi là sinh tử biến dịch nên nói không lìa sanh tử phần đoạn. Như lai vì người căn cơ Tiểu thừa này, chỉ nói pháp ba thừa. Nói về Nhất Phật thừa: Này “Đại Tuệ! Những người kia đã dứt bỏ phiền não, thói quen giác ngộ được pháp vô ngã. Họ đối với tất cả thói quen phiền não đã hết, đắm vị Tam-muội lạc chẳng phải tánh, giác được cõi vô lậu. Giác rồi lại nhập thượng thượng xuất thế gian, đầy đủ các thứ công đức sẽ được pháp thân Như lai tự tại không thể suy nghó, bàn luận”. Ở đây nói hạnh Nhất thừa do dứt bỏ thói quen phiền não, không bị vô minh che lấp, hiêu rõ chân không Tam-muội lạc, bất sinh đắm vị cho nên nói chẳng phải tánh, chính giác được cõi vô lậu. Cõi Vô lậu tức nhập cõi Thật báo, thọ pháp tánh thân, tùy loại hiện hình thị hiện sinh diệt, độ thoát các cõi. Cho nên nói giác rồi lại nhập xuất thế gian, đến thượng phẩm tịch quang, hai thứ trang nghiêm đầy đủ, cuối cùng hiển bày pháp thân tự tại không thể suy nghó, bàn luận. Đó gọi là nhất Phật thừa. Nói về các thừa và Nhất thừa: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Các trời và phạm thừa Thanh văn, Duyên giác thừa Chư Phật Như lai thừa Ta nói các thừa này Cho đến có tâm chuyển Các thừa chẳng rốt ráo Nếu tâm kia diệt hết Chẳng thừa và người thừa Không có kiến lập thừa Ta nói là Nhất thừa”. Bốn câu trước nói chung về các thừa, sáu câu sau ý nói Nhất thừa. Nói có tâm chuyển, chuyển tức là khởi động, nghóa là nếu có một niệm tâm động, dù là Phật thừa cũng chẳng rốt ráo, huống chi là các thừa khác! Nói tâm hành diệt, không có người năng thừa, cũng chẳng có pháp sở thừa, cho đến pháp môn Nhất thừa không thể lập ra, lìa danh bặt tướng, chẳng phá chẳng lập, có các căn cơ này mới nói cho nghe Nhất thừa. Nói về pháp ba thừa: “Vì dẫn dắt chúng sinh Phân biệt nói các thừa Giải thoái có ba thứ Cùng với pháp vô ngã Phiền não trí tuệ thảy Giải thoát thì xa lìa Như cây nổi trên biển Thường trôi theo dòng nước Thanh văn ngu cũng vậy Tướng gió thổi trôi giạt Kia khởi phiền não diệt Còn tập phiền não ngu”. Văn trên của bài tụng này nói về pháp ba thừa. Ba giải thoát là quả mà ba thừa chứng được, nghóa là Thanh văn dứt chánh sử, Duyên giác dứt thói quen, Bồ-tát thì chánh sử và thói quen đều dứt, phá hoặc tuy khác nhưng chứng quả là một chân không Niết-bàn, pháp vô ngã v.v… Đây nói hạnh Đại thừa đắc pháp vô ngã hoặc trí bình đẳng, trói và cởi không hai, đó gọi là viễn ly đại giải thoát. Thí như trở xuống là dụ Nhị thừa chưa dứt bỏ trí chướng, vì gió tướng không thổi động trôi giạt như cây nổi trên biển, bị nước chảy trôi đi, tuy dứt bỏ hoặc chung mà chưa dứt bỏ vô minh căn bản cho nên nói còn tập phiền não ngu, tập tức là vô minh. Nhị thừa lìa khổ, được vui: “Đắm vị vui Tam-muội An trụ cõi vô lậu Không có tiến rốt ráo Cũng chẳng còn lui sụt Được các thân Tam-muội Cho đến kiếp chẳng giác Thí như người say rượu Rượu hết rồi mới tỉnh Kia giác pháp cũng vậy Được thân Phật vô thượng”. Nhị thừa lìa khổ sinh tử phần đoạn, được an vui Niết-bàn chân không, trong đó đắm vị mà không tiến thủ, nhưng cũng không lui sụt làm phàm phu. Tam-muội này thân rơi vào hầm vô vi, cho đến trải qua nhiều kiếp không giác ngộ. Thí như người say, say mê cuồng loạn không hiểu biết gì đến khi hết rượu rồi mới tỉnh. Đây là dụ cho căn cơ Nhị thừa chuyển, tâm trở về pháp giác, chánh trí vô ngã rốt ráo, cho nên nói được thân Phật vô thượng.  LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO KINH CHÚ GIẢI <卷>QUYỂN 3 (Phần 1) <詞>Phẩm 3: NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM Nói về ba thứ thân ý sinh: Khi ấy, Đức Thế tôn bảo Đại Bồ-tát Đại Tuệ rằng: Nay ta sẽ phân biệt tướng chung của thân ý sinh. Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó. Đại Tuệ bạch phật: Bạch Đức Thế tôn! Lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Có ba thứ thân ý sinh. Là thân y sinh Tam-muội lạc chánh thọ thân ý sinh, giác pháp tự tánh tánh thân ý sinh và chủng loại câu sinh vô hành tác. Người tu hành biết rõ tướng Địa thứ nhất tiến lên các địa được ba thứ thân”: Ba thứ thân ý sinh là đạo tự hành hóa tha của Bồ-tát Thông giáo, là Bồ-tát chẳng thể không biết, cho nên Như lai không đợi hỏi mà Đức Phật tự nói, ban đầu nêu bày ba tên, sau giải thích. Này “Đại Tuệ! Thế nào là thân ý sinh Tam-muội lạc chánh thọ? Nghóa là Tam-muội lạc chánh thọ của Thứ ba, Thứ tư, thứ năm Địa, cho nên các thứ tự tâm vắng lặng, an trụ trong biển tâm, tướng thức dậy sóng chẳng sinh. Biết cảnh giới tự tâm hiện tánh phi tánh, đó gọi là thân ý sinh Tam-muội lạc chánh thọ”. Nói Tam-muội lạc chánh thọ thân ý sinh, Bồ-tát này từ Tam địa đến Tứ địa dứt bỏ kiến hoặc, từ Ngũ địa đến Địa thứ bảy dứt tư hoặc, được chân không Tam-muội lạc. Tam-muội, Hán dịch là Chánh thọ. Nói Tam-muội lại nói chánh thọ, Hoa Phạm gồm nêu. Thân ý sinh, nghóa là tác ý thành thân pháp tánh chân không. Các thứ tự tâm v.v… nghóa là Bồ-tát chứng khác với Nhị thừa tâm sinh đắm vị, bị tướng gió thổi động, cho nên nói an trụ biển tâm. Lại khác với phàm phu dậy sóng mòi sáu thức, vì hiểu rõ tất cả cảnh giới chỉ do tự tâm hiện, đều không tự tánh. Đó gọi là thân ý sinh ban đầu, đây là tự hành. Này “Đại Tuệ! Thế nào là thân ý sinh giác pháp tự tánh tánh? Nghóa là địa thứ tám quán sát hiểu rõ các pháp như huyễn v.v… thảy đều không thật có, thân tâm chuyển biến, được Tam-muội như huyễn và các môn Tam-muội khác, vô lượng tướng, lực, tự tại, minh như hoa đẹp trang nghiêm chóng được như ý. Ví như huyễn mộng, trăng đáy nước, bóng trong gương, chẳng phải năng tạo chẳng phải sở tạo. Tất cả sắc các thứ chi phần đầy đủ trang nghiêm, nhập vào bất cứ cõi Phật nào trong tất cả cõi Phật có đại chúng, thông đạt pháp tự tánh. Ấy gọi là giác pháp tự tánh tánh ý sinh nhân”. Đây nói Bồ-tát nhập Địa thứ tám, hiểu rõ các pháp như huyễn, đều không có thật tướng, thân tâm chuyển biến không ngăn ngại, trụ các môn Tam-muội như huyễn, đến khắp cõi Phật, thần thông tự tại, như hoa đẹp trang nghiêm. Nhanh chóng trở xuống là nói như ý như huyễn v.v… đều nói hóa thân nhanh chóng vô ngại. Chẳng phải năng tạo, chẳng phải sở tạo: nghóa là hóa thân sắc tướng khác với tứ đại thật tạo. Như năng tạo sở tạo, nghóa là sắc tướng này tương tự với tạo. Như vậy huyễn tạo sắc tướng, đầy đủ phước tuệ trang nghiêm, thân đến các cõi nước, thông đạt các pháp này chỉ có tánh của ngã tự tánh. Đó gọi là tự tánh tánh thân ý sinh. Đây thuộc về hóa tha. Này “Đại Tuệ! Thế nào là Chủng loại câu sinh vô hành tác thân ý sinh? Nghóa là giác tất cả Phật pháp duyên, tự được tướng vui. Ấy gọi là chủng loại câu sinh vô hành tác thân ý sinh. Này Đại Tuệ! Đối với tướng ba thứ thân kia quán sát giác rõ, phải nên tu học”, ban đầu thì từ sinh tử giả nhập Niết-bàn không, kế là từ Niết-bàn không nhập lập ra giả, vẫn còn hai bên. Nay nhập Trung đạo, nghóa là giác tất cả Phật pháp, v.v… Nói Bồ-tát từ Địa thứ tám trở lên kế vào địa vị Hồi Hướng. Biết rõ tướng các pháp mà các Đức Phật tự chứng tức là tự tâm ta, cho nên nói tự được tướng vui. Nói chủng loại câu sinh, bộ Phụ Hành chép: liễu ngộ pháp Phật chứng tức nhập Trung đạo, thuộc chủng loại Phật. Có chỗ cho rằng ngàn muôn chủng loại chẳng phải cũng tự nhập vào trong; căn cơ hóa độ cũng thành chủng loại Phật, nên gọi là câu sinh. Đến địa vị này, trí chuyển hành dung thông, gọi là vô hành tác, chưa chứng nhập đạo chỉ gọi là ý sinh, đó gọi là tướng ý sinh thứ ba. Ba thứ thân tướng này, là y cứ địa vị thứ lớp mà nói riêng. Trong quyển hai nói thí như ý đi nhanh chóng, y theo hai nghóa xứ và nguyện mà giải thích, đó là giải thích chung, khuyên răn tu học như văn rất dễ hiểu. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa trên nên nói kệ rằng: “Chẳng ta ngồi Đại thừa Chẳng nói cũng chẳng chữ Chẳng đế, chẳng giải thoát Phi cảnh giới hữu vô Song nương vào Đại thừa Được chánh định tự tại Được các thân ý sinh Hoa tự tại trang nghiêm”. Bốn câu đầu của bài kệ y theo sự tự chứng của Như lai lìa tướng đều do phi ngôn, nghóa là dù Đại thừa do lìa tướng nên không thừa mà có thể nương. Bởi lìa các danh tướng, vô chứng vô đắc mà cũng chẳng phải không có cảnh giới để nêu bày. Nhưng nương Đại thừa này, Thừa là năng thừa, Ma-ha-diễn tức là pháp sở thừa, chính là chỉ cho ba thứ thân ý sinh, đó là pháp Đại thừa. Tam-ma-đề tức sơ thân ý sinh trên. Các thứ ý sinh vượt ngoài chủng loại câu sinh thân. Hoa trang nghiêm là thân ý sinh trong bài tụng thứ hai. Nói về năm nghiệp Vô gián: “Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như Thế tôn nói nếu người nam, người nữ gây ra năm nghiệp Vô gián chẳng vào địa ngục Vô gián. Bạch Đức Thế tôn! Vì sao người nam, người nữ gây ra năm nghiệp Vô gián mà không đọa vào địa ngục Vô Trạch. Phật bảo Đại Tuệ: lắng nghe! Lắng nghe! Hạy khéo suy nghó, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: thế nào là năm nghiệp Vô gián? Đó là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng, tâm ác làm thân Phật chảy máu”. Năm Nghiệp Vô gián rất ác nghịch, hễ người nào gây ra nghiệp này thì phải chịu quả báo đọa vào địa ngục Vô gián. Có lúc Như lai bảo rằng: cũng có người gây ra năm nghiệp Vô gián mà chẳng đọa vào địa ngục Vô gián: Vô Trạch tức Vô gián. Đại Tuệ chưa hiểu nên hỏi Phật, trong lời đáp trước hết y theo sự để nêu danh, kế là y theo pháp để giải thích. Danh từ tuy nghịch nhưng pháp thật chỉ thuận theo, nghóa thấy ở văn sau. Nếu dứt tham ái vô minh căn bản này tức là nghóa giết cha mẹ: Này “Đại Tuệ! Thế nào là mẹ chúng sinh? Nghóa là ái lại thọ sinh, cùng đi chung với tham và hỷ, như duyên nơi mẹ mà sinh thành. Vô minh là cha, sinh vào xóm làng sáu nhập mười hai xứ. Dứt bỏ hai thứ căn bản này gọi là giết cha mẹ”. Tham ái là mẹ, vô minh là cha, tức trong mười hai nhân duyên. Ái hiện tại lại từ thọ sinh, đi chung với tham và hỷ đời vị lai, đều có nghóa sinh, như mẹ nuôi nấng. Lập tức sinh, do vô minh tham ái mà sinh vào xóm làng sáu nhập, mười hai xứ… Nếu dứt bỏ tham ái vô minh cản bản này tức là nghóa giết cha mẹ. Nêu ví dụ về người bị chuột cắn dụ cho A-la-hán: “Các sử kia chẳng hiện như chuột độc phát các pháp, rốt ráo dứt bỏ nó gọi là hại La-hán”. Các sử kia chẳng hiện, nghóa là La-hán đã dứt bỏ chánh sử, chưa dứt bỏ thói quen, như chuột cắn người vết thương tuy đã lành, nhưng gặp sấm chớp lại phát sinh. Dụ cho La-hán thói quen tuy không hiện nhưng gặp tướng gió lại bị dao động, như ngài Ca-diếp nghe tiếng đàn liền đứng dậy nhảy múa. Các pháp là pháp vô tri bất nhiễm ô, nếu dứt bỏ rốt ráo tức là nghóa hại La-hán. Nói về phá tăng “Thế nào là phá tăng? Nghóa là các ấm tướng khác hòa hợp chứa nhóm, dứt bỏ nó một cách rốt ráo gọi là phá tăng”. Hòa hợp gọi là tăng. Do năm ấm hòa hợp mà nói thì tướng khác là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Chứa nhóm tức năm ấm chứa nhóm sinh tử. Nếu dứt bỏ được tức là nghóa phá tăng. Nói về năm Vô gián bên trong và tổng: Này “Đại Tuệ! Do bất giác ngoại cảnh tự tướng, cộng tướng, từ tự tâm hiện lượng nên bảy thức thân do ba thứ giải thoát vô lậu ác tưởng, dứt bỏ rốt ráo bảy thức Phật, gọi là ác tâm làm thân Phật ra máu. Nếu người nam người nữ gây ra việc Vô gián này, gọi là năm Vô gián, cũng gọi là Vô gián đẳng”. Do không giác cảnh bên ngoài tự tướng cộng tướng, nghóa là không biết các pháp tự tướng, cộng tướng là do tự tâm hiện lượng, chính do mê thức thứ tám, chỉ còn bảy thức. Chỉ bảy thức vọng giác mà làm nghóa Phật, chẳng phải hạnh của ba thứ giải thoát vô lậu thì chẳng thể dứt bỏ. Vô lậu vốn là thiện mà nói ác cũng thuận theo nghóa giết hại. Phát được tâm này dứt bỏ rốt ráo bảy thức Phật, tức là nghóa làm thân Phật chảy máu. Kinh Nhập Lăng-già chép: Dứt bỏ Tám thức thân Phật kia, lấy chín thức làm thức Phật, tám thức làm thân Bồ- tát, vì thể kia thuộc vô minh. Đây là năm Vô gián. Từ “nếu người nam trở xuống là tổng kết”. Nói về năm Vô gián bên ngoài: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Có ngoại Vô gián, nay ta sẽ giải thích ông và các Đại Bồ-tát khác nghe nghóa này rồi, ở đời vị lai chẳng rơi vào ngu si. Thế nào là năm Vô gián? Nghóa là trước đã nói Vô gián, nếu người nào gây ra pháp này thì đối ba môn giải thoát mỗi môn chẳng được pháp Vô gián v.v… Trừ người này ra, còn các vị hóa thần lực hiện Vô gián đẳng, như Thanh văn hóa thần lực, Bồ-tát hóa thần lực, Như lai hóa thần lực, vì người khác gây ra tội Vô gián để dứt nghi và hối quá. Vì khuyến phát nên dùng thần thực biến hóa, hiện Vô gián đẳng, không phải một bề gây ra tội Vô gián mà chẳng mắc tội Vô gián đẳng. Trừ người giác tự tâm hiện lượng lìa thân tài vọng tưởng, lìa ngã và ngã sở nhiếp thọ, hoặc khi gặp thiện tri thức giải thoát vọng tưởng nối nhau trong các cõi”. Năm Vô gián bên ngoài: ngoại là đối với nội. Vì chỉ cho năm Vô gián trước là trong, do thật gây ra nghiệp Vô gián là ngoài. Trên nói thực hành năm Vô gián được chứng Thánh trí, sợ người cho rằng thật gây ra nhân Vô gián cũng không chịu ác báo, cho nên lại nói đây: Nếu nghe việc năm Vô gián bên ngoài nghiệp báo không khác nhau thì bất sinh nghi ngờ, cho nên nói chẳng rơi vào ngu si. Nói trước đã nói: nghóa là đối với các giáo khác từng nói Vô gián. Nếu gây ra nghiệp Vô gián này chắc chắn rơi vào địa ngục A-tỳ, đâu được ba pháp giải thoát Vô gián v.v… ư! Dưới đây là nói quyền tạo, quyền sẽ dẫn thật, Kinh Nhập Lăng-già chép: Thấy kia có gây ra nghiệp Vô gián, vì muốn khuyến phát giúp cho kia sửa lỗi, nên dùng năng lực thần thông thị hiện đồng với việc kia. Tầm tức là sám hối trừ tội chứng được giải thoát. Có chỗ nói rằng thực hành chẳng phải đạo, thông đạt Phật đạo, như Điều-đạt và vua A-xà-thế v.v… không có trở xuống: Là nói không có thật tạo mà không chịu quả báo Vô gián. Nhưng thật tạo chưa hẳn là không bao giờ đắc pháp ba giải thoát, cho nên nói trừ giác tự tâm hiện lượng, v.v… ý nói nếu rõ được các pháp duy tâm, trong không thấy thân, ngoài không thấy tài, lìa chấp người pháp. Hoặc ở dời vị lai thọ sinh trong các đường, gặp thiện tri thức lìa lỗi phân biệt, đều được giải thoát. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Tham dục gọi là mẹ Vô minh gọi là cha Giác cảnh thức là Phật Các sử là La-hán Ấm nhóm gọi là tăng Vô gián thứ lớp dứt Gọi là năm Vô gián Chẳng vào ngục Vô trạch”. Trong bài tụng này, phần trên nói về năm Vô gián bên trong. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi về sở tri sở giác: Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin giảng nói tri giác của Phật. Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là tri giác của Phật? Phật bảo Đại Tuệ: giác người pháp vô ngã, biết rõ hai chướng, lìa hai thứ tử, dứt hai thứ phiền não, đó gọi là tri giác của Phật. Thanh văn, Duyên giác được pháp này cũng gọi là Phật. Do nhân duyên này nên ta nói Nhất thừa. Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Khéo biết hai vô ngã Hai chướng phiền não dứt Lìa hẳn hai thứ tử Đó gọi trí giác Phật”. Vừa rồi nói đạo giác Nhất thừa, ấy nói vẫn còn tóm lược, mà chưa hề nói sở tri, sở giác là pháp gì, do đó ở đây lại thưa hỏi. Phật bèn bảo, biết rõ hai thứ vô ngã gọi là giác, biết rõ hai chướng đó gọi là tri, cứu xét luận bàn người pháp, chúng sinh và Phật bình đẳng, vốn không có hai chấp cái gọi là chân như giới nội dứt bặt giả danh chúng sinh và Phật, đây là không chấp người. Trong tánh bình đẳng không có hình tướng tự tha, đây là không chấp pháp. Chúng sinh mê muội thành hai thứ ngã chấp, Như lai giác rõ bản tánh, hai chấp đều không, cho nên nói vô ngã. Hai chướng là hoặc chướng và trí chướng, tức hai thứ chấp trên là hoặc, hai không là trí. Đã do hai không nênk có hai chấp kia, là vô hoặc chướng, trí năng không cũng mất, đó là vô trí chướng. Hai chướng là nhân sinh tử, nhân diệt nên quả diệt, cho nên nói lìa hai thứ tử. Hai thứ tử là sinh tử phần đoạn và sinh tử biến dịch. Hai phiền não là hai hoặc chung và riêng. Hai hoặc này còn mãi đến cực quả mới thể dứt hết. Liễu đạt được như vậy gọi là tri giác của Phật. Hai thừa tuy là Tiểu thừa nhưng có thể hồi tâm hướng về Đại, như Phật giác tri là Phật mà thôi! Cho nên nói cũng gọi là Phật, do đó mà nói Nhất thừa này. Văn trùng tụng rất dễ thấy. Nói về bổn sanh của Phật: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Vì sao Đức Thế tôn ở trong đại chúng tuyên bố rằng: “Ta là tất cả Phật thời quá khứ và các thứ thọ sinh. Lúc bấy giờ ta làm vua Thánh Chuyển luân tên Mạn-đà, voi lớn sáu ngà và chim Anh Vũ, Thích-đề-hoàn-nhân, vị tiên Thiện Nhãn… trải qua trăm ngàn đời như thế” nói kinh. Đạo của các Đức Phật ba đời đây là đồng, giác biết được trước sau, có quá khứ, hiện tại và vị lai khác nhau. Vì sao Thế tôn nói: Ta là các Đức Phật trong quá khứ, lại nói các thứ thọ sinh thì khác hình tướng. Đại Tuệ nêu lên hai nguyên nhân này để hỏi. Kinh Bổn Sinh chép: Ở quá khứ Như lai từng thọ sinh, như làm vua Chuyển luân và làm Thích-đề-hoàn-nhân, vị tiên Thiện Nhãn, voi lớn sáu ngà và chim anh vũ, trong trăm ngàn đời. Nói về bốn đẳng: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Do Bốn đẳng nên Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác ở trong đại chúng tuyên bố rằng”: “Ta khi ấy làm Phật Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm Mâu-ni, Ca-diếp”. Thế nào là bốn đẳng? Nghóa là tự đồng, ngữ đẳng, pháp đẳng và thân đẳng, đó gọi là bốn đẳng. Do bốn thứ đồng nên Như lai Ứng cúng Chánh đẳng giác ở trong chúng tuyên bố như thế”. Phật bảo do Bốn đẳng nên làm Phật Câu-lưu-tôn v.v…, là thuận theo câu hỏi trên nói ta là các Đức Phật trong quá khứ, ”Bốn đẳng” nghóa thấy ở văn dưới. “Thế nào là tự đẳng? Hoặc chữ xưng ta là Phật, chữ kia cũng xưng tất cả các Đức Phật, chữ ấy tự tánh không có khác nhau, đó gọi là Tự đẳng”. Thế nào là ngữ đẳng? Nghóa là ta có sáu mươi bốn thứ phạm âm nên tướng lời nói sinh. Các Đức Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác kia cũng có sáu mươi bốn thứ phạm âm nên tướng lời nói sinh cũng như thế, không thêm không bớt, không khác nhau tánh của Phạm âm thanh như Ca-lăng-tần-già. Thế nào là thân đẳng? Nghóa là ta và pháp thân tướng tốt sắc thân của các Đức Phật không khác nhau. Trừ vì điều phục chúng sinh khác nhau ở các đường kia nên thị hiện các sắc thân khác nhau, đó gọi là thân đẳng. Thế nào là pháp đẳng? Nghóa là ta và các Đức Phật kia được pháp ba mươi bảy phần Bồ-đề, trí lược nói Phật pháp không chướng ngại, đó gọi là bốn đẳng. Cho nên Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác ở trong đại chúng tuyên bố như thế. Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Ca-diếp Câu-lưu-tôn Câu-na-hàm là ta Do bốn thứ bình đẳng Ta vì Phật tử nói”. Bốn đẳng là chữ nói thân pháp có bốn thứ, đều bình đẳng. Tự đẳng, nghóa là ta gọi là Phật, tất cả Như lai cũng gọi là Phật. Danh hiệu Phật không khác nhau, đó gọi là tự đẳng. Ngữ đẳng, nghóa là ta có sáu mươi bốn thứ Phạm âm, tất cả các Đức Phật cũng giống như vậy, đó gọi là ngữ đẳng. Kinh Mật Tích Lực Só nói âm thanh Phật có tám chuyển, đó là thể, nghiệp, cụ, vi, tùng, thuộc, ư và hô, đó là tám chuyển thanh, mỗi chuyển thanh có đủ tám đức: điều hòa, êm ái, chắc thật, rõ ràng, dễ hiểu không lầm lẫn, không tiếng cái nhỏ, tiếng to lớn, tiêng sâu xa. Tám nhân tám thì thành sáu mươi bốn thứ. Tần-già là tên chim, âm thanh chim này trong trẻo êm tai, hay hơn các loài chim khác, cho nên dẫn ra để dụ. Thân đẳng, nghóa là ta cùng pháp thân, báo thân, ứng thân, hóa thân v.v… của các Đức Phật, tuy căn cơ khác nhau, ứng tích hoặc khác nhưng chỗ quy thú cũng chỉ là một mà thôi! Pháp đẳng: nghóa là pháp đắc đạo phẩm không khác với các Đức Phật. Nói trí vô chướng ngại, nghóa là được bốn đẳng này thì đối với tất cả các Đức Phật không có chướng ngại, cũng không mê muội đối với dấu dấu ứng hóa đồng khác của Như lai. Nói về pháp duyên tự đắc và pháp bổn trụ: “Đại Tuệ lại bạch Phật: như Thế tôn đã nói: ta từ đêm ấy được Tối chánh giác, cho đến đêm ấy vào Niết-bàn, ở khoảng giữa kia không nói dù chỉ một lời, cũng chẳng đã nói, sẽ nói, chẳng nói chánh là Phật nói”. Thế tôn! Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, do đâu nói rằng không nói là Phật nói? Phật bảo Đại Tuệ: ta do hai pháp nên nói như thế. Hai pháp ấy là pháp duyên tự đắc và pháp bổn trụ, đó gọi là hai pháp, do hai pháp này nên ta nói như vậy”. Vì bốn đẳng có liên quan đến ngôn thuyên, cho nên lại dùng nghóa từ đầu đến cuối không nói một chữ làm câu hỏi. Phật đáp dùng hai pháp ngã nhân, nghóa là không có pháp để nói, gọi là Phật nói. Tự đắc tức tự chứng tu đức. Bổn trụ tức là vốn đây đủ tánh đức. Tu tánh như một, đều lìa lời nói, cho nên ta nói như vậy. Thế nào là pháp duyên tự đắc? “Nếu Như lai kia chứng đắc ta cũng chứng đắc, không thêm không bớt. Pháp duyên tự đắc cảnh giới rốt ráo lìa lời nói vọng tưởng, lìa văn tự hai đường”. Nói cảnh giới tự chứng rốt ráo không khác với các Đức Phật. Đây là sự nhiệm mầu tự đắc còn không thêm bớt, đâu thể đắc mà suy tư lời nói. Cho nên nói lìa lời nói… Kinh Nhập Lăng Già chép: lìa tướng lời nói, lìa tướng danh tự, lìa tướng phân biệt. Đó gọi là hai đường chưa rõ ràng. “Thế nào là pháp bổn trụ? Nghóa là đạo của bậc Tiên Thánh xưa như tánh vàng bạc v.v… là pháp giới thường trụ. Hoặc Như lai ra đời, hoặc chẳng ra đời pháp giới cũng thường trụ, như đường đến thành kia. Thí như có người đi ở chỗ hoang vắng thấy con đường bằng phẳng đi đến một ngôi thành xưa, liền theo đó vào thành được vui như ý. Này Đại Tuệ! Ý ông nghó sao? Có phải người kia làm ra con đường ấy và làm ra các thứ vui trong thành chăng? Đáp: chẳng phải. Phật bảo Đại Tuệ: Ta và tất cả các Đức Phật đời quá khứ, pháp giới thường trụ cũng giống như vậy. Cho nên nói rằng: ta từ đêm ấy được Tối chánh giác, cho đến đêm ấy nhập Niết-bàn, ở khoảng giữa kia không nói một chữ, cũng chẳng đã nói, sẽ nói”. Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Ta đêm ấy thành đạo Đến đêm ấy Niết-bàn Giữa hai thời gian này, Ta không hề nói Pháp duyên tự đắc trụ Nên ta nói như thế Phật kia cùng với ta Đều không có khác nhau. Nói đạo của bậc Tiên Thánh xưa tức là pháp tánh đức của Phật trước đã chứng, như vàng cứng chắc chẳng phải do đúc luyện mà có. Pháp giới thường trụ cũng giống như vậy. Có chỗ nói có Phật, hay không Phật tánh tướng cũng thường như vậy. Lại nói pháp giới thường trụ, kiết cục vốn trụ trong pháp. Lại nói như con đường đi đến thành kia… ở đây ví dụ bao gồm chỗ quy về chỉ là một của hai pháp: tự đắc và bổn trụ. Nói con đường bằng phẳng là pháp bổn trụ, Só phu vào thành hưởng vui, là pháp tự đắc. Do kia vốn có con đường, được theo đó mà vào, vào rồi yên ổn, đều chẳng phải vật bên ngoài. Nói tánh của hai pháp này vốn có, chẳng phải do lời nói suy tư mà được. Cái gọi là năm mươi năm Đại tạng giáo Đức Phật không nói một chữ, chẳng phải nói là không nói, bởi dùng lời bỏ lời, các Đức Phật ba đời kia quy về một đường. Văn kệ tụng đã nêu rõ, không cần giải thích. Phật đáp câu hỏi và giải thích nghóa: Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Phật: cúi xin nói cho chúng sanh nghe tất cả pháp tướng hữu và vô hữu, giúp cho con và các Đại Bồ-tát khác lìa tướng hữu vô, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Phật bảo Đại Tuệ: Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó, ta sẽnói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Thế tôn lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: “Thế gian này y có hai thứ, là y có và y không, rơi vào tánh và phi tánh, muốn thấy chẳng lìa, lìa tướng”, cho đến lý vắng lặng bặt dứt, chẳng phải có chẳng phải không, chúng sinh mê muội điều này sẽ rơi vào hai bên, không thể trở lại gốc, cho nên Đại Tuệ vì chúng mà nêu câu hỏi. Phật trước thuận theo câu hỏi mà đáp, sau giải thích nghóa kia. Y có hai thứ v.v… nghóa là chúng sinh thế gian nương vào cảnh hữu vô, khởi chấp hữu vô, rơi vào tánh phi tánh, tức chấp hữu vô. Kiến chấp về dục cho rằng ưa thích chấp này, chẳng phải pháp ra khỏi vọng cho là ra khỏi, cho nên nói không lìa, lìa tướng. Giải thích Hữu tướng: Này “Đại Tuệ! Thế nào là thế gian năng hữu? Nghóa là có thế gian do nhân duyên sinh, chẳng phải bất hữu, từ hữu mà sinh, chẳng phải không có mà sinh. Này Đại Tuệ! Kia nói như thế là nói thế gian không nhân. Này Đại Tuệ! thế nào là thế gian nương không? Nghóa là nhận tánh tham, sân, si rồi, về sau vọng tưởng chấp đắm tham sân si, tánh phi tánh. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng chấp có tánh, vì tánh tướng vắng lặng, nên cho là các Đức Như lai, Thanh văn, Duyên giác chẳng chấp tánh tham sân si là hữu, là vô. Nương hữu, v.v… trở xuống là giải thích hữu tướng, nghóa là thật có nhân duyên thế gian mà sinh ra các pháp, chẳng phải không thật có, thật từ hữu mà sinh”. Nói chẳng phải không có sinh, nghóa là năng sinh nhân duyên là có, vì đây chấp không là có. Lại bảo rằng: kia nói như thế là luận thuyết vô nhân của ngoại đạo. Nương vô… là giải thích vô tướng, nghóa là trước thọ tánh ba độc rồi, sau vọng tưởng tánh, phi tánh kia. Phi tánh tức vọng tưởng là không, nếu không vọng thọ ba độc là có tánh thì vô sở chấp, vô chấp thì tánh tướng xưa nay vắng lặng, như Phật và hai thừa, không chấp tánh ba độc, là lìa kiến chấp có không. Thế nào là phá hoại Phật pháp? Này “Đại Tuệ! Trong đây những gì là hoại? Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Nếu kia chấp tánh tham sân si, sau không còn chấp. Phật bảo Đại Tuệ: lành thay! Lành thay! Ông hiểu như thế. Này Đại Tuệ! Chẳng những tham sân si tánh phi tánh là hoại, mà đối với Thanh văn, Duyên giác và Phật cũng là hoại. Vì sao? Vì trong ngoài không thật có, vì tánh phiền não khác và chẳng khác”. Như lai đã giải thích tướng hữu vô để thuận theo lời thưa hỏi của Đại Tuệ, đây là hai câu thắc mắc thưa hỏi, thế nào là phá hoại Phật pháp? Đại Tuệ là đáp chấp tánh ba độc là có, sau chấp là không, đó là nghóa phá hoại. Đức Phật có thể nói lời ấy, là nói rằng: chẳng những chấp vô là hoại mà cũng hoại hai thừa và Phật. Vì kia nói haithừa và Phật cũng vốn chấp ba độc là có, sau dứt ba độc là vô, được thành quả Thánh, cho nên nói cũng là hoại. Vì sao trở xuống là bậc Thánh liễu đạt các pháp trong ngoài đều không thật có, cũng biết rõ tánh phiền não, vốn lìa bốn câu: một, khác v.v… đâu có hoại. Giải thích nguyên nhân không hoại: Này “Đại Tuệ! Tham, sân, si, hoặc trong hoặc ngoài không thật có, tham sân si tánh không có thân, không chấp, chẳng phải Phật, Thanh văn, Duyên giác là hoại. Phật, Thanh văn, Duyên giác, vì tự tánh giải thoát, vì trói buộc và nhân trói buộc chẳng có tánh. Này Đại Tuệ! Nếu có người bị trói buộc thì lẽ ra nên có trói buộc là nhân phược. Này Đại Tuệ! Như thế nói hoại, đó gọi là không có tướng”. Tham, sân, si trở xuống lại giải thích nguyên nhân không hoại nên nói hoặc trong hoặc ngoài, nghóa là tánh ba độc ở trong, ngoài, khoảng giữa tìm cầu đều không thật có. Đã không thật có thì đâu có thể tánh để chấp ư! Cho nên tổng kết nói rằng: chẳng phải Phật, Thanh văn, Duyên giác là hoại, vì Phật cùng hàng Nhị thừa bản tánh giải thoát chẳng trói buộc, chẳng thoát. Lại nói nếu có trói buộc, nghóa là trước thọ mà sau không chấp thì đã có trói buộc, trói buộc là quả quả phải có nhân, nhân tức tham v.v… Có trói buộc thì có hoại, như vậy nói hoại tức là rơi vào đoạn diệt, kiến chấp không, nên nói tướng hữu vô. Thà chấp người chứ đừng chấp không: Này “Đại Tuệ! Do đó nên ta nói thà chấp người như núi Tu-di, chứ chẳng khởi chấp không, vô sở hữu, tăng thượng mạn. Này Đại Tuệ! không thật có tăng thượng mạn, đó gọi là hoại, rơi vào kiến chấp tự tướng, cộng tướng mong mỏi, chẳng biết tự tâm hiện lượng. Thấy ngoại tánh vô thường sát-na lần lượt hoại, ấm giới nhập nối nhau trôi chảy thay đổi, lìa tướng văn tự vọng tưởng, đó gọi là hoại”. Thà chấp chấp người v.v… do Đại đưa tới tiểu, nói về lỗi của chấp không, chấp người tức ngã kiến. Nói tăng thượng mạn, nghóa là pháp tăng thượng mạn của tự mình, thành ra kiến mạn. Kinh dạy: chưa đắc nói đắc, chưa chứng nói chứng, tức là người ấy. Điều ác về Chấp người có hạn, tăng thượng mạn chấp không thì không pháp nào không bỏ, đó gọi là hoại. Cho nên nói rằng: Thà khởi chấp người bằng núi Tu-di, chứ đừng khởi chấp không. Rơi vào kiến chấp tự tướng, cộng tướng… nói do khởi chấp không, vì từ vô thỉ khởi chấp tự sinh, cộng sinh, đối với dục lạc không hiểu rõ các pháp duy tâm, chấp có pháp bên ngoài, niệm niệm sinh diệt xoay vần biến hoại. Cái gọi là ấm nhập giới nối nhau trôi chảy biến diệt, chấp thật pháp này diệt rồi trở về không, đó là chấp không. Còn như luống dối phân biệt lìa tướng văn tự cũng thành nghóa hoại. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Hữu vô là hai bên Cho đến cảnh giới tâm Trừ sạch cảnh giới kia Tâm bình đẳng vắng lặng Không chấp tánh cảnh giới Diệt phi, vô sở hữu. Có việc đều như như Như cảnh giới hiền Thánh Không chủng mà có sinh Sinh rồi mà lại diệt Nhân duyên có, chẳng có Chẳng trụ giáo pháp ta Phi ngoại đạo, phi Phật Phi ngã, cũng phi khác Nhân duyên nhóm họp khởi, Làm sao mà không được Ai họp nhân duyên có. Mà lại nói rằng không? Tà kiến luận sinh diệt Vọng tưởng chấp hữu vô Nếu biết không chỗ sinh Cũng lại không chỗ diệt Quán đây đều vắng lặng, Hữu vô đều xa lìa”. Tám câu tụng trước là nghóa chánh của nội giáo. Vô chủng mà có sinh trở xuống, bài tụng này chấp sinh diệt có không, chẳng phải giáo pháp của ta. Bốn câu Phi ngoại đạo v.v… Phật là pháp do ta nói sinh ra, chẳng phải Phật chẳng phải ngoại đạo tạo tác, cũng chẳng phải thần ngã và nhân khác làm ra, chính là do nhân duyên hòa hợp mà sinh khởi. Nhưng do có khởi lời nói không được nói là không. Ai nhóm họp nhân duyên v.v… ý nói pháp do nhân duyên sinh chẳng phải ta có thể được, gì là có gì là không. Nếu phàm phù tà kiến sở luận, đó là vọng chấp có bất sinh diệt. Nếu biết sinh vốn bất sinh, diệt cũng chẳng diệt, tự nhiên khế hợp vắng lặng, không rơi vào hai thứ kiến chấp hữu vô, cho nên nói hữu và vô đều lìa. Muốn khéo hóa đạo thì tông và thuyết đều phải thông: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin vì con và các Bồ-tát nói tướng của tông thông. Nếu khéo phân biệt tướng của tông thông thì con và các Bồ-tát thông đạt tướng ấy, thông đạt tướng ấy rồi mau thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng theo giác tưởng và các ma ngoại đạo. Phật bảo Đại Tuệ: lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ Bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: tất cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát có hai thông, là tông thông và thuyết thông”. Muốn khéo hóa đạo thì tông thuyết đều thông phải, mới hướng dẫn chúng sinh đi đến đường chánh đạo được. Vì tông là nguồn gốc của đạo, thuyết là dấu vết của giáo. Tông để nêu rõ thú, thú không rõ thì lạc mất phương hướng quay về. Giáo để giảng giải lý, lý mờ mịt thì sẽ vào chỗ mê muội, cho nên tông thông mà thuyết chẳng thông thì lý tuy tinh tế mà không hiển hiện được, còn thuyết thông mà tông chẳng thông thì nói tuy rõ ràng mà chẳng quan trọng. Nhưng thật tướng hai thứ này phải là dụng, không thể phế bỏ. Đại Tuệ thỉnh nói về tướng tông thông mà không đề cập đến thuyết thông, nêu lên điều quan trọng, tông thông thì thuyết thông ở trong đó, trong đó đáp chung cả hai, văn sau nói rõ. Nói riêng về tông thông: Này “Đại Tuệ! Tông thông nghóa là duyên theo tướng tự đắc thắng tiến, xa lìa vọng tưởng lời nói văn tự, đến cõi vô lậu tự giác địa tự tướng, xa lìa tất cả giác tưởng luống dối, hàng phục tất cả ngoại đạo các ma, duyên tự giác thú, ánh sáng chiếu soi, đó gọi là tướng tông thông”. Tông thông, tức là tự chứng tướng tốt đẹp, nghóa là nương giáo pháp suy nghó tu hành, được ý quên lời, lìa xa văn tự phân biệt, vào trụ địa đắc vô sinh nhẫn, vượt qua ba thừa Thánh trí, tự nhiên hàng phục ngoại đạo, đạt đến Phật địa, rốt ráo giác trí xán lạn chiếu soi. Đây là tướng Tông thông chí cực. Nói riêng về thuyết thông: “Thế nào là tướng Thuyết thông? Nghóa là nói chín bộ giáo pháp, lìa tướng khác, chẳng khác, có, không… do phương tiện khéo léo thuận theo chúng sinh, như ứng theo nói pháp khiến được độ thoát, đó gọi là tướng thuyết thông”. Này Đại Tuệ! Ông và các Bồ-tát khác phải nên tu học. Tướng thuyết thông, là tướng nói pháp hợp căn cơ. Chín bộ, là chín bộ trong mười hai bộ, nhưng có Đại thừa và Tiểu thừa khác nhau. Nếu Tiểu thừa thì chín bộ, không có ba bộ Phương Quảng, Vô Vấn Tự Thuyết và Thọ Ký. Như kinh dạy: Chín bộ pháp của ta là nói theo căn cơ chúng sinh. Nếu Đại thừa chín bộ thì không có ba bộ: Nhân duyên, Thí dụ, luận nghị. Như bộ Diệu Huyền đây là từ riêng mà đáp, thông luận có mười hai bộ, cũng nói mười hai phần giáo. Trong đây nói chín bộ, đã nói dùng phương tiện khéo léo nói thuận theo chúng sinh, chính từ Tiểu thừa nhập vào Đại thừa. Nói lìa khác, chẳng khác, có, không, nghóa là lìa bốn câu đã không ngại bốn thuyết, lại nói: Như nên nói pháp, nên tức là phải. Sẽ dùng pháp gì dể nói, nghóa là vì chúng sinh mà nói giúp cho họ được độ. Đây là kiết quả sau khi Như lai nói tướng thuyết thông, là Bồ-tát chẳng thể không học. Đức Phật nói tụng để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Tông thông và thuyết thông Duyên tự và giáo pháp Khéo thấy khéo phân biệt Không theo các giác tưởng”. Ba câu đầu là nói tướng của hai thông, khéo thấy là tông thông. Phân biệt là thuyết thông. Không theo các giác tưởng, nghóa là đắc tướng hai thông, thì không theo vọng tưởng gương giác của ngoại đạo. Chẳng có tánh chân thật, Như kẻ ngu vọng tưởng. Vì sao khởi vọng tưởng Phi tánh làm giải thoát? Nếu chưa được chân như thật tánh mà khởi phân biệt, thì như kẻ ngu vọng tưởng không khác. Vọng tưởng là gì? Tức là vọng chấp các pháp phi tánh cho là giải thoát, phi tánh tức là vô. “Quán sát các hữu vi Sinh diệt thảy nối nhau Thêm lớn hai chấp này Điên đảo không hiểu biết Một đó là chân đế Không tội là Niết-bàn Quán sát vọng tưởng đời Như mộng, huyễn, cây chuối”. Đức Như lai dùng mắt trí tuệ chân chánh quán sát các pháp hữu vi thế gian, đều hư huyễn sinh diệt, vọng chấp là thật, thêm lớn hai chấp hữu vô. Phàm phu điên đảo không hiểu biết, trừ một tâm mầu nhiệm chân như Niết-bàn, ngoài ra đều là luống dối, cho nên dụ rằng: Như huyễn, mộng, cây chuối. Vô tội, nghóa là biết rõ tội tánh vốn không, tức là Niết-bàn. “Tuy có tham, sân, si Mà thật không có người Từ ái sinh các ấm Hữu đều như huyễn, mộng”. Đây là giải thích lại nghóa như huyễn… Nói tuy có ba độc, mà không có người năng khởi, vì hai ngã vốn không thì làm gì có ba độc. Cho nên năng sinh ái dục và năm ấm sở sinh đều như mộng huyễn. Tận nguồn vọng tưởng thì chân tánh tự sáng suốt: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin nói cho chúng con nghe tướng vọng tưởng chẳng thật. Vọng tưởng chẳng thật vì sao lại sinh? Nói pháp gì gọi là vọng tưởng chẳng thật? Đối với pháp nào là vọng tưởng chẳng thật? Phật bảo Đại Tuệ: Lành thay! Lành thay! Ông khéo hỏi Như lai nghóa như thế, được nhiều lợi ích an vui, thương xót tất cả người, trời ở thế gian. Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Thế tôn Lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Do các thứ nghóa, các thứ vọng tưởng chẳng thật chấp đắm vọng tưởng sinh. Này Đại Tuệ! Chấp đắm năng nhiếp, sở nhiếp chẳng biết tự tâm hiện lượng, rơi vào kiến chấp có không, thêm lớn vọng tưởng tập thói quen kiến chấp ngoại đạo, chấp đắm các thứ nghóa bên ngoài, tâm, tâm sở vọng tưởng chấp đắm làm ngã, ngã sở mà sinh”. Hết vọng tưởng sẽ đến chỗ cùng cực, nêu bày chân tánh sẽ cùng tận nguồn gốc, tận nguồn kia thì chân tánh tự sáng suốt, cực đến kia thì vọng tưởng đâu có. Cho nên Đại Tuệ thưa hỏi tướng vọng tưởng không thật Phàm, gồm có ba nghi vấn: 1.Vì sao vọng tưởng sinh. 2.Pháp nào gọi là vọng tưởng? 3.Do đâu mà khởi vọng tưởng? Đức Phật theo thứ lớp trả lời. Ban đầu đáp các nghóa: Hễ ngoài các pháp có các tướng nghóa đều là luống dối, do vọng tưởng mà sinh mới sinh ra các thứ vọng tưởng chấp chặt không thật. Tiếp theo đáp chấp chặt năng nhiếp, sở nhiếp, nghóa là đối với chấp đắm căn trần không biết duy tâm hiện và rơi vào kiến chấp hữu vô, chấp các thứ ngoài tâm, các kiến chấp ngoại đạo y theo đó mà thêm lớn, đều là pháp vọng tưởng, biết pháp kia thì biết nguyên nhân của vọng. Sau cùng là đáp thói quen vọng tưởng, v.v… tức là chỗ nương ở trên. Lại nói rằng: tâm, tâm sở, vọng tưởng chấp đắm ngã, ngã sở sinh, tức nhân ngã và pháp ngã là chỗ đó. Biết nơi ấy thì biết nguồn gốc của vọng tưởng. Nguồn gốc đã không thật thì vọng liền diệt. Lặp lại ý trên để nêu câu hỏi sau: “Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nếu các thứ nghóa, các vọng tưởng không thật, chấp chặt vọng tưởng sinh, chấp đắm năng nhiếp, sở nhiếp không biết tự tâm hiện lượng, và rơi vào kiến chấp hữu vô, kiến chấp ngoại đạo vọng tưởng tập khí các nghóa bên ngoài thêm lớn, vọng tưởng tâm, tâm sở chấp đắm ngã, ngã sở sinh. Thế tôn! Nếu như thế thì các thứ nghóa tướng bên ngoài rơi vào tướng có không, lìa tánh và phi tánh, lìa kiến, tướng. Bạch Đức Thế tôn! Đệ nhất nghóa cũng giống như vậy, lìa tướng lượng căn, phần, thí, nhân. Bạch Đức Thế tôn! Vì sao một chỗ thì nghóa vọng tưởng chẳng thật, các tánh chấp tướng vọng tưởng sinh? Chỗ thì chẳng chấp đắm tướng Đệ nhất nghóa vọng tưởng sinh? Chẳng lẽ Thế tôn nói về tà nhân luận sao! Nên nói một sinh một chẳng sinh”. Đại Tuệ bạch Phật rằng trở xuống là lặp lại ý trên để sinh khởi câu hỏi sau, ý nói Phật nói như thế, thì đối với các nghóa bên ngoài chấp đắm, rơi vào tướng có không, cũng là tánh lìa có không, lìa các kiến tướng. Nhưng Đệ nhất nghóa cũng là lìa tướng các căn, lượng, tông, nhân, dụ, ý cho các nghóa bên ngoài không khác với Đệ nhất nghóa, vì sao nói các nghóa sinh phân biệt, Đệ nhất nghóa bất sinh phân biệt, đâu chẳng phải Thế tôn nói trái ý có khi sinh có khi bất sinh hay sao! Phật nêu lên để giải thích: “Phật bảo Đại Tuệ: chẳng phải vọng tưởng một sinh một chẳng sinh. Vì sao? Vì vọng tưởng hữu vô đều chẳng sinh, bên ngài hiện tánh, phi tánh. Giác tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Ta nói những kẻ ngu vì tự tâm các tướng vọng tưởng, sự nghiệp ở trước các thứ tánh tướng vọng tưởng chấp đắm sinh. Làm sao kẻ ngu lìa được chấp đắm ngã, ngã sở, lìa lỗi nhân duyên năng tác sở tác, giác tự vọng tưởng tâm lượng, thân tâm chuyển biến, rốt ráo hiểu rõ tất cả địa, cảnh giới Như lai tự giác, lìa năm pháp, tự tánh, sự kiến vọng tưởng! Do nhân duyên này nên ta nói vọng tưởng từ các thứ chấp đắm nghóa không thật sinh ra. Biết nghóa như thật được giải thoát các thứ vọng tưởng trong tự tâm”. Phật đáp do ngã chẳng phải luống dối phân biệt thế đế có khi sinh có khi bất sinh Đệ nhất nghóa. Sở dó trở xuống là nêu giải thích, sở dó sinh, bất sinh, nghóa là hiểu biết vọng tưởng có không, thấy ngoài pháp lìa tánh, hiểu rõ duy tâm hiện, nên vọng tưởng bất sinh, chẳng phải có Đệ nhất nghóa đế riêng. Nhưng vì phàm phu không hiểu tự tâm hiện, chấp năng tác, sở tác hữu vi sự nghiệp hiện ra, đối với các thứ ấy khởi các vọng tưởng phân biệt chấp chặt! Chẳng có thế đế riêng. Phật lại nghó các kẻ ngu mê muội rằng: Làm sao có thể lìa nhân ngã, pháp ngã và lìa lỗi nhân duyên năng tác, sở tác. Lại nghó rằng làm sao có thể giác vọng tưởng đều tự tâm lượng, mà được thân tâm chuyển biến, rốt ráo hiểu rõ tất cả trí địa, đến cảnh giới tự chứng của Như lai. Lìa năm pháp, ba tự tánh, sự kiến vọng tưởng, sự tức danh tướng, kiến tức vọng tưởng, đã khởi niệm như thế, nên ta nói vọng tưởng từ chấp đắm các thứ luống dối chẳng thật mà sinh. Biết nghóa như thật, nghóa là có thể như thế mà hiểu rõ nghóa như thật, thì được giải thoát dứt các vọng tưởng. Phật nói tụng để nhắc lại ý nghó ở trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Các nhân cùng với duyên Từ đây sinh thế gian Vọng tưởng chấp bốn câu Chẳng biết rõ ngã sở Thế gian chẳng có sinh Cũng lại chẳng bất sinh Không từ hữu vô sinh Cũng chẳng phi hữu vô Các nhân và các duyên Vì sao ngu vọng tưởng Chẳng có cũng chẳng không Cũng lại chẳng có không Như lai quán thế gian Tâm chuyển được vô ngã Tất cả tánh bất sinh Vì do từ duyên sinh Tất cả duyên tạo ra Tạo ra chẳng tự có Sự chẳng tự sinh sự Hữu có lỗi hai sự Vô có lỗi hai sự Chẳng có tánh thật có.” Kệ từ đầu cho đến chẳng có tánh thật có, trong bài kệ, lỗi tạo ra nhân duyên, các nhân và các duyên, v.v… nghóa là các pháp thế gian đều từ nhân duyên sinh, nhưng vọng tưởng là do chấp đắm pháp nhân duyên bốn câu hữu vô, v.v… Không biết lý mà Như lai thông hiểu, thế gian chẳng có sinh trở xuống là lìa tánh chấp bốn câu, nghóa là các pháp vốn không có bốn tánh. Lại nói rằng: các nhân và các duyên v.v… vẫn tránh lỗi lầm trước, nghóa là các pháp vốn không, vì sao kẻ ngu đối với pháp đó mà sinh vọng tưởng, chẳng những vốn không có tánh chấp bốn câu hữu vô mà cũng không chấp tướng bốn câu phi hữu phi vô, đầy đủ tánh tướng hai không như trong Đại luận. Nếu quán sát được như thế thì chuyển hai thứ chấp tánh tướng kia, được nhập trí người vô ngã, pháp vô ngã. Nhưng tánh thật chẳng sinh, từ duyên nên có, các pháp này đã từ duyên sinh thì pháp không tự thể. Lại nói rằng: sự không tự sinh sự thì sự tức quả. Hễ là pháp sở sinh có nhân thì có quả, như nghiệp nhân chiêu cảm quả sinh tử. Nhân kia vốn bất sinh thì quả đâu thể tự sinh quả, nếu không có quả tự sinh quả thì có lỗi hai sự, nhậm vận lìa tánh chấp có không, cho nên nói chẳng có tánh thật có. “Quán các pháp hữu vi Lìa phan duyên sở duyên Tâm lượng của vô tâm Ta gọi là tâm lượng Lượng là chỗ tự tánh Duyên sinh hai đều lìa Tánh rốt ráo diệu tịnh Ta gọi là tâm lượng”. Từ đây đến cuối, trong bài tụng giác tự vọng tưởng tâm lượng hiển hiện cảnh giới tự giác của Như lai. Tám câu này nói lược về tâm lượng, không biết rõ các pháp duy tâm thì có cảnh sở duyên. Dùng chánh trí quán sát lìa tâm năng duyên, cảnh sở duyên. Đã lìa năng sở thì không có tâm phân biệt, đó gọi là duy tâm. Cho nên nói là tâm lượng. Tuy hiểu rõ các pháp duy tâm nhưng còn có tánh chấp đối cảnh, chưa thể quên niệm năng duyên thì duyên tánh đều phải lìa mới gọi là rốt ráo tâm lượng trong Như lai tạng tâm. Duyên tánh, duyên là năng duyên, tánh là là pháp sở duyên. “Lập bày ngã thế đế Ấy là việc không thật Các ấm thân lập bày Vô sự cũng như thế Có bốn thứ bình đẳng Tướng và nhân tánh sinh Thứ ba vô ngã thảy Thứ tư tu, người tu”. Dưới đây nêu bày rộng về tâm lượng. Ngã thế đế là chấp nhân. Các ấm, ấm là chấp pháp. Nhưng hai thứ chấp này do tự tướng, cộng tướng cầu không thật sự để được, thì pháp đều bình đẳng, cho nên có bốn thứ chấp bình đẳng. Tướng là năm ấm, thì tướng và phi tướng bình đẳng. Tướng phải có nhân, nhân tánh và quả tánh bình đẳng, nhân quả đầy đủ nên có ngã, ngã và vô ngã bình đẳng. Hiểu rõ được vô ngã gọi là tu, thì hữu tu và vô tu bình đẳng. “Thói quen vọng tưởng chuyển Có các thứ tâm sinh Cảnh giới hiện bên ngoài Là tâm lượng thế tục Hiện ngoài chẳng thật có Tâm thấy các thứ kia Dựng lập làm thân tài Ta nói là tâm lượng”. Vọng tưởng v.v… do vọng tưởng từ vô thỉ huân tập, thứ lớp chuyển sinh các thứ tâm thức, vọng tâm đã thấy có cảnh giới bên ngoài, đây là tâm lượng thế tục. Nhưng cảnh bên ngoài vốn không, do tâm chấp chặt mà thấy các tướng, tức năm trần v.v… Thân tài lập ra, nghóa là năm thức thân tài tức vọng tưởng tâm lượng. d. “Lìa tất cả các kiến. Và lìa tưởng, sở tưởng Không đắm cũng bất sinh Ta nói là tâm lượng Phi tánh, chẳng phi tánh Tánh, phi tánh đều lìa Là tâm giải thoát kia Ta nói là tâm lượng Như như và mé không, Niết-bàn và pháp giới Các thứ thân ý sinh, Ta nói là tâm lượng”. Bốn câu đầu nói nếu lìa được chấp nhân ngã chấp pháp ngã, lìa năng tưởng, sở tưởng, thì vô đắc vô sinh, đó gọi là tâm lượng chánh trí. Trong bốn câu nói lìa tánh chấp bốn câu hữu vô và lìa tâm năng lìa, cũng tức là tâm lượng chánh trí. Phi tánh tức phi hữu, phi phi tánh tức phi vô tánh. Phi tánh tức hữu vô, như Kinh Nhập Lăng-già chép. Bốn câu sau nói như như tức chân như. Mé không tức mé thật. Niết-bàn tức rốt ráo Đại Niết-bàn, Pháp giới tức pháp giới Phật, đây đều là một thể mà khác tên. Do lìa danh tướng vọng tưởng trước đến chỗ chánh trí. Do cùng cực chân như mé thật mà trụ trong pháp giới Niết-bàn năng thị hiện các thứ thân ý sinh, độ thoát chúng sinh, đó là tâm lượng Đệ nhất nghóa tâm của Như lai. Nói về ngữ: Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như Thế tôn nói Đại Bồ-tát phải hiểu rành về ngữ, nghóa. Thế nào là Bồ- tát hiểu rành ngữ, nghóa? Thế nào là ngữ? Thế nào là nghóa? Phật bảo Đại Tuệ: Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Thế tôn, lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Thế nào là ngữ? Nghóa là lời nói và vọng tưởng hòa hợp, nương vào cổ, họng, môi, lưỡi, răng, nướu, cằm, má, nhân đó ta nói lời nói vọng tưởng thói quen chấp chặt sinh, đó gọi là ngữ. “Như trước nói như như và pháp giới v.v… có câu hỏi khéo ngữ, khéo nghóa”. Trong đây trước nói về ngữ, nghóa là lời nói vọng tưởng v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Ngữ, có chỗ nói rằng do phân biệt thói quen làm nhân, nương vào cổ họng, môi, lưỡi… mà phát ra các âm thanh, tướng văn tự đối với bàn nói, đó gọi là ngữ. Hiểu ràng về nghóa: Này “Đại Tuệ! Thế nào là nghóa? Nghóa là lìa tất cả sự vọng tưởng, sự nói năng, đó gọi là nghóa. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát đối với nghóa như thế ở riêng chỗ vắng vẻ văn tư tu tuệ, duyên tự biết rõ, hướng đến thành Niết-bàn, thói quen chuyển biến rồi, cảnh giới tự giác quán xét nghóa tướng khoảng giữa các địa mà thắng tiến, đó gọi là Đại Bồ-tát rành về nghóa”. Nghóa do ngữ hiển bày, nếu theo ngữ mà sinh kiến chấp thì chẳng những mất nghóa mà còn quên danh cho nên thuận theo lìa tướng vọng tưởng và tướng lời nói, phải do khế chứng mới gọi là hiểu rành về nghóa, cho nên ở đây nói về đạo tu chứng. Nói ở một mình nơi vắng lặng văn tư tu tuệ, đối với chân như pháp giới, tùy danh nghóa mà kia nghe, tư tu quán sát, duyên tự giác trí, thú hướng Niết-bàn, chuyển vọng tưởng thói quen đã nói ở trước trở về cảnh giới tự giác, thực hành hành tướng thắng tướng ở các địa, đó gọi là hiểu rành về nghóa. Hiểu ràng về ngữ hiểu rành về nghóa: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Bồ-tát hiểu rành về ngữ nghóa, quán ngữ và nghóa chẳng khác, chẳng phải chẳng khác. Quán nghóa và ngữ cũng giống như thế. Nếu ngữ khác với nghóa thì chẳng do ngữ mà nói về nghóa, nhờ ngữ nhập nghóa như đèn soi cảnh sắc”. Ngữ là ngôn giáo năng thuyên, nghóa là nghóa lý sở thuyên, nghóa là khéo hiểu rằng thuyên là thông đạt sở thuyên, khéo hiểu sở thuyên thông đạt năng thuyên. Vì y theo lời nói Đại thừa tuy có năng thuyên, sở thuyên, mà năng sở không hai, nên nói chẳng phải khác chẳng phải chẳng khác. Nghóa tuy vọng ngôn phi ngôn không thể giải thích nghóa, nhưng phải nhờ ngôn mà nhập vào nơi nghóa, như đèn chiếu soi sắc, Kinh Nhập Lăng-già chép: thí như có người dùng dèn chiếu soi các vật, biết vật này ở chỗ ấy chỗ ấy, nghóa là nói tánh văn tự lìa tức là giải thoát, đó gọi là hiểu rành về ngữ, rành về nghóa. Chẳng thể nói thật có, chẳng thể nói thật không: “Lại nữa, Này Đại Tuệ! Chẳng sinh chẳng diệt, tự tánh, Niết- bàn, ba thừa, Nhất thừa, tâm, tự tánh… Như nương ngôn nói nghóa chấp đắm, rơi vào chấp dựng lập và chê bai, khác dựng lập khác vọng tưởng, các thứ vọng tưởng như huyễn hiện. Thí như các thứ huyễn, chúng sinh phàm ngu cho là khác vọng tưởng, chẳng phải Thánh hiền”: Đoạn này nói tùy theo lỗi chấp đắm lời nói, như bất sinh bất diệt v.v… tuy đều là lý tánh danh ngôn nhưng nếu nói thật có thì rơi vào chấp thường, nếu nói thật không thì rơi vào chấp đoạn, huống chi các thứ khác ư! Khác dựng lập, khác vọng tưởng, nghóa là nhờ lời nói mà dựng lập khác nhau mà khởi khác vọng tưởng chấp chặt, như thấy việc huyễn chấp cho là thật, đó là kẻ ngu chấp, chẳng phải Thánh hiền. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Nói năng vọng tưởng kia Dựng lập ra các pháp Vì sự dựng lập kia Chết rơi vào địa ngục Trong ấm không có ngã Ấm chẳng tức là ngã Chẳng luống dối tưởng kia Cùng lại chẳng vô ngã Tất cả đều có tánh Như phàm ngu vọng tưởng Nếu thấy biết như thế Tất cả nên thấy đế Tất cả pháp vô tánh Tịnh uế đều không có Chẳng thật như kia thấy Cũng không, chẳng thật có. Trong bốn câu đầu, ý nói lỗi nương lời nói mà sanh kiến chấp không tránh khỏi quả báo ác. Nói trong ấm không có ngã v.v… đây là chấp của ngoại đạo. Hợp với cái gọi là trong ấm có ngã, trong ngã có ấm, tức ấm là ngã, lìa ấm là ngã, không nluống dối tưởng kia… nghóa là tuy không như tà kiến của ngoại đạo kia đối với lời nói chấp đắm các thứ đều là ngã. Tất cả đều có tánh là chấp thường. Nếu nói tất cả pháp thật có tánh thì lẽ ra phải thấy đế, kia không thấy đế mà nói có tánh thì đó là thấy vọng mà thôi. Lại nói tất cả pháp vô tánh là chấp đoạn, đoạn thì tịnh uế không có, nên chẳng riêng ý này, nghóa là không thật, v.v… chẳng như kia thấy v.v… Phân biệt về sự chân vọng của các pháp: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Nay sẽ nói về Tướng trí thức, nếu khéo phân biệt tướng trí và thức thì ông và các Bồ-tát sẽ thông đạt tướng trí thức, chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Đại Tuệ! Trí kia có ba thứ: Đó là trí thế gian. Trí xuất thế gian và xuất thế gian thượng thượng. Thế nào là trí thế gian? Nghóa là tất cả ngoại đạo, phàm phu chấp đắm hữu vô. Thế nào là trí xuất thế gian? Nghóa là tất cả Thanh văn, Duyên giác rơi vào chấp đắm hy vọng tự tướng, cộng tướng. Thế nào là trí xuất thế gian thượng thượng? Nghóa là các Đức Phật, Bồ- tát quán pháp không thật có, thấy chẳng sinh chẳng diệt, lìa các thứ có không. Như lai địa người pháp vô ngã, duyên tự đắc mà sinh”. Phân biệt về sự chân vọng của các pháp, nói về sự đúng sai của ngữ nghóa, chẳng chuộng trí thức cho nên Như lai không đợi hỏi mà tự nói. Nhưng trí thức này có chung có riêng, nghóa thấy trong văn. Ban đầu nói trí có ba thứ, y theo thế gian, xuất thế gian năng tri mà nói. Thế trí nói ngoại đạo, phàm người xuất gia không bẩm thọ giáo Pháp Phật thì đều gọi là ngoại đạo; trí kia cùng cực tuy đến phi tưởng, nhưng vọng chấp kia không ngoài hữu vô nên chỉ gọi là thế trí. Trong trí xuất thế, nói Nhị thừa rơi vào tự tướng, cộng tướng, do Nhị thừa quán sát ấm giới nhập, nhân duyên bốn đế, không ra ngoài trí tướng chung riêng. Nhàm chán sinh tử, ưa thích Niết-bàn, cho nên nói chấp đắm hy vọng. Trí xuất thế gian thượng thượng nói về quán pháp không thật có, nghóa là các Đức Phật, Bồ-tát dùng trí thượng thượng, chiếu rõ các pháp đều rốt ráo không, vốn bất sinh diệt, lìa tướng có không, đến địa giác ngộ rốt ráo, lại không có sắc tướng kia đây, đâu có hai ngã, tự giác Thánh trí này không từ bên ngoài mà được. phân biệt trí và thức: Này “Đại Tuệ! Sinh diệt kia là thức, chẳng sinh chẳng diệt là trí. Lại rơi vào tướng, vô tướng, và rơi vào các tướng hữu vô, vì thức này siêu việt tướng hữu vô là trí. Lại nữa, tướng nuôi lớn là thức, chẳng phải tướng nuôi lớn là trí”, đây là y cứ ba thức ba trí mà đối chọn, nói pháp sinh diệt thuộc chín cõi là thức, pháp bất sinh diệt thuộc cõi Phật là trí. Tướng vô tướng, tướng thì nói có, vô tướng thì nói không. Do chín cõi không ngoài hai bên hữu vô, rơi vào không hữu là thức, siêu việt không hữu là trí. Nói nhân tướng là nói theo quả, nuôi lớn là thức, chính là nói cứ người pháp vô ngã ở trước nói. Văn có chỗ nói sắc v.v… nuôi lớn tâm, hễ mượn trần bên ngoài nuôi dưỡng bên trong là thức, không có sự giúp đỡ mà tự được ở bên trong là trí. Nói về ba thứ trí: “Lại nữa có ba thứ trí, đó là trí sinh diệt, trí tự cộng tướng và trí bất sinh bất diệt. Lại nữa, tướng vô ngại là trí, cảnh giới, các tướng chướng ngại là thức. Lại nữa, tướng ba việc hòa hợp sinh phương tiện là thức, tướng vô sự phương tiện tự tánh là trí. Lại nữa, đắc tướng là thức, không đắc tướng là trí. Cảnh giới tự đắc Thánh trí chẳng ra chẳng vào, cho nên như trăng đáy nước”: Đây là ba thứ trí, là nói theo sự hiểu biết của một người, y theo văn bài kệ sau, tức ba thứ mà Như lai biết: Biết sinh diệt là trí Nhất thiết. Biết tự tướng, cộng tướng là trí đạo chủng, biết bất sinh bất diệt là trí Nhất thiết chủng. Chỉ một trí Phật mà có ba dụng, gọi là ba trí. Lại nói tướng vô ngại là trí, nghóa là đối với ba trí trước, nhất tâm dung hòa dứt bỏ tướng vô nhiễm ngại, gọi là trí, trái lại thì gọi là thức. Lại nói ba việc v.v… ba việc tức căn, trần và ngã. Hòa hợp tương ưng mà sinh gọi là thức, vì đây không biết tướng của tự tánh. Nếu biết tánh tướng thì một niệm linh tri không nhờ duyên sinh cho nên nói vô sự phương tiện tự tánh tướng là trí, lại nói đắc tướng, không đắc tướng là thức trí, tướng tức là tướng của tánh tướng, tướng chỉ là một, mà có sự khác nhau về lìa không lìa, cho nên nói đắc, không đắc. Tự dắc, nghóa là Như lai tự đắc cảnh giới Thánh trí. Vì không dùng danh tướng hình dáng, nên nói chẳng ra chẳng vào, như trăng đáy nước. Đức Phật nói kệ để nhắc lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Nhóm họp nghiệp thành thức Chẳng nhóm họp là trí Quán sát tất cả pháp Thông đạt không thật có Liền được sức tự tại Nên gọi tên là tuệ Buộc cảnh giới là tâm Giác tưởng sinh là trí Không thật có và thắng Trí tuệ từ ấy sinh”. Nói nhóm họp nghiệp, nhóm là chọn lấy, họp là gom lại. Do căn đối đối trần mà sinh chấp đắm, khởi nghiệp thiện ác chiêu cảm sinh tử, đó gọi là Thức. Hiểu rõ căn trần bặt dứt đối đãi, vật ngã đều quên, bất sinh chấp chặt, gọi là trí, như vậy quán sát nhân duyên sinh pháp, đương thể tức không, giải thoát tự tại, gọi là thượng thượng trí tuệ tức trí. Ngoài tâm không có cảnh, không hiểu rõ duy tâm, bị cảnh xoay chuyển, đó gọi là trói buộc, tâm tức là thức. Giác được vọng tâm này thì gọi là trí. Không thật có trở xuống hai câu, nghóa thấy đã giải thích ở trước. Chuyển thức thành trí: “Tâm ý cùng với thức Xa lìa tưởng tư duy Được pháp không nghó tưởng, Phật tử chẳng Thanh văn Nhẫn tịch tịnh thắng tiến. Trí thanh tịnh Như lai Sinh ra nghóa thiện thắng, Việc làm đều xa lìa”. Tâm ý và thức gọi chung là Thức, trí xa lìa pháp nghó tưởng, được pháp không nghó tưởng, thì chuyển thức thành trí. Đây là Bồ-tát chứ chẳng phải Thanh văn. Ở đây là chỗ ban đầu của trí. Nhẫn tịch tịnh thắng tiến tức trí nhẫn vắng lặng của Như lai. Đây là chỗ cuối cùng của trí. Trí thanh tịnh này từ Đệ nhất nghóa thiện thắng sinh ra nên những việc đã làm thảy đều xa lìa. Ba sở trí là do Như lai khai phát: “Ta có ba thứ trí Thánh mở bày chân thật Đối kia suy nghó tưởng Đều nhiếp thọ các tánh Hai thừa chẳng tương ưng Trí lìa các sở hữu Chấp đắm nơi tự tánh Từ các Thanh văn sinh Vượt qua các tâm lượng Như lai trí thanh tịnh”. Ba thứ trí v.v… bài tụng trên nói ba sở tri là do Như lai khai phát cho nên các pháp sinh diệt sở tri cũng đều chân thật. Đại luận chép rằng ba trí là nhất tâm. Đối kia suy nghó tưởng v.v… lại nêu ra hai trí ở trước để nói lên trí thượng thượng. Nghóa là phàm phu kia do vọng tưởng phải chịu các sinh diệt, hàng người thừa trái lại cho nên không tương ưng, lìa các sở hữu mà lại chấp chặt tự tánh thì là trí hai thừa mà thôi. Nếu trí Như lai cùng tột thanh tịnh thì vượt ngoài tất cả tâm lượng. Ngoại đạo vọng chấp chín thứ chuyển biến luận: “Lại nữa Này Đại Tuệ! ngoại đạo có chín thứ chuyển biến luận, ngoại đạo chuyển biến kiến chấp sinh, đó là hình xứ chuyển biến, tướng chuyển biến, nhân chuyển biến, thành chuyển biến, kiến chuyển biến, tánh chuyển biến, duyên phân minh chuyển biến, sở tác phân minh chuyển biến, và sự chuyển biến. Này Đại Tuệ! Ấy gọi là chín thứ kiến chấp chuyển biến, các ngoại đạo do đó khởi chấp hữu vô, sinh chuyển biến luận. Thế nào gọi là hình xứ chuyển biến? Nghóa là hình xứ thấy khác, thí như vàng biến thành các vật khác thì có các thứ hình xứ hiển hiện, chẳng phải tánh vàng có thay đổi. Tất cả tánh thay đổi cũng giống như thế. Hoặc có ngoại đạo khởi vọng tưởng như thế, cho đến vọng tưởng sự biến, vì vọng tưởng kia chẳng phải như, chẳng phải khác”. Đây là ngoại đạo vọng chấp chín thứ chuyển biến luận, đó là hình tướng, nhân, thành… không ra ngoài các pháp bốn đại, năm ấm… ngoại đạo thấy kia sinh diệt tướng khác cho nên chấp có chuyển biến, mà chánh giáo thì gọi là duyên sinh, là như huyễn, là tự tâm hiện, ngoại tánh phi tánh là bất biến v.v… Nhưng không hề có luận thuyết chắc chắn. Ở đây thì tá chánh, được mất đều phân biệt. Hình là thân hình, tướng là tướng sinh trụ diệt, nhân là nhân sở tác, thành là quả sở thành; kiến là theo vật thay đổi, tánh là đời đời không thay đổi; duyên là nhân duyên biến diệt, Tác là tạo tác vô thường, sự là các pháp hữu vi. Đây là chín thứ. Nói nhân là nghó là có không, nghóa là từ không mà có, hoặc là từ có mà không, đều do tướng chuyển biến không ra ngoài có không. Vì sao ở dưới giải thích hinh xứ chuyển biến? Vì bốn đại các căn hình chất xứ, ngoại đạo thấy hình tướng tuy thời chuyển biến khác nhau, nghóa là có chuyển biến mà không biết tánh không hề chuyển biến, vàng biến thành các vật, các vât tuy có khác nhau, nhưng tánh vàng không thay đổi. Lại nói rằng tất cả tánh biến chuyển cũng giống như vậy. Tánh tức là pháp. Nói tất cả pháp tuy thay đổi mà tánh không hề thay đổi cũng giống như vậy. Hoặc có ngoại đạo v.v… là tổng kết bác bỏ kiến chấp của ngoại đạo. Nói vọng tưởng kia chẳng phải như, chẳng phải khác, nghóa là đối với chẳng phải như, chẳng phải khác kia mà sinh vọng tưởng phân biệt cho nên có sự khác nhau về các thứ chuyển biến. Bác bỏ ngoại đạo chấp tánh chuyển biến: “Tất cả tánh chuyển biến như thế nên biết như sữa, lạc, rượu, trái cây… đã chín. Ngoại đạo chuyển biến vọng tưởng, họ cũng không có chuyển biến. Hoặc có hoặc không tự tâm hiện ra tánh phi tánh. Này Đại Tuệ! Chúng sinh phàm ngu như thế tự vọng tưởng tu tập sinh. Này Đại Tuệ! Không có pháp hoặc sinh hoặc diệt, như thấy mộng huyễn sắc sinh”. Như thế tất cả tánh trở xuống là phá ngoại đạo chấp tánh chuyển biến. Trước dùng ví dụ nói rằng phải biết, là răn bảo người học, phải biết kia chấp như sữa, lạc, rượu, trái cây… thứ lớp dần dần chín, kiến chấp của ngoại đạo cũng giống như vậy, nói theo lý mà nói thì vốn chẳng có thật, cho nên nói kia cũng không có chuyển biến, nhưng thật thì các pháp hữu vô v.v… đều do tự tâm hiện. Ngoại tánh phi tánh, là nói không có vật bên ngoài. Phàm ngu trở xuống, Kinh Nhập Lăng-già chép: Đều là phàm phu ngu muội từ thói quen phân biệt của mình mà sinh khởi, thật không có một pháp hoặc sinh hoặc diệt, như do mộng huyễn mà thấy các sắc, như gái bất dục nói có sinh tử, thế thì đối với sinh diệt mà bất sinh tà kiến là thế đế, thấy sinh diệt mà khởi chấp chặt là ngoại đạo. Thấy như mộng huyễn là do tu quán mà thông suốt, nên thấy các pháp đều tự tâm hiện. Biết rõ ngoại tánh phi tánh là luận thuyết chánh của kinh này. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Hình xứ thời, chuyển biến Bốn đại chủng các căn Trung ấm thứ lớp sinh Vọng tưởng chẳng minh trí Tối thắng đối duyên khởi Chẳng nluống dối tưởng kia Nhưng duyên khởi thế gian Như thành Càn-thát-bà”. Bốn câu trước là nói tà chấp chuyển biến của ngoại đạo, nhưng đều là vọng tưởng phân biệt, kiến chấp chẳng phải minh trí. Bốn câu sau nói pháp do nhân duyên sinh do Đức Như lai nói tuy khác với kiến chấp của ngoại đạo nhưng cũng đều không thật tánh, cho nên nói như thành Càn-thát-bà. “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin nói cho chúng con nghe ý nghóa tất cả pháp nối nhau và nghóa giải thoát. Nếu khéo phân biệt tướng tất cả pháp nối nhau và không nối nhau thì con và các Bồ-tát khéo hiểu phương tiện khéo léo tất cả không rơi vào chấp đắm nối nhau như nghóa đã nói, khéo đối với tất cả các pháp, tướng nối nhau không nối nhau, và lìa lời nói văn tự vọng tưởng, đến khắp tất cả cõi nước của các Đức Phật, vô lượng Đại chúng năng lực tự tại thông, được ấn tổng trì, các thứ biến hóa, ánh sáng chiếu soi, giác tuệ khéo nhập mười vô tận cú, không có hạnh phương tiện, ví như mặt trời, mặt trăng, ma-ni, bốn đại. Đối với tất cả địa lìa kiến chấp tướng vọng tưởng của mình, thấy tất cả pháp như mộng, huyễn v.v… nhập thân Phật địa. Đối với tất cả chúng sinh giới tùy sự mong mỏi của họ mà nói pháp dẫn đường cho họ, đều khiến họ an trụ tất cả pháp như mộng, huyễn… lìa các thứ hữu vô và vọng tưởng sinh diệt, nghóa của các lời nói khúc, thân kia càng thêm tốt đẹp”. Như lai nói pháp vì muốn chúng sinh biết rõ các pháp vốn không có tánh chấp, mà đối với lời nói khởi kiến chấp, gọi là tướng nối nhau, hoặc đối với văn tự tánh lìa gọi là không nối nhau, tức là sự giải thoát. Nối nhau, không nối nhau đây là căn bản của sinh tử giải thoát, cho nên Đại Tuệ cầu thỉnh nói nghóa này. Nếu khéo phân biệt… nghóa là Như lai vì khéo phân biệt hai thứ tướng này nên có thể khéo hiểu pháp này. Không rơi vào chấp đắm nối nhau như nghóa đã nói và lìa lời nói văn tự luống dối phân biệt vọng tưởng, tức là phân biệt. Cho nên có thể đến khắp tất cả cõi Phật, tùy phương mà tiến đạo. Nói năng lực thần thông, ấn tổng trì, tức là pháp môn công đức đã được. Các thứ biến hóa… là nói khởi hóa dụng, phát ra ánh sáng chiếu soi các vật, khéo nhập Phật tuệ đầy đủ mười nguyện lớn, câu vô tận tức là nguyện. Nói không có hạnh phương tiện, tức là công hạnh vô tác. Ví như mặt trời, mặt trăng giữa không chẳng chỗ nương, như ngọc ma-ni tùy màu mà hiện, chứ không có tự tánh, như đất, nước, gió, lửa trùm khắp mà không ngăn ngại. Đây đều là tướng hóa đạo của Bồ-tát, cho đến trải qua các địa, lìa các vọng tưởng từng phần, thấy suốt các pháp như huyễn, như mộng, nhập Phật địa thành thân pháp tánh. Ứng hóa cùng khắp, tùy chúng sinh nói pháp, dần dần dẫn vào trong thật. Cũng rõ các pháp như huyễn, lìa kiến chấp hữu vô, dứt chấp sinh diệt, không đắm lời nói. Về sau công đức hóa độ quy về mình thì thân tướng kia càng thêm tốt đẹp. Nói về chấp đắm nối nhau: “Phật bảo Đại Tuệ: lành thay! Lành thay! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó, sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Vô lượng tất cả pháp, như nghóa đã nói, chấp đắm nối nhau. Cái gọi là tướng chấp đắm nối nhau, duyên chấp đắm nối nhau, tánh phi tánh chấp đắm nối nhau, sinh bất sinh vọng tưởng chấp đắm nối nhau, diệt bất diệt vọng tưởng chấp đắm nối nhau, thừa phi thừa vọng tưởng chấp đắm nối nhau, hữu vi vô vi vọng tưởng chấp đắm nối nhau, địa địa tự tướng vọng tướng chấp đắm nối nhau, tự vọng tưởng Vô gián vọng tưởng chấp đắm nối nhau, hữu vô phẩm ngoại đạo y vọng tưởng chấp đắm nối nhau, Tam thừa Nhất thừa Vô gián vọng tưởng chấp đắm nối nhau”. Trong đây đáp trước hết nêu lên các tướng nối nhau. Nói vô lượng v.v… Nghóa là mười giới, y báo chánh báo, sắc tâm trong mười cõi. Bắt đầu ở lời nói, cuối cùng ở không lời nói, dứt bỏ tâm chấp chặt kia, vì không thích hợp cho nên chẳng nối nhau. Vì thế nói như nghóa đã nói chấp đắm nối nhau, nghóa là tùy theo lời mà sinh hiểu biết. Trong đây nói, ban đầu y theo pháp thế gian, nghóa là tướng tức năm ấm, duyên là sở duyên trần cảnh. Tánh phi tánh tức hữu vô, sinh bất sinh tức sinh tử, diệt bất diệt tức vắng lặng, không vắng lặng. Thừa phi thừa tức nội giáo và với ngoại đạo. Nói thừa nghóa là vận tải, Đại thừa, Tiểu thừa thì năng chuyên chở chúng sinh vượt khỏi sinh tử mà đến Niết-bàn, ngoại đạo sở thừa không thể chuyên chở chúng sinh vượt khỏi sinh tử, nên gọi là phi thừa. Hữu vi, vô vi tức là pháp thế gian, xuất thế gian, cũng tác và vô tác. Địa địa tự tướng nghóa là phân biệt danh tướng các địa. Tự vọng tưởng Vô gián, Kinh Nhập Lăng-già chép: Tự phân biệt chấp đắm hiện chứng, đó là pháp ái, là căn bản mà ngoại đạo chấp đắm về phẩm Hữu vô. Tam thừa Nhất thừa Vô gián, nghóa là đối với Đại thừa giáo, Tiểu thừa giáo phân biệt không xen hở. Tổng kết bác bỏ các vọng tưởng chấp đắm: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Đây và chúng sinh phàm ngu khác, tự vọng tưởng nối nhau. Do sự nối nhau này nên phàm ngu vọng tưởng như tằm làm kén, do tơ vọng tưởng tự trói, trói người, tướng có, không có nối nhau chấp đắm”. Đây là tổng kết bác bỏ các vọng tưởng chấp đắm trước đó. Đây và chúng sinh phàm ngu khác, là chỉ cho đệ tử trong nội giáo chấp còn nhẹ, các phàm phu khác, là chỉ cho ngoại đạo kia chấp rất nặng, cho nên nói phàm ngu vọng tưởng, như tằm làm kén, dùng vọng tưởng trói mình và trói người, không thể tự thoát được, cuối cùng rơi vào kiến chấp hữu vô, đoạn thường mà thôi! Không có tướng nối nhau và chẳng nối nhau: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Trong ấy cũng không có tướng nối nhau và chẳng nối nhau, vì thấy tất cả pháp vắng lặng nên vọng tưởng chẳng sinh. Đại Bồ-tát thấy tất cả pháp vắng lặng. Lại nữa Này Đại Tuệ! Giác ngoại tánh phi tánh, tự tâm hiện tướng không thật có, thuận theo quán sát tự tâm hiện lượng, hữu vô tất cả tánh vô tướng, thấy nối nhau vắng lặng. Cho nên đối với tất cả pháp không nối nhau, tướng chẳng nối nhau. Lại nữa, Này Đại Tuệ! Trong ấy không có hoặc trói hoặc mở, những người rơi vào sự giác tri không đúng như thật thì thấy có trói, có mở. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp hữu, vô hữu, không có chúng sinh thật có”. Trong đây văn có ba đoạn: Nói trong ấy v.v… tức chỉ tướng nối nhau không nối nhau ở trước, nghóa là không có hai tướng này, do Bồ-tát thấy tất cả pháp trụ vắng lặng. Cho nên kinh nói: các pháp tướng xưa nay vốn vắng lặng, còn các pháp thế gian sinh diệt trôi chảy, làm sao thấy được sự vắng lặng kia; cho nên nói giác ngoại tánh phi tánh… nghóa là hiểu rõ các pháp duy tâm, ngoài tâm không có pháp, quán như vậy có thể thấy pháp tướng hữu vô, thảy đều vắng lặng. Cho nên không có tướng nối nhau không nối nhau. Nói không có trói buộc, là do tướng nối nhau không nối nhau trước đều gọi là buộc, chỉ có quán trí vắng lặng mới gọi là mở. Nhưng trong như thật lý vốn không có buộc mở, sở dó có buộc, có mở là không chấp lý này. Đã nêu giải thích nói tất cả pháp hoặc có hoặc không, tìm cầu thể tánh kia đều không thật có. Cho nên nói chẳng có chúng sinh thật có. Tham, sân, si là nhân nối nhau năm đường là quả nối nhau: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Kẻ ngu có ba thứ nối nhau: đó là tham, sân, si và ái, vị lai có hỷ ái, đều do sự nối nhau này nên có sự thù hướng nối nhau, nối nhau là tiếp nối trong năm đường. Này Đại Tuệ! Nối nhau dứt thì không có tướng nối nhau, không nối nhau. Lại nữa, Này Đại Tuệ! Ba duyên hòa hợp, làm phương tiện chấp đắm, nên thức nối nhau không xen hở sinh ra. Phương tiện chấp chặt thì có nối nhau. Ba duyên hòa hợp thức dứt thì được ba giải thoát, tất cả sự nối nhau chẳng sinh”. Tham sân si là nhân nối nhau. Năm đường là quả nối nhau. Do nhân quá khứ thành quả hiện tại. Hiện tại làm nhân lại chiêu cảm quả báo đời vị lai. Nói ái đời vị lai, nghóa là tham ái đời sau như ý quả báo cùng chung với hỷ ái. Do ba độc này nối nhau nên có sự trôi lăn trong các đường. Nói đường, là sáu đường, vì Tu-la ở khắp năm đường nên chỉ nói năm đường. Nói nối nhau dứt, nghóa là ba độc dứt thì lìa năm đường, nghóa là nhân diệt thì quả diệt. Lại nói không có sự nối nhau không nối nhau, cũng gọi là không buộc, không mở, tức cảnh và trí đều luống dối. Ba duyên hòa hợp v.v… nói ngoại dạo vọng chấp ba duyên căn, trần, ngã hòa hợp, các thức thứ lớp nối nhau mà sinh. Lại nói phương tiện chấp chặt, là có chấp đắm thì nối nhau không xen hở. Nếu hiểu rõ ba duyên, lìa các chấp đắm, được ba thứ giải thoát thì nối nhau bất sinh. Ba giải thoát là tánh tịnh giải thoát, Viên tịnh giải thoát và phương tiện tịnh giải thoát. Vì hiểu rõ ba duyên thì ba giải thoát chẳng phải có riêng. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Vọng tưởng không chân thật Là nói tướng nối nhau Nếu biết chân thật kia Lưới nối nhau sẽ dứt Đối các tánh không biết Tùy lời nói nhiếp thọ Thí như con tằm kia Nhả tơ mà tự trói Kẻ ngu vọng tưởng trói Không quán sát nối nhau”. Sự nối nhau, không nối nhau trong bài tụng này, không ngoài chân vọng. Vọng thì nối nhau, chân thì không nối nhau. Nếu hiểu rõ vọng tức chân thì các pháp như một, đâu có nối nhau và không nối nhau! Nếu đối với các pháp không biết tùy ngữ mà chấp đắm, như tằm nhả tơ tự trói mình, trói người, không xen hở, do không quán sát, trái lại nếu quán nối nhau thì làm gì có. <篇> LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO KINH CHÚ GIẢI <卷>QUYỂN 3 (Phần 2) Ý Bồ-tát Đại Tuệ cho rằng tất cả pháp vô tự tánh: Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Như Thế tôn nói: “Do các thứ vọng tưởng làm, vọng tưởng các tánh, chăng phải có tự tánh kia, chỉ là vọng tưởng tự tánh thôi! Bạch Đức Thế tôn! Nếu chỉ là tự tánh vọng tưởng, chẳng phải tánh, tự tánh đối đãi nhau, chẳng phải Thế tôn nói như vầy phiền não thanh tịnh, không có tánh lỗi chăng! Vì tất cả pháp do vọng tưởng tự tánh phi tánh”. Như Thế tôn nói… Đây là Đại Tuệ lãnh ý Như lai nói về các vọng tưởng, làm nguyên nhân đầu cho nghi vấn. Kia kia là nói các vọng tưởng kia. Nhưng các pháp vốn không có thật tánh, chỉ do vọng tưởng mà thôi! Nhưng Đại Tuệ còn có nghi, nói nếu chỉ là vọng tưởng tự tánh, chẳng phải các pháp có tự tánh, tự tánh này đối đãi với chẳng phải tự tánh, đâu chẳng phải Thế tôn nói các pháp nhiễm tịnh dều không thật tánh ư! Ý Đại Tuệ cho rằng tất cả pháp vô tự tánh, vọng tưởng có tự tánh là khó. Có tự tánh là sai: “Phật bảo Đại Tuệ: Đúng thế, đúng thế, như ông đã nói. Này Đại Tuệ! chẳng phải như kẻ ngu tánh tự tánh vọng tưởng chân thật, tự tánh vọng tưởng này chẳng có tướng tánh tự tánh”. Trong đây đáp trước có nói như thế, nghóa là các pháp không có tự tánh gọi đó là vọng tưởng. Có tự tánh là sai, chẳng như kẻ ngu v.v… Nói không đồng với phàm phu kia vọng tưởng chấp tánh tự tánh cho là chân thật. Lại nói rằng vọng tưởng tự tánh này, v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Đây chỉ là vọng chấp, không có tánh tướng. Nói có tánh tự tánh là hiển lý: Này “Đại Tuệ! Như Thánh trí có tánh tự tánh, Thánh tri, Thánh kiến, Thánh tuệ nhãn. Cũng thế, Thánh tự tánh tri. Đại Tuệ bạch Phật: nếu bậc Thánh dùng Thánh tri kiến Thánh tuệ nhãn, chẳng phải thiên nhãn, chẳng phải nhục nhãn, tánh tự tánh biết như thế, chẳng phải nluống dối tưởng của kẻ ngu. Bạch Đức Thế tôn! Làm thế nào kẻ ngu lìa được vọng tưởng ấy. Vì chẳng giác việc Thánh tánh. Bạch Đức Thế tôn! Họ cũng chẳng điên đảo, chẳng phải không điên đảo. Vì sao? Vì họ chẳng giác Thánh sự tánh tự tánh, vì chẳng thấy lìa tướng hữu vô”. Trên đây là nói tự tánh phi tánh là bỏ tình. Đây nói có tánh tự tánh là hiển lý. Nhưng lý tánh như thật này, chẳng phải là Phật trí, Phật nhãn, chẳng thể thấy biết nên nói Thánh trí Thánh kiến v.v… Phật đã dùng cảnh giới tự chứng nêu bày, Đại Tuệ liền lãnh ngộ ý chỉ này. Lại thưa hỏi rằng: Nếu quả như Thánh tri kiến, chẳng phải tri kiến của phàm phu, cho nên nói chẳng phải thiên nhãn, chẳng phải nhục nhãn v.v… Do đó lại nghi và vặn hỏi rằng: Kẻ ngu đã không thể hiểu biết Thánh sự tự tánh thì làm sao lìa được vọng tưởng có thể hiểu rõ lý này! Do ở trên nói Thánh phàm chỗ thấy khác nhau, cho nên nói họ cũng chẳng phải điên đảo, cũng chẳng phải không điên đảo. Lại tự nêu giải thích nói rằng do chẳng giác Thánh sự tự tánh, là nói phàm phu chẳng phải không điên đảo; vì chẳng thấy lìa tướng hữu vô, nói bậc Thánh chẳng điên đảo. Vì chỗ thấy của bậc Thánh chẳng có gì là không chân thật, không thấy có một pháp nào xả bỏ. Biết đúng như thật vọng tưởng không thật: “Thế tôn! Bậc Thánh cũng chẳng như thế thấy như việc vọng tưởng, vì chẳng lấy cảnh giới tự tướng làm cảnh giới. Thế tôn! Kia cũng là tướng tánh tự tánh, vọng tưởng tự tánh như thế hiện, vì chẳng nói nhân, vô nhân, nghóa là rơi vào chấp tánh tướng. Cảnh giới khác chẳng phải như kia v.v… như thế mắc lỗi vô cùng. Bạch Đức Thế tôn! Vì chẳng giác tướng của tánh tự tánh. Bạch Đức Thế tôn! Cũng chẳng phải vọng tưởng tự tánh do tướng của tánh tự tánh. Kia vì sao lại vọng tưởng chẳng phải vọng tưởng, như thật biết vọng tưởng. Bậc Thánh cũng không như vậy v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Bậc Thánh cũng không như phàm, chỗ phân biệt như vậy mà được, vì chẳng lấy cảnh giới tự tướng làm cảnh giới. Kia cũng tánh tự tánh, là nói bậc Thánh cũng có tánh tướng chân thật, bậc Thánh đã có tánh ấy, kẻ ngu ngu cố nhiên cũng có, cho nên nói vọng tưởng tự tánh như thế hiện. Nhưng tánh tướng Như lai chân thật lìa nhân duyên và vô nhân tánh, mà phàm ngu vọng tưởng tự tánh thì rơi vào kiếp chấp tánh tướng. Cảnh giới tu hành của bậc Thánh đã khác với phàm phu thì không như kia rơi vào cái thấy tánh tướng, mắc lỗi vô cùng. Do không thể giác biết rõ tướng tánh tự tánh, cũng chẳng phải vọng tánh tưởng tự v.v… nói tánh tướng các pháp không do đâu mà phân biệt, thì tại sao nói phân biệt mà có ư! Cho nên tổng kết vặn hỏi rằng: Phàm phu kia vì sao được vọng tưởng phi vọng tưởng, biết đúng như thật vọng tưởng không thật? Cái thấy sai lầm của phàm phu: Bạch Đức Thế tôn! Vọng tưởng khác, tướng tự tánh khác. Bạch Đức Thế tôn! Không có nhân tương tự tướng vọng tưởng tự tánh, kia vì sao mỗi mỗi chẳng vọng tưởng? Kẻ ngu không biết đúng như thật. Nhưng Phật vì chúng sinh lìa vọng tưởng nên nói như tướng vọng tưởng, chẳng như thật có. Bạch Đức Thế tôn! Vì sao ngăn chúng sinh có kiến chấp hữu vô, sự tự tánh chấp đắm, cảnh giới sở hành của Thánh trí chấp đắm rơi vào chấp hữu? Nói không pháp phi tánh, mà nói việc Thánh trí tự tánh. Nói vọng tưởng khác v.v… nghóa là phàm phu phân biệt có khác, thấy các pháp tánh tướng có khác. Nói không có nhân tương tự, nghóa là vì chỗ thấy không tương tợ. Các pháp đâu có thường mà tự cho rằng khác, chẳng khác. Mỗi mỗi là các pháp. Chỉ vì phàm ngu không thể giác biết đúng như thật! Nhưng Như lai nói các pháp như vậy, vì muốn cho chúng sinh lìa vọng tưởng, hiểu rõ các pháp đều chẳng thật có. Vì sao Thế tôn! ngăn chúng sinh v.v… là nói vì sao Thế tôn ngăn các chúng sinh không nên chấp đắm có không, mà sao lại chấp đắm cảnh giới Thánh trí rơi vào chấp có. Vì sao không nói pháp vắng lặng mà nói việc Thánh trí tự tánh ư! Trụ trong cái không mầu nhiệm rốt ráo: “Phật bảo Đại Tuệ: Chẳng phải ta nói pháp không phi tánh, cũng chẳng rơi vào chấp có, nói việc Thánh trí tự tánh. Nhưng vì muốn cho chúng sinh lìa câu sợ hãi. Chúng sinh từ vô thỉ đến nay chấp đắm tướng tánh tự tánh, Thánh trí sự tự tánh, chấp đắm tướng kiến nói pháp không. Này Đại Tuệ! Ta không nói tướng tánh tự tánh. Này Đại Tuệ! Ta chỉ trụ tự được không pháp như thật, lìa hoặc loạn tướng kiến, lìa kiến chấp tự tâm hiện ra tánh phi tánh, được ba môn giải thoát, ấn như thật ấn mà ấn, đối với tánh tự tánh được duyên tự giác quán sát trụ, lìa tướng chấp hữu vô”. Trong đây đáp, trước hết nêu vặn hỏi kia nói lìa câu sợ hãi, nghóa là chúng sinh nghe bất sinh sợ hãi, nghe có sinh chấp đắm nên nói việc tự tánh Thánh trí để dẫn dắt. Nhưng việc Thánh trí tất nhiên chẳng phải có không, mà chấp có chính là nói không pháp để trị. Cho nên biết nói không nói có đều vì chúng sinh, thật ra Phật không hề nói có thật pháp. Cho nên nói rằng: ta không nói tướng tánh tự tánh, tức nêu bày pháp tự chứng rằng: Chỉ ta trụ được pháp không đúng như thật, tức vốn trụ trong cái không mầu nhiệm rốt ráo, không rơi vào tà kiến điên đảo hoặc loạn, mà thường ở Trung đạo, cho nên lìa các kiến chấp tự tâm hiện tánh phi tánh, liền được chứng ngộ ba thứ giải thoát, đạt được ấn chứng như thật, thấy pháp tự tánh, biết rõ cảnh giới bậc Thánh, lìa tất cả các sự chấp đắm hữu vô. Nói về lý do không nên lập tông: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Tất cả pháp chẳng sinh, Đại Bồ-tát chẳng nên lập tông ấy, vì tông tất cả tánh phi tánh và vì nhân sinh tướng kia nói tất cả pháp chẳng sinh làm tông, tông kia sẽ hoại. Tông kia tất cả pháp chẳng sinh, tông kia sẽ hoại, vì tông có đối đãi mà sinh. Lại vì tông kia bất sinh, nhập tất cả pháp. Vì tướng bất hoại chẳng sinh lập tất cả pháp bất sinh làm tông, thì thuyết kia sẽ hoại. Này Đại Tuệ! Có không chẳng sinh làm tông, tông kia vào tất cả tánh tướng hữu vô chẳng thật có. Này Đại Tuệ! Nếu làm cho tông kia bất sinh thì dùng tất cả tánh bất sinh mà lập tông, như Thế tông kia hoại, vì tánh tướng hữu vô chẳng sinh, chẳng nên lập tông. Vì năm phần luận nhiều lỗi, vì xoay vần nhân tướng khác, và vì tạo tác, chẳng nên lập tông phần, cho rằng tất cả pháp bất sinh, như thế tất cả pháp không, như thế tất cả pháp vô tự tánh, chẳng nên lập tông”. Ở trên nói vọng tưởng và Thánh trí đều không, chính là chân vọng đều quên bỏ, là nghóa bất sinh, sợ Bồ-tát lập đây làm tông, lẫn lộn đối với chấp đắm của ngoại đạo, cho nên nói dùng đây để bác bỏ. Nói tất cả pháp bất sinh thì nói tưởng đều dứt bặt. Nói đã chẳng đúng thì huống chi lập tông sai ư! Như ngoại đạo kia lập bất sinh tông, trái lại sinh cành lá, cho nên nói chẳng nên lập làm tông. Vì sao? Trở xuống là giải thích nghóa kia, vì tông tất cả tánh phi tánh, ý nói tông phải có chủ. Nếu tông tất cả tánh, tánh tự phi tánh, thì nghóa tông ở đâu? Hễ nói bất sinh thì phải có nhân sinh lập, đã có đối đãi thì bất sinh, thành nghóa sinh tử hoại bất sinh, nên kia chẳng nên lập tông là một. Lại nữa tông kia bất sinh, sẽ nhập vào tất cả pháp. Nói nghóa bất sinh này trùm khắp tất cả các pháp thế gian. Nói vì tướng bất hoại chẳng sinh, Kinh Nhập Lăng-già chép: tướng bất sinh cũng chẳng sinh, nói các pháp đều vốn bất sinh đâu đợi lập ư! Cho nên thuyết kia sẽ hoại, nên kia chẳng nên lập tông là hai. Nói hữu vô bất sinh, trước cho là vô vi bất sinh, ở đây là chuyển sang chấp hữu vô đều bất sinh. Nói nhập tất cả tánh, tánh tức pháp, nghóa là hữu vô bất sinh, cũng trùm khắp tất cả pháp, đều lìa tướng hữu vô, dù có chuyển sang chấp tánh tướng hữu vô, đều không thể được, đây cũng là nghóa bất sinh, kia không nên lập tông là ba. Năm phần luận nhiều lỗi, nghóa của năm phần luận thấy chú giải ở trước. Nhiều lỗi chỉ ra ba lỗi của tông, nhân, dụ. Ban đầu “tông” có chín lỗi, đó là: hiện lượng trái nhau, Thánh giáo trái nhau, thế gian trái nhau, tỷ lượng trái nhau, tự ngữ trái nhau, phù hợp nhau cùng cực, năng biệt không cùng cực, sở diệt không cùng cực và câu biệt không cùng cực. Kế là “nhân” có mười bốn lỗi, đó là: Trùm khắp là y theo pháp tánh. Trong tướng ban đầu có bốn thứ không thành: Tùy một không thành, Sở y không thành, Lưỡng câu không thành. Do dự không thành. Hai tướng sau cộng chung có mười lỗi. Có sáu thứ bất định đó là: đồng phần dị toàn bất định, dị phần đồng toàn bất định, câu phẩm nhất phần chuyển bất định, cộng bất định, bất cộng bất định và quyết định trái nhau bất định. Có bốn thứ trái nhau: Pháp tự tướng trái nhau, Pháp khác nhau trái nhau, hữu pháp tự tướng trái nhau, Hữu pháp khác nhau trái nhau. Ba đồng “dụ” có năm lỗi, trong dụ riêng có năm lỗi. Trong đồng dụ chép: Sở lập bất thành, năng lập bất thành, câu bất thành, vô hợp, đảo hợp. Trong dụ riêng chép: Năng lập bất khiển, sở lập bất khiển, câu bất khiển, bất ly, Đảo ly. Gồm ba mươi ba lỗi, lần lượt nhân tướng khác, là nói kia chuyển chấp nhân tướng khác nhau và rơi vào hữu vi hữu tác, kia không nên lập tông là bốn. Lại cho rằng tất cả pháp bất sinh, lại nói không, lại nói vô tự tánh. Ba thứ này nếu mỗi mỗi lập tông thì có nhiều tông, vì thế kia không nên lập tông là năm. Nói vì sao lập tông là trái: “Này Đại Tuệ! Nhưng Đại Bồ-tát nói tất cả pháp như huyễn mộng, vì hiện tướng và chẳng hiện tướng và vì thấy lỗi của giác tưởng, nên nói tất cả pháp tánh như huyễn mộng. Chớ giúp cho kia sinh sợ hãi, lìa bỏ kinh Đại thừa”. Trên đã bác bỏ lập tông là trái. Ở đây nói về việc đó, cho nên nói với Đại Tuệ rằng: nên nói tất cả pháp như huyễn mộng, tướng hiện và chẳng hiện. Hiện chẳng hiện nghóa là chẳng thật có. Và giúp cho chúng sinh xa lìa lỗi thấy, nghe, hay, biết. Lại nói rằng: Phải nói rằng dứt trừ vì kẻ ngu, vì kẻ ngu rơi vào cái thấy có không. chẳng nói như huyễn mộng thì không lìa hai kiến chấp kia. Lại sợ căn cơ Tiểu thừa nghe bất hữu bất vô này mà sinh sợ hãi, không theo Đại thừa nên răn bảo rằng: chớ để họ kinh sợ, xa lìa Đại thừa, ý khiến cho Bồ-tát tùy theo căn cơ mà nói pháp. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Tất cả pháp bất sinh, vốn vô tự tánh: Vô tự tánh, không nói Không sự, không nối nhau Kẻ ngu kia vọng tưởng Như ác giác thây chết Tất cả pháp bất sinh Chẳng phải tông ngoại đạo Rốt ráo, không chỗ sinh Tánh duyên được thành tựu Tất cả pháp bất sinh Người trí không khởi tướng Vì tông kia nhân sinh Người giác đều dứt trừ. Bài tụng trên nói tất cả pháp bất sinh, nói tất cả pháp vốn vô tự tánh, đâu có lời nói, không lời nói thì vô sự, vô sự thì không có tướng nối nhau. Đây là từ đầu đến cuối đều bất sinh, chỉ do kẻ ngu kia vọng tưởng phân biệt lập tông bất sinh, vì kia vô tri ác giác như thây chết, nên Phật nói tất cả pháp bất sinh, đâu phải ngoại đạo kia lập tông bất sinh. Đến rốt ráo không có chỗ sinh… là nói tánh vốn bất sinh do nhân duyên mà sinh. Nhân duyên còn không thật có thì các pháp đâu có sinh ư! Nhưng người có trí tuệ còn không nghó là bất sinh, đâu có nghi là sinh, tông kia nói bất sinh, là nhân sinh mà có bất sinh, đó là có đối đãi. Người giác ngộ thì không có kiến chấp này, cho nên nói đều trừ diệt. Dụ cho chẳng có mà có: “Thí như mắt có màng Vọng thấy tướng tóc rũ Chấp đắm tánh cũng vậy Kẻ ngu tà vọng tưởng Lập bày ra ba cõi Không có sự tự tánh Lập bày việc tự tánh Suy nghó sanh vọng tưởng Tướng sự lập ngôn giáo Ý loạn rất lăng xăng Phật tử khéo thoát ra Xa lìa các vọng tưởng”. Thí như mắt có màng v.v… là nói sự khác nhau giữa chánh và tà. Mắt bệnh tóc rũ đều thấy ở trước đã có chú giải. Dụ cho chẳng có mà có. Ba hữu tức ba cõi, nghóa là ba cõi vốn không, cho nên nói lập bày ra ba cõi, không có sự tự tánh. Lập ra là lập ra. Do vọng tưởng mà có lập bày, do đó Như lai lập ra ngôn giáo để giáo hóa, nghóa là chỉ dùng danh tự giả huyễn để dẫn dắt chúng sinh, mà chúng sinh không thông đạt, trái lại đối với ngôn giáo khởi tâm phân biệt, loạn động tâm thức, cho nên nói ý loạn rất lăng xăng, chỉ có Bồ-tát mới xa lìa được lỗi này để vượt ra ba cõi. Bồ-tát thấy được hữu vô bình đẳng thì thành quả Phật: “Chẳng phải nước, tưởng nước Đây từ khát ái sinh Kẻ ngu lầm như thế, Thánh thấy đó chẳng đúng Bậc Thánh thấy thanh tịnh Ba thoát, Tam-muội sinh Xa lìa sự sinh diệt Dạo trong vô sở hữu Tu hành vô sở hữu Cũng vô tánh, phi tánh Tánh phi tánh bình đẳng Từ đây sinh quả Thánh”. Chẳng phải nước tưởng nước, là nói chẳng phải nước mà vọng tưởng là nước, vì khát cho nên như vậy. Cũng như nai khát nước thấy bóng nắng tưởng nước, bèn rong ruổi chạy đến tìm nước uống. Đây là dụ cho kẻ ngu chẳng có mà chấp có, bậc Thánh thấy đó không. Bởi bậc Thánh dùng Thánh trí quán thấy tướng ba cõi, không có phiền não sinh tử cho nên nói là thanh tịnh. Tam thoát tuệ là Tam-muội định. Định tuệ đã sinh, thoát ra sinh diệt, dạo trong vô sở hữu, vô sở hữu tức rốt ráo không. Nói tu hành vô sở hữu, Bồ-tát tu được như vậy, cũng khế hợp với lý phi hữu phi vô, cho nên nói cũng vô tánh phi tánh, như vậy thì hữu vô bình đẳng, thành quả Phật. Phá hoại được chấp kia trở lại lý bản tâm bình đẳng: Thế nào tánh phi tánh? Thế nào là bình đẳng? Rằng tâm kia chẳng biết Trong ngoài rất xao động Nếu phá hoại được kia Tâm sẽ thấy bình đẳng. Đức Phật tự nêu ra để giải thích, ý nói hữu vô bình đẳng, Thánh phàm như một, do mê ngộ nên có khác, mê thì chẳng biết ngoài tâm không có pháp, do gió cảnh giới làm xao động, ngộ thì dứt bỏ được kiến chấp kia, trở lại lý bản tâm bình đẳng. Chỗ lập bày đều là vọng tưởng giả danh: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như Thế tôn nói như việc phan duyên trí tuệ chẳng được, đó là thi thiết lượng, kiến lập, sở nhiếp thọ chẳng có tánh, năng nhiếp thọ cũng chẳng có tánh. Do không nhiếp thọ cho nên trí chẳng sinh, chỉ là đặt tên mà thôi.” Do ở trên nói lìa phan duyên gọi là trí, lại dùng trí tuệ chẳng được thưa hỏi. Như Thế tôn nói việc phan duyên là nói trần cảnh thế gian, chính là việc mà kẻ ngu duyên theo. Dùng chánh trí quán sát đều không thật có, nên nói không được, đó là thi thiết lượng lập ra. Thi thiết tức là cảnh giới vọng tưởng dựng lập ở trước, cảnh giới đã không thật có, thì năng thủ, sở thủ cả hai đều không, cho nên nói trí thì bất sinh. Chỗ lập bày đều là vọng tưởng giả danh mà thôi. Trí tuệ không thật có: “Thế tôn? Vì sao tánh bất giác nên tự tướng, cộng tướng, khác, chẳng khác, mà người trí chẳng được ư! Vì tự tướng, cộng tướng, các thứ tướng, tánh tự tánh che khuất cho nên trí chẳng được! Vì núi đá, tường vách, nước, lửa, gió ngăn che mà người trí chẳng được hay sao! Vì rất xa hay rất gần mà người trí chẳng được ư? Vì già trẻ, mù lòa, các căn không đủ mà người trí chẳng được ư?” Bạch Đức Thế tôn! Nếu bất giác tự tướng, cộng tướng, khác, chẳng khác mà người trí chẳng được thì không nên nói trí, nên nói không trí, vì có việc không thật có. Nếu lại các thứ tự tướng, cộng tướng, tướng của tánh, tự tánh che khuất mà người trí chẳng được thì kia cũng vô trí, chẳng phải là trí. Bạch Đức Thế tôn! Vì có sở tri nên trí sinh, chẳng phải vô tánh, hiểu sở tri nên gọi là trí. Nếu núi đá, tường vách, đất nước, lửa gió rất xa hay rất gần, già trẻ mù lòa các căn chẳng đủ, mà trí chẳng sinh thì đây cũng chẳng phải trí, nên gọi là vô trí, vì có việc không thể thật có. Đoạn trên đây nói trí tuệ không thật có, tất nhiên đã giải thích, sợ người học chưa hiểu nên lặp lại vài nghi vấn ý muốn cho họ phá trừ vọng trí để hiển bày chân trí. Mỗi vọng chấp thưa hỏi kỹ càng, ban đầu vì không học tánh của tự tướng cộng tướng… nghóa là các pháp ấm, giới, nhập… đều không hiểu biết có tự tướng, cộng tướng, khác, chẳng khác. Cho nên nói trí không thật có. Lại nói vì tự tướng, cộng tướng, các thứ tướng, tánh, tự tánh che khuất, không được gọi là trí, như vặn hỏi các ở dưới thì trí không gọi là trí. Văn có nêu rõ không giải thích. Bác bỏ câu hỏi ở trên: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Chẳng phải như thế mà không trí, lẽ ra là trí, chẳng phải không trí, ta chẳng nói che lấp như thế. Việc phan duyên trí tuệ chẳng thật có, ấy là lượng thi thiết dựng lập. Giác tự tâm hiện lượng, hữu vô có ngoại tánh phi tánh, biết mà sự chẳng thật có. Vì chẳng thật có nên trí tuệ đối với trí chướng bất sinh. Thuận theo ba môn giải thoát, trí cũng chẳng thật có. Chẳng phải vọng tưởng từ vô thỉ tánh, phi tánh, thói quen luống dối, hiểu biết như thế, đây biết kia chẳng biết”. Trong đây đáp nói là chẳng đúng, là bác bỏ vặn hỏi kia. Nói vô trí tức là trí, phi trí mà trí thể cũng không thật có, cho nên nói phi phi trí. Nếu theo Đại luận thì vô trí là không, đáng lẽ trí này là giả. Phi phi trí là trí Trung đạo. Ba trí như thế được trong một tâm, đắc mà không đắc, đó gọi là trí tuệ bất đắc. Ta chẳng nói che lấp như thế, ý Phật dạy ta nói như thế, là hiển bày chẳng che lấp. Tuy cũng thường có thuyết che lấp, như văn sau có nói… Nhưng, thích hợp với ẩn thì ẩn, thích hợp với hiển thì hiển. Ở đây chẳng phải ẩn. Giác tự tâm hiện lượng trở xuống chính là hiển bày chân trí, nghóa là hiểu rõ cảnh hữu vô do tự tâm hiện. Ngoại tánh phi tánh, là các pháp vốn không, như vậy mà biết, biết mà không biết, đó gọi là sự chẳng thật có, sự tức là cảnh, cảnh đã không thật có thì trí cũng bất sinh. Sở tri là trí chướng. Nhập ba môn giải thoát trí thể cũng mất. Chẳng vọng tưởng là phân biệt với biết vọng, nghóa là chẳng phải như tất cả phàm phu vọng tưởng huân tập luống dối có không từ vô thỉ đến pháp trí, biết các pháp duy tâm, biết sự vật kia mà không biết tự tánh, thì mất trí ở vật, nên nói đây biết kia chẳng biết. Do phân biệt nên đối với pháp bên ngoài hữu vô quán chẳng thật có mà sinh chấp đoạn: “Cho nên đối với việc bên ngoài, chỗ nơi, tướng tánh, vô tánh, vọng tưởng chẳng dứt. Tự tâm hiện lượng, dựng lập, nói tướng ngã, ngã sở nhiếp thọ chấp đắm. Chẳng giác tự tâm hiện lượng, đối với trí sở tri mà khởi vọng tưởng. Vọng tưởng nên ngoại tánh, phi tánh, quán sát chẳng được, nương vào chấp đoạn”. Đây là nương văn trên mà nói, nghóa là kia vọng biết đối cảnh giới bên ngoài, hình tướng hữu vô, phân biệt không dứt, đây là đối với tự tâm hiện lượng vọng tự lập ra, chấp nhân ngã, pháp ngã mà sinh chấp đắm, do không giác biết là tự tâm lượng nên đối với cảnh bên ngoài ở trước vọng tưởng chẳng dứt rơi vào chấp thường, đối với hậu trí thể năng sở không quên, chuyển thành trí chướng mà khởi phân biệt. Do phân biệt nên đối với ngoại pháp hữu vô quán sát chẳng thật có, mà sinh chấp đoạn. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Có các việc phan duyên Trí tuệ chẳng quán sát Đây vô trí, phi trí Nói cho người vọng tưởng Đối tánh tướng chẳng khác Trí tuệ chẳng quán sát Chướng ngại và xa gần Đó gọi là tà trí Già trẻ các căn tối Mà trí tuệ chẳng sinh Thật sự có trí chướng Ấy cũng gọi tà trí”. Có cảnh để duyên, là trí phàm phu, biết rõ cảnh duy tâm là trí của chánh trí. Chánh trí thì vô duyên mà duyên, đó gọi là vô trí. Vì vô trí này là phi trí, là nói vọng tưởng của phàm phu. Bài tụng trên nói về ý nghóa trí tuệ không thật có, đối với tánh tướng chẳng khác, trí tuệ chẳng quán sát, tự tướng, cộng tướng khác, chẳng khác trong bài tụng này. Ý nói không quán sát, tức là trí tuệ không thật có, còn các điều khác đều có thể thấy trong bài tụng. Lại nói về tông thông và thuyết thông: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si luống dối từ vô thỉ, bị ác tà vọng tưởng xoay chuyển. Khi bị xoay chuyển thì tự tông thông và thuyết thông không khéo hiểu biết, vì chấp tánh tướng bên ngoài do tự tâm hiện nên chấp thuyết phương tiện, đối với tướng chung thanh tịnh bốn câu của tự tông chẳng khéo phân biệt. Đại Tuệ bạch Phật: Thật như Thế tôn dạy, xin Thế tôn phân biệt thuyết thông và tông thông. Con và các Đại Bồ-tát hiểu rõ hai thông, phàm phu, Thanh văn, Duyên giác đời sau nghe được sẽ hết lầm lạc”. Tướng tông thông, thuyết thông trước đã nói rồi, ở đây lại nói là vì sao? Trước chung ba thừa chỉ có Phật. Lại nữa trước vì chúng thỉnh, ở đây Phật tự nói. Nói phàm phu ngu si, nghóa là hai pháp này ở phàm chưa hề không có, chỉ vì bị mê chuyển cho nên toàn thể không biết. Xoay chuyển, nghóa là quên mình nên chạy theo trong chạy theo ngoài, chỉ vì chấp tướng cảnh giới bên ngoài do tự tâm hiện, cũng chấp phương tiện lời nói cho nên đối với tướng chung thanh tịnh của tự tâm tông vốn lìa bốn câu mà không thể hiểu rõ. Bấy giờ Đại Tuệ do đó mà thưa hỏi. Nói không lầm lỗi, nghóa là tông thông mà thuyết không thông, lỗi ấy là do hóa đạo, thuyết thông mà tông không thông. Lỗi ấy là do tự hành, cả hai đều thông thì không gọi là lỗi. Lại nói về tông thông và thuyết thông: Phật bảo Đại Tuệ: lành thay! Lành thay! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Các Đức Như lai trong ba đời có hai thứ pháp thông, do là thuyết thông và tự tông thông. Thuyết thông là tùy theo sự thích ứng với tâm chúng sinh, nói cho nghe các thứ khế kinh, đó gọi là thuyết thông. Tự tông thông, nghóa là người tu hành lìa tự tâm hiện các thứ vọng tưởng, nghóa là chẳng rơi vào loại một, khác, chung, chẳng chung, vượt khỏi tất cả tâm ý, ý thức, cảnh của bậc Thánh tự giác, lìa nhân thành kiến, tướng. Tất cả ngoại đạo Thanh văn, Duyên giác rơi vào hai bên đều không thể biết. Ta nói đó là pháp tự tông thông. Này Đại Tuệ! Ấy gọi là tướng tự tông thông và thuyết thông, ông và các Đại Bồ-tát khác phải nên tu học”. Trong đây đáp rằng Như lai ba đời có hai thông, hiểu rõ pháp tự hành hóa tha của các Đức Phật đều giống nhau. Trước nói về thuyết thông. Nói các khế kinh, tức chín bộ trước gồm nhiếp tất cả pháp cho nên nói các loại, nhưng cuối cùng quy về khế lý, khế cơ nên gọi là Khế kinh. Kế là nói về tông thông, pháp tự chứng vốn không thể nói, cho nên nương vào người tu để nói lên tướng kia. Nói lìa tự tâm hiện các thứ vọng tưởng… Nghóa là không rơi vào bốn câu một, khác v.v… thì vọng tưởng không hành. Vọng tưởng không hành thì vượt ngoài tất cả tâm thức, đến cảnh giới của bậc Thánh tự giác. Nói lìa nhân thành kiến tướng, nhân thành tức nhân thành giả, nghóa là ý căn đối với pháp trần mà khởi lên kiến chấp phân biệt. Lìa là lìa kiến chấp này. Nhưng pháp Như lai tự chứng, chẳng phải là năng tri sở tri tà ngoại thiên tiểu chấp đắm hai bên có không. Chỉ có Bồ-tát Đại thừa mới có khả năng tu chứng, cho nên răn bảo phải nên tu học. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Ta nói hai thứ thông Tông thông và lời nói Thuyết trao người mới học Tông vì người tu hành”. Người mới học là người sơ cơ, đã hiểu thuyết thông chưa hẳn là ở sơ cơ, vì đối với tông thông mà nói đó thôi! Tông thông tuy là tu hành, mà nói tự chứng. Đối với luận thuyết thế gian cẩn thận chớ gần gũi: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như Thế tôn một hôm nói rằng các luận thế gian các thứ giảng nói dè dặt chớ gần gũi. Nếu gần gũi thì nhiễm phải tham dục, chẳng thọ nhận pháp. Bạch Đức Thế tôn! Vì sao nói như thế? Phật bảo Đại Tuệ: Ngôn luận thế gian các thứ cú vị, nhân duyên thí dụ, gom nhóm trang nghiêm, dụ dẫn dối gạt kẻ phàm phu ngu si, không vào được chân thật tự thông, không giác ngộ tất cả pháp, vọng tưởng điên đảo rơi vào hai bên. Kẻ phàm ngu si hoặc mà tự phá hoại, tiếp nối sinh trong các cõi không được giải thoát, không thể giác biết tự tâm hiện lượng, chẳng lìa ngoại tánh, tự tánh, vọng tưởng chấp đắm.Cho nên ngôn luận thế gian các thứ giảng nói chẳng thoát khỏi sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não, dối gạt mê loạn”. Xét rằng luận có luận thế gian, luận xuất thế gian, cho nên đạo có chánh có tà, tuy không lập hai mà chưa hề không cùng đi chung ở thế gian, cho nên Như lai răn bảo đối với luận thế gian cẩn thận chớ gần gũi. Đại Tuệ do đó mà đặt câu hỏi nói Thế luận tức ngoại đạo Lô- già-da-đà, Hán dịch là Tả thế, cũng dịch là Ác luận. Luận này văn từ trau chuốt làm mê hoặc kẻ phàm ngu. Có gần gũi chỉ chấp nhận tài dục ở thế gian, không được pháp lợi. Trong đây đáp trước là bác bỏ sự sai lầm kia, vì ngôn luận của họ không giải thích chánh lý, không vào được địa chân thật tự thông, cuối cùng trở về hai bên mà thôi! Phàm ngu si hoặc trở xuống là nói về sự sai lầm của thọ tập, vì tự phá hoại chánh kiến, tiếp nối sinh tử trong các cõi, không do đâu giải thoát trở xuống là tướng các lỗi, rất dễ thấy. Dẫn việc để chứng minh có lỗi: Này “Đại Tuệ! Thích-đề-hoàn-nhân, giải thích rộng các luận, tự soạn Thanh luận. Thế luận kia có một người đệ tử giữ gìn hình tượng rồng, đến cung trời Đế-thích lập ra luận tông, mục đích là phá hoại bánh xe ngàn căm của trời Đế-thích. Nếu tôi thua thì xin chặt đầu để tạ lỗi. Nói lời cam kiết ấy rồi liền dùng pháp Đế-thích đè áp Đế-thích, Đế-thích thua liền phá bánh xe kia, rồi ông ta liền trở về nhân gian. Như thế Này Đại Tuệ! Ngôn luận thế gian nhân dụ trang nghiêm, dù cho súc sinh cũng hay dùng các thứ cú vị làm hoặc loạn các trời và A- tu-la dính mắc trong kiến chấp sinh diệt, huống chi là loài người. Cho nên Này Đại Tuệ! Ngôn luận thế gian nên phải xa lìa, vì làm cho chuốc lấy nhân sinh khổ, dè dặt chớ gần gũi”. Đoạn này dẫn việc chứng lỗi. Thích-đề-hoàn-nhân, là tên khác của trời Đế-thích. Giữ hình tượng rồng nghóa là biến thành thân rồng. Giao kiết Kinh Nhập Lăng-già chép: Giao kiết rằng: Này Kiều-thi-ca! Ta luận với ông, nếu ông thua thì phải phá bánh xe ngàn căm của Đế-thích. Nếu tôi thua thì xin chặt đầu để tạ lỗi đã thua. Liền dùng pháp Đế-thích, nghóa là liền dùng pháp mà trời Đế-thích dùng để soạn luận mà vẫn nạn. Rơi và chỗ thua tức là không thắng, nghóa là Đế-thích không thắng. Cho đến súc sinh, như loại biến thành thân rồng. Lại nói nên phải xa lìa luận thế gian, nghóa là luận kia làm hại như vậy, có thể không thân trọng hay sao? Nói về cảnh giới giác tưởng của thân: Này Đại Tuệ! Thế luận, chỉ nói cảnh giới giác tưởng của thân mà thôi này. Này Đại Tuệ! Thế luận kia có đến trăm ngàn, chỉ ở thời sau, sau năm mươi năm sẽ phá hoại kiết tập, ác giác chấp người hưng thạnh, nên đệ tử ác thọ nhận như thế. Này Đại Tuệ! Thế luận phá hoại kiết tập, các thứ cú vị, nhân dụ trang nghiêm, nói việc ngoại đạo, tự đắm nhân duyên, không có tự thông. Này Đại Tuệ! các ngoại đạo kia, không tự thông luận, đối các thế luận nói rộng vô lượng trăm ngàn sự môn, không có tự thông, cũng không tự biết thế luận ngu só”. Thế luận trở xuống là nêu lại luận kia để lập ra. Cảnh giới thân giác, nghóa là cảnh giác tưởng của thân năm ấm. Tuy thế luận kia có đến trăm ngàn nhưng cùng cực tông thú kia không lìa tình thức đâu biết có chí đạo. Năm mươi năm sau phá hoại kiết tập, xét Luận Kim Cương Công Đức Thi nói tuổi thọ con người sống đến trăm tuổi chia làm hai phần: Năm mươi năm đầu giáo lực tăng trưởng, năm mươi năm sau giáo lực dần dần suy yếu. Nói khi chánh pháp sắp diệt, hoặc sẽ nói năm trăm năm sau, chữ mười sợ là lầm, phá hoại sự kiết tập chánh giáo của Như lai, vì ác giác điên đảo khổ nhân tà kiến hưng thạnh, nên các loại ác đảng thọ tập thuyết kia, tự chịu chìm đắm. Như thế trở xuống là kết thúc bác bỏ, nói chấp đắm nhân duyên của mình, như giác tưởng của thân đã nói mà thôi, không thể dùng lý tự thông nên nói không có tự thông. Do không thể tự thông, tuy nói rộng trăm ngàn sự môn, cũng không hơn việc hoặc loạn thế pháp này kia không tự biết, thật là đáng thương! Nêu lên chánh giáo: “Khi ấy, Đại Tuệ bạch Phật rằng. Bạch Đức Thế tôn! Nếu ngoại đạo thế luận các thứ cú vị nhân dụ trang nghiêm không có tự thông, từ việc chấp đắm, Thế tôn cũng nói thế luận, vì các chúng, trời người A-tu- la nơi khác đến pháp hội nói rộng vô lượng các cú vị, cũng chẳng phải tự thông ư! Có nhập vào số trí tuệ lời nói của ngoại đạo chăng! Phật bảo Đại Tuệ: ta chẳng nói thế luận, cũng không đến đi, chỉ nói chẳng đến chẳng đi. Này Đại Tuệ! đến là đến chỗ nhóm họp sinh, đi là tan hoại. Chẳng đến chẳng đi là chẳng sinh chăng diệt. Nghóa nói ra chẳng rơi vào trong số Thế luận vọng tưởng. Vì sao? Vì nghóa là chẳng chấp đắm ngoại tánh phi tánh chỗ tự tâm hiện ra, vọng tưởng hai bên không thể xoay chuyển. Tướng cảnh phi tánh, giác tự tâm hiện thì tự tâm hiện vọng tưởng bất sinh. Vọng tưởng bất sinh thì không, vô tướng, vô tác nhập vào ba môn giải thoát, gọi là giải thoát”. Đây là nêu lên chánh giáo. Ban đầu Đại Tuệ hỏi lại: Như lai nói cũng đồng với Thế luận, gồm có hai câu hỏi, như văn nói v.v… Như vì các chúng trời, người ở phương khác mà nói rộng các pháp, thì tùy ý và lời của họ, đâu chẳng phải nghóa tự thông. Ta chẳng nói Thế luận, vì Thế luận nói đến đi, Phật chỉ nói không đi không đến. Đến là đến chỗ nhóm họp sinh, nghóa là đến thì các duyên hòa hợp mà sinh. Đi là nói tan hoại, nghóa là đi thì duyên tan mà diệt mất. Phật nói khác là nói chẳng đi chẳng đến, tức bất sinh không diệt, chính là chỗ thông của ta. Đáp câu hỏi thứ hai: Chẳng rơi vào số vọng tưởng Thế luận, tức ngoại đạo phân biệt hữu vô là số vọng tưởng, lại tự nêu lên giải thích, nói không chấp hai bên, vì không chấp nên vọng tưởng hữu vô chẳng thể xoay chuyển, vì cảnh giới tự tưởng chẳng có tánh, chẳng có tánh tức là không, thì có gì mà chuyển. Lại nói giác tự tâm hiện, đã hiễu rõ các pháp duy tâm, thì vọng tưởng từ đâu mà sinh. Do bất sinh nên không nhập vào ba môn giải thoát. Không là tánh không. Vô tướng là tướng không. Vô tác là tánh tướng đều không, tâm không có sở tác. Vô tác còn gọi là vô nguyện, nghóa là không nguyện cầu. Dẫn luận phân tích rộng về tà chánh: Này “Đại Tuệ! Ta nhớ một thuở nọ ta trụ ở một nơi, có Bà-la-môn Thế luận đến chỗ ta, không hỏi thăm sức khỏe mà hỏi ta rằng: “Cù- đàm! Tất cả tạo ra chăng?” Ta đáp: “Bà là môn! Tất cả có tạo ra, ấy là luận thứ nhất”. Bà-la-môn Kia lại hỏi rằng: “Tất cả chẳng phải tạo ra chăng?”. Ta lại đáp: “Tất cả chẳng tạo ra là thế luận thứ hai”. Bà-la- môn kia lại hỏi rằng: “Tất cả là thường chăng? Tất cả là vô thường phải chăng? Tất cả là sinh phải chăng? Tất cả là chẳng sinh phải chăng!” Ta đáp rằng: “Đó là Thế luận thứ sáu”. Này Đại Tuệ! Kia lại hỏi ta rằng. “Tất cả là một chăng? Tất cả là khác phải chăng? Tất cả là đồng phải chăng? Tất cả là chẳng đồng phải chăng? Tất cả nhân các thứ thọ sinh hiện phải chăng?” Ta đáp rằng “Đó là thế luận thứ mười một”. Này Đại Tuệ! Bà-la-môn kia lại hỏi rằng: “Tất cả là vô ký phải chăng? Tất cả là ký chăng? Có ngã phải chăng? Không ngã chăng? Có đời nay phải chăng? Không có đời này phải chăng? Có đời khác phải chăng? Không có đời khác phải chăng? Có giải thoát phải chăng? Không giải thoát phải chăng? Tất cả là sát-na phải chăng? Tất cả chẳng phải sát-na phải chăng? Là Hư không phải chăng? Chẳng phải số diệt phải chăng? Niết- bàn chăng? Cù-đàm! Tạo chăng? Chẳng tạo phải chăng? Có trung ấm chăng? Không có trung ấm phải chăng?” Này Đại Tuệ! Ta đáp rằng: “Nói như thế đều là luận thế gian, điều mà ta chẳng nói chính là thế luận của ông”. Đây là dẫn luận phân tích rộng về tà chánh. Bà-la-môn là tiếng Phạm, nói đủ là Bà-la-hạ-ma-noa, Hán dịch là Tịnh dẫn, cũng dịch là Tịnh hạnh, tự xưng là Tổ từ trong miệng Phạm thiên sinh ra, từ đó mà có họ Phạm, như Phạm chí tức là chủng loại này, chỉ năm xứ Thiên-trúc có, các nước khác không có, lại dịch là Ngoại ý, loại này chỉ có trong kinh sách, đời noi theo nghiệp ấy. Hoặc tại gia hoặc xuất gia, ỷ vào chú thuật của mình mà ngạo mạn. Nói: chẳng hỏi có rảnh rang hay không, không nhàn giống như rảnh rang. Nghi thức thưa hỏi phải đợi lúc rảnh rang, đúng như lễ có lời thưa hỏi, mà kia mạn tự nhiên đến hỏi, do đó mới trách, Bà-la-môn kia hỏi tuy nhiều nhưng đại khái chỉ đáp một Thế luận, do đó bác bỏ. Nói như thế, đều là thế luận tình kiến. Lại nói chẳng phải ta nói, đó là Thế luận của ông, của ngoại đạo. Các thứ luống dối vọng tưởng, các thứ thói quen xấu ác từ vô thỉ là nhân của ba cõi: “Ta chỉ nói luống dối vọng tưởng thói quen các thứ xấu ác từ vô thỉ là nhân của ba cõi. Không thể giác biết tự tâm hiện lượng mà sinh vọng tưởng phan duyên ngoại tánh, như pháp ngoại đạo, nghóa các căn của ta ba thứ hòa hợp thức sinh, ta không như thế. Bà-la-môn! Ta không nói nhân, không nói vô nhân, chỉ nói vọng tưởng tánh năng nhiếp, sở nhiếp lập bày duyên khởi. Chẳng phải ông và những người khác rơi và thọ ngã nối nhau mà giác biết được. Này Đại Tuệ! Niết-bàn, hư không diệt, chẳng có ba thứ, chỉ có số ba mà thôi. Đây là Đức Phật tự nêu lên chánh giáo, không ra ngoài ba đường: Vô thỉ đến thói quen phiền não đạo, các thứ nghiệp đạo ác, Ba hữu khổ đạo. Nhân: nghóa là phiền não nghiệp ác là nhân của đường khổ. Do không thể giác biết các pháp duy tâm hiện ra nên đối với các pháp bên ngoài kia sinh khởi vọng tưởng phan duyên, đây là thuyết nhân duyên chân chính, ngoại đạo không biết được. Lại nói rằng: Như pháp ngoại đạo, lại nêu ngoại đạo kia chấp để nêu thuyết mình. Hỏi ta nghóa các căn, ba thứ hòa hợp biết sinh, nghóa là ta và căn cảnh, ba duyên hòa hợp mà biết sinh, tri tức là thức, Phật nói khác. Cho nên nói: Ta không nói nhân, không nói vô nhân, nhân tức là nhân duyên, vô nhân thức là tự nhiên, chỉ nương vọng tâm làm năng thủ sở thủ, mà nói duyên khởi. Ông và các ngoại đạo khác đắm chấp ngã, không dứt bỏ, thì chẳng thể đo lường được. Nói Niết-bàn, hư không diệt, văn dường như cô khởi, và xét câu hỏi của Đại Tuệ, nghóa là Như lai nói cũng đồng với Số luận của ngoại đạo, chính bảo rằng: ba thứ vô vi, chỉ số có ba như chẳng phải có ba: nghóa của ba thứ vô vi có chú thích ở trước. Như lai thuật lại câu hỏi của Bà-la-môn và lời Phật đáp: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Khi ấy Bà-la-môn Thế luận hỏi ta: Vì nghiệp nhân si ái mà có ba cõi hay vì vô nhân? Ta đáp rằng: hai thứ ấy cũng là Thế luận. Kia lại hỏi rằng: tất cả tánh đều nhập vào tự tướng, cộng tướng chăng? Ta lại đáp: đó cũng là Thế luận Bà-la-môn, cho đến ý chạy theo vọng chấp ngoại trần đều là Thế luận. Lại nữa Này Đại Tuệ! Khi ấy, Thế luận Bà-la-môn lại hỏi ta: Có pháp nào chẳng phải Thế luận chăng? Ta đứng đầu tất cả ngoại đạo nói các cú vị nhân duyên thí dụ trang nghiêm. Ta lại đáp: Bà-la-môn! Có, mà chẳng phải ông có, chẳng phải làm, chẳng phải tông, chẳng phải nói, chẳng phải không nói, các thứ cú vị, đều nhờ thí dụ trang nghiêm. Bà-la-môn hỏi: pháp gì chẳng phải Thế luận? Chẳng phải chẳng tông? Chẳng phải chẳng nói? Ta đáp rằng: Bà-la-môn! Có pháp chẳng phải Thế luận, là pháp mà ông và các ngoại đạo không thể biết. Vì ngoại tánh chẳng thật, vọng tưởng luống dối chấp đắm, nghóa là vọng tưởng chẳng sinh thì giác liễu hữu vô, tự tâm hiện lượng, vọng tưởng bất sinh, chẳng nhận ngoại trần thì vọng tưởng dứt hẳn, đó gọi là chẳng phải Thế luận. Đây là pháp của ta, ông chẳng có. Bà-la-môn! Nói lược thức kia, hoặc đến, hoặc đi, hoặc sinh, hoặc tử, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc chìm, hoặc hiện, hoặc xúc, hoặc chấp các tướng, hoặc hòa hợp nối nhau, hoặc ái, hoặc nhân chấp đắm. Bà-la môn! Sự so sánh ấy là Thế luận của ông, ta chẳng có. Này Đại Tuệ! Bà-la-môn Thế luận hỏi như thế, ta đáp như thế, Bà-la-môn liền im lặng, chẳng từ biệt mà bỏ đi. Kia suy xét chỗ tự thông, nghó rằng: Sa- môn đệ tử Phật Thích-ca ra ngoài sự thông thường nói vô sinh, vô tướng, vô nhân, giác tự vọng tưởng hiện tướng vọng tưởng chẳng sinh”. Đây là Như lai thuật lại câu hỏi của Bà-la-môn và lời Phật đáp cho Đại Tuệ nghe. Nhưng câu hỏi của ông ta kèm hai ba nghóa của Phật dùng làm đầu mối câu hỏi, Đức Phật đều đáp là Thế luận. Đây chính là y theo chỗ biết kia, phàm ý thức rong ruổi theo trần, vọng sinh chấp đắm, không phân tà chánh, đều là Thế luận, giúp cho họ không được bỏ lời, do đó phải chặn đứng. Kia luận đã đuối lý, tùy theo điều chẳng phải thế luận thưa hỏi. Như lai nói có, chẳng phải điều ông có, chẳng phải làm, chẳng phải tông, chẳng phải thuyết, cho đến các thí dụ trang nghiêm đều nói là chẳng phải, nghóa là khác với luận của ông ta. Tuy chỉ bày nhỏ nhiệm nhưng cuối cùng chưa nói chỗ thật, Bà-la-môn kia một lần nữa thưa hỏi rằng: những gì là không phải chẳng tông, không phải chẳng thuyết? Chính lại dè dặt nói rằng: chẳng phải điều ông biết, vì kia đối với pháp ngoài vọng tưởng chấp đắm, chẳng những không thể tín nhập mà cũng tùy lời sinh giải tăng thêm lỗi kiến chấp kia, cho nên vặn hỏi. Song sau bảo rằng: nghóa là vọng tưởng chẳng sinh giúp cho họ hiểu rõ hữu vô đều tự tâm hiện, nên vọng tưởng chẳng sinh, chẳng theo trần bên ngoài thì vọng tưởng dứt hẳn, đó gọi là chẳng phải Thế luận. Mới biết các Đức Phật ba đời, đầu tiên không có một pháp cho người, chỉ khiến vọng tưởng bất sinh, thì thiên chân diệu tánh không xa cách mà được lại. Đã nói về chánh luận lại bác bỏ chỗ sai kia. Tự lược nói thức kia, hoặc đến, hoặc đi, cho đến hoặc do chấp đắm đều là chấp vọng thức của ngoại đạo kia. Luận kia đã bị bẻ gãy nên họ hổ thẹn bỏ đi, cũng không chịu nhún nhường, mà còn nói suy xét chỗ tự thông. Lại nói rằng: Sa-môn đệ tử Phật Thích-ca vượt ngoài thông thường, đây đều là ngoại đạo lui sụt mà có xét lời nói, dùng lời Phật nói cầu mong cho mình mà không được, mới biết rằng vượt ngoài tự thông mà nói vô sinh, vô tướng, v.v… quán xét sự lãnh ngộ kia cũng đủ để thấy kia có sở đắc. Tổng kết chỉ ra chỗ hỏi đáp: Này “Đại Tuệ! Đây là điều ông hỏi ta, vì sao ta nói gần gũi Thế luận các thứ nói năng thì chạy theo tham dục, chẳng nghe chánh pháp. Đại Tuệ bạch phật rằng: chạy theo tham dục và pháp có cú nghóa gì? Phật bảo Đại Tuệ: Lành thay! Lành thay! ông mới có khả năng vì chúng sinh đời sau suy nghó thưa hỏi cú nghóa như thế. Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy nghó ta, sẽ nói cho nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: nói tham, hoặc lấy, hoặc bỏ, hoặc xúc, hoặc vị, bám chặt trần bên ngoài, rơi vào kiến chấp hai bên. Lại sinh khổ ấm sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não. Các họa hoạn như thế đều từ ái mà sinh. Đây do gần gũi thế luận và người thực hành theo thế luận. Ta và các Đức Phật gọi là tham, đó gọi là chạy theo tham dục, không thực hành theo pháp”. Đây là tổng kết chỉ ra chỗ hỏi chỗ đáp. Đại Tuệ nhân đây lại hỏi nghóa tham dục và pháp. Trong đây đáp dùng lấy bỏ v.v… làm tham. Tham tức phiền não, do tham cho nên bị trói buộc, chấp chặt ngoại trần v.v… tức tổng kết nghiệp. Lại sinh khổ ấm v.v… là khổ đạo, nhưng đều lấy ái làm gốc. Ái lại do gần gũi Thế luận, và Thế luận giả tức người. Đều năng nhiếp khiến sinh tham, vì thế nói chạy theo tham dục. Nói không thực hành theo pháp, là không chấp nhận chánh pháp. Nói về thực hành theo pháp: Này “Đại Tuệ! Thế nào là thực hành theo pháp? Nghóa là khéo hiểu biết tự tâm hiện lượng, thấy tướng người vô ngã và pháp vô ngã, vọng tưởng chẳng sinh. Khéo biết tiến lên địa trên, lìa tâm, ý, ý thức, được tất cả các Đức Phật dùng trí tuệ quán đảnh, thực hành đầy đủ mười câu vô tận, đối tất cả pháp không khai phát tự tại, đó gọi là pháp. Cái gọi là chẳng rơi vào tất cả kiến chấp, tất cả luống dối, tất cả vọng tưởng, tất cả tánh, tất cả hai bên. Này Đại Tuệ! Có nhiều ngoại đạo si mê, chẳng rơi vào hai bên hoặc thường, hoặc đoạn. Chẳng phải người thông minh thì nghe luận vô nhân liền khởi chấp thường, ngoài hoại nhân duyên phi tánh thì khởi chấp đoạn. Này Đại Tuệ! Ta chẳng thấy sinh trụ diệt, gọi là pháp. Này Đại Tuệ! Ấy gọi là tham dục và pháp, ông và các Đại Bồ-tát khác phải nên tu học”. Đây đáp thực hành theo pháp, hỏi rằng khéo giác biết v.v… là nói chấp nhận có pháp riêng, tức là hiểu biết chỉ do tâm hiện ra. Chấp hai vô ngã không chấp nơi tướng, lìa các sự phân biệt khéo biết hành tướng của các địa, lìa tâm, ý, ý thức, được các Đức Phật quán đảnh, đầy đủ thọ hạnh mười đại nguyện, đối với tất cả pháp đều được tự tại, đó gọi là pháp lợi. Lại nói rằng không rơi vào tất cả kiến chấp v.v… nghóa là lìa vọng tưởng hiển bày tự tánh. Phần nhiều ngoại đạo v.v… hễ rơi vào kiến chấp một bên đều là pháp của người ngu. Chẳng phải người thông minh nghóa là tà kiến đoạn trường. Chẳng phải luận vô nhân của người thông minh Tiểu thừa, nghóa là tứ bốn đại tánh thường, không nương nhân mà thành, cho nên rơi vào chấp thường. Hoặc chấp nhân bên ngoài hoại diệt, chấp nhân duyên phi tánh thì thành chấp đoạn. Lại nói rằng: ta không thấy sinh trụ diệt, nên sinh mà chẳng sinh, trụ chẳng trụ, diệt mà chẳng diệt, thì khác với đoạn thường, đó gọi là Pháp. Kết thúc khuyên rất dễ hiểu. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Tất cả thế gian luận Ngoại đạo nói luống dối Vọng thấy tác, sở tác Kia thì không tự tông Chỉ ta một tự tông Lìa bỏ tác, sở tác Nói các đệ tử nghe Xa lìa các thế luận Tâm lượng không thể thấy Chẳng quán sát hai tâm Nhiếp, sở nhiếp phi tánh Hai Đoạn thường đều lìa Cho đến tâm trôi lăn Thảy đều là thế luận Vọng tưởng chẳng xoay chuyển Người này thấy tự tâm Khi đến là việc sinh Khi đi cho là mất Biết rành việc đi đến Vọng tưởng chẳng còn sinh. Hữu thường và vô thường, Sở tác, vô sở tác Đời này đời khác thảy Đây đều thế luận thông. Bốn câu đầu nói Thế luận chấp tác, sở tác, chẳng biết do tâm hiện lượng nên dùng hữu vô làm tông. Nói tác sở tác, tác là năng tác, sở là pháp sở tác, như chấp Phạm thiên do bụi nhỏ sinh. Chỉ ta v.v… Phật nói chỉ ta dùng tự tâm làm tông, lìa bỏ vọng tưởng, năng tác, sở tác, nói chánh pháp này cho các đệ tử nghe giúp cho họ không huân tập Thế luận. Tâm lượng không thể thấy là do tâm lìa tánh chấp, không thể dùng kiến chấp hữu vô, không thể dùng năng nhiếp, sở nhiếp, đó gọi là đoạn thường đều lìa. Hai tâm tức kiến chấp hữu vô. Tâm bị đoạn thường xoay chuyển thì gọi là thế luận. Tâm lìa phân biệt thì không bị xoay chuyển, đó gọi là thấy rõ tự tâm. Nếu ngoại đạo kia chấp đến là việc sinh, đi là việc diệt, tức là việc sinh diệt. Bất hiện tức là diệt. Bồ- tát nói không đến không đi thì bất sinh không diệt, cho nên nói biết rõ việc đi đến, vọng tưởng chẳng còn sinh. Bốn câu sau chỉ nói thế luận, như văn rất dễ hiểu. Tổng kết bác bỏ các chấp: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cái gọi là Niết-bàn, nói những pháp gì gọi là Niết-bàn, mà các ngoại đạo đều khởi vọng tưởng? Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó ta sẽ nói cho ông nghe. Như các ngoại đoại vọng tưởng Niết-bàn, chẳng phải vọng tưởng kia thuận theo Niết-bàn. Đại Tuệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Hoặc có ngoại đạo ấm, giới, nhập, diệt, cảnh giới lìa dục, thấy pháp vô thường, các thứ tâm, tâm sở chẳng sinh, chẳng nghó cảnh giới quá khứ, vị lai, hiện tại, các thọ ấm hết, như ngọn đèn tắt, như hạt giống hư, vọng tưởng chẳng sinh, đối với các pháp này nghó là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Chẳng phải do kiến hoại gọi là Niết-bàn”. Trước nói về Niết-bàn mà Nhị thừa đắc và ngoại đạo, lấy vọng tưởng thức diệt làm Niết-bàn, phân biệt rõ này. Đại Tuệ đối với điều này lại có lời thưa hỏi, sợ lý chưa cùng thấy rõ chưa tận, hoặc rơi vào tà kiến thì đạo rốt ráo giải thoát, thành vô thượng Bồ-đề, lại bị xâm tổn, pháp thân tuệ mạng vốn có không đắc mà hiển, đây là nỗi lo âu của Đại Tuệ, chẳng thể không thưa hỏi lại. Như lai bèn bảo rằng: hoặc có ngoại đạo ấm, giới, nhập diệt, nghó là Niết-bàn, xét trong luận Đề-bà giải thích. Ngoại đạo vọng chấp Niết-bàn có hai mươi thứ, đây là Niết-bàn thứ nhất. Luận nói rằng. Các thọ ấm hết, như ngọn đèn tắt, hạt giống hư, như ngọn gió ngừng, gọi là Niết-bàn. Văn này lại nói: Cảnh giới lìa dục v.v… nghóa là đối với cảnh giới sáu trần không ô nhiễm nên gọi là lìa dục, thấy các pháp vô thường, không khởi tâm, tâm sở, vì chẳng nghó cảnh giới quá khứ, vị lai, hiện tại, các thọ ấm hết, như ngọn đèn tắt, như hạt giống hư. Thọ diệt thì tưởng diệt, cho nên nói vọng tưởng chẳng sinh, vả lại y theo tưởng diệt mà nói như vậy, thật ra kiến tưởng không dứt nên bác bỏ rằng, chẳng phải dùng kiến hoại làm Niết-bàn, đây là tổng kết bác bỏ các chấp. Đây là loại Niết-bàn thứ hai mà ngoại đạo nói: “Này Đại Tuệ! Hoặc từ nơi này đến nơi khác gọi là giải thoát, cảnh giới tưởng diệt giống như gió dừng, hoặc do năng giác, sở giác thấy hoại gọi là giải thoát, hoặc thấy thường vô thường nghó là giải thoát, hoặc thấy các tướng chiêu cảm nhân sinh khổ, suy nghó việc ấy rồi, chẳng khéo giác biết tự tâm hiện lượng, kinh sợ đối với tướng mà chấp vô tướng, rất sinh yêu thích nghó là Niết-bàn”. Từ nơi này đến nơi kia ấy, luận nói rằng: đây là Niết-bàn thứ hai mà ngoại đạo nói. Ban đầu có nơi chốn từ nơi chốn sinh thế gian và loài người, người sinh trời đất, thứ lớp diệt hết, trở vào trong chỗ đó. Nói nơi chốn là thường, gọi là nhân Niết-bàn, có chỗ gọi phương, giống như phương sở, cũng là kia đây, nghóa là từ kia đến đây không mất bản tánh. Lại nói rằng: cảnh giới tưởng diệt cũng như gió dừng. Thuyết mới nói rằng: phong tiên ngoại đạo, chấp gió có khả năng sinh sát muôn vật, nói tánh gió thường gọi là Niết-bàn, có chỗ nói rằng gió dừng thì không còn dấu vết. Nói năng giác, sở giác v.v… ngoại đạo nói giác nhiều gọi là giác tưởng. Kinh Nhập Lăng-già chép: Không thấy năng giác, sở giác gọi là Niết-bàn, thấy hoại tức không thấy. Nói thường, vô thường v.v… xét trong luận, ngoại đạo nói: Sự gọi là Y-xa-na, hình không thể thấy trùm khắp tất cả mọi nơi, có khả năng sinh ra muôn vật, năng sinh là thường, gọi là Niết-bàn, vật sở sinh tức gọi là vô thường, giải thoát và Niết-bàn tên khác mà nghóa đồng. Nói các tướng tưởng, v.v… đây là dùng tướng tưởng là nhân khổ, không biết tướng tức do tự tâm hiện, bỏ chấp tướng mà đắm vô tướng, đối với sự yêu thích này cho là Niết-bàn. Tất cả đều hết cho là Niết-bàn: “Hoặc có khi giác biết các pháp trong ngoài, tự tướng, cộng tướng quá khứ, hiện tại, vị lai có tánh bất hoại, nghó là Niết-bàn. Hoặc cho là ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng tất cả pháp hoại, nghó là Niết-bàn, hoặc ngoại đạo ác thiêu đốt trí tuệ, thấy tự tánh và só phu hai bên có ngăn cách, só phu hiện ra gọi là tự tánh, như loại Minh sơ tỷ nói cầu-na chuyển biến, Niết-bàn. Nói phước chẳng phải phước v.v… hoặc nói các phiền não hết, hoặc cho rằng trí tuệ, hoặc thấy tự tại là chân thật người tạo ra sinh tử, nghó là Niết-bàn”. Nói giác biết các pháp trong ngoài, tức giác tưởng phân biệt các pháp căn trần v.v… tự tướng, cộng tướng, khác nhau giữa ba đời, tánh thần ngã chẳng hoại cho là Niết-bàn. Nói nhân ngã v.v… vọng cho rằng pháp bốn tướng hoại diệt cho là Niết-bàn. Nói trí tuệ ác thiêu đốt, đây chính là ác kiến thiêu đốt diệt trừ chánh trí, gốc của tự tánh ngã kiến. Só phu là một trong mười sáu tri kiến, hai thứ có gián cách, gián là khác vậy. Nghóa là tự tánh kia và só phu hai bên có cách gián khác nhau. Nhưng tự tánh từ só phu mà ra, giống như Minh sơ sinh giác. Hoặc nói hai cái có từ sơ sinh giác là một cái có từ trần sinh đại là một cái có, ý văn không nhất quán. Nếu thuyết theo kia thì không hợp. Lại nói như Minh sơ tỷ. Nói cầu-na chuyển biến v.v… nghóa là nương tự tánh chuyển biến có khả năng tạo ra các pháp, cho là Niết- bàn. Nói phước chẳng phải phước v.v… là chẳng phải tội phước, nghóa là tội phước đều hết, tất cả đều hết cho là Niết-bàn. Nói phiền não hết v.v… Xét trong luận, phiền não và trí tuệ vốn là một, chấp cho là phiền não hết, nương trí tuệ gọi là Niết-bàn. Hoặc thấy tự tại v.v… luận chép: Trời Tự Tại có khả năng tạo tác chúng sinh sinh tử, năng tác gọi thường là Niết-bàn. Chấp tự nhiên là Niết-bàn: “Có Chỗ cho rằng xoay vần sinh nhau. Sinh tử không còn nhân khác, như thế tức là chấp chặt nhân, mà kia ngu si không thể giác biết, vì không biết nên nghó là Niết-bàn. Hoặc có ngoại đạo nói được đạo chân đế, nghó là Niết-bàn, hoặc thấy công đức và công đức sở khởi, hòa hợp một khác, đồng chẳng đồng, nghó là Niết-bàn, hoặc thấy tự tánh sở khởi chim công nhiều màu sắc, các thứ vật báu và tánh gai nhọn v.v…, thấy rồi nghó là Niết-bàn”. Nói xoay vần sinh nhau là vọng chấp của Luận sư Ni-kiền-tử, kiếp sơ sinh một nam một nữ, khi kia hòa hợp xoay vần sinh nhau, tất cả vật hoại lại trở về chỗ kia, nghóa là ngoài ra không còn có nhân khác, họ không biết chấp đắm như vậy là nhân quả sinh tử, mà kẻ ngu si kia không biết, cho là Niết-bàn. Nói được đạo chân đế… luận sư Tăng-khư chấp hai mươi lăm đế từ Minh sơ sinh, nói là chứng đạo chân thật cho là Niết-bàn. Hoặc thấy công đức, các gọi là công đức của ngoại đạo thì thường chỉ cho khổ hạnh, vẫn ở chỗ ấy khởi hòa hợp, khởi chấp bốn câu cho là Niết-bàn. Hoặc thấy tự tánh v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Hoặc chấp các vật từ tự nhiên sinh, máu sắc chim Công và gai nhọn, chỗ sinh châu báu xuất ra các thứ báu. Các việc như thế thì ai có thể làm liền chấp tự nhiên cho là Niết-bàn. Ngoại đạo thấy các thứ vọng chấp là Niết-bàn: Này “Đại Tuệ! Hoặc có người giác hai mươi lăm chân thật, hoặc vua giữ gìn đất nước nhận Lục đức luận nghó là Niết-bàn. Hoặc thấy “thời” là tác giả, thời tiết thế gian, người giác như thế nghó là Niết-bàn, thời có thay đổi nhưng tác giả không thay đổi, người giác như thế v.v… cho là Niết-bàn. Nói tánh phi tánh. Kinh Nhập Lăng-già chép: Hoặc chấp có vật hoặc chấp không vật, hoặc chấp có vật, không vật, cùng cho là Niết-bàn. Đây gọi là tánh tánh tức pháp pháp tức vật. Nói có giác v.v… nghóa là muôn vật là dao động, Niết-bàn là vắng lặng, hai thứ này không khác nhau cho là Niết-bàn. Trên đã nói ngoại đạo các thứ vọng chấp thấy là Niết-bàn. Đầy đủ như trong luận Đề-bà… có giải thích rộng tướng ấy. Tổng kết bác bỏ: “Có các thứ vọng tưởng như thế, ngoại đạo nói ra bất thành sở thành, người trí dứt bỏ. Này Đại Tuệ! Như thế tất cả đều rơi vào hai bên, nghó là Niết-bàn. Các Niết-bàn vọng tưởng như thế, trong ấy đều không có hoặc sinh, hoặc diệt. Này Đại Tuệ! mỗi thứ Niết-bàn của ngoại đạo kia họ tự soạn luận. Trí tuệ quán sát đều không có chỗ lập, nluống dối tưởng kia, tâm ý đến đi, trôi giạt xao động, tất cả không có được người nào Niết-bàn”. Đoạn văn này tổng kết bác bỏ gồm có năm: 1.Nói bất thành sở thành, vì kia đều là vọng tưởng tuy chấp Niết- bàn mà không thành Niết-bàn, bị người trí dứt bỏ. 2.Lại nói: như vậy tất cả đều rơi vào hai bên. 3. Do kia vọng chấp sinh diệt mà thật pháp kia không hề sinh diệt. 4.Nhưng điều họ chấp đều là tà luận, dùng chánh trí quán sát không chỗ thành lập. 5. Lại vì tâm tưởng kia trôi giạt xao động nương tánh Niết-bàn, cho nên không có đắc Niết-bàn. Do sự giải thích này đủ để nói lên vọng kia. Đối với tà mà hiển bày chánh: Này “Đại Tuệ! Như ta nói Niết-bàn là khéo giác biết tự tâm hiện tượng, chẳng mê đắm tánh bên ngoài, lìa bốn câu thấy chỗ như thật, chẳng rơi vào tự tâm hiện, vọng tưởng hai bên, năng nhiếp sở nhiếp không thật có, tất cả độ lượng không thấy được thành, kẻ ngu đối với chân thật không nên chấp nhận, buông bỏ kia rồi được tự giác Thánh pháp. Biết hai vô ngã lìa hai phiền não, dứt sạch hai chướng, lìa hai hẳn hai sinh tử, thẳng tiến lên vào Như lai địa, các Tam-muội sâu xa như bóng, như huyễn v.v… lìa tâm, ý, ý thức gọi là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Ông và các Đại Bồ-tát khác phải nên tu học, phải mau xa lìa tất cả kiến chấp Niết-bàn của ngoại đạo”. Như ta nói v.v… là đối tà mà hiển bày chánh. Văn kia cũng có năm: 1.Nghóa là khéo giác biết tự tâm hiện lượng, chẳng mê đắm tánh bên ngoài. 2.Lìa bốn câu chỗ thấy như thật. 3. Không rơi vào tự tâm hiện, vọng tưởng hai bên, thì năng chấp, sở chấp không thật có. 4.Tất cả độ lượng không chấp được thành, là nói rõ Niết-bàn Như lai vượt ngoài tà thuyết của ngoại đạo. 5.Độ lượng tức số. Kẻ ngu đối với chân thật không nên chấp nhận, ngu tức quên, là quên lý chân thật, tùy theo chỗ thấy, không nên chấp đắm. Nói dứt bỏ kia rồi, nghóa là dứt bỏ vọng kiến kia rồi thì được pháp tự giác Thánh trí, biết người pháp vô ngã, lìa hai hoặc chung riêng, trừ hoặc chướng, trí chướng, lìa sinh tử phần đoạn, sinh tử biến dịch, dần dần trải qua các địa, đạt đến Phật địa. Đây đều là pháp sở chứng. Tam-muội sâu như bóng, như huyễn lìa tâm, ý, ý thức, đều có khả năng hiển bày Niết-bàn. Cuối cùng luận về ba đức Niết-bàn, cái gọi nói là tạng bí mật của Như lai. Như ba điểm của chữ y, ba mắt của Thiên chủ, không ngang không dọc, dứt bặt suy tư nói năng, an trụ như vậy gọi là rốt ráo Niết-bàn, cho nên khuyên bảo người học nên phải tu hành, phải lìa kiến chấp Niết- bàn của ngoại đạo. Đức Thế tôn nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Ngoại đạo chấp Niết-bàn Họ đều khởi vọng tưởng Đây từ tâm tưởng sinh Không phương tiện giải thoát Người ngu tự trói buộc Xa lìa phương tiện khéo Ngoại đạo tưởng giải thoát Giải thoát chẳng hề sinh Các trí đều khác đường Ngoại đạo chỗ thấy thông Kia đều không giải thoát Vì ngu si vọng tưởng”. Bài tụng trên nói về kiến chấp vọng tưởng Niết-bàn của ngoại đạo. Nói họ đều, như văn trước đã nêu. Có hai mươi mốt thứ khác nhau, nhưng đều khởi tâm tưởng tà tập. Nói không có phương tiện giải thoát, muốn cởi bỏ sự trói buộc của sinh tử mà được giải thoát, không khéo léo thực hành phương tiện thì không được. Đã không có phương tiện giải thoát thì đâu thể nhập Niết-bàn. Ngu là ngu mê, do ngu mê nên không hiểu điều đã chấp. Tà kiến là sự trói buộc của phiền não sinh tử, cho nên lìa bỏ phương tiện khéo léo mà muốn cầu giải thoát thì không bao giờ được. Các trí là nói bốn trường hợp , các ngoại đạo khổ hạnh thành lập được thông trí, đó là vọng chẳng phải chân. Tổng kết bác bỏ các chấp của ngoại đạo: “Tất cả ngoại đạo si Vọng chấp tác sở tác Phẩm luận hữu, vô hữu Kia đều không giải thoát Phàm ngu ưa vọng tưởng Chẳng nghe tuệ chân thật Lời nói gốc ba khổ Chân thật diệt nhân khổ Thí như bóng trong gương Tuy hiện mà chẳng có Đối gương tâm vọng tưởng Kẻ ngu thấy có hai Chẳng biết tâm và duyên Ắt khởi hai vọng tưởng Rõ tâm và cảnh giới Vọng tưởng sẽ chẳng sinh Tâm ấy là các thứ Xa lìa tướng, sở tướng Việc hiện mà không hiện Như ngu kia vọng tưởng”. Tất cả ngoại đạo si vọng thấy tác, sở tác, hai câu này là tổng kết bác bỏ các chấp của ngoại đạo. Hữu, vô hữu trở xuống là nói vọng tưởng chân thật, nghóa là vọng tưởng vượt ra ngoài ngôn luận, là gốc của ba khổ. Chân thật trái với vọng tưởng, cho nên vì diệt nhân của khổ, ý muốn giúp cho phàm phu bỏ mê về ngộ. Lại dùng ví dụ hiển bày, gương dụ cho tâm, bóng dụ cho gương, phàm phu không thể hiểu cảnh do tâm tạo, cho nên chấp ngoài tâm có pháp mà sanh phân biệt, như thấy bóng trong gương mà nghó là thật, chính là thấy có hai, nên nói chẳng biết tâm và duyên thì sẽ khởi hai vọng tưởng. Duyên tức là cảnh. Nếu hiểu tâm cảnh như một thì vọng từ đâu sinh khởi. Tâm trở xuống bốn câu, hợp với ví dụ bóng trong gương ở trên. Các cảnh. Đã biết các cảnh duy tâm thì không có năng tướng, sở tướng. Sự tức cảnh, nói sự hiện cảnh, như bóng trong gương không thật, nhưng kẻ ngu mê không hiểu, tự sinh phân biệt mà thôi. Ba cõi, sáu đường sinh tử đều không thật thể: “Ba cõi chỉ vọng tưởng Nghóa ngoài đều không có Vọng tướng các thứ hiện Phàm ngu không thể rõ Các kinh nói vọng tưởng Đều chẳng ngoài tên gọi Nếu xa lìa lời nói Cũng không có sở thuyết”. Ba hữu là ba cõi, nghóa ngoài tức cảnh bên ngoài. Nghóa là ba cõi, sáu đường sinh tử đều không thật thể, chỉ do vọng tưởng chấp các thứ cảnh bên ngoài này, cho nên nói phàm ngu không thể hiểu. Đây là tổng kết lỗi của mê vọng. Nhưng Như lai nói các pháp đều chor ằng các chúng sinh do vọng tưởng nên chìm đắm trong sinh tử, ý muốn cho chúng sinh bỏ vọng về chân, an trụ Niết-bàn. Nhưng chúng sinh chấp chặt danh tự lời nói, không thể quên lời được ý, nếu hiểu lời nói mà không lời nói, thì pháp sở thuyết cũng không thật có, như được cá quên nôm. Đây là ý nghóa sâu xa của Như lai dạy người. <篇> LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO KINH CHÚ GIẢI <卷>QUYỂN 4 (Phần 1) <詞>Phẩm 4: NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM Đại Tuệ dùng ba hiệu làm câu hỏi: “Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin nói cho chúng con nghe về Tam-miệu Tam-phật-đà, con và các vị Đại Bồ-tát khác sẽ khéo thực hành tự giác giác tha đối với tự tánh của Như lai. Phật bảo Đại Tuệ: Cho ông tùy ý hỏi, hễ ông hỏi điều gì thì ta dẽ đáp điều đó. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác là tác hay? Là chẳng tác quả hay nhân? Là tướng hay sở tướng? Là thuyết hay sở thuyết? Là giác hay sở giác? Nhưng câu như thế khác hay chẳng khác?”. Niết-bàn là pháp sở chứng, Như lai là người năng chứng. Đại Tuệ đã lãnh ngộ ý chỉ Niết-bàn, lại thưa hỏi Như lai là vì chúng sinh. Tam-miệu Tam-phật-đà Hán dịch là Chánh biến tri, cũng gọi là Chánh giác. Chánh biến tri, nghóa là biết chân chánh, biết cùng khắp, biết chân chánh đối với trung, biết trùm khắp đối với bên. Như lai tự tánh gọi là pháp thân. Phật đã nhận lời cầu thỉnh nên Đại Tuệ dùng đủ ba hiệu làm câu hỏi. Ba hiệu là ba đức. Như lai là pháp thân trung đế, ứng cúng giải thoát tục đế, chánh biến tri tức Bát-nhã chân đế. Thông hiểu có mười, mà đặc biệt hỏi ba câu này chính là điểm quan trọng ấy”. Tác “là tu trì tạo tác, nghóa bao trùm nhân quả, sự tức quả. Tướng là thân tướng, thuyết là lời nói, giác là giác tri. Nghóa là Như lai đối với bốn câu này là khác hay không?” Cú nghóa của Như lai được người trí nhận lấy: “Phật bảo Đại Tuệ: Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, đối với những câu như thế chẳng phải sự chẳng phải nhân. Vì sao? Vì đều có lỗi. Này Đại Tuệ! Nếu Như lai là sự thì hoặc tác, hoặc vô thường. Vì vô thường nên tất cả sự lẽ ra là Như lai, đều là điều chẳng muốn của ta và các Đức Phật. Nếu chẳng có sở tác thì không có sở đắc, nên phương tiện thì không, đồng với sừng thỏ và con của cô gái bất dục, vì không thật có. Này Đại Tuệ! Nếu không sự, không nhân thì chẳng phải có, chẳng phải không. Nếu chẳng phải có chẳng phải không thì nằm ngoài bốn câu, bốn câu thuộc về lời nói của thế gian. Nếu ra ngoài bốn câu thì chẳng rơi vào bốn câu. Vì chẳng rơi vào bốn câu nên người trí nhận lấy. Tất cả cú nghóa của Như lai cũng giống như thế, người trí tuệ nên biết”. Trong đây đáp, trước là trả lời câu hỏi. Chẳng phải sự, chẳng phải nhân tức phi nhân, phi quả, hợp lại nói chẳng phải tác chẳng phải không tác. Ý nói đều có lỗi, không phải chỉ nói riêng sự nhân mà thôi, chính nói Như lai hoặc chỉ là sự nhân, thì rơi vào lỗi hữu tác, nếu chẳng phải sự nhân thì rơi vào lỗi vô sở hữu. Nói Như lai là sự v.v… nghóa là nếu Như lai chắc chắn phải dùng việc nhân quả v.v… thì là vô thường. Nếu là vô thường thì tất cả pháp sở tác lẽ ra là Như lai. Nhưng ta và các Đức Phật đều không muốn đồng với việc ấy. Nếu chẳng phải sở tác, thì phải khảo xét trên chẳng phải câu sự nhân, nghóa là chẳng phải sở tác thì không thật có, vô sở đắc thì trí tuệ phương tiện đều là luống uổng, đồng với sừng thỏ, con của cô gái bất dục. Lại nói vô sự vô nhân, nghóa là pháp thân đã phi hữu tác thì lìa lỗi hữu vô, lìa lỗi hữu vô thì ra ngoài bốn câu. Bốn câu là một khác, cùng, chẳng cùng, hữu vô, chẳng phải hữu, chẳng phải vô, thường, vô thường… Không rơi vào bốn câu này, đó gọi là cú nghóa của Như lai, được người trí nhận lấy. Cú nghóa của Như lai không rơi vào bốn trường hợp: “Như ta đã nói tất cả pháp vô ngã, phải biết nghóa này, không ngã tánh là vô ngã. Tất cả pháp có tự tánh, không tha tánh như trâu, ngựa. Này Đại Tuệ! Thí như chẳng phải trâu là ngựa, chẳng phải ngựa là trâu, thật ra chẳng phải có, chẳng phải không, kia chẳng phải không tự tánh. Cũng thế Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp chẳng phải vô tự tướng. Có tự tướng nhưng người ngu chẳng phải vô ngã thì không thể biết được, vì vọng tưởng. Cũng thế tất cả pháp không, vô sinh, vô tự tánh, nên biết như thế”: Trên đây là nói cú nghóa của Như lai không rơi vào bốn câu, sợ người chưa thông hiểu cho rằng cú nghóa của Như lai cũng chẳng phải thật tánh, cho nên nêu rõ ra đây. Như ta đã nói v.v… Phật dạy rằng “ta thường nói tất cả pháp vô ngã”. Vô ngã, nghóa là không có tánh chấp, chẳng phải tánh vô tánh, cho nên nói có tự tánh, vô tha tánh, tha là đối lại với tự, ý nói câu Như lai tuy lìa các câu nhưng chẳng phải không có tự tánh pháp thân thường trụ, lại dùng ví dụ để hiển bày, như trâu chỉ có tánh của trâu mà không có tánh của ngựa, ngựa chỉ có tánh của ngựa mà không có tánh của trâu, cho nên nói chẳng phải hữu chẳng phải vô. Nghóa là kia đều có tự tánh mà không có tha tánh. Kinh Nhập Lăng-già chép: Tất cả các pháp cũng giống như vậy, không có tự tướng, chẳng phải hữu tức hữu, nghóa là chẳng những có tự tánh, mà còn có tự tướng, nhưng chẳng phải vô ngã, vô ngã tức Thanh văn, nghóa là chẳng phải điều phàm phu biết được Tiểu thừa, không biết là do vọng tưởng, phân biệt che lấp. Như thế tất cả pháp không v.v… nghóa là tất cả pháp vô ngã cũng như vậy, để nói lên tất cả pháp không, tánh Như lai bất không; tất cả pháp vô sinh, pháp thân Như lai là sinh; tất cả pháp vô tự tánh mà Như lai có tánh thường trụ, cho nên nói nên biết như thế. Luận thuyết khác nhau giữa pháp thân và năm ấm: “Như lai và ấm chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác như thế. Nếu chẳng khác ấm thì lẽ ra vô thường, nếu khác ấm thì phương tiện sẽ không, nếu cả hai thì nên có khác. Như sừng trâu tương tự nên chẳng khác, dài ngắn khác nhau cho nên có khác, tất cả pháp cũng giống như thế. Này Đại Tuệ! như con trâu sừng bên phải khác sừng bên trái, sừng bên trái khác sừng bên phải. Cũng thế dài ngắn, các thứ sắc mỗi sắc đều khác. Này Đại Tuệ! Như lai đối với ấm, giới, nhập chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác”. Như lai Như thế trở xuống nghóa là pháp thân và năm ấm đối luận, chẳng phải khác chẳng phải không khác. Ấm là khổ đạo, khổ đạo tức pháp thân cho nên chẳng khác, mê ngộ có khác cho nên chẳng phải không khác. Nếu nói pháp thân không khác năm ấm thì đó là pháp vô thường sinh diệt, nếu nói khác thì Như lai không có tướng toàn thể khởi dụng phương tiện làm lợi ích cho chúng sanh, cho nên nói là không, do đó nên pháp thân cùng ấm chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Nếu không hiểu rõ năm ấm tức là pháp thân thì cả hai có khác. Lại lấy sừng trâu làm ví dụ, sừng trâu tương tự thì không khác, dài ngắn khác nhau thì có khác. Tất cả các pháp cũng giống như vậy, nghóa là pháp thân chẳng khác với tất cả pháp, chẳng phải không khác cũng giống như vậy. Lại dùng sừng trâu trái phải khác nhau để làm ví dụ, nghóa là pháp thân vốn chỉ có một nhưng các pháp có khác, cũng như sừng trâu trái phải khác nhau. Văn tổng kết rất dễ hiểu. Nói về pháp thân Như lai đối với đức giải thoát: “Cũng thế Như lai và giải thoát chẳng phải khác chẳng phải chẳng khác. Cũng thế Như lai lấy giải thoát gọi tên. Nếu Như lai khác giải thoát thì nên thành sắc tướng, vì sắc tướng thành nên vô thường. Nếu chẳng khác thì người tu hành được tướng nên không phân biệt, vì người tu hành chấp phân biệt, cho nên chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác”. Đây là pháp thân Như lai đối với đức giải thoát. Nói Như lai dùng giải thoát gọi tên, là nói lên sự rốt ráo của Như lai. Bởi hiểu rõ kiết nghiệp tức là giải thoát, cho nên Như lai và giải thoát chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Nếu nói khác giải thoát thì thân sắc tướng là vô thường. Nếu không khác thì người tu hành tương ưng với giải thoát, không khác nhân quả, người pháp, nhưng có năng sở phân biệt, cho nên kết luận rằng chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Nói theo Bát nhã và trí chướng đối nhau: “Như thế trí và tri chướng chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Này Đại Tuệ! Trí và tri chướng chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác, ấy là phi thường, phi vô thường, phi tác, phi sở tác, phi hữu vi, phi vô vi, phi giác, phi sở giác, phi tướng, phi sở tướng, phi ấm, phi dị ấm, phi đồng, phi bất đồng, phi nhất, phi dị, phi đồng, phi bất đồng, nên đều lìa tất cả lượng”. Đây là y theo Bát-nhã và trí chướng đối nhau. Trí tức Bát-nhã, sở tri tức trí chướng. Y theo trước hợp lại mà nói, nếu khác thì lìa chướng vô trí, nếu không khác thì chướng đâu phải là trí, nhưng nói chẳng khác, chẳng phải không khác là văn tóm lược đó thôi! Bát-nhã này và trí chướng chẳng phải khác, chẳng phải không khác, thì không hai không khác với pháp thân giải thoát, cho nên lại tổng kết mà nêu bày chung, nói phi thường, phi vô thường v.v… là Tổng kết không ngoài chẳng phải hai bên hiển bày trung đạo, chẳng phải năng sở nói lên một tướng, chẳng phải bốn câu nói lên quên lời. Lại nói lìa tất cả lượng, lượng tức là số. Tổng kết chỉ quy về pháp thân tự tánh: “Lìa tất cả lượng thì không có lời nói, không có lời nói thì vô sinh. Vô sinh thì vô diệt, vô diệt thì vắng lặng, vắng lặng là tự tánh Niết- bàn. Tự tánh Niết-bàn thì vô sự vô nhân, vô sự vô nhân thì không phan duyên. Không phan duyên thì vượt ngoài tất cả luống dối, vượt ngoài tất cả luống dối tức là Như lai. Như lai tức là Tam-miệu Tam-phật-đà. Này Đại Tuệ! Ấy gọi là Tam-miệu Tam-phật-đà, Phật đà. Này Đại Tuệ! Tam-miệu Tam-phật-đà, là lìa tất cả căn lượng”. Xét rằng lìa các ngôn lượng, tức là vô sinh vắng lặng tự tánh Niết-bàn. Đã hiểu rõ bản tánh lại là tông, kết luận nói là vô sự vô nhân, chỉ có một pháp thân cao vời độc lập, không thấy các pháp là chỗ phan duyên, cho nên vượt ngoài tất cả luống dối, gọi là Tam-miệu Tam-phật-đà. Lặp lại tiếng Phật-đà là dịch khác với tri giác, tổng kết hai tên. Nói đến chỗ này có thể nói là cùng cực. Nhưng lại lặp lại lìa tất cả căn lượng là tổng kết trả lời câu hỏi chỉ quy về pháp thân tự tánh. Tụng chung về Phật-đà lìa tướng: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng. “Lìa hết các căn lượng Vô sự cũng vô nhân Đã lìa giác, sở giác Cũng lìa tướng, sở tướng Ấm duyên Đẳng chánh giác Một, khác không thể thấy Nếu không có người thấy Làm sao mà phân biệt Chẳng tác, chẳng bất tác Chẳng sự cũng chẳng nhân Chẳng ấm chẳng ở ấm Cũng chẳng có dư tạp Cũng chẳng có các tánh Như kia vọng tưởng chấp Nên biết cũng chẳng vô Pháp pháp này cũng thế”. Đều xa lìa hết trở xuống bốn câu là tụng chung về Phật-đà lìa tướng. Ấm duyên, ấm là năm ấm, duyên là duyên của phan duyên như giới nhập v.v… Chánh giác tức pháp thân. Một khác chớ nên thấy, đã không người năng thấy, thì đâu có pháp một khác để phân biệt ư! Bốn câu Phi tác… chính là nói lên pháp thân trung đạo. Dư tạp là lỗi của các pháp. Cũng phi hữu trở xuống bốn câu, là lìa hai chấp hữu vô. Nói pháp thể của Như lai là do phàm phu vọng tưởng phân biệt mà thấy. Tuy lìa các tướng mà cũng chẳng phải không có thật tướng để thấy. Pháp pháp này cũng như thế, nghóa là pháp thân này chẳng thể nói có chẳng thể nói không, pháp vốn như vậy. Có, không đối đãi nhau mà lập: “Vì hữu nên có vô Vì vô nên có hữu Nếu không chẳng nên thọ Nếu có chẳng nên tưởng Hoặc đối ngã phi ngã Lời nói lượng không dứt Chìm đắm ở hai bên Tự hoại, hoại thế gian Giải thoát tất cả lỗi Chính quán sát ngã thông Đó gọi là chánh quán Chẳng hủy Đại đạo sư”. Vì có nên không vì không nên có, đây là có không đối đãi nhau mà lập. Có không mỗi pháp đã không có tự thể thì đâu nên chấp chặt, cho nên nói chẳng nên thọ, chẳng nên tưởng. Kia hoặc chưa hiểu hai ngã vốn không, dính mắc lời nói, đây là đắm chìm trong hai kiến chấp hữu vô, chẳng những hoại mình mà còn hoại người, làm sao mà ra khỏi sinh tử được. Nếu thông hiểu được pháp thân, giải thoát tự tại, lìa tất cả lỗi, thì đó gọi là quán sát thông suốt, không chê bai Phật. Dùng bất sinh bất diệt để lìa hữu vô: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như Đức Thế tôn nói Tu-đa-la “Nhiếp Thọ bất sinh bất diệt”. Thế tôn lại nói chẳng sinh chẳng diệt là tên khác của Như lai. Vì sao Thế tôn là vô tánh nên nói bất sinh bất diệt cho là tên khác của Như lai. Phật bảo Đại Tuệ: Ta nói tất cả pháp chẳng sinh chẳng diệt, các thứ hữu vô chẳng hiện. Đại Tuệ bạch Phật: Thế tôn! Nếu tất cả pháp bất sinh thì pháp nhiếp thọ không thật có, vì tất cả pháp chẳng sinh. Nếu trong danh tự có pháp, cúi xin Đức Thế tôn nói cho con nghe. Phật bảo Đại Tuệ: Lành thay! Lành thay! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghóa, ta sẽ phân biệt giảng nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo”. Phật bảo Đại Tuệ: Ta nói Như lai chẳng phải vô tánh, cũng chẳng phải bất sinh bất diệt, nhiếp tất cả pháp. Vì chẳng đợi duyên nên bất sinh bất diệt, cũng chẳng phải vô nghóa. Trong kinh nói bất sinh bất diệt, là chẳng phải một, ý chỉ cho điều được giải thích chẳng phải không có đồng khác. Như nói Tu-đa-la nhiếp thọ bất sinh bất diệt, nhiếp thọ nghóa là xả bỏ nhiếp thọ lý kia. Lại nói đây là tên khác của Như lai, Đại Tuệ cho rằng bất sinh bất diệt là nghóa vô tánh. Vì sao gọi là tên khác, chẳng lẽ Như lai cũng là vô tánh ư! Phật đáp dùng bất sinh bất diệt để lìa hữu vô, cho nên nói các thứ hữu vô chẳng hiện. Đây là dùng một lời đáp hai câu hỏi kia. Đại Tuệ lại cho rằng bất hiện là bất sinh. Nếu tất cả pháp bất sinh thì đâu phải tên khác của Như lai. Nếu là tên khác thì đối với danh tự chẳng lẽ cũng có nghóa pháp bất sinh, cho nên lại đặt câu hỏi. Trong đây đáp rằng chẳng phải vô tánh, nghóa là Như lai chẳng phải pháp vô, cũng chẳng phải nhiếp thủ bất sinh bất diệt, cũng chẳng đợi duyên sinh diệt mà nói bất sinh bất diệt. Nói cũng chẳng phải vô nghóa, ở văn sau sẽ trả lời. Ý sinh pháp thân là danh hiệu của Như lai: Này “Đại Tuệ! Ta nói ý sinh pháp thân là danh hiệu của Như lai. Bất sinh chẳng phải là cảnh giới của tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát Thất trụ. Này Đại Tuệ! Chẳng sinh là tên khác của Như lai. Này Đại Tuệ! Thí như Nhân-đà-la Thích-ca, Bất-lan-đà-la những vật như thế, mỗi mỗi vật đều có nhiều tên, cũng chẳng phải có nhiều tên mà có nhiều tánh, cũng chẳng phải vô tự tánh”. Nói ta nói thân ý sinh v.v… văn kia cũng tóm lược, nên nói ta nói bất sinh bất diệt là nghóa bất sinh, bất sinh mà sinh là tên khác của tất cả pháp thân đều từ đây mà ra, cho nên nói ý sinh pháp thân là danh hiệu của Như lai. Nói bất sinh kia là lặp lại nghóa tất cả pháp bất sinh ở trên. Nhưng chẳng sinh ở đây là con đường rốt ráo của Như lai. Chẳng phải trình độ của ngoại đạo thiên chấp, cho nên nói chẳng phải cảnh giới của họ. Thất trụ tức là Địa thứ bảy, vì Bồ-tát Thông giáo đến Địa thứ tám mới chứng Vô sinh, do đó bất sinh là tên khác của Như lai, tức bất sinh bất diệt gọi là nghiêng về nghóa Viên giáo, chính là nghóa ở đây. Thí như Nhân-đà- la v.v… đây dẫn tên khác của trời Đế-thích, huống chi là tên khác của Như lai chẳng phải một. Vì địa vị an trụ của Đế-thích và hư không cho đến tay chân, tùy theo mỗi vật đều có tên khác, tên kia tuy nhiều người chỉ có một, cho nên không nhiều tánh tùy vật mà hiển bày nghóa, chẳng phải vô tự tánh. Trăm ngàn danh hiệu không thêm không bớt: “Cũng thế Này Đại Tuệ! Ta ở thế giới Ta-bà này, trải ba A-tăng- kỳ có trăm ngàn danh hiệu. Kẻ ngu thảy đều nghe, mỗi người gọi tên ta mà không hiểu đó là tên khác của Như lai. Này Đại Tuệ! Hoặc có chúng sinh biết ta là Như lai, có chúng sinh biết ta là Nhất thiết trí, có chúng sinh biết ta là Phật, có chúng sinh biết ta có là đấng cứu thế, có chúng sinh biết ta là tự giác, có chúng sinh biết là Đạo sư, có chúng sinh biết ta là Quảng đạo, có chúng sinh biết ta là Nhất thiết đạo, có chúng sinh biết ta là Tiên nhân, có chúng sinh biết ta là Phạm, có chúng sinh biết ta là Tỳ-nữu, có chúng biết ta là Tự tại, có chúng sinh biết ta là Thắng, có chúng sinh biết ta là Ca-tỳ-la, có chúng sinh biết ta là Chân Thật biện, có chúng sinh biết ta là Nguyệt, có chúng sinh biết ta là Nhật, có chúng sinh biết ta là Chủ, có chúng sinh biết ta là Vô sinh, có chúng sinh biết ta là Vô diệt, có chúng sinh biết ta là Như Như, có chúng sinh biết ta là Đế, có chúng sinh biết ta là Thật tế, có chúng biết ta là Pháp tánh, có chúng biết ta là Niết-bàn, có chúng biết ta là Thường, có chúng biết ta là Bình đẳng, có chúng biết ta là Bất nhị, có chúng biết ta là Vô tướng, có chúng biết ta là Giải thoát, có chúng biết ta là đạo, có chúng sinh biết ta là ý sinh. Đại Tuệ trải qua ba A-tăng-kỳ có trăm ngàn danh hiệu như thế, chẳng thêm chẳng bớt, thế giới này và thế giới khác thảy đều biết ta như trăng đáy nước chẳng ra chẳng vào”. Ta ở thế giới Ta-bà có trăm ngàn danh hiệu này chỉ nêu ba mươi ba tên khác nhau, người ngu thảy đều nghe mỗi người nói tên ta, nghóa là mỗi tên đều có nghóa, mà không biết tên khác của Như lai, cho nên không biết thể ấy là một, vốn bất sinh không diệt. Cho đến nói trải qua ba a-tăng-kỳ có trăm ngàn danh hiệu như thế. A-tăng-kỳ, Hán dịch là vô số thời, đây chính thành quả lập ra giáo hóa của Như lai. Trăm ngàn danh hiệu không thêm không bớt, bởi hễ nêu lên một danh hiệu thì thâu nhiếp tên gọi các pháp, ở nhiều không thêm ở một không bớt, cõi này, cõi khác đều biết danh hiệu Phật. Nói như trăng đáy nước chẳng ra chẳng vào, trăng dụ cho ứng thân, nước dụ cho tâm chúng sinh, tâm chúng sinh thanh tịnh Như lai liền ứng, như trăng đáy nước. Nhưng trăng ở hư không bóng hiện đáy nước, mà trăng không rơi xuống, cho nên nói không vào, cũng không lìa nước cho nên nói không ra. Đối với tất cả pháp chỗ nào cũng mê chấp: “Các kẻ ngu kia không thể biết ta, vì họ rơi vào hai bên. Nhưng họ đều cung kính cúng dường ta, mà không khéo hiểu biết nghóa thú của câu lời, chẳng phân biệt được danh, chẳng hiểu tự thông. Chấp chặt các thứ lời nói dương cú, đối với bất sinh bất diệt nghó là vô tánh, chẳng biết danh hiệu Như lai khác nhau, như Nhân-đà-la Thích-ca, Bất-lan-đà-la, mà chẳng hiểu tự thông bội quy về chỗ cùng tột, đối với tất cả pháp chỗ nào cũng chấp đắm”. Này Đại Tuệ! Các kẻ ngu kia… giải thích lại ngoại đạo kia không biết bất sinh bất diệt vốn là ứng thân trung đạo, nên rơi vào hai bên hữu vô. Tuy đều có việc cung kính mà không thể biết rõ danh tự cú nghóa, cho nên nói chẳng phân biệt được danh, chẳng hiểu tự thông. Do chấp đắm ngôn giáo, mê muội thật lý, cho rằng bất sinh bất diệt là vô thể tánh, cho nên đối với các danh hiệu khác nhau của Như lai đều không biết. Như không biết Nhân-đà-la v.v… đều tên khác của trời Đế-thích. Đã chẳng hiểu tự thông trở về chỗ cùng tột thì đối với tất cả các pháp tùy lời mà sinh kiến chấp, cho nên nói tùy lời mà chấp đắm. Chẳng phải Như lai không nói pháp: Này “Đại Tuệ! Những người si mê kia nói như vầy”: Nghóa như lời nói, nghóa nói không khác Vì sao? Vì nghóa không có thân cho nên ngoài lời nói không còn có nghóa nào khác, chỉ dừng nơi lời nói. Này Đại Tuệ! Kia bị ác thiêu đốt trí, chẳng biết tự tánh lời nói, chẳng biết nghóa sinh diệt của lời nói, là bất sinh diệt. Này Đại Tuệ! Tất cả lời nói rơi vào văn tự, nghóa thì chẳng rơi, lìa tánh, phi tánh, không thọ sinh cũng vô thân. Này Đại Tuệ! Như lai chẳng nói pháp rơi vào văn tự, vì văn tự hữu vô không thật có, trừ chẳng rơi vào văn tự”. Đoạn này chỉ bày lại việc quên tên thì không thừa nhận, nghóa như lời nói v.v… Xét rằng có nghóa năng thuyên văn tự, có nghóa sở thuyên đạo lý. Người si mê đạo lý thì nói nghóa văn tự như chỗ lời nói, nghóa là nghóa sở thuyết không có khác. Đã trưng dẫn giải thích cho rằng vì nghóa vô thân, thân tức là thể. Nói nghóa văn tự năng thuyên lại không có thể, do không biết nghóa đạo lý sở thuyên, nên vượt ra ngoài lời nói, chỉ dừng nơi lời nói mà thôi. Do ác kiến kia thiêu đốt tiêu diệt chánh trí, chẳng biết ngôn giáo Như lai. Nói nghóa sinh diệt là vô sinh diệt, nhưng tất cả lời nói rơi vào văn tự, nghóa thì chẳng rơi. Nói lìa tánh phi tánh, đó là lìa lỗi hữu vô. Đã lìa lỗi ấy thì không còn thọ sinh, cũng không có thể tướng, đó gọi là ý chỉ ngoài lời nói. Như lai chẳng nói pháp rơi vào văn tự, nghóa là lìa tánh văn tự lìa, tức là giải thoát. Không thể dùng hữu vô cầu mong, vậy thì Như lai chẳng phải không nói pháp. Nếu có lìa văn tự mà hiểu thì gọi là nói. Như lai nói tức không nói: Này “Đại Tuệ! Nếu có người nói rằng: “Như lai nói pháp rơi vào văn tự” thì người này nói dối, vì pháp lìa văn tự. Cho nên Này Đại Tuệ! Các Phật và các vị Bồ-tát của chúng ta không nói một chữ, chẳng đáp một chữ. Vì sao? Vì pháp lìa văn tự chẳng phải không có nghóa lợi ích. Lời nói là vọng tưởng của chúng sinh. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng nói tất cả pháp thì giáo pháp sẽ hoại. Giáo pháp hoại thì không có các Đức Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn, nếu không thì ai nói và vì ai?”. Nếu có người không hiểu Như lai nói tức không nói, nghóa là nói pháp rơi vào văn tự, thì đó là chê bai Phật pháp, cho nên nói đây là nói dối. Lại bảo Đại Tuệ rằng: ta và các Đức Phật, Bồ-tát không hề nói một chữ, đáp một lời, vì tánh lìa văn tự. Chẳng phải không có nghóa lợi ích mà nói, tức là chẳng phải không tùy nghi giảng nói làm lợi ích cho chúng sinh. Nhưng nói tức không nói, hoặc cho rằng có nói, ấy là do phàm ngu vọng tưởng phân biệt đó thôi! Y theo lý thì bặt lời trùm duyên có thể nói, nói thì thành giáo. Nếu có duyên mà không nói thì giáo pháp không lập. Nếu giáo không lập thì căn cơ Đại thừa, Tiểu thừa không có phần tu chứng, như vậy thì ai là người độ, ai là người được độ, mà lập ra căn cơ giáo pháp ư! Chấp lời nói thì sẽ thành bịnh: “Cho nên Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát chớ chấp vào lời nói, tùy nghi phương tiện nói rộng kinh pháp. Vì phiền não hy vọng của chúng sinh chẳng phải một, nên ta và các Đức Phật tùy các thứ hiểu biết khác nhau của chúng sinh mà nói các pháp, giúp cho lìa tâm, ý, ý thức, chẳng phải vì được chỗ tự giác Thánh trí”. Pháp tất nhiên chẳng thể không nói, nếu chấp lời nói thì sẽ thành bệnh, cho nên bảo rằng chớ chấp lời nói. Nhưng tùy nghi phương tiện mà nói, vì căn cơ chúng sinh ưa thích khác nhau, phiền não chẳng phải một, ta và các Đức Phật đều nói như thế, nhưng căn cơ của chúng sinh kia tất nhiên chưa được chỗ Thánh trí tự giác, hễ có thể do lìa vọng tưởng tâm thức thì gọi là nói. Phải khéo hiểu biết tất cả giáo pháp: Này “Đại Tuệ! Đối với tất cả các pháp không thật có, giác tự tâm hiện lượng, lìa hai thứ vọng tưởng. Các vị Đại Bồ-tát y theo nghóa, chẳng y theo văn tự. Nếu người thiện nam, người thiện nữ y theo văn tự là tự hoại Đệ nhất nghóa, cũng không thể giác ngộ cho người, rơi vào ác kiến nối nhau mà vì chúng nói, chẳng khéo biết rõ tất cả pháp, tất cả địa, tất cả tướng, cũng chẳng biết chương cú. Nếu người khéo biết tất cả pháp, tất cả tướng, tất cả địa, thông hiểu chương cú, đầy đủ tánh nghóa thì họ hay dùng chánh lạc vô tướng, để tự vui thích, bình đẳng Đại thừa dựng lập cho chúng sinh”. Tất cả pháp không thật có v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: khiến biết các pháp tự tâm hiện, không có cảnh giới bên ngoài, lìa hai thứ vọng tưởng năng thuyết sở thuyết. Lại khuyên răn học giả rằng: Phải y theo nghóa không y theo tự, nếu y theo văn tự thì hại nghóa, đâu thể giúp cho người khác được lợi ích. Nói rơi vào ác kiến nối nhau v. v… thì đối với lời nói nối nhau chấp đắm mà nói cho người nghe. Đây chính là không khéo hiểu biết tất cả giáo pháp, tướng, địa, trụ, nhân, quả và chương, đoạn, cú, nghóa. Nếu khéo hiểu các nghóa này thì sẽ ưa thích vô tướng, giúp các chúng sinh an trụ Đại thừa bình đẳng. Tuy là pháp Đại thừa nhưng không nên gặp ai cũng nói: Này “Đại Tuệ! Nhiếp thọ Đại thừa thì nhiếp thọ các Đức Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn. Nhiếp thọ các Đức Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn thì nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Nhiếp thọ tất cả chúng sinh thì nhiếp thọ chánh pháp. Nhiếp thọ chánh pháp thì hạt giống Phật chẳng hư, hạt giống Phật chẳng hư thì biết rõ được chỗ vào cao siêu. Biết được chỗ vào cao siêu là các Đại Bồ-tát thường được hóa sinh, lập ra Đại thừa thần thông tự tại, hiện các sắc tượng, thông đạt các tướng phiền não hy vọng của loại hình chúng sinh, nói pháp đúng như thật. Như thật là chẳng khác, như thật là tướng chẳng đến chẳng đi, tất cả luống dối đều dứt, đó gọi là như thật. Này Đại Tuệ! Thiện nam, thiện nữ chẳng nên nhiếp thọ theo lời nói mà chấp đắm. Vì chân thật là lìa văn tự”. Đây là nói theo văn trên, đã nhiếp thọ pháp Đại thừa thì tất cả Thánh phàm không thể không nhiếp thọ, như vậy gọi là chánh pháp, là hạt giống Phật, là biết rõ được chỗ vào cao siêu tự giác Thánh. Được vào rồi thì sẽ khởi dụng giáo hóa chúng sinh, dựng lập Đại thừa. Mười lực vô úy tùy loại hiện hình, an ủi các khao khát mong dứt bỏ các phiền não, giảng nói pháp đúng như thật. Pháp như thật này chẳng có tên gọi khác, bặt tướng đến đi, tất cả lời nói suông thảy đều dứt hết. Nhưng pháp như thật, tuy là Đại thừa nhưng không nên gặp ai cũng nói làm cho họ chấp đắm, do lìa văn tự gọi là chân thật. Mê đắm lời nói thì mất thật nghóa bậc nhất: Này “Đại Tuệ! Như dùng ngón tay chỉ vật cho kẻ ngu thấy, kẻ ngu nhìn ngón tay mà chẳng thấy vật thật. Cũng thế, kẻ ngu y theo lời nói chỉ bày rồi nhiếp thọ chấp đắm, không bao giờ bỏ, không bao giờ lìa được lời nói, chỉ ra đệ nhất thật nghóa lìa. Này Đại Tuệ! Thí như đứa bé nên cho thức ăn chín, không nên cho thức ăn sống. Nếu cho thức ăn sống thì nó sình bụng, vì không biết phương tiện thứ lớp làm cho chín. Này Đại Tuệ! Chẳng sinh chẳng diệt như thế, nếu chẳng có phương tiện tu hành tức là chẳng khéo, cho nên phải khéo tu phương tiện, chớ theo lời nói như nhìn ngón tay”. Đây dùng hai ví dụ để nói lên tướng được, mất: 1.Dụ dùng ngón tay chỉ vật, là dụ cho nghóa thật của lời nói. 2. Dụ trẻ con ăn thức ăn chín, là dụ phương tiện tu pháp, nhưng đều hiểu rõ lý kia có được có mất, mê đắm lời nói thì mất đệ nhất thật nghóa. Như chỉ nhìn ngón tay thì không thấy vật, không khéo tu phương tiện thì không khế hợp lý bất sinh bất diệt, như trẻ con ăn thức ăn sống mà không ăn thức ăn chín, như thế mà không bị sình bụng thật may mắn. Cho nên lại răn rằng: Khéo phương tiện tu hành chớ theo lời nói. Phải là quên lời được ý: “Thế nên Này Đại Tuệ! Đối với nghóa chân thật phải phương tiện tu. Nghóa chân thật là vắng lặng nhiệm mầu, là nhân Niết-bàn. Còn lời nói là do vọng tưởng hợp, vọng tưởng là do nhóm họp sinh tử. Này Đại Tuệ! Nghóa chân thật là từ học rộng mà được. Này Đại Tuệ! Học rộng là giỏi về nghóa, chẳng phải giỏi về lời nói. Giỏi nghóa là không theo các kinh luận của ngoại đạo, tự thân chẳng theo cũng không bảo người theo, đó gọi là Đại đức học rộng. Cho nên người muốn cầu nghóa phải gần gũi bậc học rộng, nên gọi là giỏi nghóa. Trái với người này, chấp đắm lời nói, nên phải lìa xa”: Nghóa chân thật lìa tướng lời nói, cho nên nói lặng lẽ nhiệm mầu. Nếu lý này hiển tức là quả Niết-bàn, chưa hiển gọi là nhân. Nếu chấp lời nói không hợp với thật nghóa thì hòa hợp với vọng tưởng để thành nhân sinh tử. Nhưng nghóa chân thật này, phải do văn tuệ mà được, lại nói giỏi nơi nghóa thì chẳng những luống học rộng mà thôi, chủ yếu là quyên lời được ý. Nếu theo lời nói mà sinh chấp đắm thì đâu khác ngoại đạo. Vì giỏi về nghóa thì mình và người không lầm lời nói bên ngoài, đó gọi là Đại đức học rộng, cho nên người học Đại thừa, không thể không gần gũi bậc Đại đức học rộng, nếu không thì không giỏi nghóa, rơi vào lời nói, cho nên lại khuyên bảo. Bồ-tát Đại Tuệ nêu bốn câu hỏi: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại nương oai thần Phật mà bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Đức Thế tôn nói về “chẳng sinh chẳng diệt” không có gì kỳ lạ đặc biệt. Vì sao? Vì tất cả ngoại đạo về nhân cũng nói “chẳng sinh chẳng diệt”. Thế tôn cũng nói hư không chẳng phải số duyên diệt và cõi Niết-bàn bất sinh bất diệt. Thế tôn! Ngoại đạo nói nhân sinh các thế gian. Thế tôn cũng nói vô minh, ái, nghiệp, vọng tưởng làm duyên sinh các thế gian. Kia do duyên này gọi là khác nhau nhân duyên của vật bên ngoài cũng giống như thế. Thế tôn cùng ngoại đạo luận chẳng có khác nhau. Cát bụi, thắng diệu, tự tại, chúng sinh chủ… chín vật như thế bất sinh bất diệt. Thế tôn cũng nói tất cả tánh bất sinh bất diệt, hữu vô, không thật có. Ngoại đạo cũng nói bốn đại chẳng hoại, tự tánh bất sinh bất diệt, bốn đại thường là bốn đại, cho đến trôi lăn khắp các đường chẳng bỏ tự tánh. Lời Thế tôn nói cũng giống như thế. Cho nên ta nói không có gì kỳ lạ đặc biệt, cúi mong Đức Thế tôn nói cho chúng con nghe chỗ khác nhau, vì sao kỳ lạ đặc biệt hơn các ngoại đạo. Nếu không khác nhau thì tất cả ngoại đạo đều cũng là Phật, vì bất sinh bất diệt. Nhưng, Thế tôn nói trong một thế giới có nhiều Phật ra đời là điều không bao giờ có. Như trước đã nói trong một thế giới lẽ ra nên có nhiều Phật, vì không khác nhau”: Đoạn trên nói “bất sinh bất diệt”, là nói về chánh giáo, chưa phân biệt lý do khác với ngoại đạo. Vì vậy nên Đại Tuệ lại đặt câu hỏi về đồng, khác. Gồm có bốn vấn nạn. Lấy nhân sinh ra pháp ngoại đạo nói và ba pháp vô vi Phật đã nói làm vặn hỏi, hư không tức hư không vô vi, phi số duyên diệt tức phi trạch diệt, vô vi Niết-bàn tức là trạch diệt vô vi. Dùng nhân sinh kia và mười hai duyên sinh do Phật nói làm vặn hỏi. Dùng cát bụi v.v… sinh và tất cả tánh chẳng sinh diệt do Phật nói làm vặn hỏi. Chín vật gồm: a) Thời, b) Phương, c) Hư không, d) Cát bụi, e) Bốn đại chủng, f) Đại Phạm thiên, j) Trời Thắng diệu, h) trời Đại tự tại, l) Chúng sinh chủ, tức thần ngã. Lấy bốn đại do kia nói và bốn đại do Thế tôn nói làm vặn hỏi. Đây đều do ngoại đạo nói đồng với Phật nói. Như văn rất dễ hiểu. Chỉ cần giác tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sinh: “Phật bảo Này Đại Tuệ! Ta nói bất sinh bất diệt, khác với bất sinh bất diệt mà ngoại đạo nói. Vì sao? vì các ngoại đạo kia chấp có tánh, tự tánh, được tướng bất sinh bất biến, ta chẳng rơi vào loại hữu vô như thế. Này Đại Tuệ! Ta nói lìa hữu vô chẳng phải tánh, chẳng phải không tánh, như các thứ huyễn, mộng hiện, cho nên chẳng phải vô tánh. Thế nào là vô tánh? Nghóa là sắc vô tự tánh tướng nhiếp thọ, vì hiện, chẳng hiện, vì nhiếp, chẳng nhiếp. Bởi lẽ ấy tất cả tánh, vô tánh chẳng phải vô tánh. Chỉ giác tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng bất sinh, an ổn vui sướng, việc đời dứt hẳn”. Trong đây đáp, trước là bác bỏ điều sai, sau đó nêu điều đúng. Nói ngoại đạo có tánh tự tánh v.v… nghóa là ngoại đạo nói tánh có tự tánh, như nói bốn đại là thường, do tánh cứng, ướt, ấm, động đều chẳng hoại chẳng loạn, cho là được tướng bất sinh bất biến, nhưng cũng đắm tâm vọng chấp. Tuy nói bất sinh bất diệt, mà thật có sinh diệt, rơi vào hữu vô, Phật dạy ta chẳng phải như thế, ta nói bất sinh bất diệt lìa hữu vô sinh diệt, chẳng phải có, chẳng phải không, như huyễn mộng sắc hiện, đó chẳng phải Vô Sắc, tánh không thật có, đó là phi hữu. Nói sắc vô tự tánh tướng nhiếp thọ, vì sắc tướng mộng huyễn vốn chẳng thật có, người ngu vọng tưởng nên hiện, thật ra chẳng hiện. Vọng tâm nhiếp lấy, thật không thể nhiếp lấy, cho nên biết tất cả các pháp cũng chẳng phải có, chẳng phải không, nhưng hiểu rõ các pháp chỉ do tâm hiện, ngoài tâm không có cảnh, cho nên vọng tưởng tự diệt, được an vui Niết-bàn, dứt hẳn sinh tử. Vọng tưởng chẳng thật như thành càn-thát-bà và người huyễn hóa: “Phàm phu ngu si vọng tưởng tác sự chẳng phải các bậc Thánh hiền. Vọng tưởng chẳng thật, như thành Càn-thát-bà và người huyễn hóa. Này Đại Tuệ! Như thành Càn-thát-bà và người huyễn hóa thấy các chúng sinh mua bán ra vào. Kẻ ngu vọng tưởng nói thật có ra vào, mà thật không có người ra người vào, chỉ vì vọng tưởng. Cho nên Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si lầm tưởng cho rằng bất sinh bất diệt, kia cũng không có hữu vi vô vi, như người huyễn sinh, thật ra không có hoặc sinh hoặc diệt, vì tánh vô tánh chẳng thật có. Tất cả pháp cũng giống như thế, xa lìa sinh diệt. Phàm phu ngu si rơi vào bất như thật, khởi vọng tưởng sinh diệt chẳng phải các hiền Thánh”: Sinh diệt hữu vi ở thế gian khởi do vọng tâm, đây chính là phàm phu mê loạn, cho nên nói chẳng phải Hiền Thánh. Thành Càn-thát-bà dụ cho vọng cảnh chẳng thật, như văn có thể thấy. Kẻ ngu khởi lầm bất sinh bất diệt, vọng tưởng kia vốn là sinh diệt, vọng cho rằng bất sinh không diệt. Kia cũng không có hữu vi vô vi, là nói kia không bỏ hữu vi, đó là thật không biết sinh diệt là không, vô vi đó là thật không biết vô sinh diệt. Như thấy người huyễn sinh, thật ra không có sinh diệt, tất cả các pháp cũng giống như vậy, kẻ ngu sở dó sanh ra vọng tưởng là do không thấy lý như thật, rơi vào luống dối, Thánh Hiền thì không như vậy. Sở dó là Thánh Hiền là do hiểu rõ vọng tưởng tức chân thật: “Chẳng như thật, là chẳng thế, như tánh tự tánh vọng tưởng cũng chẳng khác. Nếu khác với vọng tưởng thì chấp đắm tất cả tánh tự tánh, chẳng thấy vắng lặng, vì không thấy vắng lặng nên cuối cùng chẳng rời vọng tưởng. Cho nên Này Đại Tuệ! Vô tướng kiến là thắng chẳng phải như tướng kiến. Tướng kiến là nhân thọ sinh cho nên không thắng. Này Đại Tuệ! Vô tướng là vọng tưởng bất sinh, chẳng khởi, chẳng diệt, ta nói là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Niết-bàn là thấy nghóa chân thật, lìa vọng tưởng tâm, tâm sở pháp ở trước. Đạt được Như lai tự giác Thánh trí, ta nói là Niết-bàn”. Nói không như thật, Kinh Nhập Lăng-già chép: Luống dối là không đúng như pháp tánh, nghóa là khác với Thánh hiền. Thánh hiền sở dó là Thánh hiền, là do hiểu rõ vọng tưởng tức chân thật, chẳng phải có vọng tưởng riêng. Như phàm phu kia tánh tự tánh vọng tưởng vốn cũng chẳng khác với lý như thật. Nếu nói rằng lý như thật khác với vọng tưởng, thì chấp đắm tự tánh các pháp không thấy thể, xưa nay vắng lặng, không thấy thể này, nên vọng tưởng tình chấp không thể xa lìa. Nói vô tướng kiến là thắng: đã nói chấp tướng không thấy vắng lặng, thì muốn thấy vắng lặng nên lấy vô tướng lắm thắng, chẳng phải tướng kiến. Vì chấp tướng kiến là nhân của sinh tử, cho nên không gọi là thắng, nhưng vô tướng là lìa vọng tưởng, khế hợp với bất sinh bất diệt, đó là Phật nói Niết-bàn rốt ráo. Lại nói rằng: Niết-bàn là thấy nghóa chân thật, chưa thấy Niết-bàn là do tâm sở vọng tưởng ở trước, nếu lìa được tất cả thì đạt đến địa vị Phật. Đức Phật nói hệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Dứt trừ sinh luận kia Lập ra nghóa bất sinh Ta nói pháp như thế Kẻ ngu không thể biết Tất cả pháp bất sinh Vô tánh, không thật có Càn-thát-bà huyễn mộng Có tánh là vô nhân Bất sinh, vô tự tánh Vì sao không sẽ nói Do xa lìa hòa hợp Tánh giác biết chẳng hiện Cho nên không bất sinh Ta nói vô tự tánh Nói mỗi mỗi hòa hợp Tánh hiện chẳng phải có Phân tích không hòa hợp Chẳng như ngoại đạo thấy”. Dứt trừ sinh luận kia, nghóa là bác bỏ luận chấp của ngoại đạo. Ngoại đạo tuy có nói bất sinh bất diệt, nhưng vọng tưởng phân biệt là nhân sinh diệt, cho nên nói sinh luận. Phật nói bất sinh diệt là thật lý trung đạo, đối với kia có sinh cho nên nói nghóa bất sinh. Tất cả pháp trở xuống bài tụng này nói chẳng phải có, chẳng phải không, như thành Càn-thát-bà huyễn mộng. Tuy có mà vô nhân. Bất sinh vô tự tánh: nương văn trên lặp lại nêu ra, nói bất sinh là vô tự tánh, vô tánh là không. Thế nào là ta nói? Do lìa hòa hợp trở xuống là giải thích, nghóa là đối với căn trần lìa tướng hòa hợp mà tánh giác biết tự nhiên chẳng hiện; chẳng hiện là không không thì chẳng sinh. Vì vậy nên Phật nói vô tự tánh. Nói mỗi mỗi trở xuống là lặp lại giải thích nghóa trên, như văn có thể thấy. Phật đạo nói bất sinh, ngoại đạo chấp vô nhân sinh: “Huyễn mộng và tóc rũ Sóng nắng, Càn-thát-bà Các thứ việc thế gian Vô nhân mà tướng hiện Dẹp trừ luận hữu nhân Nêu bày nghóa vô sinh Vì nêu bày vô sinh Dòng pháp mãi không dứt Thịnh hành luận vô nhân Làm ngoại đạo sợ hãi”. Mộng huyễn… dụ cho pháp thế gian, vô nhân mà hiện tướng nói vốn không, tất cả đều nói lên nghóa bất sinh. Kia phá lập thì chiết phục luận hữu nhân của ngoại đạo, nêu bày nghóa vô sinh, nhưng ngoại đạo vốn chấp vô nhân mà sinh, còn nói có nhân là vì kia nói bất sinh bất diệt chính là vọng chấp, thật là nhân của sinh tử, nên bác bỏ là luận hữu nhân. Ngoại đạo đã diệt thì chánh pháp được truyền bá, luận vô sinh được nói rộng rãi, giúp cho ngoại đạo nghe mà sợ hãi. Có bốn câu hỏi đáp về luận thuyết vô nhân: Khi ấy, Đại Tuệ dùng kệ hỏi Phật: “Thế nào do nhân gì? Kia lại vì sao sinh? Ở chỗ nào hòa hợp? Mà làm luận vô nhân? Đức Thế tôn lại dùng kệ đáp: Quán sát pháp hữu vi Chẳng vô nhân, có nhân Kia thuộc luận sinh diệt Chỗ thấy từ đó diệt”. Bài kệ vấn đáp này là nói về nghóa luận vô nhân. Hỏi có bốn ý: Thế nào? Do nhân gì? Cớ gì? Chỗ nào? Mà làm luận vô nhân ư? Đáp cũng có bốn: Quán sát pháp hữu vi, là đáp chỗ nào! Hữu vi tức là pháp sinh diệt ở thế gian. Chẳng vô nhân có nhân, là đáp thế nào! Nghóa là Phật pháp chẳng phải có, chẳng phải không. Kia thuộc sinh diệt luận, là dáp do nhân gì! Tức là do luận sinh diệt của ngoại đạo kia. Chỗ thấy từ đó diệt, là đáp cớ gì! Nghóa là dứt trừ tà kiến của ngoại đạo kia. Hỏi về nghóa Vô sinh: Khi ấy, Đại Tuệ nói kệ hỏi Phật: “Thế nào là vô sinh? Là vô tánh phải chăng? Là đoái xem các duyên Có pháp gọi vô sinh Tên không nên vô nghóa Xin vì phân biệt nói” Đây hỏi nghóa vô sinh, vì các pháp vô tự tánh gọi là vô sinh phải không! Vì đoái lại đợi các nhân duyên gọi là vô sinh phải không? Hay vì có pháp gọi là vô sinh riêng chăng? Đã gọi vô sinh, thì phải có nghóa vô sinh, xin Phật nói cho chúng con nghe. Phật đáp về nghóa Vô sinh: Đức Thế tôn lại dùng kệ đáp: Chẳng vô tánh vô sinh Cũng chẳng đoái các duyên Chẳng có tánh mà gọi, Tên cũng chẳng vô nghóa Tất cả các ngoại đạo Thanh văn và Duyên giác Thất Trụ chẳng cảnh giới Đó gọi tướng vô sinh. Trong đây đáp trước là ngăn lời hỏi, vì vô sinh không rơi vào hữu vô cho nên đều bác bỏ. Tên gọi cũng chẳng phải vô nghóa, văn sau sẽ đáp. Gồm có ba ý: Dùng địa vị chứng đắc để hiển bày, vì đây là giai vị vô sinh nhẫn, chẳng phải cảnh giới của phàm phu, Tiểu thừa và Bồ-tát thiên giáo an trụ. Thất trụ là Địa thứ bảy, vì Bồ-tát đạt đến Địa thứ tám mới phá được vô minh cho nên nói chẳng phải cảnh giới Thất Trụ. “Xa lìa các nhân duyên Cũng lìa tất cả việc Nếu trụ tâm hữu vi Năng tưởng, sở tưởng lìa Thân kia chuyển biến theo Ta nói là vô sinh” Do lìa các duyên cho nên chẳng đợi duyên. Đã lìa các duyên cũng lìa tất cả việc sinh tử, chỉ có tâm vắng lặng nhiệm mầu như thế mà an trụ. Do đó năng tưởng, sở tưởng phân biệt đều lìa, vọng tâm đã là diệu tâm, mà thân cũng càng tốt đẹp đó là vô sinh, do Phật nói. 3 0.Vì hữu vô chẳng thật có nên trong ngoài đều dứt: “Không ngoại tánh, vô tánh Cũng vô tâm nhiếp thọ Dứt trừ tất cả chấp Ta nói là vô sinh Như thế vô tự tánh Không thảy, nên phân biệt Chẳng không nên nói không Vô sinh nên nói không” 3.Vì hai tánh hữu vô chẳng thật có nên trong ngoài đều dứt. Không ngoại tánh tức là quên bên ngoài. Không tâm nhiếp thọ là quên bên trong. Trong ngoài đã quên thì dứt bỏ kiến chấp một, khác v.v… cũng như vậy, vô sinh tức vô tự tánh, vô tánh nên không không cũng có thể được, cho nên nói: Chẳng không nên nói không. Không tức là vô sinh. Lại nói vô sinh thuyết không. Nêu lên nghóa duyên sinh vô sinh: “Nhân duyên số hòa hợp Nên có sinh có diệt Lìa các số nhân duyên Không có sinh diệt riêng Lìa bỏ số nhân duyên Lại không có tánh khác Nếu nói có một, khác Là ngoại đạo vọng tưởng Tánh hữu vô bất sinh Chẳng có cũng chẳng không Trừ số kia chuyển biến Ấy đều chẳng thật có”. Ở đây đối với duyên sinh nêu lên nghóa vô sinh, theo văn sau thì có mười hai nhân duyên, số pháp hòa hợp nên có sinh diệt. Nhưng mười hai hoặc nghiệp nhân duyên cũng từ nhân duyên căn trần mà khởi. Nếu lìa nhân duyên năng sinh thì pháp sở sinh đâu có, cho nên nói không có sinh diệt riêng. Nếu lìa nhân duyên sinh diệt, thì đâu còn còn có kiến chấp một, khác đồng với ngoại đạo. Nếu lìa một khác, cũng lìa bốn câu: có, không, chẳng phải có, chẳng phải không v.v… chỉ trừ bị nhân duyên xoay chuyển thì sẽ thông đạt vô sinh, các câu có không này đều chẳng thật có. Nghóa vô sinh không thật có: “Chỉ có các tục số Xoay vần làm móc xích Lìa xích nhân duyên kia Nghóa sinh không thật có tánh vô sinh chẳng khởi Lìa các lỗi ngoại đạo Chỉ nói duyên móc xích Phàm ngu không thể hiểu Nếu lìa duyên móc xích Mà có tánh sinh mà riêng Thì là luận vô nhân Phá hoại nghóa móc xích Như đèn rõ các tướng Móc xích hiện cũng vậy Ấy là lìa móc xích Lại có các tánh riêng”. Các tục số, tức nhân duyên thế tục sinh tử, nghóa là phàm phu từ xưa đến nay chỉ theo vọng duyên trôi lăn trong vòng sinh tử, như móc xích nối nhau chẳng dứt. Nếu biết rõ vọng duyên sinh tức là vô sinh, thì có thể nói nghóa sinh không thật có. Nói sinh vô tánh không khởi… nghóa là hiểu rõ sinh vô sinh tánh chấp chẳng khởi, thì lìa ngoại đạo tà kiến. Chỉ ta nói nghóa nhân duyên móc xích, giúp cho họ hiểu sinh tức vô sinh. Phàm ngu không thể hiểu, nếu lìa ngoài nhân duyên năng sinh, mà có pháp sở sinh riêng thì ta nói luận vô nhân, mà trở lại tự bác bỏ nghóa móc xích. Như đèn bày các tướng… Phật dạy ta nói nghóa móc xích là muốn làm cho mọi người hiểu sinh tức vô sinh, nếu không thì lìa ngoài pháp sinh này mà tìm vô sinh riêng, như các vật do đèn mà hiển bày, chẳng phải ngay nơi vật là sáng, cho nên nói móc xích hiện cũng vậy, nghóa là móc xích hiện như vậy thì ngoài nhân duyên có các pháp riêng. Sinh tức vô sinh gọi là pháp nhẫn vô sinh: “Vô tánh, không có sinh Như tự tánh hư không Nếu lìa các móc xích Tuệ không hề phân biệt Lại có Vô Sinh khác Pháp hiền Thánh chứng đắc Kia sinh mà vô sinh Ấy là Vô Sinh nhẫn”. Biết rõ pháp pháp do nhân duyên sinh tánh tướng không thật có, đó gọi là vô sinh, thì thể tánh kia như hư không, chẳng ngăn ngại. Nếu lìa duyên sinh mà tìm vô sinh riêng là trí tuệ không có dụng quán sát, cho nên nói tuệ không hề phân biệt. Lại có vô sinh khác là chỉ cho pháp mà các bậc Hiền Thánh trên đã chứng được, do hiểu rõ sinh tức vô sinh, đó gọi là vô sinh pháp nhẫn. Hiểu rõ sinh tức vô sinh thì buộc thành mở: “Nếu khiến các thế gian Quán sát móc xích ấy Tất cả lìa móc xích Ngay đó được Tam-muội Si ái các nghiệp thảy Đó là móc xích trong Dùi, gỗ, đất bánh xe Hạt giống thảy gọi ngoài Nếu khiến có tánh khác Mà từ nhân duyên sinh Kia chẳng nghóa móc xích Cho nên chẳng thành tựu Nếu sinh vô tự tánh Kia lấy gì móc xích Vì xoay vần sinh nhau Nên biết nghóa nhân duyên. Ở đây nói chúng sinh ở thế gian nếu tiến tu quán sát pháp nhân duyên sinh, đương thể tức không thì chứng được Tam-muội vô sinh, lìa móc xích. Nhưng nhân duyên sở quán có trong có ngoài, trong thì mười hai nhân duyên như vô minh v.v… ngoài thì các việc như dùi gỗ đất bánh xe… khoan dùi được lửa, bùn đất nặn thành bình, hạt giống sinh mầm chồi, ba thứ này gọi là nhân duyên bên ngoài. Nhân duyên bên ngoài này dùng thí dụ bên trong, chính là nói lìa nhân duyên có pháp sinh riêng. Nếu cho rằng có pháp riêng từ duyên khác mà sinh thì đó chẳng phải khéo quán sát nghóa nhân duyên, không thể thành tựu pháp nhẫn vô sinh. Nếu hiểu rõ sinh tức vô sinh, thì buộc thành mở, nên nói kia lấy gì móc xích, nếu không thì trôi lăn trong sinh tử, đó gọi là nghóa Nhân duyên. Ngoại đạo vọng chấp tánh bốn đại chẳng hoại: “Pháp cứng, ướt, ấm, động Phàm phu sinh vọng tưởng Lìa số không pháp khác Ấy là nói vô tánh”. Bốn câu này là nói ngoại đạo vọng chấp tánh bốn đại chẳng hoại, cho là bất sinh bất diệt. Lìa số v.v… nghóa là lìa nhân duyên mà nói pháp vô sinh. trong cõi Phật mười phương chỉ có pháp Nhất thừa: “Như thầy thuốc trị bệnh Chẳng có bao nhiêu cách Vì bệnh có khác nhau Nên có nhiều cách trị Ta vì chúng sinh kia Phá hoại các phiền não Biết căn tánh hơn kém Nói độ môn độ họ Chẳng gốc phiền não khác Mà có các thứ pháp Chỉ nói pháp Nhất thừa Ấy tức là Đại thừa”. Ý ở đây dụ cho sự lập giáo của Như lai, hoặc nói về bản ý xuất thế, chỉ nói Nhất thừa để độ chúng sinh, như người thầy thuốc giỏi chỉ dùng thuốc A-già-đà để trị bệnh tất cả chúng sinh, cho nên nói: chẳng có bao nhiêu cách, nhưng căn cơ chúng sinh khác nhau, không khỏi phải nương vào phương tiện, vì nói ba thừa dần dần điều phục, như tùy bệnh khác nhau mà cho các thứ thuốc, nhưng chẳng phải do căn cơ khác nhau mà pháp có khác, nếu quyền cơ thuần thục thì đều trở về nhất thật, cái gọi là trong các cõi Phật mười phương chỉ có pháp Nhất thừa. Thưa hỏi lại về vô thường: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Tất cả ngoại đạo đều khởi vọng tưởng vô thường, Thế tôn cũng nói tất cả hạnh vô thường, là pháp sinh diệt. Nghóa này thế nào? Là tà hay chánh? Là có mấy thứ vô thường?” Thường và vô thường tên gọi không khác ngoại đạo, không dùng nghóa quyết định thì tà chánh làm sao phân biệt? Ở trên nói rõ bất sinh bất diệt là nghóa chân thường, đã phá bỏ chấp của ngoại đạo, mà chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa vô thường tà chánh, cho nên quyết định thưa hỏi lại, lời hỏi có thể thấy rõ. Nói về bảy thứ vô thường của ngoại đạo: “Phật bảo Đại Tuệ: Tất cả ngoại đạo có bảy thứ vô thường, chẳng phải pháp của ta. Bảy thứ ấy là gì? Kia có nói rằng “làm rồi mà bỏ” ấy gọi là vô thường, có thuyết “hình xứ hoại”, đó gọi là vô thường, có thuyết ngay nơi sắc là vô thường, có thuyết giữa sắc chuyển biến, đó gọi vô thường, không xen hở tự nó tan hoại, như sự chuyển biến sữa thành lạc khoảng giữa không thể thấy, vô thường hủy hoại tất cả tánh chuyển, có thuyết tánh vô thường, có thuyết tánh không tánh vô thường, có thuyết tất cả pháp bất sinh vô thường vào tất cả pháp! Bảy thứ vô thường đều là ngoại đạo chấp”. Trước nêu thứ lớp giải thích. Trong đây chỉ nêu sắc chuyển biến vô thường, có liên quan đến giải thích nghóa. Sắc là sắc do bốn đại tạo, chuyển biến gọi là sinh trụ dị diệt. Không xen hở tự nó tan hoại v.v… nghóa là nối nhau chẳng dứt giúp cho biến khác tự nhiên trở về diệt, như sự chuyển biến của sữa lạc, tuy không thấy được nhưng ở trong pháp tự nhiên biến hoại tất cả pháp. Các thứ khác trong văn dưới giải thích đầy đủ, trong giải thích hoặc bao gồm phá chấp, hoặc chỉ giải thích nghóa, nhưng không thứ lớp, không ngoài tánh sắc. Bất sinh còn không có huống chi có sinh tử để diệt: Này “Đại Tuệ! Tánh, vô tánh, vô thường nghóa là bốn đại và tự tướng sở tạo hoại, bốn đại tự tánh không thật có, bất sinh. Tánh vô tánh, nghóa là tánh bốn đại đều vô tự tánh, tướng năng tạo và sở tạo đều trở về biến hoại, cho nên gọi là vô thường”. Tự tánh bốn đại… trở xuống là phá chấp của ngoại đạo, ý nói đại chủng tự tánh xưa nay bất sinh, bất sinh còn không có thì làm gì có sinh để diệt mà nói là vô thường ư! Nêu nghóa chánh và bác bỏ nghóa tà: “Kia chẳng sinh vô thường: chẳng phải thường, vô thường, tất cả pháp hữu vô bất sinh, phân tích cho đến cát bụi thì không thể thấy, ấy là nghóa bất sinh. Phi sinh, đó gọi là tướng bất sinh vô thường, nếu chẳng hiểu được điều này thì rơi vào nghóa sinh vô thường của tất cả ngoại đạo”. Trước nêu nghóa chính sau bác bỏ nghóa tà. Nói phi thường v.v… Phật dạy thường và vô thường tất cả hữu vô, các tướng đối pháp thể vốn bất sinh, cho đến phân tích đến cát bụi cũng không thể thấy, vì nghóa đó nên nói vô sinh, đây là tướng bất sinh vô thường do Như lai nói, nếu không hiểu nghóa này thì sẽ rơi vào kiến chấp nghóa sinh vô thường của ngoại đạo, do ngoại đạo không hiểu rõ ý chỉ vô sinh. Tuy nói vô sinh nhưng thật là có sinh, cho nên bác bỏ nói sinh vô thường. Việc có thể hoại mà tánh chẳng thể hoại: Này “Đại Tuệ! Tánh vô thường, là tự tâm vọng tưởng, chẳng phải tánh thường, vô thường. Vì sao? Vì vô thường tự tánh chẳng hoại. Này Đại Tuệ! Đây là việc tất cả tánh, vô tánh vô thường. Trừ vô thường ra, thì không gì có khả năng làm cho tất cả pháp tánh không tánh: như gậy, gạch đá phá hoại các vật”. Nói tự tâm vọng tưởng v.v… Nghóa là kia đối với phi thường, phi vô thường, tự sinh phân biệt cho là vô thường, làm hoại các pháp mà tự tánh chẳng hoại, đây là việc tánh, vô tánh, vô thường ở trước, ý nói việc có thể hoại mà tánh không thể hoại. Các pháp thế gian có hoại, là do vô thường, nên vô thường ở khắp trong các pháp. Như vậy gạch đá có công năng phá hoại các vật mà tự thể của nó chẳng hoại. Phật dạy các pháp hoại diệt thật cũng có nhân: “Hiện thấy mỗi mỗi không khác, tánh này là việc vô thường, chẳng phải tác sở tác có khác nhau, đây là vô thường đây là sự. Tác và sở tác chẳng khác: tất cả tánh thường vì vô nhân tánh. Này Đại Tuệ! Tất cả tánh, vô tánh có nhân, phàm ngu chẳng thể biết được”. Đây là phá chấp ngoại đạo. Phật cho rằng các pháp hiện thấy trước mắt không khác vô thường, đâu có tánh khác với sự, cho nên nói chẳng phải tác, sở tác có khác nhau, nên biết vô thường tức sự, sự tức vô thường, đây là năng sở không khác nên gọi là nghóa thường. Về vô nhân tánh: Kinh Nhập Lăng-già chép: không thấy có nhân. Nói vô thường không phá hoại nhân các pháp, tất cả tánh… trở xuống: Phật dạy các pháp hoại diệt thật cũng có nhân, nhưng ý này hơi ẩn, phàm phu chẳng thể biết được. Tất cả tánh tức là tất cả pháp: “Chẳng phải nhân chẳng phải việc tương tự sự sinh. Nếu sinh thì tất cả pháp đều vô thường. Do việc chẳng tương tự này nên tác và sở tác không có khác nhau, mà đều thấy có khác. Nếu tánh vô thường nghóa là rơi vào tác nhân tánh tướng. Nếu rơi thì tất cả tánh chẳng rốt ráo. Tất cả tánh tác nhân tướng rơi thì tự vô thường nên vô thường. Vì vô thường là vô thường nên tất cả tánh chẳng vô thường lẽ ra là thường”. Chẳng phải nhân chẳng tương tự sự sinh v.v… nghóa là vô thường nếu chẳng có nhân thì không khác sự sinh. Nếu kia sinh thì tất cả pháp đều sinh với nó, thảy đều không thường, há chẳng phải việc khác nhau . Do nghiệm xét vô thường phải có nhân, như ngoại đạo chấp thì pháp này pháp kia, năng tác sở tác lẽ ra không khác nhau, mà hiện thấy có khác nhau, tại sao vọng chấp vô nhân sinh khác nhau ư! Nếu tánh vô thường, thì tánh ấy phải rốt ráo vô tác, vô tác tức là thường. Đã nói vô thường thì rơi vào các pháp hữu tác, chẳng phải nghóa rốt ráo, lấy đó làm nhân thì rơi vào làm tánh tướng cho nhân, mất nghóa bản tánh. Nói tự vô thường lẽ ra nên vô thường, nghóa là nếu tánh năng tác là vô thường thì lẽ ra đồng với pháp sở tác đều là vô thường, tự tánh đã vô thường thì pháp sở tác vô thường lẽ ra phải là thường. Tất cả tánh tức là tất cả pháp. Đức Như lai tổng kết bác bỏ lỗi của ngoại đạo: “Nếu vô thường nhập vào tất cả tánh thì nên rơi vào ba đời. Sắc quá khứ kia cũng phải hoại, sắc bất sinh ở vị lai bất sinh nên sắc hiện tại cũng bị hoại. Sắc là bốn đại nhóm họp khác nhau, bốn đại và tạo sắc tự tánh chẳng hoại, vì lìa khác và chẳng khác. Tất cả ngoại đạo chấp tất cả bốn đại chẳng hoại, tất cả bốn đại và tạo sắc ở trong ba cõi, tại sở tri thì có sinh diệt, lìa bốn đại tạo sắc, tất cả ngoại đạo ở chỗ nào mà suy nghó tánh vô thường? Bốn đại chẳng sinh, vì tự tánh tướng chẳng hoại”. Nếu vô tánh thường trùm khắp trong các pháp thì thuộc thay đổi trong ba đời. Sắc quá khứ đã hoại, sắc vị lai chưa sinh, sắc hiện tại cùng hoại. Sắc tức sắc của bốn đại khác nhau, bốn đại năng tạo và sắc sở tạo, tánh kia chẳng hoại lìa khác chẳng khác. Tất cả ngoại đạo này, cho rằng thể tánh bốn đại chẳng hoại như thế. Tất cả ba cõi… trở xuống, Kinh Nhập Lăng-già chép: trong ba cõi năng tạo và sở tạo đều là tướng sinh trụ diệt, đâu còn có tánh vô thường riêng, năng sinh đối với chúng sanh mà chẳng diệt ư! Đây là Đức Như lai tổng kết bác bỏ lỗi của ngoại đạo. Chẳng phải mới tạo ra vô thường: “Lìa mới tạo vô thường, chẳng phải bốn đại còn có cái khác với bốn đại, mỗi đại có tướng khác. Vì tự tướng chẳng phải khác nhau thật có. Kia chẳng khác nhau, đây thảy chẳng còn tạo, hai phương tiện chẳng làm, nên biết là vô thường”. Kinh Nhập Lăng-già chép: mới tạo tức bỏ vô thường, chẳng phải đại chủng tạo đại chủng lẫn. Vì mỗi đại chủng khác nhau nên chẳng phải tự tướng tạo, vì không khác nên chẳng còn chung tạo, vì trái lìa nên phải biết là chẳng phải mới tạo vô thường. Hai phương tiện, nghóa là đồng khác lại có phương tiện tạo. Bốn đại tạo sắc chẳng hoại: “Hình xứ kia hoại vô thường, nghóa là bốn đại và tạo sắc bất hoại, đến rốt ráo chẳng hoại. Này Đại Tuệ! Rốt ráo, phân tích cho đến hạt bụi nhỏ quán sát hoại, bốn đại và hình xứ tạo sắc thấy khác dài ngắn không thật có chẳng phải bốn đại. Bốn đại chẳng hoại, hiện hình xứ hoại, rơi vào Số luận”. Hình xứ tức hình trạng, chính là bốn đại tạo sắc chẳng hoại, ngoại đạo chấp đây là bốn đại tạo sắc chẳng hoại, ngoại đạo chấp đây là năng tạo, sở tạo đến tột chẳng hoại, rốt ráo cũng như cùng cực, cùng tận. Nghóa là phân tích tạo sắc đến cát bụi con không thể hoại, nhưng quán sát các các chấp diệt hoại, hình trạng dài ngắn v.v… chẳng hoại nặng tạo, sở tạo sắc thể. Đây là lời nói của tục số, cho nên nói rơi vào Số luận. Sắc tức là hành xứ vô thường: “Sắc là vô thường, nghóa là sắc tức là vô thường. Kia là hình xứ vô thường, chẳng phải bốn đại. Nếu bốn đại vô thường thì chẳng phải số lời nói của thế tục. Lời nói của thế tục chẳng phải tánh, sẽ rơi vào Thế luận. Thấy tất cả tánh chỉ có lời nói, chẳng thấy tự tánh sinh”. Sắc tức vô thường, ở đây nói sắc tức là hình xứ vô thường. Chẳng phải bốn đại, nghóa là chẳng phải bốn đại chủng tánh. Nếu là đại chủng cũng vô thường, đối với số lời nói của thế tục có trái có rơi, trái thì chẳng phải thế tục, rơi thì trái với chân, tiến lùi đều mất, đều chẳng phải chánh luận. Lại nói lời nói của thế tục chẳng phải tánh, là tổng kết lỗi trước. Thế luận tức là kiến chấp của ngoại đạo Lô-già-na kia, do họ vọng thấy các pháp chỉ có lời nói, chẳng có tự tánh tướng. Việc vô thường hoại mà tánh chẳng hoại: “Chuyển biến vô thường, nghóa là sắc khác tánh hiện, chẳng phải bốn đại. Như vàng làm các món đồ trang sức chuyển biến hiện ra, chẳng phải tánh vàng bị hoại, chỉ các món đồ trang sức bị hoại. Như thế các tánh chuyển biến v.v… cũng giống như vậy” Sắc khác tánh hiện: sắc tức là sắc do bốn đại tạo ra, nghóa là sắc thể biến khác nên tánh vô thường hiện, do chỗ hiện là hoại, chẳng phải bốn đại chủng hoại. Như vàng làm thành các đồ trang sức, đồ trang sức có biến hoại mà tánh vàng chẳng thay đổi. Nói việc vô thường hoại mà tánh chẳng hoại cũng giống như vậy. Tổng kết bác bỏ bảy thứ vô thường của ngoại đạo: “Như thế v.v… các thứ ngoại vô thường chấp vọng tưởng, khi lửa đốt bốn đại thì tự tướng chẳng bị thiêu đốt. Mỗi tự tướng hoại lẫn nhau, thì bốn đại tạo sắc lẽ ra nên đoạn”. Đây là tổng kết bác bỏ bảy thứ vô thường của ngoại đạo. Hễ các chấp đắm của ngoại đều nói theo bốn đại, đã chẳng phải chánh kiến cho nên nói vọng tưởng. Kinh Nhập Lăng-già chép: Kia tạo ra thuyết này, lửa không thể thiêu đốt tự tướng của các đại, chỉ mỗi thứ phân tán. Nếu thiêu đốt được thì năng tạo, sở tạo đều đoạn diệt. Vì bốn đại chủng bất hoại là chấp thường, bốn đại phân tán là chấp đoạn, các vọng tưởng kia không ngoài hai chấp này. Như lai chỉ bày chánh giáo để phân biệt với ngoại giáo khác: Này “Đại Tuệ! Ngã pháp khởi chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Vì sao? Vì tánh bên ngoài không quyết định, chỉ nói ba cõi duy tâm, chẳng nói các tướng có sinh có diệt. Bốn đại nhóm họp khác với bốn đại và tạo sắc nên vọng tưởng hai thứ năng nhiếp và sở nhiếp. Biết hai thứ vọng tưởng, lìa hai thứ chấp ngoại tánh vô tánh” đây là Như lai chỉ bày chánh giáo, để phân biệt với ngoại giáo khác. Ta nói các pháp khởi, đối với vô thường chẳng phải vô thường mà có thể thường, có thể vô thường, tức toàn thể khởi dụng, ngoại đạo mê muội điều này rơi vào chấp đắm hữu vô. Như trên đã nêu rõ. Ở đây đối với tà mà bày chánh, nên nói chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, cho nên dưới đây nêu để giải thích. Do pháp ngoại đạo không chắc chắn có, chỉ nói các pháp trong ba cõi đều do tâm hiện. Nói vi tâm là vọng tâm sát-na hiện ra, hoặc nói tâm mầu nhiệm là sai. Đã hiểu rõ các pháp duy tâm, thì ngoài tâm không có pháp, không đồng với kia nói các tướng có sinh, có diệt. Các tướng là gì? Tức là tướng bốn đại hội hợp khác nhau, và bốn đại sắc năng tạo, sở tạo. Vì ngoại đạo cho rằng năng tạo đại chủng chẳng hoại, sở tạo các sắc có hoại. Phật dạy chẳng phải thường, chẳng phải vô thường thì đều bất sinh không diệt. Hai thứ vọng tưởng năng nhiếp, sở nhiếp, Kinh Nhập Lăng-già chép: thể tánh hai thứ Năng thủ, sở thủ, tất cả đều từ phân biệt khởi, cho nên có thể hiểu biết như thật thể tánh hai thứ năng thủ, sở thủ khởi vọng tưởng, tức biết các pháp duy tâm, lìa kiến chấp hữu vô. Nêu tướng năng giác bất giác: “Giác tự tâm hiện lượng vọng tưởng là tư tưởng tác hành sinh, chẳng phải không tác hành. Lìa tâm tánh thì không có tánh vọng tưởng, thế gian, xuất thế gian, và xuất thế gian thượng thượng, tất cả pháp chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng giác tự tâm hiện lượng, rơi vào hai bên ác kiến nối nhau. Tất cả ngoại đạo bất giác tự vọng tưởng phàm phu này không có cội gốc, nghóa là thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng, nói từ vọng tưởng sinh, phàm phu chẳng thể giác biết”. Đây là nêu tướng năng giác bất giác, giác tức là trí năng giác. Tự tâm hiện lượng v.v… đều là cảnh giới giác. Chúng sinh từ vô thể mê muội đối với thể duy tâm chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, cho nên khởi vọng tưởng. Nay giác biết vọng tưởng do tư tưởng tác hành sinh, chẳng phải bất tác hành, đều là vọng tưởng. Đã biết rõ vọng tưởng thì lìa kiến chấp phân biệt hữu vô của tự tâm. Lìa chấp đắm này rồi thì các pháp thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng, thể chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, lại vốn như một. Chẳng giác kia rơi vào hai bên, ác kiến có không nối nhau. Đây là do ngoại đạo thường ở trong vọng tưởng không biết tự tâm hiện lượng. Nói phàm phu không có cội gốc, là không biết các pháp khởi căn bản, chỉ cho rằng các pháp thế gian, xuất thế gian sinh ra vọng tưởng lời nói. Nhưng ba pháp này có cảnh giới lời nói khác nhau chẳng phải chỗ giác biết của phàm phu. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Xa lìa nơi sở tạo Cùng với hình xứ khác Tánh và sắc vô thường Ngoại đạo ngu vọng tưởng Các tánh không có hoại Mỗi đại tự tánh trụ Ngoại đạo tưởng vô thường Chìm trong các chấp đắm Các ngoại đạo kia thảy Vô hoặc sinh, hoặc diệt Mỗi đại tánh tự thường Sao nói tưởng vô thường Tất cả duy tâm lượng Hai thứ tâm trôi lăn Nhiếp thọ và sở nhiếp Không có ngã, ngã sở Phạm thiên là cội cây Cành nhánh trùm rộng khắp Như thế điều ta nói Chỉ là tâm lượng kia. Bốn câu đầu là tổng kết nêu lên lìa các chấp, các tánh không có hoại v.v… Bài tụng trên là bác bỏ chung các chấp, nghóa là kia dù vọng tưởng vô thường, mà tự tánh bốn đại chẳng hoại, cho nên nói: Mỗi đại tự tánh trụ. Lại nói: các chúng ngoại đạo kia v.v… lại nêu lên các ngoại đạo, nghóa là kia chấp thật vốn bất sinh diệt, bốn đại tánh thường, cố nhiên tự như vậy, đâu được chắc chắn gọi là nghó là vô thường ư! Lại từ nơi quan trọng mà nêu bày nói rằng tất cả tâm hiện lượng… Kinh Nhập Lăng-già chép: Năng thủ và sở thủ tất cả tâm. Hai thứ từ tâm hiện, không có ngã, ngã sở, ngoại đạo chấp trời Tự Tại ban đầu tạo ra chúng sinh là có tình bổn. Như cây mọc lên cành lá che trùm tất cả, Phật dạy ta nói ngoại đạo chấp đắm như vậy đều là ngoại đạo vọng tưởng tâm lượng. Khéo biết định Diệt tận thì chẳng rơi vào Chánh thọ của phàm phu nhị thừa: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin giảng nói tất cả Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác diệt chánh thọ thứ lớp nối nhau. Nếu giỏi về tướng diệt chánh thọ thứ lớp nối nhau, con và các Bồ-tát chẳng bao giờ vọng xả bỏ diệt chánh thọ lạc môn, chẳng rơi vào tất cả Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo ngu si”: Diệt chánh thọ, chánh thọ tức Tam-muội, chính là định diệt tận. Định này ba thừa đồng nhập mà vị thứ cạn sâu khác nhau. Khéo biết đây rồi thì đối với đại diệt định chẳng bỏ, chẳng rơi vào chánh thọ của phàm phu Tiểu thừa, câu hỏi rất dễ thấy. Thông giáo ba thừa cùng thực hành Thập địa gồm có bốn ng- hóa: “Phật bảo Đại Tuệ: Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin nói cho con nghe. Phật bảo Đại Tuệ: Đại Bồ-tát Lục địa và Thanh văn, Duyên giác nhập diệt chánh thọ: Đại Bồ-tát địa thứ bảy niệm niệm chánh thọ, lìa tất cả tánh tự tánh tướng chánh thọ, chẳng phải Thanh văn Duyên giác. Các Thanh văn, Duyên giác rơi vào hữu hành, giác biết tướng năng giác sở giác diệt chánh thọ. Cho nên Bồ-tát Thất đọa chẳng phải niệm chánh thọ, được tất cả pháp tướng không khác nhau, chẳng phải được từng phần các thứ tướng tánh, giác tất cả pháp lành, không lành tánh tướng chánh thọ. Cho nên, Bồ-tát địa thứ bảy không có niệm lành chánh thọ. Này Đại Tuệ! Bồ-tát Địa thứ tám và Thanh văn, Duyên giác tâm ý, ý, thức tướng vọng tưởng diệt”. Trong đây đáp, tướng địa vị tăng tiến chẳng phải nhiều đường, đều y theo thông giáo ba thừa cùng thực hành Thập địa mà nói, gồm có bốn nghóa: 1. Do Lục địa, Địa thứ bảy đối rõ cạn sâu, thì Lục địa là Ba thừa đồng nhập định diệt tận, địa vị này rất cạn vì Bồ-tát đắc định không khác gì hàng Nhị thừa. Bồ-tát Địa thứ bảy nhớ nghó chánh thọ v.v… Niệm niệm thì ra vào không xen hở, lìa tất cả tánh, tự tánh tướng chánh thọ thì không chấp tất cả tướng năng nhiếp, sở nhiếp, cho nên khác với người Nhị thừa rơi vào có hành giác. Có hành giác, là hữu vi hành. Quyết dứt các tướng, sau mới được định. Cho nên Bồ-tát địa thứ bảy chẳng niệm chánh thọ, nghóa là chẳng phải họ trụ chánh thọ của niệm. Lại nói rằng: Được tất cả pháp tướng không khác nhau, chính là giác tất cả pháp tánh tướng không khác nhau. Chẳng phải được từng phần: Là chẳng phải người Nhị thừa kia ở trong định được từng phần các tánh tướng. Pháp lành, bất lành, nghóa là Bồ- tát đến Địa thứ bảy thì, còn chẳng trụ trong pháp lành, huống chi là niệm không lành ư! Ấy gọi là vô thiện niệm chánh thọ. 2. Y theo Địa thứ bảy, Địa thứ tám để phân biệt rõ tướng khác, tức là tướng ý thức vọng tưởng có diệt, chưa diệt, cao thấp khác nhau, đến Địa thứ tám ba thừa vọng tưởng đều diệt, khác với Địa thứ bảy. Ngoại đạo rơi vào hữu vô, vọng chấp hai thủ. “Bồ-tát từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy, quán ba cõi lượng tâm, ý, ý thức, lìa ngã, ngã sở, tự vọng tưởng tu, rơi vào ngoại tánh các thứ tướng. Hai thứ kẻ ngu tự tâm nhiếp, sở nhiếp: vừa rồi vô tri bất giác các lỗi ác thói quen luống dối từ vô thỉ xông ướp”. Kế là nói rõ ba thừa từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy quán ba cõi các pháp duy tâm, ý, thức. Nhưng tuy đồng quán mà vọng tưởng khác nhau, có diệt không diệt, được mất, lìa ngã, ngã sở v.v… thì được, rơi vào ngoại tánh các tướng v.v… thì mất. Hai thứ tự tâm: là ngoại đạo rơi vào hữu vô, vọng chấp năng thủ, sở thủ, hoàn toàn chắng biết bất giác vô thỉ lỗi ác thói quen huân tập nên. Bồ-tát được Phật che chở, vì giáo hóa chúng sanh nên không nhập Niết-bàn: “Đại Tuệ Đại Bồ-tát Địa thứ tám là Thanh văn, Duyên giác Niết- bàn. Bồ-tát là do Tam-muội giác gia trì, nên môn Tam-muội lạc chẳng vào Niết-bàn. Nếu chẳng gia trì thì Như lai địa chẳng đầy đủ, vì xả bỏ tất cả việc hữu vi của chúng sinh, hạt giống Phật sẽ bị dứt mất. Các Đức Phật, Thế tôn vì chỉ bày vô lượng công đức không thể suy nghó nói năng của Như lai. Thanh văn, Duyên giác đối với môn Tam-muội được vui dắt dẫn nên nghó là Niết-bàn” 3. Nói rõ Địa thứ tám ba thừa đồng một Niết-bàn mà có trụ, bất trụ khác nhau. Bồ-tát v.v… Nói Bồ-tát được Tam-muội giác lực của các Đức Phật che chở, vì giáo hóa chúng sinh đối với môn Tam-muội không nhập Niết-bàn. Nếu không che chở, thì không thể đầy đủ công hạnh đến địa vị Như lai, ấy là bỏ chúng sinh mà không hóa độ, cũng làm hư hạt giống Như lai. Cho nên các Đức Phật nói công đức không thể suy nghó nói năng để khuyến khích tiến lên, giúp cho chúng sinh đạt đến rốt ráo. Người Nhị thừa tự điều phục tự độ, chấp Tam-muội lạc nghó là Niết-bàn, đó là sai lầm. Phân biệt bộ loại khác nhau: Này “Đại Tuệ! Ta phân bộ Địa thứ bảy khéo tu tướng tâm, ý, ý thức, khéo tu ngã, ngã sở, nhiếp thọ người pháp vô ngã, tự tướng, cộng tướng sinh diệt, khéo được bốn vô ngại quyết định lực môn Tam-muội, địa vị thứ lớp nối nhau vào pháp đạo phẩm”. Phân bộ nghóa là phân biệt bộ loại có thiện, bất thiện, diệt, bất diệt v.v… khác nhau, ý muốn cho Bồ-tát khéo tu tướng tâm, ý, thức, hiểu rõ thức tánh vốn không để dứt vọng tưởng. khéo tu ngã, ngã sở v.v… nghóa là hiểu rõ hai pháp chấp người pháp, nhiếp thọ hai tánh vô ngã, không rơi vào tự tướng, cộng tướng sinh diệt, khéo được bốn vô ngại biện tài và quyết định năng lực Tam-muội thì định tuệ bình đẳng, do đó dần dần bước lên các địa. Đắc Bồ-đề phần. Phật nói địa thứ lớp nối nhau: “Chẳng khiến Đại Bồ-tát chẳng giác tự tướng, cộng tướng, chẳng rành về Địa thứ bảy rơi vào lối tà của ngoại đạo, cho nên lập địa thứ lớp. Này Đại Tuệ! Kia thật không có hoặc sinh hoặc diệt, trừ tự tâm hiện lượng nên nói địa thứ lớp nối nhau và các hạnh ba cõi, là điều kẻ ngu không thể giác. Điều kẻ ngu không thể giác, ta và các Đức Phật nói địa thứ lớp nối nhau và nói các hạnh ba cõi”. Chẳng để cho Bồ-tát: Phật sợ Bồ-tát không hiểu rõ tự tướng, cộng tướng, không biết thứ lớp các địa, rơi vào đường tà của ngoại đạo, như cho nên nói địa vị thứ lớp. Lại bảo rằng: Kia thật không có sinh diệt, thứ lớp các địa trong ba cõi trở lại, tất cả đều do tự tâm hiện ra, nhưng những kẻ ngu không thể hiểu biết. Do không hiểu nên ta và các Đức Phật vì nói như thế. Chấp đắm hai thứ vô ngã chẳng phải chánh tuệ vắng lặng: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát địa thứ tám bị cái vui của diệt môn Tam-muội làm cho say mê, chẳng khéo rõ tự tâm hiện lượng, bị thói quen tự tướng, cộng tướng làm chướng, rơi vào người pháp vô ngã, kiến chấp pháp nhiếp thọ, vọng tưởng khởi Niết-bàn, chẳng phải trí tuệ giác Niết-bàn”. 4. Nêu bày Nhị thừa đến Bồ-tát địa bị cái vui Tam-muội làm cho say. Diệt tức định diệt tận. Mê say tức là cái vui Tam-muội, do kia mê say, không thể khéo biết duy tâm hiện, bị thói quen tự tướng, cộng tướng che lấp: chấp đắm hai thứ vô ngã nhiếp thọ, nghóa là kiến chấp pháp, vọng tưởng không dứt, nghó là Niết-bàn, chẳng phải chánh tuệ vắng lặng. Bồ-tát thông giáo thấy lý chân không Niết-bàn: Này “Đại Tuệ! Bồ-tát thấy cái vui của diệt môn Tam-muội, bổn nguyện thương xót, đại bi thành tựu, biết phân biệt mười câu vô tận, chẳng vọng nghó là Niết-bàn. Kia đã Niết-bàn, vọng tưởng chẳng sinh, lìa vọng tưởng năng nhiếp, sở nhiếp, giác rõ tự tâm hiện lượng tất cả các pháp, vọng tưởng chẳng sinh, chẳng rơi ngoài tâm ý, ý thức, chấp đắm vọng tưởng tướng tánh, tự tánh, chẳng phải Phật pháp, nhân chẳng sinh, tùy trí tuệ mà sinh được Như lai tự giác địa”. Thấy diệt Tam-muội v.v… là nói Bồ-tát Thông giáo thấy lý chân không Niết-bàn, khác với chấp vui của Nhị thừa. Nhớ nghó bi nguyện độ sinh, tu hành mười vô tận ái, chẳng nghó là Niết-bàn. Đã chẳng trụ không thì lìa năng thủ, sở thủ, hiểu rõ các pháp duy tâm, chẳng sinh phân biệt, chẳng lìa tâm thức, chấp đắm tánh tướng của pháp. Vọng tưởng đã bất sinh thì không còn nhân thọ sinh, thành tựu nhân Phật pháp, đạt đến địa vị Như lai. Khi mộng chẳng phải không thức rồi chẳng phải có: “Như người nằm mộng thấy dùng phương tiện qua sông, khi chưa qua đã thức, thức rồi suy nghó là chánh hay tà? Hay chẳng phải chánh chẳng phải tà? Các cái thấy nghe hiểu biết từ vô thỉ nhân tưởng, các thói quen, các thứ hình xứ rơi trong tưởng hữu vô nên tâm ý, ý thức mộng hiện: “Đây là ví dụ pháp của Bồ-tát tự hành hóa tha, ý nói rằng khi mộng chẳng phải không, thức rồi chẳng phải có, mà chính là chẳng thật chẳng hư, chính là dụ cho Bồ-tát Địa thứ tám, mới thấy thật lý rốt ráo là độ sinh. Dùng Tam-muội như huyễn lập ra, cho nên như khi mộng tác dụng, và được pháp nhẫn vô sinh hiển bày vô công dụng đạo, như thức rồi mà được. Nói chưa qua sông mà tỉnh: địa vị chưa cùng cực nên chưa đến bờ giac ngộ. Là tà hay là chánh: Xét sự hư thật này. Chẳng phải chánh, chẳng phải tà: Nói cùng tột lý kia. Các sự thấy nghe hiểu biết từ vô thỉ do tưởng v.v… nghóa là các chúng sinh mê muội chỉ vì thấy nghe hiểu biết từ vô thỉ đến nay bị vọng tưởng huân tập, mà có các thứ hình trạng rơi vào chấp hữu vô, cho nên có việc tâm thức mộng hiện. Mộng sinh tử được dụ như con sông lớn: Này “Đại Tuệ! Như thế Đại Bồ-tát đối với Bồ-tát địa thứ tám thấy vọng tưởng sinh. Từ Địa thứ nhất chuyển tiến đến thứ bảy địa, thấy tất cả pháp phương tiện như huyễn v.v… độ tâm vọng tưởng năng nhiếp, sở nhiếp, rồi thì thực hành phương tiện Phật pháp, người chưa được khiến được. Này Đại Tuệ! đây là Bồ-tát Niết-bàn phương tiện chẳng hoại, lìa tâm ý, ý thức, được pháp nhẫn vô sinh. Này Đại Tuệ! Đối với Đệ nhất nghóa không có thứ lớp nối nhau, nói pháp không thật có, vọng tưởng vắng lặng”. Đây là hợp với ví dụ ở trên, nghóa là Bồ-tát này chấp vọng tưởng sinh, tức dụ mông sinh tử như con sông lớn, từ Địa thứ nhất chuyển tiến lên Địa thứ bảy, thấy các pháp là phương tiện như huyễn… tức là nghóa phương tiện năng độ. Độ tâm hạnh vọng tưởng năng nhiếp, sở nhiếp rồi, tức là tự tu hành, vượt tất cả nghóa vọng tưởng về căn cảnh v.v… khởi phương tiện Phật pháp, người chưa được giúp cho được, tức là dùng tự độ để độ chúng sinh, cũng là nghóa chúp cho người chưa độ được độ. Niết-bàn phương tiện chẳng hoại, nghóa là Bồ-tát đắc Niết-bàn mà chẳng hoại việc phương tiện độ sinh. Lìa tâm ý: là nói Bồ-tát đến Địa thứ tám được vô công dụng đạo như dụ thức rồi mà được. Cũng là kết thúc nêu bày tên nhẫn, cho nên nói được pháp nhẫn vô sinh. Đối với Đệ nhất nghóa v.v… kết thúc nêu bày, là nói đối với Đệ nhất nghóa không có thứ lớp mà nói có thứ lớp, không có nối nhau mà nói có nối nhau, không thật có vọng tưởng nói có vọng tưởng, pháp không vắng lặng nói pháp vắng lặng, vì trong Đệ nhất nghóa đế một pháp cũng không thật có, huống chi là thứ lớp nối nhau ư! Nhưng đều nương vào tâm lượng chúng sinh, phương tiện hóa môn vốn không có nói trong phân biệt. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Tâm lượng không thật có Trụ này và Phật địa Khứ, lai và hiện tại Các Phật ba đời nói Tâm lượng Địa thứ bảy Không thật có thứ tám Hai địa gọi là Trụ Phật địa gọi Tối thắng Tự giác trí và tịnh Đây tức là địa ta Chỗ Tự tại tối thắng Thanh tịnh mầu trang nghiêm Chiếu sáng như lửa mạnh Ánh sáng soi khắp nơi Sáng lòa chẳng hư mắt Xoay vần hóa ba cõi Hóa ba cõi hiện tại Hoặc có khi trước hóa Nơi kia giảng nói thừa Đều là Như lai địa Thập địa tức là sơ Sơ tức là Địa thứ tám Đệ cửu tức thứ bảy Thất cũng lại là bát Thứ hai là thứ ba Thứ tư là thứ năm Thứ ba là thứ sáu Không có thứ lớp gì”. Tám câu đầu, trước chung sau riêng. Riêng là đệ Địa thứ bảy vẫn giữ gìn tâm lượng, Địa thứ tám thì không thật có, y cứ hai địa này phân biệt rõ gọi là Trụ. Trụ nghóa là y chỉ. Địa thứ tám tuy không thật có nhưng vẫn còn định trụ, chỉ Phật địa là tối thắng. Tự giác trí và tịnh v.v… các bài kệ tụng đều nói Như lai địa, chẳng hư mắt, là nói ánh sáng của Như lai tuy chiếu soi khắp nơi, nhưng khác với ánh sáng điện chớp làm hại mắt người, xoay vần khắp nơi. Nghóa là Như lai xoay vần hóa độ ba cõi, lập ra giáo hóa vô cùng hóa độ chung cả ba đời, trước là chỉ thời quá khứ. Thừa tức là Đại thừa, Tiểu thừa. Nói Thập địa là Địa thứ nhất v.v… là do không thứ lớp hiển bày viên dung kia. Rốt ráo mà nói là vắng lặng, chân như có địa vị thứ lớp gì cho nên nói không có thứ lớp gì. Chỗ chứng chẳng phải thường chẳng phải vô thường “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác là thường hay vô thường? Phật bảo Đại Tuệ: Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, nghóa là cả hai đều có lỗi. Nếu thường thì có lỗi làm chủ về thường, tất cả ngoại đạo nói tác giả, không có sở tác. Cho nên Như lai thường, vô thường, chẳng phải tác, thường có lỗi. Nếu Như lai vô thường thì có lỗi tác vô thường, sở tướng của ấm thì tướng vô tánh, ấm hoại thì lẽ ra dứt, mà Như lai chẳng phải dứt”. Ở trước nói thường, vô thường rất nhiều, mà chưa nói rõ pháp của Như lai chứng là thường hay vô thường, nói theo lý, thì điều nói ở trước đâu phải ngoài điều này, nếu không nói riêng về hoặc thì mê muội, cho nên lại vì người chưa hiểu mà thưa hỏi. Trong đây đáp, trước là chỗ chứng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, vì lý sở chứng kia dừt trăm phi, lìa cả các lỗi, khác với vọng chấp của ngoại đạo kia cho nên nói song phi (bác bỏ cả hai). Nếu cho rằng thường, vô thường thì cả hai đều có lỗi. Nếu Như lai là thường thì đồng với ngoại đạo chấp thần ngã là thường của năng tác. Chủ tức là thần ngã, mà Như lai nói thường là vô sở tác, cho nên thường mà chẳng thường, chẳng phải cái thường do kia tạo tác mà có lỗi. Nếu Như lai vô thường là có sở tác, đồng với năm ấm là có tướng sở tướng; tướng kia vô tánh nên ấm hoại đáng lẽ dứt, nhưng thường của Như lai thì chẳng dứt. Tất cả những gì làm ra đều vô thường: Này “Đại Tuệ! Tất cả sở tác đều vô thường, như bình, y…tất cả đều là lỗi vô thường, bậc Nhất thiết trí đầy đủ phương tiện nên ứng với vô nghóa, vì là sở tác nên tất cả sở tác đều phải là Như lai, vì không có nhân tánh khác nhau. Cho nên Này Đại Tuệ! Như lai chẳng phải thường, chẳng phải vô thường”. Nói tất cả sở tác như bình, y… đều qui về vô thường, thì nói lên chỗ tu phước trí của Như lai đều không vô ích. Nếu đồng sở tác thì tất cả hữu tác lẽ ra đều phải là Phật. Đầy đủ nghóa là đầy đủ phước đức trang nghiêm. Không có nhân tánh khác nhau, nghóa là Phật và các pháp sở tác là đồng thì chẳng có nhân tánh riêng, cho nên tổng kết nói, v.v… Như lai là thường: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Như lai chẳng phải như hư không là thường. Như hư không thường thì tự giác Thánh trí có các lỗi vô nghóa. Này Đại Tuệ! Thí như hư không chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, lìa thường, vô thường, một, khác, đồng, chẳng đồng. Thường, vô thường đều có lỗi nên không thể nói, vì thế Như lai là phi thường. Lại nữa Này Đại Tuệ! Nếu Như lai vô sinh là thường, như sừng thỏ, sừng ngựa… vì vô sinh là thường nên phương tiện vô nghóa. Bởi vô sinh là thường thì có lỗi nên Như lai phi thường. Lại nữa Này Đại Tuệ! Còn có các việc khác biết Như lai là thường. Vì sao? Vì đã được trí Vô gián thường nên Như lai là thường”. Nói Như lai chẳng phải như hư không là thường v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Nếu là thường thì lẽ ra như hư không, không đợi nhân thành, nhưng tự giác Thánh trí chính là kiết quả do Như lai tu đức, hiển bày thì không phải là lỗi. Lại nói thí như hư không chính là nói lên bác bỏ cả hai, lìa các cú, cho nên không thể nói thường. Lại nữa, nếu là thường thì là vô sinh, như sừng thỏ, sừng ngựa xưa nay bất sinh thì không có nghóa phương tiện lợi ích chúng sinh, cho nên nói Như lai phi thường. Lại nữa, còn có các việc khác biết Như lai là thường, như trên nói chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, là y theo tánh đức viên lìa, nhưng Như lai xứng tánh viên chứng cũng được nói là thường, nói đã được trí Vô gián, là trí rốt ráo thỉ giác vô ngại. Có Phật hay không Phật thì tánh tướng vẫn thường trụ: Này “Đại Tuệ! Hoặc Như lai, ra đời hoặc không ra đời, pháp cũng quyết định trụ, Thanh văn, Duyên giác, chư Phật Như lai Vô gián trụ, chẳng trụ hư không, người ngu chẳng thể hay biết. Này Đại Tuệ! Trí Như lai chứng được là do Bát-nhã huân, chẳng phải tâm, ý, ý thức các ấm, giới, nhập xứ huân. Này Đại Tuệ! Tất cả ba cõi đều là do vọng tưởng sinh ra chẳng thật, Như lai chẳng từ tưởng luống dối không thật sinh ra. Này Đại Tuệ! Do hai pháp nên có thường, vô thường, chẳng phải không hai, không hai là vắng lặng, vì tất cả pháp không hai tướng”. Nếu Như lai ra đời v.v… Đây là nói pháp tánh, Như lai chứng có Phật hay không Phật tánh tướng vẫn thường trụ, lý này cùng khắp, không xen hở phàm Thánh, cho nên nói Vô gián trụ. Nói chẳng trụ hư không là nói lên thường trụ, chỉ vì phàm phu mê muội nên không biết. Trí do Như lai chứng được v.v… là trí của tu đức, toàn tánh được Bát-nhã huân phát, khác với tâm thức của chúng sinh là ấm, giới, nhập v.v… sở huân. Lại nói rằng Như lai khác với ba cõi từ vọng tưởng sinh, cho nên từ công đức chân thật sinh ra. Nói hai pháp: Là hai pháp luống dối sinh và chân thật sinh, nhưng trong pháp luống dối tuy nói thường, vô thường chưa hiển thật lý, đều thuộc về vô thường, lý chân thật rốt ráo của Như lai, lý vốn chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Chỉ nói thường là ý nói nghiêng ý về viên, nhưng pháp thường mà Như lai chứng tức là vô thường, đó là không thông đạt ý chỉ này. Lời nói phân biệt có thường, vô thường, cho nên nói chẳng phải không hai. Nhưng không hai, tức là lý vắng lặng. Xét về tất cả các pháp đều đầy đủ lý không hai, cho nên nói không có hai tướng sinh. Thật lý mà Như lai chứng đắc vốn lìa vọng tưởng nói năng hữu vô: “Cho nên Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác chẳng phải thường, chẳng phải không thường. Này Đại Tuệ! Cho đến lời nói phân biệt sinh thì có lỗi thường, vô thường. Phân biệt giác diệt thì lìa kiến chấp thường, vô thường của kẻ ngu chẳng được vắng lặng, trí tuệ lìa hẳn sự huân xông của thường vô thường, chẳng phải thường vô thường”. Ở đây nói thật lý mà Như lai chứng đắc vốn lìa vọng tưởng lời nói hữu vô, có liên quan đến lời nói phân biệt thì rơi vào lỗi hai bên. Phân biệt giác diệt thì tức đường lời nói bặt, chỗ tâm hành diệt, đạt đến đây là lìa các lỗi, do nên nói lìa hẳn thường vô thường. Nói phi thường vô thường huân, do phân biệt hai thứ phi cũng là ác kiến, nếu lìa phân biệt thì sở huân cũng lìa. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Các vật đều vô nghóa Sinh lỗi thường, vô thường Nếu không phân biệt giác Lìa hẳn thường vô thường Từ tông sở lập này Có ra các nghóa tạp Bình đẳng tự tâm lượng Lời nói không thật có? Các thứ vô nghóa v.v… nghóa là còn mê muội tu đức chưa hiển hiện, đều rơi vào lỗi thường, vô thường. Nếu không còn phân biệt thì lìa hai bên đến chỗ vắng lặng. Từ đó mà lập tông, nghóa là ngoại đạo chấp thường, và bảy thứ vô thường đều là tà kiến, cho nên nói có các nghóa tạp. Nếu dùng trí Phật… quán sát tự tâm hiện lượng, khế hợp với thật lý, thì tất cả phân biệt lời nói đều không thật có. <篇> LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO KINH CHÚ GIẢI <卷>QUYỂN 4 (Phần 2) Pháp ấm giới nhập có mê có hiểu: “Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin Đức Thế tôn lại nói cho con nghe về sự sinh diệt của ấm giới nhập, kia không có ngã thì cái gì sinh, cái gì diệt? Kẻ ngu y theo sinh diệt, chẳng biết khổ hết, chẳng biết Niết-bàn. Phật bảo: Lành thay! Lành thay! Hãy lắng nghe! Ta sẽ nói. Đại Tuệ bạch Phật: xin vâng thọ giáo”: Ấm, giới, nhập sinh diệt, văn trước có nói, mà Đại Tuệ lại có thỉnh, ý nói pháp ấm, giới, nhập có mê có hiểu: do hiểu nên kia không có ngã, thì cái gì là sinh, diệt? Vì mê nên kẻ ngu nương vào sinh diệt, chẳng biết khổ hết, chẳng biết Niết-bàn, thì làm sao thoát khỏi sinh tử cho được! Như lai tạng là nhân thiện bất thiện: “Phật bảo Đại Tuệ: Như lai tàng là nhân lành, không lành, có công năng sinh khởi sự tạo tác tất cả đường sinh, thí như cô đào hát biến hiện các đường lìa ngã, ngã sở. Vì chẳng giác kia nên ba duyên hòa hợp phương tiện mà sinh. Ngoại đạo chẳng giác chấp là tác giả. Vì từ vô thỉ thói quen luống dối xấu ác huân tập gọi là tàng thức. Sinh ra vô minh trụ địa đi chung với bảy thức, như thân sóng biển, thân thường sinh chẳng dứt, lìa lỗi vô thường, xa lìa ngã luận thì tự tánh không nhỏ rốt ráo thanh tịnh”. Trong đây đáp, nói Như lai tạng là nhân lành không lành. Như lai, nghóa là lý tánh Như lai, hiện ra nhất niệm đầy đủ gọi là tàng. Căn trần nhất niệm tâm khởi theo duyên nhiễm tịnh, nhiễm tức vô minh, theo nhiễm duyên vô minh, thì đó là sinh tử trong chín cõi, tịnh tức giáo hạnh, theo tịnh duyên giáo hạnh, thì gọi là bốn chủng đạo diệt. Bốn chủng: tức sinh diệt, vô sinh, vô lượng, vô tác, cho nên nói đó là nhân lành, không lành. Nhân ắt cảm quả. Nói tất cả đường sinh tức quả báo thiện ác trong mười cõi. Thí như trở xuống: Thí dụ trên, pháp do tùy duyên tạo ra vốn lìa hai ngã, như cô đào hát nương vào chú thuật cho nên biến hiện các thứ hình tượng, đâu có chấp hai ngã. Nói ba duyên, đó là căn, trần, thức; căn trần hòa hợp nhất niệm tâm khởi. Do bất giác cho nên tùy theo duyên nhiễm, chỉ tạo hoặc nghiệp mà thành sinh tử trong chín cõi, ngoại đạo kia do bất giác nên vọng chấp tạo tác, do thói quen xấu huân tập từ vô thỉ, gọi là Thức tạng, bảy thức chuyển sinh không gọi trụ địa, ban đầu do vô minh khởi, từ cội gốc sinh ra cành lá vô minh, cho nên dụ rằng như sóng biển, thân thường sinh chẳng dứt, đây là theo nhiễm duyên từ tế đến thô. Nếu có thể nhất niệm soi chiếu trở lại, thuận theo tịnh duyên thì lìa lỗi vô thường và hai chấp ngã, tự tánh thanh tịnh, nên nói rằng tánh đức Như lai rốt ráo hiển hiện. Các thức có sinh có diệt: “Các thứ khác có sinh có diệt. Ý, ý thức v.v… niệm niệm có bảy, vì vọng tưởng chẳng thật nên chấp các cảnh giới, các thứ hành xứ chấp chặt danh tướng, chẳng giác sắc tướng do tự tâm hiện, chẳng giác khổ vui, chẳng đến giải thoát, các thứ danh tướng trói buộc, tham sinh rồi sinh tham, hoặc nhân hoặc phan duyên, các thọ căn kia diệt, thứ lớp chẳng sinh. Còn tự tâm vọng tưởng chẳng biết khổ vui, nhân diệt thọ tưởng, chánh thọ thiền thứ tư”. Đây là nói các thức có sinh có diệt. Các thức: là ý thức và ý ý thức, cùng năm ý thức trước, đó gọi là bảy thức, chẳng phải thứ bảy của Nhị thừa thức. Do niệm niệm mà khởi, khởi thì đồng thời. Vì vọng tưởng chẳng thật, nghóa là sáu thức chấp cảnh. Các thứ hình xứ là sáu trần. Căn, trần đã hình thành thì chấp đắm danh tướng, do không biết sắc v.v… do tự tâm hiện nên sinh khổ lạc thọ, xoay vần sinh tử không do đâu giải thoát, danh tướng trói buộc từ tham khởi tham. Nhân và sở duyên nương tựa lẫn nhau đều gọi là sinh tướng. Các thọ kia trở xuống ấy gọi là diệt tướng, nghóa là thọ căn và tưởng hành.. thứ lớp bất sinh, chỉ còn tự tâm vọng tưởng, nghóa là tâm thọ tưởng diệt, tức định diệt tận, hoặc thiền thứ tư. Ấm, giới, nhập đâu phải là chẳng diệt: “Người khéo tu hành chân đế giải thoát, nghó là giải thoát, chẳng lìa chẳng chuyển gọi là Như lai tàng thức, bảy thức trôi lăn chẳng diệt. Vì sao? Vì kia do phan duyên mà các thức sinh, chẳng phải cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác tu hành, chẳng giác vô ngã, tự tướng, cộng tướng, nhiếp thọ sinh ấm, giới, nhập. Thấy Như lai tàng thì năm pháp, ba tự tánh, người pháp vô ngã sẽ diệt”. Khéo tu hành chân đế giải thoát v.v… là hạnh tu của Thanh văn, đối với diệt định này nghó là giải thoát, chẳng phải rốt ráo diệt. Chẳng lìa chẳng chuyển v.v… Kinh Nhập Lăng- già chép: Mà thật chưa xả, chưa chuyển tên gọi tàng thức trong Như lai tàng. Nếu không có tàng thức thì bảy thức diệt, do chẳng chuyển chẳng diệt nên thức thứ bảy thức thứ sáu, làm nhân và phan duyên mà sinh, là cảnh giới mà những người tu theo hai thừa chẳng thể biết được. Vì kia chỉ biết tánh của người vô ngã, đối với ấm giới nhập thì chấp tự tướng và cộng tướng. Nếu thấy Như lai tàng thì năm pháp, ba tự tánh đều vô ngã tướng, đâu phải ấm giới nhập là chẳng diệt. Nếu không có tên gọi thức tàng thì chuyển vọng thức thành Như lai tàng: “Địa thứ lớp nối nhau chuyển tiến, các kiến chấp ngại đạo không thể làm nghiêng động, đó gọi là trụ Bồ-tát bất động địa, được mười thứ Tam-muội đạo môn lạc, do Tam-muội giác gia trì, quán sát Phật pháp không thể suy nghó, bàn luận tự nguyện chẳng thọ môn Tam-muội lạc và thật tế, hướng đến tự giác Thánh thú, chẳng tu hành chung với tất cả Thanh văn, Duyên giác và các ngoại đạo, được mười chủng tánh đạo và thân trí ý sinh của hiền Thánh, lìa hạnh Tam-muội. Cho nên Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát muốn cầu thắng tiến phải thanh tịnh Như lai tàng và tên gọi thức tàng”. Do trước ngộ nhập được dự vào Địa thứ nhất thứ lớp tăng tiến, đến địa vị đạo đức cao sâu không bị tà kiến ngoại đạo làm lay động, đến đệ Bát Bất động địa; ở địa vị này được mười môn Tam- muội lạc, được năng lực Tam-muội của các Đức Phật che chở, Giác tức là Phật, là có khả năng quán sát pháp và năng lực bổn nguyện của các Đức Phật, khác với Tiểu thừa đắm vui Tam-muội mà không trụ mé thật, tức sinh khởi giáo hóa làm lợi lạc chúng sinh, đạt được tự chứng trí, đâu đồng với sự tu hành của phàm phu Tiểu thừa. Được mười chủng tánh đạo của hiền Thánh, tức chủng tánh của bậc Thánh thập địa. Thập địa đều là Thánh, nói bao gồm cả hiền, nghóa là đối với các vị đạt đến địa vị cùng tột mà nói. Và thân trí ý sinh, nghóa là nương Thập địa mà đạt đến Phật địa, Thân là pháp thân, trí tức là báo thân, ý sinh là hóa thân. Đã được ba thân, lìa nhân hạnh Tam-muội, cho nên khuyên bảo rằng: Muốn thắng tiến đến địa vị Như lai thì phải thanh tịnh Như lai tàng và tên gọi thức tàng. Như lai tàng vốn không thể làm cho thanh tịnh, phải làm thanh tịnh cấu bẩn. Thức tàng dùng danh ngôn, do quên Như lai tàng chuyển thành vọng thức, không có tự thể riêng, chỉ có danh, nếu không có tên thức tàng thì chuyển vọng thức thành Như lai tàng. Như lai tàng vốn không sanh diệt: Này “Đại Tuệ! Nếu không có tên gọi thức tạng thì Như lai tạng bất sinh diệt. Này Đại Tuệ! Nhưng các phàm Thánh đều có sinh diệt. Người tu hành tự giác Thánh thú hiện trụ pháp lạc, chẳng bỏ phương tiện. Này Đại Tuệ! Như lai tàng, thức tàng này, tất cả Thanh văn, Duyên giác tâm tưởng được thấy, tuy tự tánh thanh tịnh mà bị khách trần che đậy nên còn thấy bất tịnh, chẳng phải các Như lai. Này Đại Tuệ! Như lai, là cảnh giới hiện ra, như xem trái A-ma-lặc trong lòng bàn tay”. Như lai tàng vốn bất sinh diệt, nay đã vốn không thì có gì mà sinh diệt. Nhưng các phàm Thánh đều có sinh diệt, phàm nghóa là ngoại phàm nội phàm, phàm tức Thập tín, nội phàm tức Thập trụ Thập hạnh, Thập hướng, cũng gọi là Hiền. Thánh là Thập địa. Thánh cũng có sinh diệt, tuy có thể tu hành được con đường của bậc Thánh tự giác, nhưng còn ở trong nhân vị, chưa lìa khỏi biến dịch sinh tử. Nói không bỏ phương tiện: Tự thực hành phương tiện tăng trưởng đạo hạnh. 2.Phương tiện giáo hóa làm lợi ích chúng sinh. Cả hai đều có nghóa sinh diệt. Như lai tàng này v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Như lai tàng thức tàng này bản tánh thanh tịnh vì bị khách trần phiền não làm nhơ nên bất tịnh, tất cả hai thừa và ngoại đạo, so lường khởi kiến chấp, không thể hiện chứng. Như lai đối với điều này hiện thấy rõ ràng như thấy trái A-ma-lặc trong lòng bàn tay. Thuyết của Như lai vốn không nhờ chứng: Này “Đại Tuệ! Ta đối với nghóa này dùng thần lực dựng lập, giúp cho phu nhân Thắng-man và các Bồ-tát trí sáng đầy đủ… Tuyên dương giảng nói Như lai tàng và thức tàng, gọi là bảy thức sinh cùng lúc. Thanh văn chấp đắm, thấy người pháp vô ngã, cho nên phu nhân Thắng-man nương oai thần Phật nói cảnh giới Như lai, chẳng phải cảnh giới Thanh văn, Duyên giác và các ngoại đạo. Như lai tàng và Thức tàng là chỉ cho cảnh giới Phật và các Bồ-tát có trí tuệ sắc bén y nơi nghóa. Cho nên ông và các Đại Bồ-tát đối với Như lai tàng thức tàng phải siêng tu học, đừng chỉ nghe biết mà khởi tướng biết đủ”. Ta đối với trở xuống là chỉ cho kinh Đức Phật ngày trước nói làm chứng. Thuyết của Như lai vốn không nhờ chứng, chỉ vì đối với kinh kia đã từng nói rộng, cho nên ở đây nói lược để chỉ bày. Kinh Nhập Lăng già chép:ta cùng phu nhân Thắng- man và các Bồ-tát trí tuệ sâu mầu nói Như lai tàng và tên gọi thức tàng cùng thức thứ bảy sinh cùng lúc, giúp cho các Thanh văn thấy pháp vô ngã, cho nên Phu nhân Thắng-man, v.v… trở xuống văn nói có thể thấy. Nói đừng chỉ nghe biết mà nghó là biết đủ, là nói Như lai tàng và thức tàng là cảnh giới Phật chẳng phải ba tuệ đầy đủ, chẳng thể hiểu được, nên khuyên bảo tu học, là do ý này. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: “Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Như lai tàng sâu kín Đi chung với thức thứ bảy Hai thứ nhiếp thọ sinh Người trí xa lìa hẳn Như gương bóng hiện tâm Thói quen vô thỉ huân Như người thật quán sát Các sự đều vô sự Người ngu thấy chỉ trăng Nhìn tay chẳng nhìn trăng Người chấp chặt danh tự Chẳng thấy Ngã chân thật Tâm là cô đào hát Ý như người hòa nhạc Năm thức là bè bạn Vọng tưởng xem chúng hát”. Bài tụng trên đây nói Như lai tàng đi chung với thức thứ bảy cho đến do hai thứ tự tướng, cộng tướng nhiếp thọ thì sinh ấm giới nhập, đây là theo vọng duyên. Nếu trái với vọng thì thấy được Như lai tàng, được xa lìa sinh tử. Như gương bóng hiện tâm v.v… như dụ trên nói, nghóa là thể tánh của thức thứ tám xưa nay không có vật, do thói quen xấu từ vô thỉ huân, chuyển sinh các thức v.v… như gương hiện hình bóng, xứng tánh mà thấy, thấy đi hư thì bóng mất. Lại dùng ngón tay chỉ mặt trăng, để dụ giả danh thật pháp có được có mất. Nếu không thể quên lời khế hợp với lý, thì cũng như nhìn ngón tay mà không thấy mặt trăng. Tâm nghóa là Như lai tạng tâm, tùy duyên khắp tạo như sự hóa hiện của cô đào hát. Ý tức ý căn, lại khởi ý thức, thức khởi thiện ác, như người đánh đàn hay, năm thức chấp trần, ý thức đồng khởi, đó gọi là bè bạn. Vọng tưởng phân biệt như thấy cô đào hát. Tổng kết chỉ bày các tướng như thú nhập v.v… Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin Ngài nói về tướng năm pháp, tự tánh thức, hai thứ vô ngã, phân biệt rốt ráo, con và các Đại Bồ-tát khác đối với tất cả địa thứ lớp nối nhau, phân biệt pháp này vào tất cả Phật pháp, cho đến Như lai tự giác địa. Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Hay khéo suy nghó. Đại Tuệ: bạch Phật: xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: năm pháp, tự tánh thức, hai thứ vô ngã phân biệt thú tướng, đó là: Danh tướng, vọng tưởng, chánh trí, như như. Nếu người tu hành, tu hành nhập vào Như lai tự giác Thánh thú, lìa các kiến chấp đoạn thường, hữu vô, v.v… hiện pháp lạc chánh thọ trụ hiện ở trước. Này Đại Tuệ! Chẳng giác năm pháp, tự tánh thức, hai vô ngã, tự tâm hiện ngoại tánh, làm phàm phu vọng tưởng, chẳng phải các bậc hiền Thánh” Năm pháp v.v… ở trên tuy đã nói nhưng chưa từng y theo các địa phân biệt. Sở dó nêu bày kia, là nhập vào tất cả Phật pháp, đến Như lai địa, cho nên lại thưa hỏi. Trong đây đáp, trước hết nêu chung năm pháp và tướng mê ngộ, nghóa là người tu hành nhập vào Như lai tự giác Thánh thú thì năm pháp chung cho tướng ngộ, cho nên nói nếu người tu hành v.v… nếu trái lại là chẳng giác biết thì năm pháp chung cho tướng mê, cho nên nói chẳng giác năm pháp kia v.v… đó là biết pháp không có tự tánh, mê ngộ là do người. Ở đây còn tổng kết chỉ bày các tướng thú nhập v.v… thấy đủ trong văn sau. Căn cứ vào pháp phàm phu để chỉ bày tướng mê: “Đại Tuệ Bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là kẻ ngu vọng tưởng sinh, chẳng phải các bậc Thánh hiền? Phật bảo Đại Tuệ: Kẻ ngu chấp đắm tục số danh tướng, tùy tâm trôi giạt. Trôi giạt rồi sinh các thứ tướng mạo, rơi vào các kiến chấp ngã, ngã sở, hy vọng, chấp đắm sắc đẹp, chấp đắm rồi không biết che đậy, cho nên sinh nhiễm đắm. Nhiễm đắm rồi nghiệp tham sân si chứa nhóm. Chứa nhóm rồi hy vọng tự trói, như tằm làm kén, rơi xuống biển sinh tử, các chỗ hoang vắng, như bánh xe quay nước. Vì kẻ ngu không thể biết tự tánh như huyễn, ngựa nắng, trăng đáy nước, tự tánh lìa ngã, ngã sở, khởi tất cả vọng tưởng chẳng thật, lìa năng tưởng, sở tưởng và sinh trụ diệt, từ tự tâm vọng tưởng sinh, chẳng được tự tại, thời tiết, hạt bụi nhỏ thắng diệu sinh. Phàm phu ngu si rơi vào dòng danh tướng”. Trong phần nêu lên để thích, y cứ riêng danh tướng vọng tưởng, y theo pháp phàm phu để chỉ bày tướng mê, nghóa là nương sáu trần v.v… danh tướng tục số, khởi các phân biệt. Tâm kia trôi giạt theo vọng, rơi vào kiến chấp ngã, ngã sở, hy vọng chấp đắm các sắc, làm ngăn che Thánh trí, khởi tham sân si, gây ra các nghiệp, như tằm làm kén, vọng tưởng tự trói buộc, rơi xuống biển lớn sinh tử các đường. Như trên là nói tướng mê không ra khỏi ba đường, văn nêu rõ có thể thấy. Như tằm làm kén là dụ cho tự trói buộc. Như bánh xe quay nước, là dụ luân hồi sinh tử: Như ngựa nắng giả huyễn, v.v… là dụ không biết tánh huyễn, lìa ngã ngã sở; khởi tất cả vọng tưởng chẳng thật v.v… nghóa là danh tướng khởi các vọng tưởng, vọng tưởng vốn chẳng thật, khởi các huyễn tướng, huyễn tướng vốn luống dối lìa năng tướng sở tướng, cũng chẳng có sinh trụ diệt thật có, thì trở về tự tâm mà thôi. Thật chẳng phải tự tại v.v… do tà nhân sinh ra, phàm ngu không biết, vọng chấp cảnh bên ngoài, rơi vào các dòng danh tướng trôi giạt. Giải thích lại hai pháp danh tướng: Này “Đại Tuệ! Tướng kia là chỗ chiếu soi của nhãn thức gọi là sắc, chỗ soi của tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ý thức gọi là thanh, hương vị, xúc, pháp, đó gọi là Tướng. Này Đại Tuệ! Vọng tưởng kia lập ra các danh, nói lên các tướng, như đây chẳng khác, các tên gọi voi ngựa, xe cộ, nam nữ… ấy gọi là vọng tưởng. Này Đại Tuệ! Chánh trí là danh tướng kia không thật có, cũng như khách đi qua, các thức chẳng sinh, chẳng đoạn, chẳng thường, không rơi vào chỗ tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác”. “Tướng kia v.v… là tìm giải thích hai pháp danh tướng, không ra ngoài sáu thức, chấp sáu trần kia. Danh là tên. Sở thủ là tướng. Hiển hiện lập bày các danh tướng là vọng tưởng. Các tên như Voi ngựa, v.v… dùng các tên này để nói lên tướng kia. Danh tướng đã lập nghóa là việc này chắc chắn như thế chẳng khác, đó gọi là vọng tưởng phân biệt”. Trên đã nói ba pháp thuộc phàm phu. Chánh trí trở xuống là y theo pháp Thánh hiền để nói rõ tướng ngộ. Danh tướng không thật có, nghóa là muốn cầu chánh trí, nhưng ngộ danh tướng chẳng thật, giống như khách đi qua. Thức tâm chẳng khởi, xa lìa đoạn thường, không rơi vào cảnh giới của phàm phu Tiểu thừa, đó gọi là chánh trí. Nói về như như: Lại nữa Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát do rằng chánh trí này chẳng lập danh tướng, chẳng phải không lập danh tướng, lìa bỏ hai kiến chấp dựng lập và chê bai, biết danh tướng chẳng sinh, ấy gọi Như như. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát trụ như như ấy được cảnh giới không thật có, nên chứng Hoan hỷ địa Bồ-tát. Được Hoan hỷ địa Bồ-tát rồi, lìa hẳn tất cả cõi ác ngoại đạo, chánh trụ chỗ xuất thế gian thú pháp tướng thành thục, phân biệt tất cả pháp như huyễn, v.v… tự giác pháp thú tướng, lìa các vọng tưởng, kiến chấp quái lạ dị tướng, thứ lớp đến Pháp vân địa. Trong khoảng giữa đó nhờ năng lực Tam-muội tự tại thần thông khai mở, được Như lai địa rồi, các thứ biến hóa chiếu soi thị hiện thành thục chúng sinh, như trăng đáy nước, rốt ráo tròn đầy mười câu vô tận, vì các thứ ý giải của chúng sinh mà phân biệt nói pháp, pháp thân lìa ý tạo tác, đó gọi là Bồ-tát, nhập sở đắc như như: Đoạn này nói rõ như như. Do trước chánh trí quán sát danh tướng chẳng phải có chẳng phải không nên nói không lập, chẳng phải không lập, xả bỏ hai bên hữu vô, không rơi vào hai thứ chê bai tổn hại hay lợi ích, tất cả danh tướng chẳng sinh, đó gọi là nghóa như như. Bồ-tát trụ như như… chính là nêu rõ tướng như như chứng đắc. Đã nói Như như thì đâu có đắc ư! Là dùng vô đắc mà đắc, đắc pháp tự tha nhân quả. Nói cảnh giới không thật có là lìa tướng hai bên không hữu, do đó mà lên đến Hoan hỷ địa, tức Địa thứ nhất của Biệt giáo. Không lìa mà lìa, lìa tất cả đường ác của ngoại đạo, vô trụ mà trụ, trụ vào đường chánh xuất thế gian, vô phân biệt mà phân biệt, hiểu rõ tất cả pháp thảy đều như huyễn, không chứng mà chứng, chứng tự giác pháp thú, cũng lìa các vọng tưởng thấy tánh khác tướng, tức năng kiến, sở kiến. Văn trước nói rằng tướng kiến đều lìa. Như thế thứ lớp đến Pháp Vân địa, do năng lực Tam-muội… và các công đức, do khai pháp đến Như lai địa, vì chúng sinh nên hiện khắp sắc thân, như trăng đáy nước, thành tựu đầy đủ mười vô tận nguyện, tùy theo ý giải của chúng sinh mà nói pháp chọ họ nghe, thân kia thanh tịnh, lìa tâm ý thức, đó gọi là tướng như như sở đắc. Nói năm pháp thì nghóa của ba tự tánh ở trong đó: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Tại sao Thế tôn nói ba thứ tự tánh vào năm pháp, là mỗi thứ có tự tánh tông ư? Phật bảo Đại Tuệ: Ba thứ tự tánh và tám thức, hai thứ vô ngã đều vào năm pháp. Này Đại Tuệ! Danh và tướng kia là vọng tưởng tự tánh. Này Đại Tuệ! Nếu y vọng tưởng kia sinh tâm và tâm pháp thì gọi là sinh cùng lúc, như mặt trời và ánh sáng đi chung với nhau, các thứ tướng mỗi tướng phân biệt giữ gìn riêng, đó gọi là duyên khởi tự tánh. Này Đại Tuệ! Chánh trí như như không thể làm hư hoại nên gọi là thành tự tánh”. Trên đã nói rõ năm pháp thì nghóa của ba tự tánh ở trong đó, nay trước sau hội nhiếp, cho nên lại thưa hỏi, ngoài sự nhiếp nhập thì mỗi thứ đều có tự tướng tông ư! Trong đây đáp, trước đáp tổng nhập rất dễ hiểu, tiếp theo phối hợp riêng pháp tướng. Ban đầu dùng danh tướng đối vọng tưởng, từ chỗ nhân mà nói, do vọng tưởng kia lại thuộc về nhân duyên, là từ chỗ sinh khởi. Nếu nương vọng tưởng sinh tâm, tâm pháp: là nói tâm vương tâm sở nương phân biệt mà khởi, khởi là cùng lúc, như mặt trời cùng ánh sáng không lìa bỏ nhau, phân biệt các tướng tự giữ gìn, danh kia mỗi mỗi không khác nhau, đó gọi là duyên khởi tự tánh. Chánh trí như như đều chẳng phải hữu tác cho nên không thể hoại, đó gọi là viên thành tự tánh. Ấy gọi là ba tự tánh nhập vào trong năm pháp. Năm pháp được xếp vào tám thức: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Tự tâm hiện vọng tưởng tám thứ phân biệt. Nghóa là tướng thức tàng, ý, ý thức và năm thức thân, tướng chẳng thật vì vọng tưởng. Hai thứ nhiếp thọ ngã và ngã sở diệt thì hai vô ngã sinh. Cho nên Này Đại Tuệ! Năm pháp này Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như lai tự giác Thánh trí, các địa nối nhau thứ lớp, tất cả Phật pháp đều vào trong ấy”. Ở đây nói năm pháp được xếp vào trong tám thức, nơi tự tâm hiện mà khởi vọng tưởng, có tám thứ phân biệt, đều là tướng luống dối chẳng thật. Nếu lìa được hai thứ ngã chấp thì năng sở nhiếp thọ đều diệt, hai vô ngã trí do đó mà sinh, tức chánh trí như, như là tri. Thức v.v… tuy khác đồng nhưng đều quy về năm pháp, không có tự tướng tông riêng để nói. Nhưng năm pháp này, tức ba thừa cùng Phật và tất cả các pháp đều vào trong ấy. Lại nêu danh giải thích nghóa: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Năm pháp là tướng, danh, vọng tưởng, như như, chánh trí. Này Đại Tuệ! Nếu nơi chốn, hình tướng, sắc tượng v.v… hiện, đó gọi là tướng. Nếu kia có tướng như thế gọi là bình v.v… thì cái này chẳng phải cái khác, đó gọi là Danh. Lập bày các danh hiển bày các tướng như bình v.v… tâm, tâm pháp, đó gọi là vọng tưởng. Danh kia, tướng kia rốt ráo không thật có. Từ đầu đến cuối chẳng giác, đối với các pháp không xoay vần, lìa vọng tưởng chẳng thật, đó gọi là Như như. Chân thật quyết định rốt ráo tự tánh không thật có, kia là như tướng, ta và các Đức Phật thuận theo nhập xứ, khắp vì chúng sinh như thật giảng nói lập bày hiển hiện, đối với kia tùy nhập chánh giác, chẳng đoạn chẳng thường, vọng tưởng chẳng khởi, thuận theo tướng tự giác Thánh thú là tướng, mà tất cả ngoại đạo Thanh văn, Duyên giác không đạt được, đó gọi là chánh trí. Này Đại Tuệ! Đó gọi là năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai thứ vô ngã, tất cả Phật pháp đều vào trong đó. Cho nên Này Đại Tuệ! Phải tự phương tiện học, cũng dạy bảo người, chớ theo người khác: Đoạn này lại nêu danh giải thích nghóa, lại tự một đường, về đại thể thì đồng, chỉ khác về chi tiết tất cả đều như vậy. Trước tướng sau danh không ra ngoài danh thật, xen lẫn có trước có sau. Còn cả hai chẳng đồng, là trước y theo tự hành cho nên trước trí sau như, ở đây bao gồm hóa độ chúng sinh nên trái với thứ lớp kia, cho nên nói ta và các Đức Phật thuận theo nhập xứ, là như như. Khắp vì chúng sinh như thật giảng nói… là chánh trí. Cho nên biết văn này bao gồm tự tu hành và giáo hóa chúng sinh. Trong đây nói tướng, nghóa là các hình dáng nhìn thấy như sắc, v.v… đều khác nhau. Danh: là y vào các tướng kia mà đặt tên bình… do danh tướng này nên có tâm, tâm sở các thứ phan duyên, đó gọi là Vọng tưởng. Hiểu rõ danh tướng rốt ráo chẳng thật có, chỉ do tâm mê xoay vần phân biệt, như thế quán sát lìa các vọng tưởng, đó gọi là như như. Chân thật quyết định v.v… là chỉ rõ lại tướng như, nêu bày các Đức Phật nhập xứ, y nơi tự chứng như thật giảng nói chẳng đoạn chẳng thường, phàm phu Tiểu thừa chấp nghiêng về tà không thể chứng đắc nên gọi là Chánh trí. Lại nói rằng: Tất cả Phật pháp đều vào trong ấy, là y theo nghóa thu nhiếp lẫn nhau, tổng kết chung bốn thứ, cho nên khác với trên, khuyên bảo rằng: Phải tự học và dạy bảo người, lại nói chớ theo người, nghóa là chớ để cho danh tướng xoay chuyển. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghịa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Năm pháp, ba tự tánh Và cùng tám thứ thức. Hai thứ không có ngã Đều thuộc về Đại thừa Danh tướng tưởng luống dối Tự tánh hai thứ tướng Chánh trí và như như Đó tức là thành tướng”. Đều thuộc về Đại thừa, nghóa là bốn pháp trên đều thuộc về tất cả pháp Đại thừa, trái lại, tất cả các pháp cũng nằm trong bốn pháp này. Chư Phật nhiều như số cát sông Hằng: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch phật: Bạch Đức Thế tôn! Như Đức Thế tôn đã nói câu “Chư Phật quá khứ nhiều như cát sông Hằng, vị lai, hiện tại cũng giống như thế”. Thế nào Thế tôn, như lời dạy mà tin nhận, hay lại có nghóa khác? Cúi xin Như lai thương xót giải thích”: Chư Phật ba đời nhiều như cát sông hằng, kinh dạy rất nhiều, số lượng các Đức Phật quả như đã nói mà tin nhận hay là có nghóa riêng ư! Cho nên lại thưa hỏi rằng: Dựng lập để giáo hóa người: “Phật bảo Đại Tuệ: chớ như lời dạy mà tin nhận, số lượng các Đức Phật ba đời chẳng phải nhiều như cát sông hằng. Vì sao? Vì quá chỗ mong cầu của thế gian, chẳng phải năng thí dụ và sở thí dụ, do phàm ngu chấp thường, ngoại đạo vọng tưởng, nuôi lớn ác kiến, sinh tử không cùng, muốn làm cho nhàm chán vòng sinh tử, siêng năng thắng tiến, nên nói với họ các Đức Phật dễ thấy, chẳng phải như hoa ưu-đàm-bát khó thấy được. Dứt phương tiện cầu, có khi lại xem các người được hóa độ mà nói như vầy: Phật khó được gặp như hoa ưu-đàm-bát. Hoa ưu- đàm-bát không ai đã thấy, hiện thấy, sẽ thấy. Như lai thế gian đều thấy, vì chẳng do sự lập ra tự thông nên nói rằng: Như lai ra đời như hoa ưu- đàm-bát. Này Đại Tuệ! Người tự lập ra tự thông quá sự hy vọng của thế gian. Những người phàm ngu kia không thể tin cảnh giới tự giác Thánh trí, không dùng cái gì thí dụ được. Chân thật Như lai quá hơn tướng tâm ý, ý thức thấy được, không thể làm ví dụ. Này Đại Tuệ! Nhưng ta nói thí dụ Phật nhiều như cát sông Hằng không có lỗi lầm”. Trong đây đáp, trước hết chỉ ra chỗ chẳng đúng. Bởi số lượng các Đức Phật hơn cát sông Hằng, cũng quá tâm lượng hy vọng của thế gian, cho nên chẳng có năng thí dụ và sở thí dụ, đâu đợi hằng sa mà thôi, vì phàm phu lập ra thí dụ nghóa chẳng phải một đường. Như phàm phu kia chưa được hóa độ, sinh tử không cùng, Phật nói cho họ nghe các Đức Phật dễ thấy, chẳng phải như hoa ưu-đàm, giúp cho họ bất sinh nhàm chán, lui sụt, tưởng dứt phương tiện vọng cầu kia mà tiến cầu Phật đạo, dùng khó hiển bày dễ để tiến lên. Có khi quán các người được hóa độ mà nói rằng: Phật khó gặp như hoa ưu-đàm, giúp cho họ vui mừng, kính mến mà hướng về đạo, do đó mà sách tấn. Lại nói rằng hoa ưu-đàm khó thấy, không ai đã thấy, hiện thấy, sẽ thấy, nhưng Như lai đối với người thế gian đều đã thấy, cho nên biết Như lai như hoa ưu-đàm, thật nghó là là người khó gặp. Nhưng hai thí dụ nói khó nói dễ này, đều là hóa dụng bên sự của Như lai, chẳng phải cảnh giới tự chứng của Như lai, cho nên nói không dùng lập ra tự thông. Nếu luận về tự chứng thì thế gian không ai bằng, chẳng thể ví dụ được, tất cả phàm ngu không thể tin nhận, cũng chẳng phải tâm, ý, ý thức thấy biết được. Nhưng có khi dựng lập giáo hóa người, đâu có lỗi gì! Như lai không có tâm phân biệt thương ghét: Này “ Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng, tất cả cá trạnh, thâu-thu, ma-la, sư tử, voi ngựa, người thú dẫm đạp, cát chẳng nghó rằng kia não loạn ta mà sinh vọng tưởng, tự tánh thanh tịnh không có các nhơ nhớp. Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác, tự giác Thánh trí là sông Hằng, đại lực thần thông tự tại là cát. Tất cả ngoại đạo, các người, thú v.v… là tất cả não loạn, Như lai chẳng nghó mà sinh vọng tưởng. Như lai lặng lẽ không có nghó tưởng, bản nguyện của Như lai là dùng cái vui Tam-muội để làm cho chúng sinh an vui, không có não loạn, ví như cát sông Hằng không có khác nhau. Lại vì dứt bỏ tham sân. “Hằng sa các vật vô tình ở thế gian, tuy là cá trạnh, người thú… dẫm đạp cũng bất sinh niệm não loạn, để dụ cho Như lai Thánh trí thần thông tự tại, bị các ngoại đạo người thú não loạn, mà bất sinh ra nghó tưởng, vì năng lực bổn nguyện của Như lai là làm lợi lạc an vui cho chúng sinh, không có phân biệt thương ghét. Thâu-thu ma-la, Hán dịch là sát tử ngư ( cá sấu). Tánh cát chẳng hư hoại dụ cho pháp thân Như lai thường trụ: “Thí như cát sông Hằng là tự tánh của đất này, khi kiếp tận lửa cháy, cháy tất cả đất mà mặt đất kia chẳng bỏ tự tánh với hỏa đại đồng sinh. Những kẻ ngu khác nghó là đất bị cháy mà đất không cháy, vì là nhân của lửa. Cũng thế, Này Đại Tuệ! Như lai pháp thân như cát sông Hằng chẳng hư hoại”: Ở đây nói tánh cát chẳng hư hoại, là dụ cho pháp thân Như lai thường trụ. Nói tự tánh của đất có sự có lý, nói về sự tức là đồng một tánh cứng cho nên gọi là cát hay đá. Về lý thì cùng một chân tánh cứng ướt ấm động, cho nên khi kiếp tận lửa hết mà tánh của đất tự như vậy. Vì đất với lửa đồng sinh, kẻ ngu không biết thấy đó cho là lửa cháy. Lửa là nhân, vì đất không có lửa thì không cháy, lửa không có đất thì không nối nhau. Đất không thể cháy được, pháp thân Như lai không thay đổi cũng giống như vậy. Như lai lìa phần đoạn và biến dịch vì nhân duyên hữu lậu, vô lậu đều dứt: Này “Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng không có hạn lượng, ánh sáng Như lai cũng giống như thế, không có hạn lượng, vì thành thục chúng sinh nên soi khắp tất cả các Đức Phật đại chúng. Này Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng mà tìm cát khác thì không bao giờ được. Cũng thế Này Đại Tuệ! Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác bất sinh tử, sinh diệt, vì có nhân duyên nên dứt vậy”. Tiết này ý nói cát sông Hằng không có hạn lượng, ví như ánh sáng Như lai vô lượng chiếu soi khắp nơi. Nói tìm cát khác không bao giờ được, là dụ nói Như lai lìa hai món sinh tử là phần đoạn và biến dịch, vì nhân duyên hữu lậu vô lậu đều dứt. Như lai dùng trí phương tiện thành thục chúng sanh nhưng thể pháp thân chẳng thêm chẳng bớt: Này “Đại Tuệ! Thí như cát Hằng thêm bớt không thể biết được, cũng như thế, Này Đại Tuệ! Trí tuệ của Như lai thành thục cho chúng sinh chẳng thêm chẳng bớt, vì chẳng phải pháp thân. Pháp thân là có hoại, pháp thân Như lai chẳng phải loại pháp thân này”. Ở đây dụ Như lai dùng trí phương tiện mà thành thục chúng sinh, nhưng đối với thể pháp thân chẳng thêm chẳng bớt, không đồng với sắc thân có sinh có diệt. Thân pháp là sắc thân. “Như ép cát sông Hằng thì không thể ra dầu được. Cũng thế, tất cả chúng sinh dùng điều cực khổ ép ngặt Như lai, cho đến chúng sinh chứng được Niết-bàn, chẳng bỏ pháp giới, tự Tam-muội nguyện lạc, do có tâm đại bi”: Cát bụi không có dầu, dụ cho Như lai tuy bị chúng sinh dùng các khổ ép ngặt, cho đến những người không biết gì hết, chưa Niết-bàn mà muốn bỏ thâm tâm nguyện lạc cũng không thể được, dùng tâm đại bi thành thục chúng sinh đầy đủ. Như lai nói tất cả các pháp thuận theo Niết-bàn: Này “Đại Tuệ! Thí như cát sông Hằng theo nước trôi đi, chẳng phải không có nước. Cũng thế này Đại Tuệ! Tất cả các pháp do Như lai nói theo dòng Niết-bàn, cho nên nói như cát sông Hằng. Như lai không trôi theo các pháp, vì đi là nghóa hoại. Này Đại Tuệ! Mé gốc sinh tử không thể biết, không biết thì làm sao nói đi? Này Đại Tuệ! Đi là nghóa đoạn, mà kẻ ngu chẳng biết” Cát sông Hằng trôi theo dòng, người ngu chỉ thấy cát trôi mà không thấy nước. Nếu dùng trí quán sát thì chẳng phải không có nước. Đây là ví dụ Như lai nói tất cả các pháp thuận theo Niết-bàn cũng như thuận dòng mà chẳng phải nghóa đi, cho nên nói Như lai không trôi theo các dòng, nghóa là đối với pháp mà ngộ tánh, không bị xoay chuyển theo tướng, cho nên khác với dòng trôi, vì đi là nghóa sinh tử hoại diệt, mé gốc sinh tử v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Mé gốc sinh tử không thể biết được; đã không thể biết làm sao nói đường? Này Đại Tuệ! Đường nghóa là đoạn, phàm phu chẳng biết đường tức là đi. Tổng kết nêu bày giải thích thành tựu: Này “Đại Tuệ! Bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nếu chúng sinh mé gốc sinh tử không thể biết, thì làm sao biết được giải thoát? Phật bảo Này Đại Tuệ! Do thói quen vọng tưởng lỗi ác từ vô thỉ luống dối được dứt thì, tự tâm hiện, biết nghóa bên ngoài, vọng tưởng thân chuyển mà giải thoát chẳng diệt. Cho nên vô biên, chẳng phải đều không thật có, vì vọng tưởng kia khởi vô biên tên khác. Quán sát trong ngoài lìa bỏ vọng tưởng không khác chúng sinh, tri và sở tri, tất cả pháp đều vắng lặng. Chăng biết tự tâm hiện vọng tưởng nên vọng tưởng sinh, nếu biết thì diệt”. Sinh tử giải thoát lý bản tế… làm sao một bên rất dễ hiểu một bên không thể biết? Trong đây đáp, nói luống dối từ vô thỉ v.v… chính là lý do giải thoát. Nói do tự tâm hiện nên biết cảnh bên ngoài, thì vọng tưởng thân chuyển tức là giải thoát. Vọng tưởng đã chuyển tức là giải thoát thật chẳng diệt, chẳng diệt thì trùm khắp tất cả mọi nơi, cho nên nói vô biên. Thể đã vô biên nên nói chẳng phải đều không thật có. Vì vọng tướng kia v.v… Nói vọng tưởng chuyển xứ kia khởi danh giải thoát vô biên v.v… Gọi là chuyển thể mà không chuyển cho nên nói tên khác. Quán sát trong ngoài, là do trước dùng tự tâm hiện kiết nghóa bên ngoài, thì bên ngoài không có tướng bên ngoài, trở lại dùng này chiếu soi nội tâm thì trong ngoài như một, lìa bỏ vọng tưởng chỉ có một chân như, không còn pháp nào khác, cho nên nói không khác chúng sinh. Trí và tri chướng hoàn toàn không đối đãi, cho nên các pháp thảy đều vắng lặng. Chẳng biết tự tâm hiện, là lặp lại tổng kết nêu bày giải thích thành tựu. Vọng tưởng sinh diệt này đều do tự tâm biết và chẳng biết mà thôi! Nếu biết tự tâm vọng thì không gì không diệt, nhưng có nói biết mà vọng chẳng diệt, thì đó chưa gọi là biết chân thật. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Quán sát các Đạo sư Giống như cát sông Hằng Chẳng hoại cũng chẳng đi Cũng lại không rốt ráo Ấy tức là bình đẳng Quán sát các Như lai Giống như cát sông Hằng… Đều lìa tất cả lỗi. Theo dòng mà tánh thường Ấy là Phật chánh giác”. Bài tụng Bất hoại ở trên dụ cho pháp thân thường trụ. Chẳng đi là dụ do Như lai nói pháp chẳng bị trôi theo các dòng. Cũng lại chẳng rốt ráo, nghóa là dùng chẳng hoại, chẳng đi quán sát Như lai, thì chưa gọi là rốt ráo. Phải quán các Đức Phật giống như cát sông Hằng bình đẳng không khác, lìa các lỗi lầm. Lại nói theo dòng mà tánh thường, nghóa là thuận theo dòng rốt ráo Niết-bàn, đó gọi là chánh giác chân thường. “Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin nói cho con nghe tướng hoại trong từng sát-na của tất cả các pháp. Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là sát-na của tất cả các pháp? Phật bảo Này Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó, ta sẽ nói cho ông nghe. Phật bảo Đại Tuệ: Tất cả pháp, nghóa là lành, không lành, vô ký, hữu vi, vô vi, thế gian, xuất thế gian, có tội, không tội, hữu lậu, vô lậu, thọ, chẳng thọ”. Sát-na là thời gian rất ngắn, niệm là rất nhỏ nhiệm. Như nói người tráng só trong khoảng thời gian búng ngón tay có sáu mươi mốt sát-na, cho nên dùng tâm niệm sanh diệt không dừng làm sát-na, lại lấy tính chất vô thường biến hoại của vật làm sát-na, đó đều là thức tướng luống dối của chúng sinh. Trên nói vọng tưởng thân chuyển, là nói ấm v.v… vô thường, cho nên nêu tướng hoại trong sát-na của các pháp làm câu hỏi. Trong đây đáp, trước là nêu tên tất cả pháp, sau là giải thích. Nói lược về tâm, ý, ý thức và thói quen: Này “Đại Tuệ! Lược nói tâm, ý, ý thức và thói quen, ấy là do năm thọ ấm, tâm, ý, ý thức thói quen ấy nuôi lớn: phàm ngu vọng tưởng lành, không lành”: Nói lược là đối với đoạn dưới nói rộng. Tâm thức, thói quen là nhân sinh tử, năm ấm là quả sinh tử. Do không hiểu rõ tâm thức thói quen ấy nuôi lớn, cho nên có ba cõi, sáu phàm hữu lậu vọng tưởng sát-na, lành, không lành tức ba điều lành và ba điều ác. Này “Đại Tuệ! Tu về Tam-muội lạc, Tam-muội chánh thọ, hiện pháp lạc trụ gọi là hiền Thánh thiện vô lậu”: Tu Tam-muội v.v… tức nhân quả vô lậu. Nhân tâm muội là quả pháp lạc trụ, đây là pháp vô lậu của hiền Thánh ba thừa. Vô lậu tức là lìa niệm sát-na. Nói rộng tướng sát-na chẳng phải sát-na: Này “Đại Tuệ! Lành, không lành nghóa là tám thức, tám thức gồm những gì? Nghóa là Như lai tàng tên tàng thức, tâm ý, ý thức và năm thức thân, chẳng phải điều ngoại đạo nói. Này Đại Tuệ! Năm thức thân đi chung với tâm, ý, ý thức. Tướng lành, không lành xoay vần biến hoại, nối nhau trôi chảy, chẳng hoại thân sinh, vừa sinh vừa diệt. Chẳng giác tự tâm hiện, thứ lớp diệt, thức khác sinh. Hình tướng khác nhau, nhiếp thọ ý thức, năm thức đều tương ưng sinh. Thời gian sát-na chẳng dừng gọi là sát-na”. Lành, không lành trở xuống là nói rộng tướng sát- na chẳng phải tướng sát-na, danh tuy lại nêu, nghóa thì chung chỉ bày. Như lai tàng gọi là thức tàng, tức thức thứ tám, thức này cho đến danh tướng năm thức vượt ra ngoài chánh giáo, cho nên nói phẳng phải ngoại đạo nói. Nói năm thức thân, chính là nói tướng sát-na. Tâm, ý, ý thức đi chung tức là năm thức như mắt, v.v… cùng tâm, ý, thức đồng thời chấp cảnh, có tướng lành, không lành, hoặc thứ lớp khởi, hoặc xen lẫn khởi, cho nên nói lần lượt biến hoại nối nhau trôi chảy, giữa căn cảnh chưa bắt đầu gián đoạn. Bất hoại là bất đoạn. Thân sinh là năm thức thân sinh. Có sinh tức có diệt cho nên nói vừa sinh vừa diệt, do chẳng biết các cảnh tự tâm hiện nên chấp hình tướng khác nhau, niệm niệm khởi diệt, cho nên nói thứ lớp diệt các thức sinh, nhiếp thọ ý thức, do năm căn xen lạm năm trần thức trở về ý thức, khởi thiện khởi ác, cũng do ý thức đồng thời chấp cảnh mà khởi phân biệt, cho nên nói tương ưng sinh, thời gian sát-na chẳng dừng là nói các thức diệt khởi không dừng, không nơi đây thì nơi kia, không có thời gian tạm dừng, đó gọi là tướng sát-na. Rơi vào chấp đoạn, chẳng phải Niết-bàn vô lậu nên gọi là hoại pháp vô vi: Này “Đại Tuệ! Sát-na ấy gọi Thức tàng. Như lai tàng, ý câu sinh thức là thói quen sát-na, còn thói quen vô lậu chẳng phải nghóa sát-na, phàm phu chẳng giác biết được. Vì chấp đắm sát-na luận nên không giác tất cả pháp sát-na chẳng phải sát-na, rồi khởi chấp đoạn hoại pháp vô vi”. Sát-na v.v… là lặp lại tổng kết trước, khởi sau. Hai thứ tướng này tuy chung nương các thức mà sinh khởi, nhưng chỗ nghe thì riêng, cho nên gọi là Thức tàng… đó là vì các thức từ thói quen thức là sát-na. Từ thói quen vô lậu là chẳng phải sát-na. Đã là vô lậu vẫn gọi là thói quen, nghóa là thể của nó là thức thứ bảy chấp tưởng vẫn còn. Tuy chẳng phải sát-na, nhưng chưa gọi là rốt ráo chân thường vô lậu, chính là cảnh giới của Thánh hiền ba thừa, cho nên nói phàm phu chẳng giác biết được. Phàm ngu chấp đắm tạo ra sát-na luận, chẳng những phải không giác biết chẳng phải sát-na, mà còn cũng không tự biết kia là sát-na. Đo chấp đoạn, nghóa là phàm phu, ngoại đạo khổ hạnh vọng chấp Niết- bàn, đây là rơi vào chấp đoạn, chẳng phải Niết-bàn vô lậu nên gọi là hoại pháp vô vi. Phân biệt thức thứ bảy và Như lai tàng: Này “Đại Tuệ! Thức thứ bảy chẳng trôi lăn, chẳng chịu khổ vui, chẳng phải nhân Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Như lai tàng chịu khổ vui cùng đi chung với nhân, hoặc sinh hoặc diệt. Bị bốn trụ địa và vô minh trụ địa làm mê say, phàm ngu bất giác, sát-na bị vọng tưởng huân tâm”. Thức thứ bảy chẳng trôi lăn là nương vào nghóa vô lậu ở trên, đối với thức thứ sáu, thứ tám phân biệt có khác nhau, vì biết người hai thừa đây đã dứt kiến hoặc, tư hoặc không còn trôi lăn trong ba cõi, không còn chịu khổ vui sinh tử, cho nên khác với thức thứ sáu, chẳng phải nhân Niết-bàn cho nên khác với thức thứ tám, vì thức thứ tám thọ huân có khả năng thành nhân Niết-bàn. Như lai tàng chính là nói thức thứ tám, nó có khả năng bao gồm cả thiện ác, theo duyên trôi lăn sinh tử, nhân quả khổ vui. Bốn trụ địa, là vô minh cành nhánh. Vô minh trụ địa là vô minh gốc rễ. Do vô minh này say mê nên thọ hai thứ sinh tử, phàm ngu vọng tưởng huân tâm không thể biết được nên khởi kiến chấp sát-na. Phật đáp câu hỏi về sát-na: “Lại nữa Này Đại Tuệ! Như vàng, kim cương, xá-lợi Phật có tính chất kỳ lạ đặc biệt không bao giờ làm tổn hoại được. Này Đại Tuệ! Nếu được Vô gián mà có sát-na thì Thánh lẽ ra chẳng phải bậc Thánh. Nhưng Thánh không hề chẳng phải Thánh, như kim cương tuy trải nhiều số kiếp mà cân lượng chẳng giảm bớt. Tại sao phàm ngu chẳng rõ lời nói ẩn chứa của ta, đối với tất cả pháp trong ngoài nghó là sát- na?”. Như lai vốn đáp câu hỏi về sát-na. Sát-na thì có tổn hoại, mà lại dùng bất khả tổn hoại để nói, bời vi mê thì đó là sát-na, ngộ thì chẳng phải sát-na, dụ như kim cương… tinh chất cứng chắc trong vàng, vì trăm lần luyện khoáng thì chất bã lắng xuống, chỉ còn hoàn toàn nguyên chất vàng, vật không thể hoại được, nó là tánh đặc biệt ở thế gian này. Lại dụ xá-lợi Phật do muôn hạnh huân tu, cấu nhiễm đều sạch hết, chỉ một tánh thuần nhất chân thật không gì phá hoại được, đây là tánh đặc biệt xuất thế gian. Chân thường mà Như lai chứng được cũng giống như vậy, cho nên nói nếu được Vô gián mà có sát-na v.v… Phật bảo: ta dùng Vô gián Tam-muội chứng đắc chân thường, đâu có sát-na. Nói Thánh lẽ ra chẳng phải Thánh, xét rằng bậc Thánh chưa từng có lý chẳng phải Thánh, thì biết đã ngộ chẳng mê, kia không sát-na rõ ràng, cho nên nói kim cương tuy trải qua nhiều số kiếp mà cân lượng chẳng giảm bớt, tại sao phàm phu không hiểu lời bí mật đó, đối với tất cả pháp nghó là sát- na. Ẩn chứa là bí mật. Đại Tuệ nương theo sáu độ mà thưa hỏi: “Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như Thế tôn nói sáu pháp Ba-la-mật đầy đủ thì được thành Chánh giác, Sáu pháp ấy là gì?”. Sát-na sinh diệt là sự sinh tử bờ bên này. Chân thường bất hoại là lý Niết-bàn bờ bên kia, từ bờ bên này mà qua đến bờ bên kia. Do sát-na mà rốt ráo chân thường là công đức của sáu độ kia, cho nên Đại Tuệ nương theo đó mà thưa hỏi. Ba-la-mật: Ba-la-mật thế gian: “Phật bảo Đại Tuệ: Ba-la-mật có chia ra ba thứ: Thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng. Này Đại Tuệ! Thế gian Ba-la-mật là ngã và ngã sở nhiếp thọ chấp đắm, nhiếp thọ hai bên, là chỗ các thứ thọ sinh, ưa sắc, thanh, hương, vị, xúc nên đầy đủ bố thí Ba-la-mật, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng giống như thế, phàm phu thần thông và sinh Phạm thiên”. Trong đây đáp, nói sáu độ có ba thứ: ban đầu nói sáu độ thế gian, là nói ngã, ngã sở nhiếp thọ chấp đắm v.v… nghóa là phàm phu tu kia mắc bốn lỗi, có chỗ gọi là chấp ngã, ngã sở, tức là không có niệm độ sau: 1.chấp đắm hai bên, thì không thể thấu đạt lý trung đạo đến bờ bên kia; 2.vì cầu quả báo tốt đẹp thì không tránh khỏi sinh từ; 3.ưa đắm sáu trần thì chẳng phải không trụ tướng mà bố thí; 4. Ngoại đạo được năm thần thông và sinh Phạm thiên, cũng do tu sự vô lậu sáu độ mà được. Ba-la-mật xuất thế gian: “Đại Tuệ! Ba-la-mật Xuất thế gian, là Thanh văn, Duyên giác rơi vào nhiếp thọ Niết-bàn, hành sáu Ba-la-mật thích tự mình được vui Niết-bàn”. Đây là chỗ tu của người hai thừa, chỉ nương bốn đế, mười hai nhân duyên, thực hành sáu độ này. Nói rơi vào nhiếp thọ Niết-bàn, chỉ vì tự độ mà ưa thích lý chân không, khác với chỗ tu của Bồ-tát. Ba-la-mật xuất thế gian thượng thượng: “Xuất thế gian thượng thượng Ba-la-mật, là giác tự tâm hiện lượng, vì vọng tưởng nhiếp thọ và tự tâm là hai, nên chẳng sinh vọng tưởng. Đối với các đường không có phần nhiếp thọ tự tâm sắc tướng không chấp đắm, vì an vui tất cả chúng sinh khởi bố thí Ba-la-mật. Khởi phương tiện thượng thượng, duyên vào vọng tưởng kia chẳng sinh là giới, ấy là trì giới Ba-la-mật. Tức đối với vọng tưởng kia chẳng sinh là nhẫn, biết năng nhiếp, sở nhiếp, ấy là nhẫn nhục Ba-la-mật. Đầu hôm, giữa đêm và gần sáng, tinh tấn phương tiện. Tùy thuận phương tiện tu hành, vọng tưởng chẳng sinh, ấy là Tinh tấn Ba-la-mật. Vọng tưởng diệt hết, chẳng rơi vào nhiếp thọ Niết-bàn của Thanh văn, ấy là thiền định Ba-la-mật. Tự tâm vọng tưởng chẳng phải tánh, trí tuệ quán sát chẳng rơi vào hai bên, thân trước càng thù thắng không thể hoại, được tự giác Thánh thú, đó là Bát-nhã Ba-la-mật”. Đây là hạnh tu của viên đốn của Bồ-tát. Nhiếp thọ nghóa là sáu căn nhiếp thọ sáu trần và tự tâm là hai. Tu bố thí độ trị san tham, năng trị sở trị là hai. Bồ-tát Đại thừa đã giác rõ các pháp duy tâm hiện. Cái gọi là không trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà thực hành bố thí thì năng trị, sở trị hai mà không hai. Hai không hai cho nên thể của ba luân là không, nên nói rằng chẳng sinh vọng tưởng, năng thí không, chẳng nhiếp thọ năng thọ không, không chấp đắm sắc tướng, vật sở thí không. Bồ-tát thực hành bố thí như vậy là làm lợi lạc tất cả chúng sinh, cho nên nói thượng thượng phương tiện. Tức là đối với duyên kia v.v… nghóa là đem tâm lành tu bố thí, đối với giữ giới v.v… cũng vọng tưởng chẳng sinh, mỗi mỗi xứng tánh mà giữ giới; như vậy mà trì giới thì chẳng giữ chẳng phạm; như vậy mà an nhẫn thì không trái, không thuận; như vậy mà tinh tấn thì có gì là siêng năng, có gì là biếng nhác; như vậy mà tu thiền thì không định, không loạn; như vậy mà thực hành Bát-nhã thì không ngu si, không trí tuệ, tự nhiên chẳng phải tức là hai bên, chẳng phải lìa hai bên, an trụ trung đạo vượt thẳng qua bờ bên kia, đó gọi là tướng thượng thượng Ba-la-mật. Trong nhẫn nói biết năng nhiếp, sở nhiếp tức là năng thủ sở thủ tự tánh đều không. Trong tinh tấn nói hai thứ phương tiện: 1. Tướng riêng, nghóa là tụng kinh v.v… 2. Tướng chung, nghóa là bao gồm năm độ đều phải tinh tấn mà thực hành. Trong thiền độ nói chẳng rơi vào nhiếp thọ Niết-bàn của Thanh văn, nghóa là định lực Thanh văn thiên lệch rất nhiều và ưa đắm Niết-bàn, Bồ-tát thì không như vậy, mà sáu độ đều nói vọng tưởng chẳng sinh, hoặc nói đều diệt, hoặc nói chẳng phải tánh, vậy thì sáu độ tuy khác mà do lìa vọng làm gốc, nếu lìa vọng thì hạnh gì mà không thành. Thân trước càng cao quý không thể hư hoại, nghóa là sáu độ tăng tiến cho đến Bát-nhã, được thân trí tuệ, chuyển biến thù thắng năm thức trước, không thể phá hoại, được tự giác Thánh thú, đạt đến trí Bát-nhã, vì thế ba phẩm tuy chung cho trung hạ mà ý thật ở nơi thượng thượng, người tu phải nên phân biệt rõ. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nói kệ rằng: “Không vô thường sát-na Kẻ ngu vọng tưởng làm Như sông, đèn, hạt giống Mà nghó là sát-na Sát-na dứt phiền loạn Vắng lặng lìa chỗ làm Tất cả pháp chẳng sinh Ta nói nghóa sát-na”. Như lai thường thí dụ như dòng sông, như hạt giống, như đèn… phá vọng tưởng tác pháp hữu vi kia đều là không, vô thường, sát-na, phàm phu không hiểu rõ lời nói ẩn chứa này, mà khởi sát-na vọng tưởng. Sát- na dứt phiền loạn… chính bài tụng trên nói nghóa ẩn mật, nghóa là hiểu rõ được sát-na, có thể dứt phiền loạn. Thể vắng lặng thì tự nhiên lìa sở tác, cho nên tất cả pháp chẳng sinh, do đó nên nói nghóa sát-na. Sinh diệt là lý thường: “Vật sinh thì có diệt Chẳng nói cho kẻ ngu Tánh Vô gián nối nhau Được vọng tưởng huân xông Do Vô minh làm nhân Tâm từ kia sinh ra Cho đến sắc chưa sinh Trung gian có phần gì?” Vật sinh thì có diệt, cố nhiên sinh diệt là lý thường. Nếu nói cho người ngu nghe thì làm vẫn đục danh tướng, do đó phá pháp sinh diệt. Trước là nêu bày tướng sinh làm chỗ bác bỏ, nghóa là tánh Vô gián nối nhau, tức sát-na sinh diệt. Do vọng tưởng huân xông, vô minh làm nhân, cho nên sát-na vọng tâm từ kia mà sinh, kế là nói năng phá trung gian, đầu tiên là bác bỏ tướng sinh. Nói cho đến sắc chưa sinh v.v… nương vào tâm nói trên, tuy sinh mà sắc chưa sinh, trung gian tự không có chỗ nương, tâm này Vô Sắc mà chẳng sinh. Có phần gì? Kinh Nhập Lăng- già chép: trụ ở chỗ nào? Nói về sự nối nhau diệt: “Nối nhau thứ lớp diệt Tâm khác theo kia sinh Khi chẳng trụ vào sắc Duyên chỗ nào mà sinh? Vì từ kia sinh ra Nhân không như thật sinh Tại sao không thành tựu Mà biết sát-na hoại?” Đây là nói về sự nối nhau diệt, nghóa là sắc tuy đã sinh, mà tâm nối nhau diệt, đó là sắc tâm không đối đãi nhau, dù có các tâm theo sắc kia sinh, nhưng nếu tâm không trụ vào sắc, thì duyên vào đâu mà sinh? Vì niệm niệm không dừng mà cũng không chấp lấy, nên tâm ấy tuy có sắc cũng có tánh vô sinh. Hoặc là từ kia sinh thì tự có thể được tánh vô sinh, cho nên nói nhân không như thật mà sinh. Thứ lớp bác bỏ diệt tướng, do trên cầu sát-na thành tướng còn không thể được, huống chi có sát-na diệt tướng ư! Hoại tức là diệt. Đã phá sinh diệt thì trở lại gốc chân thường. Có bốn pháp bất hoại: “Người tu hành chánh thọ Kim cương xá-lợi Phật Cung điện trời quang âm Thế gian việc chẳng hoại Trụ nơi chánh pháp được Như lai đầy đủ trí Tỳ-kheo được bình đẳng Làm sao thấy sát-na Càn-thát-bà huyễn thảy Sắc không có sát-na Đối sắc chẳng thật thảy Xem đó như chân thật”. Bài tụng này nói có bốn pháp bất hoại: 1.Tu hành được chánh định. 2.Kim cương. 3.Xá-lợi Phật. 4.Cung điện trời quang âm, tầng trời này ba tai chẳng phá hoại được, lại vì khi hậu kiếp mới sinh thành. Tầng trời này và Kim cương là việc chẳng hoại ở thế gian, chánh định và xá-lợi Phật là việc xuất thế gian chẳng hoại, kế là chỉ bày người có khả năng được sự chẳng hoại. Nói trụ trong chánh pháp được, nghóa là Như lai dùng chánh trí trang nghiêm đầy đủ, Tỳ-kheo dùng bình đẳng chánh định đều do chánh pháp mà được, nhưng Kim cương và quang âm tuy gọi là bất hoại, nhưng đều là vô thường. Làm sao thấy sát-na? Bài tụng trên tổng kết, bác bỏ, nghóa là nếu không như trên khởi kiến chấp sát-na, phải dùng lý gì thấy sát-na ư! Cho nên ví dụ như thành Càn-thát- bà, nhưng huyễn sắc tất nhiên chẳng phải sát-na, mà chúng sinh đối với pháp luống dối chấp cho là thật có, vậy cũng như thấy thành Càn-thát- bà là huyễn sắc mà cho là thật, chẳng phải sát-na là gì, nếu hiểu rõ sát-na vọng thì đó là chân thật. Nói bày thắc mắc: “Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thế tôn thọ ký cho A-la-hán được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đồng với các Bồ-tát không khác nhau. Tất cả pháp chúng sinh không đến Niết-bàn thì ai đến Phật đạo? Từ khi mới thành Phật cho đến vào Niết-bàn, ở trong khoảng giữa thời gian ấy không nói một chữ, cũng không có đối đáp? Vì Như lai thường định, cũng không suy nghó, không xét nét, do hóa Phật hóa làm Phật sự? Vì sao nói biết tướng hoại lần lượt sát-na? Kim cương lực só thường theo hộ vệ, tại sao không lập ra bản tế, mà hiện ma, nghiệp ma, quả báo nghiệp ác, chiến-già ma-nạp, con gái Tôn-đà-lợi, ôm bát không mà về, nghiệp ác chướng hiện? Tại sao Như lai được trí Nhất thiết chủng mà chẳng lìa các lỗi ấy”. Văn này có bảy thắc mắc: 1. Hỏi thọ ký Thanh văn. 2. Từ tất cả chúng sinh cho đến không trả lời, hỏi vì sao Phật nói không nói pháp. 3. Như lai thường trở xuống là hỏi đâu đợi suy nghó nói pháp. 4. Hóa Phật trở xuống là hỏi tướng hoại sát-na. 5. Hỏi vì sao Kim cương lực só theo hộ vệ. 6.Hỏi bản tế. 7.Hỏi chín thứ não bại, chín thứ não hại như thiên ma khởi binh, Bà-la-môn Chiến-già là cô gái dùng chậu gỗ úp trên bụng cột lại vu báng Phật tư thông với y. Tôn-đà-lợi giết con gái đem chôn trong đất chùa để vu báng Phật phạm dâm sát. Trong thôn Ba-lợi- na Phật khất thực ôm bát không mà về, và ăn lúa ngựa, đầu lưng đều đau đớn, gai đâm chân, hầm lửa, cơm độc, các báo hiện, đó là chín. Đáp thắc mắc đầu: “Phật bảo Đại Tuệ: Lắng nghe! Lắng Nghe! Hãy khéo suy nghó, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: Lành thay! Thế tôn! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Vì Niết-bàn vô dư tiến lên thực hành hạnh Bồ-tát. Thế giới này và các thế giới khác những người tu hạnh Bồ-tát ưa Niết-bàn của Thanh văn thừa, vì khiến lìa Thanh văn thừa tiến, đến Đại thừa nên hóa Phật thọ ký cho Thanh văn, chẳng phải pháp Phật. Này Đại Tuệ! Do đó nên thọ ký các Thanh văn và Bồ-tát không khác. Này Đại Tuệ! Chẳng khác ấy, Thanh văn, Duyên giác, các Đức Phật Như lai, phiền não chướng dứt, một vị giải thoát, chẳng phải trí chướng dứt. Này Đại Tuệ! Trí chướng là thấy pháp vô ngã, thù thắng thanh tịnh. Phiền não chướng là thói quen trước kia, người vô ngã dứt, thức thứ bảy diệt, pháp chướng giải thoát, thức tàng thói quen diệt, rốt ráo thanh tịnh”. Ở đây đáp thắc mắc đầu: Nói là Niết-bàn vô dư cho nên nói vân vân, quả sinh tử trói buộc dứt hết, nên gọi là vô dư, nhưng chẳng phải rốt ráo, tuy là thọ ký vẫn phải thực hành hạnh Bồ-tát, đây chính là dắt dẫn Tiểu thừa tiến lên. Lại nói: thế giới này và các thế giới khác… là nói Bồ-tát bắt đầu tu đại hạnh lại ưa quả Tiểu thừa, vì hàng Thanh văn nói thọ ký việc để sách tấn họ, cho nên nói tiến hướng đến Đại thừa. Điều này tức là ý kinh này nói thọ ký cho Thanh văn. Thọ ký Thanh văn nói trong Kinh Pháp Hoa, nay là hóa Phật quyền thọ ký, cho nên nói chẳng phải pháp Phật. Nói không khác với Bồ-tát v.v… là y theo cùng dứt hoặc chướng, giải thoát một vị mà nói như vậy, chẳng phải trí chướng dứt. Trí chướng dứt thì thấy pháp vô ngã, được cảnh giới thanh tịnh cao siêu của Như lai, chẳng phải Thanh văn. Thanh văn chỉ dứt phiền não kiến tư hoặc, thấy người vô ngã, chưa phá vô minh thấy pháp vô ngã, cho nên khác Bồ-tát. Lại nói thức thứ bảy diệt, chính là dùng thức thứ bảy thứ tám mà nói về hai chướng: có giải thoát, chưa giải thoát, Nhị thừa chỉ diệt thức thứ bảy mà pháp chướng chưa thoát. Cái gọi là chỉ lìa luống dối gọi là giải thoát. Nếu pháp chướng v.v… diệt mới gọi là rốt ráo thanh tịnh, vậy nên biết đồng khác chẳng thể xem nhẹ. Đáp thắc mắc thứ hai: “Vì pháp bản trụ trước sau chẳng có tánh”: Trong đây đáp thắc mắc thứ hai, nghóa là pháp bản trụ không thêm không bớt cho nên trước không có Phật đạo để đắc, sau không có Niết-bàn để nhập, trung gian cũng không có pháp để nói, cho nên nói trước sau không có tánh; phi tánh là lìa tự tánh. Đáp thắc mắc thứ ba: “Vì bổn nguyện vô tận, Như lai không nghó không xét mà giảng nói pháp, vì dùng chánh trí giáo hóa, vì niệm chẳng vọng, nên không nghó không xét. Vì bốn trụ địa và vô minh trụ địa thói quen đã dứt, hai thứ phiền não dứt, thì lìa hai thứ sinh tử, giác biết người pháp vô ngã và hai chướng dứt”. Đây là đáp thắc mắc thứ ba. Như lai độ sinh thệ nguyện vô tận, không mưu cầu mà ứng, không nói mà nói, cho nên nói không nghó không xét, vì cuối cùng chánh trí soi chiếu khắp pháp giới, như gương hiện hình, ảnh đâu đợi suy nghó, sau mới nói pháp ư! Lại nói tự trụ địa… nghóa là quả cùng tận rốt ráo, đã dứt hai chướng, đã lìa hai thứ sinh tử, đã chứng hai pháp vô ngã, chẳng lẽ không là việc làm của hóa Phật ư! Đáp thắc mắc thứ tư: Này “Đại Tuệ! Tâm, ý, ý thức v.v… có bảy là nhân thói quen sát- na, lìa các điều lành vô lậu, chẳng còn trôi lăn. Này Đại Tuệ! Như lai tàng là trôi lăn là nhân khổ vui Niết-bàn, người có trí tuệ không loạn ý và phàm phu ngu si không thể giác ngộ được”. Đây là đáp thắc mắc thứ tư. Tâm ý v.v… gọi là bảy thức thân, tức một là đệ lục sự thức, mà sát- na có hoại không hoại, do lời nói có khác nhau. Nếu cho rằng các thức từ nhân sát-na thói quen, thì có hoại, từ vô lậu thì không hoại, do lìa tánh kia chẳng phải sát-na nên chẳng còn trôi lăn, tức không có nghóa hoại. Nhưng thói quen sát-na là phần của thức thứ sáu, các điều lành vô lậu là phần của thức thứ bảy. Đây là thức thứ sáu, thứ bảy đối nhau nêu rõ nghóa hoại, chẳng hoại. Nếu y theo thức thứ bảy, thứ tám dựa vào nhau thì thức thứ bảy chấp ngã tâm tưởng chưa dứt nên sẽ hoại, chỉ có thức thứ tám không hoại, cho nên đặc biệt nói bảy ý như nhãn thức v.v…, thức thứ tám chẳng hoại. Như lai tàng là hiển bày riêng tàng thức, nghóa là thức này đang trôi lăn nên gọi là luân chuyển, ở Niết-bàn gọi Niết-bàn, cùng chung với khổ vui mà chẳng phải như bất tịnh, vậy thì “bất tức bất ly, phi hoại bất hoại”, cho nên phàm ngu chẳng giác biết được. Không loạn là Tiểu thừa chấp không, là bị không làm loạn. Đáp thắc mắc thứ năm: “Này Đại Tuệ! Kim cương lực só theo hộ vệ ấy là hóa Phật chẳng phải Như lai chân thật. Này Đại Tuệ! Chân Như lai lìa tất cả căn lượng, tất cả căn lượng phàm phu, Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo thảy đều diệt, được hiện pháp lạc trụ, Vô gián pháp trí nhẫn, nên chẳng phải Kim cương lực só hộ vệ. Tất cả hóa Phật chẳng từ nghiệp sinh. Hóa Phật chẳng phải Phật, chẳng lìa Phật. Do thợ gốm, bánh xe v.v… chúng sinh tạo ra hình tướng mà nói pháp, chẳng phải chỗ tự thông nói cảnh giới tự giác”. Đây là trả lời thắc mắc thứ năm. Trong câu hỏi này có đối luận, biệt luận, đối luận thì Phật có chân hóa, cho nên nói người được lực só hộ vệ là hóa Phật, lìa tất cả căn lượng v.v… Nói chân Phật không rơi vào pháp tự tha ấm giới nhập được hiện pháp lạc trụ, Vô gián pháp trí nhẫn, rốt ráo trụ nơi trí đoạn. Công đức pháp thân thường đi chung với định, cho nên không cần hộ vệ. Về Biệt luận, thì tuy hóa cũng không hệ vệ vì có hai ý, vì hóa nghóa là hóa hiện, cũng là ứng. Lại nữa, không mà có gọi là Hóa, đều tùy căn cơ ứng hiện, khác với phàm phu tùy thật nghiệp mà sinh thì không đợi hộ vệ (một ý). Lại nói hóa Phật là chẳng phải Phật, chẳng lìa Phật, là từ chân thật khởi hóa, cho nên chẳng phải một, chẳng phải khác, cũng không đợi hộ vệ (hai ý). Nhưng hóa dụng phải nhờ chúng sinh, chúng sinh có tạo nên các duyên phải đầy đủ, cho nên Phật cũng dùng duyên đầy đủ mà nói pháp, nên gọi là nhân thợ gốm v.v… Chính là chấp duyên đủ nghóa, đó tức không hộ mà hộ. Như Kim cương lực só đâu chẳng phải hóa ư! Chẳng phải chỗ tự thông là khác với chân Phật, chỉ nói cảnh giới tự giác. Đáp thắc mắc thứ sáu: “Lại nữa Này Đại Tuệ! “Kẻ ngu nương bảy thức thân diệt rồi khởi lên chấp đoạn, vì tự vọng tưởng nên chẳng biết bản tế. Tự vọng tưởng tuệ diệt nên được giải thoát”. Đây là trả lời thắc mắc thứ sáu. Bản tế chẳng phải không thể lập bày, chỉ vì chúng sinh chưa thể tự vượt ra ngoài vọng tưởng, đối với bản tế có chỗ không biết, rất đỗi vọng tưởng, không thể ra khỏi chấp đoạn, chấp thường, cho nên nói kẻ ngu nương bảy thức thân diệt… Y theo sự hiểu biết của kia, vì cùng tột ngoài thức thứ bảy không hiểu biết gì, nên khởi chấp đoạn, mà không biết thức tàng vô tận, thấy niệm niệm kia nối nhau nên khởi chấp thường. Do kia tự vọng tưởng bên trong mà không đề cập đến bên ngoài cho nên không thể biết, phải đợi vọng tưởng chuyển diệt mới gọi là giải thoát tuệ diệt, là nêu lên vọng không tự diệt, phải do tuệ mà diệt.” Đáp thắc mắc thứ bảy: “Vì bốn trụ địa vô minh trụ địa thói quen dứt nên tất cả lỗi dứt”. Đây đáp thắc mắc thứ bảy. Như lai năm trụ phiền não, thói quen chính đều sạch, dứt hai thứ sinh tử, đâu còn các việc như nghiệp ma v.v…, nhưng vì chúng sinh mà phương tiện thị hiện đó thôi. Bảy câu hỏi bảy câu đáp này, nương kinh để phân chia tiết, hoặc chia làm mười, hoặc chia làm sáu, người đọc phải xem kỹ lưỡng. Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: “Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: Ba thừa cũng phi thừa Như lai chẳng diệt mất Được tất cả Phật ký Nói lìa các lỗi ác Vì các trí Vô gián Và Niết-bàn vô dư Dẫn dụ người thấp kém Cho nên nói ẩn che Trí mà các Phật khởi Tức phân biệt nói đạo Các thừa chẳng phải thừa Kia là phi Niết-bàn Dục sắc hữu và kiến Nói là bốn trụ địa Điều mà ý thức khởi Nhà thức, chỗ ý ở Ý và nhãn thức thảy Đoạn diệt nói vô thường Hoặc khởi chấp Niết-bàn, Và vì nói thường trụ”. Phi thừa là chẳng phải Phật thừa. Chẳng diệt mất là Phật chân thật, vì kia chẳng phải thừa nên thọ ký Nhất thừa, vì đó là Phật chân thật nên nói lìa các lỗi ác. Bài kệ này là đáp hai thắc mắc đầu và cuối gồm có hỏi đáp năm thắc mắc còn lại, bị các trí Vô gián che lấp, bài tụng này đáp ý rất dễ hiểu. Trí mà các Phật khởi, bài tụng này đáp thắc mắc thứ hai, nghóa là từ khi bắt đầu tu đạo ngồi dưới gốc cây, đến khi chứng đắc trí, về sau tức phân biệt nói đạo. Đây là dùng nói để hiển bày không nói, chẳng gọi là không nói. Vì lời nói không tự tánh, nên ba thừa mà chẳng phải Phật thừa. Chân không Niết-bàn mà chẳng phải rốt ráo Niết-bàn, cho là không nói. Dục sắc hữu và kiến v.v… bài tụng này nói bốn trụ địa, nghóa là hoặc kiến tư trong ba cõi chia làm bốn trụ. Ý thức trở xuống, bài tụng này đáp thắc mắc thứ sáu, nghóa là ý do thức thứ tám mà khởi, mà thức thứ tám trụ nơi ý, cho nên gọi là nhà. Do đó mà nói tự không dung hợp vì bảy thức thân diệt thì khởi chấp đoạn. Lại nữa ý và nhãn thức v.v… ở chỗ đoạn diệt nói vô thường, hoặc khởi chấp Niết-bàn, đây đều là phàm phu, ngoại đạo tự vọng tưởng chấp, cho nên không biết bản tế. Vì vậy mà Như lai nói thường trụ. Đức Phật nói kệ để pặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Các vị Bồ-tát kia Chí mong cầu Phật đạo Rượu thịt hành và tỏi Nếu ăn thì thế nào? Cúi mong đấng Vô thượng Thương xót giảng nói cho Điều kẻ ngu tham đắm Nhơ hôi không tốt đẹp Vật cọp sói ưa thích Làm sao mà nên ăn? Ăn vào sinh các lỗi Không ăn là phước lành Cúi xin nói con nghe Tội phước ăn, chẳng ăn” Đức Như lai ở trong cung quỷ vương nói pháp, các dạ-xoa nghó rằng giờ ăn sắp đến, chẳng phải thịt thì không ăn. Đại Tuệ, vì muốn các quỷ vương sinh tâm từ, nên thỉnh Như lai nói tội lỗi ăn thịt, không ăn thịt. Ngoại đạo còn không ăn thịt, chẳng lẽ Phật lại ăn thịt: Bồ-tát Đại Tuệ nói kệ hỏi Phật rồi, lại bạch Phật rằng: Cúi xin Đức Thế tôn vì chúng con nói công đức và tội lỗi của việc ăn thịt, không ăn thịt. Con và các Bồ-tát ở đời hiện tại, vị lai, sẽ vì chúng sinh có các thứ ưa muốn ăn thịt phân biệt nói pháp, khiến chúng sinh kia từ tâm với nhau, được từ tâm rồi, mỗi người nơi trụ địa thanh tịnh sáng tỏ, chóng được rốt ráo Vô thượng Bồ-đề. Hàng Thanh văn, Duyên giác dừng nghó nơi địa vị của mình rồi, cũng được chóng thành vô thượng Bồ-đề. Các chúng ngoại đạo pháp ác tà luận, tà kiến đoạn thường điên đảo chấp chặt, còn có pháp ngăn không cho ăn thịt, huống là Như lai cứu giúp thế gian, thành tựu chánh pháp mà ăn thịt hay sao? Kinh Nhập Lăng-già chép: Lộ-già-da v.v… các chúng ngoại đạo khởi kiến chấp hữu vô đoạn thường, còn có việc ngăn cấm không cho ăn thịt, huống chi Như lai là bậc Chánh đẳng giác Đại bi là chỗ chúng sinh nương nhờ mà cho phép mình và người đều ăn thịt hay sao? Chúng sanh làm quyến thuộc qua lại với nhau: “Phật bảo Đại Tuệ: Lành thay! Lành thay! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghó, ta sẽ nói cho ông nghe. Đại Tuệ bạch Phật: xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Tuệ: Có vô lượng nhân duyên không nên ăn thịt. Nhưng nay ta sẽ nói sơ lược cho ông nghe: Vì tất cả chúng sinh từ trước đến nay nhân duyên xoay vần, thường làm sáu thân, vì tưởng người thân không nên ăn thịt” Kinh Nhập Lăng-già chép:: Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay ở trong sinh tử luân hồi không dứt, chẳng phải chưa hề làm cha mẹ anh em, nam nữ quyến thuộc với nhau, cho đến bạn bè thân yêu giúp đỡ lẫu nhau, nay sinh làm loài cầm thú…tại sao lại còn ăn thịt ư! Không nên ăn các thức thịt: “Thịt của các loài, lạc đà, chó, chồn, trâu, ngựa, người, thú… vì người hàng thịt bán lẫn lộn, chẳng nên ăn thịt. Do khí phần bất tịnh sinh trưởng nên chẳng được ăn thịt. Vì chúng sinh ngửi mùi thấy tanh hôi sinh sợ hãi, như Chiên-đà-la và Đàm-bà v.v… chó thấy oán ghét, sợ hãi sủa vang, chẳng nên ăn thịt”. Tiếng Phạm Chiên-đà-la, Hán dịch là đồ giả. Đàm-bà, Hán dịch Thực cẩu nhục nhân, còn gọi là lạp sư. Tác hại của việc ăn thịt: “Lại nữa, vì ăn thịt khiến người tu hành chẳng sinh từ tâm cho nên không ăn thịt. Vì kẻ phàm phu tham đắm ăn đồ hôi hám bất tịnh, không được tướng tốt, chẳng nên ăn thịt. Vì ăn thịt khiến cho chú thuật không thành tựu, chẳng nên ăn thịt. Vì người sát sinh thấy hình khởi thức, đắm trước mùi vị, chẳng nên ăn thịt, Vì người ăn thịt kia các vị trời thấy bỏ đi, chẳng nên ăn thịt. Vì khiến miệng hôi hám không nên ăn thịt. Vì nhiều ác mộng, chẳng nên ăn thịt. Vì trong chốn vắng lặng cọp sói ngửi mùi, chẳng nên ăn thịt. Vì khiến ăn uống không tiết độ, chẳng nên ăn thịt. Vì khiến người tu hành chẳng sinh thỏa mãn, không nên ăn thịt”. Ta thường nói rằng: Hễ có ăn uống thì nên nghó là như ăn thịt con, nghó là như uống thuốc, không nên ăn thịt. Vì vậy, cho phép ăn thịt thật là điều vô lý. Dẫn việc xưa để chứng minh: Lại nữa Này Đại Tuệ! Thưở xưa, có ông vua tên Sư tử Tô-đà-bà, ăn các thứ thịt cho đến thịt người, thần dân chịu không nổi liền định mưu phản, dứt hết bổng lộc. Bởi ăn thịt có các tội lỗi như thế, không nên ăn thịt. Lại nữa Này Đại Tuệ! Các người sát sinh là vì tài lợi kẻ hàng thịt sát sinh buôn bán, những chúng sinh ngu si ăn thịt kia lấy tiền làm lưới mà bắt các thứ thịt. Người sát sinh hoặc do tài vật, hoặc dùng câu lưới bắt những chúng sinh dưới nước, trên đất, bay trên hư không, các thứ giết hại đem bán cầu lợi. Đại Tuệ ta cũng có dạy chẳng cầu chẳng tưởng mà có thịt cá. Do các nghóa ấy, không nên ăn thịt. “Này Đại Tuệ! Có khi ta nói cấu năm thứ thịt, hoặc cấm mười thứ thịt. Nay ở kinh này thì bất cứ thứ thịt nào, bất cứ lúc nào đều không được ăn, tất cả đều nên dứt. Này Đại Tuệ! Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác còn không có ăn, huống là ăn thịt, cũng không dạy người. Vì lòng đại bi làm trước nên xem tất cả chúng sinh ví như con một, cho nên không cho ăn thịt con”. Trong văn nói cũng dạy không cầu không tưởng mà có thịt cá, nên đủ hai nghóa: 1. Hàng thịt buôn bán, chẳng phải chỉ tự sát sinh mà cũng bảo người giết là giáo, vì tài lợi nên dùng câu lưới… bắt các chúng sinh kia, là cầu. 2. Thấy hình khởi thức thân sinh đắm vị, là tưởng. Kế đến bảo kẻ ngu ăn thịt chúng sinh, tuy không tự giết, nhưng do ăn thịt nên kẻ hàng thịt nổi lên mua bán, tức là nghóa bảo giết. Dùng tiền làm lưới bắt các thứ thịt, tức là nghóa cầu. Nghóa tưởng giống như trên. Nhưng năm thứ thường của Nho giáo lấy nhân làm đầu. Nói rằng: câu mà không có lưới, cung tên không bắn ban đêm, không giết bào thai, không chết yểu, quân tử xa lánh nhà bếp, đều là đầu mối của lòng nhân, mà không cấm ăn thịt. Đức Phật xếp giới không giết chúng sinh là giới thứ nhất, xem con trùng nhỏ nhít không khác con mình. Vì vậy nếu không có giới thì làm hư hạt, giống từ bi, lòng nhân kia há chẳng rộng ư? Đức Phật nói kệ để lặp lại nghóa trên: Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghóa này nên nói kệ rằng: “Đã từng làm quyến thuộc Thịt là vật hôi tanh Do bất tịnh nuôi lớn Nghe mùi đều sợ hãi Tất cả thịt và hành Và các thứ tỏi nén Các thứ rượu buông lung Tu hành thường lánh xa Cũng thường lìa dầu mè Và các giường thủng lỗ Vì các trùng nhỏ kia Ở trong rất sợ hãi”. Nói lìa dầu mè, phong tục nước ngoài đâm mè chờ đến có trùng mới lấy dầu ra ăn, như chao ủ lên men làm sao ăn được. Giường có lỗ hở có nhiều rận rệp đều không được nằm ngồi, vì có các thứ rận rệp nên khi người nằm ngồi chúng đều sinh kinh sợ. Phải lìa bỏ việc ăn thịt: “Ăn uống sinh buông lung Buông lung sinh vọng giác. Từ giác sinh tham dục Cho nên không được ăn Do ăn sinh tham dục Tham khiến tâm say mê Say mê lớn ái dục Không giải thoát sinh tử Vì lợi, giết chúng sinh. Do tài bắt các thịt Cả hai đều nghiệp ác Chết đọa ngục khiếu hô Nếu không dạy tưởng cầu Thì không ba tịnh nhục Kia đều do nhân có Cho nên không được ăn Những người tu hành kia Do đó đều xa lìa Các Phật khắp mười phương Tất cả đều qưở trách Xoay vần ăn thịt nhau Chết sinh loài cọp sói Hôi nhơ đáng chán ghét Sinh đâu thường ngu si Nhiều đời làm Chiên-đà Giống thợ săn, Đàm-bà Hoặc sinh Đà-di-ni Và các tánh ăn thịt La-sát, mèo, chồn thảy Khắp trong đó sinh ra Phược tượng và đại vân Ương-quật-lợi-ma-la”. Đà-di-ni Hán dịch la-sát nữ. Phược Tượng, Đại Vân, Ương-quật- lợi-ma-la đều là tên kinh. “Và kinh Lăng-già này Ta đều cấm ăn thịt Các Phật và Bồ-tát Thanh văn đều quở trách Ăn rồi không hổ thẹn Đời đời thường tối si Trước nói thấy, nghe, nghi Đã dứt tất cả thịt Vọng tưởng chẳng hay biết Nên sinh chỗ ăn thịt Như lỗi tham dục kia Chướng ngại giải thoát Thánh Rượu thịt, hành tỏi, nén Thảy đều chướng Thánh đáo Chúng sinh đời vị lai Đối thịt ngu si nói Rằng thanh tịnh không tội Phật cho chúng ta ăn Ăn tưởng như uống thuốc Cũng như ăn thịt con Biết đủ sinh nhàm lìa Tu hành hạnh khất thực Người an trụ từ tâm Ta thường nói nhàm lìa Cọp sói các thú dữ Thường ở chung với ta Nếu ăn các máu thịt Chúng sinh sẽ kinh sợ Cho nên người tu hành Từ tâm chẳng ăn thịt Ăn thịt không từ tuệ Thường trái chánh giải thoát Và trái biểu tướng Thánh Cho nên không ăn thịt Được sinh dòng phạm chí Và các chỗ tu hành Nhà giàu sang trí tuệ Đều nhờ không ăn thịt”. Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Phật rũ lòng thương xót răn bảo cấm ăn thịt: Phật nói phẩm Tâm sắp hết, Đại Tuệ lại thỉnh Phật rủ lòng thương xót răn bảo cấm rượu thịt v.v… để kết thúc. Vì Đức Phật lập ra giáo hóa, lấy một tánh bình đẳng làm gốc, lấy từ bi đồng thể làm tâm. Vì cho rằng người nhập đạo làm tông, chẳng phải trước ở nơi thanh tịnh lìa lỗi, lấy sự cứu vật độ sinh làm sự chẳng phải trên đối với tội phước nhân quả, do đó sau phần chánh tông Lăng-nghiêm có nói bốn thứ minh hối, ba thứ dần dần thứ lớp, mà trong kinh này răn bảo đầy khắp, có thể dùng so sánh lưu thông. Văn trước thỉnh răn bảo chung, kế là thỉnh răn bảo riêng. Trong phần Phật đáp có nêu đầy đủ, chẳng nên ăn thịt gồm có mười bảy duyên v.v… kế là đến nêu sự ngăn cấm ở trong chung riêng. Ban đầu nói phương tiện Tiểu giáo, hoặc chia năm thứ, đó là thấy, nghe, nghi giết… còn do tự chết hoặc khai cho ăn, hoặc chế mười thứ, nghóa là thịt người, rắn, voi v.v… mà không đề cập các loài khác, dường như nên hứa chung, nhưng nói rất cẩn thận, chỉ nói chế ngăn mà thôi, không hề nói khai cho. Dù có nhất thời phương tiện cũng không được như thế. Kế nói kinh này khai trừ phương tiện, tất cả đều dứt, lời ấy có thể nói rất tha thiết. Nhưng Luận giả vẫn cấm ăn thịt, vì một nghi hỏi. Vì người ghi có nói rằng: Kinh này Bồ-tát không nên ăn thịt, cho nên biết vẫn còn khai trong Tiểu giáo, liền bảo rằng kinh này chỉ cấm Bồ-tát, nhưng còn Tiểu giáo thì khai cho; hoặc cho rằng người ghi chép lầm lẫn, nay nói là sai. Chính nói Lăng-già thích hợp sau bốn bộ A-hàm. Còn Tiệm Giáo nói khác với Phạm Võng đốn chế, do thấy bộ kinh này thích hợp với Phương Đẳng, như vậy mà thôi. Cái gọi tồn là riêng văn kia, đâu có cho rằng vẫn có việc ấy, vả lại còn cho là lầm nữa ư! Than ôi! Vì ngăn dứt nghiêm ngặt mà chế cấm, mà người đời còn chống trái, huống chi không răn bảo ư! Sẽ có nhiều người kiến chấp càng sâu huân tập theo nghiệp, đến nỗi không còn khen ngợi phạm hạnh, cũng khiến người khác không học theo luật nghi, tôi biết người này tự để lại lỗi lầm về sau. Nhưng Kinh này nói: Tất cả pháp do tự tâm hiện. Nếu biết thiện ác do tâm thì làm sao thuận theo vọng tưởng mà trái với Thánh giáo được ư! Khuyên hãy cố gắng. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 140