<經 id="n1788a">KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH SỚ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1788 KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH SỚ Tam Tạng Pháp Sư Nghóa Tịnh đời Đường vâng chiếu dịch Sa-môn Tuệ Chiểu soạn <卷>QUYỂN 4 (Phần 2) <詞>Phẩm 6: TỊNH ĐỊA ĐÀ-LA-NI Phẩm Tối Tịnh Địa Đà-la-ni chia ra ba phần: Nói về lý do có phẩm này Mong muốn cầu đạo Bồ-đề thì phải tu hành. Tu hành có hai, tức là dứt ác và làm lành. Các phần sám hối trước đây đã nói về dứt ác, tiếp theo nói về làm lành. Về phát tâm tu hành trong làm lành, phát tâm tức là phát tâm Bồ-đề, nghóa là cần phải nương vào an trụ nơi đại tâm Bồ-đề, thực hành các hạnh lành mới có thể đạt được quả. Hạnh tu hành chính là mười độ. Nhờ vào mười độ này có công năng đạt được các Địa, có công năng phá trừ các chướng của mười độ như phá san, đạt được năm phần pháp thân, thành tựu hai thắng quả. Vì vậy cần phải trình bày về phát tâm tu hành này, cho nên sau phẩm trước có phần này phát sinh. Giải thích tên gọi Trong luận Thành Duy thức chép: “Thâu tóm toàn bộ công đức hữu vi, vô vi để làm tự tánh, cùng với những sự tu hành làm nơi nương cậy, giữ gìn tốt đẹp, khiến cho được lớn lên, nên gọi là Địa.” Trong Địa trì, Nhiếp luận, Du-già, Trang nghiêm giải thích đều giống nhau. Tịnh nghóa là thanh tịnh, vì lìa hai chướng. Nhưng kinh Đại Thừa Đồng Tánh và kinh Chứng Khế Đại Thừa nói ba thừa ấy mỗi thừa đều có mười địa, mười địa Bồ-tát có công năng phá trừ hai chướng. Vô cùng thanh tịnh gọi là tối, tức là nơi rất thanh tịnh, là y chủ thích. Tịnh thuộc về năng y, Địa là sở y, đều là biệt sở y. Hoặc thể của mười địa chính là lấy công đức vô vi làm Thể, tức là Thể của công đức này lìa hai chướng gọi là Tối tịnh. Tối tịnh tức là địa tên Tối tịnh địa, thuộc về trì nghiệp thích. Đà-la-ni như trước đã giải thích. Từ Tịnh địa này đạt được Đà-la-ni này. Ở Đà-la-ni này có khả năng làm thanh tịnh địa này, đều thuộc y chủ thích, không trái nhau. Bởi vì Đà-la-ni làm cho lìa xa năm chướng nên được gọi là Tịnh địa, nếu lấy mười độ v.v… thì chỉ gọi là Tối tịnh địa, nếu lấy Đà-la-ni thì gọi là Tối tịnh địa Đà-la-ni. Giải thích chướng ngại. Hỏi: Luận biện trung biên và Nhiếp luận… đều nói “Nương theo thập địa thực hành thập hạnh, dứt trừ mười chướng, chứng đạt mười như”, vì sao trong này không phân biệt rõ mười như? Đáp: Bởi vì tóm lược, mở rộng khác nhau. Hỏi: Các kinh luận khác nói về mười độ, sáu độ đầu đều có ba, bốn độ sau đều có hai, vì sao mười Ba-la-mật ở kinh này đều có năm thứ? Đáp: Trong mỗi hạnh đều có nhiều môn, trong các Thánh giáo chỉ nói sơ lược, cho nên không nhất định như nhau. Văn kinh: Bấy giờ, Bồ-tát Sư Tử Tướng Vô Ngại Quang Diễm cùng vô lượng ức chúng. Tán rằng: Toàn văn trong phẩm này chia làm bốn phần: Vô ngại quang thưa hỏi. Như lai trả lời. Đại Phạm tán dương. Thời chúng được lợi ích. Phần thưa hỏi phân chia làm ba: Đầu tiên là người năng thỉnh, tiếp theo là nghi thức thỉnh pháp, sau cùng chính là nói rõ sự thỉnh cầu. Phần đầu là người năng thỉnh. Có khả năng được bốn vô úy của Bồ-tát cho nên gọi là Sư tử tướng, lìa chướng nên gọi là Vô ngại, đạt được trí tự tại, thường soi tỏ chân tục nên gọi là Quang diễm, đây là thuận theo dụ và pháp để gọi tên. Văn kinh: Đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính đảnh lễ dưới chân Phật, dâng các loại hoa hương, cờ báu, phướn lọng lên cúng dường Phật. Tán rằng: Nghi tắc thỉnh pháp, đầu tiên là do chân thành cung kính, sau đó sắp bày cúng dường. Cúng dường có nhiều cách, như trước đã nói. Ở đây bắt đầu từ cung kính cúng dường biểu thị cho hỏi nhân tâm Bồ-đề như hoa, biểu thị cho sự thành tựu năm phần pháp thân như hương, biểu thị cho đại trí vượt khỏi Nhị thừa như cột cờ, biểu thị bốn Đà-la-ni như phướn, biểu thị che kín chúng sinh ở đây như tàn lọng, vì vậy dùng các thứ hoa, hương… để cúng dường. Văn kinh: Bạch với Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Dùng bao nhiêu nhân duyên để đạt được tâm Bồ-đề? Tán rằng: Chính thức nói rõ sự thỉnh cầu. Đầu tiên hỏi về nhân của tâm Bồ-đề, tiếp theo hỏi về thể của tâm Bồ-đề. Đây là mở đầu. Văn kinh: Thế nào là tâm Bồ-đề? Tán rằng: Hỏi về Thể. Đầu tiên nêu câu hỏi, tiếp theo hỏi riêng, sau cùng kết luận. Đây là đầu tiên nêu câu hỏi. Cần phải nói là “Thế nào là Bồ-đề, sao gọi là tâm Bồ-đề?” Trước tiên Bồ-đề là chân lý, tâm là hai trí sáu độ. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Ngay nơi Bồ-đề, tâm hiện tại không thật có được, tâm vị lai không thật có, tâm quá khứ không thật có. Tiếp theo là hỏi riêng. Đầu tiên là dựa vào pháp Không để hỏi, tiếp đó dựa vào sinh không để hỏi. Trong phần đầu có ba: Trước tiên ngay nơi Bồ-đề mà hỏi, tiếp đó lìa Bồ-đề mà hỏi, sau cuối kết luận vì sao. Nếu ngay nơi Bồ-đề mà Bồ-đề lìa ba đời cho nên tâm ba đời đều không thật có. Văn kinh: Lìa bỏ Bồ-đề thì tâm Bồ-đề cũng không thật có. Tiếp theo là hỏi về tâm khi kìa Bồ-đề. Không có một pháp nào có thể lìa bỏ chân như, cho nên lìa chân như tâm cũng không thật có. Văn kinh: Bồ-đề đó không thể nói năng, tâm cũng không có sắc, không có tướng, không có sự nghiệp, không có thể tạo tác. Ở dưới là kết luận vì sao. Chân lý thì đường ngữ ngôn bặt tâm hành diệt, cho nên không thể nói năng. Tâm không có sắc tướng, giống như hư huyễn, sự nghiệp không có thực thể, không thể tạo tác. Ý này giống như trong luận Văn-thù Sở Vấn phát Bồ-đề tâm kinh: “Bồ-đề là không thể dùng thân đạt được, không thể dùng tâm đạt được.” Thân giả tạm, tâm hư huyễn cho nên rộng như luận kia giải thích, ở đây chỉ hỏi về tâm. Văn kinh: Chúng sinh cũng không thật có, cũng không thể biết. Tiếp theo là dựa vào sinh không để hỏi: Chúng sinh nghóa là ngã (thực thể), thể của là vô, nhưng giả hòa hợp giống như sự việc hư huyễn, không thực sự có thể đạt được, có thể biết được. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Nghóa sâu xa của các pháp làm thế nào mà có thể đạt được, biết được? Tiếp theo phần thứ ba kết thúc hỏi rằng: Vì sao các Bồ-đề và tâm pháp đều không thể nói năng, mà có phát tâm Bồ-đề mới đạt được, nghóa sâu xa này làm sao có thể đạt được, biết được? Văn kinh: Đức Phật dạy: Này người thiện nam! Đúng vậy, đúng vậy! Bồ-đề nhiệm mầu, sự nghiệp tạo tác đều không thật có. Nếu lìa Bồ-đề thì tâm Bồ-đề cũng không thật có. Bồ-đề không thể nói năng, tâm cũng không thể nói năng, không có sắc tướng không có sự nghiệp, tất cả chúng sinh cũng không thật có. Tán rằng: Tiếp theo là trả lời có hai: Đầu tiên trả lời câu hỏi thứ hai, sau đó “Này người thiện nam giống như núi chúa Tu-di…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ nhất. Trong phần trả lời câu hỏi sau: Đầu tiên ấn chứng trả lời, sau đó giải thích trả lời. Trong ấn chứng trả lời: Đầu tiên ấn chứng, tiếp đó nêu câu hỏi, sau cùng giải thích. Đây là mở đầu. Văn kinh: Vì sao? Vì Bồ-đề và tâm cùng là chân như cho nên năng chứng và sở chứng đều bình đẳng. Tiếp theo là nêu câu hỏi và giải thích. Nêu câu hỏi thì có thể biết. Trong phần giải thích, đầu tiên giải thích lý do không thật có, không thể nói năng, bởi vì nghóa Bồ-đề và tâm Bồ-đề đồng nương chân như không thể nói được, lìa chấp đắm. Văn kinh: Tất cả các pháp có thể hiểu biết rõ ràng. Tiếp theo sau giải thích phát tâm đạt được nghóa sâu xa đối với Bồ-đề, chỉ trừ bệnh đó, thảy đều là pháp. Văn kinh: Này người thiện nam! Đại Bồ-tát biết như vậy mới được gọi là thông suốt các pháp, khéo léo giảng nói Bồ-đề và tâm Bồ-đề. Tán rằng: Phần dưới giải thích trả lời có hai: Đầu là nêu ra, kế đến là giải thích. Đây là nêu ra. Đầu tiên là Bồ-đề, giải thích thể của Bồ-đề là sở chứng, tâm Bồ-đề là năng chứng. Văn kinh: Tâm Bồ-đề chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, tâm cũng như vậy, chúng sinh cũng như vậy, trong cả hai tướng đều không thật có. Ở dưới là giải thích. Đầu tiên không thể nói năng, sau do không thật có cho nên ở dưới là giải thích nghóa sâu xa, vì sao biết được. trong phần đầu có ba: Trước tiên giải thích, tiếp đến nêu câu hỏi, sau cuối là chung. Đây là phần giải thích. Đầu tiên nói về thể chân như Bồ-đề trong ba đời, tiếp đến là tâm cũng năng chứng như vậy. Trước nói tâm là tâm Đệ nhất nghóa, sau nói tâm là tâm duyên. Chúng sinh cũng như thế, nói về nhân không, hai tướng đều không thật có. Kết hợp mà nói thì cả hai ngã đều không thật có, giống như văn kinh-thù Vấn Bồ-đề tâm y theo biến kế. Văn kinh: Vì sao? Tiếp đến là nêu câu hỏi. Văn kinh: Vì tất cả các pháp đều vô sinh ra. Tiếp theo là phần thứ ba chung tất cả (thông). Đầu tiên là tổng quát, tiếp đó là riêng biệt. Đây là phần tổng quát. Bởi vì tất cả các pháp đều không sinh ra cho nên là không. Luận Chưởng Trân nói: “Vô vi không có thực, không khởi tựa như hoa đốm”. Vô vi không có thật là tông, không khởi cho nên là nhân. Khởi ấy là sinh, tựa như hoa đốm là ví dụ. Bởi vì vốn vô sinh cho nên thể chẳng phải là có. Kinh Giải Thâm Mật dựa theo ba vô tánh nói tất cả các pháp không sinh, không diệt, xưa nay vắng lặng. Văn kinh: Bồ-đề không thật có, tên gọi Bồ-đề cũng không thật có. Tiếp theo là riêng biệt về chung có ba: Đầu tiên y cứ theo Bồ-đề. Văn kinh-thù Vấn Phát Bồ-đề Tâm chép: “Bồ-đề chỉ có tên gọi, vì thế tục cho nên mà nói.” Luận giải thích rằng: Thị hiện pháp có thể chứng, chỉ có danh bởi vì luống dối phân biệt, cho nên thể đó không có thật. Ý ở đây là sở chứng chỉ có tên gọi giả tạm cho nên nói là thế tục. Nếu như tên gọi mà chọn lấy tức là luống dối phân biệt, không có thật thể. Năng thuyên là giả sở thuyên cũng thế. Trên đây là nói theo pháp. Văn kinh: Chúng sinh và tên gọi chúng sinh không thật có, Thanh văn và tên gọi Thanh văn không thật có, Độc giác và tên gọi Độc giác không thật có, Bồ-tát và tên gọi Bồ-tát không thể đạt được, phương Phật và tên gọi Phật không thật có. Cùng dựa theo hai chấp mà nói. Chúng sinh không thật có là sinh chấp không, tên gọi chúng sinh không thật có là pháp chấp không. Luận Bát-nhã của Thiên Thân chép: “Giả danh và ấm sự, Như lai lìa tướng đó, các Phật không hai tướng, bởi vì thấy thật pháp.” Ý này là giả danh gọi là không thật, pháp không-giả, ấm sự sinh không giả, chung cho cả hai. Văn kinh: Hành và chẳng phải hành là không thật có, tên gọi hành và chẳng phải hành không thật có. Lại dựa theo pháp để phân biệt rõ có năng chứng này. Hành nghóa là sự tu hành pháp lành. Chẳng phải hành nghóa là dứt trừ các pháp không nên tu tập. Năng thuyên, sở thuyên đều không, cho nên trong đây chính là nói về hạnh năng đoạn của hành pháp Bồ-đề tâm. Chẳng phải hành là sở đoạn của tâm này, cho nên nói đối lại. Văn kinh: Vì không thật có cho nên đối với tất cả các pháp vắng lặng mà được an trụ, ở đây nương vào tất cả công đức gốc lành này mà được sinh khởi. Tán rằng: Giải thích về nghóa lý sâu xa khiến cho tu hành chân chánh tâm Bồ-đề. Vì không thật có cho nên khiến biết rõ Bồ-đề sở chứng và năng chứng, đồng thời năng chứng đều là danh ngôn thi thiết, đều là giả lập, không thực sự có thể đạt được. Biết đúng như vậy gọi là an trú trong tất cả các pháp vắng lặng. Nương vào đạo lý thế tục giả duyên và tất cả công đức gốc lành này mà Bồ-đề được sinh khởi, tức phù hợp với chánh lý nên gọi là Bồ-đề. Văn kinh-thù Vấn Phát Bồ-đề Tâm chép: “Nơi đó không có người chứng, không có chỗ dụng chứng, cũng không có pháp để chứng. Thông đạt như vậy thì gọi là đắc A-nậu Bồ-đề.” Ý này không có người chứng cho nên không có người tu hành, không có chỗ dụng chứng tức là hành năng chứng, không có pháp để chứng tức là Bồ-đề sở chứng; nói rộng như trong luận ấy, hoặc theo kinh cựu dịch nhầm lẫn nói rằng: “Nương vào tất cả công đức gốc lành mà được phát, đó gọi là mới phát tâm Bồ-đề”, kết luận thuộc về văn sau, các nhân khác đều không nói “Nương vào nơi khác gọi là phát tâm”, do đó phải trừ bỏ ba chữ cho nên gọi thế văn khác hẳn, bản mới dịch này là đúng. Văn kinh: Này người thiện nam! Giống như núi chúa Tu-di bằng vật báu làm lợi ích cho tất cả, tâm Bồ-đề này lợi ích cho chúng sinh, nên đó gọi là nhân Bố thí ba-la-mật bậc nhất. Tán rằng: Trả lời câu hỏi thứ nhất. Văn chia làm bốn: Phát tâm. Tu hành. Chứng đắc. Được che chở, tức là đạt được Đà-la-ni nên nhờ đó được che chở. Đây là mới phát tâm, phát mười độ tâm, văn chia làm mười. Tự tướng phát tâm khó có thể hiểu rõ cho nên dùng ví dụ để trình bày. Đầu tiên phát tâm thực hành bố thí độ, dụ như người đến núi báu đều được lợi ích, cho nên trong văn có ba phần: Đầu tiên là dụ, tiếp theo là pháp hợp, sau cùng là kết luận. Các độ còn lại đều y cú theo đây hoặc có trường hợp không có pháp hợp. Nhờ phát tâm này mà vượt ra khỏi sinh tử, cầu đại đạo Bồ-đề, lại vượt khỏi Nhị thừa, thực hành tâm lợi tha. Người gặp đều được ích lợi không có cùng tận, cho nên dùng núi chúa Diệu cao làm ví dụ. Núi này nổi lên giữa biển lớn, cao hơn so với các núi khác, là ngọn núi có châu báu vô tận nên có nhiều ích lợi. Tâm Bồ-đề này lợi ích cho chúng sinh nên hợp với sự lợi ích kia. Nhưng trong luận Đại trang nghiêm nêu ví dụ có khác, luận ấy chép: “Giống như kho lớn, Đàn ba-la-mật tương ưng phát tâm cũng giống như vậy, vì tài vật cung cấp cũng không cùng tận.” Luận kia y cứ vào nghóa bao hàm sử dụng vô tận, trong đây phải phân biệt rõ phát tâm Bồ-đề, sơ lược như trước đã nói. Lại luận Trang Nghiêm chép: “Tâm Bồ-đề này lấy gì làm gốc? Nương tựa vào nơi nào v.v… có tất cả mười một câu hỏi. Lấy đại bi làm gốc, lấy lợi ích chúng sanh làm nơi nương vào, lấy pháp Đại thừa làm niềm tin, lấy chủng trí làm sở duyên, vì cầu tâm đó nên lấy ý muốn thù thắng làm chỗ nương, vì nguyện cầu vô thượng thừa nên lấy đại hộ làm nơi an trú, vì trú trong giới Bồ-tát nên lấy sự chịu đựng nghiệp chướng làm trở ngại khổ nạn, vì khởi tâm nơi thừa khác nên lấy tăng thêm lợi ích làm công đức; lấy phước trí làm tự tánh; lấy sự tu tập các độ làm phương tiện xuất ly; lấy địa vị viên mãn làm rốt ráo.” Theo từng địa từng địa siêng năng phương tiện tương ứng với mọi điều kia. Theo văn trả lời này thì biết mười một câu hỏi. Lợi ích chúng sinh này là nghóa thứ hai, y theo đây có thể tu cho nên lấy lợi ích chúng sinh làm chỗ nương. Văn kinh: Này người thiện nam, ví như đại địa giữ gìn mọi vật nên gọi là nhân thứ hai Giữ giới ba-la-mật. Ví như đại địa thường giữ gìn mọi vật, do đó lấy giới làm gốc. Thường sinh ra công đức nên dụ cho đất, vì vậy kinh Di Giáo chép: “Nên biết rằng giới này là nơi an trú yên ổn của các công đức pháp lành.” Thường sinh ra các thiền định và trí tuệ diệt khổ, vì vậy ví dụ như đất. Trong luận Đại trang nghiêm dụ như chiếc rương báu. Ý ở đây là do giới thường sinh ra các công đức như chiếc rương sinh ra các vật. Như Luận ấy chép: “Công đức pháp bảo từ đó sinh ra.” Lại nữa, chiếc rương báu và vật báu là nơi nương tựa, nương vào chiếc rương cất giữ bảo vệ không để mất mát, như nương vào giới nên các công đức tồn tại. Nếu đã phá giới như đầu người lìa cổ, các căn đều bỏ. Đã phá giới rồi thì công đức sẽ bị hủy diệt. Giữ gìn mọi vật cho nên là pháp hợp, hoặc chỉ là dụ. “Đó gọi là…” trở xuống là kết luận, lược bỏ không có pháp hợp. Văn kinh: Giống như sư tử có oai lực rộng lớn, bước đi một mình không hề sợ hãi, lìa xa kinh sợ nên gọi là nhân thứ ba Nhẫn nhục ba- la-mật. Ví như dụ sư tử. Sư tử có ba đức: Có oai lực lớn lao. Bước đi một mình không hề sợ hãi. Lìa xa sợ hãi. Như ví dụ dưới đây: Ví như sư tử bước đi một mình không hề sợ hãi, vì phát tâm tu tập ba thứ nhẫn. Trong luận Đại Trang Nghiêm chép: Dụ như biển lớn, những người có tâm trái nghịch thì bất động. Kinh Di giáo nói: Người thực hành được nhẫn nhục mới đáng gọi là người có sức mạnh lớn lao, cho nên đạt được vô úy. “Đó gọi là…” trở xuống là kết luận, lược bỏ không có pháp hợp. Văn kinh: Ví như phong luân, sức lực Na-la-diên dũng mãnh tráng kiện mau chóng, tâm không lui sụt nên đó gọi là nhân thứ tư cần sách Ba-la-mật. Ví như phong luân… có hai ví dụ: Một là phong luân dụ cho mặc giáp tinh tiến, dụ như phong luân thâu nhiếp giữ gìn thế giới. Na- la-diên, Hán dịch là Lực thắng (sức lực mạnh mẽ), dụ cho hai thứ tinh tiến lợi lạc và thâu nhiếp thiện. Trong dụ nhiếp thiện tinh tiến lại có vô hạ, vô túc, vô thối. Do mạnh mẽ cho nên không tự thấp kém khuất phục là vô hạ (không dưới), thực hiện mọi việc mau chóng là vô túc (không đầy đủ), nhờ có nhiều sức lực vì vậy thực hiện công việc không thoái thác. Như sau dụ cho ba thứ tinh tiến là vô hạ, vô túc, vô thối, là dụ cho nhiếp thiện tinh tiến. Trong luận Duy thức chép: “Ngay nơi kinh đã nói có thế lực, có cần mẫn, có dũng mãnh.” Bền chắc vững vàng không bỏ cái ách xe tốt, một thứ đầu tiên là mặc giáp, bốn thứ còn lại là nhiếp thiện. Hoặc có thể, mau chóng là dụ cho lợi tinh tiến, lấy đại bi làm gốc, tu tập chuyên cần lợi ích chúng sinh nhanh chóng thay đổi. Hoặc có thể là tướng chung, không cần phải phối hợp riêng. Trong luận Đại trang nghiêm dụ như kim bền chắc nên không thể đập vỡ. Theo dụ này có hai: Mạnh mẽ dụ cho thần. Kim cang dụ cho cái chày. Thực hành tinh tiến như chày kim cang kia bền chắc không bị đập vỡ. Người thường thực hành như thần cầm chày kim cang mạnh mẽ không thối lui. Hoặc chỉ dụ cho thần, bởi vì thân kim cang không thể hủy hoại. Văn kinh: Giống như lầu quán bảy báu có bốn thềm đường đi, gió mát rượi thổi đến bốn cửa được niềm vui yên ổn, pháp tạng vắng lặng cầu được đầy đủ nên đó gọi là nhân thứ năm Tónh lự ba-la-mật. Phần dưới là dụ cho định. Đầu tiên là dụ, tiếp đến là pháp hợp, sau cùng là kết luận. Dụ có bốn: Dụ về lầu quán: bốn thiền tám định đầy đủ, bảy thứ cao quý như bảy báu trang nghiêm. Lại còn các thiền định, bảy thứ Thánh tài giúp đỡ bảy chi giới làm nhân cho nên dụ như lầu quán bảy báu. Lầu tức là quán, vừa hẹp vừa cao gọi là lầu. Quán nghóa là cửa cung, khuyết là vọng lâu hai bên cửa cung điện. Bốn thềm đường đi dụ cho phát tâm, các hạnh tu định v.v… có bốn thứ đại (to lớn), như trong luận Đại trang nghiêm: “Bồ-tát phát tâm có bốn thứ đại: Đại dũng mãnh, nghóa là thệ nguyện rộng lớn tinh tiến sâu xa khó làm, tùy thuận lâu dài. Đại phương tiện, nghóa là mặc giáp thệ nguyện rộng lớn để phương tiện lâu dài, siêng năng chuyên cần tinh tiến. Đại lợi ích, nghóa là bất cứ lúc nào cũng thực hành tự lợi và lợi tha. Đại xuất ly, nghóa là vì cầu vô thượng Bồ-đề. Do đó nương vào bốn thứ đại này có thể hướng đến Bồ-đề, giống như bốn con đường.” Hoặc vô tác tứ đế trong kinh Đại Bát-nhã gọi là Cù lộ (đường ngã tư). Gió mát rượi, dụ cho có công năng xua tan sự nóng bức của phiền não. Thổi đến bốn cửa, bốn cửa dụ cho bốn quán thường, lạc, ngã, tịnh. Theo các nơi khác nói Định là nhân của lạc đức, ở đây nói theo cái chung. (Phật có đủ bốn nhân khởi tu, thích hợp với năng chứng được gọi là được vui an ổn, kho pháp vắng lặng cầu được đầy đủ, đó là chỉ chung cho pháp hợp. “Đó gọi là…” trở xuống là kết luận, vì thế dụ cho thổi đến cửa. Trong luận Đại trang nghiêm dụ như núi chúa không lay động, không chao đảo là dụ chung cho tự tánh, ở đây dụ chung cho sự khác nhau. Văn kinh: Giống như ánh sáng mặt trời chiếu soi rực rỡ. Tiếp theo dụ cho phát tâm tu nhân Bát-nhã độ. Văn cũng có ba phần: Dụ, hợp, kết. Dụ có hai thứ: Mặt trời dụ cho trí của tự tánh. Ánh sáng chiếu soi rực rỡ dụ cho tác dụng, có hai: Thường chiếu soi sáng tỏ. Thường xua tan tối tăm, tức là chứng chân, dứt hoặc. Lý chung cho cả lợi vật, vì có thế lực cao quý. Đây là tự đạt được rồi cũng khiến cho người khác đạt được, chung cho cả tự năng và tha năng. Văn kinh: Tâm này mau chóng, thường xua tan bóng tối sinh tử- vô minh, nên đó gọi là nhân thứ sáu Trí tuệ ba-la-mật. Đây là pháp-hợp. Tâm này cầu Bát-nhã gọi là nhân, cho nên thuộc về sở cầu, nhân là nguyên do, do Bát-nhã kia v.v… có khả năng này, cho nên phát tâm cầu, vì thế gọi là nhân. Trí và tâm đầy đủ, hoặc vì duyên lự cho nên nói chung gọi là tâm có công năng. Năng phá sinh tử, trừ bỏ khổ đế, xua tan được bóng tối vô minh, dứt bỏ được tập đế, năng diệt là đạo đế, sở chứng là diệt đế. Trong luận Đại trang nghiêm: Trí dụ như thuốc, bệnh của hai chướng hoặc và trí, trí này có công năng phá trừ. Hai chướng che lấp lý không sáng tỏ dụ cho bóng tối, cho nên trí dụ cho thể của mặt trời xua tan bóng tối, có thể làm cho suy tổn không khởi hai trí. Hai chướng dụ cho bệnh vì thế trí dụ cho thuốc chữa bệnh. “Cho nên gọi…” về sau là kết luận. Văn kinh: Ví như người đi buôn có khả năng khiến cho tất cả tâm nguyện đều được trọn vẹn, tâm này có khả năng vượt qua con đường hiểm nạn sinh tử, đạt được công đức quý báu, nên gọi là nhân thứ bảy phương tiện Thắng trí ba-la-mật. Ở dưới là dụ cho nhân phát tâm tu phương tiện khéo léo. Văn cũng có ba phần: Giống như người đi buôn có nhiều phương tiện khéo léo, có hai công năng: Có thể biết rõ đường đi. Dẫn đến đảo châu báu khiến cho thỏa mãn nguyện cầu. “Tâm này có khả năng vượt qua…” trở xuống là pháp hợp. Do phương tiện hồi hướng, phương tiện cứu giúp vượt qua con đường sinh tử, gặt hái được công đức quý hiếm của đại Bồ-đề, không giống như Nhị thừa hướng về nơi vắng lặng. Giải thích chung cho cả tự tha và nhân v.v… đều theo như trước đã biết, văn kết luận có thể biết. Văn kinh: Giống như trăng sáng tròn đầy không bị mây che, tâm này có thể đối với tất cả cảnh giới thanh tịnh đầy đủ nên gọi là nhân thứ tám Nguyện ba-la-mật. Đây là dụ cho phát tâm tu nguyện. Văn cũng chia ba phần. Do cầu Bồ-đề, nguyện lợi lạc cho người khác là nguyện, đầy đủ đại nguyện này như mặt trăng tròn vành vạnh. Dứt bỏ chướng tự tha cho nên nói là không bị mây che. “Tâm này có thể đối với…” trở xuống là kết hợp nguyện cầu. Hai lợi tự tha phải ở nơi cảnh giới chân tục lìa bỏ chướng hoàn toàn mới được đầy đủ, vì vậy nói “tất cả cảnh giới thanh tịnh đầy đủ”. Văn kết luận có thể biết. Văn kinh: Ví như Chuyển luân Thánh vương đứng đầu binh lính cận thần, tùy ý tự tại, tâm này khéo léo trang nghiêm thanh tịnh cõi nước Phật, vô lượng công đức lợi ích tất cả chúng sinh nên gọi là nhân thứ chín Lực ba-la-mật. Dụ cho phát tâm tu lực. Văn chia làm ba như trước. Trong dụ có: Dụ Luân vương. Dụ làm người đứng đầu binh lính cận thần. Vương là dụ chung cho phát tâm đại Bồ-đề, cận thần là dụ riêng đối với phát tâm tu lực. Có hai thứ lực: Tư trạch năng lực. Tu tập năng lực. Như làm người đứng đầu binh lính cận thần thì phải có bốn quân binh, tùy ý tự tại của mình như tư trạch lực (năng lực nghó chọn), cũng tùy theo ý tự tại của vua như tu tập lực (năng lực tu tập). Bốn quân binh có hai tác dụng: Mở rộng biên giới cõi nước. Làm an ổn cho chúng sinh. “Tâm này…” trở xuống là pháp hợp. Do Lực ba-la-mật: một là có thể trang nghiêm cõi nước, hai là lợi ích rộng lớn cho chúng sinh. Vô lượng công đức chung cho cả hai nơi này, vô lượng công đức để trang nghiêm cõi nước, vô lượng công đức để lợi ích rộng lớn cho chúng sinh. Văn kết luận có thể biết. Văn kinh: Ví như hư không và Chuyển luân Thánh vương, tâm này có thể đối với tất cả cảnh giới không có chướng ngại, đối với tất cả nơi chốn đều được tự tại, cho đến địa vị quán đảnh, nên gọi là nhân thứ mười Trí ba-la-mật. Này người thiện nam! Đó gọi là mười thứ nhân Bồ-đề tâm của Đại Bồ-tát. Tiếp theo dụ cho phát tâm tu trí. Văn chia làm ba như trước. Dụ có hai thứ: Dụ cho hư không. Dụ cho Luân vương. Trí có hai thứ: Trí thành tựu hữu tình, như hư không dung nạp thâu nhận bình đẳng không hề chọn lựa. Trí thành tựu Phật pháp như Luân vương thọ nhận địa vị Quán đảnh. Lại nữa, hai trí này đều chung cho cả hai thứ: Thanh tịnh như hư không, bao trùm dung chứa tất cả công đức sẵn có. Như vua Chuyển luân có khả năng tiếp nối địa vị Phật làm lợi ích rộng cho hữu tình. “Tâm này…” trở xuống là pháp hợp. Tất cả cảnh giới không hề ngăn ngại là hợp với hư không, đều được tự tại cho đến địa vị quán đảnh là hợp với vua Chuyển luân. Văn kết luận có thể biết. Văn kinh: Mười nhân như thế ông nên tu học. Tiếp theo là tổng kết khuyên tu. Hỏi: Nhân vị phát tâm này ở nơi nào? Đáp: Phát tâm có nhiều vị, theo luận Đại trang nghiêm có hai: một là thế tục, hai là thắng nghóa. Thế tục ở Địa tiền, thắng nghóa ở Địa thượng. Lại nói: Bồ-tát phát tâm nương vào các địa có bốn thứ khác nhau: Tín hạnh phát tâm, gọi là Tín hạnh địa. Tịnh y phát tâm, gọi là bảy địa trước. Báo đắc phát tâm, gọi là ba địa sau. Vô chướng phát tâm, gọi là Như lai địa. Ở đây dựa theo ba kỳ (ba a-tăng-kỳ) và cứu cánh vị đều có chỗ thêm mà nói, căn cứ vào thực tế bốn mươi hai giai vị mỗi vị đều có phát tâm. Văn kinh-thù Sở Vấn Bồ-đề Tâm lại nói có bốn thứ, kinh nói: “Có bốn thứ tâm có công năng thành tựu nhân, có công năng thành tựu quả. Bốn thứ ấy gồm: Sơ phát tâm. Hạnh phát tâm. Bất thối phát tâm. Nhất sinh bổ xứ phát tâm.” Luận giải thích rằng: “Hai phát tâm trước đều ở Địa tiền, phát tâm thứ nhất vượt xa Thanh văn, phát tâm thứ hai vượt qua Bích-chi- phật, phát tâm thứ ba vượt qua Bất định địa, vào Sơ địa, được chứng trí, phát tâm thứ tư dùng điều lành để đạt Pháp vương tứ địa tức là Địa thứ mười.” Du-già quyển bảy mươi hai lại có mười thứ phát tâm: Thế tục phát tâm ở Địa tiền. Đắc pháp tánh phát tâm, tức Bồ-tát nhập địa và người được quả Nhị thừa hồi tâm. Bất quyết định phát tâm, nghóa là chẳng phải chủng tánh Bồ- tát, dù cho Bồ-tát tánh cũng có pháp thối lui. Quyết định phát tâm, trái lại với phát tâm kia. Bất thanh tịnh phát tâm, do bị người khác bức bách hoặc cầu mạng sống… nên phát tâm. Thanh tịnh phát tâm, trái lại với phát tâm trên. Luy liệt phát tâm, nghóa là phát tâm rồi lại bị các tham trước ràng buộc che lấp nên bỏ chánh theo tà. Cường thạnh phát tâm, trái lại so với phát tâm trước. Vị thành tựu quả phát tâm, đó là nhân vị. Dó thành tựu quả phát tâm, là ở Phật vị. Trong mười thứ phát tâm ở đây nói thì quyết định, bất thanh tịnh và luy liệt đều có khả năng làm nhân trong ba phần nhỏ, do đó chỉ có thể y cứ vào tướng chung mà giải thích chung cả ba loại phát tâm đã nói ở trước. Hoặc căn cứ vào một tướng riêng mà phối hợp không ngăn ngại, nhưng không bằng thông suốt. Dụ, pháp về mười nhân phát tâm của tam tạng Chân đế đều giải thích có năm nghóa, mười độ dưới đây mỗi độ đều có năm hành tướng cho nên tuy có lý này nhưng không có người chánh văn, giải thích thành năm nghóa, khó y cứ vào mười độ ở dưới mỗi độ đều có năm hành, Chân đế phối hợp với năm môn của sáu độ chín môn trong luận Du-già kia: Tự tánh. Nhất thiết. Nan hành. Thiện só. Thanh tịnh. Tùy theo đó mà phối hợp năm môn, lý lẽ cũng khó. Các kinh luận giải thích mỗi mỗi đều khác nhau. Trong các kinh luận như Tạp, Tập, Duy thức… thì sáu độ đầu đều có ba hành, bốn độ sau đều có hai hành; trong luận Đại trang nghiêm thì sáu độ mỗi độ đều có sáu môn; trong kinh Bảo Vân thì mười độ mỗi độ đều có mười môn. Tại sao chỉ phối hợp với năm môn trong chín môn của Du-già? Do đó biết rằng hành tướng của mười độ khác nhau có vô lượng hạnh môn, trong các kinh luận tùy theo đó mà nói rõ lẫn nhau, đều không trái nhau. Nhưng tùy theo hành tướng dựa vào để giải thích cũng được, dùng nghóa của chín môn để thâu nhiếp tất cả, hơn nữa dựa vào các luận Duy thức, Nhiếp đại thừa… mà trình bày khác nhau. Văn kinh: Này người thiện nam! Nhờ vào năm pháp mà Đại Bồ- tát thành tựu Bố thí ba-la-mật. Năm pháp ấy gồm: Tín căn. Từ bi. Tâm không mong cầu. Che chở tất cả chúng sinh. Nguyện cầu trí nhất thiết trí. Này người thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu Bố thí ba- la-mật. Ở đây nói tiếp về phần thứ hai “tu hành đã phát tâm rồi tiếp tục nên tùy đó tu tập” trong phần Đức Phật trả lời. Trong đó chia làm hai: Tu hành. Giải thích tên gọi. Tu hành mười độ tức là mười đoạn, trong mỗi đoạn đều chia ra làm bốn đoạn nhỏ: Nêu ra. Trưng hỏi. Giải thích. Kết luận. Văn từng đoạn dễ biết sau này không cần phân chia, nhưng lặp lại văn giải thích. Tín căn: Bồ-đề dùng tín làm gốc. Lại nữa, phát tâm Bồ-đề, trong kinh luận nói bố thí có năm thứ, vì tín tâm thí, cho nên đứng đầu, tín làm gốc mà thực hành bố thí. Từ bi, đã là Bồ-tát thì mục đích là ở lợi ích chúng sinh, kế là tín Từ bi, ban vui cứu khổ nên thực hành bố thí. Không cầu mong, vì cầu Bồ-đề mà thực hành bố thí không mong mỏi ba cõi và sự báo ân, vì vậy không có tâm mong cầu. Che chở tất cả chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh cho nên bình đẳng che chở tất cả chúng sinh. Nguyện cầu trí nhất thiết trí là hồi hướng nguyện cầu mình và người đạt được Bồ-đề Phật. Lại nữa, tín căn chính là thể của tâm Bồ-đề, y chỉ tối thắng trong bảy thứ tối thắng tức là thuộc về từ bi, không có tâm mong cầu là thanh tịnh thắng, che chở tất cả là ý lạc thắng, nguyện cầu chủng trí là hồi hướng thắng. Xếp bố thí ở đầu đại khái thuộc về tối thắng, theo đó hiển bày chín độ còn lại cũng thuộc về tối thắng nên mới gọi là độ. Văn kinh: Này người thiện nam! Lại nhờ vào năm pháp mà Đại Bồ-tát thành tựu Trì giới ba-la-mật. Năm pháp ấy là: Ba nghiệp thanh tịnh. Không bị tất cả chúng sinh làm nhân duyên phiền não. Đóng kín các đường ác, mở rộng các cửa lành. Vượt qua địa vị của Thanh văn, Độc giác. Tất cả công đức thảy đều đầy đủ. Này người thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu Giữ giới ba-la-mật. Trong giới có ba, đó là luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới. Ba nghiệp thanh tịnh này chính là tự tánh của ba nhóm giới. Không bị tất cả chúng sinh làm nhân duyên phiền não, tùy theo đó giúp đỡ người khác đứng vững, nhưng theo luận Thập địa thì Bồ-tát thọ giới với ý muốn là dứt bỏ bốn dòng chúng sinh, tức là dứt bỏ nhân mê hoặc. Đóng kín các đường ác, mở rộng các cửa lành, trong luận Thập địa nói: “Bồ-tát thọ giới vì trừ diệt khổ đau nơi các đường ác cho chúng sinh.” Vượt qua các địa vị Thanh văn, Độc giác rất là sâu xa, vì thế không giống như Nhị thừa; cầu đạt đến đại Bồ-đề, do đó không mong Tiểu quả. Công đức đầy đủ: do giới làm nơi nương tựa mà phát sinh định tuệ; vì vậy kinh Di Giáo chép: “Nương nhờ vào giới này có công năng phát sinh các thiền định và trí tuệ diệt khổ.” Lại nữa, thứ nhất thuộc về giới nhiếp luật nghi, thứ hai và thứ ba thuộc về nhóm giới nhiêu ích hữu tình, thứ tư và thứ năm thuộc về nhóm giới nhiếp thiện pháp. Văn kinh: Này người thiện nam! Lại nương vào năm pháp mà Đại Bồ-tát thành tựu Nhẫn nhục ba-la-mật. Năm pháp ấy là: Hàng phục được phiền não tham, sân. Không tiếc thân mạng, không cầu an vui, ngừng dứt vọng tưởng. Suy nghó về nghiệp trước kia nên gặp khổ đau có thể nhẫn chịu. Phát tâm Từ bi, thành tựu các gốc lành cho chúng sinh. Để đạt được pháp nhẫn vô sinh sâu xa. Này người thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu nhẫn nhục ba-la-mật. Nhẫn cũng có ba: Nại oán hại nhẫn. An thọ khổ nhẫn. Đế sát pháp nhẫn. Nói có thể hàng phục được phiền não tham, sân là nại oán hại nhẫn. Bởi vì không tiếc thân mạng… là an thọ khổ nhẫn, lấy tinh tiến làm Thể, thường thực hành khổ hạnh, không mong cầu nghỉ ngơi yên ổn, suy nghó nhiều về trước đây bị người khác hãm hại… suy nghó về nghiệp ngày xưa của mình nhẫn nhịn người khác không tức giận, lại do từ bi mà che chở họ cho nên nhẫn chịu không hề tức giận. Hai thứ này tức là nhân của nại oán hại nhẫn. Nhân có năm thứ: Chỉ có pháp tưởng. Có khổ tưởng. Vô thường tưởng. Thân thuộc tưởng. Nhiếp thọ tưởng. Ở đây nêu ra hai trong năm thứ, vì pháp sâu xa là đế sát pháp nhẫn, lấy tuệ làm tánh. Văn kinh: Này người thiện nam! Lại nương vào năm pháp mà Đại Bồ-tát thành tựu cần sách Ba-la-mật. Năm pháp ấy gồm: Không thích tồn tại với các phiền não. Phước đức chưa đầy đủ không chịu an vui. Đối với các việc khổ hạnh khó thực hành không sinh tâm chán nản. Dùng đại Từ bi che chở lợi ích, phương tiện thành tựu tất cả chúng sinh. Mong cầu địa vị không lui sụt . Này người thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu cần sách Ba-la-mật. Trong Tinh tiến độ: Không thích tồn tại với các phiền não là tinh tiến, có ba: Mặc áo giáp. Thâu nhiếp điều lành. Lợi lạc hữu tình, đây tức là thứ nhất mặc áo giáp tinh tiến, đầu tiên phát tâm khơi dậy mạnh mẽ, ưa thích dứt bỏ các đường phiền não giống như mặc áo giáp. Phước đức chưa đầy đủ không chịu an vui là trong nhiếp thiện có bốn thứ: Gia hạnh, vô hạ, vô thối, vô túc, đây là vô thối tinh tiến, đối với việc chưa đạt được thì thường tiến tới mong cầu cho nên không dừng nghỉ để thọ hưởng vui sướng. Đối với các việc khó thực hành không sinh tâm chán nản là vô túc tinh tiến. Thường có tâm Từ bi, che chở làm lợi ích chúng sinh, phương tiện thành tựu tất cả, cho nên thuộc về lợi lạc hữu tình tinh tiến. Mong cầu địa vị không lui sụt là vô hạ tinh tiến trong nhiếp thiện, không tự khinh mình mà thường mong cầu giai vị cao hơn. Văn kinh: Này người thiện nam! Lại nương vào năm pháp mà Đại Bồ-tát thành tựu Tónh lự ba-la-mật. Năm pháp ấy gồm: Đối với các pháp lành tiếp nhận, không để phân tán. Thường nguyện giải thoát, không mê đắm hai bên. Nguyện đạt được thần thông vì thành tựu các gốc lành cho chúng sinh. Làm thanh tịnh pháp giới, trừ sạch tâm dơ bẩn. Vì dứt bỏ phiền não căn bản cho chúng sinh. Này người thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu Tónh lự ba- la-mật. Trong Tónh lự cũng có ba: An trú tónh lự. Dẫn phát tónh lự. Biện sự tónh lự. Trong đây thứ nhất là an trú trong các thiện phẩm, không để phân tán, trú trong định khinh an, nên gọi là an trú, dẫn dắt phát khởi thần thông và các công đức đều gọi là dẫn phát, có khả năng phân biệt các việc lợi ích cho mình và người nên gọi là biện sự. Thứ hai là thường nguyện giải thoát, giải thoát tức là tám thứ giải thoát, đối với bên không, bên hữu không mê đắm đó là dẫn đến giải thoát. Thứ ba nguyện đạt được thần thông tức là sáu thứ thần thông; do hiện bày thần thông khiến các chúng sinh bỏ tà theo chánh, chứa nhóm các gốc lành. Hai thứ này tức là dẫn phát tónh lự. Thứ tư là làm thanh tịnh pháp giới, trừ sạch tâm dơ bẩn là tâm chung cho cả hai thứ, năng duyên lự tâm và Đệ nhất nghóa tâm; làm thanh tịnh pháp giới tức là Đệ nhất nghóa tâm, nương vào định có thể trừ hai tâm dơ bẩn nên đây là tự lợi. Thứ năm vì dứt bỏ phiền não căn bản cho chúng sinh, đây tức là lợi tha. Hai thứ sau này là biện sự tónh lự, bởi vì thường làm các việc lợi ích cho mình và người. Chẳng phải chỉ có duyên sự gọi là biện sự, sự nghóa là nghiệp dụng của sự nghiệp; nhưng các chỗ nói biến mặt đất trở thành vàng… là biện sự mà y cứ theo việc lợi ích bên ngoài. Văn kinh: Này người thiện nam! Lại nương vào năm pháp mà Đại Bồ-tát thành tựu Trí tuệ ba-la-mật. Năm pháp ấy gồm: Thường đối với tất cả các Đức Phật, Bồ-tát và các bậc trí tuệ sáng suốt, gần gũi cúng dường không sinh nhàm chán mỏi mệt. Các Đức Phật, Như lai nói pháp sâu xa, tâm thường thích nghe không hề thỏa mãn. Chân tục thắng trí ưa thích khéo léo phân biệt. Phiền não kiến, tư thảy đều mau chóng dứt bỏ. Kỹ thuật thế gian và pháp năm minh đều thông đạt. Này người thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu Trí tuệ ba- la-mật. Trí cũng có ba thứ, đó là: Trí gia hạnh, Trí căn bản, Trí hậu đắc. Hai thứ trí đầu trong năm thứ là trí gia hạnh. Đối với bạn lành tu tập mười pháp cúng dường và nguyện luôn luôn theo sát bên cạnh gọi là gần gũi tất cả các Đức Phật, bạn lành đều nguyện cầu cúng dường, gần gũi không có tâm chạy theo hay chống trái, như phần cúng dường ở trước đã nói. Hai là thường thích nghe pháp, tâm không hề thỏa mãn, nên nói các Đức Phật vốn là duyên cầu pháp; hai thứ trên đều thuộc về trí gia hạnh. Thứ ba và thứ năm là trí hậu đắc, niềm vui ở hai cảnh giới chân tục có khả năng hiểu rõ. Thứ tư là vì dứt bỏ phiền não kiến, tư thuộc về trí căn bản. Kỹ thuật thế gian tức là sáu mươi bốn kỹ năng, pháp năm minh gồm nội minh, nhân minh, thanh minh, y phương minh và công xảo minh, khai triển như Du-già ba mươi tám nói. Hỏi: Đối với nội minh, xứ là chỉ có Phật giáo mới có nội minh xứ phải không? Đáp: Ngoại đạo cũng có, nhưng hiểu rõ nhân quả trong thân mình mới gọi là nội minh xứ. Văn kinh: Này người thiện nam! Lại nương vào năm pháp mà Đại Bồ-tát thành tựu Phương tiện ba-la-mật. Năm pháp ấy gồm: Đối với ý thích phiền não, tâm hạnh khác nhau của tất cả chúng sinh thảy đều thông đạt. Vô lượng các pháp và pháp môn đối trị tâm đều hiểu rõ. Ra vào tự tại trong định đại Từ bi. Đối với các ba-la-mật đa đều nguyện tu hành thành tựu đầy đủ. Tất cả Phật pháp đều nguyện hiểu rõ thông suốt tiếp nhận không sót. Này người thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện Thắng trí ba-la-mật. Này người thiện nam! Lại nương vào năm pháp mà Đại Bồ-tát thành tựu Nguyện ba-la-mật. Năm pháp ấy gồm: Đối với tất cả các pháp từ xưa đến nay không sinh không diệt, chẳng phải có chẳng phải không, tâm được an trú. Quán xét tất cả các pháp nhiệm mầu lý thú, lìa cấu thanh tịnh, tâm được an trú. Vượt qua tất cả các tướng, tâm vốn chân như, vô tác vô hành, bất dị bất động, tâm được an trú. Vì việc làm muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh, ở trong tục đế, tâm được an trú. Đối với Xa-ma-tha (ngưng dứt ý niệm), Tỳ-bát-xá-na (quán sát ý niệm) đồng thời vận hành, tâm an trú. Này người thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu Nguyện ba- la-mật. Này người thiện nam! Lại nương vào năm pháp và Đại Bồ-tát thành tựu Lực ba-la-mật. Năm pháp ấy gồm: Nhờ năng lực chánh trí mà hiểu rõ tâm hạnh thiện ác của tất cả chúng sinh. Làm cho tất cả chúng sinh nhập vào pháp sâu xa nhiệm mầu. Tất cả chúng sinh luân hồi trong sinh tử, tùy theo duyên nghiệp của họ nên hiểu rõ đúng với sự thật. Đối với ba thứ căn tánh của tất cả chúng sinh dùng năng lực chánh trí phân biệt biết rõ. Đối với các chúng sinh giảng nói đúng như lý giúp họ gieo trồng gốc lành thành tựu độ thoát, đó đều là trí lực. Này người thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu Lực ba-la- mật. Này người thiện nam! Lại nương vào năm pháp mà Đại Bồ-tát thành tựu Trí ba-la-mật. Năm pháp ấy gồm: Đối với các pháp phân biệt rõ thiện ác. Đối với hắc pháp, bạch pháp xa lìa nhiếp thọ. Đối với sinh tử, Niết-bàn không nhàm chán, không ưa thích. Đầy đủ phước trí thực hành đến chỗ rốt ráo. Thọ nhận địa vị quán đảnh thù thắng, được các pháp bất cộng và trí Nhất thiết trí của các Đức Phật. Này người thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát thành tựu Trí ba-la- mật. Bốn độ: Phương tiện, nguyện, lực, trí theo thuyết của Du-già 49, như trước đã nói. Mười hai hành tướng phương tiện khéo léo, nên biết rằng giải thích gọi là phương tiện khéo léo, như trước đã nói. Năm nguyện lớn gọi là nguyện, tất cả mười lực gia hạnh gọi là lực, đối với tất cả các pháp đúng như thật an lập thanh tịnh trí mầu gọi là trí. Hỏi: Độ thứ mười này và thứ sáu khác nhau như thế nào? Đáp: Ngay trong luận đó chép: “Thường chọn lấy thắng nghóa không còn phân biệt chuyển thành thanh tịnh diệu tuệ gọi là tuệ, thường chọn lấy thế tục còn có phân biệt chuyển thành thanh tịnh diệu trí gọi là trí; gọi là hai phân biệt.” Mười hai phương tiện khéo léo ấy trong Du- già quyển bốn mươi lăm chép: “Phương tiện khéo léo, nên biết rằng nói lược có mười hai thứ, dựa vào nội tu chứng tất cả Phật pháp có sáu, nương vào ngoại thành tựu tất cả hữu tình cũng có sáu thứ. Dựa vào nội tu có sáu, đó là: Đối với hữu tình tâm Từ bi chú ý không quên. Đối với các hạnh biết tất cả đúng như thật. Đối với tâm Bồ-đề vui mừng sâu sắc. Chú ý không quên hữu tình, không bỏ sinh tử. Biết khắp các hành luân hồi không nhiễm. Ưa thích trí Phật, hăng hái tinh tiến; gọi là nương vào bên trong tu tập sáu thứ khéo léo. Ý này là tự lợi. Nương vào hữu tình bên ngoài tu tập sáu thứ khéo léo đó là: Khiến cho người tu tập chút ít điều lành chiểu cảm vô lượng cho đến điều lành nhỏ bé cũng khiến cho tu tập hồi hướng. Khiến cho người có công lực nhỏ đạt được đại Bồ-đề, khiến cho bỏ tà vạy, tu tập vui theo v.v… Khiến người trái với Thánh giáo, khiến cho dứt bỏ oán hận bực tức. Người ở trong trung đạo khiến cho họ đi vào. Người hướng đi vào khiến cho họ được thành tựu. Người đã thành tựu khiến cho được giải thoát. Sau khi đã thành tựu bốn thứ sau trong sáu khéo léo, tiếp tục tu sáu thứ phương tiện khéo léo: Thuận theo hiểu rõ thông suốt, tức là hiểu biết giải thích sự trái nhau giữa các giáo. Cùng lập nên văn khế quan trọng, khiến cho trước tiên bỏ ác làm lành, phương tiện lợi ích… Ý ưa thích khác nhau, thấy những điều không lành, tỏ ý chống trái, không thực hành những điều đã hứa trước đó, tâm không đắm nhiễm, khiến cho sửa đổi tu tập. Thúc bách những người sinh ra nơi địa vị cao quý nhanh chóng khiến cho tu tập điều lành. Thi ân báo ân, nghóa là đối với người có ân muốn đền đáp, chỉ khiến cho họ tu điều lành là tạo điều kiện để họ báo ân. Rốt ráo thanh tịnh, nghóa là hiện tám tướng, rốt ráo lợi ích chúng sinh… Rộng như luận kia giải thích. Nguyện hạnh khác nhau có nói một nguyện, tức là sơ phát tâm, nguyện cứu độ hữu tình cùng cầu quả Phật. Luận Phát Bồ-đề Tâm nói: “Dùng nguyện này dẫn dắt phát sinh mười nguyện lớn.” Như các luận Duy thức… nói có hai nguyện: Nguyện cầu Bồ-đề. Nguyện lợi lạc người khác. Các nơi khác đều nói có bốn thệ nguyện rộng lớn, tức là chưa độ thoát khiến cho độ thoát… Trong Du-già quyển bốn mươi lăm nói có năm nguyện lớn: Nguyện Phát tâm. Nguyện Thọ sinh. Nguyện Sở hành. Chánh nguyện. Đại nguyện. Đối với Vô thượng giác đầu tiên phát tâm mong cầu gọi là nguyện phát tâm, tiếp đó vì lợi ích chúng sinh nguyện sinh vào đường lành gọi là nguyện thọ sinh, nguyện tu tập các pháp lành gọi là nguyện sở hành, nguyện sẽ tiếp nhận tất cả công đức gọi là chánh nguyện, nói chánh nguyện này sinh ra đại nguyện. Đại nguyện chính là mười thứ đại nguyện: Nguyện vui vẻ dùng tất cả các thứ cúng dường tốt nhất để dâng cúng các Đức Phật. Nguyện gìn giữ, bảo vệ chánh pháp của các Đức Phật. Nguyện thực hành biết đủ cho đến lúc nhập Niết-bàn thường theo hầu cận. Nguyện thực hành tất cả mọi chánh hạnh của Bồ-tát. Nguyện khắp thành tựu tất cả hữu tình. Nguyện đến tất cả thế giới của các Đức Phật. Nguyện làm thanh tịnh khắp tất cả các cõi Phật. Nguyện cùng Bồ-tát ý ưa thích gia hạnh hướng đến hội nhập Đại thừa. Nguyện cho xả bỏ tất cả không còn lui sụt, lợi ích chúng sinh đều không luống uổng. Nguyện mau chóng thành tựu vô thượng Bồ-đề. Luận Phát Bồ-đề tâm kinh, luận Đại trang nghiêm đều nói là mười, giống nhau về đại thể mà khác nhau ở chi tiết. Trong kinh Bảo Vân nói mười, phần nhiều có khác. Về lực trí cũng vậy, các thuyết có khác nhau nhiều ít, vì rườm rà nên không dẫn ra đầy đủ, tạm thời dựa theo cái chung nhất trong Nhiếp luận và luận Duy thức để giải thích. Thứ ba nương vào năm pháp trong phần trưng liệt, tức là năm đoạn rõ ràng không chỉ ra khoa mục. Ba thứ đầu trong năm phương tiện là bạt tế phương tiện, hai thứ sau là hồi hướng phương tiện. Ý ưa thích phiền não, tâm hành khác nhau là vì cứu giúp chúng sinh cần phải nhận thức rõ ý ưa thích và tâm phiền não, các hành tham sân si, tám mươi bốn ngàn các cửa trần lao vốn có khác nhau. Đây là sở đối trị, các môn đối trị tâm đều hiểu biết rõ ràng. Tiếp theo vì đối trừ phải biết rõ cách đối trừ, tám mươi bốn ngàn các môn công đức tức là năng đối trị. Ra vào tự tại nơi đại định Từ bi là đã biết rõ cách đối trừ, nên đến các đường mà hành hóa lợi ích, nương vào đại Từ bi, ra vào các định, đều khiến cho tự tại hiện bày thần thông rộng lớn. Các Ba-la-mật đều nguyện tu hành, hồi hướng Bồ-đề. Phương tiện tu tập các Ba-la-mật, tất cả Phật pháp nguyện hiểu rõ nhiếp thọ là Bồ-đề Niết-bàn trí đoạn ân đức… nguyện đều chứng đắc liễu đạt nhiếp thọ, đó là nghóa năng chứng. Nếu ra nguyện ấy, ba nguyện đầu trong năm nguyện là nguyện cầu Bồ-đề, hai nguyện sau là nguyện lợi lạc chúng sinh. Ba nguyện đầu tức là quán xét ba thân, nguyện an trú quán sát tất cả các pháp bậc nhất, tuy quán sát toàn bộ nhưng cũng là quán sát tất cả pháp của tám tướng không sinh không diệt. Lìa chấp an trú ấy tuy gọi là quán trú nhưng chính là dục nguyện, như Bát-nhã hỏi “Phải an trú nơi nào”. Quán sát tất cả các pháp đều chung cho cả năng quán và sở quán. Trí của báo Phật quán sát tất cả pháp, tục đế là lý thú nhiệm mầu nhất và chân đế là lìa cấu thanh tịnh; tức lìa hai chướng, trí năng quán đối với hai đế tâm được an trú. Được là chứng đạt, tức bốn trí của Báo thân. Ở đây nói: Bồ-tát đối với trí năng quán cấu tịnh của Phật cũng nguyện được lạc trú. Vượt quá tất cả các tướng ấy là muốn đạt được pháp thân, nói rằng tâm được an trú thì thể chính là dục lạc (ý thích). Quán sát pháp thân vượt qua tất cả các tướng là gốc rễ của tâm, gốc rễ của tâm chính là chân như. Vô tác là không gây ra phiền não. Vô hạnh là giống như xa lìa ba đời. Bất dị là không có tướng khác nhau trước sau. Bất động là không chuyển dời hoại diệt. Quán sát pháp thân lìa xa bốn tướng này. Nguyện lạc trú nghóa là tâm được an trú, vì muốn làm lợi ích v.v… nên nói rằng ở trong tục đế, tức là cơ tánh năng thuyên giáo v.v… vì việc lợi tha cho nên phải hiểu rõ giáo thuyên và căn cơ chủng tánh chúng sinh, đây tức là tục đế, ở trong nguyện lạc tâm được an trú. Đối với Xa-ma-tha v.v… muốn làm lợi ích chúng sinh thì phải nương vào chỉ quán, hiểu rõ các pháp như huyễn, lìa các lỗi lầm, cho nên thì phải thực hành tất cả. Xa-ma-tha Hán dịch là chỉ, Tỳ-bát-xá-na Hán dịch là quán. Khơi dậy nguyện lạc gọi là tâm được an trú. Năm thứ lực ấy trong Du-già chép: “Lực tức là mười lực, trong đó thứ nhất tức là nghiệp dị thục trí lực và biến thú hành trí lực. Thiện ác tức là nghiệp lành và không lành, do đó tâm hành thì đến khắp các đường. Chánh trí là lìa xa các hành tăng thượng mạn, trí hiểu rõ tất cả các nghiệp và ý thú thú hướng kia, khiến cho hội nhập vào pháp sâu mầu diệu ấy là lậu tận trí lực, biết lậu đã hết hay chưa hết là chứng được vô vi, khiến cho hội nhập vào pháp thâm diệu. Chúng sinh luân hồi là sinh tử sinh trí lực, hoặc biết luân hồi quá khứ cũng chung cho túc trụ trí lực, tùy theo thiện ác hiểu rõ luân hồi sinh tử đúng với thực tế. Ba thứ căn tánh chánh phân biệt tri thì căn tức là căn thắng liệt trí lực, tánh tức là chủng chủng tánh trí lực. Năm là như nghóa lý vì nói thành tựu độ thoát, chung cho thông cả xứ phi xứ trí lực, tónh lự đẳng trí lực, thắng giải trí lực, tu tập được các pháp này tức là tu tập lực, hiểu rõ được các pháp này tức là tư trạch lực. Trong năm trí, ba trí đầu là thành tựu hữu tình, một trí cuối là thành tựu Phật pháp: Có khả năng vì chúng sinh phân biệt thiện ác. Có khả năng khiến cho chúng sinh lìa bỏ hắc pháp, tiếp nhận bạch pháp. Vì lợi ích hữu tình nên đối với sinh tử không nhàm chán, đối với Niết-bàn không ưa thích. Thực hành phước trí đó cho đến chỗ rốt ráo đại Niết-bàn. Ở địa thứ mười thọ nhận địa vị quán đảnh thù thắng, đạt được quả Phật Bồ-đề và các pháp Bất côïng cùng hai trí căn bản và hậu đắc. Mười độ trong đây ở Địa tiền, Địa thượng đều tùy theo từng phần mà tu tập. Thập địa đều nói theo tăng thắng, Thập ba-la-mật-đa dùng năm môn để phân biệt: Giải thích tên gọi. Nêu ra thể. Phế lập. Giải thích về tướng Các môn. Thứ nhất giải thích tên gọi: Đầu tiên giải thích tên chung, sau đó giải thích tên riêng. Tiếng Phạn là Thỉ-ca ba-la-mật-đa, Thỉ-ca là thập (mười), Ba-la là bỉ ngạn (bờ kia), Mật-đa là ly đáo (lìa xa, đạt đến). Tóm lại gọi là Thập ly đáo bỉ ngạn (mười bến bờ lìa xa và đạt đến). Thập là số đếm, bỉ ngạn có năm: Sở tri. Giáo. Lý. Hạnh. Quả. Do mười hạnh này có công năng biết rõ tận cùng tất cả cảnh giới có, không, có công năng hiểu rõ tận cùng tất cả giáo lý năm minh, có công năng thông đạt tận cùng tất cả nghóa lý chân tục, có khả năng tu tập tận cùng tất cả công hạnh phước tuệ, có khả năng chứng đắc tận cùng quả vị Bồ-đề gọi là đến bờ kia. Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề, Bồ- đề Niết-bàn đều gọi là Bồ-đề. Trong năm loại có đôi chút không cùng tận, không thể gọi là đáo bỉ ngạn. Lìa là lìa xa. Do mười hạnh này xa lìa pháp năm uẩn sinh tử, đạt đến sự hiểu biết về năm thứ bỉ ngạn gọi là thập ba-la-mật đa. Dựa vào đại Bát-nhã để giải thích như vậy là đối số thích (giải thích theo số). Hoặc trong Vô tánh giải thích nói rằng ở thế gian các hàng Thanh văn Độc giác thực hiện các thiện căn thù thắng bậc nhất có thể đạt đến bờ kia. Vì thế cho nên cùng gọi là ba-la-mật đa. Nên căn cứ vào tự năng sở đáo để giải thích thì Nhiếp luận phân biệt với tha; bởi vì hàng Nhị thừa không phải đối với năm thứ này đều tu chứng cho nên luận Đại trang nghiêm giải thích theo bốn nghóa, kinh Giải Thâm Mật và luận Du-già quyển bảy mươi tám dùng năm nghóa để giải thích, luận Tạp tập mười một giải thích theo mười hai nghóa, kinh này có mười bảy nghóa, văn nói như ở dưới. Về giải thích tên riêng, trong Nhiếp luận chép: “Lại có thể phá tan tham tiếc, nghèo khốn và có thể dẫn đến đạt được tài vật địa vị phước đức tư lương to lớn, cho nên gọi là Thí. Lại có công năng dứt trừ ác giới, các nẻo ác và có thể nhận được các nẻo lành một cách chắc chắn cho nên gọi là Giới.” Luận Đại Trang nghiêm chép: Khiến cho mát mẻ nên gọi là giới, Nhiếp luận dựa theo sở trị, Đại trang nghiêm căn cứ vào đắc quả, cũng không trái nhau. Ngoài ra những cách giải thích khác nhau đều y theo đây thì biết. Lại có thể dứt sạch tức giận oán thù, và có thể khéo léo an trụ nơi yên ổn cho mình và người, cho nên gọi là Nhẫn. Lại có thể xa lìa tất cả các pháp không lành, xấu ác, biếng nhác và có thể phát sinh vô lượng pháp lành, khiến cho lớn mạnh pháp ấy, nên gọi là Tinh tiến. Lại có thể dứt trừ tất cả sự tán loạn dao động và có thể dẫn dắt nội tâm về nơi an trú, nên gọi là Tónh lự. Lại có thể dứt sạch tất cả kiến thủ, các tuệ tà ác và có thể phân biệt chân thật biết rõ các pháp, cho nên gọi là tuệ. Giải thích rằng: Lúc ở nơi nhân có khả năng phá trừ tiếc lẫn, cũng có khả năng dẫn đến nhiều phước đức tư lương, lúc ở nơi quả có công năng dứt sạch nghèo khốn, đạt được tiền tài địa vị cao lớn, nên gọi là Thí. Các nơi còn lại giải thích về tên khác văn từ dễ hiểu, nhưng chỉ giải thích sáu thứ trước không giải thích bốn thứ sau. Theo luận Văn-thù vấn kinh thi các loại sau là vì đối trị mười chướng nên lập nên mười ba-la-mật. Bốn thứ sau nói: Bảy là vì đối trị tâm phiền não nên phát sinh pháp Trợ đạo, tám là đối trị điên đảo, đạo tập thật đế trợ đạo nên phát sinh đạo không điên đảo; chín là đối trị tâm pháp không tự tại nên thời, phi thời được tự tại, mười là đối trị tướng hữu ngã nên quán các pháp vô ngã. Đây là ý vào lúc nhân vì đối trị tâm phiền não nên phát sinh tâm trợ đạo, vào lúc quả đạt được pháp trợ đạo, tức là các đạo phẩm, bốn trí tương ưng, các pháp trợ đạo; còn lại y theo đó có thể biết. Đưa ra thể giống như những thứ còn lại. Phân biệt rõ về phế lập, sáu thứ trước khai triển như Nhiếp Đại thừa bảy, luận Đại trang nghiêm bảy, luận Thành duy thức chín, bốn thứ sau trong kinh Giải thâm mật bốn nói: “Cùng với sáu loại trước làm pháp trợ giúp, đối với ba loại trước thâu nhiếp hữu tình đặt để thiện phẩm, nên nói phương tiện cùng với ba thứ làm bạn, bởi vì trong pháp hiện tại nhiều phiền não, nên đối với nội tâm trú không có khả năng chịu đựng… Lại tiếp nhận những điều đó”, cho đến nói: “Do nguyện này cho nên phiền não ít mỏng, có thể tu tinh tiến, vì vậy ta nói nguyện để trợ giúp tinh tiến. Do năng lực này cho nên đối với nội tâm trú có khả năng chịu đựng, nói lực để trợ giúp tónh lự. Do trí này có thể dẫn dắt trí tuệ xuất thế cho nên ta nói trí để trợ giúp cho tuệ.” Mục đích này là vì giúp cho sáu thứ trước được thành tựu trọn vẹn cho nên tu tập bốn thứ sau. Hoặc theo Văn kinh-thù-vấn phát Bồ-đề tâm chép: “Vì đối trị mười chướng nên lập ra mười độ” thì sáu thứ trước tức là các tham lẫn…, bốn chướng sau đó là bảy chướng tâm phiền não, tám chướng đạo điên đảo, chín chướng tâm pháp không tự tại, mười chướng tướng hữu ngã. Đối trị bốn chướng sau này nên lập ra bốn thứ độ sau. Hoặc theo Nhiếp luận của ngài Vô tánh thì bốn sau mỗi thứ đều chung cho cả sáu thứ trước. Luận đó chép: “Phương tiện khéo léo, nghóa là dùng thiện căn chứa nhóm từ sáu thứ trước cùng với các hữu tình hồi hướng cầu vô thượng chánh đẳng Bồ-đề. Nguyện ba-la-mật-đa đó là phát khởi các thứ đại nguyện nhiệm mầu dẫn dắt tiếp nhận các duyên tốt đẹp ba- la-mật-đa ở vị lai. Lực ba-la-mật, nghóa là do hai lực tư trạch và tu tập khiến cho sáu loại trước hiện hành không bị đứt quãng. Trí ba-la-mật, nghóa là do thành tựu sáu thứ trước lập nên diệu trí thọ dụng pháp lạc, thành tựu hữu tình. Các ba-la-mật-đa có nhiều nghóa, tùy mỗi loại nêu ra một, đều không trái nhau”. Văn kinh: Này người thiện nam! Thế nào gọi là nghóa ba-la-mật? Tiếp theo phân biệt rõ về giải thích tên gọi thứ hai trong phần tu hành. Trong đó chia làm hai: Đầu tiên nêu câu hỏi, sau đó giải thích. Đây là nêu câu hỏi. Văn kinh: Cái gọi là tu tập thắng lợi là nghóa ba-la-mật, đầy đủ vô lượng trí rất sâu xa là nghóa ba-la-mật, hành pháp và phi hành pháp tâm không hề chấp đắm là nghóa ba-la-mật, lỗi lầm sinh tử, công đức, Niết-bàn, Chánh giác, chánh quán là nghóa ba-la-mật, người ngu người trí thảy đều được che chở là nghóa ba-la-mật, thường hiện bày các thế pháp bảo quý giá nhiệm mầu là nghóa ba-la-mật, vô ngại giải thoát đầy đủ trí tuệ là nghóa ba-la-mật, pháp giới và chúng sinh giới đích thực phân biệt biết rõ là nghóa ba-la-mật, các thí và trí có thể khiến cho đạt đến không lui sụt là nghóa ba-la-mật, vô sinh pháp nhẫn có công năng khiến cho thành thục là nghóa ba-la-mật, có thể đối với Bồ-đề, thành Phật, mười Lực, bốn Vô sở úy, các pháp Bất cộng thảy đều thành tựu là nghóa ba-la-mật, sinh tử Niết-bàn hiểu rõ không có hai tướng là nghóa ba-la-mật, cứu độ tất cả là nghóa ba-la-mật, tất cả ngoại đạo đến cùng vặn hỏi khéo léo có khả năng giải thích khiến cho họ bị hàng phục là nghóa ba-la-mật, quay được bánh xe pháp mười hai diệu hạnh là nghóa ba-la-mật, không có chấp đắm, không có sở kiến, không lo buồn sầu khổ là nghóa ba-la-mật. Giải thích có mười bảy nghóa tức là mười bảy đoạn. Văn từng đoạn dễ biết không cần nhắc lại khoa mục, chỉ dựa theo lần lượt giải thích. Nói về thắng lợi, trong Du-già ba mươi lăm nói chung phát tâm có hai thắng lợi: Đã phát tâm tức là ruộng phước tôn trọng của chúng sinh, tất cả chúng sinh đều nên cúng dường, cũng làm cha mẹ của tất cả chúng sinh. Đã phát tâm tức là có khả năng tiếp nhận phước không não hại. Do đó, Bồ-tát thành tựu phước không có sự não hại ấy, được Luân vương hết lòng bảo vệ, ngủ nghỉ được yên lành, loài phi nhân không thể quấy nhiễu, chuyển sang thọ sinh đời khác không hề bệnh hoạn, sống lâu thường ích lợi hữu tình, không phiền nhọc và tổn hại… Hoặc theo Nhiếp Đại thừa nói riêng về thắng lợi rằng: “Sáu thứ như vậy đạt được những thắng lợi, làm sao thấy được? Nghóa là các vị Bồ-tát trôi lăn trong sinh tử, vì thuộc về giàu sang, vì thuộc về đại sinh, vì thuộc về đại bằng đại thuộc, vì thuộc về sự nghiệp rộng lớn, gia hạnh thành tựu cho nên không có các sự não hại. Tánh thuộc về trần cấu ít ỏi, thuộc về nơi khéo biết tất cả công xảo minh, cuộc đời cao đẹp không có tội lỗi, cho đến lúc ngồi yên dưới cội Bồ-đề nhiệm mầu, thường có thể hiện bày làm tất cả nghóa lợi cho tất cả hữu tình, đó gọi là thắng lợi.” Giải thích rằng: Vì thuộc về giàu sang là thí thắng lợi, vì thuộc về nẻo lành nên gọi là đại sinh, là giới thắng lợi, bằng nghóa là thân quyến, họ hàng, tôi tớ là nhẫn thắng lợi, sự nghiệp rộng lớn, gia hạnh thành tựu là tiến thắng lợi, sự nghiệp rộng lớn nghóa là như các Luân vương… động viên sách tiến bên trong gọi là gia hạnh, mọi công việc đều lo liệu cho nên gọi là thành tựu, không hề ngăn ngại, không có các sự não hại, tánh thuộc về trần cấu ít ỏi là tónh lự thắng lợi, khéo biết tất cả mọi điều công xảo minh là tuệ thắng lợi. Trên đây là sáu thứ riêng về biệt thắng lợi. Không có tội lỗi cho đến lúc ngồi yên dưới cội Bồ-đề nhiệm mầu, thường có thể hiện bày làm tất cả nghóa lợi cho tất cả hữu tình là sáu thứ thông lợi, không giống như chúng sinh ở thế gian có tội lỗi, lại vô biên vô gián cho đến Bồ-đề chẳng phải như thế gian chỉ tự lợi ích cho mình. Thường hiện bày làm nghóa lợi cho hữu tình nên giống như thắng sinh năng; năm thứ còn lại cũng vậy. Trí Phật vô lượng, hiểu rõ hai không gọi là đại, người khác không thể suy lường gọi là sâu xa, mười thứ này đầy đủ gọi là đến bờ kia, là nghóa của ba-la-mật. Pháp lành gọi hạnh, pháp không lành gọi là phi hạnh, đây chính là nhân. Đều không chấp đắm tức không hề chấp đắm là nghóa của ba-la-mật. Quả sinh tử hữu lậu, quả Niết-bàn vô lậu, lỗi lầm sinh tử, công đức Niết-bàn, chánh giác đối với lỗi lầm sinh tử, chánh quán đối với công đức Niết-bàn, hoặc là chánh giác chánh quán cùng chung cho cả hai, là nghóa của bờ kia. Người ngu ưa thích sinh tử, người trí ưa thích Niết-bàn, bình đẳng lợi ích, bi tâm không giảm bớt gọi là nhiếp thọ. Có khả năng nói bày rõ bảy tài sản quý báu của bậc Thánh cho người trí, có khả năng nói bày thí, giới, nhẫn, cần, định, trí, phương tiện là thế gian, pháp là người trí, tài là người ngu. Hiện là nói bày hoặc chung cho cả hai mà nói khiến cho học hỏi, đây là pháp được chỉ bày. Hoặc có thể châu báu tức là nương vào định thù thắng hiện bày bảy thứ báu để bố thí cho các chúng sinh. Vô ngại là bốn thứ vô ngại, giải thoát là tám thứ giải thoát, do tám thứ giải thoát có công năng phát ra các thứ thần thông, được bốn thứ vô ngại. Trí tuệ đầy đủ, có thể nói được điều đó, là nghóa của ba-la-mật. Pháp giới, chúng sinh giới tức là hai thứ trong năm thứ vô lượng, y theo đó có thể hiểu rõ các thứ khác. Bố thí v.v… tức là năm độ trước và trí chính là năm độ sau, đều có thể tu tập đến không lui sụt tức là Địa thứ mười cho đến bờ kia. Vô sinh pháp nhẫn là ba vô sinh nhẫn, như trước đã giải thích, Sơ địa bắt đầu đạt được, Bát địa tiếp tục đạt đến, có khả năng khiến cho đầy đủ đó là đạt đến Phật địa. Hai thứ trên là tự lợi đã mãn. Tất cả công đức gốc lành của chúng sinh có thể thành tựu thì đó là lợi tha bỉ ngạn. Mười lực hàng phục thiên ma, vô úy hàng phục ngoại đạo, pháp Bất cộng hàng phục Nhị thừa, ba thứ thù thắng này lệ với các công đức khác cũng đều thành tựu đầy đủ, là Bồ-đề ba-la-mật trí đức. Hiểu rõ sinh tử, Niết-bàn không có hai tướng, như thông đạt chân như không khác, đoạn đức của bỉ ngạn không giống như Nhị thừa dùng tâm chấp pháp thấy có hai tướng. Cứu độ tất cả là ân đức, do có đủ vô úy nên ngoại đạo các nạn tiêu tan, khiến được hàng phục, có khả năng phá tà, đến bờ kia. Quay được bánh xe pháp mười hai diệu hạnh là hiển chánh đến bờ kia, mười hai diệu hạnh là ba lần chuyển bốn đế, nương vào khổ đế thấy dứt thị hiện tướng tu đạo, khuyến khích tu vô học, thực hành chứng đắc. Phát sinh tuệ vô lậu gọi là pháp nhãn. Tất cả quá khứ, vị lai, hiện tại dứt bỏ cái ngu kia cho nên trong một sát-na có trí nghóa chia làm ba đoạn, tức theo thứ lớp gọi là trí, minh, giác. Chấp ba đế còn lại mỗi đế đều có mười hai hành tướng, thành bốn mươi tám hành tướng, vì tương tự cho nên gọi chung là mười hai diệu hạnh pháp luân, khai triển pháp luân này như Pháp Hoa sớ. Đối với tất cả không hề chấp đắm, không có đắm nhiễm, không còn sở kiến, không còn dính mắc, không buồn lo sầu khổ, xả bỏ sắc tướng vô thường, đạt được sắc tướng thường còn, thọ tưởng hành thức cũng giống như vậy, tức là xả bỏ hẳn hai thứ sầu lo buồn khổ của sinh tử. Văn kinh: Này người thiện nam! Bồ-tát Sơ địa là tướng đầu tiên hiện ra thế giới tam thiên đại thiên, vô lượng vô biên các thứ kho báu thảy đều tràn đầy, Bồ-tát đều thấy. Này người thiện nam! Bồ-tát Nhị địa là tướng đầu tiên hiện ra thế giới tam thiên đại thiên mặt đất bằng phẳng như bàn tay, vô lượng vô biên các thứ sắc màu nhiệm mầu thanh tịnh, đầy đủ châu báu trang nghiêm, Bồ-tát đều thấy. Này người thiện nam! Bồ-tát Tam địa là tướng đầu tiên hiện ra tự thân mạnh mẽ, mặc áo giáp, cầm khí trượng trang nghiêm, tất cả giặc thù đều có thể đánh tan hàng phục, Bồ-tát đều thấy. Này người thiện nam! Bồ-tát Tứ địa là tướng đầu tiên hiện ra phong luân bốn phương, các loại hoa thơm đẹp thảy đều tung rải đẹp đẽ trải đầy trên mặt đất, Bồ-tát đều thấy. Này người thiện nam! Bồ-tát Ngũ địa là tướng đầu tiên hiện ra có các cô gái xinh đẹp, các chuỗi anh lạc quý báu đeo vòng trang nghiêm khắp thân thể, đầu đội mũ bằng hoa đẹp để trang sức, Bồ-tát đều thấy. Này người thiện nam! Bồ-tát Lục địa là tướng đầu tiên hiện ra ao hoa bảy báu, có bốn thềm đường đi, cát vàng trải khắp, thanh tịnh không nhơ bẩn, nước tám công đức đều tràn đầy, hoa Uất-bát-la, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân- đà-lợi chỗ nào cũng trang nghiêm, ở trong ao hoa dạo chơi vui sướng mát mẻ không gì sánh được, Bồ-tát đều thấy. Này người thiện nam! Bồ-tát Thất địa là tướng đầu tiên hiện ra ở trước Bồ-tát có các chúng sinh phải đọa địa ngục, nhờ năng lực Bồ-tát nên không bị đọa, không bị tổn thương, cũng không sợ hãi, Bồ-tát đều thấy. Này người thiện nam! Bồ-tát Bát địa là tướng đầu tiên hiện ra nơi thân hai bên có sư tử đầu đàn để làm hộ vệ, tất cả các loài thú thảy đều kinh sợ, Bồ-tát đều thấy. Này người thiện nam! Bồ-tát Cửu địa là tướng đầu tiên hiện ra Chuyển luân Thánh vương và vô lượng ức chúng vây quanh cúng dường, lọng trắng trên đỉnh đầu được trang nghiêm bằng vô lượng các thứ báu, Bồ- tát đều thấy. Này người thiện nam! Bồ-tát Thập địa là tướng đầu tiên hiện ra thân sắc vàng sáng chói của Như lai, vô lượng ánh sáng thanh tịnh thảy đều trọn vẹn, có vô lượng ức vị Phạm vương vây quanh cung kính cúng dường, quay bánh xe pháp nhiệm mầu vô thượng, Bồ-tát đều thấy. Dưới đây là đoạn lớn thứ ba trong phần trả lời về chứng địa. Do trước đây phát tâm tu hạnh thù thắng lâu dài nên đạt đến chứng địa. Trong đó chia làm năm: Đạt được tướng của địa. Giải thích tên gọi của địa. Nói về chướng ngại của địa. Sự tu hành của địa. Nói về sự tu tập của địa. Đây là phần đạt được tướng của địa, nghóa là tướng đạt được lúc mới chứng đắc. Như Nhiếp luận quyển bảy của Vô Tánh cho rằng trong Thập địa thông được bốn tướng, luận chép: “Đạt được các địa này làm sao thấy được? Câu hỏi này do bốn thứ tướng: Được thắng giải, nghóa là đạt được các địa nên tin hiểu sâu sắc. Được chánh hạnh, nghóa là đạt được các địa tương ứng với mười thứ, nên pháp hành chân chánh. Được thông đạt, nghóa là lúc ở Sơ địa thấu suốt pháp giới, thông đạt khắp tất cả các địa. Được thành tựu đầy đủ, nghóa là tu tập các địa đến chỗ rốt ráo. Giải thích rằng: Tín hiểu sâu sắc là đối với địa giáo quyết định ấn khả chân thật như thế. Mười thứ chánh hạnh ấy tức là mười pháp hành, đó là cúng dường, viết chép, giúp người, lắng nghe, mở đọc, tiếp nhận, giữ gìn, giảng nói, tụng niệm và tư tu. Được thông đạt nghóa là lúc ở Sơ địa thông suốt pháp giới, thông đạt khắp tất cả các địa, nếu lúc ở nơi Sơ địa thông suốt mau chóng thì thông suốt tất cả các địa sau. Chủng loại này giống như có tụng nói: “Như trúc chẻ ở mắt đầu, thì các mắt khác mau chóng chẻ được” là đạt được Sơ địa thì chân trí của các Địa khác sẽ mau chóng thành tựu. Đến chỗ rốt ráo nghóa là quả phần trong từng Địa một thành tựu trọn vẹn hoặc cuối cùng sẽ đầy đủ; quả phần thành tựu đầy đủ hướng về trước là quả, ở nhân gọi là phần, hoặc cuối cùng sẽ đầy đủ ấy tức là thành tựu Phật quả, là quả vị. Hoặc là nhân rốt ráo của địa thứ mười cho nên gọi là cuối cùng sẽ đầy đủ. Nếu theo luận Đại trang nghiêm quyển mười ba chép: “Vào Bồ-tát địa thì mỗi địa đều có mười tướng. Mười tướng ấy gồm: Minh tín. Vô liệt. Vô khiếp. Vô đãi. Thông đạt. Bình đẳng. Là nghiêng lệch. Là mê đắm. Tri phương tiện. Thánh chúng sinh. Minh tín là nơi địa của tự mình được sáng tỏ, đối với Phật pháp dứt bỏ những gì vô tri, do đó đối với Địa khác đạt được tín, đối với các địa sau nguyện được ưa thích. Vô liệt là nghe pháp thâm diệu không hề kinh hãi. Vô khiếp là hạnh khó làm nhưng thực hiện vô cùng dũng mạnh mẽ. Vô đãi là khởi hạnh của tự địa không đợi chỉ bảo. Thông đạt là đối với địa khác phương tiện đều có thể khởi lên. Bình đẳng là chúng sinh ở khắp nơi đồng với tâm mình. Là nghiêng lệch là tai nghe lời chê bai hay khen tặng tâm không hề thay đổi. Là mê đắm là được các địa vị như Luân vương v.v… nhưng không hề ham thích, mê đắm. Tri phương tiện là biết các pháp không thật có, là phương tiện trên hết của Phật. Thánh chúng sinh là và đồ chúng của các Đức Phật thường ở trong sinh. Đây là mười tướng mà mỗi địa đều có, cũng có khi đạt được độ tướng, rộng như luận kia nói, hai văn đó y cứ theo nội chứng tướng, và chung tướng của các địa; kinh này y cứ theo ngoại đắc, tướng riêng của các Địa, do thực hành mười độ nên bên ngoài đạt được tướng này. Thập địa hiện tướng tức là mười đoạn, phân biệt có thể biết. Hỏi: Các tướng này ở chỗ nào? Đáp: Tất cả các tướng sẽ đạt được khi hội nhập nơi địa của mình. Nói rằng trước hiện? Lại giải thích: Tất cả các tướng đạt được lúc mới nhập địa mà nói trước hiện thì còn có nhiều tướng, những tướng trước hiện này không thể trước địa. Nói rằng Bồ-tát Sơ địa v.v… là tướng trước hiện là biểu hiện cho ở Sơ địa có khả năng thực hành tất cả thí độ, bên ngoài khắp đại thiên thế giới hiện các kho báu, có công năng toại nguyện sở cầu cho nên thảy đều đầy đủ. Bồ-tát đều thấy là Bồ-tát từ các địa trên được thấy tướng này, không phải Bồ-tát ở địa dưới thấy được, các địa còn lại đều y theo đó biết được. Ở Địa thứ hai biểu thị chứng lý bình đẳng, giữ gìn tịnh giới, mười nghiệp đạo thanh tịnh cho nên hiện các vật trang nghiêm quý báu thanh tịnh, màu sắc vi diệu. Ở địa thứ ba biểu hiện thực hành ba pháp nhẫn có tướng mạnh mữ, khoác áo giáp hàng phục ma oán. Ở địa thứ tư biểu hiện thực hành bốn Chánh cần, bảy tịnh, chín tịnh, hoa thơm đẹp rải đầy mặt đất, bảy tịnh đó là giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh, độ nghi tịnh, đạo phi đạo trí kiến tịnh, hành trí kiến tịnh và hành đoạn trí kiến tịnh, chín tịnh là thêm vô duyên tịch diệt tịnh và tịnh quốc độ tịnh. Ở địa thứ năm biểu hiện thực hành thiền định, lìa bỏ sự ngang bướng có bảo nữ xuất hiện, thiền định có công năng phát sinh giải thoát, ở khắp mọi nơi đều có chuỗi anh lạc trang nghiêm thân mình, thực hành bảy giác phần cho nên đầu đội mũ bằng hoa đẹp. Ở địa thứ sáu, văn nghóa có tám thứ: Biểu thị thực hành trí độ, trí có bảy loại là: Pháp trí, loại trí, thế tục trí, thần thông trí, tướng trí, thập lực tiền hành trí và tứ đạo lý trung chánh đạo lý trí, cho nên hiện ra hoa bảy báu, từ định xuất hiện do đó hoa báu nương vào ao. Tức là pháp loại trí, nhờ quán bốn đế mà ngộ lý duyên khởi, có bốn thềm đường đi, hoặc nương vào trí phần gia hạnh không gián đoạn giải thoát thắng tiến là bốn thềm đường đi. Chứng đạt như lý xuất hiện cát vàng trải đầy khắp nơi. Lìa bỏ tướng thô chướng ngại thanh tịnh, không uế tạp. Đạt được tám thứ giải thoát, hoặc tám đạo phần, hoặc tám chủng trí hiện nước tám công đức: Sạch sẽ. Nhẹ nhàng. Mát mẻ. Mềm mại. Ngọt ngào. Thơm tho. Uống vào không hại cổ họng. Uống vào không đau bụng . Bốn trí hiện bày hoa bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Dạo chơi vui thích trong vườn pháp. Chứng gió mát vô vi. Ở địa thứ bảy biểu hiện thực hành phương tiện khéo léo cứu giúp chúng sinh, ở trước Bồ-tát đáng đọa vào đường ác, có thể khiến cho sẽ không đọa, hiện tại không chịu ác báo, do đó không có sự tổn thương, lìa xa sự kinh sợ ở hiện tại và tương lai, như trong kinh Thủ- lăng-nghiêm chép: “Tánh của Bồ-tát là Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, luôn luôn chấm dứt các khổ đau, nhổ sạch các mũi tên ba độc.” Ở địa thứ tám biểu hiện thực hành hai nguyện, hoặc trí vô tướng nhậm vận hiện tiền đạt được hai tự tại về tướng và cõi, đối với thân ở hai bên có sư tử hộ vệ, thường khiến cho tất cả phiền não không thể hiện hành cho nên tất cả thú vật kinh sợ. Ở địa thứ chín biểu hiện thực hành lực độ như Luân vương kia có thế lực rộng lớn, bốn biện tài lợi ích chúng sinh, cho nên vô lượng ức chúng vây quanh cúng dường, dùng bốn vô lượng che mát chúng sinh như chiếc lọng… các thứ báu trang nghiêm. Ở địa thứ mười biểu hiện địa vị Quán đảnh sẽ thành tựu Chánh giác, nơi thân Bồ-tát có tướng Như lai hiện bày: Hiện bày thân. Hiện bày ánh sáng. Hiện bày các Phạm thiên. Hiện bày xoay bánh xe pháp. Đây là ở nơi tự thân không do tác ý mà có các tướng thân Phật. Hoặc theo kinh Bồ-tát Cầu Mộng thì ở mỗi địa đều mộng thấy các tướng; Bồ-tát từ địa thứ tám trở lên không hề ngủ nghỉ làm sao có mộng? Đây là y theo cái thấy của pháp quán như mộng huyễn. Nay ở đây cũng vậy, tuy không tác ý như mộng nhưng tự thân hiện rõ các Phật sự, chẳng phải y theo cái thấy bên ngoài. Tư Sơ địa trở lên trong sát-na thường được thấy các Đức Phật, hoặc ngoài ra thấy tướng Như lai hiện bày, trong sát- na thấy được Đức Phật kia hiện ra, đây là y cứ theo tự kiến. Văn kinh: Này người thiện nam! Vì sao Sơ địa gọi là Hoan hỷ? Tán rằng: Thứ hai là giải thích tên địa. Thành Duy thức quyển chín, Nhiếp luận quyển chín, Đại Trang nghiêm quyển mười ba, kinh Giải Thâm Mật, Du-già, Quyết Trạch… đều giải thích rộng tên gọi, đại ý đều giống nhau, lại có đôi chút khác nhau, rộng hay lược hiển bày lẫn nhau, rất nhiều nên không dẫn ra đầy đủ. Thập địa thì khác, chia làm mười đoạn. Sơ địa chia làm ba: Nêu câu hỏi. Giải thích. Kết luận. Chín địa còn lại đều chia làm hai, chỉ có giải thích và kết luận. Y cứ theo đây thì đầu tiên nêu câu hỏi này nên nói là vì sao Sơ địa v.v… gọi là Hoan hỷ v.v… lược bỏ chữ Đẳng. Văn kinh: Nghóa là đầu tiên chứng được tâm xuất thế mà trước kia chưa đạt được đến nay mới đạt được, đối với đại sự dụng như sở nguyện thảy đều thành tựu, sinh tâm vui mừng vô cùng, vì thế cho nên đầu tiên gọi là Hoan hỷ, các cấu tạp nhỏ nhiệm lỗi lầm phạm giới đều được thanh tịnh, vì thế cho nên Nhị địa gọi là Vô cấu, vô lượng trí tuệ, Tam-muội, ánh sáng không thể làm nghiêng động, không thể nhiếp phục, văn trì Đà-la-ni là căn bản, vì thế cho nên Tam địa gọi là Minh địa, dùng lửa trí tuệ đốt cháy các phiền não, ánh sáng thêm rực rỡ, tu hành các giác phẩm, nên gọi Tứ địa là Diệm địa, tu hành phương tiện thắng trí tự tại rất khó đạt được, do đó phiền não kiến tư khó điều phục có thể điều phục, vì thế cho nên Ngũ địa gọi là Nan thắng, hành pháp nối nhau hiển hiện rõ ràng, hiển hiện vô tướng tư duy thảy đều hiện tiền, thế nên Lục địa gọi là Hiện tiền, vô lậu vô gián, vô tướng tư duy, giải thoát Tam-muội tu hành vượt xa nên địa này thanh tịnh không có chướng ngại, thế nên Thất địa gọi là Viễn hành, vô tướng tư duy tu được tự tại, các hạnh phiền não không thể làm cho lay động cho nên Bát địa gọi là Bất động; nói tất cả pháp, các thứ khác nhau đều được tự tại, không lo lắng không vất vả, trí tuệ thêm lớn mạnh, tự tại vô ngại cho nên Cửu địa gọi là Thiện tuệ, pháp thân như hư không, trí tuệ như mây lớn, đều che phủ khắp nơi nên Thập địa gọi là Pháp vân. Tán rằng: Giải thích có hai nghóa: Tự lợi. Lợi tha. Đạt được tâm xuất thế tức là hai trí không và tâm tương ứng, gọi là tâm xuất thế, thuộc về lân cận thích. Trước kia chưa đạt được nay mới đạt được là giải thích theo lời mới được. Đây là tự lợi. Đối với đại sự dụng như nguyện thành tựu nghóa là cái dụng lợi tha, cho nên luận Đại Trang nghiêm chép: “Thấy chân như là thấy tự lợi, trước đây chưa hề thấy lúc này mới thấy, nên cách Bồ-đề không xa; thấy lợi vật nghóa là thấy lợi tha.” Mỗi sát-na có thể thành tựu một trăm chúng sinh cho nên đây có thể thành tựu trăm loại hữu tình. Theo đó thì biết Bồ-tát vì lợi ích cho chúng sinh nên làm đại sự dụng, như luận Thập địa kinh, Du- già quyển bốn mươi bảy, Duy thức v.v… đều nói Sơ địa đạt được mười bách môn: Tịnh tín xuất gia, trong khoảng một sát-na chứng được trăm Tam-ma-địa. Dùng thiên nhãn thanh tịnh ở cõi nước các Đức Phật thấy trăm Đức Như lai. Đối với sự biến hóa, trú trì kia đều hiểu rõ, dùng năng lực thần thông lay động trăm thế giới. Thân cũng có thể hiện đến phát ra ánh sáng khiến cho nhìn thấy. Ứng hóa thành trăm loại. Thành tựu trăm loại hữu tình đã hóa độ. Nếu muốn giữ lại thân mạng có thể trụ đến trăm kiếp. Đối với thời gian trước sau có thể biết rõ trăm kiếp. Đối với các thứ uẩn, giới v.v… trăm pháp minh môn luôn suy nghó chọn lựa đúng đắn. Hóa hiện trăm thân, mỗi thân đều có thể hiện trăm vị Bồ-tát quyết thuộc. Hoặc tóm lại mười bách (trăm) là đại sự dụng. Rất Sinh tâm vui mừng là lời giải thích về Hoan hỷ, chung cho cả hai thứ trước, văn kết luận có thể biết. Chín địa còn lại văn hiển bày rõ ràng, cũng không lặp lại khoa mục, đều dựa theo địa đầu tiên thì biết. Trong Nhị địa lìa hai cấu: Các kết cấu nhỏ nhiệm khởi lên tâm sai khác. Các cấu về phạm giới làm cho ba nghiệp sai phạm, vì vậy trong luận Đại Trang nghiêm chép: “Trong Nhị địa vượt ra hai loại cấu: Một là vượt khỏi phạm giới cấu, tức đây là lỗi lầm phạm giới; hai là vượt khỏi cấu khởi tâm sai khác, tức các cấu nhỏ nhiệm. Lìa xa hai cấu cho nên gọi là Ly cấu.” Ở đây nói đều được thanh tịnh tức là nghóa của lìa cấu, nói vô lượng trí tuệ là ba tuệ vô lượng văn-tư-tu. Từ định phát sinh nên hiểu rõ mình, hiểu rõ người, luận Đại Trang nghiêm chép: “Vì dùng pháp để hiểu rõ mình, hiểu rõ người nên gọi là Tam-muội quang minh.” Không bị ngoại đạo, tà ma hàng phục gọi là không nghiêng động, đồng thời trừ diệt chướng nên gọi là không nghiêng động, tức là ba tuệ đó dùng định để phát khởi nắm giữ tất cả tức là định tổng trì gọi là căn bản. luận Duy thức quyển chín chép: “Thành tựu định thù thắng vốn là pháp Tổng trì thường phát sinh vô biên ánh sáng trí tuệ nhiệm mầu.” Tuệ đã nói trước đây là Tam-muội quang minh, vì vậy sau chỉ nói tổng trì là căn bản. Văn kết luận có thể biết. Tu Bồ-đề phần trong địa thứ tư, ngọn lửa hừng hực trí tuệ thường đốt cháy củi phiền não nhỏ nhiệm các chướng hiện hành. Luận Đại Trang nghiêm chép: “Trong địa thứ tư dùng tuệ của Bồ-đề phần làm lửa tự tánh, dùng hai chướng hoặc và trí làm của tự tánh, càng tăng thêm ánh sáng thắng trí của giác phẩm, tức là Bồ-đề phần pháp càng tác dụng mạnh hơn.” Trong địa thứ năm hai trí chân, tục hành tướng trái nhau hợp lại khiến cho tương ưng, cùng lúc phát khởi gọi là tu hành phương tiện thắng trí tự tại. Lại có thể tiêu trừ cái hại kia kèm theo phiền não xa lìa tùy hiện hành gọi là khó điều phục. Tuy cái thấy phân biệt v.v… về kiến đạo đã dứt, thân kiến câu sinh ở địa thứ tư đã dứt, đến trong địa này lại dứt cái kèm theo, đây không hoàn toàn so với ngã kiến, riêng khởi các thứ tham, sân v.v… cũng chung cho cả kiến tư đoạn, nói tóm lại thì phiền não kiến tư khó điều phục mà điều phục được, chẳng phân biệt hoặc ở địa này mới điều phục. Trí chướng của đạo này do phiền não mà gọi là thuyết (nói). Căn cứ vào cái kèm theo đều là sở tri chướng hàng phục không khởi, chẳng phải các câu sinh ở đây đều có thể hàng phục, địa thứ sau, bảy hàng phục được yếu kém, ngủ nghỉ. Lại dựa vào địa thứ sáu nói, chẳng phải câu sinh địa thứ bảy. Câu sinh ở địa thứ bảy thì địa thứ tám trở lên vẫn hiện hành, cho nên kinh Giải Thâm Mật chép: “Từ địa thứ tám trở lên chỉ có sở y, sở tri chướng tồn tại, địa thứ sáu luôn luôn thường ở trong sự quán sát không thể khởi hoặc. Lại dứt sở tri, nương vào hoặc chướng, cuối cùng cũng điều phục.” Luận Duy thức v.v… căn cứ vào hai thứ thân kiến mà nói kiến tư hoặc ở địa thứ tư đã trừ, kinh này y cứ theo tham v.v… nên nói địa thứ năm điều phục kiến tư hoặc, đều nương vào một nghóa, không trái ngược nhau. Hỏi: Theo các chỗ nói từ Sơ địa trở lên thì tất cả phiền não có thể điều phục hết sạch do cố ý sinh, tại sao các ngã kiến ở địa thứ tư có thể điều phục, phiền não kèm theo ở địa thứ năm có thể điều phục? Đáp: Nếu căn cứ vào sự có thể điều phục ở Sơ địa tức là có thể vẫn cố ý sinh khởi, nay nương vào điều phục hẳn cho nên ý không thể làm cho sinh khởi. Đây là do dứt trừ sở y, sở tri kia cho nên có sự khác nhau. Trong này có hai cái khó: Kết hợp được hai trí là khó. Điều phục được phiền não là khó. Địa này đều đạt được cho nên gọi là Nan thắng. Lại theo luận Đại trang nghiêm thì có hai cái khó thối lui: Siêu năng hóa độ tâm chúng sinh không còn phiền não là khó. Chúng sinh không thay đổi tâm không còn phiền não là khó. Đây là ý hai điều khó thối lui, thối lui nghóa là xả bỏ, rất khó xả bỏ. Bồ-tát ở Địa này có thể xả bỏ hai điều khó, đối với điều khó mà đạt được thắng lợi nên gọi là Nan thắng. Ý này tức là nghóa có thể xả bỏ điều khó xả bỏ, giống như khó điều phục mà điều phục được. Luận kia y cứ theo điều khó về lợi tha mà được thắng, kinh này căn cứ theo điều khó về tự lợi mà được thắng, đều căn cứ theo một nghóa, hoàn toàn không trái ngược nhau. Hoặc có thể, trong đây tu hành phương tiện rất khó đạt được, tức là hai điều khó về thắng trí tự tại kia rất khó đạt được, tức ở chỗ khác kết hợp hai trí chân tục, một thì rất khó đạt được cho nên chung cho cả hai chỗ thì đều thâu nhiếp hết. Trong địa thứ sáu thường quán đạo lý mười hai nhân duyên, nối nhau không xen hở gọi là hành pháp nối nhau, trí thường quán sát đúng đắn gọi là liễu liễu. Đây là gia hạnh lại có thể dẫn khởi trí vô phân biệt, gọi là vô tướng tư duy, tư duy tức là chánh trí thảy đều hiện tiền. Luận Thành Duy thức chép: “Trú ở trí duyên khởi dẫn dắt Bát-nhã tối thắng vô phân biệt luôn luôn quán ở trước mắt”, theo Đại trang nghiêm chép: “Trong Địa thứ sáu nương vào Bát-nhã lực có thể không trụ vào sinh tử, Niết-bàn, hai pháp thường hiện tiền, cũng trong vô tướng tư duy này nhiếp thọ nên không có hai thứ tướng sinh tử, Niết-bàn.” Hỏi: Theo văn các chỗ khác thì trong địa thứ năm không còn hai tướng Niết-bàn và sinh tử, chứng được vô trú, vì sao luận Đại trang ng- hiêm nói ở địa thứ sáu? Đáp: Các chỗ khác y cứ vào tạm thời có thể nói ở địa thứ năm, ở đây y cứ theo nhiều nơi nói ở Địa thứ sáu. Luận Duy thức v.v… chép: “Trong địa thứ sáu quán nhiều về vô tướng, ít quán về hữu tướng. Trong địa thứ bảy đối với lý vô tướng nối nhau trong thời gian dài, dùng chân trí quán xét không còn hai thứ sinh diệt nhỏ nhiệm, vô tướng tư duy tức là trí vô phân biệt.” Trong đây, lẽ ra nên nói đối với lý vô tướng vô lậu tư duy không xen hở, phân biệt với hữu tướng gián đoạn ở Địa thứ sáu, bởi vì trải qua nhiều thời gian mới đến nơi địa này. Kinh Giải Thâm Mật chép: “Có thể chứng nhập sâu xa vô tướng tác ý không xen hở không thiếu sót.” Giải thoát là tám giải thoát, Tam-muội là ba thứ Tam-muội, tức là vô tướng tư duy vô tướng giải thoát Tam-muội, đều tu hành sâu xa đến tận cùng của công dụng. Luận Duy thức chép: “Đạt đến vô tướng trụ nơi tận cùng của công dụng, vượt xa thế gian và đạo Nhị thừa. Ba địa đầu tu tập giống như thế gian tu hạnh thí, giới, địa thứ tư, năm, sáu tu tập ở đạo phẩm, bốn đế duyên khởi giống như Nhị thừa.” Vì sự xuất ly kia cho nên gọi là Viễn tu hành, lìa tướng nhỏ nhiệm chướng ngại hiện hành, nên gọi là Thanh tịnh vô chướng. Trong địa thứ tám đối với quán vô tướng nhậm vận phát khởi nên gọi là Vô tướng tư duy. Tu được tự tại hoàn toàn là quán vô lậu không còn phiền não khuấy động nên nói các phiền não hiện hành không có thể làm cho lay động, tức là hai thứ bất động: Tướng dụng bất động, tướng là tướng hữu vô, dụng là công dụng. Phiền não không khuấy động. Luận Duy thức chép: “Trí vô phân biệt nhậm vận hiện tiền, nên tướng dụng phiền não không có thể khuấy động.” Luận Đại trang nghiêm chép: “Nhưng không bị tướng và công dụng khuấy động, không thể không bị phiền não khuấy động.” Luận ấy nói lược trong địa thứ chín nhậm vận có thể đạt được, bốn trí vô ngại nói tất cả pháp, gồm chung cho cả bốn biện tài, đều được gọi là thuyết (nói). Dùng các thứ danh ngôn khác nhau để nói, dùng các nghóa lý khác nhau để nói, dùng các thứ âm thanh khác nhau để nói, dùng các thứ biện tài khác nhau để nói, do nhậm vận nên đều được tự tại, lìa hai ngu chướng nên nói là không có lo lắng sợ hãi. Lại có thể làm cho mình và người đạt được: Trí tuệ, tự tại, bốn Biện tài, đều được thêm lớn, cho nên gọi là Thiện tuệ. Lại nữa, bốn Biện tài có công năng dứt nghi gọi là Thiện tuệ. Ở địa thứ mười pháp thân đạt được như hư không rộng lớn, vì trí tuệ rộng lớn như mây đầy khắp hư không tức là trí đầy khắp pháp thân. Lại giống như mây, pháp tức là như mây, vì thường che kín tất cả. Lại nói pháp mầu như mây đổ mưa, tức pháp là mây. Pháp chung cho cả pháp thân và pháp sở thuyết, theo luận Đại trang nghiêm chép: “Do Tam-muội môn và Đà-la-ni môn thâu nhiếp tất cả những gì nghe được huân tập làm nhân đầy khắp trong thức A- lại-da, giống như mây bồng bềnh khắp nơi giữa hư không. Có thể đem cái nghe này huân tập như mây vào trong từng sát-na, trong mỗi tướng mỗi vẻ đẹp mỗi lỗ chân lông mưa xuống vô lượng vô biên cơn mưa pháp, đầy đủ tất cả có thể hóa độ chúng sinh, do có thể như mây mưa cơn mưa pháp cho nên gọi là Pháp vân địa.” Đây tức là thức A-lại-da như hư không, cái nghe vô lậu huân tập như mây. Đây là ý A-lại-da có khả năng chứa đựng rộng lớn như hư không, hạt giống có thể sinh hiện như mây đổ mưa xuống, dùng định tổng trì tất cả huân tập thâu nhiếp những gì còn lại, lúc hiện hành phát khởi lại có thể nói pháp, nhưng lời trước đây do Tam-muội môn và Đà-la-ni môn thâu nhiếp tất cả những gì nghe được huân tập làm nhân, dùng định và tổng trì thâu nhiếp nghe được huân tập. Y theo ở dưới nói dùng cái nghe này huân tập như mây tức là nói đến tất cả hai thứ huân tập kia. Không như vậy làm sao trước đây nói đầy khắp trong thức A-lại-da? Hoặc các luận Du-già, kinh Giải Thâm Mật v.v… cũng vậy, to lớn như hư không đầy khắp tất cả, trí này như mây luôn luôn che phủ khắp nơi, như hư không rộng lớn. Luận Thành Duy thức chép: “Mây trí đại pháp gồm chứa nước các công đức, che kín như hư không rộng lớn đầy khắp pháp thân.” Hư không có ba nghóa: Pháp thân như hư không vì khắp nơi thanh tịnh. A-lại-da như hư không vì khắp nơi gồm chứa tất cả các loại. Rộng lớn như hư không nên đầy khắp tất cả. Mây có ba nghóa: Nghe và huân tập giống như mây. Trí tuệ như mây. Từ bi như mây. Tức trong kinh Thập địa chép: “Tự theo nguyện lực phát khởi mây đại Từ bi.” Dựa theo tự lợi và quyết trạch lại nói là mây trí tuệ, dựa theo lợi tha che mát tức là nói Từ bi, hai điểm này là nói theo hiện hành. Nếu căn cứ vào tương lai có thể mưa pháp công đức thì hai thứ hạt giống như mây, giống với luận Bát-nhã của ngài Vô Trước: “Vị lai như mây cho nên đều không trái ngược nhau.” Hỏi: Thập địa này tức là trụ thứ mười trong mười ba trụ, trụ và địa, hai tên gọi này có gì khác nhau? Đáp: Theo luận Đại trang nghiêm đại khái giải thích không có gì khác nhau. Luận ấy chép: “Mười một trụ ấy tức là mười một địa, trụ ấy gọi là địa; trụ ấy đã gọi là địa, rõ ràng biết rằng không hề khác nhau.” Một cách giải thích khác: Trụ và địa tên gọi khác nhau. Luận đó tự hỏi rằng: Sao gọi là địa? Kệ nói: Vì chứa nhóm các gốc lành, lạc trú nên nói trú, số số vô hạn, lại dùng địa làm tên. Theo giải thích thì hai câu đầu giải thích về tên gọi của trụ, hai câu sau giải thích tên gọi của địa. Nói các Bồ-tát thành tựu các thứ gốc lành, đối với tất cả thời lạc trú tất cả Địa, cho nên các địa gọi tên là trụ; Bộ-di-da gọi là địa, Bộ nghóa là thường thường, Di nghóa là thật số, Da là nghóa vô úy. Muốn tiến lên địa trên phải lần lượt dứt trừ chướng ngại, lần lượt đạt được các công đức, đó là nghóa của thường thường. Địa lấy mười số làm hạn lượng, trong từng địa một biết dứt trừ những chướng ngại như vậy, biết đạt những công đức như vậy; biết rõ điều này không luống dối, đó là nghóa của thật số. Địa trên là nơi vô úy, các Bồ-tát ở trong địa của mình lui sụt công đức của mình và người, tiến tới mong cầu địa trên, đó gọi là nghóa của vô úy, vì ba nghóa này nên gọi là địa. Văn kinh: Này người thiện nam! Chấp đắm có tướng ngã pháp là vô minh, sợ hãi sinh tử đường ác là vô minh, hai vô minh này chướng ngại đối với Sơ địa. Tán rằng: Đây là thứ ba nói về chướng ngại của địa. Bởi vì nói về chướng ngại của mười một địa, trước là hỏi về Bồ-đề, chung cho cả quả Phật, ở đây cũng nói về sự chướng ngại đối với Phật địa. Mười một chướng này tức là mười một đoạn; đây là đoạn đầu tiên, tức là chướng về Dị sinh tánh, văn chia làm ba phần: Nhắc lại thỉnh cơ. Đưa ra thể chướng. Giải thích về sở chướng. Mười chướng còn lại văn đều có hai, trừ sở chướng bày tỏ cơ nghi. Có tướng ngã pháp tức là cảnh của hai chấp. Tướng nghóa là tướng trạng, tâm năng chấp là tình tướng trạng, tức đồng với luận Duy thức, cho rằng khởi tướng tự tâm, hoặc tức là thể tướng, chấp đắm tức là tâm năng chấp. Chấp đắm ngã pháp này thảy đều có thể, giả sử chấp pháp vô lại chấp tướng hữu, vô vì thế nên kinh nói “không nên trụ vào pháp, cũng không trụ vào phi pháp”. Phi pháp là không có pháp, như chấp rằng ngã không có cũng là pháp chấp. Hai chấp là tuệ đều vô minh, gắng gượng gọi là vô minh, thuộc về lân cận thích. Sợ hãi sinh tử đường ác là vô minh, đường ác ở đây nói chẳng phải chỉ riêng ba đường ác mà chung cho cả tám nạn, nhưng phân biệt nghiệp không lành phát khởi và quả sở cảm cùng với sở tri chướng, sở phát nghiệp quả cũng chính là thuộc về ở đây, tên gọi hủy trách được gọi chung là đường ác. Do đó kinh này nói “sinh tử đường ác chẳng phải chỉ chỉ cho ba đường”. Nói sợ hãi tức là đường ác này chính là sự sợ hãi gọi là sợ hãi. Vô minh này phát khởi phẩm vô minh cho nên gọi là vô minh. Lại trong luận Duy thức chép: “Hoặc nói đến chướng lợi, độn kia phân biệt đều khởi lên hai thứ ngu, hai chấp vô minh là ý nói đến lợi phẩm, đường ác vô minh là ý nói đến độn phẩm. Đều khởi vô minh gọi là đường ác cũng gọi tên là hủy trách. Hoặc thấy những người mê lý không phát khởi nghiệp ác, những người độn căn mê sự cho nên nghiệp ác phát sinh; y theo quả đặt tên gọi nên gọi là đường ác tạp nhiễm ngu.” Ngu là cội rễ vì vậy đều thuộc về y chủ thích. Hỏi: Luận Duy thức chép: “Một chấp đắm ngã pháp là ngu”, tức là chướng dị sinh tánh trong đây, vả lại chướng dị sinh tánh không thể tương ưng giả tạm, dựa vào chủng phần vị chẳng phải là chủng thể, sao nói hai chấp tức là dị sinh tánh? Đáp: Dị sinh tánh tuy thật sự chung cho cả y, cùng với bản thức hiện tại là đồng địa, có thể phát sinh phân biệt hai chướng ở trong lập nên trên chủng tử. Từ pháp năng y để lập ra tên gọi của chướng, hoặc ngay nơi dị sinh tánh thuận theo chủng loại của chấp sở y gọi là chấp đắm ngã pháp ngu. Thể không phải là ngu, những người ngu gọi là ngu, như trước đã dẫn chứng. Hỏi: Sơ địa có khả năng dứt bỏ hai chấp phân biệt, các luận như luận Duy thức v.v… kia vì sao không ngay nơi ấy dùng tự thể của hai chấp để lập ra tên gọi của chướng; hoặc theo năng sở y để lập ra tên gọi của chướng? Đáp: Dị sinh tánh diệt di tức là dứt bỏ hai chấp. Lại nữa, tên gọi dị sinh là để phân biệt khác với Thánh, chứng Thánh dứt bỏ chấp ấy hiển bày tánh ấy cho nên lập thành tên gọi. Hỏi: Vào giai vị Sơ địa đã dứt bỏ hai chướng, vì sao Nhiếp luận nói mười vô minh là không nhiễm ô phân biệt ngã chấp là nhiễm ô? Đáp: Trong Nhiếp luận của Thế Thâm giải thích rằng: “Tuy dứt bỏ hai chướng, Nhị thừa cũng có thể dứt bỏ phiền não chướng, là côïng đức cho nên ý dựa theo bất côïng sở tri chướng mà nói tên là không nhiễm ô.” Lại giải thích: Luận ấy nói bất nhiễm là y theo tu đạo dứt bỏ mười chướng, nói mười vô minh là ý nói lập nên mười địa. Luận Thành Duy thức nhiếp cuả Thiên Thân luận đều có hai cách giải thích, hai mươi hai ngu vốn nói về thể tánh giống với Du-già quyển bảy mươi tám. Lại theo các văn khác đều nói ở Sơ địa dứt trừ hai ngu và thô trọng kia. Ở đây lược bỏ không nói về thô trọng. Luận Thành Duy thức có hai cách giải thích về điều đó, luận chép: “Nói về thô trọng kia để hiển rõ hai thứ khác, hoặc hai nơi phát khởi không có khả năng tùy theo tánh.” Không có khả năng tùy theo tánh, trong Du-già quyển năm mươi tám chép: “Đó là các tánh không yên ổn trong thức thứ tám”, luận Duy thức chép: “Như vào trong hai định nói dứt trừ gốc khổ, gốc lành dứt bỏ tuy chẳng phải là hạt giống hiện tại nhưng gọi là thô trọng.” Ở đây lẽ ra cũng như vậy, mười thứ ngu và thô trọng còn lại đều y theo đây mà biết được. Giải thích về dị sinh tánh và thô trọng rộng như trong Thành Duy thức nghóa đăng. Văn kinh: Học xứ nhỉ nhiệm, giữ gìn chớ phạm vô minh, phát khởi các thứ nghiệp hành vô minh, hai vô minh này chướng ngại ở địa thứ hai. Chính tà hạnh chướng là Sở tri chướng. Một phần câu sinh có thể làm cho Bồ-tát sai lầm trái phạm ba nghiệp. Từ Sơ địa trở lên tánh giới thành tựu, chắc chắn không cố phạm vào tánh, lỡ có trái phạm thì Sơ địa chưa đoạn vào địa thứ hai sẽ đoạn. Phát khởi các thứ nghiệp hành vô minh là ở đó lỡ trái phạm khởi lên ba nghiệp. Luận Duy thức chép: “Một phần câu sinh trong sở tri chướng và khởi lên những sai lầm trái phạm ba nghiệp kia, điều đó chướng ngại thanh tịnh giới ở địa thứ hai, lúc vào địa thứ hai liền có thể dứt đoạn trừ hẳn.” Do đó địa thứ hai nói dứt trừ hai ngu và thô trọng khác: Nhỏ nhiệm ngộ phạm ngu, tức là một phần câu sinh trong đây. Chủng chủng nghiệp thú ngu, tức là phát khởi những sai lầm trái phạm ba nghiệp kia. Năng khởi ba nghiệp chẳng những là vô minh, sở khởi ba nghiệp cũng chẳng phải là ngu. Ngu tương ưng ngu, phẩm loại ngu khởi đầu gọi là ngu. Luận Thành Duy thức lại chép: “Hoặc chỉ khởi nghiệp, không rõ nghiệp ngu.” Ý này chỉ chọn lấy năng khởi, năng mê, mê mờ cái ngu của ba nghiệp, cũng đều thuộc về y chủ thích. Hỏi: Luận Thành Duy thức quyển tám chép: “Sở tri chướng không thể phát khởi nghiệp” vì sao lại nói có thể phát khởi ba nghiệp? Đáp: Dựa theo không thể phát khởi dẫn đến nơi sinh ra dị thục quả nghiệp mà nói rằng không phát khởi nghiệp. Nếu không thể dẫn đến tất cả ba nghiệp thì sở tri chướng này hoàn toàn có thể phát khởi. Luận Phật địa có nêu hai Thể đều nói đó là Sở phát nghiệp và sở đắc quả, quả là hai quả Đẳng lưu và Tăng thượng, vì thế không trái nhau. Văn kinh: Chưa đạt được khiến cho đạt được, ái trước vô minh, làm chướng ngại tổng trì thù thắng là vô minh, hai vô minh này chướng ngại địa thứ ba. Tức là chướng ám độn. Chưa đạt được nay đạt được tức là định vô lậu thù thắng, chung cho cả cõi Sắc, Vô sắc và tu tuệ thù thắng, trong địa thứ hai không có, lúc vào địa thứ ba có thể dứt trừ chướng đó. Thể chính là tham của cõi Dục, đều là sở tri chướng, nên nói chưa đạt được nay đạt được. Thường chướng ngại tổng trì thù thắng, Tổng trì có bốn, đó là: Pháp, nghóa, chú, đắc Bồ-tát nhẫn lúc vào địa thứ ba có thể dứt trừ chướng đó. Tổng trì niệm tuệ làm tánh, ở đây chép: Hai địa đầu từ khi vào địa thứ ba có thể dứt trừ chướng ngại của Định, đạt được Định thù thắng phát khởi tu tuệ thù thắng; dứt trừ chướng ngại Tổng trì, đạt được Tổng trì thù thắng, phát khởi được hai thứ tuệ thù thắng của văn tư. Trong Thành Duy thức chép: “Do vậy địa thứ ba nói đoạn trừ hai ngu và thô trọng khác: Tham dục ngu, tức là điều chướng ngại của Định thù thắng và tu tuệ. Viên mãn văn trì Đà-la-ni ngu, tức là chướng ngại tổng trì văn tư tuệ, đây là bởi vì tánh tham dục làm cho tán loạn. Sở tri chướng và tham dục này đều gọi là tham dục, do đó chướng ngại định thù thắng và tu tuệ. Nếu chướng ngại tổng trì và văn tư tuệ thì đó là biệt sở tri, chẳng phải là sở chướng, nghóa chia làm hai. Lại nữa, văn tư và văn trì gần nhau cho nên chỉ nói sở tri chướng, chẳng phải không chướng ngại tu tuệ, đều thuận theo đó nói thêm. Văn kinh: Ưa thích đẳng chí là ưa thích vô minh, ưa thích tịnh pháp vi nhiệm mầu là vô minh, hai vô minh này chướng ngại đối với địa thứ tư. Tức là phiền não nhỏ nhiệm hiện hành chướng. Đẳng chí tức là định thù thắng, ưa thích là ái hỷ duyệt thuộc về thọ, tức là lãnh thọ cái Định thấp hèn làm chướng ngại tu tập Định thù thắng, vì vậy gọi là thắng chướng. Các chỗ khác phần nhiều nói tham, kinh này bao gồm thọ tức là chánh chướng thể. Tham duyên theo thọ này nhận sự lãnh thọ về định nên đều gọi là chướng, hoặc hỷ duyệt này chính là định ái, tịnh pháp nhiệm mầu là Bồ-đề, pháp ái tức là lạc, thể tức là tham, hai vô minh này là hai tham kia, tương ưng với vô minh. Trong luận Thành Duy thức chép: “Đẳng chí ái ngu”, tức là định ái trong đây đều như vậy, “Pháp ái ngu”, tức là pháp ái trong đây cũng đều như thế, cũng thuộc về y chủ thích. Hai chướng này ở địa thứ tư có khả năng dứt trừ, bởi ở địa thứ tư thực hành quán Bồ-đề phần pháp. Vì vậy luận Duy thức chép: “Bồ-đề phần pháp đặc biệt trái ngược với kia, trong đây nói Định cũng bao gồm tuệ.” Nói Bồ-đề phần pháp cũng có giáo pháp và các thắng pháp khác cùng trí tuệ cao siêu khác. Đối với địa thứ ba tuy chứng được Định thù thắng và các giáo pháp thù thắng, nhưng vẫn còn sinh khởi ái trước chưa thể đạt được thực hành quán Bồ-đề phần pháp, vì vậy vào địa thứ tư thực hành quán Bồ-đề phần pháp, đặc biệt trái ngược với điều đó cho nên vào địa thứ tư có khả năng dứt trừ hai chướng kia, nói rộng như trong luận Thành Duy thức. Hỏi: Thế nào là đặc biệt trái ngược? Đáp: Vì địa thứ tư tu tập Bồ-đề phần pháp, đầu tiên thực hành bốn niệm trụ, quán tất cả các pháp đều vô ngã, vì thế đặc biệt trái ngược với ngã chấp kia cho nên dứt bỏ phiền não nhỏ nhiệm hiện hành chướng. Chướng này chính là câu sinh thân kiến. Các định pháp ái, các hoặc tương ưng và tùy phiền não lại làm pháp hoại duyên, niệm xứ quán, đặc biệt trái ngược với các định pháp ái kia. Lại ba địa trước bắt đầu đạt được định thù thắng và giáo pháp thù thắng cho nên có ái trước. Địa thứ tư này lại đạt được pháp thù thắng do đó có thể dứt trừ chướng kia, lại có thể chứng được vô nhiếp thọ, giống như đặc biệt trái ngược với chướng kia. Hỏi: Các vô minh đầu tiên ở chỗ khác đều là tên gọi của chướng, vì sao Đẳng chí ái không phải là tên gọi của chướng? Đáp: Biết rằng mười chướng vô minh trong đây lại làm hiển rõ lẫn nhau, như các chướng đầu tiên chỉ nói về các ngã pháp, căn cứ theo thực tế thì chung cho các hoặc còn lại, nhưng các chướng ở địa thứ tư hiển bày không chỉ một pháp, tức nói chung rằng phiền não nhỏ nhiệm v.v… Căn cứ vào sự khác nhau của thắng chướng thì nên nói ngã kiến và nhị ái. Dựa theo cái chung cho nên nói chung, hai mươi hai thứ vô minh phần nhiều là nói riêng. Các định ái này không thể là tên gọi của mười chướng, các trường hợp khác cũng như vậy. Văn kinh: Muốn thoát khỏi sinh tử là vô minh, mong mỏi đến Niết-bàn là vô minh, hai vô minh này chướng ngại đối với địa thứ năm. Tức là cái ngu muốn thoát khỏi sinh tử. Mong mỏi đến nơi Niết-bàn tức là cái ngu ưa cầu Niết-bàn. Vì không hiểu rõ thể chân thật của sinh tử và Niết-bàn không có gì khác nhau cho nên có sự ưa cầu, chán bỏ, đây chính là đối với chướng bát Niết-bàn tầm thường lại thực hành quán Bồ-đề phần pháp thù thắng, không thể chứng được vô sai biệt như là chướng của địa thứ năm. Lần lượt nói về chướng đều theo đây thì biết. Bởi vì ở địa thứ năm thực hành quán bốn đế cùng hai trí chân tục kết hợp khiến cho thực hành song song. Do có thể chứng được vô sai biệt như trí năng chứng gọi là vô sai biệt đạo, cho nên luận Thành Duy thức chép: “Chướng ấy làm chướng địa thứ năm, vô sai biệt đạo lúc vào địa thứ năm thì có khả năng dứt trừ hẳn cho nên có thể trừ sạch chướng kia.” Văn kinh: Quán hành lưu chuyển là vô minh, thô tướng hiện tiền là vô minh, hai vô minh này chướng ngại địa thứ sáu. Quán hành lưu chuyển tức là duyên theo khổ tập vô minh; thô tướng hiện tiền tức là quán về tịnh tướng của diệt đạo, đây tức là thô tướng hiện tiền chướng. Bởi vì trong địa thứ năm quán về bốn đế, tuy cũng thực hành vô tướng nhưng nhiều lúc thực hành quán về hữu tướng, chướng ngại đối với địa thứ sáu phần nhiều là quán vô tướng, cho nên vào địa thứ sáu có thể dứt trừ chướng này. Văn kinh: Các tướng nhỏ nhiệm hiện hành là vô minh, tác ý mừng vui về vô tướng là vô minh, hai vô minh này chướng ngại địa thứ bảy. Tức là tế tướng hiện hành chướng. Các tướng nhỏ nhiệm tức là hình tướng sinh ra thật nhỏ nhiệm, tác ý mừng vui về vô tướng tức là quán tướng diệt đi thật nhỏ nhiệm. Do ở địa thứ sáu thực hành quán duyên khởi thấy có sinh diệt, nó chướng ngại diệu vô tướng đạo của địa thứ bảy, không thể ngay nơi không phát khởi hạnh thù thắng, vì vậy vào địa thứ bảy mới dứt trừ chướng đó. Văn kinh: Đối với vô tướng quán công dụng là vô minh, chấp tướng tự tại là vô minh, hai vô minh này chướng ngại địa thứ tám. Tức là chướng tác gia hạnh trong vô tướng. Ở Địa thứ bảy tuy có thể thực hành quán vô tướng lâu dài, phải gia thêm công dụng mới đạt được. Lâu dài có cái ngu gia hạnh, do ngu chưa dứt bỏ cho nên phát khởi gia hạnh, trong quán vô tướng không được tự tại. Chấp tướng chính là ở địa thứ bảy tuy hiện bày tướng độ nhưng có chấp đắm về tướng chủng, đối với tướng độ hiện tại cũng không thể tự tại, không thể tự tại là nói chung vô tướng. Lại có bốn tự tại là: tướng, độ, trí, nghiệp. Ở địa thứ tám đạt được hai tự tại là tướng-độ, Địa thứ chín đạt được trí tự tại, Địa thứ mười đạt được nghiệp tự tại. Tướng tức là tùy ý muốn hiện bày các thứ vàng bạc…, là rộng rãi về chủng loại. Độ tức là tùy theo ý muốn hiện bày, hoặc là cõi lớn nhỏ rộng hẹp đối với tướng, nay nói tướng tức là được thâu nhiếp về cõi, vì vậy vào Địa thứ tám có thể dứt được chướng đó. Hỏi: Đã vào địa thứ tám thì vô tướng tự tại, vì sao đắm say vắng lặng không muốn lợi ích chúng sinh? Đáp: Nói tự tại là y theo vô công dụng nhậm vận có thể phát khởi tự lợi mà nói, không y cứ vào lợi tha cho nên không trái nhau. Văn kinh: Đối với nghóa sở thuyết và tên gọi văn cú, hai vô lượng này chưa đạt được khéo léo là vô minh, đối với từ ngữ biện tài không thể tùy ý là vô minh, hai vô minh này làm chướng ngại địa thứ chín. Tức là chướng bất dục hành trong lợi tha. Nghóa Sở thuyết nghóa là vô ngại giải, và danh cú văn pháp vô ngại giải. Đối với hai thứ này chưa thể tự tại gọi là chưa đạt được khéo léo. Đối với từ ngữ đó là âm thanh của các phương. Do đó, luận Thành Duy thức chép: “Pháp dựa theo tên gọi, từ ngữ duyên vào âm thanh, cho nên từ ngữ là âm thanh. Biện tài tức là bảy thứ biện tài, đối với âm thanh hiện tại và bảy thứ biện tài không thể tự tại cho nên nói là không thể tùy ý. Bởi vì Địa thứ tám đối với việc lợi tha không muốn thực hành, chưa thể dứt trừ bốn cái ngu vô ngại này, do đó vào địa thứ chín thì có thể dứt hẳn. Văn kinh: Đối với đại thần thông chưa được tự tại là vô minh, nhỏ nhiệm bí mật chưa thể giải ngộ sự nghiệp là vô minh, hai vô minh này làm chướng ngại địa thứ mười. Tức là chướng bất đắc tự tại đối với các pháp. Năm thứ thần thông hơn hẳn hàng Nhị thừa và Bồ-tát Địa tiền, lại có thể mở rộng lợi ích đạt được tự tại, cho nên gọi là đại thần thông. Biến nghóa là chuyển đổi hiện nghóa là hóa hiện, không mà chợt có. Nhỏ nhiệm bí mật có mây đại pháp trí và các pháp chứa đựng, tế là diệu, tức là vi diệu, bởi vì lìa chướng ngại nên rất khó đạt được. Khó hiểu gọi là bí mật, chưa thể giải ngộ thì gọi vô minh. Sự nghiệp đó là sự nghiệp lợi sinh, ở địa thứ chín bị vô minh này làm chướng ngại, cho nên vào địa thứ mười liền có thể dứt hẳn. Văn kinh: Đối với tất cả cảnh giới nhỏ nhiệm sở tri chướng ngại là vô minh, phiền não thô trọng rất sâu xa là vô minh, hai vô minh này làm chướng ngại Phật địa. Tức là chướng thứ mười một. Không hữu, lý sự gọi là tất cả cảnh, trí Diệu quán sát quán như la hộc (lụa trơn, sa tanh). Đây tức là vì có sở tri chướng nhỏ nhiệm chung cho cả hiện tại và hạt giống, chung cho cả bảy thức huân tập thành hạt giống, cũng do pháp chấp hiện hành trong thức thứ bảy không được rõ ràng. Phiền não nhỏ nhiệm thành thô trọng tức là hạt giống phiền não nhỏ nhiệm, cũng chung cho cả thức thứ bảy. Phiền não hiện hành vào địa thứ tám, lúc đã kết thúc không thể phát khởi. Hoặc hạt giống đó ở địa thứ mười chưa dứt bỏ do đó chướng ngại đối với Phật địa, ở Kim cang định vô gián đạo sẽ dứt sạch, không giống như đối với các chướng khác vào địa mới dứt bỏ. Kinh này dựa theo hai mươi hai vô minh phân biệt rõ các chướng khác nhau, cũng chính là thuộc mười một chướng, chung thì gọi là chướng, riêng thì gọi là ngu. Đây là thuộc về mười một chướng hai mươi hai ngu, các giáo khác nhau vừa nhiều vừa rắc rối nên không nói đủ. Văn kinh: Này người thiện nam! Đại Bồ-tát ở Sơ địa thực hành Thí ba-la-mật, ở địa thứ hai thực hành Giới ba-la-mật, ở địa thứ ba thực hành Nhẫn ba-la-mật, ở địa thứ tư thực hành Cần ba-la-mật, ở địa thứ năm thực hành Định ba-la-mật, ở địa thứ sáu thực hành Tuệ ba-la-mật, ở địa thứ bảy thực hành Phương tiện thắng Trí ba-la-mật, ở địa thứ tám thực hành Nguyện ba-la-mật, ở địa thứ chín thực hành Lực ba-la-mật, ở địa thứ mười thực hành Trí ba-la-mật. Tán rằng: Thứ tư là phương pháp tu tập của từng địa, văn có chia ra từng đoạn có thể biết. Hỏi: Bồ-tát Địa tiền vẫn còn thực hành sáu độ, và trong luận Thập địa đều chép: “Trong một hạnh kiếp thứ hai thực hành tất cả các hạnh, trong tất cả các hạnh ở kiếp thứ ba thực hành tất cả các hạnh”, tức đều là tu tập đầy đủ, tại sao văn này nói mỗi địa đều thực hành một hạnh? Đáp: Dựa theo thực tế đúng như vậy. Nói ở mười địa đều thực hành một hạnh đó là căn cứ theo tăng thêm. Trong Nhiếp luận của Vô tánh chép: “Trong mỗi địa tu tập đầy đủ mười thứ, không nên nhất quyết cho rằng địa này tu như vậy, bởi vì càng thêm thù thắng nên nói không có lỗi này.” Văn kinh: Này người thiện nam! Đại Bồ-tát đầu tiên phát tâm nhiếp thọ có thể phát sinh Diệu bảo Tam-ma-địa, phát tâm thứ hai nhiếp thọ có thể phát sinh Khả ái lạc Tam-ma-địa, phát tâm thứ ba nhiếp thọ có thể phát sinh Nan động Tam-ma-địa, phát tâm thứ tư nhiếp thọ có thể phát sinh Bất thối chuyển Tam-ma-địa, phát tâm thứ năm nhiếp thọ có thể phát sinh Bảo hoa Tam-ma-địa, phát tâm thứ sáu nhiếp thọ có thể phát sinh Nhật viên quang diễm Tam-ma-địa, phát tâm thứ bảy nhiếp thọ có thể phát sinh Nhất thiết nguyện như ý thành tựu Tam-ma-địa, phát tâm thứ tám nhiếp thọ có thể phát sinh Hiện tiền chứng trú Tam-ma-địa, phát tâm thứ chín nhiếp thọ có thể phát sinh Trí tạng Tam-ma-địa, phát tâm thứ mười nhiếp thọ có thể phát sinh Dũng tiến Tam-ma-địa. Tán rằng: Thứ năm là nói về sự tu hành. Đây là ý mười địa đều thực hành một độ làm thế nào tu tập, nghóa là vì muốn tu tập song song hai pháp định tuệ. Trong Nhiếp luận của Vô Tánh chép: “Trong mỗi Địa tu Xa-ma-tha (chỉ) Tỳ-bát-xá-na (quán)”. Y cứ vào năm tướng mà tu tập, như luận đó phân biệt rộng. Nhưng các nơi nói về tu tập có phần khác nhau, mỗi mỗi đều khác nhau không thể dẫn chứng đầy đủ. Tại sao chỉ nói đến hai môn chỉ quán, nên lấy đó mà tu tập? Đáp: Trong Vô tánh giải thích: “Nghóa là có thể đối trị với các thứ tán động cho nên có thể đối trị được với các tuệ điên đảo, trong mỗi địa đều tu hành hai thứ này”, nhưng nay trong kinh này chỉ nói về phẩm Chỉ, bởi vì định có thể dẫn dắt vô tướng chánh trí là trí đầy đủ, song căn cứ theo mười địa mỗi địa đều tu định riêng, cùng các văn khác làm sáng tỏ lẫn nhau. Đoạn văn chia làm ba: Đầu tiên nêu ra người năng tu, tiếp đó nói về định sở tu, sau cùng là tổng kết. Do định mà phát khởi thí gọi là diệu bảo đẳng trì. Tam là đẳng, ma-địa gọi là trì. Tâm bình đẳng trì khiến cho trụ nơi cảnh, âm cũ sai cho nên gọi là Tam-muội. Định có công năng phát khởi giới gọi là khả ái lạc đẳng trì, do sự giữ giới đó mà mọi người đều thích nhìn thấy. Hoặc từ đạo cộng giới vô lậu mà nói về định có công năng phát khởi nhẫn là nan động đẳng trì. Định phát khởi tinh tiến gọi là bất thối đẳng trì. Do định có thể làm nhân thù thắng cho công đức gọi là bảo hoa đẳng trì. Định có công năng phát sinh trí tuệ gọi là Nhật viên quang diễm đẳng trì. Định có công năng phát sinh phương tiện khéo léo gọi là nhất thiết nguyện như ý thành tựu. Định có công năng phát sinh trí, nhậm vận chứng được diệu lý vô tướng gọi là hiện tiền chứng. Định phát khởi bốn biện tài gọi là trí tạng. Định phát khởi thần thông mở rộng sự nghiệp to lớn gọi là dũng tiến. Văn kinh: Này hiện nam! Đó gọi là mười thứ phát tâm của Đại Bồ-tát. Tán rằng: Tổng kết. Văn kinh: Này người thiện nam! Đại Bồ-tát ở Sơ địa này đạt được Đà-la-ni tên gọi là Y công đức lực. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói chú rằng: “Đát điệt tha - bô luật nhó mạn nô lạt thế - độc hổ độc hổ độc hổ - da bạt tô lợi du - a bà bà tát đế (đinh lý) da bạt chiên đạt la - điều đát để - đa bạt lạc xoa mạn - đạn trà bát lỹ ha lam - củ lô sa ha.” Này người thiện nam! Đà-la-ni này là do một hằng hà sa số các Đức Phật nói ra để che chở cho Bồ-tát Sơ địa, cho nên nếu có người nào trì tụng chú Đà-la-ni này sẽ được thoát khỏi tất cả mọi sự sợ hãi, đó là các loài thú dữ cọp beo, sư tử, tất cả ác quỷ, người, loài phi nhân, oán tặc tai nạn bất ngờ và các khổ não, thoát khỏi năm sự chướng ngại, không quên nhớ nghó Sơ địa. Này người thiện nam! Đại Bồ-tát ở địa thứ hai đạt được Đà-la-ni tên là Thiện an lạc trụ: “Đát điệt tha - ốt thuyên (nhập thanh, ở dưới cũng đồng) lý chất lý chất lý - ốt thuyên la ốt thuyên (dẫn) - nam thiện đổ thiện đổ - ốt thuyên lý hỗ lô hỗ lô - sa ha.” Này người thiện nam! Đà-la-ni này do hơn hai hằng hà sa số các Đức Phật nói ra để che chở Bồ-tát địa thứ hai, cho nên nếu có người nào trì tụng chú Đà-la-ni này sẽ thoát khỏi các sự sợ hãi về thú dữ, ác quỷ, người, loài phi nhân, oán tặc, tai nạn bất ngờ và các khổ não, thoát khỏi năm sự chướng ngại, không quên nhớ nghó đến địa thứ hai. Này người thiện nam! Đại Bồ-tát ở địa thứ ba đạt được Đà-la-ni tên gọi Nan thắng lực: “Đát điệt tha - đạn trạch chỉ bát trạch chỉ - yết lạt trí - cao lạt trí - kê do lý đoạn trí lý - sa ha.” Này người thiện nam! Đà-la-ni này là hơn ba hằng hà sa số chư Phật thuyết ra để bảo vệ cho Bồ-tát địa thứ ba, cho nên nếu có người nào trì tụng chú Đà-la-ni này sẽ thoát khỏi các sự sợ hãi về thú dữ, ác quỷ, người, loài phi nhân, kẻ thù, tai nạn bất ngờ và các khổ não, thoát khỏi năm sự chướng ngại không quên nhớ nghó đến địa thứ ba. Này người thiện nam! Đại Bồ-tát ở địa thứ tư đạt được Đà-la-ni tên là Đại lợi ích: “Đát điệt tha - thất lî thất lî đà nhị nhó - đà nhị nhó đà lý đà lý nhó - thất lợi thất lî nhó - tỳ xá la ba thỉ ba thỉ na - bán đà nhị đế - sa ha.” Này người thiện nam! Đà-la-ni này là hơn bốn hằng hà sa số các Đức Phật nói ra để che chở cho Bồ-tát địa thứ tư, cho nên nếu có người nào trì tụng chú Đà-la-ni này sẽ thoát khỏi các sự sợ hãi về thú dữ, ác quỷ, người, loài phi nhân, kẻ thù, tai nạn bất ngờ và các khổ não, thoát khỏi năm sự chướng ngại, không quên nhớ nghó đến địa thứ tư. Này người thiện nam! Đại Bồ-tát ở địa thứ tư đạt được Đà-la-ni tên Đại lợi ích: “Đát điệt tha thất lî thất lî đà nhị nhó đà nhị nhó đà lý đà lý nhó- thất lợi thất lî nhó tỳ xá la ba thỉ ba thỉ na bán đà nhị đế sa ha.” Này người thiện nam! Đại Bồ-tát ở địa thứ năm đạt được Đà-la-ni tên là Chủng chủng công đức trang nghiêm: “Đát điệt tha ha lý ha lý nhó già lý già lý nhó yết lạt ma (dẫn) nhó tăng yết lạt ma (dẫn) nhó tam bà san nhó thiêm bạt nhó tất đam bà nhó mô hán nhó toái diệm bộ bệ sa ha.” Này người thiện nam! Đà-la-ni này do hơn năm hằng hà sa số các Đức Phật nói ra để che chở Bồ-tát địa thứ năm, vì thế nếu có người nào trì tụng chú Đà-la-ni này sẽ thoát khỏi các sự sợ hãi về thú dữ, ác quỷ, người, loài phi nhân, kẻ thù tai nạn bất ngờ và các khổ não, thoát khỏi năm sự chướng ngại, không quên nhớ nghó đến địa thứ năm. Này người thiện nam! Đại Bồ-tát ở địa thứ sáu đạt được Đà-la-ni tên là Viên mãn trí: “Đát điệt tha tỳ tỉ lý tỳ tỉ lý ma lý nhó ca lý ca lý tỳ độ hán để rô rô rô rô chủ rô chủ rô đổ rô bà đổ rô bà xả xả thiết giả bà lý sái - sa (nhập) tất để tát bà tát đỏa nam - tất điện đổ - mạn đát la bát đà nhó sa ha.” Này người thiện nam! Đà-la-ni này do hơn sáu hằng hà sa số các Đức Phật nói ra để che chở cho Bồ-tát địa thứ sáu, vì thế nếu có người nào trì tụng chú Đà-la-ni này sẽ thoát khỏi các sự sợ hãi về thú dữ, ác quỷ, người, loài phi nhân, kẻ thù, tai nạn bất ngờ và các khổ não, thoát khỏi năm sự chướng ngại, không quên nhớ nghó đến địa thứ sáu. Này người thiện nam! Đại Bồ-tát ở địa thứ bảy đạt được Đà-la- ni tên là Pháp thắng hạnh: “Đát điệt tha - chước ha (thượng) chước ha (dẫn) rô chước ha chước ha chước ha rô bính lục chỉ bính lục chỉ a mật lật đa hỗ hán nhó bột lý san nhó bính rô sắc chỉ bà rô phạt để bính đề sất chỉ - tần đà bính lý nhó a mật lý để chỉ bạc hỗ chủ dũ bạc hỗ chủ dũ sa ha.” Này người thiện nam! Đà-la-ni này do hơn bảy hằng hà sa số các Đức Phật nói ra để che chở Bồ-tát địa thứ bảy, cho nên nếu có người nào trì tụng chú Đà-la-ni này sẽ thoát khỏi các sự sợ hãi về thú dữ, ác quỷ, người, loài phi nhân, kẻ thù tai nạn bất ngờ và các khổ não, thoát khỏi năm sự chướng ngại, không quên nhớ nghó đến địa thứ bảy. Này người thiện nam! Đại Bồ-tát ở địa thứ tám đạt được Đà-la-ni tên là Vô tận tạng: “Đát điệt tha thất lî thất lî thất lî nhó mật để mật để yết lý yết lý ê rô ê rô chủ rô chủ rô bạn đà nhị sa ha.” Này người thiện nam! Đà-la-ni này do hơn tám hằng hà sa số các Đức Phật nói ra để che chở Bồ-tát địa thứ tám, cho nên nếu có người nào trì tụng chú Đà-la-ni này sẽ thoát khỏi các sự sợ hãi về thú dữ, ác quỷ, người, loài phi nhân, kẻ thù tai nạn bất ngờ và các khổ não, thoát khỏi năm sự chướng ngại, không quên nhớ nghó đến địa thứ tám. Này người thiện nam! Đại Bồ-tát ở địa thứ chín đạt được Đà-la-ni tên là Vô lượng môn: “Đát điệt tha ha lý chiên trà lý chỉ câu lam bà lạt thể đổ thứ tử bạt tra bạt tra tử thất lî thất lî ca thất lý ca tất thất lî sa tất để tát bà tát đỏa nam sa ha.” Này người thiện nam! Đà-la-ni này do hơn chín hằng hà sa số các Đức Phật nói ra để che chở Bồ-tát địa thứ chín, cho nên nếu có người nào trì tụng chú Đà-la-ni này sẽ thoát khỏi các sự sợ hãi về thú dữ, ác quỷ, người, loài phi nhân, kẻ thù tai nạn bất ngờ và các khổ não, thoát khỏi năm sự chướng ngại, không quên nhớ nghó đến địa thứ chín. Này người thiện nam! Đại Bồ-tát ở địa thứ mười đạt được Đà-la-ni tên là Phá Kim cang sơn: “Đát điệt tha tất đề (khứ) tô tất đề (khứ) mô triết nhó mộc sát nhó tỳ mộc để am mạt lệ tỳ mạt lệ niết mạt lệ mang yết lệ tát bà át tha bà đạn nhó- ma nại tư mạc ha ma nại tư- át bộ để- át trất bộ để- a lạt thệ tỳ lạt thệ át chủ để am mật lật để a lạt thệ tỳ lạt thệ bạt lãm mê bạt la điềm ma sa lệ bô lạt nhó bô lạt na man nô lạt thế sa ha.” Này người thiện nam! Đà-la-ni quán đảnh cát tường này do hơn mười hằng hà sa số các Đức Phật nói ra để che chở Bồ-tát địa thứ mười, cho nên nếu có người nào trì tụng chú Đà-la-ni này sẽ thoát khỏi các sự sợ hãi về thú dữ, ác quỷ, người, loài phi nhân, kẻ thù tai nạn bất ngờ và các khổ não, thoát khỏi năm sự chướng ngại không quên nhớ nghó đến địa thứ mười. Tán rằng: Trong phần trả lời câu hỏi thứ nhất có bốn phần, đây chính là phần thứ tư được che chở có hai: Đầu tiên là được che chở, sau đó là khen ngợi. Đây là mở đầu. Mười địa khác nhau tức là mười đoạn, trong mỗi một đoạn đều chia ra làm bốn phần: Nêu tên gọi năng hộ. Chính thức nói thần chú. Khen ngợi pháp thù thắng, phần nhiều do đức Phật nói. Nói về lợi ích che chở. Trong bốn Tổng trì đây là chú Tổng trì. Do thực hành bố thí được gọi là công đức, các tên gọi còn lại theo hạnh nêu ra ở đây có thể biết. Trong phần khen ngợi pháp thù thắng có hai: Đầu tiên là khen ngợi, tiếp theo là sự che chở địa. Lợi ích bảo vệ có hai: Không có hoạn nạn. Không hề lui sụt. “Nếu có người trì tụng… này” về sau là không có năm thứ chướng nạn: Đầu tiên là nêu ra, tiếp theo là liệt kê, sau cùng là kết luận. Năm thứ chướng nạn đó là: Ác thú. Ác quỷ. Oán tặc. Các tai nạn bất ngờ về nước lửa… Ba khổ, bảy khổ… Và đoạn văn kết luận có thể biết. Không quên, ở địa thứ hai có thể khiến cho không lui sụt, chín địa còn lại theo đó mà biết. Tổng trì thứ hai gọi là Thiện an lạc trụ. Nhờ giữ giới nên được gọi Thiện an lạc trụ. Do thực hành tinh tiến khéo léo thành tựu sự nghiệp nên được gọi là Đại lợi ích. Do tu tập định lực dẫn phát các thứ công đức được gọi là Chủng chủng công đức trang nghiêm. Nhờ thực hành trí tuệ cho nên được gọi là Viên mãn trí. Nhờ thực hành phương tiện khéo léo cho nên được gọi là Pháp thắng hạnh. Nhờ thực hành mười nguyện vô tận nên được gọi là Vô tận tạng. Nhờ đạt được bốn thứ biện tài lợi ích rộng lớn cho chúng sinh nên được gọi là Vô lượng môn. Do trí tuệ có công năng phá trừ chướng ngại giống như kim cang đạt được tổng trì nên gọi là Phá Kim cang sơn. Chín địa còn lại như sau, phối hợp giải thích về tên gọi của tổng trì đã đạt được, văn còn lại giống nhau cho nên không giải thích lại. Văn kinh: Bấy giờ, Bồ-tát Sư tử tướng vô ngại quang diễm nghe Đức Phật nói Đà-la-ni không thể suy nghó bàn luận này xong liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính đảnh lễ dưới chân Phật. Tán rằng: Phần thứ hai tiếp theo khen ngợi trong đoạn được bảo vệ. Văn phân làm ba: Đầu tiên là tiếp thu pháp đã nói, tiếp theo là cung kính chân thành đảnh lễ, tức là nghi thức vui mừng khen ngợi, sau cuối là nói rõ sự khen ngợi. Đây là văn hai phần đầu. Bởi vì biểu hiện có thể tu hành nên đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vì hiện điềm tốt lành nên vén bày vai phải. Biểu hiện địa vị có thể chứng cho nên đầu gối quỳ sát đất, trí suy tư về pháp đã nói vì vậy chắp tay, đã nghe pháp mầu biết pháp nói ra là cao quý cho nên càng thêm cung kính. Biểu hiện rất mực cung kính vì thế đảnh lễ dưới chân. Văn kinh: Dùng bài tụng khen ngợi Đức Phật: Lễ kính không ví dụ, pháp vô tướng sâu xa. Tán rằng: Sau cuối là nói rõ sự khen ngợi. Tất cả có mười bài tụng chia làm hai phần: Nửa bài tụng đầu khen ngợi pháp được nghe, chín bài tụng rưỡi còn lại là khen ngợi Đức Phật. Đây là mở đầu. Pháp là thầy của Phật cho nên trước hết là khen ngợi pháp, Phật có thể khởi nói cho nên là chủ nhân của giáo. Tiếp theo là khen ngợi Phật. Phát khởi tâm tha thiết thanh tịnh đốc thúc nghiệp thù thắng, kính thành lễ lạy gọi là kính lễ. Tiếng Phạn giọng nam gọi là Bạn-đàm, giọng nữ gọi rằng Bạn-để, ở đây nói là kính lễ, nói trại ra thành Hòa-nam. Pháp thể thù thắng chẳng thể dùng ví dụ để ví dụ được nên nói là Vô ví dụ, chỉ có Phật hiểu rõ tận cùng nên gọi là sâu xa. Theo luận Pháp hoa kinh thì sâu xa có năm thứ: Nghóa sâu xa là dùng nghóa chân như. Thể sâu xa tức là như tự tánh. Nội chứng sâu xa chỉ có trí vô phân biệt mới khế chứng được. Y chỉ sâu xa và hằng sa công đức là chỗ nương tựa. Vô thượng sâu xa tức là vô dư vô trú. Vô tướng là không có hai tướng không, hữu… hoặc không có mười tướng sinh diệt… Văn kinh: Chúng sinh mất chánh trí, chỉ Phật cứu độ được. Tán rằng: Tiếp theo là khen ngợi Phật. Nửa bài tụng đầu là chung, chín bài tụng sau là riêng. Đây là phần chung. Trong ba đức của Phật có ân đức lợi sinh là cao quý nhất cho nên chỉ nêu ra ân đức này để trình bày, theo đó làm sáng tỏ trí đức và đoạn đức. Biết chân chánh gọi là chánh trí. Phàm phu không có chánh trí gây ra nhiều tà nghiệp, chìm đắm trong sinh tử. Phật có đủ hai trí nên chỉ có Phật mới cứu độ được. Hàng Bồ-tát tuy cũng có thể cứu độ chúng sinh, nhưng bởi vì nương vào Phật cho nên nhường công quy về Phật. Văn kinh: Tuệ nhãn Như lai sáng, không thấy tướng một pháp; lại dùng chánh pháp nhãn, soi khắp không nghó bàn, không sinh nơi một pháp, cũng không diệt một pháp. Tán rằng: Tiếp theo khen ngợi riêng Đức Phật. Hai bài tụng đầu khen ngợi trí đức của Báo thân, hai bài tụng tiếp theo khen ngợi đoạn đức của pháp thân, năm bài tụng còn lại khen ngợi ân đức của Hóa thân. Trong phần đầu trước tiên khen ngợi nhân của đức, tiếp đó khen ngợi quả của đức. Trong khen ngợi nhân, nửa bài tụng đầu khen ngợi tuệ nhãn, một tụng tiếp theo khen ngợi pháp nhãn. Tuệ nhãn soi chiếu vắng lặng là nghóa đế bậc nhất, luận Chưởng trân dẫn kinh chép: “Tuệ nhãn của Mạn-thù-thất-lợi không có sở quán, bất quán, hữu vi, vô vi. Vì sao? Vì chẳng phải cảnh của tuệ nhãn. Pháp nhãn soi chiếu khắp chân tục, chẳng phải không thấy chân như mà có khả năng thấu tỏ các pháp không mê đắm.” Luận Bát-nhã giải thích ý cũng giống như vậy. Do đó trước tiên khen ngợi tuệ nhãn. Vô phân biệt cho nên không thấy tướng của một pháp nào, chẳng phải không có các pháp. Duyên theo giáo pháp và căn tánh chúng sinh gọi là pháp nhãn. Tất cả đều hiểu rõ ràng gọi là chiếu khắp. Chẳng phải ai khác có thể suy lường gọi là chúng sinh không thể nghó bàn. Xứng hợp với cảnh nên biết rõ không vọng thấy sinh thêm một pháp nào, cũng không vọng thấy diệt bớt đi một pháp nào; ở trong đó nên biết y tha sinh diệt, biến kế chân như đều không sinh diệt. Nay không thấy hai sinh diệt sau cuối kia, chẳng phải là tánh y tha của vô sinh diệt. Văn kinh: Do đó thấy bình đẳng, đạt đến nơi vô thượng. Tán rằng: Nói về quả. Do nghóa là nguyên do. Vì tu hai loại nhãn đạt đến viên mãn cho nên thấy bình đẳng. Đắc là Vô gián đạo, chí là giải thoát đạo. Hoặc dịch như trước, đắc nghóa là chứng, là tâm dứt hoặc chứng diệt. Vô thượng xứ tức là đại Bồ-đề. Không nói đến nhục nhãn và thiên nhãn, vì là pháp vô ký, chỉ là nghiệp quả và định quả cho nên không nói. Ở trong thân Phật gọi là Phật nhãn. Nay ở đây khen ngợi về nhân cho nên lược bỏ Phật nhãn. Văn kinh: Không lìa bỏ sinh tử, cũng không trụ Niết-bàn, không chấp đắm hai bên, vì thế chứng viên tịch. Tán rằng: Hai hàng tiếp theo là khen ngợi đoạn đức. Một hàng đầu là vô trú Niết-bàn, một hàng sau là khen ngợi Niết-bàn vô dư. Đại Niết-bàn cũng chính là Pháp thân. Hoại là đoạn. Khác với Nhị thừa dứt hẳn sinh tử diệt biên, cũng không ưa thích trụ Niết-bàn là hữu biên, tức là không, hữu đều không chấp, lìa bỏ hai bên này, vì thế thường chứng được Niết-bàn vô trụ. Niết-bàn, tiếng Phạn không đúng, đúng ra phải là Ba-lợi-ni-phược-nam, Hán dịch là Viên tịch, tên gọi như trước đã giải thích. Đây là chung cho cả nhân vị, không gọi là tối thanh tịnh. Văn kinh: Đối với tịnh bất tịnh, Thế Tôn biết tất cả, bởi vì không phân biệt, đạt được tối thanh tịnh. Tán rằng: Đại Niết-bàn Vô dư, tức chính là nói về Pháp thân. Tánh tịnh và bất tịnh, thể tức là chân như, gọi là nhất vị (cùng một vị), do trí vô phân biệt nên chứng được nhất vị đó. Chính là nhân của Niết- bàn cho nên đạt được tột cùng thanh tịnh, vô thượng pháp thân. Vô dư viên tịch gọi là tối thanh tịnh, vượt ra khỏi nhân vị cho nên chỉ có Phật đạt được. Vô trụ chung cho cả nhân, tuy là thanh tịnh nhưng chướng ngại chưa hết cho nên chưa được tối thanh tịnh. Văn kinh: Thế Tôn vô biên thân, không nói qua một chữ, khiến các chúng đệ tử, mưa pháp đều đầy khắp. Tán rằng: Tiếp theo là ân đức, chia làm bốn: Một hàng là đức hiện thân nói pháp, một hàng là đức quán sát chúng sinh thường làm lợi ích, hai hàng còn lại là đức ứng cơ khác nhau, một hàng cuối cùng là tổng kết không khác nhau. Đây là mở đầu. Người khác thọ nhận biến hóa, tùy cơ cảm hiện thân, hình tướng đó vô lượng nên nói là vô biên, hoặc hiện thân lớn khó suy lường nên gọi là vô biên thân. Lìa bỏ biến kế cho nên chân lý vô cớ chỉ nói một chữ, vì thế nói là không nói một chữ. Nhưng do năng lực nhân duyên của thức biến khiến cho chúng sinh nghe pháp đều được đầy đủ, như ngọc châu ma-ni tùy theo sự mong cầu mà các thứ báu tuôn xuống như mưa, cũng như trống trời ứng hợp với ý niệm phát ra âm thanh. Văn kinh: Phật quán tướng chúng sinh, cả mọi loại đều không, nhưng nơi khổ não ấy, thường sinh tâm cứu giúp. Tán rằng: Đức quán sát chúng sinh thường làm lợi ích. Bình đẳng quán sát chúng sinh oán thân, lợi độn, đẹp xấu tự tha đều giống nhau. Nương vào các pháp giới nên tất cả chủng tướng này đều là không, đại Bi không bỏ nên ngay nơi không mà quán có, vì thế đối với các sự đau khổ thường ban cho sự cứu giúp. Văn kinh: Khổ vui, thường vô thường, có ngã cùng vô ngã, không một cũng không khác, không sinh cũng không diệt, nghóa như thế thật nhiều, tùy nói có. Tán rằng: Đức tùy theo căn cơ khác nhau. Một bài tụng rưỡi đầu là ứng cơ khác nhau, một câu tiếp theo là ví dụ hiển bày, một câu cuối là Phật biết rõ. Đây là mở đầu. Khổ lạc, thường vô thường, ngã vô ngã, một khác, sinh diệt là nêu ra năm cặp đối nhau, đối với rất nhiều chân lý này là tuy không nhưng tùy căn cơ mà nói khác nhau. Văn kinh: Giống như hang trống vang, chỉ Phật luôn biết rõ. Tán rằng: Nêu ví dụ, và Phật hiểu rõ. Giống như hang trống rỗng vốn không có âm thanh, tùy theo tiếng vang nên phát ra các thứ âm thanh khác nhau, người khác không thể hiểu chỉ có Phật biết rõ. Văn kinh: Pháp giới không phân biệt, cho nên không khác thừa, vì độ thoát chúng sinh, nói phân biệt có ba. Tán rằng: Tổng kết không khác nhau. Tuy lúc đầu có khác nhau nhưng cuối cùng vẫn về nơi nhất thừa, đối với pháp giới chân thật cũng không có tướng khác nhau về ba thừa. Văn hiển bày có thể biết. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đại Tự tại Phạm thiên vương cũng đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính đảnh lễ dưới chân Phật. Tán rằng: Đây là đoạn lớn thứ ba trong phẩm nói về tán dương Đại phạm. Trong đó có hai phần: Đầu tiên là Phạm vương khen ngợi khuyến khích, sau đó Như lai ấn khả chân thành. Đầu tiên là khen ngợi, văn trong đó có ba: Trước hết là nghi thức khen ngợi, tiếp theo chính là khen ngợi, sau cùng là khuyến khích trì tụng. Đây là mở đầu. Đại tự tại Phạm vương là vị vua tónh lự thứ tư, tức là Bồ-tát địa thứ mười. Kinh Thập địa chép: “Hiện báo được lợi ích, thọ nhận địa vị Phật, hậu báo được lợi ích sinh nơi cõi trí Ma-hê-thủ-la.” Văn kinh: Lại bạch với Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này ít có khó lường, sơ trung hậu thiện, văn nghóa rốt ráo đều có công năng thành tựu tất cả Phật pháp. Tán rằng: Chính thức khen ngợi. Trong Du-già tám mươi ba có mười câu, đây là đầu tiên có năm câu nói riêng, sau đó “đều có thể thành tựu…” Trở xuống là nói chung năm câu còn lại, hoặc “đều có thể thành tựu…” trở xuống là chỉ cho câu thứ mười. Tướng của phạm hạnh theo đó thuộc về trung gian. Du-già tám mươi ba chép: “Nói sơ thiện nghóa là đối với sự nghe và thọ trì nên sinh tâm vui mừng. Trung thiện nghóa là lúc tu hành không có gian khổ, xa lìa hai bên, nương theo trung đạo mà thực hành. Hậu thiện nghóa là tột cùng rốt ráo lìa các cấu nhiễm, và tất cả rốt ráo lìa dục là hậu biên.” Ý này nghóa là: Lúc tu hành thì có học vị, trong Hậu thiện gọi là Cực rốt ráo v.v… là địa vị Vô gián đạo cuối cùng, và Nhất thiết cứu cánh đẳng là địa vị Giải thoát đạo cuối cùng, lìa xa cấu nhiễm là nhân quả rốt ráo, nên nói văn nghóa rốt ráo. Văn rốt ráo nghóa là văn đó khéo léo, tức là khéo léo khắc họa gọi là thân đẳng… Nghóa rốt ráo của văn đó tức là giải thích sự tuyệt vời nhiệm mầu. Nghóa là có thể dẫn phát lợi ích giúp cho an vui. Tướng của sáu vô tạp, bảy viên mãn, tám thanh tịnh, chín trong sáng, mười phạm hạnh, tóm lại là tất cả đều thành tựu thâu nhiếp trong đó. Văn kinh: Nếu ai thọ trì thì người đó chính là vì báo ân các Đức Phật. Tán rằng: Khuyến khích trì tụng. Như kinh Pháp Hoa hai nói về ân Phật sâu nặng không thể nào báo đền được, phẩm Chúc lụy chép: “Chỉ thọ trì kinh chính là báo ân”, ở đây cũng giống như vậy. Văn kinh: Đức Phật dạy: Này người thiện nam! Đúng thế! Đúng thế! Như lời ông nói. Tán rằng: Thứ hai Như lai ấn khả chân thành, có hai: Đầu tiên là ấn khả, sau là chân thành xác chứng. Đây là mở đầu. Văn kinh: Này người thiện nam! Nếu ai được nghe kinh điển này thì đều được không lui sụt trên đường tiến đến quả vị A-nậu-đa-la Tam- miệu Tam-bồ-đề. Tán rằng: Chân thành xác chứng. Có hai: Đầu tiên là người có thể lắng nghe được không lui sụt Bồ-đề, sau đó là người tùy ý thọ trì được dứt trừ chướng ngại, tinh tiến hơn lên. Trong phần đầu có năm: Nêu ra. Nêu câu hỏi. Thuận theo giải thích. Tiếp tục nêu câu hỏi. Trở lại hiển bày. Đây tức là nêu ra. Văn kinh: Vì sao? Trưng hỏi, có thể biết. Văn kinh: Này người thiện nam! Vì đây là gốc lành thù thắng có thể thành thục địa vị không lui sụt của Bồ-tát, là pháp ấn bậc nhất, là kinh đứng đầu của các kinh, cho nên cần phải lắng nghe, thọ trì, đọc tụng. Tán rằng: Thuận theo giải thích, có hai: Mở đầu là giải thích, sau đó khuyến khích. Có ba lý do để người có thể lắng nghe đạt được không lui sụt Bồ-đề: Có thể thành tựu gốc lành không lui sụt, tức là chưa thành thục được thành thục. Pháp ấn bậc nhất, tức là trước đã thành thục ấn chứng giúp cho không lui sụt. Vì là kinh đứng đầu trong các kinh, cho nên tiếp tục khuyến khích. Văn kinh: Vì sao? Tiếp tục nêu câu hỏi. Văn kinh: Này người thiện nam! Nếu tất cả chúng sinh có ai chưa gieo trồng gốc lành, chưa thành thục gốc lành, chưa gần gũi các Đức Phật thì người ấy không thể nào lắng nghe pháp nhiệm mầu này. Tán rằng: Trở lại hiển bày. Trở lại hiển bày ba nghóa: Chưa gieo trồng gốc lành. Đã gieo trồng nhưng chưa thành thục. Chưa gần gũi các Đức Phật. Ba hạng người này không thể nào lắng nghe, cho nên biết rằng người có thể lắng nghe có đủ ba duyên ở trên, vì vậy nghe kinh đạt đến không lui sụt. Văn kinh: Nếu thiện nam, thiện nữ nào có thể lắng nghe, thọ trì kinh này thì tất cả tội chướng thảy đều trừ diệt, được thanh tịnh tột cùng. Tán rằng: Diệt trừ chướng ngại tinh tiến hơn lên, có ba: Diệt trừ ba chướng. Gần gũi bạn lành. Đạt được pháp cao quý. Đây là phần đầu: Diệt trừ tội lỗi. Được thanh tịnh. Được thanh tịnh chính là tội lỗi tiêu trừ, phước đức phát sinh, hoặc trước đây phá giới khiến cho trở lại được thanh tịnh. Văn kinh: Thường được thấy Phật, không xa rời các Đức Phật và Thiện tri thức có hạnh hạnh tốt. Tán rằng: Gần gũi bạn lành. Người thắng hạnh tức là các vị Bồ- tát. Văn kinh: Thường nghe pháp mầu, an trú ở địa vị không lui sụt. Tán rằng: Đạt được pháp cao quý, có bốn: Được nghe pháp cao quý. Đạt đến địa vị cao quý. Đạt được tổng trì cao quý. Đạt được công dụng thù thắng của pháp. Đây là hai phần đầu, có chia làm hai. Văn kinh: Đạt được Đà-la-ni môn cao siêu như thế. Tán rằng: Đạt được pháp tổng trì cao siêu. Đầu tiên là nêu chung, sau đó nêu riêng. Đây là phần nêu chung. Trong bốn Đà-la-ni, thì có thể đạt được bất thối Đà-la-ni chứng pháp tánh cho nên vô tận, đạt được không lui sụt cho nên là vô giảm. Văn kinh: Cái gọi là vô tận vô giảm hải ấn xuất diệu công đức Đà-la-ni vô tận vô giảm, thông đạt chúng sinh ý hạnh ngôn ngữ Đà- la-ni vô tận vô giảm. Tán rằng: Nêu riêng mười tổng trì này. Hoặc tất cả mười địa mỗi địa đều đạt được, hoặc tùy theo mười địa lần lượt đạt được một địa. Như Tam-ma-địa trước đây, Sơ địa thực hành thì có thể đạt được, hợp thời như thủy triều của biển lớn lên xuống đúng lúc, chứng bình đẳng chân như, được ấn chứng. Nương vào Đà-la-ni phát sinh công đức cao quý của bố thí, lại có thể phát sinh hậu hậu thắng đức vô tận vô giảm. Hoặc chứng lý sở đắc, hoặc thuộc về mười câu vô tận cho nên vô tận vô giảm. Dưới đây đều y cứ theo đây mà giải thích. Ở địa thứ hai, dứt trừ cái ngu không hiểu nghiệp thì đạt được tổng trì này, cho nên có thể thấu suốt ba nghiệp của tự tha, ý nghó hành động, lời nói ba thứ này lần lượt tức là ba nghiệp ý, thân, ngữ. Hoặc ý hạnh tức là tám mươi bốn ngàn tâm hạnh. Ngôn ngữ biết cơ ở đây, tức là hiểu theo ngôn ngữ của tất cả chúng sinh. Văn kinh: Nhật viên vô cấu tướng quang Đà-la-ni vô tận vô giảm, mãn nguyệt tướng quang Đà-la-ni vô tận vô giảm. Ở địa thứ ba, do dứt bỏ cái ngu ám độn, nêu đạt được tổng trì này, có thể phát khởi ba minh diệu định thù thắng, như mặt trời tròn vạnh, tự lìa bỏ chướng nói là vô cấu, phá sạch u ám của người nói là tướng quang. Địa thứ tư lìa được chướng ngại nhỏ nhiệm, cho nên tinh tiến cao hơn, giống như vầng trăng từ lúc mới xuất hiện đến khi đầy đặn. Dứt trừ được cái ngã đã sinh và chưa sinh, kiến chấp có thể sinh mà không sinh; làm lớn lên tất cả pháp lành đã sinh, như ánh sáng mặt trăng làm cho mát mẻ, làm cho hoa sen nở rộ. Văn kinh: Năng phục chư hoặc diễn công đức lưu Đà-la-ni vô tận vô giảm, Phá kim cang sơn Đà-la-ni vô tận vô giảm. Vì ở địa thứ năm đạt được tương ưng với chân đế tăng thượng tuệ, hàng phục được các phiền não kèm thêm tham, sân… nên gọi chung là hàng phục các hoặc. Tu định cao siêu cho nên đạt được tónh lự cao siêu, phát huy dòng chảy của công đức. Dòng nghóa là tám giải thoát. Vì thế kinh Pháp Hoa chép: “Tám pháp giải thoát tuôn chảy nước tịnh diệu.” Hoặc đạt được định cao siêu, giảng nói được tất cả công đức của định. Do địa thứ sáu tu tập Bát-nhã, phá tan được núi lớn kim cang che lấp mặt trời của sự ngu si. Văn kinh: Thuyết bất khả thuyết nghóa nhân duyên tạng Đà-la-ni vô tận vô giảm, thông đạt thật ngữ pháp tắc âm thanh Đà-la-ni vô tận vô giảm. Bởi vì trong Địa thứ bảy phần nhiều trụ vô tướng, dùng phương tiện khéo léo để nói nghóa lý không thể nói của vô tướng, cũng không thể xả bỏ nêu giả gọi là Nhân duyên pháp tạng. Do địa thứ tám đạt được trí công dụng của vô tướng, dùng năng lực đại nguyện nên thấu suốt được thật ngữ, làm phát sinh pháp tắc; âm thanh tức là ngữ (lời nói). Văn kinh: Hư không vô cấu tâm hạnh ấn Đà-la-ni vô tận vô giảm, vô biên Phật pháp giai năng hiển hiện Đà-la-ni vô tận vô giảm. Do Địa thứ chín đạt được bốn biện tài tự tại, như hư không dứt trừ chướng ngại lợi tha, cho nên là vô cấu. Nghóa pháp đã nói có thể làm ấn chứng tốt cho tâm hạnh chúng sinh, thắng ấn đã ấn chứng quyết định đạt được lợi ích cao quý. Do Địa thứ mười đạt được mây đại trí trùm khắp pháp giới; thân sở nguyện tận vô biên cõi sinh ra đều có có thể hiển hiện, đều nhân nơi tổng trì mà được, đều thuận theo sở đắc mà lập tên gọi Tổng trì, tức là thuận theo quả làm tên gọi, thuộc về y chủ thích. Văn kinh: Này người thiện nam! Các vô tận vô giảm, các Đà-la-ni môn như thế được thành tựu. Tán rằng: Đạt được công dụng cao siêu. Trước đạt được pháp thể, ở đây nương vào để khởi dụng. Đầu tiên là nêu ra, sau đó là hiển bày. Đây là phần nêu ra. Văn kinh: Đại Bồ-tát này có thể ở nơi tất cả cõi Phật mười phương hóa hiện thân Phật, giảng nói tất cả chánh pháp vô thượng, đối với pháp chân như không lay động, không an trụ, không đến không đi. Tán rằng: Đây là hiển bày công dụng cao siêu, có ba: Hiện thân nói pháp. Thường làm lợi ích hữu tình. Thâu nhiếp pháp trở về chân khiến cho tu tập chánh quán. Đây là mở đầu. Tuy hiện thân giảng nói các pháp chân đế bất hoại, nhưng đối với pháp chân như không hề lay động. Kinh Vô Cấu Xưng chép: “Thường khéo léo phân biệt tướng của các pháp nhưng đối với nghóa đế bậc nhất lại không hề lay động”, tức là không trụ trước. Tuy lại hiện thân mà lìa xa cái khổ của sự tán loạn trôi lăn cho nên đối với pháp chân như không hề lay động, cũng không hề trú trước vào Niết-bàn vắng lặng. Như phàm phu, Nhị thừa tuy hiện bày thành Phật nhưng lại tỏ ý quay về Niết-bàn. Dụng thường vắng lặng cho nên không đến không đi. Lại nữa, gốc lành của chúng sinh thành thục cho nên thấy Phật đến, sinh tâm chán ngán lìa bỏ cho nên thấy Phật đi. Luận về Phật thường trụ không đến không đi, cũng như hư không trong sáng, trăng ngời tựa ngọc soi chiếu xuyên suốt không giới hạn, hễ mặt nước gió lặng sóng ngừng thì ánh sáng rực rỡ có điểm dừng. Đây tức là nước trong nên bóng trăng hiện bày, nước cuộn sóng đục ngầu nên trăng lẩn mất. Nói về trăng thì nào có đến đi. Hoặc tự tánh thân không có đi đứng nằm ngồi. Bất động tức là không ngồi nằm, đến đi là thuộc về hành, ứng hóa mà có. Cho nên luận Bát-nhã chép: “Các Đức Phật không đến đi, ứng hóa có đến đi.” Theo Nhiếp cảnh tức là y cứ vào sự ứng hóa làm câu hỏi, đáp tức là thuận theo Như để đáp, cho nên qua lại đều được. Hoặc hiện thân nói pháp đều không có tướng nhất định trong ba đời. Bất động là chung, bất trú là đời hiện tại, tức là diệt, bất khứ tức là diệt vì không đến quá khứ, bất lai vì vị lai không. Y theo sự nói pháp cũng nói bất động… ở đây giải thích là xong. Văn kinh: Khéo có thể thành thục gốc lành của tất cả chúng sinh, cũng không thấy một chúng sinh nào có thể thành thục. Tán rằng: Hai là thường làm lợi ích hữu tình. Dựa vào tục đế khéo léo thành tựu chúng sinh, y cứ theo thắng nghóa đế cũng không thấy chúng sinh nào được thành tựu, nhiếp người khác đồng với mình, quán xét chúng sinh bên ngoài là không, là thường lợi ích. Do đó kinh Kim Cang Bát-nhã chép: “Tuy diệt độ vô lượng chúng sinh như thế nhưng không có chúng sinh nào được diệt độ.” Văn kinh: Tuy nói tất cả các pháp nhưng đối với ngôn từ không lay động, không an trụ, không đi không đến, đối với sinh diệt chứng được vo sinh diệt. Tán rằng: Ba là thâu nhiếp pháp trở về chân khiến cho tu tập chánh quán. Trong đó chia làm ba: Đầu là nêu ra, tiếp theo nêu câu hỏi, sau cuối là giải thích. Đây là nêu ra. Đầu tiên “Tuy nói tất cả các pháp…” ấy là hiện thân nói pháp ở trước. Sau đó “Đối với sinh diệt chứng được vô sinh diệt” là nêu ra lý do chứng chân. Văn kinh: Vì nhân duyên gì nói rằng các hành pháp không có đến đi? Nêu lý do nhân duyên, có nguyên nhân gì khiến như thế? Văn kinh: Bởi vì thể của tất cả các pháp không khác nhau. Tán rằng: Giải thích. Vì tất cả các pháp đều quay về nơi như, chân như là thể. Thể không khác nhau cho nên không thấy các tướng như thân năng y, lời nói thật sinh diệt v.v… Văn kinh: Lúc nói pháp này có ba muôn ức Đại Bồ-tát được vô sinh pháp nhẫn, vô lượng các Bồ-tát được tâm Bồ-đề không lui sụt, vô lượng vô biên Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đạt được pháp nhãn thanh tịnh, vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề. Tán rằng: Đoạn lớn thứ tư trong phẩm là nghe pháp được lợi ích. Trong đó có bốn: Thời hội được lợi ích. Thế Tôn khen ngợi chỉ dạy. Đại chúng vâng theo thực hành. Như lai lại răn bảo. Đây là mở đầu. Văn có bốn lợi ích: Đạt được vô sinh pháp nhẫn, bắt đầu được ở nơi Sơ địa, lâu dài được vào địa thứ tám, hoàn bị đầy đủ được vào Phật địa. Được không lui sụt tức là không lui sụt tâm đại Bồ-đề, là Trú thứ bảy trong Thập trụ. Định tánh Nhị thừa chứng được quả Dự lưu, tuệ vô lậu phát sinh duyên theo pháp bốn đế đạt được pháp nhãn thanh tịnh. Phàm phu có chủng tánh Đại thừa và tất cả ba thừa bất định tánh phát tâm Bồ-đề. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bèn nói tụng rằng: Thắng pháp thường ngược dòng sinh tử, sâu xa mầu nhiệm khó gặp được. Tán rằng: Ngợi khen và chỉ dạy. Hai câu đầu là ngợi khen, hai câu tiếp theo là chỉ dạy. Câu đầu trong phần ngợi khen là ngợi khen pháp tối thượng thù thắng, thường phá trừ sinh tử, câu tiếp theo là khen ngợi pháp nhiệm mầu khó có thể gặp được. Văn kinh: Hữu tình mù tối đầy tham dục, do không thấy nên chịu khổ đau. Tán rằng: Chỉ dạy. Câu trước là do vô minh che lấp nên gây ra điều ác trong tâm, câu sau nhận chịu quả khổ, vô minh che lấp Thánh nhãn, bị màng che nên trí tâm bị mù. Minh là tối tăm. Không thấy chân lý nên nói là tối tăm. Lại vì sự che phủ của tham dục nên tâm không biết thoát ra, chỉ gây nghiệp ác. Sở dó gây việc ác là do không thấy chân lý, vì nghiệp ác đã gây cho nên phải chịu các khổ. Văn kinh: Bấy giờ, đại chúng đều đứng dậy khỏi chỗ ngồi đảnh lễ dưới chân Phật. Tán rằng: Đại chúng vâng theo thực hành. Đầu tiên là nghi quỹ. Văn kinh: Mà bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu ở những nơi nào giảng nói, đọc tụng kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này thì đại chúng chúng con đều đến nơi đó để làm thính chúng. Tán rằng: Thứ hai nói về vâng theo thực hành. Trong vâng theo thực hành có năm: Làm thính chúng. Lợi ích Pháp sư. Lợi ích thính chúng. Lợi ích cõi nước. Tôn trọng nơi giảng nói. Đây là mở đầu. Văn kinh: Vị Pháp sư nói pháp này khiến được lợi ích an vui, không có chướng ngại, thân ý thơ thới, chúng con đều sẽ hết lòng cúng dường. Tán rằng: Lợi ích Pháp sư: Khiến cho an vui. Đầy đủ bốn việc cúng dường. Văn kinh: Cũng khiến cho thính chúng yên ổn vui sướng, cõi nước cư trú không có các nỗi khổ về oán tặc, kinh sợ, tai ách, mất mùa đói kém, nhân dân được hưng vượng thái bình. Tán rằng: Lợi ích của thính chúng và cõi nước. Văn kinh: Nơi nói pháp, chỗ đạo tràng này, tất cả các vị trời và loài người cùng phi nhân, tất cả chúng sinh không nên dẫm đạp và làm cho ô uế. Vì sao? Vì nơi nói pháp tức là nơi hạn định cuối cùng, nên dùng hương hoa tranh vẽ, phướn lọng cúng dường, chúng con thường giữ gìn không để cho bị hoang tàn đổ nát. Tán rằng: Tôn trọng nơi giảng nói, có ba: Đầu là nêu ra, tiếp theo nêu câu hỏi, sau cùng giải thích. Trong giải thích có hai: Trước là giải thích vì sao không nên dẫm đạp làm cho ô uế, tiếp đó nên tu pháp cúng dường. Trong tu pháp cúng dường đầu tiên là khuyến khích người khác cúng dường, sau đó tự mình làm người giữ gìn. Văn kinh: Đức Phật bảo đại chúng: Này người thiện nam! Các vị cần phải cố gắng siêng năng tu tập kinh điển tuyệt vời này, được như thế thì chánh pháp tồn tại lâu dài trên thế gian. Tán rằng: Như lai lại răn bảo. Bốn phần trước đây mọi người nguyện lắng nghe, hộ trì, nguyện tự mình thọ trì giảng nói; nay răn bảo cũng khiến cho tự thân siêng năng tu tập để pháp tồn tại lâu dài. -------------------------- <詞>Phẩm 7: LIÊN HOA DỤ TÁN Phẩm Liên Hoa dụ tán có chia ra ba phần: Lý do có phẩm này. Giải thích tên gọi. Giải thích chướng ngại. Nói về Lý do có phẩm này là Bồ-tát Diệu Tràng im lặng suy nghó, Thế Tôn Đạo sư từ lâu xa gieo trồng nhân cao đẹp, tại sao thọ mạng lại ngắn ngủi như vậy. Bốn Đức Phật ở bốn phương bỗng nhiên hiện ra trong thất nói về tuổi thọ vô biên, làm sao tâm phàm phu suy lường được. Nhân nghe về tuổi thọ dài lâu nên nguyện đạt đến Bồ-đề. Nói về quả khiến cho mong cầu, mong cầu cần phải khởi hạnh, cho nên mộng thấy trống vàng nói rõ phương pháp sám hối. Nay chính là hạnh cao quý cảm ứng từ giấc mộng phát khởi thứ lớp tu tập chẳng phải không có nhân duyên. Đại chúng thắc mắc không biết cho nên Phật liền giảng nói cho nghe: Về thời quá khứ có vị vua tên là Kim long chủ, dùng hoa sen ví dụ để khen ngợi các Đức Phật trong mười phương, do nhân cao quý này nên cảm ứng giấc mộng tốt lành ấy. Muốn khiến cho chúng hội đương thời trừ diệt được sự nghi ngờ, đồng thời gieo trồng nhân tốt đẹp, cho nên sau phẩm trước có phẩm này phát khởi. Giải thích tên gọi, hoa sen là dụ, khen ngợi là pháp. Hoa sen, gọi chung là Phù cừ, cũng gọi là Phù dung. Hoa gọi là Hạm đạm, thật ra gọi là sen, sen nghóa là phòng, nên tức là đài sen. Hạt trong sen gọi là đích, trong đích gọi là ý. Ý ở đây, hoa chính là dụ cho nhân, sen tức là dụ cho quả. Dụ ở trong nhân, trước sau hướng về nhau, cả hai bao gồm nhân quả. Lại nữa, hoa sen mọc lên từ bùn nước nhưng không bị bùn nước làm cho nhuốm bẩn, dụ cho tu hành tuy ở nơi nhiễm ô nhưng chắc chắn thường lìa xa bùn lầy nghi ngờ. Rộ nở tốt tươi từ trong nước cũng không bị bùn nước làm cho vấy bẩn, dụ cho nhân quả cao quý đều được lìa xa nhiễm ô. Hoa sen này dụ cho cả năng tán và sở tán, khen ngợi dụ như hoa sen, bởi vì tâm chẳng nhiễm ô mà khen ngợi. Khen ngợi về thể là trí, khen ngợi về dụng là ngôn, bởi vì tâm thanh tịnh phát khởi lời nói cũng tựa như hoa sen. Nhưng nay chọn lấy ý khen ngợi đức tốt của Phật giống như hoa sen, do đó phẩm này nói: “Thường dùng hoa sen ví dụ để khen ngợi, xưng tụng các Đức Phật trong mười phương.” Lại tụng rằng: “Khen ngợi công đức của Phật dụ như hoa sen”, bởi vì căn cứ vào dụng, thường dùng hoa sen ví dụ để khen ngợi Phật. Hoặc lời khen ngợi này gọi là hoa sen dụ, dùng hoa sen này dụ cho sự khen ngợi, khen ngợi các Đức Phật, cho nên nói thường dùng hoa sen ví dụ để khen ngợi. Phẩm này nói về điều đó cho nên lấy làm tên gọi. Giải trừ chướng ngại, đó là tại sao ở sau phẩm Mộng kiến sám hối trước đây không nói phẩm này ngay mà đến đây mới nói? Đáp: Bởi vì cơ nghi của chúng hội đương thời là mong muốn như vậy. Lại nữa, mộng thấy sám hối vì trước đó nêu câu hỏi về diệt tội, hiểu rồi thì cần phải cầu tội diệt, tiến tu thắng hạnh. Hiện tại bởi vì đang tu học cho nên lập tức nói trước, việc đã qua chứng minh là thành thật cho nên về sau mới nói. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Phật bảo thần cây Bồ-đề là Thiện nữ thiên rằng: Nay các người phải biết Diệu tràng trong đêm mộng thấy trống vàng tuyệt đẹp phát ra âm thanh vang dội khen ngợi công đức của Phật và phương pháp sám hối. Nhân duyên này ta sẽ vì các người nói tất cả sự việc đó, nên lắng nghe và khéo nhớ nghó. Tán rằng: Văn trong phẩm này chia làm bốn: Nêu việc muốn trình bày nhắc nhở mọi người khiến cho lắng nghe. Chính thức giảng rộng khiến cho biết rõ duyên đời trước. Diệu tràng! Ông nên biết…” Về sau là kết thúc pháp hội, thọ ký cho như xưa nay. Đại chúng nghe xong phát tâm nguyện sẽ tu học. Một bài tụng cuối là thần cây tên Kiên Lao cũng gọi là Địa thần. Tên cây là Tất-bát- ba, Đức Phật thành đạo dưới cội cây ấy nên gọi là cội Bồ-đề. Đây là mở đầu. Văn kinh: Thời quá khứ có vị vua tên là Kim long chủ, thường dùng hoa sen ví dụ để khen ngợi xưng tụng các Đức Phật ba đời ở khắp mười phương. Tán rằng: Nói tất cả, có hai: Đầu là nêu ra, sau đó là nói. Đây là phần nêu ra. Văn kinh: Liền vì đại chúng nói về sự khen ngợi đó rằng: Phật quá khứ, vị lai, hiện tại an trú trong các thế giới ở mười phương, nay con chí thành cúi đầu lễ, một lòng khen ngợi các đấng Tối thắng. Tán rằng: Nói có ba mươi lăm bài tụng, tất cả chia làm ba phần: Hai mươi bài tụng đầu là khen ngợi, một bài tụng tiếp theo là hồi hướng, mười bốn bài tụng sau là phát nguyện. Trong phần khen ngợi có hai: Mười lăm bài tụng đầu là khen ngợi sắc thân Phật, năm bài tụng sau từ “Quá khứ vốn có…” trở xuống là khen ngợi danh thân của Phật. Trong khen ngợi sắc thân, một bài tụng đầu là kính thành nêu ra sự khen ngợi, tiếp theo mười ba bài tụng là tùy theo đức để khen ngợi riêng, sau cùng có một bài tụng kết thúc khen ngợi về sự vô biên. Đây là phần mở đầu, một câu đầu nói rõ nơi muốn khen ngợi, một câu khen ngợi về trú xứ, một câu là ba nghiệp lễ lạy, chí là tập trung là chuyên nhất, thành là chân thật, khể là đến, thủ là cái đầu, cúi đầu sát đất cho nên nói là khể thủ, lễ là cung kính, ở đây chung cho cả ba nghiệp, không riêng gì đầu lễ lạy, nêu rõ ràng thân nghiệp để làm sáng tỏ cả tâm, ngữ, chuyên chú vào cảnh gọi là nhất tâm, chẳng phải trong một sát-na… Một câu nêu ra sự khen ngợi, bàn luận sự tốt đẹp này gọi là khen ngợi, xúc sự bày tỏ xưng dương là ngợi ca. Văn kinh: Vô thượng thanh tịnh đấng Mâu-ni, thân quang rực rỡ như màu vàng. Tán rằng: Kế là tùy đức khen ngợi riêng. Trong khen ngợi tướng tốt có xen lẫn ngợi khen nhiều vẻ đẹp, bởi vì vẻ đẹp tùy theo tướng cho nên xen lẫn để ngợi khen. Ngợi khen có mười sáu thứ; mười một thứ ngợi khen về tướng, năm thứ ngợi khen về vẻ đẹp. Đây là mở đầu. Nửa bài tụng khen ngợi về tướng thân da màu vàng thứ mười bốn trong ba mươi hai tướng. Kinh Đại Bát-nhã quyển ba tám mươi bảy chép: “Đức Phật vì Thiện Hiện nói về ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp”, tiếp sau đều y cứ theo đó thì biết, nói rằng mười bốn tướng thân da của Thế Tôn đều thật sự màu vàng, ánh sáng thanh khiết chói ngời như đài vàng đẹp đẽ, các thứ báu trang nghiêm khiến mọi người đều ưa thích; hoặc là khen ngợi ánh sáng thường chói ngời của thân. Văn kinh: Trên hết trong mọi âm thanh, như tiếng sấm Đại phạm vang động. Tán rằng: Thứ hai ngợi khen về tướng Phạm âm thứ hai mươi bảy. Như kinh nói: Phạm âm của Thế Tôn từ ngữ điệu vận hòa nhã, hễ chúng bao nhiêu người cũng đều nghe như nhau, âm thanh đó vang dội chấn động giống như trống trời, lời nói phát ra êm ái, chứa đựng như tiếng chim Tần-ca (chim Ca-lăng-tần-già). Văn kinh: Màu tóc đen như ong đầu đàn, mềm mại xoáy tròn màu cam thanh (đen pha hồng). Tán rằng: Thứ ba ngợi khen vẻ đẹp của tóc. Như kinh nói: đầu tóc của Thế Tôn rậm và dài, màu đen pha hồng, dày khít không trắng. Văn kinh: Răng trắng đều đặn như ngọc trắng, ngay ngắn hiện rõ có ánh sáng. Tán rằng: Thứ tư là ngợi khen tướng răng. Như kinh nói: Tướng thứ hai mươi ba là răng của Thế Tôn có bốn mươi chiếc, đều đặn, ngay ngắn sạch sẽ khít khao, gốc sâu, trắng hơn ngọc trắng. Văn kinh: Mắt xanh xinh đẹp không bẩn, giống như cánh sen xanh rộng lớn, chiếc lưỡi rộng dài thật mềm mại, tựa như sen hồng mọc trong nước. Tán rằng: Thứ năm là khen ngợi đôi mắt, như kinh nói tướng thứ hai mươi chín là mắt của Thế Tôn màu xanh ánh hồng tươi sáng, vòng đỏ điểm giữa sáng trong rõ ràng. Thứ sáu là tướng lưỡi, như kinh nói: Tướng thứ hai mươi sáu là lưỡi của Thế Tôn mềm mỏng sạch sẽ rộng dài, lẽ ra có thể che kín mặt, tận đến mí tóc. Văn kinh: Giữa hai đầu chân mày thường có sợi lông trắng sáng, mềm mại xoay về bên phải màu pha lê, chân mày mảnh nhỏ dài tựa trăng non, màu sắc ánh sáng như ong đầu đàn. Tán rằng: Thứ bảy là khen ngợi tướng chân mày thứ ba mươi mốt, thứ tám khen ngợi vẻ đẹp của chân mày thứ ba mươi chín. Văn kinh: Mũi cao dài thẳng như thoi vàng, sạch đẹp mịn bóng tướng không thiếu, tất cả hương thơm tho thế gian, lúc ngửi biết rõ hương ở đâu. Tán rằng: Thứ chín khen ngợi vẻ đẹp của mũi. Đây là nửa bài tụng đầu khen ngợi vẻ đẹp của sắc, nửa bài tụng sau khen ngợi công dụng tốt đẹp của căn. Văn kinh: Thân Thế Tôn mài vàng quý nhất, mỗi một đầu lông tướng không khác, xanh hồng mềm mại xoay bên phải, màu sắc nhiệm mầu khó ví dụ. Tán rằng: Thứ mười là kết hợp khen ngợi tướng thứ mười một là mỗi lỗ chân lông của Thế Tôn đều mọc ra một sợi lông. Tướng thứ mười hai là lông tóc của Thế Tôn đều hướng lên trên. Văn kinh: Mới sinh thân có ánh sáng đẹp, soi khắp tất cả cõi mười phương, thường dứt khổ chúng sinh ba cõi, khiến họ đều được vui yên ổn; trong đường địa ngục, quỷ, súc sinh, A-tu-la, trời và loài người, giúp họ dứt trừ các khổ đau, thường được vui yên ổn tự nhiên; ánh sáng thân thường soi chiếu khắp, giống như vàng ròng đẹp tuyệt vời. Tán rằng: Tiếp theo hai bài tụng rưỡi, thứ mười một lại khen ngợi về tướng ánh sáng của thân. Trước nói lược, sau nói rộng, trong đó chia làm ba: Nửa bài tụng đầu là ánh sáng nơi thân chiếu soi cảnh giới, một bài tụng rưỡi tiếp theo là khen ngợi lợi ích của ánh sáng nơi thân, trong lợi ích của ánh sáng nửa bài tụng đầu là chung, một bài tụng tiếp theo là riêng; nửa bài tụng cuối là hiển bày ánh sáng không gì so sánh bằng. Văn kinh: Khuôn mặt tròn sáng như trăng rằm, màu môi đỏ đẹp như Tần-bà, bước đi mạnh mẽ tựa sư tử, thân quang sáng rực giống bình minh. Tán rằng: Thứ mười hai: Một câu khen ngợi tướng thứ ba mưưoi là khuôn mặt tròn đầy của Thế Tôn, giống như trăng rằm; tướng chân mày sáng trắng như cây cung của Thiên đế. Mày mặt chia ra làm hai, cũng bao gồm ba vẻ đẹp của khuôn mặt. Thứ mười ba, một câu khen ngợi về vẻ đẹp màu môi của Phật. Thứ mười bốn, nửa bài tụng khen ngợi vẻ đẹp thứ bảy là bước đi ngó thẳng về trước như voi đầu đàn của Phật, thứ tám là bước đi mạnh mẽ nghiêm trang như sư tử, thứ chín là bước đi bình an như trâu đầu đàn, thứ mười là bước đi nhẹ nhàng tao nhã như ngỗng đầu đàn, tất cả thuộc về dáng vẻ của bước đi. Văn kinh: Cánh tay thon dài đứng quá gối, dáng vẻ buông xuống nhánh sa-la. Tán rằng: Thứ mười lăm khen ngợi tướng thứ chín là cánh tay Phật. Văn kinh: Viên quang một tầm chiếu vô biên, sáng ngời như trăm ngàn mặt trời, chiếu khắp cõi nước các Đức Phật, tùy duyên ở đâu đều độ sinh. Tán rằng: Tiếp theo ba bài tụng, thứ mười sáu khen ngợi tướng thứ hai mươi hai là Thế Tôn thường có ánh sáng trên mặt chiếu xa một tầm. Trong đó chia làm ba: Một bài tụng đầu là ánh sáng soi chiếu tùy duyên, một bài tụng tiếp theo là dứt trừ các khổ đau của chúng sinh, một bài tụng cuối là thường ban cho họ niềm vui. Đây là mở đầu. Trong kinh Đại Bát-nhã chép: “Thân quang của Như lai tùy ý có thể soi chiếu tam thiên thế giới, khi tác ý có thể chiếu soi vô biên thế giới, vì thương xót hữu tình nên thâu nhiếp ánh sáng thường soi chiếu trên mặt trong khoảng một tầm.” Tức là tùy duyên thâu vào phát ra đều làm lợi ích chúng sinh. Văn kinh: Lưới ánh sáng đẹp không gì bằng, rực rỡ đầy khắp trăm ngàn cõi, soi khắp mười phương không chướng ngại, tất cả tối tăm đều xua tan. Tán rằng: Trừ diệt khổ đau của chúng sinh. Như lưới báu của trời Đế Thích cảm hóa chúng sinh, thân quang của Thế Tôn cũng giống như vậy. Văn kinh: Ánh từ Thiện Thệ thường ban vui, sắc mầu chiếu rọi như núi vàng, luồng sáng đến khắp trăm ngàn cõi, chúng sinh gặp được đều thoát khổ. Tán rằng: Ban vui. Phật phát khởi từ bi gọi là ánh sáng Từ bi của Thiện Thệ. Ban vui lại có hai: Trước tiên là niềm vui thế gian, đều được thoát khỏi ấy là niềm vui xuất thế gian. Xuất ly tức là Niết-bàn. Văn kinh: Thân Phật thành tựu phước vô lượng, tất cả công đức cùng trang nghiêm, siêu vượt ba cõi độc xưng tôn, thù thắng thế gian không ai bằng. Tán rằng: Tiếp theo một bài tụng là kết thúc khen ngợi về sự vô biên của Phật. Tướng tốt là phước phần cho nên nói là vô lượng phước, là vô lậu cho nên vượt ba cõi, rất viên mãn cho nên không ai bằng. Văn kinh: Tất cả các Đức Phật quá khứ, nhiều như bụi nhỏ trên mặt đất, Phật vị lai hiện tại mười phương, cũng nhiều như bụi nhỏ mặt đất. Tán rằng: Tiếp theo là năm bài tụng khen ngợi về danh thân. Sắc thân ở trước cũng được gọi là Hóa thân. Danh thân này cũng được gọi là ứng thân. Trong đó chia làm ba: Một bài tụng đầu tiên nói về vô biên các Đức Phật, một bài tụng tiếp đó là quy y cúng dường, ba bài tụng sau là phát âm khen ngợi. Đây là mở đầu. Văn kinh: Con dùng thân, ngữ, ý chí thành, cúi đầu quy y Phật ba đời, khen ngợi biển công đức vô biên, tất cả hương hoa đều cúng dường. Tán rằng: Quy y cúng dường các Đức Phật. Văn kinh: Giả sử miệng con có ngàn lưỡi, vô lượng kiếp khen ngợi Như lai, công đức Thế Tôn không nghó bàn, sâu xa trên hết khó nói được. Giả sử con có trăm ngàn lưỡi, khen ngợi mỗi Phật một công đức, ở trong phần nhỏ còn khó biết, huống đức chư Phật không giới hạn. Giả sử mặt đất và các trời, cho đến Hữu đảnh là biển nước, đầu lông có thể chấm biết số, một công đức Phật thật khó lường. Tán rằng: Phát âm khen ngợi. Một bài tụng đầu là khen ngợi chung Như lai vượt ngoài khả năng suy nghó, nói năng. Tiếp theo giả sử khen ngợi mỗi Đức Phật một công đức cũng không thể cùng tận được. Một bài tụng cuối khen ngợi công đức sâu xa vượt ngoài sự tính toán suy lường. Văn kinh: Con dùng thân, ngữ, ý, chí thành, lễ tán đức các Phật vô biên, tất cả phước tốt quả khó nghó, hồi thí chúng sinh mau thành Phật. Tán rằng: Thứ hai là hồi hướng. Văn kinh: Vua ấy khen ngợi Như lai xong, tâm càng tin sâu phát thệ nguyện rộng lớn. Tán rằng: Tiếp theo là phát nguyện có mười bốn bài tụng chia làm hai: Nửa bài tụng đầu nêu chung, mười ba bài tụng rưỡi sau là đề mục riêng. Đây là mở đầu. Văn kinh: Nguyện con sẽ ở đời vị lai, sinh nơi vô lượng vô số kiếp, trong mộng thường thấy trống vàng lớn, được nghe rõ âm thanh nói sám hối. Khen công đức Phật như hoa sen, nguyện chứng vô sinh thành Chánh giác, cùng hiện khi các Phật xuất thế, trong trăm ngàn kiếp thật khó gặp. Đêm mộng thường nghe tiếng trống hay, ngày liền theo đó mà sám hối. Con sẽ tu đầy đủ sáu độ, cứu thoát chúng sinh vượt biển khổ, sau đó được thành Vô thượng giác, cõi Phật thanh tịnh khó nghó bàn. Dâng trống vàng lên Đức Như lai, và khen công đức thật các Phật, nhờ đó sẽ thấy Phật Thích-ca, thọ ký con thành bậc Chánh giác. Kim long Kim quang là con ta, quá khứ từng làm thiện tri thức, đời đời nguyện sinh nơi nhà ta, cùng được chứng Bồ-đề vô thượng. Nếu có chúng sinh không cứu giúp, đêm dài luân hồi chịu khổ đau, con ở đời sau làm quy y, khiến họ sẽ được vui yên ổn. Các khổ ba cõi nguyện trừ diệt, đều được nơi an vui tùy ý; ở đời vị lai tu Bồ-đề, đều như các Phật đời quá khứ. Nguyện phước sám hối Kim quang này, thường cạn biển khổ tiêu trừ tội, nghiệp chướng phiền não thảy tan biến, khiến con mau được quả thanh tịnh. Biển lớn phước trí lượng vô biên, thanh tịnh lìa cấu sâu không đáy, nguyện con được biển công đức ấy, chóng thành Vô thượng đại Bồ-đề. Nhờ sức sám hối Kim quang này, sẽ được phước đức tịnh quang minh, đã được ánh sáng đẹp thanh tịnh, thường dùng ánh trí soi tất cả. Nguyện thân quang con như các Phật, phước đức, trí tuệ cũng như thế, tất cả thế giới độc xưng tôn, uy lực tự tại không ai bằng. Biển khổ hữu lậu nguyện vượt qua, biển vui vô vi nguyện thường dạo, biển phước hiện tại nguyện thường đầy, biển trí tương lai nguyện tràn đầy. Nguyện cõi nước còn hơn ba cõi, công đức cao quý lượng vô biên, những người có duyên sẽ cùng sinh, đều được thành tựu trí thanh tịnh. Tán rằng: Trống vàng nói âm thanh sám hối. Xét ở đây nên hợp với phần sau, bởi vì vâng theo trống vàng nên mới phát nguyện, do văn đơn giản nên trình bày ở trước. Biểu hiện riêng có tám: Bài tụng thứ nhất là nguyện được mộng. Một bài tụng tiếp theo là nguyện khen ngợi công đức của Phật, dụ như hoa sen Ổ-đàm-bát. Nửa bài tụng tiếp theo là nguyện thực hành sám hối. Một bài tụng tiếp theo là nguyện tu tập các điều lành. Có bốn: Thực hành sáu độ. Cứu giúp chúng sinh. Nguyện thành Phật. Nguyện Tịnh độ. Một bài tụng tiếp theo là nguyện sẽ được thọ ký. Một bài tụng tiếp theo là nguyện con cũng được như vậy. Hai bài tụng tiếp theo là nguyện thực hành lợi tha, trong lợi tha, một bài tụng rưỡi đầu là khiến đạt được niềm vui thế gian, nửa bài tụng sau là khiến đạt được niềm vui xuất thế, dựa vào công đức cao quý khiến đạt được đại quả, hoặc có thể, nửa bài tụng từ “chúng sinh ba cõi…” Về sau khiến đạt được ba thừa, nói rằng tùy ý cho nên sau khiến hồi tâm hướng đại. Sáu bài tụng tiếp theo là nguyện tự được lợi ích, trong tự được lợi ích có sáu: Một bài tụng đầu là nguyện sám hối diệt chướng, đạt đến Niết-bàn, trong biển khổ tức là báo chướng, nghiệp, nghiệp chướng, phiền não tức là hoặc chướng. Một bài tụng tiếp theo là nguyện đạt được Pháp thân, trí thành tựu đại giác, đạt được Báo thân một bài tụng kế là nguyện được ánh sáng trí tuệ của thân chiếu soi đến người thì khởi hóa thân, một bài tụng kế là nguyện ánh sáng trí tuệ của thân bằng với chư Phật. Một bài tụng tiếp theo là nguyện vượt qua biển khổ, đầy đủ an vui, trong đó có hai: Nửa bài tụng là lìa khổ được vui, nửa bài tụng là phước trí tròn đầy. Phước tròn tức là nhân hạnh, trí đầy tức là quả. Như luận Bát-nhã của Vô Trước chép: “Phước tướng pháp thân và trí tướng Pháp thân là địa vị đặc biệt của nhân quả.” Một bài tụng tiếp theo là nguyện được Tịnh độ, cùng thành Phật, văn hiển bày rõ ràng có thể biết. Văn kinh: Này Diệu Tràng! Ông nên biết rằng quốc vương Kim long chủ kia từng phát nguyện như thế chính là ông. Ngày xưa có hai người con là Kim Long và Kim Quang, chính là Ngân Tướng và Ngân Quang sẽ được ta thọ ký. Tán rằng: Đoạn lớn thứ ba là kết thúc pháp hội xưa nay, hứa sẽ thọ ký. Một bài tụng là kết thúc pháp hội, một bài tụng là hứa sẽ thọ ký. Văn kinh: Đại chúng nghe nói như thế đều phát tâm Bồ-đề, nguyện hiện tại và vị lai thường nương theo pháp sám hối này. Dưới là đoạn lớn thứ tư, đại chúng nghe xong phát tâm nguyện nương theo tu học. Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ. Quyển bốn, phần đầu xong. KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH SỚ <卷>QUYỂN 4 (Phần 3) <詞>Phẩm 8: KIM THẮNG ĐÀ LA NI Phẩm Kim Thắng Đà-la-ni có chia ra ba phần: Lý do có phẩm này. Giải thích. Giải thích chướng ngại. Nói về lý do có phẩm này: trước đây nói về mộng nghe âm trống vàng nói pháp sám hối diệt trừ nghiệp chướng tu hạnh tịnh địa, đều gần gũi cúng dường các Đức Phật, phát khởi kỳ nguyện cao siêu. Những gốc lành này thành tựu đã từ Đức Phật mà đạt được, nhờ chỉ dạy nên thường thấy Phật. Hạnh rộng lớn khó học, hạnh đơn giản dễ noi theo, cho nên trao truyền tổng trì để nương theo tu tập, thường được thấy Phật tu hành cúng dường. Vì thế sau phẩm trước có phẩm này phát sinh. Thứ hai là giải thích tên gọi, tiếng Phạn gọi là Thất-la (Hán dịch là Kim), Bạt-để (Hán dịch là Thắng), Đà-la-ni (Hán dịch là Tổng trì). Kim là dụ, Đà-la- ni là pháp, Thắng chung cho cả pháp và dụ. Thắng ở trong kim (vàng) giống như vàng của châu Thiệm-bộ. Tổng trì thắng này cũng giống như vậy. Lấy vàng làm ví dụ, nghóa giống như phẩm Tam Thân ở trước đã nói. Giải trừ chướng nạn là hỏi kinh rằng: “Người thọ trì tổng trì này có phước đức to lớn, đã gieo trồng gốc lành với nhiều Đức Phật, giữ giới chắc chắn được hội nhập pháp môn sâu xa.” Đã nói rằng “Đã gieo trồng gốc lành và giữ giới dưới pháp hội nhiều vị Phật, ở đây là tự mình có thể thường thấy các Đức Phật”, đâu cần nhờ pháp Tổng trì của Phật giáo? Đáp: Lại khiến cho tăng tiến hơn cho nên dạy thần chú. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lại ở giữa đại chúng bảo Đại Bồ-tát Thiện Trú: Này người thiện nam, có Đà-la-ni tên là Kim thắng. Tán rằng: Văn trong phẩm chia làm năm: Nêu thần chú khuyến khích tu trì, khen ngợi dạy người tu học. Chỉ dạy phương tiện trước khi trì thần chú. Chính thức nói thần chú. Khen ngợi rộng về công năng. Chỉ dạy phương pháp nghi thức thực hành. Đoạn đầu tiên có ba phần: Đối cơ nêu ra tên gọi thần chú. Lý do khuyến khích người hành trì tu học. Từ “Vì thế cho nên…” về sau là khen người dạy phải tu học đầy đủ. Đây là mở đầu. Văn kinh: Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào muốn cầu tự gặp các Đức Phật quá khứ, hiện tại, vị lai để cung kính cúng dường thì phải thọ trì Đà-la-ni này. Tán rằng: Lý do khuyến khích người hành trì tu học, có ba: Đầu tiên là nói rõ nguyện hành trì, tiếp theo là trưng hỏi nguyên do, sau cùng là giải thích. Đây là mở đầu. Văn kinh: Vì sao? Vì Đà-la-ni này chính là mẹ của các Đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Tán rằng: Văn hai phần sau. Thường sinh ra các Đức Phật gọi là Phật mẫu. Văn kinh: Thế nên biết rằng người thọ trì Đà-la-ni này có phước đức to lớn, đã gieo trồng gốc rễ các điều lành ở nơi vô lượng các Đức Phật quá khứ, nay được thọ trì; đối với giới thanh tịnh không hủy phạm, không thiếu sót, không có chướng ngại, chắc chắn được hội nhập vào pháp môn sâu xa. Tán rằng: Khen ngợi người khiến cho họ tu học, có tám: Nêu ra người thọ trì. Có phước to lớn. Được gặp các Đức Phật. Gieo trồng gốc lành. Đầy đủ giới luật. Không có chướng ngại. Nhập vào nhóm chánh định. Nhập vào pháp sâu xa, tức là chắc chắn được nhập vào giai vị Trú chánh định, thường được quyết định, nhập vào pháp môn sâu xa tức là thứ tám, hoặc chỉ là thứ bảy, kết hợp thứ bảy và tám là năng chứng bất thối. Văn kinh: Thế Tôn liền giảng nói phương pháp trì chú, trước tiên xưng niệm danh hiệu các Đức Phật và Bồ-tát, dốc lòng lễ lạy cung kính, sau đó trì tụng thần chú. Tán rằng: Chỉ dạy phương tiện trước khi trì thần chú. Đầu là nêu ra, sau đó chỉ dạy. Đây là phần nêu ra. Văn kinh: Nam-mô Thập phương nhất thiết chư Phật, Nam-mô chư đại Đại Bồ-tát, Nam-mô Thanh văn Duyên giác nhất thiết hiền Thánh, Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật, Nam-mô Đông Phương Bất Động Phật, Nam-mô Nam Phương Bảo Tràng Phật, Nam-mô Tây phương A- di-đà Phật, Nam-mô Bắc Phương Thiên Cổ Âm Vương Phật, Nam-mô Thượng Phương Quảng Chúng Đức Phật, Nam-mô Hạ Phương Minh Đức Phật, Nam-mô Bảo Tạng Phật, Nam-mô Phổ Quang Phật, Nam- mô Phổ Minh Phật, Nam-mô Hương Tích Vương Phật, Nam-mô Liên Hoa Thắng Phật, Nam-mô Bình Đẳng Kiến Phật, Nam-mô Bảo Kế Phật, Nam-mô Bảo Thượng Phật, Nam-mô Bảo Quang Phật, Nam-mô Vô Cấu Quang Minh Phật, Nam-mô Biện Tài Trang nghiêm Tư Duy Phật, Nam-mô Tịnh Nguyệt Quang Xưng Tướng Vương Phật, Nam-mô Hoa Nghiêm Quang Phật, Nam-mô Quang Minh Vương Phật, Nam- mô Thiện Quang Vô Cấu Xưng Vương Phật, Nam-mô Quán Sát Vô úy Tự Tại Phật, Nam-mô Vô Úy Danh Xưng Phật, Nam-mô Tối Thắng Vương Phật, Nam-mô Bảo Tướng Phật, Nam-mô Quán Tự Tại Đại Bồ- tát, Nam-mô Địa Tạng Đại Bồ-tát, Nam-mô Hư Không Tạng Đại Bồ- tát, Nam-mô Diệu Cát Tường Đại Bồ-tát, Nam-mô Kim Cang Thủ Đại Bồ-tát, Nam-mô Phổ Hiền Đại Bồ-tát, Nam-mô Vô Tận Ý Đại Bồ-tát, Nam-mô Đại Thế Chí Đại Bồ-tát, Nam-mô Từ Thị Đại Bồ-tát, Nam-mô Thiện Tư Đại Bồ-tát. Tán rằng: Đây là chỉ dạy. Đầu tiên là dạy lễ chung, sau là chỉ dạy lễ riêng. Đây là lễ chung. Lễ riêng có thể biết. Văn kinh: Đà-la-ni như sau: Nam-mô hạt lạt đát na đát lạt dạ dã đát điệt tha - quân thế quân thế - củ triết lệ củ triết lệ - nhất trất lý mật trất lý - sa ha. Tán rằng: Chính là nói thần chú. Văn kinh: Đức Phật bảo Bồ-tát Thiện Trụ: Đà-la-ni này là mẹ của các Đức Phật ba đời. Tán rằng: Tiếp theo khen ngợi rộng về công năng, có hai: Đầu tiên nói thần chú là Phật mẫu, sau đó nói người thọ trì được lợi ích. Đây là mở đầu. Văn kinh: Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào trì tụng thần chú này thì được phát sinh chứa nhóm phước đức vô lượng vô biên. Tán rằng: Trong phần được lợi ích đầu tiên nêu chung, sau đó chỉ ra riêng. Đây là nêu chung. Văn kinh: Chính là cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi vô số các Đức Phật như thế, các Đức Phật đều cùng nhau thọ ký A-nậu- đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề cho người này. Tán rằng: Riêng chỉ ra lợi ích đạt được, có sáu: Ngay nơi cúng dường Phật là pháp cúng dường. Được Phật thọ ký. Được quả phước thế gian. Sở nguyện vừa ý. Thường gần gũi bạn lành. Các Đức Phật, Bồ-tát đều bảo vệ. Đoạn văn có thể biết, vì thế không chỉ ra riêng. Văn kinh: Này Thiện Trụ! Nếu có người nào thọ trì thần chú này thì tùy theo sự mong muốn của họ về ăn mặc, tài sản, châu báu, thông minh trí tuệ, mạnh khỏe sống lâu, được phước thật nhiều, thuận theo những nguyện điều cầu thảy đều được như mong muốn. Này Thiện Trú! Người thọ trì thần chú này dù cho chưa chứng Vô thượng Bồ-đề mà vẫn thường cùng với các vị Bồ-tát như Bồ-tát Kim Thành Sơn, Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Đại Hải, Bồ-tát Quán Tự Tại, Bồ-tát Diệu Cát Tường, Bồ-tát Đại-băng-già-la… cùng ở một chỗ, được sự che chở bảo vệ của các vị Bồ-tát. Này Thiện Trụ! Nên biết rằng lúc trì thần chú này nên thực hành pháp như vậy. Tán rằng: Chỉ dạy phương pháp nghi thức thực hành. Văn chia làm ba: Nêu chung. Chỉ ra riêng. Kết thúc khuyên nhắc chớ quên. Đây là phần nêu chung. Văn kinh: Trước hết phải tụng trì đủ một muôn lẻ tám biến làm phương tiện đầu tiên, tiếp theo vào phòng kín trang nghiêm đạo tràng, ba mươi, mồng một tắm gội sạch sẽ, mặc áo quần mới giặt, thắp hương dâng hoa, các thứ cúng dường và các đồ ăn thức uống; vào trong đạo tràng trước hết nên xưng niệm lễ lạy các Đức Phật, Bồ-tát như trước đã nói, dốc lòng tha thiết sám hối tội lỗi trước đây xong, đầu gối phải quỳ sát đất, hãy tụng thần chú ở trước đủ một ngàn lẻ tám biến, ngồi thẳng tư duy, nghó đến sở nguyện đó. Thời gian chưa ra ngoài, lúc còn ở trong đạo tràng ăn thức ăn thanh tịnh, một ngày chỉ ăn một bữa, đến mười lăm ngày mới ra khỏi đạo tràng, khiến cho phước đức uy lực của người này không thể suy nghó bàn luận, hễ có nguyện cầu gì đều được viên mãn, nếu không được như mong muốn thì lại trở vào đạo tràng. Tán rằng: Chỉ bày riêng, trong đó có tám: Phương tiện trì chú. Nơi chốn. Trang nghiêm. Thời tiết. Kết tịnh. Cúng dường. “Nhập đạo tràng…” trở xuống chính là thực hành. Trong chính thức thực hành có chín: Quy y lễ lạy. Sám hối. Cung kính. Số biến trì tụng. Khởi nguyện. Thời gian nơi chốn ăn uống. Thức ăn bị nhuốm đen cũng được. Biết số lượng. j) Kỳ hạn. “Làm cho…” trở xuống là nguyện thành tựu, có hai: Người phước đức nhiều thì hai tuần nguyện được như ý. Nếu không toại ý về sau là người có nghiệp ác nặng nề lại tiếp tục yêu cầu kỳ hẹn trở lại thực hành như trước. Ở đây chia ra hai phẩm, theo các nơi khác tu hành phần nhiều chia làm ba phẩm, hoặc dựa vào căn tánh nhanh chậm, hoặc chướng có ba phẩm, hoặc ba phẩm tu. Như cầu Phổ Hiền hoặc một tuần thất, hai ba tuần thất, hoặc lại trải qua sinh nghiệp nặng nhẹ khác nhau, ở đây cũng như vậy, đoạn văn y cứ theo khoa. Văn kinh: Đã xứng hợp với tâm rồi thì thường trì tụng chớ quên. Kết thúc khuyến nhắc chớ quên. --------------------------------- <詞>Phẩm 9: TRÙNG HIỂN KHÔNG TÁNH Phẩm Trùng Hiển Không Tánh có chia ra ba phần: Lý do có phẩm này. Giải thích. Giải thích chướng ngại. Nói về Lý do có phẩm này trong các phẩm Tuổi thọ trước đây đều nói đến quả Đại thừa. Phẩm Mộng Sám về sau nói về hạnh Đại thừa, hạnh Đại thừa nhờ cảnh mà phát sinh. Trong các phẩm trước tuy nói sơ lược về không nhưng chưa chính thức phân biệt rộng rãi. Ở đây vì nói về cảnh cho nên đến lượt phẩm này. Lại nữa, các phẩm trước tuy nói sơ lược về Không nhưng phần nhiều nói về hữu, sợ bị dính mắc mà có hai chấp khó dứt, ba luân không trọn vẹn, sáu độ khó đầy đủ. Do đó ở đây nói rộng về ngã không và pháp không. Chủ yếu là khiến cho dứt bỏ chấp đó, hai chấp, ba luân đã được thanh tịnh thì sáu độ sẽ đến bờ kia, cho nên phát sinh phẩm này. Giải thích tên gọi, Không tánh có ba: Không tức là tánh, tức là biến kế sở chấp hai thứ ngã pháp. Tánh của không tức là chân như, là chân tánh của không nhân nơi không mà hiển bày, cho nên gọi là không tánh, chẳng phải thể tánh là không (trống rỗng). Y tha cũng gọi là không tánh, nên gọi là vô sinh tánh. Lại nói: Luống dối phân biệt là có, đối với hai thứ này đều không, đây chính là y tha, chỉ vì không của hai chấp chứ chẳng phải không của y viên. Nay nhân phẩm này trình bày về ngã pháp không làm phương tiện ý chính là khiến cho quán chân như không tánh, không hiểu chân như thì chẳng thể hiểu rõ các hành. Như nói Thuấn-nhã không tức là tánh, rằng Thu- ấn-nhã-đa tức là tánh của không. Do đó các kinh như Giải Thâm Mật chép: “Tướng không có tự tánh tánh, sinh không có tự tánh tánh, thắng nghóa không có tự tánh tánh”, vì thế ba vô tánh đều được gọi là tánh. Không là vô, hiển là nói, trùng là lại. Trước tuy nói sơ lược nên vẫn chưa thể hiểu rõ, các kinh khác tuy khai triển cũng chưa thể biết được, ở đây lại tiếp tục nói rõ nên nói là phẩm Trùng Hiển Không Tánh, giải trừ chướng ngại. Hỏi: Đã nói là trình bày phẩm Không Tánh, vì sao lại nói “Cầu chứng được Bồ-đề chân thật, thường dùng cam lộ thí chúng sinh v.v…” Vì Bồ-đề, hữu tình đều là chẳng phải không chăng? Đáp: Ngã pháp thật sự đều là pháp không vô, hữu tình giác ngộ y tha, viên thành thật là có cho nên nói đắc Bồ-đề. Nếu không trước quán không vô thì do đâu chứng thật, vì dứt trừ diệt vọng chấp cho nên nói phẩm Không Tánh. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói thần chú này xong, vì muốn lợi ích cho Đại Bồ-tát và đại chúng trời, người khiến được hiểu rõ nghóa bậc nhất chân thật sâu xa, cho nên tiếp tục nói về không tánh. Tán rằng: Văn trong phẩm chia làm ba: Đầu tiên kết tập nói về các nhân. Phật nói lại nghóa không. Chúng đương thời được lợi ích vui mừng hăng hái vang theo thực hành. Đây là mở đầu. Đầu tiên là kết thúc văn trước tức là nói xong thần chú. Lợi khí tức là lợi Bồ-tát. Nêu sở ngộ tức là nghóa bậc nhất. Nói rằng chân thật là phân biệt các pháp nghóa đế bậc nhất do Tiểu thừa nói, nên đó chẳng phải thật. Hiển bày Từ bi, tức là nói lại về tánh không. Văn kinh: Bèn nói bài tụng rằng: Ta đã đối các kinh sâu khác, nói rộng pháp nhiệm mầu chân không, nay lại đối với kinh vương này, nói lược pháp Không chẳng nghó bàn. Tán rằng: Phật nói lại nghóa không, có ba mươi ba bài tụng chia làm hai: Ba bài tụng đầu nêu chung ý nói, ba mươi bài tụng tiếp đó nói riêng về không. Trong phần đầu lại có ba: Một bài tụng đầu chỉ rộng bày lược, một bài tụng tiếp theo nói về những việc phải làm, một bài tụng cuối nói về nhân khởi nói. Đây là mở đầu. Đối với các kinh sâu khác như các kinh Thâm mật, Lăng-già, Bát-nhã v.v… đã nói rộng. Trong kinh vương này nói lược pháp Không là lược chung tức là nhân pháp riêng. Chung tức là mười tám không, trong mười tám không chỉ trình bày tám thứ, đó là nội không, ngoại không, nội ngoại không, tất cánh không, vô tế không, vô tán không, tự tánh không, nhất thiết pháp không, từ đó hiển rõ các thứ còn lại. Văn kinh: Đối các pháp sâu xa rộng lớn, hữu tình vô trí không hiểu được, nên ta nói lại các pháp đó, khiến đối pháp Không được khai ngộ. Tán rằng: Nói về việc phải làm, khiến cho đối với không được khai ngộ. Đối với các pháp sâu tức là sự mê mờ đối với cảnh giới chân lý hai không hoặc Bồ-đề, Niết-bàn. Hữu tình vô trí tức là người mê mờ. Có bốn hạng người vô trí không hiểu: Người chấp ngã pháp. Người sợ không. Người lười nhác không tu. Người nghi ngờ không học. Vì thế luận Thập Bát Không chép: Nói nghóa lý mười tám không này có công năng trừ diệt bốn thứ sai lầm: Hết nói suông. Hết sợ hãi. Hết biếng nhác. Hết nghi ngờ. Hết nói suông, có hai: Một là dứt chấp ngã của ngoại đạo thế gian, hai là dứt pháp chấp của hành giả xuất thế. Hai thứ này có lý hai không chẳng thể hiểu được. Hết sợ hãi: Chúng sinh nghe nhân pháp đều không bèn sợ hãi không tu đạo, đây tức là chấp không, Phật nói có sự có dụng, nếu người nao tu được thì sẽ đắc đạo và đạt được đạo quả, cho đến tất cả công đức của ba thân. Hết biếng nhác: Nếu định mà nói tịnh thì không nhọc tu đạo, nếu định bất tịnh thì không bao giờ dứt trừ được; ở đây nói Như như chẳng phải tịnh hay bất tịnh, chỉ có lúc nghi ngờ gọi là bất tịnh, dứt nghi ngờ rồi thì gọi là được thanh tịnh, cho nên phải tu đạo mới được giải thoát. Hết nghi ngờ: Đã nghe Như như chẳng phải có chẳng phải không thì tâm do dự, được sự phân tích rằng nhân ngã và pháp ngã chắc chắn chẳng phải có, lý nhân không pháp không chắc chắn chẳng phải vô, do đó dứt nghi ngờ, giúp cho được khai ngộ. Văn kinh: Vì đại Bi thương xót hữu tình, dùng phương tiện khéo nhân duyên tốt, nay ta ở trong đại chúng này giảng nói khiến cho hiểu nghóa không. Tán rằng: Nói về lý do bắt đầu giảng nói. Dùng phương tiện khéo léo để làm nhân duyên tốt. Minh là hiểu. Khiến cho đại chúng hiểu rõ nghóa không. Văn kinh: Nên biết thân này như nhóm không, sáu tên trộm nương náu không biết nhau, các giặc sáu trần nương căn riêng, đều không biết nhau cũng giống như vậy. Tán rằng: Tiếp theo ba mươi bài tụng nói riêng về không. Chia ra làm sáu phần: Mười hai bài tụng đầu nói về ba không đầu tiên để trừ hai chấp ngã pháp của hữu tình. Nửa bài tụng nói về rốt ráo không. Từ “Tất cả các pháp…” trở xuống có bốn bài tụng rưỡi nói về vô tế không. Từ “Ta dứt tất cả…” trở xuống là một bài tụng nói về vô tán không. Từ “Ta mở cửa cam lộ…” trở xuống là một bài tụng nói về tự tánh không. Các văn còn lại nói về tất cả pháp là không. Hỏi: Theo luận Thập Bát Không… có mười tám thứ không, vì sao chỉ nói tám thứ? Đáp: Theo luận Thập Bát Không thì sáu thứ đầu nói về không của tự thể, mười thứ tiếp theo nói về dụng của không, không thứ mười bảy thuộc về thể, không thứ mười tám thuộc về dụng. Trong thể thì nội không để phá trừ ngã năng thọ, ngoại không để phá trừ pháp sở thọ, nội ngoại không phá chung cả hai cho nên nói riêng như vậy. Đại Không là khí thế gian chẳng phải hữu tình. Không không tức là năng quán Như, trí vô lậu và Như hợp lại gọi là không không. Chân thật không tức là lý chân như của pháp năng chứng và pháp sở chứng mà phàm phu chưa đạt được. Lại nữa Đại không, Chân thật không, Pháp không này thâu nhiếp không không, tức thuộc về nhân không, vì thế không nói riêng. Trong mười dụng thì hữu vi vô vi nói về nhân quả, chỉ ở tự lợi cho nên không nói đến. Như rốt ráo không là thường lợi ích hữu tình, vô tế không thành tựu thường lợi ích trước đó, vô tán không là thường làm lợi ích cho nên không trụ Niết-bàn, tự tánh không khai ngộ hữu tình giúp cho đạt đến Niết-bàn, tướng không là thành tựu các tướng tốt, vì kém hơn nên không nói đến. Nhất thiết pháp không khiến cho thành tựu các năng lực vô úy. Hữu pháp không, vô pháp không cùng tạo ra mười bốn thể không để dứt bỏ chấp thêm bớt. Năm thứ không như rốt ráo v.v… này thù thắng đối với lợi tha, những thứ còn lại chẳng cao quý quan trọng nên lược bỏ không nói đến. Về mở rộng các không này như trong Pháp Uyển nói nhiều về nghóa không. Về giải thích, ba bài tụng đầu thì khoa mục giải thích như trước, mười bảy bài tụng tiếp theo chính là nói về không, cuối cùng từ “Ta dứt bỏ tất cả phiền não…” trở xuống là trình bày giải thích về sở nhân của không; hơn nữa căn cứ theo nghóa bậc nhất trong phần giải thích riêng thì văn đầu tiên chia làm hai: Một bài tụng đầu nêu chung ba không đầu tiên, mười một bài tụng tiếp theo nói riêng về ba không. Đây là mở đầu. Thân này như nhóm không là nêu ra nội ngoại không, tức là tạo căn bốn đại và ý thức nhỏ nhiệm là sáu thức y và làm năm sắc căn y gọi là nội không, cũng là ngoại cảnh nên gọi là ngoại không, tức là phù trần căn nên gọi là ngoại, chẳng phải lìa ngoài thân. Sáu tên trộm nương náu không biết nhau là nêu ra nội không. Các giặc sáu trần… là nêu ra ngoại không, về sau đều có giải thích rộng. Thân sở y này giống như các bọt nước nhóm họp nên nói là như nhóm không; lại do hữu lậu luống dối, không có công đức nên gọi là nhóm không. Nhưng sáu căn cảnh đều có thể làm duyên tổn hại đến thiện phẩm, do đó cùng gọi là giặc (tặc), vì vậy nói các giặc sáu trần biệt y căn. Văn kinh: Nhãn căn thường quán sát sắc xứ, nhó căn nghe thanh không đoạn dứt, tỷ căn thường ngửi các cảnh hương, thiệt căn giữ mãi nơi mỹ vị, thân căn thọ xúc chạm mềm mại, ý căn biết pháp không hề chán, đây là sáu căn sinh theo việc, đều từ trần cảnh mà sinh phân biệt. Tán rằng: Tiếp theo là nói riêng về không. Đầu tiên là ba bài tụng rưỡi nói về nội không, tiếp đến là một bài tụng rưỡi dựa vào năng duyên sở duyên để nói về ngoại không, sau cùng là sáu bài tụng nói về nội ngoại không. Ngay trong nội không, đầu tiên có hai bài tụng dựa vào căn sở y để nói về nội không, tiếp theo “Thức như huyễn…” trở xuống là một bài tụng rưỡi dựa vào thức năng y để nói về nội không. Đây là mở đầu. Thể sáu căn và cảnh sở duyên này, giải thích về tên gọi các căn rộng như trong Pháp Uyển Bổ Khuyết Uẩn Xứ Giới Nghóa Lâm. Luận Thập Bát Không chép: “Phàm phu, Nhị thừa đối với các nội sáu nhập năng thọ, sáu trần quả báo nên gọi là thọ. Để phá chấp này chỉ có sáu căn, không có pháp năng thọ thì gọi thọ là không.” Ý ở đây là ba thứ căn, cảnh và thức hòa hợp là năng thọ, chẳng phải căn thuộc năng, vì phá chấp thọ giả là ngã của ngoại đạo, phá chấp năng thọ pháp là ngã của Nhị thừa. Lại phá lìa thức chỉ nói là không. Tùy sự khởi là tùy theo năng tạo đại và thức năng y v.v… mà các sự khởi lên chiếu soi tự cảnh, sinh ra vọng thức phân biệt. Văn kinh: Thức như huyễn hóa chẳng chân thật, nương vào căn xứ vọng tham cầu, như người rong chạy trong nhóm không, sáu thức y căn cũng như vậy, tâm rong ruổi cầu bị xứ chuyển, mượn căn duyên cảnh rõ các sự. Tán rằng: Dựa vào thức năng y để nói về nội không. Luận chép: “Bởi vì không có cảnh cho nên thức không sinh được, đó gọi là nội không”. Thức như việc huyễn, từ điên đảo mà sinh; vọng tưởng chấp cảnh, như đi tìm nhóm không. Các cảnh đều tham đắm gọi là rong ruổi cùng khắp. Gá căn duyên cảnh, căn cảnh đã không nên thức chẳng thật có. Văn kinh: Thường thích sắc thanh hương vị xúc, đối pháp tìm tòi chẳng tạm dừng, tùy duyên đi khắp trong sáu căn, như chim giữa trời không chướng ngại, mượn các căn này làm y xứ, mới biết rõ được các ngoại cảnh. Tán rằng: Nói về ngoại không. Đưa ra thức năng duyên nói cảnh là không. Đi khắp sáu căn, hoặc là nghóa một ý thức; lại y cứ vào thức hiện khởi của một ý xứ nói là đi khắp sáu căn. Thức duyên khắp các cảnh như chim không ngăn ngại; đã mượn căn xứ mới biến hiện duyên cảnh, căn thức là không thì ngoại cảnh chẳng thật có. Đối với hàng Tiểu thừa cũng phá lìa thừa khiến dứt bỏ pháp chấp, đối với hàng ngoại đạo phá cái ngã sở ấy cũng phá luôn ngã chấp, vì vậy nói là không. Cho nên luận kia chép: “Như các chúng sinh có sở thọ dụng.” Nhưng trong sáu trần này không có người cho nên không có năng thọ, ngoài không có pháp cho nên chẳng có sở thọ. Nhân pháp đều không, chỉ có thức không có cảnh, đó gọi là ngoại không. Hỏi: Vì sao cả ba thứ căn, cảnh, thức, trái nhau mà nói? Đáp: Bởi vì thức nương vào thọ giả mà thọ giả không có nên thức cũng không có; căn mượn thức chấp lấy cảnh, thức không có nên căn không thể có; cảnh nhân nơi tâm biến hiện, cảnh lìa thì tâm không còn; đều là dựa theo chấp mà nói cho nên căn, cảnh, thức trái nhau mà nói. Vì thế luận chép: “Sáu nhập vô thức tức là không có người, thức không có căn trần thì không có pháp, hai nghóa cần nhau, cho nên biết đều là không.” Văn kinh: Thân này là vô tri vô tác, thể chẳng vững chắc, gá duyên mà thành, đều sinh ra từ luống dối phân biệt, giống như máy móc do nghiệp điều khiển. Tán rằng: Tiếp theo nói về nội ngoại không thứ ba. Tức là tạo căn và bốn đại của phù trần là căn cảnh y, tổng hợp lại mà quán xét cho nên nói là nội ngoại không. Vì vậy luận kia chép: “Nội ngoại không nghóa là thân bốn đại làm nơi y chỉ của pháp nội ngoại. Nội y nghóa là sáu căn bên trong, ngoại y nghóa là sáu căn trần bên ngoài, và chẳng phải căn cũng đều là không nên gọi là nội ngoại không; đồng với luận Biện Trung Biên. Trong đó chia làm ba: Một bài tụng đầu nói chung về vô ngã, ba bài tụng tiếp theo nói riêng về bốn đại trái nhau nên vô thường, có khổ, hai bài tụng sau nói về thân không có tịnh, lạc cho nên không. Đây là mở đầu. Vô tri giả, vô tác giả, một chữ giả ở sau chung cho cả vô tri. Thân như bọt nước nhóm họp vì thế không vững bền, do bốn đại hợp thành nên nương gá các duyên, đều sinh ra từ điên đảo cho nên tóm lại là không có ngã (vô ngã), giống như con rối được điều khiển bằng máy móc, chỉ do gió nghiệp xoay chuyển. Văn kinh: Đất nước lửa gió hợp thành thân, tùy theo nhân duyên ấy mà vời lấy quả khác nhau cùng ở tại một nơi, thường chống trái, làm hại nhau, như bốn rắn độc ở chung một cái rương. Bốn con rắn độc này tánh đều khác, tuy ở một chỗ nhưng có nổi chìm, hoặc lên hoặc xuống khắp trong thân, những con rắn này cuối cùng cũng trở về pháp hoại diệt. Tán rằng: Nói riêng về bốn đại chống trái lẫn nhau nên vô thường, có khổ. Hai bài tụng đầu nói chung về chống trái nhau cho nên vô thường; một bài tụng sau hiển rõ tánh đều khác nhau cho nên có khổ. Phần đầu lại có hai: Một bài tụng đầu nói chung về trái nhau, một bài tụng tiếp theo nói về lý do chống trái nhau. Văn kinh: Trong bốn con rắn độc này, hai con rắn đất và nước chìm nhiều xuống, hai con rắn gió và lửa tánh nhẹ hơn, vì sự chống trá này sinh ra nhiều bệnh. Tán rằng: Hiển rõ tánh đều khác nhau cho nên có khổ. Văn kinh: Tâm thức nương vào thân này, gây ra các nghiệp thiện ác, nên dẫn đến trời, người, ba đường ác, tùy nghiệp lực mà thọ thân hình; sau bị các tật bệnh nên thân chết, đại tiểu tiện đều chảy đầy, vữa nát giòi bu không đáng thích, bỏ nơi thi lâm (rừng xác) như gỗ mục. Tán rằng: Nói về thân không có các tịnh, lạc cho nên không, chia làm hai: Một bài tụng đầu là do nghiệp bất tịnh nên vời lấy quả năm đường, không giống như nghiệp bạch tịnh vô lậu vời lấy quả thanh tịnh; một bài tụng sau nói về tướng bất tịnh, không có gì tịnh lạc cho nên không. Như luận Giải Thoát Đạo nói đối với bất tịnh có mười nghó tưởng: Nghó đến phình trướng. Tái xanh. Vữa nát. Vất bỏ. Chim thú ăn nuốt. Xương thịt vung vãi. Ra rời phân tán. Máu đỏ vương đầy. Giòi bọ hôi thối. Còn trơ lại xương trắng. Kinh này không đầy đủ, trong bài tụng chỉ nêu sơ lược. Văn kinh: Các vị nên quán pháp như thế, vì sao lại chấp có ngã, chúng sinh? Tán rằng: Trên đây nói về quán Thể không, tức là nhân không pháp không. Dưới đây nói về tác dụng của quán không, có năm không, ở đây tức là rốt ráo không, xu thế của văn cũng được kết hợp với vô ngã ở trước. Y cứ theo riêng tức là khiến quán về rốt ráo không, Bồ-tát phát tâm vì thường lợi ích chúng sinh, cho nên tiếp theo khiến quán về rốt ráo không. Do đó luận ấy chép: “Bồ-tát tu không vì muốn rốt ráo làm lợi ích cho chúng sinh, cùng tận mé sinh tử thề không bặt đứt…”. Nhưng văn trong luận Ấy dùng sở quán sinh mà không dạy quán tâm năng nguyện của rốt ráo không? Nếu không như vậy thì sẽ chấp đắm, không thành tựu đại bi. Chúng sinh nắm tu theo pháp để thành tựu, pháp đã là thể không. Chúng sinh lẽ nào có, cho nên quán sinh không. Văn kinh: Tất cả các pháp đều vô thường, đều sinh khởi từ duyên lực vô minh, các đại chủng kia đều luống dối, vốn chẳng phải thật có thể vô sinh, nên nói tánh đại chủng đều không, biết sự luống dối này chẳng phải thật có. Tán rằng: Nói về vô tế không. Vì thành tựu rốt ráo lợi ích hữu tình do đó quán vô tế không. Vì thế luận Biện Trung Biên chép: “Sinh tử lâu xa, không có mé trước sau, quán không như vậy cho nên gọi là vô tế không, chẳng quán là không thì mau chán bỏ; vì không chán bỏ sinh tử này cho nên quán vô tế này.” Luận Thập Bát Không chép: “Vọng tưởng không có pháp nên nói là không có trước, phân biệt không có tướng cho nên gọi là chẳng có sau, không có trước chẳng có sau nên gọi là không.” Ý này là do vô minh vọng tưởng sinh nên gọi là không có trước, các tướng sinh già, chết v.v… ở vị lai là vô duyên nên nói là không có sau. Lại, dứt bỏ chấp khắp vô thường, vô tác, vì cả hai là duyên sinh cho nên gọi là không. Đoạn văn chia làm ba: Một bài tụng rưỡi đầu là nói chung về thể không, hai bài tụng tiếp theo nói riêng về duyên sinh, một bài tụng sau nói về luân hồi không ngừng, tức là không có kết thúc. Đây là mở đầu. Các pháp vô thường quán về duyên sinh vô thường. Năng lực vô minh khởi quán về duyên sinh vô tác tức là vô thường. Vô minh làm duyên nên các phần khác được sinh khởi. Các giai vị đại chủng Yết-thích-lam kia v.v… điên đảo duyên sinh gọi là luống dối, không giống như thắng số của các ngoại đạo đều nói thể là thật. Nói rằng vốn chẳng thật có thể, đều từ duyên khởi; chẳng phải tự nhiên sinh nên nói là vô sinh. Nên nói tánh đại chủng đều không, kết thúc đại chủng ở trước là luống dối. Từ sự luống dối này quán sát như bọt nổi, chẳng thật cho nên không. Văn kinh: Tự tánh vô minh vốn là vô, mượn năng lực các duyên hòa hợp mà có, bất cứ lúc nào cũng mất chánh tuệ, nên ta nói đó là vô minh. Tán rằng: Nói riêng về mười hai duyên sinh. Đây là phần đầu nói về vô minh. Chẳng phải từ thần ngã phát khởi, chẳng phải từ nhân tự tánh v.v… sinh ra nên nói là vốn không; chỉ là các duyên có nên nói về nghóa duyên sinh, không có chánh tuệ rõ ràng, quên mất chánh tuệ nên nói là vô minh. Văn kinh: Hành, thức làm duyên có danh sắc, lục xứ và xúc thọ theo đó sinh, ái, thủ, hữu, duyên sinh già chết, buồn lo khổ não luôn theo đuổi. Tán rằng: Nói về các chi phần còn lại. Tự xem văn có thể biết. Văn kinh: Các khổ nghiệp ác thường bức bách, sinh tử luân hồi không ngừng dứt, xưa nay chẳng có thể, là không, vì không như lý sinh phân biệt. Tán rằng: Nói về luân hồi không dứt, hiển bày vô chung (không kết thúc). Các khổ là nói từ sau khi sinh già khởi lên hoặc nghiệp, hoặc khởi ràng buộc bức bách nên nghiệp nhân sinh trở lại. Sinh tử luân hồi luống dối duyên sinh, không có thật thể, đều do tâm biến hiện, ngoài thức thì thể không, vì không như lý luống dối mà phát sinh, tư duy điên đảo phân biệt, chẳng phải do người khác gây ra. Văn kinh: Ta dứt tất cả các phiền não, thường dùng chánh trí hiện hành để biết nhà năm uẩn thảy đều không, cầu chứng Bồ-đề chân thật. Tán rằng: Nói về Vô tán không, luận Biện Trung Biên chép: “Là những điều lành đã tu đến địa vị vô dư y bát Niết-bàn cũng không phân tán, xả bỏ, mà quán không nên gọi là vô tán không.” Ý này khác với Nhị thừa không có đại Bi, do đó các điều lành tu tập cho đến địa vị vô dư thì đều phân tán xả bỏ, nên đốt thân để diệt độ. Luận Thập Bát Không chép: “Vì thế cho nên Như lai tuy nhập Niết-bàn nhưng không bỏ bổn nguyện, tùy theo cơ duyên của mọi loài thường hiện thân ứng hóa, dẫn dắt lợi ích chúng sinh, thường theo không bỏ, như bóng trăng không lìa gương nước, khác với Nhị thừa nhập diệt dứt hẳn, từ bi ít ỏi không thể hóa độ người khác…”. Như bóng trăng không lìa khỏi nước, như cảnh tượng sự vật không lìa bỏ gương, chỉ có nước gương duyên theo thì cảnh tượng khác sẽ theo đó hiện bày. Ta dứt phiền não là nói đạt được Niết-bàn. Thường chánh trí hiện tiền tức ứng hóa khởi lên là trí ảnh, nên gọi là chánh trí. Lại ngay nơi bốn trí được năm uẩn thường hiểu rõ đều là không, cho nên không xả bỏ sinh tử. Cầu chỗ chân thật cho nên không từ bỏ Niết-bàn. Bồ-đề, Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề. Chẳng phải luống cho nên gọi là chỗ chân thật, cũng tức là ba thân, không phải lìa bỏ. Nghóa suy nghó theo đó có thể hiểu. Văn kinh: Ta mở cửa đại thành cam lồ, hiện bày mọi cam lồ nhiệm mầu, đã được vị cam lồ chân thật, thường thí cam lồ cho chúng sinh. Tán rằng: Nói về bổn tánh không. Luận Biện Trung Biên chép: “Chủng tánh của các Thánh tự thể vốn có, chẳng phải huân tập mà thành, nên nói là bổn tánh, Bồ-tát nhờ đó mau được thanh tịnh mà quán không nên gọi là bổn tánh không”. Ở đây nói hạnh tánh gọi là chủng tánh của bậc Thánh, tức là bổn tánh trụ trong chủng tánh. Luận Thập Bát Không chép: “Phật tánh là pháp Tự tánh thể của tất cả các pháp.” Tánh có hai nghóa: Một là vô thỉ, hai là vô nhân. “Tiếp theo thành sinh tử pháp nhó vốn có, ví như từ vô thỉ sinh tử nối nhau, có tâm vô tâm tự thể vô nhân.” Đây là ý nói tình hay phi tình đều là pháp vốn có, nếu tâm có nhân là đang vốn có. Ở đây hỏi: Tâm nhân là vô thỉ, hữu là mới bắt đầu sinh ra, nếu nhân vốn có tức là tự nhiên ý này nếu nói tâm nhân là vốn có tức là pháp như vậy mà có, tức là tự nhiên cũng nên hứa tâm, là pháp tự nhiên (đây là trở thành tâm hiện tai, chỉ là pháp như vậy, đồng với nhân vô thỉ), lúc trước chưa có nhân ý này, vặn hỏi rằng: nếu nói trước đó chưa có nhân thì lặp lại thức rằng) nên không có chúng sinh, về sau có nhân mới có chúng sinh (ý vặn hỏi ở đây tức là lúc không có nhân thì chưa có chúng sinh, về sau có nhân mới có chúng sinh, nếu thừa nhận như thế) như đất đá v.v… Nếu lúc có nhân phải thành tựu chúng sinh (ý này là đất đá v.v… trước đây không có nhân chúng sinh, sau này không thể có nhân khiến thành tựu chúng sinh, vì thế biết rằng tự nhiên một bên làm ra có tâm, một bên thực hiện vô tâm), Phật tánh cũng giống như vậy, tự nhiên không có nhân (ý này nói về hạnh tánh, pháp như vậy, trước tiên có không, đó là nói về hạnh, về sau có nhân mới có), luống dối còn có nghóa tự nhiên, huống gì chân thật mà không phải pháp như vậy? Cho nên từ vô thỉ Phật tánh là nhân, vì lẽ đó sáu nhập muốn cầu giải thoát. Nếu không có Phật tánh thì quả giải thoát không được thành tựu. Ý này đồng với kinh Thiện Giới, luận Địa Trì v.v… nói về sáu chỗ thù thắng… kia. Ta mở đại thành tức là cửa Niết-bàn, tức là giáo năng thuyên. Vi diệu khí tức là thực hành Phật tánh có thể được thọ nhận, chứng nhập cam lộ Niết-bàn. Đã được cam lộ v.v… là nói về người khác nghe mà đạt được, đắc tức là chứng. Thường dùng bố thí cho chúng sinh là nói về tha năng thí. Hoặc ở đây giải thích lý do “Ta mở cửa đại thành” ở trước. Ta đã tự chứng cho nên bố thí cho chúng sinh, nên nói về cảnh hạnh tánh. Phân biệt vô tướng, y tha vô sinh, gọi là Bản tánh không. Hỏi: Quán không này có lợi ích gì? Đáp: Luận Thập Bát Không chép: “Khiến các chúng sinh lìa năm lỗi lầm, sinh năm công đức.” Lìa năm lỗi lầm chép: Dứt bỏ tâm thấp hèn, như người không tin thật sự có Phật tánh là cái cần phải đạt được, vì thế nên không thể phát tâm Bồ-đề, thường giữ lấy sự thấp hèn, do tin có tánh khiến cho họ phát tâm bỏ sự thấp hèn. Dứt bỏ tâm cao mạn, nếu không thể hiểu Phật tánh bình đẳng, nghóa là ta có tánh cho nên có thể phát tâm, người khác không có Phật pháp thì không thể phát tâm, do đó sinh ra cao mạn, nếu hiểu rằng lý này không có kia đây, tâm cao mạn lập tức dứt bỏ được, đây là ngộ lý hạnh tánh không có kia đây. Dứt bỏ chấp vọng tưởng, nếu biết sinh tử là vọng tưởng chẳng phải thật tức là không thấy người chửi mắng hay kẻ bị chửi mắng… do không thấy năng sở nên dứt bỏ được vọng tưởng; chỉ thấy chúng sinh đều có Phật tánh đầy đủ công đức, vì nghóa này cho nên liền sinh khởi từ bi trở thành Đại Bồ-tát. Dứt bỏ ngã kiến, tất cả các pháp vốn tự tánh không, hoặc có hoặc không cả hai đều bình đẳng, do thực hiện cách hiểu như vậy cho nên xả bỏ tâm chấp ngã kiến. Dứt bỏ tâm sợ hãi, khiến cho chúng sinh tin nhận sâu sắc về hữu tướng, vô tướng. Vì sao? Nếu hiểu Phật tánh thì có thể tin nhận các pháp hữu tướng, vô tướng, thế nên không chê hai nghóa không hay bất không, phát sinh năm công đức, đến sau sẽ biết. Văn kinh: Ta gióng trống pháp lớn trên hết, ta thổi loa pháp lớn trên hết, ta đốt đèn sáng lớn trên hết, ta rưới mưa pháp lớn trên hết, hàng phục các oán kết phiền não, dựng lên ngọn cờ pháp lớn vô thượng. Tán rằng: Dưới đây là ba bài tụng nói về tất cả pháp không. Luận Biện Trung Biên chép: “Vì khiến cho các năng lực vô úy và tất cả Phật pháp đều được thanh tịnh nên quán Không này, do đó gọi là tất cả pháp không.” Luận Thập Bát Không ý cũng giống như vậy, nhưng văn mở rộng, hiển rõ nghóa “ly bất ly” của ba thân, Hóa và Ứng thân chắc chắn không lìa Pháp thân. Nếu Pháp thân hướng về thì Ứng thân có lìa, Pháp thân là gốc, Ứng thân là ngọn, bởi vì ngọn không lìa gốc nhưng gốc có thể lìa ngọn. Luận ấy hỏi: Vì sao Pháp thân không lìa Ứng thân, có gì lỗi lầm chăng? Đáp: Nếu vậy thì một người được thành Phật thì lẽ ra những người khác cũng phải thành, bởi vì tất cả mọi người không thể cũng thành, cho nên biết rằng Pháp thân không túc là Ứng thân. Trong đó chia làm hai: Đầu tiên nói về công đức có được, sau từ “Do đó nên ta…” trở xuống là nói vì cầu công đức này nên tu hành mới thành tựu. Trong phần đầu lại có hai: Một bài tụng rưỡi nói về được thể của tất cả công đức, một bài tụng rưỡi sau nói về lợi ích và công dụng của tất cả công đức. Đây là phần đầu. Gióng tiếng trống pháp lớn là khai quyền, thổi loa đại pháp là thuyết giáo, thắp ngọn đèn pháp lớn là soi chiếu lý Niết-bàn, rưới cơn mưa đại pháp là thành tựu trí thân. Hàng phục các oán kết là phá ác, tức các kinh khác nói: “Muốn nói ra đại pháp, dựng lên cờ đại pháp, đạt được trí Bồ-đề.” Văn kinh: Vào biển sinh tử cứu chúng sinh, ta sẽ đóng kín ba đường ác, phiền não rực cháy đốt chúng sinh, không người cứu giúp không nương tựa, cam lồ mát mẻ kia đầy đủ, mọi nóng bức thân tâm đều. Tán rằng: Tiếp theo nói về lợi ích và công dụng của công đức. Vì các chúng sinh không nhận thức Khổ đế, không dứt trừ Tập đế, không chứng được Diệt đế, không tu tập Đạo đế nên phải chịu mọi đau khổ. Nay câu đầu ở đây là đóng kín tất cả các đường ác khiến xả bỏ Khổ đế; phiền não đốt chúng sinh đến không nơi nương tựa là làm cho dứt trừ Tập đế; cam lồ kia đầy đủ là khiến cho chứng được Diệt đế; thân tâm nóng bức thảy đều dứt, xua tan được bức não này là khiến cho tu tập Đạo đế, khiến các chúng sinh biết rõ khổ, đoạn trừ tập, chứng được diệt, tu tập đạo tức là công đức của bốn thệ nguyện rộng lớn, có hai phần, đó là tự lợi và lợi tha. Trong này phần nhiều nói về công đức lợi tha, vì lợi ích chúng sinh là hơn hẳn. Văn kinh: Do đó ta trong vô lượng kiếp, cung kính cúng dường các Như lai. Tán rằng: Tiếp theo nói về ta vì cầu tất cả công đức này tu hành mới thành tựu, tức là hiển bày quán không cao siêu được năm lợi ích, khuyến khích người tu học. Năm lợi ích tốt đẹp ấy trong Luận Thập Bát Không chép: “Dứt bỏ diệt tâm thấp hèn phát sinh chánh cần sự; dứt bỏ tâm cao mạn, phát sinh tâm cung kính; dứt bỏ ý tưởng luống dối phát sinh hạnh nguyện Từ bi; dứt bỏ tâm ngã kiến, phát sinh quán Bát-nhã; dứt bỏ tâm sợ hãi, ưa thích thọ nhận chánh pháp.” Trong tám bài tụng tiếp theo chia ra làm bốn: Đầu, do đó ta trong vô lượng kiếp tức là nói về lợi ích thứ nhất phát sinh chánh cần, trải qua vô lượng đời kiếp thực hành sự nghiệp chánh cần và lợi ích thứ năm vui mừng thọ nhận chánh pháp trải qua vô lượng đời kiếp. Tiếp theo, một câu “Cung kính cúng dường các Như lai” là nói về dứt bỏ cao mạn, phát sinh tâm cung kính, sinh tâm cung kính cho nên trở lại tu hành mười pháp cúng dường. Văn kinh: Giữ gìn cấm giới đến Bồ-đề, cầu chứng được pháp thân an vui, cho người mắt tai và tay chân, vợ con tôi tớ tâm không tiếc, châu báu ngọc ngà đồ trang sức, người đến xin gì đều cho cả, các độ như nhẫn… đều tu tập, mười địa tròn đủ thành Chánh giác. Tán rằng: Đây là hai bài tụng nói về ý tưởng luống dối, thực hành hạnh nguyện Từ bi. Trừ cấu bẩn phá giới cho nên giữ giới. Giới là cội gốc của các điều lành cho nên nói trước. Vì dứt cái tham của người cho nên thực hành bố thí, vì dứt cái sân và biếng nhác của người cho nên thực hành các độ nhẫn nhục, tinh tiến… Các độ này đều có nhiều khác nhau, tất cả đều tu tập đến lúc trọn vẹn rồi mới thành tựu Chánh giác. Văn kinh: Nên ta được gọi Nhất thiết trí, không có chúng sinh nào lường được. Tán rằng: Năm bài tụng rưỡi dưới đây nói về lợi ích thứ tư dứt bỏ ngã kiến, phát sinh quán Bát-nhã, chia làm: Nửa bài tụng đầu nói về Bát-nhã, người khác không ai suy lường được, năm bài tụng sau nói so lường khó biết. Đây là mở đầu. Cố là nguyên do (sở dó). Ta quán không và tu tập các hạnh đầy đủ, cho nên được tôn xưng là Nhất thiết trí. Cố ấy cũng là lý do, do ta quán không v.v… phần còn lại như trước đã giải thích. Văn kinh: Giả sử cõi tam thiên đại thiên, mọi vật sinh trưởng trên đất này, tất cả rừng cây các cây cối, lúa mè tre lau và cành nhánh, các vật như vậy đều chặt lấy, cùng mọi mạt vụn làm bụi nhỏ, tùy nơi chứa nhóm lượng khó biết, cho đến đầy tràn cõi hư không. Tán rằng: So sánh khó biết. Hai bài tụng đầu nêu lên số bụi nhỏ một cõi tam thiên, một bài tụng tiếp theo nêu lên số bụi nhỏ trong mười phương, hai bài tụng sau chính là so sánh không thể biết. Đây là mở đầu. Văn kinh: Tất cả các cõi nước mười phương, tất cả tam thiên đại thiên giới, đất đai đều nát như bụi nhỏ, lượng bụi nhỏ này không thể tính. Tán rằng: Nêu lên số mười phương. Lượng bụi nhỏ này không thể tính đếm được, tức là kết luận chung cả một cõi Tam thiên ở trước. Văn kinh: Giả sử trí tất cả chúng sinh, đem trí tuệ này cho một người, người trí như thế lượng vô biên, nên biết được số bụi nhỏ kia. Tán rằng: Chính thức so sánh. Đầu tiên là biết số bụi nhỏ. Văn kinh: Một niệm trí Mâu-ni Thế Tôn, khiến người trí kia cùng suy lường, trong nhiều câu-chi kiếp tính toán, không thể biết được một phần nhỏ. Tán rằng: Không thể biết được trí của Phật. Trí trong một niệm dù nhiều kiếp cũng không thể biết, huống gì là trí trong thời gian dài lâu. Văn kinh: Lúc các đại chúng nghe Đức Phật nói về không tánh sâu xa này, có vô lượng chúng sinh đều được thông suốt bốn đại, năm uẩn thể tánh đều không, sáu căn sáu cảnh vọng sinh trói buộc, nguyện xả bỏ luân hồi, chân chính tu hạnh xuất ly, tâm vô cùng mừng vui kính vâng thực hành theo lời Phật dạy. Tán rằng: Đoạn thứ ba trong phẩm, chúng đương thời thu được lợi ích vui mừng, hăng hái kính vâng thực hành. Chia làm năm: Nêu ra pháp đã nghe. Hiển bày số được lãnh ngộ. Đều được thông suốt… về sau là nói về những điều lãnh ngộ được. Nguyện xả bỏ… về sau là nói về nguyện tu hành, nguyện xả bỏ sinh tử, xuất ly nghóa là Niết-bàn. Tâm vô cùng… về sau là nói về được lợi ích vui mừng kính vâng thực hành, truyền bá không đứt quãng. ------------------------------ <詞>Phẩm 10: Y KHÔNG MÃN NGUYỆN Phẩm Y Không Mãn Nguyện có chia làm ba phần: Lý do có phẩm này. Giải thích. Giải thích chướng ngại. Nói về lý do có phẩm này: là phẩm trước trình bày về không, là cảnh sở quán, chưa nói đến sự tu hành, nay chính thức nói rõ nương vào hai không phát khởi hạnh, hạnh không chấp đắm trước mới phù hợp với chánh tu, tu xứng hợp với chân mới đạt được quả, do đó sau phẩm trước có phẩm này phát sinh. Giải thích tên gọi: y là năng y tức là những sự tu hành cũng chung cho cả sở y, sở y tức là đối với cảnh âm thanh thuộc về thứ bảy. Không ấy là cảnh, tức là thực hành sở quán. Mãn nguyện là quả tùy nguyện mà được viên mãn, tức là những sự tu hành xứng hợp khi tu tập cảnh không. Lìa chấp hữu vô nên đạt được quả viên mãn gọi là y không mãn nguyện. Phẩm này trình bày rộng, cho nên y theo đó làm tên gọi. Giải trừ vấn nạn. Hỏi: Nếu phẩm trước trình bày về cảnh là khiến phát sinh nhận thức nhưng chưa nói đến tu hành, làm sao nghe nói mà hiểu rõ không để phát nguyện? Đáp: Trước đây chính thức nói về cảnh, tùy người nghe phân biệt tu tập, cho nên có được lợi ích. Đây chính là nói về sự tu tập cho nên Thiên nữ thưa thỉnh rằng: “Xin nói cho chúng con nghe về pháp tu hành lý sâu xa.” Lại nữa, trước đây nghe về không, phát sinh trí vô phân biệt, thực hành lợi ích, sau khiến tu tập hai trí hai lợi. Lại nữa, trước đó là lợi căn, nghe nói được lợi ích, còn ở đây là độn căn. Hỏi: Ba phẩm trước không đợi thưa thỉnh đã nói, vì sao phẩm này đợi thưa thỉnh mới nói? Đáp: Vì giúp cho chánh pháp tồn tại lâu dài, nói lên Phật rất có tâm đại Bi nên không đợi thưa thỉnh đã nói, còn ở đây vì khiến cho sinh tâm kính mến khát khao, tùy cơ thích hợp với sự mong mỏi, nhân đó đợi thưa thỉnh mới nói, vì thế không theo quy luật nào nhất định. Lại nữa, trước vì tức thời lãnh hội tu tập, đây là về sau mới học hỏi. Đồng thời ở phẩm trước người tu tập đã lâu tùy theo pháp nghe được liền có thể tu hành, còn phẩm này chung cho cả hai hạng người tu gần xa. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Thiên nữ Như Ý Bảo Quang Diệu ở trong đại chúng nghe nói về pháp sâu xa nên vui mừng hớn hở. Tán rằng: Toàn văn chia làm sáu đoạn: Thiên nữ thưa hỏi. Đức Phật bảo: Này thiện nữ Thiên… trở xuống là Thế Tôn trả lời về cách học tập. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói lời này xong… trở xuống là Thiên nữ lãnh ngộ, hành trì tu học. Lúc nói phẩm này… trở xuống là nói về chúng đương thời nghe kinh được bao nhiêu lợi ích. Phạm Vương! Kinh Kim Quang Minh này… trở xuống là so sánh, bày rõ sự cao quý làm cho tất cả thọ nhận thực hành. Bấy giờ, Đại Phạm Thiên Vương… về sau là các vị trời nghe dạy bảo phát nguyện che chở, truyền bá. Trong phần đầu chia làm ba: Trước tiên là Thiên nữ bày tỏ thưa thỉnh, tiếp theo là Thế Tôn hứa khả, sau đó chính là thưa thỉnh. Trong phần đầu tiên có năm: Đưa ra người thưa thỉnh. Nói về nơi thưa thỉnh. Kể rõ nhân thưa thỉnh. Tướng thưa thỉnh. Nói rõ bắt đầu thưa thỉnh. Ở đây có ba phần: Quán không xứng hợp với niệm gọi là Như ý, nhân đó phát sinh diệu tuệ gọ là Bảo quang, phá trừ hai chướng u tối gọi là diệu, lìa hẳn đắm nhiễm, tự tại gọi là Thiên, sinh ra lớn lên nơi đất lành nên nói là nữ. Trên đây giải thích tên gọi người thưa thỉnh, cũng nói lên quán không có thể phát sinh trí tuệ cao siêu, phá tan chướng tự tha, sinh trưởng nơi đất tốt. Vị trời này thỉnh Bồ-tát bi nguyện, có đại thần thông, ứng vật hiện hình đều khiến cho được lợi ích; thế nên Bồ-tát hóa thành thân người nữ. Hỏi: Vị trí của Bồ-tát này ở Địa nào? Đáp: Theo Tam tạng Chân đế nói thì từ địa thứ tám trở lên. Lại khiến chứng được vô sinh nhẫn cho nên ở đây có lẽ là địa thứ sáu. Theo tướng địa đạt được trước đây thì tướng của địa thứ sáu có công năng làm cho thế giới thanh tịnh, hiện ao hoa sen bảy báu ở khắp các thế giới, do đó sau khi phát nguyện rồi thì thế giới thanh tịnh, hoa sen sinh ra, nên ở địa thứ sáu. Nơi thưa thỉnh là ở trong đại chúng, nghe nói về pháp sâu xa… là nhân thưa thỉnh. Thân vui sướng gọi là hoan, tâm thư thái gọi là hỷ. Hớn hở là dáng vẻ hân hoan. Văn kinh: Đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Đức Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Xin nói cho chúng con nghe về pháp tu hành lý sâu xa! Tán rằng: Đầu tiên là tướng trình bày thưa thỉnh. Từ “Bạch Đức Phật rằng…” trở xuống là nói rõ bắt đầu thưa thỉnh. Bắt đầu thưa thỉnh có hai: Đầu là văn trường hàng, sau là bài tụng thưa thỉnh. Văn kinh: Bèn nói bài tụng rằng: Con hỏi chiếu thế giới, bậc Lưỡng túc tối thắng, pháp chánh hạnh Bồ-tát, nguyện từ bi chỉ dạy. Tán rằng: Tụng thưa thỉnh. Thế gian có hai thứ: Hữu tình thế gian và khí thế gian. Thân quang và trí quang cùng soi chiếu hai thứ thế gian. Như Du-già quyển tám mươi ba chép: “Thường biết tám muôn trăm ngàn tâm hạnh khác nhau của hữu tình, thường biết vô biên thế giới ở phương Đông có bao nhiêu lần thành hoại…” Đây là trí quang soi chiếu. Kinh Pháp Hoa chép: “Phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày soi chiếu các thế giới, thấy rõ sáu đường…”. Lại nói: “Ta dùng tướng trang nghiêm thân, ánh sáng chiếu soi thế gian.” Đây là thân quang soi chiếu. Đối với các loài có chân thì hai chân là hơn hẳn, hai đường trời người là loài hai chân, trong loài hai chân trời người Phạm vương, Đế Thích và vua cõi người đều là điều ngự, Phật có khả năng điều phục các loài đó gọi là Tối Thắng; bậc Điều ngự trong hàng sa-môn, Bà-la- môn và loài người, Phật cũng điều phục được, đó gọi là Tối Tôn. Cho nên nói rằng Tối Thắng Tôn. Vì vậy Du-già tám mươi hai chép: “Tôn quý trong loài hai chân, tối thắng tối thượng trong các bậc Điều ngự, nhiệm mầu bậc nhất trong chúng sa-môn.” Pháp chánh hạnh của Bồ-tát là pháp thưa thỉnh, để phân biệt với Nhị thừa v.v… nên nói là Bồ-tát, vì để phân biệt với tà hạnh nên gọi là chánh hạnh, tà hạnh vô lượng, lược nói chung thì người dính mắc hai chấp gọi là tà. Ở đây hỏi về lìa chấp gọi là chánh lý hạnh. Văn kinh: Đức Phật nói: Này thiện nữ Thiên! Nếu có điều gì nghi ngờ, tùy ý người hỏi, ta sẽ giải thích. Tán rằng: Tiếp theo Thế Tôn hứa khả. Văn kinh: Lúc này, Thiên nữ hỏi Đức Thế Tôn rằng: Vì sao nói là các Bồ-tát thực hành, Bồ-đề chánh hạnh lìa bỏ sinh tử Niết-bàn mà làm lợi ích cho mình và người? Tán rằng: Sau chính là hỏi, hỏi có hai: Hỏi về chánh hạnh Bồ-đề. Hỏi về chánh hạnh Niết-bàn vô trú. Nhân giác ngộ vắng lặng này đều có thể lợi ích cho tự và tha. Lại nữa, ý Bồ-tát mong cầu Bồ-đề vì lợi lạc hữu tình đến cùng tận mé vị lai. Ở trong Niết-bàn cầu vô trụ xứ, khác với phàm phu và Nhị thừa, do đó nói về một chánh hạnh thì chung cho Bồ-đề ở trên và Niết-bàn ở dưới, hoặc Niết-bàn vô trụ cũng gọi là Bồ-đề, Bồ-đề đoạn cũng gọi là Bồ- đề cho nên chỉ hỏi điều đó. Cho nên dưới đây trả lời rằng: “Nương vào pháp giới thực hành pháp Bồ-đề là trả lời về chánh hạnh Bồ-đề; tu hạnh bình đẳng là trả lời về nhân của Niết-bàn vô trụ. Sinh tử, Niết-bàn đều bình đẳng, không ưa cầu hay chán bỏ. Nếu không thực hành hai hạnh này tức là không chứng đạt hai quả.” Vì vậy ở dưới nói: “Nếu như thế thì hàng phàm phu phải thấy rõ chân đế đạt được Niết-bàn an vui vô thượng”, cho đến nói: “Tức là chấp đắm chưa đạt được giải thoát, phiền não trói buộc tức là không chứng đạt A-nậu Bồ-đề.” Đây đều là hiển bày ngược lại. Lại giải thích: Thực hành Bồ-đề chánh hạnh gọi là Bi trí, nhờ trí cho nên đạt được trí tánh, trí tướng như thế. Hợp đoạn đức, trí đức gọi là pháp thân lìa sinh tử. Do bi cho nên đạt được thân Ứng, Hóa, tức là ân đức vì chúng sinh nói pháp, lìa Niết-bàn. Tu trí cho nên lợi ích chính mình, tu Bi cho nên lợi ích cho người. Đây là giải thích thuận theo Niết-bàn vô trụ trong phẩm Tam Thân ở trước. Lại hạnh có bốn thứ, đó là Tín, Bát-nhã, Đại định, đại Bi. Bốn hạnh có công năng dứt bỏ bốn thứ trọng chướng là Bất tín, chấp ngã, sợ khổ, xả tâm, tức có thể làm nhân cho bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của Phật. Đầu tiên là hai chướng phiền não, sau là hai chướng sở tri. Do tín và trí nên lìa bỏ sinh tử, do bi nên lìa xa Niết-bàn, định là hai nhân, rõ ràng cả hai đều cao quý cho nên chỉ hỏi về điều đó. Bồ-đề, Niết-bàn đều có bốn đức, nên bốn chướng làm ngăn ngại. Văn kinh: Đức Phật bảo thiện nữ Thiên: Nương vào pháp giới thực hành pháp Bồ-đề, tu hạnh bình đẳng. Tán rằng: Thế Tôn nói về phương pháp học tập. Trong đó chia làm ba: Nêu tông chỉ, giải thích sơ lược. Thiện nữ Thiên hỏi vì sao năm uẩn… trở xuống là pháp dụ nói rộng. Thiện nữ Thiên hỏi nếu có người thiện nam… trở xuống là kết thúc khuyến khích tu học. Trong phần đầu lại có năm: Nêu ra. Nêu câu hỏi. Giải thích. Kết luận. Thông. Đây là phần đầu nêu ra. Nương vào pháp giới là nêu ra cảnh sở quán về không tánh trước đây. Luận Biện Trung Biên chép: “Ngay trong đây nói về sự tánh không của sở tri, do nghóa không thay đổi nên nói là chân như, chân tánh thường như nên không hề chuyển biến.” Cho đến nói: “Vì nghóa của nhân Thánh pháp nên nói là pháp giới, vì tất cả Thánh pháp duyên với chúng sinh này.” Nói giới (thế giới) ở trong này đây tức là nghóa của nhân. Hỏi: Theo luận Nhiếp Đại Thừa và luận Thành Duy Thức thì lấy thức thứ tám làm nhân của tất cả pháp. Kinh A-tỳ-đạt-ma chép: “Từ lúc vô thỉ đến nay giới đều nương vào tất cả các pháp, do đó có các đường và chứng đắc Niết-bàn.” Vì sao luận Biện Trung Biên chép “Lý chân như là nhân của các pháp?” Đáp: Dựa theo sự lưu chuyển và hoàn diệt y, tức là nói thức thứ tám là nhân của tất cả pháp, vì giữ gìn hạt giống đó. Nếu dựa theo mê ngộ y tức là nói về tánh chân như. Kinh Thắng-man chép: “Như lai Tạng là y, là trì, là kiến lập”, trong luận Bảo Tánh là nương vào nghóa này mà nói về lý chân như, là các thế giới từ vô thỉ đến nay. Hỏi: Đã là mê ngộ y chung cho cả chúng sinh nhiễm tịnh, vì sao luận Trung Biên chép: Nghóa của nhân Thánh pháp nói là pháp giới? Đáp: Không nói không năng nên không có sai lầm. Lại nữa, pháp nhiễm không do chứng Như mới được sinh ra. Nếu trí căn bản dẫn dắt phát sinh nhân của Thánh pháp thì trí vô phân biệt phải chứng chân như mà sinh khởi, thế nên chỉ nói làm nhân Thánh pháp. Đây là nhân của tăng thượng duyên, chẳng phải là thân nhân duyên. Ở đây nói y là nhân sở duyên, đó là cảnh thanh, duyên với thắng nghóa đế thực hành pháp Bồ-đề, vì tánh pháp giới chẳng phải sinh tử hay Niết-bàn, nên lìa xa hai tướng; vì cũng là sinh tử Niết-bàn, cho nên không lìa xa hai tướng. Như vậy thấy Bồ-đề của các Đức Phật cũng chẳng phải sinh tử, Niết-bàn mà Bồ-đề chính là ba thân, ba thân chẳng phải sinh tử, Niết-bàn. Thực hành quán như thế để tu pháp Bồ-đề, tức là tu hạnh bình đẳng. Do đó luận Thập Bát Không chép: “Hóa thân không sinh tử, Niết-bàn. Vì sao? Vì sinh tử đều là vọng tưởng điên đảo, chỉ là khổ-tập, Hóa thân không phải như thế, nương vào Pháp thân, Ứng mà sinh (Pháp là Pháp thân, Ứng đó là Ứng thân) thể chẳng phải điên đảo. Lại có công năng trừ diệt điên đảo của chúng sinh cho nên chẳng phải sinh tử. Chẳng phải Niết-bàn là có đầu cuối cho nên chẳng phải sinh tử, chẳng phải điên đảo, vì chẳng phải Niết-bàn cho nên chẳng chân thật.” Lại nói: “Pháp thân và ứng thân đó cũng không lìa tức là lìa (diệc bất tức bất ly).” Luận Thập Bát Không hỏi: Nếu Pháp thân không lìa thì Ứng thân có lỗi gì? Đáp: Nếu như vậy thì một người đạt được giai vị Phật thì những người khác phải cùng đạt được, vì tất cả mọi người không cùng đạt được cho nên biết rằng Pháp thân không phải tức là Ứng thân. Ý ở đây là tất cả chúng sinh bình đẳng cùng có Pháp thân, thể là đồng nhất, cùng với Ứng thân là một, do đó một đạt được Ứng thân thì tất cả đạt được, thể không khác nhau. Đã không như vậy thì biết rằng Pháp thân không phải tức là Ứng thân. Luận chép: “Lại cũng không lìa Ứng thân, vì sao? Vì Pháp thân không khác thường, không lìa công đức của các Đức Phật ba đời. Nếu có thể như vậy thì hiểu Pháp thân, Ứng thân là lìa, không lìa, tức là dứt bỏ cái chấp quyết định là lìa, không lìa. Nương vào đạo lý không lìa mà tu các hạnh, có thể chứng được quả Ứng thân. Hóa thân cũng giống như vậy.” Ý này là Pháp thân và Ứng thân, Hóa thân không tức, không lìa, Ứng thân, Hóa thân cùng Pháp thân cũng không tức, không lìa, cũng như chân như. Thực hành quán như vậy mà tu Bồ-đề gọi là hạnh bình đẳng. Biết quả đã như thế thì tu hành cũng vậy. Không ngay nơi sinh tử, Niết-bàn mà thành tựu đạo Vô trụ, tức là đại tánh phương tiện trong bảy đại tánh. Văn kinh: Vì sao nương vào pháp giới thực hành pháp Bồ-đề, tu tập hạnh bình đẳng? Tán rằng: Trưng hỏi. Chân như là thường, hạnh Bồ-đề v.v… là vô thường. Thường và vô thường, sinh tử và Niết-bàn, hữu thể và vô thể, thể tướng đều khác nhau. Vì sao nương vào pháp giới thực hành pháp Bồ-đề, tu tập bình đẳng? Ý này dựa theo tình chấp của cái chấp kia một bề khác nhau mà giả định nêu câu hỏi như thế. Văn kinh: Đó là năm uẩn có khả năng hiện bày pháp giới, pháp giới chính là năm uẩn, năm uẩn chẳng thể nói, chẳng phải năm uẩn cũng không thể nói. Tán rằng: Thứ ba là giải thích. Đây là căn cứ vào lý bất ly bất tức mà trả lời. Đầu tiên nói: “Đó là năm uẩn có khả năng hiện bày pháp giới, pháp giới tức là năm uẩn”, đây là nghóa bất ly. Đó là: nghóa là chỉ chỉ ra, nêu ra nơi bắt đầu, tức là năm uẩn có khả năng hiện bày pháp giới, pháp giới tức là hiện năm uẩn; ở đây có hai: Nói rằng dựa theo Biến kế sở chấp tướng không có tự tánh và không tánh được hiển bày, cho nên nói năm uẩn có khả năng hiện bày pháp giới, nên pháp giới tức là năm uẩn. Bát-nhã tâm kinh chép: “Sắc tức là không, không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng giống như vậy.” Bởi vì không tánh tức là như. Kinh Giải Thâm Mật và luận Du- già chép: “Vào thời thứ hai chỉ là người phát tâm hướng về tu Đại thừa, đối với tất cả pháp vô sinh vô diệt, xưa nay vắng lặng tự tánh Niết-bàn, dùng tướng bí mật quay bánh xe chánh pháp.” Luận Thập Bát Không cũng chép: “Cho nên biết rằng phân biệt vô tướng y tha vô sinh gọi là chân thật tánh. Chân thật thể là vô, vì vô thể cho nên vô tướng, vô tướng cho nên vô sinh, vô sinh cho nên vô diệt, vô diệt cho nên vắng lặng, vắng lặng cho nên gọi là tự tánh Niết-bàn.” Luận Biện Trung Biên cũng chép: “Vô nhị nghóa là không có sở thủ, năng thủ, hữu vô nghóa là có vô tánh của hai thủ.” Đây là ý không có năng thủ, sở thủ, tức là sở thủ năm uẩn và tâm năng thủ đều là biến kế cho nên Thể là vô, thể tánh của vô tức là như. Nói rằng năm uẩn có khả năng hiện bày pháp giới, pháp giới là năm uẩn, tánh cũng gọi là năm uẩn, cho nên nói pháp giới tức là chân như của năm uẩn. Do đạo lý này nên biến kế sở chấp thể năm uẩn là vô cũng không thể nói được. Tánh thể của hai vô chẳng phải chứa nhóm, tụ gọi là chẳng phải năm uẩn, tánh lìa ngôn ngữ cho nên cũng không thể nói được. Đây là dứt bỏ chấp biến kế. Theo chứng chân mà tu hành. Nói rằng: Trong y tha chỉ có viên thành, trong viên thành chỉ có y tha. Rằng năm uẩn có khả năng hiện bày pháp giới, pháp giới tức là năm uẩn. Căn cứ theo nghóa bất ly nói là năm uẩn, nên luận Trung Biên chép: “Ngay trong luống dối phân biệt có tánh không, và trong tánh không có luống dối phân biệt, cho nên đó chính là khế hợp với Trung đạo.” Tánh không tức là pháp giới, tuy nói rằng không lìa chẳng thể nói một khác. Nếu pháp giới này cùng năm uẩn là một thì cũng không thể nói. Nếu pháp tánh này chẳng phải năm uẩn thì ý này nói khác, cũng không thể nói, đều là biến kế không có tự tánh cho nên không thể nói. Luận Trung Biên chép: “Nếu khác thì nên thành pháp tánh khác với pháp, vậy thì trái với lời bậc Thánh nói, như tánh của khổ v.v…; nếu là một thì lẽ ra chẳng phải cảnh tịnh trí, cũng chẳng phải cộng tướng.” Đây là hiển bày không như và luống dối phân biệt, dựa theo đây lìa tướng một khác, cho rằng không thể nói; hoặc là hai tánh đều chẳng phải cảnh nói năng, gọi là không thể nói. Vì vậy luận Thành Duy Thức chép: “Chân nghóa là tự tánh, giả trí và giải thích đều chẳng phải cảnh”; tức là chẳng phải ngôn thuyết, lại chẳng phải quyết định luôn luôn một, khác, vì thế chẳng phân biệt sinh tử, Niết-bàn, cho nên nói là bình đẳng. Tuy nói riêng năm uẩn nhưng ý căn cứ theo ba thân, khiến mong cầu tu hành, tức là y chỉ tự tại tu trong năm thứ tu tập. Nhưng căn cứ vào không phải một, khác mà giải thích thuận theo luận Trung Biên và luận Thập Bát Không. Dựa theo văn kinh này tức là chung cho cả hai cách giải thích, song căn cứ theo vặn hỏi lại là thông, giải thích văn tức không phải một khác là thắng, trước nêu hỏi, sau vặn hỏi, dựa vào ảnh hiện mà nói, ngay nơi thông mà nói thắng. Văn kinh: Vì sao? Tán rằng: Vặn hỏi. Vì sao pháp giới cũng là năm uẩn không thể nói, chẳng phải năm uẩn cũng không thể nói? Văn kinh: Nếu pháp giới là năm uẩn tức là đoạn kiến, nếu lìa bỏ năm uẩn tức là thường kiến. Tán rằng: Thông có ba: Giải thích không có thể nói một, khác. Không thể nào đưa ra lý do. Kết luận. Đây là mở đầu. Nếu pháp giới tức là năm uẩn là nói theo biến kế, vì đó là vô cho nên tức là đoạn kiến. Nếu lìa năm uẩn mà thấy có pháp tánh riêng tức là thường kiến. Lại nữa, pháp giới tức năm uẩn là nói theo y tha, lúc nhị thừa đạt được vô dư thì pháp giới cùng đoạn, tức là đoạn kiến, hoặc tùy theo hữu vi mà chân như có diệt cho nên nói là đoạn. Nếu lìa năm uẩn thấy có pháp tánh tức là thường kiến, bởi vì Thể pháp tánh và hai tánh biến kế, y tha kia chẳng phải nhất định là một, khác. Nói nhất định là một, khác đều là biến kế, không lìa đoạn, thường. Hỏi: Chân như chẳng phải thường kiến vì thường gọi là thường kiến, chân như là thường của thường kiến, xứng cảnh mà biết thế nào gọi là thường kiến? Đáp: Nói thường, vô thường ở đây tùy theo lời mà giải thích, là kiến chấp phân biệt. Nói về pháp thể ấy chẳng phải thường, vô thường, như nói chấp thường, nên thuộc về thường kiến. Lại nữa, chính là trái với trí vô phân biệt. Ý này muốn khiến cho lìa chấp phân biệt mất tướng mới tu được, nếu chấp là thường thì trái với chánh trí này, bởi vì pháp tánh đó lìa các tướng hữu vô, một khác thường đoạn, không chướng ngại trí hậu đắc, lìa chấp quán như cho là thường. Trong đó tức lìa nên có thể lập lượng nói rằng: Pháp giới lẽ ra có đoạn, đoạn nghóa là diệt. Nhân đó nói: Ngay nơi năm uẩn cho nên giống như năm uẩn. Lại nữa, nếu lìa năm uẩn tức là thường kiến, tức chất vấn y tha lẽ ra là thường, gọi là thường kiến, vì uẩn chẳng phải thuộc một uẩn nào trong các uẩn, giống như pháp giới. Nhưng vì ở đây không bị phá tha nên không lập lượng. Lại trái với lỗi của giáo, bởi vì giáo không thừa nhận năm uẩn là thường, chỉ có thể biểu hiện, rằng lẽ ra là thường kiến. Nhưng quán xét văn kinh chỉ nói rõ pháp giới và thể của năm uẩn chẳng nhất định là một, khác; nếu chắc chắn là một, khác thì thể pháp giới phải là đoạn, là thường. Văn kinh: Lìa bỏ hai tướng, không chấp hai bên, không thể thấy lỗi, sở kiến, vô danh vô tướng. Tán rằng: Không thể nào đưa ra được lý do nói về là một, khác. Lìa bỏ hai tướng là lìa bỏ thường vô thường, hữu vô, sinh diệt, đây là các thứ hai tướng. Không chấp hai bên là xa lìa thêm bớt, hai thứ ngã pháp không có lìa tăng, tánh không là như, thảy đều lìa giảm. Không thể thấy chẳng phải cảnh của năm thức, vượt quá sở kiến, thoát khỏi cảnh luống dối biến kế của ý thức. Vô danh là lìa năng thuyên, vô tướng lìa sở thuyên. Văn kinh: Cho nên gọi là nói về pháp giới. Tán rằng: Kết luận. Do lìa hai tướng v.v… nên không thể nói là một hay khác với uẩn, cho nên gọi là nói về thể của pháp giới, thể của pháp giới đã lìa các tướng này thì khi tu hành đúng như tướng của pháp giới. Văn kinh: Này thiện nữ thiên! Vì sao năm uẩn có công năng hiện bày pháp giới? Năm uẩn này không từ nhân duyên mà sinh. Tán rằng: Tiếp theo là nói rộng về pháp dụ. Y cứ vào pháp giới, lìa tám không (bát bất) cho nên nương vào năm uẩn có công năng hiện bày pháp giới. Đầu tiên nói về bất sinh, tiếp đó nói về bất diệt v.v… Văn chia làm bốn: Đầu tiên là pháp. “Này thiện nữ Thiên! Ví như tiếng trống…” trở xuống là nói về dụ. lại. Từ “Nếu không thể sinh…” trở xuống là nói về dụ bảy bất còn Từ “Cho nên biết năm uẩn chẳng phải có chẳng phải không…” trở xuống là phần tổng quát thành tựu. Trong phần đầu nói về pháp chia làm ba: Mượn câu hỏi nêu từ từ. Nêu ra tông chỉ. Giải thích lý do. Phần đầu chia làm hai: Nêu ra tông chỉ, ý nói về năm uẩn bất sinh để phá biến kế chấp. Nương vào biến kế vô tức có khả năng hiện bày pháp giới, cho nên năm uẩn và pháp giới không một, khác… Văn kinh: Vì sao? Tán rằng: Tiếp theo giải thích lý do. Đầu tiên giả thiết bên ngoài để nêu hỏi: Vì sao không từ nhân sinh ra? Đây là mượn cái chấp trong nhân có quả và khứ lai thật có để nêu câu hỏi. Chấp hữu quả luận ý nói: Trong nhân đã có quả đầy đủ, chỉ theo duyên mà sinh hoặc theo duyên mà hiển bày. Giống như gieo lúa, nếu trong nhân trước không có quả về sau sinh ra lúa thì cũng phải sinh ra các thứ đậu. Bởi vì thứ này, thứ kia vốn không từ nhân sinh ra. Nếu thế thì lẽ ra phải từ một nhân sinh ra tất cả quả, vì thế cho nên trong nhân chắc chắn đã có quả, chỉ nhờ duyên sinh là hiển bày. Vì lý do gì không từ nhân duyên sinh, nếu khứ lai thật có thì luận nêu hỏi ý: Pháp ba đời là có. Nhưng đời vị lai có pháp có khả năng sinh lẽ ra phải sinh, hoặc vô sinh sinh không đến hiện tại. Vì sao nói rằng không từ nhân duyên sinh? Văn kinh: Nếu từ nhân duyên sinh đó là vì đã sinh cho nên sinh, vì chưa sinh nên sinh. Tán rằng: Chính thức giải thích: Nhắc lại chung. “Vì đã sinh cho nên sinh…” trở xuống là bắt đầu trưng dẫn. “Nếu đã sinh sinh…” về sau là phân biệt với chẳng phải. “Vô danh vô tướng…” về sau là kết thành năm uẩn có khả năng hiện bày pháp giới. Đây phần đầu chia ra làm hai. Bắt đầu trưng dẫn này là ý nói: Vì các pháp đã sinh lại đợi các nhân sinh làm năng sinh, vì các pháp chưa sinh đợi chờ các nhân sinh làm năng sinh. Văn kinh: Nếu đã sinh sinh thì cần gì nhân duyên? Tán rằng: Phân biệt với chẳng phải. Ở đây chẳng phải đầu tiên đã sinh. Nếu pháp chưa sinh có thể đợi nhân sinh thì quả đã sinh rồi, cần gì các sinh làm nhân duyên sinh? Cho nên luận Thập Nhị Môn có bài tụng rằng: “Nếu sinh này chưa sinh, làm sao thường tự sinh được? Nếu sinh đã tự sinh, đã sinh cần gì sinh?” Hai câu đầu phá trừ chưa sinh mà sinh, hai câu sau phá bỏ để sinh mà sinh. Đây là phá trừ khứ lai thật có. Luận giải thích rằng: Nếu cho rằng đã sinh mà sinh, sinh rồi tức là sinh, cần gì phải sinh? Đã sinh lại vô sinh, đã làm lại không làm. Ý này là đã sinh lại vô sinh là trực tiếp vặn hỏi, đã làm lại không làm là nêu ví dụ để phá bỏ, như việc đã làm xong mà lại không làm, thể đã sinh rồi thì đâu còn sinh sinh? Đây là chất vấn để phá bỏ đại sinh và tiểu sinh, ví dụ pháp vốn sinh như vậy. Lại giải thích: Cũng phá bỏ pháp sở sinh. Lại có bài tụng rằng: “Trước có tức không sinh, trước không cũng chẳng sinh, có không cũng chẳng sinh, ai sẽ có sinh ấy?” Đây là phá bỏ chủ trương trong nhân có quả. Câu đầu phá bỏ trước có quả chỉ cần nhân sinh, câu hai, ba giả thiết phá bỏ trước không có và có không đều cần nhân sinh, câu bốn kết luận không cần nhân sinh, cho rằng sở sinh cũng không có. Ý này xưa không nay có, có thì gọi là sinh, quả đã có trước ở trong nhân thì phải gọi là sinh, đây là đã sinh rồi cần gì nhân sinh. Vì thế giải thích rằng: Nếu quả có trước ở trong nhân mà sinh thì tức là vô cùng. Văn kinh: Nếu chưa sinh mà sinh thì không thể sinh được. Tán rằng: Đây là chẳng phải chưa sinh mà sinh. Đầu tiên lập ra tông chỉ, vì sao về sau nêu ra nhân? Luận Thập Nhị Môn chép: “Nếu chưa sinh mà sinh thì chưa sinh gọi là chưa có, vì sao có thể tự sinh được?” Ý ở đây là nhân duyên chưa sinh tức thể là vô, không có tự không thể sinh thì đâu thể sinh tha (tự tha)? Đây là phá bỏ chủ trương khứ lai thật có. Luận đó chép rằng: “Lại nữa, nếu trong nhân không có quả mà quả sinh thì các nhân tướng không thể thành tựu. Vì sao? Vì các nhân nếu không có pháp làm sao thực hiện được, làm sao thành tựu được? Nếu không thực hiện, không thành tựu, thì làm sao gọi là nhân?” Ý này nói nhân chắc chắn phải để chung với quả, quả đã vô thể thì đi chung với ai mà gọi là làm được, thành tựu được? Đã không có làm được, thành tựu được sao đâu thể gọi là nhân? Văn kinh: Vì sao? Tán rằng: Đem ý muốn nêu ra nhân, trước tiên giả thiết nêu hỏi điều đó. Văn kinh: Chưa sinh các pháp tức là chẳng phải có. Tán rằng: Nêu ra nhân. Văn kinh: Vô danh vô tướng, so sánh, ví dụ chẳng thể biết được. Tán rằng: Kết thành năm uẩn có công năng hiện bày pháp giới. Vì chẳng phải có tức là pháp không. So sánh, ví dụ chẳng thể biết được là không thể so lường có thể lập nên mà làm cho sinh. Văn kinh: Cho nên chẳng phải là nhân duyên sinh ra. Tán rằng: Kết luận. Kết luận cả hai thứ trước. Nếu pháp đã sinh cũng chẳng phải là nhân duyên sinh, nếu chưa sinh thì sinh ấy cũng chẳng phải là sinh ra từ nhân duyên. Do đó đã chẳng phải là nhân duyên sinh, tức là vô danh vô tướng, nên ví dụ, so sánh không thẻ hiểu được, đây chính là pháp giới. Pháp giới cùng với tánh biến kế và y tha đều không phải một, khác nên nói là vô danh vô tướng, cũng lẽ ra nói là bất sinh bất diệt, cho đến tự tánh Niết-bàn chỉ hiển bày sơ lược như vậy. Trong đây so lường nếu pháp đã sinh thì lẽ ra không chờ nhân sinh, vì thể đã sinh, như các pháp quá khứ… nếu pháp chưa sinh thì lẽ ra nhập tông: Các pháp chưa sinh lẽ ra không thể sinh tông được, vì chẳng phải có cho nên là nhân, vô danh vô tướng cho nên cũng đạt được nhân này, các thứ chẳng phải có đều không thể sinh được, như sừng thỏ v.v… vì các pháp vô danh tướng nên đều không thể sinh được, như chân như v.v… Lại trong luận Thập Nhị Môn chép: “Nếu pháp không sinh mà sinh thì tất cả pháp không sinh đều nên sinh, tất cả phàm phu chưa sinh A-nậu Bồ-đề đều nên sinh, lại pháp bất loại A-la-hán phiền não không sinh nên sinh.” Đây là nói A-la-hán không lui sụt lẽ ra phải khởi phiền não. Lại nói: “Sừng thỏ, ngựa v.v… không sinh nên sinh, việc này không bao giờ có như thế, vì thế không nên nói không sinh mà sinh.” Luận Hiển Dương chín, luận Du-già sáu và luận Quảng Bách bốn… đều phá trừ, vì sợ rườm rà nên không dẫn chứng. Trên đây là phá trừ vọng chấp, tức là y theo biến kế năm uẩn có khả năng hiện bày pháp giới. Chưa nói đến y tha trở xuống là dụ và hợp mới hiển bày y tha, có khả năng hiện bày pháp giới. Văn kinh: Này thiện nữ thiên! Ví như tiếng trống nương vào gỗ, nương vào da và dùi trống, tay đánh v.v… nên phát ra âm thanh. Tán rằng: Thứ hai là nói về dụ. Trong văn có hai: Đầu tiên là dụ có y tha giả có, tiếp theo là hiển bày biến kế là không. Đây là phần đầu, có hai: Đầu là nói về y tha hữu, kế là nói có khả năng hiện bày pháp giới. Y tha này là giả có, nhân duyên như huyễn, chỉ giả tạm hòa hợp sinh ra. Văn kinh: Tiếng trống này ở quá khứ cũng không, vị lai cũng không, hiện tại cũng không. Tán rằng: Nói lên năm uẩn có khả năng hiện bày pháp tánh. Đã là duyên sinh thì chẳng nhất định thật có, quá khứ đã diệt, vị lai chưa sinh, hiện tại không cư trú, cho nên đều là không. Không tức là pháp giới, vì thế trong luận Bát-nhã của Bồ-tát Vô Trước có chép: “Mộng, điện, mây dụ cho pháp ba đời, gọi là tu xuất ly, xuất ly tức là Niết-bàn, vì vô sinh diệt.” Du-già sáu nói ba đời, mỗi đời đều có mười hai tướng cho nên không thể nói có. Rộng như luận ấy nói. Văn kinh: Vì sao âm thanh trống này không từ gỗ sinh, không từ da sinh và dùi trống tay đánh sinh ra? Không ở nơi ba đời sinh ra thì tức là không sinh ra. Tán rằng: Tiếp theo nói lên biến kế là không. Đầu là nêu hỏi, kế tiếp là phân biệt, sau là kết luận. Trung luận chép: “Các pháp không tự sinh, tự không có tác dụng, cũng không từ nơi khác sinh, vì nơi khác không tác dụng, cũng không từ cộng sinh, vì cộng không có tác dụng.” Đều từ cả hai sinh ra, tuy không có duyên tác dụng mà có duyên công đức có thể đạt được. Đây là tác dụng phá chấp có thật. Nay ở đây cũng vậy, âm thanh không từ gỗ sinh ra v.v… vì không có tác dụng, không từ da, dùi trống, tay đánh sinh ra cũng vậy. Không ở ba đời sinh ra là quá khứ sinh đã diệt, vị lai vô nên bất sinh, đời hiện tại tự sinh nên chẳng phải ba đời sinh, đó tức là bất sinh, đây là kết luận. Ý này đã là không sinh tức hiển rõ bày pháp giới, văn như trước đã dẫn. Văn kinh: Nếu không thể sinh thì không thể diệt, nếu không thể diệt thì không có từ nơi nào đến, nếu không từ nơi nào đến thì cũng không có nơi nào đi, nếu không có nơi nào đi thì chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, nếu chẳng phải thường, chẳng phải đoạn thì không phải một không phải khác. Tán rằng: Thứ ba ví dụ nói về các bất diệt còn lại trong bảy bất. Hiển bày pháp giới có hai: Đầu là ví dụ, sau là giải thích chất vấn. Biến kế sở chấp thể tánh là không, như con của thạch nữ (gái bất dục), trước từ nơi hiện tại không sinh làm sao có quá khứ diệt, cũng không từ nhân vị lai mà đến, đã là không đến thì làm sao có từ giã quá khứ, đã không từ vị lai mà đến cũng không từ giã quá khứ thì nói ai là thường, là đoạn, đã không có thường đoạn thì nói ai là một khác với các pháp? Vì vậy không một không khác đều dựa theo biến kế không, cùng với các pháp không phải một, không phải khác. Vì không phải khác cho nên biến kế có khả năng hiện bày pháp giới, vì không phải một cho nên pháp giới lìa các thường, đoạn… Hoặc không phải một cho nên biến kế sở chấp lìa các đoạn, thường. Dựa vào y tha thì âm thanh các thứ gỗ, da… cũng giống như vậy. Âm thanh cùng các thứ da… tất cả sẽ có bốn âm thanh, nên nghe tiếng gỗ, da, dùi trống và tay, bởi vì thể là một. Nếu âm thanh nếu khác với các thứ da v.v… nên không thuận theo mà khởi, chỉ giả tạm hòa hợp không thể nói một, khác. Các loại khác cũng theo đó mà biết. Âm thanh nương vào các thứ như gỗ… mà phát nên không thể nói một, khác. Vẫn nương vào pháp giới mà sinh, cùng với kia không phải một, khác. Đã là không khác cho nên nương vào năm uẩn tức hiện bày pháp giới, bởi vì không phải một nên pháp giới không có sinh diệt… Văn kinh: Vì sao? Tán rằng: Tiếp theo thứ hai giải thích vặn hỏi. Chỉ giải thích về không phải một không phri khác, có hai: Giải thích vặn hỏi về không phải một. Giải thích vặn hỏi về không phải khác. Đầu tiên trong giải thích vặn hỏi về không phải một có bốn: Giải thích trưng hỏi. Lại vặn hỏi. Chỉ ra sai lầm. Kết thành không phải một. Đây là mở đầu. Văn kinh: Nếu đây là một thì không khác pháp giới. Tán rằng: Lại vặn hỏi đây là một. Văn kinh: Nếu như vậy thì hàng phàm phu lẽ ra phải thấy chân đế, đạt được Niết-bàn an vui vô thượng. Tán rằng: Chỉ ra sai lầm. Nếu pháp giới và năm uẩn là một, như vậy thì ngay lúc phàm phu thấy được năm uẩn phải thấy được chân đế, vì năm uẩn chính là chân như. Nếu thừa nhận như vậy thì phàm phu phải đạt được an vui vô thượng. An vui vô thượng tức là đại Niết-bàn. Ở đây cũng đồng với kinh A-tỳ-đạt-ma: Cảnh lìa thức mà có thì phàm phu tự mình phải thành tựu trí vô đảo, vì cái thấy chân thật; đã không thành tựu trí thì rõ ràng lìa thức không có cảnh. Văn kinh: Đã không như vậy cho nên biết rằng chẳng phải một. Tán rằng: Kết thành bất nhất. Đã không thành tựu Thánh vị đạt được an vui Niết-bàn như thế, do đó biết rằng pháp giới không đồng nhất với năm uẩn, đồng như luận Thập Bát Không vặn hỏi lẽ ra nên cùng như một. Văn kinh: Nếu nói là khác. Tán rằng: Tiếp theo giải thích vặn hỏi về không phải một, cũng có bốn: Nhắc lại trưng dẫn. Vặn hỏi. Chỉ ra sai lầm. Kết thành. Đây là mở đầu. Vặn hỏi về không phải một khác này, đồng với Giải Thâm Mật thứ một, luận Du-già quyển bảy mươi lăm, sợ rằng rườm rà nên không dẫn chứng. Văn kinh: Thì tất cả hành tướng của các Đức Phật, Bồ-tát tức là chấp chặt, phiền não ràng buộc chưa được giải thoát. Tán rằng: Hai là vặn hỏi, có ba: Lẽ ra là chấp chặt. Nên chưa chứng Niết-bàn. Nên chưa lìa khỏi ràng buộc, vì như đã nói ở trước không lìa đoạn kiến thường kiến, là chấp đắm… Văn kinh: Tức là không thể chứng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam- bồ-đề. Tán rằng: Chỉ ra sai lầm. Vì có ba sai lầm ở trước nên các Đức Phật hiện tại lẽ ra không chứng, Bồ-tát tương lai lẽ ra không chứng, vì có chấp đắm có phiền não. Văn kinh: Vì sao? Vì tất cả bậc Thánh đối với hành, phi hành đồng là tánh chân thật, thế nên không phải khác. Tán rằng: Tiếp theo là kết thành bất dị. Đầu tiên là giả thiết trưng hỏi: Vì sao gì mà pháp giới không thể khác với năm uẩn? Nên nói rằng: Tất cả bậc Thánh đối với hành tức là năm uẩn, phi hành tức pháp giới kiến, đồng là tánh chân thật lìa xa tướng một khác, thế nên không phải khác là kết luận. Văn kinh: Cho nên biết rằng năm uẩn chẳng phải có, chẳng phải không, không từ nhân duyên sinh, chẳng phải vô nhân duyên sinh. Tán rằng: Tiếp theo ví dụ kết thúc thành tựu có hai: Đầu là kết thành chẳng phải sinh, tiếp theo “Là Thánh sở tri…” về sau là kết thúc thành tựu các thứ vô danh, vô tướng trước đây. Đây là kết luận chẳng phải sinh để ví dụ về các bất diệt còn lại; nên thành vô danh tướng tức là tổng kết thành tựu tám thứ Bất trước, đều vô danh tướng ở trước. Lại nữa, trong kết thúc chẳng phải sinh cũng kết thúc thành tựu ở trước, đầu tiên trong phần lược nêu về tông lìa hai tướng nói rằng chẳng phải có, chẳng phải không. Hoặc ở đây kết thúc về đã sinh, chưa sinh ở trước nói rằng chẳng phải có, chẳng phải không, hoặc chẳng phải có, chẳng phải không này kết luận chung cho cả tám bất, bởi vì chẳng phải có chẳng phải không, nên chẳng phải sinh chẳng phải diệt…, năm uẩn chân tánh không sinh ra từ nhân duyên, hoặc biến kế sở chấp tự tánh năm uẩn không sinh từ nhân duyên. Y tha năm uẩn chẳng phải không từ nhân duyên sinh. Vì vậy biết tám Bất hoặc dựa theo chân như hoặc dựa vào biến kế, chẳng phải y tha khởi. Giả sử nương vào y tha nói về tám Bất đó, cũng là nói theo biến kế. Văn kinh: Là Thánh sở tri chẳng phải cảnh khác, cho nên cũng chẳng phải những sự nói năng đạt đến được, vô danh vô tướng vô nhân vô duyên cũng không ví dụ, trước sau vắng lặng, xưa nay vốn không. Tán rằng: Kết thúc thành tựu các thứ vô danh tướng… trước đây. Kinh Thánh sở tri này chẳng phải cảnh giới khác nên lời nói không thể đạt đến được, cũng chẳng phải những ngôn ngữ nói năng trở thành vô danh, vô tướng như trước. Vô nhân vô duyên trở thành chẳng phải sở sinh của nhân duyên này trước đây, cũng chẳng phải ví dụ trở thành chẳng phải những ví dụ trước đây đạt đến được. Đầu cuối vắng lặng… là kết quả năm uẩn có khả năng hiện bày pháp giới. Theo văn ở đây nói thì đầu cuối vắng lặng… trước đây cũng kết hợp với có, vì hiển bày sơ lược; hoặc đầu cuối vắng lặng, xưa nay tự là không, thành tựu trong ví dụ trước, như thế thì tiếng trống ba đời đều không. Cách giải thích ở trước là hơn hẳn. Dụ và kết thúc thành tựu hiển bày pháp đã nói, tức trong kinh Giải Thâm Mật chép: “Nói về nghóa tự tánh Niết-bàn xưa nay vắng lặng của tất cả các pháp.” Văn kinh: Thế nên năm uẩn có khả năng hiện bày pháp giới. Ở dưới là kết luận. Văn kinh: Này thiện nữ Thiên! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào muốn cầu quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, khác chân khác tục khó có thể nghó lường, đối với cảnh phàm Thánh thể chẳng phải một, chẳng phải khác, không xả bỏ thế tục, không lìa chân, nương vào pháp giới thực hành hạnh Bồ-đề. Tán rằng: Thứ ba kết thúc khuyến khích tu học trong phần Đức Phật chỉ dạy phương pháp tu học. Vì chẳng trụ Niết-bàn cho nên khác chân, chẳng trụ sinh tử bởi vì khác tục, hoặc bốn trí Bồ-đề và Bồ-đề đoạn. Chẳng phải tức là chân như cho nên khác chân, chẳng phải tức là sinh tử cho nên khác tục. Trước nương vào vô trú mà tu, sau nương vào xứng lý mà tu, đây là hành tướng sâu xa khó có thể suy nghó, phân biệt, tìm tòi. Sở kiến của phàm phu thì năm uẩn không lìa chân như, sở kiến của Thánh giả thì chân như không lìa năm uẩn, nên nói không khác, uẩn và như khác nhau về tánh nên nói không phải một, hoặc bậc Thánh thấy năm uẩn như huyễn, hàng phàm phu thấy là thật nên nói không phải một, cùng duyên theo năm uẩn nên nói không phải khác, hoặc phàm phu thấy uẩn và như là một, là khác. Bậc Thánh thấy uẩn và như chẳng phải một, chẳng phải khác, đều là nhân duyên kiến giải khác nhau nên nói chẳng phải một, khác. Ở đây nói phàm phu, song Nhị thừa cũng vậy, vẫn còn một phần dị sinh tánh, do đó hàng Nhị thừa thấy năm uẩn khác với pháp giới, nên một mực chán bỏ sinh tử mà cầu mong Niết-bàn. Phàm phu thấy khác cho nên luôn luôn sợ hãi Niết-bàn mà trụ trong sinh tử. Bồ-tát thấy rằng thể của năm uẩn và pháp giới chẳng phải một, khác, vì vậy không bỏ tục, chẳng lìa chân. Do đạt được lý pháp giới bình đẳng này nên không sợ hãi sinh tử, không ưa thích Niết- bàn, vì luôn luôn tu tập diệu hạnh đại bi đại trí tự lợi lợi tha này nên nói là thực hành hạnh Bồ-đề. Theo luận Bát-nhã kinh của Bồ-tát Vô Trước giải thích về nhiếp thủ vô trụ Niết-bàn, rằng: “Nên như sở thông đạt.” Đây là ý nói Như là sự thấu suốt, như ở hiện tại sinh tử chẳng bị sinh tử bức bách, Như ở Niết-bàn chẳng bị Niết-bàn trói buộc, Như là thể tánh chân thật của các pháp cho nên có thể nương theo tu hành, cũng lại như vậy trú trong sinh tử chẳng bị khổ não bức bách, trụ trong Niết-bàn không bị vui thú trói buộc, vì vậy không trụ sinh tử hay Niết-bàn. Không giống như Nhị thừa và phàm phu bởi vì không chứng được Như cho nên đều chấp vào một bên. Căn cứ theo đây do Như không trụ vào hai bên, Như như mà chứng gọi là Niết-bàn vô trụ. Vì sao trong đây nói thể của như và năm uẩn chẳng phải một, khác, nương vào đây mà tu tập gọi là không trụ nơi hạnh? Đáp: Kia đây không trái nhau. Trong đây nói như và uẩn không phải một tức không trụ sinh tử, nghóa là không bị khổ não bức bách, nếu như và uẩn là một thì trụ trong sinh tử mà bị khổ não trói buộc. Bởi vì như không khác tức không trụ Niết-bàn, nghóa là không bị Niết-bàn trói buộc, cho nên cũng tương tự. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói lời này xong thì thiện nữ Thiên hớn hở, vui mừng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, nhất tâm đảnh lễ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn: Như Bồ-đề chánh hạnh đã nói ở trên, nay con sẽ tu học. Tán rằng: Thứ ba Thiên nữ lãnh ngộ kính vâng thực hành tu học. Văn chia làm sáu: Thiên nữ vui mừng lãnh ngộ tu hành. Phạm vương thưa hỏi tướng trạng tu học. Phạm vương khen ngợi lãnh ngộ pháp sâu xa. Thế Tôn ân chứng nói lợi ích cao siêu. Phạm vương vui mừng lãnh ngộ. Đức Thế Tôn thọ ký cho Thiên nữ nên Phạm vương vui mừng. Đây là phần đầu, có năm: Kết thúc những điều đã nói. Nói về sự vui mừng lãnh ngộ. Hết mực kính thành. Lãnh ngộ những điều đã nghe. Nương theo tu học. Đoạn văn có thể biết. Văn kinh: Lúc ấy, Đại phạm Thiên vương người đứng đầu thế giới Sách-ha ở trong đại chúng hỏi thiện nữ Thiên Như Ý Bảo Quang Diệu rằng: Hạnh Bồ-đề này khó có thể tu hành, nay ngươi làm sao đối với hạnh Bồ-đề mà được tự tại? Tán rằng: Phạm vương thưa hỏi tướng trạng tu học, có bốn: Hỏi làm thế nào để quán xét hiểu rõ tự tại. Hỏi làm thế nào tu hạnh Bồ-đề. Hỏi nương vào đâu mà nói về khởi tu. Hỏi đạt được bao nhiêu lợi ích. Trong phần đầu: Một là hỏi; Hai là đáp. Đây là phần hỏi thứ nhất, trong văn có hai: Người năng thỉnh, Sách-ha Hán dịch là cõi Kham nhẫn, tức là nhiều oán hận hiểm nạn ở trong sinh tử, Bồ-tát có khả năng nhẫn chịu, Phạm vương, hoặc gọi là Sơ Tónh lự vương, hoặc là Đệ tứ Tónh lự vương, là người đứng đầu cõi Đại thiên. Chủ sở thỉnh, chính thức nêu rõ câu hỏi: Hạnh Bồ-đề này lìa tứ cú, dứt bách phi, chẳng nói năng giải thích, dứt suy tư ngẫm nghó, chẳng phải chân chẳng phải tục. Nhị thừa không biết, phàm phu không lường được, khó có thể hiểu biết; nay ngươi làm thế nào đối với hạnh Bồ-đề có trí tuệ quán xét được tự tại như vậy? Văn kinh: Bấy giờ, thiện nữ Thiên trả lời Phạm vương rằng: Đại Phạm Vương! Như những điều Đức Phật đã nói thật là sâu xa cùng tận, tất cả chúng sinh không hiểu được nghóa đó, cảnh giới Thánh này nhiệm mầu khó biết. Tán rằng: Tiếp theo trả lời, có bốn: Xác nhận khó biết. Thỉnh chứng minh. Đạt được tốt lành. Chuyển thân nữ. Đây là phần đầu. Văn kinh: Nếu nay tôi nương vào pháp này đạt được an lạc trụ thì đây là lời chân thật. Tán rằng: Thỉnh chứng minh. Đầu tiên nói về sự hiểu biết đúng như thật, tiếp đến là lập thệ nguyện. Đây là nói về hiểu biết như thật. Đối với lý sâu xa cùng tận này đạt được trí tuệ tự tại, chẳng bị các tướng dụng phiền não làm động tâm gọi là an vui, nương vào chánh quán này gọi là trụ. Văn kinh: Nguyện khiến cho vô lượng vô số vô biên chúng sinh trong tất cả cõi đời có năm thứ vẫ đục đều được thân màu vàng, đủ ba mươi hai tướng, chẳng phải nam chẳng phải nữ, ngồi trên hoa sen báu, thọ nhân vô lượng niềm vui, rải hoa trời thơm đẹp, âm nhạc các tầng trời không đánh mà tự vang lên, tất cả mọi thứ cúng dường đều được đầy đủ. Tán rằng: Lập thệ nguyện. Nói lên phàm Thánh chẳng phải một, khác cho nên nguyện thành tựu thân màu vàng v.v… Hoặc biểu hiện cùng thuận theo chân nên được thành Phật, thỉnh cầu hiện bày thân màu vàng… Nói lên không có tướng nam nữ cho nên thỉnh cầu hiện bày chẳng phải nam nữ. Hoặc nói lên tuy sẽ thành Phật chẳng phải nam nữ hiện bày thân nam nữ cho nên nguyện hiện bày chẳng phải nam, chẳng phải nữ. Nói lên vượt khỏi bùn lầy sinh tử, nói lên chẳng phải nhiễm tịnh, nên nguyện hiện bày ngồi trên hoa sen. Nói lên nhờ sự hiểu biết này chắc chắn sẽ chứng được hai thứ an vui là Bồ-đề, Niết-bàn, nên nguyện thọ hưởng vô lượng niềm vui. Nói lên có khả năng thực hành nhân, cũng có khả năng dạy người khác thực hành nhân cho nên nguyện rải hoa như mưa. Nói lên có khả năng nhậm vận nói pháp cho nên nguyện không đánh mà tự vang lên. Nói lên trí chứng cảnh làm pháp hạnh cúng dường cho nên nguyện tất cả các thứ cúng dường đều được đầy đủ. Văn kinh: Lúc ấy, thiện nữ Thiên nói lời này xong thì tất cả chúng sinh trong cói đời có năm thứ vẩn đục đều được thân màu vàng, đầy đủ tướng đại nhân, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, ngồi trên hoa sen báu, thọ hưởng vô lượng niềm vui giống như ở tầng trời Tha hóa Tự tại, không có các đường ác, cây báu xếp thẳng hàng, hoa sen bảy báu đầy khắp thế giới, đồng thời rải hoa cõi trời thượng diệu bằng bảy báu, trỗi các thứ nhạc trời hay ho. Tán rằng: Được điềm tốt lành. Bởi sự hiểu biết xứng hợp với chân nên sở nguyện sẽ được như ý, vì vậy nguyện muốn hiện ra vật gì đều được tùy tâm, đầy đủ bảy chi giới. Nguyện được cây báu xếp thành hàng, tu tập bảy Thánh tài, thoát khỏi được sinh tử, ngồi trên hoa sen bảy báu. Tuy thoát khỏi sinh tử nhưng không xả bỏ lợi ích chúng sinh cho nên đầy khắp pháp giới; hoặc xứng hợp với chân lý vô hạn mà tu tập, do đó hoa sen đầy khắp pháp giới. Văn kinh: Thiện nữ Thiên Như Ý Bảo Quang Diệu liền chuyển thân nữ thành thân Phạm thiên. Tán rằng: Chuyển thân nữ. Sự tự chứng này thành tựu vô định dị tướng, cho nên chuyển nữ thành nam. Văn kinh: Thì Đại Phạm vương hỏi Bồ-tát Như Ý Bảo Quang Diệu rằng: Nhân giả, như thế nào là thực hành hạnh Bồ-đề? Tán rằng: Hỏi làm thế nào chứng hạnh Bồ-đề? Đây là hỏi lúc thực hành phải làm sao, phải hiểu sao? Đầu là hỏi, sau là trả lời. Đây là hỏi. Văn kinh: Đáp rằng: Phạm vương! Như trăng trong nước thực hành hạnh Bồ-đề tôi cũng thực hành hạnh Bồ-đề, như trong giấc mộng thực hành hạnh Bồ-đề tôi cũng thực hành hạnh Bồ-đề, như Dương Diệm thực hành Bồ-đề hạnh tôi cũng thực hành Bồ-đề hạnh, như hang sâu âm vang thực hành hạnh Bồ-đề tôi cũng thực hành hạnh Bồ-đề. Tán rằng: Trả lời, hành tướng khó biết, nêu ví dụ để hiển bày. Ở đây có bốn ví dụ: Ví dụ trăng nước, dụ không có ngoại cảnh mà tâm định thì cảnh sở hành được thành tựu, như nước là duyên tuy trong nước không có trăng hay có trăng hiện bóng, nay tôi cũng vậy, từ định nguyện tâm hiện bày các cảnh giới, tuy không có thân chân thật v.v… làm lợi ích cho chúng sinh dường như nơi thân cảnh sinh ra, bóng trăng đã không đến, thân ta cũng không đi, đây là dứt bỏ tánh biến kế. Nghóa là định giữ lấy cảnh, lìa tâm thật có cho nên nêu ví dụ trăng nước, tuy không có cảnh trăng mà dường như trăng sinh ra. Ví dụ cảnh mộng, dụ cho không có cảnh yêu ghét ngoài tâm nhưng có cảnh yêu ghét phát sinh thêm, ví như tuy thọ nhận nơi sáu đường ba cõi kia sự yêu thích, chẳng yêu thích, thân thực hành hạnh Bồ-đề như cái thấy trong mộng. Yêu thích, chẳng yêu thích, thân thực hành hạnh Bồ-đề không giữ lấy làm chân thật. Ví dụ Dương Diệm năng thủ, tâm tâm sở mê loạn cho nên duyên theo cảnh sở thủ, tuy chẳng phải là thật nhưng dường như có cảnh sinh ra, chẳng phải là chân thật có. Bồ-tát dùng trí vô phân biệt đối với cảnh ba luân, nên biết như vậy, không có chân thật. Ví dụ tiếng dội trong hang trống: Khi ngữ nghiệp khởi lên hóa độ chúng sinh giống như hang trống có tiếng dội, hang trống thật sự không có âm thanh nhưng tự phát ra âm thanh dường như tiếng vang của hang sâu. Vì thế biết rằng Bồ-tát nói pháp cho người quán xét như âm thanh trong hang sâu, do duyên khác hiện bày chỉ tương tự như âm thanh trong hang sâu. Nói pháp lợi ích chúng sinh thật ra chẳng phải phát ra âm thanh nói pháp cho người. Thực hành hạnh Bồ-đề như thế giống như của Nhiếp Đại Thừa bốn của Vô Tánh chép: “Như kinh nói: Đối với y tha khởi tự tánh nói các ví dụ như huyễn v.v… đối với y tha khởi tự tánh vì dứt các nghi ngờ luống dối khác. Vì sao vô nghóa mà có thật lấy các Tam-ma-địa thực hành cảnh chuyển? Vì dứt trừ mối nghi này nên nói ví dụ trăng nước. Vì sao vô nghóa mà có tánh yêu thích, chẳng yêu thích thọ dụng khác nhau, vì dứt trừ mối nghi này nên nói ví dụ cảnh mộng. Vì sao vô nghóa, mà tâm tâm pháp chuyển, vì dứt trừ mối nghi này nên nói ví dụ Dương Diệm. Vì sao vô nghóa mà các thứ nói suông là thường chuyển? Vì dứt trừ mối nghi nên nói ví dụ tiếng dội trong hang trống.” Như thứ lớp phối hợp với bốn ví dụ, luận đó lại có bốn ví dụ, văn kinh này không có, không cần trưng dẫn đầy đủ. Luận Đại Trang Nghiêm bốn có tám ví dụ đại ý tương tự. Vì sao vô dư? Lược cho nên vô. Lại giải thích: Trong đây trừ cái chấp về tướng hữu vô, dường như huyễn nên bất vô. Luận Biện Trung Biên có bài tụng rằng: “Đối với bất động vô điên đảo là biết nghóa phi hữu, phi vô như huyễn v.v…, nên hữu vô bất động.” Giải thích rằng: “Trước đó nói các nghóa lìa có, lìa không, nên các như huyễn này chẳng phải có, chẳng phải không. Nghóa là như huyễn làm nên voi, ngựa v.v… Tánh của voi ngựa kia chẳng phải thật có, cũng chẳng phải hoàn toàn không có, vì thức tán loạn tựa như các con voi, ngựa kia cho nên hiển hiện. Các nghóa như vậy là vô, như hiện nay dường như sở thủ, năng thủ chắc chắn thật có tánh, cũng chẳng phải hoàn toàn không có. Loạn thức tương tự sở thủ, năng thủ kia cho nên hiển hiện.” Ý trong đây nói: Như trăng dưới đáy nước nên chẳng phải thật tánh của trăng, chẳng phải có mà có dường như hiển hiện cho nên không thể không có, tôi thực hành hạnh Bồ-đề cũng giống như vậy. Nhân duyên hòa hợp không thật cho nên chẳng phải có, nhưng có giả hòa hợp tướng, do đó không thể không có. Năm uẩn không thật có cho nên có khả năng hiện bày pháp giới, vì vậy không thể không có. Pháp giới tức là năm uẩn, tức trước đây đã nói được an lạc trú ấy là bất động nên không thể vì hữu vô mà động. Chỉ là dụ cho tướng chung lìa tướng hữu vô mà không phối hợp riêng với uẩn. Lại nương vào thấy, hiểu, biết, nghe lần lượt dụ cho bốn cảnh giới sở thủ, tánh lìa hữu vô. Y theo hỏi đáp dưới đây, dựa vào thấy nghe mà quyết định. Văn kinh: Lúc ấy. Đại Phạm vương nghe nói như vậy xong, thưa với Bồ-tát rằng: Thưa Nhân giả! Nương vào nghóa nào mà nói lời này? Tán rằng: Thứ ba hỏi nương vào đạo lý nào mà nói như vậy? Câu hỏi trước hỏi về tu tập, câu hỏi này hỏi về nói năng; hoặc câu hỏi trước trả lời nói về thực hành tu tập của bản thân nên chỉ tạm thời nói tu, còn câu hỏi này trả lời vì người khác nói về tu nên bắt đầu nói chỉ tạm thời hỏi về nói năng. Trước sau theo nhau tự lợi lợi tha đều đầy đủ. Trong đó có bốn: Hỏi. Đáp. Vặn hỏi. Thông. Đây là câu hỏi nương vào đạo lý nào có thể lìa hữu vô mà bắt đầu nói về tu? Hoặc hỏi: Đã như trăng nước… những điều đó chẳng phải thật có thì nương vào đâu nói về tu? Văn kinh: Đáp rằng: Phạm vương! Không có một pháp nào là thật tướng, chỉ do nhân duyên mà được thành tựu. Tán rằng: Trả lời. Nương vào đạo lý nhân duyên, bởi vì giả nhân duyên cho nên lìa hữu vô, giống như nhờ nước lắng yên mà có bóng trăng hiện do đó không thể không có, trăng chân thật chẳng phải như sở hiện vì vậy không thật có. Ngoài ra theo đây thì biết. Như trăng đáy nước v.v… không có một pháp nào là tướng thật có, chỉ nương vào nhân duyên giả tạm cho nên có thể nói về tu. Văn kinh: Phạm Vương! Nếu nói như vậy thì các hàng phàm phu đều phải đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề? Tán rằng: Ba là nêu ra vặn hỏi, nếu pháp do nhân duyên giả hợp thì người nói có thể tu, các hàng phàm phu đều nhờ giả mà thành tựu, tất cả phải đạt được Bồ-đề. Ý này là nếu thật có pháp để tu thì dù đạt được hay không đạt được đã đều là giả có, phàm phu lẽ ra cũng phải đạt được; như Duy-ma-cật dùng cửa chân như nên khiến cho tất cả đều được thọ ký, ở đây dùng cửa nhân duyên mà vặn hỏi thì lẽ ra đều phải thành Phật. Văn kinh: Đáp rằng: Nhân giả vì ý gì mà nói như vậy? Tán rằng: Vì chung có ba: Đầu là tất cả chẳng phải, tiếp theo là giải thích chung; sau từ “Phạm vương, các bậc Thánh này…” về sau là kết thúc thành tựu. Hoặc chia làm hai: Đầu là tất cả chẳng phải; tiếp theo giải thích chung. Trong giải thích có bốn: Pháp, dụ, hợp, kết. Ở đây tạm thời nương vào theo khoa mục đầu. Đây là mở đầu. Văn kinh: Người ngu si khác người trí tuệ, khác Bồ-đề, khác phi Bồ-đề, khác giải thoát, khác phi giải thoát. Tán rằng: Vì chung có ba: Đầu là pháp, tiếp theo là dụ, sau từ “Này Phạm vương! Ngu si dị sinh…” trở xuống là hợp. Trong pháp có hai: Đầu tiên là phàm phu chấp hữu, vô là khác, do đó không thành Phật, tiếp theo là bậc Thánh biết không khác, cho nên đạt được Bồ-đề. Đây là phần đầu, tức là các chấp về ngu trí v.v… hoặc chắc chắn là một, khác. Ở đây tuy nói là khác cũng nên có một. Hữu vô, sinh diệt v.v… không rõ thật vô, tâm nhân duyên là có, không xứng với cảnh mà biết, không được thành Phật. Bồ-tát trái lại ở đây, cho nên thành Phật. Hoặc nương vào Tục đế, tức là có ngu trí năng hành khác nhau, Bồ-đề phi Bồ-đề tức là nhân lành, không lành khác nhau, quả giải thoát, phi giải thoát khác nhau. Văn kinh: Này Phạm vương! Các pháp như vậy bình đẳng không khác, đối với pháp này là khác, với chân như không khác, không có trung gian để chấp đắm, không thêm không bớt. Tán rằng: Bậc Thánh hiểu rõ các pháp hữu vô, ngu trí đều chẳng phải nhất định là khác. Vì ở trong này chân như đều là pháp bình đẳng cho nên đều không thể nhất định là khác. Không có trung gian là các pháp chẳng phải nhất định là khác, chẳng phải nhất định là một, chẳng phải vừa là một vừa là khác. Không nói chẳng phải một là nói theo câu thứ hai, câu thứ ba gọi là vô trung gian không nói câu thứ tư, chỉ là ngăn chặn ba pháp vô biệt. Một, khác này đều không nên chấp chặt, như trăng đáy nước không có thật, lìa chấp thêm, dường như có trăng, lìa chấp bớt. Do xứng hợp cảnh mà biết cho nên được thành Phật. Ở đây hoặc là nghóa bậc nhất tức là không phải khác, nhưng theo ví dụ dưới đây thì căn cứ vào ngu trí giải thích khác nhau. Văn kinh: Này Phạm Vương! Giống như nhà võ thuật và các học trò của ông ta khéo hiểu biết ảo thuật, nơi chỗ đông người dùng các thứ đất các cây cỏ lá hoa… gom ở một nơi làm các ảo thuật, khiến cho mọi người nhìn thấy, nhiều voi nhiều ngựa nhiều xe cộ binh lính, các thứ kho tàng chứa đựng bảy báu. Tán rằng: Nêu ví dụ, có ba: Đầu là ví dụ duyên sinh huyễn cảnh, tiếp theo ví dụ người ngu chấp là thật, sau là ví dụ người trí biết là huyễn. Đây là phần đầu, trong đó có sáu: Huyễn chủ. Huyễn tư. Huyễn xứ. Huyễn duyên. Khởi huyễn. Huyễn tướng. Ví như nhà ảo thuật là dụ cho tám thức tâm vương làm huyễn chủ, và các đệ tử là dụ cho tâm sở làm huyễn tư, khéo hiểu biết ảo thuật nên có thể rõ ràng biệt cảnh rõ ràng và các tướng chung riêng có khả năng biến hóa khởi dụng, ở chỗ đông người là dụ cho bốn đế làm huyễn xứ; dùng các thứ cỏ cây… tức là danh sắc làm huyễn duyên, gom ở một nơi hoặc tùy đó khởi lên nương vào các nơi khổ tập v.v…, làm các trò ảo thuật là ở đây khởi lên nghiệp lực nhân duyên hư huyễn, khởi lên các thứ sự nghiệp khác nhau, khiến cho mọi người nhìn thấy các loài voi ngựa ấy là huyễn tướng. Đầu là dụ cho bốn loài chúng sinh nội xứ, chứa nhóm bảy báu là dụ cho ngoại cảnh. Lại giải thích: Nhà ảo thuật dụ cho thức thứ tám, các đệ tử dụ cho bảy chuyển thức còn lại, nương vào thức thứ tám mà sinh. Vì vậy kinh luận nói “thức như trò ảo thuật”. Ngã tư đường dụ cho bốn thức trú, cho nên quyển tám mươi sáu chép: “Có thức giữ lấy nương vào bốn thức trú sinh khởi các thứ tự thể tùy chuyển.” Tương tự pháp cho nên đất cát cỏ cây dụ cho chủng tử thức. Tùy ở một nơi ấy là dụ cho tùy theo nơi một thức trụ và bốn thức trú. Làm các trò ảo thuật là dụ cho bốn duyên lực thường khởi lên năm uẩn. Lại giải thích: Nhà ảo thuật là các Bồ-tát tăng, đệ tử Phật, ngã tư đường là bốn loài chúng sinh, hiểu biết trò ảo thuật là trí phương tiện khéo léo, lấy các thứ đất cát là tùy theo pháp ưa thích của cơ duyên đó, hễ ở bất cứ một chỗ nào là tùy sự thọ nhận sinh xứ khí căn thành thục, thấy các loài voi ngựa v.v… là hiện thân, bảy báu v.v… là nói pháp. Theo ý hợp dưới đây thì giải thích như vậy là tốt, còn lại đồng như trước đã giải thích. Văn kinh: Nếu có chúng sinh ngu si vô trí không thể tư duy, không biết gốc huyễn. Tán rằng: Tiếp theo là ví dụ người ngu chấp là thật, có ba: Đầu là dụ cho không biết vốn là huyễn vọng; tiếp theo là dụ cho đầu tiên thấy chấp là thật, sau là dụ cho cuối cùng cũng không suy nghó. Đây là mở đầu, nói gốc huyễn là người huyễn, duyên huyễn đều gọi là gốc, dụ cho vô trí nên không biết năm uẩn từ duyên giả tạm sinh ra. Văn kinh: Hoặc thấy, hoặc nghe khởi lên suy nghó như vầy: những gì mình thấy nghe về các loài voi ngựa v.v… này là thật có, còn lại đều là luống dối. Tán rằng: Tiếp theo là dụ cho đầu tiên thấy chấp là thật. Không biết là giả, hễ nghe thấy gì đều phân biệt vọng chấp cho là thật có, cho rằng không, vô ngã v.v… đều là luống dối không có, lìa chấp chặt trước hữu vô thêm bớt. Văn kinh: Về sau lại không quán xét tư duy. Tán rằng: Sau là dụ cho cuối cùng cũng không suy nghó. Cũng không quán xét suy nghó kỹ càng danh nghóa đều là giả tạm, luống dối duyên sinh. Văn kinh: Người có trí thì không như thế, hiểu rõ gốc huyễn. Tán rằng: Sau là dụ về người trí liễu đạt. Văn có hai phần: Đầu là dụ cho tự mình có thể hiểu biết rõ ràng, sau là nói dụ cho người khác nghe. Văn phần đầu cũng có hai: Thứ nhất dụ cho hiểu biết rõ ràng gốc huyễn, hiểu rõ duyên sinh chẳng nhất định có, không. Văn kinh: Hoặc thấy hoặc nghe khởi lên ý niệm như vầy: Như voi ngựa v.v… chẳng phải là loài chân thật. Tán rằng: Tiếp theo là dụ cho đầu tiên không chấp thật có, dụ cho người trí thấy được đế lý vô lậu. Đầu tiên biết thật không nên lìa chấp có; sau đó phán xét suy nghó chỉ là giả có, thật không. Đây là mở đầu, biết không có voi ngựa v.v… thật dùng để dứt bỏ chấp tăng thêm. Văn kinh: Chỉ có trò ảo thuật làm mê hoặc tai mắt của người, vọng cho rằng voi ngựa v.v… và các kho tàng có danh không thật, như những gì mình thấy nghe không chấp là thật. Tán rằng: Quán xét suy nghó chỉ là giả có, thật không. Voi, ngựa v.v… ảo thuật chỉ làm mê lầm tai mắt người ngu, nghe tên các loài voi, ngựa, thấy hình các loài voi ngựa vọng chấp cho là thật, thật ra chỉ là giả danh; không như tự tánh, như ngã ngã sở, hễ thấy nghe gì đều không chấp là thật có, lìa chấp có không. Văn kinh: Về sau, tư duy biết là luống dối. Tán rằng: Dụ cho sau tư duy không thật, tư duy là thật thì không lìa chấp tăng, hiểu rõ hữu vi vô vi chẳng phải như danh ngôn có tự thể thật sự. Văn kinh: Thế nên người trí hiểu rõ tất cả pháp đều không có thật thể, chỉ tùy theo thế tục như thấy, như nghe mà nói lên việc đó, tư duy đế lý thì không như vậy, lại nhờ vào giải thuyết mà hiển bày thật nghóa. Tán rằng: Dụ cho vì người khác nói. Lại chỉ tùy theo cái thấy cái nghe của thế tục mà giả nói danh ngôn để nói lên việc đó. Nói lên là năng thuyên, việc đó là sở thuyên. Có hai thứ thế tục: Chấp tình thế tục. Các bậc Thánh trí giả thiết thế tục. Ở đây dụ cho bậc Thánh trí thuận theo ngôn thuyết thế tục, có hai: Tùy theo lời nói thế tục mà nói về tục. Tùy theo lời nói thế tục nói về chân. Ở đây tùy theo thế tục mà nói như thấy nghe biểu lộ việc đó tư duy đế lý thì không phải như vậy. Đế nghóa là thật, tư duy lý lẽ chân thật không giống như những gì đã nói, lại chỉ tùy theo phương tiện thế tục giả sinh khởi lời nói, để làm sáng tỏ nghóa chân thật bậc nhất. Vì thế trí vô phân biệt chứng nhập đế lý thì không thể như vậy, bởi vì tâm ngôn dứt bặt. Đây là hiểu rõ tục có chân đế và vô trong chân đế. Văn kinh: Này Phạm vương! Phàm phu ngu si chưa đạt được tuệ nhãn của bậc Thánh xuất thế, nên chưa biết rõ tất cả các pháp chân như không thể nói năng. Tán rằng: Tiếp theo là hợp dụ. Đầu tiên là kết hợp ví dụ người ngu không hiểu rõ, có hai: Trước kết hợp ví dụ không hiểu rõ gốc huyễn; sau kết hợp ví dụ ban đầu thấy chấp là thật. Nói ngu si dị sinh là lựa chọn hàng Đại thừa kiến đạo trở xuống, tuy là dị sinh nhưng có thể phân biệt thực hành các quán duy thức để biết rõ các huyễn, cũng là chưa đạt được tuệ nhãn nhị không bổn hậu xuất thế. Vì vậy ở đây loại bỏ Nhị thừa, tuy đạt được tuệ nhãn sinh không, hiểu rõ nhân ngã là không nhưng chưa thể đạt được tuệ nhãn pháp không xuất thế cho nên không hiểu rõ pháp, ngã là vô, không biết tánh chân như của tất cả pháp lìa các tướng, không thể nói năng, do đó không hiểu rõ gốc huyễn. Căn cứ theo hoàn toàn không mà nói là ngu si dị sinh. Hoặc có thể, có một phần dị sinh tánh tức là thuộc về ngu si dị sinh này. Luận Thành Duy Thức chép: “Phàm nghóa là vô tánh, ngu nghóa là thú hướng đến sự vắng lặng.” Văn kinh: Các phàm ngu này hoặc thấy, hoặc nghe hành pháp, chẳng phải hành pháp, tư duy như thế liền sinh chấp chặt cho là thật. Tán rằng: Kết hợp ví dụ ban đầu thấy chấp là thật. Đầu là kếp hợp chấp có, sau là kết hợp với không hiểu rõ không. Đây là mở đầu. Hoặc thấy, hoặc nghe hành gọi là hữu vi, chẳng phải hành gọi là vô vi, liền sinh chấp thật kết hợp lúc ban đầu gặp cảnh, tư duy như thế liền sinh chấp thật, kết hợp với ở sau không thể xem sát. Văn kinh: Đối với nghóa bậc nhất không thể hiểu rõ các pháp chân như là không thể nói năng. Tán rằng: Kết hợp với chẳng hiểu rõ không, do vô trí nên không hiểu rõ nghóa bậc nhất, không chứng như cho nên không biết tánh các pháp là không thể nói, như nói chấp thật không biết là thật vô. Văn kinh: Các bậc Thánh này hoặc thấy, hoặc nghe hành pháp, chẳng phải hành pháp, tùy theo năng lực mà không sinh chấp đắm cho là thật có. Tán rằng: Kết hợp ví dụ người trí liễu đạt. Đầu là kết hợp ví dụ tự mình liễu đạt, sau là ví dụ kết hợp vì người khác giả nói. Trong phần đầu cũng chia làm ba: Đầu tiên kết hợp với ví dụ không chấp thật có, tiếp theo kết hợp ví dụ hiểu biết rõ ràng gốc huyễn, sau cùng kết hợp ví dụ sau tư duy giả có. Đây là mở đầu. Hoặc thấy, hoặc nghe nói về hữu vi vô vi, tùy theo năng lực thắng giải. Từ Sơ địa trở lên tùy theo năng lực chứng trí của từng giai vị sẽ không sinh chấp thật. Văn kinh: Biết rõ tất cả hành pháp không thật, chẳng phải hành pháp cũng không thật, chỉ là vọng tưởng so lường. Tán rằng: Kết hợp ví dụ biết rõ gốc huyễn. Biết từ huyễn là nghiệp duyên phiền não hoặc Nhị thừa có tâm chấp pháp. Vọng khởi suy lường, chẳng phải như danh ngôn là hành pháp hữu thật hữu vi, chẳng phải như danh ngôn là chẳng phải hành pháp hữu thật vô vi. Văn kinh: Tướng hành, chẳng phải hành tướng chỉ có tên gọi, không có thật thể. Tán rằng: Sau khi kết hợp là ví dụ tư duy giả có. Chỉ có danh ngôn thế tục nói là có, không thật thể chân thật là có như kia đã nói. Văn kinh: Các bậc Thánh đó nói thuận theo thế tục vì muốn giúp cho mọi người biết rõ nghóa chân thật. Tán rằng: Kết hợp ví dụ vì người khác giả nói, thuận theo danh ngôn thế tục mà nói hữu vi, vô vi, vì muốn giúp cho mọi người biết rõ nghóa chân thật của hữu vi vô vi, hoặc muốn giúp cho chứng được nghóa bậc nhất chân thật, đều thấy được như, có khả năng hiểu rõ được hành. Văn kinh: Đúng vậy, này Phạm vương! Các bậc Thánh đó dùng Thánh trí thấy rõ ràng pháp chân như không thể nói, do đó hành pháp, chẳng phải hành pháp cũng giống như vậy. Tán rằng: Đoạn thứ ba kết thành, có hai: Đầu là kết thúc biết chân thật là vô, sau là kết thúc tùy theo thế tục nói có. Mở đầu, bậc Thánh dùng trí vô phân biệt để hiểu tất cả pháp vốn là tánh chân như, đều lìa bỏ nói năng cho nên không thể nói năng, biết pháp hữu vi vô vi đã nói kia cũng chỉ là danh ngôn không có thật thể, chẳng phải không lìa ngôn ngữ, hành pháp, chẳng phải hành pháp, nên chỉ dứt bệnh đó mà không dứt trừ pháp. Văn kinh: Giúp cho người khác chứng biết cho nên nói các thứ danh ngôn thế tục. Tán rằng: Kết thúc theo thế tục nói có. Cũng là dựa vào giải thích để hiển bày các pháp, mục đích là giúp cho người khác chứng biết pháp hữu vi vô vi, bỏ phàm thành Thánh, tùy theo thế tục nói về các xứ giới, các thứ danh ngôn thế tục. Đây là ý kết thành ví dụ nói rằng không có một pháp nào là thật, tướng ấy chỉ do nhân duyên mà được thành lập. Trên đây phần nhiều là thuận theo tự thức khởi lên huyễn vọng hiểu biết khác biệt của phàm phu. Nếu dựa theo cách giải thích thứ ba thì ví dụ ấy theo nghóa có thể biết. Theo văn kết luận này thì cách giải thích thứ ba là hơn hẳn. Lại căn cứ vào câu hỏi: Tu hành như thế nào, nương vào đâu mà nói? Do đó đặt ra lời vặn hỏi này, pháp dụ hợp kết lẽ ra chỉ vì điều đó, cho nên cách giải thích thứ ba là hơn hẳn. Văn kinh: Bấy giờ, Đại Phạm vương hỏi Bồ-tát Như Ý Bảo Quang Diệu rằng: Có bao nhiêu chúng sinh có thể hiểu được chánh pháp sâu xa cùng tận như vậy? Tán rằng: Thứ tư hỏi đạt được bao nhiều ích lợi. Trong đó có bốn: Hỏi. Đáp. Vặn hỏi. Thông. Đầu tiên là hỏi. Đây là ý Phạm vương tuy hiểu rõ mọi người vui vẻ có thể biết, nhưng hỏi theo tình chấp thật sinh của mọi người, nhờ vào trừ chấp thật khiến cho biết là huyễn mà bắt đầu tu tập. Văn kinh: Đáp rằng: Phạm Vương! Có nhiều người huyễn, tâm tâm sở pháp có thể hiểu được chánh pháp sâu xa cùng tận như vậy. Tán rằng: Hai là trả lời. Hữu là để phân biệt với nghóa trì. Tất cả chúng sinh nếu biết rõ tánh y tha khởi, tâm, tâm sở pháp như người huyễn thì có thể hiểu được pháp sâu xa cùng tận này. Nếu không có đại tánh thì không thể như vậy. Ý này biết biến kế là vô, như huyễn chẳng phải người thật, nếu dường như tướng người, dường như tâm, tâm sở y tha huyễn có, tức ngộ Duy thức chứng tánh viên thành. Nương vào đây dần dần đi vào đạo lý ba tánh. Đầu tiên hiểu rõ biến kế, tiếp theo lãnh ngộ y tha, sau đó chứng được Viên thật. Như có bài tụng chép: “Dây thừng ngỡ là rắn, thấy thừng ngộ nghóa không, lúc chứng biết điều đó, biết trí loạn như rắn.” Hoặc có thể dựa vào chấp thật của chúng sinh mà hỏi, ở đây đáp: Thật sinh như các người huyễn, không có người thật nói đó mà hiểu. Muốn hiển bày người có thể nghe pháp còn tự chẳng có, làm sao hiểu được pháp? Như kinh Vô Cấu Xưng chép: “Xá-lợi-tử hỏi Thiên nữ rằng: Người chết ở đây sẽ sinh về nơi nào? Đáp rằng: Những nơi nào mà người được Như lai hóa độ sẽ sinh về thì tôi sẽ sinh về đó. Xá-lợi-tử nói: Những người được Như lai hóa độ không chết không sinh, vì sao đáp rằng sẽ là nơi sinh về? Thiên Nữ nói: Các pháp hữu tình nên biết cũng giống như vậy, không chết không sinh, sao lịa hỏi tôi sẽ sinh về nơi nào?” Văn kinh: Phạm Vương nói: Người huyễn hóa này thể chẳng phải có, tâm sở này từ đâu mà sinh? Tán rằng: Ba là vặn hỏi. Dựa vào tình chấp của thế tục thì huyễn chắc chắn chẳng thật có, tâm và tâm pháp năng chứng từ việc gì phát sinh? Chẳng phải con của thạch nữ (gái bất dục) tâm năng chứng. Đây là dựa vào chấp không để vặn hỏi, nhờ đó dứt được chấp không. Văn kinh: Đáp rằng: Nếu biết rằng pháp giới không phải có, không phải không, chúng sinh như thế có thể hiểu được nghóa sâu xa. Tán rằng: Vì tất cả (thông). Nếu nhất định chấp vào có, không thì không thể hiểu biết chân như pháp giới, lìa cả có lẫn không, thực hành hạnh bình đẳng, những điều này có thể hiểu ra từ duyên sinh , vì vậy như huyễn có mà không có thật tánh cho nên nói là không, không như ngôn thuyết chắc chắn là thật có không. Chúng sinh như thế có thể hiểu được nghóa sâu xa, đây tức là khiến cho dứt trừ các chấp hữu vô, một khác, thường đoạn… để thực hành hạnh Bồ-đề. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Phạm vương bạch với Đức Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Như Ý Bảo Quang Diệu này không thể suy nghó bàn luận, thông đạt nghóa sâu xa tận cùng như thế. Tán rằng: Thứ ba Phạm Vương khen ngợi lãnh ngộ pháp sâu xa. Văn kinh: Đức Phật nói: Đúng vậy! Đúng vậy! Phạm vương, như ông đã nói, Như Ý Bảo Quang Diệu này đã chỉ dạy các ông phát tâm tu học pháp vô sinh nhẫn. Tán rằng: Thứ tư Thế Tôn ấn chứng nói rõ lợi ích cao quý. Nói đúng vậy là xác nhận lời của Phạm vương, đã chỉ dạy các ông là nói rõ đạt được lợi ích cao quý, tức là vui mừng khen ngợi. Văn kinh: Lúc ấy Đại Phạm Thiên vương và các Phạm chúng đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, chắp tay cung kính đảnh lễ dưới chân Bồ-tát Như Ý Bảo Quang Diệu. Tán rằng: Thứ năm Phạm vương vui mừng lãnh ngộ, có hai: Đầu tiên biết đây là người siêu việt nên thay đổi dung mạo cung kính; sau đó là mừng vui về những điều mình đã nghe. Đây là mở đầu. Văn kinh: Nói như vầy: Thật là ít có, ít có! Chúng tôi hôm nay may mắn được gặp Đại só, được nghe chánh pháp. Tán rằng: Mừng vui về những điều mình đã nghe: Khen ngợi thành tựu công đức cao quý. Khen ngợi khả năng lợi tha, do đó lập lại từ ít có, đồng thời vì được gặp, được nghe pháp cho nên nhắc lại từ ít có. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo Phạm vương rằng: Như Ý Bảo Quang diệu này ở đời vị lai sẽ được thành Phật hiệu là Bảo Diệu Cát Tường Tạng Như lai, Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Tán rằng: Thứ sáu là Đức Thế Tôn thọ ký cho các vị trời nên Phạm vương vui mừng. Hiệu Bảo Diệm là vì nghe kinh Kim Quang Minh, lại vì hiểu rõ các pháp như Dương Diệm. Cát Tường là trong bất cứ lúc nào cũng có thể cùng chúng sinh làm những điều tốt lành. Tạng là nghóa của sự bao trùm, vô lượng cát tường đầy đủ công đức, không có thời gian tận cùng nên nói là Cát Tường Tạng, xem văn có thể biết. Văn kinh: Lúc Phật nói phẩm này có ba ngàn ức vị Bồ-tát đạt được không lui sụt trên đường tiến đến địa vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tán rằng: Đoạn lớn thứ tư nói về chúng đương thời nghe kinh được bao nhiêu lợi ích, có ba: Đầu tiên nói về hàng Thập địa được lợi ích không lui sụt; tiếp theo nói về hàng Thập hồi hướng được lợi ích thấy đạo; sau là nói về hàng Thập trú được lợi ích không lui sụt. Đây là mở đầu. Không lui sụt có bốn, đây là hành không lui sụt, bởi vì bước vào địa thứ tám thì tướng dụng phiền não không thể làm động loạn được. Văn kinh: Tám ngàn ức vị Thiên tử, vô lượng vô số Quốc vương, thần dân xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Tán rằng: Được lợi ích thấy đạo. Các vị trời bao gồm cả cõi Dục và cõi Sắc. Luận Hiển Dương chép: “Điều rất đáng lo chẳng phải đường ác, điều vui sướng chẳng phải sinh lên hai cõi trên.” Căn cứ theo sự đốn ngộ ấy mà nói, không chướng ngại cõi Sắc, giới hồi tâm đi vào thấy đạo. Lại nói theo Nhị thừa thì chẳng căn cứ vào Đại thừa. Du-già tám mươi ba giải thích về xa lìa trần cấu rằng: “Lại nữa, trần là ngã mạn và tất cả phiền não phải dứt bỏ. Cấu nghóa là tất cả thô trọng ở thượng phẩm. Pháp nghóa là đối với pháp mà tự tướng, côïng tướng an trụ. Pháp nhãn nghóa là như thật hiện chứng, chỉ có pháp tuệ. Đắc pháp nghóa là chứng đạt bất cứ quả nào trong bốn quả Sa-môn. Chứng được bất cứ quả nào ở đây này nói là hiển đắc không nhất định, một là vượt qua thứ tự không nhất định, hai là xuyên suốt ba thừa, có khi không đạt được quả, cho nên nói là tùy. Viễn trần là chân thật thấy vô gián đạo, nói về phiền não mà đoạn kiến phải dứt bỏ, ly cấu tướng thấy giải thoát đạo nói lìa thô trọng. Nếu cho hạt giống gọi là thô trọng thì đều ở nơi vô gián, hiện bày hạt giống riêng biệt mà nói. Nếu căn cứ vào thói quen cũng bao gồm cả tướng thấy nên nói là đắc quả.” Trong luận Đại Trang Nghiêm bảy tuy văn có chút ít khác nhau nhưng ý đồng với Du-già. Như luận Tạp Tập chép: “Các pháp nhẫn có khả năng viễn trần, các pháp trí có khả năng ly cấu là căn cứ vào tùy chuyển môn, nên trong chân thật kiến đạo không quán đế riêng. Hoặc chung cho cả ba thừa, cũng không trái nhau.” Văn kinh: Lúc bấy giờ, trong hội chúng có năm mươi ức vị Tỳ- kheo thực hành hạnh Bồ-tát sắp lui sụt tâm Bồ-đề. Tán rằng: Sau là nói về hàng Thập Trú được lợi ích không lui sụt, có hai: Đầu là đạt được nhân lợi ích không lui sụt, tinh tiến tu tập; sau là đạt được quả lợi ích, nhân tròn đầy, được thọ ký. Văn phần trước có bốn: hai: Đầu tiên sắp lui sụt tâm. Do nghe nên chú ý. Lại được thắng tiến;. Hồi hướng Bồ-đề. Đây là phần đầu, có năm: Nơi có lợi ích. Số có lợi ích. Người được lợi ích. Những việc tu hành. Trước sắp lui sụt. Sắp lui sụt có hai thứ: Đã đạt được mà lui sụt. Chưa đạt được mà lui sụt. Đầu tiên là ở địa tiền, sau là ở bảy địa trước. Đã đạt được có Đạt được thắng giải. Đạt được thắng giải có hai: Tín. Hạnh. Đạt được chứng pháp. Đầu tiên tín lui sụt ở trước sau tâm thứ năm trong mười tín tâm. Hạnh lui sụt ở trụ thứ sáu trở xuống. Tín bất thối bất thối khởi lên tà kiến, hạnh bất thối bất thối hướng về Nhị thừa. Nhưng trong Nhân Vương Bát-nhã chép: “Thực hành đạo Bồ-tát trong mười ngàn kiếp, tùy theo chiều gió xuôi ngược hoặc tiến hoặc lùi. ” Nói theo tướng chung của tín và hạnh thì kiếp có đại kiếp, tiểu kiếp khác nhau. Kinh Tịnh Hạnh Ưu-bà-tắc Giới chép: “Trải qua sáu mươi kiếp thực hành, xá-lợi lui sụt đại tâm là nói theo đại kiếp.” Văn kinh: Lúc nghe Bồ-tát Như Ý Bảo Quang Diệu nói pháp này xong đều được tâm vững bền không thể suy nghó bàn luận, đầy đủ các nguyện. Tán rằng: Do nghe trụ ý, quả Đại Bồ-đề gọi là không thể suy nghó bàn. Do trụ không lui sụt nên chắc chắn đạt được. Đầy đủ các nguyện trên, nguyện trên tức là nguyện cầu đại Bồ-đề, bao gồm cả tự lợi, lợi tha. Văn kinh: Trở lại phát tâm Bồ-đề, đều tự cởi y cúng dường Bồ-tát, lại phát tâm thắng tiến vô thượng, nguyện như vầy: Nguyện cho chúng con công đức gốc lành thảy đều không lui sụt. Tán rằng: Sau là được thắng tiến, có bốn: Lại nguyện cầu Bồ-đề. Tu pháp cúng dường. Lại nguyện tu thắng hạnh. “Nguyện như vầy…” trở xuống là nguyện được không còn lui sụt. Văn kinh: Hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Rằng: Bốn là hồi hướng. Trên đây là đạt được lợi ích về nhân. Văn kinh: Này Phạm vương! Các Tỳ-kheo nương vào công đức này như lời dạy tu hành trải qua chín mươi đại kiếp sẽ được giải ngộ, thoát khỏi sinh tử . Tán rằng: Sau là đạt được lợi ích về mặt quả, có hai: Đầu là đạt đến Sơ địa, sau từ “Lúc bấy giờ, Thế Tôn…” trở xuống là được thọ ký trong tương lai. Đây là mở đầu, nương vào công đức nghe kinh này và trở lại phát tâm tu hành, lại tiếp tục như thuyết tu hành trải qua chín mươi đại kiếp, sẽ được vô lậu, hai không giải ngộ, thoát khỏi phần đoạn sinh tử, gọi là lìa sinh tử. Nương vào công đức này tiếp tục như thuyết thực hành đến giai vị Hồi hướng, vì vậy nói là trải qua chín mươi đại kiếp; bởi vì thời gian tu hành trong Thập hồi hướng đều trải qua mười kiếp, như trong kinh Tịnh Hạnh Ưu-bà-tắc Giới có nói. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn liền thọ ký cho các vị Tỳ- kheo qua ba mươi a-tăng-kỳ kiếp nữa sẽ được thành Phật, kiếp tên là Nan Thắng Quang Vương, cõi nước tên là Vô Cấu Quang. Tán rằng: Thọ ký sẽ đắc quả, có sáu: Thời gian, trải qua ba mươi a-tăng-kỳ, theo Nhiếp Luận dịch vào đời Lương: “Thập địa, mỗi địa đều có ba tăng-kỳ, qua mười địa có ba mươi tăng-kỳ”. Tên kiếp. Tên cõi nước. Văn kinh: Cùng lúc đều đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ- đề, đều cùng một hiệu là Nguyện Trang Nghiêm Gian Sức Vương, đầy đủ mười hiệu. Tán rằng: Thời gian thành Phật, nói là cùng một lúc. Quả đạt được đó là Bồ-đề vô thượng. Danh hiệu Phật. Hỏi: Không nơi nào, cùng một lúc, một nơi mà có hai Đức Như lai, làm sao năm mươi ức vị cùng một lúc được thành Phật? Đáp: Nói theo Hóa Phật, Hóa độ thì cả hai vị Phật không thể cùng một nơi, cũng dựa theo hiện tướng thì không thể cùng một lúc. Căn cứ theo Tha dụng độ (cõi) và Ứng thân hợp tác thì nói là cùng một lúc. Lại hoặc là tên gọi cõi nước, đời kiếp tuy giống nhau nhưng căn cứ vào phương khí giới đều khác nhau nên cùng một lúc được thành Phật. Văn kinh: Này Phạm Vương! Kinh Kim Quang Minh nhiệm mầu này, nếu chân chính nghe và giữ gìn sẽ được uy lực rộng lớn. Tán rằng: Đoạn lớn thứ năm là so sánh. Nói về sự thù thắng khuyến khích khiến thọ nhận thực hành. Văn chia làm ba: Đầu nêu sự cao quý; tiếp theo là so sánh, sau đó là khuyến khích tu học. Đây là mở đầu. Văn kinh: Giả sử có người trong trăm ngàn đại kiếp thực hành sáu Ba-la-mật không có phương tiện. Tán rằng: Tiếp theo là so sánh, đầu là so sánh, tiếp đó là khuyến khích thọ trì, tu học. Trong phần đầu lại có ba: Nêu sự hóa độ yếu kém. Nói về trì kinh. Chính thức so sánh. Đây là mở đầu, tuy thực hành sáu độ mà không có hai phương tiện, đó là bạt tế và hồi hướng, kinh này dạy tu phát nguyện hồi hướng, đồng thời kinh này nói về vô trú phương tiện. Hỏi: Nếu không hồi hướng làm sao được gọi là Độ? Đáp: Vì không phải thuộc bảy tối thắng cho nên đều nói theo các nhiếp thọ khác, hoặc tương tự với sáu độ. Văn kinh: Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào viết chép kinh Kim Quang Minh này, cứ mỗi nửa tháng chuyên tâm đọc tụng thì công đức chứa nhóm, so với công đức trước đây thì công đức trước đây không bằng một, cho đến thậm chí toán số ví dụ đều không thể tính được. Tán rằng: Hai văn còn lại. Pháp hành có mười; tạm thời nêu ra ba hạnh là viết chép, đọc, tụng, nói theo trung bình, cúng dường giúp đỡ người khác là kém hơn, tư duy tu tập… là cao hơn, do đó lượt bỏ không. Văn kinh: Phạm Vương! Thế nên nay ta dạy ông tu học, nhớ nghó thọ trì, giảng nói rộng cho người khác nghe. Tán rằng: Thứ hai là khuyến khích tu học, có ba: Đầu là khuyến khích. Văn kinh: Vì sao? Tán rằng: Nêu câu hỏi. Văn kinh: Xưa kia, lúc ta thực hành đạo Bồ-tát, giống như dũng só vào nơi chiến trận, không tiếc thân mạng, truyền bá kinh vương nhiệm mầu này, thọ trì đọc tụng, giải thích cho người khác nghe. Tán rằng: Giải thích, có ba: Đầu là pháp, tiếp theo là dụ, sau là hợp. Đầu tiên là pháp, thực hành ba tinh tấn, gia hạnh, nhiếp thiện và lợi lạc, nương vào bốn pháp hành truyền bá kinh này, giống như người dũng só. Kinh Di Giáo chép: “Giống như người đội mũ, mặc áo giáp vào trong trận mạc thì không hề sợ hãi.” Văn kinh: Này Phạm Vương! Giống như Chuyển luân Thánh vương, nếu khi nhà vua còn ở thế gian thì bảy thứ báu vẫn hiện diện, nếu khi nhà vua qua đời thì tất cả bảy báu tự nhiên biến mất. Tán rằng: Ví dụ. Bảy thứ báu dụ cho bảy Thánh tài hoặc dụ cho bảy Giác phần. Như luận Đại Trang Nghiêm thứ chép: “Niệm tựa như bánh xe báu (luân bảo) hàng phục những nước không khuất phục, cho nên cảnh giới chưa hàng phục thì niệm có thể hàng phục. Trạch tựa như voi báu (tượng bảo), các nước thù địch thì voi có khả năng hàng phục, cho nên phân biệt thắng oán thì trạch có công năng phá trừ. Tinh tấn tựa như ngựa quý (mã bảo), vì đại địa bao la ngựa mau chóng phi đến tận cùng; nên chân như cùng tận xa xôi tinh tiến mau chóng giác ngộ. Hỷ tựa như ngọc quý (châu bảo), ánh sáng của ngọc soi sáng nơi tối tăm, cho nên vua rất mừng vui, pháp sáng ngời phá tan u ám, nên tâm tràn đầy vui sướng. Ỷ tựa như con gái xinh đẹp (nữ bảo), nhà vua được vui sướng, bởi vì vuốt ve tiếp xúc; trí thoát khỏi chướng tham lẫn, nên dứt bặt điều ác. Định tựa như bề tôi ẩn náu (tàng thần), vua có nhu cầu gì cần thiết phải phát xuất từ bề tôi, nên trí có sở dụng thì từ định mà sinh ra. Xả tựa như quân lính quan lại (binh thần), bỏ yếu lấy mạnh, thuận theo nhà vua không mệt mỏi, Bồ-tát tu hành bỏ ác làm lành, thuận theo trí vô phân biệt vô công dụng. Kinh này như vua, công đức như vật báu. Văn kinh: Này Phạm vương! Kinh Kim Quang Minh nhiệm mầu này, nếu có ở trên đời thì pháp bảo vô thượng đều không bị hoại diệt, nếu không có kinh này thì sẽ mọi nơi đều ẩn mất. Tán rằng: Hợp. Pháp bảo vô thượng tức là bảy Thánh tài, hoặc bảy giác phần, hoặc tất cả công đức, tức là nghóa của kinh, như sợi chỉ xuyên qua các hoa, như chỉ ngang giữ lấy chỉ dọc; có công năng giải thích các pháp cao siêu nên hiển bày phát sinh công đức, kinh không có thì cũng không có pháp. Văn kinh: Thế nên cần phải đối với Kinh vương này chuyên tâm lắng nghe thọ trì đọc tụng, giải thích cho người nghe, khuyến khích khiến cho viết chép, thực hành Tinh tấn ba-la-mật, không tiếc thân mạng, không ngại khó nhọc đối với công đức thù thắng. Các đệ tử ta cần phải tinh tấn tu học như vậy. Tiếp theo là khuyến khích tu học, có ba: Đối với kinh sinh khởi pháp hành. Nói về đạt được công đức cao siêu. Từ “Các đệ tử ta…” trở xuống là kết thúc khuyến khích thực hành. Thực hành Tinh tấn ba-la-mật ấy tức là khiến thực hành phát hạnh, sinh khởi tinh tấn. Văn kinh: Bấy giờ, Đại Phạm Thiên vương cùng với vô lượng Phạm chúng Đế Thích Tứ vương và các Dược-xoa đều từ chỗ ngồi đứng đậy, vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính. Tán rằng: Đoạn lớn thứ sáu là trời và đại chúng nghe răn dạy phát nguyện hộ trì truyền bá. Chia làm bốn phần: Nghi tắc thỉnh cầu hộ pháp. Tiếp tục chánh thức phát nguyện hộ trì. Đức Phật khen ngợi thọ ký. Trời và đại chúng vui mừng thọ nhận. Đây là mở đầu. Văn kinh: Bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con đều nguyện che chở, truyền bá kinh Kim Quang Minh nhiệm mầu này. Tán rằng: Phát nguyện hộ trì, lại có bốn phần nhỏ: Hộ trì chánh pháp. Hộ trì Pháp sư. Hộ trì cõi nước. Hộ trì người cúng dường. Văn kinh: Và Pháp sư nói pháp nếu có tai nạn, chúng con sẽ dứt trừ sạch khiến cho đầy đủ các điều tốt đẹp, sắc tướng trí lực đầy đủ, biện tài vô ngại, thân ý khoan khoái. Tán rằng: Hộ trì pháp sư. hộ trì pháp sư có năm: Trừ ác. Được điều lành. Thân an ổn. Đầy đủ biện tài. Tâm khoan khoái. Văn kinh: Lúc ấy người nghe pháp trong hội chúng đều được an vui. Tán rằng: Hộ trì thính chúng. Văn kinh: Ở cõi nước đó nếu bị mất mùa đói kém, oán tặc, phi nhân và các tai họa thì các vị trời chúng con đều sẽ bảo vệ giúp đỡ, khiến cho nhân dân họ được yên ổn giàu có vui sướng, không có các tai ương dữ dội bất ngờ, đều là nhờ vào khả năng của các vị trời chúng chúng con. Tán rằng: Hộ trì cõi nước, có bốn: Dứt mất mùa đói kém. Dứt oán thù giặc giã. Dứt các loài phi nhân. Kết thúc hộ trì, là từ “Các vị trời chúng con…” trở xuống. Văn kinh: Nếu có người cúng dường kinh điển thì chúng con cũng sẽ cung kính cúng dường họ như Phật không khác. Tán rằng: Hộ trì người cúng dường. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Phật bảo Đại Phạm Thiên vương và các Phạm chúng cho đến tứ Thiên vương cùng các Dược-xoa v.v… rằng: Lành thay! lành thay! Các người được nghe pháp mầu sâu xa vô cùng tận. Tán rằng: Tiếp theo là Đức Phật khen ngợi thọ ký, có bốn: Khen ngợi nghe pháp. Khen ngợi hộ pháp. Khen ngợi được phước. Thọ ký cho. Đây là mở đầu. Văn kinh: Lại nên đối với kinh vương nhiệm mầu này phát tâm ủng hộ, và người trì kinh sẽ được vô biên phước đức cao siêu, mau thành tựu Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề. Tán rằng: Khen ngợi ba việc như hộ pháp… Văn kinh: Lúc ấy, Phạm vương cùng tất cả đại chúng nghe Đức Phật nói lời này xong vô cùng vui mừng cung kính thọ trì. Tiếp theo là thứ tư, các vị trời cùng tất cả đại chúng vui mừng thọ nhận.  <卷>QUYỂN 5 (Phần 1) <詞>Phẩm 11: TỨ THIÊN VƯƠNG QUÁN SÁT NHÂN THIÊN Phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát Nhân Thiên có chia ra ba phần: Lý do có phẩm này. Giải thích ên gọi. Giải thích chướng ngại. Nói về lý do có phẩm này: Chín phẩm trên đây nói về Chánh tông của kinh và lợi ích cho chúng hội của kinh, từ đây về sau hai mươi mốt phẩm đều là phần lưu thông lợi ích kỳ cuối cùng. Trong phần Chánh tông có ba thứ là quả, hạnh, cảnh; trong phần Lưu thông này cũng có ba thứ: Mười sáu phẩm đầu là học hạnh lưu thông, bốn phẩm tán thán từ Mười nữ Bồ-tát… là tán thán lưu thông, một phẩm Phú Chúc là trao gởi lưu thông. Đầu tiên trong phần học hạnh có chia làm năm: Phẩm quán sát là khuyến khích tu hành. Ba phẩm: Tứ Thiên Vương, Vô Nhiễm Trước, Như Ý là nói về hộ trì. Năm phẩm Đại Biện Tài, Cát Tường Nữ Tăng Trưởng Tài, Kiên Lao Địa Thần, Chánh Liễu Tri là nói về thêm lớn phước đức. Ba phẩm Vương Pháp Chánh Luận, Thiện Sinh Vương, Chư Thiên Dược-xoa Hộ Trì chính là nói về trì học. Bốn phẩm như Thọ Ký v.v… là thành tựu ý khuyến khích ở trước. Các Đức Phật nói pháp giúp cho chúng sinh được lợi lạc, tuổi thọ của ba thân là quả lợi lạc, sám hối diệt trừ tội chứng… là nhân lợi lạc. Hai là pháp học phải thực hành, ý hành là nói về người năng học, đã từ pháp thù thắng thành tựu con người thù thắng đó, lại do con người mới có thể mở mang chánh pháp, tiếp theo là khen ngợi con người và khen ngợi pháp. Nói về khen ngợi đã giao phó hoàn bị việc trao truyền học tập. Nhưng trong phần Chánh tông đã trình bày xong quả lợi lạc và nhân lợi lạc, nay phẩm Quán Sát Nhân Thiên này giúp cho dứt trừ tội chứng phiền não nên thường được an vui; khuyến khích nên mở rộng kinh này, do đó phẩm này phát sinh. Giải thích tên gọi: quán nghóa là trí tuệ soi chiếu, sát nghóa là xem xét. Trời, người sở quán, tứ Thiên vương là năng quán, đây tức là nhân pháp đối số (người, pháp mang số) làm tên gọi. Phẩm này nói nhiều về việc đó, cho nên gọi là phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát Nhân Thiên. Về giải trừ chướng nạn. Hỏi: Kinh nói: “Quán sát ủng hộ châu Thiệm-bộ này các vương chúng con gọi là Hộ thế.” Người năng hành bao gồm cả ba châu và các tầng trời cõi Dục, cõi Sắc, vì sao chỉ quán sát khuyến khích riêng châu này? áp: Y cứ vào nơi cư trú của Phật mà nói là quán ở đây, thật ra bao gồm cả những nơi khác. Lại nữa, các sự khổ còn lại nơi ba châu và các tầng trời cõi Dục, cõi Sắc đã ít nhàm chán mà tuệ không mạnh, đường ác tuy khổ mà không thắng được tuệ tâm, mới phát tâm thì cần phải vô cùng chán ngán, trí tuệ mạnh mẽ, thế nên chỉ nói quán sát châu Thiệm- bộ. Hỏi: Cảnh giới Tứ Thiên hộ trì đều có bờ mé ranh giới, vì sao Tứ Vương đều nói hộ trì nơi này? Đáp: Căn cứ vào cảnh giới thế tục thì mỗi vị đều hộ trì một châu, kính pháp trọng người nên cùng hộ trì nơi này. Lại cảnh giới cư trú tuy mỗi vị đều ở một phương, nhưng thâu nhiếp các rồng quỷ cung chung làm hộ trì bốn phương, căn cứ vào sự hộ trì thắng pháp nên chỉ nói quán sát nơi này. Hỏi: Phẩm này và phẩm sau đều là tứ Thiên vương thì hai phẩm khác nhau chỗ nào? Đáp: Phẩm này là Tứ thiên vương khen ngợi khuyến khích tu hành kinh này nên phát nguyện hộ trì, phẩm sau là Đức Thế Tôn khen ngợi khiến cho khắp nơi phát nguyện hộ trì, vì vậy hai phẩm khác nhau. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Thiên vương Đa văn, Thiên vương Trì quốc, Thiên vương Tăng trưởng, Thiên vương Quảng mục đều đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính hướng về Đức Phật, lễ dưới chân Phật rồi. Tán rằng: Toàn văn phẩm này chia làm bốn phần: Tứ Thiên vương khen ngợi kinh tôn quý cao siêu. Từ “Thế Tôn! Tứ Thiên vương chúng con…” về sau là tứ Thiên vương nói rõ sự tu hành của mình. Từ “Lại nữa, ở trong châu này…” về sau tứ Thiên vương khuyến khích người mở mang kinh. Từ “Đại chúng nghe xong…” về sau là chúng hội đương thời y giáo tu học. Văn phần đầu có bốn: Tứ Thiên vương chí thành cung kính. Khen ngợi pháp là tôn quý. Nêu bày năng lực của kinh. Thỉnh cầu Phật thường giảng nói. Đây là mở đầu. Đầu tiên nêu ra bốn tên gọi: Trì quốc, Tăng trưởng, Quảng mục và Đa văn, lần lượt thống lónh cai quản bốn phương Đông, Nam, Tây, Bắc, phần lớn đều ở tầng thứ tư trên núi Diệu cao, cũng có lúc lại cư trú trên đỉnh núi Trì song. Nay ở đây trước tiên nêu tên Đa văn vương là vì sự tin sâu đó nên có tên gọi thù thắng. Trì quốc vương thống lónh Kiện-đạt-phược Tất-xá-già; Tăng trưởng vương thống lónh Cưu-bàn-trà Bế-lệ-đa; Quảng mục vương thống lónh tất cả các rồng và Bố-đán-na; Đa văn vương thống lónh tất cả Dược-xoa và La-sát-bà. Sau là chí thành cung kính. Văn kinh: Bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này là nơi tất cả các Đức Phật thường nghó nhớ quán sát, tất cả Bồ-tát đều cung kính, tất cả trời rồng thường cúng dường và các chúng trời thường sinh tâm vui mừng, tất cả các vị hộ trì thế gian xưng dương khen ngợi, các vị Thanh văn, Duyên giác đều cùng nhau thọ trì. Tán rằng: Khen ngợi pháp là tôn quý, tất cả các Đức Phật đều hộ trì nghó nhớ tức là sự hộ niệm của Phật. Tất cả hàng Đại thừa căn phẩm thành thục vì nói kinh này. Tất cả Bồ-tát về sau hiển bày sự cung kính tôn trọng đối với Thánh giáo. Văn kinh: Đều có thể chiếu sáng cung điện các tầng trời, thường ban cho tất cả các chúng sinh sự an vui tốt đẹp, chấm dứt khổ não của các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh , tất cả sự sợ hãi đều được dứt sạch, tất cả kẻ thù đối địch tìm đến liền thối lui tan rã, lúc mất mùa đói kém khó khăn đều khiến cho mùa màng bội thu, tật dịch bệnh khổ đều khiến cho trừ khỏi, tất cả các tai biến trăm ngàn khổ não thảy đều dứt trừ. Tiếp theo là nêu bày năng lực của kinh. Đầu tiên là ban niềm vui cho trời người, từ “chấm dứt…” trở xuống là dứt trừ sáu khổ: Chấm dứt khổ bốn đường ác. Chấm dứt năm khổ sợ hãi. Chấm dứt khổ đao binh. Chấm dứt khổ đói kém. Chấm dứt khổ dịch bệnh. Chấm dứt khổ tai biến. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này có công năng làm cho chúng con thêm nhiều lợi lạc yên ổn như vậy. Tiếp theo là thỉnh cầu Phật thường giảng nói. Đầu tiên là nhắc lại công năng thù thắng trước đây, để làm lý do thỉnh cầu giảng nói. Yên ổn là nói chung, lợi lạc là ban cho vui sướng, nhiêu ích là chấm dứt khổ đau. Văn kinh: Cúi mong Đức Thế Tôn ở trong đại chúng, giảng nói rộng, tứ Thiên vương chúng con cùng các quyến thuộc nghe pháp vị cam lộ vô thượng này thì khí lực đầy đủ, tăng thêm uy quang, tinh tiến mạnh mẽ, thần thông hơn hẳn bội phần. Tiếp theo chính là thỉnh cầu thường giảng nói. Đầu tiên là thỉnh cầu giảng nói; từ “Tứ Thiên Vương chúng con…” về sau là nói về lợi ích. Văn kinh: Bạch Thế Tôn! Tứ Thiên Vương chúng con tu hành chánh pháp, thường nói chánh pháp, dùng chánh pháp hóa độ thế gian, chúng con khiến trời rồng Dược-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Yết- lộ-trà, Câu-bàn-trà, Khẩn-na-la, Mạc-hô-la-già và các vua cõi người thường dùng vương pháp mà cảm hóa thế gian, ngăn chặn dứt bỏ các điều ác, tất cả quỷ thần hút tinh khí con người và những người không có tâm Từ bi đều khiến lìa xa. Bạch Đức Thế Tôn! Tứ Thiên Vương chúng con cùng với hai mươi tám bộ Dược-xoa đại tướng và cùng vô lượng trăm ngàn Dược-xoa dùng thiên nhãn thanh tịnh vượt xa người thế gian, quán sát ủng hộ châu Thiệm-bộ này. Bạch Đức Thế Tôn! Vì nhân duyên này mà các vương chúng con được gọi là người hộ trì thế gian. Tiếp theo là nói rõ sự tu hành của mình, có bốn: Vương tự mình chân chính hóa độ thường tự mình mở mang truyền bá kinh pháp. “Chúng con khiến họ…” về sau là các cận thần giúp đỡ thuận theo đồng tu chánh hạnh. ác. “Ngăn chặn dứt bỏ…” về sau là vương pháp có công năng dứt “Bạch Đức Thế Tôn…” về sau là nói rõ vương có được tên gọi. Mục đích là nói do mở mang chánh pháp để hóa độ chúng sinh gọi là hạnh không luống dối, nên gọi là Hộ thế. Hai mươi tám bộ, như kinh Khổng Tước Vương có chép: “Bốn phương đều có bốn thứ, bốn hướng phụ thuộc đều có một loại, trên dưới đều có bốn loại, thành ra hai mươi tám bộ.” Dùng thiên nhãn thanh tịnh chẳng phải là do tu mà sinh ra, đây là Báo thân đạt được, cho nên thường hơn hẳn loài người. Văn kinh: Lại nữa, ở trong châu này nếu có vị vua nào bị kẻ thù giặc giã nơi khác thường đến xâm phạm, quấy rối và thường bị đói kém tật dịch lây lan, vô lượng trăm ngàn sự việc tai biến. Tán rằng: Thứ ba là khuyến khích người mở mang kinh, có ba: Thấy thế gian tai nạn phát sinh. Khuyến khích mở mang kinh để đối trị. Khiến cho vua cõi người bảo vệ đất nước, cung kính tôn trọng tu hành. Phần đầu thấy tai nạn phát sinh. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Tứ Thiên vương chúng con cung kính cúng dường đối với kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, nếu Tỳ-kheo Pháp sư nào thọ trì đọc tụng thì Tứ Thiên Vương chúng con cùng nhau hướng đến giác ngộ, khuyến thỉnh người đó, lập tức vị Pháp sư ấy do năng lực thần thông giác ngộ của chúng con nên đến cõi nước ấy giảng rộng truyền bá khắp nơi kinh Kim Quang nhiệm mầu này, do năng lực của kinh nên khiến cho vô lượng trăm ngàn sự việc suy kém khổ não tai ách kia thảy đều dứt sạch. Tiếp theo là mở mang kinh để đối trị, có bốn: Nêu ra năng lực dứt trừ của pháp. “Nếu có…” về sau là khuyến khích người truyền bá. “Lập tức vị Pháp sư ấy…” về sau chính là mở rộng kinh này. “Nhờ năng lực của kinh…” về sau là dứt tai họa được an vui. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu các vị vua cõi người ở trong nước của mình lúc có vị Tỳ-kheo Pháp sư trì kinh này đến nước đó thì nên biết rằng kinh này cũng đến nước đó. Tiếp theo khiến cho vị vua cõi người bảo vệ đất nước, cung kính tôn trọng tu hành, có hai: Người có đức đến nước ấy. Khiến cho nhà vua cung kính tôn trọng. Người có khả năng mở mang đạo pháp, người đến thì pháp thuận theo, chẳng phải đạo có khả năng mở mang người, không có người thì pháp hoại diệt, pháp đã mở mang ích lợi, vì vậy cần phải cung kính tôn trọng người thọ trì. Đây là mở đầu. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Bấy giờ, vị vua nước đó nên đến chỗ Pháp sư lắng nghe những điều pháp sư nói, nghe xong vui mừng, cung kính cúng dường đối với vị Pháp sư đó, tâm sâu xa ủng hộ khiến cho không có lo buồn, giảng nói kinh này lợi ích cho tất cả. Bạch Đức Thế Tôn! Vì nhân duyên này cho nên tứ Thiên vương chúng con đều cùng nhau nhất tâm che chở vua cõi người và nhân dân nước này, kh- iến cho lìa khỏi tai họa và thường được yên ổn. Tiếp theo là khiến cho nhà vua cung kính tôn trọng, có ba: Đầu là khuyến khích đến nghe để dứt trừ tai họa; tiếp đến là khuyến khích cung cấp được anvui; sau cùng khuyến khích những người khác phụ theo cung kính tôn trọng. Văn phần đầu có năm: Khiến tôn trọng pháp, đến nghe. Khiến cho nghe xong vui mừng. “Cung kính cúng dường đối với vị pháp sư đó…” trở xuống là dạy phải cung kính cúng dường bảo vệ. “Giảng nói kinh này…” trở xuống là khiến cho giảng nói giáo pháp lợi ích mọi người. “Vì nhân duyên này…” trở xuống là tứ Thiên vương vì đó dứt trừ tai nạn. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ổ- ba-sách-ca, Ổ-ba-tư-ca nào trì kinh này, thì vị vua cõi người đó tùy theo nhu cầu của họ mà cung cấp cúng dường giúp cho họ không hề thiếu thốn, tứ Thiên vương chúng con khiến cho vua nước đó cùng tất cả dân chúng thảy đều yên ổn, tránh khỏi các tai họa. Tiếp theo là khuyến khích cung cấp được an vui, có ba: Đầu là nói về người thực hành pháp, tiếp đến từ “Bấy giờ vị vua cõi người…” về sau là khiến cung cấp, sau từ “Tứ Thiên vương chúng con…” về sau là nói đến vua và thần dân được an vui. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người nào thọ trì đọc tụng kinh điển này, vua cõi người đối với người này cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen thì chúng con sẽ khiến cho vị vua đó được cung kính tôn trọng bậc nhất trong các vị vua, các vị vua nước khác cùng nhau xưng tụng ngợi khen. Tiếp theo là khuyến khích những người khác phụ theo cung kính tôn trọng, có bốn: Nêu ra người được kính trọng. “Vua cõi người đối với người này…” về sau là khuyến khích nên cung kính ngợi khen. “Chúng con sẽ khiến cho vị vua đó…” về sau là nói sự cung kính, ngợi khen. “Chúng con sẽ khiến cho vị vua đó…” về sau là nói người cung kính, được người khác phụ theo tôn trọng. Văn kinh: Đại chúng nghe xong khen ngợi vui mừng thọ trì. Tiếp theo là phần thứ tư chúng hội đương thời nương theo giáo pháp tu học.  KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH SỚ <卷>QUYỂN 5 (Phần 2) <詞>Phẩm 12: TỨ THIÊN VƯƠNG HỘ QUỐC Phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc chia làm ba phần: Lý do có phẩm này. Giải thích. Giải thích chướng ngại. Nói về lý do có phẩm này: Phẩm trước khen ngợi kinh điển cao siêu mầu nhiệm khuyến khích mọi người mở mang thọ trì, ba phẩm tiếp theo đây nói kinh đáng tôn trọng, người thực hành được hộ trì, một phẩm đầu là Thiên vương hộ trì, hai phẩm sau là thần chú hộ trì. Lại nữa, phẩm trước Tứ Thiên Vương khuyến khích mọi người, phẩm này nguyện tự mình hộ trì, phẩm trước khiến cho mọi người thực hành hai lợi, phẩm này nói về tự mình thực hành hai lợi; phẩm trước tự ý mình khuyến khích thọ trì, phẩm này Đức Phật khuyến khích hộ trì rộng rãi. Cho nên sau phẩm trước có phẩm này phát sinh. Giải thích tên gọi, thần thông công dụng tự tại sáng ngời gọi là Thiên, các vị trời quy về gọi là thống lãnh thâu nhiếp gọi là vương, vương của Thiên nên gọi là Y só. Phương hướng thành trì khác nhau nên sự thống lãnh chia làm bốn, lại mang số danh. Hộ nghóa là phòng ngự thâu nhiếp nuôi dưỡng, phòng ngự cho người khác, trừ diệt các tai nạn, thâu nhiếp nuôi lớn phước tuệ của họ. Tứ Thiên là năng hộ, quốc là sở hộ, năng sở hợp lại mà gọi. Đây là nói rộng về tên gọi của phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc ấy. Giải trừ chướng ngại. Hỏi: Phẩm này hộ trì cũng bao gồm vua cõi người và các chúng trời khác, vì sao chỉ nói rằng tứ Thiên vương hộ quốc? Đáp: Vua cõi người thực hành pháp hộ quốc nhờ tứ Thiên vương ấy, các thần chúng khác là bề tôi của tứ Thiên vương cho nên chỉ nói tứ Thiên vương hộ quốc. Hỏi: Tứ Thiên vương thực hành pháp hộ trì tức là hộ trì con người, sao lại gọi là hộ quốc? Đáp: Con người là gốc của đất nước, như nói hữu tình gọi là cõi Phật, do đó tuy hộ trì con người nhưng gọi là hộ trì quốc. Hỏi: Thánh chúng ba thừa, các trời Thích Phạm thấy người thực hành pháp đều nên bảo vệ hộ trì, vì sao chỉ nói tứ Thiên vương hộ quốc? Đáp: Lý lẽ ra đều có, nhưng nói về người nên nghe. Lại nữa, tứ Thiên vương là nêu ra tên gọi, hộ trì thế gian là bày rõ sự phù hợp với nhau giữa tên gọi và hành động. Vì vậy nêu ra tứ Thiên vương mà không nói đến sự che chở nào khác. Hỏi: Trời người cung kính tôn trọng, bốn chúng mở mang, kinh pháp cũng là che chở chánh pháp, vì sao chỉ nói đến tứ Thiên vương hộ quốc? Đáp: Hộ pháp mục đích là lợi ích mọi vật, pháp tồn tại có công năng làm cho đất nước bình an, vì nêu bật sự lợi tha đại bi nên chỉ nói là hộ quốc, chẳng phải là pháp. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nghe tứ Thiên vương cung kính cúng dường kinh Kim Quang Minh và sẽ ủng hộ những người trì kinh, nên khen ngợi rằng: Lành thay! Lành thay! Tán rằng: Ngay trong phần này toàn văn chia làm sáu đoạn: 1. Thế Tôn khen ngợi dạy tu. 2 Tứ Thiên vương vâng theo lời dạy phát nguyện che chở. “Lúc Tứ Thiên vương…” trở xuống là Tứ Thiên vương đội ân, khen ngợi Đức Phật. Đức Phật lại khuyến khích che chở kết thành. “Nghe bài tụng này…” trở xuống là tứ Thiên vương mừng vui che chở. Đại chúng nghe kinh được lợi ích. Đoạn đầu chia làm hai: Ở đầu khen ngợi thành tựu, sau là khuyến khích che chở. Trong phần khen ngợi, đầu tiên là khen ngợi chung, tiếp đó là khen ngợi riêng. Đây là khen ngợi chung: Khen ngợi hộ pháp, khen ngợi hộ nhân. Lại nữa: Khen ngợi khuyến khích người khác; khen ngợi tự mình hộ trì. Lại tiếp: Khen ngợi nhân lành đời trước, khen ngợi ngày nay che chở người, pháp, vì vậy lặp lại rằng lành thay, lành thay. Văn kinh: Tứ Thiên vương các ông đã ở nơi vô lượng trăm ngàn muôn ức Phật quá khứ, cung kính cúng dường tôn trọng khen ngợi, trồng các gốc lành, tu hành chánh pháp, thường giảng nói chánh pháp, dùng chánh pháp cảm hóa thế gian. Tán rằng: Khen ngợi riêng, ở đầu khen ngợi phước nghiệp; tiếp theo tu hành chánh pháp v.v… là khen ngợi về trí nghiệp, sau từ “Các ông luôn luôn…” trở xuống là khen ngợi về bi nghiệp. Đây là hai phần đầu, ở chỗ các Đức Phật tu hành ba nghiệp, cúng dường cung kính là thân nghiệp, tôn trọng là ý nghiệp, khen ngợi là ngữ nghiệp. Căn cứ theo kinh Nhân Vương Bát-nhã: “Nhờ một tăng-kỳ cúng dường các Đức Phật đạt đến Sơ địa, làm Tứ Thiên Vương.” Văn kinh: Các ông sống trong đêm dài vô minh đối với các chúng sinh, thường nghó đến lợi ích, khởi tâm đại Bi, nguyện đem lại an vui, nhờ nhân duyên này khiến cho các ông ở đời hiện tại được phước báo cao quý. Tán rằng: Thực hành bi nghiệp, ở đầu là khen ngợi, từ “Vì nhân duyên này…” về sau là kết thúc. Văn kinh: Nếu có vị vua cõi người nào cung kính cúng dường kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này thì các ông phải cố gắng hộ trì, khiến cho họ được yên ổn. Tứ Thiên vương các ông và các quyến thuộc khác cùng vô lượng vô số trăm ngàn Dược-xoa hộ trì kinh này, ấy là hộ trì chánh pháp của các Đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Tứ Thiên vương các ông và các chúng trời khác cùng các Dược-xoa lúc chiến đấu với A-tu-la thường được thắng lợi. Các ông thường hộ trì kinh này thì nhờ năng lực của kinh cho nên có khả năng dứt trừ các khổ đau và oán thù giặc giã, mất mùa đói kém và các tật dịch. Vì thế nên nếu các ông thấy bốn chúng có ai thọ trì đọc tụng kinh vương này thì cũng cần dốc lòng cùng nhau che chở để dứt trừ sự suy hao khổ não, mang lại sự an vui cho họ. Tán rằng: Khuyến khích hộ trì, có ba: Đầu tiên là khuyến khích che chở vua cõi người; tiếp từ “Tứ Thiên vương các ông…” trở xuống là khuyến khích che chở chánh pháp; tiếp đến “Vì thế cho nên…” trở xuống là khuyến khích che chở người trì kinh trong bốn chúng. Trong phần khuyến khích che chở chánh pháp, ở đầu là hộ trì pháp, tiếp “Tứ Thiên Vương các ông và các chúng trời khác…” trở xuống là nói về lợi ích che chở giữ gìn. Trong phần lợi ích che chở giữ gìn pháp, ở đầu là hàng phục oán thù, tự mình thắng lợi; tiếp đến “Nếu thường các ông…” trở xuống là dứt trừ ba tai nạn cho mọi người: Oán thù giặc giã. Mất mùa đói kém. Tật bệnh. Về hộ trì bốn chúng y theo văn có thể biết. Văn kinh: Lúc ấy, tứ Thiên vương liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương ở đời vị lai, nếu có cõi nước, thành ấp, xóm làng, núi rừng, nơi hoang vắng, hễ truyền bá đến nơi nào. Tán rằng: Thứ hai, tứ Thiên vương vâng theo lời dạy phát nguyện hộ trì, có hai: Đầu tiên là nguyện đem thân hộ pháp, tiếp đến “Bấy giờ Thế Tôn lại bảo Tứ Thiên Vương…” trở xuống là nguyện dùng thần chú hộ trì. Trong phần nguyện đem thân hộ pháp có hai: Đầu tiên là nguyện đem thân hộ trì người, tiếp đó “Lúc ấy, tứ Thiên vương…” trở xuống là nguyện đem thân hộ trì pháp. Pháp nhờ con người mà được mở mang giảng nói, do vậy trước tiên phải hộ trì con người. Con người từ nơi pháp mà thành tựu công đức, tiếp phải hộ trì pháp. Trong hộ trì con người cũng hộ trì pháp, ý nói hộ trì con người cho nên khen ngợi hộ trì pháp. Hoặc có thể, đầu tiên là nguyện cùng hộ trì con người và pháp; sau lại so sánh, khuyến khích hộ trì pháp, pháp là thầy của Phật cho nên lại khuyến khích, vả lại y cứ vào sự giải thích ban đầu thì hộ trì con người chia làm bốn: Tứ Thiên vương nguyện hộ trì. “Bấy giờ, Đức Phật bảo…” về sau là Thế Tôn khen ngợi thành tựu. “Lúc ấy, Tứ Thiên vương…” về sau là chỉ dạy nghi thức mở rộng pháp cho vua cõi người. “Lúc ấy, tứ Thiên vương…” về sau là nói về vua cõi người nương theo pháp tu hành được hộ trì. Đầu tiên nguyện hộ trì có hai: Nêu ra nguyện hộ trì. “Từ Bạch Đức Thế Tôn! Nếu vị vua kia…” về sau chính là nguyện hộ trì. Trong phần nêu ra, nguyện hộ trì nghi tắc, nói về hộ trì pháp, nói về thời gian hộ trì pháp, nói về nơi hộ trì pháp, nói về người được hộ trì, nói về tướng ủng hộ. Đây là bốn phần đầu. Văn kinh: Nếu vị vua kia đối với kinh điển này dốc lòng lắng nghe, thọ nhận khen ngợi cúng dường, lại cung cấp bốn bộ chúng thọ trì kinh này, hết lòng ủng hộ khiến cho xa lìa suy hao bức não. Tiếp theo nói về người được hộ trì, đầu tiên nói về người được hộ trì, tiếp “Đối với kinh điển này…” trở xuống là nói về lý do hộ trì. Văn kinh: Vì nhân duyên này, con hộ trì vị vua đó và tất cả dân chúng đều được an ổn lìa xa ưu não khổ đau, tăng thêm thọ mạng, uy đức đầy đủ. Tiếp theo nói về tướng ủng hộ. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu vị vua kia thấy trong bốn chúng có người thọ trì kinh thì cung kính hộ trì giống như cha mẹ, tất cả mọi nhu cầu đều cung cấp. Tán rằng: Chánh thức nguyện hộ trì, có ba: Người được hộ trì. “Thấy trong bốn chúng…” về sau là nói về lý do được hộ trì. “Tứ Thiên vương chúng con… về sau là nói rộng về tướng hộ trì. Trong lý do được hộ trì có hai: Nói về vị vua gặp được duyên tốt. “Cung kính…” về sau là nói về chánh tu thắng hạnh. Văn kinh: Tứ Thiên Vương chúng con thường hộ trì, khiến cho các hữu tình thảy đều tôn kính. Thế nên chúng con cùng vô lượng các thần Dược-xoa, tùy theo kinh vương này lưu truyền đến đâu cũng đều ẩn thân ủng hộ, làm cho không còn các tai nạn. Tán rằng: Nói rộng về tướng hộ trì, đầu tiên là hộ trì pháp, sau là hộ trì con người. Đây là hộ trì pháp, làm cho người khác tôn kính pháp thì tự mình phải tôn kính, nếu tự bản thân không thực hành thì làm sao khuyến khích người khác. Thế nên chúng con ẩn hình hộ trì kinh này. Văn kinh: Cũng sẽ hộ trì người nghe kinh này và các vị vua v.v… để dứt trừ sự suy hao tai họa đều khiến cho yên ổn, oán thù giặc giã ở phương khác đến đều làm cho tan rã. Tán rằng: Sau là hộ trì con người, có hai: Đầu tiên là niêu ra sự hộ trì, tiếp theo. Nếu có vị vua cõi người… về sau là lại hộ trì con người. Đây là mở đầu. Văn kinh: Nếu có vị vua cõi người lắng nghe kinh này thì khi các nước ở gần oán thù đối địch phát binh, nghó như vậy sẽ có đầy đủ bốn thứ quân binh phá tan cõi nước kia. Tán rằng: Tiếp tục hộ trì con người, có bốn: Các nước ở gần đối địch có tâm niệm dấy binh. Nhờ uy lực của kinh khiến quân lính kia tự nhiên thua trận. Vị vua này truyền lệnh tướng lónh dẫn quân thảo phạt. Thần chúng giúp đỡ làm cho quân kia quy hàng. Đây là mở đầu. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Nhờ năng lực uy thần của kinh vương này cho nên lúc ấy các nước ở gần lại có oán thù khác đến xâm hại quấy nhiễu họ, ở nơi lãnh thổ đó có nhiều các tai biến tật bệnh tràn lan khắp nơi. Tiếp theo là thứ hai, quân kia thua trận có hai lý do: Giặc khác đến xâm lăng, có chuông trống từng ngày xâm nhập. Lãnh thổ của mình có nhiều tai họa dịch bệnh. Văn kinh: Bấy giờ, vua thấy rồi liền chuẩn bị bốn thứ quân binh xuất phát hướng về nước kia muốn thực hiện cuộc thảo phạt. Tiếp theo là thứ ba, truyền lệnh tướng lónh dẫn quân thảo phạt. Thảo là trừ diệt, là giết chết. Phạt là đánh giặc, là thất bại. Ý muốn đối phương bị thất bại, bị trừ diệt. Nay kinh nói là phạt (hình phạt), văn nói kẻ có tội nhỏ gọi là phạt, Quảng Nhã nói phạt là thuyết phục. Nay đã dấy binh thì nên dùng chữ phạt. Hoặc kẻ kia chỉ dấy lên ý nghó mà chưa tập trung binh lực, vị vua này phát khởi binh tướng muốn trị tội làm cho kẻ ấy khuất phục, vì thế gọi là phạt. Văn kinh: Lúc ấy chúng con sẽ cùng quyến thuộc và vô lượng vô biên các thần Dược-xoa đều tự ẩn hình để thực hiện hỗ trợ, khiến cho kẻ thù đối địch kia tự nhiên hàng phục, không còn dám đến cõi nước đó, đâu có thể còn dám đánh nhau? Tiếp theo là thứ tư, thần chúng giúp đỡ làm cho quân kia quy hàng, có hai: Ý nghó dấy lên liền bị hàng phục. “Không còn dám đến…” về sau là không bao giờ còn chinh phạt lẫn nhau. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Phật bảo tứ Thiên vương: Lành thay! Lành thay! Tứ Thiên vương các ông có khả năng ủng hộ kinh điển như vậy. Tán rằng: Trong phần hộ trì con người, phần thứ hai là Đức Thế Tôn khen ngợi thành tựu, có ba: Khen ngợi các vị trời hộ trì pháp. Khen ngợi pháp khó được nghe. Nói về mở mang kinh được lợi ích. Đây là mở đầu. Văn kinh: Ta trong trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp quá khứ tu hành các khổ hạnh, đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, chứng được trí Nhất thiết, nay giảng nói pháp này. Tiếp theo là khen ngợi pháp khó được nghe. Nhiều kiếp tu hành mới được thành Phật, thành Phật đã lâu đến nay mới nói kinh này, cho nên khó được nghe. Văn kinh: Nếu có vị vua cõi người nào thọ trì kinh, cung kính cúng dường thì vị ấy dứt trừ được họa hoạn suy hao khiến cho yên ổn, cũng trở lại ủng hộ thành ấp, xóm làng, cho đến kẻ thù giặc giã đều khiến cho rút lui tan rã, cũng khiến cho tất cả các vị vua vốn có trong châu Thiệm-bộ mãi mãi không có các sự suy hao buồn lo tranh đấu. Tán rằng: Mở mang kinh được lợi ích, có hai: Nói về hiện tại mở mang kinh được lợi ích. “Đại vương nếu cầu đời sau… trở xuống là nói về vị lai mở mang kinh được lợi ích. Trong phần một chỉ nói vua cõi người tự nghe, văn sau đồng thời khuyến khích cúng dường người trì kinh. Hiện tại Phật tự mở mang kinh không nhờ vào tha lực, đời vị lai người khác trì tụng cần được vua che chở. Thầy trò khác nhau cho nên ở đây nói về lợi ích hiện tại: Đầu là nhà vua được lợi ích, sau là người được lợi ích. Trong phần nhà vua được lợi ích: Đầu tiên là nói về nhà vua thực hành hạnh, sau “Trừ được diệt họa hoạn suy hao…” trở xuống là nói về lợi ích đạt được. Trong ích lợi đạt được: Đầu tiên là chung, sau là nói riêng. Trong phần nói chung có hai: Đầu nêu ra một, sau “Cũng khiến…” trở xuống là những lợi ích khác. Trong phần nêu ra một, có bốn: Trừ diệt suy hao. Đạt được lợi ích. Được che chở. Không có kẻ thù. Văn kinh: Tứ Thiên vương nên biết rằng châu Thiệm-bộ này có tám mươi bốn ngàn thành ấp tụ lạc, tám mươi bốn ngàn các vị vua cõi người, họ đều ở nơi đất nước của mình thọ hưởng các điều vui sướng, đều được tự tại, thọ dụng đầy đủ, tài bảo vốn có, không xâm phạm chiếm đoạt lẫn nhau, tùy theo túc nhân của mình mà thọ nhận phước báo đó, không khởi niệm ác tham cầu của nước khác, đều sinh tâm ít muốn và lợi lạc, không có các nỗi khổ đấu tranh đeo đuổi buộc ràng. Tiếp theo là lợi ích đạt được riêng, có mười: Đạt được cảnh lợi ích. Đạt được quả lợi ích. Thọ nhận an vui. Tài bảo dồi dào. Không chiếm đoạt lẫn nhau. Thuận theo túc nghiệp. Không tỏ vẻ tham lam. Đều ít ham muốn. Không có kẻ thù đối địch. Không có các khổ đau. Căn cứ theo phần đạt được lợi ích thì đầu tiên là nói chung, sau là nói riêng. Đây là nói chung. Văn kinh: Nhân dân cõi đó an vui tự nhiên, trên dưới hòa thuận như nước với sữa, tình cảm thương yêu tôn trọng lẫn nhau, vui vẻ trong cuộc sống, Từ bi khiêm nhượng, nuôi lớn gốc lành. Tiếp theo là lợi ích của dân chúng. Đầu tiên là thực hành hạnh. Văn kinh: Vì nhân duyên đó nên châu Thiệm-bộ này an ổn, giàu có vui vẻ, nhân dân đông đúc, đại địa phì nhiêu, nóng lạnh điều hòa, thời tiết không trái thứ lớp, mặt trăng, mặt trời và các tinh tú khác thường có mặt không hề thiếu vắng, mưa gió thuận theo thời tiết, lìa hẳn các tai nạn bất ngờ, tài sản châu báu thảy đều đầy đủ, tâm không tham lẫn tính toán, thường thực hành ban ân bố thí, đầy đủ mười nghiệp lành, nếu người mạng chung phần nhiều sinh về cõi trời, chúng cõi trời tăng thêm. Tiếp theo là nói về lợi ích. Đầu tiên là lợi ích đạt được hiện tại, có mười một thứ: Không có binh đao nên được an ổn. Đầy đủ ngũ cốc nên giàu có vui vẻ. Người vật dồi dào, đông đúc. Đất đai rộng rãi phì nhiêu. Bốn mùa thuận theo thứ lớp. Mặt trời, mặt trăng, các sao y theo hạn kỳ. Mưa gió thuận theo thời tiết. Không có các tai họa bất ngờ. Tài sản dồi dào đầy đủ. Không tham lam mà ưa bố thí. Thường thực hành mười điều lành. “Nếu người mạng chung…” trở xuống là lợi ích sau khi chết. Văn kinh: Này Đại vương! Nếu đời vị lai có các vị vua cõi người lắng nghe thọ nhận kinh này, cung kính cúng dường, đồng thời tôn trọng khen ngợi bốn bộ chúng thọ trì kinh, lại muốn an vui hơn thêm cho các ông và các quyến thuộc cùng vô lượng trăm ngàn các chúng Dược xoa, vì thế cho nên vị vua kia thường nên lắng nghe thọ nhận kinh vương nhiệm mầu này. Do được nghe mùi vị tối thượng từ nước cam lộ của chánh pháp này nên thân tâm các ông càng tăng thêm thế lực, tinh thần mạnh mẽ, phước đức uy quang thảy đều đầy đủ. Các vị vua cõi người này nếu có thể dốc lòng lắng nghe thọ nhận kinh này tức là cúng dường rộng lớn ít có, cúng dường đối với ta, Đức Thích-ca Mâu-ni Ứng Chánh Đẳng Giác. Nếu cúng dường ta tức là cúng dường trăm ngàn câu-chi na-do-tha Đức Phật ở quá khứ, hiện tại và vị lai. Nếu cúng dường các Đức Phật ba đời thì được vô lượng nhóm công đức không thể suy nghó bàn luận. Tán rằng: Nói về lợi ích vị lai, có hai: Đầu tiên là thực hành hạnh tốt; sau từ “Do được nghe…” về sau là thành tựu nhân tốt. Nhân tốt có hai: Đầu tiên là thêm thế lực của các vị trời, sau là để cúng dường Phật. Trong cúng dường Phật, đầu tiên là nói về chánh hạnh cúng dường, từ “Có thể cúng dường…” về sau là nói đến đạt được nhóm phước lớn khuyến khích thành tựu mở mang kinh này. Văn kinh: Vì nhân duyên này các ông nên ủng hộ vị vua đó cùng hậu phi quyến thuộc, khiến cho không còn suy hao buồn lo và cung điện nhà cửa thường được an vui, công đức khó suy nghó; các cõi nước này tất cả nhân dân đều thọ hưởng niềm vui, đầy đủ các thứ ngũ cốc, tất cả việc ác đều làm cho dứt trừ. Tiếp theo là nói về mở mang kinh được lợi ích, có hai: Tứ Thiên vương hộ vệ quyến thuộc. “Các cõi nước này…” về sau là đất nước thọ phước, nhân dân an vui. Văn kinh: Bấy giờ, tứ Thiên vương bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Ở đời vị lai nếu có vị vua cõi người nào ưa nghe kinh Kim Quang Minh này, vì muốn ủng hộ bản thân, hậu phi, vương tử, cho đến các cung tần thể nữ trong cung, thành ấp cung điện đều được tốt đẹp tối thượng bậc nhất không thể suy nghó bàn luận, vui mừng vắng lặng an lạc, trong đời hiện tại ngôi vị cao vời tôn quý, tự tại hưng thịnh, thường được thêm lớn, lại muốn nhiếp thọ vô lượng vô biên nhóm phước khó suy nghó bàn luận, ở nơi cõi nước mình làm cho không còn kẻ thù đối địch và các chuyện buồn lo khổ não tai họa ách nạn. Tán rằng: Chỉ dạy nghi tắc mở mang Phật pháp cho vị vua cõi người, có bốn: Nêu ra tâm nguyện của nhà vua. “Bạch Đức Thế Tôn! Như vậy…” về sau là chỉ dạy nghi tắc đó. “Bạch Đức Thế Tôn! Tức thì khói hương kia…” về sau là nương theo thực hành cảm ứng điềm lành. “Lúc đó, các Đức Phật nghe thấy diệu hương này…” về sau là nói về các Đức Phật Phật khen ngợi. Đây là nêu ra tâm nguyện của nhà vua. Văn kinh: Bạch Thế Tôn! Vị vua cõi người này không nên buông lung khiến tâm tán loạn, nên sinh tâm cung kính chí thành, thiết tha lắng nghe thọ nhận kinh vương tối thắng này. Tiếp theo là chỉ dạy nghi tắc, có ba: Đầu tiên là Thiên vương chỉ dạy nghi tắc lắng nghe, tiếp theo là Phật chỉ dạy đón rước, sau là các vị trời chỉ dạy vì ta. Trong phần đầu các vị trời chỉ dạy trong nghi tắc: Đầu tiên là dạy chung, sau là nêu riêng. Đây là phần chỉ dạy chung. Văn kinh: Lúc muốn nghe thì trước tiên nên trang nghiêm cung điện tối thượng mà nhà vua quý trọng nhất, rưới nước thơm trên đất, rải các thứ hoa thơm, sắp đặt pháp tòa sư tử cao đẹp, dùng các thứ báu để làm đồ trang hoàng, bày biện các lọng báu cờ phướn, đốt các thứ hương vô giá, trỗi các thứ âm nhạc. Lúc bấy giờ, vị vua đó nên tắm gội sạch sẽ, dùng hương xoa thân thể, mặc áo quần mới sạch và đeo các chuỗi ngọc, ngồi tòa thấp nhỏ, không sinh cử chỉ cao ngạo, xả bỏ ngôi vị hiện tại của mình, lìa các ý niệm kiêu mạn, tâm niệm ngay thẳng, lắng nghe kinh vương này, đối với Pháp sư thì khởi lên ý tưởng Đại sư tôn kính, lại đối với hậu phi, vương tử, thể nữ, cung tần cùng thân bằng quyến thuộc trong cung sinh tâm từ bi thương mến, đối xử vui vẻ với nhau, nói năng hòa thuận dịu dàng, đối với thân tâm chính mình chứa chan niềm vui to lớn. Tiếp theo là nêu riêng. Trong phần nêu riêng: Nêu rõ nơi phải trang nghiêm. “Nước thơm…” về sau là nêu nghi tắc nơi trang nghiêm. “Lúc bấy giờ, vị vua đó…” về sau là nêu rõ thân thể nhà vua trang nghiêm. “Không sinh tâm cao mạn…” về sau là nêu rõ trang nghiêm tâm nhà vua. “Khởi nên ý niệm như vậy…” trở xuống là nêu rõ nhà vua nghó đến sự an ổn. Trong phần nêu rõ tâm trang nghiêm: Dứt bỏ trạo cử. Dứt bỏ kiêu mạn. Tâm lắng yên lắng nghe pháp. Cung kính đối với Pháp sư. Đối với tất cả đều khởi từ tâm. Đối xử vui vẻ với nhau. Nói năng thuận thảo dịu dàng. Thân tâm chứa chan niềm vui. Văn kinh: Khởi nên ý niệm như vầy: Nay ta được nhiều lợi ích rộng lớn tốt đẹp, khó suy nghó bàn luận, đối với kinh vương này phát khởi cúng dường, đã bày biện xong thấy Pháp sư đến nên sinh tâm chí thành cung kính khao khát kính mến. Tiếp theo là nêu ra nhà vua nghó đến an ổn. Đầu tiên khởi ý tưởng đối với pháp, từ “Đã bày biện xong…” về sau là khởi ý tưởng đối với Pháp sư. Nghi tắc lắng nghe pháp ở đây như luận Du-già ba mươi tám chép: “Bồ-tát như vậy đối với người khéo nói pháp sinh tâm kính trọng sâu sắc, thường thích lắng nghe các vị khéo nói pháp không hề có sự mỏi mệt, cũng không thỏa mãn, niềm tin thanh tịnh sâu dày, tánh tình của họ nhu hòa, tâm thẳng thắn, thấy thẳng thắn kính mến kính trọng đức độ cho nên kính mến kính trọng đối với pháp. Đến chỗ Pháp sư không hề có tâm vặn hỏi mà chỉ có tâm cung kính tôn trọng, không sinh tâm cao mạn, chỉ cầu điều lành chẳng phải tỏ ra đức độ của mình, vì muốn an lập gốc lành cho mình và người, không vì lợi dưỡng làm nhân duyên cung kính, Bồ-tát có đủ công đức như vậy đến chỗ Pháp sư, tâm không còn tạp nhiễm, tâm không hề tán loạn chỉ lắng nghe chánh pháp. Thế nào là tâm vô nhiễm? Nghóa là lúc nghe pháp tâm xa lìa cống cao, khinh man, yếu hèn tạp nhiễm. Do sáu tướng đó cho nên lìa bỏ cống cao tạp nhiễm. Nghóa là lúc lắng nghe pháp hợp thời mà nghe, tha thiết mà nghe, cung kính mà nghe, không vì tổn hại, không vì tùy thuận, không tìm lỗi lầm. Vì bốn tướng đó cho nên lìa bỏ khinh mạn tạp nhiễm, đối với lúc nghe pháp thì cung kính chánh pháp, cung kính nói pháp Bổ- đặc-ca-la, không xem thường chánh pháp, không xem thường người nói. Đối với lúc nghe pháp không xem thường chính mình, do tướng này nên lìa bỏ yếu hèn tạp nhiễm. Thế nào là tâm không tán loạn? Nghóa là do năm tướng: Một là tâm cầu giải ngộ; Hai là tâm chuyên nhất hướng về; Ba là lắng nghe thuộc về tai; Bốn là gội sạch tâm; Năm là thâu nhiếp tất cả lắng nghe chánh pháp.” Về nghi tắc nói pháp, sơ lược như kinh Pháp Hoa phẩm Pháp sư thứ tư, có ba thứ: Vào nhà Như lai. Mặc áo Như lai. Ngồi tòa Như lai. Nhà Như lai là tâm đại Từ bi đối với tất cả chúng sinh. Áo Như lai là tâm nhu hòa nhẫn nhục. Tòa Như lai là tất cả các pháp đều không, tâm nói pháp là muốn mang lại yên vui cho chúng sinh, dứt trừ đau khổ của chúng sinh, do đó khởi lên Từ bi. Từ bi nói pháp, người khác làm hại nhưng không tức giận, bi khổ đau thường nhẫn chịu, nghóa lý sâu xa có thể xác chứng, có thể nối nhau thấy được ba việc không, vô nhiễm, vô trước mới có thể lợi ích thật sự. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Phật bảo tứ Thiên vương: Không nên như vậy lúc đón rước Pháp sư. Chính vị vua cõi người kia nên mặc áo hoàn toàn sạch sẽ, đẹp đẽ, dùng các loại chuỗi ngọc để trang sức, tự cầm lọng trắng cho đến hương hoa đầy đủ, quân lính có hàng ngũ, nghi thức long trọng, bày các âm nhạc, ra cổng thành đón rước Pháp sư, vận dụng ý tưởng chí thành cung kính là điều tốt lành. Tán rằng: Tiếp theo là Phật chỉ dạy đón rước, có hai: Đầu tiên là nhắc nhở không nên không đón rước; từ “Chính vị vua cõi người kia…” về sau là nêu ra nghi thức thích hợp. Trong nghi thức thích hợp có năm: Nói về nghi thức đón rước. Từ “Tứ Thiên Vương vì nhân duyên gì…” về sau là giải thích lý do đón rước. Từ “Đối với pháp sư nói pháp…” về sau là nói về tâm tưởng đón rước. “Sau đó quyến thuộc trong cung…” về sau là nói về lợi ích đạt được. nhắc. Tứ Thiên vương “Nên biết rằng…” về sau là kết thúc ý khuyên Đây là phần mở đầu. Văn kinh: Tứ Thiên vương vì nhân duyên gì khiến cho vị vua cõi người kia tự mình làm việc cung kính cúng dường như thế? Tiếp theo là phần thứ hai, giải thích lý do đón rước. Có ba: Đầu tiên là nêu ý hỏi, tiếp từ “Bởi vì vị vua cõi ngươi kia…” về sau là giải thích, sau từ “Tứ Thiên Vương nên biết…” về sau là kết luận đón rước cho dù gần hay xa. Đây là phần mở đầu. Văn kinh: Bởi vì vị vua cõi người kia từng bước, từng bước nâng chân lên, đặt chân xuống chính là cung kính cúng dường kính thờ tôn trọng đối với trăm ngàn muôc ức na-do-tha các Đức Phật Thế Tôn, lại được vượt thoát khổ đau sinh tử trong kiếp số như thế, lại ở nơi đời trong kiếp số như thế sẽ thọ nhận địa vị Luân vương tốt đẹp cao quý. Tán rằng: Giải thích lý do đón rước, có hai: Chung và riêng. Đây là giải thích tổng quát, có ba: Thành tựu nhân cao quý. Vượt thoát các khổ đau. Đạt được quả báo tốt đẹp. Văn kinh: Tùy từng bước, từng bước đó cũng ở nơi đời hiện tại khiến cho phước đức tăng trưởng tự tại, là sự cảm ứng khó suy nghó bàn luận của nhà vua nên mọi người đều kính trọng. Sẽ ở cõi trời cõi người trong vô lượng trăm ngàn ức kiếp thọ dụng cung điện bảy báu, những nơi sinh ra thường được làm vua, thọ mạng tăng thêm, ngôn từ biện tài rành mạch, trời người tín nhận, không hề sợ hãi, tiếng tăm vang lừng, mọi người đều chiêm ngưỡng, trên cõi trời, giữa loài người đều được niềm vui cao quý, được thế lực rộng lớn, có đại uy đức, thân tướng xinh đẹp, khôi ngô không gì sánh bằng, được gặp thiên nhân sư, gần gũi Thiện tri thức, thành tựu đầy đủ vô lượng nhóm phước. Tán rằng: Giải thích riêng: Đầu tiên là lợi ích hiện tại, tiếp theo “Sẽ ở nơi…” về sau là lợi ích đời vị lai. Trong lợi ích đời vị lai có mười ba: Được nơi chốn tốt đẹp. Thọ nhận phước báo tốt đẹp. Đạt được biện tài. Người khác tin nhận. Lìa sợ hãi. Được danh tiếng vang lừng. Được cung kính tôn trọng. Thọ nhận niềm vui cao quý. Thành tựu đại lực. Có uy nghiêm. Đạt được tướng tốt. Gặp được thiện hữu. Đầy đủ phước đức. Văn kinh: Tứ Thiên vương nên biết rằng các vị vua cõi người thấy tất cả các thứ lợi ích, vô lượng công đức như thế, cho nên phải tự mình đi đón rước Pháp sư, dù chỉ xa một du-thiện-na, cho đến trăm ngàn du-thiện-na. Tiếp theo là kết luận đón rước cho dù gần hay xa. Văn kinh: Đối với Pháp sư nói pháp nên sinh ý tưởng như Phật. Tán rằng: Thứ ba là nói về tâm tưởng đón rước. Đầu tiên là lợi ích được thấy. Văn kinh: Về đến kinh thành rồi, khởi ý niệm như vầy: Hôm nay Đức Thích-ca Mâu-ni Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác vào cung điện của ta, thọ nhận ta nói pháp cho ta nghe. Ta nghe pháp rồi liền đối với A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề không còn lui sụt, tức là được gặp trăm ngàn muôn ức na-do-tha các Đức Phật, Thế Tôn. Hôm nay ta có đủ các thứ niềm vui cao quý trên hết, cúng dường rộng khắp các Đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai; hôm nay ta dứt trừ hẳn đau khổ của cõi vua Diêm-ma, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chính là đã gieo trồng hạt giống gốc lành của vô lượng trăm ngàn muôn ức Chuyển luân Thánh vương, Thích Phạm, Thiên chủ, sẽ khiến cho vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sinh thoát khỏi sinh tử khổ đau, đạt được Niết-bàn an vui, chứa nhóm vô lượng vô biên nhóm phước đức không thể suy nghó bàn luận. Tiếp theo là về đến cung điện phát sinh ý tưởng, có bảy: Ý tưởng được thấy Đức Bổn Sư. Từ “Ta nghe pháp rồi…” về sau là ý tưởng đạt được đại quả Bồ-đề. Từ “Tức là được gặp…” về sau là ý tưởng được thấy các Đức Phật. Phật. Từ “Ta hôm nay…” về sau là ý tưởng cúng dường các Đức Từ “Ta hôm nay…” về sau là ý tưởng lìa hẳn đường ác. Vượt khỏi đường ác cõi vua Diêm-ma, tức là ba nghiệp ác phán định người đó thú hướng đến đường quỷ. Luận Du-già chép: “Đọa vào Na-lạc-ca (địa ngục) làm Tónh Tức vương là hóa sinh vào cõi Vương, không như vậy thì làm sao sinh nơi thấp hèn nhất, hóa sinh địa ngục? Lại trái với Duy thức hai mươi, không chấp nhận cùng người ấy chịu khổ. Trường-a-hàm mười chín dựa theo tướng khác cho nên nói nhà vua chịu khổ tưởng. Từ “Chính là đã gieo trồng…” về sau là ý tưởng đạt được địa vị các ngôi vua. Từ “Sẽ khiến cho vô lượng…” về sau là ý tưởng khiến cho người khác được lợi ích. Văn kinh: Sau đó là quyến thuộc trong cung và mọi người dân đều được yên ổn, đất nước thanh bình, không có các tai ách độc hại cùng với người ác, kẻ thù đối địch ở phương khác không đến xâm phạm quấy nhiễu, xa lìa mọi buồn rầu lo lắng. Tiếp theo là phần thứ tư nói về lợi ích đạt được. Văn kinh: Tứ Thiên vương nên biết khi vị vua cõi người kia nên thực hành tôn trọng Chánh pháp như vậy, cũng đối với các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ổ-ba-sách-ca, Ổ-bà-tự-ca thọ trì kinh điển nhiệm mầu này cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi sẽ được gốc lành, trước tiên đem phước thù thắng bố thí cho các ông và các quyến thuộc. Tiếp theo kết thúc thành tựu nhắc nhủ khuyến khích. Đầu là kết thúc thành tựu lời khuyên nhủ, sau là kết thúc thành tựu đạt được lợi ích. Trong phần kết thúc thành tựu khuyên nhủ: Đầu tiên là kết thúc thành tựu cung kính Pháp sư, tiếp theo là kết thúc thành tựu cung kính bổn chúng, sau là dạy hồi hướng bố thí giúp. Văn kinh: Vị vua cõi người kia có nhân duyên nghiệp lành phước đức to lớn, trong đời hiện tại được tự tại hoàn toàn, tăng thêm uy quang, diệu tướng tốt lành thảy đều trang nghiêm, tất cả các kẻ thù đối địch có thể dùng chánh pháp để làm cho họ nhanh chóng bị hàng phục. Tiếp theo là kết thúc thành tựu đạt được lợi ích, có thể biết được. Văn kinh: Bấy giờ, tứ Thiên vương bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có vị vua cõi người nào có thể thực hiện cung kính chánh pháp, lắng nghe kinh vương này mà cung kính cúng dường tôn trọng khen ngợi người trì kinh trong bốn chúng như vậy, thì khi vị vua cõi người ấy muốn làm cho chúng con sinh tâm vui mừng, do đó nên ở một bên cạnh gần pháp tòa, rưới nước thơm trên đất, rải các hoa quý hiếm, sắp xếp nơi chốn, tòa ngồi của tứ Thiên vương, con và vị vua ấy cùng lắng nghe chánh pháp, tất cả gốc lành tự lợi của vị vua ấy cũng đem phước phần bố thí cho chúng con. Bạch Đức Thế Tôn! Lúc vị vua cõi người ấy thỉnh người nói pháp, khi lên tòa liền vì chúng con đốt các thứ danh hương cúng dường kinh này. Phần sau là Thiên vương dạy vì ta, có hai: Đầu tiên là nhắc lại sự thực hành đó; tiếp theo từ “Khi vị vua cõi người kia…” về sau là tiếp theo chỉ dạy nghi tắc vì ta. Trong phần nghi tắc có sáu: Nêu ra nơi chốn trang nghiêm. Làm cho thanh tịnh trang nghiêm. Dạy sắp đặt tòa ngồi cho tứ Thiên vương. Con cùng vị vua kia lắng nghe. Dạy vị vua kia ban phát phước đức. Dạy cúng dường. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Bấy giờ thì khói hương đó trong khoảng một niệm bay lên hư không liền đến cung điện của các vị trời chúng con, ở giữa hư không biến thành lọng hương. Tiếp theo là nói y theo thực hành cảm ứng điềm lành, có hai: Đầu tiên là tứ Thiên vương nói về cảm ứng, sau từ “Đức Phật bảo tứ Thiên vương…” về sau là Phật nói về cảm ứng. Trong phần tứ Thiên vương nói về cảm ứng: Đầu tiên là nói chung, sau là nói riêng. Trong phần nói chung có hai: Khói hương bay đến cung điện. Khói hương hóa hiện điềm lành. Văn kinh: Các vị trời chúng con ngửi thấy mùi hương nhiệm mầu diệu kia, làn hương có ánh sáng vàng chiếu rọi cung điện cư trú của chúng con cho đến cung điện cõi Phạm và các nơi cư trú của Đế Thích, Đại Biện tài Thiên nữ, Đại Cát tường Thiên nữ, Kiên lao Địa thần, Đại tướng Chánh liễu tri, hai mươi tám bộ các thần Dược-xoa, trời Đại Tự tại, Kim cang Mật chủ, Đại tướng Bảo Hiền, Ha-lợi-đề mẫu, năm trăm quyến thuộc vô nhiệt não, long vương Trì, long vương Đại Hải. Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả các chúng trời như thế ở tại cung điện mình thấy khói hương kia trong khoảng một sát-na hóa hiện thành lọng hương, ngửi thấy mùi hương ngào ngạt, nhìn thấy sắc màu ánh sáng rực rỡ khắp nơi đến tất cả cung điện của các thiên thần. Tiếp theo là nói về riêng. Dựa vào hương, nương theo khói mà nói có ánh sáng màu màu vàng, không phải là hương trần của tỷ căn đạt được thì làm sao mà nói là thấy? Văn kinh: Đức Phật bảo tứ Thiên vương rằng: Làn hương và ánh sáng này chẳng những đến cung điện này hóa thành lọng hương phát ra ánh sáng rực rỡ, mà khi vị vua cõi người đó tay bưng hương đốt các thứ danh hương cúng dường kinh thì làn khói hương đó trong khoảng một niệm còn trùm khắp thế giới tam thiên đại thiên. Trăm ức mặt trăng mặt trời, trăm ức núi chúa Diệu cao, trăm ức bốn châu nơi thế giới tam thiên đại thiên này, tất cả các nơi cung điện của trời rồng, Dược-xoa, Càn-thát-bà,A-tu-la, Yết-lộ-trà, Khẩn-na-la, Mạc-hô-lạc- già đầy khắp hư không, trụ trong các thứ khói hương biến thành lọng mây, màu vàng của lọng mây đó chiếu khắp các cung điện cõi trời. Các thứ mây hương, lọng hương vốn có nơi thế giới tam thiên đại thiên như thế đều do năng lực oai thần của kinh Kim Quang Minh Tồi Thắng Vương này. Tiếp theo Đức Phật nói về sự cảm ứng, có hai: 1.Từ “Khói hương tỏa khắp thế giới đại thiên… các vị vua cõi người này…” trở xuống là nói về làn hương tỏa khắp các thế giới mười phương. Trong phần một có bốn: Chẳng phải hạn cuộc nơi tình ý. “Do vị vua cõi người kia…” về sau là nói về làn hương lan tỏa khắp nơi. “Các thứ khói hương về sau là nói về điềm lành.” “Vốn có… như thế…” về sau là kết thúc quy về thần lực của kinh. Văn kinh: Lúc các vị vua cõi người này tay bưng lò hương cúng dường kinh thì các thứ hương thơm chẳng những đầy khắp thế giới tam thiên đại thiên này, mà còn ở trong khoảng một niệm cũng đầy khắp vô lượng vô biên hằng hà sa tăm ngàn muôn ức cõi nước các Đức Phật khắp mười phương, trong hư không ở các cõi nước của các Đức Phật hóa hiện thành lọng hương màu vàng soi chiếu khắp nơi cũng giống như vậy. Tiếp theo nói về khắp các thế giới mười phương, có hai: Đầu tiên là lan tỏa đến các cõi nước của các Đức Phật ở mười phương; sau là hóa hiện điềm lành. Văn kinh: Lúc các Đức Phật mười phương ngửi thấy làn hương nhiệm mầu này, nhìn thấy lọng mây ấy và màu vàng, ở các thế giới mười phương hằng hà sa các Đức Phật, Thế Tôn hiện rõ thần biến xong, các Đức Thế Tôn ấy đều cùng nhau quan sát, tất cả đồng thanh khen ngợi Pháp sư rằng: Lành thay! Lành thay! Người đại trượng phu hãy lưu truyền bá rộng rãi kinh điển nhiệm mầu sâu xa này thì sẽ thành tựu vô lượng vô biên nhóm phước công đức không suy nghó bàn luận. Tán rằng: Trong phần chỉ dạy nghi tắc mở mang kinh, thứ tư là các Đức Phật ngợi khen, có hai: Đầu tiên là khen ngợi hiện tại thành tựu nhân tốt đẹp; tiếp theo từ “Lúc bấy giờ, mười phương…” về sau là khen ngợi quả vị lai. Khen ngợi về nhân quả là muốn giúp cho vị vua cõi người nương theo giáo pháp thực hành. Trong phần đầu khen ngợi nhân: Đầu tiên là khen ngợi nhân của Pháp sư, sau là khen ngợi nhân của người nghe. Pháp sư ở đây là chung cho cả người nói pháp đó, cũng bao gồm cả người cúng dường, thực hành mười pháp đều gọi là Pháp sư. Bởi nhà vua có thể vì kinh này cúng dường truyền bá rộng rãi, Pháp sư chính là người có thể lưu thông pháp này. Nhưng theo mạch văn kết hợp chỉ khen ngợi vị vua cõi người, cho nên nêu ra thấy điềm lành ứng hiện mà khen ngợi, hoặc lại là điềm lành ứng hiện do uy lực của kinh, cho nên khen ngợi Pháp sư chung cho hai chỗ cũng được, có ba: Đầu tiên là thấy điềm lành, tiếp theo “Các Đức Thế Tôn …” về sau là khen ngợi lưu thông kinh điển, sau “Tức là thành tựu…” về sau là khen ngợi thành tựu nhân. Văn hiển bày có thể biết. Văn kinh: Nếu có người nào nghe kinh này thì công đức họ đạt được thật vô cùng rộng lớn, huống gì viết chép, đọc tụng, giải thích cho người nghe, như thuyết tu hành. Vì sao? Này người thiện nam! Nếu có chúng sinh nào nghe kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này thì không còn lui sụt đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tiếp theo là khen ngợi công đức, có ba: Đầu tiên là nêu ra công hạnh nhỏ bé huống gì to lớn; tiếp đến nêu lý do; sau chính là giải thích. Văn kinh: Lúc bấy giờ, ở mười phương có trăm ngàn câu-chi na- do-tha vô lượng vô biên hằng hà sa cõi nước các Đức Phật, tất cả các Đức Như lai nơi các cõi nước kia đều đồng thanh ở trên pháp tòa khen ngợi vị Pháp sư đó rằng: Lành thay!Lành thay! Tiếp theo là khen ngợi quả vị lai, có hai: Đầu tiên là các Đức Phật đồng thanh khen ngợi chung. Văn kinh: Này người thiện nam! Đời vị lai ông dùng năng lực tinh tấn tu tập vô lượng trăm ngàn khổ hạnh, đầy đủ tư lương, vượt hơn các Thánh chúng, thoát ra ba cõi, là bậc Tối Thắng. Tiếp theo là khen ngợi riêng. Trong khen ngợi riêng, đầu tiên là khen ngợi nhân lợi ích. Văn kinh: Sẽ ngồi dưới cội Bồ-đề thù thắng trang nghiêm, cứu độ chúng sinh hữu duyên trong thế giới tam thiên đại thiên, khéo hàng phục các loại ma quân có hình tướng đáng sợ, hiểu rõ các pháp tối thắng thanh tịnh sâu xa vô thượng chánh đẳng Bồ-đề. Này người thiện nam! Ông sẽ ngồi trên tòa Kim cang, quya bánh xe pháp vô thượng về mười hai diệu hạnh sâu xa cùng tột mà các Đức Phật khen ngợi, thường gióng lên trống pháp rất lớn trên hết, thường thổi vang loa pháp nhiệm mầu trên hết, thường dựng nên cờ pháp, rưới xuống mưa pháp cam lộ vô thượng, dứt bỏ vô lượng phiền não oán kết. Tiếp theo là khen ngợi quả. Trong phần khen ngợi quả có bốn: Ngồi dưới cây đạo tràng. Từ “Khéo hàng phục…” về sau là hàng phục thiên ma. Từ “Hiểu rõ các pháp…” về sau là đạt được Bồ-đề. Từ “Này người thiện nam…” về sau là quay bánh xe pháp. Quay bánh xe pháp có tám: Một thứ đầu là thể của bánh xe pháp, sáu loại giữa là nghóa của bánh xe pháp, “Thường khiến cho vô lượng…” về sau là dụng của bánh xe pháp. Sáu thứ trong nghóa của bánh xe pháp là: Khai quyền. Loa pháp lập giáo. Cờ pháp đạt được trí Bồ-đề. Được pháp đạt được lý Niết-bàn. Mưa pháp thường phát sinh điều lành. Dứt bỏ phiền não, những điều xấu ác. Văn kinh: Giúp cho vô lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha hữu tình vượt qua biển lớn đáng sợ không bến bờ, thoát khỏi luân hồi sinh tử không giới hạn, được gặp vô lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha Đức Phật. Tán rằng: Dụng của bánh xe pháp có ba: Vượt qua biển lớn lìa khổ đế, thoát khỏi sinh tử dứt tập đế; do nghi ngờ ràng buộc luân hồi nơi sinh tử, cho nên dứt trừ tập đế nói là giải thoát. Nghiệp chẳng phải là nghóa của trói buộc, chẳng phải cội gốc sinh tử cho nên không nói là nghiệp, hoặc là cũng thuộc về nghiệp, bởi vì giống như tập đế. “Gặp được các Đức Phật” về sau là được gặp bạn lành. Văn kinh: Lúc bấy giờ, tứ Thiên vương lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh tối Thắng Vương này thường ở đời vị lai, hiện tại thành tựu vô lượng công đức như vậy, thế nên vị vua cõi người được nghe kinh điển nhiệm mầu này tức là đã gieo trồng các gốc lành ở nơi trăm ngàn muôn ức vô lượng Đức Phật. Đối với vị vua cõi người kia con sẽ che chở, lại thấy vô lượng phước đức lợi ích cho nên lúc tứ Thiên vương chúng con và quyến thuộc của con cùng vô lượng trăm ngàn muôn ức các thần ở nơi cung điện của mình thấy các loài khói hương lọng mây này biến hiện thần diệu thì sẽ ẩn hình không xuất hiện thân tướng đó, vì nghe pháp cho nên sẽ đến nơi cung điện giảng pháp thanh tịnh trang nghiêm đầy đủ của vị vua này. Như thế cho đến Phạm cung của Đế Thích, Đại Biện tài Thiên nữ, Đại Cát tường Thiên nữ, Thiên lao địa thần, Đại tướng Chánh Liễu tri, hai mươi tám bộ các thần Dược-xoa, trời Đại Tự tại, Kim cang Mật chủ, Đại tướng Bảo Hiền, Ha-lợi-đề Mẫu, năm trăm quyến thuộc long vương Vô nhiệt não trì, long vương Đại hải, vô lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha các trời Dược-xoa, các bộ chúng như thế vì nghe pháp cho nên đều không hiện bày thân tướng bay đến cung điện trang nghiêm thù thắng, nơi tòa cao nói pháp của vua cõi người kia. Bạch Đức Thế Tôn! Tứ Thiên vương chúng con và quyến thuộc của mình cùng các thần Dược-xoa đều sẽ nhất tâm cung kính tôn vị vua cõi người kia là Thiện tri thức, bởi vị vua cõi người này là vị thí chủ đem mùi vị cam lộ đầy đủ của đại pháp vô thượng đến cho chúng con. Vì thế chúng con ủng hộ vị vua này, dứt trừ các lo buồn suy hao đó, khiến cho được yên ổn, và các tai biến ác họa trong cung điện, thành ấp, đất nước kia thảy đều khiến cho tiêu diệt. Tiếp theo là phần thứ tư, vị vua cõi người tu hành đạt được lợi ích trong nguyện hộ trì, tu hành kinh được Phật nói về lợi ích. Đây là phần vị vua cõi người nương theo tu hành đạt được lợi ích. Có ba: Khen ngợi pháp. “Vì thế cho nên nhân vị vua cõi người…” về sau là khen ngợi người thực hành. “Đối với vị vua cõi ngươi kia…” về sau là sự che chở. Đầu tiên đưa ra lý do che chở, từ “Tứ Thiên Vương chúng con…” trở xuống chính là nói về sự che chở, có bốn: Nói về lúc che chở. “Con sẽ ẩn hình…” trở xuống là các vị trời đến cung vua. “Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con…” trở xuống là các vị trời cùng kết giao bạn lành. “Thế nên chúng con…” trở xuống chính là nói về sự che chở. Trong đoạn thứ hai: Đầu tiên là tứ Thiên vương đến, tiếp theo từ “Như thế cho đến…” trở xuống là nói về các vị trời Thích Phạm… đều đến. Những đoạn còn lại có thể biết. Văn kinh: Bấy giờ, tứ Thiên vương đều cùng nhau chắp bạch với Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có vị vua cõi người nào ở nơi cõi nước của họ tuy có kinh này nhưng chưa từng truyền bá rộng rãi, tâm sinh lìa bỏ không thích lắng nghe, cũng không cúng dường tôn trọng khen ngợi, thấy người trong bốn bộ chúng trì kinh lại cũng không thể tôn trọng cúng dường, cuối cùng khiến cho chúng con và quyến thuộc của mình cùng vô lượng các trời không được nghe pháp mầu sâu xa này, lìa bỏ mùi vị cam lộ, làm mất dòng chảy chánh pháp, không có uy quang cho đến tăng thêm thế lực của đường ác, giảm bớt hàng trời người, rơi vào sông sâu sinh tử, trái với nẻo đến Niết-bàn. Tán rằng: Thứ hai nói về khiến cho vua cõi người hộ pháp. Trong đó có ba: Không hộ trì sẽ có tổn hại. “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có vua cõi người…” trở xuống là nói về hoằng kinh hộ pháp được ích lợi. “Bạch Đức Thế Tôn! Như Đại Phạm Thiên…” trở xuống là so sánh nói về sự tốt đẹp, khuyến khích mở mang kinh. Trong phần đầu có hai: Đầu tiên là bỏ pháp không mở mang, có hai: Đầu tiên là bỏ pháp, tiếp đó là bỏ con người, sau từ “cuối cùng khiến cho chúng con…” trở xuống là nói về do việc ấy mà có tổn hại. Lại chia làm hai: Đầu tiên là tổn hại loài trời, sau là tổn hại loài người. Trong tổn hại loài trời, có năm: Đánh mất lợi ích của pháp. Đánh mất uy quang. Tăng thêm đường ác. Giảm bớt trời, người. Đánh mất con đường chánh. Như văn có thể biết. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Tứ Thiên Vương chúng con cùng các quyến thuộc và các Dược xoa đều thấy sự việc như thế, xả bỏ cõi nước đó tâm không còn ủng hộ, chẳng những chúng con xả bỏ vị vua này, cũng có vô lượng các đại thiện thần che chở giữ gìn đất nước thảy đều xả bỏ; đã xả bỏ rồi thì đất nước đó sẽ có các thứ tai họa, làm mất vị trí đất nước, tất cả dân chúng đều không có tâm lành, chỉ có trói buộc giết hại, sân giận tranh cãi lẫn nhau, gièm pha dua nịnh, vu oan người vô tội, tật dịch lan tràn khắp nơi, sao chổi xuất hiện nhiều lần, hai mặt trời cùng hiện ra, bị xâm thực không bình thường, hai cầu vồng đen trắng biểu hiện sự không tốt lành, sao băng đất động, trong giếng phát ra âm thanh, mưa dữ dội, gió hung hãn, không đúng thời tiết, thường gặp cảnh mất mùa đói kém, lúa má không chín được, có nhiều oán thù giặc giã từ phương khác đến xâm lấn, nhân dân trong nước gánh chịu mọi điều khổ não, trên mặt đất không có nơi nào đáng vui. Tiếp theo là tổn hại loài người, có hai: Trời thần xa lìa. Từ “Đã xả bỏ rồi…” trở xuống là đất nước suy hao tổn hoại, trong đó có ba: Đầu tiên là nêu ra, tiếp theo là phân biệt rõ, từ “Bạch Thế Tôn! Tứ Thiên Vương chúng con…” trở xuống là kết thúc. Trong phần phân rõ, có bốn: Làm mất vị trí mất nước. “Tất cả dân chúng…” trở xuống là người làm ác. Tật dịch phát sinh. “Sao chổi…” trở xuống là điềm ác hiện ra. Có mười một: Sao chổi bất ngờ xuất hiện nhiều lần. Hai mặt trời cùng hiện ra. Mặt trăng, mặt trời xâm thực lẫn nhau. Cầu vồng biểu hiện điềm không tốt lành. Sao băng thất thường. Mặt đất chấn động. j) Trong giếng phát ra âm thanh khác lạ. h) Mưa gió trái mùa. l) Mầm non hoa trái không thành tựu. k) Giặc giã phương khác xâm lấn. m) Đất nước không yên vui. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Tứ Thiên vương chúng con cùng với vô lượng trăm ngàn thiên thần và các thiện thần trước kia che chở cõi nước đã rời xa thì phát sinh vô lượng trăm ngàn thứ tai họa kỳ quái, các việc xấu ác như thế. Kết thúc. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có vị vua cõi người nào muốn che chở, giữ gìn đất nước thì thường được vui sướng, muốn làm cho chúng sinh đều được yên ổn, muốn hàng phục được tất cả kẻ địch bên ngoài, trong phạm vi đất nước của mình mãi mãi được hưng thịnh, muốn làm cho chánh giáo truyền bá rộng khắp ở thế gian, mọi khổ não ác pháp đều dứt trừ diệt. Bạch Đức Thế Tôn! Các vị vua này phải nên lắng nghe thọ nhận kinh vương nhiệm mầu này, cũng nên cung kính cúng dường người đọc tụng, thọ trì kinh thì chúng con và vô lượng Thiên chúng của mình nhờ vào gốc lành nghe pháp này mà uy lực được tăng thêm, được thấm nhuần pháp vị cam lộ vô thượng, tất cả quyến thuộc của chúng con cùng tất cả vị Thiên thần khác đều được lợi ích cao quý. Vì sao? Vì vị vua cõi người này dốc lòng lắng nghe thọ nhận kinh điển này. Tán rằng: Tiếp theo nói về hoằng kinh, hộ pháp được lợi ích, có ba: Nhà vua phát khởi thiện nguyện. “Bạch Đức Thế Tôn! Các vị vua này…” trở xuống là chỉ dạy khiến mở mang kinh. “Chúng con và vô lượng chúng trời…” trở xuống là tứ Thiên vương được lợi ích, có ba: Đầu tiên là nêu ra, “Vì sao” là hỏi ngược lại, “Vì vị vua cõi người này…” về sau là giải thích. Trong phần nêu ra nói rằng nhờ nghe pháp này v.v… do vị vua cõi người nghe pháp, từ “Chúng con…” trở xuống là nói về tứ Thiên vương chúng con đều được lợi ích. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Như Đại Phạm Thiên đối với các hữu tình thường giảng nói giải thích các luận về thế, xuất thế cho họ nghe, Đế Thích lại nói các thứ luận, và Thần tiên ngũ thông cũng nói về các luận. Bạch Đức Thế Tôn! Phạm Thiên, Đế Thích, các vị tiên đã có chứng năm thần thông tuy có trăm ngàn câu-chi na-do-tha vô lượng các luận thuyết, nhưng Phật Thế Tôn Từ bi thương xót vì các trời, người nói kinh Kim Quang Minh nhiệm mầu so với những gì đã nói trước đây, hơn hẳn nơi kia gấp trăm ngàn câu-chi na-do-tha lần không thể ví dụ được. Vì sao? Vì kinh điển này khiến cho tất cả vua chúa ở châu Thiệm- bộ đều dùng chánh pháp cảm hóa thế gian, thường mang lại mọi sự yên vui cho chúng sinh, vì bảo vệ tự thân cùng các quyến thuộc khiến cho không còn khổ não, đồng thời không có oán thù giặc giã từ phương khác đến xâm hại, tất cả mọi điều xấu ác thảy đều xa lìa, cũng làm cho đất nước an bình, dứt hết tai ách, cảm hóa theo chánh pháp, không có tranh cãi kiện tụng. Vì thế cho nên các vị vua cõi người mỗi vị đều ở đất nước của mình, đương nhiên đuốc pháp sáng ngời chiếu soi không giới hạn, chúng trời và các quyến thuộc đông thêm. Tiếp theo là phần thứ ba, so sánh về sự tốt đẹp, khuyến khích mở rộng kinh, có ba: Đầu tiên là so sánh nói về sự tốt đẹp, tiếp đến là tứ Thiên vương được lợi ích, sau là khuyến khích mở mang kinh. Trong phần đầu có bốn: Nêu ra sự thua kém. “Bạch Đức Thế Tôn! Phạm Thiên…” trở xuống là nói về sự tốt đẹp. “Vì sao?…” trở xuống là giải thích nguyên do. “Vì thế cho nên…” trở xuống là kết thúc nên trì kinh. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Tứ Thiên Vương chúng con và vô lượng chúng Thiên thần Dược-xoa, tất cả Thiên thần trong châu Thiệm-bộ nhờ nhân duyên này được thấm nhuần pháp vị cam lộ vô thượng, đạt được uy đức thế lực rộng lớn, ánh sáng thảy đều đầy đủ, tất cả chúng sinh đều được yên ổn. Lại trong vô lượng trăm ngàn không thể suy nghó bàn luận na-do-tha kiếp ở đời vị lai thường thọ hưởng vui sướng, lại được gặp vô lượng các Đức Phật gieo trồng các gốc lành, sau đó chứng được quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vô lượng vô biên lợi ích cao quý như vậy là do Đức Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng tâm đại Từ bi vượt hơn các trời Phạm chúng, dùng đại trí tuệ vượt hẳn Đế Thích, tu các khổ hạnh hơn hẳn Thần tiên ngũ thông, trăm ngàn muôn ức na-do-tha lần không thể so tính, ví dụ, vì các chúng sinh giảng nói kinh điển nhiệm mầu này. Tiếp theo là được lợi ích, có hai: Đầu tiên là các vị trời được lợi ích; tiếp từ “Khiến cho… châu Thiệm-bộ…” trở xuống là nói về người được lợi ích. Trong phần trời được lợi ích: Đầu tiên là đạt được lợi ích, sau từ “Đều là do Như lai…” trở xuống là khen ngợi. Văn kinh: Khiến cho tất cả vua chúa và nhân dân ở châu Thiệm- bộ hiểu rõ tất cả mọi việc về phương pháp trị nước, cảm hóa nhân dân, khuyên nhủ dẫn dắt, nhờ năng lực lưu thông kinh vương này nên khắp nơi được yên vui. Những phước lợi này đều là do năng lực Từ bi của Đức Thích-ca Đại sư đối với kinh điển này vì chúng sinh lưu thông rộng khắp. Tiếp theo là kết luận về lợi ích của loài người. Trong đó chỉ nói đến được nhân lợi ích, không nói về quả, nên trước đây đã nói: Được nhân lợi ích. Kết thúc do kinh. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Vì nhân duyên này nên các vị vua cõi người đều phải thọ trì cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen kinh vương nhiệm mầu này. Vì sao? Vì tất cả lợi ích công đức cao quý không thể suy nghó bàn luận như thế, cho nên gọi là kinh vương tối thăng. Tiếp theo là phần sau khuyến khích mở mang kinh, có ba: Nêu ra, trưng hỏi, giải thích riêng. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo tứ Thiên vương rằng: Tứ Thiên vương các ông và quyến thuộc của mình cùng vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha đại chúng các vị trời, thấy vị vua cõi người kia nếu có thể dốc lòng lắng nghe kinh điển này, cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi thì cần phải ủng hộ, trừ bỏ họa hoạn sụp hao của họ, khiến cho các ông cũng được yên vui. Tán rằng: Đoạn lớn thứ hai là tứ Thiên vương vâng theo lời dạy phát nguyện hộ trì. Trong đó có hai: Đầu tiên là thân hộ trì, sau là pháp hộ trì. Trước đây nói về thân hộ trì, nay tiếp theo nói về pháp hộ trì. Trước đây nói về thân hộ trì là hộ trì người mở mang và hộ trì cõi nước, ở đây chỉ hộ trì đối với người mở mang Phật pháp. Lại nữa, thân hộ trì là trừ diệt các họa hoạn suy hao, tai biến tật dịch cùng tất cả mọi sự bất an, ở đây trừ diệt nỗi khổ nghèo cùng, khiến đạt được tài vật, cho nên Phật khen ngợi rằng: “Ông hãy phá tan mạng lưới khổ sở nghèo thiếu của tất cả chúng sinh, khiến cho họ được phước lạc, đạt được phước lạc rồi thì có thể mở mang kinh”, do đó tiếp theo nói: “Cũng khiến cho kinh này truyền bá rộng rãi ở thế gian.” Trong đó có ba: Đầu tiên là Đức Thế Tôn lại khuyến khích, tiếp theo là pháp hộ trì của tứ Thiên vương; sau từ “Lúc Thiên vương Đa Văn nói chú này xong…” trở xuống là Thế Tôn ngợi khen. Đây là phần mở đầu, có hai: Đầu tiên là khuyến khích hộ trì vị vua cõi người, sau là khuyến khích hộ trì bốn chúng. Đây là phần hộ trì vị vua cõi người, trong văn có bốn: Ban sắc cho tứ Thiên vương. Người được hộ trì. Chính thức dạy ủng hộ. “Khiến cho các ông…” trở xuống là nói về lý do dạy hộ trì. Văn kinh: Nếu bốn bộ chúng có thể truyền bá rộng rãi kinh vương này, ở trong trời người làm nhiều Phật sự, khắp làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, người như vậy, tứ Thiên vương các ông thường nên ủng hộ, bốn chúng như vậy đừng để các duyên khác xâm hại quấy nhiễu họ, làm cho thân tâm họ vắng lặng yên vui, đối với kinh vương này giảng nói rộng rãi, truyền bá khắp nơi, đừng để dứt mất, lợi ích cho hữu tình đến tận mé vị lai. Tiếp theo là khuyến khích hộ trì bốn chúng, trong văn có bốn: Người được hộ trì. “Ở trong trời người…” trở xuống là khen ngợi công năng. “Người như vậy…” trở xuống chính là dạy phải ủng hộ. “Đối với kinh vương này…” về sau là nói về mục đích dạy hộ trì. Văn kinh: Lúc ấy, Thiên vương Đa Văn đứng dậy khỏi chỗ ngồi, bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Con có pháp Đà-la-ni Như ý Bảo châu, nếu có chúng sinh nào thích thọ trì thì công đức vô lượng, con thường ủng hộ giúp cho chúng sinh kia lìa đau khổ được an vui, thành tựu hai thứ tư lương phước trí. Tán rằng: Thứ hai là pháp hộ trì của tứ Thiên vương, phân bốn: Nêu ra công năng của thần chú. “Thích thọ trì…” trở xuống là hai phương pháp trì chú. “Lúc ấy, có Đệ-thất-la…” trở xuống là nói về lợi ích được thần chú. hộ. “Dù cho mặt trăng, mặt trời…” trở xuống là lập thệ nguyện thủ Văn phần đầu có ba: Đầu tiên là người nói chú, tiếp theo là nêu lên thần chú; sau từ “Nếu có chúng sinh…” trở xuống là nói công năng của thần chú. Văn kinh: Người muốn thọ trì, trước tiên nên tụng thần chú hộ trì thân này, liền nói thần chú rằng: “Nam-mô đệ thất la mạt noa dã hạc ha la xã dã-(nhưng chữ Dã trên cần phải kéo dài tiếng, dẫn thanh) đát diệt tha la la la la - củ nộ củ nộ - khu nộ khu nộ - lũ nộ lũ nộ - táp phược táp phược - yết la yết la - mạc ha tỳ yết lạc ma - mạc ha tỳ yết lạc ma - mạc ha hạt la xã hạt lạc xoa hạt lạc xoa - đổ mạn (tự xưng tên mình) tát bà tát đoản nan giả - sa ha (hai chữ này đều kéo dài, dẫn thanh).” Bạch Đức Thế Tôn! Người tụng chú này nên dùng chỉ trắng, tụng bảy biến chú, mỗi biến gút một mắt, buộc vào khuỷu tay, thì việc ấy chắc chắn thành tựu, nên lấy các thứ hương, như hương an tức, hương chiên đàn, hương long não, hương tô hợp, hương đa-yết-la, hương huân lục, đều cần lượng bằng nhau, hòa hợp một chỗ, tay bưng lò hương đốt hưong, cúng dường tắm gội sạch sẽ, mặc áo quần mới sạch, ở trong một căn phòng yên tónh mới tụng thần chú. Tiếp theo là nói về phương thức trì chú. Phương thức có ba: Đầu tiên là chỉ dạy hộ trì thân, tiếp theo là chỉ dạy cầu thỉnh hộ trì, sau chính là chỉ dạy chú này. Đầu tiên chỉ dạy hộ trì thân có ba: Nêu tên thần chú. Chính thức nói thần chú. “Bạch Đức Thế Tôn! Người tụng thần chú này…” trở xuống là chỉ bày nghi tắc trì tụng. Bệ-thất-la Mạt-noa-dã (Hán dịch là Đa văn) Mạc-ha (Hán dịch là Đại) Hạt-la-xà-dã (Hán dịch là Vương). Văn còn lại có thể biết. Nói Đa-yết-la, Hán dịch là Linh-lăng-hương. Văn kinh: Cầu thỉnh con, Thiên vương Bệ-thất-mạt-noa liền nói chú rằng: “Nam mô-Bệ thất la-Mạt noa (dẫn) Dã-nam mô đàn na đà dã-đàn nễ thuyết la (dẫn) dã-a yết xả-a bạt lị nhị đa-đàn nễ thuyết la- bát la ma-ca lưu ni ca-tát bà tát đoản rất đa chấn đa-ma ma (nói tên mình) đàn na-mạt nô bát lạt duệ xả toái diêm ma yết xả-sa ha ha.” Tụng chú này đủ bảy biến rồi. Tiếp theo là chỉ bày cầu thỉnh hộ trì: Đầu tiên là nêu ra cầu thỉnh, tiếp theo là nói thần chú, sau từ “Tụng thần chú này đủ bảy biến…” trở xuống là kết thúc cách trì tụng. Văn kinh: Kế là tụng chú này. Lúc muốn tụng chú, trước tiên nên xưng danh cung kính lễ lạy Tam bảo và Đại vương Bệ thất la-Mạt noa có khả năng thí cho tài vật, khiến mọi sự cầu nguyện của các chúng sinh đều thành tựu đầy đủ và được yên vui. Lễ lạy như thế xong, tiếp đến tụng thần chú Bệ thất la-Mạt noa Vương như ý Mạt-ni Bảo Tâm, có công năng thường bố thí cho chúng sinh tùy ý yên vui. Lúc ấy, Thiên vương Đa Văn liền đối trước Đức Phật nói thần chú Như ý mạt-ni bảo tâm rằng: Nam-mô hạt lạt đát na-đát lạt dạ (dẫn) dã, Nam-mô Bệ- thất-la mạt noa-(dẫn) Dã mạc ha la xà (dẫn) dã-đát điệt tha tứ nhị tứ nhị-tô mẫu tô mẫu-chiên trà chiên trà-triết la triết la-tát la tát la-yết la yết la-chỉ lý chỉ lý-củ rô củ rô-mẫu rô mẫu rô-chủ rô chủ rô-sa đại dã ác tham, con tên là… nặc-điếm-ác-tha-đạt đạt đổ sa-ha, Nam-mô Bệ- thất-la Mạt-dã sa ha-đàn na đà dã-sa ha-mạn nô lạt tha bát lị bô lạt ca (dẫn) dã sa ha.” Thọ trì thần chú, trước tiên trì tụng một ngàn biến, sau đó ở trong tịnh thất bôi Cù-ma trên đất, làm một đàn tràng nhỏ, hễ khi nào ăn uống thì nhất tâm cúng dường, thường đốt hương quý khiến cho khói hương không dứt, trì tụng tâm chú như trước, ngày đêm tâm thường nhớ nghó, chỉ tự tai nghe đừng để cho người khác biết. Tiếp theo là phần thứ ba chính thức dạy chú này, có bốn: Nêu rõ. Từ “Trước tiên nên…” trở xuống là dạy quy y lễ bái và phát nguyện. Khiến cho tụng chú này, tức là lễ lạy như thế xong, tiếp đến tụng Bệ-thất-la… về sau. Từ “Lúc ấy, Thiên vương Đa Văn…” trở xuống chính là nói thần chú. Hạt-lạt-đát-na Hán dịch là Bảo, Đát-lạt-dạ-dã Hán dịch là Tam, tức là lễ bái Tam bảo. Sau nói Đàn-na Hán dịch là Tài, Đà-dã Hán dịch là Thí, Mạn-nô Hán dịch là Ý, Lạt-tha-bát-tra Hán dịch là Ngã, Bô-lạt-ca-dã Hán dịch là Mãn, ý chung nói là “tài thí đầy đủ như ý con”. Lúc thọ trì chú… trở xuống là nói về cách trì chú. Văn kinh: Lúc đó, có vương tử Bệ-hất-la-mạt-noa tên là Thiền- nị-sư hiện hình Đồng tử đến tịnh thất đó hỏi rằng: Vì sao phải gọi cha ta? Thì hãy đáp rằng: Con vì việc cúng dường Tam bảo, cần đến tài vật, nguyện xin giúp cho! Lúc Thiền-nị-sư nghe lời này rồi liền trở về chỗ cha mình, thưa với cha rằng: Nay có thiện nhân phát tâm chí thành cúng dường Tam bảo mà thiếu thốn tài vật, vì thế triệu thỉnh. Cha vương tử trả lời: Con hãy mau đến đó, hãy ngày giúp cho người ấy một trăm Ca-lợi-sa-ba-noa (đây là âm Phạm căn bản, chỉ thấy nói trong bối kinh nên tùy theo nơi chốn không nhất định, hoặc là bối-xỉ hoặc là các loại tiền vàng, bạc, đồng, thiếc. Nhưng ở Ma-yết-đà hiện nay thông dụng một Ca-lợi-sa-ba-noa có một ngàn sáu trăm bối-xỉ, tổng số có thể theo đó thì biết. Nếu theo giá trị của đồ vật thì tùy nơi chốn không cố định, nếu người trì chú được thành tựu sở nguyện thì lúc được tài vật sẽ tự mình biết số đó. Có bản nói rằng: Mỗi ngày giúp cho người ấy một trăm trần-na-la, tức là tiền vàng, cho đến suốt đời mỗi ngày thường được người cầu về Tây phương phần nhiều được thần nghiệm, trừ khi không dốc lòng). Người trì chú đó thấy tướng trạng này rồi liền biết việc được thành tựu, nên phải ở một mình trong tịnh thất, đốt hương mà nằm, có thể ở bên cạnh giường đặt một cái hộp hương, mỗi ngày đến lúc trời sáng xem trong hộp đó lấy được vật mình cầu, mỗi khi được vật thì ngày ấy liền nên cúng dường Tam bảo các thứ hương hoa đồ ăn thức uống cùng giúp đỡ người nghèo thiếu, đều bố thí cho hết, không được giữ lại. Đối với các hữu tình nên khởi ý niệm Từ bi, đừng sinh tâm sân cuồng hãm hại. Nếu người khởi tâm sân cuồng thì sẽ mất sự thần nghiệm, thường hãy giữ gìn tâm ý, đừng để tức giận. Tiếp theo là nói về lợi ích được thần chú, có hai: Đầu tiên là thấy vương tử Đa Văn được lợi ích, sau là thấy cha của vương tử Đa Văn được lợi ích. Trong phần thấy vương tử được lợi ích, có năm: Vương tử đến hỏi. “Thì hãy trả lời…” trở xuống là người trì chú trả lời. Từ lúc “Thiền-nị-sư…” trở xuống là vương tử trở về thưa với vua cha. Từ “Cha của vương tử trả lời…” trở xuống là vua cha bảo vương tử giúp cho. Từ “Người trì chú đó…” trở xuống là hành giả được lợi ích, có chín: Thấy sự ứng nghiệm. Từ “Nên phải một mình ở chỗ…” về sau là được tài vật. Được hộ trì. Kéo dài tuổi thọ. Không gặp tai nạn. Được kho báu. j) Được thần thông. h) Được toại nguyện. l) Hiểu được ngôn ngữ khác. Trong phần được tài vật: Nghi thức thọ nhận tài vật. Từ “Thường được tài vật…” về sau là được rồi nên cúng dường. Từ “Đối với các hữu tình…” về sau là khởi tâm Từ bi. Từ “Chớ sinh…” về sau là dạy xa lìa điều ác. Văn kinh: Lại nữa, người trì chú này mỗi ngày nghó nhớ Thiên vương Đa Văn và nam nữ quyến thuộc của con, xưng dương khen ngợi, thường dùng mười điều lành cùng giúp đỡ lẫn nhau, khiến cho phước lực của các vị trời kia càng tăng thêm, các điều lành đều đạt đến chứng được quả Bồ-đề, các chúng trời đó thấy được việc này rồi đều rất vui mừng cùng nhau đến ủng hộ người trì chú. Lại nữa, thọ mạng của người trì chú rất lâu dài, đến vô lượng tuổi, xa lìa hẳn ba đường ác, thường không có các tai ách, cũng khiến hộ trì được như ý bảo châu và thần thông tự tại ẩn giấu cùng sở nguyện đều được thành tựu, nếu cầu quan chức vinh hoa thảy đều xứng ý, cũng hiểu được ngôn ngữ của tất cả các loài cầm thú. Tiếp theo nói về được hộ trì, trong đó có bốn: Dạy nhớ nghó khen ngợi. Từ “Thường dùng mười điều lành…” về sau là dạy phải tu tư lương điều lành. Từ “Khiến cho các vị trời kia…” về sau là khiến các vị trời ấy trở xuống là dạy các vị trời khéo tu tư lương, cũng khiến được yên vui. Từ “Các chúng trời đó…” về sau là được thủ hộ, nói lên trong cá đoạn văn còn lại. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu lúc người trì chú muốn thấy tự thân con hiển hiện thì có thể vào ngày mồng tám hoặc mười lăm mỗi tháng, họa hình tượng Đức Phật ở trên vải bông trắng, nên dùng keo gỗ và nhiều màu sắc pha lẫn để tô điểm đẹp đẽ. Người họa tượng đó phải thọ tám giới (bát quan trai). Ở bên trái Đức Phật họa hình tượng Cát tường Thiên nữ, ở bên phải Đức Phật họa hình tượng của con là Thiên vương Đa Văn cùng các nam nữ quyến thuộc, an trí chỗ ngồi, tất cả đều làm cho đúng pháp, bày biện hoa quả năm màu, đốt các thứ hương quý, thắp đèn sáng rực ngày đêm nối nhau không tắt, thức ăn đồ uống ngon ngọt, cùng các các loại quý hiếm lạ thường, phát tâm thiết tha, thường xuyên cúng dường. Tán rằng: Tiếp theo thấy Thiên vương Đa Văn được lợi ích, có năm: Nêu rõ muốn cầu thấy. Chỉ dạy nghi thức cầu thấy. Dạy phải tụng thần chú. Thiên vương hiện thân cho người đó thấy. Sở nguyện của người đó được như ý. Trong phần chỉ bày nghi thức cầu thấy: Thời gian. Vẽ hình tượng Phật. Phương pháp vẽ. Người vẽ giữ giới. Vẽ thân thị giải. Từ “Bày biện…” về sau là dạy phải tu pháp cúng dường. Văn kinh: Thọ trì thần chú tâm không được xem thường, lúc triệu thỉnh ta nên tụng chú này: “Nam mô-thất lị kiện na-(dẫn) dã bột đà (dẫn) dã-Nam mô-Bệ thất la mạt noa-Dã-Dược xoa la xà (dẫn ở dưới đồng) dã-mạc ha la xà-a địa la xà dã-nam ma thất lî da duệ-mạc ha đề tệ (dẫn) duệ-đát diệt tha-đát la đát la-đốt rô đốt rô-mạt la mạt la-tốt súy thổ tốt súy thổ-hán na hán na-mạt ni yết nặc ca-bạt triết la bệ lưu ly dã- mục để ca lăng ngật lật đa thiết lî la duệ bồ (dẫn)-tát bà tát đoả rất đá ca (dẫn) ma-bệ thất la mạt noa-thất ly ỹ dạ đề tỷ bạt lạp bà (dẫn) dã-ế sất ế sất-ma tỳ lam bà-cù lật noa cù lật noa-mạt lạt sa mạt lạt sa-đạt đà sất ma ma-a mục ca da mạt tả (tự xưng tên mình) đạt lý thiết na ca mạt tả-đạt lý thiết nam-ma ma mạt na-bát lạt hạt la đại dã-sa ha.” Tiếp theo dạy phải tụng thần chú: Đầu tiên là chỉ bày nghi thức tụng, tiếp theo chính thức nói chú. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu con thấy người tụng chú này, lại thấy sự cúng dường rộng lớn như thế thì sinh tâm ưa thích vui mừng, con liền biến thân thành hình dạng trẻ nhỏ hoặc thành dáng vẻ vị Tỳ-kheo lớn tuổi, tay cầm hạt chây ma-ni Như ý cùng với túi vàng, vào trong đạo tràng thân hiện tướng cung kính, miệng xưng niệm danh hiệu Phật. Tiếp theo vua vì ngươi ấy hiện thân, có năm: Thấy mình thì cầu nghi tắc. Trong tâm khởi lên vui mừng. Những hình tướng hiện bày. Đến nơi cầu thỉnh. Lễ kính Tam bảo. Phối hợp văn có thể biết. Văn kinh: Nói với người trì chú rằng: Tùy theo sự mong cầu của ông đều khiến được như nguyện, hoặc ẩn trong rừng lớn, hoặc tạo ra châu báu, hoặc muốn mọi người yêu mến, hoặc cầu các vật vàng bạc, muốn trì các chú đều khiến được ứng nghiệm, hoặc muốn thần thông, thọ mạng lâu dài và vui sướng tuyệt vời, tất cả đều như ý. Nay tôi tạm thời nói những việc như thế, nếu lại cầu việc khác mà tùy nguyện ước đều được thành tựu, kho báu vô tận công đức vô cùng. Tiếp theo những nguyện ước đó đều được như ý, có ba: Đầu tiên là nêu chung, tiếp từ “hoặc ẩn trong rừng lớn…” về sau là nêu riêng, sau từ “Nay tôi tạm thời nói…” về sau là sơ lược kết thúc. Văn kinh: Giả sử mặt trời, mặt trăng rơi xuống mặt đất, hoặc là trái đất có lúc di chuyển, lời tôi nói chân thật cuối cùng không luống dối, như thế thường được yên ổn, tùy tâm vui sướng. Tiếp theo lập thệ nguyện thủ hộ. Đoạn văn có ba: Đầu tiên là chung lập thệ nguyện, tiếp theo nói riêng về lợi ích đạt được, sau từ “Nay lời tôi nói chân thật…” trở xuống là kết thúc không luống dối. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng kinh Vương này thì lúc tụng thần chú này không hề mệt mỏi, pháp tu mau được thành tựu. Bạch Đức Thế Tôn! Nay con vì chúng sinh nghèo khó, khốn cùng, khổ não kia nói thần chú này khiến cho họ được lợi ích rộng lớn, đều được giàu có vui sướng tự tại, không còn sầu lo, cho đến suốt đời, con sẽ ủng hộ theo sát người này để dứt trừ tai ách, lại làm cho người thọ trì, truyền bá kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này và người trì chú trong khoảng trăm bộ được ánh sáng soi tỏ. Con vốn có một ngàn vị thần Dược-xoa cũng thường theo hầu bảo vệ, tùy ý muốn sai khiến gì đều được toại nguyện. Lời con nói chân thật không luống dối, chỉ có Phật chứng biết. Tiếp theo nói riêng về lợi ích đạt được, trong đó có năm: Nói về pháp thực hành để thành tựu. Từ “Bạch Đức Thế Tôn! Nay con…” trở xuống là nói lợi ích của thần chú. Từ “Cho đến suốt đời…” trở xuống là nói về thân thủ hộ. Từ “Lại cũng làm cho…” trở xuống là lợi ích của ánh sáng. Từ “Con vốn có…” trở xuống là quyến thuộc bảo vệ. Kết thúc không luống dối, theo văn có thể biết. Văn kinh: Bấy giờ Thiên vương Đa Văn nói chú này xong, Đức Phật bảo: Lành thay! Lành thay! Ông có thể xé rách lưới sự nghèo khó của tất cả chúng sinh khiến cho họ được giàu có vui sướng nên nói thần chú này, lại làm cho kinh này truyền bá rộng rãi trên thế gian. Tán rằng: Đoạn lớn thứ ba trong phần hộ trì pháp là Thế Tôn khen ngợi. Khen ngợi có hai: Đầu tiên là khen ngợi lợi ích chúng sinh, sau từ “Lại làm cho kinh này…” về dưới là khen ngợi lợi ích pháp. Văn kinh: Lúc đó, tứ Thiên vương đều đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải đảnh lễ dưới chân Phật, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính dùng già-tha (kệ tụng) khen ngợi công đức của Phật: Mặt Phật giống như trăng tròn sáng, cũng như ngàn mặt trời tỏa rạng, mắt trong dài rộng như sen xanh, răng trắng đều đặn như ngọc quý, Phật đức vô biên như biển lớn, vô hạn thứ báu chứa trong đó, nước đức trì tuệ giữ đầy tràn, trăm ngàn thắng định đều đầy đủ, hình bánh xe dưới chân nghiêm trang, vòng tròn ngàn căm đều ngay ngắn, tay chân màng mỏng khắp trang nghiêm, như tướng ngỗng đầu đàn đầy đủ, thân Phật sáng ngời sánh núi vàng, thanh tịnh tuyệt vời không ai bằng, cũng như diệu cao đầy công đức, nên con cúi lạy núi chúa Phật, tướng tốt như không nào lường được, vượt hẳn ánh sáng ngàn vầng trăng, đều như huyền ảo (diêm huyễn) không nghó bàn, nên con cúi lạy tâm vô trước. Tán rằng: Đoạn lớn thứ ba trong phẩm là Tứ Thiên Vương đội ân khen ngợi Đức Phật, có hai: Đầu tiên là văn trường hàng, khen ngợi oai nghi Đức Phật; sau chính là nói tụng. Khen ngợi nói thần chú trước đây chỉ nói đến Đa Văn, nay khen ngợi gồm cả tứ Thiên vương. Vì muốn làm cho chuyên tâm thỉnh cầu dễ thành tựu, nên chỉ nói một thần chú. Nghe pháp được lợi ích tất cả cho nên tứ Thiên vương cùng khen ngợi. Lại nữa, Đức Phật thường nói kinh cho nên chỉ khen ngợi Đức Phật, không khen ngợi ai khác. Tất cả có năm bài tụng, bốn bài tụng đầu khen ngợi riêng về tướng tốt, một bài tụng sau khen ngợi chung về sự kính lễ. Trong phần riêng có hai: Đầu tiên là khen ngợi, một câu cuối là kính lễ. Trong phần khen ngợi có bảy: Nửa bài tụng khen ngợi khuôn mặt; một câu là đôi mắt; một câu là hàm răng; một bài tụng khen ngợi định tuệ như biển lớn là chung, mười lực vô úy… là của báu, trí tuệ là gốc, như nước định nương vào trí, căn cứ vào quả Phật thì trí là chủ yếu, như mây đại pháp trí bao gồm các nước công đức…; nữa bài tụng khen ngợi tướng bánh xe ngàn căm; nửa bài tụng khen ngợi tướng màng mỏng; ba câu khen ngợi tướng thân quang; một câu nói về sự kính lễ. Một bài tụng sau từ tướng tốt trở xuống là khen ngợi chung, có hai: Ba câu đầu là khen ngợi, một câu sau là kính lễ. Trong ba câu: Một câu đầu là chung, hai câu sau là ánh sáng. Lại giải thích: Một bài tụng đầu là Hóa thân, một bài tụng tiếp theo là Báo thân, hai bài tụng tiếp nữa là kết hợp khen ngợi Báo và Hóa thân, một bài tụng sau là Pháp thân. Trong Pháp thân: Một câu là kính lễ, hai câu là khởi dụng của Báo và Hóa thân, một câu sau là nói về sự kính lễ. Văn kinh: Lúc bấy giờ, tứ Thiên vương khen ngợi Đức Phật xong, Đức Thế Tôn cũng dùng già-tha (kệ) mà trả lời rằng: Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng này, Vô thượng Thập lực đã nói ra, tứ vương các ông thường ủng hộ, nên sinh tâm mạnh mẽ không lui, kinh báu mầu này thật sâu xa, thường ban vui tất cả chúng sinh, vì thế hữu tình kia yên vui, thường được truyền bá châu Thiệm-bộ, ở trong thế giới đại thiên này, tất cả loài hữu tình vốn có, ngạ quỷ súc sinh và địa ngục, đường khổ như thể thảy đều dứt, các quốc vương ở Nam châu này, và tất cả các loài hữu tình khác, nhờ uy lực kinh thường vui mừng, đều nhờ ủng hộ được bình an, cũng khiến các hữu tình trong đây, dứt trừ các bệnh khổ không trộm cướp, vì nhờ cõi này mở mang kinh, yên ổn thái bình không sầu lo. Tiếp theo là đoạn lớn thứ tư trong phẩm, Đức Phật lại khuyến khích ngợi khen kết thúc thành tựu. Văn chia làm hai: Đầu tiên là tựa của các nhà kết tập kết luận trước, sinh khởi sau, sau là Phật chính thức giảng nói, có mười lăm bài tụng, chia ra làm bốn: Năm bài tụng đầu là khen ngợi kinh, năm bài tụng tiếp theo là khuyến khích hộ trì; hai bài tụng tiếp đó khuyến khích các vị trời hộ trì, ba bài tụng cuối là kết thúc. Trong phần đầu có ba: Nửa bài tụng đầu là khen ngợi sự cao quý của kinh, nửa bài tụng tiếp là nhắc nhở phải hộ trì, bốn bài tụng sau là nói về công dụng của kinh, trong đó hai bài tụng trước nói chung về đại thiên thế giới, hai bài tụng sau nói riêng về châu Thiệm-bộ. Trong phần nói chung thì nửa bài tụng trước là nói ban cho yên vui, nửa bài tụng tiếp theo là phát sinh điều lành, tức là mở rộng kinh pháp, một bài tụng sau là nhổ sạch gốc khổ. Trong phần nói riêng về châu này: Một bài tụng đầu là được yên vui, nửa bài tụng tiếp theo là lìa xa khổ đau, nửa bài tụng sau là kết thúc. Văn kinh: Nếu người nghe nhận kinh Vương này muốn cầu giàu sang và tài lợi, đất nước thái bình không tranh chấp, tùy tâm nguyện ước đều như ý, thường khiến giặc phương khác rút lui, nơi đất nước mình thường yên ổn, nhờ sức kinh Vương tối thắng này, lìa các khổ não không lo sợ. Tiếp theo là khuyến khích loài người hộ trì, bao gồm cả nhà vua và nhân dân. Trong đây khuyến khích hộ trì khiến cho lắng nghe tin nhận… đều là khả năng khen ngợi công năng của kinh, mục đích làm cho mở mang và hộ trì. Trong đó chia làm hai: Hai bài tụng đầu nói về pháp, ba bài tụng sau là ví dụ. Trong phần kết hợp pháp: Một bài tụng đầu là lắng nghe tin nhận được yên vui, có ba: Được yên vui. Không tranh chấp. Tùy tâm nguyện. Một bài tụng sau là nhổ sạch gốc khổ: Lìa xa các khổ oán tặc xâm chiếm tổn họa cho nên đất nước được yên ổn. Lìa xa các khổ về tai họa tật dịch, tức là lìa các khổ não. Văn kinh: Như cây báu chúa ở trong nhà, sinh ra tất cả mọi đều vui, kinh Vương tối thắng cũng như vậy, thường ban công đức cho vua người, giống như nước trong veo mát mẻ, thường trừ các nóng nảy đói khát, kinh Vương tối thắng cũng như vậy, khiến phước lạc ấy tâm đầy đủ, như người có rương báu ở trong nhà, tùy các thọ dụng đều như ý, kinh Vương tối thắng cũng như vậy, phước đức tùy tâm không hề thiếu. Tiếp theo trong phần dụ hợp chỉ ví dụ kết hợp với đạt được yên vui. Trong đó có ba: Đầu tiên là cây báu kết hợp với được yên vui, tiếp là nước mát kết hợp với không tranh chấp, sau là hòm báu kết hợp với tùy tâm nguyện. Văn kinh: Thiên chủ và Thiên chúng các người, hãy nên cúng dường kinh Vương này, nếu y lời dạy vâng trì kinh, trí tuệ oai thần đều đầy đủ, hiện tại các Phật khắp mười phương, đều cùng hộ niệm kinh Vương này, thấy người đọc tụng và thọ trì, khen ngợi lành thay thật ít có. Tiếp theo là khuyến khích các vị trời hộ trì, cũng chung cho cả thần dân, quốc chủ, chia làm hai: Một bài tụng đầu là tăng thêm phước trí, một bài tụng sau là các Đức Phật hộ trì. Văn kinh: Nếu có người thường nghe kinh này, thân tâm hăng hái sinh vui mừng, thường có trăm ngàn chúng Dược-xoa, tùy nơi cư trú hộ người ấy, các chúng trời ở thế giới này, số đó vô lượng không nghó bàn, đều cùng nghe nhận kinh Vương này, vui vẻ hộ trì không lui sụt, nếu người nghe nhận kinh Vương này, oai đức mạnh mẽ thường tự tại, tất cả chúng trời, người thêm nhiều, khiến lìa suy não thêm ánh sáng. Tiếp theo là ba bài tụng kết thúc: Một bài tụng đầu là người nghe được hộ trì; một bài tụng tiếp theo là các vị trời được không lui sụt, chẳng những nghe nhận đều không lui sụt, mà cũng khiến cho oai đức của các vị trời không lui sụt, một bài tụng sau là phối hợp kết, vua được sắc lực, phước trí, oai đức mạnh mẽ thường được tự tại, các vị trời được tăng thêm cho nên lìa năm thứ suy não lớn nhỏ, vì thế thường thêm nhiều ánh sáng. Văn kinh: Lúc ấy, tứ Thiên vương nghe bài tụng này xong, vui mừng hớn hở bạch với Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Từ xưa đến nay con chưa từng được nghe âm thanh nhiệm màu sâu xa như vậy, tâm sinh buồn vui lẫn lộn, nước mắt chan hòa, toàn thân run rẫy, chứng nhận sự việc ít có không thể suy nghó bàn luận, rải hoa Mạn- đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la cõi trời trên người Đức Phật. Thực hiện cúng dường Phật thù thắng như vậy rồi bạch với Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tứ Thiên Vương chúng con đều có năm trăm Dược-xoa quyến thuộc thường hướng về mọi nơi ủng hộ kinh này và Pháp sư nói pháp, dùng ánh sáng trí tuệ mà trợ giúp bảo vệ vị ấy. Nếu đối với tất cả câu nghóa của kinh này có nơi nào quên hay sai sót, con đều khiến cho người đó nhớ lại không quên, đồng thời ban cho pháp môn Đà-la- ni cao siêu khiến được đầy đủ. Lại muốn làm cho kinh Vương cao siêu này ở nơi nào vì các chúng sinh giảng nói rộng rãi, truyền bá khắp nơi không hề bị mất đi. Tán rằng: Đoạn lớn thứ năm trong phẩm, tứ Thiên vương mừng vui hộ trì, có bốn: Nghe tụng tâm vui vẻ, tức là tâm vui vẻ, thân hăng hái. Từ “Bạch với Đức Phật…” trở xuống là phát ngôn nói lời thưa bạch, có ba: Nghe điều chưa từng nghe. Thân tâm mừng vui. Theo kinh Nhân Vương thì Bồ-tát Sơ địa là tứ Thiên vương vì chứng được không lui sụt cho nên nghe pháp sâu xa buồn vui rơi lệ, toàn thân rúng động. Đạt được điều chưa từng đạt được, tức là chứng được việc không thể suy nghó bàn luận. Từ “Dùng hoa Mạn-đà-la cõi trời…” trở xuống là rải hoa cúng dường. Từ “Thực hiện cúng dường Phật thù thắng…” trở xuống là thỉnh nguyện hộ trì, có hai: Đầu tiên là thân hộ trì, sau từ “Dùng ánh sáng trí tuệ…” trở xuống là hộ trì, có ba: Khiến cho nhớ nghó. Ban cho tổng trì. Khiến cho hoằng pháp, truyền bá không dứt. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng nói pháp này, có vô lượng chúng sinh đều đạt được đại trí, thông suốt biện tài, nhiếp thọ vô lượng nhóm phước đức, lìa xa các ưu não, phát tâm vui mừng ưa thích, khéo hiểu các luận, bước đến con đường xuất ly, không còn lui sụt, mau chứng quả Bồ-đề. Tiếp theo là đoạn lớn thứ sáu trong phẩm, đại chúng nghe kinh được lợi ích, có chín: Đạt được trí tuệ. Đạt được biện tài. Đạt được phước đức. Lìa xa khổ đau. Đạt được vui sướng. Đạt được năm minh. Đạt được con đường Niết-bàn. Đạt được không lui sụt. Mau chứng quả Bồ-đề. Văn rõ ràng có thể biết. <篇> <卷>QUYỂN 5 (Phần 3) <詞>Phẩm 13: VÔ NHIỄM TRƯỚC ĐÀ-LA-NI Phẩm Vô Nhiễm Trước Đà-la-ni chia ra làm ba phần: Lý do có phẩm này. Giải thích. Giải thích vặn hỏi. Nói về lý do có phẩm này: phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát Nhân Thiên về sau gồm mười sáu phẩm, đầu tiên nói về học hạnh lưu thông, có năm: Phẩm Quán Sát khuyết khích tu hành. Phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc trở xuống ba phẩm dưới là nói về sự thủ hộ. Phẩm Đại Biện Tài trở xuống năm phẩm dưới là nói về làm tăng phước trí của hành nhân mở mang kinh. Phẩm Vương Pháp Chánh Luận trở xuống ba phẩm dưới nói về chính thức trì học. Bốn phẩm như Thọ Ký v.v… là thành tựu các ý khuyến khích tu học thủ hộ ở trước. Ngay trong ba phẩm như Tứ Thiên Vương Hộ Quốc v.v… nói về sự thủ hộ, có ba: Dạy phải thủ hộ cúng dường. Dạy cho lìa nhiễm trước, không lui sụt. Giúp cho lìa chướng, như ý. Trước đã nói về sự thủ hộ cúng dường, ở đây nói về khiến lìa nhiễm trước, không lui sụt, nếu có nhiễm trước tức là có lui sụt, bởi do chấp đắm. Như trong luận Bát-nhã của Bồ-tát Vô Trước giải thích về lìa bất nhẫn khổ chướng rằng: “Không trụ vào tất cả các pháp, phát tâm A-nậu Bồ-đề… là đối trị các khổ như khổ lưu chuyển bất nhẫn, khổ chúng sinh trái nhau, khổ thọ dụng thiếu thốn…”. Nay ở đây cũng vậy, cho nên văn sau nói: “Nếu các Bồ-tát luôn luôn an trụ thì đối với vô thượng Bồ-đề không còn lui sụt, thành tựu chánh nguyện, được vô sở ý, tự tánh biện tài, được việc ít có.” Vì an trụ chánh đạo cho nên nói thần chú này hộ trì khiến cho lìa nhiễm trước, không lui sụt tu hành, do đó có phần này phát sinh. Giải thích tên gọi: tiếng Phạn gọi Tỷ-đông-lê-sa, Hán dịch là Vô nhiễm trước, xưa dịch Ngân chủ là sai. Pháp sở hoằng từ pháp giới bình đẳng tối thanh tịnh mà lưu xuất ra, lại nhờ năng lực thần chú có thể khiến lìa nhiễm không hề trú trước, nên gọi là Vô nhiễm trước. Đà- la-ni, nghóa như bình thường đã giải thích rõ. Giải trừ vấn nạn: Hỏi: Tổng trì có bốn, Vô nhiễm trước này thuộc Đà-la-ni nào? Đáp: Đà-la-ni này có công năng giúp cho Bồ-tát đạt được Vô sinh nhẫn Đà-la-ni, Du-già quyển bốn mươi lăm chép: “Vì sao Bồ-tát có thể đạt được Bồ-tát nhẫn Đà-la-ni? Nghóa là các Bồ-tát thành tựu tự thể kiên cố nhẫn thực hành đầy đủ diệu trí”, cho đến nói “Không từ người khác nghe mà tự mình chân chánh thông suốt nghóa lý của tất cả các pháp. Nghóa là đối với nghóa lý này thông suốt đúng như vậy, tất cả ngôn từ nói năng về nghóa của tự tánh các pháp đã nói đều không thành thật, chỉ có các pháp lìa ngôn ngữ tự tánh v.v…” Kinh này đã nói “Đà- la-ni chẳng phải là nơi chốn phương xứ”cho đến nói: “Không có pháp sinh ra, cũng không có pháp diệt đi… cho nên biết như vậy.” Hoặc là thần chú tổng trì, trong Bồ-tát Địa nói: “Thế nào là Bồ-tát chú Đà-la-ni? Nghóa là các Bồ-tát được các tổng trì tự tại như vậy, gia bị, thường trừ diệt tai họa cho hữu tình, là các chương cú thần chú, khiến cho chương cú đó thảy đều thần nghiệm, thường trừ diệt các thứ tai họa chẳng phải chỉ một.” Kinh này lại nói: “Thân cũng không bị dao gậy thuốc độc, lửa nước, thú dữ làm cho tổn hại, cho nên thuộc về thần chú.” Hoặc có thể, bao gồm cả hai, văn không phân biệt. Hỏi: Theo Du-già nói: “Bốn thứ tổng trì, thể không phải đều là niệm tuệ, thần chú tổng trì tức là nói định này, đạt được nhẫn tổng trì nói là diệu tuệ”, vì sao như thế? Đáp: Vì thể tánh khác nhau, có thứ y nhân xuất thể, tức nói là định, có thứ nương vào khả năng lựa chọn mà nêu ra thể, tức nói là trí, có thứ nương theo ký ức mà đưa ra thể, tức nói là niệm, có loại y quả xuất thể, tức theo pháp sở trì gọi là tổng trì, mỗi thứ căn cứ theo một nghóa hoàn toàn không trái nhau, do đó luận Trí độ giải thích về tổng trì rằng: “Vì thiền định đạt được lửa trí tuệ”, lại nói: “Trí tuệ ở trong tâm Bồ-tát gọi là Bát-nhã, trong tâm hàng Tiểu thừa gọi là đạo phẩm, trong tâm người không quên gọi là Đà-la-ni.” Vì thế biết Du-già chép: “Chú tổng trì nói là định, đạt được nhẫn tổng trì gọi là tuệ, đều tùy theo nghóa mà nói.” Lại nói là định, đạt được nhẫn tổng trì gọi là tuệ, đều tùy theo nghóa mà nói. Lại trong trì chú nói: “Đạt được các tổng trì tự tại như vậy, khiến cho thần chú thần nghiệm v.v… đều là nói theo nhân, chẳng phải là hạn định nơi thể.” Do vậy, luận Đại Trang Nghiêm chép: “Đắc có ba loại: Báo đắc, Tập đắc, do năng lực văn trì hiện tại mà được, Tu đắc, do nương vào định lực mà được, do đây nên biết rõ.” Nói rằng “Đạt được các tổng trì tự tại như vậy gia bị nên thần chú thảy đều thần nghiệm” là do đạt được định cho nên phát khởi niệm tuệ thù thắng thường trì các thần chú, là dựa vào nhân đưa ra thể. Đạt được nhẫn tổng trì, nhẫn là quả, chú là nhân của nhẫn, nhở năng lực của niệm tuệ đạt được nhẫn chú này, gọi là thường đạt được vô sinh nhẫn Đà-la-ni của Bồ-tát. Chú sở trì và thể năng trì đều lấy niệm tuệ làm thể, hoặc chỉ có năng trì lấy niệm tuệ làm thể, chẳng phải chú sở trì, như dùng tổng trì mà trì văn nghóa, văn nghóa sở trì chẳng phải là niệm tuệ. Hoặc chú là nhân, do năng lực của chú này có thể đạt được bốn thứ tổng trì, trì bốn pháp đó không để quên mất. Lại nữa, Du-già chép: “Đạt được nhẫn tổng trì là diệu tuệ là cũng theo nhân mà nói rằng: Các Bồ-tát thành tựu tự thể vững chắc, nhẫn thực hành đầy đủ diệu tuệ, một mình ở chỗ nhàn rỗi, vắng lặng không nói năng”, cho đến nói: “Đối với những điều Phật đã nói đạt được Bồ-tát nhẫn, chương cú các thần chú có thể tư duy kỹ càng, cú nghóa như vậy không từ người khác mà nghe, tự tại thông suốt, hiểu biết chương cú các thần chú như vậy đều không có các nghóa”. Nói thành tựu vững chắc nhẫn hành, hành là nhân, nhân tức là diệu tuệ, đạt được diệu tuệ cho nên một mình ở chỗ nhàn rỗi vắng lặng không nói năng…, là nơi chốn tu hành và nghi thức tu hành. Đối với những điều Phật đã nói đạt được Bồ-tát nhẫn, chương cú các thần chú v.v… là pháp sở học đạt được nhân nhẫn. Thường tư duy là thường tu hành, tức là nhân. Vì vậy luận Đại Trang Nghiêm chép: “Do hiện tại nghe cố gắng trì mà đạt được, cho nên biết rằng tên gọi Đà-la-ni chẳng riêng đối với tổng trì niệm tuệ.” Nhân của tổng trì niệm tuệ và pháp sở trì cũng đều gọi là Tổng trì, định và chú đều gọi là Tổng trì. Lại nữa, nghóa của pháp sở trì là chung, thần chú và nhẫn là riêng, vì vậy thần chú và đạt được nhẫn chú cũng đều có nghóa của pháp. Hỏi: Nếu nói định tuệ là nhân của tổng trì, vì sao trong Bồ-tát Địa nói: “Nếu các Bồ-tát đầy đủ bốn công đức mới được tổng trì, không được thiếu bất cứ một công đức nào?” Đáp: Nhân có xa gần, định tuệ là nhân gần; bốn nhân kia là: Đối với dục lạc không tham. Người khác hơn mình không ganh tî. Mọi sự giúp đỡ không hối tiếc. Đối với chánh pháp sâu xa sinh tâm vui mừng. Đây là bốn nhân xa. Hỏi: Bốn tổng trì này ở địa vị nào mới đạt được? Đáp: Theo Du-già chép: “Đạt được nhẫn này cho nên các Bồ-tát này không bao lâu sẽ đạt được tịnh thắng ý lạc địa Bồ-tát pháp Đà-la- ni nghóa Đà-la-ni. Nếu vượt qua vô số đại kiếp lần thứ nhất rồi đi vào tịnh thắng ý lạc địa sở đắc quyết định, từ đó về sau tuy đắc mà không quyết định, như nghóa nói pháp, chú Đà-la-ni nên biết rằng cũng giống như vậy.” Theo đây tức là đạt được nhẫn tổng trì ở Địa tiền, còn lại đi vào Địa mới đạt được, đó là nói theo thực tế, còn nếu dựa vào hơn kém đủ thiếu thì địa vị đạt được không nhất định như vậy. Như các kinh Giải Thâm Mật nói thì ở Địa thứ ba đạt được văn trì Đà-la-ni, cũng nói ở Địa thứ chín đạt được bốn Đà-la-ni. Nếu dựa theo lý sở chứng thì đạt được đều ở Sơ địa y, y theo sự tu tập đạt được thì cùng chung cho cả Địa tiền, y theo sự nhậm vận đều đạt được Bát địa trở lên. Ở đây Du-già nói Địa tiền đạt được nhẫn, còn lại đi vào Địa mới đạt được, ảnh hiện rõ ràng với nhau như vậy. Văn kinh: Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo Cụ Thọ Xá-lợi-tử rằng: Nay có pháp môn tên là Vô nhiễm trước Đà-la-ni, là pháp tu hành của các Bồ-tát, là sự thọ trì của Bồ-tát quá khứ, là mẹ của Bồ-tát. Nói lời này xong. Tán rằng: Toàn văn chia làm sáu: Đức Phật nêu danh tông. Hỏi đáp về danh thể. Thỉnh Đức Phật giảng nói. Khen ngợi giảng nói. Hiển bày sự tốt đẹp, khuyến khích tu hành. Nghe chỉ dạy vui mừng tu học. Đây tức là phần đầu, có bảy: Nói về giáo chủ. Các cơ nghi hòa hợp. Nêu tên thần chú. Chỉ bày nên tu học. Nêu ra đã từng khuyến khích. Nói về ý tu học, bởi vì là mẹ của Bồ-tát, vì các Bồ-tát quá khứ thảy đều đã tu hành, Bồ-tát hiện tại nên tu hành. Kết thúc nêu ra ở trước, đoạn văn có thể biết. Văn kinh: Cụ Thọ Xá-lợi-tử bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đà-la-ni là cú nghóa gì? Bạch Đức Thế Tôn! Đà-la-ni chẳng phải phương xứ hay chẳng phải chẳng phương xứ? Thưa lời này xong. Tiếp theo hỏi đáp về danh thể, đầu là hỏi, sau là đáp. Trong phần hỏi có hai: 1.Hỏi danh nghóa là cú nghóa gì, là ý nói vì sao gọi là Vô trước v.v… Lại vì nghóa gì, cú là tên gọi của năng thuyên, chẳng phải là tên gọi trong danh cú? Về sau là hỏi về thể, vì thể của các pháp tức là chân như, chẳng phải có chẳng phải không, đều không thể nói năng giảng giải, làm sao có thể nói Đà-la-ni này? Chẳng phải phương xứ là lìa có, chẳng phải chẳng phương xứ là lìa không. Theo như ở dưới Đức Phật trả lời có bảy câu, ở đây lược nêu ra câu đầu để hỏi, bởi vì phản ánh những câu còn lại. Hoặc Xá-lợi-tử là phần ngộ còn Đức Thế Tôn là cụ ngộ, cho nên nói có bao nhiêu. Văn kinh: Đức Phật bảo Xá-lợi-tử: Lành thay! Lành thay! Xá-lợi -tử, ông đã có thể phát khởi hướng về tin hiểu Đại thừa, tôn trọng Đại thừa. Tiếp theo là đáp, có hai: Đầu tiên là khen ngợi, sau là đáp. Đây là khen ngợi, có hai: Nói lành thay là khen ngợi câu hỏi: “Ông đối với Đại thừa…” về sau là khen ngợi đức, có ba: Đầu tiên khen ngợi xả bỏ Tiểu thừa, vì đã có thể phát khởi hướng về, tiếp là khen ngợi hiểu được Đại thừa, vì tin hiểu Đại thừa, nhờ tin mà được hiểu, chẳng phải trí chứng nhập. Vì vậy kinh Pháp Hoa chép: “Xá-lợi-phất, đối với kinh này ông còn nhờ lòng tín mà được ngộ nhập, huống là các Thanh văn khác.” Hướng về Đại thừa sau đó trải qua hai muôn kiếp mới bắt đầu đến thập tín sơ tâm, do đó kinh Niết-bàn chép: “Hàng A-la-hán qua hai muôn kiếp mới đến.” Nói đến tức là đến tâm A-nậu, bởi vì chưa chứng ngộ, nếu theo Địa thứ bảy thì vượt qua chủng tánh địa, đạt đến thắng giải hạnh địa, nếu theo vị thứ năm thì chưa trụ tư lương vị, chỉ ở thiện pháp dục, do đó thập tín mới đạt được ở tư lương, sau là khen ngợi vững chắc, bởi vì tôn trọng Đại thừa. Văn kinh: Như lời ông nói, Đà-la-ni chẳng phải phương xứ, chẳng phải chẳng phương xứ chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải sự, chẳng phải phi sự, chẳng phải duyên, chẳng phải phi duyên, chẳng phải hành, chẳng phải phi hành. Không có pháp nào sinh, cũng không có pháp nào diệt. Tiếp theo là trả lời có hai: Đầu tiên là trả lời về thể, “tức là công đức các Đức Phật…” trở xuống là trả lời về danh nghóa. Trong phần đầu có hai: Trước tiên nói về sự thành tựu, sau từ “Nhưng vì…” trở xuống là trả lời lý do. đầu tiên là kể rõ sự thành tựu. Chẳng phải phương xứ v.v… như trước đã giải thích. Thứ hai là chẳng phải pháp v.v… là lìa giải thích chẳng giải thích, chẳng phải pháp, chẳng phải sở thuyên, chẳng phải phi pháp, chẳng phải không lìa pháp chẳng giải thích, cho nên trí chứng. Thứ ba là lìa ba đời, vì là thường, chẳng phải ba đời thì nên có chẳng phải phi quá khứ… chẳng phải lìa pháp thế gian, vì mô phỏng giản lược, câu thứ bảy trong kinh cũng đồng với cách giải thích này. Thứ tư là sự lý đối, là lý chẳng phải sự. lại nói chẳng phải chẳng là sự là vì không lìa sự pháp. thứ năm là hữu vi vô vi đối, chẳng phải hữu vi duyên sinh, chẳng phải chẳng là hữu vi, bởi vì hiểu rõ nhân hiện bày; hoặc vì không lìa pháp duyên sinh. Thứ sáu là thường vô thường đối, hành là dời đổi, chân như chẳng phải hành, chẳng phải chẳng hành, đồng với giải thích ở trước. Thứ bảy là tướng phi tướng đối, vì lý chân như lìa mười tướng như sinh diệt v.v… thể các pháp sau khi sinh ra không gọi là diệt, như đã không sinh nên không có pháp diệt. Nêu ví dụ này để lệ cho những thứ khác, thứ bảy là lìa tướng sinh diệt, đây là giải thích theo quy viên thành thật trong ba tánh, vì là nơi quy thú của tất cả các pháp. Nếu dựa theo biến kế và thắng nghóa thì bảy câu thắng nghóa tóm lại là che lấp. Nếu dựa theo hai đế mà so sánh thì đều chung cho che lấp và biểu lộ. Như đầu tiên chẳng phải phương xứ, căn cứ theo thắng nghóa che lấp phương xứ, biểu lộ chẳng phải phương xứ, chẳng phải chẳng phương xứ. Dựa vào pháp sở trì trong tục đế thì bởi thể tổng trì là nương vào âm thanh, cho nên tự tánh tổng trì là niệm tuệ, mà niệm tuệ chẳng phải phương xứ, vì nương vào phương xứ, những điều còn lại theo đó có thể biết. Nhưng căn cứ vào ý kinh dựa theo chân thắng nghóa thì đường tâm tư, lời nói dứt bặt, tóm lại y cứ theo che lấp và biểu lộ không nương vào y tha và biến kế, hoặc cùng nương vào ba tánh, đều được, không có lỗi. Văn kinh: Nhưng vì lợi ích cho các Bồ-tát nên nói lời như vậy, đối với công dụng chánh đạo lý thú và thế lực mà lập thành Đà-la-ni này. Tiếp theo là trả lời về lý do. Nhưng căn cứ vào thắng nghóa, chẳng phải phương xứ, chẳng phải chẳng phương xứ đều dứt mất lời lẽ tướng mạo; song nay vì lợi ích cho các Bồ-tát nên đối với phương tiện đạo lý nương vào tục đế mà nói lời như vậy. Nương vào đâu mà nói pháp? Đó là đối với Đà-la-ni này tức dựa vào thể các pháp đã nói, nương vào bốn thứ nghóa mà an lập thi thiết, gọi đó là nói. Tiếp đó nói an lập là tên khác của thi thiết, nương vào bốn nghóa này mà an lập. Nói bốn nghóa ấy là: Công dụng, tức là dựa vào công dụng của tổng trì có khả năng đạt được quả mà nói. Chánh đạo, tức là thể của công dụng này, lìa hai bên chứng chánh lý nên gọi là Chánh đạo, tức là các Niệm tuệ. Lý thú, tức là chân như và các nghóa của pháp sở tri, các cảnh giới của niệm trí này gọi chung là lý thú. Thế lực, tức là do nghóa của pháp này thường niệm các tuệ, diệt ác sinh thiện, chứng lý đắc quả, nên gọi là thế lực, tức là uy lực của pháp, vì muốn nói về năng thuyên khế hợp với các pháp, hoặc chính là hai pháp Niệm tuệ của tổng trì, có thế lực thường nhiếp trì, sinh thiện diệt ác. Văn kinh: Tức là sinh xứ của các Đức Phật, mật ý của các Đức Phật, sở học của các Đức Phật, cấm giới của các Đức Phật, công đức của các Đức Phật, nên gọi là pháp môn tối diệu Vô nhiễm trước Đà- la-ni. Nói lời này xong. Tiếp theo trả lời câu hỏi về cú nghóa, đầu tiên là trả lời về nghóa, tiếp từ “cho nên gọi là…” về sau là tức là về cú, cú trả lời tên gọi. Bốn nghóa như công dụng v.v… ở trước là ở nơi Phật, tức đều gọi là công đức v.v… hoặc có thể làm nhân, nương vào đây có thể đạt được các pháp Bất cộng của Phật gọi là công đức, thường khiến cho lìa bỏ lỗi lầm gọi là cấm giới, làm thầy của Phật nên gọi là sở học, lý mầu pháp thân sâu xa khó suy lường nên gọi là mật ý, thành tựu Báo Phật, Hóa Phật nên gọi là sinh xứ. Từ giáo năng thuyên giải thích nghóa này nên gọi là pháp môn Vô nhiễm trước v.v… hoặc ngay nơi niệm tuệ gọi là pháp môn, cùng với pháp sở trì làm môn, tức là cửa của pháp, hoặc nương vào tổng trì này có công năng phát sinh mọi công đức. Pháp nhiệm mầu tức là cửa của pháp nhiệm mầu, hoặc pháp mầu này chung cho cả năng xuất và sở xuất, tức là bao gồm cả hai y chủ thích và trì nghiệp thích. Văn kinh: Xá-lợi-tử bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Cúi mong Đức Thiện Thệ vì con nói về pháp Đà-la-ni này. Nếu các Bồ- tát có thể an trụ thì đối với Vô thượng Bồ-đề không còn lui sụt, thành tựu chánh nguyện, đạt được vô sở y, tự tánh biện tài, được những việc ít có, an trụ trong Thánh đạo, đều là do đạt được Đà-la-ni này. Tiếp theo là thứ ba, thỉnh Đức Phật trình bày, có hai: Đầu tiên là thỉnh nói, tiếp từ “Nếu các Bồ-tát…” trở xuống là thứ hai, ý cầu thỉnh. Trong ý cầu thỉnh có hai: Người năng học. “Có thể an trụ ấy…” trở xuống là nói về tu giáo được ích lợi, có sáu: Được không lui sụt, tùy theo bốn thứ không lui sụt với tín trụ…. Đạt được chánh nguyện, đó là mười nguyện lớn, trong luận Phát Bồ-đề Tâm chép: “Một là nguyện: Thân con từ đời trước cho đến ngày nay vốn gieo trồng gốc lành, bố thí tất cả, thảy đều hồi hướng vô thượng Bồ- đề, khiến cho nguyện này của con niệm niệm thêm lớn, đời đời không quên, là sự thủ hộ của Đà-la-ni. Hai là nguyện: Con hồi hướng đại Bồ-đề rồi, đem gốc lành này hễ sinh ra chỗ nào thường được cúng dường tất cả các Đức Phật, thường không sinh vào cõi nước không có Phật. Ba là nguyện: Con được sinh vào cõi nước các Đức Phật rồi, thường được gần gũi theo hầu hạ hai bên, như bóng theo hình, không khoảnh khắc nào lìa xa các Đức Phật. Bốn là nguyện: Con được gần gũi Đức Phật rồi, hễ con cầu gì thì Phật nói pháp cho con nghe, liền được thành tựu năm thông của Bồ- tát. Năm là nguyện: Đạt được năm thông rồi liền thông hiểu rõ ràng thế gian, mượn tên gọi truyền bákhắp nơi, hiểu rõ nghóa bậc nhất, đạt được trí tuệ chánh pháp. Sáu là nguyện: Con đạt được trí tuệ chánh pháp rồi, với tâm không nhàm chán sinh nói pháp cho chúng sinh nghe, chỉ dạy lợi ích vui mừng đều khiến cho hiểu biết. Bảy là nguyện: Con đã mở bày hiểu biết cho các chúng sinh rồi, nhờ thần lực Phật đến khắp các thế giới ở mười phương không sót nơi nào, cúng dường các Đức Phật nghe nhận chánh pháp, che chở tất cả chúng sinh. Tám là nguyện: Đã nghe chánh pháp của chư Phật rồi, liền có thể tùy đó chuyển pháp luân thanh tịnh, tất cả chúng sinh ở mười phương thế giới, người nghe pháp con người nghe danh con, liền dứt bỏ được tất cả phiền não, phát tâm Bồ-đề. Chín là nguyện: Con làm cho tất cả chúng sinh phát tâm Bồ-đề, thường theo dìu dắt che chở, trừ diệt những điều không lợi ích, mang đến vô lượng niềm vui, xả bỏ thân mạng tài sản, che chở chúng sinh gánh vác chánh pháp. Mười là nguyện: Con gánh vác được chánh pháp rồi, tuy thực hành chánh pháp nhưng tâm vô sở hành, như các Bồ-tát thực hành chánh pháp mà vô sở hành cũng không điều gì không thực hành, vì hóa độ chúng sinh không xả bỏ chánh nguyện, đại ý giống với nguyện của Bồ-tát Địa.” Đạt được vô sở y tức là Niết-bàn Vô trụ. Tự tánh biện tài, tức là bốn vô ngại biện, không nhờ thầy mà ngộ nên gọi là tự tánh, hoặc không có nhân duyên mà vì lợi ích người khác phát khởi bốn biện tài này nên gọi là tự tánh. Được việc ít có, theo Bồ-tát Địa bốn mươi sáu chép: “Bồ-tát tu tập Bồ-đề vô thượng có năm việc ít có: Đối với hữu tình chẳng có nhân duyên mà sinh thân ái. Chỉ vì lợi ích cho các hữu tình, thường ở nơi sinh tử chịu đựng vô lượng khổ đau. Đối với hữu tình nhiều phiền não khó hàng phục thì khéo léo có thể hiểu rõ phương tiện điều phục. Đối với nghóa lý chân thật rất khó hiểu có khả năng đó ngộ nhập theo. luận. Có năng lực sức oai thần rộng lớn, không thể suy nghó bàn An trụ Thánh đạo, trụ ở địa vị hoan hỷ cùng cực, được trí nhị không, gọi là an trú Thánh đạo. Hoặc có thể là năm, đạt được vô sở y tự tánh biện tài hợp lại thành một, không do duyên khác nói là vô sở y, tánh thường lợi tha nói là tự tánh. Hoặc: Đạt được trụ bất thối. Ở Sơ địa đạt được chánh nguyện. Ở địa thứ năm đạt được vô sai biệt đạo, nói là đắc vô sở y. Ở địa thứ chín đạt được bốn tự tánh biện tài. Ở địa thứ mười được sự việc ít có, như kinh Thập Địa chép: “Ở địa thứ mười có việc ít có, lúc Tam-muội hiện tiền có đại bảo hoa vương, vi nhiễu chung quanh như mười a-tăng-kỳ, tất cả các thứ báu xen lẫn trang nghiêm, lúc này thân của Bồ-tát trang nghiêm tốt đẹp xứng hợp với các tòa hoa”. Ở nơi Phật địa an trụ Thánh đạo, vì không tiếp tục cầu mong nên gọi là an trụ; đều do đạt được các Đà-la-ni này, đó là kết thúc. Văn kinh: Đức Phật bảo Xá-lợi-tử: Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Tiếp theo thứ tư khen ngợi vì đó giảng nói, có ba: Đầu tiên là ngợi khen xác nhận; tiếp là lại ngợi khen; sau chính là giảng nói. Đây là phần đầu có thể biết. Văn kinh: Nếu có Bồ-tát nào được Đà-la-ni này thì nên biết rằng người đó không khác Phật. Nếu có ai cúng dường tôn trọng, thờ phụng cung cấp cho vị Bồ-tát này thì nên biết rằng tức là cúng dường Đức Phật. Tiếp theo lại ngợi khen, có ba: Đầu tiên là ngợi khen khả năng chứng đắc; tiếp theo từ “Nếu có ai cúng dường…” trở xuống là ngợi khen người cúng dường. Vì người chứng đắc như sở đắc của Phật, nên chắc chắn sẽ đạt được, bởi vì lý bình đẳng, nên chọn lấy văn sau “Vì nhân duyên ấy nên được quả vô thượng” để giải thích không khác với Phật và tức là cúng dường Phật. Văn kinh: Xá-lợi-tử! Nếu có người khác nghe Đà-la-ni này mà thọ trì, đọc tụng, phát sinh tín giải thì cũng nên cung kính cúng dường như thế, không khác với Phật, vì nhân duyên này nên được quả vô thượng. Tiếp theo ngợi khen người có thể tu học và cúng dường. Văn giải thích y theo đó mà biết. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói Đà-la-ni cho Xá-lợi-tử nghe rằng: “Đát điệt tha - san đà lạt nhó - ốt đa lạt nhó - tô tam bát la để sắt sỉ đá - tô na ma - tô bát lạt để sắt sỉ đá tỷ thệ dã bạt la - tát để dã bát lạt để thận nhã - tô a lô ha - thận nhã na mạt để - ốt ba đàn nhó - a phạt na mạt nhó - a tỳ sư đàn nhó - a bính tỳ da ha la - thâu bà phạt để - tô ni thất lî đa (dẫn) - bạc hổ quận xã (dẫn) - a tỳ bà đà - sa ha. Tiếp theo chính là nói chú. Văn kinh: Phật bảo Xá-lợi-tử: Tên gọi Vô nhiễm trước Đà-la-ni này, nếu có Bồ-tát nào có thể khéo an trú, có thể chân chánh thọ trì thì phải biết rằng người này hoặc trong một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp đã phát khởi chánh nguyện không cùng tận, thân cũng không bị dao gậy, thuốc độc, nước lửa, thú dữ làm cho tổn hại. Vì sao? Này Xá-lợi-tử! Vô nhiễm trước Đà-la-ni này là mẹ của các Đức Phật quá khứ, mẹ của các Đức Phật vị lai, mẹ của các Đức Phật hiện tại. Tiếp theo thứ năm là hiển bày sự tốt đẹp, khuyến khích tu hành, có hai: Đầu tiên là khen ngợi công năng của pháp; sau là so sánh sự hơn kém. Trong phần đầu có bảy: Bảo với căn cơ được độ. “Tên gọi Vô nhiễm trước…” về sau là nêu rõ pháp được khen ngợi. “Nếu có Bồ-tát…” trở xuống là nói về người năng học. “Có thể khéo léo an trụ trở xuống là nói về y giáo tu học, có thể khéo léo an trụ, dùng thần chú này làm sở y, có thể chân chánh thọ trì, theo đó phát khởi pháp hạnh, chân chánh thọ là văn tuệ, chân chánh trì là tư và tu tuệ. “Nên biết rằng người này…” trở xuống là đạt được lợi ích, có hai: Thâu nhiếp bên trong, làm cho phát nguyện không cùng tận, nên được không lui sụt. Thân cũng không bị, lại phòng hộ bên ngoài không có điều xấu ác nào xâm hại. Vì sao nêu lý do. “Xá-lợi-tử…” về sau là giải thích lý do. Văn kinh: Xá-lợi-tử! Nếu lại có người đem bảy báu đầy khắp trong mười a-tăng-xí-da tam thiên đại thiên thế giới dâng cúng các Đức Phật cho đến các thứ áo quần, thức ăn uống tuyệt vời trên hết cùng các đồ cúng dường trải qua vô số kiếp, nếu lại có người đối với Đà-la-ni này cho dù chỉ một câu có thể thọ trì thì phước sinh ra đó gấp bội so với người kia. Vì sao? Này Xá-lợi-tử! Vì pháp môn sâu xa Vô nhiễm trước Đà-la-ni này là mẹ của các Đức Phật. Tiếp theo là so sánh hơn kém. Trong đó chia làm bốn: Nêu ra phước hiến cúng. Chính thức so sánh. Nêu hỏi lý do cao quý. Trả lời lý do. Y cứ vào văn có thể biết. Văn kinh: Lúc Cụ Thọ Xá-lợi-tử và các đại chúng nghe pháp này xong đều vô cùng vui mừng, thảy đều phát nguyện thọ trì. Tiếp theo thứ sáu là nghe chỉ dạy vui mừng tu học. <詞>Phẩm 14: NHƯ Ý BẢO CHÂU Phẩm Như Ý Bảo Châu có chia ra làm ba phần: Lý do có phẩm này: Ngay trong phần Lưu thông có ba thứ: Thứ nhất học hạnh lưu thông có năm, ở trong phần Thủ hộ lưu thông thứ hai, trong đó lại có ba: Thứ nhất là dạy phải thủ hộ, cúng dường, thứ hai là thủ hộ khiến lìa nhiễm, không lui sụt, thứ ba là thần chú này che chở khiến xa lìa mọi tai nạn, sở cầu được như ý. Như văn đầy đủ rõ ràng cho nên có phẩm này phát sinh. Giải thích tên gọi. Tiếng Phạn là Chấn-đa, Hán dịch là Như ý, âm gốc chỉ gọi là ý, nghóa là tâm nghó lường, Như nghóa là thêm, Mạt- ni, Hán dịch là Bảo châu, đây là dụ, Đà-la-ni là pháp. Như ngọc quý thường giúp cho xa lìa các tai nạn, mọi sở cầu thành tựu như ý mong muốn, thần chú này cũng như vậy. Theo thí dụ làm tên gọi, nên gọi là phẩm Như ý Bảo châu Đà-la-ni, vì vậy về sau nói Như ý Bảo châu thần chú, vì văn giản lược. Lại giải thích: Tức tổng trì này tên là Như ý Bảo châu, pháp theo dụ làm tên gọi, cho nên nói: “Có Đà-la-ni tên là Như ý Bảo châu”, tên gọi này không giải thích theo sáu cách. Giải trừ vấn nạn. Hỏi: Chấp Kim Cang Chủ đã nói thần chú tên là Vô Thắng, chỗ khác nói cũng khác, vì sao chỉ nói đến phẩm Như Ý Bảo Châu? Đáp: Có hai cách giải thích. Nói rằng: Tên gọi của phẩm từ ban đầu không thể phân biệt đầy đủ. Nói rằng: Hai phẩm đầu được tên chung còn các phẩm khác thì có tên riêng. Y cứ theo thực tế thì được tên gọi chung là Như ý châu. Hỏi: Trong bốn tổng trì thần chú này thuộc về tổng trì nào? Đáp: Thần chú Đà-la-ni. Hỏi: Trong phẩm Tứ Thiên Vương, thần chú tứ Thiên vương đã nói cũng gọi là Như ý Bảo châu, trong thần chú đầu và thần chú này khác nhau thế nào? Đáp: Tên gọi giống nhau mà nghóa lý khác nhau, như văn có thể biết. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng bảo A-nan rằng: Các ông nên biết rằng có Đà-la-ni tên gọi Như ý Bảo châu, xa lìa tất cả mọi tai ách, cũng có công năng ngăn chặn các sấm chớp xấu ác. Tán rằng: Văn trong phẩm chia làm bốn: Đức Phật nói. Đại chúng nói. Đức Phật ấn chứng. Vâng theo thực hành. Đức Phật có ba: Nêu bày hứa giảng nói. Đại chúng ưa thích nghe. Đức Phật chính thức giảng nói. Trong phần đầu có bốn: Nêu tên thần chú. Chỉ rõ công dụng. Bảo cùng nói. Hứa trình bày. Đây là hai phần đầu. Văn kinh: Các Đức Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ đã cùng giảng nói. Tiếp theo thứ ba là bảo cùng nói. Văn kinh: Lúc ấy ta đối với kinh này cũng giảng nói đại chúng các ông nghe, thường đối với trời, người làm lợi ích rộng lớn, thương xót thế gian, ủng hộ tất cả, khiến đạt được yên vui. Tiếp theo thứ tư là hứa trình bày có hai: Hứa trình bày. Từ “Thường đối với…” trở xuống là nói về lợi ích. Văn kinh: Bấy giờ, các đại chúng và A-nan-đà nghe Đức Phật nói xong, tất cả đều chí thành chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, lắng nghe thọ nhận thần chú. Tiếp theo là đại chúng vui thích lắng nghe. Văn kinh: Đức Phật nói: Các ông hãy lắng nghe cho kỹ, từ cõi này đi về phía Đông có Quang minh điện vương tên gọi A-yết-đa, phương Nam có Quang minh điện vương tên là Thiết-đê-lỗ, phương Tây có Quang minh điện vương tên là Chủ đa quang, phương Bắc có Quang minh điện vương tên Tô-đa-mạt-ni. Tiếp theo Đức Phật chính thức giảng nói, có bốn: Nói về tên của Điện vương. Nghe được lợi ích. Chính thức nói thần chú. Phương pháp tụng chú. Đây là nói về tên của Điện vương. Mây chạm vào nhau phát ra âm thanh gọi là sấm, cho nên luận Câu-xá chép: “Như âm thanh của mây, phát ra ánh sáng này gọi là điện, tức chủ điện thần gọi là Vương.” Theo kinh Khởi Thế chép: “Vô hậu bế điện ở Đông phương và Đọa quang minh điện ở Tây phương tiếp xúc nhau, va chạm nhau, cùng đánh vào nhau. Vì như vậy cho nên vùng mây ở trong hư không phát sinh ánh sáng gọi là bế điện. Bế điện ở phương Đông gọi là Vô hậu, phương Nam gọi là Thuận lưu, phương Tây gọi là Đọa quang minh, phương Bắc gọi là Bách thiên thọ điện quang.” Từ chủ thần đó để đặt nên gọi, có khác với tên gọi trong kinh này. Hoặc có nhiều thần, hoặc do phiên dịch khác nhau, A-yết-đa Hán dịch là Lai, Tô-đa Hán dịch là Như, Mạt-ni như trước đã nói. Văn kinh: Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào nghe tên các Điện vương và biết nơi chốn như vậy thì người này liền xa lìa tất cả mọi điều sợ hãi và các tai họa bất ngờ thảy đều trừ diệt. Hoặc chỗ ở viết tên của Điện vương bốn phương thì ở các trú xứ đó không có sấm chớp kinh hãi, cũng không có các tai ách và các chướng nạn khổ não, chết chóc oan uổng chẳng phải lúc thảy đều xa lìa. Tiếp theo nói về đạt được ích lợi, có hai: Đầu tiên là lợi ích nghe tên gọi; tiếp đến “Hoặc chỗ ở…” trở xuống là nói về lợi ích viết chép tên gọi. Hỏi: Nghe tên của Điện vương đã lìa xa kinh sợ vì sao lại nhờ vào nói thần chú mới lìa xa sợ hãi? Đáp: Do năng lực trì chú có thể làm cho vị vua đó được thủ hộ, xa lìa sợ hãi. Lại nữa, đầu tiên là thần lực hộ trì, xa lìa kinh sợ, sau là trì chú hộ trì xa lìa kinh sợ; nhưng thần chú hộ trì tốt hơn, do đó phẩm kinh được gọi tên này. Văn kinh: Lúc ấy, Đức Thế Tôn liền nói chú rằng: “Đát điệt tha- nhó nhị nhó-nhị nhó nhị- ni dân đạt lý- trất lý lô ca lô yết nhó- trất lý thâu la ba nhó-hạt lạc xoa hạt lạc xoa, con tên là… và chỗ ở này, tất cả kinh hãi, tất cả khổ não, sấm chớp sét giật cho đến chết chóc oan uổng thảy đều xa lìa, sa ha.” Tiếp theo là nói thần chú và cách tụng chú. Văn kinh: Bấy giờ, Bồ-tát Quán Tự Tại ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi vén y bày vai phải, chấp tay cung kính bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Nay con cũng đối trước Phật lược nói thần chú Như ý Bảo châu, đối với các người, trời làm lợi ích rộng lớn, thương xót thế gian, ủng hộ tất cả khiến đạt được yên vui, có uy lực rộng lớn, mọi sở cầu đều như nguyện, liền nói chú rằng: “Đát điệt tha hát đế tỳ hát đế nhó hát đế - hát lạt trất thể kê - bát lạt để - mật trất lệ thú đề mục đê tì mạt lệ - bát lạt bà sa (tô hoạt thiết) lệ - an trà (nhập thanh) - lệ bàn trà lệ thoát (bình thanh) đế - bàn trà la trà tử nhó - hạt lệ yết trà (dẫn) lệ kiếp tất lệ - băng yết la ác ỷ - đạt địa mục xí - hạt lạc xoa hạc lạc xoa, con tên là và chỗ ở này, tất cả kinh hãi, tất cả khổ não, cho đến chết chóc oan uổng thảy đều xa lìa, con nguyện không thấy những việc tội ác, thường được sự hộ niệm của uy quang đại bi của Bồ- tát Thánh Quán Tự Tại - sa-ha. Tiếp theo là đại chúng nói thần chú, có sáu. Đầu tiên là Bồ-tát Quán Âm nói. Văn có ba: Xin được nói chú. Chính thức nói chú. Cách tụng chú. Trong phần xin được nói có ba: Một là nghi thức cầu thỉnh; Hai là xin được nói chú; Ba là nói rõ lợi ích. Tiếng Phạn là A-phược-lô-chỉ-đế Thấp-phiệt-la-da, A-phược-lô-chỉ-đế Hán dịch là Quán, còn lại dịch là Tự tại. Dùng thiên nhãn thiên nhó và tha tâm thông để thường quán sát thế gian, bất cứ trường hợp nào đều có thể cứu giúp gọi là Quán Tự tại. Nói là Quán Thế Âm là nói theo một, tên gọi đó không đầy đủ nên chẳng chính thức phiên dịch, phối hợp với văn có thể biết. Văn kinh: Bấy giờ, Bồ-tát Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi chắp tay cung kính bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Nay con cũng nói thần chú Đà-la-ni tên là Vô thắng, đối với hàng trời người làm lợi ích rộng lớn, thương xót thế gian, ủng hộ tất cả, có uy lực rộng lớn, mọi sở cầu đầu được như nguyện, liền nói chú rằng: “Đát điệt tha - mẫu nhó mẫu nhó - mẫu ni lệ mạt để mạt để - tô mạt để mạc ha mạt để - ha ha ha mà bà dó na tất để đế (dẫn) ba bạt - bạt thiết la ba nhó - ác ham điệt lật trà (thượng) - sa ha”. Bạch Thế Tôn! Thần chú này của con tên là Vô Thắng ủng hộ, nếu có người nam, người nữ nào nhất tâm thọ trì, viết chép, đọc tụng, nhớ nghó không quên, con trong ngày đêm thường hộ trì người này, đối với tất cả kinh hãi cho đến chết chóc oan uổng thảy đều xa lìa. Tiếp theo là nói về chú thứ hai, văn cũng có ba: Đầu tiên là xin được nói chú, tiếp đến chính là nói chú, sau là lợi ích thọ trì, đọc tụng. Phối hợp với văn có thể biết. Nói về Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ có nơi cho là: Hình tướng khác của Bồ-tát Quán Âm xưng là Bí mật, thường cầm chày Kim cang để che chở giữ gìn Tam bảo, căn cứ vào tự hình và vật cầm làm tên gọi. Căn cứ theo kinh Mật Tích Kim Cang Lực Só chép: “Chấp Kim Cang này và Phạm vương đều là một vị Phật trong ngàn vị Phật của kiếp Hiền.” Rộng như kinh đó nói. Văn kinh: Bấy giờ, Phạm Thiên vương, người đứng đầu thế giới Sách-ha liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, chắp tay cung kinh bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn ! Con cũng có pháp môn Đà-la-ni nhiệm mầu, đối với các hàng trời, người làm lợi ích to lớn, thương xót thế gian, ủng hộ tất cả, có uy lực to lớn, mọi sở cầu đều được như nguyện, liền nói chú rằng: “Đát điệt tha - ê lý nhị lý địa lý sa ha - bạt la hám ma bố lệ - bạt la hám ma mạt ni bạt la hám ma yết bính - bổ sáp bạt tăng tất đát lệ ra ha.” Bạch Đức Thế Tôn ! Thần chú này của con tên là Phạm Trị Tất Năng ủng hộ, người trì chú này được xa lìa ưu não và các tội lỗi nghiệp chướng, cho đến chết chóc oan ức thảy đều xa lìa. Tiếp theo là nói chú thứ ba, đoạn văn đồng như trước. Văn kinh: Bấy giờ Đế Thích Thiên chủ liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi chắp tay cung kính bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Con cũng có Đà-la-ni tên là Bạt-chiết-la-phiến-nhó, là đại minh chú có công năng trừ diệt tất cả tai ách kinh sợ, cho đến chết chóc oan ức thảy đều xa lìa, nhổ sạch gốc khổ mang lại yên vui lợi ích cho hàng trời, người, liền nói chú rằng: “Đát điệt tha - tỳ nhó bà lî nhó - bạn đà ma đàn trệ - ma nị nhó trí trí nhó cù lý - kiện đà lý chiên trà lý - ma đăng kỳ (thượng) thập yết tử - tát la bạt lạt bính (khứ) - rất na mạt trụ đáp ma ất đa lạt nhó mạc hô lạt nhó đạt lạt nhó kế chước yết la bà chỉ - xả phạt lý xa phạt lý - ra ha.” Tiếp theo là nói chú thứ tư. Văn cũng đồng như trước. Nói về Đế Thích Thiên chủ, Đế tức là chủ, Thích là năng, ở đây nói Năng Đế là nói chung. Sau nói Thiên chủ là có khả năng làm Thiên chủ. Văn kinh: Bấy giờ, Thiên vương Đa văn, Thiên vương Trì quốc, Thiên vương Tăng trưởng, Thiên vương Quảng mục đều đứng dậy khỏi chỗ ngồi chắp tay cung kính bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nay con cũng có thần chú tên là Thí Nhất Thiết Chúng Sinh Vô Úy, đối với các khổ não thường làm nơi ủng hộ để đạt được yên vui, tăng thêm thọ mạng, không có các tai họa đau khổ cho đến chết chóc oan ức thảy đều lìa xa, liền nói chú rằng: “Đát điệt tha - bổ sáp bế - tô bổ sáp bế - độ ma bát lạt ha lệ - a lî da bát lạt thiết tất đế - phiến đế niết mục đế mang yết lệ tốt đổ đế - tất đá tỷ đế - ra ha.” Tiếp theo là nói chú thứ năm. Đoạn văn có hai: Lược bỏ không nói ích lợi trì tụng. Trong đoạn đầu: Đầu tiên là nêu các tên gọi, tiếp đến là nghi thức cầu thỉnh, sau là nói rõ lợi ích. Văn nêu rõ có thể biết. Văn kinh: Bấy giờ, lại có các đại Long vương, như Long vương Mạt-na-tư, Long vương Điện quang, Long vương Vô nhiệt trì, Long vương Điện thiệt, Long vương Diệu quang đều đứng dậy khỏi chỗ ngồi chắp tay cung kính bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Con cũng có Như ý Bảo châu Đà-la-ni có công năng ngăn chặn sấm sét xấu ác, trừ diệt các nỗi kinh sợ, thường làm lợi ích rộng lớn cho hàng trời, người, thương xót thế gian, ủng hộ tất cả, có uy lực rộng lớn, mọi sở cầu đều được như nguyện, cho đến chết chóc oan ức thảy đều xa lìa, tất cả thuốc độc đều làm cho mất tác dụng, tất cả mọi việc tạo tác đầu độc mê hoặc, chú thuật không tốt đều trừ diệt. Tiếp theo là nói chú thứ sáu. Văn có ba phần như trước. Đoạn đầu tiên có năm, đây là nêu các tên gọi phần đầu, từ “đều đứng dậy khỏi chỗ ngồi…” về sau là nghi thức cầu thỉnh phần thứ hai và nói rõ lợi ích phần thứ ba. Văn kinh: Nay con phụng hiến thần chú này lên Đức Thế Tôn, cúi mong Từ bi thương xót nạp thọ. Tiếp theo là cầu thỉnh nạp thọ phần thứ tư. Văn kinh: Sẽ giúp cho chúng con lìa khỏi cõi rồng này, xả bỏ hẳn xan tham. Vì sao? Vì sự san tham này nên ở trong sinh tử phải gánh chịu các điều khổ não. Chúng con nguyện dứt bỏ hạt giống san tham, liền nói chú rằng: “Đát điệt tha - a chiết lệ - a mạt lệ a mật lật đế - ác xoa duệ a tệ duệ - bôn ni bát lî da pháp đế - tát bà ba bả - bát lạt khổ ma-ni duệ - sa ha - a li duệ bàn đậu tô ba ni duệ - sa ha.” Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào miệng nói Đà-la-ni minh chú này, hoặc viết chép quyển kinh, thọ trì đọc tụng, cung kính cúng dường thì người ấy suốt đời không bị sấm sét chớp giật và các điều kinh sợ khổ não sầu lo, cho đến chết chóc oan ức thảy đều lìa xa, tất cả thuốc độc bùa chú mê hoặc hại người, các loài cọp, beo, sư tử, chó sói, rắn độc cho đến muỗi mòng đều không thể làm hại. Tiếp theo là phát nguyện phần thứ năm. Trong đó có bốn: Nêu ra. Trưng hỏi. Giải thích. Từ “Chúng con nguyện dứt bỏ…” về sau là kết thúc. Văn còn lại có thể biết. Văn kinh: Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo tất cả đại chúng: Lành thay! Lành thay! Các thần chú này đều có năng lực rộng lớn, thường tùy theo tâm chúng sinh cầu mong việc gì thảy đều khiến cho viên mãn, được lợi ích rộng lớn, ngoại trừ tâm không chí thành, các người đừng nghi ngờ. Tiếp theo là đức Phật ấn chứng. Văn kinh: Khi các đại chúng nghe Đức Phật nói xong thảy đều vui mừng tin nhận. Tiếp theo là đoạn thứ tư trong phẩm nói về sự phụng hành. ----------------------- <詞>Phẩm 15: ĐẠI BIỆN TÀI THIÊN NỮ (Phần 1) Phẩm Đại Biện Tài Thiên Nữ có chia làm ba phần: Lý do có phẩm này. Giải thích. Giải nạn. Nói về lý do có phẩm này: Trong phần Lưu thông có ba: Đầu tiên là tu hành lưu thông, trong đó lại nói: từ đây về sau năm phẩm tức là phần thứ ba, khiến cho tăng thêm phước trí. Trong phần tăng thêm phước trí, có bốn: 1) Tăng thêm biện tài. 2)- Tăng thêm áo quần. Tăng thêm thức ăn uống. Tăng thêm trí tuệ. Vì sao? Vì muốn pháp lưu thông để lợi ích đối với mọi người chắc chắn phải nhờ biện tài nói pháp cho chúng sinh nghe. Tuy có biện tài tuyệt vời nếu không có áo quần thì tướng không thể trang nghiêm. Nếu thiếu thức ăn uống thì bốn đại trống rỗng mệt mỏi, lại e rằng không thể chịu đựng thiếu thốn khổ sở sẽ từ bỏ thực hành tự lợi và lợi tha. Nếu lại có thể thực hành e rằng có sự mong cầu nhiễm trước nơi tâm. Do đó phải tăng thêm thức ăn uống, khiến cho lìa bỏ duyên ấy cho dù có duyên của vật chất. Nếu không có trí tuệ thì không thể thông hiểu nghóa lý cao siêu của thế tục, vì nói pháp cho nên tăng thêm trí tuệ. Nhưng thực hành hai lợi thì lợi tha là trước tiên, nói pháp lợi ích chúng sinh thì phải nhờ vào bốn biện tài, vì thế trước tiên phải giải thích nên có phẩm này phát sinh. Giải thích tên gọi. Tiếng Phạn là Ma-ha (Hán dịch là Đại), Tát- la-tất-tri-bà-để (Hán dịch là Biện tài), Đề-bà-tỷ (Hán dịch là Thiên nữ). Đầu tiên là giải thích phân tán Đại nghóa, sơ lược có bốn: như luận Đại Trang Nghiêm chép: “Lại có bốn đại: Thắng xuất đại, vì ở trong ba cõi, năm thú mà được vượt ra; Tịch tịnh đại, vì thuận theo tướng Niết-bàn Vô trụ xứ; Công đức đại, vì hai nhóm phước trí được thêm lớn; Lợi vật đại, vì thường nương vào đại bi không lìa bỏ chúng sinh.” Biện tài tức là bốn Biện tài, tức là tiệp trí (trí tuệ nhạy bén), tài tức là tài nghệ khả năng, có trí tuệ thông minh, khả năng tài nghệ nên nói là Biện tài, tức là biện tài này thuộc về một trong bốn thứ Đại nên gọi là Đại biện. Thần dụng tự tại, ánh sáng trong sạch gọi là Thiên, cũng tức là Đệ nhất nghóa Thiên, thiên có đại Biện tài, đại Biện tài Thiên là người nữ nên nói là đại Biện tài Thiên nữ. Chân đế Tam tạng chép: “Bồ-tát ở địa thứ chín này có đủ bốn biện tài, lại thường giúp đỡ người khác cho có danh hiệu này.” Giải trừ vấn nạn. Hỏi: Trong bốn Biện tài, đây là Biện tài gì? Đáp: Đầy đủ có bốn, vì sao biết được? Ở dưới nói rằng: “Đầy đủ trang nghiêm biện luận nói rằng từ vô ngại biện.” “Đối với văn tự cú nghóa trong kinh này tức là hai biện tài về pháp và nghóa. Thể của kinh có hai: Văn năng thuyên. Nghóa sở thuyên, đều gọi là kinh. “Có thể khéo léo khai ngộ” tức là lạc thuyết vô ngại biện. Tổng kết nói rằng “Lại ban cho Đà-la-ni tổng trì vô ngại”, Đà-la-ni tức là bốn năng trì, vô ngại tức là bốn Vô ngại biện sở trì. Hỏi: Bốn vô ngại giải và bốn vô ngại biện có gì khác nhau? Đáp: Hiểu rõ bốn thứ không vướng mắc gọi là giải, giải thích bốn thứ không vướng mắc gọi là biện, biện nương vào giải mà phát khởi, giải nhờ vào biện mà sáng tỏ, vì Thể là tuệ. Trong các kinh luận, hoặc theo nhau chỉ hợp nói bốn thứ. Nắm giữ (trì) bốn loại không quên gọi là bốn tổng trì, tức là bao gồm Niệm tuệ. Hỏi: Nay Thiên nữ này có Biện tài tổng trì, sao không gọi là Đại Tổng trì Thiên nữ? Đáp: Tổng trì là nhân, bốn pháp sở trì là quả, hiệu từ quả mà được, danh không dựa theo nhân. Lại giải thích: Biện là lợi tha, trì là tự lợi thù thắng, cho nên từ lợi tha thù thắng mà gọi là đại Biện tài. Vì vậy ở sau Trần như cầu thỉnh rằng: “Cúi mong trí tuệ Biện tài thiên dùng ngôn từ khéo léo bố thí cho tất cả”, về sau trong chỉ dạy cầu thỉnh cũng nói: “Kính lễ Biện tài Thiên, giúp tôi lời vô ngại…” căn cứ vào thực tế khẩn cầu thường bố thí tất cả. Văn kinh: Lúc bấy giờ, đại Biện tài Thiên nữ ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng: Bậch Thế Tôn! Tán rằng: Toàn văn của phẩm này chia làm ba phần: Nêu ra ích lợi biện tài. Từ “Thế Tôn con sẽ…” trở xuống là chỉ rõ phương thức phép tắc. Từ “Lúc bấy giờ, Phật bảo…” trở xuống là Thế Tôn ngợi khen khuyến khích. Trong phần đầu lại chia làm hai: đầu tiên là nghi thức thỉnh cầu giảng nói, sau là làm lợi ích cho người tu hành. Đây là phần đầu. Văn kinh: Nếu có Pháp sư nào giảng nói kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này. Tiếp theo là phần thứ hai, có hai: Đầu tiên làm lợi ích cho người trì tụng, giảng nói, sau từ “Lại nữa, kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này…” trở xuống là ích lợi của người lắng nghe tu học. Đây là phần đầu, lại có hai: Thuận theo lợi ích cho người. Văn kinh: Con sẽ lợi ích cho trí tuệ đó, đầy đủ trang nghiêm phân biệt ngôn thuyết. Tiếp theo là phần hai, ích lợi về pháp, có ba: Nêu tổng quát. Từ “Đầy đủ…” về sau là nêu riêng. Tổng trì vô ngại là kết thúc. Trong phần riêng, đầu tiên là ban cho từ vô ngại biện, tiếp từ “Nếu Pháp sư kia…” về sau là ban cho biện tài và Đà-la-ni khác. Đây tức là phần nêu chung và riêng từ vô ngại biện. Đây là địa thứ chín trở lên đạt bốn Biện tài, là bố thí cho người khác biện tài trong mười tám thứ thần biến. Nói rằng đầy đủ trang nghiêm tức là tám ngôn ngữ đều đầy đủ. Văn kinh: Nếu Pháp sư kia đối với văn tự cú nghóa trong kinh này có chỗ nào quên mất đều khiến cho nhớ lại, có thể khéo léo khai ngộ, lại ban cho Đà-la-ni tổng trì vô ngại. Tiếp theo là phần thứ hai, giúp cho biện tài và những điều khác. Đối với văn tự cú tức là pháp, văn tức là chữ, thể dụng kết hợp rõ ràng, đây là năng thuyên y, thể chẳng phải năng thuyên, cú là năng thuyên giải thích các nghóa, lược gọi là bất thuyết. Đều khiến cho nhớ lại tức là nắm giữ nghóa lý của pháp. Văn nghóa là sở trì, có khả năng nhớ nghó nắm giữ tức là tổng trì, nhân quả kết hợp mà nói. Có thể khéo léo khai ngộ tức là lạc thuyết biện tài. Lại ban cho Đà-la-ni tức là hai tổng trì chú và nhẫn. Tổng trì vô ngại ấy là kết thúc. Văn kinh: Lại nữa, Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này vì các hữu tình kia đã ở nơi trăm ngàn cõi Phật gieo trồng các gốc lành, nên người thọ trì ở châu Thiệm-bộ truyền bá rộng rãi lưư truyền khắp nơi; không mau chóng bị mất đi. Tiếp theo là phần thứ hai, lợi ích của người lắng nghe, tu học. Trong đó chia làm hai: Vì thuận người tu hành nên pháp truyền bá lâu dài. Từ “lại khiến cho…” về sau là nói có thể làm cho người học đạt được lợi ích rộng lớn. Văn phần đầu có hai: Đầu tiên là nói về việc phải làm, tiếp đến là pháp truyền bá lâu dài, ở đây đồng với Bát-nhã, có thể sinh khởi một niệm tâm tịnh tín thì nên biết rằng đã từng cúng dường nhiều Đức Phật. Văn kinh: Lại khiến cho vô lượng hữu tình nghe kinh điển này đều đạt được biện tài nhanh nhạy sắc bén, vô tận đại tuệ không thể suy nghó bàn luận, khéo léo hiểu rõ các luận và các kỹ thuật. Tiếp theo tu học được lợi ích, có ba: Đầu tiên là hiện tại được biện tài, tiếp theo tương lai chứng quả Phật, sau là hiện tại tăng thêm thọ mạng… trong phần đạt được biện tài, đầu tiên là được biện tài nhanh nhạy sắc bén, tức là lạc thuyết và từ biện, vì trong một khoảnh khắc có thể biểu hiện các âm thanh gọi là nhanh nhạy sắc bén. Trong phần lạc thuyết biện lại có bảy thứ: Tấn biện, là nói thao thao bất tuyệt không hề chậm chạp. Tiệp biện, là cần nói liền nói không ngại ngần lắp bắp. Ứng biện, là thích ứng với thời cơ. Vô sơ mậu biện, là nói năng đích đáng. Vô đoạn tận biện, là nối nhau không đứt quãng. Phong nghóa vị biện, là đầy đủ nghóa lý. Tối thượng diệu biện, là thế gian không ai hơn. Tiệp lợi tức là hai thứ biện đầu, vô tận tức là loại thứ năm, đại tuệ tức là các thứ còn lại. Khéo léo hiểu rõ các luận… tức là pháp nghóa biện. Không thể suy nghó bàn luận là bao gồm cả bốn câu; diệu dụng không thể suy lường gọi là không thể suy nghó bàn luận. Văn kinh: Thoát khỏi sinh tử, mau chóng hướng đến Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề. Tiếp theo là tương lai chứng quả Phật. Văn kinh: Trong đời hiện tại tăng thêm thọ mạng, tiền tài đầy đủ, thảy đều khiến cho viên mãn. Tiếp theo là hiện tại tăng thêm thọ mạng… Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Con sẽ vì Pháp sư trì kinh đó và các hữu tình khác đối với kinh điển này ưa thích lắng nghe, nói về phương pháp tắm gội bằng chú dược (thuốc thần chú). Tán rằng: Tiếp theo là chỉ rõ phương thức phép tắc, có hai: Chỉ rõ việc trì kinh và phương tiện cầu biện tài. Từ “Lúc ấy, pháp sư thọ ký về sau chính là cầu biện tài. Trong phần một có bốn: Nêu bày chung về pháp. Chỉ bày riêng phương pháp đó. Thiên nữ khuyến khích thực hành. Thế Tôn ngợi khen chỉ dạy. Phần một nêu chung lại có bốn: Nêu ra người thực hành. Nêu rõ pháp đã chỉ bày. Nêu rõ công năng của pháp. Nêu rõ huyến khích tu học. Đây tức là hai phần đầu. Văn kinh: Người kia vốn có sao xấu tai biến và lúc mới sinh thuộc về sao trái với số mạng, khổ sở về tật bệnh, đấu tranh chiến trận, ác mộng quỷ thần sâu độc, tà ma chú thuật khởi thi, các điều xấu ác như thế làm chướng nạn, thảy đều khiến cho trừ diệt, những người hiểu biết nên thực hiện phương pháp tắm gội như vậy. Tiếp theo là nêu rõ công năng của pháp. Nói thuộc về ngôi sao là ngày sinh của người phàm thuộc về hai mươi tám vì sao, trong đó hoặc có vì sao dự kiến trái với số mạng, cho dù người không biết mà thực hành phương pháp tắm gội này thì chướng nạn cũng trừ diệt. Nói chú thuật khởi thi là chú thuật Tây phương có công năng làm cho thây chết đứng dậy đi khắp nơi, hoặc không hoàn toàn sử dụng để làm tổn hại đến mọi người. Nương theo phương pháp tắm gội này thì các thứ như vậy đều trừ diệt. Văn còn lại có thể hiểu. Đây là chỉ bày chung cho hai hạng người nói nghe và người cầu biện đều nên nương theo phương pháp tắm gội này. Văn kinh: Nên chọn lấy ba mươi hai vị hương dược (vị thuốc có mùi thơm) như: mạo bồ (pha-giả), ngưu hoàng (cù-lô-chiết-na), mục túc hương (tắt-tất-lực-ca), xạ hương (mạc-ha-bà-già), hùng hoàng (mạc-cấm-si-la), hợp hôn thọ (thi-lợi-sái), bạch cập (nhân-đạt-la-hát- tất-đá), khung cùng (đồ-mạc-ca), cẩu kỷ căn (chiêm-nhị), trùng chi (thất-lợi-tiết-sắt-đắc-ca), quế bì (đốt-giả), hương phụ tử (mục-tốt-đá), trầm hương (ác-yết-lô), chiên đàn (chiên-đàn-na), linh bà hương (đa- yết-la), đinh tử (tác-cù-giả), uất kim (trà-củ-ma), bà luật cao (yết-la- bà), vi hương (nại-lạt-đà), trúc hoàng (cưu-lộ-chiến-na), đậu khấu nhỏ (tô-khấp-mê-la), cam tùng (nhị-chiêm-đá), hoắc hương (bát-đát-la), hương mạo căn (ốt-thi-la), sất chỉ (tát-lạc-kế), ngải nạo (thế-lê-dã), hương an tức (lâu-cụ-la), hạt cải (tát-lợi-sát-bả), mã cần (diệp-bà-nhó), long hoa tu (na-gia-kê-tát-la), bạch giao (tát-chiết-la-bà), thanh mộc (củ-sắt-tha), đều bằng nhau. Tiếp theo là chỉ bày riêng về phương pháp đó. Văn chia làm bốn: ích. Chỉ bày phương pháp tắm gội. Từ “Tắm gội như thế xong…” về sau là dạy phải phát nguyện. Từ “Lại nói bài tụng rằng…” về sau là nói nương theo được lợi Từ “Tiếp đó tụng chú hộ thân” về sau là chỉ hộ trì thân. - Phương pháp tắm gội có tám: Nêu cách tắm gội. Nêu ngày đảo sư (cầu khấn). Dạy chú hương dược. Dạy làm đạo tràng. Dạy làm nước thơm. Dạy kết giới. Chính thức dạy cách tắm gội. Nêu cách tắm gội đã xong. Đây là phần đầu. Đầu tiên là nêu ra, sau là liệt kê. Bà-luật-cao là dầu thơm long não, vi hương là trong cỏ lau có hương này, trúc hoàng từ trong cây trúc sản sinh ra, đậu khấu nhỏ là trong đó có hạt to hạt nhỏ, hương mao căn tựa như hương Đâu-lâu-bà, sất chỉ Hán dịch là long hoa tu. Văn kinh: Đem rải phơi dưới nắng ở một chỗ rồi đem nghiền lấy mạt hương. Tiếp theo là phần thứ hai, nêu rõ ngày đem nghiền, tên là vì sao Nam phương trong hai mươi tám vì sao, tức là kinh cũ nói ngày quỷ tinh. Văn kinh: Nên dùng chú này chú nguyện một trăm lẻ tám biến, chú như sau: “Đát triệt tha - tô ngật lật đế - ngật lật đế ngật lật kế - kiếp ma đát lý - thiện nộ yết lan trệ - hác yết lạc trệ - nhân đạt la xà lợi nị - thước yết lan trệ - bát thiết điệt lệ - a phạt để yết tế - kế na củ đổ củ đổ - cước na tỷ lệ - kiếp tỷ lệ kiếp tỷ lệ - kiếp tỳ la mạt để - thi la mạt để san để độ la mạt để lý- ba phạt củ bạn tró lệ- thất lệ thất lệ- tát để tất thể đê - sa ha.” Tiếp theo là phần thứ ba, dạy về chú hương dược. Văn kinh: Nếu thích tắm gội đúng pháp thì nên lập đàn tràng, vuông vức chừng tám khuỷu tay, nên ở chỗ vắng lặng ổn định, nghó về việc mong cầu, tâm không hề lìa xa, nên bôi phân trâu để làm đàn, phía trên rải đầy các hoa nhiều màu, nên dùng đồ vật vàng bạc sạch sẽ tinh khiết, đựng đầy các thức ăn ngon và mật sữa; ở bốn cửa đàn, có bốn người thủ hộ pháp như thường lệ, nhờ bốn trẻ nhỏ thân hình đẹp đẽ trang nghiêm, mỗi trẻ ở một góc bưng bình nước; nơi này thường đốt hương an tức, tiếng nhạc ngũ âm không ngừng dứt, phướn lọng trang nghiêm, treo lụa nhiều màu ở bốn phía đàn tràng; lại ở trong đàn tràng đặt gương sáng, lưỡi dao bén cùng cung tên mỗi thứ đều bốn cái, ở chính giữa đàn tràng chôn một cái chậu lớn, nên lấy tấm ván thủng đặt lên trên đó. Tiếp theo thứ tư là dạy làm đàn tràng. Trong đó có tám: Nửa bài tụng đầu nói về kích thước của đàn. Từ “Nên ở chỗ… tâm không hề lìa xa” là nửa bài tụng chỉ nơi làm đàn tràng. Từ “nên bôi… các hoa nhiều màu” là nửa bài tụng dạy cách bôi đàn. Nửa bài tụng tiếp theo (nên dùng… mật sữa) là dạy cúng dường. Nửa bài tụng tiếp theo (nơi bốn cửa… như thường lệ) là dạy cách thủ hộ. Một bài tụng rưỡi tiếp đó (nhờ bốn trẻ nhỏ… bốn phía đàn tràng) là dạy cách trang nghiêm. Nửa bài tụng tiếp theo (lại ở trong… cung tên mỗi thứ đều bốn cái) là dạy tránh ác. Nửa bài tụng tiếp theo (ở chính giữa… đặt lên trên đó) là làm nơi tắm gội. Văn kinh: Hòa các thứ hương mạt ở trước với nước nóng, cũng đặt trong đàn tràng. Tiếp theo thứ năm là dạy làm nước nóng tắm gội. Văn kinh: Đã làm như thế bố trí xong xuôi, sau đó tụng thần chú kết thành đàn tràng đó. Chú kết giới rằng: “Đát điệt tha - át lạt kế - na dã nễ (khứ) - rất lệ - nhị lệ kỳ lệ xí xí lệ - sa ha.” Tiếp theo phần thứ sáu là lại kết giới. Nửa bài tụng đầu kết trước sinh sau; tiếp đến chính là nêu rõ thần chú kết giới. Văn kinh: Kết giới như thế xong, mới vào trong đàn tràng, chú nguyện vào nước hai mươi mốt biến, rưới khắp bốn phía, tiếp theo nên chú nguyện vào nước hương đủ một trăm lẻ tám biến, bốn bên treo màn che kín, sau đó tắm gội thân thể. Thần chú chú nguyện nước, chú nguyện nước thơm rằng: “Đát điệt tha (nhất) - tác yết trí (nhị) - tỳ yết trí (tam) - tỳ yết trà phạt để (tứ) - sa ha (ngũ).” Dưới đây là phần thứ bảy, chính thức dạy cách tắm gội, có hai: Đầu tiên là kết giới trước, tiếp đó “mới vào…” trở xuống là cách làm, có bốn: Chú nguyện nước để tác tịnh. Chú nguyện nước thơm tắm gội. Dạy che đậy hình hài xấu xí. Lại chỉ bày thần chú. Văn kinh: Nếu tắm gội xong, nước tắm rửa đó và đồ ăn thức uống cúng dường trong đạo tràng đem đổ xuống sông hồ, những thứ khác đều thu dọn lại. Tiếp theo là phần thứ tám, nói cách tắm gội đã xong. Văn kinh: Tắm gội như thế rồi mới mặc áo quần sạch sẽ, đã ra khỏi đàn tràng vào trong tịnh thất, thầy chú nguyện dạy người đó phát thệ nguyện rộng lớn, dứt bỏ hết các điều ác, thường tu tập các điều lành, đối với các hữu tình thường sinh tâm đại Bi, nhờ nhân duyên này mà được vô lượng phước báu tùy tâm. Trong dạy riêng về cách đó, phần thứ hai dạy phát nguyện, có năm: Kết thúc phần trước. “Mới mặc áo quần sạch sẽ…” là nghi quỹ phát nguyện. “Đã ra khỏi…” về sau là nơi chốn phát nguyện. “Thầy chú nguyện dạy…” về sau là nương theo sự chỉ dạy của thầy, đây là căn cứ lúc bắt đầu tu học. “Dứt bỏ hẳn…” về sau là phát nguyện. Trong phát nguyện có ba: Đầu tiên là nguyện tu tự lợi, tiếp theo từ “Đối với các hữu tình…” về sau là nguyện thực hành lợi tha; sau từ “nhờ nhân duyên này…” trở xuống là tu hành đạt được quả. Văn kinh: Lại nói bài tụng rằng: Nếu có chúng sinh bị bệnh khổ, các thứ thuốc men không trị lành, nếu y pháp tắm gội như vậy, và lại đọc tụng kinh điển này; thường trong ngày đêm niệm không dứt, chuyên chú thiết tha sinh tín tâm, tất cả khổ nạn đều tiêu trừ, thoát khỏi nghèo khó đủ tài bảo; các sao bốn phương và trời trăng, uy thần ủng hộ được sống lâu, tốt lành yên ổn thêm phước đức, tai biến ách nạn đều dứt sạch. Tiếp theo là phần thứ ba, nói về y pháp tu học được lợi ích. Tất cả có ba bài tụng, chia làm ba: Nửa bài tụng đầu nêu rõ chúng sinh bị khổ đau, một bài tụng tiếp theo nói về y pháp tu học, một bài tụng rưỡi sau nói về tu học được lợi ích. - Lợi ích có tám: Không bị bệnh tật. Hết nghèo khó. Tài vật dồi dào. Được sự che chở. Sống lâu. Tốt lành yên ổn. Tăng thêm phước đức. Tai nạn không còn. Như văn có thể biết. Văn kinh: Tiếp theo tụng thần chú hộ thân hai mươi mốt biến. Chú rằng: “Đát điệt tha - tam mê - tỳ tam mê - sa ha - tát yết trệ tỳ yết trệ - sa ha - tỳ yết trà - phạt để - sa ha - bà yết la - tam bộ đa dã - sa ha tắc kiến đà - ma đa dã - sa ha - ni la kiện tha dã - sa ha - a bát la thị đá tỳ lị da dã - sa ha - rất ma bàn đá - tam bộ đa dã - sa ha - a nhó mật la - bạc đát la dã - sa ha - nam mô bạc gì phạt để đô - bạt la hám ma tả - sa ha - nam mô tát la toan để - mô ha đề tỷ duệ - sa ha - tất điện đô mạn (Hán dịch là thành tựu, con tên là…) - man đát la bát đà - sa ha đát lạt đô tỷ điệt đá - bạt la hám ma nô mạt đổ - sa ha.” Tiếp theo là phần thứ tư, là dạy về hộ thân, có hai: Đầu tiên là nêu ra sự chỉ dạy hộ thân, sau chính là nói thần chú hộ thân. Văn kinh: Bấy giờ, Đại Biện tài Thiên nữ nói xong chú đàn tràng và cách tắm gội, liền bước đến đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ô-ba-sác- ca, Ô-ba-tư-ca nào thọ trì, đọc tụng, viết chép, truyền bá kinh vương nhiệm mầu này, như thuyết thực hành, hoặc ở nơi thành ấp thôn làng đồng hoang rừng núi trú xứ tăng ni, con vì người này đem các quyến thuộc trỗi các thứ nhạc trời đi đến nơi đó, để ủng hộ, trừ diệt các bệnh hoạn khổ sở, sao băng kỳ quái, tật dịch đấu tranh, pháp vua giam giữ, ác mộng ác thần làm chướng ngại người đó, sâu độc bùa chú yểm thuật thảy đều trừ sạch, người trì kinh thêm nhiều ích lợi như vậy, các chúng Tỳ-kheo và các thính giả đều giúp cho mau chóng vượt qua biển lớn sinh tử, không lui sụt Bồ-đề. Tiếp theo là nói trong phần phương tiện thứ ba Thiên nữ khuyến khích thực hành, có ba: Đầu tiên là kết thúc pháp đã nêu trước đây; tiếp từ “bước tới đảnh lễ dưới chân Phật…” về sau là nói rõ khuyến khích người tu học, có ba: Nghi thức thưa hỏi. Bắt đầu thưa trình. “Nếu có Tỳ-kheo…” trở xuống là nói rõ người thực hành; sau từ “hoặc ở nơi thành ấp…” trở xuống là nói về khiến đạt được ích lợi. Đạt được ích lợi có ba: Đầu tiên là cúng dường thủ hộ, tiếp từ “Dứt trừ các bệnh hoạn khổ sở…” về sau là trừ diệt tai ương; sau từ “thêm nhiều ích lợi như vậy…” trở xuống là khiến cho đạt được lợi ích cao quý. Văn kinh: Lúc ấy đức Thế Tôn nghe nói như vậy xong, khen ngợi Biện tài Thiên nữ rằng: Lành thay! Lành thay! Thiên nữ, người có thể làm cho vô lượng vô biên hữu tình an vui lợi ích mà nói thần chú này, cho đến cách thức thực hành pháp nước thơm tắm gội xây dựng đàn tràng, quả báo thật khó nghó được, người nên ủng hộ kinh Vương Tối Thắng đừng để cho mất đi, thường được truyền bá. Bấy giờ, Đại Biện tài Thiên nữ đảnh lễ dưới chân Phật xong trở về chỗ ngồi của mình. Tiếp theo là phần thứ tư, Đức Thế Tôn ngợi khen, chỉ dạy trong phần nêu rõ phương tiện, có bốn: Ngợi khen về tướng chung. Từ “Thiên nữ, người hãy…” về sau là ngợi khen riêng. Có ba: Đầu tiên là ngợi khen chỉ bày lợi ích của pháp; tiếp theo từ “nói thần chú này…” về sau là ngợi khen riêng về chỉ bày phương pháp; sau từ “quả báo thật khó nghó được…” là khen ngợi sẽ đạt được quả. Từ “người nên ủng hộ…” về sau là dạy nên hộ pháp. Từ “Bấy giờ…” về sau là được ngợi khen và trở lại chỗ ngồi. Văn kinh: Bấy giờ, Pháp sư thọ ký Bà-la-môn Kiều-trần-như nường uy lực của Phật ở trước đại chúng ngợi khen cầu thỉnh Biện tài Thiên nữ rằng. Tán rằng: Thứ hai chính thức cầu biện tài trong phần chỉ bày phương thức cầu thỉnh, văn chia làm bốn: Kiều-trần-như ngợi khen thỉnh cầu pháp. Từ “Lúc ấy Biện tài Thiên nữ…” về sau là Thiên nữ y lời thỉnh cầu mà chỉ bày. Từ “Lúc ấy, Kiều-trần-như…” về sau là Kiều-trần-như nghe pháp vui mừng ngợi khen. Đầu quyển tám Kiều-trần-như y giáo thỉnh cầu gia bị. Trong phần đầu có hai, đây là nêu rõ thỉnh cầu. Văn kinh: Biện tài Thiên thông minh mạnh mẽ, trời người cúng dường xứng đáng nhận, danh tiếng vang lừng khắp thế gian, thường ba nguyện tất cả chúng sinh. Tiếp theo chính thức nói về ngợi khen thỉnh cầu, có ba bài tụng chia làm hai: Hai bài tụng đầu là ngợi khen, một bài tụng sau là thỉnh cầu. Trong ngợi khen chia làm ba: Một bài tụng đầu ngợi khen nội đức, nửa bài tụng tiếp ngợi khen trú xứ, nửa bài tụng sau ngợi khen oai nghi. Đây là ngợi khen nội đức, có bốn: Một câu khen đức trí cần, một câu khen đức ruộng phước, một câu khen đức xa nghe, một câu khen đức mãn nguyện. Văn kinh: Nương đỉnh Cao sơn trú xứ đẹp, lợp tranh làm thất ở trong đó, thường kết cỏ mềm để làm áo, chỗ ở thường giở cao một chân. Tiếp theo ngợi khen chỗ ở và oai nghi. Biểu thị đã thoát khỏi sinh tử nên nói là trú ở Cao sơn. Thực tế, chỗ nào cũng hiện thân, lìa bỏ kiêu mạn nên thường ở nhà tranh, biểu thị nhu hòa nhẫn nhục cho nên dùng cỏ mềm làm áo, thường siêng năng lợi tha cho nên luôn giở cao một chân. Văn kinh: Đại chúng các trời đều đến nhóm, cùng nhau nhất tâm đồng khen thỉnh, cúi mung trí tuệ Biện tài Thiên, dùng ngôn từ hay thí tất cả. Tiếp theo là thỉnh cầu, có hai: Nửa bài tụng nói về đồng ngợi khen cầu thỉnh, nửa bài tụng là nguyện ban cho ân huệ sở cầu. Theo trong phần ngợi khen thỉnh cầu tiếp đó thì không chỉ là ngôn từ vô ngại, tức là nói pháp lợi sinh ngôn từ vô ngại thù thắng, cho nên chỉ nói rõ sự cầu thỉnh. Văn kinh: Bấy giờ, Biện tài Thiên nữ liền nhận lời thỉnh cầu và nói thần chú rằng: “Đát điệt tha - mộ lệ chỉ lệ - a phạt đế - a phạt tra phạt để - hinh ngộ lệ danh cụ lệ - danh cụ la phạt để - quyết cụ sư mạt ly ỹ chỉ tam mạt để - tỳ tam mạt để - tỳ tam mạt để ác cận (nhập) lî mạc cận ly ỹ - đát la chỉ - đát la giả phạt để - chất chất lý thất lý mật lý - mạt nan địa đàm - mạt lî chỉ bát la noa tất lụ duệ - lô ca thệ sắt thế - lô ca thất lệ sắt da - cô ca tất lî duệ - tất đà bạt lî đế - tỳ ma mục xí - thân chỉ chiết lî - a bát lî để hát đế - a bát lî để hát đá đá bột địa - nam mẫu chỉ nam mẫu chỉ - mạc ha đề tỷ - bát lî để cận (nhập) - lî hôn noa - nam ma tắc ca la - con tên là… bột địa đạt lị xa rất - bột địa a bát lạt để bát đá - ba (thượng) bạt đổ - thị bà mê tỳ thâu điệt tha - mạc ha bát lạt bà tỷ rất lý mật lý rất mật lý - tỳ chiết lạt đổ mê bột địa - con tên là… bột địa thâu đề - bạc già phạt điểm đề tỳ diễm - tát la toan điểm - yết là trệ kê do lệ - kê do la mạt để - rất lý mật lý rất lý mật lý - a bà ha da nhị - mạc ha đề tỷ - bột đà tát đế na - đạt ma tát đế na - tăng già tát đế na - nhân đạt la tát đế na - bạt lâu noa tát đế na - duệ lô kê tát để bà địa na - đê sam (dẫn) tát đế na - tát để phạt giả nên ma - a bà ha da nhị - mạc ha đề tỷ rất lý mật lý rất lý mật lý - tỳ chiết lạt đổ - con tên là… bột địa - nam mô bạc già phạt để - mạc ha đề tỷ tát la toan để - tất điện đổ - mạn đát la bát đa di - sa ha.” Lúc ấy, Biện tài Thiên nữ nói chú này xong bảo Bà-la-môn rằng: “Lành thay! Đại só có thể vì chúng sinh cầu biện tài nhiệm mầu và các thần thông trí tuệ ít có, lợi ích cho tất cả, mau chóng chứng quả Bồ-đề. Tiếp theo Thiên nữ chỉ ra các pháp, có ba: Nói chú. “Lúc ấy, Biện tài…” về sau là ngợi khen, cầu thỉnh. Hỏi: Ở trước chỉ cầu thỉnh Biện tài, vì sao Thiên nữ ngợi khen lại gồm có các pháp khác? Đáp: Có hai các giải thích: Một là giải thích như trước đã giải thích trong nguyện ban cho ân huệ sở cầu, hai là nói rằng: Tuy chỉ cầu biện tài nhưng nhờ biện tài đạt được các nhân quả khác bao gồm cả ngợi khen. Chọn cách giải thích trước là đúng hơn. Văn kinh: Nên biết pháp thức thọ trì như thế, liền nói bài tụng rằng: Trước nên tụng Đà-la-ni này, khiến cho thuần thục không sai lầm. Tiếp theo là phần ba, dạy cách tu tập, có hai: Đầu tiên là nêu ra; tiếp theo từ “liền nói bài tụng rằng…” về sau là dạy tu tập. Tất cả có mười chín bài tụng rưỡi, toàn bộ chia ra làm tám phần. Nửa bài tụng đầu là dạy trước nên tụng chú. Văn kinh: Quy kính Tam bảo các chúng trời, thỉnh cầu gia hộ nguyện tùy tâm, lễ kính các Phật và pháp bảo, chúng Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn. Tiếp lễ Phạm vương và Đế Thích và tứ Thiên vương hộ thế gian, tất cả người thường tu phạm hạnh, đều nên tôn trọng thật chí thành. Tiếp theo là phần thứ hai, kế có hai bài tụng. Quy kính cầu gia hộ, chia làm ba: Nửa bài tụng đầu là nêu ra, một bài tụng một câu kế tiếp là nơi quy kính, một câu sau cùng là kết thúc. Văn kinh: Nên ở nơi lan nhãn vắng lặng, lớn tiếng tụng chú trước khen pháp, nên ở trước tượng Phật, trời rồng, tu cúng dường theo vật mình có. Tiếp theo là phần thứ ba, có một bài tụng sơ lược dạy cách thực hành. Trong đó có bốn: Một câu là nơi chốn thực hành pháp, một câu là chỉ bày tụng chú khen pháp, ngợi khen tức là ngợi khen cầu thỉnh trước đây; một câu là nêu ra nơi ngồi, một câu là dạy cúng dường. Văn kinh: Đối với tất cả chúng sinh kia, phát khởi tâm Từ bi thương xót. Tiếp theo là phần thứ tư, nửa bài tụng khởi tâm Từ bi. Văn kinh: Thế Tôn tướng tốt thân vàng tím, chánh niệm thường nghó tâm không loạn, Thế Tôn hộ niệm nói giáo pháp, tùy theo căn cơ dạy tu tịnh, nơi cú nghóa đó khéo tư duy, lại nương tánh không mà tu tập, nên ở trước hình tượng Thế Tôn, nhất tâm chánh niệm mà ngồi thẳng, liền được trí mầu Tam-ma-địa, và được Đà-la-ni tối thắng. Tiếp theo là phần thứ năm có sáu bài tụng rưỡi, khiến nương gá vào cảnh mà an tâm tu tập vốn những gì mong cầu. Trong đó có hai: Hai bài tụng rưỡi đầu là mong cầu tổng trì của Đức Phật, bốn bài tụng tiếp theo là cầu được bốn biện tài của Phật, tức là quả Phật. Trong mong cầu tổng trì có bốn: Nửa bài tụng đầu là quán hình tượng Phật, một bài tụng tiếp là tổng trì, nửa bài tụng là pháp và chú nhẫn, nửa bài tụng là nghóa lý, nửa bài tụng tiếp theo là nơi thực hành pháp và cách tu tập, nửa bài tụng tiếp đó là đạt được quả, vì các trí định đó là gốc của mọi công đức, nếu đạt được tổng trì chắc chắn thành tựu trí định. Văn kinh: Miệng vàng Như lai giảng nói pháp, tiếng hay điều phục chúng trời người, tướng lưỡi tùy duyên hiện ít thấy, rộng dài thường phủ cõi Tam thiên. Tiếp theo bốn bài tụng nói về cầu biện tài. Trong đó lại có ba: Một bài tụng đầu nói về biện tài sở cầu và đầy đủ biện tài, hai bài tụng tiếp theo là dạy cầu hai thứ này; một bài tụng cuối là quả sở cầu được thỏa mãn. Đây là phần mở đầu. Nói pháp tức là hai biện tài về pháp và nghóa. Tiếng hay tức là lời nói. Điều phục tức là vui sướng. Tướng lưỡi tức đầy đủ biện tài. Văn kinh: Âm thanh các Phật hay như thế, chí thành nhớ nghó tâm không sợ, các Phật đều nhờ phát nguyện rộng, được tướng lưỡi không nghó bàn này, giảng nói các pháp đều phi hữu, giống như hư không chẳng chấp đắm, âm thanh các Phật và tướng lưỡi, nhớ nghó suy tư nguyện viên mãn. Tiếp theo là dạy cầu hai thứ này, nửa bài tụng đầu cầu Từ vô ngại biện tài, nửa bài tụng kế là cầu đầy đủ, nửa bài tụng kế nữa là cầu ba biện tài còn lại, nửa bài tụng cuối là kết thúc do nguyện mà được. Văn kinh: Nếu thấy cúng dường Biện tài Thiên, hoặc thấy đệ tử theo thầy dạy, truyền pháp bí mật dạy tu học, tôn trọng tùy tâm đều thành tựu. Tiếp theo một bài tụng cuối là quả sở cầu được viên mãn. Biện tài Thiên nữ thấy có thầy trò tu hành, bèn truyền trao pháp bí mật cho họ tu tập chắc chắn đạt được kết quả như mong muốn. Văn kinh: Hoặc người muốn được trí tối thượng, nên nhất tâm thọ trì pháp này. Thêm lớn công đức phước trí, chắc chắn thành tựu đừng nghi ngờ. Hoặc ai cầu tài được nhiều tài, người cầu danh tiếng được danh tiếng, người cầu giải thoát được giải thoát, chắc chắn thành tựu đừng nghi ngờ. Các công đức vô biên vô lượng, tùy sở nguyện trong tâm người đó, nếu ai thường thực hành như vậy, sẽ được thành tựu đừng nghi ngờ. Tiếp theo là phần thứ sáu, ba bài tụng riêng nêu sở cầu, có ba: Một bài tụng đầu là cầu trí và phước, một bài tụng tiếp theo là cầu lợi thế gian và xuất thế gian, một bài tụng cuối là ví dụ cầu tất cả. Văn kinh: Nên ở chỗ vắng mặc áo sạch, phải làm đàn tràng tùy lớn nhỏ, dùng bốn bình sạch chứa thức ngon, hương hoa cúng dường nên thường xuyên, treo các lụa mềm và phướn lọng, hương bôi, hương vụn tô điểm khắp, cúng dường Phật và Biện tài Thiên, cầu thấy thân trời đều toại nguyện. Tiếp theo là phần thứ bảy, hai bài tụng nói rộng về thực hành pháp. Văn kinh: Phải tụng chú trước hai mốt ngày, nên đối trước Phật, Biện tài Thiên, nếu ai không thấy Thiên thần này, nên càng dụng tâm qua chín ngày, sau đó trong đêm vẫn không thấy, lại cầu nơi thanh tịnh nhiệm mầu, như pháp nên vẽ Biện tài Thiên, cúng dường trì tụng tâm không bỏ, ngày đêm không sinh ra uể oải, tự lợi lợi tha không cùng tận, quả báo đạt được thí chúng sinh, các nguyện sở cầu đều thành tựu. Nếu không như ý qua ba tháng, sáu tháng chín tháng hoặc một năm, tâm cầu thỉnh thiết tha không đổi, thiên nhãn, tha tâm đều thành tựu. Tiếp theo là phần thứ tám, dạy thời hạn cầu nguyện, có ba thứ khác biệt: Một bài tụng đầu là cầu thượng phẩm, hai bài tụng tiếp là cầu trung phẩm, một bài tụng sau là cầu hạ phẩm. Hoặc do căn cơ có thượng trung hạ, hoặc do nghiệp chướng nặng nhẹ, hoặc do túc trí nhiều ít. Văn kinh: Bấy giờ, Bà-la-môn Kiều-trần-như nghe nói vậy rồi vui mừng hớn hở, ngợi khen chưa từng có, nói với các đại chúng như vầy: Tất cả đại chúng trời người, các ngươi nên biết rằng được như thế đều là do nhất tâm lắng nghe. Nay tôi lại muốn dựa vào pháp thế đế khen ngợi Biện tài Thiên nữ tốt đẹp kia. Tiếp theo là phần thứ ba, Kiều-trần-như nghe pháp vui mừng ngợi khen. Chia làm bốn: Nêu ra ý muốn ngợi khen. Từ “Liền nói bài tụng rằng…” về sau chính là ngợi khen. Từ “Nếu muốn cầu thỉnh…” về sau là kết thúc khuyến khích tu học. tựu. “Bấy giờ, Đức Phật bảo…” về sau là Thế Tôn khen ngợi thành Trong phần đầu có ba: Đầu tiên là nghe pháp tâm vui vẻ, tiếp theo từ “bảo với đại chúng…” về sau là bảo đại chúng lắng nghe, sau từ “Nay tôi…” về sau là nói rõ ý muốn khen ngợi. Thắng nghóa không thể nói bằng lời cho nên nói là y tục (dựa vào tục đế). Văn kinh: Bèn nói bài tụng rằng: Kính lễ Thiên nữ Na-la-diên, ở trong thế giới được tự tại, nay tôi khen ngợi kia tôn quý, đều như vị Tiên xưa kia nói. Tiếp theo chính là ngợi khen, có hai: Đầu tiên là bài tụng khen ngợi, sau là chú khen ngợi. Đầu tiên có hai mươi hai bài tụng, toàn bộ chia làm ba phần: Một bài tụng đầu nêu rõ sự ngợi khen; hai mươi bài tụng tiếp theo chính là ngợi khen; một bài tụng sau là quy y kính lễ. Đây là phần mở đầu. Văn kinh: Thành tựu tốt lành tâm an ổn, thông minh hổ thẹn có tiếng tăm, là mẹ đã sinh ra thế gian, thường hành đại tinh tiến mạnh mẽ. Tiếp theo chính thức ngợi khen, chia làm hai: Ba bài tụng đầu ngợi khen chung về nội ngoại đức; mười bảy bài tụng sau ngợi khen riêng về nội đức, ngoại đức. Văn phần đầu có ba: Một bài tụng đầu là nội đức; một bài tụng rưỡi tiếp theo là ngoại đức; nửa bài tụng sau là tổng kết. Đây là phần mở đầu, có bốn: Một câu là đức tâm an ổn tốt lành; một câu là đức thông minh danh tiếng vang khắp; một câu là đức nuôi lớn hữu tình; một câu là đức thường siêng năng không mệt mỏi. Văn kinh: Ở trong quân trận thường chiến thắng, nuôi lớn điều phục tâm từ nhẫn, hiện làm chị cả của Diêm-la, thường mặc áo tơ tằm màu xanh, nghi dung đẹp xấu đều có đủ, đôi mắt khiến người thấy sợ hãi… trở xuống là ngợi khen ngoại đức, có ba: Nửa bài tụng đầu là chiến thắng hàng phục oán tặc; nửa bài tụng tiếp là đức tùy loại thọ sinh; nửa bài tụng tiếp là đức đầy đủ các hình tướng. Văn kinh: Thắng hạnh vô lượng hơn thế gian, người quy tín thảy đều che chở. Tiếp theo là tổng kết. Văn kinh: Hoặc ở núi cao sâu hiểm trở, hoặc ở hang động và bên sông, hoặc ở các rừng cây đại thọ, Thiên nữ thường trú ở trong này. Giả sử hạng dân quê rừng rú, cũng thường cúng dường cho Thiên nữ, dùng lông chim công làm cột cờ, bất cứ lúc nào lúc thường hộ thế, sư tử, cọp beo luôn vây quanh, trâu dê gà chó cũng cùng theo, lắc vang chuông lớn phát âm thanh, các núi Tần-đà đều nghe tiếng, hoặc cầm chóa ba đầu búi tóc, trái phải luôn giữ cờ nhật nguyệt, ngày mùng chín, mười một và ngày rằm, trong các ngày này nên cúng dường; hoặc hiện em gái trời Bà-tô, thấy có chiến tranh tâm thương xót. Tiếp theo là ngợi khen riêng về nội đức và ngoại đức, có hai: Bốn bài tụng rưỡi đầu là ngợi khen ngoại đức; mười hai bài tụng rưỡi sau là ngợi khen về nội đức. Trong phần đầu có ba: Một bài tụng rưỡi đầu là trú xứ cúng dường; hai bài tụng tiếp theo là nghi thức theo giúp đỡ; một bài tụng sau là nhân tiện nói về thời gian cúng dường và phân biệt rõ hình tướng không nhất định. Văn kinh: Quán sát trong tất cả hữu tình, Thiên nữ trên hết không ai hơn. Tiếp theo là ngợi khen về nội đức, có hai: Mười bài tụng rưỡi đầu là ngợi khen đức đại trí tôn quý cao siêu, hai bài tụng sau là khen ngợi đức đại bi cứu khổ. Trong phần đầu có ba: Nửa bài tụng đầu nêu ra sự cao quý, chín bài tụng tiếp theo là khen ngợi riêng, một bài tụng cuối là kết luận sự cao quý. Đây là phần mở đầu. Văn kinh: Quyền hiện gái chăn trâu vui vẻ, đánh nhau với trời thường chiến thắng, thường an trú lâu ở thế gian, cũng vì hòa nhẫn và bạo ác, pháp tứ minh đại Bà-la-môn, chú thuật huyễn hóa đều thông suốt. Tiếp theo là ngợi khen riêng, có mười một: Thắng lợi về hàng phục oán thù. “Thường an trú lâu…” về sau là trụ thế thù thắng. “Pháp tứ minh đại Bà-la-môn…” về sau là hiểu biết thù thắng. Pháp Tứ minh tức là bốn bộ luận Bệ-đà, xưa dịch là Vi-đà hoặc Tỳ- già-la luận, đều là lầm cả. Hiệt-lực-bệ-đà, Hán dịch là thọ minh, giải thích về các việc ngắn dài của mạng số; Gia-thọ-bệ-đà, Hán dịch là từ tự minh, giải thích về các việc cúng tế; Bà-ma-bệ-đà, Hán dịch là bình minh, bình luận về chuyện phải trái; A-đạt-bệ-đà, Hán dịch là thuật minh, giải thích về các kỹ thuật. Kinh này nói “Các thứ chú thuật huyễn hóa đều thông suốt” ấy chính là thuật minh thứ tư. Văn kinh: Ở trong Thiên tiên được tự tại, thường làm hạt giống và mặt đất. Tiếp theo thứ bốn là thù thắng trong hàng Thiên tiên. Thường làm hạt giống… là giải thích lý do thù thắng đó. Văn kinh: Lúc các Thiên nữ đều nhóm họp, như sóng biển lớn sẽ đến ứng. Tiếp theo thứ năm là thế tin tưởng thù thắng. Văn kinh: Với các rồng thần, chúng Dược-xoa, hoặc làm thượng thủ luôn điều phục. Tiếp theo thứ sáu là điều phục thù thắng. Văn kinh: Phạm hạnh nhất trong các cô gái, nói ra giống như chủ thế gian, ngồi trên ngôi vua như hoa sen, nếu ở bến sông như cầu bè. Tiếp theo thứ bảy là phạm hạnh thù thắng có ba: Nói năng không dua nịnh giả dối, giống như người đứng đầu thế gian. Không nhiễm các pháp thế gian giống như hoa sen. Thường thực hành cứu giúp chúng sinh giống như cầu thuyền. Văn kinh: Diện mạo giống như trăng tròn đầy, học rộng đầy đủ làm chỗ nương, biện tài hơn hẳn như đỉnh cao, người niệm đều giúp làm cồn bãi. Tiếp theo thứ tám, làm nơi nương tựa thù thắng, có ba: Đầu tiên là xinh đẹp, tiếp đến là học rộng, sau là biện tài. Đầy đủ công đức làm nơi nương tựa thường như cồn bãi. Văn kinh: Các chúng trời, A-tu-la thảy đều cùng xưng tán công đức đó, cho đến Đế Thích chủ ngàn mắt, dùng tâm sâu nặng mà quán sát. Tiếp theo là phần thứ chín, xưng tán thù thắng. Văn kinh: Nếu chúng sinh có việc mong cầu, đều luôn khiến mau được thành tựu, cũng khiến thông biện, có văn trì, là bậc nhất trông giữ đại địa, ở trong thế giới mười phương này, như đèn sáng lớn thường chiếu khắp, cho đến quỷ thần các cầm thú, thảy đều thỏa mãn tâm mong cầu. Tiếp theo thứ mười, thỏa mãn mong cầu thù thắng, có ba: Nửa bài tụng đầu nêu ra, một bài tụng giải thích, nửa bài tụng kết luận. Văn kinh: Như núi cao trong các người nữ, như vị Tiên xưa ở đời lâu, như thiếu nữ trời thường lìa dục, thật ngữ giống như đại thế vương; thấy mọi loài thế gian khác nhau, cho đến các tầng trời cõi Dục, chỉ có Thiên nữ đáng tôn xưng, không thấy hữu tình nào sánh bằng. Tiếp theo là phần thứ mười một nói về công đức tôn quý thù thắng, có hai: Một bài tụng đầu nói riêng về sự thù thắng, một bài tụng sau tổng kết nêu ra sự thù thắng. Văn kinh: Nếu ở nơi chiến trận sợ hãi, hoặc thấy rơi vào trong hố lửa, hay bến sông hiểm nạn trộm cướp, đều dứt trừ được sợ hãi kia, hoặc bị pháp vua làm giam cầm, hoặc bị kẻ oán thù giết hại, nếu tâm luôn chuyên chú không đổi, chắc chắn thoát khỏi các buồn lo. Tiếp theo là hai bài tụng trong phần ngợi khen về nội đức. Thứ hai là khen ngợi đức đại bi cứu khổ, có hai: Đầu tiên là nói riêng, nửa bài tụng sau là kết thúc các ví dụ. Văn kinh: Đối người thiện ác đều ủng hộ, từ bi thương xót thường hiện tiền, vì thế tôi đem tâm chí thành, cúi đầu quy y đại Thiên nữ. Tiếp theo là kết thúc quy y lễ bái. Văn kinh: Bấy giờ, Bà-la-môn lại dùng chú tán để ngợi khen Thiên nữ rằng: Quy kính quy kính thế gian tôn, là bậc Tối thắng trong các mẹ, ba thứ thế gian cùng cúng dường, diện mạo nghi dung người ưa thấy, các thứ diệu đức dùng trang nghiêm, mắt như cánh sen xanh dài rộng, phước trí ánh sáng tiếng vang lừng, giống như ngọc ma-ni vô giá. Nay tôi khen ngợi bậc Tối thắng, đều thành tựu được tâm sở cầu, công đức chân thật rất tốt lành, giống như hoa sen rất thanh tịnh. Sắc thân xinh đẹp đều thích nhìn, các tướng ít có không nghó bàn, thường phát ánh sáng trí vô cấu, là trên hết ở trong các niệm. Như sư tử đầu đàn cầm thú, thường có tám tay tự trang nghiêm, đều nắm cung tên đao giáo búa, chày dài vòng sắt và lưới tơ. Xinh đẹp thích nhìn như trăng tròn, ngôn từ lưu loát phát tiếng hay, nếu có chúng sinh tâm nguyện cầu, Thiện só tùy niệm khiến viên mãn. Các trời Đế Thích thảy cúng dường, đều cùng khen ngợi đáng quy y, sinh ra các đức không nghó bàn, bất cứ lúc nào cũng cung kính, Sa-ha (Trên đây là chú, tụng là chú cũng là tán. Nếu lúc trì chú nhất định phải đọc tụng). Tiếp theo lại dùng chú ngợi khen. Xem văn có thể biết. Văn kinh: Nếu muốn cầu thỉnh Biện tài Thiên, nương ngôn từ cú chú tán này, sáng sớm thanh tịnh chí thành tụng, mọi việc mong cầu đều như ý. Tiếp theo trong phần vui mừng ngợi khen, thứ ba là kết thúc khuyến khích tu học. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Phật bảo Bà-la-môn: Lành Thay! Lành thay! Ông có thể làm lợi ích chúng sinh như thế, giúp cho an vui nên khen ngợi Thiên nữ đó, thỉnh cầu che chở được bô biên phước đức (loại chú pháp này có lược có rộng, hoặc khai triển hoặc kết hợp trước sau không như nhau. Bản tiếng Phạn đã nhiều, chỉ căn cứ theo một bản dịch, về sau do sánh biết rõ điều đó. Tiếp theo là phần thứ tư Thế Tôn ngợi khen thành tựu.  <卷>QUYỂN 5 (Phần 4) <詞>Phẩm 15: ĐẠI BIỆN TÀI THIÊN NỮ (Phần 2) Văn kinh: Bấy giờ, Bà-la-môn Kiều-trần-như nói lời khen ngợi trên và pháp chú tán ngợi khen Biện tài Thiên nữ xong. Đây là phần thứ tư, Kiều-trần-như y giáo thỉnh cầu che chở. Trước là thỉnh cầu pháp biện tài, nay là lúc thỉnh cầu che chở bị khiến đạt được. Toàn văn chia làm bốn: Kết thúc trước, phát sinh sau. Từ “Nam-mô…” về sau chính là dạy thỉnh cầu che chở. Từ “Bấy giờ, Biện tài…” về sau là Thiên nữ khen ngợi khuyến khích tu hành. Kiều-trần-như vui mừng đảnh lễ thọ trì. Trong phần đầu có hai; đây là phần đầu kết thúc trước. Văn kinh: Nói với các đại chúng: Này các nhân giả! Nếu muốn cầu thỉnh Biện tài Thiên nữ xót thương che chở, trong đời này đạt được biện tài vô ngại, đại trí thông minh, ngôn từ khéo léo, uyên bác kỳ tài, luận bàn sắc sảo, tùy ý thành tựu, không hề nghi ngại vướng mắc. Tiếp theo là phát sinh sau có ba: Đầu tiên là nói với đại chúng, tiếp theo từ “Này các nhân giả…” về sau là nêu ra sở cầu, sau từ “Nên phải…” về sau là phát sinh khởi thỉnh. Trong phần nêu pháp sở cầu, đầu tiên là nêu chung ra bốn biện tài và trí. Thông nghóa là có khả năng tiếp thu, minh nghóa là có khả năng hiểu ý, trí nghóa là có khả năng quyết đoán. Từ “Ngôn từ khéo léo…” về sau là nêu riêng bốn biện tài, xảo diệu (khéo léo) là từ vô ngại, uyên bác là pháp nghóa vô ngại, luận bàn sắc sảo là lạc thuyết vô ngại. Văn kinh: Nên chí thành thiết tha như vậy mà triệu thỉnh rằng. Tiếp theo là phát sinh sau, như văn. Văn kinh: Nam-mô Phật-đà-dã, Nam-mô Đạt-ma-dã, Nam-mô Tăng-già-dã, Nam-mô chư Bồ-tát chúng Độc giác, Thanh văn, nhất thiết Thánh hiền. Tiếp theo chính là chỉ bày thỉnh cầu che chở, có hai: Đầu tiên là thỉnh Phật che chở khiến đạt được, sau từ “Kính lễ các Phật biện tài khéo léo…” trở xuống là thỉnh Biện tài Thiên… cùng che chở khiến đạt được. Phần đầu lại có ba: Trước tiên là quy kính Tam bảo, tiếp theo khen ngợi Phật ngữ… là lý do thỉnh cầu, sau từ “quy kính quy kính…” về sau chính là thỉnh Thế Tôn che chở để đạt được. Đây là phần đầu. Văn kinh: Các Đức Phật quá khứ, hiện tại ở mười phương thảy đều đã tu tập ngữ chân thật, thuận theo đương cơ nói thật ngữ, không hư cuống ngữ, đã ở trong vô lượng câu-chi đại kiếp thường nói thật ngữ, người có thật ngữ thảy đều vui theo. Tiếp theo là khen ngợi Phật ngữ… làm lý do thỉnh cầu. Đầu tiên là khen ngợi thật ngữ; tiếp theo là khen ngợi đầy đủ các ngữ cụ, sau là khen ngợi lợi ích. Khen ngợi thật ngữ có ba: Một là khen ngợi nhân; Hai là từ “đã ở trong…” về sau là khen ngợi quả; Ba là từ “người có thật ngữ…” về sau là khen ngợi vui theo. Hiểu rõ các Đức Thế Tôn có vui theo vô lượng, không ganh ghét nên đạt được, cho nên thỉnh cầu che chở. Văn kinh: Vì không nói dối nên sinh ra lưỡi rộng dài có thể che kín mặt, che kín châu Thiệm-bộ và bốn châu trong thiên hạ, có thể che kín nhất thiên, nhị thiên, tam thiên thế giới, che kín khắp các thế giới mười phương trọn vẹn đầy đủ không thể suy nghó bàn luận. Tiếp theo khen ngợi đầy đủ thật ngữ. Đầu từ “vì không nói dối cho nên” là khen ngợi về nhân, từ “sinh ra lưỡi rộng dài” về sau là khen ngợi quả. Đây là ý Phật nói khiến cầu định, được chân thật cho nên nay con thỉnh cầu. Văn kinh: Thường dứt bỏ tất cả phiền não nóng nảy. Tiếp theo khen ngợi lợi ích. Bởi vì có thể ích lợi cho nên thỉnh cầu che chở nguyện đạt được sở đắc của Phật. Kính lễ Tam bảo cho nên mong cầu đầy đủ thật ngữ, do đó lấy lại từ “Kính lễ”. Theo như các biện tài vốn có ở dưới đều nguyện cầu đạt được. Vì Phật là thù thắng, là cội gốc cho nên đầu tiên chỉ thỉnh cầu Phật. Văn kinh: Kính lễ, kính lễ tất cả các Đức Phật, tướng lưỡi như thế nguyện con tên là…, đều được thành tựu biện tài khéo léo. Dốc lòng quy mạng, kính lễ các Đức Phật biện tài khéo léo, các đại Bồ-tát biện tài khéo léo, Độc giác Thánh giả biện tài khéo léo, tứ hướng tứ quả biện tài khéo léo, tứ Thánh đế ngữ biện tài khéo léo, chánh hạnh chánh kiến biện tài khéo léo. Tiếp theo là thỉnh cầu Biện tài Thiên cùng các Thánh giả che chở khiến đạt được. Trong đó có hai: Đầu tiên là kính lễ cầu biện tài, sau từ “kính lễ không luống dối…” trở xuống là thỉnh cầu che chở khiến đạt được. Trong phần đầu kính lễ cầu biện tài: Hai chữ kính lễ là nêu bậc năng kính. Từ “Thế Tôn…” về sau hai mươi hai thứ biện tài là cầu sở lễ. Từ “Tất cả thắng nghiệp…” về sau tức là thỉnh cầu các vị có khả năng thành tựu đó giúp con đạt được. Trong sáu bài tụng, một bài tụng rưỡi đầu là biện tài của các Thánh giả, còn lại là biện tài của trời và Thần tiên. Trong biện tài của các Thánh giả, một bài tụng đầu là người năng thành, nửa bài tụng tiếp theo trình bày các biện tài đã nói. Sơ lược nêu ra ba thứ phản ảnh tất cả các pháp. Chánh hạnh có sáu thứ: Tối thắng chánh hạnh. Tác ý. Tùy pháp. Lìa hai bên. Khác nhau. Không khác nhau. Chánh hạnh nương vào thực hành sáu độ, mỗi độ đều có sáu chánh hạnh, như luận Biện Trung Biên ba nói. Chánh kiến có mười một thứ, tức là đối với khổ đế quán như bệnh, như ung thư, cung tên, như chướng ngại, vô thường, khổ, không, vô ngã là tám kiến, quán tập là kết kiến, quán diệt là ly hệ kiến, quán đạo là năng ly hệ kiến, cọng lại thành mười một thứ trên. Văn kinh: Phạm chúng, các tiên biện tài khéo léo, Đại Thiên Ô-ma biện tài khéo léo, trời Tắc-kiến-đà biện tài khéo léo, Ma-na-tư vương biện tài khéo léo, trời Thông minh dạ biện tài khéo léo, tứ đại Thiên vương biện tài khéo léo, Thiện trú Thiên tử biện tài khéo léo, Kim cang Mật chủ biện tài khéo léo, trời Phệ-suất-nộ biện tài khéo léo, Thiên nữ Tỳ-ma biện tài khéo léo, Thiên thần Thị sác biện tài khéo léo, Thiên nữ Thất-lợi biện tài khéo léo, Thất-lợi Mạt-đa biện tài khéo léo, Hê-lý Ngôn Từ biện tài khéo léo, chư Mẫu đại Mẫu biện tài khéo léo, Ha-lý-đề Mẫu biện tài khéo léo, các Dược-xoa thần biện tài khéo léo, các vua mười phương biện tài khéo léo. Tiếp theo là những thứ còn lại. Phạm chúng tức là tiên vì lìa bỏ dục lạc, hoặc Phạm thiên và tiên đều khác nhau, cách giải thích đầu là thích hợp hơn. Đại thiên Ô-ma là Thiên nữ đại Tự tại tên là Ô-ma ở dõi Dục này, Ô-ma, Hán dịch là chỉ, vì con gái muốn lấy chồng nhưng cha nàng là đại thiên ngăn cấm nên không đồng ý, vì thế gọi là Đại Thiên Chỉ. Tắc-kiến-đà, Hán dịch là uẩn, người Tây phương gọi ruột và các vai đều là uẩn, nghóa là chứa nhóm mọi vật. Ma-na-tư, Hán dịch là từ tâm. Phệ-suất-nộ, Hán dịch là là đa thủ (nhiều tay), một tên khác của trời Na-la-diên. Tỳ, Hán dịch là là chủng chủng, Ma Hán dịch là nghiệp, tên này tức xưa gọi là trời Tỳ-thủ-yết-ma. Trời Thị-sác, trời Thất-lợi Hán dịch là là cát tường. Thất-lợi-mạt-đa Hán dịch là cát tường tuệ. Hê-lý (Hán không phiên dịch). Ha-lý-đề, Hán dịch là thành sắc. Văn kinh: Tất cả thắng nghiệp giúp đỡ con, khiến hành biện tài khéo léo vô cùng. Tiếp theo thỉnh cầu che chở khiến đạt được. Văn kinh: Kính lễ không lừa dối, kính lễ bậc Giải thoát, kính lễ người lìa dục, kính lễ xả triền cái; kính lễ tâm thanh tịnh, kính lễ ánh quang minh, kính lễ lời chân thật, kính lễ không trần tập; kính lễ trú thắng nghóa, kính lễ đại chúng chủ. Tiếp theo là hai mươi lăm bài tụng thỉnh cầu che chở để đạt được. Toàn bộ chia làm bảy: Mười hai bài tụng đầu quy y kính lễ Bồ-tát, thỉnh cầu che chở đạt được; một bài tụng rưỡi tiếp đó thỉnh cầu Thanh văn che chở; hai bài tụng rưỡi tiếp đó thỉnh cầu các vị trời cõi Sắc che chỏ; hai bài tụng tiếp đó thỉnh cầu các vị trời cõi Dục che chở; năm bài tụng tiếp đó thỉnh cầu tám bộ che chở; một bài tụng tiếp theo thỉnh cầu các vị trời, người khác che chở; một bài tụng tiếp đó thỉnh cầu hữu tình trong pháp giới che chở. Trong phần đầu chia làm ba: Bảy bài tụng đầu thỉnh cầu che chở để đạt được biện tài của Bồ-tát; ba bài tụng tiếp đó thỉnh cầu che chở khiến đạt được biện tài của Như lai; hai bài tụng tiếp nữa thỉnh cầu che chở khiến đạt được biện tài của Phật và các vị Thanh văn. Trong bảy bài tụng đầu lại chia làm hai: Hai bài tụng rưỡi đầu là kính lễ, ngợi khen chung tất cả Bồ-tát thỉnh cầu che chở; bốn bài tụng rưỡi tiếp theo kính lễ riêng Thiên nữ, thỉnh cầu che chở. Đây là phần đầu. Khen ngợi kính lễ mười đức: Đức lìa kiêu mạn không lừa dối. Đức chứng chân trạch diệt; vì khác với Nhị thừa. Đức không nhiễm trước năm trần. Đức thường xa lìa triền cái. Đức thường thực hành vô lậu. Đức phá ngu dốt sinh trí tuệ. Đức nói năng chắc chắn hợp cảnh. Đức lìa xa các thói quen. Đức tùy ý chứng chân. Đức sẽ dẫn dắt hữu tình. Mười câu trong văn kinh lần lượt phối hợp để giải thích. Văn kinh: Kính lễ Biện tài Thiên, khiến con từ vô ngại, nguyện điều con mong cầu, đều mau chóng thành tựu, không bệnh thường yên ổn, thọ mạng được dài lâu; khéo hiểu các minh chú, riêng tu đạo Bồ- đề, lợi ích mọi chúng sinh, tâm nguyện cầu chóng thành; con nói lời chân thật, con nói lời không dối, Thiên nữ biện tài khéo léo, khiến con được thành tựu; chỉ Thiên nữ đến, khiến lời con không trệ, mau vào trong thân miệng, thông minh đủ biện tài. Tiếp theo riêng thỉnh cầu Thiên nữ. Văn chia làm năm: Thỉnh cầu từ (lời) vô ngại. Một bài tụng tiếp theo thỉnh cầu không tật bệnh, thọ mạng dài lâu, vì lợi ích hữu tình không tham cầu thọ mạng thế gian. Một bài tụng tiếp theo thỉnh cầu hiểu rõ các minh chú, siêng năng tu tập Bồ-đề. Một bài tụng tiếp theo nói mình chân thật cầu thỉnh che chở khiến đạt được. Một bài tụng tiếp theo thỉnh cầu Thiên nữ nhập vào thân miệng che chở. Văn kinh: Nguyện cho lưỡi của con, sẽ được Như lai hiện, do uy lực lời ấy, điều phục các chúng sinh. Lúc con phát ra lời, việc gì cũng thành tựu, người nghe sinh cung kính, việc làm không tổn hại. Nếu con cầu biện tài, việc ấy không thành tựu, thật ngữ của Thiên nữ, thảy đều thành. Tiếp theo thỉnh cầu biện tài của Như lai. Văn chia làm ba: hai câu đầu là thỉnh cầu; một bài tụng rưỡi tiếp theo nói về ý cầu biện tài; một bài tụng tiếp theo nói rằng nếu lời Thiên nữ không luống dối thì sự cầu mong của con chắc chắn thành tựu. Văn kinh: Có gây tội vô gián, lời Phật khiến điều phục, cho đến A-la-hán, tất cả lời báo ân, Xá-lợi-tử, Mục-liên, bậc nhất trong chúng Phật, những lời chân thật ấy, nguyện con đều thành tựu. Tiếp theo thỉnh cầu che chở khiến đạt được biện tài của Phật và các Thanh văn. Nửa bài tụng đầu thỉnh cầu biện tài của Phật; một bài tụng rưỡi còn lại thỉnh cầu các biện tài khác của Phật. Điều phục vô gián ngữ, A-la-hán báo ân ngữ, phản ảnh lẫn nhau, đưa ra tất cả các ngữ. Nói những thứ khác là hoặc các A-la-hán khác, hoặc các biện tài trong hai mươi hai thứ như trước. Văn kinh: Nay con đều triệu thỉnh, chúng Thanh văn của Phật, đều nguyện chóng đến đây, thành tựu tâm con cầu, lời mong cầu chân thật, đều nguyện không luống dối. Tiếp theo đây là thỉnh cầu Thanh văn che chở. Văn kinh: Trên từ trời Sắc cứu cánh cho đến trời Tịnh cư, Đại Phạm và Phạm phụ, tất cả chúng Phạm vương, cuối cùng khắp tam thiên, chủ thế giới Sách-ha và cùng các quyến thuộc, nay con đều triệu thỉnh cúi mong từ bi, thương xót cùng che chở. Tiếp theo thỉnh cầu các vị trời cõi Sắc che chở. Văn kinh: Trời Tha hóa Tự tại, cho đến Lạc Biến Hóa, chúng trời Đổ-sử-đa, từ thị sẽ thành Phật, các chúng trời Dạ-ma, và cõi trời Đao- lợi, các trời tứ Thiên vương, tất cả các chúng trời. Tiếp theo thỉnh cầu các vị trời cõi Dục che chở. Văn kinh: Thần đất nước lửa gió, nương ở núi Diệu cao, các sơn thần bảy biển, tất cả các quyến thuộc, mãn tài và ngũ đảnh, trời trăng và các sao, các chúng trời như vậy, giúp thế gian yên ổn, các Thiên thần như thế, không thích gây tội nghiệp. Kính lễ quỷ tứ mẫu, và con yêu nhỏ nhất, chúng trời rồng, Dược-xoa, Càn-thát-bà, Tu-la, cho đến Khẩn-na-la, chúng Mạc-bô-lạc-già. Con nhờ sức Thế Tôn, thảy đều xin triệu thỉnh, nguyện rũ lòng Từ bi, giúp con vô ngại biện. Tiếp theo thỉnh cầu tám bộ che chở. Bốn bài tụng đầu nêu ra tên gọi, một bài tụng sau nói rõ thỉnh cầu. Văn kinh: Tất cả chúng trời người, bậc hiểu rõ tha tâm, đều nguyện ban thần lực, giúp con biện tài khéo léo, cho đến tận hư không, cùng khắp trong pháp giới, tất cả mọi sinh linh, giúp con biện tài khéo léo. Tiếp theo thỉnh cầu các chúng trời người và chúng sinh trong pháp giới che chở. Văn kinh: Bấy giờ, Biện Tài Thiên Nữ nghe thỉnh cầu như vậy rồi, bảo Bà-la-môn Kiều-trần-như rằng: Lành thay! Đại só! Nếu có người nam người nữ nào y theo thần chú như vậy và chú tán đã nói về cách thọ trì như trước đây mà quy y kính lễ Tam bảo, kính thành chánh niệm với những việc mong cầu đều không giả dối, lại cùng thọ trì đọc tụng kinh Kim Quang Minh nhiệm mầu này thì những việc nguyện cầu ấy thảy đều đạt được như ý mong muốn, mau được thành tựu, ngoại trừ không dốc lòng. Lúc ấy, Bà-la-môn hết sức vui mừng, chắp tay đảnh lễ thọ trì. Tiếp theo là phần thứ ba, Thiên nữ ngợi khen khuyến khích tu hành, có hai: Đầu tiên là Thiên nữ ngợi khen, tiếp theo từ “Nếu có người nam…” về sau là ấn chứng khuyến khích tu học. Sau từ “Lúc ấy, Bà-la-môn…” trở xuống là tiếp phần thứ tư Kiều-trần-như vui mừng đảnh lễ thọ trì. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Phật bảo Thiên nữ Biện tài rằng: Lành thay! Lành thay! Thiên nữ, người có thể truyền bá kinh vương nhiệm mầu này, ủng hộ tất cả người thọ trì kinh và thường làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến được yên ổn, nói pháp như vậy, giúp cho biện tài không thể suy nghó bàn luận, đạt được phước đức vô lượng, những người phát tâm mau chóng hướng về Bồ-đề. Tiếp theo là đoạn lớn thứ ba trong phẩm, Như lai ngợi khen khuyến khích. Đầu tiên khen ngợi Thiên nữ, từ “những người phát tâm” về sau là khuyến khích y theo đó tu học. -------------------------- <詞>Phẩm 16: ĐẠI CÁT TƯỜNG THIÊN NỮ Phẩm Đại Cát Tường Thiên nữ có chia ra làm ba phần: Lý do có phẩm này. Giải thích. Giải thích chướng ngại. Nói về lý do có phẩm này: Tu hành truyền bá có năm, đây là phần thứ hai giúp cho áo quần tài vật trong phần “khiến cho tu tập phước trí”. Nếu không có phước lợi sợ rằng sự mong cầu bên ngoài sẽ làm trở ngại việc mở mang kinh ấy, cho nên lúc y theo kinh tu học sẽ tự nhiên có được áo quần, đã không lo lắng về cầu mong bên ngoài, lại được tu tập phước trí thành tựu hành thù thắng này, do đó phẩm này phát sinh. Giải thích tên gọi: Tiếng Phạn là Ma-ha (Hán dịch là Đại) Thất- lợi (Hán dịch là Cát tường) Đề-bà-tỷ (Hán dịch là Thiên nữ), gọi chung là đại Cát tường Thiên nữ. Phẩm này nói về việc của Thiên nữ Cát tường, vì vậy lấy làm tên gọi. Giải trừ vặn hỏi: Hỏi: Phẩm trước giúp về biện tài, phẩm sau giúp về ăn uống đều không phân chia thành phẩm? Ở đây giúp về áo quần có gì khác mà chia ra? Đáp: Trước sau noi theo nhau không cần phải phân biệt, nhưng vì rộng lược có khác nên có khai hợp khác nhau. Phẩm trước nói lược về giúp ích biện tài, văn ít không thể mở ra một phẩm khác, nên hợp với văn cầu biện tài mà nói. Phẩm sau mở mang kinh tức là tăng thêm địa vị, không nói cầu rồi mới thêm vào, cho nên cũng không phân chia. Ở đây giúp cho áo quần, đầu tiên nêu ra giúp cho áo quần, văn đã rộng dài, vì vậy mở ra làm hai phần. Hỏi: Cùng giúp đỡ mở mang kinh vì sao biện tài, áo quần đều đợi cầu thỉnh xong mới tăng thêm? Phẩm sau giúp về địa vị sao không đợi thỉnh cầu mà đạt được ngay vậy? Đáp: Sự giáo hóa có muôn hình thức, lý không theo một tiêu chuẩn nào. Lại nữa, giúp cho biện tài áo quần là vì khó khăn, đợi cầu thỉnh mới đạt được, tăng thêm địa vị bởi dễ dàng, do đó không đợi cầu thỉnh, tinh thần tự làm chủ địa vị cho nên giúp đỡ là dễ. Hỏi: Người trì kinh tự minh nên cúng dường tất cả bốn việc, vì sao cầu thỉnh rồi mới tăng thêm tiền tài? Đáp: Hướng về trì kinh tự thích ứng được với bốn việc, muốn giúp thành tựu phước hạnh cho nên lại dạy thỉnh cầu điều đó. Lại nữa, người tự mình chuyên chú mở mang kinh, không vì mong cầu đối với bốn việc, vì người cầu bốn việc giúp cho thực hành kinh, do đó đợi y theo kinh tu học rồi mới ban giúp. Hỏi: Cát tường Thiên nữ này thuộc loài trời hay loài quỷ? Đáp: Chân đế Tam tạng nói: “Đây là Bồ-tát Sơ địa ứng hiện làm người đứng đầu trong các thần cây, thống lãnh các thần, hễ đến nơi nào đều ban cho họ sự vui sướng thù thắng. Sự vui sướng thù thắng tức là quả của công đức cho nên gọi là Công đức thiên.” Người nước ngoài gọi thần cũng tức là gọi trời. Theo cách giải thích này tức là nêu rõ loài quỷ đứng đầu trong các thần cây. Ở đây giải thích: Theo kinh chỉ nói là Thiên nữ không nói là thần, như Địa thần ở dưới, tức là tên gọi loài thần. Giả sử có nơi nói tên gọi Thọ thần vương là như tứ Thiên vương cũng gọi là Tứ thiên Thần vương, vì đứng đầu các loài Thần cho nên gọi là Thần vương, không nhất quyết phải là loài quỷ. Thiên nữ cũng giống như vậy, là thuộc về loài trời. Văn kinh: Bấy giờ, Đại Cát tường Thiên nữ liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi bước đến lễ lạy dưới chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu con thấy có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ô-ba- sách-ca, Ô-ba-tư-ca nào thọ trì, đọc tụng, giải thích cho người nghe về kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này thì con sẽ chuyên tâm cung kính cúng dường các vị Pháp sư này các thứ như ăn uống, áo quần, đồ nằm, thuốc men, cùng tất cả vật dụng tài sản cần thiết khác đều được đầy đủ, không hề thiếu thốn. Tán rằng: Trong phần giúp cho tài vật, chia làm hai: Đây là phần đầu, một phẩm nói về người mở mang kinh nên đạt được bốn việc, một phẩm sau nói về phương pháp đạt được. Phẩm đầu chia làm bốn: Thấy người mở mang kinh thì cúng dường bốn việc. Từ “Bạch Thế Tôn…” về sau là phân biệt rõ nguyên nhân cúng dường, đồng thời là báo đức. Từ “Nếu lại có người…” về sau là khuyến khích nên thực hành tu học. Từ “Đức Phật bảo…” về sau là Đức Phật ngợi khen khuyến khích thành tựu. Đây tức là phần đầu, lại chia làm ba: Nghi thức thỉnh cầu làm lợi ích. Từ “Bạch Đức Phật…” về sau là thấy người tu hành. Từ “Con sẽ…” về sau là giúp cho sự ích lợi đó. Trong phần ích lợi có hai: Đầu tiên là giúp cho lợi ích thế gian; sau từ cũng được gặp… trở xuống là giúp cho lợi ích xuất thế gian. Lợi ích thế gian có hai: Một là giúp cho lợi ích hiện tại; hai là “Lại ở nơi…” về sau là giúp cho lợi ích đời sau. Trong lợi ích hiện tại, đầu tiên là giúp cho tài vật. Văn kinh: Hoặc ngày, hoặc đêm, đối với tất cả câu nghóa của kinh Vương này quán sát suy nghó, an vui mà trụ khiến cho kinh điển này truyền bá rộng rãi ở châu Thiệm-bộ, là vì hữu tình kia đã đối với vô lượng trăm ngàn Đức Phật gieo trồng gốc lành, nên thường giúp cho được nghe, không nhanh chóng bị biến mất. Tiếp theo là giúp cho lợi ích đối với pháp. Lợi ích đối với pháp có hai: Khiến người thực hành pháp được trụ trong an vui. Khiến cho giáo pháp nhờ đó truyền bá lâu dài, có ba: Đầu tiên là khiến cho giáo pháp tồn tại lâu dài, tiếp theo là phân biệt rõ nguyên nhân luôn luôn tín nhận, sau là thường được nghe không mất. Văn kinh: Lại trong vô lượng trăm ngàn ức kiếp sẽ thọ hưởng các thứ vui sướng tốt đẹp ở cõi trời cõi người, thường được mùa màng bội thu, mãi mãi không còn đói kém, tất cả hữu tình thường được yên vui hạnh phúc. Tiếp theo giúp cho lợi ích đời sau, có ba: Được thân tốt đẹp. Từ “thường được mùa màng bội thu…” về sau là thường dồi dào vui sướng. “Tất cả hữu tình…” trở xuống là làm lợi ích chúng sinh. Văn kinh: Cũng được gặp các Phật Thế Tôn, ở đời vị lai mau chứng quả Vô thượng đại Bồ-đề, cắt đứt hẳn mọi nạn khổ luân hồi trong ba đường. Tiếp theo được lợi ích xuất thế, có ba: Được gặp các Đức Phật. Chứng quả Bồ-đề. Cắt đứt hẳn nạn khổ…về sau là chứng đạt Niết-bàn. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Con nhớ thời quá khứ có Đức Lưu Ly Kim Sơn Bảo Hoa Quang Chiếu Cát Tường Công Đức Hải Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác đầy đủ mười hiệu, con ở chỗ Đức Như lai đó gieo trồng các gốc lành, nhờ năng lực uy thần của Đức Như lai đó Từ bi thương xót, nên khiến con ngày nay hễ nhớ nghó nơi nào, hễ nhìn thấy nơi nào, hễ đến cõi nước nào đều làm cho vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sinh được thọ hưởng các điều vui sướng, cho đến vật dụng cần thiết như áo quần, ăn uống, tài sản, các thứ báu như vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu đều khiến cho đầy đủ. Tiếp theo phân biệt rõ nguyên nhân cúng dường, đồng thời là báo đức, có bốn: Nói rõ ngày xưa gặp Phật. Từ “Con ở chỗ” về sau là kể rõ nhân gieo trồng ngày xưa. Từ “Nhờ năng lực uy thần…” về sau là nghó nhớ ân đức của Đức Như lai đó. Từ “Nên khiến con…” về sau khiến con làm lợi ích, con vì báo đền ân đức ngày xưa của Phật, do đó cúng dường, làm lợi ích cho người mở mang kinh. Tiếp theo Đức Phật khen ngợi: Ngươi nhớ nghó nhân xưa mà báo ân, cúng dường… như vậy, hễ nhớ nghó nơi nào là sở duyên của tha tâm thông, hễ nhìn thấy nơi nào là sở kiến của thiên nhãn thông, hễ đến cõi nước nào là chỗ đến của thần cảnh thông. Tám thứ báu trong đây, chỗ khác thường nói là bảy thứ, bảy thứ báu các nơi nói cũng không giống nhau. Theo luận Phật Địa thì tùy theo nơi đến xem trọng mà nói là bảy thứ, tuy có khác nhau nhưng không trái nhau. Văn kinh: Nếu lại có người dốc lòng đọc tụng kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, cũng nên hằng ngày đốt các thứ hương quý và các thứ hoa đẹp vì con cúng dường Đức Lưu Ly Kim Sơn Bảo Hoa Quang Chiếu Cát Tường Công Đức Hải Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác đó; lại hằng ngày vào ba thời nên xưng niệm danh hiệu con, đặc biệt dùng hương hoa và các thực phẩm ngon ngọt cúng dường con, cũng nên lắng nghe thọ trì kinh vương nhiệm mầu này thì sẽ được phước đức như thế. Tiếp theo khuyến khích nên thực hành tu học. Nếu theo Chân đế thì trước là lợi ích Pháp sư, đây là lợi ích người nghe. Nay ý bao gồm cả hai. Đầu là văn Trường hàng, sau là kệ tụng. Văn trường hàng có năm: Khuyến khích tự đọc tụng. Từ “Cũng nên…”trở xuống là chỉ dạy cách thức đọc tụng. Từ “Lại nên…” trở xuống là lại nên cúng dường con. Từ “Cũng nên lắng nghe…” trở xuống là khuyến khích lắng nghe, ý ở đây là với người đã hiểu thì khuyến khích đọc tụng, người chưa hiểu thì khuyến khích lắng nghe. “Được phước đức như thế” là kết thúc đạt được lợi ích. Văn kinh: Bèn nói bài tụng rằng: Bởi nhờ thường trì kinh như vậy, tự thân quyến thuộc khỏi các nạn, nhu cầu ăn mặc không hề thiếu, uy quang thọ mạng khó nói hết, khiến cho giai vị thường thêm cao, các trời rưới mưa đúng thời tiết, khiến các chúng trời đều vui thích, cho đến Thần vườn rừng quả trái, quả trái tùng lâm đều tốt tươi, tất cả mầm giống đều thành tựu, muốn cầu châu báu đều như ý, hễ mong muốn gì đều tùy tâm. Tiếp theo là trùng tụng, có tám: Bản thân và quyến thuộc không suy hao. Ăn mặc không thiếu thốn. Uy quang, trường thọ. Giai vị thêm cao. Mưa móc đúng mùa. Thiên thần vui vẻ. Hoa màu tốt tươi. Mong cầu đều thành tựu. Văn kinh: Đức Phật bảo Đại Cát tường: Lành thay! Lành thay! Người nhớ nghó nhân xưa, báo ân cúng dường lợi ích an vui cho vô lượng chúng sinh, truyền bá kinh này như vậy, thật là công đức vô tận. Trở xuống là đức Phật ngợi khen, khuyến khích thành tựu. -------------------------------- <詞>Phẩm 17: ĐẠI CÁT TƯỜNG THIÊN NỮ TĂNG TRƯỞNG TÀI VẬT Phẩm Đại Cát Tường Thiên Nữ Tăng Trưởng Tài Vật có chia ra làm ba phần: Lý do có phẩm này giống như trước. Giải thích tên gọi: Trước đây có ít nay thêm nhiều hơn nên gọi là Tăng, trước kia không có nay khiến cho đạt được gọi là trưởng, tài nghóa là bảy thứ quý báu, vật nghóa là bốn việc. Nếu có thể mở mang kinh thì Thiên nữ làm cho tài vật tăng trưởng. Phẩm này nói rộng về điều đó, nên gọi là phẩm Tăng Trưởng Tài Vật, những điều còn lại như trước đã giải thích. Giải trừ vấn nạn. Hỏi: Phẩm này cũng đem lại thức ăn uống, tăng thêm giai vị, cùng với phẩm sau có gì khác? Đáp: Có thể đem lại giúp cho là khác. Lại nữa, Tam tạng Chân đế nói: “Phẩm này chính thức giúp về áo quần, tài vật quý báu, ăn uống đều đầy đủ, phẩm sau chính thức giúp về thức ăn uống, những điều còn lại đều bao gồm trong đó.” Văn kinh: Bấy giờ, Đại Cát tường Thiên nữ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức thưa Thế Tôn! Thành của Thiên vương Bệ-thất-la-mạt-noa ở phía Bắc tên là Hữu tài, cách thành không xa có khu vườn tên là Diệu hoa Phước quang, trong vườn có cung điện tuyệt đẹp được tạo thành bằng bảy thứ báu. Bạch Đức Thế Tôn! Con thường ở trong đó. Tiếp theo nói về pháp đạt được. Văn trong phẩm chia làm bốn: Nói về quy tắc thỉnh cầu. Từ “Con vào lúc bấy giờ…” về sau là nói về lợi ích đạt được. Từ “Đã đạt được quả báo…” về sau là chỉ bày thọ dụng. Từ “Lúc ấy…” về sau là Đức Thế Tôn khen ngợi lợi ích. Ngay trong quy tắc thỉnh cầu lại chia làm ba: 1. Chỉ ra trú xứ, muốn khiến nêu ra sự có mặt của tâm. Văn kinh: Nếu lại có người muốn cầu ngũ cốc, ngày ngay thêm nhiều, kho lẫm tràn đầy. Tiếp theo là phần thứ hai, nêu ra người cầu nguyện. Văn kinh: Nên phát khởi tâm kính tín, dọn dẹp sạch sẽ một ngôi nhà, bôi cù-ma trên đất, nên họa hình tượng con, các loại chuỗi ngọc trang hoàng khắp nơi; nên tắm gội thân thể, mặc áo quần mới sạch, thoa các hương thơm quý hiếm, vào trong tịnh thất, phát tâm vì con mỗi ngày ba thời xưng niệm danh hiệu Đức Phật đó và danh hiệu kinh này, rằng kính lễ Nam-mô Lưu Ly Kim Sơn Bảo Hoa Quang Chiếu Cát Tường Công Đức Hải Như lai, mang các hương hoa và dùng các đồ ăn thức uống ngon ngọt dốc lòng phụng hiến, cũng dùng hương hoa và các đồ ăn thức uống cúng dường hình tượng con, lại rải đồ ăn thức uống ở các phương khác bố thí cho các loại quỷ thần, nói lời chân thật thỉnh cầu Đại Cát Tường Thiên, phát nguyện mong cầu, nếu như lời nói của con thật không luống dối thì đối với sự thỉnh cầu của con đừng để cho trống không, lúc ấy, Cát tường Thiên nữ biết việc này rồi liền sinh tâm thương xót khiến trong nhà đó tài vật ngũ cốc thêm nhiều, tức là nên tụng thần chú triệu thỉnh con, trước tiên xưng niệm danh hiệu Phật và danh hiệu Bồ-tát. Tiếp theo là phần thứ ba nêu bày phương pháp. Trong đó lại có hai: Nêu rõ khuyến khích thỉnh cầu tu tập chắc chắn được toại nguyện. Từ “Tức là nên tụng thần chú…” trở xuống chính là dạy pháp đó. Đây là phần đầu nêu ra, nên dọn sạch nhà cửa, tắm gội thân thể, cúng dường cầu thỉnh con thì chắc chắn được mãn nguyện, tức là dọn sạch nhà cửa, làm đàn tràng, sám hối lễ bái, cúng dường tụng chú, sắp đặt chỗ ngồi, chẳng phải trước sau trình bày khác nhau, nhưng căn cứ theo văn kinh nêu bày, chính thức chỉ dạy, tùy tiện tức là nói không y theo thứ lớp. Trong phần nêu ra có chia làm bảy phần: Khuyến khích phát khởi tín tâm bởi vì cần phải có tín tâm mới thọ trì, thực hành được. Từ “Dọn dẹp sạch sẽ…” về sau là nói việc thực hành đàn tràng. Từ “Nên tắm gội…” về sau là dạy nghiêm tịnh thân thể. Từ “Vào trong tịnh thất…” về sau là nói nơi thực hành pháp. Từ “Phát tâm vì con…” về sau là nói về pháp tu tập, pháp tu tập có năm: Nêu rõ tâm phải làm những gì. Từ “Mỗi ngày…” trở xuống là thời hạn tu tập. Từ “xưng niệm danh hiệu Đức Phật đó…” trở xuống là sơ lược chỉ bày quy y kính lễ. Từ “Mang các hương hoa…” trở xuống là chỉ bày cúng dường, cúng dường có ba: Cúng dường Tam bảo. “Cũng dùng hương hoa…” trở xuống là cúng dường Thiên nữ. “Lại mang đồ ăn, thức uống…” trở xuống là khiến cúng dường quyến thuộc và tất cả các vị thần linh. Từ “Nói lời chân thật…” trở xuống là chỉ bày cầu thỉnh. Từ “Lúc ấy, Cát tường Thiên nữ…” về sau là nói nhờ tu nên chứng quả. Từ “Tức là nên…” về sau là dạy tụng chú quy y kính lễ. Văn kinh: Nhất tâm kính lễ Nam-mô nhất thiết thập phương tam thế chư Phật, Nam-mô Bảo Kế Phật, Nam-mô Vô Cấu Quang Minh Bảo Tràng Phật, Nam-mô Kim Tràng Quang Phật, Nam-mô Bách Kim Quang Tạng Phật, Nam-mô Kim Cái Bảo Tích Phật, Nam-mô Kim Hoa Quang Tràng Phật, Nam-mô Đại Đăng Quang Phật, Nam-mô Đại Bảo Tràng Phật, Nam-mô Đông Phương Bất Động Phật, Nam-mô Nam Phương Bảo Tràng Phật, Nam-mô Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật, Nam-mô Bắc Phương Thiên Cổ Âm Phật, Nam-mô Diệu Tràng Bồ- tát, Nam-mô Kim Quang Bồ-tát, Nam-mô Kim Tạng Bồ-tát, Nam-mô Thường Đề Bồ-tát, Nam-mô Pháp Thượng Bồ-tát, Nam-mô Thiện An Bồ-tát. Tiếp theo là phần thứ hai chính thức chỉ bày pháp tu tập. Căn cứ theo tác pháp có mười một loại: Trước tiên nên dạy tụng chú khiến thành tựu. Làm đàn tràng. Trang nghiêm thanh tịnh thân thể. Nên thọ tám giới. Trong hai thời vì bản thân và Thiên nữ cúng dường Tam bảo, và tự mình cúng dường Thiên nữ. Vì Thiên nữ và vì tự thân trong ba thời lễ lạy Phật, Pháp, Tăng. Tự sám hối tội lỗi của mình. Hồi hướng rộng khắp, phát khởi những điều cầu nguyện. Đối trước Thiên nữ quy y kính lễ thỉnh cầu. Chính thức tụng thần chú. Mong cầu Thiên nữ giúp mãn nguyện. Nay văn không thứ lớp, y theo văn có chín thứ. Một là lễ kính Tam bảo, kinh này và Phật Bảo Hoa cũng nên lễ kính, vì trước đã nói nên ở đây lượt bỏ không nói đến. Theo như trước cầu biện tài cũng lễ kính Tam bảo và các Thiên thần đều thỉnh cầu che chở, nay ở đây không thỉnh cầu điều đó vì tăng thêm tài vật dễ hơn. Văn kinh: Kính lễ các Đức Phật và Bồ-tát như thế rồi, tiếp đến nên tụng chú triệu thỉnh Đại Cát tường Thiên nữ tôi, nhờ lực thần chú này mà mọi sự mong cầu đều được thành tựu. Tiếp theo là phần thứ hai, dạy tụng thần chú ấy, có năm: Kết thúc trước, phát sinh sau. Từ “Tiếp đến nên…” về sau là dạy triệu thỉnh. Văn kinh: Liền nói chú rằng: “Nam-mô Thất Lợi Ma Ha Thiên nữ - Đát điệt tha - bát lî bô luật noa chiết lệ - tam mạn đa - đạt lî thiết nê (khứ thanh, ở dưới đều đồng) - mạc ha tỳ ha la yết đế - tam mạn đá tỳ đàm mạt nê - mạc ha ca lý dã - bát lạt để sắt sá bát nê - tát bà át tha bà đàn nễ - tô bát lạt để bô lệ - a da na đạt ma đa - mạc ha tỳ câu tỷ đế mạc ha mê đốt rô - ô ba tăng sất đê - mạc ha hiệt lî sử - tô tăng cận (nhập) lý - rất đê tam mạn đa át tha - a nô ba lạt nễ - sa ha.” Tiếp theo là phần thứ ba dạy chú phải tụng. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn ! Nếu người tụng trì thần chú này, lúc triệu thỉnh con, con nghe thỉnh cầu liền đến chỗ đó khiến cho nguyện được toại ý. Bạch Đức Thế Tôn! Đây là quán đảnh pháp cú, định thành tựu cú, chân thật cú, vô hư cuống cú, là bình đẳng hạnh đối với các chúng sinh, là gốc lành chân chánh. Tiếp theo là phần thứ tư, có khả năng giúp nguyện được như ý. Từ “Bạch Đức Thế Tôn! Đây là quán đảnh…” về sau là phần thứ năm, khen ngợi công năng của chú, có sáu: Quán đảnh pháp cú, nói về pháp của người thù thắng, như lên ngôi vua, quốc sư, cỡi voi lấy nước bốn biển, dùng cỏ cát tường rưới trên đỉnh người đó, biểu thị cho sự tốt lành, đây là biểu hiện được nghe Đà-la-ni này sẽ thọ nhận Phật vị. Định thành tựu cú, là quyết định đầy đủ sở cầu. Chân thật cú, là nói năng hợp với chân lý. Vô hư cuống cú, là không lừa dối người khác. Bình đẳng hạnh, là tất cả hữu tình đều được thực hành. Gốc lành chân chánh là cội gốc của điều lành thế gian và xuất thế gian. Văn kinh: Nếu có người thọ trì, đọc tụng thần chú này thì nên bảy ngày bảy đêm thọ trì tám giới. Tiếp theo là phần thứ ba, dạy nên thọ giới. Ở đây là nói theo pháp của hai chúng tại gia, năm chúng xuất gia không cần phải thọ. Văn kinh: Vào lúc sáng sớm, trước tiên đánh răng súc miệng, rửa mặt sạch sẽ rồi. Tiếp theo là phần thứ tư dạy trong nghiêm thanh tịnh thân thể, cũng nên tắm gội mặc quần áo sạch sẽ. Văn kinh: Đến lúc xế trưa dâng hương hoa cúng dường tất cả các Đức Phật. Tiếp theo là phần thứ năm chỉ bày tu pháp cúng dường. Nói rằng đến lúc xế trưa là nói sáng sớm cũng vậy. Nói cúng dường Phật pháp và Bồ-tát cùng Cát Tường Thiên. Văn kinh: Tự nói rõ tội lỗi của mình. Tiếp theo là phần thứ sáu, dạy sám hối tội lỗi của mình. Văn kinh: Nên vì bản thân và các chúng sinh hồi hướng phát nguyện khiến cho sự mong cầu mau được thành tựu. Tiếp theo là phần thứ bảy, phát nguyện khắp vì tất cả. Văn kinh: Dọn dẹp sạch sẽ một ngôi nhà, hoặc ở nơi A-lan-nhã vắng lặng, dùng cù-ma làm đàn tràng, đốt hương chiên đàn để cúng dường, bố trí một tòa ngồi tốt đẹp, phướn lọng trang nghiêm, bày các thứ hoa nổi tiếng bày biện trong đàn tràng. Trở xuống là phần thứ tám, dạt lập đàn tràng. Cách lập đàn tràng, có năm: Phải ở vào nơi vắng vẻ thanh tịnh. Bôi Cù-ma trên đất. Vẽ hình tượng Thiên nữ Cát tường. Sắp đặt tòa cao. Treo phướn lọng, đốt hương, rải hoa. Văn kinh: Nên dốc lòng tụng trì bài chú ở trước, mong muốn con đến. Tiếp theo là phần thứ chín, mong cầu Thiên nữ giúp đỡ mãn nguyện nên triệu thỉnh Thiên nữ. Trong phần nêu thần chú nói lời dốc lòng này, tức là chỉ cho lời nói ở trước. Văn kinh: Lúc bấy giờ, con liền hộ niệm quan sát người này, đến vào nhà người đó, lên tòa cao mà ngồi, thọ nhận sự cúng dường. Tiếp theo là đoạn lớn thứ hai y theo thỉnh cầu đạt được lợi ích, có ba: Cát Tường ứng hiện. Văn kinh: Từ đây về sau sẽ khiến người ấy ở trong giấc mộng được thấy thân con. Tiếp theo là phần thứ hai khiến mộng được thấy. Văn kinh: Hễ mong cầu điều gì thì thực sự nói cho biết, hoặc nơi xóm làng, chỗ vắng và trú xứ của Tăng, hễ người mong cầu điều gì đều khiến cho đầy đủ, vàng bạc châu báu trâu dê lúa mè, thức ăn uống áo quần đều được tùy tâm, thọ hưởng những điều vui sướng. Tiếp theo là phần thứ ba chính thức nói về quả đạt được. Văn kinh: Đã được quả báo nhiệm mầu như thế, nên dùng phần lớn cúng dường Tam bảo và bố thí cho con, tu nhiều pháp hội, bày biện các đồ ăn thức uống, xếp đặt các thứ hương hoa. Tiếp theo là đoạn lớn thứ ba chỉ dạy sự thọ dụng, có sáu: Nên dùng những đồ tốt đẹp nhất vì bản thân và ta để tu pháp cúng dường. Trong đây văn ví dụ, nên nói rằng: có thể sử dụng phần lớn vì bản thân và ta tu nhiều pháp hội, bày biện các thứ đồ ăn thức uống, chưng các hương hoa cúng dường Tam bảo. Văn kinh: Đã cúng dường rồi, lấy tất cả vật dụng cúng dường thay đi và lại làm vật cúng dường cho con. Tiếp theo là phần thứ hai nên đổi vật dụng cúng dường khác lại cúng dường cho Thiên nữ. Văn kinh: Con sẽ suốt đời thường ở nơi đây, ủng hộ người này không để cho thiếu thốn, hễ mong cầu gì đều được như ý. Tiếp theo là phần thứ ba, nguyên do thành tựu trước đó và khuyến khích khiến cúng dường. Văn kinh: Cũng nên thường cung cấp, bố thí người nghèo thiếu, không nên tiếc lẫn chỉ vì bản thân mình. Tiếp theo là phần thứ tư, nên cung cấp cho người nghèo thiếu, không nên dành riêng cho bản thân. Văn kinh: Thường đọc kinh này, cúng dường không dứt. Tiếp theo là phần thứ năm đã được giúp đỡ nên chính thức mở mang kinh này. Văn kinh: Nên ban phước đức này, cho khắp tất cả, hồi hướng quả Bồ-đề, nguyện thoát khỏi sinh tử, mau chóng được giải thoát. Tiếp theo là phần thứ sáu, tổng kết đem phước đức ở trước bố thí hồi hướng cho chúng sinh. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngợi khen rằng: Lành thay! Thiên nữ Cát tường! Người có thể truyền bá kinh này như vậy, tự tha đều được ích lợi không thể suy nghó bàn luận. Tiếp theo là đoạn lớn thứ tư Thế Tôn khen ngợi ích lợi. --------------------------- <詞>Phẩm 18: KIÊN LAO ĐỊA THẦN Phẩm Kiên Lao Địa Thần có chia ra ba phần: Lý do có phẩm này: Trước tuy giúp ích về áo quần, chưa được giúp đỡ về ăn uống. Ở đây giúp đỡ về ăn uống để thân yên vui, do đó pháp được mở mang, vì vậy sau phẩm trước có phẩm này phát sinh. Giải thích tên gọi: Tiếng Phạn là Kiên lao, nghóa là địa, tức là thần đất Kiên lao. Hoặc lại do thần có khả năng làm cho mặt đất vững chắc nên gọi là thần đất Kiên lao, cũng thuộc về y chủ thích. Có khả năng giữ vững mặt đất là công dụng của Thần. Giải thích hỏi vặn: Hỏi: Thiên nữ giúp ích về tài vật có nói rõ trong phẩm Tăng Trưởng Tài Vật, thần đất này giúp về ăn uống, vì sao không gọi là phẩm Địa Thần ích ẩm thực tư vị? Đáp: Thiên nữ chia thành hai phẩm, cho nên dùng tăng trưởng tài vật để phân biệt, phẩm Địa Thần đã không phân chia, không xâm lạm thể chọn lựa nên không nói ẩm thực. Văn kinh: Lúc ấy, thần đất Kiên lao liền ở trong đại chúng đứng dậy khỏi chỗ ngồi, chắp tay cung kính bạch Đức Phật. Tiếp theo văn trong phẩm chia làm hai: Đầu tiên là giúp đỡ ăn uống để giữ gìn, sau từ “Bạch Đức Phật…” trở xuống là ban cho thần chú, hiện thân che chở. - Trong phần đầu lại có bốn: Nêu lợi ích mở mang kinh. Từ “Nếu có chỗ nào…” về sau là nói về đạt được ích lợi. Từ “Bấy giờ, Thế Tôn…” về sau là Phật lại nói rõ thành tựu. Từ “Lúc ấy, Kiên lao…” về sau là thần đất nguyện che chở. Trong phần nêu ra có hai: Đầu tiên là nghi quỹ, sau là nêu sự lợi ích. Đây là phần mở đầu. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, hoặc ở đời hiện tại, hoặc ở đời vị lai, hoặc ở nơi thành ấp, xóng làng, cung vua lầu quán và nơi A-lan-nhã, núi rừng, đầm ao vắng lặng có kinh vương này truyền bá. Bạch Đức Thế Tôn! Con sẽ hướng về nơi đó cúng dường cung kính, ủng hộ lưu thông. Tiếp theo là nêu ích lợi, có hai: Đầu tiên là nói về thời gian, nơi chốn mở mang kinh; sau từ “Bạch Đức Thế Tôn! Con sẽ…” về sau là nêu sự lợi ích mở mang kinh. Văn kinh: Nếu có chỗ nào vào vì pháp sư nói pháp mà sắp đặt tòa cao để giảng nói kinh này. Tiếp theo là phần thứ hai, nói về được ích lợi, có ba: Đầu tiên là nói về cúng dường người mở mang kinh, tiếp theo từ “Đã thọ nhận… như vậy…” về sau là nói được cúng dường liền mở mang kinh rộng ra, sau từ “Đã nghe thọ rồi…” trở xuống là nói nghe kinh được lợi ích. Phần đầu lại chia làm năm: Thứ nhất nêu ra người và nơi chốn mở rộng kinh này. Văn kinh: Con dùng thần lực không hiện bày bổn thân, ở dưới tòa cao dùng đầu đội chân vị đó. Tiếp theo là phần thứ hai nói về thần đội đầu cung kính. Văn kinh: Con được nghe pháp trong tâm vui mừng, được ăn pháp vị, tăng thêm uy quang, mừng vui vô lượng. Tiếp theo là phần thứ ba, nói về thần được pháp lợi. Văn kinh: Tự thân đã được lợi ích như vậy, cũng khiến cho mặt đất sâu mười sáu muôn tám ngàn du-thiện-na đến mé kim cang luân, làm các giai vị đó đều tăng thêm; cho đến bốn biển tất cả đất đai cũng trở nên màu mỡ, ruộng đồng phì nhiêu, tốt đẹp gấp bội so với thường ngày. Lại cũng khiến cho sông ngòi ao hồ, tất cả cây cối, được thảo tùng lâm, các loại hoa quả, gốc thân cành lá và các mầm giống hình dáng đáng yêu, mọi người đều thích ngắm nhìn, đầy đủ hương sắc, đều có thể thọ dụng. Nếu các hữu tình thọ dụng sự ăn uống tốt đẹp như vậy rồi thì mạng sống lâu dài, sắc lực dồi dào, các căn yên ổn, tăng thêm uy quang, không bị các bệnh tật khổ não, tâm tuệ mạnh mẽ, việc gì cũng làm được theo. Lại nữa, mặt đất này, tất cả trăm ngàn sự nghiệp thảy đều đầy đủ. Tiếp theo là phần thứ tư, làm lợi ích cúng dường. Cúng dường có năm: Tăng thêm giai vị, vì giai vị tăng thêm nên khiến cho mọi vật sinh ra từ đất thảy đều tốt đẹp. Từ “Cho đến…” về sau là tăng thêm phần hạn. Từ “Lại cũng…” về sau là tăng thêm thóc lúa ngũ cốc. Từ nếu các hữu tình… về sau là tăng thêm thọ dụng. Nếu Pháp sư nói pháp và người bày chỗ ngồi, thính chúng nghe pháp đều được lợi ích này, cho nên nói là “Nếu các hữu tình”. Từ “Lại nữa, mặt đất này…” về sau là nói về tăng thêm các dụng cụ giúp ích trong cuộc sống hằng ngày. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Vì nhân duyên này mà các châu Thiệm-bộ an ổn, giàu có vui sướng, nhân dân đông đúc, không có các suy não, tất cả chúng sinh đều thọ hưởng an vui. Tiếp theo là phần thứ năm, kết thúc đạt được lợi ích. Văn kinh: Đã được thân tâm an vui như vậy, đối với kinh vương này càng thêm yêu kính, ở chỗ nào cũng đều nguyện thọ trì, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Tiếp theo là phần thứ hai nói về được cúng dường liền mở mang kinh rộng ra. Trong đó chia làm ba: Đầu tiên là nói về người nói người nghe càng thêm cung kính, nguyện thọ trì; tiếp theo từ “Lại nữa, đối với…” về sau là nói địa thần thỉnh cầu nói pháp và ích lợi, sau từ “vì thế cho nên, bạch Đức Thế Tôn…” trở xuống là sau đó khuyến khích nghe kinh. Đây là phần mở đầu. Văn kinh: Lại nữa, ở chỗ pháp tòa của vị đại sư nói pháp đó, thảy đều đến chỗ ấy vì các chúng sinh khuyến khích thỉnh cầu kinh vương tối thắng này. Vì sao? Bạch Đức Thế Tôn! Vì nói kinh này, tự bản thân con và các quyến thuộc đều được lợi ích, ánh sáng, khí lực, uy thế mạnh mẽ, dung nhan xinh đẹp hơn hẳn bội phần đối với lúc bình thường. Bạch Đức Thế Tôn! Thần đất Kiên lao con được pháp vị rồi, làm cho châu Thiệm-bộ dọc ngang bảy ngàn du-thiện-na đất đai thảy đều màu mỡ, cho đến như trước tất cả chúng sinh đều thọ hưởng an vui. Tiếp theo nói về thần đất thỉnh cầu nói pháp và lợi ích, có hai: Đầu tiên là thỉnh cầu nói pháp, sau từ “Bạch Đức Thế Tôn! Thần đất Kiên lao con…” trở xuống là giúp cho lợi ích. Trong thỉnh cầu nói pháp, có ba: Đầu tiên là nguyện thỉnh cầu, tiếp theo vì sao là nêu hỏi, sau từ “Bạch Đức Thế Tôn…” trở xuống là giải thích về giúp cho ích lợi. Có thể biết rõ. Văn kinh: Vì thế cho nên, Bạch Đức Thế Tôn! Lúc chúng sinh kia vì báo đền ân đức của con, nên khởi niệm như vậy: Ta nhất định sẽ nghe nhận thọ trì kinh này, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Nghó như vậy rồi liền từ chổ ở thành thị, làng quê, nhà cửa, chỗ hoang vắng mặt đất đến nơi pháp hội đảnh lễ Pháp sư, lắng nghe thọ trì kinh này. Tiếp theo là khuyến khích nghe kinh, có ba: Đầu tiên là nghó đến báo ân, tiếp theo “Nên nghó như vậy…” về sau là khởi tâm nhất quyết lắng nghe, sau từ “Nghó như vậy rồi…” về sau là đến chỗ pháp hội lắng nghe. Văn kinh: Đã lắng nghe thọ trì rồi, đều trở về bổn xứ, tâm sinh vui mừng cùng nói lời như vầy: Ngày nay chúng ta được nghe pháp mầu sâu xa vô thượng tức là được các nhóm công đức không thể suy nghó bàn luận, nhờ uy lực của kinh cho nên chúng ta sẽ gặp vô lượng vô biên trăm ngàn câu-chi na-do-tha Đức Phật, thờ phụng cúng dường, lìa hẳn chốn khổ đau ba đường. Lại ở đời sau trong trăm ngàn đời thường sinh lên cõi trời và loài người thọ hưởng các niềm vui tốt đẹp. Tiếp theo là phần thứ ba là nói về nghe kinh được lợi ích, có ba: Đầu tiên là khuyến khích mừng vui chúc tụng lẫn nhau, kế là từ “Bấy giờ, những người ấy…” về sau là truyền nói lợi tha, sau từ “Bạch Đức Thế Tôn! Tùy các nơi…” trở xuống là nói về đạt được lợi ích. Trong phần đầu có năm: Mừng vui nghe pháp sâu xa. Từ “Tức là…” về sau là mừng vui được phước rộng lớn. Từ “Nhờ uy lực…” về sau là mừng vui sẽ được gặp Phật. Từ “Lìa xa hẳn…” về sau là mừng vui tránh khỏi ba đường. Từ “Lại ở…” về sau là mừng vui sẽ được quả báo tốt đẹp. Văn kinh: Bấy giờ, những người ấy đều trở về chỗ ở của mình, nói kinh vương này cho những người khác nghe, hoặc một ví dụ, một phẩm, một nhân duyên xưa, một danh hiệu Như lai, một danh hiệu Bồ-tát, một bài tụng bốn câu, hoặc chỉ một câu, nói kinh điển này cho các chúng sinh nghe, cho đến danh tự đầu đề. Tiếp theo là truyền nói để lợi tha. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Hễ các chúng sinh ở nơi nào thì đất đai ở đó thảy đều màu mỡ phì nhiêu hơn hẳn nơi khác, tất cả mọi vật sinh ra từ đất đai đều được lớn mạnh tốt tươi, khiến các chúng sinh thọ hưởng vui sướng, tài bảo dồi dào, tâm ưa thích bố thí, tâm thường bền chắc, tin sâu Tam bảo. Nói lời như vậy xong. Tiếp theo nói về được lợi ích. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo thần đất Kiên lao rằng: Nếu có chúng sinh nghe kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, dù chỉ một câu thì khi qua đời sẽ được sinh lên cõi trời tam thập tam và các cõi trời khác. Nếu có chúng sinh vì muốn cúng dường kinh vương này cho nên trang hoàng nhà cửa, dù chỉ một cái lọng, một chiếc phướn năm mầu, nhờ nhân duyên này được như ý niệm thọ sinh trên sáu tầng trời cõi Dục, cung điện bảy báu tuyệt vời tùy ý thọ dụng, tất cả đều tự nhiên, có bảy ngàn Thiên nữ vui đùa với nhau, ngày đêm thường thọ hưởng sự vui sướng tốt đẹp, không thể suy nghó bàn luận. Nói lời như vậy rồi. Tiếp theo là phần thứ ba, Đức Phật lại nói lại về sự thành tựu. Trong đó có hai: Đầu tiên là nói về thành tựu lợi ích nghe kinh, sau từ “nếu có chúng sinh…” trở xuống là nói rõ thành tựu lợi ích cúng dường. Nói rõ về nghe kinh được lợi ích sinh lên cõi trời, không nói thọ hưởng vui sướng là lược bở bớt. Văn kinh: Lúc ấy, thần đất Kiên lao bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nhờ nhân duyên này, nếu có bốn chúng lên pháp tòa, lúc nói pháp này con sẽ đêm ngày ủng hộ người này, tự mình ẩn thân ở pháp tòa, đầu đội chân người đó. Tiếp theo là phần thứ tư, Thần đất nguyện hộ trì. Trong đó có ba: Thứ nhất là nguyện hộ trì Pháp sư. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Kinh điển này vì chúng sinh kia đã ở trong trăm ngàn Đức Phật gieo trồng gốc lành, ở châu Thiệm-bộ truyền bá không để mất, các chúng sinh ấy lắng nghe kinh này, ở đời vị lai vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp sinh lên trời cõi người, thường thọ hưởng sự vui sướng tốt đẹp, được gặp các Đức Phật, mau thành tựu quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, không trải qua khổ đau sinh tử ba đường. Tiếp theo phần thứ hai, nguyện hộ trì chánh pháp. Hộ trì chánh pháp là vì lợi ích hữu tình. Từ “Các chúng sinh ấy” về sau là phần thứ ba, nói về khiến cho chúng sinh được lợi ích, có hai: Đầu tiên là được quả báo vui sướng, sau là lìa quả báo khổ đau. Quả báo vui sướng có hai: Đầu tiên là thọ hưởng quả thế gian, từ “Được gặp các Đức Phật…” về sau là được quả xuất thế gian, tiếp đó là lìa quả báo khổ đau. Có thể biết rõ. Văn kinh: Lúc ấy, thần đất Kiên lao bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Con có tâm chú có thể lợi ích cho hàng trời người, an vui cho tất cả. Tiếp theo là đoạn lớn thứ hai, ban cho thần chú, hiện thân che chở. Trong đó chia làm ba: Đầu tiên là thưa trình, tiếp từ “Nếu có…” về sau là nói thần chú, sau là Đức Phật ngợi khen. Đây là phần mở đầu. Văn kinh: Nếu có người nam, người nữ và những người trong bốn chúng muốn đích thân thấy được chân thân của con thì nên dốc lòng trì tụng Đà-la-ni này, hễ nguyện cầu điều gì thảy đều như ý, đó là tiền tài châu báu kho tàng chôn giấu và cầu thần thông sống lâu, thuốc hay chữa khỏi các bệnh, hàng phục kẻ thù đối địch, tạo ra các luận đặc biệt, nên ở tịnh thất bài trí đạo tràng, tắm gội thân thể xong mặc áo quần sạch sẽ, ngồi trên đệm cỏ, ở trước mặt có xá-lợi tôn tượng, hoặc nơi có thờ phụng xá-lợi, đốt hương rải hoa, bày biện đồ ăn thức uống cúng dường, vào ngày tám và mười lăm (bạch nguyệt) hợp với sao Bố- lệ. Tiếp theo nói thần chú, lại có ba: Đầu tiên là nêu ra bày về pháp, tiếp theo là dạy riêng, sau cuối kết thúc khuyến khích nên tu học. Trong phần đầu có ba: Chỉ bày chung. “Hễ nguyện cầu điều gì” về sau là nói rõ công năng thần chú. “Nên ở tịnh thất…” về sau là chỉ bày cách thức trì chú. Có sáu: Đều sửa sang tịnh thất, thiết lập đàn tràng. Tắm gội thân thể sạch sẽ. Ở chỗ ngồi. Nghi lễ đối trước tôn tượng. Đầy đủ vật dụng cúng dường. Thời gian tụng chú vào ngày mùng tám trăng sáng. Cách tính tháng ở Tây phương thì nửa tháng trăng dần khuyết ở trước, nửa tháng trăng dần tròn ở sau, khác với xứ này, chỉ dựa theo ngày tám và mười lăm mà tụng chú. Sao Bố-lệ tức là Quỷ tinh ở xứ này. Nhưng không biết tháng đủ thiếu khác nhau. Nếu là ngày tám và mười lăm thì thường trùng với Quỷ tinh. Chính xác chỉ nên chọn lấy ngày tám và mười lăm trùng hợp với ngày Quỷ tinh, không hẳn ngày tám và mười lăm thường trùng hợp với Quỷ tinh. Trước tiên tụng thần chú hộ thân, tiếp đó tụng thần chú thấy thân, sau tụng chú cộng ngữ. Văn kinh: Thì có thể tụng chú triệu thỉnh này: “Đát điệt tha - chỉ lý chỉ lý - chủ rô chủ rô - câu rô câu rô - cù trụ cù trụ - đổ trụ đổ trụ - phược ha (thượng) phược ha - phạt xả phạt xả - sa ha.” Bách Đức Thế Tôn! Thần chú này, nếu có người trong bốn chúng tụng một trăm lẻ tám biến triệu thỉnh con thì con vì người này liền đến nơi thỉnh cầu. Tiếp theo là dạy riêng. Ba bài chú tức là ba đoạn. Đây là đoạn đầu, có ba: Đầu tiên là nêu ra, tiếp là nói chú, sau là nói cách tụng. Nói “Thì có thể”, không phải là ngày tám đầu tiên liền tụng, đây là chú tụng để gọi Thần, nhân tiện xu thế của văn nên nói “thì có thể tụng chú này” nếu không như vậy thì chú hộ thân nói vào lúc nào, do đó trước tiên nên tụng thần chú hộ thân. Văn kinh: Lại nữa, Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào muốn được thấy con hiện thân thì cũng giống như trước bài trí mọi thứ theo cách thức đó, tụng thần chú sau đây: “Đát điệt tha - át chiết nễ (khứ) - hiệt lực sát nễ thất thi đạt lý ha ha sất sất - khu rô - phạt lệ - sa ha.” Bạch Đức Thế Tôn! Nếu người trì chú này thì nên tụng một trăm lẻ tám biến và tụng chú trước, chắc chắn con sẽ hiện thân, hễ họ cầu nguyện điều gì đều được thành tựu, không bao giờ luống dối. Tiếp theo thỉnh cầu chú cộng ngữ, văn có chia làm ba phần như trước. Trong cách tụng chú có nói “Đồng thời tụng chú trước”, không phải chỉ khi tụng thỉnh nói chú liền đến cùng nói, mà trước tiên phải tụng chú thỉnh cầu hiện thân mới đến tụng chú này. Lại nữa, không phải trước tiên tụng thần chú thỉnh cầu hiện thân một trăm lẻ tám biến, sau đó khi tụng chú thỉnh ngữ thì lại tụng một trăm lẻ tám biến như trước. Văn kinh: Nếu muốn tụng chú này thì trước phải tụng chú hộ thân như sau: “Đát điệt tha nhó thất lý - vị xả yết trí nại trí củ trí - bột địa (thượng) - bột địa lệ - để trí tỳ trí củ câu trí - khư bà (thượng) - chỉ lý sa ha.” Bạch Đức Thế Tôn! Lúc tụng chú này lấy chỉ năm mầu tụng chú hai mươi mốt biến thắt làm hai mươi mốt nút, buộc vào hai cánh tay và khuỷu tay trái phải, về sau dùng để hộ thân không có những nỗi sợ hãi. Tiếp theo chỉ bày chú hộ thân, văn có ba phần như trước. Văn kinh: Nếu có người dốc lòng tụng chú này thì mọi điều mong cầu chắc chắn sẽ được như ý, con không nói dối, con nhờ Phật Pháp Tăng bảo nên vì đó cầu xin khế hợp chứng biết là thật. Tiếp theo là phần sau, kết thúc khuyến khích khiến dạy phải tu học. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo thần đất rằng: Lành thay! Lành thay! Ông hãy dùng thần chú thật ngữ này để hộ trì kinh vương và người nói pháp như vậy, nhờ nhân duyên này khiến cho được vô lượng phước báo. Tiếp theo là Đức Phật ngợi khen thành tựu. -------------------------- <詞>Phẩm 19: TĂNG THẬN NHÓ DA DƯỢC-XOA ĐẠI TƯỚNG THỨ MƯỜI CHÍN phần: Phẩm Tăng Thận Nhó Da Dược-xoa Đại Tướng có chia ra làm ba Nói về lý do có phẩm này: Trong năm phẩm lợi ích về phước trí, trước là giúp ích về bốn biện tài cho đến áo quần, thức ăn uống, nay ở đây giúp ích về mặt trí tuệ, nhờ có trí lực nên có thể chân chánh nói pháp thọ dụng y phục thức ăn. Nếu không có trí tuệ thì e rằng nói pháp điên đảo, đắm trước vào ăn mặc. Vì lìa sự sai lầm này, đem đến trí tuệ nên có phẩm này phát sinh. lại giải thích: Biện tài trước đây thêm biện tức là trí, Thiên nữ, Địa thần giúp cho sự ăn mặc đó là phước; nay vì gi- úp cho cả hai nên phẩm này phát sinh. Thần này có lẽ là Bồ-tát địa thứ ba, cho nên được trí quang, trí quang rực rỡ là tuệ, danh nghóa đầy đủ. Hoặc là địa thứ năm, vì thông suốt chân tục, hoặc là địa thứ mười, khó có thể suy nghó biết được, vì cảnh giới thường thông suốt. Kinh Đại Tập hai mươi mốt chép: “Vị Đại só này nguyện làm quỷ thần thời Phật Thi Khí đời quá khứ”, tức các kinh xưa đều nói là Tán-chi Đại Tướng. Giải thích tên gọi: Tăng-thận-nhó-da, Hán dịch là Chánh liễu tri, Dược-xoa, Hán dịch là Dõng kiện. Uy lực thâu nhiếp các quỷ, trí tuệ khác hẳn các thần, thống lãnh tất cả, hàng phục oán thù, cho nên xưng là Đại tướng. Ở đây nói: Vị đại tướng này thường giúp ích về trí tuệ cho nên lấy tên đặt cho phẩm này. Giải trừ vấn nạn. Hỏi: Ở trước cho biện tài cũng là trí tuệ, ở đây nói cho trí tuệ có gì khác với trước? Đáp: Tuy đều là trí nhưng thể dụng khác nhau, bốn biện tài là nói về dụng, ở đây là nói về thể. bốn biện tài là trí hậu đắc, ở đây là chung cho cả trí căn bản. Đây là căn cứ theo sự giải thích thứ nhất về lý do có phẩm này của phẩm, cho dù dựa theo cách giải thứ hai thì chung, riêng có khác nhau nhưng cũng không chướng ngại gì với cách trước. Văn kinh: Lúc ấy, Đại tướng Dược-xoa Tăng-thận-nhó-da cùng với hai mươi tám bộ các thần Dược-xoa ở trong đại chúng đều đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật. Tán rằng: Phẩm này chia làm hai: Đầu tiên là đem trí tuệ giúp đỡ, sau từ “Lúc ấy, Chánh liễu tri…” về sau là lại dùng năng lực thần chú để che chở. Đoạn đầu chia làm ba: Đầu tiên nói về ủng hộ, tiếp “Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao…” về sau là nói về lý do hộ trì, từ “vì nghóa này” về sau là nói ngườøi hộ trì được lợi ích. Phần đầu tiên lại chia làm ba: Đây là nghi thức thỉnh cầu che chở. Văn kinh: Bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này hoặc đời hiện tại và đời vị lai, ở những nơi nào giảng nói, truyền bá, hoặc thành ấp làng xóm, núi rừng, đầm ao hoang vắng, hoặc cung điện vua quan, hoặc trú xứ của Tăng-già. Bạch Đức Thế Tôn! Đại tướng Dược-xoa Tăng-thận-nhó-da con cùng với hai mươi tám bộ các thần Dược-xoa cùng đến nơi đó, đều tự ẩn mình ở chỗ đó ủng hộ vị Pháp sư nói pháp kia, giúp cho xa lìa các sự suy não, thường thọ hưởng yên vui. Tiếp theo nói về ủng hộ, có hai: Đầu tiên là ủng hộ Pháp sư, sau từ và người nghe pháp… trở xuống là ủng hộ những người nghe pháp. Trong phần ủng hộ Pháp sư, có ba: Tên kinh và thời gian mở mang kinh. Từ “Ở những nơi nào…” về sau là nơi mở mang kinh. Từ “Bạch Đức Thế Tôn…” về sau là nói việc ủng hộ. Văn kinh: Và người nghe pháp, hoặc nam hoặc nữ, hoặc bé trai hoặc bé gái, đối với kinh này cho dù chỉ thọ trì một bài tụng bốn câu, hoặc trì một câu, hoặc đầu đề tên gọi của kinh Vương này, và một danh hiệu Như lai, một danh hiệu Bồ-tát trong kinh này mà phát tâm xưng niệm cung kính cúng dường, con sẽ giúp đỡ ủng hộ che chở làm cho không còn tai họa bất ngờ, lìa xa khổ đau được sự vui sướng. Tiếp theo nói về ủng hộ những người nghe pháp, văn cũng có ba phần: Đầu tiên là người lắng nghe thọ trì, tiếp theo từ “Đối với kinh này…” về sau là các pháp thọ trì, sau từ “Con sẽ…” trở xuống là nói về sự ủng hộ. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao tên con là Chánh liễu tri? Tiếp theo là phần thứ hai nói về lý do che chở. Trong đó có ba: Đầu tiên là nêu câu hỏi, tiếp từ “Nhân duyên này…” về sau là giải thích, cuối từ “Bạch Đức Thế Tôn! Như con…” về sau là kết thúc. Đây là phần đầu nêu hỏi. Văn kinh: Nhân duyên này là Phật tự thân chứng, con biết các pháp, con hiểu tất cả pháp, tùy theo tất cả pháp vốn có, như vốn có tất cả các pháp, các thứ thể tánh khác nhau. Tiếp theo giải thích, có hai: Đầu tiên là nói về Phật tự chứng biết, tiếp theo từ “Bạch Đức Thế Tôn!” về sau là tự nói rõ lý do. Đây tiên là Phật chứng biết. Đầu tiên nói về hai trí năng tri, từ “ở chỗ đó…” về sau là nói về pháp sở tri. Tri là hậu đắc chứng tri, hiểu là bổn trí hiểu đạt. Tùy sở hữu là tùy theo tất cả chủng loại về phước đức vốn có, tức là tánh tận sở hữu. Như sở hữu là như tất cả các đạo lý vốn có, tức là như các tánh vốn có. Trước là thể sự của các pháp, sau là đạo lý của các pháp. trước là pháp tục đế, sau là pháp chân đế. Theo kinh Giải Thâm Mật: “Như các tánh vốn có, từ thắng nghóa tánh chỉ nói chân như.” Như dưới đây tức là sở hành của hai trí trước đó. Trên đây nói riêng về pháp sở tri. Từ “Chủng loại các pháp” về sau là nói chung về các pháp sở tri, như có pháp tục đế có nhiều thứ thể tánh khác nhau, chân đế tuy không có thể tánh khác nhau nhưng là chân tánh kia. Tùy theo năng y mà nói nghóa sở y cũng có khác nhau. Lại theo đối pháp, tận sở hữu tức là uẩn xứ giới, như sở hữu tức là bốn đế, mười sáu hành… do đó có khác nhau. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Các pháp như vậy con thường hiểu biết, con có ánh sáng trí tuệ khó suy nghó, con có đuốc trí tuệ khó suy nghó, con có hạnh trí tuệ khó suy nghó, con đối với cảnh khó suy nghó nhưng có khả năng thông suốt. Tiếp theo tự nói rõ lý do, có ba: Đầu tiên là nêu ra, con thường hiểu thuộc về bổn trí, con thường biết thuộc về hậu trí. Tiếp theo giải thích việc thường hiểu rõ, ánh sáng trí tuệ là hậu trí, soi tỏ giáo lý hạnh quả Đại thừa, hàng hạ căn chẳng đo lường được, cho nên gọi là khó suy nghó. Đuốc trí tuệ là bổn trí, phá trừ vô minh tăm tối, hạnh trí tuệ hiểu rõ các hành khác nhau. Nhóm trí tuệ hiểu rõ nhóm tự thể; sau cùng là kết thúc về khả năng hiểu rõ, con đối với trí cảnh, bổn trí có khả năng thông suốt và hậu trí có khả năng đạt được hoặc trí hạnh tức là trí dụng của hành giải, trí tụ là thể tánh, vì vậy trong luận Duy thức chép: “Thể nương theo nghóa tụ gọi là thân, thân tức là thể”, còn lại như trước đã giải thích. Văn kinh: Bạch Đức Thế Tôn! Như con biết chân thật, hiểu chân thật, giác ngộ chân thật đối với tất cả các pháp nên có khả năng quán sát. Bạch Đức Thế Tôn! Vì nhân duyên này nên Đại tướng Dược-xoa con gọi là Chánh Liễu Tri. Tiếp theo là kết thúc thành tựu, đầu tiên là nhắc lại chỉ rõ bốn trí trước đây, biết hiểu giác sát theo thứ lớp phối hợp, ở đây dựa theo sự giải thích ở trước; tiếp theo “Bạch Đức Thế Tôn! Vì nhân duyên…” về sau là kết luận lý do có tên gọi ấy. Văn kinh: Vì nghóa này cho nên con có thể giúp cho Pháp sư nói pháp kia đầy đủ trang nghiêm, lời lẽ biện luận rõ ràng, cũng khiến cho tinh khí theo lỗ chân lông mà đi vào thân, sức lực sung mãn, uy quang mạnh mẽ khó suy nghó được, ánh sáng trí tuệ đều được thành tựu, đều được nhớ nghó chân chánh, không có lui sụt khuất phục, ích lợi thêm cho thân kia, khiến cho không vị suy giảm, các căn yên vui, thường sinh vui mừng. Tiếp theo nói về ích lợi cho người được hộ trì, lại có hai: Đầu tiên là lợi ích Pháp sư, sau từ “Vì nhân duyên này…” trở xuống là người nghe được lợi ích. Trong phần lợi ích cho Pháp sư, đầu tiên là nhắc lại lý do, vì con có bốn thứ trí cho nên có thể giúp ích Pháp sư, có thể giúp ích cho Pháp sư có tám: Tăng thêm biện tài. “Cũng khiến cho…” về sau là tăng thêm thân lực. Tăng thêm uy quang. Tăng thêm trí lực, chỉ nêu ra trí quang còn các trí khác đều rõ ràng cho nên nói là đều được. Tăng thêm niệm lực. Tăng thêm không lui sụt. “Tăng thêm thân kia…” về sau là tăng thêm thọ mạng không có sút giảm. “Các căn…” về sau là tăng thêm sự yên vui cho người đó. Văn kinh: Vì nhân duyên này là do hữu tình kia đã gieo trồng các gốc lành tu tạo các phước nghiệp đối với trăm ngàn Đức Phật, ở châu Thiệm-bộ giảng nói rộng rãi truyền bá khắp nơi, không mau bị mất đi. Các hữu tình kia nghe kinh này rồi đạt được ánh sáng trí tuệ rộng lớn không thể suy nghó bàn luận cho đến vô lượng nhóm phước trí, ở đời vị lai sẽ thọ hưởng sự vui sướng tốt đẹp, không thể suy nghó bàn luận trong hàng trời, người, trải qua vô lượng câu-chi na-dữu-đa kiếp, thường gặp gỡ các Đức Phật, mau chứng đạt Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, cõi Diêm-la và ba đường đau khổ không còn trở lại. Tiếp theo lợi ích của người nghe, trong đó lại có hai: Đầu tiên là do lợi ích của Pháp sư giúp cho pháp tồn tại lâu dài, cũng do những người lắng nghe tin nhận đã gieo trồng các gốc lành đối với trăm ngàn Đức Phật cho nên cảm được người nói pháp và kinh pháp này. Nhân duyên nghóa là lý do, vì đạt được các trí này cho nên có thể truyền bá rộng rãi, và do năng lực gốc lành của người lắng nghe tin nhận cho nên không mau bị mất đi. Tiếp theo “Các hữu tình kia…” về sau là nói nghe pháp được lợi ích, có sáu: Được bốn trí như trước. “Cho đến…” về sau là được thành tựu phước trí. Được sinh trong hàng trời, người. Được gặp các Đức Phật. Chứng quả Bồ-đề. Lìa ba đường ác. Như văn có thể hiểu. Vì người nghe được như vậy, theo đó biết rằng Pháp sư cũng được lợi ích này, dùng kém để nêu sự tốt hơn, nghóa theo đó chắc chắn hiểu được. Văn kinh: Lúc ấy, Đại tướng Dược-xoa Chánh liễu tri bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Con có Đà-la-ni nay đối trước đức Phật, tự mình nói rõ vì muốn lợi ích thêm, thương xót các hữu tình, nên liền nói chú rằng: Nam-mô Phật đà (dẫn) da - Nam-mô đạt ma (dẫn) da Nam-mô Tăng già (dẫn) da - Nam-mô bạt la hám (hỏa hàm thiết) ma da - Nam-mô nhân đạt la da - Nam-mô chiết đốt nam - mạc hát la xà nam -đát điệt tha - sất lý sất lý - nhị lý nhị lý cù lý - mạc ha cù lý - kiện đà lý - mạc ha kiện đà lý đạt la nhị tró - mạc ha đạt la nhị tró - đan trà khúc khuyến đệ (khứ âm) - ha ha ha ha ha - sất sất sất sất sất - hô hô hô hô hô - hán lô đàm mê cù đàm mê - giả giả giả giả - chỉ chỉ chỉ chỉ - chủ chủ chủ chủ - chiên trà chiếp (chi thiệp thiết) bát la - thi yết la (thướng âm) - thi yết la - ốt để sắt tha sất - bạc già phạm tăng thận nhó da sa ha.” Nếu lại có người đối với minh chú này có thể thọ trì, con sẽ cung cấp các vật dụng trong cuộc sống hằng ngày đầy đủ thức ăn uống, áo quần hoa quả quý báu khác lạ, hoặc cầu trai gái, bé trai, bé gái, vàng bạc châu báu, các thứ chuỗi ngọc, con đều cung cấp tùy theo những sự mong cầu không để thiếu thốn. Minh chú này có uy lực rộng lớn, nếu lúc tụng chú con sẽ mau chóng đến chỗ đó, không để có gì chướng ngại, tùy ý thành tựu. Nếu lúc trì chú này nên biết pháp ấy, trước hết vẽ một bức họa hình tượng Dược-xoa Tăng-thận-nhó-da cao bốn, năm thước, tay cầm kiếm và đục. Ở trước tượng này làm đàn tràng hình vuông, đặt bốn bình nước mật đầy, hoặc nước đường cát, hương thoa, hương bột hương đốt và các tràng hoa. Lại ở trước đàn làm một lò lửa bằng đất, trong đó để lửa than, đốt hạt cải hạt mè trong lò, miệng tụng chú trước một trăm lẻ tám biến, một biến đốt một nhúm, cho đến khi đại tướng Dược-xoa con tự hiện thân đến hỏi người cầu nguyện: Ngươi muốn điều gì, mong cầu điều gì? Người ấy liền trả lời, con liền y theo lời mong cầu đều làm cho thỏa mãn, hoặc cần vàng bạc và các kho tàng che giấu, hoặc muốn thần tiên cỡi mây mà đi, hoặc cầu thiên nhãn thông, hoặc biết chuyện trong tâm người khác, đối với tất cả hữu tình tùy ý tự tại, khiến cho dứt bỏ phiền não, mau được giải thoát, tất cả đều được thành tựu. Tiếp theo là phần thứ hai dùng năng lực thần chú che chở có sáu: Thỉnh cầu nói rõ ý nguyện. “Liền nói chú…” về sau là phần nói chú. “Nếu lại…” về sau là lợi ích của sự khuyến khích tu tập. “Nếu lúc trì chú…” về sau là dạy cách thực hành. “Cho đến…” về sau là nói về lợi ích đạt được, có ba: Hiện thân. Hỏi đáp. Từ “Hoặc cần…” về sau là theo ý muốn mà cung cấp: Ban cho bảy thứ báu. Ban cho kho tàng bị che giấu. Ban cho thần thông. Ban cho tự tại. Ban cho giải thoát. Theo như trước thì ban cho biện tài, ở đây muốn đạt được trí cũng cần phải tụng chú thỉnh cầu hiện thân giúp đỡ, khiến cho đạt được trí tuệ, vì lược bỏ cho nên không nói đến, nói rằng khiến cho dứt bỏ phiền não mau chóng được giải thoát là khiến cầu trí tuệ. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo đại tướng Dược-xoa Chánh liễu tri: Lành thay! Lành thay! Ông hãy làm lợi ích cho tất cả chúng sinh như vậy, nói thần chú này ủng hộ chánh pháp, phước lợi vô biên. Tiếp theo là phần thứ sáu, Đức Phật ngợi khen thành tựu. ------------------------------- <詞>Phẩm 20: VƯƠNG PHÁP CHÁNH LUẬN Phẩm Vương Pháp Chánh Luận có chia ra làm ba phần. Nói về lý do có phẩm này, Lưu thông có ba: Mười sáu phẩm đầu là học hạnh lưu thông, trong đó có năm phần, đây tức là phần thứ ba nói về sự trì học. Trong phần trì học có hai: Đầu tiên là đưa ra việc xưa, sau là một khuyến khích nay. Nêu ra việc xưa có hai: Vì tăng thêm chúng sinh ở cõi trời. Vì quyết định con đường tốt đẹp. Phẩm này là đầu. Lại giải thích: Lấy phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc nói về vua cõi người, nếu có thể tôn kính người quý trọng đạo pháp chân chánh, thực hành mở mang kinh thì được các chúng trời ủng hộ, nếu không như thế thì các chúng trời xa lìa từ bỏ. Nay phẩm này nêu ra việc xưa khi vua cõi người chân chánh thực hành mở mang kinh, khuyến khích chúng hội lúc bấy giờ, nên có phẩm này sinh ra. Giải thích tên gọi, trước chia ra, sau hợp lại. Vương có ba tên gọi: Gọi là Hoàng, Hoàng là Thiên vương. Gọi là Đế, Đế là chủ. Gọi là Vương, Vương là quy, là nơi quy tụ của mọi người, cũng gọi chung là quân. Lại nữa, tùy ý tự tại gọi là vương, pháp nghóa là khuôn phép, chánh tức là gạt bỏ tà, cũng gọi là Thánh. Như trong ái ngữ phát khởi bốn tịnh ngữ và tám Thánh ngữ. Tịnh ngữ tức là không nói dối v.v… Thánh ngữ tức là thấy nói thấy v.v… Luận nghóa là quyết định chọn lựa, xoay vần nghiên cứu nghóa lý các pháp. Vương tức là người thường thực hành pháp. Pháp Chánh luận tức là pháp thực hành. Nên gọi là Vương chánh pháp Chánh luận. Thuận theo xứ Thiên-trúc nói là pháp Chánh luận. Luận là năng luận, chánh pháp là sở luận, vương là chánh pháp, chánh pháp là luận, đều thuộc về thích. Nay ở đây phân biệt rõ về chánh pháp luận của vua, không muốn giải thích riêng về vua và Chánh pháp luận. Giải trừ vấn nạn. Hỏi: Thần đất thỉnh cầu Đức Phật nói về vương Chánh pháp, vì sao không tự nói mà lại nêu ra việc xưa vậy? Đáp: Vì muốn nói về pháp ba đời đều giống nhau, bởi pháp là tôn quý hơn cả, vì vậy không tự mình nói mà chỉ đưa ra việc xưa. Hỏi: Nếu vậy, vì sao không nêu ra Phật quá khứ đã nói mà lại dẫn truyện vua Lực Tôn Tràng? Đáp: Đúng lý nước y theo việc thế tục, do đó nêu ra lời mà Phạm vương quá khứ đã nói, căn cứ vào thực tế thì Phạm vương cũng đứng bên cạnh Phật mà nghe, rồi nói cho tứ Thiên vương nghe, như dưới đây “Thiện Sinh ở chỗ Phật Bảo Tích nghe nói về kinh Kim Quang Minh”, không nói là Phật nói. Hỏi: Lực Tôn Vương và Diệu Tràng ngày xưa bây giờ là ai? Đáp: Có nơi giải thích Diệu tràng tức là Diệu tràng bây giờ. Lại nói: Tức là Đức Phật Thích-ca. Nói rõ hai cách giải thích này không có văn ngăn trở hay xác nhận, lấy hay bỏ tùy ý. Văn kinh: Lúc ấy, Thần nữ của mặt đất này tên là Kiên lao ở giữa đại chúng đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính. Tán rằng: Toàn văn phẩm này chia làm ba phần: Đầu tiên là Địa Thần bày thỉnh, tiếp theo là Đức Thế Tôn giảng nói, sau là đại chúng vui vẻ thực hành. Trong phần đầu lại chia thành bốn. Đây là phần thứ nhất nghi thức bày thỉnh. Văn kinh: Bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Người làm vua cõi người trong các cõi nước, nếu không có chánh pháp thì không thể nào cai trị đất nước, dạy bảo chúng sinh, cho đến tự thân không thể ở lâu nơi ngôi vị cao quý. Tiếp theo là phần thứ hai, nêu lý do vì sao. Văn kinh: Cúi mong Đức Thế Tôn Từ bi thương xót nói cho con nghe điều quan trọng của việc cai trị đất nước trong vương pháp Chánh luận. Tiếp theo là phần thứ ba nói về những điều thỉnh cầu. Văn kinh: Khiến cho các vị vua cõi người được nghe pháp rồi như lời dạy tu hành, chân chánh giáo hóa thế gian, có thể khiến cho ngôi vị cao quý được bảo toàn mãi, trong nước được yên ổn, dân chúng đều được lợi ích. Tiếp theo là phần thứ tư nói về các lợi ích. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng bảo thần đất Kiên lao rằng: Ngươi nên lắng nghe cho kỹ! Thuở xưa có vị vua tên là Lực Tôn tràng, vị vua đó có vương tử tên là Diệu tràng, thọ địa vị quán đảnh chưa được bao lâu. Lúc bấy giờ, vua cha bảo Diệu tràng rằng: Có vương pháp chánh luận tên là Thiên chủ giáo pháp, lúc xưa, ta thọ địa vị quán đảnh làm quốc chủ. Vua cha của ta tên là Trí lực Tôn tràng nói cho ta nghe vương pháp chánh luận này. Ta y theo luận này trong hai muôn năm khéo cai trị đất nước, ta nhớ không hề khởi lên một ý niệm tâm hạnh phi pháp. Ngươi ở ngày nay cũng nên như thế, đừng dùng những điều phi pháp mà cai trị đất nước. Vì sao gọi là vương pháp chánh luận? Nay ngươi khéo lắng nghe, ta sẽ nói cho ngươi nghe. Tiếp theo là phần thứ hai, Đức Thế Tôn giảng nói, có ba: Đầu tiên là đối với đại chúng nhắc nhở lắng nghe, tiếp theo “Thuở xưa…” về sau là nói về duyên khởi ngày xưa, sau cùng “Lúc ấy, Lực Tôn…” trở xuống là nói về chánh pháp ngày xưa. Nói về duyên khởi ngày xưa có tám: Người năng giáo, sở giáo. Từ “Lúc bấy giờ…” về sau là nói về pháp truyền trao, Thế chủ tức là Phạm vương, tu tập bốn tâm vô lượng mới làm người đứng đầu thế gian. Vì phát khởi giáo pháp từ bi chắc chắn sẽ nhổ sạch gốc khổ, mang lại yên vui. “Ta ở…” về sau là nói về duyên đạt được pháp. “Vua cha của ta…” về sau là nói về nơi được nghe pháp. “Ta y theo…” về sau là nói ta thường thực hành học hỏi. “Ngươi ở ngày nay…” về sau là răn dạy con tu học theo đó. “Vì sao gọi là…” về sau là nghe răn dạy thỉnh cầu giáo pháp. “Nay ngươi…” về sau khuyên lắng nghe, hứa sẽ nói. Đây là ý ở bên cạnh vua cha mà nghe, lại chỉ bày cho con mình. Nói lên việc cha con ân nghóa sâu nặng, chỉ dạy chắc chắn thực sự được lợi ích, do đó khuyên nhủ người nghe kính trọng y theo đó thực hành. Văn kinh: Lúc ấy, vua Lực Tôn tràng liền dùng Già-tha nhiệm mầu nói Chánh luận cho con mình nghe. Tiếp theo nói về chánh pháp ngày xưa. Văn chia làm hai: Đây là Đức Phật nêu ra lời tựa. Văn kinh: Ta nói vương pháp luận, lợi lạc các hữu tình, vì dứt nghi thế gian, trừ bỏ bao sai trái, tất cả các Thiên vương, và vua trong loài người, nên sinh tâm vui mừng, chắp tay nghe ta nói. Tiếp theo là kể rõ chánh luận kia có bảy mươi ba hàng tụng, chia thành hai: Hai bài tụng đầu là vua Lực Tôn nhắc nhủ lắng nghe, bảy mươi mốt bài tụng sau là trình bày chánh luận. Trong phần nhắc nhủ lắng nghe: Một bài tụng đầu nói rõ lợi ích của luận, ba câu tiếp theo là chỉ dạy đầy đủ, một câu cuối là khuyên nhắc lắng nghe và giảng nói. Hỏi: Trong văn trường hàng trước đó chỉ nói “con mình”, vì sao khuyên lắng nghe lại có Thiên chủ và vua cõi người? Đáp: Vì văn trường hàng giản lược mà trong phần tụng lại mở rộng. Lại giải thích: Chính là răn dạy con mình, ý nói luận này xứng lý, lợi ích rộng lớn cho cả Thiên chủ và vua cõi người, đều nên vui mừng, do đó nay ngươi nên chắp tay lắng nghe ta nói. Văn kinh: Các chúng trời ngày xưa, hội ở núi Kim cang, tứ vương từ chỗ đứng, xin hỏi với Đại phạm; đấng Phạm Chủ tối thắng, Đại tự tại trong trời, xin xót thương chúng tôi, vì dứt các nghi ngờ. Tiếp theo bảy mươi mốt bài tụng là trình bày chánh luận. Toàn văn chia làm ba: Hai bài tụng đầu nói về nhân phát khởi, hai bài tụng tiếp theo sinh khởi các câu hỏi, sáu mươi bảy bài tụng sau chính là trình bày về luận đó. Trong phần đầu có năm: Hai câu đầu là nơi chúng nhóm họp, một câu tiếp là người năng thỉnh, một câu tiếp là nêu câu hỏi, hai câu tiếp là khen ngợi luận ấy, hai câu tiếp là thỉnh nói cho nghe. Văn kinh: Vì sao ở thế gian, mà được gọi là trời, lại vì nhân duyên gì, được gọi là Thiên tử? Vì sao sinh loài người, tự được làm nhân chủ? Vì sao trên cõi trời, lại được làm Thiên vương? Tiếp theo phát sinh những câu hỏi, nói chung có bốn câu hỏi, như văn có thể biết. Ý đều có ba phần: Hỏi: Danh hiệu đó y theo đức mà lập nên, tức là đồng thời hỏi do đâu mà lập nên danh hiệu. Do đâu tức là hỏi vua thực hành chánh pháp gì mà được gọi là vua v.v… Nếu không như thế thì tứ Thiên vương chỉ hỏi về tên gọi. Vì sao Thiên chủ nói rằng hỏi pháp trị nước của ta? Do đó trong kinh Tát-già Ni-kiền-tử quyển hai chép: “Vua nói: Thưa Đại sư! Các vị vua kia vì sao gọi là vua? Đáp rằng: Tâu Đại vương! Vua ấy là cha mẹ dân, vì y theo chánh pháp che chở chúng sinh, khiến cho yên vui, do đó gọi là vua.” Đây là nêu chung. Cho nên giải thích rằng: “Đại Vương nên biết, vua nuôi dưỡng dân giống như con đỏ, chuyển chỗ khô dời chỗ ướt, không đợi con cái phải nói. Vì sao? Đại vương nên biết, vua đó là đạt được ngôi vị, vì dân chúng là đất nước, tâm dân chúng bất an thì đất nước sẽ hoại diệt. Thế nên vua thường phải nghó đến dân chúng giống như nghó nhớ con đỏ, không rời xa trong tâm. Nên biết rằng, nhân dân trong đất nước khổ sở, vui sướng, lụt lội, hạn hán, mưa gió, đói no, già trẻ, bệnh tật, ngục tù kiện cáo, có tội không tội, có công không công, người biết mọi điều như thế gọi là không rời xa trong tâm. Biết như vậy rồi dùng khả năng đem ra giúp đỡ, người cần giúp đỡ thì cung cấp giúp đỡ kịp thời, người nên thâu lấy thì nên suy tính, sai khiến phải biết thời, không làm mất lợi ích của người, cấm tuyệt tham bạo, mọi người đều được yên vui, đó gọi là che chở, giữ gìn đất nước, đó gọi là vua.” Việc hỏi đáp ở đây ý cũng giống như thế. Ý hỏi rằng hiện tại hay vị lai do hạnh nghiệp gì mà sinh trong loài người được gọi là hàng trời? Do hạnh nghiệp gì mà sinh ở cõi trời được làm vua trời? Vì thế sau đó trả lời rằng: Do năng lực nghiệp lành trước đây nên sinh lên cõi trời được làm hàng trời. Theo phép nước ở Tây phương thì mỗi vật đều có mười tên gọi, ở đây vua cõi người đưa ra ba, vua trời đưa ra một, để so với các nơi khác. Văn kinh: Hộ thế gian như thế, hỏi Phạm vương kia xong, bấy giờ Phạm Thiên chủ, lập tức nói cho nghe, hộ thế ông nên biết, vì lợi ích hữu tình, hỏi ta cách trị nước, ta nói nên khéo nghe. Tiếp theo sau mươi bảy bài tụng là trình bày về luận đó, có ba: Hai bài tụng đầu là tựa về ngày xưa hứa sẽ nói, sáu mươi bài tụng rưỡi tiếp theo là Thiên chủ chính thức trình bày, bốn bài tụng rưỡi cuối cùng từ “Vì thế vua cõi người ông…” về sau là khuyến khích y theo tu học. Trong phần đầu chia làm hai: Một bài tụng đầu Lực Tôn nêu ra tựa, một bài tụng tiếp theo Thiên chủ hứa nói, nhắc nhở lắng nghe. Văn kinh: Do sức nghiệp lành trước, sinh trời được làm vua, nếu ở trong loài người, thống lãnh làm vua cõi người. Tiếp theo là Thiên chủ chính thức trình bày, có hai: Ba bài tụng đầu trả lời hai câu hỏi về tên gọi và hạnh nghiệp, tức là khiến tu điều lành lại làm nhân cho đời sau; năm mươi bảy bài tụng rưỡi sau từ “Thiên chủ cõi tam thập tam…” trở xuống là cùng trả lời câu hỏi về lý do đạt được danh hiệu, tức là trình bày về chánh luận, tức là dyạ tu được lợi ích hiện tại. Trong phần đầu lại có hai: Một bài tụng đầu là trả lời hai câu hỏi sau, hai bài tụng sau là trả lời hai câu hỏi đầu. Đây là phần đầu. Văn kinh: Các trời cùng che chở, sau đó vào thai mẹ, đã vào trong thai mẹ, các trời lại che chở; tuy sinh ở loài người, cao quý nên gọi trời, do các trời che chở, cũng được gọi Thiên tử. Tiếp theo trả lời câu hỏi trước, có hai: Một bài tụng rưỡi đầu trả lời câu hỏi thứ nhất, một bài tụng rưỡi sau trả lời câu hỏi thứ hai. Nhưng “do nghiệp lực đời trước” nên cũng nói đến “các trời cùng che chở”. Văn kinh: Thiên chủ tam thập tam, chia sức lực giúp vua cõi người và tất cả các trời, cũng giúp sức tự tại; dạy trừ các phi pháp, khiến nghiệp ác không sinh, dạy hữu tình tu lành, khiến được sinh cõi trời. Người và chúng Tu-la, cùng loài Kiền-thát-bà, La-sát, Chiên-trà- la, thảy đều giúp nửa sức; cha mẹ giúp nửa sức, khiến bỏ ác tu lành, các trời cùng che chở, chỉ bày các báo tốt. Nếu gây các nghiệp ác, khiến trong đời hiện tại, các trời không che chở, hiện bày các báo xấu. Tiếp theo cùng trả lời về lý do đạt được danh hiệu và trình bày Thánh luận đó. Văn lại chia làm hai: Năm bài tụng đầu nêu ra sơ lược, năm mươi hai bài tụng rưỡi sau giải thích rộng về điều đã nêu ra. Trong phần đầu có ba: Hai bài tụng đầu nêu ra các trời giúp đỡ vua thực hành chánh pháp, lợi ích cho mọi người, có ba: Một bài tụng đầu là các trời giúp đỡ, một bài tụng tiếp là vua giáo hóa, trong giáo hóa: Nửa bài tụng đầu là dứt ác, nửa bài tụng sau là sinh thiện. Một bài tụng rưỡi tiếp theo nêu rõ người và các thần cùng hộ trì lợi ích của mình, hoặc cũng là lợi ích người khác, nhờ người và các thần giúp sức khiến cho vua giáo hóa mọi người bỏ ác tu lành cùng hộ trì lợi ích của mình. Nói về La-sát, Chiên-trà-la thì Chiên-trà-la, Hán dịch là nghiêm sí chấp thủ ác giả, tức là loài làm điều ác trong loài La-sát. Ý ở đây là loài ác thần này còn che chở, huống gì các hạng thiện thần khác. Sau từ “Các trời cùng che chở…” trở xuống một bài tụng rưỡi là nêu lý do khiến thực hành điều lành, giáo hóa mọi người, được các trời che chở. Nửa bài tụng đầu là nêu sự chỉ dạy, một bài tụng sau là chỉ bày riêng về thiện ác được nhân quả thế nào. Hỏi: Làm lành thì đáng che chở, làm ác thì làm sao được che chở? Đáp: Do ngày xưa tu lành nên ngày nay được làm vua, vì thế khi làm điều ác thì các trời thị hiện tướng ác, che chở làm cho thay đổi tu lành. Văn kinh: Dân chúng gây nghiệp ác, vua bỏ không ngăn cấm, ấy chẳng thuận chánh lý, nên đúng pháp trừng trị. Nếu thấy ác không ngăn, phi pháp liền lớn mạnh, liền khiến trong đất nước, gian trá ngày nhiều thêm. Vương thấy người trong nước, làm ác không ngăn cấm, trời tam thập tam, đều sinh tâm tức giận. Do đó đất nước suy, làm thế gian giả dối, bị kẻ oán địch vây, phá hoại đất nước đó. Nhà cửa và tài sản, chứa nhóm đều mất mát, sinh đủ thứ dối gạt, lại chiếm đoạt lẫn nhau. Nhờ chánh pháp làm vua, nhưng không hành chánh pháp, nhân dân đều ly tán, như voi sa đầm lầy. Gió dữ nổi bất thường, mưa lớn tuôn trái thời, yêu tinh nhiều biến quái, trời trăng che không sáng. Các hoa quả ngũ cốc, mầm hạt đều hư hoại, đất nước gặp đói kém, do vua bỏ chánh pháp. Tiếp theo năm mươi hai bài tụng rưỡi giải thích rộng, chia làm hai: Ba mươi lăm bài tụng đầu nói về nhà vua làm trái chánh pháp cho nên tai họa ập đến, mười bảy bài tụng rưỡi sau nói về nhà vua nương theo chánh pháp cho nên phước đức cùng đến. Theo Du-già sáu mươi mốt và Vương pháp chánh lý luận thì lỗi lầm của vua, công đức của vua, phần suy tổn của vua, phần phương tiện của vua, vua nên yêu quý pháp và có thể sinh ra pháp mà vua yêu quý đều có nhiều thứ, rộng như luận đó phân biệt rõ. Hoặc phối hợp riêng hành tướng này thì hơi khó. Hỏi: Đây gọi là Vương pháp chánh luận, Du-già và Vương pháp chánh lý luận kia tên gọi thuận nhau, sao không y theo luận kia để giải thích? Đáp: Lý không giống nhau, Nhân vương Bát-nhã, Tát-già Ni- kiền-tử… đều nói về cách trị nước của nhà vua thực hành, song chẳng phải các luận đó đều giống nhau, nhưng phối hợp thì không trái nhau. Tạm thời nương theo kinh này chia ra làm hai: Ba mươi bài tụng đầu giải thích rộng về sự trái ngược với chánh luận, sau từ “Vô biên lỗi như thế…” trở xuống bài tụng là kết thúc sự trái ngược với chánh pháp. Nói rộng chia làm ba: Tám bài tụng đầu là nói về lỗi thấy người làm ác không ngăn chặn, tiếp theo từ “Nếu vua bỏ chánh pháp…” về sau là chín bài tụng nói về lỗi nhà vua tự mình làm điều phi pháp, sau từ “Quan lớn nhất trong nước…” về sau mười ba bài tụng là nói về lỗi thấy quan làm điều sai trái mà không ngăn chặn. Trong phần đầu lại chia làm bốn: Một bài tụng đầu nói thấy ác cần phải ngăn chặn. Từ “Nếu thấy ác…” trở xuống một bài tụng là nói không ngăn chặn thì điều ác càng nhiều. Từ “Vua thấy người trong nước…” về sau là do đó các trời tức giận. Từ “Do đó đất nước suy…” về sau năm bài tụng là lập tức có tai họa phát sinh. Trong tai họa phát sinh có năm: Oán địch phá hoại đất nước. Tài sản mất mát, chiếm đoạt lẫn nhau. Những nhân tố tai họa phát khởi. Tai biến cùng hiện bày. Đất nước mất mùa đói kém. Năm hàng như thứ lớp phối hợp theo đó có thể biết. Trong nhân tố tai họa thứ ba, nửa bài tụng đầu là nhân, nửa bài tụng sau là ví dụ. Văn kinh: Nếu vua bỏ chánh pháp, dùng pháp ác dạy người, các trời ở cung điện, thấy rồi sinh ưu não. Các chung vua trời kia, cùng nhau nói như vầy: Vua này làm phi pháp, thân thiết với bạn ác, ngôi vua không dài lâu, các trời đều tức giận, vì các trời ôm hận, nước đó sẽ bại vong. Dạy người điều phi pháp, lưu hành ở trong nước, đấu tranh nhiều gian dối, tật dịch sinh các khổ. Thiên chủ không che chở, các trời đều lìa bỏ, đất nước sẽ diệt vong, thân vua chịu khổ ách. Cha mẹ và anh em, vợ con cùng chị em, thương yêu bị xa rời, cho đến thân hoại diệt. Biến quái sao băng rơi, hai mặt trời cùng hiện, giặc cướp phương khác đến, dân chúng chịu tang tóc. Đại thần chính trong nước, oan uổng nên mất thân, voi ngựa đáng quý, lại cũng đều chết mất. Khắp nơi xảy chiến tranh, nhiều người chết phi pháp, ác quỷ đến trong nước, tật dịch lan truyền khắp. Tiếp theo là nói về lỗi nhà vua tự mình làm điều phi pháp, chia làm bốn: Hai câu nói về vua lìa bỏ chánh pháp. Tiếp theo hai câu là các trời thấy vậy tâm buồn rầu. Tiếp theo hai bài tụng là các vị trời bàn tán với nhau. Sáu bài tụng tiếp theo là tai họa liền phát khởi. Trong đó có chín: Một bài tụng đầu là đấu tranh nhiều hơn; nửa bài tụng tiếp theo là các trời lìa bỏ, một bài tụng rưỡi tiếp theo là làm sai trái sự việc liền phát sinh, đất nước diệt vong là khổ do nương cần mà không được, thân vua chịu khổ tức là khổ ghét mà phải gặp, cha mẹ anh em chia làm là khổ thương mà xa lìa, cho đến thân mất tức là khổ chết, nửa bài tụng tiếp theo là các tai họa kỳ quái cùng phát sinh, nửa bài tụng tiếp theo là giặc cướp đến xâm hại, nửa bài tụng tiếp theo là đại thần chết oan uổng, nửa bài tụng tiếp theo là súc vật tài sản bị mất mát, nửa bài tụng tiếp theo là người chết phi pháp, nửa bài tụng tiếp theo là tật dịch lây lan khắp nước. Văn kinh: Quan lớn nhất trong nước, cho đến các phụ tướng, tâm họ đầy dua nịnh, đều làm chuyện phi pháp. Thấy người làm phi pháp, mà sinh ra yêu kính, với người làm pháp lành, lại trị phạt khổ sở. Tiếp theo mười ba bài tụng nói về lỗi thấy quan lại làm điều sai trái không trừ dẹp, chia làm bốn: Một bài tụng là đại thần làm điều sai trái, một bài tụng tiếp theo là thưởng phạt trái ngược, mười bài tụng tiếp theo có quả ác phát sinh, một bài tụng sau cuối từ “Nếu vua làm phi pháp…” là kết luận về sự sai lầm đó. Đây là hai phần đầu. Văn kinh: Do yêu kính người ác, trừng phạt người làm lành, các sao và gió mưa, đều không đến đúng mùa, có ba thứ họa sinh, chánh pháp sẽ ẩn chìm, chúng sinh không ánh sáng, đất tốt đều sụt xuống. Do kính ác, khinh thiện, lại có ba tai họa, trái mùa giáng mưa đá, đói, dịch khổ lan tràn. Hoa màu các quả hạt, mùi vị đều sút giảm, ở trong đất nước đó, chúng sinh nhiều tật bệnh. Các rừng cây trong nước, trước sinh quả ngọt ngon, do đó đều sút giảm, đắng chát không mùi vị. Trước có vườn rừng đẹp, nơi dạo chơi đáng yêu, bỗng nhiên đều khô úa, người thấy sinh buồn rầu. Các quả hạt lúa gạo, vị ngon dần biến mất, khi ăn tâm không thích, sao nuôi được các đại. Ánh sáng chúng sinh giảm, thế lực đều suy yếu, ăn uống tuy nhiều hơn, không thể làm no đủ. Ở trong đất nước đó, tập trung mọi chúng sinh, sức yếu không mạnh mẽ, làm việc không thể được. Dân chúng nhiều tật bệnh, các khổ bức bách thân, quỷ mị lan tràn khắp, khắp nơi sinh La-sát. Tiếp theo có quả ác phát sinh. Trong đó chia thành năm: Một bài tụng đầu là ba việc trái thời: Các sao. Gió. Mưa. Tiếp theo một tụng là ba thứ tai họa phát khởi: Chánh pháp biến mất. Hữu tình không ánh sáng. Đất tốt giảm xuống. Tiếp theo hai bài tụng lại có ba điều ác phát sinh: Mưa đá trái mùa. Hoa màu sút giảm. Chúng sinh tật bệnh. Tiếp theo ba bài tụng, quả bên ngoài suy yếu, có ba: Một bài tụng là các quả không có mùi vị. Một bài tụng là vườn cây đều khô héo. Một bài tụng là ăn vào không giúp ích cho bốn đại. Tiếp theo ba bài tụng là báo ứng bên trong cũng lui sụt có bốn: Một bài tụng là hình sắc đói gầy yếu đuối. Một bài tụng là thân thể không mạnh mẽ. Nửa bài tụng là bị tật bệnh hoạn nạn khổ sở bức bách. Nửa bài tụng là quỷ mị lan tràn. Văn kinh: Nếu vua làm phi pháp, gần gũi với người ác, khiến ba thứ thế gian vì đó chịu suy tổn. Tiếp theo là phần thứ tư, kết luận về sự sai lầm đó. Ba thứ thế gian là ba cõi. Vì nhà vua nương theo pháp tăng thêm hàng trời người, thực hành phi pháp, do đó ba cõi bị suy tổn. Hoặc con người, súc vật và các loại hoa màu là ba thứ thế gian; con người suy yếu, súc vật giảm sút, các loại hoa màu không dồi dào, rộng như trên đã phân biệt rõ. Văn kinh: Vô biên lỗi như vậy, xuất hiện ở trong nước, đều do thấy người ác, lìa bỏ không trừng trị. Nhờ các trời che chở, được làm vua trong nước, nhưng không theo chánh pháp, giữ gìn cho đất nước. Nếu người tu hạnh lành, sẽ được sinh cõi trời, nếu người gây nghiệp ác, chết sẽ đọa ba đường. Nếu vua thấy dân chúng, mặc ý làm sai trái, các trời tam thập tam, đều sinh tâm nóng giận. Không nghe lời các trời, cho đến cha mẹ bảo, đây là người phi pháp, chẳng vua, chẳng con hiếu. Tiếp theo năm bài tụng là toàn bộ đoạn thứ hai kết thúc sự trái ngược với chánh pháp, có bốn: Một bài tụng kết thúc không trừng phạt điều ác, một bài tụng kết luận không tu lành, một bài tụng kết thúc quả báo thiện ác, hai bài tụng kết luận trái với lời dạy, chẳng phải là người. Văn kinh: Nếu ở trong nước mình, thấy người làm phi pháp, nên trừng phạt đúng pháp, không nên sinh lìa bỏ. Vì thế các chúng trời, đều hộ trì vua này, để dứt các việc ác, nên thường tu gốc lành. Vua ở trong đời này, sẽ phải chịu hiện báo, do các nghiệp thiện ác, khuyên chúng sinh lấy bỏ. Vì nêu báo thiện ác, nên được làm vua người, các trời cùng che chở, tất cả đều tùy hỷ. Tiếp theo mười bảy bài tụng rưỡi nói nhờ nương theo chánh pháp cho nên phước đức cùng đến, chia thành hai: Bốn bài tụng đầu nói thực hành chánh pháp, mười ba bài tụng rưỡi sau dựa vào nêu ra để giải thích rộng rãi. Trong phần nêu ra có hai, hai bài tụng này nêu ra sự trừng phạt điều ác, trừng phạt điều ác có hai: Bài tụng đầu trừng phạt người ác, bài tụng sau được các trời che chở. Hai bài tụng tiếp theo nói về khuyến khích hành thiện, khuyến khích hành thiện có hai: Một bài tụng đầu khuyến khích tu điều lành, một bài tụng sau đạt được Bồ-đề. Văn kinh: Do tự lợi lợi tha, dùng chánh pháp trị nước, thấy có người dua nịnh, nên đúng pháp trừng trị. Giả sử mất ngôi vua, cho đến duyên hại mạng, vẫn không làm điều ác, thấy ác nên lìa bỏ. Điều nghiêm trọng bậc nhất, không bằng mất quốc vị, đều do người dua nịnh, vì thế nên trừng trị. Nếu bạn dối nịnh người, sẽ đánh mất quốc vị, do đó hại vương chánh, như voi vào vườn hoa. Thiên chủ đều tức giận, A-tu-la cũng vậy, vì họ là vua người, không dùng pháp trị nước. Vì thế nên đúng pháp, trừng phạt với người ác. Tiếp theo là giải thích rộng, có hai: Năm bài tụng rưỡi đầu giải thích về trừng phạt người ác, tám bài tụng rưỡi sau giải thích về thực hành điều lành. Giải thích phần đầu có năm: Một bài tụng thấy người ác phải trừng trị, tiếp theo một bài tụng là không xả bỏ mực thước, tiếp theo một tụng nói về lý do trừng phạt, tiếp theo một tụng nhắc lại thành quả trước đó, ba câu là pháp, một câu là ví dụ, tiếp theo một bài tụng rưỡi kết luận cần phải trừng phạt. Hỏi: Làm ác có bao nhiêu, bao nhiêu cách trừng phạt? Đáp: Theo kinh Tát-già Ni-kiền-tử bốn chép: Chúng sinh làm ác có năm hạng: Đối với vua không có ích lợi. Làm những điều không ích lợi. Sinh khởi nghịch hại. Tà hạnh. Tà mạng. Đối với vua không có ích lợi gồm có mười một loại: Phản nghịch. Dạy người khác phản nghịch. Mang thuốc độc cho vua. Chiếm đoạt tài sản của vua. Phá hoại những gì đáng làm. Xâm chiếm cưỡng đoạt vợ của vua. Làm trái lệnh vua. Nói ra lời bí mật của vua. Dò xét đất nước. Mắng chửi nhà vua. Phỉ báng mắng nhiếc. Làm những điều không ích lợi lại có mười thứ: Giết hại lẫn nhau. Cướp đoạt lẫn nhau. Xâm phạm vợ con lẫn nhau. Luống dối làm chứng cho người. Lường gạt người. Phá hoại bạn bè thân thiết của người. Ác khẩu mắng nhiếc người. Cân đong lừa dối. Phỉ báng mắng nhiếc lẫn nhau. Thiêu đốt lẫn nhau. Trái nghịch chúng sinh, nghóa là tiểu vương trong các thành ấp, biên địa, người đứng đầu xóm làng… không vâng theo sự răn đe chỉ bày căn bản của Đại vương. Tà hạnh, nghóa là những người không có giới, tức là các luật nghi xấu ác, hàng thịt thợ săn, nuôi dưỡng heo dê, gà chó ngỗng vịt, các loại tổn hại người khác, tự ý làm ác. Tà mạng, là các thứ phi pháp, cầu các lợi dưỡng phi pháp để nuôi sống thân mạng, tất cả đều không thể tự ở trong đó mà sống. Trừng phạt có ba cách: Trách mắng. Tước đoạt tài sản. Lao tù giam giữ, mắng nhiếc ruồng đuổi. Năm hạng chúng sinh trừng phạt theo ba cách nhẹ, vừa, nặng. Loại phản nghịch thì phải dùng quyền hành, pháp uy lực của vua, trước tiên tâu lời tốt đẹp để chỉ bày đúng như pháp, nếu nghe lệnh vua tức là lìa bỏ tâm phản nghịch, thú nhận các tội lỗi trước nhà vua, vua ban đại ân tha thứ cho trọng tội đó, y theo đất nước đó nơi nhà vua thống lãnh, không hề giảm bớt không tước đoạt, không trục xuất. Vì sao? Vì để cho biết rằng nhà vua có ba việc: Có niềm tin. Có ân đức. Có sức mạnh. Người chưa hàng phục sẽ được hàng phục, người đã được hàng phục không còn làm điều ác, người muốn phản nghịch thì không dám khởi sự, người có tội đó được thoát khỏi tội lỗi của mình, trở lại ngôi vua nhân dân được yên ổn. Vị vua đó đúng như pháp thực hành, được phước vô lượng, tiếng tốt lan truyền khắp nơi. Nếu nghe mệnh lệnh mà không cúi đầu nhận tội, nên trừng trị đích đáng, ngoại trừ không dứt bỏ mạng sống và không làm hại các căn, tước đọat tất cả tài sản đất nước nhân dân, trục xuất sang xứ khác. Vì sao? Vì để cho các chúng sinh khác không dấy lên phản nghịch, đó gọi là dùng quyền hành vương pháp trừng trị tội dấy lên phản nghịch của chúng sinh kia. Chúng sinh tà hạnh chỉ trừng phạt theo cách trách mắng, rằng ngươi trở lại làm điều ác thì gán cho ngươi tội lỗi thật nặng. Chúng sinh tà mạng nên thuận theo. Như pháp tăng thì chúng tăng nên hòa hợp, kêu gọi khiến họ hiện tiền tự nhận lấy tội lỗi của mình. Tùy theo mức độ phạm lỗi nhẹ hay nặng nên đúng pháp trừng trị. Làm trái tăng mạng, không nghe theo thầy bạn thiện tri thức chỉ dạy, làm náo loạn Tăng chúng không thể tu đạo; nếu vị vua đó là vị pháp vương thì tăng trình nên đến nói để nhà vua ban sắc. Nhà vua nên gọi Tỳ-kheo phá giới kia dùng lời tốt đẹp khuyên nhủ dỗ dành khiến cho thuận theo Tăng mạng. Nếu người đó không nghe theo, nên tập trung hai chúng hiện tiền để trả lời sự thật. Nếu phạm tội ấy thì giúp chúng như pháp trừng trị Tỳ-kheo kia; không được dứt bỏ mạng sống, cho đến không được tước đoạt tài sản của họ, chỉ được trách mắng hoặc trục xuất. Đại vương! Nếu có hai bè đảng tranh chấp, kiện tụng lẫn nhau thì nên đúng như pháp chấm dứt sự tranh chấp kiện tụng. Nếu nhà vua không biết, nên hỏi các vị đại đức sa môn biết pháp biết nghóa, có bi trí rộng lớn, có danh tiếng tốt đẹp trong nước, đang thực hành chánh pháp lợi ích chúng sinh để chấm dứt sự tranh chấp kiện tụng, có thể chỉ bảo đúng như pháp. Hỏi: Chánh pháp ấy biết phạm hay không phạm, biết như vậy rồi cứ đúng như pháp để trừ diệt. Hỏi: Theo kinh Tát-già Ni-kiền-tử năm chép: “Hành pháp hành thực vương hành tám thứ tâm có thể hộ trì chúng sinh: Nghó nhớ các chúng sinh như nghó nhớ con cái. Nghó nhớ chúng sinh làm ác như nghó nhớ con cái bị bệnh tật. Nhớ nghó chúng sinh chịu đau khổ sinh tâm đại bi. Nghó đến chúng sinh thọ hưởng vui sướng tốt đẹp sinh tâm vui mừng. Nghó đến chúng sinh oán hận lẫn nhau sinh ý tưởng che chở vượt qua. Thường sinh ý tưởng che chở giữ gìn đối với bạn thân của chúng sinh. Tưởng như thuốc trị bệnh đối với các vật giúp ích trong cuộc sống hàng ngày. Thường sinh ý tưởng vô ngã đối với tự thân. Có đủ tám thứ này gọi là pháp hành vương.” Hỏi: Vì sao có thể thực hiện những việc giam cầm, bắt bớ trục xuất… như vậy? Đáp: Đối với các hữu tình ác hạnh phi pháp xót thương nghó nhớ, phương tiện trị phạt khiến cho ăn năn cho nên không trái nhau. Vì thế kinh đó quyển ba chép: “Giống như cha mẹ đối với con cái làm ác, vì nghó như con cái cho nên muốn làm cho ăn năn sửa đổi, do đó dùng phương tiện trị phạt, ngoài ra không cắt đứt mạng sống, không làm hại các căn, còn các chuyện đánh mắng v.v… tùy thì tâm trị phạt, không gọi là xả tâm, không gọi là tâm ác. Vì nghó đến con cái lại muốn chúng ăn năn sửa đổi nên không dám làm ác nữa, nên cha mẹ kia không gọi là phi pháp, không mất tâm từ. Thực hành pháp làm vua cũng giống như thế, vì khiến cho bỏ ác theo thiện, khiến cho những chúng sinh làm ác còn lại đó không gây ra thêm những việc phi pháp, chẳng phải tâm thường ác bỏ rơi chúng sinh này, cũng không phải tâm cố tình làm chúng sinh khổ não mà thực hành một cách nóng giận. Dùng tâm từ bi để thực hành những sự đánh mắng chưởi rủa trừng trị chúng sinh, không gọi là phi pháp, không mất tâm từ.” Kinh đó cũng chép: “Người biết làm việc chân chính thì sẽ bỏ một người ác để thành tựu một nhà, bỏ một nhà ác để thành tựu một làng. Người không biết việc làm chân chính thì người và mọi vật mất mát, khiến cho thiên hạ oán giận.” Hỏi: Thực hành pháp làm vua đã có Từ bi, dùng những tâm nào để trừng trị người làm ác? Đáp: Theo kinh Tát-già Ni-kiền-tử ba chép: “Trước tiên khởi tâm từ trí tuệ quán sát tư duy theo năm cách, sau đó thích hợp để trừng trị: Căn cứ vào thực tế, không dựa theo không thực tế. Căn cứ vào thời cơ, không theo không hợp thời. Căn cứ vào nghóa, không theo vô nghóa. Căn cứ vào lời lẽ mềm mỏng, không nên thô bạo. Căn cứ vào tâm từ, không có tâm nóng giận. Nghóa là y theo pháp mà vặn hỏi, tự nói ra, căn cứ theo lỗi lầm thật sự để trừng trị. Vua có khả năng thì nên trừng phạt tội đó, không có khả năng thì không thể trừng phạt, tùy theo tâm ác mà làm, nên đúng như pháp mà trừng phạt, không được như vậy không nên trừng phạt, nên biết lỗi lầm của họ nói đích thực không hề che giấu, khéo nói hết lời, trách mắng như thế, không được như thế thì không nên trách mắng, đó gọi là nhu ngữ (lời mềm mỏng). Không chỉ trách mắng mà còn chấm dứt tội lỗi của họ, trừ việc dứt bỏ mạng sống cắt đứt thân thể. Nương vào tâm từ bi mà giam giữ, trói buộc trách mắng, tước đoạt tài sản, đuổi đến xứ khác là làm cho ăn năn sửa đổi, chẳng phải vì tâm ác lìa bỏ.” Hỏi: Thực hành pháp làm vua đã không có tâm nhiễm ác để trừng phạt người ác, sao không chấm dứt mạng sống cắt đứt mạng sống, hủy bỏ các căn? Đáp: Kinh đó chép: “Vì tâm không nhiễm trước, tâm không ác độc nên không thể khởi tâm niệm cắt đứt mạng sống, hủy bỏ các căn như thế được, cần phải quán sát chúng sinh đến lúc chết thì sự nghiệp sai trái sinh ra, tâm sân giận mà chết, mạng đã chấm dứt sẽ đọa vào đường ác, tâm ác theo đuổi đến cùng không lìa bỏ. Vì thế cho nên không thể cắt đứt mạng sống, hủy bỏ các căn. Một khi mạng đã cắt đứt, các căn đã hủy bỏ thì sau đó không thể cứu được. Giam cầm, trách mắng… chẳng phải là bỏ hẳn, thế nên Phật thuận theo đó mà nói”. Lại nữa, kinh đó hỏi rằng: “Tất cả thần tá, tể quan, cấm ti không suy nghó đến sách lược của đất nước, chỉ cầu lợi lộc cho bản thân; hoặc lại vì lòng căm tức riêng mà hại đến công chính, hoặc vì nhận của đút lót để trừng trị oan uổng, tăng thêm sự lừa dối hỗn loạn lẫn nhau trong trăm họ, cậy mạnh hiếp yếu, lấy giàu hiếp nghèo, lấy sang hiếp bần, lấy cong hiếp thẳng, người giàu được che chở, kẻ nghèo chịu oan ức, người nịnh hót nắm quyền hành, kẻ trung hiền phải lẩn trốn, hoặc lúc ở triều chính sợ tội lỗi nên tự im lặng, hoặc lấy trộm tài sản hàng hóa để sử dụng cho riêng mình còn trăm họ nghèo khổ không được cứu giúp, chán chán khổ sở, suy tính lung tung, không nghe lệnh vua, ấy là do quan lại bề tôi không thực hành trung nghóa tiết tháo, lừa dối bề trên, não loạn kẻ dưới, mạo nhận lộc vua, người như thế thuộc vào loại nào trong số chúng sinh đã kể?” Đáp: “Đại vương! Hạng người đó thuộc loại chúng sinh cướp đoạt trong số đã kể, trừng phạt theo hạng nặng nhất. Vì sao? Vì kẻ đó được nhà vua gọi là quan, hưởng lộc sâu nặng mà bỏ công nhớ tư, không giữ gìn công chính, tai họa loạn lạc phát sinh đều có lý do của nó. Đây là tên giặc lớn nhất của đất nước, nhà vua là vị pháp vương không được cắt đứt mạng sống, vì thế cho nên thuộc vào loại cướp đoạt trong số đã kể, phải trừng phạt theo hạng nặng nhất.” Rộng ra có nhiều loại, đầy đủ như kinh Tát-già Ni-kiền-tử đã nói. Văn kinh: Dạy chúng sinh điều lành, không thuận theo phi pháp, thà xả bỏ thân mạng, không theo bạn phi pháp; với người thân không thân, quán tất cả bình đẳng. Tiếp theo tám bài tụng giải thích về thực hành điều lành, có hai: Một bài tụng rưỡi đầu giải thích về thực hành điều lành, sáu bài tụng rưỡi sau giải thích về lợi ích đạt được. Trong phần đầu lại có ba: Nửa bài tụng đầu là dạy dỗ mọi người không thuận theo việc làm phi pháp, nửa bài tụng tiếp theo là tu tập chính đáng không theo bạn bè phi pháp, nửa bài tụng sau cuối là thưởng phạt không phân biệt người thân kẻ sơ. Văn kinh: Nếu là vua chánh pháp, trong nước không bè đảng, pháp vương có tiếng tăm, vang khắp trong ba cõi. Thiên chúng tam thập tam, vui mừng nói như vầy: Pháp vương châu Thiệm-bộ, đó chính là con ta, dạy chúng sinh điều lành, dùng chánh pháp trị nước, khuyên thực hành chánh pháp, sẽ khiến sinh cõi ta. Trời và các thiên tử, cho đến chúng Tu-la, nhờ vua dạy chánh pháp, tâm thường được vui mừng. Chúng trời đều vui vẻ, cùng che chở vua người, các sao theo vị trí, nhật nguyệt không sai thời, gió nhẹ thường hợp mùa, mưa lành đến đúng tiết, mầm hạt đều thành tựu, người không ai đói kém, tất cả các chúng trời, đầy đủ nơi cung mình. Tiếp theo giải thích về lợi ích đạt được, có sáu: Một bài tụng đầu là lợi ích được tiếng tăm vang khắp, một bài tụng tiếp theo là lợi ích được làm Thiên tử, một bài tụng tiếp theo là lợi ích sẽ được sinh lên cõi trời, một bài tụng rưỡi tiếp theo là lợi ích được các vị trời vui vẻ che chở, hai bài tụng tiếp theo là lợi ích đất nước được giữ gìn, trong đó lại có bốn: Nửa bài tụng là lợi ích các sao y theo vị trí, nửa bài tụng là lợi ích mưa gió thuận hòa, nửa bài tụng là lợi ích nhân dân đông đúc, vui sướng, nửa bài tụng là có khả năng che chở lợi ích của các trời, bởi vì có thể làm cho chúng trời thường được đầy đủ. Hỏi: Nhà vua có thể thực hành điều lành, được các vị trời che chở, vì sao có thể được lợi ích che chở các vị trời? Đáp: Nhà vua thực hành chánh pháp tức là truyền bá lời Phật dạy khắp nơi, đất nước thái bình, nhân dân yên vui, thường khiến cho tu tập điều lành, do đó nhiềungười sinh lên cõi trời. Lại nữa, mở mang Phật pháp nên các vị trời nghe được ích lợi. Vì thế, kinh Tát-già Ni-kiền-tử chép: “Thực hành pháp làm vua được vô lượng các vị trời che chở. Vì sao lại nói là che chở các vị trời? Bởi vì pháp làm vua có thể mang lại thức ăn thanh tịnh về chánh pháp cho các vị trời, đó là vì nói những pháp môn về thiền định, giải thoát, mười nghiệp lành… trong chánh giáo cam lộ của Như lai, khiến cho họ được lìa xa khổ đau trong các đường ác, vì thế nên trở thành che chở. Do đó pháp làm vua tức là thân có khả năng chứa nhóm vô lượng công đức để giúp ích cho hiện tại, vị lai lại có thể nhóm họp các quả lành.” Dưới đây cũng nói: “Vì thế cho nên vua cõi người, ông quên thân mình mở mang chánh pháp, nên tôn trọng pháp bảo. Do đó mọi người được yên vui.” Phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc cũng nói nhiều về điều này. Văn kinh: Thế nên vua cõi người, quên thân truyền chánh pháp, phải tôn trọng pháp bảo, do đó dân yên vui, thường được gần chánh pháp, công đức tự trang nghiêm, quyến thuộc thường vui vẻ, được kìa xa các ác. Dùng pháp độ chúng sinh, thường khiến được yên ổn, giúp tất cả mọi người, tu hành mười điều lành. Tướng só thường vui sướng, đất nước được an vui, vua dùng pháp trị người. Khéo điều phục hạnh ác, nên được tiếng tăm tốt, giúp chúng sinh yên vui. Tán rằng: Trong phần nói về chánh pháp, có ba: trên đây là phần thứ hai nói rộng về chánh luận, tiếp theo là phần thứ ba khuyến khích y theo tu học, có ba: Một bài tụng đầu khuyến khích hoằng pháp lợi tha, nửa bài tụng tiếp đó khuyến khích gần gũi chánh pháp tự lợi, ba bài tụng sau cùng nói về lợi ích, có bốn: Nửa bài tụng đầu là quyến thuộc lìa bỏ những điều phi pháp, nửa bài tụng tiếp đó là thân chúng sinh vui vẻ, một bài tụng tiếp theo là đất nước giàu có, nhân dân bình yên, một bài tụng tiếp theo là được danh tiếng tốt đẹp, vang lừng khắp nơi. Văn kinh: Bấy giờ, tất cả vua cõi người và các đại chúng trên mặt đất nghe Đức Phật nói về các vi vua cõi người thuở xưa trị nước, thực hành chánh pháp, được lợi ích chưa từng có này xong thảy đều vô cùng vui mừng tin nhận vâng làm. Tiếp theo đoạn lớn thứ ba của phẩm, đại chúng vui mừng thực hành.  <卷>QUYỂN 6 <詞>Phẩm 21: THIỆN SINH VƯƠNG Phẩm Thiện Sinh Vương có chia làm ba phần: Nói về lý do có phẩm này: Trong mười sáu phẩm thuộc phần Học hạnh Lưu thông có năm mục, mục thứ tư là nói về sự trì học. Trì học có hai: Hai phẩm đầu nêu ra sự trì học ngày xưa, có hai ý: Vì quả thế gian, tức là đạo tăng thượng sinh. Vì quả xuất thế gian, tức là đạo quyết định thắng. Bắt đầu tu và tu lâu rồi là hai việc khác nhau, nên đại Bi đại Trí là hai hạnh tăng thêm. Phẩm trước nói về tự mình trì học kinh này để cầu quả xuất thế. Lại giải thích: Trong phẩm trước thành tựu phẩm Hộ Quốc ở trước đó là vì che chở đất nước nên thực hành truyền bá kinh này, trong phần phẩm này thành tựu phẩm Hộ Quốc trước đây là vì được thành Phật, chuyển pháp luân… nên thực hành truyền bá kiên điển, do đó phát sinh phẩm này. Giải thích tên gọi: Tiếng Phạn là Câu-xá-la (Hán dịch là Thiện) Xướng-bà-bà (Hán dịch là Sinh), xưa dịch là Thiện tập, nghóa phiên dịch không chính xác. Phẩm này nói về công hạnh cầu pháp trì kinh của Thiện sinh xưa kia, do đó lấy tên đặt tên phẩm. Giải trừ vấn nạn: Hỏi: Mục đích là muốn khuyến khích trì kinh nên đưa ra việc ngày xưa để hiểu rõ, ở đây đã trình bày về sự cầu pháp của Thiện Sinh, sao không gọi là phẩm Thiện Sinh Cầu Pháp? Đáp: Đúng là là nên nói cầu pháp, vì lược bỏ cho nên không nói đến. Hơn nữa, không chỉ có cầu, mà cũng được nghe pháp, cúng dường, thực hành kinh. Nếu nói cầu pháp e rằng thiếu các pháp hành còn lại, vì vậy chỉ nói là Thiện Sinh. Hỏi: Tăng-kỳ thứ hai, đầu tiên gặp Đức Phật Bảo Kế, vì sao phẩm này nói rằng đức Phật Bảo Kế Niết-bàn, vua Thiện Sinh mới ra đời? Đáp: Có nhiều Đức Phật hiệu Bảo Kế. Lại nữa, chưa chắc chắn đầu kiếp thứ hai vua Thiện Sinh vương ra đời, vì là thời gian khác. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói về vương pháp Chánh luận cho đại chúng nghe xong, lại bảo đại chúng rằng: Các ngươi nên lắng nghe, nay ta nói về nhân duyên thực hành pháp ngày xưa cho các ông nghe. Tán rằng: Văn trong phẩm chia làm ba: Đây là kết thúc trước, phát sinh sau, tiếp theo là nói về tu hành, sau đó đại chúng phát nguyện tu học. Đây là phần mở đầu… Văn kinh: Bấy giờ liền nói Già-tha (kệ tụng) rằng: Xưa ta từng làm vua Chuyển luân, bỏ mặt đất và biển lớn này, bốn châu châu báu đều đầy tràn, mang đến cúng dường các Như lai. Ta trong vô lượng kiếp xa kia, vì cầu chân pháp thân thanh tịnh, mọi vật yêu quý đều bỏ hết, cho đến thân mạng tâm không tiếc. Tiếp theo là nói về sự tu hành, có ba mươi hai bài tụng, toàn bộ chia làm bốn phần: Hai bài tụng đầu nêu chung về quá khứ cúng dường các Đức để cầu giáo pháp, hai mươi ba bài tụng tiếp theo trình bày riêng về quá khứ tu học kinh này, hai bài tụng tiếp theo là dứt trừ các nghi ngờ, kết thúc hội chúng xưa và nay, năm bài tụng cuối cùng nói về lợi ích tu học khuyến khích các chúng. Trong phần đầu có hai: Một bài tụng đầu là gần gũi các Đức Phật, một bài tụng tiếp theo là vì cầu giáo pháp cao quý. Văn kinh: Lại ở quá khứ khó tính kiếp, có năm Biến tri hiệu Bảo Kế, sau khi Như lai đó Niết-bàn, có vua ra đời tên Thiện Sinh, làm vua Chuyển luân coi bốn châu, khắp các biển lớn đều quy phục, có thành tên là Diệu Âm Thanh, khi vị vua đó trụ ở đây. Tiếp theo là phần thứ hai nói riêng về quá khứ tu học kinh này. Trong đó có bốn: Hai bài tụng đầu là người cầu pháp, mười sáu bài tụng tiếp theo chính là cầu pháp; một tụng tiếp theo là nhân đó được nghe, bốn tụng tiếp theo là y đó tu học. Phần đầu là người cầu pháp, có bốn: Nói về thời gian cầu pháp. “Có vua ra đời…” về sau là nói về người cầu pháp. “Làm vua Chuyển luân…” về sau là nói về sự giáo hóa của vua. “Có thành tên…” về sau là nói về chỗ ở. Văn kinh: Đêm mộng nghe nói phước trí Phật, thấy có Pháp sư tên Bảo Tích, ngồi thẳng trên tòa như mặt trời, giảng nói kinh Kim Quang nhiệm mầu. Lúc ấy vua kia tỉnh giấc mộng tỉnh, sinh lòng vui mừng khắp toàn thân, đến khi trời sáng rời cua vua, đi đến chỗ Bia- sô, Tăng-già. Cung kính cúng dường Thánh chúng xong, liền đó hỏi các đại chúng kia, về vị pháp sư tên Bảo Tích, thành tựu công đức độ chúng sinh? Bấy giờ, đại pháp sư Bảo Tích, ở trong một tịnh thất vắng lặng, đang niệm tụng kinh nhiệm mầu ấy, ngồi thẳng bất động thân tâm vui. Liền có Tỳ-kheo dẫn dắt vua, đến nơi ở của sư Bảo Tích, thấy sự ngồi thẳng ở trong thất, ánh sáng tướng tốt khắp cả thân, thưa vua đây chính là Bảo Tích, giữ gìn hạnh Phật thật sâu xa, đó là Kim Quang Minh nhiệm mầu, kinh vương bậc nhất trong các kinh. Vua liền lễ bái sư Bảo Tích, cung kính chắp tay mà cầu thỉnh, cúi mong Mãn Nguyệt Diệm Đoan Nghiêm (Đấng có khuôn mặt như vậy) vầng trăng đầy đoan nghiêm, nói cho pháp Kim Quang nhiệm mầu. Pháp sư Bảo Tích nhận lời vua, hứa nói cho Kim Quang Minh này, khắp nơi trong thế giới tam thiên, đại chúng các trời đều vui mừng. Vua ở nơi thanh tịnh rộng rãi, trang hoàng mọi châu báu lạ kỳ, nước thơm ngọt ngào rưới khắp nơi, các loại hoa quý đều rải đầy. Ngay nơi cảnh đẹp mấy tòa cao, treo phướn lọng lụa để trang nghiêm, các thứ hương bột và hương thoa, khắp nơi đều ngào ngạt mùi hương. Trời rồng, Tu-la, Khẩn-na-la, Mạc-hô-lạc-già và Dược-xoa, các trời đều rưới hoa Mạn-đà, đều đến cúng dường tòa cao kia. Lại có ngàn muôn ức vị trời, thích nghe chánh pháp đều nhóm họp, Pháp sư từ bổn tòa đứng dậy, thảy đều dùng hoa trời cúng dường. Lúc này, đại pháp sư Bảo Tích, tắm gội sạch sẽ mặc y mới, đến chỗ pháp tòa giữa đại chúng, chắp tay chí thành mà kính lễ. Thiên chủ, thiên chúng và thiên nữ, tất cả cùng rải hoa Mạn đà, trăm ngàn nhạc trời chẳng nghó bàn, ở giữa không trung phát tiếng hay. Bấy giờ, Đại pháp sư Bảo Tích, liền lên tòa cao ngồi kiết già, niệm các cõi nước khắp mười phương, trăm ngàn muôn ức Đại Từ Tôn, khắp cùng tất cả chúng sinh khổ, đều khởi niệm Từ bi bình đẳng, vì vua Thiện Sinh kia cầu thỉnh, giảng nói Kim Quang Minh nhiệm mầu. Thứ hai chính là cầu pháp, có mười một: Một bài tụng nhân nằm mộng nên thấy nghe; tiếng Phạn là La- đán-na (Hán dịch là Bảo), Câu-xá (Hán dịch là Tích, xưa dịch là Bảo Minh (sáng) hay Bảo Minh (tối) đều sai. 2 . Hai bài tụng là tỉnh mộng rồi đi tìm. Một bài tụng là chỗ ở của Pháp sư. Có hai bài tụng là bạn lành dẫn dắt chỉ rõ, trong đó có ba: Nửa bài tụng là đến chỗ ở, nửa bài tụng là nhìn thấy oai nghi tướng mạo, một bài tụng là nói về danh tướng và công hạnh. Một bài tụng thấy rồi bắt đầu cầu thỉnh. Nửa bài tụng Pháp sư hứa nhận. Nửa bài tụng đại chúng nghe nên vui mừng. Ba bài tụng trang nghiêm đạo tràng, có hai: Đầu tiên là nhà vua, tiếp theo là tám bộ, nhà vua có hai: Một bài tụng đầu trang nghiêm nơi chốn, một bài tụng tiếp đó trang nghiêm pháp tòa, tiếp đến một bài tụng “Trời rồng…” trở xuống là tám bộ cúng dường. Nửa bài tụng là các vị trời cùng tụ hội. Hai bài tụng rưỡi là Pháp sư đến đạo tràng, trong đó có: Nửa bài tụng đầu khởi định cảm ứng, một bài tụng tiếp đó nghi lễ đến pháp tòa, một bài tụng sau đại chúng tụ hội cúng dường. Hai bài tụng là lên tòa nói pháp, có ba: Nửa bài tụng là oai nghi, một bài tụng là vận ý tưởng, nửa bài tụng chính là nói kinh. Văn kinh: Vua đã được nghe pháp như vậy, chắp tay nhất tâm xướng vui theo, nghe pháp ít có lệ tuôn trào, thân tâm đều chứa chan niềm vui. Đây là một bài tụng là phần thứ ba, nhân đó được nghe. Văn kinh: Bấy giờ, quốc chủ vua Thiện Sinh, vì muốn cúng dường kinh pháp này, tay cầm ngọc ma-ni như ý, phát nguyện đều vì các chúng sinh, nay được ở châu Thiệm-bộ này, rưới các thứ chuỗi ngọc bảy báu, tất cả người thiếu thốn tiền của, đều sẽ tùy tâm được yên vui. Lập tức khắp nơi rưới bảy báu, trong bốn châu thảy đều đầy đủ, chuỗi ngọc đeo thân tùy nhu cầu, áo quần ăn uống đều không thiếu. Bấy giờ, quốc chủ vua Thiện Sinh, thấy bốn châu này rưới châu báu, đều mang cúng dường Phật Bảo Kế, tất cả di giáo Tỳ-kheo Tăng. Đây là bốn bài tụng là phần thứ tư y đó tu học, pháp thực hành có mười, ở đây chỉ nêu một loại là đầu tiên cúng dường. Cúng dường có mười pháp, ở đây là cúng dường thứ sáu; bởi vì rưới bảy báu ban cho tất cả chúng sinh là đồng với cúng dường. Ttrong đó có bốn: Nửa bài tụng đầu là việc phải làm, kế một bài tụng rưỡi là phát nguyện, kế một bài tụng là nguyện thành tựu, kế một bài tụng là cúng dường. Trong việc làm đầu tiên là cúng dường kinh này tức là pháp, trong cúng dường này tức là Phật và Tăng. Phật là chủ nói pháp, Tăng là người học pháp, kinh là sở học, cho nên đều cúng dường. Hỏi: Sao không cúng dường Đức Thế Tôn Bảo Kế mà chỉ nói tất cả Tăng? Đáp: Phật đã diệt độ; hoặc câu trên cúng dường Phật, câu dưới cúng dường Tăng. Hỏi: Nếu vậy thì Phật diệt độ rồi vì sao nói là cúng dường Phật? Đáp: Bởi vì biết là thường trụ, hoặc là cúng dường hình tượng Phật. Văn kinh: Nên biết vua Thiện Sinh quá khứ, chính là ta Thích-ca Mâu-ni, vì ở thời xưa bỏ mặt đất, và các châu báu đầy bốn châu. Đại pháp sư Bảo Tích ngày xưa, nói pháp mầu cho Thiện Sinh nghe, do đó giảng nói kinh vương này, hiện thành Phật bất động phương đông. Đây là hai bài tụng kết hợp xưa va nay, có hai: Đầu tiên là hợp với người cầu kinh, sau là hợp với người nói pháp. Vì sao? Vì muốn nói lên “nói và nghe” đều là pháp hành nên đều thành Phật. Văn kinh: Vì ta từng nghe kinh vương này, chắp tay một lời xưng vui theo, và các công đức thí bảy báu, được thân kim cang cao quý này. Kim quang trăm phước tướng trang nghiêm, hễ ai nhìn thấy đều vui vẻ, tất cả hữu tình đều ưa thích, câu-chi chúng trời cũng như vậy. Quá khứ từng qua chín mươi chín câu-chi ức kiếp làm Luân vương, cũng nơi nước nhỏ làm vua người, lại qua vô lượng trăm ngàn kiếp, trong vô lượng kiếp làm Đế Thích, lại cũng từng làm Đại Phạm vương, cúng dường đức Đại Từ thập lực, số lượng các Phật khó cùng tận. Xưa ta nghe kinh vui điều lành, tất cả nhóm phước khó biết lượng, do phước ấy nên chứng Bồ-đề, đạt được pháp thân chân diệu trí. Đây là năm bài tụng là phần thứ tư nói về lợi ích tu học, có ba: Hai bài tụng đầu nói về tu pháp hành, đạt được quả xuất thế, hai bài tụng tiếp theo nói về tu pháp hành đạt được quả báo xuất thế, một bài tụng sau cuối kết luận nhờ uy lực của kinh đạt được Bồ-đề. Bồ-đề là trí tướng, pháp thân chân diệu trí là trí tánh, nên Bồ-đề và Bồ-đề đoạn cũng gọi là Bồ-đề, hoặc Bồ-đề là chung, pháp thân tức chân như, diệu trí tức là bốn trí. Văn kinh: Lúc bấy giờ, đại chúng nghe nói như vậy xong, khen ngợi chưa từng có, đều nguyện thọ trì kinh Kim Quang Minh, truyền bá không dứt. Đây là phần ba, đại chúng phát nguyện tu học. ------------------------------ <詞>Phẩm 22: CHƯ THIÊN DƯỢC-XOA HỘ TRÌ Phẩm Chư Thiên Dược-xoa hộ trì có chia ra làm ba phần: Nói về lý do có phẩm này: Học hạnh lưu thông có năm mục, đây là mục thứ tư chính thức nói về sự trì học. Trì học lại có hai: Nêu ra ngày xưa. Khuyến khích ngày nay. Nêu ra ngày xưa có hai: Đầu tiên là nêu ra người khác trì học ngày xưa, tiếp là nêu ra tự mình trì học ngày xưa. Phẩm này khuyến khích đại chúng ngày nay trì học. Lại giải thích: Thành tựu công hạnh truyền bá của người năng trì kinh và tám bộ chúng trong phẩm Hộ quốc trước đây cho nên sinh khởi phẩm này. Giải thích tên gọi: Các trời, Dược-xoa là người khuyến khích. Hai chữ hộ trì là hạnh sở học. Hộ tức là hộ hành, trì tức là hành trì, tức là khuyến khích bốn chúng trì học, khuyến khích tám bộ kia hộ trì, cho nên dưới phẩm chỉ nói; “Thiên nữ Đại Cát tường và tất cả các vị trời nghe những gì Đức Phật đã nói đều rất vui mừng, đối với kinh vương này và người trì kinh nhất tâm ủng hộ”, nhưng không nói thọ trì. Lại giải thích: Tức là trụ trì kinh khiến cho không dứt gọi là hộ. Hộ tức là trì, như làm thành lũy giữ gìn chánh pháp, như vua cõi người giữ gìn đất nước, như nói Thiên vương Trì Quốc giữ gìn mười Địa hạnh… Vì vậy văn trường hàng ở đây chỉ dạy thực hành dâng cúng và muốn hiểu rõ hành xứ sâu xa của Phật, nên vì chúng sinh mà giảng nói truyền bá. Người nghe pháp đó nên dứt bỏ ý tưởng tán loạn, không nói khuyến khích người hộ trì kinh, đo đó hộ trì là nói hộ trì chánh pháp. Ở dưới nói rằng: “Thường đến hộ trì người này là do họ trì kinh cho nên được các vị trời che chở.” Vì thế ở dưới kinh nói: “Nếu nơi nào truyền bá kinh điển Kim Quang Minh này có ai xưng tụng đều được phước như trên.” Rõ ràng hộ trì kinh nên được lợi ích. Lại giải thích: Hộ trì bao gồm hai nghóa đó. Hộ trì đối với kinh là hộ trì người trì kinh. Ở dưới nói rằng: “Đối với kinh vương này và người trì kinh đều ủng hộ.” Ở đây giải thích tận cùng lý lẽ. Giải trừ vấn nạn. Hỏi: Đã nói phẩm này chính thức khuyến khích chúng ngày nay khiến thực hành tu học, vì sao “nghe và nói” chỉ có các vị trời vui vẻ ủng hộ mà không nói bốn chúng và tu hành? Đáp: Vì văn theo đó lược bỏ. Trước nêu rõ bảo rằng: “tức là các vị trời và các đại chúng”. Văn sau lại nói: “Cùng các vị trời… nghe những lời Đức Phật nói đều rất vui mừng.” Vui mừng tức là bao gồm nghóa tu hành. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Thiên nữ Đại Cát tường: Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào kính tin thanh tịnh, muốn đem vật dụng cúng dường vi diệu rộng lớn không thể suy nghó bàn luận lên các Đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại mà thực hiện dâng cúng và muốn hiểu rõ hành xứ sâu xa tột cùng của các Đức Phật ba đời. Tán rằng: Toàn phẩm chia làm ba: Đầu tiên là lược nêu khuyến khích, tiếp theo là bài tụng nói rộng, sau cuối đại chúng nguyện hộ trì. Trong phần đầu chia làm ba: Đầu tiên là báo với Thiên nữ; tiếp theo từ “Nếu có…” về sau nêu điều muốn thực hành, sau từ “người này…” trở xuống là khuyến khích mở mang giáo pháp này. Đây là hai phần đầu. Đầu tiên rộng cúng dường là tu tập phước hạnh, hiểu rõ hành xứ là tu tập trí hành. Tư lương Bồ-đề không gì hơn hai thứ này. Hành xứ sâu xa tức là hai thứ không và như. Vì thế văn sau nói: “Muốn đi sâu vào pháp giới, trước tiên nên nghe kinh này, chỗ tận cùng của pháp tánh sâu xa khéo an trụ.” Văn kinh: Người này nên quyết định dốc lòng hễ kinh vương này có mặt ở chỗ nào, hoặc trong thành ấp, xóm làng hay núi rừng ao hồ. Tiếp theo khuyến khích mở rộng kinh này, có ba: Đầu tiên là dạy phát khởi gia hạnh, tiếp từ “hễ kinh vương này…” về sau là nơi chốn mở mang kinh; sau từ “Rộng vì chúng sinh…” trở xuống là hạnh mở mang kinh. Nói quyết định dốc lòng là khởi quyết định suy nghó để làm cận gia hạnh. Giảng nói… ấy tức là phát động suy nghóa chính thức khởi hạnh. Nói dốc lòng tức là chuyên niệm bao gồm cả gia hạnh và chánh hạnh. Suy nghó kỹ càng xa lìa yếu kém, lược bỏ không nói. Lại nữa, quyết định tức là nghóa của sự mạnh mẽ không lui sụt. Vì thế Du-già quyển ba mươi tám chép: “Vì sao cầu nghe chánh pháp? Nghóa là các vị Bồ-tát vì muốn khiến cho lắng nghe thời nói pháp tốt lành, giả sử đường đi vì lửa dữ hừng hực mặt đất nóng như sắt nung, không có cách nào có thể được nghe thời nói pháp tốt lành này, lập tức phát tâm mạnh mẽ quý trọng vui mừng mà vào. Huống gì muốn nghe nhiều lời nói, ý nghóa hay khéo…?” Ở đây về sau cũng nói: “Giả sử lửa dữ cháy, khắp trăm du-thiện-na, vì nghe kinh Vương này, băng qua không ngại khổ.” Văn kinh: Rộng vì chúng sinh giảng nói truyền bá, người nghe pháp đó cần phải dứt bỏ ý tưởng tán loạn, nhiếp tai, dụng tâm trở xuống là hạnh mở mang, có hai. 1.Người học đã lâu có khả năng thực hành hạnh lợi tha bằng cách mở bày giảng nói. Người mới học tức là hạnh tự lợi cần phải lắng nghe. Trong mười pháp hành lược nêu ra hai pháp này để phản ảnh tám pháp còn lại. Hoặc hai người năng thuyết, năng thính cùng khuyến khích cả hai. Lại nữa, hễ kinh Vương này có mặt ở chỗ nào, tức là nói có quyển kinh và nơi truyền bá kinh pháp đều nên cúng dường, tu hạnh cúng dường. Cần phải dứt bỏ ý tưởng tán loạn v.v… Theo Du-già ba mươi tám chép: “Trong việc nghe pháp, thứ ba là dứt bỏ tán loạn, hết sức lắng nghe nói pháp” cách thức đầy đủ như trước đã nói. Văn kinh: Đức Thế Tôn liền vì Thiên nữ đó và các đại chúng nói Già-tha rằng : Nếu muốn thí các Phật, cúng dường không nghó bàn, lại hiểu các Như lai, cảnh giới sâu xa ấy. Nếu thấy giảng nói kinh, Kim Quang Minh trên hết, nên tự đến nơi đó, đến chỗ có kinh này. Kinh này khó nghó bàn, thường sinh các công đức, biển khổ rộng vô biên, giải thoát các hữu tình. Ta quán kinh Vương này, đầu giữa sau đều lành, sâu xa không lường được, thí dụ không thể sánh. Giả sử hằng hà sa, bụi đất đai nước biển, các núi đá hư không, không dụ được phần ít. Muốn vào sâu pháp giới, trước nên nghe kinh này, tận cùng của pháp tánh, khéo an trú sâu xa. Vào trong tận cùng này, thấy ta Đấng Mâu- ni, diệu âm thanh thích ý, giảng nói kinh điển này. Từ đó câu chi kiếp, số lượng khó nghó bàn, sinh ở trong trời người, thường được vui nhiệm mầu. Nếu người nghe kinh này, nên khởi tâm như vầy: Mình được bất tư nghị, công đức uẩn vô biên, giả sử lửa dữ cháy, khắp trăm du-thiện- na, vì nghe kinh vương này, băng qua không ngại khổ. Đã đến trú xứ kia, được nghe kinh vương này, diệt trừ các tội nghiệp và trừ các ác mộng, sao xấu các biến quái, mọi trùng độc tà mị, lúc được nghe kinh này, các ác đều dứt bỏ. Tiếp theo là phần thứ hai, bài tụng nói rộng. Tất cả có bảy mươi chín bài tụng chia thành bốn phần: Đầu tiên hai mươi ba bài tụng nói về hai hạnh nói và nghe: Tiếp từ “Phạm vương Đế Thích chủ…” về sau bốn mươi mốt bài tụng nói về Thiên thần ủng hộ. Tiếp từ “ở trong Nam châu này…” về sau mười bốn bài tụng nói về uy lực của kinh; cuối cùng một bài tụng tổng kết về nói và nghe. Trong phần đầu chia làm: Đầu tiên mười hai bài tụng nói về hạnh nghe pháp, sau từ “Nên sửa sang tòa cao…” trở xuống mười một bài tụng nói về hạnh giảng nói. Phần đầu lại chia làm năm: Một bài tụng nêu rõ cầu phước trí. Một bài tụng khuyến khích đến pháp hội. Tiếp đến ba bài tụng khen ngợi công đức của kinh, trong đó có ba: Một bài tụng khen ngợi về sinh thiện diệt ác, một bài tụng cơ ngợi công đức của kinh, trong đó có ba: Một bài tụng khen ngợi về sinh thiện diệt các, một bài tụng khen ngợi về mười công đức của pháp, ở đây lược nêu ra bốn đức: tức là đầu, giữa, sau đều thiện, nghóa lý sâu xa cùng tột, theo đó ảnh hiện sáu đức còn lại, thứ năm là văn xảo, thứ sáu là vô tạp, thứ bảy là cụ túc, thứ tám là thanh tịnh, thứ chín là tiên bạch, thứ mười là phạm hạnh tướng, rộng như Du-già quyển tám mươi ba giải thích trong phần Nhiếp sự, một bài tụng là ví dụ để trình bày. Năm bài tụng tiếp theo khuyến khích nên nghe pháp, trong đó có năm: Một bài tụng khuyến khích lắng nghe, về tận cùng của pháp tánh ấy, như kinh Pháp Hoa nổi lên một tòa tháp báu không cần xá-lợi vì đã có toàn thân, ở đây cũng giống như vậy, có thể giải thích rõ ràng cho nên liền thấy pháp thân, một bài tụng thấy Báo thân do đó nói cũng tương tự, một bài tụng đạt được quả báo tốt, một bài tụng khiến cho mừng vui, một bài tụng khiến cho quyết định lắng nghe. Hai bài tụng tiếp theo là lợi ích nghe kinh. Văn kinh: Nên sửa sang tòa cao, sạch đẹp như hoa sen, Pháp sư ngồi trên đó, giống như tòa rộng lớn. An tọa nơi đó rồi, nói kinh sâu xa này, viết chép và tụng trì, cùng giải thích nghóa lý. Pháp sư rời chỗ này, đi đến các nơi khác, ở trên tòa cao này, thần thông chẳng một tướng. Hoặc thấy như Pháp sư, đang ngồi trên tòa cao, hoặc lúc thấy Thế Tôn, cho đến các Bồ-tát, hoặc hiện tướng Phổ Hiền, hoặc như Diệu Cát Tường, hoặc thấy Đấng Từ Thị, thân ở nơi tòa cao; hoặc thấy tướng kỳ lạ, cho đến tượng các trời, tạm nhìn thấy nghi dung, bỗng nhiên không hiển hiện. Thành tựu bao điềm lành, mọi việc đều như ý, công đức đều đầy đủ, Thế Tôn nói như vậy. Có danh xưng cao quý, thường dứt các phiền não, giặc nước khác đều trừ, chiến đấu thường thắng lợi. Ác mộng đều không còn và tiêu mọi độc hại, ba nghiệp tội đã làm, năng lực kinh trừ diệt. Nơi châu Thiệm-bộ này, danh xưng đều vang khắp, các oán kết vốn có, thảy đều được xa lìa. Nếu có oán địch đến, nghe tên liền rút lui, không cần động gươm đao, đôi bên được vui vẻ. Tiếp theo là mười một bài tụng nói về hạnh giảng nói, lại chia làm năm: Nửa bài tụng là trang hoàng pháp tòa. Tiếp nửa bài tụng là nghi thức của Pháp sư. Tiếp một bài tụng là giảng nói kinh, tức là dạy người khác viết chép và đọc tụng, thọ trì. Tiếp bốn bài tụng là tướng lành nói pháp. Tiếp năm bài tụng là lợi ích giảng nói pháp, có mười: Được tốt lành. Việc làm thành tựu. Công đức đầy đủ. Tiếng tăm vang khắp. Dứt các phiền não. Trừ mọi oán địch. j) Không còn ác mộng. h) Tiêu sạch độc hại. Dứt các nghiệp tội. Không có oán thù. Ba bài tụng đầu mỗi bài tụng đều có ba lợi ích, hai bài tụng sau có một lợi ích, như văn có thể biết. Văn kinh: Phạm vương Đế Thích chủ, tứ Thiên vương hộ thế, và Kim Cang, Dược-xoa, đại tướng Chánh liễu tri, Long vương Vô nhiệt trì, cho đến Sa-yết-la, thần nhạc Khẩn-na-la, Tu-la, Kim sí vương, Thiên nữ Đại Biện tài cùng trời Đại Cát tường, các trời đứng đầu ấy, đều dẫn các chúng trời, thường cúng dường các Phật, Pháp bảo không nghó bàn, thường sinh tâm vui mừng, sinh cung kính đối kinh. Các chúng trời như vậy, tất cả cùng suy nghó, thấy mọi người tu phước, cùng nói lên như vầy: Nên xét hữu tình này, đều là đại phước đức, sức gốc lành tinh tấn, sẽ sinh đến cõi ta. Vì nghe kinh sâu xa, tâm cung kính dốc lòng, cúng dường pháp tận cùng, vì tôn trọng chánh pháp, thương xót các chúng sinh, mà làm lợi ích lớn, với kinh sâu xa này, chính là pháp bảo khí, người vào pháp môn này, có thể vào pháp tánh, với Kim Quang Minh này, nên dốc lòng nghe nhận. Người này từng cúng dường, vô lượng trăm ngàn Phật, do các gốc lành đó, được nghe kinh điển này. Như thế các Thiên vương, Thiện nữ Đại Biện tài và trời Đại Cát tường, cho đến Tứ Vương chúng, vô số chúng Dược-xoa, có thần thông mạnh mẽ, đều ở khắp bốn phương, thường cùng đến ủng hộ. Trời Đế Thích, nhật nguyệt, các thần gió lửa nước, Phệ-suất-nộ Đại Kiên, Diêm-la, Biện tài, tất cả các hộ thế, có uy thần mạnh mẽ ủng hộ người trì kinh, ngày đêm thường không rời, vua Dược-xoa sức mạnh, Na-la-diên tự tại, Chánh liễu tri đứng đầu, hai tám bộ Dược-xoa, trăm ngàn Dược-xoa khác, có sức mạnh thần thông, luôn ở nơi sợ hãi, thường đến hộ người này. Kim Cang Dược-xoa, cùng năm trăm quyến thuộc, các chúng Đại Bồ-tát, thường đến hộ người này. Bảo Vương Dược-xoa chủ, cho đến Mãn Hiền vương, khoáng dã Kim-tỳ-là, Tân-độ-la hoàng sắc, các vua Dược-xoa này, cùng năm trăm quyến thuộc, thấy nghe được kinh này, đều đến để che chở. Thái quân Càn-thát-bà, Vi vương thường chiến thắng, châu cảnh và thanh Cảnh, cùng vua Bột-lý-sa, Đại Tối Thắng, Đại Hắc, Tô-bạt-noa-kê-xá, Bán-chi-ca dương túc, cho đến Đại-bà- già, Tiểu cừ và hộ pháp, cho đến vua loài khỉ, lông chim mắt chó, tóc báu đều đến hộ. Đại Cừ Nặc-câu-la, chiên đàn dục trung thắng, Xá-la và Tuyết sơn, cho đến Bà-đa sơn, đều có đại thần thông, có năng lực hùng mạnh, thấy người trì kinh này, cùng che chở đều đến. A-na-bà- đáp-đa, cho đến Sa-yết-la, Mục-chân Y-la-diệp, Nan-đà Tiểu-nan-đà, ở trong trăm ngàn rồng, có thần thông oai đức, Tỳ-ma-chất-đa-la, Mẫu chỉ Thiêm-bạt-la, Đại kiên và Hoan hỷ, và vua Tu-la khác, cùng vô số chúng trời, có đại lực mạnh mẽ, đều đến hộ người này. Ha-lợi-đề Mẫu thần, năm trăm chúng Dược-xoa, lúc người đó ngủ say, thường đến cùng ủng hộ Chiên-trà, Chiên-trà-lợi, Dược-xoa Chiên-tró nữ, Côn-đế Cẩu-tra-xỉ, hút tinh khí chúng sinh, các thần quỷ như thế, có sức mạnh thần thông, thường hộ người trì kinh, ngày đêm không rời xa. Trời Biện tài đứng đầu, vô lượng các Thiên nữ, trời Cát tường là đứng đầu, cùng các quyến thuộc khác, Thần nữ mặt đất này, thần quả hạt vườn rừng, thần cây thần sông suối, tận cùng các loại thần, các thần đất như thế, tâm vô cùng vui mừng, họ đều đến che chở, người đọc tụng kinh này. Thấy có người trì kinh, thêm thọ mạng sắc lực, uy quang và phước đức, tướng tốt để trang nghiêm. Các sao hiện tai biến, nguy khốn đến người này, mộng thấy ác chẳng lành, thảy đều khiến trừ diệt. Thần nữ mặt đất này, có uy thế vững chắc, do uy lực kinh này, thường đầy đủ pháp vị, nếu đất tốt giảm xuống, hơn trăm du-thiện-na, thần đất khiến tăng lên, tưới nhuần trên mặt đất. Đất này dày sáu mươi tám ức du thiện na, cho đến vùng kim cang, vị đất đều khiến tăng. Tiếp theo bốn mươi mốt bài tụng, được Thiên thần ủng hộ, lại chia làm hai: Ba mươi chín bài tụng đầu nói về nghe kinh được che chở, hai bài tụng sau nói về lý do che chở. Phần đầu được che chở có sáu: Mười hai bài tụng hộ trì người nghe lại có ba. Bốn bài tụng đầu nói về Thiên thần cung kính vui vẻ, sáu bài tụng tiếp theo nói về che chở người nghe kinh. Có bốn: Một bài tụng suy nghó, quán xét người thực hành, một bài tụng được ngợi khen sinh lên cõi trời, ba bài tụng ngợi khen khuyến khích nghe kinh, một bài tụng ngợi khen gốc lành xưa kia; hai bài tụng sau nói về sự vệ hộ đó. Năm bài tụng che chở người nói kinh. Phệ-suất-nộ là tên gọi khác của trời Na-la-diên, lại vì hình dáng to lớn nên gọi là Đại Kiên. Hai bài tụng lại che chở người nghe. Kim-tỳ-la Hán dịch là Khổng, Tân-độ-la Hán dịch Khổng tước. Mười hai bài tụng lại hộ trì người nói kinh. Thái quân Càn-thát- bà vì mặc áo nhiều màu sặc sỡ quân lính. Vì vương là thần vương các loài cỏ, đeo ngọc châu ở cổ, cổ và gáy của thần màu xanh, Bột-lý-sa-bà Hán dịch là Ngưu, là thần vua loài trâu. Văn tụng gò bó cho nên lược bỏ chữ Bà-Tô, Hán dịch là Hảo. Bạt-noa Hán dịch là Kim, Kê-xá Hán dịch là Phát, là quỷ thần tóc vàng đẹp. Bán-chi-ca Hán dịch là Ngũ, tức năm vị thần, thần túc giống như loài dê. Đại Bà Già, Hán dịch oai đức, là thần kênh rạch. Nặc-câu-la dịch đúng là Thử lang, tên một vị thần. Xá- la, Hán dịch là ốc, tên núi, thần nương theo núi đó lấy núi làm tên. Bà- đà-sơn, Hán dịch là Kham đảo, A-na-bà-đáp-đa, Hán dịch là Vô nhiệt não. Sà-yết-la, Hán dịch là Hàm hải. Mục chân, Hán dịch là Giải thoát. Y-la-diệp xưa dịch là Y-lan-thọ. Bà-tró, Hán dịch là Đoàn viên. Tỳ-ma- chất-đa-la, Hán dịch là Y họa. Mẫu chỉ, Hán dịch là Hảo, Thiêm-bạt-la Hán dịch là Thực, cũng chẳng phải tên của trời, cũng dịch là thần Ẩm thực. Ha-lợi-đề quỷ mẫu như trước giải thích. Chiên-trà giọng nam gọi là Dược-xoa, Chiên-trà-lợi là giọng nữ gọi Côn-đế, Cẩu-tra-xỉ tức là loài răng dài bao bọc. Ba bài tụng che chở người đọc tụng. Năm bài tụng lại che chở người nói kinh. Văn kinh: Do nghe kinh Vương này, chứa nhóm công đức lớn, thường khiến các chúng trời, đều được lợi ích đó; lại khiến các chúng trời, có uy lực ánh sáng, thường vui vẻ an lạc, xa lìa các tướng suy. Hai bài tụng nói về lý do được che chở. Nêu người nghe kinh để so sánh người trì tụng, giảng nói. Văn kinh: Ở trong Nam châu này, thần lúa mạ hoa trái, do uy lực kinh này, tâm thường được vui vẻ; hoa trái đều tươi tốt, khắp nơi có hoa đẹp, quả hạt đều sinh sôi, đầy khắp trên mặt đất. Tất cả các cây trái, cho đến các vườn rừng, thảy đều mọc hoa đẹp, mùi hương luôn ngào ngạt. Cỏ dại và cây cối, đều nở hoa tươi đẹp và sinh quả ngon ngọt, khắp nơi đều đầy đủ. Ở châu Thiệm-bộ này, vô lượng các Long nữ, tâm sinh rất vui mừng, đều cùng vào trong hồ, các loại Bát-đầu-ma, cho đến Phân-đà-lợi, hai hoa sen màu trắng, trong hồ đều chứa đầy. Do uy lực kinh này, hư không thoáng không che, mây mù đều xua tan, tối tăm đều sáng sủa, mặt trời lên sáng ngời, không bẩn và thanh tịnh, do năng lực kinh vương, soi sáng bốn cõi trời. Uy đức của kinh này, giúp đỡ cho thiện tử, đều dùng vàng Thiệm-bộ, để làm thành cung điện, nguy nga thiên tử chào đời, thấy châu này vui vẻ, dùng ánh sáng rực rỡ, đều chiếu rọi cùng khắp. Ở trong mặt đất đó, tất cả hồ hoa sen, mặt trời soi đúng lúc, đều cùng nhau nở rộ. Nơi châu Thiệm-bộ này, ruộng đồng các quả thuốc, đều khiến cho tốt đẹp, đầy khắp trên mặt đất. Do uy lực kinh này, nơi trời trăng chiếu soi, các sao không sai kỳ, gió mưa đều thuận mùa. Khắp châu Thiệm-bộ này, đất nước đều vui sướng, hễ nơi có kinh này, thù thắng hơn phương khác. Mười bốn bài tụng khen ngợi uy lực của kinh, có tám: Bốn bài tụng đầu do uy lực của kinh nên hoa màu ngũ cốc dồi dào ngon ngọt, hai bài tụng tiếp theo là ao hồ có nhiều hoa, một bài tụng tiếp là hư không sạch sẽ thường sáng tỏ, ba bài tụng tiếp là mặt trời thêm ánh sáng, một bài tụng tiếp là hoa sen theo mặt trời nở rộ, một bài tụng tiếp là quả thuốc thường đầy đủ, một bài tụng tiếp là mưa gió đúng mùa, sao theo đúng kỳ hạn, một bài tụng tiếp là tổng kết về uy lực của kinh. Văn kinh: Nếu nơi nào truyền bá, kinh Kim Quang Minh này, ai có thể giảng tụng, đều được phước như trên. Một bài tụng tổng kết về các công đức đạt được từ sự giảng nói, lắng nghe . Văn kinh: Bấy giờ, Thiên nữ Đại Cát tường và chúng trời nghe lời Phật nói, đều rất vui mừng, đối với kinh vương này và người thọ trì, nhất tâm ủng hộ khiến cho không còn lo buồn khổ não, thường được yên vui. Toàn bộ đoạn thứ ba nói về đại chúng phát nguyện ủng hộ. ----------------------- <詞>Phẩm 23: THỌ KÝ Phẩm Thọ Ký là phẩm thứ hai mươi ba có chia ra làm ba phần: Nói về lý do có phẩm này: trong phần Học hạnh lưu thông có năm mục, đây tức là mục thức năm thành tựu từ các phẩm trước, khiến cho ý của học hạnh có ba: Vì thọ ký. Vì dứt nghi. Lại tiếp tục khuyến khích. Đây là phần đầu vì thọ ký. Thọ ký là nói thực hành chắc chắn được quả, quả chắc chắn nhờ đó mà thành tựu. Vì vậy sau phẩm hộ trì có phẩm Thọ Ký. Giải thích tên gọi: Thọ là trao cho ban cho, ký là phân biệt, nghiệm xét. Vì sự phân biệt nghiệm xét đó, cho nên đem quả trao cho, vì thế gọi là thọ ký. Giải trừ chướng ngại: Hỏi: Diệu Tràng nghe kinh chưa hề được thọ ký, vì sao nay nói là thành tựu hạnh trước nên có phẩm này phát sinh? Đáp: Không phải là ý chính thọ ký cho Diệu tràng và hai người con của Diệu tràng. Như hai loại ni chúng trong kinh Pháp Hoa, là khuyến khích trì kinh, họ muốn nghe sự ghi nhận mới tu học được cho nên ban cho sự thọ ký, không phải đây là lúc ban cho sự thọ ký, vì trước đó đã thọ ký. Do đó, kinh ấy chép: “Trước đây ta nói tất cả Thanh văn đều được thành phật, nay đại chúng ở đây cũng giống như thế.” Rằng nếu ai trì kinh thì được thành Phật, ai là người được thành Phật? Có tâm nghi ngờ này thì chưa thể quyết định tu học, do đó vì khiến cho dứt trừ nghi ngờ nên thọ ký cho Diệu tràng, muốn cho đại chúng biết rằng sẽ thành Phật mà quyết định khả năng thực hành, nếu không như thế thì phải ở sau phẩm Diệt Nghiệp Chứng ở trước, hoặc sau phẩm Liên Hoa Dụ tán ban cho sự thọ ký, lúc ấy đã ngộ, sao không ban cho sự thọ ký? Như tam châu thuyết pháp hội Pháp Hoa, sau mỗi châu đều thọ ký không ở ngay sau đó. Hỏi: Nếu vậy sao trước không thọ ký cho họ? Đáp: Bồ-tát Diệu tràng đã vào địa thứ tám, trước đó được thọ ký nên khiến cho khuyến khích trì kinh, cho nên nói lại. Lại giải thích: Phải thọ ký trước. Sự thọ ký ở xứ này bao hàm nhiều nghóa: một là thọ ký cho những người như Diệu tràng, hai lại vì thành tựu ở trước. Lại nữa, trước lúc mười ngàn Thiên tử chưa đến pháp hội, cũng hiển bày vừa mới nghe đều được thành Phật huống hồ tu học lậu xa không được làm Phật hay sao? Lúc này một lời thọ ký được nhiều ích lợi, cho nên cũng không quá đáng. Hỏi: Mười ngàn vị thiên tử vừa mới nghe liền được thọ ký, đại chúng trong pháp hội sao không được thọ ký? Đáp: Những người kia căn cơ đã chín muồi, còn những người này căn cơ chưa thành thục. Hơn nữa, họ đã nghe trì kinh thành Phật, chúng trong pháp hội này chưa nghe, cho nên lại nói như vậy. Văn kinh: Lúc ấy, Đức Như lai ở giữa đại chúng nói pháp này xong muốn thọ ký cho Bồ-tát Diệu Tràng và hai người con là Ngân Tràng, Ngân Quang quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tán rằng: Văn trong chia làm hai: Đầu tiên là đại chúng tề tựu, sau là thọ ký cho. Trong phần đại chúng tề tựu, có hai: Đầu tiên đây là tựa kết tập. Văn kinh: Lúc ấy, có mười ngàn vị Thiên tử có ánh sáng rực rỡ nên làm người đứng đầu, đều từ cõi trời tam thập tam đến chỗ Đức Phật đảnh lễ dưới chân Phật xong, lùi về ngồi một bên, nghe Đức Phật nói Pháp. Tiếp theo nói về đại chúng tề tựu. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Diệu Tràng rằng: Ông ở đời sau trải qua vô lượng vô số trăm ngàn muôn ức na-dữu-đa kiếp, sẽ thành tựu quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nơi thế giới Kim Quang Minh, hiệu là Kim Bảo Sơn Vương Như lai ứng chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, xuất hiện ở thế gian. Tiếp theo là thọ ký, có hai: Đầu tiên là thọ ký cho ba vị Đại só, sau là thọ ký cho mười ngàn vị Thiên tử. Ba Đại só là ba đoạn. Đoạn đầu lại có năm phần: Nêu tên gọi. Thọ ký thời gian. Thọ ký cõi nước. Thọ lý quả vị, tức là vô thượng Bồ-đề. Thọ ký danh hiệu, tức là Kim Bảo Sơn v.v… danh hiệu có chung riêng, như văn có thể biết. Về nghóa của thọ ký đại khái có chia ra bốn phần: Lý do thọ ký. Người năng thọ ký. Người được thọ ký. Thọ ký khác nhau. Nói về lý do thọ ký, có ba nghóa: Vì Bồ-tát tu tập chứa nhóm nhiều công đức, chứng được pháp tánh, nên thọ ký cho. Vì vậy luận Pháp Hoa nói: “Các vị Thanh văn kia vì thật sự thành Phật cho nên thọ ký riêng cho, hay vì không thành Phật mà thọ ký cho?” Nếu thật sự thành Phật thì vì sao Bồ-tát trong vô lượng kiếp tu hành chứa nhóm vô lượng công đức? Luận đó đáp: “Các Thanh văn kia được thọ ký là đạt được tâm quyết định, chẳng phải thành tựu pháp tánh.” Ý này thì rõ ràng. Vì các Bồ-tát tu hành nhiều kiếp chứa nhóm vô lượng công đức, thành tựu pháp tánh, cho nên được thọ ký, tức là từ địa thứ tám trở lên. Do đó Du- già bốn mươi sáu chép: Lại nữa, các Bồ-tát có ba thứ quyết định: Chủng tánh định, phát tâm định, bất hư hạnh định cho đến nói: “Nương vào nơi cuối cùng, rơi vào giai vị quyết định, được các Đức Phật Như lai thọ ký cho các Bồ-tát rơi vào chỗ quyết định.” Vì dứt bỏ nghi ngờ của Bồ-tát Tiểu thừa về bất định tánh. Vì vậy luận Nhiếp Đại thừa v.v… chép: “Vì dẫn nhiếp vào một loại và nhậm vận nắm giữ một loại Thanh văn bất định tánh còn lại cùng Bồ-tát bất định tánh còn lại, sợ rằng Bồ-tát này bỏ đại theo Tiểu, cho nên thọ ký rằng sẽ được thành Phật.” Vì mừng vui với quả Phật ấy nên thấy sự thọ ký này mà ưa thích sẽ tự đạt được. Lại nói lên nghe kinh chắc chắn được thành Phật, bởi vì thọ trì thực hành kinh này là tu nhân thành Phật. Do đó kinh Pháp Hoa chép: “Đại trí Xá-lợi-phất nay được thọ ký địa vị tôn quý, chúng ta cũng đều đạt được pháp nhiệm mầu bật nhất…” Kinh này cũng chép: “Lúc mười ngàn vị thiên tử nghe ba vị đại só được thọ ký, lại nghe kinh Tối Thắng Vương như vậy nên tâm sinh vui mừng, thanh tịnh trong sạch giống như hư không.” Tâm mừng vui không nghi ngờ này tức là vui mừng thành Phật, tin pháp tu hành. Thứ hai là nói về người năng thọ ký, lại có ba nghóa: Chỗ nương của người năng thọ ký là giả. Thể của người năng thọ ký. Dụng của người năng thọ ký. Chỗ nương của người thọ ký là y cứ vào thuyết của luận Du-già bốn mươi chín. Năng thành tựu có sáu: Thắng giải hạnh địa. Tăng thượng ý lạc địa. Chánh hạnh địa. Quyết định địa. Quyết định hạnh địa. Cứu cánh địa. Sáu địa vị này đều là năng thọ ký, nhưng địa vị rốt ráo thì Phật và Bồ-tát khác nhau. Phật có ba thân, nhưng hai thân tha thọ dụng và biến hóa là giả, có công năng khác với Thập địa và Địa tiền. Nhưng đối với địa vị cứu cánh thì Bồ-tát địa thứ mười và năm địa vị trước chỉ là tổng tướng thọ ký; không thể biết rõ tên gọi cõi nước lúc người kia được thành Phật, bởi vì người dưới không thể biết được việc trên. Nếu y theo tổng tướng quán xét nhân thọ ký quả thì nói được thành Phật, Bồ- tát cũng có thể. Cho nên trong kinh Pháp Hoa, Bồ-tát Bất Khinh thọ ký cho bốn chúng kia sẽ được thành Phật, do đó năng thọ ký không vượt quá sáu địa vị này. Hoặc Nhị thừa định tánh không ngu muội đối với pháp tin có Đại thừa cũng được thọ ký chung. Như trong kinh Bồ-tát giới chép: “Xưa có vị La-hán, hướng dẫn một Sa-di, nhân đó phát đại tâm, liền sinh ý tôn trọng, nên được thọ ký.” Thể của người năng thọ ký (năng ký thể), nghóa là hậu đắc tục trí nên biết rõ căn tánh, hậu đắc quán lý cũng không thể thọ ký. Đây là dựa theo hàng Thánh. Nếu là Địa tiền chỉ là trí tỷ lượng. Dụng của người năng thọ ký, đó là giải thích ngôn giáo để biểu hiện nghóa lý. Thứ ba, nói về người được thọ ký, có hai: Sở ký y và sở ký thể. - Sở ký y có bốn: Chủng tánh vị. Phát tâm vị. Nhị thừa Bất định. Các đại Bồ-tát. Đây là căn cứ vào biểu hiện rõ ràng. Hoặc ẩn mật ký và bình đẳng ý lạc cũng chung cho cả định tánh và người vô tánh. Sở ký thể tức là vô lậu thiện chung cho cả hiện tại và chủng tánh, cùng quả sở đắc. Quả chung cho cả Báo thân và Hóa thân, ngoại trừ pháp tánh thân. Ngay trong Báo thân phần nhiều nói về Tha thọ dụng, vì có cõi nước, quyến thuộc v.v… nên hiện bày Từ bi, nên có khác nhau. Thứ tư là thọ ký sai biệt, trong kinh Thủ-lăng-nghiêm “Đức Phật bảo Bồ-tát Kiên ý: Thọ ký có bốn thứ, có người chưa phát tâm mà thọ ký cho, có người vừa phát tâm mà thọ ký cho, có người bí mật thọ ký, có người đạt được vô sinh nhẫn hiện tiền mà thọ ký. Đó là bốn thứ, chỉ có Như lai thường biết rõ việc này.” Kinh Bảo Vân đồng với Du-già quyển bốn mươi sáu chép: “Sơ lược do sáu tướng, được các Đức Như lai đặc biệt thọ ký cho đối với quả vị Vô thượng Bồ-đề. Sáu tướng ấy gồm: An trú chủng tánh chưa phát tâm vị. Đã phát tâm vị. Hiện tại tiền vị. Bất hiện tiền vị. Bốn tướng trên đây đồng với kinh Thủ-lăng-nghiêm, bí mật thọ ký ở kinh đó tức là bất hiện tiền, bởi vì ở nơi bí mật, hoặc đạt được vô sinh nhẫn gọi là hiện tiền, người chưa đạt được gọi là bất hiện tiền, hoặc đang có mặt gọi là hiện tiền, thân không ở nơi chỗ ngồi gọi là bất hiện tiền. Có thời hạn nhất định, nghóa là lúc ấy hứa sẽ chứng được vô thượng chánh đẳng Bồ-đề. Không có thời hạn nhất định, nghóa là không nói ra thời gian quyết định mà thọ ký cho.” Luận Đại trang nghiêm quyển mười hai nói về sáu thứ cũng giống như vậy. Luận đó chép: “Thọ ký có hai thứ: Người đặc biệt và thời gian đặc biệt, người đặc biệt tức là bốn thứ trước, thời gian đặc biệt tức là hai loại sau.” Luận đó lại chép: “Chuyển ký và đại ký ở đây lại có hai thứ: Một là chuyển ký, nghóa là vị Bồ-tát kia sau này vào thời gian như thế, Như lai như thế sẽ được thọ ký. Hai là Đại ký, ở địa thứ tám đạt được Vô sinh nhẫn, nhờ dứt bỏ nên tự nói ta sẽ thành Phật, và vì dứt hết tất cả tướng phân biệt…Chuyển ký tức thuộc về ba thứ đầu của kinh Thủ-lăng-nghiêm, đại ký tức thuộc về loại thứ từ.” Luận đó lại nói sáu thứ, khác với kinh Thủ-lăng-nghiêm và luận Du-già: “Sáu thứ ấy là gì? Đó là: Sát độ. Danh tự. Thời tiết. Kiếp danh. Quyến thuộc. Pháp trú.” Nay ở đây trong văn thọ ký cho Diệu tràng, có ba: Ở nơi thế gian Kim Quang Minh… là tên gọi của sát độ, Kim Bảo Sơn… là danh tự, ông ở đời sau qua vô lượng vô số kiếp… là thời tiết, lược bỏ không có tên kiếp, quyến thuộc và pháp trú. Văn kinh: Sau khi đức Như lai này nhập Niết-bàn, tất cả giáo pháp cũng đều diệt hết. Lúc ấy, trưởng tử tên là Ngân Tràng liền ở nơi thế giới này tiếp tục bổ xứ Phật. Thế giới bấy giờ đổi tên thành Tịnh Tràng, sẽ được thành Phật hiệu là Bạch Kim Tràng Quang Như lai Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Tiếp theo thọ ký cho vị đại só thứ hai, văn cũng chia làm năm phần: Thọ ký thời gian. Lặp lại tên gọi. Thọ ký xứ sở. Thọ ký cõi nước, từ “liền ở nơi thế giới này…”. Thọ ký danh hiệu, cũng có chung riêng. Văn kinh: Sau khi Đức Như lai này nhập Niết-bàn, tất cả giáo pháp cũng đều mất hết, thứ tử Ngân Quang liền liền bổ xứ Phật, trở về thế giới này sẽ được thành Phật hiệu là Kim Quang Minh Như lai Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Tiếp theo thọ ký cho vị đại só thứ ba, văn cũng có năm phần: Thọ ký thời gian. Nêu danh hiệu. Thọ ký bổ xứ. Thọ ký cõi nước tức là ở thế giới này. Thọ ký danh hiệu, cũng có chung, riêng. Văn kinh: Lúc ấy, mười ngàn vị Thiên tử nghe ba vị đại só được thọ ký rồi, lại nghe kinh Tối Thắng Vương này thì sinh tâm vui mừng, thanh tịnh không dấy bẩn, giống như hư không. Bấy giờ, Đức Như lai biết mười ngàn vị Thiên tử này đã thành thục gốc lành nên nhân tiện thọ ký cho quả vị đại Bồ-đề: Thiên tử các người vào đời sau này trải qua vô lượng vô số trăm ngàn muôn ức na-dữu-đa kiếp. Tiếp theo đoạn lớn thứ hai, văn chia làm bốn phần: Thọ ký cho. Nghi ngờ phát sinh. Dứt trừ cho. Vui mừng tin nhận. Trong phần đầu có ba: Đầu tiên là Thiên tử thấy nghe tâm sinh vui mừng, tiếp theo từ “Bấy giờ, Đức Như lai…” trở xuống là Như lai biết gốc lành của họ đã thành thục, sau từ: Nhân tiện… trở xuống chính là thọ ký, có tám: Nêu lời tựa. Nêu danh hiệu. Thọ ký thời gian. Nhưng kiếp có nhiều loại, như luận Pháp Hoa có năm thứ, đó là ngày, đêm, tháng, giờ, năm, hoặc nói đói kém, tật dịch, chiến tranh là ba kiếp, hoặc nói một lần tăng, một lần giảm là một kiếp, như hai mươi trụ kiếp… hoặc nói tám mươi lần tăng giảm là một kiếp, tức là hỏa tai kiếp, hoặc nói bảy lần hỏa tai là một kiếp, tức là thủy tai kiếp, hoặc nói năm mươi sáu lần hỏa tai, bảy lần thủy tai là một kiếp, tức là phong tai kiếp, hoặc nói vô lượng phong tai là một kiếp, tức là ba đại tăng-kỳ kiếp, hoặc nói một trăm sáu mươi kiếp là một kiếp, như kiếp Hiền này, hoặc nói nhiều lần tám mươi kiếp là một kiếp, tức là kiếp tinh tú… Hết tổng số thời lượng một ngàn Đức Phật đó xuất hiện ở thế gian gọi là một kiếp tinh tú. Như kiếp số đã nói trong kinh Pháp Hoa, phần lớn dựa theo ngày, đêm, tháng, giờ, năm… Như nói các địa vị Thập trụ đều trải qua như vậy chừng mấy kiếp, tức là các kiếp phong tai v.v… như thế. Ở đây nói trải qua vô lượng vô số… tức là trải qua tăng giảm hoặc phong tai v.v… không phải là đại tăng-kỳ. Tu hành thành Phật không trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Hỏi: Căn tánh tu hành có chuyên cần, biếng nhác khác nhau, làm sao nói chắc chắn là ba đại tăng-kỳ kiếp? Đáp: Y cứ theo lúc tác ý, phương tiện thiện tâm trong từng sát-na một liên tục với thời lượng trải qua ba đại kiếp, không phải là bao gồm chọn lấy lúc tu và không tu, ý tác hay không tác trải qua như vậy vài kiếp. Tuy căn tánh chuyên cần uể oải không đồng như đều nói là ba kỳ. Hỏi: Căn tánh tu hành có chuyên cần, biếng nhác khác nhau, làm sao chắc chắn nói là ba đại tăng-kỳ kiếp? Đáp: Y cứ theo lúc tác ý, phương tiện thiện tâm trong từng sát-na sát-na một nối nhau với thời lượng trải qua ba đại kiếp. Chẳng phải đều lấy thời gian tu, không tu để làm bất tác ý trải qua từng ấy kiếp. Tuy căn tánh chuyên cần, biếng nhác khác nhau nhưng đều nói là ba kỳ. Hỏi: Nếu vậy thì tự địa thứ tám trở xuống vô lậu quán tâm tất cả thời gian luôn luôn tiếp diễn, làm sao nói có việc vượt kiếp? Như Phật Thích-ca vào kiếp thứ ba mới gặp Phật Nhiên Đăng, trải tóc trên đất cho Phật đi qua nên vượt qua tám kiếp, kỳ thứ ba hoàn mãn tu nghiệp tướng tốt, mới gặp Phật Thắng Quán, cũng gọi là Phật Phất-sa, đứng một chân khen ngợi vượt qua chín kiếp? Đáp: Có hai cách giải thích: Hoặc có một loại dừng lại nhiều ở du quán tâm; hoặc mê đắm lâu dài trong diệt định. Đối với hữu siêu này, nếu vậy làm sao lại nói về địa thứ tám trở xuống trong từng sát-na dần dần tăng tiến? Đáp: Căn cứ vào thời gian dài sau khi trụ xuất từ địa thứ tám trở lên mà nói. Nếu vậy làm sao nói từ Sơ địa trở lên nhập xuất trụ tâm tất cả đều bình đằng? Đáp: Căn cứ vào không tác ý, tức là công lực như nhau, khác với địa tiền, giả sử lúc tác ý lực dụng không như nhau nhưng nếu chấp vào thì đều giống nhau, làm sao có thể nói trí tăng, bi tăng và đối với phiền não sợ hãi hay không sợ hãi đều khác nhau? Bi tăng, trí tăng, sợ hãi hay không sợ hãi giống như từng Địa đều như nhau. Nhưng nói về Siêu là dùng trí hướng đến bi tăng là nói Siêu. Nếu vậy thì trí tăng hướng đến bi tăng là tự thành tựu được sự siêu việt, cần gì phải nói việc trải tóc v.v…? Đáp: Đây là những loại siêu việt tăng trưởng, vì thế cho nên cố ý nói đến. Hoặc là tướng biến hóa phương tiện mà nói đến việt, chẳng phải là thật như thế. Vì sao? Vì từ địa thứ tám trở lên trong tha thọ độ nơi nào có đất thì phải trải tóc, sao có hang đá làm Phật ngồi thiền? Nếu như thế thì tăng-kỳ đối với trí tăng, bi tăng là đối với loại nào mà nói? Đáp: Căn cứ theo trí tăng. Văn kinh: Ở thế giới Tối thắng Nhân-đà-la Cao Tràng được thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, đồng một chủng tánh, lại cùng một danh hiệu là Diện Mục Thanh Tịnh Ưu Bát La Hương Sơn, đầy đủ mười hiệu, như thế lần lượt mười ngàn vị Phật xuất hiện ở thế gian. Phần thứ tư, thọ ký tên gọi cõi nước, Nhân-đà-la là tiếng Phạn, Hán dịch là Đế cao tràng giới, tiếp theo từ “được thành tựu A-nậu…” Thọ ký quả vị: đồng một chủng tánh. Thọ ký chủng tánh. Thọ ký danh hiệu. Từ “Như thế…” về sau là thọ ký thứ tự. Văn kinh: Bấy giờ, thần cây Bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Mười ngàn vị thiên tử này từ ba mươi ba cõi trời tam thập tam vì nghe pháp nên đến chỗ Đức Phật, vì sao Như lai liền thọ ký cho họ sẽ được thành Phật? Bạch Đức Thế Tôn! Con chưa từng nghe các vị Thiên tử này tu tập đầy đủ sáu Ba-la-mật-đa, khó thực hành khổ hạnh, xả bỏ tay chân đầu mắt, tủy não vợ con, quyến thuộc voi ngựa, xe cộ tôi tớ, kẻ hầu người hạ, cung điện vườn rừng, vàng bạc lưu ly, xa cừ mã não, san hô, hổ phách, bích ngọc kha bối, đồ ăn thức uống, áo quần đồ nằm, thuốc thang, như vô lượng trăm ngàn Bồ-tát khác dùng các thứ cúng dường cung phụng vô số trăm ngàn muôn ức na-dữu-đa Đức Phật thời quá khứ, các Bồ-tát như thế đều trải qua vô lượng vô biên kiếp số, sau đó mới được thọ ký thành Bồ-đề. Bạch Đức Thế Tôn! Các vị Thiên tử này vì nhân duyên gì, tu thắng hạnh gì, trồng gốc lành gì mà từ cõi trời kia đến đây trong thời gian ngắn nghe pháp liền được thọ ký? Cúi mong Đức Thế Tôn vì con giải thích cho con hiểu để dứt trừ sự nghi ngờ. Tiếp theo là phần thứ hai, nghi ngờ phát sinh, có hai: Nêu ra và hỏi. Trong phần nêu ra có bốn: Nêu ra nguyện nhân đến. Từ “Vì sao…” trở xuống là lược nêu câu hỏi, họ vì nghe pháp mà đến vì sao thọ ký cho? Từ “Bạch Đức Thế Tôn! Con chưa từng nghe…” về sau là nói rõ tâm nghi ngờ. Từ “Như vô lượng… khác” về sau là biểu hiện ý nghi ngờ. Tiếp theo từ “Bạch Đức Thế Tôn…” về sau là câu hỏi thứ hai, có ba phần: Đầu tiên là hỏi chung, tiếp theo là hỏi riêng, sau là thỉnh cầu giải đáp. Vì nhân duyên gì là nghóa của câu hỏi chung về nguyên do, hoặc tự thực hành gọi là nhân, bạn tốt là duyên, tu hạnh tốt gì v.v… là hỏi riêng. Hỏi tu hạnh tốt gì, tức là hỏi về tu hạnh sáu độ. Hỏi trồng gốc lành gì, tức là hỏi về tu hạnh phước đức. Hoặc năng khởi tu sẽ đạt được nghóa quả gọi là hạnh, nghóa của năng sinh nhân thiện về sau gọi là gốc. Hoặc mới phát khởi gọi là gốc, về sau tu tập gọi là hạnh, tức là Thể không khác nhau. Lại nữa, mười độ gọi là hạnh, mười pháp cúng dường gọi là gốc, tức là nghóa có chút khác nhau. Nói “từ cõi trời ấy đến đây” về sau là bao gồm kết thúc ý của câu hỏi. Như hỏi vì nhân duyên gì mà từ cõi trời ấy đến đây liền được thọ ký, tu hạnh tốt gì, trồng gốc lành gì mà từ cõi trời ấy đến đây…? Lại quán xét, hoặc do nghe mà được thọ ký, đây tức là không hề nghi ngờ; chỉ nghi ngờ vì sao từ cõi trời xuống đây chỉ nghe kinh này, nhân đó mà được thọ ký? Sau từ “Cúi mong Đức Thế Tôn…” trở xuống là thỉnh cầu giải đáp. Văn kinh: Đức Phật bảo Địa thần: Này Thiên nữ thiên! Như ngươi đã nói đều từ gốc lành nhân duyên thắng diệu cần cù tu tập sau đó mới được thọ ký. Các vị Thiên tử này ở nơi cõi trời tuyệt diệu xả bỏ năm thứ dục lạc, cho nên đến nghi kinh Kim Quang Minh này, đã nghe pháp rồi đối với kinh này trong tâm phát sinh thiết tha tôn trọng, trong sáng như lưu ly không có các vết rạn nứt dơ bẩn, lại được nghe việc thọ ký của ba vị Bồ-tát này. Phần thứ ba Đức Phật giải đáp, có ba: Đầu tiên là ấn khả câu hỏi, tiếp theo từ “Các vị Thiên tử này…” về sau chính là giải đáp các câu hỏi, có hai: Lược nêu. Khai triển ở hai phẩm sau. Trong phần một lại có hai: Đầu tiên chỉ giải đáp hạnh tốt hiện tại, muốn nói lên việc nghe kinh trước đó chắc chắn sẽ là nhân thành Phật, cho nên có ba hạnh: Từ “Nơi cõi trời tuyệt diệu…” về sau là hạnh xả bỏ dục lạc, nên thường hướng đến pháp hội. Từ “Cho nên đến nghe… này” về sau là hạnh nghe kinh, nên pháp chính là nhân thành Phật. Từ “Lại được nghe… này” về sau là hạnh nghe thọ ký tâm vui theo, vì thường nguyện cầu. Văn kinh: Cũng do nhân duyên thệ nguyện tu hành chánh hạnh lâu xa trong quá khứ, thế nên nay ta đều thọ ký cho ở đời vị lai sẽ thành tựu quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tiếp theo phần sau là cùng giải đáp sơ lược hai câu hỏi về quá khứ tu hạnh tốt gì và trồng gốc lành căn gì? Tiếp đến nói quá khứ nghe danh hiệu các Đức Phật nên gọi là nhân duyên gốc lành, sau từ “Thế nên nay ta…” trở xuống là kết thúc sự giải đáp. Văn kinh: Lúc thần cây kia nghe Đức Phật nói xong, rất vui mừng tin nhận. Tiếp theo là thọ thần vui mừng tin nhận. --------------------------- <詞>Phẩm 24: TRỪ BỆNH Phẩm Trừ Bệnh thứ hai mươi bốn có chia ra làm ba phần: Nói về lý do có phẩm này: Ở đây là dứt bỏ nghi ngờ, phẩm trước là thành tựu. Khuyến khích cố gắng giảng nói tin nhận, đều sẽ thành Phật, cho nên có sự thọ ký. Hai vị Đại só trước đó từng nghe kinh nên được thọ ký, điều ấy thì đại chúng không thắc mắc, nhưng mười ngàn vị thiên tử lần đầu đến pháp hội lại được thọ ký, vì thế có nghi ngờ phát sinh. Trước đây tuy có giải đáp sơ lược, nhưng nhân duyên ngày xưa mà trình bày chung e rằng người nghe khó hiểu. Từ đây tiếp theo lại vì đó giảng nói rộng hơn, cho nên có hai phẩm Trừ Bệnh và Lưu thủy phát sinh. Nhưng về sự khác nhau ấy, sẽ nói đến nhân duyên ngày xưa của mười ngàn vị Thiên tử cho nên trước tiên nói rõ duyên khởi vì thế có phẩm Trừ Bệnh. Lại e rằng bệnh khổ sẽ trở ngại cho việc nói và nghe kinh, nên cùng trình bày để trừ diệt khiến cho có thể y theo tu học. Duyên khởi đã rõ ràng, tiếp theo cần phải biện luận đúng đắn cho nên phẩm Lưu Thủy phát khởi. Đại sư Chân Đế giải thích rằng “Phẩm Trừ Bệnh này nói về nhân thọ ký nên thành phẩm Thọ Ký, bên cạnh đó hiển bày sự tu hành của Phật Thích-ca nên thành phẩm Tuổi thọ. Phẩm xả thân sau này nói về nhân của Phật Thích-ca trở thành phẩm Tuổi thọ, bên cạnh đó nói về sự tu hành của hàng đệ tử nên thành phẩm Thọ Ký.” Nhưng trị bệnh là duyên xa, lưu thủy là duyên gần, ở đây nghóa tuy có thể như vậy nhưng xu thế của văn hơi sơ sài. Nhân của tuổi thọ trước đã nói rộng về người độ v.v… vì sao bây giời trở lại nói về nhân? Cùng tu một đời, sao lại chia ra xa gần? Vì nghóa thượng, trung, hạ thì không trở ngại. Hoặc thế lực hơn kém đã chia ra xa gần lại cũng không trái, nhưng cho rằng chính là nhân của tuổi thọ thì văn hơi xa xôi. Giải thích tên gọi: Các thứ sai trái tổn thất lớn gọi là bệnh, thuốc men có khả năng đối trị gọi là trừ. Phẩm này nói rộng về điều đó nên gọi là phẩm Trừ Bệnh. Giải trừ chướng nạn: Hỏi: Phẩm Tuổi thọ trước đây Diệu tràng suy nghó rằng: Như lai thực hành nhân trường thọ từ bi không giết hại, vì sao mạng chỉ có tám mươi năm ngắn ngủi? Trước tuy nói rằng Tuổi thọ vô biên nhưng không giải thích về hạnh Từ bi không giết hại, nay ba phẩm này chính thức nói về hạnh đó, sao không phải là phần Chánh Tông? Đáp: Diệu tràng chỉ nghi ngờ về nhân thực hành nên được sống lâu, không nghi ngờ gì về sống lâu do nhân nào ngày xưa. Phẩm này lại nói: “Nhân duyên bổn nguyện của mười ngàn vị Thiên tử nay sẽ nói cho ông nghe”, không nói: sẽ nói nhân duyên sống lâu. Còn phẩm Lưu Thủy chép: “Do nghe mười hai nhân duyên của Phật Bảo Kế nên được nghe kinh này, nhờ nhân duyên gốc lành này nên nay được thọ ký”, không nói là: Do đây được tuổi thọ dài lâu. Vì thế trong phần Lưu thông chứ không phải là phần Chánh tông. Văn kinh: Đức Phật bảo thần cây Bồ-đề rằng: Này Thiên nữ! Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghó. Nhân duyên bổn nguyện của mười ngàn vị Thiên tử này giờ đây ta sẽ nói cho ngươi nghe. Tán rằng: Hai phẩm dưới đây là phần thứ hai, nói về rộng rãi về nhân duyên mười ngàn vị Thiên tử được thọ ký, có hai: Phẩm này nói về duyên khởi được phát khởi, phẩm Lưu Thủy nói về nhân duyên được thọ ký. Phần duyên khởi chia làm hai: Đây là phần đầu nhắc nhủ lắng nghe, hứa sẽ giảng nói cho nghe. Văn kinh: Này Thiện nữ Thiên! Thời quá khứ vô lượng không thể suy nghó bàn luận a-tăng-xí-da kiếp, bấy giờ có Đức Phật xuất hiện ở thế gian, hiệu là Bảo Kế Như lai Ứng Chánh Biến Tri Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Này Thiện nữ Thiên, sau khi Đức Thế Tôn đó nhập Niết-bàn, chánh pháp diệt rồi, vào thời tượng pháp. Nói về duyên khởi, có mười hai phần : Nói về thời tiết có ba: Nói chung về kiếp số. Nói về Đức Phật. Nói về thời gian. Từ “Bấy giờ…” về sau là nói riêng. Văn kinh: Có vị vua tên là Thiên Tự Tại Quang thường dùng chánh pháp cai trị nhân dân, giống như cha mẹ. Phần thứ hai nói về cõi nước. Văn kinh: Trong vương quốc này có một vị trưởng giả tên là Trì Thủy, kéo hiểu rõ y phương, tinh thông tám quyền thuật, chúng sinh bệnh khổ bốn đại không điều hòa, đều có thể cứu chữa trị liệu. này Thiện nữ Thiên. Phần thứ ba nói về người cha Bồ-tát, có bốn: Trú xứ. Từ “Có một vị trưởng giả…” về sau là đức hiệu. Tên gọi Trì Thủy là chỉ cho tên hiệu. Từ “Khéo hiểu rõ…”về sau là nói về khả năng y dược, tám quyền thuật như dưới đây. Văn kinh: Bấy giờ, Trưởng giả Trì Thủy chỉ có một người con tên là Lưu Thủy, diện mạo khôi ngô, mọi người đều ưa nhìn, được bản tánh thông minh nhanh nhẹn, khéo làm quen với các sách luận, họa vẽ toán số in ấn thảy đều thông thạo. Tiếp theo nói về người con Bồ-tát, có năm: Tên gọi. Diện mạo khôi ngô là hình dáng tướng mạo. Mọi người đều thích nhìn là tư tuệ. Được bản tánh thông minh nhanh nhẹn là căn tánh. Khéo làm quen với các phương pháp kỹ thuật là kỹ nghệ. Văn kinh: Lúc ấy trong vương quốc có vô lượng trăm ngàn các loài chúng sinh đều bị tật dịch, các khổ bức bách, cho đến không tâm có vui vẻ. Này Thiện nữ Thiên! Bấy giờ con của trưởng giả là Lưu Thủy thấy vô lượng trăm ngàn chúng sinh này chịu các bệnh khổ, khởi tâm đại bi suy nghó như vầy: Vô lượng chúng sinh vì sự bức bách của các điều vô cùng khổ đau, Trưởng giả cha ta tuy hiểu rõ y phương, tinh thông tám thuật, đều chưa khỏi các bệnh tật về bốn đại tăng giảm, nhưng đã suy yếu, già cả, cần phải nghỉ ngơi dưỡng sức mới có thể tiếp tục công việc, không thể nào tiếp tục đến thành ấp, xóm làng để cứu các bệnh tật khổ đau. Nay vô lượng trăm ngàn chúng sinh đều gặp cảnh bệnh tật trầm trọng, không ai có thể cứu giúp, bây giờ ta nên đến chỗ đại y cha ta thưa hỏi phương pháp bí mật về y phương trị bệnh, nếu hiểu rõ được sẽ đến các thành ấp, xóm làng để cứu các chúng sinh thoát khỏi các thứ bệnh tật làm cho thường được hưởng sự yên lành vui sướng. Phần thứ tư nói về duyên học tập y phương, có sáu: (không thấy mục e) Bấy giờ các bệnh tật phát sinh. Từ “Thiện nữ Thiên…” trở xuống là Bồ-tát khởi tâm Bi. Từ “Trưởng giả cha ta…” trở xuống là nghó đến cha đã già yếu. hay. Từ “Nay có vô lượng…” trở xuống là bản thân cầu phương pháp f. Từ “Nếu hiểu rõ được…” trở xuống là nghó đến việc đi chữa trị bệnh tật. Văn kinh: Lúc ấy, con của trưởng giả nghó như vậy rồi, liền đến chỗ người cha, cúi đầu lạy dưới chân, chắp tay cung kính, lùi về đứng một bên, liền dùng Già-tha thỉnh cầu cha mình rằng: Xin cha lành xót thương, con muốn cứu chúng sinh, nay cần các y phương, mong sẽ nói con nghe. Vì sao thức ăn uông, được thọ hưởng yên vui, thường khiến trong thân thể, thế lửa không tiêu hao? Chúng sinh có bốn bệnh, phong hoàng nhiệt đàm ấm, cho đến mọi bệnh tật, làm cách nào chữa trị? Lúc nào bệnh phong khởi, lúc nào bệnh nhiệt phát, lúc nào đàm suyễn động, lúc nào mọi bệnh sinh. Phần thứ năm đến chố người cha thưa hỏi về y phương, có hai: Nghi thức thưa hỏi. Tử “Liền dùng Già-tha…” trở xuống là dùng tụng để thưa hỏi, có năm bài tụng chia làm: Một bài tụng đầu cầu thương xót mong giảng nói, bốn bài tụng tiếp theo là phần thưa hỏi, có năm: Nửa bài tụng đầu hỏi về do đâu gặp bệnh, nửa bài tụng tiếp theo hỏi về thời gian bệnh sinh khởi, một bài tụng tiếp hỏi về phương pháp để nuôi giữ, một tụng tiếp hỏi về pháp thuật chữa trị bệnh tật, một tụng cuối hỏi về thời gian bệnh phát khởi. Trước hỏi lúc bệnh mới phát khởi, ở đây hỏi khi thời gian bệnh đã phát động. Nhưng có hai thời: Một là hỏi dựa theo bốn mùa, hai là hỏi dựa vào trước sau khi ăn. Văn kinh: Khi trưởng giả ấy nghe con mình thưa hỏi xong, lại dùng Già-tha trả lời rằng: Nay ta theo người xưa, tất cả pháp trị bệnh, lần lượt nói cho con, gắng nghe cứu chúng sinh. Ba tháng là mùa Xu- ân, ba tháng gọi là Hạ, ba tháng gọi Thu phân, ba tháng là mùa Đông. Đây theo trong một năm, mà nói riêng từng mùa (tam tam), hai tháng (nhị nhị) là một tiết, thành sáu thời một năm. Một hai là hoa thời, ba bốn gọi nhiệt tế, năm sáu gọi vũ tế, bảy tám gọi Thu thời, chín mười là hàn thời, hai cuối gọi băng tuyết, đã biết khác như vậy, cho thuốc đừng khiến sai. Nên tùy trong thời này, điều hòa sự ăn uống, vào bụng khiến tiêu hóa, thì không sinh các bệnh. Khí tiết nếu đổi thay, bốn đại có chuyển dời, lúc này không thuốc men, sẽ sinh các bệnh khổ. Thầy thuốc biết bốn mùa, lại biết sáu tiết đó, hiểu rõ bảy phần thân, uống thuốc không sai lầm. Gọi vị giới huyết nhục, xương cốt và tủy não, khi bệnh vào trong đó, biết bệnh chữa được chăng? Bệnh có bốn thứ riêng, là phong nhiệt đàm ấm, cho đến bệnh nhóm chung, nên biết lúc phát động. Trong Xuân đàm ấm động, trong Hạ bệnh phong sinh, mùa Thu hoàng nhiệt tăng, tiết Đông cả ba khởi. Xuân ăn chát nóng cay, Hạ béo nóng mặn chua, mùa Thu nhạt ngọt béo, đông chua chát béo ngọt. Ở trong bốn mùa này, uống thuốc và ăn uống, nếu theo vị như thế, các bệnh không phát sinh. Sau ăn bệnh do ấm, khi ăn tiêu do nhiệt, sau tiêu khởi do phong, theo thời phải biết bệnh. Đã biết nguồn bệnh rồi, tùy bệnh mà tìm thuốc, nếu như trạng huống khác, trước phải chữa gốc đó. Bệnh phong uống dầu béo, bệnh nhiệt lợi là tốt, bệnh ấm nên biến thổ, tổng tập cần ba thuốc. Phong nhiệt ấm đều có, đó gọi là tổng tập, tuy biết mùa bệnh khởi, nên xét bổn tánh đó. Xét biết như thế rồi, theo thời mà cho thuốc, ăn uống thuốc không sai, đó gọi là thầy thuốc khéo. Phần thứ sáu người cha giải thích cho con nghe. Đây là phần đầu kết tập nêu ra, tiếp từ “Nay ta theo người xưa…” về sau ba mươi hai bài tụng là người cha nói tụng giải thích, chia làm ba: Một bài tụng đầu là hứa nói, tiếp theo ba mươi bài tụng là phần giải thích, sau cùng một bài tụng tổng kết. Trong phần giải thích lại có ba: Bốn bài tụng đầu hạn định thời tiết, mà riêng nói từng mùa nghóa là ba tháng ba tháng làm một mùa, thành ra bốn mùa trước đó, hai tháng là một tiết nghóa là hai tháng hai tháng làm một tiết, nêu ra sáu thời ở sau. Mười ba bài tụng là trả lời câu hỏi. Sau từ “Lại nên biết…” trở xuống mười hai bài tụng tiếp tục là dự đoán chọn lựa. Nhưng trong phần trả lời câu hỏi một bài tụng đầu nên ra khiến điều hòa, ba bài tụng tiếp là trả lời câu hỏi thứ nhất. Trong đó một bài tụng đầu chính thức trả lời nguyên nhân phát sinh bệnh, hai bài tụng khiến biết rõ chỗ phát sinh bệnh. Nhất vị giới, tiếng Phạn là A-la-bà, ở giữa lá lách và dạ dày, thức ăn uống đến chỗ này chia làm hai phần: Khư-la-giới, tức là chất cặn bã trở thành đại tiểu tiện. Vị giới tức là phần vị thấm nhuần chứa nhóm nuôi dưỡng thân thể. Hai là máu, ba là nhiệt, bốn là mỡ, năm là xương, sáu là tủy, bảy là não. Hai bài tụng tiếp trả lời câu hỏi thứ hai, nói về một số thể trạng của bệnh và thời điểm phát sinh. Chính xác ở đây là sự chuyển đổi của ngũ hành. Đàm là thủy, phong thuộc mộc, nhiệt là hỏa. Thủy tạo thành từ tháng sáu đến tháng giêng thì tắt, mộc tạo thành từ tháng chín đến tháng năm thì chết, hỏa tạo thành từ tháng mười hai đến tháng tám thì hết mức. Vì vậy sẽ suy yếu, nên bệnh rút lui, lúc bạo phát cũng vào lúc này có thể chữa trị. Cũng bao gồm trả lời câu hỏi đầu tiên về bốn mùa trong câu hỏi thứ năm. Hai bài tụng tiếp trả lời câu hỏi thứ ba. Một bài tụng tiếp trả lời câu hỏi thứ năm. Bốn bài tụng tiếp trả lời câu hỏi thứ tư. Hỏi: Vì sao hỏi đáp thứ tự khác nhau? Đáp: Nhân trả lời câu thứ ba về ăn uống nuôi dưỡng, nhân tiện nói về thời tiết phát động, vì thế trả lời câu hỏi thứ tự khác nhau. Trong phần trả lời về cách chữa trị chia làm ba: Một bài tụng đầu là nêu ra, hai bài tụng tiếp theo là cách chữa trị, một bài tụng sau là kết thúc. Văn kinh: Lại nên biết tám thuật, thâu tóm mọi y phương, ở đây nếu hiểu biết, chữa lành bệnh chúng sinh, là châm chích thương phá, thân bệnh cùng quỷ thần, ác độc và hài đồng, sống lâu thêm khí lực. Trước xét hình sắc kia, nói năng và tánh tình, sau đó hỏi giấc mộng, biết phong nhiệt ấm khác. Khô gầy đầu ít tóc, tâm đó không định tónh, nói nhiều mộng phi thấy bay, người này là tánh phong. Trẻ tuổi sinh tóc bạc, mồ hôi nặng về sân, thông minh mộng thấy lửa, người này là tánh nhiệt. Tâm định thân bình thản, suy nghó đầu láng mượt, mộng thấy nước, vật trắng, nên biết là tánh ấm. Tánh tổng tập đều có, hoặc hai hoặc đủ ba, tùy có tăng chỉ một, nên biết là tánh đó. Đã biết bổn tánh rồi, theo bệnh mà cho thuốc, nghiệm người không tướng chết, mới gọi đáng cứu người. Các căn trái chấp cảnh, trọng thầy thuốc khởi mạn, bạn thân sinh nóng giận, là tướng chết nên biết. Mắt trái đổi sắc trắng, lưỡi đen mũi nhuốm xanh, vành tai khác với trước, môi dưới lệch xuống thấp; loại trái ha-lê-lặc, có sáu vị đầy đủ, thường trừ tất cả bệnh, vua trong thuốc không kî. Lại ba quả ba cay, dễ được trong các thuốc, đường cát mật bơ sữa, đây thường chữa các bệnh. Từ các phương thuốc khác, tùy bệnh đáng tăng thêm, trước khởi tâm thương xót, đừng mưu tính tài lợi. Tiếp theo mười ba bài tụng là phân biệt lại, chia làm năm: Hai bài tụng đầu chỉ dạy bí thuật, trong đó một bài tụng nêu ra, một bài tụng giải thích. Tám thuật là: Cách chữa trị bằng chăm chích. Chữa trị bằng cách mổ vết thương. Chữa trị bệnh tật của thân. Bệnh do bốn loài quỷ làm hại. Bị trúng thuốc độc. Bệnh trẻ em. Kéo dài tuổi thọ. Nuôi dưỡng thân. Hai phần tiếp theo là năm bài tụng rưỡi dạy hiểu biết về thể trạng của bệnh. Ở bài tụng đầu nêu mục tiêu, bốn bài kế tiếp bàn về thể. Nửa bài tụng sau nói về kết thúc. Ba bài kế tiếp nghiệm người ấy không có tướng chết, cho đến mười hai bài tụng rưỡi dạy về quán tướng chết. Từ “Ha-lê” trở xuống là nói về thuốc hay, đây là chữa trị bệnh chung chứ không nói riêng, một bài tụng đầu là thuốc mổ, một bài tụng sau là thuốc bổ. Kinh Niết-bàn thứ tư chép: “Sáu vị là: Đắng, chua, ngọt, cay, mặn, nhạt.” Vị thuốc này tốt nhất trong các loại thuốc bậc nhất ở các nước Tây vực, nên đúng như kinh Giải Thâm Mật đã nói là thuốc Tỳ-niết-phược. Ba quả là: Ha-lê-lặc-ca, A-ma-lạc-ca, cũng gọi là A-vô-la-ca, xưa gọi là quả Am-ma-la là nhầm, Tỷ-tỷ-đắc-ca, giống như quả A-vô-la-ca nhưng hơi lớn. Ba vị cay là: gừng, hồ tiêu, Tất-bát. Cùng với mười loại dễ có được như đường cát… để chữa trị tẩm bổ. Tiếp một bài tụng chỉ rõ ví dụ để nhắc nhủ khuyến khích. Văn kinh: Ta đã nói cho con nghe những điều cần thiết trong việc chữa trị bệnh tật, đem những điều này cứu giúp chúng sinh sẽ đạt được kết quả vô biên. Tiếp theo thứ ba, là tổng kết. Văn kinh: Này thiện nữ Thiên! Bấy giờ, trưởng giả tử Lưu Thủy tự hỏi cha mình về sự quan trọng của tám thuật, bốn đại tăng giảm, thời tiết khác nhau và phương pháp tẩm bổ, đã khéo biết rõ, tự nghó có thể cứu chữa được các bệnh tật. Phần thứ bảy, suy nghó đã học hỏi thành tựu. Văn kinh: Lập tức đến khắp thành ấp, xóm làng, hễ ở chỗ nào chúng sinh bị trăm ngàn muôn ức bệnh tật khổ sở đều đến nơi đó khéo nói lời an ủi chỉ bảo, nói lời như vầy: Ta là thầy thuốc! Ta là thầy thuốc! Có phương thuốc tốt chữa trị, nay vì các người chữa trị các thứ bệnh tật thảy đều khiến cho trừ khỏi. Phần thứ tám, tùy theo bệnh tật bảo cho biết có khả năng chữa trị. Văn kinh: Này thiện nữ Thiên! Lúc đó mọi người nghe trưởng giả tử nói lời tốt lành, an ủi chỉ bảo, hứa sẽ trị bệnh cho, thì có vô lượng trăm ngàn chúng sinh mắc phải bệnh nặng nghe lời này thì thân tâm vui mừng hớn hở chưa từng có. Nhờ nhân duyên này tất cả bệnh tật khổ sở đều được trừ diệt, khí lực tăng cường, bình phục như xưa. Phần thứ chín mọi người nghe tin chữa lành bệnh tật. Văn kinh: Này thiện nữ Thiên! Bấy giờ lại có vô lượng trăm ngàn chúng sinh bị bệnh rất nặng khó chữa trị, liền cùng nhau đến chỗ con của trưởng giả lại xin chữa bệnh. Phần thứ mười, bệnh nặng xin chữa trị. Văn kinh: Con của trưởng giả đó liền đem thuốc hay bảo uống đều được hết bệnh. Phần thứ mười một, gặp thuốc đều dứt khỏi bệnh. Văn kinh: Này thiện nữ Thiên! Con của trưởng giả này ở trong nước đó chữa trị cho trăm ngàn muôn ức chúng sinh, bệnh tật khổ sở đều dứt khỏi. Phần thứ mười hai tổng kết bệnh được trừ khỏi. ---------------------------- <詞>Phẩm 25: TRƯỞNG GIẢ TỬ LƯU THỦY phần: Phẩm trưởng giả tử Lưu thủy thứ hai mươi lăm có chia ra làm ba Nói về lý do có phẩm này: Mười ngàn vị Thiên tử được thọ ký, Thiên nữ sinh nghi ngờ. Cuối phẩm thọ ký trước đây chỉ nói sơ lược nên chưa thể hiểu rõ ràng. Vì vậy, hai phẩm Trừ Bệnh và Lưu Thủy lại vì đó phân tích rộng khiến cho đại chúng biết sâu hơn. Phẩm trước nói nhiều về duyên khởi, phẩm này chính thức nói về nhân thọ ký, do đó có phẩm này. Vì vậy ở sau nói: “Nhân xưa kia ta dùng nước cứu đàn cá, cho ăn khiến chúng no đủ, nói mười hai duyên khởi sâu xa và Đà-la-ni chú tương ưng này cho chúng nghe, lại vì xưng danh hiệu Đức Phật Bảo Kế đó cho chúng, nhờ gốc lành này được sinh lên cõi trời, nay đến chỗ ta vui vẻ nghe pháp, ta đều sẽ thọ ký Bồ-đề cho.” Giải thích tên gọi: Nói con của trưởng giả là nêu người cha để nói về người con, biểu thị dòng dõi tôn quý. Lưu thủy là lấy hạnh làm sáng tỏ danh, nói về thắng hạnh. Lại nữa, bản thân cũng là trưởng giả nên để phân biệt với cha lại xưng là con. Bởi vì có đức nuôi người, nuôi cá cho nên có hiệu là trưởng giả. Lưu thủy có hai nghóa: Nước có khả năng chảy. Có khả năng cho nước, theo hạnh làm tên gọi, đây là đức và hạnh cả hai cùng nêu bày. Phẩm này nói nhiều về sự việc đó cho nên lấy làm tên phẩm. Giải trừ vấn nạn. Hỏi: Vì sao không gọi là phẩm Cứu Ngư? Đáp: Nghóa của Lưu thủy rất rộng, bởi vì cứu cá cũng thấm nhuần đến loài khác, do đó không gọi riêng là phẩm Cứu Ngư. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Phật bảo thần cây Bồ-đề. Này thiện nữ Thiên! Bấy giờ, con của trưởng giả tên là Lưu Thủy vào thời xưa kia, ở trong nước Thiên tự tại quang vương chữa trị tất cả bệnh tật khổ sở cho các chúng sinh, giúp họ được bình phục, thọ hưởng yên ổn vui sướng. Các chúng sinh kia vì bệnh dứt hết cho nên tu nhiều phước nghiệp, thực hành nhiều hạnh cứu giúp, vì tự mình vui sướng nên cùng nhau đi đến chỗ của con trưởng giả, đều sinh tâm tôn kính nói như vầy: Lành thay! Lành thay! Con của Đại trưởng giả, việc tốt lành luôn luôn sinh ra và nuôi lớn phước đức, thêm ích lợi cho chúng tôi được yên ổn sống lâu. Lòng nhân ái này thật là sức mạnh của thầy thuốc, lòng Từ bi của Bồ-tát, khéo điều chế thuốc men, khéo chữa trị vô lượng bệnh tật khổ sở cho chúng sinh. Như thế xưng tụng, ngợi khen rộng khắp thành ấp. - Văn trong phẩm chia ra bốn đoạn: Khen ngợi kết luận năng lực của thuốc. Từ Thiện nữ Thiên…” trở xuống nói về hạnh cứu giúp loài cá. Từ “Bấy giờ, Đức Phật bảo…” trở xuống là kết hợp xưa nay. Từ “Bấy giờ đại chúng…” trở xuống là lãnh ngộ y theo tu học. Trong đoạn đầu lại chia làm bốn: Đầu tiên là kết luận dứt hết các bệnh tật; tiếp theo từ “Các chúng sinh kia…” trở xuống nói về mọi người tăng thêm phước nghiệp, tiếp “Nên cùng nhau đến…” trở xuống là mọi người đến kính lễ, khen ngợi; tiếp “Như thế xưng tụng…” về sau là tổng kết tiếng tăm vang xa. Văn kinh: Này thiện nữ Thiên! Vợ của Lưu Thủy tên là Thủy Kiên Tạng có hai người con, một người tên là Thủy Mãn, một người tên là Thủy Tạng. Nói về hạnh cứu giúp loài cá, văn cũng chia làm bốn: Nói về quyến thuộc của Bồ-tát. Từ “Lúc ấy Lưu Thủy…” về sau là nói về sự cứu giúp loài cá. Từ “Bấy giờ, Đức Thế Tôn…” về sau là nói các vị trời nghe và khen ngợi. Từ “Đức Phật bảo thiện nữ Thiên…” về sau là nói về loài cá đền ơn. Đây tức là phần đầu. Văn kinh: Lúc ấy, Lưu Thủy dẫn hai người con từ từ dạo khắp thành ấp, xóm làng, qua nơi nguy hiểm trong đầm vắng thấy các cầm thú thuộc giống ăn thịt như lang sói chồn, chim cắt, thảy đều trốn chạy hốt hoảng, một mực lánh xa, con của trưởng giả liền nghó rằng: Các loài cầm thú này vì nguyên nhân gì mà hốt hoảng trốn chạy, ta nên theo chúng đến nơi ấy xem sao? Nghó đoạn, Lưu Thủy liền đi theo chúng thì thấy có một cái hồ lớn tên là Dã sinh, nước hồ sắp cạn, ở trong hồ có nhiều loài cá. Lưu Thủy thấy rồi sinh tâm đại Bi, bèn có thần cây thị hiện nửa thân, nói như vầy: Lành thay! Lành thay! Này người thiện nam, ông có tên gọi xứng với ý nghóa, Lưu Thủy là có thể thương xót loài cá này nên ban nước cho chúng. Có hai nhân duyên tên là Lưu thủy: một là dòng nước chảy, hai là cho nước, nay ông nên thuận theo tên gọi mà thực hành. Lúc này, Lưu Thủy hỏi thần cây rằng: Cá hồ này có khoảng chừng bao nhiêu con? Thần cây đáp rằng: Có mười ngàn con. Này thiện tử Thiên! Lúc Lưu Thủy nghe nói số cá này thì tâm bi càng tăng thêm, hồ lớn này bị mặt trời chiếu, nước còn lại không bao nhiêu, mười ngàn con cá này sắp đi vào chỗ chết, toàn thân quay quắt, nhìn Lưu Thủy để cầu chút hy vọng, mắt nhìn theo không hề rời. Lưu Thủy thấy việc này rồi liền hướng về bốn phương muốn tìm kiếm nguồn nước, cuối cùng không tìm thấy gì. Tiếp tục nhìn về một phía thấy có cây lớn, liền trèo lên chặt lấy cành lá để che mát, lại suy nghó nước trong hồ này từ nơi nào chảy đến, tìm mãi không thôi, thấy một con sông lớn tên là Thủy sinh, bên bờ sông này có các ngư dân làm nghề đánh cá, bởi vì ở chỗ quan trọng vùng thượng lưu của sông bị vỡ nên ngăn dòng nước ấy khiến cho không chảy xuống được, chỗ vỡ này binh lính khó tu bổ. Liền nghó rằng: Triền núi này quá cao, dù cho trăm ngàn người thì suốt ba tháng cũng không thể nào phá được, huống gì một mình ta mà có thể làm được sao? Lúc ấy, Lưu Thủy vội vàng trở về thành, đến chỗ đại vương, đầu mặt lễ dưới chân rồi lùi lại đứng một bên chắp tay cung kính tâu lời như vầy: Tôi vì đại vương nhân dân đất nước chữa trị các thứ bệnh tật, khiến cho đều được yên lành, dần dần đi qua đến đầm vắng đó thấy có một hồ nước tên Dã sinh, nước hồ đó sắp cạn, có mười ngàn con cá bị ánh nắng mặt trời chiếu nóng quay quắt, không bao lâu sẽ chết. Cầu mong đại vương từ bi thương xót giúp cho hai mươi thớt voi lập tức đến đó mang nước cứu mạng cho loài cá kia, như tôi giúp mạng sống cho những người bệnh. Bấy giờ, đại vương liền tuyền lệnh cho quan đại thần nhanh chóng đem những thớt voi cho vị y vương này. Lúc ấy, vị đại thần kia vâng sắc chỉ của đại vương rồi, thưa với Lưu Thủy rằng: Lành thay, đại só nhân đức! Nay đại só tự mình có thể đến chuồng voi tùy ý chọn lấy hai mươi thớt voi mạnh mẽ để lợi ích chúng sinh, giúp cho chúng được yên lành. Lúc này, Lưu Thủy và hai người con dẫn hai mươi thớt voi hùng mạnh ra đi, lại qua nhiều quán rượu mượn các túi da đến nơi dòng nước bị vỡ, vào túi chứa đầy nước da để đàn voi mang về, đến rót vào hồ cho nước mau chóng đầy lại như trước. Tiếp theo nói về việc cứu giúp loài cá, có tám: Cha con đi dạo khắp nơi. “Thấy các loài cầm thú…” trở xuống là nói về thấy hiện tượng khác lạ. “Thì Lưu Thủy…” trở xuống là Bồ-tát suy nghó. “Liền theo đến…” trở xuống là suy nghó xong tìm kiếm quan sát. “Thấy có hồ lớn…” trở xuống là cuối cùng thấy hồ cá khô cạn. “Lưu Thủy thấy rồi…” trở xuống là liền phát khởi bi tâm. “Thì có thần cây…” trở xuống là thần cây khuyên nên cứu giúp- trong đó có ba: Hiện thân vì tai nạn nguy cấp. Từ “Nói lời như vầy…” trở xuống là khen ngợi để mong mỏi sự phát tâm. Từ “Này người thiện nam, ông có tên gọi xứng với ý nghóa…”trở xuống là khuyên cứu giúp để phù hợp với ý nghóa tên gọi. Trong đó lại có ba: Đầu tiên là nêu ra sự khuyên nhủ, tiếp đến “Có hai nhân duyên…” trở xuống là giải thích sự khuyên nhủ, từ “Nay ông nên…” trở xuống là kết thúc sự khuyên nhủ. “Lúc ấy, này Lưu Thủy…” trở xuống là y theo lời cầu thỉnh để cứu giúp, trong đó lại có sáu: Hỏi số lượng bao nhiêu con. “Thần cây trả lời rằng…” trở xuống là đáp có mười ngàn con. “Thiện nữ Thiên…” trở xuống là tăng thêm tâm Từ bi. “Lúc hồ lớn này…” trở xuống là nói về loài cá chịu khổ sở. “Thấy Lưu Thủy…” trở xuống là loài cá mong được cứu giúp. “Khi ấy, Lưu Thủy…” trở xuống là từ bi đang cứu giúp, trong đó lại có hai: Đầu tiên là tâm Bi cứu khổ, sau đó “lại suy nghó” trở xuống là tâm từ cho vui. Vì thế kinh chép: “Ưa thích giảng nói chánh pháp, nên thường làm nhân thụ vui cho đời sau.” Phần đầu cứu khổ lại có hai: Trước là cho nước, sau đó “Này thiện nữ Thiên, lúc ấy Lưu Thủy…” về sau là giúp cho thức ăn. Ban cho nước có mười một: Tìm khắp nơi không có nước. Lại nhìn về một phía…” trở xuống là tạm thời để che mát. “Lại suy nghó…” trở xuống là tìm kiếm nguồn nước của hồ. “Thì bên bờ sông này…” trở xuống là thấy nguồn nước bị vỡ. “Liền suy nghó như vầy…” trở xuống là nghó rằng khó mà tu bổ. vua. “Lúc ấy, Lưu Thủy…” trở xuống là cầu xin đàn voi của nhà “Bấy giờ, đại vương…” trở xuống là nhà vua truyền chỉ khẩn cấp ban cho đàn voi. “Lúc ấy, vị đại thần kia…” trở xuống là toàn quyền vào cung tùy ý chọn lựa. “Lúc này, Lưu Thủy…” trở xuống là có được đàn voi như ý mong cầu. “Lại qua nhiều quán rượu…” trở xuống là mượn nhiều túi da đựng nước. “Đến nơi dòng nước bị vỡ…” trở xuống là vận chuyển nước thêm vào trong hồ đề đầy lại như trước. Văn kinh: Này thiện nữ Thiên! Bấy giờ, Lưu Thủy đi vòng quanh bốn phía hồ thì lại những đàn cá kia cũng tiếp tục bơi đi theo quanh bờ. Lúc này, Lưu Thủy lại nghó rằng: Những đàn cá này vì sao lại bơi theo ta, chắc vì sự bức bách của đói và nóng lại muốn theo ta cầu xin thức ăn, vậy bây giờ ta nên giúp chúng. Lúc ấy, Lưu Thủy bảo người con rằng: Con mau lấy một thớt voi mạnh mẽ nhất trở về nhà kể rõ mọi chuyện cho ông nội nghe, tất cả vật thực có thể ăn được trong nhà, cho đến phần thức ăn của cha mẹ và phần của vợ con, kẻ ăn người ở thảy đều thâu góp hết lập tức mang đến đây. Bấy giờ, hai người con vâng lời cha dạy, liền cỡi thớt voi lớn nhất vội vàng đến nhà ông nội thưa rõ mọi việc như trên, thâu góp mọi vật thực có thể ăn được trong nhà xếp trên mình voi khẩn trương trở lại chỗ người cha. Lúc người con đến bên hồ thì Lưu Thủy thấy con mình đến thân tâm vui mừng phấn khởi, liền bỏ thức ăn khắp xuống hồ, cá được thức ăn rồi thảy đều no đủ. Tiếp theo là tâm bi cứu khổ, thuộc phần thứ hai giúp cho thức ăn có mười hai việc: Lưu Thủy đi quanh xem xét. “Thì các đàn cá kia…” trở xuống là cá cũng bơi theo nhìn. “Lúc này, Lưu Thủy…” trở xuống là trưởng giả xem xét suy nghó. “Chắc là vì đói và nóng…” trở xuống là biết cá bị khổ sở. “Bây giờ, ta nên giúp cho…” ấy là từ tâm nghó đến sự giúp đỡ. “Bấy giờ, Lưu Thủy…” về sau là bảo con về chở thức ăn. “Gom góp mọi thức ăn trong nhà…” về sau là con vè đến chỗ ông nội kể lại sự việc. “Gom góp mọi thức ăn trong nhà…” về sau là có được thức ăn nên quay trở lại. “Lúc ấy, Lưu Thủy…” trở xuống là là tâm trưởng giả vui mừng. “Liền lấy thức ăn…” trở xuống là lập tức rải khắp nơi cho cá. “Cá được thức ăn rồi…” trở xuống là cá nhờ đó được no đủ. Văn kinh: Lại nghó như vầy: Nay ta giúp cho thức ăn khiến cá được sống, nguyện đời sau sẽ ban cho pháp thực cứu giúp đầy đủ không cùng tận. Lưu Thủy phát nguyện. Văn kinh: Lại tiếp tục nghó rằng: Trước đây ta từng ở nơi rừng sâu vắng vẻ gặp một vị Tỳ-kheo đọc kinh Đại thừa nói về pháp yếu sâu xa của mười hai duyên sinh, đồng thời trong kinh nói: “Nếu có chúng sinh nào lúc sắp qua đời được nghe danh hiệu Bảo Kế Như lai liền sinh lên cõi trời.” Nay ta nên vì mười ngàn con cá này giảng nói mười hai duyên khởi sâu xa cùng tột, cũng nên xưng niệm danh hiệu Đức Phật Bảo Kế. Nhưng ở châu Thiệm-bộ có hai hạng người, hạng thứ nhất tín sâu Đại thừa, hạng thứ hai hủy báng không tin, cũng nên làm cho chúng thêm lớn tín tâm. Tiếp theo là phần hai, từ tâm ban vui trong phần từ bi đang cứu- giúp, có hai: Đầu tiên là trong tâm tự mình suy nghó, sau đó từ “Lúc ấy, Lưu Thủy…” trở xuống là thực hành lợi lạc bên ngoài. Trong phần đầu lại có ba: Suy nghó những điều xưa kia đã nghe. Từ “Nay ta…” trở xuống là nghó sẽ nói cho cá nghe. Từ ”Nhưng ở châu Thiệm-bộ…” trở xuống là bao gồm lợi ích cho người, tức trong văn sau nói đến “bởi vì cá được lợi ích nên báo đền ân của Lưu Thủy, tất cả vua quan nghe nhân đó mà phát khởi tín tâm”. Ba đoạn văn lần lượt như sau. Văn kinh: Lúc ấy, Lưu Thủy nghó rằng: Ta xuống hồ mới nói pháp sâu mầu cho các loài cá nghe được. Nghó đoạn, Lưu Thủy liền xuống nước, xướng lên rằng: Nam-mô quá khứ Bảo Kế Như lai Ứng Chánh Biến Tri Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, Đức Phật này thuở xưa tu hạnh Bồ-tát, bấy giờ Ngài phát thệ nguyện như vầy: Tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới khi sắp qua đời nghe danh hiệu ta, người ấy sau khi qua đời được sinh lên tầng trời tam thập tam. Tiếp theo là thực hành lợi lạc bên ngoài, có hai: Đầu tiên là suy nghó muốn đi xuống hồ, tiếp theo từ “Nghó như thế rồi…” trở xuống là làm lợi ích cho loài cá, trong đó lại có hai: Xưng danh hiệu Phật cho cá nghe. Từ “Bấy giờ, Lưu Thủy…” trở xuống là nói pháp sâu xa cho cá nghe, cũng chính là làm cho ai chưa tin sẽ tin, đã tin khiến hiểu rõ. Trong phần một, đầu tiên là xưng danh hiệu Phật, từ “Đức Phật này thuở xưa…” trở xuống là giải thích nguyên do vì sao xưng danh hiệu Đức Phật này. Văn kinh: Bấy giờ, Lưu Thủy lại giảng nói pháp mầu sâu xa này cho các loài ca trong hồ nghe. Đây là nói pháp cho các loài cá, có hai: Đầu tiên là hiển thuyết, sau là mật thuyết. Hoặc đầu tiên là nói pháp khiến cho hiểu rõ, sau là nói thần chú để che chở. Trong phần đầu lại có hai: Đầu tiên là nêu chung, sau là giải thích riêng. Đây là nêu chung. Văn kinh: Cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh. Tiếp theo có hai phần giải thích: Đầu tiên là nói về duyên khởi tạp nhiễm, tức là nương theo sự chuyển đổi lần lượt sinh tử, sau từ “Cái này diệt nên cái kia diệt…” trở xuống là nói về duyên khởi thanh tịnh, tức là nương theo sự hoàn diệt lần lượt dứt bỏ. Nhưng hai loại duyên khởi đều có hai thứ quán hành thuận nghịch, ở đây đều nói theo phương diện thuận để phản ảnh rõ ràng hai thứ nghịch quán. Trong phần đầu lại có hai: Đầu tiên là nêu riêng, từ “Đó là…” trở xuống là giải thích riêng. Đây là phần mở đầu. Theo luận Tạp tập bốn nói có ba duyên sinh: Vô tác duyên sinh. Vô thường duyên sinh. Thế dụng duyên sinh. Hai duyên sinh đầu chung cho tất cả pháp hữu vi, duyên sinh thứ ba y cứ theo pháp hữu tình. Nhưng văn các nơi khác phần nhiều dựa theo mười hai phần duyên sinh để phân tích, bởi vì đó là phần căn bản. Nói rằng “Cái này có nên cái kia có…” là theo thứ tự hai duyên sinh trước, đối pháp nói là “cái này có nên cái kia có” là nói về nghóa của vô tác duyên sinh, chỉ nhờ có duyên nên quả pháp mới có được, chẳng phải duyên có tác dụng thật mới sinh được quả pháp”. Đây là phá bỏ cái chấp ngang ngược vào Đại phạm thần ngã thật sự có tác dụng thường làm nhân cho mọi vật của các ngoại đạo. Nói rằng chẳng phải duyên có tác dụng thật mới sinh ra quả pháp là cũng phá bỏ cái vọng chấp là không có nhân của các ngoại đạo, cho nên nói “Cái này có nên cái kia có” “Cái này sinh nên cái kia sinh” là nói về nghóa của vô thường duyên sinh, không phải pháp vô sinh là nhân cho nên thiếu pháp sở sinh mà được thành lập. Đây là phá bỏ chấp thường pháp là nhân sinh ra các pháp của ngoại đạo, cũng ngăn che cả vị lai; Hóa địa bộ v.v… đều chấp có mười hai phần duyên khởi vô vi, có công năng làm cho duyên khởi phát sinh không hề tạp loạn nên nói rằng cũng chẳng phải pháp vô sinh là nhân cho nên thiếu pháp sở sinh mà được thành lập. Nói sâu xa ấy có năm thứ, đó là nhân sâu xa, tướng sâu xa, sinh sâu xa, trú sâu xa và chuyển sâu xa, đó là nghóa của sâu xa, rộng như luận kia giải thích. Văn kinh: Đó là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên sinh sắc, danh sắc duyên sáu xứ, sáu xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên già chết, ưu bi khổ não. Cái này diệt nên cái kia diệt, đó là vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu xứ diệt, sáu xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì già chết diệt, già chết diệt thì lo buồn khổ não diệt, như thế khổ uẩn cùng cực nhất thảy đều trừ diệt. Tiếp theo giải thích riêng về duyên khởi. Đây tức là loại thứ ba thế dụng duyên sinh. Nhưng nhân duyên các pháp hữu vi khác nhau nên đều có thế dụng, do đó đối pháp nói: “Tuy là các pháp vô tác vô thường, nhưng không tùy theo một pháp nào làm duyên cho nên sinh ra tất cả quả, vì vậy công năng của các pháp đều khác nhau.” Kinh Thập Địa chép: “Lúc chết hay biệt ly thì ý căn tương đối gọi là ưu, năm căn tương đối là khổ, cất tiếng than khóc gọi là bi, người ngu tâm nóng nảy gọi là não.” Đây là dựa theo sự tạp nhiễm mà lần lượt sinh khởi. Nói “Cái này diệt nên cái kia diệt…” trở xuống là nói về thanh tịnh thuận quán lần lượt trừ diệt. Văn có ba phần: Đầu tiên nêu ra, tiếp theo giải thích, sau từ “Như thế khổ uẩn cùng cực nhất…” trở xuống là kết thúc riêng. Nghóa của duyên khởi này sơ lược chia ra bốn loại: Xuất thể. Giải thích. Quán hành. Vấn đáp. Đầu tiên là thể của Vô minh, là phần chính trong phiền não chướng giữ lấy sự phân biệt và trong đó thường phát khởi cảm đến quả báo chung, riêng; hoặc chỉ cảm lấy quả báo chung, làm thể của vô minh, gồm các chi phần tức là chung cho cả câu sinh phân biệt, do đó vô minh làm thể. Luận Thành Duy thức quyển tám chép: “Trong này vô minh chỉ giữ lấy phần năng phát chính thức cảm đến nghiệp thiện ác của đời sau.” Lại nói: “Chính thức phát khởi nghiệp đó là chỉ thấy sở đoạn, còn điều phụ thuộc không nhất định.” Đây là bao gồm cả tương ưng, bất cộng, triền và tùy miên. Thể của chi hành là chung cho cả thiện và bất thiện của ba nghiệp thân ngữ ý, chỉ chiêu cảm quả báo chung và chung cho cả hai nghiệp chung riêng làm tánh, chỉ cảm đến quả báo riêng tức là chẳng phải chi hành, vì thế Duy thức nói: “Tức là những cái do kia phát ra mới gọi là hành.” Do đó tất cả thuận theo hiện tại thọ nghiệp riêng biệt giúp đỡ đương nghiệp đều không phải chi hành, cũng chung cho cả hạt giống hiện tại, giả chung cho cả tạm thời thông luôn biểu sắc của hai nghiệp thân, ngữ, thật sự chỉ là ý nghó. Thể của chi thức là chỉ chọn lấy hạt giống của thức dị thục thứ tám, do đó luận Duy thức chép: “Thức chủng trong này gọi là nhân của bổn thức chỉ chọn lấy sở cảm dị thục của chi hành làm hạt giống của thức thứ tám.” Đầu tiên do kết hợp mà sinh, vì thế quả báo chung là chính, không bao gồm hiện hành và chuyển thức khác. Có chỗ nói bao gồm cả hiện hành và sáu thức là nói rộng về chi Thức, không phải chính thức nêu ra thể, và dựa theo phần vị hiện khởi của đương lai cho nên nói là chung cho cả hiện hành. Luận Duy thức nói: “Bởi vì nghóa của thời cố định không hiện hành, cho đến chi thọ cũng giống như vậy.” Thể của chi Danh sắc, luận Duy thức chép: “Trừ ba nhân sau, các nhân còn lại đều thuộc về hạt giống của danh sắc.” Ba nhân sau lần lượt như tên gọi tức là ba loại sau. Ở đây nói năm chi không tạp loạn lẫn nhau, trong một sát-na do hành vi nhóm họp thật duyên khởi mà nói. Y theo thực tế thì bởi vì năm chi như các Thức trong đó cũng không có thứ tự. Luận Duy thức chép: “Dựa vào thứ tự hiện hành lúc ấy mà nói, nếu căn cứ theo hiện hành thì không riêng gì nghiệp cảm chẳng phải là chi thể thật sự. nói theo phần vị thì hạt giống của sáu căn dị thục gọi là chi lục xứ hạt giống của xúc thọ dị thục là chi xúc thọ, ngoài bốn loại này ra các pháp dị thục đều thuộc về chi Danh sắc.” Nhưng Khế kinh chép: “Danh chẳng phải là sắc, đều trừ đoạn, tức là biết rằng pháp đó không có hai tướng, cũng không phân biệt là sự tu hành của hàng Thánh. Tán rằng: Dưới đây là nhắc lại và nói rộng hơn, có hai: Nói rộng về nhân quả không khác trước đây. Từ “Sự thấy biết như thế…” trở xuống là nói rộng về sự tin hiểu trước đây. Ngay trong phần một có chia ra làm năm: Đối với cảnh phát khởi thắng hạnh. Như như đối với cảnh đó không thể dứt trừ chướng ngại. Tất cả như như về sau được đầy đủ nhân. Pháp giới như như về sau được quả trọn vẹn. Tất cả các chướng về sau là kết thúc không khác. Đây chính là phần đầu. Vì nghóa này là lời nêu ra, cảnh biết được từ nơi các cảnh giới, do cảnh này không chân chánh tư duy cho nên thấy sự khác nhau, vì vậy không thể tu hành. Có thể chân chánh tư duy tức là biết không có hai cảnh, không có phân biệt lệch lạc. Trí không có hai tướng thì có thể khởi tu, đó là sự tu hành của hàng Thánh. Văn kinh: Như như đối với cảnh đó không có hai tướng, chân chánh tu hành cho nên tất cả các chướng như thế thảy đều trừ diệt. Tán rằng: Có thể dứt trừ chướng, có thể đối với các cảnh giới kia thấy không có hai tướng, cho nên nói là như như đối với cảnh đó, dứt trừ nhiều chướng lại nói là như thế như thế, phát khởi nối nhau cho nên lại nhắc đến như trước. Văn kinh: Như như tất cả chướng đã đoạn diệt, như thế như thế pháp như như, trí như như đạt được vô cùng thanh tịnh. Tán rằng: Đạt được nhân đầy đủ ở địa vị Kim Cang định Vô gián đạo. Nhắc lại đoạn diệt mười chướng nói là như như, tất cả chướng đoạn diệt; chứng được như như và trí đạt đến giai vị Thập địa khác nhau, lại nói là như thế như thế. Văn kinh: Như như Pháp giới chánh trí thanh tịnh, như thế như thế tất cả tự tại, nhiếp thọ đầy đủ, đều được thành tựu. Tán rằng: Đạt được quả trọn vẹn ở địa vị giải thoát đạo. Tất cả tự tại tức là ba thân, bởi vì tất cả công đức không lìa xa ba thân nên nói là nhiếp thọ đầy đủ đều được thành tựu. Văn kinh: Tất cả các chướng thảy đều dứt trừ, tất cả các chướng đã được thanh tịnh cho nên đó gọi là tướng chân thật của chân như chánh trí. Tán rằng: Kết thúc không có khác nhau. Bởi vì tất cả các chướng đã dứt bỏ nên được thanh tịnh tất cả các chướng, do đó chứng đến như như thanh tịnh. Chính sự thanh tịnh này mới gọi là tướng chân thật của chân như chánh trí. Tướng chân thật tức là không có hai tướng. Văn kinh: Cái thấy như thế, gọi là cái thấy của bậc Thánh, đó mới gọi là thấy Phật. Vì sao? Vì được thấy pháp chân như đúng như thật. Tán rằng: Mở rộng sự tin hiểu trước đây. Văn chia làm ba phần: Khiến cho chứng biết như thật. Từ “Cho nên các Đức…” trở xuống là nói về đồng với các Đức Phật. Từ “Nhưng các Đức Như lai…” trở xuống là kết thúc thành tựu cái thấy chân thật. Đây là phần mở đầu: Trước hết khiến cho chứng biết như thật, tiếp đó nêu hỏi nguyên nhân, sau cùng chính thức giải thích. Thánh là chân chánh, kiến là hiểu rõ. Có thể như sự chứng đắc mà biết rõ điều ấy tức là chánh giải. Hoặc vì phàm phu có thể tin hiểu như sự chứng đắc đồng với kiến giải chứng đắc của bậc Thánh, cho nên chân thật thấy Phật. Nêu hỏi và giải thích có thể biết. Văn kinh: Thế nên tất cả các Đức Phật đều có khả năng thấy tất cả Như lai ở khắp nơi. Tán rằng: Nói về đồng với các Đức Phật. Văn chia làm ba: Đầu tiên là Phật có khả năng biết rõ tất ca, tiếp đó là hàng Nhị thừa không hiểu rõ, sau cùng là phàm phu không thể lường được. Đây tức là phần mở đầu. Bởi vì thấy lý như như trọn vẹn không hai cho nên thấy tất cả các Đức Phật Như lai. Văn kinh: Vì sao hàng Thanh văn, Độc giác đã ra khỏi ba cõi cầu cảnh giới chân thật lại không thể thấy biết? Tán rằng: Hàng Nhị thừa không hiểu rõ. Đầu tiên là nêu câu hỏi, sau đó giải thích. Vì sao? Vì chỉ có Phật biết rõ tất cả, hàng Thánh giả định tánh nhị thừa tuy ra khỏi ba cõi nhưng không có hạt giống trí, cho dù cầu cảnh giới chân thật nhưng không thể dùng cái biết của bổn trí, không thể dùng cái thấy của hậu đắc, hoặc không thể nào biết được hiện lượng, không thể thấy được tỷ lượng. Văn kinh: Bậc Thánh như vậy không thể thấy biết, tất cả phàm phu đều sinh ra nghi ngờ, điên đảo phân biệt không thể nào được độ thoát. Tán rằng: Phàm phu không thể lường được. Đầu tiên là pháp, tiếp đó là dụ, sau cùng là hợp. Đây là Pháp. Phàm phu ngu muội tối tăm không thể suy lường được, hoặc lại nghi ngờ cho là chẳng có, hoặc điên đảo chấp đắm, nên cho rằng đây là ta. Văn kinh: Như con thỏ bơi giữa biển chắc chắn không thể vượt qua. Vì sao? Vì sức lực nhỏ nhoi yếu kém. Tán rằng: Ví dụ. Đầu tiên nêu ra, tiếp theo trưng hỏi, cuối cùng giải thích. Bởi vì không có đại tánh, chỉ có hữu lậu, nên trí lực nhỏ nhoi yếu kém, nên không thể độ thoát. Kinh Giải Thâm Mật chép: “Ta không thể mở bày, giảng nói cho phàm phu ngu muội nghe vì sợ họ phân biệt chấp làm ngã.” Các vị như Bồ-tát Hộ Pháp giải thích: “Phàm phu nghóa là không có tánh, ngu nghóa là hướng đến vắng vẻ.” Còn ở đây hoặc dựa vào hàng phàm phu, Nhị thừa căn tánh chưa thuần thục không thể nào hiểu rõ được, căn thành thục thì có thể biết. Hoặc như trong kinh Pháp Hoa có chép: “Ba thừa không biết, dựa vào cái biết không toàn vẹn, chỉ có Phật mới biết hoàn toàn, nói người kia không biết, ông mong muốn thành tựu có thể nương theo lời mà hiểu thật là ít có.” Văn kinh: Hạng người phàm phu cũng giống như thế, vì vậy không thể thông suốt được pháp như như. Tán rằng: Pháp hợp. Không có bổn trí cho nên không thể có trí hậu đắc, vì thế không thể đạt được. Văn kinh: Nhưng các Đức Phật Như lai không có tâm phân biệt, đối với tất cả pháp được đại tự tại đầy đủ, trí tuệ thanh tịnh sâu sắc cho nên đó là cảnh giới tự chứng, không chung với người khác. Tán rằng: Kết thúc thành tựu cái thấy chân thật. Bởi vì Phật không còn phân biệt, không thấy hai tướng, nên chứng được pháp như như, đạt đến tướng không chân thật của pháp cho nên đối với tất cả các pháp được tự tại hoàn toàn, đạt được trí như như cho nên đầy đủ trí tuệ thanh tịnh sâu sắc. Do đó đây chỉ là cảnh giới Phật, không giống như cảnh giới của người khác. Kinh Kim Cang Bát-nhã chép: “Như lai nói Bát-nhã ba-la-mật-đa tức chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa, đó mới gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Bồ-tát Thiên Thân giải thích rằng: “Nói Ba- la-mật là chỉ riêng bờ bên kia của một mình Phật, chẳng phải ba-la-mật là chẳng phải là chẳng phải bờ bên kia của những người khác, gọi là Ba-la-mật là cuối cùng đây là bờ bên kia của Phật.” Ở đây cũng giống như vậy. Văn kinh: Thế nên các Đức Phật Như lai trong vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp không hề tiếc nuối thân mạng, chịu khó thực hành những hạnh khó làm mới đạt được thân tối thượng không ai sánh bằng không thể suy nghó bàn luận, vượt quá cảnh giới nói năng, đó là thân nhiệm mầu vắng lặng lìa xa các sự sợ hãi. Tán rằng: Kết thúc thành tựu thắng diệu. Từ “Trong vô lượng… hành khổ hạnh” là nhân thực hành; không tiếc nuối thân mạng, do bốn nhân duyên: Vì cầu pháp, như Tuyết sơn, Đồng tử. Vì báo ân, như các vương tử Pháp Hộ. Vì cứu nghèo, như Kim Sắc Sư Tử…. Vì cứu mạng, như vương tử Tát-đỏa… Mới đạt được thân này là nói lên đắc quả. Trên hết không ai sánh bằng… Là khen ngợi cao quý. Rốt ráo cho nên không còn ai trên nữa. Không có ai sánh ngang nên nói không ai sánh bằng. Vượt quá sự suy nghó cho nên là không thể suy nghó bàn luận. Hơn hẳn lời nói giảng giải cho nên vượt xa cảnh giới nói năng. Đại Niết-bàn bởi vì đó là nhiệm mầu vắng lặng. Dứt sinh tử cho nên xa lìa năm sự sợ hãi, đó là sợ không có công việc, sợ chết, sợ đường ác, sợ tên ác và sợ mọi người. Văn kinh: Này người thiện nam! Thấy biết pháp chân như như vậy là không còn sinh già chết, thọ mạng không giới hạn, không có ngủ nghỉ, cũng không có đói khát, tâm thường ở trong định không bị loạn động. Tán rằng: Cuối phẩm toàn bộ đoạn thứ ba kết thúc khuyến khích tu hành. Văn chia làm ba: Kết thúc tin hiểu ở trước, dạy nương theo thực hành. “Nhưng các Đức Như lai” trở xuống là kết thúc đạt được quả, dạy cầu chứng ở trước. “Nếu thiện nam…” trở xuống là thành tựu hai nghóa ở trước. Trong phần một có ba: Đầu tiên nêu ra lợi ích tin hiểu, tiếp đến có tổn hại vì không tin, sau cùng nói lợi ích khuyên thực hành. Đây là phần mở đầu. Chỉ có thể một niệm như thế, thấy biết pháp chân như sẽ đạt được Bồ-đề, không bao giờ còn sinh, già, bệnh… làm nhân xa cho nên chắc chắn sẽ đạt được. Vì vậy phẩm Dược Vương trong kinh Pháp Hoa chép: “Người nghe kinh này không già không chết, không bao lâu sẽ lấy đệm cỏ ngồi nơi đạo tràng.” Hoặc trước nói về Đức của Như lai, đã nói xong văn sau lại nói, do đó người nói này là người tin hiểu sẽ đạt được quả. Hoặc nhiều lần nhắc lại công đức của Như lai khiến cho phát sinh tin hiểu, đạt được thân Kim Cang cho nên không có sinh, già, chết. Lìa bỏ năm cái cho nên không còn ngủ nghỉ, phá diệt ma quân cho nên không có đói khát. Văn còn lại có thể biết, có giải thích ở trước, kết thúc tốt đẹp. Văn kinh: Nếu đối với Như lai khởi tâm tranh luận thì sẽ không thể thấy được Như lai. Tán rằng: Có tổn hại vì không tin. Khởi tâm tranh luận không thể tin hiểu thì trong tương lai sẽ không thể thấy và chứng được ba thân của Như lai, cũng không thể nương vào giáo pháp để thấy Như lai. Văn kinh: Lời các Đức Phật nói đều được lợi ích. Tán rằng: Nói lợi ích khuyên thực hành. Đầu tiên là nêu ra, sau đó giải thích. Đây là nêu ra. Văn kinh: Có người lắng nghe thảy đều giải thoát, không gặp các loài cầm thú hung ác, người ác, quỷ ác, nhờ nghe pháp nên được quả báo vô tận. Tán rằng: Giải thích về được lợi ích. Đầu tiên đạt được Niết-bàn, tiếp đến không còn sự tổn hại, sau đó là quả báo vô tận. Trong luận Bát- nhã chép: “Nơi Pháp là liễu nhân cũng là sinh nhân còn lại.” Nghe kinh nên được giải thoát đó là liễu nhân, quả báo vô tận nghóa là đạt được Bồ-đề là sinh nhân. Luận Biện Trung Biên chép: “Hành giả thực hành pháp này được nhóm phước vô lượng.” Vì thù thắng cho nên vô tận, do đó lợi tha không ngừng nghỉ. Nghe pháp Đại thừa đạt được quả báo tốt đẹp vì vậy vượt xa Nhị thừa. Vì đại Bi lợi tha không ngừng nghỉ cho nên vô tận, do đó các ác nạn đều không gặp phải. Văn kinh: Nhưng các Đức Như lai không có việc gì không ghi nhớ, tất cả cảnh giới không có tâm muốn biết. Tán rằng: Kết thúc đạt được quả, dạy cầu chứng ở trước. Trong đó chia làm hai: Đầu tiên kết thúc sở đắc, khiến cho sinh vui mừng, sau đó nói về nghe được lợi ích, khuyến khích người tu học. Trong kết thúc quả sở đắc có vô lượng chủng loại, chỉ kết thúc sở đắc ở trước trong mười tám pháp Bất cộng và đại từ bi tự lợi lợi tha để theo đó hiển bày các công đức khác. Đầu tiên là kết thúc mười tám pháp Bất cộng, sau đó kết thúc Từ bi. Trong phần đầu có năm: “Vô vô ký sự” là thảy đều ghi nhớ rõ ràng không quên ý niệm. Ở dưới có bốn oai nghi trong đó thảy đều thuộc về trí, tức là trí làm tiền đạo. “Nhất thiết cảnh giới vô dục tri tâm”, tức là ý muốn không giảm bớt, hoặc tất cả cảnh giới đều nhậm vận biết rõ, không nhờ vào sự tìm cầu mới có thể hiểu rõ. Văn kinh: Sinh tử, Niết-bàn không có ý tưởng khác nhau, lời Như lai nói thảy đều quyết định. Tán rằng: Không có các thứ ý tưởng. Đạt đến trí ba đời không bị vướng mắc ngăn ngại. Pháp đã nói đều quyết định, và trí mầu Nhất thiết chủng thường biết rõ các uẩn, các pháp môn, cho nên nói là quyết định, hoặc bốn Vô úy, hoặc là ngữ nghiệp trí làm tiền đạo cho nên nói quyết là định. Văn kinh: Trong bốn oai nghi của các Đức Phật Như lai thảy đều thuộc về trí. Tán rằng: Thân nghiệp trí làm tiền đạo do đó đều thuộc về trí. Văn kinh: Tất cả các pháp không có pháp nào không thuộc về Từ bi, không có pháp nào không vì lợi ích, an vui cho chúng sinh. Tán rằng: Kết thúc đạt được công đức lợi tha, đại Từ đại Bi ở trước. Lợi ích bạt khổ, an lạc ban vui, đại Bi cho nên cứu khổ được lợi ích, đại từ cho nên ban vui được an lạc. Đồng thời bổn nguyện của Phật chỉ muốn lợi tha, tu đại Từ bi, cầu quả vô thượng, cho nên thực hiện công việc hoàn toàn là công việc. Thuộc về Từ bi, lại nêu ra pháp Bất cộng là tự lợi thù thắng, nêu ra Từ bi là lợi tha thù thắng. Vì vậy khái quát kết thúc thành hai phần. Văn kinh: Thiện nam tử! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào đối với kinh Kim Quang Minh này lắng nghe tin hiểu. Tán rằng: Đây là nói về nghe được lợi ích khuyến khích người tu học. Văn chia làm bốn phần: Nói về nghe được lợi ích. Nêu ra. Giải thích. Thành tựu. Trong phần đầu, đầu tiên nghe kinh tin hiểu, tiếp đến nói về đạt được lợi ích. Lắng nghe thuộc về văn tuệ, tin tưởng thuộc về tư tuệ, hiểu rõ thuộc về tu tuệ. Hoặc đưa ra tiêu chuẩn kém nhất, chỉ nhờ vào văn tuệ có thể tin, có thể hiểu, hoặc chỉ tin hiểu không phải là chứng ngộ còn được phước ấy, huống gì là hạnh cao quý. Văn kinh: Không đọa vào các đường địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, A-tu-la, thường sinh lên cõi trời, cõi người, không sinh nơi thấp kém, luôn luôn được gần gũi các Đức Phật Như lai, nghe nhận chánh pháp, thường sinh vào cõi nước thanh tịnh của các Đức Phật. Tán rằng: Được lợi ích tránh khỏi tám nạn. Đầu tiên lìa xa ba đường ác, tức là ba, A-tu-la nếu theo Tiểu thừa thì thuộc về loài quỷ súc, nếu theo Đại thừa thì thuộc về loài trời, tức là thuộc về biên địa. Sinh lên cõi trời, cõi người, trước đây dịch là đường ác và biên địa. Không sinh nơi thấp kém tức là trừ bỏ các căn không đầy đủ, đui mù bẩm sinh, câm điếc bẩm sinh. Thường được gần gũi các Đức Phật là tránh khỏi nạn sinh trước sinh sau Phật. Lắng nghe chánh pháp là lìa xa nạn thế trí biện thông. Thường sinh vào cõi nước các Đức Phật là lìa xa nạn các trời Trường thọ. Theo luận Thành Thật thì bốn luận diệt hết tám nạn: Ở nơi tốt lành gọi là Trung Quốc, trừ bỏ năm nạn đó là ba đường ác thú, trời Trường thọ, biên địa. Nương theo người tốt gọi là gặp Phật, trừ bỏ nạn sinh trước và sinh sau thời Phật. Phát nguyện chân chánh gọi là chánh kiến, trừ bỏ nạn tà kiến thế trí biện thông. Gieo trồng gốc lành vốn có, trừ bỏ nạn các căn không đầy đủ. Nay nghe kinh này chỉ nên tin hiểu để từ bỏ tám nạn, bởi lẽ là oai lực thù thắng; có thể trừ chướng ngại, cho nên chẳng những dứt trừ chướng ngại mà còn mau chóng đạt được Bồ-đề. Phân tích rõ trong phần giải thích thành tựu dưới đây. Văn kinh: Vì sao? Tán rằng: Nêu ra. Nghe kinh có thể tin hiểu, thì có công năng dứt bỏ tám nạn, vì sao? Văn kinh: Vì được nghe pháp vô cùng sâu xa này. Tán rằng: Giải thích. Vì thọ trì pháp Đại thừa nhóm họp mười công đức: Thành tựu tất cả hạt giống căn lành. Lúc sắp qua đời được tất cả mọi điều vui sướng. Được tùy ý sinh đến tất cả mọi nơi. Đối với nơi sinh đến được tự tánh niệm phát sinh trí. Nơi sinh đến thường được gặp Phật. Thường ở bên Phật nghe pháp Đại thừa. Thành tựu tín căn tăng thượng. Thành tựu tuệ căn tăng thượng. Được xa lìa hai chướng trí hoặc. Mau chóng được thành tựu Bồ-đề vô thượng. Vì lý do đó cho nên xa lìa tám nạn. Văn kinh: Thiện nam, thiện nữ đó sẽ được Như lai biết đến nhớ đến, sẽ được không lui sụt đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Ta-bồ- đề. Tán rằng: Thành tựu nguyên nhân ở trước. Người có thể nghe kinh này phát sinh tin hiểu, tức là Như lai đã biết danh thân, đã thấy sắc thân. Nói đến công đức của người này chỉ có Phật thấy biết, người khác không thể nào thấy biết. Nói là biết thì có thể, nhờ vào đâu mà nói là thấy? Nói là thấy cũng được, cần gì phải nói là biết? Đáp: Theo luận Bát-nhã Kinh của Thiên Thân chép: “Phật chẳng phải thấy quả biết vì nguyện trí hiển hiện mà thấy.” Nhưng nói là biết nghóa là Phật thấy quả nhờ vào biết nhân cho nên ở đây nói là thấy, thấy là nguyện trí nêu lên tâm năng liễu. Nếu như vậy chỉ là thấy, cần gì phải nói là biết, nghóa là chỉ thấy sắc nay cũng có thể biết thân bốn uẩn. Không phải thực hiện nhưng Phật thấy biết, tức là Phật ghi nhớ. Lại nữa, sẽ đạt được Bồ-đề không lui sụt, tuy chưa đạt được ngay nhưng rồi sẽ chứng được. Tùy theo địa vị nào đó sẽ chứng đạt bốn bất thối, đó là bốn thứ bất thối: Tín, trú, chứng, hạnh. Tín bất thối là tâm thứ sáu trong Thập tín. Trú bất thối là tâm thứ bảy trong Thập trú. Chứng bất thối là Sơ địa, hành bất thối là vào Bát địa. Văn kinh: Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với pháp sâu xa nhiệm mầu này một lần nghe qua tai, thì nên biết rằng người đó không phỉ báng Như lai, không hủy phạm chánh pháp, không khinh chê Thánh chúng. Tán rằng: Tiếp tục nói rộng hơn nữa về sự thành tựu hai lợi ích cao quý trước đây, muốn khiến cho nghe nhận tu hành kinh này. Có ba lợi ích cao quý: Không hủy báng Tam bảo. Thêm lớn gốc lành. Dạy phải thực hành sáu độ. Đây là lợi ích thứ nhất. Bởi vì biết Phật thường trụ nên không bài báng Như lai, cho rằng cuối cùng cũng hoại diệt; biết nói quyết định cho nên không bài báng pháp; biết có thể đạt được thành quả cho nên không bài báng Tăng. Lại vì nghe tin thường làm cho tín nhân không hủy hoại, không hủy báng khinh thường Tam bảo. Văn kinh: Tất cả chúng sinh chưa gieo trồng gốc lành khiến cho được gieo trồng, đã gieo trồng gốc lành thì khiến cho được thành tựu thuần thục. Tán rằng: Thêm lớn gốc lành. Đây là chưa phát tâm cầu Bồ-đề khiến cho phát tâm cầu, tức là khiến cho gieo trồng gốc lành. Đã phát tâm cầu thì khiến cho tăng thêm thắng giải hạnh vị ở tăng-kỳ thứ nhất, khiến cho lớn mạnh ở tăng-kỳ thứ hai, khiến cho thành tựu ở tăng-kỳ thứ ba. Nhưng hai loại trên chỉ nói người nghe kinh đạt được sáu Ba-la- mật khiến cho người khác thực hành. Đây là ảnh hưởng lẫn nhau, tự và tha đều như vậy. Văn kinh: Tất cả thế giới, tất cả chúng sinh đều khuyến khích tu hành sáu độ Ba-la-mật-đa. Tán rằng: Sau đó có thể khiến cho thực hành sáu độ. Ý này nói về tự mình làm ra, nhớ thầy bạn ngày xưa trao truyền pháp duyên khởi, sự thấy biết đúng đắn về thế gian khiến cho đạt được hiện khởi. Thường quán như vậy khiến cho sự thấy biết thêm lớn, đó là quán nghịch tạp nhiễm, quán già chết này diệt và hướng đến diệt hành tức là đến vô minh. Trong này tạm thời dựa theo chi già chết và nhân của hai đời hiện tại, vị lai lược bỏ không nói về già chết và nhân của đời quá khứ. Lại nữa, nếu đã diệt thì không cầu đoạn cái kia, bởi vì thực hành bốn đế nên hợp lại mà quán sát, nếu thực hành bảy mươi bảy trí tức là ba đời khác nhau. Lại giải thích: Hoặc duyên với già chết hiện tại mà quán nhân gần xa, nhân đều là quá khứ, tức là đến chi ái. Nếu quán già chế vị lai, từ hữu đến ái, nếu ái trước đó là khổ của vị lai thì dựa theo thứ tự đang sinh khởi, không như vậy thì hạt giống chẳng phải là duyên xoay vần. Nếu căn cứ theo cách giải thích trước đó thì già chết của hiện tại và vị lai chính là quán chung, nhân tức là quán riêng. Ở đây giải thích nhân là quán chung, già chết là quán riêng, không những quán ngược lại chi già chết, mà quán tập khổ của vị lai cũng là nghịch quán. Hỏi: Hoặc có nơi nói: Từ quán vô minh đến sinh thì dừng lại, điều đó vì sao? Đáp: Dựa theo căn cơ tánh muốn suy tìm nhân quả mà nói. Già chết không có quả, chỉ đến ngang chi sinh. Hỏi: Hoặc có nghịch quán đến chi danh sắc, ấy là vì sao? Đáp: Căn cứ theo nghiệp chủng là chi thức mà nói, bởi vì thức thuộc về chi danh sắc. Văn kinh: Nói pháp này xong, lại nói mười hai duyên khởi tương ưng Đà-la-ni rằng: “Đát điệt tha - tỳ chiết nhó tỳ chiết nhó - tỳ chiết nhó tăng tắc chỉ nhó - tang tắc chỉ nhó - tăng tắc chỉ nhó - tỳ nhó nhó - tỳ nhó nhó tỳ nhó nhó - sa ha. Đát điệt tha - na nhị nhó na nhị nhó - na nhị nhó sát tró nhó - sát tró nhó - sát tró nhó - táp bát lý thiết nhó - táp bát lý thiết nhó - táp bát lý thiết nhó - sa ha. Đát điệt tha - bệ đạt nhó bệ đạt nhó - bệ đạt nhó trất lý sắt nhó nhó - trất lý sắt nhó nhó - trất lý sắt nhó nhó ô ba địa nhó - ô ba địa nhó - ô ba địa nhó - sa ha đát điệt tha - bà tỳ nhó bà tỳ nhó - xà ma nhó nhó xà ma nhó nhó - xà ma nhó nhó sa ha.” Tiếp theo là phần thứ hai, là duyên khởi mật thuyết, đầu tiên là kết thúc điều nêu ra ở trước, tiếp theo chính thức nói chú. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói nhân duyên xưa kia của Lưu Thủy cho tất cả đại chúng nghe, lúc các chúng trời người khen ngợi là điều chưa từng có thì Tứ đại Thiên vương đều ở nơi cõi của họ đồng thanh cất tiếng nói như vầy: Lành thay! Đức Thích-ca Thế Tôn nói pháp mầu minh chú tương ứng mười hai chi, sinh phước trừ diệt các điều ác, chúng con cũng nói chú ủng hộ pháp sư như thế, nếu có người nào sinh tâm trái nghịch không tốt, thuận theo đó thì đầu bị vỡ thành bảy phần, giống như ngọn cây lan hương. Chúng con đối trước Phật cùng nói chú đó rằng: “Đát điệt tha - rất lý mê - yết thế kiện đà lý - chiên trà lý địa lệ - đao đại lệ - thạch thất phạt lệ - bổ la bố lệ đoản mạt để khi la mạt để đạt địa mục khế - lũ lô bà mẫu lô bà - câu trà mẫu lô kiện đề - đỗ lô đỗ lô tỳ lệ - ê nê tất - nê đạp - tí đạt đạp tí ô tất đát lý ô suất tra la phạ để - át lạt sa phạt để - bát đỗ ma phạt để - câu tô ma phạt để - sa ha.” Tiếp theo là phần thứ ba, các vị trời nghe và khen ngợi trong phần thực hành cứu loài cá, có ba: Đầu tiên là nêu ra, tiếp theo “Lúc các đại chúng…” trở xuống là đại chúng cùng vui mừng, sau từ “thì Tứ đại thiên vương…” trở xuống là khen ngợi riêng, có hai: Đầu tiên là khen ngợi lời Đức Phật giảng nói, sau là nói chú nguyện ủng hộ. Phần đầu khen ngợi lời Đức Phật giảng nói lại có hai: Trước nêu ra, sau khen ngợi, phần sau từ “chúng con cũng nói chú…” trở xuống là phần thứ hai nguyện ủng hộ, có ba: Hai câu đầu là nêu ra, bốn câu tiếp theo là khuyên nhắc, cuối cùng từ “Chúng con đối trước Phật…” trở xuống là nói thần chú. Văn kinh: Phật bảo thiện nữ Thiên; bấy giờ, trưởng giả tử Lưu Thủy và hai người con vì đàn cá trong hồ kia giúp cho nước, ban cho thức ăn, đồng thời nói pháp cho nghe xong, đều cùng nhau trở về nhà mình. Trưởng giả tử Lưu Thủy này lại vào lúc sau đó, nhân có buổi tiệc thiết đãi mọi người nên uống rượu ca hát say sưa nằm ngủ. Lúc ấy, mười ngàn con cá đồng thời chuyển mạng sinh lên cõi trời Tam thập tam, khởi ý nghó như vầy: Chúng ta nhờ nghiệp lành nhân duyên gì mà sinh lên cõi trời này? Liền cùng nhau nói rằng: Trước đây Thiệm-bộ châu chúng ta đọa lạc trong loài bàng sinh, cùng làm cá, được trưởng giả tử Lưu Thủy giúp cho chúng ta nước và các thứ thức ăn, lại nói pháp mười hai duyên khởi sâu xa cùng tột và Đà-la-ni, lại xưng niệm danh hiệu Bảo Kế Như lai cho chúng ta nghe, nhờ nhân duyên này đã khiến cho chúng ta được sinh lên cõi trời này, cho nên bây giờ chúng ta nên cùng nhau đến chỗ trưởng giả tử kia để cúng dường và báo đến ân đức. Bấy giời, mười ngàn vị Thiên tử liền biến mất cõi trời đến chỗ Đại y vương trong châu Thiệm-bộ. Lúc ấy, trưởng giả tử đang ngủ trên lầu cao thì mười ngàn vị thiên tử cùng đem mười ngàn chuỗi ngọc trân châu đặt bên cạnh đầu trưởng giả tử, lại lấy mười ngàn xâu chuỗi ngọc đặt ở dưới chân, tiếp tục lấy mười ngàn xâu chuỗi đặt bên hông phải, lại lấy mười ngàn xâu chuỗi đặt bên hông trái, rải hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la dồn chứa lại cao lên đến đầu gối, ánh sáng chiếu rọi khắp nơi, các thứ nhạc trời phát ra âm thanh nhiệm mầu khiến cho người ở châu Thiệm-bộ có người đang ngủ say thảy đều thức giấc. Trưởng giả tử Lưu Thủy cũng thức dậy. Lúc này mười ngàn vị Thiên tử đã cúng dường xong liền bay vọt lên hư không mà đi. Ở trong cõi Thiện tự tại quang vương khắp nơi đều rưới hoa sen xinh đẹp cõi trời, các vị Thiên tử này lại đến nơi xưa kia trong hồ vắng vẻ rải các thứ hoa trời, liền ở nơi này biến mất trở về cung điện cõi trời, tùy ý tự tại thọ dụng năm thứ dục lạc. Thiên tự tại quang vương đến khi trời sáng tỏ bèn gọi các quan đại thần đến hỏi: Đêm qua vì duyên cớ gì bỗng nhiên hiện bày tướng tốt lành ít có phát ra ánh sáng rực rỡ như thế? Quan đại thần trả lời: Tâu Đại vương, nên biết là có nhiều vị trời ở trong nhà trưởng giả tử Lưu Thủy rải bốn mươi ngàn xâu chuỗi ngọc trân châu và hoa trời Mạn-đà-la chứa dày đến ngang đầu gối. Nhà vua bảo quan đại thần: Đến nhà trưởng giả tử gọi người ấy đến đây. Quan đại thần nhận chiếu chỉ liền đến nhà đó vâng lệnh vua cho gọi trưởng giả tử. Trưởng giả tử lập tức đến cung vua, nhà vua hỏi: Vì duyên cớ gì đêm qua thị hiện tướng trạng tốt lành ít có như vậy? Trưởng giả tử nói: Như tôi suy đoán chắc chắn phải là các loài cá trong hồ kia, giống như kinh đã nói sau khi qua đời được sinh lên cõi trời Tam thập tam, họ đến báo đến ân đức cho nên hiện bày tướng trạng kỳ diệu ít có như vậy. Nhà vua nói: Vì sao biết được? Lưu Thủy trả lời: Nhà vua có thể sai người cùng hai con tôi đến chỗ hồ kia hiểm nghiệm việc đó thật hư như thế nào, xem mười ngàn con cá ấy là chết hay sống. Nhà vua nghe lời này lập tức sai người cùng trưởng giả đến bên hồ kia, thấy trong hồ đó có nhiều hoa Mạn-đà-la chứa nhóm lại thành đống lớn, các loài cá đều chết. Thấy sự việc như vậy liền trở về kể lại hết cho vua nghe, vua nghe xong trong lòng vui mừng ngợi khen việc chưa hề có. Tiếp theo là phần thứ tư, nói về loài cá đền đáp ân đức trong phần cứu loài cá, văn có mười bốn phần: Ba vị đại só trở về nhà. Từ “Trưởng giả tử Lưu Thủy này… trở xuống là trưởng giả tử uống rượu say nên nằm ngủ. Từ “Lúc ấy, mười ngàn con cá…” trở xuống là loài cá đã chết sinh lên cõi trời. Từ “Khởi ý nghó như vậy…” trở xuống là suy nghó biết được nghiệp đời trước. Từ “Cho nên, bây giờ chúng ta…” trở xuống là bàn luận về ân đức cần phải đền đáp. Từ “Bấy giờ, mười ngàn vị Thiên tử…” trở xuống là báo đền ân đức, trong đó lại có ba: Từ cõi trời xuống. “Lúc ấy, trưởng giả tử…” về sau là báo đền ân đức. “Liền ở nơi này biến mất…” về sau là xong việc trở về cõi trời. Trong phần báo đền ân đức, có ba: Đầu tiên là báo đền ân đức của trưởng giả; tiếp theo “Ở trong cõi Thiện tự tại quang vương…” về sau là báo đền ân đức của quốc vương, bởi vì nhà vua cho mượn đàn voi lại che chở Phật pháp khiến cho mình được nghe, sau từ “Các vị Thiên tử này…” trở xuống là báo đền ân đức nơi sinh ra. Từ “Thiện tự tại quang vương…” trở xuống là nhà vua hỏi về điềm lành ứng hiện. Từ “Quan đại thần trả lời…” trở xuống là các đại thần trả lời đầy đủ. Từ “Nhà vua bảo quan đại thần…” trở xuống là nhà vua sai người gọi trưởng giả tử đến. Từ “Trưởng giả tử lập tức…” trở xuống là trưởng giả tử đến phụng mạng. Từ “Nhà vua hỏi…” trở xuống là nhà vua đích thân hỏi rõ sự việc. Từ “Trưởng giả tử nói rằng…” trở xuống là trưởng giả trả lời đầy đủ. Từ “Nhà vua nói vì sao…” trở xuống là xem xét sự việc thật hư. Từ “Nhà vua nghe xong…” về sau là sinh tâm tin tưởng vui mừng. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Phật bảo thọ cây Bồ-đề: Này thiện nữ Thiên! Nay ngươi nên biết rằng trưởng giả tử Lưu Thủy kia chính là ta, trưởng giả Trì Thủy ấy chính là Diệu Tràng, hai người con của trưởng giả kia, con lớn Thủy Mãn chính là Ngân Tràng, con thứ Thủy Tạng chính là Ngân Quang, Thiện Tự Tại Quang Vương kia chính là ngươi thần cây Bồ-đề, mười ngàn con cá ấy chính là mười ngàn vị Thiên tử này. Bởi vì xưa kia ta đem nước cứu loài cá và ban cho thức ăn giúp chúng được no đủ lại nói mười hai duyên khởi sau xa cùng tột và thần chú Đà-la-ni tương ưng này cho chúng sinh nghe, đồng thời vì chúng xưng niệm danh hiệu Đức Phật Bảo Kế, nhờ gốc lành này nên được sinh lên cõi trời, nay lại đến chỗ ta vui mừng nghe pháp, nên ta đều vì họ thọ ký quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề và nói về danh hiệu của họ. Này thiện nữ Thiên! Như ta xưa kia luân hồi trong sinh tử khắp nơilàm nhiều lợi ích khiến cho vô lượng chúng sinh thảy đều lần lượt thành tựu Vô thượng chánh giác và thọ ký cho họ, các người đều nên cố gắng cầu được xuất ly chớ có buông lung. Tiếp theo là đoạn thứ ba của phẩm kết thúc biết rõ xưa và nay, có bốn: Kết thúc biết rõ về cha con Bồ-tát. Từ “Thiên tự tại quang vương kia…” trở xuống là kết thúc biết rõ về thần cây. Từ “Mười ngàn con cá…” trở xuống là kết thúc biết rõ về các Thiên tử, trong đó lại có ba: Đầu tiên là kết thúc biết rõ về người, tiếp theo từ “Bởi vì xưa kia…” trở xuống là kết thúc biết rõ về pháp, sau từ “Nhờ gốc lành này…” trở xuống là kết thúc thành tựu nhân lành, cho nên được thọ ký. Từ “Thiện nữ Thiên…” về sau là khuyến khích tin nhận, dạy phải tu học. Văn kinh: Lúc ấy, đại chúng nghe nói việc này rồi thảy đều hiểu rõ, nhờ năng lực đại Từ bi cứu hộ tất cả, siêng năng tu tập khổ hạnh mới chứng được quả vị Vô thượng Bồ-đề, vì vậy thảy đều phát khởi tâm tin nhận vui mừng. Tiếp theo là đoạn thứ tư, lãnh ngộ y theo tu học. Hỏi: Phẩm này đã nói vì dứt trừ nghi ngờ của đại chúng về nhân duyên được thọ ký của các Thiên tử, tại sao lại lãnh hội được mà nói rằng “Đại chúng hiểu rõ, nhờ năng lực đại Từ bi thực hành các khổ hạnh mới chứng được Bồ-đề”? Đáp: Theo phần kết thúc chúng hội chỉ tóm kết về các Thiên tử, rõ ràng biết rằng chỉ vì dứt trừ nghi ngờ của đại chúng về nhân duyên được thọ ký của các thiên tử, nên nói là “Hiểu rõ là nhờ thực hành đại Từ bi v.v… mà đạt được quả vị Bồ-đề”, là nghóa phụ. Lại biết rằng mười ngàn vị Thiên tử cũng nhờ thực hành các khổ hạnh, sau đó mới đạt được quả vị Bồ-đề, do đó đều thực hành tu học. ----------------------- <詞>Phẩm 26: XẢ THÂN Phẩm Xả Thân có chia ra ba phần: Nói về lý do có phẩm này: Ngay trong phần học hạnh Lưu thông có năm phần, thứ năm là thành tựu các phẩm trước, dạy tu học và thực hành, ý đó có ba, ở đây tức là ý thức ba lại tiếp tục khuyến khích cố gắng nên nói về phẩm Xả Thân này. Vì sao? Vì sợ rằng mọi người nghe nói thực hành các hạnh tự lợi sẽ được thành Phật, hãy còn không thể tu tập, cho nên nêu ra hạnh nguyện Bồ-tát vì lợi ích cho người mà xả bỏ thân mạng, tại sao không vì chính mình tu hành theo kinh này, do đó nói phẩm xả thân. Vì thế sau này kinh nói: “Ta vì người nói về duyên lợi tha ngày xưa, Bồ-tát nên tu học nhân thành Phật như thế…” Lại sợ rằng nghe nói ít thực hành mà được thành Phật thì hữu tình sẽ sinh ra khinh mạn, cho nên nêu ra phẩm Xả Thân để khuyến khích đại chúng y theo tu học. Vì thế sau này kinh nói: “Đức tốt của Bồ-tát tương ứng với trí tuệ, hăng hái tinh chuyên thực hành đầy đủ sáu độ, luôn luôn tu học không dừng nghỉ vì cầu quả vị Bồ-đề, nhập vào tâm xả vững chắc không mệt mỏi.” Trước là ý chính, ở đây là nói gồm đủ về lý do có phẩm này. Giải thích tên gọi: Vì cầu bi trí của Đấng Đại Giác nên thường tu tập, gặp gian khổ hay vui sướng thề xả bỏ thân mạng chứ không bảo vệ giai vị tôn quý, cúi xưống cứu giúp nạn treo ngược, thực hành nguyện Bồ-tát, nêu làm tên phẩm nên gọi là phẩm Xả Thân. Giải trừ vấn nạn: Hỏi: Hạnh xả thân này trong ba tăng-kỳ kiếp, kiếp nào mới xả bỏ? Đáp: Không thấy trong chánh văn, truyện chép: “Trong tăng-kỳ thứ ba mới xả thân, vì trong kiếp đầu tiên công hạnh vẫn còn yếu kém, cho nên không thể thực hiện xả bỏ thân mạng này.” Căn cứ theo đây nên có thể thông cả hai tăng-kỳ sau. Hỏi: Theo các luận như Du-già chẳng hạn, thì tăng kỳ thứ ba chắc chắn chịu sự biến đổi, vì sao có sự xả bỏ thân thể, xương cốt được? Đáp: Đó là Hóa thân. Hỏi: Nếu vậy sao không biến hóa làm các thứ thịt để bố thí cho cọp đói mà hóa hiện xả thân như vậy? Đáp: Hóa hiện tự thân để bố thí giúp ích nhiều cho chúng sinh. Hỏi: Nếu như vậy tại sao kinh Kim Quang Minh xưa nói rằng “Xả thân nuôi cọp vượt qua mười một kiếp”? Đáp: Đó cũng là Hóa thân. Hỏi: Nếu thế tại sao các kinh như kinh Phật Tạng lại chép: “Đức Phật Di Lặc phát tâm Bồ-đề trước Đức Phật Thích-ca bốn mươi kiếp”, các kinh như kinh Hiền Kiếp chép: “Ngài Thích-ca nhờ tinh tấn tu tập cho nên vượt qua bốn mươi kiếp mà thành Phật trước ngài Di-lặc”? Đáp: Đó là vì văn cơ hóa sinh thành thục trước sau nên khác nhau, cả hai vị Bồ-tát đều nói có vượt qua kiếp, nếu không như vậy thì làm sao có thể nói từ địa thứ tám trở lên giai vị tăng tiến trong từng sát-na, đều tăng tiến gấp bội, làm sao vượt qua được? Lại giải thích: Tăng tiến thêm là hướng về phía trước và thực hành hạnh tự lợi, đối với hạnh nguyện lợi tha chưa hẳn đã tăng thêm, do đó nói không muốn thực hành lợi tha là chướng ngại phải dứt trừ để đi vào địa thứ chín. Lại giải thích: Kết hợp hai nghóa trước cho nên có thể nói là vượt qua. Hỏi: Chướng ngại lợi tha cần phải dứt bỏ là ở địa thứ chín, tại sao Đức Thích-ca trải qua ba tăng-kỳ tu tập đã mãn, trong trăm kiếp gặp Đức Phật Phất-sa vui mừng khen ngợi nên vượt qua chín kiếp? Đáp: Vì chúng sinh mà giảng nói, cho nên không có lỗi. Hỏi: Tại sao xả thân không thành tựu quả tuổi thọ của Như lai mà lại nói khổ hạnh khuyến khích cố gắng trì kinh tu hạnh tự lợi? Đáp: Theo như trướcđây thì Bồ-tát Diệu Tràng chỉ nghi ngờ về thọ mạng, không xứng với nhân của sự sống lâu, không nghi ngờ về thọ mạng lâu dài thì tu tập hạnh gì mà được, do đó không cần phải thành tựu. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn đã nói cho đại chúng nghe về nhân duyên xưa kia của mười ngàn vị Thiên tử này. Tán rằng: Văn trong phẩm này toàn bộ chia làm bốn phần: Kể rõ hạnh xả thân xưa kia. Từ “Lại bảo A-nan-đà…” về sau là kết hợp xưa và nay. Từ “Ta nói cho các người nghe…” về sau là khuyên nhủ tu học. Từ “Bấy giờ, Đức Thế Tôn…” về sau là đại chúng nghe được lợi ích. Trong phần một chia làm ba: Đầu tiên là kết thúc phần trước, dẫn ra phần sau để nói đầu đuôi sự việc, tiếp đến từ “Bấy giờ, Đức Thế Tôn…” về sau là tiếp tục vì hiện tiền đại chúng hiện tháp báu nói tựa kể rõ sự xả thân, sau cùng từ “Lại bảo A-nan-đà…” trở xuống là nói về hạnh xả thân xưa kia, đích thực lợi ích cho tình hình đặc biệt lúc ấy. Đầy là phần đầu lại có ba, ở đây là đầu tiên kết thúc các kinh trước. Văn kinh: Lại bảo thần cây Bồ-đề và các đại chúng: Ta ở đời quá khứ thực hành đạo Bồ-tát, không chỉ ban nước và thức ăn cứu giúp mạng sống đàn cá kia, cho đến thân yêu quý của ta cũng xả bỏ, nhân duyên như thế có thể cùng nhau quán sát. Tiếp theo là phần thứ hai, Đức Thế Tôn dẫn ra phần sau, có bốn: Nêu căn cơ đương thời. Từ “Chẳng những…” trở xuống là dựa vào trước đây mà nói lược. Từ “Cho đến…” trở xuống là nói rộng về nhân tốt đẹp. Từ “Nhân duyên như thế…” trở xuống là nhắc nhở, khuyến khích đại chúng lúc ấy. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác cao đẹp nhất, tôn quý nhất khắp cõi trời, cõi người, phát ra trăm ngàn tia sáng soi chiếu cac thế giới mười phương, đầy đủ tất cả trí tuệ, công đức hoàn thiện trọn vẹn, dẫn các Tỳ-kheo cùng với đại chúng đến bày Bàn-già- la, vào trong một khu rừng, đất đai bằng phẳng không có các thứ gai góc, hoa đẹp cỏ mềm trải khắp chỗ đó. Đức Phật bảo Cụ thọ A-nan-đà: Ông hãy ở dưới cội cây này sắp đặt chỗ ngồi cho ra. A-nan-đà lập tức vâng lời sắp đặt xong, bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chỗ ngồi đã sắp đặt xong, cúi mong Thế Tôn biết thời! Tiếp theo là bắt đầu nói rõ sự việc cho đại chúng nghe, có hai: Khen ngợi công đức cao quý của Phật hiển bày ánh sáng nhóm họp đại chúng. Từ “Dẫn các Tỳ-kheo…” về sau là dẫn dắt cho đại chúng biết lối đến đạo tràng. Bàn-già-la, Hán dịch là Tổng tập, cũng có nghóa là nhung nhúc các con sư tử gọi là Bàn-già-la, tức là người ở nơi này bắt các sư tử nhốt lại, vì giam giữ nên nhân đó đặt ra tên gọi này. Nơi mọi người nhóm họp sinh sống gọi là xóm làng, xóm làng cũng là đình viện. Theo Tây vực truyện: “Ở nước Đát-xoa-thỉ-la, là biên giới phía Bắc Ấn Độ, bấy giờ là phía Tây bắc nước Ca-thấp-di-la, chỗ xả thân này ở vùng phía Bắc nước Thỉ-La. Vượt qua sông Tín độ về phía Đông nam khoảng hai trăm dặm có một cổng đá rộng lớn, nơi đây vương tử Tát-đỏa xả thân nuôi cọp đói và lũ quạ, đất đai trong đó cho đến các loại cỏ cây bé nhỏ đều có màu đỏ, giống như có máu thấm vào. Mọi người đi trên đất đó giống như bị gai đâm, bất luận là người nghi kẻ tin, chẳng ai không buồn thương.” Từ “Đức Phật bảo Cụ Thọ…” trở xuống là Phật bảo A-nan hãy sắp đặt pháp tòa. Đầu tiên là Đức Phật chỉ dạy, tiếp theo là vâng lời chỉ dạy, sau là bắt đầu cầu thỉnh. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền bước lên pháp tòa ngồi kiết già, vững mình chánh niệm bảo các Tỳ-kheo: Các người muốn thấy xá lợi của Bồ-tát thực hành khổ hạnh xưa kia không? Các Tỳ-kheo đáp: Vâng, chúng con muốn thấy. Đức Thế Tôn liền dùng tay phước đức tướng tốt trang nghiêm ấn xuống mặt đất, lúc ấy cả mặt đất vang lên sáu thứ rung chuyển, liền đó mở toang ra, tháp bảy báu bỗng nhiên xuất hiện, nhiều thứ lưới giăng quý báu trang nghiêm phía trên. Đại chúng thấy rồi sinh tâm ít có. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn liền đứng dậy nơi pháp tòa lễ lạy, đi vòng sang bên phải rồi trở lại pháp tòa bảo A- nan-đà: Ông hãy mở cánh cửa cuối cùng này! A-nan-đà lập tức mở cánh cửa đó, thấy chiếc hộp bảy báu kỳ lạ đặt bên trong nên bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Có chiếc hộp bảy báu trang hoàng nhiều thứ quý lạ. Đức Phật bảo: Ông hãy mở chiếc hộp. Lúc ấy, A-nan-đà vâng lời dạy mở nắp hộp, thấy có xá-lợi trắng như ngọc kha, trắng như hoa Cẩu-vật-đầu, liền bạch với Đức Phật: Trong hộp có xá-lợi màu sắc tuyệt đẹp khác thường. Đức Phật bảo: A-nan-đà! Ông hãy mang xương cốt Đại só ấy đến đây. A-nan-đà liền vâng lời lấy xương cốt đó mang đến dâng lên Thế Tôn, Đức Thế Tôn nhận và bảo các Tỳ-kheo rằng: Các người nên quan sát di thân xá-lợi của Bồ-tát khổ hạnh. Lại nói bài tụng: Bồ-tát đức tuệ thắng tương ưng, mạnh mẽ tinh chuyên sáu độ tròn, thường tu không nghỉ là Bồ-đề, đại xả vững chắc tâm không mỏi. Tỳ-kheo các thầy đều nên kính lễ bổn thân Bồ-tát, xá-lợi này chính là vô lượng hương Giới, Định, Tuệ xông ướp ngào ngạt, là ruộng phước trên hết rất ít khi gặp được. Lúc ấy các Tỳ-kheo cùng các đại chúng thảy đều dốc lòng chắp tay cung kính đảnh lễ xá-lợi và khen ngợi là chưa từng có. Bấy giờ, A- nan-đà bước đến đảnh lễ dưới chân Phật, bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Như lai Đại sư là đấng vượt qua tất cả sự cung kính của các loài hữu tình, vì nhân duyên gì mà lễ kính thân cốt này? Đức Phật bảo A-nan-đà: Ta nhờ xương cốt này mà mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì báo đền ân đức ngày xưa nên nay ta cung kính lễ lạy. Tiếp theo vì hiện tiền đại chúng hiện tháp báu nói tựa kể rõ sự xả thân. Trong đó lại chia làm mười tám đoạn: Hỏi ý đại chúng có muốn thấy không. “Các Tỳ-kheo bạch rằng…” về sau là đại chúng trả lời vui mừng muốn thấy. “Đức Thế Tôn liền dùng…” về sau là Phật hiện bày thần thông. Hỏi: Sao ngay lúc đó không khiến cho tháp hiện ra mà tay ấn mới nổi lên? Đáp: Nếu không dùng tay ấn mà ngay lúc đó khiến cho tháp hiện ra thì đại chúng không biết được thần lực của Phật, có ba: Tay ấn xuống đất. Mặt đất chấn động. Mặt đất mở ra. “Ngôi tháp bảy báu…” về sau là tháp báu hiện ra; Chế-để là tiếng Phạn, thông thường chỉ cho chùa tháp thờ Phật, nếu là chỉ riêng thì Phật đường gọi là Chế-đa, Hán dịch là Linh thố, xưa gọi là Chi-đề là sai; Tháp, tiếng Phạn là Tốt-đổ-ba, Hán dịch là Cao hiển, xưa dịch là Phật tháp, Tháp bà, Luân bà v.v… đều sai. Trong này có ba: Ngôi tháp xuất hiện. Các thứ trang nghiêm. Đại chúng nhìn thấy. Hỏi: Tháp xả thân tại sao không ẩn giữa hư không mà lại chìm dưới đất? Đáp: Muốn hiển bày Pháp thân xá-lợi trong nhân do chướng ngại che phủ nên không hiển bày được, nhờ phương tiện của Phật mới hiện bày được, vì thế ẩn trong đất, ấn xuống mặt đất mới hiện lên. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn…” về sau là vì báo ân nên kính lễ, do đó quỷ đói ăn thây chết, các vị trời lạy xương khô, đây là ý khiến cho đại chúng tu nhân nên báo đền ân đức ngày xưa. “Bảo A-nan-đà…” về sau là dạy bảo mở cửa tháp. “A-nan-đà lập tức…” về sau là vâng lời mở tháp, trong này có hai: Mở cửa tháp, Nhìn thấy chiếc hộp. “Bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn…” về sau là y theo điều nhìn thấy nên bắt đầu thưa hỏi, hiển bày Như lai ẩn chứa đầy đủ tánh công đức cho nên có hộp báu trang nghiêm. “Đức Phật bảo…” về sau là lại bảo mở hộp. Lúc ấy, A-nan-đà…” về sau là vui mừng y theo lời dạy, có hai: Một là mở hộp, hai là những gì nhìn thấy biểu hiện cho lý tánh thanh tịnh không phải là vật đắm nhiễm, giống như hoa sen tinh khiết. “Liền bạch…” về sau là A-nan lại thưa hỏi. “Đức Phật bảo…” về sau là Phật bảo mang đến. “A-nan-đà liền lấy…” về sau là vui mừng vâng lời dâng lên. Thế Tôn nhận và…” về sau là Đức Phật nhận và nói về nhân duyên ấy, có ba: một là Đức Phật thâu nhận, hai là khuyên quan sát, ba là nói tụng ngợi ca. “Tỳ-kheo các thầy…” về sau là Thế Tôn chỉ dạy nên kính lễ, trong đó có hai: một là bảo kính lễ, hai là giải thích lý do. Năm phần pháp hương nêu ra ba, ví dụ hai, giới tức là nói riêng, định là nói về vô biểu định, tuệ như tên gọi, giải thoát tức là thắng giải số, giải thoát trí kiến tức là duyên với vô vi tuệ, giải thích rộng như các luận Tạp Tập, Đại Trang Nghiêm v.v… đã phân biệt rõ. “Lúc ấy, các Tỳ-kheo…” về sau là y theo lời dạy mà lễ lạy khen ngợi. “Bấy giờ, A-nan-đà…” về sau là thưa hỏi Đức Phật về lý do kính lễ. “Đức Phật bảo…” về sau là trả lời về lý do phải kính lễ. Văn kinh: Lại bảo A-nan-đà: Nay ta vì dứt hết mọi sự nghi ngờ cho ông và các đại chúng nên nói về nhân duyên xưa kia của xá-lợi này, các ông kéo suy nghó và nên nhất tâm lắng nghe. A-nan-đà thưa: Chúng con rất muôn nghe, cúi mong giảng nói cho chúng con nghe! A-nan-đà, thuở quá khứ có một vị vua tên là Đại Xa, rất giàu có nhiều tài sản, kho tàng đầy ắp, binh lính hùng mạnh, mọi người đều kính phục, thường dùng chánh pháp ban bố, cai trị dân chúng, khắp nơi thiïnh vượng, không có oán thù đối địch. Quốc Thái phu nhân sinh hạ ba vương tử dung mạo khôi ngô, mọi người đều thích ngắm nhìn. Thái tử tên là Ma-ha-ba-la, thứ tử tên là Ma-ha-đề-bà, ấu tử tên là Ma-ha- tát-đỏa. Tiếp theo nói về hạnh xả thân xưa kia làm lợi ích cho chúng hội lúc bấy giờ. Văn chia làm ba phần: Dạy lắng nghe và hứa giảng nói. Đại chúng ưa thích muốn nghe. Chính thức giảng nói, trong đó lại có hai: Đầu tiên là văn trường hàng, sau là văn trùng tụng. Văn trường hàng có mười đoạn: Kẻ rõ quyến thuộc xưa kia. “Lúc này, Đại vương…” về sau là kể lại cuộc dạo chơi vui vẻ ngày xưa. “Vương tử thứ nhất…” về sau là gặp cảnh khổ sinh lòng thương. “Bấy giờ, vương tử Tát-đỏa…” về sau là nghó nên xả thân mạng. “Lúc ấy, vương tử…” về sau là hy sinh thân mạng để cứu giúp. “Lúc ấy, mặt đất…” về sau là điềm lành cảm đến trời người. j) “Lúc này cọp đói…” về sau là cọp bèn ăn thịt. h) “Bấy giờ, Đại vương…” về sau là quyến thuộc kêu khóc thương tiếc. “Bấy giờ, Đại vương…” về sau là xây nên tháp thờ. “A-nan-đà …” về sau là kết thúc chỉ rõ hạnh lợi sinh. - Trong phần kể rõ quyến thuộc xưa kia có ba: Nói về thời gian. Kể rõ cha mẹ. Nói rõ anh em. Văn trong đoạn có thể biết. Ma-ha-ba-la, Hán dịch là Đại cừ, Ma-ha-đề-bà, Hán dịch là Đại thiên, Ma-ha-tát-đỏa, Hán dịch là Đại dũng mãnh. Vì cầu đại Bồ-đề nên phát tâm rất mạnh mẽ, không ngại nơi chốn, thời gian, hy sinh thân mình xả bỏ tánh mạng, cầu pháp lợi ích mọi vật, thường không tiếc nuối, lui sụt, vì thế gọi là rất mạnh mẽ. Do đó bài tụng ở dưới nói: “Vương tử tên Dũng Mãnh, tâm thường cho không tiếc.” Văn kinh: Lúc ấy, Đại vương vì muốn tuần du quán sát, thong dong ngắm nhìn rừng núi, ba vị vương tử đó cũng cùng đi theo, vì tìm kiếm hoa quả nên rời xa vua cha đến một khu rừng trúc rộng lớn nghỉ ngơi trong đó. Tiếp theo là kể lại cuộc dạo chơi vui vẻ ngày xưa, văn trong đó có ba: Đầu tiên là nhà vua ra khỏi cung du ngoạn, tiếp đến là các quan phụ tá đều đi theo, sau là các vương tử rời vua cha tìm nơi thưởng ngoạn. Hỏi: Đã nói là nhà vua rời cung du ngoạn và các vương tử cùng đi theo, vì sao nghe con xả thân ở trong cung? Đáp: Theo cựu dịch thì chỉ nói vương tử rời cung, lược bỏ không nói về người cha. Ở đây khi đã xả thân rồi thì lược bỏ không nói đến ngự giá hồi cung. Căn cứ theo thực tế thì vương tử cùng đi theo, nhà vua trở về trước, vì thế nghe con xả thân ở trong cung là không sai. Văn kinh: Vương tử thứ nhất nói như vầy: Ta cảm thấy hôm nay trong lòng rất hoang mang, ở trong rừng này mong sao không có thú dữ làm hại đến ta! Vương tử thứ hai lại nói như vầy: Đối với bản thân em trước tiên không hề tiếc rẻ, sợ rằng có nỗi khổ chia lìa đối với những gì yêu mến. Vương tử thứ ba thưa với hai anh rằng: Đây là nơi ở của các thần tiên, em không sợ hãi nỗi buồn chia lìa, thân tâm chan chứa nhiều niềm vui sướng, sẽ đạt được các công đức cao quý. Lúc ấy, các vương tử đều nói những điều suy nghó trong tâm tư mình. Tiếp theo là phần thứ ba, gặp cảnh khổ sinh lòng buồn lo, trong đó có ba: Đầu tiên là kể lại ý nghó trước đó, trong này lại có hai: Một là ba vương tử đều bày tỏ ý nghó, hai là “Lúc ấy, các vương tử…” về sau là nhà dịch kinh tổng kết. Văn kinh: Lại nữa, trước đó trên đường đi thấy có một con hổ sinh bảy hổ con mới bảy ngày, các hổ con bị đói khát, bức bách, thân hình gầy yếu chẳng bao lâu sẽ chết. Tiếp theo là phần thứ hai, thấy hổ đói ốm yếu. Hỏi: Thấy hổ mẹ sinh con, làm sao biết là bảy ngày? Đáp: Chân đế Tam tạng giải thích có hai cách: Sự giúp đỡ của đoàn thực chỉ trong bảy ngày, qua thời gian này sẽ chết, hổ đói như thế cho nên biết là bảy ngày. Vào lúc đó liền có quỷ thần trình báo, nhưng các kinh không nêu ra; cũng như phát nguyện xả thân, không có người nghe biết, sau đó thiên thần báo lại, như thần cây trình báo số cá trong hồ. Văn kinh: Vương tử thứ nhất nói như vầy: Đáng thương thay! Hổ mẹ này sinh con đã bảy ngày, bảy hổ con vây quanh không ngớt tìm kiếm thức ăn, bị đói khát bức bách chắc chắn quay lại ăn thịt hổ con. Vương tử Tát-đỏa hỏi rằng: Hổ này mỗi khi thường ăn những thứ gì? Vương tử thứ nhất trả lời: Hổ báo, chó sói, sư tử chỉ ăn máu thịt sống, hơn nữa không có thức ăn uống nào có thể cứu giúp hổ mẹ gầy ốm này. Vương tử thứ hai nghe lời này rồi liền nói như vầy: Hổ mẹ này gầy yếu bị đói khát bức bách, mạng sống còn lại chẳng bao lâu, chúng ta không thể nào tìm được thức ăn gì cho nó, như thế khó ăn uống được, lại vì nó tự xả bỏ thân mạng cứu giúp nỗi khổ đói khát kia? Vương tử thứ nhất nói: Tất cả khó xả bỏ, thân mình đều sinh lòng yêu quý, lại không có trí tuệ, không thể nào đối với người khác mà làm điều lợi ích. Tiếp theo là phần thứ ba, đau đớn cùng nhau bàn luận, trong đây có bảy: Thái tử thấy khổ sinh lòng thương xót. “Vương tử Tát-đỏa…” về sau là Tát-đỏa hỏi thức ăn của hổ. “Vương tử thứ nhất…” về sau là thái tử trả lời hổ ăn máu thịt. “Vương tử thứ hai…” về sau là Đại thiên nghe sinh lòng khiếp sợ. khó. “Vương tử thứ nhất…” về sau là thái tử nói rõ sự xả thân là “Vương tử Tát-đỏa…” về sau là Tát-đỏa bàn bạc trước sau, trong đó có ba: Đầu tiên trách mình không có khả năng, tiếp theo tôn sùng người khác có khả năng, sau cùng tâm niệm tự xem xét. Đầu tiên trách mình không có khả năng vì có ba nguyên nhân: Có tham đắm. “Lại không có trí tuệ…” về sau là không có đại trí. Không thể nào đối với…” về sau là không có đại Bi. Có tham đắm cho nên không thể sinh tâm chán bỏ pháp hữu vi, không có đại trí nên không thể sinh tâm cầu quả Bồ-đề, không có đại bi nên không thể sinh tâm lợi ích hữu tình, do đó không thể nào xả thân để lợi ích chúng sinh. Văn kinh: Nhưng có bậc Thượng só có tâm đại Bi, thường thực hành lợi tha, quên thân mình cứu giúp chúng sinh. Tiếp theo là tôn sùng người khác có khả năng, ở đây cũng có ba: Có đại trí, tức là có bậc Thượng só. Có đại Bi, tức là có tâm đại bi… Quên thân mình cứu giúp chúng sinh tức là không tham đắm, có thể chán bỏ pháp hữu vi. Văn kinh: Lại suy nghó như vầy: Thân này của ta hiện giờ trong trăm ngàn đời đã bị rục rã bỏ đi một cách vô ích, vì sao hôm nay lại không thể xả bỏ để cứu giúp nỗi khổ đói khát, như nhổ bỏ đờm dãi. Tiếp theo là tâm niệm tự xem xét, trong đó có ba: Đầu tiên là suy nghó ngày xưa thân này bỏ đi một cách luống uổng nhiều không kể xiết, tiếp theo “Tại sao hôm nay…” về sau là suy nghó hôm nay vì sao không thể xả bỏ để cứu giúp chúng sinh, cuối cùng “Như xả bỏ đờm dãi…” về sau là nên sinh tâm chán bỏ giống như đờm dãi. Xả bỏ sắc thân vô thường nên đạt được sắc thân thường còn. Văn kinh: Lúc ấy, các vương tử bàn nhau như thế xong, đều khởi lên tâm từ đau đớn xót xa, cùng nhìn hổ mẹ tiều tụy mắt không hề rời, lưỡng lự hồi lâu rồi cùng quay bước bỏ đi. Tiếp theo là phần thứ bảy, các vương tử đau lòng gắng gượng lìa xa. Văn kinh: Bấy giờ, vương tử Tát-đỏa liền nghó như vầy: Nay chính là lúc ta xả bỏ thân mạng, vì sao từ xưa đến nay mang thân nhơ bẩn này, máu mủ chảy đầy không đáng yêu quý, cung cấp mọi thứ, cùng với ăn mặc, voi ngựa, kiệu xe và các thứ tài bảo, pháp biến hoại, thể vô thường, luôn cầu tìm, khó đầy đủ, khó giữ gìn. Tuy luôn luôn cung cấp nuôi dưỡng nhưng ôm ấp oán hại, rốt cuộc rồi cũng bỏ ta, không biết công ơn. Lại nữa, thân này không bền lâu, đối với ta thật vô ích, đáng sợ như giặc, bất tịnh như phẩn dãi, hôm nay ta nên sử dụng thân này để tu tạo sự nghiệp to lớn, làm con thuyền lớn trong biển sinh tử, xả bỏ luân hồi để được thoát ra. Tiếp theo là phần là thứ tư, suy nghó nên xả bỏ thân mạng, có sáu: Khởi lên ý niệm xả thân. “Vì sao…” về sau là thôi thúc tác ý, tức là đi vào pháp lành thì dục là căn bản, tác ý sinh khởi, tức là như lý tác ý tư duy về bốn niệm trú. Hai câu đầu suy nghó về sự bất tịnh; ba câu tiếp theo suy nghó về sự vô thường; hai câu tiếp đó suy nghó có khổ. Luôn cầu tìm khó thỏa mãn là khổ cầu mong mà không được, khó giữ gìn là khổ thương yêu mà chia lìa, ôm ấp oán hại là khổ già bệnh chết; một câu tiếp theo suy nghó về vô ngã, tâm tuy mong cầu vui vẻ nhưng không thể ở với ta, rốt cuộc bỏ ta trong năm nẻo luân hồi, vứt bỏ chẳng hề biết ân, cho nên vô ngã. “Lại nữa…” về sau là chán bỏ ưa thích mong cầu, có hai: Đầu tiên là nhân, sau là quả. Trong nhân có ba: Chán bỏ pháp hữu vi tức là quán bốn niệm trú, thân này không bền lâu nên vô thường, đối với ta thật vô ích là vô ngã, đáng sợ như giặc là vô lạc, bất tịnh như phẩn dãi là bất tịnh. “Hôm nay ta…” về sau là cầu quả Bồ-đề. “Trong biển sinh tử…” về sau là ích lợi cho hữu tình, tức là dùng thân này thực hành sự nghiệp lợi ích chúng sinh, cho nên gọi là nhờ nhân tu, nếu về sau sinh rồi lại mất thì gọi là quả. Văn kinh: Lại suy nghó như vậy: Nếu xả thân này tức là xả bỏ vô lượng ung nhọt, bệnh quái ác, trăm ngàn điều kinh sợ. Thân này chỉ có đại tiểu tiện lợi, không bền lâu tựa như bọt nước, các loại vi trùng nhóm họp, máu mủ gân cốt cùng liên kết với nhau để tạm gìn giữ, thật đáng ghê tởm! Cho nên nay ta phải xả bỏ đề cầu Niết-bàn vô thượng rốt ráo, xa lìa hẳn ưu tư sầu não vô thường khổ đau, sinh tử ngừng dứt, trừ bỏ các trần dây dưa, dùng năng lực định tuệ viên mãn huân tu trăm phước trang nghiêm, thành tựu trí Nhất thiết, các Đức Phật khen ngợi pháp thân nhiệm mầu, đã chứng đạt rồi, ban cho chúng sinh vô lượng pháp lạc. Lúc ấy, vương tử sinh khởi tâm mạnh mẽ, phát thệ nguyện rộng lớn, dùng ý niệm đại bi để tăng thêm tâm nguyện đó. Tiếp theo là nói về mong cầu quả vị, cũng có ba: Chán bỏ pháp hữu vi. Theo luận Giải Thoát Đạo có mười quán tưởng bất tịnh: Phình trướng. Tím đen. Thối rữa. Vứt bỏ. Chim thú ăn nuốt. Thân thể rời ra. j) Tứ chi vung vãi. h) Máu đỏ giây đầy. Giòi bọ rúc rỉa. Xương cốt lăn lóc. Mười thứ này chỉ là bất tịnh, nay trong văn này nói chung có bốn niệm: Các loại ung nhọt… là vô lạc, chỉ có đại tiểu tiện lợi… là bất tịnh, không bền lâu như bọt nước là vô thường, các trùng bọ nhóm họp… là vô ngã. Nhưng luận ấy chép: “Thân tự tánh có sáu mươi khe hở, có tám muôn loài trùng”, cho nên nói là các trùng bọ nhóm họp. “Cho nên nay ta…” về sau là cầu quả vị Bồ-đề, Bồ-đề và Bồ- đề đoạn đều gọi là Bồ-đề, Ma-ha Bát-nhã, Giải thoát, Pháp thân đều là đại Niết-bàn, do đó cùng chung cho cả trí và lý. Trong đây đầu tiên nói về Niết-bàn, từ “Dùng năng lực định tuệ…” về sau là nói về Bồ-đề. “Đã chứng đạt rồi…” về sau là nói về lợi ích cho chúng sinh. Nhân quả về đoạn trí, ân đức, hai văn đều phối hợp lần lượt theo thứ lớp. Tu tập cầu quả Bồ-đề không vượt quá nơi này, cho nên phần thứ tư từ “Lúc ấy, vương tử…” về sau là bi nguyện càng tha thiết. Văn kinh: Sợ ý của hai anh lo sợ sẽ cùng nhau giữ lại thì sẽ không thỏa mãn được ý định thực hành. Tiếp theo là phần năm, sợ có điều khó dễ phát sinh. Văn kinh: Liền thưa rằng: Hai anh đi trước, em sẽ đến sau. Tiếp theo là phần sáu, khéo tu phương tiện. Văn kinh: Bấy giờ, vương tử Ma-ha Tát-đỏa quay lại vào trong rừng đến nơi hổ mẹ kia, cởi bỏ áo quần vắt trên cành trúc, phát lời thề rằng: Tôi vì chúng sinh trong pháp giới chí thành cầu vô thượng Bồ- đề, khởi tâm đại bi không hề nao núng, sẽ xả thân yêu quý của phàm phu, cầu quả vị Bồ-đề không ưu sầu không phiền muộn, vì sự an vui của những bậc có trí, vì các chúng sinh trong biển khổ ba cõi, nay tôi cứu giúp khiến cho an vui. Lúc ấy, vương tử nói như thế xong, đến trước hổ đói xả thân nằm xuống. Do uy lực từ Bi của Bồ-tát này, hổ đói không thể ăn được. Bồ-tát thấy vậy liền lên núi cao rồi lao mình xuống đất, lại nghó rằng: Nay hổ đã yếu sức không thể ăn thịt ta. Liền bắt đầu tìm dao, nhưng không tìm được dao nên dùng tre khô đâm vào cổ, máu chảy rồi từ từ đến gần bên hổ. Tiếp theo là đoạn lớn thứ năm hủy thân cứu giúp. Trong văn có bốn phần: Trở lại con đường đến chỗ chỗ đói. “Cởi bỏ áo quần…” về sau là bắt đầu phương tiện trước tiên. “Phát lời thề rằng…” về sau là phát tâm Bồ-đề, hai câu đầu là chung, sáu câu sau là riêng. Trong phần riêng, hai câu đầu là tâm nhàm chán lìa bỏ pháp hữu vi, hai câu tiếp theo là tâm cầu Bồ-đề, hai câu sau cùng là tâm lợi ích chúng sinh. “Lúc ấy, vương tử…” về sau chính là xả bỏ thân mạng, trong đó lại có sáu: Xả thân cho hổ. “Do uy lực… Bồ-tát này…” về sau là hổ không thể ăn được. “Bồ-tát thấy vậy…” về sau là vì đó leo lên núi cao rồi lao mình xuống. “Lại nghó rằng…” về sau là tiếp tục suy nghó hổ nay đã yếu sức. “Liền bắt đầu tìm dao…” về sau là tiếp tục dùng phương tiện. “Máu chảy rồi từ từ đến gần bên hổ” là máu chảy đến chỗ hổ cho hổ ăn thịt. Văn kinh: Lúc ấy, mặt đất vang lên sáu thứ chấn động như: gió nổi lên, nước dâng cao ngập tràn không ngớt, mặt trời không sáng tỏ, như La-hầu che lấp hang chuột, mọi phía tối mịt không có ánh sáng, trời mưa hoa đẹp và mạt hương kỳ lạ rơi xuống rực rỡ khắp nơi trong rừng. Bấy giờ, giữa hư không có các chúng trời thấy việc như vậy liền sinh tâm vui theo, khen ngợi là điều chưa từng có, đều khen rằng: Lành thay! Đại só! Liền đó nói bài tụng: Đại só cứu giúp vận tâm bi, nhìn mọi chúng sinh như con một, vui mừng mạnh mẽ lòng không tiếc, xả thân cứu khổ phước khó bàn, định đến nơi chân thường nhiệm mầu, xa lìa sinh tử các lo phiền, không lâu sẽ đạt quả Bồ-đề, vắng lặng an vui chứng vô sinh. Tiếp theo là đoạn lớn thứ sáu, điềm lành cảm ứng trời người, trong đó có hai: Đầu tiên là hiện rõ điềm báo có ba: Mặt đất vang rền sáu thứ rung chuyển. Mặt trăng, mặt trời không phát ánh sáng. Trời rải hương hoa như mưa khắp nơi trong rừng để cúng dường. Sau đó, từ “Bấy giờ giữa hư không…” trở xuống là chúng trời nhìn thấy, cũng có ba: Nhìn thấy, vui theo, khen ngợi. Trong phần khen ngợi có ba: Hai câu đầu khen ngợi tâm bi bình đẳng, hai câu tiếp khen ngợi hạnh bố thí của Đại só, bốn câu sau khen ngợi sẽ đạt được quả Bồ-đề. Trong phần đạt được quả, hai câu đầu cùng khen ngợi về Bồ-đề Niết-bàn, nương vào ba việc thường đầy đủ nên được gọi là thường, hai câu sau khen ngợi riêng về Bồ-đề Niết-bàn, vắng lặng tức là Niết-bàn, hoặc năng tịch sở vắng lặng đều gọi là tịch tịnh. Vô sinh tức là Niết-bàn. Văn kinh: Lúc ấy, hổ đói thấy máu chảy xuống từ cổ của Bồ-tát nên lập tức liếm máu ăn thịt, cuối cùng hết sạch chỉ để lại bộ xương. Tiếp theo là phần thứ bảy, hổ đói cuối cùng ăn được xác thân của Bồ-tát. Văn kinh: Bấy giờ, vương tử thứ nhất thấy mặt đất rung chuyển nên nói với người em rằng: Mặt đất, sông núi đều rung chuyển, mọi phía tối mịt, mặt trời không chiếu sáng, hoa trời rơi đầy giữa hư không, chắc chắn là điềm em ta đã xả thân. Vương tử thứ hai nghe anh nói vậy liền nói bài tụng (Già-đà) rằng: Em nghe Tát-đỏa nói từ bi, thấy hổ đói kia thân suy yếu, đói khổ bức bách sợ ăn con, em nay nghó đệ xả thân mình. Hai vương tử vô cùng buồn lo, khóc lóc than thở, liền cùng nhau đi theo con đường quay lại chỗ hổ đói, thấy áo quần em mình vắt trên cành trúc, hài cốt và tóc còn vung vãi khắp nơi, máu chảy thành bùn vấy bẩn trên mặt đất. Thấy cảnh tượng này lòng buồn rười rượi, cuối cùng không thể tự kiềm chế, bèn giao mình lên xương cốt người em, hồi lâu mới tỉnh lại, liền đứng lên giơ tay gào khóc đau đớn, lúc ấy than rằng: Em ta dung mạo khôi ngô, cha mẹ yêu quý nhớ thương, tại sao cùng nhau ra ngoài, rồi em xả thân mà chẳng quay về, nếu cha mẹ hỏi thì chúng ta biết trả lời sao đây? Thà rằng cùng nhau bỏ mạng, làm sao riêng mình giữ lại thân này? Hai vương tử khóc thương xót xa, từng bước thất thểu quay về. Tiếp theo là phần thứ tám, quyến thuộc kêu khóc thương tiếc, có ba: Anh em khóc thương. “Lúc ấy, tiểu vương tử đã dẫn thị vệ…” về sau là thị vệ truy tìm trông thấy. “Bấy giờ, quốc đại phu nhân…” về sau là cha mẹ đau đớn than khóc. Trong phần một có sáu: Thấy điềm báo cùng nhau luận bàn. “Hai Vương tử…” về sau là than thở đau đớn cùng đi tìm kiếm. “Thấy áo quần em mình…” về sau là thấy thi thể vương vãi. “Thấy cảnh tượng này…” về sau là lòng buồn thương kêu gào thảm thiết. “Liền đứng lên giơ tay…” về sau là anh em thở than thương tiếc. “Hai vương tử…” về sau là khóc lóc, đau đớn quay về. Văn kinh: Lúc ấy, tiểu vương tử đã dẫn thị vệ đến, nói với nhau rằng: Vương tử ở đâu nên cùng nhau tìm kiếm. Tiếp theo là thị vệ truy tìm. Văn kinh: Bấy giờ, quốc đại phu nhân ngủ trên lầu cao, lúc trong giấc mộng thấy điềm không lành, hai bầu vú bị cắt, răng sữa rơi rụng, ba con chim câu non bị chim ưng bắt đi một con, hai con còn lại kinh hãi vô cùng. Lúc mặt đất rung chuyển, phu nhân liền thức giấc, tâm lo lắng vô cùng, nói như vầy: Tại sao lúc này mặt đất rung chuyển, sông suối rừng cây đều chao đảo chuyển động, mặt trời không chiếu sáng, như che khuất mắt nhìn, bầu vú thì động đậy khác thường như mũi tên bắn vào tim, lo buồn bức bách thân run rẩy không yên ổn, Ta mộng thấy những điều không lành đó là dấu hiệu chắc chắn có việc tai biến bất thường xảy ra. Hai bầu vú của phu nhân bỗng nhiên chảy sữa, bèn nghó như vậy chắc chắn có điều gì thay đổi kỳ lạ, có thị nữ nghe người bên ngoài nói tìm kiếm vương tử hiện giờ vẫn chưa gặp, tâm kinh hãi vô cùng liền vào trong cung thưa với phu nhân: Mọi người biết không, ở ngoài nghe quân lính đổ xô đi tìm vương tử khắp nơi nhưng chẳng gặp. Lúc đó phu nhân nghe nói xong vô cùng lo lắng, ngấn lệ sầu bi ứ đầy trên mắt, đến chỗ Đại vương tâu rằng: Tâu Đại vương, tôi nghe người bên ngoài nói rằng: “Vương tử út yêu quý của tôi lạc mất rồi.” Nhà vua nghe nói xong kinh hoàng biến sắc, thương xót nghẹn lời mà nói: Đau đớn thay! Hôm nay con yêu quý của ta thất lạc. Liền đó lau nước mắt an ủi phu nhân rằng: Hiền Thủ! Bà chớ lo buồn, bây giờ ta cùng mọi người phải rời cung tìm kiếm con trai yêu quý. Nhà vua cùng các đại thần và tất cả mọi người tức tốc cùng ra khỏi thành, mọi người tản ra khắp nơi đi tìm. Không bao lâu, có một vị đại thần đến thưa với nhà vua: Nghe vương tử còn sống, mong bệ hạ đừng sầu lo, vương tử út hiện nay vẫn chưa tìm thấy. Nhà vua nghe nói vậy than thở nói rằng: Đau đớn thay! Đau đớn thay! Ta mất con trai yêu quý, lúc đầu có con trai thì vui vẻ ít, lúc sau lại mất con thì buồn đau nhiều, nếu làm cho tuổi thọ con ta tăng thêm thì dù thân ta có chết đi cũng không đớn đau. Phu nhân nghe nói lòng đầy xót xa, như bị tên bắn vào tim, than thở nghẹn ngào: ba con trai của ta cùng người hầu đều vào trong rừng dạo chơi ngắm cảnh, chỉ một mình con trai út yêu quý nhất không quay về, chắc chắn có chuyện tai ương khác thường. Tiếp đó, vị đại thần thứ hai đến chỗ nhà vua, vua hỏi quan đại thần: Con trai yêu quý của ta ở đâu? Vị đại thần này áo não rơi lệ, cổ họng khô cứng, miệng không nói nên lời, cuối cùng không trả lời được. Phu nhân nói rằng: Mau trả lời con trai út của ta hiện giờ ở đâu, thân ta nóng nảy bứt rứt, phiền muộn thiêu đốt rối bời, tâm trí tán loạn mê muội, chớ để cho lòng ta phải tan nát! Lúc ấy, vị đại thần này liền kể lại đầy đủ chuyện xả thân của vương tử cho nhà vua biết. Vua và phu nhân nghe việc ấy rồi không chịu nỗi sự đớn đau, nghẹn ngào hướng về nơi xả thân, tức tốc ngự giá đi thẳng đến nơi rừng trúc. Đến chỗ Bồ-tát xả thân, thấy hài cốt của con mình vương vãi khắp nơi, cùng lúc gieo mình xuống đất, đau đớn tuyệt vọng muốn chết, giống như gió mạnh thổi rừng trúc cao, tâm trí rối bời ngổn ngang chẳng hay biết gì nữa. Lúc ấy, các quan đại thần vẩy nước khắp mình vua và phu nhân, hồi sau mới tỉnh lại vung tay gào khóc vật vã, than rằng: Tai họa thay! Con trai yêu quý, tướng mạo khôi ngô, vì sao cái chết đến sớm như vậy, nếu ta chết trước con thì đâu nhìn thấy sự việc quá khổ đau như thế này? Lúc đó, phu nhân đã bớt mê muội, chỉ có đầu tóc rối tung, hai tay đấm vào ngực, vật vã trên đất như cá mắc cạn, như mới sinh ra mà mất con, bi thương khóc lóc than rằng: Con ta ai sát hại chỉ còn lại xương cốt vung vãi trên đất, mất con trai yêu quý ta buồn đau không thể nào chịu nỗi, đau khổ thay, ai giết con ta, gây nên điều thảm thương này, tim ta chẳng phải kim cang làm sao mà không tan nát! Trong giấc mộng ta đã thấy hai bầu vú đều bị cắt, các răng sữa đều bị rơi rụng, nay gặp phải chuyện quá đau khổ, lại mộng thấy ba con chim câu non, một con bị chim ưng bắt đi, nay mất đứa con ta yêu quý, tướng ác biểu lộ chẳng phải luống dối. Đây là phần thứ ba, cha mẹ thở than đau xót trong phần quyến thuộc kêu khóc thương tiếc, trong đó có mười một đoạn: Phu nhân kinh hãi lạ lùng, có tám: Ngủ mộng thấy điềm xấu. “Lúc mặt đất rung chuyển…” về sau là mặt đất chấn động nên kinh hãi tỉnh giấc. “Nói như vậy…” về sau là kể lại điềm xấu đã mộng thấy. “Hai bầu vú của phu nhân…” về sau là cảm kích nên sữa chảy ra. báo. “Thì có thị nữ…” về sau là thị nữ nghe người ngoài báo. “Tâm kinh hãi vô cùng…” về sau là vội vàng đi vào cung bẩm j) “Lúc đó phu nhân…” về sau là mẹ nghe tin dữ nên sầu não. h) “Đến chỗ Đại vương…” về sau là nước mắt lưng tròng đến hỏi nhà vua. Căn cứ theo bài tụng thì đều nói trước tiên là đến hỏi, văn trong đây có lược bớt. “Nhà vua nghe nói xong…” về sau là người cha liền đau đớn kinh hoàng. “Liền đó lau nước mắt…” về sau là nhà vua an ủi phu nhân. Theo thường pháp của các nước ở Tây vực gặp nhau khen ngợi gọi nhau là Hiền Thủ. “Nhà vua cùng các đại thần…” về sau là vua quan rời cung đi tìm kiếm, theo trong bài tụng ở dưới thì trước tiên phải là quan quân đi tìm, sau đó vua và hậu phi ra khỏi cung, ở đây văn lược bớt điểm chung, chỉ nói là ra khỏi cung tìm kiếm, trong đó lại có bảy: Tản ra bốn phía để tìm kiếm. “Không bao lâu…” về sau là quan đại thần đến tâu. “Nhà vua nghe nói như vậy…” về sau là vua cha nghe nói đau đớn thở than. “Phu nhân nghe xong…” về sau là người mẹ lại than thở thương đau. “Tiếp theo sau đó, vị đại thần thứ hai…” về sau là quan đại thần đến chỗ vua hỏi còn hay mất. “Vị đại thần này…” về sau là quan đại thần nghẹn ngào không trả lời được. j) “Phu nhân nói rằng…” về sau là phu nhân hoang mang rối bời, thúc giục bẩm báo. “Lúc ấy, vị đại thần này…” về sau là được tin con trai xả thân, theo bài tụng thì phải có hai quan đại thần cùng bẩm báo, trong văn trường hàng này lược bớt một vị đại thần. “Vua và phu nhân…” về sau là biết vậy nên đau đớn nghẹn ngào. “Hướng về nơi xả thân…” về sau là đến thẳng chỗ xả thân. “Thấy hài cốt con mình…” về sau là nhìn thấy nên ngất xỉu. “Lúc ấy, các quan đại thần…” về sau là các quan vẩy nước cho tỉnh lại. “Vua và phu nhân…” về sau là tỉnh lại rồi than thở đớn đau. “Lúc đó phu nhân…” về sau là người mẹ khóc lóc đau đớn kẻ lại giấc mộng, đầu tiên là lời của các nhà sớ kinh, tiếp theo là người mẹ đau đớn kể lại. Trong đó hai bài tụng nói rõ sự bi thương, hai bài tụng kẻ lại những tướng ác. Văn kinh: Bấy giờ, Đại vương và phu nhân cùng hai vương tử đều gào khóc đau đớn, không đeo chuỗi ngọc, cùng mọi người tập trung thâu nhặt xá-lợi còn lại của Bồ-tát đem về đặt trong tháp (Tốt-đổ-ba) để thờ phụng. Tiếp theo là đoạn lớn thứ chín, là xây tháp thờ phụng. Văn kinh: Này A-nan-đà! Các ông nên biết rằng đây chính là xá-lợi của Bồ-tát kia. Lại bảo: A-nan-đà! Thuở xưa, ta tuy có đủ các thứ phiền não tham, sân, si v.v… nhưng có thể ở trong năm đường đối với địa ngục ngạ quỷ súc sinh tùy duyên cứu giúp cho được thoát khỏi, huống gì ngày nay các phiền não đều không còn, các thói quen đều dứt sạch, hiệu là Thiên Nhân Sư, có trí Nhất thiết mà không thể vì tất cả chúng sinh trải qua nhiều kiếp ở trong địa ngục và các nơi khác thay họ nhận chịu mọi khổ đau khiến cho ra khỏi sinh tử phiền não luân hồi hay sao. Tiếp theo là đoạn lớn thứ mười, kết thúc nêu rõ hạnh nguyện lợi sinh, có ba: Đầu tiên là kết thúc đem xá-lợi về. “Lại bảo A-nan-đà…” về sau là lược nêu nhân hạnh ngày xưa. Nói bao gồm được mất, đầy đủ các thứ phiền não v.v… là mất, có thể tu hành là được. Đây là ý khích lệ người còn các phiền não để khiến họ tu hành, tức là đầu tiên phải rèn luyện; cũng khuyến khích các bậc Thánh giả, ta xưa kia còn là phàm phu mà vẫn làm được lợi ích chúng sinh, các ông đã chứng quả Thánh, tại sao không tinh tấn? Cuối cùng “Huống gì ngày nay…” về sau là nói ngày nay làm lợi ích, tức là tùy cơ cảm ứng hóa thân hiện hình đều vì lợi ích chúng sinh. Ý này hãy còn có thể thay thế chúng sinh chịu đựng khổ đau để làm cho họ được thoát khỏi đau khổ, cho nên nay nói định là nhân của phương tiện để làm lợi lạc, các ông cần phải truyền bá tu học. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lập lại nghóa này nên nói bài tụng rằng: Ta nhớ thuở quá khứ, vô lượng vô số kiếp, hoặc lúc làm quốc vương, hoặc lại làm vương tử, thường thực hành đại thí, và xả thân mến yêu, nguyện thoát khỏi sinh tử, đến nơi Bồ-đề mầu. Ngày xưa có nước lớn, vua tên Đại Xa, vương tử tên Dũng Mãnh, tâm thường thí không tiếc. Vương tử có hai anh, tên Đại Cừ, Đại Thiên, ba người cùng ngoạn cảnh, dần đến nơi rừng trúc, thấy hổ đói bức bách, liền sinh tâm như vầy: Hổ này đói quá mức, lại không có gì ăn. Đại só thấy như thế, sợ hổ ăn thịt con, xả thân chẳng suy nghó, cứu con khỏi tổn thương. Đất đai và núi rừng, đồng thời đều rung chuyển, nước sông biển vọt dâng, sóng cuộn nước chảy ngược, đất trời mất ánh sáng, tối mịt chẳng thấy gì, các cầm thú rừng hoang, bay chạy khỏi nơi ở. Hai anh không thấy em, sinh buồn thương đau khổ, liền cùng các người hầu, tìm kiếm khắp rừng núi. Anh em cùng bàn tính, lại đến nơi rừng sâu, bốn phía không có gì, thấy hổ nơi rừng vắng, hổ mẹ cùng bảy con, miệng đều có vây máu, còn lại xương và tóc, vương vãi ở dưới đất. Lại thấy có dòng máu, chảy ra từ rừng trúc, hai anh thấy vậy rồi, tâm vô cùng kinh hãi, đau đớn cùng ngã quî, bất tỉnh chẳng biết gì, bụi đất lấm đầy thân, sáu căn mất tác dụng. Các người hầu vương tử, tâm buồn bã khóc thương, lấy nước vẩy tỉnh lại, vung tay gào thảm thiết. Lúc Bồ-tát xả thân, từ mẫu đang trong cung, năm trăm các thể nữ, cùng thưởng thức thú vui, hai vú của phu nhân, bỗng nhiên tự chảy sữa, khắp mình như gai châm, đau khổ không thể yên, chợt nghó rằng mất con, lòng lo sợ đớn đau, liền báo đại vương biết, kể việc buồn lo này, khóc thương không nén được, đau đớn nói với vua: Nay Đại vương nên biết, thiếp khổ não vô cùng, hai vú chợt chảy sữa, tâm không thể ngăn được, như gai châm toàn thân, buồn thương ngực muốn vỡ, trước thiếp mộng điềm xấu, chắc sẽ mất con yêu, xin vua cứu mạng thiếp, biết con còn hay mất. Mộng thấy ba chim non, chim nhỏ là con yêu, bỗng bị chim ưng bắt, buồn đau khó nói hết, nay thiếp lòng xót xa, không bao lâu sẽ chết, sợ mạng con bất toàn, xin mau chóng tìm kiếm! Lại nghe người ngoài nói, tìm không thấy con út, nay lòng thiếp bất an, mong vua xót thương thiếp! Phu nhân thưa vua xong, toàn thân khụy xuống đất, tâm đớn đau buồn thương, bất tỉnh không hay biết. Thể nữ thấy phu nhân, bất tỉnh nằm trên đất, đều cất tiếng òa khóc, lo buồn mất nương tựa. Vua nghe lời như vậy, lòng buồn không kềm nỗi, truyền lệnh cho các quan, tìm kiếm con yêu quý, đều cùng nhau rời thành, tìm kiếm mọi nơi chốn, rơi lệ hỏi mọi người: Vương tử giờ ở đâu, nay còn hay đã mất, ai biết đi chốn nào, làm sao tìm thấy được, lòng ta bớt đau buồn! Mọi người cùng truyền khắp, đều nói vương tử mất, nghe vậy đều thương tiếc, than thở đau đớn thay! Bấy giờ, vua Đại Xa bi thương gượng đứng lên, vội đến chỗ phu nhân, dùng nước vẩy thân mình, phu nhân nhờ vẩy nước, hồi lâu mới tỉnh lại, thương khóc hỏi Đại vương: Con thiếp nay còn không? Vua nói với phu nhân: Ta đã sai mọi người, tìm vương tử khắp nơi, tin tức vẫn chưa có. Vua lại bảo phu nhân: Hậu chớ sinh buồn rầu, hãy nên tự kiềm chế, ta cùng rời cung tìm. Vua liền cùng phu nhân, đích thân tiến về trước, tiếng khóc thương xót xa, lòng dạ như lửa đốt. Trăm ngàn muôn quân dân, cũng theo vua rời thành, đều mong tìm vương tử, tiếng bi thương vang khắp. Vua vì tìm vương tử, mắt nhìn khắp bốn phía, thấy có một người đến, thân tóc bê bết máu, mình mẩy đầy lấm lem, khóc thương từ xa đến, vua thấy tướng ác đó, lại càng thêm đau đớn. Vua liền vung hai tay, gào khóc không nén nổi, bỗng có vị đại thần, vội đến chỗ Đại vương, bước tới tâu vua rằng: “Mong vua chớ đau thương, con trai quý của vua, tuy giờ chưa tìm thấy, chẳng bao lâu sẽ gặp, để nhà vua bớt buồn. Vua lại tiến lên trước, thấy đại thần khác đến, đại thần đến chỗ vua, rơi lệ tâu vua rằng: Hai vương tử nay còn, bị đau đớn bức bách, vị vương tử thứ ba, không còn trở về nữa, thấy hổ đói mới sinh, sắp ăn thịt hổ con, nên vương tử Tát-đỏa, thấy vậy khởi tâm Bi, nguyện cầu đạo vô thượng, sẽ cứu mọi chúng sinh, luôn nghó đến Bồ-đề, sâu rộng như biển cả, liền lên đỉnh núi cao, lao mình xuống trước hổ, hổ yếu không ăn được, dùng trúc tự đâm cổ, liền ăn thịt vương tử, chỉ còn trơ lại xương. Vua cùng với phu nhân, nghe nói đều bất tỉnh, lòng chìm trong đau thương, xót xa không chịu nỗi. Quan đem nước chiên đàn, vẩy trên mình hai người, tỉnh lại khóc thảm thiết, vung tay đấm vào ngực. Đại thần thứ ba đến, tâu với vua như vầy: Thần thấy hai vương tử, bất tỉnh ở trong rừng, thần lấy nước lạnh vẩy, bây giờ đã tỉnh lại, quay nhìn khắp bốn phía, như lửa dữ khắp nơi, tạm thời đang hồi phục, đau thương không nén nổi, vung tay thương xót nói, ngợi khen em ít có. Vua nghe nói như vậy, lòng càng thêm đau đớn, phu nhân gào thét lên, lớn tiếng mà nói rằng: Con nhỏ của tôi yêu quý nhất, đã bị vô thường la-sát nuốt, còn hai con lớn nay còn sống, lại bị lửa thương đau thiêu đốt, nay ta nên mau đến dưới núi, an ủi để bảo vệ mạng chúng, liền vội ruổi xe về phía trước, một lòng đến nơi xả thân kia, gặp hai con vừa đi vừa khóc, thất thểu vỗ ngực thật áo não, cha mẹ thấy con lòng tan nát, cùng đến nơi núi rừng xả thân. Đã đến chỗ Bồ-tát xả thân, cùng nhau khóc thương thật đớn đau, cởi bỏ vòng ngọc lòng nghẹn ngào, nhặt lấy hài cốt thân Bồ-tát, để cho mọi người cùng cúng dường, cùng xây tháp thờ bằng bảy báu, đặt xá-lợi đó ở trong hộp, trang nghiêm rước đến trong thành ấp. Tiếp theo là nói tụng, có năm mươi sáu bài tụng chia làm hai: Hai bài tụng đầu nêu chung về sự tu hành, năm mươi bốn bài tụng sau khen ngợi riêng về sự xả thân. Văn trường hàng trước có mười đoạn, ở đây đoạn lớn kệ tụng lược bỏ không có bài tụng thứ tư là suy nghó nên xả thân, bài tụng thứ bảy hổ liền ăn, bài tụng thứ mười kết thúc nêu rõ hạnh lợi sinh, tức là chia làm bảy đoạn: Đầu tiên một bài tụng rưỡi là phần tụng thứ nhất, nói về quyến thuộc ngày xưa. Tiếp theo nửa bài tụng là phần tụng thứ hai kể lại cuộc dạo chơi vui vẻ ngày xưa. Tiếp một bài tụng là phần tụng thứ ba gặp cảnh khổ sinh bi tâm. Tiếp một bài tụng là phần tụng thứ năm xả thân cứu giúp. Tiếp hai tụng là phần tụng thứ sáu điềm lành cảm ứng trời, người. Tiếp bốn mươi sáu bài tụng rưỡi là phần tụng thứ tám quyến thuộc kêu khóc thương tiếc. Tiếp một bài tụng rưỡi là phần tụng thứ chín xây tháp thờ Bồ-tát. Năm đoạn tụng đầu dựa theo văn có thể biết. Phần tụng quyến thuộc kêu khóc thương tiếc trong trường hàng có ba đoạn: Đầu tiên từ “Hai anh không thấy em…” về sau sáu bài tụng là phần tụng anh em đau buồn than khóc, phân ra tỉ mỉ có thể biết, lược bỏ không có phần tụng các người hầu tìm kiếm. Từ “Lúc Bồ-tát xả thân…” về sau bốn mươi bài tụng rưỡi là phần tụng cha mẹ đớn đau than thở, văn trường hàng ở trước có mười một phần, không có phần “trước tiên sai quan quân đi tìm”, nay trong tụng có phần này, nhưng không có phần mười và phần mười một hoàng hậu khóc lóc kể lại giấc mộng đau thương, phần ba nhà vua an ủi phu nhân gộp vào phần tư vua quan rời cung tìm kiếm, vì thế chỉ chia làm mười đoạn: Đầu tiên mười một bài tụng là phần tụng phu nhân kinh hãi vô cùng. Tiếp nửa bài tụng là phần tụng thứ hai nhà vua liền kinh hoàng đau đớn. Tiếp “Truyền lệnh cho các quan…” về sau mười bốn bài tụng là phần tụng thứ tư vua quan rời cung tìm kiếm. Tiếp “Vua lại tiến về trước…” về sau năm bài tụng rưỡi là phần tụng thứ năm được tin con xả thân. Tiếp “Vua cùng với phu nhân…” về sau là bảy bài tụng là phần tụng thứ sáu biết sự việc rồi đau đớn nghẹn ngào. Tiếp “Nay ta nên mau đến dưới núi…” về sau hai bài tụng là phần tụng thứ bảy đến chỗ xả thân. Tiếp theo nửa bài tụng là phần tụng thứ tám thấy cảnh tượng lòng tan nát. Trong phần “phu nhân kinh hãi vô cùng” chia làm năm đoạn: Đầu tiên một bài tụng là trong cung đang vui chơi thưởng thức, tiếp một bài tụng rưỡi là linh tính nên dòng sữa tự chảy, tiếp theo sáu bài tụng rưỡi là phần tụng khóc lóc bi thảm báo với nhà vua, trong văn trường hàng trước đây các phần “Ngủ mộng thấy điềm xấu, thị nữ nghe mọi người nói vội vàng vào cung thông báo, mẹ nghe tin lòng sầu não” đều nằm trong phần “Báo với nhà vua” này nên không có bài tụng riêng, vì giúp cho văn giản lược và tránh rườm rà. Tiếp theo một bài tụng là nói rồi liền bất tỉnh, tiếp một bài tụng là thể nữ lo sợ kinh hãi. Từ “Vua nghe nói như vậy…” về sau là phần tụng thứ hai, nhà vua liền đau đớn kinh hoàng. “Truyền lệnh cho các quan…” về sau mười bốn bài tụng là phần tụng vua quan rời cung tìm kiếm, văn trường hàng trước đây có bảy đoạn, nay phần tụng chia làm ba: Nửa bài tụng đầu là truyền quan quân tìm kiếm, trong trường hàng không có đoạn này. Tiếp chín bài tụng là phần tụng đầu tiên tản ra khắp nơi tìm kiếm, trong đó ba bài tụng đầu là quan quân phụ trách tìm kiếm, tiếp “Bấy giờ, vua Đại Xa…” về sau bốn bài tụng là phần tụng thứ ba “nhà vua an ủi phu nhân” ở trước, bởi vì dựa theo văn vậy, hơn nữa trong trường hàng chỉ nói “khóc lóc bi thảm báo với nhà vua” mà không nói “bất tỉnh, vẩy nước cho tỉnh lại”, nay trong tụng có phần này văn tương tự nên lược bỏ; sau từ “Vua liền cùng phu nhân…” trở xuống hai bài tụng là phần tụng nhà vua rời cung tìm kiếm, một tụng đầu là nhà vua, một bài tụng tiếp là các quan. Từ “Vua vì tìm vương tử…” về sau bốn bài tụng rưỡi là phần tụng thứ hai, đại thần đến bẩm báo trong phần vua quan rời cung tìm kiếm, trong đó chia làm ba đoạn: Đầu một bài tụng rưỡi là phần tụng nhà vua thấy sứ giả đến, tiếp theo một bài tụng là giơ tay gọi đến hỏi, sau hai bài tụng là quan đại thần đến bẩm báo. Từ “Vua lại tiến về trước…” về sau năm bài tụng rưỡi là phần tụng thứ năm “được tin con xả thân” trong đó chia làm bốn đoạn: Nửa bài tụng đầu là nhà vua thấy quan đại thần đến, tiếp theo một bài tụng là bẩm báo hai vương tử còn sống, tiếp theo nửa bài tụng là báo tin Tát-đỏa không còn, tiếp ba bài tụng rưỡi là kể rõ lý do cái chết đó. Từ “Vua cùng phu nhân…” về sau là phần tụng thứ sáu, biết sự việc rồi đau đớn nghẹn ngào, trong đó chia làm bốn đoạn: Một bài tụng đầu là cha mẹ bất tỉnh, tiếp theo một bài tụng là quan vẩy nước cho tỉnh lại, tiếp ba bài tụng là lại có quan tiếp tục bẩm báo, tiếp hai bài tụng là cha mẹ gào khóc than thở. Tiếp đến hai bài tụng là phần tụng thứ bảy đến chỗ xả thân, tiếp nửa bài tụng là phần tụng thứ tám nhìn thấy cảnh tượng đau lòng tan nát, tiếp một bài tụng rưỡi là đoạn lớn thứ chín xây tháp thờ Bồ-tát. Văn kinh: Lại bảo: Này A-nan-đà! Vương tử Tát-đỏa xưa kia chính là ta, Mâu-ni bây giờ, chớ sinh những ý niệm lạ lùng. Nhà vua là Tịnh Phạn cha ta, hoàng hậu là Ma-gia mẹ ta, thái tử là Từ Thị, thái tử là Mạn-thù-thất-lợi, hổ đói là Đại Thế Chủ, năm hổ con là năm Tỳ- kheo, một là Đại Mục-liên, một là Xá-lợi-tử. Tiếp theo là đoạn lớn thứ hai trong phẩm, kết hợp việc xưa và nay. Văn kinh: Ta nói các thầy nghe, duyên lợi tha xưa kia, hạnh Bồ- tát như thế, nhân thành Phật nên học. Lúc Bồ-tát xả thân, phát nguyện rộng như vầy: Nguyện xương cốt thân tôi, lợi chúng sinh đời sau. Đây là nơi xả thân, tháp thờ bằng bảy báu, trải qua vô lượng kiếp, nên ẩn trong đất sâu, do bổn nguyện xưa kia, tùy duyên để hóa độ, vì lợi ích trời người, nên từ đất hiện lên. Tiếp theo là đoạn lớn thứ ba trong phẩm khuyến khích tu học, trong đó một bài tụng đầu là nêu rõ duyên xưa khuyến khích tu học, ba bài tụng sau là kết thúc nêu rõ ý nghóa tháp thờ. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói về nhân duyên xưa kia như vậy thì có vô lượng a-tăng-xí-da đại chúng trời, người thảy đều phát khởi đại bi vui mừng khen ngợi sự việc chưa từng có, đều phát tâm A- nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Lại bảo với thần cây: Ta vì báo đền ân đức nên chí thành kính lễ. Liền đó, Đức Phật thâu nhiếp thần lực, tháp thờ đó trở lại chìm sâu vào đất. Tiếp theo là đoạn lớn thứ tư trong phẩm đại chúng nghe rồi được lợi ích, văn chia làm ba phần: Đầu tiên là lặp lại những điều đã nói trước đây, tiếp từ “Vô lượng A-tăng-xí-da…” về sau là nói rõ chúng được bao nhiêu lợi ích, tiếp từ “Lại bảo với thần cây…” về sau là trả lời câu hỏi để tổng kết. Theo văn trường hàng ở trước, chỉ có A-nan thưa hỏi lý do Đức Phật lễ lạy tháp thờ, trong đây lại trả lời câu hỏi của thần cây; vì vậy trong câu hỏi trước đây phải có thần cây cùng hỏi lý do lễ kính, nhưng lược bỏ không nói. Sau cùng, “Đức Phật thâu nhiếp thần lực…” đến hết là nói về tháp trở lại như cũ, bởi vì sự việc đã hoàn tất. ------------------------- <詞>Phẩm 27: THẬP PHƯƠNG BỒ-TÁT TÁN THÁN Phẩm Thập Phương Bồ-tát tán thán có chia ra làm ba phần: Nói về lý do có phẩm này: Phần Lưu thông có ba, đó là ba phần Học hạnh, Tán trọng, Phú chúc giúp cho người đời sau nương theo pháp mà tu hành, đượt lợi ích nhiều hơn, cho nên nói rõ sự vui mừng khen ngợi, vì thế sau phẩm trước có phẩm này phát sinh. Giải thích tên gọi: Tán là xưng tán, thán là ngâm nga, tức là xưng dương ngâm vịnh. Nên nói gặp việc khen đức gọi là tán, thấy lý ví dụ xưng dương là thán. Đầu là người, sau là pháp, hoặc chung cho cả người, pháp cùng xưng dương khen ngợi. Bồ-tát là người năng tán, thập phương là nói nơi khác đến nơi này. Vì muốn khiến cho hữu tình sinh tâm tha thiết sâu nặng, cho nên nêu ra mười phương từ xa đến đây. Người tốt đẹp còn tự ví dụ khen ngợi, kẻ hèn kém sao không ca tụng ngâm vịnh? Lại nữa, làm sáng tỏ tài năng của người cao quý vì thế khác với kẻ hèn mọn kém cỏi, muốn khiến cho kính mến sự siêu việt mà tăng tiến tu hành. Cho nên phẩm sau nói: “Khiến cho người chưa biết thuận theo đó tu hành.” Giải trừ vấn nạn: Hỏi: Vì sao trong kinh cựu dịch gộp chung làm một phẩm, còn kinh tâm dịch lại chia ra làm bốn phẩm? Đáp: Căn cứ theo bản kinh tiếng Phạn thì đầu mỗi phẩm có ghi một vị Bồ-tát, hoặc lại chấm ghi; nay y theo bản tiếng Phạn có bốn người khen ngợi cho nên đều ghi riêng, vì thế ở đây chia làm bốn. Người xưa vì thấy cùng là tán Phật cho nên hợp lại thành một phẩm. Lại giải thích: Văn xưa nhầm xót không ghi điều đó, lại giống như khen ngợi, kinh tân dịch có bốn người, kinh cựu dịch thì không có Đại Biện Tài tán thán, bởi vì khai hợp khác nhau. Hỏi: Y theo kinh cựu dịch, thì “vô lượng Bồ-tát từ thế giới này đến cõi nước của Như lai Kim Bảo Cái Sơn để đảnh lễ, khen ngợi Đức Phật”, kinh tân dịch thì nói “Đều từ cõi nước mình đến núi Linh Thứu, đảnh lễ Thế Tôn xong, cùng cất tiếng khen ngợi”, trái nhau như thế nào? Đáp: Kinh xưa nhầm lẫn nay mới thật đúng. Vì sao? Vì ở nơi này nghe kinh kết hợp xưng tán Đức Phật này. Lại căn cứ theo những điều trên đây tức là có Bồ-tát khắp mười phương, vì sao cùng đến cõi nước Kim Bảo Cái Sơn để khen ngợi Đức Phật kia? Hoặc cho rằng do nói kinh cho Bồ-tát Tín Tướng đó, sau này Tín Tướng sẽ được thành Phật hiệu là Kim Bảo Cái Sơn, cho nên hướng về khen ngợi Đức Phật kia. Ở đây cũng không phải như vậy, vì sao? Vì Phật Bảo Sơn hiện nay chẳng phải là thân Tín Tướng, Đức Phật đó lại không phải là người đứng đầu nói pháp dạy trao; lại về sau không nói “Các vị Bồ-tát này từ cõi khác đến”, làm sao có thể nói “được nhờ năng lực thần thông của Đức Phật kia”, do đó cầu thỉnh tuy là Diệu Tràng mà người năng thuyết chính là Phật Thích-ca, đến đây nghe pháp cũng đều là năng lực thần thông của Phật Thích-ca, là thầy của Diệu Tràng cho nên khen ngợi Đức Phật Thích-ca. Kinh tân dịch là chính xác. Văn chia làm ba phần: Đầu tiên là các vị Bồ-tát nhóm họp, tiếp theo nói về lễ tán, sau cùng Như lai khen ngợi ấn chứng. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thích-ca Mâu-ni Như lai nói kinh này xong thì ở các thế giới mười phương có vô lượng trăm ngàn muôn ức các chúng Bồ-tát đều từ cõi nước mình đến núi Linh Thứu trở xuống là đoạn đầu, đầu tiên là tựa của người sớ kinh, tiếp theo “Các thế giới ở mười phương…” về sau là các vị Bồ-tát nhóm họp. Văn kinh: Đến chỗ Thế Tôn năm vóc cúi lạy sát đất, đảnh lễ Thế Tôn xong. Nói về lễ bái khen ngợi, đầu tiên là thân lễ lạy, sau là lời khen ngợi. Đây là phần mở đầu. Có thể phát khởi thân ngữ tức là ý nghiệp, ba nghiệp lễ bái khen ngợi nói lên sự cung kính sâu xa. Văn kinh: Nhất tâm chắp tay cùng đồng thanh cất tiếng khen ngợi rằng. Nói về sự khen ngợi, đầu tiên là nêu ra, tiếp theo là khen ngợi. Đây là phần mở đầu. Đối với cảnh chuyên niệm gọi là nhất tâm, tôn trọng tình cảm sâu xa cho nên chắp tay, thân khác nhau nên gọi là khác miệng, cùng khen ngợi gọi là cùng tiếng. Văn kinh: Thân Phật mầu vàng thật nhiệm mầu, ánh sáng chiếu khắp tựa núi vàng, thanh tịnh mềm mại như hoa sen, vô lượng sắc màu đẹp trang nghiêm, ba hai tướng tốt đều uy nghiêm, tám mươi vẻ đẹp cùng đầy đủ, ánh sáng rực rỡ không ai bằng, thanh khiết giống như trăng tròn sáng. Đây là khen ngợi, có mười một bài tụng, chia làm hai: Mười bài tụng đầu khen ngợi ba thân, sau một bài tụng kết thúc lược nêu phát nguyện. Trong phần khen ngợi ba thân: Tám bài tụng đầu khen ngợi ân đức của Hóa thân, một bài tụng tiếp theo khen ngợi trí đức của Báo thân, một tụng sau cùng khen ngợi đoạn đức của Pháp thân. Trong phần khen ngợi ân đức: hai bài tụng đầu khen ngợi hiện thân, một tụng tiếp khen ngợi thuyết pháp, một bài tụng tiếp khen ngợi phước trí, bốn bài tụng tiếp khen ngợi lợi sinh. Trong phần khen ngợi hiện thân: Một bài tụng là nói chung thân sở y, một bài tụng tiếp là tướng tốt và vẻ đẹp đều như trước đã phân biệt rõ. Văn kinh: Âm thanh trong trẻo thật hay ho, như tiếng sấm động, sư tử gầm, tám thứ mầu nhiệm tùy căn cơ, vượt hơn loài ca-lăng-tần- già… Tiếp theo khen ngợi nói pháp. Tám thứ âm thanh hay ho ấy có ba kinh nói khác nhau: Kinh Y Phạm Ma Dụ chép: Âm thanh rất hay. Dễ hiểu. Sâu xa. Nhẹ nhàng. Không luống dối. Không sai lạc. j) Trí tuệ. h) Điều hòa. Kinh Trung Ấm chép: Không phải nam. Không phải nữ. Không dài. Không ngắn. Không sang. Không hèn. j) Không khổ. h) Không vui. Kinh Y Thập Trụ Đoạn Kiết chép: Không phải nam. Không phải nữ. Không mạnh. Không yếu. Không trong. Không đục. j) Không phải trống. h) Không phải mái. Hai kinh đầu là kinh Tiểu thừa, kinh Y Thập Trụ Đoạn Kiết là kinh Đại Thừa, cho nên sự thấy nghe khác nhau. Ca-lăng-tần-già v.v… là những loài chim có âm thanh hót rất hay. Văn kinh: Dung nhan trang nghiêm trăm phước mầu, ánh sáng đầy đủ và thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt như biển cả, công đức rộng lớn dường hư không. Tiếp theo khen ngợi phước trí, nửa bài tụng đầu là phước, nửa bài tụng sau là trí. Mỗi tướng tốt đều có trăm phước trang nghiêm, trước khen ngợi thân quang là y theo thân chung, ở đây khen ngợi ánh sáng tức là tướng tốt riêng. Nói trăm phước, theo luận Đại Tỳ-bà-sa quyển một trăm bảy mươi bảy chép: “Thế nào là trăm phước?” Đáp: Trong đây trăm tư gọi là trăm phước, sao gọi là trăm tư? Ng- hóa là như lúc Bồ-tát tạo tác đầy đủ thiện trụ tướng nghiệp. Năm mươi tư duy trước là tu tập về thân khí, khiến cho thanh tịnh điều hòa, tiếp theo là khởi một tư duy để dẫn dắt những điều đó, về sau khởi năm mưoi tư duy khiến cho viên mãn những điều đó, cho đến đảnh thượng Ô-sắt-nị- sa tướng nghiệp cũng giống như vậy. Do vậy cho nên nói mỗi tướng tốt của Phật đều có trăm phước trang nghiêm. Năm mươi tư duy là gì? Đáp: Y theo thập thiện nghiệp đạo đều có năm: Ly sát tư. Khuyến đạo tư. Tán mỹ tư. Tùy hỷ. Hồi hướng, gọi là hồi sở tu hướng Bồ-đề, cho đến chánh kiến cũng giống như vậy, gọi là năm mươi tư duy. Có chỗ nói: “Mười nghiệp mỗi nghiệp đều khởi năm phẩm thiện tư từ hạ trung thượng, thượng thắng, thượng cực như tạp tu tónh lự.” Có chỗ nói: “Mười nghiệp mỗi nghiệp đều khởi năm tư duy: Gia hạnh tịnh. Căn bản tịnh. Hậu khởi tỉnh. Phi tầm sở hại. Niệm nhiếp thọ.” Có chỗ nói: “Duyên theo mỗi tướng của Phật mà khởi năm mươi sát-na tư duy chưa hề tập tư, chuyển đổi nối nhau, không có ngươi phê bình.” Nhưng theo lý lẽ thì đầu tiên nói là thiện, nếu như các phẩm hạ, trung, thượng đều như tạp tu tónh lự thì lẽ ra phải có tướng tốt, hơn kém khác nhau, nếu nói năm tư duy như gia hạnh, căn bản, hậu khởi v.v… thì lẽ ra phải có phương tiện hậu khởi đồng cảm ứng không khác nhau. Chấp nhận đồng cảm ứng, ứng hợp với ba thời đâu có gì khác nhau? Nếu hơn kém khác nhau thì tướng tốt cũng phải như thế. Nếu nói khởi năm mươi sát-na tư duy chưa hề tu tập thì sại sao không thể có thêm, bớt? Nếu y theo Đại thừa, tuy không thấy văn nói, nhưng nghe nói có hai cách giải thích: Một cách nói rằng: Như mười thiện nghiệp giúp đỡ lẫn nhau tức là trăm nghiệp. Một cách khác: Như mỗi nghiệp đều có mười thứ, đó là: Tự mình làm, Xúi giục người làm. Vui mừng khích lệ. Vui vẻ thuận theo. Phần ít. Phần nhiều. Toàn phần. Thời gian ngắn. Thời gian dài. Suốt đời. Nên gọi là trăm nghiệp. Văn kinh: Viên quang chiếu khắp cõi mười phhương, tùy duyên cứu khắp các chúng sinh, dứt sạch phiền não ái nhiễm tập, đuốc pháp thường sáng không lụi tàn. Khen ngợi lợi sinh. Đầu tiên một bài tụng khen ngợi chung vì lợi ích chúng sinh nên hiện thân nói pháp. Câu đầu là khen ngợi thân Phật, câu thứ hai là lợi ích, câu thứ ba là khen ngợi sự thanh tịnh, câu thứ tư là giáo pháp, ngay hai câu giữa cũng chung cho cả thân và pháp. Văn kinh: Thương xót lợi ích các chúng sinh, hiện tại vị lai thường ban bui, luôn gảing nói về nghóa bậc nhất, khiến chứng Niết-bàn chân vắng lặng. Phật nói pháp cam lồ cao quý, thường ban nghóa cam lồ nhiệm mầu, dẫn vào thành cam lồ Niết-bàn, thọ hưởng vui cam lồ vô vi. Đây là khen ngợi riêng, hai bài tụng đầu khen ngợi pháp đã nói có công năng đạt đến Niết-bàn, sau một bài tụng khen ngợi pháp đã nói có công năng đạt được Bồ-đề. Trong phần đạt được Niết-bàn: một bài tụng là bảo phải đạt được, một bài tụng là thành tựu. Pháp đã nói, quả đã đạt đều luôn dứt trừ khổ đau, đưa đến an vui, cho nên giống như cam lồ. Văn kinh: Thường ở trong biển lớn sinh tử, giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau, giúp được đi trên đường an ổn, thường cho vui như ý khó bàn. Một bài tụng là giúp đạt được Bồ-đề, tức tám Chánh đạo gọi là con đường an ổn. Văn kinh: Biển đức Như lai thật rộng sâu, ví dụ chẳng thể biết được, thường khởi tâm Bi với chúng sinh, phương tiện tinh tấn luôn không nghỉ. Một bài tụng khen ngợi trí đức của báo thân. Vì tâm đại bi nên thường làm lợi ích chúng sinh mà không nhập Niết-bàn, hằng không dừng nghỉ. Vì vậy, luận Biện Trung Biên có bài tụng rằng: “Thù thắng nên vô tận, vì lợi tha không nghỉ.” Văn kinh: Biển trí Như lai không bờ mé, tất cả trời người cùng đo lường, giả sử trong ngàn muôn ức kiếp, cũng không biết được một phần nhỏ. Một bài tụng khen ngợi đoạn đức của pháp thân. Văn kinh: Nay con lược khen công đức Phật, chỉ như một giọt trong biển đức, hồi hướng phước này cho chúng sinh, cùng nguyện mau chứng quả Bồ-đề. Một bài tụng kết thúc lược nêu phát nguyện. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các vị Bồ-tát rằng: Lành thay! Lành thay! Các ông khéo khen ngợi công đức của Phật như vậy, có thể lợi ích cho chúng sinh, sinh khởi nhiều Phật sự, thường dứt trừ các tội lỗi, sinh vô lượng các phước đức. Đây là phần Như lai ngợi khen ấn chứng. Đầu tiên là ngợi khen, sau “Các ông…” cho đến hết là ấn chứng. Tâm vô nhiễm cho nên ngợi khen, xứng hợp với nghóa lý, lợi ích chúng sinh cho nên ấn chứng. ------------------------------ <詞>Phẩm 28: DIỆU TRÀNG BỒ-TÁT TÁN THÁN Phần nói về lý do có phẩm này của phẩm Diệu Tràng Bồ-tát Tán Thán đồng như trước. Giải thích tên gọi: Tiếng Phạn là Cù-lô-chỉ-la, Hán dịch là Diệu, Kê-đầu, Hán dịch là Tràng, tức thắng trí xa dụ như cho ngọn cờ cao dài, tự một mình vượt lên mọi trần lụy cho nên gọi là Diệu, Tràng tức là gọi là Diệu, gọi là Diệu Tràng, thuộc về trì nghiệp thích. Từ ví dụ mà lập tên, gọi là Diệu Tràng. Kinh cựu dịch là Tín Tướng. Tướng, tiếng Phạn là Da-Sắt-trí, ở đây goi là Cù-lô-chỉ-la, cho nên dịch là Tràng. Tánh của Tín là thanh tịnh, nghóa của Diệu cũng tương tự. Tràng là cao hiển, vì thế gọi nhầm là Tướng. Giải thích vấn nạn. Hỏi: Nghe pháp được thọ ký đâu chỉ có Diệu Tràng, vì sao tán thán chỉ nêu một mình vị đó? Đáp: Bởi đó là vị Đại só đứng đầu. Văn kinh: Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Tràng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật. Tiếp theo văn trong phẩm chia làm ba đoạn: Đầu tiên là người khen ngợi và nghi thức, tiếp theo “Nói lời ngợi khen rằng…” về sau chính là nói rõ sự ngợi khen, sau cùng “Đức Phật bảo Bồ-tát Diệu Tràng…” đến hết là Đức Thế Tôn khen ngợi ấn chứng. Đây chính là phần đầu. Văn kinh: Nói lời ngợi khen rằng: Mâu-ni trăm phước tướng tròn đầy, công đức vô lượng trang nghiêm thân, thanh tịnh rộng lớn người thích ngắm, như sánh ngàn mặt trời soi sáng, rựa rỡ vô biên ánh bừng lên, như ngọc báu đẹp tướng đoan nghiêm, như mặt trời mọc chiếu hư không, trắng hồng rõ ràng giữa sắc vàng, cũng như ánh núi vàng chiếu khắp, trăm ngàn cõi mọi nơi đều thấy, thường dứt các khổ của chúng sinh, đều ban mọi niềm vui mầu nhiệm, các tướng đầy đủ đều thanh tịnh, chúng sinh thích ngắm không thỏa mãn, tóc mềm mại ửng màu xanh biếc, như bầy ong đen quanh hoa thơm. Tiếp theo là phần ngợi khen, có tám bài tụng rưỡi chia làm ba phần: Bốn bài tụng đầu ngợi khen về hóa Phật, tiếp từ “Đại hỷ…” về sau ba bài tụng là ngợi khen về thân thọ dụng của Phật, cuối cùng “Miệng vàng Như lai….” về sau một bài tụng rưỡi là chung cho cả hai Đức Phật. Lược bỏ không ngợi khen Pháp thân, bởi vì sâu xa kín đáo vô cùng, cho nên ngợi khen thân năng y đó để bày hiện thân sở y. Trong phần đầu, ngợi khen Hóa thân chia làm bốn: Đầu tiên một bài tụng ngợi khen thân tướng, tiếp một bài tụng ngợi khen ánh sáng, tiếp theo một bài tụng kết hợp ngợi khen thân tướng và ánh sáng, nửa bài tụng trước ngợi khen thường chiếu khắp nơi, nửa bài tụng sau ngợi khen thường làm lợi ích, tiếp một bài tụng ngợi khen tướng tốt. Văn kinh: Đại Hỷ đại Xả thật nghiêm tịnh, đại Từ đại Bi đều đầy đủ, các tướng tốt đẹp để trang nghiêm, thành tựu từ pháp Bồ-đề phần. Như lai thường ban mọi phước lợi, chúng sinh thường được mọi yên vui, các thứ công đức cùng trang nghiêm, ánh sáng chiếu khắp ngàn muôn cõi. Ánh sáng Như lai thật tròn đầy, như mặt trời rực rỡ khắp hư không, Phật như Tu-di đủ công đức, thị hiện khắp thế giới mười phương. Tiếp theo ngợi khen về thân thọ dụng, bao gồm hai thân tự tha thọ dụng, chia làm bốn: Nửa bài tụng đầu ngợi khen tâm vô lượng; nửa bàii tụng tiếp theo khen ngợi tướng tốt. Nói là “thành tựu từ pháp Bồ- đề phần” là ngợi khen nhân thành tự tướng hảo. Nửa bài tụng tiếp theo ngợi khen về lợi ích, một bài tụng rưỡi tiếp là ngợi khen thân tướng và ánh sáng. Trong phần thân tướng và ánh sáng, nửa bài tụng đầu là chung, một bài tụng sau là riêng. Trong phần chung: Câu trước ngợi khen thân tướng, bao gồm cả năm uẩn, câu sau ngợi khen ánh sáng cũng bao gồm cả trí và sắc. Từ “Ánh sáng Như lai…” về sau là ngợi khen riêng. Nửa bài tụng đầu khen ngợi ánh sáng, nửa bài tụng tiếp ngợi khen thân tướng. Văn kinh: Miệng vàng Như lai thật đoan nghiêm, răng trắng đều khít như ngọc quý, mặt mũi Như lai không ai sánh, lông trắng giữa mày thường hướng phải, hồng hào sáng trắng tựa pha lê, giống như trăng tròn giữa hư không. Bao gồm ngợi khen tướng tốt và vẻ đẹp của hai thân Phật. Văn kinh: Đức Phật bảo Bồ-tát Diệu Tràng: Ông hãy ngợi khen công đức không thể suy nghó bàn luận của Phật như vậy để lợi ích cho tất cả, giúp cho người chưa biết thuận theo đó tu học. Tiếp theo là Đức Như lai khen ngợi ấn chứng. ---------------------------- <詞>Phẩm 29: BỒ-ĐỀ THỌ THẦN TÁN THÁN Phần nói về lý do có phẩm này của phẩm Bồ-đề Thọ Thần Tán Thán đồng như trước. Giải thích tên gọi. Theo Tây vực truyện chép: “Cây vốn tên là cây Tất-bát-la, ở trên tòa Kim cang, tòa Kim cang đó được hình thành cùng lúc với măạt đất vào kiếp Hiền xa xưa. Theo trong tam thiên đại thiên thế giới thì dưới đến tận Kim luân, trên ăn sâu vào mặt đất. Tòa Kim cang tạo thành vòng quanh hơn một trăm bộ, ngàn Đức Phật kiếp Hiền ngồi ở đó mà nhập định Kim cang, cho nên gọi là tòa Kim cang.” Tất-bát-la là cây mà Đức Phật đã ngồi dưới gốc của nó thành tựu quả vị Đẳng chánh giác, do đó gọi là cây Bồ-đề. Thân cây màu vàng trắng, cành lá màu xanh biếc, đông hạ không tàn lụi, màu sắc sáng ngời không thay đổi, mỗi lần đến ngày Như lai nhập Niết-bàn thì lá đều rơi rụng, sau mới trở lại như cũ. Bồ-tát trên mặt đất hiện làm Thiên nữ làm thần cây này, tức là vị thần làm chủ cây Bồ-đề, thuộc về y chủ thích. Giải trừ vấn nạn. Hỏi: Sao không nói những vị thần khác? Đáp: Vì thấy Phật trước tiên cho nên thường không lìa Phật. Hỏi: Thần cây Bồ-đề và thần mặt đất là một hay khác? Đáp: Có chỗ nói là một, có chỗ nói là khác. Văn kinh: Bấy giờ, thần cây Bồ-đề. Tiếp theo văn trong phẩm chia làm ba đoạn: Đầu tiên nêu ra người năng tán; tiếp đến “Cũng dùng Già-đà…” về sau là nói rõ lời ngợi khen đó, sau cuối “Bấy giờ, Thế Tôn…” đến hết là Như lai khen ngợi ấn chứng. Đây tức là phần đầu. Văn kinh: Cũng dùng Già-đà ngợi khen Thế Tôn rằng: Kính lễ Như lai thanh tịnh tuệ, kính lễ thường cầu chánh pháp tuệ, kính lễ thường lìa phi pháp tuệ, kính lễ tuệ thường vô phân biệt. Đây là lời ngợi khen, tất cả có mười một bài tụng, toàn bộ chia làm hai phần: Năm bài tụng đầu là ngợi khen, sáu bài tụng sau là phát nguyện. Trong phần ngợi khen, một bài tụng đầu ngợi khen trí thể, bốn bài tụng sau ngợi khen trí dụng. Trong phần trí thể, một câu đầu ngợi khen chung trí thể, lìa chướng trí tròn đầy gọi là thanh tịnh tuệ, hai câu tiếp ngợi khen khả năng trí tuệ, thường dạy chúng sinh tu điều lành nên nói là thường cầu chánh pháp, nếu không như vậy thì quả tròn đầy còn cầu gì nữa. Thường dạy chúng sinh dứt bỏ điều ác cho nên nói là lìa phi pháp tuệ, tuy có thể như vậy, nhưng ba luân thanh tịnh do đó thường không phân biệt. Hoặc một câu ngợi khen về quả, ba câu sau về nhân. Trong ngợi khen nhân: Câu đầu là trí gia hạnh, câu tiếp là trí căn bản, câu sau là hậu đắc trí. Lìa bỏ tà phân biệt cho nên nói là vô phân biệt; hoặc lần lượt thường có thể tiến làm lành, luôn lìa bỏ các điều ác, thường thuận theo pháp vô vi luôn luôn vô phân biệt. Hoặc câu đầu gồm cả Pháp thân và báo thân, ba câu còn lại chỉ ngợi khen Báo thân. Ngợi khen trí dụng tức là Hóa thân. Kinh cựu dịch chép: “Nam-mô thanh tịnh vô thượng chánh giác thậm thâm diệu pháp”, vì vậy thanh tịnh tuệ gồm cả pháp thân. Văn kinh: Ít có Thế Tôn hạnh vô biên, ít có khó gặp như Ưu-đàm, ít có như biển rộng núi cao, ít có Thiện Tuệ vô lượng quang, ít có Điều ngự bi nguyện lớn, ít có Thích chủng sáng hơn trời, thường nói kinh quý báu như vậy, xót thương lợi ích mọi chúng sinh. Tiếp theo ngợi khen trí dụng. Hai bài tụng đầu là trí dụng lợi tha, hai bài tụng sau là trí dụng tự lợi. Trong trí dụng lợi tha: Một câu đầu ngợi khen đầy đủ hạnh ít có, một câu tiếp theo ngợi khen sự thị hiện ít có, một câu tiếp khen ngợi sự hiện thân hiếm có, thân ở giữa đại chúng như núi Diệu cao trấn giữ biển lớn, một câu tiếp theo là ánh sáng vô lượng ít có, một câu tiếp là nguyện rộng ít có, một câu tiếp theo là chủng tánh ít có, gần mặt trời mà sinh Thế Tôn cho nên nói là sáng hơn mặt trời, tiếp một câu là nói kinh này ít có, tiếp một câu là lợi sinh ít có, tức là đầy đủ tám việc ít có. Văn kinh: Mâu-ni vắng lặng định các căn, thường vào thành Niết-bàn vắng lặng, thường đứng giữ các cổng vắng lặng, thường biết cõi vắng lặng sâu xa, phước trí tôn nghiêm trụ vắng lặng, Thanh văn đệ tử thân cũng không, thể tánh các pháp thảy đều không, tất cả chúng sinh đều vắng lặng. Đây là hai bài tụng ngợi khen trí tụng tự lợi. Tướng hóa thân trụ trong vắng lặng nhập vào Niết-bàn… cho nên nói Mâu-ni và đệ tử Thanh văn. Hoặc bao gồm thọ dụng của trí dụng tự lợi, nên nói các trì môn như căn định trụ v.v… Nhưng Tam tạng Chân đế cho rằng đó là ngợi khen Pháp thân, nhưng thế văn hơi sơ lược. Hai bài tụng chia làm ba phần: Một bài tụng ngợi khen đức tự lợi vắng lặng, nửa bài tụng tiếp ngợi khen vì sao thường trụ trong vắng lặng, nửa bài tụng cuối nói về lý do kết thúc thành tựu. Vì pháp thể là không, tự tánh đều vắng lặng cho nên an trụ trong vắng lặng. Vì an trú vắng lặng cho nên thường tónh lặng, các căn thường nhập trong viên tịch, thường an trụ trong định nên thường chứng được cảnh giới tịch tịnh. Vì vậy kinh Vô Cấu Xưng chép: “Ba luân thường vắng lặng nên bổn tánh vắng lặng.” Lại giải thích: Bài tụng đầu trước hết ngợi khen an trú vắng lặng, tụng sau ngợi khen đạt được bốn bình đẳng: Pháp bình đẳng. Chúng sinh bình đẳng. Hóa thân bình đẳng. Phật thể bình đẳng. Dựa theo văn thì biết rõ. Văn kinh: Con thường nhớ nghó các Đức Phật, con thường ưa thấy các Thế Tôn, con thường phát khởi tâm tha thiết, thường ngày được gặp Đức Như lai. Con thường đảnh lễ Đức Thế Tôn, nguyện thường khát khao tâm không lìa. Khóc thương rơi lệ tình không dứt, thường được hầu hạ không biết chán. Cúi mong Thế Tôn khởi bi tâm, dung nhan khiến con thường được thấy, Phật và chúng Thanh văn thanh tịnh, nguyện thường cứu độ khắp trời người. Thân Phật thanh tịnh như hư không, cũng như khói mây và trăng nước, nguyện nói pháp cam lộ Niết-bàn, thường sinh tất cả các công đức, Thế Tôn vốn có cảnh giới tịnh, chánh hạnh từ bi khó nghó bàn, Thanh văn Độc giác chẳng thể so, Đại tiên Bồ-tát không thể lường. Cúi mong Như lai thương xót con, thường khiến nhìn thấy thân đại bi, hầu Từ Tôn ba nghiệp không mỏi, mau thoát sinh tử về chân như. Đây là phát nguyện, có sáu bài tụng: nửa bài tụng đầu nhớ nghó nguyện nơi ở thường thấy. Nửa bài tụng tiếp theo là ân trọng nguyện nơi sinh thường gặp. Một bài tụng tiếp là cung cấp hầu hạ, nguyện thường cung cấp không nhàm chán mệt. Nửa bài tụng tiếp theo nguyện thường gia hộ khiến được thấy, lẽ ra nói thấy v.v… vì văn tụng gò bó nên lược bớt chữ v.v… Một bài tụng rưỡi tiếp là nguyện thường lợi ích chúng sinh, nói trời người là căn cứ theo năng chứng ngộ; nói thanh tịnh như hư không là pháp thân, như khói mây trăng nước…là thọ dụng biến hóa thân. Hai bài tụng tiếp là nguyện được thấy và chứng đạt, trong đó một bài tụng đầu khen ngợi sự tốt đẹp, cảnh sở hành tức là thân pháp tánh, chánh hạnh từ bi tức là bi trí đều không thể suy nghó bàn luận, Đại tiên Bồ-tát tức là Bồ-tát Đẳng giác, nửa bài tụng tiếp theo là nguyện cầu che chở, nửa bài tụng tiếp theo là nói lên tu tập được chứng quả. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn nghe ngợi khen như thế xong, bèn dùng âm thanh cõi Phạm, bảo thần cây: Lành thay! Lành thay! Này thiện nữ Thiên ngươi có thể đối với Pháp thân thanh tịnh chân thật không luống dối của ta, vì tự lợi và lợi tha mà giảng nói tướng nhiệm mầu, nhờ công đức này giúp cho ngươi mau chứng Bồ-đề tối thượng, tất cả chúng sinh cũng cùng tu tập, nếu ai được nghe đều vào trong pháp môn cam lộ vô sinh. Như lai khen ngợi ấn chứng. Đầu tiên là khen ngợi, từ “Thiện nữ Thiên…” đến hết là ấn chứng, có hai: Đầu tiên là ấn chứng lời ngợi khen, tiếp theo “Nhờ công đức này…” cho đến hết là ấn chứng sự phát nguyện. ------------------------- <詞>Phẩm 30: ĐẠI BIỆN TÀI THIÊN NỮ TÁN THÁN Phần nói về lý do có phẩm này của phẩm Đại Biện Tài Thiên Nữ Tán Thán đồng như trước. Bồ-tát đầy đủ bốn biện tài nên gọi là Đại Biện Tài, có thần thông tự tại nên gọi là Thiên, hiện làm Thiên Nữ tức trì nghiệp thích, hoặc để phân biệt với Thiên nữ khác. Thiên nữ có Đại biện tài cũng thuộc về y chủ thích. Hỏi: Sao không nói vị Thiên nữ khác mà ngợi khen? Đáp: Vì vị này đầy đủ Biện tài thù thắng nhất trong các thần cho nên không nói các vị khác. Văn kinh: Bấy giờ, Đại Biện tài Thiên nữ liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, chắp tay cung kính dùng lời nói thắng. Tiếp theo văn trong phẩm chia ba đoạn. Đây tức là đoạn đầu nêu rõ người ngợi khen. Có ba: Đầu tiên là nêu ra người ngợi khen, tiếp theo là oai nghi; sau cùng dùng lời nói thẳng là hiển bày sự khác nhau, không dùng tụng để ngợi khen gọi là lời nói thẳng. Văn kinh: Ngợi khen Thế Tôn rằng: Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Như lai ứng chánh đẳng giác, thân màu vàng ròng, cổ như sò ốc, mặt tựa trăng tròn, mắt giống sen xanh, môi miệng đỏ tươi đẹp như màu pha lê, mũi cao dài thẳng như thoi vàng đầy, răng trắng đều khít như hoa Câu-vật-đầu, thân quang chiếu khắp như trăm ngàn mặt trời, ánh sáng rực rỡ rạng ngời như vàng ròng ở châu Thiệm-bộ. Tất cả ngôn từ đều không nhầm lẫn, nêu rõ ba cửa giải thoát, mở bày ba đường Bồ-đề, tâm thường thanh tịnh, ý lạc cũng thế. Nơi Phật an trụ và cảnh sở hành cũng thường thanh tịnh, lìa điều trái oai nghi, đi đứng không sai phạm, sáu năm tu khổ hạnh. Ba lần quay bánh xe pháp, độ chúng sinh đau khổ, khiến trở về Niết-bàn. Thân tướng tròn đầy như cây Câu-đà, sáu độ huân tu ba nghiệp không lỗi, có trí Nhất thiết, tự lợi lợi tha thảy đều trọn vẹn. Tất cả sự giảng nói thường vì chúng sinh, lời không nói suông, ở trong họ Thích làm Đại sư tử vững chắc mạnh mẽ, kiên cố dũng mãnh đầy đủ tám giải thoát. Ngợi khen, có hai: Ngợi ca công đức. “Nguyện đem phước đức này…” về sau là phát nguyện. Trong phần ngợi khen có ba: Đầu tiên là nói rõ sự kính lễ; tiếp theo là ngợi khen riêng; sau “Nay con tùy năng lực…” trở xuống là kết thúc sơ lược. Trong phần ngợi khen có mười: “Thân màu vàng ròng…” về sau ngợi khen tướng tốt. “Tất cả ngôn từ…” về sau là ngợi khen lời nói không nhầm lẫn, là nói pháp sắc bén thù thắng trong mười tám pháp Bất cộng, cho nên chỉ ngợi khen về lời nói. “Nêu rõ ba cửa giải thoát…” về sau là khen ngợi đức nói pháp giáo hóa ở ngoài, có hai: Một là nêu rõ ba cửa giải thoát tức là cửa Niết- bàn, hai là mở bày ba đường Bồ-đề tức là quả Bồ-đề của ba thân Phật, các quả khác của Nhị thừa nương theo đây mà có. “Tâm thường…” về sau là khen ngợi bốn đức thanh tịnh chứng đạo bên trong, bốn đức thanh tịnh là: Tự tánh tịnh. Ly cấu tịnh. Đạt được đạo tịnh này. Sinh ở cảnh tịnh này. Tức là phối hợp theo thứ ngược lại, do tâm thanh tịnh lưu xuất ra giáo pháp, thường phát sinh tất cả pháp Bồ-đề phần, tức là thường sinh ra tất cả các sự thanh tịnh. Kinh Vô Cấu Xưng chép: “Hễ tâm thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh, hễ cõi Phật thanh tịnh thì giáo pháp thanh tịnh.” Cho đến nói: “Công đức ý lạc thanh tịnh tức là đạt được đạo thanh tịnh này.” Nơi Phật an trú tức là nơi pháp thân chân như lìa cấu an trụ, tánh và tướng chia làm hai, cho nên kinh Thắng Man chép: “Đang còn bị trói buộc gọi là Như lai Tạng, thoát khỏi ràng buộc gọi là Pháp thân.” Cảnh sở hành tức là tự tánh thanh tịnh. Nhất chân pháp giới là cảnh sở hành của Phật, vì thế trong Nhiếp Luận năm của ngài Vô Tánh chép: “ Bốn đức thanh tịnh này là viên thành thật.” Lại giải thích: “Đây là bốn sự của tất cả tướng thanh tịnh.” Theo Nhiếp Luận chín của ngài Vô Tánh chép: Sở y thanh tịnh tức là y chỉ vào tịnh tự. Sở duyên thanh tịnh tức là biến hóa tạo ra tất cả các sắc. Tâm thanh tịnh tức là tùy theo pháp môn Tam-ma-địa mà minh mong muốn tự tại chuyển hóa, tức là tự tại xuất nhập các định. Trí tự tại là như pháp môn Đà-la-ni mà mình mong muốn được trú trì tự tại. Tâm thanh tịnh này là thứ ba, ý lạc là thứ tư, sở trú là thứ nhất, sở hành là thứ hai. Lại giải thích: “Tâm tức là tâm vương, ý lạc tức là thắng giải, nêu ra thắng giải này để ví dụ cho các tâm sở khác. Sở trú tức là chân như, sở hành tức là cảnh trụ.” “Lìa điều trái oai nghi…” về sau là ngợi khen dứt trừ hẳn, tập tức là khí, trong Nhiếp luận của ngài Vô Tánh chép: “Khắp nơi tất cả các hành trú, nghóa là ở nơi xóm làng, thành ấp khất thực kinh hành qua lại, thân an trú trong bốn oai nghi vắng lặng. Lại nữa, thân thường làm lợi ích chúng sinh nên an trú trong bốn oai nghi không lỗi.” Kinh Vô Cấu Xưng chép: “Tất cả oai nghi tiến chỉ của Như lai không có gì chẳng phải là Phật sự, đều làm cho chúng sinh được lợi ích hóa độ.” “Sáu năm tu khổ hạnh…” là ngợi khen thị hiện tám tướng, trong tám tướng tạm thời nêu ra hai tướng khổ hạnh và xoay bánh xe pháp, từ “Độ chúng sinh đau khổ…” về sau là ngợi khen hiện tướng, ý khiến cho quay về Niết-bàn, để ví dụ cho các tướng khác. “Thân tướng tròn đầy” đó là ngợi khen về thân tướng. “Sáu độ tu tập” là ngợi khen về tu hành. “Ba nghiệp không lỗi” là ngợi khen đức bất cộng của ba ng- hiệp, nêu ba nghiệp để ví dụ những điều khác. “Có trí Nhất thiết…” về sau là ngợi khen trí đức: Đầu tiên là nêu chung, từ “Tất cả sự giảng nói” về sau là giải thích riêng. Trong giải thích riêng: Đầu tiên là lợi tha, từ “ở trong họ Thích” về sau là tự lợi. Căn cứ vào thực tế hiện thân giáng sinh đều là lợi tha, nói theo tướng thì gọi là tự lợi. Văn kinh: Nay con tùy năng lực ngợi khen một phần nhỏ công đức của Như lai, tựa như con muỗi uống nước biển khơi. Tiếp theo là kết thúc sơ lược. Văn kinh: Nguyện đem phước đức này hồi hướng khắp tất cả chúng sinh, lìa hẳn sinh tử, thành tựu đạo quả vô thượng. Tiếp theo là phát nguyện. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Thiên nữ Đại Biện Tài rằng: Lành thay, lành thay! người tu tập đã lâu, đầy đủ đại biện tài, nay lại đối với ta trình bày ngợi khen khiến người mau chóng chứng được pháp môn vô thượng, tướng tốt sáng ngời đầy đủ, lợi ích tất cả chúng sinh. Đây là Như lai khen ngợi ấn chứng. Trong phần khen ngợi: Đầu tiên là khen ngợi chung, từ “Người tu tập đã lâu…” về sau là riêng biệt khen ngợi. Trong khen ngợi riêng. Đầu là khen ngợi nhân, vì tu tập đã lâu nên đầy đủ biện tài; sau là khen ngợi quả, nay lại có thể ngợi khen; “khiến cho người mau chóng chứng được…” sau là ấn chứng phát nguyện. ---------------------------- <詞>Phẩm 31: PHÓ CHÚC Phẩm Phó Chúc có chia ra làm hai phần: Nói về lý do có phẩm này. Từ phẩm Tứ Thiên Vương về sau là nói về phần Lưu thông, có trong đó ba mục: Trước đã khiến cho Học hạnh lưu thông, đại chúng nghe những điều đã nói tâm sinh vui mừng ngợi khen, vì thế phần thứ ba tiếp tục sẽ phó chúc khiến lại hộ trì truyền bá ở đời sau, do đó sau phẩm trước có phẩm này phát sinh. Giải thích tên gọi. Phó là trao truyền, Chúc là ủy thác. Đem pháp truyền thọ ủy thác khiến hộ trì truyền bá đời sau nên gọi là Phó Chúc. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo tất cả vô lượng Bồ-tát và các trời, người cùng tất cả đại chúng: Các vị nên biết, trong vô lượng vô số đại kiếp ta siêng năng tu hành khổ hạnh đã đạt được giáo pháp sâu xa của chánh nhân Bồ-đề, nay giảng nói cho các vị nghe. Tiếp theo văn trong phẩm chia làm bốn đoạn: Phật khuyến khích che chở giữ gìn. “Bấy giờ, trong chúng hội…” về sau là đại chúng nghe xong nguyện che chở giữ gìn. “Bấy giờ, Đức Thế Tôn…” về sau là đức Phật lại khen ngợi khuyến khích. “Bấy giờ, Vô lượng…” về sau là nghe Đức Phật dạy vui mừng thực hành. Trong phần một, có hai đoạn: Đầu tiên là bảo với tất cả đại chúng kết thúc những điều đã nói ở trước. Văn kinh: Các người, ai có thể phát tâm mạnh mẽ cung kính che chở giữ gìn, sau khi ta vào Niết-bàn đối với pháp môn này giảng nói lưu thông truyền bá rộng khắp có thể làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài thế gian? Tiếp theo phổ biến với toàn thể đại chúng xem ai hộ trì việc đó. Văn kinh: Bấy giờ, trong chúng hội có sáu mươi câu-chi vị Đại Bồ-tát, sáu mươi câu-chi chư Thiên đại chúng, cùng nhau cất tiếng nói rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con đều có tâm vui mừng đối với pháp chánh nhân Bồ-đề sâu xa nhiệm mầu mà Phật, Thế Tôn đã trải qua vô lượng đại kiếp siêng năng tu hành khổ hạnh, chúng con cung kính hộ trì không tiếc thân mạng, sau khi Thế Tôn Niết-bàn đối với pháp môn này giảng nói lưu truyền rộng khắp, sẽ làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài trên thế gian. Đây là phần hai, đại chúng nghe xong nguyện hộ trì, có hai: Đầu là nêu chung, sau từ “Bấy giờ, các vị Đại Bồ-tát…” về sau là nêu riêng. Trong phần nêu chung có bốn: Nêu ra số lượng thính chúng. “Cùng nhau cất tiếng…” về sau là nói rõ tâm vui mừng phát nguyện. “Đối với pháp…” về sau là phát thệ đích thân hộ trì. “Sau khi Thế Tôn Niết-bàn…” về sau là gồm cả truyền bá đời sau. Văn kinh: Bấy giờ, các vị Đại Bồ-tát liền đối trước Đức Phật nói Già-đà rằng. Đây là phần nêu riêng, có mười một đoạn. Đây là đoạn thứ nhất: Bồ-tát nguyện hộ trì, có hai: Đầu tiên là lời tựa của người sớ kinh. Văn kinh: Lời Thế Tôn chân thật, an trú trong thật pháp, do lời chân thật đó, nên giữ gìn kinh này. Đại bi làm mũ giáp, an trú trong đại Từ, nhờ lực Từ bi đó, mà giữ gìn kinh này. Phước tư lương đầy đủ, sinh khởi trí tư lương, nhờ tư lương đầy đủ, nên giữ gìn kinh này. Hàng phục các ma quân, phá trừ mọi tà luận, nên đoạn tuyệt ác kiến, hộ trì nơi kinh này. Hộ thế gian Thích Phạm, cho đến A-tu-la, loài Dược-xoa rồng thần, mà giữ gìn kinh này. Mặt đất và hư không, nơi kinh này tồn tại, nên vâng giữ Phật giáo, mà giữ gìn kinh này. Bốn Phạm trụ tương ưng, bốn Thánh đế nghiêm sức, nên hàng phục bốn ma, mà giữ gìn kinh này. Hư không thành chướng ngại. Chướng ngại thành hư không, các Phật luôn che chở, không ai khuynh động được. Tiếp theo nói rõ phát nguyện giữ gìn, có tám bài tụng, chia làm hai: Bốn bài tụng đầu là thấy lợi ích cho nên tự phát nguyện che chở. Trong đó một bài tụng là biết rõ lời chân thật của Phật, một bài tụng tiếp theo là biết rõ tâm đại Bi của Phật. Một bài tụng tiếp là biết rõ đầy đủ tư lương cho nên phát nguyện, một bài tụng tiếp là biết rõ có thể diệt trừ chướng ngại nên phát nguyện. Có bốn tụng là thấy người khác che chở nên vui theo. Trong đó một bài tụng đầu là thấy Phạm Thích tám bộ che chở giữ gìn. Một bài tụng tiếp là thấy các thần dưới mặt đất và trên hư không giữ gìn; hai bài tụng tiếp là thấy các Đức Phật đích thân giữ gìn, một bài tụng đầu là ngợi khen Phật đầy đủ công đức, che chở giữ gìn kinh này, một bài tụng tiếp là thể hiện quyết định giữ gìn. Đây là ý thấy Phật và các chúng Thích Phạm… tất cả đều hộ trì nên tâm sinh vui theo sâu sắc, vì thế phát nguyện tự mình giữ gìn. Hỏi: Nếu thấy các chúng Thích Phạm đều giữ gìn kinh này nên tâm sinh vui theo thì tại sao văn sau còn nói: “Chúng Thích Phạm đều nguyện giữ gìn?” Đáp: Thấy trong phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Trì và phẩm Dược- xoa Hộ Trì trước đây nói cho nên sinh tâm vui theo. Lại giải thích: Tức là thấy sáu mươi câu-chi các chúng trời cung kính hộ trì trong phần phát nguyện chung giữ gìn ở văn trường hàng trước đây, tức là các chúng Thích Phạm… do đó thấy không có lỗi. Văn kinh: Bấy giờ, Tứ đại Thiên vương nghe Đức Phật nói giữ gìn pháp mầu này đều sinh tâm vui theo giữ gìn chánh pháp. Đây là đoạn thứ hai, tứ Thiên vương giữ gìn cũng có hai phần: Đầu tiên là nghe lời dạy sinh tâm vui mừng; tiếp theo “Cùng lúc đồng thanh…” về sau là đồng tâm phát thệ giữ gìn. Đây là phần mở đầu. Hỏi: Trước nói hộ trì là các vị Bồ-tát, vì sao có thể nói “Nghe Đức Phật nói giữ gìn pháp mầu này đều sinh tâm vui theo giữ gìn chánh pháp?” Đáp: Vì nghe Đức Phật khuyến khích giữ gìn trước đó nên nói là “nghe nói”. Văn kinh: Cùng lúc đồng thanh nói Già-đà rằng: Nay con đối kinh này, cùng nam nữ quyến thuộc, đều một lòng che chở, khiến được truyền bá khắp. Nếu có người trì kinh, thường tạo nhân Bồ-đề, con thường ở bốn phương, ủng hộ và thờ phụng. Tiếp theo là đồng tâm nói che chở giữ gìn. Đầu tiên là lời tựa của người sớ kinh, tiếp theo là nói về giữ gìn. Trong phần giữ gìn có hai bài tụng: Bài tụng đầu là giữ gìn pháp, bài tụng sau là che chở người. Văn kinh: Bấy giờ, trời Đế Thích chắp tay cung kính nói Già-đà rằng: Các Phật chứng pháp này, vì muốn báo ân đức, lợi ích chúng Bồ- tát, ra đời nói kinh này. Con đối trước các Phật, báo ân thường cúng dường mà giữ gìn kinh này, cùng người thọ trì kinh. Tiếp theo là đoạn thứ ba. Trời Đế Thích giữ gìn: Đầu tiên là nêu rõ người năng hộ, từ “nói Già-đà….” về sau là nói về giữ gìn. Có hai bài tụng, một bài tụng đầu nói rõ lý do giữ gìn, một bài tụng sau nói rõ cách giữ gìn. Ngày xưa, các Đức Phật nghe pháp được thành tựu Bồ-đề, vì báo ân kinh pháp nên giảng nói cho Bồ-tát nghe, nay con được nghe, cũng cần phải báo đền ân đức thọ trì truyền bá rộng khắp. Văn kinh: Bấy giờ, Thiên tử Đổ-sử-đa chắp tay cung kính nói Già-đà rằng: Phật nói kinh như vậy, nếu có người thường trì, sẽ trú vị Bồ-đề, sinh lên trời Đổ-sử, Thế Tôn! Con vui mừng, xả báo trời tốt đẹp, ở nơi châu Thiệm-bộ, giảng nói kinh điển này. Tiếp theo là đoạn thứ tư. Thiên tử Đổ-sử-đa giữ gìn: Đầu tiên là nêu rõ người năng hộ v.v… từ “Nói Già-đà…” về sau là nói về giữ gìn, có hai bài tụng: Một bài tụng đầu nói rõ lợi ích, một bài tụng sau nói rõ cách giữ gìn. Văn kinh: Bấy giờ, Phạm Thiên vương người đứng đầu thế giới Sách-ha chắp tay cung kính nói Già-đà rằng: Vô lượng các tịch tónh lưc, các thừa và giải thoát, đều từ kinh này ra, cho nên nói kinh này, con bỏ vui cõi Phạm, vì nghe kinh như vậy, cũng thường được giữ gìn. Đây là đoạn thứ năm, đoạn văn giống như trước. Văn kinh: Bấy giờ, con của Ma vương tên là Thương Chủ chắp tay cung kính nói Già-đà rằng: Nếu ai thọ trì kinh, tương ưng chánh nghóa này, không hành theo các ma, dứt sạch ác nghiệp ma, chúng con đối kinh này, cũng sẽ thường ủng hộ, phát tâm đại tinh tấn, truyền bá khắp mọi nơi. Đây là đoạn thứ sáu, văn giống như trước. Văn kinh: Bấy giờ, Ma vương chắp tay cung kính nói Già-đà rằng: Nếu ai trì kinh này, dứt được các phiền não, hạng chúng sinh như vậy, ủng hộ khiến yên vui, nếu ai nói kinh này, ma không dịp làm hại, nhờ uy thần sức Phật, con sẽ ủng hộ họ. Lúc ấy, Thiên nữ Diệu Cát Tường cũng đối trước Đức Phật nói Già-đà rằng: Diệu Bồ-đề các Phật, nói ở trong kinh này, nếu ai trì kinh này, là cúng dường các Phật, con trì kinh này, nói cho câu-chi trời, ai cung kính lắng nghe, khuyên đến nơi Bồ-đề. Lúc ấy, Bồ-tát Từ Thị chắp tay cung kính nói Già-đà rằng: Nếu thấy trụ Bồ-đề, cùng làm bạn không thỉnh, cho đến bỏ thân mạng, để giữ kinh Vương này. Con nghe pháp như vậy, sẽ đến trời Đổ-sử, nhờ Thế Tôn che chở, giảng nói trời người nghe. Lúc ấy, Thượng tọa Đại Ca-diếp-ba chắp tay cung kính nói Già-đà rằng: Phật ở Thanh văn thừa, nói trí tuệ con sáng, nay con tùy sức mình, giữ gìn trì kinh như vậy, nếu ai trì kinh này, con sẽ che chở họ, trao lực từ biện đó thường tùy khen lành thay. Lúc ấy, Cụ thọ A-nan-đà chắp tay hướng về Đức Phật nói Già-đà rằng: Chính con nghe từ Phật, vô lượng các kinh điển, chưa từng nghe kinh này, vua trong pháp sâu mầu, nay con nghe kinh này, đích thân ở trước Phật, được các lạc vui Bồ-đề, sẽ truyền bá rộng khắp. Đây là đoạn thứ bảy, văn cũng giống như trước. Trong phần nói về cách giữ gìn, bài tụng đầu che chở người thọ trì kinh, bài tụng sau che chở người nói kinh. Bởi vì che chở người cũng chính là che chở pháp, nên đầu tiên đều nói rõ người năng hộ, sau mới nói rõ sự che chở. Đoạn thứ tám, Thiên nữ Diệu Cát Tường giữ gìn, văn cũng giống như trước. Trong phần nói về cách giữ gìn. Đầu tiên là nói về lợi ích của kinh, sau nói về cách hộ trì, nói cho câu-chi vị trời nghe là giữ gìn pháp, ai cung kính lắng nghe là che chở người. Đoạn thứ chín Bồ-tát Từ Thị che chở, văn cũng giống như trước. Trong phần nói rõ cách giữ gìn pháp, bài tụng đầu là hộ trì người; bài tụng sau giữ gìn pháp. Đoạn thứ mười Đại Ca-diếp giữ gìn, văn cũng giống như trước. Trong phần nói về cách giữ gìn. Một bài tụng đầu là hộ trì pháp, một bài tụng sau là che chở người. Đoạn thứ mười một A-nan-đà hộ trì, văn cũng giống như trước. Trong phần nói về cách giữ gìn. Một bài tụng đầu là ngợi khen, một bài tụng sau là che chở; được cái vui Bồ-đề là che chở người, truyên bá rộng khắp là giữ gìn pháp. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy các vị Bồ-tát và đại chúng trời, người tất cả đều phát tâm lưu truyền bá ủng hộ đối với kinh điển này, nên khuyến thỉnh Bồ-tát làm lợi ích rộng khắp cho chúng sinh mà khen ngợi rằng: Lành thay! Lành thay! Các ông hãy chí thành truyền bá rộng khắp kinh vương nhiệm mầu này, cho đến sau khi ta nhập Niết-bàn không để cho phân tán hoại diệt, tức là đã gặt hái được công đức của Chánh nhân Bồ-đề vô thượng ở trong hằng ha sa kiếp không thể nào nói hết. Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca và thiện nam, thiện nữ nào, cúng dường cung kính viết chép truyền bá giải thích giảng nói kinh này cho người nghe thì giải diễn nói kinh này thu hoạch được công đức cũng như vậy, cho nên các ông phải siêng năng tu tập. Đây là đoạn lớn thứ ba trong phẩm, Đức Phật lại khen ngợi khuyến khích, văn phân làm ba phần: Đầu tiên là khen ngợi; tiếp theo từ “Các ông hãy…” về sau là ấn chứng; từ “Nếu có…” về sau là khuyến khích. Trong phần khuyến khích: Đầu tiên là khuyến khích bốn chúng, nếu giữ gìn pháp sẽ được phước đức giống như trước, thực hành mười pháp đều là giữ gìn pháp, ở đây lược nêu ra bốn trong mười pháp hành: Cúng dường. Viết chép. Lưu thông tức là bố thí cho người khác. Giải thích diễn tức là giảng nói. Lắng nghe, học hỏi, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tụ tập đều thuộc về cung kính tôn trọng, bởi vì cung kính tôn trọng pháp cho nên lắng nghe… Từ “Cho nên…” về sau là kết thúc khuyến khích đại chúng. Văn kinh: Bấy giờ, Vô lượng hằng sa đại chúng nghe Đức Phật nói xong đều vô cùng vui mừng tín nhận vâng làm. Tiếp theo nghe Đức Phật dạy vui mứng vâng làm. Theo Văn-thù Vấn kinh luận chép: “Có ba thứ nghóa, cho nên vui mừng: Người nói thanh tịnh, do đó đối với các pháp được tự tại; ý này là do không nhiễm trước cho nên nói được tự tại. Pháp sở thuyết thanh tịnh, cho nên chứng biết pháp thể thanh tịnh như thật. Nương vào pháp sở thuyết đạt được quả thanh tịnh, cho nên đạt được cảnh giới tốt đẹp; đây là ý nhờ vào pháp sở thuyết mà chứng nhập chân lý, đạt đến Niết-bàn. Nói khế cơ khế lý hợp quả đúng nhân, cho nên đạt được một câu thì người ta sẽ vui lòng, sáng nghe chiều chết. Vì vậy người nhìn thấy toàn chương thì nên tích cực mừng vui mà tu học! Pháp nhiệm mầu các Phật từ nơi đại Từ bi xuất, vì lợi ích chúng sinh, sâu xa khó đo lường. Nay nhờ chúng che chở, tùy sức khen kinh này, được phước lợi tự tha, cùng thành Vô thượng giác. Khắc xong vào ngày tốt tháng mùa đông năm Bính Tuất. Niên hiệu Bảo Vónh năm thứ ba. Tàng bản tại Thư Lâm tỉnh Thượng Thu Nhàn-phường Tuyên Phong-thành Bình An.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 140