<經 id="n1788">KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH SỚ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1788 KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH SỚ Tam Tạng, Pháp sư Nghóa Tịnh đời Đường vâng chiếu dịch. Sa-môn dịch kinh Tuệ Chiểu soạn. <卷>QUYỂN 1 Các Đức Phật đầy đủ ba đức Chánh điều ngự của chúng sinh Diễn bày chân giáo chứng đạt Cùng các pháp môn sâu mầu. Học theo các thánh hiền tăng Quy y thanh tịnh kính tin Nay con khen ngợi kinh này Hoằng pháp lợi ích tự tha. Hồi hướng đại đạo Bồ-đề Cùng chúng bước lên Diệu giác Ba nghiệp kính thành lễ lạy Cúi mong các Phật che chở. Giải thích kinh này trước hết chia ra năm phần: Nói về Nhân sinh khởi của kinh. Nói về Tông Thể của kinh. Nói về lợi ích đương thời của kinh. Nói về lý do đặt tên kinh. Giải thích theo khoa mục. Thứ nhất là Nhân sinh khởi: của kinh, lại có hai: Nhân sinh khởi thông thường. Nhân sinh khởi riêng biệt. Thông là chung cho các kinh, riêng là chỉ hạn cuộc ở kinh này. Đầu tiên là nhân chung: Tất cả Như lai lìa các phân biệt, tâm chứng nhập biển định, trí bình đẳng như như, chúng sinh và ngã đều mất, hình và tiếng cùng vắng lặng, nhưng nhân tu túc nguyện nhậm vận cơ duyên, như hình ảnh hiện trong gương tròn, như tiếng phát ra hang trống trong. Cho nên có ứng hóa thùy tích, chấn động tùy loại âm, giáo tuy muôn vàn khác nhau nhưng duyên phát khởi chỉ có hai: Lưu xuất từ đại bi của Như lai. Cảm ứng từ tánh dục của hữu tình. Nhưng trong các giáo tùy cơ nêu ra không cố định, như kinh Vô Lượng Nghóa chỉ nêu ra sự cảm ứng từ tánh dục của chúng sinh, cho nên kinh đó nói: “Pháp vô lượng là do chúng sinh có tánh dục vô lượng, pháp do giáo đó nói cũng lại vô lượng”. Kinh Pháp Hoa quyển một chép: “Nay Ta cũng giống như vậy, biết các chúng sinh có các thứ dục bám sâu trong tâm, tùy theo bản tánh của họ mà dùng các nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, năng lực phương tiện mà nói pháp cho họ nghe”. Phẩm Mộng Kiến Sám Hối trong kinh này chép: “Trú thọ không thể suy nghó bàn luận số kiếp, tùy theo căn cơ nói pháp lợi ích chúng sinh”. Trong Nhiếp luận của ngài Thiên Thân chép: “Y theo Bi mà nói đại bi lưu xuất mười hai bộ kinh, Nhiếp luận của ngài Vô Tánh thì y theo căn cơ chủng tánh mà nói rằng từ năng lực gốc lành thức tâm khởi lên”. Nhị Thập Duy Thức hợp lại nói chung, bài tụng nói về Nhân sinh khởi chép: “Năng lực xoay vần tăng thượng, hai thức thành quyết định”. Giải thích rằng: Vì các thức nối tiếp còn lại khác nhau nên khiến cho các thức nối tiếp khác nhau sinh. Ở đây nói nối tiếp là thân, khác nhau là giáo; ý này từ Phật thân thức hiện ra danh cú nghóa, khiến cho thức của người nghe phát sinh danh cú nghóa, đó là nhờ căn cơ chúng sinh thành thục là năng cảm, Như lai đại bi là năng ứng. Phần nhiều y cứ theo đại bi, cho nên lợi tha lại có hai duyên: Pháp tồn tại lâu dài. Lợi ích hữu tình. Kinh Pháp Hoa quyển một chép: “Các thứ nhân duyên dùng vô lượng thí dụ soi sáng Phật pháp khai ngộ chúng sinh”. Soi sáng Phật pháp là khiến cho pháp tồn tại lâu dài, thuộc về đại trí. Khai ngộ chúng sinh là lợi ích cho chúng sinh, thuộc về đại bi. Kinh này cũng vậy, phẩm Sám Hối nói: “Trú mạng không thể suy nghó bàn luận số kiếp tùy theo căn cơ nói pháp lợi ích chúng sinh, thuộc về đại bi”. Như phẩm Phú Chúc chép: “Các thầy, vị nào có thể phát tâm giữ gìn, giảng nói truyền bá rộng rãi, có thể khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian, thuộc về đại trí. Có chỗ cho rằng, làm cho pháp tồn tại lâu dài lợi ích cho chúng sinh thuộc về đại bi. Có chỗ khác cho rằng, lợi ích chúng sinh khiến cho pháp tồn tại lâu dài thuộc về đại trí. Cũng khiến cho người nghe tu tập hai lợi ích, khiến cho pháp tồn tại lâu dài nên tu tự lợi, vì lợi ích chúng sinh nên tu lợi tha”. Luận Du-già quyển tám mươi hai chép: “Nếu có năm phần nói pháp như năm phần vui như vậy thì sẽ khiến cho tự tha phát sinh vui mừng vô cùng, lại có thể dẫn phát lợi ích của tự tha”. Giải thích năm phần này đầy đủ rõ ràng như trong Nhân Vương Bát-nhã Sớ. Lại có ba duyên: Làm cho sinh dục lạc. Khiến cho tu hành. Khiến cho dứt chướng. Tức là nói rằng: Pháp mà chúng sinh muốn nghe không ngoài ba thứ: Nguyện cầu quả cao siêu, đồng thời lợi ích chúng sinh. Các hạnh được Tu tập. Các chướng được dứt trừ. Như Thiện Hiện Sở Vấn trong kinh Bát-nhã chép: “Có nhiều người phát tâm thú hướng Bồ-tát thừa, làm sao an trú?”. Biết rằng phát thú những thừa khác cũng có ba thứ, trong Nhân Thiên thừa tuy không dứt hạt giống, cũng có khả năng chế phục các chướng trong ba đường ác được sinh lên cõi trời, cõi người, vì vậy đều có ba thứ, đây là do cơ cảm. Lại có bốn duyên: Người chưa lìa khổ muốn làm cho lìa khổ, người chưa được yên vui muốn làm cho được yên vui, người chưa thể phát tâm dứt ác làm lành muốn làm cho dứt ác làm lành, người chưa thành Phật nguyện sớm thành Phật. Đây là do bi nguyện. Cho nên kinh Pháp Hoa quyển ba chép: “Người chưa độ khiến cho độ. Độ nghóa là lìa khổ. Người chưa hiểu làm cho được hiểu. Hiểu nghóa là dứt ác làm lành. Người chưa an làm cho an, an nghóa là giúp cho được yên vui. Người chưa Niết-bàn làm cho họ đạt đến Niết-bàn, nghóa là chưa thành Phật nguyện thành Phật. Tức là như thứ lớp nương vào bốn thệ nguyện rộng lớn lần lượt hóa độ chúng sinh”. Kinh Pháp Hoa quyển ba chép: “Chúng sinh thường khổ não tăm tối, không có người dẫn đường, không biết con đường hết khổ, không biết mong cầu giải thoát”, cho đến nói: “Nay Phật đạt đến con đường vô lậu an ổn tối thượng, chúng ta và trời người được lợi ích rất lớn”. Ý ở đây thường khổ não là khổ đế, tăm tối không người dẫn đường là tập đế, không biết con đường hết khổ là đạo đế, không biết mong cầu giải thoát là diệt đế. Rõ ràng trước đây không hiểu, nay Phật ra đời chỉ bày thức tỉnh khiến cho hiểu rõ, khiến cho biết Khổ, dứt tập, Chứng diệt, Tu đạo. Lại có năm duyên, như kinh Tư Ích quyển hai chép: “Nếu người thông suốt thuận theo văn tự ngôn thuyết chương cú Như lai đã nói”, cho đến nói: “Có thể biết Như lai vì sao nói pháp, vì sao nói tùy nghi, vì sao nói phương tiện, vì sao nói pháp môn, vì sao nói đại bi? Phạm thiên hay Bồ-tát có thể biết Như lai dùng năm năng Lực này mà nói, thì Bồ- tát đó có thể thực hiện Phật sự”. Vì sao nói pháp? Tức là nói về pháp thể. Thế nào là tùy nghi? Tức là tùy theo cơ nghi để ứng hiện. Thế nào là phương tiện? Tức là nêu rõ giáo pháp lợi ích vui mừng, ở nơi không có danh ngôn mà phương tiện khéo léo nói các pháp. Thế nào là pháp môn? Nghóa là nói rõ các môn đối với một pháp. Thế nào là Đại bi? Nghóa là ba mươi hai thứ đại bi. Như nói các pháp vô ngã, mà các chúng sinh không thể tin hiểu, do đó Như lai khởi đại bi nói làm cho tin hiểu. Rộng như trong ấy nói. Bốn thứ đầu tức là đại trí, thứ năm tức là đại bi. Lại bốn thứ đầu là sở khởi, thứ năm là năng khởi. Ở đây chúng sinh là năng cảm, Như lai là năng ứng. Vì tuy là ngu mê không tin không hiểu, nhưng có gốc lành chiêu cảm Phật nói cho nghe. Tùy theo pháp mà trong kinh này nói, mà chúng sinh không thể tin hiểu thì Phật phát khởi đại bi mà giảng nói cho chúng sinh nghe. Nếu không thể hiểu rõ tuổi thọ của Như lai, Như lai thương xót nên vì chúng sinh nói rõ, y theo đó mà biết tâm đại bi của Như lai như thế nào. Ba phần trước thuộc về quán văn phân biệt, sợ rườm rà nên không nêu ra. Lại có sáu duyên, như luận Bát-nhã của Vô Trước chép: “Vì sao thượng tọa Tu-bồ-đề hỏi? Giải thích có sáu nhân: vì dứt nghi, vì sinh lòng tín, vì nhập vào pháp xâu xa, vì không lui sụt, vì sinh vui mừng, vì chánh pháp tồn tại lâu dài. Cho nên Thế tôn trả lời cũng là sáu điều đó”. Luận ấy giải thích ý rằng: Nếu có người nghi thì được dứt nghi, nếu đã dứt nghi thì có vui mừng phước đức, nhưng tâm chưa thành tựu. Các vị Bồ-tát nghe nhiều phước đức, đối với kinh Bát-nhã sanh tâm tin hiểu. Người đã thành tựu tâm thì nhập vào nghóa sâu sa. Người đã có thể không tự khinh thường mình, do ham thọ trì tu hành nên có nhiều công đức không còn lui sụt. Người đã thuận theo thâu nhiếp và tâm thanh tịnh thì đối với pháp tự đi vào, và chúng sinh trông thấy sinh vui mừng, có thể khiến cho giáo pháp Đại thừa trong tương lai được tồn tại lâu dài. Ý này tức là đối với người an trụ trong tu trì hàng phục có những nghi ngờ xin nói để dứt nghi. Tuy được dứt nghi tâm vui vẻ phước đức nhưng căn cơ chưa thành thục. Nghóa là đối với người trì tụng kinh này không có nhiều công đức, nên nói so với trì kinh phước nhiều giúp sinh tin hiểu. Người đã sinh tin hiểu thành tựu tâm ấy, thì có thể đi vào hiểu rõ nghóa sâu xa. Đã nhập sâu vào nghóa thì biết tự mình sẽ có khả năng tu hành đắc quả, không tự khinh thường, ưa thích nhiều công đức thọ trì, tu hành không còn lui sụt. Đã chắc chắn không còn lui sụt, đến quyết định chọn lựa giai vị dần dần đi đến thấy đạo, gọi là thuận theo thâu nhiếp và tịnh tâm, cho nên đối với pháp tự ngộ và thấy người khác đi vào sinh khởi vui mừng, từ đó có thể khiến cho pháp tồn tại lâu dài bất diệt. Nay kinh này cũng có sáu nghóa, như trong phẩm Như lai Tuổi thọ, Bồ-tát Diệu Tràng nói: “Cũng lại suy nghó, Thích-ca Như lai có vô lượng công đức, chỉ sinh tâm nghi ngờ đối với tuổi thọ vì sao ngắn ngủi chỉ có tám mươi năm?” Bốn Đức Phật nói cho nghe; tức là người có nghi thì khiến được dứt nghi. Lại như văn dưới chép: “Trong trăm ngàn đại kiếp tu hành sáu độ mà không phương tiện, không bằng phước đức do nghe kinh này sinh ra”. Còn trong phẩm Vô Đắm nhiễm Đà-la-ni chép: “Nếu như A-tăng- xí-da Tam thiên Đại thiên thế giới, trong đó đầy khắp bảy báu dâng cúng các Đức Phật, và đem các loại y phục, thức ăn ngon quý nhất cúng dường trải qua vô số kiếp; nếu lại có người, đối với Đà-la-ni này dù cho chỉ thọ trì một câu, phước sinh ra từ đó gấp nhiều lần so với phước kia”. Ý này tức là hạn cuộc tâm ưa thích phước đức nhưng căn cơ chưa thành thục, nghóa là trì kinh này không có nhiều công đức, nên nói so sánh tâm trì kinh phước nhiều, khiến sinh tin hiểu thọ trì đọc tụng. Như phẩm Không Tánh nói: “Lúc các đại chúng nghe Đức Phật nói tánh không sâu xa này có vô lượng chúng sinh đều tin hiểu rõ thông suốt tánh của bốn đại, năm uẩn đều không, sáu căn, sáu cảnh vọng sinh trói buộc v.v…” liền có thể đi sâu vào hiểu rõ nghóa sâu xa. Phẩm Y Không Mãn Nguyện nói: “Có ba ngàn ức Bồ-tát đối với A-nậu Bồ-đề được không lui sụt”, tức là đã nhập sâu vào pháp, biết tự mình có khả năng tu hành đắc quả không tự xem thường, ưa thích nhiều công đức thọ trì không lui sụt. Phẩm Không Tánh chép: “Nguyện xả bỏ luân hồi chánh tu xuất ly, thâm tâm vui mừng đúng như pháp vâng giữ thọ trì”, tức gọi là đã được thuận theo thâu nhiếp, đối với gốc lành, làm sao biết được? Đã nói rằng: “Nguyện xả bỏ luân hồi”, nhưng biết chưa đăng địa. Lại nói “Chánh tu xuất ly thâm tâm vui mừng”; tức là cầu an trụ trong duy thức chân thắng nghóa tánh, gọi là chánh tu xuất ly, vì thường ưa thích chăm chỉ nên tâm hết sức mừng vui. Phẩm Tịnh Địa Đà-la-ni chép: “Lúc nói pháp này có ba muôn ức Bồ-tát Ma-ha-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn”. Phẩm Y Không Mãn Nguyện chép: “Vô số vị vua chúa, thần dân xa lìa trần cấu, đạt được pháp nhãn thanh tịnh”, đây là nhập vào tịnh địa, từ đó tự vui mừng thấy nhập vào cũng vui mừng, cho nên cũng có thể khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài. Như các phẩm nguyện lưu thông ở dưới, đều thuộc về ý này, từ đây cũng thành tựu nghóa Xoay bánh xe pháp. Vì sao? Vì tự mình đã nghe pháp dứt nghi được hội nhập, cho đến đạt được Thánh vị, thành tựu sơ chuyển, thấy người được hội nhập tâm sinh vui mừng, lại giúp cho chánh pháp tồn tại lâu dài, truyền bá rộng khắp, tức là giúp cho người dứt nghi nhập vào pháp, cho đến đạt được Thánh vị, cho nên được gọi là Xoay bánh xe pháp. Lại nói theo tám nghóa, nghóa là muốn nói Đại pháp v.v… thì nghóa phải y cứ theo sự dẫn giải, sơ lược dựa vào một văn từ, ngoài ra phải y theo đó mà biết. Trên đây là Nhân khởi chung. Về nhân khởi riêng: theo luận Trí Độ giải thích nhân sinh khởi của kinh, tùy theo các pháp đã nói trong kinh này tức là nhân sinh khởi, như nói về tuổi thọ, ba thân, khác nhau, sám hối, tịnh địa, tất cả các pháp đều là biệt nhân sinh khởi. Nhưng Phật nói pháp bao trùm văn nghóa, trong một văn nghóa đều hiện rõ vô lượng. Ở đây tạm thời trình bày sơ lược có sáu nghóa: Nói về quả Bồ-đề, Niết-bàn vô lậu. Nói về nhân bất thiện phải dứt bỏ. Giúp cho thoát khỏi báo ứng bất thiện. Dạy cho tu tập nhân Bồ-đề, Niết-bàn vô lậu. Dạy tu tập nhân thiện hữu lậu. Giúp cho đạt được sự vui sướng ở cõi trời, cõi người. Quả cao quý vô lậu thế gian và xuất thế gian. Các Đức Phật xuất hiện ra đời vì việc lớn ấy. Cho nên trước phải nói, giúp cho vui mừng. Kế đến muốn giúp cho người cầu học giáo pháp sám hối, dứt bỏ nhân bất thiện. Nhân bất thiện không còn thì quả bất thiện sẽ không có, nếu không như thế thì không thể nào cầu quả vô thượng. Đã sám hối dứt bỏ nhân quả bất thiện thì kế phải tu tập nhân quả vô lậu. Nhưng trong nhân này có chánh duyên, hạnh hữu lậu trợ duyên cho vô lậu, vì là chánh nhân của hữu lậu. Tiếp đến nghóa thứ năm nói về nhân hữu lậu, bởi vì nhân hữu lậu đạt được báo quả vui sướng ở cõi trời, cõi người. Tiếp theo thứ sáu nói về quả hữu lậu. Lại, chủng tánh hữu tình khác nhau, vì có tánh Đại thừa nói ở hai môn trước, vì quyết định Tiểu thừa và vô chủng tánh nói ở hai môn sau. Lại người tu lâu có thể đạt được hai môn trước, người bắt đầu tu thì đạt được hai môn sau. Nhân quả bất thiện hợp chung thành hai minh, vì tánh hữu lậu và tu lâu mau đều có khả năng thực hành. Lại nữa, với nhân bất thiện nếu trước không sám hối thì không thể phát tâm thuận theo Vô thượng giác. Chỗ này lại sơ lược nương theo sáu phần trong kinh Đà-la-ni để nói về nhân sinh khởi. Phẩm Thọ lượng Tam Thân nói về quả vô lậu. Phẩm Sám Hối Diệt Chướng nói về dứt trừ tất cả nhân quả bất thiện. Từ phẩm Tịnh Địa về sau nói về nhân vô lậu. Phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát về sau, đều nói về nhân quả hữu lậu và vô lậu đạt đến Vô sinh nhẫn, xa lìa bụi nhơ, được Pháp nhãn thanh tịnh v.v… là nhân quả vô lậu, hướng về phía trước là quả, dựa vào phía sau là nhân, trì chú cầu phước đạt được tài vật thức ăn, những loại này cũng là nhân quả hữu lậu, văn trích dẫn rất dễ hiểu. Thứ đến là nói về Tông Thể của kinh: Nêu tông của kinh. Nêu thể của kinh. Nói tông của kinh: Truyện Chân-đế giải thích rằng: “Kinh này nói ba thân vốn có, hiển bày bốn đức vô sinh, khai quả quả quên duyên, giải như như chân thật”. Lại có, chỗ nói rằng: “Nhân quả Bồ-đề, Niết- bàn là Tông của kinh này”. Suy xét thông suốt hai quả bổn và thỉ hiển bày đầy đủ nhân duyên và chánh nhân, cả hai đều có lỗi. Ban đầu nói ba thân vốn có, dựa vào nhân có thể như thế, nói quả thì chẳng phải. Vì sao? Vì lẽ nào Báo thân, Hóa thân chưa tu đã đạt được, như ở nhân vị gọi là Như lai tạng, chẳng thể gọi là Pháp thân. Bốn đức vô sinh là nói theo Pháp thân, lý tức là chánh nói theo báo, hóa thì chẳng phải định, vô sinh. Như kinh Niết-bàn chép: “Như lai có tám thứ Ngã tự tại”. Nói theo biến kế thì lý cũng không trái. Có thuyết nói nhiều về hai quả bổn và thỉ để nói về nhân duyên và chánh nhân, lý cũng có lỗi. Vì sao? Vì chân như tuy là vốn có nhưng ở nhân không thể nào gọi là quả, báo và hóa chắc chắn phải nhờ sự tu tập mà thành, đâu gọi là hai quả bổn và thỉ. Lại tuy có duyên nhân và chánh nhân nhưng các thuyết xưa phần nhiều lấy chân như làm chánh nhân của ba thân, chỗ này không hợp lý, như trong luận Năng Hiển Trung Biên Tuệ Nhật có nói rộng. Ở đây phân tích về Tông kinh, đại khái có hai giải thích. Một nói rằng: Chỉ lấy nhân quả Bồ-đề làm chánh tông của kinh. Vì sao? Vì chỉ nói đến tuổi thọ và ba thân khác nhau. Còn trong quyển bốn của kinh này chỉ hỏi về nhân của tâm Bồ-đề, Đức Phật trả lời chỉ nói về hạnh của mười độ. Còn trong phẩm Phú Chúc chép: “Các thầy nên biết, trong vô lượng vô số đại kiếp ta siêng năng tu tập khổ hạnh, đạt được pháp sâu xa. Chánh nhân Bồ-đề đã nói cho các thầy nghe, vì thế biết rằng chỉ lấy nhân quả Bồ-đề làm chánh tông của kinh”. Thuyết khác nói rằng: Cũng lấy nhân quả Niết-bàn làm tông. Trong phẩm Thọ lượng dùng ba lần “Lại nữa” đều có mười nghóa, cho nên nói là Niết-bàn; đồng thời phân tích về mười thứ hạnh mà Như lai đã nói: “Này người thiện nam nên biết như thế! Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói có vô biên chánh hạnh như thế; các thầy nên biết! Đó gọi là tướng chân như Niết-bàn”. Còn trong phẩm Thập Phương Bồ-tát Tán Thán chép: “Thường giảng nói Đệ-nhất-nghóa cho nghe giúp chứng đạt Niết-bàn chân như vắng lặng. Phật nói pháp cam lộ cao quý có thể cùng nghóa với cam lộ mầu nhiệm, dẫn dắt đi vào thành cam lộ Niết-bàn, giúp cho hưởng được niềm vui cam lộ vô vi”. Hỏi: Nếu Niết-bàn cũng là tông kinh thì vì sao sau phẩm Thọ lượng lại nêu rõ ba thân, phẩm Tối Tịnh Địa trở xuống nói về nhân Bồ-đề, và phẩm Phú Chúc Đức Thế tôn tự nói về nhân quả Bồ-đề, sao không nói lại nhân quả Niết-bàn? Đáp: Vì hai nhân không khác cho nên kết hợp lại mà nói, chỉ hướng về nhân quả đó mà chia ra nảy sinh. Nhân-thể đã đồng, cho nên không nói khác. Quả không nói lại, bởi vì thể Pháp thân tức là Niết- bàn. Trong phẩm Thọ lượng chép: “Thể pháp thân của Như lai là chân thật gọi là Niết-bàn”. Lại nói: “Không tánh tức là Pháp thân chân thật nên gọi là Niết-bàn”. Hỏi: Nếu như vậy thì pháp thân tức là Niết-bàn, hai nghóa khác nhau chỗ nào? Đáp: Nói về Pháp thân là y theo công đức nương theo nghóa biên, nói Niết-bàn là chọn lấy nghóa dứt hẳn các khổ, vì vậy hai nghóa có khác nhau. Đồng thời tương tự như nhau cho nên không nhắc lại, mặc tình lấy bỏ, nhưng cùng giữ lấy chỗ cao siêu. Vì sao? Vì nói tuổi thọ ba thân tức là lấy Bồ-đề làm tông, đã nói Niết-bàn, vì sao không lấy Niết- bàn làm tông? Có chỉ nói trong kinh chỉ nói đạt được chánh nhân Bồ-đề của pháp sâu xa mà không nói về chánh nhân Niết-bàn, do đó biết rằng chỉ lấy Bồ-đề làm tông kinh. Nếu vậy thì Niết-bàn lìa nhân Bồ-đề, phải tu pháp nào khác để làm nhân Niết-bàn, cho nên nhân Bồ-đề cũng là nhân Niết-bàn. Còn quả Bồ-đề hướng về Niết-bàn cũng được gọi là nhân. Như luận Du-già quyển chín mươi lăm nói về việc xoay bánh xe pháp, có năm thứ tướng: Được sở đắc, sở duyên. Phương tiện của đắc sở đắc. Phương tiện là tướng ba chuyển đều là phương tiện. Phương tiện tức là nhân, trước làm nhân cho sau, đã chuyển lần thứ ba cũng gọi là phương tiện. Biết rõ Bồ-đề mong chứng Niết-bàn cũng được gọi là nhân, cho nên không nói riêng. Tiếp theo nói về Thể của kinh: Trước là nêu ra giáo thể, kế là phân tích nhóm họp, trong giáo thể đưa ra gồm năm môn: Nhiếp tướng quy về tánh thể. Nhiếp dư trở về thức thể. Nhiếp giả trở về thật thể. Tánh dụng luận riêng thể. Nhiếp chung các pháp thể. Trong năm môn này, đầu tiên nói về năm thể, kế đó nói về được, mất. Trước nói trong thể. Bốn môn trước như bản Pháp Uyển Tổng Liêu Giản Nghóa Lâm có nói rộng. Nhiếp chung các pháp thể: Theo thực tế cũng là môn Tánh dụng luận riêng. Nay lại nói rộng ra, bởi vì chưa nói vậy. Du-già quyển tám mươi mốt chép: “Thế nào là Thể? Đó là Khế kinh, đại khái có hai loại: Một là văn. Hai là nghóa. Văn là sở y, nghóa là năng y. Hai loại như thế gọi chung cho tất cả cảnh giới sở tri”. Lại nói: “Như thế đã kiến lập văn nghóa thể của các kinh, được gọi là nhiếp chung các pháp thể”. Nói về văn nghóa, luận rằng: “Văn có sáu loại: Danh thân. Cú thân. Văn thân. Ngữ. Hành tướng. Cơ thỉnh.” Chánh văn trong đây chỉ có văn thân, ngoài danh văn thì danh cú theo sở y, ngữ theo năng y, hành tướng theo sở hiển và năng thuyết, cơ thỉnh y theo năng khởi, tướng theo danh văn. Luận nói: “Sáu loại như vậy đều hiển bày nơi văn. Y theo nghóa năng hiển, nên gọi là văn”, có mười nghóa: Nghóa địa, như cửu định địa và thập địa v.v… Nghóa tướng, như thể tướng của các pháp. Nghóa tác ý, như các tác ý v.v… Nghóa y xứ, như sự y xứ, thời y xứ, sác thủ thú y xứ. Nghóa quá hoạn, nghóa là pháp đáng quở trách. Nghóa thắng lợi, nghóa là pháp đáng khen. Nghóa sở trị, là pháp tạp nhiễm. Nghóa năng trị, là pháp thanh tịnh. Nghóa lược. Nghóa rộng. Y theo sở thuyên và sở vi trong đây đều gọi là nghóa. Cả mười nghóa đều là sở thuyên. Bổ-đặc-già-la trong y xứ cũng là sở vi. Vì các hữu tình này nói các pháp cho nên lại chọn lấy sở thuyên. Sáu văn mười nghóa đều là thể của kinh, có ba nghóa: Khắc tánh thể. Sở y thể. Sở vi thể. Văn là năng thuyên, nghóa là sở thuyên. Trong năng thuyên, thể hai pháp danh và cú là năng thuyên, tức là khắc tánh thể, hai pháp văn và ngữ là sở y thể, nên Thành Duy Thức chép: “Danh giải thích tự tánh, cú giải thích khác nhau”. Văn tức là chữ, là hai sở y; ngữ đó là tiếng, bởi vì dẫn dắt danh cú nên gọi là ngữ, cho nên trong Thành Duy Thức chép: “Ngữ không khác với năng thuyên”. Từ năng y danh, năng thuyên thể, hành tướng có cả hai. Nghóa là khắc tánh sở y, chỉ dựa theo sở thuyên và người năng thuyết để phân tích hành tướng, cho nên thể hành tướng chính là thanh danh văn cú, cho nên có cả hai. Cơ thỉnh danh văn là do văn làm ra, hoặc là thỉnh khởi văn cho nên nói là cơ thỉnh danh, văn là thể sở vi, trong thể sở thuyên thì Bổ-đặc-già-la là y xứ. Thông là khắc tánh và sở vi, cũng là từ Bổ-đặc-già-la này nói về Bổ-đặc-già-la kia. Nói Bổ-đặc-già-la kia tức là sở thuyên, chín y xứ phần ít còn lại đều là khắc tánh sở thuyên. Ở đây nói nghóa không chỉ là đạo lý, nhưng sở thuyên ấy cùng được gọi là nghóa, cho nên thể nhiếp chung có ba nghóa này. Nhưng ba khoa pháp tướng xuất ra thể tánh ấy, đều thuộc về môn tánh dụng luận riêng. Phần thứ năm này chỉ y theo Đại thừa, ba khoa pháp tướng có cả ba thừa cho nên lược bớt không nói tất cả về phân tích được, mất ấy như trong Duy Thức Nghóa Đăng có nói. Kế là phân tích nhóm họp, rộng như trong Pháp Uyển Tổng Chương Nghóa Lâm và Duy Thức Nghóa Đăng có nói rộng. Thứ ba nói về lợi ích đương thời: Lại chia làm hai phần: Phần đầu nói về thời Phần sau nói về lợi. Trong Thời lại có hai: Đầu tiên nói về thời gian Đức Thế Tôn bắt đầu nói kinh. Phần sau nói về niên đại của đệ tử phiên dịch. Trước tiên về thời gian Thế Tôn nói kinh lại chia làm hai: Nói về thời gian khác nhau. Nói giáo thuộc về thời. Nói về thời gian khác nhau: Như Pháp Uyển Tổng Chương Nghóa Lâm và Năng Đoạn Bát-nhã Sớ cùng Tuệ Nhật Luận có nói rộng. Phần trên nói về thời gian Thế tôn bắt đầu nói kinh. Thứ hai nói về giáo thuộc về thời là thời thứ ba, vì sao biết điều đó? Vì văn sau cũng nói mười hai hành pháp luân. Lại trong phẩm Mãn Nguyện chép: “Tám ngàn ức Thiên tử, vua chúa quan dân lìa hẳn bụi trần, đạt được Pháp nhãn thanh tịnh”. Theo luận Du-già thì đạt được quả Dự lưu, Vô gián đạo xa lìa bụi, giải thoát đạo lìa bỏ nhơ, vì thế chung cho tất cả các thừa. Phần sau nói về niên đại của đệ tử phiên dịch: Kinh này nói về bí mật sâu xa của ba thân, nói về sự huyền diệu then chốt của bốn đức, là kiệu rồng vượt qua nơi bờ kia, là xe voi đến nơi làng đẹp, cho nên liên tục dứt bỏ ba chướng, thực hành đầy đủ hai nhân, là thành trì vững chắc bảo vệ vua chúa, là thanh kiếm bén, áo giáp quý, hàng phục ma quân. Từ đó cõi nước mười phương đón nhận đảm đương lưu hành, cho nên ở Trung quốc đã năm lần phiên dịch. Tam tạng Đàm-vô-sấm bắt đầu truyền bá ở Bắc lương, Pháp sư Da-xá thời Hậu Chu xem xét lại ở chùa Quy Thánh, Đại sư Chân-đế tiếp tục phiên dịch ở Kiến Nghiệp, Đại sư Xá-na lại phiên dịch vào đời Tùy. Tuy mỗi vị đều y theo bản tiếng Phạm, đồng thời hết lòng chuyên thành, nhưng vì lá bối truyền văn thường có sự sơ sót, khiến cho người dịch thêm bớt khác nhau. Tam tạng Pháp sư Nghóa Tịnh đã ngộ rõ, nêu ra những dấu hiệu khác lạ đối với thời kỳ cứu giúp đàn kiến, phong cách soi sáng đỉnh đạc phát sinh nổi trội nơi bến bờ tiến vào đầy đủ, bốn vi ba tạng sáng hơn mặt trời buổi sớm, năm thiên bảy lược rõ hơn mặt trăng về đêm, chí ôm ấp làm thuyền cứu độ, tình thiết tha tiếp nối hưng sùng, đem thân theo đạo quên hết nhọc nhằn nào có chối từ hao tổn máu xương, đến khắp nơi miền Tây hạ hơn hai mươi năm, cõi trời cung rồng khắp nơi đều tìm tới nghóa lý sâu xa, tìm các bản tiếng Phạm khảo xét so sánh không bỏ sót, chống tích trượng quay về Đông độ vâng chiếu phiên dịch. Năm Nhâm Dần, Niên hiệu Trường An năm thứ hai, được chép kinh này siêng năng không nghỉ. Đến năm ngày mùng bốn tháng mười Quý Mão niên hiệu Trường An thứ ba, sửa chữa xong thì viết thành mười quyển gồm ba mươi mốt phẩm, văn từ hoàn thiện nghóa lý đầy đủ tinh hoa thực chất thảy đều trong đó, mới được kết châu cùng mở tháp báu, Phàm thánh vui mừng dâng thư tiến cử lên vua, tuyên bố dạy dỗ sâu rộng, sắc lệnh viết chép, trong đó thiếu từ đủ nghóa đến phương minh. Đó chính là thời đại của đệ tử phiên dịch, hai thứ khác nhau đều là phân biệt thời gian. Thứ đến là nói về lợi: Lợi nghóa là lợi ích. Kinh này làm lợi ích cho căn cơ chủng tánh nào, trong đó chia ra hai: Đầu tiên là nói về căn cơ chủng tánh khác nhau, sau đó nói rõ những lợi ích của căn cơ chủng tánh. Phân tích về sự khác nhau: Trong các giáo nói về cơ khác nhau tất cả đều có khác nhau, như kinh Niết-bàn chỉ nói một cơ, cho nên kinh đó nói: “Tất cả các loài có tâm đều sẽ thành Phật”. Kinh này một mà hiểu nhiều nên nghe có, bàn có ẩn kín, không nói đều sẽ thành Phật. Kinh Pháp Hoa cũng giống như vậy, cho nên nói: “Nếu có người nghe pháp thì không một ai không thành Phật v.v…”. Hoặc các kinh Thiện Giới, luận Địa Trì nói có hai căn cơ: Hữu tánh. Vô tánh. Vì thế kinh ấy chép: “Tánh chủng tánh từ vô thỉ đến nay xoay vần nối nhau, pháp như thế đạt được sáu nơi tốt đẹp, đó là có tánh”. Lại nói: “Người hhông có chủng tánh, vì không có chủng tánh nên tuy phát tâm hành đạo Bồ-tát, nhưng không bao giờ đạt được Vô thượng Bồ-đề, đó là vô tánh”, giải thích rõ ràng. Hoặc kinh Pháp Hoa nói có ba căn cơ, phẩm Tựa nói: “Vì người cầu Thanh văn nên nói pháp Tứ Đế, vì người cầu Bích-chi-Phật nên nói pháp mười hai Nhân duyên, vì các Bồ-tát nên nói sáu độ Ba-la-mật”, cũng ngầm chứa vô tánh. Bởi vì hội này phần lớn đối với Bất định Thanh văn nên nói rằng đều thành Phật. Lại có nhiều loại, như Từ Ân Khu Yếu Kinh Pháp hoa sớ, và luận Tuệ Nhật, Năng Đoạn Bát-nhã sớ. Nói về lợi ích của căn cơ chủng tánh ấy, đầu tiên nói về lợi ích của căn cơ, sau đó nói được một số lợi ích. Nói về lợi ích của căn cơ đại khái có hai cách giải thích: Một nói rằng: chỉ đầy đủ căn tánh Đại thừa, có cả định và bất định tánh, vì có Thanh văn, cho nên không có định tánh Thanh văn phải chăng? Đáp: Theo kinh Pháp Hoa và luận Đại Bảo Tích kinh thì: “Sở dó Thanh văn hỏi điều đó vì Thanh văn là người đã làm việc đó cho nên đầu tiên hỏi kinh này, chính là Bồ-tát Diệu Tràng, lại chỉ hỏi về tuổi thọ Như lai nói rộng ba thân cho nên biết. Nhưng là căn tánh Bồ-tát, nên sau này đạt được lợi ích gọi là xa lìa bụi nhơ v.v…” Theo Luận Đại Trang Nghiêm, được vào Sơ địa cũng nói là đắc pháp nhãn thanh tịnh, không chỉ có Thanh văn. Chỗ khác nói rằng: Thời giáo thứ ba thì có cả năm thừa, đúng lúc các Thanh văn lại có xa lìa bụi nhơ, theo luận Du-già thì đạt được quả Dự Lưu, văn nói không nhất định cho nên có thể thông đầy đủ. Nhưng trong Chánh Tông chỉ vì Bồ-tát, phẩm Tứ Thiên Vương trở xuống có thể chung đủ những thứ khác, vì đều khiến cho đạt được quả trời người. Cách giải thích thứ hai hơn hẳn, có lẽ pháp luân thâu nhiếp ở thời thứ ba này. Tiếp đến nói được một số lợi ích lại chia làm hai: Trước là nói rõ được lợi ích hiện tại. Kế là nói được lợi ích về sau. Lợi ích hiện tại là tự nhiên đạt được lợi ích, lợi ích về sau là đạt được sau khi Phật nói. Lợi ích hiện tại có hai thứ: Một là được quả lợi ích. Hai là được nhân lợi ích. Quả có hai thứ: Một là quả xuất thế gian. Hai là quả thế gian. Quả xuất thế có bảy thứ: Năm thứ là Đại thừa, hai thứ thuộc Tiểu thừa. Phẩm Y Không Mãn Nguyện có đoạn chép: “Lúc bấy giờ, trong pháp hội có năm mươi ức vị Tỳ-kheo, thực hành hạnh Bồ-tát muốn lui sụt tâm Bồ-đề, liền được thọ ký. Các vị Tỳ-kheo trải qua ba mươi A- tăng-kỳ kiếp sẽ được thành Phật, kiếp tên là Nan thắng quang vương, nước tên là Vô cấu quang, cùng lúc thành Phật đều cùng một danh hiệu là Nguyện Trang Nghiêm Gian Sức Vương Như lai”. - Phẩm Thọ Ký có bốn: Thọ ký cho Bồ-tát Diệu Tràng rằng: “Ông ở nơi thế giới Kim Quang Minh sẽ thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hiệu là Kim Bảo Sơn Vương Như lai”. Thứ hai nói: “Lúc bấy giờ pháp của Như lai này hoại diệt hết thì trưởng giả đó tên là Ngân Tràng, liền ở nơi cõi này sẽ được thành Phật, danh hiệu là Kim Tràng Quang Như lai”. Thứ ba nói: “Lúc tất cả giáo pháp của Như lai này thảy đều hoại diệt không còn, thì người con thứ của Ngân Quang sẽ được thành Phật, hiệu là Kim Quang Minh Như lai”. Thứ tư nói: “Lúc này mười ngàn vị Thiên tử nghe ba vị đại só được thọ ký xong, lại nghe kinh Tối Thắng Vương như vậy, tâm vui mừng thanh tịnh, không còn cấu nhiễm, giống như hư không. Lúc bấy giờ, Như lai biết mười ngàn vị Thiên tử này gốc lành đã thành thục liền thọ ký rằng: Các ông vào đời tương lai ở thế giới Tối thắng nhân-đà-la cao tràng, được thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, đồng một chủng tánh, lại cùng một danh hiệu là Diện Mục thanh Tịnh Ưu-bát-la Hương Sơn, đầy đủ mười hiệu”. Như vậy lần lượt mười ngàn Đức Phật xuất hiện ở thế gian. Kế, trong phẩm Tịnh Địa Đà-la-ni nói: “Vô lượng, vô biên vị Bí- sô, Bí-sô ni đạt được pháp nhãn thanh tịnh, đây là đắc sơ quả”. Nếu theo Đại thừa thì đạt được pháp nhãn thanh tịnh chính là địa vị Sơ Địa, tức là thuộc về nhân lợi. Và theo Du-già nói là Tiểu quả. Tiếp theo trong phẩm Y Không Mãn Nguyện chép: “Lúc nói phẩm này có tám ngàn ức vị Thiên tử, vô số vua chúa, thần dân xa lìa bụi nhơ, đạt được pháp nhãn thanh tịnh”. Kế là quả thế gian: Sơ lược nêu ra mười bảy loại. Như trong phẩm Như lai Tuổi thọ chép: “Tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, nhờ uy lực Phật được vui sướng mầu nhiệm, không có thiếu thốn, nếu thân không đầy đủ thì sẽ được đầy đủ, người mù sẽ nhìn thấy, người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ nói được, người ngu được trí tuệ, nếu người tâm tư tán loạn sẽ được tâm ban đầu, nếu người không có mặc được áo quần, người bị ác tặc thì được mọi người đều kính trọng, người có thân cấu uế sẽ thanh tịnh, đối với tất cả lợi ích và những việc chưa từng có nơi thế gian này thảy đều hiển hiện”. - Ở đây có chín lợi ích: Được vui sướng đầy đủ. Có đủ các căn. Được công dụng về lưỡi. Được trí tuệ. Không đánh mất tâm. Được y phục. Được tôn trọng. Thân thanh tịnh. Được nhiều lợi ích. Phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc phần cuối chép: “Lúc nói pháp này có vô lượng chúng sinh đều được đại trí, thông minh sáng suốt biện tài, được vô lượng nhóm công đức, xa lìa các ưu tư khổ não, phát tâm vui mừng, khéo hiểu rõ các luận”. Tám ích lợi trong đây, lời văn rất có thể hiểu. Thế giới trên đây đã bước lên đạo xuất ly, không còn lui sụt, mau chứng quả Bồ-đề, đây là nhân lợi xuất thế. Tiếp là trong được nhân lợi, lại có hai: Trước đạt được nhân xuất thế, sau là đạt được nhân thế gian. Nhân lợi xuất thế có mười lăm thứ: Trong phẩm Thọ lượng nói có hai loại: “Lúc bấy giờ, trong pháp hội có ba mươi hai ngàn vị Thiên tử đều phát tâm A-nậu Bồ-đề”. Lại chép: “Lúc nói phẩm Như lai Tuổi thọ này, vô lượng, vô số, vô biên chúng sinh đều phát tâm A-nậu Bồ-đề”. Phẩm Sám Hối nói: “Nếu có thiện nam, thiện nữ nào, nghe danh hiệu Bảo Vương Đại Quang Chiếu Như lai này, thì được không lui sụt đối với Bồ-tát địa, đến khi đại Niết-bàn thì nghe nói được lợi ích này”. Cuối phẩm nói: “Bấy giờ, các đại chúng nghe Phật nói xong đều được lợi ích tốt đẹp, vui mừng vâng lời thực hành”. Phẩm Tịnh Địa Đà-la-ni chép: “Lúc nói pháp này có ba mươi ức vị Đại Bồ-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn”. Lại chép: “Vô lượng các Bồ-tát không còn lui sụt tâm Bồ-đề”. Lại chép: “Vô lượng, vô biên Bí-sô, Bí-sô ni đạt được pháp nhãn thanh tịnh”. Lại chép: “Vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-tát”. Phẩm Liên Hoa Dụ Tán chép: “Đại chúng nghe nói như vậy đều phát tâm Bồ-đề, nguyện hiện tại, vị lai thường thực hành theo pháp sám hối này”. Phẩm Trùng Hiển Không Tánh chép: “Khi các đại chúng nghe Phật nói về tánh không sâu xa này, có vô lượng chúng sinh đều được hiểu rõ thông suốt bốn đại, năm uẩn thể tánh đều không sáu căn sáu cảnh vọng sinh trói buộc, nguyện xả bỏ luân hồi, chánh tu xuất ly” Phẩm Y Không Mãn Nguyện nói: “Lúc nói pháp này có ba ngàn ức Bồ-tát, không còn lui sụt đối với A-nậu Bồ-đề”. Lại chép: “Trong pháp hội có năm mươi ức vị Bí-sô, thực hành hạnh Bồ-tát sắp lui sụt Bồ-đề, khi nghe Bồ-tát Như Ý Bảo Quang Diệu nói pháp này, đều được đầy đủ các nguyện cao thượng vững chắc không thể suy nghó bàn luận, lại tiếp tục phát tâm Bồ-đề”. Phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc chép: “Vô lượng, vô biên chúng sinh đều bước lên đạo xuất ly, không còn lui sụt, mau chứng quả Bồ-đề, đầy đủ như trước đã dẫn”. Phẩm Lưu Thủy chép: “Các thầy đều phải siêng cầu xuất ly, đừng có buông lung! Đại chúng nghe xong thảy đều hiểu rõ, do đại từ bi cứu độ che chở tất cả, siêng tu khổ hạnh mới có thể chứng được Vô thượng Bồ-đề. Tất cả đều phát tâm sâu xa tin nhận vui mừng”. Phẩm Xả Thân chép: “Lúc nói về nhân duyên xa xưa này, vô lượng a-tăng-xí-da trời, người đại chúng đều rất vui mừng, khen ngợi chưa từng có, thảy đều phát tâm A-nậu Bồ-đề”. Kế là nói về đạt được lợi ích về nhân ở hiện đời: Phẩm Sám Hối chép: “Nếu có người nữ nghe danh hiệu Đức Phật này, lúc sắp qua đời được thấy Đức Phật ấy đến chỗ mình, thấy Đức Phật rồi thì rốt ráo không bao giờ còn làm thân nữ, đã nói cho mọi người nghe thì các người nữ nghe danh hiệu Đức Phật này hiện tại cũng đạt được nhân, ở đời sau không còn chịu quả báo làm người nữ”. Kế là nói về đạt được lợi ích đời sau: Tức là pháp hội Thứu phong đã nói kinh này, sau đó nương theo tu học đạt được những lợi ích ấy đều là lợi ích về sau. Sơ lược nêu ra một số: Nói về lợi ích nghe kinh: phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc chép: “Nếu có chúng sinh nào nghe kinh Kim Quang Minh này, thì trên đường tiến đến không còn lui sụt A-nậu Bồ-đề”. Nói về ích lợi tụng kinh: phẩm Đại biện Tài Thiên nữ chép: “Biện Tài Thiên nữ bạch Phật rằng: Bạch đức Thế tôn! Nếu có vị Pháp sư nào giảng nói kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, thì con sẽ làm cho vị đó tăng thêm biện giải trí tuệ đầy đủ ngôn thuyết trang nghiêm. Nếu vị Pháp sư ấy tất cả văn từ, câu nghóa trong kinh này, quên mất thì con đều giúp cho nhớ kỹ, thường khéo nghe hiểu, lại đối với Đà- la-ni Tổng trì vô ngại”. Nói về ích lợi thọ trì: phẩm Vô Đắm nhiễm Đà-la-ni chép: “Nếu có mười A-tăng-kỳ Tam thiên Đại thiên thế giới, trong đó đầy ngập bảy báu dâng cúng các Đức Phật, và dùng các thứ thức ăn ngon, y phục đẹp bậc nhất cúng dường trải qua vô lượng kiếp; nếu lại có người, đối với Đà-la-ni này dù chỉ thọ trì được một câu, phước người ấy tạo ra gấp nhiều lần đối với phước kia. Vì sao? Vì pháp môn sâu xa vô đắm nhiễm Đà-la-ni này là mẹ của các Đức Phật”. Ý nói từ kinh có công năng sinh ra các Đức Phật cho nên gọi là Phật mẫu. Nói về lợi ích lưu thông: phẩm Tam Thân nói: “Nếu chỗ nào giảng nói kinh này, thì đối với cõi nước đó có bốn điều lợi ích: Một là vua chúa, quân lính hùng mạnh không có các kẻ thù đối địch, lìa xa tật dịch, tuổi thọ kéo dài, tốt lành vui sướng yên ổn, chánh pháp hưng thịnh hiện bày. Hai là ở trong cung các phi tần vương tử cùng các quan thần hòa thuận vui vẻ không tranh cãi, lìa xa dua nịnh, yêu quý tôn trọng nhà vua. Ba là các Sa-môn, Bà-la-môn và dân chúng trong nước, tu hành theo chánh pháp an vui, không bệnh tật, không chết đột ngột, đối với các ruộng phước thảy đều tu tạo xây đắp. Bốn là trong ba thời bốn đại điều hòa thích hợp, thường được các vị trời càng thêm bảo vệ che chở, từ bi bình đẳng không có tâm giết hại, khiến cho các chúng sinh quy kính Tam bảo, tu tập hạnh A-nậu Bồ-đề”. Lại phẩm Tam Thân nói về lợi ích nghe kinh rằng: “Nếu có thiện nam, thiện nữ nào đối với kinh Kim Quang Minh này lắng nghe tin hiểu thì không đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, thường ở cõi trời, cõi người không sinh ở nơi thấp kém, thường được gần gũi các Đức Phật, Như lai nghe nhận chánh pháp, thường sinh về cõi nước thanh tịnh của các Đức Phật. Vì sao? Vì được nghe pháp sâu xa này, các thiện nam, thiện nữ đó tức thời được Như lai thọ ký, sẽ được không lui sụt trên đường tiến đến A-nậu Bồ-đề, đối với pháp sâu xa vi diệu này một lần qua tai người ấy, thì nên biết rằng người ấy không vu cáo Như lai, không chê bai chánh pháp, không khinh thường Thánh chúng. Tất cả chúng sinh chưa gieo trồng gốc lành thì làm cho gieo trồng, đã gieo trồng gốc lành rồi thì làm cho thêm lớn thành tựu, tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới đều siêng năng tu hành sáu độ Ba-la-mật-đa”. Lại trong phẩm Sám Hối nói về lợi ích lưu thông rằng: “Nếu có bốn chúng, ở bất cứ nơi nào giảng nói kinh Kim Quang Minh vi diệu này cho người nghe thì, ở cõi nước đó đều được bốn thứ phước lợi gốc lành: Một là vua chúa không bị bệnh tật, lìa xa các tai nạn hiểm nguy. Hai là tuổi thọ kéo dài, không bị chướng ngại. Ba là không có các kẻ thù đối địch, quân lính hùng mạnh. Bốn là yên ổn giàu có vui sướng, chánh pháp truyền bá”. Lại nói: “Ở trong nước đó đại thần phụ tướng được bốn điều lợi ích: Một là càng thêm gần gũi, hòa thuận, tôn trọng, yêu thương nghó nhớ về nhau. Hai là thường được vua và dân chúng có tâm tôn trọng yêu quý, cũng được các Sa-môn, Bà-la-môn nước lớn, nước nhỏ kính trọng vâng theo. Ba là coi nhẹ tài vật, tôn trọng chánh pháp, không mong cầu lợi dưỡng thế gian, tiếng tắm tốt đẹp đồn xa khắp nơi, mọi người đều khâm phục và kính mến. Bốn là tuổi thọ dài lâu, yên ổn, vui sướng. Các Sa-môn, Bà-la-môn cũng được bốn ích lợi tốt đẹp: Một là bốn sự không thiếu. Hai là yên tâm suy nghó. Ba là dựa vào núi rừng được cư trú an vui. Bốn là tùy nguyện được trọn vẹn. Nhân dân đều được giàu có vui sướng không có các tật dịch, người buôn bán đi lại được nhiều của cải quý báu, đầy đủ phước đức tốt đẹp”. Ngoài ra các phẩm nói về đạt được lợi ích tuy rất nhiều chủng loại nhưng chẳng qua cũng giống như vậy. Lợi ích đã nhiều, nếu có người nào nghe thì nên tu học đúng như pháp. Thứ đến là nói vì sao kinh có tên gọi như thế: Lại chia làm hai: Trước nói chung về giải thích tên kinh kế là giải thích mục lục kinh này. Trong phần đầu có hai: Thứ nhất nói chung về giải thích tên kinh kế là phân tích giải thích ý. Ở đây đầy đủ như trong Pháp Hoa Nghóa Quyết và Duy Thức Nghóa đăng, kế là giải thích mục lục kinh: Giải thích toàn bộ tên kinh. Giải thích riêng về phẩm mục. Giải thích toàn bộ tên kinh: Trước dựa theo xưa, sau là nói theo hiện nay. Giải thích theo xưa: Truyện Chân-đế chép: “tiếng phạm nói là Tu-bạt-noa, Hán dịch là Kim, Bà-pha-bà, Hán dịch là Quang, Uất-đa- ma, Hán dịch là Minh, Nhân-đà-la, Hán dịch là Đế, La-duyệt-na, Hán dịch là Vương. Cho nên ở Tây độ xuất bản gọi là kinh Phật-đà, kinh Kim Quang Minh, kinh Đế Vương. Ý ở đây, kinh Phật-đà lấy sở thuyên làm danh, Kim Quang Minh là pháp và dụ hợp làm danh, cũng từ công dụng gọi là kinh Đế Vương, nhưng từ dụ xưng gọi là Kim Quang Minh. Ba chữ này biểu thị cho ba thứ ba vi là Thể của kinh: Ba thân. Ba đức (là Bát-nhã, Giải thoát, Pháp thân). Ba vị (là đạo tiền, đạo trung, đạo hậu). Đạo tiền tức là an trú trong tự tánh Phật tánh, đạo trung tức là dẫn ra Phật tánh, đạo hậu tức là đến đắc quả Phật tánh, y theo cực giải thích cũng tức là ứng đắc Nhân, Gia hạnh nhân, Nhân mãn nhân. Như dưới đây là phối hợp với ba thứ Phật tánh ở trước. Thứ nhất là ba thân: Một là Thể của vàng vốn có thật sự để dụ cho pháp thân. Hai là ánh sáng thường soi chiếu để dụ cho ứng thân. Ba là sáng ngời thường lợi ích khắp nơi để dụ cho hóa thân. Thứ hai dụ cho ba đức: Một là Vàng dụ cho pháp thân, có bốn nghóa: Màu sắc không đổi như Thường. Thể tánh không nhiễm như Tịnh. Chuyển thành mọi vật không ngăn ngại như ngã. Khiến cho người giàu có như Lạc. Hai là Ánh sáng, có hai nghóa: Thường soi chiếu tất cả. Thường xua tan tối tăm, như Bát-nhã. Ba là Soi sáng, có hai nghóa: Không còn tối tăm. Rộng xa, như giải thoát, đều không có các tai họa. Thứ ba dụ cho ba vị: Vàng là vốn có như chánh nhân trước đạo, ý này dụng như cho là ba thân Phật, ánh sáng là bắt đầu có như liễu nhân trong đạo, ý này đối với duyên khởi tu công năng mới bắt đầu phát sinh, không phải là thể vốn có, cho nên hướng đến quả đức gọi là liễu nhân, soi sáng là không còn tối tăm như quả của đạo hậu. Trong ba thân thì pháp thân thích hợp phân biệt nghóa chân thật, hai thân còn lại không thật, bởi vì công năng mới bắt đầu phát sinh gọi là giả. Trong ba đức, pháp thân thích hợp phân biệt bốn nghóa vô nhiễm v.v… đầy đủ bốn đức mới là pháp thân. Trong ba vị, pháp thân thích hợp với nghóa ánh sáng vốn có, đối với duyên và quả là mới bắt đầu có. Ý này thường trở lại dựa theo sự tu hành nói rõ, như bổn tánh không có ba thứ khác nhau. Nghóa của khắc thủ, thể thủ, bổn hữu đã nói như trước. Ba nghóa này lần lượt trước sau: Đó là có nhân duyên tu nên đạt được quả, đạt được quả nên có ba đức, ba đức đầy đủ nên dùng ba thân giáo hóa chúng sinh. Ý này do có đạo tiền trong ba vị như cũ cho nên làm chánh nhân, đạo trung tu đầy đủ đến đạo hậu vị đầy đủ ba đức, ba đức trọn vẹn nên mới được ba thân giáo hóa chúng sinh. Thứ lớp ngược lại, ba thứ ba vị trong ba thứ này làm chánh thể, cho nên phẩm Thọ lượng nói quả ở đạo hậu, phẩm Tam Thân nói nhân ở đạo tiền. Phẩm Sám Hối về sau nói ở trong đạo. Ý này trong kinh chính thức nói rõ ba vị là Chánh Tông của kinh. Tam đế vương có ba nghóa: Nói về pháp thân thuộc Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm lấy pháp thân làm Thể. Nói về trí tuệ quán Bát-nhã, Bát-nhã lấy trí tuệ làm Thể. Nói về bốn đức thuộc Niết-bàn, Niết-bàn lấy Thường, Lạc, Ngã, Tịnh làm chánh thể. Ý này do xuyên suốt ba nghóa đó cho nên gọi là Đế Vương Kinh. Có ba loại chánh: Chánh thuyết văn mười hai bộ. Văn chánh hạnh trở xuống, nêu các hạnh. Chánh quả là pháp của bốn đức. Chánh thuyết sinh ra chánh hành, chánh hành sinh ra chánh quả. Một là năng hiển bày. Hai là năng thực hành. Ba là năng đạt đến. Cho nên đều gọi là Kinh. Kinh nói ở đây chính là phần thứ nhất. Kế là nói về hiện nay: Âm tiếng Phạm xưa kia có sai sót, hiện nay nói đúng phải là Tô- bạt-na Bà-bà-bà Uất-đa-ma La-xà Tô-đát-lãm. Tô-bạt-na, Hán dịch là Kim, Bà-bà-bà, Hán dịch là Quang, nói Quang Minh tức là nói tắt, Uất-đa-ma, Hán dịch là Tối Thắng, La-xà, Hán dịch là Vương, Tô-đát-lãm, Hán dịch là Kinh Đỉnh Sách, nên phải nói là Kinh Kim Quang Tối Thắng Vương. Hai chữ Kim, Vương luôn luôn là dụ, Quang Minh Tối Thắng đều chung cho pháp và dụ. Nay đối với đề mục này sơ lược đưa ra năm cách giải thích: Giải thích theo bốn pháp Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Giải thích Tam bảo. Giải thích Bồ-đề, Niết-bàn. Giải thích theo Pháp, dụ. Giải thích theo Nhân, pháp. Giải thích theo Giáo v.v… Giáo năng thuyên này dường như Quang minh, cho nên phẩm Tựa trong kinh Vô Cấu Xứng chép: “Giảng nói pháp bảo quang”. Luận Du-già bốn mươi bốn chép: “Lúc sắp nghe pháp thực hành năm thứ tưởng. Tưởng là quý báu, vì rất khó được. Tưởng là mắt, vì được sinh ra mắt tuệ. Tưởng là sáng, vì đã được trí tuệ rộng lớn đối với tất cả mọi thứ đều soi chiếu. Tưởng đại quả công đức cao quý, có thể đạt được Niết-bàn và Tam-bồ-đề, là nghóa vô thượng diệu tích nhân tánh. Tưởng vô tội rất vừa ý: đối với pháp hiện tại chưa được Niết- bàn và Tam-bồ-đề, đối với pháp như thật phân biệt chỉ quán, là nghóa vô tội rất ưa thích nhân tánh”. Phân biệt nghóa thứ ba bởi vì có thể hiển bày lý tương tự như ánh sáng. Nêu ra hai ánh sáng ấy ý hiển bày hai không, hoặc là phước, trí, hoặc Bồ-đề, Niết-bàn, đều có nhân quả, không như vậy thì quang và minh nêu lên bất cứ một thứ nào, đâu giả định là hai ư? Trong giáo thì tối thắng như vua, cho nên phẩm Phú Chúc nói: “Chính tôi nghe Đức Phật nói vô lượng các kinh điển, chưa từng nghe vua trong pháp thâm diệu như vậy”. Sự thắng diệu đó như thế nào? Như trong kinh nói các sự thắng diệu, sợ rằng rườm rà không dẫn ra, mở ra điều ấy cần phải nói, cho nên chỉ chọn lấy Kim và Vương làm thí dụ. Tạm thời chọn Kim là thí dụ sơ lược nêu ra bốn nghóa: Tánh vốn có. Rất khó được. Kim luân. Quý giá nhất trong các thứ báu. Tánh vốn có: dụ cho giáo pháp này bị chân như làm cho trôi lăn, thâu nhiếp tướng trở về tánh cho nên đều là vốn có. Lại vì các Đức Phật nói không có bờ mé đầu tiên. Rất khó được: Trong phẩm Tựa chép: “Ta sẽ nói kinh này là chộ thực hành sâu xa của Phật, giáo bí mật của các Đức Phật ngàn muôn kiếp khó gặp được”. Phẩm Phú Chúc chép: “Các ông nên biết rằng: Trong vô lượng, vô số đại kiếp ta chịu khó tu tập khổ hạnh, đạt được pháp sâu xa cùng chánh nhân Bồ-đề, đã nói cho các ông nghe. Lại như người nghèo cùng suốt đời không thể đạt được, cho nên phải có phước nhân”. Trong phẩm Đại biện tài Thiên nữ chép: “Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, vì các hữu tình kia đã ở chỗ trăm ngàn Đức Phật gieo trồng các gốc lành xứng đáng thọ trì, trong Nam Thiện Bộ Châu thực hành truyền bá rộng rãi khắp nơi cho đến giảng nói”. Kim luân: Như Luân Vương sử dụng vàng làm bánh xe, thường hàng phục những gì chưa hàng phục, thường trấn giữ những gì đã hàng phục. Kinh này cũng giống như vậy. Phẩm Sám Hối Diệt Chướng và phẩm Tịnh địa nói về dứt trừ các chướng giống như hàng phục những gì chưa hàng phục. Trong các phẩm nói nghe rồi chứng được không lui sụt giống như giữ gìn những gì đã hàng phục, lý ấy thành tựu cùng cực, văn rườm rà nên không trích dẫn. Quý giá nhất trong các thứ báu: Như vàng là bậc nhất trong bảy thứ báu, cho nên chỉ chọn lấy vàng thí dụ với kinh pháp này, sự quý giá nhất trong các thứ báu cũng giống như vậy. Chọn Vương làm thí dụ cũng sơ lược nêu ra bốn nghóa: Nghóa có khả năng phá tan kẻ thù. Nghóa nhóm họp các thứ báu. Nghóa thường hóa sinh khắp nơi. Nghóa khiến cho giai vị không mất. Lại như Luân Vương có bốn nghóa này: Có ngàn người con cùng làm chủ quan binh cho nên thường buộc kẻ địch phải đầu hàng, dụ cho kinh này có pháp sám hối, và thực hành mười độ dứt trừ mười chướng, hai mươi hai vô minh v.v… Nghóa thường nhóm họp các thứ báu, các luận nói rằng nhóm họp phước đức vương định. Phẩm Mãn Nguyện trong kinh này chép: “Như vị vua ở thế gian bảy báu không diệt hết, nếu vua băng thì tất cả bảy báu tự nhiên diệt hết; kinh Kim Quang Minh vi diệu này, như đại chánh pháp bảo hiện ở đời thảy đều không hoại diệt. Lại như Luân Vương đã xuất hiện ở đời bảy báu lập tức hiện bày, kinh vương này đã giảng nói rồi, bảy thánh tài quý báu thảy đều hiển hiện”. Nghóa thường hóa sinh khắp nơi: Như Kim Luân Vương biến hóa khắp bốn châu, kinh vương này biến hóa khắp bốn loài. Phẩm Thọ lượng chép: “Tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, nhờ vào uy lực của Phật được vui sướng tốt đẹp vô cùng, không có điều gì thiếu thốn”. Nghóa khiến cho giai vị không mất: Như Kim Luân Vương nhất định truyền lại ngôi vị làm cho không thể dứt mất. Kinh này cũng giống như vậy, thường làm cho hạt giống Phật (chủng) nối nhau không ngừng dứt. Phẩm Thọ Ký đã thọ ký cho Bồ-tát Diệu Tràng và hai người con, mười ngàn vị trời nhờ nghe ba vị này được thọ ký mà khởi tâm ân cần thanh tịnh cũng được thọ ký cho nên dụ là Vương. Thứ là Y theo Lý: Trong phẩm Tam Thân chép: “Do ba thứ thanh tịnh nên gọi là Cực thanh tịnh: Phiền não thanh tịnh. Khổ thanh tịnh. Tướng thanh tịnh. Giống như vàng thật nung chảy đúc thành, đã đốt sạch không còn tạp chất, là nói lên tánh vàng vốn thanh tịnh. Thể của vàng thanh tịnh không thể cho rằng không có vàng”. Cho đến nói: “Vì nói lên Phật tánh vốn thanh tịnh, không thể cho rằng vô thể”, đây là dụ cho Lý. Chân như sẵn có tự tánh thanh tịnh nhưng bị che lấp không hiện, lìa bỏ ngăn che thì liền hiển bày, chẳng phải bắt đầu có tịnh. Bởi vì lý chân như cao siêu, như vua là chỗ nương tựa cho nên có các công đức khác. Kế là Y theo Hạnh: Trong phẩm Tam Thân chép: “Như những người thiện nam bạch với Đức Phật rằng: Bạch Thế tôn! Điều gì là thiện, điều gì là bất thiện, điều gì là chánh tu được hạnh thanh tịnh? Các Đức Phật Như lai và chúng đệ tử, liền nói cho họ nghe khiến họ hiểu được. Những người kia đã nghe xong chánh niệm ghi nhớ giữ gìn, phát tâm tu hành liền dứt trừ mười một chướng, được vào mười một địa”. Cho đến nêu thí dụ, giống như vàng thật nung chảy đúc thành. Đây là thí dụ cho sự tu hành. Đã thiêu hủy sạch không còn tạp chất. Đây là dụ cho sự đắc quả. Tức là sự tu hành cũng được dụ cho vàng, cũng như quang minh, cho nên phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc chép: “Chúng con Tứ vương cùng quyến thuộc Dược-xoa ủng hộ kinh này và Pháp sư nói pháp, dùng ánh sáng trí tuệ để giúp đỡ, bảo vệ”. Đây tức là tu hành, người có khả năng tu hành cũng được gọi là Tối vương, như ngôi vương, vương tử. Lại còn trời người tám bộ tất cả các vua có khả năng thực hành kinh này thì cũng hơn hẳn trong các vua gọi là Tối Thắng Vương. Vì thế phẩm Quán Sát chép: “Sẽ khiến cho vị vua đó trở thành người đứng đầu trong các vị vua”. Đây tức là dựa theo Hạnh. Tiếp là Y theo Quả: như trước đã giải thích theo xưa. Y theo ba thân, ba đức: Chính là ý này muốn hiển bày bốn thứ Giáo, Lý, Hạnh, Quả đều thù thắng, đều được gọi là Kinh. Do y theo Giáo thù thắng có thể hiển bày Lý thù thắng, căn cứ và Lý thù thắng có thể khởi Hạnh thù thắng, từ Hạnh thù thắng có thể đạt được Quả thù thắng, cho nên dựa vào tất cả bốn pháp để lập tên kinh. Thứ đến là y theo Tam bảo giải thích tên kinh: Kinh này hoặc là y theo Phật bảo để lập danh, bởi vì nói về ba thân và tuổi thọ, hoặc y theo pháp bảo để lập danh, vì nói về Hạnh Thập địa, thường nhờ vào hạnh ấy chính là Tăng bảo, hoặc y theo toàn bộ Tam bảo để lập tên kinh, trong Mộng Sám Nguyện tám chép: “Con sẽ an trụ trong Thập địa là mười thứ châu báu để làm chân, thành Phật quang minh công đức vô thượng”. Năng an trú là Tăng, Thập địa sở trụ là Pháp, sở thành là Phật, công đức và ánh sáng có cả ba loại. Tam bảo quang minh vì sao gọi là thắng? Lại Phật quang minh như trong phẩm Diệt Nghiệp Chướng chép: “Lúc yên lặng suy nghó từ lỗ chân lông nơi thân phát ra ánh sáng rực rỡ, vô lượng trăm ngàn biết bao màu sắc, cõi nước của các Đức Phật thảy đều hiện rõ trong ánh sáng, mười phương hằng hà sa so sánh thí dụ không thể nào sánh được, cõi đời có năm thứ vẩn đục được ánh sáng soi chiếu thì các chúng sinh gây ra mười nghiệp ác, năm tội Vô gián, chê bai Tam bảo bất hiếu tôn thân, khinh mạn thầy tổ cùng Bà-la-môn nên phải đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, những hạng đó đều được ánh sáng chiếu đến nơi ở”. Cho đến nói: “Nhờ năng lực ánh sáng cho nên đều được yên vui, sắc tướng khôi ngộ, tốt đẹp tuyệt vời, phước trí trang nghiêm đầy đủ, được thấy các Đức Phật”. Trong này có mười hai loại thù thắng khác ngoài ánh sáng: Nhân thắng, từ yên lặng mà suy nghó. Năng khởi phát thắng, là thân Phật. Tự tánh tốt đẹp, là trăm ngàn màu sắc. Năng hiện tốt đẹp, là các cõi nước các Đức Phật. Giảo lượng tốt đẹp, thí dụ không thể sánh bằng. Từ bi tốt đẹp, là soi chiếu năm thứ vẩn đục. Diệt ác tốt đẹp, là gây mười nghiệp ác đến chúng Bà-la-môn. Bạt khổ tốt đẹp, là đáng đọa địa ngục, cho đến nói, đến chỗ ở. Dữ lạc, là nhờ năng lực ánh sáng cho nên đều được yên vui. Trang nghiêm tốt đẹp, là sắc tướng khôi ngô, xinh đẹp tuyệt vời. Bồ-đề tư lương tốt đẹp, là phước đức trang nghiêm. Thân cận thắng, là được thấy các Đức Phật, Pháp, Tăng, ánh sáng rực rỡ, dẫn văn rất dễ hiểu. Thứ ba là y theo Bồ-đề-Niết-bàn giải thích tên kinh: Hoặc là dụ danh, bởi vàng có ánh sáng rực rỡ nhất trong các thứ báu, như vua cõi trời thù thắng nhất trong cõi trời cõi người, tốt đẹp nhất ở cả hai nơi. Kinh này cũng giống như thế, cho nên theo dụ mà đặt tên. Hoặc là pháp dụ danh, Kim Quang Minh là dụ, Tối Thắng Vương là pháp, cho nên phẩm Phú Chúc chép: “Chính Ta nghe Đức Phật nói vô lượng các kinh điển, nhưng chưa từng nghe pháp đứng đầu trong các pháp mầu nhiệm như thế”. Hoặc lại là ánh sáng có cả pháp, và dụ, bởi vì ánh sáng pháp rực rỡ nhất trong các thư ánh sáng, phẩm Liên Hoa Dụ Tán Thán chép: “Nguyện ánh sáng nơi thân con sánh bằng các Đức Phật, phước đức trí tuệ cũng như vậy, tất cả thế giới xưng tụng tôn kính một mình con, uy lực tự tại không ai sánh bằng”. Thứ đến là y theo người, pháp để giải thích tên kinh: Hoặc Kim Quang Minh là người, cho nên phẩm Thọ Ký chép: “Con là Ngân Quang trở về thế giới Kim Quang Minh sẽ được thành Phật, hiệu là Kim Quang Minh”. Lại giải thích, Kim Quang Minh là tên pháp, bởi vì cõi nước đó tên là Kim Quang Minh. Còn trong phẩm Mộng Kiến Sám Hối chép: “Mơ thấy trống vàng phát ra ánh sáng rực rỡ, nơi trong ánh sáng này được thấy vô lượng các Đức Phật khắp mười phương”. Còn phần thứ ba nói: “Phát ra ánh sáng màu vàng khắp mười phương cõi nước”. Uy lực kinh này, hoặc có cả nhân, pháp, bởi vì hai đoạn trước là nói sơ lược, tuy lý, sự khác nhau nhưng đều được gọi là pháp, lý cũng có thể có cả nhân, pháp dụ danh, ý chính là dùng pháp, dụ cho làm tên kinh. Y theo sáu cách giải thích ấy, thì kinh Tối Thắng Vương này hoặc kinh Quang Minh tức như Kim Quang Minh. Hoặc pháp Tối Thắng tức như Vương gọi là Kim Quang Minh Tối Thắng Vương. Theo trì nghiệp thích thì không muốn giải thích riêng Kim Quang Minh và Tối Thắng Vương, cho nên không trái nhau. Không muốn giải thích Kim Quang Minh, cho nên chẳng phải là hữu tài thích. Kim Quang Minh Tối Thắng Vương là lý sở thuyên, kinh là giáo năng thuyên, tức là y chu thích. Nếu đều là giáo thì Kim Quang Minh tức là Kinh, thuộc về trì nghiệp thích, đều là lý cũng giống như vậy, trong đó sự khác nhau lại có nhiều phần, e rằng rườm rà không kể ra. Kế là phân biệt giải thích tên phẩm, lại chia làm bốn: Nêu tên phẩm. Nói về được tên riêng. Nói về hữu vô khai hợp. Nói về thứ lớp. Kể ra tên Phẩm: Đó là phẩm Tựa, phẩm Thọ lượng, phẩm Tam Thân, phẩm Mộng Kiến Sám Hối, phẩm Diệt Nghiệp Chướng, phẩm Tịnh Địa Đà-la-ni, phẩm Liên Hoa Dụ Tán, phẩm Kim Thắng Đà-la-ni, phẩm Trùng Hiển Không Tánh, phẩm Y Không Mãn Nguyện, phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát Nhân Thiên, phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc, phẩm Vô Đắm nhiễm Đà-la-ni, phẩm Như Ý Bảo Châu, phẩm Đại biện Tài Thiên nữ, phẩm Đại Cát Tường Thiên nữ, phẩm Đại Cát Tường Thiên Nữ Tăng Trưởng Tài Vật, phẩm Kiên Lao Địa Thần, phẩm Tăng Thận-nhó-da Dược-xoa Đại Tướng, phẩm Vương Pháp Chánh Luận, phẩm Thiện Sinh Vương, phẩm Chư Thiên Dược-xoa Che chở, phẩm Thọ Ký, phẩm Trừ Bệnh, phẩm Trưởng Giả Tử Lưu Thủy, phẩm Xả Thân, phẩm Thập Phương Bồ-tát Tán Thán, phẩm Diệu Tràng Bồ-tát Tán Thán, phẩm Phú Chúc. Nói về được tên riêng: Ba mươi mốt phẩm chia ra làm hai loại: Một là Pháp làm tên có hai mươi phẩm. Hai là Pháp làm tên có mười một phẩm. Trong loại một lại có bốn: Theo Sự làm tên có ba phẩm, đó là phẩm Tựa, phẩm Xả Thân, phẩm Phú Chúc, theo Pháp làm tên có mười phẩm, đó là phẩm Thọ lượng, phẩm Tam Thân, phẩm Mộng Kiến Sám Hối, phẩm Diệt Nghiệp Chướng, phẩm Tịnh Địa Đà-la-ni, phẩm Trùng Hiển Không Tánh, phẩm Y Không Mãn Nguyện, phẩm Vô Đắm nhiễm Đà-la-ni, phẩm Thọ Ký, phẩm Trừ Bệnh, theo dụ làm tên có một phẩm là Như Ý Bảo Châu; theo Nhân làm tên có sáu phẩm: Đó là phẩm Đại biện Tài Thiên nữ, phẩm Đại Cát Tường Thiên nữ, phẩm Kiên Lao Địa Thần, phẩm Tăng Thận- nhó-da Dược-xoa Đại Tướng, phẩm Thiện Sinh Vương, phẩm Trưởng Giả Tử Lưu Thủy. Trong loại hai lấy hai pháp làm tên lại chia làm hai: Pháp, Dụ làm tên có hai phẩm, đó là phẩm Liên Hoa Dụ Tán và phẩm Kim Thắng Đà-la-ni, Nhân, Pháp làm tên có chín phẩm, đó là phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát Nhân Thiên, phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc, phẩm Đại Cát Tường Thiên Nữ Tăng Trưởng Tài Vật, phẩm Vương Pháp Chánh Luận, phẩm Chư Thiên Dược-xoa Che chở, phẩm Thập Phương Bồ-tát Tán Thán, phẩm Diệu Tràng Bồ-tát Tán Thán, phẩm Bồ-đề Thọ Thần Tán Thán, phẩm Đại biện Tài Thiên nữ Thán Thán. Ba là nói về Hữu vô khai hợp: Một là Hữu vô khác nhau, Đàm-vô-sấm đời Tây lương dịch gồm có mười tám phẩm, thiếu mười ba phẩm, năm phẩm khai ra hãy còn thiếu tám phẩm. Chân-đế đời Lương dịch có hai mươi hai phẩm thêm vào phẩm Tam Thân, phẩmTịnh Chướng, phẩm Tối Tịnh Địa, phẩm Y Không Mãn Nguyện, trừ phần khai ra hãy còn thiếu bốn phẩm. Xà-na- quật-đa đời Tùy nêu ra hai mươi bốn phẩm, thêm vào phẩm Ngân Chủ Đà-la-ni, tức là phẩm Vô Đắm nhiễm Đà-la-ni bây giờ, và phẩm Chúc Lụy, trừ phần khai ra còn thiếu hai phẩm. Tam tạng Pháp sư Trung Hưng đời Đại Đường, đối chiếu các bản tiếng Phạm dịch lại sơ lược, gom đầy đủ các phẩm và các tên các phẩm đó. Lại thêm phẩm Kim Thắng Đà-la-ni, phẩm Như Ý Bảo Châu, trong bản dịch cũ không có. Kế là Khai hợp có khác: Ở bản cũ phẩm Quán Sát Nhân Thiên, phẩm Hộ Quốc hợp lại thành phẩm Tứ Thiên Vương, phẩm Đại Cát Tường Thiên nữ, phẩm Đại Cát Tường Thiên Nữ Tăng Trưởng Tài Vật hợp lại thành phẩm Công Đức Thiên nữ, phẩm Thập Phương Bồ-tát Tán Thán, phẩm Diệu Tràng Bồ-tát Tán Thán, phẩm Bồ-đề Thọ Thần Tán Thán, phẩm Đại biện Tài Thiên nữ Thán Thán hợp lại thành phẩm Tán Phật; nay đều tách ra, y theo sự tốt đẹp của người hoặc việc khác nhau cho nên thành ba mươi mốt phẩm. Kế tiếp nói về Thứ lớp: Như lai nói pháp chắc chắn là có lý do, nếu đại chúng tề tựu các duyên hòa hợp, căn cơ phù hợp, chân thành khao khát, kính mến ý muốn ưa thích được nghe. Có nguyên nhân này mới có thể trình bày, cho nên có phẩm Tựa đầu tiên. Đại chúng đã nhóm họp và khát khao kính mến, thì phải ứng vật giảng nói, ý đại chúng mong mỏi ưa thích nhân quả vô thượng, cho nên có hàng Bồ-tát như Diệu Tràng để làm cơ duyên thưa thỉnh, nhân đây vì đại chúng nói về Bồ-đề, Niết-bàn, do đó bắt đầu có phẩm Thọ lượng. Tuy nhiên bắt đầu nói chung chưa hề biết khác nhau, vì vậy nói riêng về Niết-bàn, Bồ-đề, dựa vào chung riêng khác với ứng biệt nói về ba thân Niết-bàn. Vì văn Niết-bàn ít nên dù là nói riêng vẫn nhập chung vào tuổi thọ. Văn ba thân nhiều vì Hư Không Tạng thưa thỉnh nên mới nói riêng. Bắt đầu có phẩm Tam Thân đã biết quả tốt đẹp không thể luống thành, cần phải chờ nhân tu mới lónh hội được. Muốn tu hạnh thù thắng trước hết phải sửa đổi lỗi lầm vốn có, cố gắng thường sám hối tội lỗi đã qua, vì thế cho nên Phật thêm Diệu tràng khiến cho trong trong mơ thấy được sám hối lỗi lầm trước đó, do đó có phẩm Mộng kiến sám hối. Cho dù trong mộng có dứt trừ nhưng lỗi lầm chưa được rõ ràng, vì thế tâm dứt trừ chướng xấu ở nhân tốt đẹp, cho nên nhân Như lai phát ánh sáng kinh động đến Đế-thích, từ đó khởi thỉnh mong nói về cách thức sám hối. Đã sám hối lỗi lầm trước đây rồi thì phải tu tập chánh hạnh, cho nên lời của bậc Sư tử phát ra gieo vào căn cơ u tối, Như lai đại bi lần lượt giảng nói, phát tâm tu hành dứt chướng chứng thần chú che chở chân thật, cho nên có phẩm Tịnh Địa Đà-la-ni: Các thắng nghiệp này vời nhân diệu tràng, đại chúng muốn biết vì sao như vậy, do đó Đức Phật nói với đại chúng về nhân duyên xa xưa rằng: “Thuở quá khứ ngài tên là Kim Long Chủ, dùng hoa sen thí dụ khen ngợi các Đức Phật, nhờ nghiệp tốt đẹp ấy nên có thể phát huy tuổi thọ mở đầu phương pháp sám hối”. Cho nên có phẩm Liên Hoa Dụ Tán. Đã nhờ cúng dường khen ngợi các Đức Phật làm nhân cho nên dạy trì chú để thường thấy Phật, vì thế có phẩm Kim Thắng Đà-la-ni. Tuy lại nói rộng về nhân quả khiến cho nguyện tu hành nhưng chưa hiển bày hai không, chưa trừ sạch tình chấp, đồng thời các phẩm trước phần nhiều dựa vào tục đế khuyên vật chúng sinh tu, nói về hai không thì nương theo thắng nghóa đế khiến cho dứt sạch chấp trước. Trước tùy theo các nghóa, tuy nhiên chỉ trình bày sơ lược, ở đây lại nói rộng ra khiến cho được khai ngộ, cho nên có phẩm Trùng hiển không tánh. Trước đây đã nói nhiều về Hữu Hạnh, sợ rằng dính mắc vào Có mà không thể chứng được chân nên nay hiển bày rộng về hai Không, lại e rằng mê đắm Không mà chẳng tu hành, muốn khiến cho nương theo phương tiện để khởi hạnh, ngay nơi các hạnh mà quán xét không, y theo không thù thắng để chứng được chân, tức quán Không mà tu tập hữu, cả hai Không; hữu tiêu tan hoàn toàn không còn đắm trước, mới thành tựu hạnh thù thắng có thể chứng đến Bồ-đề, do đó có phẩm Y không mãn nguyện. Trên đây là nói rộng về nhân quả Bồ-đề, Niết-bàn, quả cầu thì nhân tu tập, chân tục cùng quán sát, năng sự đã đủ nên ngay chỗ ngồi đạt được lợi ích. Muốn làm cho pháp lưu truyền để đời sau có kiến thức tu hành. Đời sau có nhiều chướng duyên sợ rằng khó tu tập, nếu không tiến hành bảo vệ giúp đỡ các duyên đó thì sẽ sinh ra chướng ngại nên không thể tu tập, pháp không có người tu tập thì nhờ đâu truyền bá ở đời? Vì vậy nhờ phước lực của Tứ Thiên vương và uy thần của tám bộ chúng, trời người kính trọng mới được truyền bá rộng rãi, cho nên có phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát Nhân Thiên. Đồng thời nơi truyền bá kinh điển lợi ích rất nhiều, đến mọi nơi chốn đều được tôn kính cúng dường, tôn kính cúng dường khiến cho pháp phát triển rộng rãi, Thiên thần vui vẻ mà tiến hành bảo vệ, cho nên có phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc. Nhưng sợ rằng người học mê đắm các cảnh giới, lui sụt tâm đại Bồ-đề, do đó nói thần chú, thường tụng thần chú khiến cho không còn mê đắm, ở trong luân hồi sinh tử cầu quả vô thượng mà tâm không lui sụt, cho nên có phẩm Vô Đắm nhiễm Đà-la-ni. Tuy khiến cho không còn lui sụt nhưng vẫn có các nạn duyên, sợ rằng các nạn duyên bất ngờ ập đến làm trở ngại sự tu tập, cho nên nói thần chú trừ sợ hãi, chết oan uổng, không còn đe dọa người tu hành, vì thế có phẩm Như ý bảo châu. Đã không lui sụt lìa xa sợ hãi có thể tự tu hành, Bồ-tát vì hoài bão chắc chăn sẽ mở mang Phật pháp hóa độ chúng sanh, mở mang Phật pháp hóa độ chúng sanh chắc chắn nhờ vào thân an trú có đủ bốn biện tài, cho nên Thiên nữ Biện Tài nói chú bảo vệ giúp đỡ, đồng thời nhắc nhở tắm gội được biện tài, thân an vui, do đó có phẩm Đại biện tài Thiên nữ. Tuy được thân an trú, đủ bốn biện tài nhưng chắc chắn phải nhờ đến bốn việc, nếu thiếu duyên giúp đỡ thì mong cầu sẽ trở ngại trong việc mở mang Phật pháp hóa độ chúng sanh; tiếp đó là dạy cho biết dùng ít công sức mà có nhiều duyên giúp đỡ, cho nên có phẩm Đại cát tường Thiên nữ. Người trì kinh tuy tự mình dồi dào về bốn sự không nhờ bên ngoài cầu mong, nhưng người nghe cũng cần phải cúng dường, hạnh học nghèo thiếu thì tâm mong cầu không toại nguyện, phước cao quý không nhờ đâu được sinh, cho nên chỉ dạy phương pháp để có đầy đủ phước, khiến nương theo để truyền bá Thánh giáo, vì thế có phẩm Đại Cát Tường Thiên Nữ Tăng Trưởng Tài Vật. Cho dù tài vật đầy đủ, năm thứ lúa cốc dồi dào nhưng e rằng chẳng phải loại thơm ngon, muốn làm cho xứ sở truyền bá kinh điển có những ý vị tinh khiết thơm tho, do đó có phẩm Kiên Lao Địa Thần. Đồng thời truyền bá kinh điển lợi ích chúng sinh cần phải nhờ vào trí tuệ, thấu rõ tục, chân thường sinh đường lành, vì dạy cho được hai nhân này cho nên có phẩm Tăng Thận-nhó-da Dược-xoa Đại Tướng. Lại còn thế lực của vua chúa có thể làm tổn hại đến lợi ích, nếu không thích hợp đạo lý thì nhiều tai biến sẽ phát sinh, các tà tâm lớn mạnh khó nghe được giáo pháp này, cần phải nhắc nhở các vua chúa chấn chỉnh đạo lý, mở mang kinh này, vì vậy có phẩm Vương pháp chánh luận. Tuy nói nhiều về hạnh nhưng e rằng không nương theo thực hành, nêu nhân xa xưa của mình khuyên gắng hội chúng lúc ấy, do đó có phẩm Thiện Sinh Vương. Tuy có nêu ra việc trước đây để khuyên bảo hội chúng lúc ấy nhưng e rằng không chuyên tâm thường xuyên khích lệ tu học, lại nói về khuôn phép tu học, nêu ra những việc trước kia để mở rộng công năng, lại biết rõ ý nghó kiên định cao xa đó của đại hội, cho nên có phẩm Chư Thiên Dược-xoa Che chở. Vì nói lên lợi ích rộng lớn của kinh được ích lợi rất nhiều, người nghe được chứng quả thọ ký Bồ-đề, nên càng làm rõ sự thọ ký đó. Nếu không thọ ký thì đại chúng sẽ nghi ngờ không thể nhất quyết tu học, cho nên nói sẽ thọ ký làm cho kính mến tu hành, vì vậy có phẩm Thọ Ký. Mười ngàn vị Thiên tử tạm thời được nghe kinh, được Phật thọ ký, chúng sinh nghi ngờ gieo trồng gốc lành gì mà được thọ ký Bồ-đề? Vì sao Thế tôn nói pháp cho họ nghe? Cho nên nói về nhân duyên đã qua, có phẩm Trừ Bệnh và phẩm Lưu Thủy. Đại chúng nghe việc Đức Thế tôn ở đời quá khứ chữa bệnh cứu cá bằng cách cho nước, cho rằng tu ít hạnh được chứng Bồ-đề. Phật nói rộng ra cho họ nghe, chẳng những chút ít như vậy mà trải qua nhiều vô lượng, sơ lược nêu ra một đời khổ hạnh bố thí thân cho cọp ăn, cho nên có phẩm Xả thân. Đại chúng nghe pháp thâm diệu lại nghe các nhân khổ hạnh, trong đại hội ai cũng vui mừng. Vì thế trước tiên Bồ-tát ở các cõi khác khen ngợi cho nên có phẩm Thập Phương Bồ-tát Tán Thán. Các cõi khác khen ngợi xong thì Bồ-tát và các trời đất thánh thần ở cõi này cũng lại cùng nhau khen ngợi, cho nên có phẩm Diệu Tràng Bồ-tát Tán Thán và hai phẩm Bồ-đề Thọ Thần Tán Thán, Đại biện Tài Thiên Nữ Tán Thán. Nói về việc khen ngợi xong đích thân được thọ ký, dạy phải thực hành, đại chúng vâng theo thực hành cho nên có phẩm Phú Chúc. Y theo chín phẩm này làm Chánh tông của kinh, sơ lược nêu ra đại ý, trình bày về thứ lớp, sự khác nhau trong đó không phải không có nghóa khác. Y theo hai mươi tám phẩm làm Chánh tông của kinh, thứ lớp đều theo đúng. Thứ đến giải thích theo văn khoa: Kinh có ba mươi mốt phẩm, Đại sư Chân-đế chia ra làm ba phần: Một phẩm là Tựa phần, mười chín phẩm là Chánh thuyết, hai phẩm cuối thuộc phần Lưu thông. Trong phẩm Tán Thán Phật nói về các đại só ở các cõi khác trở về cõi của mình mà khen ngợi Đức Phật đó. Văn mới nói về đại só cõi này khen ngợi Đức Phật ở cõi này, nói pháp xong rồi Bồ-tát các cõi khác trở về các cõi mới nói phẩm này, cho nên chẳng phải là chánh thuyết, vì vậy phẩm này là do đại chúng lãnh hội khen ngợi người năng thuyết mà thôi, chẳng phải là ý chính của kinh. Phẩm Như lai Phú chúc là pháp được mở rộng, chính là phần Lưu thông. Hỏi: Các cõi khác quay về khen ngợi được trình bày ở sau phần Chúc Lụy, vì sao phẩm phú chúc đặt sau phẩm Tán Phật? Giải thích rằng: Phải như vậy, nhưng đưa ra phần kiết tập, hợp hai phẩm này cùng một nơi, Chúc lụy phụng hành ở cuối cùng. Ở đây theo “bản dịch mới”: Đầu tiên Bồ-tát các cõi khen ngợi Đức Như lai này, không phải là về nơi đó mà khen ngợi Đức Phật ở đó. Hiện tại có hai giải thích: Một nói rằng: “Một phẩm thứ nhất xưa nay giống nhau, từ phẩm Thọ lượng đến phẩm Y Không Mãn Nguyện, chín phẩm này là phần Chánh tông của kinh, hai mươi mốt phẩm còn lại là phần Lưu thông. Vì sao? Vì ý của tất cả các vị như Diệu Tràng muốn nghe về quả và nhân của Bồ-đề; Trần-như nghi tình tuổi thọ vô cùng như thế nào, lại nói về việc nhập Niết-bàn, thỉnh nói về nghóa chân thật của Niết-bàn, không như vậy bốn lần Phật đã vì Diệu tràng nói về lý do của Niết-bàn rồi. Vì sao Trần-như lại thỉnh Xá-lợi? Cho nên vì nói về nghóa Niết-bàn mà nêu câu hỏi ấy. Do đó trong bản dịch xưa nói rằng: “Như Đức Thế tôn nói về nghóa ấy con đã nghe biết, vì vậy cúi xin Như lai mở rộng phân tích nghóa chân thật, cầu Xá-lợi mở cửa phương tiện”. Bản hiện nay văn sau nói rộng về nghóa chân thật của Niết-bàn, bản xưa không có nói. Đã nghe Đức Phật nói về Tuổi thọ vô biên, Phật có ba thân nhưng chưa biết chỗ khác nhau, lại muốn thưa hỏi Phật tu học, vì Trần-như không hiểu sự khác nhau đó nên không biết nhân quả của sự chứng đắc. Trước tiên Đức Phật nói về ba thân khác nhau, tiếp đến dạy cho tu học. Tu học chính là dứt ác làm lành, dứt ác tức là sám hối tiêu trừ nghiệp chướng, tu thiện tức là y theo năm địa vị ba kỳ kiếp tu tập mười hạnh thù thắng, hạnh nương vào cảnh mà phát khởi. Phải biết rằng sau tục, chân lại tiếp tục trình bày về tánh của hai Không, Không, Hữu cùng tu tập, y theo Không mà đầy đủ các nguyện, vì vậy hạnh đầy đủ, quả hoàn thiện, cho nên chánh tông của kinh ý là ở đây. Từ phẩm Tứ Thiên Vương Quán Sát Nhân Thiên trở xuống v.v… chỉ quán sát sự trì tụng, truyền bá kia, cho nên tất cả nơi chốn đều tham gia bảo vệ giữ gìn, thêm nhiều tài vật, khéo léo biện tài, giúp đỡ trí tuệ, tiêu trừ tai chướng, nói mình để khuyến khích người, ý khiến cho thực hành tu học, Bồ-tát nghe khen ngợi, được Như lai phú chúc, đều là phần Lưu thông. Tuy nhiên về sau mới có thọ ký Bồ-đề cho các vị như Diệu tràng, ý là nói về ích lợi của kinh, được thọ ký sẽ thành tựu, thường khuyến khích khơi bày cho đại chúng nương theo để tu học. Vì không như vậy cho nên trước là nói phẩm Thọ lượng cho đến hết phẩm Liên Hoa Dụ Tán liền thọ ký cho, vì sao đợi nói xong phẩm Chư Thiên Dược-xoa Che chở mới thọ ký cho? Từ lý do này nên biết là thuộc về phần Lưu thông”. Nhưng truyện Pháp Sư Chân-đế nói: “Nếu từ phẩm Tứ Thiên vương trở xuống xếp vào phần Lưu thông, điều này thật sai lầm. Vì sao tuổi thọ là nói về quả của Đức Thích-ca, làm sao thuộc về chánh thuyết? Thọ ký nói về quả của đệ tử, làm sao thuộc về phần lưu thông? Thiện tập, Xả thân nói về liễu nhân của Đức Thích-ca, sao bỗng nhiên lại là lưu thông? Các phẩm Sám hối, Không v.v… nói về liễu nhân của đệ tử, vì sao lại thuộc chánh thuyết? Còn phẩm Tam thân nói chung về chánh nhân của xuất gia và tại gia, làm sao là chánh thuyết? Vì vậy từ phẩm Thọ lượng cho đến phẩm Xả thân nói tóm lại là Chánh tông”. Người dịch ngày nay giải thích rằng: “Phẩm Thọ lượng tuy thuộc về quả của Đức Thích-ca nhưng chính là sở cầu. Phẩm Thọ ký tuy nói về quả của đệ tử nhưng ý là truyền bá kinh điển, nói rõ ích lợi để khuyến khích đại chúng, do đó thuộc phần lưu thông. Các phẩm Sám Hối v.v… tuy đúng là nhân nói cho đệ tử, nhưng nói về quả chính là bắt chước theo khiến cho thực hành nhân. Các phẩm Tịnh Địa v.v… bao gồm nhân của các Đức Phật, không chỉ có đệ tử ngày nay. Cho nên các phẩm Sám hối v.v… thuộc về chánh thuyết, các phẩm Xả thân v.v… nói về việc quá khứ, nêu mình để khuyến khích người, chẳng phải bây giờ mới bắt đầu tự thực hành tu học, cho nên thuộc về lưu thông. Không như thế thì phẩm Liên Hoa Dụ Tán, Tán Phật Công Đức tức là chánh tông, Bồ-tát tán Phật vì sao lại thuộc về lưu thông? Còn như các phẩm Tứ Thiên Vương v.v… Đức Thế tôn chỉ dạy che chở các vị ấy, y theo chỉ dạy che chở chính là chánh tông; phú chúc cũng là dạy phải thực hành, sao lại thuộc lưu thông? Do phẩm Thọ Ký này tuy nói về quả tương lai, xả thân nói về nhân xa xưa, là khuyến khích đời sau cho nên thuộc về lưu thông”. ------------------------- Thứ 1: <詞>PHẨM TỰA Trong phẩm Tựa có bảy thứ tròn đầy: Tựa tròn đầy. Tam-muội tròn đầy. Thính chúng tròn đầy. Thuyết nhân tròn đầy. Thuyết thời tròn đầy. Thẩm cơ tròn đầy. Tiêu thuyết tròn đầy. Trong Tựa tròn đầy có hai loại thắng, đó là thành hơn thành khác, núi hơn núi khác, nói lên pháp môn và công đức trong kinh này là thù thắng, như Luận Pháp Hoa giải thích: Tam-muội tròn đầy, như trong kinh nói, các pháp giới sâu xa thanh tịnh nhất. Luận Phật Địa, quyển hai chép: “Đạt đến Vô nhị trú của Phật tức là đến bờ kia”. Cho nên giải thích rằng: “Phật vô nhị trú tức là pháp thân chân như là thể, không có sự khác nhau, không hiện hành trong tất cả hai tướng phân biệt, duyên vào định cao quý và an trú trong đó, vì vậy gọi là trú, tức là Vô nhị trú là đến bờ kia. Đức Phật đã đạt đến cùng tận cho nên gọi là Đắc. Ý này chính là hiển bày pháp thân chân như không có thể riêng, chỉ khác nhau về Tánh và Tướng. Và khi chứng đến tận cùng gọi là đắc pháp thân; chân lý là rốt ráo nên gọi là đến bờ kia; do định đại trí thường duyên với sự chứng đắc nên gọi là trụ. Đối Cơ bày tướng trở xuống, nói: “Lúc xế trưa xuất định, nếu chẳng phải định này thì từ định nào mà khởi?”. Nguyện muốn được nghe nói về Nhân Tròn đầy, như kinh. Cùng với thính chúng là các đại Bí-sô v.v… tròn đầy. Quán sát đại chúng là xét cơ tròn đầy, nếu Phật nói pháp thì hẳn dùng từ tâm bình đẳng mà quán, nhìn xem căn cơ chủng tánh của chúng sinh kia có ưa thích muốn nghe không, rồi theo đó khiến cho tất cả mọi người đều thấy rằng chỉ nghe nói cho mình. Nói tụng rằng trở xuống tức là phần nêu thuyết tròn đầy. Bảy thứ tròn đầy này chia làm hai tựa: Từ loại đầu đến loại thứ ba gọi là tựa chung, cũng gọi là Chứng tín, còn lại là tựa riêng, cũng gọi là Phát khởi. Hỏi: Trú định biệt tựa nên nói ở phần sau, vì sao lại nói chung với các loại trước , nói không thứ lớp như vậî? Đáp: Bởi vì thân tâm đều an trú nên gọi là Trú. Lại vì hai nghóa hợp thành một nơi để nói. Tựa chung có năm phần, như luận Phật Địa có phân định. Văn kinh: Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Bạc-già-phạm ở tại đỉnh núi Linh thứu trong thành Vương-xá. Tán rằng: Đây là tựa chung, văn đầu tiên trong bốn phần văn. Thứ tư nói về Xứ lại có hai thứ: Sắc thân trú xứ. Pháp thân trú xứ. Thành Vương xá v.v… ở đây là sắc thân trú xứ. Lại Cộng và Bất cộng. Thành Vương xá v.v… là nơi Thánh phàm ba thừa cùng cư trú. Phần dưới nói về các Đức Phật không cùng cư trú. Cùng cư trú trước đây suy rộng như trong pháp hoa sớ của Từ Ân có phân tích. Hỏi: Cần gì phải nói về xứ? Đáp: Trong luận Công Đức Thí Bồ-tát Bát-nhã chép: Khiến cho biết nơi Thế tôn đến, khiến phát sinh cung kính tôn trọng trở thành phước cao quý. Trí luận chép: Nói về thời, phương, do khiến cho phát sinh lòng tin. Ứng hợp hai nghóa cũng thật là hay. Văn kinh: Như lai cư trú trong pháp giới sâu xa thanh tịnh nhất của các Đức Phật. Tán rằng: Nói về chỗ pháp thân Phật cư trú, phần y chỉ thành tựu, tức là phần Tam-muội thành tựu. Vì sao phải hiện phần Tam-muội như vậy? Đáp: Như luận Kinh Pháp Hoa và luận Bát-nhã của Bồ-tát Vô Trước nói: Lìa hai chướng nên gọi là thanh tịnh nhất, không chung với hai thừa nên gọi là sâu xa, tự tánh các pháp gọi là pháp giới, tức pháp giới này là cảnh trí sở duyên của các Đức Phật. Bên tánh công đức tức là cõi Phật, pháp thân sở y là chỗ an trú của Như lai. Do đó, kinh Giải Thâm Mật, quyển năm, chép: “Như lai sở hành là tất cả thứ Như lai cùng có, đó là vô lượng công đức không thể suy nghó bàn luận, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Tức là tướng bên nghóa công đức gọi là tự tánh pháp thân, bởi vì tướng công đức tức là y theo chân như vậy, không lìa tánh nên gọi là trú”. Hoặc trong Trí nội chứng gọi là Như lai Cư. Còn trong luận Phật Địa chép: “Phật không có hai trú, tức là pháp thân chân như, là tự thể không có tướng khác nhau”. Lại giải thích rằng: “Chân như lìa chướng gọi là thanh tịnh nhất… tức là Năng Chứng Trí thường chứng Như nên gọi là Trú”. Vì vậy luận Phật Địa, quyển hai chép: “Đối với tất cả hai tướng phân biệt đều không hiện hành, duyên nơi thắng định kia thường trú trong đó nên gọi là trú”. Trú tức là nghóa cư. Tại sao phải nói về hai thứ trú xứ? Đáp: Vì muốn hiển bày ba thân chẳng phải tức, chẳng phải lìa. Hỏi: Theo văn sau nói về tuổi thọ Như lai tại thất Diệu tràng, vì sao ở tựa chung chỉ nói Thứu sơn. Đáp: Theo văn thì từ Diệu tràng đến chỗ Đức Thích-ca đối trước Phật nhắc lại, Như lai ấn khả, A-nan được nghe cũng gọi là Phật nói. Do đó khi kiết tập chỉ nói trú nơi thành Vương xá. Còn ở Tịnh độ kia, hàng ba thừa không thể thấy được; ở đây, chỉ nói theo chỗ cùng thấy, đó là thành Vương xá. Lại nữa, người xưa giải thích rằng: Bốn thời ba chỗ. Bốn thời: Lúc bốn Như lai ở tại thất Diệu tràng. Lúc Thế tôn ở tại Thứu phong. Lúc Diệu tràng cũng đến nơi của Phật. Lúc từ cõi khác trở về cõi nước mình. Thất Diệu tràng ở Thứu sơn và tha phương cho nên nói bốn thời ba chỗ. Người đời nay giải thích rằng: Chỉ là một thời một chỗ. Bởi vì Diệu tràng nghe bốn Đức Phật nói, cùng với đại chúng hướng đến chỗ Phật lần lượt nói lại. Bồ-tát mười phương đều khen ngợi Đức Phật này, chẳng phải hướng về cõi khác khen ngợi Như lai kia, cho nên chỉ một thời một chỗ. Nếu không như thế thì ở tại thất mộng thấy trống vàng thức dậy thưa vơi Đức Phật, tức là phải năm thời bốn chỗ. Lúc mộng thấy trống vàng không nói thất tịnh, lúc nói tuổi thọ trở thành thất tịnh, nên là hai chỗ. Lúc mộng lúc nói sớm chiều khác nhau, kia đã không khác là thời, biết rõ ở tại thất bốn Như lai nói, không thể phân biệt là thời, chỗ. Hoặc có thể, hai thời hai chỗ. Diệu tràng ở tại thất mộng thấy không đối trước Đức Phật, không thể gọi là nói, vì vậy không phải là thời, chỗ. Còn bốn Như lai ở tại thất Diệu tràng nói về tuổi thọ của Phật cho nên là thời, chỗ. Nhưng giải thích trước hợp lý hơn. Bởi vì A-nan xưng là tôi nghe “bốn Đức Phật nói về tuổi thọ”. Lúc A-nan ở chỗ Đức Phật Thích-ca, không thể nói là tôi nghe. Nếu vậy thì như kinh Kim cương Hoa nói: “Tỳ-kheo A-nan đạt được Tam-muội Pháp tánh giác tánh tự tại vương, nhờ năng lực Tam-muội mà biết rõ các kinh Phật đã nói đều luôn luôn nhớ giữ”. Còn trong kinh Quán Phật Tam-muội chép: “A-nan nhân nghe Đức Phật nói về niệm Phật, A-nan thấy Đức Phật liền nhớ đến kinh tạng của chín mươi ức Đức Phật đời quá khứ đã nói”. Nhớ kỹ không quên nay cũng đâu ngăn ngại, Phật lực gia bị thấy Phật nghe kinh, đều thường ghi nhớ có thể nói là tôi nghe. Đáp rằng: Không đúng. Nói về những kinh đó đều do xưa kia đã từng nghe, được các năng lực khác che chở thêm, cho dù luôn nhớ kỹ không quên, chẳng phải là người chưa nghe. Nay tại thất Diệu tràng bốn Đức Như lai nói, A-nan chưa nghe cho nên không thể nghó nhớ, duyên theo cảnh đã từng thọ nhận mới nói là nhớ. Văn kinh: Cùng chúng đại Tỳ-kheo chín mươi tám ngàn vị. Tán rằng: Giáo trùm khắp các căn cơ, phần chúng thành tựu có chia làm năm phần môn: Nguyên nhân. Quyền thật. Bao nhiêu. Hữu vô. Giải thích văn. Nguyên nhân có năm, như bản Kinh Pháp hoa Sớ; lại theo luận kinh Đại luận kinh bảo tích: “Có ba việc nên xếp vào chúng Thanh văn: Đối với Đại thừa có nghi ngờ, khiến cho dứt trừ. Có bất định, giúp cho thành tựu chánh tín. Trừ tâm sở tác dó biện, khiến dứt trừ trí chướng, đạt được quả báo bậc thượng. Vì có năm việc nên xếp vào chúng Bồ-tát: Dứt nghi. Ích lợi cho các hữu tình ở cõi này. Khiến cho biết cõi khác có vô lượng Phật, khiến sinh tâm khao khát kính mến muốn được gần gũi. Do Đức Thích-ca hóa độ. Nói lên vì pháp từ các cõi xa xôi khác đến đây. Các vị Bồ-tát này đã đạt đến địa vị Phật còn vì pháp mà đến, huống là đối với những hạng người còn lại. Nói về Quyền thật: Theo luận kinh Phật địa chép: “Lúc Đức Thích-ca Mâu-ni nói kinh này, đại chúng Địa tiền thấy thân biến hóa ở cõi uế này vì họ nói pháp, đại chúng Địa thượng thấy thân thọ dụng ở Tịnh độ Phật vì họ nói pháp, nghe tuy đồng mà thấy đều khác nhau.” Theo văn kinh này đã ở cõi uế vì chúng Địa tiền, tức Thanh văn là thật; các Đại Bồ-tát ứng ở Tịnh độ, cũng xếp vào trong cõi uế, tức là biến hóa. Nếu không như vậy thì các vị Đại Bồ-tát này từ Địa thứ tám trở lên thọ thân biến dịch, làm sao hữu tình cõi này thấy được. Lại giải thích: Nói kinh này, Đức Phật đã dùng cả hai thân Biến hóa và Tha thọ dụng, do đó các vị Bồ-tát nếu thật thân thường ở nơi Tịnh độ Phật nghe kinh, người kiết tập không thể nêu ra cả hai, chỉ nói cõi ba thừa cùng thấy. Hoặc cõi rất thanh tịnh nơi Như lai an trụ, rõ ràng Bồ-tát đồng có khả năng trí chứng cũng ở cõi kia, tức thuộc về tịnh độ. Nhưng các vị Thanh văn theo luận Nhập Đại Thừa thì một ngàn hai trăm vị đều là biến hóa. Theo nhiếp Đại thừa thì các vị như Xá-lợi-phất có ba loại: Tánh bất định. Tánh nhất định. Biến hóa. Luận chép: “Vô lượng vị Xá-lợi-phất cùng tên gọi, cho nên biết có nhiều loại”. Lại trong luận Bồ-đề Tư Lương chép: “Kinh Pháp Hoa có chép Xá-lợi-phất là do Phật, Bồ-tát biến hóa ra”. Đều là hóa. Kinh Pháp Hoa, quyển hai chép: “Xưa kia, ta từng ở chỗ hai mươi ức Đức Phật đều giáo hóa ông, nay ông quên hết rồi” tức là tánh bất định. Luận Kinh Pháp Hoa chép: “Là hai loại Thanh văn, trừ tánh quyết định và tăng thượng mạn, vì căn cơ chưa thành thục”. Nay hội kinh này hoặc có thể có cả ba, các chúng còn lại quyền thật khó biết. Kế là bao nhiêu: Sơ chúng thành tựu gồm có mười tám: Chúng Thanh văn. Chúng Bồ-tát. Chúng Ly-xà-tỳ. Chúng chư Thiên. Chúng Long vương. Chúng Dược-xoa tứ vương. Chúng Yết-lộ-trà. Chúng Hương tượng vương. Chúng Kiền-thát-bà. Chúng A-tu-la. Chúng Khẩn-na-la. Chúng Mạc-hô-lạc-già. Chúng chư Thần. Chúng chư Tiên. Chúng Nhân vương. Chúng Hậu phi. Chúng Cận sự nam. Chúng Cận sự nữ. Đây là chúng ban đầu. Lại có bốn chúng: Dưới đây nói: Bồ-tát Diệu tràng cùng vô lượng trăm ngàn Bồ- tát và vô lượng ức Na-dữu-đa trăm ngàn chúng sinh, tất cả cùng đến trên núi Thứu phong; đây là chúng nghe thọ lượng. Phẩm Diệt Nghiệp Chướng chép: Lúc Đế-thích cùng tất cả thiên chúng và hằng hà nữ thần, cùng các đại chúng nhờ ánh sáng ít có đều đến chỗ Phật, đây là chúng muốn nghe sám hối. 3- Phẩm Thọ Ký chép: Lúc sắp thọ ký cho các vị Bồ-tát như Diệu tràng thì có mười ngàn vị Thiên tử, từ cõi trời đến đây muốn được thọ ký; đây là Chúng muốn được thọ ký. 4. Phẩm Thập Phương Bồ-tát Tán Thán chép: Lúc nói kinh này ở các thế giới mười phương có vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng Bồ-tát, đều từ cõi nước của mình đến núi Thứu phong nghe kinh khen ngợi Đức Phật, đây là Chúng nghe kinh khen ngợi. Bốn là Hữu vô: Trong chúng ba thừa không có chúng Độc giác. Trong bốn bộ chúng không có chúng Tỳ-kheo-ni. Trong hai vương không có chúng Luân vương. Trong sáu đường không có chúng địa ngục. Trong ba cõi không có chúng hai cõi trên, nhưng theo văn sau: Trời, người cõi Dục và cõi Sắc trong thất của Bồ-tát Diệu tràng lại cùng đến nhóm hội có chúng cõi Sắc. Còn cuối phẩm mười lăm có chúng Tỳ-kheo-ni. Hỏi: Nói kinh Nhân Vương Bát-nhã có chúng Độc giác và các tầng trời Vô sắc, nói kinh Pháp Hoa có hai hạng vương, đó là Kim Luân và Túc Tán, nói kinh Đà-la-ni có chúng địa ngục, hội này sao không có? Đáp: Có lẽ lược bỏ không bàn đến. Y theo thực tế nên có thể có, như Tỳ-kheo-ni ở phẩm Tựa không xếp vào, xưa kia Kim Quang Minh nói chung không liệt kê chúng, há có thể không có sao? Hai là nói rằng: Tỳ-kheo-ni và cõi Sắc ban đầu tuy không xếp vào nhưng văn sau nói có; Độc giác, Luân vương, địa ngục, Vô sắc ở trên văn sau không có, hoặc thời chưa thành thục, hoặc không thể thực hành cho nên không ghi vào. Thứ là y theo văn giải thích: trước nêu ra mười tám chúng, sau nói về oai nghi. Trong phần trước lại có hai: Đầu tiên nêu ra riêng sáu chúng, tiếp đó gồm nêu lên số còn lại; mười hai chúng hoặc có thể chia làm hai: Đầu tiên nêu ra Thánh chúng, sau nêu ra phàm chúng. Trong phần nêu Thánh chúng, thứ nhất chúng Thanh văn, văn chia làm bốn: Nêu loại và số. Khen ngợi công đức. Nêu tên gọi. Nói về đến chỗ Phật. Trước tiên nêu loại và số như bản Pháp hoa sớ có nói. Văn kinh: Đều là bậc A-la-hán thường khéo điều phục như Đại tượng vương các lậu đã dứt sạch, không còn phiền não. Tán rằng: Khen ngợi công đức theo luận Kinh Pháp hoa có mười sáu câu. Khen ngợi công đức La-hán. Nay kinh này thứ lớp văn tuy khác nhưng đại ý là giống nhau. Theo luận đó giải thích là mười sáu câu, luận ấy trích kinh nói: Đều là bậc A-la-hán các lậu đã sạch, không còn phiền não, được tự tại chân thật tức kinh này nói đạt được đại tự tại. Khéo được tâm giải thoát, khéo được tuệ giải thoát, tức kinh này nói tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát. Tâm khéo điều phục tức kinh này nói có công năng khéo điều phục. Cũng như Đại long vương tức kinh này nói như Đại tượng vương. Đã làm những việc phải làm tức kinh này nói trú thanh tịnh giới. Dó biện sở biện thì kinh này nói việc đã làm xong, bỏ các gánh nặng, đến được tự lợi, sạch các hữu kiết. Khéo đạt được chánh trí tâm giải thoát tức kinh này nói chứng đạt tám giải thoát. Dốc lòng tự tại tức kinh này nói khéo léo phương tiện trí tuệ trang nghiêm. Khéo léo phương tiện cũng thuộc về trí tuệ cho nên là rốt ráo bậc nhất. Đã đến bờ kia là kinh này nói đã đến bờ kia. Luận ba lần giải thích: Thứ nhất thượng thượng khởi môn, thứ hai tổng biệt tướng môn, thứ ba nhiếp lấy sự môn. Thượng thượng khởi môn: Nay tạm thời dựa theo luận chỉ ra phối hợp với văn đó, giải thích đầy đủ như Pháp hoa sớ giải. Hoặc do câu trên nên câu dưới được hiển bày, hoặc do câu dưới mà câu trên được hiển bày, chẳng phải duy nhất cho nên gọi là thượng thượng khởi. Theo luận nay sẽ dùng câu thứ tư giải thích câu thứ nhất, dùng câu thứ sáu, thứ bảy giải thích câu thứ hai như Đại tượng vương, dùng câu thứ chín, thứ mười giải thích câu thứ ba, dùng câu thứ mười hai giải thích câu thứ tư, dùng câu thứ tư giải thích câu thứ năm. Văn kinh: Tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát, việc đã làm xong, bỏ các gánh nặng đến được tự lợi. Tán rằng: Theo luận hai loại tâm giải thoát tuệ giải thoát trong văn, không dùng câu nghóa trên dưới để giải thích. Việc đã làm xong theo luận thì ngay nơi câu tự giải thích. Bỏ các gánh nặng theo luận ở đây sẽ liên kết trên dưới để giải thích, dùng câu thứ tám, câu thứ mười ba để giải thích. Đến được tự lợi theo luận này sẽ dùng câu thứ chín giải thích câu thứ mười. Văn kinh: Sạch các hữu kiết, được tự tại hoàn toàn, trú giới thanh tịnh, khéo léo phương tiện trí tuệ trang nghiêm, chứng đạt tám giải thoát, đã đến bờ kia. Tán rằng: Sạch các hữu kiết theo luận ở đây nên dùng câu thứ mười giải thích. Câu thứ mười một được đại tự tại này theo luận lần lượt ứng với câu thứ tư. Nay ở câu thứ mười hai dùng bốn câu: thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy để giải thích. Câu thứ mười hai trú thanh tịnh giới là theo luận lẽ ra phải là những việc phải làm đã làm xong. Giới học trọn vẹn thuộc về đạo đế, tức tịnh giới này là điều cần phải thực hành, theo luận cho rằng câu tự giải thích. Khéo léo phương tiện trí tuệ trang nghiêm hợp thành một câu. Vì cùng nhân trí y theo luận lẽ ra phải là dốc lòng tự tại. Luận nói khéo vượt qua trí thấy đạo tu đạo, câu sẽ tự giải thích. Chứng được tám giải thoát y theo ở đây phải dùng câu thứ tư để giải thích. Câu thứ mười lăm đã đến bờ kia y theo luận ở đây phải dùng câu thứ mười lăm để giải thích. Câu thứ mười sáu theo đúng thì phải có bốn câu, vì câu dưới hướng lên câu trên để giải thích, nghóa là câu thứ nhất dùng câu thứ tư để giải thích, câu thứ hai dùng câu thứ sáu, thứ bảy để giải thích, câu thứ ba dùng câu thứ chín, thứ mười để giải thích, câu thứ tư dùng câu thứ mười một để giải thích. Kinh có sáu câu là câu trên hướng xuống câu dưới để giải thích, đó là câu thứ năm dùng câu thứ tư để giải thích, câu thứ mười dùng câu thứ chín để giải thích, câu thứ mười một dùng câu thứ mười để giải thích, câu thứ mười hai dùng câu thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy để giải thích, câu thứ mười lăm dùng câu thứ tư để giải thích, câu thứ mười sáu dùng câu thứ mười lăm để giải thích. Có ba câu sẽ tự giải thích, đó là việc phải làm đã làm xong, trú giới thanh tịnh, khéo léo phương tiện trí tuệ trang nghiêm. Có hai câu không giải thích, đó là tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát. Có một câu nối liền trên dưới để giải thích, đó là bỏ các gánh nặng. Bài tụng nói: Ở dưới giải thích ở trên có bốn câu, ở trên giải thích ở dưới có sáu câu, ba câu đơn, hai câu không giải thích, một câu chung cho trên dưới. Về Tổng biệt tướng môn: Đầu tiên A-la-hán là nghóa Tổng ứng, mười lăm câu sau là nghóa Biệt ứng. Do người Vô học thành mười lăm khác nhau ứng nghóa ở dưới gọi là A-la-hán. Nhưng theo luận thì văn theo thứ lớp khác nhau, lấy ý của luận đó dựa vào thứ lớp này để giải thích mười lăm ứng: Ứng không nhanh không chậm; nói pháp như pháp tương ứng, không mệt mỏi cho nên như kinh nói có khả năng khéo điều phục. Ứng tónh tọa nơi vắng lặng; thức ăn, đồ nằm, y phục tất cả của cải vật chất không chứa để, không gom góp, ít muốn biết đủ, cho nên như kinh nói như Đại Tượng Vương, tức là như kinh khác nói như đại long vương. Ứng thọ các thứ thức ăn, đồ nằm cúng dường cung kính v.v… cho nên như kinh các lậu hoặc đã dứt bỏ. Ứng giáo hóa tất cả đại chúng cho nên như kinh không còn phiền não. Ứng hàng phục các thứ ngoại đạo cho nên như kinh nói tâm khéo giải thoát. Ứng dùng trí tuệ mau chóng quán sát các pháp cho nên như kinh nói tuệ khéo giải thoát. Ứng thực hành thánh hạnh không cho nên như kinh việc đã làm xong. Ứng thực hành thánh hạnh vô tướng cho nên như kinh nói bỏ các gánh nặng. Ứng thực hành thánh hạnh vô nguyện cho nên như kinh nói đến được tự lợi. Ứng thực hàng phục tâm thiền tịnh thế gian cho nên như kinh nói sạch các hữu kiết. Ứng vào trong các thôn xóm thành thị cho nên như kinh nói được tự tại hoàn toàn, tức là bản kinh dịch phần thứ tư đạt được tự tại chân thật. Ứng luôn luôn thực hành thiện hạnh không mê đắm các thiền, cho nên như kinh nói trụ trong giới thanh tịnh. Ứng chứng đạt công đức Đệ-nhất-nghóa, cho nên như kinh nói khéo léo phương tiện trí tuệ trang nghiêm. Ứng phát khởi các công đức thần thông cao siêu cho nên như kinh chứng đạt tám giải thoát. Ứng biết như thật chúng đồng sinh, đạt được các công đức làm lợi ích cho tất cả các chúng sinh, cho nên như kinh nói đã đến bờ kia. Tụng nói: “Trung, tónh, thọ, tương, phục, dó, không, tướng, nguyện, hàng, nhập, hướng, chứng, khởi thông, như thật ứng, mười lăm”. Nhiếp lấy sự môn: Theo luận Pháp hoa thì nhiếp lấy có mười thứ công đức, ở đây là mười một. Bởi trong các công đức loại thứ hai nhiếp lấy thuộc về ba câu, chia ra làm hai: Hàng phục thế gian. Hàng phục xuất thế gian. Ở đây thứ lớp không giống với luận đó, mở rộng loại thứ hai thành hai công đức, vậy là gồm mười một loại: Nhiếp lấy công đức không trái, thuận theo giáo hạnh của Như lai, như kinh có khả năng khéo điều phục. Nhiếp lấy công đức thù thắng, như kinh như đại tượng vương. Nhiếp lấy công đức như kinh các lậu đã dứt sạch không còn phiền não. Nhiếp lấy công đức hàng phục người học xuất thế gian, như kinh tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát. Nhiếp lấy đầy đủ công đức, đầy đủ địa hữu học, như kinh việc đã làm xong. Nhiếp lấy công đức vượt qua tất cả: Một là vượt qua ái; hai là vượt qua cầu mong cúng dường cung kính, ba là vượt qua cõi trên dưới đã qua địa hữu học; như kinh bỏ các gánh nặng đến được tự lợi, sạch các hữu kiết. Nhiếp lấy công đức hàng phục thế gian, như kinh nói được tự tại hoàn toàn. Nhiếp lấy công đức cao quý, những việc phải làm, như việc cần làm đó là nương theo pháp cúng dường cung kính tôn trọng Như lai, như kinh nói trú trong giới thanh tịnh. Nhiếp lấy công đức nên làm lợi ích cho chúng sinh, như kinh nói khéo léo phương tiện trí tuệ trang nghiêm. Nhiếp lấy công đức thượng thượng, như kinh nói chứng đạt tám giải thoát. Nhiếp lấy công đức thượng thủ, như kinh nói đã đến bờ kia. Ở đây chỉ phối hợp sơ lược với văn kinh để giải thích văn như Pháp hoa sớ phân tích. Tụng nói: “Bất vi, thắng, công đức, hàng, mãn, ba thứ lỗi, phục thế, việc nên làm, lợi ích, thượng thượng thủ”. Văn kinh: Tên các vị đó là: Cụ thọ A-nhã Kiều-trần-như, Cụ thọ A-thuyết-thị-đa, Cụ thọ Bà-niết-ba, Cụ thọ Ma-ha-na, Cụ thọ Bà-đế- lợi-ca. Tán rằng: Sau nêu ra tên gọi. Có hai: Đầu tiên nêu ra người Vô học, tiếp đến chọn lựa người Hữu học. Trong hàng Vô học nêu ra mười một vị, các kinh nêu tên trước sau không cố định, ở đây phần lớn y theo thứ lớp xuất gia. Như kinh Báo Ân nói, đây chính là năm vị Tỳ-kheo đầu tiên. Trước là nhân duyên cứu độ và giải thích nêu gọi là Trần-như, như Pháp hoa sớ. Nói Cụ thọ là đầy đủ hai thứ phước, tuệ, nhưng bản dịch xưa phần nhiều gọi là tuệ mạng, ở đây nói lên cả hai đều thành tựu cho nên nói là Cụ thọ. A-thuyết-thị-đa: A-thuyết, Hán dịch là Mã, Thị-đa, Hán dịch là Thắng; cũng nói là A-thuyết-bà-thị-đà, tức là người xưa nói Tỳ-kheo Mã Thắng. Bà-niết-ba, Hán dịch là Khí Tức. Ma-ha-na-ma, Hán dịch là Đại Danh, là người con thứ hai của vua Cam Lồ Phạn, vua có hai người con: Một là A-nê-luật-đà, hai là Ma- ha-na-ma. Bà-đế-lợi-ca, Hán dịch là Thiện Hiền, là người con thứ hai của vua Bạch Phạn; vua có hai người con: Một tên là Nan-đề-ca, hai tên là Bà-đế-lợi-ca. Văn kinh: Đại Ca-diếp, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Xá-lợi Tử, Đại Mục-kiền-liên. Tán rằng: Sáu vị này như bản Pháp hoa sớ ghi. Văn kinh: Chỉ có A-nan-đà trụ nơi địa hữu học. Tán rằng: Phân biệt với người Hữu học. Văn kinh: Các vị Đại Thanh văn như vậy. Tán rằng: Kết thúc sự khen ngợi. Vì có đủ công đức ở mười sáu câu trước nên gọi là Đại Thanh văn. Văn kinh: Vào lúc xế chiều các ngài đều xuất định đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, đi vòng quanh bên phải ba vòng lùi lại ngồi về một phía. Tán rằng: Thứ tư đến chỗ Phật, văn chia làm bốn: đến. Đến lúc. Xuất định. Đến chỗ Phật. An trụ oai nghi. Ngoài ra đều theo như ở đây. Văn kinh: Lại có Bồ-tát Ma-ha-tát trăm ngàn muôn ức vị đều Tán rằng: Nói về chúng Bồ-tát, mạch văn cũng chia ra làm bốn. Đây là nêu số loại, cũng như bản Pháp Hoa Sớ, Đại Bát-nhã quyển bốn trăm tám mươi sáu nói rộng về từ ngữ Ma-ha-tát. Các kinh luận nói về số lớn nhỏ khác nhau. Ở đây phải nói là trăm phần ngàn muôn ức Bồ- tát. Thứ đến là khen ngợi đức có hai mươi lăm câu, văn kinh chia làm hai mươi hai loại đức: Đức cụ đại thần thông. Đức danh cao tha ủy. Đức tu nhân tròn đầy. Đức hiện tướng lợi sinh. Đức cụ biện thuyết pháp. Đức ly chư chướng nhiễm. Đức thiệu Phật bất đoạn. Đức hàng phục ma oán. Đức tồi chư ngoại đạo. Đức kế Phật tuyên dương. Đức nghiêm tịnh Phật độ. Đức tha lợi bất hư. Đức tự lợi cụ nhẫn. Đức thường nhiếp hữu tình. Đức thị Phật bất diệt. Đức hoằng thệ vô cùng. Đức thâm thực thiện nhân. Đức liễu pháp vô sinh. Đức duyên cảnh bất cộng. Đức thiện xảo hóa sinh . Đức xiển dương thánh giáo. Đức chứng pháp vô nghi. Văn kinh: Có uy đức rộng lớn như đại long vương. Tán rằng: Đức thứ nhất có đủ thần thông rộng lớn gọi là uy đức rộng lớn, thường dứt trừ bất tín, luôn phát sinh gốc lành, giống như đại long, thường tuôn mưa đá dứt sạch bất tín, luôn rót mưa lành nảy sinh mầm thiện. Lại có uy lực, theo Du-già ba mươi bảy giải thích nhiều về uy lực, hoặc uy lực này là chung cho các câu, vì uy lực có nhiều loại. Văn kinh: Tiếng tăm vang danh khắp nơi, mọi người đều biết. Tán rằng: Đức thứ hai là tên tuổi vang lừng khắp vô lượng thế giới, tất cả chúng sinh đều biết. Văn kinh: Thực hành giới thanh tịnh, thường ưa thích vâng giữ thọ trì. Tán rằng: Đức thứ ba là thâu nhiếp toàn bộ sáu độ, nhân tu mới trọn vẹn; vô nhiễm tối thắng trong bảy tối thắng gọi là thanh tịnh, hoặc ba luân thanh tịnh như kinh Giải thâm mật v.v… Sáu Độ mỗi Dộ đều có mười thứ thanh tịnh, rộng như kinh kia nói. Thường xuyên tu tập không bỏ gọi là ưa thích vâng giữ, tức là ý thường ưa thích. Bảy tối thắng, sáu ý lạc, mỗi thứ đều nêu ra một để nói những thứ còn lại. Văn kinh: Nhẫn nại thực hành tinh phải trải qua vô lượng kiếp. Tán rằng: Đại tánh tinh tấn trong bảy đại tánh, cũng thâu nhiếp cả điều khác. Văn kinh: Vượt qua các tịnh lự, hệ niệm hiện tiền, khai thông trí tuê, khéo tu phương tiện. Tán rằng: Các Bồ-tát này từ Địa thứ tám trở lên niệm niệm gấp bội trước đây, và vượt qua hai thừa gọi là Siêu, thường ở trong định nên gọi là hệ niệm hiện tiền, phô diễn giương cao ngọn cờ giáo pháp gọi là mở rộng cửa tuệ. Vì vậy luận Pháp Hoa chép: “Môn Trí tuệ đó gọi là A-hàm sâu xa”. Phân biệt thông hiểu gọi là khéo tu phương tiện. Lại nữa, các nguyện lực khéo tu phương tiện, hoặc lại tu tạo đầy đủ mười hai thiện xảo. Ý văn kinh này là thanh tịnh vâng giữ trải qua vô lượng kiếp đều liên kết với các độ. Sáu độ sơ lược phân tích như bản Vô cấu xưng sớ. Văn kinh: Đến đi tự tại thần thông mầu nhiệm. Tán rằng: Đức thứ tư, theo kinh Hoa nghiêm, Phật tử có mười thứ thần thông du hý, đó là: Hiện đời xả bỏ tuổi thọ cõi trời. Hiện thọ sinh. Hiện làm đồng tử. Hiện làm xuất gia. Ưa thích khổ hạnh. Hướng về cây Bồ-đề. Hiện việc hàng ma. Hiện việc ưa thích vắng lặng, thành vô thượng giác. Xoay bánh xe pháp. Nhập Niết-bàn. Ý hiển bày các tướng làm lợi ích cho chúng sinh, rộng như trong hội Đại Bát-nhã tối thắng Thiên vương có giải thích. Văn kinh: Đến được tổng trì, biện tài vô tận. Tán rằng: Đức thứ năm, được bốn tổng trì và bốn biện tài, thảy đều vô tận, không chỉ một thắng bất đoạn tận trong bảy bất đoạn tận nên nói là vô tận, mà vì lợi tha không dứt nên đều là vô tận. Văn kinh: Dứt các phiền não, lụy nhiễm đều không còn. Tán rằng: Đức thứ sáu, ba thứ hoặc, nghiệp, khổ như phiền não lụy nhiễm dưới đây, hoặc trở lại não lụy là chủng hiện, nhiễm tức là thói quen đồng thời là sở tri chướng. Bởi vì phiền não đều đồng một tên gọi, đã đích thực dứt bỏ hết nên gọi là đều. Văn kinh: Không bao lâu sẽ thành tựu Nhất-thiết-chủng-trí. Tán rằng: Đức thứ bảy là nối tiếp Phật không dứt. Các vị Bồ-tát này vượt qua trước hai kiếp, hoặc ở địa vị pháp vân, đều bổ sung vào nhất sinh, gọi là không lâu. Bồ-đề ở tương lai, nên nói là đương sẽ thành. Đạt đến Tát-bà-nhã nói là Nhất-thiết-chủng-trí. Chủng là chủng loại, hoặc Không, hoặc Hữu, hoặc Lý, hoặc Sự gọi là Nhất-thiết-chủng. Ở đây đều thông suốt gọi là Nhất-thiết-chủng-trí, thuộc về y chủ thích. Nhất thiết chủng ở đây là cảnh thanh. Văn kinh: Hàng phục chúng quân ma, đánh trống pháp. Tán rằng: Đức thứ tám là hàng phục ma oán. Ma tức là bốn ma, quân là mười quân, rộng như Pháp Uyển phá ma chương có phân rõ. Ma quân thuận theo cảm hóa thắng địch trước kêu la, hiển bày thật, khai mở quyền là gióng trống pháp. Văn kinh: Chế ngự các ngoại đạo giúp cho họ khởi tâm thanh tịnh. Tán rằng: Đức thứ chín là dẹp tan các ngoại đạo, đầy đủ bốn Vô úy, dẹp tan các ngoại đạo, giúp cho sinh khởi chánh tín gọi là khởi tịnh tâm. Văn kinh: Chuyển diệu pháp luân, độ chúng trời, người. Tán rằng: Đức thứ mười là tiếp nối Phật tuyên dương. Đối với các tư lương năm vị chuyển, bốn vị, hai pháp luân không lui sụt, như bản Pháp hoa sớ phân rõ. Văn kinh: Cõi Phật mười phương đều đã trang nghiêm. Tán rằng: Đức thứ mười một là trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Đóng kín tất cả các cửa đường ác là nghóa của Tịnh độ, như bản Vô cấu xưng sớ. Văn kinh: Hữu tình trong sáu đường đều được lợi ích. Tán rằng: Đức thứ mười hai là lợi tha không luống dối. Tiếng Phạm gọi là Đệ-lợi-cù-ni-đa, Hán dịch là bàng sinh. Tiếng Phạm gọi là Na-lệ-đa, Hán dịch là ngạ quỷ, cũng gọi là Bế-lệ-đa. Tiếng Phạm là Mạt-nô-sa, Hán dịch là nhân. Tên của ba đường: Trời, Tu-la, Địa ngục và nghóa của sáu đường, như Pháp hoa sớ có nói. Khéo biết căn tánh nên ở trong năm đường hiện bày thân hình, khéo léo phương tiện gắng sức hiện thân nói pháp, người thấy nghe ai cũng được lợi ích. Vì có khả năng thành tựu bốn pháp, có thể hóa độ chúng sinh đều được lợi ích. Kinh Tư Ích một chép: “Một là Thường cầu lợi ích, yên ổn chúng sinh, hai là Tự xả bỏ niềm vui của mình; ba là Tâm tư hài hòa nhẫn nại, bốn là dứt bỏ diệt kiêu mạn”. Văn kinh: Thành tựu đại trí, đầy đủ bất nhẫn. Tán rằng: Đức thứ mười ba là tự lợi đầy đủ nhẫn. Thành tựu trí tự lợi, đầy đủ ba đại nhẫn; tức là do tương ưng với bảy đại kia nên đều gọi là Đại. Hoặc là đại trí tức là trí đại tánh, hiểu rõ đầy đủ hai Không. Nhưng Du-già nhiếp dị môn phần chép: “Đại trí đó là tu hành trải qua vô lượng kiếp gọi là đại trí, tức là thời đại tánh trong bảy đại tánh”. Do đó, biết rằng nhẫn gọi là Đại, cũng đồng với Trí. Lại giải thích: Như luận Trí Độ sáu chép: Đại nhẫn thành tựu là vì hai loại đẳng nhẫn, pháp nhẫn này thêm lớn cho nên gọi là đại nhẫn, cụ túc tức là nghóa thành tựu. Lại có nhiều loại, hoặc có thể, thành tựu là đạt được, nghóa là đạt được thắng phẩm gọi là Đại nhẫn. Cho nên luận đó giải thích rằng: Hai nhẫn này thêm lớn gọi là Đại nhẫn. Lại giải thích: Nay nói đầy đủ tức là có đủ ba nhẫn là nại oán hại nhẫn, an thọ khổ nhẫn và đế sát pháp nhẫn. Nhưng theo kinh Vô tận ý: tức là nhờ đầy đủ Đại nhẫn sẽ thành tựu Đại trí. Kinh ấy chép: Tu bốn nhẫn sau đây sẽ đầy đủ trí tuệ: Lúc cầu pháp nhẫn chịu người khác mắng chửi. Không ngại lạnh nóng gió mưa v.v… Vâng theo lời Hòa thượng xà-lê dạy bảo. Lúc cầu pháp thực hành nhẫn không, vô tướng. Y theo đây thì nên dùng câu dưới để giải thích Đại trí ở câu trên. Văn kinh: An trụ trong tâm đại Từ bi, có năng lực rất vững chắc. Tán rằng: Đức thứ mười bốn là thường nhiếp hữu tình, cho nên luận như Kinh Pháp hoa nói: “Nhiếp lấy chúng sinh phương tiện là như kinh dùng từ tu thân, đã có lòng Từ thì không vui ban cho vui, Bi có khả năng khổ thì nhổ gốc khổ, cho nên thường nhiếp lấy chung sinh”. Đều nói Đại là khác với Nhị thừa, cho nên chẳng phải là Đại bi trong đức bất cộng của Phật, đức đó chỉ có Phật thành tựu gọi là bất cộng. Vì có năng lực rất vững chắc, thường thực hành không xả bỏ gọi là vững chắc. Kinh Tư Ích một chép: “Bồ-tát có bốn pháp, làm vững chắc tâm mình mà không mỏi mệt: Đối với chúng sinh phát khởi đại bi. Tinh tấn không lười nhác. Tin hiểu sinh tử như mộng. Suy nghó hợp với trí tuệ của Phật.” Ý này do thương xót chúng sinh mà tinh tấn không lười nhác, thấy sinh tử khổ đau như mộng không thật, suy tư cầu trí Phật cho nên thực hành từ bi làm vững chắc tâm mình. Văn kinh: Mãi mãi kính thờ các Đức Phật, không nhập Niết-bàn. Tán rằng: Đức thứ mười lăm là hầu hạ Phật, không diệt độ. Đối với tất cả các Đức Phật thường tu tập chánh hạnh gọi là lần lượt kính thờ các Đức Phật. Vì cứu độ chúng sinh không có lúc nào ngưng nghỉ, không cầu nhập Niết-bàn. Luận Biện Trung Biên chép: “Vì lợi tha không ngưng nghỉ”. Văn kinh: Phát tâm hoằng thệ, tận mé vị lai. Tán rằng: Đức thứ mười bảy là trồng sâu nhiều nhân lành, tức các kinh Pháp Hoa v.v… chép: “Ở chỗ các Đức Phật gieo trồng nhiều gốc đức”. Tức là ở chỗ các Đức Phật tu mười cúng dường gọi là tịnh nhân. Sở cầu Bồ-đề, sở tu mười cúng dường, hai loại này đều là nhân, hoặc nhân của tịnh, hoặc nhân tức là tịnh. Văn kinh: Đối với pháp ba đời, ngộ Vô sinh nhẫn. Tán rằng: Đức thứ mười tám là hiểu các pháp là vô sinh. Chứng ngộ ba Vô sinh nhẫn, nương vào không tướng môn, giải thoát môn quán sát tánh biến kế, chứng ngộ bổn tánh Vô sinh nhẫn, nương vào vô nguyện thoát môn quán sát y tha khởi, ngộ tự nhiên Vô sinh nhẫn, nương vào Vô tướng môn, giải thoát môn quán sát viên thành thật, chứng ngộ hoặc khổ Vô sinh nhẫn. Hỏi: Biến kế không có thể tánh, viên thành thật là thường trú, nay văn kinh này nói pháp ba đời, làm sao có thể nói quán sát ba tánh đạt được ba loại nhẫn? Đáp: Ở trên y tha khởi quán sát hai Ngã là không có, tức là trong y tha khởi cũng có Viên thành thật, chẳng phải tức, chẳng phải lìa. Vì thế bài tụng trong Biện trung biên chép: “Luống dối phân biệt có, hai thứ này đều không, Có, Không chỉ trong này”. Đây là ý có luống dối phân biệt, ở trong đây hai Ngã đều không có, trong y tha khởi này chỉ có chân không. Cho nên ba đời chỉ nêu ra y tha khởi để hiển bày hai tánh còn lại. Văn kinh: Vượt qua cảnh giới sở hành của Nhị thừa. Tán rằng: Đức thứ mười chín là duyên cảnh bất cộng. Hành tướng duyên cảnh của Nhị thừa có thể đạt được, Bồ-tát không như vậy, cho nên trong luận Vô Tánh Nhiếp tám chép: “Trí vô phân biệt đối với cảnh chân như tương tự mà hành”. Ý này là chân như không có tất cả tướng, trí xứng hợp với như cũng không có hành tướng, lại hiểu rõ hai không, kia chỉ hiểu có một cho nên vượt qua Nhị thừa. Văn kinh: Dùng đại thiện xảo giáo hóa thế gian. Tán rằng: Đức thứ hai mươi là thiện xảo hóa sinh. Nương vào sáu thần thông và mười hai phương tiện khéo léo, ngoài sáu loại thích hợp mà giáo hóa thế gian. Hoặc nương vào Đại thừa nói về các uẩn, giới v.v… dùng các cách khéo léo để giáo hóa thế gian, phân biệt Tiểu thừa nên gọi là đại thiện xảo. Văn kinh: Đối với giáo pháp của Đại sư thường phô bày giảng nói. Tán rằng: Đức thứ hai mươi mốt là mở mang Thánh giáo. Vì có thể nương vào giải thích pháp trong phần Nhiếp thích của Du-già tám mươi mốt, cho nên nói đối với giáo pháp của Đại sư thường phô bày giảng nói, trú ở Thiện Huệ địa. Văn kinh: Pháp bí mật sâu xa không tánh đều đã rõ biết không còn nghi ngờ. Tán rằng: Đức thứ hai mươi hai là rõ pháp không còn nghi. Bí mật gồm có bốn, tức ba không tánh gọi là sâu xa. Như luận Pháp Hoa giải thích: Trí tuệ của các Đức Phật có năm sự sâu xa, tánh của trí tuệ cũng gọi là trí tuệ: Nghóa sâu xa. Thể. Nội chứng. Y chỉ. Vô thượng. Khác với cảnh Nhị thừa cho nên gọi là sâu xa, hậu trí có công năng hiểu rõ trí căn bổn, nghi ngờ về sự lý đã hết cho nên không còn mê hoặc. Văn kinh: Tên các vị đó là Bồ-tát Vô Chướng Ngại Xoay bánh xe pháp, Bồ-tát Thường Phát Tâm Xoay bánh xe pháp, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Hưu Tức. Tán rằng: Thứ ba là nêu ra tên họ của năm mươi ba vị, đức rộng danh cao thấy nghe được lợi ích, không thể nêu ra đầy đủ, nên lược nêu một số như vậy. Sự đặt tên ở đây, hoặc là thuận theo bổn nguyện, hoặc là thuận theo đức hạnh, tự tha ích lợi thù thắng để lập nên tên gọi đó. Đầu tiên hai vị nói pháp, sau đó hai vị tinh cần, nói pháp và tinh tu hợp nhau, đều bởi thường hàng phục hai bốn loại ma, cho nên Xoay bánh xe pháp không có gì chướng ngại, có thể nói không lui sụt cho nên có thể xoay bánh xe pháp không lui sụt, vì thế không có chướng ngại. Hoằng pháp không ngưng nghỉ, thương xót hữu tình, thường phát tâm vì chúng sinh mà chuyển pháp, có thể được lạc thuyết không lui sụt. Do được lạc thuyết biện tài không đuối lý, thường phát tâm chuyển tự lợi luôn luôn tinh cần, cho nên gọi là Thường Tinh Tấn, lợi tha thường sách tấn nên gọi là Bất hưu tức, hoặc tha lợi, tự lợi hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Diệu Cát Tường, Bồ-tát Quán Tự Tại. Tán rằng: Từ thị, tiếng Phạm là Mai-đát-lệ-duệ, Hán dịch là Từ thị, hoặc dịch là Na, tức sinh trong họ Từ, hoặc bổn tánh hành từ, hoặc gọi là Duệ-ni, tức là trong giọng nữ, bởi vì mẹ mang lòngTừ. Mạn-thù- thất-lợi, Hán dịch là Diệu cát tường. A-phược-lực-chỉ-đế-ôn-đại-la-da, Hán dịch là Quán tự tại. Ba vị đầu tiên này tức là ban vui cứu khổ, Cát tường ban vui, Quán âm cứu khổ, ban vui, cứu khổ hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Tổng Trì Tự Tại Vương, Bồ-tát Đại biện Trang Nghiêm Vương. Tán rằng: Ở Địa thứ chín xa lìa được hai thứ ngu, đầy đủ bốn biện tài, cho nên Tổng trì tự tại; đầy đủ bảy biện tài, thường thực hành Đại thừa gọi là Đại biện trang nghiêm. Trì pháp và nói pháp hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Diệu Cao Sơn Vương, Bồ-tát Đại Hải Thân Vương. Tán rằng: Trí tuệ khó mong cầu như núi Chúa diệu cao, định đó không thể lường giống như biển lớn, trí, định tự tại đều giống như vương. Trí cao và định sâu hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Đại Bảo Tràng, Bồ-tát Địa Tạng, Bồ-tát Hư Không Tạng. Tán rằng: Hiểu rõ hữu cao xa quý giá như cờ báu, hiểu rõ không cao xa quý giá gọi là Đại bảo tràng, hiểu hữu, hiểu không hợp nhau. Đại bi gánh vác biên địa là Tạng, thường dùng hư không để làm Bảo tạng; đại bi và đại trí hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Bảo Thủ Tự Tại, Bồ-tát Kim cương Thủ, Bồ-tát Hoan Hỷ Lực, Bồ-tát Đại Pháp Lực. Tán rằng: Ở đây có hai hợp nhau. Tay sản sinh ra châu báu thường pháp trừ nghèo khốn, tay trí tuệ có công năng phá diệt hai chướng tự tha, gọi là Kim cương thủ. Cứu nghèo và phá chướng hợp nhau. Vui mừng thích ý thường thực hành khó khuất phục gọi là Hoan hỷ lực, thực hành pháp Đại thừa, thường hàng phục các chướng vô minh khác, hoặc tự nương theo pháp dứt trừ các chướng nên gọi là Đại pháp lực. Khó khuất phục và hàng phục người khác hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Đại Trang Nghiêm Quang, Bồ-tát Đại Kim Quang Trang Nghiêm. Tán rằng: Dùng ánh sáng Đại trí của định để tự trang nghiêm gọi là Đại trang nghiêm quang, đem kinh Kim quang minh tối thắng vương để lợi ích cho mọi người gọi là Đại kim quang trang nghiêm, phân biệt lợi mình, lợi người nên gọi là Đại. Tự trang nghiêm và trang nghiêm người khác hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Tịnh Giới, Bồ-tát Thường Định, Bồ-tát Cực Thanh Tịnh Tuệ. Tán rằng: Ba thứ nhân ba học này đều được hoàn thiện, y theo chân thật cùng tu, y theo bổn nguyện mà nói. Đại phước và đại trí hợp nhau. Giới phước và tuệ trí, hai thứ định, thông, hoặc từ nơi trí, có công năng phát sinh trí. Văn kinh: định, thông Kiên Cố Tinh Tấn, Bồ-tát Tâm Như Hư Không, Bồ-tát Bất Đoạn Đại Nguyện. Tán rằng: Do ba điều rèn luyện răn nhắc, không lui sụt gọi là kiên cố tinh tấn; tâm đó không ngăn ngại như hư không, bốn không nguyện rộng bỏ gọi là bất đoạn đại nguyện. Không lui sụt và thường tu hợp nhau, như hư không có cả hai. Văn kinh: Bồ-tát Thí Dược, Bồ-tát Liệu Chư Phiền Não Bệnh, Bồ-tát Y Vương. Tán rằng: Cho thuốc là chữa trị thân bệnh, chữa trị phiền não là dứt trừ tâm bệnh, thầy thuốc chữa khỏi tất cả. Chữa trị bệnh thân và chữa trị bệnh tâm hợp nhau. Ký. Văn kinh: Bồ-tát Hoan Hỷ Cao Vương, Bồ-tát Đắc Thượng Thụ Tán rằng: Nếu thấy chúng sinh mỉm cười, trước nói khiến cho sinh vui mừng, nên được tự tại gọi là Cao vương; ở nơi địa vị quán đảnh được thọ ký trước. Tha tiến và tự tiến hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Đại Vân Tịnh Quang, Bồ-tát Đại Vân Trì Pháp, Bồ-tát Đại Vân Danh Xưng Hỷ Lạc, Bồ-tát Đại Vân Hiện Vô Biên Xưng. Tán rằng: Mây đại pháp trí chứa mưa các đức gọi là Đại vân, còn lại đều y theo đây. Trí có công năng trừ sạch dơ bẩn, tối tăm gọi là Tịnh quang, tham các công đức gọi là Trì pháp. Trừ ám và trì pháp hợp nhau. Tiếng tốt, khắp nơi nghe danh đều ưa thích, lạc âm ngũ hiếu phản danh, trùm khắp mười phương gọi là hiện vô biên xưng, vui của người và nghe xa hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Đại Vân Sư Tử Hống, Bồ-tát Đại Vân Ngưu Vương Hống, Bồ-tát Đại Vân Cát Tường, Bồ-tát Đại Vân Bảo Đức. Tán rằng: Việc làm quyết định gọi là Đại sư tử hống, thường dẹp tan kẻ thù gọi là đại vân ngưu vương hống. Trên đây hai thứ năng tác và năng hàng hợp nhau. Có công năng sinh ra phước lợi to lớn gọi là Cát tường; thiện pháp tự trang nghiêm gọi là Bảo đức, người được lợi ích, mình được lợi ích hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Đại Vân Nhật Tạng, Bồ-tát Đại Vân Nguyệt Tạng, Bồ-tát Đại Vân Tinh Quang, Bồ-tát Đại Vân Hỏa Quang. Tán rằng: Phá trừ tối tăm bất thiện giống như mặt trời, thường giúp cho yên vui giống như mặt trăng. Phá ác và chứng chân hợp nhau. Các thứ ánh sáng soi chiếu như các vì sao, tùy theo tình hình thành tựu như ánh lửa. Năng chiếu và năng thành hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Đại Vân Điện Quang, Bồ-tát Đại Vân Lôi Âm. Tán rằng: Trong đêm dài sinh tử thường làm ánh sáng chiếu soi, hiện bày chánh đạo gọi là Điện quang. Nói pháp kinh động sắc bén giống như tiếng sấm. Thị đạo và kinh ngộ hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Đại Vân Tuệ Vũ Sung Biến, Bồ-tát Đại Vân Thanh Tịnh Vũ Vương. Tán rằng: Pháp có công năng sinh ra trí gọi là Tuệ vũ, pháp có công năng dứt trừ tai chướng gọi là thanh tịnh vũ. Có uy lực cho nên giống như mưa, thảy đều lợi ích cho nên đầy khắp. Sinh thiện và diệt ác hợp nhau. Văn kinh: Bồ-tát Đại Vân Hoa Thọ Vương, Bồ-tát Đại Vân Thanh Liên Hoa Hương, Bồ-tát Đại Vân Bảo Chiên-đàn Hương Thanh Lương Thân. Tán rằng: Nhân hạnh đã đầy đủ, sắp được quả Giác, gọi là Thọ hoa vương. Thường giảng nói lý mầu mở mắt cho chúng sinh, công đức vang xa khắp nơi gọi là Thanh liên hoa hương. Được pháp thân thanh tịnh, đầy đủ năm phần hương gọi là Bảo Chiên-đàn hương. Thân thanh lương ở Pháp vân địa đạt được pháp thân trọn vẹn các công đức. Thành nhân và hiện quả hợp nhau. Hai vị đầu là nhân, dùng hoa đạt được quả. Một vị sau là quả, gọi là Lương thân. Văn kinh: Bồ-tát Đại Vân Trừ Ám, Bồ-tát Đại Vân Phá Ế. Tán rằng: Thường xua tan ngu si tăm tối gọi là Trừ ám, thường phá trừ hai chấp gọi là Phá ế. Phá ámvà trừ chấp hợp nhau. Văn kinh: Vô lượng các vị Đại Bồ-tát như thế. Tán rằng: Tổng kết. Văn kinh: Đều lúc xế chiều xuất định, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lùi lại ngồi về một phía. thích. Tán rằng: Đoạn văn đến chỗ Phật có bốn phần, như trước giải Văn kinh: Lại có năm ức tám ngàn vị đồng tử Lê-xa-tỳ. Tán rằng: Đoạn văn thứ ba chia ra làm bốn phần. Phần nêu bày loại số này, xưa nói: Lý-xa hoặc nói Ly-cô-tỳ, nay nói Lợi-xa-tỳ phẩm Vô Cấu Xứng trong kinh Duy-ma nói là năm trăm vị trưởng giả, không nói vương chủng, hoặc Vương chủng này cũng gọi trưởng giả, như trưởng giả Kỳ-vực. Văn kinh: Tên của họ là Đồng tử Sư Tử Quang, Đồng tử Sư Tử Tuệ, Đồng tử Pháp thụ. Tán rằng: Thứ hai là nêu ra tên gọi, có hai mục: Đầu nêu ra, sau kết thúc. Có quyết định trí quang, có quyết định tuệ, có khả năng trao chánh pháp cho các hữu tình. Như dưới đây phối hợp cả ba. Văn kinh: Đồng tử Nhân-đà-la Thụ, Đồng tử Đại Quang, Đồng tử Đại Mãnh, Đồng tử Phật Hộ, Đồng tử Pháp Hộ, Đồng tử Tăng Hộ. Tán rằng: Xin Thiên đế, Thiên đế trao cho gọi là Nhân-đà-la thu, thường dùng lửa trí phá tan tăm tối của tự và tha gọi là Hỏa quang. Mạnh mẽ nhất quyết tu đạo gọi là đại mãnh, nghó đến Phật Pháp Tăng gọi là Phật hộ v.v… Văn kinh: Đồng tử Kim cương Hộ, Đồng tử Hư Không Hộ, Đồng tử Hư Không Hống, Đồng tử Bảo Tạng, Đồng tử Cát Tường Diệu Tạng. Tán rằng: Giải thích theo đúng như tên gọi. Văn kinh: Các vị như thế là bậc Thượng thủ. Tán rằng: Kết thúc. Văn kinh: Thảy đều an trú Vô thượng Bồ-đề, đối với Đại thừa tin sâu hoan hỷ. Tán rằng: Khen ngợi công đức, đến địa vị không lui sụt nói là an trú Bồ-đề, lại làm thành lũy hộ pháp, trụ trì chánh pháp gọi là an trú Bồ-đề, chứng được niềm tin không hoại diệt, phát sinh vui mừng sâu sa. Văn kinh: Đều vào lúc xế chiều đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lùi lại ngồi về một phía. Tán rằng: Đến chỗ Phật. Văn kinh: Lại có bốn mươi hai ngàn vị Thiên tử, tên của họ là Thiên tử Hỷ Kiến, Thiên tử Hỷ Duyệt, Thiên tử Nhật Quang, Thiên tử Nguyệt Kế, Thiên tử Cát Tường. Các Thiên tử này đều là bậcc Thượng thủ, đều phát thệ nguyện rộng lớn che chở Đại thừa, tiếp nối hưng long chánh pháp, làm cho không dứt mất. Đều vào lúc xế chiều đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui lại ngồi về một phía. Tán rằng: Tiếp theo nêu ra các vị trời cũng có bốn phần, như trước. Phần nhiều là ở cõi trời Tam thập tam và cõi trời Tứ vương, đem gần nêu ra trước, thế tục đặt tên không thể giải thích đầy đủ được. Trong phần khen ngợi công đức có chia ra hai phần: Phát bốn thệ nguyện rộng lớn. Bảo vệ Đại thừa. Bảo vệ Đại thừa tức là giữ gìn chánh pháp, giữ gìn chánh pháp có khả năng gánh vác bốn trọng trách. Như kinh Thắng-man chép: “Cho nên thường tiếp nối hưng long chánh pháp”. Chánh pháp có ba, đó là chánh chứng, chánh hạnh, và chánh giáo, tự mình có khả năng giúp cho người khác nương vào chánh giáo phát khởi chánh hạnh, chứng đạt chánh quả. Luận Di-lặc Vấn có năm pháp, nhiếp lấy pháp mầu: Báo ân Phật. Tự thân khiến cho pháp mầu tồn tại lâu dài. Cúng dường các Đức Phật. Muốn làm lợi ích cho chúng sinh. Diệu pháp khó đạt được. Theo kinh Bảo Vũ quyển mười thì thành tựu mười pháp sau đây có công năng nhiếp lấy chánh pháp: Vào thời mạt pháp không ai có khả năng thọ trì, người có khả năng thọ trì đại Tố-đát lãm được cung kính cúng dường. Nói pháp cho người nghe. Thấy ai có khả năng tu học thì sinh tâm vui mừng. Lắng nghe chánh pháp không có tâm mong cầu. Đối với Pháp sư nghó là người dẫn đường. Đối với chánh pháp nghó là cam lồ. Đối với chánh pháp khởi tưởng như vị thuốc. Đối với chánh pháp khởi ý tưởng là vị thuốc tốt. Chỉ cầu chánh pháp, không màng đến thân mạng. Mong cầu chánh pháp khởi ý tưởng tu hành. Văn kinh: Lại có hai mươi tám ngàn vị Long vương: long vương Liên Hoa, long vương, Ế-la-diệp-năng, long vương Đại Lực, long vương Đại Hống, long vương Tiểu-ba, long vương Trì Sử Thủy, long vương Kim Diệp, long vương Như Ý, các long vương ấy đều là bậc thượng thủ, đối với pháp Đại thừa thường ưa thích thọ trì, phát tâm tin tưởng sâu sắc, xưng dương ủng hộ, đều vào lúc xế chiều đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lùi lại ngồi về một phía. Tán rằng: Văn cũng có bốn phần, như trước. Liên hoa đây là nương vào hoa ở trong hồ; Ế-la, Hán dịch là Thọ (cây), Bát-noa, Hán dịch là Diệp (lá), nương vào lá cây này mà trú; hoặc ăn lá cây này tức là long vương Thiện Trụ, cho đến Như ý dựa vào châu mà gọi tên. Khen ngợi công đức có ba thứ: Thọ trì chánh pháp. Khởi tâm tin tưởng sâu xa. Khen ngợi sự giữ gìn. Văn kinh: Lại có ba mươi sáu ngàn các chúng Dược-xoa, Thiên vương Tỳ-sa-môn, là bậc Thượng thủ, tên của họ là Dược-xoa Am-bà, Dược-xoa Trì-am-bà, Dược-xoa Liên Hoa Quang Tạng, Dược-xoa Liên Hoa Diệu, Dược-xoa Tần-mi, Dược-xoa Hiện Đại Bố, Dược-xoa Động Địa, Dược-xoa Thôn Thực, các Dược-xoa này thảy đều ưa thích chánh pháp của Như lai, tâm sâu xa bảo vệ giữ gìn không sinh mệt mỏi lười nhác, đều vào lúc xế chiều đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lùi lại ngồi về một phía. Tán rằng: Nêu ra chúng Dược-xoa, văn cũng chia làm bốn phần. Dược-xoa, Hán dịch là Dũng kiện, cũng dịch là Tiệp tật, cũng thuộc về các La-sát-bà Địa hành. La-sát-bà, Hán dịch là Bạo ác. Khen ngợi công đức có ba thứ: Yêu thích chánh pháp. Có khả năng che chở. Không hề mỏi mệt. Văn kinh: Lại có bốn mươi chín ngàn vị Yết-lộ-trà vương, Hương Tượng Thế Lực vương làm Thượng thủ. Tán rằng: chúng Điểu vương, Hán dịch là Diệu sí. Dưới đây thu- ận theo bản dịch cũ cũng gọi là Kim sí; chim và voi khác chủng loại, tức là Hương tượng vương. Văn kinh: Và còn Kiện-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Mạc-hô- lạc-già v.v… tất cả thần tiên núi rừng sông biển cùng tất cả các đại vua chúa, hậu phi trong cung, tịnh tín nam nữ đại chúng trời, người thảy đều tề tựu. Tán rằng: Nêu chung các chúng còn lại. Văn kinh: Đều nguyện ủng hộ pháp Đại thừa vô thượng, đọc tụng thọ trì, viết chép truyền bá khắp nơi. Tán rằng: Khen ngợi công đức có bốn loại: Phát nguyện ủng hộ. Tự mình trì tụng. Viết chép. Truyền bá khắp nơi. Văn kinh: Đều vào vào lúc xế chiều đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lùi lại ngồi về một phía. Tán rằng: Đến chỗ Phật. Văn kinh: Các Thanh văn, Bồ-tát, đại chúng trời người, tám bộ rồng thần như thế đã nhóm họp đều dốc lòng chắp tay cung kính chiêm ngưỡng tôn dung Đức Phật, mắt không hề rời khỏi. Tán rằng: Tổng kết có hai phần: Trước kết thúc, tiếp theo là nghi quỹ. Cầu pháp chuyên tâm chân thành cho nên dốc lòng. Bày tỏ sâu xa những gì đã nói cho nên chắp tay. Tôn sùng kính mến gọi là cung, rất cung gọi là kính. Nhìn thấy tướng nghiêm trang biểu hiện mong cầu thành tựu Phật quả, cho nên chiêm ngưỡng tôn dung, không còn ánh mắt nào khác một nên nói không tạm rời bỏ. Văn kinh: Nguyện ưa thích muốn nghe pháp mầu cao siêu. Tán rằng: Nói về Nhân thành tựu. Vì đại chúng muốn nghe, Phật mới có thể nói. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế tôn vào lúc xế chiều ngài xuất định, quán sát đại chúng. Tán rằng: Tựa phát khởi có hai phần. Đây là phần đầu Thời thành tựu và nói pháp dựa vào Oai nghi thành tựu, tức là xét cơ nghi. Có chỗ gọi là Thuyết nghi tròn đầy, vì bao gồm đầy đủ ý nghóa. Văn kinh: Nên nói tụng rằng: Pháp mầu Kim quang minh, vua các kinh tối thắng, sâu xa khó nghe được, cảnh giới của các Phật, nay nay nói kinh này, cho đại chúng được nghe. Tán rằng: Đây là nêu thuyết thành tựu, có hai mươi bốn bài tụng đại khái chia làm ba: Đầu một bài rưỡi nêu chung về sự thâm diệu, hứa giảng nói cho đại chúng nghe. Kế hai mươi bài rưỡi là nêu riêng về sở thuyết, khen ngợi tốt đẹp dạy bảo tu tập. Sau cùng có hai bài tổng kết lợi ích thù thắng, khen ngợi người khuyến khích tu học, đây chính là mở đầu. Tụng, xưa gọi là kệ, tiếng Phạm là Già-tha, lầm lẫn nên gọi là kệ, nghóa là khen ngợi sự tốt đẹp, tức ở đây là phúng tụng. Trước chưa có văn Văn xuôi thì làm tụng. nói. Hỏi: Phúng tụng và ứng tụng khác nhau thế nào? Đáp: Tụng trong ứng tụng là giáo, tụng trong phúng tụng là lời Hỏi rằng: Vì sao phúng tụng là ngôn, Ứng tụng là giáo? Đáp: Trong Du-già tám mươi mốt chép: Ứng tụng là nói văn xuôi, sau tuyên lại Già-đà. Ý nói Già-đà này trực tiếp giải thích các nghóa. Về phúng tụng, luận chép: Nghóa là dùng câu mà nói. Ý nói dùng câu để nói những điều nói kia. Trong một bài rưỡi thì hai câu đầu nêu ra giáo năng thuyên, hai câu tiếp nêu ra nghóa sở thuyên, hai câu sau hứa sẽ nói cho nghe. Vì có khả năng giải thích và nhân quả mầu của Bồ- đề, Niết-bàn kia nên gọi là tối thắng, là đứng đầu các kinh. Trong sở thuyên y cứ theo Đại thừa trang nghiêm kinh luận chép: “Cầu pháp có bốn nhân duyên: Một vì Sắc, hai vì Phi sắc, ba vì Thần thông, bốn vì Chánh pháp. Vì Sắc là nhân tướng tốt, vì Phi sắc là nhân để dứt bệnh phiền não, vì Thần thông là nhân của tự tại, vì Chánh pháp là nhân của vô tận”. Như kinh Phạm Thiên Vương Vấn chép: “Bồ-tát cầu pháp đầy đủ bốn ý tưởng: Một là như báu mầu, nghóa là tưởng khó được, hai là như thuốc hay, là nghó này hết bệnh, ba là như tài vật, nghóa là tưởng không phân tán, bốn là như Niết-bàn, nghóa là tưởng khổ diệt”. Vì pháp là nhân của tướng tốt trang nghiêm cho nên tưởng như báu mầu. Vì pháp là nhân để dứt bệnh phiền não cho nên tưởng như thuốc hay, vì pháp là nhân của thần thông tự tại cho nên nghó là tài vật. Vì pháp là nhân của chánh pháp vô tận cho nên nghó là Niết-bàn. Nay kinh này sâu xa khó được nghe, nêu ra ba nhân đầu, đều khó đạt được, cảnh giới của các Đức Phật, là nêu ra nhân thứ tư. Bởi vì đại Niết-bàn chỉ có Phật và Phật mới có khả năng rốt ráo tận cùng, là chỗ Phật đã đạt đến nên nói là cảnh giới Phật. Đây là nêu sở thuyết ở dưới. Nhân, quả thế gian và xuất thế gian đều hoàn toàn như vậy, đó là ý chỉ chung của kinh này. Văn kinh: Đồng thời bốn Đức Phật ở bốn phương, uy thần cùng che chở, phương Đông Phật A-súc, phương Nam Phật Bảo Tướng, phương Tây Phật Vô Lượng Thọ, phương Bắc Phật Thiên Cổ Âm. Tán rằng: Hai mươi bài rưỡi ở dưới nêu riêng về sở thuyết. Trong đó chia làm bốn: Ba bài rưỡi đều nêu ra tuổi thọ, xuống hết phẩm Mãn nguyện là phần Chánh tông của kinh, chính là pháp được nói rõ, gồm hai nhân hai quả. Sau “Chúng sinh thân bất cụ” trở xuống có sáu bài tụng, nêu phần Chánh tông khuyến khích tu học. Sau “Hộ thế tứ vương chúng” trở xuống có năm bài tụng, nêu ra sự tu hành thích hợp trong phẩm Quán sát trở xuống cho đến phần Phú chúc lưu thông. Sau “Nếu có người nghe kinh này” trở xuống có sáu bài tụng, nêu ra sự khen ngợi khuyến khích trì đọc trong các phẩm. 1.Trong ba bài rưỡi đều lại chia làm bảy: Một là một bài rưỡi nêu ra phẩm Thọ lượng. Hai là một câu “Ta lại giảng nói diệu pháp”, nêu ra phẩm Tam thân. Ba là hai câu “Cát tường rất cao quý trong các sám v.v…” nêu ra phẩm Sám hối. Bốn là Hai câu “Trừ sạch các nghiệp ác v.v…” nêu ra phẩm Diệt Nghiệp Chướng. Năm là câu “Thường đem đến vô lượng điều vui” nêu ra phẩm Tịnh Địa, phẩm Liên Hoa Dụ Tán, phẩm Kim Thắng Đà-la-ni. Sáu là Câu “căn bản của Nhất-thiết-trí” nêu ra phẩm Trùng hiển không tánh. Bảy là Câu “Các công đức trang nghiêm” nêu ra phẩm Y không mãn nguyện. Đây chính là mở đầu. Đức Thích-ca và bốn Đức Phật đồng nói kinh này cho nên gọi là cùng bốn Đức Phật ở bốn phương. Nhân duyên của bốn Đức Phật như kinh Quán Phật Tam-muội hải quyển bảy chép: “Bốn Đức Phật như Phật A-súc v.v… nói: Ta nhớ thuở xưa đã từng xuất gia học đạo với Đức Phật Không Sinh, lúc bốn Tỳ-kheo cùng là bạn đồng học. Sau khi Đức Phật Niết-bàn nhập tháp quán tượng, thấy tướng giữa hai đầu chân mày như Đức Phật không khác, nguyện dứt trừ tội lỗi của mình, như núi lớn sụp đổ, năm vóc cúi rạp sát đất sám hối mọi tội lỗi. Nhờ nhân duyên này mà tám mươi ức A-tăng-kỳ kiếp về sau không đọa vào đường ác, thường gặp các Đức Phật, ở chỗ các Đức Phật thọ trì Tam-muội niệm Phật sâu xa, đạt được Tam-muội rồi các Đức Phật hiện tiền thọ ký riêng cho Ta. Phương Đông có cõi nước tên là Diệu hỷ, Đức Phật đó hiệu là A- súc, tức là vị Tỳ-kheo thứ nhất. Phương Nam có cõi nước tên là Hoan hỷ, Đức Phật đó hiệu là Bảo Tướng, tức là vị Tỳ-kheo thứ hai. Phương Tây có cõi nước tên là Cực lạc, Đức Phật đó hiệu là Vô Lượng Thọ, tức là vị Tỳ-kheo thứ ba. Phương Bắc có cõi nước tên là Liên hoa trang nghiêm, Đức Phật đó hiệu là Vi Diệu Âm, tức là vị Tỳ-kheo thứ tư”. Hỏi: Vì sao bốn Đức Phật cùng nói kinh này? Đáp: Vì làm sáng tỏ bốn đức và Phật Thích ca, tức là nói lên quả Phật quả vốn có năm pháp, đó là bốn trí chân như vậy, thâu nhiếp cùng tận Bồ-đề, Niết-bàn. Văn kinh: Ta lại nói diệu pháp, cát tường cao quý trong các hối, thường diệt tất cả tội, trừ sạch các nghiệp ác. Tán rằng: Thứ hai, ba, bốn. Lại giảng nói pháp mầu nêu ra ba thân Vô thượng Bồ-đề, cho nên gọi là pháp mầu. Cát tường cao quý trong các sám, nương vào nguyện ba thân mà thực hành sám hối, thù thắng trong các pháp sám hối. Thường diệt trừ tất cả tội lỗi, đó là quả khổ và ba phiền não của ba đời, ba nghiệp, ba cõi, vì có khả năng chiết phục dứt trừ, phần sau kinh nói: “Trống Kim quang minh phát ra âm thanh rất hay, vang khắp tam thiên đại thiên thế giới, thường diệt trừ tội lỗi cực nặng trong ba đường cho đến các khổ đau ách nạn của trời, người”. Nói trừ sạch các nghiệp ác nêu ra phẩm Diệt nghiệp chướng ở dưới. Nghiệp và nhân của nghiệp đều gọi là nghiệp ác, vì thế trong luận Duy thức chép: “Quyến thuộc của nghiệp cũng đặt ra tên gọi là nghiệp; hoặc nhân ác phát khởi nghiệp cảm, nghiệp của ác quả cũng gọi là nghiệp ác. Bởi vì có thể là ác cho nên ba cõi đều như vậy; hoặc không có chủng tánh, chỉ trừ nghiệp trong ba đường tám nạn”. Văn kinh: Và tiêu trừ các khổ nạn, thường cho vô lượng vui, cội gốc Nhất thiết trí, các công đức trang nghiêm. Tán rằng: Câu đầu là nêu ra phẩm Diệt nghiệp chướng. Câu trước các nghiệp ác là nhân, đây là chiêu cảm quả ác chung cho quả ba cõi. Nếu y cứ theo vô tánh chỉ có ba đường tám nạn và một ít phần trong tám khổ, không lìa xa khổ sinh, già, chết và khổ năm uẩn hừng hực. Thường cho vô lượng vui- nêu ra ba phẩm Tịnh địa, Liên hoa tán, Kim thắng ở dưới, tu hạnh sáu Độ đạt được mười quả vương và Phật vị, vô tánh lạc, nhân thiên lạc, hữu tánh và Phật vị v.v… cội gốc của Nhất thiết trí nêu ra phẩm Trùng hiển không tánh, vì lý chân như là tánh chân không, gọi là Như lai tạng. Cùng các công đức là nương theo để thọ trì. Luận Bảo tánh giải thích: Vô thỉ thời giới, giới (cõi) là nhân của pháp, tức là dùng chân như làm nhân của các pháp, nhân là gốc cho nên là gốc trí. Dùng Nhất thiết trí chứng chân như cho nên chỉ nói cội gốc của Nhất thiết trí. Dựa vào thực tế hiểu rõ tục đế từ đó chứng Chân-đế, cũng là gốc của Nhất-thiết-chủng-trí. Y theo chứng trí nói sơ lược về chủng trí đó, hoặc Nhất thiết trí không phải là Nhất thiết trí trong hai trí. Đây là nói chung về tất cả các trí, tức là mười trí, bốn trí v.v… gọi là Nhất thiết trí. Như thế đều là gốc cho nên nói cội gốc của Nhất thiết trí. Các công đức trang nghiêm nêu ra phẩm Y không mãn nguyện, do dựa theo chân lý để khởi tu, đã chứng đức bổn, cho nên có thể trọn vẹn đầy đủ tất cả công đức chân thật trang nghiêm. Như kinh Bát-nhã chép: Cõi trang nghiêm thân trang nghiêm đều khiến cho quán xét lý mới bắt đầu được trọn vẹn, kinh này cũng giống như thế. Văn kinh: Chúng sinh Thân không đủ, tuổi thọ sắp hoại diệt, các tướng ác hiện bày, trời thần đều lìa bỏ. Tán rằng: Ở dưới nêu ra sự khuyến khích tu học trong phần Chánh Tông, trong đó chia làm hai: Ba bài rưỡi đầu nêu ra các khổ nạn, khiến cho nảy sinh chán ngán lìa bỏ; hai bài rưỡi sau đó nói kinh có công năng dứt trừ khiến cho vui mừng tu học. Phần đầu lại chia làm hai: Hai bài đầu nói về quả ác, một bài rưỡi sau đó nói về nhân khổ. Trong hai bài đầu lại chia ra làm hai: Một bài trước nói về khổ trong thân, một bài sau nói về khổ duyên bên ngoài. Đây chính là nội thân. Thân không đầy đủ thiếu sót các căn, tức là thuộc về khổ sinh, hoặc thuộc về khổ bệnh. Tuổi thọ sắp hoại diệt, nghiệp hết, duyên không còn, hoặc oan uổng ngang trái mà bỏ mạng, tức là khổ chết. Các tướng ác hiện ra như chim kêu những việc quái lạ, hoa trên đều héo úa, bốn đại rối loạn, sắc tướng suy hao thay đổi, tức là khổ lão bệnh. Như các khổ sinh, chết, già, bệnh dưới đây. Tuổi thọ chưa hết là vì tu phước nghiệp, các thần hộ vệ các nghiệp hết. Nếu hiện tiền không thể tu điều lành thì thiện thần lìa bỏ. Văn kinh: Bạn thân giận ghét, quyến thuộc đều chia lìa, kia đây chống trái nhau, tài sản đều mất mát. Tán rằng: Khổ duyên bên ngoài, bạn thân có tâm giận ghét là khổ oán ghét mà gặp nhau quyến thuộc đều xa lìa là khổ thương yêu mà chia lìa, kia đây chống trái nhau, kia đây chống trái nhau, tài sản đều mất mát là khổ cầu mong không được. Văn kinh: Sao xấu hiện điềm lạ, hoặc bị tà độc hại, lại lắm khổ lo buồn, các khổ đều ép ngặt. Tán rằng: Nói về nhân khổ, một bài đầu là nhân khổ bên ngoài, nửa hàng sau là nhân khổ bên trong. Văn kinh: Nằm ngủ thấy ác mộng, do đó sinh phiền não. Tán rằng: Đây là khổ nhân bên trong. Văn kinh: Người này nên tắm gội, nên mặc áo sạch mới, đối với kinh vương vi diệu mà Đức Phật hết lòng khen ngợi này, chú tâm không tán loạn, đọc tụng, nghe và thọ trì. Tán rằng: Dưới đây nói về năng lực của kinh có thể trừ dẹp, khiến cho vui mừng tu học, có ba. Nửa hàng đầu là oai nghi tu học, một bài tiếp theo là hạnh chánh tu, một bài sau là tóm kết công lực của kinh. Hai câu đầu trong hạnh chánh tu nói về pháp tu học, hai câu sau nói về hạnh chánh tu. Đối với việc đọc và tụng, hoặc nghe và thọ trì đều phải chuyên chú tâm ý không để tán loạn, tức là đọc tụng v.v… phát sinh văn tuệ, thọ trì phát sinh tu tuệ, theo đó hiển bày tư tuệ. Hoặc tâm chuyên chú không tán loạn, phát sinh suy nghó, còn lại là văn tu, đầy đủ ba tuệ. Đồng thời tắm gội, mặc y sạch là giới học, chuyên chú là định học, đọc tụng v.v… là tuệ học, khiến cho nương vào kinh này mà tu ba học đó. Văn kinh: Do uy lực kinh này, mà lìa các tai họa, và dứt các nạn khổ, tất cả đều dứt trừ. Tán rằng: Tóm kết về năng lực công đức. Văn kinh: Bốn vị vua trời che chở thế gian và đại thần quyến thuộc, vô lượng các Dược-xoa, đều một lòng ủng hộ. Tán rằng: Dưới đây nêu ra phần Lưu thông có năm bài. Nêu các pháp tu hành thích hợp, ở đây nêu ra phẩm Quán Sát Nhân Thiên, phẩm Tứ Thiên Vương Hộ Quốc, phẩm Vô Đắm nhiễm, phẩm Như Ý. Văn kinh: Thiên nữ Đại biện Tài, thủy thần sông Ni Liên, mẫu thần Ha-lợi-đề, các địa thần Kiên Lao. Tán rằng: Một bài này nêu ra phẩm Đại biện Tài Thiên nữ, phẩm Cát Tường Thiên nữ, phẩm Thêm lớn Tài Vật, phẩm Kiên Lao Địa Thần. Ha-lợi-đề, Hán dịch là Thanh Sắc, là mẹ của quỷ La-xoa, có năm trăm người con, hết lòng ủng hộ Tam bảo và trẻ nhỏ trai gái. Văn kinh: Phạm vương Đế-thích chủ, Long vương Khẩn-na-la, chim đầu đàn cánh vàng, A-tô-la Thiên chúng, các vị Thiên thần ấy, cùng đem quyến thuộc mình đến giúp đỡ người này, ngày đêm thường không lìa. Tán rằng: Nêu ra phẩm Tăng Thận-nhó-da Dược-xoa Đại Tướng, phẩm Vương Pháp Chánh Luận, phẩm Thiện Sinh Vương, phẩm Chư Thiên Dược-xoa Thủ Hộ. Lại giải thích: Chánh biết rõ có nêu trong thần mẹ Ha-lợi-đề, hoặc phẩm Thiện Sinh Vương trong Vương Pháp Chánh Luận đều được nêu trong bài tụng của kinh này mà ta sẽ nói, bởi vì cùng là Phật nói cho nên nêu lên một chỗ. Văn kinh: Ta sẽ nói kinh này, chỗ Phật hành sâu xa, giáo nghóa bí mật của các Đức Phật, ngàn muôn kiếp khó gặp. Tán rằng: nêu ra phẩm Thọ Ký trở xuống, hành xứ của Phật sâu xa, nêu Phẩm Thọ Ký, phẩm Liệu bệnh, phẩm Trưởng Giả Tử Lưu Thủy, phẩm Xả Thân, Vô thượng Bồ-đề chỉ có Phật mới hiểu rõ, nên gọi là chỗ thực hành của Phật. Các phẩm như phẩm Liệu Bệnh v.v… là nhân hạnh của Phật. Hai câu “giáo bí mật của các Đức Phật…”nêu ra các phẩm ở dưới, các Đức Phật che chở muốn căn cơ Đại thừa thành thục nên mới ban cho gọi là Bí, thâm diệu khó hiểu gọi là Mật. Do vậy ngàn muôn đời kiếp khó được nghe đến, cho nên nay được nghe đọc, ngợi khen đồng thời phó chúc. Văn kinh: Nếu người nghe kinh này, thường giảng nói cho người, nếu tâm sinh vui theo, hoặc bày lễ cúng dường. Tán rằng: Sáu bài dưới là đoạn thứ tư nêu ra sự khuyến khích ngợi khen trì tụng trong các phẩm của phần Lưu thông, trong đó chia làm ba: Một bài đầu nêu lên sự khuyến khích trì đọc, ba hàng tiếp theo nói về lợi ích đạt được, hai bài sau dạy về thứ lớp tu trì. Đây là mở đầy. Luận Biện Trung Biên có tụng về mười pháp hành, đó là: cúng dường, viết chép, giúp người, lắng nghe, mở đọc, thọ trì, mở bày giảng nói, phúng tụng, suy nghó và tu. Một là cúng dường, hai là viết chép, ba là giúp người, bốn là lắng nghe, năm là mở đọc, sáu là thọ trì, bảy là giảng nói, tám là phúng tụng, chín là suy nghó, mười là tu tập. Tám việc đầu là văn tuệ, suy nghó là tư tuệ, tu tập là tu tuệ. “Nghe kinh này” ở đây là lắng nghe, “giảng nói” tức là mở bày giảng nói, “cúng dường” tức là hạnh đầu tiên, sơ lược nêu ra ba hạnh: Lắng nghe và cúng dường là tự lợi, giảng nói nói là lợi tha, cho nên nêu ba hạnh, thực tế có mười hạnh. Vui theo đó là đối với mười pháp hành đều có bốn loại: Tự mình thực hiện mười pháp hành. Dạy bảo người. Vui mừng khuyến khích. Vui theo. Ở đây nêu lên các thứ dễ để làm sáng tỏ những thứ còn lại. Văn kinh: Những người như vậy, trong vô lượng kiếp, sẽ thường được các trời người, rồng thần cung kính. Tán rằng: Thứ hai là nói về lợi ích đạt được có ba: Thứ nhất là được hộ vệ, đây là thứ nhất. Văn kinh: Nhóm phước này vô lượng, số hơn hẳn hằng sa, người đọc tụng kinh này, sẽ được công đức ấy. Tán rằng: Thứ hai là thành tựu nhân tốt đẹp. Văn kinh: Cũng được Phật mười phương, các Bồ-tát hạnh sâu, ủng hộ người trì kinh, khiến lìa các khổ nạn. Tán rằng: Thứ ba là các Thánh che chở. Văn kinh: Người cúng dường kinh này, như trước tắm gội thân, thức ăn và hương hoa, ý thường khởi từ bi, hoặc muốn nghe kinh này, khiến tâm tịnh không bẩn, thường sinh niệm hoan hỷ, nuôi lớn các công đức. Tán rằng: Dạy thọ trì kinh quỹ, chia làm hai: Một bài đầu là dạy lợi tha, một bài sau là tự lợi. Văn kinh: Nếu với tâm tôn trọng, người lắng nghe kinh này, hoặc sinh làm thân người, xa lìa các khổ nạn, gốc lành người ấy thành, các Phật đều khen ngợi, mới được nghe kinh này, cho đến pháp sám hối. Tán rằng: Tổng kết khuyến khích có hai: Một bài đầu kết thúc khuyến khích đạt được quả tốt đẹp, một bài sau kết thúc khuyến khích thành tựu nhân tốt. Đạt được quả có hai: Một là quả hữu lậu sinh trong loài người, xa lìa các khổ nạn chẳng những chỉ xa lìa các nạn mà còn xa lìa tám nạn, nếu nói đến quả cao siêu sợ rằng người sơ cơ không thể nào tin được.  KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH SỚ <卷>QUYỂN 2 (Phần đầu) <詞>Phẩm 2: NHƯ LAI THỌ LUỢNG Phẩm Như lai tuổi thọ lược chia theo ba môn: Vì sao có phẩm này Giải thích tên gọi. Giải thích câu hỏi. Nói về vì sao có phẩm này đại khái có năm phần: Giúp phát sinh hiểu đúng. Giúp đạt được Bồ-đề. Giúp đạt được Niết-bàn. Giúp khởi lên diệu hạnh. Vì cơ cảm. Nói phát sinh hiểu đúng: từ phẩm này về sau đến phẩm Y Không Mãn Nguyện là chín phẩm, nói về Chánh tông của kinh, hai phẩm đầu nói về quả, năm phẩm tiếp theo nói về hạnh, hai phẩm sau nói về cảnh. Lại giải thích: Hai phẩm đầu nói chung và riêng về quả, khiến cho vui thích, tiếp đến phẩm Mộng Kiến Sám Hối về sau là muốn khiến cho tu hành, căn bản của sự tu hành không ngoài bỏ ác làm lành. Hai phẩm Sám Hối và Diệt Chướng là dứt ác, trở về sau là tu thiện. Trong sự tu thiện đầu tiên là tịnh tu các địa. Kế là phẩm Liên Hoa Dụ Tán là dứt nghi nói về nhân, phẩm Kim Thắng Đà-la-ni khiến cho thấy các Đức Phật khiến hạnh không lui sụt, phẩm Trùng Hiển Không Tánh muốn làm cho hạnh phù hợp với chân, phẩm Y Không Mãn Nguyện chứng được lý hạnh trọn vẹn. Nay phẩm này chính là nói chung về Bồ-đề, Niết-bàn và nói riêng về Niết-bàn. Nếu đại chúng không nghe Như lai vì đó nói về Bồ-đề, Niết-bàn tức là không thể nào hiệu đúng, đã không hiểu đúng thì làm sao có thể cầu tu tập thắng quả Bồ-đề, Niết-bàn vô thượng, do đó chỗ này trước hết nói về quả, khiến phát sinh hiểu biết, cho nên văn sau nói: “Vì muốn lợi ích cho chúng sinh này và các hạng ngoại đạo, khiến cho các hạng người ấy sinh ra hiểu đúng”. Khiến đạt được Bồ-đề: Các Đức Phật ra đời mục đích là muốn cho chúng sinh đạt được quả Bồ-đề, quả đạt được không luống dối, chắc chắn nhờ vào nhân thực hành, nhờ nương vào cảnh phát sinh thực hành mới đạt được vị. Nếu trước tiên không nói về quả thì không thể khiến cho khởi tâm vui mừng, tâm vui mừng đã sinh ra tức là nguyện tu hành, đã khiến cho tu hành thì kế là nói về cảnh. Trước đã kể rõ lý do khiến cho tất cả đều mong mỏi khao khát được nghe kinh. Đức Thế tôn sẽ nói cho đại chúng nghe về Tông, trước là nói về tuổi thọ Như lai, muốn làm cho người nghe chứng được Bồ-đề, cho nên tiếp theo sau nói: “Vì muốn lợi ích cho các chúng sinh và các hạng ngoại đạo, khiến cho các loại như thế phát sinh hiểu đúng, mau chóng thành tựu Vô thượng Bồ-đề”. Vì vậy sau phẩm Tựa có phẩm này phát sinh. Khiến đạt được Niết-bàn: Ở dưới nói: “Nhưng Đức Như lai đó muốn giúp cho chúng sinh thấy Niết-bàn rồi thì nghó là khó gặp v.v…”. Còn trong luận Nhiếp Đại Thừa chép: “Phật vì những người thấy Như lai thường không ưa thích Niết-bàn, mà hiện Niết-bàn khiến cho ưa thích viên tịch”, vì vậy sau phẩm Tựa nói về tuổi thọ của Như lai. Khiến phát khởi diệu hạnh: Văn sau nói: “Đối với kinh giáo các Đức Thế tôn đã nói, mau chóng nên thọ trì đọc tụng thông thuộc, giải thích cho người nghe, không sinh chê bai, vì thế cho nên Như lai hiện tuổi thọ ngắn ngủi tức là khiến cho phát khởi hạnh”. Vì vậy phát sinh phẩm này. Vì cơ cảm: Ba mươi hai ngàn vị Thiên tử nghe nói về tuổi thọ đều phát tâm Bồ-đề, là nhờ cơ cảm nên nghe, nghe liền được lợi ích, các lợi ích khác theo đó có thể biết. Nói về giải thích, ba thân của các Đức Phật đều gọi là Như lai. Thọ tức là mạng, Lượng nghóa là hạn lượng; hoặc nói là lượng độ, tức là giới hạn đo lường mức độ tuổi thọ của Phật, tức là số lượng tuổi thọ của Như lai, hoặc là mức thọ của Như lai, đều là y chủ thích, tức là nhậm vận pháp tánh mà bất động. Tùy theo nguyện duyên mà nối nhau, ứng với căn cơ chúng sinh nên không đứt quãng, thọ đức khó đo lường, tức là nương theo pháp tánh giữ lấy tướng công đức. Quyết định ngưng trụ sâu xa là mạng căn của Pháp thân. Giống như Phật và cõi, tánh tướng có khác nhau, ở đây lẽ ra cũng phải như vậy. Hoặc ngay nơi tướng công đức tự bất động nên có thể giữ gìn tự thể gọi là tuổi thọ. Nương vào cảnh trí chủng tùy thuộc vào đại nguyện chủng lực khiến cho bốn trí phẩm quyết định nói nhau cùng tận các cõi chúng sinh, là tuổi thọ của Báo thân. Từ đại bi chủng lực tùy theo cơ duyên cảm ứng của chúng sinh mà hiện bày thân sắc uẩn có giới hạn nhất định, là tuổi thọ của hai thân Tha Thọ dụng và Biến Hóa. Thể có khả năng giả lập cho nên suy nghó cũng thuộc về nguyện, không trái với duy thức, do nghiệp dẫn dắt. Về những câu vặn hỏi. Hỏi: Phật có ba thân, nay nói tuổi thọ của thân nào? Đáp: Nói đủ cả ba thân, cho nên Trần-như Lãnh Giải nói: “Tánh Pháp thân thường trú, tu hành không khác nhau, thể các Đức Phật cùng đồng, pháp đã nói cũng vậy”, đó là Pháp thân các Đức Phật vô tác, lại cũng vốn là vô sinh, giải thích rằng: Các Đức Phật vô tác là không tạo tác nghiệp phiền não, lại cũng vốn là vô sinh không có phiền não sinh ra. Luận Bát-nhã của ngài Thiên Thân nói về báo Phật thọ lạc rằng: “Lìa xa các lậu và pháp hữu vi”. Lìa xa các lậu tức là vốn vô sinh, và pháp hữu vi chính là vô tác ở đây nói. Hoặc có thể, không gây ra nghiệp hữu lậu, không phát sinh phiền não. Lại nói: Thể Kim cương của các Đức Phật thích ứng hiện bày nơi Hóa thân tức là Hóa thân, cho nên xuyên suốt cả ba thân Phật. Hỏi: Ứng hóa và hành pháp do hai nhân chiêu cảm, thấy có điểm đáng nghi; tự tánh chẳng phải do nhân sinh ra, thân tự thọ dụng chẳng phải ngoài cảnh thấy, không nghi ngờ ở điểm đó cần gì phải nói về Thọ? Đáp: Tự tánh tuy chẳng phải từ nhân sinh ra nhưng do nhân mà chứng; tự thọ dụng thân tuy chẳng phải ngoài cảnh thấy nhưng nói hai là muốn khiến cho kính mến mong cầu, Diệu Tràng nghi ngờ về giả hóa sinh, Phật do đó nói đầy đủ về ba thọ. Hỏi: Vì sao Đức Thích-ca hiện thân ở cõi này không tự mình nói về thọ mà khiến người khác nói? Đáp: Chúng sinh nên nghe mới hiển rõ bốn đức, dứt nghi thù thắng. Nếu chỉ tự mình nói thì người khác chẳng quyết đoán. Hỏi: Bốn Đức Phật nói về thọ, Diệu Tràng đã hiểu rõ, sao lại nhờ ngài Thích-ca lần lượt nhắc lại? Đáp: Diệu quả Vô thượng Bồ-đề, Niết-bàn, nếu như không nói nhiều lần thì không thể hiểu rõ được, vì vậy bốn Đức Phật lần lượt nói và ngài Thích-ca nhắc lại, Trần-như lại hỏi, vui mừng thấy càng rõ ràng. Bốn Phật tức là biểu trưng cho bốn đức, ba lần nói tức là ba thân, y theo nhiều nguyên nhân không chỉ là nói một lần. Hỏi: Theo văn mà suy xét về lý thì chỉ nói đến Bồ-đề, vì sao ở đây nói cũng trình bày về viên tịch? Đáp: Y theo kinh này văn sau nói: “Lúc nghe tuổi thọ mọi người được lợi ích”. Còn Diệu Tràng nói: “Tự mình ở trước Phật và bốn Đức Như lai cùng hai Đại Só, các vị Thiên tử nghe nói về tuổi thọ của Đức Thích-ca Mâu-ni Như lai xong bèn đứng dậy khỏi chỗ ngồi bạch rằng: Vì sao trong kinh nói có Niết-bàn và xá-lợi của Phật”. Đây chính là lúc mọi người được lợi ích. Lại nói là nói xong, tức là nói rõ ở trước Phật nghe xong về tuổi thọ rồi, nay lại thưa hỏi thuyết có Niết-bàn. Đức Phật lại trả lời rằng: “Như vậy nên biết có mười pháp, có thể hiểu rõ nghóa lý chân thật của Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói có rốt ráo đại Nhập Niết-bàn”. Còn theo Luận Kinh Pháp hoa của Bồ-tát Thiên Thân giải thích: “Văn trong phẩm Thọ lượng trước tiên nói về Tuổi thọ để làm rõ Bồ-đề vô thượng, nói thí dụ thầy thuốc để làm rõ Niết-bàn vô thượng. Nay trong kinh này đầu tiên nói về sự sống lâu để làm rõ Bồ-đề. Lại nói thí dụ về cha mẹ, tài vật v.v… để làm rõ Niết-bàn. Hỏi: Nếu vậy vì sao hai thí dụ khác nhau? Đáp: Sự việc kia y theo trừ ác cho nên thí dụ thầy thuốc, ở đây dụ cho sinh lên cõi trời cho nên thí dụ là cha mẹ. Lại nữa, thầy thuốc và cha mẹ là thí dụ tuy khác nhau, nhưng thị hiện bất diệt khiến cho sinh lòng kính mến thì ý nghóa tương tự nhau. Hỏi: Bốn Đức Như lai ở trong thất của Diệu Tràng nói thì Bấy giờ Khánh Hỷ đang ở núi Thứu Phong, vì sao lúc kiết tập lại nói: “Tôi nghe v.v…”? Đáp: Theo văn dưới nói: “Bồ-tát Diệu Tràng cùng vô lượng đại chúng đến núi Thứu Phong đảnh lễ dưới chân Phật, đem những việc như trên bạch lên Thế tôn”. Vì thế cho nên có thể nói: “Tôi nghe như vầy”. Hỏi: Trong văn đã có chung riêng khác nhau, vì sao không xếp Niết-bàn vào phẩm riêng như ba thân? Đáp: Bởi vì văn không nhiều, sự tướng như nhau cho nên kết hợp thành một phẩm. Văn kinh: Lúc đó, trong thành lớn Vương xá, có một vị Bồ-tát Ma-ha-tát tên là Diệu Tràng. Tán rằng: Ngay trong phẩm này toàn văn chia làm hai. Nói chung về Bồ-đề, Niết-bàn. “Lúc đó, Bồ-tát Diệu Tràng tự mình đối trước Đức Phật” về sau là nói riêng về Niết-bàn. Văn phần một có năm: Diệu Tràng nghi ngờ tuổi thọ ngắn ngủi của Phật. Các Đức Phật khác nói về mạng thọ vô cùng. Đức Thích-ca tự nói về thường an. Hỷ Kiến lại trở thành bất diệt. Bấy giờ, đại chúng hiểu rõ, đạt được lợi ích thành thật. Văn phần một có ba: Nêu ý nghó cầu thỉnh người. Nói về cảnh nghi ngờ. Kể lại nguyên nhân nghi ngờ. Văn phần một lại có ba: Nói về trú xứ. Nêu ra tên gọi. Sơ lược khen ngợi công đức. Văn phần thứ hai: Thắng trí rất tuyệt vời, một mình vượt hẳn mọi biểu tướng, giả dụ lập ra tên gọi là Diệu Tràng. Tiếng Phạm là Cù-lô- chỉ-la, Hán dịch là Diệu, Kê-đầu gọi là tràng; Sao Tuệ gọi Tràng, xưa dịch là Tín Tướng. Tướng ấy tiếng Phạm gọi là Da-sắc-trí, nay đã gọi Cù-lô-chỉ-la; vì là Kê-đầu cho nên gọi là Diệu Tràng. Tin tánh là thanh tịnh, diệu nghóa tương tự như Tràng, là cao hiển, cho nên lầm gọi là Tướng. Văn kinh: Đã ở nơi vô lượng câu-chi na-dữu-đa trăm ngàn Đức Phật quá khứ kính thờ cúng dường, gieo trồng các gốc lành. Tán rằng: Khen ngợi công đức. Câu-chi, theo luận Câu-xá thì: Mười ức là một câu-chi. Theo phẩm Tâm Vương Bồ-tát Vấn Tăng-kỳ trong kinh Hoa Nghiêm thì: Vạn muôn là một ức, ức ức là một câu-lê; câu-lê là câu-chi, âm hơi khác mà thôi. Vô lượng là tên số, dùng số vô lượng đếm câu-chi na-dữu-đa. Đích xác mười ngàn là một muôn, trăm ngàn là mười muôn, tức là vô lượng số câu-chi na-dữu-đa ngàn muôn Đức Phật. Nên trong luận Câu-xá cho rằng mười muôn là một ức, luận Đại Trí Độ cho ngàn muôn là một ức, Kinh Hoa Nghiêm cho vạn muôn là một ức. Số này có ba hạng, đó là tiểu, trung, đại. Luận Câu-xá, luận Đại Trí Độ, kinh Hoa Nghiêm như thứ lớp, y vào số tiểu, trung, đại ở đây thì điều này bất định. Thừa sự tức là gần gũi; cúng dường là tu mười cúng dường; gốc lành tức là phước trí; thực nghóa là gieo trồng. Văn kinh: Lúc đó, Bồ-tát Diệu Tràng ngồi một mình nơi vắng lặng, nghó rằng vì nhân duyên gì Đức Thích-ca Mâu-ni Như lai có tuổi thọ ngắn ngủi chỉ trong tám mươi năm?. Tán rằng: Cảnh nghi ngờ. Văn kinh: Lại nghó rằng, dường như Phật đã nói có hai nhân duyên khiến được tuổi thọ lâu dài. Tán rằng: Nói về lý do nghi ngờ, có ba: Nhắc lại nguyên nhân nghi ngờ. Mượn vi trưng thích. Trở thành ý nghi ngờ lúc trước. Đây là mở đầu. Văn kinh: Sao nói là hai? Một là không hại sinh mạng, hai là giúp thức ăn uống cho người. Tán rằng: Mượn vi trưng thích. Văn kinh: Nhưng Đức Thích-ca Như lai trong vô lượng trăm ngàn muôn ức vô số đại kiếp không hề hại đến sinh mạng, thực hành mười điều lành, thường ban thức ăn uống cho tất cả chúng sinh đói khát, cho chí máu thịt xương tủy thân mình cũng ban cho khiến chúng sinh được no đủ, huống là những thức ăn uống khác. Tán rằng: Đây trở thành ý nghi ngờ ở trước. Theo văn kinh này và kinh Niết-bàn, thì Nhân duyên sống lâu, chính là muôn hạnh, cho nên đạt được ba thân. Nhưng nêu ra ban cho thức ăn và không sát sinh, thì thông với ở đây. Vì nhân duyên tuổi thọ của hữu tình nên cố ý nêu hỏi, sợ rằng chúng sinh thấy Phật thọ tám mươi năm lại càng nghi ngờ, không sát sinh và bố thí thức ăn uống chẳng chiêu cảm gì đến sống lâu, muốn khiến cho nương vào thân nuôi lớn đạo, tiếp nhận mọi vật dễ dàng. Văn kinh: Tức thì Bồ-tát kia lúc Thế tôn nghó như vậy. Tán rằng: phần Thứ hai là các Đức Phật khác nói về tuổi thọ vô cùng có sáu: Phật khác hiện thân. Diệu Tràng vui mừng thưa hỏi. Đức Phật ấy trả lời. Diệu Tràng hỏi lại. Phật lại nói rõ. Nói xong liền biến mất. Đây tức là “Phật khác hiện thân” thứ nhất, văn chia làm tám: Lập tức hiện rõ. Biến ra cõi thanh tịnh. Tòa báu trang nghiêm. Thân Phật cao lớn. Phát ra ánh sáng chiếu soi cảnh giới. Ánh sáng hiện bày sự tốt lành. Ánh sáng lợi ích chúng sinh. Chỉ bày sơ lược về tổng kết. Đây là mở đầu. Vì Phật nói pháp không có bốn điều sai trái, cho nên ứng vào lúc Bồ-tát nghó đến mà hiện bày. Văn kinh: Nhờ uy lực của Phật, ngôi gthất đó bỗng nhiên rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh, lưu ly xanh của trời Đế-thích, các thứ chất báu nhiều màu rực rỡ trang sức giống như tịnh độ của Phật, có hương thơm vi diệu hơn hẳn các hương cõi trời, ngào ngạt sực nức. Tán rằng: Hai là biến ra cõi thanh tịnh có bốn: Nêu ra người năng biến. Nói về mức độ của cõi biến. Tướng của cõi sở biến. Nói về hương xông thơm ngát. Hỏi: Đây là Phật nào biến hiện? Đáp: Một giải thích là do Phật Thích-ca biến hiện, như kinh Pháp Hoa, muốn hóa Phật nhóm họp nên Phật Thích-ca biến hiện. Có chỗ giải thích là do bốn Đức Phật biến hiện, cũng như Diệu Âm sắp đến cõi này trước tiên hiện bày các thứ hoa hương, tòa ngồi v.v… Hai cách giải thích đều đúng. Vì sao? Vì phát ra ánh sáng hiện bày điềm lành khiến sinh lòng yêu thích ở dưới đều là do bốn Đức Như lai. Vì thế biết rằng Tịnh độ cũng là do bốn Đức Phật biến hiện. Nói lưu ly xanh của Đế- thích là thứ báu lưu ly màu xanh của trời Đế-thích, là thứ báu tốt đẹp trong các thứ báu cho nên cố ý nêu ra. Tâm hữu lậu hạn cuộc, tâm vô lậu thông suốt, cho nên rộng lớn thanh tịnh. Do trí vô phân biệt cho nên có lưu ly xanh của trời Đế-thích, thất của Diệu Tràng thanh tịnh giống như tịnh độ của Phật, có đủ năm phần hương, đọc phần văn giải thích có thể biết. Văn kinh: Ở bốn phía đó đều có tòa sư tử tốt đẹp do bốn thứ báu hợp thành, dùng y báu cõi trời mà trải trên đó, lại trên tòa này có hoa sen xinh đẹp các loại quý báu dùng để trang nghiêm đẹp đẽ, lượng bằng với Như lai tự nhiên hiển hiện. Tán rằng: Ba là biến hiện tòa báu có bốn: Thể của tòa bằng bốn thứ báu là biểu thị cho bốn loại chúng sinh đều được thành Phật cho nên dùng bốn thứ báu tạo thành, như nơi chốn của sư tử đầu đàn. Nói bốn thứ báu đó là: một là vàng; hai là Bạc; ba là pha lưu ly, bốn là pha-chi-ca, biểu thị cho bốn vô úy. Dùng y báu cõi trời các thứ đó là thứ hai nói về sự trần thiết trang hoàng, biểu thị cho tịnh mạng. Lại ở nơi các tòa này là thứ ba nói về sự trang nghiêm, biểu thị ra khỏi sinh tử được hoa bảy giác, châu báu để làm đẹp cũng là sự trang nghiêm của bảy thứ tài sản của bậc Thánh. Vì lượng tòa báu xứng hợp với thân cho nên lượng bằng với Như lai. Không do năng lực của Diệu Tràng nên nói tự nhiên hiển hiện. Văn kinh: Ở trên hoa sen có bốn Đức Như lai, Bất Động Như lai ở phương Đông, Bảo Tướng Như lai ở phương Nam, Vô lượng Thọ Như lai ở phương Tây, Thiên Cổ Âm Như lai ở phương Bắc, bốn Đức Như lai này đều ở nơi tòa đó ngồi kiết già. Tán rằng: Bốn Đức Như lai giáng xuống ngồi trên hoa sen dụ cho pháp thân. Bốn Đức Phật biểu thị cho bốn đức. Vì sao bốn phương mỗi phương đều hiện một vị Phật, biểu thị cho bốn đức phải không? Đáp: Như trong kinh nói: “Bốn phương dụ cho Sinh, Trụ, Dị, Diệt, đây là tướng hữu vi. Bốn đức ngược lại với bốn phương, không Sinh, Trụ, Di, Diệt cho nên bốn phương hiện rõ”. Hỏi: Trong bốn oai nghi đều có thể nói pháp, vì sao phải hiện tướng ngồi kiết già? Đáp: Tùy theo sự ưa thích của cơ nghi đó mà hiện bày. Theo luận Du-già ba mươi nói có năm nhân duyên: “Do thân thâu nhiếp, thúc liễm mau phát khinh an. Do ngồi yên ổn có thể qua thời gian lâu. Do ngồi yên vui như vậy chính là pháp bất cộng. Do ngồi yên ổn nên hình tướng đoan nghiêm. Do ngồi yên ổn như vậy nên Phật và đệ tử cùng một nơi chốn.” Theo Đại Trí Độ Luận vì đó là hàng ma, cho nên luận đó nói: “Thấy dáng ngồi kiết già, ma vương tự kinh sợ, huống là người nhập đạo, ngồi thẳng không ngã nghiêng”. Luận Bát-nhã của Vô Trước chép: “Chỉ người ngồi yên lặng, thường biết nói các pháp”. Đây là nghóa trú định vì thuận theo tướng ngồi, là tỏ rõ khả năng hiểu biết các pháp, khả năng nói về các pháp, cần phải y theo sự đạt định mà đạt định là do ngồi. Văn kinh: Phát ra ánh sáng rực rỡ soi chiếu khắp thành lớn Vương xá và tam thiên đại thiên thế giới này cho đến hằng hà sa các cõi nước của các Đức Phật khắp mười phương. Tán rằng: Năm là phát ra ánh sáng chiếu soi cảnh giới. Theo luận Già-da Sơn Đảnh Kinh chép: “Phát ra ánh sáng có bảy nghóa: Khiến cho phát sinh niềm tin thanh tịnh, biết là người thù thắng; Phá tan tăm tối ngu si buông lung. Đầy đủ như Pháp Hoa Sớ có nói. Ánh sáng có ba tiết: a) Vương xá; b) Đại thiên; c) Mười phương muốn hiển bảy ba thân cho nên hiện rõ ba bậc. Lại nói về được thấy ba thân lần lượt, vì thế đầu tiên thấy Hóa thân, tiếp đến thấy Ứng thân, sau cùng thấy Pháp thân. Nêu ra hằng hà sa có năm ý của nó, cũng như Pháp Hoa Sớ. Cảnh giới đại thiên số lượng không nhất định, xem trong Du-già Sao. Văn kinh: Các hoa cõi trời tuôn rải như mưa, trổi các nhạc trời. Tán rằng: Sáu là ánh sáng hiện bày tốt lành. Hoa tuôn rải như mưa có năm nghóa như Pháp Hoa Sớ, trỗi nhạc biểu thị cho được nghe pháp vui mừng. Văn kinh: Bấy giờ, trong Thiệm Bộ Châu này và tam thiên đại thiên thế giới tất cả chúng sinh nhờ vào uy lực của Phật được vui sướng thắng diệu không hề thiếu kém. Tán rằng: Bảy là ánh sáng lợi ích chúng sinh có hai loại: Đầu tiên được vui sướng, sau đó lìa khổ đau. Đây là mở đầu. Hỏi: Ánh sáng soi chiếu cõi này, cõi này nhìn thấy ánh sáng đạt được lợi ích cũng đến mười phương, sao mười phương không được lợi ích? Đáp: Lẽ ra đều được lợi ích, nhưng lược bỏ không nói. Văn kinh: Nếu thân không được đầy đủ đều được đầy đủ, người mù được nhìn thấy, người điếc được nghe rõ, người câm nói được, người ngu được hiểu biết, nếu người tâm tán loạn đạt được tâm định ban đầu, nếu người không có áo mặc sẽ được áo mặc, người bị ác tặc được người khác cung kính, người bị dơ bẩn thì thân được sạch sẽ. Tán rằng: Lìa khổ đau, tuy lúc lìa khổ ngược lại được vui lại nói lìa khổ ở đây; lìa chín khổ, theo văn có thể biết. Theo luận Du-già: “Các Đức Phật Như lai đều phát sinh uy lực thường khiến cho hữu tình thấy được chính là lợi ích”. Nếu thân không đầy đủ nghóa là thiếu hụt tay chân, hoàng môn hai hình v.v… những quả báo xấu như vậy nhân đó có thể biết. Nhưng luận Đại Trí Độ tám và các kinh Nghiệp Báo Khác nhau v.v… đều có nói rộng. Văn kinh: Tất cả việc lợi ích chưa từng có trên thế gian này thảy đều hiển hiện. Tán rằng: Lược chỉ bày tổng kết. Văn kinh: Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Tràng thấy bốn Đức Như lai và sự việc ít có nên vui mừng hớn hở, chắp tay một lòng chiêm ngưỡng tướng thù thắng của các Đức Phật. Tán rằng: Thứ hai là Diệu Tràng vui vẻ thưa hỏi. Trong đó có hai: Các Đức Phật và hữu tình đều vui. Cầu xin dứt trừ nghi ngờ. Đây là mở đầu. Hiện bày thanh tịnh ngồi trên hoa sen phát ra ánh sáng, lợi ích muôn vật và những sự việc hiếm có. Quán sát tướng đại nhân của bốn Đức Như lai gọi là tướng thù thắng. Văn kinh: Cũng lại suy nghó về vô lượng công đức của Đức Thích- ca Mâu-ni Như lai, chỉ đối với tuổi thọ sinh tâm nghi ngờ vì sao Như lai có công đức vô lượng mà tuổi thọ ngắn ngủi chỉ có tám mươi tuổi. Tán rằng: Cầu xin dứt trừ nghi ngờ có hai: Tâm nghi ngờ. Thỉnh cầu. Tướng tốt đồng với các Đức Phật, tình huống sinh nghi ngờ, tuổi thọ khác với Phật Di-đà v.v… cho nên nói chỉ đối với tuổi thọ sinh tâm nghi ngờ. Văn kinh: Lúc đó, bốn Đức Phật nói với Bồ-tát Diệu Tràng rằng: Nay thiện nam! Nay ông không nên suy nghó về tuổi thọ dài ngắn của Như lai. Vì sao? Này người thiện nam! Chúng ta không thấy các vị trời, thế gian, Phạm ma, Sa-môn, Bà-la-môn, người và phi nhân có khả năng tính biết tuổi thọ của Phật, biết được giới hạn đó. Tán rằng: Thứ ba là Đức Phật đó trả lời, có ba: Lược nêu khó nghó suy. Nhóm họp đại chúng để giải thích. Kết thành nhân quả khuyên nhắc đừng sinh tâm nghi ngờ, ba bài tụng sau, đây là mở đầu. Có hai: Người khác không thể đo lường. Chỉ riêng Phật mới biết được. Trong phần một có ba: Ngừng sự sai trái. Kết thúc. Để giải thích. Văn kinh: Chỉ riêng bậc Vô thượng Chánh giác mới biết điều đó. Tán rằng: Chỉ có Phật mới biết được. Văn kinh: Bấy giờ, bốn Đức Như lai muốn nói về tuổi thọ sẵn có của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nhờ vào uy thần của Phật tất cả các tầng trời cõi Dục, cõi Sắc, các rồng quỷ thần, Kiền-thát-bà, A-tu-la, Yết-lộ-trà, Khẩn-na-la, Mạc-hô-lạc-già cùng vô lượng trăm ngàn ức na-dữu-đa Bồ-tát Ma-ha-tát đều đến nhóm họp đồng đủ vào trong thất tịnh Diệu của Bồ-tát Diệu Tràng. Tán rằng: Nhóm hợp đại chúng để giải thích. Trước tiên nhóm họp đại chúng, sau đó mới nói. Nhóm hợp đại chúng ở đây, trước đó tuy nêu ra có tám bộ chúng nhưng có chúng đến, có chúng không đến. Nay nhân Phật phát ra ánh sáng cộng thêm uy lực kêu gọi mới có thể nhóm họp đầy đủ. Hỏi: Kinh khác phát ra ánh sáng, chúng đều lập tức nhóm họp, vì sao chúng ở đây gặp ánh sáng không đến? Đáp: Đến, có trước sau, tuy gặp ánh sáng soi chiếu ban đầu không thể đến được, nhân đó Phật lại tăng thêm mới bắt đầu có thể đến, hoặc uy lực của Phật chính là ánh sáng vẫy gọi. Văn kinh: Bấy giờ, bốn Đức Phật ở trước đại chúng muốn hiển bày tuổi thọ sẵn có của Đức Thích-ca Mâu-ni Như lai nên nói tụng rằng. Tán rằng: Để giải thích có hai: Nói tựa kiết tập. Phật vì đó nói cho đại chúng nghe. Đây là mở đầu. Văn kinh: Với nước trong tất cả các biển thì có thể biết được số giọt, nhưng không ai có thể đếm biết tuổi thọ của Đức Thích-ca. Chia chẻ các núi Diệu Cao thành những hạt cải cũng có thể biết được số lượng hạt cải đó, nhưng không ai có thể đếm biết tuổi thọ của Đức Thích-ca. Đất tất cả mặt đất cũng có thể biết được số hạt bụi của nó, nhưng không ai có thể đếm biết tuổi thọ của Đức Thích-ca. Dù cho đo lường hư không có thể cùng tận được bờ mé, nhưng không có ai đếm biết được tuổi thọ của Đức Thích-ca. Tán rằng: Phật nói cho người đó nghe, chia làm hai: Bốn bài đầu là phần thí dụ, thứ năm một bài là phần tính toán. Trong bốn bài thí dụ, tương truyền có hai cách giải thích: Một nói rằng: “Bốn bài như dưới đây hiển bày bốn đức thường lạc ngã tịnh, như lần lượt có thể dứt bỏ bốn chướng bất tín, chấp ngã, sợ khổ, bỏ tâm. Một nói rằng: “Dùng bốn thân Phật để hiển bày tuổi thọ, đó là Hóa thân, Ứng thân, vừa Ứng vừa Hóa, chẳng phải Ứng chẳng phải Hóa. Như thứ lớp là dụ cho Hóa thân ẩn đây hiện kia, cho nên lấy nước làm thí dụ, Hóa thân nương vào Ứng thân mà hiện rõ như nước chảy ra khỏi núi, cho nên lấy núi làm thí dụ; toàn câu tự thọ dụng như mặt đất là nơi nương vào của núi và nước; câu thứ tư dụ cho pháp, vì không có hình tướng. Văn kinh: Nếu người trụ ức kiếp, ra sức thường tính đếm, lại cũng không thể biết, tuổi thọ của Thế tôn. Tán rằng: Là phần tính toán. Văn kinh: Không hại mạng chúng sinh, ban cho thức ăn uống, do hai thứ nhân này, được tuổi thọ lâu dài, cho nên Đấng Đại Giác, tuổi thọ khó đếm biết, như kiếp không giới hạn, tuổi thọ cũng như vậy. Tán rằng: Kết thành nhân quả, khuyên nhắc đừng sinh nghi ngờ. Hai bài tụng này kết thành hai nhân, chiêu cảm quả sống lâu. Văn kinh: Diệu Tràng ông nên biết, không nên sinh nghi ngờ, tối thắng thọ vô lượng, không ai đếm biết được. Tán rằng: Khuyên nhắc đừng sinh nghi ngờ. Văn kinh: Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Tràng nghe bốn Đức Như lai nói về tuổi thọ vô hạn của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nên bạch với Thế tôn rằng: Vì sao Như lai thị hiện tuổi thọ ngắn ngủi như thế?. Tán rằng: Thứ tư là Diệu Tràng lại thưa hỏi: Thật ra tuổi thọ dài lâu của Phật con đã hiểu sơ qua, có lý do gì mà Ngài hiện bày tuổi thọ ngắn ngủi như vậy? Trước đó chỉ trả lời là lâu dài, nhưng chưa giải thích lý do tuổi thọ ngắn ngủi, vì thế nay lại thưa hỏi. Theo Du-già quyển tám mươi mốt chép: “Giải thích vặn hỏi, nếu tự mình hoặc người khác vặn hỏi đều nên giải thích”. Nên biết rằng vặn hỏi này sơ lược do năm tướng: Vì chưa hiểu rõ nghóa nên được hiểu rõ ràng, như nói văn này có nghóa gì? Vì lời trái nhau, như nói vì sao trước đây nói khác. Vì đạo lý trái nhau, như có nghóa hiển bày trái với bốn đạo lý. Vì không quyết định hiển bày, như nói vì sao đối với một loại nghóa lại hiển bày nhiều loại dị môn khác nhau. Vì rốt ráo chẳng đúng lý hiện đang thấy, như nói trong ta có thể tánh gì, có sắc tướng gì mà nói là thường hằng v.v… Đối với năm thứ vặn hỏi này không thuận theo, lần lượt cần phải giải thích, nghóa là đối với vặn hỏi không hiểu rõ nghóa nên phương tiện hiển bày rõ ràng, đối với vặn hỏi lời nói trái nhau nên hiển bày ý thì thuận theo thông suốt. Như vậy đối với vặn hỏi không quyết định hiển bày, đối với vặn hỏi rốt ráo chẳng đúng lý hiện đang thấy, nên biết rằng cũng thế. Đối với vặn hỏi trái với đạo lý, hoặc dùng ngu giáo mà phán quyết; ý này không hiểu rõ, nương vào Tiểu thừa mà nói gọi là Ngu giáo. Hoặc y theo đạo lý, hoặc vì đó tăng phần quả, hoặc vì đó tăng phần nhân, ý ở đây là hoặc tùy chuyển, hoặc phương tiện, vì dứt ác làm lành, tất cả nhân quả nói có trái ngược, nhưng lý thật không trái. Nhưng vặn hỏi tuy có năm thứ, theo Du-già giải thích trong mỗi vặn hỏi đều có năm ý: Vì không hiểu. Vì nghi ngờ. Vì thử nghiệm. Vì khinh xúc. Vì lợi lạc. Nay trong năm vặn hỏi là vặn hỏi vì lời nói trái nhau, Đức Thích- ca nói là ngắn ngủi, bốn Đức Phật nói là dài lâu. Có sự trái này nên nêu ra để vặn hỏi. Trong năm ý, đây là ý lợi ích cho nên hỏi. Văn kinh: Lúc đó, bốn Đức Thế tôn bảo với Bồ-tát Diệu Tràng rằng: Này người thiện nam! Lúc Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đó xuất hiện nơi cõi có năm thứ vẩn đục. Tán rằng: Thứ năm là Đức Phật đó nói rộng ra. Văn chia làm ba: Tiêu. Thích. Thành. “Này người thiện nam! Các Như lai này” trở xuống là phần đầu. Trong đó nêu ba thứ: Nêu hiện thời đoản thọ. Nêu nguyên nhân hiện bày ngắn ngủi. Kết thúc nêu đoản thọ. Đây là nêu ra Thời. Ý nghóa của năm thứ vẩn đục như Pháp Hoa Sớ có giải thích, cũng chính là nêu chung về năm thứ vẩn đục. Văn kinh: Người sống trăm tuổi, bẩm tánh thấp kém, gốc lành ít ỏi lại không tin hiểu. Tán rằng: Nêu nguyên nhân hiện bày ngắn ngủi. Nguyên nhân có hai: Là diệt ác, tức là xả bỏ sinh tử. Là sinh thiện, tức khiến đạt được Bồ-đề. Ở đây là diệt ác, cũng giải thích riêng về năm thứ vẩn đục, vẩn đục có năm thứ, trong này nêu ra bốn: Mạng trược, đó là người sống trăm tuổi. Vẩn đục về Hữu tình . Trong hữu tình trược có ba: Một là ý vui không rộng lớn, đó là bẩm tánh thấp kém; hai là vốn không có phước tuệ, đó là gốc lành ít ỏi, ba là có nhiều u mê ngu muội, đó là không tin hiểu. Văn kinh: Các chúng sinh này có nhiều ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh, thọ giả, nuôi lớn các tà kiến, ngã, ngã sở kiến, đoạn kiến, thường kiến v.v…. Tán rằng: Đây là kiến trược. Trong các kinh luận đã nói về ngã kiến có nhiều thứ khác nhau, như Thành Duy Thức Nghóa Đăng có nói rộng, nay chỉ dựa vào văn giải thích sơ lược. Nói về ngã trong Du-già quyển tám mươi ba gồm có tám thứ, ở đây chỉ nêu ra năm thứ. 1. Luận Ngã Kiến chép: “Y theo năm thủ uẩn, ngã, ngã sở kiến, hiện tiền lưu hành”. Nay văn này đã nói riêng về ngã, ngã sở kiến, tức là chung riêng khác nhau; Du-già y theo chung, ở đây gồm cả chung, riêng. Ở đây nói ngã kiến tức là Vô ngã, ngã sở. Nhân kiến tức là hữu tình kiến, nghóa là các bậc thánh hiền biết rõ ràng như thật chỉ có pháp này không có pháp nào khác; lại vì có ái trước. Chúng sinh kiến tức là Sác thủ thú kiến, nghóa là thường thường hướng đến các đường, không hề biết thỏa mãn. Hai thứ này theo La- thập dịch gọi là ngã nhân, chúng sinh, thọ giả kiến, tức trong Du-già gọi là mạng giả, nghóa là chính thọ hòa hợp hiện tại còn hoạt động cho nên gọi là mạng. Theo luận Bát-nhã của Bồ-tát Thiên Thân chép: Ngã chúng sinh mạng giả, giải thích rằng: Thấy năm uẩn khác nhau, mỗi mỗi ấm là ngã, như thế vọng giữ lấy gọi là ngã kiến. Ý này tính chung ba đời năm uẩn khác nhau là ngã kiến, thân nối nhau không xen hở gọi là chúng sinh. Ở đây tính năm uẩn từ trước đến nay nối nhau không xen hở cho nên gọi là chúng sinh. Một báo mạng căn không ngừng an trụ, là mạng. Ở đây chấp hiện tại đang có mạng, sau khi mạng căn chấm dứt sinh vào sáu đường, đó gọi là thọ. Ở đây thấy vị lai sinh thọ lại khởi lên. Đây là y theo năm uẩn chung riêng khác nhau. Dưỡng dục tức là nuôi sống hiện tại, có thể được só phu sử dụng, lại có thể thêm lớn sự nghiệp sau này. Tà kiến tức là tà kiến trong năm kiến, ngã, ngã sở kiến nghóa là dựa vào năm uẩn khởi lên mười lăm kiến v.v… Đoạn kiến, thường kiến chính là biên kiến. Đoạn là bảy đoạn diệt, thường là bốn biến thường v.v… lại nói Đẳng là đẳng thủ kiến, giới thủ kiến và tùy phiền não. Lược bỏ không có kiếp trược, bởi vì ngoại cảnh chẳng phải là cảnh sở hóa, chẳng phải ác thể cho nên lược bỏ không nêu. Văn kinh: Vì muốn làm lợi ích cho các loài chúng sinh này và các ngoại đạo, giúp các loài như thế sinh khởi hiểu đúng, mau đạt được sự thành tựu Bồ-đề vô thượng. Tán rằng: Vì muốn giúp cho sinh thiện, đạt được Bồ-đề. Dị sinh, ngoại đạo tức là vì người, phân biệt với các chúng Đại Bồ-tát nhập địa, từ Sơ địa trở lên lại thấy là dài lâu, chẳng phải không hiện diệt. Văn kinh: Cho nên Đức Thích-ca Mâu-ni Như lai thị hiện tuổi thọ ngắn ngủi như vậy. Tán rằng: Kết thúc nêu lên đoản thọ. Văn kinh: Này người thiện nam! Nhưng Đức Như lai đó muốn làm cho chúng sinh thấy Niết-bàn rồi sinh ý tưởng khó gặp, ý tưởng lo buồn khổ sở v.v… Tán rằng: Dưới đây là phần thứ hai giải thích. Văn chia làm ba: Pháp thuyết. Dụ hợp. Kết thuyết. Đầu tiên trong pháp thuyết lại chia làm năm: Giải thích. Giả trưng. Vị thông. Hỏi vặn lại. Giải nạn. Ở đây giải thích có ba: Khiến đối với Phật khởi tâm mong mỏi kính mến. Khiến đối với pháp sinh ý nghó tu tập. Khúc kết. Đây là mở đầu. Do đó kinh Pháp Hoa chép: “Nếu Ta an trú lâu dài chúng sinh không thể sinh ra ý tưởng khó gặp, khởi lên các tâm khát khao”. Ý đồng với ở đây. Nhưng hiện Niết-bàn theo Đại Bát-nhã Tối Thắng Thiên Vương Hội có một nhân, “Vì các hữu tình thích nghe viên tịch cho nên hiện Niết-bàn”. Luận Pháp Hoa chép: “Vì dứt trừ, đối với Đại thừa không nhóm hợp gốc lành khởi tăng thượng mạn, vì đối trị nên nói thí dụ về thầy thuốc này”. Thị hiện Như lai Nhập Niết-bàn lượng, trong Nhiếp Luận của ngài Vô Tánh nói có sáu nguyên nhân, Như lai hóa thân không trụ nơi rốt ráo, đầy đủ như luận ấy giải thích rõ. Theo kinh Pháp Hoa chép: “Phật sự rốt ráo đã có mười nghóa, thị hiện đại Niết-bàn: Nói tất cả hành đều là vô thường. Nói tất cả hữu vi chẳng phải an ổn. Nói hướng đến Niết-bàn là an ổn nhất. Nói Niết-bàn xa lìa tất cả sự sợ hãi. Vì các trời người say đắm sắc thân mà nói sắc thân là vô thường, là pháp hoại diệt, khiến cho tất cả cầu pháp thân thanh tịnh, chỗ này thích hợp với nghóa thứ hai trong Nhiếp Luận. Nói sức mạnh của Vô thường không thể nào chuyển đổi. Nói pháp hữu vi không tự tại. Nói pháp trong ba cõi đều giống như đồ vật hư hoại, không vững chắc. Nói Nhập Niết-bàn là chân thật nhất, không thể hư hoại. Nói Nhập Niết-bàn xa lìa sinh tử, không còn sinh diệt”. Dùng mười nghóa này để thị hiện Niết-bàn. Nay văn kinh này tóm lại có: Khiến phát sinh hiểu đúng. Mau chóng được thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Khiến cho thấy diệt độ rồi đối với các Đức Phật khởi lên ý tưởng khó gặp. Khiến đối với lời Phật dạy mau chóng tu hành. Tức là văn nêu ở trước và văn giải thích này có đủ bốn nghóa như vậy, cũng là vì khiến cho gieo trồng các gốc lành khởi tu tin hiểu, dứt bỏ tà kiến. Lưu lại xương cốt xá-lợi khiến chúng sinh cúng dường được các phước đức, tức là ở sau Trần-như thỉnh xá-lợi Phật, cho đến cuối kinh Phật trả lời Diệu Tràng rằng: “Hoặc lúc thấy có người Nhập Niết-bàn, đó là phương tiện quyền biến, và để lại xá-lợi khiến cho các hữu tình cung kính cúng dường. Hoặc người cúng dường ở đời vị lai xa lìa tám nạn, được kính thờ các Đức Phật, gặp các bậc Thiện tri thức, không mất tâm lành, phước báo vô cùng”. Khiến cho hữu tình chứng được viên tịch, tức sau cuối nói: “Mau được ra khỏi, không bị sự ràng buộc của sinh tử”. Ở đây, theo Nhiếp Đại Thừa cũng vì người ưa thích thường, không mong cầu viên tịch mà thị hiện Niết-bàn. Văn kinh: Đối với kinh giáo của Phật Thế tôn nói hãy mau chóng thọ trì đọc tụng thông thuộc, giải thích cho người nghe, không sinh chê bai. Tán rằng: Hai là khiến đối với pháp khởi lên ý nghó tu tập có mười pháp hành, ở đây lược nêu bốn thứ: Thọ trì. Mở đọc. Tụng tán. Giảng nói. Đầu tiên là ba hạnh tự lợi, sau đó là một hạnh lợi tha, phỏng theo hiển bày các hạnh khác. Trong mười pháp hành mỗi pháp đều có bốn, đó là tự tác v.v… Ở đây nói không chê bai tức là phát sinh vui theo, đối với kinh giáo Phật đã nói sinh tâm vui theo là nói nơi người trì tụng cũng phát sinh vui theo mà không chê bai, tạm thời nêu ra các hạnh dễ hành. Văn kinh: Cho nên Như lai hiện bày đoản thọ. Tán rằng: Kết thúc hai phần. Văn kinh: Vì sao?. Tán rằng: Giả trưng. Vì sao thấy Đức Phật Niết-bàn lại sinh ra ý tưởng khó gặp, khởi tâm trì pháp, v.v… Văn kinh: Các chúng sinh kia nếu thấy Như lai không Nhập Niết- bàn thì không sinh ý tưởng cung kính khó gặp. Tán rằng: Ba là thông suốt. Đây là sinh ra ý nghó khó gặp. Văn kinh: Kinh điển sâu xa Như lai đã nói cũng không thọ trì đọc tụng thông suốt, không giảng nói cho người nghe. Tán rằng: Đây là chung khởi tâm trì pháp. Văn kinh: Vì sao?. Tán rằng: Bốn là vặn hỏi. Nếu thấy Như lai không nhập Niết- bàn, không khởi ý tưởng khó gặp và trì pháp. Lý do là vì như thế. Văn kinh: Vì thường thấy Phật nên không tôn trọng. Tán rằng: Đây là giải thích lời vặn hỏi. Nếu thấy Phật diệt độ sợ rằng không còn gặp nên sinh ý tưởng khó gặp. Đã thấy an trụ lâu dài thì cho rằng thường tồn tại, không sinh ý tưởng hiếm có khó gặp, tâm muốn cúng dường nên không tôn trọng đối với Phật, đã không tôn trọng đối với pháp đã nói, cũng không gọi là mong mỏi được nghe, vì thế không tu hành. Văn kinh: Này người thiện nam! Giống như có người thấy cha mẹ họ có nhiều tài sản châu báu đầy đủ liền đối với tài sản đó không sinh ý tưởng hiếm có khó được. Tán rằng: Hai là dụ hợp, có hai: Dụ cho an trụ lâu dài không mừng. Dụ cho thấy diệt độ yêu quý. Trong phần một có hai: 1) Dụ; 2) Hợp. Trong phần một là Dụ có ba: Đầu là Dụ; tiếp theo là Trưng, sau cùng Giải thích. Người dụ cho dị sinh ngoại đạo, cha mẹ dụ cho Phật. Vì có khả năng sinh ra và lớn lên thân phước trí nên có nhiều tài sản, dụ cho Phật an trụ lâu dài pháp tài đầy đủ nên không thể sinh ra ý tưởng khó gặp. Theo văn chỉ đối với pháp không thể sinh ra ý tưởng khó gặp, thật ra làm hiển bày Phật. Do đó, trong hợp ở dưới là riêng hợp với Phật. Trong giải thích có cả hai. Văn kinh: Vì sao? Tán rằng: nêu ra. Văn kinh: Vì đối với tài vật của cha mẹ sinh ra ý tưởng thường còn. Tán rằng: Giải thích. Nên cho rằng cha mẹ thường còn, đối với tài vật của cha mẹ sinh ý tưởng thường còn. Hai nghóa kết hợp rõ ràng. Hoặc do thí dụ trước đây chỉ dụ cho đối với tài vật không sinh ý tưởng khó gặp. Nay cũng nêu ra và giải thích đối với tài vật. Văn kinh: Này người thiện nam! Các chúng sinh kia cũng giống như vậy, nếu thấy Như lai không nhập Niết-bàn thì không sinh ý tưởng hiếm có khó gặp. Vì sao? Vì thường thấy. Tán rằng: Hợp. Văn cũng có ba: đầu là Hợp; tiếp theo là nêu ra; sau cùng là giải thích. Ba văn khác nhau. Văn kinh: Này người thiện nam! Thí như có người cha mẹ nghèo khổ, tiền của thiếu hụt. Tán rằng: Thấy diệt độ nên yêu quý, văn dụ có hai, như trước. Văn dụ có năm: Dụ Phật thị hiện diệt độ. Dụ kính Phật khó gặp. Dụ quý pháp cầu học. Nêu ra. Giải thích. Đây là mở đầu. Văn kinh: Nhưng người nghèo khó kia hoặc vào nhà vua, hoặc nhà quan lớn thấy kho tàng của họ các loại châu báu tài vật thảy đều đầy đủ nên sinh tâm hiếm có nghó rằng khó gặp. Tán rằng: không có sự cứu giúp che chở này cho nên khởi tâm yêu quý mong cầu, đây chính là dụ cho kính Phật khó gặp. Nói “nhưng người nghèo khó” kia là dụ cho chúng sinh ngoại đạo, tâm của họ kém cỏi, gốc lành mỏng manh. “Hoặc vào nhà vua” là dụ cho giác ngộ mới đối với Thế tôn khởi ý tưởng khó gặp, cho nên như vị vua chúa. “Hoặc nhà quan lớn” là giống như Đại Bồ-tát, tuổi thọ cũng lâu dài vì chúng sinh hiện bày nhân ngắn ngủi cũng giác ngộ. Văn kinh: Bấy giờ, người nghèo khó kia vì muốn cầu tài vật nên lập ra nhiều phương tiện siêng năng không lười biếng. Tán rằng: Dụ cho yêu quý pháp cầu tu học. Văn kinh: Vì sao? Vì lìa bỏ nghèo khó, được vui sướng. Tán rằng: kinh nêu ra có thể biết. Văn kinh: Này người thiện nam! Các chúng sinh đó cũng giống như vậy, nếu thấy Như lai nhập Niết-bàn nên sinh ý tưởng khó gặp, cho đến các tướng buồn rầu đau khổ. Tán rằng: Đây là hợp. Hợp này dụ cho Phật thị hiện diệt độ. Văn kinh: Lại nghó rằng: Trong vô lượng kiếp các Đức Như lai xuất hiện ra nơi thế gian như lúc hoa Ưu-đàm-bát vừa xuất hiện thì các chúng sinh đó phát tâm ít có khởi lên ý tưởng khó gặp, giống như thấy Như lai tâm sinh ra cung kính tin tưởng. Tán rằng: Kết hợp dụ cho kính Phật, khó gặp. Văn có ba phần, đó là pháp, dụ, hợp. Văn kinh: Nghe nói đến chánh pháp sinh ý tưởng thật ngữ, tất cả kinh điển thảy đều thọ trì không sinh chê bai. Tán rằng: Kết hợp dụ cho yêu quý pháp cầu tu học. Văn kinh: Này người thiện nam! Vì nhân duyên này nên Đức Phật đó không an trụ lâu dài ở thế gian mà mau chóng nhập Niết-bàn. Tán rằng: Kết thúc dụ. Văn kinh: Này người thiện nam! Các Đức Như lai đó dùng những phương tiện khéo léo như vậy để thành tựu chúng sinh. Tán rằng: Cuối cùng thành tựu. Văn kinh: Bấy giờ, bốn Đức Phật nói lời này xong, bỗng nhiên biến mất. Tán rằng: Thứ sáu là nói xong biến mất. Trên là nói chung về các Đức Phật cõi khác nói về tuổi thọ vô cùng. Văn kinh: Lúc đó, Bồ-tát Diệu Tràng cùng vô lượng trăm ngàn vị Bồ-tát và vô lượng ức na-dữu-đa trăm ngàn chúng sinh đều cùng nhau đến chỗ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trong núi Thứu Phong, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng về một phía. Tán rằng: Đức Thích-ca tự nói về sự thường an ổn. Đoạn văn này có bốn phần: Diệu tràng đến. Bạch Phật điều đã nghe. Bốn Đức Phật đề nghị nói rõ. Đức Thích-ca vì đó nói. Đây là mở đầu. Văn kinh: Lúc đó, Bồ-tát Diệu Tràng đem mọi chuyện như trên bạch lên Đức Thế tôn. Tán rằng: Bạch lại điều đã nghe. Văn kinh: Lúc đó, bốn Đức Phật cũng đến núi Thứu Phong, chỗ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cư trú và đều tùy theo phương của mình đến tòa mà ngồi. Tán rằng: Bốn Đức Phật đề nghị nói rõ. Văn chia làm ba: Bốn Đức Phật đều đến. Sai sử trình bày. Thị giả truyền lệnh. Đây chính là mở đầu. Hỏi: Bốn Đức Phật sắp đến, nơi thất của Diệu Tràng bỗng nhiên trở thành chỗ ngồi, đến núi Thứu Phong không nói rời chỗ ngồi, bốn Đức Phật an tọa như thế nào? Đáp: Trong này phải là Đức Thích-ca biến hóa tòa báu, văn lược bỏ không nói. Hỏi: Vì sao đến trong thất của Diệu Tràng, bốn Đức Phật tự biến hiện; đến nơi núi Linh Thứu thì Đức Thích-ca biến hiện? Đáp: Người dưới không ngờ người trên đến, cho nên bốn Đức Phật tự biến hiện; Đức Thích-ca có thể biết các Đức Phật đến cho nên biến hiện tòa báu an tọa. Văn kinh: Bảo thị giả Bồ-tát rằng: Này người thiện nam! Nay ông có thể đến chỗ Đức Thích-ca Mâu-ni hỏi thăm giúp ta rằng, ngài ít bệnh ít lo, cuộc sống thanh thản an vui lợi ích hay không?. Tán rằng: Phần hai, sai thị giả hỏi thăm, có ba: Hỏi chung. Thưa hỏi. Vui theo. Đây là mở đầu. Văn kinh: Lại nói như vậy: Hay thay! Hay thay! Đức Phật Thích- ca Mâu-ni bây giờ hãy giảng nói về pháp yếu sâu xa của kinh Kim Quang Minh để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, trừ bỏ mất mùa đói kém, khiến cho được yên ổn vui sướng, ta sẽ vui theo. Tán rằng: Thưa hỏi vui theo. Văn kinh: Bấy giờ, các vị thị giả ấy đều đến chỗ Đức Phật Thích- ca Mâu-ni đảnh lễ dưới chân Phật rồi lùi lại đứng về một phía, đồng bạch Phật rằng: Đấng Thiên Nhân Sư đó gởi lời thăm hỏi Đức Vô Lượng ít bệnh ít lo, cuộc sống có thanh thản an vui lợi ích hay không, lại nói như vậy: Hay thay! Hay thay! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bây giờ Ngài hãy giảng nói về pháp yếu sâu xa của kinh Kim Quang Minh, vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh, trừ bỏ mất mùa đói kém, khiến cho được yên ổn vui sướng. Tán rằng: Sứ giả truyền lệnh. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Thích-ca Mâu-ni Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác bảo với các vị Bồ-tát thị giả đó rằng: Hay thay! Hay thay! Bốn Đức Như lai đó mới có thể vì các chúng sinh được nhiều lợi ích an vui khuyến khích đề nghị ta giảng nói chánh pháp. Tán rằng: Đức Thích-ca vì đó nói, văn chia làm hai mục: Khen ngợi. Nói rõ. Đây là khen ngợi. Văn kinh: Lúc đó, Đức Thế tôn liền nói rằng: Ta thường ở Thứu Sơn, giảng nói kinh này, vì thành tựu chúng sinh, thị hiện nhập Niết- bàn. Tán rằng: Tiếp theo là nói rõ, văn chia làm hai mục: Hai câu trước nói về Pháp thân, Báo thân thường trụ, dùng Báo thân để hiển bày Pháp thân; trong cõi Báo thân, Pháp thân ở Linh Sơn không trú xứ cố định mà thị hiện. Hai câu sau hiện bày Hóa thân diệt độ. Văn kinh: Phàm phu khởi lên tà kiến không tin lời ta nói là vì thành tựu điều đó cho nên thị hiện nhập Niết-bàn. Tán rằng: Một bài sau lại nói về thành tựu hóa thân diệt độ, vốn vì chúng sinh lựa chọn Đại Bồ-tát. Văn kinh: Lúc đó, trong đại chúng có vị Bà-la-môn họ Kiều-trần- như là Pháp sư thọ ký cùng với vô lượng trăm ngàn Bà-la-môn chúng cúng dường Đức Phật xong. Tán rằng: Thứ tư là Hỷ Kiến nhắc lại thành tựu bất diệt, văn chia làm tám mục: Trần-như nhờ dấu tích cầu nguyện. Như lai phương tiện lặng lẽ. Phật thêm vào Hỷ Kiến khiến nêu ra. Trần-như trả lời thỉnh cầu xá-lợi. Hỷ Kiến riêng bày tu phước. Trần-như lại cố thỉnh cầu. Hỷ Kiến không trả lời được. Trần-như hiểu nghóa thường trụ. Trong này, người hỏi đáp và pháp đã nói giống như kinh Đại Phương Đẳng Vô Tướng Đại Vân quyển bốn. Kinh ấy người năng thỉnh tên là Thiện Đức, người năng đáp là Nhất Thiết Chúng Sinh Lạc Kiến, đồng thời nói túc duyên đời sau thấy biết danh tự xưa nay, vì vậy kinh đó nói: “Bấy giờ, Thiện Đức thỉnh nguyện, Thế tôn không trả lời. Lúc đó trong đại chúng có vị Ly-xa Tử, tên là Nhất Thiết Chúng Sinh Lạc Kiến, nói với Thiện Đức rằng: Như lai im lặng không hứa gì, nay ta sẽ trả đáp, tùy theo thắc mắc cứ hỏi. Hỏi: Nếu có thể cúng dường xá-lợi Như lai nhỏ như hạt cải thì phước báo có thể bằng như người đứng đầu trời Đao-lợi chăng? Ly-xa vì đó nói Như lai có nói kệ gồm mười hai bài, ở Thiệm Bộ Châu này ít có cây nào có thể sinh ra quả Đa-la và Pháp. Hợp với hai bài khác nói, không làm y Tăng-già-lê, suốt ngày có thể tiêu trừ sạch hết duyên chuột băng và tầng bậc sừng thỏ, ở trên đó mà ăn mặt trăng; giả sử con ruồi có thể uống rượu ngon đọng lại nơi nhũ đá mê loạn mà chìm đắm, giả sử lá cây gai góc đầy dẫy khắp nơi tam thiên đại thiên thế giới, giả sử chiếc thuyền nhỏ có thể chở núi Tu-di vượt qua biển nước mênh mông”. Lúc bấy giờ, trong hội chúng có một Thiên nữ tên là Tịnh Quang, thưa hỏi Thế tôn rằng: Hai vị Hiền giả đó từ nơi nào đến đây, nguyện xin giảng nói. Đức Phật nói: “Từ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp về thuở quá khứ, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Đồng Tánh Đăng, xứ sở của Ngài rộng lớn mênh mông dọc ngang sáu mươi tám ngàn do-tuần, có bảy mươi tám ngàn ngôi thành lớn. Lúc ấy, thành lớn tên là Bảo Tụ, tức nay là thành Vương xá. Lúc Đức Phật Đồng Tánh Đăng nói kinh Đại Vân thì trong thành có vị vua lên là Đại Tinh Tấn Long vương, nhà vua có phu nhân tên là Hộ Pháp, có một vị đại thần tên là Pháp Lâm Thọ, thưa với Đức Phật: Xá-lợi Như lai có thể được chăng? Đức Thế tôn không trả lời. Lúc đó, Đại vương vì chánh pháp nên cùng với tất cả đại thần luận nói về xá-lợi. Đức Phật có vị đệ tử tên là Ma-ha Nam, tâm sinh vui mừng, khen ngợi Đức Thế tôn. Nhà vua nghe khen ngợi rồi vui mừng phát nguyện: Nguyện con ở đời sau lúc chánh pháp của Đức Thích-ca hoại diệt, trong thời gian đó xuất gia vì chánh pháp nên không tiếc thân mạng. Đại thần cũng phát nguyện: Trong chánh pháp của Đức Thích-ca làm vua nước lớn giữ gìn pháp của Như lai. Phu nhân cũng phát nguyện: Trong chánh pháp của Đức Thích-ca thường làm cho tà kiến khuất phục. Lúc đó Ma-ha Nam nguyện giống như vì ấy làm đại đệ tử của Đức Phật đó”. Đức Phật bảo với Thiên nữ: Bốn người ấy nay ở đời ta vì pháp lại gánh vác trách nhiệm nặng nề, không chỉ hôm nay mà còn ở vị lai về sau sẽ che chở chánh pháp của ta. Này Thiên nữ! Vị Đại thần lúc đó nay chính là Bà-la-môn Thiện Đức này, sau khi ta diệt độ một trăm hai mươi năm, vua cõi Diêm-phù-đề tự là A-thúc-ca trú trong thành Ba-lê- phất-la, họ Vô-da, đạt được một trong hai phần phước đức vốn có của Chuyển luân vương. Phu nhân của nhà vua lúc đó chính là ngươi Thiên nữ. Người được nghe trong chốc lát nay được gặp ta, xả bỏ hình tướng loài trời này liền dùng thân nữ đảm đương đất nước ngôi vị, đạt được một trong bốn phần lãnh thổ cai quản của Chuyển luân vương, giáo hóa quyến thuộc thọ trì năm giới, bảo vệ chánh pháp, dẹp tan ngoại đạo. Vị vua lúc bấy giờ nay chính là Ly-xa Tử Nhất Thiết Chúng Sinh Lạc Kiến, thông đạt sâu sắc chánh pháp, thường mở bày nghóa lý vi diệu che chở chánh pháp không để tổn hại. Ma-ha Nam lúc đó nay chính là Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng, đạt được một trong hai phần chân thân của ta, biết ân báo ân, che chở chánh pháp nghóa sâu không vướng mắc”. Văn phần một chia làm ba: Trần-như đến cúng dường Đức Phật. Nghe Đức Phật nhập diệt buồn bã. Nêu công đức của Phật làm lý do của sự cầu nguyện. Văn phần một này có bốn mục: Nêu ra thời xứ. Nói về tên họ. Nói về đồng loại. Trình bày việc cúng dường. Nói Pháp sư thọ ký, Pháp sư là Phật, cùng với sự thọ ký đó, làm sáng tỏ công đức địa vị thù thắng, cho nên đặt cho thành tên gọi này. Địa vị này ở trong Hồi hướng thứ mười được Pháp sư thọ ký, vì vậy trú nơi Linh Sơn này đã là Hóa Phật, đối cơ có thể thỉnh cầu cho nên ở Địa tiền, lại giải thích: Đây là vào hàng Thập Địa do đó bản Chân-đế nói: “Như vậy thân Phật giống như nghóa Như Thị mà Như lai đã nói. Tôi đã nghe biết là thỉnh cầu Như lai giảng rộng phân biệt về nghóa chân thật, cho nên cầu xá-lợi, mở bày pháp môn phương tiện”. Đã nói: Tôi đã nghe biết, rõ ràng là đã ngộ, chỉ vì lợi lạc cho nên ở nơi ấy thỉnh cầu cúng dường. Luận Đại Trang Nghiêm nói về “Phát tất cả mười đại nguyện cúng dường tất cả các Đức Phật, cũng có ba cách: Tất cả các Đức Phật không sót. Cúng dường không sót. Cung kính không sót. Cúng dường có ba thứ: “Lợi cúng dường đó là những vật như y phục v.v…. Kính cúng dường đó là hương hoa. Tu hành cúng dường đó là tu hành các giới v.v…”. Còn trong Du-già Bồ-tát Địa có mười cách cúng dường, toàn bộ thâu nhiếp trong ba cách này. Kính cúng dường không sót cũng có ba thứ: Cung kính hầu hạ. Cung kính đưa đón. Cung kính tu hành. Nói cúng dường ở đây tức là đầy đủ ba nghóa trước đó, một Đức Phật tức là tất cả các Đức Phật. Văn kinh: Nghe Đức Thế tôn nói nhập Niết-bàn, nước mắt nước mũi tuôn trào lẫn lộn. Tán rằng: Nghe Đức Phật nhập Niết-bàn nên buồn bã. Đây chính là nghe thị hiện nhập Niết-bàn trước đó và cũng bày tỏ sự tướng, nghóa là Phật sắp nhập Niết-bàn cho nên tức thời rơi nước mắt. Như kinh Niết- bàn quyển một nói về các tướng buồn khổ: “Chảy ra từ mũi là nước mũi, tuôn ra từ mắt là nước mắt, hai tướng chảy xuống lẫn lộn là đồng thời tuôn ra”. Văn kinh: Tiến đến lễ lạy dưới chân Phật, bạch Đức Phật rằng: Quả thật Như lai đối với các chúng sinh có lòng từ bi thương xót lợi ích vô cùng, khiến cho được yên ổn giống như cha mẹ, ngoài ra không ai sánh bằng. Tán rằng: ba là nêu công đức của Phật làm lý do cầu nguyện lợi lạc. Trong đó có ba phần: Quy thành kính lễ. Kể về Phật có khả năng làm lý do thỉnh nguyện. Tâm nguyện thỉnh cầu chính đáng. Tiến lên đảnh lễ Phật chính là quy thành kính lễ. “Nếu thật Như lai” trở xuống là nói Phật có khả năng vì thưa thỉnh pháp. Trong đó có hai: Nói về từ bi lợi ích của Thế tôn. Nói về ba đức đầy đủ của Thế tôn, là lý do đưa ra thỉnh cầu. Trong phần một có hai: Một là pháp; Hai là dụ. Do đại từ nên thương xót ban cho niềm vui, do đại bi nên thương xót nhổ sạch gốc khổ. Theo Du-già quyển bốn mươi bảy “chỗ nương của lòng xót thương có năm thứ: Hữu tình bị đau khổ. Hữu tình làm điều ác. Hữu tình buông lung. Hữu tình tà hạnh. Hữu tình phiền não tùy miên. Tám nạn là có khổ đau, không có luật nghi là làm điều ác, đắm mê cảnh giới là buông thả, nương theo các vọng kiến, ác thuyết, xuất gia trong chánh pháp nhưng làm việc tà hạnh, phiền não có thể biết”. Nói đại từ bi, trong Nhiếp luận chín của ngài Vô Tánh chép: “Hán dịch là Đại, là tư lương phước trí chứng đắc trọn vẹn do đó mà thoát khỏi ba khổ, thuộc về hành tướng. Hữu tình trong ba cõi là sở duyên, đối với các hữu tình tâm luôn bình đẳng, chắc chắn không có ai hơn đây, từ đó khiến cho được lợi ích an vui. Lợi ích an vui tức là quả thế gian và xuất thế gian, phước và trí theo đó ứng hợp không sai. Hoặc lợi tức là mười lợi, lạc gồm có năm lạc”. Lại nói “Thương xót có bảy thứ: Không sợ hãi. Như lý. Không mệt mỏi. Vô cấu. Vô nhiễm. Rộng lớn. Bình đẳng. Không vì sợ người đó mà thương xót, nương theo chánh pháp dạy dỗ là như lý, luôn luôn tạo ra nhiều lợi ích là không mệt mỏi, không đợi người kia yêu cầu mà thương xót họ gọi là vô cầu, không có tâm ái nhiễm cũng không mong cầu báo đáp là vô nhiễm, vì lợi ích hữu tình thà xả bỏ thân mạng không làm điều ác gọi là rộng lớn, đối với thế giới hữu tình không có phân chia giới hạn gọi là bình đẳng thương xót”. Giống như cha mẹ là dụ, luận Đại Trang Nghiêm quyển mười hai chép: “Bồ-tát có bảy loại tương tự lợi ích: Tựa như mẹ. Tựa như cha. Tựa như bạn tốt. Tựa như bạn đồng hành. vậy: hơn. vợ. Tựa như tôi tớ. Tựa như Xà-lê. Tựa như Hòa thượng. Giống như mẹ hiền đối với con trẻ làm năm việc lợi ích: Mang thai. Sinh đẻ. Nuôi lớn. Phòng tổn hại. Dạy dỗ khuyên bảo. Năm sự nghiệp lợi ích chúng sinh của Bồ-tát cũng giống như Tâm bình đẳng hướng về chúng sinh. Sinh ra nơi thánh địa. Nuôi lớn các gốc lành. Phòng hộ các điều ác gây ra. Giáo dục tập luyện để nghe nhiều. Giống như cha lành đối với con thơ tạo ra năm sự lợi ích: Gieo giống. Dạy dỗ tinh xảo. Tạo dựng gia đình. Gởi gắm bạn tốt. Vì con cắt đứt nợ nần không làm cho sau này phải đền trả. Năm sự nghiệp lợi ích của Bồ-tát cũng giống như vậy: Khiến cho khởi tín để làm hạt giống thánh thể. Khiến cho học tập thêm lớn giới định để làm tinh khéo léo Giúp cho được giải thoát vui sướng để làm gia thất, pháp hỷ là Khuyến khích thỉnh cầu các Đức Phật để làm bạn lành. Vì ngăn chặn các chướng nạn để làm dứt hết nợ nần”. Từ các nghóa này cho nên ngoài ra không có ai sánh bằng. Văn kinh: Thường làm nơi quy y cho thế gian giống như vầng trăng tròn đầy trong sáng. Tán rằng: Đây là trình bày về ba đức đầy đủ. Đây tức là đoạn đức, như kinh Niết-bàn nói: “Tam-muội Nguyệt ái làm cho mát mẻ”. Lại nữa, Thi-la, Hán dịch là Thanh lương. Thanh lương chính là Niết-bàn. Từ giới có thể làm cho mát mẻ Niết-bàn nên gọi là Thanh Lương, do đó dùng vầng trăng thí dụ cho đoạn Đức Niết-bàn. Vì vậy kinh tụng nói: “Pháp trở về phân biệt, thánh trở về Niết-bàn”. Luận Thập Địa chép: “Như các loài ong nương theo mùi mật; vì vậy làm nơi quy y cho thế gian tức là Niết-bàn, Niết-bàn chính là đoạn đức”. Văn kinh: Dùng trí tuệ rộng lớn thường chiếu sáng cho tất cả giống như mặt trời bắt đầu xuất hiện. Tán rằng: Hiển bày trí đức. Trí có công năng phá tan bóng tối giống như mặt trời bắt đầu xuất hiện. Văn kinh: Quán sát tất cả chúng sinh, yêu mến không thiên lệch, đồng như La-hộ-la. Tán rằng: Hiển bày ân đức. Văn kinh: Chỉ nguyện Thế tôn cho con một nguyện. Tán rằng: Tâm nguyện cầu Phật. Phật có từ bi, lại đầy đủ ba đức, thường thỏa mãn nguyện ước cho con, cho nên nay cầu nguyện. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế tôn im lặng. Tán rằng: Phương tiện im lặng. Im lặng có năm ý: Vì trừ cơ hiềm, sợ rằng được ngợi khen liền cho họ nguyện. Vì nên nghe. Tránh trái phạm nhau, trước nói nhập Niết-bàn, nay lại nói là thường không nhập Niết-bàn, trái phạm nhau cùng với lời trước. Hiển bày của Đức Phật cao vời, đệ tử hãy còn có thể đáp hỏi, huống là Như lai. Dứt các nghi ngờ khác, vì hơn hẳn các thuyết khác làm chứng. Văn kinh: Nhờ uy lực của Phật nên ở trong chúng này có Lê-xa-tỳ đồng tử tên là Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến. Tán rằng: Ba là Đức Phật thêm câu hỏi của Hỷ Kiến. Trong văn chia làm năm: Nêu ra nơi chốn. Nói rõ dòng họ chủng loại. Nêu ra tên gọi. Hỷ Kiến hỏi rõ nguyện. Hỷ Kiến nói có thể. Đây là ba mục đầu tiên. Văn kinh: Nói với Bà-la-môn Kiều-trần-như rằng: Này Đại Bà- la-môn! Nay ông theo Phật muốn xin nguyện gì, ta sẽ ban cho ông. Tán rằng: Hai mục cuối. Văn kinh: Bà-la-môn nói với đồng tử: Tôi muốn cúng dường Đức Thế tôn vô thượng, bây giờ theo Như lai cầu thỉnh xá-lợi nhỏ như hạt cải. Tán rằng: Bốn là Trần-như trả lời sự cầu thỉnh xá-lợi. Mong muốn hiển bày, thường hy vọng cầu thỉnh xá-lợi, đầu tiên văn chia làm ba: Trần-như trả lời ý nguyện. Giả thiết ngoài điều nêu ra. Trả lời lý do nguyện cầu. Đây là phần đầu. Văn kinh: Vì sao? Vì ta có nghe nói nếu người thiện nam, thiện nữ nào được xá-lợi Phật nhỏ như hạt cải cung kính cúng dường thì người đó sẽ sinh lên tầng trời Tam thập tam làm Đế-thích. Tán rằng: Văn hai mục sau. Giả như tiếp cận việc lớn mong cầu nơi Hỷ Kiến, vì hiển bày nhân thường nên đạt được quả thường. Như kinh Bồ-tát Xử Thai, Vô Thượng Y Mật Tích Lực Só Tây Vực truyện v.v… đều nói về cúng dường nhiều ít xá-lợi và công đức. Văn kinh: Lúc đó, Đồng tử nói với Bà-la-môn rằng: Nếu muốn nguyện sinh lên cõi trời Tam thập tam thọ hưởng quả báo thù thắng, thì phải dốc lòng nghe kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này. Tán rằng: Hỷ Kiến phân tích nêu rõ về phước môn, tức là hiển bày nhân thường, văn xuôi trả lời bằng giải thích, trong tụng trả lời bằng lý. Văn xuôi có ba: Dạy bảo nghe kinh này. Nói rõ lý do. Kết thúc tóm lược. Đây là phần đầu. Văn kinh: Thù thắng bậc nhất, khó hiểu khó hội nhập nhất trong các kinh, hàng Thanh văn, Độc giác đều không có thể biết rõ. Tán rằng: Nói rõ lý do có hai: Nêu rõ hai thừa không biết. Có thể làm nhân thù thắng. Ở đây không thể biết mà nhờ nghe kinh này có thể vì Báo thân, Pháp thân sinh hiểu rõ hai nhân. Như luận Bát-nhã của Bồ-tát Thiên Thân, v.v… chép: “Đối với pháp là liễu nhân, cũng là dư sinh nhân. Báo là pháp dư, hữu vi mới bắt đầu phát khởi cho nên làm sinh nhân, năng thuyên này hiển bày lý, hạnh, quả, nương vào thuyên khởi hạnh có thể chứng được Pháp thân, cho nên làm hai nhân”. Văn kinh: Kinh này có công năng sinh ra vô lượng, vô biên phước đức quả báo cho đến thành tựu Vô thượng Bồ-đề. Tán rằng: Có công năng là nhân thù thắng, có công năng sinh ra quả báo là nhân mười vương nhân, thành tựu Bồ-đề là nhân ba thân, quả báo thù thắng chân thật ý là khiến cho người kia mong cầu. Văn kinh: Nay ta vì ông nói sơ lược việc đó. Tán rằng: Kết thúc tóm lược. Văn kinh: Bà-la-môn nói: Hay thay! Đồng Tử! Kinh Kim Quang Minh sâu xa tối thượng khó hiểu khó vào này hàng Thành văn, Độc giác còn không thể biết được. Tán rằng: Trần-như phương tiện lại càng kiên quyết cầu thỉnh, văn chia làm ba: Khen ngợi kinh thâm diệu thù thắng không biết. Chúng ta trí tuệ nhỏ nhoi không thể nào nương theo tu tập. Thiết tha cầu thỉnh xá-lợi. Đây là mở đầu. Nói về lý của Bồ-đề không Niết-bàn không cho nên sâu xa, trừ sạch hai chướng cho nên vô thượng, trí này của phàm phu khó hiểu rõ, hiện trí khó lãnh hội, Nhị thừa định tánh không thể liễu ngộ, cho nên không thể biết được. Văn kinh: Huống là chúng ta hạng người quê mùa dốt nát, trí tuệ cạn cợt mà có thể hiểu được hay sao? Tán rằng: Chúng ta kém trí không thể nương theo tu tập. Văn kinh: Chính vì thế, nay ta cầu thỉnh xá-lợi Phật nhỏ như hạt cải mang về bổn xứ, đặt trong hộp quý cung kính cúng dường, sau khi qua đời được làm Đế-thích, thường được an vui. Tán rằng: Sau cuối thiết tha cầu xá-lợi, chia làm hai: Nói ra ý cầu thỉnh. Nêu ra. Vì sao không cầu xin cho ta; đây là nêu ra ý cầu mong, đáp rằng thường trú thật không có xá-lợi. Văn kinh: Vì sao nay ông không thể cầu xin từ Đấng Minh Hạnh Túc cho ta một nguyện như thế? Nói lời này xong. Tán rằng: Đây là nêu ra vì sao không cầu xin xá-lợi thân Phật cho ta, để ta cúng dường được quả thường vui. Văn kinh: Bấy giờ, Đồng tử liền nói tụng cho Bà-la-môn nghe rằng: Sông Hằng chảy qua nhanh, đâu sinh hoa sen trắng?. Tán rằng: Hỷ Kiến trả lời không thể được. Đại ý đoạn văn này, hoặc theo Nhân Duyên Duy Thức Vô Tướng Chân Như Tứ Chủng Quán Môn chép: Không có xá-lợi. Hoặc theo Tam Vô Tánh Quán chép: Không có xá-lợi. Hoặc Y Tam Tánh chép: Không có xá-lợi. Hoặc đều y theo ba Thân nói là Không, hoặc chỉ y theo Pháp thân, Ứng thân biết là Không. Ý dứt bỏ tám đảo cho đến bốn chướng. Nói về Bồ-đề, Niết-bàn có đủ bốn đức, cho nên thọ của ba thân đều không có giới hạn. Bởi vì Trần-như mượn cớ Phật từ nhân hữu lậu sinh ra, giống như báo thân thế gian chết đi để lại xương cốt lẽ ra là Vô thường. Nay đáp rằng không, y cứ theo đạo lý trước đây khiến cho hiểu rõ những điều khác, biết Phật thường trụ là thật sự an vui, hợp với lý mà tu tập là ý chính trong đoạn này. Có mười bốn bài tụng chia làm bốn phần: Ba hàng đầu nói về lìa ba tướng hữu lậu nên không có xá-lợi, ba hàng tiếp theo nói về có đủ ba đức Niết-bàn nên không có xá-lợi, ba hàng tiếp đó nói về bốn hạng người có chướng ngại, vì không được chân thật nên không có xá-lợi, bốn bài cuối nói về thân chân thật, có đủ bốn đức nên không có xá-lợi. Đây là mở đầu. Nửa hàng nói về tướng vô sinh của Pháp thân, hằng hà dụ cho chân lý. Kinh Niết-bàn và luân Bảo Tánh đều dùng sông Hằng dụ cho chân như. Chảy nhanh dụ cho Như, tự tánh không có cấu nhiễm, tự tánh giải thoát. Tự tánh trí tuệ không đồng với hữu vi, thường sinh ra các pháp cho nên không có xá-lợi, giống như dòng chảy nhanh không mọc lên hoa sen. Hoặc từ thân thọ dụng do đại bi Bát-nhã tín định thành tựu, giống như dòng chảy nhanh nối nhau trong từng sát-na suốt thời gian vị lai cho nên không có xá-lợi, không giống như thân kia sinh diệt thành tựu từ hoặc nghiệp hữu lậu có thể để lại thân cốt. Đây là theo Y tha, không tự nhiên sinh ra mà phải nhờ các duyên. Thân vô lậu này chẳng phải là nhân hữu lậu cho nên không thể có thân máu thịt. Hoa sen trắng: Tiếng Phạm là Bôn-đồ-lợi-ca, vì vậy kinh mới dịch, xưa dịch đều gọi là hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-vật-đầu, hoa Bát-đầu- ma, hoa Phân-đà-lợi, như thứ lớp bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Nhưng bản dịch xưa chép: “Câu-vật, Hán dịch là Bạch Liên Hoa. Bởi vì trong dòng chảy nhanh đều không mọc ra, tùy đó nêu ra một chọn lấy văn để nói. Gặp nước nên sinh ra vật, dòng chảy nhanh còn không thể nào mọc ra, vô vi chẳng sinh, vô lậu chẳng nhiễm, trái với pháp nhiễm nên không có xá-lợi”. Văn kinh: Chim vàng biến màu trắng, quạ đen biến thành đỏ. Tán rằng: Nói vô tướng không có biến dị cho nên không có xá- lợi. Chim vàng bản dịch cũ gọi là Câu-chỉ-la, Hán dịch là hoàng điểu, có lẽ là chim hoàng vó lâu ở xứ này. Lại giải thích: Dịch là Vô chánh tướng, Tây phương có loài chim này hình dáng như chim Bồ câu Hoàng điểu hình dáng bé nhỏ, dụ cho sắc uẩn lão không khắp ba cõi, phần đoạn lão không khắp vô lậu địa. Hình dáng quạ hơi lớn dụ cho bốn uẩn lão ở khắp ba cõi, dụ cho biến dịch tử ở khắp vô lậu địa. Nay Pháp thân, Báo thân này hai uẩn lão đều không còn, do đó không có xá-lợi. Văn kinh: Giả sử cây Thiệm bộ có thể sinh ra quả Đa-la, trong cành Khiết-thọ-la, thường mọc lá Am-la. Tán rằng: Nói về tướng vô diệt của Pháp thân cho nên không có xá-lợi. Cây Thiệm bộ, ngoài biển lớn ở phía Bắc châu này có nhiều cây này, cây rất lớn, có thể ăn được, gốc cây dưới biển có nhiều vàng quý đẹp. Xưa nói “vàng Diêm-phù-đàn” là lầm. Trong luận Du-già chép: “Bên cạnh hồ Vô Nhiệt có cây Đại Thiệm bộ, châu này dùng tên cây đó để đặt tên”. Cây Đa-la, truyện chép: “Hình dáng cao lớn, lá nhỏ và dài, tức là lá Bối-đa-la, các nước ở Tây Vực viết bằng lá cây này”. Khiết-thọ-la, Hán dịch cũng không phiên dịch. Xưa gọi là cây Khư-thọ-la, giống như cây Hán cô, bên trong có hạt nhỏ, hạt lớn như hạt táo, ăn có vị ngọt thơm. Truyện Tây Quốc nói: “ Là cây nổi tiếng ở nước Ma-kiệt-đề, xứ khác cây này không nhiều”. Am-la (Truyện nói: Hán dịch là cam tử, hạt nhỏ). Như vậy khác loại cho dù có sinh diệt, còn không có loại quả này diệt rồi mà sinh ra những loại quả đó, sao nói pháp vô vi có thể có diệt đi mà để lại xá-lợi? Nếu y theo tự tánh Pháp thân, luận Bát-nhã chép: “Ba tướng khác thể cho nên lìa kia đây chính là Như lai”. Văn kinh: Các vật hy hữu ấy hoặc có thể chuyển biến, xá-lợi của Thế tôn, rốt ráo không thật có. Tán rằng: Hợp với pháp. Những thứ hữu vi kia dù có thể thay đổi biến hóa cho nên nói hoặc là bất định, nhưng Pháp thân Như lai chắc chắn không sinh diệt để lại xá-lợi, hoặc Báo thân, Hóa thân nghóa y cứ theo đó có thể biết. Văn kinh: Giả sử dùng lông rùa, dệt thành áo rất quý, lúc lạnh có thể mặc được mới cầu xá-lợi Phật. Tán rằng: Đây là ba hàng sau nói về có đủ ba đức cho nên không có xá-lợi. Một bài đầu nói về Bát-nhã chân thật lìa xa luống dối, lông rùa vốn không có, dụ cho Bất Nhã không có cốt phần, dệt thành áo quý lạ dụ cho nhờ xá-lợi mà tu hạnh thù thắng; lúc trời lạnh có thể mặc được, dụ cho hy vọng sẽ đạt được quả thường còn, như tâm vọng tính toán cho là chân thân của Phật thật có xương thịt v.v… phần thân hữu lậu như lông, chấp mình có thể nương theo tu tập đạt được quả thật có như áo, là biến kế vọng, các vọng đã không có, cho nên tự tánh Bát-nhã thật sự không có xá-lợi. Hoặc có thể, chấp dùng máu thịt gân cốt gom lại thành Pháp thân, giống như dùng lông rùa dệt thành áo quần sử dụng để ngăn giá lạnh. Vì những việc này không có cho nên không có xá-lợi, lìa tướng sinh ở trước. Văn kinh: Giả sử chân ruồi muỗi, có thể dùng chân làm lầu quán, vững chắc không lay động, mới cầu xá-lợi Phật. Tán rằng: Dụ cho pháp nhỏ nhiệm chân thật của Pháp thân, không thể chuyển dới thành máu thịt thô lậu của pháp hữu vi, do đó không có xá-lợi, lìa tướng khác nhau ở trước. Văn kinh: Giả sử loài đỉa nước, trong miệng mọc răng trắng, dài lớn bén như gươm, mới cầu xá-lợi Phật. Tán rằng: Dụ cho tự tánh giải thoát không thể đạt được từ pháp hữu lậu ràng buộc bởi máu thịt, như con đỉa mọc răng nên bị trói buộc ngăn ngại, đã không có sinh vì thế chắc chắn không có diệt, lìa xa tướng diệt. Hoặc là trước tiên dụ cho Địa tiền chân như, chẳng bị nhiễm bởi khách trần cho nên không sinh, cho nên kinh nói bất sinh bất diệt. Thập Địa chân như tuy là phần chứng tịnh, chẳng phải là chuyển từ nhiễm mà thành cho nên không khác, vì vậy kinh nói không thêm không bớt. Chẳng phải tùy theo công đức sinh mà thêm, chẳng phải tùy theo phiền não diệt mà bớt. Sau là dụ cho thân giải thoát của đạo hận, vì đã lìa bỏ ràng buộc cho nên không có xá-lợi. Lại giải thích: Ba hàng trước dụ cho sinh vô tự tánh tánh, ba hàng tiếp theo dụ cho tướng vô tự tánh tánh, tám hàng sau dụ cho thắng nghóa vô tự tánh tánh, thứ lớp như vậy tức là đối với ba tánh y tha, biến kế, viên thành khiến tu quán hạnh. Văn kinh: Giả sử dùng sừng thỏ, làm thành bậc thềm, có thể lên cung trời, mới cầu xá-lợi Phật. Tán rằng: Bốn bài sau nói về bốn hạng người có chướng ngại không đạt được bốn đức. Ý này chính là nói về Pháp thân là thường vui v.v… Nay ở trong này lấy thỏ dụ cho Pháp thân, thường khởi ý tưởng vô thường như nương vào thỏ mà tìm sừng. Làm bậc thềm lên cõi trời dụ cho đức Thường của Niết-bàn, dùng tướng vô thường bước lên mong được vào cung điện Niết-bàn, thì không bao giờ có việc ấy. Từ đó biết rằng không có xá-lợi. Theo đây thì, muốn tìm Pháp thân xá-lợi rốt ráo không thể được. Đây là thứ nhất, tức là trừ tâm xả của Duyên Giác. Từ đó Đức Thế tôn thực hiện ý tưởng vô thường, muốn tâm xả mà nhập đại Niết-bàn thì chắc chắn không được, vì vậy biết rằng Pháp thân chắc chắn không vô thường. Thực hành quán vô thường như nương vào thỏ tìm sừng làm bậc thềm, hy vọng bước lên cõi trời thì chắc chắn không thể được, do đó Nhị thừa cho rằng được thì đó là phương tiện mà nói. Như kinh Thắng-man chép: “Xả bỏ cõi Niết-bàn thì tạm nói là được Niết-bàn, thật sự không thể như thế được”. Nay khiến cho chúng sinh quán sát và thường tu tập đại bi, trừ bỏ chướng nơi tâm xả, có thể thực hiện nhân thường để chứng đạt đức thường của Phật. Lại nương vào Pháp thân quán có vô thường cốt nhục xá-lợi, mong cầu cúng dường là nhân của Pháp thân cũng chắc chắn không thể được, như nương vào Thỏ, tìm sừng làm bậc thềm để bước lên cõi trời, vì thế không thể đạt được. Trên đây là y cứ theo đảo quán, tự chướng ngại, không thể đạt được đức thường của Pháp thân. Đây là theo tà quán mong cầu xá-lợi Phật không được, đã không có xá-lợi thì nương vào đâu tu hành có thể làm nhân của thường? Văn kinh: Chuột theo bậc thang này lên, trừ khử A-tô-la, thường che trăng giữa trời, mới cầu xá-lợi Phật. Tán rằng: Trừ chướng ngại sợ khổ của hàng Thanh văn, hàng Thanh văn quán Pháp thân Phật nghó đến nỗi khổ hữu lậu, giống như đối với loài chuột, nương theo đức Lạc của Pháp thân để đi lên, không khác việc lấy sừng thỏ làm thềm thang. Suy nghó nhớ đến nỗi khổ này có thể trừ dẹp các chướng ngại, thường hàng phục các ma được Niết- bàn hoàn toàn, như chuột men theo thềm sừng thỏ lên cõi trời, trừ oán chắc chắn không thể được. Hoặc chuột dụ cho hàng Thanh văn, bậc thềm sừng thỏ dụ cho đức Lạc, tưởng là thật khổ. Thật ra không có khổ mà chấp là có khổ, có khổ nên liền có vô thường, nghóa là có cốt nhục xá-lợi cho nên nay mong cầu, tức là dùng nhân này mong đạt được đức lạc, giống như men theo bậc thềm sừng thỏ dứt trừ A-tu-la không làm cho che chắn mặt trăng. Mặt trăng dụ cho Niết-bàn đã không xứng hợp với thực tế, nói rõ chắc chắn không thể được. Khiến cho tu tập đại định vì có thể chứng được nhân của đức Đại Lạc. Văn kinh: Nếu ruồi uống rượu say, đi khắp trong thôn ấp, xây dựng nhiều nhà cửa, mới cầu xá-lợi Phật. Tán rằng: Trừ chướng ngoại đạo chấp ngã. Bởi vì ngoài Đức Thế tôn ra, đối với những hữu lậu khác, quán có Ngã Lạc là do điên đảo, như ruồi uống say liền nằm ngay tại chỗ, không thể bay qua thôn ấp tạo nên những hang ổ. Pháp Thập Địa trong nhân như thành lũy, trạch diệt giống như xóm ấp. Đức Lạc Niết-bàn như nhà cửa, vì thế trong luận Trí Độ có dẫn ra: Có một ngoại đạo nói một bài tụng cho Xá-lợi Tử nghe rằng: “Ta uống rượu gạo canh, trộm mang đến một bình. Núi đất mọi cỏ cây, nhìn giống như màu vàng”. Đây là dụ cho ngoại đạo đối với pháp hữu lậu thực hành Bất không, Hữu tướng, Hữu nguyện. Ở đây y theo vô vi, không thể gọi là xây dựng nhà cửa, chỉ gọi là trình độ (tạo nghệ). Hoặc dựa theo liễu nhân, giả dụ xây dựng nên nhà cửa, khiến dứt trừ vọng chấp điên đảo, cho nên tu Bát-nhã trí tuệ, giác ngộ rõ ràng, có thể đạt được Đại Ngã Niết-bàn của Như lai. Hoặc như ngoại đạo, tuy cho rằng Ngã thường nhưng có nghóa của sự xả thân, thọ thân, cho nên nói rằng thân Thường Ngã của Thế tôn có xá-lợi, đã là điên đảo, cho nên không có xá-lợi. Văn kinh: Dù làm màu môi lừa, đỏ như trái tần-bà, khéo làm chuyện múa hát, mới cầu xá-lợi Phật. Tán rằng: Trừ chướng xiển-đề không tin. Do si mê không tin bốn đức của Pháp thân, vì ngu tối nên dụ cho môi lừa đen, vì không tin nên dụ cho không đạt được hoàn toàn thanh tịnh Niết-bàn của Như lai. Như màu đen của môi lừa không thể làm cho đỏ như trái Tần-bà. Xiển-đề không tin nên không thể đạt được trong Pháp thân có xá-lợi, khiến tu tập tin tưởng có thể làm nhân cho đức thanh tịnh chứng được thanh tịnh hoàn toàn. Bốn đức này đều nói theo tăng chướng, tăng nhân. Theo địa vị tu hành thì chỗ này ngược lại với thứ lớp. Y theo thứ lớp bốn đức cho nên trước tiên nói về các tâm xả. Khéo làm chuyện múa hát, hát dụ cho nói pháp, tức là lợi tha, hành động múa may dụ cho thực hành tự lợi. Theo văn kinh này tựa như toàn bộ dụ cho phần thứ tư. Y theo bản của ngài Chân-đế tức là từ “Thiện tác” trở xuống thông suốt kết hợp với bốn đức trước, bởi vì kinh đó nói: “Phàm phu và Nhị thừa có thể nói và có thể thực hành tự tha thì không bao giờ có việc đó cho nên tóm lại không thể nói đến bốn đức của Như lai và bốn nhân tu tập”. Nhưng ý văn này hoặc là tạm thời không thể nói và tu hành, hoặc y theo Nhị thừa định tánh và xiển-đề vô tánh ngoại đạo nhưng có thể nói rằng vì bất định tánh và hữu chủng tánh để khiến cho dứt bỏ chướng ngại, tu nhân bốn đức, chứng được bốn đức. Hoặc có thể người định tánh không ngu dốt pháp cũng chứng được, vì đó nói khiến cho biết nên hóa tha chút ít. Hoặc có thể, văn này chỉ dụ cho kết thúc hạng thứ tư phỏng theo ba hạng người trước. Văn kinh: Quạ cùng chim cú mèo cùng đi chung một nơi, kia đây thuận theo nhau, mới cầu xá-lợi Phật. Tán rằng: Nói về Pháp thân chân thật đầy đủ bốn đức cho nên không có xá-lợi. Cũng chia làm bốn. Ở đây trước hết nói về đức thường thật không đồng nơi chốn với vô thường luống dối cho nên không có xá-lợi. Lại quán vô thường không thể đạt được đức thường, giả như đạt được thì có thể cầu xá-lợi, vì không đạt được cho nên không thể cầu. Văn kinh: Giả sử lá Ba-la, có thể thành tàn lọng, thường che được mưa lớn, mới cầu xá-lợi Phật. Tán rằng: Nói về đức Đại Lạc. Nếu cho rằng khổ giống như lá Ba-la. Lá cây Ba-la truyền thuyết nói rằng đều chia ra ba đường, không thể làm tàn che được mưa lớn. Mưa lớn dụ cho khổ biến dịch, Thanh văn cho là khổ nên không thể phá trừ biến dịch, nỗi khổ mưa lớn của bốn ma. Nhị thừa thực hành quán vô thường và khổ do đó không đạt được thường lạc. Văn kinh: Giả sử tàu thuyền lớn, chứa đầy các châu báu, có thể đi trên bộ, mới cầu xá-lợi Phật. Tán rằng: Nói về đức Đại Ngã. Dùng ngã Pháp thân như tàu thuyền lớn, có đủ hằng sa công đức như chứa đầy tài sản, châu báu, khiến di chuyển trên bộ dụ cho ngã kiến của ngoại đạo. Tâm ngã kiến của ngoại đạo không thể thấy được chân ngã. Chân ngã giống như tàu thuyền, không như nơi ngoại đạo chấp ngã như tàu thuyền có thể đi trên bộ. Văn kinh: Giả sử con chim ri, dùng mỏ ngậm núi hương, lang thang khắp mọi nơi, mới cầu xá-lợi Phật. Tán rằng: Nói về đức Đại Tịnh. Ngoại đạo không tin đức thanh tịnh của Niết-bàn, vọng tính toán rằng ngoài tịnh có thể đạt được đức chân tịnh của Niết-bàn, như con chim ri không thể ngậm núi Hương ngao du được. Núi Hương dụ cho đức thanh tịnh của Niết-bàn, chim dụ cho ngoại đạo, không tin lời Phật nói, chỉ dựa vào cái thấy và hành động của mình cho là đạt được chân tịnh, thì chắc chắn không được. Đã là chân Pháp thân thì không thể vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, rõ ràng biết xá-lợi chắc chắn không thể đạt được, cầu xá-lợi nương vào đó cúng dường, làm nhân an vui, thành tựu bổn nguyện ấy chắc chắn không thể nào đạt được. Cần phải quán Phật lìa xa ba tướng, thành tựu ba đức, trừ dẹp bốn chướng, tu tập bốn nhân, chắc chắn được thỏa mãn ý nguyện. Văn kinh: Lúc đó, Bà-la-môn Pháp sư Thọ Ký nghe bài tụng này xong cũng dùng kệ, tụng trả lời đồng tử Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rằng. Tán rằng: Thứ tám là Trần-như hiểu rõ ý thường trụ. Văn có hai phần khác nhau: Ban đầu là nêu ra người sớ kinh, sau là chính thức hiểu rõ. Đây là mở đầu. Văn kinh: Hay thay! Đại Đồng tử! Tốt lành trong chúng này, tâm phương tiện tuyệt vời, được thọ ký vô thượng. Tán rằng: Trần-như chính thức hiểu rõ, có bài tụng bảy hàng chia làm ba: Hai bài đầu khen ngợi công đức sắp kể ra, bốn bài tiếp theo chính thức nói về hiểu ngộ của mình, một bài cuối kết thúc thân Phật thường trụ. Văn phần đầu chia làm ba: Một bài đầu khen ngợi công đức của Hỷ Kiến, nửa hàng tiếp theo nêu lên sự thành tựu của Phật, nửa hàng tiếp đó bảo lắng nghe sắp nói. Đây tức là khen ngợi Hỷ Kiến, đầu tiên là khen ngợi chung, tiếp theo khen ngợi riêng. Khen ngợi chung là khen ngợi nói pháp trước đó và khen ngợi công đức bên trong. Bởi vì pháp đã nói trước đây nương theo trí vô nhiễm nói về bốn đức của Phật, khiến cho sinh ra việc trừ chứng, tu nhân, đương chứng vì thế khen rằng hay thay. Khen ngợi công đức bên trong tức là khen ngợi các công đức dưới đây, có sáu thứ công đức thù thắng: Tương ưng thắng đức. Sinh vị thắng đức. Phát nguyện thắng đức. Thiện xảo thắng đức. Phương tiện thắng đức. Nhiếp thọ thắng đức. Nói là Đại Đồng Tử bởi vì tương ứng với bảy đại tánh. Như luận Bát-nhã của Bồ-tát Vô Trước chép: “Bồ-tát này tương ứng với bảy đại tánh cho nên gọi là Đại”. Nghóa này đồng với kia. Nói Đồng Tử là hiển bày sinh nơi địa vị thù thắng, vì bước lên Sơ Địa, sinh trong nhà Như lai gọi là Đồng Tử, tức là nghóa Phật tử chân thật. Chỗ này lại có bốn thứ: Chứng tử thắng, tin đại pháp làm chủng tử. Sinh mẫu thắng, lấy Bát-nhã làm mẹ sinh ra. Thai tạng thắng, lấy thiền định làm bào thai. Nhũ mẫu thắng, lấy từ bi nuôi lớn làm vú nuôi. Tốt lành trong chúng này tức là Đại nguyện thắng, nghóa là phát khởi mười nguyện lớn hay bốn nguyện rộng. Nói khéo léo tức là thiện xảo thắng, được tiến lên địa trên dễ dàng. Nói phương tiện tâm tức là phương tiện thắng. Nương vào hai lợi ích sinh ra: Biết mình gần gũi Bồ-đề. Biết lợi tha thuận tiện. Nói được Phật thọ ký tức là nhiếp thọ thắng vì được phần nhiếp thọ ký của các Đức Như lai. Văn kinh: Như lai oai đức lớn, thường cứu giúp thế gian, nhân thực dốc lòng nghe, nay tôi lần lượt nói. Tán rằng: Hai câu trước khen ngợi trí, bi của Phật, đại oai đức là trí đức, đầy đủ các thứ thần thông; thường cứu giúp là bi đức, lợi ích cho thế gian. Nay tôi lần lượt nói là kể rõ những điều sẽ nói. Những điều sẽ nói ấy tức là ba thân Phật. Trong Nhiếp Luận của ngài Vô Tánh, phần quả trí kia có chép: “ Nên biết rằng Pháp thân sơ lược có năm tướng: Tướng Chuyển y. Tướng Bạch pháp sơ thành. Tướng Vô nhị. Tướng Thường trụ tướng. Tướng Bất khả tư nghị vi tướng. Năm nghóa này tôi sẽ lần lượt nói. Văn kinh: Cảnh các Đức Phật khó nghó, thế gian không gì bằng, tánh Pháp thân thường trụ, tu hành không khác nhau. Tán rằng: Bốn bài sau chính là nói về sự hiểu rõ của mình. Hai bài đầu hiểu rõ thường trụ, hai bài sau hiểu không có xá-lợi. Đầu tiên hiểu về thường trụ tức là phần quả trí kia. Phần quả trí kia lược có năm tướng: Cảnh giới các Đức Phật khó nghó là tướng không thể suy nghó bàn luận, thế gian không gì bằng là tướng chuyển y, tánh Pháp thân thường trụ là tướng thường trụ, tu hành không khác nhau là tướng bạch pháp thành tựu, thể các Đức Phật đều đồng một hạnh là tướng vô nhị vi. Ý ở đây cho các pháp như vậy vốn là nương theo mê-ngộ cho nên trước tiên nói về tướng không thể suy nghó bàn luận. Đã biết nguồn gốc rồi, tiếp theo phân biệt về tướng chuyển y, đã chuyển y rồi tức đạt được Pháp thân, tiếp theo phân biệt rõ tướng Pháp thân thường trụ, thân từ nơi nhân mà chứng, tiếp tục phân biệt rõ tướng bạch pháp thành tựu, đã thành tựu bạch pháp không biết sự đồng dị, tiếp tục phân biệt rõ tướng vô nhị vị. Luận kia dùng năng y, sở y làm thứ lớp, cho nên thứ lớp nói khác nhau. Cảnh giới các Đức Phật khó nghó bàn tức là tướng thứ năm ở kia, luận ấy chép: “Nói là chân như thanh tịnh tự bên trong chứng đạt, chẳng phải các cảnh giới sở hành của suy nghó, các điều ngẫm nghó ấy chỉ nên tin hiểu, không nên nghó bàn gọi là khó nghó bàn”. Thế gian không gì bằng tức là tướng chuyển y thứ nhất, nghóa là chuyển diệt tất cả các chướng tạp nhiễm phần, tánh y tha khởi chuyển được giải thoát tất cả các chướng, đối với pháp tự tại, chuyển hiện tiền thanh tịnh phần, tánh y tha khởi, ý chuyển y này đã đầy đủ nên thế gian không gì sánh bằng. Tánh Pháp thân thường trụ tức là tướng thường trụ thứ tư kia, luận đó nói: “Nói là tướng chân như thanh tịnh, bổn nguyện dẫn dắt, những việc nên làm không có lúc rốt ráo”. Vô Tánh giải thích rằng: “Đây là hiển bày tánh chân như thường hằng không thay đổi, hiển bày thành tựu quả Phật nói là Pháp thân, nếu tánh biến đổi thì chẳng phải chân như, cho nên bổn nguyện thường trụ dẫn dắt, việc làm không có lúc rốt ráo do đó hiển bày Ứng Phật-Hóa Phật còn lại”. Tu hành không khác nhau tức là tướng bạch pháp thành tựu thứ hai kia, nghóa là sáu Ba-la-mật phần nhiều tròn đầy, được mười tự tại. Nghóa của mười tự tại này, ở sau sẽ giải thích. Văn kinh: Thể các Đức Phật đều đồng, nói pháp cũng như vậy, các Đức Phật không tạo tác, lại cũng vốn không sinh. Tán rằng: Chính là tướng vô nhị vị thứ ba kia. Có ba thứ vô nhị: Hữu vô, Vô nhị. Vị vô, Vị vô nhị. Nhất thiết Phật vô nhị. Ở đây nói Đồng tức là nghóa vô nhị (không hai). Thể các Đức Phật đều đồng tức là câu gồm chung, cũng chính là hữu vô vô nhị (hữu và vô không hai). Các Đức Phật vô nhị là câu tách biệt, nghóa là hữu vô không hai làm tướng. Bởi vì tất cả pháp không thật có cho nên giải thích ý đối với Pháp thân ở trên, biến kế là không cho nên chẳng có tướng. Dùng không để hiển bày tự tánh cho nên chẳng phải vô tướng. Các Đức Phật không tạo tác trở xuống là hiển bày vi và vô vi không hai. Lại cũng vốn không sinh là hiển bày Ứng thân, Hóa thân, không có hai tướng Hữu vi, Vô vi. Luận nói: “Do nghiệp phiền não chẳng phải là hành vi cho nên gọi là vô tác, vì chẳng phải phiền não tạo tác cũng chẳng phải hoặc nghiệp sinh ra cho nên nói là vô sinh, cũng hiển bày thể tự tánh Pháp thân sẵn có chẳng phải là mới sinh ra, mới tạo tác”. Pháp được nói cũng giống như vậy là vì giải thích nói pháp, lại cũng không mê đắm, bởi vì các Đức Phật Như lai đồng một sự nghiệp. Lại giải thích: Văn này giải thích “thường cứu giúp thế gian” ở trước, nếu không nói pháp làm sao cứu giúp được, vì thế trong kinh này, phần nhiều nói kinh này truyền bá rộng rãi khắp trong thế gian được nhiều lợi ích. Văn kinh: Thế tôn Thể Kim cương, quyền hiện ra Hóa thân, cho nên xá-lợi Phật, không nhỏ như hạt cải, thân Phật không máu thịt, sao nói có xá-lợi. Tán rằng: Hai bài sau giải thích về không có xá-lợi; Một bài rưỡi ở đầu là sự lónh ngộ, nửa hàng sau hiểu là có. Đây là mở đầu. Vì có ba nghóa nên không có xá-lợi: Vững chắc khó hủy hoại, bởi vì thể Kim cương khó bị phá hoại. Là quyền biến hóa thân, các loài hóa sinh hãy còn không có thân hình khác, Phật quyền biến hiện thân, cho nên không có xá-lợi nhỏ như hạt cải. Chẳng phải là thân máu thịt làm sao có xá-lợi được. Hỏi: Nếu nói quyền hiện vì sao Điều-đạt làm thân Phật chảy máu? Đáp: Theo kinh Đại Phương Đẳng Vô Tướng Đại Vân, quyển bốn chép: “Vì Thiện Đức hỏi nên Thế tôn trả lời rằng: Thân máu thịt của Như lai quả thật không có máu chảy ra, Đề-bà-đạt-đa cũng không thể làm cho máu chảy ra”. Nếu nói bóng cây có máu chảy là chuyện không thể có; thân của Như lai cũng giống như thế. Nếu nói chảy máu thì nên biết rằng chính là thiện quyền phương tiện không thể suy nghó bàn luận. Văn kinh: Phương tiện để lại cốt, vì lợi ích chúng sinh. Tán rằng: Nêu ra sự lãnh hội. Dùng thần thông trí lực phương tiện khéo léo, hiện để lại xá-lợi làm lợi ích cho chúng sinh. Văn kinh: Pháp thân là chánh giác, pháp giới tức Như lai, đây là chân thân Phật, cũng nói pháp như thế. Tán rằng: Thứ ba kết thúc thân Phật thường trụ. Chỗ sở y của công đức và do chứa nhóm nên gọi đó là Pháp thân. Thông suốt với cả ba thân cho nên giác tánh, giác tướng đều gọi là chánh giác, là nhân của các pháp, là nương vào các pháp cho nên gọi là pháp giới. Đây là chân thân Phật, có hai nghóa: Đối với xá-lợi ba thân đều chân thật. Hướng về sự biến đổi của Ứng thân, Hóa thân chẳng phải là chân thật. Thân đã như thế, Phật nói cũng giống như vậy, để nói lên chứng và nói cả hai đều đồng nhau. Văn kinh: Bấy giờ, trong hội chúng có ba mươi hai ngàn vị Thiên tử nghe nói về tuổi thọ dài lâu của Như lai đều phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, vui mừng hăng hái đạt được điều chưa từng có. Tán rằng: Lúc hội chúng lãnh hội đạt được lợi ích. Văn chia làm hai phần: Văn xuôi nghe pháp được lợi ích. Kệ tụng bày tỏ sự lãnh hội đó. Văn phần đầu có bốn: Nêu rõ được lợi ích, ba mươi hai ngàn vị Thiên tử. Bày tỏ điều đã nghe, nghe nói về tuổi thọ của Như lai. Đạt được lợi ích thù thắng, đó là phát tâm Bồ-đề. Tâm vui mừng phát tâm Bồ-đề. Kinh luận đã nói nhiều ít, rộng hẹp không giống nhau, nay sơ lược chia thành bảy mục: Nhân duyên phát tâm. Phần vị phát tâm. Nghi quỹ phát tâm. Phát tâm hơn kém. Phát tâm khác nhau. Phát tâm thắng lợi. Phát tâm thí dụ. Nói nhân duyên lại có ba thứ: Do bốn nhân. Do bốn duyên. Do bốn lực. Đầy đủ như Du-già quyển ba mươi lăm chép: Phần vị phát tâm, trong luận Đại Trang Nghiêm quyển hai và luận Hiển Dương quyển hai đều nói: “Thế tục phát tâm. Thắng nghóa phát tâm”. Y theo Du-già bảy mươi hai có mười thứ phát tâm, đó là: Thế tục thọ phát tâm. Đắc pháp tánh phát tâm. Bất quyết định phát tâm. Quyết định phát tâm. Bất thanh tịnh phát tâm. Thanh tịnh phát tâm. Yếu kém phát tâm. Cường thành phát tâm. Vị thành quả phát tâm. Dó thành quả phát tâm. Trong này có năm cặp đối nhau: Địa tiền và Địa thượng đối nhau. Thối và Không lui sụt đối nhau. Hữu nhiễm và vô nhiễm đối nhau. Bị tế bất tế đối nhau. Nhân quả vị biệt đối nhau. Thoái và không lui sụt y theo bốn địa vị mà hiểu, đó là tín không lui sụt v.v… nhiễm và bất nhiễm đối nhau y theo trước khi trụ không lui sụt. Trước khi trụ không lui sụt có khi tùy theo người khác, hoặc bị người khác ép ngặt, hoặc sợ hãi, hoặc cuồng loạn, hoặc cầu lợi dưỡng thế gian, nên theo đó phát tâm gọi là nhiễm, trái lại với ở đây gọi là bất nhiễm. Trước noãn vị, đảnh vị các tham che lấp gọi là liệt, ở địa vị Đệ nhất nhẫn không bị các thứ kia che lấp gọi là thắng. Thập Địa gọi là vị thành quả, Phật địa gọi là dó thành quả. Về nghi quỹ, trong Du-già chỉ nói: “Phát tâm như thế, nói lời như thế, con nguyện chắc chắn sẽ chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề”. Không nói về nghi quỹ nhưng phân biệt rõ hành tướng. Y theo luận Hiển Dương hai chép: “Nói Như Thị, một là tùy theo người trí trước đó, cung kính mà trụ khởi ý tăng thượng phát lời thệ nguyện, nhớ nghó bậc trưởng lão, hoặc nói nhớ nghó bậc Thánh, hoặc nói Ô-ba-đà-da rằng: Con tên là v.v… kể từ hôm nay bắt đầu phát tâm A-nậu Bồ-đề, vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh. Từ hôm nay về sau con thường nguyện tu tập sáu Ba-la-mật tất cả muôn hạnh, đều vì chứng được Vô thượng Bồ-đề. Nay con cùng với các vị Bồ-tát Ma-ha-tát hòa hợp xuất gia, nguyện Thế tôn chứng minh biết rõ, con là Bồ-tát”. Lần thứ hai thứ ba cũng nói như vậy. Đây là nói về nghi quỹ phát tâm của người thế tục, không thấy nói nghi quỹ phát tâm của người xuất gia. Thứ tư là phát tâm hơn kém, trong luận Đại Trang Nghiêm chép: “Đệ-nhất-nghóa phát tâm có ba thứ thù thắng: Giáo thọ thắng, bởi vì gần gũi Đấng Chánh Biến Tri. Tùy tu thắng, là khéo chứa nhóm phước trí. Đắc quả thắng, sinh khởi trí vô phân biệt. Lại có sáu thù thắng: Sinh vị. Nguyện. Mạnh mẽ. Tịnh y. Dư xảo. Dự xuất. Sinh thắng có bốn: Chủng tử thắng, là tin đại pháp làm chủng tử. Sinh mẫu thắng, vì Bát-nhã làm mẹ sinh ra. Thai tạng thắng, vì đại thiền định an vui làm thai tạng. Nhũ mẫu thắng, vì đại bi nuôi lớn làm vú nuôi. Nguyện tức mười nguyện lớn đều phổ biến như luận kia trình bày. Thứ năm là phát tâm khác nhau. Theo kinh Kim cương Bát-nhã nói có ba thứ, đó là vì sao nói trụ (Tức là muốn nguyện), vì sao nói tu hành (tức vì nguyện cho nên tu hành), vì sao nói hàng phục tâm đó (tức là vì tu hành cho nên đoạn chướng), vì vậy kinh ấy chép: “Cần phải phát khởi tâm như thế”. Du-già quyển ba mươi lăm nói có năm loại: Tự tánh. Hành tướng. Sở duyên. Công đức. Tối thắng. Tức là dùng chánh nguyện làm tự tánh, đối với Bồ-đề, Niết-bàn nhất định tự mình mong cầu, và cầu có khả năng làm việc nghóa lợi cho hữu tình. Mong cầu là hành tướng lấy đại Bồ-đề và các hữu tình làm cảnh sở duyên. Phát tâm đầu tiên có thể thâu nhiếp tất cả Bồ-đề phần pháp gốc lành thù thắng, là những công đức thượng thủ tương ứng với chánh nguyện lúc đầu, là sự diệu thiện chánh trí bậc nhất đối với những mong cầu của thế gian và xuất thế gian. Luận Đại Trang Nghiêm quyển hai chép: “Bồ-tát phát tâm lấy gì làm cội gốc cho đến lấy gì làm rốt ráo? Nói chung có mười một thứ: Lấy đại bi làm cội gốc. Lấy lợi ích chúng sanh làm y chỉ. Lấy pháp Đại thừa làm niềm tin. Lấy chủng trí làm sở duyên. Vì mong cầu điều đó cho nên lấy hy vọng thù thắng làm sở thừa. đức. Muốn vô thượng thừa cho nên lấy đại che chở làm sở trụ. Trụ nơi giới Bồ-tát cho nên lấy ái làm chướng nạn. Khởi tâm dị thừa cho nên lấy điều lành thêm lớn làm công Lấy phước trí làm tự tánh. Lấy thói quen vượt qua làm xuất ly. Lấy địa vị đầy đủ làm rốt ráo. Bởi vì địa địa siêng năng phương tiện tương ưng với các thứ ấy”. Theo văn kinh-thù Vấn Bồ-đề Tâm có mười thứ phát: “ Thân phát. Khẩu phát. Ý phát, khiến cho ba nghiệp thanh tịnh. Nội phát, vì không luống phân biệt tất cả chúng sinh. Ngoại phát, đối với tất cả phát sinh hạnh bình đẳng. Trí phát, vì sẵn có trí Phật thanh tịnh. Thanh tịnh quốc độ phát, vì nêu rõ tất cả cõi nước trang nghiêm của các Đức Phật. Giáo hóa chúng sinh phát, vì biết thuốc trị bệnh tất cả phiền não, đây là biết pháp đối trừ. Thật phát, bởi vì thành tựu nhóm định, đây là tùy căn cơ mà nói pháp. Vô vi trí mãn túc tâm phát, vì không mê đắm ba cõi”. Dựa theo luận Phát Bồ-đề Tâm có bốn phát tâm:” Suy nghó về các Đức Phật nên phát tâm Bồ-đề. Quán sát thân lỗi lầm hoạn nạn. Thương xót chúng sinh. Cầu quả tối thắng”. Trong bốn thứ phát tâm mỗi thứ đều có năm loại, đều mở rộng như hai luận kia đã trình bày. Nay trong bốn duyên phát tâm đây là duyên thứ nhất, bởi vì thấy nghe công đức thần thông của các Đức Phật, Bồ-tát, trong bốn nhân đây là nhân thứ nhất và thứ hai, vì sẵn có chủng tánh, vì các Đức Phật, Bồ-tát và bạn lành thâu nhiếp; trong bốn lực có thể đầy đủ cả bốn lực, bởi vì từ công năng thế lực của chủng tử, vì vốn có tu tập Đại thừa, do nghe người khác nói về lực, bởi vì gần gũi bạn lành. Vui mừng hớn hở, theo luận Văn-thù Sở Vấn Kinh chép: “Vì ba thứ nghóa nên vui mừng phụng hành: Người nói thanh tịnh, vì đối với các pháp được tự tại. Pháp được nói thanh tịnh, vì pháp thể thanh tịnh như thật trí, lại vì tương ứng với mười thứ thanh tịnh thù thắng ở ba bậc Sơ, Trung, Hậu. Dựa vào pháp đã nói đạt được quả thanh tịnh, vì đạt được cảnh giới tốt đẹp”. Ý này là nương theo giáo chứng lý đắc quả. Văn kinh: Tất cả đồng thanh nói tụng rằng: Phật không nhập Niết-bàn, chánh pháp cũng không diệt, vì lợi ích chúng sinh, thị hiện có diệt tận. Thế tôn không nghó bàn, tướng diệu thể không khác, vì lợi ích chúng sinh, hiện tất cả trang nghiêm. Tán rằng: Nói rõ sự lãnh hội. Một bài nói về lãnh hội sự thường trụ, một bài nói về lãnh hội sự hiện bày các tướng. Văn kinh: Lúc đó, Bồ-tát Diệu Tràng ở trước Đức Phật và bốn Đức Như lai, hai vị Đại só và tất cả Thiên tử, nghe nói về tuổi thọ của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni xong. Tán rằng: Từ đây trở xuống đoạn văn thứ hai nói riêng về Niết- bàn. Văn chia làm ba phần: Nói rõ nghi ngờ bắt đầu thưa hỏi. Phật giải thích. Lónh ngộ được lợi ích. Văn phần một có hai: Đầu tiên kết thúc những điều đã nghe trước đó, sau là thưa hỏi điều nghi ngờ. Đây là mở đầu. Văn kinh: Lại đứng dậy khỏi chỗ ngồi, chắp tay cung kính bạch Phật: Bạch Thế tôn! Nếu quả thật như vậy thì các Đức Phật Như lai không nhập Niết-bàn, không có xá-lợi? Tán rằng: Thưa hỏi có năm: Thỉnh pháp nghi. Nhắc lại những điều đã nghe. Nêu vặn hỏi trái ngược. Kết thúc ý nghi ngờ. Thỉnh giải đáp. Đây là mở đầu, có hai: Văn kinh: Vì sao trong kinh nói có Niết-bàn và xá-lợi Phật, khiến cho các hàng trời người cung kính cúng dường các Đức Phật quá khứ, thân cốt hiện có truyền bá khắp nơi trên thế gian, trời người cúng dường được phước vô biên?. Tán rằng: Nêu ra sự chất vấn trái ngược, có ba ý: Vì sao gọi là Niết-bàn. Vì sao không nhập. Đã không nhập Niết-bàn vì sao lại nói để lại thân xá-lợi. Đây là nêu ra hai điều trái ngược: Trái với lời dạy. Trái với thế gian. Thế gian tức là xá-lợi hiện có của các Đức Phật quá khứ. Văn kinh: Nay lại nói không có, đến nỗi sinh ra nghi ngờ, cúi mong Đức Thế tôn thương xót chúng con mà giải thích rộng. Tán rằng: Hai đoạn văn về kết thúc nghi ngờ thỉnh cầu phán quyết. Văn kinh: Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Diệu Tràng và tất cả đại chúng rằng: Các vị nên biết rằng nói nhập Niết-bàn có xá-lợi là nói theo mật ý: Nghóa như vầy nên nhất tâm lắng nghe. Tán rằng: Đức Phật giải thích, văn chia làm ba đoạn: Vì có nghi ngờ nên bảo lắng nghe. Chính thức giải thích. Diệu hạnh như thế các người siêng năng tu tập, trở xuống là phần kết thúc khuyên nhắc tu học. Đây là mở đầu. Nói có xá-lợi là nói mật ý. Theo luận Tạp Tập quyển mười hai chép: “Bí mật có bốn: Khiến đi vào. Tướng. Đối trị. Chuyển biến”. Đối trị có tám: Chướng khinh Phật. Chướng khinh pháp. Chướng biếng nhác. Chướng vui mừng đối với gốc lành ít ỏi của mình. Chướng tham hành. Chướng chậm chạp thực hành. Chướng gây ra điều ác. Chướng bất định tánh. Nay ở đây vì dứt bỏ hai loại chướng khinh Phật và biếng nhác cho nên vì vậy nói nhập Niết-bàn. Lưu thân xá-lợi gọi là mật ý. Nhất tâm lắng nghe là nhắc nhở lắng nghe, nghe âm tai chú ý, cho nên dứt sạch thâu nhiếp giữ gìn sinh ra ba tuệ. Văn kinh: Này người thiện nam! Như vậy các Bồ-tát Ma-ha-tát nên biết rằng mười pháp đó có thể hiểu được nghóa lý chân thật về rốt ráo đại Nhập Niết-bàn mà Đức Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã nói. Tán rằng: Chính thức giải thích có ba: Giải thích về Thể Niết-bàn. Nói về tướng Niết-bàn, tức là hiển bày không nhập. Giải thích lý do không nhập Niết-bàn và để lại xá-lợi. Đây là mở đầu. Hỏi: Vì sao trước đây nói về Thể Niết-bàn, sau đó nói về Tướng Niết-bàn? Đáp: Nói về Thể tức là hiển bày dựa vào ba việc nói rằng có Niết- bàn khác nhau, thân trí diệt xứ của Nhị thừa gọi là Niết-bàn. Nói về tướng tức là rõ ràng có đại bi trí khác nhau, Nhị thừa nhập vào nơi mãi mãi vắng lặng cho nên hạnh hy hữu. Nói về Thể có ba lần giải thích: Giải thích theo ba việc, bốn Niết-bàn, đương thể v.v… Giải thích dựa theo xoay vần chứng đắc. Giải thích theo nhân viên năng chứng. Nghóa của Niết-bàn sơ lược phân biệt theo năm phần: Nêu và giải giải thích. Đưa ra thể. Phân biệt rõ người chứng đắc. Phân biệt rõ thời gian chứng đắc. Hỏi và đáp. Đầu tiên nêu và giải giải thích có hai mục: Nêu ra. Giải thích. Trong mục nêu ra có hai mục nhỏ: Chung. Riêng. Chung là Nê-hoàn, có kinh gọi là Nê-hoàn, có kinh gọi là Nê-viết, đều do lầm lẫn từ tiếng Phạm, đúng phải gọi là Ba-lợi-ni-phược-bộ; đời Đường dịch là Viên Tịch, cũng gọi là Ba-lợi-thấp-bà-nam, lại cũng dịch là Diệt Độ, cũng dịch là Thanh Tịnh, cũng dịch là Bỉ Ngạn. Trong kinh Niết-bàn cũng gọi nhiều tên như Vô Sinh, Vô Xuất, Vô Tác, Vô Vi, Quy y, Quật Trạch, Giải Thoát, Chuyển Y v.v… Nêu ra trên khác, có Duy Y Bất Cộng, trong phần Đoạn Quả của Nhiếp luận chỉ nói Vô Trụ. Trong kinh Niết-bàn và kinh này nói Đại Niết-bàn. Có nơi y theo người năng chứng đại, tiểu để phân biệt. Trong kinh Niết-bàn nói có hai thứ: Tiểu. Đại. Sở đắc của Nhị thừa gọi là tiểu Niết-bàn, sở đắc của Đại thừa gọi là Đại Niết-bàn. Có nơi y theo chung, riêng đối nhau. Trong luận Thập Địa nói có hai loại: Tướng chung. Tướng riêng. Tướng riêng tức là ba Niết-bàn khác. Có nơi nói theo nhân quả ba thừa đồng dứt bỏ phiền não, có hai. Trong kinh Thắng-man chỉ nói hai thứ, đó là Hữu dư y và Vô dư y. Lại có nơi y cứ theo sự khác nhau giữa Chứng và Bất Chứng, chỉ nói hai thứ, tức trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Tự Tánh Tịnh, là loại đầu tiên trong bốn loại. Phương Tiện Tịnh, là ba loại sau trong bốn loại”. Có nơi y theo Cộng và Bất cộng nói có ba thứ, tức là ba thứ trong kinh này, đó là Hữu, Vô dư và Vô trụ xứ. Có nơi nói theo Chứng và Bất chứng, ba thừa chung riêng tận ý có bốn thứ, tức trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương, luận Thành Duy Thức v.v… nói: “Tự tánh thanh tịnh. Hữu Dư y. Vô dư y. Vô trụ xứ”. Giải thích tên gọi đúng là phải gọi Ba-lợi-ni-phược-nam, hoặc Niết-bà-nam, dịch đúng phải là Viên Tịch, Viên nghóa là Tròn đầy, đầy đủ các công đức, trọn vẹn lý sở chứng, trọn vẹn năng sở chứng; Tịch nghóa là Tịch tónh, tự thể sâu lắng lìa các ồn ào, cùng thông suốt năng chứng, sở chứng. Nhưng tùy theo công đức thù thắng tăng lên gọi là Viên, quả vị đầy đủ cho nên lý thể xứng hợp là Tịch, vốn là ngưng đọng. Bởi vì trọn vẹn nhiều đức mới chứng lý tịch tónh, nên gọi là Viên Tịch. Nếu hoàn toàn viên tịch tức là vừa viên vừa tịch gọi là viên tịch, là đó là trì nghiệp thích. Hoặc từ viên có thể chứng được tịch của viên gọi là viên tịch, tức là y chủ thích. Lại nếu công đức năng viên năng tịch, hoặc sở y như sở viên, sở tịch, đều là trì nghiệp thích. Hoặc dựa theo Duy Thức, chỉ có lý chân như làm thể của Niết-bàn hoặc là tịch của viên, hoặc sở viên sở tịch. Nếu dựa theo kinh Niết-bàn thì nói ba việc gọi là Đại Niết-bàn, tức là trí như giải thoát đều viên tịch và được trì nghiệp. Vì trong kinh ấy nói chữ Như là chẳng phải một, chẳng phải khác, chung cho các pháp Giả, Thật, Tánh, Tướng đều gọi là viên tịch và trì nghiệp danh. Giải thoát là nghóa giả, Bát-nhã là Tướng, Pháp thân là Tánh. Hoặc y theo nghóa, ba tên gọi là ba việc, tức Bát-nhã là y chủ, còn lại đều là trì nghiệp. Nhưng tên gọi Niết-bàn là trì nghiệp thích. Nói Diệt Độ, Độ tức là đến, giải thích theo hai nghóa: Nói rằng chân như xưa nay vốn thanh tịnh, tánh là bỉ ngạn gọi là đến, vì thế trong kinh Duy-ma chép: “Tất cả chúng sinh tức là tướng Niết-bàn, không còn bị hoại diệt.” Cho rằng Diệt là Sở đáo, Độ là năng đáo, tức là Diệt của Độ là y chủ thích. Lại nữa, năng diệt năng độ, sở diệt sở độ, độ là đến, cho nên có cả năng sở, năng diệt năng độ tức là tướng Niết-bàn, sở diệt sở độ tức là tánh Niết-bàn, cùng là ba việc của đại Niết-bàn mà thành tựu. Kinh Niết-bàn chép: “Không có nhân duyên cho nên gọi là vô sinh, vì vô vi nên gọi là vô xuất, không tạo nghiệp nên gọi là vô tác, các tên gọi khác theo đó có thể biết”. Giải thích tên khác, chẳng do tuệ trạch, bản thể không nhiễm gọi là tự tánh thanh tịnh Niết-bàn, đồng với tự tánh thanh tịnh ở trước tức là Niết-bàn trì nghiệp thích. Dư nghóa là khổ đế, là phần còn lại của Tập, Hữu nghóa là chẳng không, Y là Sở y, có hai sở y: Hiện thân vẫn dư hành khổ y. Danh có dư y nói về Niết-bàn vẫn có sở y của khổ còn lại, tức là có sở y của khổ còn lại. Niết-bàn đều là y Chủ thích. Khổ tập đều hết gọi là Vô dư, không còn khổ y khác, vô là không, chẳng có khổ y, tức là không còn sở y của khổ. Niết-bàn cũng đều là y Chủ thích, nhờ giải thích nên hiển bày. Lại giải thích cách khác: Hữu dư vô dư năng chứng cho nên nêu kia để hiển bày đây, chính là chọn lấy sở y gọi là Niết-bàn, nghóa là có sở y của khổ còn lại tức là Niết-bàn, không còn sở y của khổ còn lại tức là Niết-bàn, đều là trì nghiệp thích. Dựa vào Nhị thừa vô dư y không thể giải thích. Nếu bốn trí Đại thừa là vô khổ y, cũng có thể chứng, có thể được y chủ giải thích điều này là chính. Do bi không trụ Niết-bàn, do trí không trụ sinh tử, bởi vì năng chứng đó như sự thấu suốt đều không trụ cho nên nói là vô trụ. Sở y tức là Niết-bàn, hoặc từ chân như ở sinh tử mà không dính mắc, ở Niết-bàn nhưng không đắm, Niết-bàn là tướng, chân như là tánh. Giống như tự tánh Pháp thân khác với tánh tướng chân như, ngay nơi tướng thuộc về tánh. Vô trụ Niết-bàn là y Chủ thích. Lại chính tướng này cũng đều vô trụ cũng có thể nói rằng vô trụ tức là Niết-bàn. Nhưng luận Duy Thức nói bốn Niết-bàn đều lấy Như làm thể, tức là nhiếp nghóa quy tánh đều trì nghiệp thích. Thứ đến nêu ra Thể, trước là trình bày theo lối xưa để nói rõ theo cách hiện tại. Trình bày về xưa, Pháp Sư Cơ ở đất Thục nói: “Pháp sư Đàm-vô-sấm và Pháp sư Đạo Lãng ở Hà Tây nói: Bởi lẽ Niết-bàn là thường lạc ngã tịnh làm nơi nhóm họp của tông nghóa, mở bày rốt ráo huyền trí làm cội rễ của Niết-bàn. Đây là giải thích được nghóa không phải chính thức nói về thể”. Tam tạng Chân-đế nói: “Niết-bàn có bốn, ba loại là đạo quả, một loại không phải đạo quả, vì thành tựu Bồ-tát Bát-nhã đại bi Niết-bàn của Bồ-tát mà thành đạo quả, từ Sơ địa trở lên trí vô phân biệt là thể của Niết-bàn”. Cũng có chỗ nói: “Bi trí là thể, ở đây chỉ là tướng”. Đây là năng chứng, chẳng phải là chính. Kinh Niết-bàn chép: “Sở đắc của liễu nhân Niết-bàn chẳng phải sinh nhân đắc, nếu trí là Niết-bàn thì tức là sinh nhân đắc”. Đại sư Hà Sóc ở Nghiệp Thành, hoặc nói Niết-bàn có đủ bốn loại thể: Lý diệt nghóa là chân như pháp giới. Sự diệt nghóa là lìa ba chướng của diệt thường diệt. Đức diệt nghóa là công đức vắng lặng. Ứng diệt nghóa là ở song lâm thị hiện diệt độ đồng với chúng sinh vô thường. Ba loại đầu có thể như vậy. Thành Duy Thức chép: “Đều lấy Như làm thể”, tức là Lý diệt. Lại nói hai loại giữa thuộc về trạch diệt, tức là diệt của sở diệt. Nhưng ý người xưa, trạch diệt là sự sở biến của sự thức, tức chẳng phải Niết-bàn. Đại Nhập Niết-bàn, phần nhiều người xưa lấy Như thị Bát-nhã tánh nói Như là Bát-nhã, không khác với lý, chẳng nhọc phân biệt mà nói. Nếu theo ba việc gọi là Đại Niết-bàn, Bát-nhã tức là Đức diệt, nhưng không nói lý do trái với liễu nhân đắc, nói chẳng phải rốt ráo. Ở đây chính thức nêu ra thể có bốn loại: Tánh tướng luận riêng thể. Tánh tướng hợp luận thể. Nhiếp giả tùng thật thể. Giả thật hợp luận thể. Về tánh tướng luận riêng thể, trong luận Thành Duy Thức nói bốn thứ Niết-bàn đều lấy chân như làm thể, đức hữu vi chẳng phải phi. Lại thể nghóa phần, tự tánh vô trụ tức là thể chân như vậy. Hai loại giữa đều là trạch diệt. Lại đoạn trí chướng có lẽ đạt được trạch diệt, tức là vô trụ xứ cũng thuộc về trạch diệt. Tuy là giả đối với tướng y tha đều được gọi là tánh, đều là liễu nhân đạt được thể, nghóa đều thường hằng, do đó ba việc đại Nhập Niết-bàn đều chọn lấy nghóa thứ ba, và lấy Như làm thể. Về tánh tướng hợp luận thể tức Bát-nhã giải thoát cho đến chân như đều là thể Niết-bàn, tức là ba việc trong kinh Niết-bàn gọi là Đại Bát. Nói chữ Như ấy cũng như ba mục, hoặc chỉ nói Như chỉ là một, chẳng phải khác. Trong luận Tạp Tập chép: “Tướng diệt đế có nghóa là chân như thánh đạo, phiền não không sinh, hoặc diệt y, hoặc năng diệt, hoặc diệt tánh, là tướng của diệt đế, tướng nghóa là thể tướng năng diệt, sở diệt. Diệt diệt y đều gọi là diệt đế”. Năng diệt tức là Bát-nhã, diệt não tức là giải thoát trạch diệt, diệt y tức là chân như. Nhưng luận đó lại chép: “Nghóa là trong cảnh chân như hữu lậu không sinh gọi là diệt đế, tức là nói theo khắc tánh”. Ở trước y theo tướng từ tánh mà hợp thuyết. Về nhiếp giả tùng thật thể tức là trong luận Duy Thức chép: Ở đây dựa theo chân như lìa chướng mà thiết lập. Thể tức là thanh tịnh pháp giới. Bốn Niết-bàn đều lấy chân như làm thể. Về giả thật hợp luận thể tức trong luận Duy Thức chép: Trong bốn Niết-bàn hai loại đầu và cuối tức là chân như. Y theo thật thể thì hai loại giữa thuộc về trạch diệt. Trạch diệt là giả hoặc vô trụ xứ nói là trạch diệt, tức là ba giả một thật đều là thể của Niết-bàn. Lại theo luận Thành Duy Thức hai, chép: Vô Vi có hai loại: Y thức biến. Y chân như. Bốn loại Niết-bàn cũng đã cho rằng ba loại sau thuộc về vô vi, cũng không qua thức biến. Còn sáu vô vi đều thừa nhận là thức biến. Thể tự tánh thanh tịnh chính là chân như, nên giống như trạch diệt cũng cho là thức biến. Lại giải thích, trong kinh Thâm Mật chép: “Các thức sở duyên duy thức sở hiện”, có thể cùng cho là thức biến. Bởi vì Niết- bàn chẳng phải chân cho nên chẳng phải liễu nhân đắc, do đó các kinh luận không nói Niết-bàn cũng là thức biến. Nhưng Hữu dư, Vô dư tuy đều là trạch diệt hướng về nghóa lại có phân biệt, chia làm hai loại, mà lại có năm cặp đối: Phiền não và nhân quả đối, nhân phiền não không còn thì gọi là hữu dư, quả phiền não dứt sạch thì gọi là vô dư. Đại và tiểu đối, sở đắc của Tiểu thừa gọi là hữu dư, sở đắc của Đại thừa gọi là vô dư, kinh Thắng-man chép: “Hàng A-la-hán dứt tập hữu dư, chứng diệt hữu dư”. Hai tử đối, phần đoạn diệt được hữu dư, biến dịch diệt gọi là vô dư, tức là cặp đối đại, tiểu trước đây. Mãn và bất mãn đối, sở đắc của Bồ-tát gọi là Hữu Dư, sở đắc của Như lai gọi là Vô Dư, trong kinh Thắng-man chép: “Hậu thân của Bồ-tát bị vô minh che lấp, dứt tập hữu dư, chứng diệt hữu dư gọi là tiểu phần Niết-bàn”, tiểu phần Niết-bàn tức là hữu dư. Ba thân tương đối, kinh này có nói “Hai thân Ứng, Hóa gọi là hữu dư, Pháp thân gọi là vô dư”, trong các kinh luận phần nhiều nói cặp đối đầu tiên là hai Niết-bàn, các loại nghóa còn lại như Bổn Pháp Hoa và Duy Thức Sớ có phân tích. Nay trong văn này phần nhiều y cứ theo vô trụ gọi là Đại Niết-bàn, trong Nhiếp Luận phân tích quả đoạn kia cũng. Theo kinh Pháp Tập một chép: “ Bồ-tát Vô Sở Phát trả lời Bồ-tát Phấn Tấn Tuệ có mười pháp biết Như lai là thường, mười pháp biết Như lai là thật, mười pháp biết Như lai là Niết-bàn”. Có ba lần lại nữa, chính là đồng với chỗ này nhưng ít rộng, cũng có hai lần lại nữa, mười pháp biết hạnh Như lai, lần thứ nhất văn lược bỏ, lần thứ hai văn phần nhiều đồng với kinh này, nhưng văn rộng hơn đôi chút. Trong ba lần lại nữa nói về Niết-bàn, thì lại nữa lần thứ nhất văn có phần rộng hơn, chỉ có hàng thứ tư kinh kia nói: Không dứt còn kinh này nói ngừng dứt, Tam Tạng Phúc Kiểm cũng nói điều đó không biết, còn lại đều giống nhau. Lại có mười pháp biết không, mười pháp biết tướng thí dụ v.v… Nhưng bốn lần lại nữa văn đều có bốn phần: Tiêu. Trưng. Thích. Kết. Trong Tiêu, đầu tiên là đối cơ, tiếp theo là mở bày, cuối cùng là lựa chọn. Nói Bồ-tát là đối cơ, vì hàng Nhị thừa nói về giả Niết-bàn, vì hàng Đại thừa nói về Đại Niết-bàn. Mười pháp tức là mở ra thứ lớp nói có rốt ráo đại Nhập Niết-bàn, chọn sở đắc khác với Tiểu thừa nên Niết- bàn gọi là đại bát. Văn nói mười pháp ấy đáng lẽ gọi là mười nghóa là Niết-bàn. Thường biết như thế tức là có thể hiểu rõ Niết-bàn Như lai đã nói. Đại ý trong này là tánh tướng Niết-bàn đều gọi là Niết-bàn, giống như Bồ-đề, Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề. Ba việc trong kinh Niết-bàn đều là Niết-bàn, như các luận Thành Duy Thức v.v… Bốn Niết-bàn đều là chân như. Bốn trí tâm phẩm gọi là Bồ-đề là tánh tướng luận riêng môn. Mười pháp tức là mười đoạn, các lần tiếp theo đều suy nghó biết được. Văn kinh: Những gì là mười?. Tán rằng: Nêu ra. Văn kinh: Các Đức Phật Như lai cuối cùng dứt sạch phiền não chướng, các sở tri chướng cho nên gọi là Niết-bàn. Các Đức Phật Như lai khéo léo thường hiểu rõ hữu tình vô tánh và pháp vô tánh nên gọi là Niết-bàn. Thường chuyển thân y và pháp y cho nên gọi là Niết-bàn. Đối với các loài hữu tình nhậm vận nghó ngơi, thay đổi nhân duyên nên gọi là Niết-bàn. Chứng đắc tướng chân thật vô khác nhau bình đẳng pháp thân nên gọi là Niết-bàn. Hiểu rõ sinh tử và Niết-bàn không có hai tánh nên gọi là Niết- bàn. Đối với tất cả các pháp hiểu rõ cội rễ, chứng đạt thanh tịnh nên gọi là Niết-bàn. Đối với tất cả các pháp không sinh không diệt cố gắng tu hành nên gọi là Niết-bàn. Chân như pháp giới thực tế bình đẳng, đạt đến chánh trí nên gọi là Niết-bàn. Đối với tánh các pháp và tánh Niết-bàn đạt được không khác nhau cho nên gọi là Niết-bàn. Đó là mười pháp nói có Niết-bàn. Tán rằng: Ba pháp đầu tiên giải thích theo ba việc. Cuối cùng dứt sạch phiền não sở tri tức là giải thoát, hiểu rõ hữu tình và pháp vô tánh tức là Bát-nhã, thường chuyển thân y và pháp y đó là Pháp thân, ba việc chẳng phải một, chẳng phải khác, gọi là đại Nhập Niết-bàn. Thân tức là lưu chuyển, hoàn diệt y thứ tám, pháp tức chân như, tức mê ngộ y. Từ đó tạng thức giữ lấy chủng tử các chướng, nêu rõ sự tốt đẹp của Pháp thân nên chuyển thức thứ tám hợp với Như. Ba pháp tiếp đó y cứ theo bốn Niết-bàn. Thứ tư là thị hiện vô dư hóa sự nghỉ ngơi, tức là thân tám tướng thị hiện nhập vô dư. Theo kinh Pháp Tập chép: “Hóa sinh không nghỉ ngơi, tức Niết-bàn hữu dư”. Thứ năm tức là vô dư, vì nói chứng đắc. Hoặc thứ tư cũng đồng với kinh Pháp Tập chép. Hoặc là trong luận Biện Trung Biên chép: “Hai là tướng thật của tướng chân thật tự tánh thanh tịnh Niết-bàn không khác nhau”. Tướng tức là trong luận Duy Thức chép: “Tướng chân như lý, ở hạng phàm phu không thể chứng đắc, các Đức Phật chứng được”. Thứ sáu là vô trụ Niết-bàn, hiểu rõ sinh tử cho đến Niết-bàn không có hai tánh. Tánh tức là tánh chân như không khác nhau cho nên hai cũng không khác, do đó không trụ vào sinh tử, Niết-bàn. Thứ bảy trở xuống bốn nghóa dựa vào ba tánh chung, riêng mà trình bày, nói rằng đối với tất cả các pháp hiểu rõ cội gốc, chứng được thanh tịnh cho nên là chung. Luận Biên Trung Biên chép: “Trong này vì sao nói cội gốc chân thật, đó là ba tự tánh sau khi đạt được năng chứng biến kế y tha thanh tịnh, bổn trí năng chứng viên thành thanh tịnh”. Thứ tám dựa vào biến kế biểu hiện nói đối với tất cả các pháp không sinh không diệt. Kinh Giải Thâm Mật chép: “Đối với tất cả các pháp không sinh không diệt, vì hiểu rõ tướng Chuyển chánh pháp luân, dựa vào biến kế nói hiểu rõ các pháp là không, nên thường đúng đắn tu hành”. Thứ chín là chọn lấy năng chứng chân như bình đẳng vô lậu chánh trí, dựa vào phần tịnh của tánh y tha khởi nói về tướng Niết-bàn, nên gọi là Niết-bàn, nhiễm chẳng phải là năng chứng cho nên chẳng phải Niết-bàn. Thứ mười đối với hai tánh đó đạt được không khác nhau, ý là chọn lấy sở đắc. Đắc là chứng đạt lý không khác nhau, chứng tánh viên thành thật. Đó là các pháp biết kết hợp nói có Niết-bàn. Văn kinh: Lại nữa, này người thiện nam! Các Bồ-tát Ma-ha-tát phải biết như thế. Lại có mười pháp có thể hiểu được lý thú chân thật mà Đức Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói có rốt ráo đạt Nhập Niết- bàn. Tán rằng: “Lại nữa” lần thứ hai y theo triển chuyển thích. Đoạn văn như trước. Văn kinh: Những gì là mười?. Tán rằng: Dẫn ra. Văn kinh: Tất cả phiền não lấy lạc dục làm gốc, từ lạc dục phát sinh, các Đức Phật Thế tôn dứt trừ lạc dục nên gọi là Niết-bàn. Vì các Đức Như lai dứt trừ các lạc dục không giữ lấy một pháp nào, vì không giữ lấy cho nên không đi không đến, không hề giữ lấy, cho nên gọi là Niết-bàn. Vì không đi không đến và không gì giữ lấy cho nên Pháp thân không sinh không diệt, không có sinh diệt nên gọi là Niết-bàn. Không sinh diệt này chẳng ngôn ngữ nào diễn đạt được, vì dứt bặt ngôn ngữ nên gọi là Niết-bàn. Không có ngã nhân, chỉ có pháp sinh diệt được chuyển y nên gọi là Niết-bàn. Phiền não tùy hoặc đều là khách trần, pháp tánh là chủ, không đến không đi, các Đức Phật hiểu rõ tất cả cho nên gọi là Niết-bàn. Chân như là thật, còn lại đều là luống dối, thể thật tánh ấy tức là chân như, tánh chân như ấy tức là Như lai, gọi là Niết-bàn. Tánh của thật tế không hý luận, chỉ có một mình Như lai chứng pháp thật tế, dứt hẳn hý luận gọi là Niết-bàn. Không sinh là thật, sinh là luống dối, người ngu si trôi nổi chìm đắm trong sinh tử, thật thể Như lai không có luống dối gọi là Niết-bàn. Pháp không thật, từ duyên sinh ra, pháp chân thật không theo duyên mà khởi, thể Pháp thân của Như lai là chân thật, gọi là Niết- bàn. Này người thiện nam! Đó là mười pháp nói có Niết-bàn. Tán rằng: Giải thích, tất cả phiền não lạc dục là gốc rễ, như kinh Niết-bàn chép: “Các pháp nhiễm tịnh đều lấy dục làm gốc”. Nhờ vào pháp lành lấy dục làn cội gốc; khởi các pháp nhiễm cũng nói giống như pháp tịnh, nên chọn lấy văn đó. Bởi vì Đức Phật có khả năng đoạn chứng, hiển bày lý gọi là Niết-bàn. Kế là nói không giữ lấy pháp, tức là bởi vì không ham muốn đối với tất cả cảnh giới không sinh ra yêu đắm, đã không yêu đắm cho nên không còn sinh ra, không hướng đến nơi sinh đi, không quay lại nơi này sinh đến, sở thủ tức là năm uẩn. Trước y theo nhân mất ở đây y theo quả diệt. Lý đã hiển bày gọi là Niết-bàn. Ba là dựa vào hữu lậu diệt tận, chân như hiện bày, đó là công đức y, gọi là Pháp thân, vì thế trong kinh Thắng-man chép: “Còn trong ràng buộc gọi là Như lai tạng, ra khỏi ràng buộc gọi là Pháp thân”. Không đi không đến là y cứ theo không có tướng hữu vi mà nói, còn không có sở thủ là dựa vào thể của sắc uẩn v.v… mà nói, hiển bày Vô sở này chính là Niết-bàn. Bốn là theo thể Niết-bàn, lìa tánh ngôn thuyên, gọi là Niết-bàn. Năm là lìa ngôn thuyên tức là chuyển y hai lý vô ngã. Vô ngã, vô nhân là không có sinh chấp, chỉ có pháp sinh diệt tức là hiểu rõ pháp vô ngã. Vì sao? Vì trong luận Bát-nhã của ngài Vô Trước giải thích rằng: “Nếu thuận theo pháp chấp thì có ngã chấp”. Vì thế nên nhờ hiểu rõ lý luận này mà đạt được chuyển y gọi là Niết-bàn, đây là thô trọng chuyển y. Sáu là bởi vì hai chấp hoặc và trần là khách, có sinh diệt, đến đi; Chân như là chủ, vì thể thường trụ không có sinh diệt, đến đi. Nay Phật biết rõ tất cả chứng đắc chuyển y, tâm này chuyển y. Bảy là nghi hoặc điên đảo sinh ra gọi là luống dối, nếu chẳng phải do điên đảo sinh ra thì gọi là thật, thật luôn không đảo loạn gọi là chân như, thể tánh chân như tức là Pháp thân của Như lai, cũng là tâm chuyển y, chỉ có chuyển thích là khác. Tám là chân như Pháp thân tức là thực tế, lìa điên đảo luống dối mà hiển bày, cho nên không còn hý luận, Phật chứng được bờ mé chân thật nên không còn hý luận, gọi là Niết-bàn, tức là đạo chuyển y. Chín là vì Phật đã dứt hẳn luống dối, hý luận do đó đạt được vô sinh này. Vô sinh là thật, hạng phàm phu ngu dốt chưa dứt bỏ được sinh luống dối cho nên trôi nổi đắm chìm trong sinh tử, Như lai không còn như vậy gọi là Niết-bàn, tức là quảng đại chuyển. Mười là Hữu vi không thật, theo duyên sinh ra, thật thể Pháp thân không từ duyên sinh ra, nên gọi là Niết-bàn. Quy về viên thành thật là nơi trở về nương tựa của tất cả các pháp. Văn kinh: Lại nữa, này người thiện nam! Các vị Bồ-tát Ma-ha-tát phải biết như vậy. Lại có mười pháp có thể hiểu được lý thú chân thật mà Đức Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói là có rốt ráo đại Nhập Niết- bàn. Những gì là mười? Như lai khéo biết bố thí và quả bố thí là không có ngã và ngã sở, thí và quả thí này không phân biệt, dứt hẳn nên gọi là Niết-bàn. Như lai khéo biết giự giới và quả giữ giới không có ngã và ngã sở, giới và quả giới này không phân biệt, dứt hẳn nên gọi là Niết-bàn. Như lai khéo biết nhẫn nhục và quả nhẫn nhục không có ngã và ngã sở, nhẫn và quả nhẫn này không phân biệt, dứt hẳn nên gọi là Niết-bàn. Như lai khéo biết tinh cần và quả tinh cần không có ngã và ngã sở, tinh cần và quả tinh cần này không phân biệt, dứt hẳn nên gọi là Niết-bàn. Như lai khéo biết thiền định và quả thiền định không có ngã và ngã sở, định và quả định này không phân biệt, dứt hẳn nên gọi là Niết-bàn. Như lai khéo biết trí tuệ và quả trí tuệ không có ngã và ngã sở, tuệ và quả tuệ này không phân biệt, dứt hẳn nên gọi là Niết-bàn. Các Đức Phật Như lai khéo có thể biết rõ tất cả hữu tình và phi hữu tình, tất cả các pháp đều vô tánh, không phân biệt, dứt hẳn nên gọi là Niết-bàn. Nếu người tự ái lại khởi lên tìm cầu, do tìm cầu nên phải chịu các khổ não, các Đức Phật Như lai dứt sạch tự ái, nên dứt hẳn truy cầu, không có truy cầu nên gọi là Niết-bàn. Pháp hữu vi đều có số lượng, pháp vô vi có số lượng đều dứt bỏ, Phật lìa hữu vi, chứng pháp vô vi không số lượng nên gọi là Niết-bàn. Như lai biết rõ thể tánh của hữu tình và pháp đều không, lìa không chẳng phải có, không tánh tức là chân Pháp thân nên gọi là Niết- bàn. Này người thiện nam! Đó là mười pháp nói có Niết-bàn. Tán rằng: “Lại nữa” lần thứ ba văn có bốn như trước. Dựa vào “nhân viên năng chứng” giải thích, tức là tu mười độ nhân đầy đủ sẽ chứng được đại Nhập Niết-bàn. Đầu tiên sáu pháp đó tức là sáu độ trước, tu hành bố thí v.v… là bảy điều tối thắng thâu nhiếp thành độ. Nay trong kinh này còn nêu ra phương tiện khéo léo một cách tối thắng, ba luân thanh tịnh hướng đến Niết-bàn thù thắng để hiển bày đối với các pháp khác; nếu tu không trọn vẹn không chứng được Niết-bàn, bởi vì bố thí tức là thấy có người thí, vật thí và quả sở thí, tức là thấy có quả là mong cầu báo ân và đẳng lưu dị thục để lìa sự trói buộc. Ngã chấp pháp chấp này gọi là bất chánh phân biệt. Thấy năng thí, sở thí gọi là ngã chấp, thấy có vật thí tức là ngã sở, những điều này dứt bỏ hẳn, lý được hiển bày, hoặc ngay nơi tướng sáu Độ Niết-bàn đều gọi là Niết-bàn, còn lại y cứ theo đây mà giải thích. Thứ bảy do phương tiện cứu giúp biết các hữu tình và tất cả các pháp đều không thật cho nên ba luân đều thanh tịnh, cho nên không phân biệt không đắm nhiễm cứu giúp. Thứ tám nếu thấy tự thân vì cầu Bồ-đề, là ái chưa mất khởi lên truy cầu tức là nhiễm nguyện, chưa quên tướng cho nên phải chịu các điều khổ não. Ba luân đã rỗng lặng không còn ái trước tự thân, không nhiễm truy cầu tức là chánh nguyện đầy đủ. Thứ chín là nhờ năng lực suy nghó lựa chọn biết pháp hữu vi có số lượng của nó, vì có sinh diệt, hình đoạn số lượng, pháp vô vi không như vậy, tức là xứng hợp với Như, không có năng sở nghó suy chọn lựa, nên nói là chứng pháp vô vi không còn số lượng. Thứ mười là biết rõ hữu tình không, thành tựu hữu tình trí, biết rõ pháp không, thành tựu trí Phật pháp, tướng đều không còn nên đều là không, lìa không chẳng phải có tánh không. Lý sở chứng này tức là Pháp thân, gọi là Niết-bàn. Văn kinh: Lại nữa, này người thiện nam! Lẽ nào chỉ có Như lai không nhập Niết-bàn? Thật là hy hữu! Lại có mười pháp ít có, là hạnh Như lai. Những gì là mười?. Tán rằng: Nói về tướng Niết-bàn, Đáp không có Niết-bàn. Văn cũng chia ra bốn phần: Tiêu. Trưng. Trạch. Kết. Đầu tiên nêu “không nhập Niết-bàn” tiếp theo “lại có mười thứ” về sau là nêu ra lý do không nhập. Văn trưng dẫn có thể biết. Văn kinh: 1. Sinh tử sai lầm, Niết-bàn vắng lặng, bởi vì đối với sinh tử cho đến Niết-bàn chứng được bình đẳng nên không có nơi nào trôi lăn, không trụ vào Niết-bàn, đối với các loài hữu tình không sinh tâm chán ngán rời bỏ, đó là hạnh Như lai. Tán rằng: Giải thích sau. Thứ nhất là hạnh không trụ hai bên, có ba phần: Nói về chứng sinh tử, Niết-bàn bình đẳng. Không có nơi trôi lăn trở xuống là nói về không trụ hai bên. Đối với các hữu tình trở xuống là nói về không rời bỏ hữu tình. Như hàng Nhị thừa thấy sinh tử là sai lầm, thấy Niết-bàn là vắng lặng, liền có tâm chán ngán rời bỏ, vào nơi Niết-bàn. Văn kinh: Hai là Phật đối với chúng sinh không khởi lên niệm như vầy: Các phàm phu ngu muội này thực hành điên đảo, sự nhìn nhận bị trói buộc, ép ngặt bởi các phiền não, nay Ta khai ngộ khiến cho được hiểu rõ. Tán rằng: Hạnh luôn luôn cứu độ hữu tình. Trước tiên quán Không, sau đó quán Hữu, tức là hạnh từ Không phương tiện phát khởi mà Có. Đây là mở đầu. Giống như kinh Bát-nhã nên không có hữu tình nào được diệt độ. Văn kinh: Căn lực từ thiện xưa kia đối với các hữu tình kia thuận theo căn tánh của họ, ý ưa thích sự hiểu biết thù thắng, không khởi phân biệt, nhậm vận tế độ, thị hiện giáo hóa, lợi ích vui mừng, tận mé vị lai không có cùng tận, đó là hạnh Như lai. Tán rằng: Quán hữu. Bởi vì nguyện lực lợi tha xưa kia đã đầy đủ, như người biến hóa hiện bày bao nhiêu sự nghiệp, như ngọc châu như ý sinh ra biết bao vật loại, tùy theo căn hơn kém trí lực, tánh chủng chủng giới trí lực, ý lạc biến thú hành trí lực, hoặc ý lạc thắng giải, đều là thắng giải trí lực, mà không hề phân biệt, về thị hiện giáo hóa lợi ích vui mừng, như luận Hiển Dương quyển mười hai, Du-già quyển tám mươi mốt nói có năm loại: Khiến cho ly dục, tức là trách mắng tất cả sai lầm của dục. Thị tức là thị hiện bốn thứ đạo lý. Giáo nghóa là dạy dỗ chân thành khiến cho học hỏi. Lợi tức là thấy lui sụt khuyến khích động viên lợi ích. Hỷ tức là thấy tiến tới nên sinh ra vui mừng. Tận mé vị lai v.v… là luôn luôn cứu độ. Văn kinh: Ba là Phật không có ý niệm như vầy: Nay ta giảng nói mười hai phần giáo lợi ích hữu tình. Tán rằng: Hạnh không thấy có sở thuyết. Đầu tiên là quán không. Văn kinh: Căn lực từ thiện xưa kia đối với các hữu tình nói rộng cho đến tận mé vị lai không có cùng tận, đó là hạnh Như lai. Tán rằng: Quán hữu. Giống như trống trời phát ra nhiều thứ âm thanh. Nói “nói rộng” cho đến lẽ ra phải nói rằng đối với với các hữu tình kia tùy theo căn tánh của họ, ý ưa thích sự hiểu biết thù thắng, không khởi phân biệt, nhậm vận tế độ, thị hiện giáo hóa lợi ích vui mừng, tận mé vị lai. Văn kinh: Bốn là Phật không có ý niệm như vầy: Nay ta đến thành ấp, làng xóm kia, vào các nhà vua chúa và đại thần, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Bệ-xá-tuất-đạt-la v.v… đề khất thực. Tán rằng: Hạnh không nghó đến khất thực. Đầu tiên là hạnh quán không. Văn kinh: Thân, miệng, ý xưa kia thực hành theo thói quen, cho nên nhậm vận đến đó vì việc lợi ích nên thực hành khất thực, đó là hạnh Như lai. Tán rằng: Quán hữu. Du-già quyển tám mươi sáu chép: Do mười nhân duyên mà Như lai đi khất thực: Vì hiển bày nhiều công đức bị che lấp. Vì muốn dẫn dắt một phần kia khiến cho họ đi khất thực. Vì muốn dùng đồng sự hạnh để thâu nhiếp một phần kia. Vì cùng chúng sinh đời vị lai làm bậc đại minh. Vì muốn dẫn dắt sự hiểu biết thô tệ kia của các ngoại đạo. Vì kia nương theo thinh giáo mà khởi lên chê bai, nên hiện bày oai nghi diệu sắc vắng lặng, khiến cho đó kinh hãi than thở, tâm sinh hồi hướng. Vì chúng sinh trong xứ kia, dùng ít công lao mà trồng nên nhiều phước đức. Vì khiến cho hạng hoại tín buông lung sinh tâm hổ thẹn, tuy dụng công lao nhỏ bé mà gặt hái phước đức lớn lao v.v…. Vì chúng sinh đui điếc v.v… và các thứ tai họa kia đều khiến cho ngừng lại, tức là vào thành người thấy được lợi ích, như phẩm Uy Lực trong Du-già có nói. Vì khiến cho vô lượng, vô biên uy đức rộng lớn của các hàng trời rồng, theo Như lai đến nhà mọi người, khiến họ sinh tâm ước ao kính mến thường xuyên thêm khách mà không bị phiền não. Văn kinh: Năm là thân của Như lai không có đói khát cũng không có tướng tiện lợi, yếu đuối mệt mỏi, tuy đi khất thực nhưng không hề ăn cũng không hề phân biệt. Tán rằng: Hạnh không nghó đến cung cấp cho thân. Văn chia hai như trước. Đây là Không Hạnh. Văn kinh: Nhưng vì nhậm vận làm lợi ích hữu tình nên thị hiện có tướng ăn, đó là hạnh Như lai. Tán rằng: Quán về hữu. Theo luận Nhiếp Đại Thừa nói ăn có bốn thứ, ở đây thị hiện y chỉ trú thực. Văn kinh: Sáu là Phật không có ý niệm như vầy: Các chúng sinh này có thượng trung hạ, tùy căn tánh đó mà nói pháp cho họ. Tán rằng: Hạnh không nghó đến nói pháp. Trước đây không thấy có sở thuyết, ở đây không nghó đến sở độ. Văn chia hai như trước. Đây là quán Không. Văn kinh: Nhưng Phật, Thế tôn không hề có sự phân biệt, tùy theo khí lượng đó khéo thích hợp cơ duyên nói pháp cho họ nghe, đó là hạnh Như lai. Tán rằng: Quán về hữu. Văn kinh: Bảy là Phật không có ý niệm như vầy: Loài hữu tình này không cung kính ta, thường đối với ta nói những lời mắng chưởi, không thể cùng bàn bạc với kia, loài hữu tình kia cung kính đối với ta, thường khen ngợi đối với ta, ta nên nói pháp cho họ nghe. Tán rằng: Hạnh không nghó đến thiện ác. Văn chia làm hai như trước. Đây là quán không. Văn kinh: Nhưng Như lai khởi tâm từ bi bình đẳng không khác, đó là hạnh Như lai. Tán rằng: Quán hữu. Đây là ba niệm xứ. Văn kinh: Tám là các Đức Phật Như lai không có yêu ghét, kiêu mạn tham tiếc, và các phiền não. Như lai thường vui vắng lặng khen ngợi ít dục, lìa các sự ồn ào náo, đó là Như lai hạnh. Tám là hạnh không nhiễm nhiều sự che lấp. Văn kinh: Chín là Như lai không có một pháp nào không biết, không khéo thấu suốt, đối với tất cả nơi chốn hoàn cảnh trí hiện tiền không có phân biệt. Nhưng mà Như lai thấy sự nghiệp mà hữu tình kia làm ra, tùy theo ý họ mà chuyển thành phương tiện, dẫn dắt khiến cho được thoát ra, đó là hạnh Như lai. Chín là hạnh nhậm vận làm lợi ích. Không một pháp nào không biết là trí sở duyên, không một pháp nào không thấu suốt là trí sở liễu cảnh; nhậm vận thường thông suốt nhưng tùy ý chuyển đổi, căn tánh ý thích thành thục có trước sau, phương tiện dẫn dụ giúp cho ra khỏi sinh tử. Văn kinh: Mười là Như lai nếu thấy một phần hữu tình gặp lúc thịnh vượng không sinh vui mừng, thấy họ sa sút không khởi buồn thương; nhưng Như lai thấy hữu tình kia tu tập chánh hạnh không chướng ngại đại từ tự nhiên cứu giúp, hoặc thấy họ tu tập tà hạnh không chướng ngại đại bi tự nhiên cứu giúp, đó là hạnh Như lai. Mười là hạnh ban vui cứu khổ. Văn trích dẫn đều có chia làm hai, y theo trước có thể biết. Văn kinh: Này người thiện nam! Nên biết rằng Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói có vô biên chánh hạnh như vậy, các vị nên biết đó là tướng chân thật của Niết-bàn. Tán rằng: Tổng kết. Văn kinh: Hoặc thấy có người nhập Niết-bàn đó là phương tiện tạm thời và để lại xá-lợi. Tán rằng: Đây là giải thích thắc mắc về thị hiện diệt độ để lại xá-lợi. Đầu tiên lại thị hiện diệt độ và để lại xá-lợi, sau đó giải thích lý do. Đây là mở đầu. Không nói: “Hoặc lúc Phật thị hiện Niết-bàn và để lại xá-lợi” mà nói thấy là muốn hiển bày Phật thường trụ, thật không hề có xá-lợi, chỉ vì tâm chúng sinh chiêu cảm mà hiện. Như người từ nơi xa đến hỏi han chỉ đứng gần đài cao liếc nhìn hình bóng dung mạo mà mình kính trọng, cưỡi quyết chu (thuyền tốt như tuấn mã) mà trở về Đông, nhìn ao hồ lắng đọng chảy về Tây. Văn kinh: Khiến cho các hữu tình cung kính cúng dường đều là căn lực từ thiện của Như lai. Tán rằng: Giải thích lý do. Đầu tiên là việc làm, sau là được lợi ích. Đây là mở đầu. Văn kinh: Nếu người cúng dường ở đời vị lai xa lìa tám nạn, được gặp các Đức Phật, gặp được Thiện tri thức, không mất tâm lành thì phước báo vô biên, mau thoát khỏi không bị sự ràng buộc của sinh tử. Tán rằng: Được lợi ích. Đạt được lợi ích có bảy thứ: Xa lìa tám nạn. Gặp dịp kính thờ các Đức Phật. Gặp được Thiện tri thức. Không mất tâm lành. Gặt hái phước báo ở đời. Chứng đến Niết-bàn. Đạt được giải thoát. Văn kinh: Diệu hạnh như vậy, các vị nên siêng năng tu tập đừng buông lung. Tán rằng: Kết thúc khuyến khích tu học. Văn kinh: Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Tràng nghe Đức Phật tự nói về việc không nhập Niết-bàn và hạnh sâu xa liền chắp tay cung kính bạch rằng: Nay con mới biết Như lai Đại sư không nhập Niết-bàn và để lại xá-lợi hầu làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, thân tâm phấn khởi vui sướng khen ngợi chưa từng có. Tán rằng: Đoạn thứ ba lãnh ngộ được lợi ích. Đầu tiên là lãnh ngộ. Văn kinh: Lúc Phật nói phẩm Như lai Tuổi thọ này xong có vô lượng vô số vô biên chúng sinh đều phát tâm Vô đẳng đẳng A-nậu-đa- la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tán rằng: Được lợi ích. Văn kinh: Lúc đó, bốn Đức Như lai bỗng nhiên biến mất, Bồ-tát Diệu Tràng lễ dưới chân Phật xong, đứng dậy khỏi chỗ ngồi trở về thất của mình. Tán rằng: Đoạn lớn thứ tư trong phẩm- nghe xong tan hội. Chỉ nói bốn Đức Phật biến mất, Diệu Tràng trở về thất, không bàn đến chúng hội còn lại, là có hai cách giải thích: Nêu ra vị thượng thủ đó ảnh hiện nơi số còn lại, hai bản dịch cũ nói là trong đại hội chỉ có Phật Thích-ca. Chỉ có bốn Đức Như lai và Diệu Tràng trở về, những người khác hãy còn ở lại. Vì sao? Vì nói chưa hết cho nên ở dưới nói ba thân không còn tập hợp chúng. Sao lại nói Hư Không Tạng ở trong đại chúng đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Hỏi: Vì sao chỉ một mình Bồ-tát Diệu Tràng trở về, trong lúc nói chưa xong? Đáp: Bởi vì muốn phát khởi hạnh sám hối, nếu không trở về nhà ngủ nghỉ thì làm sao mộng thấy trống. Hỏi: Sao không trực tiếp thỉnh cầu mà lại hầu hạ trong mộng vậy? Đáp: Bởi vì khó thực hành cho nên mộng là cho biết trước, lại cơ duyên là như vậy. <篇> KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG KINH SỚ <卷>QUYỂN 2 (Phần Cuối) <詞>Phẩm 3: PHÂN BIỆT TAM THÂN Phẩm Phân Biệt Tam Thân có chia ra ba phần: Nói về lý do có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Nói rõ về chướng nạn. Trong phần nói về lý do phẩm này có ba mục. Thứ nhất phẩm Thọ lượng ở trước nói chung về hai quả Bồ-đề, Niết-bàn không thể phân biệt biết được. Trong phẩm Thọ lượng đã nói riêng về Niết-bàn đoạn quả, chưa phân biệt về Bồ-đề trí quả. Nay vì phân biệt ba thân khác nhau khiến cho khác nhau giải chướng, trị hữu biệt tu nhân mà chứng đắc. Hư Không Tạng bạch Thế tôn: “Vì sao Bồ-tát đối với sự sâu xa bí mật của các Đức Như lai đúng như pháp tu hành?”. Sâu xa bí mật tức là quả ba thân, đúng như pháp tu hành tức hỏi chướng trị nhân cho nên từ phẩm này mà có. Thứ hai nói rõ lý do đến, ở phẩm trước nói về viên tịch thì cho dứt chướng mà chứng, đoạn sở đoạn đã hoàn tất nên trí tuệ trọn vẹn. Trong Bỉ Quả Trí Phần trong Nhiếp Luận của Vô Tánh chép: “Từ dứt sở đoạn được trí vô cấu vô quái ngại cho nên đoạn thù thắng không đứt quãng, tiếp đó nói về quả trí thù thắng”, vì thế sau phẩm trước có phẩm này sinh ra. Thứ ba nói rõ lý do đến là cơ nên nghe, từ bi vì đó mà nói khiến cho có được lợi lạc. Cuối phẩm này nói: “Trong bốn oai nghi, các Đức Phật Như lai thảy đều thuộc về trí, tất cả các pháp không có pháp nào không thuộc về từ bi”. Không có pháp nào không vì lợi ích an vui cho các chúng sinh, tức là dứt bỏ các khổ tám nạn, do đó văn dưới nói: “Lắng nghe tin hiểu không đi theo các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, đây là lìa xa nạn bốn đường ác, thường ở nơi trời, người, lìa xa nạn biên địa; không sinh nơi hạ tiện, lìa xa nạn sinh ra đui điếc, luôn luôn được gần gũi, các Đức Phật Như lai, lìa xa nạn sinh trước Phật, sau Phật, lắng nghe thọ nhận chánh pháp, lìa xa nạn thế trí biện thông, thường sinh về cõi nước thanh tịnh của các Đức Phật, lìa xa nạn sinh về tầng trời Sống lâu, cho đến cõi nước có bốn thứ lợi ích v.v… đều là lợi ích an vui”, cho nên có phẩm này. Kế là giải thích tên gọi, phân là chia đoạn, Biệt nghóa là đặt biệt, tức là chia đoạn khác nhau về ba thân. Hoặc phân nghóa là phân tích, biệt nghóa là ký biệt. Ba là số thân nghóa là y vào nghóa thể và chứa nhóm, như luận Thành Duy Thức mười giải thích. Còn nghóa chân thật trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Thân gọi là thật, không tổn hoại gọi là thật”. Hoặc nối nhau gọi là thân, trong Lương Luận chép: “Các Đức Phật ba đời nối nhau không khác, tùy theo ba nghóa sở ứng của tự tánh là Pháp thân, thông thể và y thật gọi là thân”. Ứng Hóa có cả năm, khác với biến kế cho nên cũng được gọi là thật. Lại chẳng phải thành tựu do máu thịt cho nên cũng gọi là thật. Nếu nói theo tự tánh Pháp thân thì không được gọi là thật. Nếu chỉ nói ba thân thì giải thích theo số hiện có. Đã nói phân biệt ba thân, thì phân biệt là năng phân biệt, ba thân là sở phân biệt. Nên nói về sự phân biệt ba thân gọi là phẩm Tam Thân Phân Biệt, là y Chủ thích. Nay thuận theo phương này nói là phẩm phân biệt Tam Thân. Phẩm này nói rộng về ba thân của các Đức Phật cho nên gọi là phẩm Phân Biệt Tam Thân. Ba là nói về chướng nạn. Thứ nhất hỏi: Ba thân này đều vốn có hay mới sinh ra? Đáp: Y cứ theo nhân thì đều là vốn có, nói về quả thì đều là mới thành. Bởi vì tự tánh của thân chẳng sinh diệt, do đó nói chung là mới thành tựu. Thể tự tánh Pháp thân tức là chân như, ở trong ràng buộc gọi là Tạng, không gọi là Pháp thân, hằng sa muôn đức tướng chưa hiện rõ cho nên chẳng phải là nơi y chỉ công đức của pháp. Thoát ra khỏi sự ràng buộc thì gọi là Pháp thân, hằng sa muôn đức tướng đã hiển hiện. Nói về công đức y theo tên gọi là Pháp thân, trong kinh Thắng-man chép: “Ở trong ràng buộc gọi là Như lai tạng, ra khỏi ràng buộc gọi là Pháp thân”. Luận Thành Duy Thức chép: “Ở Đại Mâu-ni gọi là Pháp thân”. Đã nói ở Đại Mâu-ni gọi là Pháp thân thì rõ ràng chẳng phải là tên gọi vốn có, cho nên là mới đạt được. Hai thân Ứng và Hóa về nhân tuy là vốn có nhưng quả thì mới phát sinh. Lý đó rất thành tựu, không dẫn chứng rườm rà. Thứ hai hỏi: Ba thân này là đồng nhất thể, nghóa dụng chia làm ba làm nhân và thể khác nhau? Đáp: Nhân và thể đều khác. Tự tánh Pháp thân tức là ứng được nhân đắc, ứng được nhân thể tức là chân như. Hai thân Ứng và Hóa nhờ gia hạnh nhân, tròn đầy nhân mà được. Phát tâm gọi là gia hạnh, tu tập đầy đủ gọi là tròn đầy, tức là sáu độ. Thứ ba hỏi: Nếu ba nhân có thể riêng thì cũng khác nhau, vì sao văn dưới nói: Tuy có ba số nhưng không có ba thể? Đáp: Nói theo tánh tướng thì chân như là tánh, ngoài ra là tướng, không có một pháp nào ra khỏi thế giới chân như mà có Thể tánh riêng nên nói là không có ba thể, thảy đều lìa Như, thể tánh không khác. Lại y cứ theo nhiếp tướng quy về tánh thì Như, Thể tức là một, hoặc tướng dụng luận riêng về ba thể khác nhau, như luận Thành Duy Thức, Đại Trang Nghiêm, Nhiếp Đại Thừa v.v… đều có nói về điều đó. Thứ tư hỏi: Nếu ba thể khác nhau thì ở dưới nói thí dụ quặng vàng không thành? Đáp: Không hề trái nhau, vì lý chân như và vô lậu vốn có kết hợp dụ cho quặng vàng, được vàng ròng là hợp dụ cho quả đức, tùy ý chuyển đổi làm các vật dụng trang nghiêm, dụ cho tánh tướng công đức đều y như lý, căn lực giác chỉ y theo bốn trí mà khởi. Dưới đây phân biệt qua ba dụ vàng, nước, hư không đối với thể Pháp thân là có trước, mộng vượt sông dụ cho mới bắt đầu, biệt dụ cho bốn trí tâm phẩm, vì vậy ở dưới kinh nói: “Chẳng phải là vô tâm, vọng tưởng đã dứt bỏ là giác thanh tịnh; chẳng phải là vô giác, vàng, nước và hư không là vốn có không thay đổi, cho nên dụ cho tự tánh. Mộng không phải là chân giác, mộng biết rõ là không thật thì chân giác mới khởi, vì thế biết là Thể khác nhau”. Các vị tôn đức xưa nay nói về thể ba thân, khác nhau không đồng nghóa đến sau này sẽ phân biệt rõ. Văn kinh: Bấy giờ, Hư Không Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải sát đất chắp tay cung kính đảnh lễ dưới chân Phật. Tán rằng: Ngay trong phẩm này toàn văn chia làm bốn phần: Bồ-tát thưa hỏi. Như lai trả lời. Này người thiện nam! Tri kiến như thế trở xuống là kết thúc khuyến khích tu hành. Bấy giờ, Hư Không Tạng trở xuống là lãnh ngộ thọ trì tu học. Trong phần đầu lại có hai: Cúng dường. Thân thỉnh. Cúng dường có hai thứ: Nội cúng dường, tức là nghi thức thỉnh pháp. Ngoại cúng dường, tức là biểu hiện thành tựu đương quả. Đây tức là văn mở đầu. Nội cúng dường này là nghi thức thỉnh pháp, trong luận Đại Trang Nghiêm quyển một có nói. Thứ nhất trong nghóa phát tâm có sáu thứ thù thắng, nguyện thù thắng thứ hai tức là mười nguyện lớn. Nguyện thứ nhất cung kính cúng dường tất cả các Đức Phật, trong đó có ba: Tất cả Phật vô dư. Cúng dường vô dư. Trong cúng dường vô dư có ba: Lợi cúng dường, đó là các thứ y phục v.v… Kính cùng dường, đó là các thứ hương hoa v.v… Hành cúng dường đó là tu tập tín giới v.v… Cung kính vô dư, cũng có ba: Chu cấp hầu hạ cung kính. Đón đưa cung kính. Tu hành cung kính. Nay ở đây chính là tu hành cung kính, trong đó có hai: Đầu tiên nói về người thưa hỏi, sau đó nói về cúng dường. Hỏi: Vì sao Bồ-tát này tên là Hư Không Tạng? Đáp: Nhất định các vị Bồ-tát đều có công năng phước trí địa vị tương tự đều phải như nhau, nhưng tùy theo nguyện tăng thêm nên có tên đều khác nhau. Nay vị Bồ-tát này lập danh có hai cách: Theo Sự. Theo Lý. Theo Sự lập danh, như kinh Đại Tập quyển mười lăm, cũng nói: “Bồ-tát Hư Không Tạng được năng lực thần thông của Như lai, ở trong hư không tùy theo sự cần thiết của chúng sinh, hoặc pháp, hoặc tài, tất cả thường ban cho đều khiến trở nên vui mừng, vì trí phương tiện này nên gọi là Hư Không Tạng”. Còn trong phẩm Hư Không Tạng chép: “Thời quá khứ, có Luân vương tên là Sư Tử Biên, xuất gia không bao lâu đạt được năm thứ thần thông, kế thừa giáo pháp của Phật làm cho tà tâm của vua cha thay đổi, muốn giúp cha vào trong chánh kiến nên nhâp định hiện hiện bày thần thông. Các tướng như thế làm cho tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, ở giữa hư không tuôn xuống các vật tốt đẹp quý giá như mưa, đều từ hư không lần lượt rơi xuống, đầy khắp cõi tam thiên. Lúc bấy giờ, Địa Thần cho đến tầng trời Ca-ni-tra, vui mừng phấn khởi nói lời như vậy: Vị Đại Bồ-tát này tên là Hư Không Tạng. Lúc ấy Phật ấn khả tên là Hư Không Tạng”. Theo Lý lập danh ấy, trong kinh Hư Không Tạng Bồ-tát chép: “Hư Không Tạng nói với A-nan rằng: Thân ta tức là hư không, dùng hư không chứng biết tất cả, là hư không ấn chứng hư không”. Đây là theo Lý mà gọi tên, tức là lý thân. Mười địa chứng đắc mười thứ Pháp thân như trong Thắng Thiên Vương Bát-nhã chép: Còn nghóa về ba thân trong Pháp Uyển có trích dẫn đầy đủ. Cũng như kinh Hoa Nghiêm, thân tướng Phổ Hiền giống như hư không, nương vào Như như, không dựa vào cõi Phật. Hỏi: Bồ-tát này giai vị ở địa nào? Đáp: Theo kinh Đại Tập nói là ở Địa thứ mười. Đứng dậy khỏi chỗ ngồi v.v… đều có sự biểu thị, suy theo đó có thể biết. Văn kinh: Dùng hoa, cờ báu, phướn lọng vi diệu quý báu để cúng dường Đức Phật. Tán rằng: Ngoại cúng dường tức trong ba loại cúng dường đây là kính cúng dường. Dùng vàng báu nhiệm mầu bậc thượng vi diệu kim bảo là biểu thị cho sự tu hành lâu xa, là dụ cho việc luyện vàng dưới đây. Nói hoa báu là biểu thị hãy còn ở nhân sẽ đạt được quả. Cờ báu biểu thị cho trí Bồ-đề cao vượt khỏi hàng Nhị thừa. Lọng báu biểu thị cho bốn tâm vô lượng che mát chúng sinh, cũng biểu thị cho nghe kinh này có thể làm nhân thù thắng đạt đến quả thù thắng. Văn kinh: Bạch Đức Phật: Bạch Thế tôn! Vì sao nói Bồ-tát Ma- ha-tát đối với chỗ sâu xa bí mật của các Đức Như lai đúng như pháp tu hành?. Tán rằng: Đích thân thưa hỏi, sâu xa bí mật là hỏi về quả, như pháp tu hành là hỏi về nhân. Khó có thể chứng đến tận cùng gọi là sâu xa, hoặc hàng Nhị thừa không biết nên gọi là sâu xa. Bồ-tát Địa tiền không thể hiểu rõ gọi là bí mật. Theo kinh Pháp Hoa nói về sâu xa có năm loại: Nghóa. Thể. Nội chứng. Y chỉ. Vô thượng. Lại bí mật đó tức là tướng, và khiến hội nhập trong bốn bí mật. Ba tánh là tướng ba thân khiến hội nhập. Văn kinh: Đức Phật nói: Này người thiện nam! Hãy lắng nghe và khéo nghó nhớ, ta sẽ phân biệt giải thích rõ cho ông nghe. Tán rằng: Đoạn lớn thứ hai, Như lai trả lời. Văn chia làm bốn: Đầu tiên bảo lắng nghe và hứa nói; tiếp đến trả lời về quả; tiếp theo “Lại nữa, này người thiện nam” trở xuống là trả lời về vấn đề tu hành; sau cùng “Lại nữa, Thiện nam! Pháp thân” trở xuống là tổng kết nhân quả ở trước, nói rõ khiến cho biết. Đây là mở đầu. Nói hãy lắng nghe và khéo nghó nhớ, trong Công Đức Thí Bồ-tát Kim cương Bát-nhã Luận giải thích rằng: “Đế-thích là tâm chuyên chú vào một cảnh, Thiện là đối với nghóa như lý phát sinh tin tưởng, không có nghi ngờ, Tư niệm là kính trọng giữ gìn không quên”. Ngài Chân-đế giải thích rằng: “Đế-thích tức là phát sinh văn tuệ, văn tuệ lìa xa lỗi tán loạn, như kính mến tài năng, khó nghó là phát sinh tư tuệ, tư tuệ thường tôn trọng, lìa xa buông lung, như toàn vẹn đức độ. Niệm là phát sinh tu tuệ, tu tuệ thường nhiếp niệm, xa lìa điên đảo, như tài năng đức độ thanh tịnh. Văn kinh: Này người thiện nam! Tất cả Như lai đều có ba thứ thân. Tán rằng: Tiếp theo trả lời về quả đã hỏi. Văn chia làm bốn: Nêu lên số đó. Tùy số đưa ra. Y theo số đưa ra. Tùy số nêu ra giải thích. Đây là nêu ra. Văn kinh: Vì sao nói là ba? Tán rằng: Trưng dẫn. Văn kinh: Một là Hóa thân, hai là Ứng thân, ba là Pháp thân. Tán rằng: Sắp xếp theo trưng dẫn. Trước tiên nêu ra tên gọi ba thân, sau đó hiển bày thâu nhiếp khuyến khích nên biết. Đây là nêu ra tên gọi ba thân. Văn kinh: Ba thân như vậy nhiếp thọ đầy đủ, được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nếu đích thực hiểu rõ thì mau chóng thoát khỏi sinh tử. Tán rằng: Hiển bày thâu nhiếp khuyến khích nên biết. Như vậy là chỉ cho ba thân nêu ra ở trước. Nhiếp thọ đầy đủ là hiển bày thâu nhiếp thân Phật, là đức vô vi, tự lợi lợi tha tất cả đều trọn vẹn. Nhiếp nghóa là ôm lấy tất cả, Thọ là dung nạp. Nghóa là ba thân này thâu tóm tất cả, dung nạp công đức thân Phật thảy đều trọn vẹn. Vì sao ba thân này chính là A-nậu Bồ-đề? Nói A nghóa là Vô, Nậu-đa-la là Thượng, Tam là chánh, Miệu là Đẳng, Tam còn dịch là Chánh, Bồ-đề là Giác. Theo đó nên nói Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đây là thâu nhiếp năm pháp chân như và bốn trí. Như tức là Đoạn đức Niết-bàn, bốn trí tức là Trí Đức, dựa theo đây mà hóa sinh tức là ân đức, thâu nhiếp trọn vẹn Bồ-đề. Luận Bát-nhã của Bồ-tát Vô Trước chép: “A- nậu-đa-la hiển bày Bồ-đề Bồ-đề đoạn, là tướng giải thoát; Tam-miệu Tam-bồ-đề hiển bày riêng biệt về đạo Bồ-đề. Bởi vì người bình đẳng, bởi vì Bồ-đề phần pháp. Đây là ý về tướng giải thoát, tức là ly cấu chân như. Đạo Bồ-đề là bốn trí tâm phẩm, bởi vì người bình đẳng, bởi vì người vô ngã lý ấy bình đẳng. Bởi vì có Bồ-đề phần pháp nên gọi là Phật, đối với vô thượng giác mà sinh chánh giác thì khác với phàm phu, đẳng giác khác với Nhị thừa”. Lại nói: “Chánh giác khác với Bồ-tát, bởi vì chữ Giác xuyên suốt tất cả bốn nơi”. Đầu tiên là vô thượng giác, tức là lý chân như, giác tánh gọi là giác, cho nên kinh nói rằng: “Bồ-đề Bồ-đề đoạn gọi là Bồ-đề”. Đầu tiên gọi là Vô thượng, trong kinh Bát-nhã chép: “Không có chút pháp nào có thể đắc cho nên gọi là A-nậu v.v…”. Luận Thích chép: “Không một vi trần pháp nào có thể đắc”. Đây là ý nói Nhị thừa chỉ dứt bỏ phiền não không dứt được sở tri, Bồ-tát thì dứt bỏ cả hai chướng, chủng trí không có chút nhiễm nào cho nên nói là Vô thượng Tam-miệu Bồ-đề v.v… Nói Vô thượng tức là vì hơn hẳn hạng phàm phu, Nhị thừa và Bồ-tát kia cho nên giác gọi là Vô thượng. Kinh Bát-nhã chép: “Pháp này bình đẳng không có cao thấp cho nên gọi là A-nậu Bồ-đề”. Đây là ý nói do Phật và Phật ngang nhau, chứng đạt vô ngã ngang nhau cho nên gọi là Vô thượng, nếu có hơn kém thì không gọi là Vô thượng. Như trong luận Biện Trung Biên, phẩm Vô Thượng Thừa chép: “Tóm lại từ ba vô thượng nói là Vô Thượng thừa, đó là Chánh hạnh, Sở duyên và tu chứng Vô Thượng”. Ý này tức là các hạnh đều tu, các cảnh đều thông, các quả đều chứng, cho nên gọi là Vô Thượng, rộng như luận ấy nói. Kinh Bát-nhã nói rằng: “Tu tất cả pháp lành tức đạt được hạnh Bồ-đề vô thượng, đối với tất cả các pháp nên biết như vậy tức là cảnh vô thượng, tu chứng vô thượng tức là Bồ-đề, Niết-bàn”. Luận ấy chép: “Chín là Phật địa tu chứng không còn hai chướng, do đó mười là thị hiện Bồ-đề, tu chứng không ngừng nghỉ”. Nay ở đây cũng nói như vậy. Nếu đích thực hiểu rõ mau chóng thoát khỏi sinh tử ấy là khuyến khích đại chúng khiến cho hiểu rõ. Nghóa về ba thân này phân biệt sơ lược có năm loại: Giải giải thích. Đưa ra Thể. Khai hợp phế bỏ vị. Nhân khởi tướng quả. Các môn phân biệt. Thứ nhất giải giải thích, có hai: Đầu tiên đưa ra danh, sau đó giải giải thích. Đưa ra danh, kinh luận đều khác nhau, ba thân đều có nhiều tên gọi. Hóa thân Phật lược có năm tên gọi: Gọi là Hóa thân, trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Do năng lực tự tại bổn nguyện của Phật, giống như chúng sinh kia đổi thay hiển hiện gọi là Biến Hóa thân”. Là cha mẹ sinh thân, trong luận Trí Độ chép: “Phật có hai thân: Một là pháp tánh sinh thân; hai là cha mẹ sinh thân”. Tùy thế gian thân, nói rõ bi nguyện của Phật thị hiện giống như thế gian, vào ở trong thai thoát ra khỏi thai gọi là tùy thế gian, vì vậy trong luận Trí Độ chép: “Phật có hai thân: Một là Tùy thế gian thân, hai là Pháp tánh sinh thân”. Chỉ gọi là sinh thân, cũng thuộc về cha mẹ sinh ra, kinh Niết- bàn chép: “Phật có hai thứ thân: Một là Pháp thân; hai là Sinh thân”. Là giả danh thân, trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Giả danh thân tức là hóa thân, thị hiện thân này phân biệt, việc làm không chân thật gọi là giả danh thân” các tên gọi này tùy theo nghóa nên biết. Thứ hai là Ứng thân, lược có sáu tên gọi: Ứng thân, hằng sa đức thành tựu tương ưng với lý gọi là Ứng thân, trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Nếu lìa Pháp thân thì Ứng thân không thành tựu, hoặc đến cơ Bồ-tát thích hợp nên nói pháp, cho nên gọi là Ứng thân; hoặc vì thích ứng với nhân xưa kia”. Thọ dụng thân, là Thọ dụng tịnh độ Đại thừa pháp lạc, trong luận Thành Duy Thức chia ra Tự thọ dụng và Tha thọ dụng, Tự thọ dụng là luôn luôn tự mình thọ dụng pháp lạc rộng lớn, Tha thọ dụng là giúp cho người khác thọ dụng pháp lạc Đại thừa. Báo thân, dùng quả báo đền nhân gọi là Báo thân, trong luận Thập Địa gọi là Báo thân Phật, trong luận Bát-nhã gọi là Thọ lạc báo Phật. Trí tuệ Phật, nói trong kinh Lăng-già. Công đức Phật, cũng nói trong kinh Lăng-già. Là pháp tánh sinh thân, trong luận Trí Độ chép: “Phật có hai thứ thân, một là pháp tánh sinh thân, hai là cha mẹ sinh thân”. Đã nói pháp tánh sinh, rõ ràng không phải tự tánh Pháp thân, bởi vì hằng sa công đức tương ưng với pháp tánh, dựa vào pháp tánh mà khởi gọi là pháp tánh sinh. Thứ ba là Pháp thân, lược có năm tên gọi: Pháp thân, thân mà công đức chân như vô cấu nương vào gọi là Pháp thân, trong Nhiếp Đại Thừa chép: “Thân này tương ưng cùng với pháp công đức cho nên gọi là Pháp thân”. Luận Thành Duy Thức chép: “Chính tự tánh này cũng gọi là Pháp thân, là nơi y chỉ của các pháp đại công đức”. Kinh này cũng giống như vậy. Tự tánh thân: trong Nhiếp Đại Thừa dịch vào đời Lương chép: “Hoặc Phật xuất thế, hoặc Phật không xuất thế đều tự nhiên, gọi là tự tánh thân”. Thành Duy Thức chép: “Đó là chân tịnh pháp giới thọ dụng biến hóa bình đẳng sở y của các Đức Như lai nên gọi là tự tánh thân”. Chân thật thân, Nhiếp Đại Thừa dịch vào đời Lương chép: “Thân có hai thứ: Một là chân thật thân; Hai là giả danh thân”, trong luận Bảo Tánh gọi là thật Phật, kinh này cũng nói pháp thân là Phật. Như như Phật, kinh Lăng-già nói Như như Phật. Chỉ gọi là Pháp Phật: Chân như tự thể được gọi là Phật, như là Phật thể cho nên gọi là Pháp Phật. Trên đây đã nêu ra tên gọi. Giải thích tên gọi là giải rõ tên gọi chung trong đầu đề như phẩm trước. Giải thích tên riêng là dựa theo kinh này nói Hóa thân là hiện bày các thứ thân, đó gọi là Hóa thân. Bởi vì có thể dẫn dắt từ không mà chợt có, hiện rõ đó là Hóa, Hóa tức là thân, là trì nghiệp thích. Hoặc riêng để phân biệt với chung là thân của Hóa, tức là y Chủ thích. Bởi vì thân xuyên suốt cho nên có chỗ gọi là Biến Hóa thân, Biến nghóa là chuyển đổi hình dạng vốn có, Hóa tức là từ không mà chợt có, vừa biến vừa hóa, biến và hóa khác nhau, là tương vi thích. Biến Hóa tức thân là trì nghiệp thích. Ở đây bỏ chữ Biến, hoặc Hóa dụng thù thắng cho nên gọi là Hóa thân. Y theo đây thì Ứng là Ứng với phàm phu, Nhị thừa, ứng là ứng thân, để phân biệt với Báo thân nên chỉ nói Hóa thân. Không đồng Báo thân, vì ứng với Bồ-tát nên được gọi là Ứng. Theo luận Thập Địa và kinh luận thì Báo thân gọi là Báo Phật, Hóa thân, Pháp thân, Ứng thân đều gọi là Phật. Theo các kinh luận phần nhiều trước đây nêu là Phật có bao nhiêu thân, trong nêu danh phần nhiều không có chữ Phật. Không như vậy thì nếu chỉ nói ba thân là tên gọi cho tất cả người khác, cũng gọi là thân. Lại y cứ theo mười hiệu, ba thân đều được tên gọi đó. Nhiều tên gọi của Phật tạm thời nêu ra một, cho nên ở đây cũng nói: Tất cả Như lai đều có ba thân. Nói về Ứng thân, theo văn kinh này có hai nghóa gọi là Ứng: 1.Khế Ứng chân lý nên phát khởi thân này. Kinh chép: “Như thật tương ưng như như, trí như như bổn nguyện lực, thì thân được hiện bày”. Đã nói như thật tương ưng như như đẳng trí bổn nguyện lực cho nên thân đó được hiện bày, do khế ứng với chân lý mới phát khởi gọi là Ứng thân. Trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Nếu lìa Pháp thân thì ứng thân không thành tựu, nên biết rằng hai thân này do năng y và sở y nên được tương ứng”. Lại vì ứng đến căn tánh của Bồ-tát mà hiện bày thân này gọi là Ứng thân. Vì vậy kinh này chép: “Vì các Bồ-tát có khả năng thấu suốt cho nên nói về Chân-đế”, cho đến chép: “Đó gọi là Ứng thân”. Phú cơ gọi là Ứng, nhưng là tha thọ dụng, không phải là tự thọ dụng. Nghóa trước có cả hai. Nói về Pháp thân là y theo luận Thành Duy Thức chép: “Là nơi y chỉ của pháp đại công đức”. Luận Phật Địa chép: “Là nơi y chỉ của các pháp công đức và các năng lực vô úy”. Công đức là năng y, thân là sở y, tức thể chân như là sở y của pháp công đức, cho nên gọi là Pháp thân, là y chủ thích. Nhiếp Luận Đại Thừa của ngài Vô Tánh cũng giải thích đồng với ở đây. Lại chân như là công đức pháp thể, thể tức là thân, do đó pháp chính là thân. Luận Vô Tánh giải thích rằng: “Pháp tánh tức là thân, cho nên gọi là Pháp thân, là trì nghiệp thích”. Nay văn kinh này có đủ cả hai nghóa. Sau kinh này chép: “Vì sao nói Bồ-tát hiểu rõ Pháp thân? Vì dứt trừ các phiền não các chướng, vì đầy đủ các pháp công đức cho nên chỉ có như như, trí như như, đó gọi là Pháp thân”. Vì dứt trừ các phiền não các chướng gọi là Pháp thân, tức là đã hiển hiện Báo thân, là trì nghiệp thích. Đầy đủ các pháp công đức gọi là Pháp thân, tức chính là năng y, là y Chủ thích. Ngoài ra như Pháp Uyển Tam Thân Nghóa Lâm phân biệt rõ. Lại y theo kinh này phân biệt có ba thứ: Liệt danh hiển thắng. Xuất tam thân thể. Chư môn phân biệt. Phần đầu xong. Văn kinh: Vì sao nói Bồ-tát hiểu rõ Hóa thân?. Tán rằng: Đưa ra thể của ba thân. Tức chia ra ba đoạn. Đây là Thể Hóa thân: Mượn để hỏi. Phật trả lời. Cả hai kết thúc. Đây là mở đầu. Nói Bồ-tát là đối với cơ đã đầy đủ, Nhị thừa định tánh không thể vui mừng mong cầu, do đó hỏi Bồ-tát. Tuy ba thừa đều được gọi là Bồ-tát nhưng không phải đều là hỏi ý. Hỏi Bồ-tát Đại thừa vì sao nói hiểu rõ vì muốn khiến cho ưa thích tu hành mà mong cầu, tức là hai lần hỏi: Thế nào là Bồ-tát. Thế nào là hiểu rõ. Văn kinh: Này người thiện nam! Xưa kia Như lai còn ở giai vị tu hành vì tất cả chúng sinh tu các thứ pháp. Tán rằng: Đây là Phật trả lời, lại có hai: Nhân và Quả. Đây là nhân. Văn chia làm năm phần: Gọi người thưa hỏi. Tự nêu đức hiệu. Nói rõ hạnh vị. Nói ý tu tập. Chính thức tu tập. Xưa kia ở trong địa vị tu hành là nói về hạnh vị, tức là trừ chủng tánh địa trong bảy địa, vì chưa tu hành cho nên trong lời nói cũng phân biệt với trì nghóa, vì tất cả chúng sinh là thứ tư nói về ý tu tập, tức là đồng với kinh Bát-nhã. Thế nào là trụ tâm? Vì tất cả chúng sinh đều muốn diệt độ, đây là sự rộng lớn bậc nhất. Tâm đó thường không điên đảo, bốn thứ tâm ích lợi tu các thứ pháp môn, tức là nhân của sự tu hành và dứt bỏ chướng. Văn kinh-thù Sở Vấn chép: “Bồ-tát đầu tiên quán pháp gì thực hành hạnh Bồ-tát, tức là việc làm, dựa vào pháp nào mà thực hành hạnh Bồ-tát, tức là tu đoạn. Văn-thù đáp rằng: Các Bồ-tát thực hành đại bi là vốn vì các chúng sinh”. Đây là mở đầu. Tuy cũng tự lợi nhưng Bồ-tát lấy đại bi lợi tha làm trước tiên, lý thật cũng có tự lợi, hoặc ngay nơi lợi tha trở lại làm tự lợi. Vì thế kinh luận ấy chéo: Lại hỏi: Đại bi lấy gì làm gốc? khác. Đáp: Lấy trực tâm làm gốc, đây là ý khiến xa lìa sợ hãi cho người Lại hỏi: Trực tâm lấy gì làm gốc? Đáp: Lấy tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh làm gốc; đây là ý đối với tất cả các loài hữu tình oán thân tâm đều thương xót bình đẳng. Lại hỏi: Đối với tất cả mọi nơi tâm bình đẳng lấy gì làm gốc? Đáp: Lấy không hề khác nhau, xa lìa (Dị hạnh) làm gốc, đây là ý khiến cho lìa xa tâm Năng độ, Sở độ. Lại hỏi: Không khác nhau, lìa khác nhau lấy gì làm gốc? Đáp: Lấy tâm rất thanh tịnh làm gốc; đây là ý tuy là nhiếp tha nhưng đồng kỷ, khiến cho xa lìa tâm ái nhiễm và hoàn toàn vắng lặng. Lại hỏi: Tâm rất thanh tịnh lấy gì làm gốc? Đáp: Lấy tâm A-nậu Bồ-đề làm gốc; đây là ý tự lợi, bởi vì tự mình không cứu thì không thể lợi tha. Hoặc là cầu Bồ-đề tức là ba thứ tâm gọi là tâm Bồ-đề. Lại hỏi: Tâm Bồ-đề lấy gì làm gốc? Đáp: Lấy sáu pháp Ba-la-mật làm gốc, đây chính là vì đầy đủ sáu chủng tánh dùng làm gốc, hoặc do tu hành sáu độ làm gốc”. Hỏi đáp trong kinh đó đồng với ý kinh này. Vì tất cả chúng sinh tức là thương xót chúng sinh. Phát tâm Bồ-đề thương xót chúng sinh lại có năm việc: Thấy các chúng sinh bị vô minh trói buộc. Thấy các chúng sinh không tin nhân quả gây ra các nghiệp ác. Thấy các chúng sinh rời bỏ chánh lý. Thấy các chúng sinh gây ra nghiệp ác sâu nặng. Thấy các chúng sinh không tu tập chánh pháp. Năm việc đều có bốn thứ, rộng như kinh kia đã nói. Tu các pháp môn tức là mười độ sau và dứt bỏ các chướng. Văn kinh: Tu tập như thế đến khi tu hành đầy đủ. Tán rằng: Đắc quả. Đầu tiên là nói về nhân sở tu tròn đầy, kế là nêu lên quả sở đắc tròn đầy, sau đó tổng kết thân danh. Đây là mở đầu. Văn kinh: Nhờ năng lực tu hành nên đạt được đại tự tại. Tán rằng: Nói về quả sở đắc trọn vẹn, có hai: Đầu tiên nói về quả đắc trọn vẹn, sau đó nói về khả năng lợi ích chúng sinh. Đắc quả chia hai: Đắc quả. Liễu cảnh. Đây là đắc quả. Mười đại tự tại gồm: Nêu danh. Xuất thể. Biện nhân. Phế lập. Nêu danh đó trong Nhiếp Luận 9 của ngài Vô Tánh chép: “ Tuổi thọ tự tại. Tâm tự tại. Chúng cụ tự tại. Nghiệp tự tại. Sinh tự tại. Thắng giải tự tại. Nguyện tự tại. Lực tự tại. Trí tự tại. Pháp tự tại”. Về xuất thể thì mạng tức là mạng căn, như phẩm Thọ lượng ở trước đã nói. Kinh Thập Địa chép: “Không thể nói, không thể nói, kiếp mạng trụ trì”. Nhưng kinh Tát-già-ni-kiền Tử quyển bảy và kinh Pháp Tập 3 chép: “Đạt được cam lộ tối thượng gọi là mạng tự tại. Cam lộ tức Niết- bàn, Niết-bàn chính là tuổi thọ của Pháp thân. Hoặc do chứng vô trú cam lộ này nên mạng của Ứng thân, Hóa thân hiện bày mạng tùy tâm kéo dài hay rút ngắn đều vô tận”. Tâm tự tại, theo kinh Thập Địa thì “Tâm tức là trí định, do năng sở dắt dẫn”, đồng với luận Tạp Tập đưa ra các pháp thể thông suốt trí định. Kinh đó chép: “Đạt được tâm tự tại thì vô lượng tăng-kỳ hội nhập trí Tam-muội”. Hoặc chép: “Định này thường dẫn dắt trí, không nhất thiết giữ lấy trí tâm tự tại”. Theo kinh Pháp Tập chép: “Tất cả các pháp đều hiện khởi do tâm, gọi là tâm tự tại, tức là thông suốt thức thứ tám. Thức đó có công năng biết tất cả, đó là nhất tâm gọi là tâm tự tại, là thâu nhiếp tâm sở, quy về tâm vương”. Còn Nhiếp luận chép: “Ở trong tự tại chuyển vận tâm đó gọi là tâm tự tại. Sự chuyển vận này tức là thông suốt thức thứ tám, có khả năng chuyển vận là định, hoặc cũng chung cho trí. Hoặc tâm tự tại chuyển vận tức là có cả tâm vương, tâm sở”. Chúng cụ tức là bốn trần làm thể, ăn mặc tài vật tất cả mọi thứ gọi là chúng cụ. Luận chép: “Đối với các thứ uống ăn, các điều kiện sinh sống đều đầy đủ, tùy ý ưa thích thường được chứa nhóm”. Nghiệp tức là tư, cho nên chỉ tạo các nghiệp lành. Sinh tự tại, sinh chung cho năm uẩn, hễ sinh ra nơi nào đều được như ý muốn mà được thọ sinh. Thắng giải tự tại, trong kinh Tát-già-ni-kiền Tử gọi là như ý tự tại, tức là dùng thắng giải số làm thể. Luận Vô Tánh chép: “Nghóa là từ nơi đất cát phát khởi thắng giải khiến cho trở thành vật báu”. Nguyện tức là lấy giải dục tín làm thể, kinh Tát-già-ni-kiền Tử chép: “Là tín tự tại hoặc trí hậu đắc làm thể của nguyện tự tại”. Thần lực tự tại tức là sáu thứ thần thông, trong kinh Tát-già-ni-kiền Tử gọi là nguyện tự tại, tức là hiển bày thần thông biến hiện mọi vật khiến cho tùy nguyện thành tựu. Vì vậy kinh ấy chép: “Ngay lúc tâm sinh hiện tiền thành tựu tất cả các việc gọi là nguyện tự tại”. Luận Vô Tánh chép: “Nghóa là tùy ý thích dẫn dắt phát khởi các thứ thần thông tối thắng”. Trí tự tại là duyên trí âm thanh, lấy từ vô ngại giải làm thể, trong Vô Tánh chép: “Nghóa là tùy tất cả các thứ ngôn ngữ âm thanh nên trí cảnh hiện bày”. Pháp tự tại lấy pháp vô ngại giải làm thể. Luận Vô Tánh chép: “Tùy ý ưa thích mà giảng nói hợp với kinh, ứng với tụng v.v…” Hoặc mười tự tại đều lấy trí làm thể, đều là trí dụng, bởi từ sáu độ thành tựu thắng trí này. Ba là biện nhân, theo luận Vô Tánh: “Do pháp thí, vô úy thí và tài thí trọn vẹn, như sở ứng đó nên đạt được quả này”. Chính xác tức là như dưới đây thường cùng với Thọ, Tâm, Chúng cụ tự tại làm nhân. Như trong kinh Tát-già-ni-kiền Tử chép: “Mau lìa bỏ sát sinh, không còn tâm nóng giận độc hại, đó là nhân của mạng tự tại”. Nhiếp Luận y theo Pháp thân mạng, Tát Già y theo Ứng hóa mạng. Lại lìa bỏ các sự giết hại v.v… cũng là pháp thí. Từ bi là nhân của tâm tự tại, ý này chép: “Bởi vì từ bi nên thường thí vô úy”. Giới là nhân của nghiệp sinh tự tại. Kinh Tát-già-ni-kiền Tử chép: “Đem tâm Bồ-đề thâu nhiếp các gốc lành, đó là nhân của sinh tự tại”. Nhẫn là nhân của thắng giải tự tại, kinh Tát-già-ni-kiền Tử cho rằng cúng dường bố thí làm nhân của thắng giải, ý nói yên lòng chịu khổ nhẫn nại có thể giải thoát, ý trong Nhiếp Luận nói là Nhân xưa kia luôn thích tu nhẫn, tùy theo tâm ưa thích của các hữu tình mà chuyển, nay gặt hái được tùy thắng giải chuyển nơi các kim địa. Tinh tấn là nhân của nguyện tự tại, ý này là do siêng năng thành tựu đầy đủ sở nguyện. Kinh Tát-già chép: “Thường nói về Tam Bảo giáo hóa chúng sinh, đó là nhân của tín tự tại”. Đã nói là Thường Nói, cũng chính là siêng năng, khiến cho người khác sinh khởi niềm tin, không còn phỉ báng giáo pháp. Vô úy tónh lự tức là nhân của lực tự tại. Kinh Tát-già chép: “Vừa sinh ra mong cầu tức thời liền ban cho, đó là nhân của nguyện tự tại”. Bát-nhã là nhân của trí và pháp tự tại. Luận Vô Tánh chép: “Do nhân xưa kia thường ưa thích tu hạnh tuệ, tùy theo âm thanh của loài đó mà nói pháp cho nghe, nay chứng được Bát-nhã thù thắng, khéo biểu đạt ngôn ngữ thanh âm tài tình giảng nói chánh pháp”. Hoặc kinh Tát-già chép: “Thường thực hành pháp thí không vì lợi dưỡng gọi là văn cung kính, là nhân của trí tự tại, thường nói cho chúng sinh nghe về pháp chân như bình đẳng của các Đức Như lai và các chúng sinh, tự thể Pháp thân không phải là thân ăn uống, đó là nhân của pháp tự tại”. Ý đồng với Nhiếp Luận. Về phế lập, trong kinh Pháp Tập quyển ba, kinh Tát-già quyển sáu đều chép: “Vì dứt trừ mười sợ hãi”. Theo đây chính là vì có thể đối trị mười sợ hãi cho nên mong cầu mười tự tại. Kinh Tát-già chép: “Đại Vương nên biết rằng đạt được mạng tự tại do đó đối trị tất cả mọi nỗi sợ hãi sinh tử, đạt được tâm tự tại do đó đối trị tất cả mọi nỗi sợ hãi phiền não, đạt được vật tự tại do đó đối trị tất cả mọi nỗi sợ hãi nghèo nàn, đạt được nghiệp tự tại do đó đối trị tất cả mọi nỗi sợ hãi đường ác”. Trong kinh Pháp Tập nói trừ nỗi sợ hãi ác hạnh, kinh đó y theo trừ Nhân, kinh này nói theo trừ Quả. Trong kinh Pháp Tập nói trừ nỗi sợ đường ác, kinh đó là nói theo Quả, kinh này nói theo sự trói buộc. Không được sinh trong tự tại, là vì sinh trong ràng buộc, đạt được sinh tự tại do đó đối trị tất cả nỗi sợ hãi sinh trong ràng buộc; đạt được như ý tự tại do đó đối trị tất cả nỗi sợ hãi tiến cầu, đạt được tín tự tại do đó đối trị tất cả nỗi sợ hãi phỉ báng báng chánh pháp, đạt được nguyện tự tại do đó đối trị tất cả nỗi sợ hãi tâm niệm trói buộc, đạt được trí tự tại do đó đối trị tất cả nỗi sợ hãi nghi ngờ, đạt được pháp tự tại do đó đối trị tất cả nỗi sợ hãi đại chúng. Lại giải thích: Nói về pháp tự tại đó là nói pháp tự tại. Đã nói “tùy theo ý chúng sinh” cho đến nói “Nói pháp tương ứng hiện các thứ thân”, do đó biết rằng hiện thân nói pháp cho chúng sinh nghe khiến đạt được lợi ích, tức trong kinh Pháp Hoa chép: “Chỉ vì một việc lớn”. Nói pháp tự tại có mười bốn thứ: Nói pháp tự tại. Thanh tịnh. Lạc thuyết. Trí. Sinh. Tam-muội. Trú trì. Quyến thuộc. Kiến. Văn. Tỷ. Thiệt. Thân. Tâm. Kinh Pháp Tập quyển bảy chép: “Vì sao nói là nói pháp tự tại? Vì đối với tất cả ngôn ngữ không mê đắm, đây là không hòa vào pháp sở thuyết. Thế nào là thanh tịnh tự tại? Vì đối với tất cả nơi chốn không nhiễm, không chỉ đối với pháp sở thuyết mà đối với tất cả đều không mê đắm. Thế nào là Lạc thuyết tự tại? Nghóa là y theo câu chữ của một pháp không hề ngưng nghỉ, trong trăm ngàn muôn kiếp nói không thể hết được, phân tích không hề hết được. Thế nào là Trí tự tại? Đối với câu chữ của mỗi pháp năng thuyết, là trăm ngàn muôn pháp môn cho nên phân tích ý nghóa rất dồi dào. Thế nào là Sinh tự tại? Vì tùy theo lợi ích chúng sinh mà đối với nơi sinh ra tất cả mọi loài, tùy theo nơi chốn hiện bày thân. Hai lần nói Tùy theo nơi chốn là nói chẳng phải một, ngoài ra theo đây có thể biết. Thế nào là Tam-muội tự tại? Vì ở trong từng niệm nếu muốn nhập Tam-muội liền có thể nhập Tam-muội. Thế nào là Trụ tự tại? Vì tùy theo từng chỗ, từng chỗ trụ trì, đó là hoặc hươu nai hoặc chim thú hoặc cỏ cây, hoặc tường vách, có thể nói diệu pháp của các Đức Phật, tức là trụ trì ở đó khiến có thể nói pháp. Thế nào là quyến thuộc tự tại? Nghóa là vô lượng quyến thuộc không thể phá hoại quyến thuộc. Thế nào là Kiến tự tại? Nghóa là vì thấy được sắc màu vi diệu. Thế nào là Văn tự tại? Nghóa là vì nghe được âm thanh vi diệu. Thế nào là Tỷ tự tại? Vì ngửi được tất cả hương chỉ là hương pháp vi diệu. Thế nào là Thiệt tự tại? Nghóa là vì ăn vị pháp không ăn vị của thức ăn. Thế nào là Thân tự tại? Nghóa là thành tựu Pháp thân, chẳng phải thân nuôi bằng thức ăn. Thế nào là Tâm tự tại? Vì cho đến muỗi mòng, sâu kiến đều biết hạnh biết tâm của chúng. Vì vậy thấy sáu căn có dụng thù thắng. Trong đây, hai thứ lớp tại đầu là Sở thuyết bất nhiễm, tiếp theo hai thứ là năng thuyết, tiếp theo một thứ là hiện thân, tiếp theo một thứ là nhập định, tiếp theo một thứ là thêm vào đầy đủ các điều khác, tiếp theo thứ một là tùy thọ Hóa thân, tiếp theo sáu là hiển bày các căn. Sinh ở trước là tổng tướng giả thân, sáu thứ sau này là biệt tướng thật thân. “Tùy ý chúng sinh, tùy hạnh chúng sinh” trong kinh này tức là tâm tự tại, tùy tiểu phần giới chúng sinh bởi vì giới có cả hai nghóa, khiến cho giữ lấy cảnh nên nói là tiểu phần, tức là tùy nơi những lợi ích của chúng sinh mà hiện bày các thứ thân, tức là tùy theo nơi đó mà vì đó hiện thân. Cùng xứ tương ứng, không đợi thời tương ưng, thuộc về Tam-muội tự tại, hành tương ứng tức thuộc về tâm tự tại. Trong luận Nhiếp Đại Thừa quyển chín chép: “Lại nữa, Pháp thân do mấy thứ lớp tại mà được tự tại, sơ lược do năm thứ: Do cõi Phật, tướng tốt tự thân, vô biên âm thanh, vô kiến đảnh tướng tự tại, bởi vì chuyển đổi theo Sắc uẩn. Do không tội lỗi, rộng lớn vô lượng, lạc trú tự tại, bởi vì chuyển đổi theo Thọ uẩn. Do biện thuyết tất cả danh thân, cú thân, văn thân tự tại, bởi vì chuyển đổi theo Tưởng uẩn. Do hiện hóa, biến đổi dẫn nhiếp đại chúng, dẫn nhiếp tự pháp tự tại, do chuyển đổi theo Hành uẩn. Do viên cảnh, bình đẳng, quán sát, thành sở tác trí tự tại, do chuyển đổi theo Thức uẩn”. Giải thích rộng như trong luận ấy. Văn kinh: Năng lực tự tại nên tùy ý chúng sinh, tùy hạnh chúng sinh, tùy cõi chúng sinh thảy đều biết rõ. Tán rằng: Rõ cảnh biết ý, biết tâm thể. Hoặc là thắng giải biết hạnh chúng sinh, biết hạnh khác nhau, hoặc nghiệp, hoặc chúng sinh thú hướng cùng khắp. Hành chúng sinh giới tức là các loại tánh, đều có khả năng biết rõ. Văn kinh: Không đợi thời, không quá thời, xứ tương ứng, thời tương ứng, hành tương ứng, nói pháp tương ứng, hiện bày các thứ thân. Tán rằng: Giáo hóa chúng sinh. Không đợi thời là căn tánh chúng sinh thành thục nên lập tức hiện thân nói pháp không chọn lựa thời tiết. Không quá thời nghóa là không vượt qua thời gian Ứng Hóa này. Xứ tương ứng v.v… là Như lai nói pháp lìa tứ phi, xứ tương ứng là lìa phi xứ, thời tương ứng là lìa phi thời, hành tương ứng là lìa phi cơ, nói pháp tương ứng là lìa phi pháp, nghóa là ứng với xứ này, thời này, các căn tánh này, nên dùng pháp này chắc chắn tương ứng. Hiện các thứ thân tức là tám tướng, hoặc hiện bày thân Phật hiện tại và sau khi Niết-bàn. Không nói: Bởi vì biết bao ý của đệ tử nên hiện bày các thứ tướng. Trong bốn câu này nên nói: Hiện tại và sau khi Niết-bàn, dùng nguyện tự tại tùy duyên lợi ích, đó gọi là Hóa cho nên gọi chung là các thứ thân. Văn kinh: Đó gọi là Hóa thân. Đó gọi là Hóa thân là kết thúc cả hai. thân? Văn kinh: Này người thiện nam! Vì sao nói Bồ-tát hiểu rõ Ứng Tán rằng: Nói về Ứng Phật trong toàn văn cũng có ba phần. Đây là bắt đầu hỏi. Văn kinh: Nghóa là các Đức Như lai muốn cho các Bồ-tát được thông suốt nên nói về Chân-đế. Tán rằng: Trả lời dưới đây. Trong trả lời lẽ ra phải có Tu Nhân. Vì trong Hóa thân nói về Tu nhân cho nên ở đây lượt bỏ không nói, phỏng theo mà hiển bày, là vì câu chung cho nên cần phải phân ra giữ lấy văn đó. Nay chỉ nói về quả, trong quả chia làm hai: Đầu tiên là nói pháp, sau đó hiện thân. Đây là nói pháp. Trong nói pháp có hai phần: Lợi sinh. Lợi pháp. Trong phần một có ba mục: Nói về cảnh Chân-đế. Nói về quả Niết-bàn. Nói về nhân sở hành. Bởi vì trước tiên nói về cảnh khiến cho thông suốt cảnh đó, thông chân đạt chân tục. Tiếp theo nêu rõ quả đó khiến cho người đó ưa thích mong cầu, sau cùng khiến cho dứt trừ chướng ngại, tu nhân khắc chứng. Đây là nói về cảnh. Cảnh là các Đức Như lai nói về người năng thuyết, các Bồ-tát rõ ràng là sở bị cơ, được thông suốt cho nên hiểu rõ ý nói. Nói Chân-đế là nói về sở thuyên, là khiến cho Bồ-tát phát khởi trí căn bản, chung khởi trí hậu đắc. Nói về Chân-đế là nói theo tối thắng, lý thật cũng là nói về tục đế, bởi vì chân, tục nương nhau mà kiến lập. Hoặc ở đây lại nói theo hai thứ nhân, pháp, ngoài ra đối với cái biết của Bồ-tát gọi là chân, đối với các ngã, pháp gọi là chân. Văn kinh: Vì giúp cho hiểu rõ sinh tử, Niết-bàn là đồng một vị. Tán rằng: Nói về quả. Quả chia làm hai thứ: Hữu vi và Vô Vi. Vô vi là gốc nên chỉ nói về nó. Quả chia làm bốn thứ, tức là bốn Niết-bàn. Tự tánh thanh tịnh không do đoạn chứng cho nên không nói, hoặc tức là thuộc về Chân-đế, hữu dư vô dư có cả ba thừa, chẳng phải tối thắng vì thế cũng lược bỏ không nói. Chỉ có vô trụ xứ là riêng Đại thừa đạt được, có lợi ích chúng sinh tốt đẹp, cho nên trong quả chỉ nói về loại này, nghóa như trước đã giải thích. Văn kinh: Vì dứt bỏ thân kiến, chúng sinh sợ hãi vui mừng. Tán rằng: Nói về trừ chướng tu nhân. Bởi vì từ vô thỉ bị ngã kiến trói buộc do đó không thể hiểu rõ. Nếu như có thể hiểu rõ về sinh tử thì lại sinh sợ hãi, đối với Niết-bàn sinh ra ưa thích không thể lợi ích tất cả, lại vì ngã chấp là gốc của các chướng. Nhưng ngã kiến này tuy có cả hai thức sáu và bảy mà ý là trừ thức thứ quyển bảy, vì chướng ngại cho vô trụ thắng, lại là gốc của đắm nhiễm. Cho nên trong luận Thành Duy Thức giải thích về bình đẳng trí rằng: “Trí diệu quán sát kiến lập từ bất cộng, sở ý, vô trú, Niết-bàn, một vị nối nhau, cùng tận mé vị lai”. Văn kinh: Vì vô biên Phật pháp mà làm cội gốc. Tán rằng: Đây là lợi pháp. Ý lợi sinh là làm cho pháp tồn tại lâu dài cho nên nói: Làm cội gốc. Văn kinh: Như thật tương ứng, Như như, Trí như như, bổn nguyện lực cho nên thân đó được hiện bày. Tán rằng: Dưới đây là hiện thân có hai: Đầu tiên là hiện thân, sau đó nói về trang nghiêm. Đây là hiện thân. Nói Như thật tức là chân như. Tương ứng là năng chứng sở chứng, đều không còn hai. Thủ là tương ứng, tương ứng nghóa là tương tự. Đây là câu nêu chung, như như, trí như như là câu nêu riêng. Chân tánh hai không gọi lặp là Như như, trí thấu đạt hai Không gọi là Trí như như. Vì năng lực Bổn nguyện là nói về lý do hiện thân. Trí như và cảnh Như đều không còn phân biệt, nhân đâu mà hiện thân? Nhân nơi năng lực bổn nguyện. Thành Duy Thức chép: “Do ngày xưa tương ứng hạnh lợi tha, thành tựu nhân duyên cõi Phật thanh tịnh vô lậu v.v…”. Cõi đã do ngày xưa, hiện thân cũng giống như vậy. Hỏi: Ứng thân này trong hai thân thọ dụng là thuộc về thân nào? Đáp: Tha thọ dụng thân. Hỏi: Làm sao biết được? Đáp: Sơ lược có bốn điều chứng minh: Văn này nói “Do như như, trí như như bổn nguyện lực, cho nên thân này có thể hiện rõ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vì như tự thọ dụng công đức tướng tốt thảy đều vô biên”. Ở dưới nói: “Hai thân giả danh không thật, niệm niệm sinh diệt, bất định trú nên lần lượt xuất hiện, vì thế Tự thọ dụng không lần lượt xuất hiện”. Dưới lại nói: “Thân Phật thứ hai vì ứng theo một ý của đệ tử cho nên hiện bày một tướng; Tự thọ dụng thân không đối với đệ tử”. Dưới chép: “Ứng thân, chẳng phải Hóa thân là thân Địa tiền”. Hỏi: Nếu là Tha thọ dụng vì sao nói “Dưới nói Ứng thân”, từ vô thỉ đến nay nối nhau không đứt quãng, tất cả các pháp bất cộng của các Đức Phật có thể nhiếp trì, chúng sinh vô tận, dụng cũng vô tận, thân tha thọ dụng đã thị hiện diệt độ, làm sao có thể nói vô thỉ nối nhau có thể nhiếp trì các pháp bất cộng? Đáp: Nói nối nhau là nói theo phần nhiều, không giống như Hóa thân qua trăm ngàn kiếp mới xuất hiện một lần. Các Hóa thân trong văn cũng nói là “thường xoay bánh xe pháp”, há thường còn không diệt độ hay sao? Hỏi: Nếu vậy thì Tự Thọ dụng há không phải là ba bất nhiếp ư? Đáp: Không phải ba bất nhiếp, vì đó là Pháp thân. Hỏi: Làm cho biết được? Đáp: Đến trong phần Pháp thân sẽ dẫn chứng nói rộng hơn. Văn kinh: Đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vầng ánh sáng tròn sau lưng. Tán rằng: Nói về trang nghiêm. Hỏi: Nếu là Tha thọ dụng thì tướng tốt phải nhiều, vì sao chỉ nói ba mươi hai tướng v.v…? Đáp: Tha thọ dụng thân có hai thứ: Thân ở địa vị bốn gốc lành nhìn thấy. Thân do Bồ-tát Địa thượng nhìn thấy. Nay ở đây chỉ nói đến thân ở địa vị bốn gốc lành nhìn thấy. Hỏi: Nơi khác thường nói: “Vì Địa tiền hiện bày gọi là Hóa thân”, đâu gọi là thọ dụng? Đáp: Vì Địa tiền hiện bày gọi là Hóa thân là nói về thân mà người trong ba thừa cùng thấy, không phải cái thấy của người bốn gốc lành và Bồ-tát. Nếu không phải là Địa tiền vì sao ở dưới chép: “Ứng thân chẳng phải Hóa thân là thân Địa tiền”. Hỏi: Do đâu biết được thân Phật thấy được ở địa vị bốn gốc lành không phải là thân mà ba thừa cùng thấy? Đáp: Theo kinh Phạm Võng Bồ-tát Giới chép: “Nay ta là Lô-xá- na, đang ngồi đài hoa sen, ngàn cánh hoa xung quanh, lại hiện ngàn Thích-ca, một hoa trăm ức nước, mỗi nước một Thích-ca, đều ngồi cây Bồ-đề, cùng lúc thành Phật đạo”. Đã nói trên ngàn hoa lại hiện rõ ngàn vị Thích-ca, một hoa có trăm ức cõi nước, mỗi cõi nước có một Đức Thích-ca; nếu không phải cái thấy của hàng bốn gốc lành và Bồ-tát, thì có thân nào nói là ngàn vị Thích-ca? Hỏi: Lô-xá-na này là Địa nào thấy? Đáp: Có chỗ nói: Thân của Bồ-tát Sơ Địa nhìn thấy. Nay giải thích: Đây là thân của Bồ-tát Nhị Địa nhìn thấy: Nói là Giới Ba-la-mật. Nói là ngàn trăm ức cõi. Hoặc Bồ-tát Sơ Địa thấy “trăm ức” mà không thấy “thiên”. Hỏi: Thập Địa, Du-già chép: “Nếu lúc tác ý thì thấy vô biên cõi nước” sao không thể nói “ngàn trăm ức cõi nước”. Nếu vậy vì sao nói “Bồ-tát Sơ Địa được thập bách môn?”? Đáp: Nếu nói y theo tác ý thì ứng vô lượng cõi, đâu chỉ là ngàn trăm ức, huống gì lại là Bồ-tát Nhị Địa được trăm ngàn môn? Nay nói trăm ngàn ức, chính là tương đương với nhau, đâu nhọc gì phải hiểu khác. Văn kinh: Đó gọi là Ứng Thân. Tán rằng: Kết thúc. Văn kinh: Này người thiện nam! Vì sao Bồ-tát Ma-ha-tát hiểu rõ Pháp thân?. Tán rằng: Nói về Pháp thân. Văn có ba phần như trước. Đây là mở đầu, hỏi. Văn kinh: Vì dứt các phiền não, các chướng, vì đầy đủ các pháp lành. Tán rằng: Chính thức giải thích có hai phần: trước nói về những việc làm, sau nói về thân đạt được. Đây là mở đầu. Cần phải nói đến Tu nhân, văn lược bỏ không nói, như trước đã giải thích. Pháp thân này có hai thứ: Tự Tánh Pháp thân. Công đức Pháp thân. Nay bao gồm cả hai. Vì dứt các phiền não, các chướng, rõ ràng là đạt được tự tánh Pháp thân. Vì đầy đủ các pháp lành cho nên nói là đạt được công đức tự tánh Pháp thân. Tức là tịnh pháp giới bốn trí tâm phẩm gọi chung là Pháp thân. Năng chứng, sở chứng hợp lại gọi là Pháp thân. Phật Giả, Phật Thật hai loại có khác nhau, chia ra Ứng Hóa. Không như thế thì nhóm hợp Ứng, Hóa cũng gọi là Pháp thân, vì vậy Thành Duy Thức chép: “Pháp thân như vậy có ba tướng khác nhau”. Văn kinh: Chỉ có Như như, Trí như như đó gọi là Pháp thân. Tán rằng: Nói về đạt được Pháp thân. Như như tức là tự tánh Pháp thân. Trí như như tức là bốn trí tâm phẩm. Tuy về sự thì trí phẩm không duyên theo chân như, bởi vì lìa năng sở thủ, do trí như như khởi nên gọi chung là trí như như. Do đó tiếp theo ở dưới nói rằng “cho nên pháp như như, trí như như gồm nhiếp tất cả Phật pháp”, nếu chỉ là Như thì không thâu nhiếp tất cả. Lại giải thích: Hóa thân như trước, Ứng thân xuyên suốt thâu nhiếp hai thân Tự thọ dụng và Tha thọ dụng; Pháp thân chỉ là Tự Tánh chân như. Nói Như như tức là Như thật tướng Bát-nhã. Còn luận Đại Trang Nghiêm và Tam tạng Chân-đế nói có bốn giác: “ Ứng giác, tức là chân như. Chánh giác, tức là trí tuệ. Giác phần tức là nhân Bồ-đề. Linh giác tức là Giáo năng thuyên”. Giới hạn (biên) các pháp thể gọi là Như như, giới hạn trí tánh gọi là trí Như như. Cho nên văn dưới nói “Ứng thân từ vô thỉ đến nay nối nhau không đứt quãng, thường nhiếp trì tất cả pháp bất cộng của các Đức Phật, chúng sinh vô tận, dụng cũng vô tận, vì thế nói Thường v.v…”. Rõ ràng cũng chung với thân Tự thọ dụng. Ở dưới nói: “Pháp thân chẳng phải hành pháp, không có tướng khác nhau, vì đó là căn bản giống như hư không, cho nên nói là Thường”. Đã nói chẳng phải là hành pháp thì rõ ràng chẳng phải bốn trí, vì bốn trí sinh diệt là hành pháp. Lại giải thích: Theo văn trên dưới và Nhiếp Đại Thừa v.v… thì nói chugn tức như trước đã giải thích, nay trong kinh này giải thích chung cả hai nghóa. Nếu trong bốn câu v.v… tức là phần khác của Tự thọ dụng và Tha thọ dụng mà rõ ràng bốn câu không như thế, Ứng thân không phải Hóa thân đó là thân Địa tiền, Hóa thân cũng Ứng thân nghóa là thân trụ nơi Niết-bàn hữu dư. Hoặc Tự thọ dụng không gọi là Hóa thân, cho nên Tự thọ dụng đồng gọi là Pháp thân. Vì chỗ này văn dưới chép: “cho nên Pháp thân là do tuệ thanh tịnh, là do diệt thanh tịnh, đó là hai thanh tịnh, vì thế cho nên Pháp thân đầy đủ thanh tịnh”. Hoặc cả hai Trí, Lý hợp lại gọi là Pháp thân tức là Tánh Tướng hợp luận môn. Hoặc chỉ lấy Như gọi là Pháp thân tức là Tánh Tướng luận riêng môn. Hoặc Tự thọ dụng thuộc về Ứng thân, tức là Giả Thật Tự Tha thọ dụng nhị hợp luận môn. Hoặc Ứng thân chỉ là thân Tha thọ dụng, tức Giả Thật luận riêng môn. Vì vậy biết rằng nghóa của các thuyết không trái nhau. Văn kinh: Hai loại thân trước là giả danh mà có, thân thứ ba này là chân thật mà có, làm cội gốc cho hai thân trước. Tán rằng: Dưới đây là các môn phân biệt, có chín môn: Thứ nhất Giả: Thật phân biệt môn, Nhị lợi phân biệt môn, Hữu dư vô dư đẳng phân biệt môn, Trị chướng phế lập môn, Tam thủ đồng biệt môn, Nhất đa phân biệt môn, Năng sở tương y môn, Thường vô thường môn, và Tứ cú phân biệt môn. Ngay nơi giả thật này văn chia làm năm: Tiêu. Thích. Trưng. Giải. Kết. Đây là văn hai phần đầu. Vì làm cội gốc hai thân trước, y theo trước giải thích về ba thân, Pháp thân đồng thời thuộc về trí, tức là phân biết rõ Biến Hóa thân về Tha thọ dụng, là giả danh Phật do Biến hóa khởi lên. Lấy Như làm gốc, từ trí biến khởi, cho nên làm cội gốc cho hai thân trước. Hoặc dựa vào Pháp thân chỉ thâu nhiếp như như, trí như như, là gốc không từ nơi khác khởi, cho nên được gọi là Thật. Ứng thân nương vào pháp mà khởi, Hóa thân nương vào ứng thân mà khởi, vì vậy hai thân trước đều là giả có. Văn kinh: Vì sao như vậy?. Tán rằng: Nêu câu hỏi. Vì lý do gì mà Pháp thân nương vào hai thân đó? Văn kinh: Bởi lìa pháp như như, lìa trí vô phân biệt thì tất cả các Đức Phật không có pháp khác. Tán rằng: Giải thích. Trước trở lại giải thích, tiếp theo lần lượt thành tựu. Đây là mở đầu. Văn kinh: Tất cả các Đức Phật đầy đủ trí tuệ, tất cả phiền não diệt sạch tận cùng, đạt đến Phật địa thanh tịnh. Tán rằng: Lần lượt thành tựu. Kinh Thắng-man chép: “Ở trong ràng buộc gọi là Như lai tạng, ra khỏi ràng buộc gọi là Pháp thân”. Nay ở đây nói trí tuệ đầy đủ, tức là Trí như như, diệt sạch tất cả tức là Pháp như như; vì vậy có đủ hai thứ. Văn kinh: Cho nên pháp như như, trí như như, thâu nhiếp tất cả Phật pháp. Tán rằng: Kết thúc thành tựu. Có thể biết Pháp thân tịnh diệu của Như lai lại tức là chân như, là chỗ nương của ngộ, mê, cho nên là hai gốc. Văn kinh: Lại nữa, này người thiện nam! Tất cả các Đức Phật lợi ích Tự, Tha đến chỗ rốt ráo. Tán rằng: Thứ hai - Nhị lợi phân biệt môn. Trong đó có hai phần: Phân biệt rõ hai lợi ích. Này người thiện nam! Vì sao nói pháp như như trở xuống là giải thích tình ý nghi ngờ. Trong phần một lại có hai: Đầu là pháp, sau là dụ. Trong pháp có ba: trước tiên nêu ra, kế đến giải thích, sau cùng kết thúc. Đây là nêu ra. Nói lợi ích Tự, Tha đến chỗ rốt ráo ấy tức là từ Tự lợi cho đến Phật vị gọi là rốt ráo. Có hàng ba thừa khiến cho đạt được quả rốt ráo, người vô tánh thì đồng với cùng tận, không nhập Niết- bàn mà mà vì đó lợi ích cũng gọi là rốt ráo. Văn kinh: Tự lợi ích là pháp như như, Tha lợi ích là trí như như. Tán rằng: Giải thích. Đầu tiên giải thích về hai lợi ích, sau đó giải thích lý do. Đây là mở đầu. Như như ngưng tụ vắng lặng phần nhiều là tự lợi, như trí khởi động tác dụng phần nhiều là lợi tha. Trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Nếu lấy Pháp thân làm Ứng thân Phật, thì có nghóa chúng sinh không có lợi ích; nếu đem Ứng thân làm Pháp thân Phật, thì có nghóa hiện đời không có an vui”. Hỏi: Các thuyết về hại lợi có ba điểm khác nhau: Luận Tạp Tập chép: “Hai lợi Tự Tha là sở y chỉ”, Duy Thức cũng thế: “Tự Tánh Pháp thân chính là chỉ có Tự lợi cũng bao gồm lợi tha, có cả hai lợi. Tự thọ dụng biến hóa là Sở y chỉ, Tự thọ dụng thân là Tự lợi, Tha thọ dụng biến hóa là Lợi tha, là vì người khác hiện bày”. Kinh Vô Thượng Y và luận Bảo Tánh chép: “Pháp thân là Tự Lợi; Ứng, Hóa thân là lợi tha”. Kinh này vì sao như thế? Đáp: Tạp tập và Duy Thức chép: Tự Tánh Pháp thân chung cho hai lợi là dựa vào tất cả lý mà luận. Vô Thượng Y và Bảo Tánh là y theo Tự Tánh Pháp thân chính dụng, nên nói rằng Tự lợi, Ứng, Hóa lợi tha là dựa vào Tha thọ dụng gọi là Ứng Phật, vì vậy đều là Lợi tha. Như như trong kinh này đồng với kinh Vô Thượng Y. Trí như như lợi tha dựa theo Bình đẳng tánh và thành sự trí khởi lên hai thân Phật Tha thọ dụng và Biến hóa, nên nói là lợi tha. Luận Tạp Tập chép: “Ứng thân là tự lợi” đó là nói theo Tự thọ dụng gọi là Ứng thân. Luận Thành Duy Thức y theo Ứng thân có cả hai thọ dụng, do đó trở thành hai lợi, y theo một nghóa đều không trái phạm nhau. Hỏi: Lợi ích người khác là trí như như sao không nói là Ứng, Hóa? Đáp: Có hai cách giải thích: Nói rằng: Đưa ra Thể năng biến là hai trí, là thể lợi tha; thân sở khởi chỉ là sắc, vì cái dụng lợi tha do đó không bàn đến. Các luận như Duy Thức v.v… nói Tha dụng, Biến hóa gọi là Lợi tha, là y theo dụng mà nói về sở biến. Kinh Đại phẩm Bát-nhã chép: “Hóa Phật là vô tâm vì sao nói nghóa phân biệt phá hoại các pháp, phá hoại sự mở bày”. Hoặc hai thân này là quả trí ấy nói về danh trí ấy, thật là Ứng, Hóa, nếu không như vậy thì ở phần dụ sau có đôi chút không giống nhau. Nói rằng: Đây là y theo bốn trí cũng là Pháp thân, chân như nội tịch nói là tự lợi, trí có ngoại dụng, nói là lợi tha. Không nói về Ứng, Hóa nghóa giống như thuyết trước. Văn kinh: Có thể ở nơi sự lợi tha của tự tha mà đạt được tự tại, thành tựu các thứ công dụng vô biên. Tán rằng: Giải thích lý do. Do ba thân này đối với lợi ích tự tha đều được tự tại, đều thành tựu các thứ công dụng vô biên. Vì vậy, trong luận Thành Duy Thức chép: “Như thế ba thân tuy đều đầy đủ công đức vô biên nhưng đều có sự khác nhau”. Nói “Mà đạt được tự tại”, tự tại có ba thứ, như luận Tạp Tập mười hai chép: “Y chỉ tự tại tu tập cũng có ba thứ: Thân tự tại, tức là tự tánh thân và thọ dụng thân. Hành tự tại, tức là Biến Hóa thân. Thuyết tự tại, nghóa là thường nói về sáu Ba-la-mật v.v…”. Đã duyên đây, mong cầu đây, y chỉ đây, mong cầu đây, cho nên biết thân Phật có ba tự tại, vì thành tựu vô biên công dụng của hai lợi tự- tha. Văn kinh: Vì thế cho nên phân biệt tất cả Phật pháp có vô lượng, vô biên các thứ khác nhau. Tán rằng: Kết thúc. Tất cả Phật pháp tức là ba thân Phật. Kinh Đại Phẩm chép: “Ra khỏi ba cõi cho nên vô lượng, vượt quá mười phương do đó vô biên”. Nghóa của dụng rất nhiều gọi là các thứ khác nhau. Văn kinh: Này người thiện nam! Giống như y chỉ vào vọng tưởng suy nghó nói về các thứ phiền não, nói về các thứ nghiệp dụng, các thứ quả báo. Tán rằng: Dưới đây nương vào thí dụ mà hiển bày có hai: Đầu tiên hai dụ là dụ cho hai lợi, tiếp đó một hiển bày sự trang nghiêm. Phần đầu lại chia hai: Trước một dụ hợp hiển bày công dụng lợi tha, như Kinh Pháp Hoa chép: “Trong hai mươi mốt ngày suy nghó việc như vậy”. Nói vọng tưởng là dụ cho Thật không suy nghó mà giả khởi suy nghó. Nói các thứ phiền não dụ cho Hóa thân, vì Nhị thừa nói về các thứ phiền não. Các thứ nghiệp là dụ cho khởi lên Ứng thân vì hàng Bồ-tát nói về các thứ nghiệp. Các thứ quả báo là dụ cho khiến người khác đã nghe pháp rồi đạt được quả thế gian và xuất thế. Hoặc dụ này nói về dứt trừ ba chướng, do đó thành tựu ba thân. Nói về các thứ phiền não khiến đạt được Ứng thân, nói về các thứ nghiệp khiến đạt được Hóa thân, nói về các báo khiến đạt được Pháp thân. Vì vậy văn dưới chép: “Hoặc chướng thanh tịnh thường hiện bày Ứng thân, nghiệp chướng thanh tịnh thường hiện bày Hóa thân, trí chướng thanh tịnh thường hiện bày Pháp thân”. Quả báo thuộc về trí chướng. Tuy trong luận Phật Địa nói hai chướng đều có nghiệp sở phát và quả sở đắc, nay nói quả báo là dựa vào thói quen, hoặc là quả báo không còn thói quen mới hết. Lại giải thích: Theo toàn văn ở dưới, nói về các thứ phiền não là dụ cho Đại thừa, vì Đại thừa là dư nghiệp sẵn có, dường như có nghi ngờ, có nghiệp quả. Nghiệp quả như kế sau dụ cho hàng Độc giác, Thanh văn, trên có thể thay đổi dưới, như Duyên giác thừa hóa độ Thanh văn. Quả báo dụ cho Thanh văn thừa. Nhưng lúc Độc giác thừa sắp đạt được quả thì không cần ngôn giáo. Sơ giải của Phát tâm trong tu hành vị chắc chắn nhờ đến ngôn giáo, vì thế trong kinh Pháp Hoa đều nói rằng “Từ Phật nghe pháp”. Sơ giải dụ cho hiện thân, thứ giải dụ cho khiến đạt được thân, hậu giải dụ cho nói pháp cho người khác nghe. Đã quyết định là dụ cho lợi tha, ở đây giải thích tất cả lý lẽ. Trình bày rộng về lợi, dụng tức là có cả ba cách giải thích. Lại giải thích: Dụ hai lợi, dụng là chung, và dụ cho lợi tha tức là riêng, do đó có cả ba cách giải. Nhưng trong toàn văn chỉ hợp với lợi tha nói pháp, còn lại lượt bỏ mà không hợp. Văn kinh: Như thế, dựa vào pháp như như, dựa vào trí như như nói về các thứ Phật pháp, nói về các thứ Độc giác, nói về pháp Thanh văn. Tán rằng: Pháp hợp. Người trong ba thừa căn tánh ý thích tất cả mọi thứ thảy đều khác nhau. Trong phương tiện vị thì chủng tánh, hành giải, thú nhập đều khác nhau, vì vậy nói rằng “các thứ Phật pháp”. Văn kinh: Nương vào pháp như như, nương vào trí như như, tất cả Phật pháp tự tại thành tựu đó là bậc nhất không thể suy nghó bàn luận. Tán rằng: Dưới là dụ hợp. Hiển bày dụng về tự lợi chia làm ba: đầu là pháp, tiếp đó là dụ, sau cuối là hợp. Đây là mở đầu. Hỏi: Trong dụ về lợi tha sao không nêu pháp trước, tiếp đến dụ, sau cuối mới là hợp? Đáp: Vì pháp ở trước bỏ nên nói gần hơn, đồng thời lại giản lược. Nay ở đây là vì xa rộng hơn, cho nên trước tiên phải là pháp, tiếp theo dụ sau cùng là hợp. Hỏi: Trong tự lợi ở trước chỉ nói tự lợi, đó là pháp như như, vì sao ở đây dụ về dụng của tự lợi đều là trí như như? Đáp: Trước đây y theo ngưng tịch, pháp như như tự lợi thêm chỉ nói như như, nay nói bao gồm cả lợi tha, trí như như cũng vậy. Lại nữa, trước đây y theo trí như như vì dụng người khác hiện thân nói pháp cho nên thuộc về lợi tha, ở đây y theo đoạn chướng nội chứng như như, tức là tự lợi, do đó không trái nhau, có giải thích ở phần kết trước, nghóa cũng không trái. Văn kinh: Giống như vẽ hư không để làm vật trang nghiêm thật khó mà nghó bàn. Tán rằng: Dưới đây là dụ về trang nghiêm nêu ra dụ. Vẽ hư không để làm vật trang nghiêm như hư không không có tướng, vật trang nghiêm cũng không có tướng cho nên thật khó nghó bàn. Như như dụ cho hư không, trí như như dụ cho vẽ, hoặc như như là tánh, trí như như nghóa là công đức, công đức trang nghiêm hư không đều là vô tướng, thật khó nghó bàn. Văn kinh: Như thế nương vào pháp như như, nương vào trí như như thành tựu Phật pháp cũng khó nghó bàn. Tán rằng: Đưa ra pháp hợp. Như thế nương vào như như và nương vào trí như như thành tựu Pháp thân Phật pháp. Hoặc như như là tánh, trí như như nghóa là công đức nghóa. Công đức nghóa chính là Pháp thân, nương vào Như mới có cho nên hợp cả hai để trình bày. Hoặc như Tam tạng Chân-đế giải thích: Dụ vẽ hư Không ở trước và nêu ra pháp ở trước đều là ngoại nghi, nghi rằng: Như như và trí đều không phân biệt, vì sao đạt được Ứng, Hóa nói lợi, giống như vẽ hư không trở thành vật trang nghiêm, rất là khó hiểu khó tin. Nghóa cũng không trái. Văn kinh: Này người thiện nam! Vì sao nói Pháp như như, trí như như cả hai không có phân biệt mà được tự tại thành tựu sự nghiệp?. Tán rằng: Dưới đây giải thích tình ý nghi ngờ, có hai: Đầu tiếp tục nghi ngờ, sau thí dụ giải thích. Đây là tiếp tục nghi ngờ. Nghi ngờ có hai người: Người xuất thế nghi. Người thế gian nghi. Lại là người học và người không học, cả hai người đều nghi ngờ. Văn kinh: Này người thiện nam! Giống như Như lai nhập Niết- bàn, vì nguyện tự tại cho nên tất cả sự nghiệp đều đạt được thành tựu. Tán rằng: Dưới đây thí dụ để giải thích, có bốn thí dụ: hai dụ đầu là người xuất thế, hai dụ sau là người thế gian. Vì người xuất thế đầu tiên đưa ra thí dụ Phật diệt độ, không có phân biệt mà thường lợi tha; sau đó đưa ra thí dụ “Liệt huống gì là thắng”. Văn phần đầu có hai: Trước dụ, sau hợp. Đây là nêu ra thí dụ. Đưa ra hàng Nhị thừa ý là giải thích về Niết-bàn, nghóa là Phật nhập diệt thì thân, trí không còn, cho nên đồng với Như như vô tướng, tin sau khi diệt độ thì sự nghiệp hóa độ được thành tựu. Giống như sau khi Niết-bàn lại khởi kim quan là hiện bày có đủ hai loại. Xá-lợi biến hóa các loại sự nghiệp nên đều được hiện bày, vì thế nêu ra làm thí dụ. Văn kinh: Pháp như như, trí như như tự tại, thành tựu sự nghiệp cũng giống như thế. Tán rằng: Pháp hợp có thể biết. Văn kinh: Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát vào định vô tâm nương theo nguyện lực trước đây, từ thiện sinh ra thực hiện nhiều sự nghiệp. Tán rằng: Thứ hai nêu ra thí dụ “Liệt huống gì là thắng”. Văn cũng có hai, đó là dụ và hợp. Đây là mở đầu. Bồ-tát diệt định, sáu thức không còn hiện hành nên không có phân biệt, cũng có các thứ sự nghiệp biến hóa. Hỏi: Vì sao không nêu thí dụ về hàng Nhị thừa kém cỏi? Đáp: Nhị thừa vào diệt định không thể sinh ra sự nghiệp. Kinh Vô Cấu Xưng hai chép: Vô Cấu trách Xá-lợi-phất rằng: “Người ngồi an nhàn kia, không khởi diệt định mà hiện bày các oai nghi, đó là hạng ngồi an nhàn”. Nghóa của định diệt tận rộng như các kinh luận khác có phân biệt rõ. Diệt định dụ cho như như, tiền nguyện dụ cho bổn nguyện, tạo tác sự nghiệp dụ cho nghiệp dụng của Ứng, Hóa. Văn kinh: Hai pháp như thế không còn phân biệt, tự tại thành tựu sự nghiệp. Tán rằng: Hợp. Diệt định và sự nghiệp sinh ra, cả hai không còn phân biệt, sự nghiệp Hóa tha được tự tại thành tựu. Lại giải thích: Như vào diệt định tuy không còn phân biệt, nhưng được thành tựu hai sự nghiệp Ứng, Hóa. Lại giải thích: Hợp với pháp trước, trí như như không có phân biệt, tự tại thành tựu sự nghiệp. Theo ý vặn hỏi trước đây, ở đây giải thích là thắng, vì trước đây nghi rằng: Vì sao pháp như như, trí như như cả hai không còn phân biệt, sự nghiệp thành tựu, nay lại hợp như vậy? Văn kinh: Này người thiện nam! Giống như mặt trăng, mặt trời không có phân biệt, cũng như nước, gương không có phân biệt, ánh sáng cũng không phân biệt, ba thứ hòa hợp có được hình ảnh sinh động. Tán rằng: Dưới đây là dứt nghi ngờ của người thế gian không học, cũng có hai thí dụ: Đầu tiên nêu dụ về hữu thể, tuy không còn phân biệt nhưng có hình ảnh phát sinh, sau đó nêu dụ về vô thể, cho dù không còn phân biệt, cũng có hình ảnh phát sinh. Hai dụ trước cũng giống như vậy. Đã nhập Niết-bàn là nêu ra vô thể, nhập diệt định rồi là nêu ra hữu thể. Ở đây trong hữu thể có đầu dụ sau hợp, đây là dụ. Tam tạng Chân- đế chép: “Mặt trời, mặt trăng dụ cho như như, nước, gương dụ cho bổn nguyện từ bi, ánh sáng dụ cho trí như như, hình ảnh dụ cho Ứng, Hóa thân”. Ở đây lại giải thích rằng: Theo văn hợp ở dưới, đã nói vì nguyện tự tại nên chúng sinh có cảm mà hiện bày thân Ứng, Hóa, dùng nước hiện bày ảnh, dụ cho pháp như như, tương ưng với định nguyện lực, dùng gương sinh ra ảnh dụ cho căn cơ chúng sinh, mặt trời, mặt trăng dụ cho pháp như như, ánh sáng dụ cho trí như như. Theo luận Nhiếp Đại Thừa: Nước dụ cho chúng sinh có tánh nhuận hoạt Tam-ma-địa, do đó hiện bày những hình ảnh mặt trời, mặt trăng, tức là nước, gương cả hai đều dụ cho căn cơ chúng sinh, tức là mặt trời, mặt trăng dụ cho pháp như như, trí như như, ánh sáng dụ cho bổn nguyện. Tuy không còn phân biệt nhưng do bổn nguyện và lực cảm ứng của chúng sinh, cho nên có Ứng, Hóa”. Như vậy theo kinh nói: “Cũng như nước, gương không có phân biệt”. Tức giải thích về Thắng trước đó. Theo văn Hợp ở dưới nói: “Vì nguyện lực tự tại nên chúng sinh có cảm ứng”, tức giải thích về Thắng sau này, tùy ý lấy bỏ. Văn kinh: Pháp như như, trí như như như thế cũng không có phân biệt, vì nguyện tự tại cho nên chúng sinh có cảm thân Ứng, Hóa hiện bày, như hình ảnh mặt trời, mặt trăng hòa hợp mà xuất hiện. Tán rằng: Hợp. Kinh Lại nữa, này người thiện nam! Giống như vô lượng, vô biên nước, gương, dựa vào ánh sáng cho nên hình ảnh hư không hiện bày các tướng khác nhau. Tán rằng: Nêu thí dụ hư không vô thể. Đầu tiên nêu dụ trình bày, sau đó giải thích theo nạn. Nước, gương dụ cho căn cơ hữu tình, dựa vào ánh sáng dụ cho bổn nguyện lực, hư không dụ cho pháp như như, trí như như, hình ảnh hiện bày là thân Ứng, Hóa từ bổn nguyện lực, ánh sáng hợp với hư không là các pháp như như v.v… Ứng, Hóa hiện bày là vì các sự nghiệp lợi tha. Hoặc nói: “Hình ảnh hư không hiện bày giống như không có mây mù che lấp hư không, nhờ vào nước, gương mà được hiện bày hình ảnh. Nói hình ảnh hư không là hư không thế tục, cái thấy về bầu trời trong xanh; bầu trời trong xanh hiện rõ hình ảnh trong nước, gương. Hư không không có màu xanh, cái thấy về màu xanh đó như, là pháp như như và trí như như trước đây hiện bày nơi Ứng, Hóa. Hoặc chỉ thí dụ cho cơ duyên cảm ứng thì liền hiện bày, không phải như như lý hiện bày Ứng, Hóa thân. Đây là giải thích theo Duy Thức và sư An Huệ Vô Kiến Tướng. Văn kinh: Hư không tức là vô tướng. Tán rằng: Giải thích theo nạn, vì hư không không có hình ảnh màu sắc do đó dụ cho Pháp thân. Văn kinh: Này người thiện nam! Như vậy các hàng đệ tử được giáo hóa đều là hình ảnh của Pháp thân. Tán rằng: Hợp. Trước là nói về thân sở kiến, sau nói về lý do có thân, hợp thành không khác nhau. Nếu theo kinh do Chân-đế phiên dịch thì lẽ ra phải nói rằng: “Chúng được giáo hóa này là cơ năng cảm, các đệ tử v.v… tức là Bồ-tát, cũng thường hiện bày hai thân Ứng, Hóa. Hiện bày hai thân Ứng, Hóa là hình ảnh của Pháp thân”. Như trước đây đầu tiên nêu thí dụ Phật nhập Niết-bàn, sau đó nêu thí dụ Bồ-tát diệt định. Lại giải thích: Văn này như vậy, các đệ tử được giáo hóa là cơ năng cảm, là hình ảnh Pháp thân, trong văn này nói giản lược, lẽ ra phải nói rằng: “Ứng, Hóa mà các đệ tử nhìn thấy là hình ảnh của Pháp thân, vốn nghi ngờ Pháp thân Như lai không còn phân biệt, vì sao có thể sinh khởi hai thân Ứng, Hóa, đệ tử không nghi ngờ có thể sinh khởi”. Nhưng pháp như như v.v… tuy không phân biệt, nhưng vì nguyện lực cho nên khiến trong tâm đệ tử thấy có, tức là Ứng, Hóa sự nghiệp mà sinh khởi. Văn kinh: Vì nguyện lực cho nên đối với hai thứ thân hiện bày các thứ tướng, đối với Pháp thân không hề có tướng khác nhau. Tán rằng: Nói về nguyên nhân vì sao có thân Ứng, Hóa thì hợp thành không khác. Không khác tức là phù hợp với tướng vô phân biệt của Pháp thân. Nói “đối với hai loại thân” đó là hai thân Ứng, Hóa. Hoặc do Phật hiện bày, hoặc do Bồ-tát hiện bày, gọi là hai thứ thân. Tuy hiện bày tướng khác nhau nhưng đối với Pháp thân không có tướng khác nhau phân chia khác nhau. Văn kinh: Này người thiện nam! Dựa vào hai thân này tất cả các Đức Phật nói về Niết-bàn hữu dư y. Tán rằng: Thứ ba-Hữu dư vô dư phân biệt môn, nói về ba thứ Niết-bàn, tức là ba đoạn. Đây là đoạn đầu nói về Niết-bàn Hữu dư. Trong bốn Niết-bàn, ngoại trừ tự tánh thanh tịnh Niết-bàn, không do đoạn chứng, tất cả cùng có cho nên không nói theo đây. Niết-bàn Hữu dư lẽ ra nên nói là Niết-bàn hiện bày từ hữu dư y, Niết-bàn hiện bày từ vô dư y, nay lược bỏ chữ y. Theo Du-già quyển năm mươi bảy chép: Hữu dư y địa có ba thứ thi thiết: Địa thi thiết. Tịch tónh thi thiết. Y thi thiết. Địa y cứ theo mười bảy địa. Tịch tónh có bốn thứ. Y thi thiết có tám thứ y: Thi thiết y. Nhiếp thọ y. Trụ trì y. Lưu chuyển y, tức là trú ở bốn thức. Chướng ngại y, đó là thiên ma. Khổ não y, là tất cả cõi Dục. Thích duyệt y, đó là nương vào tónh lự. Hậu biên y. Y nghóa là nơi nương vào. Thứ nhất là thi thiết y: ngã pháp là thi thiết thế gian, Thánh giáo mượn làm nơi thi thiết, nương vào thủ uẩn này tức là thủ uẩn làm sở y, nghóa Dư theo đó thì biết. Hỏi: Nói về Niết-bàn Hữu dư y có mấy dư y? Đáp: Theo Du-già năm mươi trả lời rằng: Phải nói cùng một loại y, một bề tương ưng, nghóa là hậu biên y. Nói theo ý hữu dư tức là hậu biên y. Hậu biên y nghóa là A-la-hán nối nhau với các uẩn, rằng hậu biên y này tương ưng với sáu nhiếp thọ sự bất cộng. Những thứ còn lại chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, vì trong nhiếp thọ y có bảy thứ nhiếp thọ: Cha mẹ mình. Vợ con. Tôi tớ. Người sai việc. Kẻ hầu. Bạn bè. Quyến thuộc. Nghóa là quả A-la-hán vẫn thuộc về cha mẹ (được nhờ). Giống như Như lai tự tay mình nâng quan tài của cha, lên tầng trời Đao-lợi đền đáp nỗi suy tư của mẹ v.v… Vì nhờ vào Phật thân có năng lực nhiếp thọ, ngoài ra không thể nhiếp thọ. Vì có thể trở lại dứt trừ lưu chuyển, vì có khả năng hàng phục các ma, cho nên không nương vào hai y này. Thi thiết y, trú trì y v.v… không phải luôn luôn nương vào thủ uẩn, Thánh giáo cũng là thi thiết dự lưu v.v… Ngã gọi là tương ưng, tâm vô chấp, chấp ngã, hữu tình v.v… gọi là không tương ưng, còn lại theo đây thì biết. Có các y hậu biên v.v… gọi là Hữu dư y. Niết-bàn đạt được nhờ các y còn lại gọi là Hữu dư y Niết-bàn. Nói Niết-bàn nghóa là viên tịch, bởi vì Tịch là nhiều công năng đều đầy đủ nên gọi là viên tịch. Tịch tónh có bốn loại: Khổ tịch tónh. Phiền não tịch tónh. Không não hại hữu tình tịch tónh, không gậy ra các việc ác, tu tập các pháp lành. Xả tịch tónh, nghóa là trú trong sáu hằng xả. Có đủ bốn tịch tónh này gọi là viên tịch. Nhưng thân Ứng, Hóa hạn chế thị hiện nói các hậu biên y v.v… chẳng phải Phật thật có uẩn hậu biên. Hoặc Ứng thân Phật cũng thị hiện sinh diệt, do đây liền chứng, đều nói về Ứng thân, chẳng phải là tự thọ dụng, bởi vì thân tự thọ dụng không có hậu biên. Lại nếu bốn trí cũng thuộc về Ứng thân thì nương vào đâu mà Pháp thân đạt được vô dư y. Nay Ứng, Hóa khác với Nhị thừa, chỉ là hiện hữu, dường như khổ y thân, hoặc vô lậu y gọi là hữu dư, như luận Thành Duy Thức chép: Tuy không thật nương vào nhưng hiện dường như có”. Hoặc khổ y hết nên nói vô dư y, chẳng phải khổ y nên nói là hữu dư y. Nương vào hai thân đạt được Niết-bàn gọi là hữu dư y. Văn kinh: Nương vào Pháp thân này nói về Niết-bàn vô dư. Vì sao? Vì tất cả các pháp khác rốt ráo đều hết. Tán rằng: Dưới đây nói về Vô dư y, có ba: Đầu tiên nêu ra, tiếp đó gạn hỏi, sau cùng giải thích. Nói “Nương vào Pháp thân này nói về Vô dư” có hai cách giải thích: 1. Nói rằng: Dựa vào Pháp thân Như như không còn tất cả các y, gọi là Niết-bàn Vô dư y. Nếu như vậy thì Niết-bàn và Pháp thân đâu có khác nhau? Đáp: Gần với nghóa công đức sở y gọi là Pháp thân, gần với nghóa các y tịch tónh gọi là Niết-bàn. Lại giải thích: Bốn trí tâm, phẩm là trí như như, tức là tự thọ dụng cũng gọi là Pháp thân. Nương vào tự thọ dụng này không thị hiện thác sinh, Song lâm tuyên bố diệt độ không còn tất cả các y gọi là Vô dư y, nương vào đây mà hiển bày gọi là Niết- bàn Vô dư y. Hỏi: Niết-bàn Vô dư do bao nhiêu tịch diệt gọi là Niết-bàn? Đáp: Do hai thứ tịch diệt, Du-già quyển năm mươi chép: “Do tịch tónh tịch diệt. Do vô tổn não tịch diệt”. Tịch tónh tịch diệt, nghóa là trước tiên đối với hữu dư y đạt được xúc chứng bốn thứ tịch tónh, nay trong cõi Niết-bàn Vô dư y cũng có tịch thắng bốn thứ tịch tónh. Ý này là vì lại đạt được tịch tónh; nói do tịch tónh diệt vì: Sác giáo tịch tónh. Nhất thiết y tịch tónh. Y y khổ tịch tónh. Y y sinh nghi lự tịch tónh. Nói Sác giáo tịch tónh, Sác là trí tuệ, nhân sác khởi giáo, giáo sinh ra từ sác gọi là sác giáo. Trong Vô dư y gọi là Ngôn tuyệt cho nên gọi là sác giáo tịch tónh. Nhất thiết y tịch tónh, như tám y trước không còn (Vô dư), đều vắng lặng gọi là nhất thiết y tịch tónh. Y y khổ tịch tónh, do tám y trước sinh ra các khổ cũng được dứt hẳn gọi là y y khổ tịch tónh, giống như nương vào y kia sinh ra y này gọi là Y y. Y y sinh nghi lự tịch tónh: Nương vào tám khổ sinh ra hoài nghi lo lắng, không còn lại gì đều là vắng lặng, gọi là y y sinh nghi lự tịch tónh. Hỏi: Niết-bàn Hữu dư y có bao nhiêu hữu dư mà nói là vô dư y? Đáp: Có bảy loại: Nhân quả dư, nhân nghi ngờ đã hết, quả khổ đau chưa mất, còn lại khổ y. Thành Duy Thức chép: “Niết-bàn Vô dư y chính là chân như, ra khỏi khổ sinh tử, phiền não đã sạch, dư y cũng diệt hết”. Bất thiện nghiệp dư, người Vô học đã sạch nghiệp không lành, còn lại nghiệp lành vô ký. Khổ đế dư. Tập đế dư. Diệt thức dư. Đạo đế dư. Cho nên kinh Thắng-man chép: “Hữu dư sinh không hết nên hữu sinh có, phạm hạnh còn lại không thành tựu nên sự không thuần nhất, sự không rốt ráo nên sẽ có sở tác, không độ người khác cho nên sẽ có sở đoạn. Khổ diệt đạo tập tức là Vô tác tứ đế, nhằm đến bất định tánh hữu dư không hiểu rõ sẽ có thể tu đoạn v.v… chẳng phải hướng về định tánh”. Giả thật dư, bởi vì Ứng, Hóa là giả. Văn kinh: Nương vào ba thân này nên tất cả các Đức Phật nói về Niết-bàn Vô trụ xứ. Tán rằng: Dưới đây nói về Niết-bàn Vô trụ xứ. Văn chia làm năm: Nêu ra. Giải thích. Hỏi. Giải. Kết. Ở đây là Nêu ra. Văn kinh: Vì hai thân cho nên không trụ Niết-bàn, lìa Pháp thân không có Phật riêng. Tán rằng: Giải thích. Vì sao ba thân gọi là Niết-bàn Vô Trụ xứ? Vì hai thân cho nên không trụ, do đại bi cho nên vì chúng sinh hiện thân, không trụ Niết-bàn. Cũng nên nói là không trụ sinh tử. Trước nói về vô dư, đã nói không trụ sinh tử. Lại vì Phật xa lìa các lậu còn lại nên nói là Niết-bàn, vì vậy ở đây chỉ nói về bất trụ Niết-bàn, không nói trụ sinh tử. Sở dó không nói “Lìa Pháp thân không có Phật riêng” là vì Pháp thân là nói theo Ứng, Hóa, tánh tướng hợp lại là không có Phật riêng. Hai thân kia không trụ cho nên Pháp thân cũng gọi là không trụ, vì vậy ba thân gọi chung là Vô trụ. Lại giải thích: Pháp thân và Niết-bàn đồng một thể nhưng nghóa khác nhau, nếu lìa Pháp thân mà có Phật biệt thể đến trụ Niết-bàn thì có thể nói là trụ Niết-bàn. Đã lìa Pháp thân không có Phật riêng, tức là đồng một thể, tự không trụ nơi tự cho nên không trụ Niết- bàn. Trước đây giải thích là Thắng. Nói rằng “lìa Pháp thân không có Phật riêng”, không nói “lìa Niết-bàn không có Phật riêng”. Văn kinh: Vì sao hai thân không trụ Niết-bàn? Tán rằng: Hỏi. Hai thân vô lậu tức là lìa sinh tử, vì sao không trụ Niết-bàn? Văn kinh: Hai thân giả danh không thật, niệm niệm sinh diệt, không trú nhất định, cho nên thường xuất hiện, không nhất định. Tán rằng: Giải thích về lý do Ứng, Hóa thân không trụ. Đầu tiên thuận theo giải thích, tiếp đến là cùng thành tựu. Giả danh chẳng phải thật. Niệm niệm sinh diệt. Thường xuất hiện. Xuất hiện là vì chúng sinh, hoặc lúc thị hiện nhập diệt, hoặc lúc thọ sinh, do đó thường xuất hiện. Do không nhất định nên nói không trụ Niết-bàn. Văn kinh: Pháp thân không phải như vậy, vì thế cho nên hai thân không trụ Niết-bàn. Tán rằng: Trở lại thành tựu. Văn kinh: Pháp thân không hai, vì thế cho nên không trụ Niết- bàn. Tán rằng: Nói về lý do Pháp thân không trụ Niết-bàn. Pháp thân và Ứng hiện không hai cho nên cũng không trụ. Văn kinh: Vì vậy nương vào ba thân nói Vô trụ Niết-bàn. Tán rằng: Kết thúc. Văn kinh: Này người thiện nam! Tất cả phàm phu vì ba tướng cho nên có ràng buộc, có chướng ngại, lìa ba thân không được ba thân. Tán rằng: Thứ tư là Trị chướng phế lập môn, có hai phần: Đầu tiên y cứ theo cảnh, tiếp đó y cứ theo tâm. Đây là theo cảnh: Văn chia làm hai mục: Trước nói về có chướng ngại không đạt được ba thân; sau nói về dứt trừ đạt được. Văn trước chia làm bốn: Nêu ra. Gạn hỏi. Liệt bày. Giải thích. Đây là nêu ra. Ba tướng tức là ba tánh là sở ưng tri cảnh tướng. Luận Nhiếp Đại Thừa chép: “Ba tánh này gọi là sở ưng tri thắng tướng”. Có ràng buộc dựa vào hiện tại, có chướng ngại y theo chủng tử. Đồng thời có ràng buộc tức là tướng ràng buộc, hoặc tương ưng với sở duyên; ở đây nói theo ba tánh, không hiểu rõ cho nên có ràng buộc, có chướng ngại. Chướng tức là ba chướng, do đó xa lìa không được ba thân. Văn kinh: Những gì là ba?. Tán rằng: Gạn hỏi. Văn kinh: Một là Biến kế sở chấp tướng; Hai là Y tha khởi tướng; Ba là thành tựu tướng. Tán rằng: Nêu ra ba tướng. Ba tướng chính là ba tánh, như các kinh luận khác có phân tích rộng rãi, nay giải thích sơ lược tên gọi, phân biệt rõ về thể. Nói Biến kế sở chấp tướng: Biến nghóa là cùng khắp, kế là kế độ so lường, so lường khắp tất cả các cảnh cho nên gọi là Biến kế. Biến kế tức là năng biến kế, sở biến kế, đều gọi là Biến kế. Sở chấp là tánh câu chấp của Biến kế, trở thành tướng tức là tánh, cũng chính là tướng của cảnh. Nương vào các duyên khác nên có thể phát khởi nên gọi là y tha khởi, nghóa của tướng như trước. Thành tựu trọn vẹn gọi là tướng thành tựu. Sở chấp: ngã là tánh biến kế, tâm, tâm sở, sắc, bất tương ưng là y tha khởi, chân như là thể thành tựu. Hoặc lậu, vô lậu môn, năm uẩn vô lậu cũng là viên thành thật, tánh hữu lậu đó cũng là y tha. Văn kinh: Các tướng như thế vì không thể hiểu, vì không thể diệt, vì không thể thanh tịnh. Tán rằng: Giải thích. Biến kế vô tướng nên không thể nói là đoạn, chỉ nói là không thể hiểu. Nhiễm nương vào nơi khác mà có nên nói là không thể diệt. Như nói bất tịnh, năng tịnh là trí, sở tịnh là như, lưu ý rằng thể của Như không nhơ không sạch. Hiện tại những điều đó chưa thể hiểu biến kế, diệt nhiễm y tha, tịnh viên thành thật. Văn kinh: Vì thế cho nên các Đức Phật đầy đủ ba thân. Từ “thị cố v.v…” về sau là kết thúc: có ràng buộc có chướng ngại như vậy, cho nên không thể đạt đến ba thân. Văn kinh: Bởi vì thường hiểu rõ, thường dứt trừ, thường thanh tịnh ba tướng như thế, cho nên các Đức Phật đầy đủ ba thân. Tán rằng: Sau nói về dứt trừ đạt được, chia làm ba: Đầu lặp lại năng chướng; tiếp theo phân tích năng đoạn, sau cùng kết thúc. “Ba tướng như thế” là lặp lại. “Năng giải, diệt, tịnh” là phân tích về năng đoạn. Do hiểu rõ tánh biến kế nên nói là có khả năng hiểu rõ (năng giải), tu tập trí vô phân biệt cho nên có khả năng dứt trừ (năng diệt), nhiễm y tha trí trước thường dứt trừ chướng ngại, do đó thường thanh tịnh (năng tịnh). Bởi vì hiểu rõ tướng biến kế sở chấp nên đạt được Hóa thân; do có sở chấp ngã tướng nên tình không đạt đến cảnh giới rốt ráo, không thể đạt được hiện thân Biến hóa. Tu tịnh y tha khởi trí dứt trừ nhiễm, cho nên đạt được Ứng thân, do lúc trí phát sinh có thể dứt trừ chướng ngại sót lại, nên thường thanh tịnh, chứng được tánh viên thành thật, hiển bày được Pháp thân, cho nên được ba thân. Văn kinh: Này người thiện nam! Các phàm phu không thể dứt bỏ ba tâm này, vì thế lìa ba thân không thể đạt được. Tán rằng: Nói về Trị chướng, trong này nói theo tâm, văn chia làm hai phần: Đầu tiên phân tích về chướng; từ “Nương các phục đạo v.v…” về sau là phân tích rõ về đoạn. Văn phần đầu chia làm ba: Nêu ra. Gạn hỏi. Liệt kê. Đây là nêu ra. Nói về Tâm có bốn nghóa: Trinh thật gọi là tâm, như Bát-nhã-đa tâm, tức là lý chân như cũng gọi là tâm, kinh Thắng-man nói tự tánh thanh tịnh tâm; nơi khác gọi là Kiền-lật tâm. Duyên lự tâm, tức là thông suốt tám thức, nơi khác gọi là chất- đa. Tích tập nghóa gọi là tâm, cũng có cả tám thức, bởi vì chứa nhóm toàn bộ năng sở. Tích tụ tối thắng nghóa, gọi là tâm, tức là chỉ có một mình thức thứ tám. Hiện tại hỏi ở đây chính là hai nghóa duyên lự, tích tập gọi là tâm. Ba tâm là năng chướng, nếu dứt bỏ được thì đạt được ba thân, nếu không dứt bỏ thì lìa ba thân không thể được, không thể được Ứng, Hóa thân, không thể được Pháp thân. Văn kinh: Những gì là ba?. Tán rằng: Tùy nêu ra. Văn kinh: Một là khởi sự tâm; hai là y căn bổn tâm; ba là căn bổn tâm. Tán rằng: Tùy câu hỏi mà trình bày giải thích. Đây tức là liệt kê. Nói về ba tâm, Tam tạng Chân-đế giải thích rằng: Khởi sự tâm: là sáu thức bên ngoài. Y căn bổn tâm: là thức thứ bảy bên trong. Căn bổn tâm: là thức A-lại-da chính yếu nhất. Pháp Sư Duy Thức Từ Ân nói: Khởi sự tâm nghóa là thấy tâm tương ưng với phiền não, do phiền não này gây ra các nghiệp, cảm đến quả dị thục gọi là tâm khởi sự. Vì là gốc rễ sinh tử nên chướng ngại cho tùy loại thân. Tâm khởi sự nương tựa thuộc về y chủ thích. Hoặc do tâm và phiền não cùng tương ưng đồng một sự nghiệp cũng gọi là khởi sự, tức là trì nghiệp thích. Hoặc tâm khởi sự tương ưng, nhưng chính khởi sự là phiền não, từ tâm vương tương ưng mà đặt tên, thuộc về lân cận thích. Như vậy cách giải thích đầu tiên thích đáng hơn. Tâm tương ưng của nghiệp lành và không lành gọi là y căn bổn tâm. Nghiệp là cội gốc sở y sinh ra, vì thế tâm tương ưng, nương theo căn bổn. Cũng theo trước giải thích về tâm căn bổn, tâm tương ưng với quả khổ ba cõi gọi là tâm căn bổn, bởi vì cội gốc sinh tử là từ thể Tánh, quả dị thục chung riêng này có cả bảy thức, chỉ trừ thức thức bảy. Nếu là có quả thì phát nhân sinh khởi đền đáp gọi là quả khổ. Thông suốt đẳng lưu, dị thục tức là có cả tám thức. Nếu thật sự khác nhau thì gọi là quả khổ, là gốc sinh tử, tức là chỉ riêng thức thứ tám. Trong này ý nói đến các quả hữu lậu, cho nên kinh Niết-bàn chép: “Xả bỏ sắc tướng vô thường, đạt được sắc tướng thường hằng, thọ tưởng hành thức cũng giống như vậy”. Lại giải thích: Phiền não chướng và nghiệp sở phát gọi là tâm khởi sự, sở tri chướng và nghiệp sở phát gọi là y căn bổn, là gốc sở y của phiền não; tâm căn bổn tức là quả đạt được từ hai chướng, hơn hẳn chỉ có thức thứ tám, các nghiệp sở y có khả năng giữ gìn chủng tử cho nên gọi là căn bổn. Kém hơn thì có cả bảy thức, nếu theo quả đẳng lưu thì có cả tám thức. Văn kinh: Nương vào các phục đạo, tâm khởi sự hết, nương pháp đoạn đạo, nương tâm căn bổn hết, nương vào tối thắng đạo, tâm căn bổn hết. Tán rằng: Dưới đây là phân biết rõ về đoạn, có ba phần: Đầu tiên nói về đoạn chướng, tiếp theo nói về đắc thân, sau cùng là kết thúc. Đây là mở đầu: Nương vào các phục đạo thì tâm khởi sự hết, nghóa là ba mươi tâm vị ở Địa tiền, trong kinh Nhân Vương Bát-nhã gọi là Phục Nhẫn, cho nên ở bốn gốc lành, phân biệt hai chướng, có khả năng hàng phục, không hiện hành gọi là y phục đạo, khởi sự mất hết, cho nên nhập thấy đạo mà không gây ra nghiệp mới, cảm quả sinh tử hiển bày, được tùy loại Hóa thân. Lại giải thích: Chung cho với Thập địa Kim cương dụ định, trước đây tuy đã hàng phục phiền não, nhưng chưa dứt trừ chủng tử cho nên gọi là các phục đạo. Cuối cùng hàng phục, địa vị ở Kim cương dụ định ở địa vị không xen hở, mới vónh viễn khiến cho các hiện hành kia không thể khởi lên. Kinh Giải Thâm Mật chép: “Từ Địa thứ tám trở lên còn có Sở y, Sở tri chướng, đến quả vị Phật đạt được tùy loại thân”. Cách giải thích này là hơn. Nương vào pháp đoạn đạo thì tâm căn bổn hết, nghóa là tu tập Thánh đạo lần lượt sẽ dứt trừ các nghiệp, cho nên Sơ địa lìa xa đường ác, tạp nhiễm ngu tối, trong Nhị Địa lìa sự sai phạm ba nghiệp ngu tối. Hoặc có cả Thập địa dứt trừ sở trước chướng gọi là pháp đoạn đạo, bởi vì nương vào pháp không quán mới có thể dứt trừ, sở tri chướng đã dứt do đó có thể đạt được Ứng thân. Nương vào tối thắng đạo thì tâm căn bổn hết. Đang xả bỏ gọi là đoạn ở giải thoát đạo, hoặc sắp xả bỏ gọi là đoạn ở Kim cương định. Hai thuyết trong đây như luận Thành Duy Thức mười có nói. Do dứt trừ quả khổ, tất cả thói quen đều xả bỏ hẳn cho nên thường hiển bày Pháp thân. Văn kinh: Tâm khởi sự dứt trừ cho nên được hiện bày Hóa thân, y tâm căn bổn dứt trừ cho nên được hiển hiện Ứng thân, căn bổn tâm dứt trừ cho nên đến được Pháp thân. Tán rằng: Nói về Đắc thân. Hai thân trước là mới khởi cho nên gọi là được, Pháp thân vốn có nên nói đến được Pháp thân, y theo trước có thể biết. Hỏi: Ba thân này đạt được lúc nào? Đáp: Theo các luận như Đại Trang Nghiêm, Thành Duy Thức v.v… thì đều từ Kim cương về sau, Phật Địa mới khởi lên. Luận đó chép: “Ba thân Biến, Hóa nghóa là các Đức Như lai nhờ trí thành sự nên biến hiện vô lượng tùy loại hóa thân”. Luận Phật Địa chép: “Trí thành sở tác khởi lên ba nghiệp, thay đổi nương vào nghóa bất chánh. Từ Sở Địa trở lên thì đạt được trí này. Nghóa chính chỉ riêng chỗ Phật Địa được khởi lên, bởi vì ở Thập Địa nương vào căn hữu lậu mà phát khởi thức vô lậu, sáng suốt và mê mờ khác nhau cho nên không thể nào khởi lên Ứng thân; thân đã do bình đẳng cảnh trí mà khởi nên hợp lại gọi là Ứng thân, do đó Phật Địa khởi lên, không phải ở Thập Địa hữu cảnh trí”. Pháp thân cũng giống như vậy, bởi vì ra khỏi nơi ràng buộc gọi là Pháp thân. Luận Thành Duy Thức chép: “Ở Đại Mâu Ni gọi là Pháp thân”, đây là theo Tròn đầy đắc. Nếu y theo Phần đắc và Tương tự đắc thì địa vị có trước sau, ở địa vị Thập Tín là phần đắc Hóa thân, một số Bồ-tát đó thành tựu tám tướng cho nên từ Sơ địa trở lên được Ứng thân, Pháp thân. Kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã nói có mười thứ Pháp thân, trong Thập Địa mỗi địa đạt được một, Bồ-tát địa vị trên giáo hóa Bồ-tát địa vị dưới cho nên chia ra được hai thân. Văn kinh: Vì thế cho nên tất cả Như lai có đủ ba thân. Tán rằng: Đây là kết luận.  <卷>QUYỂN 3 (Phần Đầu) <詞>Phẩm 3: PHÂN BIỆT TAM THÂN (Tiếp Theo) Văn kinh: Này người thiện nam! Tất cả các Đức Phật ở thân thứ nhất đồng sự với các Đức Phật, ở thân thứ hai đồng ý với các Đức Phật, ở thân thứ ba đồng thể với các Đức Phật. Tán rằng: Thứ năm là đồng dị phân biệt môn. Văn chia làm ba phần. Ba Phật khác nhau do đó Hóa Thân hóa độ Nhị thừa và phàm phu Địa tiền phần nhiều khởi dụng sáu thông, thành tựu sự nghiệp hóa độ. Do đó, các luận đều chép: “Chuyển năm thức thành sự trí. Phần nhiều dùng tám tướng hiện bày các sự nghiệp cho nên gọi là Đồng sự”. Ứng thân là giáo hóa cho Bồ-tát Địa thượng khiến được pháp lạc, ý lạc giống nhau nên nói là Đồng ý; lại giống với ý giáo hóa Bồ-tát. Thể sở y của Pháp thân như như thì không khác với các Đức Phật cho nên nói là Đồng Thể. Vì vậy trong Nhiếp luận, chín của ngài Vô Tánh chép: “Pháp thân các Đức Phật nói là có khác nhau, nói là không khác nhau. Nương vào ý lạc thực hiện công việc không có sự khác nhau, cho nên nói là không khác nhau; vô lượng y thân hiện bày đẳng giác cho nên nói là có khác nhau. Như nói Pháp thân, thọ dụng thân cũng giống như thế. Ý lạc và nghiệp không khác nhau cho nên nói là không khác, không do y chỉ, không có khác nhau nên nói là không khác nhau, không do y chỉ vô khác nhau, vô lượng y chỉ khác nhau chuyển thành. Nên biết rằng Hóa thân như thọ dụng đã nói, tức là Pháp thân do cả ba không khác nhau, thọ dụng, biến hóa chỉ là ý lạc tác nghiệp”. Ý phần này giúp cho biết rõ tâm hóa đồng, dị. Phối hợp ngược lại với ba thân này, văn đó tuy thông suốt mà nay trong kinh này đều y theo sự tăng thắng mà phối hợp riêng ba thân, lý cũng không lỗi. Năm thức khi ở trong nhân vị, sự nghiệp đều khác nhau; ý thức thứ bảy thường chấp Ngã khiến cho tự tha khác nhau. Nay ở quả vị chứng lý bình đẳng, cho nên năm thức khởi phát Hóa thân đồng sự, thức thứ bảy phát khởi tha thọ dụng đồng ý. Văn kinh: Này người thiện nam! Thân Phật thứ nhất này tùy theo ý chúng sinh có nhiều loại cho nên hiện bày loại tướng, do đó nói là nhiều. Tán rằng: Thứ sáu là Nhất đa phân biệt môn. Văn cũng chia làm ba phần, phần trước nói về Thể, phần này nói về Dụng. Vì các chúng sinh thú hướng khác nhau, ý thú khác nhau, cách nhìn khác nhau nên nói là ý có nhiều. Tùy theo ý có nhiều cho nên hiện bày Hóa thân có nhiều loại tướng, hoặc nói tám tướng, hoặc tùy các thứ mà vì đó hiện bày hình tướng. Ví như hàng Nhị thừa đã đạt được quả Thánh cũng là một phần trong nhiều chúng sinh khác nhau. Sở tri chướng đang còn cho nên nói là tùy theo nơi chốn hóa độ, thuận ý chúng sinh. Văn kinh: Thân Phật thứ hai vì đệ tử nhất ý cho nên hiện bày một tướng, do đó nói một. Tán rằng: Bồ-tát Địa thượng do Ứng thân hóa độ được gọi là đệ tử. Chứng lý bình đẳng nên gọi là một ý. Hiện bày một tướng là chỉ hiện bày Phật tướng, không hiện ra tướng của sáu loài chúng sinh. Thân Phật hiện bày không phải không có đại tiểu, hơn kém khác nhau, bởi lẽ ở địa vị Thập Địa thấy có hơn kém khác nhau. Văn kinh: Thân Phật thứ ba vượt hơn tất cả các loại tướng, không hề chấp tướng-cảnh giới, cho nên nói là chẳng phải một, chẳng phải hai. Tán rằng: Bởi vì chân như diệu thể vượt lên trên tất cả các thứ tướng, nghóa là không đi đến, không xanh vàng đỏ trắng, cùng tất cả các loại tướng. Không hề chấp tướng, cảnh giới là không có cảnh sở duyên của tâm chấp kia. Trong Duy Thức chép: “Viên thành thật thường xa lìa tánh trước, cho nên nói là chẳng phải một, chẳng phải hai. Một, hai giống nhau, trong chân bặt dứt đối đãi cho nên chẳng phải một, hai”. Vì vậy, ý này khiến cho rõ thêm nghóa hiện thân đồng khác. Kinh: Này người thiện nam! Thân thứ nhất nương vào Ứng thân mà được hiển hiện, thân thứ hai nương vào Pháp thân mà được hiển hiện, Pháp thân là chân thật có, không hề nương vào nơi nào. Tán rằng: Thứ bảy là Hữu y phi y môn. Văn cũng chia làm ba phần. Đây là ý khiến cho biết rõ đầu đuôi khác nhau, nghóa là Biến hóa thân từ Ứng thân mà khởi, Ứng thân nương vào Như mà khởi, đồng thời tha thọ dụng từ nơi khác mà khởi Hóa thân. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Thị ma thố ma hóa”, nghóa là từ nơi khác mà phát khởi hóa hiện. Pháp thân vốn có, không nương vào nơi khác mà hiện bày, cho nên hoàn toàn chân thật. Nếu tự thọ dụng cũng gọi là Pháp thân thì không phải từ nơi khác biến hóa, do đó không có y xứ, lại cùng khắp pháp giới, cho nên không có nơi nào khác làm chỗ sở y, hoặc có thể nói môn này y cứ theo tánh tướng mà phân biệt, tự thọ dụng thân cũng thuộc về Ứng thân, như vì y trì nên ban đầu từ đó mà phát khởi. Duyên sinh không thật cho nên trong luận Đại Trang Nghiêm quyển ba chép: “Bình đẳng gọi là tự tánh thân bởi lẽ tất cả các Đức Phật đều không khác nhau. Thọ dụng thân gọi là thực thân. Thực thân do nương tựa mà phát khởi. Nên biết rằng thọ dụng thân lại là nhân của Hóa thân”. Lại nói: “Thực thân lấy tự lợi làm tướng, Hóa thân lấy lợi tha làm tướng”. Do đó có cả hai thuyết, luận chép: “Nói thực thân là bởi vì ở trong đại chúng thực hành pháp thực”. Văn kinh: Này người thiện nam! Ba thân như thế tùy theo ý nghóa mà nói về thường; tùy theo ý nghóa mà nói về vô thường. Tán rằng: Thứ tám là Thường vô thường môn. Văn chia làm hai phần: Trước tiên nêu chung; tiếp đó giải thích riêng. Đây là nêu chung. Do có ý nghóa mà nói là Thường có cả ba thân; nói Vô thường là bất biến pháp thân. Ở dưới nói: “Vì chẳng phải hành pháp, đó là cội gốc cho nên chỉ nói là Thường”. Hoặc có thể, Trí như như hợp lại gọi là Pháp thân, bốn trí vô thường do đó nêu chung mà nói, hoặc nói là Vô thường. Ở dưới y theo Như như chỉ nói là Thường, chẳng phải là hành pháp; hoặc đại khái không phải phiền não là hành pháp nên nói rằng chẳng phải hành pháp. Văn kinh: Hóa thân, thường xoay bánh xe pháp, khắp nơi tùy duyên phương tiện nối nhau không hề đứt quãng, vì thế cho nên nói là Thường. Tán rằng: Dưới đây giải thích riêng. Ba thân chia làm ba: Đầu tiên nói về Hóa thân, tiếp đến phân tích về Thường, sau cùng là Vô thường. Đây là phân tích về Thường: Hóa thân có tám tướng chỉ nêu ra một tướng, gọi là xoay bánh xe pháp. Hoặc chỗ này là hướng về sinh; khiến đạt được lợi ích là xoay bánh xe pháp, các tướng hiện bày đều gọi là xoay bánh xe pháp, đều khiến cho càng nhiều hữu tình được giáo hóa. Tùy nơi sinh trú và tùy nơi Ứng hóa tất cả đều có nhiều gọi là chỗ chỗ tùy duyên. Tùy sở hóa duyên phương tiện, tùy năng hóa duyên phương tiện, mười hai thứ phương tiện đều nối nhau không ngừng, cho nên nói là Thường, tức là liên tục thường, như thường được an vui, thường cho ăn uống v.v… Văn kinh: Chẳng phải là vốn có nên đầy đủ đại dụng, không hề hiển hiện nên nói là Vô thường. Tán rằng: Nói về Vô thường, chẳng phải các pháp vốn có như tự tánh thân; đầy đủ đại dụng không hề hiển hiện, đó là công đức đã thành tựu, chẳng phải đột nhiên hiện khởi, tùy duyên lợi ích chúng sinh mới bắt đầu phát khởi. Như Tát-bà-đa chép: “Đức Thế tôn có pháp thọ dụng, đến lúc ban đầu mới thành Phật lập tức phát khởi được”. Dụng không đột nhiên phát khởi ở đây cũng giống như vậy. Hoặc y cứ theo Hiện Niết-bàn cho rằng: “Dụng không hiển hiện, đó là dụng của Ứng thân”. Văn kinh: Ứng thân từ vô thỉ đến nay nối nhau không đứt quãng. Tán rằng: Dưới đây nói về Ứng thân. Đầu tiên nói về Thường, sau đó nói về Vô thường. Đây là phần đầu nói về Thường. Trước hết nhắc lại tên gọi của thân, tiếp theo hiển rõ Ứng thể. Ứng thân nương vào Pháp thân mà khởi, Pháp thân là Ứng với bổn tánh do đó thuận theo bổn tánh gọi là Vô Thỉ. Vì vậy trong luận Nhiếp Đại Thừa chép: “Sở y thường hằng cho nên Ứng, Hóa cũng thường hằng”. Do đó nay sở y vô thỉ thì Ứng thân cũng vô thỉ, nếu như vậy thì Hóa thân cũng nên nói là vô thỉ? Đáp: Nên nói hay không nói ảnh hiện lẫn nhau, như tự thọ dụng nối nhau trong sát-na, như tha thọ dụng nơi này diệt đi, nơi khác lại nối tiếp. Văn kinh: Cho nên tất cả pháp bất cộng của các Đức Phật thường thâu nhiếp thọ trì. Tán rằng: Nói về pháp bất cộng như dụng, lực, úy v.v… của Pháp thân. Ứng thân thường thâu nhiếp làm y trì. Văn kinh: Chúng sinh vô tận thì dụng cũng vô tận, cho nên nói là Thường. Tán rằng: Nói về Thường. Cõi chúng sinh vô tận cho nên hiện bày mạng vô tận. Do đó nói là Thường. Đây là theo duyên, thường có tùy duyên, nên nói là Thường. Nhiếp Luận của ngài Vô Tánh chép: “Thọ dụng thân và Biến hóa thân của Phật đã là vô thường, vì sao kinh nói thân Như lai thường”. Đây là câu hỏi. Hai thân này nương vào Pháp thân nên thường, còn thân Đẳng lưu và thân Biến hóa vì thường thọ dụng, không dừng nghỉ dứt bỏ nên không dứt hẳn. Trong Vô Tánh giải thích rằng: “Nghóa là hai thân này tuy vô thường nhưng nương vào Pháp thân thường trú, mà Pháp thân vốn thường cho nên cũng nói là Thường. Nói thân thường, hoặc Thể là Thường, hoặc nương vào thường thân nên gọi là thân thường, đó là Dị môn thường, chẳng phải Tự tánh thường”. Cho đến chép: “Giống như thế gian nói thường thọ vui, cho dù không phải là luôn luôn thọ vui không hề đứt quãng, nhưng có thể nói rằng đây là thường thọ vui. Nên biết rằng Thân thọ dụng của Phật cũng giống như thế”. Theo luận Đại Trang Nghiêm quyển ba chép: “Tất cả các Đức Phật thảy đều thường trụ. Do tự tánh thường nên tự tánh thân của tất cả các Đức Phật thường trụ. Do vô gián thường nên thực thân của tất cả các Đức Phật là thường trụ. Do nối tiếp thường nên Hóa thân của tất cả các Đức Phật thường trụ. Thực thân ở đây thâu nhiếp hai thân tự thọ dụng và tha thọ dụng mà nói, vì tự lợi tức là tự thọ dụng, vì người khác nói pháp gọi là thực thân, tức là tha thọ dụng, nên Nhiếp luận cũng giống. Văn kinh: Chẳng phải vốn có nhưng bởi vì đầy đủ dụng không hề hiển hiện cho nên nói là Vô thường. Tán rằng: Phân tích về Vô thường. Không hiển hiện nói đầy đủ như trước đã giải thích. Văn kinh: Pháp thân chẳng phải là hành pháp, không có tướng khác nhau. Tán rằng: Phân tích về Pháp thân thường. Đầu tiên phân tích về Thường, sau đó giải thích lời vặn hỏi. Trong phần đầu, trước hết nêu không có tướng khác; tiếp theo chính thức giải thích về Thường. Đây là mở đầu. Chỉ theo Như như gọi là Pháp thân, nói chẳng phải hành pháp, không có tướng sinh diệt khác nhau. Lại giải thích như sau: “Dưới nói Pháp thân là do cả hai đều vô hiển bày. Hai vô ấy là hai tướng của bốn thứ phi hữu phi vô, lại chẳng phải hành pháp là chẳng phải phiền não, Hữu vi, hữu lậu hành pháp, năng chứng, vì trí vô phân biệt cũng là Pháp thân. Văn kinh: Đó là cội gốc, vì giống như hư không cho nên là Thường. Tán rằng: Chính thức phân tích về thường trụ. Như như là chân tánh của các pháp nên nói là cội gốc, không có hình tướng vì như hư không nên gọi là Thường, vì vậy nói là Thường. Tổng kết. Văn kinh: Này người thiện nam! Lìa trí vô phân biệt thì không có một thắng trí nào hơn cả, lìa pháp như như thì không có một thắng cảnh giới nào hơn. Tán rằng: Giải thích hàng phục lời vặn hỏi. Văn chia làm ba phần: Đầu tiên là giải thích câu hỏi; tiếp theo lần lượt giải thích; sau cuối là tổng kết thành tựu. Đây là mở đầu. Vặn hỏi có hai: Trước hết là vì sao không dùng trí khác, pháp khác gọi là Pháp thân, mà dùng trí vô phân biệt và pháp như như kết hợp gọi là Pháp thân? Đáp: Ý muốn nói rằng, lìa trí vô phân biệt thì không có ý một thắng trí nào hơn, lìa pháp như như cũng không có một thắng cảnh nào hơn, vì thế cho nên kết hợp cả hai gọi là Pháp thân. Lại nói: Nếu như vậy thì năng duyên, sở duyên khác nhau, làm sao mà kết hợp gọi là Pháp thân? Tiếp theo lần lượt giải thích. Văn kinh: Là pháp như như, là tuệ như như, là hai thứ như như, như như không phải một, không phải khác. Tán rằng: Lần lượt giải thích. Trí và như là hai thứ không phải một, cũng không phải khác. Vì sao? Vì như là trí cảnh, trí là hữu vi do đó Trí và Như không phải một. Nhưng trí nhờ cảnh mà sinh, Như là tánh của trí, vì thế Trí không khác như. Nếu khác thì trí không phải là tánh đó. Như luận Phá Thắng chép: “Tánh của đất lẽ ra chẳng phải tánh nào khác, bởi vì khác với đất; như nước, lửa v.v… vì thế ở đây cũng giống như vậy. Cho nên luận Thành Duy Thức quyển tám chép: “Vì thế tánh này cùng với y tha chẳng phải khác, chẳng phải không khác, như tánh vô thường v.v…”. Văn kinh: Thế nên Pháp thân là tuệ thanh tịnh, là diệt thanh tịnh, là hai thứ thanh tịnh. Tán rằng: Kết thúc thành tựu, trước là thành tựu; sau đó kết thúc. Thành tựu là nói: Do có năng chứng tịnh cho nên đạt được tuệ thanh tịnh, do có sở chứng thanh tịnh vì vậy đạt được diệt thanh tịnh. Thế nên Pháp thân là hai thứ thanh tịnh. Trong này, trước tiên chọn lấy hai thứ thanh tịnh, và chính nơi sự chọn lựa ấy mà Pháp thân là hai thứ thanh tịnh; nói cách khác, hai thứ thanh tịnh hợp lại gọi là Pháp thân. Văn kinh: Vì thế cho nên Pháp thân đầy đủ thanh tịnh. Tán rằng: Kết thúc. Nói đầy đủ nghóa là tròn đầy, do trí và cảnh này cao hơn, không có thứ tịnh nào hơn, cho nên Pháp thân đầy đủ thanh tịnh. Văn kinh: Lại nữa, này người thiện nam! Phân biệt về ba thân có bốn thứ khác nhau. Tán rằng: Thứ chín là Tứ cú phân biệt môn, có hai: Nêu tổng số. Giải thích riêng. Đây là mở đầu. Văn kinh: Có Hóa thân không có Ứng thân, có Ứng thân không có Hóa thân, vừa có Hóa thân vừa có Ứng thân, không có Hóa thân cũng không có Ứng thân. Tán rằng: Mở ra bốn câu. Văn kinh: Thế nào là có Hóa thân không có Ứng thân?. Tán rằng: Giải thích riêng về bốn câu, chia làm bốn đoạn. Câu thứ nhất có ba phần: Gạn hỏi. Giải thích. Kết thúc. Đây là gạn hỏi. Văn kinh: Đó là sau khi các Đức Như lai nhập Niết-bàn, theo nguyện tự tại nên tùy duyên lợi ích. Tán rằng: Giải thích bốn câu. Đây là giải thích câu thứ nhất. Vị các Như lai là nói đến tất cả các Đức Phật, sau khi nhập Niết-bàn nghóa là trong tám tướng, hiện bày tướng sau cùng là Niết-bàn. Theo nguyện tự tại, là năng lực tự tại của Đại bi nguyện vốn có từ trước, tùy duyên cơ cảm hoặc là giữ lại hình ảnh, hoặc hiện thân các loài khác mà không hiện thân Phật, hiển hiện thân hình không cố định mà làm lợi ích, là Hóa thân không có Ứng thân. Y theo thật chứng sau khi đạt được Niết- bàn, khởi lên tám tướng thành đạo của Hóa thân cũng là câu này; nhưng vì phân biệt với tha thọ dụng, trí bình đẳng phát khởi, chỉ căn cứ trên sắc tướng, Phật an trụ hữu dư y cũng là Ứng, Hóa thân, do đó nói là hiện bày các thứ tướng. Sau khi nhập diệt để lại những hình ảnh v.v… và để lại hình hài, xương cốt là Hóa thân, không phải Ứng thân. Vì vậy kinh chép: “Vì nguyện tự tại nên để lại thân cốt”. Không như thế thì hai câu giữa nên nói rằng: “Sau khi nhập Niết-bàn chỉ là sự phát khởi sau khi chứng được quả vô thượng”. Văn kinh: Đó gọi là Hóa thân. Tán rằng: Kết thúc. Văn kinh: Thế nào là có Ứng thân không có Hóa thân? Đó là thân Địa tiền. Tán rằng: Dưới đây giải thích sơ lược câu thứ hai. Đây là thân của hàng Địa tiền nhìn thấy, nghóa là hiện hình tướng Phật ở Địa tiền. Bồ- tát ở địa vị bốn gốc lành nhìn thấy gọi là Ứng thân, không thị hiện hình tướng khác cho nên chẳng phải Hóa thân. Tức là trong kinh Phạm Võng chép: “Ngàn đài hoa xung quanh, một nước một Thích-ca, một đài có ngàn cánh”. Trăm ngàn ức Thích-ca tức là một ngàn thế giới tam thiên đại thiên, một đại thiên thế giới có một Đại Hóa thân. Do đó kinh chép: “Tam thiên đại thiên là cảnh giới hóa độ của Phật”. Nếu hàng Nhị thừa nhìn thấy một vị Phật thì chỉ hóa độ một tứ thiên hạ, không phải là một đại thiên. Y theo thân tha thọ dụng của Địa thượng nhìn thấy đó cũng gọi là Ứng thân, chẳng phải Hóa thân. Nay lược bỏ không nói đến. Văn kinh: Thế nào là vừa có Hóa thân vừa có Ứng thân? Nghóa là thân trụ ở Niết-bàn hữu dư y. Tán rằng: Giải thích câu thứ ba. Nghóa là thân hiện bày vì hàng Nhị thừa làm trời, người cho nên là Hóa thân, thị hiện thành tựu chánh giác do đó gọi là Ứng thân, thân ở vương cung thị hiện thành Phật cho nên gọi là thân trụ ở Niết-bàn Hữu dư. Từ Sơ địa đến Thất địa được thân phần đoạn, thân Tha thọ dụng mà Bồ-tát nhìn thấy cũng thuộc trong câu này, nghóa cũng không trái. Y theo đây thì nhiếp thâu gần hết các Đức Phật. Trừ Bát Địa trở lên, thân Tha thọ dụng được nhìn thấy không gọi là Hóa thân. Văn kinh: Thế nào là chẳng phải Hóa thân cũng chẳng phải Ứng thân? Đó là Pháp thân. Tán rằng: Giải thích câu thứ tư. Đầu tiên giải thích thẳng; sau đó giải thích lời vặn hỏi. Đây là mở đầu: Chính là thân tự thọ dụng và tự tánh Pháp thân hợp lại gọi là Pháp thân. Nhưng ba thân Phật, các thuyết không nhất định. Như luận Phật Địa và luận Thành Duy Thức chép: “Bốn thân Phật có giới hạn không lẫn lộn”. Số còn lại thì nói giống nhau. Như luận Nhiếp Đại Thừa chép: “Tự thọ dụng và tự tánh Pháp thân hợp lại gọi là Tự tánh Pháp thân, tha thọ dụng thân gọi là Ứng thân”. Nói có trời, người, Bồ-tát, Thanh văn nhìn thấy lẫn lộn. Hoặc thân tự thọ dụng v.v… hàng Bồ-tát Đẳng giác còn không thể biết huống gì chúng sinh khác, giả như thân tha thọ dụng vì hàng Địa thượng mà thị hiện thì cũng không có hàng Thanh văn. Nói có điều đó như trong luận Phật Địa có ba cách giải thích về điều đó, cách giải thích thứ ba hợp hơn: Đó là hàng Nhị thừa hồi tâm hướng đại nên gọi bằng tên gọi đó. kinh Lăng-già cũng giống như vậy. Còn trong luận Nhiếp Đại Thừa: “Thân Phật mà ở địa vị bốn gốc lành nhìn thấy cũng thuộc về tha thọ dụng”. Hỏi: Vì sao có thể biết thân Tự thọ dụng cũng thuộc về Tự tánh Pháp thân? Đáp: Trong luận đó quyển chín chép: “Nên biết Pháp thân tương ưng với mấy đức, đó là tối thanh tịnh, bốn vô lượng, giải thoát, thắng xứ v.v…” Quyển mười luận đó lại chép: “Pháp giới các Đức Phật chính là Pháp thân, nên biết rằng luôn luôn có thể thực hiện năm nghiệp v.v…”. Lại luận đó chép: “Nếu thân thọ dụng mà hàng Bồ-tát, Thanh văn và các chư Thiên, bao nhiêu chúng hội lẫn lộn có thể nhìn thấy đó, rõ ràng chẳng phải là tự tánh thân, bởi vì sắc thân có thể nhìn thấy”, lẽ nào Tự thọ dụng là thân vô sắc hay sao? Đáp: Thân Tha thọ dụng chỉ có sắc gọi là hữu sắc. Không thể như vậy, phải nói rằng bởi vì năm uẩn cho nên chẳng phải là thân tự tánh, đâu chỉ nói là sắc. Chỉ có ba thân đó nghóa đồng với kinh này. Lại giải thích: Luận đó nói: “Tự thọ dụng và Tha thọ dụng hợp lại gọi là Thọ dụng, tự tánh Pháp thân chỉ có lý chân như nên nói pháp giới các Đức Phật chính là Pháp thân”. Nói đầy đủ công đức là luận kia tự giải thích rằng: “Pháp thân của Phật do thành thật thắng nghóa chân như hiện ra”. Đây chính là ý nói Pháp thân tương ưng với công đức tự tánh, nói thân khác nhau tương ưng không lỗi, theo ý này giống như kinh Thắng-man đã chép: “Ra khỏi ràng buộc gọi là Pháp thân”, cùng tương ưng với hằng sa tánh công đức, chẳng phải là tướng công đức. Nhân sáu đường nói về thọ dụng chẳng phải là tự tánh thân, và y theo tha thọ dụng, chẳng nói là tự thọ chẳng phải thuộc về thọ dụng. Theo điểm này tức là đồng với luận Đại Trang Nghiêm, luận Kinh Pháp hoa, luận Bát-nhã Kinh nói về ba thân, và khác với kinh này, vì thế đều thuận theo nhau. Vả lại, luận Kinh Pháp hoa chép: “Hóa thân tức ở đây là vừa Ứng vừa Hóa, đồng với Ứng thân. Cũng có thể, tự thọ dụng và tha thọ dụng đều gọi là Ứng thân”, bởi vì nói tuổi thọ vô biên là ứng thân, Pháp thân chỉ là như, kinh đó nói “Chẳng phải thật, cũng chẳng phải hư v.v…” Nhưng các văn trên đều y theo phần nhiều, trong đó hoặc có nơi thuộc về thân tha thọ dụng thì nói là Tự thọ dụng, ở vào Tự thọ dụng thì nói là Tha thọ dụng; hoặc ở nơi pháp thân lại nói Ứng, Hóa thân, hoặc ở nơi Ứng, Hóa thân lại nói là Pháp thân. Do đó cùng ở nơi tánh tướng mà nói, văn có xen tạp lẫn nhau, theo đây nên biết. Văn kinh: Này người thiện nam! Pháp thân đó từ “hai vô sở hữu” hiển hiện ra. Tán rằng: Giả định để giải thích lời hỏi vặn. Ý vặn hỏi: Đã nói rằng chẳng phải Ứng thân chẳng phải Hóa thân đó là Pháp thân, như thế sao trước đây nói ở thân thứ nhất với đồng sự các Đức Phật, ở thân thứ hai với đồng ý các Đức Phật, ở thân thứ ba đồng thể với các Đức Phật? Lại nói: Thân thứ nhất này nương vào Ứng thân mà được hiển hiện, thân thứ hai này nương vào Pháp thân mà được hiển hiện, Pháp thân đã chẳng phải là hai thân Ứng, Hóa, như thế làm sao thành tựu? Như người thế gian thân mỗi người đều có khác nhau, cho nên sự ng- hiệp, ý thể mỗi người đều không giống nhau. Lại như trước đã nói: Mặt trời, mặt trăng, nước gương, nhờ ánh sáng mà hiện rõ hình ảnh, cũng không thành tựu được. Nay lại giải thích, văn chia làm bốn phần: Nêu ra. Gạn hỏi. Giải thích. Thành tựu. Đây chính là phần nêu ra. Nêu ra Ý pháp thân tức là lìa không hai, lại do Như, Trí như như mà chứng mới hiển bày được, do đó thường làm nơi nương vào để phát khởi các sự nghiệp. Trước đây nói là khác nhau ấy là Tướng, Dụng luận riêng môn, nói giống như mặt trời, mặt trăng nhờ ánh sáng, nước, gương mà hiện rõ các hình ảnh là Tướng, Tánh hợp luận môn; hoặc nói Tự tánh Pháp thân hiển bày Ứng thân tức là Nhiếp tướng quy tánh môn. Vì vậy trong Nhiếp Luận của ngài Vô Tánh chép: “Pháp giới các Đức Phật chính là Pháp thân. Nên biết rằng thường có thể thực hành năm sự nghiệp, một là nghiệp cứu giúp tai họa bất ngờ, khiến cho người thấy Phật, nếu là người mù lòa liền được nhìn thấy, người điếc được nghe thấy, người điên được trí nhớ, tất cả các nghiệp như vậy v.v…”. Luận tự hỏi rằng: “Nếu nói Pháp thân chẳng phải là cảnh của sáu căn, vì sao nay nói mù lòa được nhìn thấy v.v… có thể thấy Pháp thân là Pháp thân nghiệp?”? Đáp: Thấy Pháp thân là nhờ nguyện lớn xưa kia dẫn dắt phát ra thế lực, thành tựu hoàn toàn pháp thân lần lượt phát khởi công dụng của Biến hóa thân, từ đó giúp cho người mù lòa được nhìn thấy v.v… Do tư lương xưa kia dẫn dắt phát sinh thế lực, chứng được Pháp thân tùy ý khởi các công dụng, như bộ phận khởi động máy, đem ngọn quay về gốc. Nói thấy Pháp thân thật ra chỉ thấy Hóa thân, cho nên ở sau kết thúc thành tựu nói: “Vì thế cho nên biết rằng cảnh giới thanh tịnh, trí tuệ thanh tịnh không thể phân biệt, không có trong đó, là cội gốc của diệt, đạo cho nên đối với Pháp thân này có thể hiển bày các thứ sự nghiệp của Như lai”. Nói về “Nhị vô sở hữu”, Tam tạng Chân-đế nói: “Như năm loại nhị vô sở hữu dưới đây; sở hiển hiện cố là vượt ra ngoài hai cảnh của năm loại, gọi là hiển hiện, đối với năm thứ hai này là không vốn có. Trong phần nêu ra có cả hai: Cảnh nhị vô sở hữu. Trí nhị vô sở hữu. Do Như cảnh thù thắng vượt trội năm thứ hai không này, do trí vô phân biệt lần lượt chứng năm thứ hai hai không cảnh này, cho nên Pháp thân hiển bày. Lược bỏ không nói về phương tiện hạnh, nguyện đại bi v.v… và những thứ còn lại. Như vậy, hai Không này tức là Sinh không và Pháp không, Trí tức là Sinh không, Cảnh tức là Pháp không, nhân nơi hai Không hiển hiện Pháp thân. Văn kinh: Thế nào gọi là hai vô sở hữu?. Tán rằng: Gạn hỏi. Văn kinh: Đối với pháp thân, tướng và tướng xứ cả hai đều không có. Tán rằng: Giải thích, chia làm hai: Đầu tiên là cảnh không có hai, sau đó nói về trí không có hai. Đây là cảnh không có hai: Trước là chung, sau là riêng. Đây là chung. Tướng tức là nhân ngã, tướng xứ tức là pháp ngã. Do Nhân ngã kia nương vào Pháp ngã mà phát khởi nên gọi là tướng xứ. Vì thế trong luận Thành Duy Thức chép: “Như từ nơi cái ghế vân vân rồi bảo đó là người v.v…”. Do đó, ngã thể của con người không có, chỉ do vọng tưởng mà thấy, giống như con mắt bị màng che nhìn thấy có vầng sáng tròn” . Do đó các kinh luận gọi Tướng là không có tánh. Bởi vì Pháp như như lìa “Nhị vô” nên nói rằng cả hai đều không có; luận Thành Duy Thức chép: “Viên thành thật từ nơi Y tha khởi kia, thường lìa tánh biến kế chấp trước đó”. Văn kinh: Chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải số, chẳng phải không số, chẳng rõ ràng chẳng tối tăm. Tán rằng: Hiển bày riêng Nhị vô. Phi hữu phi vô (chẳng phải có, chẳng phải không) là bốn câu lìa bỏ có không: Có. Không. Vừa có vừa không. Chẳng phải Có, chẳng phải Không. Chỉ nêu ra câu thứ tư để hiển rõ lìa ba câu trước. Chẳng phải một, chẳng phải khác là lìa bỏ bốn câu “một, khác” này: Một. Khác. Vừa một vừa khác. Chẳng phải một chẳng phải khác. Cũng nêu ra câu thứ tư hiển rõ lìa ba câu trước. Chẳng phải số, chẳng phải không phải số là vượt quá tình số phân biệt gọi là chẳng phải số, là cảnh vô phân biệt gọi là chẳng phải không phải số, lại siêu vượt số lượng gọi là chẳng phải số, là thuộc về pháp nên là chẳng phải không phải số. Nói chẳng rõ ràng chẳng tối tăm tức là chẳng nhơ chẳng sạch trong các kinh thường nói, từ đầu thường lìa nhiễm không phải đến nay mới tịnh gọi là chẳng rõ ràng, giả như lúc ở trong nhiễm mà chẳng nhiễm gọi là chẳng phải tối tăm. Do tâm thắng diệu này nên dứt bặt ngôn từ. Theo luận Nhiếp Đại Thừa thì không có ba thứ hai tướng: Vô hữu không phải là hai tướng, chẳng phải hữu tướng là vì tất cả pháp biến kế sở chấp đều không có, do đó cũng chẳng phải vô tướng, từ không để hiển rõ cái có của tự tánh. Hữu vi vô vi không có hai tướng là vì nghiệp phiền não chẳng phải là việc làm cho nên chẳng phải là tướng hữu vi, bởi có thể thị hiện như pháp hữu vi đạt được tự tại do đó chẳng phải là tướng vô vi. Dị tánh Nhất tánh không có hai tướng là vì thể của Phật thân là đồng nhất cho nên chẳng phải là tướng khác nhau, vô lượng y chỉ thảy đều chứng đắc khác nhau do đó chẳng phải là tướng đồng nhất. Tất cả đều không có cho nên gọi là không có hai tướng. Văn kinh: Trí như như ấy, không thấy tướng và tướng xứ, không thấy chẳng phải có, chẳng phải không, không thấy chẳng phải một, chẳng phải khác, không thấy chẳng phải số, chẳng phải không phải số, không thấy chẳng rõ ràng, chẳng tối tăm. Tán rằng: Nói về Như lai như trí tức là trí vô phân biệt như cảnh mà chứng, do đó không thấy sự chung, riêng của năm điều không có này, tu tập đầy đủ đạo quả trọn vẹn. Văn kinh: Cho nên biết rằng cảnh giới thanh tịnh, trí tuệ thanh tịnh, không thể phân biệt, không có trung gian. Tán rằng: Dưới đây là kết thúc thành tựu. Đây là thành tựu bình đẳng hai thứ cảnh, trí cho nên hợp lại thành Pháp thân. Hai thứ cảnh, trí chẳng phải một, chẳng phải khác, không thể phân biệt, không có trung gian, kia đây khác nhau do đó cùng gọi là Pháp thân. Văn kinh: Là cội gốc của Diệt đạo, cho nên đối với Pháp thân này thường hiển bày các thứ sự nghiệp của Như lai. Tán rằng: Đây là kết thúc thành tựu Pháp thân là nơi Ứng, Hóa thân nương vào để có thể phát khởi các thứ sự nghiệp lợi ích. Cảnh thanh tịnh cho nên là cội gốc của Diệt đế, trí thanh tịnh do đó là cội gốc của đạo đế. Do pháp Như như, Trí như như là cội gốc của diệt, đạo cho nên Ứng, Hóa thân nương vào nơi này phát khởi các thứ sự nghiệp. Như luận Nhiếp Đại Thừa nói lược về năm nghiệp cho nên gọi là chủng chủng, năm nghiệp ấy là: Cứu giúp tai họa là sự nghiệp, vì thường giúp cho những người mù lòa được mắt sáng v.v…. Cứu giúp đường ác là sự nghiệp, vì phá sạch nơi chẳng lành, thiết lập nơi toàn thiện. Cứu giúp chẳng phải phương tiện là sự nghiệp, vì giúp cho các hàng ngoại đạo dứt bỏ phương tiện sai lầm, cầu hạnh giải thoát, vào trong thánh giáo của Như lai. Cứu giúp Tát-ca-da là sự nghiệp vì giảng dạy cho người kia có thể vượt thoát ba cõi; trong luận Vô Tánh giải thích rằng: nghóa là ở trong đó thân luống dối bị chuyển đổi, tức là các pháp hữu lậu trong ba cõi. Đối với những người như thế, giảng giải chỉ dạy các pháp ra khỏi. Cứu giúp Nhị thừa là sự nghiệp, cứu giúp các thừa Bồ-tát cõi Dục và các hàng Thanh văn bất định chủng tánh v.v… Ở nơi yên ổn, giúp tu tập hạnh Đại thừa. Hỏi: Khiến cho đạt được Nhị thừa há chẳng phải nghiệp sao? Đáp: Đây chính là nghiệp thứ ba và thứ tư. Văn kinh: Này người thiện nam! với thân này, nhân duyên, cảnh giới, xứ sở, quả vị nương vào Gốc thật khó nghó bàn. Tán rằng: Toàn bộ đoạn thứ ba trả lời về nhân, tức là hiển bày nương vào nhân mà đạt được quả. Trả lời về vấn đề tu hành, trong này còn phân biệt rõ thứ lớp đạt được quả, không nói về thứ lớp tu hành. Ý này khiến cho người tu nhân phải biết rõ thứ lớp. Thứ lớp nhân là do nương vào thứ lớp quả. Luận Biện Trung Biên ba chép: “Khí là dị thục, lực là sự tăng thượng của nó, ái lạc thêm lớn thanh tịnh như dưới đây tức là năm quả”. Luận giải thích rằng: “Khí gọi là thuận theo pháp lành, dị thục gọi là đạt được thân thù thắng để làm đạo khí, lực nghóa là do lực tăng thượng của khí kia khiến cho các pháp lành thành tựu thượng phẩm tánh”. Ý này là do nương vào thân thù thắng và năng lực lành ngày xưa hợp lại mà nay pháp lành thành tựu tăng thượng phẩm. Ái lạc nghóa là khả năng tu lành của nhiều đời trước, đời nay đối với pháp lành phát sinh ưa thích sâu sắc. Thêm lớn nghóa là những khả năng tu lành ở đời hiện tại, khiến cho gốc lành tu tập mau chóng được trọn vẹn. Tịnh nghóa là dứt trừ chướng ngại, lìa hẳn sự ràng buộc. Đây là năm thứ lớp tức là năm quả vị: Dị thục (Tức là khí trước đây). Tăng thượng quả tức là pháp lành thành tựu thượng phẩm, do năng lực tăng thượng của thiện dị thục cho nên pháp lành thành tựu thượng phẩm là quả tăng thượng. Quả Đẳng lưu tức là do năng lực tu lành của nhiều đời trước, khiến cho đời này đối với pháp lành phát sinh ưa thích sâu sắc là quả đẳng lưu ở trước. Quả Só dụng, do năng lực tu tập ở đời hiện tại khiến cho gốc lành mau chóng được trọn vẹn, là quả só dụng, đây là nói theo pháp só dụng. “Quả Ly hệ, do dứt trừ chướng ngại trước đây nên lìa hẳn ràng buộc, là quả ly hệ”. Nay ở đoạn này ý nói về nghóa này, thứ lớp văn phân tích về quả khác nhau so với luận kia có mười thứ quả: Quả Hậu hậu, đó là nhờ vào chủng tánh mà đạt được quả phát tâm, như vậy các quả lần lượt thay đổi, nên biết rằng ý này nói đến tiền tiền là nhân, hậu hậu là quả, bởi vì hậu hậu vị nhân nơi trước mà đạt được, do đó hậu hậu vị tính là tiền quả, đây là nói chung. Quả Tối sơ, đó là đầu tiên chứng được pháp xuất thế gian, tức là Sơ địa. Quả Sổ tập, đó là các địa vị hữu học từ đây về sau (tức là địa vị Thập Địa). Quả Cứu cánh, đó là pháp vô học (tức là Phật Địa). Quả Thuận theo, đó là dựa theo từng bước nên biết rõ tức là thuộc về hậu hậu quả. Quả Chướng diệt, đó là có thể đoạn đạo, tức là quả tối sơ có thể diệt trừ chướng ngại, vì thế nói là diệt chướng (đây là ý nêu ra ban đầu để hiển rõ hậu trí cũng giống như thế). Quả Ly hệ, đó chính là quả sổ tập và cứu cánh, cho nên địa vị hữu học và vô học như dưới đây lìa sự ràng buộc của phiền não. Quả Thù thắng, đó là công đức thù thắng của các thần thông v.v… Quả Hữu thượng, đó là Bồ-tát Địa vượt ra khỏi các thừa khác, nhưng chưa thành Phật. Quả Vô thượng đó là Như lai địa, bởi vì bậc Thượng này trải qua tất cả các pháp thù thắng không còn sót lại pháp nào. Ở đây, sáu quả sau là nói theo nghóa khác nhau của bốn quả trước, toàn văn chia là ba phần: Nêu tổng quát. Giải thích riêng. Khuyến khích tu tập. Đây là phần một, nêu ra có năm nghóa: Thân, tức là khí quả dị thục. Nhân duyên, tức là nương vào sự tu điều lành trước đây của khí đó, là nhân duyên chính là quả tăng thượng do thiện thân khí làm năng lực tăng thượng giúp cho pháp lành thêm lớn. Cảnh giới tức là nêu ra cảnh sở duyên của quả đẳng lưu, tức là Bồ-đề, Niết-bàn và các pháp lành đều là cảnh của nó, duyên theo pháp thù thắng này phát khởi ưa thích. Xứ sở: tức là quả só dụng, do luôn luôn tu thiện Bồ-đề mau chóng trọn vẹn là nơi mong cầu, đó là ý muốn đến đại Bồ-đề của Đại thừa. Quả nương vào căn bổn là quả Ly hệ, “Quả Y Bổn”: là quả ly hệ (lìa ràng buộc) này không lìa pháp như như. Vì khó nghó bàn: Tóm lại là khen ngợi khó nghó bàn được, chẳng phải là cảnh giới của hàng Nhị thừa. Văn kinh: Nếu hiểu rõ nghóa này thì thân này chính là Đại thừa, là Như lai tánh, là Như lai tạng. Tán rằng: Dưới đây là giải thích: Giải thích về khí quả dị thục. Nương vào thân này giải thích nhân duyên, tức là quả tăng thượng. Từ “Không lui sụt địa tâm v.v…” trở xuống là nói về só dụng quả. Từ “Này người thiện nam! Pháp thân ấy v.v…” Về sau là nói đến quả ly hệ. Cảnh giới đó là tất cả các pháp khác nhau trong mười quả này, là nghóa khác nhau của năm quả này. Đây là mở đầu. Nếu hiểu rõ nghóa này, là đầu tiên đầu tiên nói chung về khuyến tín. Thân này chính là Đại thừa, là năng lực tăng thượng đạt được quả Đại thừa, do đó gọi là Đại thừa. Là Như lai tánh, tức nương vào thân này tu tập các pháp lành dần dần thêm lớn là Như lai tánh. Lại chưa hiện khởi các chủng tử vô lậu và thể chân như là Như lai tánh, sự tánh và lý tánh đều gọi là Phật tánh, là Như lai tạng, tức là quả thức dị thục, trong kinh Lăng-già chép: “Thức A-lại-da gọi là không Như lai tạng, huân tập đầy đủ các pháp vô lậu cho nên gọi là bất không Như lai tạng, thức thứ tám hữu lậu luống dối vì thế gọi là không; thể của các chủng tử vô lậu trong thức gọi là bất không Như lai tạng, bởi vì lìa xa luống dối. Nói đầy đủ tức là có đầy đủ hai thứ chủng tử hữu lậu, vô lậu”. Văn kinh: Nương vào thân này có thể phát khởi sơ tâm, tu hành địa tâm mà được hiển hiện. Tán rằng: Sau là giải thích về nhân duyên, tức là quả tăng thượng. Do quả dị thục nên năng lực của thân tăng thêm, liền phát khởi sơ tâm, tu hành địa tâm. Văn kinh: Không lui sụt địa tâm cũng hiện bày tâm Kim cương, tâm của hàng Nhất sinh bổ xứ. Tán rằng: Nói về quả só dụng. Có sự khác nhau trong quả só dụng. Trong quả có tám quả: Quả Hậu hậu. Quả Tối sơ. Quả Sác tập. Quả Rốt ráo. Quả Chướng diệt. Quả Hữu thượng. Quả Vô thượng. Quả Thù thắng. Không lui sụt địa này là quả tối sơ đạt được sơ địa chứng đến không lui sụt, do đó tập hợp làm quả sác tập và quả hữu thượng, quả hậu hậu chung cho Phật địa. Văn kinh: Tâm Như lai thảy đều hiển hiện, vô lượng, vô biên diệu pháp của Như lai thảy đều hiển hiện. Tán rằng: Quả cứu cánh thứ tư và quả vô thượng thứ bảy, trong đó trước tiên là nói chung, sau là nói riêng. Đây là nói chung. Văn kinh: Nương vào Pháp thân không thể suy nghó bàn luận này mà đại Tam-muội được hiển hiện, nương vào Pháp thân này mà hiển bày tất cả đại trí. Tán rằng: Nói riêng về quả cứu cánh và quả vô thượng. Trong đó lại có ba: Đạt được định trí. Hiện bày Ứng, Hóa. Hiển rõ bốn đức. Đây là đạt được định trí, cũng là đạt được quả chướng diệt, nên đạt được định trí. Văn kinh: Vì thế cho nên hai thân nương vào Tam-muội, nương vào trí tuệ mà được hiển hiện. Tán rằng: Hiện bày Ứng thân, Hóa thân. Văn kinh: Pháp thân ấy nương vào tự thể nói thường, nói ngã, nương vào đại Tam-muội nên nói về lạc, nương vào đại trí nên nói thanh tịnh. Tán rằng: Ba là Hiển rõ bốn đức: đầu tiên nói về riêng; sau đó kết thúc chung. Đây là nói về riêng. Tự thể như như cho nên nói là thường, vì thường nên nói là ngã. Nhờ Tam-muội nên được đại lạc. Kén chọn nhân và Nhị thừa gọi là đại Tam-muội. Từ trí đoạn chướng cho nên đạt được tịnh đức. Hỏi: Trong luận Bảo Tánh và luận Nhiếp Đại Thừa đều nói Tín là nhân của tịnh đức, ở đây sao nói là trí? Đáp: Bởi vì các luận đó loại trừ sự vẩn đục của bất tín và biệt nhân nên tín là nhân của tịnh đức. Đây là y cứ theo đoạn nhiễm, và thông thường trí là nhân của tịnh đức. Còn thường, ngã là nói theo thể, lạc, tịnh là nói theo nhân và thể mô phỏng nói lẫn nhau. Văn kinh: Vì thế cho nên Như lai thường trụ tự tại, an vui thanh tịnh. Tán rằng: Tổng kết. Tự tại tức là ngã đức. Văn kinh: Nương vào đại Tam-muội, tất cả thiền định Thủ-lăng- nghiêm v.v… tất cả niệm xứ đại pháp niệm v.v… đại từ đại bi. Tán rằng: Dưới đây nói về quả thù thắng: Văn chia làm ba: Đầu tiên là pháp, tiếp theo là dụ, sau cuối là hợp. Trong pháp có hai: trước hết nói về công đức thù thắng của định phẩm, sau đó nói về công đức thù thắng của trí phẩm. Nương theo định mà phát tuệ; vì thế trước tiên nói về định phẩm. Định phẩm chia làm ba: Đầu tiên nêu ra, tiếp đến liệt kê, sau cuối kết thúc; hoặc đầu tiên phân tích sở y, tiếp theo phân tích năng y, sau cuối kết thúc. Đại Tam-muội là tánh đạt được Tam-muội. Tuy nhiều nhưng chỉ có tám thứ: Thiền. Định. Niệm xứ. Đại từ bi. Đà-la-ni. Sáu Thần thông. Tám Tự tại. Tất cả pháp bình dẳng nhiếp thọ. Đây là bốn thứ đầu tiên. Thiền tức là bốn tónh lự, Định gọi là bốn định vô sắc, vì thế kinh Tát-già-ni chép: “Như lai thiền định là gì? Đáp: Có thứ đệ định, và Thủ-lăng-nghiêm v.v… hoặc chính là Đại thừa Quang định, Tập Phước đức vương định, Hiện thủ định, Kiện hành định”. Truyện nói: “Thủ-lăng-nghiêm tức là kiện hành định, chính âm là Tô-lăng-già-ma, Hán dịch là kiện hành, là nêu lên tính thượng thủ của nó. Định thực sự vô biên, cho nên nói là đẳng”. Về chung riêng, sơ lược nêu ra thiền định là chung, Thủ-lăng-nghiêm là riêng. Tất cả niệm xứ nghóa là ba niệm xứ, bốn niệm xứ và sáu niệm v.v… nói đại pháp niệm tức là niệm pháp trong sáu niệm, vì pháp là thầy của Phật cho nên trước tiên nói về pháp niệm, có lẽ đây chính là hoại duyên pháp niệm trụ. Kinh Tát-già-ni quyển bảy chép: “Pháp niệm xứ nghóa là quán sát nội pháp và ngoại pháp, nội pháp, ngoại pháp thực thi hai thứ ý tưởng, đó là thường và vô thường. Thường dùng Phật nhãn thấy tất cả đến ngồi nơi đạo tràng không hề bị thay đổi”. Đây là nói theo quả, cho đến chép: “Không dùng nhục nhãn, Thiên nhãn, tuệ nhãn để quán sát. Vì sao? Vì ba thứ nhãn không có tướng mạo cho nên dùng pháp nhãn mà quán sát”. Đây là nói theo thông nhân nêu ra một loại khác. Đại từ đại bi tức là bốn vô lượng, bởi vì ban vui bạt khổ thù thắng cho nên nêu ra để nói. Kinh Tát-già-ni quyển sáu có ba mươi hai loại đại bi quán. Kinh Tư Ích quyển hai có ba mươi sáu loại đại bi, rộng như các kinh đó đã nói. Văn kinh: Tất cả Đà-la-ni, tất cả thần thông, tất cả tự tại, tất cả pháp bình đẳng nhiếp thọ. Tán rằng: Thứ năm là đức Tổng trì. Tất cả thần thông là sáu thông đức. Như kinh Tát-già-ni quyển bảy chép: “Thiên nhãn thông là công đức tạo thành từ trí tuệ, thấy rõ hình sắc vốn có khắp mười phương, cho đến cũng nhìn thấy mọi hạnh nghiệp tu tập của Bồ-tát, Thanh văn, chúng sinh trong năm đường tất cả không sót loại nào”. Cho đến năm loại còn lại đều như kinh đã nói. Tất cả tự tại tức là mười thứ lớp tại, như trên đã nói còn kinh Tát-già-ni quyển bảy chép: “Đạt được bốn như ý thành tựu bốn tự tại: Mạng tự tại. Thân tự tại. Pháp tự tại. Thần lực tự tại. Mạng như trước đã giải thích. Thân tự tại là vì chúng sinh nên tùy tâm thực hiện thân, tùy tâm thực hiện sắc cũng hiện bày oai nghi; hoặc muốn cùng với chúng sinh đồng thân tướng đó, thảy đều có thể thực hiện gọi là thân tự tại. Pháp tức là biết rõ các pháp thế và xuất thế, đạt được biện tài vô ngại, tùy theo ý chúng sinh mà nói giúp cho họ trụ trong chánh tín. Đó gọi là pháp tự tại. Thần lực tự tại là hiện bày đầy đủ các thứ thần thông”. Tất cả pháp bình đẳng nhiếp thọ là vì đạt được pháp bình đẳng, chúng sinh bình đẳng, thường nhiếp thọ tất cả hữu tình. Trong luận Du-già quyển bốn mươi sáu chép: “Do năm thứ tướng rộng khắp đối với hữu tình, tâm đó bình đẳng: Bồ-tát lúc đầu phát tâm nguyện đại Bồ-đề như thế cũng vì lợi ích cho tất cả mọi loài hữu tình cho nên khởi tâm bình đẳng. Đối với các loài hữu tình tâm trụ trong thương xót, hoàn toàn bình đẳng. Đối với các loài hữu tình thâm tâm phát khởi đều bình đẳng yêu thương như con đẻ. Biết mỗi hữu tình vốn có pháp tánh, tức là pháp tánh của tất cả hữu tình, bởi vì pháp tánh bình đẳng nên tâm đều thực hành, đối với các loài hữu tình tâm trụ trong bình đẳng. Như đối với một hữu tình thực hành hạnh lợi ích, đối với tất cả hữu tình thực hành hạnh lợi ích cũng giống như vậy, đem tâm lợi ích cùng đối với các loài hữu tình, tâm trụ trong bình đẳng”. Luận Đại Trang Nghiêm quyển bảy nói có năm thứ bình đẳng, luận Pháp Hoa và luận Nhiếp Đại Thừa đều có ba thứ bình đẳng. Hoặc có thể, tất cả pháp bình đẳng chỉ cho các định phẩm nhiếp thọ tất cả công đức pháp bình đẳng, hoặc nhiếp thọ này thuộc về văn kết thúc ở sau nói: “Nhiếp thọ Phật pháp như vậy thảy đều xuất hiện, từ sự bình đẳng này mà thường bình đẳng nhiếp thọ. Văn kinh: Phật pháp như vậy thảy đều xuất hiện. Tán rằng: Kết thúc. Văn kinh: Nương vào đại trí, mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại biện này. Tán rằng: sau đây nói về công đức thù thắng của trí phẩm. Văn chia làm ba như định, đây chính là nêu ra chung và nói về riêng. Đại trí tức là Nhất thiết trí làm cội gốc, mười lực v.v… tức là Nhất-thiết-chủng- trí; hoặc là đại trí, tức là chân như trí tánh, mười lực v.v… cả ba loại rộng như các nơi khác phân tích. Văn kinh: Một trăm tám mươi pháp bất cộng, tất cả pháp hy hữu không thể suy nghó bàn luận thảy đều hiển hiện. Tán rằng: Một trăm lẻ tám pháp Bất cộng y theo kinh Vô thượng Y chép: “Đức Phật bảo A-nan: có một trăm lẻ tám pháp Bất cộng, đây là công đức thù thắng của Như lai, một là ba mươi hai tướng, hai là tám mươi vẻ đẹp”. Hai phần này rộng như các kinh luận khác đã phân tích, nay chỉ nói sơ lược về ba mươi hai tướng, kinh Đại Bát-nhã ba trăm tám mươi mốt chép”: Tướng dưới chân Thế tôn có bằng phẳng. Tướng dưới chân Thế tôn hình bánh xe ngàn căm. Tướng tay chân mềm mại. Tướng trong các kẽ ngón tay có da mỏng như màng lưới. Tướng Các ngón tay chân tròn đầy dài và nhọn. Tướng Gót chân đầy đặn tương xứng với mu bàn chân. Tướng Mu bàn chân đầy đặn tương xứng với gót chân (Du-già không có tướng này). Tướng Hai bắp vế Thế tôn như bắp chuối tròn. Tướng Hai cánh tay dài duỗi thẳng, khi đứng dài quá gối. Tướng nam căn ẩn kín. Tướng Mỗi lỗ chân lông đều mọc một sợi lông. Tướng Đầu lông tóc đều hướng lên trên. Tướng Da thân láng mịn. Tướng Da thân màu vàng thắm. Tướng Bảy chỗ đầy đặn (hai tay, hai chân, hai vai và đỉnh đầu). đàn. Vai và cổ tròn đầy. Tướng hai nách đầy đặn. Tướng Dung nghi của Thế tôn rạng rỡ trang nghiêm. Thân tướng của Thế tôn cao lớn oai nghiêm. Tướng Thể tướng của Thế tôn dọc ngang cân phân. Tướng Ngực cằm và nửa thân trên của Thế tôn như sư tử đầu Tướng Thân thường phát ra ánh sáng một tầm. Tướng Răng trắng trong đều nhau dày khít và có bốn mươi chiếc. Tướng bốn chiếc răng cửa sáng trắng. Tướng Thường có được năm mùi vị. Tướng lưỡi rộng dài mềm mỏng phủ le ra kín chân tóc. Tướng Phạm âm hòa nhã mọi người đều thích nghe. Tướng Lông mi xanh biếc ngay ngắn không tán loạn. Tướng Mắt xanh biếc tươi sáng đỏ hồng, trong điểm thêm ánh sáng trắng. Tướng Mặt như trăng tròn, mày như chiếc cung. Tướng Sợi lông giữa hai đầu chân mày sáng ngời, hơn xa ngọc báu. Tướng Ô-sắc-nị-sa (nhục kế) giống như lọng trời”. Nhưng khai hợp có khác nhau so với Du-già, trong Du-già tánh tướng rạng rỡ trang nghiêm thứ mười tám làm thân không cong vạy, lại tánh tướng thứ hai mươi ba làm răng không hở, răng sáng trong, tánh tướng cằm ngực thứ hai mươi mốt làm hai tướng. Kết hợp tướng mu bàn chân tương xứng với gót chân thứ bảy, kết hợp tướng bốn răng cửa vào tướng răng, kết hợp tướng cao lớn oai nghiêm thứ mười chín vào tướng đồng thanh đồng thủ thứ hai mươi, không có tướng mặt như trăng tròn thứ ba mươi. Đây là thuận theo thế tục nên nói về tướng không giống nhau, vì vậy nói có khác nhau. Y theo các tướng nêu ra ở trước có bài tụng rằng: Các tướng hiện bày mềm lưới nhọn Gót mu chân vế cánh tay dài Lông mọc một phía da bóng mịn Sắc vàng bảy nơi vai tròn trịa. Thể nghi cao lớn thật trang nghiêm Sư tử ánh sáng răng bốn chục Răng cửa vị lưỡi và âm thanh. Mi mắt xoáy tròn mày lọng trời”. Trong Du-già quyển bốn mươi chín chép: “Hóa thân khiến cho hữu tình phát sinh niềm hỷ lạc sâu sắc đối với các thứ nghiệp ác hiện hành của họ, như vậy các thứ nghiệp ác hiện hành là sở đối trị, cảm nhận tướng tốt tùy theo ý thích các thứ nghiệp lành là năng đối trị”. Lại chép: “Như vậy tất cả ba mươi hai loại trượng phu tướng không hề có sự khác nhau. Nên biết rằng đều sử dụng tịnh giới làm nhân mà cảm ứng được. Vì sao? Vì nếu các Bồ-tát hủy phạm tịnh giới, thân người thấp hèn còn không được, huống là có thể cảm đến tướng đại trượng phu sao?” Kinh Đại Bát-nhã lại chép: “Như vậy Thiện hiện Bồ-tát Ma-ha- tát thực hành Bát-nhã sâu sắc, thường đem hai thứ Tài, Pháp bố thí thâu nhiếp các loài hữu tình, thật là pháp hy hữu vô cùng đặc biệt”. “Lại do thực hành năm sự tu tập: Phát tâm. Lâu dài. Không đứt quãng. Thiết tha tôn trọng. Sự cảm ứng được đầy đủ”. Kinh Y Bảo Nữ quyển bốn chép: “Tu nhân và tướng có chút khác nhau”. Kinh Vô Thượng Y quyển hai nói về sự tu nhân đồng với luận Du-già quyển bốn mươi chín: “Nói là tướng hơi khác nhau là do người phiên dịch mà thôi”. Lại nói tu hành bốn chánh nghiệp đạt được ba mươi hai tướng: Quyết định không tạp, trong luận Du-già gọi là quyết định tu tác. tác Quán xét tường tận tinh tế, trong luận Du-già gọi là Ủy tất tu Thường xuyên tu tập không xen hở, Trong luận Du-già gọi là hằng thường tu tác Tâm không điên đảo, trong luận Du-già gọi là vô tội tu tác. Nghiệp thứ nhất đạt được tướng dưới chân bằng phẳng. Nghiệp thứ hai đạt được chín tướng: Dưới lòng bàn chân có hình bánh xe. Gót chân đầy đặn. Mười ngón tay chân có màng lưới. Da láng và mịn. Bảy chỗ đầy đặn. Hai vai bằng thẳng, hai nách đầy đặn. Cánh tay tròn lẳn. Lưỡi rộng dài. Ngực như ngực sư tử. Nghiệp thứ ba đạt được năm tướng: Ngón tay thon dài. Gót chân dài. Thân thẳng không khom. Ngang dọc xứng nhau. Dung mạo hoàn toàn thanh tịnh. Nghiệp thứ tư đạt được các tướng còn lại, đồng với Du-già. Trong luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa quyển sáu cũng nói về nhân của ba mươi hai tướng, kinh Tát-già Ni-kiền Tử quyển sáu cũng nói về ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp, phổ biến như các kinh luận khác đã giải thích. Tướng tốt đều sử dụng bốn căn y xứ mắt, lưỡi, thân, nam và thiệt căn làm thể, nếu trong chủng tánh của các Bồ-tát chỉ có chủng tử thì nương vào thân mà an trụ, thắng giải hạnh địa mới có thể tu tập pháp khác, có thể đạt được phương tiện, tịnh thắng ý lạc địa mới gọi là Đắc (đạt được). Nếu ở ngoài các địa trên thì như vậy tướng tốt chuyển thành thắng thanh tịnh. Nếu ở Như lai địa thì nên biết rằng tướng tốt sẽ là thiện tịnh vô thượng. Hỏi: Tại vì sao chỉ lập ba mươi hai loại này làm tướng đại trượng phu? Đáp: Quyển bốn mươi chín chép: “Các tướng như vậy là có sắc cho nên chỉ là phẩm thắng trong liệt, vì thế các loài hữu tình dễ dàng nhận biết. Tuy có tất cả các thứ Phật pháp bất cộng đều được gọi là tướng đại trượng phu, nhưng chỉ lập các tướng này làm tướng đại trượng phu”. Kinh Đại Bát-nhã quyển ba trăm tám mươi mốt chép: “Thế nào là tám mươi tùy hảo của Như lai? Này thiện hiện! Đó là: Móng tay thon và dài. Ngón tay ngón chân tròn thon và mềm mại. Tất cả các ngón tay chân đều đầy đặn như nhau. Tay chân tròn trịa sạch mềm như ý. Gân máu chằng chịt ẩn kín không hiện. Hai mắt cá đều ẩn kín. Bước đi tiến thẳng như rồng chúa, voi đầu đàn. Bước đi oai hùng thong dong như sư tử đầu đàn. Bước đi an bình giống như trâu đầu đàn. Bước nhẹ nhàng lại giống như ngỗng đầu đàn. 1 2. Quay cổ về bên phải như rồng đầu đàn, voi đầu đàn. Chi tiết theo thứ lớp tròn trịa đẹp đẽ. Khớp xương giao nhau giống như rồng cuộn. Đầu gối tròn vạnh vững chắc đầy đặn. Chỗ kín đẹp đẽ đầy đặn thanh tịnh. Da trên thân trơn láng bụi bặm không dính. Thân thể dung mạo chân thành nghiêm trang thường không yếu hèn. 1 8 . Thân thể vững chắc gắn bó với nhau. Thân thể an định, chân thành tôn trọng, không hề nghiên lệch. Thân tướng giống như tiên vương thanh tịnh uy nghiêm. Vầng ánh sáng tròn quanh thân, thường tự chiếu sáng. Bụng hình vuông không hề thiếu sự mềm mại. Rốn sâu hướng về phía phải tròn trịa sạch sẽ. Rốn dày không lồi không lõm rất đẹp đẽ. Da dẻ không ghẻ lở, ung nhọt. 2 6 . Lòng bàn tay đầy đặn, dưới bàn chân bằng phẳng. Đường chỉ tay sâu dài thẳng láng không tán loạn. Màu môi đỏ thắm như quả Tần-bà. Khuôn mặt không dài không ngắn, lớn nhỏ như nhau. Lưỡi mềm mại mịn màng, rộng đài đỏ thắm. Tiếng nói uy nghiêm, rõ ràng trong suốt. Âm vận dịu ngọt lanh lảnh như tiếng vọng trong hang sâu. Mũi cao dài thẳng không lộ hai lỗ. Các răng của Thế tôn vuông vức thẳng tắp và sáng trong. Các răng cửa tròn sáng trắng trong và sắc bén. Mắt Thế tôn trong xanh sáng ngời. Tướng mắt dài rộng như hoa sen xanh. Mi mắt bằng thẳng dày dặn không thưa. Mày dài không trắng, dày khít kín nhưng mềm mại. Hai mày đẹp rạp xuống dài thon xanh biết. Hai mày cao vút tươi sáng như trăng đầu tháng. Lỗ tai dài rộng lớn như chiếc vòng rũ xuống. Hai tai sáng đẹp bằng phẳng cân đối. Người nhìn thấy dung nghi ngài không sinh tâm nhiễm ái. Vầng trán rộng đầy đặn, hình tướng tuyệt đẹp. Nửa phần thân trên như sư tử đầu đàn. Đầu tóc dài, dày dặn xanh biết. Đầu tóc thơm tho, tươi sáng xoay tròn. Đầu tóc bằng thẳng không rối, không lẫn lộn. Đầu tóc vững chắc không đứt, không rụng. Đầu tóc láng bóng, bụi bặm không dính. Thân thể khỏe mạnh hơn thần Na-la-diên. Thân thể của Thế tôn cao lớn nghiêm trang. Các lỗ nơi thân thể Thế tôn thanh tịnh tuyệt diệu. Thân thể thế lực thù thắng không có ai bằng. Thân tướng Thế tôn thích nhìn không chán. Mặt tròn dài rộng như trăng tròn mùa thu. Nhan sắc dung mạo thanh thản mỉm cười trước khi nói. Nét mặt sáng ngời, không hề buồn bực. Thân thể thanh tịnh không bẩn, không hôi. Trong các lỗ chân lông thường phát ra mùi thơm đặc biệt. Khuôn mặt thường phát ra mùi thơm thắng diệu. Tướng đầu tròn đẹp giống như lọng trời. Thân có màu sắc xanh biếc như cổ chim khổng tước. Phát âm tùy theo mọi loài, hợp lý, không sai. Tướng đỉnh đầu của Thế tôn không ai nhìn thấy được. Ngón tay ngón chân đều đặn xinh đẹp. Chân đi cách mặt đất bốn ngón tay mà dấu chân vẫn hiện rõ. Tự giữ gìn, thân không hề dao động. Uy đức vang xa, người thấy vui mừng xua tan sợ hãi. Tiếng nói không cao thấp phát ra lời nói hòa nhã dịu dàng. Tùy loại, mà nói tiếng, tùy ý thích mà nói pháp. Giảng nói một loại âm thanh tùy mỗi loài đều hiểu được. Nói thảy đều theo thứ lớp chắc chắn có nhân duyên. Bình đẳng quán sát hữu tình, khen ngợi, chê bai đều hiện. Làm việc gì trước tiên quán xét oai nghi, khéo léo thanh tịnh. Tướng tốt của Thế tôn không thể nào quán sát hết được. Xương đỉnh đầu của Thế tôn vững chắc trọn vẹn. Nét mặt thường ít vui khi đi qua những nơi xa xưa. Tay chân ngực bụng đều là đức tướng mừng vui”. Trong Du-già bốn mươi chín chép: “Đó là hai tay chân đầy đủ hai mươi ngón, cho đến đốt, móng thảy đều rất đẹp tức là hai mươi vẻ đẹp; hai tay hai chân trong ngoài tám chỗ thảy đều thù thắng, tức là tám thứ, hai mắt cá, đầu gối, đùi vế, sáu chỗ rất đẹp tức là sáu thứ, hai cánh tay, khuỷu tay, cổ tay tức là sáu thứ, eo, mông cùng có một thứ, hai hạch là hai thứ, âm tàng là một loại, hai mông là hai loại, ba chỗ ngực, bụng, rốn tức là ba vẻ đẹp, hai sườn, nách, vú là sáu vẻ đẹp, bụng, ngực, cổ, xương sống đều là một vẻ đẹp. Ngoài sáu mươi vẻ đẹp từ cổ trở xuống, răng, tóc trên dưới là hai vẻ đẹp, gò má là một, hai môi là hai, khóe miệng khéo đầy đặn là một vẻ đẹp, hai má là hai, hai mắt là hai, hai mi là hai, mũi hai lỗ là hai, trán đẹp là một, hai mai hai tai là bốn vẻ đẹp, đầu tóc là một, đầu có hai mươi kết hợp với trước là tám mươi, lược làm bài tụng rằng: “Tay chân gồm hăm tám Mắt cá gối đùi khuỷu Cùng cổ tay mười hai Eo mông hạt âm trôn. Ngực bụng rốn có mười Sườn nách vú là sáu Bụng ngực cổ xương bốn Sáu mươi cổ trở xuống. Tóc gò má môi sáu Má mắt mi mũi tám Trán tóc mai tai năm Đầu tóc thắng diệu một”. Kinh Vô Thượng Y lại có sáu mươi tám pháp, đầy đủ thành một trăm tám mươi. Nói sáu mươi tám pháp ấy tức là như Đại thừa đã chép: “Phật có mười tám pháp Bất cộng: Không có sai lầm. Không có âm thanh hung bạo. Không có niệm sai trái. Không có tâm bất định. Không có các thứ tướng. Không có bất trạch xả. Dục không lui sụt. Tinh tấn không lui sụt. Niệm không lui sụt. Định không lui sụt. 1 2. Trí tuệ không lui sụt. Thắng giải không lui sụt. Tất cả thân nghiệp trí làm tiền đạo tùy theo trí mà chuyển. Ngữ nghiệp trí làm tiền đạo, tùy theo trí mà chuyển. Tất cả ý nghiệp trí làm tiền đạo, tùy theo trí mà chuyển. Biết rõ đời quá khứ không chấp trước, không trở ngại. Biết rõ đời vị lai không chấp trước, không trở ngại. Biết rõ đời hiện tại không chấp trước, không trở ngại”. Như Bổn Sư Vô Cấu Xưng kinh sớ có giải thích rõ, đồng thời như luận Câu-xá chép: “Mười lực, bốn Vô úy, đại bi, ba Niệm xứ cộng lại là mười tám pháp”. Lại có kinh nói chỉ đạt được pháp là như kinh kia nói. một. Chỉ có Như lai đạt được Như ý tự tại thần thông mau chóng, là Chỉ có Như lai đạt được Thần thông biến hóa không có hạn lượng là hai. Chỉ có Như lai đạt được Thần thông vô lượng vô tận là ba. Chỉ có Như lai đạt được tâm pháp tự tại là bốn. Tự tại vô biên, biết hóa tha tâm thông là năm. Tự tại vô ngại Thiên nhó thần thông là sáu. Biết chủng tử của chúng sinh ở cõi Vô sắc là bảy. Thông đạt Thánh chúng sau khi nhập Niết-bàn là tám. Trí tuệ rõ ràng không có trả lời điều gì bất định là chín. Đại Ba-la-mật khéo léo thường trả lời câu hỏi là mười. Phân biệt nói pháp không có sai trái là mười một. Khai hóa chúng sinh không có sai lầm trống không là mười hai. Chỉ có Như lai đạt được đệ nhất đạo thủ là mười ba. Chỉ có Như lai đạt được bất khả hại diệt là mười bốn. Chỉ có Như lai đạt được Kim cương Tam-muội là mười lăm. Như lai hiểu rõ tất cả các pháp chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, tâm bất tướng ứng là mười sáu. Vô ngại giải thoát là mười bảy. Ba pháp bất nhiễm là mười tám. Dứt bỏ thói quen là mười chín. Nhất-thiết-chủng-trí là hai mươi. Chỉ có Như lai đạt được Kim cương tụ thân là hai mươi mốt. Không hề tác ý về tất cả sự nghiệp thành tựu là hai mươi hai. Tất cả các tướng và xứ tương ứng rõ ràng thanh tịnh đầy đủ là hai mươi ba. Sự thọ ký riêng biệt không có bất định là hai mươi bốn. Đối với tâm hơn thua Phật không hứa không được thấy Phật là hai mươi lăm. Chuyển Nhất thiết chủng thắng diệu pháp luân là hai mươi sáu. Gánh vác chúng sinh có thể xả bỏ gánh nặng là hai mươi bảy. Sau khi nhập Niết-bàn lại phát khởi tâm là hai mươi tám. Chỉ có Như lai đạt được tu nhân tròn đầy không sót là hai mươi chín. mốt. Chỉ có Như lai đạt đến quả tròn đầy vô dư là ba mươi. Chỉ có Như lai đạt được lợi ích tha sự tròn đầy vô dư là ba mươi Chỉ có Như lai đạt được biện tài vô tận là ba mươi hai. Chỉ có Như lai đạt được việc nói tất cả pháp đều đúng như lý là ba mươi ba”. Giải thích rằng: Trong này tuy có ba mươi ba số, nhưng Bát-nhã chỉ lấy kết quả có ba mươi hai số, bởi vì tu nhân đầy đủ chẳng phải là quả đức, do đó chỉ có một trăm tám mươi pháp. Tất cả pháp hy hữu không thể suy nghó bàn luận đều hiển hiện đó là kết thúc phần thứ ba. Nói là các công đức thù thắng hơn hẳn tất cả là hy hữu, siêu vượt các tình chấp biến kế gọi là không thể suy nghó bàn luận, nhưng theo Du-già quyển ba mươi sáu chép: “Vô thượng Bồ-đề có năm điều ít thấy: Đối với các loài hữu tình chẳng có nhân duyên mà lại sinh ra thân ái. Chỉ vì làm lợi ích cho các loài hữu tình nên thường ở nơi sinh tử chịu đựng vô lượng khổ đau. Đối với nhiều phiền não khó điều phục của chúng sinh, khéo léo thường hiểu rõ cách điều phục. Đối với nghóa lý chân thật rất khó lãnh hội thường tùy theo đó mà ngộ nhập. Đầy đủ năng lực oai thần rộng lớn, không thể suy nghó bàn luận”. Những điều hy hữu không thể suy nghó bàn luận này đều nương theo đại trí mà được hiển hiện. Văn kinh: Thí như nhờ vào hạt châu như ý mà vô lượng, vô biên các loại châu báu thảy đều được hiện bày. Tán rằng: Nêu thí dụ. Theo kinh Quán Phật Tam-muội Hải: “Hạt châu Như ý là trái tim của chim cánh vàng đầu đàn, Luân vương xuất thế lấy làm châu báu, nếu không có Luân vương xuống biển, thì Hải long vương lấy làm ngọc trấn giữ biển”. Luận Đại Trí Độ chép: “Là xá- lợi của Phật vào thời mạt kiếp, biến thành hạt châu như ý để làm lợi ích chúng sinh, nhờ vào hạt châu có thể sinh ra tất cả mọi thứ cần thiết”. Đại Trí định này cũng giống như thế. Văn kinh: Như vậy nương vào hạt châu báu đại Tam-muội, nương vào hạt châu báu đại trí tuệ có thể công năng phát sinh nhiều thứ vô lượng, vô biên diệu pháp của các Đức Phật. Tán rằng: Pháp kết hợp có thể biết. Văn kinh: Này người thiện nam! Pháp thân, Tam-muội, trí tuệ như vậy. Tán rằng: Dưới đây nói về ly hệ quả: Đầu là nêu ra, tiếp theo là giải thích, sau cùng là thành tựu. Đây là phần nêu ra. Pháp thân, Tam- muội, trí tuệ do định trí là năng chứng pháp thân sở chứng cho nên được giải thoát, tức là ba việc Niết-bàn, hoặc là thể, hoặc là nghóa. Nhưng ở dưới nói tuy có ba số mà không có ba thể, hoặc nói theo nghóa, hoặc pháp thân định tuệ và cùng với giải thoát chẳng phải nhất định là một hay khác, vì vậy không có ba thể, chẳng phải cho là chỉ có pháp thân. Văn kinh: Vượt qua tất cả tướng, không chấp trước nơi tướng, không thể phân biệt, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, đó gọi là Trung đạo. Tán rằng: Sau đây là giải thích. Vượt qua tất cả tướng thù thắng của tự thể cho nên lìa mười tướng, đó là sáu trần, nam, nữ, sinh, diệt. Không chấp trước nơi tướng vì vậy lìa các tình chấp, không thể phân biệt vì chẳng phải là tâm có thể nói, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, nên lìa hai bên. Trong này có bốn thứ: Lìa bỏ các tướng. Không hề chấp trước. Chẳng phải cảnh tâm có thể nói. Lìa hai bên. Do bốn nghóa ấy nên gọi là Trung đạo, cảnh phù hợp với chánh trí. Chánh trí gọi là trung đạo, cảnh của trung đạo cũng gọi là trung đạo. Văn kinh: Tuy có phân biệt nhưng thể không có phân biệt, tuy có ba số mà lại không có ba thể, không tăng thêm, không giảm bớt. Tán rằng: Tiếp tục giải thích về thành tựu. Tuy có phân biệt nhưng thể không có phân biệt là giải thích về vô phân biệt ở trước, tuy có Pháp thân, Tam-muội, Trí tuệ nhưng chẳng phải là phân biệt tâm duyên, chẳng phải là ngữ cảnh cho nên nói thể không có phân biệt. Tuy có ba số mà lại không có ba thể là giải thích về vượt qua tất cả các tướng, tuy có ba số Pháp thân, Tam-muội, Trí tuệ ba số mà không có thể riêng biệt rõ ràng. Không tăng thêm, không giảm bớt, là giải thích về chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, không tăng thêm vì chẳng phải thường còn, không giảm bớt vì chẳng phải đoạn diệt. Văn kinh: Giống như huyễn mộng, cũng không có sở chấp cũng không có năng chấp. Tán rằng: Giải thích không chấp tướng ở trước. Tam-muội, trí tuệ không có năng chấp, pháp thân không có sở chấp. Giống như huyễn mộng là thí dụ chẳng phải mộng không thể phân biệt, ý là chọn lấy cảnh giới nhìn thấy trong mộng. Kinh: Pháp thể như như là nơi giải thoát, vượt qua cảnh giới sinh tử, vượt qua bóng đêm sinh tử. Tán rằng: Thành tựu Trung đạo ở trước. Pháp thể như như là pháp thân, là nơi giải thoát sinh tử, tức là giải thoát. Vượt qua cảnh giới sinh tử, thoát khỏi quả hữu lậu, là xa lìa khổ đế, vượt qua bóng đêm sinh tử là lìa xa nhân của khổ đế, dứt bỏ tập đế cho nên thật là Trung đạo. Văn kinh: Tất cả chúng sinh không thể tu hành nên không thể đến được nơi trú xứ của tất cả các Đức Phật, Bồ-tát. Tán rằng: Đây tức là phần khuyến tu, nói về không tu không đạt được, trái lại hiển rõ tu thì liền đạt được; đầu là pháp, sau là dụ. Đây là pháp, nói về chúng sinh không tu không đạt được đại Niết-bàn là nơi thường an trú của các Đức Phật, Bồ-tát. Hỏi: Ở đây nói về thứ lớp đắc quả, không chia rõ thứ lớp tu hành, do đâu mà khuyến tu? Đáp: Quả phát khởi nhờ vào ý muốn tu tập sinh ra sau thứ lớp tu hành, cho nên nói. Vì thế ý của thí dụ sau là kết hợp nói về nhân quả. Văn kinh: Này người thiện nam! Thí như có người mong ước có được vàng nên cầu tìm khắp nơi cuối cùng tìm được quặng vàng. Tán rằng: Dưới đây nói về thí dụ. Trước nói về năm quả, dụ cũng có năm. Thí như có người tức là giống như trước nhờ vào quả dị thục ở thân này, mong ước có được vàng dụ cho đạt được quả tăng thượng của sơ tâm phát khởi, khắp nơi tìm kiếm cuối cùng tìm được quặng vàng dụ cho quả đẳng lưu. Trước dụ cho tư lương vị trong tu hành địa tâm, nhờ vào giáo lực phát khởi tín tâm biết trong thân mình có Phật tánh. Hai tánh lý, sự của pháp thân đều đạt được giống như quặng vàng, bị chướng ngại bao phủ như tìm được quặng vàng. Văn kinh: Đã tìm được quặng rồi tức thì đập nát để chọn lấy vàng ròng. Tán rằng: Dụ cho gia hạnh vị trong tu hành địa tâm, tâm dần dần tu học dứt bỏ sở thủ, năng thủ, an trú trong duy thức quán, giống như chọn lấy vàng ròng. Văn kinh: Nung luyện trong lò, được vàng thanh tịnh. Tán rằng: Vì nung đốt kén chọn dụ cho tâm không lui sụt địa, tâm Nhất sinh bổ xứ, tâm Kim cương. Được vàng thanh tịnh dụ cho tâm Như lai địa là quả só dụng. Văn kinh: Tùy ý làm thành các thứ vòng xuyến, các loại trang sức, cho dù có nhiều công dụng nhưng tánh vàng không thay đổi. Tán rằng: Mong muốn đạt được Niết-bàn là quả ly hệ. Đạt được thường, lạc, ngã, tịnh giống như làm thành các thứ vòng xuyến v.v…, nhưng mà không mất tánh chân như. Hoặc mong muốn Bồ-đề đều là quả só dụng, các thứ vòng xuyến tức là định trí, phát sinh tất cả công đức, thường không mất định tuệ tánh, đều giống như vàng không thay đổi, toàn bộ đoạn văn trên đây giải thích về tướng mạo xem xét về hành tướng, dần dần đi sâu vào ý cầu mong xa hơn, cũng cần phải thích đáng. Nếu giải thích theo xưa thì thí dụ sau thuộc về tu hành, đầu là dụ, sau là pháp, y theo trước đây có thể biết. Văn tu hành sau đây sẽ có thí dụ, do đó không y theo xưa. Văn kinh: Lại nữa, này người thiện nam! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào cầu thắng giải thoát, tu hành điều lành thế gian. Tán rằng: Toàn bộ đoạn văn thứ ba là trả lời về nhân, trong đó có hai phần: Đầu tiên phân tích quả; tiếp theo dưới đây là thứ lớp tu chứng. Theo các văn ví dụ nên trước tiên là tu nhân sau đó mới đắc quả, ở đây theo trước nên nói về ba thân, sau sẽ nói về lần lượt đắc quả. Tuy biết thứ lớp đắc quả nhưng nếu không tu hành thì làm sao đắc quả được, cho nên nay tiếp tục nói về thứ lớp tu chứng. Còn như Du-già quyển ba mươi tám chép: “Đã nói những nơi cần học của Bồ-tát, như vậy cần phải học, nay ta sẽ nói:”. Đây là ý của phẩm Bồ-đề trước đây nói về hai đoạn hai trí. Bồ-đề tối thắng là những gì cần phải học, ý khiến cho sinh khởi mừng vui như thế cần phải học, tức là khiến cho vui mừng cầu mong phát khởi tu tập diệu hạnh. Nay ở dưới đây nói về thứ lớp tu hành, đem ý muốn hướng về quả từ bốn thứ năng lực: Nhân lực. Thiện hữu lực. Tác ý lực. Tư lương lực. Bốn năng lực này là nhân tư lương, đã đầy đủ thì sẽ thành tựu chánh giác. Đây đều là quả. Nay trong văn này chia ra làm hai: Đầu là pháp thuyết, sau là dụ thuyết. Trong pháp thuyết như trước chia làm năm; đây tức là thứ nhất, trước nói về Nhân lực. Cầu được giải thoát là những học xứ Vô thượng Bồ-đề, Đại Nhập Niết-bàn vượt lên trên Nhị thừa, gọi là thắng giải thoát. Tu điều lành thế gian gọi là thiện pháp dục, lìa nhân gia hạnh, giấu kín chủng tánh kia nương nhờ duyên hiện hành để làm nhân lực. Theo Du-già quyển ba mươi tám: “Nương vào tám thứ thắng giải đó, tịnh tín thành tựu đầy đủ thì trước chắc chắn được hỷ lạc: Nương vào nơi công đức thắng giải của Tam bảo. Đối với uy lực của Phật, Bồ-tát. Đối với nghóa chân thật. Đối với nhân. Đối với quả. Đối với ưng đắc nghóa. Đối với ưng đắc phương tiện. Đối với thiện ngôn, thiện ngữ, thiện thuyết mà cầu thắng giải thoát thì chắc chắn được hỷ lạc”. Luận Duy Thức sáu chép: “Đối với thật đức có thể đi sâu vào nhẫn chịu lạc dục, tâm thanh tịnh là tánh, nhẫn tức là tín nhân, lạc dục là quả, tâm thanh tịnh tin vào thể”. Ở đây nói cầu tức là nhẫn chịu lạc dục là cội gốc lành, dục là thường xuyên nương vào nhân để tu điều lành thế gian. Văn kinh: Được thấy Như lai và chúng đệ tử được gần gũi rồi. Tán rằng: Thiện hữu lực, văn chia làm bốn: Được gần gũi. Thỉnh cầu thắng pháp. Nghe và suy nghó về pháp đó. Chính thức giải thích. Đây là mở đầu. Trong đây lẽ ra nói là tướng của bạn lành, bạn lành tác nghiệp, gần gũi bạn lành. Trước hết có hai như Du-già quyển bốn mươi bốn giải thích rộng. Gần gũi bạn lành, trong luận ấy chép: “Do bốn thứ tướng mới được gần gũi bạn lành trọn vẹn: Đối với bạn lành bị bệnh hay không bị bệnh, lúc nào cũng cung phụng hầu hạ, thường xuyên phát khởi sự thương yêu kính trọng, hoàn toàn tin tưởng. Đối với bạn lành lúc nào cũng cung kính thăm hỏi lễ bái hầu hạ đón tiếp chắp tay, ân cần tu nghiệp, hòa thuận cung kính, nên vì đó cúng dường. Đối với bạn lành thường xuyên cúng dường y phục, thức ăn, đồ nằm, thuốc men chữa bệnh, cùng mọi vật dụng tùy thân đúng như pháp. Đối với bạn lành nếu là chính thức y chỉ, đối với nghóa lý chánh pháp hoặc phù hợp, hoặc xa lìa, tùy theo chuyển đổi tự tại, không có nghiêng động, như thật biểu hiện thực hành tâm phụng thờ cung kính, thường xuyên đi đến cung kính, phụng sự thưa hỏi nghe nhận. Văn kinh: Bạch với Phật rằng: “Bạch Thế tôn! Điều gì là lành, điều gì là không lành, điều gì là chánh tu, được hạnh thanh tịnh. Tán rằng: Thỉnh cầu thắng pháp. Trong Du-già quyển ba mươi tám chép: “Các vị Bồ-tát đó vào lúc cầu thỉnh chánh pháp nên cầu những gì, vì sao nói mà cầu, cố ý cầu nghóa nào?”. Đầu tiên hỏi là cầu pháp nào, tiếp theo hỏi cầu nghi quỹ, sau đó hỏi cầu pháp làm gì. Cầu những gì là nên cầu năm minh. Cầu pháp quỹ nghi, nghóa là các vị Bồ- tát đối với việc khéo nói pháp nên an trú hết sức mạnh mẽ và trân trọng cầu nghe chánh pháp, vì muốn lắng nghe khéo nói pháp, giả sử đường đi trải qua lửa dữ hừng hực đốt cháy mặt đất, không còn cách nào có thể lắng nghe được khéo nói pháp này, lập tức phát khởi tâm mạnh mẽ trân trọng vui mừng mà đi vào, huống là muốn nghe nhiều nghóa lý nói về pháp lành, vượt quá tự thân và mọi tiền của, vật dụng yêu quý vốn có gấp trăm ngàn muôn lần. Đối với khéo nói pháp thường ưa thích lắng nghe không hề có sự mệt mỏi cũng không hề thỏa mãn, tịnh tín sâu dầy, tánh tình hòa nhã, tâm thẳng thắn, thấy thẳng thắn, yêu kính đức độ, cho nên yêu kính pháp. Hướng về Pháp sư tâm không hề hỏi vặn hóc búa, có tâm kính trọng, không có tâm kiêu mạn, một bề vì cầu pháp lành, không phải biểu hiện đức độ của mình mà vì muốn an lập gốc lành cho mình và người, không vì nhân duyên lợi dưỡng cung kính, tâm không hề tạp nhiễm, lìa bỏ cao ngạo, lìa bỏ khinh mạn, lìa bỏ yếu hèn, kịp thời mà nghe, thiết tha trân trọng mà nghe, cung kính mà nghe, không vì tổn hại, không vì thuận theo, không tìm lỗi lầm, tâm cầu lãnh ngộ, tâm chuyên nhất hướng về, nghe rồi nhớ mãi giữ lấy những gì cần thiết. Lắng nghe chánh pháp, đối với pháp đã nghe thực hiện bốn thứ tướng: Nghó là như vật quý báu tuyệt diệu, vì khó có được. Nghó là như thuốc tốt quý hiếm vì có nghóa trừ bệnh. Nghó rằng như tài vật vì có nghóa không phân tán. Nghó rằng như Niết-bàn vì có nghóa diệt khổ. Bởi vì pháp là nhân của tướng tốt trang nghiêm, do đó khởi lên ý tưởng quý báu tuyệt diệu, bởi vì pháp là nhân dứt trừ phiền não, do đó khởi lên ý tưởng thuốc tốt quý hiếm, bởi vì pháp là nhân của thần thông do đó khởi ý tưởng giống như tài vật, vì pháp là nhân chân chánh vô tận do đó khởi ý tưởng Niết-bàn. Tiếp theo nói về ý cầu nghe pháp. Lúc cầu nội minh là chân chính tu hành pháp, thực hành theo pháp, là mở bày rộng rãi, lợi ích giác ngộ đối với người khác. Lúc cầu nhân minh là muốn hiểu rõ như thật ngoại đạo tạo ra nhân luận tà ác ngôn thuyết, là muốn hàng phục các luận thuyết khác, đối với giáo lý chân thật người chưa hoàn toàn tin tưởng khiến cho họ tin tưởng hoàn toàn, người đã thật sự tin tưởng lại khiến cho họ càng tin tưởng hơn. Lúc cầu thanh minh là khiến cho chúng sinh tin tưởng ưa thích vào lời nói chuẩn mực, đối với thân Bồ-tát sinh tâm cung kính tin tưởng sâu sắc, là muốn hiểu rõ ngôn từ âm tiết của người xưa chỉ dạy. Lúc cầu y minh là chấm dút các thứ bệnh tật của chúng sinh, là muốn làm lợi ích cho tất cả mọi người. Lúc cầu công xảo minh là dụng ít công sức mà chứa nhóm nhiều tài vật quý báu, là muốn lợi ích cho các loài chúng sinh, là phát khởi ý tưởng chúng sinh thật hiếm lạ, là dùng trí khéo léo bình đẳng phân bố lợi ích nhiếp thọ vô lượng chúng sinh. Vì sao mà nói, vì nghóa gì nói? Hợp với những điều nên cầu thì nói những điều như vậy, vì cầu nghóa này nên nói nghóa này. Đây là ý vì cầu lợi ích tự tha, lại muốn cho chúng sinh thực hành lợi ích tự tha, do đó mà nói. Nay nói thế nào là lành và không lành, đó là hỏi về pháp sở cầu; điều gì là chánh tu tức là hỏi về nghi thức phép tắc nghe pháp, lại hỏi điều gì đạt được hạnh thanh tịnh tức là cầu những gì. Văn kinh: Các Đức Phật, Như lai và chúng đệ tử lúc thấy người kia hỏi liền suy nghó như vầy. Tán rằng: Bạn lành suy nghó. Văn kinh: Thiện nam, thiện nữ này muốn cầu thanh tịnh, muốn nghe chánh pháp liền nói cho họ nghe khiến người kia khai ngộ. Tán rằng: Sẽ giải thích cho nghe, tức là bạn lành tác nghiệp. Chưa hiểu giúp cho hiểu rõ, đã hiểu thì giúp cho biết nhiều hơn là khai. Văn kinh: Người kia đã nghe rồi chánh niệm nghó nhớ giữ gìn. Tán rằng: Thứ ba là tác ý lực. Phát khởi ý nghó như lý nên chánh niệm gìn giữ không bỏ. Văn kinh: Phát tâm tu hành đạt được tinh tấn lực, dứt bỏ lười nhác chướng ngại, dứt trừ tất cả tội lỗi. Tán rằng: Thứ tư là tư lương lực, tức là trong ba đại kiếp tu tập muôn hạnh làm tư lương cho Bồ-đề. Đầu tiên trong năm vị gọi là tư lương, đó là tên khác được gọi chung, như các sắc xứ, bởi vì bắt đầu phát tâm cầu đạo Bồ-đề nên cùng gọi là tư lương, còn lại được gọi tên khác, vì hạnh thù thắng khác nhau. Trong tư lương lực này chia ra hai: Đầu là Địa tiền, sau là Địa thượng. Đây là mở đầu. Địa tiền có bốn: Phát tâm tu hành. Đạt được lực tăng thượng. Trừ chướng. Diệt tội. Phát tâm tu hành là địa vị thập trụ, cho nên đầu tiên trong thập trụ gọi là phát tâm trụ, bởi vì bắt đầu phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Trước đây tuy phát nhưng chưa đi vào tăng-kỳ, nay bắt đầu đi vào tăng-kỳ cho nên được gọi là Phát. Phát tâm có nhiều thứ, pháp lành dục vị chủng tánh phát tâm trong giai vị thập trụ thì hạnh thắng giải phát tâm đi vào Sơ địa gọi là chứng đắc phát tâm. Nay ở đây thắng giải phát tâm đạt được tinh tấn lực. Nhẫn vị thứ nhất đã đạt được năm lực tín là thường xuyên nương tựa vào, chẳng phải chính thức hàng phục các hoặc. Siêng năng có thể hàng phục các hoặc, cho nên ở đây nói. Trừ lười nhác chướng ngại đó là nêu ra hạnh tinh tấn trái nhau. Y theo thực tế thì phân biệt tất cả hai chướng ở địa vị này đều hàng phục. Đây là dứt trừ khổ nhân. Diệt tất cả tội lỗi đó là quả khổ. Đến tăng thượng nhẫn và thế đệ nhất vị, tất cả quả khổ trong đường ác tám nạn đều không sinh được. Phần nhiều nói về thấy đạo, lìa hai khổ này là nói theo đoạn chủng. Nơi đây y theo phục vị và quyết định đắc. Trong luận Thành Duy Thức chép: “Tuy thấy đạo phát sinh cũng dứt trừ các thứ nghiệp quả của đường ác. Nhưng nay lại nói có thể sinh khởi phiền não, vì đó là cội gốc”. Lại chép: “Hai khổ trong đường ác tạp nhiễm ngu muội tức là các nghiệp quả của đường ác”. Văn kinh: Đối với các học xứ phải hết lòng tôn trọng, dứt trừ tâm trạo hối, bước lên Sơ Địa. Tán rằng: Nói về bước lên Địa thượng. Thập địa là mười, văn mỗi địa đều có hai: Đầu tiên là trừ chứng, sau đó đạt được Địa. Do nơi Sơ Địa đạt được bốn chứng tịnh, đối với học xứ hết lòng tôn trọng, học xứ tức là giới, hoặc tất cả những điều cần phải tu gọi là học xứ, thể không lìa Tam bảo và lấy tịnh giới để chứng được tịnh, lìa tâm không tôn trọng, dứt bỏ hẳn phân biệt. Dứt trừ tâm Trạo hối vì nó là chướng ngại của dị sinh tánh, tuy chướng của dị sinh tánh thâu nhiếp tất cả hai chướng phân biệt nhưng do chướng của trạo hối mà định thêm lớn do đó ở đây dạy tu định, nhờ vào định phát khởi trí, kết hợp định trí này cho nên thành tựu pháp thân, vì vậy cố ý nói dứt trừ, lý thật sự thông suốt các thể còn lại. Còn sắp đoạn, đang đoạn đều được gọi là Đoạn. Địa vị sắp đoạn thêm lớn ở trước, địa vị đang đoạn thúc đẩy tâm đang đi vào Địa. Ở đây phần nhiều nương vào Sơ Địa mà nói đoạn chướng. Vì vậy trước tiên nói dứt trừ tâm trạo hối, sau đó nói đi vào Sơ Địa. Còn lại đều y theo đó mà biết. Văn kinh: Nương vào tâm Sơ Địa, trừ chướng lợi ích hữu tình, đi vào Nhị Địa. Tán rằng: Từ địa thứ hai, giữ giới Ba-la-mật. Trong giữ giới Ba- la-mật có ba sự khác nhau, Lợi ích cho hữu tình là thắng hạnh của Bồ- tát. Tâm Sơ Địa đã đầy đủ sắp đi vào Nhị địa nên lực tu giới tăng lên, sắp đoạn chướng đang hiện hành, cho nên có công năng phát sinh lợi ích. Nói trừ chướng của việc lợi sinh, tức là chướng tà hạnh, hàng phục chướng này rồi đi vào Nhị Địa. địa. Văn kinh: Ở trong địa này trừ chướng không ép ngặt, đi vào Tam Tán rằng: Tức là chướng ám độn. Trong luận Duy Thức v.v… chép, ngăn che tất cả văn tư thắng tuệ gọi là ám độn. Ở đây nói ngăn che nhẫn gọi là ép ngặt, hoặc nơi khác nói ngăn che vốn là ngu si cho nên gọi là ám độn chướng. Nếu y theo ngọn ngành của nó tức là các thứ tức giận v.v… gọi là ép ngặt chướng. Hoặc do ba nhẫn, bởi vì tham lam, thích thú các thứ vốn có không thể nhẫn chịu được khổ, tức là tham lam ép ngặt não loạn, thấy người khác oán hại nhưng không thể nhẫn chịu, tức là tức giận ép ngặt não loạn, nghe hai đế không thể nào hiểu biết nhẫn chịu, tức là ngu si ép ngặt não loạn. Lúc đi vào địa thứ ba đạt được ba nhẫn này, cho nên dứt trừ được chướng ép ngặt. Văn kinh: Ở trong địa này, dứt trừ chướng tâm nhuyến tịnh, đi vào Tứ Địa. Tán rằng: Tâm tịnh gọi là Bồ-đề phần pháp, nhuyến nghóa là chướng phiền não nhỏ nhiệm hiện hành, tức phiền não nhỏ nhiệm chính là chướng của thanh tịnh này, hoặc phiền não này nương vào tâm vương cho nên thuận theo chủ, làm tên, gọi là tâm nhuyến tịnh chướng. Văn kinh: Ở trong địa này, dứt trừ chướng thiện phương tiện, đi vào Ngũ địa. Tán rằng: Địa này tu tập đạo vô khác nhau, tức là trí Vô khác nhau, sẽ chứng như vô khác nhau, cho nên đạt được chân tục không khác nhau. Sinh tử, Niết-bàn không khác nhau do đó dùng trí hậu đắc tu đại bi. Bát-nhã không trụ ở sinh tử, Niết-bàn gọi là phương tiện. Thể căn bổn của Niết-bàn và phương tiện tức là trí vô phân biệt, khởi dụng tức là bi trí. Thường chướng ngại phương tiện này tức là chướng Nhập Niết-bàn của hạ thừa. Niết-bàn chẳng phải là chướng, chán ghét sinh tử, ưa thích Niết-bàn, tâm ấy mới là chướng, chướng ngại phương tiện này. Ở đây dứt trừ chướng này được đi vào Địa thứ năm. Văn kinh: Ở trong địa này, dứt trừ chướng thấy có chân tục, đi vào Lục địa. Tán rằng: Nói về chân tục như thông thường đã phân biệt rõ, đều có bốn thứ. Trong các luận nói theo tướng chung, vả lại nói Ngũ địa thực hành quán sát bốn đế, nhưng có thể kết hợp hai đế chân tục mà quán sát, trừ chướng chân tục trái nhau. Nếu không như vậy thì không thể kết hợp quán sát chân tục, bởi vì thực hành quán sát bốn đế, nhưng chưa thể nào trừ hai tướng nhiễm tịnh, vì tướng nhiễm tịnh nương theo chân tục mà sinh. Nay theo căn bổn gọi là chướng chân tục, y theo thực tế tức là chướng tướng thô hiện hành. Tướng nhiễm tịnh này hướng về tướng sinh diệt, nhiễm tịnh là thô, do tướng thô này chấp vào sở tri chướng hiện hành mà phát khởi nên gọi là chướng thô tướng hiện hành. Địa thứ năm sắp trừ, đi vào Địa thứ sáu đang trừ, hoặc dựa vào phương tiện, đi vào địa thứ năm trừ chướng chân tục trái nhau, cho nên có thể kết hợp quán cả hai, đi vào Địa thứ sáu, lần lượt phỏng theo nhau, vì thế ở đây nói là phân biệt. Văn kinh: Ở trong địa này, trừ chướng thấy có hành tướng, đi vào Thất địa. Tán rằng: Chướng thấy có hành tướng tức là chướng tế tướng hiện hành, chấp vào tướng sinh diệt, từ trong Địa thứ sáu thực hành quán duyên sinh, tuy trừ tướng nhiễm tịnh nhưng thấy có tướng sinh diệt, chướng đạo vô tướng, không thấy sinh diệt, đạo chướng diệu vô tướng, không thấy sinh diệt. Nay thấy có hành tướng này đang hiện diện tức là chướng. Đi vào Địa thứ bảy mới dứt, hoặc trong Địa thứ sáu thực hành quán duyên sinh, thấy sinh tử lưu chuyển mà không thấy có hữu vi, vô vi. Nay trong Địa thứ bảy dứt hai chướng ấy nên thường có thể thực hành quán vô tướng. Vì vậy trong luận Duy Thức chép: “Chấp có sinh là hãy còn giữ lấy tướng lưu chuyển tế sinh, chấp có diệt là hãy còn giữ lấy tướng hoàn diệt tế diệt”. Các kinh như Bát-nhã Tâm Kinh cũng chép: “Không có vô minh cũng không có hết vô minh”. Hết tức là diệt, diệt tức là vô vi, không thấy tướng diệt tức là đạo diệu vô tướng. Đưa ra không thấy diệt, ẩn chứa không thấy sinh, gọi là chướng tế tướng hiện hành. So sánh tướng thô ở trước, đây gọi là chướng tế kiến hành tướng, tức là nói theo Sở chấp. Hành tướng tức là hành tướng sinh diệt, là chướng của việc thấy có hành tướng. Văn kinh: Ở trong Địa này, trừ chướng tướng không thấy có diệt, đi vào Bát địa. Tán rằng: Diệt tướng tức là vô tướng. Bởi vì trong Địa thứ bảy phần nhiều chọn lấy tướng diệt, hoàn toàn trong vô tướng tác ý chịu khó tìm cầu, không thể ở trong cái không nhậm vận, khởi hạnh thù thắng, chướng ngại vô công dụng, diệu quán vô tướng. Không thấy tướng diệt đó là quán vô tướng. Đi vào Địa thứ tám chẳng những không thấy tướng diệt, mà hai tướng Tướng, Độ cũng không thấy, cho nên đối với hai tướng này cũng được tự tại. Do đó trong Địa thứ tám dứt hai thứ ngu muội: Đối với vô tướng phát khởi công dụng ngu muội. Đối với Tướng tự tại ngu muội. này. Ở đây tạm thời đưa ra cái ban đầu để phỏng theo dứt trừ ở sau Văn kinh: Ở trong địa này, trừ chướng không thấy có tướng sinh, đi vào Cửu địa. Tán rằng: Không thấy có tướng sinh là đối lại với tướng diệt ở trước, lẽ ra đó là tướng sinh của các pháp, nhưng do vì đi vào Địa thứ tám thích quán vắng lặng cho nên không thấy có tướng duyên sinh là nói theo tướng chung. Song, Địa thứ tám đối với việc lợi tha vẫn còn chưa muốn thực hiện, tức là không thấy có chúng sinh, nên bỏ hạnh lợi ích chúng sinh. Trong luận Địa thứ tám chép: “Các Đức Phật khuyên nhắc bảy lần mới ra khỏi quán vô tướng, Địa thứ tám có khả năng hàng phục chướng không thấy chúng sinh này được đi vào Địa thứ chín”. Lại giải thích: “Bởi vì không thấy có chúng sinh khác ngoài mình ra, chúng sinh kia tức là Ngã, không thấy ngoài thân có chúng sinh khác, vì thế cho nên có thể thường xuyên làm lợi ích”. Nay ở Địa thứ tám ban đầu thấy ngoài thân có chúng sinh khác. Chướng ngại việc không thấy có tướng chúng sinh này, gọi là chướng không thấy có chúng sinh. Vì vậy trong luận Biện Trung Biên chép: “Vì thường lợi ích hữu tình cho nên quán tất cả đều là không”. Luận Thành Duy Thức cũng chép: “Đối với sự nghiệp lợi tha, trong Địa thứ chín không muốn thực hành là chướng, đi vào Địa thứ chín có thể hoàn toàn dứt trừ. Văn kinh: Ở trong địa này trừ chướng sáu thông, đi vào Thập địa. Tán rằng: Tức là đối với các pháp, bị ngăn ngại khiến chưa được tự tại. Đối với pháp tự tại tức là sáu thần thông và đại pháp trí. Do có chướng này chướng ngại pháp tự tại kia. Hơn nữa, nêu ra sáu thần thông để nói đại pháp trí vân. Lại giải thích: Đối với các học xứ lìa bỏ không tôn trọng, ngừng dứt tâm trạo hối là nhắc đến tu nhân ở đoạn văn trước. Đi vào Sơ địa nói về quả Sở đắc, tức là quả hậu hậu do ở giai vị gốc lành xa lìa sự không tôn trọng Tam bảo và chánh pháp. Trừ chướng lười nhác, diệt tất cả tội lỗi. Lại đồng thời có thể lìa bỏ chướng tự tại cho nên ngừng dứt tâm trạo hối, tức trong luận Bát-nhã của Thiên Thân chép: “Đối với sự tu hành, trong tâm chấp ta là Bồ-tát, đây tức là chướng trong tâm, trái với đạo lý bất trụ”. Bất trụ đạo tức là Sơ địa chấp rằng mình có thể tu ngược với đạo sơ địa. Trong luận Bát-nhã của Bồ-tát Vô Trước chép: “Trừ chướng hỷ động, từ cái gọi là mình có thể tu hạnh thù thắng phần nhiều sinh ra hỷ động, hỷ động tức là trạo cử, vì đây là chướng làm chướng ngại đi vào Sơ địa, do dứt trừ chướng này, đi vào Sơ địa tức là lìa các tâm không tôn trọng v.v… đều là Địa tiền, chẳng phải là vào trong Sơ địa”. Mười chướng dưới đây đều tùy theo đó mà biết. Ở trong Sơ Địa thực hành ba thí, có thể lợi ích hữu tình, trừ chướng trái nhau, được đi vào Nhị địa. Nhị địa giữ giới trừ chướng bất não hữu tình, đi vào Tam địa. Tam địa tu định, trừ chướng tâm nhuyến tịnh, tâm tức là tâm học, trừ các chướng ngại của định, lìa tâm cứng cỏi gọi là tâm nhuyến tịnh, được đi vào Tứ địa. Vào trong Tứ địa, Tu-bồ-đề phần quán, gọi là thiện phương tiện, trừ xong chướng này được đi vào Ngũ địa. Vào trong Ngũ địa có thể khiến cho chân tục thuận theo lẫn nhau mà không trái ngược, do đó trừ chướng thấy có chân tục, đi vào Lục địa. Vào trong Lục địa, thực hành duyên sinh quán, trừ chướng thấy có hành tướng nhiễm tịnh của bốn đế, đi vào Thất địa. Lúc vào Thất địa thường thực hành vô tướng quán, trừ chướng thấy có tướng duyên sinh sinh diệt, được vào Bát địa. Vào trong Bát địa nhậm vận quán sát lý vô tướng, trừ tướng thêm bớt, lúc tịnh pháp sinh ra chân như không tăng thêm, lúc phiền não diệt đi chân như không giảm bớt, sinh tức là thêm. Đưa ra cái không tăng thêm đó y cứ theo làm sáng tỏ cái không giảm bớt, đi vào Cửu địa. Vào trong Cửu địa lẽ ra là nói chướng không muốn thực hành lợi ích hữu tình, tức là nơi mãn vị có khả năng hàng phục dứt trừ sự chướng ngại đối với sáu thần thông kia, nên nói là vào Địa thứ mười có khả năng dứt trừ chướng sáu thần thông. Bởi vì chướng thứ mười một là Địa vị thứ mười đã trọn vẹn nên có khả năng dứt trừ, nói Thập địa dứt trừ sở tri chướng, ẩn chứa chướng thứ chín do đó không bàn đến. Đây là giải thích thuận theo văn, trước đây là giải thích thuận theo lý, bao gồm y theo kinh xưa và cách giải thích sau này là hơn hẳn. Vì sao? Vì trong kinh xưa từng địa từng địa đều nói dứt trừ xong mới có thể hội nhập, rõ ràng chẳng phải là điều phục, hoặc có thể, điều phục hết sạch gọi là dứt trừ xong. Y theo hai cách giải thích tùy ý có thể lấy bỏ. Văn kinh: Ở trong địa này, trừ sở tri chướng, trừ tâm căn bổn, đi vào Như lai địa. Tán rằng: Sau đây nói về quả vị. Đầu tiên nói về trừ chướng đạt được Phật địa trọn vẹn, sau đó hiển rõ Phật địa vốn có ba thanh tịnh. Đây là mở đầu. Trừ chướng sở tri, vô gián đạo dứt trừ chủng tử nhỏ nhiệm và thói quen của hai chướng; trong Thắng Chướng Bồ-đề nói là dứt trừ sở tri chướng, trừ tâm căn bổn, tức là nơi nương tựa của chủng tử và thói quen. Trừ chủng tử nhiễm ô nơi thức thứ bảy, bởi vì hằng nhiễm cụ. Vô gián đạo dứt trừ điều lành hữu lậu và vô ký cùng tâm sở tương ưng nơi thức thứ bảy gọi là tâm căn bổn. Thức thứ tám có cả hai y, sáu thức chỉ là chỗ nương của thói quen, đoạn ở đây có hai thuyết, như Duy Thức mười có nói rõ. Văn kinh: Như lai địa do ba thứ thanh tịnh cho nên gọi là Cực thanh tịnh. Những gì là ba? Một là phiền não tịnh; hai là khổ tịnh; ba là tướng tịnh. Tán rằng: Hiển rõ ba thanh tịnh. Trong đoạn văn chia ba phần, đó là nêu ra, Gạn hỏi, Liệt kê. Phiền não tịnh là hai chướng và nghiệp, khổ tịnh tức là hai thứ tử, tướng tịnh tức là thói quen. Do ba tịnh ấy lại không còn có gì cao hơn nên gọi là Cực thanh tịnh. Văn kinh: Dụ như vàng ròng nung chảy gạn lọc đã sạch rồi không còn trở lại quặng giữa. Tán rằng: Hiển rõ thí dụ. Hiển rõ thí dụ có bốn dụ: Ba thí dụ đầu dụ cho pháp như như, pháp thân vốn thanh tịnh, một dụ sau dụ cho trí như như hiện hành bắt đầu thanh tịnh. Pháp thân vốn thanh tịnh có ba thứ, tức là ba thanh tịnh ở trước. Ba thí dụ như sau: Hai dụ đầu cùng kết hợp một pháp, bởi vì hoặc nghiệp thuận theo hai tướng nhân quả cho nên kết hợp một pháp. Đồng thời ba thanh tịnh đó tức là ba nghóa pháp thân, Bát-nhã, giải thoát. Pháp thân vốn thường như vàng, Bát-nhã soi chiếu như nước, giải thoát không ngăn ngại như hư không, đều nói theo nghóa tánh đạt được nhất như. Thí dụ đầu chia làm hai: Trước là dụ cho hiện tại thanh tịnh, sau là thành tựu thanh tịnh vốn có. Đây là mở đầu. Thí dụ như vàng ròng là dụ cho Như ở đạo tiền, nung chảy gạn lọc là dụ cho đạo trung, đã sạch sẽ rồi là dụ cho đạo hậu. Văn kinh: Vì hiện rõ tánh chất của vàng vốn thanh tịnh. Thể của vàng là thanh tịnh không thể nói là không phải vàng. Tán rằng: Dụ cho thành tựu thanh tịnh sẵn có. Giống như những văn này người xưa có lẽ nói rằng: “Ba thân hiện thường còn, hoặc sẽ thường còn, nung chảy gạn lọc là hiển rõ tánh vàng vốn thanh tịnh, thực hành sáu độ đối với pháp là liễu thân, trừ sạch cấu nhiễm cho nên được thể vàng thanh tịnh, không thể gọi là không phải vàng”. Văn kinh: Dụ như nước đục được gạn trong, không trở lại vẩn đục. biết. Tán rằng: Chia đoạn như trước đây, nghóa có thể theo đó mà Văn kinh: Vì hiển rõ tánh của nước vốn thanh tịnh cho nên không thể nói là không phải nước. Tán rằng: Dụ cho thành tựu thanh tịnh sẵn có. Văn kinh: Như vậy pháp thân và phiền não xen lẫn nhau, khổ tập dứt trừ rồi, không còn trở lại những thói quen khác là hiển bày Phật tánh vốn thanh tịnh cho nên không nói là vô thể. Tán rằng: Kết hợp theo dụ có thể biết. Văn kinh: Dụ như hư không bị che phủ bởi khói mây, sương mù, nếu xua tan đi thì cõi hư không thanh tịnh, không gọi là không có hư không. Tán rằng: Hư không tương tự như nhiễm ô ở đạo tiền, nếu xua tan đi thì như đạo trung, xua tan hết rồi thì cõi hư không thanh tịnh như đạo hậu, tương tự như kinh Thắng-man nói về dụ. Văn kinh: Tất cả các khổ như vậy nơi pháp thân thảy đều không còn, cho nên nói là thanh tịnh, chẳng thể nói rằng vô thể. Tán rằng: Pháp kết hợp với văn có thể biết. Văn kinh: Dụ như có người ở trong giấc mộng thấy thân mình trôi nổi trên dòng sông lớn. Tán rằng: Trên đây là dụ cho pháp như như, đang còn ràng buộc gọi là Như lai tạng, thoát khỏi ràng buộc gọi là Pháp thân, cũng chính là hiển rõ tánh chất Niết-bàn vốn thanh tịnh, cho đến, quả hiển bày thanh tịnh gọi là sở hiển đắc. Hiển bày do trí chứng, lần lượt phân biệt rõ trí tánh, cũng có từ vô thỉ. Lúc ở nhân vị gọi là Bất không Như lai tạng; đến địa vị không còn cấu nhiễm là đại Bồ-đề bốn trí tâm phẩm, là sở sinh đắc, sở sinh y theo hiện hành chẳng phải là chủng tử, chủng tử mới sinh là vốn có, cho nên văn sau chép: “Đó là giác thanh tịnh chẳng nói là vô giác”, tức trong kinh Thiện Giới chép: “Tánh chủng tánh từ vô thỉ đến nay là pháp như vậy, đạt được sáu nơi thù thắng”. Nói đến sáu nơi là có ýỳ nói trong sáu nơi ấy, ý xứ chứa đựng duy trì chủng tử. Tánh chúng tánh này từ vô thỉ vốn là pháp như vậy, để đắc được tánh này, phải nương vào sự tu hành đạt đến đại quả. Văn chia làm ba: Đầu là dụ, tiếp theo là hợp, sau cùng là kết thúc. Trong phần dụ có năm: Dụ cho người có thể tu hành. Dụ cho hiện ở trong vô minh. Dụ cho chán sợ sinh tử. Dụ cho tu hành mong mỏi thoát ra. Dụ cho đạt quả biết rõ luống dối. Trong đó có ba: Thí dụ như có người là dụ cho người có thể tu hành, ở trong giấc mộng là dụ cho hiện ở trong vô minh, vô minh đang che lấp giống như giấc mộng trong đêm, đây là nhân của sinh tử. Trong luận Duy Thức dẫn chứng kinh chép: “Cho nên Khế kinh nói: Các loài dị sinh thường ở trong đêm dài vô minh tăm tối, mê mờ say đắm, trói buộc lấy tâm không hề thức tỉnh”. Thấy thân của mình trôi nổi trên dòng sông lớn dụ cho chán sợ sinh tử, thấy quả khổ đó như trôi nổi trên sông; hoặc dụ cho bốn dòng trôi sinh vào năm đường. Thấy nghóa là tâm hiểu biết thức tỉnh sinh ra chán ngán sợ hãi. Văn kinh: Vận động tay chân, ngăn chặn dòng chảy mà vượt qua đến bờ bên kia. Tán rằng: Dụ cho tu hành mong muốn thoát ra. Cử động tay dụ cho tu tập diệu hạnh, chuyển động chân dụ cho xả bỏ ba chướng, sinh tử không tiếp nối dụ cho ngăn chặn dòng chảy. Địa vị Kim cương trọn vẹn nói là vượt qua, trong vô gián đạo Bồ-đề ở vị lai, nhân trọn vẹn có thể đến gọi là đến được bờ bên kia. Văn kinh: Bởi vì thân tâm người đó không lười nhác lui sụt cho nên từ mộng tỉnh giấc đã không còn thấy có nước, bờ kia bờ này khác nhau. Tán rằng: Dụ cho đạt quả biết rõ luống dối. Do nghóa là nguyên nhân. Do ba đại kiếp tu tập ba nghiệp. Đưa ra hai hình ảnh thân tâm cũng biểu hiện cho cả ngữ nghiệp, thường xuyên thực hành không lười nhác cho đến lúc thành Phật. Cho nên đó là quyết định. Sở dó quyết định là do tinh tấn, không lười nhác, lui sụt. Từ mộng tỉnh giấc rồi, đối với đạo giải thoát, không còn thấy bờ này của dòng sinh tử, không còn thấy bờ kia của quả Niết-bàn, bởi vì như như, trí như như không còn là hai tướng, đều hoàn toàn bình đẳng. Bờ kia có năm thứ: Cảnh. Giáo. Lý. Hạnh. Quả. Đạt đến cùng tận năm thứ này gọi là đến bờ kia. Văn kinh: Chẳng nói là vô tâm, sinh tử vọng tưởng đã dứt sạch không còn, đó là giác thanh tịnh, chẳng nói là vô giác. Tán rằng: Pháp hợp. Chỉ hợp với đại ý, chẳng phải đoạn biệt hiệp. Chẳng phải là vô tâm, nhưng bởi vì vọng tưởng vô minh lớp lớp che chắn chướng ngại không thể nào làm cho sinh sôi được. Luận Thành Duy Thức năm dẫn lời kinh chép: “Tâm chân nghóa đang sinh, thường hay bị chướng ngại, đến lúc siêng năng tu tập ba học, vọng tưởng dứt hết đạt đến địa vị Diệu Giác, đó là Giác thanh tịnh, không thể nói rằng xưa nay không có tự tánh giác”. Trước đây chép: “Chẳng phải không có tâm, tâm là nghóa của chứa nhóm, có cả tên gọi của nhân quả”, sau đó chép: “Chẳng nói không có giác, giác nghóa là giác liễu, chỉ gọi y theo quả, đều dựa theo một nghóa”. Văn kinh: Tất cả vọng tưởng như vậy trong pháp giới không phát sinh trở lại cho nên nói là thanh tịnh, chẳng phải các Đức Phật không có thật thể đó. Tán rằng: Kết thúc. Pháp giới như vậy, pháp giới có cả lý sự cho nên trong luận Thật Tánh giải thích về kinh A-tỳ-đạt-ma rằng vô thỉ thời lai giới, tức là giải thích theo như lý. Nhiếp Đại Thừa và luận Thành Duy Thức nói bổn thức gọi là vô thỉ giới. Trong luận Thật Tánh dựa vào mê, ngộ theo đó mà nói. Các luận như Nhiếp Đại Thừa v.v… dựa vào lưu chuyển theo đó mà nói, tất cả đều nương vào một nghóa cho nên pháp giới nói có cả hai loại. Nay ở đây nói về giới đã kết thành thứ tư, tức là chỉ cho hữu vi, vô lậu thứ tám. Nếu có cả kết thứ tư tức là có cả lý, sự, tất cả hữu lậu vọng tưởng không sinh khởi, bốn trí cùng khởi nói là thanh tịnh, chẳng phải là các Đức Phật vốn không có thật thể này, thể của vô lậu hướng đến hữu lậu đều gọi là thật. Văn kinh: Lại nữa, này người thiện nam! Pháp giới này, hoặc chướng thanh tịnh sẽ hiện bày ứng thân, nghiệp chướng thanh tịnh sẽ hiện bày Hóa thân, trí chướng thanh tịnh sẽ hiện bày pháp thân. Tán rằng: Toàn bộ đoạn văn thứ tư kết thúc nhân quả ở trước, nói rõ để biết. Lại chia làm ba: Đầu tiên là tiếp tục nói về nhân quả trước đây, khuyến khích khiến cho tin hiểu, tiếp theo từ “Này người thiện nam! Do nghóa ấy” về sau là nhắc lại và nói rộng hơn, sau cùng từ “Cho nên các Đức Phật” trở xuống là kết thúc thành tựu thắng diệu. Đây là mở đầu. Trong đó lại có hai: Đầu là nhắc lại nhân quả; sau là khuyến khích khiến cho tin hiểu. Trong mục đầu lại có ba: Trước hết nhắc lại môn xuất thể, tức là lìa bỏ chướng đạt được thân, tiếp đến nhắc lại môn thân tướng y khởi, sau cùng nhắc lại y nhân đắc quả. Trong phần đắc quả lại có đầu tiên là đắc quả, tiếp theo là bất dị. Đây là nhắc lại môn xuất thể: Thứ nhất nêu chung cho biết, thân tạo thành từ công đức của các pháp gọi chung là pháp thân; tiếp sau đó nói riêng về dứt chướng đắc thân, dứt các chướng và phiền não v.v… trọn vẹn được Pháp thân. Làm cho tâm không kiên quyết gọi là hoặc, thể của hoặc tức là chướng; hai quả đạt được từ phiền não căn bản và tùy phiền não là thể của phiền não chướng. Nghiệp nghóa là tạo tác, gọi là ba nghiệp hữu lậu, thể của nghiệp tức là chướng. Trí là hai trí, căn bổn và hậu đắc vô lậu, thể của trí chẳng phải là chướng, hãy còn sở tri chướng ngăn ngại trí không sinh khởi gọi là trí chướng, chướng của trí gọi là trí chướng. Đây là thuận theo những chướng về trí để làm tên gọi. Nếu gọi là sở tri chướng mà sở tri chẳng phải là chướng, che lấp cảnh sở tri, ngăn ngại trí không thể sinh khở,i chướng của Sở tri gọi là sở tri chướng. Do hoặc chướng thanh tịnh, trí tuệ phát sinh là Ứng thân, do nghiệp chướng thanh tịnh, thần thông tự tại, đạt được Hóa thân, do sở tri chướng thanh tịnh, lý che lấp được hiển lộ nên hiện bày Pháp thân. Văn kinh: Thí dụ như nhờ vào hư không phát ra điện, nhờ vào điện phát ra ánh sáng; như thế nương vào Pháp thân nên có thể hiện bày Ứng thân, nương vào Ứng thân cho nên có thể hiện bày hóa thân. Tán rằng: Đây là nhắc lại y môn khởi thân: Đầu là Dụ, sau là pháp. Thể của hư không rộng khắp, thường hằng và tánh hư không vốn thanh tịnh, nên dụ cho pháp thân, Ứng Hóa không thường vì thế dụ cho điện và ánh sáng, nương vào đó mà khởi có thể biết. Văn kinh: Do tánh thanh tịnh cho nên hiện bày Pháp thân, trí tuệ thanh tịnh hiện bày Ứng thân, Tam-muội thanh tịnh hiện bày hóa thân. Tán rằng: Nhắc lại môn y nhân đắc quả. Đây là đắc quả. Văn kinh: Ba thanh tịnh này là pháp như như, Bất dị như như, nhất vị như như, giải thoát như như, rốt ráo như như. Tán rằng: Nhắc lại môn đắc quả trong đó tuy có ba số nhưng không có ba thể. Đầu tiên thâu nhiếp dụng quy về tánh, tiếp đó kết thúc bất dị. Đây là mở đầu. Ba thanh tịnh này không lìa như như, cho nên đó là pháp như như. Thể của như như không phân biệt là bất dị như như. Cùng là vô lậu cho nên là nhất vị như như. Lìa khỏi ràng buộc cho nên là giải thoát như như. Chứng đầy đủ thực tế cho nên là rốt ráo như như. Văn kinh: Vì thế cho nên thể của các Đức Phật không có khác nhau. Tán rằng: Kết thúc chẳng phải khác. Do năm như như trước đây cho nên thể của các Đức Phật không khác nhau. Ý biểu hiện là giống như. Tu thì đều đạt được vì vậy nói thể của các Đức Phật không khác nhau. Văn kinh: Này người thiện nam! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nói rằng Như lai là bậc Đại sư của tôi, nếu người thực hành tin tưởng chắc chắn như vậy thì người này liền tùy theo thâm tâm hiểu rõ thân của Như lai không có phân biệt khác nhau. Tán rằng: Khuyến khích khiến cho tin hiểu. Ý khiến cho tin hiểu là phương tiện tu tập. Nói này người thiện nam là gọi Bồ-tát Hư Không Tạng. Từ “Nếu có v.v…” trở xuống là tất cả nam nữ chỉ có thể nói rằng Phật là bậc thầy của tôi, đó là người tin tưởng chắc chắn, người này liền có thể hiểu rõ sâu sắc Như lai không có phân biệt. Hoặc nói: Như lai là bậc Đại sư của tôi, có thể tin tưởng chắc chắn tùy theo những gì đã nói, thâm tâm hiểu rõ. Hoặc khuyên nhắc hàng Địa Tiền, nên tin tưởng chắc chắn rằng Như lai không có khác nhau, hàng Bồ-tát Địa thượng thâm tâm hiểu rõ Như lai không có khác. Văn kinh: Này người thiện nam! Bởi vì nghóa này cho nên đối với các cảnh giới không thể thích hợp suy nghó, thảy đều dứt trừ, tức là biết rằng pháp đó không có hai tướng, cũng không phân biệt là sự tu hành của hàng Thánh. Tán rằng: Dưới đây là nhắc lại và nói rộng hơn, có hai: Nói rộng về nhân quả không khác trước đây. Từ “Thấy biết như vậy v.v…” trở xuống là nói rộng về sự tin hiểu trước đây. Ngay trong phần một chia làm năm: Đối với cảnh phát khởi thắng hạnh. Như như đối với cảnh đó không thể dứt trừ chướng ngại. Tất cả như như về sau được đầy đủ nhân. Pháp giới như như về sau được trọn vẹn quả. Tất cả các chướng về sau là kết thúc không khác. Đây chính là mở đầu. Bởi do nghóa này là lời nêu ra, cảnh biết được từ nơi các cảnh giới, do cảnh giới này không chân chánh suy nghó cho nên thấy tướng khác nhau, vì vậy không thể tu hành. Có thể chân chánh suy nghó tức là biết không có hai cảnh, không có phân biệt tà vạy. Trí không có hai tướng thì có thể khởi tu, đó là sự tu hành của hàng Thánh. Văn kinh: Như như đối với cảnh không có hai tướng, chân chánh tu hành cho nên tất cả các chướng như thế như thế thảy đều dứt trừ. Tán rằng: Có thể dứt trừ chướng, có thể đối với các cảnh giới kia thấy không có hai tướng, cho nên nói là như như đối với cảnh đó, dứt trừ nhiều chướng, lại nói là như thế như thế, phát khởi nối nhau cho nên lại nhắc đến như trước. Văn kinh: Tất cả chướng Như như đã dứt bỏ, pháp như như, trí như như như thế như thế đạt được vô cùng thanh tịnh. Tán rằng: Đạt được nhân đầy đủ ở địa vị Kim cương định vô gián đạo. Nhắc lại dứt bỏ mười chướng nói là tất cả chướng như như đoạn diệt; chứng được như như và trí, đạt đến địa vị Thập địa khác nhau, lại nói là như thế như thế. Văn kinh: Như như Pháp giới, chánh trí thanh tịnh, như thế như thế, tất cả tự tại đầy đủ nhiếp thọ đều được thành tựu. Tán rằng: Đạt được quả trọn vẹn ở giai vị giải thoát đạo. Tất cả tự tại tức là ba thân, bởi vì tất cả công đức không lìa ba thân nên nói là đầy đủ nhiếp thọ đều được thành tựu. Văn kinh: Tất cả các chướng thảy đều dứt bỏ, tất cả các chướng đã được thanh tịnh cho nên đó gọi là tướng chân thật của chân như chánh trí. Tán rằng: Kết thúc không có khác nhau. Bởi vì tất cả các chướng đã dứt bỏ nên được thanh tịnh, tất cả các chướng do đó chứng đến như như thanh tịnh. Chính sự thanh tịnh này mới gọi là tướng chân thật của chân như chánh trí. Tướng chân thật tức là không có hai tướng. Văn kinh: Sự thấy biết như thế, gọi là sự thấy biết của bậc Thánh, đó mới gọi là thấy Phật. Vì sao? Vì như thật thấy pháp chân như. Tán rằng: Mở rộng sự tin hiểu trước đây. Văn chia làm ba phần: Khiến cho như thật chứng biết. Từ “Cho nên các Đức Phật v.v…” trở xuống là nói về đồng với các Đức Phật. Từ “Nhưng các Như lai v.v…” trở xuống là kết thúc thành tựu sự thấy biết chân thật. Đây là mở đầu. Trước hết khiến cho chứng biết như thật, tiếp đó nêu hỏi nguyên nhân, sau cùng chính thức giải thích. Thánh là chân chánh, kiến là hiểu rõ. Có thể như sự chứng đắc mà biết rõ điều ấy tức là hiểu đúng. Hoặc vì phàm phu có thể tin hiểu đúng như sự chứng đắc, đồng với kiến giải chứng đắc của bậc Thánh, cho nên chân thật thấy Phật. Nêu câu hỏi và giải thích có thể biết. Văn kinh: Thế nên tất cả các Đức Phật đều có thể thấy tất cả Như lai ở khắp nơi. Tán rằng: Nói về đồng với các Đức Phật. Văn chia làm ba: Đầu tiên là Phật có thể biết tất cả; tiếp đó là hàng Nhị thừa không hiểu rõ; sau cùng là phàm phu không thể lường được. Đây là mở đầu. Bởi vì thấy lý như như trọn vẹn không hai, cho nên thấy tất cả các Đức Phật Như lai. Văn kinh: Vì sao Thanh văn, Độc giác đã ra khỏi ba cõi cầu cảnh giới chân thật lại không thể thấy biết?. Tán rằng: Hàng Nhị thừa không hiểu rõ. Đầu tiên nêu câu hỏi; sau đó giải thích. Vì sao? Vì chỉ có Phật biết rõ tất cả, hàng Thánh giả định tánh Nhị thừa tuy ra khỏi ba cõi nhưng không có chủng trí, giả sử cầu cảnh giới chân thật nhưng không thể dùng sự thấy biết của bổn trí, không thể dùng sự thấy biết của hậu đắc; hoặc không thể nào biết được hiện lượng, không thể thấy được tỷ lượng. Văn kinh: Bậc Thánh như vậy không thể thấy biết, tất cả phàm phu đều sinh ra nghi ngờ, điên đảo phân biệt, không thể nào được độ thoát. Tán rằng: Phàm phu không thể lường được. Đầu tiên là pháp, tiếp đó là Dụ, sau cùng là Hợp. Đây là Pháp. Phàm phu ngu muội tối tăm không thể suy lường được, hoặc trở lại nghi ngờ là chẳng có, hoặc điên đảo chấp chặt, nên cho rằng đây là ta. Văn kinh: Như con thỏ bơi giữa biển chắc chắn không thể vượt qua. Vì sao? Vì sức lực yếu kém. Tán rằng: Thí dụ. Đầu tiên nêu ra, tiếp theo gạn hỏi, cuối cùng giải thích. Bởi vì không có đại tánh chỉ có hữu lậu, nên trí lực yếu kém, nên không thể độ thoát. Kinh Giải Thâm Mật chép: “Ta không thể bày giảng nói đối với phàm phu ngu muội, sợ bọn họ phân biệt chấp là ngã”. Các vị như Bồ-tát Hộ Pháp giải thích: Phàm phu nghóa là không có tánh, ngu nghóa là hướng đến vắng vẻ”. Còn ở đây hoặc dựa vào nơi hàng phàm phu Nhị thừa, căn chưa thuần thục không thể nào hiểu rõ được, căn thành thục thì có thể biết. Hoặc như trong kinh Pháp Hoa chép: “Ba thừa không biết, dựa vào cái biết không toàn vẹn, chỉ có Phật mới biết hoàn toàn, nói người kia không biết, ông mong muốn thành tựu có thể nương theo lời mà hiểu thật là hiếm có”. Văn kinh: Hạng phàm phu cũng giống như thế, vì không thể thông suốt được pháp như như. Tán rằng: Pháp hợp. Không có trí căn bổn cho nên không thể thông, không có trí hậu đắc cho nên không thể đạt. Văn kinh: Nhưng các Đức Phật Như lai không có tâm phân biệt, đối với tất cả pháp được tự tại hoàn toàn, đầy đủ thanh tịnh, trí tuệ sâu sắc, cho nên đó là cảnh giới tự chứng, không cùng như người khác. Tán rằng: Kết thúc thành tựu cái thấy chân thật. Bởi vì Phật không còn phân biệt, không thấy hai tướng nên chứng được pháp như như, đạt đến tướng không chân thật của pháp cho nên đối với tất cả các pháp được tự tại hoàn toàn, đạt được trí như như cho nên đầy đủ trí tuệ thanh tịnh sâu sắc. Do đó đây chỉ là cảnh giới Phật, không giống như cảnh giới của người khác. Kinh Kim cương Bát-nhã chép: “Như lai nói Bát-nhã ba-la-mật-đa tức chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa, đó mới là Bát-nhã ba-la-mật-đa”. Bồ-tát Thiên Thân giải thích rằng: Nói Ba-la-mật là chỉ riêng bờ bên kia của Phật, chẳng phải Ba-la-mật là chẳng phải bờ bên kia của những người khác; gọi là Ba-la-mật là cuối cùng đây là bờ bên kia của Phật”. Ở đây cũng giống như vậy. Văn kinh: Thế nên các Đức Phật Như lai trong vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ kiếp không hề tiếc nuối thân mạng, chịu khó thực hành những hạnh khó làm mới đạt được thân tối thượng không ai sánh bằng không thể suy nghó bàn luận này, vượt quá cảnh giới nói năng, đó là thân nhiệm mầu vắng lặng lìa các sự sợ hãi. Tán rằng: Kết thúc thành tựu thắng diệu. Từ “Trong vô lượng v.v… hành khổ hạnh” là nhân thực hành; không tiếc thân mạng, do bốn nhân duyên: Vì cầu pháp, như Đồng tử Tuyết Sơn. Vì báo ân, như vương tử Pháp Hộ v.v… Vì cứu nghèo, như Kim Sắc Sư Tử v.v… Vì cứu mạng, như Vương tử Tát-đỏa v.v… Mới đạt được thân này là hiển bày đắc quả. Tối thượng không ai sánh bằng v.v… là khen ngợi quả thù thắng. Cuối cùng cho nên không gì trên, không có gì sánh ngang, nên gọi là không gì sánh bằng. Vượt quá tình hình suy nghó cho nên là không thể suy nghó bàn luận . Hơn hẳn lời nói giảng giải cho nên vượt ngoài cảnh giới nói năng. Đại Niết-bàn bởi vì đó là nhiệm mầu vắng lặng. Dứt sinh tử cho nên lìa năm sự sợ hãi, đó là sợ không có công việc, sợ chết, sợ đường ác, sợ tên ác, sợ đại chúng. Văn kinh: Này người thiện nam! Như vậy thấy biết pháp chân như đó là không còn sinh, già, chết, tuổi thọ không giới hạn, không có ngủ nghỉ, cũng không có đói khát, tâm thường ở trong định không có loạn động. Tán rằng: Cuối phẩm toàn bộ đoạn thứ ba kết thúc khuyến khích tu hành. Văn chia làm ba: Kết thúc tin hiểu ở trước khiến nương theo thực hành. “Nhưng các Như lai” trở xuống kết thúc đạt được quả khiến cầu chứng ở trước. “Nếu thiện nam v.v…” trở xuống là thành tựu hai nghóa ở trước. Trong phần một có ba: Đầu tiên nêu ra lợi ích tin hiểu, tiếp đến có tổn hại vì không tin, sau cùng nói lợi ích khuyên thực hành. Đây là mở đầu. Chỉ có thể một niệm như thế, thấy biết pháp chân như sẽ đạt được Bồ-đề, không bao giờ còn những thứ sinh, già, chết v.v… làm nhân xa xôi, cho nên chắc chắn sẽ đạt được. Vì vậy phẩm Dược Vương trong kinh Pháp Hoa chép: “Người nghe kinh này không già không chết, không bao lâu sẽ lấy đệm cỏ ngồi nơi đạo tràng”. Hoặc trước nói về đức của Như lai, đã nói xong văn sau lại nói; do đó người nói này là người tin hiểu sẽ đạt được quả. Hoặc nhiều lần nhắc lại công đức của Như lai khiến cho phát sinh tin hiểu, đạt được thân Kim cương cho nên không có sinh, già, chết. Lìa xa năm cái nên không có ngủ nghỉ, phá diệt ma quân nên không có đói khát. Văn còn lại có thể biết, tuy nhiên giải thích ở trước kết thúc tốt đẹp. Văn kinh: Nếu đối với Như lai khởi tâm tranh luận thì sẽ không thể thấy được Như lai. Tán rằng: Có tổn hại vì không tin. Khởi tâm tranh luận không thể tin hiểu thì trong tương lai sẽ không thấy được và chứng được ba thân của Như lai, cũng không thể nương vào giáo pháp để thấy Như lai. Văn kinh: Lời các Đức Phật đã nói đều được lợi ích. Tán rằng: Nói lợi ích khuyên thực hành. Đầu tiên nêu ra, sau đó giải thích. Đây là nêu ra. Văn kinh: Có người lắng nghe thảy đều giải thoát, không gặp các loài cầm thú hung ác, người ác, quỷ ác, do nghe pháp nên quả báo vô tận. Tán rằng: Giải thích về được lợi ích. Đầu tiên đạt được Niết-bàn; tiếp đến khỏi sự tổn hại, sau đó là quả báo vô tận. Trong luận Bát-nhã chép: “Nơi Pháp là liễu nhân cũng là sinh nhân còn lại”. Nghe kinh cho nên được giải thoát là liễu nhân; quả báo vô tận đó nghóa là đạt được Bồ-đề là sinh nhân. Luận Biện Trung Biên chép: “Hành giả thực hành pháp này được nhóm phước vô lượng”. Thù thắng cho nên vô tận, do đó lợi tha không ngừng nghỉ. Lắng nghe Đại thừa đạt được quả báo thù thắng vì vậy vượt xa Nhị thừa. Vì đại bi lợi tha không ngừng nghỉ cho nên vô tận, do đó các ác nạn đều không gặp. Văn kinh: Nhưng các Đức Như lai không có việc gì không ghi nhớ, tất cả cảnh giới không có tâm muốn biết. Tán rằng: Kết thúc đạt được quả khiến cầu chứng ở trước. Trong đó chia ra hai: Đầu tiên kết thúc sở đắc ý khiến cho sinh vui mừng; sau đó nói về nghe được lợi ích khuyến khích người tu học. Trong phần kết thúc, quả sở đắc có vô lượng chủng loại, chỉ kết thúc sở đắc ở trước trong mười tám pháp Bất cộng và đại Từ bi tự lợi, lợi tha để theo đó hiển bày các công đức khác. Đầu tiên kết thúc mười tám Bất cộng, sau đó kết thúc từ bi. Trong phần đầu có năm: Một là “Không có việc gì không ghi nhớ” là thảy đều ghi nhớ rõ ràng không quên ý niệm. Ở dưới có bốn oai nghi trong đó thảy đều thuộc về trí, tức là trí làm tiền đạo. Hai là “Tất cả cảnh giới không có tâm muốn biết”, tức là ý muốn không giảm bớt; hoặc tất cả cảnh giới đều nhậm vận mà biết, không nhờ vào sự tìm cầu mới biết. Văn kinh: Sinh tử, Niết-bàn không có ý tưởng khác nhau, lời Như lai đã nói thảy đều quyết định. Tán rằng: Ba là không có các thứ ý tưởng. Bốn là đạt đến trí ba đời không có vướng mắc ngăn ngại. Pháp đã nói thảy đều quyết định, và Nhất thiết chủng diệu trí thường biết rõ các uẩn, các pháp môn cho nên nói là quyết định; hoặc bốn vô úy hoặc là trí ngữ nghiệp làm tiền đạo cho nên nói quyết định. Văn kinh: Trong bốn oai nghi của các Đức Phật Như lai thảy đều thuộc về trí. Tán rằng: Năm là trí thân nghiệp làm tiền đạo, do đó thảy đều thuộc về trí. Văn kinh: Tất cả các pháp không có pháp nào không thuộc về từ bi, không có pháp nào không vì lợi ích an vui chúng sinh. Tán rằng: Kết thúc đạt được công đức lợi tha, đại từ đại bi ở trước. Lợi ích bạt khổ, an lạc cho vui, đại bi cho nên cứu khổ được lợi ích, đại từ nên cho vui được an vui. Đồng thời bổn nguyện của Phật chỉ muốn lợi tha tu đại từ bi, cầu quả vô thượng cho nên thực hiện công việc hoàn toàn là công việc. Thuộc về từ bi, lại nêu ra pháp Bất cộng là tự lợi thù thắng; nêu ra từ bi là lợi tha thù thắng. Vì vậy nói chung kết thành hai phần. Văn kinh: Này người thiện nam! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào đối với kinh Kim Quang Minh này lắng nghe tin hiểu. Tán rằng: Đây là nói về nghe được lợi ích khuyến khích người tu học. Văn chia làm bốn phần: Nói về nghe được lợi ích. Nêu ra. Giải thích. Thành tựu. Trong phần đầu, đầu tiên là nghe kinh tin hiểu, tiếp đến nói về đạt được lợi ích. Lắng nghe là văn tuệ, tin tưởng tức là tư tuệ, hiểu rõ tức là tu tuệ. Hoặc đưa ra tiêu chuẩn kém nhất, chỉ nhờ vào văn tuệ có thể tin, có thể hiểu; hoặc chỉ tin hiểu không phải là chứng ngộ hãy còn được phước ấy, huống gì là hạnh thù thắng. Văn kinh: Không đọa vào các đường địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, A-tu-la, thường sinh làm trời, người, không sinh nơi thấp kém, luôn luôn được gần gũi các Đức Phật Như lai, nghe nhận chánh pháp, thường sinh vào cõi nước thanh tịnh của các Đức Phật. Tán rằng: Được lợi ích, lìa tám nạn. Đầu tiên là lìa ba đường ác tức là ba, A-tu-la nếu theo Tiểu thừa thì thuộc về loài quỷ súc, nếu theo Đại thừa thì thuộc về loài trời, tức là thuộc về biên địa. Sinh làm trời người, trước đây dịch là đường ác và biên địa. Không sinh nơi thấp kém tức là dứt bỏ các căn không đầy đủ, mù bẩm sinh, điếc bẩm sinh. Luôn luôn được gần gũi các Đức Phật là lìa nạn sinh trước sinh sau Phật. Lắng nghe chánh pháp là lìa nạn thế trí biện thông. Thường sinh về cõi nước các Đức Phật là lìa nạn các tầng trời Sống lâu. Theo luận Thành Thật thì bốn luận diệt hết tám nạn: Ở nơi tốt lành gọi là Trung Quốc, dứt bỏ năm nạn đó là ba đường ác, trời Sống lâu, biên địa. Nương theo người tốt lành gọi là gặp Phật, dứt bỏ nạn sinh trước và sinh sau thời Phật. Phát nguyện chân chánh gọi là chánh kiến, dứt bỏ nạn tà kiến thế trí biện thông. Gieo trồng gốc lành vốn có, dứt bỏ nạn căn không đầy đủ. Nay nghe kinh này chỉ có thể tin hiểu đủ để từ bỏtám nạn, bởi lẽ là oai lực thù thắng; có công năng trừ chướng ngại, cho nên không những trừ chướng ngại mà còn mau chóng đạt được Bồ-đề. Được phân tích rõ trong phần giải thích thành tựu dưới đây. Văn kinh: Vì sao? Tán rằng: Nêu ra. Nghe kinh mà tin hiểu thì có công năng trừ bỏ tám nạn. Vì sao? Văn kinh: Vì được nghe pháp vô cùng sâu xa này. Tán rằng: Giải thích. Bởi vì thọ trì pháp Đại thừathì nhóm hợp mười công đức: Thành tựu tất cả chủng tử gốc lành. Lúc sắp qua đời tất cả đều vui vẻ. Hễ muốn sinh về cõi nước nào thì được tùy ý. Hễ sinh về chỗ nào đều được tự tánh niệm sinh trí. Sinh về nơi nào thường được gặp Phật. Luôn luôn ở bên Phật nghe pháp Đại thừa. Thành tựu tín căn tăng thượng Thành tựu tuệ căn tăng thượng Được xa lìa hai chướng trí, hoặc. Mau chóng thành tựu Bồ-đề vô thượng. Vì lý do ấy cho nên xa lìa tám nạn. Văn kinh: Thiện nam, thiện nữ đó đã được Như lai biết đến, nhớ đến, sẽ được không lui sụt trên đường tiến đến đối với quả vị A-nậu-đa- la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tán rằng: Thành tựu nguyên nhân ở trước. Người có thể nghe kinh này phát sinh tin hiểu, tức là Như lai đã biết danh thân, đã thấy sắc thân. Nói đến công đức của người này chỉ có Phật mới thấy biết, người khác không thể nào thấy biết. Nói biết thì được, còn thấy thì nhờ vào đâu mà nói là thấy? Nói là thấy cũng được, cần gì phải nói là biết? Đáp: Theo luận Bát-nhã Kinh của ngài Thiên Thân chép: “Phật chẳng phải thấy quả mà biết, do nguyện trí mà hiện thấy”. Nhưng nói biết, nghóa là Phật thấy quả nhờ vào biết nhân cho nên nay nói là thấy. Thấy là nguyện trí, nêu lên tâm năng liễu. Nếu như vậy chỉ là thấy cần gì phải nói là biết, nghóa là chỉ thấy sắc, nay cũng có thể biết thân bốn uẩn. Không làm ra nhưng Phật thấy biết, liền được Phật ghi nhớ. Lại nữa, sẽ đạt được Bồ-đề không lui sụt, tuy chưa đạt được liền nhưng sẽ chứng được. Tùy theo địa vị nào đó sẽ chứng đạt bốn thứ không lui sụt, đó là bốn thứ không lui sụt: Tín, Trú, Chứng, Hạnh. Tín không lui sụt là tâm thứ sáu trong Thập Tín. Trú không lui sụt là tâm thứ bảy trong Thập Trú, chứng không lui sụt là Sơ Địa, Hành không lui sụt là vào Bát Địa. Văn kinh: Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với pháp sâu xa vi diệu này, được một lần nghe qua tai, thì nên biết rằng người đó không bài báng Như lai, không hủy phạm chánh pháp, không khinh chê thánh chúng. Tán rằng: Tiếp tục nói rộng hơn nữa về sự thành tựu hai lợi ích thù thắng trước đây, muốn giúp cho nghe nhận tu hành kinh này. Có ba lợi ích thù thắng: Không chê bai Tam Bảo. Thêm lớn gốc lành. Khiến cho thực hành sáu độ. Đây là lợi ích thứ nhất. Bởi vì biết Phật thường trụ nên không bài báng Như lai, nói rằng cuối cùng cũng hoại diệt, biết nói quyết định cho nên không bài báng pháp, biết có thể đạt được thành quả cho nên không bài báng Tăng. Lại bởi vì nghe tin thường làm cho nhân kính tin không hủy hoại, không chê bai khinh miệt Tam bảo. Văn kinh: Tất cả chúng sinh chưa gieo trồng gốc lành khiến cho được gieo trồng, đã gieo trồng gốc lành thì khiến cho được thành tựu thuần thục. Tán rằng: Làm cho gốc lành thêm lớn. Đây là chưa phát tâm cầu Bồ-đề khiến cho phát tâm cầu tức là khiến cho gieo trồng gốc lành. Đã phát tâm cầu khiến cho tăng thêm thắng giải hạnh vị ở tăng-kỳ thứ nhất, khiến cho lớn mạnh ở tăng-kỳ thứ hai, khiến cho thành tựu ở tăng-kỳ thứ ba. Nhưng hai loại trên chỉ nói người nghe kinh đạt được sáu Ba-la- mật khiến cho người khác thực hành. Đây là ảnh hưởng lẫn nhau, tự và tha đều như vậy. Văn kinh: Tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới đều khuyến khích tu hành sáu độ Ba-la-mật-đa. Tán rằng: Sau đó có thể khiến cho thực hành sáu độ. Ý này nói về tự mình nghe và tin có thể thành tựu ba điều này. Đã lắng nghe rồi sau đó cảm hóa người khác thực hành ba việc ấy. Lại có thể tin hiểu phá bỏ bốn thứ chướng. Đầu tiên không bài báng Phật v.v… dứt trừ chướng xiển-đề, bất tín, khiến cho gieo trồng gốc lành, dứt trừ chướng ngoại đạo, chấp ngã, đều thực hành sáu độ trừ Thanh văn sợ khổ, Duyên giác bỏ tâm. Đã có nhiều lợi ích cho nên cần phải tu hành thực hành tự lợi, lợi tha. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Bồ-tát Hư Không Tạng, Phạm vương, Đế- thích, Tứ Thiên vương, các chúng trời, người liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, chắp tay cung kính đảnh lễ dưới chân Phật. Tán rằng: Toàn bộ đoạn văn thứ tư của phẩm này là lãnh hội trì học. Văn chia làm bốn phần: Chí thành cung kính lãnh giải. “Thế tôn! Chúng con v.v…” trở xuống là phát nguyện trì học. Thế tôn ngợi khen ấn chứng. Khuyến khích truyền bá rộng rãi. Trong phần đầu: Thứ nhất chí thành cung kính; tiếp đó là lãnh giải. Đây là chí thành cung kính. Đã nghe pháp thù thắng biểu hiện tiến đến Bồ-đề, do đó đứng dậy khỏi chỗ ngồi hiển bày sẽ thành Phật. Hiện rõ hình tượng tốt lành nên vén y bày vai phải, tâm phù hợp với giáo lý cho nên chắp tay, tâm tôn trọng cho nên cung kính, cung kính càng sâu xa cho nên đảnh lễ dưới chân Phật. Văn kinh: Bạch với Đức Phật: Bạch Thế tôn! Nếu ở nơi đó giảng nói kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này, thì cõi nước ấy được bốn lợi ích. Tán rằng: Lãnh giải. Có bốn: Đưa ra. Nêu hỏi. Giải thích. Kết thành. Đây là đưa ra. Bắt đầu lãnh ngộ biết thưa hỏi Thế tôn. Gọi tôn hiệu cho nên nói là Thế tôn. Chỉ ra sự lãnh ngộ rõ ràng nên nói nếu nói kinh Kim Quang Minh này. Nêu ra số lợi ích cho nên nói có bốn lợi ích. Văn kinh: Bốn lợi ích là gì? Tán rằng: Nêu hỏi. Văn kinh: Một là vua chúa quân lính cường thịnh, không có kẻ thù đối địch, khỏi các tật bệnh, tuổi thọ dài lâu, tốt lành yên vui, chánh pháp hưng hiển. Tán rằng: Giải thích. Thuận theo bốn loại đã nêu ra tức là chia làm bốn đoạn. Đây là đoạn đầu. Lợi ích của vua chúa đại thần có bốn, theo văn trong phẩm Sám Hối: “Ở cõi nước đó được bốn lợi ích tốt lành: Vua không bệnh tật, hoạn nạn, tránh được các tai ách. Tức ở đây là không bệnh tật. Tuổi thọ lâu dài, không có chướng ngại, tức ở đây là sống lâu. Không có các kẻ thù, quân lính mạnh mẽ, tức ở đây là quân lính cường thịnh không có kẻ thù đối địch. Yên ổn vui sướng, chánh pháp truyền bá, tức ở đây là tốt lành yên vui, chánh pháp hưng thịnh”. Dựa theo văn trong phẩm Sám Hối mở ra thành tám thứ. Văn ở đây có sáu thứ, như văn có thể biết. Văn kinh: Hai là các phi tần, hoàng hậu, vương tử, quan lại hòa thuận vui vẻ không tranh chấp, không nịnh hót nhà vua để được yêu quý, trọng vọng. Tán rằng: Thứ hai người làm bề tôi có ba lợi ích: Hòa thuận vui vẻ không tranh chấp; ở dưới nói: Lại cùng nhau thân thiết, đẹp lòng kính trọng, thương yêu nhớ nghó. Một là Lại cùng nhau nói năng tin tưởng tôn trọng và thương yêu nhớ nghó. Không nịnh hót vì coi thường tài vật tôn trọng pháp luật, không cầu lợi ích thế gian cho nên không có nịnh hót, do đó danh tiếng tốt đẹp vang xa khắp nơi, mọi người đều kính mến. Nhà vua yêu mến quý trọng, theo văn dưới cũng là nơi tôn trọng kính ngưỡng của các vị Sa-môn, Bà-la-môn, nước lớn, nước nhỏ, nay nêu lên điều thù thắng ấy nên lược bỏ không nói những thứ khác. Đã được nhà vua yêu mến quý trọng, tất cả mọi người tôn trọng cung kính, cho nên cũng được tuổi thọ dài lâu, yên ổn vui sướng. Văn kinh: Ba là Sa-môn, Bà-la-môn và nhân dân trong nước đều tu hành theo chánh pháp, không có bệnh tật, luôn yên vui, không có người chết oan ức, đối với các ruộng phước thảy đều xây đắp tạo dựng. Tán rằng: Nhân dân trong nước có bốn lợi ích: Tu hành theo chánh pháp, nghóa là luôn luôn hiếu thảo dưỡng nuôi cha mẹ, phụng sự thầy dạy, tu hành mười điều lành, Tôn kính Tam bảo. Không bị bệnh tật, không gặp bảy nạn, bảy nạn này trong kinh Dược Sư chép: “Nạn nước khác xâm chiếm, nạn trong nước phản nghịch, nạn mưa gió trái mùa, nạn gặp thời hạn hán, nạn nhân dân dịch bệnh, nạn các sao quái lạ, nạn mặt trời, mặt trăng che khuất”. Do vua quan, quân lính cường thịnh nên không có nạn nước ngoài xâm chiếm, bề tôi phụ giúp hòa thuận vui vẻ lại không có nịnh hót nên không có nạn trong nước phản nghịch, tốt lành vui sướng, chánh pháp hưng thịnh nên không có nạn mưa gió trái mùa v.v… Không có người chết oan ức, không gặp chín thứ chết ngang trái, chín thứ chết ngang trái ấy như kinh Dược Sư chép: “Gặp phải bệnh hoạn đến nỗi mất mạng ngang trái Bị pháp vua giết hại tan thân ngang trái Bị loài phi nhân làm hại ngang trái. Bị lửa dữ thiêu đốt ngang trái Bị nước mạnh cuốn chết ngang trái. Bị thú dữ ăn nuốt ngang trái. Bị rơi xuống vực sâu núi thẳm ngang trái. Bị các thứ thuốc độc giết hại ngang trái. Bị đói khát, khốn đốn ngang trái”. Nay kinh Kim Quang Minh này truyền bá trong nước, nhân dân không bị chín thứ ngang trái nên không có cái chết oan ức. Nói đến ngang trái là không phải không có nhân đời trước mà thọ nhận quả ác. Nói theo đời này thì tuy không gây ra điều ác mà gặp phải có duyên như vậy, đó gọi là ngang trái. Nghe kinh thảy đều dứt trừ, Vua chúa lưu thông chánh pháp, bề tôi phò trợ, khinh tiền tài, trọng pháp luật, phi tần cung hậu hòa thuận vui vẻ không trở lại gièm siểm nịnh hót, mọi người tu hành theo chánh pháp cho nên dẫn đến phước ấy. 4. Xây dựng, gieo trồng ruộng phước. Văn kinh: Bốn là trong ba mùa đều điều hòa thích hợp, thường được chư Thiên tăng thêm sự bảo vệ, tâm từ bi bình đẳng không hề giết hại, khiến cho các chúng sinh quy kính Tam bảo đều nguyện tu tập các hạnh Bồ-đề. Tán rằng: Tóm lại là được chư Thiên tăng thêm sự bảo vệ, không chỉ tăng thêm bảo vệ cho vua chúa, thần dân, mà còn thực hành bảo vệ người trì kinh. Nếu không như vậy thì văn dưới lẽ ra không nên nói “Chúng con cũng thường vì mở mang kinh điển cho nên theo kính người trì kinh như thế, ở các trú xứ đó thực hành lợi ích giúp họ”. Y cứ theo văn lẽ ra nên nói “Bốn là thường được chư Thiên tăng thêm sự bảo vệ, ở trong ba mùa bốn đại điều hòa thích hợp, tâm từ bi bình đẳng không hề giết hại v.v…” Theo lời văn thì sau mới nói bảo vệ, hoặc nhờ oai lực của kinh mà bốn đại điều hòa thích hợp, vì vậy chư Thiên tăng thêm sự bảo vệ chỉ thuộc về phần sau, chư Thiên lại khiến cho các loài chúng sinh cung kính Tam bảo, tu tập các hạnh Bồ-đề. Theo văn trong kinh dịch xưa “Khiến cho các chúng sinh thành tâm quy y, kính ngưỡng tam tôn”. Văn đó hơi thiếu, văn chỉ nói đến trời, trời nghóa là các vị Bồ-tát mà tất cả Như lai tôn trọng gọi là trời, do đó là chư Thiên ở các tầng trời cõi Dục, cõi Sắc và các vị Hiền Thánh thường che chở bảo vệ. Văn kinh: Đó là bốn việc lợi ích. Tán rằng: Kết thúc. Văn kinh: Bạch Thế tôn! Chúng con cũng thường vì mở mang kinh điển cho nên thuận theo người trì kinh như vậy, ở các trú xứ đó thực hành lợi ích giúp họ. Tán rằng: Thứ hai là phát nguyện trì học. Thuận theo người này có hai ý: Vì nghe kinh. Để bảo vệ. Văn kinh: Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này người Thiện nam! Đúng thế! Đúng thế. Tán rằng: Thứ ba Thế tôn ngợi khen ấn chứng có thể thực hành lợi ích, vì vậy khen ngợi “lành thay”; kể rõ lợi ích của kinh đó, thuận theo chánh lý cho nên liền nói “Đúng thế”. Văn kinh: Các người cần phải hết lòng chịu khó truyền bá rộng rãi kinh điển vi diệu tức là giúp cho chánh pháp tồn tại lâu dài trên thế gian. Tán rằng: Thứ tư khuyến khích truyền bá rộng rãi. <卷>QUYỂN 3 (Phần cuối) <詞>Phẩm 4: MỘNG KIẾN SÁM HỐI Phẩm Mộng Kiến Sám Hối có ba phần riêng biệt: Nguyên nhân có phẩm này. Giải thích. Giải thích lời vặn hỏi. Phần Nguyên nhân có phẩm này có bốn: Hai phẩm trước nói về quả sở đắc. Năm phẩm sau nói về hạnh sở tu, chia ra làm bốn: Hai phẩm đầu nói về hạnh của Địa tiền, một phẩm tiếp theo nói về hạnh của Thập địa, một phẩm tiếp theo nhân đó giải thích nghi ngờ giúp cho phát khởi nguyện hạnh, tiếp đến nói về hạnh hộ pháp, dùng Đà-la-ni bảo vệ người thực hành pháp, khiến cho không lui sụt đối với hạnh của Địa tiền. Đầu tiên là một hạnh phương tiện, sau đó là một hạnh chánh khởi. Tương lai mong cầu thắng quả chắc chắn trước đó phải tu hành. Tu hành có hai thứ: Dứt bỏ điều ác. Tu tập điều lành. Điều ác nếu chưa dứt bỏ thì khó mà tu tập diệu hạnh, cho nên trong kinh Lục Môn Đà-la-ni chép: “Các ma nghiệp vốn có của ta, nếu không trước tiên sám hối thì rốt cuộc không thể phát tâm thuận theo Vô thượng giác, vì vậy tất cả tội lỗi trước tiên cần phải sám hối dứt trừ”. Lại như trong bốn chánh cần, hai việc đầu là dứt bỏ điều ác, hai việc sau là tu tập điều lành. Vì thế cho nên tương lai tu tập diệu hạnh trước hết chỉ dạy sám hối. Nhưng tâm sám hối khó mà phát khởi ngay được. Nhờ vào giấc mộng thấy trống vàng nói pháp mà tỉnh ngộ, do đó văn sau nói: “Đây là nghiệp thù thắng, cúng dường các Đức Phật trong quá khứ của ông và do uy lực của các Đức Phật che chở, vì muốn diệt trừ nghiệp chướng sai trái trước đây cho nên phát sinh phẩm này. Tuy trong phẩm này và phẩm Diệt Chướng cũng có sinh khởi điều lành gọi là những phát nguyện v.v…” Bởi vì thuận theo những gì rõ ràng ngay thẳng gọi là thực hành dứt bỏ điều ác. Đồng thời đều thuận theo tên gọi ban đầu là phẩm Sám Hối Diệt Nghiệp Chướng, chẳng phải không có tu điều lành, hai là tu tập những hạnh thù thắng không có gì vượt hơn ba học, đó là giới, định, tuệ. Từ giới có thể làm nhân lìa xa đường ác, từ định có thể làm nhân thoát khỏi cõi Dục, từ tuệ có thể làm nhân lìa xa ba cõi. Lại nữa, từ giới có thể giúp đầy đủ định, định làm hoàn bị tuệ, do giới làm cội rễ mới đạt được định tuệ. Trong kinh Di Giáo chép: “Nên biết rằng giới này là trú xứ an ổn của công đức các điều lành, thường sinh ra các thiền định và trí tuệ diệt khổ”. Sám hối ở đây là giới học, bao gồm cả những ai bắt đầu tu học, do đó trước đây nói có phẩm này phát sinh. Ba là Phật có ba thân là Pháp thân, Ứng thân, Hóa thân, như dưới đây tức là Đoạn đức, Trí đức và Tuệ đức, nghóa là do giới dứt trừ ác làm nhân của đoạn đức, định có thể phát khởi hóa hiện làm nhân của ân đức, tuệ có thể quyết đoán làm nhân của trí đức. Pháp thân đoạn đức là cội gốc cho nên trước tiên nói về nhân đó, vì vậy phẩm này phát sinh. Bốn là vì cơ nghi: Vì căn lực gốc lành vốn có của Bồ-tát Diệu Tràng đến chỗ Phật trình bày rõ ràng. Vì tình hình đặc biệt lúc ấy nên trước tiên nghe nói về pháp sám hối mới có thể giác ngộ, do đó phẩm này phát sinh”. Dựa theo Đại sư Chân-đế giải thích thì có tám nhân duyên. Thứ hai là giải thích tên gọi. Tiếng Phạm gọi là Táp-noa-đạt-lợi-xá-noa- a-bát-để-đề-xá-na. Táp-noa, Hán dịch là Mộng. Đạt-lợi-xá-noa, Hán dịch là Kiến. A-bát-để, Hán dịch là Tội. Đề-xá-na, Hán dịch là Thuyết. Người có sai phạm cần phải hướng về người khác mà nói, tội lỗi liền được dứt trừ, nên gọi là thuyết tội. Nhưng nói sám hối là thuận theo người xưa phiên dịch, không phải là chánh thuyết. Nếu nói là sám hối thì âm Phạn gọi là Sám-ma, nghóa thích hợp ở đây gọi là dung thứ, hoặc quý tạ (hổ thẹn nhận lỗi), hoặc gọi là Sám-ma, Hán dịch là tri yểm ly, cũng có nghóa là cải hối. Nói Sám Hối là âm không sai nên lược bỏ, đích thực nên gọi là phẩm Mộng Kiến Thuyết Tội; Mộng thấy nói về tội lỗi, mộng ấy là chung, thấy là riêng, bởi vì riêng thuộc trong chung nên gọi là Mộng Kiến; nói về phẩm Mộng Kiến Thuyết Tội. Thứ ba, Giải thích văn hỏi. Hỏi: Diệu Tràng nghe nói chưa xong, vì sao giữa chừng trở về nhà, nhân đó mộng thấy nghe nói sám trừ mới trở lại bạch rõ với Phật như vậy? Đáp: Trống bắt đầu nhờ mộng nhìn thấy, duyên lành hối thúc khiến trở về nhà, nếu thân đang ở trong chúng không ngủ, mộng làm sao phát khởi. Hỏi: Diệu Tràng thân đang ở nơi chỗ ngồi vì sao không trực tiếp nêu ra phương pháp sám hối, phải đợi về nhà ngủ trong giấc mộng mới hiện bày trống vàng chỉ dạy sám hối? Đáp: Lúc mọi người vừa nghe nói mộng mới bắt đầu phát khởi sám hối; lại vì duyên đời trước nên Diệu Tràng nghe xong trong lòng thiết tha sám hối. Hỏi: Duyên đời trước và uy lực của Phật hiện bày trống phát ra âm thanh sám hối, vì sao không hiện bày trống ở giữa mọi người mà chỉ riêng Diệu Tràng mộng thấy trong đêm? Đáp: Chúng hội có cơ nghi khác nhau, nên sẽ lần lượt nghe. Lại vì Diệu Tràng nguyện nói xong cõi khác mới lãnh ngộ. Hỏi: Trong mộng, Diệu Tràng có nghe nói về sám hối thì liền thành tự mình sám hối hay không? Đáp: Đây là do nguyện đời trước nhờ mộng thấy kinh hãi tỉnh giấc mới có thể sám hối, không phải trong mộng nghe nói tức liền sám hối, do đó trong phẩm Liên Hoa Dụ Tán ở dưới chép: “Nguyện con sẽ sinh ở đời vị lai, nơi vô lượng, vô biên kiếp trong mộng thường thấy trống vàng to lớn được nghe rõ ràng âm thanh nói về sám hối”, cho đến nói: “Đêm mộng thường nghe âm thanh trống vàng, ngày liền thuận theo mà thực hành sám hối”. Tức là nói nguyện ban đêm nghe âm thanh sám hối, ban ngày liền theo đó sám hối. Rõ ràng là trước tiên nghe không phải là chánh sám hối, nếu không như vậy thì mộng trở thành việc sám hối, đâu cần lại nói phẩm Diệt Nghiệp Chướng. Nếu nói khiến cho người khác phát tâm sám hối, há có thể mộng thấy sám tội đều dứt trừ hay sao? Trong phẩm này toàn văn chia làm bốn phần: Diệu Tràng nằm mộng nghe sám hối được lợi ích. Đến chỗ Đức Phật trình bày để giác ngộ người khác. Thế tôn khen ngợi ấn chứng nguyên cớ đó. Đại chúng nghe nói đều nguyện kính vâng thực lành. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Bồ-tát Diệu Tràng tự mình ở trước Đức Phật nghe diệu pháp xong, vui mừng hớn hở, nhất tâm suy nghó trở về nơi ở của mình. Tán rằng: Thứ nhất, Diệu Tràng nằm mộng nghe sám hối được lợi ích chia làm hai: Đầu tiên là nghe pháp tâm vui vẻ suy nghó mà lui; tiếp đó trong đêm mộng thấy trống vàng nói âm thanh sám hối. Phần đầu là lời tựa của người sớ kinh, phần sau là Bồ-tát nằm mộng. Đây là mở đầu. Nghe thọ vô lượng, nghi ngờ dứt hết tâm vui vẻ, nhất tâm suy nghó, Thế tôn đại bi quyền hiện phương tiện khéo léo, chúng con cũng sẽ thực hành tự lợi, lợi tha như thế. Văn kinh: Trong đêm mộng thấy trống vàng to lớn ánh sáng rực rỡ giống như vầng mặt trời. Tán rằng: Ở trong mộng thấy trống vàng nói pháp sám hối có bốn: Mộng thấy trống vàng. Nhân đó nhìn thấy Tam bảo. Nghe trống vàng nói pháp. Nghe xong nghó nhớ. Đây là mở đầu. Văn kinh: Trong ánh sáng này được thấy vô lượng các Đức Phật ở khắp mười phương ngồi tòa lưu ly dưới cội cây báu, vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh, mà vì đó nói pháp. Tán rằng: Nhân đó nhìn thấy Tam bảo. Văn kinh: Thấy một vị Bà-la-môn cầm dùi trống đánh trống vàng, phát ra âm thanh vang dội, trong âm thanh đó giảng nói bài kệ vi diệu nói về pháp sám hối. Tán rằng: Nghe trống vàng nói pháp. Văn kinh: Diệu Tràng nghe xong thảy đều nhớ kỹ, suy nghó chắc chắn. Tán rằng: Nghe xong nghó nhớ. Văn kinh: Đến lúc trời sáng cùng với vô lượng trăm ngàn đại chúng vậy quanh mang các vật dụng cúng dường ra khỏi thành Vương xá, đến núi Thứu phong. Tán rằng: Đến chỗ Đức Phật để trình bày. Đầu tiên đến chỗ Đức Phật, sau đó trình bày. Đây là đến chỗ Đức Phật: Thời gian đến. Đồ chúng. Mang các thứ cúng dường. Đến chỗ ở. Thấy Phật. Thấy nghi dung. Cúng dường. Vòng quanh bên phải. Lui lại mà đứng. Đây là bốn phần đầu. Văn kinh: Đến chỗ Thế tôn, đảnh lễ dưới chân Phật xong, bài trí hương hoa, đi vòng quanh bên phải ba vòng, lùi về ngồi một phía. Tán rằng: Năm đoạn sau. Văn kinh: Chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan. Tán rằng: Đây là chính thức trình bày. Đầu tiên xin trình bày, sau đó chính thức kể rõ. Trong phần đầu lại có hai: Trước hết xin theo nghi thức, sau đó xin được trình bày. Đây là mở đầu. Văn kinh: Bạch Phật rằng: Bạch Thế tôn! Trong mộng con thấy có vị Bà-là-môn tay cầm dùi trống đánh vào trống vàng tuyệt đẹp, phát ra âm thanh vang dội, trong âm thanh đó giảng nói bài kệ vi diệu, nói về pháp sám hối, con đều nhớ kỹ. Tán rằng: Xin được trình bày có hai: Đầu tiên kể rõ những điều thấy nghe trong mộng, sau đó xin cho phép nói ra. Đây là mở đầu. Văn kinh: Cúi mong Đức Thế tôn ban cho đại từ bi, nghe những điều con nói. Tán rằng: Xin cho phép nói ra. Văn kinh: Liền đối trước Đức Phật mà nói bài tụng rằng: Con ở trong đêm qua, mộng thấy trống vàng lớn, hình dáng thật khác lạ, xung quanh có ánh sáng vàng, giống như vầng mặt trời, ánh sáng đều rực khắp, tràn đầy mười phương cõi, thảy đều thấy các Đức Phật, ở dưới cội cây báu, đều ngồi tòa lưu ly, chúng vô lượng trăm ngàn, cung kính cùng vây quanh. Tán rằng: Chính thức trình bày. Đầu tiên là bài tựa của người sớ kinh, phần sau là chính thức trình bày, gồm có một trăm năm mươi sáu bài. Ở trong bốn bài đầu, mỗi câu có năm chữ, bốn câu là một bài tụng, tức là thành ra bốn bài tụng. Tiếp đó có hai mươi hai bài, mỗi câu bảy chữ hợp lại gồm mười một bài tụng. Tiếp đến có ba mươi tám tụng, mỗi câu năm chữ. Tiếp tục chín mươi hai bài, mỗi câu bảy chữ, hợp lại có bốn mươi sáu bài tụng. Nếu theo phương pháp soạn tụng của Tây phương đều là bốn câu thành một bài tụng. Nói về câu thì có năm loại: Câu giữa. Câu đầu. Câu sau. Câu ngắn. Câu dài. Nếu câu tạo thành từ tám chữ thì tiếng Phạm gọi là Án-đa-chế- đa, Hán dịch là câu trung gian, không dài không ngắn; như vậy bốn câu làm thành một bài tụng gọi là Thất-lô-ca tụng, có ba mươi hai chữ. Nếu câu tạo thành từ sáu chữ trở lên gọi là câu đầu. Nếu câu tạo thành từ hai mươi chữ trở lên gọi là câu sau. Nếu câu tạo thành dưới sáu chữ gọi là câu ngắn. Câu tạo thành từ hai mươi sáu chữ trở lên gọi là bài tụng câu dài theo đó có thể biết. Nay trong kinh này, theo thực tế bản tiếng Phạm, hoặc có mười bảy chữ làm thành một câu, hoặc có mười lăm chữ thậm chí chỉ có ba chữ làm thành một câu. Nay như nơi câu dài tóm gọn lại làm thành bài tụng mỗi câu bảy chữ, như đối với câu ngắn sắp xếp thành tụng năm chữ, do đó gồm có chín mươi chín bài tụng, chia ra làm hai phần, bốn bài tụng đầu tiên sơ lược nêu ra những điều nghe thấy, chín mươi lăm bài tụng sau đó trình bày rộng về những điều nghe được. Trong phần đầu chia làm ba: Một câu đầu tiên là nói về lúc nằm mộng, ba câu hai bài tiếp theo là nêu những điều thấy được, một bài tụng sau cùng nêu những điều nghe được. Trong những điều thấy được, sáu câu là thấy trống vàng, ba câu là thấy Phật, hai câu là thấy Tăng. Trong sáu câu thấy trống vàng, trong nửa hàng đầu là thấy hình dáng trống vàng, một bài thấy ánh sáng trống vàng. Nằm mộng thấy trống vàng đó là biểu trưng sắp nghe âm thanh Đức Phật nói pháp sám hối, bởi vì đáng quý trọng. Thấy hình dáng tuyệt đẹp là biểu thị cho âm thanh cõi Phạm của vị Đại só này. Xung quanh có ánh sáng là biểu thị cho tánh của giáo năng thuyên thường hiển bày tất cả lý. Giống như vầng mặt trời tròn đầy là biểu thị cho dụng của giáo năng thuyên thường xua tan tất cả bóng tối không lành. Ánh sáng đều rực rỡ khắp nơi v.v… là biểu thị cho một âm thanh đồng nhất, oán thân bình đẳng. Còn lại thấy Phật và đại chúng tức là Phật bảo và Tăng bảo. Nghe trống vàng nói pháp tức là Pháp bảo, biểu thị nhân nghe giáo pháp được thấy Tam bảo, nên cũng sẽ thành tựu. Văn kinh: Có vị Bà-la-môn, cầm dùi đánh trống vàng, ở trong tiếng trống đó, nói tụng vi diệu này. Tán rằng: Nêu lên nghe pháp. Có hai: Nửa bài tụng đầu thấy người tự đánh trống, nửa bài tụng sau nghe trống vàng nói pháp. Có vị Bà-la-môn biểu thị cho cơ, giáo năng cảm, dùng dùi đánh trống biểu thị cho người nghe giáo pháp; dùng dùi gốc lành cảm ứng đánh vào trống giáo pháp năng thuyên của Thế tôn. Hoặc Bà-la-môn biểu thị cho đang thấy Phật; do đó trong luận Câu-xá nói: “Những gì nói về tánh Sa-môn cũng gọi là Bà-la-môn, cũng gọi là Phạm luân, bởi vì Chân Phạm sở thuyên”. Theo đó biết rằng Thế tôn cũng gọi là Chân Bà-la-môn, chân tịnh hạnh. Dùng dùi đại bi đánh vào trống trí hậu đắc, truyền đi âm thanh giáo pháp, mượn âm thanh trên lập nên những bài tụng, đây tức là phúng tụng già-đà tụng. Văn kinh: Trống vàng sáng rực phát tiếng hay, vang khắp tam thiên đại thiên giới. Tán rằng: Phần sau trình bày rộng rãi những điều nghe được gồm có chín mươi lăm bài tụng. Toàn bộ chia làm hai phần “mười một bài tụng đầu nêu chung về lợi ích thù thắng, tám mươi bốn bài tụng tiếp theo nói riêng về lợi ích thù thắng. Trong phần nêu chung lại chia làm ba: Nửa bài tụng đầu nêu ra âm thanh thù thắng của trống vàng; bảy bài tụng rưỡi tiếp đó nêu riêng từng lợi ích thù thắng; ba bài tụng cuối nêu lên nhân thù thắng ở dưới”. Đây là mở đầu. Văn kinh: Thường diệt tội cực nặng ba đường, cho đến các khổ ách loài người, do uy lực tiếng trống vàng này, diệt hẳn tất cả phiền não chướng, dứt trừ sợ hãi được yên ổn, giống như Đấng Mâu-ni tự tại. Tán rằng: Đầu tiên trong phần nêu riêng từng lợi ích thù thắng dưới đây, có ba lần lại nữa nói về các sám, nguyện v.v… Nhưng hai lần lại nữa đầu tiên phỏng theo lược nói lẫn nhau, lại nữa thứ ba cùng mở rộng các pháp sám v.v… Nay bốn bài tụng rưỡi đầu tiên trong phần nêu ra này, kết hợp nêu ra hai lại nữa đầu sơ lược nói về lợi ích thù thắng của các pháp sám v.v… ba bài tụng tiếp đó nêu ra lại nữa thứ ba, ở dưới trình bày rộng về lợi ích thù thắng của các pháp sám v.v… Đoạn thứ nhất chia làm hai: Hai tụng rưỡi đầu nêu ra lìa khổ; hai tụng tiếp theo nêu về được vui. Trong phần lìa khổ đầu tiên một bài tụng rưỡi nói về lìa khổ, một bài tụng khen ngợi Phật. Đây là lìa khổ. Trong đó nửa bài tụng đầu là lìa quả khổ, một bài tụng tiếp theo là lìa nhân khổ. Nghiệp ác bậc thượng, trung chịu lấy báo ứng trong ba đường, gọi là tội cực nặng. Nghiệp ác bậc hạ vời lấy khổ báo trong loài người, tức là các loại ái biệt ly, già bệnh chết v.v… Trong lìa nhân khổ, ba câu lìa nhân và một câu nêu ra thí dụ. Thí dụ có hai nghóa: Dụ cho chúng sinh được diệt trừ nhân của đau khổ như Đức Mâu-ni. Dụ cho trống vàng cũng như Đức Mâu-ni thường nói Thánh Pháp, dứt trừ đau khổ cho chúng sinh. Văn kinh: Phật ở trong biển cả sinh tử, chứa nhóm tu hành Nhất thiết trí, thường khiến chúng sinh hiểu mọi lẽ, cuối cùng đều về biển công đức. Tán rằng: Khen ngợi Phật có hai: Nửa bài tụng đầu khen ngợi đức tự lợi; nửa bài tụng sau khen ngợi Đức lợi tha. Giác Phẩm đầy đủ là thường khiến cho chúng sinh tu tập đại Bồ-đề. Tương ứng quyến thuộc tất cả công đức thảy đều đầy đủ tức là đại Bồ-đề. Cuối cùng đều quy về biển cả công đức tức là đại Niết-bàn. Hoặc giác phẩm đầy đủ là khiến cho nhân tu hoàn toàn, quy về biển công đức là thường khiến cho đắc quả được đầy đủ. Văn kinh: Từ trống vàng này phát tiếng hay, khiến mọi người nghe được Phạm âm, chứng được quả Bồ-đề vô thượng, thường chuyển diệu pháp luân thanh tịnh. Tán rằng: Nói về được yên vui. Một bài tụng đầu được niềm vui tự lợi, một bài tụng sau được niềm vui lợi tha. Được niềm vui tự lợi này có ba phần: Khiến được Phạm âm. Chứng được Bồ-đề. Đạt đến Niết-bàn. Theo luận Du-già quyển chín mươi lăm chép: “Bởi vì xoay bánh xe pháp có tự, tha chuyển trong tự chuyển có năm tướng: Thứ nhất là đạt được cảnh sở đắc; Thứ hai là đạt được phương tiện; Thứ ba là đạt được sở đắc; Thứ tư là nối liền với người khác, khiến cho họ phát sinh tin hiểu sâu sắc đối với sở chứng của mình; Thứ năm là khiến cho họ phát sinh tin hiểu sâu sắc đối với sở chứng của người khác”. Thường Chuyển diệu pháp luân ở đây chính là thứ ba là đạt được sở đắc. Quả đại Niết-bàn, bởi vì trước có Bồ-đề sau có tùy cơ nói pháp, xoay bánh xe pháp ở đây tức là Niết-bàn. Nghóa của bánh xe pháp trong Kinh Pháp hoa Sớ có nói. Văn kinh: Trụ thọ kiếp không thể nghóa bàn, tùy cơ nói pháp lợi chúng sinh, thường dứt phiền não các thứ khổ, tham, sân, si thảy đều dứt trừ. Tán rằng: Được niềm vui lợi tha: Vì tuổi thọ chúng sinh. Nói pháp cho nghe. Dứt trừ phiền não. Các dòng khổ tức là ba thứ hoặc, nghiệp, khổ. Dứt trừ sở duyên trói buộc này, sở duyên trói buộc không còn thì năng duyên tham v.v… cũng đều diệt theo, tức là dứt trừ năng duyên trói buộc, đã lìa bỏ các trói buộc, cho nên được yên vui. Văn kinh: Nếu có chúng sinh trong đường ác, lửa dữ bừng cháy khắp toàn thân, nếu được nghe tiếng trống hay này, liền xa đau khổ quy y Phật. Tán rằng: Ba hàng tụng sau nêu rộng về các pháp sám hối ở dưới, có hai: Một bài tụng đầu nêu ra có tội, nghe pháp, biết sám hối lìa khổ đau; hai bài tụng sau nhờ nghe tiếng trống mà được yên vui. Đây là mở đầu. Hỏi: Đây là Diệu Tràng tự nằm mộng thấy trống vàng người khác không nghe, làm sao có thể nói “Có nơi đường ác lửa dữ toàn thân nghe tiếng trống hay lìa khổ đau, quy y Phật?” Đáp: Trước sau nói về người khác được lợi ích ở đây đều là do Bồ-tát Diệu Tràng nằm mộng mà thấy, quả thật không phải người khác được nghe tiếng trống. Ý ở đây chính là nói rằng nếu các loài chúng sinh được nghe Đức Phật nói sẽ đạt được lợi ích như vậy. Văn kinh: Đều được thành tựu túc mạng trí, thường nhớ quá khứ trăm ngàn kiếp, thảy đều chánh niệm Đức Mâu-ni, được nghe giáo Như lai sâu xa, do nghe tiếng trống vàng hay ho, thường được gồm giữ chỗ các Đức Phật, đều luôn lìa bỏ các nghiệp ác, thuần tu thanh tịnh các phẩm lành. Tán rằng: Nêu đạt được vui vẻ chia sáu: Nửa bài tụng đầu đạt được túc mạng trí; một câu tiếp đạt được chánh niệm; một câu tiếp theo là nghe pháp; hai câu tiếp đó là gần giữ các Đức Phật; một câu tiếp đó là lìa xa điều ác; một câu tiếp theo là tu tập điều lành. Văn kinh: Tất cả trời người loài hữu tình, người thiết tha chí thành cầu nguyện, được nghe âm thanh trống vàng hay, thường khiến cầu gì đều đầy đủ. Tán rằng: Ba bài tụng sau nêu rõ khiến cho người khác gieo trồng nhân tốt đẹp có ba: Một bài tụng đầu nêu lên nguyện được như ý muốn; một bài tụng tiếp đó nêu rõ được lìa khổ đau; một bài tụng tiếp theo nêu rõ đạt được yên vui. Đây là mở đầu. Văn kinh: Chúng sinh đọa vào ngục Vô gián, lửa dữ hừng hực đốt cháy thân, không có cứu giúp chịu luân hồi, người nghe thường khiến khổ dứt trừ. Tán rằng: Nêu rõ được lìa khổ đau. Và còn y theo đó nhắc lại lìa khổ đau vô gián; hoặc có thể, nửa bài tụng đầu lìa khổ đau trong ngục Vô gián, nửa bài tụng sau lìa tất cả khổ đau của các nơi và các đường. Văn kinh: Trong trời người ngạ quỷ súc sinh, tất cả hiện chịu các khổ nạn, được nghe trống vàng phát tiếng hay, thảy đều được lìa khổ được giải thoát. Tán rằng: Nêu rõ đạt được yên vui. Nửa bài tụng đầu nhắc lại lìa các khổ đau, nửa bài tụng sau phân biệt rõ được các sự yên vui. Văn kinh: Hiện tại mười phương cõi, đấng phước trí thường trụ, nguyện đem tâm đại bi, xót thương nghó đến con, chúng sinh không nương tựa, cũng không có cứu giúp, vì những loài như vậy, thường làm đại quy y. Tán rằng: Dưới đây là tám mươi bốn bài tụng nói riêng về lợi ích cao quý, chia ra làm bốn phần: Hai mươi lăm bài tụng đầu là lại nữa lần thứ nhất, nói về các pháp sám, nguyện, tiếp theo “Cúi mong Phật mười phương” trở xuống mười ba bài tụng sau là lại nữa lần thứ hai nói về các pháp sám, nguyện tiếp đến bốn mươi ba bài tụng bảy chữ, sau đó là lại nữa lần thứ ba nói về các sám nguyện, tiếp tục “Nếu có người nam và người nữ” trở xuống bốn bài tụng sau là nói về dự thù thắng khuyến tu. Nhưng trong ba lần lại nữa nói về các sám, nguyện thì trong lần lại nữa đầu tiên nói nhiều về pháp sám phiền não chướng, lại nữa lần thứ hai nói nhiều về pháp sám nghiệp chướng, lại nữa lần thứ ba nói nhiều về pháp sám báo chướng. Trong đó đại khái có nhiều sự khác nhau như vậy. Sám hối nói đúng phải là Thuyết tội, nên lấy điều lành để sửa đổi và phát khởi thiện ngữ nghiệp làm tánh, nếu bao gồm năng khởi thì cũng có ý nghiệp, nếu nói rõ lễ kính cũng có thân nghiệp. Đầy đủ nên lấy điều lành sửa đổi và phát khởi ba nghiệp làm tánh. Trong lần lại nữa đầu tiên có ba phần: Hai bài tụng đầu thỉnh cầu che chở nói rõ chính thức quy y; mười bốn bài tụng tiếp theo nói về sám hối; chín bài tụng sau nói về phát nguyện. Trong phần đầu chia làm bốn: Hai câu đầu nêu ra nơi quy đầu (tìm về); hai câu tiếp thỉnh cầu rủ lòng nghó nhớ; Hai câu tiếp nói rõ không có nơi cứu giúp; Hai câu tiếp nữa thỉnh cầu làm nơi quy y. Trong loài hữu tình có loài không có chân, nhiều chân, bốn chân, hai chân, trời người hai chân so với loài khác là hơn hẳn, Đức Phật đối với trời người hai chân lại càng tôn quý hơn. Thương loài đó có khổ, thương xót kẻ kia không yên vui, thể tức là từ bi, nguyện ghi nhớ không bỏ gọi là nhớ nghó. Đầu khởi (tìm đến) gọi là quy, nương tựa gọi là y; nhỗ gốc khổ là cứu, ban cho yên vui là hộ. Văn kinh: Trước con gây tội lỗi, các nghiệp ác cực nặng, nay đối trước mười lực, dốc lòng xin sám hối. Tán rằng: Mười bốn bài tụng dưới đây nói về sám hối chia làm ba phần: Một bài tụng đầu nêu ra, mười hai bài tụng tiếp theo phân biệt rõ; một bài tụng cuối là kết thúc. Đây là phần đầu nêu ra. Tội là tên của sự chê bai lỗi lầm. Nghiệp ác cực nặng cũng là lời nói chê bai lỗi lầm. Nếu xem thường tội nhỏ cũng gọi là tạo tội nghiệp ác cực nặng, tất cả nói về ba nghiệp thảy đều sám hối gọi là giai (đều). Văn kinh: Con không tin các Đức Phật, cũng không kính tôn thân, không tiến tu điều lành, thường gây các nghiệp ác. Tán rằng: Dưới đây phân biệt riêng thành mười hai bài tụng. Bài tụng thứ nhất nói về sám hối tội không tin, không hổ thẹn v.v… và những nghiệp ác đã gây. Bất kính tức là không tôn trọng thánh hiền, không tiến tu điều lành, tức là không coi trọng điều lành, do đó mà gây các điều ác. Văn kinh: Hoặc tự cậy tôn quý, dòng họ và địa vị, tuổi trẻ buông lung, thường gây ra các nghiệp ác. Tán rằng: Bài tụng thứ hai sám hối về những tội kiêu căng ngạo mạn gây ra nhiều tội nghiệp xấu ác. Cậy đức tôn quý cao vời. Cậy dòng họ sang trọng hơn người. Cậy có nhiều tiền tài. Cậy quan quyền địa vị. Cây tuổi trẻ và sống lâu không bệnh tật. Tự đề cao mình lấn hiếp người khác tức là vì kiêu ngạo mà gây nghiệp ác, cậy đó say mê ngạo mạn. Chính là do cao ngạo mà tạo ác, lại ưa thích buông lung không thể phòng giữ tu sửa, do đó tạo ra nghiệp ác. Văn kinh: Tâm thường khởi tà niệm, miệng nói lời xấu ác, không thấy tội sai trái, thường tạo các nghiệp ác. Tán rằng: Bài tụng thứ ba sám hối hai nghiệp tâm, khẩu đã tạo nhiều nghiệp ác. Văn kinh: Thường làm việc người ngu, vô minh che khuất tâm, thuận theo bạn không tốt, thường gây các nghiệp ác. Tán rằng: Bài tụng thứ tư sám hối do ngu si mà tạo nhiều nghiệp ác. Văn kinh: Hoặc vì các trò vui, hoặc ôm lòng sầu não, vì tham sân vây bọc, nên con tạo điều ác. Tán rằng: Bài tụng thứ năm sám hối bởi vì tham sân cho nên gây nhiều nghiệp ác. Hý lạc thì tham, ưu não thì sân, tham sân tức là hạt giống, triền (vây bọc) tức là hiện hành; hoặc tám triền v.v… đưa ra hai để thâu nhiếp những thứ còn lại. Văn kinh: Gần gũi người không tốt, và do ý san, tật, nghèo nàng làm dua nịnh, nên con gây điều ác. Tán rằng: Bài tụng thứ sáu sám hối do gần gũi bạn ác và các tiểu tùy nghi ngờ. Tích chứa không bỏ mưu toan tham lẫn gọi là san, không chịu nổi sự hưng vượng của người khác nên ganh ghét gọi là tật, làm bưng bít người khác, nhìn ngó khom lưng thuận theo ý kẻ kia gọi là siểm, lòng dạ mưu mô khác thường, giả bộ hiện bày có đức độ gọi là cuống. Văn kinh: Tuy không ưa các lỗi, bởi vì có sợ hãi, và không được tự tại, nên con gây điều ác. Tán rằng: Bài tụng thứ bảy sám hối so sợ hãi nên gây nhiều nghiệp ác. Ý tuy không muốn tạo những lỗi lầm, hoặc sợ các tai nạn về thân mạng tài sản cho nên gây các nghiệp ác, hoặc ở nơi hèn kém bị người khác ép buộc không được tự tại cho nên gây các nghiệp ác. Văn kinh: Hoặc vì tâm dao động, hoặc do sân, nhuệ, hận, và đói khát ép ngặt, nên con gây điều ác. Tán rằng: Bài tụng thứ tám sám hối do các đại tùy nghi ngờ nên gây nhiều nghiệp ác. Vì đói khát ham muốn ép ngặt cho nên gây ra nghiệp ác. Văn kinh: Do áo quần, ăn uống, và tham ái người nữ, lửa phiền não đốt thiêu, nên con gây điều ác. Tán rằng: Bài tụng thứ chín sám hối vì tham nên gây các nghiệp ác. Văn kinh: Với Phật, Pháp, Tăng chúng, không sinh tâm cung kính, gây các tội như vậy, nay con đều dám hối; với Độc Giác, Bồ-tát, tâm cũng không cung kính, gây các tội như vậy, nay con đều sám hối. Tán rằng: Bài tụng thứ mười sám hối vì không cung kính Tam bảo nên gây các nghiệp ác. Văn kinh: Vô trí báng chánh pháp, bất hiếu với cha mẹ, gây các tội như vậy, nay con đều sám hối. Tán rằng: Bài tụng thứ mười một sám hối vì năm tội nghịch nên gây các nghiệp ác. Y theo kinh Đại thừa đã nói về năm tội nghịch, không phải cả ba thừa cùng nói. Nói năm tội nghịch, theo kinh Tát-già Ni-kiền Tử chép: năm tội nghịch là: Không được phá hoại chùa tháp, thiêu đốt kinh tượng và dụng ý trộm cắp tài vật Tam bảo. Bài bác pháp, mà ba thừa nói chẳng phải Thánh giáo, chướng ngại gây khó dễ, che đậy cất giấu. Đối với tất cả người xuất gia hoặc thọ giới, không thọ giới, giữ giới, phá giới đều đánh mắng chưởi bới, nói lỗi lầm, cấm đoán, hoàn tục, thúc đẩy, tra hỏi khiến cho mất đi mạng sống. Không được giết hại cha mẹ, làm thân Phật chảy máu, phá sự hòa hợp của Tăng chúng, giết A-la-hán. Không được bài bác không có nhân quả, trong đêm dài tăm tối thường gây mười nghiệp chẳng lành”. Nay bài báng pháp ở đây tức là điều nghịch thứ hai, bất hiếu với cha mẹ tức là điều nghịch thứ tư. Văn kinh: Vì ngu si kiêu ngạo, và vì lực tham sân, gây các tội như vậy, nay con đều sám hối. Tán rằng: Bài tụng mười hai sám hối vì ba bất gốc không lành nên gây các nghiệp ác. Nói kiêu mạn là căn không lành ngu si phát khởi cho nên cùng nêu. Lại theo phần đầu, một bài tụng này tóm kết “những điều đã gây đều xin sám hối” ở trước. Văn kinh: Con ở mười phương cõi, cúng dường vô số Phật, sẽ nguyện cứu chúng sinh, khiến lìa các khổ nạn, nguyện tất cả hữu tình, đều khiến trụ Thập địa, phước trí tròn đầy rồi, thành Phật dẫn chúng sinh. Tán rằng: Dưới đây là chín bài tụng phát nguyện. Nguyện dùng hậu trí hoặc dục thắng giải làm tự tánh của nguyện. Đã lễ kính trình bày cũng phát khởi ba nghiệp làm thể. Nhưng hậu trí dục nguyện là tự tánh của nguyện, thân giữ nguyện đã phát khởi, ý nghiệp nguyện tương ưng và đã phát khởi cho nên đều gọi là nguyện. Không như vậy làm sao thu nhiếp. Trong đó chia làm bốn: Hai bài tụng đầu tiên này là lợi sinh, một bài tụng nguyện khiến lìa đau khổ; một bài tụng nguyện cho được yên vui. Văn kinh: Con vì các chúng sinh, khổ hạnh trăm ngàn kiếp, dùng sức đại trí tuệ, đều giúp thoát biển khổ, con vì mọi hàm thức, giảng nói kinh thâm diệu, Tối Thắng Kim Quang Minh, thường dứt các nghiệp ác. Tán rằng: Hai bài tụng tiếp theo là nguyện phát khởi hạnh, một bài tụng nguyện vì chúng sinh tu tập phước trí, một bài tụng nguyện vì chúng sinh giảng nói chánh pháp. Văn kinh: Nếu người trăm ngàn kiếp, gây các tội rất nặng, tạm thời được phát lộ, các ác tiêu trừ sạch, theo Kim Quang Minh này, hành sám hối như vậy, do đó thường chóng hết, tất cả cnghiệp ác khổ, trăm ngàn thứ thắng định, tổng trì không nghó bàn, căn lực giác đạo chi, tu tập thường không chán. Tán rằng: Ba bài tụng tiếp theo là nguyện người khác tu hành, hai tụng đầu nguyện khuyến khích người khác diệt trừ điều ác, một bài tụng sau nguyện khuyến khích người khác tu tập điều lành. Văn kinh: Con sẽ lên Thập địa, nơi châu báu đầy đủ, công Đức Phật tròn đầy, tế độ dòng sinh tử. Con vào biển các Phật, cho công đức sâu xa, diệu trí khó nghó bàn, đều khiến được đầy đủ. Tán rằng: Hai bài tụng tiếp theo là nguyện tự quả tròn đầy, một bài tụng đầu nguyện đầy đủ nhân lợi sinh, một bài tụng sau nguyện tròn đầy quả tự đầy đủ. Nói “Khiến cho” tuy có cả Tự và Tha nay ý chọn lấy khiến cho Tự đầy đủ, trước đây đã nguyện chúng sinh khiến cho trụ Thập địa, phước trí tròn đầy rồi thành Phật dẫn dắt tất cả chúng sinh. Văn kinh: Chỉ nguyện mười phương Phật, quán sát hộ niệm con, đều đem tâm đại bi, thương nhận con sám hối. Tán rằng: Dưới đây có mười ba bài tụng. Lại nữa lần thứ hai nói nhiều về sám hối nghiệp chướng. Văn chia làm bốn phần: Mười bài tụng đầu nói về sám hối, một bài tụng tiếp đó nói về vui theo; một bài tụng tiếp theo nói về phát nguyện; một bài tụng cuối cùng hồi hướng sám hối. Trong phần đầu chia ba: Một bài tụng đầu này là thỉnh hộ thuật y (thỉnh cầu hộ niệm theo những điều đã nói). Văn kinh: Con ở trong nhiều kiếp, đã gây các nghiệp ác, do đó sinh khổ não, thương xót nguyện tiêu trừ. Tán rằng: Tám bài tụng tiếp theo chính thức trình bày sám hối. Lại chia làm bốn phần, một bài tụng đầu này nêu chung về sám, nguyện. Văn kinh: Con gây các nghiệp ác, tâm thường sinh lo sợ, ở trong bốn oai nghi, không hề nghó vui sướng. Tán rằng: Tiếp theo một bài tụng kể rõ bản thân rất buồn. Văn kinh: Các Đức Phật có đại bi, thường trừ sợ chúng sinh, nguyện nhận con sám hối, khiến được lìa buồn khổ. Tán rằng: Xin nguyện chứng minh sám hối. Văn kinh: Con có phiền não chướng, cho đến các nghiệp báo, nguyện đem nước đại bi, rửa sạch khiến thanh tịnh. Tán rằng: Tiếp theo năm tụng sau là nguyện sám hối khiến cho dứt trừ. Lại chia làm bốn: Một bài tụng đầu này là nguyện sám hối dứt trừ ba chướng. Phật dùng nước đại bi diệt sạch lửa ba chướng, lại rửa hết bụi dơ tội lỗi cho nên dụ như nước. Văn kinh: Trước con gây các tội, và nay gây nghiệp ác, dốc lòng đều phát lộ, đều nguyện được dứt trừ, các nghiệp ác vị lai, giữ gìn không để khởi, giả như có trái phạm, hoàn toàn không dám dấu. Tán rằng: Hai bài tụng tiếp theo là nguyện sám hối tội lỗi ba đời. Dứt cũng là trừ. Quá khứ, hiện tại đã tạo tội lỗi, sám hối nguyện được dứt trừ, vị lai chưa tạo, nguyện sám hối ngăn ngừa không để sinh khởi. Văn kinh: Thân ba ngữ bốn thứ, ý nghiệp lại có ba, trói buộc các hữu tình, vô thỉ luôn tiếp nối, do đó hành ba loại, gây ra mười nghiệp ác, tội lỗi nhiều như vậy, nay con đều sám hối. Tán rằng: Hai bài tụng tiếp theo nguyện sám hối tội lỗi ba nghiệp. Tức giống như luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa bốn đã nói về sám hối, rằng “Ba với ba hợp lại thành chín thứ thuận theo ba phiền não mà phát khởi. Hợp chín loại là tức ba nghiệp trước đây và ba đời cùng với ba nghiệp báo, nghóa là thuận theo đời hiện tại sau đó phải chịu nghiệp báo, hợp lại là chín”. Nay thêm vào ba chướng trừ ba nghiệp báo. Kinh này y theo phần chung, luận kia thuận theo sự nhận chịu có khác nhau, vì vậy đều thành chín thứ đều không trái nhau. Chín thứ này đều từ tham, sân, si mà khởi nên nói là thuận theo ba phiền não phát khởi. Lại trong luận ấy hỏi trong ba thuận theo mà thọ nhận có định và bất định vì sao nói sám hối dứt trừ vậy? Luận đó đáp rằng: Cũng không phải đều dứt trừ, nếu định báo nguyện được thân này để đền đáp. Ở đây cũng nói theo trên báo định, thời bất định, nếu thời báo đều định thì điều đó sẽ không bàn đến, theo trong luận kia nói có thể sám hối, nếu có thể tăng thượng sám hối thì tội lỗi đều dứt trừ. Kinh Niết-bàn nói chép: “Nếu vào trong ngã pháp thì không quyết định”. Còn trong luận Du-già chép: “Dựa theo người chưa giải thoát mà kiến lập định báo”. Ý này y theo chưa gieo trồng giải thoát phần, dựa vào đó mà lập nghiệp định báo, nếu gieo trồng giải thoát phần thì đều bất định. Không như vậy thì hữu tình làm sao tu tập ba đời liền nhập thánh, vì chẳng phải đều chỉ có định báo ba đời. Nghóa của mười nghiệp đạo có giải thích ở chương khác. Văn kinh: Con gây các nghiệp ác, nên tự chịu khổ báo, nay đối trước các Đức Phật, chí thành đều sám hối. Tán rằng: Một bài tụng tiếp theo thuộc về tự mình kết thúc sám hối. Văn kinh: Nơi Thiệm Bộ Châu này, và thế giới cõi khác, vốn có các nghiệp lành, nay con đều vui theo. Tán rằng: Thứ hai là vui theo trong lại nữa lần thứ hai. Tùy là thuận theo. Hỷ là vui sướng. Tùy tức là lấy ba pháp tín, dục thắng giải làm thể. Vì vậy trong luận Thành Duy Thức chép: “Nếu ấn chứng thuận theo thể tức là thắng giải, nếu vui sướng thuận theo thể tức là dục, nhẫn nại đã xong là tín nhân, dục chính là tín quả. Cho nên tín và nhân quả là tùy thể của nó”. Hỷ tức là thọ (vui nhận), hoặc hỷ ở đây không nhất định là hỷ thọ, chỉ là tâm, tâm sở tổng hợp quy tụ giả định lập nên sự vui mừng gọi là hỷ, hoặc chính là không ganh ghét cho nên vui mừng vô lượng, lấy không ganh ghét làm thể. Giải thích cách này là chính đáng. Nhân thuận theo sinh vui mừng tức là tùy đó mà vui mừng, hoặc vừa thuận theo vừa vui mừng gọi là vui theo. Văn kinh: Nguyện lìa mười nghiệp ác, tu hành mười nghiệp lành, an trú trong Thập địa, thường thấy Phật mười phương. Tán rằng: Thứ ba là phát nguyện. Văn kinh: Con đem thân, ngữ, ý, tu nghiệp các phước trí, nguyện theo gốc lành này, chóng thành vô thượng tuệ. Tán rằng: Hồi hướng. Lấy hậu trí làm thể. Lại giải thích: Hai bài tụng đều là phát nguyện, đầu là nhân, sau là quả. Văn kinh: Nay con tự đối trước Thập Lực, phát lộ rất nhiều việc khổ nạn. Tán rằng: Bốn mươi hai tụng dưới đây là lại nữa lần thứ ba, nói rộng về sám nguyện, nói rộng về sám hối báo chướng. Văn chia làm năm: Bốn bài tụng đầu ăn năn lỗi lầm; mười một bài tụng tiếp theo khen ngợi công đức của Phật; hai mươi lăm tụng tiếp đó là phát nguyện; một bài tụng tiếp đó là vui theo; một bài tụng tiếp nữa là hồi hướng. Trong phần sám hối đầu tiên, văn lại chia làm ba; đây là nửa bài tụng đầu nêu chung về sự thành khẩn quay về. Văn kinh: Nạn phàm phu mê hoặc ba cõi, nạn thường gây nghiệp ác rất nặng, nạn con đã chứa nhóm dục, tà, nạn thường khởi tham ái trôi lăn, nạn đắm say nơi thế gian này, nạn tất cả người ngu phiền não, nạn cuồng tâm tán động điên đảo, cho đến nạn gần gũi bạn ác, nạn tham nhiễm ở trong sinh tử, nạn sân si ám độn gây tội, nạn sinh tám nơi luôn có ác, nạn chưa từng chứa nhóm công đức. Tán rằng: Đây là ba bài tụng tiếp theo sám hối riêng các nạn. Ba bài tụng mười hai câu, một câu là một nạn: Nạn phàm phu không dứt quả khổ. Nạn lâu dài thường gây nghiệp ác. Nạn do mưu tính chứa nhóm của mình. Nạn do tham lam trôi lăn trong ba cõi. Nạn đắm say nơi quả vui sướng thế gian. Nạn do dựa vào thân phàm phu khởi mê hoặc. Nạn do tà tâm tán động khởi điên đảo. Nạn do bạn ác dụ dỗ. Nạn sinh tử đắm nhiễm không dứt. Nạn do nhân ba độc mà gây tội lỗi. Nạn sinh nơi luôn có ác báo. Nạn từ vô thỉ không gieo trồng nhân lành. Ý này do nghiệp ác cho nên sinh mãi không dừng, do không tu điều lành cho nên gây các tội lỗi, vì thế nay đều sám hối. Văn kinh: Nay con đều đối trước Tối Thắng, sám hối vô biên tội nghiệp ác. Tán rằng: Đây là nửa bài tụng sau kết thúc sám hối các tội lỗi. Văn kinh: Nay con quy y bậc Thiện Thệ, con lễ đấng Vô Thượng Đức Hải, như núi vàng lớn soi mười phương, xin nguyện từ bi thương tiếp nhận. Tán rằng: Mười một bài tụng dưới đây khen ngợi công đức của Phật. Văn chia làm ba: Một bài tụng đầu nêu chung về quy y lễ tán; năm bài tụng tiếp theo khen ngợi công đức tùy theo mức độ mà nhìn thấy; năm bài tụng sau cùng khen ngợi hiển bày công đức vô cùng tận. Đây là mở đầu. Văn kinh: Thân màu vàng chói thật rực rỡ, mắt như lưu ly biếc thanh tịnh, an lành uy đức gọi Thế tôn, đại bi tuệ nhật xua đêm tối. Tán rằng: Khen ngợi công đức tùy theo mức độ mà nhìn thấy. Khen ngợi mười ba thứ công đức, trong này có bốn: Một câu đầu khen ngợi công đức của thể vàng chói (Kim Quang); một câu tiếp khen ngợi công đức của mắt xanh thanh tịnh; một câu tiếp khen ngợi công đức của uy thế vang khắp; một câu tiếp khen ngợi công đức của bi, trí xua tan bóng đêm. Văn kinh: Ánh sáng Phật nhật thường chiếu khắp, thanh tịnh không nhiễm lìa các trần, trăng Mâu-ni soi thật mát mẻ, thường trừ nóng phiền não chúng sinh. Tán rằng: Ở đây có hai công đức. Nửa bài tụng đầu khen ngợi công đức biến trí ly nhiễm, nửa bài tụng sau khen ngợi công đức linh chứng Niết-bàn Mâu-ni thường đem Niết-bàn mát mẻ dứt trừ cái nóng phiền não của chúng sinh. Văn kinh: Ba mươi hai tướng khắp trang nghiêm, tám mươi vẻ đẹp đều tròn đầy, phước đức khó lường không ai bằng, như ánh mặt trời chiếu thế gian. Tán rằng: Ở đây có ba công đức. một câu đầu khen ngợi công đức của ba mươi hai tướng, một câu tiếp khen ngợi công đức của tám mươi vẻ đẹp, nửa bài tụng tiếp theo khen ngợi công đức thành tựu hữu tình. Như Luận Đại Trang nghiêm chép: “Thí như mặt trời rực rỡ, bốn nhiếp tương ưng phát tâm cũng giống như vậy, như mặt trời thường chiếu làm thành tựu chúng sinh”. Hoặc trong kinh Tăng Nhất A-hàm chép: “Mặt trời xuất hiện có bốn việc: Lúc mặt trời xuất hiện các bóng tối đều tan biến. Nhà nông đi làm việc. Chim muông đều hót vang. Trẻ thơ kêu khóc.” Phật bảo các Tỳ-kheo: Nếu lúc mặt trời xuất hiện các bóng tối tan biến, dụ cho Phật xuất hiện ở thế gian xua tan bóng đêm si mê không nơi nào không sáng tỏ, soi sáng các loại nhân dân. Khắp nơi cùng nhau cày cấy, giống như đàn việt thí cung cấp kịp thời bốn thứ áo quần, ăn uống, giường chiếu, đồ nằm, thuốc thang theo bệnh. Muôn chim hót vang, giống như các bậc pháp sư cao đức thường nói pháp cho bốn chúng nghe vi diệu. Trẻ thơ kêu khóc, ở đây dụ cho các ma xấu ác thấy Phật xuất hiện ở thế gian nên tâm vô cùng sầu não. Văn kinh: Sắc như lưu ly thuần thanh tịnh, giống như trăng tròn giữa hư không, lưới diệu pha lê chiếu thân vàng, các thứ ánh sáng để tô điểm. Tán rằng: Ở đây có hai công đức. Nửa bài tụng đầu khen ngợi công đức tùy theo cảm mà ứng hiện, như Phẩm Nguyệt Dụ kinh Niết- bàn nói về thấy không hoàn toàn hay trọn vẹn v.v… nửa bài tụng sau khen ngợi công đức lưới sáng trang nghiêm, màu đỏ trắng pha lê tuyệt diệu, như kinh Pháp Hoa chép: “Như giữa lưu ly thanh tịnh bên trong hiện tượng vàng vòng v.v…”. Văn kinh: Ở trong sinh tử khổ đau, sống trong già bệnh lo buồn, biển khổ như vậy khó nhẫn chịu, Phật nhật chiếu soi khiến cạn khổ. Tán rằng: Một bài tụng này khen ngợi công đức dứt trừ sinh tử cho người. Nói bạo lưu tức là bốn bạo lưu: Dục bạo lưu, tức là tu hoặc cõi Dục. Hữu, tức là hai tu hoặc cõi trên. Kiến, tức là phiền não của thấy đạo trong ba cõi. Vô minh bạo lưu tức là kiến, tu, vô minh. Theo chỗ này ba thứ trước đều dứt vô minh, nhưng trong các luận nói hoặc là bạo lưu y theo nhân, ở đây nói khổ sinh tử là bạo lưu tức là nói về quả. Hoặc có thể, nhân quả hợp lại gọi là sinh tử, hữu tình chìm nổi già bệnh lo buồn như bạo lưu, sâu rộng khó lường như biển khổ. Luận Du-già bảy mươi chép: “Năm pháp tương tự biển lớn sinh tử được gọi là biển lớn: Xứ sở vô biên tương tự. Vô cùng sâu xa tương tự. Khó đo lường tương tự. Không thể để ăn tương tự, đây là ý biển lớn toàn khổ đều không thể ăn, sinh tử giống như, đều không thể vui. Đại bảo sở y tương tự, đây là ý tất cả các thứ quý báu đều nương vào biển, ở trong sinh tử mới được công đức ba thừa”. Trong năm nghóa nay chọn lấy bốn nghóa trước nói là khó nhẫn chịu, ánh sáng mặt trời trí tuệ của Phật rực rỡ khiến cho cạn khô. Văn kinh: Nay con kính lạy Nhất Thiết Trí, đấng Tối Tôn thế giới Tam thiên, ánh sáng rực rỡ thân vàng tím, các thứ tốt đẹp đều trang nghiêm. Tán rằng: Năm bài tụng dưới đây khen ngợi hiển bày công đức không cùng tận, chia làm hai. Đây là một bài tụng đầu khen ngợi chung về quy y đảnh lễ. Văn kinh: Như nước biển lớn lượng khó biết, cát bụi đất bằng không thể đến, như núi Diệu Cao khó đo lường, cũng như hư không không giới hạn, công đức các Đức Phật cũng như vậy, tất cả hữu tình không thể biết, trong vô lượng kiếp suy nghó kỹ, không thể biết được bờ biển đức, hết các núi cao mặt đất này, nghiền thành cát bụi thường tính biết, mẩy lông chấm biển còn lượng được, công đức của Phật không thể đếm, tất cả hữu tình đều khen ngợi, Thế tôn tên gọi các công đức, tướng tốt thanh tịnh diệu trang nghiêm, không thể đo lường biết chừng mực. Tán rằng: Bốn tụng dưới đây kể rõ công đức khen ngợi riêng. Bốn tụng là bốn đoạn: Một bài tụng đầu này khen ngợi công đức vượt quá phần thí dụ; một bài tụng tiếp theo khen ngợi công đức vượt quá phần tình ý suy nghó, một bài tụng tiếp theo khen ngợi công đức vượt quá phần tính toán, một bài tụng tiếp theo khen ngợi công đức vượt quá phần nói năng. Trên đại thể đồng với luân Kim cương Bát-nhã Kinh vượt quá bốn phần. Lại một bài tụng đầu hoặc chính là lần lượt khen ngợi bốn đức thường lạc ngã tịnh của Phật, hoặc khen ngợi tất cả công đức. Công đức đó có bốn thứ: Đức sâu như biển. Đức nhiều như cát bụi. Đức cao như núi. Đức rộng như hư không. Hoặc theo kinh Bảo Vân thứ tư chép: “Bồ-tát lại có mười pháp, giống như biển lớn. Mười pháp ấy là: Là kho báu lớn. Sâu rộng khó đo lường. Rộng lớn không giới hạn. Lần lượt sâu dần. Không ở chung một nơi với phiền não. Thuần tướng vắng lặng. Các sông tranh nhau đổ về đều bao dung tiếp nhận. Thủy triều dâng lên không sai thời gian. Làm nơi nương cậy cho người khác. Không hề khô cạn.” Thế nào là kho báu lớn? Cũng như biển lớn các thứ quý báu sinh ra trong đó, người lấy không giảm bớt, Bồ-tát cũng, vô biên chúng sinh tín tâm tu hành, kho báu công đức lại cũng không sút giảm. Giống như biển lớn sâu rộng khó lường, Bồ-tát cũng, trí vượt biển lớn thiên ma ngoại đạo không thể nào đo lường được. Như biển cả bao la không giới hạn, Bồ-tát cũng, công đức trí tuệ rộng lớn không cùng tận. Như biển dần sâu, Bồ-tát cũng, thành tựu trí Nhất-thiết-chủng để dần dần chuyển đến sâu hơn. Giống như biển lớn không chứa thây chết, biển pháp Bồ-tát không có thây chết của tất cả kiết lậu phiền não và ác tri thức cũng không cùng trú ngụ. Giống như biển lớn các dòng đều chảy vài đó, đều đồng một vị, Bồ-tát cũng, tất cả công đức chảy đến biển chủng trí cũng chung một vị. Giống như biển lớn thường dung nạp các sông nhưng không hề thêm, bớt, Bồ-tát cũng, nghe nhận tất cả Phật pháp, nói cho mọi người nói nhưng không có thêm bớt. Giống như biển lớn thủy triều dâng lên không sai thời gian, Bồ-tát cũng, đối với sự thành tựu chúng sinh cũng phát khởi không vượt quá hạn định. Giống như biển lớn tất cả thân lớn nương vào làm nơi trú ngụ, Bồ-tát cũng, làm nhà cửa cho tất cả chúng sinh đại tâm nương cậy. Giống như biển lớn không có cùng tận, Bồ-tát cũng, vì tất cả chúng sinh thuận theo nói pháp không có cùng tận. Theo ý văn này chính là nói về Phật. vì sao biết như thế? Vì nói chủng trí một vị, kết lậu thây chết đều không dung chứa, Bồ-tát còn hoặc đến khi hoặc đã sạch hết, chưa thành tựu Nhất-thiết-chủng-trí. Nói Bồ-tát là dựa vào nhân làm tên gọi, hoặc có cả nhân quả có mười nghóa này, cho nên khen ngợi như biển. Nay trong kinh này lại theo “một nghóa như biển” thứ ba, các nghóa còn lại lược bỏ không nói đến. Hoặc theo luận Đại Trang Nghiêm chép: “Giống như biển lớn, nhẫn Ba-la-mật tương ưng phát tâm cũng giống như vậy, những điều trái nghịch tâm không lay động. Giống như đất bằng, tối sơ phát tâm cũng giống như vậy, tất cả Phật pháp thường sinh ra vững chắc. Giống như núi chúa, thiền Ba-la-mật tương ưng phát tâm cũng giống như vậy, mọi vật không thể lay động, bởi vì không tán loạn”. Luận kia có dụ về sáu độ, bốn nhiếp, bốn vô lượng v.v… ở đây sơ lược có dụ thứ ba, thứ tư. Như hư không, tức là câu “hư không giới tận” thứ ba trong câu “vô tận” của kinh Thập Địa, dùng để nói rõ những điều khác. Văn kinh: Con vốn có rất nhiều lành nghiệp, nguyện được chóng thành Vô thượng tôn. Tán rằng: Dưới đây là hai mươi lăm bài tụng phát nguyện, phân hai: Năm bài tụng đầu nguyện tự lợi, lợi tha; hai mươi bài tụng sau chỉ nguyện lợi tha. Trong phần đầu lại có hai: Ba bài tụng đầu phát nguyện cầu đắc quả; hai tụng sau phát nguyện cầu tu nhân. Trong phát nguyện cầu đắc quả có hai; đây là nửa bài tụng đầu nguyện cầu đắc quả tự lợi. Văn kinh: Nói rộng chánh pháp lợi chúng sinh, đều khiến giải thoát các khổ đau; sức mạnh hàng phục chúng ma quân, sẽ chuyển vô thượng chánh pháp Vô thượng, trụ trong kiếp số khó nghó bàn, chúng sinh đầy đủ vị cam lộ, giống như các Đức Phật thời quá khứ, sáu Ba-la- mật đều tròn đầy, dứt các tham dục và sân si, hàng phục phiền não trừ các khổ. Tán rằng: Đây là hai tụng rưỡi phát nguyện tự lợi cầu đắc quả. Ở trong nửa bài tụng đầu nguyện khiến đạt được trạch diệt. Nửa bài tụng tiếp theo nguyện khiến hàng phục thiên ma. Nửa bài tụng tiếp theo nguyện khiến đạt đến Niết-bàn. Nửa bài tụng tiếp theo nguyện khiến tu tập sáu độ. Nửa bài tụng tiếp theo nguyện khiến dứt trừ sáu chướng, y theo văn thì rõ. Văn kinh: Nguyện con thường được trí túc mạng, thường nhớ trăm ngàn kiếp quá khứ, cũng thường nhớ nghó Đức Mâu-ni, được nghe pháp sâu xa của Phật; con nguyện đem các nghiệp lành ấy, kính thờ vô lượng đấng Tối Thắng, xa lìa tất cả nhân không lành, luôn được tu hành pháp vi diệu. Tán rằng: Dưới đây là hai bài tụng phát nguyện cầu tu nhân, sơ lược có bốn nguyện: Nửa bài tụng đầu nguyện cầu trí túc mạng. Nửa bài tụng tiếp theo nguyện cầu sáu niệm, sáu niệm là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên, ở đây nêu ra hai niệm. Nửa bài tụng tiếp theo nguyện cầu bạn lành. Nửa bài tụng tiếp theo nguyện lìa các điều ác tu điều lành. Văn kinh: các chúng sinh Tất cả thế giới, thảy đều lìa khổ được yên vui, vốn có các căn không đầy đủ, khiến thân tướng đó được chu toàn. Tán rằng: Hai mươi bài tụng dưới đây nói về nguyện lợi tha, có hai phần: Mười sáu bài tụng đầu nguyện người khác được quả thế gian; bốn bài tụng tiếp theo nguyện người khác được quả xuất thế. Trong phần đầu có hai: Mười bốn bài tụng trước nguyện được quả hiện tại; hai bài tụng sau khiến được quả vị lai. Quả hiện tại phân hai: Bảy bài tụng đầu nguyện khiến xa lìa đau khổ; bảy bài tụng sau nguyện khiến đạt được yên vui. Trong bảy bài tụng đầu có ba; đây là tụng đầu tiên, nêu chung về nhổ gốc khổ. Văn kinh: Nếu có chúng sinh gặp bị bệnh khổ, thân hình gầy yếu không nương nhờ, đều khiến bệnh khổ được tiêu trừ, các căn sắc lực đều đầy đủ. Tán rằng: Tiếp theo năm bài tụng rưỡi dưới đây trình bày riêng về lìa khổ, có năm phần. Đây tức là một bài tụng thứ nhất dứt trừ khổ đau của các bệnh tật. Văn kinh: Nếu phạm pháp vua sẽ hành hình, các khổ ép ngặt sinh buồn lo, lúc họ chịu cực khổ như thế, không nơi nương tựa chẳng cứu giúp. Tán rằng: Ba bài tụng dưới đây, là phần thứ hai là dứt trừ khổ đau của hình phạt, có hai: Một bài tụng đầu nêu ra có khổ đau không người cứu. Văn kinh: Nếu chịu đòn roi gông cùm trói, các loại khổ hình bức thân kia, vô lượng trăm ngàn nỗi lo buồn, ép ngặt thân tâm không hề vui, đều khiến được tránh khỏi giam cầm, cho đến đòn roi làm khổ sở, người sắp tử hình được toàn mạng, các khổ đều khiến mãi dứt sạch. Tán rằng: Dưới đây là hai bài tụng nguyện vì người dứt trừ. Trong đó, một bài tụng rưỡi đầu khiến lìa xa khổ đau của gông cùm đòn roi, nửa bài tụng tiếp theo khiến lìa khổ đau của sự giết hại mất mạng. Văn kinh: Nếu có chúng sinh bị đói khát, khiến được các thứ uống ăn ngon, người mù được thấy, người điếc nghe, người què đi được, câm nói được. Tán rằng: Trong đây có hai: Thứ ba là khiến lìa đau khổ đói khát, Thứ tư là khiến lìa xa đau khổ của các căn không đầy đủ. Văn kinh: Chúng sinh nghèo khốn được kho báu, kho tàng đầy ắp không hề thiếu, đều khiến được sung sướng yên vui, không một chúng sinh chịu khổ não. Tán rằng: Dưới đây là nửa bài tụng đầu, Thứ năm khiến lìa sự khổ đau của nghèo khốn; nửa bài tụng sau là phần Ba kết thúc khiến lìa xa đau khổ. Văn kinh: Tất cả trời người đều ưa thấy, dung nghi hòa nhã thật đoan nghiêm, thảy đều hiện rõ vui vô lượng, thọ dụng dồi giào đủ phước đức. Tán rằng: Bảy bài tụng dưới đây là nguyện khiến cho người khác được vui sướng. Có mười hai điều vui sướng. Trong bài tụng này chia làm hai: Nửa bài tụng đầu khiến được niềm vui trời người cung kính yêu quý, nửa bài tụng sau khiến được dồi dào các đồ quý báu. Văn kinh: Tùy chúng sinh kia muốn kỹ nhạc, được âm thanh mầu đều hiện bày, nghó nước liền hiện hồ mát mẻ, hoa sen nàu vàng đầy trong đó. Tán rằng: Ở đây có hai điều vui: Nửa bài tụng đầu khiến được niềm vui kỹ nhạc tùy ý muốn, nửa bài tụng sau khiến được niềm vui ao hồ tùy tâm. Văn kinh: Tùy chúng sinh kia tâm nghó gì, ăn uống áo quần và giường chiếu, vàng bạc châu báu diệu lưu ly, quý, anh lạc trang nghiêm đều đầy đủ. Tán rằng: Ở đây có hai điều vui: Nửa bài tụng đầu khiến được niềm vui bốn việc tùy ý muốn, nửa bài tụng sau khiến được niềm vui bảy báu châu ngọc anh lạc trang nghiêm đầy đủ. Văn kinh: Không để chúng sinh nghe tiếng ác, lại cũng không thấy có trái nhau, dung mạo tất cả đều xinh đẹp, mọi người từ tâm yêu mến nhau. Tán rằng: Ở đây có hai điều vui: Nửa bài tụng đầu khiến được niềm vui tên gọi đẹp và hòa thuận, nửa bài tụng sau khiến được niềm vui xinh đẹp từ ái. Văn kinh: Vốn sinh thế gian đủ các vui, tùy tâm niệm luôn được trọn vẹn, tài vật có được không tiếc rẻ, chia đều giúp đỡ các chúng sinh. Tán rằng: Ở đây có hai điều vui: Nửa bài tụng đầu khiến được niềm vui mọi việc đều tùy tâm, nửa bài tụng sau khiến được niềm vui không tham, ưa thích bố thí. Văn kinh: Hương đốt, Hương bột và hương xoa, các hoa vi diệu chẳng một màu, mỗi ngày ba lần từ cây rụng, tùy tâm thọ dụng rất vui vẻ; nguyện mọi chúng sinh đều cúng dường, tất cả đấng Tối Thắng mười phương, thanh tịnh ba thừa diệu pháp môn, Chúng Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn. Tán rằng: Ở đây có hai điều vui: Một bài tụng đầu khiến được niềm vui hương hoa tùy ý, một bài tụng sau khiến được niềm vui cúng dường Tam bảo. Văn kinh: Thường nguyện chớ ở nơi thấp hèn, không đọa trong tám nạn không rảnh, sinh nơi luôn có đấng Trung Tôn, luôn được hầu cận Phật mười phương, nguyện được thường sinh nhà giàu sang, tài vật kho tàng đều đầy ắp, dung mạo tên gọi không ai bằng, tuổi thọ dài lâu nhiều số kiếp. Tán rằng: Hai bài tụng dưới đây là nguyện người khác đạt được quả vị lai, có năm phần: Nửa bài tụng đầu khiến được niềm vui không sinh trong tám nạn, nửa bài tụng tiếp theo khiến được niềm vui thường gặp Thế tôn, nửa bài tụng tiếp theo khiến được niềm vui thường sinh nhà giàu sang, một câu tiếp đó khiến được niềm vui hình dáng đẹp đẽ danh tiếng đồn xa, một câu tiếp đó khiến được niềm vui tuổi thọ lâu dài. Văn kinh: Đều nguyện người nữ trở thành nam, mạnh mẽ thông minh trí tuệ sáng, tất cả thường hành đạo Bồ-tát, siêng tu sáu độ đến bờ kia. Tán rằng: Bốn tụng dưới đây khiến họ đạt được quả xuất thế, có sáu. Trong này có hai điều vui: Nửa bài tụng đầu khiến được niềm vui thân nam thông minh trí tuệ, nửa bài tụng sau khiến được niềm vui thường thực hành giác phẩm. Văn kinh: Thường thấy vô lượng Phật mười phương, ngồi thẳng dưới gốc cây bảo vương, nơi tòa sư tử diệu lưu ly, luôn được kinh thờ xoay bánh xe pháp. Tán rằng: Ở đây có hai điều vui: Nửa bài tụng đầu khiến được niềm vui thấy Phật xuất hiện, nửa bài tụng tiếp theo khiến được niềm vui tự mình thừa kế giảng nói giáo pháp. Văn kinh: Nếu ở quá khứ và hiện tại, luân hồi ba cõi gây các nghiệp vời lấy sự nhàm chán không lành, nguyện được tiêu diệt hẳn không còn, tất cả chúng sinh nơi biển hữu màng lưới sinh tử buộc vững chắc, nguyện dùng kiếm trí chặt dứt, lìa khổ mau chứng được Bồ-đề. Tán rằng: Ở đây có hai điều vui: Một bài tụng đầu khiến họ được niềm vui dứt trừ đau khổ của chính mình, một bài tụng tiếp theo khiến họ được niềm vui dứt bỏ sinh tử. Văn kinh: Chúng sinh ở trong Thiệm-bộ này, hoặc ở trong thế giới cõi khác, vốn làm các thứ nhân thắng phước, nay con thảy đều rất vui theo. Tán rằng: Một bài tụng này là thứ tư vui theo trong phần thứ ba nói rộng về sám, nguyện. Văn kinh: Đem việc vui theo phước đức này, và thân, ngữ, ý làm điều lành, nguyện thắng nghiệp này thường thêm lớn, mau chứng vô thượng đại Bồ-đề. Tán rằng: Một bài tụng này là thứ năm nói về bốn hồi hướng tức là phương tiện thứ bảy trong mười độ. Phương tiện có hai: Hồi hướng phương tiện. Bạt tế phương tiện. Đây là hồi hướng. Hậu trí làm thể. Câu trước tuy có lời nguyện, câu sau ý nói về phương tiện, nếu không như vậy thì có khác gì với phát nguyện ở trước. Trước đã phát nguyện rằng “Con vốn có rất nhiều nghiệp lành, nguyện được chóng thành vô thượng tôn v.v…” cho nên đây là phần hồi hướng. Văn kinh: Tất cả lễ tán công Đức Phật, thâm tâm thanh tịnh không vết bẩn, hồi hướng phát nguyện phước vô cùng, sẽ vượt đường ác sáu mươi kiếp. Tán rằng: Bốn tụng dưới đây, trong đoạn lớn thứ hai đặc biệt nói về sự thù thắng. Thứ tư là nói về sự thù thắng khuyến khích tu hành có năm. Một bài tụng đầu này nói về tu tập tiền nghiệp có công năng vượt qua ác đường. Văn kinh: Nếu có người nam và người nữ, Bà-la-môn cùng các thắng tộc, chắp tay nhất tâm khen ngợi Phật, đời đời thường nhớ việc kiếp trước. Tán rằng: Một bài tụng này nói về tu tập tiền nghiệp có thể đạt được túc mạng. Văn kinh: Các căn thanh tịnh thân đầy đủ, công đức thù thắng đều thành tựu, nguyện nơi sinh đến trong tương lai, thường được trời người cùng chiêm ngưỡng. Tán rằng: Nửa bài tụng đầu này nói về tu tập tiền nghiệp, được thân tốt đẹp phước trọn vẹn, nửa bài tụng sau được trời người yêu thích kính mến. Văn kinh: Không ở nơi một Phật mười Phật, tu các gốc lành nay được nghe, nơi trăm ngàn Phật trồng gốc lành, mới được nghe pháp sám hối ấy. Tán rằng: Nói về được nghe pháp này chính là cúng dường nhiều Đức Phật. Ở đây ý nói: Chỉ được nghe pháp này chính là cúng dường nhiều Đức Phật, huống gì có thể nghe rồi mà tu hành. Điểm này đồng với kinh Bát-nhã và kinh Pháp Hoa, nên khuyến khích tịnh tấn tu tập. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế tôn nghe nói như vậy xong, khen ngợi Bồ-tát Diệu Tràng rằng: Lành thay! Lành thay!. Tán rằng: Đoạn lớn thứ ba của cuối phẩm là Thế tôn khen ngợi ấn chứng, tức là văn chia làm ba, đây là phần đầu ngợi khen. Văn kinh: Này người thiện nam! Như ông đã mộng thấy trống vàng phát ra âm thanh khen ngợi công đức chân thật của Như lai và pháp sám hối, nếu có người nghe thì được phước đức rất nhiều, lợi ích tất cả hữu tình, diệt trừ tội chướng. Tán rằng: Tiếp theo là ấn chứng. Trong tụng trước đó Diệu Tràng nói: “Nghe pháp này diệt tội được phước”, e rằng người không tin, cho nên Đức Phật ấn chứng cho. Văn kinh: Ông nay nên biết nghiệp thù thắng này đều là do nhân duyên quá khư khen ngợi phát nguyện tu tập vốn có và nhờ uy lực các Đức Phật che chở, do nhân duyên này ta sẽ nói cho ông nghe. Tán rằng: Sau đó hứa nói về nhân của giấc mộng, tức là phẩm Liên Hoa Dụ Tán sau này. Văn kinh: Lúc đó, tất cả đại chúng nghe pháp này rồi thảy đều vui vẻ tin nhận thực hành. Tán rằng: Đoạn lớn thứ tư là đại chúng vui vẻ thực hành. <卷>QUYỂN 4 <詞>Phẩm 5: DIỆT NGHIỆP CHƯỚNG Phẩm Diệt Nghiệp Chướng có chia ra ba phần phân biệt: Nguyên nhân phẩm này. Giải thích tên gọi. Giải thích vặn hỏi. Nói về nguyên nhân phẩm này có ba: Trong phần trình bày về diệt ác ở phẩm trước mộng nghe sám hối tội lỗi lấy làm cảnh giác. Nay chính thức nêu rõ pháp sám hối diệt trừ, do đó sau phẩm trước có phẩm này phát sinh. Nguyên nhân có phẩm này là Diệu Tràng gieo trồng gốc lành đã lâu do đó mộng thấy tự mình được sám hối, những người khác không thể tự hiểu được, Phật chỉ dạy mới hiểu rõ sám hối dứt trừ, cho nên lại phát ra ánh sáng cảm vời những ai có duyên đến. Do đó thỉnh Phật giải thích rộng, cho nên sau phẩm trước phát sinh phẩm này. Muốn cầu quả tốt chắc chắn phải gieo trồng nhân lành, chướng nạn vẫn còn làm sao có thể khởi hạnh, muốn khởi hạnh mầu thì trước tiên làm cho chướng diệt trừ. Diệu Tràng chỉ kể rõ giấc mộng đó, chưa tự mình sám hối dứt trừ nên muốn tự phát lộ, vì vậy thỉnh Phật nói về pháp sám hối dứt trừ, do đó sau phẩm trước có phẩm này phát sinh. Về giải thích tên phẩm, ngài Chân-đế nói: “Phẩm nghiệp chướng diệt, đây là âm của Tây quốc, kinh này dịch là Diệt Nghiệp Chướng là y theo ngôn ngữ Hán. Tiếng Phạm là Yết-ma (hán dịch là Nghiệp) A-bạt-la- noa (Hán dịch là Chướng) Tỳ-na-xa (Hán dịch là Diệt). Nghiệp nghóa là tạo tác, Chướng nghóa là chướng ngại, bởi vì làm điều không lành thường ngăn ngại Thánh đạo. Nghiệp tức là Chướng, thuộc về trì nghiệp thích. Diệt chung cho năng sở. Hoặc năng diệt gọi là diệt, tức là sám hối v.v… cho rằng nhờ sự sám hối này có công năng dứt trừ nghiệp chướng, tức là diệt nghiệp chướng, thuộc về y chủ thích. Hoặc Sở diệt gọi là diệt, diệt là trừ. Do bốn cách sám hối khiến cho nghiệp chướng tiêu diệt, nghiệp chướng liền diệt, thuộc về trì nghiệp thích. Hoặc diệt nghiệp chướng đều thuộc về năng, tức là đối với năng diệt nói pháp sở diệt. Do bốn cách sám hối có công năng diệt trừ nghiệp chướng nên gọi là phẩm diệt nghiệp chướng. Luận Như Lý Môn chép: “Đối với năng phá lập nên âm thanh sở phá”. Về giải đáp vặn hỏi. Hỏi: Chướng có nhiều thứ tạm thời gọi chung hoặc, nghiệp, khổ là chướng, nay sao chỉ nói diệt nghiệp chướng? Đáp: Có hai cách giải thích: Nói rằng cả ba thứ Hoặc Nghiệp, Khổ, được gọi là Nghiệp, như nói phiền não chướng chính là đại tùy hoặc. Nghiệp phát khởi đồng thời đạt đến quả gọi chung là phiền não chướng, y cứ theo nghiệp nhân nghiệp quả gọi chung là Nghiệp. Hỏi: Nếu vậy vì sao không nói là diệt hoặc khổ chướng? Đáp: Nêu ra bất cứ một thứ nào đều có cái khó; hoặc có thể, nghiệp chướng ngại Thánh đạo, nên gọi là hoặc, bởi vì nghiệp có định nghiệp, trong hoặc không nói có định hoặc. Khổ từ nghiệp sinh ra, cho nên chỉ từ thẳng gọi là diệt nghiệp chướng. Thứ nhất là nói: Tuy hoặc, nghiệp, khổ đều được gọi là chướng, nhưng nghiệp chướng tăng mạnh chỉ sám hối về nghiệp, bởi vì nghiệp dẫn đến sinh thân đối với hoặc. Sau đó hỏi rằng “Đã có gây ra nghiệp chướng tội lỗi ấy làm sao sám hối”, mà không hỏi về hoặc khổ. Lại nữa, nếu có nghiệp không lành rất nặng chắc chắn với lấy tai họa cho thân, không có con đường chứng quả Thánh. Kinh chỉ nói phẩm Diệt nghiệp chướng, giải thích trước đây là rốt ráo, văn sau có sám hối về hoặc nghiệp khổ. Hỏi: Ba thứ hoặc nghiệp, khổ, thâu nhiếp cả hai chướng, chẳng biết sở tri chướng nay có sám hối hay không? Đáp: Đã hướng về quả Phật thì hai chướng đều sám hối, cho nên nói rằng Tu hạnh bồ-đề tất cả nghiệp chướng đều sám hối. Hỏi: Nghiệp của ba tánh là sám hối chung hay không? Đáp: Ba tánh đều sám hối, vì từ hai chướng phát khởi nghiệp ba tánh, cho nên cảm vời lấy nghiệp trời người do đó cũng đều sám hối. Hỏi: Phẩm này so với hai phẩm trước khác nhau chỗ nào? Đáp: Trong truyện nói Đại sư Chân-đế có tám cách giải thích khác nhau: Đầu tiên trong đêm Diệu Tràng mộng thấy, sau đó đại chúng ban ngày tu hành. Nói đầu tiên là giải thích sơ lược, sau là giải thích rộng. Đầu tiên là sám hối, sau đó tất cả tội tiêu diệt. Đầu tiên là tạm thời hàng phục, sau đó là trừ hẳn. Đầu tiên nói về kinh có công năng diệt trừ tội lỗi, sau đó nói về người mở rộng kinh này diệt trừ tội lỗi. Đầu tiên nói về pháp thân thị hiện, sau nói về Hóa Thân. Đâu chỉ ban đầu có Diệu Tràng nghe, vì sau đó đại chúng cùng cảm ứng. Phẩm đầu do Diệu Tràng nguyện, phẩm sau do căn cơ đại chúng. Trong tám cách giải thích này, ba cách giải thích thứ hai, bảy, tám là giải thích đúng, còn các cách khác không thích hợp. Nay giải thích không giống nhau, như phần Nguyên nhân có phẩm này phân biệt rõ. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế tôn trụ trong chánh phân biệt vào nơi tónh lự mầu nhiệm sâu xa. Tán rằng: Trong phẩm này toàn văn chia làm bốn phần: Phát ra ánh sáng nhóm họp đại chúng. Thiên đế bắt đầu thỉnh cầu. Như lai giảng nói. Được lợi ích vui vẻ thực hành. Sau đó “Lúc đó tất cả đại chúng nghe Đức Phật nói xong thảy đều được lợi ích thù thắng vui sướng vâng lời thực hành”. Đây là mở đầu, văn chia làm ba: Đầu tiên nhập định phát ra ánh sáng, tiếp đó nói về ánh sáng và lợi ích, sau cùng tìm theo ánh sáng đến chỗ Phật. Phần đầu lại chia ba: Nhập định. Phát ra ánh sáng. Soi chiếu cảnh giới. Đây là phần nhập định. Các duyên của trí hậu đắc thường gọi là phân biệt, có thể xứng hợp với cảnh mà biết nên gọi là trụ chánh. Hoặc chánh nghóa là cội gốc, phân biệt tức là hậu đắc. Rõ tục là nhờ chứng chân cho nên gọi là hậu đắc. Trụ nghóa là y chỉ tức là trí hậu đắc nương theo bổn trí mà phát khởi. Tónh nghóa là vắng lặng, lự nghóa là xét nghó; tónh để giản hóa tán tâm, lự để phân biệt với vô tâm. Định các cõi trên đều đầy đủ các chi, tuy cùng gọi là tónh lự nhưng Đức Thế tôn đã phát khởi nhiều về định thứ tư (tứ thiền), bởi vì là cao siêu. Nhập là chứng, Hậu trí rõ các căn cơ và đạt được pháp mà Nhị thừa không biết gọi là sâu xa. Vượt thoát ba cõi cho nên gọi là vi diệu. Biết rõ cơ pháp ứng vật bày tỏ chứng đắc, nên gọi là nhập. Lại giải thích: “Trụ chánh phân biệt, sạch khởi gia hạnh”, vì lợi ích chúng sinh cho nên gọi là chánh phân biệt. Nhập tức là năng nhập, tónh lự là sở nhập. Vượt qua Nhị thừa gọi là sâu xa, hơn hẳn Bồ-tát gọi là vi diệu. Y theo thực tế phát ra ánh sáng là thân cảnh thông, thông nương vào tónh lự, do đó trước nói về nhập. Văn kinh: Từ lỗ chân lông trên thân phát ra ánh sáng rực rỡ, vô lượng trăm ngàn các thứ màu sắc. Tán rằng: Hai là phát ra ánh sáng, có ba: Đầu tiên xuất ra từ lỗ chân lông trên thân, tiếp đó phát ra ánh sáng rực rỡ, sau cùng thể ánh sáng có vô lượng các thứ màu sắc. Văn kinh: Cõi nước các Đức Phật thảy đều hiện bày trong ánh sáng, hằng hà sa mười phương tính toán thí dụ đều không thể biết được. Tán rằng: Ba là soi chiếu cảnh giới, có hai: Đầu tiên soi chiếu cảnh giới tất cả cõi nước của các Đức Phật đều hiện bày trong ánh sáng, tiếp đến là sự thù thắng tính toán thí dụ không biết được. Văn kinh: Đời ác có năm thứ vẩn đục được ánh sáng chiếu soi. Tán rằng: Thứ hai là nói về ánh sáng và lợi ích, có bốn: 1. Nói chung về thời xứ. Thời tức là cõi đời có năm thứ vẩn đục, xứ tức là cõi uế. Văn kinh: Các chúng sinh đó gây mười nghiệp ác, năm tội vô gián, phỉ báng Tam bảo, bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn thầy tổ và chúng Bà-la-môn nên phải đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh. Tán rằng: Hai là nói về những cảnh giới soi chiếu tức là ánh sáng chiếu đến. Hợp với ý Phật là dứt trừ hoặc, nghiệp, khổ. Tất cả y theo tầng bậc nói về nói là soi chiếu năm trược, mười ác, năm nghịch và ba đường ác. Mười ác, năm trược và năm tội nghịch, phổ biến như các nơi khác có phân biệt rõ. Nói vô gián, trong Câu-xá quyển mười bảy nói: “Theo sự quyết định của quả dị thục, lại không có nghiệp khác, đời khác có thể làm cho đứt quãng, ngăn cách. Đây là nghóa chỉ có nhân không đứt quãng, ngăn cách”. Cho đến nói: “Kia có vô gián đắc, vô gián danh, hợp với vô gián pháp nên gọi là vô gián”. Văn kinh: Họ đều được ánh sáng soi đến nơi trú xứ. Tán rằng: Ba là nói về ánh sáng thường chiếu soi. Văn kinh: Các hữu tình đó thấy ánh sáng ấy rồi, nhờ năng lực ánh sáng cho nên đều được an vui xinh đẹp, thù thắng vi diệu, sắc tướng đầy đủ, phước trí trang nghiêm, được thấy các Đức Phật. Tán rằng: Bốn là chính thức nói về ánh sáng và lợi ích. Trong đó lại có bốn: Được an vui. Được xinh đẹp. Được phước trí. Được thấy Phật. Hỏi: Thấy ánh sáng được an vui rồi lìa xa chướng trước đó, sao lại vì đó nói lợi ích sám hối? Đương nhiên thấy ánh sáng nên tội tiêu diệt, liền được thấy ánh sáng, nên nghe pháp mà tội tiêu trừ tức là nói pháp. Hoặc nhìn thấy tạm thời sám hối khiến dứt hẳn, đồng thời ánh sáng là đời hiện tại, pháp thông suốt vị lai. Văn kinh: Lúc đó, trời Đế-thích tất cả thiên chúng và vô số nữ thần cùng tất cả đại chúng được thấy ánh sáng hy hữu đến chỗ Phật đi quanh bên phải ba vòng, rồi lui về ngồi một phía. Tán rằng: Đây là tìm theo ánh sáng đến chỗ Phật. Văn kinh: Bấy giờ, Thiên Đế-thích nhờ uy lực Phật liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi sửa y bày vai phải, gối sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật bạch Phật rằng: Bạch Thế tôn!. Tán rằng: Đế-thích bắt đầu thỉnh cầu, có bốn: Nghi thức thỉnh cầu pháp. Nơi thỉnh cầu chính. Vốn vì cơ nghi. Pháp thỉnh cầu. Đây là hai phần đầu, trong phần một có ba: Người năng thỉnh. Năng lực được nhờ. Nghi thức thích hợp. Văn kinh: Vì sao thiện nam, thiện nữ nguyện cầu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tu hành Đại thừa tiếp nhận tất cả hữu tình tà đạo đã từng gây các nghiệp chướng tội lỗi? Vì sao sám hối sẽ được dứt trừ?. Tán rằng: Đây là hai phần sau. Trong “Vốn vì cơ nghi” có hai: Đầu tiên là người năng hành pháp, tiếp đó là những lợi ích về nhiếp thọ. Trong đây, tu hành cũng từ sự tập quen, nhưng Bồ-tát vì hoài bão lợi tha là trước tiên cho nên chỉ đưa ra vì người khác, lý thật cũng là tự hành, thỉnh pháp có thể biết. Văn kinh: Đức Phật bảo trời Đế-thích: Lành thay! Lành thay! Này người thiện nam! Nay ông tu hành muốn vì vô lượng, vô biên chúng sinh khiến cho đạt được thanh tịnh giải thoát an vui, thương xót thế gian, phước lợi tất cả. Tán rằng: Thứ ba Như lai giảng nói, có sáu: Trả lời pháp thỉnh cầu. “Nếu có tịnh tín v.v…” trở xuống là khen ngợi sự thù thắng, khuyến khích thực hành. “Bấy giờ, Thiên đế v.v…” trở xuống là nương theo khuyến khích tu học. “Ta nhớ thuở xưa v.v…” trở xuống là dẫn bản thân làm chứng thực. pháp. “Nếu có Bí-sô v.v…” trở xuống là nói về lợi ích thực hành “Bấy giờ, Thích, Phạm v.v…” trở xuống là Thích, Phạm kể rõ sự thành tựu. Trong phần trả lời pháp thỉnh cầu có: Đầu tiên khen ngợi, sau đó trả lời. Trong khen ngợi, đầu tiên là khen ngợi chung, sau đó khen ngợi riêng. Trong khen ngợi riêng, đầu tiên khen ngợi tự lợi, nghóa là “nay ông tu hành”, tiếp theo khen ngợi lợi tha, “Muốn vì vô lượng v.v…”. Trong khen ngợi lợi tha, đầu tiên khen ngợi lợi tha, sau đó giải thích lý do. Rằng “Vì vô lượng chúng sinh” ấy theo Du-già quyển bốn mươi sáu có năm vô lượng: Hữu tình giới vô lượng. Thế giới vô lượng. Pháp giới vô lượng. Điều phục giới. Điều phục phương tiện giới. Hữu tình giới tức là những nơi lợi sinh. Thế giới tức là những nơi có thể giáo hóa. Pháp giới tức là pháp ba tánh. Nghóa là do pháp này trở thành nhiễm tịnh cho nên điều phục giới tức là chủng tánh khác nhau. Do chủng tánh này có khả năng. Điều phục phương tiện giới tức là pháp có thể thành tựu hữu tình. Vô lượng tức là chúng sinh giới, vô biên tức là thế giới, hoặc cùng chung cả hai. Khiến được an vui v.v… là điều phục giới, đồng thời các chướng dứt trừ tức là pháp giới vô lượng. Nay ông tu hành tức là điều phục phương tiện giới. Cho nên kinh Vô Cấu Xưng chép: “Nên dùng pháp này mà giáo hóa hữu tình chính là tu pháp này”. An vui nói là Bồ-đề, Niết-bàn, nên trong Duy Thức quyển mười chép: “Hai tự tánh này đều không có ép ngặt, và thường an vui cho nên hai chuyển y đều gọi là an vui, vốn lìa hai chướng gọi là thanh tịnh giải thoát”. Thương xót tức là Đại bi cứu khổ, phước lợi tức là Đại từ ban vui. Văn kinh: Nếu có chúng sinh vì nghiệp chướng cho nên gây ra các tội lỗi ấy. Tán rằng: Chính thức trả lời có hai: Đầu tiên trình bày sơ lược, chỉ khiến diệt ác; tiếp đó “thiện nam có bốn nghiệp chướng v.v…” trở xuống, nói về rộng, cũng khiến cho sinh điều lành. Trong phần đầu lại có hai: Đầu tiên chính thức nói về pháp sám hối; sau đó “Nếu người thành tựu bốn pháp v.v…” trở xuống nói về người năng hành. Hoặc đầu tiên nói về tạm thời dứt trừ, sau đó nói về dứt hẳn. Trong thành tựu sám hối lại chia làm năm: Nói về người cần phải sám hối. “Cần phải cố gắng v.v…” trở xuống nói về phương thức nghi quỹ sám hối. “Con từ vô thỉ v.v…” trở xuống chính thức nói về sám hối. “Dùng nhân duyên này v.v…” trở xuống là kết thúc khuyến khích tu hành. “Vì sao tất cả các pháp từ nhân duyên sinh v.v…” trở xuống là giải thích lý do. Đây là mở đầu. Do nghiệp chướng cho nên gieo trồng túc nghiệp, gây ra các tội lỗi, đó là lại khởi hiện. Đây là do túc nhân tạo nghiệp quyết định, nếu không như vậy thì Bồ-tát và các Đức Như lai trong tất cả mọi lúc quán thấy lẽ ra khởi nghiệp, hạn chế khiến cho không thể tạo tác. Vì sao tạo tác được? Vì quyết định. Nếu không như thế vì sao các Đức Phật đợi đến sau khi gây ra rồi mới dạy cho sám hối. Nếu như vậy thì tất cả ng- hiệp đều quyết định tạo tác, nên không có gì bất định. Đáp: Tuy nhất định tạo nghiệp nhưng cảm lấy quả bất định. Vì thế kinh luận lại dựa vào cảm quả mà chia ra định, bất định, giả như đó là người tạo nghiệp. Lại giải thích: Bởi vì nghiệp chướng chính là nghiệp thiện ác, gây các tội lỗi thì chiêu cảm lấy quả, nghiệp là năng tạo, quả là sở tạo. Lại giải thích: Có cả hai nghóa trước. Văn kinh: Cần phải cố gắng ngày đêm sáu thời, vén y bày vai phải, gối phải sát đất, chắp tay cung kính một lòng chuyên niệm miệng tự nói rằng. Tán rằng: Chính thức nói về phương thức nghi quỹ, có bốn: Khiến cho tác ý, tức là gia hạnh và thẩm quyết tư (suy nghó kỹ càng) tức là cần phải cố gắng. Nói về thời gian, ngày đêm sáu thời, nói đến phát động suy nghó phát khởi từ ba nghiệp, đây là thân ý ngữ. Vén y v.v… là thân nghiệp, một lòng chuyên niệm là ý nghiệp, miệng tự nói ra là ngữ nghiệp. Văn kinh: Quy mạng đảnh lễ hiện tại mười phương tất cả các Đức Phật rồi được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tán rằng: Đối với người sám hối. Trong đó chia làm hai: Đầu tiên là kiền thành cung kính đảnh lễ tán thán, sau đó “Các Đức Thế tôn v.v…” trở xuống là chí thành thỉnh cầu ấn chứng. Đây là mở đầu. Văn chia làm hai: Đầu tiên là đời hiện tại, tiếp đó “Những điều như vậy trở xuống là đời quá khứ và vị lai. Trong phần đầu lại có hai: Đầu là lễ lạy, sau là khen ngợi. Đây là phần lễ lạy. Suốt đời kính thành cho nên nói là quy mạng, biểu hiện rất mực cung kính nên nói là đảnh lễ. Trong phần khen ngợi: Đầu tiên là khen ngợi tự lợi đạt được Bồ-đề, sau đó là khen ngợi lợi tha xoay bánh xe pháp. Đây là mở đầu. Văn kinh: Chuyển bánh xe diệu pháp, vững vàng nương theo bánh xe pháp, rưới cơn mưa đại pháp, gióng trống đại pháp, thổi kèn đại pháp, dựng cờ đại pháp, cầm đuốc đại pháp. Tán rằng: Đây là khen ngợi lợi tha. Đầu tiên nói về thuyết pháp, sau đó nói về lợi tha. Tám câu trong đó, ba câu đầu là nêu ra, năm câu tiếp là giải thích. Trong này có hai cách giải thích, đầu tiên xoay bánh xe pháp ở thấy đạo, y theo pháp luân ở tu đạo, trì giữ ở vô học, nghóa có cả ba thừa. Trong kiến đế đạo cùng quán tất cả bốn đế trên dưới đều chuyển v.v… nên riêng được gọi là Chuyển. Tu đạo lìa chướng, lại quán diệu lý chỉ có thể gọi là Chiếu. Vô học thường thâu nhiếp đức hữu vi, vô vi nên được gọi là Trì. Rưới mưa đại pháp là thắng giải hạnh vị, gióng trống đại pháp ở kiến tu vị, thổi kèn đại pháp về sau là ở vô học vị. Lại giải thích: Ba câu đầu theo kinh Giải Thâm Mật nói là ba thời giáo, Trì ở đây phải thuộc về sau. Theo văn nói thì Trì ở trước Chiếu. Trong năm câu sau, câu thứ nhất tức là xoay bánh xe pháp, theo luận Kinh Pháp hoa chép: “Người đã dứt nghi, giúp cho thành tựu trí thân, tức là khiến đạt được quả Nhị thừa”. Gióng trống đại pháp tức là chiếu pháp luân, luận Kinh Pháp hoa chép: “Người đã thành tựu trí thân, bày rõ hai thứ cảnh giới bí mật”. Nói Nhị thừa là hướng về đại phương tiện, người khác không thể biết gọi là cảnh giới bí mật, ba vô tánh v.v… cũng là ý bí mật. Nay ở đây chỉ có bày rõ cảnh giới bí mật của Nhị thừa, thảy đều là trống đại pháp tuyệt vời. Tiếp đó ba thứ thổi kèn đại pháp v.v… là trì pháp luân. Đầu tiên là nói pháp, tiếp đến là đắc trí, sau cùng là quán lý, tức là khiến đạt đến Bồ-đề, Niết-bàn, trong kinh Pháp Hoa y theo “Tròn đầy năng”, sau pháp tràng mới nói đến thổi loa. Ở đây y theo khả năng thuyết giáo cho người khác nghe, giúp cho đạt được hai quả, đằng trước pháp tràng nói đến thổi loa, như Bồ-tát Diệu Quang trì kinh Diệu Pháp Hoa hóa độ tám vị vương tử đều được thành tựu quả Phật. Trong phẩm Tín Giải các vị như Ca-diếp v.v… nói: “Chúng ta bây giờ đúng là Thanh văn, đem âm thanh Phật đạo khiến cho tất cả đều nghe”. Văn kinh: Vì muốn lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh nên thường thực hành pháp thí khuyên bảo dẫn dắt chúng sinh khiến đạt được đại quả, chứng đắc thường lạc. Tán rằng: Lợi tha. Khiến cho người khác đạt được quả thế gian gọi là lợi ích, đạt được quả xuất thế gọi là an vui. Dùng giáo truyền thọ cơ nghi gọi là Pháp thí. Người chưa phát tâm làm cho phát tâm gọi là dụ (khuyên bảo), đã phát tâm rồi giúp cho đạt được thành tựu gọi là tiến (dẫn dắt), người đã thành tựu giúp được giải thoát gọi là khiến đạt được đại quả, vì chứng được thường lạc. Tự tánh Niết-bàn là thường, ba thứ Bồ-đề là thường, sở y bốn trí là thường, cho nên đều gọi là thường. Còn lạc như trước đã giải thích. Văn kinh: Những điều như vậy con đem thân, ngữ, ý cúi đầu quy y, dốc lòng cung kính đảnh lễ các Đức Phật Thế tôn. Tán rằng: Các Đức Phật đời quá khứ và vị lai. Văn kinh: Các Đức Thế tôn dùng tuệ chân thật, dùng mắt chân thật, chân thật chứng minh, chân thật bình đẳng, biết rõ thấy rõ nghiệp thiện ác của tất cả chúng sinh. Tán rằng: Chí thành thỉnh cầu ấn chứng, vì Phật có đủ năm thứ: Đầy đủ hai trí gọi là chân thật tuệ. Đầy đủ năm mắt cho nên gọi là chân thật nhãn. Thường chân thật chứng biết đầy đủ hai nghóa trước. Tâm bình đẳng chứng lý bình đẳng, y theo ba niệm mà an trụ. Thường thấy biết ý như vậy. Vì Phật có đủ hai trí cho nên biết rõ chúng sinh, đủ năm thứ mắt cho nên thấy rõ chúng sinh. Do đó, ngày nay chí thành cầu thỉnh Đức Phật chứng minh cho, tức trong luận Bát-nhã Kinh của ngài Vô Trước chép: “Kiến, Trí, Tịnh đầy đủ an trụ. Kiến tức là năm thứ mắt, trí tức là hai trí. Từ nhục nhãn, Thiên nhãn thấy sắc uẩn, sắc thân của tất cả chúng sinh; từ pháp nhãn cho nên thấy bốn uẩn danh thân của tất cả chúng sinh; tức là thấy thân nghiệp, ngữ nghiệp là nhục nhãn và Thiên nhãn, thấy ý nghiệp là pháp nhãn, thấy tất cả là Phật nhãn”. Trong Du- già quyển tám mươi hai chép: “Thành tựu minh nhãn, có đủ ba mắt, ba mắt tức là nhục nhãn, Thiên nhãn và tuệ nhãn, trong tuệ phần sau là pháp tuệ, thể là một. Ở quả gọi là Phật nhãn, thể chính là ba loại mắt, do đó không nói là năm. Vì Phật có trí, biết là biết rõ vắng lặng hay không vắng lặng, tức là biết rõ trú niệm, trú phi niệm, trú hoại duyên pháp niệm, có cả trí căn bản, và đủ năm thứ mắt, có khả năng thấy biết nghiệp lành hay không lành trong hành động”. Y theo ba niệm trụ nhìn thấy tất cả oán thân, cho nên thỉnh cầu làm chứng. Lại nữa, chân thật chứng minh lai có hai nghóa: Kể rõ minh chứng của Phật. Cầu thỉnh chứng minh cho. Nếu chỉ là chứng thực phải ở sau nói rõ, bởi vì có cả hai nghóa cho nên nói ở giữa, cũng như Thập Trụ Tỳ-ba-sa, nói “Tất cả các Đức Phật mười phương biết rõ tất cả, nay con dốc lòng đối trước các Đức Phật phát lộ các tội lỗi xấu ác v.v…”. Văn kinh: Con từ vô thỉ sinh tử đến nay trôi theo dòng đời xấu ác, cùng các chúng sinh gây ra nhiều nghiệp chướng tội lỗi. Tán rằng: Chính thức nói về sám hối. Văn chia làm ba: Đầu tiên nêu chung, tiếp đến sám hối riêng, sau cùng là thuận theo. Đây là mở đầu. Tùy ác là tùy theo bạn ác, tùy theo hoặc nghiệp. Trôi lăn là nhận chịu quả sinh tử, chủng tử là dòng, hiện quả là chuyển, mê hoặc tùy theo điều ác của hoặc nghiệp là tập đế, trôi theo quả ác là khổ đế, xoay chuyển dựa theo khổ đế, lại cùng chúng sinh phát khởi tập đế gây ra các nghiệp. Văn kinh: Bị sự trói buộc của tham, sân, si nên không biết Phật, không biết Pháp, không biết Tăng, không biết thiện ác. Tán rằng: Tiếp đến sám hối riêng. Lại chia làm ba: Đầu tiên nêu ra nhân tạo nghiệp ác, tiếp theo là nghiệp đã tạo, sau đó là quả thành, cũng tức là như dưới đây sám hối hoặc, nghiệp, khổ. Đây tức là sám hối hoặc khởi nghiệp nhân. Bởi vì sự trói buộc của ba độc ấy nên không thể nào tự tại. Khởi các điều ác vốn gọi là gốc không lành, như luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa nói: “Ba lần ba hợp lại thành chín thứ, từ ba phiền não mà khởi”. Hợp thành chín loại tức là ba nghiệp thân, ngữ, ý có hiện tại, vị lai và nghiệp ba cõi cho nên nói là ba lần ba; đều do tham, sân, si mà phát khởi gọi là từ ba mà phát khởi. Trong Vô Minh Thắng Bổn nói là không biết Tam bảo, thiện ác. Văn kinh: Từ thân, ngữ, ý gây ra tội lỗi vô gián. Tán rằng: Sám hối nghiệp chướng trong đó chia làm ba: Đầu tiên nêu ra nghiệp chướng, tiếp đó thỉnh Phật chứng minh, sau cùng chính thức sám hối. Trong phần đầu có ba, đó là tổng quát, riêng biệt, kết thúc, ba phần văn thứ lớp như sau. Trong riêng biệt, đầu tiên là nghiệp năm tội nghịch. “Thấy có người hơn” trở xuống là dư nghiệp. Đây là văn mở đầu. Dựa theo kinh Tát-già Ni-kiền Tử v.v… có năm tội nghịch của Đại thừa. Văn kinh: Ác tâm làm cho thân Phật chảy máu, phỉ báng chánh pháp, phá hòa hợp Tăng, giết A-la-hán, giết hại cha mẹ. Tán rằng: Đây là năm điều nghịch cả ba thừa đều nói. Là điều nghịch thứ tư trong bất cộng nghịch của Đại thừa. Phỉ báng chánh pháp cũng là phá hòa hợp Tăng, chê tám Chánh đạo của Phật là chẳng phải chánh đạo, nói năm pháp của Tiểu thừa là chánh đạo, vì vậy nói là phỉ báng chánh pháp. Nói về năm pháp, trong Đại thừa không thấy văn đó. Theo Nhất Thiết hữu bộ, trong Đại Tỳ-bà-sa quyển một trăm mười sáu chép: “Năm pháp là gì? Suốt đời mặc y phấn tảo. Suốt đời khất thực. Suốt đời chỉ ăn một bữa. Suốt đời thường ở nơi vắng vẻ. Suốt đời không ăn tất cả các thứ cá thịt, muối bơ sữa v.v…”. Trong Chánh Lý Luật Nhiếp nói năm pháp có khác, đầy đủ như luận đó nói. Hoặc phỉ báng chánh pháp là điều nghịch thứ hai của Đại thừa. Ở đây nói phỉ báng chánh pháp trước phá hòa hợp Tăng, bởi vì chê bai Phật và chánh pháp giống nhau cho nên ở đây phải nói, không phải thuộc về phá Tăng. Văn kinh: Thân ba, ngữ bốn, ý ba gây ra mười nghiệp ác tự mình gây ra, xúi người khác gây ra, thấy người gây ra vui theo, đối với các bậc thiện nhân bất ngờ sinh ra chê bai đấu đá lừa dối, lấy giả làm thật, thức ăn uống bất tịnh đem cho tất cả, tất cả cha mẹ trong sáu đường lại não hại nhau. Tán rằng: Điều nghịch thứ năm. Đó là sống trong vô minh thường gây mười nghiệp không lành. Đầu tiên là nêu chung, sau đó trình bày sơ lược riêng. “Đối với các bậc thiện nhân v.v…” trở xuống là trình bày sơ lược riêng, sinh ra chê bai là ngữ nghiệp không lành, đấu đá lừa dối lấy giả làm thật là trộm cắp, thức ăn uống bất tịnh đem cho các chúng sinh là tham nghiệp bất thiện, tiếc tốt cho xấu nên đại não hại lẫn nhau là sân nghiệp bất thiện. Văn kinh: Hoặc trộm cướp vật trong chùa tháp, vật của Tăng bốn phương, vật của Tăng hiện tiền, tự nhiên mà có. Tán rằng: Đó là điều nghịch thứ nhất. Bởi vì trộm cướp tài vật của Tam bảo. Văn kinh: Pháp luật của Thế tôn không ưa thích vâng làm, thầy tổ chỉ dạy không hề vâng theo, thấy hàng Thanh văn, Độc giác, Hành giả Đại thừa thì thích mắng nhiếc, làm nhục khiến cho các vị thực hành sinh tâm ân hận buồn bực. Tán rằng: Đó là điều nghịch thứ hai. Đầu tiên là trái với sự dạy dỗ, tức là che đậy giấu giếm. “Thấy hàng Thanh văn v.v…” trở xuống là phỉ báng người, đồng thời chứa đựng điều nghịch thứ ba. Văn kinh: Thấy có người hơn mình thì sanh tâm ganh ghét, pháp thí tài thí thường sinh ra tiếc lẫn, vô minh che lấp, tà kiến mê hoặc tâm tư. Tán rằng: Nói về sám hối các nghiệp khác. Đầu tiên nêu ra nhân phát khởi nghiệp, ganh ghét tiếc lẫn tức là tùy hoặc mười triền cái, vô minh tà kiến chính là gốc rễ của hoặc, đều y cứ theo nghóa hơn hẳn mà nói. Văn kinh: Không tu nhân lành khiến cho điều ác lớn mạnh, đối với giáo pháp các Đức Phật đã nói lại khởi lên phỉ báng, pháp nói chẳng phải pháp, chẳng phải pháp nói là pháp, những tội như vậy. Tán rằng: Tức là nghiệp sinh khởi mới huân tập khiến cho tăng thêm, các nghiệp chẳng lành vốn có khiến cho lớn mạnh, tiếp đó đối với Phật pháp khởi lên các nghiệp không lành. Văn kinh: Các Đức Phật dùng tuệ chân thật, mắt chân thật, chân thật chứng minh, chân thật bình đẳng, biết rõ thấy rõ. Tán rằng: Hai là thỉnh Phật chứng minh. Văn kinh: Nay con quy mạng đối trước các Đức Phật đều phát lộ hết không dám che giấu, tội lỗi chưa làm thì không dám làm, tội lỗi đã làm nay đều sám hối. Tán rằng: Ba là chính thức bày tỏ sám hối. Văn kinh: Các nghiệp chướng đã gây phải đọa vào đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la chúng và nơi có tám nạn, con nguyện đời này nghiệp chướng vốn có đều được tiêu trừ, tất cả ác báo vị lai không thọ, Tán rằng: Sám hối báo chướng. Văn kinh: Cũng như các vị Đại Bồ-tát tu hạnh Bồ-đề ở đời quá khứ, tất cả nghiệp chướng đều đã sám hối, nghiệp chướng của con nay cũng sám hối, đều phát lộ hết không dám che giấu, tội đã gây ra nguyện được tiêu diệt, lỗi vị lai càng không dám tạo. Tán rằng: Sau cùng là thuận theo trong sám hối. Ba đời là ba, ở đây đồng với quá khứ. Đầu tiên nêu ra người khác, “nghiệp chướng của con v.v…” trở xuống là tự mình thực hiện. Văn kinh: Cũng như các vị Đại Bồ-tát tu hạnh Bồ-đề ở đời vị lai, tất cả nghiệp chướng thảy đều sám hối, nghiệp chướng của con nay cũng sám hối, thảy đều phát lộ, không dám che giấu, tội lỗi đã gây nguyện được tiêu diệt, điều ác vị lai càng không dám tạo. Cũng như các vị Đại Bồ-tát tu hạnh Bồ-đề khắp mười phương thế giới ở đời hiện tại, tất cả nghiệp chướng cũng đều sám hối; nghiệp chướng của con nay cũng sám hối, thảy đều phát lộ, không dám che giấu, tội lỗi đã làm con nguyện được tiêu diệt, điều ác vị lai lại càng không dám tạo. Tán rằng: Hai điều còn lại cũng giống như trên. Văn kinh: Này người thiện nam! Vì nhân duyên này nếu có gây ra tội lỗi trong một sát-na cũng không được che giấu, huống là một ngày một đêm, cho đến lâu dài. Tán rằng: Thứ tư là kết thúc khuyến khích tu hành. Trong đó chia làm hai: Đầu tiên nêu ra tội lỗi khuyên nhủ sám hối; tiếp đó “Nếu có nguyện sinh v.v…” trở xuống là nêu ra lợi ích khuyến khích tu hành. Trong phần đầu lại có hai: “Vì nhân duyên này” là kết thúc phần trước đây. Nhân duyên ấy là nguyên nhân, bởi do nghiệp ác nên chiêu cảm quả ác, đã có nguyên nhân tổn giảm như vậy, lại như các vị Bồ-tát là muốn tu hạnh Bồ-đề chắc chắn phải sám hối, cho nên đây là nhân duyên. “Nếu có gây ra tội lỗi v.v…” trở xuống là chính thức khuyên nhủ. Văn khuyên nhủ có ba đó là Pháp, Dụ, Hợp. Trong Pháp có ba: Đầu tiên khiến không dừng lại trong chốc lát, tiếp theo khiến cho trở lại thanh tịnh trong lòng hổ thẹn thực sự; sau cùng khuyên nhủ nên như trước sám hối. Sát-na có nhiều thứ, trải qua thời gian một sát-na sinh diệt hãy còn không nên dừng lại, huống gì là dài lâu, như chất độc trong mũi tên không thể tạm thời chịu đựng nổi. Văn kinh: Nếu có phạm tội muốn cầu thanh tịnh, lòng dạ hổ thẹn tin rằng ở vị lai chắc chắn có ác báo, sinh ra vô cùng kinh sợ, nên như vậy mà sám hối. Tán rằng: Văn ở hai phần sau là do hổ thẹn nên từ chối điều ác. Do tin nhân quả có thiện báo, ác báo, cho nên sinh ra kinh sợ vô cùng. Văn kinh: Như người bị lửa cháy đầu cháy áo cầu cứu khiến cho lửa mau chóng dập tắt, nếu tâm chưa diệt không thể yên ổn, như người phạm tội cũng giống như vậy, tức thì phải cầu sám hối khiến mau chóng dứt trừ. Tán rằng: Dụ và hợp có thể biết. Văn kinh: Nếu có ý nguyện sinh vào nhà giàu sang sung sướng, tài vật dồi dào lại muốn phát tâm tu tập Đại thừa, cũng cần phải sám hối dứt trừ nghiệp chướng], Tán rằng: Dưới đây là nêu ra lợi ích khuyến khích tu hành, có ba: Trước tiên nêu lợi ích hữu lậu khuyến khích tu hành, sau đó nêu lợi ích vô lậu khuyến khích tu hành. Trong hữu lậu, đầu tiên nêu ra cõi Dục, sau đó nêu ra cõi Sắc. Trong cõi Dục, đầu tiên là người, tiếp theo là trời. Bốn dòng họ trong loài người, đầu tiên nêu ra hai loại Phệ-xá, Thủ-đà để khuyến khích, sau đó nêu ra Tịnh Hạnh, Sát-đế-lợi để khuyến khích. Đây là hai loại đầu. Văn kinh: Muốn sinh vào nhà quyền thế sang trọng, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi và Chuyển luân vương đầy đủ bảy báu cũng cần phải sám hối diệt trừ nghiệp chướng. Tán rằng: Hai loại sau. Văn kinh: Này người thiện nam! Nếu có người muốn sinh lên các tầng trời Tứ Thiên vương, tầng trời Tam thập tam, tầng trời Dạ-ma, tầng trời Đổ-sử-đa, lại tầng trời Biến hóa, tầng trời Tha hóa tự tại cũng cần phải sám hối diệt trừ nghiệp chướng. Tán rằng: Nêu ra các tầng trời cõi Dục để khuyến khích. Văn kinh: Hoặc muốn sinh lên các tầng trời Phạm chúng, Phạm phụ, Đại phạm, Thiểu quang, Vô lượng quang, Cực quang tịnh, Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh, Vô vân, Phước sinh, Quảng quả, Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến, Sắc cứu cánh cũng cần phải sám hối diệt trừ nghiệp chướng. Tán rằng: Nêu ra các tầng trời cõi Sắc để khuyến khích. Như các kinh luận Du-già, Tạp Tập, Trí Độ, Trường A-hàm, Khởi Thế, Chánh Pháp Niệm, Chánh Lý, Bà-sa, Lâu Thán v.v… đã nói rộng như thế. Còn Chánh Lý chép: “Đại phạm vốn có sở hóa, sở lãnh cho nên gọi là Phạm chúng. Ở trước Đại Phạm là hàng ngũ thị vệ, cho nên gọi là Phạm phụ. Sinh ra từ nhiều điều lành, do đó gọi là Phạm. Phạm này tức là Đại cho nên gọi là Đại Phạm. Từ đó gặt hái được sự tónh lự trung gian, sinh ra đầu tiên, mất đi sau cùng, uy đức đều thù thắng cho nên gọi là Đại. Ở trong địa phương của mình ánh sáng yếu nhất cho nên gọi là Thiểu quang. Ánh sáng chuyển sang thù thắng khó đo lường được nên gọi là Vô lượng quang. Ánh sáng thanh tịnh soi chiếu khắp địa vị của mình, cho nên gọi là Cực quang tịnh. Ý địa thọ lạc gọi là Tịnh, ở trong địa vị của mình chỉ có tịnh nhỏ nhất như vậy, nên gọi là Thiểu tịnh. Tịnh này càng tăng thêm khó đo lường được nên gọi là Vô lượng tịnh. Tịnh này rộng khắp, cho nên gọi là Biến tịnh. Lìa chỗ ở trên mây cho nên gọi là Vô vân. Phước chuyển sang thù thắng nên gọi là Phước sinh. Phước đó thù thắng nhất trong chúng sinh có sắc thân, nên nói là Quảng quả. Các bậc Thánh lìa dục dùng nước Thánh đạo tưới vào phiền não cáu bẩn, nên gọi là Tịnh. Nơi dừng lại của tịnh thân gọi là Tịnh cư, đồng thời trong cõi trời này toàn là nơi Thanh hiền cư ngụ nên gọi Tịnh cư. Phiền nghóa là bộn bề phức tạp, hoặc nghóa là đông đúc dầy đặc. Đầu tiên trong này không có phiền tạp, bởi vì về sau sinh ra phiền não nên gọi là Nhiệt. Ở đây đầu tiên xa lìa được gọi là Vô nhiệt. Hình sắc các vị trời đó khôi ngô đẹp đẽ hơn hẳn hai tầng trời dưới, nên gọi là Thiện hiện. Hình sắc chuyển sang thù thắng hơn mọi người đều thích nhìn nên gọi là Thiện Kiến. Hình sắc của các vị trời đó thật là thắng diệu, trời khác không sánh bằng nên gọi là Sắc cứu cánh, hoặc là trời này đã đến nơi cuối cùng của thân nương vào các khổ nên gọi là Sắc cứu cánh”. Văn kinh: Nếu muốn cầu quả Dự lưu, Quả nhất lai, quả Bất hoàn, Quả A-la-hán cũng cần phải sám hối dứt trừ nghiệp chướng. Hoặc muốn nguyện cầu ba minh, sáu thông, Thanh văn, Độc giác, Tự tại Bồ-đề đến Rốt ráo địa. Tán rằng: Nêu ra quả vô lậu để khuyến khích có ba: Đầu tiên nói chung về Thanh văn, kế là nói đều được giải thoát đến nơi bờ kia. Hai quả trong Tiểu thừa đúng là phần thực hành duy nhất trong Độc giác, tuy hai địa vị khác nhau nhưng đều được hoàn toàn giải thoát. Ba minh, sáu thông như các nơi khác có phân biệt rõ. Văn kinh: Cầu Nhất thiết trí, tịnh trí, bất tư nghị trí, bất động trí, Tam-miệu Tam-bồ-đề chánh biến trí cũng cần phải sám hối diệt trừ nghiệp chướng. Tán rằng: Nêu ra Đại quả để khuyến khích. Đầu tiên là bốn trí, trí tánh gọi là trí. Từ “Tam-miệu v.v…” về sau, trí tướng gọi là trí. Nhất thiết trí, căn bổn trí là năng chứng. Lặp lại trí ấy là trí tánh sở chứng. Ý nói rõ trí tánh là căn bổn, tức là trí tánh này lìa hai chướng nên gọi là tịnh trí. Không phải người khác có thể biết nên gọi là bất tư nghị. Lìa sinh diệt gọi là bất động, tức là A-nậu-đa-la. Tam-miệu v.v… như thông thường đã giải thích. Như luận Bát-nhã Kinh của Vô Trước giải thích: “Đầy đủ trí đức và đoạn đức là Vô thượng Bồ-đề, hoặc trở lại kết hợp chung riêng phối hợp với phẩm Tứ Trí. Là trí chung của Nhất thiết trí”. Theo luận Đại Trang nghiêm quyển ba chép: “Trí Tịnh là do quán sát chuyển đổi năm thức mà được, có thể ở trước đại chúng nói pháp dứt nghi, rưới mưa đại pháp thường khiến cho người thanh tịnh, nên gọi là tịnh trí”. Lại tổng hợp tất cả các pháp Đà-la-ni, các pháp Tam-muội, đối với cảnh biết được thường không có chướng ngại, tự không đắm nhiễm như vậy nên cũng gọi là tịnh. Bất tư nghị là trí thành sự chuyển đổi thức thứ sáu mà được, đối với tất cả thế giới thực hiện các thứ công việc biến hóa vô lượng, vô biên không thể suy nghó bàn luận. Bất động trí là do viên cảnh trí chuyển đổi thức thứ tám mà được. Vì vậy luận ấy chép: “Bốn trí cảnh bất động là sở y của ba trí”. Giải thích rằng: Cảnh trí ấy lấy bất động làm tướng, thường làm sở y cho ba trí còn lại. Bất động là nối nhau một loại, chỉ có nghóa trao và nhận. Tam-miệu v.v… là trí bình đẳng chuyển đổi thức thứ bảy mà được. Do đó luận ấy chép: “Chúng sinh bình đẳng trí tu tịnh chứng Bồ-đề”. Giải thích rằng: Nếu tu tập trí này đến mức thanh tịnh cùng cực thì đạt được Vô thượng Bồ-đề. Do không có cùng tận, bởi vì chúng sinh không có cùng tận cho nên không có rốt ráo; vì không có rốt ráo cho nên không trụ Niết-bàn. Ý này là do chúng sinh cho nên rốt ráo không được nhập vào Niết-bàn. Lại nói chánh biến trí là ghép chung Phạm Hán. Văn kinh: Vì sao?. Tán rằng: Dưới đây giải thích về lý do sám hối diệt trừ nghiệp chướng, tức là giải thích vặn hỏi. Văn lại cha làm hai: Đầu tiên giải thích vặn hỏi, sau đó “Nếu có thiện nam v.v…” trở xuống là kết thúc thành tựu sám hối có công năng dứt trừ các điều ác. Trong phần đầu có ba: Y theo nhân duyên để giải thích. “Vì sao?” trở xuống là giải thích theo phần vô tướng. “Thiện nam! Tất cả các pháp v.v…” trở xuống là giải thích theo phần chân như. Đây là y theo nhân duyên: Đầu tiên nêu câu hỏi, sau đó giải thích. Đây là nêu câu hỏi. Ý nêu hỏi rằng: Thiện ác đều khác nhau, sinh diệt trước sau, vì lý do gì sám hối có thể diệt trừ? Lại nêu ý hỏi rằng: Điều ác đang hiện diện thì tâm sám hối chưa khởi, khi tâm sám hối phát khởi thì điều đó đã sinh và không còn tồn tại, sáng tối không ở chung nhau, lại hiện tại mới sinh liền diệt, từ lý do nào mà nói sám hối diệt trừ? Văn kinh: Này người thiện nam! Tất cả các pháp từ nhân duyên sinh. Tán rằng: Đầu tiên giải thích vặn hỏi, sau đó dẫn chứng. Đây là giải thích vặn hỏi. Tuy tất cả các pháp sinh diệt trước sau, nhưng do năng lực nhân duyên cho nên sinh ra, cũng từ năng lực nhân duyên cho nên diệt đi. Ở đây chỉ nêu ra nhân duyên sinh, chắc chắn có nhân duyên diệt, vì vậy chỉ nói lược mà không nói về diệt. Cho dù diệt không đợi nhân nhưng nói theo sinh thì như vị lai lẽ ra phải sinh những gì còn rơi rớt lại thuận theo quả năng cảm, nhờ nhân duyên sám hối khiến cho những điều đó không phát khởi cũng gọi là diệt, tức là đợi nhân diệt. Văn kinh: Như lai nói dị tướng sinh ra thì dị tướng diệt, bởi vì nhân duyên khác nhau. Tán rằng: Đây là dẫn chứng. Tất cả các Đức Như lai đều nói như vậy, cho nên nói là “Như lai đã nói”. Tướng, nghóa là thể tướng, pháp thể khác sinh ra thì pháp thể khác diệt đi. Giống như ánh sáng sinh ra nên bóng tối diệt đi. Có nhân duyên năng sinh thì có nhân duyên năng diệt; nhân duyên là nghóa của nguyên nhân, nguyên nhân có khác nhau, do đó pháp sám hối sinh ra thì pháp không lành diệt đi. Văn kinh: Như vậy các pháp quá khứ đều đã diệt đi, tất cả nghiệp chướng không còn sót lại. Tán rằng: Giải thích vấn đề nêu hỏi thứ hai, có ba: đầu tiên lặp lại “quá khứ đã diệt”, tiếp theo phân biệt rõ ngày nay sám hối tâm lành được sinh ra, sau đó phân biệt tâm sám hối đã diệt trừ nghiệp chướng. Đây là mở đầu. Như vậy, các pháp quá khứ đều đã diệt hết đó là nhắc lại quá khứ đã diệt ở trước. Pháp hiện hành là tất cả nghiệp chướng, bởi sự xông ướp kia có thể có sẽ sinh. Không còn sót lại gì, khiến cho sẽ sinh ra kia không còn sót lại gì, không y cứ hiện hành đã diệt mà nói về đoạn. Văn kinh: Các hành pháp đó chưa được sinh ra ngay nay được sinh ra. Tán rằng: Tiếp theo là phân biệt rõ ngày nay sám hối tâm lành được sinh ra. Pháp nhân duyên này trước đây không có duyên kết hợp nên chưa được sinh ra ngay, mà nay hiện rõ duyên kết hợp sám hối nên tâm lành được sinh ra. Văn kinh: Nghiệp chướng vị lai không còn phát khởi được. Tán rằng: Khiến cho nghiệp chướng muốn phát sinh ở vị lai cũng không thể nào phát khởi. Lại là lại, trở lại. Vị lai chưa sinh, hiện tại muốn sinh càng không thể sinh được. Hiện tại đã vun bồi nghiệp chủng nên nhận lấy nghiệp chướng của quả vị lai, lại không thể vời lấy quả về sau sinh khởi, có một nghiệp cảm đến nhiều đời. Đã cảm là đã diệt, chưa diệt nên phải cảm lại không thể nào phát khởi. Chưa từng với lấy tức quả người ấy chiêu cảm chính là quả khác đã sinh. Chủng loại ác là những thứ còn lại có thể chiêu cảm các nghiệp ác, không thể nào phát khởi, tức là tâm hữu lậu sám hối hàng phục đoạn diệt, tâm vô lậu sám hối tiêu trừ đoạn diệt. Ba phần nói về sám hối, đều có cả hữu lậu và vô lậu. Văn kinh: Vì sao?. Tán rằng: Thứ hai là giải thích theo vô tướng môn. Đầu tiên mượn để nêu câu hỏi, sau đó chính thức giải thích. Đây là mượn để nêu câu hỏi. Ý nêu câu hỏi rằng: Pháp đều sinh diệt, vì sao “Nhân duyên pháp khác có sinh thì pháp sinh, nhân duyên pháp khác có diệt thì pháp diệt”? Văn kinh: Này người thiện nam! Tất cả các pháp đều không. Tán rằng: Chính thức giải thích. Đầu tiên, sau khi giải thích, là dẫn chứng. Đây là giải thích. Tất cả pháp tướng sinh diệt đều là không, do đó ngay nơi tướng không có tự tánh. Văn kinh: Như lai nói không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, cũng không có sinh diệt, cũng không có hành pháp. Tán rằng: Đây là dẫn chứng. Tất cả các Đức Như lai nói “Ngã v.v… thọ giả đều là không có”, nghiêp thiện ác đã phát khởi kia cũng không có sinh diệt. Hoặc “ngã v.v… thọ giả” ngay trong các kinh như Giải Thâm Mật chép: “Tất cả các pháp đều không có tự tánh, không sinh không diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn v.v… là chướng sở diệt; đã không có sinh diệt là hành năng diệt, pháp cũng không có sinh diệt, là tất cả các pháp”. Còn kinh Phổ Hiền Quán Kinh chép: “Bởi vì năm uẩn này là không, không có tự tánh”, cho đến chép: “Tướng tâm này theo vọng tưởng mà khởi, như gió giữa hư không chẳng dừng lại nơi nào. Cũng vậy, pháp tướng không sinh ra không mất đi, cái gì là tội? Tâm không trụ không hoại không quán, không có pháp nào chẳng trụ trong pháp. Tướng như thế gọi là đại sám hối v.v…”. Văn kinh: Này người thiện nam! Tất cả các pháp đều nương vào gốc, cũng không thể nói. Tán rằng: Thứ ba là giải thích theo chân như môn để nói về lý do sám hối dứt trừ. Đầu tiên là giải thích, tiếp theo nêu câu hỏi, sau đó là thông suốt. Đây là giải thích. Bản thể của tất cả các pháp chính là chân như. Kinh Thắng-man chép: “Là nương tựa, là giữ gìn, là tạo dựng”. Kinh Duy-ma chép: “Từ vô trụ vốn lập nên tất cả các pháp”. Vì chân như vốn không sinh không diệt cũng không thể nói, cũng vì sinh diệt kia đều cùng là không. Vô tướng môn trước đây nói không có sinh diệt, theo đó biết rằng chân như môn cũng không sinh không diệt, vì vậy lược bỏ không nói đến. Đối với chân như môn rõ ràng không thể nói, theo đó vô tướng môn cũng không thể nói. Đây là vì trừ tướng năng thuyên sở thuyên kia là biến kế tánh thì thuộc về vọng đều không còn. Văn kinh: Vì sao?. Tán rằng: Đây là nêu câu hỏi. Vì nguyên nhân gì chân như không có sinh diệt cũng không thể nói? Văn kinh: Bởi vì vượt ngoài tất cả các tướng. Tán rằng: Thông suốt. Bởi vì lý chân như ngoài khỏi tướng sinh diệt. Quá là lìa xa. Lìa xa khỏi tướng sinh diệt, lìa xa khỏi cảnh nói năng. Vì thế kinh Vô Lượng Nghóa chép: “Không có tướng nào chẳng phải tướng cho nên gọi là vô tướng”. Nhiếp Luận cũng chép: “Vì không có hai tướng v.v…”. Kinh Phổ Hiền chép: “Thân tâm này như gió giữa hư không, trụ nơi lý vô tướng quy mạng tất cả Tam bảo như như. Người thực hành sám hối như vậy thân tâm thanh tịnh không trụ trong pháp, giống như dòng nước chảy, trong từng niệm niệm thấy các Đức Phật mười phương v.v…”. Văn kinh: Nếu có thiện nam, thiện nữ nào như thế hội nhập chân lý vi diệu sinh tâm tín kính, đó gọi là không có chúng sinh mà lại có gốc rễ. Tán rằng: Kết thúc thành tựu sám hối. Đầu tiên kết thúc sám hối, sau đó kết thúc thành tựu nói về chân lý. Đây là mở đầu. Kết thúc chân thành sám hối có hai: 1.Kết thúc vô lậu, tức là “Như thế hội nhập chân lý vi diệu”. Nhập là chứng. Vì không còn phân biệt nên chứng lý chân như. Phá hai chướng, dứt hai kết thúc hủ lậu tức là “sinh tâm tín kính”. Tuy chưa thể chứng mà chỉ tin hiểu chân như vô tướng, nương vào khả năng thắng giải cũng có thể dứt bỏ điều ác. Ngã và ngã sở không nương vào viên tánh mà có cho nên nói “Không có chúng sinh mà lại có gốc rễ”. Môn đầu tiên này nương vào dục, môn thứ ba nương vào chân, vô tướng có cả hai. Không nói nương vào thể tục quán đầu tiên là vì chấp hư không không thể nào dứt trừ được chướng. Văn kinh: Bởi vì nghóa này cho nên nói về sám hối diệt trừ nghiệp chướng. Tán rằng: Kết thúc thành tựu nói về chân lý. Giáo và cơ, hạnh lý tương ưng nhau. Nghóa tức là nghóa lợi. Do ba thứ tương ưng nhau mà có nghóa lợi cho nên nói về sám hối. Văn kinh: Này người thiện nam! Nếu người nào thành tựu bốn pháp có thể dứt trừ nghiệp chướng mãi mãi được thanh tịnh. Tán rằng: Trước nói về pháp sám hối, sau nói về người có thể thực hành.. Trong đó có ba: Đầu tiên nêu ra, tiếp theo giải thích, sau đó thâu nhiếp. Đây là phần nêu ra. Văn kinh: Những gì là bốn? Không khởi tà tâm, thành tựu chánh niệm. Đối với lý sâu xa không sinh tâm phỉ báng. Đối với sơ hạnh của Bồ-tát khởi tâm Nhất thiết trí. Đối với tất cả chúng sinh phát khởi từ tâm vô lượng. Đó là bốn pháp. Tán rằng: Tiếp theo giải thích có ba: Nêu câu hỏi, Giải thích, Kết thúc. Văn từng đoạn có thể biết. Ý này phù hợp cùng Phổ Hiền Sở Vấn trong kinh Diệu Pháp Hoa: “Làm sao đạt được kinh Pháp Hoa này? Đức Phật trả lời: thành tựu bốn pháp”. Ở đây, pháp thứ nhất tức là người kia đi vào nhóm chánh định, tin tưởng sâu sắc ba thừa gọi là thành tựu chánh niệm, không quy y ngoại đạo gọi là không khởi tà tâm. Pháp thứ hai tức là được Phật che chở, có thể đối với lý sâu xa không sinh ra phỉ báng, là căn cơ thành thục cho nên Phật che chở giữ gìn. Pháp thứ ba là gieo trồng các cội rễ phước đức, có thể đối với sơ hạnh của Bồ-tát khởi tâm Nhất thiết trí, tức là gieo trồng gốc lành. Pháp thứ tư tức là người kia phát tâm cứu độ tất cả chúng sinh, khởi tâm từ vô lượng thường ban cho người khác niềm vui, cũng khởi tâm bi, thường nhổ trừ gốc khổ cho người khác. Hơn nữa, y theo ban đầu nói rằng từ vô lượng, y theo nhân vốn có nói là thành tựu bốn pháp, có công năng diệt trừ nghiệp chướng, nếu phân biệt thành tựu cũng phân biệt năng sám. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế tôn mới nói bài tụng rằng: Dốc lòng giữ ba nghiệp, không bài báng thâm pháp, nghó đến Nhất-thiết-trí, từ tâm sạch nghiệp chướng. Tán rằng: Bài tụng thâu nhiếp. Có thể ở nơi ba nghiệp thành tựu được chánh niệm thành tựu tùy theo căn cơ gọi là giữ gìn ba nghiệp. Hỏi: Thế nào là tụng nhiếp? Đáp: Hành pháp, trì pháp vốn có sự khác nhau cho nên văn xuôi là khiến cho thực hành, tụng nhiếp là khiến cho nắm chắc. Văn kinh: Này người thiện nam! Có bốn nghiệp chướng khó có thể diệt trừ. Tán rằng: Phần trước nói sơ lược về sám hối diệt ác, dưới đây nói về bốn hạnh làm cho điều lành phát sinh. Trong đó chia làm hai: Đầu tiên nói về chướng sở trừ, sau đó nói về hạnh năng trừ. Trong phần đầu lại có ba: Trước tiên nêu chung, tiếp theo hỏi riêng, cuối cùng giải thích riêng. Đây là mở đầu. Văn kinh: Bốn nghiệp chướng gồm: Đối với luật nghi Bồ-tát phạm tội ác rất nặng. Tâm sinh phỉ báng đối với kinh điển Đại thừa. Đối với gốc lành của mình không thể thêm lớn. Tham trước ba cõi không có tâm thoát ra. Tán rằng: Đây là văn hai phần sau. Nêu câu hỏi ấy có thể biết. Giống như luận Du-già quyển bảy mươi chín chép: Luận đó nói rằng: “Lại nữa, Bồ-tát sơ lược có bốn loại chướng tăng thượng phẩm, nếu không dứt sạch sẽ thì không thể nào chứng được Bồ-tát địa và dần bước lên các địa khác. Những gì là bốn chướng? Đối với Tỳ-nại-da (luật tạng) của Bồ-tát hễ khởi niệm nhiễm ô là phạm. Chê bai Đại thừa, coi nhẹ diệu pháp. Không chứa nhóm gốc lành. Có tâm nhiễm ái”. Nói khởi niệm nhiễm ô liền phạm là khởi tâm nhiễm ô trói buộc thượng phẩm, phạm vào bốn nơi thù thắng khác gọi là thượng phẩm, chẳng phải tâm phạm các nhiễm ô đều thuộc về phẩm này. Kinh này chép: “Đối với luật nghi Bồ-tát phạm tội ác rất nặng”, nếu cùng tâm phạm vào nhiễm ô đều thuộc về phẩm này thì vì sao gọi là rất nặng? Bài báng pháp dựa vào bài báng ba thừa đều là trọng chướng, cũng thuộc về năm tội nghịch của Đại thừa. Nay nói Đại thừa là dựa theo học vấn của bản thân, hoặc sinh ra bài báng nên không y theo để thực hành. Tự mình không dần dần chứa nhóm phước tuệ tư lương, giả thử trước đó có tu chút ít cũng không thể nào thường sinh khởi nên nói là đối với gốc lành của mình không thể thêm lớn. Du-già chỉ dựa theo trước đó không hề tu tập nên nói là chưa chứa nhóm gốc lành. Kinh này y cứ theo không thể thường sinh khởi, hoặc y theo thượng phẩm nói là chưa hề tu tập, chẳng phải điều lành kém cỏi cũng không tu tập. Tham đắm ba cõi không có tâm mong cầu ra khỏi để đạt đến Niết-bàn. Niết-bàn là ra khỏi ba cõi. Du-già nói có hữu tức là ba hữu (ba cõi). Văn kinh: Lại có bốn thứ đối trị nghiệp chướng. Những gì là bốn? Đối với tất cả Như lai khắp mười phương thế giới dốc lòng gần gũi bộc bạch tất cả tội lỗi. Vì tất cả chúng sinh thỉnh cầu các Đức Phật nói pháp thâm diệu. Vui theo công đức vốn có của tất cả chúng sinh. Tất cả công đức gốc lành vốn có thảy đều hồi hướng về A-nậu- đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tán rằng: Phần sau nói về hạnh năng trừ. Văn đoạn này chia làm hai: Đầu tiên Đức Phật nêu chung, sau đó Thiên đế thỉnh cầu riêng. Trong phần đầu lại có ba: Đó là nêu ra, hỏi, giải thích, văn hiển bày có thể biết. Bốn loại này đối với tất cả địa vị đều thực hành như nhau, cũng như Du-già quyển bảy mươi chín có nói rõ. Văn kinh: Lúc bấy giờ, trời Đế-thích bạch Phật rằng: Bạch Thế tôn! Ở thế gian vốn có những người nam, người nữ đối với hạnh Đại thừa có người có thể thực hành, có người không thể thực hành, làm sao có thể vui theo với công đức gốc lành của tất cả chúng sinh được?. Tán rằng: Thiên đế thỉnh cầu riêng có hai: Đầu tiên, Thiên đế thỉnh cầu, sau đó Đức Phật giảng nói. Đây là phần thỉnh cầu. Thứ nhất nói tất cả tội lỗi tức thì sám hối, là trước đây đã nói về cho nên nay không hỏi. Ba thứ còn lại chưa nói, vì vậy nay thỉnh cầu được nghe. Câu hỏi đầu tiên có ba ý: Hỏi rằng: Tất cả chúng sinh có người không tu điều lành, làm sao vui theo tất cả chúng sinh? Hỏi về Pháp vui theo? Hỏi rằng: Phước đạt được bao nhiêu? Trong phần Đức Phật giảng nói: Trước tiên nói về khuyến thỉnh, tiếp theo phân biệt rõ vui theo. Vì sao Thiên đế đầu tiên hỏi về vui theo sau mới thỉnh cầu? Đáp: Vì căn cơ ưa thích, vì khuyên thỉnh khó khăn, lần lượt theo dễ hỏi trước, Đức Phật y theo phước trội hơn cho nên nêu ra trước tiên. Văn kinh: Đức Phật dạy: Thiện nam! Nếu có chúng sinh tuy đối với Đại thừa chưa thể tu tập, nhưng trong ngày đêm sáu thời, vén y bày vai phải, gối phải sát đất, chắp tay cung kính một lòng chuyên niệm, lúc thực hành vui theo được phước vô lượng. Tán rằng: Dưới đây là Đức Phật trả lời, có bốn: Trả lời câu hỏi đầu tiên và chỉ dạy phép tắc. Chính thức nhắc nhủ vui theo. Nói rõ vui theo được bao nhiêu phước. Khuyến khích tu tập. Đây là mở đầu. Nghi tắc có thể biết. Nếu có người chưa tu sẽ có thể tu, cho nên có thể vui theo, lại được nhiều phước. Văn kinh: Nên nói như vầy: Tất cả chúng sinh khắp mười phương thế giới hiện đang tu hành thí, giới, tâm, tuệ, nay con đều sinh tâm vui theo sâu sắc, bởi vì thực hành vui theo như vậy thì phước chắc chắn sẽ được quả tôn trọng, thù thắng vô thượng, vô đẳng tối diệu. Như vậy tất cả chúng sinh ở quá khứ, vị lai vốn có gốc lành con đều vui theo tất cả. Tán rằng: Trả lời ý câu hỏi thứ hai về pháp vui theo, đoạn văn chia làm bốn: Vui theo phước của phàm phu. Vui theo phước của Bồ-tát. Vui theo phước của Như lai. Vui theo phước của ba thừa. Đây là mở đầu. Đầu tiên vui theo với hiện tại, sau đó vui theo với quá khứ và vị lai. Nói rằng thế gian tu ba phước nghiệp, thí, giới và tu đều là phước, nên nói là ba phước nghiệp, quá khứ và vị lai có thể biết. Hoặc là giới học, định học, tuệ học, thí là không tham tức dấu vết của giới học; tham chướng ngại cho xuất gia nên chỉ nói về điều đó, lược bỏ không nói về không sân. Văn kinh: Lại nữa, đối với sơ hạnh Bồ-tát phát tâm Bồ-đề vốn có công đức, trải qua trăm đại kiếp thực hành hạnh Bồ-tát có công đức to lớn, đạt được Vô sinh nhẫn, cho đến không lui sụt, Nhất sinh bổ xứ, tất cả công đức sâu kín như vậy thảy đều dốc lòng vui theo khen ngợi. Tất cả Bồ-tát trong quá khứ vị lai vốn có công đức vui theo khen ngợi cũng giống như vậy. Tán rằng: Vui theo phước của Bồ-tát. Đầu tiên là Bồ-tát hiện tại, sau đó là Bồ-tát quá khứ và vị lai. Trong phần đầu có bảy vị: Sơ phát tâm vị. Thắng giải hạnh vị tức trải qua đại kiếp v.v…. địa. Tăng thượng ý lạc vị tức đạt được Vô sinh nhẫn. Hành chánh hạnh địa. Quyết định địa. Quyết định hạnh vị tức là đến không lui sụt, từ Nhị địa đến Cửu Chí cứu cánh vị, tức là dựa theo sự rốt ráo của Địa thứ mười. Lược bỏ không nói về Chủng tánh và Như lai địa. Chủng tánh tức là Tùy hành ở trước, Như lai địa nói ở sau. Nhưng đối với điều lành đều có bốn thứ, tự tác, giáo tha, khánh ủy, vui theo. Trong đây nêu hai thứ, theo đó hiển bày hai loại còn lại. Tán thán tức là khánh ủy (chúc mừng). Hoặc có thể, đối với các pháp sám hối đều có bốn thứ khác nhau, đối với vui theo có tự tác, giáo tha, cũng thuộc hai thứ do đó không nói riêng; quá khứ, vị lai có thể biết. Văn kinh: Lại nữa, đối với hiện tại mười phương thế giới tất cả các Đức Phật ứng chánh biến tri, chứng diệu Bồ-đề vì cứu độ vô biên các loài chúng sinh nên xoay bánh xe pháp vô thượng, thực hành pháp thí vô ngại, gióng trống pháp, thổi loa pháp, dựng cờ pháp, rưới mưa pháp, thương xót khuyến hóa tất cả chúng sinh đều khiến cho tin nhận, đều được nhờ pháp thí, đều đạt được đầy đủ, an vui không cùng tận. Tán rằng: Vui theo phước của Như lai. Trong vui theo phước của Như lai: Vui theo tự lợi, tức là chứng Bồ-đề. Vui theo lợi tha, tức là “Vì cứu độ v.v…” trở xuống. Trong lợi tha này đầu tiên là nói pháp, tiếp theo là chưa tin làm cho tin, đã tin khiến cho chứng nhập tức là đều được pháp thí, đã chứng nhập khiến cho thành thục tức là đều được đầy đủ, đã thành thục giải thoát tức là an vui không cùng tận. Cần phải có tâm vui theo với các Đức Phật quá khứ và vị lai, ở sau này nói chung trong ba thừa cho nên ở đây không nói. Văn kinh: Lại nữa, tất cả công đức chứa nhóm gốc lành của Bồ- tát, Thanh văn, Độc giác, nếu có chúng sinh nào chưa đầy đủ các công đức như vậy đều khiến cho đầy đủ, con đều vui theo. Tán rằng: Vui theo phước của ba thừa, có hai: Đầu tiên là vui theo hướng về, sau đó là vui theo quả. Ở đây là vui theo hướng về. Văn kinh: Như vậy, tất cả công đức của các Đức Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác ở quá khứ và vị lai, con cũng đều dốc lòng vui theo khen ngợi. Tán rằng: Dưới đây là vui theo quả. Giống như Thập Trú Tỳ-bà- sa chép: “Tất cả phước bố thí, hạnh giữ giới tu thiền”. Hành chính là tuệ, thực tập hành ba thừa là nhân hướng, đầy đủ ba thừa là quả. Tất cả phước của phàm phu hoặc vô tánh thừa, hoặc thấy đạo thừa, các thấy đạo trước đây, nhưng chỉ có vô tánh thừa là thích hợp, bởi vì có thực tập hạnh ba thừa, các kiến tạo trước đây thuộc về thực tập hạnh. Văn kinh: Này người thiện nam! Như vậy vui theo sẽ được chứa nhóm vô lượng công đức giống như tất cả chúng sinh trong hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới đều dứt trừ phiền não, thành tựu quả vị A- la-hán, nếu có thiện nam, thiện nữ nào suốt đời suốt kiếp thường đem các thứ áo quần, ăn uống, đồ nằm, thuốc thang tốt nhất mà cúng dường người ấy, nhưng công đức như vậy không bằng một trong muôn phần công đức vui theo như trước đây. Vì sao? Vì công đức cúng dường có số, có lượng, không thâu nhiếp được tất cả các công đức, bởi vì công đức vui theo vô lượng, vô số có thể thâu nhiếp tất cả công đức ba đời. Tán rằng: Trả lời câu hỏi thứ ba về bao nhiều phước. Trong văn có bốn phần: Nêu ra phước vô biên. So sánh hơn kém. Nêu câu hỏi vì sao. Vì đó giải thích thành tựu. Văn rõ ràng có thể biết. Văn kinh: Vì thế cho nên nếu có người nào muốn cầu gốc lành thêm lớn thù thắng cần phải tu tập công đức vui theo như vậy. Hoặc có người nữ nguyện chuyển thân nữ trở thành thân nam cũng cần phải tu tập công đức vui theo, chắc chắn trước như ý nguyện hiện thành thân nam. biết. Tán rằng: Thứ tư khuyến khích tu tập, văn nói rõ cũng có thể Văn kinh: Bấy giờ, trời Đế-thích bạch Phật rằng: Bạch Thế tôn! Con đã biết công đức vui theo, công đức khuyến thỉnh, nguyện xin giảng nói muốn khiến cho tất cả Bồ-tát ở vị lai sẽ xoay bánh xe pháp, tất cả Bồ-tát hiện tại chân chánh tu hành. Tán rằng: Thứ hai hỏi về khuyến thỉnh, có năm: Thiên Đế vì đó thưa hỏi. Như lai vì đó trả lời. Nói rõ phước nhiều ít. Dẫn để chứng minh. Khuyến khích tu hành. Đây là phần đầu thưa hỏi, có hai: Trước tiên kết thúc ý trước đây, tiếp theo thưa hỏi ý sau. Trong phần thưa hỏi: Đầu tiên là tin hỏi, sau đó là ý thưa hỏi. Văn kinh: Đức Phật bảo Thiên Đế: Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nguyện cầu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề thì cần phải tu hành đạo lý Đại thừa của hàng Thanh văn, Độc giác. Dưới đây là Như lai vì đó trả lời, chia làm ba: Đầu tiên khiến tu hành; tiếp theo chỉ dạy nghi pháp; sau cuối chính thức cầu thỉnh giáo pháp. Trong phần khiến tu hành: Trước hết nêu ra quả sở cầu; sau đó khiến phát khởi hạnh. Tu đạo lý Nhị thừa là khiến cho phát sinh biến trí, bởi vì có pháp không biết thì trí chẳng phải vô thượng. Đồng thời vì thành tựu đạo lý Nhị thừa kia, cũng cần nói đến pháp học của trời người, tức là phương tiện tu tập của ba thừa, do đó không nói riêng. Văn kinh: Người này trong một ngày đêm nên sáu thời, oai nghi như trước. Dưới đây là phần tiếp theo chỉ dạy nghi pháp. Văn kinh: Một lòng chuyên niệm nói lời như vầy: Nay con quy y tất cả các Đức Phật Thế tôn khắp mười phương, đã đạt được A-nậu-đa- la Tam-miệu Tam-bồ-đề, chưa xoay bánh xe pháp vô thượng, muốn xả bỏ báo thân, hội nhập Niết-bàn, con đều chí thánh đảnh lễ khuyến thỉnh chuyển đại pháp luân, rưới đại pháp vũ, thắp đại pháp đăng soi sáng nghóa lý ban cho pháp vô ngại, đừng hội nhâp Niết-bàn, thường trụ nơi thế gian. Dưới đây là phần chính thức khuyến thỉnh giáo pháp, có hai: Đầu tiên là khuyến thỉnh giáo pháp; tiếp đó là hồi hướng giáo pháp. Hỏi: Dưới đây là tự mình nói riêng về pháp hồi hướng, vì sao trong cầu thỉnh trước hết nói về hồi hướng? Đáp: Dưới đây là nói về chung. Ở đây là nói riêng, dựa theo sám hối điều lành vui theo đều cần phải hồi hướng. Trong phần đầu có hai: Đầu tiên là cầu thỉnh, sau đó là ý cầu thỉnh. Trong cầu thỉnh có hai: Trước tiên là lúc quy y chí thành cầu thỉnh, tiếp theo là chính thức cầu thỉnh. Trong cầu thỉnh có hai: Trước là cầu thỉnh nói pháp, sau là cầu thỉnh thường trụ. Cả ba nghiệp cùng cầu thỉnh. Nên ban đầu thành đạo chưa xoay bánh xe pháp thì thỉnh cầu xoay bánh xe pháp, nếu muốn xả báo thân thì thỉnh cầu thường trụ. Văn kinh: Độ thoát an vui cho tất cả chúng sinh như trước đã nói, cho đến an vui không cùng tận. Dưới đây là phần ý thưa hỏi. Đây là chỉ ví dụ như trước, nói rằng “đều khiến cho tín thọ, đều được nhờ pháp thí, đều đạt được đầy đủ, an vui không cùng tận”, do đó nói rằng “cho đến an vui không cùng tận”. Văn kinh: Nay con đem công đức khuyến thỉnh này hồi hướng về A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, như công đức khuyến thỉnh của các vị Đại Bồ-tát trong quá khứ vị lai hiện tại đều hồi hướng về Bồ-đề, công đức khuyến thỉnh của con cũng hồi hướng như vậy về vô thượng chánh đẳng Bồ-đề. Dưới đây là phần hồi hướng. Văn kinh: Này người thiện nam! Nếu có người đem bảy báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới cúng dường Như lai, nếu lại có người khuyến thỉnh Như lai chuyển đại pháp luân thì công đức đạt được và phước của người đó hơn hẳn người kia. Vì sao? Vì kia là tài thí còn đây là pháp thí. Dưới đây nói về phước nhiều ít. So sánh hiển bày điều đó có hai: Đầu tiên đưa ra ít để so sánh, sau đó nêu lên nhiều để hiểu rõ sự hơn hẳn. Trong phần đầu có bốn: Nêu ra phước bố thí. Chính thức so sánh. Nêu câu hỏi vì sao. Tạm thời giải thích sơ lược. Văn từng đoạn có thể biết. Như luận Bát-nhã Kinh có phân tích vì sao. Văn kinh: Này người thiện nam! Lại đem bảy báu trong tam thiên đại thiên thế giới bố thí, nếu có người dùng bảy báu đầy khắp hằng hà sa số thế giới đại thiên cúng dường tất cả các Đức Phật thì công đức khuyến thỉnh cũng hơn hẳn người kia, bởi vì pháp thí đó có năm lợi ích thù thắng. Những gì là năm? Đó là: Pháp thí, bao gồm lợi ích tự và tha, tài thí không được như vậy. Pháp thí có công năng giúp cho chúng sinh thoát khỏi ba cõi, phước của tài thí không thoát khỏi cõi Dục. Pháp thí thường làm thanh tịnh pháp thân, tài thí chỉ làm sắc thân thêm lớn. Pháp thí không cùng tận, tài thí có giới hạn. Pháp thí có công năng dứt trừ vô minh, tài thí chỉ hàng phục tham ái. Vì thế cho nên này người thiện nam! Công đức khuyến thỉnh là vô lượng, vô biên khó có thể thí dụ. Dưới đây là so sánh rộng, có ba: Đầu tiên là nêu ra bố thí, tiếp đó so sánh, sau cùng giải thích lý do. Trong phần giải thích lý do có bốn: Nêu ra. Gạn hỏi. Giải thích. Kết luận. Văn thể hiện có thể biết. Giải thích về pháp thí thù thắng, tài thí là kém cỏi. Phần lớn giống như luận Du-già quyển bảy mươi, luận ấy chép: Do năm nhân duyên nên pháp thù thắng hơn so với tài thí. Tài thí ở trong thân người khác phát khởi hạnh ác, pháp thí chắc chắn khởi các hạnh lành, đây là thứ nhất. Tài thí ở trong thân người khác phát khởi phiền não, pháp thí có công năng đối trị phiền não, đây là thứ hai. Tài thí ở trong thân người khác không ngừng dẫn dắt phát khởi sự an vui tội lỗi, pháp thí có công năng khiến không ngừng phát sinh sự an vui vô tội, đây là thứ ba. Tài thí nếu có Phật hiện tại hay không hiện tại cũng dễ dàng có thể đạt được, pháp thí nếu không có các Đức Phật hiện tại thì khó có thể đạt được, kinh này không có. Tài thí ban bố nên có lúc hết sạch, pháp thí ban bố mà không hề hết, đây là thứ tư. Thứ năm của kinh này, luận kia không có. Văn kinh: Như ta ngày xưa lúc thực hành đạo Bồ-tát, khuyến thỉnh các Đức Phật chuyển đại pháp luân, do gốc lành ấy cho nên hôm nay tất cả các hàng Đế-thích, Phạm vương khuyến thỉnh ta chuyển đại pháp luân. Thiện nam! thỉnh cầu chuyển đại pháp luân vì muốn độ thoát an vui cho các loài chúng sinh, vì thế ta xưa kia vì hạnh Bồ-đề khuyến thỉnh Như lai thường trụ thế gian, đừng nhập Niết-bàn. Nhờ gốc lành này ta đạt được mười Lực, bốn pháp Vô úy, bốn Vô ngại biện, đại Từ, đại bi chứng được vô số các pháp bất cộng. Ta sẽ hội nhập Niết-bàn vô dư, chánh pháp của ta thường trụ thế gian. Dưới đây là dẫn chứng, có ba: Đầu tiên đặc biệt nói về quả thưa thỉnh nói pháp, cầu thỉnh an trú. thỉnh. “Pháp thân ta đó v.v…” về sau là kết hợp nói về hai quả cầu “Những điều này đều do v.v…” về sau là kết luận. Trong phần đầu đặc biệt nói về quả: Trước hết cầu thỉnh nói pháp, “Quả của ta ngày xưa” trở xuống là sau đó nói về quả cầu thỉnh an trụ. Trong quả cầu thỉnh an trụ có bốn: Đầu tiên là trí đức; tiếp đó là ân đức, tiếp nữa là bất cộng đức, công đức mà Phật thành tựu hàng Nhị thừa chẳng thể có được, Bồ-tát không hoàn toàn, đều nói là bất cộng, sau cùng là pháp bất diệt. Văn hiển bày có thể biết. Văn kinh: Pháp thân ta đó thanh tịnh không gì sánh bằng, các thứ diệu tướng, vô lượng trí tuệ, vô lượng tự tại, vô lượng công đức khó có thể nghó bàn, tất cả chúng sinh đều được lợi ích, trăm ngàn muôn kiếp nói không thể hết. Pháp thân thâu nhiếp chứa nhóm tất cả các pháp, tất cả các pháp không thể thâu nhiếp pháp thân. Pháp thân thường trụ không rơi vào thường kiến, tuy là đoạn diệt nhưng chẳng phải đoạn kiến, thường phá tan các thứ dị kiến của chúng sinh, thường sinh ra các thứ chân kiến cho chúng sinh, thường hiểu rõ tất cả sự trói buộc của chúng sinh, không trói buộc nào có thể cởi bỏ, thường gieo trồng các gốc lành cho chúng sinh, người chưa thành thục giúp cho thành thục, người đã thành thục giúp cho giải thoát, vô tác vô động xa lìa rắc rối ồn náo, vắng lặng vô vi tự tại an vui, trải qua ba đời thường hiện rõ ba đời, ra khỏi cảnh giới Thanh văn, Độc Giác, ra khỏi mọi sự tu hành của các Đại Bồ-tát, thể của tất cả Như lai không có khác nhau]. Dưới đây là nói về hai thứ nhân quả, chia làm hai: Đầu tiên nói về Phật tự thành tựu đức, “Có công năng phá tan v.v… chúng sinh” trở xuống là nói về giúp cho người khác thành tựu đức. Trong tự thành tựu đức có hai: Nói chung về ba thân, nói riêng về ba thân. Một câu đầu là chung, đó là pháp thân ta đó thanh tịnh không gì sánh bằng, các pháp công đức nương vào chứa nhóm nơi thể, nghóa hợp lại gọi là Pháp thân. Lìa bỏ hai chướng nên gọi là thanh tịnh. Sau đó là nói riêng về ba thân. “Các thứ diệu tướng v.v…” là báo thân trí đức siêu vượt cảnh giới chấp trước. “Tất cả v.v… chúng sinh” trở xuống là Ứng thân ân đức, siêu vượt cảnh giới nói năng. “Pháp thân thâu nhiếp v.v…” trở xuống là Pháp thân đoạn đức. Vì lý thể chân như thường có mặt khắp nơi cho nên thâu nhiếp các pháp. Các pháp còn lại khác với chỗ, này do đó không thâu nhiếp, như tuy thường chẳng phải thường kiến, tuy đoạn chẳng phải đoạn kiến, vì đó là cảnh chân thật. Năng duyên chẳng phải biên, hoặc diệt tánh gọi là diệt, chứng diệt tánh này thì thường chẳng phải thường kiến, có thể làm nhiễm, đoạn chẳng phải là đoạn kiến. Các biên kiến đó chẳng phải thường thấy là thường, chẳng phải đoạn thấy là đoạn, vì thế gọi là biên, do đó không phù hợp với Trung đạo vô lậu trí. “Thường phá v.v… chúng sinh” trở xuống là khiến cho người khác thành tựu đức: Đức khiến cho người khác bỏ tà về chánh. Đức khiến cho người khác lìa trói buộc dứt trừ chướng. “Thường gieo trồng v.v…” trở xuống là đức khiến cho người khác thành tựu ứng thân. Đức khiến cho người khác chứng đầy đủ pháp thân. “Khiến cho giải thoát v.v…” về sau là vì giải thoát là hậu biên. Ngay trong pháp thân đức chia làm năm: Đầy đủ bốn đức. Siêu vượt ba đời. Vượt xa Nhị thừa. Cảnh giới Bồ-tát. Phật đồng chứng. Không phải hoặc nghiệp tạo tác gọi là vô tác, chẳng phải nay mới sinh gọi là vô động. Đây là đức Thường, phiền não đều hết sạch gọi là lìa xa ồn náo; vắng lặng vô vi hiển bày tự thể của Pháp thân là đức Tịnh; đầy đủ đức đại ngã gọi là tự tại, chẳng ép ngặt não loạn cho nên nói an vui, là đức đại lạc, tức là khiến cho người khác tu tập đại bi, đại tín, đại trí, đại định lần lượt như vậy có thể chứng đắc. Những câu còn lại có thể biết. Văn kinh: Những điều như vậy đều do công đức khuyến thỉnh và khả năng của gốc lành. Dưới đây là kết luận. Văn kinh: Pháp thân như vậy nay ta đã đạt được, vì thế cho nên nếu có người nào muốn đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, đối với một câu văn, một bài tụng trong các kinh điển mà giải thích cho người khác nghe thì công đức gốc lành hãy còn không có hạn lượng, huống gì khuyến thỉnh Như lai chuyển đại pháp luân thường trụ thế gian, đừng nhập Niết-bàn. Dưới đây là phần thứ năm khuyến khích tu hành, có hai: Đầu tiên nêu ra Ngã Sở đắc trước đó, “Vì thế cho nên v.v…” trở xuống là tiếp theo chính thức khuyến khích tu hành. Trong khuyến khích tu hành có ba: Trước hết nêu lên người muốn thực hành; tiếp theo nêu ra ít phước; “Huống gì v.v…” về sau là huống gì phước thù thắng, mà không thực hành ư? Văn từng đoạn có thể biết. Văn kinh: Lúc đó, trời Đế-thích bạch Phật rằng: Bạch Thế tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ vì cầu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, mà tu đạo ba thừa, gốc lành vốn có vì sao hồi hướng về trí Nhất thiết trí. Dưới đây là thứ ba nói về hồi hướng. Văn chia làm hai: Đầu tiên là Thiên Đế thỉnh cầu, sau đó Như lai trả lời. Đây là mở đầu. Văn kinh: Đức Phật bảo Thiên Đế: Này người thiện nam! Nếu có chúng sinh muốn cầu Bồ-đề, tu đạo ba thừa, gốc lành vốn có nguyện hồi hướng thì nên suốt trong ngày đêm sáu thời thiết tha dốc lòng nói lời như vầy: Con từ vô thỉ sinh tử đến nay đối với Tam bảo tu hành thành tựu tất cả gốc lành cho đến ban cho bàng sinh một nắm thức ăn, hoặc dùng lời nói tốt lành hòa giải tranh tụng, hoặc thọ ba quy y và các học xứ, hoặc lại sám hối, khuyến thỉnh, vui theo tất cả gốc lành nay con khởi lên ý nghóa thảy đều thâu lấy hồi hướng ban cho tất cả chúng sinh, tâm không hề hối hận tiếc nuối, là phần giải thoát thuộc về gốc lành. Tán rằng: Như lai trả lời, trong đó có ba: Nêu ra người tu hành. Nên trong ngày đêm v.v… về sau là nghi quỹ. Nói lời như vầy v.v… trở xuống là chính thức chỉ dạy hồi hướng. Trong đó lại có ba: Đầu tiên khiến vận tâm giữ gìn tu các điều lành; tiếp theo “con nay khởi lên ý nghó v.v…” trở xuống là khiến người đó hồi hướng, trong đó lại có hai: Trước hết hồi hướng ban cho chúng sinh, tiếp đó hồi hướng Bồ-đề. Văn kinh: Như sự thấy biết của Phật Thế tôn không thể đo lường, vô ngại thanh tịnh như thế, tất cả công đức gốc lành đều đem hồi hướng ban cho tất cả chúng sinh, tâm không trụ tướng, tâm không xả tướng. Con cũng như vậy, công đức gốc lành vốn có đều đem hồi hướng ban cho tất cả chúng sinh. Dưới đây là phần sau trong chánh giáo hồi hướng. Thứ ba chỉ dạy thực hiện tâm tưởng thành tựu hồi hướng ở trước, trong đó lại có hai: Đầu tiên như Phật tu hành, tiếp theo “Lại như v.v… quá khứ” về sau là như Bồ-tát tu hành. Trong như Phật tu hành có ba: Trước hết là hồi hướng bố thí; tiếp theo là “nguyện đều đạt được v.v… về sau là phát nguyện; sau cùng “cùng các chúng sinh v.v…” về sau là hồi hướng. Trong hồi hướng bố thí: Đầu tiên nêu lên các hạnh của Phật, tiếp theo “con cũng như vậy v.v…” về sau là giống như Phật khởi ý niệm tâm không trụ tướng. Như trong luận Bát-nhã Kinh của ngài Thiên Thân có chép: “Tự thân và báo ân, quả báo không đắm trước. Đề phòng cầu ở việc khác, bảo vệ giữ gìn không bố thí. Nếu đắm trước tự thân và tài vật, giữ gìn tiếc nuối tài vật để nuôi mạng sống, do đó không thể thực hành bố thí. Nếu cầu quả báo và báo ân thì bỏ Bồ-đề, riêng cầu nơi việc khác, vì thế cho nên không trụ tướng. Tâm không xả tướng là không trụ vào chấp không mà không tu đoạn, đều không chỗ trụ, nên tu tâm đó. Văn kinh: Nguyện đều đạt được bàn tay như ý, chỉ vào không trung sinh ra tài bảo dãy đầy cho chúng sinh, nguyện đầy đủ an vui vô tận, trí tuệ vô cùng, diệu pháp biện tài thảy đều không dính mắc. Tán rằng: Tiếp theo là phát nguyện. Trong phát nguyện: Đầu tiên là nguyện thành tựu phước, sau từ “Trí tuệ vô cùng v.v…” trở xuống là nguyện đạt được trí tuệ. Văn kinh: Cùng với các chúng sinh đồng chứng A-nậu-đa-la Tam- miệu Tam-bồ-đề, đạt được Nhất thiết trí. Nhờ gốc lành này lại tiếp tục phát sinh vô lượng pháp lành cũng đều hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Dưới đây là phần thứ ba hồi hướng, trong “Như Phật tu hành” có hai: Đầu tiên là hồi hướng điều lành đã tu ở quá khứ về nơi Bồ-đề, tiếp theo “Nhờ gốc lành này v.v…” về sau là hồi hướng đời hiện tại và vị lai hướng về nơi Bồ-đề. Văn kinh: Lại như lúc các vị Đại Bồ-tát tu hành ở thời quá khứ, công đức gốc lành đều hồi hướng về Nhất-thiết-chủng-trí, hiện tại vị lai cũng tiếp tục như vậy, nên tất cả công đức gốc lành của con cũng đều hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tán rằng: Chỉ dạy thực hành tâm tưởng. Thứ hai như Bồ-tát tu tập trong phần thành tựu hồi hướng trước đó, cũng chia làm ba: Đầu tiên nêu ra sự tu tập của Bồ-tát ba đời; tiếp theo “Nên tất cả v.v… của con” về sau là đồng tu, trong phần đồng tu có hai, đây là đồng hồi hướng thứ nhất. Văn kinh: Các gốc lành này nguyện cùng với tất cả chúng sinh đều thành tựu chánh giác, như các Đức Phật khác ngồi dưới cội Bồ-đề nơi đạo tràng, vô ngại thanh tịnh không thể suy nghó bàn luận trụ trong pháp tạng Đà-la-ni vô tận, định Thủ-lăng-nghiêm, phá tan ma Ba-tuần cùng vô lượng ma quân, nên thấy biết rõ ràng, nên thông đạt. Tất cả như thế trong một sát-na thảy đều soi tỏ, trong đêm cuối cùng đạt được pháp vị cam lộ, chứng được nghóa lý cam lộ. Tán rằng: Tiếp sau là đồng phát nguyện. Trong đó lại có bốn: Tất cả nguyện thành tựu chánh giác. “Như các Đức Phật khác v.v…” về sau là đặc biệt nguyện thành tựu công đức. “Con và chúng sinh v.v…” về sau là nguyện chứng đắc như Phật. “Giống như Vô lượng thọ v.v…” về sau là nêu lên đồng với các Đức Phật. Trong nguyện thành tựu: Đầu tiên là nêu riêng, sau đó nguyện chứng đắc. Trong nguyện riêng thành tựu lược nêu ra tám đức: Hiện thân ngồi dưới cội Bồ-đề nơi đạo tràng, ở đây nói chung cả Ứng, Hóa. Vô ngại thanh tịnh không thể suy nghó bàn luận, đây là câu có cả trên dưới, ngồi nơi đạo tràng và dưới gốc Bồ-đề đều vô ngại thanh tịnh không thể suy nghó bàn luận, an trú nơi các tổng trì cũng không thể suy nghó bàn luận, lìa chướng cho nên vô ngại, trừ tập cho nên thanh tịnh. Trụ trong pháp tạng Đà-la-ni vô tận. Đó là tất cả công đức tạng Đà-la-ni, tức là là bốn tổng trì: Pháp. Nghóa. Đắc được Vô sinh nhẫn của Bồ-tát. Minh chú. Định Thủ-lăng-nghiêm là tiếng Phạm, Hán dịch là Kiện hành định, trong Đại Bát-nhã quyển bốn trăm mười bốn y cứ theo tự tánh nói:” Thường thâu nhiếp tất cả các cảnh giới tổng trì, thường phân biệt rõ vô biên hạnh, là định dẫn đầu trong tất cả các tổng trì”, luận Thành Duy Thức dựa theo người năng hành chép: “Là công hạnh vững chắc nhất của hữu tình nên gọi là kiện hành định”. Phá tan bốn ma mười quân, quân trong kinh Tạp Tạng chép: “Dục, lo buồn, đói khác, ái, ngủ nghỉ, sợ hãi, nghi ngờ và danh lợi, tự cao khinh miệt mọi người, quân như vậy các người tất cả không thể phá, định lực trí của ta, đập tan bình chảy nước”. Hiểu rõ các pháp, nên thấy nghóa là thấy sắc pháp, nên biết nghóa là biết chẳng phải sắc pháp, nên giác thông suốt cho cả hai thấy biết, trên là trụ đế; cho nên có thể thông đạt, thông đạt Chân-đế, trong một sát-na thảy đều soi tỏ ấy là chân, tục song hành, lại giải thích: Có đủ năm nhãn vì thế nên thấy, đầy đủ bổn trí vì thế nên giác, đầy đủ hậu trí cho nên biết, đầy đủ sáu thông cho nên thông đạt. Đạt được pháp vị cam lộ Bồ-đề. Chứng được nghóa lý cam lộ Niết-bàn. Văn kinh: Con và chúng sinh nguyện đều cùng nhau chứng được diệu giác ấy. Dưới đây là nguyện chứng đạt như Phật. Văn kinh: Giống như Đức Phật Vô Lượng Thọ, Phật Thắng Quang, Phật Diệu Quang, Phật A-súc, Phật Công Đức Thiện Quang, Phật Sư Tử Quang Minh, Phật Nhật Quang Minh, Phật Võng Quang Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Bảo Diệm, Phật Diệm Minh, Phật Diệm Thạnh Quang Minh, Phật Cát Tường Thượng Vương, Phật Vi Diệu Thanh, Phật Diệu Trang Nghiêm, Phật Pháp Tràng, Phật Thượng Thắng Thân, Phật Khả Ái Sắc Thân, Phật Quang Minh Biến Chiếu, Phật Phạm Tịnh Vương, Phật Thượng Tánh. Dưới đây là nêu ra đồng với các Đức Phật. Trong đó lại có hai: Đầu tiên dẫn ra bốn phương, sau đó nêu ra chung. Đây là mở đầu. Phương Tây nêu ra ba Đức Phật, phương Đông nêu ra năm Đức Phật, phương Nam cũng nêu ra năm Đức Phật, phương Bắc phương nêu ra tám Đức Phật. Văn kinh: Các Đức Như lai Ứng Chánh Biến Tri trong quá khứ vị lai và hiện tại như vậy thị hiện Ứng, Hóa, đạt đến A-nậu-đa-la Tam- miệu Tam-bồ-đề chuyển vô thượng pháp luân để cứu độ chúng sinh. Ta cũng như vậy, nói rộng như trên. Dưới đây là kết thúc ví dụ. Văn kinh: Này người thiện nam! Nếu có những người nam nữ tịnh tín đối với phẩm Diệt Nghiệp Chướng của kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, thọ trì đọc tụng nhớ nghó không quên, giảng nói rộng rãi cho người khác nghe thì đạt được vô lượng, vô biên đại công đức. Dưới đây là đoạn lớn thứ ba trong phẩm Như lai, trả lời có sáu, đây tức là thứ hai khen ngợi thù thắng khuyến khích thực hành, đầu tiên nêu trì kinh phước nhiều để so sánh, ý giúp cho tu hành, đoạn văn chia làm bốn: Nói về trì kinh phước nhiều. “Giống như tam thiên v.v…” trở xuống là nêu ví dụ so sánh hiểu rõ thù thắng. “Vì thế cho nên thiện nam v.v…” trở xuống là thanh tịnh nhiều phước thù thắng. “Cho nên phải biết v.v…” trở xuống là tổng kết khiến cho biết. Đây là mở đầu. Văn kinh: Giống như tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới cùng lúc đều được thành tựu thân người, được thân người rồi thành tựu quả Độc Giác, nếu có người nam, người nữ dốc hết sức mình cung kính tôn trọng cúng dường bốn việc đối với tất cả các vị Độc Giác, đều giúp cho bảy báu như núi Tu-di, sau khi các vị Độc Giác này nhập Niết-bàn đều dùng châu báu xây tháp cúng dường, tháp đó cao rộng hai mươi du-thiện-na, dùng các thứ hương hoa, phướn lọng quý báu thường cúng dường. Này người thiện nam! Ý ông thế nào? Công đức gặt hái được của người đó có nhiều không? Trời Đế-thích bạch Phật: Rất nhiều! Thưa Thế tôn. Này người thiện nam! Nếu lại có người đối với phẩm Diệt Nghiệp Chướng của kinh Kim Quang Minh là kinh điển vi diệu nhất trong các kinh điển này mà thọ trì đọc tụng nhớ nghó không quên, giảng nói rộng rãi cho người khác nghe thì công đức gặt hái được so với công đức cúng dường đã nói ở trước trăm phần không bằng một trăm ngàn muôn ức phần, cho đến so sánh thí dụ không thể nào sánh bằng. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ đó an trú trong chánh hạnh, khuyến thỉnh tất cả các Đức Phật khắp mười phương xoay bánh xe pháp vô thượng đều vì các Đức Phật vui mừng khen ngợi. Dưới đây là thứ hai nêu ra thí dụ để so sánh, có năm: Nêu ra ruộng phước. “Nếu có thiện nam v.v…” trở xuống là tu pháp cúng dường. “Thiện nam v.v…” về sau là hỏi nhiều ít. “Trời Đế-thích v.v…” về sau là trả lời được phước rất nhiều. “ Thiện nam v.v…” trở xuống là so sánh thể hiện sự thù thắng. Trong phần thể hiện sự thù thắng có ba: Nói về phước thù thắng. Mượn để nêu hỏi. Vì đó giải thích. Trong phần giải thích có hai: Tu tập chánh hạnh, Đức Phật khen ngợi lý do thù thắng. “Thiện nam v.v…” về sau là vì pháp thí hơn hẳn tài thí cho nên thù thắng. Văn kinh: Vì thế cho nên Thiện nam! Đối với Tam bảo bày biện các thứ cúng dường không thể vì đó sánh với việc khuyến khích thọ tam quy y, giữ tất cả các giới không hề hủy phạm, ba nghiệp bất không, không thể sánh với tùy lực, tùy năng, tùy sở nguyện ưa thích của tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới, đối với ba thừa, khuyến khích phát tâm Bồ-đề, không thể sánh với tất cả chúng sinh khắp tất cả thế giới ở trong ba đời đều được vô ngại, mau chóng khiến cho thành tựu vô lượng công đức, không thể sánh với tất cả chúng sinh khắp mọi thế giới trong ba đời khiến cho không còn chướng ngại đạt được Tam-bồ-đề, không thể sánh với tất cả chúng sinh khắp mọi thế giới ở trong ba đời khuyến khích khiến cho mau chóng ra khỏi bốn đau khổ của đường ác, không thể sánh với tất cả chúng sinh khắp mọi thế giới ở trong ba đời khuyến khích khiến cho dứt trừ nghiệp ác rất nặng, không thể sánh với tất cả khổ não khuyến khích khiến cho giải thoát, không thể sánh với tất cả sợ hãi khổ đau bức thiết đều khiến cho được dứt bỏ, không thể sánh với tất cả công đức của tất cả chúng sinh trong ba đời ở trước các Đức Phật khuyến khích khiến cho vui theo phát nguyện Bồ-đề, không thể so sánh với khuyến khích dứt trừ hạnh ác và nghiệp mắng chưởi lăng nhục, tất cả công đức đều nguyện thành tựu, trong đời hiện tại khuyến thỉnh cúng dường tôn trọng, khen ngợi tất cả Tam bảo, khuyến khích thỉnh cầu chúng sinh thanh tịnh tu tạo phước hạnh, thành tựu tròn đầy Bồ-đề, đều không thể sánh bằng. Vì thế cho nên phải biết khuyến thỉnh ba đời Tam bảo trong tất cả thế giới, khuyến thỉnh đầy đủ sáu Ba-la- mật, khuyến thỉnh xoay bánh xe pháp vô thượng, khuyến thỉnh trụ thế trải qua vô lượng kiếp, giảng nói vô lượng diệu pháp sâu xa, công đức sâu dày không gì sánh bằng. Dưới đây là nói rộng về thành tựu phước đức thù thắng, có mười một thứ không thể sánh bằng. Từ “Vì thế cho nên v.v…” trở xuống là phần tổng kết đều có thể biết. Nói không thể sánh bằng là vì kinh này có thể khiến cho thực hành các hạnh thù thắng như vậy cho nên không thể sánh bằng, chẳng phải các hạnh này không thể sánh bằng, cũng có thể khiến cho đạt được Bồ-đề vô thượng, lẽ nào không thể sánh bằng. Văn kinh: Lúc bấy giờ, trời Đế-thích và hằng sa nữ thần, vô lượng Phạm vương cùng tất cả bốn đại thiên chúng đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay đảnh lễ bạch Phật: Bạch Thế tôn! Chúng con đều được nghe kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương này, nay đều thọ trì đọc tụng thông thuộc, truyền bá rộng rãi cho người khác nghe, nương vào pháp này mà an trú. Vì sao? Bạch Thế tôn! Chúng con muốn cầu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thu- ận theo nghóa lý và các thứ thắng tướng, đúng pháp thực hành kinh này. Lúc đó, Phạm vương và trời Đế-thích cùng tất cả đại chúng ở nơi nói pháp đều rải các loại hoa Mạn-đà-la lên Đức Phật. Dưới đây là đoạn lớn thứ ba nương theo sự khuyến khích tu hành, có năm: Nguyện tu hành. “Lúc đó, Phạm vương v.v…” trở xuống là chư thiên cúng dường. “Tam thiên đại thiên v.v…” trở xuống là hiện bày các điềm lành cảm ứng. “Lúc ấy, trời Đế-thích v.v…” về sau là chư thiên giải ngộ. “Đức Phật dạy như thế v.v…” về sau là Đức Phật ấn khả cho. Trong phần đầu: Nêu ra người thực hành pháp. “Đứng dậy khỏi chỗ ngồi v.v…” trở xuống là thực hành nghi tắc thỉnh cầu. “Bạch Đức Phật v.v…” trở xuống là chính thức phát nguyện tu hành. Trong phần nguyện tu hành có ba: Đầu tiên là nguyện tu, tiếp theo là nêu câu hỏi, sau đó giải thích. Chư Thiên cúng dường xem văn tự có thể biết. Văn kinh: Mặt đất tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động dữ dội, tất cả trống trời và các loại âm nhạc không đánh mà tự vang lên, phát ra ánh sáng màu vàng chói, khắp nơi thế giới phát ra âm thanh kỳ diệu. Dưới đây là nói về hiện bày các điềm lành cảm ứng. Dựa vào văn giải thích ý, nghóa đó có thể biết. Văn kinh: Lúc ấy, trời Đế-thích bạch Đức Phật: Bạch Thế tôn! Các hiện tượng này đều là năng lực oai thần của kinh Kim Quang Minh từ bi cứu giúp tất cả, các thứ lợi ích, các thứ thêm lớn, gốc lành của Bồ- tát diệt trừ các thứ nghiệp chướng. Đức Phật dạy: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như những điều ông đã nói. Dưới đây là các vị trời giải ngộ, Đức Phật ấn chứng có thể biết. Văn kinh: Vì sao? Này người thiện nam! Ta nhớ thuở xưa trải qua vô lượng trăm ngàn A-tăng-kỳ kiếp có Đức Phật hiệu là Bảo Vương Đại Quang Chiếu Như lai Ứng Chánh Biến Tri ở thế gian, trụ ở thế gian sáu trăm tám mươi ức kiếp. Bấy giờ, Đức Bảo Vương Đại Quang Chiếu Như lai vì muốn độ thoát trời, người. Thích Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn cùng tất cả chúng sinh, khiến được an vui cho nên xuất hiện, lúc nói pháp hội đầu tiên độ trăm ngàn ức ức muôn chúng sinh đều đạt được quả vị A-la- hán, các lậu đã dứt sạch, ba minh sáu thông tự tại vô ngại; ở hội thứ hai tiếp tục độ chín mươi ngàn ức ức muôn chúng sinh đều đạt được quả vị A-la-hán, các lậu không còn, ba minh sáu thông tự tại vô ngại, ở hội thứ ba tiếp tục độ chín mươi tám ngàn ức ức muôn chúng sinh đều đạt được quả vị A-la-hán, đầy đủ như trên. Tán rằng: Dưới đây là đoạn lớn thứ tư, dẫn ra để làm chứng cứ, nói rõ nghe kinh này được nhiều phước đức. Đầu tiên nêu câu hỏi, tiếp theo là dẫn chứng. Trong phần dẫn chứng có sáu: Nói về Đức Phật mình đã gặp. Kể rõ lợi ích đạt được của mình. Đức Phật đó hiện bày chứng minh. Dức Phật nêu rõ nơi chốn. Nói về nghe danh hiệu được lợi ích. Kết thúc thành tựu phước thù thắng. Trong phần nói về Đức Phật mình đã gặp có bốn: Thời gian. “Có Đức Phật danh hiệu v.v…” về sau là danh hiệu. “Trụ ở thế gian sáu trăm tám mươi ức kiếp là trụ. “Bấy giờ, Đức Bảo Vương v.v…” về sau là nói pháp lợi ích tức là lợi ích trong ba hội nói pháp. Xem văn tự mình có thể biết. Văn kinh: Này người thiện nam! Lúc bấy giờ, ta làm thân người nữ tên là Phước Bảo Quang Minh, ở hội thứ ba gần gũi Đức Thế tôn, thọ trì đọc tụng kinh Kim Quang Minh này, giảng nói rộng rãi cho người khác nghe cầu đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cho nên lúc ấy Đức Thế tôn thọ ký cho ta rằng: Tín nữ Phước Bảo Quang Minh này ở đời vị lai sẽ được thành Phật, hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như lai, Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế tôn, sau khi xả bỏ thân nữ từ đó đến nay vượt qua bốn đường ác, sinh lên cõi trời, người thọ hưởng vui sướng tuyệt với bậc nhất, tám mươi bốn trăm ngàn đời làm Chuyển luân vương, cho đến ngày nay được thành tựu Chánh giác, danh hiệu vang lừng khắp các thế giới. Dưới đây là kể rõ lợi ích đạt được của mình, có năm: Nói về tên gọi của chính mình. “Nói hội thứ ba v.v…” trở xuống là nghe kinh tu học. “Lúc ấy, Đức Thế tôn v.v…” trở xuống là được Phật thọ ký. “Sau khi xả bỏ thân nữ v.v…” trở xuống là được phước báo thù thắng. “Cho đến ngày nay v.v…” trở xuống là được thành tựu Bồ-đề. Văn kinh: Lúc ấy, đại chúng trong pháp hội bỗng nhiên đều thấy Đức Bảo Vương Đại Quang Chiếu Như lai xoay bánh xe pháp vô thượng nói pháp. Dưới đây là Đức Phật kia hiện bày chứng minh. Văn kinh: Này người thiện nam! Cách thế giới Sách-ha về phía Đông trải qua trăm ngàn hằng hà sa số cõi Phật có thế giới tên là Bảo Trang Nghiêm, ở đó Đức Bảo Vương Đại Quang Chiếu Như lai hiện nay đang trụ thế, chưa nhập Niết-bàn, nói pháp vi diệu cứu độ tất cả chúng sinh. Hiện bày cho các người thấy đó chính là Đức Phật Bảo Vương Đại Quang Chiếu Như lai. Dưới đây là Đức Phật nêu rõ nơi chốn. Hỏi: Xưa làm thân người nữ tức hãy còn ở Địa tiền, làm sao trải qua ba tăng-kỳ mà Đức Phật đó chưa nhập diệt? Đáp: Ứng, Hóa hiện tướng ẩn hiện tùy căn cơ, Pháp, Báo thân thường trụ, cho nên nói là hiện tại. Văn kinh: Này người thiện nam! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe danh hiệu Đức Bảo Vương Đại Quang Chiếu Như lai này thì người đó đối với Bồ-tát địa được không lui sụt, đến đại Niết-bàn. Nếu có người nữ nào nghe danh hiệu Đức Phật này thì lúc sắp qua đời người đó được thấy Đức Phật kia đến chỗ mình, đã được thấy Phật rồi thì không bao giờ còn làm thân nữ. Này người thiện nam! Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này có nhiều lợi ích, các thứ thêm lớn, gốc lành của Bồ-tát diệt trừ các thứ nghiệp chướng. Dưới đây là phần thứ năm nghe danh hiệu được lợi ích, có hai: Đạt đến nơi Niết-bàn. Không còn chịu báo quả làm thân nữ. Phần kế “Thiện nam v.v…” về sau là kết thúc thành tựu có thể biết rõ. Văn kinh: Này người thiện nam! Nếu có Bí-sô, Bí-sô-ni, ô-ba- sách-ca, ô-ba-tư-ca ở bất cứ nơi nào vì người khác giảng nói kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này thì ở cõi nước đó đều được bốn thứ phước lợi gốc lành. Những gì là bốn? Quốc chủ không bệnh tật, lìa các tai ách. Tuổi thọ dài lâu, không có điều gì chướng ngại. Không có các kẻ thù đối địch, binh lính hùng mạnh. Yên ổn thịnh vượng, chánh pháp truyền bá rộng rãi. Vì sao? Vì vua cõi người này, thường được các vị Đế-thích, Phạm, Tứ vương, Dược-xoa cùng bảo vệ. Dưới đây là đoạn lớn thứ năm nói về thực hành kinh điển đạt được lợi ích. Có bốn: Lợi ích của quốc chủ. Lợi ích của bề tôi. Lợi ích của Sa-môn. Lợi ích của nhân dân. Trong lợi ích của quốc chủ có ba: Nói về quốc chủ được lợi ích. Hỏi rằng Đế-thích, Phạm vương có bảo vệ hay không. Đức Thế tôn tiếp tục khuyến khích. Trong phần một có hai: Đầu tiên là nêu ra, sau đó giải thích. Trong phần nêu ra có năm: Người thực hành pháp. Gạn hỏi. Giải thích. Lại nêu hỏi. “Vị vua cõi người như thế v.v…” trở xuống là nói về sự bảo vệ. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế tôn bảo các vị trời rằng: Này người thiện nam! Việc này có thật không?. Dưới đây là phần hai hỏi về Đế-thích, Phạm vương có bảo vệ hay không, có ba: Đức Phật hỏi khiến cho bảo vệ. Các vị trời trả lời là bảo vệ. Đức Phật khen ngợi và ấn chứng. Đây là mở đầu. Văn kinh: Lúc này, vô lượng Đế-thích, Phạm, Tứ vương và chúng Dược-xoa cùng trả lời rằng: Đức Thế tôn! Dạy đúng thế, đúng thế! Nếu có cõi nước nào giảng nói đọc tụng kinh vương vi diệu này thì các vua chúa đó thường được Tứ vương chúng con đến ủng hộ, đi đứng tất cả đều theo các vị vua chúa đó. Nếu có tất cả tai chướng và các kẻ thù đối địch thì Tứ vương chúng con đều làm cho tiêu trừ sạch hết, buồn lo dịch bệnh cũng khiến cho dứt trừ không còn, tăng thêm tuổi thọ, cảm ứng nhiều sự tốt lành, sở nguyện như ý, thường sinh vui vẻ, chúng con cũng có thể khiến cho tất cả binh lính trong nước đó thảy đều hùng mạnh. Dưới đây là phần chư thiên trả lời bảo vệ, có bốn: Nêu ra nhận lời bảo vệ. “Nếu có cõi nước v.v…” trở xuống là nói về lý do được bảo vệ. vệ. “Các vua chúa đó v.v…” trở xuống là nói về vua chúa được bảo “Tứ vương chúng con v.v…” trở xuống là nói về người có thể bảo vệ. Có ba: Thị vệ. “Vua chúa đó v.v…” về sau là trừ ác. “Tăng thêm tuổi thọ v.v…” về sau là thêm điều lành. Tăng thêm điều lành có bốn: Tăng tuổi thọ. Hiện điềm lành. Khiến cho khuyến khích. Binh lính hùng mạnh. Văn kinh: Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này người thiện nam! Như những điều các ông đã nói, ông nên tu hành. Phần sau là Đức Phật khen ngợi và ấn chứng. Văn kinh: Vì sao? Vì lúc các vua chúa đó thực hành như pháp thì tất cả nhân dân thuận theo vua chúa tu tập, thực hành đúng như pháp, các ông đều được sắc, lực tốt đẹp, cung điện sáng ngời, quyến thuộc mạnh mẽ. Lúc này, Đế-thích, Phạm vương và đại chúng bạch Đức Phật: Bạch Thế tôn! Đúng như vậy. Tán rằng: Thế tôn tiếp tục khuyến khích. Đầu tiên là lý do mượn nêu hỏi khiến cho bảo vệ, tiếp đó Phật vì đại chúng nói về lý do cần phải bảo vệ. Trong các kinh Khởi Thế, kinh Trường A-hàm đều chép: “Nếu người tu điều lành thì tăng thêm thế lực cõi trời”. Lại như luận Vương Pháp Chánh có nói rộng ở sau. Cuối cùng Đế-thích, Phạm vương giải ngộ, theo đoạn văn này thể biết. Văn kinh: Đức Phật dạy: Nếu có người giảng nói đọc tụng kinh điển vi diệu này thì nơi lưu thông đối với đại thần tể phụ trong nước đó có bốn thứ lợi ích. Những gì là bốn? Càng gần gũi hòa thuận tôn trọng yêu thương lẫn nhau. Thường được vua chúa, dân chúng có tâm yêu mến tôn trọng, cũng được hàng Sa-môn, Bà-la-môn và các nước lớn, nước nhỏ luôn luôn tôn kính. Xem nhẹ tài vật, coi trọng pháp luật, không mong cầu lợi lộc thế gian, tiếng lành vang khắp, mọi người đều khâm phục kính mến. Thọ, mạng dài lâu yên, ổn vui sướng. Đó là bốn thứ lợi ích. Phần dưới đây là nói về lợi ích của bề tôi, có bốn: Nêu ra. Gạn hỏi. Giải thích. Kết luận. Bề tôi cung kính thuận theo mới được lợi ích này, văn hiển rõ có thể biết. Văn kinh: Nếu có cõi nước nào giảng nói kinh này thì hàng Sa- môn, Bà-la-môn được bốn thứ lợi ích tốt đẹp. Những gì là bốn? Áo quần, ăn uống, giường chiếu, thuốc men không hề thiếu thốn. Đều được yên tâm suy nghó đọc tụng. Nương vào núi rừng được an trú yên ổn ưa thích. Tùy tâm sở nguyện đều được đầy đủ như ý. Đó là bốn thứ lợi lạc thù thắng. Dưới đây nói về các lợi ích của hàng Sa-môn, Bà-la-môn. Đất nước yên ổn, dân chúng giàu mạnh, thần dân tin tưởng cung kính, cho nên được như vậy. Văn cũng có bốn đoạn, như trước có thể biết. Văn kinh: Nếu có cõi nước nào giảng nói kinh này thì tất cả nhân dân đều được sung túc vui sướng, không bị các bệnh dịch, buôn bán qua lại, thu hoạch nhiều hàng hóa quý báu, đầy đủ mọi phước đức thù thắng. Đó là các thứ công đức lợi ích. Dưới đây nói về dân chúng được lợi ích. Đầu tiên nêu rõ lý do. Tiếp theo nói về đạt được ích lợi, sau cuối từ “đó gọi là v.v…” trở xuống là kết luận. Văn kinh: Lúc bấy giờ, Phạm vương, Đế-thích, Tứ Thiên vương và tất cả đại chúng bạch Phật rằng: Bạch đức Thế tôn! Nghóa lý của kinh điển sâu xa như vậy, nếu người hiện tại phải biết ba mươi bảy pháp trợ giúp Bồ-đề của Như lai trụ ở thế gian không hoại diệt, nếu lúc kinh điển này hoại diệt hoàn toàn thì chánh pháp cũng diệt hết. Dưới đây là phần thứ sáu Đế-thích, Phạm vương nói rõ, có hai: Đầu tiên là Đế-thích, Phạm vương nói rõ, sau đó Như lai ấn chứng khuyến khích. Phần đầu nói rõ, có hai: Nói về kinh này, được truyền bá ở thế gian thì chứng được chánh pháp không hoại diệt. “Nếu kinh điển này v.v…” trở xuống là nói kinh này nếu như không có hai thứ hành chứng thì chánh pháp cũng hoại diệt. Ý muốn cho mọi người mãi mãi truyền bá giáo pháp cao quý. Văn kinh: Đức Phật dạy: Đúng vậy, đúng vậy! Này người thiện nam, vì thế cho nên các ông đối với một câu văn, một bài tụng, một phẩm, một bộ của kinh Kim Quang Minh này, đều nên nhất tâm chân chánh đọc tụng, chân chánh nghe giữ, chân chánh suy nghó, chân chánh tu tập vì tất cả chúng sinh giảng nói rộng rãi truyền bá cùng khắp, mãi mãi an vui phước lợi vô biên. Dưới đây là Như lai ấn chứng khuyến khích. Đầu tiên là ấn chứng; từ “Thiện nam v.v…” trở xuống là khuyến khích. Trong phần khuyến khích có hai: Trước tiên nói về kinh được truyền bá, tiếp theo “đều nên v.v…” trở xuống là khiến cho khởi lên thực hành pháp. Trong phần thực hành pháp lại có hai: Đầu tiên thực hành tự lợi, sau đó “Vì tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là khiến thực hành lợi tha. Văn kinh: Lúc đó, tất cả đại chúng nghe Đức Phật nói xong đều đạt được lợi ích thù thắng, vui mừng thọ trì. Dưới đây là đoạn lớn thứ tư, bấy giờ, hội chúng đều được lợi ích.