<經 id="n1786">KINH KIM QUANG MINH VĂN CÚ KÝ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1786 KINH KIM QUANG MINH VĂN CÚ KÝ Sa-môn Thích Tri Lễ, ở núi Tứ Minh Đời Tống soạn. <卷>QUYỂN 1 (Phần đầu) Tự trình bày: Xưa kia, Tiên sư tôi có lúc trụ chùa Bảo Vân, giảng kinh này, các đệ tử Ngài rất đông, thay nhau ghi chép lại những gì mình đã nghe thành pho quyển, sự ghi chép ấy rất sâu rộng. Còn từ ngữ trích dẫn từ kinh luận phần nhiều sai lầm. Mỗi khi đọc tôi chẳng thể không buồn bã. Gần đây do lần giảng tiếp theo, tôi nhớ lại các nội dung chính được nghe từ thầy rồi soạn thành văn luận theo thể ký. Tôi đã chọn lọc những tư liệu trong “Cô Sơn sách ẩn” để giúp đỡ, để người đọc không bị dính mắc sự tướng mà chỉ suy nghó về lý quán làm lợi ích. Ghi vào ngày mùng ba tháng mười hai. Thiện thánh ngũ tự. Giải thích tựa đề: Giải thích tựa đề có hai. Một chính là nêu đề mục. Bốn chữ như chữ Kim v.v… là chữ được giải thích. Hai chữ văn cú là chủ thể giải thích. Đề kinh được giải thích theo huyền nghóa. Văn cú năng thích tức là văn kinh. Cú là chương cú, cũng gọi là câu đậu. Tức là dùng chương cú để chia văn kinh khiến cho ngôn từ và ý nghóa đều có giới hạn. Vì thế, Đại sư Kinh Khê nói: “do giải thích tựa đề mà ý nghóa chính dược rõ ràng. Vì vậy, đến phần văn kinh chỉ chia cương đoạn một cách đơn giản”. Tựa đề nói rằng “Văn Cú” là do đó. Nhưng sở dó lập hai chữ đó là vì chúng ta khiêm tốn. Nếu chúng ta đọc sự giải thích về kinh thì ý nghóa chính không phải ít. Lại, việc giải thích các kinh đều gọi là văn cú, đó là cách gọi chung. Vì vậy, tôi dùng đề kinh phân biệt đơn giản. Tên của vị sư là thuộc chủ thể giảng nói, do nơi ở mà có tên, đó là cách mọi người thường dùng. Kế là nhập văn, có hai: Một là định, có ba chia ra làm hai. Một là chỉ đích xác bản được truyền khác với loại bảy quyển, hai mươi hai phẩm do Pháp sư Chân-đế dịch. Vì vậy mà tôi chỉ cho bản bốn quyến, mười tám phẩm. Có người cho rằng Chúc Lụy là phẩm thứ mười chín là sai vì các bản dịch đều không có phẩm này. Kế chính là chia làm ba, có hai: Một là dẫn sự phân chia của các sư có hai: Nêu chung về sự khác nhau: Một là nêu chung về sự khác nhau. Đầy lên là tiến, co lại là thoái. Ý nói rằng sự phân chia thành ba của các sư có sự tiến lùi khác nhau. Hai là “Giang Bắc v.v…” trở xuống chính là giải thích, chia làm ba. Một là sư ở Giang bắc cho rằng “bốn vị vua, mỗi vị đều ở trước Phật mà phát nguyện ủng hộ người nói và người nghe” nên nói là Đại thệ hộ kinh. “Trưởng giả Lưu Thủy trừ bệnh cứu bầy cá”, Thái tử Tát- đỏa xả thân nuôi hổ v.v… là đại bi tiếp vật. Ý của các sư Giang bắc cùng với Chân-đế ở đoạn dưới tuy mới cũ có khác nhau nhưng đại ý lại giống nhau. Hai là các sư ở Giang nam hầu như giống với sự chia tiết thành ba phần của hôm nay. Nhưng các Sư Giang Nam xếp nhầm nửa phẩm Thọ Lượng vào phần Tựa. Ba là Sư Chân-đế, có hai: Phán định về văn: Một là phán định về văn tam tạng, Chân-đế dịch lại kinh này vào đời Lương tên là kinh Kim Quang Minh Đế Vương, ngài thêm vào bốn phẩm. Đó là phẩm Tam Thân Phân Biệt, phẩm Diệt Nghiệp Chướng, phẩm Đà-la-ni Tịnh Địa và phẩm Y Không Mãn Nguyện. Qua đó, chúng ta biết bản gốc là mười tám phẩm thành hai mươi hai phẩm xuất sớ giải thích. Cho nên nói: văn mới, v.v… Hai là “Chân-đế v.v…” trở xuống là nói về nghóa, vẫn bác bỏ các sư Giang Nam xếp các phẩm Thọ Ký, Trừ bệnh vào phần lưu thông. Vì vậy Tiên sư nói: “Nhân quả, v.v… của thầy trò ở sau v.v…” Hợp lại mà nói “Thầy nhân, trò quả. Văn hiện nay dường tựa như đảo lộn. Các sư nay v.v… trở xuống là chỉ rõ ý của các sư ngày nay. Có hai phần. Một là y theo lý để phá các Sư, có hai: Một là phủ nhận chung về nhân tình: chính là bác bỏ sư Chân-đế và gồm cả các Sư Giang bắc. Vì sự phản định của hai sư này về nhân quả thầy trò là đều ở tại phần Chánh tông. Ý cho rằng phần Tựa hoàn toàn chưa nói về đạo tu chứng. Đến phần lưu thông đạo vị đã cạn đến chỗ cuối cùng. Vì thế, Tiên sư bác bỏ rằng “nghóa ấy không đúng. Hai, “Ba v.v…” trở xuống là Tiên sư nói riêng về ý nghóa của kinh. Đầu tiên là nói về sự thông suốt của cách chia phần. “Lấp” là tắc nghẽn, chia ra ba để cùng nhau tựu thành sự cảm Ứng của kinh. Như vậy, lẽ nào lại không có sự giúp nhau của sự và lý hay sao? Như phần Tựa đầu tiên là nói về sự phát khởi. nếu không thiếu hai phần ở dưới thì làm sao có thể gọi là Tựa của chánh và thông. Chính là đều được phát khởi, đều được nói trong phần tựa và lại được giảng nói, truyền bá lưu thông. Nếu chẳng phải như vậy thì làm sao có thể gọi là chánh thuyết của một bộ kinh? Nếu xả tự và chính thì lưu thông pháp gì? Cho nên ba phần mỗi phần đều có đủ ba nghóa. Lời “thượng, trung và hạ tức là thời tiết tốt trong bảy thứ thiện. Diệu kinh chép: “đầu, giữa và cuối đều thiện”. Nếu bít lấp tất cả thì làm sao gọi là Thiện? Nhiều căn cơ khác được lợi ích: Hai là “Lại nữa, chúng v.v…” trở xuống là nhiều căn cơ khắp được lợi ích. Ích lợi do căn cơ do kinh che chở có chậm, có nhanh, không hẳn đều là sự ngộ nhập của chính tông. Cho nên nói: “Căn tánh bất định, làm sao chấp nhận rằng phần Tựa hoàn không có pháp vị?” Trong phần lưu thông, pháp vị đã diệt hết, không quan trọng nữa ư? Nếu chẳng phải như vậy thì có gì trở ngại. Nếu nói nhân của Lưu thủy và quả của Tín Tướng trong lưu thông? Thì cũng đâu có ngại gì, càng được lợi ích. Đốc xuất tức là khuyến khích. Hai, lại nữa, pháp v.v…” trở xuống là Tiên sư trích dẫn. Thầy tức là Đức Thích-ca. Trong phẩm Đạt-đa, kinh nói trong nhiều kiếp xưa Phật dùng thân Quốc Vương để hầu hạ vị tiên A-tư-đà để cầu pháp Đại thừa. Vì thế gọi là nhân của thầy. Phẩm Trì, thọ ký cho các vị như Ba-xà, Da thâu v.v… thành Phật, thời gian và cõi nước tức là quả của đệ tử. Các pháp sư xưa xếp kinh Pháp Hoa, từ phẩm Pháp sư về sau thuộc lưu thông được mọi người chấp nhận. Y ở đây và phần lưu thông hiện nay của các Sư ở Giang Nam là giống nhau. Cho nên Tiên sư nói: “Đối với nghóa thì không ngại gì”. Tuy nói thế nhưng vẫn không cố chấp. Vì vậy, Tiên sư nói: “Cho và đoạt đều do con người”. Hai, “nay v.v…” trở xuống là y theo nghóa để chia bộ ngày nay có hai: Phân chia kinh: Một là phân chia kinh, có hai: Một là nhất định chia làm ba, việc chia làm ba của ngày nay đại để giống với các sư ở Giang Nam nhưng phần tự chiếm nửa phẩm. Vì thế, Tiên sư trích dẫn việc ba vị sư chỉ phá Chân-đế. Hai, “tự là…” trở xuống là nói chia nghóa thành ba phần, có hai: Một chính là trình bày. Sắp là sẽ chính tông, lưu thông ở sau phần Tự. Tự nay, nên có sự ích lợi của chia ra hai. Tiên sư nói: “sắp có lợi ích” người đương cơ chính. Đương là nghóa đối. Tức chính là đối cơ duyên mà giải thích về con đường của thường quả sám và khen ngợi. Nơm là dụng cụ để bắt cá, là lưới bẫy thỏ. Nơm dụ cho ngôn giáo, Cá và thỏ dụ cho nghóa lý. Vì muốn cho ngôn giáo truyền bá, đến tương lai giúp chúng sinh ở giai đoạn Chánh, Tượng và Mạt pháp thường nắm giữ được nghóa lý nên kinh nói: “Không bị tắc nghẽn đối với đời sau”. Hai là “Kinh nói v.v…” trở xuống là Tiên sư dẫn kinh. “Hai điều nghi là v.v…” trở xuống là giải thích câu hỏi, có hai: Một là đặt câu hỏi. Đã gọi là phần Tự hợp với phẩm Tự thì làm sao sáp nhập hơn một nửa của phẩm Thọ lượng thuộc Chính tông? Hai là “Các kinh v.v…” trở xuống là giải thích chung, có ba: Dẫn lệ chung của bộ khác: Một là dẫn lệ chung của bộ khác. Kinh Tịnh Danh lấy nhân quả của cõi Phật làm Chính tông. vì đã không có phẩm Tự nên các sư bèn lấy nửa phẩm của cõi Phật làm phần Tự. Như trong phẩm Tự của kinh Đại phẩm Bát-nhã chép: “Phật biết chúng hội đã nhóm họp nên bảo Xá-lợi-phất rằng: Bồ-tát muốn dùng Nhất-thiết-chủng-trí để nhận biết tất cả các pháp thì nên tu tập thực hành Bát-nhã ba-la-mật v.v…” Nói như vậy là thuộc về Chính tông, nhưng văn lại nằm tại phần Tự. kinh Niết-bàn thì Thường thọ là chính. Vì không có phẩm Tự nên bèn lấy phần Tập trung chúng trong phẩm Tuổi thọ mà làm Tự. Đó là theo quy ước của bản ở Giang Bắc, Tạ công Trị Định bèn lấy văn của nhóm chúng thuộc phẩm Tuổi thọ mà đề là Phẩm Tự. Đối với việc hoặc Tự nhập vào Chính hay Chính nhập vào Tự của ba kinh này, lúc phân giải, các sư không nghi ngờ. Vậy, tại sao các sư chỉ nghi đối với việc nhập phần Tự vào trong phẩm Thọ lượng? Hai, “Nay là v.v…” trở xuống là Tiên sư nói rõ về ý của kinh này. Tiên sư nói về ý kinh này: “Nay là” là xuất xứ từ ý của phẩm Tiết trong Tập kinh. Bởi vì, nếu tựa đề của phẩm Thọ lượng mà đặt ở sau trời rồng nhóm họp, tất Tín Tướng thì sẽ khiến cho văn thuộc Tứ phật dứt nghi sinh khởi một cách đơn độc. Vì thế, Tiên sư nói là “Chót vót”. Chót vót là dáng núi cao. Nếu văn xuất hiện một mình thì như sự hiểm trở của vách núi, không có sự liên đới nhau. Vì lẽ đó, Tiên sư đặt tựa đề Thọ lượng ở trong phần Tự. Tiên sư hết theo quy ước của ý ngày nay: Ba là “Nay theo v.v…” trở xuống là Tiên sư kết theo quy ước của ý ngày nay. Tuy phẩm thuộc Chính, nhưng nghóa lại thuộc phần Tự. Lẽ nào thuận với tựa đề nêu lên mà lại làm cho nghóa bị mất? “Hai là Tựa có v.v…” trở xuống chính là giải thích Kinh. Chia làm ba, Một là giải thích phần tự, có hai: Một là giải thích phẩm đề, có hai: Kế là giải thích Tự, có hai: Kế tiếp là nêu hai nghóa. Nghóa phần Tự của kinh hợp lại có ba. Cho nên trong các bộ chỉ có một hoặc hai là thiếu sót, sơ lược. Kinh này và các kinh trong bộ lớn như Pháp hoa v.v… đều có đủ ba (phần). Giải thích ba nghóa: Kế là “kế là, Tự v.v…” trở xuống là giải thích về ba nghóa. Tự là đầu mối của của cái kén. Thông thường, muốn kéo tơ của cái kén thì đầu tiên người ta phải lôi đầu mối của kén; hết đầu mối mới thấy tơ của cái kén. Nay, lấy năm sự đầu tiên như đầu mối của sợi tơ. Quản là khứ thanh. Hộ là nói về nơi chốn sắp nói về lợi ích hiện tại. Vì nói trình bày, nói đương thời được lợi ích thuộc về Chánh tông, Lưu thông. Vì vậy, Tự này thuật trở xuống là mười bảy phẩm Phát nghóa, để khai phát niềm tin cho căn cơ chúng sinh. Khởi nghóa là hưng khởi giáo lý của bậc Thánh. Tựa này tức là lấy việc hiện ra điềm lành để giật tỉnh thần thức của chúng sinh, giúp cho Tín tâm của họ nẩy nở, nhờ đó mà được lợi ích của giáo lý rất nhiều. “Ba phẩm là v.v…” trở xuống là giải thích về phẩm, có hai: Nêu lên sự phiên dịch danh từ tiếng Phạm. “Ba phẩm là v.v…” trở xuống là y theo danh mà giải thích nghóa, có hai: Một chính là giải thích. Văn cú trong đây đều ở tại kinh. Vì giáo lý năng thuyết đều sử dụng bốn pháp, đó là Thanh, Danh, Cú và Văn. Nếu theo quy ước sau khi Đức Phật diệt độ thì vấn đề này có hai thứ. Nếu xét về Bát âm, Tứ biện, Phạm âm thanh theo quy ước lúc Phật còn tại thế thì vấn đề này là một, là thật. Danh, Cú, Văn, Thân chỉ là sự chuyển động có tính cách lặp lại mà lập ra. Ba thứ Cú, Văn, Thân chỉ là giả thanh, thuộc về Sắc pháp. Danh, Cú và thân thuộc về nhóm bất tương ưng hành thứ ba; Tỳ-đàm mười bốn, luận Thành thật có mười bảy và Du-già hai mươi bốn thứ. Ở đây, sự lập ra hai Tông Đại và Tiểu có khác nhau. Duy thức nói về danh, Cú và Văn rằng: “Danh chuyển tải về tự tánh, cú chuyển tải về sự khác nhau. Văn tức là chỗ y nương của Danh và Cú. Nếu theo quy ước của sự kiết tập của các bậc Thánh, sau khi Đức Phật nhập diệt thì Danh, Cú và Văn được chuyển tải trong bối diệp của Ấn Độ và quyển vàng của Trung Quốc đều y theo sắc pháp thuộc Hình và Hiển để lập ra. Nay, Tiên sư nêu giản lược hai pháp ấy, nhưng nếu đầy đủ thì phải có cả bốn. “Khí loại cùng theo nhau”: Như lấy nghóa của bốn pháp đồng nói về, Phát khởi v.v… Vì vậy, Tiên sư chia thành Phẩm Tự. Cho đến nghóa của đồng nói về nghóa, Tán Phật, vì vậy, Tiên sư chia thành Phẩm Tán. Nay tuy giải thích về Tự nhưng nghóa của Phẩm lại xuyên suốt cả phần dưới. Dẫn ví dụ: Dẫn thông lệ: Khí loại văn cú của hai Tạng Luật và Luận đều có tiết đoạn của Thiên tụ, Kiền-độ. Cũng như phẩm loại của kinh. Thiên tụ tức là năm thiên và sáu Tụ. Năm thiên: Một là Ba-la-di. Hai là Tăng-tàn. Ba là Ba-dật-đề. Bốn là Đệ-xá-ni. Năm là Đột-cát-la. Dưới Tăng- tàn thêm Thâu-lan-già nên gọi là sáu Tụ. Nếu thêm ác thuyết ở Cát-la thì lại là bảy Tụ. Tỳ-đàm nói đủ là A-tỳ-đàm. Hán dịch là Vô tỷ pháp, tức là Luận tạng. Kiền-độ: Hán dịch là Pháp tụ. Đây cũng là pháp lấy khí loại để theo nhau. Tự là một đoạn. Như luận Bát-kiền-độ nói: “Một là Nghiệp kiền-độ, nói về ba nghiệp. Nói về một trăm lẻ tám phiền não: Hai là Sử kiền-độ nói về một trăm lẻ tám phiền não. Ba là Trí. Bốn là Định. Năm là Căn. Sáu là Đại. Bảy là Kiến. Tám là Tạp”. Nếu suy niệm thì người học có thể nhận biết được”. Hai là“Từ như v.v…” trở xuống là giải thích văn kinh, có hai: Một là chia ba lời Tựa. Ở đây tuy chia làm ba, nhưng đến phần Tiêu văn ở dưới thì chỉ rút lại còn hai lời Tựa là Chung và Riêng. Hai là Giải thích về ba lời Tựa, có ba: Một, giải thích lời tựa kế tiếp, có hai: Nói rộng về danh số: Kế là nói rộng về danh số, có hai: Một là nói về sự khác nhau của số, có hai: Một chính thức nói về sự khai, hợp của số. Địa nhân là luận sư truyền bá địa luận. Sáu sự: Một là Pháp thể được nghe. Hai là Người thuộc chủ thể trí. Ba là Sự hòa hợp của nghe và nắm giữ. Bốn là Người chủ thuyết giáo. Năm là Nơi y chỉ. Sáu là Những người cùng nghe và nắm giữ. Hoặc bảy là triển khai và phối hợp vấn đề “Tôi nghe”. hoặc năm là Phối hợp ở chỗ của Phật. Hai thứ này mở bày cả vấn đề đúng sai của đại chúng. Kinh này chính là nói về Tông chỉ của Thường thọ tại thất của Tín Tướng. Vì vậy, các vị trời, rồng và các vị Bồ-tát đều nhóm họp ở đó để nghe. Lúc nói xong, cả bốn vị Phật đều biến mất. Xét về Lý, thì hợp với sự thối lui, rải rác của đại chúng. Giảng nói lời tựa ở Linh Sơn, trống vàng ở trong mộng; vì Thời và Xứ khác nhau nên đều không nghe. Nếu theo quy ước của sự nghe về Thường thọ thì được gọi là cùng nghe. Nhưng, vì không dự giấc mộng v.v… nên không cùng nghe. Vì Thời và Xứ của sự nói về kinh này không cố định nên sự đặt để về Chúng cùng nghe của kinh này không giống như các kinh khác. Còn việc xếp chúng cùng nghe của bản dịch mới của kinh Tối Thắng Vương do ngài Nghóa Tịnh dịch thì giống như các kinh khác. Vì Đại sư biết trước bản chữ Phạn sắp đến nên ghi chú là Hai “Đây v.v…” trở xuống là nhiều loại lập danh, có hai: Nêu lên sự giải thích các danh từ khác nhau: Tất cả gồm có sáu danh từ, đều là câu trên thì nêu danh, câu dưới thì giải thích nghóa. “Nghóa ấn định”: vì câu văn “Như vầy v.v…” như phù ấn của thế gian; thấy sự đầu ấy thì biết đó là kinh của Phật. Vì vậy, Đại luận nói: “Chẳng những pháp của ta như vậy mà ngay cả kinh của chư Phật ở ba đời, lúc mở đầu cũng như vậy”. “Vì lấy tên gọi chung làm gốc”: Những gì do miệng vàng nói đều đặt “Như thị” nên gọi chung là kinh. “Lời tựa sau kinh này: vì lúc kiết tập là sau lúc nói kinh. “Lời tựa trước kinh này”: Vì Đức Phật dạy là đặt ở đầu kinh này. Đại luận nói: “Lúc Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, Tôn giả A-nan hỏi Phật rằng nên đặt câu gì ở đầu tất cả các kinh. Đức Phật đáp Tôn giả A-nan rằng nên nói: “Tôi nghe như vầy, một thuở nọ, đức Phật ở phương nào đó, nước nào đó cùng đại chúng nào đó”. “Lời tựa phá tà”: Vì tất cả bản kinh của ngoại đạo đều có đặt hai chữ A, Âu ở đầu, A là Vô, Âu là hữu. Vì ngoại đạo thừa nhận hai chữ ấy là gốc với mục đích nói rõ rằng trong bộ không ngoài Hữu và Vô nên Đức Phật lập “Như vầy” để đối phá “Không Như, Không Thị” của tà chấp. “Lời tựa chứng tín”: Đại luận chép: “Vì sao Đức Phật không nói ngay về Bát-nhã mà lại nói về thành Vương-xá”? Đáp: Đức Phật nói về thời gian, nơi chốn và người là làm cho người nghe kính tin”. “Thiên thai v.v…” trở xuống là kết quy về bốn thứ Tất-đàn: “Sư Thiên thai”: Vì Đại sư Chương An đối lại với bản giải cũ kia nên gọi Đại sư Trí Giả là Sư Thiên Thai. “Bốn thứ Tất-đàn”: Tất là âm Hán, nghóa là Cùng khắp. Đàn là tiếng Phạm. Hán dịch là Ban phát. Chư Phật, bậc Thánh thường dùng bốn thứ lợi ích của Hoan hỷ, Sinh thiện, Phá ác và Nhập lý để ban phát cho tất cả chúng sinh. đây là tướng chung của đạo Cảm và Ứng. Lời tựa nói về việc miệng vàng dạy đặt để tiếp theo này tức là Ứng. Tất cả cơ duyên được che chở sau khi Đức Phật diệt độ là Cảm. Nhưng ý của mỗi lời tựa đều có sáu danh nghóa là thế nào? Nay, Tiên sư dùng bốn thứ Tất-đàn để thâu tóm. Như thế thì mỗi danh nghóa đều có chỗ quy về so sánh. Vì vậy, hai danh từ một và hai là đem lợi ích thuộc về Thế giới để ban cho chúng sinh; hai danh từ ba và bốn là thuộc về Người; Thứ năm, Phá tà là pháp đối trị. Thứ sáu; Nhập lý là thuộc Đệ-nhất-nghóa. Bốn danh số này chưa phán định sự sâu cạn của chúng. Như thế tức là cả bốn thứ giáo lẽ ra đều có đủ cả bốn. Hai, “sự giải thích cũ v.v…” trở xuống là Tiên sư chính thức giải thích văn kinh, có hai: Một là y theo kinh để giải thích về năm nghóa. Hai là nói về ý nghóa của sự thiếu sót về “cùng nghe”. Giải thích năm nghóa: Vì ở đây, Tiên sư y theo sáu việc của Địa luân sư để phân chia câu văn. Nếu y cứ và năm việc thì văn hiện nay chỉ có bốn “y theo một” gồm có năm nghóa. Kế là giải thích về pháp thể, có hai: Tiếp là sự giải thích của người xưa gồm có hai: Tiếp đến là trích dẫn về sự giải thích của các sư, có bốn. Một là cựu giải. Hai là đại sư Tăng Triệu. Ba là Đại sư Chân-đế. Bốn là Bồ-tát Long Thọ, văn nghóa của bốn vị ấy đều rất dễ thấy. cạn. Đến lúc phán định về bốn thứ Tất-đàn mới quyết định sự sâu Sử dụng bốn thứ Tất đàn: “Đây v.v…” trở xuống là Tiên sư dùng bốn thứ Tất-đàn sắp xếp: Nay, nói về pháp của bậc Thánh dù nhiều hay ít dẫu chung hay riêng gì cũng đều là cảm và Ứng, cảm và Ứng không ngoài phạm vi của bốn thứ Tất-đàn. Sự phán định trước về sáu thứ danh nghóa của lời tựa tiếp theo là chung, là nhiều. Nay phán định về cảm và Ứng của mỗi việc trong sáu việc là riêng, là nhỏ. Vì lẽ ấy các sư giải thích về hai chữ “như vầy” đều khác nhau. Nay, sư Thiên Thai dùng bốn thứ Tất-đàn để hội nghóa mà giải thích, mỗi Tất-đàn đều đạt được một loại ý thuộc cảm và Ứng của Như Lai. Lẽ nào sự giải thích của sư Thiên Thai lại giống với sự tranh luận của thế gian rằng một là đúng mà nhiều là sai ư? Bốn chữ “sự giải thích xưa” tuy là đối với văn và lý nhưng không chia ra lớn nhỏ. Lời lẽ của nó có tính cách chung. Lại nữa, không có tướng của ba thứ ích lợi sinh ra thiện thì chỉ được trao cho sự ích lợi của việc không sai lầm. Vì thế, chúng thuộc về thế giới. Đại sư Tăng Triệu tuy có ngôn ngữ của sự thể nhập lý tánh, nhưng Ngài cũng không lược bỏ chân và tục, vì chỉ sinh thiện thuộc tín thuận, tư bẩm nên thuộc về vì người. Văn và lý của Đại sư Chân-đế cũng chưa phân biệt. Nhưng vì luận quyết định lìa điều ác thuộc thêm và bớt nên thành ra đối trị. Tuy quan điểm Tín thuận của Bồ-tát Long Thọ giống như Đại sư Tăng Triệu, nhưng Ngài nói “Tín là nói rằng việc ấy như vậy v.v…” ở đây thì luôn làm sáng tỏ nghóa của ba đế, “việc ấy” tức là tục đế, “Như” tức là Chân-đế. “Thị” tức là trung đế. Ở đây, trong một câu mà khéo léo mở bày ba đế chính là Đệ-nhất- nghóa. Chú thích v.v… khiến cho Như hướng đến cùng khắp. Giải thích của ngày nay: “Nay làm v.v…” trở xuống là giải thích ngày nay, có hai: Một là theo quy ước của giáo. Hai là quán tâm. Hai sự giải thích này tức là ý của giáo và điều quán cùng luận bàn một cách hoàn mỹ, công của việc làm cho sự giải thích này vượt các tông khác là do đây. Đầu tiên là văn chia làm hai. Một là chung: theo quy ước của sự truyền bá để nói về Như. Theo quy ước của giải thích của thọ để nói về thị. Ở đây đã giải thích chung. Nếu xuyên suốt cả giải thích riêng thì phải bao gồm cả bốn thứ giáo. Vì thế, chúng ta biết rằng Pháp tướng là cái được dùng để giải thích bốn thứ giáo. Đức Phật là chủ giảng nói về bốn thứ giáo. A nan là người nghe và nắm giữ bốn thứ giáo. Đúng ra nên chia để nói rằng cả bốn đều là dung lượng của biển. Giải thích riêng: Hai là giải thích riêng, như sau: Một là lần lượt nói về sự phá và lập, có bốn. Tức là mỗi loại trong bốn thứ giáo đều phá hủy vấn đề “không như, không thị” ở trước mới lập ra nghóa của như, của thị thuộc về giáo lý của mình. Một là phá tà lập chánh, là phá hủy sự sai lệch của ngoại để làm sáng tỏ chính chân của ba tạng, có hai: Một là phá tà: A, Âu gọi là tốt lành: Bách luận nói về sự kiện của ngoại đạo hỏi đệ tử Phật rằng:”Đức Phật giảng nói về pháp gì? Đáp: “Đức Phật nói lược về hai thứ là dứt bỏ điều ác và thực hành điều lành” Ngoại đạo nói kinh điển của ông có sai lầm, vì mới vào mà đã nói điều ác. Cho nên, kinh điển của ông không tốt. Như kinh Quảng chủ v.v… đầu tiên đều nói về điều tốt lành. Vì đầu tiên tốt lành nên đoạn giữa và đoạn cuối đều tốt lành”. Cho nên ngoại đạo gọi A, Âu là tốt lành. “Văn sai v.v…” là lấy chánh để phá không như không thị của tà. Đầu tiên kinh nêu lên điều tốt lành nhưng vấn đề được nói trong kinh này chỉ là tà kiến. Đó là không phải là như thuộc vấn đề văn sai với lý. Tà kiến thì không tốt lành nên không thể gọi là A, Âu được đó là chẳng phải thị thuộc vấn đề lý khác với văn. Vì vậy, Bách luận phá thể này: “tốt lành hay không tốt lành điều là không khí của tà kiến” Hai là văn như trở xuống là lập ra chánh kiến. Văn lý trong ba tạng có sự tương xứng. Lấy lời luận bàn của vô thường, sinh diệt tương xứng với lý vô thường, sinh diệt mà gọi là Như, lý ấy tương xứng với văn nên gọi là Thị. Hai là “nay nói rằng.. “ trở xuống là phá dị, lập đồng, có hai: Một là phá dị: muốn làm rõ về lý của diễn thì trước phải bác bỏ sự sai của tạng. Tục thuộc về thật hữu mà làm chủ thể giải thích, vì không chính là Chân-đế nên chẳng phải như. Chân thuộc đối tượng được giải thích không bao gồm trung, vì lý cạn thấp nên chẳng phải thị. Hai là “ma v.v…” trở xuống là giải thích về đồng, là nói chung về đương thể của huyễn hữu tức là không, vì không phải khác nên gọi là như. Chân thuộc chính là không, thường bao gồm Trung đạo, vì không giống như chiết không của ba tạng vốn nhất định cạn nông nên lý gọi là Thị. Vì thông giáo chắc chắn có cả cả hai giáo biệt và viên nên văn nêu lên rằng: “Ma-ha-diễn”. Ba,” này nói là ba v.v…” trở xuống là phá cạn, nói về sâu, có hai: Một là phá cạn: muốn nói về lý của biết thì trước phải bác bỏ sự sai lầm của thông. Theo thông giáo thì vấn đề “cùng nghe” của ba thừa chính là không, nhưng, Bồ-tát độn căn lại hiểu giống như Nhị thừa, Bồ- tát lợi căn nghe về không thì không những có cái chẳng mà còn không luôn cả cái không. Cả hai đều dã đạt đến sự hiểu biết như vậy nên so với biệt là chẳng phải như. Hai sự chứng đắc trong không, vì chứng đắc về không yếu kém nên so với trung chẳng phải là thị. Hai là nói về sâu: biệt giáo không cùng chung với sự tu học của Nhị thừa. Tuy có thâu nhiếp chúng nhiều như cát bụi, nhưng chỉ những vị thuộc căn tánh là đều nghe về Phật tánh, từng bước tu và đi vào, vì không có kiến giải khác nhau nên được gọi là như, vì ai cũng chứng được Trung đạo nên gọi là Thị. Bốn, “nay nói là nơi” trở xuống là phá sự lìa lập Trung đạo, có hai: Nói về cạn sâu: Một là phá lìa bỏ: muốn nói về lý của Viên giáo thì trước phải bác bỏ sự sai lầm của biệt giáo. Tuy rằng biệt giáo có luận bàn về trung, nhưng trung là cảnh giới của Phật, vì Phật khác với chín cõi nên gọi là như. Pháp quán đầu tiên là ra khỏi tục, phép quán kế là ra khỏi chân, đến phép quán thứ ba thì ra ngoài cả Nhị đế mới chứng được Trung đạo; vì trung chẳng phải là Biên nên chẳng phải nghóa của Thị. Hai là “văn tự v.v…” trở xuống là nói về Trung. Thể tánh của văn tự thuộc chủ thể truyền đạt vốn lìa, là quên vì văn tự không khác với lý, nên gọi là Như. Duy không, duy hữu, duy sắc, duy tâm, vì mỗi pháp đều là Trung, đều là pháp của Phật nên gọi là Thị, vì văn giống với lý nên nghóa của thị hoàn toàn thành tựu. Kế là “đầu tiên là phá v.v…” trở xuống là kết thành bốn thứ giáo. Hỏi: trước đây, lúc giải thích về bốn thứ giáo chung với chân, gồm chứa Trung nên gọi là lý sâu. Nay kết biệt giáo thuộc về bốn thứ giáo, lại nói rằng phá cạn để hiển bày sâu, chẳng lẽ trong chân của Thông giáo đều cạn? Đáp: Lý của thông giáo tuy sâu nhưng gồm nhiếp cả Nhị thừa và Bồ-tát độn căn nên gồm cả lý cạn. Nay kết về biệt giáo vì chỉ có pháp của Bồ-tát là chuyên bàn về lý sâu nên mới dùng sự chỉ có sâu mới phá sự gồm luôn cạn. Kết như vậy không sai trái với sự giải thích về nghóa đã được nêu ở trước. Tiếp là “kinh này v.v…” nói rõ, bộ có đủ bốn. Tiếp đến là quán tâm: dùng ba quán của viên để quán ấm v.v… tâm tu ác tức là tánh ác. Gọi pháp giới ác là tất cả điều ác. Thể là ba đức nên gọi là ba đế, vì chiếu soi tương xứng với đế, sự quán và cảnh được quán chẳng khác nhau nên gọi là Như. “Cảnh tức là chánh quán” cảnh là bản giác, khởi là thỉ giác. Tuy chia ra mới và cũ nhưng thể của giác chẳng khác nhau. Vì vậy được gọi là “cảnh tức là chánh quán thì nghóa ấy mới thành tựu” nếu không như vậy thì làm sao bốn câu “cảnh, chiếu cảnh v.v… lập được?” “Kinh nói v.v…” là nếu cảnh được quán là hư không thì hàng Tiểu thừa nghiêng lệch bị mất tâm, giả lập chân như v.v… đều gọi là quán nghiêng lệch. Nay, tuy chánh quán theo quy ước của hạnh, nhưng nếu hành giả muốn nhiếp sự để thành lý, tu tập ngay nơi sự nghe thì phải phân biệt với mười cảnh đối với các tâm được quán sát, cảnh của ấm thường có, còn chín cảnh khác thì đợi phát, đối với sự quán thuộc về chủ thể quán thì phải biết về mười thừa, bậc thượng căn thì tu một, hàng trung căn thì tu bảy, người hạ căn thì tu cả mười. Nếu tự thân chưa thấu hiểu về Ma-ha chỉ quán thì phải dựa vào thầy, bạn để hỏi rõ từng vấn đề một: hiểu biết về thuốc và bệnh mới được tu tập chứ không thể nói gọn một câu rằng “tu hành” là đủ. Y theo tiêu chuẩn này để nhận biết sự giải thích về quán ở dưới. Kế là “tôi nghe v.v…” trở xuống là chú thích về nghe giữ, có hai: Một là sự giải thích của người xưa, có ba: Một là sư ngày xưa: vì người ngoài là ngã kiến nên phần nhiều tôn tâm làm thầy. A-nan tôn Phật làm thầy nên nói là“tôi nghe”. Hai là Chân-đế: vì ngã có khả năng thọ trì pháp do Đức Phật nói nên nó có nghóa của đồ dùng. Phân biệt với ba loại chẳng phải là đồ dùng để nói lên sự thành tựu ba thứ tuệ. Tuy chưa phân tuệ riêng đối với bốn thứ giáo, nhưng sự chú thích về tôi nghe của Đại sư Chân-đế hơn hẳn bản giải thích xưa. Ba là thích luận: bản xưa nói về vấn đề Nhó thức sinh ra từ bốn duyên: Một là không. Hai là căn. Ba là cảnh. Bốn là tác ý. Nay nói rằng “không hư hoại là căn, cái để nghe là cảnh, lắng nghe là tác ý”. Chỉ thiếu duyên không, ở dưới nói rằng: “nhân duyên là hợp”, xét về nghóa có thể bao gồm. Tức là bốn duyên hòa hợp mới phát ra nhó thức. Cho nên không nói tai nghe mà nói tôi nghe, là vì ngã là chủ của lỗ tai. Quan điểm mới nói rằng: “nhó thức sinh ra từ chín duyên. Vấn đề này có nói đầy đủ trong Duy thức”. “Hai sư giải thích” trở xuống là sự giải thích của ngày nay, có hai: Giải thích theo quy ước của giáo như sau: Các sư giải thích về “tôi nghe”, có hai: Một là nói về bốn thứ ngã, ngã v.v… ở đây được lập ra theo mô thức của bốn câu là sinh sinh v.v… trong đại kinh. Nhưng, ngã là giả danh, do các ấm mà có. Pháp ấm đã có bốn thứ như sinh sinh v.v… mà ngã lại tùy theo thật pháp, thì lẽ nào không như vậy? Như sự chú thích về sinh sinh nói rằng: “sinh thuộc về phạm vi lớn, sinh sinh thuộc phạm vi nhỏ”, đó là sinh diệt sinh ra từ sinh diệt. Nhờ pháp sinh diệt mà thành ra cái ngã sinh diệt nên theo mô thức của sinh sinh mà thành ra ngã. Tuy không quán nhưng chẳng phải là thể không. Vì thế, ba tạng đặt ở câu thứ nhất. Lại nữa, chúng ta nên biết những phạm trù giả, thật, sinh, diệt là cái vốn như vậy của chúng sinh, nhưng chúng sinh lại không nhận biết được. Nay vâng theo giáo lý này, tương xứng với gốc để quán thì lẽ nào chỉ có lý này thôi ư? Ba loại ở dưới cũng giống như vậy. Thật pháp theo quan điểm của thông giáo thì sinh tức là bất sinh. Cho nên ngã ở trong ấm tức là vô ngã. Vì vậy, nó thuộc câu thứ hai. Hành giả của biệt giáo biết ấm bất sinh mà sinh. Vì vậy, hành giả quán vô ngã mà (thành) ngã, vì nhờ giáo lý này vẫn biết về chân ngã. Vì kiến, mạn mạnh mẽ nên đầu tiên hành giả quán vô ngã, kế đến là phá vô ngã, lập ra ngã rồi sau đó đi vào chân ngã. Vì vậy, giáo lý này Ứng ở câu thứ ba. Hành nhân thuộc Viên giáo thì đạt được giả thật bất sinh, bất sinh ngay ở hiện tại. Nắm lấy do ấm thường trụ mà hình thành chân ngã. Ngã đã là Trung thì cả Nhị đế đều hướng về. Vì vậy, Tiên sư nói: “ngã, vô ngã mà không hai chân ngã”. Vì vậy, giáo lý này Ứng với câu thứ tư. Vì giáo vốn che chở cho cơ nên nghóa của bốn thứ giáo phối trị với bốn căn tánh. “Khiến cho người sau nói”: vì phân biệt Như tên trên Tiên sư chú rằng. Hai là nói về bốn sự nghe: ngã là chủ của sự nghe, nghe là tác dụng của ngã, chủ là giả nhân, dụng là thật pháp: nhưng nếu giải về nghóa của sinh thì nghóa của nghe liền tự sáng tỏ, nhưng sinh là nói về duyên khởi chung, nghe là riêng về nói nghe, hoàn toàn khác nhau. Theo nhân duyên của nghe mà có sự nghe khác. Vì vậy, Tiên sư nói: “nghe, nghe”. Đã theo duyên sinh thì cuối cùng cũng trở về sự hoại diệt. Đó là sinh diệt của sự nghe. Vì nghe không có bốn tánh, đương xứ không nghe nên nói là “nghe không nghe”, đó là vô sinh của sự nghe. Tuy thật không có nghe nhưng vì trong tục có nghe nên gọi là không nghe. Đó là vô lượng của nghe. Nhị đế tức là trung nên nói là không nghe. Trung cũng khó đạt được nên nói là “không nghe”. Suốt bốn mươi chín năm không nói một chữ thì làm gì có trung và biên để nghe? Đó là vô tác của nghe. Vì chú thích giống như trước. Kế là có bốn v.v… trở xuống là cùng giải thích về “tôi nghe” như sau: Một là bốn khả năng của người nghe: theo giáo lý ba thì vì một thân A-nan có bốn đức tính nên được bốn tên gọi. Điển tạng lưu xuất từ hàm, ba tên gọi khác xuất xứ từ kinh Chánh Pháp Niệm. Nay giảng nói tên nhỏ đối với bốn thứ giáo thì danh và nghóa phù hợp. A-nan là tiếng Phạm, Hoan hỷ là tiếng Hán. Vì tôn giả sinh ra vào lúc Đức Phật thành đạo, cả nước đều vui mừng nên lấy sự kiện ấy mà đặt tên. Từ duyên mà lập danh, hợp với pháp sinh diệt truyền bá và giữ gìn ba tạng nên dùng tên này. Thể sự do Thông giáo nói tức là lý, khác với cái thấy của phàm tục nên dùng tên gọi Hiền. Biệt giáo năm lần bàn luận về Phật pháp nhiều như bụi cát, chủ lãnh hội nhiều điều nên gọi tên là Điển tạng. Viên giáo từ khởi đầu đến chấm dứt đều giải thích về lý của pháp giới, đã sâu mà lại rộng nên dùng tên gọi là hải. Hai là “hoan hỷ v.v…” trở xuống là khả năng thờ kính bốn Đức Phật, có bốn. Một là Tam tạng: chiết pháp của giáo này không bao hàm Trung, vì vậy, hành giả chỉ nhìn thấy Đức Phật cao một tượng sáu. Kế là “hiền A-nan v.v…” trở xuống là Thông giáo: quán đã là thể của pháp, làm sáng tỏ hai thứ không là Đãn và bất Đãn. Các Bồ-tát độn căn giống với Nhị thừa là chỉ thấy Đãn không. Vì chẳng phải Trung, thật nên chẳng phải là gốc của sắc và tâm. Vì vậy, Đức Phật vốn là do thệ nguyện chứ chẳng phải tập khí dư thừa. huyễn xuất thân trí, cuối cùng cũng quy về sự tận diệt như tro, vì sắc tâm có giới hạn nên gọi là trượng sáu. Nếu là Bồ-tát lợi căn thọ nhận biệt viên thì hiểu được bất đãn không. Không là thể thật có trong bản giác, đó là sắc tâm nhiệm mầu chứng đắc lúc ở địa vị Phật. Vì thân và trí có được tương xứng với sự vô biên của thể tánh nên gọi là tôn đặc, nghóa là tôn sùng, kỳ lạ và đặc biệt. Đồng thời, thân ấy cũng được gọi là báo thân. Vì chỉ là một thân nhưng do căn cơ có lợi và độn nên thấy có hai hình tướng. Vì vậy, Tiên sư nói là: “hợp thân”. Thân Phật của Thông giáo phải trình bày như vậy. Chúng ta phải biết rằng Bồ-tát độn căn dẫu có thấy thân Phật cao mười dặm cho đến trăm ức dặm đi nữa, nhưng vì chỉ y theo Đản không nên thân ấy cũng chẳng phải tôn đặc. Vì nó có phần hạn. Nếu hàng Bồ-tát lợi căn thấy thân một trượng sáu đi nữa, nhưng do đã y theo Trung đạo nên thân ấy cũng chẳng có giới hạn. Vì vậy mà văn dưới có đoạn kệ của Kim Long Tôn vương khen ngợi ba mươi hai tướng. Văn cú giải rằng: “Chính thức khen ngợi về tôn đặc”. Kế là “Điển v.v…” trở xuống là Biệt giáo. Hàng sơ tâm của giáo lý này liền nghe về Đãn trung. Tuy rằng Trung chẳng có đủ y báo chánh báo của chín cõi nhưng chẳng phải không có Sắc tâm mầu nhiệm của cõi Phật. vì thế, hành giả của giáo này chỉ thấy thân Phật thuộc phạm vi, thân tôn đặc không có phần hạn. Bởi, đầu cuối của giáo này không chung với sự tu tập của Nhị thừa và Bồ-tát trụ ở Không. “Bốn biển v.v…” trở xuống là Viên giáo. Tướng thế gian mà giáo lý này nói là thường. Vì thế, tất cả các pháp đều là Trung đạo. Tuy rằng hành giả của giáo này thấy tướng tôn đặc giống như hành nhân của Biệt giáo. Nhưng vì hành nhân Biệt giáo gồm luôn cả sự tu riêng, còn hành giả Viên giáo đều là Tánh cụ nên Long nữ nói: “Pháp thân mầu nhiệm thanh tịnh, có đủ ba mươi hai tướng”. Vì muốn nói lên toàn bộ thể tánh nên kinh y theo tôn đặc mà gọi là Pháp thân. Vì vậy, hành giả Viên giáo quán tính chất khổ và vui của tánh đức để hưng khởi sự cho và nhổ, lấy sự độc hại của tức lý mà làm cái được tiêu trừ, chế ngự. Ba nhân tu đức gọi là hạnh của tánh đức, hai thân là Báo và Ứng được gọi là Pháp thân. Bởi Tiên sư muốn dùng tánh để tiêu dung vào đức. Khổ thì lập tức nhổ mà không nhổ. Độc thì lập tức tiêu mà không tiêu. Hạnh tức là tu mà không tu. Phật tức là chứng mà không chứng. A-nan truyền bá Tứ đế vô tác này tức là nói mà không nói. Vì thế, Tôn giả đích thân kính thờ Phật Pháp thân. Kế là “Ở đây v.v…” trở xuống là trong bộ có bốn căn cơ. Hỏi: Trên kia, ngài nói về bốn thứ giáo, tại sao hiện nay chỉ nói về sự Nói và Nghe của ba thừa?”. Đáp: Vì Thanh văn, Duyên giác trong ba thừa phải nói về Tạng và Thông. Nếu nói về Bồ-tát thì phải gồm cả bốn thứ giáo. Ba thừa là nói chung, bốn thứ giáo là nói riêng. Nghe đã là ba thừa thì tất nhiên, nói phải là bốn thứ Phật. Đã là một âm thanh mà mỗi loại giáo đều giải thích thì một thân cũng có chỗ thấy khác nhau. Ý hướng nói về thân hợp nhất ở trước nằm ở đây. Kế là “Quán v.v…” trở xuống là theo quy ước của quán tâm để giải thích. Vì hai chữ “Tôi nghe” ở trên, mỗi chữ đều có nghóa của bốn câu nên y theo tâm quán sát của hành giả mà phân biệt. “Vin níu trên v.v…” tức là sau hạnh quán thuộc loại thiền hữu lậu. “Vin vào tính chất Tịnh diệu ở trên, chán lìa trạng thái thô chướng của khổ ở dưới. Theo quy ước của Cửu địa để lần lượt nói về Thượng và Hạ. Ngã Ngã, Nghe Nghe là cảnh thế tục thuộc phạm vi sinh diệt trong ba tạng. Trước đây là y theo sự hiểu biết về sinh diệt của ba thừa để quán sát cảnh mà đi vào Lý. Nay, y theo sự không biết của phàm phu mà tu nên chỉ thành tựu loại thiền thế gian. Đã là cảnh tục thì biết và không biết gốc của pháp là sinh diệt, cho nên dừng ở câu Sinh Sinh. Sư giải thích của chủ trương hôm nay hoặc y theo căn cơ được giáo hóa. Dị nhưng xét về chân thì Đồng. Vì thế, lấy Chiết và Thể cùng đối nhau làm câu thứ hai. Hai thứ quán cuối cùng chẳng khác với sự đối đãi ở trước. Lại nữa, ở trước theo quy ước của Giáo thì bốn câu “Tôi nghe” có thể đối với bốn hạng người. Nay vì nói về sự tu quán nên phải y theo tiêu chuẩn của một người, một niệm mà chiếu soi. Vì thế, Tiên sư giải thích sâu suốt một tâm ba quán trong một niệm tâm mà thấy bốn thứ Tứ đế. Còn có đủ bốn nẻo thì lẽ nào lại nói về thiền thuộc thế gian? Vì sao? vì nói thì phải căn cứ vào người để biện minh về Tướng, vì tu không có trước sau mà chỉ thành sự quán sát của Viên giáo. Kế là “Một thời v.v…” trở xuống là nói về sự hòa hợp như sau: Tiếp là sự giải thích của người xưa, có hai: Một là giải thích của Đại sư Tăng Triệu. Khải tức là khai (mở). Vận tức là thời vận tốt lành. Hội tức hợp lại. Nghóa là lúc Cơ và Ứng khéo phù hợp. Hai là “Tam tạng v.v…” trở xuống là Chân-đế, có hai: Một là trình bày sự lập nghóa của Đại sư Chân-đế. Sự giải thích ở đây đồng với việc lấy sự hợp nhất để chú thích về một. Nhưng, Đại sư chỉ y theo Cơ mà nói về tâm hợp với Ứng, chẳng có cao thấp. Nếu lúc tâm của các chúng sinh không có cao, thấp, trung bình tức là lúc hợp nhất với “Một thuở nọ” của Đức Phật. Vì vậy, Tiên sư nói thời gian bình thường tức là “Một thuở nọ”. Hai là “Ý riêng v.v…”trở xuống là xong về sự giải thích của sư Chương An. Nói rằng “Ý của tôi là “là sau khi Đại sư đã mất, sư Quán Đảnh ghi chép. Cú thời của đoạn văn đó tự thêm lời giải thích này. Vì đối với sự không sáng tỏ nên nói là riêng. Bởi Đại sư nghó rằng người đời sau chẳng giải thích được nghóa không cao thấp của Đại sư Chân- đế nên mới chú thích ra. Cao tức là tâm ngạo mạn, tự thị, lăng nhục kẻ khác, không vâng hành đạo pháp của Đức Phật. Vì vậy, Tiên sư nói “Tâm ngạo mạn không vận hành”. Thấp tức là đắm say, luyến tiếc năm dục, hoang mê, không xả bỏ được thì làm sao tu tập được đạo pháp. Hai thứ tâm này làm chướng ngại đối với đạo rất lớn. Tiên sư muốn người đời này không đắm say, không kiêu mạn, tu tập lúc bình thường thì liền cảm được ân đức của bậc Thánh. Tiếp là “Thầy v.v…” trở xuống là cách giải thích ngày nay như sau: - Theo quy ước của giáo, có hai: Một là theo quy ước của nhân duyên để chú thích chung, tức là thời thuộc về sự hợp nhất của nhân duyên cảm Ứng. Nếu không nói về Cảm Ứng thì sẽ nói Một với ai? Vì chia ra sự khác nhau giữa cạn và sâu của ba đế nên phải chú thích chung. Hai là “Cũng v.v…”trở xuống là theo quy ước của Đế và Trí mà chú thích riêng, có hai: Một là Giải thích về Thời. Hỏi: Đế và Trí chỉ tại cơ cảm, còn Cảm Ứng lại gồm cả chúng sinh và Phật; hai và một đã khác nhau thì làm sao có thể nói về chung và riêng được? Đáp: Trí tức là Cơ. Đế tức là Ứng. Lúc Trí và Đế hợp được gọi là Một của Cảm và Ứng. Vì sao? Vì Đức Phật lấy ba Đế làm thể. Nếu Đức Phật không lấy Thể này để Ứng với chúng sinh thì chúng sinh chẳng có con đường nào để cho Trí hợp với Đế. Như trường hợp Tu-bồ-đề Quán Không ở động đá mà Đức Phật Thích-ca khen ngợi là: “Được thấy thân ta”. Vấn đề này lẽ nào chỉ đối với Đế lý? Thật ra đối với các pháp lành cũng giống như vậy. Như (luật) nói:”Nếu giữ năm giới thì Như Lai Thích-ca ở trong nhà ông”. Vì vậy, chúng ta biết rằng Đức Phật lấy ba Đế, các pháp lành mà làm thể tướng. Lúc chúng sinh tu điều lành, thấu Đế lý tức là “Một thuở nọ” của sự hợp nhất giữa Cảm và Ứng. Nay, nói về ba Đế tức là thâu nhiếp cả bốn thứ giáo như sự giải thích của mọi người. Hai là “Mà nói v.v…”trở xuống là chú thích về Một là tức là tướng Một của sự hợp nhất giữa Đế và Trí ở trước. “Trước lược bỏ không hợp”: Ý Tiên sư nói rằng suy niệm trước, sau đó mới biết thì đó là tâm luống dối của giáo quán. Nếu trí phát thì cả suy tư và tri giác đều vắng lặng, bỗng nhiên được khai ngộ. Đó mới là cái một của đế lý. Vì vậy, kinh nói là: “Một thuở nọ”. Tướng một của Đế và Trí thuộc về bốn thứ giáo cũng giống như vậy. Kế là chú giải về Quán: Sự giải thích theo quy ước của giáo ở trước là sự khai ngộ ở Phật hội. Nay theo quy ước của quán tâm tức là sự tu Tạo sau khi Đức Phật diệt độ. Trước thì chia thành bốn thứ giáo. Nay thì tại một tâm. Văn tuy có khác nhưng ý vốn là một. Bốn là nói về giáo chủ như sau: - Cách giải thích của người xưa, có hai: Một là Chân-đế: Chưa phá vô minh gọi là Tiểu Bồ-tát. Nếu chứng pháp thân thì hiển bày từng phần về ba nghóa. Vì vậy không che chở cho hạng người khác. Vì ba thừa khác với Ngoại đạo nên chỉ có một nghóa. Bồ-tát khác với cả hai hạng là ngoại đạo và Nhị thừa. Vì vậy, Bồ-tát có được cả hai nghóa nhưng vẫn chưa bình đẳng. Vì Đức Phật hoàn toàn khác nên có đầy đủ cả ba nghóa. Hai là thích luận: Vì tên gọi Thế Tôn đảm đương tên gọi của cả mười tên gọi nên Phật là thứ chín. Có đủ mười danh hiệu gọi là bậc tôn quý ở thế gian. Đó là chủ thể giác ngộ. “Đối tượng được giác ngộ của chủ thể giác ngộ”: Tức là pháp thuộc Ba cặp (Tam song) của thế gian v.v… Cặp đầu tiên là theo quy ước của Thánh và Phàm: Thế tức là Pháp của sáu phàm, xuất thế là Pháp của bốn bậc Thánh. Cặp tiếp theo là quy ước giữa Tiểu và Đại. Vô thường là Pháp của Tiểu thừa, Thường là Pháp của Đại thừa. Cặp cuối cùng là theo quy ước của nghó bàn và không thể suy nghó bàn luận: sáu Phàm, ba loại giáo lý là số, đều là Pháp có thể nghó bàn. Chỉ có Viên giáo là phi số, là Pháp không thể suy nghó bàn luận. Vì giác biết tức khắc thấu triệt, rõ ràng các pháp môn này ở trong một tâm nên gọi là Phật. Kế là giải thích của ngày nay, có hai: Một là theo quy ước của Giáo: Phật đã chuyển giác mà có ba thân. Đây chính là cái được thành tựu do ba loại giác trí. Như Nhất thiết trí tạo thành thân trượng sáu ở ba tạng “y theo Đạo chủng trí thì có hai thứ Phật” :Vì loại trí này nói ở phạm vi trong và ngoài cõi. Đạo chủng trí ở phạm vi trong cõi thì thành ra thân trượng sáu của Đãn không thuộc về Thông giáo. Vì Bồ-tát độn căn là từ không mà ra khỏi Giả. Đạo chủng trí ở phạm vi ngoài cõi thì thành thân tôn đặc của Đãn trung thuộc Thông và Biệt. Vì Bồ-tát từ trung mà ra khỏi Giả. Nhất-thiết-chủng-trí thành tựu pháp thân Phật của Viên giáo và trong cõi của các pháp thuộc Thông và Biệt giáo. Tuy che chở cho cả bốn thứ căn Cơ, nhưng Phật thì chỉ có ba loại. Ba loại Phật này không thể quyết định là Nhất, vì không sai biệt chính là sai biệt, không thể khẳng định là Dị, vì khác nhau tức là không khác nhau. Chúng ta phải quên hẳn hai phạm trù là một và khác. Bởi vì, chúng ta là kho bí mật. Thế nhưng, chúng ta vẫn nói về hai phạm trù Nhất và Dị là bởi đối với tiết đoạn thì phải chia như vậy. Hai là theo quy ước của Quán: “Đối tượng được giác biết của ba quán đều gọi là pháp”. Mỗi pháp đều giác biết đối với ba đế. Vì vậy, ba đế của Không giác quên đi quan điểm về sự khác nhau gọi là Đệ-nhất- nghóa không. Do đó gọi là Một tướng. Ba đế của Giả giác đều có khả năng lập pháp gọi là Như Lai tạng. Vì vậy gọi là Đủ loại tướng. Ba đế của trung giác ngăn che và chiếu soi cùng một lúc gọi là Đệ-nhất-nghóa Lý. Vì vậy gọi là không có tướng Nhất Dị và cũng là tướng của Nhất và Dị. Vì trước kia theo quy ước của Giáo để chú thích nên Tiên sư dùng ba đế để hiển bày riêng về ba thứ thân được xếp vào bốn thứ giáo. Nay, đã theo quy ước của quán, lẽ tất nhiên là chỉ ở tại Viên giáo. Nếu pháp quán của Viên giáo thành tựu thì dẫu không mong cầu mà hành giả vẫn gặt hái được bốn thứ giáo và ba thứ thân. Bụi hết thì gương sạch, bóng hiện tùy theo hình. Vì làm cho vấn đề này được phân biệt nên Tiên sư chú rằng v.v… năm trụ là v.v…”trở xuống là nói về Trú xứ, có hai: Một là nêu lên cả hai. Phật là chủ thể trụ. Thành và Núi là chỗ trụ xứ. Người phải có Pháp, vì là chủ thể trụ. Như kẻ ác ở thế gian chắc chắn phải dùng pháp ác, trụ trong phòng nhà; Người lành, pháp lành và trụ trong phòng nhà cũng giống như vậy. Nay kinh nói rằng Đức Phật trụ ở thành Vương xá, núi Kỳ-xà-quật, lẽ nào chúng ta chẳng lấy đinh Thủ-lăng-nghiêm để làm pháp của chủ thể trụ ư? Vì thế, Phổ Hiền quán nói: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni gọi là Tỳ-lô-giá-na, chỗ ở của Đức Phật này gọi là Thường Tịch Quang”. Mâu-ni là Người, Tịch quang là Pháp. Tự thân của Người và Pháp này có thể chia ra chủ thể trụ và nơi chốn trụ. Nếu so với Núi và Thành thì đều là chủ thể trụ. Núi so với Tịch quang là chỗ trụ xứ. Xứ tùy theo pháp mà chuyển. Trường hợp này là hoàn toàn chỉ sắt thành vàng. Vì vậy, ở Ma-kiệt-đà, A-lan-nhã gọi là Đạo tràng Tịch diệt. Lẽ nào thành và núi ở đây lại không như vậy? Chúng ta nên biết rằng vấn đề chính là không nói về Tâm và Pháp của chủ thể trụ mà chỉ nói về vấn đề sắc thân trụ ở đất, đá. Như vậy, lời luận bàn về Đại, Tiểu, Sắc, Tâm liền trở thành vô dụng. Vì lẽ đó, sự nêu lên cả hai là chủ thể trụ và nơi trụ lẽ tất nhiên phải có ý hướng! Hai là “Chân-đế v.v…” trở xuống là giải thích cả hai. Một là nói về pháp thuộc Chủ thể trụ như sau: - Cựu giải, có hai: Một là Chân-đế: Sự giải thích của Đại sư này về Trụ chẳng những chỉ nói về vấn đề sắc chất trụ ở thành và núi. Vì vậy, Đại sư nói về tám thứ pháp thuộc Chủ thể trụ. Một là Trụ ở Đại thiên: nói lên sự Ứng hóa rộng lớn của chủ thể trụ. Hai là trụ ở y chỉ: nói lên chủ thể trụ hiện nay. Tiếp là Trụ ở năm phần: nói lên năm ấm vô lậu của chủ thể trụ. Năm phần là giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Tức là đạo công giới vô học, định diệt tận, tuệ vô sinh, giải thoát hữu dư, giải thoát chiếu. Trí nhân gọi là Tri kiến. Nghóa là tự tri đó là Sơ quả, cho đến Tứ quả. Như thế thì ba phần trước đều phải ở tại quả mới gọi là Pháp thân. Nói tuổi thọ hiện tại là vì vào Vô dư thì năm phần bị diệt; thân tro thì giới, định và giải thoát Hữu Dư diệt mất; Diệt trí thì tuệ và tri kiến diệt. Vì thế, năm phần của tuổi thọ hiện tại được trụ. Vì đi, đứng, nằm, ngồi thuộc bốn trụ uy nghi đều có phép tắc nên có khả năng làm lợi ích cho chúng sinh. “Năm thiên trụ trụ thiền định”: Thiền tức là bốn Thiền, Định tức là bốn không. Vì chúng là pháp của Trời thuộc hai cõi Sắc và Vô sắc. “Sáu, phạm trụ trụ ở bốn v.v…”. Vì chúng sinh vô lượng, tâm ta là thường v.v… nên Tứ thiền tu thân về Từ, Bi, Hỷ và Xả thì sinh lên Phạm Thiên Vương. Cho nên Đại sư nói là Phạm trụ. Văn không nói về Hỷ và Xả là bởi Tiên sư lược bỏ. “Bảy là Thánh trụ, trụ ở ba thứ Tam- muội”. Đó là Không, Vô tướng và Vô nguyện. Ba loại này là pháp được tu tập bởi bậc Thánh. Vì thế, Đại sư nói là Thánh trụ. “Tám là Đại Xứ trụ”: Tức là trụ ở Thường tịch quang. Vì ngôn ngữ và sự suy niệm đã dứt bặt nên Đại sư nói là Đệ-nhất-nghóa. Tám nghóa này là pháp của Như Lai-Chủ thể trụ. Kế là trích luận: Đại phẩm nói:”Đức Phật trụ ở thành Vương xá”. Ngài Long Thọ theo quy ước của bốn thứ nghóa để chú thích về pháp thuộc chủ thể trụ. Đó là Trời, Phạm, Thánh và Phật. Sáu pháp của Đại sư Chân-đế không nằm ngoài bốn thứ nghóa này. Vì vậy, Đại sư dùng bốn thứ để thâu nhiếp chúng. Trời và Phạm ở trong luận hoàn toàn giống như danh nghóa của hai thứ trụ ở Đại sư Chân-đế, nhưng Đại sư Chân-đế nói định tức là nói về định của bốn thứ v.v… Ở đây thì dùng hai thứ để nhiếp hai thứ. Thánh trụ hoàn toàn giống như danh nghóa Thánh trụ của Đại sư Chân-đế. Nhưng, Đại sư Chân-đế lại thu nhiếp được năm phần tuổi thọ. Ở đây thì lại dùng một để nhiếp hai. Phật trụ hoàn toàn khác với danh nghóa Đại xứ trụ của Chân-đế, dùng một để nhiếp một. Ở đây thì nói về bốn rồi nhiếp năm thứ kia. Luận lại nói: “Trụ ở Thánh trụ, Phật trụ và Pháp trụ, ba trong số bốn thứ trụ là vì thương xót chúng sinh”. Trụ thuộc thành Vương xá nay nói là trụ theo quan điểm của Tích. Nghóa này lại thâu nhiếp ba thứ trụ của Đại sư Chân-đế. Vì Vương thành là nơi y chỉ, Vương thành ở trong cõi Đại thiên, bốn uy nghi không rời Vương thành. Hỏi: Pháp năng trụ của Đức Phật là Thủ-lăng-nghiêm. Vậy luận cần gì phải nói về ba thứ trụ là Thánh, Phạm và Trời? Đáp: Sự tự tu của Như Lai quả thật là ở Lăng-nghiêm. Nhưng, vì mục đích làm lợi ích cho người nên Như Lai trụ ở ba thứ trụ khác. Nếu tâm không trụ vào pháp thuộc Phạm, Trời v.v… thì làm sao nói về Tứ Thiên, Tứ Đẳng v.v… Vì vậy, Diệu lạc nói về Tứ Trụ rằng: “Từ rộng đến hẹp. Vì dùng sự thù thắng để thâu nhiếp sự hèn kém. Trời nhiếp cơ rộng, Phật nhiếp cơ rất hẹp, trung và hai bên không nói. Cho nên nói là hẹp từ rộng”. Phật trụ đã thù thắng nên thâu nhiếp tất cả pháp lành. Vì vậy, ba trụ là Thánh v.v… pháp lành thuộc phàm phu, Tiểu thừa. Đó là nói về điều được nhiếp. Kế là sự giải thích ngày nay, có hai: Một là Giáo: Sự giải thích về bốn thứ Trụ của luận vẫn thuộc về chung. Vì vậy, nhà chú thích ngày nay nói về vấn đề Phật trụ của bốn thứ giáo đối với ba đế, lại nói rõ về sự chỉ trụ trong pháp. Pháp quán do ba Tạng giải thích là vụng. Cho nên lúc thành Phật, thân chỉ một trượng sáu, chỉ trụ ở Chân-đế. Thể của pháp quán do Thông giáo nói là xảo, có thể chứng được Nhị Không. Vì vậy, Đức Phật được thành tùy theo căn cơ lợi hoặc độn, một thân nhưng có hai cái thấy; thân trượng sáu trụ ở Chân, thân tôn đặc trụ ở Trung. Trong sự giải thích của Biệt giáo là tu thứ đệ quán. Vì vậy, Đức Phật được thành tựu chỉ một thân tôn đặc. Vì phải tu riêng về tất cả các duyên trang nghiêm nên làm cho Đức Phật này trụ trong Tục. Trong Trung mà Viên giáo giải thích có các pháp. Muôn hạnh ở trong nhân không tu mà tu, muôn đức trong quả thành mà không thành. Vì vậy, ngay nơi Báo và Ứng gọi là Pháp thân, chỉ trụ ở Trung đạo, lẽ nào Phật của ba thứ giáo lý trước lại rời Pháp thân? Nay y theo sự phân chia hiện thời để nói về bốn thứ khác nhau. Vì vậy bốn Đức Phật, mỗi vị đều lấy Trụ Pháp để trụ ở thành, núi. “Hai thứ quán”: Trong một tâm mà tu đủ cả ba phép quán, trụ trong ba đế. Dùng Pháp trụ này trụ trong chỗ ở. Nếu niệm niệm không dừng nghỉ thì tức là đi, đứng, ngồi, nằm của Phật thuộc quán hạnh. Kinh chép: “Nên xây tháp ở những nơi này” là chỉ cho ý ấy. Kế là “Vua v.v…”trở xuống là nói về chỗ ở như sau: - Là Thành, có hai: Một là giải thích về nhân duyên. Văn ở đây tuy dón gọn nhưng có thể hiểu được ý. Nếu người học muốn biết tỉ mỉ thì xin tìm đọc ở luận kia. Hai là giải thích về quán hạnh: Sự giải thích về các thứ quán ở trên đều là phụ trợ. Bởi vì, “Như vậy v.v…”không mượn nghóa của sự để nói lên pháp quán. Thành và Núi ở đây là mượn sự mà quán. Như Vương xá ở đây là mượn sự che đậy để biểu thị cho năm ấm, mượn nghóa Tự tại để biểu trưng cho vua thiện ác. Vì vậy, Diệu lạc nói: “Dùng Vua thiện ác so sánh với ngôi nhà Vô Ký”. Chúng ta nên biết rằng Vô Ký bao gồm khắp cả tám thức. Nhưng, Vua thiện ác thì chỉ là thức thứ sáu. Vì thức thứ sáu này chung cả ba tánh là Thiện, ác và Vô Ký. Tánh vô ký này giống như bốn ấm khác, là cảnh được quán, lấy tánh thiện ác làm sự quán sát thuộc chủ thể quán. Các vị sơ tâm tu tập phép quán là đều do tâm thứ sáu này. Vì, tâm này có khả năng khởi động sự kính mến và nhàm chán, phân biệt danh nghóa, làm nhân cho thiện ác. “Nói thiện là”: Đối với ác mà có tên chứ chẳng phải thiện rốt ráo. Vì, số của Vua vốn là do sự huân tập của Kiến và ái mà thành; Hành giả thuộc Viên giáo hoàn toàn chưa chế phục. Vì niệm thiên thuộc duyên khởi không rời Kiến ái nên tâm của mười cảnh đều được gọi là Ma Chướng. Loại quán không thể suy nghó bàn luận mới được gọi là thiện thanh tịnh. Nếu hành giả dùng ngay tâm ấy mà quán lý Thật tướng thì giống như dùng tơ ngó sen để cột núi Tu-di. Lẽ cố nhiên là chỉ tăng thêm sự phân biệt chứ chẳng cách nào chấm dứt được niệm! “Nếu cho tâm này là tánh ác”: thì Tánh ác dung thông, hướng về tất cả các pháp, nên tự nhiên nó gồm nhiếp được thức bảy, tám và chín đồng làm Diệu quán. Nên được gọi là “Cảnh tức là quán”. Chủ thể và đối tượng đã diệt thì sự nghó bàn liền mất, phép quán Viên diệu này hàng sơ tâm có thể tu. Vì vậy, Diệu lạc nói: “Bỗng nhiên, ai cũng đều chưa nghe về tên gọi tánh ác. Vậy, làm sao tin là có hành vi của tánh ác”? “Phải nghe về tánh ác”. Vì nếu hành giả biết tánh ác thì tu ác vốn là luống dối. Trong ba quán, mười thừa, không có hoặc để phá, không có lý để hiển bày tu công đức vắng lặng là hạnh Vô tác. Vì dùng tánh đức để gọi mời hạnh này. Nếu hành giả mê mờ đối với Lý ấy mà chỉ nói Tâm Vương là sự quán sát thuộc chủ thể quán thì rốt ráo chẳng phải là phép quán của Viên giáo. Vậy lẽ nào ba thứ trước chẳng phải Vua thiện ác là chủ thể quán? Lại nữa, chúng ta phải biết rõ rằng chẳng những riêng Thành và núi, lấy ấm làm cảnh, các Sự pháp quán đều phải quán ấm. Vì vậy, Diệu lạc nói: Lại nữa, các cảnh được quán đều không ngoài năm ấm. Nay dùng Núi v.v… này quy ước ấm thì tiện lợi. Vì trong các đoạn văn đều nói trực tiếp là “Cảnh của trí”. Ký văn đã nói là “Cảnh của các phép quán đều không ngoài năm ấm”. Như vậy, chúng ta biết rằng pháp giúp đỡ của ký sự đều phải quán về ấm. “Nói Núi v.v… theo quy ước của ấm thì tiện lợi”: Bởi vì núi, thành này biểu trưng cho nghóa của ấm thì tiện lợi. Vì vậy, Tiên sư nói rõ về ấm. Vì các đoạn văn không tiện nói ra nên nói thẳng là “Cảnh của Trí”. Tuy không tiện, không nói về năm ấm, nhưng cảnh được quán đều ấm. Vì vậy, câu trên nói là “chẳng ngoài ấm”. Nói thẳng là “Cảnh của Trí” tức là các đoạn văn nói rằng “Quán một niệm tâm chính là Không, Giả và Trung”. Tuy không nói là ấm nhưng nếu “Một niệm tâm” ấy chẳng phải là ấm thì là vật gì? “Có người y theo đó mà chấp rằng quán Cảnh chứ chẳng quán ấm”. Lỗi của trái nghịch đối với văn nghóa không gì hơn sự cố chấp này. Lại nữa, Tích chấp nói “Chỉ có trong Chỉ quán, từ hạnh để quán pháp mới dứt trừ được cảnh của ấm”. Pháp quán thuộc các sự thì chẳng dứt trừ được ấm”. Đó là sự tự thiết lập khuôn phép từ đầu não. Quán pháp của các bản văn đã không ngoài năm ấm thì việc dứt trừ nào có trở ngại gì? Huống chi Quán ấm trong Diệu lạc? Chúng ta phải biết rõ phương tiện chính tu thì phải dứt trừ cảnh và tâm. Vậy, lẽ nào việc dứt trừ cảnh lại chẳng phải là bỏ thước để quy về tấc, dứt trừ tâm chẳng phải là bỏ nghó bàn để nắm lấy không thể suy nghó bàn luận? Tại sao lại cố chấp điều sai nghịch để không dứt trừ ấm. Kẻ ấy lại chấp quán tâm thuộc nương gá vào sự pháp không thể tu tập, chỉ có quán pháp theo quy ước về hạnh của chỉ quán mới tu tập được. Vị ấy liền dẫn văn của Nghóa Lệ nói về tà sư làm bằng cứ. Văn ấy nói: “Mười hai bộ quán nhờ vào Sự để đặt tên. Tuy có danh của ba quán nhưng không nêu mười cảnh và mười thừa. Dưới tên của một bộ chỉ viết một câu”, lẽ nào một câu ấy lại trình bày tỉ mó về Quán môn? Người đời nay nói rằng Quán tâm thuộc sự pháp là có thể tu. Nhưng, nếu kẻ không mượn chỉ quán thì lẽ nào lại không hoàn toàn giống như Tà sư đời trước? Nay, khi bình phán về Nghóa Lệ, tôi suy nghiệm về lời nói của người này thì thấy hoàn toàn khác với ý hướng phá và lập của Đại sư Kinh Khê. Vì sao? Vì Nghóa Lệ nói rõ căn bản của nghi là do sự sai lầm của Tà sư. Là nói rằng mười cảnh, mười thừa của chỉ quán là Tiệm Viên quán. Văn ở mười hai bộ kinh quán tâm của Pháp sư Duy Đảnh nói là “Đốn đốn quán. Nếu tu tập là được ngay”. Vì vậy, sự nói rõ như trên của Đại sư Kinh Khê là chỉ vì mục đích phá bỏ tà sư kia. Đại sư triển khai đầy đủ một câu “Quán tâm” dưới mười hai bộ của Pháp sư Duy Đảnh ở quán môn Đốn đốn. Tà sư đã đem mười cảnh, mười thừa của chỉ quán mà tự cho là Tiệm Viên thì cuối cùng chắc chắn không chịu đi vào Sự quán của mười hai bộ để tu tập. Như vậy, lẽ nào lại giống với vị sư của Chánh giải. Lúc giảng về phép quán Thành, núi v.v… vì người học muốn tu nên Tiên sư liền trình bày về văn chỉ quán phương tiện chính tu giản cảnh v.v… trở thành quán hành. Nếu vậy, lẽ nào Tiên sư lại dứt khoát không trình bày về mười cảnh, mười thừa này? Lẽ nào Tiên sư lại dùng một câu để mở ra quán môn? Lại nữa, vì sao Tiên sư thường nói “Quán tâm thuộc Sự pháp không nhờ Chỉ quán mà tu tập được” lại không nói rằng “Các loại quán của Thành, Núi v.v… là Đốn đốn”? Lẽ nào lời bác bỏ của Tiên sư lại hoàn toàn giống với Tà sư đời trước? Lại nữa, Pháp Hoa Huyền Nghóa mở bày các văn nói về quán tâm giúp cho người tu tu ngay nơi cái nghe. Thích thiên nói: “Hễ nghe một câu thì nhiếp sự thành lý chứ chẳng đợi đến quán cảnh mới được gọi là Tu quán”. Tổ tiên đã để lại khuôn phép, chúng ta hãy soi vào. Vậy, tại sao người học lại chấp rằng Quán môn thuộc Sự pháp là không thể tu tập? Người này lại không thừa nhận vị thầy đắc pháp trình bày ở Tư Ký để dạy người tu quán mà tự mình phải hiểu rõ thật sâu về Pháp môn Chỉ quán mới tu tập được đối với các văn nói về quán tâm. Nếu nói như vị ấy thì hành giả tu quán hoàn toàn không nhờ vào tri thức giáo thọ. Thế thì, trong năm thứ duyên, duyên thuộc Thiện tri thức là hoàn toàn vô dụng! Thật ra, có thể thiếu bốn thứ duyên, nhưng duyên thuộc thiện tri thức thì không bao giờ được xả bỏ. Vì vậy, Đại sư nói: “Người tự mình quyết trạch được hoàn toàn thì có thể tu hành một mình. Còn nếu kẻ chưa hiểu tỉ mỉ về chướng nạn thì dứt khoát không nên xả bỏ”. Kinh nói: “Thuận theo người thầy giỏi để học thì được thấy chư Phật nhiều như cát sông Hằng”. Lại am hiểu tỉ mỉ về pháp của mười cõi, mười Thừa của Chỉ quán thì kẻ đó là Đại Pháp sư, là Đại thiền sư. Lẽ nào Quán tâm thuộc Sự pháp ở trong các bản văn phải là hạng người này mới tu được ư? Quan niệm sai lầm này làm trở ngại người truyền pháp, mở rộng về Quán môn. Sự tổn hại vì làm trở ngại đối với kẻ sơ tâm mới vào đạo lại càng lớn hơn. Người học phải biết điều ấy. Kế là “Kỳ v.v…” trở xuống là nói về núi, có hai: Một là chú thích nhân duyên: Thế của đỉnh núi tựa như đầu con chim kên kên. Có kinh gọi là Lính Thứu vì loài chim này biết trước được lúc người chết, lại là nơi có nhiều vị tiên linh thiêng ẩn tu. Thuyết văn nói: “Chim kên kên màu đen thì có nhiều con. Hai là chú thích về Quán hạnh: Nếu là Diệu kinh sớ thì trước tiên, sớ dùng ba chữ để đối với năm ấm. Tiếp theo là quán ba chữ để làm ba thứ đức, đạt được ấm chính là Lý. Nay, văn ở đây lược bỏ, lấy ngay ba chữ để biểu thị cho ba thứ đức. Tuy Tiên sư không nói về nghóa của ấm nhưng vẫn thể hội ấm mà làm ba thứ đức. Chúng ta phải biết rằng ấm là pháp của quả báo thuộc về kiến tư. Ở đây thì tu ác chính là tánh ác mà làm ba thứ đức. Vua thiện ác nếu chẳng phải là tánh cụ thì làm sao thường xuyên an trụ trong Bí tạng được? Tâm sở trần lao, nếu chẳng phải là tánh ác thì do đâu để càng đi vào Bí tạng? Hai là “Kinh này v.v…” trở xuống là nói về ý của “Cùng nghe” như sau: - Là chú thích. “Thời có năm, Xứ có bốn”: Một là thời nói về tựa ở Kỳ Sơn. Hai là thời nói về thọ lượng ở trong thất. Ba là thời trong mộng thấy trống vàng. Bốn là thời lúc tỉnh, đến kỳ sơn nói. Năm, Thời của Liệt chúng đến nước của Đức Phật kim Bảo Cái Sơn Vương khen ngợi Đức Phật Thích-ca. Vì vậy, Thời thì có năm. Vì nói lời tựa, nói mộng đều ở tại kỳ sơn nên Xứ chỉ có bốn. Kế là “Nếu vậy v.v…” trở xuống là giải thích ý nghi ngờ. Bốn vị Phật nói về thọ tại thất của Tín Tướng, tại sao ở Linh Thứu, A-nan lại xưng là “Tôi nghe”? “Nhưng, tuy v.v…” trở xuống là đáp. “Trong kinh Báo ân, Đại chúng sai A nan làm thị giả”: A-nan theo hầu Phật với bốn điều kiện. Một là không nhận y cũ. Hai là không nhận mời riêng. Ba là khác với các Tỳ-kheo, hễ muốn gặp Phật thì liền được gặp. Bốn là những kinh chưa được nghe, xin Đức Phật nói lại cho con nghe”. Đức Phật đều thừa nhận. “Lại nữa, A-nan đạt được loại Tam- muội gọi là Phật giác. Nếu là người tự thông đạt thì không đợi nói lại. Nhưng vì A-nan sinh vào đêm Đức Phật thành đạo, năm hai mươi lăm tuổi mới làm thị giả. Kinh được nói từ trước đã y theo hai nghóa trước kia mà vẫn được xưng là “Tôi nghe”, huống chi ở tại thất của Tín Tướng, là thời gian gần nhất ư?  KINH KIM QUANG MINH VĂN CÚ KÝ <卷>QUYỂN 1 (Phần cuối) Tiếp là “Từ đó v.v…”trở xuống là nói về lời Tựa, cũng gọi là Tựa riêng, có hai: Một là nêu hai tên gọi: Tuy tên gọi khác nhau nhưng vẫn có dài ngắn. Thuật ngang với Phẩm Tựa riêng hết phần đầu. Vì có lời tựa riêng với các kinh nên đặt tên khác là Kim Quang Minh. Vì vậy, chúng ta biết lời tựa này là căn bản của tên khác. Hai là “Nghóa khác v.v…”trở xuống là giải thích về hai lời tựa, có hai: Một là chỉ chung văn tướng của hai lời tựa như sau: Tướng riêng, có hai: Là nói về bảy hình thái khác, có hai: Một là khai thị về bảy văn kinh. Hai là “Sinh khởi v.v…”trở xuống là nói về bảy thứ lớp. “Một là Nhập định”: Đại giác đốn viên chiếu nhưng thường vắng lặng. Nay, sở dó Như Lai nhập định là vì muốn chỉ bày phương cách khiến cho người tu ưa thích đối với Định. “kế là trình bày”. Đã nhập vào định cao siêu, thấy pháp tôn quý thì lập tức ở trong định này mà trình bày về vua kinh. Ý nói nêu ra sự trình bày”: Thật sự chưa chỉ bày về tướng trạng của việc xuất định. Bởi vắng lặng không ngăn ngại đối với sự chiếu soi nên nói là “Ra”. Đức Phật không xuất định mà nói kinh này. Ý ngài muốn trình bày rằng trong vắng lặng có chiếu soi. “Tiếp theo hoài nghi” “Đã nói về Pháp Đức Phật đã chứng, Tín Tướng liền nghi rằng vì sao Người và Thọ sao không gọi là Pháp. Còn văn nói về thụy Ứng v.v… thì người học sẽ biết. Kế là có khi v.v… trở xuống là nói về ba thứ khác. Đại sư có lúc tạo ra sự phân biệt này. Đại sư Chương An chép thường cùng bảy loại khác ở trước, vì có sự khác nhau giữa triển khai và quy nạp. Tiếp là “trình bày v.v…” trở xuống là nói về tướng, có hai: Một chính là trình bày. “Trình bày về sự hoài nghi”. Suy nghó về nghóa sâu xa thì sẽ hợp với điều nghi để đối với pháp sở chứng thường chứng thọ ngắn. “Nói về sự dứt nghi”: Mục đích Đức Phật che chở là vì khiến cho người nghe dứt nghi sinh Tín. “Nói về phẩm sám hối”. Vì mục đích chính là phá ác, phụ dứt phá ác. “Nói về phẩm không”: Phẩm này dẫn dắt cho sự thành tựu về sinh thiện, dứt ác. Vì văn này chỉ nói về sự diệt trừ ba thứ chướng. Trời Đại phạm và Đế Thích là Tán-chi chủ. Khẩn-na-la v.v… là bộ đi theo của trời Tán-chi. Kinh nêu chủ đề nói về phẩm này. “Nói về việc chính là nói về sự nhóm họp điều lành? Chính thức nói về trị quốc, tu tập điều lành và nghe kinh. Tất cả những việc ấy đều lưu xuất từ Bí tạng. Vì vậy, Tiên sư dùng Bí mật để nói về hai phẩm. “Nói về Thọ Ký” “Vì những người kia nhờ nghe kinh mà tâm được trong sạch vắng lặng như hư không nên được thọ ký riêng. Nay nói “Vì thân và ý không dơ bẩn” là “nói về phẩm Xả Thân”: Nhờ ân Thái tử mà được giải thoát. Vì nói rõ rằng chẳng phải dùng món ăn tà vạy để nuôi mạng. Nay, Tiên sư nói về một câu chánh mạng. “Nói về phẩm Tán Phật”: Tuy Bồ-tát ba lần dùng kệ để khen ngợi Phật, nhưng phần nhiều các vị Bồ-tát này là Phật xưa. Như vậy, dẫu các Bồ-tát ấy có thực hành đi nữa cũng là Phật tương lai. Vì vậy, Đức Phật hiện đời khen ngợi người tu hành cũng là Đức Phật tương lai, do đó mà Tiên sư nói về phẩm này. Phảng phất tức là dáng vẻ không rõ ràng. Vi, âm là Vỹ, tức là Xa. Như nói rằng không được rõ ràng khi đọc. Hai là “Hỏi v.v…” trở xuống là chỉ bày luôn về người trình bày, có hai: Một là hỏi về khởi. Hai là đáp về chỉ bày, có hai: Một là trình bày người xưa bác bỏ vì sai lầm: Bản xưa có hai Sư. Vị thứ nhất nói về A-nan, bác bỏ rằng: v.v… Là luận chứ chẳng phải kinh”: Vì lời Phật nói gọi là kinh. Những gì do đệ tử Phật ở cả ba thừa soạn ra đều gọi là Luận. Kinh nói: “Nay, ta nên nói về Pháp sám hối v.v…” Như vậy, lẽ nào Pháp sám hối lại do A-nan nói? Lẽ nào chẳng phải là văn sai? Trống vàng trong mộng là Pháp thân Phật. vì lấy trí mà gõ vào nên nó liền tùy căn cơ mà giảng nói về pháp sám hối. Chúng ta nên biết rằng trống vàng là chân ngã của Phật. Vì vậy, trống nói là “Ta nói”. Vị thứ hai nói: Tín Tướng bác bỏ rằng: Nếu là nguồn tự của Tín Tướng thì khởi đầu và cuối cùng không nên nghi. “Huyền tự”: Huyền đồng với Huyền có bộ tâm ở dưới. Hai là “Lại nữa v.v…” trở xuống là chỉ bày về câu hỏi, có hai: Một là ý của thầy chỉ bày. Hai là “câu hỏi v.v…” trở xuống là nạn vấn khởi, trả lời chung, có hai: Một là so sánh nhân với quả: Không chỉ chủ thể dạy bảo là Phật làm ra Tựa mà còn nói rõ Định của Như Lai chẳng ngại với việc giảng nói. Lấy văn của Pháp Hoa để suy nghiệm vấn đề Đức Phật trình bày ở trong định. Lẽ nào lại dùng ngàn, muôn ức bị hạn cục ở trong Chánh Tông để so sánh với miệng của Đức Phật thuộc về quả bí mật Ứng phó với cơ ư? Lẽ nào chỉ nói về Chính chứ không tạo ra cái chung của Tựa hay sao? Vì vậy, Tiên sư kết rằng “Chỗ nào mà không làm? Hai là“Văn v.v…” trở xuống là dẫn văn để chứng kết, có hai: Một là dẫn văn để làm chứng. Hai là “Đại v.v…” trở xuống là dẫn Đại phẩm làm thông lệ. Trong phần Tự của kinh ấy nói về việc Đức Phật đưa tướng lưỡi rộng dài ra để phát ánh sáng; mỗi tia sáng này hóa thành những cánh hoa quý, trên mỗi cánh hoa đều có Hóa Phật nói về sáu Ba-la-mật. Kinh Đại Phẩm đã gọi là Tựa thì lẽ nào ở đây lại gọi là Chính kinh? Hai là “Chú thích đi vào v.v…” trở xuống là chính thật theo Tự riêng để nêu giải văn như sau: Riêng thuộc nhập định, có hai: Một là nêu khoa: Muốn nói về nghóa của người thuộc chủ thể đi và pháp thuộc đối tượng được đi đều rõ ràng. Vì vậy, Tiên sư xếp chữ “Đi” vào khoa đầu tiên. Chúng ta nên nhớ rằng giải thích nghóa không cùng loại với việc đọc văn. Hai là “Là v.v…” trở xuống là giải thích tùy theo như sau: Người thuộc chủ thể đi. Gồm ba. Giải thích về “Lúc ấy”, có hai: Một là xưa giải thích. Hai là “Nay v.v…” trở xuống là người thời nay giải thích, không dùng năm loại ba thời của người xưa mà chỉ nói về thời thuộc sự kiện Đức Phật quán sát cơ đắc đạo. Lại nữa, đắc đạo vẫn còn thuộc về chung. Phát theo quy ước của lúc ba loại trí âm thầm hợp với ba đế mới nói biết tướng của Như Lai quán sát căn cơ. “Phật muốn v.v…” là Hóa nghi chứ chẳng phải nói rằng do sự quán chiếu ngày nay mới biết. Kế là chú thích về Như Lai, có hai: Một là nói khái lược. Hai là “ba tạng v.v…” trở xuống là giải thích, có hai: Một là chỉ cho sự giải thích rộng của vị khác. Hai là “Nay nói v.v…” trở xuống là nay giải thích theo điều quan trọng như sau: - Theo quy ước của Bi và Trí để chú thích, có hai: Một là theo quy ước của nghóa để giải thích: Mỗi thân trong số ba thân của văn cú pháp khoa đều có nghóa của Như, nghóa của Lai. Nay dùng tướng của Pháp thân và Báo thân để giải thích Như, lấy sự ra đời của Ứng thân để giải thích Lai; mục đích là giúp cho nghóa được thành, chung và riêng không còn. Nếu Phật là Thuận thế gian thì Ứng và Như là Bí tạng; chỉ vì thuận với Bi mà ngài đến ba cõi. Hai là “Thành v.v…” trở xuống là Tiên sư dẫn luận để chứng minh. Chủ thể nương là Trí. Đạo Như thật là Lý. Đến thành tức là sự thùy Ứng của Từ bi. Kế là “Đại v.v…” trở xuống là theo quy ước của Trí để giải thích Hạnh. Tuy chỉ nói về nhưng đã có đủ cả nghóa của Như, vì y theo Phước trí để trang nghiêm Pháp thân. Đối tượng được trang nghiêm là Như. Đó là sự giải thích về danh từ Như Lai trong phẩm Phạm Hạnh của Đại Kinh. Tiếp là “Giải thích về Luận v.v…” trở xuống là theo nói để làm chứng cho sự giải thích, có hai: Một là Dẫn luận. Hai là “Nay nói rõ v.v…” trở xuống là sự giải thích hoàn thành. Pháp vốn có là tướng chung trong Chân, Tục. Trí xứng với giải tức là Pháp và Báo vô cùng cao sâu, cho nên nói là Như. Xứng với Như này mà nói là Ứng thân che chở cho cơ. Vì vậy gọi là Đến (Lai). Trước y theo của Bi và Trí nên nghóa của nó vẫn là chung. Nay nói về giải thích và nói pháp tướng của ba đế để giải thích Như Lai, nên nghóa hoàn toàn trọn vẹn. Pháp tướng của ba đế tức là ba thứ Pháp thân. Đó là sự tròn đầy của Pháp thân. Xứng với đó mà giải thích tức là ba thứ Bát-nhã. Ý đó là sự tròn đầy của báo thân. Xứng với đó mà giải thích và nói tức là giải thoát. Đó là sự tròn đầy của Ứng thân. So nay với trước thì có sự khác nhau. Kế là “Đi là v.v…” trở xuống là giải thích chữ Đi, tức là Như Lai dùng trí rốt ráo để đi vào Pháp tánh. Pháp tánh là cái được chứng. Quả trí thuộc về chủ thể chứng. Đứng về nghóa thì lập chủ thể chứng và Đối tướng chứng nhưng thể thì không cùng đến. Vì rốt ráo của thỉ giác giống như Bản giác, chỉ có Chân như là một mình. Vì thế, nếu như vậy thì ai là người năng nhập, lại là sở nhập? Trụ và Xuất cũng đều như vậy. Dẫn ý của Tiểu Bát-nhã cũng như thế. “Nay nói về đi”: Vì dẫn chúng sinh học Phật đi vào Lý nên chỉ bày về tướng nhập. Vì khiến cho chúng sinh xứng với Lý mà trụ nên chỉ bày về tướng Trụ. Cam lộ là thuốc bất tử, dụ cho Lý thường. Vì chúng sinh mà nói về loại Cam lộ ấy nên lẽ ra cũng nên nói là Xuất. Không xuất mà xuất, xuất ra sự trình bày về Vua Kinh. Pháp Hoa từ đất vọt lên các vị Đại Bồ-tát đối với trăm ngàn Tam-muội trong Pháp tánh sâu xa không vào mà vào nên gọi là khéo vào. Trụ và Xuất cũng giống như vậy. Bồ-tát còn như vậy, tất nhiên chúng ta sẽ biết về Phật. Kế là “Vô lượng v.v…” trở xuống là nói về pháp đi như sau: Nói rõ về pháp tánh sâu rộng, có hai: Y cứ trực tiếp vào văn để giải thích, có hai: Một là giải thích vô lượng xâu xa. Để nói về chỗ đi vào trước phải giản lược, làm sáng tỏ tính chất cao rộng của thể nên liền dùng pháp giới để nói lên sự rộng lớn của thể. Pháp Trung đạo không cõi là cõi. Vì cõi ấy không ngoài nên gọi là Vô lượng. Lại dùng ba đế để làm sáng tỏ tính cao siêu. Tuy hai đế Chân và Tục đều rốt ráo nhưng có cả Nhị thừa và Bồ-tát nghiêng lệch chứng được ít phần. Nếu là Trung đế mà không có thật trí của Viên thì không thể nào chứng nhập. Nay nói rõ về thể của ba đế không có hơn kém thì đó là kho tàng của ba đức bí mật. Tức là cội gốc của pháp tánh. Vì vậy, Tiên sư nói là “đến thấu suốt mới xứng với lời khen ngợi là văn kinh sâu xa”. Sâu là nghóa của Cao. Chúng ta nên biết rằng Pháp giới và ba đế của viên là hoàn toàn giống nhau. Nay dùng hai tên làm sáng tỏ về vô lượng sâu xa khiến cho người học dể nhận thấy. Làm sáng tỏ rồi, kế là giản lược. Nếu y theo Nhị thừa thì dùng Viên để dứt trừ Thiên. Nếu y theo Bồ-tát thì dùng sâu để dứt trừ cạn. Bởi vì, từ Phật trở xuống đều là hạ địa. Thánh thuộc viên mà còn dứt trừ huống chi là ở ba thứ giáo ư? Hai là “Pháp v.v…” trở xuống là giải thích hai chữ Pháp tánh. Trên kia nói về sự cao rộng là đức của Thể. Nay nói về Pháp tánh tức là Thể của đức. Giải thích ý nghóa hai chữ làm sáng tỏ thể của cao và rộng. Nói là pháp: nghóa là khuôn phép. Chư Phật đi theo Pháp nên thành tựu muôn đức. Vì vậy kinh Niết-bàn nói: “Cái mà chư Phật tôn làm thầy là Pháp”. Nhưng, đối với Pháp tánh này thì có ai trong cả ba thừa, sáu đường không nương theo để thành lập? Vì Pháp tánh có dụng thuộc về Vô sự. Tuy nương theo nhưng trái nên trở thành ba thứ chướng. Tất cả bảy chúng đều thờ Đức Phật nhưng vì có thuận, nghịch nên chia ra trói buộc và giải thoát. Nay dùng sự rất thuận theo để làm sáng tỏ cái được làm thầy. Vì vậy, Tiên sư nói “Cái mà chư Phật nói theo gọi là Pháp”. “Cái gọi là tánh” là không thay đổi. Ý nói rằng vì thể của bốn đức không thay đổi. Chúng ta nên biết rằng bốn đức ấy có mặt khắp tất cả các pháp, dưới đến nhân quả, y chánh của địa ngục, cũng đều là Thường, Lạc, Ngã Tịnh. Đó là “Tướng thế gian thường như vậy”. Hai là chẳng phải vậy v.v…” trở xuống là lại dùng nghóa để giải thích, có hai: Một là dùng cái được chiếu soi bởi thật trí để giải thích: “Tận trí” là đã dứt trừ hết hoặc. “Vô sinh trí”. Là hoặc không sinh lại nữa. Vì vậy, Câu-xá chú thích về hai thứ trí ấy rằng: “Nói rằng vị Vô học là: Nếu chính mình tự biết khổ, đoạn Tập, chứng Diệt và Tu đạo thì gọi là Tận trí. Nếu chính mình tự biết rằng ta biết khổ không sinh lai. Ba loại sau nói theo thông lệ gọi là Vô sinh trí”. Luận Du-già cho sự hết hoặc là Tận Trí, quả báo đời sau bất sinh gọi là Vô sinh trí. Nhưng, cả hai thứ trí đó đều chiếu soi Thiên không. Phân biệt với Nhị thừa tức là ý bao gồm cả Bồ-tát cho đến Đẳng giác. Vì pháp tánh của Nhị thừa chẳng phải Trung đạo cho nên cạn, vì không có các sắc và tâm nên có giới hạn. “Như thật trí”: Thích luận nói về mười thứ trí. Mười thứ đầu đều giống với Nhị thừa. Chỉ có loại Như thật trí là không chung cùng. Đó là “Như thực chứng biết tướng chung, tướng riêng của tất cả các pháp không gì ngăn ngại”. Cái được chiếu soi, Ngang thì bao trùm, Dọc thì thấu suốt. Đó là Pháp tánh đây nói. Hai là “Lại nữa, Vô v.v…” trở xuống là căn cứ vào “Ngay nơi Sự là lý” để giải thích. Pháp tánh sâu rộng là chỗ Đức Phật đi, lại hơn hẳn sự thanh tịnh do Bồ-tát thực hành. Vì sợ người không thông đạt cho rằng nay, ngoài nhân quả, sắc, tâm của y chánh phàm phu thì có Pháp tánh riêng. Đó là chỗ mà Đức Phật đi nên Tiên sư đặc biệt ngăn đón rằng không có một Pháp nào riêng gọi là Vô lượng và sâu xa. Nhưng, nói tất cả nơi chốn là phải thâu nhiếp cả ba vùng đất. Các pháp xứng hợp với nhân quả của chín cõi. Nếu pháp của Phật Giá-na chỉ là tịnh, chỉ là thiện thì nhiễm ác của ba cõi, chín giới phải dứt một. Vậy làm sao để gọi “Đều là Phật Pháp”? Cho nên chúng ta phải biết rõ rằng tất cả nhiễm ác đều là tánh cụ, Phật tánh Duyên Liễu chẳng phải chỉ có Tịnh Thiện, tánh nhiễm tánh ác đều là Duyên Liễu. Nếu các pháp ấy đều là Phật tánh thì thể của tu nhiễm thuộc ba cõi, chín giới là thể không, tánh đức mười cõi. Thể Viên giác ấy có mặt khắp mọi nơi, gọi là “Giá-na hiện hữu khắp mọi nơi, tất cả các pháp đều là Phật pháp “. Vậy, có một niệm nào, một hạt bụi nào, một người nào chẳng phải pháp tánh là nơi mà Đức Phật đi? Vì vậy, Tiên sư nói là “Vô lượng”. Lại nữa, chúng ta phải biết rằng Đương thể của tất cả pháp nhiễm ác tất sâu xa, kín đáo, cho nên nói là “sâu xa” chứ thật sự chẳng có một pháp riêng gọi là sâu xa. Vì vậy, nói là ngay nơi sự là Trung đạo sắc hương chân thật, bởi lẽ, đối với người mê thì sắc hương họ cho là phần nhỏ của sắc. Nhưng, đối với kẻ giải thoát thì đều là toàn phần của pháp giới. Vì là duy sắc, duy hương, duy vị, duy xúc. Nếu thừa nhận rằng ngoài sắc còn có pháp vi trần thì không thể gọi là duy, là Trung đạo. Vì Trung đạo kín đáo nhiệm mầu, không thể nào suy nghó được nên gọi là sâu xa. Kế là chẳng hạn như v.v… trở xuống là dẫn tâm loại của luận… như sau: Một là Dẫn loại. Hai là y theo đó v.v… trở xuống là giải thích theo tiêu chuẩn, có ba: + Một là giải thích về Vô lượng của Trung đế: nói rõ về Tứ đẳng rằng “Theo tâm thì Từ, Bi, Hỷ, Xả được gọi là Đẳng. Theo cảnh thì được gọi là Vô lượng”. Đó là chúng sinh duyên. Y theo cương giới rộng hẹp nên có ba lớp tên gọi, đó là rộng lớn Vô lượng. Nay, tùy theo thuyết kia mà y theo Chân, Tục và Trung để lập ra ba danh từ. Kinh nêu “Đi trong vô lượng pháp tánh” là nói rõ về Lý Viên dung của Trung đạo chứ chẳng phải Chân của Đãn Không và Tục của Thiên giả. + Hai là “Nếu duyên v.v…” trở xuống là nói về vấn đề Trung thì chắc chắn dung nhiếp. Có thể vì đối cơ nên Đức Phật dùng Quyền Trí nghiêng chiếu Nhị đế. Vì đã không nhiếp Trung nên chẳng đi trên Vô lượng pháp tánh. Nay Đức Phật dùng Thật trí chiếu soi Lý Trung đế nên dung nhiếp tất cả. Vì vậy, Tiên sư nói “Nếu duyên vào Trung đạo thì tức ba trí, một tâm v.v…” Do đó, Trung đế gọi là Vô lượng”. + Ba là “Đây v.v…” trở xuống là kết thúc sự tương xứng của Cảnh và Trí. Như kinh Pháp Hoa nói: “Chỉ có Đức Phật chứng nhập trọn vẹn thật tướng các pháp”. Lý của Quyền thật làm sao thâm nhập đến cùng cực? Bởi nhờ Đức Phật đạt được trí vô tận nên mới nhập được cùng tận. Nay cũng như vậy. “Nhị thừa v.v…” trở xuống; Địa trí có hạn lượng. Vì thế, không đo lường được bờ của không bờ, bến của không bến. Kế là “Các v.v…” trở xuống là giải thích về hành xứ của Phật, có hai: Một là Pháp: người học nên biết rằng Bản giác là Xứ, Thỉ giác là Phật, Toàn bản là Thỉ thì Thỉ mới hợp với Bản. Nếu không như vậy thì làm sao mỗi pháp đều được gọi là “Vô lượng sâu xa”. Nhưng lúc mới ngồi đạo tràng thì đã khế hợp một cách sâu xa. Nay, vì dắt dẫn chúng sinh nên chỉ bày về sự hợp nhất. Do đó, Tiên sư liền nói: “Đi trên chỗ đi của chư Phật”. Hai là Nêu dụ: Nêu lên hành xứ thường chứa đựng làm sáng tỏ. Kế là “Sai lầm v.v…” trở xuống là kết. Tiếp là y theo văn để giải thích, có hai: Một là y theo nghóa để giải thích khái lược. Hai là Dẫn văn để giải thích rộng, có hai: Một là Địa trì: “Chín thứ thiền”: Tự tánh. Tất cả. Câu hỏi. Tất cả cửa. Người lành. Tất cả hành. Dứt trừ phiền não. Đời này đời khác. Thanh tịnh tịnh. Trong văn nói lược về hai thứ thiền trước và sau. Thiền thứ chín là từ Thập địa chuyển nhập Diệu giác. Vì vậy, Tiên sư nói: “hoặc là Chính, hoặc là Tập của tất cả hoặc lụy thuộc về Thông và Biệt đã dứt sạch”. Từ Thập địa trở xuống đều có cả Chính và Tập. Cho nên luận giải Hoa Nghiêm không khai Đẳng giác, vì Thập địa tức là Đẳng giác. Cho nên nói Chánh Tập hoặc lụy của Thông và Biệt là vì Thông là Tứ trụ, Biệt là Vô minh. Chính sử của hoặc thuộc Thông và Biệt của bậc Thất Tín thuộc Viên đã dứt hết, Tập khí thì đến Phật là bằng tập đã dứt của Biệt. Vì những nhà giải thích ngày nay đối với tập khí của Tiểu thừa phân biệt thành mười sáu cửa. Nếu hoặc của Biệt là bốn mươi hai phẩm, giai đoạn dứt bỏ như bình thường. Tập khí có đủ được nói trong Tịnh Danh sớ. Viên giáo khởi đầu từ Sơ trụ, kết thúc ở Pháp vân. Viên tuy dứt các kiến nhưng vẫn còn Tập. Đẳng giác nhập Trùng huyền môn; ngàn, muôn ức kiếp lại tu về việc phàm. Thấy Lý rõ ràng, Tập khí còn mỏng, Sự v.v… như sương khói vì những vị kia trích dẫn “thanh tịnh tịnh thiền lìa tất cả kiến chấp” của Địa trì nên chỉ thấy rõ Tập. Nếu các vị ấy trích dẫn “Thập địa dứt ái Tập, Thập địa tức Đẳng giác” của kinh Ưu-bà-tắc thì lẽ nào lại không nhập Trùng huyền để dứt trừ đối với Tập khí? Văn rất rõ ràng. Hai là Tịnh danh: Vì Đức Phật đối với tâm thanh tịnh thuộc tự tánh mà vượt hơn đối với tất cả những vị đạt được thiền định nên kinh nói: “Tâm tịnh đã vượt qua các thiền định”. Và cũng là đến nơi bờ kia của tất cả thiền định nên Đại sư nói: “Đã vượt qua”. Kế là “Cũng là v.v…” trở xuống là lại dùng ý ấy để giải thích: Tự thân Phật không cao nhưng do y theo pháp mà Cao. Nay nói về vị trí cao là ý muốn phân biệt để làm sáng tỏ tính chất cao sâu của pháp tánh. Tiếp là “Là vàng v.v…” trở xuống là trình bày về Biệt, có hai: Một là Nói về nghóa khác với trước. Nhưng, lẽ nào sự sắp xếp các phẩm trước là sinh ra năm nghóa? Vì mười bảy phẩm chỉ bàn luận về ba pháp, nói rõ chung về tướng riêng và giáo lý che chở cho hữu tình. Nhưng, vì đã theo phẩm kinh nên nói về danh không sáng tỏ, nay nói văn kinh của Phẩm Tựa trình bày về năm nghóa khiến cho người học biết về đầu và cuối của kinh này là chỉ giải thích Danh, Thể, Tông, Dụng và Giáo tướng. Có như vậy mới biết sự giải thích tựa đề đã nêu ra ý chỉ của kinh. Hai là “Đầu tiên là mười v.v…” trở xuống là y theo văn để nói nghóa như sau: Trình bày bốn nghóa, có bốn: Câu trình bày về danh, có hai: Một là Sự giải thích khác thuộc về Thể. Về “Khoáng thạch”, Thuyết Văn nói: “Khoáng là nguyên chất của đồng, sắt”. “Dụng bên trong và bên ngoài”. Quang là dụng bên trong, vì làm sáng tỏ tự thể, minh là dụng bên ngoài vì quán sát vật khác. Vị sư này cũng biết hai chữ Quang Minh thuộc Tông Dụng, kim là chính thể. Vì Thể của chúng không rời nhau nên tuy nêu lên ba chữ nhưng ý là ở tại Thể. Hai là “Nay nói rõ v.v…” trở xuống là sự xác định trình bày danh của ngày nay. Nêu lên ba để làm sáng tỏ về một chẳng hoàn toàn trái với Lý, nên nói là “Đương nhiên”. Như sự chia văn, tự có câu kế. Đích thực lấy Trung đạo làm vua kinh, chính là thể của sự trình bày, vậy cần gì phải dùng câu đầu tiên gồm cả Tông và Dụng để nói về Thể? Người học nên biết rằng câu thuộc về sự trình bày về danh là y theo văn phụ kèm ở trên. Thích danh của ba chữ không theo dụ để lập mà là gọi trực tiếp là pháp tánh sâu rộng. Vì Đức Phật thật sự đi trên Pháp tánh này nên tuyên bố rằng: “Kim Quang Minh này đứng đầu các kinh”. Vậy, nếu không gọi là Pháp tánh thì chữ “Này” là chỉ cho điều gì. Vì Đại sư Trí Giả thấy được ý chỉ mầu nhiệm của kinh này nên mới lập văn giúp đỡ và giải thích về Đương thể. Để chứng minh cho văn giúp đỡ, trước tiên Đại sư dẫn câu này: “Sự nêu danh đầu tiên càng làm cho đáng tin. Đã phụ văn trước nên đặc biệt nêu ra ý này”. Nay giải thích danh của Tựa không hiển bày lại. Kế là “Vua kinh v.v…” trở xuống là một câu tự thể, có hai: Một là chỉ trên nêu ngày nay. Trên là huyền văn nói lại về Đế vương. Y theo pháp môn nhiếp mà nhiếp giáo nhiếp vị, nói về vua kinh” đã xong. Nay, ở đây lại y theo Trung đạo để nói về vua. Hai là “ba tạng v.v…” là đối với cái khác mà giải thích về chính như sau: - Nói về sự giải thích khác, có hai: Một là Tự: Ý của ba tạng là “Ba chữ tựa đề của kinh này dụ cho ba thứ đức. Đó là dùng ba thứ đức chia ra để đối với ba kinh. Niết-bàn nói Phật có khả năng giải thoát, chính vì muốn dứt trừ cái thấy hư vô của Nhị thừa. Bát-nhã bàn luận về không, chính là muốn cho phàm phu xả bỏ sự chấp đắm về Hữu. Hoa Nghiêm đốn thuyết về Lý Pháp thân, che chở cho Thập tín, Tam hiền. Vì vậy, nói là mới đi”. Ba kinh trên, mỗi kinh đều nói về một đức, mỗi kinh đều che chở cho một loại căn cơ giải thoát, che chở cho hai vị trì Nhị thừa, Bát-nhã che chở cho phàm phu, chỉ cho cả Người trời là một vị trí. Pháp thân che chở cho năm vị trí là Tín, Trụ, Hạnh, Hướng và Địa của Bồ-tát. Đã che chở cho tất cả căn cơ thì chính là vua kinh, nghóa là thống nhiếp. Hai là “Ở đây v.v…” trở xuống là bác bỏ, có hai: Một là Nói về việc trái với ý chỉ của giáo. Niết-bàn nói về ba thứ đức sâu mầu, hợp với sự che chở cho cơ thuộc Viên, lẽ nào chỉ có Nhị thừa thôi ư? Bát-nhã chỉ bày về ba thứ Bát-nhã, lẽ nào lại khác với ba thứ đức, huống chi là nói: “Thính chúng là người không sống chết” thì lẽ nào chỉ có người phàm? Ba thứ thân của Hoa Nghiêm cũng chính là ba thứ đức. Đã nói đầy đủ về Thập địa thì lẽ nào lại chỉ che chở cho Bồ-tát mới thực hành. Cách giải thích đó chẳng những chỉ bị nhiếp cơ có hạn mà còn nói rõ là pháp tánh không viên dung. Hai là “Làm như thế v.v…” trở xuống là nói về sự tổn hại đối với hành giả. Cách giải thích như thế của Chân-đế, người có hiểu biết thì biết là không đúng. Nhưng, người không hiểu biết sẽ cho rằng ba kinh kia kém hơn kinh này. Sự giải thích ấy làm sinh ra sự chê bai để mắc tội nên đâu thể y theo. Kế là “Nay nói v.v…” trở xuống là nói rõ về giải thích của ngày nay như sau: Một là Chỉ bày chung về sự đúng sai của vấn đề vua kinh của các bộ như sau: - Y theo ba đế để quyết định sự đúng sai như sau: Một là chỉ bày về ba đế: “Giáo bộ một đời”, có kinh lấy văn tự thuộc chủ thể giải thích làm kinh, có kinh lấy nghóa lý được giải thích làm kinh, có kinh lấy sự hợp nhất giữa văn và lý làm kinh. Vì vậy “Kinh một đời” không nằm ngoài sự hợp và không hợp của văn và lý. Nếu không hợp thì Văn thuộc chủ thể giải thích chỉ là Tục đế. Lẽ tất nhiên, nó không ngoài ba thứ là Tục thật có của ba Tạng, tục huyễn có của Thông giáo Huyễn hữu huyễn có của biệt giáo tức là không cộng tục. Nếu Lý được giải thích chỉ là Chân-đế thì cũng chỉ có ba thứ thuộc thật hữu diệt không của ba Tạng, Chân thuộc phạm trù Huyễn hữu tức không của Thông giáo và Chân thuộc Bất hữu bất không của Biệt giáo. Trong sáu phạm trù này, Thể của ba thứ Chân-đế không có Tục mà chỉ nhờ ba thứ Tục để được nhập chân. Nhưng, vì cuối cùng phải dứt trừ Tục nên nghóa của Hợp không thành. Nếu Văn và Lý hợp thì không ngoài ba loại. Đó là Viên tiếp Thông, Viên tiếp Biệt và Chính Viên giáo. Thể của ba loại Chân Tục này là Trung. Vì sao? Vì tự thân của Viên giáo vốn có sự hướng về nhau của Chân và Tục. Nếu tiếp Thông và Biệt thì Chân lý được giải thích đã hướng về các pháp, dù hạn cuộc ở văn chiếu soi Tục đi nữa cũng hướng về các pháp. Vì vậy, ba thứ Chân tục này không hai. Do đó nói rằng: “Nghóa của Văn và Lý hợp với Trung đạo được thành tựu “. Vì Chân tức là Tục nên Chân chẳng phải Chân. Vì Tục tức là Chân nên Tục tức chẳng phải Tục. Chẳng Chân chẳng Tục, ngôn ngữ và suy nghó tự biến mất, gắng gượng gọi là Trung. Hỏi: Xét về Tục thuộc sự lặp lại của Biệt giáo thì Huyễn hữu có thể là văn thuộc chủ thể giải thích, nhưng, tại sao Tức không lại cũng là Văn? Đáp: Văn là nói về nghóa của chủ thể giải thích, chủ thể hiển xuất thuộc tướng của văn, nếu nghóa ở tại Thông giáo thì Không lấy tướng mất để làm lý giải thích. Nay đối với Biệt giáo, hai bên đều là Ứng thì đó là chủ thể hiển xuất đối với hai Phi. Vì vậy, Không và Hữu đều là Văn. Hỏi: Bảy loại như Tạng, v.v… đều gọi là Chân tục, tại sao ba loại sau được gọi là Trung đạo. Đáp: Lẽ nào nghe về Chân Tục thì liền không có Trung? Như Viên đúng với Giáo và tiếp Thông, Biệt. Ba thứ Chân tục này đã được gọi là không thể suy nghó bàn luận thì lẽ nào lại chẳng phải Trung đạo. Như Niết-bàn sớ chú thích về bảy thứ Nhị đế. Trong đó có ba thứ lấy Trung đạo làm tên gọi thì tại sao chỉ trách cứ ở đây? Hỏi lấy nghóa của chúng thì tại sao Bất không Bất hữu thuộc Chân-đế của Biệt giáo lại không gọi là Trung? Trung của lìa hai bên không hợp với Văn và Lý. Người Sơ tâm không thể mất ngay sự nghó bàn. Nếu so với Viên thì chỉ là Chân được giải thích bởi Tục lặp lại. Vì vậy, sự giải thích về “Như thị” của kinh thuộc Văn cú ở trước đối với Viên và Biệt rằng: “Phá bỏ lìa để làm sáng tỏ Trung. Vì nếu đối tượng được giải thích chẳng phải chủ thể giải thích thì không gọi là Trung đạo. Tánh của văn tự vốn “lìa” nên tất cả văn tự đều là Phật pháp. Như thế mới gọi là “Như thị” thuộc Trung đạo của Viên giáo. Hỏi: Vì sao chỉ loại bỏ Biệt tiếp Thông? Đáp: Nay lấy Chân Tục đối với Văn Lý, Biệt tiếp Thông đã ở trong sáu phạm trù. Vì sao? Vì nếu chưa nhận “Tiếp” thì phải dùng Huyễn hữu giải thích tức không. Nếu đã nhận “Tiếp” thì tự thuộc về Đãn trung, chiếu soi hạn cục đối với Tục thuộc lặp lại. Vì vậy, y theo Thể của Pháp đã ở tại sáu phạm trù trước thì có xả bỏ cái gì đâu? Huống chi Văn ngày nay không nêu rõ là “Hai thứ Nhị đế” mà chỉ nói về việc giữ văn lấy Lý của một đời. Lấy sự hợp nhất giữa Văn và Lý có ba thứ kinh thuộc về Tục, ba thứ kinh thuộc về Chân và ba loại kinh thuộc về Trung. Sự nói về kinh như thế đã được thâu nhiếp hoàn toàn vào một việc giáo hóa. Có người chỉ y theo danh từ Kim Quang Minh mà lập ra chín thứ kinh. Họ chỉ y theo chữ “Lấy” để làm căn bản của nghóa. Nghóa là, nếu chấp đắm Văn thuộc thủ thể giải thích của ba chữ thì gọi là ba thứ Chân-đế. Nếu chấp đắm Lý thể thuộc đối tượng được giải thích thì gọi là ba thứ Trung đạo. Giải thích theo cách này thì lẽ nào chỉ y theo Tâm để giải nghóa? Nếu không thì sẽ trái với ý của văn, dùng hai chữ trước để giải thích về chấp đắm, dùng một chữ chấp sau để giải thích về chấp đắm nghiêng về một bên là nói về điều gì? Vì giải thích về “Vua các kinh” nên Đại sư lập ra chín loại để thâu nhiếp tất cả kinh trong một đời. Vì kinh này đã nói về vua của Trung đạo nên đối với chín loại được tự tại, gọi là vua các kinh. Tại sao lại nhờ chín loại chỉ ở ba chữ? Vì đó là do Kim Quang Minh tự làm Vua của Kim Quang Minh. Đã nói các kinh nên hoàn toàn chẳng phải là Vua có tính cách thống nhiếp, sai trái rất nhiều chỉ nói về hai vấn đề ấy. Kế là “Nếu nói v.v…” trở xuống là quyết định đúng sai. Nhưng trong các bộ, có bộ nói ba thứ trước là Tục đế thuộc chủ thể giải thích, có bộ nói ba thứ giải thích trước là Chân-đế thuộc. Vì thể không hợp nên đều gọi là Đế khác, chỉ được là kinh, chứ không gọi là Vua kinh. Vì nó không làm sáng tỏ ý nghóa của Vua có tính chất thống nhiếp nên chẳng phải Vua. Như trong các bộ có nói về ba thứ Chân có Tục, Tục của toàn bộ Chân, Nhị đế không hai gọi là Trung đạo, ngoài Trung đạo ấy ra không có một mảy pháp nào nữa. Như kinh này nói: “Pháp tánh vô lượng sâu xa”. Lại nói: “Trí cảnh không thể suy nghó bàn luận”. Lại nói: “An trụ trong tánh Như của tất cả pháp”. Đối với tất cả pháp ngầm chứa và thọ nhận tất cả pháp. Như thế thì ngoài những điều được giải thích không có chủ thể giải thích. Vậy, lẽ nào ngoài chủ thể giải thích lại có cái được giải thích ư? Văn và Lý đã hợp nhất thì Trung đạo viên dung. Vì thế, vẫn được gọi kinh này là Vua. Đó là đối với chín loại kinh của ba loại tục, ba loại Chân và ba loại Trung mà được tự tại. Hỏi: Thể của kinh đối với ba loại đã là vua, tại sao lại nói “Tự tại đối với chín loại”? Đáp: Sự giải thích về chín loại ở trên là Thông giáo y theo ba loại Tục, ba loại Chân và ba loại Trung để chỉ bày vấn đề kinh của một đời có Thiên, có Viên. Nay xếp đặt các bộ tùy theo bộ, có nơi nói về Trung đạo của Viên tức là vua kinh. Đối với Thông mà chỉ bày chín thứ tự tại, đối với ba loại Trung, kinh là tên gọi khác; vì thế đã giống nhau nên được tự tại. Nếu sáu loại kinh khác thì tức là phương tiện được sử dụng ở trong Viên. Như vua đối với các quan, lẽ nào không được tự tại? Kế là “Nhưng kinh v.v…” trở xuống là y theo Trung đạo để làm sáng tỏ sự tôn quý cùng cực, có ba: Một là nói về thể Viên của các bộ là vua. Trung đạo là vua kinh, thể của Trung đạo là một. Tùy theo chúng sinh mà nên đặt ra tên gọi khác. Vì vậy, văn ở trước nói: “Nếu nói Trung đạo là vua kinh, vì sao kinh nói vậy? Tức là trong bốn vị của Hoa Nghiêm v.v… làm Pháp thân v.v… nói thể của kinh. Nhưng phải phân biệt trong bốn vị là vua chẳng phải vua, như bộ Hoa Nghiêm có ba thứ kinh. Trung chính Viên và Trung tiếp Biệt là kinh, là vua. Trung chính Biệt giáo là kinh nhưng chẳng phải vua. Cho nên pháp thân phải phân biệt Trung của Biệt. Đãn không của ba tạng thật có Nhị đế là kinh nhưng chẳng phải vua. Trong bộ Phương đẳng có đủ chín loại kinh. Ba loại là Trung thuộc chính Viên giáo, Trung thuộc Viên tiếp Biệt và Trung thuộc Viên tiếp Thông, là vua kinh. Vì vậy, danh từ thật tướng có cả ba loại này, sáu loại khác là kinh chứ không được là vua. Trong bộ Bát-nhã không có bảy thứ kinh của hai thứ Hữu thuộc ba tạng, cũng đồng với ba loại là vua của kinh thuộc Phương đẳng được gọi là mẹ của Phật. Bốn thứ còn lại chẳng phải vua. Một loại Viên của Pháp Hoa là kinh, là vua. Vì khai quyền nên mở búi tóc cho hạt châu. Chín loại Niết-bàn đều biết Trung của Viên đều là vua kinh. “Tất cả chúng sinh đều được thành Phật”. Nên có ai là chẳng lấy chánh nhân làm thầy? Vì thế, vấn đề Trung đạo vua kinh trong các bộ lớn có sự triển khai và quy nạp; chỉ có một pháp tánh mà lập nhiều tên khác này để làm thể của các kinh. Hai là “Thí như v.v…” trở xuống là y theo vua loài người trong các đời làm thí dụ. “Các họ” tức là nói về họ của ba Hoàng, năm Đế. Thái Hạo Phục Hy họ Phòng. Viêm đế Thần Nông họ Khương. Hoàng đế Hữu Bi họ Công Tôn. Đó là ba Hoàng. Thiếu Hạo họ Kim Thiên, Chuyên Húc họ Cao Dương, Đế Khốc họ Cao Tân, tất cả đều họ Cơ. Đế Nghiêu Đào Đường họ Y Kỳ, Đế Thuấn Hữu Ngu họ Đào. Đó là năm Đế. Vì vậy, Tiên sư nói là “Các họ” “Ứng vận lần lượt hưng khởi”. Ứng với vận năm hành sinh nhau của trời. Phục Hy Ứng vận Mộc, Thần Nông Ứng vận Hỏa, Hoàng Đế vận Thổ. Theo thứ lớp mà suy luận để biết vận của năm đế “Bắt chước rồng”. Lúc Phục Hy mới lập nước có điềm lành của rồng nên lấy Rồng làm kỷ quan. Nên Tả Truyện chép: “Thái Hạo lấy Long kỷ. Vì bắt chước Rồng nên có tên là Rồng. “Điểu quan”: Lúc Thiếu Hạo mới lập nước vì có điềm lành của con phượng nên lấy chim làm kỷ quan. Cho nên Tả Truyện nói: “Thiếu Hạo ứng theo đó mà lập, cũng gặp chim Phượng đến. Do bắt chước theo chim mà có tên loài chim. “Tùy thời bá lập”: Là nói Ứng vận mà làm Vua thiên hạ. “Trăm đời tuy khác” nghóa là hiệu của Kỷ khác nhau, nhưng vua thống nhiếp là một, đều đứng đầu thiên hạ. Ba là “Pháp tánh v.v…” trở xuống là trình bày sự tùy bộ đặt tên hợp với thí dụ. Danh tuy có hưng phế nhưng thể chẳng thêm bớt. Vì vậy từ “Pháp thân” cho đến “Bắt chước Phật”, mỗi loại đều đối với chín loại kinh mà được Tự tại. Tức là điều mà ở trước ví dụ rằng: “Trăm đời tuy khác nhưng vua thống nhiếp là một”. Kế là “Pháp tánh là v.v…” trở xuống chính là nói về Thể tánh của kinh này. Lấy Văn và Lý hợp với Trung đạo làm thể. Ở đây là giải thích về Thông như xếp các bộ kinh có biệt danh thể. Kinh này lấy vua pháp tánh làm thể của kinh. Vì Đức Phật đi trong pháp tánh sâu xa nên liền tuyên bố rằng: “Kinh Kim Quang Minh này là vua các kinh”. Lẽ nào chẳng phải chỉ cho Pháp tánh, chỗ được đi là thể của tên Kim Quang Minh trở xuống ư? Thể này tự tại, đứng đầu các kinh. Hỏi: Ba thứ vua kinh đều gọi là Thể của kinh Đại thừa, vậy, Thể của kinh này là thuộc vua nào? Đáp: Tuy văn giải thích Pháp tánh là ở tại Viên, nhưng vì thừa nhận rằng cả ba thừa đều y theo đó mà sám hối nên Đại sư y theo Viên để giải thích về Thể. Phán giáo thuộc Thông nhưng nghóa thì xứng với Viên giáo nhập Trung đạo của Thông để làm Vua kinh. Hỏi: Tịnh Danh Huyền nói: “Nếu ba thứ Tục đế ở trong lý chẳng phải là thể của kinh này thì ba thứ Chân-đế là Pháp tánh thật tướng được làm thể của kinh”. Nay nói “Nếu lấy Văn và Lý hợp nhất làm kinh thì đó là ba thứ Trung đạo”. Vả lại, Văn và Lý đã hợp thì Chân và Tục đều có trung. Như thế thì Tục đế được làm Thể của kinh lại chẳng trái với nghóa của Tinh Danh Huyền ư? Đáp: Tịnh Danh Huyền và ở đây xoay vần tùy thuận, không trái ngược nhau. Vì thể của kinh chưa bắt đầu lìa văn mà văn không đến. Chính sự mà là Chân mới là Thể của kinh. Dùng Nhị đế phân chia Thể thì thuộc Chân. Thể của ba đế xứng hợp với Trung đạo. Ở đây là khai thị ở nơi chấm dứt của đường tâm mới là thể của kinh. Nếu Tạng, Thông, Biệt xứng với Giáo thì cũng nói rằng “Thể dứt bặt ngôn ngữ, tưởng niệm” Nhưng đều là đối tượng được giải thích, không có đủ Chủ thể giải thích thì làm sao chủ thể giải thích hợp với đối tượng được giải thích? Vì vậy, Văn và Lý của sáu thứ kinh không hợp nhất. So với Viên giáo thì thật sự không dứt bặt lý. Vì Đại sư muốn làm sáng tỏ thể của kinh để chỉ bày về cánh cửa bặt dứt tưởng nên nói rằng: “Văn Lý hợp ba thứ Trung đạo là thể của Viên thuộc đối tượng được giải thích bởi giáo lý của bốn vị. Bàn luận về Lý mà có đủ văn thì Văn mới chính là Lý. Lý cũng là Văn, Văn đã chính là Lý thì chủ thể giải thích tự biến mất. Lý đã tức là Văn thì đối tượng được giải thích không thể đạt được. Chủ thể và đối tượng đã dứt bặt thì thể của Trung tự sáng tỏ. Văn kia đã nói có ba thứ Chân-đế trong Lý đều là Trung của Viên. Vì vậy sự giải thích về thể của văn kia và văn này không khác nhau. Như trong Diệu Huyền dẫn Kim cương Tạng của Địa Luận nói “Không và Hữu chẳng hai, chẳng khác, chẳng cùng tận”. Bốn câu làm sáng tỏ về Thể, từ khác nhau nhưng ý giống nhau”. Thích Tiêm hỏi rằng: “Vì sao Không và Giả lại được làm thể của kinh?” Đáp: Đã là Không và Giả của không nghó bàn, lại chỉ Không Giả tức là Trung, Trung là Thể của kinh. Trung tức là Không Giả lại chỉ ở Trung. Bốn câu của văn kia không ngoài ba đế. Vì Viên dung nên mỗi Đế trong ba đế đều có ba Đế. Như vậy thì mỗi câu của bốn câu đều là ba đế. Vì lẽ đó chúng mới được gọi là “Từ khác nhưng ý thì giống nhau”. Vì mỗi câu đều có Trung nên mỗi câu đều là Thể cả. “Luận bàn cùng cực, Không Giả được làm thể”. Do có đủ ở Trung nên quay lại chỉ rằng Không và Giả tức Trung, Trung là Thể của kinh. Vì vậy, tuy Trung đế có Không và Giả nhưng Không và Giả chẳng phải là Thể. Vì thế, Đại sư nói: “Trung tức là Không và Giả, cũng chỉ cho Trung”. Hỏi: Tại sao không chỉ nói rằng Trung là Thể của kinh, Không và Giả chẳng phải là thể? Nói như vậy đối với nghóa là đã đủ mà trước lại giải thích về vấn đề mỗi Đế trong ba đế đều có ba đế, lại phân biệt Không và Giả trong mỗi Đế của ba đế và chỉ lấy Trung ở Trung để làm Thể của kinh? Đáp: Nếu chỉ nói riêng thì nghóa của Viên không thành, mà phải nói một cách viên dung thì mới làm sáng tỏ được Bản thể sâu mầu. Vì sao? Vì Không và Giả là sự tu tập của Trung, cả hai chính là Tông và Dụng của kinh. Trung là Nhất tánh, tức là Thể của kinh. Nếu chỉ nói rằng “Trung là thể của kinh thì ngoài Tông và Dụng ra còn có tự thể riêng. Như thế thì thể hẹp, chẳng cùng khắp. Vì vậy, phải nói rằng cả ba đế đều là thể của kinh. Nếu chẳng phân biệt Không và Giả đối với mỗi Đế trong ba Đế và chỉ lấy Thể của Trung thì chẳng thể làm sáng tỏ vấn đề Thể chẳng phải do trí dứt. Giải thích về Thể như vậy là chẳng phải là Tông và Dụng, cũng chẳng lìa Tông và Dụng. Nghó bàn mất sạch, diệu thể thiên nhiên. Trung là thể của kinh, Viên diệu đã như vậy. Vì y theo Không và Giả nên Tông, Dụng cũng là mầu nhiệm. Vì Không trùm khắp ba đế nên Tông này không hẹp, Giả trùm khắp ba đế nên Dụng càng lớn. Vẫn mỗi Đế trong ba đế phân biệt Giả Trung, hiển bày tông là Trí. Cũng phải mỗi Đế trong ba đế phân biệt Không Trung, hiển Dụng là đoạn. Mỗi Đế đối với hai để nói lên chẳng tức chẳng lìa. Vì thế, tất cả đều được gọi là không thể suy nghó bàn luận. Nếu như vậy thì lẽ nào chỉ có thể là vua kinh? Tông và Dụng cũng là Vua. Tên gọi thì gồm cả ba thứ Vua, Giáo thì giải thích về bốn thứ Vua. Vì một danh một thể, một tông, một dụng, một Giáo đều là Trung đạo, cho nên Huyền Nghóa nói: “Văn gọi là Vua kinh, Giáo thâu nhiếp các điển. Giáo vẫn được gọi là Vua thì danh v.v… có thể biết là dường nào. Các pháp đã là Trung, là Thể của kinh, lại phải phân biệt để làm sáng tỏ Danh là chủ thể giải thích, Tông là Tự chứng, Dụng là sự giáo hóa người và Giáo là chủ thể phân biệt. Chỉ có thể của kinh là đối tượng bị chấp lấy. Gồm nhiếp trọn vẹn, phân biệt không sót, cùng với bốn câu của Kim cương Tạng đều là Thể. Thích Tiêm đối với bốn thứ chỉ lấy Trung, Lý của chúng đều phù hợp. Kế là “Nếu cho rằng v.v…” trở xuống là Tiên sư đặc biệt trình bày sự khế lý, có lợi cho căn cơ của cách giải thích ngày nay để làm sáng tỏ Trung đạo của Viên, bặt dứt nói năng và suy nghó mà làm Vua kinh. Trên thì thuận với ý chỉ trình bày về thể của Như Lai. Dưới là Ứng với căn cơ nghe kinh của chúng sinh. Đã nói về bốn vị thì sự hợp nhất của Văn và Lý của các kinh Đại thừa đều là vua của kinh. Như vậy, lẽ nào lại có việc chỉ tôn trọng kinh của ta mà khinh thường kinh của người khác. Đó là so với sự cách biệt nhau đến cùng cực của Chân-đế. Kế là “Mầu nhiệm v.v…” trở xuống là nói về Tông, có hai: Một là Giải thích về Mầu nhiệm: Như Lai đã trình bày về danh từ Kim Quang Minh là thể của kinh và vua. Đây là bí tạng được giải thích bởi một bộ kinh. Nếu có người nghe thì phải suy nghó về ý nghóa ấy. Vì thế, Tiên sư nói là “Mầu nhiệm”. Đối với hai chữ này, nếu Nhân quả cùng thiếu sót thì không có ba thứ Pháp khởi đầu, chung cuộc và thường trụ. Vì vậy, đối với xưa chẳng phải làm sáng tỏ chính nghóa của ngày nay. Nhân bao gồm Bát Địa, Quả cùng cực Diệu giác. Vì vị trí chia làm sáu nên sâu mà khó thấy. Cả sáu đều là “Chính là” nên chẳng phải Dọc, chẳng phải Ngang. Vì nhân chính là quả nên chẳng phải Dọc, vì Sự chính là Lý nên chẳng phải Ngang. Văn giải về Lý tánh lấy quả làm thể rằng “Lại cũng như vậy”. Nếu biết rõ sáu thứ “Chính là” thì nghóa đều đầy đủ. Hai là “Bốn phương v.v…” trở xuống là giải thích về sự hộ trì của bốn Đức Phật như sau: Giải thích theo Giáo gồm có: Chính là giải thích, có hai: Một là giải thích về bốn phương, bốn vị Phật: Phật tuyên bố lời đó là ý có điều muốn nói lên, chính thức trình bày về Tông của kinh. Tông là Trí thuộc quả, hợp với thể của Pháp tánh. Tuy thể là một nhưng lại mở ra thành bốn môn. Đó là Diệu không, Diệu hữu, Song diệc và Song phi. Như Địa luận nói về bốn câu làm sáng tỏ Thể để làm bốn phương. quả trí khế hợp để làm bốn vị Phật, ý của sự trình bày về Tông rõ ràng, hãy xem xét. Hai là “Giải thích v.v…” trở xuống là giải thích về hộ trì, có hai: Một là theo Thể dụng của năm vị Phật để giải thích về Trì: Tông chỉ của kinh theo ngày nay là ở sự giải thích về quả trí tôn quý. Vì muốn làm sáng tỏ loại trí này, thầm khế hợp với Lý của bốn môn nên Tiên sư đặc biệt y theo bốn vị Phật để giải thích. Do trí Phật không phân ra kia đây mà cùng thầm khế hợp với tính bất động của pháp thân. Thuận với Tánh gọi là Trì. Pháp tánh là thể của Pháp, chư Phật là trì của Báo. Tuổi thọ là Dụng của Ứng. Vì ba thứ này đều thường hằng nên gọi là Vô lượng. Hai là “Tín v.v…” trở xuống là y theo sự dứt nghi của Tín Tướng để giải thích về Bảo vệ. Đức Phật bảo vệ pháp tánh là vì muốn giúp cho chúng sinh không khởi hoặc điên đảo. Tín Tướng chỉ nghó về tám mươi đoản Tích. hoặc đối với Pháp Báo là gốc của thường trụ. Bốn Đức Phật khai thị về gốc khiến cho người nghe ngộ được Tám mươi tức là dụng thường hằng. Vì vậy gọi là Hộ. Kế là “Một đó v.v…” trở xuống là phân biệt chỉ bày: Chỉ cho văn của Tông gọi là một câu, nghóa tuy có nhiều loại nhưng không ngoài ba thứ là Thể, Tông và Dụng, chính tuy trình bày về Tông nhưng Tông phải hợp với Thể và Thể chắc chắn khởi Dụng. Vì vậy câu này không thể giải thích một mình. Bốn đức như ở cuối. Tiếp là “Quán v.v…” trở xuống là theo Quán để giải thích: Nghóa của sự trình bày về Tông của kinh ở trên quy về quả Phật. Người đương cơ nghe thấy thì hoặc bị phá, Lý được sáng tỏ. Nếu hành giả ngày nay không hiểu về Phương, về Phật ở trong tâm mà chỉ nghe về loại giáo này thì nào có lợi ích gì? Vì vậy, Tiên sư muốn giúp cho hành giả quán tâm để biết nhận đối với bốn đế cho đến bốn đức. Đã chính là tâm của ta thì thoát khỏi nạn đếm châu báu cho người khác. Văn này chia làm hai. Một là y theo Đế và đức để lập pháp quán của Viên như sau: - Y theo bốn đế, gồm có: Một là nói chung về cảnh trí: bốn môn, bốn đế đều có cả cả Nhân quả. Môn theo lý mà khai mở, quy về quả là tiện lợi. Đế có khổ và Tập nên đối với Hành giả Sơ tâm nên biết! Mượn Phật ở bốn phương để biểu thị cho trí của bốn đế. Đây là gá sự gồm phụ pháp tướng vào tâm mà thành quán. Vì vậy, bốn đế chính là một niệm tâm, ấm tâm là khổ, hiện hoặc là tập, ngay nơi trí là Đạo, vốn Tịch là Diệt. Biết như thật về chúng gọi là Trí của bốn đế. Hai là “Đông v.v…” trở xuống là nêu riêng về cảnh trí, có hai: Một là Quán cảnh: Pháp tướng của bốn đế là quả trước, nhân sau. Nay y theo Tu quán nên khởi đầu là nhân, sau cùng là quả. Vì vậy, đối với thế gian và xuất thế gian thì Tập và Đạo ở trước, khổ và diệt ở sau. Người Sơ tâm quán cảnh muốn dễ nghiên cứu thì nên bắt đầu từ việc gần. Vì vậy, thuận theo danh từ Giáp Ất, năm hành, bốn quý v.v… của thế tục, khiến cho nghóa bốn phương thành tựu, giúp cho nhận biết về bốn đế. Vấn đề quan trọng là lập ra phép quán chứ không nên câu nệ vào danh từ, giáo tướng. Hai là “Quán sát đó v.v…” trở xuống là phát trí: Đã đối với Nhất tâm tức là quán bốn đế, quán sát không ngừng thì mắt trí phát sinh, nhậm vận hộ trì. Lý mầu không mất thì hoặc điên đảo không khởi. Nhưng, hành giả phải quán sát thật sâu Tứ đế thuộc phép quán của viên, đều gọi là Vô tác. Thể của khổ tập nghịch tu là tánh ác, ngay nơi nghịch là thuận, Đạo và Diệt không có công. Vì vậy, Tiên sư nói “ấm, Nhập đều là Như nên chẳng có Khổ đế mà xả. Trần lao vốn thanh tịnh nên chẳng có Tập để dứt bỏ. Biên và Tà đều là Trung chính nên không có Đạo để tu. Sinh tử tức Niết-bàn nên không có Diệt để để Chứng. Thấy bốn đế ấy rõ ràng gọi là phát trí của Đế. Kế là “Lại nữa v.v…” trở xuống là y theo bốn đức: Phép quán bốn đế ở trên tuy quán nhất tâm, nhưng hành giả của bốn thứ giáo đều có thể tu chứng. Nay, y theo bốn đức nên mỗi thứ giáo đều nói rõ về ba thứ quán. Sơ tâm đốn tu thật sự thuộc về phép quán của Viên. Phương đông so sánh với Thường; Thường bác bỏ vô thường nên Trần sa diệt hết. Vô thường bác bỏ thường nên kiến tư mất. Song phi bác bỏ hai bên nên Tập của Vô minh diệt. Nói thì có trước sau, nhưng tu thì ở tại một tâm. Ba phương còn lại theo lệ chung của cõi này. Tiếp là “Quán Đông v.v…” trở xuống là y theo Đế, và Đức để chỉ bày danh hiệu của Phật. Sự nói rõ về trí của giác trước kia chỉ là sự giải thích chung. Nếu đối với quán tâm thì chẳng nói về biệt hiệu. Như thế thì quán đối với kinh chưa hoàn toàn thuận. Nay đối với Tập đế mà đạt được “chính là Chân thường” gọi là A-súc, Hán dịch là Bất động. Kế là đối với khổ đế đạt được “Chính là Chân lạc”. Chân lạc tôn trọng gọi là Thật tướng. Kế là đối với Đạo đế mà đạt được sự thanh tịnh rốt ráo, tuệ mạng thường trụ gọi là Vô Lượng Thọ. Kế đến là đối với Diệt đế mà đạt được hai thứ ngã không. Chân như được làm sáng tỏ là kho bí mật. Một âm ở cùng khắp gọi là âm thanh mầu nhiệm. Bốn phương có bốn vị Phật vốn là tâm tánh. Chính Tánh là quán, quán phù hợp với Tánh thành tên của bốn vị Phật. Kế là “nay tôi v.v…” trở xuống là nói về Dụng, có hai: Một là chia văn. Hai là Tùy theo giải thích. Gồm có: Năng phá thắng pháp, có hai: Y theo văn hiện tại để chỉ bày, có hai: Một là nói về ba thứ pháp thể: Pháp vượt hơn có công năng bác bỏ ở tại thuộc về cảnh trí. Như sắp phá giặc thì năng lực của thân thể phải mạnh, kế đến là quyền mưu sâu và kế đến nữa là binh khí phải bén. Hai là y theo thân nên dụ cho cảnh. Thân phải có mưu nên dụ cho Trí. Mưu cần có sự giúp đỡ của binh khí nên dụ cho hạnh. Nếu đầy đủ ba điều kiện ấy thì chướng chắc chắn tan mất. Kế là “Nếu tướng v.v…” trở xuống là giải thích ba pháp tướng, như sau: - Chỉ bày riêng, có hai: Một là Biệt giáo: ba thứ lớp Hạnh, Trí và Lý giúp phát lúc tu là theo chiều Dọc. Pháp, Báo và Ứng đều làm sáng tỏ lúc chứng ở trong quả là theo chiều Ngang. Bởi giáo này vốn có Pháp thân, bị che đậy bởi hoặc. Vì thế phải tạo tác riêng về công đức của Duyên liễu để làm tư lương cho nhau mà hiển phát. Lại do giáo này mà ba pháp của tánh cụ không thâu nhiếp nhau khiến cho công thành, ba thứ thân hiển bày theo chiều Ngang. Hai là “Nếu Viên v.v…” trở xuống là Viên giáo: Viên giải thích các pháp đều là pháp giới. Dùng trí của pháp giới để dẫn dắt hạnh của Pháp giới. Vì hạnh của pháp giới khế hợp với Cảnh của pháp giới, pháp giới không hai, ngoài một không có ba; vì vậy, lìa lỗi của Dọc. Pháp giới chẳng phải một, Tu và Tánh xoay vần; vì thế, lìa lỗi Ngang. Ba pháp tu ở trong nhân đã rõ ràng, lúc hiển bày ra ba thứ thân về mặt quả cũng vậy. Kế là “Tuy v.v…” trở xuống là tổng kết. Tuy rằng Tu có Tiệm, Đốn nhưng đều thuộc về chủ thể phá chướng ở trong và ngoài cõi. Vì vậy, đều được gọi là pháp siêu, thuộc chủ thể phá. Tiếp là “Quán.. “trở xuống là dùng bản nay để hiển bày, văn xưa chỉ có ở thượng căn kia, là pháp của vòng thứ nhất. Bản dịch mới đã rộng mà lại có hai vòng. “Vương tử Ly-xa thuộc vòng thứ hai của bản dịch mới là Bà-la-môn. Nói pháp thân thường không có hiện tượng Xá- lợi là trung căn. Vòng thứ hai tự có một phẩm phân biệt ba thứ thân là hạ căn. Ba vòng này đều là pháp vượt hơn, tất nhiên là phá vỡ được ba thứ Chướng. Nay trình bày chủ thể phá nên nói là pháp v.v… Lý hợp với pháp này v.v… trở xuống là thuộc sự bao trùm ba vòng. Kế là “kế đến, từ v.v…” là tội ác được phá, Gồm có: - Phân chia lần hai về phân định chung, có hai: Một là Khoa đầu tiên: Văn ở đây chính thức chỉ bày về tội ác được bác bỏ. “Mà nói trình bày về phẩm không v.v…” là nay nêu tội được bác bỏ để làm sáng tỏ dụng của chủ thể phá. Trong các pháp thuộc chủ thể phá thì Dụng của không rất quan trọng. Cho nên sẽ nói ở đây lại nói về phương cách thuộc chủ thể phá? Đáp: Hạnh thuộc cảnh trí ở trước là thuộc thuộc chủ thể trị. Nay giải thích về việc chuyên văn, tư, tu của ba nghiệp là pháp thuộc về uống thuốc. Nếu không uống thuốc siêu việt, hoặc giả uống nhưng chẳng y theo phương pháp thì làm sao bệnh bớt được? Hai tướng này thành ba chướng để phá. Hai là “Còn lại v.v…” trở xuống là phán định, có hai: Một là Nói về sự chuyển đổi quả báo khác với các kinh. Quả báo đã thành thì khó có thể chuyển. Cũng có kinh nói rằng “Túc nghiệp không chuyển” huống chi là quả báo đã thọ ư? Nhưng, đó là lý thuyết khác về sự che chở căn cơ của Tất-đàn. Nay nói về ba thứ chướng, nếu y theo kinh để tu thì tất cả chướng đều vắng lặng; vì pháp vượt hơn. Hai là “Lượt thứ nhất v.v…” trở xuống là giải thích về ba thứ chướng do phá giới. Lẽ nào lý do của ba thứ chướng mà lý thuyết khác của giáo môn lại trình bày đầy đủ? Nay y theo một môn do phá năm giới. Nghóa của năm giới bao trùm rất sâu và thâu nhiếp rất rộng, cùng tận tất cả pháp. Nhưng, vì chúng không bị ngăn ngại các đường khác nên Tiên sư nói: “Lượt thứ nhất”. Hỏi: Chỉ do phiền não mà khởi nghiệp phá giới chứ lẽ nào lại do phá giới mà thành loại chướng thuộc phiền não? Đáp: Do nghiệp của phá giới mà hiện ra nhiều việc tham, sân. Như do chê bai kinh mà lún sâu vào tà kiến nên dâm dục nổi lên dữ dội. Những tham v.v… đều do nghiệp mà khởi phiền não. Vì vậy, chúng ta biết rằng ba thứ chướng vốn có sự nghịch thuận, cùng làm nguyên nhân cho nhau. Kế là “Nay v.v…” trở xuống là y theo khoa để giải thích rộng, gồm có: Giải thích về chướng của quả báo, có hai: Y theo sự trực tiếp của loài người, có hai: Một là nêu bày nhân quả. Hai là “Các v.v…” trở xuống là suy nghiệm về quả để tìm nhân, gồm có: Nói về quả báo của sát sinh, có như sau: Một là nhắc lại kinh để chỉ bày: “Yểu bên trong”, Thuyết Văn nói: “Yểu là gẫy”. Hai là “Xưa v.v…” trở xuống là tìm nhân để suy nghiệm. Ba là “Kinh v.v…” trở xuống là trích dẫn kinh làm bằng chứng: Kinh Hoa Nghiêm bản dịch xưa. Nói đủ là: “Tội sát sinh thường làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Sau khi sinh vào loài người thì bị hai quả báo: Một là thường bị bệnh. Hai là chết yểu”. Luận Thập Địa nói: “Giết hại thì bị ba thứ quả báo: Một là quả Dị thục: Đó là ba đường ác. Kế là quả Đẳng lưu: Đó là Sinh lên cõi người thường bị bệnh, chết yểu. Kế là quả Tăng thượng: Cảm ngoại vật phần nhiều thiếu tươi sáng; vì không dừng trụ lâu”. Tiếp là “Nếu Tham v.v…” trở xuống là nói về quả báo của trộm cắp, gồm có: Một là nhắc lại kinh để chỉ bày. Hai là “Kinh v.v…” trở xuống là trích dẫn kinh để chứng minh “Trời Đồng sinh và Đồng danh”. Kinh Hoa Nghiêm ba mươi bảy quyển Đời Tấn dịch nói: “Như người từ lúc mới sinh ra đã có hai thứ trời thường theo hầu. Một là Đồng sinh. Hai là Đồng danh. Trời thường thấy người nhưng người không thấy trời”. Ba là “Lại nữa v.v…”trở xuống là dùng sự để khảo nghiệm: Do phá giới Cấm nên gây ra các điều bất thiện. Hai vị trời rồng ấy chắc chắn bỏ đi. Danh dự, lợi dưỡng do đó mà mất mát. Kế là “Nếu quán v.v…” trở xuống là nói về quả báo của tâm dục, gồm có: - Nhắc lại kinh để chỉ bày: “Thân thiết, nồng hậu”: Tức sáu người gồm cha, mẹ, anh, em, vợ và con. Địa luận nói: “Dâm bị ba quả báo. Một là quả Dị thúc: Tức là đọa vào ba đường ác. Hai là quả Đẳng lưu: Bị sự tranh giành nhau của hai người vợ trong cõi người và vợ khác không trinh tiết, lương thiện. Ba là quả Tăng thượng: thường dơ bẩn”. Nay nói Đấu tranh, kiện tụng là hợp với luận. Kế là Dẫn kinh chứng minh: “Người che chở”: Nữ nhân ý chí yếu kém nên dựa vào ba sự che chở. Lúc nhỏ dại thì cha mẹ che chở. Làm dâu người thì mẹ chồng che chở, chồng chết thì con che chở. Sự che chở của pháp là nói về việc thọ năm giới, tám giới, v.v… Kế là “Xưa v.v…” trở xuống là y theo lý để suy: “Thuở xưa, phá hủy pháp của người nghe”: Vì khiến cho người phạm giới. Kế là “Mỗi một v.v…” là quả báo của nói dối, có hai: Một là Nói về sự đơn giản của kinh: Theo thể lệ của ba thứ quả báo ở trên mà hợp lại có hai câu. Hai là “Bên trong v.v…” trở xuống là y theo nghóa để giải thích đầy đủ, có hai: Một là trình bày văn đầy đủ: Vì đủ sự lạ thành đôi nên nói là “Một cặp”. Phẩn tức là nộ. Hai là “Xưa v.v…” trở xuống là y theo Lý để suy luận. “Ngoài năm v.v…” trở xuống là nói về quả báo của rượu, có hai: Một là y theo thông lệ thêm văn để trình bày. Hai là “Xưa v.v…” trở xuống là suy nghiệm để chỉ rõ nhân quả, có hai: Một chính là chỉ rõ. theo như lễ là lễ độ. Do say nên mê muội. Ngãi là ngu dốt. Hai là Dẫn chứng: Cũng dùng kinh Hoa Nghiêm, do uống rượu nên sự chê bai càng thêm. Vì thế, được lấy ra để dẫn chứng. Kế là “Hỏi v.v…” trở xuống là y cứ rộng lớn về cả năm thừa để giải thích, có hai: Một là y theo năm giới trái với kinh để hỏi: Vì danh từ năm giới xuất xứ từ Luật Tiểu thừa. Vì sao lại dùng làm pháp tướng để giải thích vấn đề “Vua kinh” này? Hai là “Đáp v.v…” trở xuống là y theo sự giữ giới của năm thừa để đáp tất cả hành pháp đều có cả cả Đại và Tiểu. Tùy theo trì giải của người mà Dụng có sâu cạn. Nay giải thích năm giới là pháp của năm thừa. Chia ra làm hai: Một là đáp chung: Vì tên gọi năm giới nhập vào tất cả pháp. hoặc có khác ít hay nhiều thì cũng chỉ là sự mở ra và phối hợp. Hay “Đưa lên v.v…” trở xuống là chỉ riêng, có hai: Y theo nghóa để giải thích, gồm có: Một là dùng năm giới phối hợp với Pháp thể, thật sự có cạn sâu, gồm có: Nói về trời, người, có hai: Một là Dẫn kinh: “Sự đại kî của trời đất”: Kî cũng là cấm, là giới. Năm ngôi sao là: Đông là Mộc tinh Tuế tinh; Nam là Hỏa tinh, Huỳnh hoặc, Tây Kim tinh Thái Bạch, Bắc là Thủy tinh Thần tinh. Trung ương là Thổ tinh Trấn tinh. “Ngũ nhạc” là Đông nhạc-Thái sơn thuộc Duyên châu, Nam nhạc- Hành sơn thuộc Kinh châu; Tây nhạc-Hoa sơn thuộc Ung châu, bắc nhạc-Thường sơn thuộc Tịnh châu, Trung nhạc-Tung sơn thuộc Dự châu. Ngũ tạng là Gan, Tim, Tỳ, Phổi và Thận. Lấy vì sao nhạc (núi) và Tạng cùng phối hợp trì với Ngũ hành. Chỉ lấy Ngũ hành đối với giới thì ba nghóa tự sáng tỏ. Không sát sinh đối với Mộc, Mộc đứng đầu về sinh trưởng, nếu sát thì bất sinh, bất dâm đối với Hỏa. Hỏa đứng đầu về chiếu sáng, tà dâm thì tư riêng kín đáo. Không uống rượu đối với Thổ, Thổ thì trấn tónh còn say thì nghiêng lụy. Không ăn trộm đối với Kim. Kim là hình phạt, giết và trộm cắp thì bị hình phạt. Không nói dối đối với thủy. Tùy theo vật đựng tròn hay vuông để làm sáng tỏ sự không luống dối thì trái lại, phối với năm hành tức là đã phối với năm vì sao. Nhạc và tạng đứng đầu năm hành. Cho nên kinh nói năm nhạc là bởi người dịch y theo phương này để nhuận sắc. “Trái với trời v.v…”: Trên là đối với năm vì sao, nếu phạm thì trái với trời, dưới phối với năm nhạc, nếu phạm thì chạm đất. Giữa thành năm tạng, nếu phạm thì chặt thân. Hai là “Lại đối v.v…” trở xuống là phối với Pháp, gồm có: Phối riêng, như sau: Giáo lý của Chu, Khổng, có hai: Một là năm thường “Triệu sinh trường đoản kinh nói: “Lòng nhân là yêu thương. Bỏ hình phạt, dứt điều hại, gồm ái, không riêng tư gọi là lòng nhân. Nghóa là nên Hiểu rõ đúng sai, lập được hay không gọi là nghóa. Lễ là bước lên. Tiến lùi vừa chừng, tôn ti có phần, gọi là Lễ. Trí là điều được biết bởi người. Hình thức để biết về đúng sai, được mất gọi là Trí. Tín là cái được tiếp nhân của con người. Phát hiện, ban bố lệnh để làm lòng người quy về một mối gọi là Tín. Nay, lấy không giết đối với lòng nhân, giết hại là không có lòng kiêm ái. Không trộm cắp đối với Nghóa, vì trộm cắp là làm điều không hợp lẽ. Không dâm đối với Lễ, vì tà dâm thì không phân biệt được cao thấp, trái với Lễ độ. Không uống rượu đối với trí, vì hôn mê, say sưa thì không thể định được đúng sai, được mất. Không nói dối đối lại với Tín, vì nói dối thì người khác không tin nhận. “Nếu dùng năm thường đối với năm hành”: Đặng Khang thành chú lễ ký trong thiền Trung Dung có nói: “Mộc thần thì nhân, Kim thần thì Nghóa, Hỏa thần thì Lễ, Thủy thần thì Tín, Thổ thần thì trí”. Trước đây lấy năm hành đối lại năm giới là vì nghóa ấy. Vì vậy, lấy không uống rượu đối với Thổ, không nói dối đối Thủy. Hai là đối với năm kinh: “Không sát là đối với thượng thư”: Thượng thư bị cắt đứt từ Đường ngu v.v… trở xuống là quý trọng từ nhượng mà khinh sự sát phạt. Vì phu tử cho rằng nhà Chu suy yếu, hiệu lệnh không được thi hành nên y theo sử nước Lỗ để sửa Xuân thu thay sự thưởng phạt. Khiến loạn thần, tặc tử sợ hãi. Vì vậy, Thượng thư đối với giới không trộm cắp. Lễ có năm, Chu lễ là Chức của Đại tông bá, nói rằng: “Dùng cát thờ phụng quỷ thần, Thần đất của đất nước (Sự là cúng Tế). Dùng hung lo cho mối lo của đất nước (thường tức là Cứu hoạn nạn và tai ương). Dùng lễ khách thân với đất nước (Thân là khiến cho dân gần gũi). Dùng lễ của quân đội để đồng với đất nước (Đồng là nói sự hoàn thành với người không hiệp lực và lấn lướt). Dùng lễ vui gần gũi với muôn dân (Vui tức là thiện). Do điều lành của lòng người làm quy chế). Tà dâm là không dùng lễ để giao tiếp. Cho nên dùng lễ tốt đẹp để răn cấm tà dâm. “Thi”: Thiện thì ca tụng, ác thì dứt bỏ. Đó là không nói dối. “Dịch” là sách của cùng lý tận tánh, là lời dạy thanh sạch tinh vi. Kẻ uống rượu hôn mê, loạn động thì lẽ nào cùng lý tận tánh của mình được. Kế là “Lại đối với mười v.v….” trở xuống là pháp của Luân vương, có ba: Một là khai thành văn đối với mười tướng. Hai là “Tục v.v…” trở xuống là nói rõ hợp bảy thành hai ý: “Tục không thể giữ gìn miệng”. Vì năm giới là chế cho người tại gia. Miệng chia ra làm bốn lỗi nên sự người tục giữ gìn thành khó. Vì vậy chỉ chế thành một. “Uống rượu là tà mạng tự nuôi sống”. Lấy rượu nuôi thân thể không vâng theo chánh giới gọi là tà mạng. Ba là “Là làm v.v…” trở xuống là kết pháp. Từ người để đặt tên. Tuy năm giới là giới do Như Lai chế nhưng đã đối với mười điều lành thì lại từ hữu lậu mà xếp vào pháp xưa. Vì thế, năm giới thuộc Luân vương. “Cũng gọi là Tánh tội tánh thiện”. Vì tự thân của pháp tánh thuộc về mười điều ác là tội, tự thân pháp tánh mười điều lành là thiện. Vì vậy, Luân vương thuận theo tánh thế tục mà nói về Thiện ác này để giáo hóa chúng sinh. Kế là “Đầu v.v…” trở xuống là kết sự chỉ bày: điều lành thế gian không thoát khỏi luân hồi. Dẫu sinh vào cõi người, cõi trời đi nữa rồi cũng lại khởi nghiệp ác. Thiện còn như vậy, huống chi là bất thiện ư?. Vì vậy, Tiên sư nói: “Đều là tất cả gốc tội”. Kế là “Lại nữa, năm v.v…” trở xuống là nói về Nhị thừa, có hai: Một là Đối với năm ấm là cảnh của niệm xứ: Nếu không sát sinh thì sắc thân đầy đủ, không trộm cắp thì không sinh ra khổ thọ, không dâm dục thì niệm tưởng tà vọng không khởi, không nói dối thì sự thay đổi thuần là thật, không uống rượu thì hoàn toàn sáng suốt. Thiện ấm này lẽ nào chỉ là cảnh? Thật ra nó còn ba nguồn cả niệm tuệ nữa. Cho nên có thể mở ra bốn Niệm xứ từ ấm. Nghóa là, sắc ấm là thân niệm xứ, thọ ấm là thọ niệm xứ, tưởng và hành ấm là pháp niệm xứ, thức ấm là Tâm niệm xứ. Hai là “Niệm v.v…” trở xuống là từ niệm xứ mà có đủ hai thứ giải thoát thuộc Đạo phẩm. Trong bốn Niệm xứ của Đại luận thì bốn thứ tinh tấn gọi là Chánh cần, bốn thứ định tâm gọi là bốn Như ý túc, năm thiện căn sinh gọi là Căn, căn thêm lớn gọi là Lực, Phân biệt bốn thứ xứ, đạo, dụng gọi là Giác, bốn Niệm xứ an ổn ở trong Đạo mà thực hành gọi là Chánh đạo. Tiếp là mười bảy phẩm như con đường bằng phẳng, không, vô tướng, vô tác như ba cửa của ngôi Thành. Niết-bàn như ngôi thành. Tiếp là “Vì vậy nói rằng v.v…” trở xuống là trình bày về việc chuyển năm ấm thành năm phần pháp thân: Vì giới cấm ngừa lỗi thân và miệng nên nói rằng: “Sắc có khả năng phát giới? Vì thiền là chánh thọ nên nói rằng: “Thọ thọ thiền định”. Vì giả tưởng Liễu ngộ thân là không nên nói “Tuệ thuộc về tưởng ngộ luống dối”. Trong văn thừa chữ chung. Các đoạn văn trích dẫn đều không có chữ chung. Tiến lùi không biếng nhác thì đến quả thánh. Vì vậy, Tiên sư nói “Hạnh phát sự giải thoát”. Tự biết sự chứng đắc của mình gọi là tri kiến giải thoát. Đó tức là chuyển năm ấm thành năm phần pháp thân. Bốn “Đương v.v…” trở xuống là kết năm giới làm pháp của Nhị thừa. Kế là “Lại nữa, năm v.v…” trở xuống là nói về Đại thừa, gồm có: Một là Nêu bày chung. Hai là “Nêu lên, rằng v.v…” trở xuống chính là phối trí pháp môn, gồm có: Một là y theo kinh để phối hợp với bốn Đức: Vì hành giả Đại thừa biết rõ rằng thể của năm giới là tâm tánh, dầu là thọ hay trì cũng đều thuận với tánh. Vì tánh có đủ bốn đức nên năm giới đều là Thường, Lạc, Ngã và Tịnh. Đó là đối chung. Cũng có thể lấy năm biệt đối với bốn đức. Tâm và tánh của chúng sinh chẳng sinh diệt. Vì vậy, thuận với tánh mà giữ giới Bất sát. Là mang cái ấn sống lâu không chết. Đó là đức của thường. Tâm và tánh của chúng sinh không dâm loạn. Vì vậy, thuận với bản tánh mà giữ giới bất dâm gọi là ra vào không loạn. Tâm và chúng sinh niệm niệm chân thật, không có khoảnh khắc luống dối. Vì vậy, thuận theo tánh mà giữ giới không luống dối gọi là qua lại không ngừng. Hai giới này đối với đức thuộc về Tịnh. Tánh của tâm và chúng sinh không lẫn lộn. Vì vậy, thuận với Tánh của trì giới không uống rượu gọi là làm chủ một thân. Đây là đức của Ngã. Tâm và tánh của chúng sinh tức là Bồ-đề lìa khổ tham cầu. Vì vậy, thuận với bản tánh mà giữ giới trộm cắp gọi là lập ra gốc của đạo. Tức là đức của lạc. Kế là “thúc lại v.v…” trở xuống là y theo sự để đối với ba nghiệp. “Không sát, đạo, dâm là thân nghiệp. Không nói dối là khẩu nghiệp, không uống rượu là ý nghiệp. Vì trì giới thuận với tánh nên lập giới là nhân thành ba nghiệp của Phật. Thân, miệng và ý của Phật tùy trí tuệ mà vận hành nên không có sự sai lầm, được gọi là ba thứ không sai lầm. Vì không sai nên không cần phải giữ gìn; gọi là ba việc không hộ phòng. Sự hiện hóa của thân nghiệp gọi là thần thông luân. Sự nói pháp của khẩu nghiệp gọi là Chánh giáo luân. Sự quán sát căn cơ của ý nghiệp gọi là Ký tâm luân. Cả ba luân ấy đều xô dẹp, nghiền nát hoặc nghiệp của chúng sinh. Vì người ở địa dưới không so lường được nên gọi là ba mật. Kế là ba quy tắc v.v…” trở xuống là y theo Lý để đối với ba pháp: năm giới tức là Lý, một chỉ, một tác đều khế hợp với ba pháp tướng Viên Dung. Nếu muốn đối riêng thì Lý cũng thành tựu. Không giết chúng sinh thuận với Lý thường trụ, tức là quy tắc của Chân tánh. Không dâm dục thì tâm thanh tịnh, không uống rượu thì tuệ sáng; cả hai là quy tắc của quán chiếu. Không nói dối thì làm sinh khởi sự tin thuận của người khác, không trộm cắp thì toàn vẹn tài sản của người; cả hai tức là quy tắc của thành tựu tài sản. Đã chính là ba quy tắc thì năm giới khế hợp với tất cả ba pháp tướng. Vì vậy, chúng ta biết rằng năm giới nhiếp pháp không sót. Kế là “Ngang Dọc v.v…” trở xuống là nêu rộng để kết thúc làm sáng tỏ. <篇> KIM QUANG MINH VĂN KINH CÚ KÝ <卷>QUYỂN 2 (Phần đầu) Kế là “Lại nữa v.v…” trở xuống là nói về sự lý của năm giới lại phân biệt Thiên và Viên, ở trên tuy mở bày chung về nghóa của năm giới là bao gồm, thâu nhiếp cả cạn và sâu. Nếu không nói về Sự, Lý, Thiên, Viên thì làm sao người học nhận thức được rõ về tướng trạng của trì và Phạm. Ở đây tự chia như sau. Giới bất sát, có: Chỉ bày rõ ràng, có hai: Một là chỉ bày chung về Sự, Lý, Trì, Phạm: Vì muốn cho hành giả dung bất sát thuộc Lý mà trì Bất sát thuộc Sự, mới gọi là Sơ tâm trì giới Cụ túc. Nay, nói về Thể pháp, phải riêng trung của không, thể pháp tức là không là thuộc phép quán của thiên; so với Viên là Sát, phải thể hội các pháp đều là Trung đạo, tướng thế gian đều là Thường. Đó là giới Bất sát của lý mà ở đây nói. Vì muốn làm sáng tỏ về ý ấy nên từ người, trời mà giải thích về sự cùng cực của Viên. Vì thế, Tiên sư nói: “nhân quả có nhiều thứ khác nhau”. Hai là “Nếu làm v.v…” trở xuống là nói về sự được mất của Thiên, Viên, gồm có: Một là Thiên, có: - Người, trời chỉ có sự, như sau: Một là người giữ giới cạn thấp nên phải thêm sự ngăn dứt tâm. Như trâu ngựa nếu không có dây cương và ách thì chúng sẽ buông tuồng, nếu không có gậy để nhắc nhở thì sẽ đạp lúa má. Điều ấy dụ cho việc nếu không tác ý thì đối với cảnh thành ra phạm. Quả báo một trăm hai mươi năm là tuổi thọ ở phương trên. Các căn của loài người chỉ rõ về mắt thường. Tâm như nước sông, tự nhiên rót vào biển tịnh giới. Bất luận là Định hay Cộng chỉ có quả báo là sáu tầng trời cõi Dục. Vì số năm của người so với tầng trời thứ sáu là tương đương nên chỉ được mắt thường, mắt Trời chứ không có tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn, các căn khác cũng dễ biết. “Nếu thêm v.v…” trở xuống là ba thừa thêm Lý, có hai: Một là Nghóa của Nhị thừa nhiếp cả Tạng và Thông: Kinh Niết- bàn lấy sự kiện xuất hiện trước của ngoại đạo với thầy thuốc củ, sự xuất hiện sau của Như Lai dụ cho thầy thuốc khách. Giới do Đức Phật chế gọi là giới khách. Ngoài giới thuộc về sự còn thêm Tu tùy đạo và giới Vô trước. Vị trí của giới này cùng cực nên chỉ dạy cho người nguội thân bặt trí mà không nói có quả báo. Nay y theo Đại thừa sinh về cõi Phương tiện nhận tuổi thọ của Biến dịch. Các văn không nói về thời hạn tuổi thọ của cõi này mà chỉ nói về sự thay đổi của nhân quả. Ở đây nói rằng bảy trăm A-tăng-kỳ hẳn là sau kiếp số ấy mới đi vào Thật báo. Nếu tại cõi này mà phá hoặc Trần sa thì cũng có được Pháp nhãn. Nay nói về hành giả Nhị thừa vừa sinh về đó chỉ đạt được Tuệ nhãn. Hai là “Nếu v.v…” trở xuống là Bồ-tát, có hai: Một chính là chỉ bày: Nghóa xứng với thứ lớp tu tập đối với Đạo cộng v.v… của ba đế thuộc Biệt giáo. Thường tức là quán Giả, tức là cái được khen ngợi bởi Trí và giới Tự tại. Vô thường tức là không tuệ, tức là Tùy đạo và giới Vô trước. Trước là Không, kế là Giả. Nay theo ngôn ngữ thì không tuệ kế theo. “Nói Đẳng Tuệ”: Tức là Trung tuệ. Đó là Tùy định và giới phần Cụ túc. Đạt được hai thứ đó là đang ở Sơ địa. Sinh về cõi Thật báo gọi là biển Hoa tạng. Phật nhãn hiển từng phần của bốn thứ nhãn là dung thông. Vì vậy gọi là đạt được từng phần bốn thứ nhãn. Các căn cũng như vậy. Tuổi thọ là Tuệ mạng, đã thuộc ý căn. Kinh nói: “Các căn còn gọi là tuổi thọ”. Vì thế, phải nói chung. Hai là “So sánh v.v…” trở xuống là kết về sự so sánh. Giáo này so với Phật có hai ý. Nếu hợp với giáo thì so nhân với quả, Phần và Mãn khác nhau. So với Viên giáo thì Biệt giáo trước sau là pháp của Bồ-tát. So với Viên thì trước sau đều là pháp Phật. Vì vậy, Tiên sư nói gọi là “Không đầy đủ và tổn giảm”. Kế là “Nếu v.v…” trở xuống là Viên, gồm có: Chỉ bày về tướng, có: Nói về đắc ý trì, có hai: Một là Nêu bày khái lược: Sự trì tức là không giết hại thân mạng chúng sinh. Sự trì này giống với giới của Thiên tiểu, Luân vương. Nhưng, lý do của bất sát thì hoàn toàn khác với Thiên v.v… Đoạn văn tiếp theo là nói rõ về Lý quán. Hai là “Lại nữa, trì v.v…” trở xuống là nói đầy đủ về lý trì, có ba: Một là y theo Thể để nói về trì: Nếu không giải thích về tánh có đủ chín cõi của loại bất sát thuộc về lý này mà chỉ nói rằng “thể đạt được các pháp tức là lý, toàn sóng là nước” thì vẫn là lẫn lộn với Thông và Biệt, chưa làm sáng tỏ về Viên tu. Vì thế, Đại sư Kinh Khê nói: “Nếu không bàn về “Đầy đủ “thì thuộc về Biệt giáo”. Cho nên phải thể đạt được thân giả hợp, ba hoặc si ái. Thật pháp của ba khoa đều là tánh sẵn có, tánh không khác nhau. Vì vậy, gọi là Một tướng. Tánh không tối tăm ràng buộc gọi là, giải thoát sáng suốt. Đã là tánh đầy đủ thì làm sao có giết hại? Si ái là con. Giả thật là quả. Toàn thể là tánh thì lẽ nào tánh lại là sinh diệt? Sự quán sát mầu nhiệm như vậy thì chướng tức là đức. Không đợi đến sự chuyển, trừ mới là trì đối với giới bất sát thuộc về lý. Hai là “Thành v.v…” trở xuống là xứng tánh được quả báo. Từ Sơ trụ trở lên đến Diệu giác đều được gọi là thành tựu trí tuệ, ở trong Thường tịch quang. Đây là y báo, chánh báo của phần mãn. Quả báo đời sau của vô sinh chỉ là hiện báo. Cho nên gọi là thường thọ, vắng lặng không tổn giảm. Năm nhãn đầy đủ, các căn cũng như vậy, lìa bỏ không đầy đủ. Nếu nói về dụng bên ngoài thì sáu căn thông suốt nhau. Lược nêu về sự tự tại của mắt và tai. Hiện tuổi thọ của mười cõi, hoặc dài hoặc ngắn, tuổi thọ tự tại. Ba là “Là v.v…” trở xuống là kết thúc phần nêu bày về nhân quả, có hai: “Lại nữa, Viên v.v…” trở xuống là nói về Đắc ý phạm, có hai: Một là Nêu chung về hai thứ phạm: nếu không giải thích về tánh cụ của Phạm thuộc sự và Lý thì trái với Dụng và Pháp môn sát. Nhưng dùng tâm thương xót hiện ra tướng trái nghịch mà giải thích. Lẽ nào ở đây công hạnh của Bồ-tát thuộc ba loại giáo trước lại không thể làm được? Vì vậy, Phổ môn sớ nói về Pháp môn thế nào là thành tựu. Vì thế, thường niệm Quán âm. Như thế, chúng ta biết là phải đạt được ý của tánh sát thì Từ mới là Vô duyên. Vì vậy, Tiên sư nói “Duy sát, Duy từ gọi là Đắc ý Phạm. Hai là “Như Tiên v.v…” trở xuống là nêu riêng về hai tướng, có hai: Một là Dẫn người để nói về Sát thuộc sự. Phẩm Thánh Hạnh trong Đại kinh, Phật nói bổn sinh, từng làm vua, tên là Tiên Dự. Vua ưa thích Đại thừa. Lúc bấy giờ, thế gian không có Phật nên vua thờ Bà-la-môn làm thầy suốt mười hai năm. Sau đó, vua liền khuyên thầy mình phát tâm Bồ-đề nhưng vị Bà-la-môn ấy không tin và chê bai chánh pháp, vua liền giết chết. Tuy vậy, vua cũng không đọa vào địa ngục, vì không có tội giết hại. Đến phẩm Phạm Hạnh, Đức Phật nói quả Từ tâm, trụ ở Nhất tử địa. Ca-diếp hỏi rằng nếu Bồ-tát trụ nơi Nhất tử địa thì tại sao thuở xưa, lúc làm vua, Phật lại giết Bà-la-môn? Đức Phật nói rằng vì ta với tâm yêu mến mà giết chứ không có tâm ác. Các vị Bà-la-môn chết đi sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ. Họ liền khởi lên ba ý nghó. Tự biết mình từ loài người mà đến. Biết là địa ngục. Tự biết vì chê bai chánh pháp nên bị vua giết. Nhớ lại đến việc ấy rồi liền tin tưởng Đại thừa. Lúc mất sẽ sinh về thế giới Cam Lộ Cổ Vương, tuổi thọ ở đó đến mười kiếp. Như vậy, thuở xưa ta đã cho Bà-la-môn ấy sống đến mười kiếp, tại sao lại gọi là giết? Nhưng, chúng ta phải hiểu rõ đối với pháp môn Sát khiến cho sự ái niệm trở thành lòng từ Vô duyên mới hợp với câu “Duy sát Duy từ” của Sớ văn. Hai là “Lại làm v.v…” trở xuống là y theo kinh để nói về sát thuộc Lý, có hai: Một chính là giải thích: trước y theo sự “Không cắt đứt mạng sống” gọi là giữ giới bất sát. Nay, nói về “có cắt đứt” nên nói rằng “phạm sát”. Viên giáo tự nói về hai nghóa của cắt đứt và không cắt đứt là đồng thời. Đã nói sáu tức, vì sáu nên có đoạn, vì tức nên không cắt đứt. Cũng có thể chỉ y theo một chữ Tức để nói rõ về hai nghóa. Thể của chướng là đức nên không có chướng để nói. Nay là nghóa của cắt đứt mà chướng đã tức là đức thì chướng đâu bị cắt đứt. Ở đây là nghóa không bị cắt đứt. Vì vậy, Phiền não tức Bồ-đề, sinh tử tức Niết-bàn. Sự mầu nhiệm của đoạn và không đoạn nằm ở trong đó. Các kinh Đại thừa nói về pháp quán Viên đốn của hai cánh cửa ấy. Nay y theo có đoạn gọi là Sát thuộc lý. Vì vậy nói là “Bẻ gãy, chấp chước”. Là lấy nghiệp và các phiền não làm đối tượng bị đoạn. Thần cây dụ cho người tu quán. Kiếp lửa dụ cho trí thuộc chủ thể quán. Vì vậy cuốn Đại luận ba mươi nói: “Thí như cây lớn ở ngoài đầm trống là nơi đậu và ngủ của những con chim, một con Bồ câu đến sau và đậu trên một cành, cây liền gãy. Thần đầm hỏi lý do, thần cây đáp: Con chim này từ cây kẻ thù của tôi bay đến. Nó ăn trái Ni-câu. Nếu phân của nó rơi xuống đất thì cây ác lại sinh ra và sự làm hại của cây ấy là vô cùng. Vì vậy, sự an toàn do vứt bỏ một cành là rất lớn. Bồ-tát cũng giống như vậy, đối với hoặc nghiệp của ma và ngoại đạo thì không có gì đáng sợ nhưng lại sợ Nhị thừa. Nhị thừa đối với Bồ-tát cũng như con chim bồ câu kia; họ phá hoại tâm Đại thừa, diệt trừ hẳn tâm Phật thừa”. Văn nay chỉ lấy con chim kẻ thù, đắm lụy chung, v.v… Về “Kiếp hỏa v.v…”: Cũng là văn của Đại luận. Luận thứ hai nói: Tuy Nhị thừa phá hết nhưng hơi ba độc vẫn còn, vì sức của lửa yếu. Đức Phật đã dứt sạch ba độc, mãi không còn sót như kiếp hỏa thiêu núi Tu-di thì tất cả đất đều cháy mà không còn tro khói”. Nay nói rằng trí Phật tức là trí tròn đầy. Đoạn trừ ấm, Nhập, Giới thì sinh tử tức là Niết-bàn. Y theo tức mà nói về Đoạn thì gọi là Đắc ý phạm. Sự đoạn và phá của lý quán gọi là không trì giới. Đó là thật chứng. Nghóa của Lý phạm ở dưới đều thành tựu. Tất cả trần lao là hạt giống Như Lai. Đó là chủng thuộc tánh, cũng là hạt giống đối địch. Nếu như không phải tánh chủng thì làm sao gọi là hạt giống Phật được? Vì trí tức là tánh nên sự tu nhiễm vốn là luống dối. Vốn luống dối gọi là Diệt. Tức là Lý sát. Hai là “Thành v.v…” trở xuống là có quả báo. Vì hai thứ phạm thuộc Sự và Lý đã thuận với Pháp môn sát hại thuộc tánh, cho nên thành tựu Pháp sát tức là được Pháp thân, Ứng thân vào chín cõi hiện ra thân cao hoặc thấp, căn thiếu hoặc đủ. Đó là tự tại dùng phần của hạt nhân chân chính mà đạt được quả rốt ráo. Trước v.v… trở xuống là kết thúc sự cao quý. Trước là bác bỏ sự hèn kém. Người và trời là sự gần, Tạng và Thông thì lý cạn, Biệt giáo thì thứ lớp, vì vậy mà hạn hẹp và bít lấp. Những con đường ấy đều chẳng phải là sự không hai của Tu và Tánh, là con đường thông đạt. Chỉ có thật giới của Viên, một nhiếp tất cả, rộng lớn vô biên. Chính ngay nơi sự là trung, sâu xa khó dò. Con đường tắt phàm phu và Tiểu thừa định phải hiểu sự khác nhau giữa nghịch và thuận, đồng với Trung của mười cõi gọi là Giới rốt ráo. Kế là “Không v.v…” trở xuống là kết thúc lời trách. Trước là kết thúc sự bao gồm, sau là trách cứ sự hẹp. Kế là “Lại nữa v.v…” trở xuống là nói về giới Bất sát. Y theo lý để nói về trộm cắp. Y theo kinh A-hàm giải thích Tiểu thành Đại. Người và trời thì chấp Hữu, Tạng và Thông thì chấp không, Biệt giáo thì chấp Đản trung. Tóm lại, đều là vật của người nếu chẳng phải trộm cắp thì là gì? Kinh Tịnh danh chép: “Không chấp là Bồ-đề, vì xả bỏ sự phan duyên. Kế là “Nếu v.v…” trở xuống là nói riêng về sự được mất của Thiên viên, gồm có: Một là Thiên, có: - Người và Trời, có hai: Một là bác bỏ sự trì thành phạm. Sự an vui luống dối là điều vừa ý của người và trời. Muốn thành tựu lý trì thì phải bác bỏ sự giới. Vì vậy, Tiên sư y theo quả báo do mong cầu để quở trách niềm vui thuộc Hữu lậu. Như trong bãi phân có quả Am-la, nếu là đứa bé hiểu biết thì không nên đòi ăn. Lạc tạp kiến tư như thức ăn ngon của thế gian, Được làm bằng thuốc độc nếu ăn thì mất mạng. Đó là thứ mà người có quán tu không mong cầu. Nghóa là nếu được hoa báo, tâm không ưa thích mà sinh vui mừng thì làm sao gọi là phàm phu vì muốn trì giới. Hai là “Nghèo v.v…” trở xuống là y theo văn kinh để nói về quả báo. “Bốn họ”: Tỳ-xá, Thủ-đà-la, Bà-la-môn và Sát-đế-lợi. Tuy trong loài người nói là hai họ thấp hèn, hai họ cao quý nhưng vì đã thiếu tài sản thánh nên cả bốn họ, ba cõi đều thuộc về nghèo cùng. Nước chảy là nước chuyển. Xoáy nước là nước sâu. Đem tâm hữu lậu mà trì giới để mong cầu quả vừa ý chính là bị khốn khổ bởi dòng nước xoáy chuyển của Hữu, ba cõi trôi lăn. Vì thế, Tiên sư nói là “Dòng Hữu”. Nếu không phải một nhân quả Hữu lậu có đủ ba thứ chướng trong bốn dòng có thể ngăn chướng sự thấy Phật là vị trời trong số nhưng vị trời thì cũng chướng ngăn đối với Đệ-nhất-nghóa thiên. Lấy chướng để ngăn cản nên nghóa là lìa bỏ. Đây là sự trì thành ở lý phạm. Y theo kinh thì sự cảm vời quả báo nghèo cùng khốn khổ, các vị trời lìa bỏ. Kế là “Lại hai v.v…” trở xuống là Nhị thừa, có: - Bác bỏ Lý trì thành phạm, có hai: Một là y theo để tìm cầu, bác bỏ: Trí thì nêu cả bốn Đế, cảnh thì chỉ ở khổ. Đối với thân v.v… mà quán khổ v.v… là nhàm chán khổ sinh tử, ưa thích sự vui Niết-bàn. Ở Tiểu gọi là Trì, ở Đại gọi là Trộm cắp. Vì Niết-bàn mà sinh tâm ưa thích, tìm cầu. “Giới nhó”: là Yếu kém. Chỉ cần một mảy may tâm sinh liền rơi vào bốn Tánh. Đã có tánh lỗi thì đó là thuộc về sinh tử. Đối với Vô sở đắc mà sinh đắc, tưởng thành không cho mà lấy. Lẽ nào đó chẳng phải ăn trộm? Hai là “Tức không v.v…” trở xuống là dẫn các kinh để bác bỏ. Phiền não là củi, trí tuệ là lửa, Thành thức ăn Niết-bàn chẳng phải chứng đắc phi thời. Đó là bác bỏ sự thủ chứng vội vã của Tiểu thừa là chứng đắc phi thời. Chẳng đợi Pháp Hoa nói về sở nhân thuộc đối tượng mà đối với Niết-bàn Tiểu thừa lại suy nghó chấp chứng. Căn tánh Đại thừa không phát như hạt giống bị cháy, bị hư. Vì thấy quả khổ nên dứt trừ các nhân của Tập. Vì tu phẩm của Đạo nên hướng về sự chấm dứt của Diệt. Như vậy tức là chẳng phải ngay nơi hoặc mà thành tựu trí, không dứt trừ, không tu tập; ngay nơi sinh mà thành Diệt không có khổ, không có tận. Vì vậy, Tiên sư nói là “Không cầu pháp”. Trung Luận nói: Chư Phật nói về pháp không vì độ người chấp Hữu. Nếu có người chấp không thì đó là người mà chư Phật không độ được”. “Thân cao ba trăm v.v…” trở xuống là dẫn Chim non của loài chim cánh vàng để làm dụ: Nhị thừa chỉ nghó đến ba thứ Tam-muội là Không, Vô tướng, Vô nguyện như thân cao ba trăm do-tuần. Không có hai thứ trí là Không và Giả thì giống như chẳng có hai cánh. Đọa vào ba hầm Vô vi như chim rơi xuống đất. Nếu “Chết v.v… là khổ thành quả A-la-hán. Nếu chết thì khổ thành quả Bích-chi. Khổ v.v… đối với chết gọi là chết v.v… khổ nhưng thật sự chưa chết. hoặc nói rằng: Nhị thừa phương tiện là chết v.v… khổ, Thánh vị là chết khổ. Lại nữa, người học là chết v.v… khổ, vô học là Chết khổ. Ba thứ Vô vi: Trạch diệt. Phi trạch diệt. Hư không. Vì nêu chung nên nói là ba. Vô vi mà Nhị thừa chứng vốn là Trạch diệt. Nhưng luận này vốn xuất xứ từ Đại phẩm mà Đại luận giải thích. Luận nói rằng thân chim cánh vàng cao ba trăm do-tuần, có thể bay từ núi Tu-di này đến núi Tu-di khác. Lúc mới sinh ra loài chim này chưa hình thành hai cánh; vì muốn bay đi nên bị rơi xuống Diêm-phù-đề mà chịu chết, hoặc là khổ chết v.v… Nữa đường nó hối hận tự nghó rằng ta muốn trở lại cõi trời nhưng không thể tự cất mình lên được. Hình ảnh ấy vốn dụ cho Bồ-tát rơi vào địa vị Nhị thừa. Nay, Tiên sư mượn hình ấy để dụ cho Nhị thừa. Kế là “Pháp v.v…” trở xuống là dẫn kinh để nói về quả báo của ăn trộm. Không có được pháp thực của Đại thừa gọi là đói. Không có lực dụng lớn gọi là yếu đuối. Không có công đức lớn là gầy. Đối với Hữu thiện, Vô, Thiện mà khởi kiến tư là như mụt nhọt, ghẻ lở. Không thấy Phật ba thân một thể, không nghe pháp thuộc Viên đốn thì không rơi vào các số của ba Hiền, mười Thánh. Kế là “Nếu v.v…” trở xuống là Bồ-tát, có hai: Một là bác bỏ về thứ lớp thành phạm. Ba thứ Hạnh, Học và Đạo đối với Giới, Định, Tuệ. Nói thứ lớp tức là nói rằng cả ba đều chuyển theo Không, Giả và Trung. Vì ba đế dọc nên từ cạn đến sâu. Do đó, đuổi theo một là nói về thủ và xả. Sinh tử là đến, Không và Trung là đi. Vốn nói sinh tử đã gọi là đến. Đi rồi chở đến lập ra sinh tử, nên gọi là thành hai sự đến. Phá Hữu ra khỏi Cõi gọi là đi. Xả bỏ ngoài bìa, hướng về Trung gọi là lại đi. Sự đến và đi như vậy lẽ nào chẳng phải khuất nhục? Quán đế không khác nên lìa hai chấp tướng. Nay đã tu riêng nên dùng quán mà duyên với Đế, gọi là không cho mà lấy. Hai là “Lấy rồi v.v…” trở xuống là y theo kinh để nói về quả báo của ăn trộm. Thủ và Xả đã là số thì chính quả báo ấy gọi là quả báo nghiệp trộm cắp nghèo cùng khốn khổ. Vì giáo của của Biệt và Viên giải thích về quả báo biến dịch, không y theo sự thay đổi về sinh. Niệm dấy động là nghiệp, Biến dịch là khổ. Vì vậy, Luận Khởi Tín nói: “Động thì liền có khổ, quả không lìa nhân, người sơ tâm không thể bặt dứt ngay sự nghó bàn. Vì vậy, khiến nghóa tuy gần nhưng xa liền xả bỏ. Kế là Viên, có hai: Một là chỉ bày về tướng của Lý Trì: Chỉ có pháp quán của Viên mới lìa được sự không cho mà lấy một cách rốt ráo. Phép quán về sự dứt bặt là năm thứ không thọ. Tức là không thọ bốn biên và không thọ bất thọ. Nếu không dùng lý vượt lên để soi sáng đối với năm thứ bất thọ này thì sợ rằng sẽ lẫn lộn với giáo lý của Thiên. Vì vậy, trước là Tiên sư nói rằng: Hành giả Viên quán thật tướng các pháp”. Các pháp không ở ngoài Y báo và Chánh báo của Phật và chúng sinh. Đó là pháp của hai sự tu tập là nghịch và thuận. Toàn bộ sự tu tập chính là Tánh nên mỗi sự đều là tướng của Trung đạo, của Thật Tướng của Trung, của Thật chẳng phải là tướng đối đãi. Vì hành giả Viên quán về tướng này nên không có bốn thứ thọ. Chẳng những có cảnh dứt bặt sự đối đãi thuộc bốn câu mà còn dứt cả sự đối đãi của chủ thể và đối tượng thuộc cảnh và quán. Vì vậy sự quán của không thọ cũng không thọ. Đã đối với Sơ tâm thì tức là y theo Trung và Thật để tu năm thứ không nhận. Như vậy thì chỉ thuộc về Viên. Vì năm thứ không thọ nên gọi là không chấp là đại Bồ-đề luôn che chướng tất cả lời nguyện hữu duyên. Mỗi pháp đều là Trung. Ngoài cao không có thấp, ngoài thấp không có cao; có pháp để chấp, có pháp nào để xả bỏ? Hai là “Như vậy v.v…” trở xuống là y theo để nói về quả báo. Tức là dùng sự giàu có thuộc lý để làm sáng tỏ sự không nghèo cùng. Vì giàu có nên không chấp. Vậy, làm sao có khốn khổ? Do không chấp nên sự nghó bàn liền dứt, Không trái với Đệ-nhất-nghóa thiên tức là Ứng với “Chư thiên không lìa” của văn kinh. Kế là “Hành giả của Viên v.v…” trở xuống là nói rõ về Đắc ý phạm. “Pháp môn trộm cắp”: Đó là Tánh ác là cái mà Phật tôn làm thầy nên gọi là Pháp. Trí do đó mà vào nên gọi là Pháp môn. Hành giả Viên giáo đạt được pháp môn nên nghịch thuận đều tự tại. Thường tạo tác trộm cắp thuộc lý thì cũng tạo tác về trộm cắp thuộc Sự. Văn này lược sư, so sánh với trường hợp của Sát, của Dâm; hợp với tướng của chúng. Nếu là nghóa trộm cắp thuộc lý thì văn xuất xứ từ kinh Ương- quật. Kệ của kinh ấy nói: “Không cho là Bồ-đề. Không có trao cho là không cho mà tự lấy. Cho nên ta không cho mà lấy”. Ý đó là nói không bao giờ lấy là hoàn toàn lấy. Loại lấy này được gọi là như biển thâu nạp các dòng. Về bốn sự mang vác nặng, kinh Ương-quật nói thí như mặt đất mang vác gánh nặng. Sông biển lớn. Núi sơn. Cỏ cây. Chúng sinh. Bồ-tát cũng như vậy. Chánh pháp trụ ở đời hơn tám mươi năm. Vì tất cả chúng sinh mà giảng nói về Như Lai tạng gọi là gánh đầu tiên, nặng hơn cả núi lớn. Nghe người ác chê bai, nhục mạ mà vẫn thường an nhẫn. Đó là gánh nặng thứ hai, nặng hơn cả đại thủy. Không có duyên mà giảng nói cho nhà vua, đại thần nghe về Như Lai tạng. Chỉ vì người thấp hèn mà kham nhẫn để giảng nói. Đó là gánh nặng thứ ba, nặng hơn chúng sinh. Giữ đến cùng chỗ biên địa, xấu ác, không được dừng ở nơi chỗ đầy đủ an vui. Đó là gánh nặng, nặng hơn cả cây cỏ”. Bốn gánh nặng của kinh Ương-quật dụ cho bốn việc. Quán ý của văn kinh này dường như dụ cho bốn hoằng. Kế là “Trước v.v…” trở xuống là kết thúc sự thù thắng. “Cạn mà lại tắt nghẽn”: Lại tức là gồm ba: Giới bất dâm, có hai: Một là chỉ bày về Trì và Phạm thuộc Sự và Lý “Chỉ bày về Sự và Lý”: Ý ở trì cả hai, dùng Sự giúp Lý, dùng Lý dắt dẫn Sự. Đã ở giai đoạn Mạt pháp thì công là ở Sự trì. Đây là ý của Niết-bàn phò luật. “Lý trì chìm vào nhiễm bất nhiễm”: Tâm quán cảnh khác gọi là pháp nhiễm. Cảnh là quán mới gọi là không nhiễm. “Nói các thứ là”: Sự tùy theo Lý quán. Tiểu, Đại, Thiên và Viên có đầy đủ như sự giải thích ở dưới. Hai là “Nếu thiếu sót v.v…” trở xuống là nói về sự được mất của Thiên và Viên, gồm có: Thiên, có ba: Người, Trời, có hai: Một là Sự nắm giữ của con người vì tâm chưa thuần nên giống như con vượn bị xiềng xích. “Bưng cái bát đựng dầu”: Đại kinh dụ như giữa mọi người đầy khắp cả hai mươi lăm dặm vuông, vua sai một vị quan bưng một cái bát đựng dầu đi qua đám đông ấy mà không được nghiêng đổ. Nếu đổ một giọt thì sẽ bị chém đầu. Vua lại sai một người rút gươm đi theo vị quan ấy. Vị quan chấp hành sắc chỉ của vua, tuy nhìn thấy năm dục nhưng tâm không tham đắm”. Đại kinh dùng hai mươi lăm dặm vuông để dụ cho hai mươi lăm Hữu. Rút gươm dụ cho Vô Thường. Văn này dụ cho phàm phu giữ giới. Rút gươm dụ cho tội của ba đường. Cắt bỏ sự thô của hiện tại, cầu sự nhỏ nhiệm của tương lai là giống như lấy thấp hèn để đổi cao quý. Hai “Nếu là v.v…” trở xuống là trời, có hai: Một là sáu tầng trời cõi Dục: Tuy văn nêu lên trời Đế Thích nhưng ý thì bao gồm cả sáu tầng trời. Hai là “Nếu dứt v.v…” trở xuống là Bát Địa: dùng pháp Sổ tức nhiếp tâm năm dục. Vì sinh Tứ thiền thọ niềm vui của Chi lâm. Cùng cực đến Hữu đẳng như nước cá, v.v… đâu biết Trường Thọ là một trong tám nạn. Nhiếp vào mùi vị của Thiền thì đều là dục nhiễm. Kế là Nếu ghét v.v…” trở xuống là Nhị thừa, có hai: Một là Ở Tiểu gọi là Trì: Biết khổ, dứt Tập như kẻ thù như rắn độc. Tu Đạo, chứng diệt như người thân, như châu báu. Chỉ tự điều phục nên đi hẳn. Vì không có bi tâm cứu độ nên không trở lui. Bốn phương và bốn bên gọi là gió tám phương. Hình ảnh ấy ví dụ cho bốn sự trái và bốn sự thuận của người, trời. Tức là Lợi, Suy, Hủy, Dự, Xưng, Cơ, Khổ, Lạc. Tu-di dụ cho tâm Nhị thừa. Hai là “Nếu nghe v.v…” trở xuống là ở Đại gọi là Phạm. Tùy-lam, Hán dịch là Tấn mãnh (nhanh mạnh). Vào kiếp hoại, lúc ngọn gió này thổi lên có thể phá hủy núi Tu-di. Vì năm trần của hai vùng đất thuộc giới ngoại làm động Nhị thừa. Trong Đại luận nói Ca-diếp nghe tiếng đàn của Chân-ca-la mà không thể tự làm chủ. Ca-diếp liền nói rằng: “Gió tám phương không lay động được núi Tu-di. Nhưng, gió Tùy-lan đến thì nó phá núi Tu-di như phá cỏ mục. Năm dục của ba cõi ta đã dứt bỏ hoàn toàn, chúng không thể làm ta động tâm. Đây là năm dục sạch mầu của Bồ-tát. Ta không thể nào tự an định đối với sự việc này. “Ba thứ Bồ-tát “: Đây là Bồ-tát của Biệt so với Bồ-tát của Viên thì thành phạm; Duyên với Trung đạo của Đản mà sinh tâm ưa thích thuận theo. Nếu y vào Thập hạnh thì lui không nhận lấy Tiểu, lại không tiến lên để cầu viên. Như rơi xuống đỉnh núi nên gọi là Hữu đảnh. “Chiên-đà- la”: Hán dịch là Nghiêm xí, là những người làm nghề mổ giết ở Ấn Độ, dùng nghiệp ác để tự trang nghiêm. Lúc đi tay lắc cái chuông nhỏ, cầm cây trúc làm bức nêu. Vì vậy y theo hai đặc trưng ấy mà gọi tên. “Nay bác bỏ sự giải thích về Đãn Trung”. Đối với Bồ-tát thuộc Viên thì cũng như hạng ác của mổ giết thịt thú. Đã không có phương tiện của hai thứ quán tức Trung thì bị trói buộc bởi trí tuệ thuộc Trung của Giáo đạo. Đã trụ trong vô minh oán thù thì làm sao thắng được. Tuệ của sự tu tập của Biệt không có lợi ích Vô tác, so với sự thanh tịnh rốt ráo thì là pháp dục nhiễm. Thông thường, bác bỏ Biệt giáo phần nhiều là người trụ Hạnh và Thập tín, vì giai vị Hồi hướng có khả năng tu Viên. Kế là Viên, như sau: Chỉ bày về tướng, gồm có: Nói về Đắc ý trì, có hai: Y theo nghóa để chỉ bày, có ba: Một là chỉ bày về Đế quán thuộc chủ thể thanh tịnh: Nhất tâm”: Tâm kiến tư. Quán tâm nhiễm ấy tức là tánh thanh tịnh. Tánh không cạn và hẹp, thấu đến nguồn khe của ba đế. Toàn đế phát quán tức là Không, Giả, Trung. Vì chính là không nên không bị nhiễm ở chỗ ô nhiễm. Vì “Chính là Giả” nên không bị nhiễm ở chỗ thanh tịnh. Vì “Chính là phủ định cả hai” nên không bị nhiễm ở hai bên. Vi “Chính là Chiếu soi cả hai” nên không bị nhiễm ở Trung đạo. Ba đế ba quán chỉ một Sát-na. Chủ thể, đối tượng chẳng khác nhau, Trung và Biên đều thanh tịnh. Hai là “Chính là không v.v…” trở xuống là chỉ bày ái Kiến được thanh tịnh. Đế quán ở trên đều là Chủ thể thanh tịnh. Nay nói rõ rằng ái kiến mới là đối tượng được thanh tịnh. Chúng ta phải biết rằng đối tượng được thanh tịnh bao gồm trong Thông và Biệt. Phật, Bồ-tát v.v…. là ái kiến thuộc về thuận với đạo. Quán sâu “Chính là Trung” thì ái tự tiêu. Ba là “Ba v.v…” trở xuống là chỉ bày về ba đế gọi là Tịnh. Thanh tịnh nghóa là Không. “Rốt ráo không là “phải không cả ba đế để suy nghiệm về chủ thể không, chẳng thiếu ba quán. Vì chủ thể không của không nên sự thanh tịnh này cũng thanh tịnh; đối với Thông chẳng có sự bít lấp. Kế là “Kinh v.v…” trở xuống là dẫn kinh để chứng minh, có hai: Một là Dẫn văn kinh. Hai là “Viên v.v…” trở xuống là hội ý của kinh: Kinh y theo vị trí để nói về trì chỉ có ở quả. Nay y theo Viên quán thì Sơ tâm có thể trì lập tức giới của Phật, quán sự không khác nhau của nhân quả Thật tướng. Nếu không như vậy thì làm sao dùng sự trang nghiêm của Như Lai để tự trang nghiêm? Kế là “Viên v.v…” trở xuống là nói về Đắc ý phạm, có hai: Một là Dẫn việc của các kinh, vì đã đạt được pháp môn nhiễm ái thuộc bản tánh nên có thể bị động ở môi trường của nhiễm thuộc Sự, cũng có khả năng thị hiện ở phép quán của nhiễm thuộc về Lý. Vì phép quán của nhiễm có thể lệ với sự chứng đắc nghóa Bồ-đề nên nay lược bỏ. Nhưng y theo Hoa nghiêm mà đưa ra tướng nhiễm thuộc về Sự. “Thực hành giới bất nhiễm”: là tên gọi của Bồ-tát. “Trước là dùng móc dục để kéo ra”: ái dục như móc câu có thể lôi kéo người. Sau đó mới làm cho người bị kéo đạt được pháp giới của Dục, gọi là đi vào con đường của Phật. Hai là “Đó là v.v…” trở xuống là nói về Lý của Dụng phạm: Chỉ có ba hạng người trên trụ mãi trong pháp môn Vô nhiễm của Tánh nhiễm, có năng lực thị hiện sự tu tập về nhiễm. Vì vậy, họ được gọi là Dục của chẳng phải dục và lại làm cho chúng sinh ngộ được tánh ngay nơi dục, nên được gọi là dùng dục để dứt dục. “Luận lấy Tiêu v.v…” chữ tiêu lẽ ra nên viết chữ tiêu có bộ mộc. Cùng viết là Tiết (cái lược). Thuyết văn nói: “Tiết là tâm”, tháo cái nêm ở trước thì phải mượn cái nêm sau. Vì vậy, Tiên sư nói “Dùng nêm để tháo nêm” “dùng âm thanh để dứt âm thanh”: Quyển bảy của Đại luận nói: “Ví như vị Tỳ-kheo chấp sự, đưa tay xướng lên nên đại chúng đều yên lặng”. Đó là dùng âm thanh để ngăn chặn âm thanh chứ chẳng phải tìm cầu âm thanh. Kế là “Trước v.v…” trở xuống là kết thúc sự thù thắng. Bốn lần “Lại nữa v.v…” trở xuống là nói về giới nói dối, có hai: Một là chỉ bày về Sự và Lý. “Hỏi: trong Sự, tội nói dối nặng”: Tức là chưa đạt được pháp của bậc Thánh mà nói biết, nói thấy! Nay Pháp môn giải thích đối với chưa chứng đắc nói là đã chứng đắc thì nào khác với Sự. Đáp: Bởi, giới thứ lớp tự biết chưa đạt được Pháp của bậc Thượng nhân nhưng vì nói đối với người khác là đã đạt, nên loại nói dối này trừ người Tăng thượng mạn. Nếu nói dối thuộc lý, nội tâm thật nói rằng đã chứng đắc. Tâm này tăng thượng và khinh mạn đối với kẻ khác là Tăng thượng mạn. Vì vậy, kinh Pháp Hoa nói: “Tỳ-kheo, Tỳ-kheo- ni tư cho là đã rốt ráo nên không có chí nguyện cầu Bồ-đề Vô thượng. Nên nhớ rằng đó là người Tăng thượng mạn”. Nay chưa hiểu về Lý của Viên nên đối với ba thứ giáo của người và trời, mỗi thứ giáo đều tự cho là Thật. Gọi là nói dối cũng là Tăng thượng mạn. Hai là “Các v.v…” trở xuống là nói về Thiên, Viên, như sau: Thiên, có ba: Người và Trời, có hai: Người, có hai: Tướng của nói dối, có hai: Một là ái: “Khổ bậc thấp”, tức là khổ nhẹ. Khổ của ba đường là nặng. Khổ của nhân gian là nhẹ. Phàm phu không biết, cho đó là an vui. Vì lấy khổ làm vui nên Tiên sư nói “Nghó là an vui một cách ngang trái”. Như người có tội của thế gian đáng ra là chết nhưng lại đem ngàn hình phạt để tha mạng. Thật chất của hình phạt là khổ. Vì được toàn mạng nên dưới những hình phạt liên tục ấy lai nghó là an vui. Lại nữa, như người bệnh sợ chết nên phải châm cứu. Thật chất của châm cứu là khổ, nhưng vì nói chữa bệnh nên đều nghó là an vui. Việc tám thứ khổ thay nhau nung nấu mà lại nói càn quấy là an vui cũng giống như vậy. Hai là “Dục v.v…” trở xuống là kiến, đầy đủ như Đại kinh. Phàm phu ngoại đạo khinh mạn tự cao, dụ cho cờ phướn dọc. Miệng tuyên bố lời kiêu mạn dụ cho việc đánh trống. Đối với năm ấm, mỗi ấm đều khởi lên bốn chấp. Trong văn chỉ bày sơ lược về sắc ấm. Bốn ấm còn lại có thể dùng sắc ấm làm ví dụ. Câu thứ hai nên nói rằng “Lìa Sắc là Ngã”. Nay nói “Ngã tức là Sắc” là sự nhầm lẫn của văn. Trong Sắc có Ngã tức là Sắc lớn mà Ngã nhỏ. Trong Ngã có Sắc là Ngã lớn mà Sắc nhỏ. “Khởi sáu mươi hai”: Mỗi ấm trong năm ấm đều khởi lên bốn kiến chấp; cộng tất cả là hai mươi. Trải qua ba đời thành ra sáu mươi, quan điểm của họ không ngoài chấp thường và chấp đoạn, nên có sáu mươi hai thứ. Vì những lời nói của họ đều không thật giống như chuyện hài hước nên gọi là Hý luận. Do Hý luận ấy nên chẳng thấy được Chân không, Vì vậy nó phá Tuệ nhãn. Kế là “Có miệng v.v…” trở xuống là kết thúc sự nêu bày về sai lầm của miệng. Kiến là Vọng tình phát sinh chuyển kế tức là hai lưỡi. Giảng nói về lý của Tà ác tức là ác khẩu. Khéo tô điểm cho lời nói tà tức là nói thêu dệt. Các kiến vốn là tà. Vì lấy tà làm chính để dối gạt người nên nói là nói dối. Thật ra, nói dối có đủ bốn thứ. Kế là “Ba mươi v.v…” trở xuống là Trời. Phẩm Anh nhi hạnh trong Đại kinh nói: “Như lúc thấy đứa trẻ thơ kia khóc, cha mẹ nó liền lấy chiếc lá vàng cây Dương mà nói với nó rằng: Thôi, con nín đi! Ta sẽ cho con vàng. Đứa bé thấy chiếc lá rồi tưởng đó là vàng thật nên liền nín khóc. Nhưng lá dương ấy thật ra chẳng phải là vàng. Đối với trâu gỗ, ngựa gỗ, rối nam, rối nữ lúc thấy rồi, đứa bé ấy cũng nghó là nam, nữ v.v… và liền nín khóc. Như Lai cũng giống vậy. Vì chúng sinh gây ra điều ác nên Như Lai giảng nói cho họ nghe về Thường, Lạc, Ngã, Tịnh xinh đẹp trang nghiêm của cõi trời thứ ba mươi ba; thọ hưởng năm dục trong cung điện đẹp. Chúng sinh nghe rồi sinh tâm ưa thích nên không làm điều ác nữa mà siêng năng làm điều lành. Cõi trời thứ ba mươi ba quả thật là sinh tử, không có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Vì độ chúng sinh nên phương tiện nói là có. Đại sư Chương An giải thích rằng: “Đó là hợp bốn đức trên cõi trời. Lá dương dụ cho sự luống dối, vì màu sắc ít sáng. Cây Dương dụ cho sự luống dối, thể thường mềm mại. Trâu gỗ, Ngựa gỗ dụ cho sự an vui luống dối, vì có thể đùa giỡn. Rối nam, rối nữ dụ cho cái ngã luống dối, vì giống như người”. “Chẳng phải phiền não của ý tưởng nhỏ nhiệm”: Kia có mười loại tâm sở phương tiện nhỏ nhiệm”. Thọ tức là Thọ của Thức. Tưởng: Tức là Tưởng của Thức. Hành: Tức là hành của pháp. Xúc: Tức là Xúc của Ý. Tư, Tức là Tư của Pháp. Dục: Tức là muốn nhập định, xuất định. Giải thoát: Tức là thực hiện pháp giải thoát. Niệm: Tức là niệm Tam-muội. Định: Tức là Tâm đúng như pháp mà an trụ. Tuệ: Tức là Tuệ căn, tuệ lực. Kế là Nhị thừa v.v… trở xuống, có hai: Một là nêu ra tướng của hạnh. “Tranh nhau nhặt lấy ngói, sạn”: Dùng để dụ cho trường hợp “Mất ngọc trong ao mùa Xuân” của Đại kinh. Hồ mùa Xuân dụ cho cảnh đắm say dục lạc trần gian của chúng sinh. Mất ngọc dụ cho giải thoát của Viên có tính hôn mê tiềm ẩn. Tin giáo lý Tiểu thừa như đi xuống nước, tu quán như vọng tìm ngọc; Chỉ thấy Thiên chân gọi là rốt ráo, như được ngói sành mà lại cho là ngọc chân thật, nghó là được diệt độ an ổn, giống như vui mừng đem lên. Sinh thật ra chưa hết. Vì còn chịu Biến dịch, “Việc được làm chưa hoàn thành”: Vì chưa tu tập con đường của Phật. Rời độc mà nói về giải thoát là sự giải thoát của Tiểu thừa. Ngay nơi độc mà nói về giải thoát gọi là Đại Niết-bàn của sự giải thoát tất cả. Đức Phật vì người Tăng thượng chấp đắm ba độc cho là giải thoát nên nói là lìa. Thanh văn trụ trong sự giải thoát ấy mà bảo là giải thoát rốt ráo nhưng thật ra là chưa đạt được giải thoát hoàn toàn. Đó là dùng Tịnh danh đối với văn của Pháp Hoa mà nêu ra tướng nói dối. Hai là “Chưa được v.v…” trở xuống là kết thành nói dối. Kế là “Phật v.v…” trở xuống là Bồ-tát, có hai: Một là Nêu bày hành tướng của Bồ-tát: Đức Phật nói về bốn pháp môn nhưng ý là ở nhất thật. Hành giả của biệt do căn độn nên ai cũng đều chấp một pháp môn, kia và đây đều cách ngại nhau. Hai là “Phù v.v…” trở xuống là kết thành nói dối. Thật tướng các pháp lìa tướng nói năng, lìa tướng Tâm duyên. Vì Thể của các pháp hiện hữu cùng khắp, tánh dung thông nhiều và ít. Vậy, lẽ nào chúng ta dùng Không hoặc Hữu v.v… để khẳng định, nói là số của một hoặc hai v.v…? Ngôn ngữ, suy tư của giáo lý này đã sai thì thật lý không sai hay sao? Kế là Viên, như sau: Một là Nêu bày về tướng, có: - Nói về Đắc ý trì, có hai: Một là Nêu chung về tâm, miệng, Hành giả của Viên căn tánh lanh lợi, nghe nói về Không, Hữu, v.v… là đều biết tánh vốn sẵn có. Vậy, lẽ nào bốn pháp môn của Tánh cụ lại ngăn ngại nhau? Một cửa có đủ ba cửa. Ba cửa khác cũng giống như vậy. Xứng tánh mà quán, xứng tánh mà nói; đã đều là xứng tánh thì vì tánh dứt bặt nói năng, suy nghó nên quán tức là không quán và nói tức là không nói. Vì vậy, Cả quán và nói đều Như thật. Hai là “Như v.v…” trở xuống là giải thích riêng về Tâm và Miệng, có hai: Một là Nói về vấn đề tâm lìa các tướng mà quán đối tượng được quán không có ngoài, trong. hoặc y theo Tự tha, hoặc y theo căn trần, hoặc y theo tâm pháp, hoặc y theo pháp tánh đối lập với Vô minh; các phạm trù trong, ngoài, cả hai cũng và cả hai đều không v.v… ấy đều thành bốn tướng. Diệu quán đắc giải thoát đều lìa bốn tướng ấy, cũng không dùng pháp quán của bốn tướng để đạt được giải thoát. Tánh không chẳng phải là bốn tướng, chẳng phải không có bốn tướng. Hai hình thức không này gọi là lẫn lộn Thông giáo. Chúng ta phải đặt chân vào lý Viên để phân biệt loại Thiên không kia. Thế nào là Lý của Viên? Đó là các thứ bốn tướng không ngoài Bổn giác. Toàn thể Bổn là Thỉ thì chính cảnh là quán. Vậy, lẽ nào chúng ta lại chấp đắm kiểu một chiều về tánh của bốn tướng và tướng của không có bốn tướng? Chẳng phải hai hình thái không này trở xuống gọi là giải thoát. Hai là “Như Thật v.v…” trở xuống là khẩu tương xứng với bốn thứ Thật mà nói, có hai: Một là y theo pháp để nêu bày: bốn câu là thật v.v… cũng là tánh không ở ngoài Bổn giác. Vì giác tánh này là chân không tuyệt đối nên gọi là Thật. Vì áo có đủ duyên khởi nên gọi là Bất thật. Vì hai hình thái ấy không ngăn ngại nhau thành “Cả hai cũng là”. Vì hai hình thức ấy không có hai tướng nên chính là “Cả hai chẳng phải là”. Vì giác tánh không nghiêng lệch nên bốn tướng đều toàn phần. Thật nhiếp ba câu là một thật thì tất cả đều Thật. Bất thật nhiếp ba, hai câu còn lại cũng giống như vậy. Vì vậy, bốn câu đều gọi là tất cả. Sự giải thích của Viên tuy bàn luận về một câu, nhưng ngoài Một không còn gì khác nữa thì làm gì Có một để nói là không tương xứng với Tánh chân thật của Bổn giác? Vì thế, bốn câu đều được gọi là Như thật thuyết. Hai là “Kinh v.v…” trở xuống là dẫn kinh để chứng minh. Sơ tâm nói viên không khác với quả. Vì vậy, Tiên sư dẫn Bổn Phật của Pháp hoa để làm chứng. Đức Phật lập Quyền tích và Thật Bổn đều xứng hợp với Chân như. Vậy, làm gì có một câu nào mà chẳng phải thật? Âm thanh mầu nhiệm của Tương tự vị phảng phất dường như tướng bí mật của miệng Đức Phật. Mở bày Tiểu thành Đại, thường dùng âm thanh Như thật của Phật mà nói khiến cho các chúng sinh khi nghe đều được đi vào Thật. Kế là “Viên v.v…” trở xuống là nói về Đắc ý phạm, có hai: Một là y theo người thuộc về quả để nêu bày: Vì tuy y theo quả để mở bày nhưng ý lại làm sáng tỏ về hạnh của Thỉ nên nói là người của Viên. “Pháp môn nói dối”. Tức là pháp môn mầu nhiệm khéo léo của tánh đức. “Xứng hợp với nói dối”. Tức là Vô mà nói hữu. Ý nói rằng sự khế hợp âm thầm của mười cõi vốn là nhất thừa, chẳng có tướng khác nhau giữa ba thừa. Vì quyền nên Đức Phật phân biệt mà nói là ba, làm cho các chúng sinh đều vì rốt ráo mà tự mong cầu sự chứng đắc, mau ra khỏi sinh tử. Như không có ba thứ xe mà nói có ba thứ xe khiến cho các đứa con ưa thích thú vui và nô đùa tranh nhau ra khỏi nhà lửa, Cõi trời không có hạnh phúc thường hằng mà nói có hạnh phúc thường hằng giống như dùng lá vàng dụ cho đứa trẻ nín khóc. Đó đều là dùng Pháp môn nói dối một cách khéo léo để làm việc lợi ích. Hai là “Kinh v.v…” trở xuống là dẫn kinh để chứng minh: Trong kinh các pháp Vô hành, lúc Văn-thù nói về pháp môn bất động tướng xong,có hàng muôn vị trời trong hư không khen ngợi rằng: “Bạch Thế Tôn! Văn-thù gọi là Vô ngại Thi-lợi, Bất nhị Thi-lợi v.v…” Văn-thù nói với các vị trời rằng: “Hãy thôi! Hãy thôi! Này các vị trời! Các ông không nên chấp đắm sự phân biệt. Ta chẳng thấy các pháp Thượng, Trung, Hạ. Ta là Thi-lợi tham dục v.v…”. trích dẫn đầy đủ thì như bản sớ ngày nay. Các vị trời chỉ lấy pháp môn Tánh thiện để khen ngợi Văn- thù. Vả lại, lẽ nào Đãn trung của Biệt giáo lại chẳng phải là tánh thiện? Nếu phải dứt trừ chín căn đó mới chứng đắc thì đó là thấy có Thượng, Trung và Hạ đối với pháp. Vì Văn-thù muốn làm sáng tỏ lý Viên đốn có đủ thiện ác và đều là pháp giới nên đặc biệt dùng ba độc để gọi. Nhưng ba độc v.v… tuy đều là Tánh cụ, chẳng khác mà khác. Đều là quyền của Thật, đều là pháp phương tiện mầu nhiệm. Vì vậy mỗi câu so với Thật mà nói là chẳng đúng, thành nghóa nói dối. Tuy là nói dối nhưng đều là tánh Pháp môn sẵn có. Sự giảng giải của quan điểm ngày nay là vừa nghe về giả của người là liền nói chẳng phải tính. Tôi biết rằng người ấy chưa sinh khởi được sự giải ngộ về Viên. Kế là “Đem v.v…” trở xuống là nói về ý nghóa của Phạm: Giống với đoạn “Dùng nêm để tháo nêm” ở văn trước. Kế là “Trước v.v…” trở xuống là kết thắng. Năm lần “Lại nữa v.v…” trở xuống là nói về giới uống rượu, có hai: Một là Chỉ bày về sự lý. Hai là “Phù v.v…” Là nói về Thiên, Viên, gồm có: Người và Trời, như sau: Rượu thuộc sự ở cõi người, có hai: Một là y theo giáo lý để nói về lỗi. Ba mươi sáu điều sai là xuất xứ từ kinh Sa-di giới. Đại luận chỉ nói ba mươi lăm lỗi. Kết thành bài tụng rằng: “Tài sản mất vời bệnh (3). Lõa lồ, xấu phơi bày (2). vô trí, được là mất (2). Nói giấu, phá sự nghiệp (2). Lúc tỉnh sầu, thân yếu (2). Sắc hoại, khinh cha mẹ (2). Sa-môn, Bà-la-môn (2). Và chú bác tôn trưởng (2). Không kính Phật, Pháp, Tăng (3). Gần kẻ ác xa hiền thiện (2). phá giới, không hổ thẹn (2). Không tình cảm, theo sắc (2). Người ghét, thân thuộc bỏ (2). Làm ác, bỏ pháp lành (2). người trí không kính tin (1). Xa Niết-bàn, cuồng si (2). Khi chết đọa đường ác (1). Làm người thường ngờ nghệch (1) rượu có ba mươi lăm lỗi là nói trong Đại luận có việc này. “Năm trăm đời không có tay”: Kinh Phạm Võng nói: “hoặc là Phật tử, hoặc tự tay đem rượu cho người uống thì suốt năm trăm đời không có tay. Huống chi là tự mình uống”. Phục, giấu đều là ẩn. Vì tự nói điều kín đáo nên gọi là phát. Hai là “Sai v.v…” trở xuống là tố cáo người tôn sùng. “Dẫn mãn”: Phú của Tả tư, Thục đô đời Tấn viết: “Hợp chén thúc chiếu. Dẫn đầy phạt nhau. Vui uống đêm nay. Một say nhiều tháng” Chú: Vì cuộc rượu sắp tàn nên cùng hợp chén uống rượu, kép chiếu lại gần. Dẫn là nắm giữ. Giữ cho đầy để phạt nhau. Vì rượu nồng, niềm vui cực độ nên say lụy cả tháng. Tam quốc chí: Thượng thư nước Ngụy là Từ Mạc lén uống rượu đến say khướt. Lúc đó, đang cấm rượu. Hiệu úy Triệu Đạt hỏi về việc của Tào hỏi. Từ Mạc nói: “Đạt là Thái tổ của Bạch”. Thái tổ rất giận. Tướng quân Tiển Vu Phụ vượt qua Từ Mạc, tiến lên nói: “Tuy khách nói về rượu rằng: “Trong sạch là bậc Thánh, nghèo cùng là hiền nhân tánh của Mạc vốn cẩn thận, lời nói ấy tình cờ vì say mà nói”. Cuối cùng Từ Mạc được khỏi tội. Đời Tấn, Tất Trác làm Sử bộ. Nhà bên cạnh gầy rượu đã chín. Sau khi Trác say, đêm ấy lại ăn cắp rượu dưới vò mà uống. Người giữ rượu bắt trói. Sáng mai mới biết là Sử bộ họ Tất. “Tự ký tên là Tửu đồ”: Tức là lấy Tửu đồ làm hiệu. Như Nguyên Kết đời Đường tự xưng là Tửu đồ. Bì Nhật Hưu tự xưng là loại Túy só. Tam Quốc Chí: Thái Trung Đại phu nước Ngô là Trịnh Tuyền, tự là Văn Uyên, người ở quận Đông. Ông là người học rộng, có chí lạ, tánh thích uống rượu. Đến lúc mất, ông nói với mọi người rằng phải chôn ta bên cạnh nhà làm đồ gốm. Khoảng một trăm năm sau thân thể ta biến thành đất, họ sẽ lấy đất ấy để làm bình đựng rượu. “Trúc Bạch ghi chép”: Sử chí đều ghi những việc ấy. Đời xưa ai cũng đều ghi lời nói việc làm trên thẻ tre, thêu vào lụa là vì chưa có giấy. Đời sau gọi là Cố thật. Vì vậy, Gọi Sử tịch là tre, lụa. “Xưa nay ca hát”: Người xưa nay không tố cáo sự sai lầm của rượu mà lại thường làm nhạc, làm thơ để khen ngợi nó. “Không nên làm mà làm”: Bậc Thánh Dẫn mãn. trong là việc trong bình rượu của tửu đổ đều là say xưa, buông lung. Sự sai lầm của rượu quả là rất lớn. Sự khuyến cáo, răn đe về rượu trong thượng thư vô cùng rõ ràng, vậy mà bốn kẻ Hiền ấy làm ngược lại. Đó là việc mà người quân tử không nên làm mà làm. “Không nên hát mà hát”: Người hiền xưa nay lẽ ra nên chỉ trích lỗi lầm của rượu, vậy mà họ lại dùng lời ca, thơ phú để khen ngợi nó. hoặc làm, hoặc ca hát, nếu chẳng phải là lỗi lầm của rượu thì là của ai? Kế là “giải thích v.v…” trở xuống là rượu hoặc của ba cõi, có hai: Một là Chỉ bày riêng, có hai: Một là Dẫn luận để nói về say thuộc kiến, tức là văn quyển tám của Thích luận. Vua tức vua ở nước Nam Thiên Trúc. phản. Lừa dối: Nhó Nhã nói: Lừa dối tức là cuồng. Chữ Chu-Trương do Kế là “Lại v.v…” trở xuống là y theo dụ để nói về vấn đề say thuộc ai? Kế là “ba v.v…” trở xuống là tổng kết. Kế là Nhị thừa, có hai: Một là Đoạn thông, Theo Biệt để nói về chủ thể say. “Chín mươi tám Sử”: Kiến hoặc có tám mươi tám tư hoặc có mười, “Bốn Trụ”: Kiến thuộc ba cõi hợp thành kiến trụ. Tư thuộc ba cõi, làm Tam Trụ địa. “Chưa nhổ hết gốc Vô minh”: Tức là dụ rượu với hoặc. “Người nửa sốt rét”: Bốn trụ đã dứt, nhưng Vô minh vẫn còn. Nửa lành nửa bệnh như người bị sốt rét. Đây cũng là dụ ở Đại kinh. Hai là gồm phàm bác Tiểu để nói về cái mê. “Dẫn người say trở về”: Nghóa là Đức Phật dẫn người say để dụ cho sự trở về Nhị thừa. Nghiên cứu trong phẩm Ai Thán, ta thấy các Tỳ-kheo nói ví dụ say để dụ cho phàm phu trôi lăn thấy vô thường là thường như người say. Vì Tiểu thừa tu tưởng vô thường nên như người tỉnh. Đức Phật liền dùng dụ ấy để ví dụ cho Tiểu thừa. Nghóa là đối với Chân thường mà lại thấy là vô thường tức là nghóa của say. Vì vậy, Tiên sư mới dẫn văn say quay về. Người hợp làm văn. “Thế gian v.v…” trở xuống là văn từ tỉnh lược. Bốn đảo, bốn đức mỗi loại đều nêu lên hai để làm sáng tỏ lẫn nhau. Kế là Bồ-tát, có hai: Một là y theo Giáo đạo quán đều gọi là Không hoàn toàn, có ba: Kế là Pháp. Sự đạt đến cùng cực của Biệt giáo chỉ phá mười hai phẩm Vô minh. Vì vậy, đối với Phật tánh, sự thấy không rõ ràng. Lại nữa, từ sơ tâm không biết năm trụ tức là Pháp giới, không gọi là Phật pháp, là hạnh Bồ-tát. Vì vậy, không có được sự thấy biết trọn vẹn đối với Phật tánh. Kế là “Như v.v…” trở xuống là dụ. Thông thường, nêu năm việc xong xuôi để dụ cho sự thấy tánh không được trọn vẹn. Tàu buồm tức là thuyền lớn. Dụ này xuất xứ từ Đại kinh. Nhưng cả mười ví dụ kia đều dụ đối với Viên. Vì phân chia lược bỏ cùng cực nên nói là “Thấy hoàn toàn không trọn vẹn”. Nay dụ cho Biệt là có hai ý. Một là Quả cùng cực của Biệt giáo chỉ ngang với hạnh thứ hai của Viên giáo. Vì vậy, Thấy hoàn toàn không trọn vẹn. Hai là Tức là hai giáo lý đồng đắc ý, đức của nó là Đãn trung thuộc Thất ý. Nay vì y theo Thất ý nên dùng để dụ cho Biệt. Mười Dụ ở kinh Như Lai tạng cũng như vậy. Chỉ quán tại Biệt, Thập lục quán sớ giải mà lại sáng tỏ ở Viên. Kế là “Như v.v…” trở xuống là hợp. Hai là “Vì vậy v.v…” trở xuống là nói ngoài sự giải thoát của Viên, tất cả đều gọi là tà kiến, vì chưa đạt được Chánh kiến của Trung thuộc về Viên. Kế tiếp là Viên, như sau: Nêu bày về tướng, gồm có: Chỉ bày rõ về hành tướng, có hai: Đắc ý trì, có hai: Một là Vì xứng tánh mà quán nên được gọi là tỉnh ngộ. Ý của đoạn văn này là dùng quả đức mà làm hạnh của Thỉ một cách tức khắc, thấu suốt. Nếu chúng ta không nhận thức rõ ràng về thức thứ sáu là tánh ác thì làm sao hàng Sơ tâm tu tập được hạnh Như Lai tức là quán ngay kho bí mật? Mắt thường chính là Phật, không bao giờ thay đổi phép quán mà thấy Mâu-ni bình đẳng với Diệu đức. Đại sư Kinh Khê chỉ bày đích xác là phải nghe tánh ác mới tu tập tánh hạnh, không thể xem thường lời ấy. Hai là “Là v.v…” trở xuống vì chế phục tròn đầy nên gọi là pháp trừ rượu. Chánh và Tập của năm trụ cùng ở trong một niệm. Chính hoặc là quán, ngoài quán không có Cảnh v.v… như mặt đất bị lật thì làm sao cây cỏ tồn tại được. Cũng như ánh sáng mặt trời không thể ở chung với bóng tối. Vậy pháp của rượu nào mà không dứt trừ được? Người ấy trì giói khinh, trọng, v.v… thuộc về Sự, cùng thực hành với giới thuộc về lý ở trên trong từng niệm mới được gọi là rốt ráo. Kế là “Viên v.v…” trở xuống là Đắc ý phạm, có hai: Một là Nói về vấn đề vì có trí lớn nên say thuộc về Lý. Thế nào gọi là Trí lớn? Đó là trực nhận về nhân quả của Chín cõi thuộc Tánh cụ. Vì vậy, Tiên sư gọi là Pháp môn uống rượu. Chân không thật tướng như luận Khởi Tín nói: “Một là tánh Chân như có hai thứ đức. Một là Như thật bất không. Vì thể của nó có đủ hằng sa số cùng đức, không thiếu sót một điều gì”. Vì giữ gìn tất cả sai lầm nên không giống như cái bình. Vì đức dụng không ngăn ngại nên không giống như rượu. Nhưng hằng sa tánh đức tức là Pháp môn Viên dung của mười pháp giới. Chín cõi chính là Phật thành ra tướng trì ở trước. Cõi Phật chính là chín thành tướng phạm của hiện nay. Vì vậy, tướng Phạm nói: “Biến hóa năm đường, tuyên dương gầm, rống”. Việc làm ấy như cái dụng của say rượu. Hai là “Sáng v.v…” trở xuống là nói rõ vì có đại bi nên say thuộc về Sự. Ba-tư-nặc, Hán dịch là Hòa duyệt (Vui hòa). Sau khi uống rượu, việc đáng chết mà phán định sống nên gọi là nhiều ân đức. Mạt-lợi là Chánh hậu của vua Ba-tư-nặc. Vua thường sân hận muốn giết người làm bếp. Các quan bàn với nhau rằng trong nước chỉ có người ấy, nếu giết rồi thì sẽ không có người biết làm bếp hợp với ý vua. Lúc ấy, hoàng hậu Mạt-lợi liền bày biện rượu thịt ngon. Bà tắm gội bằng hương thơm nổi tiếng, điểm trang thân thể, đem các kỹ nữ đi đến nơi ở của vua. Vua thấy hoàng hậu tâm sân liền biến mất. Hoàng hậu liền phái người dối truyền sắc chỉ của vua là không giết người làm bếp. Sau này vua Ba-tư-nặc đem việc ấy hỏi Phật: “Hoàng hậu là người giữ năm giới, mỗi tháng ăn chay sáu ngày, trong một ngày mà phạm hai giới là uống rượu và nói dối. Trong tám giới thì phạm đến năm giới. Đó là ăn quá ngọ, trang phục hương hoa, làm việc ca xướng, nằm giường cao rộng, uống rượu và nói dối. Vậy tội phá giới ấy là khinh hay trọng? Đức Phật nói: “Phạm như vậy là có công đức lớn. Vì sao? Vì là việc lợi ích! Xuất xứ từ kinh Vị Tằng Hữu quyển hạ. Đi vào quán rượu, tức là Cư só Tịnh danh. Ba người trên đều là người ở vị trí cao, đều trụ ở pháp môn quyền phương tiện khéo léo của tánh ác nên đối với trì, Phạm mà có được sự tự tại, chúng ta không thể chỉ đem vấn đề từ niệm để giải thích. Nếu không có tánh nhiễm thì lẽ nào lòng từ lại là Vô duyên? Kế là “Phù v.v…” kết được, bác bỏ mất: Nếu đạt được cái cửa của thiện ác thuộc tánh cụ thì nghịch thuận gì cũng đều đảm đương được. Mất cái cán quan trọng ấy thì dù trì hoặc phạm đều sai, như cầm lưỡi dao tự hại mình. Vấn đề quan trọng của được và mất chúng ta chẳng thể không thấu đáo. Kế là “Trước v.v…” trở xuống là kết thúc về hơn: Nếu thiện ác đối đãi chia đường rẽ lối thì lẽ nào say và tỉnh lại là một? Chư Phật đã thể nhập cùng tận thì lẽ nào lại có sự nghiêng lệch? Kế là “Phép quán trên v.v…” trở xuống là giải thích về quán tâm. Lẽ nào giới thuộc lý do sự luận bàn của Viên lại chẳng phải quán tâm. Nhưng vì văn trước là giải thích theo Giáo, mục đích chính là vì khai mở sự giải thích. Nay rút lấy một niệm tâm của người giữ năm giới thành tựu ở quán tâm; chính vì, lập hạnh ngay ở sự nghe mà tu. Môn sự tu phát thì người nói nên trao. Nếu không như vậy thì đến châu báu nào có lợi ích gì? Vấn đề này được chia làm hai: Một là Phụ kèm với câu hỏi về Đế trí ở trên. Sự quán sát bốn Đế ở trên, mỗi phép quán đều phát ra giác biết nên nói là bốn Đức Phật. Nay nói về năm giới cũng có thể quán để thành năm Đức Phật hay không? Ý của câu hỏi là như vậy. Hai là “Quán năm v.v…” trở xuống là y theo giới thể của nay để đáp. Nếu quán năm giới là Thật tướng của năm giới là cảnh được quán, cảnh của năm giới phát hiển trí gọi là năm Đức Phật. Thật tướng vô tướng mà còn khó nói là một thì lẽ nào lại chắc chắn là năm? Do phụ với năm giới, mỗi giới đều thấy thật lý nên dường như chia làm năm. Thật lý là gì? Đó là Bổn giác. Vì giác thể này vô duyên từ nên gọi là Bất sát. Không lấy nên không trộm cắp. Không nhiễm nên không dâm dục. Vì chân thật nên không luống dối. Vì hiểu rõ nên không uống rượu. Nay, hành giả của Viên dùng ba đế vượt ngoài thuận tánh để tu về Từ. Cho đến quán thuận tánh tu về Trí. Nói thì như vậy nhưng tu thì đồng thời, cho nên được gọi là quán Thật tướng của năm giới. Quán nối nhau thì toàn thể bản giác phát triển thành Thỉ giác gọi là năm Đức Phật. Danh tự quán, năm quán hạnh đã dứt trừ đều được gọi là phát. Kế là “Tiếp theo v.v…”trở xuống là giải thích về văn của phiền não như sau: Một là Phân tiết để nêu văn kinh. Hai là “Trên v.v…” trở xuống là đối biện thượng và hạ, gồm có: - Đối thượng hạ định thể, có hai: Một là Đối quả báo ở trên nói về nghóa tiện lợi: Báo phần nhiều y theo Sắc. hoặc thì chỉ ở tâm. Vì vậy, Tiên sư nói “Nghóa tiện lợi”. Hai là “Báo v.v…” trở xuống là cùng với nghiệp hạ mà nói về sự thể khác nhau, có hai: Một là Khởi câu hỏi: Vì danh từ nghiệp Tham, Sân, Si trong mười điều ác giống như phiền não, làm sao phân biệt được? Hai là “Số v.v…” trở xuống là giải thích chung, có hai: Một là Dẫn số người để giải thích. Hai là Cùng là số người nhưng dùng nhẹ nặng để phân chia đối với hoặc nghiệp. Kế là sự giải thích của sự ngày nay, có hai: Một là y theo tâm để nêu bày: Tâm v.v… chắc chắn phát động thân miệng, chiêu cảm quả báo gọi là Nghiệp; Vì dị phiền não không quyết định. Hai là “Nếu v.v…” trở xuống là nhân sự nêu bày mà sinh nghi, có hai: Một là nghi: nếu chắc chắn tâm phát động thân miệng gọi là nghiệp, sao xấu v.v… là cảnh bên ngoài, sao lại gọi là Nghiệp chướng? Nay chỉ bày về thể của Túc nghiệp. dưới sẽ nói về tướng của túc nghiệp. Nếu nói về lúc làm khởi thì lẽ nào lại không phải là Tâm, Sắc? Hai là “Nếu v.v… trở xuống là đối thượng hạ nói về Chuyển. Hai chướng ở nhân, vì vậy dễ chuyển. Vì chướng của quả báo đã thọ nên khó chuyển. Nếu khó mà lại chuyển được thể thì phải dứt bỏ. Kế là “Chung v.v…” trở xuống là y theo văn để nêu bày tướng! Gồm có hai: Một là chung, Riêng: nói về chung thì có thể thấy. Nếu nói riêng thì kiến hoặc chấp ngã ái chỉ là chấp về Sự. Hai thứ hoặc này đều có đủ ba độc. Ba độc của chấp ngã nếu không được toại nguyện thì sợ có nhiều lo buồn. Ba độc thuộc chấp đắm về Sự đã không chấp ngã, nhưng chỉ sợ không toại nguyện thì chắc chắn không lo buồn. Hai là “Nay v.v…” trở xuống là chỉ cho rộng: Ký lục của Đại sư Chương An không thể nói rộng về tướng kiến tư. Từ đây về sau người giảng sẽ nói từng vấn đề. Cho nên Tiên sư chú “v.v…”. Kế là “Ba sự phá v.v…” trở xuống là giải thích nghiệp chướng, có hai: Một là chia tiết kinh. Hai là giải thích nghóa, có ba: Một Định văn là nghóa: Nghiệp đã làm sắp chiêu cảm ác báo. Vì vậy, có tướng khác để nói lên việc ấy. Nghiệm thì biết rằng câu này nói về nghiệp chướng. Hai là “ác v.v…” trở xuống là giải thích khái lược về văn kinh. “có khách tinh riêng”: Vì năm tinh tú, hai mươi tám vì sao thường xuất hiện thì không phải sao xấu. “Cũng là v.v…” trở xuống là y theo tinh tú thường hằng: Mất hành độ thứ lớp của tinh tú cũng gọi là sao xấu. “Một phương có bảy”: Giác, Kháng, Thị, Phòng, Tâm, Vỹ, Ky. Phương Đông có Thương long Thất Tinh. Phương Bắc có Huyền vũ thất tinh, Khuê, Lũ, Vi, Mão, Tất, Chủy, Sâm. Phương Tây có Bạch hổ thất tú. Đông tỉnh có quỹ liễu thất tinh. Trương, Dực, Chẩn. Phương Nam chu điểu thất tú. Thông thường, vì sao của bốn phương đều là số nghịch. Tú âm là Tú về “Mất phần dã”: Chu quan nói: “Thiên tinh đều có phận dã của cả quốc gia. Giác, Kháng, Thị là Duyên châu. Phòng, Tâm là Dự châu. Vỹ, Ky là U Châu. Đẩu khiên ngưu, Vu nữ là Dương châu. Hư, Nguy là Thanh châu. Doanh thất, Đông bích là Tịnh châu. Khuê, Lũ, Vị là Từ châu. Mão, Tất là Dực châu. Chủy, Huề Sâm là Ích châu. Vinh hoặc là Hỏa tinh. Hán Thư Âm Nghóa chép: “Tinh tú yêu mị gọi là Bột tinh, Cửu tinh, Trường tinh. Cũng gọi là Sàm trưởng”. Thích danh nói: “Ánh sáng kéo dài giống như cái chổi. Ý nói rằng ánh sáng của nó loang loáng tựa như cái chổi đang quét. Lại giống như đang mải mê nên còn gọi là Ma Chửu”. Tả truyện: Thông thường, lửa người gọi là lửa. Nước trời gọi là Tai”. Nay chỉ lấy sự trái thời tiết của gió, mưa, tuyết, sương mà đều gọi là Tai. Pháp tà là nói về kinh sách của ngoại đạo. “Cổ đạo” giải thích theo Sư thì đó là trên quỷ độc hại đối với người. Cổ là loài vật hại người. Thuyết văn nói Cổ là Cổ trong bụng. Lăng-nghiêm nói: “Tham, Sân là tội, tội người ấy hết rồi gặp Trùng giới hình gọi là Cổ độc quỷ”. Giải theo Lý thì đó là ba độc của tự tâm gọi là Cổ. Loại cổ này thường hại thân trong trăm, ngàn, muôn kiếp. Pháp thân tuệ mạng là đối tượng bị nó làm hại mãi mãi, so với sự làm hại của quỷ thì quỷ độc rất ít. Thân hình, âm thanh hôi thối xấu xa, ai thấy nghe đều sợ hãi. Không thích ý là không vui hòa. Ba là “Phù v.v…” trở xuống là khuyên chánh tín, có hai: Một là nói về tướng thấy, biểu thị cho năm tội, có hai: Một là y theo văn hiện nay để biểu thị. Thân, Lý tức là thân thiết, kiện tụng đấu tranh. Ngay trong tối tăm bị gia hại bởi pháp vua. U gọi là cảnh tối tăm. Hai là“Kỳ v.v…” trở xuống là thông lệ cho các tướng khác cũng giống như vậy. Hai là “Hành v.v…” trở xuống là răn đe hành giả hỏi với thầy tà. Lễ ký nói: “Rùa gọi là bói, Thi gọi là Đồng bóng. Bói và con đồng là để giải quyết sự nghi ngờ, định sư do dự”. Nay nói rằng “Bẻ cật tre”, Cật tre là nói đến Cật trúc. Tức là đếm cỏ thi, lấy quẻ, bẻ cật trúc làm văn. “Quản Công Minh”: Người đời Ngụy, tên là Lộ, Tự là Công Minh. Ông là người bói, hỏi đồng giỏi. Những người đến nhờ bói đều hiệu nghiệm. Nếu biết rằng quả báo ác là do tội mà kết, tội lại do tâm. Nếu sửa tâm cho chính đáng thì tội báo tự tiêu sạch. Không tu tập đức bên trong thì bói và hỏi đồng để làm gì? Ngô Thị Xuân Thu nói: “Lúc Tống Cảnh Công có sao Huỳnh hoặc trong tâm. Ông ta cho gọi Tử Vỹ đến hỏi lý do. Tử Vỹ nói: Đại vương sắp bị họa. Tuy thế, cũng được chuyển đến chỗ vị Tể tướng. Ông ấy nói: Tể tướng là người được sửa đổi cho quốc gia. Có thể thể dời sang người dân. Ông ấy nói: Nếu dân chết thì quả nhân làm vua với ai đây? Ai cho rằng ta là Vua? Tử Vỹ nói: Lời nói của Đại vương có ba điều chí đức. Như vậy, chắc chắn trời sẽ phù hộ cho Đại vương. Huỳnh hoặc phải dời đi ba nhà. Mỗi nhà phải đi chừng bảy dặm. Một dặm mất một năm. Như vậy, Đại vương sẽ kéo dài tuổi thọ thêm hai mươi mốt năm. Quả thật, Huỳnh hoặc dời ba nhà”. Huống chi người có thể nội quán pháp tánh, đạt được vốn không, bình đẳng giữa chúng sinh và Phật ở trong tâm, khởi từ bi nơi pháp giới thì lo gì sự biến động của sao xấu không bị diệt. Vì vậy, ở đoạn văn kế Tiên sư nói về phương pháp. Kế là “Từ v.v…” trở xuống là nêu phương pháp: Nếu y theo sự khai mở đầu tiên thì chia làm bốn chương. Ở đây hợp với phương pháp năng phá thứ ba. Nay y theo trùng khoa. KINH KIM QUANG MINH VĂN CÚ KÝ <卷>QUYỂN 2 (Phần cuối) Từ “Các căn không đủ v.v…” trở xuống là trình bày về phẩm Không. Văn chia làm hai: Một là ba bài rưỡi là nói về điều ác bị dứt bỏ. Tức là văn nói về ba thứ chướng. Hai bài rưỡi tiếp theo là nói về phương pháp năng phá. Tức là văn hiện nay. Nhưng, giải thích xong một bài rưỡi, Tiên sư lại y theo khai chương đầu tiên lấy một bài cuối làm bốn sự kết thành. Nhưng lấy nghóa thành phân chương mà chia như sau: Một là Chia kinh lập ý để thuận với trùng khoa nói là: “Năng không”. Hai là “Trước v.v…” trở xuống là y theo ý để giải thích kinh, gồm có: Một là Lập ý. Nhương tức là tạ. Lại, trừ tai ương là tế. Hai là “Tẩy v.v…” trở xuống là giải thích kinh, có hai: Một là Giải thích về ba câu trước: Vì muốn biết trí ở tại lời nói nên lấy việc nghe kinh làm Bát-nhã. Lại nữa, vì nghe kinh có trí tuệ, vì tâm có nhiễm ô nên dụng không tự tại. Nay đã thanh tịnh nên thành tựu sự giải thoát. Hai là “trước khiến cho v.v…” trở xuống là giải thích ba câu sau: Cảnh của dốc lòng tức là hành xứ sâu xa. Nếu không nghó đến nơi ấy thì làm sao được gọi là dốc lòng? Kế là “Phù v.v…” trở xuống là khuyến tín, có hai: Một là y theo thân để trình bày về loại. Ba nghiệp đời nay là thân của biểu pháp. Nó vốn là thân máu huyết không sạch, kế là nêu lên hai ví dụ là gỗ thơm Chiên-đàn và Cây Y-lan có mùi hôi. Đại kinh nói rõ trường hợp vua A-xà-thế gây ra tội. Sau khi được thấy Phật, tội được tiêu trừ nên vua liền tự bày tỏ rằng: “Con thấy ở thế gian, từ hạt Y-lan mà sinh ra cây Y-lan, chứ chưa hề thấy Y-lan mà mọc cây Chiên-đàn. Hôm nay, con mới thấy từ hạt Y-lan mà sinh ra cây Chiên-đàn. Hạt Y- lan là con. Cây Chiên-đàn là Vô căn tín trong tâm con”. Hai là “Nay v.v…” trở xuống là y theo hạnh để mong cầu. Tuy ba nghiệp là gần mà ba đức là xa, nhưng nếu hành giả tu đúng khuôn phép thì sẽ thành tựu cái xa ngay nơi cái gần. Quy (hình) tròn, Cũ (hình) vuông. Mạnh Tử nói: “Thợ giỏi dạy người phải dùng khuôn phép”. Kế là “Tẩy v.v…” trở xuống là Hạnh thành phá được chướng. Nếu đối với tắm gội v.v… mà không có sự quán sát của ba đức thì làm sao từ tạ tội ác của ba chướng? Kế nữa là “Tự là v.v…” trở xuống là kết thành, có ba: Một là Phân tiết để chỉ bày văn kinh. Hai là “Năng v.v…” trở xuống chính là giải thích nghóa kinh. Ba là “Tịch v.v…” trở xuống là nói chi tiết về ý kinh, có bốn: Một là Y theo văn hiện nay để chỉ bày về pháp: Tịch diệt là âm Hán. Niết-bàn là tiếng Phạm. Danh từ Niết-bàn mời gọi thể của ba đức. Vì vậy, chúng ta biết rằng Tịch diệt là sự thành tựu của ba đức. Hai là “Trước v.v…” trở xuống là y theo hạnh thành thì đức hiển. Ba nghiệp đã tu tập hạnh của kinh Kim Quang Minh, thành trì khế hợp với lý của ba đức. Tu ở Danh tự quán hạnh tương tựa, đến giai vị phần chân đều đạt được gọi là chuyển chướng thành đức. Nếu không như vậy thì lẽ nào lại nói là thực hành kinh Phương đẳng? Ba là “Báo v.v…” trở xuống là nói về sự chuyển chướng thành đức. được. Bốn là “Trước gửi v.v…” trở xuống là nói kinh khéo léo khó hiểu Kế là nói về lưu thông nói rõ giáo tướng: Sớ chỉ đại lược ở trên. Kế là Nói về niệm nghi, có hai: Một là Giải thích tựa đề của phẩm Thọ Lượng. Hai chính là giải thích, có hai: - Y theo ba vị Phật khó suy nghó để giải thích như sau: Một là Phật vốn không có ba, chẳng những chỉ có Phật thuộc về pháp thân chẳng có thân, tuổi thọ mà ngay cả Báo và Ứng cũng không thể nói là ba. Vì, tất cả các pháp lìa tướng danh tự, nói năng. Hai là “tùy thuận v.v…” trở xuống là tùy thế gian mà lập. Nếu chúng sinh có nhân duyên được lợi ích thì chư Phật liền tùy theo thế gian mà lập ra các danh, tướng. Chẳng những chỉ có Đức Phật thuộc Ứng thân là có lập ra thân và tuổi thọ mà ngay cả Pháp thân và Báo thân cũng có thể nói về ba loại này. Chúng ta phải biết rằng dầu không có ba nhưng không thể bớt một pháp nào. Tuy lập ra ba nhưng ba cũng không làm tăng thêm một pháp nào. Bởi hữu và Vô đều là Pháp giới. Vì vậy, Chân thì không, tục thì có, chân thì có, tục thì không, đều là Tất-đàn, đều làm cho ba thân đạt được bốn lợi ích. Văn ở đây chia làm hai: Một là nêu ba thứ thân, mỗi thứ đều có ba thân. Hai là giải thích ba Đức Phật, ba nghóa, có hai: Một là y theo nghóa để phân biệt, có hai: Một là Y theo tính chất dùng nhiếp, chính là của lý mà lại theo hai của tu, một của tánh khiến cho nghóa dễ sáng tỏ. Pháp là Bổn giác, Báo là Thỉ giác. Thỉ Bổn hợp nhất mới có dụng của Ứng. Nói lượt đầu thì dường như Dọc. Người nói thì nên dùng đoạn văn chẳng phải Dọc, chẳng phải Ngang của tính chất dung nhiếp khéo thể hội ý nghóa này. Đoạn văn “Khiến cho người nghe biết được ba thân viên mãn” gồm có: hai: Một là “Pháp thân v.v…” trở xuống là Đức Phật của Pháp, có Một là Giải thích riêng, có ba: Một là Thân: Trí thuộc quả báo của Thỉ giác y theo Bổn giác mà thành. Vì vậy, Tiên sư dùng Pháp tánh làm thầy, nghiên cứu đến cùng cực thì Thỉ và Bổn vốn chỉ là một giác. Vì vậy, “Lại lấy pháp tánh làm thân”, cho nên ngài Mã Minh quy mạng Tam bảo. Tức là lấy thân Phật và Thể tướng v.v… làm pháp bảo. Các thứ thân ấy chẳng phải là thân được thu nhiếp bởi ba khoa là phần đoạn, Biến dịch, Sắc chất và Tâm trí. Chúng là do sự tu tập của các pháp năm ấm, v.v… thuộc thường trụ. Pháp này chẳng có tướng, chẳng thể nói khai thí. Vì chúng sinh nên Đức Phật gắng gượng gọi là Pháp thân. Hai là “Pháp tánh v.v…” trở xuống là nói về thọ lượng: Sắc và tâm hòa hợp liền có quả báo tuổi thọ được giữ gìn nối tiếp. Thân đã chẳng phải ấm thì lẽ nào lại có mạng căn? Vì vậy mà gắng gượng chỉ bày rằng không dời đổi là tuổi thọ. Ba là “Tuổi thọ này v.v…” trở xuống là nói về Lượng: Vì lượng y theo thân và thọ nên cũng đồng với sự gắng gượng. Kế là “Đây tức là v.v…” trở xuống là giải thích chung. “Thân, Thọ và Lượng ở trên nói là chẳng phải là không vô”: Nếu y theo văn tiếp theo thì nghóa hợp với “Cả hai đều không”. Vì Pháp thể của thọ lượng lìa hai bên và vượt hẳn Báo và Ứng. Gắng gượng đối với lý này mà lập ba thứ danh tự là Thân, Thọ và Lượng khiến cho chúng sinh mất tình thức. Kế là “Báo thân v.v…” trở xuống là nói về Đức Phật của Báo, có như sau: - Xưng Pháp có Báo, có hai: Một là Dẫn kinh: Ở đây y theo sự thuận tu xứng hợp với lý Sự mà nói. Cái cảm được do tu hành giải thích nghóa của Báo. Văn của Pháp Hoa chứng minh cho vấn đề báo của trí đức. Vì kinh ấy nói: “Ánh sáng của trí tuệ chiếu sáng vô lượng”. Nên văn của Niết-bàn chứng minh cho báo thuộc dức dứt, vì nói là đại Niết-bàn. Hai là “Như v.v…” trở xuống là giải thích về nghóa Báo của hai thứ do tu hành cảm được, đó là sự hợp nhất của Thỉ giác và Bổn giác. Tức là lấy Thỉ và Bổn làm Cảnh trí. Vì hai thứ giác ấy chẳng phải hai nên gọi là Như. “Mỗi loại đều hai Như”: Vì Như của Trí như Cảnh, Như của Cảnh như Trí. Lại gọi Bồ-đề là Như Như trí, làm chủ thể thầm hợp với Pháp tánh gọi là đối với Cảnh của Như như làm sự thầm Ứng hợp thuộc chủ thể lấy sự hợp nhất của nắp và hộp ở trước dụ cho nghóa của tương xứng. Tuy nắp và hộp hợp nhau nhưng vẫn còn khe hở. Lại dùng nước và sữa dụ cho sự âm thầm. Đây là sự biến mất cả mà thành một tướng. Nghóa của Thỉ giác và Bản giác là hai, nhưng Thể chỉ là một, thật sự giống như hai ví dụ đó. Kế là “pháp thân v.v…” trở xuống là nói về sự y theo Báo mà lập ra ba loại: Tức là Thân, Tuổi thọ và Lượng. “ Trong ba thứ ấy, mỗi loại đều nói Pháp thân”. Vì sự thầm hợp của trí thuộc Báo vốn lìa pháp không có Báo cho nên là thân đầu tiên. “Nói không có thân”: Chẳng phải là Đức Phật thuộc Ứng không có thân thuộc phần hạn. “Không phải không có thân”: Chẳng phải Đức Phật thuộc Báo không có cái thân phần hạn. Lại nữa, không có thân tức là Phi hữu. Chẳng phải không có thân tức là Phi không. Pháp thân của Trung đạo là thể của Bổn giác. Thỉ giác thầm hợp với điều đó, chủ thể thầm hợp cũng mất vì tựu thành phép quán nên gượng gọi là Báo trí. Kế là Thọ. Kế là Lượng. Tất cả đều như cái hang, tiếng vọng; lớn hay nhỏ là tùy theo âm thanh. Vì vậy, cả ba thứ này đều gọi là giống thuộc Ứng. Kế tiếp là “Trí cùng v.v…” trở xuống là nói về y theo hai mà có Ứng, có ba: Một là Pháp: Bất giác mất chỗ. Thỉ và Bổn như một. Vì vậy, nói là trí cùng thể thầm khế hợp. Vì thể của giác tự tại nên nói rằng “Có năng lực khởi phát công dụng vượt hơn”. Hai là “Như nước v.v…” trở xuống là dụ cho vàng thật màu sắc tốt nhất: Phải hòa với thủy ngân mới bôi vào vật. Nếu thiếu một điều kiện ấy thì Vàng không có công dụng của bôi. Ba là “Công đức v.v…” trở xuống là hợp công đức của Báo Trí để hợp với thủy ngân. pháp thân hợp với Vàng. Ứng hiện khắp nơi hợp với bôi vào sắc tượng. Kế là “Có thể làm v.v…” trở xuống là nói về Ứng thân hiện hữu khắp cả ba vùng đất, có hai: Một là nói về cả Báo và Ứng. Hai là “Có lượng v.v…” trở xuống là chỉ khai thị về Ứng thân. “Nghóa đầu tiên”: Báo do ở trên nói là chỉ nói về sự thầm hợp với pháp. Tức là Thọ dụng. Vàng là nói về sự hiện ra Ứng để người khác thọ dụng, là Ứng thuộc thường trụ. Vì vậy mà nói về cả Thân và Phi thân v.v… Thân tức là Sinh thân, vì có tướng của phần hạn nên gọi là Thân. Phi thân là Báo. Vì không có phần hạn nên gọi là Phi thân. Tiểu Bát-nhã nói: “Phật nói không có thân mới gọi là thân lớn”. Thân lớn tức là thân thuộc Tha thọ dụng. Vì thân không có phần hạn thì cho mạng là thường hằng nên là vô lượng. Tuổi thọ của thân có phần hạn thì vô thường nên có hạn lượng. Hai dụng của Ứng này là y theo hai lý của Chân và Trung mà trụ. Căn cơ thì y theo hai thức của Sự Nghiệp mà thấy. Vấn đề trụ lý rộng thì như sự giải thích của văn bản thuộc phẩm Trụ. Hai là tức được trình bày rõ trong luận Khởi Tín. Vì ý luận quan trọng là ở Sự thức, vì nếu thấy thì nắm lấy phần hạn của sắc nên gọi là Ứng Phật. Nếu Nghiệp thức thấy thì sẽ lìa bỏ tướng của phần hạn. Vì vậy, đó là Báo thân. Hành giả nên biết rằng thân thường hằng nhiều vô lượng, Ứng với cả ba vùng đất. Vô thường có lượng chỉ Ứng với Đông cư. Vì sao? Vì căn cơ của thật báo chứng từng phần nên chỉ nói về thân tha thọ dụng. Hành giả của cõi phương tiện chỉ nhờ vào Biệt và Viên. Tướng Đức Phật mà họ thấy tuy nhỏ nhưng chẳng phải Sinh thân mà đều là Phật thuộc báo. Nếu cõi Đồng cư có Cơ thuộc bốn thứ giáo thì người căn cơ Biệt và Viên sẽ thấy được Phật thuộc báo. Vì vậy, Pháp Hoa nói rõ là thường ở tại Linh Sơn. Hoa Nghiêm nói pháp đến cùng tận thời gian vị lai. Và các vị Đại thừa thì được thân tôn đặc của Pháp tánh ngay nơi ứng tướng. Vì vậy, chúng ta biết rằng thân thường hằng ứng hiện khắp cả ba vùng đất, nếu là thân vô thường thì chỉ ứng hiện ở Đồng cư để đáp ứng với căn cơ thuộc Tạng và Thông cùng với chúng phàm phu. Nghóa tiếp theo chia làm hai. Một là Nói về hai nghóa của Hữu lượng: “Ngoài Tự thọ dụng lại có thân ở ba vùng đất” đã được nói trên kia đều gọi là Ứng thân. Tha thọ dụng khác của nó tuy y theo căn cơ để gọi là Ứng thân, nhưng đó là sự chiêu cảm của Thật nhân khắc phục mà gọi là Báo, chứ chẳng phải là dụng sai biệt hợp với căn cơ. Nếu nói về sự trục vật, tùy duyên, ngắn dài so le, Thân, Thọ và lượng thì phải đặt chân ở dụng thuộc vô thường của Đồng cư. Vì vậy, nay nêu riêng về tướng của Ứng thân. Nhưng, ở nơi hữu lượng mà mở ra hai thứ Lượng. Vì hai thứ lượng này y theo Đãn không của Sự thức để thấy nên chỉ thuộc về vô thường. Nếu y theo Bất không thuộc Nghiệp thức mà thấy thì ngay nơi toàn thể vô thường là thường. Như vậy thì hai dụng thường và vô thường cũng chính là lẫn nhau, hai con chim cùng bay đi. Nếu là hai vùng đất trên thì Cơ dừng, Ứng chuyển, cũng là vô thường. Vì chẳng phải là tám tướng mà lại nói là Thường. “Bảy trăm v.v…”: Kinh Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội nói: “Bồ-tát Kiên Thủ hỏi: Đức Phật sống được bao lâu? Đức Phật bảo Bồ-tát ấy: Đi về hướng Đông, qua ba mươi hai ngàn cõi Phật, ở cõi nước Trang nghiêm, hỏi Đức Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương. Đức Phật ấy đáp: Tuổi thọ của ta cũng giống như Đức Phật Thích-ca, ông muốn biết ư? Ta sống đến bảy trăm A-tăng-kỳ kiếp. Bồ-tát Kiên Thủ trở lại cõi Ta-bà bạch với Phật. A-nan nói: Đức Phật ấy là tên gọi khác của Đức Phật Thích-ca. Tuy căn cơ thù thắng thấy lâu dài, nhưng bảy trăm vẫn còn có thể đếm. Vì vậy, cũng là lượng của hữu lượng. Nếu là người và trời của Phật A-di-đà thì chẳng thể đếm. Vì vậy, tuổi thọ của họ là vô lượng của hữu lượng. Kế là “Ứng Phật v.v…” trở xuống là kết Ứng Phật cũng giống như vậy: Đức Phật nào cũng đều đã Ứng viên mãn ba thứ thân. Ứng thân vào chúng sinh kia, tuổi thọ của chúng sinh có dài ngắn thì lẽ nào Đức Phật lại không thuận theo mỗi loại chúng sinh mà thị hiện hai thứ lượng. Vì vậy, Đức Phật A-di-đà hiện dài mà cũng có thể hiện ngắn. Đức Thích-ca hiện ngắn nhưng cũng có thể hiện dài, cho nên, Đại luận quyển ba mươi sáu chép: “Nên nhớ rằng Đức Phật Thích-ca cũng có cõi nước thanh tịnh như cõi Phật A-di-đà. Đức Phật A-di-đà cũng có cõi nước không trang nghiêm thanh tịnh như cõi Phật của Đức Thích-ca”. Lại nữa, quyển ba mươi tám: “Vì cõi Diêm-phù này xấu ác nên Đức Phật Thích-ca ứng hiện ngắn, vì các nơi khác tốt đẹp nên tuổi thọ của Phật Ứng hiện dài”. Vì lẽ đó, phẩm thứ ba mươi hai kinh Niết-bàn nói: “Phương Tây cách đây ba mươi hai hằng hà sa, có cõi nước Vô thắng. Những sự trang nghiêm mà cõi nước ấy có được giống như thế giới Cực lạc. Ta từ cõi nước ấy mà xuất hiện ở thế gian”. Đó đều là tùy theo căn cơ chúng sinh. Hai là “Nhưng, đó v.v…” trở xuống là y theo tính chất dung nhiếp và chính là của Lý, có hai: Một là y theo sự dung nhiếp thuộc Lý: Ba thứ thân ở trên, cả ba đều là ở Tánh tức là cùng. Hai là Từ tu có tức là Biệt, không chia ra tu và tánh tức là một. Ba không dung nhiếp nhau tức là Dị. Vì là Biệt và Dị nên thuộc về Dọc. Vì cùng là một nên thuộc về Ngang. Nếu như vậy thì sai đối với Pháp thể được giải thích. Nếu chứng đạt được mầu nhiệm thì chỉ là một Pháp tánh. Nếu có khả năng thành tựu tánh thuộc một và Tu thuộc hai thì gọi là Ngay nơi một mà là Ba. Tu và tánh có đủ ba loại thân, một Tánh là Ngay nơi ba mà là một. Đó được gọi là “Toàn tánh tại tu. Toàn tu tại tánh”. Tánh không có cái bị dời đổi, Tu thường uyển chuyển mới hợp với văn mầu nhiệm thuộc chủ thể giải thích. Hai là “Vì thế, dưới v.v…” trở xuống là dẫn văn để chứng minh. Văn kinh nói đủ rằng: “Nếu đi vào kinh này tức là đi vào Pháp tánh”. Như Pháp tánh sâu xa tức là đối với kinh Kim Quang Minh này mà được thấy Đức Thích-ca Mâu-ni. Vì vậy, trong Đại kinh nói rằng ba thứ Đức chẳng phải Dọc, chẳng phải Ngang gọi là Đại Niết-bàn. Nay ta an trụ trong ba pháp như vậy. Vì chúng sinh nên nói là nhập Niết-bàn”. Do đó, chúng ta biết rằng nếu không đạt được sự dung nhiếp mầu nhiệm của ba và một thuộc ba thân thì chẳng thể gọi là thấy Phật. Sự giải thích về ba Đức Phật của hôm nay đã được sự dung tức, mới hội được văn mầu nhiệm của kinh này. Kế là “Chỉ tin v.v…” trở xuống là nói về sự khéo léo của hai chữ tựa đề, có như sau: Nói về ý, có hai: Từ “Ứng Phật dung nhiếp cả ba mà giải thích, có hai: Một là Nói rõ vì Thiên mà nghi về sự thấy thể của Viên: Nghi của Thiên là tám mươi tướng là Ứng, có Lượng. Bốn Đức Phật nêu dụ nói về vô lượng của Ứng. Vô lượng đã phá mối nghi của hữu lượng tức là đạt được Pháp và Báo chẳng phải lượng cũng chẳng phải vô lượng. Đó là do chỗ nghi của Thiên mà thấy đối với thể của Viên. Hai là “Nếu theo v.v…” trở xuống là giải thích về theo thể của Viên, không thiên đề, có hai: Một là Chỉ về tướng thiên đề của Thiên. Hai là “Mà nay v.v…” trở xuống là chỉ bày về ý của sự luận bàn của Viên: Vì không Thiên đề nên ba là hai chữ thọ lượng có thể giải thích. Kế là “Lấy ý v.v…” trở xuống là y theo sự dung nhiếp của Đức Phật thuộc về Báo Phật, có ba: Một là Nói về thể của Đức Phật thuộc Báo là Viên Dung: Ở trên y theo tựa đề của phẩm, hai chữ Thọ Lượng không nghiêng lệch Hữu hoặc Vô. Như vậy thì gồm nhiếp hai thứ Ứng. Có khả năng hiển bày Pháp và Báo theo chỗ tiện lợi của văn. “Nếu theo sự tiện lợi của ng- hóa”: Văn nay đã lấy quả đức làm Tông, dùng sự hợp của Báo thân để giải thích đối với mục lục của phẩm. Lấy Báo thân ở trên thầm hợp với Ứng ở dưới thì nghóa của ba thứ thân tự nhiên thành tựu. Vì vậy, hai chữ chính là ở báo thân. Hai là “Lượng nghi v.v…” trở xuống là nói về nhân nghi mà đạt Viên, nghóa Báo thân được sáng tỏ. Do bốn Phật dùng Ứng trường thọ để giải thích về nghi đoản thọ nên khiến cho Tín Tướng đạt được đối với Báo trí có đủ ba thân. Ba là “Nhà chuyển về kinh v.v…” trở xuống là nói về từ Viên mà đề phẩm. Tựa đề gọi Thọ lượng, chính là ở Báo thân. Ở đây theo cái thấy được viên giải của Tín, Tướng. Tế giống như đang. Nêu một của Báo thân đối với các của ba thân. Kế là “Từ đây v.v…” trở xuống là nêu bày về lập đề, gồm có: - “Lại nữa, một v.v…” trở xuống là nói về sự giải thích lượt hai, lại có: Một là Nêu bày về sự giải thích khác về thời. Vì Đại sư chẳng những một hồi giải thích cho nên đối với “Một thời” lại lập ra danh nghóa riêng. Đại sư Chương An đã “Nghe” nên ghi chép cả. Hai là “Cũng làm v.v…” trở xuống là nói về sự giải thích khác về tướng, có hai: Một là Nêu bày về Chương môn: Huyền nghóa: Văn Tuyển nói: “Tuấn triết huyền giám”. Chú: Huyền là Thông, ý nói rằng lìa văn khai thị chung về nghóa của nó nên gọi là Huyền nghóa. “Dẫn chứng”: Vì dù diệu ngộ đối với nghóa nhưng lại thông hội với kinh nên dẫn văn làm chứng, giúp cho người sinh khởi niềm tin. “Trở về nguồn”: Phẩm đề là giòng phái, mục lục của kinh là nguồn. Ba thân làm sáng tỏ thọ lượng. Không lìa Pháp tánh, nguồn Kim Quang Minh; nhiếp trở về nguồn này, khiến cho nghóa được rốt ráo. Hai là “Huyền nghóa v.v…” trở xuống là y theo Chương đề giải thích như sau: Huyền nghóa, có hai: Nêu thẳng về thọ lượng của ba thứ thân, có ba: Một là Ứng thân, có ba: Một là Thọ. Hai là “Dài ngắn v.v…” trở xuống là Lượng. Ba là “Giải thích này v.v…” trở xuống là kết. Nhân duyên: Cảm và Ứng làm nhân duyên lẫn nhau. Kế là lại nữa, “Thọ v.v…” trở xuống là Báo thân, có ba: Một là Thọ: Ngoài trí không có Cảnh, ngoài Cảnh không có Trí gọi là cùng đựng nhận. Vì đã dứt bặt chủ thể và đối tượng nên không phân biệt hộp và nắp. Đương thể của tuyệt đối gọi là Đại. Hai là “Lượng v.v…” trở xuống là giải thích về Lượng. Cảnh và Trí đều hiện hữu khắp nơi gọi là tương ưng. Sự tương ứng này thật sự không có khe bờ. Nghóa là nói đối với lượng. Ba là “Giải thích này v.v…” trở xuống là kết. Kế là “Lại nữa, Thọ v.v…” trở xuống là Pháp thân. Gồm có ba: Một là Thọ: Pháp thân không thay đổi, không có quá khứ, vị lai và hiện tại; đó là nghóa của chân thường, vónh cữu. Y theo nghóa hằng cửu này mà giải thích về thọ của Pháp thân. Hai là “Lượng là v.v…” trở xuống là Lượng. Cân nhắc cũng như đo lường. Tuổi thọ của Thường thật sự khó đo lường, gượng dùng “Cả hai đều chẳng phải” để đo lường. “Không nhiều v.v…” là đưa ra tướng của sự đo lường. Đầu tiên là chẳng phải số nhiều hoặc ít, kế là chẳng phải biết hoặc không biết. Thứ ba là chẳng phải nói hoặc không nói. Đó là làm sáng tỏ Pháp, Thọ là Cảnh không thể suy nghó bàn luận. Vì vậy. Đại luận nói: “Không thể suy nghó bàn luận tức là không quyết định”. Nếu lìa có thể nói mà cho rằng Pháp, Thọ quyết định không thể nói thì gọi là quyết định chẳng phải là không nghó bàn. Ý của “Cả hai đều không” Ở trên cũng giống như vậy. Đo lường như vậy gọi là sự đo lường của thường hằng vónh cữu. Lại nữa, số nhiều hoặc ít đo lường đối với Pháp, Thọ chẳng phải là dụng của dài và ngắn; cái biết cùng tận hay không cùng tận đo lường Pháp, Thọ thì thể của chúng chẳng phải là im lặng hay nói năng. Ba là “Sự giải thích này v.v…” trở xuống là kết, có hai: Một là “Lược v.v…” trở xuống là liền tạo ra ba thứ “Cả hai để hiển bày: Vì trước đã trực tiếp lấy Cảnh trí dài ngắn cùng nghóa của cả hai đều không để nêu bày về ba thứ thọ lượng. Nhưng sợ rằng vẫn khó giải thích nên nay mỗi loại đều dùng hai nghóa đo lường là vì muốn giúp cho hành giả biết tướng của Đức Phật. Văn chia làm ba. Lượt thứ nhất là hai nghóa của Ứng Phật, lượt thứ hai là nghóa của Báo Phật, Cảnh không phân biệt chứ chẳng phải nói là cảnh không ngơ, hoàn toàn không có tri giác. Đó là chỉ cho tâm thể vốn lìa niệm gọi là vô phân biệt. Ở đây lìa tâm niệm toàn thể giác ngộ, gọi là trí có phân biệt. Cảnh và Trí này rốt ráo xứng hợp nhau. Ngoài trí không có Cảnh, Cảnh có phân biệt. Ngoài cảnh không có trí, trí không có phân biệt. Cho nên cảnh chiếu nơi cảnh, trí vắng lặng nơi trí. Dùng hai nghóa ấy làm sáng tỏ tướng của Báo thân. Lượt thứ ba là hai nghóa của Pháp và Phật. Vì thể vốn không có tướng nên chẳng thể nói. Vì y theo nguồn từ để làm sáng tỏ đức nên có thể nói. Kế là Dẫn chứng, gồm có: - Dẫn văn ngày nay, có ba: Một là Dẫn hai văn để chứng minh hai nghóa của Ứng thân. Hai là Dẫn ba văn để chứng minh hai nghóa của báo thân. Hư không dụ cho sự giữ lấy thông với ở trước. Bất hoại dụ cho Ứng của vô lượng. Nay là dùng Vô tướng để chứng minh cho tính chất vô niệm của Cảnh. Ba là Dẫn ba văn để chứng minh cho hai nghóa của Pháp thân. Hỏi: Ở trước nói rằng bốn dụ đều dụ cho Ứng thọ, đều là vô lượng. Vậy, tại sao nay lại trích dẫn để chứng minh cho Báo và Pháp. Đáp: Chẳng phải toàn bộ Pháp, Báo là Ứng thân. Ứng thì chắc chắn đoạn diệt đâu thể ngắn dài không hề dừng nghỉ. Nay vì muốn hiển bày sự dung nhiếp mầu nhiệm của ba thứ thân nên phải dùng Ứng để chứng minh cho Pháp và Báo. Nếu người học không hiểu được ý ấy thì chẳng thể nào biết nhận sâu sắc về các thân đối cơ của Đại thừa. Kế là Dẫn bản mới, có hai: Một là chứng minh riêng về hai nghóa của Ứng thân. Bà-la-môn Kiều-trần-như kia muốn có được xá-lợi Như Lai như hạt cải, hạt lúa. Đó là vì ông biết chín tuần nữa Như Lai sẽ diệt độ nên mới mong cầu. Điều ấy có thể chứng minh rằng tám mươi là hữu lượng. “Vương tử v.v…” trở xuống là Vương tử Lật-tỳ đáp Bà-la-môn. Tuy tức là Pháp, Báo nhưng lại từ phước báo để chứng minh thắng Ứng. Hai là chứng minh chung về bốn nghóa của Pháp và Báo. Tri tức Báo thân, Cảnh tức là Pháp thân; có đủ bốn nghóa, có biết và không biết, nói hoặc không nói nhưng chỉ nêu một để ngang bằng với ba nghóa khác. Vì cả bốn nghóa đều dứt bặt suy nghó nên có thể dùng chung cảnh giải thích là khó nghó bàn để chứng minh. Vì khiến cho nói lại ý này nên Trần Sư chú thích rằng v.v… Kế là trở lại nguồn, gồm có: Một là nói chung về ý: Nhưng Pháp, Báo và Ứng cùng Kim, Quang và Minh đều là danh của Pháp tánh đương thể; chúng vốn không có sự hơn kém. Vì kinh này chính thức dùng kim v.v… để nói lên Pháp tánh nên Đức Phật đề xướng đầu tiên để làm con mắt của kinh. Vì lẽ đó, Kim Quang Minh được làm tông, nguồn. Tất cả ba pháp đều thành dòng phái. Kim giải Thọ lượng nên phải y theo ba thân. Vì sợ rằng có sự giải thích riêng cho nên chỉ bày sự trở lại Tông. Hai là “Lượt đầu tiên v.v…” trở xuống là chỉ bày tướng quay trở lại, có ba: Một là Ứng trở lại. Hai là “Thứ hai v.v…” trở xuống là Báo trở về Quang: Báo chắc chắn thầm hợp với Pháp. Vì vậy, ở mỗi câu đều trình bày cả Pháp và Báo. Đó là nêu lên trí thuộc đối tượng được thầm khế hợp, toàn là Pháp tánh, vắng lặng mà thường chiếu soi. Ba là “thứ ba v.v…” trở xuống là Pháp trở về Kim: Lúc nói thường im lặng, lúc im lặng vẫn thường nói. Bốn đức tròn đầy mầu nhiệm, đâu có gì tổn hoặc ích. Toàn là Pháp tánh, đáng tôn trọng. Hợp lại để nói về tính chất dung nhiếp và chính tà, vì theo thông lệ ở trước nên lược bỏ. Kế là “giải v.v…” trở xuống là y theo thông lệ tất cả: Nếu giải nghóa Kim Quang Minh thuộc thể thì lẽ nào chỉ có nghóa của ba thân quy về ba chữ? Vì tất cả Pháp tướng đều trở về nguồn này nên được một ngàn từ không tức là mười ngàn hoặc. Kế là “Đã là v.v…” trở xuống là nói về gồm cả ý của Lục này. Thuyết hai thời đều làm sáng tỏ Diệu lý. Người học đời sau biết từ đầu để được khai ngộ? Vì muốn chỉ bày ý ấy nên chú: “v.v…”. Kế đến là “Phẩm này v.v…” trở xuống chính là nói về nghi niệm, có hai: Một là Tựa, nhập chánh phẩm để chỉ thuyết trên. Hai là “Từ vua v.v…” trở xuống là lại theo ý của Tựa để giải thích về văn này, có hai: Một là phân tiết văn kinh. Hai là theo văn giải thích như sau: - Nêu ra người. Gồm: Một là nêu ra nơi chốn. Giải thích theo Sự, như thông tự quán giải thích ra danh. Hai là “Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói về Vị: Phiên danh gọi là đạo tâm. Lại thường xuyên giáo hóa người khác nên gọi là đạo tâm lớn. Công hạnh này dù bao trùm ba giáo trước. Vị của nay là ở Viên. Ba là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là nêu ra danh từ, có hai: Một là Y theo danh để giải thích: Tín có cả Chân và Tự. Đã nói là Tín Tướng, tín thì chẳng phải Chân. Vì Tự tín là thật sự vì chứng minh cho tướng ở trước. Tam Hiền của Biệt giáo là Tự tín vị. Sơ địa trở lên mới được Chân tín. Bước lên trụ của Viên giáo thì liền được Chân tín. Tức là lấy Thập tín gọi là Tự tín. “Nói Thiết luân”: Kinh Bổn Nghiệp Anh Lạc dùng sáu thứ, luân để dụ cho sáu Nhân vị. Thiết luân là Thập tín, Đồng luân là Thập trụ, Ngân luân là Thập hạnh. Kim luân là Thập hướng. Lưu ly luân là Thập địa. Ma-ni luân là Đẳng giác. Tín dứt trừ kiến - Tư, được gọi là Thiết luân. Hai là “Văn dưới v.v…” trở xuống là dùng tướng để xem xét. Cây gỗ dựng đứng tức là cây gậy của cái trống. Có chỗ viết là cái dùi trống. Kế là “Lại nữa, Chân v.v…” trở xuống là nói về Tự Thông thượng vị. Phổ hiền v.v… giác cùng cực gọi là Tự. Vì vậy lập danh từ Hiền. Kế đến là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là nói về sự khó đo lường được cao hay thấp. Tiếp là “Người vấn nạn v.v…” trở xuống là lập câu hỏi để nghiệm xét về Chân thật, như sau: Hỏi vặn về vị cao không có nghi, gồm: Vặn hỏi, có hai: “Đây cũng v.v…” trở xuống là giải thích, có hai: Một là y theo Quyền và Thật để giải thích: Vì người khác mà phát khởi là nghi, thuộc về sự chỉ bày của Quyền, chưa Biết rõ được Phật địa là nghi thuộc hạnh của Thật. Hai là “Pháp Hoa v.v…” trở xuống, là dẫn hai kinh để chứng minh. Bổn và Tích của Pháp Hoa đều do sự hoài nghi của Di-lặc mà sinh khởi câu hỏi. Vì Bồ-đề của Bồ-tát Đại tập chưa cùng cực nên nói là “Chưa hoàn toàn”. Bản tánh Bồ-đề huân vào tâm làm khởi nghi, vì nghi nên cầu giải nghi, do đó nói là Bồ-đề dứt trừ kiến thì không có nghi, có hai: Một là câu hỏi. Hai là Đáp chung: nghi làm chướng ngại Chân. Trong chướng nghi của Biệt. Chưa đạt đến cùng cực của Trung đạo thì làm sao không nghi ngờ được. Kế là “Quán giải v.v…” trở xuống là y theo nơi chốn để giải thích về Quán: nay nêu ra tên người thì quán làm sao theo nơi chốn được? Vì Quán và Pháp đều từ ấm mà khởi. Vì lấy thành Vương xá để cho ấm là tiện lợi nên nói theo nơi chốn. Dùng vua thiện ác để quán xét ngôi nhà vô ký. Chủ thể và đối tượng chẳng hai, Người và Pháp đều không, cái được làm sáng tỏ do hai hình thái không tức là Đại Niết-bàn. Đề phòng năm trụ mà chẳng chế ngự quân địch của hai hình thái chết thì lẽ nào thành lại hơn đây? Sơ tâm thuộc Danh tự quán, Niết-bàn thuộc về ấm, hậu tâm thuộc Diệu giác Niết-bàn rốt ráo. Ý của hôm nay là giải thích về Trụ xứ của sơ tâm. Nói về hậu tâm là chỉ bày về Diệu quán này giống như quả trí. Kế là khen ngợi bốn thứ đức, gồm có: - Khoa phán, có hai: Một chính là chia khoa kinh. Hai là Phán lại Vị: Thực là Gieo giống. Quý là hổ (thẹn), “ v.v…”: Khiến y theo sự khen ngợi về đức để xếp là đồng với Phổ hiền. Kế là “Cúng dường v.v…” trở xuống là tùy theo để giải thích, có hai: Một là Cúng dường Phật theo cách bên ngoài, có hai: Kế là y theo Tài và Pháp để giải thích: Đại kinh nói: “Trong các sự cúng dường thì cúng dường Pháp là cao quý nhất. Cúng dường tiền của thì có cùng tận, còn cúng dường Pháp thì không cùng tận”. Kế đến là y theo quán hạnh để giải thích. Một niệm vô minh toàn thể giác ngộ tâm giác ngộ ấy được gọi là Phật. Có đủ tư lương của nhân và duyên là nghóa cúng dường Phật. ba ví dụ có thể thấy. Tiếp là “Chủng thiện v.v…” trở xuống là hạt giống cội lành ở bên trong, như sau: Một là Nói trực tiếp về ý nghóa hạt giống lành, thể vốn là tâm giác ngộ gọi là đất Pháp tánh. Quán tánh Thỉ giác gọi là hạt giống. “Gieo các hạt giống lâu ngày ý nghóa có thể biết. “Năm gốc lành ”: Đối với bản Pháp tánh sinh khởi Tín, Tiến, Niệm, Định, Tuệ bất động; cả năm đều không động gọi là năm căn. Gốc này sinh tướng của tự vị này cao nên gọi là thêm lớn. Hai là “Thêm lớn v.v…” trở xuống là dùng việc gặp Phật để giải thích về hoàn thành, có hai: Một là Nêu ba việc để thí dụ: Hai là “Ví dụ về gió v.v…” trở xuống là dùng ba luân để phối hợp. Luân thuộc về Thân hiện thần thông làm kinh động tâm. Luân thuộc ý quán sát căn cơ, ánh sáng của trí chiếu soi. Luân thuộc về miệng giảng nói giáo lý, nước pháp nhuần gội. Kế là “Lăng-nghiêm v.v…” trở xuống là nói về sự thêm lớn của ba thứ nhân: Lăng-nghiêm là quyết định nhân. Bát-nhã là tuệ liễu nhân. Pháp tánh là lý chánh nhân. Kế là Sự tu, một là tánh chiếu phát nương lẫn nhau. Do tu mà chiếu tánh, do tánh mà phát khởi sự tu. Ba thứ nhân ấy thêm lớn, chuyển tự đi vào Chân, ở Chân mà Đạo thêm lớn. Tất cả đều được gọi là nói thêm về sự chuyển biến và hiển bày. Kế đến là “Gieo trồng v.v…” trở xuống là kết thúc sự hoàn thành về đức của hai thứ. Kế là “Từ là v.v…” trở xuống chính là nói về nghi ngờ đối với Tựa, có hai: Một là Phân tiết kinh. Hai là “Do có v.v…” trở xuống là tùy theo để giải thích, như sau: - Lý do của sự sinh nghi, gồm có: Một chính là đưa ra lý do nghi: Xa thì do chín mươi ngày trước nói về ma để mong diệt. Kinh này là phần sau cùng của hệ Phương Đẳng. Gần thì do nghe Đức Phật xướng lời tựa trong định ở Linh Sơn. Vì đã khởi động sự suy nghó nên liền sinh tâm niệm nghi ngờ. Tuy có hai lý do nhưng vì không có lời thề đánh vào nên sự nghi ngờ này không sinh. Hai là “Do đâu v.v…” trở xuống là giải thích do nhân duyên gì? Gồm có hai: Một là y theo ba tánh để phân chia nhân duyên. Nói chung về ba loại thì Chánh, Liễu và Nhân gọi là ba thứ nhân. Cùng ở Lý tánh, vì tu về Duyên và Liễu; mỗi loại trong ba loại đều là Duyên. Văn nay nói tắt là “Nhân nào, Duyên nào”. Phải hợp Tánh ba, chỉ gọi là Chánh để tương xứng với nhân. Duyên và Liễu trong Tu hợp với sáu mà làm hai. Vì đối nhân nên hợp với hai, làm Duyên để tương xứng với Duyên. Y theo nhân và duyên đó mà sinh ra nghi ngờ. Hai là “Chính nhân v.v…” trở xuống là y theo Nhân duyên mà nghi về tuổi thọ: Chánh nhân thường hằng, mãi mãi nên là lý được làm sáng tỏ. Cảnh thuộc lý đã thường hằng thì toàn cảnh phát trí để làm chủ thể sáng tỏ. Như thế, lẽ nào Cảnh lại vô thường? Vì chủ thể làm sáng tỏ gồm cả Phước mà trí lại là Chính nên chỉ nói về Trí. Cảnh này, trí này đều chiêu cảm tuổi thọ thường hằng. Vì vậy, nghi tám mươi là nhân duyên gì. Kế là “Vuông tám v.v…” trở xuống là giải thích về vuông tám mươi, có ba: Một là Chỉ bày chung về tuổi thọ thuộc thế gian: “Phương dưới v.v…” trở xuống là đặc biệt nêu bày về phương giữa để biểu thị: Sự ứng hóa đều y theo lý để hiển hiện. Vì vậy, ngoài sự chắc chắn là trong biểu thị cho lý. Lẽ nào tuổi thọ thuộc phương giữa lại không nói lên bốn thứ đức. Tuy rằng ý của Phật rất nhỏ nhiệm, nhưng nay, Đại sư Trí Giả dựa vào bốn vị Phật sau để y theo Ứng mà làm sáng tỏ về thường. Vì vậy, Đại sư lấy cái được làm sáng tỏ để xem xét về chủ thể biểu thị. Như vậy là biết được ý của Phật. Tiếp là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là vì không biết về ý biểu thị nên nghi ngờ. Nếu Tín Tướng đạt được ý biểu thị ở trên thì sẽ thấy được ba thân có đủ cả bốn đức. Như thế, lẽ nào Tín Tướng lại nghi rằng Tích của Ứng chắc chắnlà ngắn hoặc dài để nghi ngược lại ràng “Nhân nào, Duyên nào?”. Kế chính là sinh nghi, lại có: Y theo sự tương hỗ của Lý và Giáo mà nghi, có hai: Một là Chấp giáo nghi Lý. Hai là Chấp Lý nghi Giáo. Những điều do Đức Phật nói là Giáo thuộc chủ thể giải thích. Nhân quả của sống lâu là lý thuộc về đối tượng được giải thích, tức là đạo lý. Văn và nghóa của sự chấp chặt lẫn nhau làm thành nghi hoặc rất dễ hiểu. Kế là “Có hai v.v…” trở xuống là y theo văn kinh để chỉ bày đầy đủ, có: Giải thích về sự có hai nhân duyên, có hai: Một là Đối với trước để giải thích về khác. “Trước” tức là kinh nói “Nhân gì, Duyên gì”. Sự giải thích ở trước đã lấy Chánh tánh làm nhân, tức là lấy Duyên và Liễu trong sự tu tập mà làm Duyên. Nay nói rằng sống lâu có hai nhân duyên. Đã là Phật tu, hai thiên Chỉ và Hành, mỗi thiên đều có đủ Duyên và Liễu. Tức là duyên thuộc chủ thể hiển rõ của văn trước. Nay đối với duyên trước tự làm nhân duyên. Vì vậy, khác với nhân duyên ở trước. Hai là “Mười điều lành v.v…” trở xuống là y theo sự giải thích của nay, gồm: Y theo mười điều lành để giải thích sơ lược, như sau: Chính là trình bày về nhân duyên, có: Đối với mười điều lành, mỗi điều lành đều nói về chỉ và hành, có hai: Một là Nêu lên sự chỉ bày. Hai là “Không sát sinh v.v…” trở xuống là giải thích về tướng, có hai: hai: Một là y theo không sát sinh, không trộm cắp để giải thích, có Một là y theo sự phối hợp đầy đủ của hành tướng. Hai là “Sự giải thích nay v.v…” trở xuống là nói về sự nêu chung của kinh này. Kế là “Nếu có đủ v.v…” trở xuống là y theo thông lệ của tám mà nói về mỗi phần: Hai điều lành của Chỉ và Hành, mỗi điều đều có ba thứ khác nhau. Đó là Tự, Tha và Cộng. Một là Tự hành: như văn nói: “Không sát sinh là Chỉ. Phóng sinh là Hành. Không sát sinh là Chỉ, Bố thí thức ăn là Hành”. Hai là Chỉ và Hành thuộc sự giáo hóa kẻ khác: như văn nói: “Nếu không ngăn đoạt là Chỉ, phương tiện khuyến tu là Hành”. Nếu nói đầy đủ về mười loại chỉ hành, tức là không sát sinh, không trộm cướp như sớ đã nói. Tám loại tức là không dâm là phạm hạnh, không nói dối là Thành thật ngữ, không nói lời thêu dệt là Chất trực ngữ, không nói hai lưỡi là Hòa hợp sự tranh kiện, không ác khẩu là Thường thực hành lời mềm mỏng, không tham là Bất tịnh quán, không sân là Từ tâm quán, không si là Nhân duyên quán; tất cả đều là tự tu về Chỉ và Hạnh. Cả Tự và Tha cùng nói rõ: Tự thân không gây ra mười điều ác gọi là Chỉ, khuyên bảo người khác không gây mười điều ác gọi là Hạnh. Kế là nay y theo v.v… trở xuống là đối với chỉ và hành mỗi thứ điều nói về nhân duyên, có hai: Một là Nêu lên. Hai là mạng v.v… trở xuống là giải thích, như sau: - Y theo không sát sinh để nói về bốn thứ, gồm có: Một là Nhân duyên thuộc chỉ và thiện: Nhân là gốc của thiện, Duyên là giúp đỡ. Vì thành tựu từ tâm nên dứt bỏ dụng cụ sát sinh. Hai là thực v.v… trở xuống là nhân duyên để thành thiện: Y cứ theo chỉ thì rất dễ hiểu. Kế là Không sát sinh v.v… trở xuống là theo thông lệ của chín điều lành đều như vậy. Kế đến là Gồm có v.v… là kết sự chỉ bày về số của nhân duyên thuộc Chỉ thiện. nghi. Kế tiếp là “Những điều đó v.v…” trở xuống là kết thành niệm Kế là “Ở đây y theo v.v…” trở xuống là y theo năm thừa để giải thích đầy đủ, có hai: Một là Kết trên khởi nay: Nếu chỉ nói về nhân quả của mười điều lành thì đó là lời nói cạn cợt một đường, đối với kinh thuộc Phương đẳng chưa được gọi là thỏa lòng. Đây là kết phần trên. Nay đúng ra nên y theo Chỉ Hành của Thế gian, xuất thế gian, Tiệm và Đốn mới gọi là nhân của Phật. Đó là khởi nay. Hai là “người, trời v.v…” trở xuống là nói về sự chỉ bày chi tiết của nay như sau: Kế là nói về giáo nghóa, gồm có: Không sát sinh, có hai: Nói về hành tướng, có hai Chỉ bày về tướng, chia làm hai: Chính là chỉ bày, có hai: Một là Chỉ bày chung về Mạng, Sát của năm thừa, nếu chỉ có năm sát sinh thì báo có được là mạng căn, điều lành này vô cùng cạn cợt. Nay giải thích về mạng của sự tu nhân thuộc năm thừa nên bao trùm cả sâu. Tiếng Phạm Ma-la, Hán dịch là Sát. Đó là vì nó thường hại điều lành, thuộc Thế gian và xuất thế gian của con người. “Đoạn v.v…” trở xuống là các Mạng, đều là nghiệp của ma. Hai là “Nếu ngăn cản v.v…” trở xuống là nói riêng về Chỉ và Hành của người tu. Gồm bảy: Một là người, trời: Sự này tức là Thiện của giới. Hai là Nhị thừa thuộc Tam tạng giới. Ba là Bồ-tát thuộc về Sự: Vì không thể đạt được Thể của ba luân là không nên việc thực hành sáu Độ đều được gọi là Sự. Bốn là Nhị thừa thuộc Thông giáo. Năm là Bồ-tát thuộc Thông giáo: Sai lầm của nói pháp gọi là Phi (Sai). Phế bỏ khiến không học gọi là Bác bỏ. Dưới chữ “Thể không” lẽ ra nên gọi là sáu Độ mới khác với Nhị thừa; có thể bị thoát hoặc bị lược bỏ. Sáu là Bồ-tát thuộc Biệt giáo. Bảy là Bồ-tát thuộc Viên giáo, có hai: Một là Thuận hạnh cũng đoạn mạng của Phật, vì hàng Sơ tâm của giáo này tức là cõi Phật. Hai là “Hành giả của Viên v.v…” trở xuống là nghịch hạnh, có hai: Một là Nói về Nghịch: Hiểu được thuận, nghịch tu tức là tánh của nghịch và Thuận. Vì tánh không có khác nhau nên gọi là Một tướng. Vì vậy, Sát sinh thuộc sự của Tiên dự, là sát sinh thuộc Lý của quả Phật; Vì tức là Tánh nên điều là cái nhân của trường thọ. Duyên của Tiên dự thì như đã được giải thích trong năm giới ở trước. Hai là “Đó đều là v.v…” trở xuống là nói về lý của thuận: người thuộc ba giáo trước đều là Hành thuộc Tiểu, là bởi Hành của bậc Sơ thuộc Biệt cũng giống với Tiểu. Vì vậy, tất cả họ đều không thể ngay nơi nghịch mà thuận. Hai là “Như trên v.v…” trở xuống là giải thích chi tiết: Đầu tiên là từ người, trời, cuối cùng đến Viên giáo, Chỉ và Hành nếu không có nhân duyên thì điều lành không thành tựu. Nhưng lại y theo không sát sinh, phải trải qua chín điều còn lại, và tất cả pháp đều phải luận ở nhân duyên của Chỉ và Hành. Vì vậy mà nói là “Như biển”. Kế là “Vì vậy, Đại v.v…” trở xuống là dẫn chứng: Nếu không nói như trên thì lẽ nào mỗi Độ đều có thể bố thí cho chúng sinh vô lượng tuổi thọ ư? Kế là “tôi v.v…” trở xuống là thành niệm nghi: Kế tiếp là Nói về cho thức ăn, lại có: - Nói về Hành tướng, có hai: Một là nói về Quyền và Thật của Pháp thuộc Sự, có hai: Hai là nói về Thể của thức ăn thuộc Sự pháp, có hai: Một là nói về tính chất nặng nhẹ của thức ăn thuộc Sự. Thực của y báo thì nhẹ, thực của Chánh báo thì nặng. Hai là “Kinh nói v.v…” trở xuống là nói về Quyền và Thật của thức ăn thuộc pháp: Kinh tức là kinh này. Phẩm Lưu Thủy nói: “Đời vị lai, nên bố thí pháp thực”. Thế gian tức là người và trời, xuất thế gian là ba thứ giáo, Thượng thượng tức là Viên dụng. Hai là “Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói về tướng bố thí của Bồ-tát, gồm có: Một là nói chung: “Xoay tà về chánh”: Khiến cho có niềm tin chân chánh đối với nhân quả. Manh nha tức là mở đầu. Tức là mới mở hạt giống, là gọi chung các thứ cỏ. Nuôi tức là dưỡng. Đại luận quyển bảy nói: “Như con của vị Quốc vương đứng ở chỗ cao và nguy hiểm, không thể cứu giúp, muốn tự mình rơi xuống đất. Vua liền sai người bày nệm gấm dày, lúc rơi xuống đất không bị chết”. Hai là “dùng để trao v.v…” trở xuống là chỉ bày riêng, có bốn: Một là trao món ăn thuộc người, trời. Hai là “Đã giữ v.v…” trở xuống là trao món ăn thuộc ba tạng. Ba là “Đã vào v.v…” trở xuống là ban cho món ăn thuộc Thông và Biệt. Bốn là “Bày cái đói v.v…” trở xuống là ban món ăn thuộc Viên giáo: Vì không có thức ăn thuộc pháp Đại thừa nên gọi là nước đói. Pháp Viên đốn như món ăn của vua, chẳng phải là món ăn của người phổ thông. Thiện thiện là thức ăn ngon. “Phiền não v.v…” trở xuống là quán hoặc chính là trí. Như củi giúp cho lửa. Nhân của trí, duyên của hoặc nên sẽ thành tựu thức ăn bốn đức, khiến cho đệ tử thuộc bốn mươi mốt vị đều đạt được sở thích thuộc từng phần. Kế là “Như vậy v.v…” trở xuống là kết thúc sự chỉ bày. Kế tiếp là “Mỗi pháp v.v…” trở xuống là kết về nhân duyên của Chỉ và Hành. Kế là “Đây, các v.v…” trở xuống là thành nghi niệm. Kế là Nêu về quán hạnh: Nói chính xác về Vô minh tham ái của tâm ta, có thể sinh ra tất cả con cháu phiền não nên gọi là Cha mẹ. Nếu chúng ta chẳng thể rõ biết hai thứ đó là tánh ác thì phải dứt trừ và phá hủy mới gọi là Nghịch thuộc giáo. Nếu chúng ta quán Chính là tánh thì không lìa Si, ái mà toàn thể vẫn sáng sạch. Chủ thể quán và đối tượng được quán đều không thật có. Đã như hư không thì Si và ái đều vắng lặng. Vì thế gọi là Thiện thuộc Chỉ. Vì nơi vắng lặng mà quán sát khắp các tâm sở đều làm chúng được sáng sạch nên lại được gọi là Thiện thuộc Hành. Đó là quán tâm để thấy thuộc tính thường hằng của tất cả pháp. Lẽ nào lại không cảm được quả thường hằng của ba thân ư? Hai là “Thân ta v.v…” trở xuống là giải thích về cốt tủy của thân ta, như sau: Nói về hành tướng, gồm có: Phân biệt Sự theo Pháp, có hai: Một là Thân thuộc Sự, đối tượng được phân biệt: Đứng ở Sự để nói về thân thì có ai không hiểu. Vì vậy, nay sẽ phân biệt. Trí suy đến chín cõi đều chẳng phải là thân ta. Huống chi là quả báo sắc chất của con người. Hai là “Thân ta v.v…” trở xuống là Pháp thân, cái được lấy: Đối tượng được lấy đã sâu nên suy nghiệm về cái được phân biệt ở trước chẳng những là quả báo thuộc về người. Nhưng, nếu có khả năng hiểu rõ được sắc tâm, Pháp giới mà xả thân thuộc về Sự thì chính là cái được lấy của nay. Nay phân biệt sự không thể hiểu rõ việc xả bỏ của Pháp giới gọi là chẳng phải thân ta. “Phải biết rằng Thật tướng là thân ta”: Đây là nói chung. Nếu y cứ theo Thích luận thì y theo Thân thật tướng mà nói về giới, định, tuệ và tâm mầu nhiệm, thiện là da, máu, cốt, tủy. Tuy chia ra giới v.v… nhưng mỗi phần đều là toàn phần của Thật tướng. Kế là “Vì kẻ khác v.v…” trở xuống là y theo Pháp để nói về Thí, lại có: - Thí thân thuộc về Thật, có năm: Một là thí da: Vì kẻ khác mà truyền bá giới của Thật tướng. Ngăn che tội lỗi của hai bên, tu phước Trung đạo. Loại giới này không có tướng nên ngay cả trì còn khó được, lẽ nào lại lưu giữ nơi phạm. Thể đã vắng bặt cả hai nên gọi làbờ kia của Thi-la. Nói về giới như vậy mới gọi là bố thí da của Pháp thân. Huyết v.v… theo thể lệ như vậy. Hai là “Nói các v.v…” trở xuống là bố thí Huyết: “Các thiền định”: Tức là chín loại Thiền, cũng là tất cả Thiền định thuộc hữu lậu, vô lậu đều đạt được thật tướng, đều thành vô ký hóa hóa Thần thông. Cho nên, đối với Diệt định mà hiện ra thân của mười cõi. Gọi là các uy nghi theo mô thức trước hợp lại mà nói rằng “chẳng định chẳng loạn”. Ba là “Nói không v.v…” trở xuống là bố thí xương: Vì công thuộc chủ thể Chiếu không còn nên nói là chẳng phải trí. Vì toàn bộ hoặc thành trí nên gọi là “chẳng phải ngu”. Loại trí này sinh khởi việc nói hoặc không nói đều được. Vì chủ thể nói đã diệu nên khiến cho đối tượng nói đều đạt đến mảnh đất trí. “Mảnh đất trí”: Trí tức là đất, tức là Trí của Bản giác. Mảnh đất nơi trí y cứ là trí thuộc Thỉ giác. Tu và Tánh hợp nhất, hai nghóa đều thành. Bốn là “Đàn nhẫn v.v…” trở xuống là y theo thông lệ là nên bố thí thịt: Luận chỉ nói về ba học và lý được làm sáng tỏ. Về mặt nghóa, Đại sư thêm ba pháp là Đàn, Nhẫn và Tiến nên thành ra nghóa sáu Độ để tiêu giải về cốt, tủy, máu, thịt của kinh nay; khi ấy nghóa mới được thứ lớp, đầy đủ. Người giảng nói nên mô phỏng theo ba học ở trước để làm sáng tỏ về tướng của “cả hai đều không phải”. Năm là “Nói vô cùng v.v…” là bố thí tủy: Sự nói về giới v.v… ở trước đã đều là “Cả hai đều chẳng phải” thì lẽ nào lại không dứt trừ đối với con đường của ngôn ngữ và suy nghó. Nhưng, đó là bàn luận về hạnh, nay lại nói về lý. Tuy đều là thật tướng nhưng phải phân biệt chủ thể khế hợp và đối tượng được khế hợp. Sáu Độ tức là toàn bộ sóng của tánh ướt. Thiện tâm mầu nhiệm là tánh ướt ở trong sóng. Kế là “Đem điều đó.. “. trở xuống là nói về bố thí thân thuộc về quyền, có ba: Một là kết thật mở quyền: Dùng món ăn của pháp thuộc về viên để bổ sung bảy phương tiện đói khát của chúng sinh. Ngoài viên đốn ra, các pháp ngôn có được đều được gọi là thức ăn món uống dư thừa. Đó là lấy hơn so với kém. Hai là “Tức là v.v…” trở xuống chính là nói về tướng của bố thí: Văn lược bỏ không nói. Bồ-tát thuộc ba thứ giáo, sáu Độ của Biệt giáo có thể gọi là Thức ăn thừa. Tủy là Trung đạo thì dứt khoát là thân của ta. Vì vậy, Tủy thừa chỉ ở Chân-đế. Ba là Dẫn Pháp hoa để chứng minh cho “Thị giáo lợi hỷ”: Đại luận quyển năm mươi chín của nói: “thị” là chỉ bày cho người về sinh tử, Nếu bàn về ba thừa, sáu Độ giáo: Tức là dạy bảo rằng ngươi nên bỏ ác, làm lành. “Lợi”: Vì chưa đạt được mùi vị của pháp lành thì tâm sẽ lui sụt nên nói pháp lợi để dẫn dắt giúp người tu ra khỏi Hỷ (vui): Tùy theo điều được làm mà khen ngợi khiến cho tâm người tu được vui mừng. Dùng bốn việc ấy để trang nghiêm sự nói pháp. Kế là “Như Lai v.v…” trở xuống là thành nghi niệm: Tùy theo ý và ngôn ngữ của người khác để bố thí món ăn thức uống thuộc quyền. Tùy theo tự thân mà bố thí thật. Kế là Từ Đại v.v…”trở xuống là nói về lời tựa của sự hiện điềm lành, có: Kết trước mở sau, có hai: Một là Phân tiết kinh. Hai là “dốc lòng v.v…” trở xuống là giải thích về ý, lại có: Kết phần trước, có hai: Một là nói về dốc lòng. Chí cũng như cùng cực. Tâm và Phật cùng một nguồn. Nay vì muốn niệm Phật nên phải đạt đến điểm cùng cực thật tế của tâm mình. Hai là “Quán tâm v.v…”trở xuống là nói về niệm Phật: Quán tâm đã cùng cực nên sẽ đạt được trọn vẹn công đức của niệm Phật, không sát sinh, v.v… tất cả đều ngang bằng với hư không. Vì quán quá sâu nên liền thành niệm nghi. Hai là nói về sự mở ra phần sau: máy móc mầu nhiệm Ứng thì tướng lành liền hưng khởi. Hai chính là nói vế sự ứng hiện điềm lành, có hai: Một là trình bày về ý và chia văn, có ba: Một là trình bày về ý, có hai: Một chính là trình bày “vì nhó.. “: Nhó tức là người biểu thị cho sự thêm lớn về phần nhân chân thật và cảm quả rốt ráo. Hai là “Hỏi..” trở xuống là liệu về tác giả, có hai: Một là hỏi. Hai là đáp. Kế là phân biệt người giảm, có hai: Một là hỏi. Hai là đáp, có hai: Một là phân biệt thông theo Biệt. Hai là “Tuy nhiên v.v…”trở xuống: Căn bản của lợi ích là ở người khác. Tín Tướng đã là người phát khởi tức là đồng với chư Phật mà làm. Vì là chủ thể Ứng nên biết rằng chủ thể cảm vốn ở tại các loại căn cơ. Vì vậy, Ứng với một người là Ứng với số nhiều. Kế là Phân văn. Kế là “tướng riêng v.v…” trở xuống là sắp xếp về Tướng, lại có: - Chính là phán, có hai: Một là y theo mười nhân, một quả để phán. Hai là “Lại nữa v.v…” trở xuống là y theo Thập địa, Nhất địa để phán. Kế là “Hỏi v.v…” trở xuống là liệu giản, gồm có: Y theo Tông chỉ của kinh để liệu giản, có: Một là hỏi. Hai là đáp. Y theo Tự vị để phân biệt, có hai: Kế là hỏi: Sự phán định về Tợ vị ở trước có hai ý nghóa: Một là y theo Thập Tín Tợ đối với Chân thuộc từng phần. Hai là y Theo thể thức Tợ của Phổ hiền đối với Diệu giác. Như tướng lành của nay chắc chắn biểu thị cho Thập địa. Vậy, lẽ nào lại khiến cho Thập Tín bước lên Pháp Vân ngay? Lẽ nào lại khiến Phổ hiền đi vào Sơ địa? Kế là Đáp: chúng ta nên biết rằng hai lần trở xuống, trong mỗi địa đều có đủ công đức của các Địa. Thập Tín phát khởi Chân thật, gặt hái được mười công đức của Thập (Địa). Đẳng giác cũng tiến mười đức của Hậu tâm. Đó là trước và sau đều thấm nhuần lợi ích của Thập (Địa). Vì vậy, y theo chiều Ngang và Dọc mà sắp xếp một cách tự nhiên. Kế là “Tướng riêng v.v…” là y theo văn để giải thích về Tướng, có hai: Một là Phân tiết văn để nói về mười tướng. Hai là y theo biểu phát để giải thích về Tướng, có hai: Một là chỉ bày lại về khuyến giới. Âm “Phỉ” Tức là Văn vẻ. Ý nói có thể dùng mười đoạn văn kinh để làm sáng tỏ về Chỉ. Y theo vào sự bình luận, nghó nghị mà mô phỏng tương tợ. Chứ không thể nói đầy đủ về hành tướng của nó. Vì vậy, nên nói “Chẳng thể dùng sự hoàn bị tất cả để trách cứ.” Hai là “Căn phòng của v.v…” trở xuống là y theo Tướng để biểu thị cho đức, có hai: Một là chiều Dọc biểu thị cho công đức Thập địa. “Thập địa, Địa này khai mở đầu tiên”: Đại phàm, Tiểu Thánh bị che lấp bởi Vô minh nên cảnh giới hạn cuộc và hẹp. Nay, vì phá hoại hoặc này nên dùng rộng để biểu thị. Hai là “Đây đối với Giới”: y cứ mười Độ của Hoa nghiêm để đối với Địa thì Sơ Địa tương đương với Quyền. Văn lược bỏ không nói. Các Địa đã có đủ theo tính chất tương xứng nhau thì mười Độ đều dung nhiếp nhau. Kế là “Chỉ có Nhục mà nhẫn tăng”: Không bị khuất nhục thì làm sao có thể làm sáng tỏ về sức của nhẫn. Bốn là “Đốc xuất các hạnh”: Đốc tức là thúc đẩy. Các hạnh tức là các Độ. Vì thúc đẩy các hạnh đạt đến quả cùng cực nên lấy toà ngồi cao để tượng trưng cho Tinh tấn. Hạnh năm, sáu, bảy, tám, chín đều nhận thấy được. “Mười tùy cấp bậc mà Viên mãn”: Vì hạnh lấy trí làm người dẫn dắt nên tùy theo cấp bậc, vị trí. Các hạnh Viên mãn từng phần là do căn cơ chúng sinh đầy đủ. “Chú v.v…”. Nên nói về tướng trạng của triển khai và qui nạp của sáu độ và mười độ. Nhưng, Độ thứ sáu có cả cả Đại và Tiểu, còn độ thứ mười thì chỉ ở Đại thừa. “Mười độ”: Vì ở trong Thiền có Nguyện trí lực nên mở ra thành Nguyện độ. Có thông lực của thiền nên mở ra Lực độ. Căn bản định thiền giữ Thiền độ gốc. Bát-nhã có trí Đạo chủng nên thành phương tiện độ có trí Nhất Thiết chủng nên mở ra thành Xuất Trí độ. Trí Nhất thiết giữ tên gọi Bát-nhã gốc. Kế là “Lại nữa v.v…” trở xuống là Ngang, biểu thị cho công đức của một Địa như sau: Nói chung về công đức của một Địa, gồm có: Y theo Sơ địa, có: Một là mở bày chung. Hai là “Kỳ v.v…” trở xuống là nói bày riêng, có mười: “Nhà sạch” là biểu thị cho trí, là có: Một là nói về công năng của ấm, vì căn phòng có khả năng che đậy nên biểu thị cho năm ấm. Muốn làm sáng tỏ tướng của Trí thì phải hiểu rõ về ấm. Vì đạt được Trung với ấm nên “Không cả hai” hai bên. “Không làm v.v…” trở xuống là giải thích về Tự nhiên: Trí của Trung chẳng bị trói buộc bởi hai bên là do loại trí này không tạo ra hai bên. Vì vậy, giác tánh xưa nay hiện tiền một cách tự nhiên. “Không được v.v…” trở xuống là giải thích về rộng: Chỉ có một mảy may sở đắc là bị hạn cũ và hẹp. “Không trực tiếp v.v…” trở xuống là giải thích về sự trang nghiêm: Trí của Tiểu thừa vô thường, chỉ lìa sai lầm mà thôi, cuối cùng vẫn trở về với sự tro tàn và đoạn diệt. Sự giác ngộ của Đại thừa vốn có vô số công đức, tự nhiên được trang nghiêm. Hai là “Sự của trang nghiêm tức v.v…” trở xuống là giải thích về thể tướng của ba thứ trí. Căn phòng biểu thị cho Nhất tâm, sáu chữ “Tự nhiên, quảng bác, nghiêm sự” biểu thị cho ba thứ trí mới bắt đầu tu tập Viên mãn, ngày nay mới giác ngộ tức khắc và thấu suốt. Kế là “Màu xanh của trời v.v…” trở xuống là “Không gian châu báu” là biểu thị cho cảnh, có: Một là Biểu thị trực tiếp về ba đế. Hai là “Nhất địa v.v…” trở xuống là nói lên cả Viên dung, chính là: Một địa ở trong phòng có ba tướng này để biểu thị cho cảnh cao siêu. Ba và một tức nhau: Hành giả nên biết danh của Trí thuộc Đế là khác nhưng thể của chúng là giống nhau. Vì muốn làm sáng tỏ về sự tu chứng nên gương kiến lập chủ thể và đối tượng. Ba là “Có mầu nhiệm v.v…” trở xuống “Diệu hưởng” biểu thị cho Từ bi. Cảnh và trí của Nhất tâm có thể cho và nhổ tức gọi là Từ bi. Cảnh và Trí cao rộng, cho và nhổ tương xứng. Vì vậy, khiến cho Từ bi Dọc thì cao, mà Ngang thì rộng. Cả ba đều không khác nhau nên thường hiện hữu khắp trong ba khoa của tất cả chúng sinh. Bốn là“Cái phòng v.v…” trở xuống là giải thoát. Tịnh tức là Bát- nhã. Vì ba thứ đức có đủ tính chất hỗ tương. Vì là chỗ y cứ, dựa nương rốt ráo của Phật nên dùng chỗ ngồi để biểu thị. Năm là “Có bốn v.v…” trở xuống là “tòa ngồi của Phật v.v…” biểu thị cho Giác trí vốn có bốn đức, tức là ba trí dùng để làm tòa ngồi. Tu được bốn đức tức là ba trí dùng đó làm chủ thể ngồi. Vì vậy, dùng Đức Phật để biểu thị. Sáu là “Phóng lớn v.v… trở xuống là phát ra ánh sáng v.v…” là biểu thị cho Tự và Tha: Vì, ánh sáng chiếu soi vùng đất này tức là thường chiếu soi vùng đất khác. Nó có thể dùng để biểu thị cho việc tự thực hành và giáo hóa các chúng sinh khác. Bảy là “Mưa các v.v…” trở xuống đến “Mưa hoa v.v…” là biểu thị cho Bốn biện. Tri giải được tất cả ngữ ngôn Đà-la-ni, dùng Pháp, Nghóa, Từ và Nhạo thuyết để phân biệt. Một và Nhiều bàn luận một cách dung nhiếp, từ bi rót vào vô tận, không ai nghe mà không vui mừng, dùng hoa để biểu thị. Vì tánh của Văn tự vốn lìa nên mưa trong hư Không. Giải thích như thế mới có thể mở bày về diệu lý. Tám là “Làm trời v.v…” trở xuống đến “Niềm vui của trời v.v…” là biểu thị cho Bốn nhiếp: Bố thí, ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự. Bốn thứ này nhiếp hữu tình cũng như nhã nhạc làm người khác vui thích. Chín là “nhân của trời v.v…” trở xuống đến “Nhân niềm vui v.v…” là biểu thị cho niềm vui của Pháp. Nhất tâm ba trí, chính nơi vắng lặng mà là chiếu soi, không có pháp nào không biết. Ở đây nói là thanh sạch hóa thần tính, thọ nhận niềm vui của Nghóa thiên. Mười là “Căn thiếu v.v…” trở xuống đến “Căn đầy đủ” là nói lên sự dùng đầy đủ theo tính chất hỗ tương: Vì đã phân chia và phá bỏ nghiệp thức, chuyển thức và hiện thức nên thấy, nghe, hay và biết, mỗi căn đều có đủ. Kế là “Sơ địa v.v…” trở xuống là khen ngợi chung về sự không cùng tận của công đức Pháp tánh. Vì Địa này tương xứng với đức sáng tỏ của Pháp tánh nên khiến chư Phật chẳng thể nào nói hết được. “Mười tướng của Chỉ”: Là do nhà chuyên về kinh nêu lên đại khái. “Ngạnh giới”: Giới ( ) nên viết là khái ( ). Đó là sự nhẫm lẫn của âm thanh. Nói Ngạnh khái tức là nói là sơ lược. Kế là “Sơ địa v.v…” trở xuống là theo mô thức của các Địa khác. Từ đây đến Cửu địa, Địa nào cũng giống như vậy. Nhập ngang vào Dọc, không có Dọc nào không là Ngang. Hai là “Lại nữa v.v…” trở xuống là nói riêng về Tự và Tha của một Địa, có: - Y theo Sơ địa, có hai: Một là trình bày sơ lược: Công đức của việc tự thực hành là nhân quả của sự thực hành. Công đức của sự giáo hóa người khác tức là chủ thể và đối tượng thuộc về việc giáo hóa người khác. Điều này giống với ý của Mười mầu nhiệm trong kinh Pháp Hoa. Hai là “Căn phòng của v.v…” trở xuống chính là biểu thị, có hai: Một là năm thứ trước biểu thị cho việc tự thực hành. Nếu phối hợp năm loại này với mười mầu nhiệm thì: Pháp thân là mầu nhiệm của Cảnh, Bát-nhã là mầu nhiệm của trí, giải thoát là mầu nhiệm của hạnh, Nhân thành là mầu nhiệm của Vị, thành Phật là mầu nhiệm của ba pháp. Đó là nhân quả của việc tự thực hành. Nếu Cảnh, Trí và Hạnh đối với Lý tánh v.v… trụ ở ba loại chính ở trước thì ở đây là y theo sự gắng gượng để y theo tu mà so sánh theo nguyên tắc riêng. Nếu nói về thể của pháp thì vị trí chân thật vốn không thiếu sót. Hai là năm thứ sau biểu thị cho sự giáo hóa người khác. Ý luân soi xét căn cơ tức là mầu nhiệm của Cảm và Ứng. Khẩu luân là sự mầu nhiệm của nói pháp. Thân luân là sự mầu nhiệm của thần thông. Lại nữa, “Biểu thị v.v…” trở xuống là được niềm vui của trời, căn thiếu hay đầy đủ đều đã chuyển được chướng nạn nên sẽ so sánh chung với hai thứ mầu nhiệm là quyến thuộc và lợi ích. Đây là chủ thể và đối tượng thuộc sự giáo hóa người khác. Hai là “Sơ địa v.v…” trở xuống là y theo lệ chung của các Địa khác. Hai là “Từ một v.v…” trở xuống là hiện tướng chung, có hai: Một là biểu thị có cả việc không hiểu về ý. “Nói ý sơ lược”: Vì chỉ nằm tại mười nghóa. “Ý rộng”: Vì ngôn từ “tất cả” vốn bao gồm tất cả. Hai là “Tất cả v.v…” trở xuống là y cứ theo văn để biểu thị chung: Kế là Bao gồm. “Mười pháp giới”: Tâm, Phật, chúng sinh, cả ba pháp ấy đều có đủ trong con người. Sự đầy đủ tuy không khác nhau, nhưng xét về Mê và Ngộ thì có khác nhau. Phật đã chứng ngộ trong lúc tâm và chúng sinh đang ở trong mê tối. Toàn là mê tối thì gọi là mười cõi thuộc phạm trù Lý tánh. Tín thuyết thì gọi là mười cõi thuộc phạm trù danh tự. Niệm niệm thể đại thì gọi là mười cõi của quán hạnh. Sáu căn chiếu soi khắp nơi gọi là mười cõi thuộc Tương tự. Chứng mười khởi ứng gọi là Thập giới của rốt ráo. Tâm ta hợp với Thể và Dụng mười cõi của Phật, cũng thấy mười cõi của chúng sinh đồng với Phật. Đó là nay biểu thị cho nghóa của mười cõi thuộc phạm vi quả nhưng không tan tác nên thứ kiến giải này mà chỉ nói rằng “tất cả bao gồm cả mười cõi”. “Ba thứ thế gian”: tức là Giả, Thật và Y-Báo. Chấp thật thành giả, danh tự khác nhau tức là chúng sinh thế gian. Sắc và Tâm của thật pháp bị chấp có sự gián cách tức là năm ấm thế gian. Chỗ nương dựa của chánh báo, sự khác nhau của y báo tức là cõi nước thế gian. “Chưa từng có” là phần chứng bản thuộc mười, chia ra mười tích. Tuy được viên dung nhưng nếu so với quả cùng cực thì sự khác nhau giữa sáng và tối là rất nhiều. Như kinh Hoa Nghiêm nói rằng “Công đức mà vị Bồ-tát Quán đảnh đạt được là như một nắm đất. Công đức của bậc Diệu giác thì như đất của bốn châu”. Vì vậy, nhân tròn đầy, Lý sáng tỏ. Nào là Tự, nào là Tha, ba mươi loại thế gian, mỗi thế gian đều rốt ráo thanh tịnh, đều tự tại chưa từng có. “cõi nước v.v…” trở xuống là phối trí ba loại thế gian để với ba đức mà theo nghóa thì lại tiện lợi. “cõi nước v.v…”: là Mê, giả và Thật đã y theo cõi nước. Về quả thì trí và đoạn hoàn toàn y theo Pháp thân. Vì vậy, y theo cõi nước để nói về sự tròn đầy của Thật tướng. “Chúng sinh v.v…”: Thích luận nói “Chúng sinh vô thượng là Phật”, Phật dịch là Giác. Thỉ giác là Không của Người, Chung giác là Không của Pháp. Vì vậy, đối với thế gian thuộc chúng sinh để nói về sự tròn đầy của Bát-nhã. “Năm ấm v.v…”: Thích luận nói: “Pháp vô thường là Niết-bàn”. nhân diệt loại sắc này mà gặt hái được loại Sắc thường hằng”. Thọ, Tưởng, Hành và Thức cũng giống như vậy. Hai thứ chấp đã hết, năm ấm được tự tại. Vì vậy, đối với thế gian thuộc năm ấm mà nói về sự tròn đầy của giải thoát. Dùng ba so sánh với ba. Chúng ta nên biết về ý ấy. Vì đối với ba thứ đức thì nêu một loại chính là ba loại. Làm sáng tỏ một loại thế gian trong ba thế gian đều tròn đầy, cùng khắp, dung nhiếp theo tính chất tương hỗ. Nay y theo thiên mục mà loại suy ra rất dễ biết. “Thật tướng là căn bản”: Thật tướng không có tướng, quả cùng cực đều là hoàn toàn mất đi tướng trạng. Vì vậy mà gọi là Tự tha của Thật tướng tròn đầy. Kế là “Theo Tín v.v…” trở xuống là Tựa của nghi thuộc về sự mặc niệm, có hai: Một là phân văn. Hai là “Hoan hỷ v.v…” trở xuống là tùy theo văn để giải thích, có hai: Một là Hoan hỷ do thấy tướng. Hai là “Theo đến v.v…” trở xuống là trình bày về nghi ngờ của mặc niệm, có ba: Một là nói về ý của nghi: Chứa nghi mà bất đằng, sợ rằng sẽ thành Nghi cái. Hai là “Niệm thích v.v…” trở xuống là chỗ nghi của chính thức đằng. Tất cả công đức đều y cứ theo tuổi thọ mà được đình trụ. Tuổi thọ của thân đã ngắn thì các loại đức làm sao đình trụ được. Vì vậy tất cả đều không nghi chỉ nghó nhớ về tuổi thọ ngắn. Sự che đậy không đằng này chẳng thể nào giải quyết được. Ba là “ba nhưng v.v…” trở xuống là nói về ý nghóa mặc niệm. Vì uy đức, tôn quý nên im lặng. Vì cầu giải quyết điều nghi nên nghó nhớ (niệm). Dựa vào trước thì sẽ thấy được. Kế là “Theo ngươi v.v…” trở xuống là tự của chính thức nghi, như sau: Một là phân văn. Hai là “Nghi cái v.v…” trở xuống là y theo văn giải thích, lại có: - Chính là làm dứt nghi, có ba: Một là ý của sự dứt nghi. “Nghi cái che tâm”: Trong số năm cái thì Nghi cái có cái khác nhau làm che đậy Thiền và Tuệ. Vì sao phải dự phòng làm cho đình chỉ? Bởi nếu chưa giải trừ thì lúc tâm hợp sẽ dẫn đến nghi ngờ. Đã thấy được uy đức, tôn quý thì đó là nơi để giải quyết điều nghi. Nếu vẫn chấp chặt niệm nghi thì khó khai mở được quán tuệ. Vì vậy, cần phải dứt niệm nghi, lắng tâm để nhận pháp. “Chẳng hạn như v.v…”: Nghi là kiến hoặc, thường che chướng Chân-đế. Dứt nghi, thấy đạo mới tiến bước để tu tập về chân được. Nghi về đằng của Tín Tướng có thể là Quyền, có thể là Thật. Đức Phật làm dừng mối nghi thì khiến cho cả Tự và Tha đều được lợi ích. Hai là từ “Ngươi v.v…” trở xuống chính là làm dứt Nghi, có ba: Một là đại dụng không thích ứng: tuổi thọ tám mươi là toàn thể pháp giới khởi đại dụng để ứng với chúng sinh. vì vậy, chúng ta không nên lấy sự ngắn hạn của Định để nghi ngờ. Hai là pháp tánh không thích ứng: Biển tánh mà Đức Thích-ca chứng đắc là vô cùng sâu xa. Lẽ nào người học lại đem tâm suy niệm thuộc ngắn dài để so lường? Ba là Trí độ không thích ứng: Hai thứ Chân tín và Chân trí đều có khả năng biết và khả năng chứng. Ngươi nay chưa có đủ thì không nên so lường. Ba việc không nên này là y theo ba thân mà làm thành ý của dứt. Cũng có thể hai không nên đắm trước là y theo đối tượng được suy nghó mà dứt, một không nên cuối là y theo chủ thể suy nghó để dứt. Kế là “Thích luận v.v…” trở xuống là dẫn chứng để kết: Tất cả các pháp mà Đức Phật có được đều là Vô lượng. Nếu chúng ta dùng tâm suy lường để cân đong đo đếm các pháp của Phật thì chắc chắn sẽ bị che chắn và chìm đắm nơi biển nghi ngờ. Vì vậy, bốn Đức Phật dùng ba điều không nên để dứt niệm nghi của người nghe. Kế là “dùng cái gì v.v…” trở xuống là giải thích về việc dứt nghi ngờ như sau: - Giải thích về “Không nên thuộc pháp tánh”, có hai: Một là nói về tám chúng nhiếp Bồ-tát: Tuy kinh đã nêu rõ ràng về tám chúng, nhưng vì thiếu Bồ-tát nên y theo Sinh, Pháp, Quyền, Thật để chỉ bày về vấn đề đó. “Vùng đất Pháp tánh”: Tức là Phương tiện và Thật báo. Vì đã không ở đó nên tồn tại ở ngôn ngữ. Hai là “Nếu, Phàm v.v…” trở xuống là nói về vấn đề không nên so lường tánh: Chỗ mà Như Lai đi là pháp tánh sâu rộng. Nơi ấy còn vượt hẳn chỗ đi thanh tịnh của Bồ-tát, huống chi là phàm phu và Tiểu thừa mà lại cân đo, đong đếm được sao! Kế là “Chỉ trừ v.v…” là giải thích về “không nên thuộc Trí độ”, có hai: Một chính là giải thích về sự giáng sinh của Phật khó so lường. Chỉ có Đức Phật và Phật mới xét mét cùng tận, trí thuộc về nhân làm sao biết được? Hai là “Xưa dùng v.v…” trở xuống là chỉ bày về pháp được Đức Phật biết, có hai: Một là xưa giải thích có thể biết cho nên là vô thường. “Nói lời ấy”: Chỉ trừ câu “Như Lai”. Thọ lượng đã là đối tượng được nhận biết của trí thì đó là pháp có thể suy tư nên chúng ta nghiệm ra rằng nó là vô thường. Hai là “Thiên thai v.v…” trở xuống là nói về sự giải thích của ngày nay: Trí của thường hằng biết được thường hằng. “Vô lượng thường trí”: Hoàn toàn không biết mới là biết đầy đủ. Loại biết này xứng hợp với tánh thể, vì toàn trí của Bản mà thành trí của Phật. Nếu đã biết về bản tánh thì tánh há lại là Vô thường. Vì các Sư thời xưa không hiểu nên cho rằng có biết là trí Phật. Kế là “Trí tánh v.v…” trở xuống là khiến cho biết về đại dụng theo nguyên tắc tỷ giáo: Cái trí của sự không biết đã thầm hợp với pháp tánh thì dụng căn bản của pháp tánh phát hiện đầy đủ. Hiện dài hay ngắn gì cũng đều gọi là tuổi thọ thường hằng. Vì là toàn tánh nên kinh giải thích là trí của tánh. “Lược về đại dụng”: cho là có thể hiểu. Kế là từ “Thời v.v…” trở xuống là nói về nhóm họp chúng, gồm có: - Chính là giải thích văn kinh, có hai: Một là đối với trước và sau của kinh khác. Hai là “Thời ta v.v…” trở xuống là y theo kinh ngày nay để giải thích, lại có: - Chính là nói về chúng của thất này, có hai: Một là giải thích sơ lược về Thời, Chúng. Hai là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là nói về ý của sự nhóm họp chúng: Tức tuổi thọ tám mươi tuổi làm sáng tỏ về sự thường hằng của ba thân. Lẽ nào chỉ ích lợi cho một mình Tín Tướng mà thôi ư? Vì vậy, Đức Phật dùng thần lực để nhiếp những người có duyên khiến họ nghe về Viên và Thường mà đạt được ích lợi của bốn Tất-đàn. Nói chỗ lợi ích nhiều thì lẽ nào chỉ có một thất. Chúng này sau khi nghe liền giảng nói tại chỗ. Kế là “Chúng, có v.v…” trở xuống là nói về chúng của kinh này: Chính thức nói về căn phòng này có đủ bốn chúng. Phụ thêm câu “Các phẩm đều có bốn chúng”, có ba: Một là nói về kinh này có đủ bốn chúng: “Chúng ảnh hưởng”, tức là chư Phật và pháp thân Đại só thuở xa xưa ẩn sự chứng đắc tròn đầy, cùng cực của mình để giúp cho việc giáo hóa của Đức Phật, làm bạn, thờ phụng chủ như ảnh bóng theo hình, tiếng dội tùy theo âm thanh. Danh và nghóa của bốn chúng được nói đầy đủ trong Pháp hoa sớ. Hai là “Kinh này v.v…” trở xuống là nói về vấn đề chúng trong kinh này giống như các kinh khác. Sự nhóm họp trời rồng trong kinh này nào khác với Hoa Nghiêm. Ở bản dịch mới, phẩm này có nói rằng “Vô lượng chúng Bà-la-môn”. Lại nữa, ở phẩm Sám hối, Tín Tướng ra khỏi thành cùng vô lượng, vô biên trăm, ngàn chúng sinh đều đến Linh thứu lẽ nào đều là quỷ thần? Vì lẽ đó, chúng ta nghiệm ra rằng sự tập trung chúng của kinh này giống như các kinh khác. Ba là “Cùng thừa sự v.v…” trở xuống là làm dứt sự giải thích hạn cục của thường tình. Lẽ nào chúng ta lại lấy sự kiện sơ lược trong văn của bản dịch xưa về phẩm này mà quy kết ngay rằng chỉ nhóm họp chúng trời, rồng thôi ư? Kế là “Điềm lành chung v.v…” trở xuống là giải thích về ích lợi của pháp trong kinh bộ, có hai: Một là khác với Pháp Hoa thuộc hệ Phương Đẳng. Tất cả thế gian hợp lại bao gồm mười cõi, không hề có việc mà đều đã hiện ra đầy đủ. Hợp với mười cõi đều làm sáng tỏ ba đức. Vậy mà, Đức Phật lại chưa trao lời thọ ký cho Nhị thừa. Qua đó, chúng ta nghiệm ra rằng chưa thể giống với bộ Pháp Hoa. “Chỉ y theo Thông giáo đối với lợi căn”: Nói về đặc tính Thường của ba thứ thân, giải thích về Pháp tánh của Viên, cùng với hai thứ bơ của chúng mà bàn luận về sự không khác của Viên. Đã là tựa đề đầu tiên của kinh nên không nêu tên Bát-nhã. Hai chỗ trong bộ tương xứng với cái tên Phương đẳng. Vì thế, sự phán giáo của ngày nay là thuộc về Phương đẳng. “Mà trong bộ này có được lợi ích của Viên”: Tự đối với mười cõi, chứng đắc một cách mầu nhiệm về tân y. Cũng được gọi là việc chưa từng có. Tất cả đều xuất hiện đầy đủ. Hai là “Trong này v.v…” trở xuống là phải dựa vào giới để làm sáng tỏ sự lợi ích của chúng. “Bốn câu của giới”: Một là Thừa và giới đều gấp. Hai là Thừa và giới đều thư thả. Ba là Thừa gấp rút còn giới thì thư thả. Bốn là Thừa thư thả còn giới thì gấp rút. Trước là, hành giả phải nhận biết về thể tướng của Thừa và giới. Lại nói về mười loại Giới và chỉ giữ lấy không thiếu, không phá, không xuyên và không tạp. Bốn thứ Giới này tuy chia ra Định và Tán nhưng tất cả đều là nhân của người, trời, là giới của nay. Bất thủ, Tùy đạo, Vô trước, Trí sở tán, Tự tại, tùy định cụ túc. Vì sáu thứ này tuy gọi là giới nhưng thể là ba thứ quán nên tự thân của chúng thuộc về Thừa. Đối với Thừa thì nói về năm thừa nhưng chẳng lấy người và trời. Vì hai thứ người và trời tuy gọi là Thừa, không động không xuất, nhưng thể của chúng là Thiện, là Sự thuộc Hữu lậu, nên thuộc về Giới. Chỉ lấy ba thừa bao gồm cả bốn thứ giáo. Đó là vì tuy đi vào Lý có chia ra sâu cạn nhưng cả ba thừa ấy đều khuấy động phiền não, ra khỏi sinh tử nên được gọi là thừa. Nay dùng bốn thứ giới để so sánh với ba thừa, luận bàn về tính chất gấp rút và thư thả để tạo thành bốn câu. “Cả Thừa và Giới đều gấp rút”: Tức là người và trời ngày nay đang đến nghe Pháp. “Cả Thừa và Giới đều thư thả”: tức là các rồng, quỷ nhóm họp theo quan điểm ngày nay. “Thừa thư thả còn Giới thì gấp rút”: tức là theo quan điểm của ngày nay, các vị trời chấp đắm niềm vui, loài người ưa thích tình dục v.v… “Không dự trù điều ấy”: Đều là loại của chúng. Lại phải biết rõ. “nhóm họp ngày nay”: Tuy nói rằng Thừa gấp rút nhưng Thừa vốn có Quyền và Thật. Kẻ đời trước tu tập gấp rút đối với Tạng và Thông thì nay ở trong căn phòng mà nhìn thấy sự khác nhau của các Đức Phật trong số bốn Đức Phật và chỉ thấy Phật thuộc Ứng hóa. Dẫu có nghe nói về sống lâu đi nữa rồi cũng phải trở về tro tàn, diệt tận. Sau khi diệt rồi thì không sinh nữa. Nếu là người đời trước tu tập gấp rút về Biệt và Viên thì nay thấy cả bốn Đức Phật đều là thân tôn đặc, một thân, một trí. Nghe núi, rìu v.v… tuy là tuổi thọ của Ứng nhưng họ vẫn biết rằng đó chính là Pháp thân và Báo thân. Ba thân và một thân khó mà nghó bàn được gọi là thấy thân thường hằng. “Quyền, Thật v.v…”: trong chúng sinh thuộc bốn thứ gấp rút và thư thả ấy có kẻ là thật hạnh, có người là thị hiện theo nguyên tắc Quyền. Quyền có khả năng dẫn ra Thật để làm hạt giống nóng tho- át, nhân duyên gần xa. Cho nên nói là “Các việc”. “Ghi riêng”: Tức là Pháp Hoa sớ, Tịnh danh sớ và Chỉ quán. Nay y theo những lời “Ghi riêng” ấy mà chú thích rằng: “ v.v…”. Ba là “Cùng loại đó v.v…” trở xuống là phán thuộc về đoạn lời tựa.  KINH KIM QUANG MINH VĂN CÚ KÝ <卷>QUYỂN 3 (Phần đầu) Tiếp là từ “Lúc bấy giờ v.v…” trở xuống là phần Chánh tông của đoạn lớn, như sau: Chỉ bày chung về Văn nghóa, có hai: Một là chỉ bày về sự khởi diệt của văn kinh. Toàn bộ ba phẩm là Sám hối, Tán thán, Không, cùng với nửa phẩm Thọ lường này đều là Chính thuyết. Hai là “Thông thường, ba v.v…” trở xuống là giải thích về nghóa lớn của ba chương, lại có: Nói về Sư khác, có hai: Một là trình bày. Hai là “Tiếp theo là v.v…” trở xuống là Phá chương an: Vì bản này không chép rằng Sư và Thiên Thai nên biết là sự phá riêng. “Không tuy là Trung” tức là ở giai đoạn nhân, dùng Trung để phá chấp. Vả lại, cũng không phải thể của Trung được làm sáng tỏ về mặt quả. Tuy pháp không giống nhau nhưng Dụng làm sáng tỏ sự khác nhau của nghóa. Vì các vị xưa không hiểu được điều này nên nay không dùng. Kế là “Tam tạng v.v…” trở xuống là nói về Chân-đế, có hai: Một là nói về “Hư không v.v…” Phẩm Phân Biệt ba thân của bản dịch mới chép: “Bồ-tát Hư Không Tạng bạch Phật: Làm sao các vị Bồ- tát đối với kho bí mật sâu xa của Như Lai mà đúng như pháp tu hành”. Chỉ vào câu ấy mà làm tựa. Hai là “Trực tiếp là v.v…” trở xuống là Phá Chương An: Mỗi tiết của các kinh đều có sự phát khởi câu hỏi, lẽ nào tất cả các tiết ấy đều gọi là Tự? Vì thế nên nói là “Nghóa yếu”. Kế là “Sư nói rằng v.v…” trở xuống là sự bỏ và lấy của Sư ngày nay. Tuy Bồ-tát Hư Không Tạng kia y theo nhân để hỏi nhưng Đức Phật liền đáp rằng “Tất cả các Đức Như Lai đều có ba thân” thì lẽ nào lại chẳng phải là nghóa của quả. Vì vậy, Sư ngày nay bỏ ba tạng mà lấy nhà đầu tiên. Có thể biết đối với vị sư tiếp theo. Kế là “Mới cũ v.v…” trở xuống là nói về ý của ngày nay, lại có: - Y theo bản dịch mới để nói về tông thể, có ba: Một là bốn Đức Phật nói về Tích để làm sáng tỏ Bổn, quét sự nghi của Ngắn đối với tám mươi. Nói về Ứng của Dài như số giọt nước biển. Đã nghe nói rằng Ứng hóa có Dài và Ngắn thì tất nhiên sẽ biết rõ sự phi sinh diệt của Pháp và Báo. Bổn và Tích đã dung nhiếp nhau thì sự nghó bàn liền dứt bặt. Bậc Thượng căn chỉ nghe về Tích của ba thân thì cũng ngộ được cội nguồn. Đây là tương đương với vòng thứ nhất. Hai là “Nếu chưa v.v…” trở xuống là Vương tử thị hiện Bổn để giúp cho người nghe tỏ ngộ về Tích. Trong phẩm Thọ Lượng của bản dịch mới, lúc bốn vị Phật nói xong về vấn đề tuổi thọ làm lợi cho chúng sinh rồi, có Bà-la-môn Kiều-trần-như vì muốn sinh lên cõi trời nên cầu xá-lợi của Phật như hạt cải, hạt lúa. Vương tử Lê-xa-tỳ nói kệ đáp rằng: “Dù cho gót chân của muỗi và ve có thể làm thành và lầu thì thân vắng lặng của Như Lai cũng không có việc gọi là xá-lợi, sừng thỏ làm thang leo, từ đất được lên cõi trời. Nghó sai về xá-lợi Phật thì công đức không có. Chuột leo lên thang sừng thỏ, Ăn mặt trăng trừ Tu-la. Nương xá-lợi để dứt hết hoặc. Giải thoát là không có”. Người Trung căn trực tiếp nghe về lý của Pháp thân vốn không sinh diệt thì liền ngộ Báo ứng có khả năng Thường hoặc Vô thường. Lý và Sự đã dung thông thì nghó bàn liền dứt bặt. Đây tương đương với vòng thứ hai. Kế là “Nếu chưa v.v…” trở xuống là Đức Phật Thích-ca hai lần luận bàn để cho tất cả đều hiểu biết. Hạ căn đã chậm lụt nên nếu bàn luận có tính cách nghiêng về Bổn và Tích đi nữa thì họ cũng không thể tri giải về ý của tính chất dung nhiếp lẫn nhau. Vì lẽ đó, Đức Thích-ca mới giảng nói đầy đủ về ba thân là Pháp thân, Ứng thân, và Hóa thân. Như dựa vào bầu trời mà có điện, dựa vào điện mà có ánh sáng. Pháp thân là Lý. Ứng thân là trí. Trí đã ứng với Lý thì liền sinh khởi hóa thân. Ba thân thầm khế hợp làm một nhưng một cũng không chắc chắn là một, nên ba thân vốn rất linh động. Cho nên phẩm Tựa Đề là Phân biệt ba thân. Pháp và Ứng là Bổn. Hóa thân là Tích. Một thời mà đều nói về cả ba thì sẽ sinh ra sự hiểu biết vượt hơn. Cố nhiên là tính chất nghó bàn sẽ dứt bặt. Ở đây tương đương với vòng thứ ba. Ba phen này đều nói về Tông thường hằng của Như Lai để làm sáng tỏ thể tánh. Ý của việc nói ấy là làm cho người nghe phát trí, chứng lý. Kế là “Phẩm Hối v.v…” trở xuống là phán định rằng cả ba phẩm đều giải thích rõ về Dụng. Tông của Phật trí làm sáng tỏ Thể của Pháp tánh. Đó được gọi là Tông của Kinh, Thể của Kinh. Tất cả chúng sinh đều lấy Tông và Thể này làm tâm của mình. Nếu sám hối, khen ngợi, tu tập về hai thứ Không thì nhờ đó mà diệu dụng của Phật sẽ sinh khởi toàn thể, khiến cho chúng sinh này diệt điều ác sinh ra điều lành và phát khởi dụng của Không mà dẫn thành hai thứ dụng. Cho nên nói là “Cả ba phẩm đều là Dụng của kinh”. Kế là “Nay v.v…” trở xuống là giải thích về việc bản kinh này lược bỏ hai phen. Vì hai phen đều làm sáng tỏ về ba thân nên chẳng khác với điều được làm sáng tỏ bởi một phen này của hôm nay. Vì thế, Sư Đàm-vô-sấm thuận với sở thích mà lược bỏ Cơ, không dịch hai phẩm sau. “Văn là v.v…” trở xuống là chia văn để giải thích, như sau: Văn, có hai: Một là chia văn. Hai là Giải thích, gồm có: Bốn Đức Phật nói về Dụ, có hai: Phân biệt về thân và thuyết, có hai: Một là hỏi. Hai là đáp, có hai: Một là Giải thích về thuyết: bổn tương xứng với Cơ nghi. Chung và Riêng không tồn tại. Hai là “Thấy cũng v.v…” trở xuống là giải thích về thân: Giải thích tựa đề, phán giáo rằng kinh này thuộc Thông. Giáo lý này nói rằng thân Phật cao một trượng sáu. Thân tôn đặc chỉ có một mà thấy khác nhau. Cho nên gọi là thân phối hợp. Nay, trong thất này có chúng của cả ba thừa. Trong ba thừa, Bồ-tát lợi căn quán sâu về Không, thấy được lý Bất không. “Lý Bất không”: Tức là chúng sinh và Phật có cùng một tánh giác. Vì vậy, tuy rằng thấy Phật nhưng Phật không đến từ bên ngoài, tùy Đại tùy Tiểu đều không có bờ mé. Cho nên nói: “Bốn Đức Phật đều có cùng thân tôn đặc. Sự ứng dụng của thân và trí là một, là thường hằng”. Lẽ nào chỉ có chư Phật mới là không hai, không khác nhau? Ngay cả với các vị đệ tử của Phật cũng không khác nhau. Vì vậy nên nói “Chúng (là) một”. Tuy chưa khai mở, phế bỏ nhưng người căn tánh lanh lợi thì thấy giống nhau. Nếu là Bồ-tát độn căn và người Nhị thừa thì chỉ thấy Không. Đó là thấy bốn Đức Phật từ bên ngoài đến. Chấp đắm phần hạn của Sắc nên chỉ thấy Ứng hóa. Như thế thì ngay cả các Đức Phật còn khác nhau huống chi đệ tử mà giống nhau ư! Vì ba thừa khác nhau nên nói là “Chúng (là) đông”. Kế là chia làm tám v.v… trở xuống là chia văn giải nghóa, có hai: Một là nói về sự chia văn của hai nhà. Hai là “Xưa nói rằng v.v…” trở xuống là theo vị Sư Đại thừa để giải thích về nghóa, lại có. Bốn bài kệ lập lại lời thề, có hai: Bác bỏ xưa, có hai: Một là trình bày. Hai là “Nghóa đó v.v…” trở xuống là bác bỏ. Vì chư Phật nói pháp không sai lầm về ba thời nên cả Thượng, Trung, Hạ đều là Thiện. Vì chủ thể giải thích Pháp hữu nên lời nói của Phật khéo léo. Vì điều được giải thích lìa tình thức nên nghóa của nó sâu xa. Nếu ngang bằng với vô ý thì làm sao ngộ được Tông của Thường hằng. Vì vậy, chúng ta biết rằng vị sư xưa hoàn toàn không hiểu được ý chỉ của kinh này. Kế là “Lại làm v.v…” trở xuống là giải thích của ngày nay, gồm có: - Khai chương, trình bày về ý, có hai: Một là khai chương: Những lời giải thích của Đại sư chứa đựng nghóa lý vô cùng. Tương xứng với căn cơ để giải thích văn mà lại chỉ bày về ba ý. Hai là “Tứ đế v.v…” trở xuống là trình bày về ý, có hai: Một là nói về ba thứ nhân quả: bốn đế là Lý, Nhân quả là chỗ dựa chung. Bốn niệm là Hạnh, Tu bốn niệm là ở nhân. Bốn đức vốn có, chứng bốn đức là ở quả. Nếu không có ba nghóa ấy thì không thể nào làm sáng tỏ tông thường hằng được. Hai là “Nếu luận v.v…” trở xuống là nói về lý do của ba tướng: Nói về quả là do nhân. Nhân quả là do ở Đế. Muốn thành tựu về nhân quả thì việc trước tiên là phải hiểu biết về Đế. Kế là “Trên lấy v.v…” trở xuống là dựa vào Chương để giải thích về nghóa, như sau: Y theo Tứ đế để giải thích, có hai: Dùng bốn đế để giải thích về kệ, có hai: Nói theo tính chất sâu kín về nghóa của Đế, có hai: Nói về nghóa bốn đế, có ba: Một là đối với trên để nói về Cảnh và Trí: Trên thì nói về Người thuộc chủ thể nói, nên đối với trí. Ở đây nói về Pháp thuộc đối tượng được nói, hợp đối với Lý. Hai là “Xưa đọc v.v…” trở xuống là bác bỏ người xưa chỉ giải quyết về Sự. Nói “Đọc văn” tức là nói về văn, giải thích Chánh biến tri trong số mười danh hiệu ở Đại luận cuốn ba. Vì vậy, luận hỏi rằng: “Thế nào gọi là Chánh biến tri? Đáp: Biết khổ đúng như tướng của khổ v.v…”. Người xưa đọc đoạn văn này, tuy dùng chữ Như mà giải thích là chẳng khác nhưng không hiểu được rằng ba tạng lấy việc biết về Sự xứng với Lý mà giải thích là chẳng khác. Trong Ma-ha-diễn, lấy việc biết Sự tức Lý mà giải thích là không khác. Đến nỗi các vị làm cho sự giải nghóa chỉ dừng ngang ở Sự mà hoàn toàn không làm sáng tỏ lý. Lại nữa, đoạn văn này giải thích Chánh biến tri rằng: Biết chân chánh đối với chân. Biết cùng khắp đối với Tục. Ba là “Nay nói rõ v.v…” trở xuống là nói về chánh nghóa của Sư ngày nay, có hai: Một là y theo Nhị đế. Hai là y theo Tam đế, có hai: Một là “Giải về ý”: Ví bốn là khổ v.v… là cảnh thuộc nhân quả của thế gian và xuất thế gian. Nếu không nhận thức rốt ráo đối với bốn cảnh ấy thì Chính là chân, Chính là Tục và Không, Giả và Trung, chẳng được gọi là Đế. Nhưng nếu hiểu được Nhị đế (thì) lấy Trung mà làm chân. (Đối với) ba (thì) nói về Không và Giả, ý lại ở Đế, Trung là vì muốn hành giả đối với nhân quả của mười cõi trong phạm vi mê và ngộ mà đều thấy được Trung, Pháp nào cũng đều là vô tác mới được gọi là tướng thế gian thường trụ. Nếu Lý của chúng chẳng như vậy thì biết lấy gì để quét sạch mối nghi của Tín Tướng. Hai câu đều trước tiên là y theo khổ đế để giải thích. Hai là làm thông lệ cho các đế khác mà kết. Kế là “Nói về thức v.v…” trở xuống là nói về so sánh với ý của đế. Gồm: Kế là “Tất cả v.v…” trở xuống là dùng Đế để giải thích Văn. Y theo nhân trước quả sau để lấy nước, núi, đất và không gian so sánh với Tập, Khổ, Đạo và Diệt. Theo thông lệ đều chia làm ba. Một là chỉ bày. Hai là dẫn chứng. Ba là Giải thích về kết. “Trong Khổ đế dẫn Tiểu Bát-nhã”: Tức là Kim cương Bát-nhã. Đối với Đại phẩm v.v… thì gọi kim cương Bát-nhã là Tiểu. Vì xét về văn thì ít nhưng lý thì giống với bộ lớn. kim cương Bát-nhã lấy Tu-di để dụ cho thân Phật. Nay chứng minh rằng khổ giống với nghóa nhóm họp chứ chẳng phải do sự vời lấy của Tập. Nhưng, sở dó lấy quả báo của Phật để chứng minh cho quả báo của chúng sinh là vì muốn làm sáng tỏ Khổ, Vô tác, ấm và Nhập đều là Như. Không có Khổ để xả bỏ là vì ngay nơi sinh mà thành tựu Diệt. Bàn tró tức là quay quanh. Tró tức là đứng. Có vị viết là (Bàn) có bộ thạch, viết như vậy là sai. Trong Đạo đế, sở dó dẫn Trí địa của Pháp Hoa là vì lấy đất dụ cho đất, đã đến Trí địa Trung Đạo. “Hai đường là đường thủy và đường bộ”. Đường bộ chỉ đưa đến bờ này của biển. Hình ảnh này có thể ví dụ cho sự tu tập chung về đạo phẩm của cả ba thừa; chưa độ được biến dịch thì vẫn còn nấn ná ở bờ này. Đường thủy có thể đi đến được bờ bên kia của biển. Hình ảnh này có thể ví dụ cho sự tu tập riêng về đạo phẩm của Nhất thừa, có công năng đến bờ của ba đức ngay nơi hình thái chết. Cho nên trong Diệt đế, có dẫn Pháp Hoa là vì dùng không gian dụ cho Không. Loại Không này vốn rốt ráo nên gọi là “cuối cùng v.v…” “Năm màn che”: tức là Khói, Mây, Bụi, Mù và Tay của Tu la. “Ba ánh sáng”: đó là Mặt trời, Mặt trăng và Sao. Lý của Diệt thuộc phạm trù Thường trụ, xưa không bị ngăn che nên nay cũng không thanh tịnh. Hỏi: Khổ dụ núi với thân Phật, đạo dùng đất dụ cho trí địa, Diệt dùng không gian dụ cho cái không vượt lên; ba thứ đó đã có giáo lý “Chính là Lý” thì có thể luận bàn đối với Pháp thân là đối tượng được chứng đắc. Nếu Tập đế của phần đầu có dẫn chứng để giải thích về kết mà chỉ nói về phiền não thì đâu được gọi là pháp thân? Đáp: Mỗi Đế trong bốn đế thuộc phạm trù vô lượng đều là Trung. Nếu chẳng phải tất cả đều hướng về phiền não thì làm sao được gọi là “Chính là Trung” được? Vì “Chính là Trung” nên Khổ đế gọi là Pháp thân. Đạo đế là Trí địa, Diệt đế gọi là Không vượt hơn. Do đó, chúng ta biết rằng trực tiếp dùng phiền não giải thích về Tập đế để chỉ bày về Pháp thân. Ý hướng ấy của Tiên sư quả là độc đáo, hành giả nên biết. Kế là nói về Tứ đế để giải quyết mối nghi, có hai: Kế là chỉ bày về vấn đề hiểu lý thì nghi sẽ dứt trừ, có hai: Một là chỉ bày về lý để làm sáng tỏ Tướng. Ở trên, lúc giải thích về điềm lành chung, tiên sư dùng việc chưa hề có của tất cả thế gian đều xuất hiện đầy đủ để nói lên Giả, Thật, Y báo của mười cõi đều làm sáng tỏ ba thứ đức. Nay nói về một Tứ đế của Giả, Thật, Y báo thuộc mười cõi, Đế nào cũng là ba thứ đức. Lý ấy hiện hữu khắp các hình tướng nên gọi là Pháp thân. Biết được lý ấy gọi là Báo. Khởi Dụng gọi là Ứng, Ứng thì có dài, ngắn. Hai là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là chỉ bày về tướng dứt nghi. Gồm ba. Một là Nghi về chỗ dứt. Hai là “Bốn Đức Phật v.v…” trở xuống là pháp năng dứt. Dụ cho bốn thứ là để làm sáng tỏ tính chất dài của Ứng. Đại sư đặc biệt dùng bốn đế để giải thích vấn đề ấy. Nếu chẳng phải tuổi thọ của Ứng hoàn toàn là Pháp thân thì làm sao chúng ta lónh hội được hai lý thuyết của Sớ về vấn đề “Ba thân một thể”. Vì vậy, đầu tiên, chỉ bày rằng lời lẽ của Đại sư rất khéo léo mà ý nghóa lại rất sâu. Nếu cứ nhất mực dụ cho một thân thì lẽ nào lời lẽ lại là khéo kéo? Nếu ba thân hoàn toàn cách biệt thì lẽ nào lại nói là Lý rất sâu? Ba là “Nêu Ứng v.v…” trở xuống là khen ngợi sự khéo léo của ý: Văn thì dụ cho tính chất dài lâu của Ứng mà ý thì làm sáng tỏ về Báo và Pháp. Vì Tín Tướng đạt được ý nên nghi ngờ bỗng nhiên được hiểu rõ. Kế là “Giải thích v.v…” trở xuống là khen ngợi tính chất độc đáo của sự giải thích để khuyến khích suy nghó: Bốn Đức Phật khéo léo dẫn dụ, dứt trừ mối nghi của Tín Tướng. Trí giả giải thích độc đáo nên phát khởi được sự hiểu biết của hành giả. Nay, chúng ta gặp được thì lẽ nào lại không suy nghó một cách thấu đáo, kỹ càng ư? Kế là “Bốn bài kệ v.v…” trở xuống là y theo bốn niệm để giải thích: “Niệm” tức là ba phép quán vượt hơn của Không, Giả và Trung. “Xứ” là bốn cảnh vượt hơn của Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Nếu không có Quán và Cảnh này thì ba thân không được hiển ra. Mà như vậy thì chẳng thể nói là luận bàn về thường hằng. Sự giải thích này được chia làm ba. Kế là dùng kệ để đối với pháp, có ba: Một là bỏ riêng theo chung. Vì Thân, Thọ, Tâm và Pháp chỉ là năm ấm nên bốn niệm vốn ở tại Khổ đế. Thế nhưng, sự tu tập về Quán thuộc về Niệm xứ lại có cả cả bốn thứ Giáo. Nay chỉ y theo Viên, tức là quán bốn đặc tính Tịnh, Bất tịnh, Phi tịnh và Phi bất tịnh của Thân. Cho đến quán Pháp, Ngã trải qua Ngã, Phi ngã, Phi Vô ngã đều thành ba đế. Hai là “Tất cả v.v…” trở xuống là theo khuôn phép chung để giải thích theo nguyên tắc so sánh: “Niệm xứ của Tưởng, Hành”: Chỉ là Niệm của Pháp hợp với hai ấm. Nay, vì Đại sư muốn phối trí với Địa nên giữ lại tên gọi của ấm. “Tưởng giữ lấy sự vận hành của hành”: Tưởng chấp lấy tướng mạo. Hành là sự chuyển động, trôi chảy. Cho nên Đại sư nói là “Sự vận hành của Hành”. Dưới chữ Hành là bình thanh. Ba là “Nếu quán v.v…” trở xuống là so sánh với lý do của kệ: Nếu nhân quả của tuổi thọ thường hằng mà không có niệm xứ của viên thì không có lý do để thành tựu. Vì vậy, Đại sư dùng (Quán) để so sánh với kệ. Kế là “Nếu quán v.v…” trở xuống là là dứt trừ nghi ngờ, lại có: - Nói về nhân quả của Niệm xứ, có hai: Một là Tướng của sự tu tập nhân. Bốn trạng thái khô khan tức là không, bốn trạng thái tươi tức là Giả, “Cả hai đều không” tức là Trung, nói thì có thứ lớp nhưng tu tập thì không có trước sau; đó là một tâm ba quán. Vì lẽ ấy, cho nên Đức Phật đối với bốn trạng thái khô, bốn trạng thái tươi mà nhập Niết-bàn giữa hai cây (Sa-la) là vì ngài muốn chính thức nói lên một tâm ba quán ấy. Hai là “Thành năm v.v…” trở xuống là tướng của sự đạt được quả, lại có: Một là nói về tướng của tính chất dung nhiếp, chính là của ba đức: Chính là khô, Chính là tươi, Chính là chẳng phải khô và tươi được tu tập ở một sát-na. Sát-na nào cũng nghó nhớ tràn đầy, không dừng nghỉ. Trải qua cả năm phẩm, phát khởi tựa để chứng chân. Đến giai đoạn quả vị thì ba hoặc hoàn toàn dứt sạch. Trăm giới, năm ấm được tự tại vô ngại gọi là năm hình thái giải thoát. Trăm giới, năm ấm thanh tịnh như hư không gọi là năm thứ Bát-nhã. Trăm giới, năm ấm tuyệt đối khó suy nghó được gọi là năm thứ Pháp thân. Vì trí thầm khế hợp với năm ấm, Lý là thứ thầm khế hợp nên gọi trí là lý. Tuy thể là một, không phân mà phân. Bát-nhã là chủ thể thầm khế hợp. Pháp thân là thứ thầm khế hợp. Vì tướng thầm khế hợp nên khởi sinh ra dụng giải thoát. “Tuy ba v.v…” trở xuống là giải thích về nghóa Bí tạng. Vấn đề này như thường được nói. Hai là “nhân vương v.v…” trở xuống là nói về tướng thường trụ của năm ấm. Tánh là không thay đổi. Tức là trăm giới, năm ấm, tám tướng chẳng thay đổi, hiện hữu khắp cả mười phương. Nhưng chẳng phải cuối cùng của Sự mới có riêng ấm của Tánh mà chỉ có ấm của Thiện ác làm dơ bẩn, ô nhiễm ấm v.v… Đương thể của ấm vốn thường trụ nên gọi là ấm của Tánh. Mong người học cẩn thận, không nên tìm cầu riêng. “ấm, đó là v.v…” trở xuống là nói về Thể, Dụng và Tướng của ba thân: Cả Pháp và Báo đều chẳng phải, toàn bộ thể sinh khởi Dụng, chủ thể thường vô thường. “Dụng của Thường thì dài v.v…”. Dài thì bốn ví dụ, Ngắn thì tám mươi. Đã đều là tuổi thọ của ứng thì tất cả đều là Vô thường. “Nay dùng dài và ngắn để chia ra Thường và Vô thường: Do núi, cái rìu v.v… có thể làm sáng tỏ thường hằng. Nếu chẳng phải thường hằng thì làm sao khiến cho có dụng của Ứng làm cho người và trời không tính đếm được. Vì vậy, Tín Tướng nghe nói tám mươi diệt mà nghi rằng tuổi thọ là Vô thường, nghe bốn ví dụ về dài mà ngộ được thể thường trụ. Do đó, Đại sư nói “Dụng của thường thì dài, dụng của Vô thường thì ngắn”. Kế là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là dùng quả của dụng để dứt trừ nghi ngờ, có ba. Một là Nghi thuộc sở bị phá. Hai là “Bốn vị Phật v.v…” trở xuống là pháp thuộc chủ thể phá. Ba là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là đạt được tướng của giải trừ. Ba điều này chẳng khác về ý với sự dứt trừ nghi ngờ về bốn đế ở trước. Nhưng, chúng ta phải nghiên cứu thật sâu. Kế là “Bốn bài kệ v.v…” trở xuống là giải thích y theo Tứ đế, có hai: Một là dùng kệ đối với đức, nghiền đất thành bụi mà còn chưa có tướng của tịnh thì lẽ nào lại lưu giữ tướng của uế. Vì vậy đối với đức của tịnh mà dụ cho tịnh của lý, tịnh là đối với tịnh, và uế. Hai là “Bốn thứ đức v.v…” trở xuống là dùng đức để dứt trừ nghi, có hai: Một là làm sáng tỏ về dụng của Đức: người học cần phải phân biệt bốn đức là Thường v.v… vốn giống tên gọi nhưng thể thì khác nhau. Hai là thể của Thường, Lạc, Ngã và Tịnh do Bồ-tát lập ra là Vô minh. Kế là Thể của Thường, Lạc, Ngã và Tịnh do Đức Phật chứng đắc là Trung đạo. Nay, vì cả bốn đức tính ấy đều là trung cho nên đều dùng “Cả hai đều Không” để làm sáng tỏ. Đứng về lý thì phải Không cả mười hai hình thái điên đảo. Nay, các tên gọi như Thường và Phi thường, Phi vô thường v.v… là giống nhau nhưng Thể của chúng thì khác nhau. Bốn đức, “Cả hai đều không”, tức là pháp thân. Bốn đức thường thầm khế hợp với Trí tức là Báo thân. Pháp và Báo đã thầm khế hợp chủ thể ứng với chúng sinh sinh ra Thường và Vô thường. Cho đến Tịnh và Bất tịnh đều ứng dụng tự tại. Kế là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là dứt nghi ngờ, có ba: Một là Nghi thuộc sở phá. Hai là “Bốn Đức Phật v.v…” trở xuống là pháp thuộc năng phá. Ba là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là đạt được tướng của dứt nghi. Nếu người học biết được ý của sự dứt nghi thuộc bốn đế thì sẽ hiểu được ba điều này. “Trăm ức v.v…” trở xuống là một bài kệ phối hợp với ví dụ, có hai: Một là nêu lên hai sự sai lầm của bản giải thích xưa. Hai là “Xưa nói v.v…” trở xuống là nói về ý của người đời nay để bác bỏ xưa, như sau: - Bác bỏ sự chấp văn một cách hẹp hòi, có: Một là nêu ra lời giải thích xưa: người xưa chỉ cho văn như nhau chứ không hiểu ý chỉ bày một cách khéo léo của bốn Đức Phật. Hai là nói về ý của người thời nay, có hai: Một là chỉ bày về ý sâu của kinh này, bốn là dụ cho có hạn lượng. Trăm, ngàn là số. Điều ấy có ai mà không biết? Người học phải hiểu sự nêu lên số Lượng huống chi là vô lượng, vô số. “Ngươi đã v.v…” trở xuống là bác bỏ người xưa vu khống kinh: Nói có Túng và Đoạt. Dẫu Túng có hiểu về Ứng Hóa đi nữa thì Đoạt vẫn mê mờ về Báo và Pháp. Báo và Pháp là Thể và Gốc của Ứng Hóa. Văn thì sâu mà sự giải thích lại cạn. Tức là tự hủy hoại mình và hủy hoại người khác, tự thân đã vời lấy lỗi lầm mà còn làm cho người khác chê bai giáo lý. Hai là phá sự chấp đắm nghóa có tính cách nghiêng lệch: Nghóa là Hóa thân, Ứng thân và Báo thân được giải thích. Ba thứ thân ấy đều có đủ bốn câu, tức là Thường, Vô thường, cả hai cũng là và cả hai đều không phải là, làm sáng tỏ ba và một không thể là một hoặc khác để suy nghó và giảng nói. Người xưa không hiểu hóa thân này chắc chắn là vô thường. Hoặc nghe Hóa thân tức là pháp nên là Thường. Cũng như nói rằng Pháp là Thường, Hóa là Vô thường, là vì không hiểu được chữ “Chính là”. Vì thế, luận Khởi Tín nói: “Tùy theo cái được ứng của nó mà thường trụ trì, không hủy diệt, không mất đi”. Lời ấy làm sáng tỏ Hóa thân có cả hai nghóa. Kế là “Bởi vì v.v…” trở xuống là kệ dứt nghi, có hai: Nhắc lại Nhân để giải thích nghi, có hai: Dùng sự hạnh để tiêu Văn, có hai: Một là y cứ theo nhân duyên để giải thích: Nhân thô thân, Duyên thì sơ. Không giết, giữ mạng sống là nhân của sống lâu, đó là nghóa của duyên gián tiếp. Hai là “Nếu cho rằng v.v…” trở xuống là giải thích theo hai thứ duyên: Không sát sinh có hai thứ: không sát sinh là chỉ Thiện; phóng sinh là hành Thiện. Không trộm cướp có hai thứ: “Không trộm cướp là chỉ Thiện; bố thí thức ăn là hành Thiện”. Vì vậy, mỗi điều lành trong mười điều lành đều có Chỉ và Hành, tất cả đều có hai thứ duyên. Xuyên qua cả hai thứ Thiện mà nêu lên có tính cách tương hỗ về Chỉ và Hành. Mỗi loại Chỉ và Hành đều là hai thứ duyên của sống lâu. Phát tâm Bồ- đề mới gọi là Nhân. Sở dó gọi là Pháp tánh vì bốn lời thệ nguyện thuộc phạm trù Vô tác đều do Pháp tánh sinh khởi, là nhân của sống lâu. Hai duyên của đủ loại đã giúp đỡ cho đạo tâm chân chính. Như thế thì chúng ta hiểu được Pháp và Báo chẳng phải là Thường, cũng chẳng phải Vô thường, có năng lực sinh khởi Thường và Vô thường của Ứng và Hóa. Ba thân là một thể, đó mới là sự thường hằng siêu việt. Kế là “Món ăn của pháp v.v…” trở xuống là nói về Pháp môn chỉ thượng: Nếu đứng về pháp môn để nói về sự bố thí thức ăn và không sát sinh v.v… thì giống như những điều được nói đầy đủ trong phần Tựa của về niệm Nghi. Kế là “Tu nhân v.v…” trở xuống là y theo quả để dứt nghi: dùng dài giải thích về ngắn thì sự nghi thuộc Vô thường được dứt trừ. Tuổi thọ thường trụ làm sáng tỏ kinh này. Vì vậy, Đại só tức chỉ cho Như Lai, như nói “Vô thượng só”. Do đó, trong bản mới của Pháp sư Nghóa Tịnh, đến câu này Ngài dịch rằng: “Vì vậy, Đại giác tôn”. Kế là “Vì vậy, người nay v.v…” trở xuống là dùng một bài kệ để kết thành. Kế là “Lúc bấy giờ v.v…” trở xuống là Tín Tướng hoan hỷ, có hai: Một y theo điều được nghe để giải thích về sự giải ngộ của Tín Tướng: “Nói Bổn và Tích tức muốn nói Thể là Bổn, Dụng là Tích. Nghe tuổi thọ Vô Lượng mà hiểu được dụng của Tích là Thường, tức là dài của chẳng phải dài. Do đó liền nhận thức rằng dụng của Tích có thể ngắn; chẳng phải ngắn mà ngắn thì cái nghi tám mươi có tính chất một chiều được dứt bỏ từ khi ấy. “Thâm tâm”: là giác ngộ được Bản thể cao sâu của Pháp và Báo. Bản thể này vượt ngoài Lượng cho đến vô lượng. Kế là “hớn hở v.v…” trở xuống là y theo sự mà đi vào vị trí để giải thích về hoan hỷ: Chân tín giải phát nhập vào giai vị hoan hỷ. Biệt ở Sơ địa, Viên ở Sơ trụ. Cả hai đều phá vô minh gọi là Nghi ngờ. Từ đó trở đi đều là nội phàm nhưng giải thích là Tự Vị. Bước lên Thập địa đảnh nếu không lập Đẳng giác thì tức là địa thứ mười, phá hoặc thuộc Vô minh, sau khi bước lên Hậu tâm thì vị trí này gọi là đảnh Chúng phục. Vì kim cương dụ định đã bị Vô minh sau cùng làm động nên sinh ra trạng thái vui mừng hớn hở. Kế là từ “Nói v.v…” trở xuống là sự đắc đạo của người đương cơ. “Thượng căn ngộ đầu tiên”: tức là dùng ba lượt ý của bản kinh mới dịch. Trần-như xin Xá-lợi là Trung căn, phân biệt ba thân là Hạ căn. A- nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, dịch là Vô thượng Chánh đẳng giác. Tức là giác tánh xưa nay của tất cả chúng sinh chứ chẳng phải bước lên quả vị cùng cực mới gọi là Vô thượng và Chánh đẳng này. Tâm giác ngộ này phát là chung đối với năm, tức là phần chân của nay. Kế là từ “Thời v.v…” trở xuống là bốn Đức Phật quay về gốc, có hai: Một là Giải thích về nhân duyên: Giác tánh của một loại cơ duyên là Tín Tướng v.v… vừa hợp và hưng khởi thì bốn Đức Phật không hiện mà hiện ngay. Sở dó bốn Đức Phật hiện ra là vì sự phát tâm. Vì tâm đã phát nên không quay về mà quay về. Hai là giải thích về quán hạnh. “Đế cảnh”: tức là Bổn giác của ba đế, một cảnh. “Giác tuệ” tức là Thỉ giác của ba trí, một tâm. Toàn Bổn sinh khởi ra Thỉ gọi là phát. Thỉ hợp với Bổn gọi là Tương ưng. Tương ưng với thiện thì chắc chắn tiêu mất cả hai. Không tiêu mất tức là trong thông suốt mà khởi sự bít lấp. Vì biểu thị cho sự vắng lặng nên không hiện khởi. Kế là giải thích phẩm Sám Hối, lại có: Nói về nghóa lớn, có bốn: Giải thích về danh từ sám hối, có ba: Một là đối với các kinh khác: Kinh Phương đẳng đà-la-ni nói về pháp sám hối của bốn chúng. Kinh Phổ Hiền Quán Pháp nói về pháp sám hối sáu căn. Đại kinh thì nói về sự sám nghi của vua A-xà-thế, kinh Thỉnh Quán Âm phong tỏa và điều phục ba thứ chướng. Quán môn của các kinh đều có công năng diệt tội, có Pháp nào chẳng phải là Sám? Nhưng, công hạnh của Bồ-tát là vị chuyển nghiệp đời trước thành duyên của việc lợi tha nên nói về ba pháp sám hối là Vô sinh v.v… Thanh văn vì tự độ nên dù có nói về Sám hối đi nữa thì phần nhiều là ở tại pháp cầu thoát ra ba đường. Vì thế, nay chỉ đối với các kinh của Đại thừa để nói về Tán và Chuyên. Hai chính là giải thích về danh từ, gồm có: Một là y theo chế phục để giải thích phần đầu. Nhưng, hai chữ Sám hối là nêu lên cả hai âm. Chữ Phạn là Sám-ma. Hán dịch là Hối quá. Do hối ngộ điều sai lầm nghóa của năm loại Thủ phục v.v… Nay vì nêu cả hai âm Hoa và Phạm nên Đại sư dùng Thủ để giải thích về Sám và lấy Phục để giải thích về hối. Cho đến dùng hổ thẹn để giải thích Sám Hối. Mục đích của Đại sư là muốn làm cho người vâng theo hai chữ mà tu hạnh Thủ phục và hổ thẹn v.v… Vì đó là tướng của khéo léo nói pháp nên chúng ta không thể lấy sự hỗ huấn của Hoa và Phạn để quở trách. Đầu tiên là y theo Thủ để giải thích. Thủ âm là Thú, tức là tự trình bày tội lỗi. Hai là y theo Đen và Trắng để giải thích. Ngóng tức là trông mong. Chuộng cũng như tôn quý, sùng thượng. Ba là y theo vứt bỏ, cầu tìm để giải thích. Hẹp hòi tức là xấu hổ, Ô là Hiềm hận. Bốn là y theo Lộ đoạn mà giải thích: Phát lộ quá khứ và hiện tại, dứt sự nối tiếp đến vị lai. Năm là y theo hổ thẹn để giải thích, có hai: Một là giải thích chung, trực tiếp dùng hổ thẹn để giải thích về Sám hối. Vì chưa chia ra thứ nghóa giữa người, trời nên gọi là giải thích chung. Hai là “Tàm thì v.v…” trở xuống là giải thích riêng, tức là chia ra người, trời và sự khác nhau của sự lý thuộc bốn thứ giáo. Kế là y theo người, trời để giải thích: Người thì mắt thường nên chỉ thấy chỗ rõ ràng của hổ thẹn, các vị trời thì có mắt Trời đạt được do quả báo nên thấy được chỗ ẩn mật. Người ấy hổ thẹn gọi là Sám Hối. Kế là “lại nữa v.v…” trở xuống là y theo bốn thứ giáo để giải thích. Bởi kinh này có cả sự sám hối của cả ba thừa. Vì ba thừa nhiếp cả bốn thứ giáo. Nghóa của hỗ thẹn đã bao gồm cả bốn thứ giáo thì lẽ nào bốn thứ là Thủ phục v.v… lại không bao gồm cả bốn thứ giáo hay sao? Người nói pháp y theo nghóa thì nên giảng nói cho rõ ràng. Lại nữa, vị trí Hiền của bốn thứ giáo đều phải gia công, bậc Thánh thì tự nhiên có thể loại suy. Quả báo của người, trời thì tác ý tự nhiên. Lại nữa, Hiền thánh của bốn thứ Giáo có tu, có chứng. Lý của bốn thứ Giáo vốn chẳng phải do sự tạo tác. Vì vậy, còn được gọi là bốn giáo của người và trời. Kế là ba tạng, có hai: Một là Hiền thánh. Hiền tức là bảy loại Hiền, Thánh tức là bốn bậc Thánh. Đãi tức là Cập (đến). Hai là “Lại nữa, Hiền v.v…” trở xuống là Sự Lý. Kế là “Lại nữa, Tâm v.v…” trở xuống là Thông giáo, có hai: Một là Hiền thánh. Vì Bồ-tát của giáo này có cùng sự dứt hoặc như Nhị thừa nên cả ba thừa đều là Thánh. Hai là hình ảnh “Lại nữa, ba v.v…” trở xuống là Sự Lý. Kế là “Lại nữa, ba v.v…” trở xuống là Biệt giáo, có hai: Một là Hiền thánh: Vị trí Thánh của Thông giáo chỉ dứt trừ kiến tư. Ba bậc Hiền của Biệt giáo có thể sứt Trần sa và lại chế phục Vô minh. Vì thế, Đại sư nói “Còn sai”. Hai là “Cuối cùng v.v…” trở xuống là Sự Lý. Ở đây lấy Đãn trung làm Đệ-nhất-nghóa. Kế là “Lại nữa, ba v.v…” trở xuống là Viên giáo, có hai: Một là Hiền, Thánh: Dứt bỏ ba mươi tâm thì đều chứng Pháp thân đều hiện ra tám tướng. Vì vậy, Đại sư xếp vào Thánh. Thập tín giã biệt hẳn biển khổ nên được gọi là Hiền. Hai là “cuối cùng đó v.v…” trở xuống là Sự Lý: Lấy Trung thuộc đầy đủ đức làm Đệ-nhất-nghóa. Ba là “Hợp mười v.v…” trở xuống là hợp mười số: Lấy Trung của hổ thẹn mà chia ra chung và riêng, chung là một mà riêng là năm, và bốn thứ như thủ phục v.v… Vì vậy, thành ra mười phen giải thích về danh từ sám hối. Hai là nói về nơi sám hối, có bốn. Một là nói về Sám thì phải có nơi chốn. Nơi nương tựa của Sám như tình trạng nguyên liệu thô phác nếu không có dùi nện thì không thành đồ dùng. Lấy gì làm dùi nện? Đó là một thật tướng, không có thật tướng khác. Tức là tướng tội. Nếu đạt được nơi chốn này thì tất cả tội đều tiêu diệt, tất cả đức đều sáng tỏ. Phần này tự chia như sau: Dẫn kinh để nói về nơi chốn, lại có: Dẫn các kinh, có hai: Một là dẫn hai đoạn văn của Đại kinh: “Lời nói thô tháo, lời nói mềm mỏng”: Đối với giáo lý thuộc về bảy phương tiện thì phải dứt trừ ba thứ chướng, phải tu tập các công hạnh. Nhưng, vì chủ thể và đối tượng vẫn còn nên gọi là “Lời nói thô tháo”. Nếu là Viên giáo thì tất cả tu ác đều chính là tánh ác, đối tượng bị phá đã vắng lặng nên chủ thể phá tự mất. Ngôn ngữ của Vô ngôn gọi là “Lời nói mềm mỏng”. Vì ở nơi “Thô tháo” và “Mềm mỏng” ấy mà Đương xứ vẫn vắng lặng nên Đại sư nói là “Đều trở về Đệ-nhất-nghóa”. “Bốn Chân-đế”: Vì hai khổ Chết, Tập của năm trụ, chính là tánh nên không có một loại nào để xả bỏ. Vì Đạo thuộc muôn ngàn hạnh, Diệt của ba đức chính là tánh nên không có Tu, không có Chứng. Nhưng sở dó nói dứt trừ sinh tử là đứng ở Chính mà nói về dứt. Dứt trừ của không dứt trừ thì tất cả đều được dứt trừ hết, cũng là miệng dứt trừ ở khổ thuộc tánh đức. Bốn thứ dứt này dứt bặt suy nghó, suy niệm, đều là Đệ-nhất-nghóa. Hành giả biết được như thế thì được gọi là “Có được nơi chốn”. Hai là dẫn hai đoạn văn của Pháp Hoa: Đi khắp gọi là Hành, trực tiếp tu tập gọi là gần. Hai việc này phải y theo nơi chốn gọi là Nhất Thật. Muốn nhẫn với cái nhục của chúng sinh thì phải trụ vào đất lý. Đất ấy là tâm thì phải thực hành và phân biệt điều gì? Đồng thời, cũng không nói rằng thực hành pháp không phân biệt. Nếu chẳng như vậy thì làm sao gọi là “Có được nơi chốn”. “Chỗ châu báu ở gần v.v…”: Tức chỉ ra chướng tức là đức thì lẽ nào lại có cái gần nào hơn như thế. Nhưng, vì phải quán chiếu nên Đại sư nói là “Tiến lên trước”. Phế bỏ tình thức thuộc Quyền gọi là “rời bỏ hóa thành”. Thể của Quyền là thật, gọi là “Chính là đến đảo châu báu”. Kế là dẫn kinh này, có hai: Một là dẫn: Ngã tức là ngã chân thật, lìa Nhân thì chẳng có pháp. pháp tức là năm ấm thường trụ. ấm này là nhà che khắp tất cả chúng sinh. Vua A-xà-thế nói kệ giải thích Đệ-nhất-nghóa gọi là quay về với Thế Tôn. Nay, kinh này nói rằng “Ta là nơi chốn quay về”. Kia cảm, đây ứng, nghóa ấy biến mất. Hai là “Nơi quy y là v.v…” trở xuống là giải thích. Kinh nói: “Ta làm chỗ nương”. Vậy, thể của ngã như thế nào? Đại sư lấy pháp tánh Đế lý, Diệu cảnh, Phật sự và Bí tạng để làm bằng chứng giải thích. “Mười phương v.v…”: Bậc Thánh trụ trong cả Phần và Mãn. Tức là lấy nơi chốn này để giúp cho chúng sinh an trụ. Sơ tâm có thể trụ gọi là “Đạt được nơi chốn”. Kế là “Nếu đạt được v.v…” trở xuống là kết thúc sự mở bày nơi chốn phải có. Gốc của thật tướng lập thì sẽ sinh ra con đường diệu sám tịnh tín của Vô sinh. Nếu hành giả không thể nhập các pháp chính là tánh thì sẽ ở nơi mảnh đất bình thản của Trung đạo mà sinh khởi tám hình thái điên đảo gọi là sự sa đọa của điên đảo. “Như người mù bẩm sinh v.v…”: Vô minh của bốn thứ mắt, làm mù mắt Phật. Vào nơi giáo lý nghiêng lệch, các kiến như bụi gai, xúc chạm con đường thành trở ngại. Những việc ấy đều do không “đạt được nơi chốn”. Kế là “Vì vậy, Phổ v.v…” trở xuống là nói về vấn đề “Đạt được nơi chốn”, Sám diệu, gồm có: Một là y theo mầu nhiệm để nói về sám, có ba: Kế là dẫn kinh để chỉ bày về mầu nhiệm: “Ngồi ngay ngắn”: Tức là oai nghi của Thân. Thiền ba-la-mật đưa ra đầy đủ các cách thức ngồi, người tu nên xem xét. “Niệm thật tướng”: tức là phép quán sám hối tội lỗi. Thật tướng vốn không có tướng. Vậy, hành giả phải niệm thế nào? Do đó, người tu dứt khoát phải lấy niệm của Vô niệm để niệm tướng của vô tướng, dùng tướng của vô tướng để xem xét niệm của Vô niệm. Nếu ngoài niệm mà có thật tướng riêng, ngoài thể có niệm riêng thì chẳng phải là “Niệm thật tướng” của kinh này. “Các tội v.v…”: Tức là lý do dứt trừ tội. Bởi vì, sự nghó nhớ đến Thật tướng ở trước, thể của tu ác chính là tánh ác. Tánh ác chiếu sáng thì đó mới gọi là Mặt trời trí tuệ. Tu ác vốn rỗng không như sương, móc tiêu tan. “Tâm ta v.v…”: Cũng xuất xứ từ kinh này. Tâm tánh xưa nay tức là Không, Giả và Trung. Lìa sự nhiễm ô của ba hoặc gọi là không tự thân. Tội phước, hai ngã trong mười cõi khó đạt được, ai là chủ tể? Đạt được như thế gọi là Vô sinh sám. Vì lẽ đó nên khiến Như Lai lập ra ba tên. Hai là “Vô tội v.v…” trở xuống là nói về Diệu y theo nghóa: Lấy ba thứ tên để so sánh với ba đế thì sẽ nhận biết được nghóa của chúng. Nếu phân biệt cả ba đế để giải thích thì đó là thứ lớp quán chứ chẳng phải là nghóa mầu nhiệm của hôm nay. Sự mầu nhiệm của nghóa của hôm nay là: Không tức là ba đế, Giả và Trung cũng giống như vậy. Đó gọi là ngay nơi một là ba. Tam đế đều là Không. Giả, Trung cũng như vậy. Đó là ngay nơi ba mà là một. Hành giả nên biết điều này. Ba và một chính là nhau là làm sáng tỏ nơi chốn sám hối, dứt bặt suy nghó và bàn luận. Nếu dùng lời nói này để làm thêm lớn tư tưởng thì hành giả mãi mãi không rõ biết về nơi chốn sám hối. Kế là “Các v.v…” trở xuống là y theo người để làm sáng tỏ mầu nhiệm: pháp mà bậc Đại nhân học không thể là thấp cạn. Kế là “Nếu biết v.v…” trở xuống là kết tên gọi Diệu sám: dứt trừ được Kiến tư thì tâm chính là kho tàng của ba đức. Rễ của tội đã vắng lặng thì pháp của Sám tự mất. Chủ thể và đối tượng đã tiêu mất thì sao lại dùng danh từ để đặt để. Có chăng chỉ gọi theo cách gượng gạo là “Nơi này là tuyệt đối mầu nhiệm”! Kế là “Đại kinh v.v…” trở xuống là nói về vấn đề Sám mầu nhiệm, người tôn quý, có hai: Một là dẫn kinh sách để chỉ bày, nên nghó nhớ sự sâu rộng của nó là như biển lớn. Đứng từ quan điểm sám hối này mà gọi nó là tắm gội. Nhiếp tất cả muôn vạn công hạnh gọi là dùng các thứ nước. Hình ảnh ấy dụ cho sự sám hối đạt được Bát-nhã. Nghiệp ác từ vô thỉ trói buộc hành giả như chủ nợ. Thấy được thật tướng của nghiệp gọi là nương gần với vua. Nghiệp tùy theo sự quán sát mà chuyển gọi là cúng dường ngược lại. Đây là dụ cho sám hối đạt được giải thoát. Tâm tánh vô thượng cũng như bức tường. Sơ tâm đạt được tánh như cỏ nương ở chỗ cao; Hạnh và Vị tuy thấp nhưng đã có khả năng vượt qua đảnh của bảy phương tiện. Đây là dụ cho sám hối đạt được Pháp thân. Sách Thư nói là Lưu Tử. Hai là “Hành giả v.v…” trở xuống là nêu hành giả để kết thúc. Kế là “Hành giả v.v…” trở xuống là khuyên trước nên tìm nơi chốn sám hối. Nhưng nơi chốn sám hối thì ai cũng sẵn có, có pháp nào là tạm sai đâu? Chỉ vì mê gốc nên cả mắt đều không thấy, cả tâm đều không biết. Vì vậy, ở đoạn dưới, Đại sư nói “Ở trước mười lực mà không biết chư Phật”. Khuyên và cầu mong người tìm kiếm phải thân gần gũi thầy giỏi, phải nương tựa vào giáo lý vượt hơn, siêng năng nghe và hỏi, đọc và suy nghó kỹ. Nếu làm được như vậy thì chắc chắn đối với chủ thể giải thích và đối tượng được giải thích sẽ thong dong ngoài tư lự, không dùng tên gọi mà gán ghép. Đó là đạo lý của pháp tánh là cái được tìm kiếm. Lý ấy thật vô cùng vượt hơn, là chỗ y cứ của pháp sám hối. Vì vậy, Đại sư gọi là “Nơi chốn”. Nếu y theo nơi chốn ấy để lập ra Hạnh môn thì mới được gọi là sám hối Đại thừa. Kế là “Tiếp theo, làm sáng tỏ v.v…” trở xuống là nói về pháp sám hối. Đây là sự chỉ bày về Pháp thuộc chủ thể sám hối. Gồm: Một là khai chương: Chánh và trợ ở đây cũng gọi là Tuệ hành và Hạnh hành. Nếu y theo lớn thì đó chính là Duyên nhân và Liễu nhân, là pháp của tu đức. Hai là “Chánh pháp v.v…” trở xuống là chỉ bày về tướng, có: Chánh pháp, có hai: Một là chỉ bày sơ lược, trong sự phân biệt về nơi chốn ở trên tuy lời là chủ thể quán nhưng ý tức là dùng quán để làm sáng tỏ về nơi y cứ. Nay nói chủ thể quán thì ý chính là lấy nơi chốn để làm sáng tỏ quán thuộc Chủ thể quán. Vì pháp không đứng một mình nên phải đeo níu nhau. Dứt trừ mà không lẫn lộn nhau mới dụng tâm được. Hai là “Pháp tánh v.v…” trở xuống là chỉ bày về chi tiết, lại có: Nói về tướng của sự tu tập về quán, có hai: Đứng ở nội tâm mà tu quán, có hai: Một là nói về quán tùy theo cảnh. Pháp tánh tức là Thật tướng các pháp. Tên là Như Lai tạng thì đầy đủ các đức. Tuy có các đức tính ấy nhưng vốn vẫn lìa niệm nên nay mới nói rằng “Vốn dứt bặt niệm mà quán”. Vì vậy, loại quán này cũng có tất cả công đức của Pháp tánh. Do đó, Đại sư kết rằng “Quán tuệ cũng như vậy”. Hai là “Cảnh, Trí v.v…” trở xuống là nói cảnh và quán chẳng phải hai, lại có: Dung nhiếp Cảnh và Quán, có hai: Một là chỉ bày về tướng: Cảnh là Bổn giác, Trí là Thỉ giác. Tuy chia ra Bổn và Thỉ nhưng vốn là một loại Giác. Cảnh và Trí đã vậy mới được gọi là tướng thầm khế hợp với Pháp không hai. Vì vậy, Đại sư nói câu “Như như chẳng khác”. Như và Danh chẳng khác tức là Cảnh chẳng khác với Trí, Trí chẳng khác với Cảnh, cũng gọi là Nhất, Hợp. Vì thể của Cảnh và Trí là một nên mới thầm khế hợp. Hai là “Kinh nói v.v…” trở xuống là dẫn chứng: Kinh tức là Nhân Vương Bát-nhã. Trí là Bát-nhã. Nơi chốn là thật tướng. Trí thuộc chủ thể quán và nơi chốn thuộc đối tượng được quán đều là Bát-nhã, tức là ngoài trí chẳng có cảnh. Cả hai đều là thật tướng tức là ngoài cảnh không có Trí. Tướng trạng thầm khế hợp với nhau của Cảnh và Trí là như vậy. Hai là “Nói Như v.v…” trở xuống là hội nói và im lặng. Lại do hai tướng nói và im lặng chẳng khác nhau nên làm sáng tỏ về cảnh trí nhất thể và thầm khế hợp. Nếu không do Cảnh và Trí của vô tướng thì làm sao sinh khởi được lời nói thuộc sự im lặng? Nếu không do lời nói thuộc sự lìa bỏ của tánh thì chẳng thể làm sáng tỏ được Cảnh và Trí không hai. Vì vậy, sau Cảnh và Trí, chúng ta phải bàn về nói và im lặng. Do đó, Chỉ Quán Nghóa Lệ nói rằng “Vì vậy cảnh không thể suy nghó bàn luận tức là Quán”. Cho nên được nói rằng Cảnh chiếu Cảnh, Cảnh chiếu Trí, Trí chiếu Trí, Trí chiếu Cảnh. Người chiếu soi mới chiếu soi, chẳng phải lời nói cùng tận được. Người nói nên chiếu, chẳng phải lời nói mà xong được”. Vì vậy, chúng ta biết rằng nghóa của Chỉ quán chẳng khác với ở đây. Kế là “Lấy cái đó v.v…” trở xuống là dùng tâm thanh tịnh đi qua pháp, có hai: Một là theo thông lệ tiêu mất và thanh tịnh của nội tâm: Ở trên, lúc nói về diệu quán, Đại sư đã đứng ở nội tâm để nghiên cứu diệu cảnh nhiếp tất cả pháp. Nếu thành tựu quán cảnh thì có khả năng dùng loại quán này để trải qua khắp cả ba khoa cho đến nghiệp hoặc, tự nhiên hành giả đều thấy được cảnh không thể suy nghó bàn luận. vì vậy, Nghóa Lệ nói: “Tu tập thứ lớp của quán thì trước phải từ nội tâm. Nếu nội tâm thanh tịnh thì hành giả dùng tâm thanh tịnh ấy mà trải qua khắp các pháp, tự nhiên được thầm khế hợp”. Hai là “Vì thế, nói rằng v.v…” trở xuống là dẫn giáo chỉ bày tướng của dung nhiếp, có hai: Một là y theo pháp để khai thị. Tỳ-lô-giá-na, Hán dịch là Hiện hữu ở khắp mọi nơi, đó cũng là trải qua tất cả. Lại trải qua riêng đối với sáu thứ tạo tác, sáu thứ thọ nhận. Hai thứ tạo tác là đi và đứng phải bao gồm bốn thứ tạo tác là ngồi, nằm, nói và im lặng. Đó gọi là sáu thứ tạo tác. Sáng và tối là nêu sơ lược việc mắt thọ Sắc. Hợp với thông lệ của chấp lấy âm thanh cho đến ý và pháp. đó gọi là sáu thứ thọ nhận. Vì vậy, Đại sư tổng kết rằng “Đối tượng đối lập với sáu căn”. Tuy kết sáu thứ thọ nhận nhưng thân chắc chắn là sáu thứ tạo tác. Đối với tạo tác và thọ nhận ấy mà thường được thấy Phật. Phật chắc hẳn có ba thân. Nay, do nội tâm mà thành ba thứ quán mầu nhiệm. Cho nên đối với tạo tác và thọ nhận mà thường thấy ba đức, ba đế của Như Lai. Do đó, Đại sư kết rằng: “Đều là Phật pháp”. Hai là “Giả-bà v.v…” trở xuống là dẫn Sự để dụ, có ba. Một là Kỳ-bà dụ cho sư phá chung một cách tự nhiên. Hai là dùng Ma-nam dụ cho sự sinh thiện tự nhiên. Ba là dùng Na luật dụ cho làm sáng tỏ về lý một cách tự nhiên. Ba phần này chỉ bày riêng về ba phép quán trải qua tất cả, tự nhiên thường khế hợp với ba pháp mầu nhiệm. Nói thì có trước sau nhưng chiếu soi thì không có dọc và ngang. Kế là “Nếu như v.v…” trở xuống là nói về tướng của sự diệt tội. Đã ở nội tâm, lại trải qua cảnh thuộc duyên, thầm khế hợp giữa Đế và quán, tức là đạt được tính chất không có chủ tể của tội và phước trong mười cõi. Toàn thể tánh của việc tu ác, tu thiện tức là tánh ác, tánh thiện. Đó gọi là thấy được thật tướng của tội và Phước. Vì vậy, kinh Pháp Hoa nói: “Đạt sâu tướng tội phước, chiếu soi khắp mười phương”. Mười phương tức là mười cõi. Mười cõi đều là thật tướng. Tướng nào cũng linh động. Một thâu nhiếp tất cả. Mỗi một của tất cả đều thâu nhiếp đối với tất cả. Các tất cả ấy đều là thật tướng. Vọng tưởng đều là thật thì thật cũng tự tiêu mất. Đó chính là sám hối rộng lớn. Kế là “giúp đạo v.v…” trở xuống là pháp giúp đỡ, có: Một là nói về dụng giúp cho ý: Tu hai thứ sám là Chính và Trợ thì y theo căn và duyên, tự có một hướng tu tập đối với Chánh đạo bước thẳng lên Trụ của Viên. hoặc nội phàm, ngoại phàm tự có một bề tu tập đối với giúp đạo. Như ngài Nam Nhạc có lập Hữu tướng an lạc hạnh. Vì không đi vào Tam-muội mà chỉ tụng trì nên cũng thấy được sắc thượng diệu. Biểu tượng cho hai thứ ấy, tùy căn mà tu nhập, không giống như lúc ngộ được Lý thì chắc chắn phải xả bỏ cả hai. Tự có chính và trợ bao gồm nhau mà tu thì hoặc là chính trước trợ sau, hoặc trợ trước chính sau, hoặc tu tập đồng thời. Ý của pháp được lập ở hôm nay là tại sự cùng tu. “Nếu đối với ba câu mà đều không nhiếp”, tức là người mà thân trâu. Hai là “Điều được nói v.v…” trở xuống là nói về pháp giúp đạo, có hai: Một là Dụ dụng trợ cho ý: Nước trong dụ cho Chính, Tro v.v… dụ cho trợ. Vì cấu bẩn khó dứt, chỉ có nước thì không thể, có tro đem trợ với nước mới hữu dụng. Hai là “Nói sơ lược v.v…” trở xuống là chỉ bày về pháp giúp đạo. Trợ vốn là giúp đỡ cho Chính. Cho nên chánh quán không mở bày được là vì bị hoặc thuộc lý che đậy. Vì vậy, hành giả tu tập trợ hạnh để đối trị với màn che của Sự. Nếu màn che của Sự đã dứt thì không nhờ vào hoặc của lý. Vì thế, hành giả làm cho chánh kiến khai mở để nhập vào cửa Lý. Nói đầy đủ về sáu Độ, lược nêu lên sơ lược về ba nghiệp. “Cái sách tấn quán”: hoặc dùng năm pháp để sách tấn đối với chánh quán, cũng giúp sức cho việc mở cửa. hoặc là sách tấn phép quán thuộc Sự. đó là năm môn thiền, mỗi môn đều có đối trị để giúp đỡ cho việc khai mở chánh quán. Kế là “Nếu thuận v.v…” trở xuống là nói về dụng để giúp đỡ cho công: Chánh giải như thuận dòng nước. Chánh quán như thuận theo gió. Hai hình ảnh ấy ví dụ cho chánh đạo có năng lực hướng về Diệu lý. Cây sào, mái chèo dụ cho điều lành như bố thí v.v… nước giúp cho gió, thì lẽ nào con thuyền lại không đi nhanh? Kế là “Như vậy v.v…” trở xuống là tổng kết. Kế là nói về địa vị của sám hối, có: Sự giải thích khác bị hạn cục và cạn cợt, có hai: Một là trình bày về người khác. Hai là “Đây v.v…” trở xuống là bác bỏ sơ lược. Kế là “Vì vậy, mới v.v…” trở xuống là sự giải thích của ngày nay có cả cả sâu, lại có: Chính là giải thích, có hai: Một là tạo nghịch: Cúc (nuôi) cũng là dưỡng. Vũ (vỗ) tức là Vỗ. Duy duy là vẻ thương con. Trong thì sáu, năm giáo cùng số và tên của phương hướng. Chú thích rằng: “Phương là Đông, Tây”. Sát nghịch. Sát hoặc viết là thí đều cùng âm Thí. Tức là kẻ dưới giết người trên. Dịch nói: “Thần giết vua, con giết cha”. “Trời tuy v.v…” trở xuống là nói trời đất không thể làm ngơ với sự thọ sinh. Vì vậy, phải đọa vào địa ngục. Dùng năm tội nghịch chiêu cảm năm loại Vô gián; có hai: “Phật là v.v…” trở xuống là nói về phá giới thiên đầu bốn trọng, nhóm sau là Cát-la. Nếu nói về năm thiên thì Sơ và hậu đều là Thiên, sáu nhóm thì đầu cuối đều là nhóm. Văn thêu dệt hiện ra cùng nhau. Vì vậy, Đại sư nói “Sơ Thiên, Hậu Tụ”. Ba vị Sư là Hòa thượng và hai A-xà-lê là yết- ma và Giáo thọ. “Bảy vị tăng ấn chứng truyền giới”: Đây là y theo số lượng mười người thuộc Trung Quốc. “Biển Phật”: Phật pháp như biển. Phạm giới trọng như xác chết. Vườn hoa có thể mở. Nói Phạm trọng tức là phải ra khỏi chúng thanh tịnh. Hai là “Nặng về sân v.v…” trở xuống là nói về ba đường: Tâm đã nặng về sân v.v… thì động tác của thân, miệng trở thành nghiệp sân. Vì vậy mà đọa làm rắn, rít. Vì nêu gốc để nhiếp ngọn nên nói là nặng về sân”. Nặng về dục v.v… ở dưới là tất cả đều có thể dùng nặng về sân làm lệ chung. “Rắn. Rắn hổ mang”: Nhó Nhã nói: “Rắn độc hổ mang rộng ba phân, đầu to như ngón tay cái”. Quách Phát nói: “Thân rộng ba phân, đầu như ngón tay cái”, đó đều gọi là rắn độc hổ mang. “Siểm”: Trang Tử nói: “Ý ít mà dẫn đến lời nói gọi là Siểm”. “Ngạ quỷ đang đói v.v…” là Nêu sự khó chịu đựng của quả, cần phải sám hối. Kế là “Trong cõi người v.v…” trở xuống là người và trời, có hai: Một là Người có “tám thứ khổ”: Sinh, già, bệnh, chết, Oán tắng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc và năm ấm lừng lẫy. Hai là Trời “Năm thứ suy”: Áo quần hôi dơ, hoa trên đầu héo, thân thể hôi bẩn, dưới nách tiết ra chất bẩn, không thích chỗ ngồi cũ. “Bốn thứ tâm”: Tức là Thọ, Tưởng, Hành và Thức. “Cái lồng, cái lồng chim”: Cái lồng chim là bờ rào. Kinh Thi nói: “Lượn lờ con ruồi xanh đậu trên bờ rào”. Nay, chúng sinh ở trong ba cõi như ở trong cái lồng, rào dậu, không thể tự thoát ra được. Kế là “Khổ ra v.v…” trở xuống là nói bốn thứ giáo đều sám hối, gồm có: Ba tạng, có hai: Thanh văn, có hai: Một là bảy bậc hiền. Đầu tiên là năm đình tâm. Đó là bất tịnh dứt Tham, Từ bi dứt sân, Nhân duyên dứt si. Sổ tức dứt Giác quán. Giới phương tiện dứt sự chấp ngã. Nếu năm thứ phiền não là tham v.v… ngăn trở tâm, làm cho tâm không được dứt thì hành giả phải sám hối. “dứt v.v…” trở xuống là nối tiếp chữ tâm. Tiếp theo là bốn niệm xứ: Dùng để đối với đạo phẩm thuộc về Vị. “Bốn điên đảo”: tức là chấp thân là Tịnh, Thọ là Lạc, Tâm là Thường và Pháp có Ngã. Bốn niệm đối trị bốn điên đảo này. “Bốn chánh cần”: Hai điều ác đã sinh thì làm cho chúng diệt, chưa sinh thì làm cho chúng không sinh, hai điều thiện đã khởi thì làm cho chúng tăng trưởng, chưa sinh thì làm cho chúng phát sinh. Bốn Như ý túc là Dục, Tinh tấn, Tâm, tư duy. Năm căn là Tín, Tấn, Niệm, Định và Tuệ. Năm lực: Danh từ giống với Căn, nhưng vì dùng Bất động để dứt Chướng nên chia thành hai khoa. Pháp Hoa Văn Cú dùng bốn khoa là Chánh cần, Như ý túc, Căn và Lực để so sánh với Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế Đệ nhất vị. “Noãn, Đảnh khác với ở đây” hoặc là văn nhầm lẫn. hoặc là có ý riêng. Hai là “Khổ nhẫn v.v…” trở xuống là bốn quả: “Khổ nhẫn nói về Pháp”: Kiến đạo có mười sáu tâm. Đó là bốn đế ở dưới cõi Dục. Mỗi Đế khởi pháp nhẫn, Pháp trí. Bốn đế của hai cõi ở trên là Sắc và Vô sắc. Mỗi đế đều khởi loại nhẫn, loại trí. Tám đế của Thượng và hạ ấy cộng lại là mười sáu tâm, dứt trừ tám mươi tám Sử kiến hoặc. Nay nói khổ nhẫn tức là Khổ pháp nhẫn của cõi Dục, khổ đế trở xuống, nói phát được khổ pháp trí. Quán Khổ đế của cõi Dục rồi thì hành giả quán ngay Khổ đế của cõi trên, đạt được Loại nhẫn trí. Ba đế còn lại theo nói theo lệ chung. “Tuy không v.v…” trở xuống là vì không thấy nên hoặc sinh khởi ngang trái. Vì vậy không đọa vào đường ác. “Bảy lần sinh cõi Dục”: Chín phẩm Tư hoặc thuộc cõi Dục nhuận bảy lần sinh. Đó là, Thượng thượng phẩm nhuận hai lần sinh. Thượng trung, Thượng hạ, Trung thượng, mỗi phẩm nhuận một lần sinh. Đó là nói về Sơ quả. “Tuy dứt dục v.v…” trở xuống là nói về Nhị quả. Năm hạ phần là Thân kiến, Giới thủ kiến, Nghi, Tham và Sân. Tham tuy chung với Thượng nhưng không chỉ ở thượng. Chỉ một Sân ở hạ không chung với thượng, dù hành giả có dứt tham v.v… cho đến Vô sở hữu xứ nhưng do thân kiến v.v… mà lại quay trở về với cõi Dục. Vì vậy, năm thứ này gọi là hạ phần. Ba phẩm còn lại thọ một đời sống gọi là “Một lần qua lại”. Tuy dứt năm hạ nhưng gọi là người thuộc ba quả hướng. Còn một phẩm là phẩm thứ chín. Cũng gọi là một hạt giống Na- hàm. “Tuy dứt Sắc v.v…” trở xuống chính là nói về người thuộc ba quả: Chín phẩm đã hết, không đến cõi Dục mà tiến lên dứt Thượng hoặc. “Tuy nhập v.v…” trở xuống là Vô học, hai thứ Bích-chi-phật: Vì chưa thể dứt trừ hết sự xâm nhập của Tập khí nên phải sám hối. Nói “Cũng vậy” là vì theo lệ chung sám hối tập khí của La-hán ở trên. Bồ-tát chưa dứt mà lại ở tại người, trời. Kế là “Nếu cần v.v…” trở xuống là Thông giữa: Giáo giải thích thể không khác với Chiết Diệt ở trước. Không ngậm chứa Trung đạo là pháp môn Đại thừa. Bậc lợi căn mới thấy nên thuộc hai thứ giáo lý sau. Nay, Đại sư đặt chân ở Nhị thừa và Bồ-tát độn căn để nói về sám hối. “Bích-chi-phật không đạt được văn tự”: Tức là không thể nói pháp để giáo hóa kẻ khác. Nhưng, Bích-chi-phật có khác nhau giữa Bộ hành và Lân dụ. Bộ hành đôi khi cũng có thể nói pháp. Nay nói theo Lân dụ, ngộ một mình, đi một mình dụ như đầu lân một sừng. Vì vậy gọi là Lân dụ. Kế là “Thập tín v.v…” trở xuống là Biệt giáo: “Thập tín chỉ có tin”: Tín có công năng tạo ra tâm. Vì nó là Phật tánh “Chưa thể xứng hợp với Lý”: Vì dùng tâm của Phật tánh để tu tập riêng về Không. Vì vậy, khiến cho Thập trụ chứng một cách nghiêng nặng về lý của Không, Thập Hạnh chỉ nêu ra Sự thuộc sự kiến lập; đã cùng hai thứ quán cùng phá và lập lẫn nhau nên chưa thể đi vào Trung. Thập hướng không nghiêng nặng nhưng chỉ tu chứ chưa chứng. Nhưng, do tiệm tu, lúc bước lên Địa thì đốn chứng. Ở trước tuy sáng tỏ nhưng sau sau vẫn còn bị che chướng. Vì vậy Đại sư nói là “Địa nào cũng có chướng”. Đến Đẳng giác mà vẫn có vị chưa đạt được Vô học”. Cho nên hạng phàm thánh này đều phải sám hối. Kế là “Lại nữa, mười v.v…” là nói về Viên giáo: Loại căn cơ này đầu tiên giải ngộ được Trung có đủ hai bên, Không và Giả tức trung. Vì vậy, có thể tu chứng ba trí một tâm. “Không nói danh tự và năm phẩm”: Tức là so sánh cao với thấp. Thập tín mà còn sám huống chi giai vị trước đó. “Chỉ là v.v…” trong Pháp Hoa, lúc nói Đà-la-ni, tuy có cả cả Sơ và hậu nhưng tự vị đạt được. Tướng của sự đạt được ấy rất rõ. Một là Triền đà-la-ni xoay vần theo Giả mà nhập vào Không. Đây ngang với Thất tín. Hai là trăm, ngàn, muôn, ức Đà-la-ni xoay vần theo Không mà ra Giả. Đây là tương đương với Bát tín trở lên. Ba là Pháp âm phương tiện Đà-la-ni: dùng hai thứ quán làm phương tiện để chuyển nhập vào pháp âm của Trung đạo. Đây là tương đương với Thập tín. “Khuôn, thành quách v.v…”. Ba hình ảnh này dụ cho trí đoạn của Pháp thân, vì đều chưa nghiên cứu đến cùng tận nên đều phải sám hối. Kế là “Ngang với đây v.v…” trở xuống là bác bỏ hạn cuộc: Vì dưới thì từ gây ra nghiệp Vô gián, trên thì thấu đến Đẳng giác của Viên giáo nên Đại sư nói “Vị dài”. Các vị nói theo chiều ngang, mỗi vị đều có sự khác nhau của tám chướng phiền não, đầu số, kết nghiệp, lưu loại, khổ báo v.v… Vì vậy, Đại sư nói là “Nghóa rộng”. Vì sao người xưa chỉ hạn cục ở phàm phu? Kế là “Vì vậy v.v…” trở xuống là dẫn kinh để chứng kết: Đại sư vốn dùng Tam-muội, tổng trì để nói về vị trí sám hối bao gồm cả phàm và thánh, tự nhiên so sánh tính toán hợp với kinh kia, thật chẳng phải tìm kinh để tạo ra sự sắp bày như thế. Hành giả biết điều ấy. Kế là “Nếu người v.v…” trở xuống là nêu điều lợi để khuyến tu, có bốn. Một là nói về sự gieo trồng đời trước của người nghe. Hai là “Nói v.v…” trở xuống là người nghe đạt được quả báo. “Quả báo”: Sám này đến lý thì công đức đạt đến quả cùng cực, đó là sự cung kính lẫn nhau với chư Phật. Ba là “Nghe trực tiếp v.v…” trở xuống là nghe huống chi là giải đã xứng với Lý thì tu tập sẽ thành hạnh. Như thế thì quả chứng của Phần, Mãn sẽ không xa. Bốn là “Đã nghe v.v…” trở xuống kết, nói về sự quy kính. Ân đức của Phật đã như vậy, người muốn báo đền thì chỉ nên đúng theo lời dạy mà tu hành. Quy mạng lễ Phật, một trong năm thứ sám hối. Tại sao lại không tu tập bốn thứ sám hối còn lại. Tiếp chính là giải thích phẩm đề, như sau: Giải thích về nghóa của hai chữ, có hai: Y vào chữ để huấn thích, có hai: Giải thích về sám, có hai: Một là Nói về tìm gương soi. Hai giải thích về hối, có hai: Một là nói về chủ thể phế bỏ. Hai là nói về đối tượng được phế bỏ. “Ý nói là mười điều phế bỏ”: Ý như bậc quân vương. Thân miệng như quan, vua đã khắc kỷ thì quan liền chấm dứt sự bạo ngược. Vì vậy ý bao gồm cả mười. Kế là “Lại nữa, Pháp v.v….” trở xuống là y theo Pháp môn để giải thích các loại. Kế là “Sám hối v.v…” trở xuống là nói về ba thứ sám hối, gồm có: - Nói về ba thứ tướng mạo, có hai: Một là nêu tên gọi để chỉ bày: là ba loại tên gọi để chỉ bày rằng sự thông cả Đại và Tiểu. Hai là “Tiểu thừa v.v…” trở xuống là y theo tưởng để giải thích, có hai: Tiếp là nói về tiểu, lại có: Một là tác pháp: Tỳ-ni, Hán dịch là Luật. “Hai mươi Tăng”: đây là y theo sự Sám hối tội Tăng tàn. Nhưng đối trị có bốn pháp. Tiếp theo là trị sai lầm thuộc tình của che giấu, đó là thực hành Ba-lợi-bà-sa, Hán dịch là Phú tàng. Hoặc dịch là Biệt trụ, tức là ở riêng một phòng, không được ở chung một chỗ với Tăng. Dù có vào trong Tăng chúng cũng không được bàn luận và không được đáp. Thực hành pháp này phải đủ một trăm ngày. Vì không nhớ số ngày đầu tiên của Phú tàng nên bàn một trăm ngày làm kỳ hạn. Hai là trị tội Phú tàng: đó là phạm rồi che giấu thì mắc tội Đột- cát-la, không che giấu thì phạm tội tăng tàn. Nếu người che giấu trước sám hối tội Đột-cát-la, sau đó cho ở riêng. Kế là trị Tăng tàn tình quá tội: tức là thực hành Ma-na-đỏa trong sáu đêm. Ma-na-đỏa, Hán dịch là ý hỉ, trước tuy là tự ý hoan hỷ nhưng cũng làm cho chúng tăng vui mừng. Do niềm vui ở trước nên cùng ít ngày tức là sáu đêm, nên gọi là ý hỉ. Tăng chúng khen rằng “Người này sửa đổi thành thanh tịnh”, cho nên nói “Chúng tăng hoan hỷ”. Kế là trị Tăng tàn: tức là ở trong hai mươi vị tăng mà bạch bốn lần yết-ma nêu tội ra. Nhưng, che giấu không nói về tướng mà thực hành ngay về Ma-na-đỏa, sau đó mới đi vào chúng để nêu tội ra. “hoặc nửa tháng tác pháp”: tức là lúc đang thực hành biệt trụ. Mỗi lúc gặp kỳ nửa tháng thuyết giới thì người ấy phải bạch với Tăng chúng rằng: “Tôi phạm Tăng tàn”. “Đối thú tác pháp”: Tức là sám hối tội Đột-cát-la nặng. Trách tâm tức là sám hối tội Đột-cát-la nhẹ. Luận Ma-di nói: “Cố ý làm thì đối thú nói một lời, lỡ làm thì trách tâm mà hối lỗi”. Tiểu thừa phạm Ma-di cũng có sám pháp. Sở dó sớ văn không dẫn ra là vì sám rồi đã là Sa-di học hối nhưng vẫn chứng quả Thánh. Vì thế, chẳng phải là nghóa của khôi phục sự thanh tịnh căn bản ở trong đây. Do đó Đại sư Kinh Khê nói: “Tiểu thừa học hối rồi nhưng vẫn chướng quả thánh, tội nặng chưa mất”. Kế là “A-hàm v.v…” trở xuống là chấp tướng: Trên là nói Tác pháp chỉ làm cho ba nghiệp thuận với chế pháp của Phật, pháp thành thì tội diệt, nếu là tán tâm tội diệt cũng còn cạn thấp. Nay nói chấp tướng thuộc về định tâm. Tưởng thành tướng khởi, diệt tội thì sâu. Vì vậy, tưởng miệng rắn thành thì lẽ nào chỉ có tội dâm được diệt trừ? Ngay cả dâm dục cũng không sinh khởi. Kế là “cũng có v.v… ” trở xuống là vô sinh, “nói về quán không”: tức là chia chẻ pháp để làm sáng tỏ không. Quán tâm tạo tội vốn không có chủ tể. Niệm niệm vô thường, không có ai là năng tác, không có nghiệp báo ấy. Nếu ngã kiến tiêu vong thì các sử sẽ vắng lặng hẳn. Nếu thành tựu được phép quán này thì dứt được bốn đường và ra khỏi ba cõi. Tướng của ba phép sám của Tiểu thừa giản lược hơn. Kế là nói về Đại thừa, có ba. Một là tác pháp. Hai là chấp tướng. Ba là vô sinh. Hành giả nên biết rằng Vô sinh là chủ đích của ba thứ sám và hai thứ kia là trợ duyên. Vì vậy, sớ trước nói: “Nước tro, cỏ đen giúp cho nước trong”. Nếu thiếu phép quán siêu việt thì không gọi là Đại thừa mà giống như khổ hạnh chẳng lợi ích gì đồng như ngoại đạo. Hành giả phải gần gũi với thầy tốt để học về nơi sám hối” và “Pháp sám hối” mới thực hành được sự nghi Đạo tràng. Vì thế, đối với các sự, hành giả đều phải dùng phép quán siêu việt để chiếu soi mà dẫn dắt khiến cho tác pháp v.v… đều thuận với thật lý, đều là các nhân của Phật. Có vị cho rằng hành pháp được tu tập bởi đạo tràng nhưng thuộc về trị sự. Hành giả phải đối với mười thừa, trước tu tập sáu pháp, sau mới giúp khai mở. Tuy nói vậy nhưng vị ấy chẳng biết rằng sáu phép trước là để dùng trong đạo tràng. Như nay nói về sám có bàn luận đầy đủ ba loại thì lẽ nào lại bỏ sự thực hành thuộc sự ư? Lại nữa, có một quyển Pháp Hoa Tam-muội lưu hành riêng ở đời. Đại sư xếp đó chính là pháp sám hối hối tội chướng đạo của người sơ tâm, nhờ đó mới tu các thứ Tam-muội. Lại nữa, cánh cửa của các khổ hạnh tịnh tiến đều tùy theo sự ưa thích, hàng sơ tâm có thể tu. Nhưng vấn đề là phải dùng Vô minh quán của Viên làm chủ, kèm người dẫn dắt khiến cho mỗi hạnh đều ngay tu là tánh, không tu không đắc. Được thế thì thành công hạnh của Viên. Lẽ nào các sự hành, Diệu quán, Diệu cảnh, Diệu tu, Phát đại tâm, An tâm v.v… đều là sự tu tập siêu việt ư? Nếu quả như vậy thì trong tùy tự ý trải qua ba tánh kia hoàn toàn không có mười Thừa, làm sao gọi là Tam-muội. Nếu tự mình chưa am hiểu thì nên y theo sự khai mở, dẫn dắt và sách tấn tu tập của bạn lành mới thành tựu lợi ích sâu xa. Lại nữa, chúng ta phải hiểu rõ trong loại sám của Đại thừa thì một loại cuối cùng tuy có thể tu đơn độc. nhưng nếu không có sự tiến bộ thì hành giả phải mượn hai thứ trước. Hai thứ trước không thể tạm lìa loại Vô sinh. Đạt được ý ấy mới nói và thực hành ba loại sám pháp được. Tác pháp đầu tiên, “Tám trăm v.v… kinh Hư Không Tạng nói người biết pháp lại bảo quét dọn nhà xí tám trăm ngày. Ngày nào cũng nói với họ rằng “Ngươi làm việc bất tịnh. Một lòng chùi rửa tất cả các nhà xí, chớ cho người khác biết. Sau khi lau chùi xong, tắm rửa rồi lạy ba mươi lăm Đức Phật, xưng danh Hư Không Tạng. Hướng về mười hai bộ kinh mà gieo năm vóc sát đất, tự nói tội lỗi v.v…” “chín mươi ngày v.v…” kinh Bát Chu nói” “Có bốn điều kiện mau được ba thứ Tam-muội này”. Một là không được có tư tưởng thế gian, như tướng chỉ ngón tay, trong khoảnh khắc mà đã ba tháng. Hai là không được nằm trong suốt ba tháng, như khoảnh khắc chỉ ngón tay quyện vào nhau. Ba là kinh hành không được dừng nghỉ, không được ngồi trong ba tháng, trừ thời gian ăn uống. Bốn là nói kinh cho người nghe không mong được áo quần, thức ăn uống của người. Đó là bốn điều kiện? Bát-chu, Hán dịch là Phật lập. Lúc Tam-muội thành tựu, hành giả thấy chư Phật khắp mười phương đứng ở trong hư không, nên gọi là Phật lập. “Tro, nước sôi v.v… ” trở xuống là nói mỗi hành pháp ở trên đều làm sạch ba nghiệp. “Xoay vần tụng v.v…” trở xuống là mỗi pháp trong các pháp đều so hạn lượng của chế độ triển tụng, phương đẳng là cần thiết nhất. Xoay vần một trăm hai mươi vùng tụng đãn, trì chú một trăm hai mươi biến. Một triển là một chú, không chậm không nhanh. Triển xong liền ngồi để suy nghó về chính không của Trung đạo. Vì dẫn dắt nghi quỹ này nên gọi là Tác pháp. Kế là “chấp tướng mười hai mộng vua”: Phương đẳng Đà-la-ni nói: Trước là cầu mộng lành, gồm mười hai thứ. Hễ được một tướng thì cho phép sám hối”. Kinh Phạm Võng nói: “Nếu phạm mười cõi, lúc thấy hoa v.v… là liền được diệt tội. “Xướng âm thanh v.v…” trở xuống là kinh kia nói hành giả ở trong mộng nếu ngồi thiền mà hiện ra Bồ-tát này, dùng ấn Ma-ni mà ấn vào cánh tay của hành giả tạo thành chữ diệt tôi; hoặc nghe âm thanh diệt tội. Nếu khởi được tướng ấy thì biết chắc chắn tội sẽ diệt”. “Tuy không v.v…” trở xuống là vì tại đạo tràng chẳng phải không tác pháp. Đều từ ưu thắng mà lập danh là chấp tướng. “Nói sự dụng”: Tức là tác pháp. Kế là vô sinh: dùng niệm của Vô niệm mà niệm thật tướng của tội, chủ thể và đối tượng của niệm khác nhau về danh từ đối với thật tướng. Thật tướng của tội chủ thể và đối tượng của niệm và thật tướng khác nhau về danh từ nhưng thể vốn không hai. Tướng như vậy, tội tướng của niệm đã mất thì thật tướng cũng không còn. Thứ tuệ này như mặt trời làm tiêu tan sương mù tội lỗi. Duyên của vô duyên, rốt ráo là không, chẳng có tướng của Trung và biên. Lý này không sai lầm nên gọi là tối thượng v.v… “Tuy không v.v…” trở xuống là ba thứ này tu tập đồng thời. Vì vô sinh là chính, hai thứ kia là trợ duyên nên đại sư nói là: “gồm cả hai”. Nay thì cỏ chính và trợ đều hợp nhất mà thực hành. Như cao thì càng sáng nên việc Ứng lý lại càng nhanh. có: Kế là “Tác pháp v.v…” trở xuống là nói về ba thứ công năng, gồm Chỉ bày về công năng, có hai: Nói về dứt ác, có hai: Một là bốn phen thông với với Tiểu để giải thích: Nói thông với Tiểu là vì dùng bốn phiên này để giải thích ba thứ sám. Ý là ở Đại nhưng lại chưa làm rõ về tướng khác với Tiểu. Vì vậy, khiến cho lời nói về sự dứt ác ở Đại và Tiểu đều không trở ngại nhau. Vì thế, Đại sư nói là “Thông với Tiểu. Trong bốn phen ấy, đầu tiên là y theo Tánh già để giải thích, có ba. Một là Tác pháp, Vô tác tội: Thuở xưa, lúc nhận giới của Phật, nhờ tác pháp nên phát khởi được thể của Vô tác. Nếu hủy phạm thì mắc ba tội trái nghiệp. Nay nhờ tác pháp mà được phá tội này. Nói tánh tội tức là nói về mười điều ác, bất luận là nhận hay không nhận, tánh của Phạm tự nó là tội. Như Phạm v.v… trở xuống là nói: “Chặt cây lớn, giết súc vật. Hai thứ tội trái với chế định đều đã dứt nhưng việc giết súc vật thì phải thường mạng thì vẫn còn. Hai là chấp tướng: Do đó định tâm tưởng thành tướng thù thắng, năng lực huân tu mạnh nên có năng lực chuyển đổi nghiệp ác. Vì vậy nên diệt được hai tội Tánh và Già. “Như chặt v.v…” trở xuống: Cành, lá dụ cho tội Tánh già. Rễ gốc dụ cho Vô minh. hoặc của tâm còn thì có thể tạo tội lại như sự tiếp tục sinh ra của cành và lá. Vì đối với già và tánh mà giải thích Vô minh, nên loại Vô minh này có cả ở giới nội và giới ngoại. Đây là tướng thông với Tiểu. Ba là Vô sinh. Kế là “Lại nữa v.v…” trở xuống là y theo ba học để giải thích. Vì Tác pháp đề phòng sai quấy nên là tội diệt Giới. Vì chấp tướng chuyên ý nên là tội diệt Định. Vì Vô sinh quán chiếu nên là tội diệt Tuệ. Sự Sai lầm là tội của Giới gia. Tán loạn là tội của Định gia. Sự tăm tối của hoặc là tội của Tuệ gia. Kế là “Lại làm v.v…” trở xuống là do pháp mà đạt được. Vì vậy, Tác pháp có thể trừ. Quả báo của đường người nửa khổ nửa vui. Vì sự chiêu cảm điều lành nên chấp tướng có thể diệt. Quả báo của thời thuộc ba cõi so với nhân đều là Định, không có khổ, chỉ có vui; Vì sự cảm vời của ba thứ lậu nên vô sinh có thể diệt. Kế tiếp là “Lại nữa v.v…” trở xuống là giải thích về trừ ba nghiệp: Theo lệ chung của quả báo là nhận biết được chủ thể cảm và đối tượng được cảm mà chia ra hai sự giải thích. Kế là “Lại làm v.v… ” trở xuống là hai phen chỉ giải thích về Đại: Bốn phen giải thích trước là có cả cả Đại và Tiểu thừa. Vô sinh dứt trừ hoặc thì chưa giản lược về chung và riêng. Tác pháp hoặc chấp là sự chế định của Tỳ-ni. Kế là giải thích về Vô minh trong phá chướng của vô sinh. hoặc chung bất sinh là chấp tướng của ngày nay. Qua đó, chúng ta xét biết rằng ở đây chỉ đặt chân ở Đại thừa để giải thích, có hai. Một là giải thích về phiền não của biệt: Sợ hãi thuộc về Tư, lo buồn thuộc về kiến. Nay tác pháp thành tựu, thì giai vị năm phẩm có khả năng chế phục loại hoặc này. Vì chỉ có chế phục mà gọi là phá nên nói “Cũng là” chấp tướng sáu thành ở giai vị Thất Tín. Vì vậy diệt bốn trụ, vì đã thấy Chân-đế. So với Trung gọi là tướng nên gọi là chấp tướng. Quán vô sinh thành thì giai vị là bước lên sơ trụ. Đối tượng được trụ là ở vô minh căn bản. Vì vậy, chúng ta biết rằng sự giải thích này là đặt chân riêng vào Đại thừa để làm sáng tỏ về ba thứ sám. Hai là “Lại nữa, ba v.v…” trở xuống là có cả cả ba thứ chướng để giải thích “Cùng trừ quả báo”: Đó là quả báo hiện tại, sinh thân của cha mẹ đạt được sáu căn thanh tịnh. Chuyển báo thật sự ở tại sự phối hợp giữa Chánh và trợ để thực hành. Nếu chỉ lý quán thì tuy đi vào Chân và Tựa nhưng cũng có vị không có được sáu căn thanh tịnh. Cho nên nói “Ba thứ sám cùng trừ chướng của quả báo. “chấp tướng trừ nghiệp”: Tức là y theo “Ra khỏi Giả mà nói. Có thể dùng vô lượng nghiệp chủng của đời trước làm duyên độ sinh mà nghiệp không thể ngăn vướng, tự đại đối với nghiệp gọi là trừ nghiệp chướng. Vì chưa thật sự ra khỏi giai vị Giả nên thấy Tục đế vẫn còn gọi là chấp tướng. Nghóa của Vô sinh dứt hoặc rất dễ hiểu. Kế là “Lại làm v.v…” trở xuống là nói về sinh thiện: “Vẫn y theo dụ để làm sáng tỏ năm loại đá”: Đó là bạch anh, Tứ anh, Thạch cao, Chung nhũ, thạch chỉ. Năm chi là cỏ Linh Chi năm màu. Gừng và Quế còn dụ cho cho tác pháp của Tiểu thừa nên chưa sinh thiện. Nếu là tác pháp của Đại thừa thì sinh thiện quả là không ít. Năm loại đá và năm chi là dụ có cả sự sinh thiện thuộc về cả sự và lý của Đại và Tiểu. Kế là “Như vậy v.v…” trở xuống là khuyên người tu học: Nói phải biết tức là nói người học phải biết Tiểu và Đại đều có công năng dứt ác, sinh thiện, phải biết tu cả ba thứ ấy mới được lợi ích. Nếu chỉ nói mà không tu là có tội. Kế là “Văn nay v.v…” trở xuống là nói rằng kinh có ba thứ sám, có hai: Một là chỉ bày kinh có ba đoạn văn. Hai là kết rằng sám là dụng của kinh. <篇> KINH KIM QUANG MINH VĂN CÚ KÝ <卷>QUYỂN 3 (Phần cuối) có: Tiếp theo là “Từ đây v.v…” trở xuống là giải thích về văn, gồm - Đối phán chia văn, có hai: Một là đối phán: Nói về lực dụng của kinh chỉ có cả ba phẩm. “Từ phẩm này v.v…” trở xuống là dùng phẩm này đối với phẩm Tán Thán để nói về chê bai và chánh pháp. Hai là “Phẩm này v.v…” trở xuống là phân văn. Kế là “Mộng v.v…” trở xuống là y theo văn đề giải thích về ng- hóa, lại có: Nói về sự thấy nghe trong mộng, có hai: Mộng thấy trống vàng, có hai: Một là giải thích về mộng: Sự giải thích ở trước ở trong sớ nói về Bồ-tát Tín Tướng ở tự vị của ngài, hoặc là tự của lân cực, hoặc tự của lân chân: ở vị trí ấy mà mộng thấy trống vàng thì lẽ nào lại là giấc mộng mê mờ tăm tối của Bát địa ư? Cho nên dùng hai nghóa để giải thích chữ mộng. Đầu tiên gọi là Tam-muội được gọi là như mộng. Do đạt được tính cụ, tu đức không công, nhân biện quả sự, như mộng thân cố gắng, cho nên gọi là Như mộng Tam-muội. Kế là “Lại nhập vào v.v…” trở xuống là lấy sự có mộng có tỉnh của người phàm để dụ cho phép quán, pháp quán có vào có ra, đó là lấy sự nói và im lặng mà làm sự ra vào. Cả hai sự giải thích đều chỉ bày rằng mộng là trí quán. Đầu tiên là giải thích hơi hần. Hỏi: Mộng là pháp điên đảo, tăm tối đối với chân. Quán là pháp trí của giải thích? Mê mờ và hiểu biết khác nhau như trời vực, làm sao dung hội được? Phật địa hết mê, phàm phu chưa liễu giải, cả hai đều không nói về quán. Đối với mê được sự giải gọi là quán trì. Vì thế, luận Khởi Tín nói: Vì y theo nghiệp thức mới nói là thấy Phật. Nếu lìa nghiệp thức thì không được thấy”. Nay vì nói về sự giải ngộ của tự chiếu soi pháp tánh nên gọi là nhập quán, y theo nghiệp thức nên nói quán là mộng. Chưa đạt đến điểm cùng cực của trí giải thì sao lại không mộng. Mộng của chiếu soi pháp tánh lẽ nào lại chẳng phải là quán trí. Nếu không nắm được ý ấy thì không thể tiêu giải được đoạn văn này. Hai là “Như pháp tánh chính là v.v…” trở xuống là giải thích về cái trống, có hai: Một là trực tiếp biểu thị về ba đức: Trí thuộc chủ thể quán dùng mộng để chỉ bày về mộng thì chắc chắn là thấy tướng. Vì vậy, dùng trống vàng để biểu thị cho cái được quán, tức là pháp tánh. Vì thể của cái trống có tiếng kêu của không thuộc viên, nên có thể biểu thị cho ba thứ đức. Hình dáng của trống đẹp và to nên lại hiển bày cho tính chất sâu xa vô lượng của ba đức. Kế là “Đẹp và lớn v.v….” trở xuống là cả ba đức đều sâu xa. Vì mỗi đức trong ba đức đều là toàn thể của Pháp tánh. Nêu lên một đức là đều có đủ hai thứ kia, được gọi là ba thân, ba trí và ba giải thoát. Nếu không như vậy thì làm sao có thể nói rằng cả ba loại đều là vô lượng sâu xa. Kế là “Đây v.v….” trở xuống là kết sự chỉ bày: Tức là ba đức của cái trống đối với ánh sáng thì chỉ là pháp thân được chiếu soi. Ngay cả pháp thân này thâu nhiếp cả Báo và Ứng là ba đức ở trên, cho nên nói “Quán một mà thấy ba Đức Phật”. Tiếp theo là “Từ v.v…” trở xuống là thấy ánh sáng của trống: Toàn bộ lý thuộc về đối tượng được chiếu soi khởi các trí thuộc về chủ thể chiếu soi. Vì vậy, đức của pháp tánh đều trở thành đức của trí. Vậy lẽ nào đặc tính tròn, không, tiếng kêu và ánh sáng của trống lại chẳng giống như vậy ư? Ba đặc tính của trống là đẹp, lớn và ánh sáng cũng giống như vậy. Chúng ta nên nhớ rằng thể của pháp tánh là bổn giác, trí là thỉ giác. Chỉ là một thứ giác nhưng do Bất giác nên chia ra Bổn và Thỉ khác nhau. Đã thành tựu quả lớn, tức là đã lìa bất giác. Vì vậy, Thỉ thầm khế hợp với Bổn gọi là Pháp Báo hợp nhất. Vậy, lẽ nào Thỉ giác lại khác đối với Bổn? “Bản mới được dẫn có cùng Thể, có cùng ý và có cùng sự”: Vì Pháp Báo đã hợp nên không hại không khác đối với chư Phật. “Đây tức v.v…” trở xuống là thấy được ánh sáng của trống chính là biểu thị cho trì của Báo. Trì này thầm hợp với Pháp. Vì pháp có đủ cả ba nên báo cũng là ba. Cũng là báo này trên thì thầm hợp với pháp, dưới thì rũ Ứng. Vì vậy mà nói “Có đủ cả ba”. Kế là “Lại nữa, đối với v.v…” trở xuống là thấy Đức Phật ở trong ánh sáng, có hai: Một là y theo Văn để biểu thị về nghóa. Nói “Ánh sáng từ v.v…” tức là đối với hai thân ở trên, đây là biểu thị có cả Ứng. Cho nên Đại sư nói “Giống về Sự” Ứng không đứng một mình, chắc chắn có đủ cả ba thứ thân. “Lưu ly v.v…” trở xuống là Pháp. “Tòa ngồi của Phật v.v…” trở xuống là Báo. “Đại chúng..” trở xuống là Ứng. Hai là “Đây tức là v.v…” trở xuống là kết nghóa về Viên, có hai: Một là kết riêng về ba điều này: Vì toàn bộ pháp và Báo là Ứng thân. Vì thế, văn kinh biểu thị đủ cả ba vị Phật. Hai là “Nhìn thấy v.v…” trở xuống là kết chung về nghóa trên: Nói “Ba vị Phật”: Tức là cái trống biểu thị cho pháp Phật. Cả ba vị Phật đều có đủ cả ba nghóa. Tức là pháp nào, cũng có đủ ba. Lược thì mười thứ ba pháp, đầy đủ thì tất cả đều là ba. Các pháp này thuận với sự giải thích về thí dụ. Như vậy thì Kim Quang Minh của thế gian là cái để ví du cho ba pháp. Nếu đứng trên văn phụ kèm thì nên giải thích về thể đều là Pháp Kim Quang Minh. Vì mỗi loại đều có đủ cả ba là nghóa của đáng quý, đáng trọng, vắng lặng mà thường chiếu soi, nghóa của nhiều lợi ích. Vì nghóa đã như vậy nên kinh này có tên là Kim Quang Minh. Nghóa được biểu thị ở đây là do Đại sư đạt được Triền Tổng trì. Trong cái một mà giải ngộ được vô lượng, trong vô lượng mà giải ngộ được một. Vì lẽ đó mà sự giải thích, phải tiêu giải văn mới viên dung đến thế. Mong rằng kẻ thấy người nghe nên dứt bỏ, sự chấp đắm của tình thức để suy nghó, tu tập. Kế là “Thấy có v.v… ” trở xuống là mộng thấy đánh trống, gồm có: Một là Phân văn. Hai là Phát ra âm thanh lớn. Ba là “Âm thanh của cái trống v.v…” trở xuống là sự giải thích do âm thanh, có hai: Một là “Cái trống là v.v…” trở xuống là nói về tự trí hội Pháp khởi dụng: Cái trống nói trên biểu thị cho ba thứ ánh sáng, ba vị Phật v.v… ba chỉ là một. Ba của nay là đối tượng được quán của Trí thuộc về cơ của Trí tướng, hợp ba là một, chỉ gọi là pháp thân. Bà-la-môn biểu trưng cho Tịnh hạnh thuộc Chân và Tự. Vì thế Lân chân nên kinh gọi là Tự. Vì Tự của viên có khả năng chế phục hoặc nhiễm của Đồng thể nên gọi là Tịnh trí. Lấy tịnh trí ấy hội nhập với Thường lý tức là do vị cam lồ và Tương tự tương ưng, có thể dùng âm thanh mầu nhiệm làm cho hiện hữu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Vì diệt khổ sinh lạc nên khiến cho văn kinh lấy hình ảnh đánh trống để biểu thị cho ba thân của Tự vị. Nếu không như vậy thì bản tánh của Tín Tướng và Phật tuyệt đối khác nhau, Ứng dụng của Phật chẳng phải là cảm của Tín Tướng. Hành giả nên rõ biết Thích-ca và Tín Tướng cùng hưng khởi giấc mộng này. Cho nên có sám pháp làm lợi ích cho chúng sinh. Hai là “Trống là v.v…” trở xuống là nói về dùi trống và trống hợp thành ba thứ thân. Kế là Từ “Thời v.v….” trở xuống là giác ngộ rồi nói về thấy nghe, có hai: Một là chia văn. Hai là “Lúc bấy giờ, Tín Tướng v.v…” trở xuống là tùy thích, như sau: Đến chỗ Phật, có hai: Giải thích giấc mộng: Lại gồm có hai: Theo giáo để giải thích: Sớ có hai cách giải thích: Một là y theo nhập quán và xuất quán: Đây là đứng trên pháp để giải thích theo chiều ngang. Kế là y theo chế phục hoặc và dứt trừ hoặc: đây là y theo giai vị để giải thích theo chiều dọc. Vì nhập quán vốn để mong cầu bước lên các địa, dứt hoặc, cho nên chúng ta biết rằng ý của hai cách giải thích ấy đều cần nhau. Nói “ba mươi tâm” tức là dùng Biệt để làm rõ Viên. Hai là giải thích về quán: Nói “Quán hạnh vị” tức là đối Phần Chân tức năm Phẩm, Thập tín đều gọi là Quán hạnh. Vì chưa chứng Chân và Tự, mà được gọi là quán, pháp thụy miên của Vô minh thuộc vị trí nội và ngoại phẩm hoàn toàn chưa phá. Cho nên quán ba thứ thân như cái được thấy ở trong mộng. Vị trí chân đã phần phá, đã rõ biết đối với Lý. Vì vậy, quán ba thân như trời đã sáng: “Ra khỏi nhà của vua, v.v…” Ở giai đoạn nhân chưa lìa năm ấm thuộc biến dịch như đang ở tại nhà của vua. Nay đã ra khỏi ngôi nhà đó là biểu thị sẽ đến quả. Đã nói về pháp quán có nhập Phần Chân và phần cực quả nên dự đoán biểu thị về nó. Kế là “Đến kỳ v.v…” trở xuống là giải thích, đi đến: Vương thành và Linh Thứu tuy đều là đất, nhưng vì núi là chỗ cư trú của Phật nên biểu thị cho giai đoạn quả; Tín Tướng ở tại thành hợp với sự biểu thị cho giai đoạn nhân. Nay vì đi đến để biểu thị cho nhân hướng về quả. Kế là “Lúc bấy giờ v.v…” trở xuống là chung với duyên. Tiếp đến là bày tỏ sự cung kính: “Tín đầu là quý”: Nhờ Tín mà được nhập vào biển cả Phật pháp. Tín là nhân, người. Vì trên cầu nên như cái đầu là đáng quý nhất. “Từ bi là thấp hèn”: Nhổ gốc khổ ban cho niềm vui là hạ hóa của quả, người, cho nên như hai chân là thấp hèn. “Lấy quý tôn kính thấp hèn”: Tức là lấy tín để giằng lấy Từ. Trong kinh, lúc lạy xong đi nhiễu theo chiều bên phải là nói lên sự lưu luyến, kính mến. Kế là từ “Lấy…” trở xuống là nói về mộng, có hai: Một là chia văn, “Đều nói là hành giả”: Người xưa lấy mười bảy chữ thuộc Tán thuyết làm hành. Kệ tụng có hai v.v… bốn, năm lời thì bốn câu là một bài. Bảy lời thì hai câu là một bài. Bởi vì các sư ngày xưa lúc chia kinh đều lấy số hàng làm chuẩn. Đời nay vì biến loạn nên khiến cho chế độ thêm bớt số chữ bị mất khuôn phép ban đầu. Lẽ nào vì bản sớ xưa chia kinh có trồi sụt rồi cũng làm cho mục lục, số trang không có chuẩn mực hay sao? Tôi gửi lời đến bậc có hiểu biết rằng y cứ và chế định của người xưa. Hai v.v… trở xuống là giải thích về nghóa, như sau: Nói chung về mộng: lại có: Thấy cái trống vàng: có ba: Một là thấy hình trạng của trống. Hai là “Ánh sáng của nó v.v…” trở xuống là thấy ánh sáng của trống. Ba là “lại, nhân v.v…” trở xuống là thấy Đức Phật ở trong ánh sáng. Cả ba phần này đều là ý của ba thân được nói lên bởi văn xuôi. Vì trống tuy có đủ cả ba nhưng đều là cái được chứng nên hợp thành pháp thân. Vì ánh sáng có đủ ba của trống, toàn lý là trí nên hợp thành báo thân. Cảnh và trí cùng sự nhiếp cơ của chư Phật cũng có đủ ba thứ thân gọi là Ứng. Ở đây hợp với chín và ba, tức là như cảnh được quán của Tam-muội như mộng. Tam-muội là quán. Kế là “Thấy bà v.v…” trở xuống là nói về đánh trống: Ba của hợp chín do văn ở trên biểu thị tuy là Phật pháp. Nhưng vì đã cùng với pháp của tâm và pháp của chúng sinh không có sự khác nhau nên là cảnh thuộc tâm tánh của Tín Tướng. Nay ở trong mộng đã thấy Tự trí của mình hội với Pháp thân của Tánh khởi sự Ứng với căn cơ dùng để nói kệ sám hối. Đây là Tín Tướng cùng với Như Lai khởi sinh lực dụng của kinh. Kế nữa là “từ đó…” trở xuống là nói riêng về mộng, gồm có: Nói về trống vàng có năng lực dứt ác, sinh thiện, có: Chia riêng kinh, lại có: Một là diệt trừ nhân quả khổ của thế gian: Hai bài trước là diệt trừ quả. “Các loại Hữu”: tức là ba hữu. Một bài sau là diệt trừ nhân. “Các loại não”: tức là ba thứ hoặc. Hai là “Dứt trừ chúng.. “ trở xuống là sinh ra nhân quả vui xuất thế gian: Hai bài trước là quả xuất thế gian. “Dứt trừ sợ hãi của mọi người”: Tức là lìa năm việc sợ hãi. Đó là sự sợ hãi thuộc đường ác, sự sợ hãi thuộc tên gọi ác, sự sợ hãi của cái chết, sự sợ hãi vì không có kế sống, sự sợ hãi vì uy đức của đại chúng. Đạt được vô sở úy có bốn. Một là Vô sở úy thuộc Nhất thiết trí. Hai là Vô sở úy thuộc lậu tận. Ba là Vô sở úy thuộc thuyết chướng đạo. Bốn là Vô sở úy thuộc thuyết tận khổ đạo. Lìa bờ này của hai hình thái chết, đến bờ kia của ba thứ trí. Một bài sau là nhân xuất thế gian. Định tức là Lăng-nghiêm. Loại định này có cả tuệ, tức là chánh đạo hạnh của quán cảnh chẳng thể nghó bàn v.v… giúp đạo tức là đối trị hạnh thuộc Độ và thuộc Sự. Kế là “Cái trống ấy v.v…” trở xuống là có công năng khiến cho chúng sinh tự và tha đều đầy đủ. Một bài rưỡi trước là sự đầy đủ của tự tu hành. Hai bài rưỡi sau là sự đầy đủ của giáo hóa người khác. “Hai phiền não là phá nhân, “dứt khổ” là phá quả. Hai câu dưới là giải thích trên. “Tham sân, si” là giải thích một chữ Đẳng của phiền não ở trên. “Tất cả các khổ đều khiến cho được vắng lặng”, đó là chính thật giải thích về nghóa năng hại, tiêu trừ ở trên. Kế đến là “Nếu có…” trở xuống là có công năng dứt trừ chướng nạn của qủa báo và kiêm luôn cả sự đạt được Túc mạng. Vì giới thư thả nên ở tại địa ngục. Vì Thừa cấp bách nên nghe tiếng trống vàng. Không chỉ ra khỏi ngục gồm cả túc mạng, ngàn, muôn, ức sinh thiện biết được việc ấy. Vì thế, nhớ nghó chân chánh về chư Phật, lại nghe pháp âm viên mãn mầu nhiệm của chư Phật. Kế là “Vàng này…” trở xuống là có công năng khiến cho chúng sinh đạt được các pháp môn. “Trước là đạt được ít”: lại y theo một loại pháp lìa ác tu thiện. “Sau là đạt được nhiều”: Tùy suy tư, tùy nguyện ước, tất cả đều khiến cho được thành tựu. Tiếp là “Nếu có v.v…” trở xuống là có năng lực phá tám nạn trôi lăn của chúng sinh. Tức là kinh nói rằng “Các nạn”. Tám nạn: ba đường gồm có ba. Trong cõi người có bốn. Một là mù, điếc, câm, ngọng. Hai là thế trí biện thông. Ba là trước Phật sau Phật. Bốn là Bắc châu. Trên trời có một, đó là Vô tưởng, hoặc trời Trường thọ. Kế là “Giải thích điều này v.v…” trở xuống là chỉ bày chung về nghóa: Kinh chỉ ra sáu đoạn văn. Tuy lợi ích có bao gồm hiện diện khắp nơi nhưng lời lẽ vẫn còn chung, sơ lược nên khó giải thích cho đầy đủ. Vì vậy, Đại sư khuyên người giải thích nên y theo sáu đoạn văn này để nói rõ từng phần. Từ khổ mà được vui, lậu đạt được vô lậu, bỏ Tiểu đi vào Đại, từ quyền mà đi tới Thật. Từ nhân đến quả, tiết nào cũng đều nói về sự phá ác, sinh thiện. Giải thích đầy đủ như hai mươi lăm Hữu đều được quả báo, nhân hoa. Cỏ nhỏ, cỏ trung, cỏ đại; cây nhỏ, cây lớn một thật sự phương tiện, thật báo mười phen lợi ích mới cùng tận cái tướng diệu âm giải thích bị cho chúng sinh được xuất ra từ cái trống vàng. Nếu nói đủ thì như Diệu Huyền và Thỉnh quán âm sớ. Kế là “Từ một v.v…” trở xuống là nói về giáo mới gọi là pháp sám hối, như sau: - Chia văn, có hai: Một chính là chia văn kinh. Hai là trình bày ý sinh khởi “Tà đảo che chướng lý”: đối với thân của quả khổ mà khởi tám hình thái điên đảo để che chướng bốn đức: Đây là nói về chướng của quả báo, hai thứ dưới dễ nhận biết. “Bậc Thánh v.v…” trở xuống là y theo ở trên, Đức Phật Thích-ca tự trình bày rằng: “Nay ta nên giảng về pháp Sám hối v.v…”. Nay nói “Bậc Thánh” tức là chỉ cho Bổn sư, giúp cho đạt được ba thứ chướng chính là ba đức, là chỉ bày về sự nêu bày chung của sám hối. Ba câu cuối là chỉ bày riêng, là chỉ bày rằng báo chướng thuộc về đạo, lý chính là pháp thân; chỉ bày rằng nhân quả phiền não chính là Bát-nhã, ba thứ quán là nhân, ba trí là quả; chỉ bày hạnh lành kết nghiệp tức là giải thoát, “Phải nguyện chỉ quy”: dùng nguyện để dắt dẫn hạnh đến rốt ráo. Kế là “Tự sám v.v…” trở xuống là giải thích nghóa, gồm có: - Dạy về tự nói tội lỗi sám hối, có hai: Một là chia văn. Hai là “phù, pháp v.v…” trở xuống là giải thích nghóa, có: Một là nói về pháp thân là nơi y cứ. Vì hợp với sự tu nên chỉ gọi là pháp thân. Nhưng, vì tánh vốn thường lìa nên có ba đức. Ba đức này rất tôn quý nên còn gọi là Tam bảo. Pháp gọi là Bất giác, Phật gọi là Giác. Vì thể tánh của vắng lặng - chiếu soi này vốn sẵn đủ các pháp nên hiện hữu ở tất cả mọi nơi của tu đức. Dùng nghóa hòa này gọi đó là Tăng. Tuy phàm phu, Tiểu thừa mê tối nhưng toàn bộ thể tánh chính Là. Vì vậy, tức là Bồ-tát thuộc Sơ, Trung và Hậu tâm của Viên giác đều lấy pháp thân làm chỗ quy hướng, làm cội gốc. Nếu cội gốc ấy đã lập thì ba thứ trí, ba thứ thân, ba thứ giải thoát, tất cả đạo pháp đều sinh khởi một cách tự nhiên. Kinh nói: “Ta là bình đẳng”. Tánh đức của chúng sinh hoàn toàn là quả Phật, ngã thuộc về chân như. Hai là “Trong vốn v.v…” trở xuống là thỉnh Phật che chở, bảo vệ. “Sự tôn quý của hai việc đầy đủ trong kinh”. Đại kinh nói về hai sự giải thích trong mười hiệu. Một là y theo đường lành thuộc người, trời thì phước trí đầy đủ là quý hơn Phật, bậc tôn quý trong người, trời. Hai là y theo sự đầy đủ về Phước và Tuệ mà còn gọi là “Đầy đủ cả hai”. Ở đây cũng như khoảnh khắc. Phù sơ tức là thịnh vượng. Phong là sum suê. Thuyết văn nói: “Phù sơ tức là cành và lá bủa ra bốn hướng”. - Chính là nói về sám hối, có hai: Một là chia văn. Hai là giải thích nghóa, lại có: Một là nói rõ chung về sám hối: “Sám riêng…” trở xuống là nói riêng về sám hối, có hai: Một là chia văn. Hai là giải thích nghóa, như sau. Sám hối phiền não chướng, gồm có: Giải thích văn, có ba: Một là giải thích: “Không biết được mười Lực của chư Phật”: Thị xứ phi xứ lực. Nghiệp lực. Định lực. Căn lực. Dục lực. Tánh lực. Chí xứ đạo lực. Túc mạng lực. mắt Trời lực. Lậu tận lực. Mười loại này gọi chung là lực: Tức là dụng của trí như thật do chư Phật thông đạt được tất cả, hoàn toàn rõ ràng; Vì không có gì phá hoại được, không gì hơn được nên gọi là Lực. Đại Bồ-tát cũng đạt được từng phần đối với lực này, nhưng vì so với Phật thì kém hơn nên không gọi ngay tên mà gọi Đức Phật là Thập Lực. Mười lực ấy, Phật thuộc Pháp thân vốn sẵn có, Phật thuộc báo chứng đức và Phật Ứng dụng nó. Toàn thể sắc tâm, y chánh và nhân quả của chúng sinh tức là ba Phật, mười lực. Chỉ vì chúng sinh mê tối nên toàn bộ trí là hoặc, gọi là Phiền não chướng mà Độc đầu Vô minh là hạt giống của phiền não. Vì xúc xứ mà không rõ biết được Pháp thân nên dụ cho mắt của trâu, dê, chim sẻ, không biết thiên tử và tượng gỗ. Vì không liễu ngộ được nên ba tế, sáu thô khởi lên mạnh mẽ. Nói “tượng gỗ” tức là kết đất và gỗ mà làm tượng Phật; nhưng người thì biết kính sợ, còn chim sẻ thì không. hoặc dẫn các đế của chánh cung chu lễ, chẳng đúng ý ở đây. Hai là giải thích về ân đức của cha mẹ, kinh Tịnh Danh nói: “Khéo léo quyền biến là cha của phương tiện, Trí độ là mẹ của Bồ-tát. Tất cả các bậc Đạo sư đều từ đó mà sinh ra”. Vì không rõ biết được sự tương ưng của Độc đầu hoàn toàn là hai thứ trí, nên Pháp ẩn diệt bất sinh. Ba là giải thích không hiểu được pháp lành, các điều lành giúp đạo có thể hoàn thiện Ứng thân, vì không hiểu được nên không tu. Kế là “Ba vị Phật.. “ trở xuống là kết thúc sự chỉ bày, là nêu lên sự không biết, không hiểu để làm sáng tỏ sự hiểu biết, sự biết hôm nay là sám hối mầu nhiệm. Kế là “Tự cậy v.v…” trở xuống là sám hối báo chướng, gồm có: Một là y theo sự để giải thích về họ. “Ngạo nghễ người khác”: Tức là dùng sang ngạo với hèn. Họ Sát-đế-lợi, Bà-la-môn ở Ấn Độ là sang. Họ Tỳ-xá, Thu-đà là hèn. Hai phần khác rất dễ hiểu. Hai thứ thiện báo này nếu buông thả thì chướng ngại đối với việc tu đạo, nếu không buông thả thì sẽ giúp cho đạo. Hai là nay lại y theo Pháp để giải thích, có hai: Một là y theo ba học: Tức là dùng ba thứ sự để biểu thị cho ba học. Nhờ tuệ mà đạt đạo nên như sự tôn quý của họ. Vì định bồi bổ cho tuệ nên như tài bảo. Vì Giới chế phục sai phạm nên như năm tháng sung mãn. “Nhiễm điều ấy v.v…” trở xuống là tướng của Chướng. Đại luận chép: “Vì Pháp của tự thân ái nhiễm nên chê bai pháp của người khác. Tuy có trì giới cấm nhưng vẫn không thoát khỏi sự đau khổ của dịa ngục”. “Không cầu Pháp: Pháp vượt hẳn Niết-bàn mà còn hoàn toàn như huyễn thì vì lẽ nào lại dùng pháp nhiễm của tự thân để khinh mạn người khác? Không thấy ta và người mới gọi là cầu pháp. Hai là “Pháp Hoa v.v…” trở xuống y theo ba loại giáo: trong ba ví dụ ấy lại dùng một loại dụ là “Năm tháng đầy đủ” mà bao gồm cả hai thứ giáo. “Cùng tử dọn phân” nên “biết kho tàng” trải qua dần dần ba thứ mùi vị. Tâm hai bên mạnh đều gọi là thiếu niên, tráng niên. Phật ở Đạo hậu, rốt ráo vô vi mới gọi là già yếu. “người phàm v.v…” trở xuống là muốn nói về pháp tráng niên và lại nêu lên Tráng niên thuộc về Sự. Tạng giáo Nhị thừa, Thông giáo ba thừa, tuy Chiết và Thể khác nhau nhưng đều dùng cái mạnh của không để giày xéo cái yếu của Hữu. Tuy chia làm ba loại quán nhưng công duyên vào Vô lượng. Vì thế, cậy vào Pháp nhãn để dày xéo đối với Tuệ nhãn. Tất cả những trường hợp ấy đều gọi là sự buông lung lúc tuổi tác cường thịnh. Sự trải qua giáo lý của Chủng tánh và tài bảo cũng giống như vậy. Kế là “Chấp chặt điều ấy v.v…” trở xuống là kết luận phải sám hối. “ba học ba giáo gọi là Báo chướng”: Loại tâm này thành tựu là do sự huân tập đời trước mà cảm sự hy vọng. Sau ở nhân so với trước là quả. Vì vậy, được gọi là ở nơi báo mà khởi xướng. Vì chướng nên phải sám hối. Kế là “Theo tâm v.v…” trở xuống là sám hối nghiệp chướng, có ba: Một là phần tiết kinh để chỉ bày về nghóa, có hai: “Một…” trở xuống là tùy theo văn để giải thích khái lược về mười chín đoạn: Như sớ đã nêu “Cũng là dạy người khác”: Tức là chỉ cho sự gây ra nghiệp ác của miệng. Nghóa là tự mình gây ra điều sai lầm, đồng thời lại xúi giục người khác thường làm tất cả điều ác. Đã tùy theo tâm ngu si thì lẽ nào lại soi chiếu trở lại được? Kinh Tâm Sinh Phẫn Nộ, cầu năm dục thì giận người khác không cho. Có năm dục thì giận vì người khác chiếm đoạt. Phẫn tức là nộ. Kinh nói: “Gần gũi người chẳng phải bậc Thánh thì gọi là ngoại đạo”. Vì ngoại đạo tự cho mình là bậc Thánh nên đệ tử Phật chỉ ra đó là chẳng phải Thánh. Keo kiết tức là tiếc lẫn tiền của, ghen ghét tức là ganh tî với người Hiền. Nay dối trá nói là gian xảo, ma mị gọi là dua nịnh. Nói “ruộng kính Đời không có Phật” vì Bích- chi-phật ra đời lúc không có Phật. Vì Bồ-tát nhiều kiếp không câu thúc ở hình tướng, tùy căn cơ mà giáo hóa chúng sinh lúc đời không có Phật “Ruộng ân đức”: Ruộng có ba thứ. Tam bảo gọi là Ruộng tôn kính, cha mẹ gọi là Ruộng ân đức, nghèo cùng gọi là Ruộng từ bi. Sở dó gọi chung là ruộng bởi tất cả đều có thể gieo trồng phước đức. Về “Kiêu mạn”, Câu-xá nói: “Mạn là nêu lên đối với tâm người, kiêu là do pháp nhiễm của “bản thân”. Tiếp theo là “Tạo nghiệp v.v…” trở xuống xuống là chỉ bày sự giải thoát để giải thích pháp: Y theo sự vâng thuận giáo lý của nay thì người là Thỉ. Nếu đối tượng được sám hối phần nhiều thuộc bốn đường thì nghiệp được gây ra bởi hoặc thuộc Thông gọi là nghiệp hữu lậu, nghiệp được tạo ra bởi hoặc thuộc biện gọi là nghiệp vô lậu, nghiệp của các thứ Đại Bi không thể suy nghó bàn luận v.v… Vì vậy, Bồ-tát Đẳng giác lại đều phải sám hối. Kế là từ “Ta v.v…” trở xuống là nói về sự cúng dường chư Phật, có hai: Một lập ý chia văn. Hai là y cứ theo văn để giải thích nghóa, có hai: Một là nói về sự cúng dường thuộc tiền của. “Nay ta v.v…” tức là nói về sự cúng dường tiền của của ngay nơi Pháp. Vì sao? Vì trong tâm tam thiên đại thiên thế giới có có trăm ngàn ức vị Phật, huống chi là chư Phật của Vô lượng vô biên Đại thiên. Nếu tiền của có hạn thì làm sao có thể cúng dường khắp nơi được. Bởi vì, do rõ biết được thể của vật cúng dường được cung phụng ấy là Pháp giới, sinh ra vô tận, mỗi vật đều hiện khắp mọi nơi. Vì vậy, trước tất cả cõi nước, tất cả các Đức Phật đều có sự cúng dường vượt ngoài sáu trần, chẳng những là hiện hữu rộng khắp mà chúng còn tồn tại mãi (để) làm Phật sự cho đến tận Vị lai. Vì nói pháp môn tu hành của đoạn tiếp theo nên ở đây gọi riêng là cúng dường tiền của. Chúng ta phải biết rằng thể của hai thứ cúng dường vốn tương tức. Nhưng vì sự khác nhau của pháp môn nên chia làm hai. Hai là cúng dường Pháp, có hai: Một là chia văn lập ý: Giáo hóa người thì dùng từ. Đó là Vô dyên từ không lìa ba thứ trí. Tự hành thuận trí, đã là trí của Phật thì lẽ nào lại lìa ba loại từ? Vì giúp cho người học dễ hiểu hơn nên nói theo tương đối. “Pháp cúng dường (là) bậc nhất”: Bởi nó thường làm cho tuổi thọ của Đức Phật thường trụ, không dứt mất, biến hóa kỳ diệu vô cùng. Lại nữa, nếu có Pháp thì hai thứ cúng dường đều được thành tựu. Nếu không có Pháp thì sự cúng dường tiền của cũng bị phế bỏ. Do đó, sự cúng dường Pháp được gọi là vượt hơn. Hai là y theo văn để giải thích nghóa, có hai: Một là nói về việc giáo hóa người khác cúng dường Pháp, như sau: - Giáo hóa người khác khiến họ tu hành, có hai: Một là chia văn. Hai là giải thích về nghóa, có bốn. Một là “ta nên v.v…” trở xuống là nói khởi đầu sự giáo hóa lấy đại bi để nhổ bỏ gốc đau khổ. Hai là “Ta nên đặt v.v…” trở xuống là khuyến khích công hạnh của Thập địa thuộc nhân chân chính. Ba là “đã được v.v…” trở xuống là khuyến khích Bồ-đề đại giác thuộc quả chân chính. Bốn là “Làm một v.v…” trở xuống là khuyên tinh tấn, đốc suất khiến cho thành tựu công hạnh. Kế là “chúng v.v…” trở xuống, Một là Giáo nghóa. Hai là Quán hạnh. “Một niệm tâm”: Tức là nêu lên một niệm, dùng ba phép quán siêu việt điều phục làm cho vọng tức là chân gọi là ánh sáng của chân phát khởi, hoặc là đến Sơ trụ, hoặc là đến sáu căn, hoặc thành năm phẩm, tất cả đều được gọi là thành quả chân thật. Cho nên nghóa của Chỉ quán làm lệ có cả ví dụ của đạo, cây. Quán cảnh của ấm v.v… thành không thể suy nghó bàn luận gọi là sinh mầm. Từ Sơ phẩm trở lên đều gọi là sinh ra quả. Trên kia tu chỉ quán sinh ra mầm, quả và ánh sáng của Chân, quả chân thật thuộc quán tâm có sự tương ưng giữa Dụ và Pháp ở đây. “Điều phục tất cả v.v…”: Tức là quán của một tâm thành trải đi khắp tự nhiên hỗn hợp. Ý của chúng cũng giống nhau. Kế là “Tiếp đến, bốn v.v….” trở xuống là giáo hóa người, giúp cho họ sám hối, có hai: Một là Lập ý chia văn. Hai là y cứ văn để giải thích nghóa, có ba: Một là Muốn nói về Sám. Hai là “ngàn Thích v.v…” trở xuống chính là nói: Lúc thiệp nhập đã nhiều thì gây tội lại càng nặng. Nếu rõ biết rằng tội thuộc Nghịch tức là Kim Quang Minh (thì) toàn bộ đối tượng có đầy đủ lý là Chủ thể quán quán sát. Do đó mà hiển bày ra kim v.v… thuộc về Pháp tánh gọi là nhổ bỏ tai nạn của vua. Chướng chuyển thành đức thì có tội gì để trói buộc được? Vì thế năm tội Vô gián đều là tướng của giải thoát. Đó gọi là “Chính thức nói cho nghe về sám. Ba là “nay ta v.v…” trở xuống là đã nói xong về sám. Kế là từ “Ta v.v…” trở xuống là nói về việc tự hành sự cúng dường Pháp, có hai: Một là chia văn lập ý: trước là từ “Hạ vấn”, “Thì như” v.v… trở xuống là đáp là dùng thí dụ kèm theo pháp để trả lời. Thợ kim hoàn dụ cho Trống Vàng, tức là hóa chủ Thích-ca. “Mới tập” thì lúc bắt đầu phát Tăng na. Đầu trắng dụ cho cho quả nay sau thị hiện. Từ khởi dầu cho đến nay chưa lúc nào tạm bỏ việc nói về hạnh, về sám. “Thiêu đốt nhau” dụ cho nói về Hạnh ngay nơi sám. “Đánh nhau” dụ cho nói về Sám ngay nơi Hạnh. Trí và Đoạn cũng giống như vậy. “Đồ dùng thành tựu” dụ cho căn cơ của một phen. Vì từ nhân đạt được qủa nên chưa đạt được quả. Phải tính đếm sự thiêu đốt và đánh thì cần gì phải chê bai nói lại. “Nay là v.v…” trở xuống là giải thích về khác: Tuy tính đếm sự thiêu và đánh nhưng mỗi ví dụ đều có pháp môn của nó. Hai là “Ta nên v.v…” trở xuống là y theo văn để giải thích nghóa, như sau: - Tự mình tu hành, gồm: Một là nêu chương. Hai là “chân báu v.v…” trở xuống là tu nhân. “Cẳng chân”: sớ có hai cách giải. Một là dùng Thập địa làm cẳng chân của quả. Hai là dùng Thập độ làm cẳng chân của Thập địa. Nói Thập độ là ngoài sáu độ ra còn giải thích thêm Phương tiện, Nguyện, Lực và Trí. “Đối với (Các độ) còn lại v.v… trở xuống là giải thích sự đưa ra mười độ là ý của đất, chân: Phẩm Thập Địa trong kinh Hoa Nghiêm nói đầy đủ về tướng trong ba quả v.v… trở xuống là nói về sự thành tựu quả: “Chỉ câu đầu của kinh là chung. Ba hàng, ba câu là riêng. Công đức là sự trang nghiêm của phước. Quang Minh là sự trang nghiêm của trí. Cho nên không lìa ánh sáng của sắc mà nói về ánh sáng của Trí là vì Sắc và Tâm của chúng hoàn toàn chẳng phải hai. “Trong ba hàng, sớ không giải thích”: Nay lược nêu để giúp cho người học khỏi xem xét, tìm kiếm trong pháp tạng. Vì phải nói về tám vạn bốn ngàn đều là Bí mật, nên gọi là công đức sâu xa. “Đó là sự thành tựu do sáu độ, muôn hạnh”: Nói khái lược là muôn ngàn đức hạnh. Nói chi tiết thì là Vô lượng. Nhất-thiết-chủng-trí tức là Trí của Trung đạo, trung thì chiếu soi cả hai. Ba thứ trí của nay là cùng cực tròn đầy. Thiền tức là đạt Thiền. Vì đạt được căn bản đều là pháp giới. Định tức là Lăng-nghiêm. Hai thứ gồm Bản tánh, Tưởng mạnh mẽ là hai thứ định thuộc sự và lý của Đại thừa. Vì đối với tất cả các pháp đều trong sáng yên lặng nên nêu chung là trăm, ngàn. Căn là năm Căn, Lực là năm lực. Tức là Tín, Tấn, Niệm, Định và Tuệ. Năm Pháp này có năng lực sinh ra tất cả các pháp lành nên gọi là căn (rễ). Cố gắng càn quét năm thứ chướng; tức là dùng năm Căn để che ngăn năm thứ Nghi, biếng nhác, tà loạn và Si này nên gọi là lực. Năm lực này giống với danh xưng của năm căn ở trên nhưng dụng thì khác nhau. Giác là bảy giác phần. Trạch pháp giác phần. Tinh tấn. Hỷ. Trừ. Xả. Định. Niệm. Bảy pháp này thường giúp cho định tuệ được quân bình, nên gọi chung là giác phần là vì có phần đi đến sự giác trí của quả cùng cực. Đạo là tám Chánh đạo. Chánh kiến. Chánh tư duy. Chánh ngữ. Chánh nghiệp. Chánh mạng. Chánh tinh tấn. Chánh niệm. Chánh định. Vì tám pháp này lìa Thiên tà, đi chung đến Niết-bàn nên gọi là Chánh đạo. Tuy tu tập về đạo phẩm của căn v.v… là đại nhân nhưng chứng đắc là đều ở quả đức. Đà-la-ni, Hán dịch là Ngăn giữ. Ngăn tất cả các pháp ác và giữ tất cả các pháp lành. Xét về số thì có thể là năm trăm, tám vạn bốn ngàn v.v… tất cả để biểu thị cho sự dứt bỏ Phiền não. Nếu nói về phương tiện chân thật của chúng thì tất cả Pháp đều có năng lực Ngăn giữ. Mười Lực thì như phần ghi ở trước đây đã nêu. Đây là tướng trước sau của tự tu hành. Tiếp là “từ các v.v…” trở xuống là sự tu tập sám hối, có hai: Một là chia văn. Hai là giải thích nghóa, có hai: Một là thỉnh Phật. Hai là “Mười ở sau v.v…” trở xuống là nói về sám, như sau: Chia văn, có hai: “Trăm kiếp v.v….” trở xuống là giải thích về nghóa, có năm. Sám Báo chướng, có hai: Một là nêu ra tướng của Báo chướng. Trăm kiếp làm các thân, thân gây ra các tội ác. Ác làm nhân duyên sinh ra sự lo buồn và đau khổ. Chủ thể sinh và đối tượng được sinh đều là Báo chướng. Vì Báo được năm ấm của điều ác. Vì vậy, Sớ và kinh đối với năm ấm, đã đều gọi là ấm thì sao lại chẳng phải là Báo? Phải hiểu rõ rằng năm ấm tạo tác các điều ác mới gọi là Báo chướng. Nếu làm các điều lành thì lẽ nào lại gọi là Chướng? Hai là “Mười phương v.v…” trở xuống là xin trừ dứt ác: “Nguyện Đức Phật nhận sự sám hối” tức là trừ diệt. Nếu không dùng Trợ và chính giúp đỡ và dẫn dắt thì dù Đức Phật có sức đi nữa cũng không làm sao trừ chướng được. Vì biết được ý nên sớ không giải thích lại. Hai là sám phiền não chướng, có hai: Một là chia văn. Hai là Giải thích nghóa, có hai: Một là nêu ra tướng. Nghiệp bẩn: Nghiệp gọi là động tác. Tâm phiền não động thành ra cấu nhiễm. Cũng có thể vì phiền não sinh ra từ nghiệp nên gọi là cấu bẩn của nghiệp. Hai là “Cúi mong v.v…” trở xuống là xin sự thanh tịnh. Nước Đại Bi: Bi thuộc Đồng thể gọi là Đại. Loại Bi này làm nước thì tẩy sạch tất cả. Tuy rằng bi là đồng thể, nhưng nếu chẳng có duyên thì không khởi. Ba thứ sám làm duyên, không tẩy mà tẩy. Kế là sám hối nghiệp chướng, có hai: Một là chia văn. Hai là tùy thích, lại có: Một là nói theo chiều dọc về sự tạo nghiệp của ba đời. Hai là đối với quả báo để chỉ bày: “Sắc tâm hiện tại gọi là Chánh thọ”: Lúc chưa thành quả báo thì có (loại) thuộc chủ thể. Nếu tu tập các thứ thiện, thiền, vô lậu đạo thì báo của kiếp sau hiện ra các nghiệp tướng, hoặc kín đáo làm chướng. Nếu không y theo ba thứ sám Pháp của Đại thừa thì loại chướng ấy không bị trừ diệt. Tiếp là lập ra câu hỏi để giải thích, có hai: Một là lập chưa có trả lời. Hai là nói về sự phủ nhận để khởi lên lời đáp, có ba: Một là giảng kinh luận để chứng minh: Nhà chuyên về số là Tỳ- bà-sa. Nhà chuyên về luận là thành thật. “Ngăn ngừa vị lai”: Tức là dứt trừ tâm nối nhau. Nếu không ngăn ngừa, dứt trừ thì chắc chắc sẽ khởi lên thời ở thời vị lai. Vì vậy, trong sám tội của Phẩm trừ sạch nghiệp chướng ở bản kinh mới y theo Bồ-tát ở khắp ba đời mà đều nói rằng: “Tội đã làm, nguyện được trừ diệt. Không dám làm điều ác ở đời vị lai”. Đó là đồng thời ngăn ngừa ở vị lai. Hai là “Nay lại v.v…” trở xuống là dẫn việc hiện tại để làm lệ chung: Tại gia làm lệ có cả lúc tạo tội. Từ bỏ gia đình làm lệ có cả lúc tu tập sám hối. Nếu không ngăn ngừa và dứt trừ thì dứt khoát không có chuyện phải thay đổi lại, đến nơi chính thức có. Ba là “Vị lai v.v…” trở xuống là y theo nghóa để kết thúc sự trả lời. Hết giống như giải tán. Kế là nói về sinh khởi mười điều ác một cách ngang trái. Kế là “xa lìa v.v…” trở xuống là sám hối nghiệp quá khứ. Nếu mười điều ác, mười điều lành chỉ y theo ba đường, người và trời để giải thích thì lẽ nào lại đặt mười trụ ngang với mười lực? Nếu đạt được ý của Trì và Phạm thuộc năm giới ở trước thì nghóa của nay có thể hiểu được nghóa của nay. Hai giáo lý là Biệt và Viên có thể làm rõ về mười trụ và mười lực. Nghóa của trì và Phạm nghóa của nay rất dễ hiểu. Vì vậy, từ giai đoạn nhân đến quả về sau, mỗi tiết mỗi luận về mười điều ác và mười điều lành. Kế là nói về hồi hướng: Đây là sám hối tội mê đắm nhân quả. (Chỗ) khác lấy cõi nước này và các thế giới khác làm nơi chốn của pháp lành để người của cả năm thừa tu tập. Vì y theo nơi chốn để nói về Người nên Đại sư nói là “Tùy hỷ”. Nay nói về điều lành do ta ở cõi này và thế giới khác tu tập. Nay, tất cả đều nhiếp lấy hồi hướng chúng sinh chứng đạo Vô thượng. Tiếng dụ cho các điều lành. Cái sừng dụ cho sự hồi hướng. Xa gần đều biết được. “Phương tiện lực rộng lớn”: Nếu khéo hồi hướng thì thành đại phương tiện, công đức của nó ngang bằng với hư không. Nhưng, nếu chẳng hiểu rằng Thiện tức là Pháp giới thì chẳng được coi là Hồi hướng. Kế là “Giải thích về tám v.v…” trở xuống là sám hối hai nạn là thiện và ác, như sau: - Trình bày về sự chia văn. Một bài rưỡi tiếp theo là sớ giải thích về nghóa của việc chính thức dùng điều lành để ngăn cản đạo, có hai: Một là “Bốn v.v…” trở xuống là giải thích. Hai là tùy theo văn giải thích nghóa, có hai: Một là chỉ ác là nạn: Đầu tiên là văn giải thích về hiểm nạn của các Hữu. Hai mươi lăm hữu: Vì bốn đường và Bốn châu, sáu tầng trời cõi Dục, Đại phạn, Tứ thiền, Vô tưởng báo, Tứ không xứ Na-hàm; Vì tất cả đều chưa dứt bặt lậu nghiệp nên gọi là Hữu. Phần giải thích về nghóa của Báo chướng đã nói đầy đủ ở bản sớ trước. Kế là giải thích về hiểm nạn của sinh tử: Nghiệp là hiểm nạn cho đến loại định Phi phi tưởng. Báo là hiểm nạn cho đến cõi trời Hữu đảnh. Uất-đầu-lam-phất là điển hình của các hiểm nạn ấy. Hiểm nạn của nghiệp báo ở dưới rất dễ hiểu. Kế là Giải thích về hiểm nạn của dâm dục. Kế tiếp là Giải thích về hiểm nạn của khinh suất, thô tháo, có hai: Một chính là nêu bày tướng trạng của khinh suất, thô tháo: Tức là, Sơ tâm là ở duyên gọi là Giác. Tế tâm phân biệt gọi là Quán; Cả hai cũng đều là tâm Tầm Tứ. Vì là tâm của ấm nên thuộc về pháp của Báo. Hai là “Như Lai v.v…” trở xuống là dẫn Thánh Phàm làm điển hình, có hai: Một là Thánh: “Ra khỏi quán”: tức là ra khỏi Định. Vì y theo Vô học để giải thích về sự không có hoặc nghiệp nên suy, nghiệm là thuộc pháp của Báo. Hai là Lại nêu kẻ hạ phàm là “Hồi chuyển, đổi vết”: Như học kinh chưa thuộc mà lại muốn học luật, học luật chưa xong mà lại muốn học Luận. Người vụt chạc, thô tháo ấy rốt cục không thể thành tựu được công nghiệp. “Không thành nghiệp chướng”. Chướng nên làm là bởi sự sai lầm của chữ. Kế là giải thích về nạn của việc gần bạn ác. “Như dời nhà xí. Xí, âm là nhà cứu ngựa. Tức là nơi nhóm họp của ngựa. Phó pháp tạng truyện nói: “Gần gũi bậc Hiền thiện, lắng nghe chánh pháp: Như thưở xưa ở nước Hoa Thị có một con voi trắng, sức lực mạnh mẽ. Nếu có người tội thì bảo voi dẫm chết. Sau đó, cái chuồng bị lửa thiêu cháy nên con voi trắng ấy được dời đến chỗ gần một Tịnh xá. Ở đó, có một vị Tỳ-kheo tụng kinh Pháp cú. Có câu kệ: “Làm điều lành thì sinh lên cõi trời. Làm điều ác thì rơi xuống vực sâu”. Voi trắng nghe câu ấy nên tâm trở nên nhu hòa. Sau đó, lúc xua đến người tội thì nó không giết mà chỉ ngửi và liếm thôi. Vua gọi các quan có trí hiểu biết đến để bàn về sự việc ấy. Một vị tâu với vua rằng “vì con voi này được buộc gần Tinh xá. Tất nhiên, nó được nghe pháp mầu, nên mới xảy ra sự việc như vậy. Nay, nếu chúng ta buộc nó ở gần nơi giết mổ thì vì nhìn thấy sự giết hại nên tâm ác của nó sẽ bùng dậy”. Vua liền sai buộc voi ở nơi lò mổ. Con voi thấy cảnh giết chặt nên ác tâm bùng lên dữ dội và càng tàn hại hơn trước”. “Gần nơi khóc lóc, buôn bán”: tức là ở nghóa trang thì bắt chước tiếng khóc, ở gần chợ thì học buôn bán. Kinh Thái thị hóa thanh nói: “Hàng hóa tức là thay đổi”. Vì dễ biến hóa”. Vì thế, chữ ấy có chữ Hóa. Lại gọi là Tài, Sử ký nói: “Mẹ của Mạnh Kha đến ở gần nơi có mộ. Mạnh Kha thường than thở ở chỗ mộ. Bà mẹ nói: “Đây không phải là chỗ để con ta ở”. Và liền dời đến ở bên cạnh chợ. Mạnh Kha lại lấy việc buôn bán làm trò chơi. Bà mẹ lại nói: “Nơi này con ta không thể ở”. Nói rồi bà lại dời đến ở bên cạnh trường học. Mạnh Kha liền tới lui có lễ phép. Bà mẹ nói: “Đây quả thật là nơi con ta ở”. Sau này, Mạnh Kha trở thành một bậc Đại nho, có soạn bảy thiên sách. Kế là giải thích về hiểm nạn của ba độc. Sớ chia khoa nói rằng: “tám nạn Thiện ác, thiện nói có bốn nạn” kinh sớ rất dễ hiểu. Nay, đối với hiểm nạn của ác, dường như kinh nêu cả bảy. Y theo đâu mà nói là bốn? Vì y theo nghóa của ba thứ chướng có cả “gồm” và “chỉ một”. Một “gồm” ba, “Một mình” tức là thành ra bốn nạn. Vì sao? Vì hiểm nạn thuộc sáu đường, hiểm nạn của ba hữu và hiểm nạn của hời hợt, thô tháo. Ba loại này tuy là ba nạn nhưng chỉ ở tại Báo chướng. Hiểm nạn của dâm dục, ngu si và ba độc, chỉ thuộc phiền não. Hiểm nạn thuộc về gần bạn ác chỉ thuộc nghiệp chướng. Nếu đối với hiểm nạn sinh tử thì sớ có hai cách giải thích. Vì thể bao gồm cả nghiệp báo nên nghóa của nghiệp ác trong ba loại chướng tương xứng với bốn thứ hiểm nạn. Nhưng, chúng ta phải hiểu rõ rằng ác là Tánh ác. Vì vậy, loại ác này tức là quán vô sinh. Sám hối như vậy là tiêu trừ các nạn một cách hoàn toàn và tức khắc. Tiếp là “Gặp không v.v…” là chỉ thiện mà gọi là nạn, như sau: - Nói Thiện và ác đều có thể là hiểm nạn, có hai: Một là đồng thời nói về hai nghóa. Hai là “Gặp không v.v…” trở xuống là y theo Thiện để giải thích về văn bản, có bốn: Một là giải thích về hiểm nạn của sự gặp không. Hai là Nhị thừa ra khỏi nhà đến chỗ không sợ hãi. Vì tướng của không nạn nên nêu lên làm lệ chung. Tạm vui với người, trời mà tự cho là không có nạn là đều nằm trong phạm vi của loại hiểm nạn này. Kế là giải thích về nạn của sự tu tập công đức. “Như nhất v.v…”: Đại Luận quyển tám nói: “Thưở Đức Phật Ca-diếp ra đời có hai anh em xuất gia cầu đạo. Một người chuyên giữ giới, tụng kinh và ngồi thiền. Một người cầu tất cả các Đàn-việt tu tập các phước nghiệp. Đến lúc Đức Phật Thích-ca ra đời thì một người sinh vào gia đình Trưởng giả, một người đọa làm con voi trắng cố gắng phá giặc. Người sinh làm con của vị Trưởng giả xuất gia học đạo và chứng được quả A-la-hán, có sáu thứ thần thông. Nhưng do phước mỏng nên lúc khất thực lại khó có được vật phẩm. Ngày khác, lúc ôm bát đi vào thành khất thực, nhưng đều không được gì. Vị ấy đi đến chỗ chuồng giữ voi thì thấy Vua cúng dường cho con voi đủ loại thức ăn. Vị ấy liền bảo voi rằng: “Ta và người đều có tội cả”. Con voi cảm động nên bỏ ăn ba ngày. Người giữ voi sợ quá nên đi tìm vị đạo nhân ấy. Lúc tìm thấy, ông ta hỏi rằng: “Ngài làm phù phép gì khiến con voi trắng của vua bị bệnh mà không ăn uống như vậy?” Vị ấy đáp: “Con voi ấy là thân trước của con ta. Cả ta và nó đều xuất gia học đạo vào thời Đức Phật Ca-diếp. Ta chỉ giữ giới, tụng kinh và ngồi thiền chứ không thực hành hạnh bố thí. Do em ta chỉ tìm các Đàn-việt để làm các việc bố thí nên nay có dư dả các thức ăn món uống. Vì ta chỉ hành đạo mà không tu hạnh bố thí nên nay tuy đắc đạo nhưng khất thực lại không được gì”. “Diệu trang nghiêm”: Pháp Hoa sớ nói: “Thuở xưa, vào thời Mạt pháp của Phật có bốn vị Tỳ-kheo vô cùng kính trọng kinh Pháp Hoa, họ xem kinh ấy như Cam lồ chưa được thấm nhuần. Do đó, bốn vị Tỳ-kheo ấy liền giao hẹn với nhau vào núi để tu đạo. Vì ở trong núi lâu ngày nên thức ăn và áo quần bị cạn kiệt. Một vị nói: “Ba huynh chỉ nên dốc toàn bộ mạng sống của mình cho đạo, chứ không nên nghó gì vào buổi sáng. Tôi xả bỏ sức khỏe của thân để cung cấp cho ba huynh những điều cần thiết”. Ba người được hoàn thành công nghiệp. Một người do bao phen lội vào nhân gian, gặp lúc vua xa giá, nên yêu thích sự vinh hoa của vua. Nhờ công đức huân tu nên được sinh lên làm người, trời và thường được làm vua. Ba vị kia bàn nhau rằng: “Sở dó chúng ta thoát được lao ngục là do công của vua. (Vì) vua đắm đuối qủa báo nên nuôi lớn pháp Hữu vi, do đó mới chìm trong hầm lửa. Chúng ta nên khai báo với vua”. Một người nói: “Vị vua ấy đã dính mắc vào dục lại có tà kiến nữa. Nếu không có lưỡi câu ái thì không thể nào nhổ bỏ được!” Một người làm người vợ xinh đẹp. Hai người làm hai đứa con thông minh. Lời nói của con và vợ thì chắc chắn vua sẽ nghe theo. Nếu chúng ta mở rộng sự giáo hóa thì chắc chắn vị vua ấy sẽ sử đổi tà kiến”. Vợ tức là Bồ- tát Diệu Âm, hai con tức Dược vương và Dược thượng, vua tức là Hoa Đức. Ba là giải thích về hiểm nạn của sự gặp lúc tốt. Như kiếp sơ, người ở Diêm-phù sống lâu tám vạn bốn ngàn tuổi, người ở Bắc châu sống lâu một ngàn tuổi. Tất cả đều vì sống lâu, hưởng thọ an vui nên không tu đạo. Uất-đơn-việt, Hán dịch là Thù Thắng. Vì hơn hẳn các châu khác. Bốn là giải thích việc gặp Phật cũng khó. Kinh Hưng Khởi Hạnh nói: “Đồng nữ Đa Thiệt độn chày gỗ vào bụng, đến trước mặt ta mà nói: “Tại sao Sa-môn không tự nói về việc nhà mà lại nói chuyện khác. Nay ngươi tự mình hưởng an vui mà không biết gì về nỗi khổ của tôi? Trước đây, ngươi đã thông đồng để làm tôi có thai. Nay đã gần đến lúc sinh nở. Đúng ra, người phải chu cấp dầu bơ để nuôi dưỡng đứa bé và thường xuyên chu cấp cho tôi”. Thiên đế hóa thành con chuột chun vào trong áo đồng nữ cắn dây buộc làm cho cái chày gỗ rớt xuống đất. Lúc ấy, đất nứt ra, thân hiện tại của Chiên-già đọa vào ngục A tỳ v.v…”. Phẩm Ca-diếp trong kinh Niết-bàn có nói rằng Thiện Tinh là đệ tử Phật, khi Phật là một vị Bồ-tát. Sau khi xuất gia thọ trì và giảng nói mười hai bộ kinh, ông ấy phá bỏ kiết sử cõi cõi Dục, đạt được bốn Thiền. Nhưng, vì gần gũi bạn ác nên lui sụt Tứ thiền và sinh tà kiến xấu ác. Ông ấy nói rằng không có Phật, không có Pháp, không có Niết-bàn. Thấy Phật đi từ xa đến là sinh tâm ác tà. Do đó mà bị rơi vào địa ngục A-tỳ. Điều-đạt là em chú bác với Đức Phật mà lại tự gây ra ba điều nghịch là làm cho thân Phật chảy máu, phá hoại Tăng xoay bánh xe pháp và giết hại A-la-hán. Xúi giục vua A-xà-thế giết cha và gây thêm hành vi giết mẹ. Lại dùng tâm ác tẩm thuốc độc dưới móng tay muốn cào chân, chích chân Phật để hại Phật. Lúc sắp đi đến Kỳ sơn, vừa ra khỏi thành thì đất nứt ra, ông ấy rơi vào địa ngục Nê-lê lúc đang còn sống. Hai trường hợp ấy là gặp Phật mà thành đại nạn. Nhưng thể của ba câu trên là thiện thuộc hữu lậu. Vì chúng chướng ngại đối với việc tu tập vô lậu nên gọi là nạn. Câu này là gây ra tội nghịch nên dường như không cùng loại với câu trên. Đoạn gây tội nghịch ở đây dường như không cùng loại với ở trên. Nhưng, gặp được Tam bảo được gọi là điều thiện cao nhất, vì nghịch nào mà thành ra nạn? Do đó, nó cũng là điển hình cho ý nghóa điều thiện ngăn chướng Thánh đạo ở trên. Kế là “Nếu đọc v.v…” trở xuống là nói về cách đọc văn của hai thanh là Bình và Khứ, như sau: Một là nói về chữ đọc có cả cả Bình. Hai là “Lại y cứ v.v….” trở xuống là y theo kinh thì thuộc khứ. Ba là “Từ các.. “ trở xuống là xưng tán, có hai: Một là lập ý chia văn. Hai là loại cúng dường để so sánh với Thân và Ý. Vì đã không nói cho nhau nên chưa tiết lộ. Vì ba nghiệp không đủ nên chưa hoàn bị. Nay vì thêm khẩu nghiệp, đã sáng tỏ mà lại đủ nên thành thứ lớp. Trước tuy tự tha tu hạnh tu sám, nhưng vì bồi bổ cho tuổi thọ của Phật nên gọi là pháp môn cúng dường. Nay tuy khen ngợi ba thân Phật nhưng do có thể thành tựu pháp quán của hành giả nên gọi là pháp môn niệm Phật. Tuy pháp có đủ lẫn nhau nhưng tăng hơn nên lập ra hai pháp môn. Kế là “Nêu các v.v…” trở xuống là tùy theo văn để giải thích nghóa, lại có: Một là nêu lời khen. Hai là loại tu tập của Báo, Ứng là sự của toàn bộ Lý. Một tánh của Pháp thân là Lý của toàn bộ Sự. Phật nào ở mười phương và ba đời cũng có ba thân. Nếu nêu chương như vậy thì có gì mà không được xếp vào. “Ta y chỉ”. Đã nói Pháp tánh một Thể mà ba thứ Phật thì chúng ta suy nghiệm để biết rằng vị Phật khác là Phật của tâm tánh. Đây là y theo Bổn giác mà sinh khởi Thỉ giác và cũng là ba đế phát khởi ở ba loại trí. Nếu không có sự y chỉ này thì pháp sám hối vượt ngoài không thành tựu. Vì vậy, hàng sơ tâm của viên gọi là tu tập hạnh Phật. Bốn thứ mắt nhập vào Phật nhãn v.v… là văn trong Đại Luận. Mười loại trí và Như trí, tổng cộng là mười một loại trí. Mười loại trí thì có cả Nhị thừa, chỉ có Như trí là chỉ Phật mới có. Mười trí: Pháp trí. Tỷ thí. Tha trí. Thế trí. Khổ trí. Tập trí. Diệt trí. Đạo trí. Tận trí. Vô sinh trí. “Như vật ném, v.v…”: Thạch mật rất ngọt, nước biển rất mặn. Vật ném xuống nước thì liền mất mùi vị. Thể pháp tức là tánh, không (vật) gì không vượt hơn. Lẽ nào lại không quy kính đối với biển Phật này? Kế là “Y theo chính v.v…” trở xuống chính là khen, có hai: Một là chia văn. Hai là “lược khen v.v…” trở xuống là tùy văn giải thích, như sau: Gửi lời hoan hỷ, có hai: Lược khen, lược so sánh, có hai: Giải thích về lược khen, có hai: Tướng mạo của sắc vàng, có hai: Một là dùng kim loại khác để so sánh với màu: “Vàng Diêm- phù”: Đó là tên của con sông ở Ấn Độ. Sông ấy nằm gần cây Diêm- phù. Loại vàng này sinh ra từ con sông kia. Con sông ấy do cây mà gọi tên. Vàng do sông mà có tên. Hai là “Lại nữa, Phật v.v…” trở xuống là lấy sự chiếu sáng đồ vật mà làm sáng tỏ về ánh sáng. Kế là “sông, vàng v.v…” trở xuống là khen ngợi lý do của Vàng, có hai: Một là nói “là chỗ y cứ của chúng”. Hai là “Vàng có v.v… ” trở xuống là nói về ví dụ bốn đức. Kế là “Cũng giống như v.v….” trở xuống là giải thích sự so sánh khái lược. Kế là khen ngợi đầy đủ, so sánh đầy đủ, lại có: - Khen ngợi đầy đủ, có hai: Một là chia văn. Hai là “Từ kỳ v.v…” trở xuống là tùy văn giải thích: Ngôn từ thì khen ngợi sắc của Ứng nhưng ý lại làm sáng tỏ Pháp và Báo. Sắc tướng là bên ngoài. Trí chứng là bên trong. Tuy chia ra ngoài và trong nhưng lẽ nào lại khác thể? Vì vậy, bốn đức nói trong bản mới dịch thuộc về ba thân. Tức là, Pháp thân có Thường và Ngã, Ứng thân có Tịnh, Hóa thân có Lạc, Tròn đầy từng phần riêng biệt. Dung nhiếp biệt là Viên. Vì vậy, ba thân của Viên, thân nào cũng có bốn đức. “Được ý của chúng”: là hiểu bốn đức của Ứng của nay tức là bốn đức của Pháp và Báo. Người học nên lấy ý ấy để suy tìm kinh và sớ. Văn gồm có bốn: Một là khen ngợi đức của Ngã. Hai là Từ “thiện v.v….” trở xuống là khen ngợi đức của Tịnh. Ba là từ “Công v.v…” trở xuống là khen ngợi đức của Thường; kinh “Vòi vọi”: là dáng vẻ cao lớn. Pha-lê: Hán dịch là Thủy vương. Bốn là Từ “Ba v.v…” trở xuống là khen đức của Lạc. Lạo (nước ngập) âm là lão. Tức là nước chảy. “cúi đầu”, Thuyết văn, nói là cúi đầu. Thủ tức là đầu. Khổng An Quốc nói: “Khể thủ tức là đầu (sát) đất. Kế là từ như “như v.v…” trở xuống là tùy văn giải thích, có hai: Một là chia văn. Hai là công đức của Phật trở xuống là tùy văn giải thích, có hai: Một là so sánh đầy đủ: Bốn câu này là dụ cho sự nêu lên bốn Đức Phật ở trước. Đại sư giải thích về vấn đề này có khi dụ cho Ứng thân có hạn lượng và vô hạn lượng, hoặc dụ cho bốn đế, bốn đức của Pháp và Báo. Trong huyền văn tự làm sáng tỏ rằng Phật của Kim Quang Minh là không thể dụ được. Bởi vì ba và một của ba thứ thân là tự tại. Vì vậy, bốn ví dụ có khi là riêng ở tại một, có lúc làm sáng tỏ chung về ba. Văn ở đây thật sự giống với sự so sánh về bốn đức ở ở trước. Vì biển không thêm bớt nên là Thường. Thể của đất là Tịnh. Hình thế của núi cao trội như Ngã. Vì hư không chẳng có sự ngăn ngại nên gọi là Lạc. Kế là hợp ví dụ. Kế là từ “Một v.v…”trở xuống là dứt bặt sự khen và lời nói, có hai: Một là chia văn. Hai là “Tất cả v.v…” trở xuống là tùy văn giải thích, có hai: Một chính là dứt bặt lời khen. Hai là “Lại điệp v.v…” trở xuống là điệp dụ thiếp hợp. Hỏi: Sớ giải thích gửi lời và dứt bặt lời đều rời bỏ sự suy nghó, nói năng. Như thế là giống hay khác? Đáp: Tính chất bí mật của bốn đức vốn lìa bỏ sự bám níu của tâm. Nay, sở dó khen ngợi là vì muốn làm cho chúng sinh đi vào tạng bí mật. Vì thế, gửi lới hay dứt bặt lời đều làm sáng tỏ đặc tính lìa niệm. Gửi lời thì dùng bốn thứ để dụ cho bốn đức. Dụ đã không có số thì tức là làm sáng tỏ đức vốn mất sự bám níu. Bốn thứ ở trong dứt bặt ngôn ngữ không thể dùng làm ví dụ cũng là làm sáng tỏ bốn đức mất sự bám níu, suy nghó. Vì Đại sư thấu đạt sâu đối với ý chỉ mầu nhiệm của văn kinh nên giải thích cả hai đoạn văn đều dứt bặt suy nghó và nói năng. Kế là Từ “Tướng v.v…” trở xuống là tổng kết. Kế là Từ “Ngã v.v…” trở xuống là nói về phát nguyện, có hai: Một là Lập ý chia văn: “Như trâu không người cầm cương”: Tức là mục đồng. Đã lập nguyện thì dẫu nhiều hay ít cũng không được đánh mất ý của bốn thệ nguyện rộng lớn. Nhưng bốn thệ nguyện rộng lớn này phải y theo bốn đế. Nguyện mà không y theo Đế thì gọi là nguyện suông. Nay nói theo Viên thì y theo Đế thuộc Vô tác nên tuy là hai thứ nhân quả thế gian và xuất thế gian nhưng đều rõ biết được “Chính là Tánh (thì) không có khổ đế để độ, không có Tập đế để dứt, không có Đạo đế để tu và không có Diệt đế để chứng. Được như vậy thì sẽ độ khắp, đoạn tận, tu trọn và chứng diệu. So với sự chưa thoát khỏi tình trạng nguyện rộng thuộc ba giáo trước (thì) tiêu giải các nguyện của nay. Nếu không đánh mất ý nghóa ấy thì chẳng phải là hành giả của Viên. Kế là tùy văn giải thích về nghóa, lại có: Nói về Phát nguyện, có hai: Tự phát nguyện, có hai: Quả của nguyện viên mãn, có bốn: Một là “Ta dùng v.v….” trở xuống là ý luân của nguyện viên mãn: Vì bậc Đại giác tròn sáng nên thuộc ý nghiệp. Hai là “giảng nói v.v…” trở xuống là viên mãn khẩu luân. Ba là “Xô dẹp v.v…” trở xuống là viên mãn Thân luân. ấm tử, thiền tử phần nhiều y theo Thân. Phiền não thuộc về ý. Nay y theo phần nhiều. Bốn là “Trụ tuổi thọ v.v….” là viên mãn nguyện từ bi. Nếu chẳng phải là Từ thuộc Vô duyên thì không thể trụ tuổi thọ được như vậy. Hai nhân của nguyện viên mãn, có hai: Một là chia văn. Hai là tùy văn giải nghóa, gồm có: Một là “Ta nên.. “ trở xuống là nguyện công đức hữu vi tròn đầy: thành tựu sáu độ, đây là y theo nhân chân chính phá sáu màn che. Từ Đoạn mà chính thức luận. Vì là trí đức nên gọi là Hữu Vi. Hai là “dứt trừ các v.v…” trở xuống là nguyện công đức vô vi tròn đầy. Đây là y theo sự hiện Ứng thân để điều phục chúng sinh trong chín đường của chân vị; Tự nhiên không tương ưng với khổ của hoặc và khổ. Vì đó là Dức dứt nên gọi là vô vi. Vì vậy, Pháp sư Hải Đông nói: “Thỉ giác dứt trừ chướng. Đó là sự dứt trừ của thật sự dứt trừ. Bổn giác dứt chướng là sự dứt trừ của không dứt trừ? Nghóa của Pháp sự giống với nghóa hai đức của Trí giác của nhà chú thích ngày nay. Ba là “Ngã v.v…” là nguyện túc mạng, nghó nhớ đến Phật tròn đầy. Nhớ về giáo (lý) túc mạng, thấy Phật quá khứ đồng thời cũng nhớ chánh pháp do các Đức Phật giảng nói. Xa lìa điều ác, tu tập điều lành, thành nhân của Trí và Đoạn. Kế là vì người khác mà phát nguyện, có hai: Một là chia văn. Hai là “Tất cả v.v…” trở xuống là giải thích nghóa, có hai: Một ngụyện làm vua thuốc để nhổ gốc khổ. Kế là nguyện làm vua Châu ngọc để cho niềm vui. Chủ thể nhổ và chủ thể cho này là vô duyên từ bi. Đối tượng được nhổ, đối tượng được cho phải nói về mười phen; đó là quả báo tu nhân, Thanh văn, Bích-chi, bốn giáo, Bồ-tát, phương tiện và Thật độ. Nay, vua cây thuốc nhổ mười gốc khổ của hành giả. Vua châu ngọc cho hành giả mười thứ vui. Người học nên dùng ý ấy để tiêu giải văn nói về cho và nhổ. Đầu tiên tự chia làm bốn. Một là nhổ chung các thứ khổ. Hai là “Nếu phạm v.v…” trở xuống là nhổ gốc khổ thiếu căn. Ba là “mười phương v.v…” là nhổ gốc khổ của bệnh. Bốn là “nếu phạm v.v…” trở xuống là nhổ gốc khổ bị nạn của vua. Tiếp theo là cho niềm vui, có hai: Một là chia văn. Hai là “Văn trên v.v…” trở xuống là tùy văn giải thích, lại có: Một là cho quả niềm vui của thế gian. Trải qua sự Cổ xúy xưa nay chú thích là cây sáo ngắn. Ưu-bát-la, Hán dịch là màu đen xanh. Tức là hoa sen xanh. “Thường vào ba thời”: Ba thời thuộc ban ngày. Hai là Từ “Nguyện v.v…” trở xuống là cho nhân niềm vui xuất thế, có hai: Một là chia văn. Hai là “Duyên của người v.v…” trở xuống là tùy văn giải thích, như sau: - Khiến tu hành có đủ duyên ngoại, có hai: Một là gặp Tam bảo. Hai là lìa tám nạn. Kế là khiến tu hành có đủ nội nhân, có hai: Một là chia văn. Hai là “Nhân thuộc người v.v…” trở xuống là tùy thích, có hai: Một là sinh vào nơi tôn quý. Hai là nhiều tài bảo. - Năm sự ngăn ngại: Không làm Phạm vương. Không làm Đế Thích. Không làm Luân vương. Không làm Ma vương. Không được làm Phật. Kế là từ “nếu v.v…” trở xuống là kết thành, có hai: Một là chia văn. Hai là giải thích kinh, có hai: Một là kết về tự. Hai là kết về tha. Kế là từ “Nếu (điều) đó…” Trở xuống là y theo nguyện tùy hỷ, có hai: Một là chia văn. Hai là giải thích kinh, có hai: Một là tùy hỷ (người) khác. Hai là Tùy hỷ tự (thân). Kế là từ “Nếu có v.v….” trở xuống là kết thành, có hai: Một là chia văn. Hai là giải thích kinh, có ba: Một là kết thành về dứt trừ ác. Hai là “Các điều lành…” trở xuống là kết thành sự sinh ra điều lành. Phật. Ba là “không phải ở v.v….” trở xuống là kết thúc việc gặp dược Kế là giải thích về phẩm Tán Thán, như sau: Giải thích tựa đề, có hai: Y theo nghóa để giải thích chung, có hai: Chỉ bày về ý của bốn Tất-đàn, có hai: Một là nêu. Hai là giải thích: Gồm: Một là thế giới: “Suy nghó tuổi thọ của Phật”: Tức là kinh trước nói: “Vì suy nghó như thế nên tâm sinh ra sự nghi ngờ”. “Một lòng tin hiểu”: Tức là sự khai ngộ. Tức là điều mà kinh nói rằng: “Tín Tướng nghe bốn vị Phật đó giảng nói về tuổi thọ nên tâm tin hiểu sâu xa”. “Người ấy”: Tức là Tín Tướng. “Bổn sự”: Việc làm của hôm nay đều do lời nguyện thưở xưa. Nay vì chúng sinh hoan hỷ nên thuộc về thế giới. Hai là từ “Thân người v.v…”. Ba là từ “Diệt v.v…” trở xuống là Đối trị, càng (nhiều) tội: Vưu là (càng) tức là vô cùng, rất. Do đức thù thắng, ân nặng nên sự phá hủy tội là rất nhiều. Sự phá hủy của miệng gọi là Thề. Cũng gọi là mắng. Bốn, từ “Sổ v.v…” trở xuống là Đệ-nhất-nghóa. Nói rằng chư Phật vô cùng tôn quý, sâu xa vô lượng là vì: từ Sơ trụ trở lên của Viên thì lấy pháp tánh bao gồm thể tướng của thân. Diệu giác thì hoàn toàn lấy Pháp tánh sâu rộng làm Thể tướng của thân. Vì vậy, luận Thư Khởi tín nói: “Thân của chư Phật, Như Lai đều là pháp thân trí tướng”. Đệ-nhất-nghóa đế vốn lìa bỏ sự tạo tác thi vi. Nay sở dó xưng tán thân ấy là vì muốn cho người tu đi vào Lý. Kế là “Nếu muốn v.v…” trở xuống là giải thích danh từ khen ngợi, có hai: Một là chia chữ, giải thích nghóa, cũng phân biệt lẫn nhau. Lấy việc nói lại đức làm khen ngợi. Áo dụ là Thán, chỉ khiến tự nói, tay áo xứng với nghóa thành, đối chữ không hiện hữu. Hai là dẫn luận chứng thành. Sự khen ngợi kia chứng minh cho ví dụ của áo. Hai là “Phẩm này v.v…” trở xuống là kết thúc sự chỉ bày về làm sáng tỏ riêng: Tuy có ba nghiệp nhưng khẩu nghiệp là chính. Vì thế gọi là làm sáng tỏ riêng. Kế là kết thúc (phần) này… “trở xuống là y theo bốn Tất-đàn để làm sáng tỏ riêng: Bốn nghóa chỉ cho người v.v… thuộc về chủ thể khen ngợi. “Phẩm này…” trở xuống là nói về sáng tỏ riêng. Trong bốn Tất- đàn chính là ở sinh thiện. Vì đối với Phẩm sám ở trước chính là dứt ác. Kế là giải thích văn. Một là chia văn. Hai là tùy vào để giải thích, lại có: Văn xuôi, có hai: Giải thích, về đối trị là nói với người, có hai: Một là y theo sự giải thích đối trị: kinh Thụy Ứng nói: “Phật bảo với Ma vương. Ta nhờ tích lũy công đức nên nay được thành Phật” Ma nói: “Chứa nhóm công đức ai làm chứng”. Lúc ấy, Đức Phật chỉ tay xuống đất nói: Người ấy biết ta. “Người ấy” là chỉ cho Thần đất. Lúc ấy, Thần đất vọt lên làm chứng. Hai là “Lại nữa, đối v.v…” trở xuống là y theo vì người mà giải thích. Giữa hư không trở lên đều là trời nam. Nửa hư không trở xuống đều là trời nữ. Sở dó quả báo quỷ thần gọi là trời vì có lực dụng tự nhiên nên lấy trời để khen ngợi. Mời gọi quỷ thần đến lấy trời mà gọi, không chỉ có (tên) đó. Thật ra trí là căn bản của pháp lành. Nay khen ngợi người giác ngộ sinh Thật trí của người nên bảo với người thiện nữ. Lại nữa, vì tên khác là Kiên Lao nên chứng minh việc đã qua. Xứng lý nghóa là không hoại v.v… Kế là giải thích về Kim Long Tôn là pháp y cứ cho pháp môn Kim Quang Minh. Kim Quang Tôn khế hợp với hạnh, nào là pháp, nào là hạnh, tất cả đều là Tánh một, tu hai. Cho nên Kim là lý, chủ thể khen ngợi là Long (rồng). Vì thường làm lợi ích nên là Tôn. Nay vì chứng lý nên khởi hai sự tu của dụng mà đối với một tánh. Đương thể gọi là Kim Long Tôn. Kế là kệ tụng, có hai: Một là chia văn. Hai là tùy văn giải thích, lại có: Khen Phật ba đời, có năm: Tán chung, có ba: Một là y theo sự lý để nói chung về ba đời. Cảnh quả tâm ý thức thuộc mười phương gọi là sự. Làm gì có một sự nào không hiện khởi từ lý? Kinh nói: “Vắng lặng là nghóa Niết-bàn, gọi là mầu nhiệm, là đại diệt độ. Như vậy làm sáng tỏ ba đức chẳng phải dọc, chẳng phải ngang, gọi là kho bí mật. kho bí mật hiện hữu tròn đầy, không riêng thời gian hoặc không gian. Thời gian và không gian tự nhiên đều là ba đức. Chẳng dùng hai tướng mà thấy cõi nước của chư Phật là nói cho trường hợp này phải chăng? Không có mầu nhiệm hơn sự khen chung này. Kế là “Lý chung v.v…” trở xuống là y theo ba pháp để nói rõ chung: “Pháp thân”: Tức là nói tánh (Vốn) một. “Báo Ứng”: là nói về Tu (vốn là) hai. Toàn tu ở tại tánh, hợp ba mà làm Báo, hợp ba mà làm Ứng. Cho nên gọi là Báo Ứng chung. Tất cả ba pháp đều như vậy. Lại nữa, Pháp thân bao gồm ba vùng đất. Vì thật báo v.v… đều là Tịch quang. Báo thân bao gồm hai vùng đất. Vì phương tiện, đồng cư nhìn thấy thân Đặc tôn. Ứng thân gồm hai nơi Đồng cư là Tịnh và Uế. Vì Phàm phu và Nhị thừa thấy sinh thân. Nếu phân biệt thì đặc tính Thắng và Liệt của ba thân và vùng đất không lẫn lộn. Nếu xét theo quan điểm dung nhiếp thì đặc tính nghiêng lệch, hạn cuộc của ba thân, ba vùng đất cùng thu nhiếp lẫn nhau. Dùng đặc tính dung nhiếp để khen ngợi Phật thì không bỏ sót đức của Phật. Kế là “Như vậy v.v…” trở xuống là y theo bốn đức để nói chung: kinh nói: “Chư Phật thanh tịnh”. Đó là đứng về mặt quả để làm sáng tỏ về đức. Trong quả, các đức đều nhóm họp. Nêu một đức tịnh đều có cả Thường, Lạc và Ngã; bốn đức đều tròn đầy, mầu nhiệm. Nếu một là thâu nhiếp tất cả. Vì vậy, bốn đức này là đức của ba thân. Vì ba thân dung nhiếp nhau nên bốn đức trang nghiêm khắp nơi. Do đó mà ba thân đều là bốn đức. Chung (như) thế là khen ngợi cùng cực Thể và Dụng của Phật. Nay vì chỉ bày cho nên chú rằng v.v…”. Kế là Từ “sắc v.v…” trở xuống là khen riêng, lại có: - Chia văn lập nghóa, có hai: Một là chia văn. “Tướng lớn” tức là chỉ cho ba mươi hai tướng. “Tướng nhỏ” là nói về tám mươi tướng đẹp phụ. “Đều gọi là biển”. Vì dù là lớn hay nhỏ đều chẳng có bờ mé, đều là sự hiển hiện của toàn thể Pháp giới. Vì vậy, mỗi tướng đều là biển pháp. Y theo khen chung sự thanh tịnh mầu nhiệm của chư Phật vắng lặng, dùng chung bày riêng, mỗi tướng tốt đều là kho bí mật. Vì Đại sư thấy được chỗ đắc ý kia nên khi giải thích về tướng tốt đều lập ra danh từ “biển”. Hai là “Sở dó v.v… ” trở xuống là lập nghóa, có hai: Một là nói về trí khéo léo của chủ thể khen ngợi. Hai là “Phù v.v…” trở xuống là nói về đức sâu xa của đối tượng được khen, có hai: Một là Qua các loại giáo để phân biệt. Hai là y theo đặc tính dung nhiếp, chính là của Viên: người học nên biết rõ về hai ý ấy. Bao gồm lời văn sâu kín của kinh luận. Lập ra hướng đi sâu của Giáo quán. Làm sáng tỏ về sự không lẫn lộn của Hóa tích. Bày rõ sự chiếu soi tức khắc và toàn diện của căn cơ thuộc Viên. Vì sao? Vì phân biệt nên từ Thắng mà chỉ bày riêng. Vì dung tức cho nên xúc cảnh (là) thâu khắp. Đạt được sau sau thì sẽ được trước trước. Đạt được trước, trước sẽ được sau sau. Vì không biết sau thì nghóa của đang phân thành tựu. Vì biết được trước nên nghóa của khóa tiết được sáng tỏ. Nếu hiểu được trong chân cảm ứng, hai thực thấy Phật thì sự thâu nhận chọn lựa của hai ý này đều không sót. Về “Hai thức”, luận Khởi Tín nói: “Dụng của Phật có hai thứ. Một là y theo thức phân biệt sự: thân do phàm phu, Nhị thừa thấy được gọi là Ứng. Vì chẳng biết rằng đó là thân do chuyển thức hiện ra nên thấy từ bên ngoài đến. Vì chấp đắm phần hạn của sắc, không thể biết đến chỗ cùng tận. Hai là y theo Nghiệp thức: thân thấy được do tâm của Bồ-tát sơ phát ý cho đến Bồ-tát địa rốt ráo gọi là Báo; Thân có vô lương sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp quý. Quả thuộc về đối tượng trụ, đối tượng y cứ cũng vô lượng. Đủ trong trang nghiêm tùy theo đối tượng được chỉ bày. Tức là không có Hữu biên, không thể cùng tận. Lìa tướng phần hạn, tùy theo cái được Ứng mà thường trụ trì, không bị hủy hoại, không mất đi. Nói tóm lại, tất cả đều là cái được thành tựu trong sự huân tập của công hạnh vô lậu thuộc các Ba-la-mật và sự huân tập của không thể suy nghó bàn luận. Tướng của sự thọ nhận an vui ấy gọi là Báo thân”. Đó tức là Như Lai dùng dụng của Pháp giới để thuận theo hai thức là sự nghiệp của chúng sinh mà hiện ra Ứng Thân và Báo thân. Ứng thân là sinh thân theo cách gọi ngày nay. Báo thân là thân tôn đặc và pháp tánh theo cách gọi ngày nay. Người y theo sự thức thì chỉ thấy Ứng thân mà không thấy hóa thân. Vì thức ấy cạn thấp, không vươn đến chỗ sâu xa tận cùng. Người y theo Nghiệp thức thì thấy Báo thân mà cũng có thể thấy cả Ứng thân. Vì biết Chân như sinh khởi hai thứ dụng. Hành giả nên biết hai điều ấy. Dụng của Chân như hiển hiện thân tướng Phật, đại khái có ba phẩm: Một là Như kinh Hoa Nghiêm nói về số của tướng quý có mười vi trần thế giới Liên hoa tạng. Hai là Như kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói về tám vạn bốn ngàn tướng quý, sáng chói. Ba là Như kinh này và Pháp Hoa, Bát-chu v.v… nói về ba mươi hai tướng quý và tám mươi tướng phụ. Tướng trong ba phẩm này đã là dụng của toàn thể Chân như, dù nhiều hay ít cũng đều không có bờ mé, giới hạn. Vì thế, tất cả các tướng đều được gọi là biển, đều là tôn đặc. Tuy nhiên cũng có thông và cuộc. Vì Tạng thì lập bày cả tám vạn, nhưng hạn cuộc ở cái thấy của nghiệp thức ba mươi hai tướng của thân (Phật) có cả cái thấy của sự thực gọi là Ứng. Nếu là cái thấy của Nghiệp thức thì tức là không có bờ mé, không thể cùng tận. Lìa tướng của phần hạn gọi là tôn đặc, thuộc về Báo thân. Điều đó như tướng được khen ngợi của kinh này đối với ba mươi hai. Vì Kim Long Tôn quy tựu về bốn đức mầu nhiệm, vắng lặng của Phật mà làm lời khen chung. Vì lấy chung để làm sáng tỏ riêng nên ba mươi hai tướng đều là Bí tạng. Do đó, mỗi tướng đều lìa phần hạn như sự vô biên của hư không, thường tru và không hoại diệt. Sớ y theo đó mà giải thích đặc tính dung nhiếp. Chính là khen ngợi thân tôn đặc. Nếu không biết sự khen chung của Long tôn là y theo nghiệp thức mà thấy Ứng tức là Báo thì lẽ nào Viên quang một tầm của ba mươi hai tướng được gọi là tôn đặc ư? Nói “cảm ưng của đạo Chân, Trung” là bởi Như Lai hiện thân thuộc Ứng hóa, thị hiện trụ ở Thiên chân mà nói về sinh diệt và pháp Vô sinh để gia bị chơ căn cơ thuộc Tạng và Thông. Hiện thân tôn đặc trụ ở Trung đạo để giảng nói về Vô lượng và pháp vô tác mà che chở cho căn cơ thuộc Biệt và Viên. Vì vậy, Văn cú nói: “Phật thuộc thân một trượng sáu trụ ở Chân-đế. Phật của sự phối hợp hai thân là một trượng sáu và tôn đặc trụ cả ở Chân và Trung. Phật thuộc thân tôn đặc trụ ở cả Tục và Trung. Phật thuộc pháp thân trụ ở Trung đạo”. Bản sớ có sáu chỗ giải thích về Ứng hóa, tôn đặc, tất cả đều y theo Cảm Ứng ở trong của Chân và Trung mà phân biệt. Như sự khen ngợi Phật của Pháp Hoa. Văn kinh làm sáng tỏ rằng: “ba mươi hai tướng quý, tám mươi tướng phụ”. Vì pháp thân có đầy đủ. Vì trang nghiêm Pháp thân. Đó là tướng thuộc tôn đặc. Bởi vậy, Đại sư Kinh Khê xếp cùng loại với Hoa Nghiêm, nghóa là “Mỗi tướng quý ngang bằng với Hư không v.v…”. Lại nói: “Mỗi tướng đều là biển pháp giới. Mỗi một đặc tính quý đều gọi là Biển”. Sớ giải thích văn nay rằng tướng lớn hoặc tướng nhỏ đều gọi là biển. Tướng lớn và nhỏ ở đây hoàn toàn khác với chín mươi bảy tên của Hoa Nghiêm. Mỗi tướng đều có sự khác nhau của danh mục ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp thuộc thứ lớp trong Pháp giới. Lại nữa, phẩm Sám Hối khen ngợi ba mươi hai tướng tướng, tám mươi vẻ đẹp của Phật. Vậy, lẽ nào sự khen ngợi thưở xưa của Long tôn và những lời khen ngợi do Trống Vàng của ngày nay lại có hơn, kém” vì thế, chúng ta biết rằng chỉ đứng trên lập trường cảm Ứng của Trung đạo, mà gọi là tôn Đặc chứ không phải là thêm số lượng của tướng quý mới gọi là tôn Đặc. Bởi vậy, trong Hoa Nghiêm, mười thứ thân của chúng sinh nghiệp báo v.v… đều là Lô-xá-na, Xá-na chẳng phải là Báo, lẽ nào Báo lại không phải tôn đặc? Nếu đánh mất ý nghóa này thì đừng nên luận nghị về tông chỉ của ngày nay! Sinh thân của cha mẹ tức là thân một trượng sáu. Thàn tôn đặc được cảm bởi hạng độn căn của ba tạng và Thông tức là quả báo của Tha thọ dụng. Thân pháp tánh được cảm bởi hạng lợi căn của Thông giáo và Biệt giáo là Pháp thân. Thân được cảm bởi hành giả của Viên là đại dụng cảu Pháp giới Như Lai. Vì đối với ba loại căn cơ mà hiện ra ba thân nên tướng thuộc chủ thể trang nghiêm cũng chia ra ba loại. Lực dụng của ba thân cũng có hơn kém khác nhau. Chẳng những chỉ thị hiện thân tướng thuộc pham vi quả là khác nhau mà cũng thị hiện ba nhân thuộc phạm vi công hạnh khác nhau. Vì sự thấy Phật của ngày nay đều là căn cơ kết duyên lâu đời. Như thị hiện nhân của tích Luận về tướng của bốn thứ tu tập, hành sáu độ, v.v… “Chính là không”, hoặc ra tu tập thuộc phạm vi thứ lớp, hoặc sự tu tập thuộc phạm vi Viên đốn thị hiện sự tu không giống nhau nên làm cho sự kết duyên của các thứ căn cơ có khác nhau. Do vậy, hôm nay chiêu cảm và thấy ba thân không giống nhau. Tiếp theo là “Ba thứ thân v.v…” trở xuống là giải thích riêng, lại có: - Giải thích tướng của ba thân, có ba: Một là Giải thích tướng của Sinh thân. Lâm-vi-ni: Hán dịch là chỗ giải thoát. “Đưa tay vịn vào cây”: Tức là phu nhân Ma-da vịn vào cây Ưu-đàm mà sinh ra thái tử từ hông bên phải. A-di cũng gọi A-tư-đà. Hán dịch là Vô tỷ (không so sánh), là tên vị tiên, nghóa là Mở ra. Sau khi Thái tử đã sinh được ba ngày đã lấy vải chiên màu trắng làm y nội. Vua cho mời vị tiên đến xem tướng. Do vậy, vị tiên liền mở tấm vải Chiên để xem thân hình của Thái tử. “Tướng nào cũng rõ ràng”: Tức là nói ba mươi hai tướng hiển bày rõ ràng. “chắc chắn thành thật”: tức là lời vị tiên tâu lên vua. Ý nói rằng tuy Luân vương có ba mươi hai tướng nhưng tướng nào cũng không rõ ràng. Nay do thấy tướng nào của thái tử cũng rõ ràng nên chắc chắn sẽ thành Phật mà không làm Luân Vương. “Buồn không nói thành tiếng”: Tức là vì vị tiên tự than mình già cả, không thấy được ngày Thái tử thành Phật nên rơi nước mắt. Không tiếng mà nước mắt tự rơi gọi là khóc. Nay nói rằng: “Buồn không nói thành tiếng” tức là khóc. “Đó là sinh thân”: Tuy sớ nêu lên rằng “Sinh thân của cha mẹ phải hiểu ý nghóa của nó”. Nhưng lẽ náo hai thân sau lại hoàn toàn không có cha mẹ? “Nay đặc biệt nói”: Tức là làm sáng tỏ vấn đề Đức Phật của Tạng và Thông trụ ở Thiên Chân. Vì lí của Thiên Chân không có năm ấm khiến cho thân Phật từ chánh tập tạo ra. Nếu cơ duyên hết thì sẽ thành tro tàn đoạn diệt, chìm đắm trong không, không bao giờ thị hiện. Do đó, lấy cha mẹ để làm sáng tỏ sự có sinh của thân, lấy sự kiện căn cơ hết trở về không để làm sáng tỏ sự có diệt của thân. Tuy rằng Thông là huyễn hữu nhưng cũng phải mãi mãi không. Nếu y theo giáo thì sự phân biệt về tướng trạng cũng giống như vậy. Hai là “Như Thích v.v…” trở xuống là giải thích về tướng tôn đặc. “Vòi vọi”: Tức là cao. “Đường đường”: Tức là rạng rỡ. Sỡ dó nói Tôn sùng, kỳ đặc vì đó là thân do căn cơ Biệt và Viên nhìn thấy: “Thân thường hằng, ánh sáng thường hằng”: Tức là thân được thấy bởi phàm phu và Nhị thừa. Song người học nên biết rằng thân tướng cao và rạng rỡ có hai ý, có lúc phải hiện khởi, có lúc không hiện khởi gì cũng đều là do Như Lai quán sát năng lực của cơ tiến không có năng lực trung đạo mà đối với người phải hiện thì vì họ mà hiện. Như kinh Phạm Võng nói: “Mới ngồi đài hoa sen. Phô bày tướng Hoa Nghiêm”, “Thân nhờ Tu-di chiếu xuống biển lớn” do kinh Duy-ma nói “tám vạn tướng quý, thân là Vô biên” của kinh Quán Vô Lượng Thọ. Các đoạn kinh ấy đều nói về sự hiện khởi của tướng tôn đặc. “Có khi không hiện khởi”: Tức là chỉ dùng năng lực để gia trì khiến cho thấy được tính chất không phần hạn nơi thân hèn kém; tạo ra dáng vòi vọi, sáng láng mà hiểu, dùng không thể suy nghó bàn luận mà quán. Điều ấy như sự khen ngợi về ba mươi hai tướng là thân pháp tánh của tôn đặc trong kinh này. Pháp Hoa dùng ba mươi hai tướng để trang nghiêm pháp thân, tướng nào cũng đều ngang với hư không v.v… các cơ duyên này đều dùng nghiệp thức mà thấy, dùng trí của Trung mà quán. Liệt tức là vô biên, sắc tức là Tánh trí. Vì thế, không cần phải hiện khởi mà gọi là tôn đặc. Nếu không như vậy thì ba mươi hai tướng được Long Tôn khen ngợi, sớ nói rằng “dung nhiếp ba chính là khen ngợi tôn đặc” làm sao dung hội được? Đối với vấn đề này, người học nên khéo nắm bắt. Ba là giải thoát về tướng của pháp tánh: Đây là thân trí tướng thuộc Đệ-nhất-nghóa đế của chư Phật. Ngay tên gọi mà phàm phu và Nhị thừa còn không thấy thì lẽ nào lại thấy được tướng. Nếu nói về sự chứng đắc cùng cực thì Đẳng giác cũng không đạt đến chỗ cùng cực. Lại nữa, vì Sơ địa không biết được Nhị địa cho nên thần cây buồn khóc rơi nước mắt như mưa thỉnh Phật hiện thân chính là thân này. Đều có tên là chẳng phải Địa dưới nhìn thấy được. “Chỉ nên độ v.v…”: Đó là Đệ-nhất-nghóa Tất-đàn của Đại Thừa “Cơ ứng hợp với Phật”: Tức là dùng thân này Ứng hiện để cho được thấy. Tức là sớ trước giải thích là “Nghóa trong nhất thời? Nhất-thiết-chủng-trí và Nhất thời của Trung đế”. “Không có thân v.v…”. Tức là chẳng phải thân sắc chất, có ngăn ngại mà là thân mầu nhiệm; chẳng phải tướng sai biệt là tướng của tịnh trí. Vì Nhất thiết trí là thủ lãnh của muôn ngàn hạnh nên lấy nó làm đầu. Vì Đệ-nhất-nghóa là vượt hơn trong các pháp nên lấy nó làm Đỉnh kế. Tám vạn trần lao chuyển thành Pháp môn, số nhiều gọi là tóc. Đại bi làm mắt, thấy khổ là nhổ bỏ. Sợi lông trắng Trung đạo không nghiêng lệnh, không ô nhiễm. Vô lậu là công đức ngửi mùi. Lưỡi mười tám hình thái không nếm khắp mùi vị của Lý. Bất cộng là răng đều có bốn mươi cái. Đại luận dùng mười tám pháp Bất cộng, mười Lực, bốn Vô sở úy, đại Từ, đại Bi và ba Niệm xứ v.v… là bốn mươi; Vì tất cả đều không chung với các Địa dưới. Bốn thệ nguyện rộng lớn là vai mang vác không ngừng. Chỉ và Tán của Tam-muội như eo cột áo. Tam-muội của Viên chỉ là ba quán, không tức là quán pháp của Không, Vô tướng tức là phép quán Giả, vì chẳng được tướng không, Vô nguyện tức là quán Trung, vì hai bên không tạo tác nguyện cầu. Như Lai tạng (là) bụng, vì ngậm chứa ba ngàn trí của quyền và thật (là) tay. Vì nhổ bỏ (cho) tất cả chúng sinh Định tuệ v.v… (là) chân, vì bước trên mảnh đất Lý. Thân thứ ba của nay cùng với sự trình bày ở các chỗ khác chẳng phải là không có đôi chút khác nhau. Như bản sớ kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói: “Nghóa của thân thuộc sắc tướng tương đương với sinh thân và Tha thọ dụng đồng là Ứng thân”. Tiếp theo là thân của Pháp môn. Tức nghóa của đủ loại pháp môn tương đương với Báo thân do sự nêu lên của ngày nay, tức là Tự thọ dụng. Kế là thân Phật tướng: Tức là dùng Lý được trang nghiêm bởi Pháp môn làm thân thứ ba. Nay thì phối hợp hai thân là Lý và Trí kia mà làm thân pháp tánh, mở bày Ứng thân mà làm sinh thân tôn đặc. Mở mang và phối hợp lẫn nhau nên ba thân không thiếu. Lại nên biết rằng đầu v.v… của thân pháp tánh nay là tướng được Long Tôn khen ngợi. Vì tâm chính là sắc, nên gọi là hai thân trước. Vì sắc tức là tâm nên gọi là Pháp môn. Nhưng nay qua các giáo, đứng trên lập trường phân biệt môn tùy theo cái thấy của căn cơ. Vì trước không thấy sau cho nên sau sau từ thù thắng mà đặt tên. Do đó khiến cho ba thân có tướng hơn và kém. Lại nữa, thân tôn đặc và Pháp tánh đều là cái thấy của nghiệp thức. Vì tướng tôn đặc bao gồm cả sự tu tập của biệt nên y cứ theo tính chất cao và sáng của thân tướng mà chỉ bày. Phật Pháp tánh của nay tức là ở tu mà làm sáng tỏ về tánh. Vì thế, ẩn sắc tướng theo Pháp môn (mà) nói, người giảng, người học nên hiểu rõ. Kế là “Hai thứ v.v…” trở xuống là giải thích về nghiệp của ba tướng. Đây là theo lúc Như Lai làm thanh tịnh cõi nước Phật, tùy theo cơ duyên kia mà thị hiện sự tu tập không như nhau. Vì vậy mà chia ra làm ba loại: Một là giải thích về nghiệp của sinh thân: Tuy thông với Thông giáo nhưng nay là ở tạng. Vì Thông giáo là pháp môn của Đại thừa. Vì hạng lợi căn thấy được hai Đức Phật sau. Nay y theo sự tu tập của tạng mà thực hành Độ thuộc về Sự là nhân của tướng tốt. Nói “Tu một trăm phước thành một tướng”: Luận có nhiều cách giải thích nhưng nay chỉ nói một cách. Chúng sinh thuộc Đại thiên gặp duyên lẽ ra phải chết nhưng tất cả đều được cứu sống, đó là một phước. Phước này đến một trăm mới thành một tướng. Đây là chỉ cho sự thành tựu Độ sự của chế phục hoặc. Khiến cho chúng sinh kia mô phỏng theo để tu tập, (nên) nay thấy được Sinh thân. Hai là “nếu lấy không v.v…” trở xuống là giải thích về nghiệp của tôn đặc. Cho nên nói “Không tuệ” là vì tuệ của thể pháp, tức không là cái mà cả ba thứ giáo cùng tu tập, kẻ độn căn chỉ không hóa được Hữu, hạng lợi căn biết không chẳng những là không hóa cái hữu mà cũng có thể không hóa cả cái không. Nay, phân biệt môn nói về nghiệp tôn đặc, tuy có thể không hóa cả hai nhưng ở Biệt giáo. Tuệ của Đãn Trung hướng dẫn nghiệp của các tướng. Các nghiệp không ra khỏi sáu độ ở trước. Vì biết về Trung nên không trang nghiêm mà trang nghiêm. Tức là có khả năng trang nghiêm thể của Đệ-nhất-nghóa khiến cho chúng sinh kia bắt chước theo đó mà tu tập, (nên) nay thấy thân tôn đặc không có phần hạn. Ba là “Nếu dùng Thật v.v…” trở xuống là giải thích về nghiệp của Pháp tánh: “Thật tướng”: Tức là lý Trung đạo. Toàn bộ thật lý của Trung là Tuệ thuộc chủ thể quán sát. Cho nên gọi là tuệ của Thật tướng là vì Thật tướng tức là Tuệ, chứ chẳng phải có một thứ tuệ nào khác. Từ sự chiếu soi của tuệ mà có được tên gọi thật tướng. “Dẫn dắt thành các nghiệp”: lẽ nào các nghiệp lại lìa sáu độ ở trước. Vì tu tập tròn đầy, vì mỗi độ chính là tánh nên tất cả đều là Thật tướng. Vì thâu nhiếp tất cả nên đều là Pháp giới. Vì thế, Tán Chí nói: “An trụ trong tánh như của tất cả các pháp. Đối với tất cả Pháp (mà) ngậm chứa, thọ nhận tất cả Pháp”. Tu như vậy là dứt bặt tình thức của ba giáo, gọi là nghiệp không thể suy nghó bàn luận. Vì khiến cho các loại chúng sinh kia bắt chước theo đó mà tu (nên) nay thấy Phật Pháp thân ngang bằng với tướng hư không. Kế là “Ba thân v.v…” trở xuống là y theo dung nhiếp. Chính là của Viên, có ba: Một là chính thật dụng nhiếp, Phật thuộc Viên đốn chứng được ba thân, ba tướng. Đồng thời cũng có thể chỉ bày tức khắc thấu suốt về ba tướng của tu tập. Nếu là căn cơ Viên giáo thì sẽ tu tập về nghiệp của ba tướng ở một niệm, có thể ba thân, ba tướng ở trong một thân. Vì hiểu được ba thân là Bí tạng nên sinh thân chắc chắc có đủ tôn đặc và Pháp tánh, tôn đặc chắc chắn có đủ Pháp tánh và sinh thân, Pháp tánh thì có đủ sinh thân và tôn đặc. Thấy thân đã như vậy thì việc tu nghiệp cũng giống như vậy. Được như vậy mới dứt trừ tình tưởng của dọc ngang, một khác. Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, mầu nhiệm và vắng lặng thì ý nghóa đó mới thành tựu. Kim Long Tôn vương xưa là người tu tập theo Viên giáo nên đốn tu đốn thấy. Toàn triệt của Hành giả thuộc về Viên. Vì thế, ở trong một thân mà khen ngợi tướng của ba thân. Vì muốn làm sáng tỏ ba tướng là Bí tạng nên gửi lời để khen ngợi, sau đólại dứt bặt lời khen ngợi là vì muốn làm cho chúng sinh nhìn thấy và tu tập một cách Tròn đầy. Hai là “Kinh nay v.v…” trở xuống là nói về sự khéo léo khen ngợi: Từ ngữ khen ngợi của kinh y theo ba mươi hai tướng tức là chỉ bày về sự dứt bặt nói năng. Đó là làm sáng tỏ vấn đề chủ thể trang nghiêm tức là không trang nghiêm mà trang nghiêm, trang nghiêm thể của Đệ- nhất-nghóa. Vậy, lẽ nào thân tướng tôn đặc lại không như vậy? Cũng có thể nói rằng chẳng phải chúng sinh, chẳng phải pháp mà là chúng sinh mà là pháp. Trên thì bao gồm Pháp tánh. Dưới thì nhiếp sinh thân; ý của kinh này là ở đó. Đó tức là ý của sự khéo léo khen ngợi của Long Tôn. Ba là “Mỗi một v.v…” trở xuống là giải thích về diệu dụng: Tuy y theo Viên thì ba tướng, ba nghiệp đều chính là nhau, nhưng do che chở cho chúng sinh mà thành khác nhau, trải qua sự phân biệt của Giáo mà chính là khác với dung nhiếp. Đầu tiên là tướng An bình, Sinh thân thì tiêu biểu, ma tà không lay động được. Ma tức là hoặc của ái, tà tức là hoặc của kiến. Đã trụ ở thiên chân thì hai thứ ma này không lay động được. Nếu là Phật tôn đặc trụ ở cả Tục và Trung thì tức là bốn đế thuộc phạm trù vô lượng. Vì vậy, phàm phu thì Hữu, Nhị thừa thì vô, hai hạng ấy không lay động được. Nếu là Phật Pháp tánh thì chỉ trụ trong Trung đạo nên đương xứ của tà ngoại, ba giáo và tất cả hai bên đều là trung; Có bên nào mà lay động được? Nhục kế của tối hậu gồm cả Vô kiến đảnh. Vì vậy, lấy sự không lễ lạy làm đối tượng được biểu thị. Nói “Pháp không lễ lạy” tức là nói Pháp nhó. Vì sinh thân ra khỏi hai thứ tà ái và Kiến nên tự nhiên không lạy người phàm phu. Vì tôn đặc ra khỏi hai thứ trần sa của giới nội và giới ngoại nên tự nhiên không lễ lạy bậc chứng Trung đạo theo từng phần. Đầu tiên và cuối cùng đã vậy. Lẽ tất nhiên, nói về Duy của ba mươi hai tướng của Trung là rất dễ hiểu. Song, vấn đề không lễ lạy đối với phàm và thánh là bao gồm nhân mà nói chứ không chuyên nhất ở quả. Đại sư có đưa ra ý riêng và chú v.v… là chỉ cho các đoạn văn giải thích đầy đủ về tướng quý. <篇> <卷>QUYỂN 4 (Phần đầu) Giải thích nghóa theo kinh để, có sáu. Một là khen ngợi biển của bảy tướng lớn: Ba mươi hai tướng là lớn, tám mươi tướng quý là nhỏ. Vì mỗi tướng quý đều là pháp giới, đều là vô biên và không có đáy nên gọi là Biển. Tức là, câu đầu tiên khen ngợi tướng thứ mười bốn là sự mầu nhiệm của Kim Quang. Vì vậy, Đại sư nói là “Sắc trên hết”. Hai là câu tiếp theo khen ngợi tướng thứ mười lăm là ánh sáng của thân. Ba là một bài khen ngợi tướng thứ hai mươi tám là sự sâu xa của Phạm âm. Bốn là một bài khen ngợi tướng thứ bảy mươi chín, là tóc màu xanh ngọc. Năm là một bài khen ngợi tướng hai mươi hai là có đủ bốn mươi cái răng. Sáu là một bài khen ngợi tướng hai mươi chín là mắt. Bảy là một bài khen ngợi tướng chiếc lưỡi lớn mỏng, le ra phủ kín mặt đến mí tóc, Tám là một bài tụng khen ngợi ba mươi mốt là tướng sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày. Trong tám đoạn này, một đoạn là tướng nhỏ và bảy đoạn là tướng lớn. Kế là “Lông mày nhỏ nhiệm v.v…” trở xuống là khen ngợi biển của hai tướng nhỏ. Một bài đầu là khen ngợi tướng thứ ba, lông mày như hình trăng non. Một bài tiếp theo là khen ngợi tướng thứ hai, mũi cao đẹp, lỗ không hiện ra. “Tu dương”: Tu là dài, dương là đưa lên. Tức là lông mày cao mà dài. Diện môn là miệng. Ba là hai câu khen khắp cả biển của tướng lớn: Đã gọi là “thứ lớp tối thượng” tức là khen ngợi khắp cả ba mươi hai tướng. Bốn là “Đạt được mùi vị v.v…” trở xuống là khen ngợi về biển của tướng lớn. Tiếp theo là hai câu khen ngợi tướng thứ hai mươi sáu, nước bọt trong cổ họng là đạt được mùi vị trên hết trong các mùi vị. Hai là hai câu khen ngợi tướng thứ mười ba, lông hướng lên trên, màu xanh, mềm mại và xoay về bên phải. Ba là “Cánh tay dài v.v…” trở xuống là bốn câu khen ngợi tướng thứ chín, lập tướng tay Ma-đằng. Bốn là bốn câu “vầng Ánh sáng hình tròn, rộng một tầm v.v…” trở xuống là khen ngợi tướng thứ mười lăm, ánh sáng của thân và mặt, mỗi thứ phát ra xa một trượng. Ở đây nói một tầm là nói theo Đức Phật. Tuy đã là Ma-đằng tức là tương đương với mặt, mỗi thứ đều một trượng. Ánh sáng này đã là ánh sáng thường hằng, cho nên chúng ta suy nghiệm để biết rằng các tướng đều là tướng thường hằng. Nói “Khen ngợi tôn đặc”: Tức vì không cần phải có thân lớn, tướng nhiều mà chỉ cần do nghiệp thức y theo lý của Trung mà hiện khởi thì thân được nhìn thấy gọi là tôn đặc. Người học nên biết về điều ấy. Nếu đo lường thân trượng sáu này thì không đạt được bờ mé, nếu không đo lường vì cái được thấy là Như. Như căn phòng của Tịnh danh chỉ rộng chừng một trượng nhưng dung chứa được cả trăm ngàn người, trời, lại có thể dung chứa ba mươi hai ngàn tòa sư tử mà mỗi tòa cao đến tám mươi bốn ngàn do tuần. Do-tuần, kích thước đầu tiên của căn phòng ấy không thay đổi là nhờ năng lực của ba giải thoát không thể suy nghó bàn luận làm nên. Nay vì khen ngợi tướng tôn đặc ngay nơi thân thường trụ thì lẽ nào nghóa lại không như vậy. Lời nói “vắng lặng nhiệm mầu” ấy qủa là không sai. Văn kinh trừ bốn tướng lớn ấy ra có khi lại khen ngợi các tướng như phát ra ánh sáng, nhổ gốc khổ, cho niềm vui, nhân của hạnh nghiệp và quả của công đức, tất cả đều như văn kinh nhưng đều phải giải thích theo lợi ích mười phen. Dù cho có hai tướng nhỏ đi nữa thì cũng vì sự làm sáng tỏ của văn. Điều mà sớ không chỉ ra tức là vẻ mặt như vầng trăng là tướng thứ bốn mươi mốt mặt sạch như trăng tròn, thân không dơ bẩn tức là tướng thứ mười một thân sạch sẽ. Năm là hai câu “Cánh tay thẳng đều v.v…” trở xuống là lại khen ngợi về biển của một tướng nhỏ, tức là tướng thứ mười bốn, ngón tay dài mịn và tròn, tức là đều, thẳng. Còn âm là dung. Sáu, hai câu “Tay chân v.v…” trở xuống là lại khen ngợi về biển của một tướng lớn: Tức là tướng thứ tư, tay chân mềm mại hơn hẳn các phần khác của thân. Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp có đủ thứ lớp của pháp giới Như. Tuy trí tuệ khéo kéo của Long Tôn lược bỏ nhưng cùng khắp. Từ “Đi v.v…” trở xuống là khen ngợi khắp các loài: Sở dó số cát bụi của ba đời mà nói là một, bởi quá khứ không diệt mất, vị lai không sinh và hiện tại không dừng trụ. Pháp thân bình đẳng, Báo và Ứng chẳng khác nhau, một không lìa Nhiều, Nhiều không lìa Một. Chúng sinh và Phật mà còn chính là nhau thì lẽ nào Phật và Phật mà lại khác nhau. Vì thế, mà sư khen ngợi một loài ở trong tất cả. Đoạn văn này lại là đoạn văn khen ngợi thân tôn đặc. Vì sao? Vì bản sớ ở trước nói rằng: “Nếu thấy bốn đức “Phật đều là tôn đặc, một thân, một trí tuệ thì đó là thấy thân thường trụ. Vì chúng đệ tử chỉ có một, nếu thấy bốn vị Phật khác nhau thì tức là Ứng hóa. Vì chúng đệ tử nhiều. Như thế, ta biết rằng sớ chỉ y theo một thân, một trí và nghóa của thường trụ là tướng của tôn đặc chứ chẳng cần phải nói về sự hiện khởi thân cao lớn. “Văn-thù hỏi Bát-nhã: chữ hỏi là sai, lẽ ra nên viết là nói. Nhà chú giải ngày nay y theo hai kinh để nói về Tam-muội Thường Tọa. Một là Văn-thù nói Bát-nhã, hai là Văn-thù hỏi Bồ-đề. Văn được trích dẫn hôm nay là văn nói về Bát-nhã. Từ “Bày biện v.v…” trở xuống là dứt bặt nói năng, khen ngợi, có hai: Một là chia văn. Hai là “mà có v.v…” trở xuống là giải thích theo văn, có hai: Một là dứt bặt ngôn từ khiến bặt luôn cả tâm: Kế phen là vẫn y theo môn phân biệt. Sự hơn kém của ba thân không lìa phân biệt mà có ý nghóa dung nhiếp. Người học nên biết! Kế là “Từ…” trở xuống là hồi hướng: Một là xoay lại sự để hướng về lý tức là thật tế. Hai là xoay lại Tự mà hướng về tha, tức chúng sinh tế. Ba là xoay nhân để hướng về quả, tức là Bồ-đề tế. Nay thiếu Thật tế Bồ-đề bao gồm. Đó là đạo Vô thượng, vì bản tánh vốn là Vô thượng. Kế là từ “Như v.v…” trở xuống là phát nguyện đời sau, có hai: Một là chia văn lập ý. “Đến tại không xa”: Tức là Phẩm Thọ ký ở dưới. Một vạn Thiên tử đến từ cõi trời Đao-lợi. Hai là tùy theo kinh để giải thích nghóa, lại có: Một là đêm nằm mơ, ngày nói về nguyện. Hai là “Ta nên v.v…” trở xuống là vì người mà giữ lấy lời nguyện tịnh độ: Không tu sáu độ, không nhổ gốc khổ cho chúng sinh thì cõi nước không nhờ đâu được thanh tịnh. Nên biết rằng bốn sự tu tập và bốn tướng làm cho người tu thấy được ba thân của ta ở đời vị lai. Ba là “dâng hiến v.v…” trở xuống là đều mong được thọ ký: Vì trống có nghóa là tròn, rỗng và kêu. Nay khen ngợi một thể ba thân của Như Lai gọi là trống vàng, khen ngợi nhân duyên của Phật. Dùng nhân duyên ấy để hướng về quả địa gọi là dâng hiến chứ không nói về hình dáng của trống vàng thuộc về sự tướng. Bốn là “Nếu có v.v…” trở xuống là lời nguyện “dưới hóa”. Năm là “Ta chưa v.v….” trở xuống là lời nguyện “trên cầu”. Hai lời nguyện này đều giải thích về hai thứ lợi ích là Dứt ác, sinh thiện. Người học có thể thấy ở văn. Từ “Tín v.v…” trở xuống là kết, hội ý việc của hai đời để giải thích về phẩm Không, như sau: Giải thích tựa đề, có hai: Y theo sự giải thích về có ở cả bốn thứ giáo để chỉ bày. “Không được nói về” tức là lấy sự phá hủy tướng làm nghóa. Vì vậy, bốn thứ không trong giáo lý của một đời chẳng giống nhau. Nếu người học không phân biệt vấn đề này thì sẽ bị mê muội đối với danh và Lý. Vấn đề này lại chia làm hai. Y theo bộ để nêu ra bốn thứ, có hai: Một chính là định về bốn thứ không “Diệt sắc nhập vào không”: Tức là giáo lý của ba tạng. Lại gửi (vào) sắc mà nói các pháp đều diệt. Đó là nói (nếu) phá kiến và ái (thì) ấm liền bất sinh. Để giải thích Thật hữu phải diệt mới nhập vào không. “ngay nơi sắc là không”: Tức là Thông giáo. Thể nhập nhân quả chẳng phải do bốn tánh sinh ra. Vì đã giải thích Huyễn hữu nên ngay nơi sắc là không. “Diệt bờ mé nhập vào không”: Tức là Biệt giáo. Trung đạo là không, chẳng những “Không hóa hữu mà cũng không hóa cả không nữa. Nhưng vì không biết rằng Trung có ở không và Hữu cho nên từng bước dứt bỏ hai bên rồi mới đi vào Không của Trung. “Chính biên là “không”: Tức là Viên giáo. Trung đạo có đủ đức tánh. Vậy, có Biên nào mà chẳng phải là Trung. Chỉ có giả, chỉ có không, cả ba đều bặt đối đãi, phá hủy tức khắc, dứt hết các tướng gọi là không của ngay nơi Biên. Hai là “Kinh này v.v…” trở xuống là y theo bộ thì phải (có) bốn thứ: Phán giáo thuộc về Thông, ba thừa đều cùng sám hối. Trước thâu nhiếp ba tạng, sau có cả cả Biệt và Viên. Cái không của sự dẫn đến thành tựu, hợp lại mà nói về bốn thứ. Vì vậy, Tuệ của bốn thứ chẳng được không sáng tỏ. Kế là “mà nay v.v…” trở xuống là xếp phẩm chỉ là Viên, lại có: - Chỉ bày thẳng về vấn đề. Chỉ là Viên, có hai: Một là y theo Lý để chỉ bày: Dùng bốn thứ để nhiếp cơ, đó là con đường phổ thông. Phẩm ở tại không của Viên thì đó mới là ý chỉ. Vì vậy, không của Trung được chỉ bày ở ngay nơi Biên. Hai là “Vì sao v.v…” trở xuống là dẫn văn để chỉ bày: Các bộ Bát-nhã chỉ bày về không tuệ của ba giáo rất đầy đủ. Đồng thời lại lấy ba tạng làm phép quán của giúp đạo. Đó là vì người lợi căn của Văn trì mà nói rộng về tướng không, cơ của không tuệ này xét về Nghóa trì tuy là lanh lợi nhưng vì Văn trì căn độn nên không nói rộng về bốn tướng không mà chỉ nói về một loại không tuệ của Trung ở ngay nơi biên. Kế là “Lại nữa, không v.v…” trở xuống là chỉ bày sơ lược về tướng của Viên: Trung thọ nhận có danh của không nhưng ý lại là quét sạch tướng. Phàm phu chấp hữu tự nhiên ngăn ngại. Nhị thừa chứng Vô nên diệt độ như tro nguội trở về vắng lặng. Trung quán dứt bặt cái không niệm khiến cho hai biên hoàn toàn sạch hết. Y theo thứ lớp và không có thứ lớp mà chia ra Biệt và Viên, ở đây thì không thứ lớp. Kế là “trực tiếp làm v.v… ” trở xuống là theo sáu câu so sánh với Trung để phân biệt, có hai: Một là nói về ý nghóa dùng câu: Nếu trực tiếp nói không là nghóa của Trung đạo thì chẳng thể không hóa cả hai bên. Cho nên tà giáo Tiểu thừa và Biệt giáo đều nói song phi không đối với Hữu và Vô. Vì thế, kẻ mê tên gọi cho rằng “không” ấy giống với nay thì làm sao siêu ngộ được hai bên tức là không của Trung? Lại nữa, vì sợ họ cho rằng Viên và Thật hợp bàn về Trung đạo, đâu chỉ gọi là không nên Đại sư tạo ra tướng để phá tướng. Tướng của tu tức là ba cặp sáu câu để phân biệt. Nếu kẻ bị lẫn lộn về danh tướng của các pháp tướng mà không có sáu câu này thì chẳng thể phân biệt sự khác nhau và giống nhau. Hai là “Không phá v.v…” trở xuống chính là dùng cú để giản biệt, có hai: Một là nêu sáu câu: Song phi là Trung. “Chìm ở Trung gọi là lưu giữ song phi”: Vì tên gọi Trung đạo, tà giáo, Tiểu thừa ít thiết lập. Nếu là tên gọi song phi thì nơi nào cũng đều có. Vì thế, Đại sư đặc biệt dùng Trung đạo để so sánh với không của Viên hôm nay để phân biệt về vấn đề giống và khác. Lại nữa, Thể của không cú và song phi của ngoại đạo, Tiểu thừa và Biệt giáo là có thể nghó bàn, là Pháp có thể hủy hoại. Nếu song phi và không của Viên giáo mà lập thì nghóa của các giáo đều bị diệt. Do đó, hai tên gọi của Viên thay nhau phá hủy hai tên gọi của các thứ giáo. Lại nữa, hai tên gọi của các tu tập thay nhau tu tập về Viên. Hai là trong hai thứ bơ mà ngoại đạo và Bồ-tát đi vào Viên. Nhị thừa, sơ tâm cũng có nghóa tu tập. Hai thứ song này có hai, tên gọi các giáo đối với Viên có hơn kém khác nhau. Một song thứ ba thuộc giáo lý đương cơ của Viên. Vì khác tên nhưng giống Thể nên tức là nhau mà không nói về tu phá. Hai là “Không phá v.v…” trở xuống là giải thích tướng của câu, gồm có: Giải thích tướng phá câu, có hai: Không phá Trung, có hai: Một là chỉ bày khái lược: Vì lý quyết định giải thích, không gặp gọi là hoặc. Lẽ nào nghe về Song phi lại là thật lý. Bởi vì có thể hiểu rõ Thể của song phi thuộc phàm và tà là kiến hoặc, song phi của Nhị thừa là chỉ chứng Thiên chân, song phi của Biệt giáo là đã giữ gìn giáo đạo rồi mà còn chưa dung nhiếp với ba (giáo kia). Nếu lập ra cái không của Viên thì tất cả các loại Song phi ở trước đều bị tiêu diệt. Vì thế, Đại sư nói là “phá”. Hai là “Phàm, Tà v.v…” trở xuống là giải thích chi tiết, như sau: Phá Song phi của Phàm, Tà, có hai: Chỉ chung tướng của thấy, có hai: Một chính là chỉ bày. Phức tứ: Phức cũng như trùng. Đó là đối với một câu lại quan niệm về Hữu và Vô. Tức là Chấp Hữu là Hữu, chấp Hữu là Vô. Cho đến song phi là Hữu, song phi là vô. Cái thấy có đủ, quan niệm của nó càng trở nên tinh xảo. Vì vậy, đối với mỗi câu đều sinh ra bốn niệm. Hai là “Tuy đơn v.v…” trở xuống là kết sự sai lầm. Tuy ba loại bốn câu chuyển thành tinh xảo, nhỏ nhiệm nhưng vì chấp một loại Thật, còn các loại khác đều là nói dối nên kiến và ái càng dữ dội, nghiệp và khổ không bờ bến, mênh mông như biển. Kế là “Tuy quan niệm v.v…” trở xuống chính là phá hoại thứ tư, có hai: Một là chỉ bày về quan niệm nghiêng lệch bị phá: Song phi là hoặc, không đi vào Thật của chân và trung là luống dối. Hai là “Vì thế, là v.v….” trở xuống là nói về có thể phá không của Viên. Kế là phá song phi của Nhị thừa, có hai: - Nói rộng về tướng chứng đắc, có hai: Một là nói về tướng chứng đắc: Song phi của Nhị thừa tuy cẳhng phải là thật của Trung nhưng quan điểm Đoạn, Thường đối với Chân lý. Chưa đến đảo châu báu, chỉ đến hóa thành thì làm sao an ổn được? “Phạm hạnh v.v…”: Vô học bốn trí, trong bốn chỉ thiếu “Sự sinh của ta đã chấm dứt”. Cho sự diệt độ v.v… là đầy đủ. Do ôm ấp quan niệm ấy nên không tìm cầu cái biết cùng khắp. Hai là chỉ bày về bốn môn. A-tỳ-đàm: Hán dịch là Vô tỷ pháp, giải thích pháp quán của Hữu Môn. Năm vị là câu lân v.v… và một ngàn hai trăm vị A-la-hán đều đi vào môn này. Luận Thành Thật giải thích pháp quán của không môn. Tu-bồ-đề đi vào môn này. Côn-lặc: Hán dịch là Khiếp tạng. Luận này giải thích pháp quán của “Song diệu”. Vì vậy, đại luận chép: “Nếu không đạt được Bát-nhã ba-la-mật đa mà đi vào A-tỳ-đàm thì bị rơi vào Hữu và vô”. “Na-đà v.v…”. Thích luận nói về Phật diệt độ, A-nan hỏi Xa-nặc, Phật đáp: “Sau khi ta Niết-bàn, tánh ác của Xa-nặc sẽ dần dần điều phục. Ông nên nói kinh Đà-na-ca chiên diên cho ông ấy nghe”. Đó chính là song phi môn. Pháp quán của bốn môn là giả, người vốn là không. Tuy bốn môn chẳng khác nhau nhưng bốn tướng của Thật pháp lại khác nhau, Hữu môn thì niệm niệm sinh diệt. Không môn thì ba giả phù hư. Song diệc môn thì Hữu vô ung dung. Song phi môn thì cả hữu và Vô đều bị dứt diệt. Tùy căn cơ để y theo một loại quán thì sẽ phát khởi được Chân (Như). Ý của bốn môn thuộc ba tạng, đại khái là như vậy. Kế là “lìa đoạn v.v…” chính là chỉ bày về sự phá hoại Trung, như sau: Chỉ bày về giả danh, Trung là đối tượng bị phá. Tên gọi Trung đạo đại khái có hai thứ: Lìa đoạn Thường gọi là Trung đạo: Hai thứ này có danh mà không có thể, thuộc hai thứ giáo ở trước. Hai là Phật tánh gọi là Trung đạo: Loại này có thật thể, thuộc hai thứ giáo sau. Nay nói về hai cái thấy là Đoạn và Thường của song phi có được tên gọi Trung đạo. Nhưng thật sự thì hoàn toàn không phải là sắc tâm mầu nhiệm. Vì thế, chúng không có cái thể của Trung. Do đó mà tình tưởng không mất đi, ôm cái nghiêng lệch mà chấp chứng. Ở đây thì dùng cát, sạn mà nói là ngọc Lưu ly. Tiếp là “Vì thế, là…” trở xuống là chỉ bày rốt ráo chẳng phải là chủ thể phá hủy. Đây là không tức Biên của Phẩm này. Nếu phát khởi được loại không này thì Trung thuộc giả danh bị hoại diệt. Đó chính là không phá chẳng phải hữu, chẳng phải vô. Ba là Phá môn song phi của Biệt giáo, gồm có: Chỉ bày về cửa mê khởi sai lầm, có hai: Mê khởi sai lầm, có hai: Một là Nêu ý: Căn tánh của hành giả thuộc biệt, so với Viên gọi là Độn. Chẳng phải bốn mà nói bốn gọi là khéo léo. Dụ như chiếc bè: Ý của bốn môn nằm ở chỗ đi vào Lý. Ý của bè là vượt sông. Nếu chấp đắm môn để sinh khởi sự tranh đấu thì cũng như kẻ vác bè mà chạy trên đường. Vì thế, kinh Phật dụ nói: “Pháp còn nên xả bỏ huống chi là chẳng phải Pháp”. Hai là “Không được v.v…” trở xuống là nói về sai lầm: Sai lầm đối với sự dung nhiếp là một mà chẳng phải ba. Kế là “Niết-bàn v.v…” trở xuống là chỉ bày về tướng của bốn môn: vừa là sắc vừa chẳng phải sắc, là Song diệc môn. Chẳng phải sắc, chẳng phải là chẳng phải sắc là song phi môn. Kế là “Nếu mỗi v.v…” trở xuống là nói vì sai lầm cho nên phải phá: Sự tranh chấp này là sai, tức biên chẳng có cách gì để phá được. Kế là “bản mới dịch v.v…” dẫn chứng để chỉ bày về tướng sai lầm: kinh nói về vấn đề Sơ địa che chở cho địa tiền. “Đều có bốn môn”: Kinh nói: “Bồ-tát Sơ địa muốn thực hành con đường Hữu tướng”. Tức là Hữu môn: “Đối với pháp Vô tướng phải dụng nhiều năng lực” tức là không môn; “Một ý thì muốn nhập Niết-bàn, một ý thì lại muốn vào sinh tử” tức là song diệc môn; “Chưa tu hành đủ đối với Tạng mầu nhiệm và bí mật” tức là song phi môn. “Đại kinh… “ trở xuống là giải thích về sự đạt được của ngày nay để làm sáng tỏ sự sai lầm ở trước: Trước là thuộc Biệt môn, là tà kiến của tranh chấp chứ chẳng phải là tà kiến của ngoại đạo. Kế là “Phi hữu v.v…” trở xuống là nói rõ trung phá không. Tiếp là nói về câu của cùng tu, lại có: Một là nói về các loại không tu tập của viên, cái thấy không của Phàm và tà, sự chứng về không của Nhị thừa và không môn của Biệt giáo đã tùy theo hai bên, nếu nghe về Trung của Viên thì tất cả đều phải quán Trung đạo ngay nơi Biên. Hai là các loại song phi tu không của Viên: Nếu Tà, Tiểu và Biệt giáo thì dù nói là Song phi nhưng thành sự chấp tướng thì phải tu ba đế đều là không, gọi là rốt ráo không. Vì các loại song phi và các câu của không chẳng phải là con đường rốt ráo mà là chín pháp giới, cho nên tất cả đều phải tu tập pháp quán siêu việt của không và Trung thuộc Viên giáo để quy hướng về kho bí mật. Ba là giải thích về câu của tướng tức tuy các kinh luận nói về không, nói về Trung, nhưng trong số lượng danh tướng nhiều ít, nếu cái không của tức Biên dứt sạch ba đế thì một thể khác tên của Viên giáo ở đây là nghóa tương tức, không cần phải phá lẫn nhau và tu lẫn nhau. Đầu tiên, nói về tính không hai của không và Trung thuộc Viên giáo, có hai: Một là chỉ bày trực tiếp về không hai. Hai là dẫn Bát-nhã để kết: Ba thứ Bát-nhã là Thật tướng, Quán chiếu và Danh tự. Vì ngay nơi ba là một nên là một pháp. Ngay nơi một là ba nên đặt tên làm sao đạt đến cùng cực. Nếu đạt được ý ấy thì tất cả sự khác nhau của danh từ đều là tức nhau. “Nhưng, Bất v.v…” trở xuống là nói phẩm nay nói lược gọi là không, lời văn đơn giản mà nghóa dồi dào v.v… Vì che chở cho người căn tánh linh lợi của Nghóa trì nên dùng tên gọi đơn giản để nêu mục lục của phẩm. Kế là “Phẩm này v.v…” trở xuống là nói về ý sau này, như sau: Dẫn đạo thành Thượng phẩm, có hai: Chính là chỉ bày, có hai: Một là Dẫn dắt hai thứ dụng: Nếu người tu không nhận biết được ngay nơi biên là không thì sám chẳng phải là Vô sinh nên không phá hết điều ác, thì khen ngợi không xứng hợp với tánh, nên sự sinh khởi điều lành không được sâu. Vì điều lành không sâu nên lẽ nào lại thành trí đức? Ví không hết điều ác thì lẽ nào lại thành Dức dứt? Vì kẻ độn căn chưa liễu ngộ đối với ở trước nên đối với Phẩm nay mà thường nói về không tuệ để dẫn đoạn Sám và khen ngợi ở trước thành hai thứ dụng. Hai là “Cũng là v.v…” trở xuống là thành ba chương. Sám và khen ngợi là dụng, như ở trước đã nói, “Dẫn dắt thành tông”: Nhân của muôn ngàn hạnh nhờ Vô sở đắc mới chứng được ba thân. Nếu không có loại rốt ráo không thì lẽ nào lại có vô sở đắc. Do đó, không của Viên dẫn dắt muôn ngàn hạnh thành tông chỉ của quả đức. “Dẫn dắt thành thể”: Pháp tánh rộng sâu, hiện hữu khắp tất cả các pháp. Và hai thứ Ngã nên sinh tử rộng mênh mông. Nay dùng hai thứ không dẫn dắt tất cả các Pháp mà làm thành thể của kinh. Kế là “Vì vậy, giải thích v.v…” trở xuống là dẫn chứng: Luận nói rằng tất cả lấy Thể, Tông và Dụng mà gồm nhiếp trọn vẹn. Kế là “Lại nữa, Thường v.v…” trở xuống là khai ngộ cho kẻ độn căn: không của Viên có đầy đủ đức, tất cả đều thanh tịnh. Vì vậy mà Đại sư bàn về nguồn cội của Thường và làm sáng tỏ về sự giác ngộ Thể. Hai thứ dụng của Sám và khen ngợi đều là pháp tuyệt đối thanh tịnh, thì lẽ nào lại có một câu rời không của Viên? Như nói rằng “Tất cả chúng sinh đều là Bát-nhã” là chỉ có ý nghóa ấy. Bậc lợi căn thì giải ngộ được nghóa của không ở trên sự nghe. Nay, vì người độn căn chưa hiểu biết mà đặc biệt nói về sinh, pháp, Cảnh và quán đều không thể giúp đỡ cho họ thành tựu nghóa trên. Kế là giải thích về Văn, có hai: Một là chia văn. Hai là giải thích văn, có hai: Giải thích về vấn đề “Muốn nói về không”, có hai: Giải thích, có tám. Giải thích về việc nói đầy đủ của các kinh khác, có hai: Một là chỉ bày chung về tướng để làm sáng tỏ ý. Hai là “Nếu chỉ cho v.v…” là nói riêng về chỉ cho nghóa ở trước, có hai: Một là y theo sự sai trái của thứ lớp các bộ. Hỏi: Đại kinh nói: “Từ bơ sống sinh ra bơ chín” là dụ cho từ Phương đẳng mà sinh ra Ma-ha Bát-nhã. Vì vậy, ta biết rằng Bát-nhã có sau Phương đẳng. Kinh này đã thuộc Phương Đẳng thì lẽ nào lại chỉ rằng Bát-nhã đã được nói xong? Hai là y theo phần sau cho đến hết là đáp, có hai: Một chính là trả lời chung, có hai: Kế dẫn giáo để trả lời chung, có hai: Một là lập chung ý: Vì kinh này sau Phương đẳng nên Tín Tướng nghe chỉ ba tháng nữa Phật nhập diệt nên mới nghi ngờ. Do đó mà Đại sư chỉ vào Bát-nhã mà gọi là “Đã nói”. Hai là “Lại nêu v.v… ” trở xuống là dẫn ba quyển kinh, như sau: - Dẫn A-hàm, có hai: Một chính là dẫn “Ở trước Phật mà đi”: Tức là bảy ngày trước khi nhập diệt. Sa-di Quân-đầu là đệ tử ngài Thân tử. Hai là ở Linh Sơn chỉ có Pháp Hoa thọ ký cho Thanh văn thành Phật. Kế là “Lẽ nào không v.v….” trở xuống là kết luận sự chỉ bày. Kế là Dẫn Đại Phẩm, có hai: Một chính là dẫn. Hai là “Nên biết v.v…” trở xuống là kết luận sự chỉ bày, có hai: “Lấy đó v.v…” trở xuống là xác định rõ ràng về sự kết luận là bác bỏ. Có hai: “Kinh này trở xuống là chỉ bày về không ngại hai: Giải thích sơ lược mà giải thích, có hai: Kế là chỉ bày về sự đầy đủ và sơ lược của danh nghóa thuộc Giáo môn, có hai: Một là chỉ bày hai môn. Hai là “Nên làm v.v…” là nói về bốn câu, có hai: Một là chỉ bày trực tiếp về ba câu: “mười tám không v.v…”: Thể của không chỉ có một nhưng do dứt trừ các cảnh nên tùy theo cảnh mà đặt tên. Như lửa là một nhưng tùy theo vật bị đốt mà có các tên gọi khác nhau. Nghóa ở dưới danh từ tất nhiên cũng phải khác. Vì vậy, do không có pháp bên trong mà gọi là Nội không, do không có pháp bên ngoài mà gọi là Ngoại không, không có mười tám cảnh gọi là mười tám không. Hai mươi không, hai mươi bốn không cũng giống như vậy. Do đó, danh và nghóa đều lập đầy đủ về danh từ của một loại không. Chỉ giải thích sự dứt sạch cho nên danh nghóa đều lược. Như pháp tánh, v.v… đều đặt tên rất nhiều, chỉ giải thích nghóa của Bản tánh. Hai là “Chỉ bày linh động về nghóa thứ tư, có hai: Một là nêu sự chỉ bày. Hai là “Đến từ.. “ trở xuống là chứng minh lời giải thích: Chỉ lập hai thứ Không gọi là sơ lược. Danh từ này mời gọi là nghóa khắp cả mười cõi. Vì từ Phàm đến Phật đều có chúng sinh và năm ấm. Hỏi: Vị trí đến Thanh văn thì sinh và pháp đã không, vì sao Thích Luận nói rằng đến quả vị Phật vẫn còn chúng sinh và Pháp? Lẽ nào chỉ mình Phật là còn? Như thế, ý nghóa của tên gọi Vô thượng là thế nào? Đáp: Tuy Tiểu thừa bàn về không nhưng cuối cùng cũng trở về nguội thân bặt trí. Vì vậy, nhập Vô dư thì Sinh và Pháp dứt hẳn. Đại thừa nói về không thì thể của không là thường trụ, lại không chỉ có một loại giác tánh thường trụ, nên biết rằng tất cả Sinh và Pháp đều Thường trụ. Vì thế, Sinh và Pháp chưa không hóa thì phàm phu thô lậu yếu kém; nếu sinh và Pháp đã trở thành không thì cao hơn, rộng lớn hơn. Do vậy quả cùng cực thì không gì hơn sinh, Pháp. Đó gọi là sự rốt ráo của Không. Vì thế, Đại sư Kinh Khê nói: “Quả ba ngàn thành tựu đều gọi là Thường lạc. Nếu thiếu ba ngàn thì làm sao có Sinh, Pháp, Y và Báo”. Kế là “Nay nói v.v…” trở xuống là giải thích danh thì sơ lược mà nghóa thì đầy đủ của phẩm ngày nay, như sau: Giải thích chúng sinh căn độn, có hai: Xác định đầy đủ, sơ lược, lợi và độn, có hai: Một là y theo Văn-thù để lập: Hợp với đầy đủ là Lợi, hợp với sơ lược là Độn. Hai là “Lời nói ấy v.v… ” trở xuống là y theo Nghóa trì để lật lại: Thân tử mới gặp A-kỳ nói kệ giải thích nghóa của ba đế là khổ, tập, diệt khiến cho được mau chóng chứng đắc, nên không nói đạo đế. Thân tử vừa nghe liền ngộ được Sơ quả. Đến khi Thân tử nói lại cho Mục-liên thì nhờ nghe lại lần hai mới ngộ về Đạo đế. Nói một lần là sơ lược. Nói lại là đầy đủ. Điều ấy lẽ nào lại không phải sơ lược của Nghóa trì là lợi mà đầy đủ là Độn ư? Kế là “Kinh này v.v…” tro là chỉ bày về lợi và độn của cơ ngày nay, có hai: Một là nói về ý của kinh: Tự thân không thể nắm giữ đầy đủ về sự giải thích danh và số, nên gọi là Độn căn. Hai là chỉ bày về cơ ngày nay: Nếu nói về nghóa thì nghe sơ lược mà ngộ gọi là Lợi căn. Kinh Vô Kiến chép: “Chúng sinh căn tánh độn” tức là nói rằng căn cơ ngày nay không thể ngộ được. Đối với Vô Lượng nghóa cũng không ít hơn đối với trí tuệ, cũng y theo trí Văn trì ở đây cũng giống với luận Khởi Tín chép “Tìm kiếm ở luận đầy đủ, văn dài rườm rà. Vì người thích lời văn ít mà thâu nhiếp nhiều nghóa nên soạn luận này”. Lại, “Cuối cùng, vì nghóa sâu xa, rộng lớn của Chư Phật mà tôi đã thuận theo Tổng trì để nói phẩm này. “Nói sơ lược về Vô Lượng nghóa không” đồng với “Tổng trì kia.” “Nói về nghóa sâu xa v.v…”. Kế là giải thích về nghóa của Vô lượng không, có hai: Một là y theo Chân và Trung để phân biệt Thiên chân và Đoạn diệt, không có sắc tâm. Đó là nghóa không hữu lượng: Trung đạo có đủ sắc tâm vi diêu, sinh ra không cạn kiệt và dung nhiếp không bỏ sót, là thuộc về nghóa không Vô lượng. Hai là đứng ở lập trường kinh này để chỉ bày, đã nói về Pháp tánh mà tánh thì không thay đổi. “Đó là thật tướng của thường đức”: Tức là tướng của Trung, của Thật. Phẩm này nói: “Mong cầu Pháp thân chân thật ở Như Lai”. Bản dịch mới nói: “Pháp thân là thường hằng, là Thật”. Thật là ngã đức, sự tự tại của nó là vô cùng. Đã có Thường và Ngã thì lẽ nào lại thiếu Tịnh và Lạc? Bốn đức càng làm sáng tỏ nghóa của không thuộc Vô lượng như sau: Giải thích phương tiện lạ lùng và mầu nhiệm. Giải thích về việc khởi các tâm Đại bi. Giải thích về “nay Ta giảng nói”. Giải thích về “Đều thấy được ý tưởng của chúng sinh. Chính là nói về Không, có hai: Chia văn lập ý, có hai: Một là chia văn. Hai là lập ý, có hai: Một là chỉ bày trực tiếp: “Không có cảnh v.v…”: Cảnh của sinh và Pháp đều là ba đế siêu việt. Vì thế, Đại sư nói “Phép quán của hai thứ không” và Cảnh sinh ra pháp khởi sự quán sát thì sự quán sát ấy mới chân chính. Sự quán sát siêu việt chiếu soi thì cảnh ấy mới hiển bày. Nói đầy đủ về Cảnh và Quán khiến cho được chân chính, được sáng tỏ. Hai là Dẫn chứng mười phen để xem xét: “Cảnh trí”: Cảnh tức là mười cảnh, Trí là mười thừa. Nói mười cảnh là: Cảnh của ấm và Nhập. Cảnh phiền não. Cảnh bệnh hoạn. Cảnh nghiệp tướng. Cảnh của việc ma. Cảnh Thiền định. Cảnh của các thứ quan điểm. Cảnh của Tăng thượng mạn. Cảnh Nhị thừa. Cảnh Bồ-tát. Ấm là hiện tiền, còn Chín cảnh khác thì phải đợi đến sự phát khởi. Dẫu là hiện nay hay đợi phát thì tất cả đều phải tu tập quán trí của mười thừa. Nói mười thừa là: Quán sát cảnh không thể suy nghó bàn luận. Y theo Cảnh để phát tâm Bồ-đề. Khéo an định chỉ quán. Phá pháp cùng khắp. Biết thông suốt và bít lấp. Điều phối Đạo phẩm. Đối trị giúp khai. Biết thứ lớp, vị trí. An nhẫn. Vô pháp ái. Mười thừa này đều là mười thứ cảnh dứt bặt đối với sự nghó bàn. Vì vậy, năm phẩm có được quán sát dứt bặt của quán hạnh, Thập Tín đạt được sự dứt bặt của Tương tự luận, bốn mươi bốn vị dứt bặt Phần chứng luận, Diệu giác dứt bặt Cứu cánh luận. Văn ở dưới chép: “Tức là Tán chi tự nói gọi là nghóa Mật”, đó gọi là Cảnh và trí đều không thể suy nghó bàn luận. Bản mới dịch nói “Pháp là Cảnh, Như là không khác.” Đều là nhắc lại. Bởi, Cảnh và Trí vốn không khác nhau nhưng vì tình thức mà khác nhau, nay lại không khác nhau. Đại só Đông Dương nói: Một là như thuộc bản tánh. Hai là như sự dứt trừ kiến sử. Vị trí không khác với cảnh nên gọi Như Như pháp. Vì cảnh không khác với trí nên gọi là Như Như trí. Nay đều nói đối với ý của không thể suy nghó bàn luận. Kế là “Nói về không v.v…” trở xuống là theo văn giải thích nghóa, gồm có: Một là nói về cảnh của Không, có hai: Một là chia văn lập ý, có hai: Một là chia văn. Hai là Lập ý, có năm: Một là Chỉ bày trực tiếp về hai tướng: “Nói thật pháp”: đối với “Tịnh giả tướng là bất tịnh” là phép quán thuộc Sự. Nay vì đều quán sát về lý đối với năm ấm và người thuộc giả huyễn nên gọi là Thật pháp. “Thân tuy v.v…” trở xuống là nêu ra nghóa giả tưởng. Hai là “Cũng gọi v.v…” là chỉ bày về hai tên khác nhau. “Hạnh hạnh”: Trên hạnh của Tuệ lại thêm hạnh của việc tu tập thuộc sự. Vì vậy, Đại sư gọi là “Hạnh hạnh”. “giúp đạo” là dùng tưởng bất tịnh phá tham ở trong sự. Vì giúp cho chánh quán phá trừ chướng và hoặc thuộc Lý nên gọi là giúp đạo. Ba là “Tiểu thừa v.v…” trở xuống là nói Đại Tiểu đều tu tập, có hai: Một là Nói về ba thứ giải thoát của Tiểu thừa: không nói về Vô ngại giải thoát vì người của Câu thoát thấu đạt Điển tịch trong ngoài được gọi là Vô ngại. Nay vì nói về Chánh và Trợ nên lại nói về hai thứ. Hai là Nói về Đại Tát-bà-nhã: Đại luận dịch là “Nhất thiết trí du hý thần thông”. Vì ở trong ba cõi mà đạt được Tự tại nên gọi là “Du hý”. Vì tu được thần thông nhiều hơn sự khởi phát của Cửu tưởng, Bối xả v.v… nên dùng Giả tưởng làm Pháp giúp đạo. Xe lớn của pháp hoa độ đủ cả trâu trắng nên gọi là Chánh đạo, dẫn dắt gọi là giúp. Chánh tuệ của Niết-bàn xa lìa mười tướng là sắc, thanh, hương vị, xúc, sinh, trụ, hoại, tướng nam và tướng nữ; Vì chủ thể xa lìa được sâu xa nên đối tượng được xa lìa chẳng phải là nhẹ “Lại nữa, để v.v…” trở xuống là giải thích về giúp đạo: Thiền thuộc Sự của tướng xương trắng v.v…, v.v…. tức là dùng ba phép quán đối với Cảnh của thiền thuộc sự để phá chướng ba hoặc, hiển bày ra Ngã tánh thành Tam-muội vương. Phối hợp tu tập giữa Chính và Trợ gọi là Pháp giới của đạt thiền và thấy thiền. Kế là “Các kinh v.v…” trở xuống là nói về vấn đề kinh luận có đầy đủ, có sơ lược. Kế tiếp là nói hai nghóa của phẩm này đều sơ lược. Kế là “Thật pháp v.v…” trở xuống là tùy thích, như sau: Nói cảnh thật pháp, có hai: Một là chia văn. Hai là Tùy văn giải thích, lại có: Nói về cảnh của quả khổ, có ba: Cảnh của sinh không, có hai: Giải thích: Thân là luống dối, có hai: Vì đó là quan niệm sai lầm cho nên thuộc về luống dối, có hai: Một là Cho rằng nhóm họp ấm mà có thân: “Bám níu ấm mà thành thân”. Năm ấm hòa hợp giả gọi là thân. Như nhóm họp năm ngón tay mà gọi là nắm tay. Phàm phu không nhận biết, chấp cái tên gọi là Giả ấy để làm ngã, v.v… Nếu nói đầy đủ thì có hai mươi sáu loại: Ngã. Chúng sinh. Thọ giả. Mạng giả. Sinh giả. Dưỡng giả. Chúng số. Nhân. Tác giả. Sử tác giả. Khởi giả. Sử khởi giả. Thọ giả. Sử thọ giả. Tri giả. Kiến giả. Nay sở dó Đại sư nói sơ lược là năm vì: Ngã ở trong pháp của ấm v.v… nếu tức là hoặc, nếu lìa hoặc mà cho rằng có cái Thật của Ngã và Ngã sở. Nhân: Ở trong ấm mà quan niệm sai lầm về Ngã, Nhân. Chúng sinh: thì đối với ấm vọng chấp là ngã sinh ra. Thọ giả: Đối với pháp của ấm v.v… mà quan niệm sai lầm rằng ta thọ quả báo trong một thời gian. Tuổi thọ giả: Đối với các pháp ấm v.v… mà quan niệm sai lầm rằng mạng căn được liên kết, duy trì, không chấm dứt. Vì chấp như vậy nên mới chấp rằng có thân ta, gọi là “Thân kiến được sinh khởi”. Hai là “Nếu Thể v.v…” trở xuống là thể vốn luống dối, không thể đạt được Vọng chấp có sinh nhưng sinh thật bất sinh. Vì thế, Sinh gọi là luống dối. Đã vốn bất sinh nên chấp thân vắng lặng. Lại giống như như không thể. Kế là “Lại nữa, xem xét v.v…” trở xuống là xem xét lý do hoàn toàn luống dối, có hai: Đầu tiên chính là kiểm chứng, có hai: Một là Kiểm chứng về giả danh: “Do một niệm Vọng tưởng”: Đó là, lúc con trai gá vào thai thì thấy mẹ là cảnh chấp lấy, thấy cha là cảnh bị cạnh tranh; đối với mẹ thì khởi lòng tham, đối với cha thì khởi tâm sân; chất chảy ra của cha thì lại cho là của mình. Do niệm tưởng sai lầm ấy mà gá vào thai. Con gái thì trái lại, có nói đầy đủ như trong Đại kinh. “Khởi đầu của giả danh”, tên gọi nam nữ là do vọng tưởng này làm khởi đầu. Hai là “Đó cũng v.v…” trở xuống là xem xét về lý do của Thật pháp, có hai: Một là (Huyết) đỏ, (Tinh) trắng tức là di thể. Ba tánh: tức là Thiện, ác và Vô ký. Hai là “Lại nữa, Tinh v.v…” trở xuống là sáu đại, năm ấm: sáu đại là lý do mà Thật pháp y cứ. “Nếu hai thứ quán này v.v…” trở xuống là kết thúc sự chỉ bày: Thân là huyễn chất. Danh là giả danh. Đã do vọng tưởng và từ Tinh, huyết thì nghiệm ra thân được thành tựu kia gọi là luống dối. Kế là Giải thích về “Giống như sự nhóm họp của Không”. Nghiệm lực Vô minh, nghiệp tức là Hành, đó là Vô minh duyên Hành, hoặc lúc mới gây nghiệp, hoặc lúc gá vào thai như trước đây nói về thức của trai hoặc gái khởi tham sân đối với cha mẹ, lấy chất chảy ra của cha mẹ mà cho là của mình, do vọng niệm đó mà được gá thai. Thể tức là di thể, tức là đỏ và trắng. Kế là từ “sáu v.v…” trở xuống là thể hội cảnh của pháp không, gồm có: Lập ý chia văn, có hai: Một là Lập ý. Hai là chia văn. Theo văn giải thích, có hai: Giải thích sáu nhập, có bốn: Giải thích về sáu nhập, lại có: Một là Giải thích hai tên. Hai là “xem xét v.v…” trở xuống là kiểm chứng về ba việc: “Mạng, Noãn, Thức”: kinh Đại Tập chép: “Giai đoạn Ca-la-la có ba việc”. “Hơi thở vào ra” gọi là tuổi thọ. “Không thối không hư hoại” gọi là Noãn. Tức là do nghiệp giữ gìn Hỏa đại, sắc mềm thuộc Địa, Thủy v.v… không bị thối, nát vữa. Trong đây, tâm và ý gọi là Thức, tức là giác biết trong tên gọi là Sát-na. Ba pháp hòa hợp, từ lúc sinh ra cho đến lúc lớn lên không thêm, không bớt. “Bảy ngày thay đổi một lần”: Tức là nói lúc đang ở trong thai, bảy ngày đầu tiên gọi là Tạp uế trạng, như chất bơ đặc lại. Bảy ngày thứ hai gọi là Bào trạng, như bọc ung mụt. Bảy ngày thứ ba gọi là Ngưng kết trạng, như máu đọng. Bảy ngày thứ tư gọi là Ngưng lậu, vì đã hơi cứng. Bảy ngày thứ năm gọi là Hình vị, vì tứ chi khác nhau. Bảy ngày thứ sáu gọi là Mao phát trảo xỉ vị. Bảy ngày thứ bảy gọi là Cụ căn vị, vì đã đầy đủ năm căn, cộng với thức trước là ý căn thành đủ cả sáu căn. Kế là “Thức y cứ v.v…” trở xuống là giải thích xóm làng. Ba là “Trần đi theo v.v…” trở xuống là giải thích: Sự chấm dứt của Giặc kiết sử, do trần mà khởi kiết. Vì hại luôn tuệ mạng nên nói là giặc kiết sử. Bốn là “Mắt thấy v.v…” trở xuống là giải thích “Vì không biết nên rình rập nhau”. Kế là Từ “Mắt v.v…” trở xuống là giải thích mười hai nhập, có bốn: Kế là y theo sự mở ra để phân biệt vô số: “Mở rộng Sắc thành mười”: Tức là năm căn và năm Trần. “Phần ít”: Tức là pháp nhập nhiếp vào hai thứ pháp. Một là Tâm pháp: trừ tâm vương ra chỉ lấy các tâm sở thuộc tương ưng. Hai là Phi tâm pháp: Tức là pháp quá khứ, hiện tại, vị lai và các hành thuộc Tâm bất tương ưng cùng ba pháp vô vi. Ở đây nói “Phần ít” tức là chẳng phải sắc thuộc quá khứ, vị lai ở trong tâm pháp. “Mở rộng tâm thành hai”: Đó là ý nhập và pháp nhập. Nhưng đối với pháp, Nhập cũng chỉ là phần ít. Tức là đối với hai thứ là pháp và Nhập thì chỉ nhiếp tâm pháp. Nay nói hai tức là nêu lên toàn bộ số. Kế là “Trần Nhập v.v…” trở xuống là nói về tên gọi chung và riêng. Kế tiếp là “Tương đương với một v.v…” trở xuống là giải thích về mỗi loại tự duyên. Kế nữa là “Căn khác v.v…” trở xuống là giải thích về sự không duyên với loại khác. Kế là “Theo tâm v.v…” trở xuống là giải thích về mười tám giới, có hai: Một là phân biệt về số để giải thích danh từ. Hai là Tùy theo văn để giải thích nghóa, có ba: Một là nói về thức hiện hữu ở các Căn: Truy tìm và duyên với quá khứ, dự toán đến vị lai. Trì sính giống như rong ruổi. “Như người v.v…” trở xuống là nêu điển hình: Ngồi yên trong một căn phòng mà tâm suy nghó khắp nơi trong thiên hạ. ái nhiễm trần duyên gọi là ngồi mà rong ruổi. Nếu tự chẳng phải cái không siêu việt thì chẳng thể dứt các tưởng rong ruổi. “Vì ngu v.v…” trở xuống là giải thích việc bị sáu tên cướp làm hại: Như Đại kinh chép”: Phẩm Đức Vương nói “Thí như có vị Vua đựng bốn con rắn độc trong cái hũ nhỏ rồi sai người chăm sóc, nuôi dưỡng. Nếu làm cho một con tức giận thì ta sẽ y theo pháp mà tru lục. Người giữ gắn liền vứt bỏ cái hũ nhỏ mà chạy trốn. Vua lại sai năm gã Chiên-đà-la cầm đao đuổi theo. Một kẻ giấu đao giả làm người thân thiện, nhưng người giữ rắn ấy không tin mà chỉ chạy vào một ngôi làng để trốn. Lúc vào làng rồi thì chẳng thấy người và vật nữa. Người ấy ngồi dưới đất và nghe trong hư không có tiếng nói rằng: “Đêm nay sẽ có sáu tên cướp hung ác đến đây”. Người ấy sợ hãi, liền bỏ chỗ đó mà đi. Trên đường đi gặp một dòng sông, nước sông tuôn chảy cuồn cuộn. Người giữ rắn liền dùng cây cỏ làm thành một chiết bè, cắt dòng chảy mà đi. Qua được bên kia sông rồi thì được yên ổn, không lo lắng nữa. Bồ-tát cũng giống như vậy, nghe kinh Niết-bàn mà quán sát thân như cái hũ nhỏ, bốn đại như rắn dữ, năm gã Chiên-đà-la tức là năm ấm, kẻ giả thân thiện tức là tham ái, xóm làng hoang vắng tức là sáu nhập; sáu tên cướp tức là sáu trần, sông tức là sông phiền não, chiếc bè tức là Đạo phẩm, đi đến bờ kia Thường, Lạc, Ngã Tịnh. Hai là “Tâm thường v.v…” trở xuống là nói về tính chất thường tồn tại của Thức: Căn và Trần vừa đối liền biết”: Tức là đối trước trần liền biết. Dẫn luận để chứng minh cho nghóa “liền biết” đã nói “tâm muốn nghe” tức là biết thức ở căn. Ba là “Tâm xứ v.v…” trở xuống là nói thức thường đi về: “Chợt ra chợt vào”: Vì đối trước trần nên đi ra, không đối thì lập tức đi vào “Xuất nhập gián quan”: Pháp sư ứng nói: “Đó là nói về ra vào”. Cũng là dáng vẻ bày biện, sắp đặt”. Trang tử nói: “Tiểu trí phân biệt” Tức là cách trở, ngăn ngại. “Mổ một bỏ một”: Bỏ một mắt lại mổ lấy một mắt lưới. “Cách trở, ngăn ngại khó ra, được nói là Thường trụ”: Vì trần vừa đối diện thì biết ngay. Kế là từ “Thân v.v…” trở xuống là kết về hai cảnh, có hai: Một là nêu bày. Hai là “Thân không v.v…” trở xuống là giải thích, có hai: Một là Giải thích về hai câu đầu tiên để kết cảnh của sinh không: nuôi lớn tức là Dưỡng dục kiến, một trong mười sáu thứ kiến. Quan niệm sai lầm rằng ta có khả năng nuôi dạy người khác, lại quan niệm rằng ta là bậc cha mẹ nuôi dạy. Hai là “Cũng không v.v…” trở xuống là giải thích hai câu sau để kết luận về cảnh của pháp không, có hai: Kế là giải thích xa về không có chủ tể, có hai: Một là kiểm chứng riêng: Tâm làm chủ tất nhiên là có khả năng chế tác và được tự tại. Đã bị người khác làm não hại thì cố nhiên là hai nghóa chế tác và tự tại bị phá. Qua đó, chúng ta biết rằng tâm chẳng có chủ tể. Hai là “hoặc có lúc v.v…” trở xuống là cùng suy về chủ: “Bốn thứ vi tế”. Tức là Sắc, Thanh, Hương vị và Xúc. Đại luận chép: “Địa có Sắc, Hương, Vị và Xúc. Nhưng vì đất nặng nên không tạo tác gì. Thủy ít có Hương nên động tác hơn hẳn Địa, Hỏa ít có Hương, Vị nên thế hơn hẳn Thủy. Phong có ít Sắc, Hương và Vị nên động tác hơn hẳn Hỏa”. “Tâm không ngang bằng”: Vì tâm so với bốn đại là không mượn sự sâu kín và hơn hẳn cho nên là chủ. Nhưng, nếu nói về làm não hại thì lại không thành chủ tể. Kế là Giải thích tùy theo sự không tranh luận: Tuy do nhân duyên hòa hợp mà thành các pháp, nhưng vốn chẳng có Tư và Niệm thì làm gì có sự tranh đấu, kiện tụng, vì đều do quan niệm của tính thức mà bốn đại trở nên như rắn, sáu trần thành như cướp. Nếu quán vốn không thì các pháp đều vắng lặng, có ai là người tranh chấp, kiện tụng. Vì vậy, Đại sư dùng không tranh tụng để kết thúc Cảnh của pháp không. Từ “Các v.v…” trở xuống là nói về cảnh của Tập nhân, có hai: Chia văn đối biện, có hai: Chia văn, đối biện, có hai: Một là đối với giả tưởng để phân biệt: “Ba ở trước: Tức là Cảnh của Tập này tự lập ra ba khoa. Đó là tướng của Tập khởi là cảnh của chánh quán thuộc Tuệ hành. Một khoa sau là Giả tưởng, là cảnh của giúp đạo quán thuộc Hạnh hành. Chín hàng văn kinh này đã có sự nối liền nhau mà lại nói “Vì bốn đại dường như khó phân biệt” nên Đại sư so sánh ba khoa trước với một khoa sau mà nói về chánh và trợ để phân biệt chúng ta. “Lại nữa, một khoa trước”: Tức là lấy một khoa đầu tiên trong số ba khoa của Tập cảnh với Giả tưởng của khoa sau để nói về sinh diệt. Vì một khoa ở trước nói rằng “Từ sự hòa hợp của nhân và duyên mà có” đồng thời cho rằng “đất, nước, gió, lửa nhóm họp mà thành lập”, một khoa sau nói “Lúc hạt giống nước, lửa và gió tản mát, diệt hoại”; như vậy, lẽ nào lại chẳng phải tướng sinh diệt của bốn đại ư? Nhưng sở dó nói rằng “Sinh diệt đều từ sự vô minh của hạt giống” là vì muốn làm sáng tỏ sự sinh diệt này không lìa mê tối và luống dối. Do đó, đối với giai đoạn sinh ở trước thì nói là “Vì vọng tưởng nên sinh khởi”; đến giai đoạn Diệt ở sau thì nói là “Lúc tản mát và diệt hoại là chết”; đến phần phối hợp của chi thì nói “lo buồn khổ não”, đó là quả Vô minh và cũng là nhân vô minh. Vì vậy, luận chép: “Già chết có quả, đó là Vô minh, Vô minh có nhân, đó là chỉ cho già chết”. Do đó, sinh diệt đều xuất phát từ vô minh. Hai là “Nếu trực tiếp v.v…” trở xuống là đối với Tiểu thừa mà nói: Vô minh sinh diệt như đã nói ở trên thì giáo lý nào mà không như vậy? Nếu muốn biết rõ thì phải nói về Tiểu và Diễn. Tiểu thừa nói rằng bốn đại thật sự sinh ra từ Vô minh và từ Vô minh mà diệt. Giảng nói bốn đại cùng có, vì thế của bốn đại thuộc Thông giáo trong ba loại giáo vốn là không. Vốn chẳng sinh diệt, do Vô minh nên thấy có sinh diệt; sinh của như huyễn, diệt của như huyễn. Thể của bốn đại thuộc Biệt giáo là Phật tánh. Do Vô minh nên bốn đại sinh diệt; Tánh chẳng sinh diệt nhưng tướng thì có sinh diệt, thể của bốn đại thuộc Viên giáo cũng là Phật tánh. Nhưng tánh vốn có đủ cả chín cõi, vì là bốn đại. Chín và bốn đại hoặc sinh hoặc diệt đều là pháp giới. Do đó, cả tánh và tướng đều bất sinh diệt, sinh diệt này không thể suy nghó bàn luận. Vì thế, kinh Pháp Hoa nói rằng “Tướng thế gian thường trụ”. Nghóa của câu ấy đã như vậy thì giải thích ba giáo đều được sáng tỏ về “Vốn bất sinh mà sinh, Vốn không Diệt mà diệt. Sinh diệt chẳng hai mà hai”. Nay đã chẳng phải Thông và Biệt thì tất nhiên là nói theo Viên. Kế là Từ “Các v.v…” trở xuống là tùy theo văn để giải thích nghóa, có ba: Nói về tướng tập khởi, có hai: Y theo Sinh và Pháp để giải thích, có ba: Một là phân biệt khổ từ Tập: Khổ là quả thế gian, Tập là nhân thế gian. Nhân quả đó đều sinh ra từ nhân duyên. Sự giải thích của hôm nay tuy liên quan đến quả khổ nhưng thật ra ý của sự giải thích ấy là làm sáng tỏ về nhân duyên của Tập. Hai là “Ba loại trước v.v…” trở xuống là chia câu đối nghóa. Ba là “Tiểu thừa v.v…” trở xuống là phá nhân duyên của Tiểu thừa, có hai: Một là nói về Tiểu thừa: Câu-xá nói: “Cực vi chẳng phải là vàng, cây, cỏ, dê, trâu, bụi v.v…” Tiểu thừa Hữu nên cho là Cực vi. Vì bắt đầu có mười phương phần nên chẳng phá Lân hư. Lấy đó làm nhân duyên. Hai là “nay nói rõ v.v…” trở xuống là bác bỏ sai lầm. “Bụi nhỏ cũng hết”: Lân hư cũng phá. Hai trần đã phá nên nhân duyên cũng không thành. Kế là “Nói nhân v.v…” trở xuống là y theo Sinh và Pháp để giải thích, có: Nhân duyên của giả danh, có ba: Một là giải thích: Từ các thứ nhân duyên này nên dùng luận Khởi Tín để nói: “Vô minh làm nhân sinh ra ba tế, cảnh giới làm duyên ra sáu thô mới trọn vẹn. Ý của Sớ nói ba tế là Nghiệp tướng, Chuyển tướng và Hiện tướng. Tức là căn bản bất giác huân tập chân như sinh ra ba tướng. Vì vậy, Đại sư nói: “hoặc bên trong của Vô minh là nhân”. Nói sáu thô tức là nói về trí tướng, tương tục tướng, chấp thủ tướng, kế danh tự tướng, khởi nghiệp tướng và nghiệp hệ khổ tướng. Tức là Chi mạt bất giác khởi lên trí tướng v.v… đối với cảnh giới bên ngoài. Hai thứ chấp là Sinh và pháp gọi là ái nhiễm, đắm nhiễm đối với sự xúc chạm ở bên ngoài. Vì hai thứ bất giác huân tập vào hai thứ tâm chấp đắm thành khởi nghiệp. Vì thế, Đại sư nói “Do Vô minh nhuận ái tập mà nghiệp khởi lên”. Bỗng nhiên đều không phân biệt được, mê pháp giới của một mà thành Vô minh. “Nội hoặc, v.v…” lẽ nào có khả năng làm sáng tỏ không tuệ của Trung đạo hôm nay. Hai là “Vì nghiệp v.v…” trở xuống là giải thích về hòa hợp mà có: “Vì nghiệp khởi”: Tức là khởi lên nghiệp tướng. “Thì có v.v…” trở xuống tức là nghiệp hệ khổ tướng. Ở đây nói quả của khổ tức là “Bám víu vào ấm mà thành người thuộc giả danh”. Ba là “Một này v.v…” trở xuống là giải thích: “Không chắc, Thật. Do vô minh, ái”: Hai thứ bất giác làm nhân, tức là tâm thuộc chủ thể Sinh. Một niệm gá thai là quả Bất giác, gọi là tâm thuộc đối tượng được sinh. Chấp đắm nhân quả gọi là Bổn và Mạt. Đã là bất giác thì lẽ nào lại Chân Thật. Vì thế, Đại sư nói “Đều là luống dối không chắc, thật”. Kế là “Vọng tưởng v.v…” trở xuống là Thật pháp, nhân duyên cũng là vọng tưởng: Một niệm gá thai so với trước là chẳng khác. Nhưng, trước thì Thành đối với người thuộc giả danh mà nay thì Thành đối với thật pháp. Giả và Thật hòa hợp mà thành một báo thân. Nhờ tu tập hai thứ không mà phá được hai thứ chấp nên chia làm hai cảnh. “Chủ của máy móc”: Như sự chuyển động của người giả bằng tượng gỗ có máy móc. Chủ tức là người điều khiển máy móc. Vì thế, dùng nghiệp nhân dụ cho tượng gỗ là cái được điều khiển. Lấy ấm quả dụ cho Sắc. Vì ấm giống như hình chất của tượng gỗ nên nói là đầy đủ máy móc. Ba ấm như động tác đi, lại của tượng gỗ. Ấm như người xem, cho nên nói là “Để tự vui đùa”. Kế là “Tùy thời v.v…” trở xuống là nói về sự cắn nuốt, của Tập tướng, có hai: Kế tiếp là Nhân quả đối thích, lại có: Một là giải thích: “thêm bớt tàn hại, chiều dọc y theo mười thời”: Đại kinh chép: Đắc dị của Ca-la-la. Thời dị của A-phù-đà. Thời dị của Bế thủ. Thời dị của Pháo. Thời dị của Sơ sinh. Thời dị của trẻ thơ. Thời dị của Đồng tử. Thời dị của Niên thiếu. Thời dị của thanh niên. Thời dị của già chết. Lại, niệm niệm sinh diệt tuy ở tại tâm, nhưng chúng ta phải biết rằng bốn đại cũng có thêm bớt. Lại, vì các căn mới gọi là lúc sinh, nên lúc các căn chết lại ăn uống để bồi bổ máu, thịt làm mắt, nước mắt, lỗ tai v.v… Kế là “Thí như v.v…” trở xuống là giải thích về “Bốn con rắn trong một cái hũ nhỏ, lại có: Nói về bốn con rắn, có hai: Một là y theo quả báo rắn để nói về bốn tướng: Rắn có các thứ quả báo như lực, đối địch, ốm và tuyệt v.v… có thể làm thí dụ cho bốn tướng thêm bớt của sinh, già, bệnh, chết. Hai là “Như đó v.v…” là y theo nhân của rắn để nói về bốn phần: Bốn phần phiền não đều có độc hại tức là rắn. Do nhân đó mà chiêu cảm bốn tướng của bốn đại, như sau: - Chỉ bày riêng về sự chiêu cảm quả báo của bốn phần, có hai: Một là Nói về sự sinh ra bốn đại. Hai là “điềm lành v.v…” trở xuống là nói về bốn tướng: kinh nêu ra ba tướng. Sớ dùng Đẳng phần làm lệ chung đến tướng sinh. Kế là Tổng kết về nghiệp của Tập đưa đến khổ. Sự giải thích về bốn con rắn ở trên tuy có nói về quả báo của khổ, nhưng vì ý là nói về nhân duyên của tập nên Đại sư Tổng kết rằng “Tướng của tập nghiệp là cắn”. Khiến cho Đại thêm bớt, công được quy về tập, là ý chính của kinh. Kế là Nói về “Cùng một hũ nhỏ”, có hai: Một là y theo Thân là hũ nhỏ. Thích tức là làm độc. Kinh nêu bốn con rắn để dụ cho bốn đại, ý là để sáng tỏ bốn phần có nghóa của độc hại. Một phần có hai muôn một ngàn, bốn phần có tám mươi bốn ngàn, từ vô lượng kiếp đến nay sở dó tuệ mạng của pháp thân bị mất là do chúng. Đó là ý “Thân giữ bốn đại, Đại không khởi Tập, rắn không có nghóa của độc, như chim ở trong lồng” mà Đại kinh có nói. Văn tiếp theo sẽ nêu lại. Vì giải thích sơ lược nên chú “v.v…”. Hai là “Lại dùng v.v…” trở xuống là y theo nghiệp là cái hũ nhỏ: Vì Túc nghiệp vẫn còn nên bốn đại chưa tan rã. Lại nêu cái lồng chim để làm sáng tỏ về nghiệp, cái hũ nhỏ. Chúng ta nên biết rằng ý của bản sở ngày nay nêu nghiệp, giữ gìn Đại là làm sáng tỏ về Tập nhân, vì thế gọi là chim tâm. Chim dụ cho bốn phần rong ruổi theo sáu trần bên ngoài, thường tìm cầu sinh tử chứ không an định pháp thân. Nếu niệm nào của người cũng nghó đến việc phá giới tức là mong cầu địa ngục, tiêu diệt hẳn năm phần, nghiệp người của đời trước vừa hết thì rơi hẳn vào Nê-lê. Thứ đến giải thích về tánh của Đại đều khác nhau, có hai: Một là y theo một thân để giải thích. “Tánh khác v.v…”: Tuy nói rằng bốn đại hòa hợp làm thành thân, nhưng vì tánh của đại đã khác nhau thì làm sao hợp thành được? Đây là làm sáng tỏ vấn đề trong thành lập tức có hoại. Vọng tình chẳng biết đối với hoại nên chấp sự hợp thành, bao bọc và chấp mắc Tập của Sinh. “Bốn Đại đối với bốn phương”: làm sáng tỏ về bốn Đại ở bên trong có Tánh của bốn phương. Vì bốn phương Thăng và Giáng nên chúng ta nghiệm ra rằng Đại trái ngược nhau. Ý của “Đối với thời, Đối với Duy” cũng giống như vậy. Vì thể Tánh của bên trong cùng thời, phương ở bên ngoài vốn là một. Vì thế, nghóa của Y, Chánh, Sắc, Tâm, Chiêu cảm thành nghóa. Do vậy, kinh nay đặc biệt dùng bốn đại để làm rõ về nghiệp của Tập. Hai là “hoặc nói v.v…” trở xuống là y theo sáu căn để giải thích: Bởi sáu căn đều là bốn đại tạo sắc. Kế là Giải thích về diệt tất cả không còn dư. Cho đến “Cũng lấy người chết thì bốn đại phân tán liền nói rằng hơi thở, gió, hơi nóng, khí lực đã trở về phần trên; xương, thịt, máu, mồ hôi thì quay xuống dưới”. Cho đến “Tìm kiếm đều không có chỗ đi, vì vốn không đến. Nếu có đến, đi thì chẳng phải giáo lý của nay. Tiếp là “Nếu quả v.v…” là kết do nghiệp của Tập: kinh nêu lên sự thăng trầm của bốn đại càng lắm chính là muốn nói về Thiện ác của Tập cảnh khác đường. Vì bốn đại không chỉ là ác mà còn có cả thiện hữu lậu. Kế là nói về cảnh Thiện ác của Tập, có ba: Một là Giải thích tâm thức: Người học về Tông nay phải biết về Cảnh và Quán. Nếu nói về Quán thì phải hiểu rõ ba Thức, là Thức thứ chín là Yêm-ma-la, là thức bất động. Thức này tương đương với Chánh nhân, Phật tánh. Có thể làm phép quán của trung. Thức thứ tám là A- lại-da, là thức vô ký vô minh. Tánh của Vô minh là Liễu nhân Phật tánh, có thể thực hành phép quán Không. Thức thứ bảy là A-đà-na, là thức phân biệt, vì là tánh của hoặc nên tương đương với Duyên nhân Phật tánh, có thể thực hành phép quán về Giả. Ba thức này đã không hai, không khác với ba đức nên là kho bí mật. Do đó chúng thâu nhiếp tất cả các pháp và hiện hữu khắp nơi. Người tu tập phép quán của Viên chắc chắn biết được không có một tâm, một trần nào chẳng phải là ba thức. Tức là Lý siêu việt thuộc đối tượng được hiển ra lại là phép quán siêu việt thuộc chủ thể quán. Nếu nói về Cảnh thì chỉ quý cái gần, cái chủ chốt, chỉ lấy thức của kiến tư thuộc thức thứ sáu để làm cảnh giới. Vì biết ba thức siêu việt chưa bao giờ tạm lìa một kiến, một tư, nên ngay nơi tâm này mà lập ra ba phép quán vượt hơn để làm sáng tỏ về ba đế siêu việt. Tuy chỉ là một thứ Thức nhưng chẳng hề không dùng ba Thức mà làm phép quán, chưa từng không dùng ba Thức để làm Cảnh. Nếu nói rằng Tông chỉ của nay không làm sáng tỏ về ba Thức mà chỉ làm sáng tỏ về Lý của ba đế đối với Thức thứ sáu thì sự giải thích tựa đề của nay và sự mầu nhiệm kia chỉ bày về ba thức là ba phép quán vượt hơn làm sao có thể dùng được? Thì lấy cái gì ở một thức tâm mà làm ba đế ba quán. Vì vậy, nếu không có cái thấy thuộc thông suốt thì khó bàn về Tông chỉ của Viên. Nay vì làm sáng tỏ cảnh của Tập nên dẫn Lý có cả cả Tiểu của luận văn. Chỉ phân biệt một pháp có ba khả năng của tâm, ý, thức mà lập ra ba tên gọi. “Đối số gọi là Tâm”: Vì đối với tất cả số, các Đại đi chung v.v… nên gọi là Tâm Vương. “Thường sinh gọi là Ý”: Ý là chỗ nghiệp y cứ. Nghiệp y theo ý nên thường sinh khởi tất cả nhân quả. Vì nó có đủ ba Tánh, “Phân biệt gọi là Thức”: Vì nó nhận thức được về cảnh thuộc sở duyên nên gọi là Thức. “Lại nữa, nói v.v…” trở xuống tuy chỉ là một thứ Thức nhưng y theo sự khác nhau của ba thời mà lập ra ba tên gọi, không giống nhau với nghóa, chỉ y theo một thời có đối số thường sinh ra sự phân biệt của sự giải thích ở trước. Trước là giải thích theo nguyên tắc chiều ngang. Ở đây giải thích theo nguyên tắc chiều Dọc. Đầu tiên là sinh khởi Cực vi, kế là khởi sự chấp đắm dần dần. Sau cùng, khởi sinh lại càng rõ ràng hơn. Như vậy lẽ nào lại chẳng phải chiều Dọc? Kế là giải thích về hai tánh: Tánh có hai nghóa: Một là Chân Lý không thay đổi gọi là Tánh. Hai là theo duyên nhiễm tập gọi là Tánh. Sự nói về Tánh ở đây là y theo Tánh thuộc Nhiễm tập. Hai tánh ấy hiện hữu khắp tâm, ý, thức. Mỗi loại đều có hai tánh ấy. Thiện là giải thích về thô tháo, loạn động, có hai: - Chính là giải thích về thô tháo, loạn động. Một là y theo tâm Vương và tâm Sở để giải thích. Hai là “Lại nữa, như v.v…” là y theo sự lôi kéo của nghiệp để giải thích, có hai: Kế là nói về sự lôi kéo của nghiệp, có hai: Một là Nói về hai thứ lôi kéo. Hai là “Cũng là v.v…” trở xuống là giải thích theo lệ chung về tùy nghiệp, tức tương đương với bốn câu. Nếu hiểu được hai thứ lôi kéo tức là biết được thọ báo. Kế là “Thủy, hỏa v.v…” trở xuống là nói về Cảnh của giả tưởng, có hai: Chính là giải thích về tướng, có hai: Giải thích lúc tản mát, hoại diệt, có hai: Một là giải thích Bất tịnh của Đại và Tiểu: Vì phá được dục tình giúp cho Chánh quán được lập ra nên gọi là giúp đạo.  <卷>QUYỂN 4 (Phần cuối) Hai là “Nếu chính v.v…” trở xuống là nói về công năng, lại có: - Nói về việc phá dục để giúp cho Chính, có hai: Một là Chỉ bày sơ lược. Hai là Chỉ bày chi tiết, có ba: Một là dẫn Thích luận để làm rõ về Chính: “Ba thứ giải thoát”: Đó là Không, Vô tướng, Vô tác. Từ ba quả được chứng mà gọi là cửa giải thoát. Giải thoát và Niết-bàn tuy là hai tên gọi nhưng thể chỉ có một. “Đạo phẩm là pháp mở cửa”. Tiểu thừa thì dùng mười sáu phép quán làm ba cửa giải thoát. Phẩm ngày nay thì lại Chính là Không, Chính là Giả, Chính là Trung để làm ba cửa giải thoát. Muốn mở cửa này thì hành giả phải dùng Đạo phẩm điều phối mà tu tập. Như dùng bốn thứ Niệm xứ để tu tập Chính là Không, Chính là Giả, Chính là Trung và bốn Chánh cần. Cho đến điều phối tám Chánh để tu tập cũng giống như thế. Nghóa của sự điều phối bảy khoa thuộc ba thứ giải thoát ở Tiểu thừa cũng giống như vậy. Nghóa là đều lấy đạo phẩm làm pháp mở cửa. “Chín thứ tưởng là”: Tưởng trương phình. Tưởng hư hoại. Máu loang lổ. Mủ rửa nát. Bầm tím. Ăn. Tản mát. Xương. Thiêu đốt. Nếu theo Tiểu thừa thì có hai thứ người: Một là Người thuộc Hoại pháp, chỉ cầu dứt khổ thì chỉ tu đến loại tưởng thiêu đốt, thành người của Tuệ giải thoát. Hai là Người thuộc bất hoại pháp, chỉ trụ ở tưởng xương mà không tiến đến tưởng thiêu đốt, có xuất ra ánh sáng v.v… có đầy đủ công đức, thành người thuộc Câu giải thoát. Nay nói về Bồ-tát thấy Thật tướng của Thiền gọi là tu đạt thiền, khác hẳn với Tiểu thừa. Tuy Đại, tiểu có khác nhau nhưng đều dùng Bất tịnh để giúp cho sự khai mở ba cánh cửa giải thoát. Kế là chỉ bày sự tiến tu để nói về sự lớn lao của lực. Đầu tiên là tu tập bất tịnh, tiến lên tám bối và hoàn toàn Bất tịnh. Sở dó nói lớn là vì nếu chỉ quán Chánh báo của thân mình và thân người thì gọi là bất tịnh ở phạm vi nhỏ, tức là chín quán tưởng. Nếu quán cả y báo gọi là hoàn toàn bất tịnh. Đó là “Nhà như gò mả”, “Tiền bạc như rắn chết”, “canh như nước tiểu”, “cơm như dòi tửa” “áo như da hôi thối”, “Núi như đống thịt”, “Ao hồ như sông mủ”, “Vườn rừng như xương khô”, “Sông biển như giòng nước ô uế” v.v… Tất cả đều hoàn toàn bất tịnh, cùng còn gọi là “Xả bỏ hoàn toàn”. Bối tức là quay lưng với năm thứ dục tinh khiết. Xả là xả bỏ tâm chấp đắm. Kế là dẫn sự làm sáng tỏ về đối trị của Đại kinh để nói về muốn được giải thoát, năng lực đối trị mạnh thì mau chóng phát khởi vô lậu. Kế đến là “Không này v.v…” trở xuống là nói về Trợ và Chính của hai không, có ba: Một là Y theo nghóa để chỉ bày chung. Hai là dẫn kinh để chỉ bày riêng. “Tám thứ sắc xuất ra ánh sáng”: Đó là tám thứ sắc gồm đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ và trắng. Pháp Giới Thứ Đệ nói: “Thấy sắc của đất như đất Vàng, Xanh trong sạch, thấy sắc của nước như nước sâu lắng trong, thấy sắc của Lửa như lửa không khói thanh tịnh, thấy sắc của gió như gió không bụi trong sạch, Thấy sắc của màu Xanh như núi Kim Tinh, thấy sắc của màu Vàng như hoa Bồ-bặc, thấy sắc của màu đỏ như ráng đỏ vào sáng mùa Xuân, thấy sắc của màu trắng như tuyết kha bối. Ba là “Đó là y theo v.v…” trở xuống là kết thành trợ chính, để đối trị dục: Tu tập thiền mà dùng Chánh quán của Nhị không để biết rõ cảnh bất tịnh. Vì là pháp giới nên chẳng thấy người giả và thật pháp ở xương, ánh sáng. Phối hợp Chính và Trợ này để tu tập mới là pháp giúp đỡ cho sự khai mở của Đại thừa. Thứ đến là nói về quán nhị không của Sinh và Pháp, lại có: Chia văn lập nghóa, có hai: Một là chia văn. Hai là Lập nghóa, gồm có: Nói về đế và duyên vốn là đại, có hai: Nói về thông với đại, có bốn: Một là y theo chuyên ở Tiểu để hỏi: Nay nói về không của Viên thì làm sao được dùng bốn đế của Thanh văn và Nhân duyên của Bích- chi-phật? Hai là y theo chung với đại để đáp: Đức Phật nói về Đế và Duyên là che chở có cả Nhị thừa, Bồ-tát của Đại và Tiểu. Vì chúng có ở cả bốn thứ giáo. Như con đường lớn của thế gian, những người nhỏ kém cùng đi chung chứ không nhất định là thuộc người nhỏ bé. Ba là Hỏi lại tức là ý chung “Thế nào là bốn chữ”. Bốn là “Niết-bàn v.v…” trở xuống là giải thích chi tiết, có hai: Một là Nói về đặt tính chung của bốn đế: “Thuở xưa, ta v.v…”: Thuở xưa là lúc còn là phàm phu, vì đối với ba thừa Đức Phật không thấy chân lý của bốn thứ bốn đế nên lại trôi lăn trong sinh tử phần đoạn. Vì văn của kệ chưa hoàn tất nên nay dẫn ra đầy đủ. Do đó, Đại sư chú, “v.v…”. Phàm phu có khổ nhưng không có Đế”: Tuy bị đau khổ dữ dội nhưng lại không cho đó là điều đáng lo lắng, vì họ không nhận biết rằng đó là khổ. Do đó, Thanh văn vừa có khổ, vừa có Đế. Đây là tương đương với sự không hiểu được Vô sinh của ba tạng, cho nên nói là khổ. Vì có thể xét biết nên gọi là Khổ đế. “Bồ-tát v.v…”: Ba thứ giáo là Thông v.v… đều đạt được Như huyễn, đều thoát được khổ, ở chỗ không có khổ. “Nhưng có Chân-đế. Sớ của Chương An nói: “Chân là Chân thật, vì vậy, biết chính là hai thứ chân thật của thứ lớp và không thứ lớp. “Chư Phật v.v…”: Quả Phật là Tròn đầy, cùng cực, rốt ráo thật. Qua đó, chúng ta biết rằng trí bốn thứ giáo tuy có cạn, sâu nhưng đều y theo bốn đế. “Sở dó v.v…” trở xuống là lại trích dẫn hai thứ bốn đế để giải thích thành hai ý trước. “Nhị thừa v.v…” có hạn lượng: Vì Tạng và Thông chẳng biết Như Lai tạng nên bốn đế được quán sát cuối cùng thành có hạn lượng. Vì Bồ-tát thuộc Biệt và Viên biết được Tạng tánh nên bốn đế được quán sát đều là vô hạn lượng “Nhưng gồm có hạn lượng”: Vì sâu thì chắc chắn biết được cạn. Hành giả Biệt giáo quán lượng và vô lượng theo thứ lớp. Hành giả của Viên quán sát bốn thứ bốn đế trong một niệm. Hai là “Đại kinh v.v…” là nói về nhân duyên chung với bốn đế: Vì đều quán sát mười hai nhân duyên nhưng do trì có sâu cạn khác nhau nên đạt được đạo Bồ-đề có bốn thứ cao thấp. Ý của bốn trí ở kinh kia là làm sáng tỏ về bốn giáo. Vì vậy, chúng ta biết rằng nhân duyên không thuộc về Tiểu thừa. Kế là “Lại có v.v…” trở xuống là nói chỉ có Đại, gồm có: - Nói về vấn đề chỉ là pháp của Bồ-tát, có hai: Một là Dẫn kinh: “Nho đồng”: Nho tức là Nhân (lòng nhân). Tức là nói đồng tử Nhân, Hiền. “Tập-Ứng”: Tức là tu tập ứng hợp với vô tướng. Bốn đế, Nhân duyên, mỗi loại đều nêu lên đầu và cuối mà đều lượt bỏ phần giữa. Vì vậy, Đại sư nói “Cho đến Đế Duyên”. Đã là pháp nhẫn là pháp tương ưng của Bồ-tát nên chúng ta suy ra rằng Nhị thừa của Lý sâu không sánh bằng ba loại Thông và Diễn. Nay dùng sự tương ưng của Đế, Duyên thuộc Viên giáo mà làm thành Không tuệ ngày nay. Hai là “Nên biết v.v…” trở xuống là kết thúc sự chỉ bày. Kế là Nói về cái thấy cạn cợt của Nhị thừa, có ba: Một là Nói về Thanh văn: Nếu so với nhân duyên thì tức là dùng bảy chi mà làm chung một thứ khổ, vẫn dùng năm chi làm chung một tập. Lại nữa, Khổ và Tập không chia ra quá khứ, vị lai mà chỉ sơ hiện tại có tính cách chung. Vì căn tính chậm lụt nên Pháp tướng sơ lược chung. Hai là Nói về Bích-chi-phật: mở ra tướng chung của Thanh văn thành tướng riêng. “Năm của hiện tại”: là Thức, Danh sắc, sáu nhập, Xúc và Thọ. “Hai thuộc Vị lai”: là Sinh và già. Chết là Khổ thuộc tướng riêng. “Hai thuộc quá khứ”: đó là Vô minh và Hành. “Ba thuộc hiện tại”: Đó là ái, Thủ và Hữu. Đây là Tập thuộc tướng riêng. Lại mở rộng ba đời không chỉ có hiện tại. Vì vậy, Đại sư nói “Sơ lược quả và Nhân, trong phần mở rộng có thể so sánh ba thứ”. Như vậy thì ba đời đều có mười hai chi. Vì dùng phước để tài bồi cho Trí nên được quán riêng. Ba là “Tuy là v.v…” trở xuống là bác bỏ về cạn, có hai: Một chính là bác bỏ Nhị thừa: Vì ba môn học được tu tập là không vì chúng sinh, không thành tự pháp của Phật nên gọi là tự điều phục, tự độ. Đại luận chép: “Giới của Nhị thừa gọi là tự điều phục. Định gọi là Tự độ, Tuệ gọi là tự thanh tịnh. Duyên giác tuy có chút phần Từ bi nhưng vì không thể làm lợi ích rộng lớn nên cũng gọi là Tự. Hai là “Cùng Bồ-tát v.v…” trở xuống là so sánh để làm rõ vấn đề Bồ-tát chưa chia ra Quyền và Thật mà chỉ là Bồ-tát khác với Nhị thừa. Thứ đến là “Nay nêu v.v…” trở xuống là nói về tích và Thể khác nhau, có hai: Một là y theo cùng ở ba thừa để nói về quán thuộc tích. Hai là y theo Bồ-tát thuộc không cùng chung để nói về quán thuộc Thể: Thật sự có dứt trừ không là tích, Hữu thuộc huyễn chính là không, gọi là Thể, các bản văn có nói. Nay nói Hữu thuộc Huyễn chính là Trung gọi là Thể, tức là dùng Thật diệt và Không của huyễn để gọi là tích. Vì chưa đạt được thật thể của các pháp nên nghóa của Thể không thành tựu. Do nói rằng các pháp cuối cùng là vô thường nên chỉ là nghóa của Chiết. Nay nói mỗi pháp trong các pháp đều Thường trụ. Đã thấy được thật thể của pháp nên gọi là Thể siêu việt. Nghóa đầu tiên chia như sau: Giải thích riêng, có hai: Y theo Nhị thừa để nói về quán, có hai: Phép quán Sinh không, có hai: Một là Nêu thí dụ để suy. Hai là “Ngã nhân v.v…” trở xuống là đứng về pháp để xem xét: Vì mỗi loại đều suy về không nên dẫu có hợp lại cũng là không. Vì nhóm họp hư không để làm thành Sắc. “Chính là ấm v.v…” trở xuống là lại xem xét ngay nơi lìa khiến khó được. Kế là “Tuy cầu v.v…” trở xuống là pháp quán không, có hai: Một là Nói pháp tồn tại: Nối tiếp thí dụ trước để làm sáng tỏ về người không còn nhưng Pháp vẫn hiện hữu. Hai là “Lại phải v.v…” trở xuống là dùng quán để phân tích, có hai: Một chính là nói về loại suy Pháp không: Trước khi chính thức xem xét Pháp không thì đầu tiên là phân tích Sắc ấm. Kế đó, “Niệm trước v.v…” trở xuống là phân tích bốn ấm, không có Tưởng và Thọ là vì xếp chúng vào Hành và Thức. Hai là “Đã không v.v…” trở xuống là kết cả hai thứ không: Tuy có trí nhưng nếu không có cảnh thì trí sẽ tự mất. Vì vậy, cả cảnh và trí đều nói là “Không đạt được”. Kế là “Chung với Bồ-tát v.v…” trở xuống là lấy Bồ-tát để làm lệ có cả kết: Trước đây nói về quán của tích là Pháp của ba tạng. Vì đối với phẩm này, quán của Thổ thuộc về Viên nên xếp Bồ-tát độn căn của thông giáo chẳng thể thể nhập Trung, cũng thuộc vào phép quán của tích. Do đó, Đại sư nói “Bồ-tát cũng như vậy”. Kế đến là “Đó là v.v…” trở xuống là tổng kết vì sao nói tự hành, vì người khác khác nhau” là bởi Bồ-tát Thông giáo đối với hai thứ quả của Nhị thừa mà chia thành hai hạnh. Thứ đến là y theo Bồ-tát thuộc về không chung để làm sáng tỏ phép quán của Thể, lại có: Một là Chỉ bày chung về sự khác với trước: Nói khác Bồ-tát không có nghóa là Biệt giáo mà là hành giả của Viên khác với Thiên và Tiểu nên gọi là Biệt. Vì thế, Đại sư nói là “khác hẳn nhau”. Hai là “Như thấy v.v…” trở xuống là nói kỹ về tướng của quán, có: - Nói về Pháp của thể thuộc về không siêu việt, có hai: Một là Lập dụ để làm sáng tỏ: Nhưng văn Ví dụ gương mà bóng có lạm với Thông. Người học phải biết là ý của Viên. Thông của có sáu cõi để làm gương và bóng. Biệt và Viên gồm mười cõi để làm gương và bóng. Tuy Biệt là mười cõi nhưng chín cõi là do tu mà thành. Vì tu mà thành là không thật nên giống như gương và bóng. Viên thì biết rằng Tánh đức của mười cõi là sẵn có. Vì sẵn có, đoạt sự tu thành không có công đức nên như gương và bóng. Môn không hai chép: “Nhân của Huyễn đã tròn đầy nên quả của gương và bóng tròn đầy. Vì giải như thế nên nói “Huyễn thể, Thể chỉ là giải”. Trong gương ngoài gương”: Giải thích do nhân duyên hình thành tức là nắm tay trong gương chỉ cho không thật. Cũng giải nhân duyên thuộc năng thành tựu tức là nắm tay ở ngoài gương chỉ cho tính không thật. Hai là “Chúng sinh v.v…” trở xuống là đứng ở pháp quán, lại có: - Nói về Sinh và Pháp đều không, có hai: Một là nói về quán: Nào là Giả, nào là Thật đều vốn bất sinh. Không thì đều là không. Hai là “Như đại v.v…” trở xuống là dẫn chứng: Ngã là Giả nhân, Sắc là Thật pháp. Hai tánh đều là không, Nhân và Pháp chẳng khác nhau. Vì thế gọi là “Như”. Kế là “Đời nay v.v…” trở xuống là cả nhân và quả đều vắng lặng, có hai: Một là Nói về quán: Năm thứ quả đã là cái được sinh do nhân duyên nên có thể hợp với nắm tay ở trong gương chỉ cho tính không thật. Hai thứ nhân đã là nhân duyên thuộc chủ thể sinh, có thể hợp với nắm tay ở ngoài gương chỉ cho tính không thật. Hai là “Văn ở dưới v.v…” trở xuống là dẫn chứng: Đương thể của Giả và Thật tức là Không, Giả và Trung gọi là bản tánh vắng lặng. Từ Vô thỉ gắng gượng chấp chặt gọi là giả thật sinh ra, gọi là do vô minh nên có. Đã biết nhân diệt thì lẽ nào quả lại không diệt. Tiếp theo là “Tuy bất v.v…” trở xuống là chỉ bày về trí của ba đế siêu việt. Ngay nơi Không, Giả và Trung mà quán không. Vì chính là không nên chẳng đạt được Sinh và Pháp của sáu cõi. Vì chính là Giả nên không đạt được Sinh và Pháp của Nhị thừa. Vì chính là trung nên chẳng đạt được Sinh và Pháp của Bồ-tát, Phật. Vì quét sạch hoặc của mười cõi nên cả Cảnh và Trí đều gọi là “chẳng đạt được”. Nhưng có thể xem xét kỹ lưỡng về Sinh và Pháp của mười cõi hai thứ Cảnh, hai thứ trí đều gọi là thông đạt hoàn toàn. Cảnh là Tục siêu việt, vì không có tướng nên không có cái bị nhiễm. Trí là không siêu việt; vì không có duyên nên chẳng có cái để làm cho trong sạch. Vì không nhiễm, không trong sạch là xứng với hợp với tính chất lìa niệm của Bổn nên cả hai bên cùng biến mất, chính thức đi vào Trung đạo tự nhiên cùng soi chiếu. Kế là kết sự hiển bày ra tròn đầy của ba đế. Ba đức, ba đế khai sáng ngay nơi Niệm. Nêu một là có đủ cả ba. Thể không có thứ lớp, làm sáng tỏ tính chất không trước sau, không giác ngộ mà giác ngộ, gọi là bậc đại giác ngộ. Kế đến là “Cùng với đó v.v…” trở xuống là tương ứng với thể của kinh: Đức Phật chỉ bày hai thứ không để làm sáng tỏ Thể của Pháp tánh. Nếu không chiếu soi ba đế thì lẽ nào lại xứng với tính chất vô lượng sâu xa của pháp tánh? Vì thế, chúng ta biết sự giải thích của hôm nay tương ưng với Tánh. Tánh này gọi là kho báu Kim cương. Nếu Chiếu soi nghiêng lệch thì đức không có đầy đủ. Kế là “Đó là v.v…” trở xuống là y theo người để chỉ bày: Vì vậy, chúng ta biết rằng Thể của nay không chỉ là thể không mà phải thể nhập ba đế mới được gọi là Thể riêng. Kế là “Các Tiểu v.v…” trở xuống là phê bác sự sai lầm về ý của các sư, lại có: - Chính là bác bỏ sự sai lầm, có hai: Một là Bác bỏ các sư Tiểu thừa: Hữu môn của Tỳ-đàm nói là giữ Lân hư. Không môn của Thành thật nói là phá lân hư. Dẫu là giữ hay phá cũng đều là chia chẻ để diệt hai thứ hoặc là kiến và ái. Người mở mang truyền bá sai lầm về ý nên mỗi môn đều sinh ra quan niệm cố định. Vì khởi lên Kiến và Tư nên thuộc về Đoạn và Thường giống như người ngoại đạo kia hoàn toàn chẳng phải là tích thật sự. Hai là Bác bỏ các sư Đại thừa: Các kinh Bát-nhã v.v… nói về tất cả các pháp như huyễn tức là không. Rốt ráo không này, ba đế lanh lợi, các sư không thấu đạt nên giải thích là Đãn không. Vì chẳng phải chính là giả nên không thể du hý thần thông. Vì chẳng phải trung nên không thể giải thích về tri kiến của Phật. Vì chẳng phải là cái biết của Phật nên không đạt được ba trí một tâm. Vì chẳng phải là cái thấy của Phật nên chẳng thể có đủ năm thứ mắt. Tuy y theo giáo Lý của Đại thừa nhưng Lý thì ngang với Tiểu thừa. Ở trong Tiểu thừa mà giống với người phá hoại pháp. Tiến tu thiêu tưởng hoại diệt xương người, đã không thực hành quán luyện huân tu thì không cách nào thành tựu được ba minh, sáu thông. “Ba minh”: mắt Trời, Túc mạng, Lậu Tận. Cộng thêm Thiên nhó, Tha tâm, Thân như ý thì thành sáu thông. “Nguyện trí đảnh thiền”: Vì thiền siêu việt, vô cùng cao thượng nên gọi là Đảnh. Nguyện muốn biết sự việc ba đời, tùy nguyện cho nên biết, được gọi là Nguyện trí đảnh. Kế là Dẫn kinh để chỉ bày. Thủ là mở đầu kinh. Tụ là cuối kinh. Pháp thân Như Lai tức là pháp thân về mặt quả, Trí và dứt đều có đủ. Nay, dùng niệm hiện tiền của hai thứ không để tìm cầu. Thể của Niết- bàn vô thượng có đủ ba đức. Đều không hai, không khác với pháp tánh tánh của vô lượng sâu xa. Vì thế, cái được giải thích ở đầu và cuối vô cùng sâu rộng. Tiếp là “Lẽ nào có thể v.v…” trở xuống là kết luận không dùng: Tà kiến của người đời tức là Chấp đoạn của “Cái không ngu si” và Ngoại đạo chấp đoạn. tích của Tiểu thừa tuy là Chính giáo nhưng vì không có phương tiện Bát-nhã nên rơi vào Đoạn và Thường. Thể pháp của Đại thừa tuy trọn vẹn, đầy đủ nhưng các sư chỉ làm cái Thể của thiên không. Nếu đã đồng với phép quán của Tuệ giải thoát ở Tiểu thừa thì làm sao hiểu được không của chính tức Biên? Kế là “Thiện nữ v.v…” trở xuống là y theo nghóa để giải thích văn, gồm có: Nói về tu tập nhân. Hai không quán Gồm có: Y theo khổ và tập để nói về quán không, có hai: Sinh không, có hai: Một là chia văn. Hai là giải thích nghóa, lại có: Đối cáo khuyến phát, có hai: Giải thích về Thiện nữ, có hai: Y theo bốn Tất-đàn để giải thích. Gồm: Một là Thế giới. Hai là “Lại nữa, thời v.v…” trở xuống là vì người. Ba là “Lại nữa, Nam v.v…” trở xuống là Đối trị. Bốn là “Lại nữa, Phật v.v…” trở xuống là Đệ-nhất-nghóa. Kế là “Đó là v.v…” là kết thành nhân duyên. Giải thích về “Nêu quán”. Kế là “Các pháp v.v…” trở xuống là chỉ cho cảnh ở trên, có hai: Một là Giải thích các pháp: “Danh mục tuy lược”: Chỉ nói “Các pháp” tức là đã gồm nhiếp tất cả các cảnh nói ở trên. Hai là Giải thích về “Như thị”, có hai: Một là nêu ba nghóa: “Chính thức nói về quán sát chung”: Hai thứ không quán ở dưới đi qua cảnh của Đế và Duyên để làm sáng tỏ riêng về sự tu tập quán thuộc Không, Giả và Trung. Ba thứ quán này đều được gọi là Cảnh của Đế. Nay, một loại “Như thị” là chỉ bày chung về ba thứ quán. “Có ba nghóa”. Nêu ở ba pháp, tức là tương đương với nghóa như của ba quán. Hai là “Như sự v.v…” trở xuống là chỉ ra và giải thích ba nghóa, có hai: Một là Chỉ ra và Giải thích: Tức là chỉ Thượng, Hạ ở trong văn để giải thích tướng của ba pháp. Giả tưởng chỉ cho Thượng, hai thứ khác chỉ cho Hạ. Vì cả Thượng và Hạ đều là Cảnh không thể suy nghó bàn luận nên đều chỉ ra là pháp như. Hai là “Lại nữa, sự v.v…” trở xuống là Dung nhiếp, đầu tiên là Tục, là Trung chân thật. Kế là Trung, tức là Tục chân thật. Sau cùng là Chân, chính là Tục và Trung. Vì dùng ba đức siêu việt làm ba đế nên ba loại này chẳng phải một, chẳng phải khác. Vì Như thị nói là thị nên được gọi chính là giải thích về phép quán chung. Lấy “cũng là một, khác” mà làm các pháp. Đã lấy chẳng phải một, chẳng phải khác làm phép quán thuộc năng quán thì vừa là một, vừa là khác mà là Cảnh thuộc sở quán. Cảnh và quán không hai, cuốn lại và duỗi ra không ngăn ngại nhau. Kế là “Nơi nào v.v…” trở xuống chính là quán, gồm có: Giải thích chung về bốn câu, có ba: Y theo hai câu để nói về quán không, có hai: Giải thích câu đầu tiên, có hai: Một là đứng ở năm ấm để quán: Nói “chỉ ra” tức là đã dùng “Như thị” để chỉ bày chung về ba phép quán. Nay vì dùng bốn câu để chỉ bày ba phép quán nên đều nói là “chỉ ra”. Nay vì xem xét không có nghóa của Người nên tương xứng với lý quán. Hai là “Lại nữa, Quả v.v…” trở xuống là quán nhân quả. Kế là “Người đã v.v…” trở xuống là điển hình câu tiếp theo. Kế nữa là “Bản tánh v.v…” trở xuống là y theo câu thứ ba để nói về trung quán: “Chẳng lấy Bản tánh làm chủ thể quán”. Tức là chẳng phải Trung quán. Nghóa là tất cả các pháp chẳng phải Lý, chẳng phải Sự gọi là bản tánh. Vì, chẳng có riêng nên Pháp Hoa nói rằng: “Từ xưa đến nay, tự thân các pháp thường là tướng vắng lặng”. Bát-nhã tán chép rằng: “Pháp giới bình đẳng chân thật. Phật không độ chúng sinh”. Vì vốn chẳng có Vô minh thì lẽ nào lại có chúng sinh? Vốn chẳng có Không tuệ thì lẽ nào lại có Phật? Đã không có chúng sinh và Phật thì làm gì có cái gọi là Độ. Chẳng phải pháp, chẳng phải lập, Song Phi cũng mất gọi là Vốn vắng lặng. Tiếp là “Vô minh v.v…” trở xuống là y theo câu thứ tư để nói về Giả quán, gồm có: Do mê mà lập, có hai: Chính là giải thích, có hai: Một là y theo trực tiếp của Sự và Lý để giải thích: Tuy các pháp tức là bản tánh vắng lặng nhưng do có tánh nhiễm nên khởi lên ô nhiễm thuộc về sự. Do phá nhiễm thuộc Sự nên lập ra không Tuệ. Vì muốn làm tiêu mất cả nhiễm và Tịnh nên lập ra tức Trung. Thuốc và bệnh này đều do Vô minh. Hai là “dùng hữu v.v…” trở xuống là y theo mê ngộ để giải thích: Sinh và Pháp là sự thành tựu của quả. Vì hoặc nghiệp nên Đại sư nói rằng “Vì có Vô minh v.v…”. “Đã có v.v…” trở xuống là muốn không hóa cả Sinh và Pháp thì phải nói về ba phép quán. “Giúp cho phép quán thuộc về Sự”: Sự thuộc giúp đạo là phép quán thuộc về Tưởng. Tức là Bất tịnh, Lưu dật v.v… Cái giúp cho chính đạo đó tức là phép quán khế Lý của hai thứ không. Tu tập cả hai thứ Chính và Trợ là để làm sáng tỏ một tánh. Vì thế, Đại sư lập ra phép quán chẳng phải Sự, chẳng phải Lý. “Sự đó v.v…” trở xuống là dùng ngày nay để biết về ba mà nghiệm ra rằng Vô minh là sự không biết, thuộc về Sự. “Cả ba đều là Sự”: Tức là ở sự tu tập. Môn không hai chép: “Tuy tu đủ cả chín”. Kế là “Tịnh danh v.v…” trở xuống là dẫn chứng: Vì bệnh thật sự của chúng sinh mà sinh ra bệnh quyền biến của Bồ-tát. “Thị hiện ý của bệnh”: Tức là vì muốn nói về thuốc của Pháp. Kế nữa là “Nếu biết v.v…” trở xuống là do ngộ mà đều tiêu mất: Nếu biết không bị bệnh thì dùng ba món thuốc để làm gì. Đó là ý tiêu mất của phẩm Không. Lại nữa, “Nhưng Ngã v.v…” trở xuống là giải thích riêng về câu thứ nhất, lại có: - Nói về sự chấp thuộc Người là cái được phá, có hai: Một là Chỉ bày chung về tướng Ngã: (Ngã) là pháp đầu tiên trong năm trụ, là chủ của ba cõi. Nếu người phá được Ngã thì dù có khởi lên kiết sử đi nữa cũng không đọa vào bốn đường. Vì vậy, Đại sư nói “Sâu nặng”. Tiểu thừa, Đại thừa đều quý trọng Vô ngã. Nếu không dứt trừ Ngã thì Thánh hiền của bốn giáo đều không có đường nhập vào. Vì vậy, Đại sư nói: “Chướng lớn” “Phàm phu v.v…” trở xuống là nói về chỗ sinh khởi Ngã: Đầu tiên là cùng khắp sáu tác, kế là cùng khắp sáu độ. Hai là “Nếu nhóm họp v.v…” trở xuống là chỉ bày riêng về lợi độn, có hai: Một là Độn: “Bám vào di thể của kẻ khác để khởi”: Đó là hoặc thuộc Câu sinh. Cùng sinh ra với thân gọi là hoặc Câu sinh. Như các loài bò bay máy cựa thật sự không tìm tòi về Lý nhưng vẫn giương càng, vểnh râu, trợn mắt tự cho là vó đại. Thấp bé, phàm hèn vì sao lại thường chấp cái thấy. Đi, đứng, ngồi, nằm đều khởi tâm Ngã. Vì lúc nào cũng tự khởi nên gọi là Sơ độn. Hai là “Nếu chấp v.v…” trở xuống là lợi, có hai: Một là nói về Lợi thuộc một: “Khởi chấp thuộc pháp trần”: Tức là hoặc thuộc phân biệt. Vì đối với ý căn nên gọi là Pháp trần. Vì phân biệt nên sinh ra loại hoặc thuộc mê lý. Đây gọi là Lợi sử. Sơ quả của Tạng, Kiến địa của Thông, Sơ trụ của Biệt và Sơ tín của Viên, đều dứt trừ loại hoặc này. Hai là nói về tướng trạng, gồm: Nói sơ lược về mười Sử, có hai: Chính là giải thích về tướng của Sử, có hai: Một là nói mười là Cành, Lá: “Chấp một pháp”: bất luận là Tà, Chánh, Đại, Tiểu, Thiên, Viên, nếu chỉ chấp một câu tức là sinh ra mười sử. Năm thứ Sử trước là Lợi, năm thứ Sử sau là độn, tức là độn ở trong lợi. Hai là “mười sử v.v…” trở xuống là nói Ngã là căn bản. Kế là “Dẫu làm cho v.v…” trở xuống là chỉ bày cả về nhân, có hai: Một là Nói về có đủ loại tuệ của tà thiền: Trường Trảo tức là Câu- hy-la, là cậu ngài Thân tử. Vì siêng nang học hỏi đến nỗi không rảnh để cắt móng tay nên người đương thời gọi Phạm chí Trường Trảo (Móng tay dài). Ông ấy là người có căn tánh lanh lợi và là bậc cao hiển nhất trong số những người ngoại đạo nên kinh nêu ra. “Diệp phúc” (Bụng có che lá sắt): luận Kim Thất Thập nói: “Trong số ngoại đạo của Ưu- lâu Tăng khư có một người đứng đầu đến nước kim địa. Đầu ông ta đội thau lửa, bụng quấn lá sắt để luận nghị với Tăng”. “Hỏi vặn về đá”: Đại luận quyển hai mươi sáu chép: “Tát-già Ni-kiền-tử vặn hỏi người” v.v… cho đến “Cây, gỗ, ngói, đá chảy mồ hôi v.v…” “Đến Phi tưởng”: Như Uất-đầu-lam-phất vì đã đến Hữu đảnh nên gọi là “Sắp ra”. Vì bị đọa vào loài chồn bay nên gọi là “Lại quay trở lại”. Hai là “Như thế v.v…” trở xuống là nói về vấn đề chẳng thể phá Ngã: Còn chẳng phải là nội phạm của Tiểu thừa thì lẽ nào lại ngang với sự phá hủy Ngã của hàng Sơ quả. Hai Lại nói đầy đủ về Ngã kiến: Đó là, tức Sắc là Ngã, lìa sắc có Ngã, Ngã lớn sắc nhỏ, Sắc ở trong Ngã. Sắc lớn Ngã nhỏ, Ngã ở trong Sắc; Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng giống như vậy. Mỗi loại ấm trong năm ấm đều có bốn thứ Ngã kiến nên có hai mươi Ngã kiến. Kế là “Nếu một v.v…” trở xuống là nói về không tuệ thuộc năng phá, có hai: Nói chung về Không tuệ, có hai: Đứng ở lập trường cảnh và trí để nói về Sinh không, có hai: Chỉ bày riêng, có hai: Một là tìm ở Cảnh của ấm. Lại đứng ở bốn câu gồm: tức là ấm, lìa ấm, Trung ấm có Ngã, trong Ngã có ấm để tìm kiếm: “Ngã đó không đúng”: Tức là Phép quán thuộc năng phá. Y theo sự phối hợp của nghóa thì phải nói là cùng khắp hai mươi loại. Vì năng thể quán là tâm ở bên trong. Vì thế, ấm thuộc sở quán gọi là Cảnh ở bên ngoài chứ chẳng phải là thân khác. Hai là “Nhưng chúng v.v…” là nói về sự kiểm chứng của trí quán sát: năm ấm thuộc sở quán sát đã lập ở năm thì trí thuộc chủ thể quán tự nhiên mà thành năm. Mỗi ấm trong năm ấm đều có bốn thứ trí thì lẽ tất nhiên là sẽ chấp đắm Ngã. Vì thế, hành giả cũng phải phá cả hai mươi thứ thân kiến. Kế là “Trong và Ngoài v.v…” trở xuống là tổng kết: Lấy Số để làm sáng tỏ quán khiến cho Trí không mất đi. Kế tiếp là “Tỳ-đàm v.v…” trở xuống là y theo Đại, Tiểu để quán về người và Pháp, có ba: Một là Tỳ-đàm: “Ngã kiến là nhân của Cộng v.v…” Tức là Cộng nghiệp, Biệt nghiệp. Hợp lại có bốn câu, nói sơ lược thì “Cộng v.v…” là Hữu môn, nói về sự tìm cầu Ngã ở trong ấm. Ngã thì không, ấm lại có; Ngã và Pháp chia ra hai. Vì vậy, ngã kiến suy nghó trước sau mà khởi. Ngã tức là chúng sinh. Tư là Thật Pháp. Vì thế, ngộ được Sinh không nhưng chưa được Pháp không. Hai là Thành thật: Không môn này nói về vấn đề nhóm họp ấm mà thành Ngã. Vì thế, Ngã kiến suy nghó khởi lên Thời của không khác. Do đó mà Ngộ cả Sinh không Pháp không. Ba là Đại thừa: “Ngã kiến có đủ các pháp”: Tục tức là Trong chân thì pháp nào chẳng có. Tánh của Ngã như Tánh của Sắc, Sinh không tức là Pháp không. Kế là “Phá hai v.v…” trở xuống là nói riêng về ba quán: Đã nói “Ngã kiến có đủ các pháp” hợp với ba đế mà phá Ngã kiến. Cho nên Đại sư dùng ba câu ở trên để phá, có: - Chính là phá Nhân ngã, có ba: Một là y theo Lý quán để kiểm chứng. Hai là “Nếu làm v.v…” trở xuống là y theo chẳng phải Sự, chẳng phải Lý để kiểm chứng: Ngã kiến tức là Trung thì lẽ nào lại lưu giữ bốn mươi chấp thuộc Cảnh và Trí. Ba là “Nếu làm v.v…” trở xuống là y theo Sự quán để kiểm chứng: Vì Văn kinh đã nói là “Vô minh”, cho nên kẻ có tâm ái chấp mạnh thì phải thực hành quán giúp đạo Bất tịnh. Quán tà kiến, tâm ác là ấm bẩn ác. Nếu là người có tâm lành, thẳng thắn thì hổ thẹn với Nghóa thiện của bậc Thánh nhập vào phương tiện vị, chưa hiểu rõ Chân lý là làm ẩn tàng, chìm mất ấm. Thiện ác tuy khác nhau nhưng điều chứa phá được kiến thì lẽ nào lại có cái tâm của kiến không y theo Sắc? Vì sắc sẽ bại hoại nên Đại sư nói là “Bất tịnh”. Cảnh Bất tịnh thì nơi nào mà gọi là có Người. Nghóa vị phương tiện của nay tương xứng với năm phẩm. Kế là “Nếu đạt được v.v…” trở xuống là lại tìm về Ngã, Pháp, có hai: Một là nói về được ngộ, tìm kiếm Pháp để phá Tư: Tuy quán tu tập viên mãn nhưng hoặc thô thiển thì lại có các hoặc không trừ. Nếu dùng ba quán để xem xét quả thì khó đạt được. Người dứt được kiến hoặc thì đi vào Sơ tín. Kẻ lại ở nơi ba đế mà tu tập hai mươi quán thì phá được Pháp Chấp tức là tư hoặc. Từ vị Nhị tín mà tiến đến Lục tín. Hai là “Nếu chưa v.v…” trở xuống là nói về chưa ngộ thì tìm Pháp để phá kiến, như sau: - Chuyển sang Chấp Thật pháp, có hai: Một chính là nói về Vượt mà đi vào: Phép quán siêu việt phá trừ kiến nhưng chưa trừ kiến hoặc. Tuy chưa trừ được kiến nhưng sự quán sát đã có sức mạnh nên điều phục được ái hoặc đối với giả danh như Ngã chấp vượt mà nhập vào Thật pháp. Hai là Dẫn kinh và sự việc: “Trùng khuất bộ”: Phải do chân trước dời được chân sau mới giả gọi là phục. Hoặc lại khởi kiến đối với Thật pháp như con trùng kia. Kế là “Phải thật v.v…” trở xuống là khuyên lại tu về quán: nên thực hành hai mươi quán ngay nơi năm ấm để làm sáng tỏ bản tánh của ngã, làm cho không tuệ sáng ra. Tùy độ đi vào xứ để quán theo gọi là “Thực hành khắp nơi”. Kế nữa là nói về Pháp không, gồm có: Y theo văn kinh để giải thích về sự thành tựu ba quán, có hai: Chính là giải thích, có hai: Một là Lập ý chia văn: Ngã kiến chính là có đủ các pháp thì lẽ nào quán về Sinh không mà lại chẳng hóa thật pháp. Vì hạng độn căn chưa hiểu nên nói nay nói lại. Hai là “Như thị v.v…” trở xuống là tùy theo văn để giải thích nghóa, lại có: Trước là nói về ngay nơi pháp là không, có hai: Một là khi thì về Cảnh và Quán. Hai là “nếu bốn v.v…” trở xuống là nói về tu quán, gồm: - Đứng ở pháp để nói về không, có hai: Một chính là nói về Không: Đuổi theo một để tìm cầu sự kiểm chứng. “Không nên động v.v…”. Đất động thì thành tánh của gió. Hơi nóng thì thành tánh của lửa. Sử ký nói: “Dương tiềm phục nên không thể phát ra. Âm ép ngặt nên không thể bốc lên, do đó mà có động đất”. Chú: “Chứng tức là bay lên”. Mùa Đông tức là hơi nóng ở trong đất. Vì thế, Lễ Ký nói: “Người xưa vào mùa Hè thì làm tổ, mùa Đông thì làm hang”. Núi vững chắc thì thành tánh của đất, vì sóng động nên thành tánh của gió. Trinh tức là bền chắc. Tro lửa bền chắc thì thành tánh của đất. Chạm vách rồi ngừng thì thành tánh của nước. Hai là Dẫn kinh để chứng minh: “Tánh của nước không dừng trụ”: Tức là không giữ ẩm thấp. “Lửa từ duyên mà sinh”: Đã nương duyên mà sinh thì chẳng thể giữ tánh nóng của nó. “Tánh của gió là không ngăn ngại”. Vì không ngăn ngại nên không thể giữ sự chuyển động của nó. “Mỗi một v.v…” trở xuống là vì bốn đại đều không có bản tánh nên đều đi vào bờ mé của như thật. Hai giáo trước lấy không làm như thật. Hai giáo sau lấy Trung làm Như thật. Nay lấy Thật tế của Trung thuộc Viên làm chính. Kế là “Kiểm chứng phần trên v.v…” trở xuống là đối với Sinh để giải thích về quán. Hai là “Vốn tự v.v…” trở xuống là nói về ngay nơi Pháp là Trung, như sau: - Pháp của hai câu vốn tựa Trung, có hai: Một là giải thích về tánh không sinh diệt: Vì trung đầu tiên chưa chia ra ba làm sáng tỏ đối với Tánh là Trung đạo. “Vốn không có bốn đại”: Tức là chẳng phải nói rằng chỉ có một mà hoàn toàn không có bốn đại. Bởi vì cả Đại và ấm đều là Như Lai tạng. Vì tánh thể thường trụ, vốn không có tướng sinh nên gọi là “vốn không”. Đã chẳng có pháp Sinh thì sẽ hội hợp với cái gì để gọi là hòa hợp và không hòa hợp. Vì thế nên không thể tan rã, hoại diệt. Do vậy mà chẳng nói về không. Nghóa của sự bàn luận về Trung như vậy được sáng tỏ. Hai là “Vốn tự v.v…” trở xuống là nói rằng chẳng phải do quán mà khiến được như vậy: Tướng của thế gian xưa nay vốn thường trụ thì lẽ nào lại dùng trí của quán để chấm dứt sinh diệt, sau đó mới có bất sinh diệt? Đó được gọi là ngay nơi sự là Lý. Cũng gọi là ngay nơi Biên mà là Trung. Kế là Ba câu làm sáng tỏ do quán để giải thích, có hai: Một chính là chỉ bày: Tánh tuy vốn vậy nhưng muốn dứt mê thì phải nhờ quán. Sở dó nói tánh của Nhân duyên là bởi Dục là nhân, thầy và giáo là duyên. Nhân duyên thành quán đạt được ba đế thuộc bản tánh. Các Đại tức là Không, Giả và Trung. Vì, Từ xưa đã bất sinh. Hai là Dẫn chứng: Vô minh chuyển liền biến thành minh, gọi là đèn Bồ-đề. Nếu không nhờ năng lực của nhân duyên cảm ứng thì lẽ nào lại dứt trừ Vô minh? Vì thế, chúng ta biết rằng thành Phật hoàn toàn do mượn nhân duyên. Kế là “Hòa hợp v.v…” trở xuống là nói về ngay nơi pháp là giả, có hai: Một là Thành sự trái với lý. Hai là “Pháp đó v.v…” trở xuống là thành sự tu tập thuộc về chiếu soi tánh: “Vì pháp đó có”: Tức là nhân quả của mê mờ đối với hoặc, “Thể có v.v…” Là ba đế. “Tức là Không v.v…” trở xuống là ba phép quán. Cảnh và Quán đều do sự hòa hợp của nhân quả thuộc sự mê mờ đối với hoặc mà có. Kế là “Ba quán v.v…” trở xuống là kết về quán: Ba đoạn văn kinh hợp với ba quán. Biết Tông chỉ của ngày nay khế hội với tâm của Phật thì lẽ nào chúng ta lại không tin? Tiếp theo là “Lại thực hành v.v…” là vì hạng độn căn mà lại phá về pháp chấp: Trước đây, lúc giải thích về Sinh không đã nói về vượt mà nhập vào Thật pháp. Có thể hạng lợi căn hiểu nhưng sợ rằng kẻ độn căn vẫn còn mê mờ, cho nên Đại sư lại lấy Vô duyên từ để nói lại về tướng của chúng, như sau: Nói về Pháp chấp, có hai: Dựa vào Báo để khởi tâm ái kiến, gồm có: Một là Y theo Đại và ấm để khởi lên bốn chấp: Tất cả ngoại đạo và hành giả của bốn chấp này. Hai là “Bốn chấp v.v…” trở xuống là do bốn Chấp mà sinh ra thì cả bốn thứ đều thuộc về Hữu. Kiến đã y theo Sắc thì sự hòa hợp tương đương với chính là lìa, Sắc ngã, Ngã sắc. Kiến y theo bốn ấm tức lìa cũng như vậy. Ba là “Ngã sinh v.v…” trở xuống là y theo Ngã kiến mà sinh ra mười sử. Như trong “Sinh không” nói bốn phương chiêu cảm trở xuống là nhân mười sử mà cảm vời sinh tử. Dẫu y theo Đại và ấm thuộc tánh cụ của Viên giáo để khai mở bốn môn đi nữa, nhưng nếu ai chấp đắm một cửa mà sinh Ngã kiến, khởi hoặc tạo nghiệp chiêu cảm khổ ở vị lai thì chẳng khác gì sinh tử của ngoại đạo kia. Đại sư chính vì hành giả đương thời mà trình bày về bốn chấp. Kế là “hoặc, đó v.v…” trở xuống là chỉ cho tâm của kiến gọi là ấm ô uế. Năm ấm này đều trở thành kiến chấp. Vì thế, tất cả đều ô uế. Nhất định quy về Hữu thì lẽ nào lại là Pháp không? Kế là “Tâm không v.v…” trở xuống là nói về không quán, có ba: Một là Nói về không y cứ là quên bốn chấp, tức là tâm không y theo ấm. Bốn giáo cũng như vậy. Nay nói về Tông chỉ của Viên để luận về không y cứ. Tức là ấm bẩn dơ là trí thuộc chủ thể quán. Như thế thì có ấm nào để y cứ, có chấp nào để phá và ai là chủ thể quán, đồng thời cũng không có điều được nguyện. Vấn đề tâm không y theo ấm nay lược nói. Hai là “vắng lặng v.v…” trở xuống là nói rằng khế hợp với Lý thì có các đức: Ba thứ Bát-nhã cùng với ba thân của Mâu-ni ở Kim quang minh là chẳng hai, chẳng khác. Nếu chẳng dùng ba loại Bát-nhã ấy để làm ba loại quán thì không cách gì thấy được. Ba là “Hành giả v.v…” trở xuống là nói loại quán ấy nhanh chóng phục hồi căn bản. Quán Sinh và Pháp đều dùng ba quán một niệm để quán là cũng như ôm ngọc, khôi phục lại lý của Pháp tánh thuộc Kim quang minh giống như hướng về đất nước cũ. Trong hai thứ ba đời có thể bước lên Trụ của Viên, có thể dùng để bảo nhậm. Kế là nói về Nhị không quán là sinh và Pháp thuộc mười hai nhân duyên, lại có: - Chia văn lập ý, có hai: Một là chia văn: mười hai chi này chia ra Sinh và Pháp là vì thuận theo văn kinh ở đây. Chi đầu tiên đã gọi là Vô minh thì vì danh tức là giả danh nên thuộc cảnh của Sinh. Vô minh tức là Ngã chấp. luận Khởi Tín nói: “Chấp đắm tướng danh tự”. Từ đây trở xuống là chỉ trực tiếp cho Sắc và Tâm. Vì từ Hành đến già và chết đều không ra khỏi Sắc và Tâm của năm ấm. Vì tuy nghóa đã rõ nhưng vẫn sợ người học không tin nên Đại sư dẫn Thích luận theo từng đoạn để chứng thành ai là người già, chết. Nếu hỏi rằng “Ai? “thì đáp là “Tôi”. Vì thế, chúng ta biết rằng cả Ai và “Tôi” đều là giả danh. Kinh nói “Gọi là v.v…” thầm hợp với luận. Luận đã gọi là Sinh không thì lẽ nào kinh lại không như vậy? Như thế, cái gọi là già chết đó tức là chỉ ngay cho Sắc và tâm, là Pháp của già và chết. Kinh chẳng nói là Danh cũng hợp với luận. Hai là “Nhưng mười v.v…” trở xuống là lập ý, lại có: - Phân biệt chung về tướng mạo nhân duyên, có hai: Một là Nêu lên. Hai là “ba đời v.v…” trở xuống là giải thích, có ba: Một là ba đời. “Quá khứ phá thần thường”: Vì quá khứ đã diệt nên không thường tru.Ở “Hiện tại phá thần ngã” Vì năm thứ quả đều do sự hòa hợp của năm ấm nên không có ngã. “Vị lai phá thần đoạn”. Vì vị lai có quả nên chẳng phải đoạn diệt. “Đều nói là Thần”: Bên ngoài chấp thân, “thần có Đoạn, Thường v.v…”. Vì ý nghóa của ba đời này thế gian đều truyền bá. Đại sư nói: “Người thường sử dụng”. Hai là Quả báo: Vì mười nhân duyên trước thuộc về hiện tại, hai nhân duyên sau thuộc vị lai. Hai đời hợp lại thành mười hai. Nhưng, văn nói: “Khởi đầu và cuối cùng của một kỳ hạn”. Lại y theo Vô minh, Hành tại thời điểm khởi đầu của một kỳ hạn, vì theo nhau nên nói là “Khởi đầu và cuối cùng chứ không phải chỉ nói “Ở trong một đời”. Nhân duyên thuộc quả báo này xuất xứ từ kinh Đại tập. Bởi vì, ở thân Trung ấm, đối với cha mẹ mà sinh tâm tham ái là Vô minh. Hơi thở ra vào là Hành. Từ chi Thức trở đi nghóa giống với ba đời. Ba là Một niệm, có: Một là Giáo lý được y cứ. Hai là “Như nhãn v.v…” là nói về Hành tướng, có hai: Một chính là giải thích về tướng, có hai: Một là Đối với Trần để giải thích trực tiếp: “Sáu Xứ sinh tham”: Vì Nhãn thức ô nhiễm nên âm thầm lôi kéo các thức đều có tâm tham. Do đó, Phổ Hiền quán nói: “Vì tham mùi thơm nên các thức phân biệt, chỗ nào cũng đều nhiễm trước”. “Một ngày v.v…” Một căn đối trước trần liền khởi lên mười hai nhân duyên. Sáu căn nối nhau đối trước trần suốt cả ngày đêm thì có niệm nào mà không khởi lên mười hai nhân duyên. Mỗi nhân duyên thành nhân thì tất cả nhân duyên đều vời lấy quả. Xoay lăn như bánh xe, trói buộc như lưới. Hai là “Nay lại v.v…” trở xuống là lại tìm về sự sinh khởi của nhân: “Phép quán của nhân duyên có cả cả ba đời”: Ý suy tìm Vô minh của quá khứ là nhân sinh ra quả hiện tại. Trên quả hiện tại lại khởi nhân của hoặc. Vì Đại sư muốn Vô minh không khởi ngay bây giờ nên tìm hai nơi khởi lên tướng Vô minh là quá khứ và hiện tại. Văn gồm có hai: Một là nghịch suy nhân của quá khứ: “Từ Danh và Sắc mà khởi”: Tức là vì đầu tiên của năm loại quả, vì năm ấm đã có đủ. Vì Chi Thức chưa có đủ năm ấm nên không nói. Cùng cực của nhân quá khứ là ở Vô minh. Nay quán Vô minh là ý muốn làm cho quán trở thành loại tri giác ngộ hoàn toàn. Nhưng, nói rằng Vô minh chắc chắn là có, v.v… thì trí thuộc chủ thể phá lại chuyển thành Vô minh, thuốc trở thành bệnh. Vì vậy, Đại sư nói “Chấp đắm bốn câu đều là Vô minh. Lẽ nào Vô minh làm duyên mà lại không sinh ra Hành, Thức ư? “Như nói ở trước”: sáu nhập đến già, chết đều đã được nói như văn ở trước chỉ bày trực tiếp. Hai là “Lại nữa, quán v.v…” trở xuống là thuận quy về quả hiện tại: “Đối với thọ v.v… đó”: Vì Chi Thọ là chi cuối cùng của năm quả. Vì vậy mà hành giả quán đến đó. Nếu sinh tâm chấp đắm thì thành ra một niệm mười hai nhân duyên. “Hoặc có Thọ v.v…”: Tức là tâm Vô minh không hiểu biết. Các chi Hành, Thức v.v… một niệm thành tựu. Kế là “Như thế v.v…” trở xuống là than rằng khó biết: Tuy suy tìm, xem xét Nghịch thuận là ở một niệm nhưng mười hai chi của Nghịch thuận tự nhiên có đủ. Vì thế mà cành ngọn hiện hữu khắp các hữu giống như đại thọ còn không thể biết huống chi là có thể chặt? Nói “Đại thọ” là: Bà-sa nói: “Hai chi của quá khứ là rễ, năm chi của hiện tại là Chất, ba chi ở hiện tại là Hoa, hai chi ở vị lai là Quả”. “Bố quán”: Văn tuyển chú: “Bố quán” là dáng vẻ dài và nhiều. “Từ” là nói từ nước mà cùng thông suốt. Hán Thư nói: “Bố quán giống như bố lộ, tức là chỗ thiếu sót thì đều bày ra”. Tiếp là “Kinh nay v.v…” trở xuống là chỉ bày sơ lược về Cảnh Quán của kinh nay, có hai: Một là Nói về ý của kinh: “Chỉ nêu Sinh và Pháp làm cảnh”: Tức là dùng Vô minh của giả danh làm cảnh của Sinh không; dùng Hành, Thức, Sắc, Tâm, v.v… là cảnh của pháp không. Hai cảnh của Nhân duyên này có cả cả bốn thứ giáo quán. Ý của nay là ở Viên. Hai là “Nhân dùng v.v…” Là chỉ bày về Cảnh và Quán, có: - Chỉ bày về Cảnh, có hai: Một là Lập dụ. Hai là Pháp hợp: “Dính mắc vào Giả danh”: Không đạt được ba đế mà khởi lên cái chấp luống dối về Ngã; Giống như xoay đầu cây nhang thành vòng tròn. Vì thế, Đại sư nói là “Không dừng nghỉ”. Vòng tròn do lửa mà có. Và, giả danh do thật pháp mà có. Vì mê tối nên không thấu đạt rằng Sắc tâm tức là Không, Giả và Trung gọi là mê mờ đối với ấm và Nhập. Nói “Lửa củi” tức là nói về tàn lửa. Kế là “Nếu biết v.v…” trở xuống là chỉ bày về quán, có hai: Một là Lập dụ. Hai là “Vòng lửa v.v…” trở xuống là hợp Pháp: Quán sinh, quán pháp đều là Không, Giả và Trung, tức là Nhị không quán của vòng lửa, cả hai đều không. Kế tiếp là “Sinh không v.v…” trở xuống là y theo nghóa để giải thích văn, như sau: Nêu ra tướng của cảnh, có hai: Cảnh của sinh không, có hai: Một là chia văn. Hai là giải thích về nghóa, lại có: Dùng ba phép quán của Sinh không ở trước để giải thích nghóa. Vì thế, Sớ không có lời văn. Kế là “Hành thức v.v…” trở xuống là cảnh của Pháp không: “Theo lệ chung thì lẽ ra có ba loại”. Hành chính là Không, Giả và Trung cho đến già chết chính là Không, Giả và Trung. Vì lời nói của Phật khéo sơ lược, so với trước thì có thể nhận biết. Kế nữa là “Các thứ khổ v.v…” trở xuống là đưa ra tướng của quán, có: ba: Y theo văn kinh để chỉ bày về quán, có hai: Chính là chỉ bày, có hai: Một là Chỉ văn. Hai là “Các thứ khổ v.v…” trở xuống là giải thích về nghóa, có Một là Nói về Trung quán: “Hành nghiệp của các thứ khổ” là chỉ cho Sinh và Pháp ở trên. Vì thể hiện tiền siêu việt nên không thể nghóa bàn. Cả Sinh và Pháp đều chẳng phải là Không hay Hữu. Thấu đạt được như vậy gọi là Trung quán. Loại quán này không thấy sự trôi lăn của sinh tử là có bờ mé. Có lúc dừng nghỉ. Vì sinh tử chính là pháp giới nên không có bờ mé. Vì sinh tử đều là thường trụ nên không dừng nghỉ. Hai là “Vốn không v.v…” trở xuống là nói về quán Không. Ba là “Không khéo v.v…” trở xuống là nói về quán Giả: Sự không khéo suy nghó ở trước tức là hai chi của quá khứ. Sự không khéo suy nghó ở đây tức là ba chi của hiện tại. Kinh, “tâm hành”: Tức là suy nghó ở trên. Nay là nêu bệnh thì tất nhiên là phải đối với thuốc. Nhờ vậy mà quán Giả được sáng tỏ. Hai là “Tuy gọi v.v…” trở xuống là kết khuyến, danh thì nghiêng lệch nhưng nghóa thì trọn vẹn: Danh thì chỉ nói là không, nhưng nghóa lại là chính là Không, Giả và Trung, vì nghóa đã nhất định tương xứng nên Đại sư nói là khế hợp một cách tự nhiên với kinh. Danh và nghóa của sinh không, Pháp không đều như vậy. Vì thế, Đại sư khuyên người tu nên chấm dứt nghi tình. Nhưng phải biết rằng toàn bộ kho bí mật là Sinh, là Pháp. Vì thế, Sinh và Pháp đều là ba đức. Do vậy, Hành giả quán chủ thể và đối tượng của Sinh và Pháp đều là ba đức. Tên gọi của cảnh và quán tuy khác nhau nhưng thể của chúng là một. Bởi thế, hai của chủ thể và đối tượng tức là chẳng phải hai. Đó là quán Nhị không của kinh này. Kế là vì người căn tánh độn mà nói lại, có hai: Một là Đặc biệt chỉ bày về quán không, có hai: Riêng chỉ cho Giả và Trung. Bởi vì, người Sơ tâm đối với Giả thì gọi là Thật pháp. Khởi kiến và ái càng mạnh, việc chướng đạo lại nặng. Do vậy, Đại sư đặc biệt trình bày về quán không mà không nói về Giả và Trung. Đây giống với ba con đường của quán và giải trong phần giải thích tựa đề. Chánh quán của chánh quán thì chỉ nêu danh mà thôi. Nhưng, đối với ba độc, sáu tác của Giả và Thật thì lần lượt phá hủy bốn tánh, từng bước hiển bày hai không. Bởi vì người mới thực hành tinh tấn càng dày nên Đại sư chỉ bày về Chân không để làm yếu thuật. Văn đầu tiên gồm có: Chỉ bày, có hai: Suy tìm về Nhân và Pháp, có hai: Một là Suy tìm về Nhân. “Nếu Giả danh v.v…” trở xuống là đối với Thật pháp mà xô dẹp không có bốn tánh. “Nay v.v…” trở xuống là bốn tánh bị xô dẹp, sự chấp đắm có mỏng đi đôi chút. Chỉ gọi là Giả danh nhưng lại phải đối với bốn tánh mà xem xét sự khó được của bây giờ. Nhân thuộc đối tượng được chiêu cảm đã không có tướng sinh thì bốn tánh của danh tự thuộc chủ thể chiêu cảm cũng biến mất. Ý nghóa của sự chỉ bày sơ lược về Nhân chẳng phải như vậy. Hai là Quán pháp, có hai: Một là Suy tìm rộng: dùng danh sắc hiện tại so sánh với nghiệp của nhân thuộc các Hữu đã được tạo ra từ vô thỉ là không có hạn lượng. Vì không có sự gội nhuần của hoặc nên không thọ thân đời sau. Do đó, Đại sư nói là “bất sinh”. Mỗi việc đều có v.v… “Như hòa hợp hai cái không thì lẽ nào lại sinh ra một Sắc”? Hai là “Đã không v.v…” trở xuống là suy tìm theo chiều dọc: Cái chấp do quan niệm về pháp giống như sự xả bỏ Một là nắm lấy một của con trùng gập chân. Vì sinh bị phá nên liền chấp vô sinh. Như vậy cũng là tánh chấp. Chấp Song diệc và Song phi cũng đều y theo Sinh. (Sinh) đã không có Lý lại chấp là Diệt, cũng thành bốn Chấp. Tám câu trên đều nói rằng “Bất đắc” tức là quán Không. “vô diệt vô sinh”: Kiểm chứng về Diệt và Sinh đều không có mới được gọi là Vô sinh của Thật pháp. Hai là “Vì vô sinh v.v…” trở xuống là nói về sự thành tựu của quán, có hai: Một là Nói về sự vắng bặt của hai chấp, chấp ấm thành người. Vì thật sự vô sinh nên giả danh thì hoại. Đối với Giả Vô ngã, các kiến đều mất. Thật đã không có nhân thì làm sao không hoại được? Hai là “Đã không v.v…” trở xuống là nêu hai ví dụ để chỉ bày: “Không nhen lửa dụ cho không chấp pháp không có khói dụ cho Thật pháp bất sinh. Múa trong mặt trời dụ cho không Tâm nắm lấy Pháp. Đó cũng không bánh xe dụ cho bất sinh ra ngã kiến. Trước là “Là lược v.v…” trở xuống là kết. Kế là “Trung quán v.v…” trở xuống là chỉ riêng về Trung và Giả. Nói “thọ ký v.v…”: nói đủ thì như trong “Chỉ quán Giả Trung phá pháp”, Hành giả nên biết. Nay nói về ba quán tu đầy đủ về hai không. Chỉ vì kiến hoặc của kẻ độn căn quá nặng nên Đại sư chỉ riêng về không để đối trị với loại hoặc này. Nếu loại hoặc này mất thì hai đế sẽ tự hiển bày. Vì thế, đối với Trung và Giả thì chỉ chỉ bày riêng mà thôi. Kế nữa là “Ngã đoạn v.v…” trở xuống là giải thích về dụng của hai thứ không về mặt quả, có hai: Một là chia văn. Hai là “Tất cả “trở xuống là giải thích về nghóa, như sau: Nói về sự thành tựu tự hành, có hai: Nói về sự tròn đầy của bốn đức, có hai: Một là giải thích về Nhân và Pháp. Hai là Sự thành tựu về quán, có hai: Trước là y theo Nhân và Pháp để giải thích văn, có hai: Một là Nói về sự thành tựu của phép quán không. “Giải thích về mười triền”: Sân, Phú, Thụy, Miên, Hý, Trạo, Vô tàm, Vô quý, Khan, tật. Phẫn nộ. Tức giận gọi là Sân, Che giấu tội của mình gọi là Phú, Ý thức hôn mê gọi là Thụy, Năm giác quan tối tăm gọi là Miên, Vui đùa gọi là Hý, Ba nghiệp thô tháo, vọng động gọi là Trạo. Khởi lầm lỗi ở chỗ khuất mà không tự hổ thẹn gọi là Vô tàm. Làm điều sai ở chỗ công khai mà không sợ thẹn với người khác gọi là Vô quý. Không bố thí tiền của và Pháp là san. Tâm tư bực bội vì sự vinh hoa của người khác gọi là Tật. Phiền não tức là tư hoặc. Tuy kiến và Tư đều gọi chung là phiền não nhưng nay Đại sư lấy Tư hoặc làm đại biểu là để tránh bớt phiền phức. Hai là “Nhị thừa v.v…” trở xuống là y theo Đại và Tiểu để giải thích về sự dứt trừ, có hai: nói về sự dứt trừ hết hay không hết của Đại và Tiểu, có hai: Một là Nói về Nhị thừa đoạn chung dư riêng: Danh số của tất cả phiền não thuộc giới nội đều chung với giới ngoại. Nhưng dùng cái làm chướng ngại Không và Trung để phân chia thì biết được cái chung, cái riêng. Thiên nữ rải hoa trong thất ngài Tịnh Danh, Thanh văn thì bị hoa dính trên thân, còn Bồ-tát thì không. Vì vậy, Thanh văn bị quở trách rằng “Vì chưa hết kiết sử nên hoa dính vào thân”. Đó là mới đoạn phần chung chứ chưa dứt phần riêng. Hai là “Mà nói v.v…” là nói về vấn đề đối với Phật địa thì chung và riêng đều dứt sạch, có hai: Một chính là chỉ bày: Tuy nói rằng Bồ-tát có khả năng dứt trừ hết kiến hoặc thuộc phạm vi riêng nhưng thật ra thì chưa dứt trừ rốt ráo như Đức Phật. Nếu đạt đến địa vị Phật thì chẳng những dứt hết phần riêng mà còn dứt hết cả phần chung. Vì sao? Vì kiến và Tư là cái được thành tựu của hạt giống, tập khí khác nhau của chúng sinh trong sáu đường ở khắp các cõi nước trong mười phương. Nhân địa chưa dứt trừ tận bờ mé, chỉ có Phật mới hoàn toàn dứt trừ đầy đủ. Vì vậy, Đại sư nói: “Cả Chung và Riêng rốt ráo đều ở tại Phật”. Hai là Dẫn chứng: Bản thể của Sinh và Pháp thuộc Tánh đức là vô thường, vì hai thứ chấp là chung và riêng mà thành thấp kém. Bậc Diệu giác đã dứt sạch hai thứ chấp nên đều là vô thường. Vì thế, Đại sư nói là “Giả và Thật của vô thường là điều mà ở giai vị Phật không bị mê hoặc”. Kế là “Kinh luận v.v…” trở xuống là giải thích về có dứt trừ hay không dứt trừ của Phật địa, có hai: Một là Nói về có dứt trừ: Trí thì lấy sự giác ngộ tuyệt đối làm Thượng thượng. hoặc thì dùng sự mê muội cùng cực làm Thượng thượng. Nay do sự mê tối sắp hết, chỉ còn lại sự nhỏ nhiệm nên gọi là Hạ hạ. Bởi thế, luận Khởi Tín nói: “Tâm giác ngộ vừa khởi v.v… Tâm không có tướng đầu tiên (Sơ)”. Vì xa lìa niệm sâu kín nên tâm thường trụ. Vì hoặc sâu kín nên khó phân biệt, khó dứt trừ. Do vậy, bậc trí thượng thượng mới đoạn hết hoặc thuộc hạ hạ. “Năng lực Vô minh rộng lớn”: Tuy hoặc nhỏ nhiệm nhưng có công năng ngăn chướng Diệu giác. Do đó, kinh Hoa Nghiêm nói rằng công đức mà vị Bồ-tát Quán đảnh có được là như một ụ đất, công đức của bậc Diệu giác thì như đất của bốn thiên hạ. Sự ngăn chướng do Vô minh sau cùng như thế thì lẽ nào năng lực của nó lại không lớn? Nếu trí Phật không phát khởi thì loại hoặc ấy không tiêu mất. “Tuệ thuộc một niệm tương ưng”: Tức là sự giác ngộ hoàn toàn. “Chính và Tập đều hết”: Bao gồm cả chung và riêng. Hai là “Có người nói v.v…” trở xuống là nói về sự không dứt trừ “Thượng só thuộc Hữu”: Tức là Đẳng giác. Ở giai vị này, hành giả phải tu loại Thiền thanh tịnh tịnh, dứt niệm sâu kín. Do vậy Đại sư gọi là “Đoạn”. Thượng só thuộc Vô”: Tức là giai vị Diệu giác. Đã không còn tu, chứng thì có gì để dứt trừ? Kế là “nay là v.v…” trở xuống là dùng Tất-đàn để điều phối. Vấn đề có dứt hay không này mỗi phần đều đọc thấy ở văn của giáo. Nhân sư chấp đắm nên tranh luận mãi không dứt. Nay dùng ý hợp với căn cơ của bốn thứ Tất-đàn để điều phối khiến cho sự tranh luận không còn lý do sinh khởi. Cõi nước là cảnh vực. Tức là hợp với thế giới, nơi ở của căn cơ; Tùy nơi ở mà thích nghe về trí Phật có dứt hay không dứt để sinh tâm hoan hỷ. Thời tức là Đối trị; Tùy thời hợp với nghóa của có dứt hay không dứt để phá ác. Người tức là Vi nhân; Tùy người nên dùng dứt hay không dứt để sinh điều lành. Ngộ tức là Đệ-nhất-nghóa; Tùy ngộ dứt hay không dứt mà đi vào Lý. Vì bốn thứ căn cơ ấy mà nói là có hai nghóa. Luận bàn về trí của Phật thì không thể nói năng, suy nghó. Kế nữa là “Chứng Vô v.v…” trở xuống là nói về sự tròn đầy của hai con đường chính và trợ. Chứng được Sinh và Pháp Vô thượng từ hai thứ Không gọi là con đường Vô thượng. Do sự phối hợp tu tập giữa công hạnh của trợ thuộc về Sự và Chính nên được gọi là công đức mầu nhiệm. Tiếp là “Mở của cam lộ v.v…” trở xuống là nói về sự tròn đầy của dức dứt, có hai: Một là Giải thích sơ lược về Cam lộ: Lấy bốn thứ là Mạng v.v… theo thứ lớp để so sánh với Thường, Lạc, Ngã và Tịnh. Hai là “Nhưng đây v.v…” là giải thích đầy đủ về các loại bốn câu. Trước là đối với bốn vị trí của Hoa nghiêm, có hai: Một chính là đối: Tuy Hoa nghiêm gồm cả Biệt, nhưng nay chỉ lấy Viên của nó. Bởi vì ba mươi vị của Biệt chưa có được Cam lộ. Hai là “Hạ địa v.v…” trở xuống là giải nghi: Vì sợ người sau nghi ngờ nên Đại sư giải thích, giáo hóa, khiến cho người khác có sở đắc giống như mình. Kế là “Lại nữa, Thông v.v…” trở xuống là đối với bốn trí của Bát- nhã: Tuy luận giải thích nhiều nhưng vẫn còn chung với cả ba giáo. Bốn giáo của nay đều từ Cam lộ mà nói nên chính xác là ở Viên. Lấy Nhất tâm ba trí quyết trạch tất cả tướng gọi là Đạo Tuệ mở cửa. Nhất tâm ba trí lập ra tất cả Pháp gọi là Đạo chủng tuệ nêu bày đồ dùng. Nhất tâm ba trí cùng phủ nhận sự quét sạch vè lập bày gọi là Nhất thiết trí đi vào thành. Nhất tâm ba trí cùng chiếu soi cả quét sạch và thiết lập gọi là Nhất-thiết-chủng-trí ở trong phòng. Do bốn thứ trí ấy mà trụ nơi Niết- bàn, làm cho chúng sinh đạt được bốn thứ trí ấy gọi là “Ăn mùi vị”. Kế nữa là Đối với “Đại sự” của Pháp Hoa: Tri kiến của Phật ở Pháp Hoa là Cam lộ ở đây khai v.v… của Pháp Hoa đối với bốn câu ở đây. Chỉ có Ngộ, Nhập là có khác đôi chút với Nhập, Xứ. Nhưng, xét về nghóa thì giống nhau. Kế tiếp là Đối với bốn đức Niết-bàn: Trước đây dùng bốn đức để giải thích về nghóa Cam lộ. Nay dùng bốn đức để đối với văn của khai v.v… Có sự khác nhau đó. Thứ đến là “suy đại v.v…” trở xuống là nói về sự thành tựu của giáo hóa kẻ khác, như sau: - Chia văn lập ý, có hai: Một là chia văn. Hai là “Các kinh khác v.v…” trở xuống là lập ý, có hai: Một là Nói về Trí định tướng thành. “Trước hiện thần thông”: Tức là khiến cho kẻ khác trọng pháp thích nghe. “Sau hiện thần thông”: Tức là làm cho kẻ khác y theo pháp để tu hành. Vì vậy, trước nói là để mở sau, sau nói là để thành tựu trước. Hai là “Tu nhân v.v…” trở xuống là nói về Nhân quả đồng loại. Chánh đạo của hai không thuộc về trí đức. giúp đạo của hai không thuộc về Dức dứt. Tức là hai thứ nhân là Duyên và Liễu. Nếu chẳng có hai nhân này thì làm sao chứng được hai quả. Tiếp là “nói pháp v.v…” trở xuống là y theo nghóa để giải thích văn, lại có: Nói về việc xoay bánh xe pháp giáo hóa người khác, có hai: Nói về nói pháp, có hai: Một là Chỉ bày chung. Hai là “Thổi ốc v.v…” trở xuống là giải thích riêng, lại có: Một là Giải thích riêng về con ốc, cho nên gọi: Đại kinh nói: “Thổi vỏ ốc”, tức là biết thời. “Phàm tánh thuộc khổ Nhẫn”: Tức là Nội phàm Thượng trong Nhẫn vị đối với khổ đế trở xuống là lưu lại một hạnh một duyên. Đó là phàm tánh. Chánh tánh của bậc Thánh gọi là Sơ quả. “Nói về pháp Đại thừa”: Tức là chỉ dùng Viên giáo làm Đại thừa. Đổi tánh nghiêng lệch của phàm và Thánh. Lục địa của Thông giáo là Thánh, Thập Hướng của Biệt giáo, Thập tín của Viên giáo là Nội phàm. Vì chưa hiển lý nên tất cả đều gọi là Tánh nghiêng lệch. Thất địa của Thông giáo đến đây thì được biết về Viên, tất cả đều được đổi tên vị trí. Ba người đều phá Vô minh, thấy Tánh viên dung của Trung đạo. Hai là “Kích đại v.v…” trở xuống là nói về sự đánh trống răn đe người tiến tới”: Tức là phép của quân trận. Binh quyền nói: “Nghe tiếng thì tiến lên. Nghe tiếng kim loại thì ngừng lại”. Trống thì làm trang nghiêm quân chúng khiến họ tiến lên phía trước, là đốc suất, là dẫn dắt. “Vị trí ở Tu đạo”: Tức là Sơ quả tiến lên Nhị quả của nay. “Vị trí của Thông giáo là ở Bát địa”. Trước đây giải thích đổi hiệu là Thất địa phá Vô minh. Nay tiến lên Bát địa là tăng Đạo tổn sinh. Biệt giáo nên nói là Nhị địa, Viên giáo nên nói là Nhị trụ mới gọi là tiến lên Tu đạo. Nay sở dó nói Thập hạnh, Sơ trụ là vì sợ người học nhầm lẫn, hoặc là Đại sư có ý riêng. “Chân thật tu đạo”: Tức là Bát địa thuộc Thông, Nhị địa thuộc Biệt và Nhị trụ của Viên. Vì vậy, Đại sư nói “hoặc tiến v.v…”. Địa luận cho Sơ địa là Kiến đạo, Nhị địa đến Thất địa gọi là Tu đạo. Bát, Cửu và Thập địa là Vô học đạo. Địa luân tuy là vị trí của Biệt nhưng theo lệ chugn của Viên thì có thể biết. Ba là Giải thích về đốt đuốc: Thông giáo trở xuống đều dùng giáo lý tương đương để giáo hóa giai vị khác. Ở đây nói Bát địa là chẳng phải lấy sự nhận và tiếp mà chỉ y theo giáo lý phù hợp ý của Thập hướng cũng giống như vậy. Vì trong thì tu tập Trung quán mà ngoài cũng ra khỏi Giả. “Viên tại Sơ trụ”: Vì trăm cõi làm Phật phổ môn thị hiện. Viên nói theo thắng thì lấy chân thuộc từng phần. Chỉ quán gọi là “Vị trí Chân ra khỏi Giả, “Đều là v.v…” trở xuống là kết luận sự chỉ bày về ba vị trí. Đạo là nói về sự giáo hóa người ngoài. Quán là nói về sự thực hành bên trong. Đây là bao gồm cả sự bất đồng của ba giáo. Các văn khác chỉ nói ở lập trường của Thông. Bốn là Giải thích về tuôn xuống cơn mưa: Phù sơ tức là Sum suê. Thời trạch tức là Lúc mưa. Đại hằng là sông Căng-già. Kế là “Nếu được v.v…” trở xuống là theo điển hình của bốn kinh ở trên. Kế nữa là “Một loại này v.v…” trở xuống là lấy Ngang và Dọc để kết. “Dọc thì bắt chước vị trí các kinh”. Tức là, ở trước tuy tên gọi bốn kinh là rời, nhưng là vị trí của Viên thuộc Trụ, Hạnh, Hướng và Địa. Vì thế, Đại sư gọi là Dọc. “Ngang thì nói về tất cả các vị trí”: Tức là nhiếp các vị trí của Phàm, Thánh thuộc cả bốn giáo như sự giải thích văn ở trước. “ v.v…”: Vì Bộ là ở Phương đẳng nên vấn đề giáo hóa người khác ở đây phải bao gồm cả bốn ích lợi. Ý chỉ của vấn đề Ngang thì nhiếp tất cả các vị ở trong ấy. Kế tiếp là “Trong này v.v…” trở xuống là giải thích chung về ng- hóa chính: Ba thứ trước gọi là Đại. Một loại sau gọi là Thắng. Vì Thắng cũng là Đại nên Đại sư nói là “Đều nói là Đại”. “Con đường phổ thông v.v…” trở xuống là nếu lấy tên gọi chung thì chỉ ở pháp của Đại, nhưng xét về nghóa thì cùng trở về Viên. Đối với bốn bản kinh thì nghóa của chúng lại càng hợp. Thứ đến là “nay ta v.v…” trở xuống là nói về Thần thông, như sau: Nói về sự phá bỏ oán, có hai: Một là nói về phiền não là oán. Hai là “Ma là v.v…” trở xuống là nói về Thiên ma là chính. Kế là nói về Dọc, cờ phướn “Cao vượt hơn các công hạnh”: tức là cờ Pháp Tam-muội. Công đức muôn hạnh đều là quyến thuộc, đều quy về nguồn cội. Vì là Tam-muội của muôn hạnh nên so sánh với các công hạnh. “Binh so với Mao”: Tay chỉ gọi là Mao. Thượng thư nói: “Tay trái cầm cái búa lớn màu vàng. Tay phải cầm chén rượu.” Binh quyền nói: “Tướng quân bèn cầm v.v…” là chỉ vào quân chúng mà thề”. Lại nói: “Nghe tiếng trống thì tiến lên. Nghe tiếng kim khí thì dừng lại. Tùy theo sự chỉ đạo mà Năm trân được điều chỉnh”. Kế là “Ba đức v.v…” trở xuống là nêu ra thể của Tam-muội: Nếu Thể của Tam-muội chẳng phải Dọc, chẳng phải Ngang thì làm sao xuất ra các công hạnh, làm sao xô dẹp được năm trụ, làm sao phá được Thiên ma? Thể và Dụng của loại Vô ký thần thông là như vậy. Tiếp là “Từ Độ v.v…” trở xuống là nói về sự giáo hóa người của bốn thệ nguyện rộng lớn, có hai: Một là Sự chỉ bày về nghóa của các văn còn lại. “Tuy lại v.v…”: Đã y theo bốn đế mà lại vận dụng bốn hoằng. Bốn đế đã thường hằng thì lẽ nào Thệ nguyện lại dừng nghỉ. Ý của người thuộc nhân cầu thành Phật là ở sự lợi sinh. Nay đã thành tựu được điều mong cầu thì lẽ nào lại quên sự cho và nhổ. “Bốn hoằng là v.v…” trở xuống là chỉ bày về Thệ nguyện có chỗ y cứ: Thệ nguyện tức là Vô duyên từ bi. Cảnh là bốn đế Vô tác, hành tướng của Vô duyên và Vô tác như thế nào? Thế độ chúng sinh, Vì sinh tử là Niết-bàn. Thề dứt phiền não, vì phiền não là Bồ-đề. Thề học Pháp môn, vì ngay nơi hoặc mà thành tựu Trí. Thề thành Phật đạo, vì thành tựu Diệt ở ngay Sinh. Nếu không vận thì làm sao độ được tất cả và mong cầu mãi mãi? Hai là “Vượt các v.v…” trở xuống là tùy theo nghóa để giải thích văn, có bốn: Một là khiến cho vượt qua khổ đế: Kinh nói dứt trừ hẳn ba thứ ác tức là ba con đường. chúng ta phải y theo mười phen để nói về vượt qua, nói về dứt trừ. Hai là khiến cho dứt trừ Tập đế: chúng ta phải hiểu rõ rằng năm trụ đốt cháy chúng sinh của mười cõi. Ba là làm cho chứng Diệt: chúng ta phải chia ra để nói về bốn thứ Cam lộ. Quy nạp mà giải thích thì chỉ có một loại là Viên, Thường. Bốn là Làm cho an trụ nơi Đạo đế, gồm có: Một là y theo Đàn để nói về Đế: Không chỉ thực hành về Đàn là có đủ bốn đế mà cả năm Độ khác cũng đều có đủ. Năm loại không y theo Đế thì bất động lưu xuất. Như vậy thì làm sao có Độ? Hành giả lại phải biết rằng nay y theo Vô tác. Hai là “Vô lượng v.v…” trở xuống là giải thích văn kinh. Ba là “Luận nói v.v…” trở xuống là Đàn nhiếp sáu độ: Đại luận quyển mười hai giải thích về Đàn độ rằng: “Nếu Bồ-tát thực hành đàn độ thì sẽ sinh ra sáu độ. Lúc ấy, gọi là Sự tròn đầy của Đàn độ. Thế nào gọi là Bố thí sinh ra Đàn độ? Vì có Hạ, Trung và Thượng. Nếu lấy thức ăn, món uống thô dở để bố thí thì gọi là Hạ. Lấy áo quần, vật báu mà bố thí thì gọi là Trung đàn. Nếu đem đầu mắt, máu thịt, đất nước, tài sản, vợ con để bố thí thì gọi là Thượng. Thế nào gọi là Bố thí mà sinh ra Thi-la Độ? Bồ-tát suy nghó rằng vì chúng sinh chẳng biết bố thí, đời sau nghèo cùng nên làm điều ác. Nếu thực hành bố thí thì đời sau có phước không bị thiếu thốn thì nên Trì giới. Vì sao gọi là bố thí sinh Nhẫn độ? Lúc Bồ-tát bố thí, người giận ghét mắng; hoặc là cầu xin quá nhiều, hoặc xin không đúng lúc, hoặc không nên xin mà xin. Lúc bấy giờ, Bồ-tát nên nghó rằng: Sự bố thí của ta hôm nay là vì mục đích tìm cầu con đường của Phật, không do ai xúi giục ta bố thí cả mà do ta tự làm. Vì vậy, ta lại sinh tâm sân hận? Suy nghó như vậy rồi Bồ-tát liền thực hành nhẫn nhục. Thế nào gọi là bố thí sinh Tấn độ? Lúc bố thí, Bồ-tát thường thực hành tinh tấn, muốn thực hành hai thứ Thí. Bồ-tát siêng năng tìm cầu Tài và Pháp để mong sao cho được đầy đủ. Thế nào gọi là bố thí sinh Thiền độ? Lúc Bồ-tát bố thí thì sẽ dứt trừ tham lẫn mà thực hành Nhất tâm, dần dần dứt được năm cái. Đó gọi là Thiền độ. Lại nữa, Tâm y theo bố thí mà đi vào Sơ thiền cho đến Diệt định. Thế nào gọi là bố thí sinh Trí độ? Lúc Bồ-tát bố thí, biết là có quả báo mà không nghi ngờ, phá được Tà kiến, Vô minh. Lại nữa, Bồ-tát lại phân biệt Tinh và bất tinh, quả báo có được của sự bố thí khác nhau. Đó gọi là Sinh ra Trí. Do đó gọi là nghóa của Đàn nhiếp sáu độ. Năm Độ còn lại cũng thu nhiếp lẫn nhau. Vì chẳng phải ý của văn nay nên lại nói về Đàn. Vì bố thí là đầu của sáu đàn nên thuộc về sinh tiện lợi. Bốn là “Xả thân v.v…” trở xuống là lấy bờ kia để kết: Sinh tử là bờ mé trước, Niết-bàn là bờ mé sau. Thân mạng và tài sản, ba thứ này thuộc về Sự. Vì quán sát ba thứ này và tâm thuộc chủ thể quán, cảnh thuộc đối tượng quán. Ngay nơi ba luân tức là không, giả, trung cho nên bằng với ba đức của Niết-bàn. Ở đây dùng nhân thường để ghi nhận quả thường, nếu không như thế thì đâu được không hoại thường trụ. Thực hành Đàn như thế gọi là Ba-la-mật. Ba đức vô lượng cho nên Đàn ca theo chiều dọc. Ba đức vô lượng cho nên Đàn rộng theo chiều ngang. Căn cơ này thích sơ lược, cho nên Như Lai khéo nói một đàn vâng tu các hạnh, nên biết rõ điều đó. Nói quả rồi thì thực hành Đàn để làm lợi ích chúng sinh, chẳng lẻ hành nhân nghe mà không tu ngay hay sao?  <卷>QUYỂN 5 (Phần đầu) Đại chương Lưu thông có hai: Một là giải thích tên phẩm Bốn vị Trời, có hai: Nhân duyên giải thích, có hai: Y theo chỗ mà giải thích người, có hai: Nói về chỗ hai mươi tám tầng trời đều bay lên, đây là đứng đầu. Trời chia ra ở ba cõi, ở cõi dưới thì đây là thứ nhất, ở nửa núi Tu-di là chỗ nương của sáu tầng trời cõi Dục. Hai là trời ở trên núi, trời Đạo-lợi ở trên đỉnh, trời Tứ vương ở giữa núi. Tiếng Phạm gọi là Tu-di, Hán dịch là Diệu Cao. Từ mặt nước vọt lên cao tám mươi bốn ngàn do-tuần, cấu tạo bằng bốn chất báu. Hai là từ Đông Hoàng v.v… trở xuống là nêu ra người. Trì quốc là giữ gìn cõi nước. Càn-thát-bà, Hán dịch là Tầm Hương Hành, là Thần âm nhạc của Thiên đế. Phú-đan-na, Hán dịch là Xú (mùi thúi) là loài quỷ cao nhất trong các loài Ngạ quỷ. Hoặc gọi là quỷ chủ nhiệt bệnh. Tăng trưởng là làm cho gốc lành của mình, của người đều thêm lớn. Cưu-bàn- trà, Hán dịch là Ung hình (hình cái lu), lại dịch là Đông qua, là quỷ yểm mî. Tiết-lệ-đa, Hán dịch là Tổ phụ quỷ, là loài quỷ kém nhất trong các loài ngạ quỷ. Tạp Ngữ là có khả năng làm các thứ tiếng. Tỳ-xá-xà, Hán dịch là quỷ ăn tịnh khí người, ăn thịt người và năm giống lúa gạo, tinh khí cũng gọi là Điên Cuồng. Tỳ-sam-ôn, Hán dịch là Đa Văn, có phước đức vang khắp bốn phương. Dạ-xoa, Hán dịch là Khinh Tiệp, bay trên hư không rất nhanh. La-sát, Hán dịch là khả úy, cũng dịch là Bạo Ác. Từ: Thử tứ trở đi là ý nói Phẩm đến. Giải thích quán Hạnh, ba thứ pháp quán đều (nhờ ở Sự), vì cảnh trí mỗi cảnh nhờ Sư mà lập. Phải biết gá Sự phần lớn đều gồm Pháp Tướng. Như thành Vương xá mà quán năm Ấm, núi Kỳ-xà-quật mà biểu ba Đức, năm và ba này nào khác bốn đế. Nhưng đây là nhờ việc nương gá cảm ứng, mà nói về Cảnh quán, chia làm hai: 1- là Bày tướng quán. Từ bốn đế bốn trí cho đến đế trở xuống v. v… đều nói về Kiến tư, giáo nào chẳng nói. Nay giải thích nghóa giáo đã chỉ y theo Viên, cho nên chỗ nói quán chẳng liên quan đến ba giáo. Bốn vị trời là biểu thị cho Đế lý Vô Tác, bốn Vương biểu thị cho Diệu Trí Vô Duyên. Chiếu (xét) Sự tức lý thì gọi là cảnh hộ đế, thoát khỏi trói buộc được giải thoát gọi là Hộ tâm sở, nói cho người nghe thì gọi là Hộ Thế. Kiến Tư Chung Riêng đồng thể là chướng gọi là quỷ thần. Pháp Hoa chỉ đây v.v… là đều hơi khác. Dùng quỷ thần để dụ cho năm lợi, và lấy chim sâu để dụ cho năm Độn nay thì lợi độn đều giống như quỷ thần, chỉ lấy phần đồng. Nếu không v.v… trở xuống là nói lợi ích, mà trước nói chẳng quán có tổn, xâm hại Tâm Vương Diệu Trí chẳng phát, cảnh giới hủy tổn Đế Lý chẳng bày. Tâm vương đều tan là bày mê ba đức mà thành ba Chướng, tuy nói ba Chướng mê do phiền nào. Cho nên nói đều bị quỷ thần làm não. Năng quán trở đi chính là nói quán có ích. Vô minh tức minh là Trí năng quán. Quán này quán khổ sinh tử tức là Niết-bàn, quán này quán tập phiền não tức là Bồ-đề. Khống Ngự v.v… là bất động các kiến mà tu Đạo Phẩm, chẳng dứt si ái mà khởi các minh thoát, khống ngự như thế đâu riêng chẳng bị xâm hại, mà hiển Lý đủ đức. Hiển Lý cho nên Đế cảnh nước yên, đủ Đức cho nên tâm sở dân yên. Vì chuyển tám muôn trần lao thành tám muôn Định tuệ. Tự làm thông suốt đã như thế thì khiến người khác tu chứng đâu chẳng như thế ư? Mượn Sự của Hộ Thế Vương mà tu quán được lợi ích thì tướng nó tóm lược như thế. Giải thích mười ba phẩm Văn kinh, có hai: Lập ý chia chương, có hai: Lập ý. Quý là cuối, là che chướng. Hễ là v.v… trở xuống là chia chương, có ba: Một là khai lưu thông bảy chương. Phương quỹ là phương pháp, khuôn phép. Hai là Thiên Vương trở xuống là nêu Thiên Thần năm đoạn, vì vị đất màu mỡ thỉnh nên chỗ nói chỗ. Cao du là ruộng đất tốt. Sử ký chép: Đông là vùng đất màu mỡ là đó. Du trở xuống phần nhiều là chữ vị. Lại Thiên Vương trở xuống là từ Tăng Thắng mà nói đủ mỗi vị đều có năm khả năng. Ba là Bốn vị trời v.v… trở xuống chỉ phẩm này sáu phen. Kế là chánh thức giải thích văn kinh, lại có: Đoạn chia làm năm: Lại chia làm sáu: Là nói lại khả năng Hộ quốc, có hai: một là bốn vị trời bạch Phật, có hai: Là kinh gia nêu trước. Thiên Vương Bắc phương, là Tây Trúc đệ tử đến phải vén y bày vai phải để nói lên sự làm việc. Chính là bạch Phật có hai, một là chia văn lập Nghóa. Pháp Tánh trở xuống là dùng nghóa giải thích văn, lại có: Khen kinh, có: là Khen lễ, chỗ che chở của Phật vô lượng sâu xa. Ngang nhiếp khắp pháp, dọc thâu hết pháp. Lý chẳng như thế đâu gọi là Kinh vua. Hỏi: Văn nói lỳ này nên gọi là Kinh vua. Ấy thì Văn kinh chỉ là Năng Thuyên, còn vua chỉ ở Lý, giải thích tựa đề sao văn gọi là Kinh vua, giáo nhiếp các sách, chỉ văn chỉ Lý hai chỗ khác nhau làm sao hòa hợp? Đáp: Nếu ba giáo trước Văn Lý chẳng họp thì đây là ngại. Nay là từ Viên pháp đều chẳng hai. Ngoài văn không có lý, ngoài lý không có văn. Giải thích tựa đề nêu văn. Nếu đứng riêng thì đâu gọi là vua. Sớ này chỉ ra lý mà không nhiếp văn: dịch ra thuộc giáo trước, tín văn lý hợp, kinh này là vua Nghóa rất sâu mầu không thể dùng tình mà cầu. Nay Kinh Vương Khen Thể không khác với phẩm Tựa. Y theo Thể trở đi là khen tông kinh. Y theo thể mà tu hành thì Thể là Bản giác khởi thành thỉ giác, mới được gọi là y theo thể tu hành. Thể đủ hai nghiêm nhân quả của cõi Phật, toàn thể thành tu hai nghiêm vô tác, gọi là không trang nghiêm mà trang nghiêm. Nay dùng hai nghiêm của cực quả làm Tông kinh. Thế thiên hạ chép: các trời bao gồm đây có ba. Nhưng lẽ ra có bốn, e văn nói lầm, hoặc có thể Thiên vương vốn là sinh Thiên cho nên Sớ chẳng nêu. Tên bốn vị trời này nghóa trích từ Đại Kinh. Phẩm Đức Vương nói: một là trời thế gian, như là vua các nước, hai là sinh thiên, là từ Bốn vị trời cho đến Phi phi tưởng, ba là Tịnh thiên, tức là bốn quả Bích-chi-Phật, bốn là Nghóa thiên, là Bồ-tát Thập trụ, vì thấy tất cả pháp là nghóa không. Đại Luận nói có ba thứ Thiên: một là giả danh Thiên, tức là Thế Thiên (tức các vua chúa thế gian), hai là sinh Thiên, ba là Thanh tịnh thiên, cho nên gồm cả ba thừa. Lại trở xuống: là sau khen dụng của kinh, trên đến Bồ-tát, kinh không nói Bồ-tát. Đã nói diệt tất cả khổ não của chúng sinh, thì chỉ có cả chín cõi, mới gọi là tất cả. Văn kinh có bốn: 1- Thiên thú (cõi trời) đem đến cho chúng sinh vui sướng, là chúng sinh ở trên cõi trời. Kế kinh này trở xuống là nói ba đường ác. Ba đường các sông chìm đắm cũng như sông lớn. Đốt cháy khô cạn, là dứt khổ ba ác. Có trải qua trên khô cạn lại thêm hai chữ khiến cho là sai. Dứt trừ sợ hãi. Ấy là cõi người. Trước nói tất cả sợ hãi là gồm chung. Kế nói phá riêng ba chướng ác. Ba tai là báo chướng, kẻ thù tức là đao binh đều đói khát, dịch bệnh là ba tai. Sao xấu là nghiệp chướng, nghiệp đến đòi quả báo cho nên sao xấu hiện ra. Ưu não là chướng phiền não. Toàn thể v.v… trở xuống đều chỉ cho chúng sinh chín cõi. Theo Thế v.v… trở xuống là nói về năng hộ, có hai: Chia văn. Hộ quốc v.v… trở xuống là giải thích nghóa, có hai: một là trong đem pháp hộ trì nước, có bốn: một là lý do hộ quốc, hai là dùng pháp hộ quốc, tức là nói lý do hộ quốc, không có pháp làm sao hộ trì cõi nước được, mà lý do thì có trong, có ngoài. Ngoài là Thế pháp, trong là Tâm pháp. Nếu chỉ làm và nói pháp thế gian thì kinh này chẳng phải là giáo phương Đẳng. Thiên Vương toàn là tâm miệng phàm phu, cần phải biết văn văn đều có ý nghóa thế gian và xuất thế gian. Chỉ vì câu này hiển bày nghóa bên trong tiện lợi cho nên nói tương ưng với quán tâm. Như phẩm Tán Chi quỷ thần ở dưới. Và Thuận pháp thế gian mà bàn luận, cho đến tự thuật lý do có tên ấy, thì toàn là bỏ sự mà hiểu, cho nên nói hiện thấy Trí cảnh không thể suy nghó bàn luận, quang trí không thể suy nghó bàn luận. Cho đến nói ta có thể an trụ trong tất cả pháp như tánh. Đối với tất cả pháp gồm thọ tất cả pháp. Cảnh trí như thế nên gọi là mật, mới có khả năng bên ngoài hiện quỷ thần Đại Tướng, đâu chẳng phải có lý mật rỉ. Nay văn kinh tuy chẳng hiểu rõ, nhưng Đại Sư đắc ý, bèn dùng pháp hành nói đế trí mà làm lý do hộ trì an dân. Tâm sở chẳng hành v.v… toàn thể tâm, tâm sở pháp tức là phương tiện Bát-nhã. Tâm Vương tà vạy cho nên thường hành cảnh tà. Nay vua đã chíùnh là dẫn dắt khiến chẳng làm, thì chẳng làm mà làm, làm sâu Bát-nhã đến bờ kia. Ba trời cùng đẳng hộ quốc, ý đồng với vừa nói. Đảng nghóa là bè đảng, tức là tám Bộ, Đảng là bọn, soái là dẫn. Như vua Chuyển luân v.v… trở xuống là giải thích sự. Dụ Luân vương hàng phục bốn phương với Thiên vương ngăn các ác quỷ. Bảy báu tức là xe voi ngựa, con gái, châu báu, quan, binh. Bốn là mắt Trời Hộ quốc, vì quả báo được mắt Trời không phải do tu mà được. Được thân trời thì mắt thấy suốt không bị ngăn che. U là tối, Chúc là chiếu sáng, là mầm hạt giống mới phát. Đổ là lấp, nghóa là dùng mắt Trời mà chiếu suốt đề phòng mầm mống gốc họa, lấp ngăn các nguồn ác. Từ nếu v.v… trở xuống là ngoài dùng sách hộ quốc, có hai: một là nêu khoa nói ý, hai là nêu khoa. Hai là nếu v.v… trở xuống là nói ý. Có ba: một là nói khuyên nghe nhân duyên hòa hợp. Có hai: một là khuyên pháp Sư làm duyên bên ngoài. Mặt trời mọc buổi sáng: Nhó Nhã nói: Sơn Đông gọi là Triệu Dương, Sơn Tây gọi là Tịch Dương. Phân là khí xấu. Lã Thị Xuân Thu nói: Đông đến Hạ thấy hơi sương mù mịt. Xuân Thu Nguyên Mạng Bao nói: Sương mù là khí âm dương. Âm Dương giận thì làm gió, loạn thì làm sương mù. Nay dụ mặt trời mọc cho hoằng kinh, khí xấu mù hết là dụ cho ba tai tiêu hết. Kế là vua v.v… trở xuống là khuyên vua nên tụ nội nhân. Bỉnh pháp, bỉnh là cầm, nắm giữ, một người tức là vua. Khánh là Thiện. Vua có Thiện thì có dân ở khắp nơi. Thị là cậy nhờ. Tức Thượng Thư nói: một người có điềm lành thì dân nhờ. Cho nên Vua nhận sách (pháp) ấy, mà trị nước yên. Kinh nói đói kém, Nhó Nhã nói năm giống thóc không mọc nên đói, rau cải chẳng chín nên đói rau. Quốc ấp quận huyện, vua chế rằng ở trong bốn biển, chín châu vuông vức ngàn dậm. Một Châu lập ra có nước một trăm dặm, hoặc nước ba mươi, bảy mươi dặm, hay nước sáu mươi, năm mươi, hai mươi dặm gồm có hai trăm mười nước. Gồm chín châu, có một ngàn bảy trăm bảy mươi ba nước. Xuân Thu Tả Thị Truyện nói: Ấp có miếu hoang thờ các vua trời trước thì gọi là Đô (kinh đô), không có tông miếu thì gọi là ấp. Lại nói Thượng đại phu cai trị là huyện, Hạ đại phu cai trị là quận. Hai là khuyên cung cấp bốn chúng nhân duyên. Kinh nói Ưu-bà-tắc, Hán dịch là Cận sự nam, Ưu- bà-di, Hán dịch là Cận sự nữ. Để thành tựu giới có thể kham việc gần gũi phục vụ hai chúng xuất gia. Lưu diễn là diễn đạt. Ba là khuyên nhân duyên Năng tán và Sở tán. Đức hạnh của Tiên Vương, tức là hạnh đạo đức của Tiên vương. Nếu làm ở thân thì có thể là nghi phạm phong tục. Lời pháp tức là lời nói lễ pháp của bậc Thánh trích từ các điển cáo. Nên nói từ miệng thì có thể để dạy người dân. Vua đã không theo đây cho nên dân trong nước không nghe theo lệnh. Nước gần không khen ngợi Đức. Nay khuyên v.v… trở xuống tức là khuyên vua trọng Đạo tôn Sư, tu công sửa lỗi. Thân ý cung kính khuyên nhường tự chăn dắt mình, tức là thực hành đạo đức. Khen ngợi ở miệng tức là pháp ngôn Điển ngữ. Phù cao v.v… trở xuống là nói ý khiêm nhường. Vua cao mà dân thấp làm nước, là lấy người làm gốc, phải hết lòng mà khiến nhóm họp. Nói lấy mọng làm thầy. Nội là nội chiếu biết xét thanh tịnh, nên ngoài thì dứt căng sức, tức đại biện nhược nội, cho nên hay vì tục mà nói nhỏ là thầy. Bình thường tu thân trị nước mà còn như thế, huống chi nay hỏi pháp xuất thế, cầu phước cho người dân đâu được chậm trễ kiêu mạn ư? Nho lễ thờ ba lão huynh như cha, sự năm canh Khuất vương tôn kính làm thầy. Nho Thích một mối. Văn Tâm Điêu Long của Vũ Hịch chép: Hịch là kiểu (sáng tỏ), nói bày ra ngoài cho sáng tỏ. Hoặc gọi là Lộ bố, vì lộ bày trên bảng, không đóng kín để khắp thấy nghe. Nhan Sư Cổ chú Hán Thư Cao Kỷ nói: Hịch là dùng thẻ gỗ mà viết dài một thước hai tấc dùng để trưng triệu (sai khiến, mời gọi) nếu có việc gấp thì cắm thêm một lông chim để bày việc nhanh gấp. Nay nói Vũ Hịch gọi là khen tức là dùng văn từ mà nói cho thật sáng tỏ rõ ràng. Nhó Nhã nói: ngung ngung ngang ngang là nói lên đức của vua rõ ràng. Luận ngữ nói Đức phong của quân tử, Đức Thảo của tiểu nhân. Gió trên cỏ thì rạp, thảo lại là cỏ lê. Là Dụng giải thích văn, có ba. Phải lấy ý trên đối kinh mà giải thích nên nói có thể thấy. Như lai thuật lại thành tựu, có hai: một là chia văn, hai là bốn vị vua Trời v.v… trở xuống là giải thích nghóa. Có hai: Họp thuật khen kinh. Bốn vua khen Thể, Tông, Dụng của kinh, đã hợp Phật chứng ba đức diệu lý, cho nên thuật thành. Các Phật từ pháp ấy mà sinh. Ba thứ Thể, Tông, Dụng đã là pháp tánh, đâu có một Phật chẳng từ đây sinh. Từ đây v.v… trở xuống là nói về năng hộ quốc. Có hai: Một là chia văn. Hai là Pháp hộ v.v… trở xuống là giải thích nghóa, lại có: Nói về pháp Hộ quốc, gồm có: Là nói lý do Hộ quốc. Phát tâm rốt ráo là xưa gieo trồng gốc lành là phát tâm, nay nghe kinh được ít là rốt ráo. Là tâm so sánh giống ấy xưa thật khó cho nên Phật thuật lại thành tựu, khen ngợi hạt giống xưa. Song các lời phát tâm này tức là Đại Kinh Ca-diếp nói kệ khen Phật. Cho nên Phật sơ tâm chỉ dùng lời ấy để thành ý nay. Hộ Thế v.v… trở xuống v.v… là đây tương ưng với quán Tâm như nghóa trước đã nói. Từ ông v.v… trở xuống là siêu thuật Thiên đảng Hộ quốc. Từ ông v.v… trở xuống là truy thuật Thiên Đãng Hộ quốc. Từ ông v.v… trở xuống là nói Trí Nhãn Hộ quốc. Trước nói sách, nay nói Trí Nhãn, cùng thấy văn sách ấy tức Trí mưu. Trí năng soi sáng gọi là nhanõ. Nói hòa hợp tức là trước nói trong nhân ngoài duyên. Nhân duyên hòa hợp sau mới cầu tai ác tiêu trừ v.v… là trước bạch Phật thì ba đoạn riêng sáng, nay thì một phen thuật chung để bao gồm riêng trước. Phen thứ hai bạch Phật nói về việc hộ quốc. Có hai: Chia văn. Đây là v.v… trở xuống là giải thích nghóa. Có hai: 1- là bạch Phật, có hai: Một là vua vâng pháp người trời trừ tai ương. Kinh nói luật trời trị đời. Sư xưa trị dân tức là trời hành hóa, phạt thì đúng tội, thưởng thì đúng công gọi là luật trời. Nước gần và binh trời khiến cứ lùi. Xích là đuổi. Kinh nói bốn binh là voi, ngựa, xe, bộ. Qua lại thảo phạt, quy là cầu. Thảo là giết. Truyện so sánh rằng có chuông trống gọi là phạt. Chiết là làm nhục. Đưa ra vàng mà chuộc lỗi. Về quân là mười hai ngàn năm trăm người gọi là quân. Vua có sáu quân, chư hầu có ba quân. Hai là Phật thuật lại thành tự, gồm: Nêu khoa. Từ đây v.v… trở xuống là tùy giải thích. Có hai: một là thuật lại thành tựu ý trước. Không đấu tranh kiện tụng nhau gọi la Tăng, không đấu tụng tức là hòa hợp. Hai là thuật lại thành tựu ý sau, có hai: một là chánh dùng đẳng từ mà nói cứ lùi. Dự là an. Lại khuyến v.v… trở xuống là khuyên các nước đều giữ bổn nghiệp. Tham xí, xí là trông mong. Phật bảo Đế Thích. Là Văn Đại Kinh. Kinh Sở Thát, Sở là một hình phạt đánh bằng gậy. Thát là đánh. Quãng Nhã nói ốc thấp là tốt đẹp, cũng là nhu, là đất tốt. Thời tiết chẳng vượt thứ lớp là bốn mùa điều hòa. Tâm không tham tiếc. Vì không tham nên chẳng cầu nhiều, không tiếc nên thường bố thí. Hậu phi thể nữ: Vua có một Hoàng hậu, ba phu nhân, chín tần phi, hai mươi bảy thế phụ, tám mươi mốt ngự nữ. Phong tục nói chung Thể nữ là chọn các cô gái có nhan sắc. Phen thứ ba bạch Phật, bày các khuôn phép, có hai: một là chia văn, hai là giải thích văn nghóa, có hai: một là nêu nguyện, muốn có sáu văn như Sớ trình bày. Hai là bày các khuôn phép, có sáu mỗi thứ đều như sớ nêu. Trên sáu nguyện bá lương là tên Điện đời Hán. Lửa trời gọi là tai. Nhà Hán lấy cái đuôi con cá si dưới biển để cúng tế điện, lấy xương sống để cầu giảm tai ương thì tai ương liền dứt. Đời không biết lý do bèn gọi là Si vẫn. Tám hoành là tám phương. Hưu là tốt, đẹp. Tự lệ là khuyên mình cố gắng. Bốn biển, Bác Vật Chí chép: Trời đất bốn phương đều là biển nước thông nhau, đất ở giữa không có bao nhiêu, bảy Nhung sáu Loan chín Di tám Địch hình loại khác nhau, gồm chung mà nói. Nghóa là bốn biển đều nói ở gần biển. Kế là Phật v.v… trở xuống, là thuật lại thành tựu, có hai: một là chai văn lập ý. Phật bảo v.v… trở xuống là dùng ý giải thích văn, có hai: một là thuật riêng, có hai: một là thuật thành sáu pháp, có sáu: một là thuật thành phương pháp an thân. Vũ Nghi, Hán Thự Cao Kỷ nói: Kỷ Tín ngồi xe vua Hoàng ốc tả? Man chú rằng: Dùng lụa vàng bao bên trong, là mao vũ tràng. Tại thừa dư xa hành tả phương thương chú thích. Thái Ung nói đuôi con trâu Ly làm như cái đấu, hoặc ở đấu, hoặc ở đầu phi, hoặc ở tại Hành. Vì là mao vũ tràng làm nghi trượng của vua, nên gọi là Vũ nghi. Kinh nói Cung xuất. Cung là thân. Từ lại v.v… trở xuống là nói về thuật lại thành tựu phương pháp an quốc. Nạn sinh tử như thế. Kiếp số như thế gặp Phật. Nói lại thành tựu phương pháp làm yên ổn vợ con. Nói về thành tựu phương pháp làm yên Vương lãnh. Từ thường v.v… trở xuống là thuật lại thành tựu phương pháp cung điện. Từ tại v.v… trở xuống là thuật lại thành tựu phương pháp nhiếp phước. Từ ông v.v… trở xuống là thuật lại thành tựu sáu nguyên dục. Sáu đoạn như sớ nói. Binh khí gai góc. Từ ông v.v… trở xuống là thuật chung bạch Phật là thứ tư bạch Phật, thứ tư nêu cầu yếu pháp lợi, có hai: Chia văn, từ cuối đoạn thứ ba, do trước Thế Tôn thuật lại thành tựu rằng phải trở về đây được phần công đức tối thắng cho các ông và các quyến thuộc. Bốn vị vua do đây bèn cầu ích của yếu pháp lợi. Giải thích nghóa. Có hai: một là bạch Phật, có hai: Một là Nhân Vương vận tâm. Hai là Nhân Vương v.v… trở xuống là tướng cõi trời hiện ra. Có hai: một là giải thích thờ vua đến chỗ Kim quang là tâm tồn, tức ba trí Kim quang minh đến chí Điển tức là ba đế Kim quang minh. Trí đế họp thì khởi sự dụng Kim quang minh. Vì sắc tâm chẳng hai nên hương về Trí hồi thí khắp trở xuống, là ý Thiên vương nói: Nếu dùng pháp lợi mà thí cho chúng ta thì chúng ta đều được. Cho nên dùng ánh sáng chiếu sáng cung trời làm tiêu biểu. Rồng cũng thuộc súc sinh, đối với trời và quỷ thành ba pháp giới. Nói pháp giới là nay từ giải thoát. Hương được đốt chẳng phải là pháp giới làm sao có thể trùm khắp. Thể của ba đường chẳng phải là pháp giới thì làm sao thọ nhận được . Quán giải thích chỗ nói trên, tuy nói Đế Trí cũng là y theo giáo, bày lực dụng của kinh, không nói về quán hạnh. Nay chỗ luận nghiên tâm khiến quán đến lý. Cho nên Kinh Khê nói. Bảng tuy lâu xa, Viên Đốn tuy Thật, Đệ-nhất-nghóa tuy Lý mà thấy quán thuộc về Sự. Ở đây là mượn sự quán tâm, nhờ nghóa thành hạnh. Trí diệu giải như lửa năng đốt, ba đế dung tâm như hương lìa mùi hôi, khởi ba học hạnh như khí nhân luân vì chân bản giác chiếu, nên gọi là Kim quang vì hạnh ngầm chân nên vô ngại mà chiếu, chỉ hẹn quán hạnh khế với Kim quang minh. Công dụng tự nhiên tướng cùng khắp sa giới. Chỉ cốt tướng hợp, nội quán chẳng tu, tâm duyên năm trần ma được dịp làm hai, hãy cẩn thận, cẩn thận. Kế là Phật trình bày, có hai: một là nêu khoa, hai là tùy giải thích. Có hai: một là thuật thành Hương quang trùm khắp. Kinh nói Ma-hê- thủ-la, Hán dịch Đại Tự Tại Kim cương Mật Tích. Kinh Chánh Pháp Niệm chép: Xưa có vị vua, phu nhân sinh ngàn người con muốn thử ở đương lai thứ lớp thành Phật, cho nên Câu-lưu-tôn được thẻ thứ nhất, Thích-ca được thẻ thứ tư. Cho đến Lâu-chí được thẻ thứ một ngàn. Phu nhân thứ hai sinh con, người thứ nhất nguyện làm Phạm vương thỉnh ngàn người anh xoay bánh xe pháp, người thứ hai nguyện làm thần Mật tích kim cương, giúp ngàn người anh truyền trao giáo pháp. Đời truyền Phật Lâu-chí hóa thân là không đúng, đó chính là vương tử Pháp Ý. Y theo kinh chỉ một người nay thờ ở trước cửa chùa mà thành hai tượng. Phàm ứng biến vô phương nhiều cũng không lỗi. Ma-ni-bạt-đà, Hán dịch là Oai Phục Hành. A-nậu-đạt, Hán dịch là Hàm Hải (biển mặn). Kinh nói một trăm bá ức trới Phi phi tưởng, trăm ức tức là đại thiên thế giới, chỉ đồng một Tứ thiền và bốn Vô sắc. Tam thiên thống lãnh trung thiên giới, nói theo đại thiên thì có một ngàn Tam thiền. Nhị thiền thống lãnh tiểu thiên thế giới thì có một trăm muôn Nhị thiền. Chỉ bốn châu đến Sơ thiền thì có một trăm ức. Nay Phi tưởng cũng nói một trăm ức. Trở xuống trông lên mà nói. Lại sợ là dịch sai. Vì Nghóa Tịnh dịch lại không có chữ trăm ức Phi tưởng. Kế nữa là Từ các v.v… trở xuống là thuật lại thành tựu Thí thiện hộ tán, có hai: một là khen nhân, hai là khen quả. Khéo Năng v.v… trở xuống là phá hoại ngoại đạo, hàng ma oán là xoay bánh xe pháp. Đây đều là việc trên quả như kinh Thụy Ứng nói rộng. Bạch Phật lần thứ năm là nêu Hưng suy. Có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa. Có hai: một là bạch Phật, có ba: một là nêu Hưng mà khuyên, có bốn: một là nói về mở rộng kinh, bốn vua nghe nhận. Ba là Đại phạm v.v… trở xuống là nói Thích phạm tám Bộ đều nhóm họp. Kinh nói Thích Đề- hoàn Nhân, gọi đủ là Thích-ca Đề-bà Nhân-đạt-la, Hán dịch là Năng thiên đế. Thế Tôn v.v… trở xuống là nói vua cõi người Thiện tri thức. Vị ngọt v.v… trở xuống là nói được lợi hộ quốc càng siêng. Kế nêu Suy mà khuyên, có hai: một là chia văn, hai là giải thích theo văn, có bốn: một là nói: Trời mất Pháp thực, hai là nói trời thần lìa bỏ, ba là nói ác quỷ gây tai ương. Kinh nói Lưu Tinh. Tinh nói rằng mất dấu mà đi là bôn tinh, dấu sáng liền nhau gọi là lưu tinh. Bạc thực: Xét Hán Thư Thiên Văn Chí nói làm nhật nguyệt bạc thực. Mạnh Khang chú rằng: Mặt trời, mặt trăng không có ánh sáng gọi là bạc. Vi Chiêu nói khi đến bức ép là bạc, thiếu mất gọi là Trùng. Kinh Phòng Dị truyện chép: Nhật nguyệt đỏ vàng là bạc. Thích Danh chép: Nhật nguyệt thiếu là trùng. Nghóa là nói bị ăn dầy như sâu ăn lá cây. Hồng (sáng trời, cầu vòng): Nhó Nhã nói Điệp Lan là Hồng vậy. Nhó Nhã Âm Nghóa nói: Cả hai vùng hiện ra tươi đẹp là Hùng tức là Hồng. Tối tăm là Thư, thư tức là nghê. Giang Đông gọi là giáng, tục gọi là người đẹp, Thích Danh nói Hồng là đánh, nghóa là thuần Dương Công đánh âm. Bốn xoay vần thành tai. Kế là Chánh khuyên, có hai: một là chia văn, hai là tùy giải thích, có sáu: một là muốn được hiện lợi, hai là trời ưa thích pháp thực, ba là nêu ra lỗi, bốn là Vi-đà, tức sách vở người ngoài. Kinh Ma-đăng-già nói: có người tên là Phạm Thiên soạn một Vi-đà, kế có Tiên tên Bạch Tịnh biến thành bốn: một là Tán Tụng, hai là Tế Tự, ba là Ca vịnh, bốn là cúng tế trừ tai. Kế có người tên Phất-sa có hai mươi lăm đệ tử, đều một Vi-đà, có khả năng phân biệt rộng, bèn thành hai mươi lăm Vi-đà. Người kế tên là Anh Võ, người kế tên là Thiện Đạo và đệ tử dần dần thêm rộng nhiều xoay vần mở mang có một ngàn hai trăm lẻ sáu Vi- đà. Nay nói bốn là theo cội gốc làm tên, đều là nói Phạm Sự xa lìa dục nhiễm, cho nên gọi Phạm Thiên nói là xuất dục luận. Luận Tỳ-già-la đây gọi là ký luận, Bà-ni-ni soạn ra, nói các thứ kinh sách và các lời tạp. Lại gọi là Tự Bản. Hà Tây nói là gốc văn tự của thế gian, nói về điển tịch âm thanh, nói thông bốn biện, quở trách thế pháp, khen ngợi Pháp xuất gia, lời lẽ thanh nhã, nghóa lý sâu xa. Tuy là ngoại luận mà không tà pháp, chẳng phải là Đại só Thiện quyền soạn ra. Tăng-khư, Hán dịch là Số Luận, các pháp từ số mà khởi, vào kiếp sơ do Tiên Hoàng Đầu soạn ra. Vệ-thế-sư, Hán dịch là Thắng Luận, nghóa là hơn hết trong các luận về Thắng nhân soạn ra. Lặc-sa-bà, Hán dịch là khổ hạnh, chưa biết có ở đời lúc nào, lấy tên người mà gọi tên luận. Ba là vị Tiên này nói không có lậu tận thông, chỉ có năm Thông. Bốn là trước sau được lợi ích. Do Đức Như Lai Chánh Biến Tri nói là hiệu thứ hai trong mười hiệu. Năm là giáo chủ cao quý. Kinh nói vì năng lực Đại Bi nên bình đẳng, dùng Vô duyên đại bi mà che phủ khắp pháp giới. Vượt hơn bốn Đẳng tâm v.v… của Phạm vương dùng khổ hạnh khó nghó bàn chứa nhóm từ nhiều kiếp mà lợi ích chúng sinh, cho nên vượt hơn nhân mười điều lành của Đế Thích v.v… Sáu là gốc của các pháp. Kinh nói tất cả chúng sinh bình đẳng là: Thế gian thì có năm giới, mười Thiện, mười hai môn Thiền v.v… Xuất thế gian là pháp môn bốn giáo ba thừa tu chứng. Quốc Sự là các việc lễ nhạc chinh phạt trị đời nuôi dân. Soạn Thế Luận là ba luận như trên và chánh luận v.v… Đều do kinh này là ba thứ kinh giáo, hạnh, lý. Cho nên bản mới dịch nói muốn sinh lên cõi người, cõi trời, muốn được bốn quả Bích-chi-phật, muốn được thành Phật đều y theo kinh này. Sám hối diệt chướng mới được thành tựu, nếu nắm lấy hóa ý, tức là đối với Nhất Phật thừa mà chia ra nói ba, chỉ vì kinh này thuộc giáo Phương đẳng, cũng thuộc về Thông lý, nên ở đường người chưa thoát khỏi đường khác, muốn cho bình đẳng nói tùy năm thừa mà được an vui. Phật nói có hai: một là chia văn, hai là tùy giải thích, có hai: một là nêu hưng suy mà khuyên, hai là chánh khuyên. Thứ sáu là nói kệ khen đức, có hai: một là chia văn, hai là Phù có ba, v.v… trở xuống là giải thích nghóa, như sau: Là nói kệ khen, có ba: Khen ba thân, lại có: Y hiện văn riêng đối ba thân. Không là pháp thân: Kinh chẳng có chữ không, vì mặt trời, mặt trăng phải nương trên hư không. Lại văn sau nói: Chân pháp thân của Phật cũng như hư không. Thế nên Sớ dùng ba thứ Không, Nhật, Nguyệt đối với ba thân. Không chẳng có tối vô minh, Nhật nguyệt cùng nương là dụ riêng cho thể pháp thân vốn trùm khắp. Mặt trời có công năng phá tối dụ riêng cho Báo thân dứt hết ba hoặc. Mặt trăng (Nguyệt) tròn khuyết nên dụ riêng cho Ứng thân tùy cơ hơn kém. Đây là riêng đối với viên dung ở dưới mà làm gốc. Thông ý v.v… trở xuống là dùng nghóa dụ có cả ba thân, có hai: là dụ Hiển Viên, nếu dùng ba dụ riêng đối với ba thân, thì sợ nói ba thân thể nó cách lìa. Cho nên nay dùng việc năng dụ, nghóa nó không hạn cục, mỗi dụ đều có đủ ba nghóa. Như dụ mặt trời, trên phải nương hư không, dưới phải hiện trên nước. Ba nghóa này thì hiện Báo Trí Viên Cụ ba thân. Đây thì ba Bát-nhã nói ba thân. Dụ mặt trăng cũng thế, có thể hiển Ứng dụng đầy đủ ba thân. Ở đây thì ba Bát-nhã nói ba thân, hư không rộng lớn là khoảng không mặt trời nương, mặt trời trên trời, mặt trời đáy nước, đương thể đều ở trong như hư không, ba thứ không này hiển bày pháp thể đầy đủ ba thân. Mặt trăng cũng thế. Mặt trăng nương trên hư không, mặt trăng trên trời, mặt trăng đáy nước cũng đều ở trong hư không, cũng nói lên pháp thể đầy đủ ba thân. Không khắp mặt trăng, mặt trời hai nói ba thân, bèn y theo Song chiếu Trung đạo mà hiển bày. Đây thì ba quỷ mà nói về ba thân. Y v.v… trở xuống là dùng kết văn mà bày, đây là văn kết khen: hễ nêu ba dụ là lửa mặt trăng chiếu hóa, ba sự nghóa này đều họp đủ ba. Như dụ mặt trăng trên thì nương hư không, chắc chắn là hiện dưới đáy nước. Đây là Ứng thân đầy đủ ba thân. Văn nêu như ánh lửa, ánh lửa phải nương mặt trời, mặt trời phải nương trên hư không. Đây là Báo thân đầy đủ ba thân. Văn nêu như hóa, hóa có thuật gọi là Hóa pháp. Thuật phải ở người tức là Hóa chủ, nó biến hóa vật gọi là hóa sự. Đây tức là Pháp thân đầy đủ ba thân. Tuy lại v.v… trở xuống là dùng văn kết để dung thông biệt. Kinh đã hiển bày rằng không có chướng ngại, nếu chẳng phải dùng pháp mà định ở dụ. Mỗi mỗi viên dung nói trong đây là thuyết vô chướng ngại, phải dùng ý này để dung thân tướng, khiến mỗi tướng đều nghiêm ba thân, thành tướng mật tạng. Là khen tướng thân, có hai: một là chia khoa giải thích kinh, có hai: một là chia khoa, hai là giải thích kinh, gồm có: Là hai tướng trên. Là khen Trí đoạn. Câu một, hai là nêu chung, có dụ có Pháp. Bốn câu kế là khen riêng, hai câu là Trí, hai câu là đoạn dứt biển sâu. Quản tử nói: nước từ đất ra mà chẳng chảy đi gọi là vực sâu. Ba là khen hai tướng sau, bốn là dứt lời khen, năm là hết khen hai phu. Tướng v.v… trở xuống là nêu chung thân tướng, có ba: một là trang nghiêm chung, ba thân tướng tốt chẳng riêng Ứng thân, Báo pháp cũng thông. Như nay nêu lên rằng mắt lưới để lệ trên dưới, hai mươi tám tướng có công năng trang nghiêm chung cả ba thân. Vì thân tướng là một, mà tùy thấy thành ba. Trang nghiêm thân cha mẹ sinh. Vì người Tạng Thông chỉ nói Thiên không, tướng Phật được thấy gọi là do Chánh tập, cấu tạo mà thành tướng, chẳng phải kỳ đặc, chỉ hơn thân Luân vương một chút thôi. Vì chẳng biết tâm hiện mà thấy từ ngoài đến. Chấp giới hạn của sắc đều gọi là sinh thân. Đây là Như Lai khúc thuận, phàm tiểu mà hiện bày thân này nên gọi là Ứng thân. Thân trang nghiêm tôn đặc, là người Biệt giáo kính tin Trung đạo diệu sắc diệu tâm, tùy duyên biến tạo. Tướng Phật thấy được biết từ tâm hiện không có giới hạn. Hoặc hiện thân lớn mười Liên Hoa tạng thế giới trần tướng, hoặc hiện tám muôn bốn ngàn tướng tốt hoặc có lúc chỉ là ba mươi hai tướng trượng sáu, khiến cơ duyên không thấy giới hạn, chẳng đồng với thân giới hạn của Tạng thông, nên gọi là Tôn đặc. Đây là do Như Lai tu đạo mà được nên gọi là Báo thân. Pháp môn trang nghiêm, vì người Viên giáo hiểu thân lớn nhỏ và tướng nhiều ít, đều là tánh sẵn có, chẳng phải do công tu đức. Tướng tuy là sắc mà sắc tức là tâm. Cho nên luận Khởi Tín nói: Sắc tánh tức trí nên gọi là Trí thân, trí tánh tức sắc nên gọi là Pháp thân. Nay từ tức trí gọi là pháp môn nên lấy tám muôn bốn ngàn Đà-la-ni làm tóc, bèn đến Định tuệ làm chân. Vì tức sắc nên được gọi là Pháp thân tướng tốt. Đây là tướng tốt tùy giải mà chuyển, nên làm cho trang nghiêm ba thân tướng ấy có khác, hai thứ trung hạ này bày riêng pháp môn. Đây là chỉ kinh trí sâu xa vô biên mà thành trí đức, trăm ngàn Tam-muội mà làm dức dứt. Hai đức này gồm thâu tất cả pháp môn trang nghiêm. Nếu người học đối với sắc tâm phân cách mà hiểu nghóa này thì chẳng bao giờ biết Pháp thân tướng tốt. Ba văn v.v… trở xuống là văn bày viên dung. Trên đây phân biệt tướng của Pháp, Báo, Ứng vì muốn cho dễ hiểu nên phải đối với căn cơ cạn sâu hơn kém phải hiểu trước, trước chẳng biết sau. Sau phải hiểu sau, sau phải thấy trước. Trước do lấy thô trước mà diệu sau. Nay bốn vị vua trời là Đại Bồ-tát y theo viên mà khen ngợi, thấy ba thân tướng cùng ba đức diệu chẳng hai chẳng khác. Ứng là giải thoát đâu cách ngăn hai đức. Báo pháp y cứ theo mà biết muốn bày nghóa này cho nên nói riêng không có chướng ngại. Nếu biết ý này mới là hiểu sâu Pháp môn Kim Quang minh. Đầu kệ v.v… trở xuống là kết khen, có hai: một là nêu thẳng văn kinh, có hai: một là nêu văn, kết mặt trăng Phật là ba thân. Hiện văn chỉ có không cùng mặt trăng trong nước hợp với mặt trăng trên trời, có thể dụ cho ba thân, nói Phật hóa thành bốn thân, là pháp thân, diệu sắc mà Hóa pháp. Hai thân Báo, Ứng chiếu lý soi cơ mà làm Hóa chủ. Khúc Thuận cơ duyên hiện thân chín giới mà làm hóa sự. Nay dùng hóa sự hiện đủ ba thân trên nên luận bốn thân đều đủ ba, bốn. Thú nêu một thân tức ba tức bốn, các thứ đều như thế mới gọi là vô ngại. Hai phẩm đều v.v… trở xuống là kết diệu, có hai: Một là nói trước sau, đều có ba. Ba chương là Pháp, ba thân là người. Chấp pháp làm người thì người không lìa pháp. Cho nên nói lời khác mà nghóa đồng. Mặt trăng Phật thanh tịnh. Dùng câu kệ đầu thành ba thân nay. Ba khen trời biện dứt diệu, một là khen ba chương rằng: Kim quang minh là kinh điển mầu nhiệm, nói lên chẳng ngang dọc. Nay kết ba thân mà nói không chướng ngại, cũng chẳng phải dọc ngang. Dùng trước dùng sau mà nói lên khoảng giữa, mỗi câu đều nói kho bí mật. Đại Sư khen diệu ấy ở đây. Hai khoa giản Cơ ứng trên nói ba thân không có chướng ngại, nghóa ấy sâu kín cũng lo người học ba tướng chẳng mất mà tình có phân trương. Nay nói ba thân cho đến Sở bị đều là Pháp giới, pháp giới không ngoài, đâu có kia đây. Một là hỏi đáp: nói ngoài pháp không sót. Nói pháp chẳng làm ra báo hay phi báo. Phi báo là Ứng. Hỏi: Ba thân chỉ một, pháp giới đâu có Năng tác làm ra sở tác mà nói nương theo pháp, là đồng y này nương mà lại tức dụng toàn thể. Dụng lại y thể. Một là hỏi đáp, báo tức pháp giới, ảnh là Ứng thân, phi ảnh là Hóa thân, vì hiện chín giới chẳng phải tượng Phật. Pháp giới v.v… trở xuống chú v.v… Lại nên nói Ứng là pháp giới ba đồng Bí tạng, đâu có một thân nào chẳng phải pháp giới? Lại cùng v.v… trở xuống là hỏi đáp: Nói ngoài cơ không ứng ba thân một thể, người hoặc tin theo, nói đối cơ phần nhiều gọi là Cảnh khác. Cho nên nay hiển bày khiến mất nghi này. Có hai: Một là chỗ lập đều hiển. Động là dụ cho căn cơ chúng sinh không thể thấy Ứng, bất động dụ cho cơ trục căn cơ thuần thục sẽ thấy ứng. Nước là dụ cho Chánh nhân. Tánh an vui tức Đại Niết-bàn đã là ba đức, tánh là diệu dung đâu chẳng phải pháp giới. Cho nên môn Tự Tha không hai nói: Vật cơ vô lượng chẳng ngoài tam thiên, năng ứng tuy nhiều mà chẳng ngoài mười cõi vật cơ phải khế với Thân cõi không nghiêng lệch, đồng với Thường tịch quang đều là pháp giới. Nếu mê muội ý này chớ nên bàn tông ngày nay. Lại tịnh v.v… trở xuống là dẫn văn làm chứng, nhân cảm xuất thế do chúng sinh mà thành Phật. Người đều cùng biết bốn giáo đều như thế. Nay theo Viên mà nói mới cùng hết ý kinh. Bởi vì tánh tự tha vốn chẳng hai, mới có năng cảm và năng tư. Nhân cảm xuất thế, tức là mười cõi Cơ cảm, mười cõi là Ứng, vì chúng sinh địa ngục, và Phật địa ngục tánh chẳng hai, cho nên mới cảm thấy Ứng của địa ngục, cho đến cảm Phật cũng giống như thế. Điều tông này đã nói cảm ứng đầy đủ mười pháp giới là nói lên không hai. Nếu nghóa chẳng thế đâu chỉ chúng sinh chẳng thể cảm Phật hay cũng mười chỗ chẳng thành pháp giới. Phải nghiên cứu kỹ, nghiên cứu kỹ. Do chúng sinh mà thành Phật, là chúng sinh năng làm thắng duyên tốt thành Phật, hoặc thuận hoặc trái đều giúp thành Phật. Mà ác nghịch thì công rất mạnh. Nếu không có Đạt-đa thì Phật đâu thành đạo. Song nếu pháp ác vốn chẳng phải Phật tánh thì làm sao giúp Bồ-tát thành Phật. Bồ-tát chẳng quán chúng sinh là pháp giới chẳng phải Bi Đồng Thể, chẳng phải hạnh vô tác thì đâu thể thành tựu quả Bồ-đề. Nếu ngoài Phật ấy có một chúng sinh thì chẳng phải Phật pháp giới. Ngoài chúng sinh có Phật pháp giới chẳng thành, chẳng có sự hiểu này thì chưa vượt ngoài ba tạng, huống chi là Thông biệt. Ba Phật ba kệ đáp, có hai: một là lập ý chia văn, có hai: một là lập ý, có hai: một là chánh lập pháp. Năng thành Phật là quỹ pháp của chư Phật mới thành nhân quả. Vì pháp thường cho nên chư Phật Thường, suy ra Lạc, Ngã, Tịnh cũng giống như thế. Bát-nhã v.v… trở xuống là dẫn chứng, pháp năng thành lập tất cả phàm thánh, vì pháp vôn đủ mười pháp giới nên tùy duyên nhiễm tịnh mà thành Phàm Thánh. Phàm phu tuy mê mà trong mê ấy giả thật Y chánh không hề lìa tánh. Phải biết duyên nhiễm huân ở tánh nhiễm mới thành pháp nhiễm. Duyên tịnh huân người tịnh đều cùng biết. Tánh nhiễm tánh Tịnh thể nó vốn dung, toàn thể mà khởi, theo duyên nhiễm thì nhiễm tịnh đều nhiễm, theo duyên tịnh thì nhiễm tịnh đều tịnh. Cho nên môn Bất Nhị nói: Tam thiên ở lý đồng gọi vô minh. Tam thiên quả thành đều gọi Thường Lạc. Tánh của nhiễm tịnh là Kim quang minh. Kinh nói Diệu thể là Như Lai, nay nói là tịnh duyên, cho nên khen ngợi để đáp Thiên vương. Hai là chia văn, dụng ý giải thích văn, có ba: một là khen thể của kinh. Mười Lực v.v… trở xuống là khen kinh tông. Cho nên v.v… trở xuống là khen dụng của kinh. Ở đây mở như sau: Ba hạnh có cả chúng sinh mà nói sinh thiện dứt ác. Diêm-phù-đề v.v… trở xuống là mười hai bài rưỡi riêng y cứ về nhân vương. Nói sinh thiện dứt ác có ba: Ba bài rưỡi nói nguyện dục (mong muốn). Ưng đương v.v… trở xuống là ba bài rưỡi nói lập hạnh. Thí như v.v… trở xuống là năm bài rưỡi nói được lợi ích. Ba là vàng này v.v… trở xuống là hai bài rưỡi y theo Thượng thánh hộ niệm nói sinh thiện dứt ác. Nếu có v.v… trở xuống là bốn bài rưỡi y theo Sư đệ nói nghe, nói sinh thiện dứt ác. Bốn vị vua vui mừng phát thệ. Kinh nói Bi Hỷ, Bi là buồn xưa chẳng được nghe, Hỷ mừng là nay được nghe. Bi là buồn người khác không nghe, Hỉ là mưng mình được nghe. Nước mắt chảy quanh. Đề là Thể, đề tức là nước mắt, ngang là giao ngang. Xưa vốn gọi hoành lưu chẳng cần phải đổi thành chữ giao. Đại kinh cũng như thế. Vô-sấm dịch thường gọi là Hoành lưu. Bài phú Vương Xán Đăng lâu Phú nói: Buồn quê cũ cách xa, lệ chảy ngang không dứt. Di giải, Di là hòa vui, giải là cởi bỏ tan hết. Phẩm Đại Biện: có hai: Một là giải thích Tên. Hai là giải thích Đại Biện lại có: Pháp môn Sở trụ có hai: là nói bốn biện đặt ra bốn giáo, Tạng không nói Đại mà chỉ nói Vô lậu, cho nên gọi là Tiểu Biện. Thông giáo nêu giả thuyết nói về giới nội, trần sa tám môn gọi là vô lượng biện, Biệt giáo nói về hai thứ trần sa giới nội, giới ngoại nên gọi là song biện. Viên nói mười cõi mỗi pháp đều trung, hai bên tình mất, các pháp cùng khắp, chân tục rõ ràng, ba Đế một Đế gọi là Đại Biện. Thiên này v.v… trở xuống là nói pháp Sở trụ. Tối Thắng Vương nói: Thiên nữ Đại Biền tài ở trên đỉnh núi cao, cắt tranh làm nhà, kết cỏ làm áo, ngồi nhón một chân, Không, giả, Trung Trí nhất tâm mà được, phá hoặc căn bản, trang Nghiêm pháp thân, tâm đã dung thông nói được tự tại, tức tự trụ vào Đại biện. Kế là Dó tự v.v… trở xuống là năng dùng bốn tất, Viên bàn sâu mầu, hay nói thô cạn tùy cơ mà trao. Không có quái ngại mới gọi là Đại Biện. Cho nên Sớ đem vui để đối Ngộ mà nói bốn Tất khiến được bốn Vui cho đến bốn Ngộ. Đây thì một tất nói về bốn giáo. Cũng là bốn giáo đều có bốn ích. Thiên nữ Đại Biện Tài, có lực dụng như thế. Đối Phật v.v… trở xuống là nói ý phẩm. Giải thích văn, như sau: Chia văn giải thích nghóa, có hai: Chia văn, có hai: Gia v.v… trở xuống là giải thích nghóa, có ba: Là Gia Pháp sư thêm Viên bốn biện, tự năng gồm có ba, tức bốn thứ trước có bốn mươi sáu ích. Ưa nói biện là đối với một chữ mà nói tất cả chữ, trong một lời mà nói tất cả lời, trong một pháp mà nói tất cả pháp. Tùy người được độ mà có lợi ích. Từ biện là các thứ trang nghiêm nói năng khéo léo. Nghóa biện là biết nghóa các pháp nơi chốn trở về. Pháp biện là trí tuệ thông suốt tên gọi các pháp. Nếu có v.v… trở xuống là thêm hóa đạo. Trước thêm bốn biện là Đạo Năng hóa, nay thân người là căn cơ được hóa. Hai thứ này hòa hợp thì hóa đạo vô cùng. Từ phục v.v… trở xuống là thêm nghe, kinh nói kỹ thuật. Hai là kết bày ích sâu. Kế là Phẩm Công Đức Thiên, có hai: một là giải thích tựa đề có hai: một là giải thích công đức, trong hai Nghiêm thì đây là phước đức, phước năng giúp trí để trang nghiêm gốc lý. Trí là ba Bát-nhã, Phước là ba giải thoát, Sở hiển Sở Nghiêm tức là ba quỹ, hoặc chung hoặc riêng đều là Kim quang mình một thể này khác tên. Nên biết Đại Biện và trời Công Đức đều là chứng nhập Pháp môn Kim Quang Minh, đều nhiếp khắp tất cả pháp. Dẫn vật riêng tốt gọi là hạnh khác nhau. Ở đó nhiếp tất cả lấy trí làm đầu, ở đây nhiếp tất cả lấy phước làm đầu, năng nhiếp, sở nhiếp đối trí khác nhau. Cho nên ở thế giới này, cần gì không thiếu năng sinh chánh niệm. Tức là ở người tự dụng nghóa sâu phá được cạn. Tức là ở đối trị khiến cho mau ngộ bản tánh Bồ-đề ở Đệ-nhất-nghóa. Thử Thị v.v… trở xuống là nói ý phẩm. Giải thích văn, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, có sáu: một là nguyện cung cấp bốn việc, tức trải qua chỗ nêu là y phục, ăn uống, đồ nằm, thuốc men và các thứ tài sản khác, tức là ngoài bốn việc, tất cả vật giúp sinh các vật (ruộng vườn v.v…). Hai là nói lý do phước đức, nói đời quá khứ gặp Phật tu chứng pháp môn Kim Quang Minh, nên ngày nay đối với việc hoằng kinh có mong cầu đều ban cho. Tám chữ Bảo Hoa v.v… là biệt hiệu (tên riêng) Như Lai v.v… là hiệu chung. Không luống dối gọi là Như Lai do ruộng phước gọi là Ứng Cúng, biết pháp giới gọi là Chánh Biến Tri, đủ ba minh gọi là Hạnh Túc, chẳng trở lại gọi là Thiện Thệ, biết chúng sinh cõi nước gọi là Thế Gian Giải, không ai bằng gọi là Vô Thượng Só, điều phục tâm người khác gọi là Điều Ngự Trượng Phu, làm mắt cho chúng sinh gọi là Thiên Nhân Sư, biết ba nhóm gọi là Phật. Đủ mười hiệu này gọi là Thế Gian Tôn. Trồng các gốc lành là dùng trí chiếu Kim quang minh mầu nhiệm làm gốc các điều lành. Bích là ngọc đã mài bóng rồi. Chu Lễ nói lấy ngọc xanh mà lễ trời là đó. Kha bối là vỏ ốc, ba là khuyên hãy thực hành pháp, có hai: một là khuyên bày lược, hai là khuyên bày rộng. Ở đây mở ra sáu, một là bày chỗ thường ở. Kinh nói A-ni-man-đà, dịch là có tiền của. Hai là bày xưng danh cúng dường. Ba là nói tụng trì thần chú. Bốn là nói khen chú Khuyên Trì. Quán Đảnh Chương Cú là dùng nước pháp tánh mà tưới trên đảnh Thập địa, thọ nhận chức Pháp vương. Nay ngầm nói pháp này nên gọi là Quán Đảnh, chắc chắn là đức Bát-nhã, cát tường là đức giải thoát, chân thật bất hư là đức pháp thân, dùng ba đức này mà khen ngợi nghóa Quán Đảnh. Đẳng hạnh nghóa là làm đủ các hạnh. Trong gốc lành gọi là Hạnh nhất hạnh. Tám giới tức là người ở tại gia trong một ngày một đêm, đối với năm giới trên lại thêm ba giới: Chẳng đeo hoa hương, chẳng xem nghe ca múa, chẳng nằmgiường cao. Đó là tám giới, chẳng ăn quá ngọ là trai. Năm là khuyên hồi hướng Bồ-đề, đó là dâng cúng và tụng mật ngôn cầu thỉnh ý. Nếu vì mình hưởng năm dục lạc mong cầu tiền của thì tức là nghiệp luân hồi, các bậc Thánh đều quở trách. Tôn Thiên thà ủng hộ khiến vì mình người mau thành Bồ-đề chỗ được chẳng phải là nhân sinh tử, nên y văn này mà tu Pháp hạnh này. Sáu là khuyên trang nghiêm nơi chốn phục vụ. A-lan-nhã, hán dịch là Vô tránh, tức chỗ ở không tranh cãi, giành giật với đời, tức là chỗ ở xa xóm làng năm dặm. Lại có Đạt-ma A-lan-nhã là nói các pháp xưa nay thanh tịnh, vì gọi chỗ ấy là pháp A-lan-nhã. Tức kinh Hoa Nghiêm thước nói A-lan-nhã là pháp Bồ-đề tràng, chỗ kinh này chỉ là bao gồm cả hai. Bốn là thệ lâm ảnh hưởng, năm là yêu cầu đồng hành, sáu là riêng bày quy kính. Hỏi: Trong đại kinh nói: Chị Công Đức là chủ, em là hắc ám theo sau, chủ nhân hữu trí cả hai đều chẳng thọ. Nay khiến phụng cúng với đó rất trái, chỗ nói hai kinh sao hòa hội được? Đáp: Tôn Kinh lập pháp lấy bỏ nhiều đường, Đại quyền rủ hình nói lên quả báo chẳng phải một. Nó đối với hắc ám tiêu biểu cho sinh phải có chết, bốn tướng theo nhau. Đây đối với Đại Biện mà tiêu biểu phước giúp Trí, hai nghiêm cùng hiển. Bốn tướng là nói bất song khu, hai nghiêm là công lý hợp đều tiến. Phước mà có Trí thì sinh tử tự mất, Trí mà có phước thì sẽ chứng Bồ-đề. Nay là nói nghe kinh Kim Quang Minh, cho nên nhờ trời giúp vật cần dùng, phải biết nay dùng mất cả sinh tử. Tâm mở rộng kinh chiêu cảm trời Công Đức tư tài đạt được, lìa ngã, ngã sở. Chị còn chẳng đắm trước, thì em há lại đến. Đây là hoằng kinh kia chuyên tu quán. Dùng xả mà nói về ích, đi ở há đồng. Lại như vua chúa, quan lớn, quan trưởng, Pháp Hoa khiến lìa, Niết-bàn khiến gần. Cho nên biết lập pháp đều có Dị môn đâu vì kinh ấy hỏi chỗ mà nay nói. Bốn, Phẩm Kiền Lao Địa Thần, có hai: Một là giải thích đề, có hai: một chính là giải tên, có hai: một là Trí Sở biểu mà lập bốn Tất. Kinh Tịnh Danh nói Trí độ là mẹ Bồ-tát, phương tiện là cha, dẫn dắt tất cả chúng, đều do đây mà sinh. Trên là thiên thần, Thiên là Dương cho nên như cha, đây là Địa thần, Địa là âm cho nên như Mẹ, là một nghóa. Cha mẹ chẳng đồng nên thuộc thế giới. Thiên Dương nên che ở trên, Địa âm nên ở dưới chở. Mãng là tên chung các loài cỏ, mộc là gọi chung các loài cây. Trí độ v.v… trở xuống là hợp dụ, các điều lành dụ cho cỏ cây. Đều có v.v… trở xuống là như Bố thí phá san tham, cho đến Thiền chủ phá tán. Năm thuộc nhân duyên cho nên chưa mất hết. Trí phá sinh pháp mới không có danh tướng, là bậc nhất trong phá ác, nên gọi là đối trị. Trí độ lại vốn phá lập đều mất, vì không ai trên nên gọi Đệ-nhất-nghóa. Đây là Trí độ lập bốn Tất-đàn. Pháp môn Trí độ v.v… trở xuống là nêu tên bày bốn đức. Kiên lao tức là đức Thường, Địa là Lạc Tịnh, không chịu khổ nên giữ kỹ tất cả, lìa nhiễm trước cho nên sinh ra vô tận. Thần là đức Ngã, oai đức lực dụng đều tự tại. Phẩm này v.v… trở xuống là nói ý phẩm. Hai là giải thích văn, có hai: một là chia văn, hai là tùy giải thích, có ba: một là thề phun vị đất, có ba: một là nói thân mình thêm lớn, có hai: một là sinh khởi tám sự, hai là tùy sự giải thích kinh nên y theo thứ lớp sinh khởi mà nêu. Kinh nói xóm làng, núi sông, dưới có nước thì gọi là đầm ao. Túc Vệ là chỉ cho túc vệ hộ, năm quả này do ăn mà được. Từ sông v.v… trở xuống là nói quyến thuộc thêm lớn, có hai: một là sinh khởi năm việc, hai là tùy việc mà giải thích kinh. Năm đều như sinh khởi. Kinh nói túng quảng: Nam bắc gọi là Tung, Đông Tây gọi là quảng. Tùng thế v.v… trở xuống là nói Báo ân thêm lớn, có hai: một là sinh khởi sáu việc, hai là tùy sự giải thích kinh, cũng như sinh khởi. Phật thuật lại thành tựu, có hai: một là nêu văn, hai là tùy giải thích có hai: một là thuật lại thành tựu xoay vần thêm lớn. Y cứ văn kinh v.v… trở xuống là thành nghóa xoay vần. Cố chọn lấy v.v… trở xuống là khoa xuất thế. Ngày đêm hưởng vui là ở văn kế. Nói thành tựu cúng dường thêm nhiều. Kinh nói cúng dường là ở đời người. Người này v.v… trở xuống là đến cõi trời. Nhật dạ v.v… trở xuống là xuất thế. Tuy được vui cõi trời mà ở Lạc pháp giới cho nên không có chỗ thọ. Vì thế gọi là vui sướng mầu nhiệm không thể suy nghó bàn luận. Ba là phát thệ hộ trì kinh, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, có ba đều như chia văn. Phẩm Tán Chỉ, có hai: một là giải đề, hai là giải thích tên, có hai: Dịch tên. Mật hữu v.v… trở xuống là bày nghóa. Mật danh thuận thế giới, mật hạnh là vì người, mật Trí năng đối trị, mật lý là Đệ-nhất-nghóa, đều y cứ ba pháp chẳng dọc, chẳng ngang, Thiên Tiểu phàm hạ không thể biết được, cho nên gọi là Đẳng, đều gọi là Mật. Chú thích rằng v.v… ý chỉ là ở đây. Kế là Cái thử v.v… trở xuống là nói thuộc lãnh, có hai: một là nói chỗ thuộc, có hai: Chính là nói chỗ thuộc. Dư có ba v.v… trở xuống là gồm nói ba tướng. Hai quản lãnh v.v… trở xuống là nói chỗ lãnh gồm: Là nêu Bộ số, có hai: là y theo phương duy nói số. Sáu phương là bốn phương và trên trời, dưới thế gian. Bốn duy là bốn góc. Lại nói v.v… trở xuống là y cứ năm Đại nói số. Năm thứ này đều có Thần chủ chấp. Tuần du v.v… trở xuống là chỉ bày công năng. Văn kinh v.v… trở xuống, là nói ý phẩm. Chú v.v… là tuy ba vị Thiên vương đều có Thần Tướng, Tán chỉ là đầu, cho nên nêu riêng tên để giải thích ý này. Văn v.v… trở xuống là giải thích văn, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, lại có: Nêu kinh. Duy Nhiên, Lễ đối gọi là Duy, dã đối gọi là A. Thuật lại v.v… trở xuống là Thuật, có hai: một là tiết câu lập ý. sau: Thần ký v.v… trở xuống là giải thích nghóa chung riêng, như Giải thích chung, lại có: Y theo tên gọi mà nêu nghóa. Chỗ làm của Đại quyền có Bản có Tích. Dùng trí chứng chân gọi đó là Bản, tùy Tình lập tục gọi đó là Tích, tuy chia ra Bản Tích nhưng chỉ lập một tên. Xưa từ Mật bản mà duỗi ra mật Tích, nay từ Mật tích mà hiển bày Mật bản, chỗ Thùy tích đây là mật danh. Chỉ nói thế tục thống lãnh các thần có ở Mật mưu. Nay đối Thế Tôn kể hộ kinh đức mà phải hiển Bản. Đây là mật danh hợp nói lý trí, Hiền thánh thiên tiểu chẳng thể biết được nên gọi là mật. Tán Chỉ Bản Tích đã làm sáng tỏ ở đây, vì nghiệm bốn vương các Thiên Thần v.v… đều từ Bản mà thùy Tích Hóa. Cho nên nay giải thích nói rõ nghóa mật, đâu riêng hiển Bản Tích các trời, cũng là năng bày Thể, Tông, Dụng của kinh. Nếu Trí v.v… trở xuống là y tên mà giải thích nghóa, như sau: Là y theo Cảnh trí mà giải thích, có hai: Là giải thích, có ba: Trí là ba trí năng quán, Cảnh tức là ba đế sở quán. Chánh là nói lên Cảnh trí chẳng phải tà, Năng Sở dung nhau, Tà Chánh chẳng hai. Mật danh hiển Đức là ở đây. Một là năm câu đầu nói Trí mật, có hai: Chọn giai cấp chẳng cạn sâu. Riêng ba Trí trước là không, kế là quả, sau là Trung. Đây có thể nói nghóa sau là nói về mật. Tức một v.v… trở xuống là hiển mật, có hai: Là y cứ ba trí dung nhau chẳng ngoài ba, một câu đầu là một trí tức ba trí, là trí diêu không. Câu kế là ba trí tức một Trí, là Trí Diệu quả. Hai câu sâu chẳng phải là ba một song chiếu ba một, là Trí Diệu Trung. Nếu chỉ các pháp là tất cả thì chưa hẳn đều đủ vì không giả Trung là tất cả, không còn dư sót. Nếu được v.v… trở xuống là phụ Văn nói lên dung chứa năm câu. Tức ba Trí phối hợp giải thích như sau. Năm câu kế là nói Cảnh mật có hai: Một là phân biệt chẳng phải Trí. Trí có thể nghó, miệng có thể nói bàn, làm sao thành mật? Hai là không thể v.v… trở xuống là bày mật, gồm có: Chính là bày. Cảnh chẳng phải ngoài Trí, đâu thể dùng trí thiên tiểu mà biết được. Đây là nói dứt nghó suy. Cảnh lìa danh tự đâu thể lấy các pháp danh tự mà gọi. Cảnh lìa nói năng đâu dùng bốn câu nói năng mà nói. Đây là nói dứt luận bàn. Mà y cứ v.v… trở xuống là phụ văn. Trước ba Trí nói duy số chỉ mật. Nay tuy năm câu, mỗi câu đều nói không thể suy nghó bàn luận, tức là chỉ số chỉ mật. Năm câu sau là nói chánh mật, có hai: Một là Phân biệt chẳng phải, giới nhó đối đãi đều chẳng phải Trung chánh, là thô hiển pháp, mật nghóa chẳng thành. Hai là Tức tà v.v… trở xuống là bày mật, có hai: một là ngay lý mà bày chánh tà, trung biên thú nêu một, thâu hết các pháp, muốn cùng ai nói về đối đãi. Muốn cho hiểu rõ nên gượng nói Trung chánh. Dẫn kinh Tư ích mà chứng tâm có cả chân vọng, nay vì phân biệt có không mà chia. Nói phân biệt là chia ra tà chánh khác với trung biên, khiến cho các pháp chẳng chánh trong đó về lỗi đã như thế thì lợi ích rất dễ hiểu. Ngã hành v.v… trở xuống là kết. Lại đây v.v… trở xuống là y theo ba nghiệp mà giải thích. Có hai: một là giải thích. Nói một vãng, đã Trí cảnh chánh ngoại bàng hiển bày nghóa này. Tán chỉ nay ở mật danh mà hiển bản, bản mật có ba, tức là thân, miệng, ý. Nếu chẳng thế, thì làm sao có thể thị hiện thần tướng ba nghiệp, khiến cho chúng chẳng biết. Cho nên chưa hiển bày bản, trước chẳng phải đồng thể thì đều chẳng thể lường. Ở đây là ba mật khiến cho như thế. Sở dó v.v… trở xuống là kết. Tuy đối với ba nghiệp nói lại chẳng bày, lại là nghóa mật. Như Tiên-đà-bà chẳng phải là điều mà vị quan có trí chẳng hiểu. Như thế v.v… trở xuống là kết trước sinh sau. Thế Tôn v.v… trở xuống là giải thích riêng. Trước đem năm câu cùng nói Trí mật. Chỉ vì Trí v.v… mà bày tên gọi mật, nên phải giải thích chung. Nay ở năm câu đầu chia đối ba quán, cho nên năm câu sau chia đối với ba thân, cho nên giải thích riêng có hai. Trước Đại Sư dùng ba pháp để giải thích, có hai: Chính là giải thích riêng, có hai: một là y theo năm câu riêng đối với ba quán, có ba: nhắc lại văn bày nghóa, thực hành quán mà giải thích. Đó là nêu hạnh bản tu của tán chỉ. Biết một v.v… trở xuống là y nghóa mà giải thích câu có hai: Một là hai câu bày cảnh, năng sinh sở sinh đều nói tất cả pháp. Như mười hai chi đều là năng sinh, đều là Sở sinh giúp năng sinh. Năng sinh là nhân, năng tư hay giúp là duyên, nhân duyên chẳng hết, sinh pháp vô cùng đây đều là cảnh Sở quán. Rõ một v.v… trở xuống là ba câu bày ba quán, lại có: Một là câu quán không, hiểu rõ hư vô, đều từ nhân duyên không có thật, tánh là dối, lìa danh tướng nên là vô. Rốt ráo không thật có mới gọi là liễu pháp. Hai là biết pháp v.v… trở xuống là câu kế nói quán giả, hiểu rồi không có tánh tướng gọi là biết không, chẳng ngại duyên khởi gọi là phi không, dùng tất cả Đạo mà khởi tất cả chủng gọi là Trí đạo chủng, Trí này phân biệt mười cõi giả danh hải ấn sum la mà có khác nhau. Viết chữ Vô là lầm.  <卷>QUYỂN 5 (Phần cuối) Ba là Như pháp v.v… trở xuống, là câu sau nói về Trung quán, dùng hai quán v.v… là nói hành tướng An trụ. Nói đủ ba quán. Nếu chẳng phải một tâm quán Thể thì là tung, nếu chẳng dùng hai làm phương tiện thì trung là chân thật, quán thể là hoành. Nay nói ba quán chẳng dọc, chẳng ngang, như thế mà tu, liền sinh ra pháp an trụ mười cõi. Như ở biển tánh, thì tức là tu thành tánh, công phu do năng lực một tâm ba quán. Nên Kinh Khê nói vì dùng Chánh quán mà an cho nên Thế đế mới thành không thể suy nghó bàn luận. Đây thì ngăn cả Trung đạo, chiếu cả hai đế nên gọi là đều nhận chịu, ngăn là ngăn tình, chiếu là chiếu tánh, bên tình đã mất thì hai Đế đều Trung. Trung đã chẳng nghiêng lệch, cho nên không giả đều gồm tất cả. Kinh nói đối với tất cả pháp thọ nhận tất cả pháp. Chẳng dùng song chiếu Trung đạo để giải thích, vì ý kinh chẳng hiển bày. Nếu ba v.v… trở xuống là kết quán tên mật, có hai: Phân biệt về chẳng đúng. Tức nhất v.v… trở xuống là bày mật. Tức một mà ba nên chẳng phải một, tức ba mà một nên chẳng khác. Dọc ngang đều khác, chẳng phải so sánh mà biết. Muốn biết v.v… là gồm dùng miệng mật để kết văn này. Y theo năm câu kế đối riêng ba thoát. Ở đây là nói Tán Chi tự hiển bày bản địa. Đã chứng giải thoát mà gồm ba đế, đã chứng giải thoát là do thấy đế. Trước nhắc lại văn bày nghóa. Hiện thấy v.v… trở xuống là y nghóa giải thích câu, có ba: Câu một là bày viên tịnh, thật trí chiếu Chân-đế không thể suy nghó bàn luận, là thể của Chân-đế, là tánh đức Bát-nhã, toàn tánh khởi tụ gọi là Thật trí. Đế chẳng phải Bát-nhã làm sao phát Thật trí. Đế này lìa trói buộc liền thành phần mãn viên tịnh giải thoát, phải phân biệt lý quả trước sau như một. Ba câu bày phương tiện thanh tịnh, tùy cơ khuất khúc nhân quả hưng phế, đều là quyền trí chiếu tục đế không thể suy nghó bàn luận. Tục đế thể là tánh đức giải thoát. Toàn tánh khởi tu thì gọi là quyền trí. Lìa phược liền thành phần mãn phương tiện thanh tịnh giải thoát. Lý quả chẳng hai y theo trước có thể biết. Một câu sau là trình bày tịnh tánh. Trước nói Trí quang cho đến Trí tụ, bốn tên chỉ vời Trí năng chiếu. Chỉ trí cảnh này cũng nêu Trí Thể là nghóa đế lý sẽ được chiếu. Cho nên kinh pháp được dẫn là Trí như như. Trí này thầm như như với pháp, ý này và Cảnh trí như chẳng hai. Song đây nói người đều biết, chỗ giải thích trọn thành hai phân biệt bỏ ngoan cảnh và vọng tâm Thiên tiểu giả lập Chân như. Cảnh này làm sao là một với trí được. Nay y theo minh mà lập Cảnh Thể, đó gọi là Bản giác, còn Trí Thể gọi là Thỉ giác, nên luận Khởi Tín nói: Nói nghóa giác, nghóa là Tâm thể lìa Niệm, lìa Niệm tướng, như hư không chẳng đâu chẳng khắp, đâu có một thời, một trần, một tâm nào chẳng phải là Bản giác và thỉ giác ư? Cho nên được nói: ba đời mười phương sinh Phật y chánh là Trí năng quán. Cảnh Trí tên khác nhưng thể nó chẳng khác. Cho nên năng sở hai mà chẳng hai. Cảnh chiếu ở cảnh, cảnh chiếu ở Trí, Trí chiếu ở Trí, Trí chiếu ở cảnh. Bốn câu này nói tức không nói mà nói. Cảnh trí này gọi là không thể suy nghó bàn luận ư? Trí Cảnh này phải nói về sáu tức, ở đây là Phần chân, rốt ráo hai vị. Nếu ba v.v… trở xuống là kết thoát gọi là mật, có hai: Phân biệt về không phải. Vì bất v.v… trở xuống là bày Mật, đều lệ ở trước, ba là y cứ năm câu sau riêng đối ba thân, lại có: là nhắc lại văn bày nghóa. Chánh giải v.v… trở xuống là y nghóa giải thích câu, có ba: Một là hai câu bày báo, chính là giải thích thể năng hiển v.v… ở đây giống như giải thích thể hiển bày chân. Chân thể là tánh đức Bát- nhã. Đã được hiển phát tức là năng quán. Vì hiểu vô minh căn bản nên gọi là chánh quán. Mà nói Báo thân là ở tâm thì gọi là quán, ở thân thì gọi là báo, bốn mươi hai vị đều được nói. Hai là Đắc chánh v.v… trở xuống là hai câu bày Ứng, phân biệt y theo pháp mà biết thuốc bệnh. Giải duyên y theo cơ chưa thành thục mà sinh. Không phải phân biệt này thì không có Ứng thân, cho nên Ứng thân đối cơ chưa thuần thục mà xuất ra, hiện ra, sinh ra, gọi là đãi thời. Đã phát rồi mới xuất ra thì gọi là quá thời, kêu mổ cùng lúc là tướng Ứng cơ. Ba là Một câu bày pháp vô giác v.v… Nghóa bày phải đối Báo Ứng mà phân biệt. Chỉ một Đại giác mà có tịch chiếu và phi tịch chiếu ba thứ khả năng, nên gọi là ba thân. Giác là Chiếu giác. Lý năng chiếu, tức là Báo thân, vô giác tức bệnh giác mà năng hiện hành, tức là Ứng thân. Nay nói vô giác là bất giác, tức chẳng phải chiếu, chẳng phải tịch giác, năng song vong, song dụng nên gọi là rốt ráo giác, tức là pháp thân. Cho nên ba thân gọi là ba Phật. Ba thứ liễu cũng giống như thế. Ở thân thì gọi là giác, ở tâm thì gọi là Liễu, ba nghóa rõ ràng. Kế là Như thế v.v… trở xuống là Kết thân, gọi là Mật, có hai: Phân biệt về chẳng phải. Phi nhất v.v… trở xuống là y cứ họp đối Đề, có hai: Một là họp ba Đức. Đối đề văn ở trên, y theo Chánh là nói về ba thân. Quán là nói ba quán. Thoát là nói ba thoát. Kế là ba đều có thế đối với Kim quang minh. Đây là nói Lìa. Nay họp ba thân thành một pháp thân, chỉ đối chữ Kim mà hợp ba quán thành một Bát-nhã. Chỉ đối chữ quang hợp với ba thoát thành một giải thoát. Chỉ đối với chữ Minh. Các kinh các luận dùng ba đức v.v… làm tu hai tánh một để nói. Người viên giáo hiểu là hợp ba nghóa. Ý này rất mầu nhiệm, người học nên biết. 2. Ba Đức v.v… trở xuống là nói năm chương đều mật. Ba đức là chỗ Phật chứng Mật tạng. Vì trùm các căn cơ nên nói kinh Kim Quang Minh là giáo vi mật. Tán chỉ vốn nhờ bẩm Mật giáo này mà sinh mật giải, tức là nghe tên mật, trụ Lý chính là tu Mật tông, lợi tha chính là khởi mật dụng. Chẳng nói giáo là đồng với Phật. Lại nữa v.v… trở xuống là nói thông nhau. Tuy là ba thân, ba thoát, ba quán, ba tiết giải mà mười lăm câu mỗi câu đều là biển Kim quang minh thể lượng cao rộng, cho nên khiến danh nghóa xoay vần mà giải thích nhau như trăm câu giải thoát trong Niết-bàn, vì mỗi câu đều là ba đức Tạng vi mật. Cho nên Đại Sư giải thích mỗi câu đủ trăm thành muôn. Nay nêu Chánh giải đủ mười bốn câu hay đủ thành mười lăm câu. Họp rằng do Chánh giải nên Chánh quán, do Chánh giải nên được Chánh phân biệt, do Chánh giải nên được Chánh giải. Đối với duyên do Chánh giải nên chành năng giác liễu, do Chánh giải nên bất tư nghì Trí quang, cho đến do Chánh giải nên đối với tất cả pháp bao gồm lãnh thọ tất cả pháp. Dùng một câu chánh giải làm đầu đã thế. Các câu khác làm đầu cũng so sánh theo đây, thành một trăm bảy mươi lăm câu. Vì thể lượng nhất quán cho nên tướng Danh nghóa thành. Sớ ở ba, năm đều nêu câu đầu so sánh với bốn cầu đều thành mười lăm câu. Chú v.v… khiến đây tiêu thích. Lại làm v.v… trở xuống là dùng năm tánh để giải thích Sở dụng. Năm thứ đều gọi là Phật, là quả đức nên đều gọi như thế. Tánh là không thay đổi. Nếu dùng năm thứ này đối nghóa ba tiết thì năm câu này là năng hiển tán chỉ bản, chứng viên thường, tích dụng cùng khắp. Hộ kinh đức diệu, lợi người càng sâu. Đây chính là các nhà hiện nay đối mà giải thích ý. Văn có hai: Đại Sư đối năm câu đầu, có hai: một là bày năm tánh đồng khác, có hai: một là nói ba thư chẳng khác, Chánh là Trung Chánh, Duyên là trợ duyên, Liễu là giác Liễu. Ba Danh nghóa này thầy lập đồng nên nói là chẳng khác. Lại một v.v… trở xuống là nói hai tánh hiện ra và mất đi, có hai: một là hai nhà lập khác, có hai: nói tướng khác. Quả tánh là duyên sở khắc trí dứt quả. Cảnh quả là Duyên liễu sơ chuyển cảnh giới, tức là Ấm v.v… mười thứ Cảnh. Quả và quả quả là, quả thì riêng ở Trí Đức, quả quả thì ở dức dứt cho nên nói quả quả. Hai thứ này đều gọi là tánh, đều lấy thường trụ chẳng thay đổi làm nghóa. Cảnh giới chẳng đổi, là tu ác tức Tánh ác. Nếu làm v.v… trở xuống là nói khai họp. Mỗi cảnh giới là duyên, thuộc về duyên nhân. Mười cảnh như ấm v.v… là Chánh quán cận phương tiện pháp, thân phát liễu nhân nên có thể thuộc về Duyên nhân. Một quả quả tánh là thuộc về quả tánh. Trí đoạn tuy khác đều gọi là quả. Tuy khai v.v… trở xuống là năm số chẳng thiếu. Nay dùng v.v… trở xuống là y theo năm câu đối tánh, có hai: một là đối với Nhà đầu, năm tánh an vui tánh tức Chánh nhân Phật tánh. An vui chính là nghóa Niết-bàn đầy đủ ba pháp. Nay nói theo hợp thì chỉ gọi là Chánh nhân. Thế gian, xuất thế gian v.v… thì sáu đường là nhân quả thế gian, ba thừa là nhân quả xuất thế gian. Nói nhân Phật tánh, là tánh cảnh giới, chỉ bằng chín giới mười như, pháp ấy đối với Phật là nhân. Vì cõi Phật mười như là pháp vọng chín nên gọi là quả, đều thuộc năng quán, chẳng gọi là cảnh giới. Cho nên luận Khởi Tín chỉ dùng chín tướng mà làm cảnh giới. Cho nên nghiệp tướng gọi là Tế của Tế, là Cảnh giới Phật. Lại nói: Vì y chuyển thức nên gọi là Cảnh giới, mà chứng này thì chẳng có cảnh giới nào để nói. Cho nên biết cảnh giới là chín pháp giới, nếu thế sao gọi là Phật tánh? Bởi vì quả người riêng thành tựu mười pháp Phật giới, cũng có khi thành tựu mười pháp, chín giới. cho nên ngàn pháp chúng sinh tuy có đủ Thể, Dụng nhưng chẳng hiển bày, chỉ có Phật là rốt ráo viên dung tự tại. Do đó nhân pháp là quả nhân tánh. Nếu làm v.v… trở xuống là đối nhà kế. Năm tánh cảnh giới đã dùng hợp mà vào nhân duyên bèn lấy câu biết giới hạn pháp, mà làm quả tánh, biết hết thật tướng gọi là Trí chiếu rõ ràng, thấy giới hạn là không giới hạn. Như nói biển lớn Trí độ Phật biết tận đáy, há không phải không đáy mà làm đáy ư? Bèn lấy an trụ các pháp như tánh tất cả đều làm thọ tất cả, đồng gọi là quả quả tánh. Đây thì quả sau nhậm vận, mãi mãi song già song chiếu. Nếu thế v.v… trở xuống là Chương An lệ năm câu, có hai: Lệ trên họp đối. Sư tuy v.v… trở xuống là y theo nghóa để giải thích. Năm tánh chỉ là khai ba pháp, ba phen năm câu đã nhiều phen đối với ba pháp, cũng hợp với từng phen đối với năm tánh. Hai phen sau Đại Sư chẳng giải thích, ý nói là thấy. Chương An sợ người học đời sau chẳng biết nên lược chỉ rằng nghóa lệ phải như thế. Lại khiến người giảng giải thích rõ nghóa ấy, cho nên cần phải giải thích ra. Trong phen thứ hai, Trí Quang là Liễu nhân tánh. Trí cảnh không xen lạm như đuốc chiếu vật. Trí hạnh là tánh nhân duyên, trí tụ là tánh quả, trí cảnh là tánh chân nhân. Nếu y theo Sư kế thì có tánh của một cảnh giới, cho nên Trí cự làcảnh giới nhất tánh, Trí cự là quả quả tánh, vì Dức dứt đối với cơ chẳng lạm. Trong phen thứ ba, Chánh giải hiển thể là Liễu nhân Tánh. Chánh quán thể hiện đáng là Báo thân, hợp thành quả tánh. Chánh phân biệt là cảnh giới tánh. Chánh giải ở duyên là duyên nhân tánh, Chánh năng giác liễu là chánh nhân tánh. Nếu y theo thầy thứ hai là cảnh giới nhất tánh thì dùng chánh năng phân biệt làm quả quả tánh, quả sau ứng cơ nhậm vận rõ ràng. Thế Tôn đã bày v.v… trở xuống là kết. Từ thế v.v… trở xuống là phát thệ làm ích lợi, có hai: một là chia văn bày tốt, hai là y theo đây giải văn, lại có: Ích Năng hóa kinh, có ba: Thế Tôn v.v… trở xuống là lợi ích khẩu nghiệp. Chúng vị v.v… trở xuống là lợi ích Thân nghiệp. Tâm tấn v.v… trở xuống là lợi ích ý nghiệp. Cho nên v.v… trở xuống là lợi ích kinh Sở hóa, có ba: là chưa gieo trồng khiến gieo trồng. Nếu có v.v… trở xuống là đã trồng khiến chín. Vô lượng v.v… trở xuống là đã chín khiến giải thích thoát. Hỏi: Đã được nhóm trí lại nhiếp nhóm phước đây chính là hai thứ trang nghiêm chân tự. Hợp ở phương tiện và cõi Thật báo. Sao kinh nói chỉ vô lượng ngàn kiếp hưởng vui cõi người, cõi trời? Đáp: Phải biết mười ích đều chẳng lìa hai mươi lăm hữu. Trong đây chính là phương tiện trời, người, Thật báo trời, người. Cho nên kinh Nhân Vương Bát-nhã chép: Ngoài ba cõi lại có cõi chúng sinh. Ở đây ngoại đạo có nhiều kinh nói phải biết bốn Độ hoặc ngang hoặc dọc chỉ ở một chỗ ba cõi mà nói, người học phải xét. Bốn. Từ Nam v.v… trở xuống là quy Kính Tam bảo. Tất cả chúng sinh kinh sợ đều quy kính, nghóa là kết tập kinh đều nói quy kính ở lời tựa chung ở trước. Trung quốc ưa lược bỏ nên người dịch bớt đi. Cũng có người còn giữ, như Tát- già Ni-càn Tử nói: Quy mạng Đấng Đại Trí Hải Tỳ-lô-giá-na Phật. Chú thích rằng: Tất cả kinh nước ngoài ở đầu đều có câu này. Các luận v.v… trở xuống tức là người soạn luận nói lời quy kính, như Trí độ, khởi Tín v.v… Tam bảo tức là Phật, Pháp, Tăng nên biết. Công Đức Đại biện tức Bồ-tát lý hòa Tăng. Nam-mô, Hán dịch là quy mạng. Chánh luận thiên tập là nói vui cõi người ngày xưa thông kinh, như sau: Phẩm Chánh Luận, có hai: Giải thích tựa đề, có hai: Là chánh giải thích tựa đề, có hai: Giải thích thẳng hai chữ, Thế Thánh (bậc Thánh thế gian) là Luân vương. Kinh Dịch nói Bí vật trí dụng lập công thành khí, cho là làm lợi ích thiên hạ không gì hơn bậc Thánh. Quản Tử nói: Bậc Thánh như trời vô tư che trùm, như đất vô tư chuyên chở. Đây đều là nói bậc Thánh thế gian. Bậc Thánh Xuất Thế tức là người chứng quả ba thừa, dứt hoặc chứng chân gọi là Thánh. Hạch: Thuyết văn nói là khảo tìm sự thật. Hạch Sự thật thì Thế gian chánh luận có thể trị nước, Hạch lý thật thì xuất thế gian chánh luận có thể đến Đạo. Phẩm này v.v… trở xuống là nói rõ bốn Tất. Nghóa là chánh luận Thế gian mà có bốn ích, đều dẫn Hiếu kinh kết thành nghóa ấy. Văn có bốn: Thế giới, pháp xưa của Tiên Vương tức là sự thật thế gian đời đời chẳng giống nhau, tức là ý thế giới. Vương hành v.v… trở xuống là người. Trăm giống lúa, vật lý luận của Dương Tuyền chép: Lương là tên chung của các loại lúa thóc, thúc là tên chung của các thứ đậu, ba thứ cốc đều có hai mươi, thành sáu mươi thứ. Sơ là hạt của trái, trợ cốc đều có hai mươi, nên thành trăm giống lúa. Xã Tắc, Hiếu Kinh nói: Xã là chủ đất, Thổ địa rộng chẳng thể kính hết nên phong Thổ làm xã để đền ơn. Tắc là lớn nhật của năm giống thóc, các thóc chẳng thể khắp cúng tế nên lập thần Tắc để cúng tế. Lễ ký nói con của họ Lệ Sơn là Trụ và Chu, bỏ mà làm thần Tắc. Con của họ Cộng là Hậu Thổ làm Xã. Dân dụng Hòa mục là người dân kính phục giáo ấy nên sống hòa mục có tôn ty trên dưới không thù oán nhau. Đối Trị: Nội gian tức là loạn thần tặc tử. Khổng An Quốc nói: bên trong gọi là gian, bên ngoài gọi là Cừu. Họa loạn v.v… trở xuống là Họa, nghóa là người lành gặp tai ương. Loạn nghóa là bề tội nghịch loạn. Tai họa trái trời thì gió mưa không điều hòa. Hại trái với đất thì nước khô hạn, hại mầm móng lúa. Đệ-nhất-nghóa: Kinh Kim quang minh này tức là phẩm Tứ Vương nói làm việc nước, tạo luận đời đều nhờ kinh này. Chí Đức yếu Đạo, Chí là Lý cùng cực, yếu là nghóa lấy một gồm đông. Tức Chánh luận này là pháp cũ của Tiên vương, là cùng cực của Đức, chí yếu của Đạo. Ba thứ trước đều thuộc Thế gian, lại chưa giải thích. Nay cái thứ tư này gồm cả xuất thế, cho nên cùng nói nghóa gốc ngọn, khiến người nghe giải ngộ được hai thứ Đệ-nhất-nghóa. Độn là chỉ được yếu đạo thế gian, đây là ngọn. Lợi là ngộ yếu Đạo xuất Thế. Đây là gốc. Tăng ích Thiên Đức cũng phải hai phần. Từ ngọn lợi ích gốc chỉ là sinh thiên, từ gốc lợi ích ngọn thì đến Nghóa thiên, cũng gồm các Tịnh Thiên. Vì Kim Quang Minh thuộc về Thông giáo. Văn này v.v… trở xuống, là ý nói về Minh Thánh tức các trời là Minh Thánh. Cho nên Pháp Hoa Tam-muội chép: Tất cả minh không, như sau: Giải thích văn, có hai: một là chia văn, hai là tùy giải thích, lại có: Văn xuôi. Kinh trời được vị quán Đảnh là kinh Hoa Nghiêm quyển ba mươi chín chép: vua Chuyển luân sinh ra thái tử, mẹ là Chánh hậu thân tướng đầy đủ. Vua Chuyển luân ấy khiến thái tử này ngồi tòa Diệu kim trên voi trắng, giăng màng lưới lớn, dựng cờ pháp lớn đốt hương tán hoa tấu nhạc. Đựng nước bốn biển lớn trong bình vàng. Vua chế nước trong bình lên đầu thái tử, lúc đó gọi là nhận chức vua, trong số quán Đảnh Sát-lợi có thể thực hành đầy đủ mười điều lành, cũng được gọi là Chuyển luân Thánh vương. có: là Kệ tụng, có hai: một là chia văn, hai là tùy giải thích nghóa, Tập chúng có ba như phân khoa. Thứ tư v.v… trở xuống là thưa hỏi, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, chiavăn, ba là kết hỏi khai đáp, bốn là Phạm Thiên đáp, như sau: - Thuật ý chia văn, có hai: Thuật ý. Phật kinh giải thích nghóa Thiên tử. Văn này rất rõ. Nếu Nho giáo thì gọi vua, là cha trời mẹ đất, là con trời. Viện Thần Khế nói trời che đất chở gọi là thiên tử (con trời). Hai là chia văn. Tùy văn giải thích nghóa có hai: một là lược đáp, lại có: Một là Hứa đáp. Hai là đáp: nghóa vương, nên kinh gọi là Nhân vương. Thụy Pháp nói: Đức Tượng trời đất nên gọi là Đế, nhân nghóa sinh ra nên gọi là vương. Bạch Hổ Thông nói Vương là đến, tức Thiên hạ quay về với Vua. Ba là Đáp Thiên v.v… trở xuống, là Đáp hỏi nghóa Thiên, có hai: là chỉ ra ba nghóa, chưa vào v.v… là một nghóa, phân Đức là một nghóa, thêm sức là một nghóa. Dó hộ v.v… trở xuống là Đáp. Ba là hỏi, có ba: một là dùng Hộ thai mà đáp câu hỏi thứ hai. Chưa nhập Hộ là cũng ở Trung Ấm. Đã nhập Hộ là đã ở trong Thai tạng. Trong hai lúc này phần nhiều bị quỷ hại cho nên giả nhờ trời hộ độ. Hai là dùng phân đức mà đáp câu hỏi một, ba là dùng sức thêm đáp câu hỏi ba và bốn. Câu hỏi thứ ba là ở điện cung vua, sao gọi là Thiên? Cho nên nay trong đáp tuy ở cung người mà trời thêm sức tự tại như trời là đáp câu hỏi thứ ba. Ngăn ác khuyên thiện giúp người sinh lên cõi trời là đáp câu hỏi thứ tư. Bốn. Từ nửa v.v… trở xuống lại đáp câu hỏi nghóa Vương, có hai: một chính là nói ba nghóa Nhân Vương, có ba: một là chấp Nhạc gọi là Vương. Vương chấp nhạc này là nắm giữ Lễ nhạc để cai trị dân. Hiếu kinh nói: Lễ Nhạc mà dắt dẫn dân khiến hòa mục. Nhạc Ký nói: Đại Nhạc thì dễ, Đại Lễ sẽ đơn giản. Nhạc chí thì không oán, Lễ chí thì chẳng tranh. Tập Nhượng mà trị Thiên hạ là nói Lễ Nhạc. Khiến Thiên hạ khứ là nói nhạc chi hóa thành. Kinh phòng Dịch hầu nói: Thời Thái Bình cứ mười ngày có một trận mưa, một năm có ba mươi sáu trận mưa, đây là ứng với điềm thời tốt đẹp. Phong Thổ Ký nói: kịch nhưỡng thì dùng gỗ mà làm, trước rộng sau nhọn dài một thước ba, bốn tấc hình dáng như chiếc giày, Tiết tháng chạp trẻ nhỏ dùng làm trò chơi. Dật Só truyện, thời vua Nghiêu có ông già kích nhưỡng ở ngoài đường bảo rằng: Lúc mặt trời mọc thì ta làm, mặt trời lặn thì nghỉ, đào giếng mà uống, cày ruộng mà ăn. Vua đâu tốn sức có nhọc gì ta. Há chẳng phải là Đức của Chí Thánh làm ra mà bất tể huyền công khen vận, cho nên trăm họ hằng ngày chẳng biết trẻ em đùa ngựa tre (gậy tre). Vì Nhân Vương chấp Nhạc trị nước được thiên hạ hòa bình già trẻ đều ưa tánh mình. Nói ngăn ác gọi là vương. Tức kinh nói: La-sát ăn thịt v.v… vì ngăn bạo ác, cũng gọi là La-sát khôi quái. La-sát đứng đầu các quỷ nên các quỷ không dám làm quấy. Nói cha mẹ gọi là vương tức vua, là cha mẹ của dân, dạy răn họa phước, nghóa là trái nhân nghóa thì chịu hình phạt, đó là họa ác, Ghi chép nhân nghóa mà trao tước lộc, là phước lành. Chế Lễ để xem xét dấu vết, làm Nhạc để hòa tâm. Nên Nhạc ký nói: Nhạc là đồng, Lễ là khác. Đồng thì thân nhau, khác thì kính nhau. Dân biết cấm là dân biết có lệnh cấm. Năng vi v.v… trở xuống là nói về ba nghóa Thiên tử. Trong Nhân mà nói quả, là dùng lễ nhạc mà dạy dân sẽ sinh lên cõi trời. Cho nêu từ nếu v.v… trở xuống là đáp rộng, như sau: 1. Chia văn, giải thích nghóa có hai: Một là nói rộng về lỗi phi pháp, có sáu nghóa. Hai là nói Đắc Chánh trị, có sáu nghóa. Sáu nghóa này Văn Kinh trước sau đếu nói sơ mà ở đoạn trước đều chẳng chia rõ, người giảng phải dùng sáu nghóa được mất đối văn mà tiêu, Lý nó tự hiểu. Ba là trong đây v.v… trở xuống là bày quán nói Bản, có hai: Khiến suy nghó nghóa quán mà tự xét người bẩm thọ tông này phải biết ba pháp tu quán. Cho nên sớ chẳng bày khiến tự nghó. Nay sợ kẻ hậu học chưa thể phân biệt nên chẳng khỏi lược nói. Ba thứ này đều nhờ Sự mà quán. Nghóa là nhờ Thế thiên mà nói Đế Cảnh, nhờ Nhân Vương quán trong nghóa Thiên Hộ để nói Diệu quán. Ngay nơi một niệm này tánh là Nghóa Thiên. Nương vào thiên này khiến cho quán này chẳng khởi biên đảo, gọi là Thiên Hộ Nghóa Trung quán. Quán họp Thiên nghóa mà đồng Thiên Đức, chẳng phân mà phân gọi là Thiên Phân Đức là không quán. Nghóa Thiên thần lực gia thêm Diệu quán nên trải qua các cảnh đều được viên dung, là giả quán. Lại mượn Nhân Vương mà tu Lý quán, là toàn Đế khởi quán, Trung quán song chiếu tức nghóa cha mẹ là không quán. Phục hoặc tức là nghóa khôi quái là giả quán. Lập pháp tức nghóa Chấp Nhạc. Đế này, quán này đều lìa dọc ngang, chỉ ở tâm mà đủ sáu nghóa này. Đặt câu hỏi là nói về Bản, có hai: Một là lập câu hỏi, phẩm Tứ Vương ở trên nói: Các vị vua chúa trong Diêm-phù-đề làm việc nước, soạn Thế Luận đều nhờ kinh này, đâu chẳng phải Chánh Luận lấy Kim quang minh làm gốc, muốn cho đáp bày gốc ngọn, cho nên nêu lên câu hỏi này. Hai là Thiên giả v.v… trở xuống là đáp bày, có: 1.Chánh bày chỗ hỏi của phương Đẳng: đâu có một sự chẳng gốc ở Lý như ở Tán chỉ dịch là mật thường để xưng gọi, đâu biết tạo nên ba pháp kín mầu. Nay ở sách này tự nói tên mật mười lăm cú nghóa. Ở đây bày rõ gốc thế danh, Chánh luận này là Phạm vương nói gốc Phạm vương. Các kinh mở làm Bồ-tát Pháp thân. Bồ-tát Pháp thân tùy chỗ ở là Thường Tịch Quang. So sánh thân với miệng hễ có nói gì đều là Bí tạng. Nay Chánh luận đã lấy Kim quang minh làm gốc, thì đâu thể sự ngọn mà trái lý gốc, nước sóng bình vàng gốc ngọn đồng thời. Vì kim quang minh có đủ pháp Thế gian tức thế danh mà nêu bày gốc. Tự đây chia làm hai: Nói ngọn tức là gốc, gồm có: Đối với Thiên tử ba nghóa mà bày gốc, phải nên hiểu biết trước Kim quang minh này là pháp chẳng phải dụ. Vì Pháp, Báo, Ứng là tên khác của Kim quang minh. Thiên là Đệ-nhất-nghóa Thiên. Tử là người xưa nay chúng sinh vô thượng. Dùng Kim quang minh Diệu Tam bảo pháp làm người giả này. Người nay y chỉ vào Đệ-nhất-nghóa thiên, vốn lìa tám Đảo là nghóa Thiên hộ. Người này Trí quang ngầm hợp với Pháp thân. Kim Đức và pháp đồng làm nghóa phân Đức. Người này Ứng Ích gọi là minh, là năng lực của Nghóa thiên đã gia thêm. Lại cha v.v… trở xuống là y theo ba nghóa Nhân vương mà bày gốc Thể của Diệu giả nhân là Vàng cho nên đủ cả quyền thật, cùng với tất cả mà làm thể cha mẹ. Là quang cho nên chiếu, hoặc vốn không, tức là nghóa ngăn ác, thể là minh cho nên sinh ra các điều lành, là đã có nghóa chấp lạc. Do đây v.v… trở xuống là ngọn từ gốc mà lập. Như trên đã nêu sáu nghóa bày gốc. Nhân quả sáu vị đều là nghóa này. Nghóa này làm gốc tất cả Sự thế gian và xuất thế gian. Nay tức gốc này mà nói Chánh luận, Cơ viên giáo nghe việc trị nước mà thấu suốt gốc, bèn đốn trị bốn thứ nước. Như bán v.v… trở xuống là so sánh kết luận. Kinh ở một người mà đặt tên hai thứ trời, người ý nói luận này không có Thế gian và xuất thế gian. Giải thích phẩm Thiện Tập, như sau: Giải thích đề, có hai: Chính giải thích đề, có hai: Giải thích tên Thiện Tập, có hai: Y theo tên gọi mà rộng tập sáu Đạo Sư Thiện Hải, cho là Thuyền Sư dưới biển. Pháp lành tuy nhiều nhưng không ngoài sáu thứ này. Phụ văn tập riêng Đàn Trí, có hai: Nói nhiếp sáu đàn năng nhiếp sáu trí, năng dắt dẫn năm thành tựu hai nghiêm cho nên nêu hai thứ này. Đề như v.v… trở xuống là bày văn kinh, có hai: Một là chánh bày kinh. Kinh nêu hai tướng sâu rộng này, Báu đầy bốn châu, hết sức kính thờ Tam bảo, hưng long Sự rộng, chắp tay lắng nghe. Kim quang minh chứng ngộ lý sâu. Hai là Đàn trí v.v… trở xuống là so sánh với các hạnh khác. Tâm Vua này nhiều tập hợp thiện, chẳng khinh Đàn Trí rộng sâu. Ở văn đã thế thì nghiệm các tu khác đều như thế. Sáu này v.v… trở xuống là dùng Tất-đàn mà lập phẩm nêu chung sáu Độ, danh số chẳng đồng là thế giới, năm độ so với Trí lại ở Sự thiện là thuộc người. Trí Chiếu năm độ phá bỏ tướng ác, thuộc Đối trị đạt đến sáu pháp giới dứt nghó bàn đều đến bờ kia, gọi là Đệ-nhất-nghóa. Vua này tập đủ Thiên bốn Tất-đàn, cho nên lấy tên ấy mà lập phẩm mục. Phẩm này v.v… trở xuống là nói ý đến. Luận trị quốc là Chánh Kiến ở đời, nghe Kim quang minh là thượng thượng Chánh kiến xuất thế gian. Đêm ngủ trong mộng nghe công đức Phật là cảm động Thánh và thấy Tỳ-kheo tên là Bảo. Minh là cảm động Hiền trong nhập phần Chân so với Phật gọi là Hiền, hai là giải thích văn, có hai: một là chia văn giải thích nghóa, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, có hai: một là bảo Thần đất, có hai, Phật dùng kệ nói, có hai: một là nói chung nhân Địa Hạnh đàn, hai là nói riêng khéo nhóm hợp hai Thí, nghóa là thí tài bảo cho bốn Thiên hạ mà thỉnh nói kinh này, khiến vô lượng chúng nghe Thí pháp của Kim quang minh. Đây riêng chia làm sáu như chia văn dùng nghóa mà giải thích. Kinh có thế Trị Chánh, tức là Thế hóa độ, như vật tạp dưới biển, là lấp đầy, là tên gọi chung các thứ vải lụa. Mạn-đà-la, Hán dịch là Thích ý, Mạn-thù-sa dịch là Nhu nhuyến. Xưa lớn nhỏ trắng, lớn nhỏ đỏ, chẳng có trống mà đánh trống. Hy di là vui vẻ. Quý là đá đẹp, kế ngọc kỳ là tên ngọc. Đang là ngọc đeo ở tai nên viết là nhó đang. Thương Hiệt nói: Châu đeo ở tai. Y theo đây v.v… trở xuống là chỉ quy ba pháp. Y theo phẩm này mà nói về kim quang minh, ở chỗ nói này mà nói về ba pháp môn. Sớ văn chỉ nói Luận Kim quang minh, nghiệm ra ở pháp này mà đặt ba tên, thật chẳng theo thí dụ. Vì văn trước sau đều như thế. Người giảng người học đều phải biết. Nhưng vì các câu đối ba chữ, cho nên ba là pháp tánh rộng sâu, tên của Đương thể. Pháp Tánh đáng tôn đáng quý nên gọi là kim. Pháp tánh vắng lặng mà thường chiếu nên gọi là quang. Pháp tánh có công năng làm nhiều lợi ích nên gọi là minh, chẳng hai chẳng khác với các ba pháp. Nếu chỉ Sự Lý y Chánh trong phẩm tức ba thứ này thì giúp cho người tu hiểu những điều giải thích, chẳng dọc, chẳng ngang dứt hết nghó bàn luận bàn, thì sách này mới được gọi là Kinh vương (kinh vua) là biết đối ba sâu có lý do. Từ đây có ba: Một là ở Thiện tập luận mà dịch Ba-la-mật gọi là Đáo Bỉ Ngạn, là chỗ về nên gọi là Kim. Bát-nhã dịch là Trí nên gọi là Quang, năm Độ là hạnh nên gọi là Minh. Đây là đối với Trí, Hạnh, quả là ba cặp Kim Quang Minh. Hai là Y theo Bảo minh thầm luận. Quật (hang) là chỗ nương nên gọi là Kim, trăng tròn chiếu soi nên gọi là quang, đọc tụng là hành nên gọi là minh. Đây là y cứ chánh đối với ba pháp ba là y theo hai người mà nói về Bảo minh, y theo chánh và Vương hai báu đối với ba pháp. Người tu nên biết: chỉ một pháp tánh gọi là Kim quang minh, đâu thể quang minh tạm lìa kim, đâu thể kim quang tạm lìa minh. Nay dùng ba tên chia đối y Chánh tự tha nhân vật là khiến cho biết y không lìa chánh, tự chẳng lìa tha, nhân chẳng lìa vật. Vì kim quang minh nêu một tức ba, toàn ba là một, chẳng dọc, chẳng ngang, vừa cao vừa rộng, mọi vật đều là biển Kim quang minh, tâm tâm đều là ba Đức Bí Tạng. Nếu chẳng thế sao gọi là kinh vua. Ba là Phẩm Quỷ Thần, như sau: Giải thích đề, có hai: Chánh giải Đề, có hai: Giải thích Quỷ thần, có hai: Chính là giải thích Quỷ quy. Thi Tử nói: Người chết gọi là quy v.v… Kinh Quán Phật Tam-muội nói: Tu-la đánh nhau với Thiên đế, ở trong hư không có xe đao phóng xuống, Tu-la và quân binh thân chi đứt lìa rơi xuống, sợ hãi chạy trốn trong ngó sen. Nếu giải thích, theo thế tục thì Trịnh Huyền nói: Tinh khí của bậc Thánh gọi là Thần, Tinh khí của người Hiền Trí gọi là quy. Lễ ký nói: minh thì có Lễ Nhạc, u thì có quỷ thần. Giải thích Thần. Phẩm này v.v… trở xuống là đối với ở trên mà đề tên phẩm. Phẩm kế v.v… trở xuống là nói vì nguyên nhân, hai là giải thích văn, gồm có: Văn xuôi, có hai: Chánh giải thích nghóa, có hai: Nêu, hai là giải thích, có hai: Nêu sự, riêng Phật theo v.v… là chứng quả rồi Từ bi huân pháp hiện hình nói Pháp hóa độ người. Đây là Ứng thân, Phật trùm khắp các căn cơ từ Bản giác như mà khởi Thỉ giác Trí họp, Bản chân như gọi là Báo thân Phật, là Thỉ giác. Tất cả các pháp vốn là chỗ dạo đi của chư Phật, tức là Pháp thân Phật, là Bản giác. Ba Phật trải qua khác nhau là tu hai tánh một năng khởi sở khởi, năng hiển sở hiển thì rõ ràng khác nhau. Sự cúng khác nhau: là bốn sự cúng dường giúp giữ gìn Ứng Phật, trí xứng lý hiển phát pháp Phật, giúp thành hiển phát, đều là nghóa cúng dường. Ba Phật đã khác, ba cúng cũng khác. Hai viên cúng dường trước có Lý Trí vì trải riêng nên chê bai là sự. Nay nghe kinh vì sự dung tức nên khen ngợi là pháp. Cúng dường Bậc nhất là không thể suy nghó bàn luận cúng. Năng Thính Sở thính thể chẳng phải hai, chỉ ở văn tự mà hiển rõ ba thân Năng Thuyết ứng với đức giải thoát. Năng thuyên là báo đức Bát-nhã. Sở Thuyên là đức cảu Pháp thân, chẳng hiểu tân y, chỉ nói về Năng Sở, đâu hiển bày được Viên Phật và Viên cúng ư? Văn tự nếu không phải kho bí mật sao sinh tâm cung kính chư Phật. Chẳng phải bí diệu thì đâu thể viên cúng Phật ba đời. Chú v.v… khiến như thế nào mà giải thích. Lại khác v.v… trở xuống là nói nghe lại, có hai: Một là Nêu bày, tức là bốn nguyện một khuyên. Hai là Nếu muốn v.v… trở xuống, là giải thích ra, lại có: Nói ra bốn nguyện. Muốn hỏi kinh chỉ bày người tu hành, muốn dùng vật tốt đẹp mà cúng Phật ba đời và biết chỗ hành xứ sâu xa của Phật khác. Vì sao Đại Sư dùng chữ Tri (biết) mà làm Báo Phật. Sở tri là pháp, hai hẳn thùy hình. Cho nên ba thân đều thuộc hành, nhân đã lạm quả, trái nghóa cúng dường. Lời giải này trái kinh làm sao giữ tín? Đáp: Trước phân biệt Sự khác chính là trái với tình này. Kinh nói muốn biết đâu chẳng phải chỗ xâu xa của người tu hành. Đã là tâm của pháp thân Năng tri thì không phải, Báo Phật văn trị ứng hiện cũng chỉ tâm, nếu chúng sinh và Phật rõ ràng thì Năng sở khác hẳn. Đây xuất xứ từ Tiểu giáo, làm sao dự Viên tông. Nay ở Viên Tông mà giải thích bốn nguyện dục. Nếu mê thì ba thân của chư Phật ba đời đồng ở sát-na, pháp giới sáu trần mau hiển bày. Diệu giải là có thể nghó bàn thì chính là trái kinh. Nghe kinh v.v… trở xuống là nói một việc đủ bốn, Chư Phật ba đời giác trí là mạng sống, mà cùng chúng sinh đồng một tâm tánh. Thiếu huân tu nên chẳng thọ nhận cúng dường, tuổi thọ chư Phật chẳng sinh mà sinh, vì hiển là sinh. Người tu phải hiểu. Chúng sinh và Phật không khác, nghe kinh thì trí sinh, tức chư Phật hiện, vì Như Lai đồng một trí. Quán hạnh tương tự Phật phần chân cùng Phật rốt ráo không hai không khác. Lại hiển trí sinh tức ba Phật sinh, tức một mà ba chẳng dọc, chẳng ngang. Đây là muốn cùng muốn biết chư Phật ba đời. Chỉ nghe kinh một việc bốn Nguyện đều đủ. Kệ tụng, có hai: Một là Chia văn. Hai là Cổ Đạo v.v… trở xuống là tùy giải thích khoa tiết, đều như chia văn. Chỗ nêu kinh, nếu nhập vào kinh ấy thì một lời nói của kinh sẽ có ba thứ, tức là giáo, hạnh, lý hiểu được ba thứ này là ba pháp mầu gọi là nhập kinh ấy. Nếu chẳng như thế làm sao được nhập vào kinh, tức là vào pháp tánh vô lượng sâu xa. Ba nghóa đầy đủ gọi là Kim Quang Minh. Xứng đây an trụ nên gọi là Như, tức thấy Đức Thích-ca ba thân diệu thể phải luận quán hạnh tương tự phần chân nhập vào kinh thấy Phật. Kinh nói nếu trong trăm do-tuần đầy khắp lửa dữ mà phải đi qua đó thì cũng phải vì pháp quên mình mà đi qua. Kinh gọi Văn-thù-sư-lợi là Diệu Đức, Di-lặc là Từ Thị, thuyết văn gọi là đa lực. Năm là Nêu năng lực đến nỗi trời rồng khuyên tu có hai: Một là lại hiện văn sớ từ Ma-hê v.v… trở xuống vua Diêm-ma-la hoặc Diêm-ma-la-xã, Hán dịch là Song vương. Diêm-ma là Song, La-xã là Vương, anh và em gái đều làm chủ địa ngục. Anh coi việc nam, em coi việc nữ, nên gọi là song. Na-la-diên, Hán dịch là Câu-tỏa Lực Só. Nan-đà dịch là Hỷ. Bạt-nan-đà dịch là Hiền Hỷ là hai anh em, Rồng lo việc mưa gió đúng lúc, khiến cho người vui. Hiền là tánh, lại hiền là thiện. Tỳ-ma-chất-đa dịch là Tịnh Tâm. Kinh Chánh Pháp Niệm dịch là Hưởng cao, cũng dịch là Huyệt cư. Gọi đúng là Phê-ma-chất-trớ-lị, dịch là Khỉ Hoạch, lại dịch là Bảo Sức, là xá-chi cha vợ của Đế Thích. Khư-la-khiên-đà dịch là Quảng tỳ. Thoát nhân tức giải đoạn đầu Thoát nhân v.v… Đoạn đầu văn nói khiến cho tất cả chúng sinh giải thoát, vượt khỏi vô lượng khổ, biển lớn các Hữu. Đã nói tất cả chúng sinh giải thoát vượt qua các biển Hữu. Phải ở giới nội cho đến giới ngoại đều thoát ba chướng, cho nên dùng nhân quả mà đối lại nghiệp báo. Các Hữu do hoặc nên bị phiền não. Kinh nói: Hoa Ưu-bát-la v.v… trở xuống là bốn câu bốn sắc. Ưu- bát-la là hoa sen xanh, Ba-đầu-ma là hoa sen đỏ, Câu-vật-đầu là hoa sen vàng, Phân-đà-lî là hoa sen trắng.  KINH KIM QUANG MINH VĂN CÚ KÝ <卷>QUYỂN 6 (Phần đầu) Giải thích phẩm Thọ Ký, có hai: Giải thích đề, có hai: Chánh giải thích, có năm: Một là nói: nay là hai thứ bốn thứ thọ ký. Kinh Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội nói: Phật bảo Kiên Ý: Ký có bốn thứ: Chưa phát tâm ký, hoặc có người trôi lăn trong sáu đường rồi sinh làm người, ưa thích Phật pháp, qua trăm ngàn muôn ức kiếp sẽ phát tâm, qua trăm ngàn muôn ức A-tăng-kỳ kiếp hành đạo Bồ-tát, cho đến cúng dường Phật giáo hóa chúng sinh đều phải trải qua vô số kiếp như thế sẽ được Bồ-đề. Vừa phát tâm thọ ký, người này nhiều kiếp lâu xa đã trồng các gốc lành, ưa thích Đại Pháp có tâm Từ bi, phát tâm liền trụ địa vị Bất thoái, cho nên gọi là phát tâm thọ ký. Mật ký, có Bồ-tát chưa được thọ ký mà thực hành sáu độ công đức đầy đủ, trời, rồng tám bộ đều nghó rằng: Bồ-tát này không bao lâu sẽ được Bồ-đề, về kiếp, tên nước, số chúng đệ tử ra sao thì Phật làm cho dứt nghi này, mà thọ ký cho. Cả chúng đều biết, chỉ có Bồ-tát này chẳng biết. Vô sinh nhẫn ký, ở trong đại chúng công khai thọ ký. Nay là hai thứ, tức vừa phát tâm ký và vô sinh ký. Thọ giả v.v… trở xuống, là y theo hai chữ Huấn giải thích. Trong đây v.v… trở xuống là nói người được ký. Cũng gọi v.v… trở xuống là giải thích ký tên khác. Từ Phật v.v… trở xuống là nói thọ, phi thọ. Đây là v.v… trở xuống là nói về nguyên nhân. Xưa người thực hành kinh, vua Kim Long Tôn khen Phật phát nguyện mà làm hạnh, được mười ngàn con cá bị cạn nước nghe pháp huân tu mà thực hành hạnh. Kinh lấy đó làm nhân cũng như tướng. Nay được thọ ký tương lai sẽ thành Phật mà chứng nghiệm. Ngày nay nếu đích thân mở rộng kinh hoặc làm ngoại hộ thì chẳng bao lâu sẽ được thọ ký thành Phật, không luống dối. Kế Giải thích văn, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, có hai: 1. Thọ ký, lại có: Thọ ký cho ba vị Đại só, có hai: Một là Đồng duyên, là nhóm họp ở quá khứ có đồng duyên với kinh này chẳng nói hoặc thấy kinh kia hai chánh thọ ký. Thế giới chuyển danh là Tịnh tràng. Nêu nói bốn câu: một là tên chuyển cõi chẳng chuyển, chuyển gọi là Tịnh tràng, hai là độ đổi tên chẳng chuyển, như xưa Đức Thích-ca lấy tên cõi Ta-bà, nay Đức Thích-ca cũng gọi Ta-bà. Ba là tên và cõi đều đổi. Như Quán Âm là Bổ xứ của Di-đà. Bốn là tên và cõi đều chẳng đổi, như nay Ngân Quang là Bổ xứ của Phật Kim Tràng Quang Chiếu. Tên gọi thế giới như gốc chẳng khác. Trong đây là một, hai lần mà hợp thành hai. Ba là thọ ký cho mười ngàn Thiên tử có hai: một là chia khoa, hai là giải thích nghóa, có hai: một là nghe kinh sinh hiểu biết hoặc tương tự hiểu hoặc Phần Chân hiểu. Kinh xếp không nhất định nên phải từ từ. Kinh nói Tâm không cấu lụy đều như v.v… trở xuống là giải thích nghi trong Sớ mà nói. Hai là Chánh thọ ký. Đã nói do đó thế giới không có tên khác, tức là vẫn gọi là Ta-bà. Đây chính là cõi chuyển mà tên chẳng chuyển. Một câu chú v.v… là khiến như vừa giải thích. Hai là Nghi ký, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, có: 1. Nghi hỏi, có ba: Một là Hạnh cạn ký sâu. Hai là Như dự v.v… trở xuống là y theo quyền nghi Thật, cầm dùi chỉ đất, nghóa là không có đất cắm dùi, chẳng phải là chỗ bỏ thân mạng. Từ giả vào không chẳng phải chỉ nương một người. Bồ-tát Tánh Địa phải trải qua ba thời kỳ tu sáu độ. Trực hạnh đẳng v.v… là trải qua Biệt Tiệm thì tướng thứ lớp như thế. Ba là Vì chúng nêu câu hỏi. Đại quyền giải Đốn, tự mình sẽ không nghi, vì người khác mà hỏi. Kế là Phật đáp có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, lại có: Nêu hiện hạnh, có bốn: Một là nói ba sự hòa hợp. Hai là chứng minh công đức nghe kinh, Thuận ba giáo trước, trên cầu dưới hóa, cũng gọi là tu pháp cúng dường. Chỉ vì Thiên tiệm nên phải trải qua nhiều kiếp, một khi nghe kinh này sẽ đốn đạt điệu tánh. Một nhiếp tất cả nên gọi là chân pháp cúng dường. Đã sinh Viên giáo nên Phật ba đời đều thọ nhận cúng dường, biết được hành xứ sâu xa của Chư Phật. Ba thân đốn hiển. Nay muôn vị Thiên tử đến đây nghe kinh, nếu chẳng có đủ bốn thứ nguyện dục làm sao được thọ ký thành Phật mà nghiệm biết phẩm trước nói chẳng luống dối. Ba là Văn ký v.v… trở xuống là nói xưng kinh ngộ người, không có người nào thành Phật mà chẳng đủ ba thân. Quả của ba thân do ngày nay nghe Kim Quang Minh mà làm diệu nhân. Từ pháp tánh mà nói sinh tâm ân trọng, là nhân của Ứng thân. Từ pháp tánh Quang mà khởi tâm vô cấu, là nhân của Báo thân. Từ Pháp tánh Kim mà khởi tâm hư không, là nhân của Pháp thân. Kim quang minh này và ba đức ấy không hai không khác. Ba đức là gốc của vô lượng công đức trang nghiêm. Hoặc tự hoặc chân hiển bày ba đức này. Thế nên Như Lai thọ ký cho quả lợi ích của nghe kinh, tướng ấy như thế. Bốn là Dó tùy v.v… trở xuống là chỉ nhân duyên xưa nay. Kinh nói đều do nhân duyên một lần nghe mà được thọ ký, chẳng lẽ không nhân duyên. Đây là nêu chung có gốc lành tốt. Nêu Riêng nhân duyên xưa, vì tùy tướng tu mà nêu riêng nhân duyên hiện tại. Nói nhân duyên là cảm ứng. Hoặc Tâm trong giáo ngoài mà làm nhân duyên. Vì sao? v.v… trở xuống là giải thích xuất hiện hạnh nhân duyên. Tùy thật tướng mà tu là dùng quán mười thừa làm hạnh. Cảnh không thể suy nghó bàn luận gọi là thật tướng, ngay nơi cảnh thực hành quán thì quán này thuận cảnh, gọi là tùy tướng tu, chẳng phải là ý tông ngày nay. Câu này chẳng tiêu, nhưng mười quán này tu có ba căn, Thượng căn một quán, Trung căn hai đến bảy, Hạ căn dùng đủ mười. Nay mười ngàn Thiên tử một lần ngồi nghe kinh, hoặc chỉ dùng một hoặc trong hai, ba là Tín Hạnh Căn. Y lời mà tu thì vào giai vị tự chân. Có gốc lành tốt v.v… trở xuống là giải thích có nhân duyên xa. Thiện đã nói diệu, chính là xưa nghe Viên mà làm gốc lành. Cho nên nói viên thật tướng mà làm gieo trồng gốc lành. Từ cũng v.v… trở xuống, là nêu duyên xa. Kinh nói thệ nguyện nhân duyên, thì phẩm Lưu Thủy nói đời vị lai sẽ thí pháp thức. Bèn lấy văn này đối với hai phẩm dưới mà làm lược rộng. Giải thích trừ bệnh lưu thủy, có: Giải thích phẩm Trừ Bệnh, có hai: Một là Giải thích đề, có hai: một là nói về nguyên nhân, tức rộng đáp duyên xa bốn chữ. Ý chung với văn Lưu Thủy ở trong đây. Hai là Do ế v.v… trở xuống là giải thích tựa đề Phương đẳng. Kinh vua nêu trừ bệnh mắt chẳng phải chỉ ngăn trừ quả báo bệnh khổ. Nghóa họp dụ gồm thâu nghiệp ác phiền não mười thứ bệnh. Cho nên văn sau nói: trị các chỗ bị bệnh khổ của chúng sinh đều khiến dứt hết. Ý văn gồm nhiếp mười thứ người tu. Cho nên phẩm Chánh luận Sớ nói rằng: phân nửa gọi là Thế luận, phân nửa gọi là Xuất thế luận, nay há chẳng như thế. Lại Khế Kinh chép: Thượng căn thì ở hạt giống cảnh mà sinh quả. Cho nên văn nói: nghe thẳng lời ấy thì bệnh liền dứt hết. Vi Trung căn Hạ Căn lại phải cầu pháp sau. Cho nên văn nói: Đến chỗ Trưởng giả mà hợp các thuốc. Cho nên biết chẳng phải chỉ trừ bệnh quả báo, hai là giải thích văn, có hai: một là thông phần văn của phẩm sau, hai ở phẩm hai mà giải thích nghóa, gồm có: Duyên gốc. Theo tượng v.v… trở xuống là duyên xa, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, lại có: Nói về cha. Thiện nữ v.v… trở xuống là sinh con, được thọ tánh thông minh, mẫn đạt. Hiếu kinh nói: Tham chẳng thông minh làm sao biết đủ. Lúc ấy v.v…: là người trong nước bị bệnh. Thiện nữ v.v… trở xuống là con thỉnh. Có ba: Một là thấy người bị bệnh. Hai là làm việc ấy trở xuống v.v… trở xuống là suy nghó. Kinh nói già yếu, Thuyết văn nói suy giảm là hao tổn. Quảng nhã nói mại là trở về, tức trai khỏe là đã đến. Lễ ký tám mươi nói mao, chú thích mạo là già yếu mờ tối, quên mất, rối loạn, run rẩy tay chân, ngồi thì dựa ghế, đi thì chống gậy. Ba là liền đến v.v… trở xuống chính là hỏi, có bốn: một là hỏi bốn đại thêm bớt, hai là hỏi ăn uống phạm xúc, ba là hỏi phương thuốc trị bệnh, bốn là hỏi thời tiết bệnh động, năm là cha nói cho con nghe, có hai: một là chia văn, hai là tùy giải thích kinh, có bốn: Một là bốn đại thêm bớt, có hai: một là Phật kể cha là thầy thuốc muốn đáp, hai là chánh đáp về thời tiết, có năm: Một là giải thích thời tiết, có hai: một là y Tục pháp, tức là mạnh-trọng-quý. Trọng là giữa, quý là cuối. Hai là theo Phật pháp thì một năm có ba mùa, bốn tháng là một mùa. Thế nào là mùa Thu? vì phá hạ gồm có hai, một là phá chấp Thường, hai là vì khai Ca đề. Vì Thu là thâu thành, vật đều kết hạt. Dễ khởi lời lẽ không rõ ràng bảo trước cho nên chẳng nói thu. Vì ở an cư, vì sau an cư mọi người tiếp tục kiết, khiến thành người tiền an cư. Khai ca đề là tháng. Trong luật có ba thứ an cư, đó là Tiền-Trung-Hậu. Ngày mười sáu tháng tư là Tiền an cư, mười bảy v.v… trở xuống đến mười lăm tháng năm gọi là Trung An Cư, mười sáu tháng năm là Hậu an cư. Nếu ngày mười sáu tháng tư là kết thì đến cuối đêm ngày mười lăm tháng bảy gọi là xong Hạ. Đến khi mặt trời mọc là ngày mười sáu đến mười lăm tháng tám v.v… trở xuống gọi là tháng Ca-đề. Luận Minh Liễu chép: vốn có Ca- hy-la vì nói tắt nên gọi Ca-đề, dịch là Công Đức Y. Vì nghóa Tiền An Cư ngồi hạ có công đức nên dùng năm điều lợi để thưởng đức. Trong luật nói thọ y này một là chứa nhiều tiền, hai là lìa y ban đêm, ba là bội thỉnh, bốn là ăn riêng chúng, năm là trước sau khi ăn đến nhà người. Tây Vực Ký dịch Ca-đề là sao ngang, vì sao ngang ngay sao này. Trong tháng sao ngang được thọ y công đức. Cho nên biết chẳng trong một thu hậu an cư thì chẳng gọi là ngồi Hạ. Vì người Hậu an cư đến mười lăm tháng tám mới giải. Kế Giải thích nếu hai hai mà nói, có ba: Y Tục pháp Độ ký tứ quý thì các tháng ba, sáu, chín, mười hai đều có mười tám ngày, bốn quý cộng bảy mươi hai ngày, chỉ là hai tháng âm dương, đều dùng Ký số làm Dương, ngẫu số làm Âm. Dương Độ Âm Độ là Từ Đông Chí một Dương sinh làm Dương Độn, tháng mười hai, tháng ba là Dương Độ. Từ Hạ Chí một âm sinh làm Âm Độn, tháng sáu, tháng chín là Âm Độ. Nếu nói trở xuống hai Dương Độ, hai Âm Độ, cũng là hai mươi hai, gia thêm Bản nguyệt thánh gốc thì đầy đủ sáu thời. Theo Phật pháp thì đều bắt đầu từ ngày mười sáu, nó lấy ngày mười sáu làm sóc (mồng 1). Lại nói v.v… trở xuống là lại y theo tục pháp, đều lấy số ký ngẫu mà chia ra Âm Dương. Ba là giải thích ba, ba vốn nhiếp có như sau: Là chánh giải thích, có hai: Y theo Tục pháp có hai: Là lấy mạnh làm gốc. Lại nói v.v… trở xuống là y cứ năm Hạnh. Kế, Y theo Phật pháp là ba thời, ba tháng làm gốc, đều nhiếp một tháng nên nói ba, ba gốc nhiếp. Nếu y theo Phật pháp thì dùng ba, ba làm gốc năng nhiếp, bèn lấy ba, một làm tháng sở nhiếp. Cũng được gọi là ba, ba gốc nhiếp. Bốn, giải thích tùy thời tiêu tức tin tức, có hai: một là y theo Tục pháp, hai là y theo Phật pháp. Cuối Hạ đầu Đông theo thế tục gọi là Thu, tùy theo hai khoảng tin tức này mà châm chước. Năm, giải thích Đại Tạ tăng tổn, có hai: một là thông trong ngoài mà giải thích. Xuân động thì bệnh gan v.v… Can tạng thuộc về mộc. Mộc xuân vương thì trị được. Tỳ thuộc Thổ, mộc khắc Thổ, cho nên Tỳ khó trị. Tâm Tạng thuộc Hỏa. Hỏa Hạ vương thì có thể trị. Phế thuộc Kim, Hỏa khắc kim cho nên phế khó trị. Kim Thu vương thì có thể trị. Kim khắc mộc cho nên gan khó trị. Thân thuộc thủy. Thủy mùa Đông vương thì có thể trị. Thủy khắc Hỏa cho nên Tim khó trị. Hai là y theo Phật pháp khoa giảm, có hai: một là Hỏi, hai là Đáp ý. Pháp do Phật chế chẳng phải để nuôi thân, chỉ vì tu tâm mà cấm túc, có hai: một là y cứ phá Thường. Đáp: phàm phu bốn Đảo Thường, Lạc, Ngã, Tịnh chấp điên đảo. Gá các duyên mà thành cho nên bỏ Thu thì khiến các đệ tử chẳng giữ Thường, Lạc, hai là y theo Hạ tọa đáp đã khai Hậu An Cư mà miễn ngồi Thu, thì người Tiền An Cư được lập tháng Ca-đề mà bỏ ý mùa Thu là hai duyên này. Kế, Từ có v.v… trở xuống là đáp phạm xúc lại có: Chính là nói phạm xúc. Trong đó trước nói sáu thứ phạm xúc. Người thường đi đứng, ỷ là đứng. Nếu hỏa v.v… trở xuống là bốn đại động bệnh hỏa ít mà đàm nhiều, vì hỏa giảm nên thủy tăng. Ẩm thực v.v… trở xuống là nói chung về sáu thứ phạm xúc. Quá lượng v.v… là Phong Quân Đạt nói: Thể mệt nhọc ăn uống thường ít, làm việc nhọc chớ quá mức, ăn uống ít chớ quá dối, thường nên bỏ béo nồng mà giảm tiết độ mặn chua, giảm nghỉ lo tổn, bớt mừng giận, bỏ rong ruổi, cẩn thận việc phòng the, khổ phân biệt ngại thực, hai là lược nói sáu Đại. Bạch Hổ Thông nói phủ là ruột già, ruột non, dạ dày, bàng quang, tam tiêu, mật. Phủ là tạng cung phủ. Vị là Tỳ phủ, Bàng quang là phế phủ, phủ của phổi, tam tiêu là phủ của thân, mật là phủ của gan. Ruột già ruột non là tâm phủ phủ của tim. Trong sớ nói hai bàng quang chỉ một tạng. Huỳnh Đế mạch Kinh chép: Thương tiêu là từ đầu xuống đến tim, trung tiêu là từ tim xuống đến rún, Hạ tiêu là từ rún xuống đến chân. Quảng nhã nói Bàng quang là bọng đái, là thủy phủ trong bụng. Tam Thương nói: Chỗ đựng đầy nước tiểu gọi là phao (bọng đái). Từ nhiều v.v… trở xuống là đáp bệnh khởi. Khi thời tiết sinh và khởi, tướng khác nhau, vi phát là sinh, động dụng là khởi, vì trước khác nhau. Ngày Hạ v.v… là bốn bệnh bốn thời từ đó sinh khởi. Từ có v.v… trở xuống là đáp về phương pháp trị bệnh, có hai: Một là Chia văn. Hai là Phong bệnh v.v… trở xuống là tùy giải thích, có ba: Thuốc phòng chưa bệnh. Bào thực v.v… trở xuống chính là dùng thuốc trị. Chỉ nêu bệnh phát, dùng bệnh mà bày thuốc, phải đối bệnh mà dùng thuốc hay trị liệu. Phong sơ v.v… trở xuống bệnh lui thì thuốc bổ. Trong đây v.v… trở xuống là bày nêu chỗ trích văn. Vì Chân-đế thiên nhàn thế thuật gồm có thần thông nêu văn này toàn dựa vào sớ ấy. Thiện nữ v.v… trở xuống đã biết khắp trị, như sau: 1. Chia văn sự giải thích, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, có hai: Một là bệnh nhẹ nghe nói liền hết. Hai là Kinh nói Thiện Nữ v.v… trở xuống là bệnh nặng uống thuốc mới hết. Phẩm này nói việc thuộc ý gồm thuốc pháp, trừ bệnh không phải một, chẳng nêu hết. Kế là bày quán tâm lược nêu ý, văn ấy ở tức nên chú v.v… Kế là Giải thích quán. Phẩm này nói Phật tự kể việc đời trước tự làm nhân thanh tịnh cõi Phật. Trong văn tuy giải thích quả báo trừ bệnh, nhưng ý chính là kết chung cơ duyên bốn giáo. Cho nên Đại Sư sau khi Sự giải liền bày pháp quán tâm, nói ý kết duyên của Lưu Thủy kia. Như Quán Âm Sớ đã giải thích ở bảy nạn thiếp văn chỉ ở trong Sự. Hỏa v.v… đến giải thích quán hạnh mới nói ba Chướng bốn giáo nay chẳng lẽ không đúng. Hỏi: Đã kết bốn giáo, căn cơ sanh độ, vì sao chỉ y cứ phương tiện dừng tâm mà nói quán tâm? Đáp: Lời giống như pháp dừng tâm của ba tạng, ý ấy không đúng. Vì sao? Vì bốn phần danh thông sổ tức bốn thứ giới nội ngoại, người tu bốn giáo đều tu chứng. Nay quán giải y theo đây mà nói để hiểu ý trừ bệnh kết duyên, có ba: một là nói thuốc bệnh của quán. Ba Độc là tham, sân, si khởi riêng. Nói Đẳng phần là ba độc đều khởi. Song tham, sân, si tánh vốn trái nhau chẳng phải ba tâm một lúc cùng khởi, chỉ là bất định tạp nhạp mà sinh, nên gọi là Đẳng phần, một phần có hai mươi mốt ngàn phần, cộng chung có tám mươi bốn ngàn môn trần lao. Đây là tâm bệnh của chúng sinh mười cõi, đối quả báo trước là thân bệnh vì là bên ngoài. Nay bốn phần gọi là bệnh bên trong. Sổ tức v.v… bốn thứ đối trước các thứ thuốc cay ngọt đều là Sự trị. Nay bốn quán này gọi là thuốc pháp. Kế là Tuyên văn v.v… trở xuống là nói về căn tánh của hạnh. Tự có chúng sinh nghe nói bốn quán bốn bệnh đều hết. Người tu thuộc về Tín, tự có nghiên tâm tu bốn quán này, bốn bệnh mới hết, gọi là người pháp Hạnh. Tín Hành thì là người học đọc, pháp hạnh thì là người ngồi Thiền. Nay nói hai người này đều thông bốn giáo ba nhãn. Thị v.v… trở xuống là nói đối bệnh dùng thuốc, có hai: một là nói tướng khởi của bốn phần, hai là nói Tướng trị của bốn quán: Phần một có bốn: Y cứ khi năm căn đối nhau, đây là y theo năm hạnh đối năm Tạng. Tạng đứng đầu năm căn, căn thuộc bốn thời mắt, tai, mũi, riêng thuộc một thời lưỡi, thân có ở cả bốn thời như thường nói. Diệu bảo v.v… trở xuống là nói năm dục gây bệnh. Vì năm Dục thô diệu riêng chung, đối căn khác nhau khiến sinh ra bốn phần thêm bớt khác nhau. Phải biết năm dục khắp cả cõi trong ngoài, cho nên khiến bốn phần chung riêng khác nhau. Ca-diếp đoạn chung nên nói là ít muốn, chưa dứt riêng nên nghe tiếng đàn thì đứng dậy múa. Kinh Thỉnh Quán Âm chép: Dứt trừ gốc ba độc thành Phật Đạo chẳng nghi ngờ. Đã nói ba Độc thì đâu chẳng phải đẳng phần. Bốn thứ này cũng do Thật báo năm dục thô diệu riêng chung đối căn mà khởi. Nói ba thọ phạm xúc: trái ý thì khổ thọ, thuận ý thì lạc thọ, chẳng trái chẳng thuận thì bình bình thọ, ba thứ này khởi riêng. Chung ba khởi Đẳng phần gọi là giác quán, duyên lự lăng xăng. Man thời v.v… trở xuống là nói người bệnh của bốn phần, năm dục ba thọ đã từ cảnh ngoài, bởi là duyên trợ phát của bốn phần. Nay nêu mạn v.v… là tập ác nội tâm thì chính là nhân thân phát của bốn phần tâm mạn phát sân cho đến buông lung phát ra giác quán, đều là phạm xúc đắm không giới ngoại, so với năm dục mà nói. Kế là Từ tâm v.v… trở xuống là nói tướng trị của bốn quán. Trước nói duyên ngoài cho đến nội nhân khởi tâm bốn phần đều là cảnh Sở quán, tức là tướng bệnh. Nay nói bốn quán chính là nói bốn thứ thuốc pháp năng quán. Từ tâm trị Sân, Sân đã thông ở giới nội giới ngoại. Năng trị từ quán, chẳng riêng quán tưởng làm cha mẹ chúng sinh, mà ban vui cho thế gian. Quán tất cả pháp không, vô tánh, vô tướng, có công năng ban vui Niết-bàn cho chúng sinh, quán tất cả pháp đều là pháp giới, có công năng ban vui rốt ráo cho chúng sinh. Do đây mà trị ba thứ tâm Sân. Cho nên giải thích luận nói ba thứ Từ. Bất tịnh trị tham, chẳng riêng Tu Thật tướng giả tưởng, phá nhiễm y chánh của phàm phu cũng có thể phá nhiễm Niết-bàn của Nhị thừa, cũng phá được nhiễm ba Đế của Bồ-tát chấp thứ lớp. Cho nên luận Khởi Tín chép: Thỉ giác năng phá sáu thứ nhiễm. Nhân duyên trị si, chẳng riêng quán nhân quả vô thường ba đời mà phá si đoạn, thường của phàm phu. Cũng năng thư lớp quán ba Đế, mười hai nhân duyên, phá si có không của Nhị thừa. Lại năng một tâm quán, bốn thứ mười hai nhân duyên phá si tung hoành của Bồ-tát. Cho nên Đại kinh nói quán mười hai nhân duyên đủ bốn thứ trí. Sổ Tức nói dứt trị giác quán. Chẳng riêng quán Sổ Tức sinh diệt mà phá phàm phu, đắm mê tán loạn. Cũng tu sổ tức, tu Tam-muội Tục đế, vào sâu duyên khởi, phá thiên không loạn ý của Nhị thừa. Lại thể Sổ tức, mỗi tức đều trung, các pháp thú tức, phá hai bên loạn ý của Bồ-tát. Cho nên Thỉnh Quán Âm ở pháp Sổ tức mà được đạo ba thừa. Trụ thân Thủ-lăng-nghiêm như lỗ lông lưu ly mà thấy Phật. Nhưng bốn trị này có thể bốn người đều tu một pháp, vì bốn pháp ấy đều gồm ba quán người tự có thể y thứ lớp, không y thứ lớp mà trị ba hoặc, hoặc có thể bốn trị chỉ đối với ba quán. Từ tâm là giả quán, bất tịnh là không quán, Nhân duyên là song chiếu trung quán. Sổ tức song ngăn trung quán, ba thứ này tự có thể y theo thứ lớp hay không thứ lớp. Lại bất định hoặc có thể có ba người đều một hoặc một người trước sau, hoặc không thứ lớp, là chỉ một người một niệm mà tiến. Trong Quán Âm Sớ còn dùng ba độc đối thẳng ba quán mà nói thứ lớp hoặc không thứ lớp, huống chi bốn thứ Từ v.v… chẳng phải là ba quán ư? Nếu người Viên ấy thanh tịnh y theo bốn phần riêng chung mà phát khởi, thì tức là một tâm dung diệu ba quán đối bệnh mà dùng, tức là ý thắng biệt trong chỉ quán. Phẩm Lưu Thủy, có như sau: Giải đề, có hai: Gồm trừ bệnh mà giải thích tên, có hai: Giải thích Lưu Thủy, có hai: một là dẫn văn nêu hai tên, hai là tiếp kinh dịch hai nghóa, có hai: Giải thích hai nghóa, có hai: Giải thích riêng hai nghóa, có hai: Một là Giải thích cho nước. Hai là Giải thích Lưu Thủy: một là đại Từ cho vui, hai là đại Bi cứu khổ. Một lại có hai: Nêu hai thứ nước. Giải thích hai thứ nước. Nay đây một thứ vui thế gian lại ích lợi đối quả báo, xuất thế chỉ nói ích một Thật. Nếu luận thời này kết duyên Tịnh quốc hợp khắp người trời cho đến bốn giáo. Kế là Giải thích nước chảy, lại có: Nêu hai thứ nước. Lưu trừ, Lưu là đi, nước trôi tức là nghóa trừ. Lưu trừ v.v… trở xuống là giải thích hai thứ nước. Nói nghiệp nhân, là ở ngoài quả báo chín ích đều có thể trừ nghiệp nhân. Nay mười hiệu v.v… bèn dùng năng trừ để hiển bày sở trừ. Kinh Thập Nhị Nhân Duyên gọi là nghiệm sâu xa. Quy về mười hiệu đều là Viên thuyết, Sám gốc tuy không có văn ba quy. Kinh Tối Thắng không có ngài Chân-đế dịch ra thì cũng có nghi thức trao pháp, không thể thiếu được. Thỉnh cha v.v… trở xuống là thành cả hai nghóa. Ký hữu v.v… trở xuống là bày riêng tựa đề, có hai: Một là hỏi, hai là trong văn v.v… trở xuống là Đáp. Văn kinh và Đề hai tên cùng khéo hiểu chẳng gì hơn đây. Giải thích Trưởng giả, tử trong Pháp Hoa Sớ nói có đủ mười đức thì được gọi là trưởng giả: một là dòng họ tôn quý, hai là địa vị cao, ba là giàu có, bốn là oai đức mạnh mẽ, năm là trí sâu, sáu là tuổi cao, bảy là hạnh thanh tịnh, tám là lễ đầy đủ, chín là người trên khen, mười là người dưới quay về. Từ tử v.v… trở xuống, là cũng như Vương tử, công tử. Cho nên kinh nói: Trưởng giả Trì Thủy về sau trong nhà sinh một người con tên là Lưu Thủy. Văn này v.v… trở xuống là dùng Thọ ký nêu ý. Giải thích văn, gồm có: 1. Nói lý do thứ ba là kết duyên gần, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, có hai: Lộng dẫn có hai: một là thi ân bố đức, hai là người trong nước khen ngợi. Thiên nữ v.v… trở xuống, chánh nói lý do gồm: Một là nói về quyến thuộc. Hai là Lúc đó, con của trưởng giả v.v… trở xuống là dùng duyên xem cá, tức đeo đuổi cầm thú. Lúc ấy, trưởng giả bèn v.v… trở xuống là chánh thức cứu cá. Riêng mở làm hai: một là nói nhân duyên, có hai: Lưu Thủy đau buồn. Bấy giờ có v.v… trở xuống là duyên thần cây bày số. Kế Thiện nữ v.v… trở xuống là cho nước cho ăn, lại có: Một là Cho nước, có: Lấy nhánh cây che mặt trời mà nương tựa. Che mát rồi v.v… trở xuống là biết nguồn nước, quyết nắm bắt, quyết bỏ nước, quyết âm là huyệt. Quảng nhã nói là xuyên qua. Thuyết văn nói là Hạ lưu. Chu Dịch xét quyết khác nhau cũng gọi là huyệt (hang). Bấy giờ Trưởng giả v.v… trở xuống là mượn voi của Đại vương nhốt trong chuồng ngựa. Thích Danh nói Cứu là nhóm họp, là chỗ ngựa nhóm họp. Thời, Trưởng v.v… trở xuống là cho ăn, có hai: Cá đói mà buồn. Quảng Nhã nói là tỷ ỷ (dọn nhà ở nhờ chỗ khác?) Còn gọi là bồi hồi. Thiện Nữ Thiện v.v… trở xuống là lấy cơm cho. Kế là Từ vị v.v… trở xuống là nói kết duyên thứ tư. Có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, có bốn: một là phát thệ nguyện, hai là lại v.v… trở xuống là suy nghó nói pháp. Kế nữa là Làm như v.v… trở xuống chính là nói pháp: Trước nói mười hiệu, kế nói nhân duyên. Mười hiệu ở Ngộ là ở quả. Nhân duyên, ở mê là ở nhân. Mê ngộ nhân quả tên ấy tuy khác mà Thể thì chẳng khác. Vì quả của mười hiệu là rốt ráo ba đức. Mười hai Nhân duyên là ba đức xưa nay. Ba đức chẳng thay đổi, nhân quả thì đâu có khác. Cho nên, Phổ Hiền Quán chép: Nhân Đại thừa là thật tướng các pháp, quả Đại thừa cũng là thật tướng các pháp. Các pháp là tu hai, thật tướng là tánh một, ba thứ này viên dung chẳng dọc chẳng ngang, toàn thể là nhân, toàn thể là quả. Chúng sinh tuy mê mười hiệu cũng không bớt, chư Phật ngộ cực mười hai vẫn không thiếu. Vì tướng thế gian là thường trụ. Cho nên nay trước nói quả, quả lý đã hiển bày thì khiến sinh giải. Trước gọi là Bảo thắng, bởi đó là tên riêng. Tên đối với một Phật Như Lai v.v… mười hiệu là tên chung, ba đời mười phương Phật đều có đủ. Nếu lấy chung từ riêng họp mà có tên là Bảo Thắng Như Lai, Bảo Thắng Phật, Bảo Thắng Thế Tôn. Ba thứ này đã thế, thì so sánh theo đây mà họp là Bảo Thắng Ứng Cúng, Bảo Thắng Chánh Biến Tri, cho đến Bảo Thắng Thiên Nhân Sư. Mười hiệu chung này Đại kinh Đại luận đều nêu tên, Thiên Thai Từ Ân đều nói nghóa, tướng trạng đã rõ. Nay bên các giải thích lại y theo ba. Ba và một chung kết để nêu mười hiệu, khiến cho biết các pháp đều là bí tạng. Nghóa này nếu nói thì chẳng làm nhục tên của người chứng quả. Một, ba đã lấy Như Lai làm đầu, tức là ba trong pháp thân. Như Lai là Chân như thuộc pháp thân. Ứng Cúng lợi sinh là giải thoát. Thiện Thệ năng thú cực là Bát-nhã. Hiểu ba thế gian mỗi pháp thường trụ là Pháp thân. Vì giải thoát ấy phải có đủ hai Đức. Sau ba lấy Vô Thượng Só Điều Ngự Trượng phu nên đáng là Bát-nhã, Thiên Nhân Sư dạy bảo các căn cơ nên thuộc về giải thoát. Phật là Phục Bản, Đại giác là Pháp thân, vì Bát-nhã phải có đủ hai đức. Chín thứ này tức ba, ba thứ này tức một, một không tướng một, ba chín rõ ràng, ba ngàn thế gian, chín đời sát-na. Một là Đa-diên-xúc rốt ráo tự tại nên gọi là Thế Tôn, mười hai nhân duyên bó lại thành ba đạo. Ba chi vô minh, ái, thủ thuộc về phiền não, hành có hai chi thuộc nghiệp đạo. Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sinh, già, chết thuộc Khổ đạo. Ở đây tuy hôn mê trói buộc trôi lăn mà toàn thể tức là ba nhân Phật tánh đều là chẳng thể nghó bàn. Tùy người quan sát hiển phát khác nhau. Cho nên Đại kinh nói Hạ Trung Thượng Trí quán, đây chính là ba thừa Bồ- đề. Nếu Thượng Thượng Trí quán thì được Bồ-đề của Phật. Trí ba giáo trước còn có thể nghó bàn. Cho nên quán mười hai nhân duyên chỉ được ba thừa. Chỉ có trí không nghó bàn của Viên giáo thể vô minh v.v… tức là tánh nhiễm, chẳng phải Phật, Trời, Người, A-tu-la làm ra, mỗi pháp thường trụ, đương xứ viên dung mới nói là trong nhân có tánh quả. Lại trong Huyền Văn thì ba đường ba thức tuy vốn có vị, nhưng cùng không hai không khác với ba đức của quả sau. Được ý này rồi mới phân biệt được mười hai tên riêng. Vô minh là không hiểu, sáu thọ là không, giả, trung. Hành nghóa là y tâm chẳng hiểu, tâm động là nghiệp hạnh. Thức nghóa là nghiệp kéo dắt thức trung ấm gá vào thai mẹ. Danh sắc nghóa là hai giọt làm sắc tâm chỉ có tên. Nhập nghóa là danh sắc lớn lên thành căn sáu nhập. Xúc nghóa là sáu căn đối ngoài mà làm trần mà xúc. Thọ nghóa là xúc rồi sinh ba thọ khổ, vui, bình bình. Ái nghóa là mê ba thọ mà ưa thích đắm trước. Thủ nghóa là ái nhiễm triền miên, bốn phương tìm kiếm. Hữu là do thủ tạo nghiệp phải có quả báo ở vị lai. Sinh, nghóa là có nghiệp đã chín muồi, vị lai ấm sinh khởi: già, chết v.v… tức là sinh phải biến mất, buồn khổ buộc ràng. Mười hai chi này hoặc y cứ ba đời hoặc y cứ hai đời, hoặc y cứ một niệm. Tuy ba thứ khác nhau, đều dùng mười hai mà đối với ba đạo. Ngay nơi sự là lý, mỗi pháp rốt ráo thanh tịnh tự tại, chẳng dọc chẳng ngang vừa cao vừa rộng. Quán như thế thì được Bồ-đề của Phật. Lược về ba quy y, nghóa đã đủ rồi. Bởi Tam bảo ba đức thể vốn chẳng khác. Đã gọi Nam-mô Bảo Thắng thì mười hiệu há chẳng phải quy mạng ba đức trong quả. Lại nói mười hai nhân duyên sâu xa, chính là tâm y theo ba đức trong nhân, mê ngộ cực tế ba đức không khác, một thể nghóa đủ, ba đều đầy đủ. Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thật là quy y Tam bảo nghóa thành rốt ráo. Phải biết Sấm sư ý thú sâu mầu. Bốn, Cá sinh lên trời mà báo ân, có bốn : Cá báo sinh lên cõi trời do nghiệp lực của mình có ba ý nghó: một là tự biết chỗ mình đã chết, hai là tự biết chỗ mình sinh về, ba là tự biết trước làm nghiệp gì mà được sinh lên cõi trời. Đã biết việc xưa nên xuống trả ân. Trời trả ân trở xuống, đại kinh nói lầu gác. Nhà có nhiều tầng gọi là lầu, nói lầu đài là sai. Giải thích này có hai: Một là sự nhân duyên mười hiệu. Lại Năng thuyên thuộc ngôn giáo, đồng với nước uống cơm ăn nên gọi là sự. Hai là Lý chí ở bốn sự mà giải thích bốn đức, nên thành lý ích. Vì một muôn con cá do giới hoãn (chậm) nên làm thân có cá vảy. Do thừa (gấp) nên gặp Thiện trí thức chân thật Đại thừa đối với Sự mà chẳng hiểu được lý diệu. Nhận ăn rồi được sống tức nói lên Chân thường, nhận nước rồi được vui tức nói lên vui Niết-bàn. Ở mười hai rừng cây gai mà bỏ ngã tự tại. Y theo mười hiệu pháp được báo tiền của cõi trời, tính mạng ở đời hiểu là Đức tánh tịnh, bốn pháp ích nhân này Lưu Thủy đã được, nên đem bốn vạn chân châu anh lạc mà báo ân cúng dường bốn việc, đã biểu thị Lý ích, bốn muôn chân châu anh lạc đâu chỉ là sự cúng. Bởi y theo ngàn giới muôn như, mỗi pháp ấy đều có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, tức là bốn muôn chân châu anh lạc không nghiêm mà nghiêm, nghiêm ở Pháp thân. Đây là Tài cúng mà thành pháp cúng. Nếu chẳng thể thì đâu được gọi là có gốc lành tốt được duyên thọ ký ư? Bấy giờ, Diêm v.v… trở xuống là vua thấy điềm sáng. Trưởng giả theo số định mà đáp. Ba nói: Thứ năm kết hội xưa nay. Kinh nói La-hầu-la, Hán dịch là Phú Chướng, vì sáu nằm phải ở trong thai, do đó đặt tên là La-hộ-la, Hán dịch là Chướng nguyệt. Nhưng việc Bãn Tích chẳng thể xét biết, theo văn mà nghó kỹ, một muôn con cá xưa nay ắt là sở hóa, các thứ khác đều là Năng hóa. Năng Hóa này y theo các kinh Hoa Nghiêm v.v… đã nói đều là kiếp hải tu thật nhân ấy, thuần thục một muôn nay được giải thoát. Nếu lấy ý ngôi thành hóa hiện trong kinh Pháp Hoa thì đều là trong Tích, tiếp các căn cơ trong đây khiến nay được thọ ký. Tông này trong tâm người giải phải nên biết. Sáu là Giải thích phẩm Xả Thân, có hai: một là giải thích tựa đề, có hai: Một là Hỏi bỏ nhiều nêu ít. Hai là Dưới đây là đáp từ yếu lập đề, chỗ nhận phải là thân thể, vì cọp bị đói ép ngặt nên cần thân thịt, tuổi thọ tiền tài địa vị chẳng phải là điều mong cầu. Phàm hạnh môn vô lượng, căn do đời trước huân tập, bốn thứ Tam-muội được người ưa chuộng, tùy ý mình khéo thực hành sáu Độ. Người ưa bố thí thì ở thân mạng tiền của không luyến tiếc tự làm, hoặc dạy người khác làm hoặc tùy hỷ khen ngợi đều ở bố thí. Nếu gặp thầy tốt và y theo thật giáo mà tu Bố thí hiểu tâm Năng thí, cảnh thọ thí, và vật thí tức là không, giả, trung. Sự hành Lý quán hợp nhất mà tu giúp đạo. Chánh tu giúp nhau mà tiến, đã gọi quen xưa nên ưa thích làm. Hoặc do Sự rốt hạnh xưa duyên hội, hoặc nhiều năm qua yếu thệ giúp cho quán thành, hoặc nói lên sở nguyện khiến vật công hiệu, hoặc theo dõi tâm mình, dứt chê bai người khác, vì tâm Bi là trọng mà thầm hiển tâm từ là trọng, hiển bày chân thật thì bốn Tất-đàn đều thành, nếu tâm dối trá thì hai lợi đều mất. Nhưng Phật nói Bản Sự khiến người so sánh thực hành. Cho nên Sớ chép: dẫn tổn thân (bỏ thân) xưa để khuyên nay, thầy trò chớ tiếc pháp tài. Hỏi: Đại Luận nói bỏ thân thì dễ, bỏ tâm thì khó. Luận người muốn làm hay bỏ tâm chấp đắm cho nên khen khó, muốn dứt sự thí cho nên chê dễ. Sao chẳng y theo luận mà lìa bỏ chấp tâm. Người ngày nay vì sao thích bỏ thân mạng? Đáp: Ức dương, chê khen đều vâng theo Phật giáo, đều phó tâm người, Phật nói chánh phụ khác nhau, người ham lý sự không đều nhau. Nay phẩm riêng bày việc bỏ thân mạng đâu được dùng luận khó dễ mà chê. Lại đối với không mà nói xả tâm, chấp mình thấy, chấp chặt tự thể một sợi lông không nhổ bỏ, chê người khác bỏ thân là quấy. Đã trái tâm tùy hỷ đấu tránh lỗi ganh Hiền. Nguyện nghe Phật nói tùy khả năng vâng làm. Hai là giải thích văn, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, lại có: Một là hỏi: Tiểu nhân là người trong nước bệnh, tiểu trùng là một muôn con cá mắc cạn, cá liên quan đến lời thề vị lai pháp thực mà được thọ ký thành Phật. Bệnh hết thì chắc chắn ở đời sau có cơ hội giải thoát, cho nên đều mong lợi ích hai đời. Cảm sâu khế tốt, là kiến giải không hai mà dẫn dắt hạnh khó làm, cảm này rất sâu, bỏ thân mạng tiền của và đời sau v.v… đây là khế duy cực. Chúng nghe được lợi ích chính là vào lúc này, thế nên thần cây thừa cơ mà hỏi, hai là đáp, có hai: một là chia khoa, hai là giải thích nghóa, mười đoạn đều như khoa nêu. Hai là Tựu bản v.v… trở xuống chính là nói về bỏ thân, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, có hai: Văn xuôi, có bốn: một là nói gốc quyến thuộc, có hai: một là chia khoa, hai là giải thích nghóa, năm đoạn như chia khoa nêu. Từ làm v.v… trở xuống là phương tiện xả thân, lại có: Một là thuật quán giải, hai là khởi thệ nguyện, nguyện hạnh giúp nhau. Hạnh là quán giải, chẳng phải quán giải này thì không thành nguyện. Không có thệ nguyện, thì hạnh sẽ lui. Sớ nói mới sinh bảy ngày đến thần cây đếm cá v.v… Văn này truy giải văn thấy hổ đẻ thứ tư ở trước. Sớ nói rất dễ hiểu. Kinh từ nghó rằng v.v… trở xuống là nói về quán giải. Quán có hai thứ: một là Trợ quán, hai là Chánh quán. Từ xưa rất gắt, có thể nhàm chán là quán giúp đạo. Dùng giả tưởng của ba tạng giáo mà đối trị tâm đắm mê Y Chánh. Do đó nên nay ta v.v… trở xuống là nói Chánh quán cho đến không có trần lụy v.v… tức là quán không. Từ Vô Lượng Thiền định đến chư Phật khen ngợi là giả quán. Từ chứng thành như thế cho đến pháp lạc tức là Trung quán. Nói chính trước sau tu là một Tâm. Hai là Từ đó Vương tử v.v… trở xuống là nói về thệ nguyện. Trước nói Phương tiện, kế nói lời thệ, sau chính là khởi thệ. Sáu câu chẳng ngoài bốn thệ nguyện sâu nặng. Câu một, hai là y Diệt đế mà phát nguyện thành Phật. Câu ba, bốn là y Đạo đế mà phát nguyện Bi Trí. Câu năm là y theo Khổ đế mà phát nguyện Độ sinh. Câu sáu là y theo giới ngoại Tập đế mà phát nguyện dứt hoặc. Đây là y giới ngoại Diệt đế làm đầu mà phát khởi viên tâm. Ba là Chánh xả thân, có hai: một là khoa, hai là thích. Kinh nói sáu thứ rung chuyển, đó là ba thứ động, khởi, dũng là hình, ba thứ chấn, hống, kích là tiếng. Nay ở hình tướng nói lược hai thứ nên nói rung chuyển. Bốn là xả thân sau bi luyến, có hai: một là khoa, hai là thích, như văn. Hai là kệ tụng, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, có: Nói chung hạnh xưa. Ta nghó v.v… trở xuống là tụng riêng văn xuôi, có hai: một là chia văn, hai là giải thích nghóa, có năm: một là Tụng Bổn quyến thuộc ở trên, hai là tụng phương tiện xả thân ở trên, ba là tụng chánh xả thân ở trên, bốn là tụng quyến thuộc sầu khổ ở trên. Năm là tụng cha mẹ sầu khổ, lại có: Kinh nói lúc ấy Vương tử sẽ bỏ đi, là khi thấy tướng thì sầu khổ, có: Vương phi sầu khổ, có hai: Thấy tướng. Bấy giờ v.v… trở xuống là nói về tướng. có sáu: chính là nói về tướng có. Bấy giờ v.v… trở xuống là nói đã mê muộn (ngất xỉu). Vua nghe v.v… trở xuống là vua tôi buồn khổ. Bấy giờ v.v… trở xuống là người trong nước kinh ngạc. Bấy giờ v.v… trở xuống là vương phi nói về đức. Ngã sở v.v… trở xuống là xét tướng mất con. Kế là Bấy giờ v.v… trở xuống là Đại vương tìm thấy con, có hai: sau: Một là Khuyên dỗ Vương phi. Hai là Nhà vua v.v… trở xuống là tìm thấy con. Tiên sở v.v… trở xuống, là tụng biết đầu cuối buồn khổ, có như Sứ giả trở về thưa, có hai: Trước khiến an ủi vua, có hai: Tu-du v.v… trở xuống là sau khiến nói thật. Bấy giờ v.v… trở xuống là nhà vua ngất xỉu. Lại có v.v… trở xuống là vua đón hai con, có ba: Một là Quan nói về thất chí. Hai là Bấy giờ v.v… trở xuống là vua đều suy nghó một mất hai còn đối diệu đều thổn thức. Người mất không thể tìm, kẻ còn phải giữ. Ba là Bấy giờ v.v… trở xuống là đón con an ủi mẹ. Kế là Từ Phật v.v… trở xuống là kết hội, có hai: một là khoa, hai là thích, gồm có: Kết hội người. Kinh nói Du-đầu-đàn hoặc Duyệt-đầu-đàn, Hán dịch là Tịnh Phạn. Ma-da dịch là Thiên Hậu, Điều-đạt cũng dịch là Đề- bà-đạt-đa, Hán dịch là Thiên Thọ. Cha mẹ từ trời xin con, được trời trao cho, là em họ của Phật. Cù-di dịch là Minh Nữ. Tất-đạt có ba vị phu nhân: Một là Cù-di, hai là Da-du, ba là Lộc-dã, đều có hai muôn thể nữ. Năm Tỳ-kheo là Kiều-trần-như, Át-bệ-bạt-đề, Thập lực Ca-diếp, Thái tử Câu-lị. Trần-như và Thập lực Ca-diếp hai người này thuộc họ bên ngoại mẹ, ba người kia thuộc bên nội cha. Xá-lợi-phất dịch là Thân tử vì bà mẹ có thân hình đẹp, vì mẹ tên Thân nên con bà ấy gọi là Thân Tử (con bà Thân). Mục-kiền-liên dịch là Họ Hồ Đậu. Đời Thượng cổ có vị tiên ở trên núi thường hái đậu ăn, do đó lấy làm họ. Tôn giả là ông ấy sau này. Kinh nói bấy giờ v.v… trở xuống là kết hội tháp, nói đủ là Tháp-bà, dịch nghóa là Phương phần, hoặc dịch là Tụ tướng, nghóa là chất đá gỗ và báu cao lên làm tướng. Trà-tỳ Hậu phần nói: Tháp Phật cao mười ba tầng, trên có hình bánh xe, tháp Bích-chi-phật cao mười một tầng, tháp La-hán bốn tầng, tháp Luân vương không có tầng, vì chưa ra khỏi ba cõi. Kinh Thập Nhị Nhân Duyên nói tám thứ tháp đều có lộ-bàn. Đã ngoài bốn thiền cũng lạm sơ quả. Thản tuần tiêu diệp, chế để hỏa châu khởi chiếm chức Thượng Thánh lại công hiệu. Xá-lợi, Hán dịch là Thân cốt. Kinh nói bấy giờ v.v… trở xuống là kết hội thệ nguyện. Thuyết thị v.v… trở xuống là Đại chúng được lợi ích. Thọ thần v.v… trở xuống là kết ý hỏi. Kinh nói Bố Cứ, Quãng Nhã nói là sợ hãi. Tiêu Trớ là nhanh, yêm hốt thì hốt là điều đốt. Sồ là chim con. Thuấn là nháy mắt. Vân là lau chùi. Bích là đảo, ngã. Động là buồn quá, biện là mệt mỏi. Bảy là Phẩm Tán Phật, một là giải đề, có hai: một là nói Năng Tán Sở Tán, lại có: Đại Sư y theo người khen quả giải thích. Năng Tán là ba phen Bồ-tát, một là kinh trước bày chúng, hai Tín Tướng là người phát khởi, ba là Thần cây Thiện nữ. Đây tuy chúng gồm đạo tục mà hình lẫn lộn trời người, đã phát đại tâm đều gọi là Bồ-tát. Sở Tán là một Phật Thế Tôn, tức ở Phật Thích-ca giáo chủ. Ở đây muốn khác phẩm Tán Thán ở trước. Năng Tán là Kim Long một người đời trước, Sở Tán là chư Phật cực quả ba đời. Nhưng y theo trước giải thích Đề mục phẩm, đều gồm bốn Tất. Nay văn lược bày muốn nói tướng ấy nên nói: Đề nêu nghóa Tán Phật gồm Năng Sở, tức thế giới Hoan Hỷ. Năng Tán thiện sinh ắt gá mượn duyên mà khởi, bậc nhất trong duyên chẳng gì hơn khen Phật, cho nên ba Bồ-tát năng tán tức là sinh thiện cho người. Sở Tán là Năng Tán, bèn ấn thành ba Bồ-tát nói không dối nhầm, tức phá ác đối trị. Như Lai khen thần cây quyết nói quả địa đại Thể, đại Trí, đại Dụng, tức vào lý Đệ-nhất-nghóa. Đề gồm bốn nghóa, Văn lý như một. Nay sớ sơ lược đều vì lẽ ấy. Bởi đề tán Phật thật có cả Năng sở. Sở tán là quả Phật lại khen nhân người. Sinh thiện phá ác cả hai đều chẳng tiện. Nhưng hoặc do Sở tán làm Năng tán mà sinh nghiệp lành cho người, phá nghiệp ác cho chỉ người. Sao đây chẳng thể nên biết là lược. Kế là Tự là v.v… trở xuống là Chương An y theo nhân quả mà khen ngợi, giải thích lẫn nhau. Nói một Phật là Năng tán, là kinh nói: Lành thay, lành thay! Thiện nữ Thọ Thần! Hôm nay các người thích nói lời ấy. Kinh tuy riêng khen thần cây mà ý gồm hai ở trước, cho nên nói ba phen là sở tán (ba phen được khen ngợi). Nói ba phen là đương Phật v.v… là giải thích nghi. Sợ người nghi nên nói đã khen thì gồm năng sở, đâu chỉ đề là tán Phật (khen Phật) cho nên giải thích rằng: Phật có cả ở hiện tại vị lai đều là khen Phật mà thôi. <篇> <卷>QUYỂN 6 (Phần cuối) Thứ lớp v.v… trở xuống là nói thứ lớp của phẩm, có như sau: Nói chỗ trở về của các phẩm, là lý do có phẩm này. Vì sao v.v… trở xuống là giải thích thứ lớp các phẩm. Phẩm Tựa nói về Đại thể v.v… là y sớ này mà giải thích, kinh nói có năm chương. Nay chỉ nói thể bởi chỉ cực quả sở du sở khế vừa cao vừa rộng. Pháp tánh là sở chứng của địa vị Phật, là Đại thể của kinh này. Sau Thọ Lượng đến các phẩm Công Đức đều chẳng nêu đại Trí, đại Dụng. Nói cùng nguồn là lý trong Diệu giác đã cùng tột, việc bờ mé cũng cùng tột. Cho nên Chủng Trí mất chiếu, muôn hạnh đều thôi. Ấy chỉ là một tánh, không có gì khác, cho nên nói là Đại thể của kinh. Thọ lượng quả Địa hai trí đã tròn cho nên nói thể sâu rộng mà khởi dụng dài ngắn. Sấm khen không dẫn dắt đâu vượt đại dụng, các phẩm công đức không trái với ứng thể. Cho nên sau đó nói đều là năng lực của Kim Quang Minh. Như vậy v.v… trở xuống là bày ý khen văn này nói lý do lợi ích của mười bảy phẩm trên. Cho nên có v.v… trở xuống là lời khen có sáu mươi hai bài. Khéo từ đầu đến cuối, trước sau đều tốt. Ba phần như tựa v.v… đều được lợi ích. Cho nên ba Bồ-tát biết ân Phật mà ngợi khen, do đó mà có phẩm Tán Phật, khiến cũng là tốt. Ba là giải thích văn, có hai: một là nêu khoa, hai là giải thích nghóa, có hai: Kinh gia trình bày, Văn Sớ rất dễ thấy. Kinh chép: Từ đây đến nước Kim Bảo Cái là muốn nêu Bồ-tát có nhiều trong chúng đều khen Đức Thích-ca giáo chủ. So đây thấy có người chẳng hiểu ý này cho là khen Phật kia, Kinh sớ chẳng tối nghóa sao chỉ một mình mê muội. Hoặc sợ người học sau tùy người khác giải thích, giải thích sai văn kinh. Nay lược dẫn sớ chỉ bày. Lý do có phẩm Tán Phật là vì ba phen Bồ-tát đều từ nghe kinh trên mà được lợi ích cho nên khen Phật và giáo đâu liên quan đến Phật khác. Huống chi là sớ chép: một Phật là Năng Tán. Nếu cho rằng khen Phật là khen một Đức Phật thì đâu chỉ nói Phật Thích-ca. Kinh sớ đều không nói cho nên chẳng trích dẫn. Chính là nói kệ, lại có: - Chia văn giải thích riêng, có hai: Một là Chia văn, tức Trí giả ở tựa đề chia kệ, cho nên hợp sáu mươi lăm bài rưỡi chia thành ba, tức lấy văn kinh Như Lai xuất định khởi ba hạnh hợp với đoạn thần cây, cho nên nói hai mươi tám bài rưỡi thần cây nói. Văn chia rất dễ thấy. Sớ không giải thích cho nên chú v.v… phải nói sáu mươi lăm bài rưỡi. Văn có hai: một là sáu mươi hai bài rưỡi ba phen Bồ-tát nói. Hai là ba hàng sau là Như Lai xuất định, nói từ Định dậy. Cho nên sau đó Chương An giải thích chung, bèn nói văn ấy có bốn tức là nghóa này. Đầy đủ như v.v… trở xuống là giải thích. Kế là Giải thích nghóa có ba, nhưng lời khen của ba phen Bồ-tát Sớ chẳng chia ra giải thích. Người hiểu ắt lợi ích đều sáng. Sợ kẻ mới học chẳng hiểu, nay giải thích sơ lược: một là các Bồ-tát khen, có như sau: Mượn gởi lời khen, có ba: Khen Năng Thuyết giáo chủ tự làm công đức, có ba: là khen tướng lớn Kim Sắc quang (Ánh sáng và sắc vàng rồng). Kinh nói thân Như Lai là nêu khởi. Ba câu như Sắc vàng mầu nhiệm v.v… là khen một tướng lớn của sắc vàng mầu nhiệm thứ mười bốn. Thân thanh tịnh v.v… trở xuống, hai bài rưỡi là khen thân thanh khiết ba tướng nhỏ. Kinh nói thân thanh tịnh tức là một tướng nhỏ thân thanh khiết thứ mười một. Mềm mại là khen một tướng nhỏ thân mềm mại thứ mười hai. Hai câu Viên Túc vô cấu là khen tướng thân đầy đủ thứ hai mươi cũng là khen dung nghi đầy đủ. Âm thanh ấy trở xuống v.v… hai bài là lại khen Phạm âm là một tướng lớn. Cũng là gồm khen tiếng nói sâu xa là một tướng hải. Phạm thinh là ví tiếng Phật sâu xa. Tiếng sư tử rống là ví tướng Phật vô úy (không sợ). Đại lôi chấn thinh (tiếng sấm sét lớn) là ví tiếng Phật phá mê. Nói sáu thứ tiếng, các văn đều nói tám âm: Một là rất hay, hai là dịu dàng, ba là êm tai, bốn là tôn tuệ, năm là chẳng phải nữ, sáu là chẳng sai lầm, bảy là sâu xa, tám là chẳng cạn. Người dịch thêm bớt chẳng cần hòa hợp. Cũng có thể trước nêu diệu như phạm thinh (tiếng phạm) là tiếng Phật sâu xa trong tám âm. Sư tử hống, đại lôi chấn tức là âm không phải nữ. Vì Phật trụ trong định Thủ-lăng-nghiêm thường có đức của thế hùng, xa lìa tâm yếu hèn, cho nên tiếng nói ra đều khiến người nghe kính sợ. Thiên ma ngoại đạo đều quy phục. Trên đã nêu hai thứ tiếng, dưới chỉ nói sáu thứ tiếng, tức là nêu sáu thứ tiếng như Ca- lăng-tần-già, chim công v.v…. Vì Ca-lăng-tần-già, Hán dịch là cực hảo thinh (tiếng rất hay). Kế là Thanh tịnh v.v… trở xuống một bài rưỡi là khen tôn đặc. Trên dùng tướng lớn nhỏ mà khen bởi cảm thân tướng lớn nhỏ đều khắp. Lời ý tuy chứa tôn đặc mà chưa bày. Cho nên nay lại khen thân tướng ánh sáng đều vô hạn. Kinh nói oai đức là tướng uy nghiêm vòi vọi. Kế nữa là Trí tuệ v.v… trở xuống hai câu là khen công đức trí đoạn. Hai câu trên là khen trí đức, một câu dưới là khen đức dứt. Tiếp là Thế Tôn v.v… trở xuống là kết chung tôn đặc. Đại luận nói thân Phật Tôn đặc là uy nghiêm vòi vọi ví như núi Tu-di sừng sững sáng rỡ giữa biển khơi, các tướng tốt lớn nhỏ cũng đều nguy nga vòi vọi. Nhưng Như Lai tự hạnh đầy đủ công đức ba thân, các Bồ-tát chỉ khen ngợi là tôn đặc. Trên hợp dưới ứng đã nhiếp ba thân. Đây khen là Trí xảo. Người học hãy suy nghó. Vị chư v.v… trở xuống sáu bài rưỡi là khen lợi ích giáo pháp độ người, có hai: Nói lý nói giáo, ở văn thấy rõ. Kinh bản dịch mới chép: vì muốn lợi ích các chúng sinh nên thường thực hành pháp thí, cho đến khiến được Đại quả chứng Thường, Lạc. Hai là khen chỗ nói giáo pháp, có hai: Một là hai câu từ Như Lai v.v… trở xuống, là khen Tông thể của kinh. Thể chỉ phẩm tựa Như Lai đã dạo chơi rộng sâu không giới hạn, vượt các nhân lý nên gọi là nghóa sâu bậc nhất, nêu sâu gồm rộng tức là sâu xa vô lượng. Tông chỉ Thọ lượng Cực quả đã được thì hơn các Bồ- tát nên gọi là bậc nhất. Pháp Báo Thể là một, nghóa sâu nên biết. Hai là khen Lực Dụng của kinh, có ba: Hai câu như Năng linh v.v… trở xuống là khen phẩm Sám ở trên dứt ác. Vắng lặng là diệt hết các hạnh nghiệp ác, diệt hết các quả báo khổ. Hai câu như Năng cho v.v… trở xuống là nói phẩm Tán ở trên sinh thiện. Trên là Như Lai nói xưa Long Tôn khen Phật, ý là đương cơ ngày nay sinh thiện cho nên đem đến vô lượng niềm vui. Khen phẩm Không dẫn dắt, có hai: Một là Năng diễn v.v… trở xuống một bài là khen năng dẫn dắt pháp không mầu nhiệm. Kinh nói Cam Lộ tức là thuốc mãi mãi không chết, văn giải thích trung Đạo Diệu không Thật Tướng Chân-đế, vượt qua hai chết mê biến sinh ra bốn đức thường thân. Cho nên lý không này tức gọi là Cam lộ, nhưng do thể Nhiễm vốn là tịnh không nên gọi là pháp mầu. Theo đây mà vào gọi là pháp môn. Hai là Năng nhập v.v… trở xuống hai bài là khen sâu dứt ác sinh thiện. Sám được không này thì quả báo ác hoạn của chết liền hết thì sẽ vào nhà ba Đức Niết-bàn, nói giải thoát có hai ý. Nếu giải thoát được ràng buộc của hoặc nghiệp thì tức là phá ác, nếu lấy thanh tịnh vô nhiễm tự tại tức là sinh thiện. Độ ba hữu v.v… là phá ác sinh thiện rất dễ hiểu. Ba là kết khen người pháp. Là công đức trí tuệ là kết trên khen giáo chủ Năng Thuyết là người tôn diệu. Từ bi tinh tấn là kết trên khen giáo pháp Sở Thuyết là pháp sâu rộng Tông Dụng của pháp như thế, đây đều là Từ Bi tinh tấn tạo nên. Kế là dứt lời khen, có ba: như thệ vô lượng v.v… trở xuống một bài là dứt lời khen, cho nên chẳng thể xưng kể, nói dụ. Các vị trời, người đời v.v… trở xuống hai bài là dứt lời khen. Cho nên nghó suy hết mức chẳng thể biết được phần nhỏ như một giọt nước biển khơi. Nay ta lược khen v.v… trở xuống một bài là chỉ rộng kết khen, dễ dàng thấy rõ. Kế là nếu công đức ta v.v… trở xuống một bài là khen xong mà hồi hướng. Hồi hướng có ba nghóa, hiện văn có hai, lý gồm có ba rất dễ thấy. Kế là nói Tín Tướng, có hai: một là nhà dịch kinh kể, hai chính là nói kệ, có hai: Thế Tôn v.v… trở xuống một bài là khen chung tướng hảo công đức. Số ngàn là nêu số lớn. Khen riêng tướng hải lớn nhỏ, có năm: một là khen riêng hai thứ tướng sáng, có hai: Một là Sắc tịnh v.v… trở xuống bốn bài là khen sắc tướng sáng màu vàng ròng thứ mười bốn. Ánh sáng rực rỡ v.v… trở xuống tức là tướng ánh sáng phát ra từ thân thứ mười lăm. Nhưng hai tướng ánh sáng này nếu theo sinh thân thì đều có giới hạn. Như nói thân quang mỗi phía đều phát ra xa một trượng. Nay nói sáng như ngàn mặt trời cho đến đều chiếu xa đến vô lượng cõi Phật. Cho nên biết Tín Tướng xưa là Long Tôn khen Phật tôn đặc. Phát nguyện ở vị lai được gặp Đức Thích-ca. Ngày nay khen Phật chẳng lẽ lại quên gốc xưa. Ấy là tướng lớn tướng nhỏ đều nhờ tôn đặc mà khen. Hai là năng diệt v.v… trở xuống một bài, là nói ánh sáng đầy đủ để ban cho và nhổ gốc khổ là Long Tôn khen thân Phật phát ra ánh sáng rực rỡ mà diệt hết tất cả khổ trong ba cõi giúp các chúng sinh đều được vui sướng. Ngày nay khen Phật lại khen ánh sáng cứu khổ ban vui, trong văn dễ thấy rõ. Kế Các căn v.v… trở xuống một bài là khen chung các căn tướng tốt, như trong tướng lớn có thân đoạn thực, da mỏng mịn, lưỡi lớn che trùm cả mặt răng trắng khít khao đều đặn, mắt như kim tinh, lông mi như trâu đầu đàn, trong tướng nhỏ có mũi cao đẹp hai lỗ kín, dái tai tròn dài, thân thơm sạch mềm mại, các căn chiêm ngưỡng đều không thỏa mãn. Kế lại ví khen, tướng nhỏ có hai: Tóc xanh hồng v.v… trở xuống một bài là khen tướng tóc. Khổng tước Đảnh phong vương tóc đều có màu xanh. Như trong tám mươi vẻ đẹp thì có màu tóc như châu xanh đẹp đẽ. Thanh tịnh v.v… trở xuống một bài rưỡi là nói công đức thanh tịnh, từ bi vô lượng, thiền định đều trang nghiêm từ lâu, cho nên tóc đẹp mềm mại. Lại nói tướng tốt công đức, có: 1. Nói tướng tốt đủ công đức, có hai: Một là Tướng tốt v.v… trở xuống một bài là nghiêm thân được quả dụng, rất dễ thấy rõ. Hai là Như Lai v.v… trở xuống hai bài là nói công đức nhiếp sinh cảm tán, hoặc tướng tốt, vẻ đẹp, tùy lớn tùy nhỏ đều có khả năng điều phục khiến tâm nhu nhuyến hưởng các vui sướng, cho nên được chư Phật khen ngợi. Ánh sáng ấy v.v… trở xuống hai bài là nói ánh sáng đủ công đức. Công đức cao rộng cũng như núi Tu-di xuất hiện trên biển lớn. Răng trắng v.v… trở xuống hai bài rưỡi là lại ví khen răng tốt hai tướng lớn. Thần cây nói, có hai: Người dịch kinh kể. Nói thân cây Bồ-đề Đạo tràng, tức nơi Như Lai thành đạo ở dưới cây này. Nhưng cây vốn tên là Tất-bát-la Phật ngồi dưới cây đó mà được trí quả Bồ-đề nên đặt tên này. Vì thế nay Thiên nữ nương cây này mà trụ, cũng lấy đó làm tên. Tây Vức Ký nói: Xưa Phật ở đời, cây này cao mấy trăm thước bị chặt phá nhiều cũng còn cao bốn, năm trượng, thân cây màu vàng trắng, nhánh lá xanh rờn, Đông Hạ không tàn, xanh tươi không đổi màu. Mỗi năm đến ngày Như Lai Niết-bàn thì lá héo rụng, khoảnh khắc rồi lại như xưa. Cây này ở nước Ma-kiệt-đà Trung Ấn Độ nằm về phía Tây Nam thành bốn trăm dặm, cách chỗ tu khổ hạnh không xa đều có cây này. Chánh nói kệ, lại có: Một là hai câu khen chung. Nam mô là từ ngữ quy mạng. Thanh tịnh thì luận Phật Tánh nói có hai thứ: một là tánh tịnh, vốn không có hoặc nhiễm. Hai là tướng tịnh, đối trị lìa tướng. Nay khen chung Như Lai Trung Biên Trí mãn, pháp thân, Báo thân, Ứng thân tròn đầy, nên gọi là Vô thượng Chánh giác. Hai là khen riêng, gồm có: Khen rộng giáo chủ Năng Thuyết, có ba: Một là Sâu xa v.v… trở xuống một bài rưỡi là ở Sở giác mà hiển bày khen Pháp thân Phật. Diệu pháp sâu xa là pháp tánh cao rộng, các pháp dung diệu, Viên trí viên giác khắp tất cả chỗ, các chướng tà nhiễm vốn tự xa lìa. Như Lai thuận theo lý này mà giác liễu hiểu rõ tánh ấy. Tất cả ngoại ma Niết-bàn chẳng phải pháp. Thiền giới phi đạo chẳng phải đạo cũng như cây lớn rễ sâu đất dày, chỉ có đại trí Kim cương của Phật mới cứu giúp nhổ lên được. Thành Phật Chánh giác gọi là Đại pháp thân cởi mở ràng buộc. Nhưng y theo viên Phật Đại Trí hiểu rõ Bản tánh chẳng phải pháp chẳng phải Đạo, phải lìa bảy phương tiện của ba thừa. Niết-bàn chẳng phải là pháp, giới định chẳng phải là đạo mới gọi là xa lìa tất cả. Pháp tức là quả báo sở sinh. Đạo tức là Nhân Đạo Năng sinh. Nếu chưa lìa Tướng phần vô minh thì đều gọi là chẳng phải. Hai là Biết có v.v… trở xuống hai bài rưỡi là ở Nang giác Trí Hạnh mà khen Báo thân Phật có ba: một là y cứ pháp. Biết có v.v… trở xuống hai câu là khen báo Trí. Biết (tri) là chiếu. Hữu tức là tục, phi hữu tức chân, Bản tánh thanh tịnh tức trung. Dùng trí Nhất thiết chủng mà xét chiếu ba đế, thì thầm khế hợp sâu rộng sự lý cùng tột, gọi là Phật Vô Thượng Báo Trí. Ít có v.v… trở xuống hai câu ít có là khen công đức trợ hạnh của Phật. Lại nói ít có ít có là trịnh trọng khen tốt. Sau đều lệ theo đây. Trong nhân giới định muôn hạnh có năng lực bài dẹp chướng địch chống ác nên gọi là Công. Giúp phát Đại Trí thành Đại quả Phật nên gọi là đức. Kinh Pháp Hoa nói: Tu nghiệp lâu mà được tức là Vô Thượng Báo, nên gọi là Như Lai công đức. Tiếp là Ít có v.v… trở xuống một bài là y cứ Dụ, tức dụ Báo thân Trí hạnh ở trên. Biển lớn là dụ cho Trí, Tu-di dụ cho hạnh, trí ấy thầm hợp với lý, cùng tột đáy thật tướng mới gọi là Biển lớn. Thích Luận gọi là Trí độ, Biển lớn Phật biết tận đáy trong nhân muôn hạnh chứa nhiều công đức, Dụ nói Tu-di kia như Hoa Nghiêm Niết-bàn, đều nói chẻ xương viết kinh chất đầy như núi Diệu cao. Ba là Ít có v.v… trở xuống một bài rưỡi là ở thùy thế hình ích mà khen Ứng thân Phật. Hoa Ưu-đàm, gọi đầy đủ là Ưu-đàm-bát-la, đây là nói điềm lành, cũng gọi là điềm linh. Khi Luân vương ra đời thì cảm có hoa này nở. Kinh nói trong Diêm-phù-đề có cây chúa đáng tôn quý tên là Ưu-đàm-bát-la, có hạt mà không hoa, cây Ưu-đàm-bát-la có hoa vàng thì thế gian có Phật. Cho nên nói: chỉ hiện ra một lần. Vô Lượng Đại Bi là thùy ứng Bản, vì đại Bi nên không trụ Niết-bàn. Kế là Thích-ca v.v… trở xuống một bài rưỡi là lược khen giáo pháp được nói. Như Lai sắp muốn nói pháp ý nghiệp liền xét cơ như mặt trời chiếu vật đều khắp. Vì muốn lợi ích, y theo lực dụng của Kim Quang Minh phải nói mười thứ lợi ích mới hết ý ra đời nói pháp. Ba là thỉnh Phật xuất định, có hai: một là lành thay v.v… trở xuống hai bài là đối với quả Phật khen chỗ nhập định. Các căn vắng lặng. Vì hiểu tánh của mắt v.v… nên thường đủ không giảm tu. Các hoặc tử sinh đều đã vắng lặng cho nên thường ở tịch định. Mà còn du nhập là đem pháp luân biểu thị cho không nói dối. Lại Phật ba đời nói phải nhập định. Cho nên Kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: Tuy biết các pháp thường là tướng định mà chỉ bày chúng sinh các thiền khác nhau. Nói thiện tịch là chánh khen chỗ nhập định, tức hướng về pháp tánh Tam-muội của kinh, nếu nhập vào định này thì khó hiểu các pháp. Vì vắng lặng đều là pháp tánh nên phòng quấy sinh tử mà chế ngự Niết-bàn. Tức Trung đạo thiện tịch mà gọi là thành lớn. Cũng gọi là Tam-muội Vô cấu thanh tịnh v.v… Đã là cảnh giới Phật mà được gọi tên Vô cấu thanh tịnh, vì là chỗ làm của chư Phật. Kế là Nói hành tướng năng không của Tam-muội. Kinh này tuy là kết về Phương đẳng nhưng nói ra sau thời Bát-nhã, Sám khen thiện ác đều suy ra không đạo. Cho nên phẩm Không gọi là vô lượng. Các kinh khác đã nói rộng về Không, cho nên trong kinh này cũng nói không, là môn nhập Lý. Phật du Tam-muội cũng từ Không mà vào. Hàng Thanh văn tuy từ không mà vào nhưng còn bị thân quả buộc ràng. Như Lai trí không nên thấy rõ quả trí Thanh văn tánh tướng đều không. Cảnh giới chư Phật cũng không, như thế tất cả vô lượng các pháp, chỉ trên là tự tha y quả quốc Độ tịnh uế mà suy ra Tánh Tướng chẳng thấy khác nhau, tất cả cảnh giới Y Chánh của chúng sinh cầu tìm tánh tướng đều đồng chân tịnh, không có gì khác lạ. Song suy tánh tướng, tức là không quán mà yếu môn trái tình hiển lý. Một nhà nói quán các chỗ cùng luận như người giảng học cũng lắm mê muội. Nay ta nhân Dụng thì y Trung Luận, Trí luận, y theo Lý, y theo Nghóa mà khai thác quán môn, cho nên đối với quyền giáo, Thật giáo, Sự quán lý đều sáng tỏ, người học phải biết. Lại như tánh tướng hai không vốn là một không quán pháp đủ khiển tình chấp, cho nên có hai phen hành tướng. Thế mới biết nếu khéo tu một không quán thì khiển được hai thứ chấp tánh. Kinh khê nói phải vô tánh tánh vô tánh tướng. Các văn là luận về tánh tướng, mượn trước nói sau, cho nên dùng hai Đế mà chia. Bèn nói bốn câu song tánh chẳng thấy tánh là Thế đế phá tánh. Bốn cú suy tên chẳng thấy tên là Chân-đế phá tướng. Tướng phá tức tướng không. Kinh khê giải thích rằng: nếu có tánh chấp đời mà không phải Đế, phá tánh chấp đời rồi gọi là Đế, cho đến gọi là Thế đế phá tánh. Tánh chấp phá rồi chỉ có tên gọi. Tên thì là giải giả tức tướng ấy là Tướng không, cho nên quán lý chứng chân gọi là Chân-đế phá tướng. Không chẳng có trước sau, hai Đế đồng thời. Cho nên biết tánh chấp phá rồi, tuy gọi là Thế đế. Sơ chẩn quán ấy tức phải quán chân. Bốn là Câu suy tánh tuy chẳng chấp tánh, nếu như hoặc còn thì chuyển chấp tên ấy. Đã chẳng thấy lý chỉ gọi Thế đế. Nếu vẫn pháp tánh chân lý phá tướng danh trị. Tướng chấp phá rồi mới chứng chân ấy. Cho nên gọi là Chân-đế phá tướng. Hoặc mới quán Chân-đế bốn câu, suy tánh liền hiểu ấm giới sắc tâm danh tự không có tướng bốn câu, tức gọi là Chân-đế phá tánh phá tướng, há đợi chuyển quán phá tướng mới dùng Chân-đế? Nếu thế, suy tánh vì sao lại gọi là chẳng tự tha cùng bằng nhau. Suy tướng tự gọi là chẳng có trong, ngoài, khoảng giữa v.v… Cú pháp đã khác hiển Lý Dụng quán tự khác, sao bảo chỉ mười bốn câu quán không phá hai thứ chấp? Đáp: Vừa bảo mượn trước nói sau đối chỗ phá Chấp tướng cho nên suy tánh thì bảo chẳng tự tha v.v… Suy tướng bèn nói chẳng trong ngoài v.v… thì khảo sát quán môn đâu có đường khác. Cho nên Kinh khê nói: trong chỉ là nhân, ngoài chỉ là duyên, huống chỉ quán nói tánh không quán xong. Bèn dẫn Trung luận bốn câu: Các pháp chẳng tự sinh v.v… làm chứng, đến khi nói tướng quán không xong. Cũng dẫn luận này bốn câu các pháp chẳng tự sinh v.v… Lấy đây mà chiếu xét thì phải không có quán khác. Lại chỉ quán chỉ gọi chung một không quán, tức là hai không quán. Hỏi: Pháp Hoa Sớ y cứ chân tục giả thật mà nói sinh không, pháp không. Kinh Khê giải thích rằng: Chân-đế tức pháp không, Tục đế tức sinh không. Tục giả chân thật bèn dẫn Huyền Văn Thế đế phá tánh. Chân-đế phá giả, giả phá tức tướng không, tánh phá tức tánh không làm chứng. Nếu dùng tánh tướng hai không chỉ một không quán, sao lại dẫn Nhân không, pháp không mà đối hiển hai Đế? Vì khi nhân không thì cũng chưa pháp không, cho nên Tánh không tướng không. Nếu lệ Nhân pháp đều không thì hai chẳng phải khác. Sao bảo tánh không chưa hiển Lý thì tướng không chẳng khác quán? Đáp: Tiểu thừa khi được nhân không thì cho chưa được pháp không. Như nói thấy hoặc nếu phá thì được quả Tu-đà-hoàn, gọi là được sinh không. Đây thì ít hiển Chân lý, phải tiến lên phá tư hoặc mới được pháp không, Lý đó hiển bày rốt ráo. Còn Đại thừa nhân pháp cảnh dung, quán Đạo chẳng khác. Như Đại Phẩm nói: Sắc tánh như ngã tánh, ngã tánh như sắc tánh, bốn ấm như ngã dụng, quán cũng như thế. Dẫu có hoặc phần thô tế chấp phá trước sau, khi dụng quán thì không khác. Mà pháp Hoa Sớ y cứ nhân không pháp không gọi là hai Đế, là đối Sở phá mượn chia Chân tục. Cho nên dẫn Thế đế phá Tánh gọi là tánh không, Chân-đế phá tướng gọi là tướng không làm chứng. Còn Dụng quán hành tướng rõ ràng thì phải đối với ngã nhân mà sinh cảnh phá tánh, phá tướng mới được sinh không. Lại đối với pháp ấm, giới, nhập mượn tục mượn chân, suy hai không này biết chân lý này thì gọi là Pháp không, mới gọi là Dụng quán hành tướng đều rõ ràng. Nên chỉ quán nói: Đối với tánh tướng mà tìm ấm, giới, nhập chẳng thể được, là pháp không. Nhưng sớ dùng Tục đế đối với Sinh không, là bởi sinh không này thể là pháp chấp, cho nên dùng Tục Đế hiển Tướng không này. Cho nên nói Tục giả, giả tức là luống dối. Pháp chấp nếu phá vọng nhiễm dứt hết thì mới gọi là Chân-đế. Cho nên nói Chân thật. Thật tức rốt ráo, Kinh khê hiểu ý này của Sớ, lại dùng Huyền Văn mượn Thế đế nghóa tánh không v.v… mà làm chứng. Cho nên nói Chân tục chẳng hai, hai không đồng lúc. Hỏi: Đã nói hai Đế chẳng hai, hai không đồng lúc thì là một Lý một không, sao lại chia ra hai Đế và nói hai không? Đáp: Thật ra chỗ hiển Lý là một, năng quán quán cũng một, là đối Sở phá chấp nên chia ra hai mươi hai không. Vì hiển không cạn sâu mà nương gá hai đế, thế nên trong tánh tướng không, tánh không y cứ Lý, lý đã chưa hiển chỉ gọi là Thế đế nói về không, không cũng chưa cùng tận, chỉ gọi là tánh không, vẫn đối với thế pháp lại quán Chân-đế phá chấp này gọi là Tướng, Tướng nếu phá rồi Lý hiển thì mới gọi là Chân- đế, quán thành mới gọi là Tướng không. Cho nên mượn hai Đế mà hiển tướng hai không, đối sở phá mà chia chân tục, thì là mượn hai đế nói hai không nhân pháp. Y cứ theo lý cũng thế. Ấy là nhân không không chưa thật, bèn mượn tục mà hiển bày. Cho nên nói Tục đế tức sinh không. Pháp không không đã xong tịnh mà mượn chân hiểu, cho nên nói Tục đế tức sinh không. Pháp không không đã xong, tịnh mà dùng chân hiển, cho nên nói Chân-đế tức là pháp không. Huống chi lại tuy Dụng sinh quán pháp cùng dung nhau mà chiếu cảnh Chân tục chẳng hai, như chúng sinh từ vô thỉ thường sinh đắm cảnh, khởi chấp Ngã, quán chẳng hai cũng ở sinh cảnh thì trước phải dụng. Cho nên khi phá nhân chấp lại gọi là sinh không. Đã có pháp chấp lại quán pháp ấy vốn không có chấp, lìa tướng bốn câu mới gọi là pháp không. Cho nên Đại sư bảo thỉ giác nhân không, chung giác pháp không. Nhưng hai đế này hiển tướng hai không, giáo Thông viên hành tướng cũng đồng, nhưng thông dụng quán ấy chỉ chiếu chân lý, cho nên mượn tục mượn chân để hiển tánh hiển tướng, nói hai không này chỉ ở Chân lý mà giáo viên thật thể sinh thể pháp, suy tánh suy tướng, chỉ là Trung đạo pháp tánh, pháp tánh là vô sinh, vô tánh gọi là Thế đế phá sinh phá tánh. Sinh này tánh này tức là pháp. Pháp Thể vốn không gọi là Chân-đế, phá pháp phá tướng. Chỉ mượn hai đế đều dùng Trung đạo để bày hai không. Thông không có quán này, người học nên suy nghó. Nhưng nói rõ hai không, suy Sở chấp Năng, Nhân chấp tùy pháp chấp mà mất, đủ như văn trong Sở phẩm không ở trước đã nói. Kế là Phàm Ngu v.v… trở xuống hai câu đã chỉ, phàm ngu chẳng rõ thỉnh hiện, ở trên khen Phật đã dạo Tam-muội không Trí, khắp hiểu các Hữu khác nhau, thảy đều mất hết, chỉ có Chân trí riêng còn lại, không có nhiễm khác. Thần cây phần hiểu thương xót, phàm mê cuồng loạn ngu si, chẳng hiểu tánh tướng đều không, cho nên thỉnh Phật xuất định. Kế nữa là nhớ xưa thường nguyện thấy, là chánh thỉnh xuất định, có bốn: một là con thường v.v… trở xuống năm hàng là chánh thức kể lại nguyện xưa thỉnh hiện. Con thường niệm Phật. Niệm là tên khác của quán chiếu, Tâm dạo pháp giới thường chiếu ba thân. Kể quán lực xưa chưa đủ, muốn cầu thân chứng cho nên giúp dùng thệ nguyện, chắp tay quỳ lạy vô cùng kính mến khóc lóc như mưa, tu hạnh đại Bi là giúp quán thường niệm. Nói tối thượng đại Bi, tức là vô duyên Bi, chánh trợ gồm tu nên gọi là Tối thượng. Hỏi: Thần cây trong hội nói thấy Như Lai nhập định nói pháp, sao nay mới nói là muốn thấy Phật? Đáp: Có hai ý: Như Lai nhập định vốn là để nói kinh. Nói kinh xong rồi thì phải xuất định, muốn xuất định thì phải có người thỉnh. Cho nên Phật xuất định ấn chứng ba phen nói ra lời gì đều thật. Đã một hẹn xong xuôi. Thần cây hết lòng thỉnh mời. Cho nên nói xưa thường nguyện thấy, lại thêm nguyện hạnh, muốn khiến vị lai cũng được thấy Phật. Cho nên nói nguyện thân con thường được thấy Phật. Thần Cây từ lâu đã phần thấy chân thân Như Lai, muốn thêm quán niệm Phật nên lại cầu trên chứng, cho nên mượn thỉnh Phật xuất định mà thường muốn thấy. Nếu được Như Lai đáp lời thỉnh hiển bày thân, tức trong tâm mình chân Phật hiển phát rõ ràng. Cho nên sau kết rằng: Cúi mong Từ Bi vì con hiện thân, hai là y cứ đầy đủ Từ Bi thỉnh hiện, có ba: Thế Tôn v.v… trở xuống hai bài là nói Từ Bi che chở tối tăm. Thân cây tự mê muội chân thân thượng vị của Như Lai, cho nên thỉnh Phật che chở, khiến thân con thường được thấy Phật. Lại thương người khác mê mờ không thấy được chân thể của Phật, nên nói Thế Tôn thường che chở tất cả. Tâm khát ngưỡng muốn thấy, liền dẫn dắt mình và người thỉnh Phật hiện thân. Thanh văn v.v… trở xuống một bài rưỡi, là y theo Thánh phàm chưa phát tánh sáng. Tức Thần cây nay thỉnh Phật xuất định. Phật tuy ở trong định nhưng biết rõ tánh tịnh, giống như lưu ly trong ngoài thông suốt. Chiếu cơ khởi ứng đều chẳng động vắng lặng. Như Lai tuy rõ biết đã lâu, như chúng sinh kia chưa phát định trên. Cho nên thần cây thỉnh xuất hiện để phát ngộ cơ này. Bèn nêu sáu dụ hiển sắc thể Thanh văn, chẳng phải là tánh minh thể. Chân lý đã chưng vắng lặng vô tri, như hư vô của không, cũng như khói lửa của đèn. Như huyễn của ảo thuật, như vang của tiếng, như sự biến hóa của thần thông, như trăng đáy nước, đều chẳng phải thật tánh, không thể tức tịnh tức hiện. Tánh của chúng sinh là luống dối hiện tại như việc thấy trong mộng đều không có thật tướng. Y theo Phật nói thấy thỉnh hiện, chính là nói chỗ Phật nhập định đủ tâm thương xót chiếu soi, cho nên thỉnh Như Lai xuất định khiến con và chúng sinh được an vui. Kế là Tất cả v.v… trở xuống một bài rưỡi, là thương phàm Thánh chẳng biết thỉnh hiện. Thần cây vì phàm phu Tiểu Thánh cùng mê, chẳng biết chỗ Phật dạo cảnh giới, cho nên thỉnh Phật hiện thân. Tức khiến nói thấy chỉ tâm Phật hiện. Kinh nói Thần tiên có năm thông, là riêng nêu người có thuật thành tiên phát được năm thông, tuy có tha tâm túc mạng mà không biết định mà Phật dạo chơi. Y theo lý khởi ứng chẳng lìa tâm thể chúng sinh. Nhị thừa Vô Lậu tuy có ba minh sáu Thông cũng mê muội cảnh Phật duy tâm, cho nên nói cũng chẳng thể biết rõ. bốn là nay ta v.v… trở xuống một bài là chỉ đã tin không nghi mà thỉnh hiện. Thần cây nói xong, đối với chỗ Phật hiểu rõ hoàn toàn không chê chướng ngại. Tuy cùng mê muội cảnh Phật thật có động tịnh cho nên liền thỉnh xuất định rằng: Cúi mong Từ Bi vì con hiện thân. Hỏi: Nay Phật vào định nói pháp, khởi lễ xá-lợi, đã có tới lui người trong hội cùng thấy, Thần cây đâu biết Như Lai trụ định chưa xuất mà hết lòng thỉnh ư? Đáp: Thần Cây đại quyền từ lâu cùng Phật đồng sự (cùng làm việc). Xưa vì Lưu Thủy cứu cá. Thần cây hiện nửa thân chỉ bày đếm số. Trưởng giả đã thành Phật rồi, Thần cây há còn làm phàm phu. Cho nên nay một động một tịnh đều phò Phật giáo, giúp Phật hóa độ, sao chẳng biết có. Huống chi xuất định, nhập định đều có nghi tiết. Phật tuy đứng ngôi tới lui, nếu chưa bày tướng xuất định, Thần cây đến thỉnh liền khuyên mới hiện tướng xuất. Tướng ấy là: trước phải lay thân nhè nhẹ, sau mới súc miệng hà hơi, rồi từ từ đứng dậy, mới biết Như Lai chỉ bày tướng xuất định. Cho nên Pháp Hoa an tường mà đứng dậy, kinh này nói phát tiếng mầu nhiệm, cho nên biết định khởi đều có tướng. Hỏi: Kinh mới dịch nói: Bấy giờ, Bạc-già-phạm vào lúc xế chiều xuất định quan sát đại chúng mà nói tụng rằng: Pháp mầu Kim quang minh Hơn hết các kinh vua. Nay vì sao Chi Sấm nói ba phen khen xong mới nói là xuất định. Hoặc người dịch thấy chẳng đồng còn tập kinh bản Phạm lời văn sao như thế? Đáp: Bản văn tiếng Phạm không giống còn chẳng biết thì người học làm sao hiểu kinh? Nay thử lược phê bình. Đối với lý nên mong không ẩn riêng. Lại kinh này vị sư xưa bảo là giáo của phương riêng, tức trong nhất thời phó cơ mà nói, cho nên ngài Thiên Thai kết luận là thuộc bộ Phương đẳng. Đây là do cơ chia ra Đại Tiểu, ứng phó quyền Thật. Phó quyền là Tiểu, là khiến thấy Phật từ Định xuất mà nói pháp. Ứng Thật là Đại, cho nên biết Phật ở trong Định mà nói. Cũng như trong Hoa Nghiêm khiến thấy thân nữ mà nhập vào Chánh thọ, còn trong thân nam xuất định mới nói. Khi ấy ứng Phật có khác. Cho nên Tập kinh hoặc nói xuất định mới nói, hoặc bảo nói rồi mới xuất định. Nhưng Phật diệt độ, sau Tập Kinh lại chẳng phải một đường, cũng có kết tập trong hang ngoài hang, cũng nói tiếng Phạm có xa có thiết v.v… đến nỗi người dịch kinh thấy tiếng Phạm khác nhau. Như Ngài Chi Sấm có đến năm xứ Thiên Trúc chắc chắn có thấy bản tiếng Phạm chánh gốc, thấy nói Phật ở trong định mà nói thì sẽ tin nhận kính dịch. Còn Tịnh Sư vốn mở rộng kinh Tiểu Thừa, gặp văn Phạm rất muộn thì thấy Phật xuất định rồi mới nói thì hợp với tông, cho nên biên dịch không thay đổi. Còn nêu chúng Thanh văn, Bồ-tát thì đều nói lúc mặt trời xế bóng thì Phật xuất định, đến chỗ Phật hội. Các sư xưa có suy ra người dịch chưa nhã thì nên tin cũng có. Cho nên việc làm của Thánh Sư ắt không uổng, kẻ phàm phu mới học không xem xét lý do thiếu sót, tìm lỗi thì có lỗi. Người học hiểu mà nghó kỹ. Hỏi: Đại Sư đã y theo bản dịch của Sấm, vì sao lại nói nhập vào pháp tánh mà nói ra kinh vua? Đáp: Như Lai thường ở trong định pháp tánh, ứng cơ thuận vật mà bày tướng nhập định. Tuy tâm dạo trong lý vắng lặng mà miệng nói ra lời ấy. Cho nên gọi là nói ra kinh vua. Bởi tịch chẳng ngại chiếu, nói chẳng ngại định, nên chẳng nói thân ra khỏi định. Đáp thỉnh xuất định, có như sau: Bấy giờ v.v… trở xuống một bài là nói nhà dịch kinh nói xuất định. Bấy giờ là lúc thần cây thỉnh xong, Phật liền bày tướng xuất định. Bèn nói dùng tiếng mầu nhiệm mà khen ngợi, tức tiếng êm ái dịu dàng hai tốt mà làm vui bốn chúng. Lành thay v.v… trở xuống hai bài là nói Phật xuất định khen ngợi, Phật khen Thần cây ý hợp với trước, vì các Bồ-tát và Diệu Tràng khen giáo do Phật nói đều là lời vui. Như Lai trong phẩm tựa v.v… trở xuống nói Đại Thể, Đại Tông, Đại Dụng là ba pháp mầu của Kim quang minh. Cho nên nói ưa nói lời ấy. Nếu chúng sinh nghe ba pháp này thì sẽ phát hiểu, chứng ngộ minh liễu thường trụ. Cho nên nói nhập vào pháp môn Vô sinh cam lộ. Chương An giải thích chung, lại có: Y cứ nghóa Phật khen, có hai: Y cứ quả định mà khen nhân, có hai: Chánh nói nghóa khen nhân gồm có: Bày nghóa. Đây nói v.v… trở xuống là giải thích chung. Văn ấy có bốn. Trước Đại sư chia khoa chỉ có ba đoạn, dùng văn Như Lai xuất định ba hàng hợp với đoạn Thần cây. Cho nên chú là v.v… Nay Chương An giải thích mới là tận lý, văn rất dễ thấy. Dẫn chứng: hai là bày Ấn thành khen giáo. Ba phen Bồ-tát đều trước khen Phật, kế là khen nói giáo, tức khen Như Lai từ phẩm Tựa đến đây là nói Bồ-tát tu nhân Đại Thể, Đại Trí, Đại Dụng của một kinh. Vì sao? Vì phẩm Tựa nói dạo trong pháp tánh, Phật chỉ chỗ dạo là các vua các kinh ba phen tức là Phật nói Đại thể của một kinh. Thọ Lượng nói quả Thường của Phật, ba phen là Phật nói Đại trí của kinh. Trí tức là tông. Đàm-vô-sấm khen phẩm Không, tức Phật nói Đại dụng của kinh từ Tứ vương cho đến phẩm Xả Thân đều là nói Bồ-tát tu nhân. Ba phen khen giáo. Đã khen chỗ Phật nói nên Như Lai xuất định ấn thành. Tức là khen Thần cây mà ưa nói lời ấy. Khen chung ba nghiệp: Chương An nói kinh này Phật xuất định, hay khen người nhân thích nói. Xem lại văn trên của kinh. Cũng có nghóa quả thân lễ xá-lợi. Xá-lợi, Hán dịch là Cốt phần, tức là Nhân thân này. Phẩm Sám thì Phật khen Đại Sấm, phẩm Tán thì Phật khen Long Tôn, là lời nói lớn, đều nói là Đại, là một Sám một Tán v.v… Pháp Tánh Đại Thể, biết tội phước tánh không. Phẩm Tứ Vương năng thỉnh, phẩm Thiện Tập năng nói, phẩm Quỷ Thần năng nghe, phẩm Xả Thân năng làm. Đều là ưa thuyết, đều năng hiểu giáo Kim Quang Minh. Năng Thuyên Sở Thuyên là ba thứ Thể, Tông, Dụng, tức tất cả ba pháp, cho nên đều gọi ưa nói. Tín Tướng Long Tôn Tứ Vương v.v… đều là người nhân. Cho nên nhân miệng nói ra. Chữ Sằn là hiện, thân, miệng chẳng phải ý chẳng làm cho nên nói Nhậm vận lệ thành. Kế là Y theo nghóa xuất định, có hai: Y theo khởi mà hỏi vào, hai là đáp đầu cuối ở định, có hai: một là nói Trụ Định pháp tánh. Hỏi: Các kinh nói trước phải nhập định, xuất định rồi mới nói, nay vì sao các kinh một bề nói ở trong định mà nói có sở thuyết? Đáp: Nếu nói về pháp tánh Thượng Định thì đâu có xuất nhập, nói nín khác nhau. Đã bày định ấy là do thuận theo căn cơ chúng sinh. Căn cơ chúng sinh thì ưa thích khác nhau. Các kinh bày đồng là các Phật xưa trước đều nhập định, lý lịch pháp duyên đối trị tán tâm vọng có chỗ nói. Cho nên phải nhập định, xuất định rồi mới nói. Kinh này đầu đuôi ở trong định mà năng nói. Ý đồng hướng về Lý. Lại chỉ bày Kim Quang Minh vô lượng sâu xa tự tại vô ngại, tịch chiếu dung biến. Cho nên nói xuất định rồi ấn thành ba phen, quyết thọ lãnh pháp của Như Lai đã nói. Bày pháp tánh viên dung. Nếu nói nhập vào pháp tánh thì hiển Lý bao gồm chẳng trở ngại ra vào định. Trên nêu pháp tánh vô lượng sâu xa, một xuất một nhập có nói có nín, đâu vượt pháp tánh, cho nên nói pháp tánh tự tại. Nói bốn Phật tức là Phật bốn phương. Năm Phật là kể cả Phật Thích-ca. Đều ở đồng một chỗ, các chỗ v.v… là nhà Tín Tướng và núi Linh thứu tuy khác nhau nhưng nếu hiểu Duy tâm, chỉ thấy Diệu Độ thì chúng đệ tử là một. Cho nên năm Phật cùng một thân một trí, ấy thì bốn không tới lui, một không đi ở. Do chấp quyền giáo mà chúng đệ tử có khác, nghóa là Diệu Tràng và Phật ở núi Kỳ đâu cách nhiều dặm. Cho nên bốn Phật năm Phật không chỉ các nơi mà còn thấy thân khác. Trí khác thật tới, thật lui, thật ở. Tuy đây khác nhau mà không lìa pháp tánh. Cho nên tùy người thấy đều không chướng ngại. Kế là Y cứ quán mà giải thích, có hai: một là nói Sự ba nghiệp cảnh. Nói quán tâm là nêu quán mà giải thích. Trước nói các Bồ-tát khen đủ ba nghiệp là cảnh Diệu quán. Song khen tuy ở miệng, mà thân cũng cung kính, Tâm vẫn tôn trọng. Ba nghiệp đều vận dụng thì nghóa khen mới thành. Hai là nói Lý ba quán thành, có hai: Nói ở Sự quán Lý. Nói ba quán tâm, là mượn các cảnh như thân v.v… mà bày Không, giả, trung, năng quán ba quán tâm. Gần đây có người giảng chẳng biết liền cho là người sau vọng thêm chữ Tâm, cũng do mê Tâm làm Sở quán, đến nổi lộn xộn thật lầm chẳng thể nói. Nhưng như kinh Thập Lục quán vốn nói quán Phật. Sớ nói: Tâm quán làm tông. Có người chẳng thấy ý này bèn dối xuyên tạc. Nay người học phải suy nghó kỹ. Quán thân chẳng thật có thân, là trước nói thân quán, chỉ xem xét bốn Đại vốn không thật tánh, gọi là pháp tánh không. Nhưng có danh tự tức là thân tướng. Danh tự có nhiều thứ, đã học sáu Độ, mười Độ v.v… Như thân hành bố thí thì gọi là Đàn, thân lìa các lỗi gọi là Giới, thân chịu Nhục gọi là Nhẫn, thân siêng làm hạnh trước gọi là Tiến, Thân hay an tịnh gọi là Thiền, Thân hiểu thể không gọi là Tuệ, thân làm khéo léo gọi là phương tiện, thân lập thệ gọi là nguyện, thân làm lợi ích người khác gọi là Lực. Thân ra khỏi sinh tử gọi là Trí v.v… Cho đến thân thực hành tám muôn trần ra pháp môn. Hành giả tùy thọ danh tự, đạt được danh vô danh gọi là Thân tướng không. Xem xét tánh tướng tuy không, mà sắc tâm các pháp rõ ràng, cho nên không chẳng nhất định không, giả chẳng nhất định giả, chẳng không chẳng giả đều là Diệu tánh chân thật gọi là Hiển Trung Đạo. Quán thân đã thế thì miệng ý lệ theo đây mà hiểu. Hai là nói sự lý thành, có ba: một là nói không có quán đều lỗi, Thân v.v… là cảnh năng phát quán, quán ấy thành cảnh hiện Sự Lý, theo nhau chùi núi vàng thì mới hiểu được. Lấy y vật làm lệ, ba y là Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà- hội, sáu vật là gồm cả Ni-sư-đàn, Bát-đa-la và dãy lọc nước. Thế mới biết ngoài sáu không ba, cũng như bốn Thiền, tám Định, ngoài Định không có Thiền. Bởi y tên thì cục vật tên hơi thông. Y là nghóa ngăn che, che đậy. Bát-đa-la là không ngăn che, nên thông với đặt tên vật. Cũng như Vô sắc bốn xứ thọ tưởng lự mất thì chẳng có tên chi lâm vui mừng, cho nên có chung tên Định. Bốn xứ cõi Sắc tuy chung với Tịnh lự, Thọ tưởng chuộng hành thì riêng có tên là Thiền. Cho nên hiểu biết thì Sự ba Lý sáu đều sáng, mê muội thì ba, sáu, bốn, tám đều tối. Ba là được Lý đều thành, Cảnh do quán hiển. Lý quán nếu thành thì ba thứ thân, miệng, ý gọi là Diệu sắc tâm, nên cũng gọi là sáu quán, cũng gọi là Sự Lý Thành. Không sáu thì cũng ba, là nhắc trên lệ với giữa. Nếu văn nào chẳng hiểu thì rất dễ thấy. Xưa, Tiên bẩm Đại Sư pháp Trí có soạn ký giải thích Kinh Sớ, mới xong mười bảy phẩm thì viên tịch. Phẩm Tán Phật sau cùng thì y kinh sâu xa, sớ lại quá tóm tắt, mà câu nghóa câu kín chắc chắn cũng khó. Tôi tuy không thông minh nhưng từ lâu cũng đích thân giảng nói bèn thâu nhặt các bài nghe cũ mà đặt ở cuối sách, cũng là giúp cho người đọc, há chê là của tặng thêm điêu.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 139