<經 id="n1782">THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH SỚ (QUYỂN 1 ~6) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH SỚ Hán dịch: Đời Đường, Sa-môn Khuy Cơ, chùa Đại Từ ân, Trung Quốc. <卷>QUYỂN 1 (Phần 1) <詞>PHẨM 1: TỰA Phàm thật tế rỗng rang, mở then huyền nơi bất nhị, cõi quyền khai đạo, diễn diệu pháp nơi vô tam. Hoặc hiển bày giáo rộng lớn, ngưỡng tạ sự nghiệp Đấng Chí Tôn, hoặc thầm khai lý sâu mầu, cúi khen sự nối dòng của chư Bồ-tát; tất cả đều muốn dùng mưa tuệ để dập tắt lửa khổ đau, dùng bến từ để vớt người chìm đắm, vì thế nêu chỉ chín hữu mà hội về mười không, nêu tám giải mà bày bảy giác. Cùng tột thay! Lớn lao thay! Thật khó có thể đặt tên. Nay kinh này là thái hư bao trùm các yếu chỉ, là trời rộng thâu tóm các giáo ngôn. Lý tận cùng chân tục, dấu vết vượt ngoài tâm ngôn; thần cơ u vi thật khó lường, đức độ thuần trong thật khó biết. Ấn ngón chân biến thành trăm ức, dùng bàn tay chuyển vận đại thiên; hợp các bảo cái bao trùm vạn tượng, hiển thế gian đều là hư vọng, trượng thất có tám việc thù thắng, chiếu chân trường vónh viễn an tịnh. Nhét núi Diệu cao vào hạt cải, cảnh lớn nhỏ vẫn không tăng, rót hết nước biển lớn vào dấu chân trâu, sự đan dệt rộng hẹp vẫn chẳng đổi. Kinh này là cái khóa bí mật để mở rộng huyền môn, là vùng đất đạo để dời vườn giác, là xe trâu để ra khỏi ngôi nhà mục nát, là xe voi để vượt khỏi dòng sông. Vì thế ngọc điệp (kinh điển) rực rỡ ở phương Tây, Kim tứ (tượng Phật) chói sáng nơi Đông độ. Chỉ từ một bản chánh văn nhưng trải qua sáu người dịch. Do Hoa Phạm cách xa, âm vận khác biệt, cho nên hoặc là phảng phất theo văn, dẫn đến sự lầm lẫn huyền chỉ. Do đó Đại sư như vầng trăng chói sáng giữa trời sao, là tấm gương viên giáo rực rỡ trên đài tình. Nối lại khung đã đứt mà giúp đỡ hậu sinh, vá tấm lưới đã hư mà chấn chỉnh quy tắc đời trước, phân biệt đúng sai, lựa chọn từ nghóa, mà dịch kinh này hoặc giả là để tuân theo phép tắc chân chính. Thuyết Vô Cấu Xưng kinh, phẩm Tự Đệ Nhất. Phát lời vàng từ miệng vàng, viết chữ ngọc nơi bút ngọc, cảnh tỉnh người học mà diễn xướng lên, cho nên gọi là “thuyết”. Đạo thì dung thông chân tể, nghiệp thì thơm ngát loài quần sinh. Dấu áo tía để ẩn oai nghi, xướng huyền nho để bày diệu chỉ. Hoặc quyền hoặc thật, hiện có bệnh để diễn đại Phương đẳng. Thoạt ẩn thoạt hiển, nhờ hỏi đáp để sáng tỏ thể mệnh. Mười vị đại Thanh văn đều nói là bị khuất phục, một vị Quán Đảnh đứng đầu, thừa oai Phật mà im lặng. Phạm hạnh đã trong sạch, thần đức đã uy nghiêm, danh tiếng vang xa, nên gọi là Vô Cấu Xưng. Kinh nghóa là xuyên giữ là thâu nhiếp, xuyên giữ hai lý, không để thiếu sót, thu nhiếp bốn loài sinh, không để bị đọa lạc. Tự tức là nguyên do, là bắt đầu, tức trình bày nguyên do khởi giáo, là bắt đầu của việc phát dương diệu pháp. Phẩm tức là loại là biệt. Phân biệt huyền chỉ, xuyên suốt các giáo sâu xa; phân biệt theo từng loại để hiểu rõ nên gọi là phẩm. Kinh này gồm sáu quyển, mười bốn phẩm. Nay đặt ở đầu cho nên gọi là thứ nhất. ***** Kinh: Như thị ngã văn (Chính tôi được nghe như thế) Tán: Nay giải thích kinh này, tổng quát có thể chia làm sáu môn: Một là, Nhân phát khởi kinh. Hai là, Tôn chỉ của kinh. Ba là, Thuật thể tánh của kinh. Bốn là, Thuật về sự bất đồng của kinh. Năm là, Chỗ y cứ để phân khoa các phẩm. Sáu là, Giải thích văn nghóa. Một, Nhân phát khởi kinh: Nêu tóm lược năm loại: Khiến chúng sinh khởi tâm ưa thích và nhàm chán. Khiến Nhị thừa có tâm lấy bỏ. Hiển thị pháp tu tập trong ngoài của Bồ-tát. Hiển bày oai đức lớn của Như Lai. Chúng đương thời căn cơ thuần thục được nghe pháp. 1.Khiến chúng sinh khởi tâm thích và chán: Từ xưa đến nay, suy tìm kỹ thì chư Phật thị hiện lợi ích chúng sinh không ngoài hai việc, đó là hiện thân và thuyết pháp. Vả lại nếu luận về thân của chư Phật, thì xưa nay không hai, cho nên kinh Niết-bàn ghi: “Nếu có thể cho rằng Tam bảo thường trụ đồng với chân đế, đó tức là nguyện tối thắng của chư Phật”; tùy theo sự thấy nghe của chúng sinh mà phân biệt thành ba thân: Pháp thân, tức chân lý lìa vọng. báo thân, tức thật trí hợp với chân. Hóa thân tức là quyền thân ứng vật. Kinh Phật Địa ghi: “Tự tánh pháp thân, thọ dụng thân sai biệt chuyển, đều do hư vọng che lấp; do việc tục ngăn che mà sự ngu si sinh. Nay nhờ vào pháp chân thật để tu tập, chánh lý hiển lộ mà báo thân khởi”. Phàm lý là gốc để giác ngộ chánh đạo, do hiển được vị mà gọi là pháp thân, báo là khởi đầu của Thánh đức, do tu viên mãn mà gọi là báo thân. Nhưng diệu lý thì hàng trung nhân không thể liễu ngộ. (Diệu lý tức là pháp thân Phật tánh, hàng trung nhân tức Bồ-tát Thập địa. Bồ- tát Thập địa chưa liễu ngộ được pháp thân Phật tánh). Kinh Bồ-tát địa ghi: “Bồ-tát Địa thứ mười, hiện quán cảnh tượng như người mắt sáng nhìn hình ảnh qua lớp vỏ lúa mỏng, các luận cũng nói như thế. Pháp thân chư Phật chỉ có Phật với Phật mới biết được. Hàng trung căn không thể biết, thì hàng hạ căn chẳng thể biết được). Thượng trí thì hàng hạ ngu cũng chẳng thể biết (Thượng trí tức báo thân Phật trí, Hạ ngu tức Nhị thừa và phàm phu. Nhị thừa phàm phu chưa thể biết chân trí của Phật. Kinh Pháp Hoa ghi: “Giả sử tất cả chúng sinh trong cõi thế gian này đều như ngài Xá-lợi-phất, cùng dùng trí tuệ tư duy tính lường, thì cũng không thể biết được trí Phật”. Hàng hạ ngu không biết, hàng trung nhân chẳng liễu). Vì thế ứng theo vật khí mà hóa hình (Phân thân thành trăm ức, hóa độ Nhị thừa phàm phu, đó là diệu dụng của hóa thân). Tùy theo căn cơ của chúng sinh mà hiện chứng giác ngộ (Hiện thân Đại só, hóa độ Bồ-tát Thập địa, đó là diệu dụng của tha thọ dụng thân), cũng như ánh sáng nơi hư không thì chiếu diệu đến vô cùng; ánh sáng của hạt châu trong thì chiếu soi có hạn. Về thân Phật quyền và thật thì có thể theo ví dụ trên mà hiểu được. Vì thế trong đoạn kinh sau ghi: “Toàn chúng hội chiêm ngưỡng Đức Đại Mâu-ni, chẳng có ai không phát sinh tín tâm thanh tịnh. Mỗi mỗi đều thấy Thế Tôn hiện trước mặt mình, đó là tướng bất cộng của Như Lai”. Thân đã không khác, nhưng tùy nghi có ba; pháp cũng không có sai biệt, ứng theo cơ mà thành bốn. Giống như hạt châu như ý tùy theo người mong cầu mà mưa xuống báu vật; như trống trời, tùy theo chư Thiên nghó đến mà tự phát ra âm thanh. Pháp có bốn là giáo, lý, hành, quả. Pháp tuy có muôn ngàn sai biệt, không vượt ra ngoài bốn loại này. Trình bày những điều ý đã hiểu gọi là giáo, điều được giáo diễn bày là lý, theo lý tu tập là hành, chứng đắc do tu tập gọi là quả. Nhưng bốn pháp này mỗi mỗi tự nó không có hai, tùy theo duyên mà có khác, đồng thời cũng chung cho cả ba thừa, nên đoạn kinh sau có nói: “Phật dùng một loại âm thanh để nói pháp, nhưng chúng sinh tùy theo loại mà hiểu được, đều được thọ dụng, đạt được lợi ích, đây là pháp bất cộng của Như Lai”. Đó là từ một giáo, tùy duyên có ba, cũng là ý nghóa “một trận mưa mà thấm nhuần tất cả” nói trong kinh Pháp Hoa. Ba thừa là ba loại cỏ, hai bậc Thánh là hai loại cây, sự sinh trưởng khác nhau, đó chính là giáo đồng mà căn cơ khác, thành ra có pháp ba thừa. Kinh này lại nói: “Phật dùng một loại âm thanh để nói pháp, hoặc có người sợ hãi, hoặc có người vui mừng, hoặc sinh tâm nhàm chán xa lìa, hoặc đoạn nghi, đây là tướng bất cộng của Như Lai”. Đây là từ lý chỉ một, theo duyên thành ba, như ý nghó “Tánh của sông chẳng khác mà thỏ, voi, ngựa qua sông lại khác” trong luận Bảo Tánh. Đây là lý thì đồng mà chứng ngộ có sai biệt, thành ra nghóa ba thừa. Trong kinh Pháp Hoa nói về y phục, bàn ghế chỉ có một cửa, nên xuất xứ tuy khác, nhưng nhân lìa khổ nạn và lấy xe trâu đều giống nhau. Kinh Thắng Man ghi: “Chánh pháp trụ, chánh pháp diệt, Ba-la- đề-mộc-xoa, Tỳ-ni, xuất gia, thọ giới cụ túc, sáu pháp này là Đại thừa, nên nói tạng là kinh và luận”. Khéo ngăn che gọi là trụ, trừ chướng nạn là diệt, bản lược của giới bản gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa, bản đầy đủ của luật gọi là Tỳ-ni. Đây là pháp Tam tạng được học. Người học gọi là xuất gia, thọ cụ túc gọi là Nhị thừa, nhân pháp hợp chung thành sáu nơi. Đã nói: “đều là pháp Đại thừa cho nên thuyết”, vì thế biết pháp sở học của Tiểu thừa là nhân của Đại thừa, đây là hạnh đồng mà tu tập khác nhau. Đốn tiệm sai biệt nên có ba thừa. Kinh Pháp Hoa ghi: “Giữa đường lập hóa thành” là nơi để nghỉ ngơi, cho nên gọi là hai, đầu tiên dùng ba xe dụ dẫn, cuối cùng đều ban cho xe trâu, đây là quả đồng mà lập phương tiện có khác, thật giả khác nhau, cho nên có quả ba thừa. Vì thế nên biết rằng pháp tánh được chỉ bày thì không sai biệt, nhưng tùy theo duyên bên ngoài mà phân chia thành nhiều loại, do đây mà kinh phát khởi lược có năm nhân; mà đâu biết làm cho chúng sinh khởi tâm thích hay chán. Thích, chán có hai: Một là, bên trong thích và chán; hai là, bên ngoài thích và chán. Bên trong thích, chán: chán nghóa là nhàm chán thân sinh tử, thích tức ưa thích được thân Phật. Phẩm Phương Tiện ghi: “Lúc bấy giờ, Cư só Vô Cấu Xưng dùng đại phương tiện hiện thân có bệnh, vì ông có bệnh, cho nên vua, quan, trưởng giả, cư só và vô số ngàn người đều đến thăm bệnh. Lúc ấy, Vô Cấu Xưng bèn nói rộng giáo pháp. Ông nói rằng: “Này các nhân giả! Thân này do bốn đại chủng tạo thành, vô thường, không khỏe mạnh, không bền chắc, không có sức, yếu đuối, cho nên chóng sinh bệnh tật. Không thể tin tưởng nó được, thường bị khổ não hại, là vật chứa đựng các khổ, nhiều hoạn lụy, là pháp biến hoại. Này các nhân giả! Thân như thế, nên xa lìa, nhàm chán mà sinh tâm ham thích Như Lai. Thân Như Lai là do vô lượng pháp thiện tụ họp mà thành, do tu vô lượng phước đức thù thắng mà sinh, từ giới, định, tuệ, giải tho- át, giải thoát tri kiến mà sinh, cho đến nói rộng khắp; Này các nhân giả! Thân Như Lai có công đức như thế, các ông nên phát tâm cầu chứng đắc. Các ông muốn được thân Như Lai, thì nên dứt trừ tất cả bệnh cho loài hữu tình, khiến họ phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nhàm chán, xa lìa thân bệnh khổ, diệt gốc khổ làm cho họ ưa thích thân Phật, tu tập nhân Phật. “Cho nên biết thị hiện bệnh hiển bày bất tư nghị là muốn khiến cho chúng sinh trong khởi tâm thích và chán. Vả lại khi việc đối luận đã xong, sắp trở về Am viên, thì đại chúng ở bên Phật, toàn thân đều ánh hiện sắc vàng, biết là thích và chán. Sau ắt được quả tức là ngoài tâm thích và chán. Chán nghóa là xa lìa uế độ, thích tức là ưa thích thanh tịnh độ. Kinh này về tịnh độ thì có hai: Bậc Thánh cõi này hiện. Bậc Thánh cõi kia hiện. Uế độ cũng có hai: Chúng sinh hiện. Thích-ca hiện. Suy xét trên dưới mà luận về thỉ chung của kinh thì cõi nước sở y có hai uế hai tịnh. Đầu tiên Phật ở tại vườn Am-la trong thành Quảng Nghiêm, tuyên thuyết diệu pháp cho đại chúng đồng nghe. Bảo Tích dâng lọng báu, tán thán Phật xin giải nghi, Phật hiện thần thông hợp các lọng báu để trả lời, chưa nói về nghóa pháp là cõi nước thường trụ, nhân đó mà nói Bảo Tích: “Nếu muốn tinh cần tu tập hạnh trang nghiêm cõi Phật thì trước nên tịnh tâm mình”. Thu Tử nương vào oai lực của Phật mà nghó rằng: “Nếu tâm Bồ- tát tịnh thì cõi Phật tịnh, vậy Đức Thế Tôn ta khi còn Bồ-tát, tâm ngài chẳng thanh tịnh sao, mà cõi nước lại tạp uế như thế?”. Đức Phật dùng dụ khó, cho nên ngài Thu Tử chưa hiểu, đến khi Trì Kế nói rộng thì mới ngộ được. Thế Tôn giải nghi cho đại chúng hoặc là dùng ngón chân ấn xuống đất, đại thiên biến thành cõi có vật báu trang nghiêm, ngài Thu Tử mới khen là việc chưa từng có. Bảo Tánh và năm trăm đồng tử đã chứng Vô sinh, tám vạn bốn ngàn chúng sinh nghe được liền sinh giác tuệ, hóa duyên đã xong, chúng hội đã kham nhận lãnh, Phật liền thu nhiếp thần thông thì thế giới trở lại như cũ. Sau đó Đức Phật bảo Bồ-tát Diệu Cát Tường đến thăm bệnh ngài Vô Cấu Xưng, khi đối đáp xong thì trở về Am viên. Phẩm Bồ-tát hạnh biểu thị nơi kia thị hiện việc khó bàn, mà Am viên biến thành rộng rãi, đến khi thuyết kinh chưa từng không có lời văn biến uế độ. Hiển bày việc nhàm chán uế độ mà ưa thích tịnh độ, cuối cùng ắt phải nên trang nghiêm cõi tịnh. Một và ba là hiện uế độ, hai và bốn là biến thành tịnh độ. Đầu tiên Thế Tôn tự biến ra cõi tịnh, sau đó ngài Tịnh Danh và Diệu Đức lại ngăn che cõi uế. Cho nên nói tịnh độ do bậc Thánh ở cõi này biến hiện, vì Phật và Tịnh Danh đều là bậc Thánh ở phương này. Bậc Thánh ở cõi kia hóa hiện; bậc Thánh ở cõi kia gồm có hai: Trong phẩm Hương Đài, khi ngài Thu Tử nghó đến bữa ăn, thì ngài Vô Cấu Xưng hiện thần thông. Ở phương trên, cách đây hơn ba mươi hai ngàn khắc-già-sa cõi Phật, có một thế giới tên là Diệu Hương, Đức Phật trụ ở cõi này hiệu là Tối Thượng Hương Đài. Tất cả vật ở thế giới này đều do mùi hương tạo thành, không có hàng Nhị thừa, chỉ có các bậc Đại Bồ-tát thanh tịnh. Bấy giờ, các đại chúng ở cõi này đều thấy được các việc ở cõi Phật kia, liền có trăm ngàn chúng sinh phát tâm Bồ-đề, mười ngàn Bồ-tát chứng Vô sinh pháp nhẫn. Phẩm Quán Như Lai thì nói hàng người căn cơ thấp không thể biết được bậc ở giai vị cao, ngài Thu Tử sinh nghi rằng Cư só Vô Cấu Xưng này từ đâu sinh đến đây? Đức Phật liền nói: “Ở cõi Diệu Hỷ có Đức Như Lai Vô Động, ông Duy-ma vì độ chúng sinh ở cõi này mà đến đây”. Đại chúng tâm sinh khát ngưỡng muốn thấy cõi Phật Diệu Hỷ có các công đức trang nghiêm thanh tịnh kia và các vị Bồ-tát ở đó. Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng đoạn lấy cõi kia, nhanh như cắt, đặt vào bàn tay phải, nhẹ nhàng như cầm tràng hoa, đưa vào thế giới này chỉ rõ cho đại chúng. Tuy hai cõi xen nhau cùng một nơi mà mỗi mỗi đều thấy quốc độ của mình vẫn không khác. Đức Phật bảo đại chúng rằng: “Muốn được cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh như thế, thì các ông cần phải tu hành theo những pháp mà Như Lai Vô Động đã hành.” Lúc bấy giờ, có tám mươi bốn na-do-tha Trời, người phát tâm Vô thượng Đẳng chánh giác, nguyện sinh sang cõi kia. Thế Tôn liền thọ ký cho tất cả sẽ được sinh. Hai cõi này đều là do bậc Thánh ở cõi kia biến hóa ra, vì Phật Hương Đài và Vô Động đều là bậc Thánh ở cõi kia. Khiến cho chúng sinh khởi tâm nhàm chán uế độ chẳng tạo nhân ác, khiến chúng sinh khởi tâm ưa thích tịnh độ tu trì tịnh nghiệp, do đó mà biến hóa cõi nước hiện bất tư nghị. Muốn cho chúng sinh khởi sự nhàm chán và ưa thích bên ngoài, tức chúng sinh phàm phu nghe pháp tu học ắt lấy sự ham thích và chán ghét làm căn bản. Trong kinh, việc bậc Thánh ở cõi này biến hiện cõi tịnh thì gồm có hai: Đức Thích-ca tự biến. Ngài Diệu Đức, Tịnh Danh muốn đến tham dự việc biến hóa. Cõi tịnh được biến hóa ra cũng gồm có hai: Xa thì thấy cõi Diệu Hương. Gần thì thấy cõi Diệu Hỷ. Uế độ cũng có hai: Do chúng sinh biến hiện. Do Đức Thích-ca biến hiện. Phẩm Tựa ghi: Bảo Xá-lợi-phất rằng: Quốc độ của Thế Tôn ta thường tịnh như thế, nhưng vì muốn thành thục cho loài hữu tình thấp kém, cho nên mới thị hiện cõi nước nhơ uế có vô lượng điều xấu ác vậy. Ví như chư Thiên cõi trời thứ ba mươi ba cùng có một loại bát ăn cơm, nhưng tùy theo phước lực chiêu cảm, mà màu cơm khác nhau. Này Xá- lợi-phất! Vô lượng hữu tình cùng sinh vào một cõi Phật, nhưng tùy theo tâm tịnh uế mà chỗ thấy khác nhau. Vì thế cõi tịnh vốn là cõi của bậc Thánh, do thần lực mà khiến cho các loài hữu tình thấp kém, cũng biến thành tịnh, uế vốn là cõi uế của loài hữu tình thấp kém, bậc Thánh tùy thuận theo đó mà biến thành uế. Các thân độ này gồm có hữu lậu và vô lậu, hoặc chân thật hoặc tương tự, theo quả theo nhân, y phàm y Thánh, tự thức dị thức, tịnh uế được biến hiện theo như luận Duy Thức thì cùng ứng theo sự phân biệt. Bậc Thánh cõi này biến tịnh độ, lược có hai duyên: Tức nghi cho Tiểu thừa. Cảnh tỉnh quần mê. Bậc Thánh cõi kia biến tịnh, đều là tất cả Như Lai biến uế độ, nhưng chỉ vì hàng Nhị thừa phàm phu, chẳng phải vì hàng Bồ-tát. Hỏi: Vì sao ngài Thu Tử sinh nghi, Như Lai tự biến tịnh độ; Tịnh Danh sắp đến, Diệu Đức dự biến đạo tràng? Đáp: Giải nghi phá bệnh nên Như Lai biến cõi tịnh, cảnh giác quần mê, nên Diệu Đức dự biến trang nghiêm đạo tràng. Hỏi: Cõi Diệu Hương thanh tịnh, vì sao ngài Tịnh Danh không chuyển đến, mà chuyển cõi Diệu Hỷ đến? Đáp: Diệu Hương đang dùng cơm chỉ khiến cho thấy mà không mang về, cõi Diệu Hỷ hiện thần thông, nên cũng khiến cho thấy và mang đến cõi Ta-bà. Thần thông đều có lợi ích cứu độ, không chỉ ở một phương nào, hà tất phải mang đến đây, hà tất phải đều thấy hết. Hỏi: Phật vốn tế độ quần sinh, lợi lạc có chán và thích, vì sao không cho thấy cõi tịnh được lâu hơn, mà chỉ tạm ngăn cách cõi uế. Đáp: Cơ đã thành thục, duyên đã đến thì nên để cho tạm thấy cõi tịnh, nếu duyên chưa đến cơ chưa thành thục thì chưa ngăn cách được uế độ. 2.Khiến cho hàng Nhị thừa có tâm lấy bỏ (thủ xả): Thủ xả có hai là nội thủ xả và ngoại thủ xả. Nội thủ xả: Xả tức là xả bỏ tâm Nhị thừa, thủ tức là giữ lấy trí Đại thừa. Chướng có hai loại là phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng thì chướng ngại Niết-bàn, sở tri chướng thì chướng ngại Bồ-đề. Thanh văn thì chỉ đoạn được phiền não chướng đã vượt sinh tử mà chứng Niết-bàn, chẳng thể đoạn sở tri chướng, nên chẳng được Bồ-đề, chẳng đạt các pháp, cho nên tâm phân biệt của Nhị thừa vẫn còn hiện hữu, do pháp thấp kém này mà hàng Thanh văn không thể thành tựu trí vô phân biệt, còn Bồ-tát thành tựu được là do pháp thù thắng này. Lý lẽ thủ xả, nghóa đã rõ ràng vậy. Do đó Thu Tử ngồi im, thân tâm vắng lặng không lay động thì bảo hiện oai nghi mà thường trụ nơi định tịch diệt. Ngài Mục-liên thuyết pháp lợi lạc các cư só thì hiển thị pháp lý ngôn thuyết, mới thật là chân thuyết pháp. Ẩm Quang khất thực, đến nhà nghèo bỏ nhà giàu, thì nói tâm từ bi bình đẳng để phá chấp trước kia. Thiện Hiện ôm bát, thì nói tu hành nên nhập vào lý mới được nhận thức ăn. Mãn từ giảng thuyết giáo hóa hàng tân học Tỳ-kheo, thì bảo nên trao cho họ đại pháp, chớ dùng pháp Thanh văn. Tiễn Thế theo Phật, quyết trạch khổ không, vì sao lại dùng tâm phân biệt mà thuyết pháp thật tướng. Thiên nhãn của Vô Diệt thấy khắp đại thiên, hạnh hữu vô đều nêu lên, ngay nơi định mà thấy thì mới gọi là đạt. Cận Chấp nêu lên tội của hai Tỳ-kheo, thì bị chê trách là chớ làm cho tâm họ ưu não. Tâm nhơ tức tội sinh, tâm tịnh thì tội cấu diệt. Chấp Nhật khen ngợi đức xuất gia, dụ dẫn các đồng tử kia, thì được dạy là xả bỏ phân biệt mà hành vô vi, đó là lợi ích của xuất gia. Thế Tôn hiện thân có bệnh, Khánh Hỷ nhân đó mà xin sữa, thì bảo là thân Phật vô lậu, khiến xả bỏ kiến giải Nhị thừa. Trộm xét rằng khi xưa hội ngộ còn khuyên xa lìa tâm phân biệt huống gì hôm nay thị hiện có bệnh mà nói đại Phương đẳng, chẳng tán thán trí Bồ-tát, vì thế trong phẩm Vấn Tật, Bồ-tát Cát Tường sắp đến thăm bệnh, thì Tịnh Danh trước làm ngôi trượng thất trống không tức đã đồng với cõi Phật trong mười phương, cũng hiện cái không phân biệt kia. Trong phẩm Bất Tư Nghị, Thu Tử mong cầu tòa ngồi, thì bị trách mắng và bảo nên vì pháp, sau đó xin tòa của Phật Đăng Vương, để Bồ- tát và Thanh văn ngồi, nói rộng về bất tư nghị chẳng phải là cảnh giới mà hàng Nhị thừa có thể luận bàn đến. Ẩm Quang nêu lên người mù bẩm sinh để dụ cho mình liễu ngộ được pháp khó nghó bàn này. Phẩm Quán Hữu Tình, Thiên nữ rải hoa, thì hoa dính trên thân Thanh văn. Ngài Thu Tử cho rằng hoa không như pháp nên dùng hết thần lực để phủi, Thiên nữ liền nói: Hoa này như pháp, mà Tôn giả tự chẳng như pháp, hoa không phân biệt mà Tôn giả tự có phân biệt. Trong phẩm Hương Đài, ngài Thu Tử thấy giờ thọ trai sắp đến, tâm nghó đến thức ăn, thì liền xin cơm của cõi Hương đài, khuyên xả bỏ tâm Thanh văn. Cho nên Nhiếp Luận ghi: “Ba loại mài luyện, đoạn trừ bốn xứ, trừ tác ý của Nhị thừa, khiến người có tâm nghi thì dứt nghi.” Hễ có phân biệt liền mê cảnh, nếu dứt trừ phân biệt, thì sẽ thầm hợp với chánh lý. Nếu có phân biệt tức chưa khế diệu chỉ của chân tông, chẳng thể chứng Bồ- đề. Nếu vô phân biệt thì hội được chỗ cùng cực của huyền môn, mới thành đại giác. Cho nên biết thị hiện bệnh, hiện bất tư nghị là muốn làm cho hàng Nhị thừa khởi bên trong có chán thích, thân khổ lụy của Thanh văn tự tại diệt tận, cho nên bên trong có sự thích chán, chỉ nói trí tâm. Tâm phân biệt diệt thì cảnh vọng liền không, chánh trí đã sinh thì lý liền hiện. Hỏi: Đại chúng theo đến rất nhiều, tại sao chỉ có một mình Thu Tử bị khuất phục bởi ngôn từ và nghóa lý? Đáp: Chúng Thanh văn tuy nhiều, nhưng chỉ có ngài Thu Tử là bậc có trí tuệ cao, nêu lên đầu tiên để đối đáp, như thế thì biết các vị khác cũng phải khuất phục. Bên ngoài thích chán, chán tức là nhàm chán muốn xa lìa uế độ, thích tức ưa thích cõi thanh tịnh. cõi Phật có ba: Pháp tánh độ là nơi cư trụ của pháp thân, tức lý chân như. Thọ dụng độ là nơi cư trụ của báo thân được các vật báu trang nghiêm. Biến hóa độ, nơi cư trụ của hóa thân, uế tịnh không nhất định. Văn kinh sau sẽ phân biệt rõ. Lại Diệu Đức và Tịnh Danh, đều biến Am viên thành tịnh, là để cảnh tỉnh chung cho chúng nghe pháp lúc bấy giờ, đâu chỉ giáo hóa riêng hàng Thanh văn, chỉ có trì kế đối đáp? Thế Tôn ấn ngón chân cõi đại thiên biến thành tịnh, bỗng chốc lại trở về như cũ, đó chỉ là hóa độ riêng cho Thanh văn, vì muốn dứt trừ tâm nghi cho ngài Thu Tử vậy. Tuy đại chúng cùng thấy, không phải chỉ có Thanh văn, nhưng bây giờ chỉ có một mình Thu Tử sinh nghi, cho nên các cõi này đều gọi là hiện, tức là đầu tiên hiện cõi tịnh, là vì khiến cho hàng Nhị thừa có tâm thích và chán bên ngoài, còn cõi hiện về sau này đều là vì tất cả. Sự việc cũng như trên, không cần phải luận đủ. Vì tâm thanh tịnh cho nên cõi Phật cũng tịnh, tâm cấu uế thì cõi Phật cũng cấu uế, vì thế từ trên đến đây nêu lên thích chán, lấy bỏ đều là nói trong và ngoài. 3.Vì để hiển thị trong ngoài tu tập của Bồ-tát: Pháp tu riêng của Bồ-tát tuy khó nêu lên nhưng tổng quát mà lược phân thì không ngoài hai loại: Nội tu và ngoại tu. Nội tu tức trong thân mình để thành tựu công đức tự lợi, đó là đại trí, là thượng thủ. Ngoại tu, tức ngoài tu hạnh lợi tha để thành tựu công đức lợi tha, tức đại bi, cũng làm thượng thủ. Luận Thành Duy Thức ghi: “Tuy Bồ-tát tu tập tùy thuận theo ý thích của chúng sinh, nhưng cũng chung cho tự lợi và lợi tha; cứu độ chúng sinh tức vì tự lợi; tự mình tiến tu, là vì chúng sinh, nhưng tùy theo chỗ thù thắng mà hiển sáu pháp Ba-la-mật, các nghiệp tướng hảo, Bồ- đề phần… là hạnh tự lợi; sáu thần thông, bốn vô lượng, bốn nhiếp… là hạnh lợi tha. Hạnh tự lợi thì phẩm Tựa kinh này trong đoạn tán thán công đức của Bồ-tát có ghi: “Thường được oai đức của chư Phật gia bị, khéo léo ủng hộ thành trì chánh pháp, thâu nhiếp chánh pháp, nối tiếp làm hưng thạnh dòng giống Tam bảo chẳng cho đoạn tuyệt, cho đến giảng rộng… các việc làm, cũng chẳng mất. Hơn nữa Bảo Tánh hỏi về tướng tịnh độ”. Vì sao gọi là trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh? Thế Tôn đáp: ‘Tu hồi hướng độ, là tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát được Bồ-đề, thì cõi nước đầy đủ các công đức trang nghiêm’. Hơn nữa phẩm Bồ-đề phần nói: “Tuy các Bồ-tát thực hành năm vô gián mà không có tâm sân hận, buồn bã, não hại.” Bồ-tát Hiện Nhất Thiết Sắc Thân hỏi ngài Vô Cấu Xưng về cha mẹ, ngài Vô Cấu Xưng đáp: “Tuệ độ là mẹ Bồ-tát, phương tiện khéo léo là cha, thế gian là chân Đạo sư.” Tất cả do đây mà sinh. Tuệ độ thứ sáu (Tuệ ba-ba-mật) là đức tự lợi, phương tiện thứ bảy, là đức lợi tha. Trong phẩm Bồ-tát Hạnh nói về chín trăm vạn Bồ-tát phương trên bạch Đức Thích-ca rằng: “Cầu xin Thế Tôn ban cho một ít giáo pháp, để đem trở về bản độ”. Đức Thế Tôn nói: “Có một pháp môn giải thoát của các Bồ-tát tên là hữu tận và vô tận, các ông nên tu học, hữu tận tức là pháp hữu vi sinh diệt, vô tận là pháp vô vi không sinh diệt”. Như thế tất cả công đức tự lợi đều là pháp mà hàng Bồ-tát, bên trong cần phải tu tập, tất cả đều lấy trí làm chủ. Sợ văn dài dòng cho nên trong phần nói về hạnh tự lợi chỉ nêu lên như thế, những nghóa khác căn cứ theo đây cũng có thể hiểu được. Về hạnh lợi tha, phần tán thán công đức trong phẩm Tựa có nói rằng: “Dùng tiếng đại sư tử hống diễn thuyết, âm thanh vang xa cùng khắp mười phương, cho đến diễn thuyết khiến cho người thấy nghe đều được lợi ích. Sau đó Trưởng giả Bảo Tánh hỏi tướng của cõi Phật tịnh và việc Bồ-tát tu tướng cõi Phật tịnh.” Đức Phật dạy: “Các hữu tình độ là cõi Phật nghiêm tịnh của Bồ-tát, tùy theo sự tăng trưởng lợi iùch của hữu tình mà nhiếp thọ cõi Phật nghiêm tịnh.” Trong phẩm Phương Tiện, tán thán Vô Cấu Xưng rằng: “Khéo léo nơi trí độ, thông đạt nơi phương tiện đại nguyện thành tựu viên mãn, thấu suốt được tâm ưa thích và sở hành của hữu tình.” Phẩm Bồ-đề Phần ghi: “Tuy Bồ-tát thực hành nơi cõi của Diêm- ma vương mà lại gom tập tất cả phước tuệ rộng lớn làm tư lương.” Bồ- tát Phổ Hiện Nhất Thiết Sắc Thân hỏi ngài Vô Cấu Xưng về cha mẹ, thì ngài Vô Cấu Xưng nói: “Tuy biết cõi Phật và chúng sinh không, nhưng thường tu tịnh độ, làm lợi ích chúng sinh không biếng trễ”. Phẩm Bồ-tát Hạnh, Bồ-tát ở phương trên cầu thỉnh Đức Thích-ca ban cho một ít pháp để đem về bản quốc. Thế Tôn dạy rằng: “Vì sao gọi là bất tận hữu vi? Nghóa là Bồ-tát không bỏ đại từ chẳng lìa đại bi. Thế nào là bất tận vô vi?”. Tuy quán vô ngã nhưng không bỏ đại bi đối với hữu tình, đó gọi là Bồ-tát không trụ vô vi. Trên là nói về hạnh lợi tha, sợ văn dài dòng nên chỉ nêu lên như thế mà thôi, các ý còn lại theo đó có thể hiểu. Như thế tất cả các công đức lợi tha đều là việc mà Bồ-tát, bên ngoài cần phải tu tập. Như thế phàm Thánh, luận chung đến và chưa đến, gồm thuyết đức và tướng, tất cả không ra ngoài bảy địa: Chủng tánh địa. Thắng giải hạnh địa. Tịnh thắng ý lạc địa. Hành chánh hạnh địa. Quyết định địa. Quyết định hành địa. Đáo cứu cánh địa. Trong bảy địa này thì địa đầu tiên chỉ có chủng tánh mà chưa tu, kế đến tuy có tu mà chưa chứng, năm địa sau tuy đều có chứng đắc, nhưng địa sau hơn địa trước. Lại có mười Địa: Trụ chủng tánh. Dó thư nhập. Vị tịnh ý lạc, chưa vào sơ địa. Dó tịnh ý lạc, đã vào sơ địa. Vị thành tựu, chưa đến cứu cánh địa. Dó thành tựu, đã đến cứu cánh địa. Vị quyết định, bảy địa trước, chưa thành thục. Dó đọa quyết định, trụ địa thứ tám, chín. Nhất sinh sở hệ, đến cứu cánh vị. Tối hậu hữu, tức địa thứ mười. Các việc tu hành của các bậc Bồ-tát này, về riêng có vô biên, nhưng tổng quát không ngoài bốn hạnh: Hạnh Ba-la-mật, hạnh Bồ-tát phần, hạnh các thần thông, hạnh thành thục hữu tình. Sợ văn rườm rà cho nên không nêu lên hết, đến đoạn văn sau, tùy chỗ ứng hợp sẽ giải thích riêng. Đây là pháp trong ngoài nên tu; nhưng hàng Bồ-tát có năm loại sinh: Trừ tai sinh, các Bồ-tát có đại nguyện tự tại với hai loại lực dụng, khi có nạn đói kém nguy ách, thì có thể dùng một ít công sức mà cứu tế cho tất cả chúng sinh, lại sinh vào các loài như cá lớn… Với thân hình to lớn, dùng thịt của thân mình, ban phát cho tất cả những chúng sinh đói khát, hoặc trì thần chú hoặc làm cây thuốc quý, cứu các người bị dịch bệnh. Nếu nước bên cạnh có chiến tranh, thì có đủ thể lực để trừ tai nạn, nếu có hữu tình trái nghịch thì khuyên răn hòa giải, nếu có vua ác bức bách thì sinh vào đó để điều thuận vua, nếu có kẻ tà kiến thì sinh vào cõi trời để dùng phương tiện đoạn trừ. Tất cả những điều trên đều thuộc về trừ tai sinh. Tùy loại sinh, các Bồ-tát dùng đại nguyện tự tại, tùy thuận sinh vào các loài mà đứng đầu trong đó, dùng phương tiện dẫn dắt. Như họ làm việc ác mà mình chẳng làm, họ chẳng làm việc thiện mà mình lại làm, phương tiện khuyên bảo, trừ diệt tội lỗi cho họ. Đại thế sinh, Bồ-tát lúc mới sinh thì thọ mạng hình sắc, tộc tánh đều tự tại và các quả dị thục như giàu có… đều thù thắng nhất trong thế gian. Tăng thượng sinh, các Bồ-tát khi còn ở giai vị Sơ địa thì làm Chuyển luân vương, cai trị Nam Thiệm bộ châu; Địa thứ hai thì làm Kim luân vương làm vua bốn thiên hạ, Địa thứ ba thì làm vua cõi trời Đao- lợi, Địa thứ tư thì làm vua trời Dạ-ma; Địa thứ năm làm vua cõi trời Đổ- sử-đa. Địa thứ sáu thì làm vua cõi trời Lạc biến hóa. Địa thứ bảy thì làm vua cõi trời Tha hóa tự tại. Địa thứ tám thì làm vua cõi trời sơ thiền. Địa thứ chín thì làm vua trời Nhị thiền. Bồ-tát Địa thứ mười thì làm vua trời Đại tự tại, vượt qua trời Sắc cứu cánh làm vua trời Đệ tứ thiền, trong tất cả loại sinh, đây là loại đệ nhất. Không sinh vào Tứ Thiên vương vì cõi này không có vị chủ quản nhất định, không sinh vào trời Đệ tam thiền vì ở cõi này quá vui thú. Tối thắng sinh, nghóa là Bồ-tát, có tư lương Bồ-đề viên mãn, sinh vào nhà đại quốc sư dòng đại Bà-la-môn, hoặc sinh vào nhà đại quốc vương dòng Sát-đế-lợi, hay hiện đẳng giác làm những Phật sự, như kinh Bồ-tát Địa, quyển bốn mươi tám đã phân biệt giải nói đầy đủ. Theo kinh Vô Cấu Xưng thì năm loại sinh này, vì tài bảo vô lượng, cứu vớt kẻ bần cùng nên được gọi là Trừ tai sinh; nếu ở trong hàng trưởng giả thì làm bậc tôn quý nhất trong hàng trưởng giả, thuyết cho họ nghe pháp thù thắng nên được gọi là Tùy loại sinh; đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng sâu cội công đức, nhân đã lớn thì quả chẳng nhỏ, cho nên gọi là Đại thế sinh. Hiện sinh chẳng thọ quả vị Thập vương cho nên chẳng phải là Tăng thượng sinh, tướng chẳng phải là Bồ-tát thân sau cùng cho nên chẳng phải là Tối hậu sinh. Hoặc chỉ là Tùy loại sinh, nhiếp phục tất cả các loài, làm bậc Thượng thủ, hóa độ hết thảy. Đó đều là do Bồ-tát trong ngoài tu tập tự lợi và lợi tha, có thể hiện các việc này là các Bồ-tát có loại như thế, có sinh như thế để thực hành lợi ích. Cho nên trong phẩm Hương Đài ở kinh này có ghi: “Vô Cấu Xưng nói với các Bồ-tát ở phương trên rằng: Như thế, các vị Đại só, Đức Thích-ca Như Lai có thể vì việc khó mà ẩn giấu công đức vô lượng tôn quý, chẳng kể công lao, phương tiện điều phục những chúng sinh cang cường. Các Bồ-tát sinh vào cõi này, cũng phải kham chịu các khổ nhọc để thành tựu tâm đại bi kiên cố tinh tấn trợ giúp hoằng dương chánh pháp vô thượng của Như Lai, làm lợi ích hữu tình; kham nhận thế giới này, thực hành hạnh Bồ-tát, lợi ích chúng sinh; trụ ở một đời này tu tập đạt được công đức, còn nhiều hơn công đức lợi lạc hành hạnh Bồ-tát trong trăm ngàn kiếp ở tất cả thế giới Diệu Hương, vì ở thế giới này có mười loại tu tập thiện pháp, đó là dùng tuệ thí nhiếp kẻ bần cùng, cho đến dùng bốn nhiếp, nhiếp phục chúng sinh. Tuy biết tất cả Bồ-tát đều tu tập hai hạnh trong ngoài nhưng kinh này chỉ hiển bày việc Bồ-tát ở cõi này tu tập hạnh thù thắng chẳng thể nghó bàn, hơn cả những cõi Phật khác. 4.Hiển oai đức to lớn của Như Lai: Thánh đức của chư Phật tuy có trăm ngàn, nhưng không ngoài hai loại là Đại oai lực và Đại thần đức. Oai lực có ba: Thánh oai lực, Pháp oai lực và Câu sinh oai lực. Thánh oai lực nghóa là khi xưa Phật tu tập định lực, nay cũng nương vào sức định đó mà được định tự tại, rồi tùy theo ý muốn mà thành tựu tất cả các việc. Vì điều nhu, khéo léo tu tâm cho nên gọi là Thánh oai lực. Pháp oai lực, nghóa là khi xưa Bồ-tát tu tập sáu độ… là các pháp thù thắng, vì có quả rộng lớn, có lợi lạc rộng lớn, cho nên gọi là pháp oai lực. Câu sinh oai lực nghóa là khi xưa, đầu tiên Đức Phật tích tập các phước đức tư lương, chứng đắc pháp câu sinh rất kỳ đặc, nên gọi là Câu sinh oai lực. Đầu tiên, Thánh oai lực là sáu thần thông: Thần cảnh trí tác chứng thông. Tùy niệm túc trụ trí tác chứng thông. Thiên nhó trí tác chứng thông. Kiến tử sinh trí tác chứng thông. Tri tâm sai biệt trí tác chứng thông. Lậu tận trí tác chứng thông. Thần cảnh thông lại có hai là năng biến và năng hóa, biến nghóa là thay đổi cái đã có từ trước, tức mười tám thần biến: Chấn động, sáng soi, lưu bố, thị hiện, chuyển biến, đến, đi, co, duỗi, các ảnh tượng nhập thân, đồng loại đều đến, hiển, ẩn, việc làm tự tại, chế phục các thần thông khác, ban cho biện tài, ban cho sự nhớ nghó, ban cho sự an lạc, phóng ánh sáng. Hóa, tức chưa có mà làm cho có, tức là ba loại hóa: Hóa thân, hóa cảnh và hóa ngữ. Như trên đã nói, hai loại biến hóa là vì hai việc: Dẫn dắt chúng sinh vào Thánh giáo của Phật. Ban ân tuệ cho tất cả chúng sinh thọ khổ. Thần thông của chúng sinh chỉ có đến hai ngàn, thần thông của Độc giác thì đến ba ngàn, thần thông của Như Lai thì trong một niệm có thể biến khắp mười phương. Thần thông của Bồ-tát Sơ địa đạt đến một trăm cõi Phật, cho đến Bồ-tát Địa thứ mười thì tùy theo phẩm loại mà có số lượng nhiều hay ít, như kinh Thập Địa có nêu lên phần hạn đó; đến như Lậu tận thông thì Nhị thừa chỉ có thể đoạn được các lậu chứng hiện mà chẳng đoạn được các lậu thô nặng, chỉ biết được Tự lậu tận mà không biết Tha lậu tận và phương tiện lậu tận, chẳng biết được người khác ở nơi lậu tận có Tăng thượng mạn. Còn Như Lai thì có thể liễu tri được Tự lậu tận, Tha lậu tận và phương tiện lậu tận, cũng có thể biết được người khác có Tăng thượng mạn, còn tự mình thì không nhiễm ô, cũng có thể vì người khác khéo léo phân biệt các Tăng thượng mạn. Đó là luận về ba loại thần biến. Phần tựa kinh này ghi: “Bảo Tánh và năm trăm trưởng giả hiến cúng lọng báu, Đức Phật hợp làm một, che phủ cả đại thiên”, đây thuộc về chuyển biến thứ năm trong mười tám biến. Chuyển nhiều thành ít, tức là biến thứ tám, duỗi tức khai triển nhỏ thành lớn. Lúc bấy giờ, Thế Tôn biết đại chúng còn do dự, bèn ấn ngón chân lên mặt đất, tức thời cõi tam thiên đại thiên có vô lượng trăm ngàn vật báu trang nghiêm, đây thuộc về chuyển biến thứ năm. Căn cứ theo sự thật thì chỗ thấy của Bồ-tát vốn là cõi tịnh, còn Nhị thừa và phàm phu thấy là cõi uế. Nay vì hàng Nhị thừa… mà biến cõi uế thành cõi tịnh, đây cũng thuộc về chuyển biến thứ năm, trở về lại cõi uế thì cũng như thế. Vì do Phật có thắng giải nên có thể chuyển biến. Trong phẩm Vấn Tật thì ngài Vô Cấu Xưng dùng đại thần lực, làm cho trượng thất trống không, không có vật gì, chỉ đặt một chiếc giường để nằm hiện bệnh, đây thuộc về biến mười hai là ẩn trong mười tám biến. Ẩn dấu các vật đã có, làm cho không hiện hữu. Trong phẩm Bất Tư Nghị, khi ngài Thu Tử mong cầu tòa ngồi thì bị trách cứ và bảo nên vì pháp. Sau ngài Vô Cấu Xưng hỏi Bồ-tát Diệu Cát Tường cõi Phật nào có tòa báu, Bồ-tát Diệu Cát Tường trả lời là cách đây ba mươi sáu hằng hà sa cõi Phật về phương Đông, có một cõi Phật tên là Sơn tràng, Đức Phật trụ ở cõi này hiệu là Sơn Đăng Vương, thân Phật cao tám mươi bốn ức du-thiện-na, tòa sư tử của ngài cao sáu mươi tám ức du-thiện-na, thân của Bồ-tát cao bốn mươi hai ức du-thiện- na, tòa cao ba mươi bốn ức du-thiện-na, các tòa này đều rất đẹp đẽ. Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng liền phát khởi đại thần thông, thì liền thấy Đức Phật Sơn Đăng Vương dời ba mươi hai ức tòa sư tử lớn vào trong trượng thất của ông Duy-ma-cật. Việc này thuộc về biến thứ sáu đến đi trong mười tám biến, cũng là biến mười ba việc làm tự tại. Vì nghó đến liền đến được tùy ý, tự tại. Ngôi trượng thất của ngài Vô Cấu Xưng bỗng nhiên rộng lớn trang nghiêm, đây là thuộc về biến thứ tám là duỗi, vì biến nhỏ thành lớn, tức có thể dung chứa ba mươi hai ức tòa sư tử mà không ngăn ngại. Thành lớn Quảng Nghiêm cho đến các cung điện của A-tố-lạc… cũng không bị ép chật, vẫn thấy y như cũ, trước sau không khác. Đây là thuộc về biến thứ chín, các hiện tượng nhập vào thân, các hiện tượng chẳng nhỏ, thân cũng chẳng lớn, cho nên thuộc về biến này. Vì lấy thân làm chủ cho nên lấy thân đặt tên cho biến này. Hiện tượng lớn nhập vào trượng thất là thuộc vào loại này. Còn khiến các Bồ-tát mỗi mỗi tự biến thân mình cao bốn mươi hai ức du-thiện-na để lên tòa sư tử là thuộc về biến thứ tám là duỗi, vì làm cho ngắn thành dài. Ngài Vô Cấu Xưng nói với Xá-lợi-phất rằng: “Chư Phật Như Lai trụ nơi giải thoát chẳng thể nghó bàn, có thể đem núi Diệu cao nhét vào hạt cải, rót nước biển vào sợi lông, đặt đại thiên giới vào lòng bàn tay, ba việc này, thì hai việc lớn nhỏ không tăng giảm, tức là các ảnh tượng nhập vào thân, hoặc kéo bảy ngày thành một kiếp, đây là biến thứ tám kéo ra. Tức kéo ngắn thành dài, hoặc rút một kiếp thành bảy ngày, đây là biến thứ bảy, co, rút lại, tức rút dài thành ngắn. Như thế tất cả đều trụ nơi giải thoát chẳng thể nghó bàn. Thần lực của Phật nói rộng như dưới đây, đều nằm trong mười tám thần biến cả. Ba loại hóa nhiếp, phẩm Quán Hữu Tình nói Thiên nữ rải hoa, hoa là cảnh hóa hiện ra trong Thần cảnh trí thông, vì hóa làm sắc hương… Việc hy hữu thứ nhất trong tám hy hữu nói rằng: Ngôi trượng thất này thường có ánh sáng màu vàng ròng chiếu soi, tức là biến thứ mười tám, phóng ánh sáng, cho đến điều hy hữu thứ tám là nói ngôi thất này thường hiện tất cả cõi Phật có công đức trang nghiêm và các cung điện của chư thiên được các loại báu vật trang sức. Đây là thuộc về chuyển biến, hoặc cũng cho là thuộc về biến các ảnh tượng nhập thân. Trong phẩm Hương Đài thì hóa làm Bồ-tát, lên cõi Diệu Hương xin cơm của Phật và cùng với chín trăm vạn Bồ-tát đến cõi này, đây là biến thứ sáu, đến đi. Toàn thể đại chúng đều thấy các việc Bồ-tát đến cõi kia… đây là biến thứ tư, thị hiện, tức là thị hiện việc ở cõi kia khiến đại chúng cùng thấy. Hóa chín trăm ức tòa ngồi tức là Hóa cảnh, vì vốn đã không mà hiện nay có. Đại chúng ăn cơm mà còn thừa, thuộc về duỗi, tức là làm ít thành nhiều. Như thế nói rộng ra đến việc của Phật Bất Động đều thuộc về mười tám thần biến này. Văn sau cũng nên như thế mà phối hợp riêng. Những điều nói trên đều là oai lực thần thông của bậc Thánh. Kế đến là nói về oai lực của pháp; do khi xưa Bồ-tát tu tập oai lực của sáu Độ, nên hay hiện bốn tướng là Đoạn chướng, Tư lương thành tựu, Lợi ích tự tha và Đương lai chứng quả. Do Bố thí mà đoạn trừ tâm bỏn sẻn, có thể lấy đó làm tư lương cho Bồ-đề của chính mình, lại trừ được đói khát dịch bệnh, nghèo khổ cho người khác, mai sau giàu sang, đạt được vị đại lộc tài bảo và đại bằng đảng quyến thuộc, cho đến do Bát-nhã mà đoạn được vô minh làm tư lương cho chính mình; có thể dùng bốn nhiếp để thành tựu cho chúng sinh, như đã giác ngộ, dẫn đến được niềm vui an lạc thanh tịnh, vì tất cả hữu tình mà như lý thuyết pháp, khiến cho được lợi ích an lạc ở hiện đời và mai sau, gồm nhiếp các thiện căn, chân chánh đối với việc làm, vị lai sẽ chứng quả nhị chướng ly hệ. Tùy theo thứ tự phối hợp với bốn tướng, vô minh, keo lận của thế gian đều đoạn trừ, cho đến lộc vị tài bảo, bằng đảng quyến thuộc, nhiếp vào thiện căn, chứng quả ly hệ. Đây là hiển bày oai lực của pháp thiện. Cuối cùng là, Câu sinh oai lực, nghóa là tánh có thể nhớ nghó đến các việc bản sinh…, tự tại vì các loài hữu tình mà kham nhận những khổ não lớn, hết thọ mạng ở trời Đổ-sử mới nhập diệt. Thọ mạng, hình sắc, danh tiếng đều vang xa. Hạ sinh nhân gian vào thai thì phóng quang chiếu cùng khắp, nhập, trụ, xuất thai thì ba thời đều biết; vừa sinh ra đi bảy bước, không cần nâng đỡ; trời rồng có oai đức, rải hoa cúng dường, tướng hảo trang nghiêm thân, phá diệt các ma oán, các chi đều đầy đủ, có sức mạnh của trời Na-la-diên, tướng hài nhi vẫn tự nhiên thấu đạt được công xảo minh; không thầy chỉ dạy mà chứng được Vô thượng Bồ-đề; Đại phạm Thiên vương tự nhiên khuyến thỉnh; mây chớp kinh hoàng mà nhập định chẳng lay động; loài nhuyễn động đều quy hướng tin kinh Bồ-đề; đã thành Phật rồi thì dưới đến loài bàng sinh cũng đến cúng dường; rồng mây thường dò ngóng, tắm rửa liền tuôn mưa; khi đi chẳng lìa tòa; cành lá của cây đều tỏa bóng che mát thân thể, chưa từng thiếu sót, sáu năm ma tìm cầu chẳng được, những kẻ động kinh tán loạn thấy được liền trở lại tâm bình thường, nghịch thai thì được thuận, người mù thì được sáng, kẻ điếc lại nghe được, ba độc trừ diệt, thường nằm nghiêng bên hông phải, ngồi nơi tòa cỏ, chưa từng động loạn, tuy hiện ngủ nghỉ mà không chuyển mình, gió chẳng lay động y, đi như dáng sư tử, khi đi chân phải bước trước chân trái bước sau, thế như trâu chúa, tùy theo đất cao thấp mà bàn chân đều tiếp xúc đầy đủ, chẳng ngại sỏi đá, cửa thích ứng theo lớn nhỏ, thức ăn đều nghiền nát, khi Niết-bàn, mặt đất chấn động, các vì sao mất ánh sáng, xen nhau rơi rụng, các việc như thế gọi là Câu sinh oai lực, chẳng phải do thần thông oai lực tạo ra. Kinh này đã trình bày đầy đủ oai lực thần thông năm vị Phật Hương Đàn, Đăng Vương, Vô Động, Dược Vương, Thích-ca, còn những vị khác thì tùy sự ứng hiện mà có, không có một tiêu chuẩn nhất định, chẳng thể nhất nhất phải hiển thị những việc như thế, đến văn sau sẽ nói rộng hơn. Đại Thánh đức, tức là hiển thị mười hiệu viên mãn của Như Lai. Nhị đoạn nhị trí gọi là đại Thánh đức. Nhị đoạn tức là đoạn tập khí phiền não chướng và đoạn tập khí sở tri chướng, tức hai chướng tận trừ, chân lý được hiển bày do nơi đoạn chướng, vì đoạn tánh cho nên gọi là đoạn nhị trí: Đã đoạn phiền não chướng rồi thì trí chẳng tùy chuyển, tức trí sinh không; đã đoạn sở tri chướng rồi thì đối với tất cả cảnh trí không chướng ngại tức là trí pháp không. Lại có thể nêu ba trí là Thanh tịnh trí, Nhất thiết trí và Vô tuệ trí. Lại Phật có một trăm bốn mươi pháp bất cộng đó là ba mươi hai tướng quý, tám mươi vẻ đẹp phụ, bốn tất cả loại thanh tịnh, bốn Vô sở úy, ba Niệm trụ, ba chẳng hộ đại bi, mười Lực, pháp không quên sót, tập khí vónh viễn đoạn trừ, Nhất thiết chủng diệu trí và Phật vô tránh nguyện trí, Vô ngại giải thoát. Như thế đều là pháp của đại Thánh đức. Như Luận Du-già quyển bốn mươi tám, bốn mươi chín đã phân biệt hiển bày thể nghóa của các công đức này. Nay kinh nêu lên bảy loại tối thắng gọi là đại Thánh đức: Sở y thắng, tức hiển thân Phật có tướng quý và vẻ đẹp phụ. Chánh hạnh thắng, Phật có hai điều lợi, lợi ích an lạc, thương xót thế gian, khiến cho trời người cùng đạt được lợi ích. Viên mãn thắng, tức giới, kiến quỷ tắc và tịnh mạng của Phật đều đầy đủ. Trí tuệ thắng, do Phật thành tựu bốn Vô ngại giải. Oai lực thắng, vì có sáu thần thông. Đoạn thắng, tập khí hai chướng đều đoạn trừ. Trụ thắng, trụ ở ba trụ vô thượng vô đẳng. Nghóa là Thánh, Thiên, Phạm trụ; tam Giải thoát môn và Diệt tận định gọi là Thánh trụ thì phần nhiều trụ ở diệt tận định. Bốn tónh lự gọi là Thiên trụ, thì phần nhiều trụ ở tónh lự thứ tư vô động; bốn vô lượng gọi là phạm trụ, thì trụ ở đại bi. Do ngày đêm sáu thời dùng Phật nhãn quán xét thế gian, biết người nào đối với thiện căn có tăng có giảm và đạt Tam thừa. Từ đầu đến cuối của kinh này đều hiển thị bảy món thù thắng này đó gọi là đại Thánh đức, oai lực và Thánh đức gọi chung là Như Lai oai đức thứ tư. 5.Chúng đương thời căn cơ thành thục nên nghe: Phật dùng mắt đại bi trí, ngày đêm sáu thời quán xét thế gian, phương tiện làm lợi ích cho chúng sinh, không có bốn lỗi: Không phi xứ, không phi thời, không phi pháp, không phi khí. Như kinh này đã ghi: “Những oai nghi, đi đứng, chỗ sắp đặt thực hành, đều là Phật sự cho nên thuyết kinh này, chúng đương thời nên nghe” chẳng phải là hư dối lập bày không có lợi ích người nghe. Kinh này gồm có mười ba vị lợi ích. Vả lại, phẩm Tựa, nhân nói tướng ng- hiêm tịnh của cõi Phật thì năm trăm trưởng giả được vô sinh nhẫn, tám mươi bốn ngàn người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ba mươi hai ngàn trời người biết được pháp hữu vi là vô thường, xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh, tám ngàn Tỳ-kheo được lậu tận ý giải. Phẩm Phương Tiện, ngài Tịnh Danh hiện bệnh nhân có người hỏi mà thuyết pháp, có vô số trời người, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng chánh Giác. Trong hai phẩm Thanh Văn và Bồ-tát, đầu tiên gặp Tịnh Danh, tuy lúc bấy giờ nghe mỗi người đều có đắc đạo, Phật bảo đi thăm bệnh thì đáp là không đắc đạo. Trong phẩm Vấn Tật, nhân nghe đàm luận nhau mà tám ngàn Thiên tử đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Phẩm Bất Tư Nghị, ngài Ca-diếp nêu lên các người mù bẩm sinh để dụ cho chính mình không liễu ngộ được pháp môn giải thoát, thì ba mươi hai ngàn Thiên tử phát tâm vô thượng chánh đẳng giác, tám ngàn Bồ-tát nhập vào trí phương tiện thiện xảo của Bồ-tát, nhập vào cảnh giới giải thoát bất khả tư nghị sở nhập. Phẩm Quán Hữu Tình, phẩm Bồ- đề Phần chẳng nói đắc đạo. Phẩm Nhập Pháp Môn Bất Nhị thì nói năm ngàn Bồ-tát vào pháp môn Bất nhị; phẩm Hương Đài nói mười việc thù thắng hơn các cõi Phật khác thành tựu tám pháp, sinh về tịnh độ, thì năm ngàn Thiên tử phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mười ngàn Bồ-tát được Vô sinh nhẫn. Phẩm Bồ-tát Hạnh thì nói chín trăm vạn Bồ-tát ở phương trên nghe được pháp hữu tận vô tận thì vui mừng, dùng hương hoa vi diệu rải khắp đại thiên giới cúng dường Phật pháp và Bồ-tát rồi tự nhiên biến mất ở đây mà trở về cõi nước kia. Phẩm Quán Như Lai, nhân thấy thế giới Diệu Hỷ và Vô Động Như Lai mà mười bốn na-do-tha người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, nguyện sinh sang cõi nước kia, Phật thọ ký sẽ được sinh. Phẩm Pháp Cúng Dường, phẩm Chúc Lụy thì chẳng nói đến đắc đạo. Hai, Tông chỉ của kinh: Đức đầu tiên ở phương này là y cứ theo nghóa chỉ của các kinh luận hiện có mà tổng quát lập bốn tông: Lập tánh tông, thành lập pháp Tam khoa đều có thể, đó là Tát- bà-đa bộ, tức Ca-diên, Tạp tâm và Bà-sa. Phá tánh tông, cho các pháp chỉ có tướng mà không có thật tánh, phá thuyết lập tánh nêu trên, như luận Thành Thật. Phá tướng tông, cho rằng các pháp không chỉ không có thật tánh mà tướng trạng cũng chẳng thực có, như các kinh Bát-nhã… Trung luận, Bách luận… Hiển thật tông, cho rằng tất cả pháp thật có đạo lý, chỉ tùy theo chỗ thích ứng mà có không có hữu, các kinh Niết-bàn, Hoa Nghiêm, Lăng-già… đều thuộc tông này. Nếu các kinh luận chỉ có như thế, có thể định làm bốn Tông thì chỉ như kinh A-hàm xưa ghi: “Khi Xá-lợi vào Niết-bàn thì trời Vô sắc than khóc nước mắt rơi như mưa xuân”. Kinh của Đại chúng bộ thuộc tông nào; kinh Phạm Võng Lục Thập Nhị Kiến, Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm, giáo của Chánh lượng bộ, luận Tam-di-đế, các luận của Thượng tọa bộ, các kinh luận ấy đều chẳng thuộc bốn tông đâu được chỉ tổng gom có bốn tông? Nay căn cứ theo các kinh luận mới phiên dịch, tổng y theo các giáo, thì phân loại giáo có ba; dùng lý để nêu tông, thì tông gồm có tám. Giáo có ba, quyển hai kinh Giải Thâm Mật nói, Thế Tôn vì Bồ-tát Thắng Nghóa Sinh nên nương vào Biến kế sở chấp thể tướng không mà thuyết tướng vô tự tánh tánh, y vào y tha khởi không có Biến kế sở chấp tự nhiên sinh mà thuyết sinh vô tự tánh tánh, nương vào Viên thành thật không có Biến kế sở chấp mà thuyết Thắng nghóa sinh, nói Tam vô tánh đều y cứ vào nghóa không có Biến kế sở chấp. Thắng nghóa đã sinh thì lãnh ngộ sâu xa, nói rộng về các ví dụ như thuốc Tỳ-thấp- phược của thế gian, như các thứ bột màu, thục tô, hư không… xong Thế Tôn liền tán thán việc khéo lãnh ngộ lời chỉ dạy. Bồ-tát Thắng nghóa sinh lại bạch Đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Vào thời kỳ đầu tiên ở tại rừng Thi lộc, nơi mà tiên nhân Bà-la-ni-tư bị đọa, Đức Thế Tôn vì những người cầu Thanh văn thừa mà dùng tướng bốn đế để chuyển pháp luân, tuy là rất kỳ đặc, rất hy hữu, tất cả trời người… trong thế gian, đầu tiên không ai có thể như pháp mà chuyển, nhưng pháp luân được chuyển ở thời kỳ này còn có hạn lượng, chưa phải là liễu nghóa, là nền móng của sự tranh luận. Bạch Thế Tôn! Trong thời kỳ thứ hai, Thế Tôn đã vì những người phát tâm cầu Đại thừa, nên y cứ theo lý “Các pháp đều không tự tánh, không sinh không diệt, xưa nay vắng lặng tự tánh Niết-bàn”, dùng tướng ẩn mật để chuyển pháp luân, tuy càng kỳ lạ, càng rất hy hữu, nhưng pháp luân chuyển lúc bấy giờ cũng có pháp cao hơn, còn có chỗ để dung nạp, chưa phải là liễu nghóa, cũng là nền móng cho sự tranh luận. Bạch Thế Tôn! Vào thời kỳ thứ ba, Thế Tôn vì những người thú hướng Nhất thiết thừa, mà y cứ theo lý “. Tất cả pháp đều vô tự tánh, vô sinh vô diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn, không có tự tánh tánh”, để liễu rõ tướng chuyển pháp luân. Đây là giáo kỳ đặc đệ nhất, rất hy hữu. Pháp luân mà Thế Tôn chuyển ở thời kỳ này thật không có giáo nào hơn nữa, không có gì để dung nạp được, là chân liễu nghóa, chẳng phải là nền tản của sự tranh luận. Tức là trong kinh Quang Minh nói ba loại pháp luân: Chuyển, chiếu, trì. Đầu tiên Thế Tôn thuyết Tam thừa cũng tu hành hữu giáo bốn đế, gọi là chuyển pháp luân, vì chuyển mười hai hành tướng nên chỉ gọi là chuyển. Thời thứ hai, Thế Tôn thuyết Đại thừa chỉ hành lý không chiếu phá hữu, cho nên gọi là chiếu pháp luân. Thời thứ ba, thuyết về phá chấp không, còn hai tánh hữu, hạng người Tam thừa đều có thể tu trì, cho nên gọi là trì pháp luân. Cũng như trong kinh Niết-bàn nói: “Như có một vị thầy thuốc, đầu tiên cho người bệnh uống sữa để trừ bệnh, nhưng do uống sữa người trong nước chết nhiều, một vị thầy thuốc khác khuyên vua nên bảo mọi người không dùng sữa, người trong nước đều hết bệnh, sau vua có bệnh, thầy thuốc lại hòa thuốc vào sữa cho vua dùng. Vua vặn hỏi, thầy thuốc đều nói: có bệnh nên uống sữa, có bệnh không nên uống sữa. Bệnh này nên hòa thuốc vào sữa để trị nên không có lỗi.” Cũng như Tam thời giáo nói trong luận Du-già vậy. Tuy biết chỉ một trận mưa mà nhuần thấm khắp cả, tức giáo thật không sai biệt, nhưng tùy theo căn cơ mà thành ẩn hiển, giáo đã có ẩn hiển tức chỉ nói không hữu mà chẳng phải là trung đạo, không hữu mà giáo trung đạo nói không có ẩn hiển. Ở đây tuy có dẫn văn nhưng chưa phân biệt thuộc vào giáo nào. Thế nào là ba thời giáo này: Chỉ thuyết pháp hữu tông, tức các giáo vào thời kỳ đầu như A- hàm… căn cứ theo hàng tiểu cơ mà phá chấp ngã, nói không có ngã của hữu tình, chỉ nói nhân của pháp. Tuy có mười hai bộ chấp khác nhau, nhưng đầu tiên theo hàng tiểu cơ mà nói pháp cơ. Chỉ thuyết pháp không tông, tức các giáo ở thời thứ hai như Bát-nhã… theo căn cơ Đại thừa, phá chấp pháp, nói tất cả pháp vốn vô tánh. Đoạn trừ chấp hữu không, đồng thời thuyết hữu không tông, tức các giáo Hoa Nghiêm, Thâm Mật, Niết-bàn, Pháp Hoa, Lăng-già, Hậu Nghiêm, Thắng Man… Xưa ngã pháp được chấp là có, hữu vi, vô vi thì đều không, nay nói ngã pháp được chấp là không, hữu vi vô vi là có, cho nên hữu không đều đoạn, mà không hữu đồng nói đến, theo lý phối hợp với kinh, thì hai Sư dẫn khác nhau, tức là thời giáo thứ hai và thứ ba. Các Sư Trung luận và Bách luận phần nhiều chỉ dẫn dụng giáo thuyết không. Nay giải thích chẳng phải như thế, giáo trung đạo chân chánh thì dùng lý để làm căn cứ cho tông. Tông thì có tám: Ngã pháp câu hữu tông, Như Độc Tử Bộ nói ngã pháp đều có, lập ba tụ pháp là hữu vi tụ, vô vi tụ và phi nhị tụ. Hai tụ trước thuộc pháp, tụ thứ ba thuộc ngã. Lại lập năm pháp tạng là quá khứ, vị lai, hiện tại, vô vi và bất khả thuyết, đây cho rằng ngã bất khả thuyết, là hữu vi vô vi. Hữu pháp vô ngã tông, tức là Tát-bà-đa bộ… thuyết các pháp thuộc về hai loại là danh và sắc, hoặc thuộc về bốn loại là quá khứ, hiện tại, vị lai và pháp vô vi, hoặc thuộc năm loại là tâm, tâm sở, sắc, bất tương ưng, vô vi, cho nên tất cả pháp đều thật có. Pháp vô khứ lai tông, tức Đại chúng bộ… thuyết có pháp hiện tại và vô vi, còn quá khứ và vị lai thì không có thể dụng. Hiện thông giả thật tông, tức Thuyết giả bộ… nói không có quá khứ và vị lai, còn các pháp trong hiện tại, nơi uẩn thì thật, nơi giới xứ thì giả, các pháp tùy thích ứng mà giả thật không định được. Các sự thành thật… và các sự khác của kinh bộ tức thuộc về tông này. Tục vọng chân thật tông, tức Thuyết xuất thế bộ… cho thế tục đều là giả vì hư vọng, pháp xuất thế là thật vì chẳng phải hư vọng. Chư pháp đản danh tông, tức Nhất thuyết bộ cho rằng tất cả ngã pháp chỉ có giả danh, không có thật thể. Thắng nghóa giải không tông, tức các Luận sư Thanh Biện… cho rằng các kinh nói về nghóa không là liễu nghóa, nói tất cả pháp thế tục là có, còn thắng nghóa thì đều không. Ứng lý viên thật tông, tức các luận sư như Hộ Pháp… hoằng dương các kinh Hoa Nghiêm, Thâm Mật… tuy nói Nhị đế, nhưng tùy chỗ thích ứng, đều có lý không, viên mãn vi diệu không thiếu sót, chân thật thù thắng. Nay kinh này không thuộc về sáu tông trước, hai tông sau thuộc Đại thừa, cho nên biết kinh này thuộc về hai tông này. Nếu căn cứ theo nghóa Đại thừa thứ nhất của Thanh Biện thì kinh này, chỉ nói nghóa Nhị đế, căn cứ theo Thắng nghóa đế thì lấy không làm tông, vì thế mười vị đại đệ tử đều dùng nghóa không để cật vấn, lời nói của họ đều bị khuất phục. Bốn vị Đại Bồ-tát cũng dùng lý không chân như để trình bày, thì đều nói là không thể đối đáp, biện lý được. Ngài Cát Tường thăm bệnh, trước tiên làm cho phương trượng đều trống không, lại nói cõi nước của chư Phật, tất cả cũng đều không, không có sự phân biệt kia, chân không cũng không. Hơn nữa, phẩm Quán Chúng Sinh nói rằng: Ví như nhà huyễn thuật thấy việc huyễn hóa, Bồ-tát quán chúng sinh cũng như thế, cho đến như lửa không khói… vì thế kinh này tuy luận về nhị đế, nhưng thắng nghóa rất sâu xa, vì lấy nghóa làm chủ cho nên đặt không làm tông. Nếu căn cứ theo nghóa Đại thừa sau của ngài Hộ Pháp… thì tuy thuyết nhị đế, nhưng thế tục đế có bốn chung cho không và hữu; Thắng nghóa đế cũng có bốn mà chỉ có hữu mà chẳng có không, không tức là vô. Biến kế sở chấp chỉ vọng chấp hữu, thể của nó thật là không vô, cho nên chẳng phải là Thắng nghóa. Hai đế đều có bốn lớp bất đồng. Bốn lớp của thế tục đế: Do thế gian thành tựu, pháp thể vị tất đã có, tất cả thế gian cùng dùng ngôn thuyết của mình chấp đó là có, tức thật có ngã pháp, ví như bình, thau… Do đạo lý thành lập, hữu tình thế gian có tầm tư… đạo lý được nói ra thể dụng đều có, tức pháp hữu vi, vô vi, uẩn, xứ, giới… Do chứng đắc thành lập, các học giả, thế gian dùng phương tiện học tập, trừ ác làm thiện, chứng Thánh quả, tức bốn đế lý… Do nghóa chân thành lập, các học giả thế gian đã tu học rồi, dùng pháp thù thắng này làm chỗ chứng đắc, tức là nhị không chân như. Trong bốn lớp này, một lớp đầu là thể không, ba lớp sau là thể hữu. Bốn lớp của Thắng nghóa: Do thế gian thành lập, các học giả thế gian, dùng ngôn thuyết thế gian, cho điều này là có, tức các pháp hữu vi vô vi uẩn xứ giới.… Do đạo lý thành lập, các học giả thế gian cùng lập đạo lý, như lý bốn đế… Do chứng đắc thành lập, các học giả thế gian dùng phương tiện này để chứng quả Thánh, đó là nhị không chân như. Do chân nghóa thành lập, các học giả thế gian đã tu học rồi, dùng nơi thâm diệu làm chỗ chứng ngộ, phế bỏ việc luận đàm yếu chỉ, chỉ có nhất chân pháp giới. Luận về hai đế này, đều chung cho nhân pháp, pháp mà hàng trung trí biết được là thế tục đế, pháp mà bậc thượng trí liễu tri gọi là thắng nghóa đế. Vả lại, đạo lý thấp kém gọi là thế tục đế, đạo lý thù thắng cao xa gọi là thắng nghóa đế. Vì thế nhị đế mỗi mỗi đều có bốn lớp, y nhân y pháp, đạo lý có sâu có cạn, cảnh có thô có tế để phân định sự sai biệt, nhưng một bộ kinh này phần nhiều nói về thế tục đế, cho nên phẩm Tựa ghi: “Không có ngã tạo tác không có người thọ nhận”. Phẩm Thanh Văn ghi: “Pháp chẳng phải chúng sinh vì lìa cấu nhiễm chúng sinh”. Phẩm Bồ-tát ghi: “Giả gọi là Bồ-đề vì danh tự tánh không”. Phẩm Vấn Tật ghi: “Vả lại bệnh này phát khởi đều là do chấp ngã, vì thế chẳng nên sinh tâm chấp ngã. Đã biết gốc bệnh tức trừ tướng ngã và tưởng chúng sinh. Như khởi tưởng về pháp, nên nghó thế này: Vì do các pháp hợp thành thân, cho nên khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt, cho đến nói rộng ra… Vì diệt tưởng về pháp, nên nghó thế này: Pháp tưởng này cũng là điên đảo, điên đảo tức là đại hoạn. Ta phải nên xa lìa, nói lìa tức lìa, tức lìa ngã và ngã sở, cho đến các phẩm đều nói ngã pháp không, khuyên xa lìa các phân biệt. Ba thế tục sau tức ba thắng nghóa trước không cầu phải luận riêng. Nói về Thắng nghóa đế có bốn lớp: Nhân duyên pháp môn. Duy thức pháp môn. Vô tướng pháp môn. Chân như pháp môn. Nhân duyên pháp môn: Phẩm Tựa ghi: “Do nhân duyên nên các pháp sinh, nghiệp, thiện, ác cũng chẳng mất”. Phẩm phương tiện ghi: “Thân này do bốn đại chủng hợp thành, nó vô thường, không mạnh mẻ, còn pháp thân Như Lai do vô lượng pháp thiện gom tập mà thành, cho đến muốn được pháp thân này nên phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”. Phẩm Vấn Tật ghi: “Bệnh của Cư só nhân đâu mà khởi? Duy-ma- cật nói: Do si khởi ái, tức bệnh của tôi sinh, vì tất cả chúng sinh bệnh, cho nên tôi bệnh”. Trước trả lời về bệnh là nói về nhân duyên sinh tử, si là gốc. Câu trả lời sau là nói về nhân duyên xuất thế, dùng Đại từ bi làm gốc. Vả lại Bồ-tát có bệnh nên nghó rằng: “Bệnh của tôi hôm nay đều là do các phiền não vọng tưởng điên đảo từ đời quá khứ sinh ra, vì do bốn đại hòa hợp, giả danh là thân.” Các văn như trên đều nói về pháp nhân duyên. Duy thức pháp môn: Phẩm Tựa ghi: “Trực tâm là tịnh độ của Bồ-tát, thân tâm Đại thừa là tịnh độ của Bồ-tát, cho đến nói rộng ra… tùy theo tâm tịnh tức cõi Phật tịnh; do đó tâm nhơ thì cõi Phật nhơ, tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”. Phẩm Thanh văn ghi: “Như Đức Phật nói vì tâm nhơ cho nên chúng sinh nhơ, tâm tịnh thì chúng sinh tịnh”. Các văn như thế đều nói về pháp Duy thức. Vô tướng pháp môn: Phẩm Thanh văn ghi: “Pháp thường vắng lặng, vì diệt hết các tướng; pháp lìa tướng vì không có sở duyên. Bài báng Phật, hủy nhục pháp, không vào chúng số, rốt cuộc chẳng được diệt độ, ngài nên như thế mới được thọ nhận thức ăn”, cho đến nói rộng ra… Tất cả ngôn thuyết chẳng lìa tướng, đến như người trí chẳng chấp trước văn tự, cho nên không kinh sợ, vì văn tự tánh ly (tánh văn tự là xa lìa), không có văn tự, tức là giải thoát, tướng giải thoát tức là các pháp”. Các đoạn văn như thế, đều là nói về pháp vô tướng. Chân như pháp môn: Phẩm Tựa ghi: “Nếu có thể phân biệt khéo léo được các pháp tướng, thì nơi Đệ nhất nghóa thường chẳng động”. Phẩm Thanh Văn ghi: “Nếu có thể dùng tánh bình đẳng của món ăn mà nhập vào tánh bình đẳng của các pháp, dùng tánh bình đẳng của các pháp nhập vào tánh bình đẳng của các món ăn, mới có thể thọ nhận thức ăn. Lại chẳng nên dùng tâm hành sinh diệt mà nói pháp thật tướng. Các pháp rốt ráo chẳng sinh chẳng diệt là nghóa vô thường”. Phẩm Bồ- tát ghi: “Tất cả chúng sinh đều như, tất cả pháp cũng như, các Hiền Thánh cũng như, cho đến Di-lặc cũng như, như tức là chẳng một chẳng khác”. Phẩm Quán Chúng Sinh ghi: “Hỏi: ‘Điên đảo tưởng lấy gì làm gốc?’ Đáp: ‘Lấy vô trụ làm gốc.’ Hỏi: ‘Trụ lấy gì làm gốc?’ Đáp: ‘Vô trụ thì vô bản (không có gốc), từ gốc vô trụ mà lập tất cả pháp. Cho nên biết chân như rất rốt ráo sâu xa. Phẩm Pháp Môn Bất Nhị nói ba mươi ba bậc Đại só đều hiển bày pháp môn Bất nhị, trong đó ba mươi mốt vị nói về tướng vô sai biệt, cho rằng vào pháp môn Bất nhị, đều là dùng vô tướng phá tướng, đều là pháp môn vô tướng thứ ba, nghóa còn thô, còn chấp trước. Đến Bồ-tát Diệu Cát Tường, tuy dùng không lời không thuyết, không chỉ bày, lìa các hỏi đáp là vào pháp môn Bất nhị, tức cũng dùng chân như phá không ngôn thuyết, tức là dùng lời nói để hiển lý, cũng chưa phải là sâu xa cùng tột, vì còn nương vào sự giải thích để hiểu, cũng là pháp môn vô tướng thứ ba, thứ ba thuộc về thắng nghóa chứng đắc; chỉ có ngài Tịnh Danh im lặng không lời, chánh tri chánh chứng được chân như vi diệu, là pháp môn chân như, sâu xa lại càng sâu xa. Các văn dẫn như thế đều nói về pháp môn chân như. Nhân duyên sự pháp thì rất thô hiện, còn Duy thức lý quán thì rất vi tế, vì thuyết thì có tướng trạng của nội tâm, còn vô tướng thì quán chung với vô sai biệt tướng lại càng rất vi tế, nhưng vẫn có tâm vô tướng, chưa được chánh chứng. Chỉ có pháp môn chân như rất sâu xa vi diệu, tâm cảnh thầm hợp với trí, thần thì hợp với chánh lý; khế hội với chân trí thì trừ diệt hoặc chướng tập khí, lập tất cả pháp, cho nên đó gọi là bậc nhất. Tuy nói bốn môn nhưng không trái nhau, mỗi một pháp môn, thâu nhiếp tất cả. Vả lại trong nhân duyên lại có Duy thức, trong Duy thức lại có nhân duyên, cũng có vô tướng, vô tướng được duyên chẳng lìa nhân duyên, thể chân như cũng là nhân duyên vì nhân duyên thâu nhiếp tất cả pháp, cho đến trong chân như cùng với tất cả pháp chẳng phải một, chẳng phải khác, tùy sự thích ứng mà chẳng trái với nghóa của ba môn trước. Nay tùy sự tướng, thô tế khác nhau mà nói có bốn loại, chẳng phải nhất định là riêng biệt. Nay kinh này hiển thị thế tục đế, ngã pháp đều không, chẳng nên chấp trước. Thuyết pháp nhân duyên để trừ nhiễm giữ tịnh, nên lý Duy thức để nói cảnh là vọng chẳng phải chân, chứng được lý duy tâm thì rõ được yếu chỉ vô tướng, đoạn trừ tướng phân biệt sai biệt. Thuyết lý chân như khiến cho khởi trí chứng. Nhờ vào ngôn thuyết mà nói bốn sự lý khác nhau, bỏ yếu chỉ mà luận bàn, tất cả đều không sai biệt. Văn kinh sau nên tùy nghi mà phối hợp riêng. Trong đó hai tông đều giải thích nghóa kinh. Tông Đại thừa trước thì nói chung về hai đế, Tông Đại thừa sau thì nói riêng hai đế. Trước cho ba vô tánh là chân, ba tánh là tục; sau cho ba vô tánh là tục, ba tánh là chân. Về tông thuyết có hữu không, là do lý bất đồng. Ba, Thể tánh của kinh: Thể của kinh có hai: Văn năng thuyên. Nghóa sở thuyên. Văn là sở y, nghóa là năng y, do nơi văn năng thuyên mà nghóa được hiển bày. Nếu căn cứ theo Luận sư Thanh Biện giải thích hai thể này, thì vào thế tục đế để nói về thể của kinh, vì như tất cả pháp hữu vi vô vi, hoặc không hoặc hữu, nên các pháp là thể, vì đều lấy tất cả pháp làm sở thuyên. Như văn kinh sau ghi: “Ví như người huyễn thuyết pháp cho người huyễn nghe, tánh đó chẳng phải không, nhưng lại là giả chẳng phải là thật. Trong giáo năng thuyên cũng có nói ngôn luận chương cú, lấy âm thanh làm thể tánh. Phạm âm là Bát-đà, Hán dịch là Tích, là tên của Hộ Pháp, nhưng đó chỉ hiển thể mà chưa hiển được nghóa. Cú (câu) có thể phân làm hai loại: Tập pháp mãn tích cú, như nói chẳng sinh cũng chẳng diệt, chẳng đến cũng chẳng đi, chẳng phải một cũng chẳng phải khác, chẳng thường cũng chẳng đoạn. Một câu này tuy nghóa chưa đủ nhưng cũng được gọi là câu. Vì nghóa viên mãn, nên đầu tiên âm thanh có thể gom tập hiển bày các pháp, gọi đó là tích, giáo là tích của Lý, như tìm dấu vết mà được voi, cho nên được giáo mà quán xét nghóa lý, chẳng lập danh từ “Tự” mà đầu tiên lập tích này. Hiển nghóa châu viên cú, như nói: “Các hành vô thường là pháp sinh diệt, sinh diệt đã diệt, tịch diệt là an lạc”. Một câu này, nghóa đã đầy đủ. Nay lấy câu tập pháp tạng mãn túc giải thích ở trên, mà không lấy câu hiển nghóa châu viên này. Âm Phạm là Phược-ca, Hán dịch là Ngôn. Nghóa đã hiển đầy đủ gọi là Ngôn, tức là từ cú “câu” được Hộ Pháp nói. Âm Phạm là Bát-thích-ca-la, Hán dịch là Chương, chương tức minh nghóa, đoạn nghóa, một chương một đoạn để nói rõ về các nghóa. Âm phạm là Xa-tát-đát-la, Hán dịch là Luận. Tổng quát một bộ để lập tên luận. Bốn loại này đều lấy âm thanh làm thể tánh, từ hẹp mà được rộng, giải thích các pháp một cách đầy đủ, tức đầu tiên hiển thể, kế đó hiển nghóa, rồi giải thích rộng và cuối cùng là hoàn bị. Cho nên chẳng lập tên “Tự”, Bát-nhã Đăng luận có giải thích rõ về điều này. Đó là căn cứ theo thế tục, nếu căn cứ theo thắng nghóa thì tất cả năng thuyên, sở thuyên đều không. Cho nên văn kinh sau ghi: “Pháp không danh tự vì đoạn dứt ngôn ngữ, pháp không nói năng vì lìa giác quán, pháp không hình tướng vì như hư không, cho đến nói rộng ra, phàm người thuyết pháp thì không nói không chỉ bày, phàm người nghe thì không nghe không được. Vì thể tánh các pháp là không thì đâu có gì là giáo là lý? Căn cứ vào hai lý thế tục và Thắng nghóa mà văn kinh sau có ghi: “Thuyết pháp chẳng có cũng chẳng không, vì thể của thắng nghóa là không, thuyết pháp chẳng có, thể của thế tục là có nên ngôn ngữ chẳng phải không. Lại thể của Thắng nghóa là không cho nên chẳng phải có ngôn ngữ; chẳng phải không có ngôn ngữ; pháp tánh đã không, thì đâu thể nhất định nói là không là hữu. Cho nên cả hai đều chẳng phải. Từ thế tục đế mà có thể dùng giáo nghóa làm thể của kinh, nếu theo thắng nghóa tất cả đều không thì chẳng có thể hay không thể. Nếu căn cứ theo ngài Hộ Pháp… thì thắng nghóa và thế tục đế của Bồ-tát đều lấy hai giáo năng thuyên và sở thuyên làm thể của giáo. Vả lại sở thuyên thế tục đế đều lấy các pháp hữu vi vô vi hoặc không hoặc hữu làm thể, tức dùng ba tánh làm thể sở thuyên. Pháp không có ngã vì lìa ngã cấu là biến kế sở chấp; từ si sinh ái thì bệnh của tôi liền sinh tức y tha khởi tánh. Tất cả pháp đều “như” nên viên thành thật tánh cũng “như”. Các văn như thế trên dưới rất nhiều, đều nói chỉ dùng âm thanh, danh, cú văn làm thể tánh. Luận Thập Địa ghi: “Người thuyết người nghe đều lấy hai việc làm cứu cánh, đó là âm thanh và danh tự.” Trong kinh Giải Thâm Mật, ở Địa thứ chín nói đoạn hai ngu: Một là, đối với vô lượng pháp sở thuyết, vô lượng danh, cú, tự, Đà-la-ni tự tại ngu”. Luận Thành Duy Thức, quyển chín giải thích rằng “Vô lượng danh, cú, tự là pháp vô ngại giải; pháp sở thuyết tức là nghóa vô ngại giải; danh, cú, tự là văn năng thuyên; pháp sở thuyết là nghóa sở thuyên”. Đối pháp thứ nhất ghi: “Âm thanh mà Thành Duy Thức luận dẫn dụng là âm thanh mà chư Thánh tuyên thuyết”. Luận Thành Duy Thức quyển hai lại ghi: “Do pháp và từ, cả hai vô ngại giải, mà cảnh có sai biệt. Pháp duyên với danh… Từ duyên với âm thanh, cho nên y theo thế tục, âm thanh… là thể; nếu y theo thắng nghóa, luận chung về thể tánh các pháp thì gồm bốn loại: Nhiếp tướng quy tánh thể. Nhiếp dư quy thức thể. Nhiếp giả tùy thật thể. Giả thật biệt luận thể. Nhiếp tướng quy tánh thể: Nghóa là tất cả pháp hữu vi vô vi, có thể tánh là chân như, chân như là gốc, cho nên kinh Đại Bát-nhã ghi: “Tất cả hữu tình là Như Lai tạng”. Kinh Thắng Man cũng ghi: “Phàm sinh tử tức Như Lai tạng, nếu không phải là Như Lai tạng thì chẳng thể chán khổ vui mà cầu Niết- bàn, vì thế Như Lai tạng là y, là trì là kiến lập”. Kinh Vô Cấu Xưng nói: “Tất cả hữu tình đều như, tất cả pháp cũng như.” Lại nói: “Từ gốc vô trụ mà lập tất cả pháp”. Các văn như thế, thật chứng chẳng phải là một. Nhiếp dư quy thức thể: Nghóa là thể của tất cả pháp chẳng lìa thức. Kinh Hoa Nghiêm quyển chín ghi: “Tâm như người họa só, vẽ các loại năm ấm; trong tất cả thế gian; không pháp nào chẳng tạo; như tâm Phật cũng thế; như Phật, chúng sinh, đồng; tâm, Phật và chúng sinh, ba pháp không sai biệt; chư Phật thảy đều biết; tất cả từ tâm chuyển; nếu rõ biết như thế, người này thấy chân Phật, thân cũng chẳng phải tâm, tâm cũng chẳng phải thân, làm tất cả Phật sự, tự tại chưa từng có, nếu có người muốn biết, ba đời tất cả Phật, nên hiểu rõ như thế, tâm tạo chư Như Lai.” Kinh Vô Cấu Xưng ghi: “Vì tâm cấu nên chúng sinh cũng cấu nhiễm”. Các văn như thế chẳng phải là một. Nhiếp giả tùy thật thể: Nghóa là tất cả các giả pháp, đều không có một thể riêng biệt tùy gốc nương tựa mà lấy thật pháp làm tánh, như phẩn, hận… lấy sân làm thể. tịnh độ giả danh lấy bốn trần làm thể. Chúng sinh giả danh lấy năm uẩn làm thể; tất cả chư Phật lấy năm pháp làm thể. Giả thật biệt luận: Nghóa là dụng của giả thật khác nhau, mỗi mỗi đều được nói riêng. Như văn sau kinh ghi: “Hoặc có cõi Phật dùng âm thanh, danh tự làm Phật sự.” Danh cú đó thuộc về pháp xứ là bất tương ưng pháp. Âm thanh sở khởi thuộc về thanh xứ, thuộc về sắc trụ, như thế chẳng phải là một. Nay nói giáo thể, theo như văn nghóa, đều có bốn loại này; Thứ nhất, văn nghóa nhiếp tướng quy tánh đều lấy chân như làm thể. Chân như tức là bản tánh của tất cả pháp, như biển lấy vị mặn làm tánh, các nước ở trăm sông đổ ra biển đều biến thành vị mặn. Vạn pháp trở về chân thì cũng đồng một vị. Cho nên kinh Bát-nhã ghi: “Nếu dùng sắc để thấy ta, dùng âm thanh để cầu ta, người ấy thực hành tà đạo, chẳng thể thấy được ta.” Luận Thiên Thân ghi: “Ứng hóa chẳng phải chân Phật, chẳng phải người thuyết pháp, thuyết pháp bất nhị thư, không thuyết tướng ly ngôn.” Phẩm Thanh Văn kinh này ghi: “Ngài Vô Cấu Xưng nói với ngài Thiện Hiện rằng: ‘Văn tự tánh lìa, không có văn tự tức là giải thoát, tướng của giải thoát là các pháp.” Kinh lại ghi: “Pháp chẳng phải là kiến văn giác tri, nếu thực hành kiến văn giác tri thì đó là kiến văn giác tri mà chẳng phải là cầu pháp.” Phẩm Bất Tư Nghị ghi: “Pháp không có hý luận; nếu nói biết Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo thì đó là hý luận, chẳng phải là cầu pháp.” Phẩm Quán Chúng Sinh ghi: “Từ vô trụ lập tất cả các pháp.” Các văn như thế, thật chứng dẫn chẳng phải một. Thứ hai, nhiếp dư quy nhất: năng thuyên sở thuyên nếu theo căn bản thì lấy thức tâm của người năng thuyết làm thể; nếu căn cứ theo ngọn thì lấy tâm thức của người năng văn làm thể. Cho nên luận Thập Nhị Duy Thức ghi: “Sức triển chuyển tăng thượng, hai thức thành quyết định.” Phẩm Tựa ghi: “Tùy theo pháp giáo tức có diệu phước, tùy theo diệu phước tức có diệu tuệ, tùy theo diệu tuệ tức có diệu trí, tùy theo diệu trí mà có diệu hạnh, tùy theo diệu hạnh mà có tự tâm thanh tịnh, tức có các diệu công đức thanh tịnh.” Kinh Giải Thâm Mật ghi: “Sở duyên của các thức chỉ là sở hiện của “thức”.” Kinh A-tỳ-đạt-ma: “Người thành tựu giản trạch, có trí được định. Tư duy tất cả pháp, nghóa như đều hiển hiện”. Văn chứng minh rất nhiều. Thứ ba, nhiếp giả tùy thật, sở thuyên có bốn: Tâm, “thâm tâm là tịnh độ của Bồ-tát”. Tâm sở, “Các chúng sinh tu tập Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc, Căn, Lực, Giác chi, Đạo chi, sinh sang nước kia”. Sắc: “Chúng sinh có ba mươi hai tướng quý trang nghiêm sinh sang nước kia”. Vô vi “Nếu không có tướng tạo tác, tức là vô vi, trong pháp vô vi, làm sao có kiến”. Cho nên biết sở thuyên chỉ có bốn, các đoạn văn như thế toàn bộ kinh chẳng phải có một, chẳng thể dẫn hết. Vả lại, chỉ như thế năng thuyên có một, chỉ một âm thanh làm thể tánh. Phẩm Hương Tích kinh này ghi: “Chín trăm vạn Bồ-tát ở phương trên hỏi Duy-ma-cật rằng: Thích-ca Như Lai dùng gì để thuyết pháp? Duy-ma-cật đáp: Chúng sinh cõi này cang cường khó giáo hóa, cho nên Đức Phật dùng lời nói cang cường để thuyết pháp, lời nói lấy âm thanh làm thể tánh.” Kinh Pháp Hoa cũng ghi: “Chúng ta hôm nay thật là Thanh văn, từ âm thanh của Phật đạo mà tất cả đều được nghe”, cho nên giáo tức âm thanh. Thứ tư, tướng dụng luận riêng, sở thuyên có năm: Tâm. Tâm sở. Sắc. Bất tương ưng. Vô vi. Bốn pháp khác như đã nói ở trên, còn bất tương ưng thì có văn: “Không nên dùng tâm sinh diệt mà thuyết pháp thật tướng”. Lại ghi: “Ngôn ngữ văn tự là Phật sự”. Một pháp này là giả, bốn pháp kia là thật. năng thuyên có bốn: âm thanh, văn, danh, cú. Phẩm Bồ-tát Hạnh kinh này ghi: “Hoặc có cõi Phật dùng âm thanh ngôn ngữ văn tự làm Phật sự”. Trên dẫn chứng, chỉ lược nêu lên ít phần, như dùng lý để chuẩn định văn, thì thể của kinh nhất định như thế. Vả lại, có bốn loại là nhân duyên, duy thức, vô tướng, chân như căn cứ theo phần nói về tông ở trước, thì đều nêu dẫn thuyết, nhưng chẳng nêu dùng văn thuyết chân như, cho nên không có ba pháp kia; văn thuyết vô tướng, không có hai pháp kia, văn thuyết duy tâm không có một pháp kia, người trí nên như lý mà xét biết. Bốn, Các kinh bất đồng: Bất đồng có hai: Tên giáo bất đồng. Tên phẩm bất đồng. 1.Tên giáo bất đồng: Kinh này trước sau có bảy bản dịch: Nghiêm Phật Điều, dịch vào đời Hán, ở Bạch mã. Chi Cung Minh, dịch vào đời Ngô, ở Vũ khương. Gồm ba bản dịch vào đời Đông tây Tấn, của Pháp Hộ, Lâm Lan và Mật-đa mỗi mỗi truyền giáo nghóa của mình. Ngài La-thập, dịch vào đời Tần. Hòa thượng, dịch vào đời Đường ghi rằng: “Trừ bản của ngài La-thập ra còn các bản khác hoặc có tên là Duy-ma-cật kinh, hoặc gọi là Vô Cấu Xưng kinh, hoặc gọi là Thuyết Duy-ma-cật kinh, hoặc gọi là Thuyết Vô Cấu Xưng kinh, hoặc gọi là Tỳ-ma-la-cật kinh. Độc nhất bản của ngài La-thập đặt tên là Duy-ma-cật Sở Thuyết kinh và một tên khác là Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát kinh. Căn cứ theo bản phạm ở phần Thư đề có ghi: “A-phất-ma-la chỉ-lý-để, A là vô, Ma-la là cấu, như nói A-ma-la thức, Hán dịch là Vô cấu thức. Nay đã thêm chữ Phất nên gọi là Xưng. Đã nói Vô Cấu Xưng còn Chỉ-lý-để là Thuyết. Âm Phạm phần nhiều là đảo ngược, như nói: “Áo mặc, cơm ăn”. Nay nói Vô cấu xưng thuyết”, tức kinh này nói Vô Cấu Xưng là sở thuyết, nếu thuận theo âm Hán phải nói là Thuyết Vô Cấu Xưng kinh. Ngài La-thập chẳng theo Hán dịch giữ nguyên thứ tự theo tiếng Phạm tức chấp nhận Duy-ma-cật cũng được thuyết kinh, bởi vì thân bị tục vọng vây quanh, lìa tăng đã lâu, sợ người chê trách, nên chấp nhận việc ông Duy-ma thuyết kinh. Như Lộc Nữ Sở Thuyết kinh tức kinh nói về việc của Lộc Nữ mà chẳng phải là Lộc nữ thuyết kinh. Nếu ở trước Phật, Phật đã ấn khả, thì thiên ma ngoại đạo cũng được thuyết kinh, tuy chấp nhận người khác nói nhưng vẫn phải ghi là Phật thuyết kinh, người khác không được thuyết kinh. Luận Du-già ghi: “Trong mười hai thể loại, thì hàng đệ tử chỉ thuyết kinh luận nghị, vì lý chẳng trái với Phật, còn mười một loại khác thì hàng đệ tử không được thuyết. Thay đổi thành lời Phật thì thầy trò khác biệt, nếu chẳng như thế thì thầy trò đâu khác? Trong ba tạng thì chỉ được thuyết tạng A-tỳ-đạt-ma, mà chẳng được thuyết hai tạng kia”. Thầy trò đã khác nhau, cho nên ngài Tịnh Danh và Diệu Đức không được thuyết kinh; cũng chẳng phải toàn bộ kinh đều do ngài Tịnh Danh thuyết, vì sao lại gọi là Duy-ma-cật thuyết? Duy-ma gọi là Tịnh Danh, nghóa có thể đã rõ ràng nhưng lời thì chẳng thông, như nói Duy-ma thì mới chỉ là Cấu Xưng, thiếu hai chữ A- la là Cật, lí-để tức là thuyết, nhưng lại nói là sở thuyết, thêm lời để làm gì? Chỉ vì ngài La-thập là người Quy Tư không thông thạo tiếng ở vùng trung thổ Ấn Độ, cho nên văn lầm lẫn không chánh xác, mà ý nghóa chưa thể dung thông. Hoặc gọi là bất khả tư nghị Giải thoát, điều này căn cứ theo quyển cuối của bản phạm có ghi: “Phật nói, kinh này tên là Thuyết vô cấu xưng bất khả tư nghì tự tại thần biến giải thoát pháp môn”. Nếu luận về người. Thì chỉ nói là A-phất-đa-la chỉ-lý-để nếu chỉ luận về pháp thì ghi chú là: Cũng có tên Bất khả tư nghì giải thoát; bản cựu dịch, Đức Phật dạy chỉ có hai tên, mà ở đây người dịch lại chia riêng, chẳng phải bản phạm như thế. Như đã thật có hai tên gọi thì đều nêu lên rồi, như kinh Thắng Man có mười lăm tên gọi, kinh Vô Lượng Nghóa có bảy tên đều đã ghi chép đủ, vì sao đã đều là tên gọi mà chẳng cùng nêu lên? Tất cả là do ngài La-thập thấy tên chú thích liền cho là tên kinh mà không có bản ghi cước chú, người sau tiếp tục chép theo, khiến cho nhiều đời cứ như thế mà nêu lên giải thích. Lý chẳng phải như thế, căn cứ theo lời chú thì nói về việc bất khả tư nghì Giải thoát, cho nên theo đó mà đặt tên. 2.Tên phẩm khác nhau: Kinh gồm mười bốn phẩm, về số lượng phẩm thì đồng mà tên có khác. Phẩm thứ nhất tên là phẩm tựa, ngài La- thập gọi là phẩm Phật Quốc. Khế kinh này chính là nói về việc của ngài Duy-ma-cật, muốn đề cập rõ về việc ấy cho nên trước nói phẩm Tựa, vì sao chẳng gọi là tựa mà gọi là Phật quốc? Nếu nói rằng Bảo Tánh hỏi Phật, Phật thuyết về cõi Phật nghiêm tịnh thì gọi là Phật quốc, để nói riêng về nghóa Phật quốc, chẳng phải là tự thuật. Lời tựa để nói về Tịnh Danh, vậy như kinh Pháp Hoa, phẩm Tựa nói về bảy loại thành tựu như vô lượng nghóa… vì sao không gọi là phẩm thành tựu mà gọi là phẩm Tựa? Vả lại các kinh đều có phẩm Tựa, vì sao kinh này lại không? Lại theo sau để làm chuẩn định cho trước, thì sau đã có phẩm Chúc Lụy, vì sao trước lại không có phẩm Tựa. Phẩm thứ hai tên là Hiển Bất Tư Nghị Phương Tiện Thiện Xảo, ngài La-thập chỉ gọi là phẩm phương Tiện. Nghóa của Phương tiện thì chung cho cả Đại Tiểu, nay thì hiển Đại, cho nên cần phải nói là chẳng thể bàn, đâu được chỉ nói là Phương tiện. Trong pháp Đại thừa, phương tiện thì chung cho cả quyền và thật, đây là hiển quyền mà chẳng phải thật, hàng giai vị thấp chẳng thể biết, diệu dụng vô cùng, cho nên gọi là bất tư nghị thiện xảo, để phân biệt tiểu và phân biệt thật, thì không nên chỉ gọi là phương tiện. Vả lại bản Phạm có ghi đủ Hiển bất tư nghị thiện xảo, vì sao ngài La-thập lại dùng đơn danh phương tiện. Phẩm thứ ba là phẩm Thanh Văn, ngài La-thập gọi là phẩm Đệ Tử. Bồ-tát và Thanh văn đều là đệ tử, vì sao chỉ gọi Thanh văn là Đệ tử, dùng Tiểu so sánh với Đại thì nên gọi là Thanh văn mà chẳng nên gọi là Đệ tử, huống gì bản Phạm không ghi từ Đệ tử. Phẩm thứ năm nay gọi là Vấn Tật, ngài La-thập gọi là phẩm Văn- thù-sư-lợi Vấn Tật. Ngài La-thập cho rằng Bồ-tát Cát Tường là bậc thượng thủ, cho nên lấy đó làm tên. Nay thì cho rằng chẳng phải một người đến thăm cho nên gọi chung là Vấn Tật, nếu theo bản Phạm thật cũng chẳng có tên như thế. Phẩm thứ bảy nay gọi là Quán Hữu Tình, ngài La-thập gọi là phẩm Quán Chúng Sinh, cỏ cây không có sự biết cũng gọi là chúng sinh. Có biết thì gọi riêng là hữu tình, chẳng dùng để gọi chung cho cây cỏ, huống gì bản Phạm ghi: Ma-hô thiện-na, dịch là chúng sinh, lại nói Tát-đỏa, cho nên gọi là Hữu tình. Phẩm thứ tám nay gọi là phẩm Bồ-đề Phần, ngài La-thập gọi là phẩm Phật Đạo. Bồ-đề nghóa là giác, tức quả Phật ở vị lai, phần là nghóa nhân, đó chính là các hạnh, thành nhân của giác, vả lại Bồ-đề là giác tức là diệu tuệ, phần nghóa là chi phần, đây là chi phần của diệu tuệ. Nếu nói Phật đạo, thì Phật là quả Phật, đạo tức nhân, nghóa là con đường, con đường để chứng đắc Phật quả, nghóa tuy có thể được, nhưng theo ý ngài Tăng Triệu: Muốn cho chữ đạo của Lão tử đồng với chữ của Phật, mà lấy làm tên. Bồ-đề nghóa là Giác, chưa phải là nghóa Phật đạo, vậy đã trái âm Phạm, mà nghóa lại vượt quá, vậy há đã ở giai vị Phật mà không có đạo ư? Cho nên phải gọi là phẩm Bồ-đề Phần. Phẩm thứ chín là phẩm Bất Nhị Pháp Môn, ngài La-thập gọi là phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn. Nay nói về độ lý của pháp môn Bất nhị, đâu nhọc gì phải nói trực nhập? Ngài La-thập cho rằng Cư só Tịnh Danh im lặng không nói là vào Bất nhị, Diệu Đức… có lời lẽ ra phải nói là nhị. Tất cả đều nói rõ nghóa Bất nhị, cho nên chẳng cần nói nhập. Bản kinh tiếng Phạm không có chữ nhập. Phẩm thứ mười nay gọi là phẩm Hương Đài, ngài La-thập gọi là phẩm Hương Tích. Thể Hương của thân Phật cao diệu như đài hương, chỉ nói là Hương tích, do tích tụ hương mà thành, thì không có nghóa cao diệu. Vì muốn hiển thị thể của cõi Phật vi diệu cao xa, cho nên phải gọi là phẩm Hương Đài. Phẩm mười hai nay gọi là Quán Như Lai. Ngài La-thập gọi là phẩm A-súc Phật. Ở phẩm này Đức Phật hỏi Duy-ma-cật thế nào gọi là Quán Như Lai, và nói về các phẩm quán pháp thân Như Lai… Sau nhân ngài Thu Tử thưa hỏi mới nói về việc ngài Tịnh Danh từ cõi nước của Phật A-súc đến; đâu chỉ nói về Phật A-súc. Nay chỉ lấy tên là Phật A-súc thì mất đi nghóa của phẩm kinh này, thế thì đâu chỉ trái với âm Phạm mà thôi? Nhưng dùng phương ngôn thì xa cách, chánh lý thì thiếu khuyết, cho nên nghóa đã trái với bản tông, thì tên làm sao không lầm lẫn được? Năm, Chỗ y cứ để phân khoa phẩm mục: Xưa phân khoa kinh này, trong mười bốn phẩm có nhiều điểm khác nhau. Như bản sớ giải xưa. Nay phân khoa làm ba: Một phẩm đầu tiên nói về phần duyên khởi của kinh. Mười một phẩm kế tiếp, phần chính thức nói về bản tông. Hai phẩm cuối là phần tán thán phó chúc lưu thông. Kinh này nói về hai lợi ích quyền thật của hàng Bồ-tát, hai vị nhân quả, hai đế chân tục, hai lý không hữu. Nói về nhân phát khởi cho nên đầu tiên gọi là Tựa. Đã nêu duyên khởi kế đó là nói về tông chỉ của kinh, cho nên mười hai phẩm tiếp theo gọi là phần bản tông. Yếu chỉ của kinh đã sâu xa, e rằng không thể truyền học, nên có các việc tán thán Đức Dược Vương Như Lai ở quá khứ… để khuyên việc truyền trao cho đời sau, vì thế hai phẩm sau gọi là phần lưu thông. Trong phần duyên khởi có bốn loại viên mãn: Tựa viên mãn: Từ câu “Đúng thật như thế” đến câu “rừng Am- la-vệ.” Chúng viên mãn: Từ câu “Cùng với chúng đại Bí-sô” đến câu “phóng ánh sáng vi diệu che phủ đại chúng.” Thuyết nhân viên mãn: Từ câu “Lúc bấy giờ ở thành Quảng Nghiêm có một vị Bồ-tát” đến câu “Thắng quốc độ này có vô lượng công đức báu vật trang nghiêm.” Lợi ích viên mãn: Từ câu “Lúc Phật hiện cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh” đến hết phẩm. Tuy phẩm này đều là tựa, nhưng đầu tiên là tựa chung các kinh đều có, vì nghóa của tựa rất thù thắng nên đặc biệt được gọi như thế. Chúng tức là đồ chúng, là hàng quyến thuộc thân cận bậc Thánh đức. Nhân tức nguyên do, Bảo Tích hiến dâng lọng báu, hỏi Đức Phật về cõi Phật nghiêm tịnh của Bồ-tát, Đức Phật nói hai lợi ích, là nhân nghiêm tịnh cõi Phật để phát khởi chánh tông, là các hạnh tu tập thân độ của Bồ-tát, cho nên gọi là thuyết nhân. Trời, người nghe pháp đạt được quả vị khác nhau, nói về việc khác nhau này gọi là lợi ích viên mãn. Trong phần tựa viên mãn, văn thì gồm bốn đoạn, thắng diệu thì có hai. Bốn đoạn văn: Hiển bày chung đã được nghe, tức câu “Đúng thật như thế chính tôi đã được nghe”. Thời gian thuyết pháp tức là câu: “nhất thời”. Giáo chủ, tức Đức Bạc-già-phạm. Nơi thuyết kinh tức là câu: “Trụ tại rừng Am-la-vệ ở thành Quảng Nghiêm”. Hai việc thắng diệu: Thành Quảng Nghiêm hơn hẳn các thành khác. Rừng Am-la hơn hẳn các khu rừng khác. Thành này rộng lớn hơn các thành khác, lầu các trang nghiêm tốt đẹp hơn những nơi khác. Cây trong vườn kết quả đã hơn các khu vườn khác mà thường tự bảo vệ, đó là hiển bày pháp đáng tôn trọng; hiển thị pháp nghóa rộng lớn, vạn đức trang nghiêm, khế hợp với khu vườn đạo quả, rất đáng được tôn trọng. Cho nên phẩm Tựa có hai viên mãn như trên.  THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH SỚ <卷>QUYỂN 1 (PHẦN 2) Sáu, Giải thích bản văn: Kinh: Như thị ngã văn. Như kinh Ma-ha Ma-gia nói đây là nguyên do mà Đức Phật dạy phải đặt ở đầu kinh. Luận Phật Địa nói: Như thị, y cứ theo bốn nghóa mà biến chuyển: Y cứ theo thí dụ: Như có người nói rằng: “Giàu sang như thế (như thị) giống Tỳ-sa-môn”. “Pháp được truyền được nghe như thế (như thị) đúng như lời Phật thuyết, nhất định không có sai khác, nhất định là nhân phương tiện lợi lạc”, hoặc “Sẽ nói văn cú như thế (như thị), đúng như xưa tôi đã nghe”. Y theo sự dạy dỗ: Như có người nói “ngài nên như thế (như thị) mà tụng đọc kinh luận”. Lời như thị ở đây, xa thì đó là lời dạy của Phật, gần thì lời dạy của người truyền pháp. Hoặc bảo chúng đương thời rằng: Đúng như thế (như thị), nên nghe điều mà tôi đã nghe khi xưa. Y theo hỏi đáp: Nghóa là khi có người hỏi: “Ngài sẽ nói điều mà khi xưa nhất định đã được nghe chăng?”, thì đáp rằng: “Đúng thật như thế (như thị) chính tôi đã nghe”. Y theo sự hứa khả: Như có người nói “Tôi sẽ vì ông mà tư duy như thế (như thị), làm như thế (như thị), nói như thế (như thị)”, nghóa là khi kết tập các vị Bồ-tát đều cùng nhau thỉnh rằng: Như điều ngài đã nghe, nên nói đúng như thế! (Như thị), vị Bồ-tát truyền pháp chấp nhận rằng: “Sẽ nói như thế (như thị), đúng như lời tôi đã nghe”. Hoặc tin có thể nói: “Việc này như thế, giống như đang nói đây, nhất định không sai khác”. Do bốn nghóa này mà đầu một bộ kinh có đặt câu “Như thị ngã văn”. Ngài Tam tạng Chân Đế nói rằng: “Luật vi tế ghi: “Khi ngài A- nan lên tòa kết tập pháp tạng, thì thân hình như Đức Phật, đầy đủ tướng quý và vẻ đẹp, khi hạ tòa thì trở lại thân chính mình”, xét trong tập tạng lưu truyền cũng có thuyết này. Từ đây lại sinh ra ba điều nghi: Nghi Đức Phật vì lòng đại bi, từ Niết-bàn trở lại thuyết diệu pháp. Nghi có một Đức Phật từ phương khác đến đây thuyết pháp. Nghi A-nan chuyển thành thân Phật để thuyết pháp cho đại chúng nghe. Cho nên đầu kinh đặt “Như thị ngã văn” để phát tín tâm, trừ ba điều nghi này. Pháp Hoa chú ghi: “Như thị là điềm lành cảm ứng, “như” là do “thuận cơ” mà lập, “Thị” là từ “chẳng phải không” mà gọi. Chúng sinh lấy “chẳng phải không” làm cảm, Như Lai dùng “thuận cơ” làm ứng. Truyền kinh, nghóa là dùng danh giáo phát xuất từ cảm ứng, cho nên lập “như thị”. Chú Vô Lượng Nghóa kinh ghi: “Bậc Chí nhân thuyết pháp, chỉ vì để hiển như, chỉ có như là thị, cho nên nói như thị. Chửng công nói: “Vì lìa năm báng, cho nên gọi là như thị: Câu thứ nhất, kinh này như thế (như thị) lìa chấp hữu tăng ích báng. báng. báng. Câu thứ hai, kinh này như thế lìa chấp vô tổn giảm báng. Câu thứ ba, kinh này như thế lìa chấp cũng hữu cũng vô tướng vi Câu thứ tư, kinh này như thế lìa chấp chẳng hữu chẳng vô ngu si Câu thứ năm, kinh này như thế lìa chấp chẳng phải chẳng phải hữu chẳng phải chẳng phải vô hý luận báng. Quang Trạch ghi: “Như thế (như thị), sắp truyền lại điều đã nghe, làm tiền đề cho toàn một bộ kinh. Một bộ kinh như thế (như nhị), chính tôi đã nghe từ Đức Phật, tức là tôi đã nghe mà thuật lại vậy”. Lương Võ Đế ghi: “Như thị nghóa là như thế, tức lời Đức Phật dạy, cho nên nói là như nhị”. Trường Nhó Tam tạng nói: “Như thị có ba nghóa: Căn cứ theo Phật, vì ba đời chư Phật cùng thuyết giống nhau không khác, gọi là như; đồng thuyết cho nên gọi là thị, do đây có thể tin, vì đồng thuyết. Căn cứ theo pháp, thật tướng các pháp xưa nay không khác, cho nên gọi là như, như “như” mà thuyết, cho nên gọi là “thị”, lời đã xứng lý, chẳng tăng chẳng giảm, nhất định có thể tin, cho nên gọi là như thị. Căn cứ theo tăng, vì điều A-nan nghe rồi truyền lại so với lời Phật dạy không sai khác, cho nên gọi là như, vónh viễn xa lìa các lỗi nên gọi là thị. Vả lại nói như thị là lời tin thuận. Luận Trí Độ ghi: “Như thị ngã văn (Đúng thật như thế, chính tôi được nghe) là phát sinh tính tâm; tín thọ phụng hành (tin nhận cung kính thực hành) là phát sinh trí tuệ. Tín là năng nhập, trí là năng độ. Tín là nền tảng đầu tiên để vào đạo, trí là thuật u huyền để đạt đến cứu cánh. Có tín thì thuận với lý được trình bày, thuận thì thành tựu đạo thầy trò. Do tín nên pháp đã nói ra, đều có thể tin thuận theo. Do thuận, cho nên hai bên nói và nghe, thầy và trò được kiến lập. Trong chữ tín này có thể lược nêu mười cách giải thích: Tín, theo kinh Nhân Vương… là nhân đầu tiên hướng vào Thánh vị, là pháp cao tột để chứng đế lý. Cho nên đứng đầu trong ba mươi tâm. Sắp nhập Thánh vị phải có tín căn tín lực, do có tín căn, nên vạn thiện sinh ra, có tín lực nên bốn ma không thể khuất phục được. Do đó, đầu kinh lập như thị để sinh tín. Theo luận Tỳ-bà-sa, tín là cánh tay khỏe mạnh để nắm pháp vị mà dùng. Người học Phật pháp như loài voi lớn, dùng tín làm tay, dùng xả làm thân, dùng niệm làm cổ, dùng tuệ làm đầu, hai vai gánh vác các pháp thiện. Loài voi ăn uống, lấy vòi làm tay, cho nên người học pháp, đầu tiên phải sinh lòng tin. Người học như một đại thương chủ, mong cầu được pháp bảo; cho nên đầu tiên phải sinh tín, để đạt bảy Thánh tài. Luận Hiển Dương Thánh Giáo ghi: Bảy Thánh tài là tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm, quý, tín là một trong bảy pháp này. Luận Du-già ghi: “Vào tất cả các pháp, thì dục là căn bản, vì sinh khởi hy vọng, tác ý là sở sinh vì luôn luôn cảnh giác, xúc là chỗ tập khởi, vì thời hòa hợp; thọ là dẫn nhiếp, vì lãnh nạp tại tâm; định là tăng thượng vì tâm vắng lặng, tuệ là tối thắng vì phân biệt thiện ác; giải tho- át là kiên cố vì dứt trừ sự trói buộc; xa lìa là hậu biên vì giác đạo viên mãn. Tín là chỗ nương của dục, cho nên đầu tiên phải phát khởi. Luận Thành Duy Thức ghi: “Tín như hạt châu thủy tinh, có thể làm trong sạch nước dơ, có thể chữa trị tự tánh của bất tín là vẩn đục.” Cho nên Trọng Ni (Khổng tử) nói: “Binh, lương thực và tín thì không thể bỏ.” Xuân Thu cũng nói: “Nếu như có lòng tin trong sáng thì một cọng cỏ nhỏ ở núi rừng, khe lạnh cũng có thể tiến cúng quỷ thần, một lá rau cũng có thể dâng cho vương công.” Luận Câu-xá ghi: “Cứu vớt chúng sinh ra khỏi vũng bùn sinh tử thì chánh pháp là tay Phật, tức chánh tông; tín là tay của chúng sinh, tức là phần tựa. Vì hai tay tiếp giúp nhau để ra khỏi bùn lầy.” Các luận đều nói: “Tín là nhân để vượt khỏi ác đạo, xa lìa sự bần tiện.” cho nên đã vào Thánh vị rồi thì có lòng tin chẳng hoại. Cho nên đầu tiên phải sinh tín. Ba nghóa sau theo kinh giải thích. Trôi nổi nơi biển khơi thì phải nhớ vào hai tay để chèo thuyền; vượt khỏi giòng sinh tử, phải cần tín để phát tuệ. Thấy tài vật cần phải có tay để nhặt; lấy nghe pháp bảo, cần phải nhờ tín mới nhận được. Dạo đi nơi đồng hoang vắng vẻ phải có tay để sử dụng vũ khí, chống lại giặc cướp, ra khỏi giòng sinh tử phải có tín, phát sinh tuệ giải phải đoạn phiền não, do đó mà đầu kinh phải ghi: “Như thị ngã văn”, để khiến cho chúng sinh phát khởi lòng tin chân chánh. Ở trên tổng hợp gồm hai mươi sáu cách giải thích. Ngã văn (tôi nghe): Vị Bồ-tát truyền pháp tự chỉ bản thân mình mà nói rằng: “Pháp như thế, chính tôi nghe từ Đức Phật” cho nên nói tôi nghe (ngã văn). Ngã tức các uẩn, là thế tục giả nhưng ngã có ba: Ngã do vọng chấp, là ngã do ngoại đạo cưỡng chấp trước. Ngã tạm lập bày, tức là ngã trong Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của đại Niết-bàn, do trừ bốn điên đảo của Nhị thừa mà tạm lập ra. Ngã do thế gian lưu bố, nghóa là ngã được thế gian truyền xưng và chư thiên trao phó. Nay người truyền pháp tùy thuận thế gian, tự xưng mình là ngã, chẳng thuộc hai nghóa trước, tức là đại ngã của vô ngã. Hỏi: Chư Phật thuyết pháp, tận trừ ngã chấp, vì sao chẳng gọi là vô ngã văn mà gọi là ngã văn? Đáp: Vì có bốn nghóa nên chỉ gọi là ngã văn: Vì ngôn thuyết dễ hiểu, nếu nói là vô ngã thì sẽ biết là ai nói. Thuận theo thế gian. Trừ sự sợ hãi về vô ngã, vì nói vô ngã thì ai tu học. Vì còn có các sự nghiệp tự tha, nhiễm tịnh, nhân quả… Vì thế gọi là ngã. Hỏi: Nếu thế thì sao không tự xưng tên, mà chỉ gọi là ngã? Đáp: Có ba nghóa: Hiển thị việc chẳng trái với thế tục; tông tuy hiển chân, mà lời chẳng trái tục; lý tuy hiển diệu mà lời thì đơn giản, muốn hiển chân đế để chẳng lìa tục đế. Ngã nghóa là chư tể tự tại, A-nan nghe nhiều nhớ kỹ, những điều đã nghe được tích tập, ba tuệ đầy đủ, văn nghóa giữ gìn chẳng mất, đối với ba tạng giáo gồm giữ một cách tự tại. Nếu tự xưng tên thì tuy thuận chánh lý, nhưng không được tự tại đối với các pháp. Do đó mà tự xưng là ngã, chẳng xưng là A-nan. Ngã nghóa là thân, tức chính mình, tự mình; người thế gian thường nói tôi thấy tôi nghe điều này, chính là từ thân chứng. Nếu nói A-nan nghe thì hoặc chẳng phải là chính mình nghe mà do người khác truyền thọ. Nay muốn nêu lên việc chính mình được nghe từ Thế Tôn thuyết, chẳng phải do truyền lại mà nghe được để phá lưới nghi cho người vì thế chẳng xưng tên. Nhưng nói ngã văn thì văn (nghe) là từ tai phát ra thức, nghe nhận điều đã nói, nay không luận đến nhó căn, chỉ căn cứ theo ngã mà gọi chung là ngã văn. Nhưng theo Đại thừa thì căn, thức, tâm sở, cảnh đến hòa hợp mới gọi là nghe (văn), nhưng căn có năm nghóa thù thắng hơn thức, cho nên căn gọi là văn. Nếu chỉ nói văn thanh (nghe âm thanh) thì có thể chỉ tại tai (nhó căn), nay đã duyên với danh nghóa, thì liền ở tại ý rồi. Cho nên luận Du-già ghi: “Văn là tỷ lượng; nhó căn gọi là văn, nghóa là tự thân nghe âm thanh qua cửa ý, ý mới nghe, nhân đó mà cái nghe (văn) thành tựu, nên gọi chung là văn. Nếu duyên với danh nghóa gọi là văn, thì văn đó đã tại nơi ý, cho nên hợp danh văn, giản lược nhó căn và ý, gọi chung là ngã văn. Lấy nhó căn làm cửa, huân tập tại ý, nhân đó mà cái nghe thành tựu, gọi chung là văn, nên gọi là ngã văn”. Ngài Khánh Hỷ lúc bấy giờ tuy cũng có kiến giác tri (thấy, hay và biết) Phật thuyết pháp, nhưng muốn chứng được lý sâu xa, trước hết cần phải nghe. Ở cõi này dùng âm thanh làm Phật sự, mong cầu chứng Bồ-đề, cần phải nhờ nghe huân tập. Do đó đầu kinh chẳng nói ngã kiến, ngã giác, ngã tri. Tuy nói ngã văn nhưng thật ra lúc bấy giờ cũng có thấy Phật thuyết pháp. Các cõi Phật khác dùng ánh sáng… Làm Phật sự, thì có thể nói là thấy (ngã kiến)… Ngài Long Quân… đều nói: “Phật chỉ có ba pháp đó là đại tịnh, đại trí, đại bi, đã xa lìa hý luận từ lâu, chẳng từng thuyết pháp, vì do sức duyên của tâm Từ bi bản nguyện của chư Phật mà nơi thức của chúng sinh tướng văn nghóa phát sinh, tướng văn nghóa này tuy tự thân nương vào sức thiện căn sinh khởi, nhưng theo duyên mạnh mẽ, cho nên gọi là Phật thuyết. Do sức nhó căn và từ ý biến chuyển cho nên gọi là ngã văn”. Cho nên ngài Vô Tánh nói: “Văn, nghóa là trên thức tu tập hiển hiện trực thuyết và phi trực thuyết, lấy đó làm thể tánh. Nếu thế thì vì sao Bồ-tát tuyên thuyết mà người kia lại sinh tăng thượng? Cho nên nói rằng: Thí như nhờ sức tăng thượng của chư Thiên mà khiến cho trong mộng thấy nghe được luận chú… Cho nên kinh cũng nói: “Từ lúc đầu tiên mới thành đạo đến cuối cùng là vào Niết-bàn, ở khoảng giữa Đức Thế Tôn chẳng nói một lời, các ông cũng chẳng nghe”. Ngài Thân Quang… cũng nói: “Phật lìa phân biệt mà gọi là không hý luận, chứ đâu phải không thuyết pháp mà gọi là không hý luận”, nghóa là do sức duyên của thiện căn bản nguyện của người nghe mà trên thức Như Lai sinh ra tướng văn nghóa, tướng văn nghóa ấy là do sức thiện căn lợi tha của Phật phát khởi, nên gọi là Phật thuyết. Ngài Thế Thân nói: “Do các thức tương tục khác sai biệt, nên khiến cho các thức tương tục sai biệt khác phát sinh, đây kia làm tăng thượng duyên cho nhau”, do đó mà kinh ghi: “Pháp mà ta nói ra như lá trong tay, còn những pháp mà ta chưa nói thì nhiều như lá trong rừng”. Hai cách giải này tùy theo hai văn mà nương nhau để giải thích. Nên biết nói Như thị ngã văn là tránh được lỗi thêm bớt phân biệt. Ng- hóa là “Pháp như thế chính tôi được nghe từ Phật, chẳng phải do người khác truyền lại”, đó là hiển thị việc người nghe có khả năng kham nhận được các điều đã nghe, đều lìa được lỗi thêm bớt phân biệt, chẳng phải như người ngu không thể kham nhận được các điều đã nghe, không thể xa lìa được lỗi thêm bớt phân biệt, cho nên khi kết tập, người truyền pháp vâng theo lời dạy của Như Lai mà đầu tiên nói lời này, hầu làm cho chúng sinh cung kính, tin nhận nói rằng: “Pháp như thế (như thị pháp), chính tôi được nghe từ Đức Phật thuyết, văn nghóa đã quyết định, không có thêm bớt, vì thế người nghe nên nghe theo, rồi đúng như lý mà tư duy, tinh cần tu học. Kinh: Nhất thời (Một thời) Tán: Thứ hai, nói về thời gian thuyết giáo. Đấng Pháp Vương thuyết pháp giáo hóa thì tất cả các căn cơ đều vân tập, khi thuyết và nghe đã xong, gọi chung là một thời. Đây là căn cứ theo sát-na tương tục không gián đoạn, thuyết và nghe đã xong, tạm gọi là một thời. Luận có hai cách giải thích: Đạo lý thời, tức hai bên nói và nghe xa lìa chỉ có một hiện tại. Các hành của năm uẩn sinh diệt trong từng sát-na, tức là pháp hiện tại này có nghóa thù đáp pháp trước dẫn sinh pháp sau, tức lấy pháp được thù đáp giả danh là quá khứ, lấy pháp được dẫn sinh giả danh là vị lai, tất cả đều từ pháp hiện tại mà giả lập. Tức các pháp năm uẩn của người nghe và người thuyết sát-na sinh diệt, trước sau tương sinh, việc đã xong thì ba đời giả lập được gọi chung là một thời, chẳng phải là một thời gian sinh diệt. Duy thức thời, trên thức tâm của người nói và người nghe, biến thành tướng trạng ba thời mà khởi, thật ra là chỉ là hiện tại, tùy theo phần hạn của tâm mà biến thành dài ngắn, sự việc kết thúc gọi chung là nhất thời. Như nằm mộng thấy cảnh, nghóa là qua nhiều đời, giác vị chỉ do tâm, đều chẳng phải là cảnh thật; tâm của người nghe biến hiện ba thời cũng như thế, chỉ là sở duyên của ý, thuộc về bất tương ưng hành uẩn, pháp giới, pháp xứ. Ở đây nói một thời thì: Không nhất định căn cứ theo Sát-na. Không nhất định căn cứ theo tương tục. Không nhất định căn cứ theo bốn thời, sáu thời, tám thời, mười hai thời… Không nhất định căn cứ theo thời gian, số năm sau khi thành đạo. Nói nhất thời, chỉ là người nghe căn cơ đã thành thục, cảm được Phật nói, người thuyết có tâm Từ bi, ứng cơ mà luận, việc nói và nghe hoàn tất thì gọi là một thời, chẳng nhất định căn cứ theo sát-na, vì hạng người nghe pháp căn khí hoặc chậm chạp, thời gian thuyết thì hoặc là ngắn, thời gian nghe hiểu thì lâu dài; hoặc người thuyết thời gian dài, người nghe cũng thời gian lâu dài, trong một sát-na chưa thể hiểu được, cho nên chẳng căn cứ theo một sát-na. Cũng chẳng nhất định theo tương tục, vì người thuyết đắc Đà-la-ni, thuyết nghóa một chữ thì tất cả đều thấu suốt, hoặc người nghe đã đạt được nhó căn thanh tịnh, khi nghe một chữ thì tất cả đều hiểu, cho nên chẳng phải tương tục. Do căn cơ của người nghe trong một hội có lợi có độn, mà Như Lai dùng thần lực hoặc kéo dài một niệm thành kiếp, hoặc rút ngắn nhiều kiếp thành một niệm, không nhất định. Chỉ căn cứ theo việc thuyết và nghe đã rốt ráo mà gọi là một thời, không thể căn cứ theo một nghóa nào; cũng không thể nhất định căn cứ theo bốn thời, sáu thời, tám thời, mười hai thời; vì một ngày một tháng, căn cứ theo bốn thiên hạ thì ấm lạnh dài ngắn, ngày đêm xa gần các phương không nhất định, chỉ có hai thiên hạ luôn luôn khởi dụng đồng nhau. Vả lại trừ cõi người ra, các cõi trời đều không có bốn thời và tám thời… còn kinh thì ấn định lưu thông ở tất cả các phương của cõi trên. Nếu nói bốn thời thì sự lưu hành không cùng chấp. Vì thế không nói bốn thời tám thời… cũng không nhất định căn cứ theo thời gian và số năm sau khi thành đạo, là vì chỗ thấy của hàng phàm Thánh ba thừa về báo thân hóa thân Phật, về số năm nhiều ít, thành đạo đến nay là xa hay gần, về pháp được nói, về sâu cạn mãn bán, mỗi mỗi đều khác nhau. Còn kinh thì định cho phàm Thánh ba thừa đồng được nghe, cho nên không nói riêng về bao nhiêu năm sau khi thành đạo. Nhưng trong các kinh lại có thuyết về bốn thời, như kinh Niết-bàn ghi: “Ngày mười lăm tháng hai”. Có thuyết nói về các danh từ sáu thời, tám thời, mười hai thời, như kinh Niết-bàn ghi: “Vào lúc sáng sớm, khi dùng cành dương”. Kinh Kim Cang Bát-nhã ghi: “Dùng cơm xong thâu y bát, rửa chân rồi trải tòa mà ngồi, khi thời gian vừa đúng ngọ thì tuyên thuyết”. Kinh Thượng sinh ghi: “Vào lúc đầu đêm”. Kinh Di Giáo ghi: “Vào lúc nửa đêm, vắng lặng không một âm thanh”. Có thuyết nói đến thời gian số năm sau khi thành đạo, kinh Thập Địa ghi: “Vào khoảng thời gian bảy ngày thứ hai thì tuyên thuyết giáo pháp trong điện Ma-ni bảo tạng ở cung trời Tha hóa tự tại”. Kinh Pháp Hoa ghi: “Trong hai mươi mốt ngày tư duy xong liền thẳng đến thành Ba-la-nại, chuyển pháp luân bốn đế”. Kinh Vô Lượng Nghóa ghi: “Từ ta thành đạo đến nay đã hơn bốn mươi năm”, tuy có các thuyết như thế, nhưng cũng tùy theo một nơi chốn thấy nghe mà kết tập. Vả lại nói như thế nhưng vẫn chẳng phải là đề đầu tiên khi thuyết pháp, vì thế chỉ nên gọi chung là “một thời”. Hỏi: Về nơi chốn thì có tịnh uế, tùy theo căn cơ mà ấn định nơi thuyết, thời gian thì có phàm Thánh khác nhau, sao lại không cho nói riêng? Đáp: Nơi thuyết thì có tịnh uế, tịnh uế thì nhất định có thể biết, thời gian thuyết thì có dài ngắn, nhưng phàm Thánh không thể định được; cơ nghi của một hội có lợi có độn, thời gian dài ngắn làm thể nào để định chuẩn, cho nên nơi chốn thì có thể nói nhất định, mà thời gian thì chỉ có thể nêu chung. Kinh: Bấy giờ, Đức Bạc-già-phạm Tán: Đây là nói về giáo chủ. Phật có mười hiệu, đây là hiệu thứ mười. Bạc-già, nghóa là Thanh danh, Phạm nghóa là Cụ đức. Nếu có người vì thanh danh bạc-già này, mà tự có thể phá bốn ma, đầy đủ sáu đức thì gọi là Bạc-già-phạm, vả lại bốn ma của phần đoạn sinh tử là phiền não ma, uẩn ma, tử ma và thiên ma. Một trăm hai mươi tám căn bản phiền não và tùy phiền não là phiền não ma. Năm uẩn hữu lậu là uẩn ma; vô thường tử diệt là tử ma; vua trời tha hóa gọi là thiên ma. Bốn loại này phá hoại các pháp thiện, khiến cho loài hữu tình lưu chuyển trong sinh tử, vô cùng tổn hại, nên gọi là ma. Phật phá dẹp được bốn loại này nên gọi là Bạc-già-phạm. Nếu căn cứ theo tướng giáo hóa thì ngồi nơi cội Bồ-đề nhập định Kim cang dụ phá ma phiền não; xả bỏ thân năm ấm nhập Vô dư Niết-bàn ở Sa-la Song lâm là phá ma uẩn; lưu sắc thân lại ba tháng là phá ma tử, tự tại đối với việc chết, cho nên có thể lưu giữ lại sắc thân; nơi cội Bồ-đề sau khi thành đạo, đầu tiên nhập định từ là phá thiên ma. Nếu căn cứ theo thật phá thì Bồ-tát Thập trụ (Thập địa) hiện tám tướng thành đạo phá dẹp thiên ma. Tuy kinh này sau đó, trong phần tán thán đức hạnh của Bồ-tát, thì Bồ-tát Địa thứ tám trở lên hay hàng phục ma oán, chế ngự ngoại đạo, tán thán năng lực của hàng Bồ-tát này là chẳng phải nay mới phá, vả lại phá bốn loại ma này phải là Bồ-tát Địa thứ tám trở lên, cho nên nay mới tán thán, chẳng phải nói Bát địa mới phá thiên ma. Ma uẩn, Địa thứ bảy trở về trước có phần đoạn tử thô, có uẩn hữu lậu, hoặc chưa có thể diệt, hoặc ở sơ địa đã xả bỏ. Địa thứ tám trở lên còn biến dịch sinh, nhất định đã xả bỏ ma uẩn thô, nếu xả bỏ ma uẩn vi tế thì cần phải đến giải thoát đạo; được Phật quả rồi thì bốn trí đều viên mãn, mới xa lìa hữu lậu. Phiền não ma, tức phiền não không cùng với vô minh làm bạn. Trong sinh quý trụ thứ tư của mười trụ thì chế phục gọi là xả. Trong gia hạnh vị thì có thể đốn phục xả bỏ phân biệt chủng tử phiền não và tùy miên. Sơ địa đoạn xả câu sinh phiền não, địa tiền Tiệm phục xả, sơ địa trở lên thì đốn phục xả. Nhưng có Bồ-tát trước Địa thứ bảy thời thời đã khởi, Địa thứ tám trở lên có thể quyết định phục xả; kim cang tâm khởi, chủng tử tập khí đều dứt mới vónh viễn đoạn xả. Sở tri chướng phân biệt, như phân biệt phiền não ma, câu sinh, nghóa là trong mười Địa mỗi một địa đều có thể đoạn; trong sáu thức thì đến kim cang tâm, cùng với thức thứ bảy, đồng thời đều xả. Ma tử, là ma phần đoạn tử, có Bồ-tát vào sơ địa thọ thân biến dịch tức liền vónh viễn xả bỏ, có Bồ-tát đến Địa thứ tám mới thọ biến dịch, lúc ấy mới xả bỏ biến dịch tử kia, quyết định thành Phật. Đến giải thoát đạo mới vónh viễn phá dẹp. Nay hiển bày bốn loại ma này Thế Tôn đều đã phá trừ cho nên gọi là Bạc-già-phạm. Vì thế luận Du-già ghi: “An nhiên ngồi nơi tòa Bồ-đề, phá dẹp bốn ma, gọi là Bạc-già-phạm”. Đầy đủ sáu đức; về sáu đức thì luận Phật Địa ghi: “Tự tại, xí thạnh và trang nghiêm; danh xưng, kiết tường và tôn quý”. Đầy đủ sáu nghóa này nên biết, gọi chung là Bạc-già. Tự tại nghóa là vónh viễn không bị các phiền não trói buộc; xí thạnh, nghóa là lửa trí cháy mạnh thiêu đốt, đoan nghiêm nghóa là đầy đủ các tướng tôn quý và những vẻ đẹp trang nghiêm; danh xưng, nghóa là tất cả công đức thù thắng đều viên mãn, không gì không biết; kiết tường tất cả thế gian đều gần gũi cúng dường, đều xưng danh tán thán; tôn trọng, nghóa là đầy đủ công đức, thường khởi phương tiện, làm lợi ích an lạc tất cả loài hữu tình, không biếng trễ. Do sáu đức này mà gọi là Bạc-già-phạm, chỉ có một tên mà bao hàm các đức, thế gian đều tôn trọng, cho nên các ngoại đạo đều gọi là bổn sư, gọi là Bạc-già-phạm. Do đó Thế Tôn dạy đầu kinh nên đặt lời này. Các nhà dịch kinh xưa đều muốn tónh lược, chẳng luận đến nghóa có đầy đủ hay thiếu khuyết, mà đều đặt chữ Phật. Trong mười hiệu thì Phật là hiệu thứ chín, Bạc-già- phạm là hiệu thứ mười, hiệu thứ mười tổng gom chín đức, cho nên nay được nêu lên ở đầu kinh. Nhưng nay lại thay đổi đặt hiệu Phật thì tuy sở thuyên không khác nhưng năng thuyên hơi sai biệt. Do đó ngài Bồ-đề- lưu-chi thời Hậu Ngụy nói: “Bạc-già-bà thì âm tuy hơi sai nhưng nghóa thì không khác, như Phật Địa sớ đã giải thích đầy đủ”. Hỏi: Trong ba thân thuộc về thân nào? Đáp: Căn cứ theo giáo hóa thì Bạc-già-phạm thuộc về hóa thân; như trong phẩm Bồ-tát, Trì Kế nói: “Ta thấy tịnh độ”, cho nên biết đều là Phật tha thọ dụng, ứng hóa chẳng phải là chân thật, cũng chẳng phải là người thuyết pháp; suy công đức mà quy về gốc tức là pháp thân. Thân ứng vật, chẳng thể khởi riêng, ắt phải từ hóa sinh, đồng với Tự thọ dụng. Nhưng vì căn cơ bất đồng, ở một nơi mà lại thấy khác nhau, nên chẳng thể nhất định nói là thân báo, hóa. Nhưng căn cứ theo nơi chốn mà luận thì nhất định là hóa Phật, cho nên đoạn sau kinh ghi: “Đức Thích-ca Như Lai ẩn giấu vô lượng công đức tôn quý, muốn độ những người có căn cơ thấp kém này. Vì thế mới hiện cả nước tạp uế như vậy”. Cho nên biết đó là hóa. Nay hiển thị pháp của Đấng Chủ Tôn ắt phải thù thắng, nên đầu kinh ghi là Bạc-già-phạm. Kinh: Trụ tại vườn Am-la-vệ nơi thành Quảng Nghiêm Tán: Nói về nơi chốn giáo hóa. Đây là địa phận ở trung Ấn Độ, nước tên là Phệ-xá-ly, Hán dịch là Quảng Nghiêm xưa âm là Tỳ-da-ly, Tỳ-xá-ly, Duy-da-ly, đều là sai lầm. Chu vi nước này hơn năm ngàn dặm, đô thành lớn của nước này, tuy nay đã hoang phế nhưng nền cũ vẫn còn, đo được sáu mươi bảy dặm. Nền của thành vương cung chu vi bốn mươi lăm ngàn dặm. Trong khoảng năm, sáu dặm về phía Tây bắc thành vương cung có một ngôi già-lam, là nơi tu tập của Chánh lượng bộ, gần bên có một ngôn tháp, Phật thuyết kinh Vô Cấu Xưng tại nơi đây, là nơi Trưởng giả Bảo Tánh dâng cúng lọng báu. Cách ngôi già-lam ba, bốn dặm về hướng chánh Bắc là khu vườn mà Am-la nữ dâng cúng Đức Phật. Đức Phật thường thiền định tại đây. Cách già-lam ba, bốn dặm về hướng Đông bắc có ngôi nhà cũ của Vô Cấu Xưng, lại cách đây không xa có một đền thờ thần hình trạng như một cái lũy gạch; tương truyền đây là nơi mà ngài Vô Cấu Xưng hiện bệnh thuyết pháp; lại cách đây không xa có một ngôi tháp là vườn cũ của trưởng giả Bảo Tánh, không xa nơi đây là nền nhà cũ của Am-ba-la nữ. Đô thành không có tên riêng, chỉ lấy tên nước làm tên đô thành, lấy tên đô thành làm tên nước, vì thế nước tên là Quảng Nghiêm, thành cũng tên Quảng Nghiêm. Trụ; nơi dừng nghó trong khi du hóa gọi là trụ. Quảng Nghiêm; quảng tức rộng rãi to lớn hơn đô thành các nước khác, nghiêm; tức tráng lệ hơn các cung điện của những vị vua khác. Việc tục điều thuận phong nhiêu. Chân đồ thì trang nghiêm rộng lớn, nên gọi là Quảng Nghiêm, biểu thị nghóa của kinh bao hàm tất cả là quảng, văn đức trang hoàng gọi là nghiêm. Am-la, Thiên Trúc có một loại quả tên là Am-một-la, ở đây gọi tắt, lược bỏ chữ một. Thành Quảng Nghiêm có một người con gái lấy tên loài quả này làm tên, gọi là Am-một-la nữ, cô gái này có một khu vườn rất đẹp, với cây cối sầm uất, khe suối trong veo, hoa thơm cỏ lạ, đá núi chất chồng, cảnh trí đủ để làm cho người lắng đọng tâm linh, đủ để thân cận bậc Thánh. Người con gái này thường chăm sóc vườn cây, sửa sang và tự giữ gìn nên gọi là Vệ. Vệ là âm Hán, ý nói người con gái ấy tự giữ gìn bảo vệ khu vườn của mình nên gọi là Vệ. Nàng Am-la dâng cúng khu vườn cho Phật, Đức Phật du hóa thường trụ tại đây, cho nên lấy đó làm tên. Quả biểu thị nghóa đương quả, vệ có nghóa quý trọng. Hiển bày việc nghe được diệu pháp tu hành thì có ngày nhất định sẽ đạt được đương quả, diệu pháp chẳng nên xem nhẹ, mà thường khuyên khiến bảo vệ, cho nên nơi này Đức Phật đã thuyết bộ kinh sâu xa này. Mới xem thì khu vườn của Am-la và nơi Dâng cúng bảo cái là một, nhưng Đức Phật ở bên trong khu vườn, còn hiến bảo cái thì ở bên ngoài, biểu thị dấu vết thì Nam Bắc bất đồng, nhưng lý thì không sai biệt. Nơi khu vườn vắng lặng biểu thị sự xa lìa ồn náo mà tự an vui. Đô thành xao động biểu thị việc khởi tâm từ bi để lợi ích hữu tình. Cho nên thành và vườn cùng nêu lên, là vì lợi ích cho cả đạo và tục, không trái nghịch nhau. Xưa có người giải thích rằng: “Người con gái này sinh ra từ cây Am-la, giống như Nại nữ, cho nên lấy đó làm tên”. Ở đây chẳng phải giải thích như thế, chẳng thể nghe theo, như Pháp Hoa thuyết ở Linh sơn, Bát-nhã thuyết ở Xá-vệ, Niết-bàn thuyết ở Kim hà, kinh này thuyết ở thành Quảng Nghiêm, mỗi mỗi đều có nguyên do. Hỏi: Xem nơi giáo hóa này thật là uế độ, vì sao Phạm vương nói: “Tôi thấy cõi này xưa nay thanh tịnh” Đáp: Đây là muốn hiển tâm Từ bi của Phật vì hóa độ mà biến thành cõi uế, thật ra chỗ thắng của Bồ-tát thì chỉ trụ ở cõi tịnh. Báo hóa khởi nơi phàm Thánh, tịnh uế khởi từ hai tâm, mà Phật thì không có chuẩn mực để định, xứ sở cũng chẳng thể biết. Chẳng thể cùng nêu lên tịnh uế, chỉ nêu lên một nơi giáo hóa, nghóa chuẩn xác của ba quốc độ cũng chẳng trái nhau. Dùng Phật mà ấn định quốc độ, thì lý thật có thể rốt ráo. Kinh: Cùng với tám ngàn đại Bí-sô đều đến tham dự. Tán: Đây là phần thứ hai nói về chúng viên mãn. Trước tiên lược nêu lên năm môn để phân biệt: Nêu mục đích lý do. Hiển quyền thật. Định nhiều ít. Thứ tự về chúng. (Bản Hán tạng không có môn thứ năm). 1. Mục đích lý do có năm: Chứng minh là kinh đáng tin, dứt trừ ba điều nghi: Nghi ngài Khánh Hỷ tự thuyết kinh, nghi nghe từ người khác thuyết mà nói lại, nghi chẳng phải do Phật thuyết. Nay nêu lên đại chúng đương thời để ấn chứng cho pháp không nghi, khiến mọi người phát tín tâm, vì thế luận Đại Trí Độ ghi: “Thuyết thời gian, xứ sở và đại chúng, để khiến sinh lòng tin”. Hiển đức độ tôn quý cao tột: Chư Phật có đức tôn quý, ở trong đại chúng thì hào quang che mờ bốn bộ chúng, như Đế Thích ở cõi trời, Phạm vương trụ trong định. Cho nên văn kinh sau có ghi: “Ví như núi chúa đại bảo Diệu cao, xuất hiện vòi vọi nguy nhiên giữa biển khơi, Đức Phật ngồi trên tòa sư tử Bảo tạng, oai quang chiếu soi rực rỡ che mờ cả đại chúng, ý cũng như thế. Hiển thị cho việc về sau sẽ phát dương: Thu Tử sinh nghi, cõi Đại thiên biến thành thanh tịnh; ngài Diệu Cát Tường đầy đủ đức trí được Đức Phật sai đến đối đáp, khích phát. Hai chúng Thánh phát khởi đầu tiên, tám bộ tùy tín theo sau. Đương cơ được lợi ích: Tám bộ, bốn chúng phát tâm vô thượng, Bồ-tát Thanh văn đạt tâm Bồ-đề, tùy duyên ngộ đạo, đã ghi tại văn kinh, như trên đã thuật, chẳng cần phải phiền dẫn chứng. Hàng thân cận chiêm ngưỡng, dùng quỹ phạm để dẫn dắt: Luận Phật Địa ghi: “Bồ-tát Thanh văn là thân cận (phụ dực) viên mãn, tám bộ bốn chúng là quyến thuộc viên mãn”, tất cả đều do tâm Từ bi phát khởi, tâm an nhẫn ban cùng khắp, khiến cho loài hàm linh ai mà chẳng vân tập đến. Các chúng này vân tập đến để dẫn nhiếp các chúng sinh khác phát tâm. Kinh đã ghi rõ, lại khiến nên đương thời phát tâm. Phàm đến trụ xứ của Phật, gồm có hai duyên: Chiêm ngưỡng. Nghe pháp. Hàng căn cơ thuần thục đương thời hội đạo, còn hàng căn cơ chưa thuần thục ngay hôm ấy phát tâm. Hiển quyền thật: Căn cứ theo kinh Phật Địa: “Hàng Thanh văn và bát bộ nói trong cõi thanh tịnh đều là do chư Phật Bồ-tát biến hiện ra để trang nghiêm đạo tràng, dẫn nhiếp chúng sinh, khiến cho họ phát đạo tâm. Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Như nước, chim… đều do Phật biến hóa ra”. Căn cứ theo kinh này thì tất cả Bồ-tát sinh ở cõi này đều ẩn đức thù thắng, hiện khởi bi tâm bền chắc, tùy loại chúng sinh mà nhiếp hóa. Cho nên biết Phật trụ ở uế độ thì hàng Thanh văn là thật, Bồ-tát là quyền; Phật trụ ở tịnh độ thì Thanh văn là quyền, Bồ-tát là thật. Căn cứ theo việc ở tịnh uế mà nghóa có thể biết được, còn chúng quyền thật khác thì lý khó có thể chuẩn định. Nếu căn cứ Thiên nữ ở phương trượng, Bồ-tát thọ thức ăn thì kinh văn đã nói, còn các loài khác thì khó biết. Định nhiều ít: Luận theo phàm Thánh có hai: Bồ-tát, Thanh văn là Thánh, các loài khác là phàm; hoặc chúng đầu tiên hoặc chúng sau cùng. Chúng đã trụ tại Am viên là chúng đầu tiên, chúng mà ngài Vô Cấu Xưng từ nơi khác đem đến vườn Am-la là chúng sau cùng. Luận theo bộ loại thì có ba: Chúng đại Thánh. Chúng Bát bộ. Chúng Bốn bộ. Tất cả Bồ-tát, Thanh văn trước và sau là chúng đại Thánh, tất cả phàm phu có oai đức là chúng tám bộ, các trời Thích, Phạm hộ vệ thế gian… Vì xếp vào chư Thiên trong bát bộ, cho nên không nêu riêng. Nếu ở loài người, thì hàng đã vào đạo mà sống ở thế tục, có giới hạnh, thì gọi là bốn bộ chúng, hoặc bốn chúng, loại thứ ba là thiên chúng ở cõi này, còn ba loại khác thì như trước đã nói. Trước sau hợp thành chín loại, đầu tiên có bảy chúng: Thanh văn, Bồ-tát, Phạm vương ở phương khác; Đế Thích ở phương khác; chúng bát bộ oai linh; chư Thiên ở cõi này, như đoạn văn kinh sau nói bát bộ chúng… là nêu lên các trời Thích, Phạm hộ vệ thế gian. Bản dịch xưa không có ghi việc này; loại thứ bảy là bốn bộ chúng có giới hạnh. Sau có hai loại: Chúng của ngài Vô Cấu Xưng. Như trong phẩm Bồ-tát Hạnh nói: “Mang đến trụ xứ của Phật”, trong phẩm Hương Đài nói: “Nước Diệu Hương có chín trăm vạn Bồ-tát cùng với cơm đều được đưa đến trượng thất của Duy-ma-cật”. Lại ghi: “Trưởng giả Chư Nguyệt Cái cùng tám mươi bốn ngàn người đều vào trượng thất của ông Duy-ma-cật”. Đó đều là những vị về sau cùng đến với ngài Duy-ma-cật, được xếp vào chúng Vô Cấu Xưng. Hai, chúng ở cõi Diệu Hỷ, tức cõi Phật A-súc do ngài Vô Cấu Xưng ở tại trụ xứ của Phật vận sức thần thông mang đến, không luận bàn. Tổng cộng gồm mười chín chúng: Thanh văn, Bồ-tát, Phạm vương ở cõi khác, Đế Thích ở cõi khác, các vị trời khác, rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẫn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, Phạm Thích ở phương này, Bí-sô, Bí-sô¬-ni, Ô-ba-tố-ca, Ô-bà-tư-ca, chúng Vô Cấu Xưng, chúng cõi Phật Bất Động. Trong đó có bốn nhóm chúng khác nhau: Ba cõi không có cõi Vô sắc, trong kinh Nhân Vương có đủ, kinh này không có. Vì cơ nghi chưa thành thục không có duyên với Phật pháp. Năm đường, không có địa ngục, kinh Đà-la-ni có nhóm chúng này, kinh này không có, vì tu tâm Đại thừa ắt có chỗ tự do, ở địa ngục không có thời gian nhàn nghó, cho nên chúng này không tấn, còn minh chú có sức oai thần, vốn để trừ khổ cho nên thuyết Đà-la-ni thì chúng địa ngục có đến. Chúng vua tôi, không có hai vị vua, kinh Pháp Hoa có đủ, kinh này không có, tức Luân vương và tiểu vương, cả hai kinh này không nêu lên. Chúng Tam thừa, không có Độc giác. Kinh Nhân Vương có, kinh này không có. Vì bậc Độc giác xuất thế phần nhiều không gặp Phật, lúc bấy giờ căn cơ chưa thuần thục, vì thế không nêu lên. 4. Thứ tự về chúng: Luận Phật Địa đã có giải thích, ở đây nêu lên bốn nghóa: Hình tướng bất đồng. Ngồi có xa gần. Giới hạnh khác nhau tùy loại hóa sinh. Khiến các Bồ-tát bỏ tâm kiêu mạn đối với Thanh văn. Đây là căn cứ theo thứ tự Thanh văn, Bồ-tát, thứ tự các chúng khác, tùy theo chỗ thích ứng mà biết được. Đầu tiên nêu lên bốn viên mãn trong chúng: Hạnh viên mãn, số viên mãn, công đức viên mãn và oai nghi viên mãn. Hạnh viên mãn gồm có bốn: Hàng Thanh văn tu hạnh Tiểu thừa, có tên là Bí-sô. Bồ-tát tu hạnh Đại thừa, có tên là Bồ-tát. Các Bồ-tát thường tùy loại giáo hóa, thân tướng không nhất định, nên có tên là Bồ-tát. Thanh văn thân tướng nhất định, gọi là Bí-sô. Số viên mãn, Thanh văn thì có tám ngàn, Bồ-tát thì ba mươi hai ngàn. Công đức viên mãn, nghóa là tất cả đều là bậc mà mọi người đã quen biết. Chung và riêng hợp lại gồm bốn mươi mốt câu. Oai nghi viên mãn, như nói “Lúc bấy giờ Thế Tôn với vô lượng trăm ngàn các đại chúng…” Đây là bốn loại viên mãn, Bồ-tát có đầy đủ, còn Thanh văn chỉ có ba: Hạnh viên mãn, nên gọi là Bí-sô. Số viên mãn, tám ngàn người, oai nghi viên mãn, đồng như Bồ-tát. Nay hiển về trong ngoài tu tập của hàng Bồ-tát cho nên chỉ luận về đức, hàng Thanh văn thì không như thế, cho nên không tán thán đức, chẳng đồng các kinh khác. Phạm vương và Đế Thích ở phương khác có hai viên mãn là số và oai nghi; chẳng lấy hạnh làm tên, chẳng tán thán đức. Bốn chúng như Bí-sô… cũng có hai viên mãn là hạnh và oai nghi. Chẳng tán thán đức, chẳng nêu số lượng. Tám bộ chúng chỉ có một là oai nghi mãn, vì chẳng lấy hạnh làm tên, chẳng tán thán đức, chẳng nêu số lượng. Trong các chúng thành thục, theo văn lại có hai: Đầu tiên nêu lên đại chúng, sau nói về oai nghi. Nên đại chúng lại có hai là Thánh và phàm. Bồ-tát, Thanh văn là Thánh, tám bộ bốn chúng là Phàm, hoặc có ba: Chúng đại Thánh, chúng tám Bộ và chúng bốn Bộ, hoặc có sáu như trước đã ghi: Thánh chúng là hai: Thanh văn. Bồ-tát. Đây là nói về chúng Thanh văn, Đức Phật cùng với đại chúng tập hội cho nên gọi là “Cùng với”. Đại gồm năm nghóa: Danh xưng đại, đó là những người mà đại chúng và các bậc đại nhân quen biết. Giai vị đại, vì đều trụ ở quả Thánh chẳng phải phàm phu. Công đức đại, các lậu đã hết, chứng trí đoạn. Tu hành đại, vì cầu đại Bồ-đề, tu tập tất cả các hạnh. Đồ chúng đại, vì có tám ngàn vị. Âm Phạm: Bí-sô, gồm năm nghóa: Bố ma, vì phát tâm xuất gia thì bốn ma đều sợ hãi. Khất só, xin ăn để nuôi sống, cứu độ tự và tha. Tịnh mạng, xa lìa năm thứ tà mạng, ba nghiệp chân chánh. Tịnh giới, trụ ở giới hạnh, oai đức chưa từng thiếu sót. Phá ác, tu đạo được quả đoạn trừ phiền não. Tăng-già gọi là chúng, đã chứng lý pháp và sự, cả hai hòa hợp. Bậc học và Vô học tính chung gồm tám ngàn người cùng với Phật tụ hợp tại một nơi, gọi là đều (câu). Kinh: Ba mươi hai ngàn Bồ-tát Ma-ha-tát. Tán: Đây là nói về chúng Bồ-tát. Gồm có bốn: Nêu tên chung và số lượng. Tán thán công đức. Nêu tên riêng. Nêu lên tổng kết: “Các vị Bồ-tát thượng thủ như thế”. Đây là phần đầu: Bồ-tát Ma-ha-tát là tên chung, ba mươi hai ngàn là số lượng. Bồ-đề Tát-đỏa gọi tắt là Bồ-tát. Gọi đủ gồm bốn nghóa: Bồ-đề là giác, tức trí cầu Phật quả; Tát Đỏa tức hữu tình là chúng sinh được độ. Nhiếp luận ghi: “Dùng Bồ-đề Tát-đỏa làm cảch sở duyên, cho nên gọi là Bồ-tát; Bồ-tát tu tập hai lợi ích tự và tha, hai lợi tức hai hạnh, cho nên lấy đó làm tên. Vả lại Bồ-đề như trước đã giải thích, Tát-đỏa là hữu tình, nghóa là các Bồ-tát còn có dị thục thức cho nên gọi là hữu tình, tức là hữu tình cầu đại Bồ-đề, phân biệt với loại hữu tình khác, cho nên gọi là Bồ-tát. Vả lại Bồ-đề như trước đã giải thích, Tát-đỏa có nghóa là mạnh mẽ, tức không sợ nơi chốn hay thời gian, không tham tiếc tài bảo, dõng mãnh cầu đại Bồ-đề. Phân biệt với sự dõng mãnh của các hữu tình sinh tử khác cho nên gọi là Bồ-tát. Nhiếp luận ghi: “Có ý chí có năng lực, cho nên gọi là Bồ-tát”. Kinh Thập Nhất Diện ghi: “Bồ-đề tức Bát-nhã, Tát-đỏa tức phương tiện.” Kinh Pháp Hoa ghi: “Sở chứng của chư Phật, sâu xa khó biết, ngôn thuyết diễn bày, ý thú khó hay”, tức có trí tuệ, có phương tiện, có thật trí, quyền trí, chân trí, tu trí, lý trí, sự trí tự lợi lợi tha cho nên gọi là Bồ-tát. Ma-ha Tát-đỏa gọi tắt là Ma- ha-tát; Ma-ha nghóa là Đại; Tát-đỏa, như đã giải thích. Vì để phân biệt với hàng Nhị thừa, phàm phu trước mười Địa và Bồ-tát Địa thứ bảy trở về trước, cho nên đặt là Đại. Các vị Bồ-tát này đều là những Bồ-tát Địa thứ tám trở lên, chẳng phải những vị trước. Ba vạn hai ngàn là những bậc căn cơ đã đầy đủ, chỉ nêu lên Bồ-tát thượng vị còn hạ vị thì theo đó cũng có thể biết được. Cho nên không nêu riêng. Kinh: [Đều được những bậc trọng vọng (chúng vọng) biết đến.] Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ hai nói về việc tán thán công đức. Đoạn này gồm bốn mươi mốt câu, bốn mươi câu đầu là tán thán riêng về công đức, một câu sau là tổng kết công đức sâu rộng, cùng kiếp tán thán cũng khó cùng tận. Bản dịch xưa chỉ có ba mươi tám câu mà thôi. Trong bốn mươi mốt câu, thì câu thứ mười là nói: “Niệm định tổng trì không đâu chẳng viên mãn”, câu thứ mười một: “Kiến lập trí môn vô ngại giải thoát”, thì bản kinh xưa hợp chung là: “Tâm thường an trụ vô ngại giải thoát”. Câu thứ ba mươi mốt: “Chánh trực thẩm đế, nhu hòa vi mật”, thì bản dịch cũ không có. Câu thứ ba mươi bốn: “Đạt được vô đẳng Phật trí quán đảnh”; câu thứ ba mươi lăm: “Cận lực vô úy bất cộng Phật pháp”; bản dịch cũ hợp chung là: “Cận vô đẳng đẳng Phật tự tại tuệ, mười Lực, Vô úy, mười tám pháp Bất cộng”. Vì thế bản cũ chỉ có ba mươi tám câu. Người xưa cũng có phân khoa riêng về mười Địa, trong đó chỉ tán thán Địa thứ tám trở lên, hoặc là Địa thứ mười; nhân vị đã rốt ráo, mà không tán thán những giai vị trước, tức chẳng phải tán thán Địa thứ bảy về trước thần thông đã đầy đủ vónh viễn xa lìa hoặc chướng trói buộc; tổng trì viên mãn. Trong đó văn cú đã lược bỏ sai lầm, đến văn sẽ giải thích. Phần tán thán riêng trong bốn mươi câu đầu; được phân làm hai mươi mốt loại công đức thù thắng: Hai câu đầu nói về đức ủy thác ngoại hóa của người khác; hai câu kế nói về đức tha hộ tư hộ; ba câu kế nói về đức lợi tha kế thừa tha; trong lợi tha có hai câu là thuyết pháp và thiện hữu. Hai câu tiếp nói về đức hàng phục nhân ác pháp ác; ba câu kế nói về đức nội đức ngoại biện; nội đức có hai, năng phát và sở phát là hai câu. Niệm định, tổng trì là nhân năng phát, giải thoát trí môn là quả sở phát; trí do niệm định tổng trì phát khởi; hai câu kế nói về đức hạnh thành trí mãn; sáu độ là hạnh thành; ba vô sinh nhẫn là trí mãn; hai câu kế nói về đức thuyết pháp đạt lý; hai câu kế là nói về đức trí căn năng phục; ba câu kế nói về đức nhân nghiêm quả mãn, quả mãn có hai, đạt diệu thể lìa nhân ác là hai câu; hai câu tiếp nói về đức danh cao tín trọng; hai câu kế nói về đức pháp thắng âm diệu; một câu kế nói về đức lìa biên hội trung; hai câu kế nối về đức quyết định sâu xa; một câu kế nói về đức siêu xuất tính chấp; hai câu kế nói về đức tích thiện lìa ác; hai câu kế nói về đức đạt lý chứng chân; hai câu kế nói về đức nói vị kế đạo; hai câu kế nói về đức chẳng trụ nhị biên, trừ ác thú, vượt hầm sâu nhờ duyên khởi, phân sinh tử làm hai loại, đều chẳng trụ bên sinh tử; thị hiện sinh vào các đường mà chẳng trụ bên Niết-bàn. Kế đến một câu nói về đức theo bệnh cho thuốc; một câu kế nói về đức nội ngoại nhị nghiêm; một câu kế nói về đức tự tha chẳng hư vọng. Căn cứ theo văn nghóa, từ sự chế định này, các bậc có trí nên như lý mà hiểu. Bốn mươi mốt câu tán thán riêng về đức, nên mỗi mỗi lập tên. Đều được những bậc trọng vọng biết đến; đây là tán thán Bồ-tát có đức lớn vị cao, người trí đều quen biết; công đức thù thắng, quốc vương, đại thần trưởng giả, cư só, các bậc có tài đức đều suy vọng, tức là bậc kiệt xuất chiếu soi mọi người nên gọi là chúng vọng. Nay các Bồ-tát được những bậc mà tất cả mọi người trọng vọng này biết đến ví như những bậc thông tuệ thấy biết sáng suốt, các Bồ-tát này vị cao đức lớn được mọi người biết đến cũng như thế. Chẳng phải là hàng phàm phu biết đến, dẫu biết đến cũng chưa trân trọng. Luận Trí Độ ghi: “Vua của chư Thiên, vua của loài người và các bậc Địa nhân”; nay chủ yếu là được mọi người biết đến. Các vị Bồ-tát này đều được đại chúng tôn trọng chiêm ngưỡng, được đại chúng biết đến. Hai nghóa đều đầy đủ. Xưa nói: “Mọi người đều quen biết,” thì không có hai nghóa này. Kinh: Đã thành tựu việc tu tập nghiệp đại thần thông. Tán: Đây là tán thán công đức diệu dụng lợi tha, biến khắp mười phương; phát khởi sự giáo hóa khó nghó bàn, nhân đã thành tựu. Nghiệp tức là sự nghiệp có nghóa tác dụng, thể tức thần thông. Sự nghiệp của Bồ-tát có tác dụng lợi tha, tức là thần thông. Luận Thành Duy Thức quyển thứ chín giải thích hai ngu của Bồ-tát Địa thứ mười; một trong đó là Đại thần thông, tức là sự nghiệp được phát khởi. Bản dịch xưa ghi: “Đại trí và bản hạnh đều thành tựu”. Tuy văn nói chung là bản hạnh, nhưng đó cũng là thần thông lợi ích chúng sinh. Kinh: Oai đức của chư Phật… luôn nhiếp thọ chánh pháp. Tán: Hai câu đầu nói về công đức tu tập hạnh rộng lớn được chư Phật nhiếp thọ. Hai câu sau nói về công đức khinh thân trọng đạo giữ gìn diệu pháp. Địa thứ tám trở lên có thể tu tập các hạnh, nơi biển vô tướng có thể tự tại tiến tu, được chư Phật trong mười phương duỗi tay xoa đầu, dùng oai lực thần thông cùng đức phước tuệ, trong tất cả thời luôn luôn giúp cho tăng trưởng sức lực, giữ gìn chẳng bỏ mất, vì thế nên gọi là đức tu tập rộng lớn được chư Phật nhiếp thọ. Bản dịch xưa ghi là kiến lập; thì không có nghóa này. Thành pháp có hai nghóa: Một là pháp tức là thành, các Bồ-tát này như người giữ thành, thường chống giữ không cho kẻ bên ngoài xâm nhập làm tổn hại. Người nương vào Phật pháp tu hành gọi là người trong thành. Thành có nghóa phòng giữ chế ngự bên ngoài, người tu hành ở trong thành phòng giữ, án ngữ bên ngoài không cho bốn ma xâm nhập. Cho nên pháp gọi là thành, hoặc gọi chánh pháp như người ở trong thành, Bồ-tát như thành, Bồ-tát khéo léo làm thành trì hộ pháp. Các vị Bồ-tát này xả bỏ thân mạng tài sản giữ gìn chánh pháp, có thể nhiếp thọ chánh pháp. Kinh Thắng Man ghi: “Nhiếp thọ chánh pháp”. Chánh pháp có bốn là giáo, lý, hạnh, quả. Bốn pháp này đều có thể nhiếp thọ, lãnh nạp nơi chính mình; hoặc nhiếp trì, chưa từng xả bỏ, tùy chỗ thích ứng đều có thể gom nhiếp bốn pháp; đối với các pháp khéo học, khéo tuyên thuyết, đối với lý khéo quán xét, khéo liễu đạt, đối với hạnh thì khéo tu khéo tập, đối với quả thì khéo biết khéo chứng. Hoặc đoạn tất cả ác tu tất cả thiện, độ tất cả chúng sinh gọi là nhiếp chánh pháp. Phàm các pháp thiện được tu tập đều gom nhiếp về chánh pháp, pháp ác được xa lìa đều nhiếp về chánh pháp, việc lợi sinh đã làm đều nhiếp về chánh pháp. Cho nên kinh Thắng Man ghi: “Nhiếp thọ chánh pháp, nghóa là được vô lượng tất cả Phật pháp”. Gom nhiếp tám mươi bốn ngàn pháp môn, xả bỏ thân mạng tài sản để nhiếp thọ chánh pháp. Chữ thiện (khéo léo) ở đây không chỉ là Thiện hộ thành pháp mà còn thông xuống Câu thiện nhiếp chánh pháp, hoặc chữ thiện nói riêng cho một câu trên mà không chung cho các câu dưới. Vì giữ gìn thành pháp lại có thể nhiếp thọ chánh pháp, cho nên gọi là công đức khinh thân trọng đạo gom nhiếp giữ gìn diệu pháp. Kinh: Dùng tiếng rống sư tử… Biến khắp mười phương. Tán: Đoạn này nói về công đức thuyết pháp rộng lớn và giác ngộ. Đoạn dưới nói: “Diễn nói pháp vô úy như tiếng rống sư tử”. Mới nghe tưởng như giống với nghóa giác ngộ ở đây. Nhưng ở dưới nói rằng: “Dùng tiếng thuyết pháp quyết định vô úy, như tiếng rống sư tử”, nay dùng để giác ngộ chúng sinh, khiến cho họ tăng trưởng đạo tâm, giống như tiếng rống sư tử, cho nên chẳng đồng. Khi sư tử rống thì có mười một việc. Kinh Niết-bàn ghi: “1. Phá những tiếng thật chẳng phải sư tử mà dối xưng là sư tử. Tự thử nghiệm sức lực của bản thân. Tự làm vắng lặng trụ xứ. Khiến biết được nơi ở. Khiến mọi loài không có tâm sợ hãi. Tỉnh thức người ngủ say. Làm cho loài cầm thú không được buông lung. Khiến các loài thú đều đến quy thuận. Điều phục loài đại hương tượng. Dạy dỗ các con. Trang nghiêm quyến thuộc”. Các Bồ-tát này thực hiện tiếng rống như sư tử ý nghóa cũng như thế: Phá dẹp ma quân. Hiển hiện các thần lực. Chỉ bày chỗ thực hành của Phật. Làm chỗ quy về cho những kẻ tà kiến. An ủi những chúng sinh sợ hãi. Làm cho chúng sinh tỉnh thức giấc ngủ vô minh. Khiến cho những chúng sinh hành ác pháp khởi tâm sám hối. Chỉ ra pháp tà kiến, khiến chúng sinh biết lục sư… chẳng phải là sư tử chân thật. Phá các Nhị thừa như Phú-lan-na… khiến cho những vị này sinh tâm hối cải. Giáo hóa hàng Bồ-tát ngũ trụ, khiến cho sinh tâm đại dõng mãnh. Làm cho những bậc có chánh kiến không sinh tâm dọa sợ, vì Bồ-tát có khả năng phá dẹp hàng phục. Dùng âm thanh sư tử hống để phu diễn. Phu nghóa là khai phát, đánh thức kẻ sơ cơ, diễn nghóa là nói rộng ra, giác sát hàng căn cơ thuần thục. Đã trụ ở Thập địa, có thể biến khắp mười phương; thuyết pháp như mây mưa, âm thanh thuyết pháp, vang xa khắp mười phương, âm thanh hay tốt gọi là mỹ âm. Hà nghóa là xa; chấn tức là dương cao. Tiếng nói của Thế Tôn, âm vận đầy đủ, tùy theo đại chúng nhiều ít mà tất cả đều được nghe. Các vị Bồ-tát này tùy chúng sinh ở mười phương mà âm thanh hay tốt này cũng biến thành âm vận đầy đủ. Bản dịch xưa gọi là “Danh văn mười phương”, cùng với câu “danh xưng cao viễn” ở đây đâu có gì sai khác? Có thể nói danh tức là âm thanh thuyết pháp, thì không bị mất nghóa này. Kinh: Vì các chúng sinh… có thể làm cho chẳng tuyệt. Tán: Hai câu trên nói về công đức của ba loại từ bi cứu khổ; hai câu sau nói về công đức kế thừa Pháp vương chẳng để đoạn tuyệt. Từ, Bi, Hỷ, Xả mỗi mỗi đều có ba: Hữu tình duyên, khởi tưởng có giả hữu tình. Pháp duyên, chẳng thấy có giả hữu tình. Vô duyên, trong pháp ấy cũng xa lìa sự phân biệt, chỉ thấy như mà thôi. Hoặc cho rằng pháp duyên là duyên mười hai phần giáo, vô duyên thì chẳng thấy hữu tình và pháp, mà thực hành Từ, Bi, Hỷ, Xả, chẳng thấy ngoài thân có thật chúng sinh, chúng sinh tức tự kỷ, cho nên hành Từ bi. Làm người bạn chẳng mời. Ví như cha mẹ thương xót cứu giúp con cái, không cần đợi mời thỉnh. Ở các giai vị trước hoặc đợi người thỉnh mới đến cứu giúp, chưa thể tự tại làm người bạn chẳng mời. Đây đều là do tâm Từ bi sâu xa tự tại. Kinh Trường A-hàm ghi: “Có bốn loại bạn ác: Bạn ác như thân thuộc, vì sợ mà quy phục, chứ thật chẳng có ý muốn thân thiết. Bạn ác nói lời hay, tức lời nói thì thuận mà ý thì trái nghịch. Bạn ác kính thuận, tức tâm tuy kính thuận nhưng khi làm thì thiện ác đều nghe theo, không có tâm can ngăn lẫn nhau. Bạn ác là bạn làm việc ác, hoặc cùng uống rượu, đánh bài, ca múa, dâm dật… Trong bốn loại này mỗi mỗi đều có bốn, cần phải xa lánh. Lại có bốn loại bạn tốt: Bạn tốt ngăn dứt điều lỗi, ngăn cấm nhau về các việc ác. Bạn tốt từ mẫn, tức có khổ cùng cứu giúp. Bạn tốt lợi người, tức cùng làm các việc thiện. Bạn tốt đồng sự, bạn cùng nhau làm việc thiện. Trong mỗi loại đều có bốn, phải nên gần giữ. Các vị Bồ-tát này thường làm bốn người bạn tốt này với chúng sinh.” Tam bảo ở đây, lược giải thích hai nghóa: Đồng thể Tam bảo. Chủng tức chủng tử tức Như Lai tạng, là nhân vô lậu của quả Phật. Các Bồ-tát này, tu tập các chủng tử không để đoạn dứt, thường tinh cần cầu chứng ngộ. Biệt thể Tam bảo, tức hữu vi vô vi, tự lợi lợi tha, tùy chỗ thích ứng mà thị hiện ba Phật, bốn Pháp, Thập địa tăng… Các vị Bồ-tát này tu tập chủng tử Tam bảo rồi lần lượt chỉ dạy cho người tiếp nối như thế chẳng để đoạn dứt. Như trong phẩm Minh Pháp, kinh Hoa Nghiêm có nêu lên ba lớp giải thích: Phát tâm Bồ-đề thì Phật bảo chẳng đoạn, diễn nói chánh pháp thì Pháp bảo chẳng đoạn, thọ trì giới hạnh thì Tăng bảo chẳng đoạn, tự tha đều như thế. Kinh: Hàng phục ma oán chế ngự ngoại đạo. Tán: Đây là hiển bày công đức phá dẹp oán địch. Ma tức bốn ma, hoặc tám ma như kinh Niết-bàn đã nói. Tức bốn ma đã nêu trước cộng thêm bốn đảo. Vì bốn điên đảo phá hoại bốn đức cho nên gọi là ma. Ma tức là oán, là oán chướng của pháp. Hàng phục các ma như chương riêng đã giải thích. Bốn đảo ma là phân biệt pháp chấp, sơ địa vónh viễn đoạn trừ, trước sơ địa chỉ mới dần dần điều phục. Chế tức là chế ngự, như chế ngự trâu ngựa. Do đầy đủ trí tuệ biện tài, nên chế ngự các ngoại đạo, do đạt được mười phương nên có thể chế phục thiên ma, do đạt được bốn vô úy nên phá dẹp ngoại đạo. Kinh: Vónh viễn xa lìa tất cả chướng và các triền. Tán: Câu này nói về công đức lìa nhiễm của Bồ-tát. Chướng ng- hóa là chướng ngại, gồm hai loại là phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng lấy một trăm hai mươi tám phiền não căn bản và các tùy phiền não thuộc kiến tu sở đoạn của ba cõi làm thể; sở tri chướng lấy tham, sân, si… chướng ngại trí thuộc kiến tu sở đoạn của ba cõi làm thể tánh, số lượng nhiều ít cũng giống tiệm đốn phục đoạn của phiền não chướng, tất cả đều như luận đã thuyết. Các Bồ-tát này đều ở giai vị Địa thứ tám, tất cả sáu thức hai chướng hiện hành đều đã chế phục, hoặc chủng tử đã đoạn trừ, cho nên nói cầu xa lìa. Cái nghóa là sự che lấp tâm tánh của hành giả, làm cho không được thanh tịnh. Cái gồm có năm loại: Tham dục cái, sân nhuế cái, hôn trầm cái, điệu cử cái, và ác tác cái, nghi cái. Năm loại này chướng ngại ba thời: Tham dục năm cảnh, chướng ngại tâm xuất gia. Đã xuất gia rồi, trước phạm tà hạnh, lại có tâm muốn giác ngộ, nhưng do sân nhuế làm chướng không thể giác ngộ mà sinh sân nhuế. Nếu chẳng phạm tà hạnh, khi học định tuệ thì ba pháp sau làm chướng ngại. Đầu tiên học tâm chỉ thì hôn trầm làm chướng ngại, kế đó học tâm cử thì điệu hối làm chướng ngại, nếu trụ ở vị xả thì tâm nghi làm chướng ngại. Vì chướng ngại năm pháp này, cho nên gọi là cái. Triền nghóa là trói buộc vì luôn luôn hiện khởi, trói buộc tâm hành giả, cho nên gọi là triền. Gồm tám loại: Vô tàm, vô quý, hôn trầm, thùy miên, điệu cử, ác tác, tật, xan; hai loại đầu chướng ngại giới học, hai loại kế tiếp chướng ngại định học, hai loại kế tiếp chướng ngại tuệ học, hai loại sau cùng chướng ngại tự lợi. Nghóa là người xuất gia luôn luôn hiện khởi tâm bỏn sẻn tật đố đối với việc lợi lạc tự tha; hai chướng đã gồm thâu tất cả nhiễm ô, trong đó nếu y cứ theo sự trội hơn thì chỉ nêu lên cái và triền, còn ba lậu, bốn thủ, thân hệ kiết phược thì đều căn cứ theo nghóa đã xa lìa. Bản dịch xưa ghi: “Tất cả đã thanh tịnh”, văn ý khó biết, tức hai chướng đã trừ. Kinh: Niệm định tổng trì… giải thoát trí môn. Tán: Hai câu đầu nói về công đức có thể dùng ít pháp mà bao hàm nhiều nghóa. Hai câu sau nói về công đức thù thắng vô lậu lìa phược. Niệm nghóa là nhớ rõ những việc đã làm, như luận Du-già năm mươi bảy giải thích Khế kinh có ghi: “Niệm đẳng, niệm tùng niệm, biệt niệm bất vong niệm, tâm nhớ rõ chẳng quên, không quên không mất pháp”. Nghóa này như Du-già Nhiếp Dị Môn đã nói. Định nghóa, nghóa là tâm không tán loạn khi đối cảnh. Du-già năm mươi bảy ghi: “Khiến tâm trụ đẳng trụ, an trụ và cận trụ, điều tịch tỉnh tịch chỉ, một đường tánh đẳng trì”. Nghóa này thì như luận Đối Pháp thứ mười đã nói. Tổng trì tức là Đà-la-ni, lấy niệm tuệ làm thể, có thể dùng một ít công đức mà hàm chứa nhiều nghóa; có thể gom chứa, tự tại giữ gìn tất cả, gọi là tổng trì. Gồm có bốn loại: Pháp, nghóa, được pháp nhẫn của Bồ-tát, chú. Do niệm mà ghi nhớ rõ ràng, cho nên không quên sót; do định mà không tán loạn, thường an trụ một đường, do tổng trì mà bao hàm tất cả, nên dễ thọ nhận và tuyên thuyết, vì thế có thể dùng ít pháp mà bao hàm nhiều pháp. Giải thoát trí môn, tức là trí vô lậu, vì xa lìa hữu lậu trói buộc, cho nên gọi là giải thoát. Giải thoát tức không còn hoặc chướng, giải thoát vô chướng lấy trí làm thể, trí tức là môn, lấy trí làm môn thì có thể nhập vào cảnh ba tánh. Cho nên luận Du-già ghi: “Nếu nói theo môn giải th- oát thì xuất thế thuộc về chánh trí”. Luận Hiển Dương ghi: “Chỉ nói các Tam-ma-địa Không, Vô nguyện, Vô tướng, thông với hữu lậu vô lậu, là định là tán, là văn, tư, tu tuệ. Chỉ nói các Tam-ma-địa Không, Vô tướng, Vô nguyện thông với hữu lậu vô lậu, chỉ là định chẳng phải tán, chỉ là tu tuệ, chẳng phải văn tư tuệ. Như nói các môn giải thoát Không, Vô nguyện, Vô tướng chỉ là vô lậu chẳng phải hữu lậu, chỉ là định chẳng phải là tán, chỉ là tu tuệ chẳng phải văn tư tuệ”. Nay nói giải thoát, cho nên chỉ là vô lậu. Không môn duyên với sở chấp, vì không có thể. Vô nguyện môn duyên với y tha, vì chẳng cầu nguyện nơi ba cõi. Vô tướng môn duyên với viên thành, quán chân như là vô tướng. Hoặc cho rằng ba môn giải thoát đều duyên với ba tánh, hoặc mười sáu hành, nhiều loại bất đồng, như Xu Yếu và luận Du-già Đệ Thập Nhị Sao đã nói. Bản dịch xưa hợp hai câu thành: “Tâm thường an trụ nơi vô ngại giải thoát”, vô ngại tức vô chướng, giải thoát tức trí môn; đó có thể cho rằng kiến lập vô chướng giải thoát trí môn và tâm thường an trụ nơi đó. Thoạt xem thì chừng như là thường an trụ nơi vô ngại giải thoát kia, nhưng đó chỉ là định mà không có niệm và tổng trì ở đây; hợp hai câu của bản này làm một câu ở bản dịch xưa thì ý nghóa vẫn không hoàn toàn. Kinh: Cho đến được tất cả… Đà-la-ni biện. Tán: Đoạn này là nói về công đức thành tựu sáu biện tài: Vô đoạn biện, tức là thuyết pháp liên hoàn không ngừng dứt. Thù thắng biện, không thể bị khuất phục. Niệm biện, ghi nhớ tuyên thuyết các pháp sự. Tuệ biện, phân tích các pháp. Đẳng trì biện, khéo nói các định. Tổng trì biện, trong một chữ mà tuyên thuyết các nghóa. Đã chẳng phải bốn vô ngại giải cũng chẳng phải bảy biện, cho nên thành tựu riêng sáu biện này. Một chữ biện sau cùng thông cả lên trên. Biện thứ sáu nếu y cứ theo bốn vô ngại biện thì thuộc về pháp ng- hóa, còn năm biện trước thuộc về biện tài. Biện thứ nhất ở đây thì thuộc về vô đoạn tận thứ tư trong bảy biện. Biện thứ hai ở đây thuộc về biện thứ bảy Nhất thiết thế gian tối thượng diệu trong bảy biện, biện thứ tư ở đây thuộc về biện thứ năm vô sơ mậu trong bảy biện, đều chung cho niệm và định, tùy chỗ thích ứng mà lấy hậu trí làm thể. Bản dịch xưa ghi: “Niệm, định, tổng trì, biện tài chẳng đoạn”. Niệm, định, tổng trì là ba, nói biện tài chẳng đoạn, mới là một biện thiếu thắng tuệ. Ý của bản dịch xưa là nói ba loại trên có biện tài chẳng đoạn, chẳng phải là nói bất đoạn biện.  <卷>QUYỂN 2 (PHẦN 1) Kinh: Đều đạt Đệ nhất… Ba-la-mật-đa. Tán: Đoạn này hiển bày công đức đến bờ kia. Tức là mười Ba-la- mật. Đệ nhất nghóa là hiển mười độ đều có thể tu tập đầy đủ, thuần là vô lậu. Nhưng mười độ này, nếu trước Thập địa thì trong một hạnh, chỉ tu một hạnh thuộc về hữu lậu, Địa thứ bảy về trước, trong một hạnh tu tất cả hạnh, gồm hữu lậu vô lậu; Địa thứ tám trở lên trong tất cả hạnh tu tất cả hạnh, thuần là vô lậu, thù thắng hơn các giai vị trước cho nên gọi là Đệ nhất. Mười độ: Bố thí. Tịnh giới. Gọi là điều phục tịch tónh; nói Thi-la tức là tịnh giới. Trong Quảng Luật Tỳ-nại-da gọi là điều phục, tức là điều hòa, khống chế các nghiệp thân, ngữ… chế phục diệt trừ các phiền não. Tịch tónh tức là thân ngữ ý vắng lặng, các ác giới trong sáu căn bặt dứt (tónh). Thi-la nghóa là mát mẽ, tức đạt được quả Niết-bàn mát mẽ. Hoặc cho rằng tự thể của giới có thể trừ được sự nóng đốt của các phiền não ác nghiệp. Thi-la là thể của giới, điều phục tịch tónh là công năng của giới. An nhẫn. Chánh cần, tức tinh tấn. Tónh lự tức thiền định. Bát-nhã. Phương tiện thiện xảo. Diệu nguyện. Lực. Trí ba-la-mật-đa. Bản dịch xưa thiếu nguyện, nhưng lại hợp chung thứ mười và thứ sáu, cho rằng cũng đầy đủ và ý cũng đã bao hàm, vậy chỉ nêu lên một Ba-la-mật đầu tiên thì đầy đủ những Ba-la-mật khác, nếu thế thì đâu phải nhọc gì mà nêu lên riêng biệt? Sáu độ được chia làm năm môn để phân biệt: Thích danh, nêu thể, giải thích tướng, luận về quả, phân biệt năm môn. Thích danh: Phạm gọi là Thỉ-ca ba-la-mật-đa. Thỉ-ca là thập, ba-la là bỉ ngạn, mật-đa là ly, đáo. Tức là thập ly đáo bỉ ngạn. Thập (mười) tức là số lượng. Bỉ ngạn có năm: Tri, giáo, lý, hạnh, quả. Do mười hạnh này nên có thể liễu tri tất cả cảnh không hữu, có thể hiểu tất cả giáo năm minh, có thể đạt tất cả lý chân tục, có thể tu tất cả hạnh phước tuệ, có thể chứng tất cả quả Bồ-đề nên gọi là đáo bỉ ngạn. Bồ-đề và Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề, Bồ-đề và Niết-bàn đều gọi là Bồ-đề, trong năm cảnh còn một ít chưa cùng tận nên không gọi là đáo bỉ ngạn. Ly tức là viễn ly (xa lìa), do mười hạnh này mà xa lìa được các pháp năm uẩn sinh tử, đạt đến năm loại bỉ ngạn sở tri, nên gọi là mười Ba-la-mật-đa. Trong Bát- nhã giải thích như thế, thuộc về Đới số thích. Nếu giải thích tên riêng thì dẹp bờ xan lận gọi là bố thí cho đến quyết đoán sự lý các pháp thì gọi là trí. Bố thí tức Ba-la-mật-đa cho đến Trí tức Ba-la-mật-đa, đó đều thuộc về Trì nghiệp thích. Nêu thể tánh: Bố thí có ba: Tài thí, pháp thí và vô úy thí. Người nghèo không ruộng nương thì ban cho tài vật, người ở trong sinh tử thì ban cho chánh pháp, những chúng sinh sợ hãi thì thí sự không sợ hãi. Tất cả đều lấy vô tham và ba nghiệp mà họ phát khởi làm tánh. Thể này có hai: Vô tham và tư. Ba nghiệp tức tư. Giới có ba loại: Luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới. Cả ba giới này đều lấy ba nghiệp khi thọ giới Bồ-tát làm tánh, thể này chỉ có tư. Nhẫn có ba: Nại oán hại nhẫn, an thọ khổ nhẫn, đế sát pháp nhẫn. Bị người khác não loạn, chịu đựng được mà không sân hận; tu hành bức bách mà vẫn an ổn không lui sụt, nghe thật lý các pháp có thể quyết định không nghi. Đầu tiên là vô sân, nhẫn thứ hai là tinh tấn, nhẫn thứ ba là thẩm tuệ. Cả ba đều lấy ba nghiệp làm tánh, vậy thể này gồm bốn pháp: Vô sân, tinh tấn, tuệ, tư. Tinh tấn gồm ba: Bị giáp tinh tấn, nhiếp thiên tinh tấn, lợi lạc tinh tấn như Khế kinh giải thích. Trụ ở hữu thế, hữu cần, hữu dõng mãnh vững chắc, đối với các pháp thiện thường không xả bỏ. Luân có năm tên là bị giáp, gia hạnh, vô hạ, vô hoàn, vô túc. Theo thứ tự phối hợp với năm loại tinh tấn trong kinh, bi giáp tinh tấn kia đều là nhiếp thiện, tuy gom nhiếp năm nhưng đều là tự lợi, đến khi cứu vật lợi sinh thì không sinh biếng trễ, nên gọi là lợi lạc tinh tấn. Ba tinh tấn này đều lấy cần và ba nghiệp của chúng sinh khởi làm tánh, thể chỉ có hai pháp là tinh tấn và tư. Tónh lự có ba: An trụ tónh lự, dẫn phát tịnh lự, biện sự tónh lự. Hiện pháp lạc trụ định gọi là an trụ tịnh lự, dẫn phát thần thông thành sữa ngon để ban phát cho kẻ bần cùng gọi là biện sự tịnh lự. Ba pháp này chỉ lấy tónh lự làm tánh, thể chỉ là định. Bát-nhã có ba: Sinh không phân biệt tuệ, pháp không vô phân biệt tuệ, câu không vô phân biệt tuệ, phương tiện thiện xảo có hai: Hồi hướng phương tiện thiện xảo, bạt tế phương tiện thiện xảo. Nguyện có hai là: Cầu Bồ-đề nguyện và lợi lạc tha xảo nguyện. Lực có hai: Tư trạch lực và tu tập lực; trí có hai: Thọ dụng pháp lạc và thành thục hữu tình trí. Năm độ này đều lấy tuệ làm tánh; hoặc nguyện thứ tám lấy dục, thắng giải và tín làm tánh, cũng đều có tuệ làm tánh. Mười độ như thế tổng cộng có chín pháp làm tánh: Vô tham, tư, vô sân, tinh tấn, tuệ, tịnh lự, dục, thắng giải, tín. Trong đó biến hành chỉ có một pháp là tư; biệt cảnh có bốn pháp là dục, thắng giải, định và tuệ; thiện có bốn là tín, tinh tấn, vô tham, vô sân. Hoặc cho rằng thân, ngữ sắc chung cho vô biểu sắc, tổng cộng thành mười pháp làm thể. Giải thích tướng: Cần phải có đầy đủ bảy loại tối thắng nhiếp thọ mới thành mười tướng Ba-la-mật-đa: An trụ tối thắng, nghóa là an trụ nơi chủng tánh Bồ-tát, không có chủng tánh tu, tức chẳng phải là tướng độ. Y chỉ tối thắng, nghóa là cần phải nương vào tâm Bồ-đề, nếu không có đạo tâm, tuy có tu nhưng chẳng phải độ. Ý lạc tối thắng, nghóa là cần phải thương xót tất cả loài hữu tình, thì chẳng thương xót loài hữu tình tuy có tu nhưng chẳng phải độ. Sự nghiệp tối thắng, nghóa là cần phải làm tất cả sự nghiệp như khi bố thí cần phải có tín tâm, chí tâm, tùy thời tự mình thực hành bố thí như pháp, hoặc hành thí đầy đủ sáu nghóa: Một là, thí không có chỗ gá nương, vì giải thoát xả, hướng Niết-bàn, không có chỗ chấp trước; hai là, bố thí rộng lớn, duỗi tay ban phát vì ân cần bố thí tất cả; ba là, hoan hỷ thí, vui vẻ xả bỏ, trước khi thí, trong lúc thí và sau khi thí, tâm ý đều vui vẻ, không hối tiếc; bốn là, sát sát thí (luôn luôn thí) vì cầu được thí; một bề như pháp, không nên dùng sự hung bạo tích tập tài vật, khi bố thí luôn luôn xả thí tài vật đầy đủ cùng khắp; năm là, điền khí thí vì xả thí viên mãn. Nghóa là đối với phước điền mà Dâng cúng; sáu là nhiếp thọ quyến thuộc thí, đối với tuệ thí, ưa thích phân chia, nghóa là đối với cha mẹ, vợ con… thì luôn luôn bình đẳng phân bố, tài vật do phi lý mà cầu được thì chẳng ban phát cho người, vì vật ấy không thanh tịnh. Lưới bẫy giăng bắt chẳng nên bố thí cho người, vì tổn mạng chúng sinh, dao gậy thuốc độc chẳng nên thí cho người, vì hại mạng chúng sinh; âm nhạc nữ sắc chẳng nên bố thí cho người, vì phá hoại tâm tịnh. Tóm lại, tất cả vật chẳng như pháp, đều chẳng nên bố thí, như thế gọi là sự nghiệp tối thắng. Xảo tiện tối thắng, nghóa là cần phải vô tướng trí để nhiếp thọ, như không thấy có người thí, vật thí và người được thí, ba việc đều không, ba luân đều thanh tịnh. Tức kinh Bát-nhã ghi: “Chẳng nên trụ tướng mà hành bố thí, cho nên trụ tướng mà tu thì tuy có tu nhưng chẳng phải là độ”. Hồi hướng tối thắng, nghóa là cần phải hồi hướng vô thượng Bồ- đề, nếu chẳng cầu Bồ-đề, thì tuy có tu nhưng chẳng phải độ. Thanh tịnh tối thắng, chẳng nên để hai chướng xen lẫn, ba thời không lo buồn mới gọi là độ, nếu có phiền não xen lẫn, thì tuy có tu nhưng chẳng phải là độ. Luận về quả: Quả hữu lậu có bốn: Quả dị thục, quả đẳng lưu, quả só dụng và quả tăng thượng; chẳng chứng vô vi thì không được quả ly hệ. Vô lậu có bốn là bốn quả trên trừ quả dị thục thêm quả ly hệ. Quả dị thục tức là do các nghiệp thiện ác hữu lậu chiêu cảm. Nếu trong mười Địa, cả hai giúp đỡ nhau thì chung cho năm quả. Tướng của năm quả này phần sau sẽ biết. Phân biệt các môn: Nghóa là trong đó lại dùng năm môn để phân biệt. Thứ tự, lìa chướng, phế lập, tu tướng và thuần tập, như luận Thành Duy Thức quyển thứ chín đã giải thích. Kinh: Thành tựu vô sở đắc, chẳng khởi pháp nhẫn. Tán: Đây, nói về công đức thứ mười bốn là tương tục Vô sinh pháp nhẫn. Thanh Biện giải thích: “Vì là thế tục cho nên hữu, vì là thắng ng- hóa cho nên không, không tức vô sở đắc. Quán pháp vốn không thì có gì mà sinh. Quán pháp vô sinh mà khởi trí nhẫn gọi là vô sở đắc bất khởi pháp nhẫn”. Hộ Pháp… giải thích: “Biến kế sở chấp, chấp có nhân pháp, gọi là sở đắc. Nay quán pháp không thì gọi là vô sở đắc. Khởi tức là sinh, nhẫn tức là trí. Đối với ba tánh, quán sở chấp đều không, gọi là vô sở đắc, thể đã không có, thì có gì gọi là sinh? Quán pháp bất sinh này, khởi trí nhẫn, tức ba vô sinh nhẫn: Bản tánh Vô sinh nhẫn, tức quán biến kế sở chấp, hai tướng nhân pháp vốn không có thể. Tự nhiên Vô sinh nhẫn, quán y tha khởi, chỉ có giả nhân duyên, chẳng phải tự nhiên sinh. Hoặc khổ Vô sinh nhẫn, quán chân như hoặc khổ vốn không vô sinh. Ba vô sinh nhẫn này đối với Bồ-tát trước Thập địa thì tu học pháp quán, vào sơ địa thì chứng đắc, đến Địa thứ tám thì được tương tục. Nay lại tự tại thành tựu, cho nên có tên như thế. Kinh: Đã có thể tùy thuận chuyển pháp luân bất thoái. Tán: Câu này nói về công đức năng thuyết của giai vị cao chuyển nghóa là di chuyển, thể là Thánh đạo, nghóa là khi xưa Phật thọ nhận từ nơi khác, ngày hôm nay thuyết lại cho người nghe, gọi đó là chuyển. Bồ-tát theo Phật, cũng có thể di chuyển, nên gọi là tùy thuận. Luân có nghóa là phá hoại, tức phá dẹp hai chướng, có nghóa bất định vì hay qua lại, có nghóa viên mãn, vì đầy đủ vành, trục, căm… nghóa là tám Thánh đạo có đầy đủ ba nghóa này, cho nên gọi là pháp luân. Pháp luân có năm: Pháp luân thể, tức tám Thánh đạo. Pháp luân nhân tức là giáo này và niệm trụ… được nhân của Thánh đạo. Pháp luân quyến thuộc, tức là vạn hạnh phước tuệ. Pháp luân quả, tức Bồ-đề Niết-bàn. Pháp luân cảnh, tức đế lý chân tục. Chuyển nghóa là vận động di chuyển, vận chuyển huyền giáo, hiển dương diệu lý; tức trước nhờ âm thanh vận Thánh đạo, sau từ ngôn giáo mà khởi viên trí. Cho nên bốn pháp bảo đều gọi là chuyển. Bất thoái có hai: Dó đắc bất thoái, sơ địa đã đạt được, đối với pháp chưa đạt được, thì chưa có thể tu, gọi là thoái. Vị đắc bất thoái, Địa thứ tám mới đạt được, đối với pháp chưa đạt được thì có thể tự tại tu tập. Nay đầy đủ hai bất thoái thì cần phải từ Địa thứ tám trở lên, cho nên có thể chuyển. Hoặc nói bốn bất thoái: Tín bất thoái, tức tâm thứ sáu trong thập tín, chẳng thoái tâm sinh vào tà kiến. Vị bất thoái, tức trụ thứ bảy trong thập ttrụ, chẳng thoái tâm rơi vào Nhị thừa. Chứng bất thoái, từ sơ địa trở lên đã đắc pháp vónh viễn chẳng thoái tâm. Hạnh bất thoái, từ Địa thứ tám trở lên tu tập tất cả các hạnh mà chẳng thoái. Nay tùy theo giai vị mà có thể chuyển đầy đủ bốn vị này; bốn bất thoái chuyển pháp luân, cần phải đạt Địa thứ tám trở lên mới được. Kinh: Đều diệt vô tướng… các căn thắng liệt. Tán: Hai câu đầu hiển công đức của pháp quyết định, hai câu sau hiển công đức trí lực của các căn thượng hạ. Diệu ấn có hai: Có sai biệt tức ba pháp ấn là các hành vô thường, Niết-bàn tịch tónh và các pháp vô ngã. Pháp ấn này chung cho Đại, Tiểu thừa. Vô sai biệt, tức lý vô tướng và năng ấn, giáo pháp luân sở chuyển là sở ấn. Hàm là đều, đắc là đạt được. Do các Bồ-tát tự tại đạt được lý vô tướng, khéo léo ấn chứng giáo sở ấn, cho nên có thể chuyển được pháp luân bất thoái. Nếu chưa tự tại đạt được lý vô tướng, diệu ấn giáo sở ấn thì rốt cuộc chẳng thể chuyển được pháp luân bất thoái. Đó là dùng câu sau mà giải thích hai câu trước, như thế thì không có bốn mươi mốt câu, nếu căn cứ theo cách giải thứ hai thì có được bốn mươi mốt câu. Diệu ấn vô tướng tức là giáo vô tướng; sở ấn của giáo tức là lý vô tướng; đây là do các Bồ-tát tự tại đạt được giáo vô tướng ấn chứng lý vô tướng sở ấn. Trước tu mười Lực, tuy đã phần đắc nhưng còn chưa viên mãn. Còn các bậc Đại Bồ-tát này đã đạt được viên mãn lực thứ tư trong mười Lực, nên gọi là khéo biết phẩm loại căn cơ hữu tình. Bản dịch xưa đầu tiên ghi: “Khéo hiểu các pháp tướng”, do hiểu được giaó vô tướng năng thuyên, cho nên có thể tùy thuận chuyển pháp luân bất thoái, hoặc cho rằng các Bồ-tát hiểu rõ được chân thể tất cả pháp. Nghóa là tự tại đạt được lý vô tướng. Tướng tức là thể. Tuy biết hai cách giải thích, nhưng nay lại phù hợp với giáo mới, nghóa lý cạn cợt, bậc trí nên biết. Kinh: Tất cả đại chúng… được vô sở úy Tán: Câu này nói về công đức điều phục những chúng sinh khó hóa độ, như ba Ca-diếp cho rằng đã đạt được đạo chân thật, tất cả đại chúng chẳng thể điều phục được; các Bồ-tát này lại điều phục được, họ đã bị khuất phục, không thể cật vấn trái nghịch các Bồ-tát. Vì thế các Bồ-tát đạt được vô sở úy. Bản dịch xưa kia ghi: “Che phủ đại chúng”, tức là tà kiến, hạng người khó hóa độ. Ác danh và ác giải (kiến giải sai lầm) bao trùm đại chúng, Bồ-tát có thể hàng phục được họ, hoặc cho rằng trí tuệ và biện tài của Bồ-tát đều thành tựu, bao trùm cả đại chúng, cho nên đạt được vô sở úy Kinh: Đã tích chứa vô tận phước tuệ tư lương Tán: Câu này hiển thị công đức nhân viên mãn tự tại. Giai vị trước Thập địa đã khéo léo tích tụ hai nhân phước và tuệ. Địa thứ bảy trở về trước còn tu tập hữu lậu vô lậu xem lẫn; đến Địa thứ tám, trong thức thứ sáu chỉ thuần tu vô lậu, tự tại tương tục cho nên nói tích chứa vô tận tư lương. Bản dịch xưa ghi: “Vì tu tâm ấy”, không chỉ tu tâm mà thân cũng phải tu tập. Kinh: Tướng hảo nghiêm thân… những vật trang sức có được. Tán: Hai câu trên nói về công đức đoan nghiêm thù thắng của nội thân. Hai câu sau nói về công đức của việc xả bỏ những trang sức thế gian. Các tướng quý và vẻ đẹp phụ; thức thứ tám biến các quả di thục, Sơ địa thì được một phần. Thức thứ sáu cũng biến thành vô lậu, Địa thứ tám trở lên các tướng quý và vẻ đẹp phụ viên mãn, hữu lậu vô lậu tương tục thù thắng vi diệu, cho nên nói sắc tượng của các tướng quý và vẻ đẹp là đệ nhất. Các tướng quý và vẻ đẹp phụ đều lập bốn căn là mắt, lưỡi, thân và nam căn làm chỗ y và lưỡi làm thể, cho nên nói sắc tượng. Được vị thượng diệu, thì lưỡi làm thể; mắt như sen xanh, con ngươi như mắt trâu chúa, lấy mắt làm chỗ y cứ. Lưỡi che trùm cả mặt, thi lưỡi là chỗ y cứ. Thân màu vàng ròng… thì thân là chỗ y cứ. Nam căn ẩn kín thì nam căn là chỗ y cứ. Các tướng khác căn cứ theo đây cũng có thể biết được. Những người giàu có ở thế gian thường dùng các vật quý giá để trang sức. Những vật quý báu trang sức gọi là sức hảo. Nay các Đại Bồ- tát xem đó không những là vô ích mà trái lại còn tổn hại, cho nên xả bỏ tất cả, dùng nội đức nghiêm thân, không cần vật trang sức bên ngoài. Kinh: Danh vang cao xa hơn trời Đế Thích. Tán: Câu này nói về công đức thù thắng danh dự vang xa. Vua trời Đao-lợi là Thích-ca Đề-bà Nhân-đạt-la, Thích-ca tức là Năng, là họ, Đề-bà là Thiên, Nhân-đạt-la là Đế. Đế chủ của cõi trời họ là Thích- ca, hiệu là Đế Thích, tên là Kiều-thi-ca, như các kinh khác đã nói rõ về bản duyên, rất tôn sùng Phật pháp, các Bồ-tát phương khác và chư Thiên ở cõi trời trên đều nghe danh. Du tức là việt (vượt qua). Danh tiếng của Bồ-tát lại vượt hơn cả trời Đế Thích, mười phương đều nghe biết. Nhưng người phiên dịch cho rằng Đế Thích trụ tại núi Tu-di, người chấp bút bèn theo đó ghi chép, vì thế bản dịch xưa ghi: “Vượt hơn núi Tu-di”. Núi Tu-di kia thì trời Tha hóa còn không biết có, hà huống gì những cõi khác. Kinh: Ý lạc kiên cố… đạt được lòng tin chẳng hoại. Tán: Đoạn này nói về công đức tự tại quyết định đạt được sự lý chẳng nghi. Hai câu trên là nêu dụ, hai câu dưới là nói về thể. Ý lạc dùng tín và thắng giải làm tự thể, dẫu có ác ma và các ngoại đạo phá hoại vẫn quyết định kiên cố, không thể phá hoại ngăn trở được, ví như kim cang rất cứng chắc vậy, chẳng thể dùng phá được. Cho nên đối với Phật pháp đạt được lòng tin chẳng hoại. Phật, Pháp, Tăng và Giới, gọi chung là Phật pháp; được lòng tin chẳng hoại là do tin bốn pháp này. Tức là bốn chứng tịnh mà luận đã nói. Hoặc cho rằng chân lý của pháp gọi là đồng thể Tam bảo Phật pháp. Nay tự tại đạt được lòng tin chẳng hoại này, thì Sơ địa tuy đã được nhưng đối với sự còn do dự. Do dự này thuộc về dị thục sinh. Địa thứ tám trở lên, tất cả đều quyết định. Nay nêu lên pháp thù thắng gọi là lòng tin chẳng hoại, tin tất cả, nhưng nói bốn pháp là căn cứ theo cảnh thù thắng mà thuyết. Luận Câu-xá ghi: “Tin Tam bảo tức là xa lìa được nhân ác đạo, tin giới là xa lìa nhân bần tiện”, cho nên chỉ nêu bốn pháp. Bản dịch xưa chỉ có dụ, nên nghóa chẳng đầy đủ. Kinh: Lưu chiếu ánh sáng Pháp bảo, rưới trận mưa cam lồ. Tán: Câu này là nói về công đức phá thiện sinh ác, lưu diễn ánh sáng pháp chiếu phá tối tăm si mê của chúng sinh, rưới mưa giáo pháp như cam lồ, để trưởng dưỡng mầm thiện căn của chúng sinh. Hoặc cho rằng giáo là Pháp bảo, thuyết là ánh sáng của văn, chiếu để hiển lý, nghóa như cam lồ có vị đậm. Đây cũng như ý nghóa mưa thấm nhuần mầm cây cỏ. Kinh: Âm thanh của lời nói vi diệu bậc nhất. Tán: Câu này nói về công đức thuyết pháp có âm thanh thù thắng vi diệu. Thanh vận thuyết pháp như tiếng chim Tần-ca, bậc nhất trong các loại âm thanh của chúng sinh. Vi tức là mật, tức khéo nói nghóa sâu xa. Diệu tức là hảo, tức hòa nhã dễ mến thích. Đức Phật có năm loại âm thanh hay tốt: Rền sâu như sấm. Trong trẻo vang xa, người nghe đều vui thích. Khi nghe, tâm sinh cung kính lãnh thọ. Hiểu thấu suốt. Người nghe không sinh tâm nhàm chán. Ở đây đầy đủ bốn nghóa sau, cho nên nói là âm thanh của lời nói vi diệu bậc nhất. Trong ba mươi hai tướng đây là tướng Phạm âm thanh, công đức rất lớn, như kinh đã so sánh. Kinh: Nơi pháp nghóa sâu xa… kiến, tập tương tục. Tán: Đoạn này nói về công đức đạt trung đạo. Duyên khởi tức là đợi duyên mới khởi, cũng gọi là duyên sinh. Gồm ba loại: Ái phi, ái đạo duyên khởi tức là mười hai duyên sinh lấy năm uẩn làm tánh, hay hiển hiện trong các đường thiện ác, đó là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử. Thọ dùng, duyên khởi, tức lấy sáu thức thân làm tánh; hay thọ dụng cảnh. Tự tánh duyên khởi, tức tự tánh sinh tử duyên khởi lấy bản thức làm tánh. Ba loại duyên khởi này, diệu lý khó thấu hiểu, cho nên gọi là pháp nghóa sâu xa. Pháp nghóa rộng lớn gọi là quảng đại. Khi xưa còn ở vị phàm phu, mê pháp duyên khởi trung đạo, khởi tà kiến nhị biên thường đoạn, chấp không có nhân sinh khởi. Như chấp Niết-bàn là thường, gọi là thường kiến, chấp quả đời sau là không, vô sở hữu tức đoạn kiến. Hai kiến chấp này huân tập thành chủng tử chứa ở bản thức, tương tục chẳng đoạn. Nay Bồ-tát Địa thứ tám trở lên lìa phần đoạn sinh tử, đạt ba loại duyên khởi trung đạo, thì sự hiệân hành và chủng tử tập khí tương tục của hai kiến liền diệt. Hai kiến về pháp chấp đã đoạn thì phiền não kiến cũng theo đó mà xả bỏ. Hiện hành và chủng tử của hai kiến chấp đoạn thường này tương tục, đều là do mê nơi pháp duyên khởi tà biên, cho nên khi đạt được pháp duyên khởi trung đạo thì hai kiến kia vónh viễn diệt. Bản dịch xưa ghi: “Đoạn các tà kiến”, vốn không có văn này; người xưa cho rằng thể của hai kiến là tà kiến, chưa hẳn lý đã như thế. Vì bất chánh gọi là tà, hai kiến cũng chẳng phải là tà của bốn kiến, mà chỉ là tổn giảm kiến. Kinh: Diễn pháp vô úy… như sấm vang rền. Tán: Hai câu đầu nói về công đức ở trước chúng thuyết pháp không sợ sệt, hai câu sau nói về công đức của âm thanh thuyết pháp vang rền. Do các phiền não không nhiễm, vô minh chẳng hiện hành, cũng không có phân biệt ta và người hơn tự kỷ, ở trong chúng thuyết pháp không thấy có người nào hơn được tự thân, vì thế không sợ sệt, như tiếng rống của sư tử, giảng thuyết đàm luận, âm thanh như sấm, rền vang rền vang, sâu mà lớn. Trong năm loại âm thanh đã nói đây là loại thứ nhất. Kinh: Chẳng thể xưng lượng vì vượt quá cảnh để xưng lượng. Tán: Câu này nói về công đức thù thắng của đức to lớn kỳ diệu vượt ngoài tâm ý ngôn ngữ. Xưng tức là ngôn thuyết, lượng tức là tâm suy lường. Nghóa là bậc Đại Bồ-tát có Thánh đức rộng lớn, vi diệu khó biết, lời nói chẳng thể xưng tán, tâm suy chẳng thể lường, chẳng phải là cảnh giới mà lời nói và tâm suy nghó của hàng Bồ-tát Địa thứ bảy trở về trước đạt đến, cho nên chẳng phải cảnh giới của xưng lượng. Đây là dùng câu dưới để giải thích câu trên. Do vượt trên cảnh giới đó, cho nên nói là Bất khả xưng lượng. Địa thứ tám trở lên, chuyển dịch tăng tiến trong từng sát-na, một sát-na đầu tiên tăng gấp đôi (một bội) sự tu hành của hai kiến trước, hai niệm thì tăng hai bội, cho đến thượng bội thì hơn trước vô số. Cho nên hàng Bồ-tát Địa thứ bảy trở về trước chẳng thể xưng lượng được cảnh giới này. Bản dịch xưa thiếu chữ xưng, thì nghó khó biết. Kinh: Tập tuệ pháp bảo… nhu hòa vi mật. Tán: Hai câu đầu tán thán công đức đạt được Thánh bảo, hai câu sau là hiển công đức lìa ác pháp. Giáo lý, hạnh; quả rất quý trọng, cho nên gọi là bảo (vật báu). Trong pháp bảo thì tuệ là thượng thủ, dẫu dắt tất cả pháp. Địa thứ tám trở lên có thể kham nhận, tư duy, giữ gìn tất cả pháp; ba tuệ tích tụ lâu ngày, nên gọi là tập. Tuệ tích tụ đã lâu, nên có thể làm vị đại Đạo sư. Nếu không có tuệ thì không thể làm bậc Đạo sư. Hoặc cho rằng tài bảo của bậc Thánh là bảy Thánh tài là: Tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm, quý. Tuy có đầy đủ các pháp bảo, nhưng tuệ là thượng thủ, lâu ngày tích tập, làm vị Đạo sư. Bản dịch xưa ghi: “Tập chúng pháp bảo”. Văn không có ghi tuệ, thì thật khó làm Đạo sư. Chẳng siểm khúc, chẳng kiêu mạn gọi là chánh trực, chẳng thô chẳng sơ gọi là thẩm đế (xét kỹ), chẳng mềm chẳng cứng, gọi là nhu hòa; đạt đến chỗ vi tế, biết đến chỗ sâu xa nên gọi là vi mật. Hai câu này bản dịch xưa không ghi. Kinh: Khéo đạt được các pháp… thật nghóa sâu xa. Tán: Đoạn này tán thán công đức liễu tri chân lý. Chân lý các pháp gọi là nghóa sâu xa, không thể dùng tuệ thế tục mà thấy, không thể dùng tâm phân biệt mà biết; không thể dùng tuệ suy cầu mà thấy, không thể dùng trí thế tục mà biết; không thể dùng tâm phàm phu mà thấy, không thể dùng tâm Nhị thừa mà biết; không thể dùng nhãn thức để thấy. Không thể dùng các thức khác để biết. Các pháp như thế, nay các Bồ-tát đều liễu đạt, tức hậu đắc trí đạt tục đế, chánh thể trí đạt chân đế. Kinh: Tùy thuận vào tất cả… ý lạc sở quy. Tán: Đoạn này tán thán công đức liễu đạt không hữu là tông chỉ quy về. Ngài Hộ Pháp giải thích: “Nhập (vào) tức là chứng giải, hữu tức là hữu vi vô vi, vô tức là ngã và ngã sở, tức là ba tánh, thú nghóa là thú hướng đến hữu, hướng đến vô. Ý lạc tức là tâm duyên với hữu vô, sở quy tức đạo lý trung đạo. Nói hữu vô thú ý lạc sở quy, nghóa là trí vô lậu là hữu vô thú ý lạc, là chỗ quy của trí vô lậu, tức cảnh chân như. Hữu vô sở thú ý lạc mà Đức Phật thuyết là chỗ quy về rốt ráo. Cảnh chân như Bồ-tát có thể nhập vào và chứng biết. Đây là hiển thị khả năng liễu đạt lý ba tánh”. Thanh Biện giải thích: “Thế tục đế là hữu, thắng nghóa đế là vô, vô tức là không, hai đường này là chỗ quy rốt ráo của ý lạc, tức là lý chân như. Các vị Bồ-tát này, có thể tùy thuận chứng nhận. Bản dịch xưa ghi: “khéo biết chỗ đến đi và chỗ tâm hành của chúng sinh” thì không có lý này. Hoặc nói chỗ đến đi là phân biệt hoạch định. Chỗ thú hướng của tâm, tức ba tánh không hữu và tâm sở hành đều quy về ba tánh chân như, tâm sở hành rốt ráo. Tâm là ý lạc, tuy có cách giải thích này nhưng lý không sâu xa. Kinh: Đạt được vô đẳng đẳng… Bất cộng Phật pháp Tán: Hai câu đầu nói về công đức sắp nối vị Phật, hai câu sau nói về công đức đã gần vị Phật. Đại Giác Thế Tôn gọi là Vô đẳng đẳng, vì không ai có thể bằng được. Bồ-tát Địa thứ mười ngồi trên tòa hoa sen báu lớn; như phép tắc nhận vương vị của các vương tử, chư Phật trong mười phương dùng nước trí Phật rưới lên đảnh tâm, khiến thọ nhận giai vị Phật. Nay đạt được giai vị này là hiển thị việc nối tiếp tôn vị. Lực tức là mười Lực, úy là bốn Vô sở úy, bất cộng Phật pháp là mười tám pháp Bất cộng của Phật. Mười Lực được chia làm năm môn giải thích: Thích danh, nêu thể, hành tướng, thứ tự, các môn. Thích danh gồm hai là nêu tên và giải thích. Nêu tên: Xứ phi xứ trí lực. Tự nghiệp trí lực. Tónh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực. Căn thắng liệt trí lực. Chủng chủng giới giải trí lực. Chủng chủng thắng giải trí lực. Biến thú hành trí lực. Túc trụ tùy niệm trí lực. Tử sinh trí lực. Lậu tận trí lực. Giải thích gồm hai là giải thích chung và giải thích riêng. Lực tên chung tức là phá dẹp oán địch, chẳng thể khuất phục. Bồ- tát địa, Du-già bốn mươi chín, năm mươi; quyết trạch, Du-già năm mươi bảy, kinh Bồ-tát Tạng năm, luận Hiển Dương bốn, luận Đối Pháp mười bốn, kinh đại Bát-nhã đều giải thích tướng này tương ứng với công năng làm lợi ích tất cả hữu tình, rốt ráo chiến thắng, khuất phục được các ma oán. Vì có đại oai lực nên gọi là lực. Cho nên lấy công năng phá dẹp, khuất phục gọi là lực. Đối pháp ghi: “Khéo hàng phục các ma, khéo ghi nhớ lời luận hỏi”, cho nên có mười danh từ lực. Mười là số lượng, vì lực dụng khác nhau cho nên có mười loại này, vì thế gọi là mười Lực. Căn cứ theo lục hợp thích thì đây thuộc về đới số thích. Giải thích riêng từng danh từ: Nhân quả tương đương thì gọi là xứ, nếu chẳng tương đương thì gọi là phi xứ, cho nên luận Du-già ghi: “Quả tịnh, bất tịnh, đều bình đẳng; như nhân chuyển biến gọi là xứ”. Xứ nghóa là kiến lập, y cứ, khởi; hay kiến lập quả là y, vì hay khởi nơi quả pháp. Nhân lập tên xứ, nhân bất bình đẳng, trái ngược với nghóa trên nên gọi là phi xứ. Đối với hai loại này thì Nhất thiết trí, Vô tuệ trí, Thanh tịnh trí xa lìa Tăng thượng mạn, nên gọi đó là trí. Nghóa lực như đã giải thích, mỗi mỗi tự tạo tác ba nghiệp ở ba thời, hoặc là thuận hiện thọ, thuận sinh thọ, thuận hậu thọ, không nhất định, nên gọi là tự nghiệp. Biết đúng như thế gọi là tự nghiệp trí lực. Tónh lự tức là bốn tịnh lự, giải thoát tức tám giải thoát, Đẳng trì tức tất cả định hữu tâm, đẳng chí tức tất cả định hữu tâm định Vô tâm. Biết đúng như thế gọi là tónh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực. Căn tức năm căn tín… là hơn hết mọi người, cho nên gọi là thắng liệt, biết đúng điều này nên gọi là căn thắng liệt trí lực. Nếu từ người khác tin, cho là trước tiên, hoặc quán các pháp cho là trước tiên, thành trên hết trong loại, ưa thích thắng giải, gọi là chủng chủng thắng giải, biết đúng điều này gọi là chủng chủng thắng giải trí lực. Nếu kiến lập khắp các chủng tánh, hoặc nhất thừa, hoặc Tam thừa, hoặc tứ thừa, hoặc năm thừa, hoặc tham, sân, si… hoặc phần hạnh tham, sân, si… cho đến tám vạn hạnh của hữu tình, đều gọi là chủng chủng giới. Giới là tánh, biết đúng việc này gọi là chủng chủng giới trí lực. Nếu trong các thú môn như thế mà tùy thuận chánh hạnh, như thật tu hành bất tịnh quán, thì gọi là Biến thú hành, hoặc thú hướng đến tất cả hạnh trong năm đường, hoặc các ngoại đạo Bà-la-môn, Sa- môn, mỗi mỗi đều thấy các hành phẩm loại khác nhau, hoặc đời này đời khác thú hành vô tội, đều gọi là biến thú hành. Biết đúng điều này gọi là biến thú hành trí lực. Nếu trong các chúng hữu tình, đối với danh tự ở bốn phương giả thuyết an lập các phẩm loại sai biệt, tùy theo tự thể đã có mà nói tám câu: Như thị danh, sinh loại, chủng tánh, ẩm thực, thọ khổ lạc, trường thọ, cữu trụ, thọ lượng biên tế. Rồi trong tám câu này tùy thuận nhớ nghó sáu hạnh sở hành đơn giản có vô lượng túc trụ tùy niệm. Sáu hành đơn giản: Hô chiêu giả danh. Sắc loại sai biệt của sát-đế-lợi… . Cha mẹ. Phép tắc ăn uống. Hưng suy. Thọ lượng. Các túc trụ này là cảnh quá khứ, tức đời quá khứ. Đối với túc trụ này mà khởi tùy niệm, niệm và trí đều hành, gọi là túc trụ tùy niệm trí lực. Các loại hữu tình khi sắp mệnh chung thì gọi là tử thời, trụ ở thân trung hữu… gọi là sinh thời, ở các đường thiện ác khi sinh khi tử đều có thể liễu tri đúng đắn, nên gọi là sinh tử trí lực. Tất cả các tùy miên thuộc các lậu đều vónh viễn đoạn diệt, gọi là lậu tận, biết đúng điều này gọi là lậu tận trí lực. Trí là thể, lực là tác dụng, nhưng lực tức là trí, không có tánh khác nhau, trong đó túc trụ tùy niệm tương ưng với trí lực thì thuộc về lân cận thích, còn những lực khác từ đầu tiên xứ phi xứ cho đến lậu tận là cảnh sở quán, trí lực là trí năng quán. Từ trí lực xứ phi xứ đến lậu tận đều thuộc y chủ thích. Nêu thể: Quyết trạch phần năm mươi bảy ghi: “Phật có đủ tri căn, dùng tuệ căn làm thể”. Đối Pháp luận ghi: “Định, tuệ và các tâm, tâm sở tương ưng”. Bồ-tát Địa ghi: “Cho rằng tất cả năm căn làm tự tánh”. Tuy có ba văn khác nhau, nhưng thể có năm: Tối thắng thể, Quyết Trạch phần ghi: “Phật có đủ tri căn, lấy tuệ căn làm tánh”. Dẫn xuất thể, luận Đối Pháp ghi: “Định, tuệ…”. Khắc thật thể, Bồ-tát Địa ghi: “Năm căn là tánh vì tuệ là tối thắng”, vả lại nói mười lực thì tuệ là tự tánh, vì thế chỉ nói các trí lực xứ phi xứ… mà chẳng nói các lực như Tín lực, Tinh tấn lực… Căn cứ theo đây thì hiểu được văn của Quyết Trạch phần. Tương ưng thể, luận Đối Pháp ghi: “Và các tâm tâm sở tương ưng với nó lấy bốn uẩn làm tánh. Quyến thuộc thể, năm uẩn làm tánh, Định cộng, Đạo cộng, vô lậu sắc… cũng gọi là thể. Tuy không có văn chứng minh, nhưng lý ắt phải như thế, tức ngăn chặn sự dơ xấu phạm giới, hỗ trợ phá dẹp ma oán. Hành tướng: Xứ phi xứ lực thuộc về nhân như thật tri trong các nhân, thuộc về quả như thật tri trong các quả, và có thể hàng phục được những kẻ tranh luận về không nhân và ác nhân. Tự nghiệp trí lực có thể liễu tri như thật được nghiệp quả thọ dụng do tự kỷ tạo tác và có thể hàng phục được sự luận tranh về thí phước di chuyển, không làm mà được; tónh lự giải thoát đẳng trí đẳng chí trí lực, có thể hiện các loại thần biến giáo hóa hữu tình và hàng phục được các luận tranh về việc an trụ trái nhau, dị phẩm oán hại, lại có thể ngộ nhập vào tâm hành của loài hữu tình. Căn thắng liệt trí lực, có thể liễu tri như thật các phần sai biệt của hàng thượng căn trong các loài hữu tình, và có thể tùy cơ nghi thu- ận theo chỗ thích ứng mà thuyết chánh pháp. Chủng chủng thắng giải trí lực, có thể biết như thật về tịnh và bất tịnh, thắng giải sai biệt của hàng thượng phẩm trong loài hữu tình. Nếu là tịnh thì khiến được tăng trưởng, bất tịnh thì khiến xa lìa. Chủng chủng giới lực, có thể biết như thật các phần sai biệt của diệu giới trong các loài hữu tình hạ liệt, có thể tùy theo căn, ý lạc, tùy miên của họ và y cứ theo chỗ hướng vào của mỗi mỗi người mà dạy dỗ không trái ngược, tùy chỗ thích ứng mà an lập cho nên luận Đối Pháp ghi: “Ngộ nhập tất cả, có thể phá tùy miên, thú hướng khắp các hành lực, đối với tất cả khổ, về hạnh hay xuất ly, hạnh không xuất ly đều biết như thật, và có thể khiến xả bỏ hạnh chẳng xuất ly, có thể chính thức trao cho hạnh hay xuất ly. Luận Đối Pháp ghi: “Ngộ nhập vào tất cả cảnh giới sở nhập của các giáo Đại Tiểu thừa”. Túc trụ tùy niệm lực, luôn luôn ghi nhớ về bản sự bản sinh ở kiếp trước, khiến cho tâm được hóa độ sinh xa lìa, tâm sinh tịnh tín, vì họ tuyên thuyết và hàng phục các sự tranh luận về thường kiến. Luận Đối Pháp ghi: “Ngộ nhập tất cả nhân duyên Thánh đạo đã gom tập từ đời trước”. Sinh tử trí lực, tức có thể thọ ký chỗ thọ sinh ở đương lai cho những đệ tử đã quá vãng, lại có thể hàng phục các kẻ tranh luận về đoạn kiến. Luận Đối Pháp ghi: “Ngộ nhập tánh công năng ở vị lai’” Lậu tận trí lực, không nghi hoặc đối với sự giải thoát của tự kỷ và hàng phục những kẻ đối với A-la-hán khởi tăng thượng mạn. Luận Đối Pháp ghi: “Ngộ nhập tất cả sự xa lìa ba cõi”. Hai loại lực đầu là thuyết tăng thượng Thánh đạo, tám loại lực còn lại là thuyết quyết định thắng đạo, cho nên tất cả đều hiển thị chỗ làm của chư Phật. Thứ tự: Như Lai, đầu tiên đạt Vô thượng Bồ-đề là đốn ngộ, sau đó thì lần lượt khởi các lực: Trước hết lập tất cả nhân quả không trái nghịch, khởi xứ phi xứ lực. Kế đó có người cầu mong quả dị thục ở cõi Dục nên vì họ thuyết pháp xa lìa các nghiệp bất thiện, khiến thực hành pháp thiện, mà khởi tự nghiệp lực; kế đó có người cầu đạo ly dục, dạy họ thú hướng đến, mà khởi tónh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực; kế đó quán căn cơ của người ly dục mà khởi căn thắng liệt lực. Kế đó quán căn cơ của họ là ý lạc đã có từ trước mà khởi chủng chủng thắng giải trí lực; kế đó quán ý lạc là tùy miên đã có từ trước mà khởi chủng chủng giới lực; kế đến khiến trong môn hướng vào sở duyên mà được vào, nên khởi biến thú hành lực; kế đến, từ môn hướng vào sở duyên thích ứng mà tu gia hạnh, nhiếp trụ tâm rồi, tịnh tu các hạnh rồi, liền thuyết trung đạo, kh- iến xa lìa Tát-ca-da kiến, rồi lấy đó làm căn bản, thường đoạn các chấp nhị biên, khởi Túc trụ tùy niệm lực và sinh tử lực; kế đến khiến vónh viễn đoạn tất cả phiền não, khởi lậu tận trí lực. Lại có cách giải thứ hai, thứ tự như Bồ-tát Địa đã nói. Các môn phân biệt: Phân biệt. Bất cộng. Bình đẳng. Sai biệt. Dẫn phát. Môn phân biệt gồm có ba: Thời phân biệt, ba thời đều biết, tùy thuận mà ngộ nhập. Phẩm phân biệt, mỗi mỗi tự tướng, cộng tướng, tất cả hành tướng, tùy thuận mà ngộ nhập. Thân phân biệt, hữu tình trong mười phương, mỗi mỗi đều khác nhau, tất cả tương trụ, tất cả sự nghiệp, tùy thuận ngộ nhập. Môn bất cộng: Chỉ Như Lai mới có mười Lực này mà không cùng chung cho Thanh văn và Độc giác, còn Bồ-tát chỉ được một phần mà chưa viên mãn, cho nên nay gọi là cận (gần). Môn bình đẳng: Tất cả các Như Lai đều bình đẳng, đều có đầy đủ mười Lực này không sai khác. Nếu căn cứ theo việc Như Lai có nhiều chỗ an trụ, thì đó là do chư Phật xoay chuyển khác nhau; như có một Như Lai trụ ở lực này, thì các Đức Như Lai khác lại trụ ở các lực khác. Môn sai biệt: Như Bồ-tát địa đã nói rõ tướng của các lực nên ở đây sợ dài dòng không thuật lại. Môn dẫn phát: Có ba loại là phương tiện, căn bản và phát khởi. Phương tiện nghóa là nơi giáo pháp tùy thuận kiến lập mà sinh khởi tác ý hoặc định tâm, luôn luôn tư duy về hành tướng, sau đó liền được viên mãn. Căn bản, nghóa là tuy chung cho tónh lự nhưng tất cả đều có. Như Lai phần nhiều trụ ở tónh lự thứ tư là bờ mé thù thắng. Phát khởi, gồm hai loại: Hiện tiền khởi dụng, dùng Hậu đắc trí xuất thế gian làm thể mà khởi tác nghiệp. Trụ ở bản tánh, dùng chánh trí xuất thế gian làm thể, phát khởi Hậu đắc trí. Bốn Vô sở úy: Cũng được chia làm năm môn để giải thích: Bàn về tên, luận thể, hành tướng, thứ tự, các môn. Như kinh Bồ-tát Tạng bốn, luận Hiển Dương năm, Du-già năm mươi, Đối Pháp mười bốn đã nói. Bàn về tên gồm hai phần là nêu tên và giải thích. Nêu tên: Chánh đẳng giác vô úy. Lậu tận vô úy. Chướng pháp vô úy. Xuất khổ đạo vô úy. Giải thích có hai: Giải thích chung và giải thích riêng. Giải thích chung: Bốn là số lượng, vô sở úy nghóa là đối với bốn nơi này luôn tự thấu suốt, thản nhiên không sợ sệt, tâm không khiếp nhược, không có sự lo nghó, nghi ngờ, không chút kinh sợ, cho nên gọi là vô úy. Giải thích riêng: Chánh giác các pháp, đẳng giác các pháp nên gọi là Chánh đẳng giác. Các chủng tử và hiện hành của các phiền não lậu hoặc đều đoạn trừ, cho nên gọi là lậu tận. Thuyết pháp chướng ngại, vì là nhiễm thì ắt phải chướng, cho nên gọi là chướng pháp. Nói đạo xuất ly, các Thánh tu tập, nhất định lìa khổ, nên gọi là xuất khổ đạo. Nơi bốn pháp này được vô sở úy, đều là y chủ thích. Luận về thể: Du-già năm mươi bảy ghi: “Dùng tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ và tri căn làm tánh”. Luận Đối Pháp ghi: “Định, tuệ và các tâm tâm sở tương ưng với nó…” Lại ghi: “Nếu khởi tác dụng thì lấy Hậu đắc trí làm tánh, nếu trụ tự tánh thì dùng chánh trí làm thể”. Thể này có năm: Căn cứ theo sự thù thắng thì hai trí là thể. Nếu căn cứ theo phát khởi thì định tuệ là thể. Luận theo thật thì năm căn là thể. Luận theo tương ưng thì bốn uẩn là thể. Nếu luận theo quyến thuộc thì năm uẩn là thể. Hành tướng: Kinh ghi: “Thế Tôn tự xưng Ta là Chánh đẳng giác giả; sau có Sa-môn hoặc chẳng phải Sa-môn từ phương khác đến, Đức Phật liền an ủi thăm hỏi rằng: “Ông trụ có được an ổn chăng? Khất thực được chăng?”. Từ đây lại có người nạn vấn rằng: Đã nói là Chánh đẳng giác thì không điều gì chẳng biết, mà nay lại hỏi vị kia, sao lại trái ng- hịch như thế? Đối với câu vấn nạn này tôi cho rằng bậc Chánh kiến thì không từ đâu đến, trụ được an ổn, không sợ hãi, tự xưng Ta ở tôn vị Đại tiên. Vì sao? Vì muốn nhiếp thọ những người đến tham kiến, khiến họ phát tâm, vì khi nghe Phật an ủi thăm hỏi thì phát đạo tâm. Vì muốn mọi người suy xét kỹ nơi sự mà Phật còn thăm hỏi, hà huống gì những việc khác mà không biết. Làm cũng để làm quy tắc mô phạm cho người sau, thấy đó mà phát tâm, thích hợp dần nhiếp, chứ chẳng phải Phật không biết mà nói là Đẳng giác. Như kinh ghi: “Nơi ta các lậu đã tận trừ vónh viễn, sau Thiên Thọ làm việc ác thì Đức Phật quở trách, Chấp Nhật tánh điều phục, Đức Phật thường dùng lời nói nhu hòa. Có người hỏi rằng: Đã nói các lậu đã tận trừ, phiền não đã sạch, sao còn la mắng Thiên Thọ? Nói ôn hòa vói Chấp Nhật? Vậy tham sân chưa diệt, huống gì nói lậu tận? Sao lại trái ngược như vậy? Đối với câu vấn nạn này, ta nói rằng bậc Chánh kiến không từ đâu đến, an ổn không sợ sệt, ở giai vị Đại tiên. Thiên Thọ dụ cho ác mã, dùng độc mới điều phục được nếu chẳng la mắng, trái lại nói lời dọa nạt ta. Chấp Nhật dụ cho tuệ tượng, thường thuận tâm người, nên dùng lời nhu hòa liền có thể điều phục được, chứ chẳng phải Phật còn tham, sân, các lậu chưa trừ”. Kinh ghi: “Ta vì các đệ tử nói pháp chướng ngại, vì nhiễm ắt là chướng, thì chẳng ngăn chặn được hàng Dự lưu, Nhất lai có vợ con… có người hỏi rằng: Nhiễm ắt là chướng, sao bậc Thánh vẫn nuôi dưỡng vợ con, vì sao lại trái ngược như thế? Đối với câu vấn nạn này, ta nói rằng bậc Chánh kiến không từ đâu đến, an ổn không sợ sệt, ở giai vị Đại tiên. Tà hạnh chướng Thánh đạo, nuôi dưỡng vợ con thì chướng đạo ly dục, hàng sơ quả và quả thứ hai chưa ly dục, tánh của họ hoặc đã thành từ lâu, cho nên đã trừ tà hạnh, chẳng đoạn dứt vợ con, thì đâu có gì trái ngược? Vì thế pháp nhiễm chẳng phải không chướng ngại. Kinh ghi: “Ta vì hàng đệ tử thuyết đạo xuất ly, bậc Thánh tu tập quyết định xuất ly, quyết định thông đạt. Sau có một người Vô học là Ca-lưu-đà-di chôn vùi trong phân hoại, Ương- quật-ma-la bị lửa địa ngục đốt thân. Do đó có người hỏi rằng: “Tu tập Thánh đạo lâu ngày là để mong cầu xa lìa các khổ. Nhưng hàng Vô học đã trở lại chịu khổ, vậy tu đạo làm gì? Sao lại trái ngược như thế? Đối với câu vấn nạn này. Ta nói rằng bậc Chánh kiến không từ đâu đến, an ổn không sợ hãi, ở giai vị Đại tiên, chân thật đạt được vô học, quả khổ nhất định đã hết. Nhưng thị hiện ác nhân ắt có quả báo khổ. Do đó, bậc Thánh phải cùng chịu khổ, để phát khởi tâm giáo hóa hậu học. Hoặc nghiệp đạo quyết định chẳng thể trừ, còn nghiệp bất định thì bậc Vô học đã trừ sạch. Hoặc khổ dị thục, bậc Vô học chẳng thọ, vì ác nghiệp đã dứt, có quả chướng ngại thì chẳng thành Vô học. Kia nói Vô học thọ khổ báo là vì hiện tại ở giai vị Hữu học, còn chưa lìa dục; vì nhất định sẽ thành Vô học, cho nên lấy làm tên. Dẫu cho có thần thông thì cũng chẳng phải là Bất hoàn… vì đó là năm thông thế gian. Thứ tự: Luận về thứ tự ở đây là căn cứ theo luận Đối Pháp và Bồ- tát Địa. Xuất khổ là pháp thứ ba, Pháp chướng là pháp thứ tư. Luận Đối Pháp ghi: “Hai pháp trước là lợi tha, đầu tiên là trí, sau cùng là đoạn, vì có sai biệt. Hai pháp sau là tự lợi, xa lìa pháp sở trị, tu tập đạo năng trị. Bồ-tát Địa ghi: “Đầu tiên là chánh đẳng giác chẳng chung cho Thanh văn, kế đến là lậu tận chung cho Nhị thừa, kế đến nêu đạo xuất khổ, là vì người xa lìa các khổ, cầu giải thoát; sau cùng nói pháp chướng đạo xuất khổ là chướng ngại. Cho nên giáo của hai bậc Thánh khác nhau. Các môn: gồm có năm: chỗ làm, phân biệt, bình đẳng, sai biệt, dẫn phát. Sở vi (chỗ làm): Đẳng giác vô úy là vì hàng Bồ-tát thú hướng đến Đại thừa, lậu tận vô úy là vì các hữu tình thú hướng Nhị thừa, hai vô úy sau là vì những người cầu các thừa. Kinh ghi: “Cho rằng ta vì Bồ-tát và Thanh văn mà thuyết đạo xuất ly”. Các người kết tập kinh điển, trong Thanh văn tạng đã lược bỏ lời Bồ-tát, còn trong tạng Bồ-tát chỉ tụng lời Bồ-tát, lý như thế có thể thông hiểu. Các môn khác thì có thể căn cứ theo mười lực đã nêu, ở đây sợ rườm rà nên không kể ra. Mười tám pháp Bất cộng: Gồm năm môn: Nêu tên, luận thể, hành tướng, sai biệt, các môn. Luận về tên có hai phần: Nêu tên và giải thích. Nêu tên: Không lầm lỗi. Không có âm thanh khó nghe. Không quên sót. Không có tâm bất định. Không có các tưởng. Không có bất trạch xả. Chí dục, không thoái lui. Tinh tấn không lui sụt. Niệm không lui sụt. Định không lui sụt. Tuệ không lui sụt. Giải thoát không lui sụt. Tất cả thân nghiệp đều lấy trí làm tiền đạo, tùy theo trí mà chuyển. Tất cả ngữ nghiệp lấy trí làm tiền đạo tùy theo trí mà chuyển. Tất cả ý nghiệp đều lấy trí làm tiền đạo tùy theo trí mà chuyển. Biết đời quá khứ không dính mắc, không ngăn ngại. Biết đời vị lai không vướng mắc, không ngăn ngại. Biết đời hiện tại không dính mắc không ngăn ngại. Giải thích tên: Mười tám là số lượng, Phật là Bậc năng thành thục, pháp Bất cộng là pháp sở thành thục. Vì chỉ có Phật mới đặc biệt thành tựu, những người khác không có, cho nên gọi là pháp Bất cộng, hoặc cho rằng những hạng người khác tuy có được một phần, nhưng tất cả đều chưa được viên mãn. Còn Đức Như Lai đối mười tám pháp này tất cả đều đã chứng đắc, tất cả các loại không đâu chẳng viên mãn, cùng tột, siêu việc, thù thắng bậc nhất, cho nên gọi là pháp Bất cộng, đó là nghóa bất cộng. Pháp bất cộng của Phật gọi là Phật bất cộng pháp. Đó là y chủ thích. Nói chung mười tám Bất cộng pháp là đối số thích. Thể tánh: Hai pháp đầu tiên thì dùng thân ngữ nghiệp và tư làm tánh, pháp thứ ba và thứ chín lấy niệm làm tánh, pháp thứ tư thứ mười lấy định làm tánh, pháp thứ năm lấy tưởng làm tánh, pháp thứ sáu và thứ mười một và sáu pháp sau cùng lấy tuệ làm tánh, pháp thứ bảy lấy dục làm tánh, pháp thứ tám lấy tinh tấn làm tánh, pháp thứ mười hai lấy thắng giải làm tánh. Như thế mười tám pháp Bất cộng lấy tám pháp: Tư, tưởng, dục, cần, niệm, định, thắng giải và tuệ làm tánh. Trong đó có hai biến hành là tư và tưởng, một thiện là cần, năm biệt cảnh là dục, niệm, định, thắng giải và tuệ, còn những pháp khác chẳng phải là thể của mười tám pháp Bất cộng. Tất cả chỉ có ba uẩn là sắc tưởng và hành. Hai nghiệp thân và miệng thuộc về sắc uẩn, trở về gốc là tư. Nếu khởi tác dụng thì nương vào Hậu đắc trí, nếu trụ ở tự tánh thì nương vào chánh thể trí. Nếu gồm cả tương ưng thì lấy bốn uẩn làm tánh, nếu thêm quyến thuộc thì lấy năm uẩn làm tánh. Hành tướng: Bậc A-la-hán… tuy các lậu là tận, nhưng vì khất thực nên phải đến các thành ấp hoặc cùng với ngựa dữ và đạo tặc… đi lại nghỉ ngơi, hoặc bước trên gai góc, nhảy vọt qua hầm, vào nhà nữ nhân, chẳng y chánh lý mà đàm luận nói năng, không theo đường chánh mà vào nẻo tà, các việc sai trái như thế, vónh viễn Như Lai chẳng phạm. Bậc A-la-hán… mê lầm đường chánh, hoặc vào nhà trống, lớn tiếng nói năng, nhân chẳng nhiễm tập khí, nên vào tụ lạc cười đùa lộ môi răng, âm thanh chói tai, Như Lai vónh viễn không có những lỗi này. Bậc A-la- hán, còn có sự bất tịnh, những việc làm từ lâu xa, những điều luận nói từ lâu xa, đã quên không nhớ được, Như Lai vónh viễn không như thế. Bậc A-la-hán, khi thúc liễm thì tâm mới an định, khi khây thúc liễm thì tâm không định, Như Lai vónh viễn không như thế. Bậc A-la-hán,… đối với sinh tử hữu dư còn khởi tưởng trái nghịch, đối với Niết-bàn Vô dư khởi tưởng tịch tónh; Như Lai vónh viễn không có các tưởng tịch tónh; Như Lai vónh viễn không có các tưởng này mà trụ ở tại xả rốt ráo. Bậc A-la-hán… chẳng từng dùng trí tuệ để giản trạch, xả bỏ những việc lợi lạc hữu tình, Như Lai vónh viễn không như thế. A-la-hán… đối với sở tri chướng thanh tịnh có vị đắc thoái, nghóa là ý dục thoái, tinh tấn thoái, niệm thoái, định thoái, tuệ thoái, giải thích thoái, còn Như Lai vónh viễn không như thế. Bậc A-la-hán… trong một thời khéo léo chuyển ba nghiệp, hoặc chẳng khéo léo chuyển ba nghiệp, còn ba nghiệp của Như Lai, thì trí là tiền đạo, tùy theo trí mà chuyển, cho nên không có vô ký, chỉ có tánh thiện. Bậc A-la-hán… đối với cảnh ba đời, chẳng thể khởi tâm liền hiểu, cho nên trí có sự dính mắc, chẳng thể thấu hiểu tất cả, cho nên trí có chỗ ngăn ngại. Như Lai đối với việc này, thì vừa khởi tâm liền biết tất cả, cho nên trí không dính mắc không bị chướng ngại. Sai biệt: Trong mười tám pháp bất cộng thì sáu pháp đầu là nương vào ba nghiệp thanh tịnh mà thuyết, tức không lầm lỗi là nương vào thân thanh tịnh, không có âm thanh chói tai là nương vào lời nói thanh tịnh, bốn pháp kia nương vào ý thanh tịnh. Sáu pháp kế tiếp, đối với sở y và quả căn chưa được bất thoái. Sở y tức là chí dục, do đây làm gốc mà khởi tinh tấn, cho nên gọi là sở y. Các giáo khác cũng nói dục là chỗ nương (sở y) của tinh tấn. Quả tức giải thoát, do dục dẫn đầu, sau nơi Niết-bàn giải thoát và tất cả cảnh, khởi sự tin hiểu quyết định, cho nên gọi là quả. Dục là sở cầu, tinh tấn, niệm định tuệ là căn. Lâu ngày tu tập bốn pháp này thì sinh thiện, khởi giải thoát. Trong sáu pháp cuối cùng, thì ba nghiệp lấy trí làm tiền đạo, tùy theo trí mà chuyển. Đó là ba nghiệp bất cộng của Như Lai, rõ biết quá khứ, vị lai và hiện tại, không dính mắc không chướng ngại, cho đến đó là trí Bất cộng của Như Lai. Các môn: Gồm có năm: Tác nghiệp, phân biệt, bình đẳng, sai biệt và dẫn phát. Tác nghiệp nghóa là do thân ngữ ý thanh tịnh, nên được bất thoái, đi đứng ánh sáng che mờ Thanh văn và Độc giác. Ba nghiệp thanh tịnh là thuộc về sáu tác nghiệp đầu, đạt được bất thoái là thuộc về sáu tác nghiệp kế tiếp; như đi như đứng là thuộc về sáu tác sau cùng. Các môn khác căn cứ theo sự giải thích ở trên cũng có thể hiểu được, ở đây sợ rườm rà nên không ghi. Lực, Vô úy… được nói ở đây chỉ có Phật mới thành tựu viên mãn, nay đã được một phần, cho đến nối tiếp tôn vị, nên gọi là cận (gần). Nêu lên loại này thì các Phật pháp khác cũng đều như thế. Bản dịch xưa, tổng hợp giai vị này và công đức, gọi chung là cận (gần). Kinh: Đã tận trừ tất cả đường ác đáng kinh sợ… hầm sâu nguy hiểm. Tán: Câu này tán thán công đức xa lìa các quả ác. Đường ác kinh sợ là ba ác thú, quả ba ác thú đáng kinh sợ. Hoặc là tám đường không rảnh rỗi gọi là đáng sợ, còn ba ác đạo gọi là ác thú. Hoặc năm chỗ kinh sợ gọi là kinh sợ, tuy Sơ địa đã xa lìa, nhưng nay nói Địa thứ tám trở lên xa lìa nhân này. Nhân quả đều trừ, cho nên nay gọi là lìa. Sinh về cõi trời người, cho nên trừ đường ác; cõi trời người lại có hầm sâu nguy hiểm. Các loại không có hình hoặc hai hình, hoàng môn… cho đến người nữ… đều bị gọi là đường ác trong loài người. Những loại này khó cứu độ cho nên gọi là hầm sâu, sâu thì đáng sợ, cho nên gọi là nguy hiểm. Như đường nguy hiểm, cũng như hầm sâu, hoặc khởi tà kiến, bác không nhân quả, nên gọi là hầm sâu nguy hiểm, như trên đã nói, đều chỉ chung cho quả ác. Nay đã vượt qua tất cả loại này. Bản dịch xưa ghi: “Đóng tất cả các cửa ác thú” thì nghóa cũng thông suốt. Kinh: Vónh viễn xả bỏ duyên khởi… thị hiện sinh vào các đường (hữu thú). Tán: Câu này là tán thán công đức đạt được Niết-bàn vô trụ. Duyên khởi sinh tử khó có thể phá hoại giống như kim cang; hay làm tổn hại chúng sinh giống như dao gậy. Nghóa là pháp duyên khởi tựa như kim cang, là dao là gậy, hay làm tổn hoại chúng sinh khó có thể phá trừ được. Hoặc cho ác thú là quả khổ, hầm sâu là nhân, rơi vào đó ắt khó ra khỏi. Cho nên pháp duyên khởi này gọi chung là sinh tử, đều đã xa lìa. Bồ-tát đã xa lìa phần đoạn sinh tử từ lâu, hoặc nhất định đã lìa tất cả duyên khởi, chứng đắc Niết-bàn mà chẳng trụ trong đó, thường suy nghó đến ba hữu, bốn hữu, bảy hữu, chín hữu, hai mươi lăm hữu, năm thú, bốn loài sinh, tùy loại mà thị hiện để giáo hóa, vónh viễn xa lìa duyên khởi, lấy đại trí làm đầu, chẳng trụ sinh tử, thường nghó đến việc thị hiện, tùy loại mà giáo hóa; lấy đại bi làm đầu, chẳng trụ Niết-bàn. Bản dịch xưa ghi: “Hiện thân sinh vào năm đường”. Tuy có đại bi mà không có đại trí để xả bỏ duyên khởi. Kinh: Làm bậc Đại Y vương… bệnh lành ban cho sự an ổn. Tán: Đoạn này là nói về công đức khéo đạt cơ nghi lợi ích cứu vật. Y tức là ý, biết rõ nguồn gốc của bệnh, quen thuộc tánh của thuốc, tùy thời cứu giúp nên đặt tên là Y. Đối với việc này rất tự tại cho nên gọi là Đại y vương. Phương nghóa là phương pháp, tức giáo pháp nói về thuốc, thuật tức đạo thuật, tức pháp cần yếu để cứu tế, biết rõ hai môn này nên gọi là y vương. Đã biết căn cơ của chúng sinh, cho nên có thể tùy theo bệnh mà cho thuốc, thuốc đã cấp thì bệnh liền khỏi, ban cho sự an lạc. Lạc có năm: Tự tánh lạc, là thể của lạc thọ. Nhân lạc, có thể sinh các pháp lạc thọ, căn, cảnh. Khổ đối trị lạc tức ý tưởng về lạc sinh khởi khi các pháp khổ nóng lạnh tạm tiêu trừ. Đoạn lạc thọ, tức là diệt tận định. Vô não hại lạc, có bốn loại: Một là, xuất ly lạc, tức là lạc ở cõi Sắc và Vô sắc; hai là, viễn ly lạc, là lạc của sự xuất gia; ba là, giác pháp lạc, tức là Bồ-đề; bốn là, tịch tịnh lạc, tức Niết-bàn. Như Bồ-tát Địa đã giải thích năm loại lạc này; an thì lạc, trong đó có hai cách giải: Một là, nêu dụ bậc đại Y vương chữa bệnh sinh tử, bệnh tức là cơ cảm, thuốc tức là chánh pháp; hai là, Bồ-tát hiểu rõ năm minh, biết suốt y phương thuật, cho nên có thể tùy bệnh cho thuốc, bệnh lành thì ban cho sự an lạc, vì cứu giúp cả bệnh của thân hiện tiền việc thân đời sau, nên thông cả hai cách giải thích. Kinh: Vô lượng công đức… đều nghiêm tịnh. Tán: Đoạn này nói về công đức nội ngoại thù thắng. Công đức của nội thể đã thành tựu thì cõi Phật bên ngoài đều nghiêm tịnh; nếu công đức bên trong không thành thì cõi Phật bên ngoài chẳng tịnh. Kinh: Những người thấy nghe… cũng không luống bỏ. Tán: Câu này nói về công đức tự tại đối với hai lợi ích. Nếu có chúng sinh, thấy nghe Bồ-tát thì đều được lợi ích cứu giúp, tùy theo bệnh mà đều được chữa trị. Người mù thì được mắt sáng, người điếc thì được tai nghe… Các hạng người như thế, thì Bồ-tát liền khởi tâm, phàm ý phát khởi thì tất cả đều là việc thiện. Trước khi có lợi ích, sau thì tất cả công lao không luống bỏ. Đường tức là luống qua, quyên tức là bỏ. Bốn mươi câu trên đã tán thán riêng về đức. Kinh: Dù trải qua câu-chi… cũng chẳng thể cùng tận. Tán: Tổng kết việc tán thán đức cao rộng, đạo vi diệu. Dẫu trải qua nhiều kiếp, rốt cuộc nói cũng chẳng hết công đức. Trăm ngàn mười vạn câu-chi, trăm ức na-do-tha nhiều ức ức số mà ít tu đức cạn, thì thuật cũng khó cùng. Vì nhân rộng trí sâu, đức bày khó hết, cho nên trải qua mười vạn trăm ức kiếp, tán thán công đức ấy cũng chẳng thể hết được. Kinh: Tên các vị Bồ-tát ấy là… Bồ-tát đẳng bất đẳng quán. Tán: Đây là phần ba nêu tên riêng. Trong đó gồm có năm mươi sáu vị. Bản dịch xưa chỉ nêu năm mươi hai vị. Ở đây thừa năm vị Bồ-tát là Diệu Tuệ, Liên Hoa Thắng Tạng, Tam-ma-địa Vương, Thắng Ma, Thù Bảo Cái; nhưng không có ghi Bồ-tát Bảo Thắng ở bản dịch cũ. Đẳng quán, tức là bình đẳng quán lý, quán sự và quán các hữu tình. Bất đẳng, tức quán lý không bình đẳng, nghóa là quán chân chẳng phải tục, quán sự không bình đẳng, nghóa cũng có thể biết, quán hữu tình không bình đẳng, tức người có thể độ thì độ họ, người không thể độ thì không độ. Hoặc có lúc bình đẳng quán xét, hoặc có lúc không bình đẳng quán xét, nên gọi chung là đẳng bất đẳng quán. Kinh: Bồ-tát Định Thần Biến Vương, Bồ-tát Pháp Tự Tại. Tán: Nương vào định khởi thần biến để hóa độ chúng sinh, gọi là Định Thần Biến. Bản dịch xưa gọi là Định Tự Tại, chỉ là xuất nhập tự tại các định mà không có thần biến. Thuyết pháp vô ngại, nên gọi là pháp tự tại. Kinh: Bồ-tát Pháp Tràng, Bồ-tát Quang Tràng. Tán: Âm Phạm: Hệ-đô, Hán dịch là Tràng. Đối với pháp được tự tại, dương cao như cột cờ (tràng). Phóng quang tự tại cũng như cột cờ cao. (Cao Tràng) Bản dịch xưa ghi là Pháp Tướng, Quang Tướng, chẳng phải lời này. Nhưng người dịch kinh nói như cao tràng, người bút thọ không hiểu, cho rằng chỉ tràng là tướng, tương tự như nêu lên tướng trạng, cho nên ghi lầm. Kinh: Bồ-tát Quang Nghiêm, Bồ-tát Đại Nghiêm. Tán: Trong ánh sáng có các màu sắc, và các thứ trang nghiêm, nên gọi là Quang Nghiêm. Dùng nhiều loại châu báu trang nghiêm nội thân nên gọi là Đại trang nghiêm. Kinh: Bảo Phong Bồ-tát… Bảo Ấn Thủ Bồ-tát. Tán: Pháp bảo cao vót nên gọi là Bảo Phong. Ngôn từ cao vót nên gọi là Biện Phong. Bản dịch xưa nói Bảo Tích, Biện Tích, thì nghóa hơi xa hơn. Từ tay lưu xuất ra của báu ban phát cho hữu tình, nên gọi là Bảo Thủ, trên tay có ấn, ấn định cho chúng sinh, khiến họ thoát khỏi sáu đường, nên gọi là Bảo Ấn Thủ. Kinh: Bồ-tát Thường Cử Thủ… Bồ-tát Vô Khuất Biện. Tán: Kêu gọi chúng sinh, khuyên tu pháp thiện, nên gọi là Thường Cử Thủ. Trao cho pháp thiện, nên gọi là Thường Hạ Thủ; nghểnh cổ ngóng nhìn chúng sinh, thường mong cứu giúp, cho nên gọi là Thường Diên Cảnh. Bản dịch xưa ghi là Thường Thảm; vì thường xót xa cứu vớt, Bồ-tát không còn lo buồn cho nên chẳng thảm thương. Khi sáu căn vừa quán một chúng sinh, thì mỗi một căn đều sinh hoan hỷ, như cha gặp con, cho nên gọi là Thường Hỷ Căn. Nếu thấy chúng sinh, vừa móm cười thì khởi đại hoan hỷ, như vương tự tại cho nên gọi là Hỷ vương. Lời nói khó điều phục gọi là Vô Khuất Biện. Bản dịch xưa ghi là Biện Âm, nghóa này sai lầm. Kinh: Bồ-tát Hư Không Tạng… Bồ-tát Bảo Thí. Tán: Hư không là kho tàng, dùng để ban cho chúng sinh cho nên gọi là Hư Không Tạng. Tâm giữ gìn đuốc tuệ báu, chiếu phá si mê tăm tối của chúng sinh, cho nên gọi là Chấp Bảo Cự. Dùng pháp bảo ban phát cho chúng sinh, làm việc tốt lành, cho nên gọi là Bảo Cát Tường. Bản dịch xưa gọi là Bảo Dõng, thì thiếu nghóa dùng pháp bảo thí cho chúng sinh, lại thiếu việc Cát Tường. Vì thường dùng bảy báu ban phát cho chúng sinh nên gọi là Bảo Thí. Bản dịch xưa ghi là Bảo Kiến, thì khó thành đạo lý. Kinh: Bồ-tát Đế Võng… Bồ-tát Tuệ Phong. Tán: Như trời Đế Thích có thuật tự tại, đối với mỗi một sự, hiện tất cả sự, bao phủ tất cả chúng sinh. Các Bồ-tát dùng sức thần thông thực hành các huyễn thuật, làm lợi ích phủ tất cả chúng sinh, cho nên gọi là Đế Võng. Phóng ánh sáng giống như lưới châu nên gọi là Quang Võng. Xưa dịch là Minh Võng, ánh sáng thần được phóng ra chẳng gọi là Minh. Xa lìa các chướng về định, mà nhập tónh lự được đại tự tại nên gọi là vô chướng tịnh lự. Xưa dịch là Vô duyên quán tức là quán Vô Sở Duyên, chẳng phải là nghóa này. Hoặc cho rằng vô là vô chướng, duyên quán tức là định, nghóa này có thể biết được. Trí tuệ cao tột gọi là Tuệ Phong. Xưa dịch là Tuệ Tích thì trái với nghóa ở đây. Bản dịch xưa sau đó có ghi Bồ-tát Bảo Thắng, còn bản này thì không có. Kinh: Bồ-tát Thiên Vương… Bồ-tát Phong Tướng Đẳng Nghiêm. Tán: Tự tại đối với pháp như vua trời nên gọi là Thiên vương. Vả lại các Bồ-tát tên Thanh Tịnh Thiên, trong đó có vị tự tại như Luân vương, dần dần được mười phương, phá dẹp bốn ma, nên gọi là hoại ma. Pháp bảo lưu chuyển, ánh sáng như điện, tự tại như trời nên gọi là Điện Thiên. Bản dịch xưa ghi là Điện Đức, đức tức công đức. Hay hiện thần biến tự tại như vương, cho nên gọi là Hiện Thần Biến Vương. Bản dịch xưa ghi là Tự Tại Vương, tức Thần Biến Tự Tại Vương; có thể dùng công đức bình đẳng tự trang nghiêm, như hình tướng của ngọn núi cao vót, cho nên gọi là Phong Tướng Đẳng Nghiêm. Bản dịch xưa ghi Công Đức Tướng Nghiêm. Tướng tức là Phong. Nghóa đồng nhưng tên hơi khác. Kinh: Bồ-tát Sư Tử Hống… Bồ-tát Sơn Tương Kích Vương Tán: Âm thanh thuyết pháp như tiếng rống sư tử. Không sợ sệt cho nên gọi là Sư Tử Hống. Âm vang của tiếng thuyết pháp như tiếng mây sấm. Tây phương nói sấm là âm thanh của mây, cho nên gọi là Vân Lôi Âm. Bản xưa không có chữ Vân, vì ở Trung quốc cho rằng sấm (lôi) không phải mây (vân) nên không ghi: Âm thanh thuyết pháp như tiếng chấn động của hai núi chạm nhau rất ghê sợ, cho nên gọi là Sơn Tương Kích, tự tại như Vương. Bản xưa gọi là Sơn Tương Kích Âm, nghóa cũng như thế. Kinh: Bồ-tát Hương Tượng… Bồ-tát Xả Thiện Ách. Tán: Loài voi hay nhất trong các loài voi thì gọi là hương tượng, như thế hương tượng, như thanh hương tượng. Đại hương tượng thì lại càng hay hơn nữa. Bản xưa ghi là Bạch Hương Tượng, bạch hương tượng chẳng bằng hương tượng, cho nên phải gọi là Đại Hương Tượng. Tu hành không biếng trể nên gọi là Thường Tinh Tấn. Các pháp thiện tu tập giống như cái ách, trồng vào con trâu hành giả, kéo thẳng đến cung điện Niết-bàn, mà chẳng hướng đến nơi khác. Bồ-tát thường trụ trong pháp thiện nên gọi là Bất khả Xả Thiện Ách. Bản xưa ghi là: Bất Hưu Tức, thì chỉ được ý chung, nghóa chưa được trọn vẹn. Kinh: Bồ-tát Diệu Tuệ… Bồ-tát Liên Hoa Nghiêm. Tán: Vì trí thù thắng, nên gọi là Diệu Tuệ. Bản xưa không có ghi vị Bồ-tát này. Chứng đắc pháp giới thanh tịnh, sinh vào nhà Như Lai nên gọi là Diệu Sinh. Bên trong hàm chứa pháp bảo nên gọi là Thắng Tạng. Như hoa sen chưa nở, cho nên gọi là Liên Hoa Thắng Tạng. Đạt được định thù thắng, tự tại như vua; hoặc định thù thắng như vua, nên gọi là Tam-ma-địa, vương. Tam-ma-địa. Hán dịch là Đẳng trì, thể tức là định. Hai vị Bồ-tát này, bản xưa không ghi. Vì dùng diệu đức nhất thừa như hoa sen mà trang nghiêm, luôn tự trang nghiêm, biểu thị cho nghóa ra khỏi bùn lầy, trí giác nở tròn đầy, cho nên gọi là Liên Hoa Nghiêm. Bản xưa ghi Hoa Nghiêm thì nghóa cũng đồng như thế. Kinh: Bồ-tát Quán Tự Tại… Bồ-tát Thắng Ma. Tán: Các loài hữu tình thanh tịnh ba nghiệp và quy y thì ắt sẽ ứng điều mong cầu. Nương sáu thông hóa độ, tám ách nạn phá trừ, cỡi xe mà cứu bạt, làm người bạn chẳng mời, làm vị thầy chữa bệnh. Cứu độ các chúng sinh, nhiếp phục loài hữa tình, thật chẳng thể nghó bàn nên gọi là Quán Tự Tại. Bản xưa ghi là Quán Thế Âm; không chỉ quán âm thanh mà còn cứu khổ. Phàm chỗ du hóa đều làm lợi ích chúng sinh, có thế lực lớn nên gọi là Đại Thế Phạm Võng, cũng như Đại Phạm vương, có thể nơi một việc mà hiện tất cả việc, che phủ tất cả một Phạm vương khác, khiến họ tin phục. Bồ-tát dùng thần thông làm lợi lạc phủ trùm tất cả, cũng như thế; cho nên gọi là Phạm Võng. Tay cầm gậy báu, khích lệ chúng sinh, khiến họ phát tâm, cần cầu Bồ-đề, nên gọi là Bảo Trượng. Đức cao không ai bằng, cho nên gọi là Vô Thắng. Thường phá dẹp bọn ma nên gọi là Thắng Ma. Bản xưa không có ghi vị Bồ-tát này. Kinh: Bồ-tát Nghiêm Độ… Bồ-tát Châu Kế. Tán: Thường tu diệu hạnh trang nghiêm cõi Phật cho nên gọi là Nghiêm Độ, quán pháp vô vi chẳng lìa tâm thủ (đầu tâm như dùng vàng làm búi tóc, cho nên gọi là Kim Kế, thường dùng trí tuệ trang nghiêm nơi tâm, như dùng châu làm búi tóc, cho nên gọi là Châu Kế. Hoặc cho rằng Nhất thừa là hạt châu trên búi tóc của Phật. Bồ-tát thường tu pháp này cho nên gọi là Châu Kế. Kinh: Bồ-tát Từ Thị… Bồ-tát Châu Bảo Cái. Tán: Tánh người mẹ thường hành từ, thân cũng từ ái nên lấy từ làm họ, nên gọi là Từ thị. Bản duyên của Bồ-tát này như Di-lặc sớ đã ghi. Bản xưa gọi là Di-lặc. Văn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu Cát Tường, Vì thường khuyên chúng sinh thực hành các việc cát tường, vô cùng thù thắng, cho nên gọi là Diệu Cát Tường. Khởi bốn tâm vô lượng che phủ tất cả chúng sinh, như dùng châu báu mà bao trùm, cho nên gọi là Châu Bảo Cái, vị Bồ-tát này, bản dịch xưa không ghi. Kinh: Như thế, tất cả gồm ba mươi hai ngàn vị Bồ-tát thượng thủ. Tán: Đây là ý thứ tư, nêu lên để tổng kết đoạn trên. Vả lại để nêu các vị đó đều có đức cao tột, nên gọi là thượng thủ, còn những vị khác là ở giai vị thấp, lược bỏ chẳng kể ra. Cho nên ba mươi mốt người ở phẩm Bất Nhị không thuộc những vị đã được nêu ra ở đây. Kinh: Lại có vạn Phạm vương… đến tại hội tòa. Tán: Đoạn trên là nói về Thánh chúng, từ đây trở xuống là nói về phàm chúng. Phàm chúng có ba: Thiên chúng ở cõi khác. Chúng Bát bộ oai linh, chư Thiên ở cõi này được xếp vào Bát bộ, do đó kinh văn này hợp chung lại mà gọi là hội tọa. Bốn bộ chúng tu hành. Hoặc phân làm bốn tức chia các trời Thích Phạm hộ thế gian riêng làm một. Hoặc phân làm năm tức tách Phạm vương ở phương khác làm một bộ, Đế Thích ở phương khác làm một bộ. Đây là nói về loại thứ nhất. Nói có vạn Phạm vương tức là nêu chung. Nếu luận về Phạm vương thì số đã là vạn rồi. Phạm vương Trì Kế là thượng thủ, đây là vị Phạm ở cõi sơ thiền. Kinh Pháp Hoa ghi: “Đại phạm Thi-khí, Đại phạm Quang Minh…” Bản dịch xưa cũng ghi là Thi Khí. Vì đảnh có nhục kế giống như Đức Thế Tôn, đây là vị Bồ-tát Địa thứ tám, thuộc về Tăng thượng sinh. Vì hiển sự đối đáp với ngài Thu Tử ở chương sau: “Ta thấy cõi Phật thanh tịnh như thế”, nên biết chẳng phải là phàm. Nêu vị này lên để nói rằng tất cả các Phạm vương đều có đến. Từ bản vô ưu tức là cõi Sắc, cõi Dục còn ưu khổ, có sự bức bách, các cõi trời trên thì không còn. Bốn đại châu giới, vì sơ thiền có lớn nhỏ như bốn châu lớn, tức cõi trên đặt tên theo cõi dưới, là nói về chỗ đến. Muốn chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường, nghe pháp, tức là nói do bốn duyên mà đến hội tòa. Bản dịch xưa không có từ bản và giới, cũng không có ý đến chiêm lễ cúng dường. Tuy nói đến nghe pháp nhưng không nói dự hội tòa. Căn cứ theo văn sau có thể biết. Kinh: Lại có một vạn hai ngàn… đến tại hội tòa. Tán: Đây là đoạn thứ hai nói về Đế Thích ở phương khác. Bản trụ (xứ) của Đế Thích là ở trên đỉnh núi Tu-di. Nói từ bốn địa châu ở phương khác đến cũng là nói phương trên lấy tên phương dưới làm tên. Vì nơi cư trụ của chúng sinh ở bốn đại châu lớn là trong biển nước mặn, cho nên chẳng phải là cõi trên. Nay nêu Thắng Thiên Đế Thích là bao gồm cả thiên chúng, Lục dục thiên ở phương khác. Kinh: Cùng với các chư Thiên có đại oai lực… đều đến tại hội tòa. Tán: Từ đây trở xuống là đoạn ba nói về Bát bộ oai linh. Trong đó có ba loại: Đầu tiên nói về Bát bộ, kế đến nêu Thích Phạm, cuối cùng nói về hội tòa. Tám bộ chúng này có oai lực lớn nên gọi là đại oai lực. Bát bộ là: Trời, tất cả cõi trời đều gọi là Thiên (trời). Rồng, nơi cư trú là biển lớn, có thể nổi mây mưa. Dược-¬xoa, Hán dịch là Bạo ác, cũng gọi là Dõng kiện, bay trên hư không, gồm cả loại La-sát-bà đi trên đất. La-sát-bà, Hán dịch là khả úy, ăn máu thịt, có đuôi và răng nanh, đầu có hình dáng như ngọn lửa, tay chân có móng vuốt. Kiện-đạt-phược, họ không có nghề nghiệp để sinh sống, chỉ nghe mùi hương của thức ăn thì tìm đến tấu nhạc xin ăn, nên gọi là tầm hương hành. Nay các loài quỷ thần này, thường tấu nhạc hưởng các mùi hương, nên gọi là Kiện-đạt-phược. Luận Trí Độ ghi: “Đây là loại thần kỹ nhạc ở cõi trời thường theo hầu chư Thiên, tâm tánh nhu hòa, ít phước hơn chư Thiên”. Nêu vị thần này làm đầu là gồm nhiếp tất cả loại này. A-tố-lạc, Hán dịch là Phi thiên. Luận Phật Địa thì xếp loại này vào cõi trời, phần nhiều làm những việc dối trá, không có thật hạnh của chư Thiên. Gọi là Phi thiên cũng như nói người ác hạnh là phi nhân, nhưng thật ở hàng trời. Tông Tát-bà-đa cho đó thuộc về loài quỷ; kinh Chánh Pháp Niệm thì xếp loại này vào quỷ và súc sinh. La-hầu A-tu-la vương, con của sư tử là súc sinh. Kinh Già-tha thì xếp loại này vào ba đường trời, quỷ và súc sinh. Nay căn cứ theo Đại thừa thì chỉ xếp vào cõi trời. Chúa của loại này cư trú ở biển lớn phía Bắc núi Diệu cao, còn những Phi thiên khác thì không định. Yết-lộ-trà, xưa dịch là Kim sí điểu. Ở đây dịch là Diệu sí điểu. Vì cánh của loài chim này có nhiều màu sắc rực rỡ, không chỉ có màu vàng ròng. Loài này có bốn loại sinh là hóa, thai, noãn, thấp. Tùy theo mỗi phương cư trụ mà ăn bốn loài sinh của rồng. Nêu loại này là gồm thâu tất cả loài chim. Khẫn-nại-lạc, Hán dịch là Ca thần, tức các vị Thần này thường ca vịnh trổi nhạc, cùng với Kiện-đạt-phược hầu cận chư Thiên, khi chư Thiên cần thì những vị này đến. Mạc-hô-lạc-già, Hán dịch là Đại phúc thuộc về loại đại mãng xà, nêu lên loại này là gồm thâu tất cả những loại di chuyển bằng bụng. Trên đã nêu lên tám bộ, tuy gồm nhiếp tất cả các loài có oai linh, nhưng những loài tôn quý ở phương này còn chưa kể riêng. Cho nên kế đó nêu Thích Phạm… Thích tức Đế Thích, Phạm tức Vương. Hộ thế, tức bảo vệ người ở bốn châu trong thế gian, tức bốn vị Thiên vương. Vị Thiên vương ở phía Đông tên là Trì Quốc, vị Thiên vương ở phương Bắc tên là Đa Văn, vị ở phương Nam tên là Trường Thọ, vị Thiên vương ở phương Tây tên là Xú Mục. Luận Du-già cho rằng bốn vị Thiên vương này trụ ở tầng thứ tư lưng chừng núi Diệu cao; luận Câu-xá thì nói trụ ở trên đảnh Kim Sơn, tầng thứ nhất; nhưng hai bộ nói không trái nhau. Lại nói vân vân, tức là gồm bốn cõi trời cư trụ trên không trung thuộc cõi Dục và chư Thiên cõi Sắc. Kinh: Và bốn chúng… đều đến hội tòa. Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ tư nói về bốn chúng tu hành. Bí-sô như trước đã giải thích; Ni tức chỉ cho người nữ. Người nữ gồm đủ năm nghóa gọi là Bí-sô ni. Ô-bà-tố-lạc, Ô-bà là Cận, Ca là Sự, Hán dịch là Cận sự, lại nói Tố tức chỉ cho người nam, tức Cận sự nam. Vì đầy đủ giới nghiệp, có khả năng kham nhận việc thân cận phụng sự bậc đại Bí-sô. Cho nên gọi là Cận sự nam. Ô-ba-tư-ca, Tư là chỉ cho người nữ, các nghóa khác cũng như trên, tức cận sự nữ. Vì có đầy đủ giới đức, có khả năng kham nhận việc thân cận phụng sự đại Bí-sô-ni cho nên gọi là Cận sự nữ. Xưa gọi là thanh tín nam nữ là không đúng. Kinh: Lúc bấy giờ, Thế Tôn… vì chúng mà thuyết pháp Tán: Trong phần chúng viên mãn có hai; nêu đại chúng và luận về oai nghi. Đây là phần hai. Theo văn gồm ba: Nêu oai nghi. Ví dụ. Tôn quý thù thắng. Đây là ý đầu, ba nghiệp đều ngưỡng mộ gọi là cung, một lòng tôn sùng gọi là kính; nhìn chung quanh gọi là vi, tùy thuận hóa độ giáp vòng gọi là nhiễu. Bốn chúng có oai nghi này, Như Lai ứng cơ thuyết pháp. Trước khi diễn kinh thường có nói lời này. Kinh: Ví như đại bảo Diệu cao sơn vương đứng cao chót vót giữa biển lớn. Tán: Đây là nêu thí dụ. Tu-di sơn gọi là Diệu cao, cao khỏi mặt nước tám vạn du-thiện-na. Vì do bốn báu tạo thành cho nên gọi là Diệu, Diệu nghóa là thù thắng. Nay căn cứ theo Đại thừa, thì mặt Đông của núi là vàng, mặt Tây là bạc, mặt Nam là lưu ly, mặt Bắc là thủy tinh. Dùng bốn vật báu gom tập lại mà thành, cho nên gọi là Đại bảo. Diệu cao sơn vương trụ ở biển lớn, biển lớn sâu tám vạn du-thiện-na, rộng hai mươi bốn vạn du-thiện-na. Bảy núi khác theo thứ tự vây quanh từ trong ra ngoài, núi ngoài thì thấp bằng một phần hai núi ở trong. Biển cũng như thế. Chỉ có núi Diệu cao, cao chót vót sừng sững giữa các núi và các biển. Biển dụ cho chúng sinh, núi dụ cho Bồ-tát và Thanh văn. Diệu cao sơn vương dụ cho Như Lai. Cao chót vót sừng sững là tả dáng vẻ cao và to lớn. Tông Tát-bà-đa cho rằng núi ở trên Kim luân. Đại thừa không cho như thế nên nói ở trên biển lớn. Kinh: Ngồi trên tòa đại sư tử Thắng tạng, hiển hiện oai quang che mờ cả đại chúng. Tán: Đây là hiển sự tôn quý thù thắng. Cứ tức là ngồi. Đức Như Lai ngồi trên tòa vô úy, gọi là tòa sư tử vì tòa có hình dáng của sư tử. Hiển thị việc người ngồi trên đó thì được vô úy. Tòa do các vật báu như đế thanh, đại thanh, thạch tạng, Chử tạng, châu Ma-ni… trang sức, cho nên gọi là Thắng tạng. Thân màu vàng ròng, phóng thần quang ra bên ngoài che mờ tất cả chúng hội, như ánh trăng thu làm mờ các vì sao. Như âm thanh của tiếng sấm mùa xuân át các tiếng vang khác. Đó đều là do nội đức siêu tuyệt, cho nên ngoại hình tú lệ. Kinh: Bấy giờ, ở thành Quảng Nghiêm có một vị Bồ-tát dòng Ly- chiêm-tỳ, tên là Bảo Tánh. Tán: Trong phần duyên khởi thuyết pháp được chia làm bốn. Từ đây trở xuống là đoạn thứ ba nói về nhân viên mãn, gồm ba: Nói về tu hành. Nói về hỏi đạo và Đức Phật đáp. Quyết nghi tức Thu Tử nghi, bậc Thánh giải thích. Trong phần tu hành, theo văn gồm hai: Nói về hạnh tu thân, tức là các việc như dâng bảo cái… Nói về hạnh tu ngữ nghiệp, tức là các việc thuyết tụng… Trong văn nói về hạnh tu thân lại gồm ba: Nói về Bảo Tánh Dâng cúng lọng báu. Phật hiện thần lực. Đại chúng đều thấy, vui mừng tán thán. Văn đầu tiên gồm mười việc, đoạn này chỉ có bốn: Nói về trụ xứ, tức câu: “Lúc bấy giờ, ở thành Quảng Ng- hiêm”. Luận về giai vị, tức câu: “Có một vị Bồ-tát”. Nêu chủng tánh, tức câu: “Dòng Ly-chiêm-tỳ”; đây là một trong mười sáu họ của Bà-la-môn. Nêu tên, tức câu “tên là Bảo Tánh;” khác với bản dịch cũ, ý nghóa có thể hiểu được. Kinh: Cùng với năm trăm Ly-chiêm-tỳ đồng tử, mỗi mỗi đều cầm lọng bảy báu trang nghiêm đến trụ xứ của Như Lai ở rừng Am-la và mỗi mỗi dâng cúng lọng báu của mình lên Đức Thế Tôn. Tán: đoạn văn này gồm sáu việc: Nói về các đồng tử đều có họ Ly-chiêm-tỳ. Số lượng lọng báu, tức câu: “mỗi mỗi đều cầm lọng báu”. Bảy báu trang nghiêm. Đến trụ xứ của Phật, tức câu: “đến rừng Am-la”. Dâng cúng, tức câu: “mỗi mỗi đều dâng lọng báu lên Đức Thế Tôn”. Cầm một lọng báu tức hiển thị mỗi vị đều khởi bốn tâm vô lượng che chở chúng sinh. Bảy báu trang nghiêm là biểu thị việc tu tập bảy Thánh tài để hỗ trợ được vô lượng trang nghiêm. Bảy báu, luận Phật Địa ghi: “Vàng, bạc, phệ-lưu-ly, mâu-bà-lạc yết-bà-lạp xưa dịch là san hô; yết-kê đát-nặc-ca xưa dịch là xa cừ, hạt-thấp-ma Yết-bà xưa dịch là mã não, xích trân châu lấy từ loài trùng đỏ; hoặc cho rằng châu màu đỏ. Các văn khác tuy có nói đến, nhưng tùy theo các nơi xem quý trọng mà mỗi mỗi ghi khác nhau. Kinh nói bảy báu, thì lấy đó làm nhất định. Dâng cúng lên Đức Phật, tức hiển thị việc gần thì tu diệu hạnh, xa thì báo ân Đức Phật. Kinh: Dâng cúng xong liền đảnh lễ… lại đứng về một phía Tán: Đoạn này còn một việc thứ mười là thấy nghi quỷ. Dâng cúng tuy là việc tốt rồi, nhưng tình vẫn chưa đủ cho nên mới trịnh trọng nói đến pháp tắc oai nghi thành kính này. Hạ thấp cái cao nhất của mình để cung kính cái thấp nhất của người, cho nên nói đảnh lễ hai chân Đức Thế Tôn; tu nhân thần thông nhiễu về bên phải bảy vòng; việc kính thành đã xong, tình có chỗ đối đãi, tùy theo bộ loại mà đứng, cho nên nói “lại đứng về một phía”. Kinh: Do sức oai thần của Phật, khiến các bảo cái hợp thành một bảo cái, che phủ tam thiên đại thiên thế giới. Tán: Đoạn thứ hai nói về việc Đức Phật hiện thần lực trong đoạn này có ba: Biến nhiều thành ít. Biến nhỏ thành lớn. Ảnh hiện trong đó. Đoạn này có hai việc: Biến nhiều thành ít, tức hợp thành một bảo cái, biểu thị tu các diệu nhân như bốn tâm vô lượng… đồng chứng đắc nhất chân pháp giới. Biến nhỏ thành lớn, che phủ cả tam thiên thế giới, tức hiển thị lý chân như, cùng khắp pháp giới không đâu chẳng có, đó cũng là hiển thị vô lượng, che phủ tất cả. Vả lại cũng để thị nhân nhỏ mà quả lớn. Một ngàn tứ thiên hạ thì có một luân vi, gọi là tiểu thiên giới, một ngàn tiểu thiên giới thì có một luân vi gọi là trung thiên giới, một ngàn trung thiên giới có một luân vi gọi là tam thiên đại thiên thế giới. Vì có ba lớp ngàn thứ ba, cho nên gọi là đại thiên. Do đó mà văn sau ghi là Luân vi sơn, Đại luân vi sơn. Kinh: Mà hình tướng rộng lớn của thế giới này, thảy đều hiện trong đó. Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ ba nói về ảnh hiện trong lọng báu. Văn sau nói: “mười phương thần biến hiện thế gian, tất cả đều như bóng dáng”. Tức muốn hiển thị các nhân duyên ở thế gian đều không thật, cho nên nói là bóng dáng. Văn sau có hai: Hiện cõi này. Hiện cõi khác. Hiện cõi này có hai ý: Hiện phần lượng. Hiện các hình tượng. Đây là văn đầu tiên, nói về chân như kia cùng khắp các tướng chung. Hiện hình lượng của thế giới là biểu thị việc thành Phật đạt được Nhất thiết trí. Kinh: Tam thiên đại thiên thế giới này… sông, vũng, suối, ao, lạch. Tán: Đây là phần nói về hiện các hình tượng ở thế gian, gồm có hai là nói riêng và tổng kết. Nói riêng gồm có tám việc. Văn này có năm: Hiện núi chung của bốn đại châu là núi Diệu cao. Hiện núi riêng của Thiệm bộ châu, gồm tám núi là núi Tuyết… Hiện ngọn núi chung của bốn châu là Luân vi sơn. Hiện núi chung của tiểu thiên giới là Đại luân vi sơn. Hiện sông nước riêng của bốn châu, tức nói biển lớn… Kinh: Và trăm câu-chi… đều hiện trong bảo cái này Tán: Đoạn này gồm có ba việc. Hiện trăm ức bốn đại châu. Châu nghóa là châu chữ, tức bãi đất hay cù lao nổi lên giữa sông nước. Vì bốn vùng đất này mỗi mỗi đều nổi lên giữa biển lớn nên gọi là châu. Bốn châu là: Đông Thắng thân, Tây Ngưu hóa, Nam Thiệm-bộ, Bắc Câu-lô. Về thọ mạng tăng giảm, hình lượng của xứ sở, tướng thành hoại thì như luận Du-già bốn đã nói. Kinh này muốn nói đến chánh lý sâu xa vi diệu cho nên không giải thích các sự tướng. Hiện các cung điện, mặt trời, mặt trăng… về tên gọi, phần lượng, cao thấp của mặt trời, mặt trăng… thì như luận Du-già đã nói. Hiện vương quốc và các thành ấp… bản văn xưa không ghi việc này. Ảnh hiện là biểu thị cho việc khi thành Phật thì đạt được Nhất thiết chủng trí. Như thế đều hiện trong lọng báu, đây là câu tổng kết. Kinh: Vả lại, chánh pháp được chư Phật trong mười phương thế giới… đều được thấy nghe. Tán: Đoạn này nói về mười phương Như Lai ở cõi khác và chánh pháp do các Như Lai ở cõi ấy nói ra, đều hiện trong lọng báu. Trong lọng báu có âm thanh giống như tiếng dội trong hang ứng theo chỗ tuyên thuyết mà đây có thể nghe được. Vì âm thanh ảnh hiện có thể nghe thì Phật ảnh hiện lại cũng có thể thấy được. Vì thế nói trong lọng báu đều có thể thấy nghe. Ở đây không nói đến quyến thuộc, theo lý thì biết nhất định phải có, chẳng phải chỉ có một mình Đức Phật trụ mà luống nói pháp… Hiện cõi khác là để biểu thị khi thành Phật sẽ đạt được tất cả cõi Phật thanh tịnh. Kinh: Lúc bấy giờ, đại chúng… im lặng mà trụ. Tán: Đây là đoạn thứ ba nói về việc đại chúng đều thấy vui mừng cung kính, tâm sinh hoan hỷ, vì ý ưa thích, thân thì nhảy nhót như múa; lời thì khen là việc hy hữu, vì nói không cùng tận. Tay chắp mắt nhìn, khát ngưỡng vô cùng, một giây cũng chẳng rời, lóng tâm nghe pháp hy hữu, im lặng mà trụ. Kinh: Lúc bấy giờ, Bảo Tánh… mà khen ngợi Đức Phật rằng. Tán: đây nói về hạnh tu thân trong phần nói về tu hành. Đoạn sau nói về tu ngữ nghiệp. Cúng dường tài vật chưa đủ, cần phải dùng thân đảnh lễ, thân cúng dường chưa đủ, cho nên phải dùng lời tán dương, đó là biểu thị tâm quy mệnh sâu xa, lộ bày đạo cung kính đầy đủ. Đây là nói về phép tắc tán dương. Dưới là thuật lời lẽ tán thán. Già-tha là âm Phạm, Hán dịch là tụng. Xưa dịch là kệ, tức lầm lẫn. Kinh: Mắt tịnh dài rộng thật đoan nghiêm… đến bờ kia Tán: Bốn câu là một bài tụng, ở đây tổng cộng là mười chín bài rưỡi. Xưa ghi mười tám bài rưỡi. Trong đó chia làm ba đoạn: Gồm mười một bài rưỡi, nêu lại việc đã nói ở trước để tán dương; xưa chỉ nêu mười bài rưỡi. Gồm bốn bài, nêu lên lợi ích đại chúng đạt được để tán thán, xưa nay giống nhau. Gồm bốn bài tụng, thuật về đức riêng, mỗi mỗi đều thành kính quy y. Bản xưa chỉ ghi ba bài rưỡi. Trong đoạn đầu lại chia làm hai: Gồm mười bài rưỡi, nêu lên việc đã nói ở trước để tán dương, bản dịch xưa chỉ ghi chín bài. Gồm một bài nói về ý nghóa hiện ảnh tượng. Phần đầu lại chia làm hai: Gồm ba bài, nêu lên việc hiện cõi nước phương khác, bản xưa ghi hai bài. Gồm bảy bài rưỡi, nói việc hiện cõi nước phương này. Hoặc phân làm hai: Đầu tiên ba bài, nêu việc hiện cõi nước phương khác để tán dương; sau gồm tám bài rưỡi, nêu lên việc hiện cõi nước phương này để tán dương. Phần thứ nhất lại chia làm hai: Đầu tiên gồm hai bài, tán dương sáu việc tu tịnh của Phật; sau gồm một bài, nêu lên việc hiện mười phương. Trong phần nói về sáu việc thanh tịnh thì một bài rưỡi bài tụng đầu là tán thán sáu đức, nửa bài sau là kết luận, kính lễ. Trong bài tụng này có bốn tịnh: Mắt thanh tịnh, ý lạc tịnh, định tịnh và bó ngạn tịnh. Bản dịch xưa gọi ý lạc tịnh là tâm tịnh, bó ngạn tịnh gọi là dó độ (đã vượt). Trong sáu căn thì mắt đứng đầu; dẫn dắt thân, nếu không có mắt thì không thể thấy sự việc, nghe lý thì mắt là trước hết; đối với sự đoan nghiêm của thân thì mắt là kỳ diệu bậc nhất cho nên chỉ nói đến mắt mà thôi, các căn khác theo đó cũng có thể biết. Nói mắt tịnh, tức là mắt có đủ sáu điều thù thắng: Rất thanh tịnh (Tịnh thắng), vì xa lìa được sự ngăn che. Dài (Tu thắng), như nửa vầng trăng trong mây, đuôi mắt kéo dài tới mai. Rộng (Quảng thắng), quảng tức là khoát (rộng) tương xứng với dài; có thể mở rộng. Diệu (Đoan nghiêm thắng), tức trên dưới tương xứng, dày mỏng đúng nơi, rất thanh nhã và đẹp. Sáng (Kiểu thắng) kiểu tức minh (sáng), trong sáng dễ mến, có thể nhìn thấu tất cả. Màu sắc đẹp (Sắc thắng) tức mắt có màu xanh biếc, trong dụ này bản dịch xưa chỉ có ba. Nay theo bản dịch mới cho rằng mắt giống như cánh hoa sen xanh biếc, chứ chẳng phải là hoa sen rụng cánh kết hạt lộ ra đài gọi là sen, cho nên nói mắt như cánh hoa sen, chẳng giống với loại đài sen kia. Trong các loại hoa sen, thì cánh hoa sen xanh giống mắt, hình thể khác biệt, chẳng lấy hoa sen màu khác làm dụ vì cánh hoa tròn. Cánh hoa sen xanh rất sáng và tinh khiết, rất đẹp và nghiêm tịnh giống con mắt, dài và rộng thanh nhã tú lệ rất dễ nhìn, hàm chứa ánh sáng xanh biếc, cho nên lấy làm dụ, màu cám (ánh đỏ) thì chỉ chung cho các màu có ánh đỏ, nay chỉ lấy xanh ánh đỏ (thanh cám) mà thôi. Trong ba mươi hai tướng quý của Phật, thì con ngươi của mắt Phật có màu xanh biếc, lại có một vòng tròn phân biệt vây quanh, cho nên dùng hoa sen xanh biếc để dụ. Đã chứng đệ nhất tịnh ý lạc. Ýù lạc lấy A-thế-da, tín và thắng giải rộng lớn làm thể. Ý lạc của Phật thanh tịnh không có Tạp ý lạc, thuần vì lợi sinh; vượt hơn tất cả cho nên gọi là đệ nhất. Đây là phẩm loại mà Bồ-tát chứng đắc, cho nên gọi là chứng. Nói chứng đệ nhất tịnh là chung cho Xa-ma-tha. Xa-ma-tha, Hán dịch là Chỉ, tức tâm dừng trụ, tức định tịnh, chẳng đồng với Nhị thừa còn có phân biệt chướng, chẳng phải là đệ nhất tịnh. Kinh: Xưa chứa vô biên nghiệp thanh tịnh… khai đạo hy di tịch lộ giả. Tán: Hai câu đầu là nói về hai tịnh. Câu thứ nhất nói về nghiệp tịnh thứ năm, câu hai nói về danh xưng tịnh thứ sáu. Hạnh vô lậu gọi là nghiệp thanh tịnh, như biển sâu rộng, luôn luôn tu tập dài lâu, cho nên nói xưa chứa vô biên nghiệp. Đức đã cao tột, cho nên danh vang khắp mười phương cõi nước; mười hiệu đều đầy đủ cho nên gọi là thắng danh văn. Khể tức chạm đến, thủ tức đầu, nghóa là đầu chạm đất, cho nên gọi là khể thủ, là tên khác của kính lễ. Đại Sa-môn, Hán dịch là Tức ác (đoạn trừ điều ác). Phật quả tôn quý cùng cực, vượt qua tất cả cho nên gọi là Đại. Hy di nghóa là Niết-bàn cung. Không thể nghe đến được gọi là Hy, không thể nắm bắt được gọi là Di. Hy di thể vắng lặng, vắng lặng sinh tử, vì tánh vốn vắng lặng. Lộ tức là đạo (đường), con đường hướng đến Niết-bàn cung, tức Thánh đạo. Như Lai khai phát con đường vắng lặng cho người sơ cơ căn khí thuần thục; có thể dẫn dắt người sơ cơ căn khí thuần thục trên con đường vắng lặng này. Gọi khai đạo, khai là khai phát, đạo là dẫn dắt, vả lại Tịch lộ tức Hy di. Như thi-đà lâm gọi là Tịch lộ, cho nên kinh nói là con đường kinh sợ. Vả lại người chỉ bày dẫn dắt đến Niết-bàn Hy di và Tịch lộ Bồ-đề, Đức Phật có đủ sáu loại tịnh đã nêu trên, cho nên chúng con kính lễ bậc Sa-môn, đó là chỉ bày dẫn dắt đến Bồ-đề Niết-bàn. Bản kinh xưa trên đã thuyết một bài tụng. Kinh: Đã thấy đại Thánh dùng thần biến… nơi đây tất cả đều thấy nghe. Tán: Trên là tán thán sáu pháp thanh tịnh của Phật, còn văn này thì nêu lên việc hiện mười phương. Gần thì hiện Đại thiên, còn gọi là việc kỳ lạ. Sau hiện thế giới này thì lý tuyệt tâm hiển bày. Văn Trường hàng thì căn cứ theo xa gần để trình bày, văn tụng thì căn cứ theo hơn kém mà luận rõ; vì thế trước nêu phương khác, sau mới nêu cõi này. Diệu dụng khó lường gọi là thần, thay đổi hình cũ thì gọi là biến. Ý văn có thể biết, nên không giải thích riêng. Kinh: Pháp lực Pháp vương vượt quần sinh… cho nên kính lễ Pháp vương này. Tán: Bảy bài tụng rưỡi sau đây là nêu lên việc hiện phương này để tán thán, trong đó được chia làm hai: Đầu tiên gồm sáu bài rưỡi, tán thán ba đức của Phật, sau một bài, nêu lên việc hiện phương này. Trong đoạn đầu lại có ba ý. Đầu tiên một bài rưỡi tán thán đức từ chân khởi hóa độ của Phật, kế đến gồm bốn bài, tán thán đức được quả và lợi sinh của Phật, sau cùng một bài là tán thán đức chẳng lay động đối với các việc thuận nghịch. Đây là ý đầu, Phật Tự Tại đến với các pháp nên gọi là pháp vương; pháp ấy khó khuất phục nên gọi là pháp lực. Đã vượt ba cõi gọi là siêu quần sinh, đầy đủ ba pháp này, nên luôn dùng pháp tài ban cho tất cả; hoặc do Đấng Pháp vương dùng pháp lực nên có thể siêu việt quần sinh, sau dùng pháp tài ban cho tất cả. Tất cả bậc Thánh đều lấy pháp làm tài sản để lợi ích cho mình và người, tuy đối với tài bảo không sợ sệt nhưng cũng dùng để ban phát cho chúng sinh, lấp dòng sinh tử; vì chỉ dùng pháp thí, cho nên chỉ nói đến pháp mà thôi. Hậu đắc trí của Phật khéo phân biệt tự, cộng tướng của các pháp. Tự tướng tức sắc thọ tưởng… cộng tướng tức khổ, vô thường… vì khi bố thí pháp thì khéo phân biệt. Tuy bên ngoài khởi tác dụng này nhưng trí thì vô phân biệt, thường quán Đệ nhất nghóa, Đệ nhất nghóa tức thắng nghóa, thể của thắng nghóa tức chân như. Phá dẹp oán địch, vì trong quán nghóa chân, nên có thể phá ma oán, ngoài khởi dụng giáo hóa, nên có thể dẹp thiên ma; gọi tồi oán địch, tồi nghóa là phá hoại, bốn ma đối với Phật là oán là địch cho nên gọi là oán địch; chẳng cùng chung với Phật. Bản xưa thiếu câu này, lại nói “mà bất động” tức chẳng bị ma oán làm động loạn, nghóa còn thiếu sót. Đã khởi hai trí, chứng môn lý sự, mà đối với pháp được tự tại. Tự tại có mười, trong kinh Hoa Nghiêm cũng nêu lên mười, nhưng nghóa khác nhau. Như Pháp Hoa tán mười nói. Nay căn cứ theo Nhiếp luận ghi: Thọ tự tại, tức kéo dài mạng sống. Tâm tự tại, không nhiễm sinh tử. Tài tự tại, có thể tùy theo sự ưa thích mà hiện tài bảo; do hành bố thí, chứng ba quả này. Nghiệp tự tại, chỉ làm nghiệp thiện và khuyên người khác làm. Sinh tự tại, tùy nơi ưa muốn mà sinh đến; do hành giới Ba-la- mật mà đạt được hai quả này. Thắng giải tự tại, có thể tùy sự ưa muốn mà biến hiện, đây do tu nhẫn mà được. Nguyện tự tại, tùy chỗ ưa thích mà thành tựu, đây là do tinh tấn mà được. Thần lực tự tại, có thể phát khởi đạo tối thắng, đây là do định mà được. Trí tự tại, tức tuệ tùy thuận âm thanh ngôn ngữ. Pháp tự tại, Tức tự tại diễn thuyết các Khế kinh… hai quả này do tu tuệ mà được. Nay muốn hiển bày việc do Phật bên trong đầy đủ hai trí, cho nên trong đó được tự tại, mà tùy thuận tuyên thuyết. Tán thán đức đã xong cho nên tự thân kính lễ. Kinh: Thuyết pháp chẳng có cũng chẳng không… nghiệp thiện ng- hiệp ác cũng chẳng mất. Tán: Từ đây trở xuống bốn bài là tán thán đức được quả và lợi sinh, gồm hai: Hai bài đầu là nói về được quả, hai bài sau là nói về lợi sinh. Trong phần được quả có hai ý: Bài đầu nói về quả cùng lý, bài sau nói về quả cùng chân. Đây là bài đầu. Ngài Thanh Biện ghi: “Phật nói các pháp chẳng có, chẳng có không, cũng chẳng không có”. Căn cứ vào thế tục đế, tướng các pháp chẳng không, theo thắng nghóa đế tướng các pháp chẳng có. Tất cả đều đợi nhân duyên lập, nghóa là pháp nhờ vào duyên, pháp nương vào duyên; nhân tức là duyên cho nên gọi là nhân duyên. Vả lại như hữu vi, đợi vô vi mới lập được, pháp vô vi lại đợi hữu vi mới lập được. Chân đợi tục mà lập, tục lại đợi chân mà lập. Không và có cũng như thế. Nghóa chờ đợi nương gá đó gọi là nhân duyên. Nhân quả làm tông, sở đải (chờ đợi) là nhân, năng đải là quả, cho nên đối với thế tục là có và đối với Thắng nghóa là không. Vì là tThế tục đế cho nên có ngã để thọ, còn trong Thắng nghóa đế thì tất cả đều không có ngã. Cho nên thế tục đế phải đợi Thắng nghóa đế mới thành có, Thắng nghóa đế kia phải đợi thế tục đế mới thành không. Ngã đã là do xưa phàm phu mà vọng chấp, cho nên nay là bậc Thánh, Thắng nghóa thành không, tuy thắng nghóa không mà chẳng hoại mất tục đế, cho nên các nghiệp thiện ác nương vào thế tục đế, cũng chẳng thể nói không; vong giống như vô. Hoặc ở đây đều căn cứ theo thắng nghóa đế mà thuyết thì tánh không lìa ngôn ngữ, thì không nào có? Không và có đều đợi nhân duyên mới thành lập. Trong Thắng nghóa đế vốn vô ngã và nghiệp thiện ác; tánh nghiệp chẳng mất, do phàm phu chấp có; khi chứng Thánh thì thành không vì tánh vốn không, chẳng phải nay mới không. Nói “cũng chẳng vong”, thì chẳng vong tức chẳng không. Vì tánh của sắc vốn không, chẳng phải sắc diệt rồi mới không. Vì chẳng phải hôm nay mới không cho nên nói chẳng không. Ngài Hộ pháp giải thích rằng: “Y theo Thắng nghóa đế, chư Phật nói các pháp chẳng có chẳng không; không mà có tức Biến kế sở chấp; có mà không tức Y tha và Viên thành. Vì sao? Vì tất cả đều đợi nhân duyên mới thành lập, không và có, sự và lý đối đãi nhau mà thành lập. Sở đãi gọi là nhân, năng đãi là quả. Phật nói nhân quả lấy đó làm tông. Chẳng phải chỉ là không, cũng chẳng phải chỉ là hữu, cần phải đối đãi nhau. Bản xưa nói “sinh” thì chẳng đúng nghóa. Các pháp hữu vô không đợi nhân duyên mà sinh, chỉ có đợi nhân duyên mà lập. Vô ngã… tức hiển pháp chẳng có, nói nghiệp thiện ác cũng chẳng mất là hiển thị pháp chẳng không, tức nghiệp duyên sinh tử ở đây chẳng phải không. Đó là hiển thị lý quả không hữu của Khế kinh được Đức Phật tuyên thuyết. Kinh: Đầu tiên hàng ma nơi Phật thọ… ngoại đạo, tà đồ đều chẳng lường. Tán: Bài tụng này là hiển quả chứng ngộ cùng tột chân thật. Phật thọ tức cây Bồ-đề, thành đạo nơi cội cây Bồ-đề nên lấy đó làm tên. Tại gốc Phật thọ, sau nửa đêm hàng phục thiên ma. Dùng mười Lực phá dẹp ma cho nên gọi là hàng ma. Tướng hàng ma như các giáo đã nói. Được cam lộ diệt và Thắng Bồ-đề, diệt tức Niết-bàn, như thuốc cam lộ uống vào thì bất tử. Thắng Bồ-đề, chứng được chân trí, vượt trên Nhị thừa gọi là Thắng Bồ-đề. Nhưng Bồ-đề Niết-bàn được nói ở đây chẳng phải là sở thọ, chẳng phải là sở hành của tất cả tâm phân biệt, cũng chẳng phải là sở thọ chẳng phải là sở hành của tất cả ý suy lường. Vì các tâm phân biệt nó chẳng đến, các ý suy lường cũng chẳng đến. Luận Nhiếp Đại thừa ghi: “Chẳng phải tâm mà là tâm, là trí vô phân biệt, chẳng phải là tâm suy lường mà là tâm vô phân biệt. Cam lộ diệt… này là sở duyên của tâm vô phân biệt, chẳng phải là nghóa sở thủ của tâm suy lường, vì kia có phân biệt. Thọ tức lãnh nạp, hành tức duyên lự. Hoặc cho rằng sở hành của các tâm, sở thọ của các ý phối hợp riêng với tâm ý, hoặc với cam lộ diệt, tức Thắng nghóa Bồ-đề, tánh Bồ-đề”. Ngài Thanh Biện giải thích: “Chư Phật chứng đắc cam lộ diệt không vô sở hữu, chẳng phải là chỗ hành của tâm ý; pháp thể đều không, nào có tâm ý để mà thọ và hành? Do đó ngoại đạo và tà đồ không thể suy lường, họ chỉ có thể suy lường được hữu là pháp thô lậu cạn hẹp, mà không thể lường được không và pháp sâu xa vi diệu. Ngài Hộ Pháp giải thích rằng: “Niết-bàn Bồ-đề sở chứng tuy có mà tánh vi diệu, nhưng đây là sở chứng của trí, mà chẳng phải là cảnh của tâm ý, cho nên ngoại đạo và hàng tà kiến chẳng thể lường được. Do đó văn sau nói: “Bồ-đề chẳng thể dùng thân mà chứng, chẳng thể dùng ý mà được, chỉ có trí chứng được mà thôi”. Hoặc trong hai bài tụng trên nửa đầu là tán thán chung đạo lý không hữu được nói, một bài tụng kế, hiển riêng pháp không hữu, nửa bài sau tán thán đức sâu xa khó lường. Bài tụng hiển vô ngã trong pháp không hữu, thì một câu nói về sở chấp pháp có, một câu kế nói về y tha hữu, còn nửa bài sau (hai câu còn lại) là nói về viên thành thật hữu. Nay đối hai tánh này thì không pháp nào chẳng có; các pháp vô lậu đều thành tựu viên mãn vì diệt và Bồ-đề đều là viên thành thật, ngăn chặn sở chấp đoạn là y tha chứng viên thành, cho nên ba tánh khác nhau. Trên đã nói Phật chứng quả lý của ba tánh cho nên tất cả đều chẳng thể suy lường. Hai bài tụng sau nói về lợi sinh, trong đó có hai ý: Bài tụng đầu nói về chuyển pháp luân. Tam bảo xuất thế, một bài tụng sau nói về việc quần sinh được ban cho pháp này thì có thể vượt qua sinh tử. Kinh: Tam chuyển pháp luân nơi đại thiên… từ đó Tam bảo hiện thế gian. Tán: Đây là luận về chuyển pháp luân và Tam bảo xuất hiện ở đời, pháp luân có ba, đó là pháp luân Thanh văn, Độc giác và Bồ-tát. Tùy căn cơ khác nhau, nên pháp thành ba. Vả lại căn cứ theo Pháp Hoa thì trong hai mươi mốt ngày tư duy về việc này xong, Đức Phật mới đến Ba-la-nại chuyển pháp thành bốn đế cho năm vị Tỳ-kheo. Pháp luân bốn đế này thì hàng Thanh văn trong ba đời… tu tập xong, nương vào uẩn xứ giới mà chứng bốn đế, cho nên gọi là pháp luân Thanh văn,. Trong bốn đời… tu tập đã xong nương vào mười hai nhân duyên mà chứng bốn đế, nên gọi là pháp luân Độc giác. Hàng Bồ-tát trong ba đại a-tăng-kỳ kiếp tu sáu Ba-la-mật, thực hành mười thiện xảo, quán ba tánh, chứng bốn đế, nên gọi là pháp luân Bồ-tát. Kinh Đại Bát-nhã ghi: “Khi Đức Thế Tôn mới chuyển pháp luân thì có vô lượng chúng sinh phát tâm Thanh văn, vô lượng chúng sinh phát tâm Độc giác, vô lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chứng Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, cho đến trong một đời sẽ được tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đây là pháp luân chung cho ba thừa. Nếu chẳng như thế thì bảy ngày thứ hai ở thiên cung Tha hóa thuyết Thập địa vì sao chẳng gọi là chuyển pháp luân? Tam chuyển có hai nghóa: Tự chuyển. Vị tha chuyển. Tự tam chuyển: Đầu tiên chuyển ở giai vị kiến đạo, gọi là ấn tướng chuyển, kế đến chuyển tại tu đạo gọi là ứng tác chuyển; sau cùng là chuyển tại giai vị vô học, gọi là dó tác chuyển. Vị tha chuyển cũng có ba: Đầu tiên là thị tướng chuyển, tức chỉ tướng bốn đế cho năm vị Tỳ-kheo, nói rằng: Đây là khổ, đây là tập, đây là diệt, đây là đạo. Kế đến là khuyên tu chuyển; tức khuyên năm vị Tỳ-kheo tu bốn đế, nói rằng: “Đây là khổ các ông nên biết, đây là tập các ông nên đoạn, đây là diệt các ông nên chứng và đây là đạo các ông nên tu.” Sau tác chứng chuyển, sợ rằng các Tỳ-kheo chưa tin, cho nên Đức Phật dẫn tự thân để chứng minh, tức nói: Đây là khổ ta đã biết, đây là Tập ta đã đoạn, đây là diệt ta chứng, đây là đạo ta đã tu”. Thời chuyển thứ nhất, dẫn Kiều-trần- na vào vị kiến đạo; thời chuyển thứ hai đạt đến tu đạo, thời chuyển thứ ba thành đạo vô học. Trong mỗi một đế gồm có mười hai hành tướng. Nghóa là nơi khổ đế sinh tuệ nhãn Thánh đạo là chung, riêng tức nơi khổ đế ở quá khứ sinh trí, khổ đế vị lai sinh minh, hiện tại khổ đế sinh giác, cho đến đạo đế cũng như thế. Một pháp nhãn chung và hành tướng riêng của ba thời hợp thành bốn, ba chuyển thì thành bốn mươi tám hành tướng. Vì chẳng quá mười hai, cho nên gọi chung là ba chuyển mười hai hành tướng pháp luân. Chương pháp luân trong Pháp Hoa tán bốn nói trong đại thiên nghóa là trong đại thiên giới có một trăm ức Đức Thích- ca đồng thời chuyển, đó đều là hóa Thích-ca, cho nên nói đại thiên. “Luân đó vắng lặng, bản tánh tịch”. Bản tánh tịch tức là bản thể chân như vắng lặng cảnh tánh lý pháp luân có thể gọi là pháp luân là vì xưa khi chưa chuyển thì chủng tử phiền não sinh khởi hiện hành, xao động che lấp, nay chuyển pháp luân thì sinh Thánh đạo, phiền não tận trừ, bản tánh chân thật vắng lặng, lý kia liền hiển, cho nên gọi là có thể làm vắng lặng bản tánh tịch kia. Bản dịch xưa ghi; “Luân ấy xưa nay thường thanh tịnh” tức cảnh tánh pháp luân gọi là pháp luân xưa nay thanh tịnh. Ý câu này là do chuyển Thánh đại luân, mà luân của pháp tánh xưa nay thanh tịnh. Xưa bị phiền não che lấp, nay hiển được thanh tịnh. Văn ẩn kín khó biết. Nói pháp trí nghóa là vô lậu chánh trí mà hàng Tam thừa đạt được. Lúc bấy giờ trời người mới chứng đắc. Bản xưa ghi: “Trời người đắc đạo đó là chứng.” Trời người đắc đạo, đây là bản tịnh, luân là sở chứng, trái với bản. Do đó Tam bảo hiện ở thế gian, vì đầy đủ ba bảo. Lúc Phật mới thành đạo, có người khách buôn dâng cúng bột gạo rang Đức Phật truyền cho tam quy, và dặn rằng về sau có Tăng ngươi nên quy y, Thánh tăng ba thừa lúc bấy giờ chưa có; sau khi chuyển bốn đế xong thì Thánh tăng tam thừa mới có, Tam bảo mới đầy đủ. Kinh: Dùng diệu pháp này cứu quần sinh… đảnh lễ vô biên công đức hải. Tán: Một bài tụng này nói về quần sinh được ban pháp mà vượt qua sinh tử. Dùng diệu pháp này, tức nêu lên pháp luân ở trên. Đắc quả viên mãn, lại không sợ sệt, vì đã vượt sinh tử, lại không kinh hãi, cho nên đạt được Niết-bàn, thân tâm an tịnh. Vì thế tôn Đức Phật là bậc Đại Y vương cứu độ vượt sinh tử, con nay kính lễ Đức Vô Biên. Xưa ghi: “Đã thọ bất thoái thường tịch nhiên”. Đã được bản tịch thì không thoái chuyển, nên thường tịch nhiên, nhưng lại thiếu nghóa không sợ sệt. Kinh: Tám pháp chẳng động như Sơn vương… Ai chẳng tuân kính Đấng Năng Nhân. Tán: Đoạn thứ ba, một bài tụng nói về việc Đức Phật chẳng động đối với việc thuận nghịch. Tám pháp: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. Được tài bảo gọi là lợi, mất tài bảo gọi là suy (hao), sau lưng nói xấu người gọi là hủy, sau lưng khen người gọi là dự, đối mặt nói tốt gọi là xưng, đối mặt nói xấu gọi là cơ, bị bức bách gọi là khổ, được an vui thích thú gọi là lạc. Do Phật trụ nơi ba niệm trụ, cho nên tám pháp này, không làm lay động. Ba niệm trụ: Nhất phần tùy thuận cúng dường bất hỷ; nhất phần vi bối tổn hại bất sân; trong đại chúng nửa thuận nửa trái cũng không ưu bất ưu hỷ, giống như núi Diệu cao trụ trên Kim luân, gió mạnh bốn phương thổi đến mà chẳng đỗ ngã. Xưa không ghi đủ tám pháp này, chỉ có hủy và dự, vì người dịch lượt bỏ. Chúng sinh tốt gọi là thiện, chúng sinh xấu gọi là bất thiện. Phật ở trong đó không thiên lệch một bên nào đều dùng từ ban vui, dùng tâm mẫn để cứu khổ. Mẫn tức là bi. Hành tướng của tâm Phật xa lìa sự chấp trước, rỗng rang như hư không, bình đẳng an trụ, không còn yêu ghét. Thục tức là “thùy” nghóa là ai. Ai chẳng phụng thờ kính ngưỡng bậc năng nhân này? Âm Phạm Thích-ca, Hán dịch là Năng Nhân, vừa có năng lực vừa nhân từ, là bản tánh Phật. Giải thích về bản duyên của ngài thì như luận Du-già đã nói. Bản dịch xưa ghi: “Nhân Bảo”, tức là báu vật trong loài người, thiếu nghóa Thích-ca. Kinh: Dùng các lọng báu dâng Thế Tôn… nên lễ trí kiên công đức thân. Tán: Trên là tán thán ba đức của Phật, còn bài tụng này thì nêu lên việc trong lọng báu ảnh hiện, tán thuật đã xong, cho nên tự thân kính lễ. Trí kiến tức là trí, công đức tức là phước. Tức chư Phật dùng trí và phước làm thân. Kinh: Mười Lực thần biến hiện thế gian… nên lễ mười Lực đại tri kiến. Tán: Nêu lên việc trước để tán dương, là đoạn thứ hai nói về nguyên do trong lọng báu ảnh hiện vật tượng để hiển thị tánh của thế gian đều chẳng thật, giống như hình bóng, chẳng phải cóù mà tựa như cóù, dối gạt kẻ ngu. Khiến cho biết được đó là hư dối chẳng nên chấp trước. Bản xưa không có nghóa này. Đại chúng đã thấy, đều kinh ngạc cho đây là việc hy hữu, cho nên nay con kính lễ. Kinh: Chúng hội chiêm ngưỡng Đại Mâu-ni… Đây là Như Lai Bất cộng tướng. Tán: Đây là đoạn thứ hai gồm bốn bài tụng, nói về việc chúng lợi ích để tán thán. Gồm hai: Bài tụng thứ nhất là nói về lợi ích của thân; ba bài sau nói về lợi ích của ngữ. Đây là bài tụng đầu. Tiếng Phạm Mâu- ni, Hán dịch là tịch mặc, tức hay tịch sinh tử, chứng pháp tịch mặc, cho nên nói là tịch. Mọi người thấy Phật đều có thể tùy thuận, chẳng ai mà không sinh tín tâm thanh tịnh. Chẳng tùy thuận, nghóa là nếu là ở gần tâm tín không sinh, thì lâu ngày ắt trở lại, Đức Phật hiện thần thông, xót thương cứu khổ, chỉ có tùy thuận, chẳng có trái nghịch, đều hiện thân trước mặt người có lòng tin, thuyết pháp cho họ nghe, người tin pháp cũng thấy Phật, chỉ mới hiện thân, hiện tiền được lợi lạc. Người khác chẳng có được, nên gọi là bất cộng tướng. Kinh: Phật dùng một âm diễn thuyết pháp… Đây là Như Lai bất cộng tướng. Tán: Ba bài tụng sau là nói về lợi ích về ngữ nghiệp. Văn gồm ba phần. Phật có bốn vô ngại giải. Chẳng tán thán biện vô ngại mà thuyết ba vô ngại, tức là biện tài: Pháp vô ngại giải, tức trí thuyết pháp vô ngại. Nghóa vô ngại giải, tức là trí thuyết pháp lý vô ngại. Từ vô ngại giải, tức là trí tùy thuận ngôn ngữ âm thanh các phương vô ngại. Biện tài vô ngại, tức là trí khéo léo thuyết bảy biện như pháp nghóa… vô ngại. Đây là tán thán từ vô ngại giải là lợi ích. Phật dùng một âm thanh nghóa là âm thanh trong một sát-na, âm thanh của một phương, âm thanh có một bản chất, âm thanh của một giáo pháp. Khi thuyết pháp, tám bộ bốn chúng, tùy theo bộ loại tất cả đều được hiểu. Tùy theo xứ sở, âm vận tiếng nói khác nhau, nhưng Phật có thể đồng, tất cả mọi người đều cho rằng mỗi mỗi đều đồng với mình, cho nên thành bất cộng. Địa thứ chín tuy được từ vô ngại, nhưng chưa viên mãn, nay đã hiển đầy đủ. Kinh: Phật dùng một âm diễn thuyết pháp… đó là Như Lai bất cộng tướng. Tán: đây là tán thán pháp vô ngại giải. Thuyết pháp hợp cơ, theo căn cơ, theo thắng giải, theo tánh giới khác nhau, cho nên nói mỗi mỗi tùy theo đó mà hiểu. Người nghe nghe pháp tùy theo căn tánh, tất cả đều được thọ nhận hành trì, tùy theo đó mà đạt được quả, cho nên gọi là bất cộng. Một trận mưa thấm nhuần tất cả, nhưng mỗi loại cỏ cây thọ nhận khác nhau. Kinh: Phật dùng một âm diễn thuyết pháp… đó là Như Lai bất cộng tướng. Tán: Đây là tán thán nghóa vô ngại giải. Phật nói một pháp nghóa, mà người trước hành ác nghe thì kinh sợ, vì sợ đọa lạc; người trước hành thiện nghe thì vui mừng, vì đường thiện sinh; người đắm sinh tử khi nghe được pháp thì sinh tâm nhàm chán, mà vui cầu Niết-bàn. Người có tâm bất định nghe được thì dứt trừ gốc nghi, tâm được chánh định; như ba con thú qua sông, sự chứng đắc có sâu cạn. Kinh: Kính lễ mười phương đế dõng mãnh… kính lễ Đấng trụ nơi bờ kia. Tán: Từ đây trở xuống gồm bốn bài tụng là nói về đức riêng, mỗi một đức đều chí thành quy kính. Có chín lần kính lễ. Bản xưa chỉ ghi ba bài rưỡi. Đoạn này có sáu: Tán thán sự tinh cần. Tán thán tâm lìa sự sợ hãi. Tán thán đắc định. Tán thán là đạo sư. Tán thán xa lìa các lậu. Tán thán đắc quả. Như văn đã ghi có thể biết. Đế tức là thật, tu hành thật tinh tấn gọi là đế dõng mãnh. Đã trừ năm sự sợ hãi, được bốn vô úy. Bản xưa ghi: “Được vô sở úy” mà không có chữ bố. Phật đã đến pháp định bất cộng, tức là tất cả diệu định, Phật đều đạt được. Bản xưa không có nghóa này. Tổng kết có chín loại là ái, nhuế, mạn, vô minh, nghi, kiến kết, thủ kết, tật, xan. Chín pháp này có thể trói buộc vào năm thú bốn loài sinh. Tự thể các loài sinh cũng như kết, khó tháo mở được. Phược cũng là ba là tham, sân, si. Phược này hay trói buộc hữu tình vào nơi sinh tử. Kinh: Kính lễ Đấng cứu khổ quần sinh… khéo nơi các đường tâm giải thoát. Tán: Bài tụng này có hai quy kính: Tán thán tâm Từ bi. Tán thán đắc quả. Chẳng nương vào sinh tử, vì xuất thế gian; đạt được cõi bình đẳng đối với các hữu tình, vì đã chứng Niết-bàn, Niết-bàn là cõi của hữu tình bình đẳng. Bản dịch xưa ghi: “Khéo biết tướng đến đi của chúng sinh”, nghóa là hướng đến Niết-bàn, ra khỏi sinh tử. Nhưng nghóa hơi trái. Tâm giải thoát nghóa là đã lìa phiền não, được tuệ giải thoát, tâm tương ưng cũng không bị trói buộc, gọi là tâm giải thoát. Đối với các đường Đức Phật đã đạt được điều này. Kinh: Mâu-ni khéo tu “không” như thế… Kính lễ Đấng không vô sở trụ. Tán: Đây là một lần quy kính, tán thán chứng chân không. Ngài Thanh Biện giải thích rằng: “Khéo tu “Không” nghóa là chứng chân lý”, như hư không không ngăn ngại, như hoa sen chẳng nhiễm bùn dơ, các tướng đã tận trừ, lại không có chỗ để trừ vì sinh tử đã diệt tận. Nguyện xuất thế đã viên mãn, lại không có gì là nguyện, cho nên nay kính lễ bậc đạt chân đế vô trụ như hư không; ngài Hộ Pháp giải thích: “Khéo tu “không”, nghóa là hai loại không hữu, một là Thuấn-nhã, đây gọi là không, không này là vô, tức biến kế sở chấp; hai là Thuấn-nhã-đa, Hán dịch là tánh không, tức tánh của không; thể tức chân như tánh là hữu. Khéo tu biến kế sở chấp không cho nên tất cả tướng đều trừ, khéo tu tánh không viên thành thật cho nên tất cả nguyện đều viên mãn. Do đó quy y Phật, như hư không vô trụ. Bản dịch xưa tựa như có, nhưng trong văn lại thiếu. Kinh: Lúc bấy giờ, Bảo Tánh… hỏi ta về nghiêm tịnh cõi Phật. Tán: Trong phần nói về nhân viên thì từ đây trở xuống là phần thứ hai trình bày việc thưa hỏi. Gồm có bốn: Bảo Tánh thưa hỏi. Phật tán thán bảo nên nghe. Bảo Tánh vâng lời. Như Lai nói rộng thêm. Đây là văn đầu. A là vô, nậu-đa-la là thượng, tam là chánh, miệu là đẳng, tam là chánh, Bồ-đề là giác, gọi chung là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, như thường phân biệt giải thích, không cần phải nói nhiều. Phát thú nghóa là năm trăm trưởng giả phát tâm cầu hướng đến. Họ đều hỏi ta về nghiêm tịnh cõi Phật, là gồm hai, nghóa là cõi thanh tịnh được trang nghiêm tức là tướng trạng của cõi nước, và tu tập để trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, tức là nhân tịnh độ, cho nên hỏi có hai ý: Tướng trạng của cõi Phật thanh tịnh. Nhân tu để được cõi ấy. Bản dịch xưa nói “Nguyện nghe hạnh tịnh độ”, tức chỉ hỏi về nhân mà chẳng có ý hỏi về tướng tịnh độ. Kinh: Nói lời này xong… phân biệt giải thích. Tán: Đây là nói về việc Đức Phật tán thán, bảo nên nghe. Có hai: Đầu tiên là khen và sau là bảo. Kinh: Bấy giờ, Bảo Tánh… đều mong được nghe nhận. Tán: Đây là nói về Bảo Tánh vâng mệnh cung kính nghe. “Thiện tai! Thế Tôn!” là lời cung kính. Bản dịch xưa không có lời này. Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn… nghiêm tịnh cõi Phật. Tán: Từ đây trở xuống là nói về việc Như Lai giải thích rộng. Theo văn gồm hai đoạn: Đáp câu hỏi trước. Bảo trang nghiêm tâm. Đáp có hai: Đầu tiên là đáp về tướng tịnh độ; sau đó là đáp về nhân trang nghiêm. Trong đoạn đáp về tướng tịnh độ lại có ba: Đầu tiên là nêu chung, kế đến là luận riêng và sau cùng là giải thích nguyên do. Đây là đoạn văn thứ nhất, nêu lên. Cõi phàm có hai là thế gian hữu tình và khí thế gian. Cõi Thánh có hai là Bồ-tát và bảo phương. Hai loại này hợp chung tạm gọi là cõi nước (độ). Lìa hữu tình thì không có cõi nước riêng khác. Do có hữu tình mới có khí thế giới. Nếu hữu tình thành Bồ-tát thì khí thế giới biến thành bảo phương. Bồ-tát vốn muốn hóa độ các hữu tình khiến cho tất cả đều được xuất thế, mà biến uế độ thành bảo phương, nhưng căn bản không biến khí thế giới thành tịnh độ, khí là ngọn; vì thế nay nêu lên cõi hữu tình vì đó là nơi Bồ-tát tu hành để trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Cho nên thế tục có câu: “Người là gốc của một nước, gốc chắc thì nước an ninh”, tức đồng với nghóa này. Bản dịch xưa nói: “Các loại chúng sinh là cõi Phật Bồ-tát”, văn nghóa đều khác nhau. Nghiêm tịnh cõi thành Phật ở đương lai gọi là tịnh cõi Phật, chứ chẳng phải khi còn là Bồ-tát mà đã gọi là cõi Phật. <卷>QUYỂN 2 (PHẦN 2) Kinh: Vì sao?… Tán: Từ đây trở xuống là phần luận riêng, gồm có hai: Đầu tiên là hỏi; sau là luận bàn. Đây là hỏi. Có nguyên do gì mà các cõi hữu tình này là cõi được trang nghiêm? Kinh: Này các thiện nam!… nghiêm tịnh cõi Phật Tán:Từ đây trở xuống gồm có năm lớp. Bản dịch xưa chỉ nêu bốn lớp, thiếu lớp thứ hai. Có thể hợp hai lớp của tân dịch thành một lớp của cựu dịch. Nói “Tùy thuận chúng sinh được hóa độ mà lãnh lấy cõi Phật”, về lý tuy cũng đồng mà nghóa thật khó biết. Năm lớp được phân làm hai: Đầu tiên gồm hai lớp nói về việc tùy chúng sinh phát tâm tu hành, tức nhiếp chúng sinh kia để nghiêm tịnh cõi Phật. Sau gồm ba lớp luận về việc tùy chúng sinh đáng dùng cõi Phật nghiêm tịnh như thế mà được thành thục, tức liền nhiếp thọ cõi Phật như thế. Hoặc đầu tiên nhiếp chúng sinh ngoại phàm mà trang nghiêm biến hóa độ. Sau là nhiếp chúng sinh trước Thập địa mà trang nghiêm báo độ khác. Hoặc đầu tiên là nhiếp chúng sinh, sau là nhiếp hạnh. Hai nghóa tuy khác nhưng đều dùng việc trang nghiêm cõi chúng sanh làm trang nghiêm cõi Phật. Trong đoạn đầu có hai lớp thứ nhất nói về chúng sinh sinh thiện lìa ác, tức thuộc nghiêm tịnh, lớp sau nói về việc chúng sinh phát khởi phước tuệ, tức thuộc nghiêm tịnh. Hoặc đầu tiên nói về việc chúng sinh phát khởi tu hành tức thuộc nghiêm tịnh, sau nói chúng sinh phát khởi các công đức khác, tức thuộc nghiêm tịnh. Hoặc đầu tiên nói chúng sinh đắc lạc lìa khổ tức thuộc nghiêm tịnh, sau nói chúng sinh tăng thiện diệt ác, tức thuộc nghiêm tịnh. Có ba phen luận nghóa. Đây là văn đầu. Để tăng trưởng thì hoặc là sinh khởi thiện căn, hoặc là phát tâm, hoặc là đắc lạc; để được ích lợi thì hoặc là lìa ác, hoặc là tu hành, hoặc là lìa khổ. Bản dịch xưa ghi: “Tùy sở hóa chúng sinh mà giữ lấy cõi Phật”. Tức hợp hai lớp đầu. Sở hóa chúng sinh tức là hữu tình được lợi ích. Kinh: Tùy các hữu tình… cõi Phật như thế. Tán: Đây là lớp thứ hai nói về việc tùy chúng sinh phát khởi phước tuệ mà khởi các công đức khác, tăng thiện giảm ác, tức nhiếp phục chúng sinh kia để nghiêm tịnh cõi Phật. Mỗi một đôi trước đều có ba phen giải thích nghóa. Kinh: Tùy các hữu tình… cõi Phật như thế. Tán: Từ đây trở xuống có ba lớp nói về việc chúng sinh đáng dùng cõi Phật nghiêm tịnh như thế mà được thành thục, thì liền nhiếp thọ cõi Phật như thế. Ở đây có hai: Một lớp đầu là nói về việc tùy chúng sinh đáng dùng cõi Phật nghiêm tịnh như thế mà lìa được ác thì liền nhiếp thọ cõi này, một lớp sau là nói về việc tùy chúng sinh đáng dùng cõi Phật nghiêm tịnh như thế mà đạt được thiện, thì liền nhiếp thọ cõi Phật ấy. Đây là văn đầu tiên. Điều phục tức là điều hòa ngăn ngừa thân và ngữ nghiệp, chế phục diệt trừ các hoặc nghiệp. Đáng dùng cõi Phật nghiêm tịnh như thế, nghóa là tu tất cả các thắng hạnh của Bồ-tát gọi là trang nghiêm tịnh độ, vì trang nghiêm tịnh độ nhân cho nên tu nhân gọi là nghiêm. Trong đó có nghóa là, tùy theo chúng sinh đáng được dùng các diệu hạnh Bồ-tát như thế mà diệt được ác tức liền nhiếp thọ diệu hạnh Bồ-tát này. Như tự trì giới để điều phục kẻ ác. Nghiêm cõi Phật vốn là vì lợi sinh. Kinh: Tùy các hữu tình… cõi Phật như thế. Tán: Đoạn này có hai lớp nói về việc tùy chúng sinh mà đạt được thiện pháp, tức nhiếp cõi ấy. Gồm hai: Đầu tiên nói về người chưa đắc quả, tùy theo đó mà được quả thiện; kế đó nói về người chưa được nhân thì tùy theo đó mà được nhân thiện. Phật trí tức quả thiện; căn, hạnh của bậc Thánh là nhân thiện. Được Thánh căn là tâm Bồ-đề, được Thánh hạnh là hậu hành. Hoặc cho rằng Thánh căn là năm căn như tín… ; Thánh hạnh tức là vạn hạnh khác. Hoặc cho rằng Thánh tức là Phật, Thánh căn tức hạnh, lấy hạnh làm căn bản mà đạt được Thánh căn. Hoặc cho rằng Thánh căn là tuệ vô lậu, Thánh hạnh là các nhân khác. Kinh: Vì sao?… công đức thanh tịnh. Tán: Đây là phần thứ ba giải thích nguyên do. Theo văn gồm có hai: Giải thích nguyên do. Nêu ví dụ. Đây là văn đầu tiên. Trước hỏi sau đáp câu hỏi này có nghóa là trước nói các cõi hữu tình là cõi Phật nghiêm tịnh của Bồ-tát, vậy có nguyên do gì mà nay lại nói tùy các hữu tình tăng trưởng lợi ích mà nhiếp thọ chúng sinh kia để nghiêm tịnh cõi Phật. Đức Phật nói: “Thiện nam! Bồ-tát căn bản nhiếp thọ cõi Phật, nghiêm tịnh cõi Phật, tất cả chỗ làm, đều là để hữu tình tăng trưởng lợi ích, khởi các công đức thanh tịnh, mà không vì những gì khác, vì thế dùng sự tăng trưởng lợi ích hữu tình làm cõi Phật. Nếu các hữu tình không tăng trưởng lợi ích và vui khởi các công đức thanh tịnh, thì đó chẳng phải là chỗ giáo hóa của Phật, chẳng phải là Bồ-tát trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Bản dịch xưa lược đoạn văn này, ý cũng hơi khác. Kinh: Này các thiện nam… rốt cuộc chẳng thể thành tựu. Tán: Từ đây trở xuống là hiển ví dụ, gồm hai là dụ và hợp. Đây là dụ. Dụ này gồm có bốn: Nhân (người), đất trống, cung điện trang nghiêm và hư không. Trang nghiêm nghóa là dùng báu vật mà trang hoàng. Nếu người không cất nhà cửa trên đất trống, mà cất nhà trong hư không thì rốt cuộc không thành tựu được. Kinh: Bồ-tát cũng như thế… tức liền nhiếp thọ cõi Phật như thế. Tán: Đây là hợp. Người dụ cho Bồ-tát, hư không dụ cho nhân pháp sở chấp không có thể, vì pháp là gốc chỉ nói pháp không. Đất trống dụ cho tánh y tha, tất cả hữu tình tạo lập cung điện trang nghiêm là dụ cho hữu tình tăng trưởng lợi ích, phát sinh công đức thanh tịnh, chứng viên thành thật, tức liền nhiếp thọ cõi Phật ấy. Kinh: Nhiếp thọ cõi Phật như thế, nghóa là chẳng phải nơi hư không. Tán: Trừ Bồ-tát ra, thì tất cả hữu tình đối với pháp không vô mà họ chấp trước để nhiếp thọ cõi Phật thì đều không thành, trái lại nếu ở nơi y tha, thì hữu tình tăng trưởng lợi ích, phát sinh công đức thanh tịnh, chứng viên thành thật. Kinh: Lại nữa, Bảo Tánh… sinh sang nước kia. Tán: Đây trở xuống là đoạn thứ hai đáp về nhân nghiêm tịnh. Gồm hai: Đầu tiên trả lời về nhân nghiêm, sau từ câu: “Thiện nam! Bồ-tát! Như thế, tùy phát tâm Bồ-đề…”trở xuống là hiển thị nhân tịnh độ và lợi ích của chỗ thực hành. Nay có mười tám hạnh nghiêm tịnh cõi Phật, bản xưa chỉ có mười bảy, không có hạnh thứ ba. Trong mười tám lần này được chia làm bảy loại: Bốn loại đầu như văn đã nói, tức hợp sáu độ gọi là ngừng dứt các chướng; bốn Vô lượng tâm, bốn Nhiếp sự, xảo phương tiện, Bồ-đề phần thì gọi chung là phát khởi thuyết; đoạn dứt cõi vô hà (không rãnh rỗi) tự giữ giới hạnh; thập thiện nghiệp đạo, ba pháp này gọi là tịch tónh. Tất cả đều có hai văn: Đầu tiên nêu nhân hạnh, sau là hiển quả. Đây là phen thứ nhất. Nếu Bồ-tát phát khởi cõi tâm vô thượng, tức là trang nghiêm nhân tịnh độ ở đương lai. Kế câu văn trước nói các cõi hữu tình, tức là cõi Phật nghiêm tịnh của Bồ-tát. Cho nên nói nơi tự phát tâm độ của Bồ-tát đó là nhân nghiêm, nội nhân đã như thế thì bên ngoài sẽ cảm được các hữu tình Đại thừa chưa sinh sang nước kia. Bản dịch xưa thì nơi hạnh thứ ba đại tâm Bồ-đề lấy năm căn làm thể, đại nguyện làm duyên, chẳng lui sụt làm sách tấn, còn các nghóa khác như u tán đã nói. Hỏi: Kinh Phật Địa nói nhân tịnh độ viên mãn hơn cả phát khởi thiện căn xuất thế gian, vì sao ở hội này nói phát tâm… là nhân tịnh độ. Đáp: Đó là căn cứ theo nhân năng phản của chánh nhân, nhân dẫn dắt, chỉ lấy trí làm tánh; còn ở đây căn cứ theo việc chủ yếu là do vạn hạnh viên mãn mới cảm tịnh độ, cho nên phát tâm… là nhân tịnh độ, vì thế không trái nhau. Kinh: Thuần ý lạc độ… sinh sang nước kia. Tán: Đây là phen thứ hai. Phạm Hà-thế-da, Hán dịch là ý lạc, chẳng xen lẫn ác pháp nên gọi là thuần tịnh ý lạc. Vì ý lạc bên trong thuần thanh tịnh, cho nên những chúng sinh không tà vạy, không hư dối lầm lỗi sinh sang nước đó vì trong thuần thiện chất trực tu tập. Bản dịch xưa gọi trực tâm, thì thể của trực tâm thuần là ý lạc, không có si mê. Kinh: Thiện gia hạnh độ… sinh sang nước kia. Tán: Ý này bản xưa không có. Khéo tu phước tuệ gia công tu tập, cho nên gọi là thiện gia hạnh, vì thế những hữu tình phát sinh hạnh lành, những hữu tình giữ gìn chẳng bỏ hạnh lành đều được sinh sang. Gia hạnh lấy tuệ làm thể, hoặc chung với các thiện. Kinh: Thượng ý lạc độ… sinh sang nước kia. Tán: Thượng tức tăng thượng; phàm khi tu thiện thì phát khởi uy thế mạnh mẻ tăng tiến thì gọi là thượng ý lạc, cho nên các hữu tình đầy đủ thiện pháp sinh sang nước ấy. Bản dịch xưa nói là thâm tâm. Ý lạc tăng thượng mạnh mẽ cũng là thâm tâm, vậy nghóa thì đúng mà văn thì quá giản lược. Kinh: Tu bố thí độ… sinh sang nước kia. Tán: Sáu độ ở đây, được gọi chung là ngừng dứt (chỉ tức), tức ngăn dứt các chướng, thể của nó như trước đã nói. Bố thí diệt trừ keo lậu, bên ngoài cảm được xả, trì giới trừ được tâm phạm điều dơ xấu, đây tức Thập thiện nghiệp đạo, cảm được hữu tình tu mười thiện sinh sang nước ấy. An nhẫn trừ sân nhuế, cho nên cảm được ba mươi hai tướng trang nghiêm thân. Về ba mươi hai tướng thì văn sau sẽ biết. Do kham nhẫn được sự oán hại mà bên ngoài cảm được việc có thể kham nhẫn được các khổ. Do an thọ nhẫn mà bên ngoài cảm được hữu tình nhu hòa; do đế sát nhẫn mà bên ngoài cảm được hữu tình vắng lặng sinh sang. Xưa chỉ nói chúng sinh đủ ba mươi hai tướng sinh sang, trái với lý ở đây. Tinh tấn (cần) trừ giãi đãi, bên ngoài cảm được có thể biết. Định trừ tán loạn, bên ngoài cảm được hữu tình có chánh niệm, chánh định, chánh tri sinh sang. Do chánh niệm cho nên được định, do văn tư cho nên định sinh, hai tuệ văn và tư lấy chánh tri làm thể. Vả lại do niệm cho nên có định, do định cho nên tuệ sinh. Tuệ tức chánh tri. Bản xưa không ghi chánh niệm chánh tri. Tuệ trừ ngu si, nên cảm được hữu tình đã vào Thánh vị sinh sang. Người nhập chánh định, đạt được kiến đạo. Tụ này có ba: Chánh định tụ tức vào kiến đạo. Tà định tụ, tức các hạng người tà kiến. Bất định tụ, trừ hai loại trên. Nhập chánh định tức là vào chánh định của các bậc Thánh, cũng chung cho phàm phu. Tín định cũng gọi là chánh định, về lý không trái. Kinh: Bốn Vô lượng độ… sinh sang nước kia. Tán: Đây là phen thứ tư, gọi là phát khởi. Đã trừ chướng rồi thì phát khởi thiện căn. Ở đây được phân biệt làm năm môn để giải thích: Nêu tên, giải thích tên, luận về hành tướng, thể tánh, bàn về sai biệt. Nêu tên: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Giải thích tên: Du-già mười hai ghi: “Duyên với cảnh vô lượng duyên khắp với tất cả hữu tình, mà khởi bốn tâm này. Khởi hạnh vô lượng, hành giải cũng rất rộng lớn cho nên cảm được quả vô lượng, được phước vô cùng thanh tịnh, thành Như Lai. Cho nên gọi là vô lượng; bốn là số, đây thuộc về Đới số thích: Luận về hành tướng, hữu tình trong pháp giới gồm có ba loại: Không khổ không vui, không điên đảo mà ban vui gọi là từ lấy vô sân làm thể. Có khổ, cứu khổ là bi, lấy bất hại làm thể. Có vui, giúp đỡ thêm hỷ, lấy thiện căn chẳng tật đố làm thể. Vả lại đối với hạng hữu tình không khổ vui thì khiến cho họ khởi tưởng xa lìa si mê. Đối với hữu tình có khổ, thì khởi tưởng lìa sân, đối với hữu tình có vui thì khởi tưởng lìa tham, bình đẳng muốn khiến cho họ xa lìa các ác, gọi đó là xả, vì khiến xả bỏ pháp ác, lấy thiện xả làm thể. Luận về thể tánh. Nay lấy ba pháp làm thể là vô sân, bất hại và xả, luận về sai biệt: Gồm có ba: Duyên với hữu tình thì khởi tưởng về hữu tình. Duyên với pháp, chẳng thấy hữu tình thì chỉ khởi tướng về pháp. Đối với các pháp thì lìa tâm phân biệt, khởi tưởng về chân như gọi là duyên vô vi. Trong ba pháp này thì pháp đầu tiên chung cho ngoại đạo, kế đến chung cho Nhị thừa, và pháp sau cùng chỉ riêng cho Bồ-tát. Ba pháp đầu là an lạc, một pháp sau là lợi ích. Cảm quả có thể biết được. Kinh: Bốn nhiếp sự độ… sinh sang nước kia. Tán: Pháp này được chia làm ba môn để giải thích: Giải thích tên, biện tướng trạng, nêu thể tánh. Giải thích tên: Dùng bốn nhiếp này mà nhiếp thủ chúng sinh, kh- iến cho họ hướng về Bồ-đề. Đạt được quả thù thắng, cho nên gọi là nhiếp sự. Biện tướng trạng: Bố thí, khác với bố thí Ba-la-mật, kia là cho người tài vật, còn đây thì sau lại nhiếp phục, cho nên khác. Ái ngữ, tức thường nói những lời làm người vui thích tâm ý, chân thật như pháp, dẫn sinh yếu nghóa, xa lìa sự giận dữ, bực tức, mỉm cười trước khi nói, sai bảo đến vấn an, tùy nghi an ủi, cho đến giải thích rộng, căn cứ theo bốn tịnh ngữ, tám Thánh ngữ… Lợi hành, do ái ngữ, nên trước chỉ bày chánh lý, tùy chỗ học xứ, tâm bi không bị nhiễm khuyên răn điều phục. Kiến lập nơi ở an ổn kh- iến đạt được tài vật, xuất gia lìa dục, nhẹ nhàng giải thoát, cho đến giải thích rộng, tuy thọ khổ lớn nhưng tâm càng sinh hoan hỷ; tuy ở trong chốn giàu sang mà tự khuất mình, như nô như bộc, như Chiên-bà-la, như người con hiếu thảo… . Đồng sự, dùng sự lợi ích này, nếu khuyên người tu học, chính mình cũng tự tu học, làm cho căn lành của người vững chắc, chẳng lui sụt. Vì thấy mình thực hành cho nên người càng thêm tiến tu. Vốn nhiếp phục chúng sinh khiến họ hướng đến Bồ-đề, cho nên khi đắc quả, những hữu tình giải thoát đều sinh sang nước ấy. Luận thể: Bố thí dùng ba nghiệp vô tham làm tánh, ái ngữ lấy ngữ nghiệp làm thể, lợi hành và đồng sự lấy ba nghiệp làm thể, hợp chung hai pháp làm tánh là vô tham và tư. Kinh: Xảo phương tiện độ… sinh sang nước kia. Tán: Xảo phương tiện tức là dụng của trí tuệ, gồm hai loại là hồi hướng và bạt tế (cứu giúp), tổng cộng có mười hai. Văn sau sẽ nói rõ. Do hai loại xảo là hồi hướng và bạt tế này mà khi đắc quả thì những hữu tình khéo quán các pháp sinh về, vì trí nhân nơi xảo phương tiện. Bản dịch xưa: “Đối với tất cả pháp đều có phương tiện vô ngại”, cũng thuộc về nghóa “khéo quán”, dùng hậu đắc trí làm thể. Kinh: Tu ba mươi bảy Bồ-đề phần độ… sinh sang nước ấy. Tán: Ba mươi bảy pháp này được phân biệt thành năm môn: Giải thích tên chung. Nói về vị và số. Nêu thể tánh. Giai vị tu tập. Hữu lậu vô lậu. Giải thích tên chung: Bồ-đề là giác, là quả Phật được mong cầu; phần tức nhân, ba mươi bảy pháp này là nhân giác ngộ, cho nên gọi là Bồ-đề phần. Nói về vị và số: Gồm có bảy vị: Niệm trụ, tức do niệm ghi nhớ rõ, thì tuệ trụ ở cảnh, lấy lân cận làm tên. Đây gồm có bốn loại là thân, thọ, tâm, pháp. Quán bốn tuệ này là thể của niệm trụ. Chánh đoạn, cũng gồm bốn loại: Một là luật nghi đoạn tức là đã sinh pháp ác thì dùng phương tiện đoạn trừ; hai là đoạn đoạn, chưa sinh pháp ác thì ngăn chặn khiến cho không sinh; ba là phòng hộ đoạn, tức đã sinh pháp thiện, thì bảo hộ khiến cho được tăng trưởng; bốn là tu tập đoạn, tức chưa sinh pháp thiện thì tu tập khiến cho sinh. Trong bốn pháp này, nếu tinh tấn khởi dụng, có thể chánh thức đoạn trừ pháp ác, nên gọi là chánh đoạn, đối với pháp năng đoạn, khiến sinh mà chẳng sinh, thể đều là tinh tấn, cho nên gọi là chánh đoạn. Thần túc, diệu dụng vô cùng gọi là thần, tức biến hóa, chỗ nương của tâm thần gọi là túc. Thể của nó là định, phân biệt gồm bốn loại là dục, cần, tâm và quán, từ bốn loại này mà tu tập định; định gọi là thần túc. Năm Căn, phát sinh pháp thiện gọi là căn. Năm Lực, khó có thể khuất phục được gọi là lực. Cả hai về thể đều có năm là tín, tấn, niệm, định, tuệ; tên tức là thể. Mới tu tập là tạo gốc thiện gọi là căn, sau khi tu tập thì khó có thể khuất phục nên gọi là lực. Giác chi, giác tức tuệ, chi nghóa là phần. Gồm hai loại: Một là, giác tức chi, tức là trạch pháp giác chi; hai là, các chi của giác, tức là chi phần của sáu tuệ còn lại. Gồm có bảy món: Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, niệm, định, xả, khinh an. Trong đó một biến hành là Hỷ giác chi. Đạo chi, đạo tức tuệ căn của Thánh đạo vô lậu, chi tức là phần. Một là, đạo tức chi; hai là, các chi của đạo, gồm bảy pháp còn lại như trước có thể biết. Đạo chi gồm có tám pháp đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh niệm, Chánh định, Chánh tinh tấn. Trong đó Chánh tư duy lấy tuệ làm thể; nơi tâm Phật không có tầm tứ, không có sân và si, phát ra nơi thân và lời nói, gọi là chánh ngữ chánh nghiệp. Vô tham phát ra nơi thân và lời nói, gọi là chánh mạng. Vì đối với năm loại tà mạng cho nên phải nêu riêng. Ba loại thuộc thân và ngữ này đều lấy tư vô biểu sắc làm thể tánh. Luận về thể tánh: Ba mươi bảy pháp gồm có chín thể: Tuệ, tinh tấn, định, tín, niệm, hỷ, xả, khinh an và vô biểu sắc. Vì thế luận Du-già năm mươi bảy ghi: “Năm căn như tín… không thuộc vào ba mươi bảy phẩm. Thế nào gọi là sáu pháp; đó là: Hỷ, khinh an, xả, ngữ, nghiệp và mạng; ngữ nghiệp và mạng tức vô biểu”. Trong chín thể tánh này thì có một biến hành là hỷ, ba biệt cảnh là niệm, định, tuệ; bốn thiện là tín, tinh tấn, xả, khinh an; một sắc pháp là vô biểu sắc. Đây là nói theo giai vị Phật, nếu chẳng theo giai vị Phật thì lấy mười pháp làm thể. Thành Duy Thức nói Chánh tư duy là Tầm vô lậu. Luận có hai thuyết nhưng đây là nghóa chính. Luận về giai vị tu tập: Niệm trụ, chánh đoạn và thần túc, tức lúc mới tu tập, ở tại giai vị giải thoát phần thiện; năm căn ở vị noản, đãnh; năm lực tại nhẫn và thế đệ nhất pháp; bảy giác chi tại vị kiến đạo, tám Chánh đạo tại vị tu đạo. Hữu lậu vô lậu: Căn cứ theo vị có thể biết, trước kiến đạo thì đều là hữu lậu, sau kiến đạo có thể thông với vô lậu, cho đến Phật vị mới chính là vô lậu. Nói rõ về tướng trạng thì như luận Đối Pháp đã ghi. Kinh: Tu hồi hướng độ… các đức trang nghiêm. Tán: Đây là đoạn thứ bảy. Tu tập thiện pháp hồi hướng về Bồ-đề thì gọi là hồi hướng. Chẳng cầu sinh tử, cho nên khi đắc quả thì nước ấy sẽ có đầy đủ các đức trang nghiêm. Hồi hướng tức là nguyện, nguyện hướng đến Bồ-đề, đầy đủ các đức. Nguyện lấy tín, dục, thắng giải làm thể. Kinh: Khéo thuyết dứt trừ tám vô hà độ… vónh viễn xa lìa ác thú vô hà. Tán: Từ đây trở xuống có ba phen gọi chung là tịch tónh. Tịch tónh hai ác là tịch tám nạn tức là tịch quả ác và tịch Phạm cấm mười thiện nghiệp, tức là tịch nhân ác. Đây là văn đầu tiên. Tám vô hà, xưa dịch là tám nạn. Luôn luôn chịu thống khổ không bao giờ tạm có giây lát nhàn rỗi để tu tập pháp thiện cầu Bồ-đề, cho nên gọi là vô hà (không nhàn rỗi). Tám vô hà là ba ác thú; đui, điếc, câm, ngọng bẩm sinh (tức các căn không hoàn toàn); người tà kiến, thế trí biện thông; sinh trước và sau khi Đức Phật xuất thế; sinh vào Bắc Câu-lô châu; sinh vào Trời Trường thọ, nghóa là sinh vào cõi sắc, không thuộc hàng Thánh ở cõi trời. Theo luận Thành Duy Thức thì bốn luân của cõi trời và người có thể phá diệt tám nạn: Trụ ở cõi thiện tức là sinh vào trung thổ trừ được năm nạn là ba ác thú, Bắc Câu-lô châu và trời Trường thọ. Nương vào người thiện, tức gặp Đức Phật xuất thế, trừ được một nạn là sinh trước và sau Phật xuất thế. Phát chánh nguyện, nghóa là có tâm chánh kiến, trừ được một nạn là thế trí biện thông. Trồng gốc thiện, trừ được một nạn là mù điếc câm ngọng. Vả lại tu năm hạnh thì cũng trừ được tám nạn này: Thọ trì giới cấm, đối trị ba đường ác. Thích thực hành bố thí pháp, trừ được nạn đui điếc câm ngọng. Tin hiểu chân chánh, trừ được nạn thế trí biện thông. Gần gũi bạn lành, trừ được nạn sinh trước và sau khi Phật xuất thế. Sinh vào vùng trung thổ, trừ được nạn sinh vào Bắc Câu-lô châu và trời Trường thọ. Bồ-tát thường thuyết bốn luân đầu tiên, hoặc thuyết năm hạnh sau mà dứt trừ tám nạn, cho nên khi đắc quả thì lìa ba đường ác và tám vô hà. Vô hà là nói chung, ba đường ác là nói riêng. Kinh: Tự giữ gìn giới hạnh… không có danh từ phạm giới. Tán: Trong phần đoạn dứt nhân ác của phần tịch tónh dưới đây gồm có hai: Đã thọ pháp thiện mà lại khởi ác. Tánh tự đã ác. Đây là lời văn đầu tiên. Giữ gìn giới chẳng thiếu sót, mình làm ác thì luôn luôn sám hối, người làm ác thì không chê trách, người làm việc thiện thì tán thán, cho nên khi đắc quả, ở cõi nước ấy còn không nghe đến danh từ phạm giới cấm, hà huống gì thấy có người phạm giới cấm. Kinh: Mười thiện nghiệp… sinh sang nước kia. Tán: Đoạn này nói về việc ngăn dứt tự tánh ác. Thập thiện nghiệp đạo, được nêu lên ba môn để phân biệt: Nêu thể, giải thích danh, luận quả. Nêu thể: Đầu tiên là ba nghiệp về thân như không sát sinh…, kế đến là bốn nghiệp về ngữ như không nói dối… sau cùng là ba nghiệp về ý như tham…, tất cả đều lấy tư làm thể. Vì thể của ba nghiệp đều là tư. Luận Thành Duy Thức ghi: “Bảy nghiệp đạo trước cũng lấy tư làm thể, không chỉ là ba nghiệp sau mới lấy tư làm thể”. Thân ngữ là biểu hiện về tư của ý, tức giả danh biểu nghiệp, tư này huân tập thành chủng tử. Giả danh vô biểu sắc nghiệp, thể của nó thật chẳng phải sắc. Luận Hiển Dương ghi: “Hai sắc thân và ngữ, tánh của nó chẳng phải thiện ác, mà biểu hiện thiện ác, tức giả danh thiện ác, cho nên thể tức là tư. Tư có ba loại: Thẩm lự tư, suy xét việc làm. Quyết định tư, quyết định sẽ làm. Động phát tư, chánh thức khởi động tác. Lấy loại thứ ba làm thể của nghiệp đạo. Giải thích danh: Mười là số lượng, thiện nghóa là thuận theo chánh lý lợi ích hữu tình, nghiệp tức sự tạo tác, đạo nghóa là nơi đạo bước lên, có thể thông cho nghóa sinh. Phân biệt về loại của tư này gọi là mười, thuận lý lợi vật gọi là thiện, thể hay tạo tác nên gọi là nghiệp. Luận Thành Duy Thức ghi: “Tư thứ ba là nơi dạo bước của hai tư trước, thông với nghóa đương lai sinh quả dị thục… cũng gọi đó là đạo. Dạo bước (Du lý) nghóa là duyên lự dẫn phát, đồng với tạo thành nghiệp”. Luận Du-già sáu mươi ghi: “Tư là nghiệp mà chẳng phải là nghiệp đạo; sát sinh cho đến ỷ ngữ cũng là nghiệp mà chẳng phải là nghiệp diệt, tham nhuế, tà kiến là nghiệp đạo chẳng phải là nghiệp, vì thuộc tùy chuyển lý môn”. Đây là thuận theo Tát-bà-đa tuyên thuyết”. Luận Thành Duy Thức nói chân thật lý môn, vả lại kia cũng là chân thật lý môn. Ý của luận kia cho rằng nếu nghiệp đạo tư tạo tác chỗ du lý (dạo bước) thì có thể gọi là đạo. Tư thứ ba chẳng phải là chỗ du lý của nghiệp đạo tư, chẳng thể gọi tên đạo. Trong luận Thành Duy Thức chỉ nói Tư thứ ba là chỗ du lý của kia, thông với danh từ đương quả, không trái với danh từ nghiệp đạo. Vả lại thân ngữ biểu nghiệp do tư phát sinh, giả gọi là nghiệp; nghiệp tạo tác, chỗ du lý của tư, giả danh là nghiệp đạo. Du- già căn cứ theo đây lại nói sát sinh cho đến ỷ ngữ cũng là nghiệp, cũng là đạo, kỳ thật chẳng phải là nghiệp mà có thể gọi là đạo, chẳng phải là năng tác. Về ba loại tà kiến thì đây kia không khác. Giải thích tên riêng mười loại này thì như giải thích mười ác có thể biết được, như luận Du-già tám, chín đã nói. Luận về quả: Nghiệp đạo thiện hữu lậu thì được bốn phi ly hệ, nghiệp đạo thiện vô lậu thì được bốn phi di thục. Nếu giúp đỡ nhau mỗi mỗi sẽ có năm quả. Mỗi một phen thuyết mười nghiệp đạo ác theo lý có thể biết được. Trong đó nói mười nghiệp đạo thiện cực thanh tịnh nghóa là nghiệp đạo vô lậu gọi là cực thanh tịnh mà chẳng phải là hữu lậu. Luận về khi thành Phật không có quả Dị thục vì do hành trì giới chẳng sát sinh khi đạt được sau cùng thì thọ lượng quyết định; xa lìa trộm cắp (bất dữ thủ) cho nên được giàu sang. Hai quả nói trên đều thuộc về quả Đẳng lưu. Xa lìa dục tà hạnh cho nên có hạnh thanh tịnh, xa lìa lời nói hư dối cho nên được lời nói chân thật; xa lìa lời nói thô ác cho nên thường dùng lời nhu hòa, ba quả này là ba quả tăng thượng. Xa lìa lời nói ly gián cho nên được quyến thuộc sum họp, đây là quả Đẳng lưu, xa lìa lời nói tạp uế, cho nên khéo diễn bày mật ý, đây cũng là quả tăng thượng; xa lìa tham, sân tà kiến thì được ba quả còn lại, ba quả này đều thuộc về quả Đẳng lưu. Bốn nghiệp khác được quả tăng thượng nay hỗ tương căn cứ, như lý có thể biết được, sở văn dài dòng nên chẳng nêu lên, tất cả đều như luận Du-già tám, chín, năm mươi chín, sáu mươi, luận Đối Pháp bảy, luận Thành Duy Thức đã nói. Bản dịch xưa ghi: “Khéo giải hòa sự tranh tụng” là quả của nhân không có lời tạp uế. Khéo diễn nói mật ý, mật ý nghóa là lý ẩn sâu nơi tâm, nếu trau chuốc văn từ, thì sẽ che lấp chánh lý. Lời chánh trực thì có thể diễn bày nghóa lý, có thể lợi ích hữu tình, đây là quả của vô tham. Nếu tham dục khởi thì chẳng thể lợi ích hữu tình; chẳng tật đố, chẳng sân hận đều là quả của vô sân vì thể của tật đố tức là sân. Nếu căn cứ theo bản dịch mới thì không có nạn si. Kinh: Này thiện nam… thì có tịch tónh. Tán: Từ đây trở xuống là phần hai nói về trang nghiêm nhân tịnh độ và chỗ làm lợi ích. Trong đó gồm mười bảy chuyển, phân làm hai, đầu tiên gồm tám chuyển, nêu lên tướng thứ tự triển chuyển của mười tám phen thực hành nêu trên; sau gồm chín chuyển tướng nói về ng- hiêm nhân tịnh độ và thắng quả sinh khởi. Đây là văn đầu. Bản dịch xưa gồm mười ba chuyển, đầu tiên có bảy chuyển, nêu lên các phen luận ở trên, sau gồm sáu chuyển nói về nhân nghiêm tịnh độ sinh quả. Đoạn này có năm chuyển. Ngăn dứt (chỉ tức) tức họp nêu lên sáu độ ở văn trước, tức ngăn sáu tệ; chuyển thứ sáu ở đây tức phát khởi, là họp nêu các pháp ở trên như bốn vô lượng, bốn nhiếp sự, xảo phương tiện và Bồ- đề phần, vì đó là phát khởi sự ích lợi thù thắng của tự và tha. Chuyển thứ tám tức là tịch tónh tức hợp nêu ba tức, bốn vô hà, Tự thủ giới hạnh và mười thiện nghiệp đạo, vì vắng lặng các pháp ác. Trong mười tám nhân thì thứ mười sáu là dứt trừ cõi vô hà, thứ mười bảy là tự thủ giới hạnh, trang nghiêm hai nhân này thì người không gặp thế giới ác; còn trang nghiêm mười sáu nhân còn lại thì khí thế gian không có người ác. Bản dịch xưa đầu tiên nói trực tâm, kế đến là phát hạnh, phát hạnh hợp với thâm tâm. Thâm tâm lẽ ra là tâm Đại thừa, nhưng văn lại lầm lẫn. Phát hạnh là thứ hai, đạo lý khó biết. Điều phục, tức là nêu lên sáu độ trước để điều phục sáu điều tệ hại. Như thuyết mà hành, tức là bốn vô lượng, bốn nhiếp sự, xảo phương tiện và đạo phẩm. Đây là bốn loại tu hành. Thứ bảy tức phương tiện, tức thuyết trừ tám nạn, tự thủ giới hạnh và mười thiện nghiệp đạo. Ba loại phương tiện thù thắng này làm vắng lặng pháp ác. Kinh: Tùy chỗ tịch tónh… nghiêm tịnh cõi Phật. Tán: Từ đây trở xuống là gồm chín chuyển nói về nhân trang nghiêm tịnh độ sinh ra quả thù thắng. Gồm có hai: Đầu tiên gồm hai chuyển nói về việc nhân trang nghiêm trước kia mà cảm quả tịnh độ; sau gồm bảy chuyển nói về thành tựu tịnh độ lại sinh quả thù thắng. Đây là văn đầu. Do nhân trang nghiêm trước kia mà cảm được chúng sinh thuần thiện, cho nên nói: “Do đó mà có hữu tình thanh tịnh, lìa ác tu thiện.” Đây là chỗ mà Bồ-tát vui thích mong cầu, là cõi Phật thanh tịnh của Như Lai, các hữu tình độ là cõi Phật. Trong có hữu tình độ thanh tịnh thì thế giới độ bên ngoài tự nhiên cũng thanh tịnh, vì tâm tịnh nên cõi Phật thanh tịnh. Kinh: Tùy cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh… các công đức thắng diệu. Tán: Từ đây trở xuống là bảy quyển nói về việc cõi Phật đã thành lại sinh quả thù thắng. Trong đó được chia làm hai phần: Đầu tiên gồm một chuyển nói về quả lợi ích năng hóa; sau gồm sáu chuyển nói về quả lợi ích sở hóa. Ở đây gồm hai nghóa: Nghóa chuyển pháp luân, tức xoay chuyển tương sinh, cho nên có hữu tình độ kia, cõi này đã nghiêm tịnh rồi thì liền có thể giáo hóa kẻ khác, cho nên có giáo pháp, giáo pháp để lập bày, thì hóa độ sinh diệu phước, sinh vào cõi trời, người, thọ nhận phước báu tốt đẹp, kế đó lại sinh ba diệu tuệ hữu lậu văn tư tu; diệu tuệ đã sinh thì trí vô lậu phát khởi, trí vô lậu đã khởi thì hạnh vô lậu sinh, hạnh vô lậu đã sinh, thì tám thức tâm đều thanh tịnh, thức tâm đã thanh tịnh thì đạt được quả viên mãn, đầy đủ vô lượng diệu đức. Như thế gọi là cõi Phật nghiêm tịnh. Nghóa có thể lập bày cho người khác. Cõi hữu tình kia đã ng- hiêm tịnh rồi thì có thể dùng giáo mười Địa mà giáo hóa người khác. Cõi hữu tình thanh tịnh là mười Địa. Pháp giáo đã lập thì có phước vô lậu, đạt được các phước như quả Thập vương… sau đó lại sinh tuệ vô phân biệt, tuệ vô phân biệt đã sinh, thì lại sinh hậu đắc trí, hậu đắc trí đã có thì sinh hạnh vô lậu, hạnh vô lậu đã sinh thì tám thức tâm thanh tịnh, tám thức tâm thanh tịnh thì đầy đủ vạn đức, đạt đến thành Phật. Nguyện này do nhân nghiêm tịnh độ mà cảm sinh quả tịnh độ, quả tịnh độ đã cảm sinh rồi thì sinh quả thù thắng này. Bản dịch xưa chỉ nêu bốn chuyển thiếu hai loại là diệu phước và diệu hạnh; hợp trí và tuệ thành một chuyển. Kinh: Này các thiện nam… nghiêm tịnh tự tâm Tán: Đây là ý thứ hai trong phần Như Lai giải thích rộng nói về khuyên phát tâm nghiêm tịnh. Đầu tiên khuyên, sau giải thích. Kinh: Vì sao?… cõi Phật nghiêm tịnh. Tán: Đây là phần giải thích nguyên do. Các người tu hành, tự tâm nên nghiêm tịnh, thì bên ngoài sẽ cảm được hữu tình và khí thế giới cũng tịnh, nếu tự tâm chẳng tịnh thì làm sao cõi nước được tịnh? Vì thế tự tâm Bồ-tát thanh tịnh thì hữu tình năm uẩn giả cũng tịnh, nội tâm đã tịnh, bên ngoài cảm được hữu tình và thế giới cũng tịnh. Kinh Phật Địa ghi: “Tự tại cùng cực, tịnh thức là tướng. Cho nên khi thức tịnh thì cõi Phật liền tịnh”. Trên chỉ nói hữu tình là cõi nước, vốn là chỗ hóa độ, mà chẳng nói khí giới (thế giới). Cõi hữu tình tịnh thì khí giới tự tịnh, chẳng nói cũng tự thành tựu. Kinh: Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất… tạp uế như thế. Tán: Trong phần nói về nhân viên mãn có ba; từ đây trở xuống là ý thứ ba nói về quyết định. Trong đó gồm có bốn: Ngài Thu Tử sinh nghi. Bậc Thánh hiển dụ. Phật hóa hiện cõi tịnh. Ngài Thu Tử hết nghi. Đây là văn đầu tiên. Theo lời dạy nghiêm tịnh tự tâm ở trên mà ở đây phát sinh nghi hoặc. Nếu tâm tịnh, hữu tình độ cũng tịnh, hữu tình độ tịnh thì khí thế giới tịnh (đây là lặp lại văn trước) thế thì tâm của Đức Thích-ca ta chẳng tịnh sao, mà cõi Phật lại tạp uế như thế? Vật tức là mạc (chớ nên, chẳng nên) ý câu này nói rằng chẳng lẽ do tâm của Đức Phật ta trước kia không tịnh, nên nay cõi Phật thành tạp uế thế kia ư? Tiếng Phạm Xá-lợi, Hán dịch là xuân anh, vì người mẹ có biện tài, nên lấy dụ làm tên, do bà sinh ra nên gọi là tử (con), Thu Tử nghe ít hiểu nhiều, là bậc Thượng thủ trong hàng Thanh văn. Cho nên được Phật gia trì khiến phát khởi tâm nghi. Kinh: Đức Phật biết tâm niệm ấy… như người mù chẳng thấy. Tán: Đoạn này là nói về bậc Thánh hiểu dụ. Gồm có hai: Đầu tiên Đức Phật nêu dụ; lại có ba: Hỏi, đáp và trình bày. Đây là văn đầu. Kinh: Đáp: Chẳng phải!… Chẳng phải lỗi của mặt trời, mặt trăng. Đây là lời Thu Tử đáp. Kinh: Đức Phật nói: Đúng thế… mà ông chẳng thấy. Tán: Đức Thế Tôn trình bày. Đầu tiên trình bày chung. Nói vì chúng sinh có tội nên chẳng thấy cõi Phật của ta nghiêm tịnh. Sau là nói riêng, dạy rằng cõi của ta nghiêm tịnh mà ông không thấy. Kinh Pháp Hoa ghi: “Ta thường trụ ở nơi đây, dùng sức thần thông khiến cho những chúng sinh điên đảo, tuy ở gần mà không thấy. Chúng sinh đã tin phục, ý ngay thẳng nhu hòa, một lòng muốn thấy Phật, chẳng tự tiếc thân mạng, bấy giờ ta và chúng tăng đều ra khỏi núi Linh Thứu. “Kinh lại nói rằng: “Cõi tịnh của ta chẳng hủy, mà mọi người thấy cháy thiêu hết, lo sợ khổ não, như thế thảy đều đầy đẫy. Các chúng sinh có tội này vì nhân duyên ác nghiệp nên a-tăng-kỳ kiếp chẳng nghe danh Tam bảo”, cho đến nói rộng ra… tức là việc này. Kinh: Lúc bấy giờ, Phạm vương Trì Kế… nghiêm tịnh cùng tột. Tán: Đây là Trì Kế nêu dụ. Văn gồm năm lớp: Trì Kế nêu lên. Ngài Thu Tử vấn tật. Trì Kế dùng dụ. Ngài Thu Tử trình bày. Dùng chánh lý hiển dụ. Đây là đoạn văn đầu. Ngài chớ nên nghó rằng cõi nước không thanh tịnh, mà quốc độ này nay rất thanh tịnh. Bản dịch xưa có ba lớp, không có lớp thứ hai là hỏi, hợp với lớp thứ ba là dụ và đáp làm văn thứ nhất, văn sau cùng lại thiếu phần sai biệt. Kinh: Xá-lợi Tử nói… cõi Phật này trang nghiêm thanh tịnh như thế nào? Tán: Ngài Thu Tử hỏi về tướng của cõi Phật thanh tịnh. Kinh: Phạm vương Trì Kế nói… cũng như thế. Tán: Đây là Trì Kế nêu dụ, từ chữ trang nghiêm trở về trước là nêu ví dụ. Từ chữ ngã kiến (Tôi thấy) trở xuống là phần chánh thức hiển thị. Tầng trời thứ sáu của cõi Dục là trời Tha hóa tự tại, chư Thiên ở cõi trời này biến hóa ra các cảnh dục trần mà thọ dụng rất tự tại, đây là việc tối thắng. Mượn đây làm ví dụ, tuy biết đó là dụ hữu lậu chẳng phải là dụ vô lậu. Vì nêu gần để dụ cho xa, khiến cho dễ hiểu. Kinh: Xá-lợi-phất nói… đầy dẫy những tạp uế. Tán: Ngài Thu Tử trình bày, chỉ ra chỗ tạp uế thấy được, để hiển thị sự thanh tịnh đã nói ở trước. Kinh: Phạm vương Trì Kế nói… là không thanh tịnh. Tán: Từ đây trở xuống là dùng chánh lý để hiển dụ. Có hai: Đầu tiên cho rằng tâm kia chẳng tịnh cho nên thấy cõi uế; sau nói Bồ-tát tâm tịnh thì liền thấy cõi tịnh. Đây là đoạn văn đầu. Tâm của ngài có cao thấp, các hạnh chẳng thanh tịnh, lại cho rằng trí Phật cũng có cao thấp, mà thấy cõi nước luôn luôn chẳng thanh tịnh. Cho nên các loài dị sinh và Nhị thừa đều thấy cõi nước chẳng tịnh. Kinh: Nếu các Bồ-tát… rất nghiêm tịnh. Tán: Đây là hiển ý nghóa nếu tâm Bồ-tát tịnh thì liền thấy cõi tịnh. Nội tâm bình đẳng, công đức nghiêm tịnh; cũng lại cho rằng ý lạc của Phật đã thanh tịnh, thì liền thấy cõi Phật nghiêm tịnh. Cho nên cõi mà Bồ-tát Địa thứ mười thấy được thường thanh tịnh cùng cực. Bản dịch xưa đoạn văn này hơi khác: “Chẳng nương vào Phật tuệ”, mới nghe tin như chẳng tu Phật tuệ, nhưng thật ra là nói chẳng nương vào tuệ thanh tịnh bình đẳng của Phật, nghóa là Phật tuệ không bình đẳng, cho nên thấy uế độ, nghóa cũng không khác. Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn… vô lượng trăm ngàn báu vật trang nghiêm. Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ ba nói về việc Phật hiện tịnh độ. Nghóa cõi Phật, được phân làm tám môn để giải thích: Hiển sai biệt. Nêu thể tánh. Luận nhân hạnh. Nói quả tướng. Thích phần lượng. Giải xứ sở. Cộng bất cộng. Các môn biện. 1.Hiển sai biệt: Luận Phật Địa bảy ghi: “Thân Phật có hai là sinh thân và pháp thân; như tự tánh thân, tự thọ dụng thân đều gọi là pháp thân. Vì do các pháp công đức gom tập mà thành. Còn như tha thọ dụng thân và biến hóa thân đều thuộc về sinh thân, vì đó là tùy theo chỗ ưa thích của chúng sinh mà thị hiện. Tất cả các cõi Phật đều có thân cư trụ. Vậy thân đã có hai thì cõi cũng như thế, cõi của sinh thân chung cho cõi uế, cõi của pháp thân thuần là cõi tịnh. Hoặc cho rằng thân có hai là quyền và thật, thật tức pháp thân, quyền tức sinh thân. Cõi cũng có hai, uế tịnh cũng như đã giải thích ở trước. Kinh Phật Địa nói thân Phật có ba: Tụng rằng: “Tự tánh pháp, thọ dụng, biến hóa, sai biệt chuyển.” Luận lại giải thích rằng: “Tự tánh pháp, tức là thân tự tánh đầu tiên của Như Lai, thể không biến chuyển, cho nên gọi là tự tánh; đó là chỗ nương của các pháp công đức như lực, vô úy… nên cũng gọi là pháp thân. Thọ dụng tức là thọ dụng thân, vì có thể làm cho tự và tha. Thọ dụng tất cả các pháp lạc lớn. Biến hóa tức là biến hóa thân, tức là vì sự lợi ích an lạc của hữu tình mà thị hiện các việc biến hóa. Tuy thể tánh của pháp giới thanh tịnh không sai biệt, nhưng có ba thân khác nhau, chuyển biến bất đồng, cho nên gọi là sai biệt.” Thân đã có ba thì cõi nước tùy theo đó cũng như thế: Pháp tánh độ. Thọ dụng độ. Hai cõi này chỉ thuần là tịnh. Biến hóa độ, chung cho tịnh và uế. Luận Thành Duy Thức mười nói: “Thân Phật có bốn, cõi Phật cũng thế.” Đó là: Tự tánh thân nương pháp tánh độ. Kinh Xưng Tán Đại Thừa Công Đức ghi: “Đức Bạc-già-phạm trụ ở pháp giới tạng mà thuyết kinh kia.” Tức trụ ở pháp tánh độ. Tự thọ dụng thân nương ở cõi Tự thọ dụng độ. Tha thọ dụng thân nương vào Tha thọ dụng độ. Kinh Phật Địa ghi: “Trụ ở viên mãn mười tám, ánh sáng rực rỡ thù thắng.” Biến hóa thân nương Biến hóa độ, kinh này ghi: “Trụ ở thành Quảng Nghiêm.” Ba thân độ đầu chỉ thuần là tịnh chẳng có uế. Thân độ biến hóa thứ tư thông cả tịnh và uế. Vì hàng Bồ-tát trước mười Địa và Nhị thừa mà thị hiện và cõi nước có cả tịnh và uế. Nếu vì người phân biệt phiền não và sở tri chướng chưa tận trừ, chưa chứng nhị không chân như thì thân và cõi nước thị hiện hoặc là tịnh hoặc là uế. Nếu vì người hai chướng phân biệt đã dứt trừ và đã chứng nhị không chân như thì thân và cõi nước thị hiện ra đều là tịnh. Luận Phật Địa ghi: “Ba thân có bốn câu: Một là, thọ dụng phi biến hóa nghóa là tự thọ dụng thân; hai là, biến hóa phi thọ dụng, tức là biến hóa thân; ba là, cũng thọ dụng biến hóa, tức tha thọ dụng thân; bốn là phi thọ dụng biến hóa, tức tự tánh thân. Cũng giống như Duy Thức.” Hội Thắng Thiên vương ba trong kinh Bát-nhã quyển năm trăm sáu mươi tám nói rằng, Phật có mười thân: Thân bình đẳng, thân thanh tịnh, thân vô tận, thân thiện tu, thân pháp tánh, thân ly tầm tứ, thân bất tư nghị, thân tịch tónh, thân hư không, thân diệu trí. Thiên vương bạch Phật rằng: ‘Ở giai vị nào thì được mười thân Như Lai?’ Đức Phật đáp: ‘Sơ địa được thân bình đẳng, thông đạt pháp tánh, xa lìa các tà vạy, thấy bình đẳng; Địa thứ hai đạt được thân thanh tịnh, xa lìa được lỗi phạm giới, vì giới thanh tịnh; Địa thứ ba được thân vô tận, vì lìa dục tham và sân, đắc định thù thắng; Địa thứ tư được thân thiện tu, vì thường tinh cần tu tập Bồ-đề phần, Địa thứ năm được thân pháp tánh, vì quán các đế lý chứng được pháp tánh. Địa thứ sáu được thân ly tầm tứ, vì quán lý duyên khởi xa lìa tầm và tứ. Địa thứ bảy được thân bất tư nghị, vì có phương tiện thiện xảo, trí và hành viên mãn; Địa thứ tám được thân tịch tónh, vì đã xa lìa các phiền não hý luận; Địa thứ chín được thân hư không, vì thân tướng vô tận, cùng khắp tất cả. Địa thứ mười được thân diệu trí vì tu tập Nhất thiết chủng trí viên mãn.’ Thiên vương lại hỏi: ‘Thân Phật và Bồ-tát há lại không sai biệt ư?’ Đức Phật đáp: ‘Thân thì không sai biệt, nhưng công đức thì khác nhau. Vì tất cả pháp đồng nhất pháp tánh cho nên thân không sai biệt, nhưng thân Như Lai có đầy đủ các công đức còn Bồ-tát thì không như thế cho nên công đức khác nhau’. Nói rất nhiều dụ để hiển thị việc này. Cho nên biết mười thân đều là pháp thân. Pháp thân căn cứ theo nghóa đã có mười tên, vì thế chân như tùy theo các giai vị thù thắng đó mà có mười cõi: Biến hành, tối thắng, thắng lưu, vô nhiếp thọ, loại vô biệt, vô nhiễm tịnh, pháp vô biệt, bất tăng giảm, trí tự tại và nghiệp tự tại. Cũng tùy theo người chứng ngộ mà phân biệt thành mười cõi vì y theo nghóa mà phân biệt. Luận Phậto1ịa ghi: “Các kinh khác nói có mười thân Phật. Như kinh Hoa Nghiêm ghi: Hiện đẳng giác Phật, hoằng thệ nguyện Phật, nghiệp dị thục Phật, trụ trì Phật, biến hóa Phật, pháp giới Phật, tâm Phật, định Phật, bản tánh Phật, tùy nhạo Phật. Năm thân Phật trước thuộc thế tục đế, năm thân Phật sau thuộc thắng nghóa đế. Tùy chỗ ứng hiện mà thuộc về ba thân. Vả lại tùy theo tướng thô mà phối hợp với ba thân: Năm thân trước là hóa thân, hai thân kế là pháp thân, ba thân sau là thọ dụng thân. Đã có ba thân thì cũng có ba cõi, ý nghóa cũng không khác. Luận Du-già bốn ghi: “lại có cõi Đại tự tại vượt trên cõi trời Tịnh cư, có Bồ-tát Địa thứ mười cư trụ. Vì đã huân tu rốt ráo Địa thứ mười cho nên được sinh vào đó”. Tức Hoa Nghiêm ghi: “Có cõi diệu tịnh, vượt ngoài ba cõi, Bồ-tát Địa thứ mười sẽ sinh đó.” Cũng tức luận Thập Địa ghi: “Hiện báo lợi ích thì thọ nhận giai vị Phật, hậu báo lợi ích thì sinh vào cõi Trí Ma-hê-thủ-la”. Ma-hê-thủ-la là âm Phạm, tức Đại tự tại nói trong luận Du-già là Bồ-tát Địa thứ mười. Bồ-tát Địa thứ mười khi sắp thành Phật, thì sinh lên cõi trời Sắc cứu cánh ngồi trên hoa sen báu mà thành chánh giác, nên cảm được cõi này. Đã thành Phật rồi thì cõi nước biến thành vô biên, lại không có chỗ phân biệt. Luận Đối Pháp sáu ghi: “Lại có một thế giới thanh tịnh, chẳng thuộc khổ đế, chẳng phải do sức phiền não sinh, chẳng phải do sức tăng thượng của nghiệp phiền não khởi, mà do sức tăng thượng của thiện căn thanh tịnh của đại nguyện dẫn phát, chỗ sinh này bất khả tư nghị, chỉ có Phật mới biết được; chẳng phải là cảnh giới của người được tónh lự huống gì là cảnh giới của tầm, tứ; đây là cõi Tự thọ dụng, chỉ có Phật mới biết, còn chẳng phải là cảnh giới của hàng Thập địa và Nhị thừa, huống gì là người còn tầm tứ chưa đạt Thánh vị mà có thể biết được ư? Tuy có các giáo khác nhau và như trên đã nói nhưng thân cõi bất đồng chẳng ngoài ba và bốn loại đã nêu ở đầu nhưng loại khác không cần giải thích, theo lý cũng có thể biết được. Nêu thể tánh: Cõi tự tánh thân tức là lý chân như. Tuy thân và cõi, thể không sai biệt nhưng theo tánh tướng của Phật pháp thì khác, vì lấy nghóa tướng làm thân, lấy thể tánh làm cõi (độ); lấy giác tướng làm thân, lấy pháp tánh làm cõi; thể đầy đủ hằng sa công đức chân lý. Phật thân độ này chẳng thuộc sắc, chẳng thuộc tâm tâm sở. Nhưng nếu căn cứ theo nghóa nhất như và sai biệt thì tự thọ dụng thân lại nương vào tự độ, nghóa là Viên cảnh trí tương ưng với tịnh thức, do khi xưa tụ tập nhân duyên thuần tịnh cõi Phật vô lậu tự lợi đã thành thục, nên khi mới thành Phật cho đến đời vị lai tương tục biến làm cõi Phật thuần tịnh, chỉ dùng vô lậu sắc uẩn, bốn trần sắc hương vị xúc tương tục gián đoạn và năm trần (thanh) làm tánh, thể đầy đủ các công đức sự tướng sắc pháp. Luận Đối Pháp nói: “Chỉ có Phật mới biết, còn chẳng phải là cảnh giới tónh lự của người đạt tịnh lự, huống gì người còn Tầm tứ”, tức là cõi này. Thân tha thọ dụng lại nương vào tự độ, nghóa là trí bình đẳng và sức Đại Từ bi, do xưa tu tập nhân duyên thuần tịnh cõi Phật vô lậu lợi tha đã thành thục, tùy chỗ thích nghi của Bồ-tát Địa thứ mười mà biến thành tịnh độ; khí giới cũng lấy sắc uẩn vô lậu, bốn trần, năm trần làm thể tánh, giống như cõi nước của vua ở thế gian lấy hữu tình độ và khí thế giới làm thể tánh, lìa hai loại này thì không có cõi nước của vua. Do đó mà tịnh độ của thân tha thọ dụng cũng lấy năm uẩn của Bồ-tát Thập địa và cõi nước có bốn trần do vàng bạc tạo thành làm thể tánh. Điều này ở quyển thượng ghi: “Các hữu tình độ là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ-tát. Tất cả Bồ-tát, tùy theo sự tăng trưởng lợi ích cho hữu tình mà liền nhiếp thọ cõi Phật nghiêm tịnh, cho đến nói rộng ra… Cõi thập thiện nghiệp đạo là cõi Phật của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, những hữu tình giàu có, Phạm hạnh cho đến được chánh kiến đều sinh sang nước kia”. Cho nên biết hữu tình và khí thế giới đều gọi là cõi Phật. Trì Kế nói: “Tôi thấy cõi Phật của Đức Thích-ca rất nghiêm tịnh lại có vô lượng công đức trang nghiêm.”, đây cũng là cõi Tha thọ dụng. Trì Kế là Bồ-tát Địa thứ tám. Kinh Pháp Hoa ghi: “Chúng sinh thấy kiếp tận, khi lửa mạnh thiêu đốt, mà cõi nước của ta vẫn an ổn, trời người đầy dẫy”. Kinh Phạm Võng ghi: “Ta nay Lô-xá-na; ngồi trên tòa hoa sen, một hoa trăm ức cõi, mỗi cõi một Thích-ca”. Đây tức cõi Tha thọ dụng. Luận Tịnh Độ của Bồ-tát Thế Thân ghi: “Những người nữ, người các căn thiếu khuyết và hàng Nhị thừa chẳng sinh”, đều là cõi Tha thọ dụng. Về cõi Phật này nếu do Phật biến hóa ra thì nhất định là vô lậu, nếu do Bồ-tát biến hóa thì chung cho hữu lậu vô lậu; do thức thứ tám và năm thức trước biến hiện thì chung cho vô lậu. Hữu tình độ kia đều lấy công đức của năm uẩn làm tánh, nên khí thế giới độ này có đầy đủ mười tám viên mãn. Biến hóa thân Phật cư trụ ở tự độ, tức là thành sự trí và lực đại Từ bi, do xưa tu tập nhân duyên cõi Phật tịnh uế vô lậu lợi tha đã thành thục, tùy thuận hữu tình đã vào Sơ địa mà hóa hiện cõi Phật hoặc tịnh hoặc uế, như cõi Di-lặc thì tịnh, trong cõi Thích-ca thì kinh Thuyết Vô Cấu Xưng nói: Khi Đức Phật chưa ấn chân trên đất, cõi đó uế chẳng phải là tịnh, khi ấn chân trên đất tạm thời khiến cho thấy tịnh. Khi Phật thuyết kinh Pháp Hoa thì cõi Phật mười phương đều tịnh mà chẳng phải uế, khi chưa tập hội thì uế mà chẳng phải tịnh. Kinh Niết-bàn ghi: “Lúc bấy giờ, tam thiên đại thiên thế giới, do thần lực của Phật mà biến thành bằng phẳng, mềm mại, không có gò nổng, đá sỏi cũng thuộc về cõi biến hóa, tùy chỗ sinh thích hợp mà hiện cõi nước. Cõi này cũng lấy năm uẩn hữu tình và bốn trần khí thế giới… làm thể tánh. cõi Phật biến hiện chỉ là vô lậu, còn những cõi do hữu tình khác biến hiện thì chung cho hữu lậu vô lậu. Thức thứ sáu, thứ bảy và cõi biến hiện thì chung cho hữu lậu vô lậu, các thức khác và cõi biến hiện thì chỉ là hữu lậu, tuy có các báu vật trang nghiêm. Căn cứ theo pháp mà nêu thể, thì cõi bên ngoài chỉ là sắc, cõi bên trong là năm uẩn, vì hữu tình được hóa độ do năm uẩn tạo thành, hoặc tựa như có công đức, tựa như không có công đức. Luận về nhân hạnh: Trên kinh có ghi: “Phát khởi tâm vô thượng Bồ-đề là cõi Phật nghiêm tịnh của Bồ-tát, khi Bồ-tát chứng đắc đại Bồ- đề thì tất cả hữu tình phát tâm hướng đến Đại thừa, đều sinh sang nước kia. Thuần ý lạc, Thiện gia hạnh, Thượng ý lạc, sáu Ba-la-mật, bốn Vô lượng, bốn Nhiếp sự, Xảo phương tiện, ba mươi bảy Bồ-đề phần, tu hồi hướng khéo thuyết trừ tám Vô hà, tự thủ giới hạnh chẳng chê lỗi người, mười thiện nghiệp đạo, hợp ý thành mười tám loại cõi Phật nghiêm tịnh, tất cả đều là nhân tịnh độ. Văn kinh sau ghi: “Thành tựu tám pháp sinh sang tịnh độ”. Phẩm Hương Đài ghi: “Thế giới kham nhẫn, các chúng Bồ-tát, thành thục tám pháp, không hủy phạm, không tổn thương, mệnh chung nơi đây sẽ sinh sang tịnh độ. Tám pháp: Suy nghó rằng: Ta đối với hữu tình nên làm các việc thiện, chẳng nên mong cầu thiện báo ở nơi họ. Lại suy nghó: Ta nên thay thế cho tất cả hữu tình mà nhận chịu các khổ não, thiện căn của ta nên ban thí cho họ. Suy nghó: Ta đối với tất cả hữu tình nên dùng tâm bình đẳng, tâm vô quái ngại. Lại suy nghó: Đối với tất cả hữu tình, ta nên dẹp bỏ tâm kiêu mạn, kính thương họ như Phật. Tín giải tăng thượng, đối với những kinh điển sâu xa chưa được nghe nhận, khi vừa nghe thì không nghi ngờ không hủy báng. Đối với lợi dưỡng của người không sinh tâm tật đố, đối với lợi dưỡng của mình thì không sinh tâm kiêu mạn. Điều phục tự tâm, thường xét lỗi mình, chẳng chê lỗi người. Luôn không buông lung, nên thường tìm cầu pháp thiện tinh tấn tu hành pháp Bồ-đề phần. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rõ về các nhân quán sinh tịnh độ, cho đến hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, mười niệm thành thục, đều là nhân của tịnh độ. Luận Phật Địa Kinh và Nhiếp Đại thừa đều nói: “Hơn cả cõi do thiện căn xuất thế gian sinh khởi”, nên chỉ nói thiện căn vô lậu làm nhân. Tuy có các văn khác nhau như thề nhưng mỗi mỗi tùy chỗ hóa độ, cơ nghi khác nhau, mà nên như thuyết thực hành, chứ không nhất định như thế. Cho nên Đối Pháp luận ghi: “Chẳng phải do sức phiền não sinh, chẳng phải do nghiệp tăng thượng sinh khởi, nhưng lại do thiện căn thanh tịnh của đại nguyện dẫn phát.” Tóm lại, nhân tịnh độ là: Do thiện căn. Do đại nguyện. Nếu chẳng tu thiện căn thì tịnh độ không có nhân, chẳng phát đại nguyện thì tịnh độ không có duyên. Nếu đủ nhân duyên thì mới cảm được quả. Như thế gian có bạn giúp đỡ, yêu mến nhuần thấm, mới cảm được hai quả độ trong và ngoài. Cần phải tu hành, lấy nguyện làm tư lương thì mới được sinh vào cõi Phật. Nếu chẳng thế thì không được thấy Phật nghe pháp, sinh vào cõi Phật. Tổng tướng tuy như thế nhưng nhân thù thắng của bốn cõi Phật mỗi mỗi khác nhau: Pháp tánh độ, chỉ lấy trí vô phân biệt hai không làm nhân duyên; chứng lý pháp tánh chỉ do trí này. Tự thọ dụng độ chỉ lấy Hậu đắc trí lợi làm nhân duyên, vì chứng năm uẩn sự chỉ do trí này. Tha thọ dụng độ và Biến hóa độ chỉ lấy hậu đắc trí lợi tha làm nhân duyên. Kinh Bát-nhã ghi: “Trang ng- hiêm cõi Phật, trang nghiêm cõi Phật tức chẳng trang nghiêm cõi Phật, mới gọi là trang nghiêm cõi Phật, trang nghiêm cõi Phật”. Ngài Thiên Thân nói: “Trí tập thông Duy thức; như thế giữ tịnh độ; chẳng hình, đệ nhất thể, chẳng nghiêm và trang nghiêm,” nói rộng như thế, cũng đồng với nghóa ở đây. Đây là nói cõi Phật và chúng sinh được hóa độ có nhân khác nhau. Pháp tánh độ, Bồ-tát Thập Địa cũng dùng trí vô phân biệt làm nhân duyên. Pháp tánh độ viên mãn, Bồ-tát mười Địa chẳng sinh, nhưng có phần chứng hội, nên Bồ-tát cũng chứng đắc như trước đã nói. Cho nên các luận đều nói: “Sơ địa trở về trước đã được sinh vào nhà Như Lai”. Tịnh pháp giới gọi là nhà Như Lai, chứng hội vào trong đó cho nên nói là sinh. Tự thọ dụng độ, mười Địa chẳng sinh, vì biết mà chẳng chứng. Cõi Tha thọ dụng lấy hậu sở đắc trí của Bồ-tát Thập địa làm nhân duyên, lấy vô phân biệt trí, gia hạnh trí… làm trợ nhân. Luận Phật Địa cũng nói: Vô phân biệt; giúp nhau để luận chung thì lý trí chẳng là nhân duyên sự. Như cõi Biến hóa, thì hàng phàm phu trước mười Địa dùng gia hạnh trí, Nhị thừa dùng hậu sở đắc trí làm Chánh nhân duyên. Các nghóa đã nói ở trên đều là chánh nhân duyên, nếu gồm cả trợ nhân và duyên trợ giúp thì tùy thuận lý độ mà dùng sự hành và nguyện làm duyên trợ giúp. Nếu theo sự độ thì lấy lý hành và nguyện làm duyên hỗ trợ; sinh vào cõi hữu lậu, lấy vô lậu làm trợ duyên; sinh vào cõi vô lậu thì lấy hữu lậu làm trợ duyên; luận Đối Pháp ghi: “Chỉ lấy thiện căn của đại nguyện làm nhân mà được sinh khởi. Các giáo được nói ra có nhiều loại khác nhau đều tùy theo thời gian và cơ nghi mà thuyết, chẳng nhất định.” Kinh Vô Cấu Xưng nói: “Tám pháp chẳng thương tổn, được sinh vào tịnh độ”. Luận Phật Địa ghi: “Hơn cả cõi do thiện căn xuất thế gian sinh khởi”. Cả hai đều là nhân của cõi Tha thọ dụng. Kinh Vô Cấu Xưng ghi: “Phát khởi cõi tâm Bồ-đề ở cõi trời, cho đến mười thiện nghiệp đạo, đều là tịnh tu cõi Phật; đây là nói chung cho hai nhân hữu lậu vô lậu trợ giúp nhau, sinh vào cõi Tha thọ dụng, cũng có thể nói chung là sinh vào cõi Biến hóa. Quán kinh nói các pháp quán và việc hiếu dưỡng cha mẹ… cho đến mười niệm đều là tịnh độ nhân, ở đây gồm hai nghóa: Theo Nhiếp Đại thừa luận thì Tây phương là cõi Tha thọ dụng, vì Quán kinh tự nói các Bồ-tát A-bệ-bạt-trí bất thoái mới được sinh về cõi ấy, chẳng thể dùng một ít thiện căn nhân duyên mà được sinh”. Luận tịnh độ của ngài Thiên Thân ghi: “Hàng nữ nhân, người thiếu khuyết các căn và hàng Nhị thừa thừa đều không được sinh về”. Luận Nhiếp Đại Thừa ghi: “Chẳng phải chỉ do sức nguyện mà được sinh vì đó là biệt thời ý, như dùng một đồng mà có được một ngàn đồng, thì ở một thời gian khác mới được chẳng phải hiện nay liền được. Mười niệm vãng sinh cũng như thế. Mười niệm làm nhân sau đó dần dần mới được sinh, chẳng phải do mười niệm sau khi chết liền được sinh. Vì muốn trừ người giãi đãi chẳng tu thiện, khiến họ niệm Phật, nên nói nhân mười niệm sinh tịnh độ. Vả lại thuyết tướng bạch hào và thân lượng của Phật A-di-đà như năm núi Tu-di, chẳng phải là tha thọ dụng, đâu thể cho như thế? Kinh Quan Âm Thọ Ký ghi: “Sau khi Phật A-di-đà diệt độ, Bồ-tát Quán Âm, kế đó làm vị Bổ xứ mang hình Bồ-tát Địa thứ mười.” Nói sẽ làm bổ xứ, chẳng phải là tha thọ dụng thì đó là Phật nào? Tây phương chung cho báo hóa. Văn kinh chứng minh cho Báo độ thì như trước đã nói. Đây là nói văn chứng minh cho Hóa độ. Kinh Cổ Âm Vương ghi: “Đức Phật A-di-đà có cha là Nguyệt Thượng, mẹ là Thù thắng Diệu Nhan, có con, có ma, cũng có Điều-đạt, có quốc thành”, nếu chẳng phải là Hóa thân thì đâu có việc này. Cho nên trong chín phẩm mà quán kinh đã nói có đủ A-la-hán, Tu-đà-hoàn… cho nên những người sinh sang đó có đủ ba thừa, quốc độ này chung cho hai cõi báo, hóa. Nếu căn cứ theo sự giải thích trước, thì đây là thân tha thọ dụng, thị hiện cũng có cha mẹ, vương quốc, thật thân thì không có, thật không có nữ, đường ác, kinh sợ… Trong chín phẩm vãng sinh thì A-la- hán… mượn tên kia mà gọi, chứ thật là Bồ-tát. Hai cách giải thích tùy theo tâm, lấy bỏ tùy theo ý. Quả tướng: Kinh Phật Địa ghi: “Dùng tịnh thức tự tại cùng cực làm tướng”. Luận này lại giải thích rằng: “Dùng tâm Phật vô lậu làm thể tướng, vì chỉ có thức, chẳng thể lìa thức mà có quốc độ riêng biệt”. Nghóa là pháp tánh độ tức pháp tánh tâm, không lìa tịnh thức tương ứng với vô phân biệt trí. Nhưng thức có khác nhau, như cõi Tự thọ dụng tức thức thứ tám, cõi Tha thọ dụng tức thức thứ bảy, cõi biến hóa tức năm thức trước, tùy chỗ thích ứng mà hậu sở đắc trí kia tương ưng với thức. Bồ-tát Thập địa thấy được cõi Pháp tánh và cõi Tha thọ dụng, ba thừa trước Thập địa thấy được cõi biến hóa, tất cả đều tùy chỗ thích ứng, chẳng lìa tịnh thức năng quán hữu lậu vô lậu của người thắng. Cho nên kinh này ghi: “Nếu muốn tinh cần tu tập nghiêm tịnh cõi Phật, thì trước nên dùng phương tiện nghiêm tịnh cõi Phật”. Luận Bát-nhã của Bồ-tát Thiên Thân ghi: “Trí tập thông duy thức, như thế giữ tịnh độ”, cho nên tu tập nhân quả của trí thì thức liền tịnh. Thức bên trong đã tịnh thì bên ngoài cảm được chúng sinh và quốc độ thế gian cũng đều thanh tịnh. Nói rộng như kinh đã ghi, cũng tùy thức sở ứng của người thấy, như đã nói ở trước, căn cứ theo đó cũng biết được. Phần lượng: Luận Phật Địa và Duy Thức đều cho rằng cõi pháp tánh tuy chẳng thuộc sắc, chẳng thể nói đến hình lượng của nó là lớn hay nhỏ, nhưng nếu căn cứ theo sự tướng thì hình lượng của cõi này vô biên, ví như hư không cùng khắp. Cõi Tự thọ dụng thì kinh Thập Địa nói rằng Bồ-tát Địa thứ mười được sinh vào cung trời Đại tự tại, có hiện mười quả tướng, có tòa hoa sen báu lớn, chu vi bằng số vi trần trong a-tăng-kỳ trăm ngàn tam thiên đại thiên thế giới. Bồ-tát Địa thứ mười ngồi trên tòa này mà thành chánh giác. Thành Phật rồi thì tận đến đời vị lai tương tục biến thành cõi Phật thuần tịnh, chu vi vô biên. Các báu vật trang nghiêm, tùy theo lượng của cõi pháp tánh vô biên. Cõi Tha thọ dụng thì tùy theo cơ nghi của Bồ-tát Địa thứ mười mà hiện, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc hơn, hoặc kém, trước sau biến chuyển. Kinh Phạm Võng ghi: “Ta nay Lô-xá-na, ngồi trên tòa hoa sen, một hoa trăm ngàn cõi, mỗi cõi một Thích-ca”. Nhiếp Luận ghi: Bồ-tát Sơ địa ngộ một trăm môn, thấy một trăm cõi Phật, một cõi Phật có tam thiên thế giới, trong tam thiên thế giới có một trăm ức tứ thiên hạ, mỗi một tứ thiên hạ có một hóa Phật, trong tam thiên giới có một trăm ức hóa Phật. Bồ-tát Sơ địa thấy thọ dụng thân của một trăm ức hóa Phật, thọ dụng thân này ngồi trên tòa hoa sen báu lớn, hoa có một trăm cánh, mỗi một cánh tức tam thiên đại thiên thế giới. Một thọ dụng Phật tên là Lô-xá-na, trăm ức Hoa Phật tên là Thích-ca chẳng lìa một thân Lô-xá-na có chung Thích-ca. Bồ-tát Địa thứ hai thấy một thọ dụng Phật ngồi trên hoa sen ngàn cánh, cho đến Bồ-tát Địa thứ mười thấy Phật lớn cùng cực, hoa sen cũng vô biên. Vả lại trong Địa thứ hai thì thấy được mười thọ dụng thân Lô- xá-na mà Sơ địa đã thấy, cho đến Địa thứ mười thì thấy được vô lượng thọ dụng thân Lô-xá-na mà Địa thứ chín đã thấy. Vô lượng hóa thân Thích-ca, nơi đại thiên thế giới, số lượng Đức Phật tuy nhiều nhưng không lìa hóa của Thích-ca, cho nên gọi là một sở hóa của Phật. Vả lại trong Tiểu thừa chỉ nói một Phật, không có nhiều hóa thân, và cũng tùy theo căn cơ của họ mà hiện một Phật. Hoặc ở tư lương đạo thấy một bốn thiên hạ có một vị Phật chủ tôn; ở Gia hạnh đạo thấy tam thiên giới có một Phật chủ tôn. Sơ địa trở lên thì dần dần tăng, cho nên cõi Tha thọ dụng, có hình lượng không định. Giải xứ sở: Cõi Biến hóa thì hoặc là tịnh hoặc là uế, hoặc nhỏ hoặc lớn, trước sau biến chuyển, cùng không có hạn lượng nhất định, tùy theo chỗ thích ứng của chúng sinh mà nhất thời xuất hiện. Kinh Vô Cấu Xưng nói rằng: Đức Phật ấn ngón chân trên đất thì đại thiên giới liền biến thành thanh tịnh. Vô Cấu sắp đến thì trước biến thành Tỳ-da thanh tịnh. Khi thuyết kinh Pháp Hoa thì đầu tiên biến cõi đại thiên; kế đó biến mười phương, mỗi mỗi đều có hai trăm ức cõi Phật trở thành thanh tịnh, sau cùng lại biến một lần nữa. Cho nên biết lớn nhở tùy thời chẳng định được. Kinh Anh Lạc nói: “Tỳ-lô-giá-na Phật là pháp thân, Lô-xá-na Phật là thọ dụng thân, Thích-ca Mâu-ni Phật là hóa thân”, cho nên nói như thế, chỗ thứ sáu tức là cõi Pháp tánh tức lý chân như, không có cõi nào khác. Cõi Tự thọ dụng cũng đầy cả pháp giới, lại không có cõi nào khác. Cõi Tha thọ dụng, thì kinh Phật ghi: “Vượt khỏi chỗ sở hành của ba cõi”. Luận này giải thích: “Chẳng phải là chỗ chắp thủ của ái ở ba cõi, cho nên lìa hai ở duyên phược tương ưng, tùy tăng mà nói vượt trên ba cõi, thuộc về tánh thiện của Đạo đế”. Có ba cách giải thích, mỗi mỗi đều khác nhau, có thuyết nói ở trời Tịnh cư, có thuyết nói ở Tây phương, có nghóa nói đồng xứ sở, chu vi tịnh độ không có bờ mé, khắp cùng pháp giới. Nếu theo Phật nghóa thì cõi Tự thọ dụng biến khắp thế giới, không nơi nào không hiện, chẳng diễn bày, lìa ba cõi, tức ba cõi. Cõi Tha thọ dụng hoặc tại trời Tịnh cư ở cõi Sắc hoặc ở Tây phương… nơi chốn không định. Kinh Pháp Hoa cũng nói: Chúng sinh thấy kiếp tận, khi lửa mạnh thiêu đốt, mà quốc độ này của ta vẫn an ổn, trời người đầy dẫy”. Cõi mà Bồ-tát Thập địa thấy là Báo độ, cõi mà hàng trước mười Địa thấy là Hóa độ. Tùy nghi mà hiển hiện, đâu thể định nơi chốn, chỉ riêng ra một cõi? Muốn khiến cho chúng sinh khởi tâm ham thích nên mới chỉ ra một cõi, tùy nơi tâm tịnh, tức nơi cõi tịnh. Hóa độ thì phải tùy theo nơi chốn của ba cõi, thuận vật lợi sinh mà hiển hiện. Người xưa đối với việc này cũng có nhiều cách giải thích phân biệt. Nếu ngoài ba cõi có một nơi chốn riêng mà cho là tịnh độ, thì chẳng đúng lý, vì người hóa độ ắt phải còn dị thục thức, còn dị thục thức ắt thuộc về giới, đâu thể ra khỏi giới, nhưng do chẳng bị giới trói buộc, nên nói là vượt trên ba cõi. Chứ chẳng phải xứ sở có khác, vì tùy thuận chỗ hóa độ vậy. Cộng và bất cộng: Luận Thành Duy Thức ghi: “Pháp tánh độ kia đồng là chỗ chứng ngộ của tất cả Như Lai, thể không sai khác. Cõi Tự thọ dụng tuy tất cả Như Lai mỗi mỗi biểu hiện khác nhau, mà đều vô biên, không chướng ngại nhau, hai cõi kia thì tùy theo hữu tình được Như Lai hóa độ mà có cộng và bất cộng. Sở hóa cộng tức là cùng một nơi đồng một thời gian, tùy thuận chư Phật mà mỗi mỗi biến hiện cõi nước, hình trạng giống nhau, không ngăn ngại nhau, xoay vần xen lẫn làm tăng thượng duyên cho nhau, khiến cho tự thức của chúng sinh được hóa độ biến hiện, cho rằng trong một cõi có một thân Phật, hiện thần thông thuyết pháp làm lợi ích. Chúng sinh ở cõi này nghe Phật Thích- ca, Di-lặc, Di-đà, nên các Đức Phật này liền cùng biến hiện. Đối với bất cộng thì chỉ một vị Phật biến hóa. Các loài hữu tình từ vô thỉ đến nay, có chủng tánh pháp nhó, lại lệ thuộc vào nhau, hoặc nhiều lệ thuộc một, hoặc một lệ thuộc nhiều, như Đức Phật Để-sa, làm cho Bồ-tát Thích-ca vượt chín kiếp… cho nên chúng sinh được hóa độ có cộng và bất cộng. Nếu chẳng thế thì nhiều Đức Phật trụ lâu ở thế gian, các việc làm lao khổ lại thành vô ích, vì một Đức Phật làm lợi ích tất cả chúng sinh. Do đo mà cõi Biến hóa và Tha thọ dụng này có cộng và bất cộng. Các môn: Gồm có mười: Chủ tên của cõi. Phụ dực. Quyến thuộc. Nhậm trì. Sự nghiệp. nhiếp ích. Vô úy. 7. Du lộ. Sở thừa. Nhập môn. Chủ: Kinh Phật Địa ghi: “Nơi trụ của Như Lai là các cõi Phật, chư Phật làm chủ, vì thù thắng nhất, chẳng phải là nơi cư trụ của các loài khác. Chỉ thuộc Thế Tôn, hoặc chỉ do Thế Tôn nhiếp thọ, mà chẳng phải ai khác. Tức ba thân Phật, mỗi mỗi ở nơi cõi của mình mà làm chủ, chẳng phải là ai khác”. Nghóa là thể tánh của cõi pháp tánh là một, pháp thân là chủ. Cõi Tự thọ dụng tuy biến khắp pháp giới, mỗi mỗi đều tự biến hiện nên gọi tự là chủ, chẳng chướng ngại nhau. Cõi Tha thọ dụng và cõi Biến hóa, tuy do chư Phật biến, nhưng chỉ có nhất hợp tướng. Vả lại một thân tướng, mỗi mỗi tùy theo chỗ nhiếp thọ mà làm chủ, cũng không chướng ngại nhau. Phụ dực: Cõi Pháp tánh và cõi Tự thọ dụng chỉ có Phật cư trụ mà không có hàng phụ trợ. Bồ-tát Thập địa tuy phần chứng, chẳng phải là phụ trợ của pháp thân, pháp thân vô tướng, chẳng thể luận nói. Về cõi Tha thọ dụng thì kinh Phật Địa ghi: “Các chúng Bồ-tát vân tập đến”. Nghóa là cõi tịnh này thường có vô lượng Đại Bồ-tát Tăng đến phụ trợ, cho nên không có oán địch làm trái nghịch tổn hại. Chư Phật Từ bi, từ nơi tự thức của các ngài, tùy theo cơ nghi của các Bồ-tát mà hiện các cõi thô hoặc diệu, còn trên tự thức của Bồ-tát tùy theo sức nguyện thiện căn của mình mà hiện tướng cõi Phật giống như Phật hóa sinh ra. Tuy tự tâm mỗi mỗi đều biến hiện khác biệt, nhưng lại cùng tại một nơi, hình tướng giống nhau, nghóa là một cõi cùng tụ hội trong đó. Luận Phật Địa ghi: “Như thế, tịnh độ do Bồ-tát mười Địa biểu hiện ra như thế, là hữu lậu hay là vô lậu? Lược có ba nghóa: Một là, nghóa vô lậu, do sức nguyện của chủng tử vô lậu tư trợ, nên biến sinh tịnh độ, trong đó thọ dụng pháp lạc Đại thừa, chứng chân như, được chân vô lậu, thường thấy chư Phật, cho nên thuộc Đạo đế; hai là, nghóa hữu lậu, nghóa là trong tự tâm có thêm sức nguyện của chủng tử hữu lậu tư trợ, cho nên biến sinh tịnh độ, trong đó thọ dụng pháp lạc Đại thừa. Địa thứ bảy về trước còn phiền não hiện khởi, Địa thứ mười còn phiền não tu đạo và chủng tử sở tri chướng; nơi thể của thức thứ tám, hay giữ gìn các loại này, vì hiện hành bị huân tập, còn thuộc về hữu lậu vô ký, cho nên chẳng phải là vô lậu. Vả lại hữu tình chẳng thể có hai thật tâm, vậy thân đã hữu lậu thì cõi tịnh nương gá làm sao vô lậu? Cho nên chỉ thuộc về Khổ đế. Nghóa như thật, Bồ-tát mười Địa, trên tự tâm biến hiện tịnh độ thì gồm có hai: Do thức thứ tám biến, chỉ là hữu lậu, hữu lậu thuộc về tướng. Phần của thức thứ tám, là sở y của thân hữu lậu. Tuy được sức thiện vô lậu giúp đỡ huân tập tướng diệu tịnh kia, nhưng hữu lậu tùy gia tịnh này biến hiện cũng như thế. Như ảnh tượng của tịnh độ tùy Hậu đắc vô lậu tâm biến hiện, thì thuộc về tướng phần của thức vô lậu, vì từ chủng tử thiện vô lậu sinh, thể là vô lậu, thuộc về Đạo đế, Biến hóa độ thì ba thừa đồng tụ tập, là chỗ vân tập của Thánh nhân Nhị thừa, Bồ-tát và phàm phu, cõi do Phật biến hiện chỉ là vô lậu; cõi do các giai vị khác biến hiện thì nghóa chỉ là hữu lậu. Vì Hậu đắc trí vô lậu chẳng thể biến ra tướng tịnh độ. Lại có nghóa cũng vô lậu, hậu đắc trí vô lậu tùy sức duyên tăng thượng do Phật biến hiện, nên có thể biến ra sự tướng. Lý chẳng trái nhau, cho nên cách giải thích này thích hợp nhất. Quyến thuộc: Kinh Phật Địa ghi: “Vô lượng trời, rồng, người và phi nhân, thường theo hầu”. Cõi Pháp tánh và cõi Tự thọ dụng không có chúng phụ trợ vì vô tướng như trước đã nói. Cõi Tha thọ dụng chỉ có trời người làm quyến thuộc, không có các loại khác. Tuy vượt ba cõi, không gì bằng, nhưng cũng thuộc ba cõi. Tịnh thức như thế nhiếp thọ sự biến hiện là trang nghiêm tịnh độ, cho nên chẳng trái nhau, hoặc vì thành thục cho hữu tình được hóa độ mà thị hiện các chủng loại biến hóa như thế. Ví như vì điều phục vua Kiếp-tì-nô mà hiện vô lượng chúng Chuyển luân vương có quyến thuộc vây quanh, hoặc Phật tự hóa, hoặc các Bồ-tát hóa các loại này, trụ trì ở tịnh độ, trang nghiêm cúng dường, dẫn dắt chúng phương khác, theo hầu Như Lai. Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói đến chim Mạng mạng… đều là do Đức Phật A-di-đà biến hóa ra việc hóa ra Nhị thừa trang nghiêm tịnh độ, cũng như thế. Trong cõi biến hóa cũng có tám bộ chân thật làm phụ tá, trong cõi Tha thọ dụng thì Bồ-tát là thật, Nhị thừa và tám bộ là quyền hiện, chẳng phải chân thật được sinh vào đó. Trong cõi biến hóa thì Nhị thừa và tám bộ là chân thật, Bồ-tát mười Địa đều là quyền tích. Bồ-tát Thập địa chẳng sinh vào cõi biến hóa, chỉ có quyền hiện hóa hình sinh vào trong đó. Nhậm trì: Cõi pháp tánh không nhờ vào sự giữ gìn, cõi Tự thọ dụng do pháp lạc giữ gìn; cõi Tha thọ dụng thì kinh Phật Địa ghi: “Được hỷ lạc của pháp vị rộng lớn giữ gìn”. Tức Bồ-tát mười Địa, do hỷ lạc của pháp vị Đại thừa giữ gìn, ăn vào khiến có thể trụ nơi ấy đó là nghóa tự tại giữ gìn (Nhậm trì). Đã vượt ba cõi, tánh là vô lậu, hay đoạn trừ hữu lậu, lẽ ra chẳng gọi là thực (thức ăn) nhưng đó là nhân của nhậm trì cho nên cũng gọi là thực; như pháp hữu lậu tuy chướng ngại vô lậu, nhưng giữ gìn pháp hữu lậu nên được gọi là thực. Vô lậu cũng thế, tuy đoạn hữu lậu nhưng giữ gìn vô lậu sao chẳng được gọi là thực? Hậu đắc diệu trí của chư Phật Bồ-tát, hay thuyết hay lãnh thọ pháp vị Đại thừa, sinh hỷ lạc lớn, có thể giữ gìn thân, khiến cho không đoạn dứt, trưởng dưỡng pháp thiện, cho nên gọi là thực. Địa thứ bảy trở về trước còn phần đoạn sinh chẳng thể không tư dưỡng bằng bốn loại thực là đoàn, xúc… Địa thứ tám trở lên và tất cả các Đức Phật, chẳng cần hoàn thực, nhưng có thể nói là còn có các loại thực khác tư dưỡng. Vì các luận thuyết muốn thị hiện thuộc về y chỉ trụ thực. Nếu cõi Biến hóa thì thật có bốn loại thực, và cũng lấy pháp vị làm thực (Thức ăn). Như nghe nói sáu mươi kiếp trụ trong kinh Pháp Hoa. Nhưng phẩm Bồ-đề Phần kinh này nói: “Đã thực pháp bất tử, uống vị giải thoát. Dùng Niết-bàn bất tử làm thức ăn, nghóa là diệu cảnh chứng ngộ, sinh nơi hỷ lạc, có thể gọi đó là thực. Hay giữ gìn pháp vô lậu nên đặt tên là thực cũng không trái nhau. Nhưng thể của thực này, các giáo nói khác nhau, rộng như biệt chương và Pháp Hoa sớ đã giảng. Sự nghiệp: Pháp thân Phật hoặc chỉ có tự lợi là chỗ y cứ của hai thân, hoặc gồm cả hai lợi. Thân tự thọ dụng chỉ có tự lợi, thân tha thọ dụng và thân biến hóa thì chỉ thuộc lợi tha, vì người khác mà hiện. Kinh Phật Địa ghi: “Làm nghóa lợi cho tất cả chúng sinh”. Đức Phật tuy đã tịch định, nhưng do trước tụ tập, nhờ sức hạnh nguyện, tự tại hay làm tất cả nghóa lợi cho loài hữu tình’. Trong cõi Tha thọ dụng, phần nhiều thuyết diệu pháp, ít dùng thần thông, làm nghóa lợi lợi ích cho Bồ-tát mười Địa, trong cõi Biến hóa phần nhiều dùng thần thông, ít thuyết pháp, làm tất cả nghóa lợi lợi ích cho hàng Tam thừa. Nhiếp ích: Tự tánh thân độ và tự thọ dụng đã đoạn viên mãn, không nói đến nhiếp phục lợi ích chúng sinh, còn tha thọ dụng có nghóa nhiếp ích thì kinh Phật Địa ghi: “Diệt các phiền não tai hoạnh Triền cấu”. Các phiền não là Triền cấu, như thế nên gọi là nhân của các tai hoạnh. Trong đó không có phiền não triền cấu, tai hoạnh tạo ra cũng không có. Hoặc cho rằng phiền não tức mười phiền não phối hợp với kiến tu hoặc trong ba cõi thành một trăm hai mươi tám món. Triền có tám loại là vô tàm, vô quý, hôn trầm, thùy miên, điệu cử, ố tác, tật, xan, cấu sáu món. Hại, hận, não, xiểm, cuống và kiêu. Tai hoạnh là chỗ phát nghiệp và quả báo của các món này. Trong sở tri chướng thì chủng tử gọi là phiền não, hiện khởi gọi là triền cấu. Xa lìa hai loại này gọi là nhiếp ích. Như các lãnh chúa ở thế gian tuy không nhiếp ích, nhưng cũng chẳng gây tai họa. Đối Hộ cũng nói: “Chủ nhiếp ích ngã”; ở đây cũng như thế. Vả lại hiện chứng đắc thì được phước trí thù thắng xa lìa phiền não tai hoạnh triền cấu, cho nên gọi là nhiếp ích. Trong Hóa thân độ, bậc Thánh Nhị thừa cũng chỉ như thế. Phàm phu, Bồ-tát tuy chưa vónh viễn đoạn trừ, chế phục hiện hành nên có thể gọi là nhiếp ích. Trước mười Địa gọi là tổn lực ích vì hay chuyển đạo. Nhưng ở các giai vị này, phân biệt có hai chướng. Trong tâm này dần dần chế phục, trong gia hạnh đạo thì nhanh chóng chế phục. Sơ địa thì đốn đoạn gọi là nhiếp ích, hai chướng câu sinh, nơi đạo gia hạnh có thể dần dần chế phục được. Mười Địa tùy theo giai vị mà có thể dần dần đoạn được. Sơ địa trở lên có thể đốn phục tận, nên gọi là nhiếp ích. Vô úy: Địa thứ bảy được vô úy, nghóa là bên trong không tổn ích, ngoài không sợ hãi. Cõi Tự, Tha thọ dụng và Biến hóa, đã có vô úy từ lâu. Kinh Phật Địa ghi: “Xa lìa các ma”, ma tức bốn ma là nhân của sự sợ hãi, vì do đây mà hay sinh ra sợ hãi, Phật không có các việc này, cho nên không sợ hãi. Cõi Tha thọ dụng, Bồ-tát Thập địa đã xa lìa bốn ma không có năm loại bố úy, uẩn tử phiền não, thứ tự đoạn trừ, tùy theo đó mà luận, nghóa có thể hiểu được. Trong cõi Biến hóa bậc Thánh ba thừa cũng từng phần xa lìa. Bồ-tát Thập trụ hiện tám tướng thành đạo chế phục thiên ma; trong đạo gia hạnh cũng có thể chế phục phiền não phân biệt, lìa phiền não ma. Thập Trụ thứ tư sinh vào Quý trụ xa lìa sinh tử, xuất ba cõi, từng phần xa lìa ma tử. Khi vào Sơ địa thì từng phần lìa phần đoạn tử, cũng gọi là từng phần lìa ma ngũ uẩn, vì thế cho nên được vô úy. Du lộ: Địa thứ tám thì đạt Du lộ, kinh Phật Địa ghi: “Đại niệm, tuệ hành gọi là Du lộ”. Luận này giải thích rằng: “Đại niệm của các Như Lai là vô phân biệt trí, do niệm an trụ nơi lý chân như. Vô phân biệt trí là con đường mà cõi pháp tánh dạo bước. Đại Tuệ tức là Hậu sở đắc trí vì phạm biệt tướng của các pháp chân tục, là con đường của hai cõi Thọ dụng và Biến hóa. Hai pháp này có nghiệp dụng tăng thượng tạo tác tịnh độ. Cho nên đều gọi là hành, vì là con đường dẫn đến tịnh độ cho nên gọi là Lộ. Hoặc đại niệm hạnh là hạnh tự lợi, vì gồm nhiều vô ký, là con đường của cõi Pháp tánh và cõi Tự thọ dụng. Đại tuệ hạnh là hạnh lợi tha vì phân biệt ngoại cảnh, đây là con đường của cõi Tha thọ dụng và cõi Biến hóa. Trên là nói về Phật, bây giờ là nói về Đại niệm của Bồ-tát mười Địa, đó là văn tuệ, đại tuệ là tư tuệ và đại hạnh là tu tuệ. Ba tuệ này, tùy chỗ ứng hợp mà thân sơ giúp nhau, làm con đường (lộ) của cõi hữu lậu, vô lậu. Ba tuệ chung cho hữu lậu vô lậu. Như ở cõi Biến hóa thì hàng ba thừa trước Thập địa cũng lấy ba tuệ làm Du lộ. Tu tuệ của Nhị thừa cũng chung cho vô lậu; phàm phu Bồ-tát chỉ là hữu lậu cũng lấy đó làm Du lộ. Sở thừa: Tức ngồi trên chiếc xe này (sở thừa) mà đi trên con đường kia. Kinh Phật Địa ghi: “Đại chỉ và Diệu quán làm sở thức”, Chỉ là Tam-ma-địa tức Đẳng trì, quán nghóa là Ba-la-nhã, tức tuệ. Chỉ, quán chuyển vận cho nên gọi là sở thừa, lộ (con đường) là vị chung, chỉ quán trong vị gọi riêng là sở thừa. Ba thân Phật, hằng cỡi trên đó mà vào ba cõi Phật, Bồ-tát mười Địa cỡi trên đó mà vào cõi Tha thọ dụng, hàng Tam thừa trước mười Địa, tùy thuận vị trước mà cỡi trên phẩm chỉ quán này vào tịnh độ. Nếu ở cõi uế thì chung cho Tán, định tuệ, lấy đó làm sở thừa, nếu không như thế thì không cách gì mà sinh vào tịnh độ. Nhập môn: Từ cửa nhập này mà cỡi trên sở thừa kia để vào. Kinh Phật Địa ghi: “Đại không vô tướng, vô nguyện giải thoát là môn sở nhập”, giải thoát là Niết-bàn, diệu trí này gọi là môn; hoặc trí vô lậu gọi là giải thoát vì xa lìa sự trói buộc. Nhờ ba môn này mà vào tịnh độ. Lại có một nghóa khác: “Nhân vô tướng môn mà vào cõi pháp tánh, quán pháp vô tướng, chứng chân như. Nhân nơi vô nguyện môn mà vào cõi Tự thọ dụng, vì không nguyện cầu sinh trong ba cõi. Nhân nơi không môn mà vào cõi Tha thọ dụng và Biến hóa, đạt hai vô ngã vào hai cõi”. Hoặc cho rằng ba môn đều vào ba cõi Phật. Luận thuyết về ba môn, hoặc mỗi mỗi quán riêng ba loại tự tánh, hoặc năng quán ba tánh, đây là luận theo Phật môn, nếu theo Bồ-tát thì nhân ba môn vô lậu này mà vào cõi Tha thọ dụng. Nếu theo Nhị thừa và trước mười Địa, thì cũng nhân ba môn vô lậu hoặc hữu lậu mà vào cõi Biến hóa. Còn phàm phu và Bồ-tát chỉ nhờ ba môn hữu lậu đẳng trí mà vào hóa độ, không gọi là giải thoát môn, vì chẳng thuộc vô lậu. Theo thật lý thì cõi Tha thọ dụng và Biến hóa đều có môn sự thừa du lộ… nhưng vì muốn cho loài hữu tình ưa thích thật đức, cho nên căn cứ theo hạnh mà thuyết. Cõi Pháp tánh và cõi Tự thọ dụng thì phần lượng vô biên, chẳng nói riêng các tướng có sự môn… cõi Tha thọ dụng đã có phần hạn, đều y vào hoa sen mà kiến lập. Kinh Phật Địa ghi: “Do hoa sen báu lớn kiến lập”. Quán kinh cũng nói: “Khởi tướng về huyền cổ (trống treo), có tòa hoa sen, cõi biến hóa chẳng định, hoặc có hoặc không. Chỉ cõi Phật này không có hoa sen, Phật hiện trong đó”. Theo văn thì gồm có ba: Phật hiện. Nêu ví dụ. Hiển đại chúng nhìn thấy. Đây là văn thứ nhất. Tâm Bồ-tát, xưa nay thấy tịnh, hàng Thanh văn thì ý kém cõi, chưa thấy cõi tịnh nên tạm biến tâm của hàng phàm phu, khiến cho họ thấy được cõi tịnh. Vì thế nhờ việc ấn ngón chân mà biến đại thiên. Đây là tịnh độ biến hóa để cho hàng phàm phu thấy mà thôi. Kinh: Thí như công đức… cõi bảo trang nghiêm. Tán: Đây là nêu ví dụ. Phật bảo trang nghiêm là thân tha thọ dụng. Cõi Bảo trang nghiêm là cõi vô lậu. Thân Phật chẳng đổi, chỉ có cõi nước biến thành tịnh. Nêu lên Báo độ kia để dụ cho Hóa độ, hoặc nhờ vào dụ để hiển. Việc Đức Phật nêu thân báu thì quốc độ cũng thế. Kinh: Tất cả đại chúng đều khen là việc chưa từng có, mà tự thấy mình ngồi trên tòa hoa sen. Tán: Đây là nói về việc đại chúng thấy: Tạm biến tâm của đại chúng trở thành bình đẳng, cho nên thấy ngồi trên tòa sen, thấy cõi nước cũng thanh tịnh, chưa bao lâu thì tâm được tịnh, nên khiến cho tạm thấy; lâu thì do hạnh mà thành tựu, không lâu thì do Phật khiến cho được. Kinh: Lúc bấy giờ, Thế Tôn… các đức nghiêm tịnh cõi Phật chăng? Tán: Phần thứ tư, Thu Tử dứt trừ được nghi. Có ba ý: Chỉ cõi nước mà hỏi. Thu Tử hoan hỷ trả lời. Nêu lý để trừ nghi. Đây là lời văn thứ nhất. Kinh: Xá-lợi Tử nói… nghiêm tịnh đều hiện. Tán: Đây là Thu Tử hoan hỷ trả lời. Kinh: Bảo Xá-lợi Tử… cõi tạp uế. Tán: Nói về lý để trừ nghi, theo văn gồm ba: Bảo chung. Lập dụ để chỉ bày. Kết luận. Đây là văn đầu. Chữ “cáo” (bảo) như nghóa đã giải thích. Tâm ta thanh tịnh từ lâu, mà cõi tịnh như thế, là vì thương xót hàng chúng sinh hạ liệt, tùy theo họ hiện ra cõi kém xấu. Cõi này vốn chẳng phải do ta trang nghiêm, là cõi mà chúng sinh ba thừa đều nên thấy. Kinh: Xá-lợi Tử… thức ăn khác nhau. Tán: Đây là phần nêu dụ để chỉ bày cõi trời Tam thập tam ở trên đỉnh núi Diệu cao, bốn mặt, mỗi mặt có tám vị trời, Đế Thích trụ ở giữa mà làm chủ. Xưa dịch: “Màu cơm”, sắc và kiến (thấy) đồng nghóa. Kinh: Như thế Xá-lợi Tử… chỗ thấy có khác. Tán: Đây là phần kết luận. Vả lại đây là câu kết luận chung. cõi Phật tuy đồng, chỉ là cõi Thích-ca, nhưng tâm hữu tình khác, nên thấy tịnh uế khác. Tam thừa trước mười Địa thì thấy cõi nước tạp uế, còn Bồ- tát Thập địa thì luôn luôn thấy tịnh. Kinh: Nếu tâm người tịnh… diệu bảo trang nghiêm. Tán: Kết luận riêng. Như có Trì Kế tâm tịnh, liền thấy cõi tịnh. Kinh: Ngay lúc Đức Phật hiện việc này… tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tán: Từ đây trở xuống là phẩm thứ tư của phẩm này, nói về lợi ích viên mãn. Văn gồm có hai: Lợi ích Đại thừa. Lợi ích Tiểu thừa. Trong văn nói về lợi ích Đại thừa thì đầu tiên nói hai lợi ích, sau đó là thâu nhiếp thần túc. Đây là văn đầu tiên. Tại Sơ địa, mới đạt vô sinh; Địa thứ tám thì tự tại vô sinh, đã nghe nghiêm tịnh tức rõ được việc kia, chưa biết tịnh độ của Phật nay được vô sinh, cho nên vào Sơ địa. Hoặc vô sinh là được vào Địa thứ tám. Phát tâm có hai: Mới phát tâm, tức mới vào Sơ địa. Vô lậu phát tâm, tức chưa vào Sơ địa. Cho nên biết phát tâm là mới vào Sơ địa. Kinh: [Bấy giờ, Đức Phật Thế Tôn… trở lại như cũ.] Tán: Không biến cõi tịnh là để nêu lên đại ý; quả lớn đã đạt được ở đây, cho nên thu nhiếp thần túc; tuy cũng chứng quả nhỏ, nhưng chẳng vì đó mà hiện cõi tịnh, vì thế văn sau sẽ nói. Kinh: Cầu Thanh văn thừa… khéo giải thoát. Tán: Đây là nói về lợi ích Tiểu thừa. Biết vô thường, thấy cõi nước chuyển biến, thuận lý vô thường, trái nghịch Khổ đế, văn này nói là kiến đạo. Xa trần tức vô gián đạo, đoạn chướng; lìa cấu tức giải thoát đạo, vì lìa cấu, chứng vô vi, đắc pháp trí, gọi là pháp nhẫn tịnh. Vónh viễn xa lìa các lậu, phiền não chướng trừ sinh tức lìa sở duyên phược. Tâm khéo giải thoát tức lìa tương ưng phược. Đó là nói về việc chứng đắc quả A-la-hán. Bản dịch xưa ghi: Chẳng thọ các pháp tức chẳng chấp thủ ngã và ngã sở, vì chẳng thọ quả sinh tử, ý giải tức là tâm giải thoát.  THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH TÁN <卷>QUYỂN 3 (Phần 1) <詞>PHẨM 2: HIỂN BẤT TƯ NGHỊ PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO Toàn phẩm được chia làm bốn môn để giải thích: Thứ tự phân khoa các phẩm. Thuộc các phương tiện. Giải thích tên phẩm. Nêu thể của phẩm. <詞>Thứ tự phân khoa các phẩm: Từ đây trở xuống gồm có mười một phẩm, là phần chính thức luận về bản tông: Phẩm Hiển Bất Tư Nghị Phương Tiện Thiện Xảo. Phẩm Thanh Văn. Phẩm Bồ-tát. Phẩm Vấn Tật. Phẩm Bất Tư Nghị. Phẩm Quán Hữu Tình. Phẩm Bồ-đề Phần. Phẩm Bất Nhị Pháp Môn. Phẩm Hương Đài. Phẩm Bồ-tát Hạnh. Phẩm Quán Như Lai. Kinh Bồ-tát Địa ghi: “Tất cả các Bồ-tát nên tu học như thế nào?” nghóa là có ba loại: Về sở học. Học như thế. Người có khả năng tu học. Mười bảy Địa trong luận Du-già, mười thù thắng trong luận Nhiếp Đại Thừa đều gồm trong ba pháp là cảnh, hạnh, và quả, đồng là Bồ-tát địa. Nghóa là trước cần phải biết rõ chỗ sở học, kế đó nên y cứ theo đó, như thế mà học, cuối cùng mới thành người có khả năng tu học. Nếu chẳng biết rõ các cảnh khổ vui, thiện ác, phàm Thánh, chân vọng, thì chẳng thể phát khởi các thắng hạnh như chán khổ thích vui, tu thiện đoạn ác, bỏ phàm về Thánh, chứng chân lìa vọng. Nếu hạnh đã chẳng tu thì quả nào mà chứng được? Cho nên trước phải biết cảnh kế đến tu diệu hạnh và cuối cùng là được quả. Chánh tông của kinh này là luận về lý Đại thừa, cho nên từ phẩm Phương Tiện đến phẩm Hương Đài gồm chín phẩm là nói cảnh Bồ-tát, kế đến một phẩm Bồ-tát Hạnh, là nói về hạnh Bồ-tát và sau một phẩm Quán Như Lai là nói quả Bồ-tát. Trong kinh Bồ-tát Địa nói học xứ có năm: Hóa xứ, tức phẩm Quán Hữu tình; tất cả chúng sinh là sở hóa. Lợi hành xứ, tức phẩm Phương Tiện, phẩm Thanh Văn, phẩm Bồ-tát, phẩm Vấn Tật, nói về hạnh lợi tha. Chân thật nghóa xứ, tức phẩm Bồ-đề Phần, phẩm Bất Nhị Pháp Môn, nói về các đạo lý tận sở hữu tánh, như sở hữu tánh… Oai lực xứ, tức phẩm Bất Tư Nghị, vì nói đến oai lực của thần thông. Bồ-đề xứ, tức phẩm Hương Đài nói về Phật có đức thù thắng. Bồ-tát địa ghi: “Trước tiên nên đạt cơ nghi được hóa độ, rồi mới khởi thắng hạnh lợi tha, kế đến biết thật nghóa, khéo đoạn khéo tu, đối với oai lực môn nên tu tập tự lợi, kế đến vui thích mong cầu tinh cần tu chứng quả Vô thượng Bồ-đề.” Nay ở đây chẳng như thế, trong chín phẩm về cảnh thì Bồ-tát tu tập lấy tha lợi làm đầu, cho nên năm phẩm đầu nói về hạnh lợi tha, môn oai lực chung cho lợi tha, vì thần thông oai lực chỉ có lợi tha mà thôi, nhưng e rằng nói lợi tha thì chấp có thật chúng sinh, nên nay phá chấp thật, hiển thị tất cả đều chẳng thật chỉ có giả hữu tình lấy làm chỗ lợi lạc. Cho nên kế đó một phẩm nói về hóa xứ. Lợi tha đã viên mãn thì nên tu tự lợi, nên kế đó hai phẩm nói về chân thật nghóa xứ. Trong hai môn này là nói về tu tự lợi, cho nên từ nơi quả đức vui thích mong cầu, kế đến có một phẩm nói về Bồ-đề xứ. Trong năm phẩm của môn lợi tha thì bốn môn đầu nói về ẩn tích lợi tha, một phẩm sau là nói hiển tích lợi tha. Trong bốn phẩm nói ẩn tích lợi tha thì một phẩm đầu nói chung về quyền, ba phẩm sau nói riêng về quyền; phẩm Thanh Văn và Bồ-tát là nói riêng về quyền khi xưa, phẩm Vấn Tật là nói về quyền hôm nay. Phẩm Phương Tiện này là nói chung về quyền. Vả lại chín phẩm đầu trong cảnh sở học lại phân làm hai, tám phẩm đầu nói riêng về hai lợi, một phẩm Hương Đài sau thì nói chung về hai hạnh lợi lạc. Trong phần nói riêng về hai hạnh lợi lạc thì từ đầu tiên đến phẩm Quán Hữu Tình gồm sáu phẩm, thì nói về hạnh lợi tha; phẩm Bồ-đề Phần, phẩm Bất Nhị Pháp Môn là nói về hạnh tự lợi. Trong sáu phẩm lợi tha thì năm phẩm đầu là nói về năng lợi, một phẩm Quán Hữu Tình sau là nói về sở lợi. Trong năm phẩm nói về năng lợi thì bốn phẩm đầu nói về mật quyền Năng lợi. Mật làm quyền tích thật hành lợi tha; phẩm Bất Tư Nghị là nói về hiển quyền năng lợi, hiển thành quyền tích để lợi lạc hữu tình. Trong phần mật quyền bốn phẩm thì một phẩm đầu luận chung về mật quyền, ba phẩm sau thì nói riêng về mật quyền. Phẩm Thanh Văn và Bồ-tát là nói về mật quyền xưa, phẩm Vấn Tật thì nói về mật quyền hôm nay. Ở đây phẩm Phương Tiện là nói chung về mật quyền cho nên đặt trước tiên. Phẩm Hiển Bất Tư Nghị Phương Tiện Thiện Xảo gồm nhiếp các phương tiện, theo luận Bồ-tát Địa bốn mươi lăm ghi: Phương tiện thiện xảo của Bồ-tát gồm có mười hai loại, nếu căn cứ theo tất cả Phật pháp bên trong tu chứng thì có sáu loại, căn cứ theo tất cả hữu tình thành thục bên ngoài thì gồm sáu loại. Sáu loại tu chứng bên trong là: Đối với tất cả hữu tình thì đều thực hành tâm bi, thương yêu chẳng xả bỏ. Như thật biết tất cả các hành. Thâm tâm ưa thích diệu trí Vô thượng Bồ-đề. Lo lắng xót thương loài hữu tình nên chẳng xả bỏ sinh tử. Biết rõ các hành cho nên luân chuyển nơi sinh tử mà chẳng nhiễm. Vui thích trí Phật cho nên dõng mãnh tinh tấn. <詞>thục: Sáu phương tiện thiện xảo đều y cứ vào bên ngoài thành Có thể làm cho hữu tình dùng một ít thiện căn mà được quả vô lượng, nghóa là khiến các hữu tình xả bỏ vật kém nhỏ cho đến một mảnh ruộng xấu, ban phát vài viên bột gạo rang cho các loài trùng kiến bàng sinh, mà hồi hướng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, các thiện căn bố thí này như các vật hay mảnh ruộng xấu cho dù rất ít, nhưng do sức hồi hướng cầu vô thượng Bồ-đề, mà cảm được quả vô lượng. Có thể khiến cho hữu tình với một ít công lực mà dẫn sinh thiện căn lớn, như có người tin tà trai giới thì thuyết tám chi Thánh trai giới pháp, cho đến tuyên nói chỉ bày về lời Phật dạy, khiến cho họ phát sinh lòng tin thanh tịnh, những người này chỉ do một niệm thiện tín mà còn có thể nhiếp thọ căn lành rộng lớn, huống gì liên tục dùng vật cúng và khuyên người khác dùng vật cúng cúng dường, lại có thể tùy hỷ các việc cúng dường trong mười phương, thường tu sáu niệm, ý tưởng quy y lễ kính mười phương, tất cả Phật, Pháp, Tăng bảo, nguyện dùng tự thân, thay thế chịu khổ cho tất cả, nếu có điều gì trái phạm thì khởi tưởng đối trước Phật mà phát lồ sám hối, quán việc làm của mình như thế và cũng quán việc của người khác làm. Vả lại người được thần thông thù thắng của Bồ-tát, hóa làm các việc biến hóa đến đại phước tụ thuộc về Phật tăng trong mười phương, thường tu vô lượng, cũng khuyên người khác tu như thế. Đối với các hữu tình trái nghịch Thánh giáo, thì trừ sân nhuế não hại cho họ. Đối với người trụ ở trung đạo thì khiến cho họ hướng vào. Đi với người đã hướng vào thì làm cho họ được thành thục. Đối với người đã thành thục thì khiến cho họ được giải thoát. Vì muốn thành tựu bốn loại sau, cho nên cần phải tu sáu loại phương tiện thiện xảo: Tùy thuận hội thông. Cùng lập ước nguyện. Dị phân ý lạc. Bức bách sở sinh. Thi ân báo ân. Rốt ráo thanh tịnh. Tùy thuận hội thông tức là thông suốt nghóa các kinh, cùng lập thệ nguyện, siêng năng làm việc thiện, sau đó dùng tài vật của mình thí cho người, nếu họ chẳng mau chóng tu đạo thì về sau không ban phát cho những người ấy nữa, đó là vì lợi ích cho họ, chứ chẳng phải có ý muốn nào khác, nếu có người chẳng bố thí…, mà có gia đình thì nên nói với quyến thuộc của họ. Có người chẳng biết ân, phạm giới, thì nên cắt giảm các vật thường được ban phát như y phục… hoặc có thể đánh đập, do đó họ sẽ sợ bị trị phạt mà chóng dứt bỏ điều ác, siêng năng tu việc thiện. Tuy họ không thích nhưng cũng cưỡng ép khiến họ tu. Như đối với hữu tình thì nên tùy sức mà thi ân, họ mong cầu sự báo đức, khuyên họ tu thiện, người được báo ân, chẳng nên dùng ngôn ngữ thế gian mà thù đáp, cần phải biết ân cha mẹ, cho đến thọ trì giới cấm, đó gọi là đại báo ân đức của ta. Nếu trụ ở Địa thứ nhất thì sinh ở trời Đổ-sử-đa, khiến cho các hữu tình nhớ nghó đến Bồ-tát thì sẽ được Bồ-đề, nguyện sinh vào nơi đâu cũng thường được gặp gỡ; khiến các hữu tình phát khởi sự vui thích này, cho đến nói rộng ra… đó gọi là sáu phương tiện thiện xảo. Nay ở đây là muốn nói về sáu loại nêu lêu sau là y cứ vào phương tiện thiện xảo bên ngoài thành thục tất cả hữu tình. Trong văn trước sau tùy theo nghóa mà đều có các loại này, không cần phải dài dòng dẫn chứng. Vả lại phương tiện gồm có bốn: Tấn thú phương tiện, như bảy phương tiện. Thi vi phương tiện, tức phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa. Tập thành phương tiện, tức các pháp đồng thể khéo léo cùng tụ tập thành, như nói chân như có đủ hằng sa đức trí là môn thu nhiếp tất cả pháp. Cho nên Thập Địa nói: “Tổng đồng thì thành, biệt dị thì hoại”. Quyền xảo phương tiện, tức là thật không có việc này, nhưng do tùy thuận theo vật mà lập bày, nghóa là biến hóa của ba nghiệp… Trong đó tức là phương tiện thứ hai, thứ ba. Lại có ba cách giải thích: Tiếp hạ phương tiện, tức chỉ tiếp độ người bậc hạ. Hiển thượng phương tiện, chỉ hiển bày việc thù thắng vi diệu. Thông chương phương tiện, chung cho khắp thượng và hạ. Ở đây tiếp hạ gọi là phương tiện. Hiện thân có bệnh nhân đó thuyết pháp, đó cũng có thể là hiển thượng phương tiện, vì thuật về đức ấy và tán thán công đức của Như Lai thù thắng, cũng chung cho Thông chương phương tiện thứ ba; ý này vốn là Tiếp hạ phương tiện, là đại Cư só hiện thân có bệnh… nhân đó thuyết diệu pháp, khiến người phát tâm. Vả lại còn có hai loại là Hồi hướng và Cứu bạt, ở đây thuộc về Cứu bạt. Giải thích tên phẩm: Nghi quỹ để làm lợi lạc gọi là phương, ứng thời cứu độ gọi là tiện, thuận lý lợi quần sinh gọi là thiện, dụng của trí khéo léo gọi là xảo. Nhưng có loại phương tiện, hạ vị biết được, nay hiển bày chẳng phải ngôn cảnh của họ vì siêu việt tình thức của hạ vị nên gọi là bất tư nghị, vì muốn làm rõ việc này nên gọi là hiển. Bất tư nghị phương tiện là sở hiển, giáo là năng hiển. Bản dịch xưa không có lời này như đã trình bày lúc đầu. Nêu thể của phẩm: Dùng Hậu đắc trí làm thể. Các giáo nói rằng trong mười độ thì năm độ sau lấy trạch pháp làm tánh. Trong phẩm cũng nói: “Khéo nơi trí độ, thông đạt phương tiện”, cùng dùng thân ngữ làm tự thể. Bậc đại Cư só hiện thân có bệnh là thân phương tiện, nhân đó thuyết diệu pháp, khuyên người phát tâm là Ngữ phương tiện, văn sau sẽ tự rõ, nên đây không dẫn. Gốc để phát thân ngữ… tức là ý phương tiện, tướng của ý khó trình bày, cho nên kinh chẳng thuyết. Kinh: Lúc bấy giờ,… gọi là Vô Cấu Xưng. Tán: Phẩm này được chia làm ba phần chính: Nêu lên người có khả năng thực hành phương tiện khéo léo. Từ câu “Đã từng cúng dường…” là nói về thật đức của người đó. Muốn thành thục cho loài hữu tình. Từ câu “Dùng phương tiện khéo léo…” là nói về quyền tích, đây là đoạn đầu. Gồm có bốn: Trụ xứ, là thành Quảng Nghiêm. Hành vị là bậc Đại Bồ-tát. Chủng tánh là Ly-chiêm-tỳ. Danh tự là Vô Cấu Xưng. Bản xưa thiếu việc này, truy tìm có thể biết được, vì chẳng phải là tông nghóa, sợ văn dài dòng, nên không luận biện. Kinh: Đã từng cúng dường… trồng sâu gốc thiện. Tán: Đây là nói về thật đức, gồm hai mươi câu phân làm hai, đầu tiên mười tám câu nói về nội thật đức, sau hai câu chư Phật luận về ngoại thật đức. Bản xưa tuy trước sau thứ tự chẳng đồng nhưng câu nghóa thì đồng. Đoạn này gồm hai là: Đức trồng duyên lành từ lâu, tức từng cúng dường chư Phật. Đức trước đã tu bản hạnh, tức trồng sâu gốc thiện. Hai đức này gồm nhiếp hạnh bốn thân cận. Kinh: Được diệu biện tài… du hý thần thông. Tán: Đoạn này nêu bốn đức: Đức đạt được bảy biện. Đức thành tựu ba vô sinh nhẫn. Đức được bốn tổng trì. Đức được sáu thông tự tại, như văn thứ tự đã ghi, nghóa lý có thể biết được. Bảy biện: Biện tài nhanh chóng, biện tài vô ngại, biện tài tùy ứng, biện tài chẳng tận, biện tài có đầy đủ nghóa vị khi diễn thuyết, biện tài tối thượng nhất trên thế gian. Ba vô sinh nhẫn như trước đã nói. Nếu theo kinh Nhân Vương thì có năm vị nhẫn: Phục nhẫn tức trước mười Địa. Tín nhẫn, tức Sơ địa, Nhị địa, Tam địa. Thuận nhẫn, tức Tứ địa, Ngũ địa, Lục địa. Vô sinh nhẫn, Thất địa, Bát địa, Cữu địa. Tịch diệt nhẫn, tức Thập địa cho đến Phật địa. Kia là căn cứ theo giai vị còn thô, ở đây căn cứ theo giai vị đã viên mãn, nên không trái nhau. Kinh: Đạt được vô sở úy… thông đạt phương tiện. Tán: Đoạn này gồm bốn đức: Đức phá dẹp ngoại đạo, vì đạt vô úy. Đức gần đến mười lực của Phật vì đã tận diệt ma oán. Đức bên trong bao hàm chân cảnh, vì thâm nhập các pháp. Đức khéo léo hóa độ quần sinh, vì khéo nơi trí độ, thông đạt phương tiện. Trí độ tức là Trí ba-la-mật-đa thứ mười, là trí thành tựu cho loài hữu tình; vì thế thông đạt phương tiện lợi ích tức là Phương tiện ba-la- mật-đa. Kinh: Đại nguyện thành tựu viên mãn… các căn thắng liệt. Tán: Đoạn này gồm ba đức: Đức dục và giải đều tròn đủ, vì đại nguyện đã thành tựu. Bồ-tát Địa ghi: “Khi mới phát tâm chỉ phát một nguyện là nguyện được Bồ- đề, làm lợi ích tất cả. Kinh Thắng Man thì nói một nguyện là nhiếp thọ chánh pháp. Duy thức nói hai nguyện là nguyện cầu Bồ-đề và nguyện lợi lạc người khác. Thắng Man nói ba nguyện, kinh Di-lặc Thượng Sinh nói bốn hoằng chánh nguyện, Thập địa nói mười nguyện. Vả lại Bồ-tát có hằng sa nguyện riêng. Có kinh nói vị này là Kim Túc Như Lai cho nên nguyện đều viên mãn. Đức khéo đạt được căn khí, khéo biết ý lạc tức ý nghiệp và hành tức thân ngữ. Biết được tâm nguyện và sở hành, khéo đạt lợi ích. Đức khéo léo đạt được cơ nghi, tức biết được các căn cơ hơn kém, mà thuyết năm thừa. Đức thứ ba này bản dịch xưa ghi là “Thú tâm” tức ba nghiệp là chỗ ý thú hướng đến, thì ý cũng đầy đủ. Kinh: Trí độ thành tựu… quyết định tu tập. Tán: Đoạn này gồm hai đức: Đức dẫn dắt lợi lạc không chấp trước, vì do trí độ thành tựu cho nên thuyết pháp thành tựu. Việc làm vô ngại, quyết định thực hành giáo lý hạnh quả của Đại thừa. Nhưng các Bồ-tát có bốn loại tu tác: Quyết định tu tác. Ủy tất tu tác. Hằng thường tu tác. Vô tội tu tác. Bồ-tát Địa bốn mươi chín nói rằng: “Vì đầy đủ bốn tu tác này mà được ba mươi hai tướng.” Nay nêu một tu tác thì ba loại kia cũng đều hiển bày đủ. Bản dịch xưa ghi: “Quyết định Đại thừa”, ý thật khó hiểu. Kinh: Đối với nghiệp tạo tác… vào biển tâm tuệ. Tán: Đoạn này gồm ba đức: Đức ba thừa lấy trí làm đầu, tức là ba nghiệp tạo tác do trí dẫn đường, vì đầu tiên phải so lường. Đức quả nghiệp viên mãn, vì trụ ở oai nghi Phật, như trâu chúa đi, như voi chúa bước… Đức chứng ngộ sâu rộng, vì vào biển tâm tuệ. Tâm tức chân lý. Kinh Thắng Man nói tự tánh thanh tịnh tâm; tuệ tức trí Bồ-đề, cả hai đều sâu rộng giống như biển lớn. Khéo chứng đạt cho nên gọi là nhập (vào). Bản xưa ghi: “Tâm như biển lớn”, thì thiếu nghóa này. Kinh: Chư Phật khen ngợi… thường lễ kính. Tán: Mười tám câu kể trên là tán thán riêng về nội đức, hai câu này là tán thán ngoại đức. Ngoại đức có hai: Đức chư Thánh ủng hộ tán thán, tức chư Phật khen tặng tán dương; vui thích vì đạo của Cư só cao xa, cho nên khen tặng tán thán sự lợi lạc của Cư só rộng, cho nên xưng dương. Đức được phàm phu quy ngưỡng; trời Thích Phạm Hộ thế gian thường kính lễ. Trong đó nêu việc thù thắng là nói chư Phật tán thán, các Bồ-tát cũng ngợi khen; tức là muốn khen người trí, chúng Thánh đều biết, nêu lên Thích Phạm tức các loại khác đều rõ. Kinh: Vì muốn thành thục… sống ở thành Quảng Nghiêm. Tán: Đây là phần ba nói về quyền tích, gồm hai ý: Nêu quyền ý. Nêu quyền sự. Đây là văn thứ nhất. Thành tựu nghóa là lợi lạc, cho nên vì loài hữu tình mà dũng trí thiện xảo sống ở thành Quảng Nghiêm. Cơ và pháp phù hợp cho nên ở nơi đây phát dương đại giáo. Kinh: Cơ tài bảo vô tận… hung bạo, tật đố, khổ sở. Tán: Đoạn này nói về quyền sự; gồm hai: Hiển quyền khi xưa, hiển quyền tích trước khi hiện bệnh. Từ câu: “Ông ấy dùng phương tiện thị hiện có bệnh.”, là hiển bày quyền tích hôm nay. Trong phần hiển quyền tích khi xưa thì đầu tiên hiển riêng quyền khi xưa, sau đó từ câu “Vô Cấu Xưng dùng các bất tư nghị như thế”… là phần tổng kết về quyền khi xưa. Lại trong phần hiển riêng gồm có ba ý: Quyền dùng hữu nhiếp vô. Từ câu “tuy là hàng bạch y…” là quyền đồng loại lợi ích. Từ câu “Tại trưởng giả…” là quyền dùng cao quý mà dụ dẫn người thấp. Đầu tiên dùng diệu hạnh sáu độ đã đạt được mà nhiếp phục sáu chướng của người không có diệu hạnh, kế đến dùng đồng loại làm lợi ích người đương thời, sau cùng dùng vị tôn quý mà dụ dẫn kẻ thấp hèn. Đây là dùng ba độ để nhiếp phục ba hạng người. Không có tài bảo thì gọi là bần cùng, không có chỗ quy hướng thì gọi là vô y, như các người không có cha mẹ… không có thể lực để nương cậy gọi là vô hỗ; thọ giới rồi mà phá gọi là phạm, chưa thọ mà làm ác thì gọi là việt. Vả lại phá tánh giới gọi là phạm, phá già giới gọi là việt. Bạo là hung bạo, thuộc về loại có tánh nóng nảy. Tật tức tật đố, sở là khổ sở, thuộc về loại ưa đánh đập, độc tức là độc hại, thuộc về loại độc ác. Thứ tự ba loại này thuộc về ba độ đối trị. Kinh: Dùng đại tinh tấn… vọng kiến ác tuệ. Tán: “Giải đãi” nghóa là tâm không tiến, “Lại đọa” tức thân và ngữ không tiến. Lúc đầu mà thiện không tăng tiến thì về sau ác sẽ tăng. Tónh lự tức bốn định của cõi sắc; chánh niệm tức bảy chánh niệm, như trước đã nói. Thân cận có thể dẫn sinh định, cho nên ở đây nói chung. Giải thoát tức tám giải thoát, được chia làm mười môn để giải thích: Nêu tên. Hiển hành tướng. Nêu thể. Giải thích tên. Cảnh sở duyên. Phàm Thánh đắc. Ly chướng biệt. Y thân khởi. Hai đắc dị. Hữu vô lậu. Nay luận bốn môn đầu tiên, những môn khác như trong chương đã nói. - Nêu tên: Luận Du-già mười hai, mười lăm, bảy mươi ba. Nhiếp Sự phần hai, Đối Pháp mười ba, Hiển Dương bốn, hai, hai mươi. Kinh Bồ-tát Tạng bốn… đều ghi là: “Một là, hữu sắc quán chư sắc giải thoát; hai là, nội vô sắc tưởng quán ngoại chư sắc giải thoát; ba là, tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ; bốn là không vô biên xứ giải thoát; năm là thức vô biên xứ giải thoát; sáu là vô sở hữu xứ giải thoát; bảy là phi tưởng phi ghi tưởng xứ giải thoát; tám là tưởng thọ diệt giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ. - Hiển hành tướng: Luận Câu-xá hai mươi chín ghi: Nội hữu sắc quán ngoại sắc gọi là sơ giải thoát, bên trong chưa phục trừ sắc tưởng của cái thấy; quán các sắc bên ngoài cho là bất tịnh, gọi là quán ngoại sắc; nay thì chẳng như thế. Căn cứ theo Đối Pháp thì người lúc đầu tiên tu nghiệp, thân ở tại cõi Dục, nhưng đã lìa tâm dục của cõi Dục nhưng chưa nương vào định vô sắc, chưa phục trừ sắc tưởng của cái thấy, chưa lìa tâm dục của cõi Sắc. Nếu tu tập lâu ngày, đã lìa sắc tướng của cái thấy ở cõi Sắc và Dục, hiện tiền an lập, mà quán các sắc trong ngoài của cõi Dục, khởi tưởng ánh sáng, do ba giải thoát trước mà dẫn phát thắng xứ, biến xứ… tức quán các sắc ít nhiều thuộc về thắng xứ mà khởi tưởng ánh sáng. Do trừ biến hóa chướng nên khởi tưởng ánh sáng, chẳng trừ tham dục, cho nên chẳng khởi tưởng thanh tịnh. Luận Du-già chỉ nói chưa được định Vô sắc, chưa lìa nhiễm của Sắc giới. Quán các sắc bên ngoài là sở giải thoát, đó là chỉ căn cứ theo nghiệp tu đầu tiên mà luận. Giải thoát thứ hai, luận Câu-xá ghi: “Trong đã phục trừ sắc tưởng của cái thấy, tức chỉ quán ngoại cảnh là bất tịnh, gọi là nội vô sắc tưởng quán ngoại chư sắc”. Đại thừa thì chẳng phải như thế! Căn cứ theo Đối Pháp thì người khi mới tu tập, đã nương vào định vô sắc phục trừ sắc tưởng của cái thấy, người tu tập đã lâu thì hoặc là không sắc tưởng của cái thấy, hiện tiền được an định mà quán sắc bên ngoài, khởi tướng ít hay nhiều… chẳng giống với lúc đầu quán sắc trong ngoài khởi tưởng ánh sáng, chưa được tự tại. Ở đây chỉ quán kia đã lìa sắc cõi Dục, khởi tưởng thiểu đa… gọi là quán ngoại sắc, vì đã lìa nhiễm, nên lấy tên là ngoại. Quán tâm dần dần thù thắng nên gọi là lược quán. Luận Du-già ghi: “Chẳng tư duy tướng kia, chỉ khởi thắng giải nơi ngoại sắc. Tức là quán ít hay nhiều chẳng khởi tưởng ánh sáng… Nếu tại nơi đây xa lìa được dục mà nói kia là ngoại, chỉ quán kia đã lìa sắc nhiễm mà gọi là ngoại. Vả lại sơ giải thoát có sắc chẳng nói là nội, sắc được quán ở đây cũng chẳng nói là ngoại, mà là duyên chung của các sắc như căn trần trong ngoài… vì khởi tưởng ánh sáng. Nay nội hữu sắc thứ hai này có các sắc như căn… quán ngoại sắc chỉ là quán ngoại trần, khởi tưởng ít hay nhiều…, mà chẳng duyên với căn… khởi ít hay nhiều. Luận Du-già ghi: “Định vô sắc chẳng hiện tiền, đây là nói về quán ngoại sắc, mà chẳng nương vào định vô sắc; định vô sắc chẳng thể duyên ngoại sắc. Hai giải thoát ở trên thì đầu tiên khởi tưởng ánh sáng, sau đó khởi tưởng ít nhiều…, đầu cuối, rộng hẹp, hai cách quán khác nhau. Luận Hiển Dương hai mươi nói rằng hai môn giải thoát này, trừ biến hóa chướng, nơi biến hóa được đại tự tại. Biến hóa đã thông với bốn tónh lự cho nên hai giải thoát đầu đều nương bốn tịnh lự. Nhưng căn bản chẳng phải là Cận phần địa. Kia thích thú tu tập, đều không có quả chung, ở đây chỉ đúng cho dự tu, vì có quả chung, chẳng giống với hai tónh lự đầu nói trong Câu-xá, có khả năng trừ cõi Dục. Trong sơ tịnh lự, vì hiển sắc tham, mà tu bất tịnh quán. Giải thoát thứ ba, luận Câu-xá ghi: “Tướng thanh tịnh chuyển làm ánh sáng thanh tịnh đẹp đẽ, vì hành tướng chuyển”. Chỉ có tónh lự thứ tư lìa tám tai hoạn, tâm trong lặng, các địa khác tuy có tương tự giải thoát mà chẳng kiến lập được, vì chẳng có tăng thượng. Nay Đại thừa cho rằng như có người đã được niệm xả hoàn toàn trong sạch, rồi lấy đây làm chỗ nương, tu Thánh hạnh thanh tịnh viên mãn, đối với các sắc tịnh hoặc bất tịnh bên trong, đã được niệm tưởng triển chuyển đối đãi nhau, xoay vần đều nhập vào tưởng, xoay vần một vị tưởng, đây là hành tướng của môn giải thoát thứ ba. Nghóa là đợi các sắc tịnh, còn đối với các sắc khác đều cho là Bất tịnh, đều là đối đãi. Nếu chỉ thấy một loại, tịnh hoặc bất tịnh, thì hai giác đều không, đó gọi là sơ tưởng. Vả lại trong tịnh thì tánh bất tịnh tùy thuận mà nhập vào, trong bất tịnh thì tánh tịnh cũng tùy thuận mà nhập vào. Do lớp da che kín bao bọc nên cùng cho rằng trong chỗ tịnh này hiện có ba mươi sáu vật bất tịnh, đây là tưởng thứ hai. Như thế xoay vần gom tất cả sắc hợp làm tưởng giải thoát có một vị thanh tịnh, đây là tưởng thứ ba, tên là thành tựu, chỉ có ở địa tónh lự thứ tư, vì có xả niệm tịnh, luận thuyết đều vượt qua các khổ lạc, tất cả động loạn đều đã vắng lặng, vì khéo léo mài dủa sáng tỏ. Còn các địa khác thì không được như thế. Chỉ có ở địa Tónh lự thứ tư, đây cũng là do bên trong không có sắc tướng mà quán sắc bên ngoài, do trước đã nói nên ở đây không luận thêm, mà lập tên khác. Thứ tư, Vô sắc giải thoát: Luận Câu-xá ghi: Lấy định thiện vô sắc làm tánh, chẳng phải vô ký, vì nhiễm chẳng phải là giải thoát, cũng chẳng phải là tán thiện vì tánh rất yếu kém. Cận phần giải thoát đạo cũng gọi là giải thoát, vô gián thì không như thế vì duyên với cõi dưới, kia cần phải trái ngược với địa dưới mới được gọi là giải thoát. Phần nhiều nói về căn bản, nghóa là cận phần chưa được hoàn toàn. Nay, Đại thừa thì đã lìa Dục ở cõi đang trụ, nương vào Tự địa căn bản, quán lại tự cảnh, tư duy giải thoát, khiến xa lìa các chướng, dẫn sinh đức thù thắng, nghóa là như có một hữu tình đã lìa dục của không xứ kia, tức là nơi hư không tư duy giải thoát. Đó gọi là hành tướng giải thoát của không xứ. Đối với thức xứ đã lìa dục, tức nơi thức tư duy giải thoát, thì gọi là hành tướng giải thoát của thức xứ. Nếu đối Vô sở hữu xứ, đã lìa dục, nơi thức vô biên xứ tư duy giải thoát, thì gọi là hành tướng giải thoát của vô sở hữu xứ. Hai cõi không và thức lấy hành tướng sở duyên của tự địa làm tên, vô sở hữu xứ dùng thức hữu vô làm tên của tự địa. Cho nên đối với thức xứ tư duy giải thoát. Nơi trời Hữu đảnh đã xa lìa nhiễm. Lại chẳng khởi thắng giải ở những địa khác cho đến biến khắp nơi, tưởng có chỗ sinh, nghóa là ở nơi này nên khởi thắng giải, và vô sở hữu xứ gọi là tưởng sinh xứ. Nay duyên với tâm tâm sở vô sở hữu này gọi là phi tưởng phi phi tưởng, cho nên cùng khắp cõi này tư duy giải thoát, đến đoạn sau sẽ biết. Trên nói lìa nhiễm là căn cứ theo bậc vô học. Cho nên luận Du-già ghi: “Bảy giải thoát trước là nơi do đã giải thoát sinh thắng giải, thân chứng mà được”. Nếu căn cứ theo Duy Thức thì có hai sự giải thích: Cho rằng phục nhiễm của sơ định trở lên thì được diệt định. Cho rằng phục nhiễm của định thứ tư trở lên mới được diệt định. Nhiễm của vô sở hữu xứ trở xuống có thể có nghóa phục, khiến các chướng chuyển xa, dẫn sinh đức thù thắng. Địa Hữu đảnh định chưa có thể phục được. Luận Du-già mười hai nói hai giải thoát là không và thức là có thuyết lìa nhiễm ở tự Địa, nói hai địa trên là không nói lìa nhiễm của tự Địa, vì lược thuyết từ hữu học vô học. Chỉ tại căn bản, cũng chưa phải là cận phần. Diệt tận giải thoát thì Tiểu thừa đều thuyết, tức là diệt tận định không có hành tướng, xả bỏ tưởng thọ. Nhưng khi sắp nhập thì có hai hành tướng, nghóa là nương vào tưởng phi tưởng phi phi tưởng xứ và tưởng vô tưởng giới; đầu tiên là người tu đã thành thục, ý sau là đã nhập. Nêu thể tánh: Luận Câu-xá cho rằng ba giải thoát trước không có tánh tham, lấy năm uẩn quyến thuộc làm tánh. Bốn giải thoát kế tiếp thì lấy định thiện vô sắc làm tánh; giải thoát thứ tám thì lấy diệt định làm tánh. Đại thừa thì theo giải ngũ pháp luận Du-già bảy mươi ba ghi: Lấy chánh trí thế gian, và xuất thế gian làm thể. Hữu lậu thì lấy chánh trí thế gian phân biệt làm thể. Vô lậu tức vô phân biệt trí và hậu đắc trí, chỉ lấy tuệ làm tánh, bặt sắc và phi sắc cùng cảnh chân như, lìa các chướng của định dẫn sinh đức thù thắng. Chẳng phải pháp khác có thể được. Nếu căn cứ theo tương ứng thể thì bảy giải thoát trước lấy bốn uẩn làm tánh, năm uẩn quyến thuộc làm tánh. Luận Đối Pháp ghi: “Như định, tuệ và các tâm tâm sở tương ưng với nó, trong cõi vô sắc có định đạo, không có biểu sắc”. Giải thoát thứ tám lấy chủng tử yểm tâm của hai mươi hai pháp làm thể, tức thuộc Bất tương ưng hành uẩn. Giải thích tên: Đầu tiên giải thích tên chung, sau giải thích tên riêng. Giải thích tên chung: Luận Du-già ghi: “Bảy giải thoát trước, thì nơi đã giải thoát mà sinh thắng giải. Bảy pháp sở quán phần nhiều là phục là đoạn các nhiễm chướng phiền não ở Địa kia, mới được gọi là tu tác cho nên gọi là “đã giải thoát”; nay quán cảnh đã giải thoát là trừ các chướng của định mà khởi công đức thần thông, phát sinh thắng giải, cho nên gọi là giải thoát. Người đã thân chứng thì nhiễm ở Hữu đảnh nhất định chưa thể xa lìa, nhưng trừ định chướng ở cõi kia, khởi các công đức vô tránh… cho nên thành giải thoát. Do đó trước nói: “phần nhiều đã lìa”, nếu không như thế thì nói nhiều cũng vô dụng. Giải thoát thứ tám đã xa lìa tưởng thọ cho nên gọi là giải thoát. Trước vô gián đạo tuy đã diệt các chướng thọ tưởng, nhưng đến giai vị diệt tận định mới được gọi là giải thoát. Do khi nhập diệt định, liền bỏ các chướng tưởng thọ, chỗ mong cầu nay đã đầy đủ, cho nên gọi là giải thoát, ở một thời gian khác mới giải thoát định chướng. Vì trước đã xa lìa nên cũng giải cũng thoát. Tám là đới số thích. Giải thích riêng các tên: Hữu sắc quán chư sắc giải thoát: Luận Du-già ghi: “Do hai nhân duyên gọi là hữu sắc: Nghóa là sinh Dục giới được Định sắc giới, lại nơi ánh sáng mà sinh thắng giải”. Đây là quán cõi thù thắng ở cõi Dục mà trừ các sắc ít nhiều, tốt xấu, hơn kém… khởi tưởng ánh sáng. Chỉ gọi là hữu sắc quán chư sắc mà không gọi là nội hữu sắc quán ngoại sắc. Vì đó có sắc chẳng phải chỉ ở trong, các sắc được quán chẳng phải chỉ ở ngoài, tức quán ngoại sắc và quán ngoại sắc của hữu sắc đều thuộc y chủ thích. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc: Do hai nhân duyên mà gọi là Nội vô sắc tưởng: Đã chứng đắc đẳng chí của vô sắc, cũng tự rõ biết, được định này. Đầu tiên nương vào định không xứ đã lìa nhiễm của Sắc giới. Luận Hiển Dương ghi: “Trong không có sắc tưởng nghóa là nương vào định vô sắc, mà ý hiển tư duy. Chẳng tư duy về tưởng ánh sáng ở trong cho nên gọi nội vô sắc. Ý câu này là hiển thị đã được không xứ thì lìa được sắc nhiễm. Vả lại tự nội tâm chẳng khởi tướng quang minh (Ánh sáng) nên gọi là nội vô sắc vì đã xa lìa nhiễm sắc, nên gọi là ngoại. Luận Du-già ghi: “Nếu ở nơi này mà xa lìa dục thì nói đó là ngoại, vì đã lìa nhiễm.” Tức quán sắc này sinh khởi sự hiểu biết ít, nhiều… nên gọi là quán ngoại chư sắc.” Du-già lại ghi: “Vả lại chẳng tư duy tướng ánh sáng của tưởng kia, mà chỉ ở ngoại sắc khởi thắng giải”. Thuyết này nói chẳng khởi quán sắc ánh sáng chỉ khởi các thắng giải ít nhiều, tốt xấu… Bốn thắng xứ đầu tiên, có sắc không sắc, mỗi mỗi đều quán sắc khác nhau. Hoặc ít hoặc nhiều… ở đây đều quán chung ngoại nhiều ít, tốt xấu… cho nên khác với thắng xứ. Quán ngoại chư sắc và nội vô sắc quán ngoại sắc cũng đều thuộc y chủ thích. Khi nội vô sắc ắt phải được các định như không xứ… khi chánh quán ngoại sắc khởi thắng giải, thì chỉ y vô sắc, vô sắc chẳng thể quán các sắc nhiều ít,… cho nên luận Du-già ghi: “Định Vô sắc giới chẳng hiện tại tiền”. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ: Luận Du-già ghi: “Đã được niệm xả thanh tịnh trong sáng”, lấy đây làm chỗ y cứ, tu tập Thánh hạnh trong sáng viên mãn, gọi là tịnh giải thoát. Ở đây là nói trong tónh lự thứ tư đã lìa chướng ở cõi thứ ba là tầm tứ hỷ lạc, niệm xả viên mãn, trong sáng gọi là tịnh. Luận Du-già ghi: “Nghóa là đã vượt qua các khổ lạc, tất cả các loạn động đã tịch tónh, khéo mài dũa thành trong sáng, vì đã lìa các biến hóa chướng tịnh và bất tịnh, nên gọi là giải thoát.” Nội vô sắc mà quán ngoại sắc này, tức là khởi tịnh tưởng; tịnh, bất tịnh đối đãi nhau mà lại cùng nhập vào một vị. Do trước đã nói nội vô sắc vì thế nay lược bỏ. Đã lược nội vô sắc thì ngoại quán sắc… cũng lược, mà chỉ nói là tịnh giải thoát. Luận Hiển Dương nói xưa nay ý giải tư duy tịnh diệu thuộc về môn lý tùy chuyển, hoặc y theo lúc quán pháp kia thành tựu mà triển chuyển thành nhất vị; chỉ quán tịnh tưởng; cho nên có thuyết này. Thân tác chứng, nghóa là trong trụ này, tất cả Hiền Thánh phần nhiều đều trụ ở đây. Thân tức là ý thân, tác chứng nghóa là do nơi trí đoạn mà được tác chứng. Các căn đắc cảnh chỉ có căn thân là thân chứng đắc, hơn các căn khác, chỉ có tên là chứng. Ở đây cũng như thế. Hai giải thoát trước thì ý giải tư duy còn xa nên có tên quán. Nay giải thoát này đã trừ chướng, tối thắng, thân cận Thánh ý cho nên gọi là thân tác chứng. Do đó bậc Thánh phần nhiều trụ ở đây và giải thoát thứ tám, cả hai đều rất thù thắng, trong hai cõi thì mỗi giải thoát ở tại một bên. Trong kinh, Đức Thế Tôn nói thân tác chứng thì ở cõi Sắc và Vô sắc các chướng đều trừ diệt, chứng được chuyển y, hơn sáu pháp khác. Cụ túc trụ, nghóa là căn bản của tónh lự thứ tư đã viên mãn. Giải thoát thứ tám cũng như thế, cửu thứ đệ định đã viên mãn. Không vô biên xứ giải thoát: Luận Hiển Dương ghi: “Hư không, nghóa là sắc đối trị với cảnh giới sở duyên, và không được sắc kia. Vô biên nghóa là không thể phân biệt các tướng trong mười phương, nên gọi là không vô biên. Xứ, nghóa là các pháp sở y các hành sở y như định… là chỗ sở y của Hư không sở duyên cho nên gọi là Xứ. Hai cõi Dục và Sắc thì tướng trạng dễ biết, cõi này thì rất khó hay, nên chỉ lấy xứ làm tên. Không vô biên là cảnh, xứ là năng duyên, xứ của không vô biên thuộc về y chủ thích. Sau đều căn cứ theo đây mà biết được. Thức vô biên xứ: Nghóa là thức duyên với hư không vô biên. Nay duyên với thức này làm cảnh giới, các tưởng trong mười phương chẳng thể biết nên gọi là Thức vô biên; xứ tức năng duyên, nghóa như đã giải thích ở trên. Vô sở hữu xứ: Nghóa là đối với các cảnh giới trên thức xứ, khi suy cần thì không có thiếu sở đắc, ngoài vô sỡ hữu thì không có một cảnh giới khác, do chỉ thấy cảnh giới này cực tịnh, cho nên vô sở hữu, cảnh giới vi tế này siêu việt cảnh quán trước, trên cảnh lại không có thiểu và sở hữu thiểu cũng không. Các nghóa khác cũng như đã giải thích ở trước. Phi tưởng phi phi tưởng xứ: Phi tưởng siêu việt vô sở hữu tưởng, vì vô sở hữu xứ còn có tưởng thô. Phi phi tưởng, nghóa là cảnh giới trên vô sở hữu xứ, khi suy cầu thì chỉ được duyên với tâm tâm sở cực vi tế vô sở hữu, do chỉ thấy cảnh cùng cực thanh tịnh này, nên vô sở hữu xứ trước chỉ duyên với thức xứ trở lên, về các cảnh thì ít phần cũng không có. Cõi Hữu đảnh này chỉ duyên với tâm tâm sở năng duyên của vô sở hữu xứ, chẳng đồng với Địa kia còn có tưởng thô, cho nên gọi là phi tưởng. Nhưng do không còn tâm cùng cực thanh tịnh này nên gọi là phi phi tưởng. Phi tức là vô, chẳng phải hoàn toàn vô tưởng. Các nghóa khác cũng như trên. Tưởng thọ diệt giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ: Do tưởng và thọ mạnh mẽ hơn các tâm hành khác, cho nên các tâm lo sợ, chán ghét, phiền não tạm ngừng dứt. Khi ngừng dứt, thì đoạn chướng, nên được gọi là giải thoát. Đây là giải thoát diệt tưởng thọ, thuộc về y chủ thích. Bảy giải thoát trên đều là trì nghiệp thích, nghóa là có sắc quán các sắc tức giải thoát, vì giải thoát các chướng, cho đến phi tưởng, phi phi tưởng xứ tức giải thoát. Cũng có thể dùng sự giản lược mà chung cho y chủ thích, nghóa là nói giải thoát của hữu sắc quán các sắc. Đẳng trì tức là chín đẳng trì, bình đẳng giữ gìn tâm cho đến cảnh nên gọi là đẳng trì, tức là định, gồm chín loại như trước đã nói. Đẳng chí tức chín đẳng chí, trong đó cõi Sắc gồm có bốn, Vô sắc có bốn và diệt tận đẳng chí. Do trước khi đắc định đã chiết phục được các tâm hôn trầm, điệu cử, không còn cao thấp, cho nên gọi là đẳng, vì thế hôm nay đến giai vị an ổn trong định, cho nên gọi là đẳng chí, hoặc do tâm định chiết phục hôn trầm điệu cử, đến được giai vị bình đẳng an hòa, nên gọi là đẳng chí: Hai pháp đẳng trì và đẳng chí này mà gồm nhiếp tất cả pháp, lại nêu lên định thù thắng, là hiển thị tất cả đều an trụ, cho nên nói: “Tónh lự niệm…” Chánh quyết trạch tức tuệ vô lậu. Vọng kiến tức tất cả bất chánh kiến. Ác tuệ, tức tất cả tà suy cầu và bất chánh tri. Theo thứ tự phối hợp với ba độ sau. Chỉ như thức…, nói sáu chí là tự lợi, nay nói lợi tha, tức phần nhiều là tự lợi, nhưng hồi hướng tức là lợi tha, cho nên không trái nghịch. Kinh: Tuy là bạch y… thường thích xa lìa. Tán: Từ đây xuống là phần hai nói về quyền đồng loại lợi ích. Gồm mười tám câu. Đoạn này có bốn câu: Sống nơi thế tục mà thường giữ gìn phép tắc chân chánh. Sống đời có gia đình mà chẳng nhiễm trần. Có thê thiếp nô tỳ mà không nhiễm ái tình. Có thân thích mà trừ ý tầm. Tánh giới của Bồ-tát hàng thông tục đều giữ gìn, oai nghi của người xuất gia thế tục dễ khuyết phạm, cho nên nay ở thế tục mà luôn luôn giữ gìn chân quỹ phạm. Các người tại gia thường bị ba cõi ràng buộc, còn cư só tuy tại gia mà lìa nhiễm ô của ba cõi. Ba cõi tức cõi Dục, Sắc và Vô Sắc. Giới thuộc về Dục, cho đến giới thuộc về vô sắc, cho nên có tên như thế. Như nói hồ tiêu ẩm, kim cang hoàn (nước Hồ tiêu, vòng kim cang). Trong giới có dục, giới chỉ có sắc, trong giới không có sắc, cho nên gọi là Dục giới… Vợ con do hóa hiện, hằng giữ gìn phạm hạnh, không có ái nhiễm. Tuy có quyến thuộc mà không có ý nghó về thân thích vì đã lìa tầm. Kinh: Tuy mặc y phục quý báu… tónh lự đẳng chí làm vị. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Hai nghiêm luôn luôn tự trang sức. Hai món ăn thường làm vị. Bên ngoài trang sức đồng thế tục, bên trong trang nghiêm đồng như chân đạo. Vì thế tuy có tài bảo nhiều mà thường dùng tướng quý và vẻ đẹp trang nghiêm thân. Cứu vật mà thọ nhận thức ăn, tự lợi nên trụ nơi thiền định, hai lợi gồm tu, định tán hai nơi đều trụ. Thức ăn gồm bốn loại là đoàn, xúc, tư và thức. Các pháp tónh lự phá hoại các hữu, cho nên chẳng phải là thể của thực, chỉ lấy vị chứng đắc cho nên chẳng gọi là thực. Kinh Phật Địa ghi: “Pháp vị rộng lớn do hỷ lạc giữ gìn, làm thức ăn (thực) cho pháp xuất thế, chẳng làm thức ăn cho thế gian”. Thức ăn là để tư dưỡng thức hữu lậu, như biệt chương đã nói. Kinh: Tuy đồng vui thú… ý lạc chẳng mất. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Phóng túng để lợi lạc quần sinh. Hình tuy tà mà tâm trọng pháp. Bác tức sáu Bác, thuộc về bài bạc, dịch tức kỳ dịch thuộc về cờ bạc vui chơi. Bồ-tát đối với các loại này chẳng đối chẳng khi, chẳng lừa chẳng gạt mà dùng các phương tiện điều phục hóa độ nên gọi là thành thục hữu tình. Hình tuy đồng với ngoại đạo, khổ hạnh theo nghi quỹ của họ nhưng nội tâm cũng thường tu tập ý lạc Phật pháp không bao giờ hoại diệt. Vì được lòng tin chẳng hoại. Kinh: Tuy rõ biết tất cả… thuyết pháp là thượng thủ. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Có vật báu bên ngoài mà lại trọng bên trong. Ở trong hội thuyết pháp bậc nhất. Chánh pháp của Phật gọi là nội uyển, đối với pháp lạc này, luôn luôn ngoạn thưởng, hoặc lý chân như gọi là nội uyển, Sơ địa trở lên được pháp uyển lạc, cho nên tuy ở trong chúng hội, làng xóm mà chứng ngộ sâu xa, thuyết pháp thượng thủ. Bản dịch xưa ghi: “Tất cả mọi người cung kính, làm bậc nhất trong pháp cúng dường”. Do thuyết là thượng thủ, cho nên tất cả đều cung kính, là bậc nhất trong việc cúng dường. Kinh: Vì tùy theo thế giáo… chỉ bày có sở học. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Thuận thế hiện lễ nghi. Tùy tục cầu tài lợi. Không trái nghịch với các việc tôn ti, lễ nghóa, trung hiếu của thế gian. Bản xưa ghi: Nắm giữ chánh pháp, nhiếp phục kẻ lớn người nhỏ. Chánh pháp tức lễ nghi thế gian. Thị hiện sự lợi lạc thế tục, phương tiện thu thập tài vật để cứu giúp người bần cùng. Bản xưa ghi: “Tất cả việc buôn bán làm ăn hùn hợp, khi có lời thì chẳng sinh vui mừng”, ý cũng giống nhau. Kinh: Vì lợi ích loài hàm thức… dẫn dụ khai mở cho kẻ sơ cơ mới học. Tán: Đoạn này gồm bốn câu: Diễn giảng hay im lặng đều lợi ích người. Theo lý đoán rất công bình. Như pháp giáo huấn Đại thừa. Chỉ dạy người sơ học. Ở phố thị diễn giảng, ở làng xóm im lặng, nơi nơi đều cứu độ hữu tình. Ở Ấn Độ khi phán xử sự việc đều ủy thác cho người ngay thẳng, cho nên vì quần sinh mà xử lý các việc của nhà vua, vì sợ có uẩn khúc, tổn hại đến người. Hai câu sau có thể biết được. Kinh: Vào nhà dâm… dạo chơi nơi kỹ nhạc. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Ở nơi dục mà khuyên xa lìa nhiễm. Dạo chơi mà khiến cho được niệm, biết, khiến họ chánh niệm chánh tri, chẳng nhân nơi ca hát mà quên sót chạy theo tà kiến. Bản xưa ghi: Vào tửu lâu mà lập chí”, tửu lầu phần nhiều là có đàn ca, lập chí khiến phát chánh niệm chánh tri. Văn tuy có khác mà ý có thể biết. Kinh: Nếu làm trưởng giả… đoạn tham trước. Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ ba nói về quyền lấy tôn dụ dẫn ty. Gồm mười một câu, tám câu trước là nói tôn quý trong loài người, ba câu sau là nói tôn quý trong hàng trời. Đoạn này gồm có hai câu. Đã là bậc kỳ lão, lại giàu có, quyền cao, được mọi người trọng vọng thì gọi là trưởng giả, cho nên nói pháp thù thắng để khuyên họ nhàm chán trần dục. Kẻ tuổi nhỏ nhà nghèo, giữ đạo tự sống thì gọi là cư só. Tài vật ăn uống không gì không đầy đủ có thể khuyên họ đoạn trừ tham trước. Kinh: Nếu là Sát-đế-lợi… trừ diệt ngã mạn cho họ. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Ở Ấn Độ gồm có bốn chủng tánh: Bà-la-môn, Hán dịch là tịnh hạnh, giữ một ít giới hạnh, tự sống với đạo. Sát-đế-lợi, Hán dịch là quan tộc, ở địa vị tôn quý, tự vui cai trị nhân dân. Phệ-xá, Hán dịch là tọa thâu, ở địa vị thấp kém, lấy việc buôn bán làm quý, để mất thân hình. Mậu-đạt-la, Hán dịch là canh điền, tức những người lấy việc cày cấy ruộng vườn làm kế sống, và để cống hiến cho người có chức quyền. Hai loại đầu tôn quý cho nên được nêu lên. Quan tộc lo việc trị chánh, nếu có người khinh khi thì dễ sân hận, cho nên dạy nhẫn nhục. Hàng tịnh hạnh giữ đạo, thường tôn mình khinh người, cho nên trừ kiêu mạn cho họ. Kinh: Nếu làm đại thần… dạy họ trung hiếu. Tán: Đoạn này gồm hai câu. Hàng đại thần thường xiểm khúc, thường làm oan uổng người vô tội, cho nên dạy cho họ chánh pháp. Vương tử thường kiêu xa, ít ghi nhớ lễ nghóa, nên dạy cho họ trung hiếu. Kinh: Nếu làm nội quan… ý lạc thù thắng. Tán: Hàng phi tần, cung nữ phần nhiều dâm dật, cho nên dùng chánh để giáo hóa. Nội quan, tức chức quan quản lý nội cung. Ở Ấn Độ lập chức này để sửa trị hậu cung, như quan giám cung Trương Thu. Hàng thứ dân tu tập ba phước nghiệp là thí, giới và tu, gọi là tương tự phước, vì giống như phước xuất thế gian. Gọi là tương tự phước, ý lạc thù thắng và thắng tín giải ở trên, hoặc cho là thắng ý lạc của tương tự phước, hoặc cho rằng phước và ý lạc khác nhau, chẳng thể tu phước xuất thế thù thắng mà chỉ tu thắng ý lạc. Bản xưa không ghi thù thắng ý lạc. Kinh: Nếu là Phạm thiên… lợi ích an lạc. Tán: Gồm ba câu nói về bậc tôn quý trong cõi trời. Phạm thiên ở tại Sơ định, nghóa là độc tôn trong thiên hạ. Nay nêu lên các tónh lự khác nhau để biết chẳng phải là độc tôn. Vả lại ở bốn thiền, mỗi mỗi đều có thể làm chủ, chưa nhất định là sai biệt. Bản dịch xưa ghi: “Dạy cho họ thắng tuệ mà hiển thị các định”. Đế Thích ở cõi trời phần nhiều khởi tưởng là thường, cho nên thị hiện các việc tự tại mà chỉ dạy tất cả đều vô thường. Bốn vị trời hộ thế mỗi mỗi cai quản một phương, khiến bảo vệ tất cả những lợi ích bình đẳng. Kinh: Vô Cấu Xưng… lợi ích hữu tình. Tán: Đây là phần thứ hai tổng kết quyền khi xưa. Các việc thiện xảo này là phương tiện tuệ. Lại gọi là môn, là vì từ đây xuất sinh ra các phước tuệ. Kinh: Ông ấy dùng phương tiện hiện thân có bệnh. Tán: Từ đây trở xuống là đoạn hai nói về quyền hôm nay gồm hai phần: Hiện thân quyền, tức thân có bệnh. Hiện ngữ quyền, tức là thuyết pháp. Đoạn này là nói về thân quyền. Hỏi: Muốn hiện thân quyền thì có rất nhiều phương tiện, vì sao phải hiện bệnh? Đáp: Ý hiện bệnh, lược có mười: Có người đến thăm bệnh, nhân đó thuyết pháp giáo hóa. Hy vọng Thế Tôn đến thăm bệnh. Hiển thị việc từ vô thỉ đến nay có thân thì đều có bệnh. Nói về tâm Từ bi tùy theo bệnh của chúng sinh. Biết nhân bệnh của phàm Thánh. Khiến người có bệnh điều phục tự tâm. Khiến cho hàng hạ vị khác, biết được các loại khác. Hiển việc Diệu Cát Tường là bậc cao đức mới có thể đối đáp. Nhân việc cùng ngài Diệu Cát Tường đối đáp mà có lợi ích lớn. Hiển thân Như Lai có oai đức lớn. Như kinh văn sau có ghi, không cần phải thuật đủ. Kinh: Vì ông có bệnh… đều đến thăm bệnh. Tán: Đoạn này là nói về ngữ quyền. Đoạn này gồm hai phần đầu tiên nói về sở hóa, sau đó chính thức nói về quyền. Đây là văn thứ nhất. Các người đến thăm bệnh đều là người được hóa độ (sở hóa). Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… vì họ mà thuyết pháp. Tán: Đoạn này trở xuống là chánh thức nói về quyền, có hai, đầu tiên nêu lên, sau đó là hiển bày. Đoạn này nêu lên quyền. Kinh: Này các nhân giả… chẳng thể tin là chắc chắn. Tán: Đây là hiển thị ngữ quyền, gồm có ba: Dạy xa lìa. Khuyên nên ưa thích mong cầu, tức là câu: “Này các nhân giả! Thân như thế nên xa lìa, mà nên khởi tâm ưa thích thân Như Lai”. Các môn tu hành không ngoài hai pháp này. Nói về lợi ích tức câu: “Vô Cấu Xưng tùy theo những người vân tập đến thăm bệnh mà thuyết pháp”. Văn đầu tiên lại gồm năm phần, dạy chúng sinh về năm pháp quán nhàm chán sự hủy hoại: Than sự sinh diệt, là nghóa vô thường. Từ câu: “Bị khổ làm não loạn”, than sự bức bách, là nghóa khổ. Từ câu: “Thân này như bọt bóng…” là than về chẳng thật có tức nghóa không. Câu “thân này vô chủ…” là than việc không tự tại, tức nghóa vô ngã. tịnh. “Thân này bất tịnh…” là than thân này dơ xấu, tức nghóa bất Phàm khi nhập quán thì đầu tiên quán vô thường, vô thường cho nên khổ, khổ cho nên không, không cho nên vô ngã, tức nhập chân đế, nay thêm bất tịnh, khiến càng thêm xa lìa. Ở đây thán sinh diệt vô thường là không có cái thường có kia, vì thường vô tướng. Nêu chung về vô thường cũng là riêng hiển sinh là gốc của vô thường, cho nên đặt tên là vô thường. Chân như thường hữu, thần ngã thường không. Hữu này là thân, xưa không nay có, có chẳng phải thường có, chẳng đồng chân như; vốn có rồi lại không, không chẳng phải thường không, chẳng đồng thần ngã, không có hai tướng thường. Ba pháp khác được hiển bày riêng. Không mạnh tức là tướng lão, vì phá hoại sức cường thạnh, không cứng chắc là tướng bệnh phá hoại sự mạnh khỏe, không có sức là tướng tử phá hoại mạng lực. Trên là nêu chung một đời vô thường. Vì mục nát nên chóng bệnh, niệm niệm sinh diệt. Một trăm hai mươi sát-na là một đát-sát-na, sáu mươi đát-sát-na gọi là một lạp-phược, ba mươi lạp- phược là một mâu-hô-lật-đa, mười tám lật-đa là một thời, mười hai thời là một ngày, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, như thế một đời là có vô lượng sát-na sinh diệt. Hoặc vô thường là câu chung, vô thường này không có oai lực cường thịnh không có thế bền chắc, không có sức mạnh mẽ, suy yếu đổi dời, niệm niệm mau chóng, dối gạt người, cho nên chẳng thể tin chắc nó là thường trụ. Vả thân ở cõi Dục không cường thịnh, thân ở cõi sắc không bền chắc, thân ở vô sắc không có lực, tất cả đều mau chóng hư nát, chẳng phải là pháp có thể tin chắc. Kinh: Bị khổ não hại… là pháp biến hoại. Tán: Đoạn này than sự bức bách, gồm hai phần: đầu tiên giải thích tướng khổ, sau khuyên chớ nương cậy. Đây là văn đầu tiên. Khổ tức là do tám khổ ba khổ não hại. Tám khổ: Sinh khổ có hai loại: Một là, do các khổ bức bách; hai là, do các khổ khác nương gá. Trong thời gian còn ở trong thai mẹ, chiụ đủ các vật bất tịnh bức bách, sau khi ra khỏi thai lại bị chi thể bức ngặt vô cùng thống khổ, từ đó về sau lại chịu các khổ già bệnh chết đeo đuổi. Già khổ, thời giờ biến hoại làm cho khổ. Bệnh khổ tức các đại biến đổi làm cho khổ. Tử khổ, thọ mạng biến hoại làm cho khổ. Oán tắng hội khổ, hội hợp sinh ra khổ. Ái biệt ly khổ, xa lìa sinh khổ. Cầu bất đắc khổ, mong cầu chẳng được sinh khổ, nên có bài tụng rằng: “Người mong cầu các dục, thì thường sinh hy vọng, nếu các dục chẳng được, đau khổ như trúng tên”. Ngũ thủ uẩn khổ, tức thô trọng bất an sinh khổ. Bị tám khổ này não loạn cùng với bệnh phiền não làm vật sở y, mà sinh ra nhiều tai họa, thành một trăm lẻ năm khổ theo đuổi mãi, là pháp biến hoại không dừng trụ lâu. Vô thường cho nên khổ, sinh phần vô thường làm duyên cho nên tánh của khổ khổ có thể biết rõ, diệt phần vô thường làm duyên cho nên tánh của hoại khổ có thể rõ biết được, câu phần vô thường làm duyên cho nên tánh của hành khổ có thể biết rõ được. Vì thế dùng biến hoại để giải thích nghóa khổ. Kinh: Này các nhân giả!… chẳng nên nương tựa. Tán: Khuyên chẳng nên nương tựa, chẳng nên nương gá vào thân này mà tạo hoặc nghiệp. Những người có trí gọi là thông tuệ chẳng nương cậy, còn nương cậy đều là những kẻ ngu si. Kinh: Thân này như bọt tụ… từ điên đảo sinh. Tán: Từ đây trở xuống gồm mười câu, than chẳng phải thật có. Chấp thật pháp lấy năm uẩn làm tánh, vì chẳng thật cho nên không. Đoạn này có năm câu. Thân như bọt tụ, Luận Du-già tám mươi bốn ghi: “Mau chóng tăng giảm, vì từ nước sinh, nghó đến vị ăn uống, thì nước bọt sinh, chẳng mềm dẻo, chẳng phải như bùn, đất sét có thể dùng tạo ra các vật khác”. Kinh này nói không thể nhào nặn, nhào nặn là nghóa mềm dẻo, vả lại thật chẳng phải là tụ lại mà tựa như tụ hiện ra, có thể phát khởi sự hiểu biết của hữu tình. Như bóng nổi, do ba hòa hợp sinh, chẳng trụ lậu vì là pháp tương tựa. Trong mê cảnh chân, kế đến có ng- hiệp duyên, có phiền não nhuần thấm mà sinh khởi. Vả lại chóng khởi diệt chẳng trụ bền chắc, nên nói chẳng dừng lâu. Như dương diệm (sóng nắng). Vì tánh dao động mạnh, nên có vô lượng tướng biến dị sinh khởi, khiến nơi sở duyên điên đảo chuyển biến. Cho nên từ khát ái sinh ra, như sáng nắng mùa xuân, xa thấy tựa nước, các con nai khát nước vội chạy đến. Chẳng phải nước mà là nước tưởng tượng nên gọi là do khát ái sinh. Các thân hữu vi từ phiền não khát ái sinh cũng như thế. Như cây chuối, thân không chắc thật, cành lá to lớn nhưng chóng hư hoại. Như người mắt sáng mang đao bén vào rừng đoạn cành lá gốc rễ cây chuối, đều không đạt được gì huống gì là có thật. Như việc huyễn, ví như nhà huyễn thuật đứng ở ngã tư đường tạo ra bốn việc huyễn, tất cả đều không thật có, vì đều do điên đảo khởi. Kinh: Thân này như mộng… niệm niệm chẳng dừng. Tán: Đoạn này gồm năm dụ. Như mộng, nghóa là nói như cảnh thấy trong mộng, cảnh này chẳng thật do hư vọng mà thấy. Do nghiệp chiêu cảm thân, nghiệp là bản chất. Thân như ảnh. Tiếng vang trong hang sâu lắng, tất cả đều không thật có, âm thanh này vốn thuộc về nhân duyên của nơi phát ra, thân này cũng như thế, thuộc nhân duyên gốc, chẳng phải nay mới có. Như mây như điện, theo văn có thể biết. Nhưng luận Nhiếp Đại Thừa nêu tám dụ về y tha, Bát-nhã nêu chín dụ, còn ở đây nêu mười dụ, y tha chẳng thật vì thế thành không, nghóa khác nhau, mỗi mỗi căn cứ theo một môn, chẳng thể hòa hợp, Kinh: Thân này không có chủ… bốn đại là nhà Tán: Từ đây trở xuống là phần than chẳng tự tại. Gồm chín câu. Sáu câu đầu là hiển thị không nên vô ngã, ba câu sau hiển thị vì vô ngã cho nên không. Đây là câu đầu, chủ là tên chung. Bốn câu kế là nêu tên riêng, một câu sau là hiển chung về vô ngã. Chủ nghóa là chủ tể, tên chung của ngã. Địa không có chủ thường nhất cho nên lấy làm dụ. Ngã là tự tại, vì duyên với ba cõi. Hữu tình, tức là từ đời quá khứ kéo dài đến hôm nay. Mạng, tức là thọ mạng hiện đang sinh tồn. Bổ-đặc-già-la, Hán dịch là số thủ thú, luôn luôn lưu chuyển chấp giữ năm đường, từ hiện tại nay cho đến vị lai, đây là ngã chung và riêng trong ba đời mà phàm phu và ngoại đạo chấp trước. Nay nói bốn đại hư giả để hiển thị thân này đều không. Thân lấy bốn đại làm nhà, giả hợp mà thành, xưa nay chẳng thật, cho nên vô ngã. Ngã thì ắt phải thường nhất, chẳng nhờ vào vật khác, nhưng uẩn giới xứ chẳng thường nhất. Bản dịch xưa có năm câu không có nói đến số thú thủ này, chẳng theo thứ tự. Bốn loại ngã riêng biệt này đồng với luận Kim Cang Bát-nhã của ngài Thiên Thân. Kinh: Thân này là không… sức gió chuyển. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Vô ngã cho nên không, hai hạnh tùy nhất, được nhập chân, vì lìa ngã và ngã sở cho nên không, lại không có nhân năng tác nơi thân. Chỉ do sức gió lay động. Vì vô ngã vô ngã sở cho nên không, nếu là ngã sở ắt phải do ngã tạo tác, vì kia hành không, ngã và ngã sở cũng không. Luận Đối Pháp ghi: “Trong uẩn giới xứ, không có ngã và ngã sở, vì thế thành không”. Kinh: Thân này bất tịnh.. ắt sẽ trở về diệt tận. Tán: Đây là luận về quán xa lìa sự ô uế. Gồm bảy câu. Đoạn này gồm hai câu. Bất tịnh có năm: Chủng tử bất tịnh, do hoặc nghiệp chiêu cảm cùng với tinh huyết cha mẹ mà tạo thành thân này. Nơi trụ bất tịnh, nơi y trụ khi chưa sinh là trong thai mẹ. Tự tướng bất tịnh, do ba mươi sáu nhóm họp mà thành. Cộng tướng bất tịnh, chín lổ thường bài tiết ra những chất dơ uế. Tất cánh bất tịnh, sau khi thân hoại thành phân tro… cho nên nói bất tịnh dơ uế đầy dẫy. Tuy có đủ các loại hương thơm xoa ướp tắm rửa, nhưng rốt cuộc cũng trở về chỗ bất tịnh dơ uế. Thân này hư ngụy, có cái gì mà chẳng bất tịnh? Vật bất tịnh thì ắt hư ngụy, sẽ trở về diệt tận. Kinh: Thân này nhiều hoạn lụy… bị sự già nua bức bách. Tán: Trong đoạn này có hai câu: Nhiều hoạn lụy tức nhiều bệnh hoạn. Bốn trăm lẻ bốn bệnh, một đại chẳng điều hòa thì một trăm lẻ một bệnh sinh, bốn đại chẳng điều hòa cho nên có nhiều như thế. Một đại làm gốc, phát khởi một trăm, đây là căn cứ theo số chung, tức cao nhất là một trăm, thấp nhất là một; hoặc do mười mười nghiệp ác đạo làm nhân, chiêu cảm sinh khởi quả thân này, cho nên mỗi mỗi thành một trăm. Mười thập ác nghiệp đạo trái với trăm phước trang nghiêm thân. Mười ác nghiệp đạo là: Tự mình gây tạo. Dạy người gây tạo. Khen ngợi việc gây tạo. Vui mừng gây tạo. Gây tạo một phần. Gây tạo nhiều phần. Gây tạo toàn phần. Gây tạo trong một thời gian ngắn. Gây tạo trong một thời gian dài. Suốt đời gây tạo mười ác nghiệp đạo. Vì thế khi cảm quả có bốn đại này và bệnh do bốn đại sinh ra, mỗi một đại sinh ra một trăm bệnh, tổng cộng có bốn trăm lẻ bốn bệnh. Thủy trụy cấp, nghóa là giếng nước ở Ấn Độ, người xứ ấy thường đào xuyên một bên giếng để làm con đường lên xuống lấy nước và gọi là cận đạo, cận đạo tức là trụy; cấp tức là đường có bậc thang, lấy gỗ làm cấp, để lên xuống lấy nước, lâu ngày dài tháng dẫn đến thang hư mục. Thân cũng như thế, hoặc cho rằng cấp là thang bằng dây, lâu ngày cũng mục rã, thân người cũng như thế. Bản dịch xưa ghi là khâu tỉnh, ý thật khó hiểu. Kinh: Thân này vô định… cùng nhau hợp thành. Tán: Đoạn này có ba câu, không có chủ nhất định thường hằng, sẽ phải diệt tận. Phiền não như oán tặc, bốn đại như rắn độc, đầy dẫy khắp thân thể, như cỏ mục tích chứa; gọi là không tụ, tức thân do uẩn xứ giới tụ tập thành, thân là không chẳng thật có, ý nghóa cũng như thế. Bản xưa có hơi khác, người trí nên biết. Kinh: Này các nhân giả!… nên khởi sự ưa thích. Tán: Khuyên nên ưa thích tìm cầu. Gồm có ba: Đầu tiên khuyên chung, tức từ câu “vì sao?…”, kế đến là nêu tướng khuyên bảo, tức từ câu: “Này các nhân giả! Thân Như Lai có công đức như thế…”Sau cùng là tổng kết thành tựu sự khuyên bảo. Đây và đoạn văn đầu. Kết luận đoạn trước dẫn khởi đoạn sau, nêu tướng khuyên bảo. Kinh: Vì sao? Tán: Đoạn này là nêu tướng khuyên bảo. Đầu tiên nêu lên, sau là giải thích. Đây là lời nêu lên, có nguyên do gì mà chán ghét thân như thế, mà ưa thích thân Như Lai? Kinh: Thân Như Lai… cùng tụ tập mà thành. Tán: Đoạn này là hiển thị tướng, gồm có hai: Đầu tiên nêu tướng pháp thân, sau nêu tướng báo thân. Đây là văn đầu tiên. Pháp thân của chư Phật lấy chân như làm thể, có hằng sa công đức tụ tập mà thành, ẩn hiện khó biết. Nhưng chỉ có thể nói chung, cho nên gọi là do vô lượng pháp thiện tạo thành. Kinh: Do tu vô lượng phước đức trí tuệ thù thắng sinh ra. Tán: Từ đây trở xuống là hiển công đức của hai thân báo hóa. Kim Cang Bát-nhã ghi: “Tất cả chư Phật từ kinh này xuất hiện, tất cả Như Lai, từ kinh này sinh, vì pháp thân đã hiển”. Báo thân là thật đức, hóa thân do hóa thành, thật giả tuy khác, mà nhân không sai biệt. Đầu tiên là nói về nhân tổng đức, sau nói về nhân của biệt đức. Đây là nhân của tổng đức. Hằng sa vạn đức là thuộc về phước trí, công đức của thân Phật chỉ là vô lậu. Từ đây trở xuống là nói về nhân cũng đều vô lậu. Kinh: Tu vô lượng… tri kiến sinh ra. Tán: Đây là hiển nhân của biệt đức, gồm mười lăm câu. Đoạn này có một nhân là từ năm uẩn sinh: Giới uẩn, lấy tất cả giới vô lậu làm tánh. Định uẩn, lấy tất cả định vô lậu làm tánh. Tuệ uẩn, lấy tất cả tuệ vô lậu duyên hữu vi làm tánh. Giải thoát uẩn, lấy tất cả số thắng giải vô lậu làm tánh Giải thoát trí kiến uẩn, lấy trí vô lậu duyên với tất cả vô vi giải thoát làm tánh. Năm pháp này thù thắng, tích tập nhiều, nên lập tên là uẩn. Tiểu thừa xưa gọi là ngũ phần pháp thân. Kinh: Do tu từ bi… nguyệân lực trí sinh. Tán: Đoạn này gồm hai câu. Đầu tiên nói tứ vô lượng tâm Phật là thật quán; kế đó nêu mười Ba-la-mật-đa, điều phục tịch tónh đều là tịnh giới. Tịnh lự, giải thoát đẳng trì, đẳng chí là định. Những pháp khác như tên đã ghi, trước đã giải thích. Kinh: Do tu tất cả… tu chỉ quán sinh. Tán: Đoạn này gồm năm câu. Từ tu tất cả đáo bỉ ngạn sinh, nghóa là Bồ-tát tu tập hai lợi vạn hạnh đều là khiến cho người tu hành đến bờ kia, gọi là Ba-la-mật-đa. Vì có mười sáu điều thù thắng cho nên có tên như thế. Nay muốn hiển nghóa chung cho nên các vạn hạnh khác đều gọi là đáo bỉ ngạn. Bản xưa ghi là phương tiện nghóa là sáu thông như đã lược phân biệt trong phần oai lực. Ba minh tức là túc mạng minh, sinh tử trí minh và lậu tận minh; cũng tức là ba thông, diệt trừ các chướng; diệu dụng khó lường, tác dụng rất rộng lớn cho nên lập tên là thông. Trừ ngu si trong ba thời, chiếu soi sâu xa cho nên lập tên minh. Pháp Bồ-đề phần, chỉ quán định tuệ đều như trước đã giải thích. Kinh: Từ mười Lực… pháp thiện sinh. Tán: Đoạn này gồm bốn câu. Mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng đều đã nói ở trước. Đoạn trừ pháp ác, tu tập pháp thiện là công năng của Thánh đạo. Kinh: Từ tu tập Đế thật… nghiệp thanh tịnh sinh. Tán: Đoạn này gồm ba câu. Từ Đế thật sinh, tức chứng lý thật đế, hoặc hành thật hạnh, hoặc do lời chân thật sinh, chẳng phải do buông lung sinh; do phòng ác tu thiện khởi, do nghiệp thanh tịnh sinh, do ba nghiệp chuyển vận sinh khởi. Kinh: Này các nhân giả!… phát tâm cầu chứng ngộ. Tán: Kết luận để thành tựu lời khuyên. Gồm có hai: Khuyên chứng quả. Khuyên tu nhân. Hoặc trước khuyên chứng pháp thân Phật, sau khuyên tu nhân báo hóa. Đây là văn đầu tiên. Đều phải nêu phát tâm cầu chứng quả đương lai. Hoặc là lý chẳng thể sinh, chỉ có thể cầu chứng hội. Bản xưa chỉ ghi một, không có hai pháp khác nhau này. Kinh: Các ông muốn được… tâm Vô thượng Bồ-đề. Tán: Đoạn này là nói về việc khuyên tu nhân. Nhân tức là tâm Bồ-đề, hoặc khuyên tu nhân báo hóa. Nhân báo hóa tức tâm Bồ-đề. Muốn được thân này, đoạn trừ nghiệp bệnh phiền não của hữu tình và đoạn trừ bốn bệnh tổn hại lớn, thì cần phải phát tâm vô thượng chánh đẳng giác. Tâm chánh đẳng giác là nhân của hai lợi ích. Được thân Phật là tự lợi, đoạn trừ bệnh cho người là lợi tha. Kinh: Ông Vô Cấu Xưng này… tâm Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tán: Đoạn này là phần thứ ba nói về lợi ích. ---------------------------------- <詞>PHẨM 3: THANH VĂN Từ đây trở xuống gồm hai phẩm là nói về quyền riêng biệt khi xưa. Quyền xưa có hai: Quyền hóa Thanh văn. Quyền hóa Bồ-tát. Quyền xảo hiện bệnh, mong người đến thăm, làm việc độ sinh, Phật bảo Thanh văn đến an ủi Đại só, đều từ chối không nhận, xưa đã bị khuất phục dưới bậc cao nhân, nay luận việc ấy, nên gọi là phẩm Thanh Văn. Xưa ghi phẩm Đệ Tử. Vì hình đồng với tướng Phật nên chỉ gọi tên ấy. Phật biết hàng Thanh văn không phải là đối thủ của cư só, nhưng để hiển cao đức của cư só, nên mới sai bảo và muốn khiến cho hàng Nhị thừa có chỗ lấy bỏ. Kinh: [Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… đến thăm bệnh.] Tán: Phẩm này gồm hai: Đầu tiên dùng phương tiện khéo léo, tâm nghó mong cầu Phật thương xót, sau nói về bậc Đại Thánh Từ bi hỏi riêng từng người bảo đến thăm bệnh. Đây là đoạn văn thứ nhất. Tẩm là ngủ, đốn tức là mệt mỏi. Thị hiện bệnh nặng để chiêu gọi người đến thăm. Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… thương xót ông ấy. Tán: Từ đây trở xuống là phần nói bậc Đại Thánh thương xót sai người đến thăm bệnh. Văn gồm có ba: Nêu lên ý nghóa bảo đến thăm bệnh. Bảo mười vị cao đức, đều từ chối chẳng nhận. Kết luận Thanh văn đều từ chối chẳng kham. Đây là văn đầu. Mười vị đại Thanh văn lược phân làm năm đôi. Trong thân tâm vắng lặng, bên ngoài hiển lời lẽ, chỉ cứu kẻ bần khổ, Từ bi bình đẳng bố thí, chỉ dạy kẻ sơ cơ, chỉ dạy chỗ học trước, tùy nói thần thông hơn hết, khiến sám hối trừ tội lỗi, tán thán pháp xuất gia, theo phép tắc thông thường khuất thực dâng cúng Thế Tôn. Tùy theo chỗ đáp mà khất phục, mỗi người liền im lặng không lời. Dấu đạo chẳng đồng, quyền cơ liền khác. Do đó mười vị Thánh đều khuất phục, dùng năm đôi để phân biệt. Kinh: Phật bảo Xá-lợi Tử… đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Từ đây trở xuống là sai bảo mười vị Cao đức, đều từ chối chẳng kham nhận. Văn đều có hai: Sai bảo. Từ chối. Đây là lời sai bảo. Kinh: Xá-lợi Tử… đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Từ chối. Theo văn gồm có ba: Nêu tổng quát về việc đạo đã chịu khuất. Hiển riêng về việc lý đã cùng tận. Tổng kết nguyên do từ chối, tự thân xin thoái lui. Đây và đoạn đầu. Thu Tử tuy thâm tâm đã vắng lặng, nhưng chẳng thể bỏ hình nơi ba cõi. Xa lìa nơi xao động mà vào chỗ vắng vẻ, chẳng thể tức tịch mà dụng, nhân đó mà bị khuất phục. Cho nên đáp chẳng kham nhận. Kinh: Vì sao? Tán: Sau đây là nêu lên lý đã cùng tận. Theo văn gồm có hai: 1.Tự hỏi. 2. Hiểu rõ. Đây là lời tự hỏi. Kinh: [Con nhớ khi xưa… yên tọa nơi gốc cậy.] Tán: Hiển lý cùng. Gồm hai: Đầu tiên nêu lên việc của mình, sau là nêu lời của ngài Vô Cấu. Đây là văn đầu tiên. Yến tức là an. Khi nhập diệt tận định, vì có sáu thức hữu lậu khởi ắt có suy nghó, chán ghét hoạn lụy, nay làm cho chẳng hành, thức thứ bảy đã vô lậu cho nên chỉ nói sáu. Nếu căn cứ theo Nhị thừa, thì nhập định phi tưởng ở giai vị tâm vô lậu, khiến tâm tâm sở dần dần nhỏ nhiệm, khi tâm nhỏ nhiệm thì huân tập thành chủng tử, khiến cho dụng của sáu thức chẳng hiện hành, tức nói dụng này là diệt tận định, căn cứ theo chủng tử mà lập, như biệt chương đã nói. Hoặc cho rằng yên tọa là nhập vô tưởng định, thân tâm vắng lặng, chẳng phải là diệt định. Kinh: Bấy giờ, Cư só Vô Cấu Xưng… nói rằng. Tán: Nêu lên lời của cư só. Theo văn có hai: Đầu tiên nêu phép tắc đến thăm hỏi, sau chính thức thuật. Đây là văn đầu tiên. Ngài Vô Cấu tuy danh đức cao tột nhưng hình thì thuận thế tục. Hàng Thanh văn sống nơi đạo thì giai vị thấp, nhưng tướng mạo giống Như Lai, cho nên tùy loại mà hóa độ quần sinh, người đến nên theo nghi tắc mà kính lễ. Ngài La-thập lời thì khuất Dao chúa, cảnh thì nhiễm trần tục, vào tục thì làm người khách của trưởng giả, vào tăng thì đắp pháp phục Sa-di, chẳng thể khuất phục, để bậc cao đức hạ thấp lễ hàng Tăng lữ. Cho nên lược bỏ oai nghi của người đến mà không ghi lời kính lễ. Căn cứ theo bản Phạm thì có lời này. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi-phất… là yên tọa. Tán: Chính thức nêu lên lời của cư só. Gồm ba: Phản bác chung. Phản bác riêng. Kết luận. Đây là đoạn một. “Duy” là lời kính vâng. Yên nghóa là vắng lặng. Diệt định của Nhị thừa là ngừng dứt tâm suy nghó, tuyệt duyên tưởng nơi cảnh, thân ở yên nơi núi rừng gọi là yên tọa. Đây chẳng phải là định vắng lặng của Đại thừa cho nên bài bác chung; chẳng phải hoàn toàn bài bác cho nên nói bất tất. Kinh: Phàm yên tọa… mới là yên tọa. Tán: Đây là phần bài bác riêng. Gồm có sáu lý: Lý thứ nhất chẳng phải. Phàm yên tọa, nêu chữ yên thì Ứng Lý Nghóa trong Du-già Nghóa chỉ ghi: “Về pháp môn thì có bốn: Nhân duyên. Duy thức. Vô tướng. Chân như. Ba môn sau, theo lý có thể hiểu, còn pháp môn nhân duyên thật khó biết.” Từ đây trở xuống chỉ là căn cứ theo pháp môn nhân duyên mà giải thích, còn ba môn khác có thể dễ biết, cho nên chẳng cần phải nói nhiều. Hàng Thanh văn yên tọa chẳng hiển hiện tâm nơi ba cõi, mà lại chẳng quên thân hữu lậu. Còn Như Lai nhập diệt định thì thân hữu lậu cũng diệt, vì thế xả bỏ sắc vô thường mà đạt được sắc thường, thọ tưởng hành thức cũng như thế. Nhập diệt định như thế gọi là chân yên tọa. Người mới học chỉ diệt tâm mà thân chưa quên, chẳng phải là chân tịch định. Nửa chấp nhận nửa bài bác cho nên nói bất tất. Nghóa lý không trong trung luận và Bách luận nói rằng: “Nhị thừa chẳng được sắc tâm đều không, cho nên ẩn thân nơi núi rừng, diệt tâm nơi định, tuy muốn ẩn náo, trái lại hiển hiện, đạo só biết sắc tâm tức không, vị tất phải yên tịch”. Chẳng hiện thân tâm nơi ba cõi gọi là yên tọa. Kinh: Chẳng khởi diệt định… mới là yên tọa. Tán: Đây là điều thứ hai bài bác về không. Lý Không Nghóa ghi: “Nhị thừa có chỗ thấy cục hạn, tịch và dụng phân hai, cho nên ngừng dứt dụng để vào tịch gọi là yên tọa, bậc đại só thông suốt, ngay nơi tịch khởi dụng, cho nên có thể diệt thân tâm nơi tịch định mà khởi diệu dụng ở oai nghi”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Nhị thừa vào tịch, trí gia hạnh yếu kém, tịch thân tâm mà không thể khởi động tác; dụng thì chẳng tịch, tịch thì chẳng dụng. Còn Bồ-tát vào tịch thì trí phương tiện mạnh mẽ, trước kích phát bản thức mà khởi oai nghi, hiển diệu dụng lợi sinh, sau đó sáu thức mới vào diệt định, bên ngoài hiện thân ngữ, thoạt như có tâm, trong lìa phan duyên thật đã vào tịch, tức tịch mà dụng, gọi là chân yên tọa. Kinh: Chẳng xả tất cả… mới là yên tọa. Tán: Đây là điều thứ ba bài bác về lý. Yên tọa nói ở đây chưa hẳn là diệt định. Không Lý Nghóa ghi: “Hàng Nhị thừa chẳng thể tức tịnh mà cấu, cho nên dứt cấu mà vào tịnh gọi đó là yên tọa. Bậc đại só thì thiện ác như nhau, cho nên chân tục nhất quán”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Nhị thừa vị thấp kém, trí dụng khác nhau, quán chân trí hiện tiền thì dụng tục liền dứt. Khởi tục trí để dụng thì chân trí chẳng hành. Bồ-tát dùng phương tiện tu tập lâu ngày trí dụng hòa hợp, cho nên bên trong thì yên chân cảnh, bên ngoài thì hiện pháp dị sinh, tướng chứng đắc là lý chân như”. Pháp dị sinh tức là phiền não. Sau Địa thứ năm thì chánh trí chứng chân, hậu trí khởi tục. Địa thứ tám trở lên thì hai quán tự tại, cho nên bên trong dứt phan duyên, ngoài hiện pháp phàm, gọi là yên tọa. Bản dịch xưa ghi: “Chẳng bỏ đạo pháp” với “tướng chứng đắc bên trong”, thì văn khác mà ý đồng. Kinh: Tâm chẳng trụ bên trong… mới là yên tọa. Tán: Đây là thứ tư bài bác về lý. Không Lý Nghóa ghi: “Hàng Nhị thừa quán tâm tánh thì có, nên trong trụ sáu căn, ngoài duyên theo sáu cảnh, vì muốn đoạn dứt việc này nên nhập diệt định. Bồ-tát biết tâm tánh chẳng có, đạt được tâm cảnh đều không, gọi là dứt tâm phân biệt, cho nên chẳng trụ trong ngoài, gọi là chân yên tọa”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Nhị thừa quán cảnh”, chẳng vượt khỏi trong và ngoài. Trong là sáu căn, ngoài là sáu cảnh, tổng cộng thành mười hai xứ, gồm nhiếp tất cả pháp, tâm duyên các pháp này có thể chán ghét hoạn lụy, cho đến tận giai vị, đó gọi là nhập định. Bồ-tát vào tịch chỉ quán chân lý vô tưởng mà nhập, chẳng duyên trong ngoài mà thành diệt tâm, gọi đó là chân yên tọa. Cho nên các giáo nói rằng “nương vào giới tướng vô tướng mà nhập diệt định”. Lại nói: “Trụ chân không, ngừng dứt phan duyên, chẳng theo trong ngoài, lìa tướng an lập, gọi là yên tọa.” Kinh: Trụ ba mươi bảy phẩm… gọi là yên tọa. Tán: Đây là thứ năm bài bác về lý. Ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần là chánh nhân để chứng giác, cho nên nói là phần pháp. Không Lý Nghóa ghi: “Hàng Nhị thừa chẳng thể tức tà mà chánh, cho nên bỏ tà vào chánh, gọi là yên tọa. Bồ-tát tức tà mà chánh, cho nên trụ ở giác phần, chẳng lìa kiến thú, gọi đó là chân yên tọa” Ứng Lý Nghóa ghi: “Kiến thú tức Tát-ca-da kiến, biên chấp kiến, kiến thủ, giới thủ, tà kiến, ý cảnh của năm kiến này gọi là kiến thú, hoặc cho rằng là chỗ quy thú của năm kiến, tức là năm thú như ngoại đạo… Nhị thừa trụ ở giác phần chẳng thể chuyển hóa ác kiến thú của các ngoại đạo, cho nên gọi là lìa. Bồ-tát bên trong trụ ở pháp phần, bên ngoài thì giáo hóa các tà đạo, cho nên gọi là chẳng lìa, tức chân yên tọa. Bản xưa ghi: “Đối với các kiến chẳng động, mà tu ba mươi bảy phẩm”. Nghóa này chẳng phải, đâu thể gọi là chân diệt? Kinh: Chẳng bỏ sinh tử… gọi là yên tọa. Tán: Đây là thứ sáu bác bỏ về lý. Không Lý Nghóa ghi: “Nhị thừa không thể tức phược mà giải, cho nên đoạn phược (trói buộc), bỏ sinh tử; chứng Niết-bàn có chỗ trụ”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Bồ-tát tuy đồng phàm phu chẳng bỏ sinh tử, vì có đại trí, nhưng chẳng đồng vì không có phiền não; tuy đồng Nhị thừa chứng Niết-bàn vì có đại bi, mà cũng chẳng đồng là do vô sở trụ. Nhị thừa chẳng như thế, nếu xả bỏ sinh tử, thì đoạn phiền não. Nếu chứng Niết-bàn thì trụ nơi ấy. Cho nên Bồ-tát gọi là chân nhập tịch. Bản dịch xưa ghi: “Chẳng đoạn phiền não mà nhập Niết-bàn “, nay nói không phiền não thì lý rất trái ngược, cũng có thể nói lưu giữ hoặc, không đoạn phiền não, chứng vô trụ xứ, gọi là nhập Niết-bàn. Kinh: Nếu có thể như thế… chư Phật ấn khả. Tán: Đây là tổng kết sự bài bác. Nếu có các đức như trước đã nêu mà yên tọa thì khế hợp với chánh lý, được Phật ấn khả, vì đầy đủ các hạnh. Nếu như không các việc đã nêu ở trước mà nhập định thì không được chư Phật ấn khả vì đó là hạnh Tiểu thừa. Kinh: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ… không đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đây là đoạn thứ ba, kết thúc lời đáp, tự biết kém sút xin rút lui. Kinh: Lúc bấy giờ, Thế Tôn… đến vấn an bệnh ông ấy Tán: Văn có hai: Đầu tiên sai bảo. Phạm, Ma-ha Một-đặc-già-la, Hán dịch là Đại thái thục thi, thục là đậu, thị tức là họ. Từ thời xa xưa có một vị Tiên thường ăn đậu xanh, vì đây là hậu duệ của vị tiên này cho nên có tên là Đại thái thục thị. Về nhân do của ngài cùng với Xá- lợi-phất và Ca-diếp thì đã nói trong quyển thượng Di-lặc Thượng Sinh Kinh Sớ. Kinh: Lúc bấy giờ, Đại Mục-liên… đến đó thăm bệnh. Tán: Đây là phần từ chối chẳng kham nhận. Văn gồm có ba: Đầu tiên tổng quát về đạo đã chịu khuất phục, kế đến là hiển riêng về lời đã tận; sau cùng là kết luận nguyên do từ chối, tự thân thấy kém mà xin thoái lui. Đoạn này là nói về đạo đã khuất phục Mục-liên bên ngoài hiển ngôn ngữ lý lẽ mà chẳng khế hợp với bên trong quên lời, tuy nói ngã không mà chẳng thể luận pháp chẳng có, nhân đây mà bị khuất phục. Vì thế mà đáp chẳng kham. Kinh: Vì sao?… diễn thuyết pháp yếu. Tán: Từ đây trở xuống là hiển lý cùng, theo văn gồm có hai: Đầu tiên tự hỏi, sau đó là hiển bày. Trong phần hiển bày lại có hai, đầu tiên là nêu việc của mình, sau là thuật lại lời của Vô Cấu. Đây là lời tự hỏi. Cú tức là đường, “tứ cù đạo” tức ngã tư đường. Bản dịch xưa ghi: “Thôn xóm”. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nên như pháp mà thuyết. Tán: Chính thức thuật lại lời của ngài Vô Cấu, theo văn gồm có bốn: Tổng bài bác. Phản vấn cật. Bài bác riêng. Lợi ích. Tức câu “tám trăm cư só phát tâm Bồ-đề”. Bản dịch xưa chỉ có ba, không có phần phản cật này. Chẳng đúng như Tôn giả đã nói, nghóa là đạo lý thuyết pháp của Tôn giả là không đúng, không khế hợp, nói không khế lý gọi là bất đáng (không đúng). Không Lý Nghóa ghi: “Pháp lý vốn không, Thanh văn nói có, cho nên chẳng đúng”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Pháp không có hai ngã, vì tánh lìa ngôn thuyết, kia nói pháp có, vẫn chưa lìa ngôn, cho nên nói chẳng đúng. Phàm thuyết pháp thì nên như pháp mà thuyết”. Kinh: Bấy giờ, con liền hỏi rằng… thế nào gọi là như pháp mà thuyết. Tán: Đây là lời phản vấn. Kinh: Ông ấy liền đáp… mé trước mé sau. Tán: Phản bác riêng. Gồm có hai: Đầu tiên hiển đạo lý nhị vô ngã, sau từ câu “Phàm người thuyết pháp…” là nói về đạo lý thuyết pháp. Trong ý đầu lại có hai, đầu tiên nói về vô ngã, sau kết luận vô ngã, tức là câu “Tưởng các pháp như thế, há có thể nói được sao?” Trong ý nói về vô ngã lại có hai, đầu tiên nói về chúng sinh vô ngã, sau nói về pháp vô ngã. Đây là nói về chúng sinh vô ngã. Năm uẩn trong ba đời vốn không có ngã; vô ngã mà chấp ngã, thì ngã càng cấu nhiễm, ô uế bản tánh. Các pháp quá khứ vốn không có tình, chấp là có tình, như bụi dơ nhiễm; các pháp hiện tại, vốn không có mạng giả, chấp có mạng thì càng tăng thêm sinh tử. Thọ mạng đang sinh tồn gọi là mạng giả, chấp cái này thật có tức chấp có thật sinh tử, hoặc là chấp cái ấy hiện có sinh có tử, cho nên có mạng giả. Nay lìa sinh tử, cho nên không có mạng giả. Các pháp vị lai, không có số thủ thú (chủ thể của sinh tử), chấp có hiện tại thì mé trước mạng căn đã đoạn, sinh vào sáu đường ở mé sau; đoạn nghóa là không vô. Đã không có mé trước mé sau chân thật thì đâu có số thủ thú chân thật. Bốn vô ngã này cũng đồng với bốn vô ngã trong luận Bát-nhã và chương Như Lai Tạng trong kinh Thắng Man. không Lý Ng- hóa ghi: “Thế tục đế hữu có bốn loại, Thắng nghóa đế không làm gì có bốn, cho nên nói Thắng nghóa nên nói bốn Không”. Ứng Lý Không ghi: “Trong thế tục đế thì bốn cũng không thật, theo Thắng nghóa đế thì Y tha và Viên thành cũng không có thật bốn, nên y theo Thắng nghóa phải nói bốn không; hàng Thanh văn thuyết pháp, chẳng nêu bốn hữu. Nay luận chung về các pháp tánh lìa nhân lìa pháp, cho nên nói bốn không. Bản dịch xưa lầm lẫn, theo bản mới có thể biết được. Kinh: Pháp thường tịch nhiên… vì không có sở duyên. Tán: Từ đây trở xuống là nói pháp không, gồm hai mươi câu. Không Lý Nghóa ghi: “Nếu căn cứ theo thế tục đế thì pháp tánh có thể là có, nhưng căn cứ theo Thắng nghóa đế, thì pháp tánh đều không; nhưng vì phá các chấp trước sai biệt, cho nên đặc biệt nêu lên. Có thể dùng câu dưới để giải thích câu trên. Tục có tướng nên chẳng tịch chân vô tướng cho nên tịch nhiên, đây là cảnh không. Tục có duyên nên tham trước, chân không duyên cho nên lìa tham, đây là năng duyên không. Ứng Lý Nghóa ghi: “Trong hai mươi câu phân làm hai, mười câu đầu hiển lý chân như lìa chấp không, mười câu sau hiển tánh y tha lìa chấp không. Hoặc cho rằng hai mươi câu đều nói về chân như. Chân như tịch nhiên, vì bặt mười tướng. Chân như lìa tham, vì không có tâm phân biệt sở duyên. Bản xưa ghi: “Pháp lìa tướng”, tướng tức tướng tham, thì cũng không ngại. Đầu tiên lìa tướng sở duyên, sau lìa tướng năng duyên. Tham tức là chấp trước, tâm năng duyên. Vì cảnh không, cho nên tâm cũng không. Kinh: Pháp không có văn tự, vì lìa sóng suy nghó. Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Tục thì có ngôn ngữ cho nên có văn tự, chân đã đoạn ngôn ngữ nên không có văn tự. Tục có suy nghó, như sóng nước khởi, cho nên có dụ thuyết, chân đế lìa suy nghó cho nên không có dụ thuyết”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Chân như thì ngôn ngữ đoạn cho nên không có văn tự, chân như lìa sóng suy nghó tục đế, nên không có dụ thuyết”. Bản dịch xưa ghi: “Pháp không có ngôn thuyết vì lìa giác quán”, sóng suy nghó tức là giác quán. Kinh: Pháp cùng khắp tất cả… vì lìa tất cả việc làm. Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Tục chẳng như không, tánh chẳng cùng khắp, chân lý tánh không, cho nên cùng khắp; tục có hành động co duỗi… cho nên có hiển sắc, cũng có biểu tướng, có hình sắc; chân thì không có các hành động co duổi… thì đâu có hiển tướng và hình sắc? Ứng Lý Nghóa ghi: “Chân như như hư không, tánh không ngăn ngại, cho nên cùng khắp tất cả, cũng không có các hành động co duỗi… cho nên không hiển hiện tướng và hình sắc… tướng tức biểu sắc. Bản dịch xưa, hai văn hơi khác nhau, đầu tiên nói như hư không không hình tướng có thể cùng khắp tất cả, sau là rốt ráo không nói không hý luận. Hý luận tức là hiển tướng hình sắc. Rốt ráo không tức là không có các hành… Kinh: Pháp vô sở hữu… lìa tâm thức. Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Tục chấp có ngã sở cho nên pháp có ngã sở. Chân không chấp sở hữu cho nên pháp không có ngã sở. Tục có tâm thức pháp thành đối tượng để biết. Chân không có tâm thức thì pháp chẳng thành đối tượng để biết”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Chân như không có ngã, vì lìa ngã sở”, cho nên các luận ghi: “Không nhiếp thọ chân như, chẳng phải là chỗ y chỉ của ngã chấp… chân như chẳng phải là cảnh liễu vì xa lìa cảnh tâm thức, vì tâm thức có phân biệt cho nên chân như chẳng phải cảnh, hoặc không có năng liễu vì lìa tâm thức. Kinh: Pháp không so sánh… chẳng tại duyên. Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Tục có đối đãi nên pháp có sự so sánh, chân chẳng đối đãi nên không so sánh; trong tục có duyên nên thuộc nhân, do nhân mà được; trong chân không có duyên, cho nên không thuộc nhân. Pháp nhân duyên sinh đều nói là không”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Chân như vi diệu không gì sánh, lại không có vật gì có thể đối đãi. Chân như chẳng thuộc nhân, vì chẳng do duyên mà được. Chẳng do nhân mà sinh cho nên nói chẳng tại duyên”. Kinh: Pháp đồng pháp giới… không có chỗ tùy theo. Tán: Lý Không Nghóa ghi: “Tục chấp pháp có thì chẳng đồng pháp giới; trong chân đế thì tất cả đều nhập vào chân pháp giới; đồng pháp giới, tất cả đều không. Tục có chỗ để tùy theo, mà không tùy theo chân như, tùy theo hữu. Chân đế không có chỗ nương theo, không tùy theo hữu, mà tùy theo như, không”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Từ đây trở xuống gồm mười câu là nói Y tha khởi chẳng chấp không, đồng thời dùng Y tha nhiếp trở về chân như. Tánh Y tha khởi, thì pháp đồng chân như, nhiếp tướng về tánh nhập vào pháp giới, chẳng đồng với sự phân biệt vọng có đã chấp trước. Bản dịch xưa ghi: “Nhập vào các pháp”, Pháp tức pháp giới, hiển thị việc tùy thuận theo như, không phải như sở chấp mà có thể thuận theo. Kinh: Pháp trụ ở thật tế… vì chẳng nương vào sáu cảnh. Tán: Động tức loạn động; bờ mé chân thật gọi là thật tế, không có nghóa sở duyên điên đảo. Lý Không Nghóa ghi: “Tục có chỗ động, chẳng trụ thật tế, chân không động nên trụ ở thật tế. Tục nương vào sáu cảnh, cho nên pháp lay dộng, lay động thì hay hoại, hay hủy, hay loạn, hay điên đảo”. ƯnÙg Lý Nghóa ghi: “Y tha trụ chân tế, tùy theo chân tế, rốt ráo chẳng động. Bản dịch xưa ghi: “Các bên chẳng động” tức các bên kiến chấp chẳng làm lay động được, Y tha cũng không lay động, tùy thuận chân như, chẳng nương theo sáu cảnh. Kinh: Pháp không đến đi… vì xa lìa các tư tăng giảm. Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Tục có chỗ trụ nên có đến có đi, chân thì vô trụ thì nào có đến đi. Tục có tư (suy nghó) tăng ích, cho nên chẳng thuận không, chấp có; vì có tư tổn giảm nên chẳng tùy thuận vô tương ưng, vô nguyện, bác bỏ không. Chân như không tăng nên thuận theo pháp tánh, không tổn giảm nên tùy thuận vô tương ưng, vô nguyện”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Y tha tùy chân cũng không đến đi vì vô sở trụ”. Khứ tức quá khứ, lai tức vị lai. Do không có trụ hiện tại thì không khứ lai, nếu có chỗ trụ thì khứ lai liền thành. Có tư tăng ích cho nên chấp có, chẳng thuận không, có tư tổn giảm cho nên bác bỏ không. Y tha chẳng tùy vô tương ưng, vô nguyện mà tùy chân như; không có tư tăng giảm cho nên tùy thuận không, tùy vô tương ưng, vô nguyện. Bản dịch xưa ghi: “Pháp không tăng giảm”, thoạt nghe thì tựa như khác biệt, nhưng so với bản này tức là giải thích nghóa trên. Bản dịch xưa ghi: “Pháp không tốt xấu”, bản này không có, ngoài lý thêm vào, không biết là thế nào? Kinh: Pháp không thủ xả… vượt trên tất cả đạo mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Tán: Lý Không Nghóa ghi: “Tục có sinh cho nên có thủ, có diệt nên có xả. Chân thì không sinh diệt thì nào có thủ xả? Đạo nghóa là sinh, căn cảnh là đạo. Tục có sáu căn là năng chấp tàng, cho nên pháp có sáu cảnh thành sở chấp tàng. Chân chẳng phải là sở tàng của sáu căn, cho nên pháp chẳng phải là sở chấp tàng, vượt trên sáu căn đạo”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Y tha tùy chân, chân thủ không xả, lìa sinh diệt, cũng không phải năng chấp tàng, siêu việt sáu căn; chẳng phải là cảnh ái nhiễm, nên chẳng phải là sở chấp tàng”. Bản dịch xưa ghi: “Pháp không sinh diệt”, câu đầu có thể hợp, câu “Pháp không có sở quy”, quy tức là sở chấp tàng, nhưng không giải thích nguyên do. Kinh: Pháp không cao thấp… rốt ráo đoạn. Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Động chuyển nghóa là hình đối đãi, hý luận tức hư vọng sai biệt; tục chẳng bất động thì pháp có cao thấp, chân không động chuyển thì nào có thấp cao? Tục có hý luận chẳng đoạn dứt, là sở hành của tâm phân biệt, nơi chân thì hý luận đã đoạn dứt, cho nên xa lìa tất cả sở hành phân biệt”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Y tha tùy chân, không có cao thấp, trụ ở bất động, lìa tất cả sở hành phân biệt; hý luận phân biệt rốt ráo đoạn diệt. Bản dịch xưa ghi: “Pháp lìa tất cả các quán hành”, đây là nói sở hành phân biệt, phân biệt tức quán hạnh. Trong Ứng Lý Nghóa cho rằng hai mươi câu đều nói đến pháp thắng ng- hóa đế chân như, không phải như sở chấp của tâm phân biệt, cũng chẳng phải như tánh mà kia đã nói; đều là không, chẳng phải là thể tánh của chân như cũng thành không. Trước tùy theo thắng nghóa đế mà thuyết chẳng trái lý. Hai mươi câu này, lẽ ra gom làm mười đôi, mỗi mỗi đều là quyền tư, nhưng sợ dài dòng, nên lược nói mà thôi. Kinh: Thưa ngài Đại Mục-liên… há có thể nói sao? Tán: Đây là lời kết luận về vô ngã. Không Lý Nghóa ghi: “Trong Thắng nghóa đế, pháp tánh không, như. Vậy há có thể như ngôn thuyết đề cập đến được sao?” Ứng Lý Nghóa ghi: “Pháp thể tuy có, nhưng chẳng phải như tự tánh hữu của ngôn thuyết và phân biệt, vậy há có thể nói được sao?” Kinh: Phàm thuyết pháp… tăng ích, tổn giảm. Tán: Từ đây trở xuống là nói về đạo lý thuyết pháp. Gồm hai phần: Đầu tiên là luận chung đạo lý thuyết và nghe. Sau đó, từ câu “Tôn giả Mục-liên…” khuyên như pháp mà thuyết. Không Lý Nghóa ghi: “Chân đế vốn không, thuyết nghe là có, đều gọi là tăng ích, tục đế vốn có mà nói là không vô liền thành tổn giảm. Hoặc tất cả chẳng xứng hợp tự tánh chân pháp nên gọi là tăng giảm. Ứng Lý Nghóa ghi: “Ngoài pháp mà phân biệt và khởi ngôn thuyết là tăng ích, vì làm tăng trưởng các pháp”. Luận Thành Duy Thức ghi: “Năng thuyên sở thuyên, đều chẳng phải là tự tướng, nhưng nương vào tăng ích, tương tự mà chuyển. Tựa nghóa là tăng ích mà chẳng có tướng thật. Tự tướng các pháp giả trí và thuyên, đều chẳng phải là cảnh. Nói không có pháp thể thì gọi là tổn giảm, vì bác không thể. Hoặc tăng sở chấp mà giảm tánh vô nhị.” Bản dịch xưa ghi: “Không thuyết, không chỉ bày, không nghe, không được,” đều chẳng đúng, vì không có văn này. Kinh: Nếu ta ở nơi này… không có chỗ rõ biết. Tán: Đây là thành tựu chánh lý. Nếu chứng đắc pháp trí chứng hội pháp thể, không tăng không giảm, tức tất cả pháp đều chẳng thể thuyết. Bản dịch xưa nói không thuyết không chỉ bày. Nếu trí của người nghe chứng hội pháp thể, không tăng không giảm cũng chẳng thể nghe thì đâu có gì để rõ biết mà nói ta rõ biết. Ở đây có điều nghi rằng, nếu người thuyết pháp và người nghe đều có tăng giảm, thì Phật làm sao mà thuyết? Các Đại Bồ-tát làm sao nghe? Cho nên giải thích để hiểu rõ. Kinh: Tôn giả Mục-liên… mới có thể thuyết pháp. Tán: Từ đây trở xuống là phần nói về khuyên như pháp mà thuyết. Đầu tiên giải thích nghi, chỉ bày tướng thuyết, sau khuyên nên tu tập. Ví như ở cõi huyễn hóa vì người huyễn hóa tuyên thuyết các pháp là giả nhân giả danh, vì người nghe giả, giả thuyết các pháp, không có một mảy may chân thật, chỉ là dụ, cho nên xa lìa tăng giảm. Vì thế Phật thuyết pháp, Bồ-tát nghe, chẳng như tự tánh do phân biệt thuyết mà khởi chấp. Kinh: Nên khéo biết rõ… đại bi hiện tiền. Tán: Đoạn này là nói về là khuyên tu tập, gồm có tám việc. Đoạn này có ba: Biết căn cơ chúng sinh. Tuệ đạt các pháp, không quái ngại, quái nghóa là chướng, ngại nghóa trói buộc. Đại bi hiện tiền. Kinh: Tán thán Đại thừa… mới nên thuyết pháp. Tán: Đoạn này có năm câu: Khen ngợi Đại thừa. Nghó nhớ ân Phật. Tự ý lạc thanh tịnh, tin sâu thắng giải. Pháp từ thiện xảo, đối với pháp khéo léo, đối với pháp vô ngại. Từ thiện xảo tức là lời nói vô ngại. Hoặc nói pháp từ tức là lời thuyết pháp, biện tài vô ngại. Nối dòng Tam bảo làm cho hưng thịnh. Đầy đủ tám việc này mới nên thuyết pháp. Hàng Thanh văn không có tám việc này thì chẳng nên thuyết pháp; mỗi một việc, ý nghóa có thể biết được. Bản dịch xưa chỉ có sáu, không có ý lạc tịnh và từ thiện xảo. Kinh: Thế Tôn… Chánh đẳng Chánh giác. Tán: Đây là phần thứ tư nói về lợi ích; trong lúc ngài Vô Cấu cật vấn thì đồ chúng được lợi ích. Kinh: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ… đến vấn an bệnh của ông ấy. Tán: Đây là đoạn thứ ba kết luận về nguyên do từ chối, tự thân kém cỏi xin thoái lui. Lúc bấy giờ chẳng đáp được cho nên im lặng; chẳng thể hiểu được điều ông ấy nói, nên gọi là không biện biệt được. Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Lần thứ ba, sai bảo Đại Ca-diếp. Cũng gồm hai phần: Bảo và từ chối. Đây là phần đầu sai bảo. Ma-ha Ca-diếp-ba, Hán dịch Đại Ẩm Quang. Xưa có một vị Tiên, thân màu vàng ròng, ánh sáng phủ trùm (ẩm) cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ngài Ca-diếp thuộc về dòng họ vị tiên này. Vả lại Đại Ca-diếp, thân cũng màu vàng ròng, ánh sáng che phủ mặt trời, mặt trăng cho nên gọi là Ẩm Quang. Nhân duyên này như đã ghi trong Di-lặc Sớ. <篇> <卷>QUYỂN 3 (PHẦN 2) Kinh: Đại Ca-diếp-ba… đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Từ đây trở xuống là phần từ chối, gồm có ba: Đây là đoạn nêu lên đạo đã bị khuất phục. Ca-diếp cứu kẻ bần khổ, không có tâm Từ bi bình đẳng bố thí, các tướng vẫn còn, không thể vô tướng nơi sự, nhân đó mà bị khuất phục. Cho nên đáp là không kham nhận. Kinh: Vì sao?… mà khất thực. Tán: Đây là phần thứ hai hiển lý đã cùng tận. Đầu tiên tự hỏi và sau là trình bày. Trong phần trình bày lại có hai: Đầu tiên là nêu việc của mình, sau là thuật lại lời của ngài Vô Cấu. Đây là lời tự hỏi và nói việc của chính mình. Vào xóm nghèo mà thuận khất thực, nghóa là nếu kẻ bần khổ mà chẳng tu, e rằng tương lai lại sẽ nghèo tiếp, cho nên đến khuyến hóa. Giàu đã chẳng phải như thế, cho nên không đến khất thực. Giàu thì dư dật, xin nơi họ đã thuận mình mà được đầy đủ, nghèo thì các việc đều không, xin nơi họ thì trái tình mà ít được, nhưng vốn vì nuôi thân và cứu vật, chẳng mong cầu lợi ích cho mình mà phiền lụy người khác, cho nên đến xóm nghèo khất thực là có nguyên do. Thứ tự khất thực cho nên gọi là tu. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mà nói rằng. Tán: Thuật lại lời của ngài Vô Cấu Xưng, gồm có hai: Đầu tiên nêu phép tắc đến gặp, sau chính thức trình bày lời của Vô Cấu. Đây là văn đầu tiên. Kinh: Thưa Đại Ca-diếp… đến người nghèo mà khất thực. Tán: Đầu tiên nêu lên việc chẳng đúng; kế đến là nói về chánh lý, sau cùng là tổng kết khuyên bảo. Đây là văn đầu. Khi đến người nghèo khất thực, thì khiến cho họ mai sau được giàu có, an vui, đó là Từ, tận trừ gốc nghèo khổ cho họ tức là Bi. Đây chỉ cứu giúp kẻ nghèo khổ mà bỏ người giàu có, cho nên nói không cùng khắp. Kinh: Tôn giả Ca-diếp… nên thứ tự xin ăn. Tán: Đây là thuật về chánh lý. Văn gồm có hai: Nói về người xin. Nói về người bố thí. Trong phần nói về người xin gồm có ba đoạn: Phá sáu tướng. Phòng sáu căn. Nói về chứng lý tu nhân. Đầu tiên phá sáu tướng: Phá hạnh thiên lệch. Trừ tướng thức ăn. Dứt tướng làng xóm. Bỏ tướng thành ấp. Thú hướng đến tướng nhà Phật. Phá tướng chấp trước. Đoạn này là phá hạnh thiên lệch, chỉ xin nơi người nghèo, thì nghèo có thể thành giàu, chẳng xin nơi người giàu, thì giàu có thể sẽ nghèo. Cho nên phải trụ nơi bình đẳng mà hành khất thực. Bản dịch xưa không có sáu, chỉ có bốn, thiếu việc vào thành ấp và thú hướng đến nhà Phật. Kinh: Vì chẳng ăn… cho nên khất thực. Tán: Đây là trừ tướng thực. Ca-diếp thấy có tướng thực chỉ dùng để nuôi dưỡng thân là cứu kẻ nghèo khổ, cho nên hành khất thực. Nay dùng ba nghóa mà dạy thực hành khất thực, không chỉ dùng để nuôi thân… Đến quả vị Phật, khi được Bồ-đề chẳng cần thức ăn, nhưng thực hành khất thực là để trưởng dưỡng pháp thân. Phá chấp về món ăn sinh tử từ xưa đến nay, tức hành khất thực để phá sinh tử. Cho nên kinh ghi: “Khi ăn đoàn thực, như ăn thịt loài khoáng dã tử”. Vì nhận của người thí, khiến cho hạnh bố thí của họ được thành tựu mà hành khất thực. Trong ba nhân này thì đầu tiên sáu độ của mình viên mãn, kế đến là trừ sinh tử trói buộc, sau cùng là sáu độ của người viên mãn. Vì ba nghóa này nên thực hành khất thực. Bản dịch xưa, thứ hai là nói “Phá hoại tướng hòa hợp”, tức trừ chấp thực. Thực (thức ăn) là tướng hòa hợp của ba trần. Thứ ba là nói “Vì chẳng nhận cho nên nhận thức ăn của kia”. Nay ở bản này thì đoạn trên lại đặt sau đoạn văn nói về tướng không tụ. Hai bản dịch cũ và mới thứ tự khác nhau; bản xưa lại thiếu câu thứ ba. Kinh: Dùng tướng không tụ… vào các thành ấp. Tán: Đoạn này gồm có hai tướng là phá tướng làng xóm và phá tướng thành ấp. Vào các thành ấp tu lạc tưởng như không tụ, chẳng thấy xóm làng do đó người thấy ta mà nghó nhớ đến Tam bảo, đoạn ác hành thiện, được mười lợi ích, cho nên vào thành ấp, lợi lạc chúng sinh chứ chẳng phải điều gì khác. Kinh: Tưởng đến nhà Phật… mới nên nhận thức ăn của người. Tán: Đoạn này có hai: Tưởng nhà Phật. Phá tưởng chấp trước. Nhà Phật tức Phật pháp giới. Vào nhà thí chủ, khởi tưởng vào nhà chân lý vô tướng vô vi. Vì phá chấp trước cho nên thọ nhận thức ăn của người. Vì chẳng thọ nghóa là chẳng chấp trước. Vả lại ba luận thanh tịnh, ba việc thể đều không, nên gọi là chẳng thọ. Năng thọ sở thọ đều gọi là thọ. Trên đã phá sáu tướng, sau đây là phòng hộ sáu căn. Bản dịch xưa lầm lẫn điều này như trên đã nói. Kinh: Thấy sắc và mù… như trí chứng. Tán: Đây là văn thứ hai, ngăn bít sáu căn. Đoạn này ngăn năm căn, thấy sắc như mù, chẳng thấy tốt xấu, đâu sinh yêu ghét? Nghe âm thanh như tiếng vang, chẳng phải thật âm thanh, có gì mà khen chê? Ngửi mùi như gió, không có thơm hôi thì đâu có tăng thêm ác. Ăn các món ăn mà không phân biệt đắng chua cay ngọt, thì cái gì có thể lấy, cái gì có thể bỏ; thọ nhận các cảnh xúc chạm, như trí chứng lý, chẳng thể đàm luận, phân biệt tướng trạng, thì cái gì mà trơn nhám, cho nên ngăn ngừa năm căn không sinh khởi các lỗi. Kinh: Biết các pháp như tướng huyễn… không có tịch diệt. Tán: Đoạn này là phòng ý căn. Thông đạt được duyên khởi, do đó mà thành khổ lạc nhất vị. Biết các pháp hữu vi như tướng huyễn đều chẳng phải là chân thật mà do giả nhân duyên sinh khởi, không thể tự tác dụng, chẳng từ tự sinh; không có tự tánh; không do tha tác dụng, chẳng tại pháp khác sinh, chẳng có tha tánh; chẳng từ cộng sinh, không có tánh tự tha. Tuy không có ba tánh này nhưng do sự tác dụng của nhân duyên mà có công năng, vì do duyên mà được. Do đó mà nói không thật có sinh tử xao động, không thật có Niết-bàn vắng lặng, cả hai đều một vị, cho nên đều bình đẳng, đâu có các ý thức phân biệt. Bản dịch xưa ghi: “Vốn tự chẳng như thế”, tức xưa không sinh tử thì nay không diệt, cũng không có Niết-bàn; nghóa lý cũng giống nhau. Kinh: Tôn giả Ca-diếp… sau đó mới được ăn. Tán: Đây trở xuống là phần thứ ba nói về chứng lý tu nhân, gồm hai phần, đầu tiên nói về bình đẳng, sau kết luận nói có thể ăn. Đây là văn đầu. Trong đây lại có hai, đầu tiên nói về lý bình đẳng, sau nói về sự bình đẳng. Tám tà tức là tám việc trái với chánh do ngoại đạo phàm phu khởi, đó là: Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà niệm, tà định, tà tinh tấn. Tám giải thoát, tức tám pháp do bậc Thánh, Phật sinh khởi, đó là: Có sắc quán các sắc. Bên trong không sắc quán sắc bên ngoài. Tịnh giải thoát tác chứng. Không xứ. Thức xứ. Vô sở hữu xứ. Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Diệt định giải thoát. Tám giải thoát như trước đã giải thích. Chẳng bỏ tám tà, tức tùy thuận ngoại đạo mà cũng khởi, vì chiết phục họ mà vào tám giải thoát, tùy thuận chánh đạo. Vả lại tà chánh đều như nhau, dùng các pháp bình đẳng tà, nhập vào các pháp bình đẳng chánh, pháp tánh bình đẳng tức chân như. Trên đây đều là nghóa của ứng lý. Nghóa Không Lý ghi: “Cảnh vốn không, thấy sắc và mù… đều là duyên khởi, chẳng thật có, cho nên như tướng huyễn. Các pháp không hai, sinh tử Niết-bàn đều bình đẳng, tà chánh chẳng khác, cho nên dùng bình đẳng tà nhập vào bình đẳng chánh. Đây đều là chân đế, tất cả là vô tưởng, đều là tánh không. Trên là nói lý tà chánh bình đẳng, dưới đây là nói về cúng dường, tức sự bình đẳng, dùng một nắm cơm mà cúng dường mười phương Phật và các hiền Thánh đế tu nhân của tâm và hạnh bình đẳng. Hạnh này tuy nhỏ ít mà quả lại vô biên. Kinh: Ăn như thế… mới có thể ăn. Tán: Đoạn này là kết luận có thể được ăn. Chẳng trụ tịnh nhiễm, chẳng trụ định tán, chẳng trụ thăng trầm, gọi là chẳng trụ đạo. Có chướng gọi là tạp nhiễm, vô lậu gọi là lìa nhiễm. Vô lậu đã viên mãn thì chẳng có tạp nhiễm, nếu hiện khởi hữu lậu tức chẳng lìa tạp nhiễm. Bản dịch xưa ghi: Phiền não thì chẳng đúng. Bên ngoài thực hành việc lợi tha, chẳng nhập tónh định trong tâm thường chẳng loạn, chẳng xuất tónh định, đại trí thành tựu viên mãn, đã được Niết-bàn, chẳng trụ sinh tử, đại bi đã mãn; thường làm lợi lạc nên chẳng trụ Niết-bàn. Được pháp chẳng trụ như thế mới có thể ăn, đây là nghóa của Ứng lý. Nghóa Không lý ghi: “Trong chân đế không có tướng đáng gọi là tướng, cho nên chẳng có tạp nhiễm. Chẳng bỏ thế đế, mà làm việc lợi lạc cho chúng sinh; chẳng lìa tạp nhiễm, cho đến chẳng trụ sinh tử và Niết-bàn. Trụ ở chân đế này chẳng bỏ Tục đế, như thế mới được thọ nhận thức ăn. Kinh: Các người cúng dường cho Tôn giả… chẳng hướng đến Thanh văn. Tán: Trên là nói về người khất thực, còn đây là nói về người bố thí cúng dường. Chẳng chấp tự thể, chẳng chấp quả báo. Chẳng chấp được báo ân gọi là thí độ, cho nên vị lai không có quả nhỏ trời người và Nhị thừa, không có quả lớn Bồ-tát Như Lai. Chẳng khởi tà kiến bài bác không nhân quả, chẳng tín tâm bố thí thì gọi là không tổn giảm, chẳng khởi chấp trước hư vọng ngã pháp thì gọi là không tăng ích. Hướng đến cõi Phật tức là chân như Niết-bàn, do ba việc đều không mà thực hành bố thí, thì thú hướng đến cõi Phật, Đại Bát Niết-bàn, chân như Phật tánh mà chẳng hướng đến Thanh văn. Kinh: Này Tôn giả Ca-diếp!… thức ăn của người thí. Tán: Đây là phần thứ ba, kết luận khuyên tu. Theo trên đã nói phá sáu tướng, ngăn ngừa sáu căn, nhập vào tánh bình đẳng, nhân nghiêm hạnh lớn, chẳng phải không thực, tất cả đều là phước điền, vì tự tha đều lợi lạc. Nếu có sáu tướng, chẳng phòng hộ sáu căn, chẳng nhập bình đẳng, nhân hạnh cực hạn, là không thực, chẳng phải chân phước điền vì tự tha đều tổn giảm. Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ… khởi tâm cung kính. Tán: Đây là đoạn văn thứ ba, kết luận nguyên do từ chối chẳng nhận, tự nhận kém sút xin thoái lui. Gồm có năm: Nghe luận thắng pháp là điều chưa từng có. Khởi tâm cung kính Bồ-tát. Tán thán trí tuệ biện tài. Mình được lợi ích. Tổng kết lời đáp. Đoạn này gồm hai việc. Kinh: Bạch Thế Tôn! Rất kỳ diệu… tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tán: Đây là tán thán trí tuệ biện tài. Khen ngài Vô Cấu là một cư só sống đời thế tục có gia đình mà có thể được như thế, nếu là xuất gia thì không có gì kinh ngạc tán thán, vì tham học tiến tu là bổn phận của mình. Là người có trí, ai nghe diệu pháp này mà không phát tâm Đại thừa? đáp. Kinh: Từ nay trở về sau, con… đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đoạn này nói về việc mình đã được lợi ích, và kết luận lời Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đây là đoạn thứ tư, đầu tiên sai bảo. Âm Phạm Ma-ha Tô- bổ-đề, Hán dịch là Đại Thiện Hiện. Ứng theo Phật xuất thế mà khéo léo hiện sinh, hoặc xưa đã phát đại nguyện khéo có thể hiện tiền liễu đạt nghóa không. Hoặc cho rằng ở thành Xá-vệ có một đại Trưởng giả tên là Câu-lưu, do cầu trời mà sinh được một người con. Lúc mới sinh thì trong nhà của trưởng giả trở nên trống vắng. Thầy tướng đến xem và đặt tên là Thiện Hiện. Hiện tức là sinh, khi sinh thì trong nhà đều trống không vắng vẻ, biểu thị sau này lớn lên sẽ thấu hiểu được nghóa không. Cho nên gọi là Thiện Hiện. Kinh: Bấy giờ, Đại Thiện Hiện… đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đoạn này nêu chung, việc đạo đã bị khuất phục, Thiện Hiện tuy về sự đã bình đẳng tu tập mà hành khất thực, nhưng chưa chứng được pháp không, lý chưa bình đẳng. Tuy sự đã vô tránh mà vào làng khất thực, nhưng chứng lý vô tránh chưa được viên mãn. Do đó bị chê trách, mà trả lời là chẳng kham nhận. Kinh: Vì sao?… kế đến vào nhà ông ấy. Tán: Hiển riêng về lý đã cùng. Đầu tiên tự hỏi, sau là giải thích. Trong phần giải thích gồm có hai, đầu tiên nêu việc của mình, sau đó thuật lời của ngài Vô Cấu Xưng. Đây là lời tự hỏi và nêu lên việc của mình. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Câu Xưng… mà nói với con rằng. Tán: Thuật lời của Vô Cấu Xưng, gồm có hai, đầu tiên nói về đến ra mắt, sau chánh thức trình bày. Đây là văn đầu tiên. Kinh: Thưa Tôn giả Thiện Hiện!… mới có thể nhận thức ăn. Tán: Đây là phần chính thức trình bày, gồm có sáu: Nói về lý. Nói về tự mê. Vô Cấu Xưng an ủi. Nói về lời đáp của mình. Lời của Vô Cấu Xưng chỉ dạy. Đạt lợi ích. Văn đầu gồm có bốn: Hiển pháp và Phật bình đẳng. Phược và giải bình đẳng. Tà chánh bình đẳng. Thiện ác bình đẳng. Đây là đoạn văn đầu. Thức ăn có bốn loại như đã nói ở trước. Không Lý Nghóa ghi: Tánh bình đẳng này, tức Thắng nghóa không, lấy thực làm gốc của nhân duyên, nhờ vào thực để nói, dùng lý Không của thực nhập vào tất cả pháp không. Thực là pháp riêng, những cái khác là pháp chung, cả hai đều không. Dùng lý không của tất cả pháp nhập vào lý không của Phật. Lìa ngoài không này chẳng có Phật không riêng biệt. Liễu đạt được không này, thì tâm không trệ ngại, sự hành bình đẳng và được vô tránh, như thế mới nhận được thức ăn (thực). Ngài Thiện Hiện chưa chứng được không này, tâm còn trệ ngại, chẳng bình đẳng và hữu tránh, như thế làm sao có thể nhận thức ăn”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Tánh bình đẳng này tức lý chân như, hiểu được chân như thực tức chân như các pháp, hiểu chân như tất cả pháp tức chân như Phật. Từ ẩn đến hiển đều liễu đạt tánh bình đẳng; chứng lý thì trí sinh, tâm không chấp trước; vì lợi ích hữu tình nên ngoài thực hành bình đẳng và cùng họ vô tránh mới có thể nhận thức ăn. Nếu chẳng như thế, làm sao mà không luống uổng thức ăn của người? Bản dịch xưa nói hai tánh thực và pháp bình đẳng xoay vần đồng đẳng nhau, mà không có tánh bình đẳng Phật, thì lý thiếu, văn trái nghịch. Kinh: Thưa Tôn giả Thiện Hiện… nhập nhất thú đạo. Tán: Phần thứ hai nói về phược và giải bình đẳng, gồm có chín đôi. Đoạn này có hai là thiện bất thiện, ngã kiến vô ngã kiến. Lý không nghóa ghi: “Tâm có phân biệt thì trói buộc và giải thoát là hai, chứng chân đế, tâm vô phân biệt thì trói buộc (phược) và giải thoát không hai, đều là lý không”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Chẳng đoạn bất thiện căn, thì hiện hiện hành có lợi ích lớn, như vua Mãn Túc thị hiện giáo hóa… thật chẳng khiến cùng chung với nó. Tát-ca-da kiến, Hán dịch là ngụy thân kiến, ngã kiến. Chẳng hoại ngã kiến nghóa là thị hiện sinh khởi, cầu đại Bồ-đề, độ các hữu tình, đều là ngã. Nhưng nhập vào đạo vô ngã nhất thú, lý vô ngã gọi là Nhất thú, là chỗ quy về của hành giả ba thừa. Đạo tức năng duyên, tức vô ngã kiến, chẳng đoạn ngã kiến mà chứng vô ngã kiến. Nhập tức ngộ. Bản dịch xưa ghi: “Chẳng hoại thân” tức thân kiến. Tùy nhất tướng tức vô ngã kiến. Trong vô ngã kiến lại không hai. Kinh: Chẳng diệt vô minh… mà giải thoát. Tán: Đoạn này có một đôi là tạp nhiễm thanh tịnh. Vô minh là nhân phát nghiệp. Hữu tức ba hữu; ái tức ái thủ; hữu ái chính là duyên để nhuận sinh, là căn bản của sinh tử trói buộc. Thuận các chúng sinh, chẳng bỏ sinh tử cho nên nói là chẳng diệt, tuy chẳng diệt vô minh mà khởi vô lậu kiến minh; tuy chẳng diệt hữu ái mà khởi giải thoát. Giải thoát nghóa là tuy đã có duyên nhuận sinh, nhưng đã chứng lý vô vi, thuộc về thắng giải; chân lý được chứng gọi là giải thoát, tức Niết-bàn. Kinh: Thường dùng pháp tánh bình đẳng vô gián… pháp tánh bình đẳng giải thoát. Tán: Đoạn này gồm một đôi là khổ lạc. Vô gián tức địa ngục vô gián, nêu lên nơi đau khổ nhất. Giải thoát tức Niết-bàn, nơi an lạc nhất. Dùng chân như đau khổ nhất để nhập vào chân như an lạc nhất, thể chỉ một vị. Bản xưa nói dùng tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, nên nói là dùng tướng quả ngũ nghịch, nhập vào tướng giải thoát, tức chân như. sinh. Kinh: Không giải thoát không trói buộc… chẳng lìa các pháp dị Tán: Đoạn này gồm ba đôi: Giải thoát và phược. Vô lậu là giải thoát, hữu lậu là phược(trói buộc). Chứng đắc Niết-bàn gọi là phược. Chẳng bỏ sinh tử gọi là thoát. Chứng bất chứng. Thật thấy đế gọi là chứng. Cho nên không gì chẳng thấy chẳng thấy gọi là chẳng chứng. Khi chứng lý không thấy có tướng. Quả phi quả. Thánh gọi là quả, thuận trụ nói sinh tử, chẳng một bề trụ nơi quả, cho nên gọi là đắc quả. Chẳng phải Thánh gọi là dị sinh; đã chứng chân đạo thì chẳng phải là dị sinh; thường giáo hóa hữu tình thích khởi phiền não, cho nên nói chẳng lìa dị sinh. Tuy là một đôi nhưng vì hiển Đại bi, thuận trụ nơi sinh tử, nên đối với loài dị sinh, lặp lại chẳng lìa dị sinh. Kinh: Chẳng phải Thánh… mới có thể nhận thức ăn. Tán: Đoạn này gồm hai đôi: Phàm Thánh. Đại bi là thuận phàm gọi là chẳng phải Thánh, nhưng đã chứng xuất thế, cho nên là Thánh. Chứng ly, chứng tất cả các pháp gọi là thành tựu, đoạn các chấp phân biệt pháp tưởng gọi là ly (lìa). Trên nói pháp nhân duyên cho nên ở đây giải thích; hoặc ở đây đều nói Biến kế sở chấp không, vô thường… hoặc ở đây chỉ nói chân lý bình đẳng viên thành thật. Lý cũng không trái ngược, Kinh: Thưa Tôn giả Thiện Hiện… mới có thể thọ nhận thức ăn. Tán: Đây đoạn thứ ba tà chánh bình đẳng. Lý Không Nghóa ghi: “Trong thế tục đế, thì tà chánh là hai, bỏ tà về chánh; trong Thắng nghóa đế, tà chánh không hai, thì đâu có gì là bỏ là về? Ứng Lý Nghóa cho rằng kinh Bát-nhã nói: “Dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy thuộc tà đạo, chẳng thấy được Như Lai” Đồng thể Tam bảo chẳng thấy nghe, chẳng thể phụng sự. Bản dịch xưa không có ghi Tăng. Sáu sư ngoại đạo là duyên phương tiện thù thắng để Phật được Bồ-đề, nếu ông đồng như Phật thì cũng nên xem đó là thầy. Kia còn tà kiến, thật sẽ đọa ác thú, ông vì thương xót họ cho nên cũng đọa theo để cứu giúp. Đồng Như Lai mới có thể thọ nhận thức ăn. Vì Đại Thiện Hiện xả bỏ sáu sư kia, chẳng thể theo đó mà tu học, chẳng thương xót chúng sinh đọa ác thú, thấy có Tam bảo, chẳng chứng đồng thể, cho nên nay bị quở trách. Sáu sư: Mãn Ca-diếp-ba, Ca-diếp Ba là họ, Mãn là tên. Bản dịch xưa gọi là Phú-lan Ca-diếp, là ngoại đạo đoạn kiến cũng gọi là ngoại đạo không kiến. Mạt-tát-yết-ly Cù-xá-ly Tử, Mạt-tát-yết-ly là tên, Cù-xá-ly là tên mẹ. Mạt-tát-yết-ly là con của Cù-xá-ly, dùng tên mẹ để phân biệt. Bản dịch xưa ghi là Mạt-già-lê Câu-xa-lê Tử, tức ngoại đạo thường kiến. Tưởng-phệ-đa Tử, Tưởng là tên chính, Phệ-đa là tên mẹ, con của bà ấy nên gọi là Tử, như Xá-lợi Tử. Bản xưa ghi San-xà-dạ Tỳ-la- chi Tử, tức ngoại đạo khổ hạnh, ngoại đạo này cho rằng sinh tử ái nhiễm của chúng sinh đều do tham trước lạc thú mà có, nếu khéo tu khổ hạnh thì được giải thoát. Vô Thắng Phát Hạt, Vô Thắng là tên, xỏa tóc mặc áo vải thô cho nên gọi là Phát Hạt. Bản xưa ghi là A-kỳ-đa-xí-xá Khâm-ba-la, là ngoại đạo tự nhiên, cho rằng tất cả pháp đều tự nhiên sinh. Phong-ca-diễn¬-na, Ca-diễn-na là họ, Phong là hình dáng, trên đầu có sừng giống như sừng trâu, cho nên lấy đó đặt tên. Bản xưa ghi là Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên, ngoại đạo này thờ trời Đại tự tại, cho rằng trời Đại tự tại sinh ra các pháp. Ly Hệ Thân Tử, tức ngoại đạo Ni-càn-tử. Chấp Bổn sư của mình tu khổ hạnh nên gọi là Ly Hệ, vì là con nên gọi là Thân Tử, đây là ngoại đạo chấp nhân tạo tác ở quá khứ, cho rằng tất cả pháp đều là do nhân tạo tác ở quá khứ, nay chẳng tạo nhân thì nghiệp xưa liền hết, liền được giải thoát. Bản xưa ghi Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử. Sáu sư này, có thuyết nói rằng khi Phật bỏ nước xuất gia đến chỗ các vị này hỏi han, họ dạy cho Phật làm thầy khổ hạnh, cho nên đặc biệt được nói đến. Nhưng Uất-đầu-lam-phất chỉ cho Phật được định Phi tưởng, A-lam-ca-lam chỉ cho Phật được định Vô Sở Hữu Xứ, đây đều chỉ cho Phật tu lạc hạnh, chẳng phải như thuyết trên đã nói, không nên theo đó hoàn toàn. Kinh: Thưa Tôn giả!… lìa thanh tịnh. Tán: Đây là đoạn thứ tư, thiện ác bình đẳng, gồm mười một câu. Đoạn này có ba câu: Không Lý Nghóa ghi: “Tâm bị trói buộc thì thiện ác là hai, có việc lìa ác tu thiện khác nhau, thiện ác đã chẳng hai, thì có gì là lìa là tu. Ý chung như thế nhưng giải thích lại thì gồm mười một câu, trong mười một câu này thì: “Như Tu-bồ-đề, thiện ác bình đẳng là ngộ được giải không, đã không có các kiến phân biệt có thể đoạn, thì sao chẳng đọa vào các kiến thú, chẳng đến hai đạo trung và biên, mà nay có đoạn các kiến lại đến trung? Nếu không có ác đạo để nhàm chán, sao chẳng đọa vào tám nạn, chẳng được không nạn? Nếu không có tạp nhiễm để đoạn, sao chẳng đồng tạp nhiễm mà lại lìa tịnh? Nếu không có Thánh hạnh để chứng, sao chẳng đồng được phước điền thanh tịnh vô tránh? Nếu không có nhân thiện ác, vì sao người không bố thí lại đọa vào ác đạo? Nếu không có hai sư tà chánh, sao chẳng cùng ma quân dắt tay nhau? Nếu không có phiền não loạn, vì sao chẳng cùng nó làm bạn? Nếu không có pháp thiện ác riêng biệt, vì sao tánh phiền não chẳng phải tức tánh Tôn giả? Nếu không có đạo từ bi khác nhau, vì sao chẳng ở nơi hữu tình mà khởi ý tưởng oán hại? Nếu không có ruộng tốt Tam bảo, sao chẳng hủy báng Phật, pháp, chẳng dự vào chúng Tăng? Nếu không có sinh tử Niết-bàn khác nhau, sao chẳng cuối cùng không có thời Niết-bàn? Ông đã chẳng như thế, chưa chứng được pháp thể bình đẳng không, làm sao có thể thọ thực suông được? Nếu có thể như thế mới có thể thọ nhận thức ăn. Ứng Lý Nghóa ghi: “Các kiến thú tức năm kiến, vì muốn giáo hóa hạng người này, nên phải đọa vào đó, chẳng đồng phàm phu thường chấp đoạn, chẳng đồng Nhị thừa thường trụ nơi đạo. Bản dịch xưa ghi nhập vào tà kiến, chẳng nói đến kiến thú, chẳng đến bờ kia, chẳng nói trung biên. Trung biên nghóa là bờ kia bờ này. Vào tám vô hà, ở tại tám nạn cứu giúp chúng sinh, bận rộn suốt ngày không được hữu hà. Tùy thuận hóa độ sinh tử, đồng với các tạp nhiễm, chẳng trụ Niết-bàn, đồng với thanh tịnh. Kinh: Nếu các hữu tình… phước điền thanh tịnh. Tán: Đoạn này có một câu. Vô tránh có hai: Lý vô tránh và sự vô tránh. Sự vô tránh, nghóa là phàm ý nêu lên đều thấy đồng người, chẳng thấy đồng với mình thì phiền não tạm sinh, Tu-bồ-đề đã được đệ nhất, luôn khiến cho chúng sinh chẳng sinh phiền não. Lý vô tránh chân như vô tưởng, do chứng lý vô tránh thì sự mới được vô tránh, hai vô tránh này, tất cả hữu tình và tôn giả có lúc đều được, nhưng vẫn chẳng được gọi là thanh tịnh phước điền, vì chẳng thấy thật có tánh phước điền, ba luân thanh tịnh. Như Bồ-tát mới có thể như thế, còn Thanh văn thì chẳng thể làm được. Kinh: Các người cúng dường… làm bạn. Tán: Đoạn này có ba câu: Người cúng thức ăn, sau sẽ được Thánh đạo, mà lại rơi vào ác đạo; giáo hóa chúng sinh khổ đau đã chẳng phải là thí điền mà lại thành tội lớn rơi vào ba ác đạo. Người cúng thức ăn kia, cùng với Tôn giả và ma liên kết nhau, sớm tối chẳng rời, mà có thể điều phục chúng. Bản dịch xưa ghi làm người bạn lao nhọc, tức là làm người bạn lăn lộn mệt nhọc trong chốn sinh tử, chẳng phải là bạn xuất thế. Đi đứng nằm ngồi, luôn luôn đoạn phiền não, chẳng từng xa lìa, cho nên gọi là bạn lữ. Bồ-tát luôn dùng phân biệt làm phiền não, cho nên sẽ đoạn được. Bản dịch xưa không có ý này. Kinh: Tất cả phiền não… khởi tưởng oán hại. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Tự tánh của phiền não tức chân như, đồng với tánh của tôn giả; nhất như không khác. Khởi tưởng oán hại hữu tình; oán tức là đối, tự tu diệu hạnh lợi sinh gọi là đối, hại tức đoạn, sát, tức đoạn trừ các nghiệp quả phiền não sinh tử lưu chuyển của chúng sinh, luôn luôn khởi tưởng này. Như luận Nhiếp Đại Thừa nói mười hạnh khó làm, nghóa là các Bồ-tát giết các sinh tử lưu chuyển của chúng sinh. Chúng sinh chẳng để cho Bồ-tát cưỡng nhiếp phục nên gọi là bất dữ thủ, ở đây cũng như thế. Bản dịch xưa ghi: “Ngài và các chúng ma cùng trần lao”, ý cũng không khác, vì pháp tánh không khác. Kinh: Khinh chê chư Phật… mới có thể thọ nhận thức ăn. Tán: Đoạn này có hai câu: Bài báng Phật, nói Phật sắc thanh, chẳng phải là Phật chân thật, nói lý pháp thân mới là Như Lai. Nhị thừa nói hình tướng sắc thanh là chân Phật, cho nên ở đây bài báng, gọi là bài báng Phật. Hủy chư pháp, hủy báng tất cả các ác pháp sinh tử, nói chân như là chân pháp, lý pháp bốn đế chẳng phải là chân pháp. Nhất thừa nói đó chẳng phải chân, mà nói pháp cứu cánh, nên gọi đó là hủy pháp. Chẳng dự vào hàng tăng số, cạo tóc đắp y, khất thực, thọ tịnh giới, yết-ma… đều gọi là tăng số. Thường ở nơi sinh tử, tùy loại hóa sinh chẳng bị câu thúc nơi tưởng kia, gọi là chẳng dự số. Hai rốt ráo không có thời Bát-niết-bàn, Bồ-tát phát nguyện độ hết tất cả chúng sinh mới nhập Niết-bàn, nhưng cõi chúng sinh không bao giờ cùng tận, cho nên Bồ-tát rốt ráo không nhập Niết-bàn; còn hành Nhị thừa thì thân diệt tận, tức vónh viễn không còn gì. Hoặc cho rằng tất cả gồm mười câu, hai câu trong đoạn này hợp thành một câu. Nếu có đầy đủ các nghóa đã nói ở trên thì bậc Đại Bồ-tát mới có thể thọ nhận thức ăn, mới là chân phước điền. Nếu chẳng như thế thì đâu có thể luống nhận thức ăn của người. Ở đây mói bình đẳng đều là mật ngữ. Như Khế kinh nói “Biết chẳng cứng là cứng, khéo trụ nơi điên đảo…”, ý của bài tụng không khác, nhưng nghóa môn nói ở trên căn cứ theo Biến kế sở chấp nói chân như diệu lý, Y tha hư huyễn; Duy thức vô tưởng, chân như pháp môn cả hai đều bình đẳng cho nên có thuyết này. Lời giải thích trước là căn cứ vào pháp môn nhân duyên nên không trái nghịch. Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ… con muốn ra khỏi nhà ông ấy. Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ hai nói về tự mình mê ví như có người đang đi trên đường vì trời quá mờ tối làm ngăn ngại lạc mất phương hướng. Lúc bấy giờ con cũng như thế, tâm bị che khuất chẳng biết ông ấy nói lời gì và chẳng biết đáp như thế nào, muốn bỏ bát đi ra khỏi nhà ông ấy. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nên nhận lại bát chớ kinh sợ. Tán: Đây là phần thứ ba nói về Vô Cấu Xưng an ủi, gồm có hai câu: Đầu tiên là an ủi, sau cùng là hỏi. Đây là câu đầu. Kinh: Vì sao?… há có kinh sợ chăng? Tán: Đây là lời hỏi. Nếu Đức Phật hóa làm một hóa nhân đến han hỏi thì có kinh sợ chăng? Ta do pháp thân Như Lai biến hóa ra hỏi việc này có gì sợ? Kinh: Con nói chẳng sợ. Tán: Đây là đoạn thứ tư nói về lời đáp, nghóa là hóa nhân có hỏi ta chẳng từng sợ. Kinh: Vô Cấu Xưng nói rằng… tánh tướng cũng như thế. Tán: Đây là phần thứ năm thuật về lời dạy của ông Vô Cấu Xưng, gồm có hai: Đầu tiên khuyên chớ nên kinh sợ, sau đó là chỉ bày chánh lý. Trong đoạn thứ nhất chia làm hai, thứ nhất là tổng hợp tướng giáo hóa nói ở trước, kế đó là khuyên chớ kinh sợ. Các pháp được nói ra đều như huyễn hóa vốn chẳng phải chân thật. Chúng sinh năng thuyết và ngôn ngữ sở thuyết cũng như thế, chẳng phải chân thật. Kinh: Những người có trí… cũng không sợ hãi. Tán: Đây là lời khuyên chẳng nên kinh sợ. Văn tự như huyễn hóa, người trí chẳng nên chấp cho là chân thật, nếu nghe văn tự cũng chẳng nên sợ hãi, ông là người có trí sao lại kinh sợ? Kinh: Vì sao?… đều lìa tướng tánh. Tán: Từ đây xuống là chỉ bày chánh lý, gồm có ba: Lời nói lìa tánh tướng. Văn tự cũng lìa. Kết luận thành tựu các pháp. Đây là đoạn văn thứ nhất chỉ bày vì sao chẳng sợ hãi văn tự. Lý Không Nghóa ghi: “Trong Thắng nghóa đế, thể của tánh tướng đều không, ngôn thuyết chỉ do hư vọng sinh khởi, cho nên lìa tánh không chẳng xứng hợp với lý, sao lại phải sợ”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Tánh tướng của Thắng nghóa, thể đều ly ngôn giả lập danh ngôn, chẳng xứng hợp pháp tánh, cho nên các ngôn thuyết đều lìa tánh tướng; đã là hư giả thì có gì phải sợ hãi. Kinh: Vì sao?… tức là giải thoát. Tán: Đây là phần thứ hai nói về văn tự cũng lìa. Không Lý Nghóa ghi: “Không chỉ các pháp không, vô tánh được nói ra lìa văn tự mà danh tự ngữ ngôn cũng lìa. Ứng Lý Nghóa ghi: “Không chỉ tánh tướng các pháp có không được nói ra lìa ngôn ngữ, mà ngay ngôn ngữ cũng lìa ngôn ngữ. Hoặc cho rằng ở đây không chỉ nói lý lìa tánh, mà căn cứ vào đó văn tự cũng lìa tánh tướng. ” Đối với âm thanh năng thuyên thì tướng ngắn nhất gọi là chữ (tự), vừa thì gọi là danh và dài thì gọi là câu. Các tướng danh tự ngôn cũ đều là giả lập bày, thể không chân thật. Pháp đã chẳng phải pháp, chẳng phải chẳng pháp, lời cũng chẳng phải lời, chẳng phải chẳng lời, lời đã chẳng phải lời chẳng phải chẳng lời thì văn tự cũng chẳng phải văn tự chẳng phải chẳng văn tự. Đoạn trừ định chấp văn tự, cho nên chỉ nói chẳng phải. Trong tất cả pháp, sự ly ngôn tức là Y tha khởi, lý ly ngôn tức là giải thoát Niết-bàn chân như. Không Lý Nghóa ghi: “Tất cả pháp và văn tự tánh không tức là thể của Niết-bàn giải thoát”. Kinh: Tướng giải thoát tức là tất cả pháp. Tán: Đây là đoạn tổng kết thành tựu các pháp. Không Lý Nghóa ghi: “Giải thoát Niết-bàn tức là bản tánh không của tất cả pháp”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Lý ly ngôn trong tất cả pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là bản tánh các pháp. Cho nên gọi là tức. Bản dịch xưa tại đây chỉ nói ngôn thuyết tánh ly, không nói pháp tánh đối với văn tự. Kinh: Đức Thế Tôn… được thuận pháp nhẫn. Tán: Đây là đoạn thứ sáu nói về lợi ích, có hai: Được quả nhỏ, tức hai vạn Thiên tử xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh chứng quả Dự Lưu, như luận đã giải thích. Được quả vị lớn tức là năm trăm Thiên tử được thuận pháp nhẫn. Có người nói rằng Sơ địa được nhẫn thuận chánh giáo pháp, có người nói Địa thứ tám mới được. Bản dịnh xưa không có ý này. Pháp nhãn tịnh, có người cho rằng ở Sơ địa, tức trái với văn của luận, vì xa lìa trần cấu, nói là quả nhỏ. Nay giải thích đúng nghóa thì Vô sinh pháp nhẫn Sơ địa đã đạt được, nay nói thuận nhẫn tức trước mười Địa được thiện căn nhẫn vị, hữu lậu nhẫn vị, thuận tuệ nhẫn. Hoặc cho rằng Thuận nhẫn thứ ba trong năm nhẫn, Địa thứ tư, năm, sáu thuận đạo xuất thế. Kinh: Lúc bấy giờ, con im lặng… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Kết luận nguyên do từ chối. Tự thân kém cỏi xin thoái lui. Thần khí của ta đã cháy tiêu tan, thì nay đâu dám đối đáp. Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến đó thăm bệnh. Tán: Thứ năm, Đức Phật sai bảo Mãn Từ Tử. Đầu tiên sai bảo, sau từ chối. Đây là lời sai bảo. Mãn là tên, Từ là họ của mẹ, Tôn giả Mãn này do Từ mà sinh ra, nên gọi là Tử. Âm Phạm là Mai-đát-lợi-da, Hán dịch là Từ, mẹ của Tôn giả thuộc dòng Bà-la-môn. Xưa có một vị Tiên thường tu tập hạnh Từ, sau vẫn kế thừa như thế, cho nên lấy Từ làm họ, người mẹ lúc ấy không có con, đến đó cầu xin, một đêm nằm mộng thấy một vật báu chứa đầy châu ngọc đặt bên người, ánh sáng chiếu nhập vào bụng. Sáng dậy nói với chồng: “Ắt là trời cho vật báu”. Quả thật sau đó có thai, sinh ra ngài. Thầy tướng đến xem và nhân đó mà đặt tên là Mãn. Lớn lên tụng thuộc luận Tỳ-già-la, hạnh từ cũng viên mãn. Sau xuất gia, chứng quả A-la-hán, luận nghị biện tài là đệ nhất. Cho nên Đức Phật mới sai bảo. Kinh: Bấy giờ, Mãn Từ Tử… đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Từ đây trở xuống là phần từ chối, gồm có ba. Đây là nói chung về đạo đã bị khuất phục. Mãn Từ thuyết pháp lợi ích các người mới học, nói pháp Tiểu thừa chẳng nói Đại thừa, chẳng biết tâm cơ, xưa đã bị trách, vì thế nay từ chối. Kinh: Vì sao?… thuyết pháp cho các Tỳ-kheo mới học nghe. Tán: Sau đây là phần hiển bày lý đã cùng tận. Đầu tiên tự hỏi, sau là giải thích. Trong phần giải thích lại chia hai: Nêu việc của mình. Thuật lại lời của Vô Cấu. Đây là đoạn tự hỏi và nêu việc của mình. Hàng sơ cơ mới học, xưa nay trí còn ngăn ngại, cho nên thuyết pháp nhỏ, khiến họ dần dần thuận theo. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mà nói rằng. Tán: Đây là thuật lại lời của Vô Cấu, gồm hai: Đầu tiên nêu phép tắc đến diện kiến, kế đó là chính thức trình bày. Đây là văn đầu tiên. Kinh: Thưa Mãn Từ Tử… đặt vào bát báu. Tán: Trình bày có hai: Đầu tiên trách Mãn Từ Tử làm không đúng, sau khiến được lợi ích. Trong phần đầu lại có hai: Đầu tiên trách chẳng biết hôm nay, sau là trách chẳng biết ngày xưa, tức là câu “Tôn giả Mãn Từ Tử! Các Bí- sô này đều từ xa xưa…”Trong đoạn trách chẳng biết hôm nay, lại có ba: Đầu tiên nói chẳng biết tâm, kế đến nói chẳng biết ý lạc, sau cùng trách chẳng biết căn. Trong ba luân, thứ hai là ký tâm luân, tức người đã nhập vào pháp dùng tha tâm trí, trước quán tâm của người, sau đó mới thuyết pháp giáo hóa. Quán tâm là tổng. Trong mười trí lực cũng có Chủng, Chủng thắng giải trí lực, cho nên trước trách chẳng biết tâm mà thuyết pháp. Trong đoạn ngài Mục-liên ở trước đã nói nên biết căn tánh sai biệt mà thuyết Đại thừa, nói với Mãn Từ Tử trước nên nhập định, quán tâm của người; tâm hạnh của họ là Đại thừa, giống như Bát báu, thuyết giáo Tiểu thừa giống như đặt vào đó thức ăn dở. Kinh: Trước nên biết rõ… viên thủy tinh tầm thường dễ vỡ. Tán: Đây là khuyên nên biết ý lạc. Ý lạc tin hiểu pháp Đại thừa. Ý lạc Đại thừa như hạt châu lưu ly vô giá, ý lạc Tiểu thừa như viên thủy tinh tầm thường. Nay cho đại cơ đồng với tiểu cơ cho nên nói lưu ly đồng thủy tinh. Trước đặt tiểu pháp vào đại tâm, như đặt thức ăn dở vào bát báu. Ở đây cho tiểu tâm đồng đại tâm, cho nên dụ lưu ly đồng thủy tinh. Bản xưa nói tâm niệm, tức ý lạc. Kinh: Thưa Tôn giả Mãn Từ Tử!… một phần căn tánh thọ pháp. Tán: Đây là đoạn trách chẳng biết căn, gồm có ba: Đầu tiên trách chẳng biết căn, kế đó nêu nguyên do trách, sau cùng là hiển thị Đại tiểu xưa nay cách biệt. Đây là văn đầu, vật tức là chẳng nên. Tức chẳng nên chưa quán căn cơ mà trao cho Tiểu thừa, Tiểu thừa chỉ là pháp mà một phần nhỏ căn tánh của họ thọ nhận, chỉ là tự lợi chẳng phải lợi tha, là hạnh nhỏ chẳng phải hạnh lớn. Bản dịch xưa đoạn văn này hơi khác nhưng ý vẫn đồng. Kinh: Họ vốn chẳng thương tổn… chẳng nên chỉ đường nhỏ. Tán: Hiển nguyên do chê trách. Nguyên do có hai: Phát tâm Tiểu thừa, như ung như nhọt, bại hoại thanh danh, chẳng thể cứu nạn cho người, người không có tâm này mà trao cho họ Tiểu thừa, người không thương tổn chớ làm họ thương tổn. Căn cơ của họ lanh lợi, cầu hành đạo Đại thừa cho nên chẳng được dùng đạo Tiểu thừa chỉ dạy, khiến cho họ lầm lẫn tu học, một là tổn hại đến họ; hai là làm họ lầm lẫn. Do hai nguyên do này mà chê trách là chẳng biết căn cơ. Kinh: Không nên dùng ánh sáng mặt trời… đồng với tiếng của dã can. Tán: Đây là hiển thị Đại Tiểu xưa nay cách biệt gồm có bốn dụ, bản xưa có hai. Đại thừa như ánh sáng mặt trời chiếu khắp quần sinh, Tiểu thừa như lửa đom đóm chiếu sáng tự thân vẫn chưa đủ. Pháp Đại thừa như biển lớn sâu rộng vô biên, căn cơ Tiểu thừa như dấu chân trâu cạn nhỏ. Đại thừa như núi chúa sừng sững cao vút, Tiểu thừa như hạt cải nhỏ bé thấp kém. Đại thừa như tiếng rống sư tử, quyết định vô úy, Tiểu thừa như tiếng kêu của dã can, vì sợ hãi người. Thứ nhất là dụ lợi ích lớn, thứ hai là dụ sâu rộng, thứ ba là dụ cao tột, thứ tư là dụ vô úy. Hoặc cho rằng thứ nhất và thứ tư là dụ cho việc Đại hơn Tiểu, người có căn cơ Đại thừa thì chẳng nên trao cho pháp Tiểu thừa. Thứ hai và thứ ba dụ cho Đại hơn tiểu, người có căn cơ Tiểu thừa chẳng nên trao cho pháp Đại thừa, nên hợp cơ mà trao cho pháp. Kinh: Thưa Tôn giả Mãn Từ Tử!… pháp Thanh văn thừa. Tán: Đoạn này là trách chẳng biết ngày xưa, gồm có hai: Đầu tiên nói về chỗ chẳng biết, sau nói về hay không biết. Đây là đoạn thứ nhất, kỳ tức là cầu. Hạng Tỳ-kheo mới học này, khi xưa đã hướng đến Đại thừa, tâm cầu Đại Bồ-đề, nhưng chưa đến vị Bất thoái, giữa đường quên tâm này, như thế vì sao hôm nay lại trao cho họ pháp Tiểu thừa. Cho nên đoạn trên kinh ghi: “Chớ dùng thức ăn dở mà đặt vào bát báu”. Kinh: Ta quán Thanh văn… hơn cả người mù bẩm sinh. Tán: Đoạn này là nói về hay chẳng biết. Đầu tiên nói cái có được, sau nói cái không có được. Đoạn này là nói cái có được. Trí tuệ của Thanh văn cạn thấp hơn cả người mù bẩm sinh. Hỏi: Kinh Thắng Man ghi: “Phàm phu như người mù bẩm sinh, chẳng thấy các hình sắc, Thanh văn như đứa bé mới sinh bảy ngày, chẳng thấy mặt trời”; vì sao nay lại nói Thanh văn hơn người mù bẩm sinh? Nếu thấy đế lý thì phàm phu không thể có, cho nên kinh kia nói giống như người mù bẩm sinh. Thanh văn được một phần, cho nên kinh kia nói giống như đứa bé sinh được bảy ngày chẳng thấy ánh sáng mặt trời. Ở đây nói Thanh văn chẳng biết căn tánh, cho nên hơn cả người mù bẩm sinh. Thanh văn không thể liễu đạt sự hơn cả người mù bẩm sinh, chứ không phải nói về đế lý. Kinh: Không có Đại thừa… các căn lợi độn của hữu tình. Tán: Đây là nói về cái chẳng có. Bậc Đại thừa có diệu trí quán căn tánh, cho nên có thể phân biệt được căn lợi độn ở đời trước, hàng Thanh văn thì không có diệu trí quán xét căn cơ này, cho nên không thể biết được các căn lợi độn. Như ngài Xá-lợi-phất dạy hai đệ tử, con của người thợ vàng thì dạy quán xương trắng, con của người giặt áo thì dạy quán sổ tức. Cũng như quán đứa bé hành khất thấp hèn nhất ở tám vạn kiếp trước đã tu tập Bồ-đề, mà đều chẳng biết. Bản dịch xưa chỉ có ghi: “Bất thức” mà không có nói đến trí Đại thừa. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nhớ lại vô lượng túc trụ sai biệt. Tán: Đây là nói về lợi ích, gồm có ba: Đầu tiên khiến nhớ lại việc xưa, kế đến dạy phát tâm Đại thừa, sau cùng là khiến đạt được giai vị thù thắng. Trong phần đầu lại gồm hai: Nêu chung việc nhớ nghó. Nêu riêng việc nhớ nghó. Đây là văn thứ nhất, Tam-ma-địa, Hán dịch là đẳng trì, tức thiền định, dùng thiền định hiển thị thần thông, túc trụ trí lực, khiến các Bí-sô theo đó nhớ lại kiếp quá khứ. Cũng có thuyết giải thích rằng: Trong đời quá khứ tuy chỉ chung cho bốn kiếp thành, trụ, hoại, không. Nhưng kiếp không thì không có sự việc, kiếp thành kiếp hoại là trước và sau kiếp trụ. Chỉ có kiếp trụ việc thiện ác rõ ràng nên được cho nêu lên. Nhưng gọi là túc trụ là gồm cả thành hoại. Nay theo thật nghóa thì trụ chẳng phải là kiếp trụ; trụ nơi sự việc ở đời quá khứ lâu xa nên gọi là túc trụ, thành, hoại, trụ kiếp, đều ở trong đó, chẳng nên giải thích mà phương ngại. Bản dịch xưa ghi: “Bấy giờ, Duy-ma-cật liền nhập Tam-muội”, đâu từng chẳng nhập mà nay mới nhập? Hiển thị tướng nay mới nhập, cũng không ngại. Kinh: Từng ở nơi quá khứ… tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tán: Đoạn này là nói riêng về việc nhớ nghó, gồm có bốn: Gặp duyên lành ở nơi năm trăm Đức Phật. Phát nhân Đại thừa, trồng các căn lành. Tu hạnh Đại thừa, tích tập đắc thù thắng. Mong cầu quả Đại thừa, hồi hướng Bồ-đề. Bản dịch xưa chỉ ghi ba việc, tức hợp thứ hai, thứ ba làm một. Kinh: Tùy nhớ lại như thế… đảnh lễ chân bậc Đại só. Tán: Đây là đoạn văn thứ hai, dạy phát tâm Đại thừa. Nói các việc trước kia, nay tiếp nối các tâm khi xưa cho nên có thể phát tâm Đại thừa. Mới vào Phật pháp, chưa hiểu quy tắc, nên vừa nghe diệu lý liền hoảng hốt sai lầm, bỏ quy tắc chánh của người xuất gia mà lễ chân thấp kém của Đại só. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… lại không thoái chuyển. Tán: Từ đây trở xuống là phần thứ ba, khiến cho được quả vị thù thắng. Bất thoái chuyển, tức làm cho đạt đến vị Bất thoái ở trụ thứ bảy trong mười trụ, vónh viễn chẳng lui sụt làm Nhị thừa. Kinh ngũ giới Ưu- bà-tắc nói Xá-lợi Tử tu đạo Đại thừa sáu mươi hai kiếp rồi, nhân sau bố thí mắt mà thoái lui làm Nhị thừa. Vì thế kinh Pháp Hoa gọi là giáo hóa Thanh văn thoái tâm Bồ-đề, khiến cho họ chẳng bị lui sụt, cho nên biết là đến trụ thứ bảy. Đây chẳng phải là tín bất thoái, vì lòng tin đã có từ lâu, cũng chẳng phải là chứng, hành bất thoái, vì đây còn gọi là sơ học. Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ, con nghó rằng… vì họ thyết pháp. Tán: Đoạn này nói về nguyên do từ chối, tự thân thua kém xin thoái lui, gồm ba: Nói về trí kém. Giải thích nguyên do. Tổng kết. Đây là văn thứ nhất, tất cả Thanh văn chẳng biết căn tánh, nếu chẳng bạch Phật thì chẳng nên thuyết pháp, lầm lẫn căn cơ, thì không lợi ích. Kinh: Vì sao?… như Phật Thế Tôn. Tán: Giải thích nguyên do hàng Thanh văn, chẳng có thể thường trụ trong định như Đức Thế Tôn, cho nên chẳng thể biết các căn thắng hay liệt, còn Phật thì hằng ở trong định, cho nên có thể biết căn, biết căn là do Tha tâm trí, Tha tâm trí khởi ắt phải có định. Kinh: Cho nên con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đây là đoạn tổng kết. Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến vấn an bệnh ông ấy. Tán: Đây là lần thứ sáu, Đức Phật sai bảo Đại Tiển Thế Nam. Đầu tiên là sai bảo sau là từ chối. Đây là lời sai bảo. Ma-ha là Đại; Ca- đa-diễn, Hán dịch là Tiển Thế, một pháp Bà-la-môn kiêng kî cắt râu tóc, lấy việc bất tịnh để hiển thị các vật dơ uế làm nhiễm ô hạnh thanh tịnh. Vào thời quá khứ lâu xa có rất nhiều vị tiên sống nơi núi rừng đã lâu, râu tóc rất dài, không người cắt bỏ cho họ. Lúc bấy giờ có một vị tiên, vốn đã có hai người con, hai người này đều đến thăm cha, người con lớn xấu hổ không chịu cắt tóc cho cha, người em có tâm Từ hiếu nên cạo sạch râu tóc cho cha mình, các vị tiên khác cũng nhờ người này cắt bỏ râu tóc. Người cắt tóc này được các vị tiên hộ niệm nên được giàu có và về sau cũng thành tiên. Nhân đó mà lấy làm họ, nay vị đệ tử này thuộc dòng dõi vị tiên kia, cho nên gọi là Tiễn Thế. Vị này có đầy đủ thần thông. Vì phân biệt với các vị kém nhỏ khác cho nên gọi là Đại. Na tức là lời biểu thị cho người nam, cha và bản thân đều thuộc dòng dõi ấy cho nên dùng từ Nam để biểu thị, đây là phân biệt mà nói vậy. Ở Ấn Độ cũng có nơi lấy theo họ mẹ, như Mãn Từ Tử mẹ thuộc dòng Bà-la-môn họ là Di-lặc. Tùy theo họ tốt đẹp của cha mẹ mà đặt theo. Kinh: Ca-đa-diễn-na… đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đoạn này là nói về việc từ chối, gồm có ba: Đây là phần nói chung về đạo đã bị khuất phục, ngài Ca-chiên-diên theo lời Phật thuyết an lập đế chẳng khế hợp phi an lập đế, cho nên bị quở trách. Trí hiện đã kém thua cho nên nói đạo bị khuất phục. Kinh: Vì sao?… liền nhập tónh trụ. Tán: Đây là nói về lý cùng tận. Đầu tiên tự hỏi, sau là giải thích, trong phần giải thích lại có hai: Nêu việc của mình. Thuật lại lời của Vô Cấu Xưng. Trong đoạn một thì đầu tiên hiển về chỗ tùy thuận, sau hiển hay tùy thuận (năng tùy, tha tùy) Đây là lời tự hỏi và nói về chỗ tùy thuận. Liền vào tónh trụ, trụ có ba: Thánh trụ tức là ba môn giải thoát và diệt định, Đức Phật trụ ở không và diệt định. Thiên trụ tức bốn tónh lự, Đức Phật phần nhiều trụ ở tónh lự thứ tư. Phạm trụ tức Từ, Bi, Hỷ, Xả, Phật phần nhiều trụ ở đại bi. Nay nói tónh trụ, tức trụ không hoặc diệt định, vì nương vào định thứ tư mà trụ cho nên gọi là tónh trụ. Kinh: Về sau con… nghóa tịch diệt. Tán: Đây là hiển năng tùy. Có thể tùy theo sau Phật mà nói diệu pháp. Nay nói trong an lập đế lý, bốn đế lý đầu là khổ đế lý, một đế lý sau là diệt đế lý, tức muốn khiến chán khổ thích diệt. Quyết trạch tức quyết liễu giản trạch giải thích (phân biệt rõ ràng để giải thích). Năm uẩn sinh diệt là sự vô thường, lý sinh diệt là nghóa vô thường, nghóa là nghóa lý, sau là căn cứ theo tri để giải thích, tánh uẩn bức bách gọi là sự khổ, lý bức bách gọi là nghóa khổ; uẩn chẳng phải thật có gọi là sự không; lý chẳng phải thật có gọi là nghóa không. Trong uẩn vô ngã gọi là sự vô ngã, lý vô ngã gọi là nghóa vô ngã. Các hành vắng lặng không có diệt để hiển gọi là sự diệt đế, lý tịch diệt này gọi là nghóa tịch diệt. Năm tướng này đều tùy theo sự biến hiện của tâm mà có nên gọi là an lập. Kinh Thắng Man nói: “Bốn đế có tạo tác”. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… liền nói rằng. Tán: Đoạn này thuật lời nói của Vô Cấu Xưng, gồm có hai, đầu tiên nói về phép tắc diện kiến, sau là chính thức trình bày. Đây là lời văn đầu tiên. Kinh: Thưa đại Tôn giả… Thuyết về pháp thật tướng. Tán: Đây là đoạn chính thức trình bày về lời của ngài Vô Cấu Xưng, gồm có ba: Bài bác chung. Bài bác riêng. Lợi ích. Đây là văn đầu. Không Lý Nghóa ghi: “Năm thật nghóa này, bản tánh đều không, tánh lìa ngôn ngữ, chẳng thường chẳng phải vô thường, chẳng khổ chẳng phải chẳng khổ, chẳng không chẳng phải chẳng không, chẳng ngã chẳng phải vô ngã, chẳng tịch diệt chẳng phải chẳng tịch diệt, đây là trừ chấp thường… mà nói vô thường… chẳng phải có thật vô thường… trong chân thắng nghóa. Cho nên chư Phật, hoặc nói ngã hoặc có lúc nói vô ngã, nhưng thật tướng các pháp thì không có ngã không có vô ngã. Nay nói nhất định có nghóa vô thường, vì thế bị quở trách, vì dùng tâm hành sinh diệt thuyết pháp thật tướng”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Năm thật nghóa này, tánh tức chân như duyên với tâm này, vô phân biệt trí duyên với chân như chẳng sinh chẳng diệt là cảnh. Nay lại dùng tâm hành phân biệt duyên với đế lý sinh diệt có tạo tác mà thuyết pháp chân như thật tướng, thì thật không thích hợp, cho nên nói là “không nên dùng”. Kinh: Vì sao?… là nghóa vô thường. Tán: Đây là phần nói về bài bác riêng. Năm phi (năm điều chẳng phải) là năm pháp phi vô thường. Không Lý Nghóa ghi: “Tục đế có tướng, vì có quá khứ, nên có đã sinh đã diệt, vì có hiện tại, nên có nay sinh nay diệt; vì có vị lai nên có sẽ sinh sẽ diệt. Vì biết thắng nghóa vô thường là vô tướng, tất cả đều không, ba đời vốn không, thì đâu có gì là sinh. Thấu đạt được lý này thì thường kiến tự tiêu, cho nên thế tục vô thường này là chân lý thắng nghóa. Ứng Lý Nghóa ghi: “Chư Phật đạt được đạo lý thắng nghóa rốt ráo, trong chân như vốn không có ba thời, thì chỗ nào mà có quá khứ đã sinh, hiện tại đương sinh và vị lai sẽ sinh, quá khứ đã diệt hiện tại đang diệt và vị lai sẽ diệt, cho nên vô sinh… là lý thắng nghóa chân vô thường, chẳng đồng với lý an lập có sinh diệt là nghóa vô thường. Nay dùng lý chân như thường làm năng thuyên để trình bày nghóa sở thuyên sinh diệt vô thường, cho nên nói chẳng sinh chẳng diệt là nghóa vô thường, thể của chân như là thường. Vì ngăn chấp thường, hiển bày vô thường gọi là nghóa vô thường gia. Kinh Niết- bàn ghi: “Có khổ, có đế, có thật”. Khổ nghóa là sự khổ, đế là lý khổ, thật là chân như, hàng Thanh văn có khổ đế mà không có thật, chẳng liễu đạt được chân như phi an lập, chỉ đạt được sự và lý an lập mà thôi. Do đó chân như nương vào ngôn ngữ để hiển bày là nghóa vô thường. Kinh: Thấu suốt được năm uẩn… là nghóa khổ. Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Tục đế có khổ, vì có tướng; Thắng nghóa vô tướng, bản tánh chẳng phải có. Vì phá chấp lạc mà nói khổ. Cho nên thấu suốt được năm uẩn vốn không, không từ đâu khởi là nghóa chân khổ”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Năm uẩn tánh không, tức là chân như, tánh biến kế sở chấp không, tánh chẳng phải không. Đạt được lý này thì biết được bản chân, không do đâu khởi. Nương vào ngôn từ để hiển rõ sự chân thật gọi là nghóa khổ, là thật của khổ. Kinh: Các pháp rốt ráo… là nghóa không. Tán: Lý Không nghóa ghi: “Thế tục đế thì có, thắng nghóa đế thì không. Trong đạo rốt ráo đều vô sở hữu, đây là nghóa không. Không tức là vô. Ứng Lý Nghóa ghi: “Trung các pháp, rốt ráo là chân như, không có như được chấp; các pháp có nhân nơi không mà hiển, nên nói là nghóa không” Kinh: Biết ngã và vô ngã… là nghóa vô ngã. Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Biết bản tướng của Thắng nghóa đế đều không, thì thể của ngã và vô ngã xưa nay bất nhị. Vì phá điên đảo ngã, cho nên nói vô ngã là nghóa vô ngã. Ứng Lý Nghóa ghi: “Biết nơi chân như không có tướng ngôn thuyết phân biệt; ngã và vô ngã xưa nay không hai, vì phá ngã, cho nên hiển vô ngã, đó là nghóa vô ngã”. Kinh: Không có tự tánh… là nghóa tịch diệt. Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Tất cả pháp trong thắng nghóa đế không tự tác dụng, cho nên không tự tánh, không do pháp khác tác dụng, cho nên không phải tha tánh, pháp do nhân duyên sinh, đều nói là không. Do đó nói không có sinh tử rõ ràng, sinh tử đã không thì cũng không có Niết-bàn, hôm nay vô đã diệt, Niết-bàn đã không cho nên không có thể tịch tónh, cũng không có phiền não. Diệt do rốt ráo tịch tónh hiển bày, đã thế đều không vì sự đã rốt ráo tịch tónh. Thánh giáo ghi: “Dù cho có một pháp nào hơn cả Niết-bàn, thì ta cũng nói là như huyễn như hóa”, lý không này là nghóa tịch diệt, không thật có Niết-bàn để được. Do đó mà trung luận bách luận có phẩm phá Niết-bàn. Ứng Lý Nghóa ghi: “Trong Thắng nghóa đế, các pháp hữu vi chẳng tự sinh, không có tự thật tánh; chẳng từ pháp khác sinh nên chẳng có tha thật tánh; chẳng do cộng sinh, nên chẳng có hai thật tánh trên. Tuy không có duyên tác dụng nơi đây, nhưng lại có công năng duyên có thể được. Dó đó mà không có sinh tử rõ ràng. Sinh tử đã không, cũng không thật diệt. Chân lý vốn diệt, chẳng phải nay mới diệt, cũng không có tự thể thật tịch tónh. Vì phiền não rốt ráo tịch tónh có thể làm cho hành giả rốt ráo tịch tónh, đó mới là nghóa thật tịch diệt, gọi là Đại Niết-bàn, chẳng phải là giả Niết-bàn của Tiểu thừa. Kinh: Khi thuyết pháp này… tâm được giải thoát. Tán: Đoạn này là nói về lợi ích. Được quả A-la-hán như trước đã nói. Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ, con… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Kết luận nguyên do từ chối, tự thân sút kém xin thoái lui. Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… vấn an bệnh của ông ấy. Tán: Đây là lần thứ bảy, Đức Phật bảo Vô diệt. Đầu tiên là sai bảo, sau là từ chối. Đây là văn đầu, lời sai bảo: Tiếng Phạm A-ni luật- đà, Hán dịch là Vô diệt. Tương truyền giải thích rằng: “Trước đây tám vạn kiếp, từng cúng dường một vị Bích-chi-phật, thiện căn đạt được, đến nay vẫn không hết cho nên gọi là Vô Diệt. Kinh Thí Dụ ghi: “Sau khi Đức Phật Tỳ-bà-thi nhập Niết-bàn, A-na-luật là một kẻ trộm, lén vào Phật đường thấy đèn sắp tắt, bèn rút một mũi tên khêu đèn sáng lên, bỗng thấy Đức Phật uy nghiêm rực rỡ, nên sắc mặt tỏ vẻ kinh sợ, nghó rằng: “Người kia còn xả bỏ các vật để cầu phước, vì sao ta lại trộm cắp”, do đó mà bỏ đi. Do thiện căn này, trong chín mươi mốt kiếp thường sinh vào cõi lành. Ngày hôm nay gặp ta được Thiên nhãn. Phước quả đạt được, chưa từng bị diệt nên gọi là Vô Diệt. Vả lại A-na-luật lại là anh em chú bác với Đức Phật, kinh truyền rằng: “Cha và chú của Thế Tôn gồm bốn người: Tịnh Phạn vương, có hai người con, con trưởng tên là Tát-phược- hạt Thích-tha-tất-đà, Hán dịch là Nhất Thiết Nghóa Thành, tức là Phật, con thứ tên Nan-đà. Hộc Phạn vương, có hai người con, con trưởng tên Thiên Thọ tức Đề-bà-đạt-đa, con thứ tên A-nan-đà. Bạch Phạn vương, có hai người con, con trưởng tên A-na-luật- đà, con thứ tên Ma-ha Nam. Cam Lộ Phạn vương, có hai người con, con trưởng tên Bạt-đề, con thứ tên Đề-sa. Tám người này đều xuất gia. A-na-luật ngủ gục trong lúc đang nghe Phật thuyết pháp, Như Lai quở trách rằng: “Ôi, sao lại ngủ gục như thế, thật giống loài ốc!” Vô Diệt xấu hổ, nghe pháp mà buồn khóc, nhiều ngày không ngủ, nên mắt bị mù. Sau đó đến hỏi Kỳ-bà, Kỳ-bà hỏi nguyên nhân phát bệnh, Vô Diệt thuật lại đầy đủ. Kỳ-bà nói rằng, ngủ là thức ăn của mắt, nhiều ngày không ngũ mắt bị chết đói khó có thể chữa khỏi. Vô Diệt bèn tu Thiên nhãn, thấy được đại thiên. Người mà được Thiên nhãn thì thành hai loại mắt. Nhưng mắt người thì mù mà mắt trời thấy được vật, nửa thấy nửa không thấy, cho nên có tên là Bán Đầu Thiên nhãn. Nay được Đức Phật sai bảo. Kinh: Lúc bấy giờ, Đại Vô Diệt… Không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đây là phần từ chối, gồm ba: Đoạn này nói chung về việc đạo đã bị khuất phục. Vô Diệt được Thiên nhãn. Là hữu lậu vô ký, còn có tướng tức chẳng phải chân thật. Nêu lên hai vấn đề không thể trả lời được, cho nên đầu tiên liền nói không kham nhận. Kinh: Vì sao?… kinh hành ở một nơi. Tán: Đây là hiển lý đã cùng tận. Đầu tiên tự hỏi, sau là giải thích. Trong giải thích lại có hai: Đầu tiên nêu lên việc của mình, sau đó là thuật lại lời của Vô Cấu Xưng. Trong phần thuật lại việc của mình gồm có ba ý: Nêu việc kinh hành. Phạm vương đến hỏi. Trả lời. Đây là phần tự hỏi và nêu lên việc mình kinh hành. Ở Ấn Độ đất ẩm thấp, ăn khó tiêu, nên phải lát gạch làm đường để đi lại cho tiêu thực. Vì đi qua rồi đi lại như vật lăn tới lui cho nên gọi là kinh hành. Nhân đây cũng được thuyết pháp tụng kinh. Các người học thiền cũng cần phải tu ánh sáng và các tướng. Kinh: Lúc bấy giờ, có Phạm vương… có thể thấy được bao nhiêu? Tán: Đoạn này là phần Phạm vương đến hỏi. Thiên nhãn trụ ở cõi trời Thiền, các Phạm vương đều được, nay thấy Vô Diệt chứng đắc cho rằng cũng thuận với mình nên đến han hỏi. Nhưng cõi thì có cao thấp, tu thì có hơn và kém, cho nên chứng thiên nhãn có thể thấy được bao nhiêu. Bản dịch xưa lầm lẫn. Kinh: Lúc bấy giờ, con đáp rằng… quả A-ma-lạc. Tán: Vô Diệt trả lời. Một cõi Phật hóa độ là tam thiên đại thiên. Vô Diệt là hàng Thanh văn cho nên thấy được như thế. Các loại quả ở Ấn Độ màu sắc khác nhau, quả A-ma-lạc được nhiều người ưa thích cho nên lấy làm dụ, để nói lên chỗ thấy rất rõ ràng. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nói rằng. Tán: Đây là thuật lại lời của Vô Cấu Xưng, gồm hai: Nêu phép tắc đến gặp. Chính thức thuật lại. Đây là lời văn thứ nhất. Kinh: Thưa Tôn giả Vô Diệt… là không có hành tướng. Tán: Phần chánh thức thuật lại, gồm năm: Cật vấn. Im lặng. Phạm vương hỏi. Đáp. Lợi ích. Phần cật vấn có ba: Hỏi chung. Hỏi riêng. Tổng kết. Đây là văn thứ nhất. Có hành tướng thì Không Lý Nghóa giải thích rằng: Thiên nhãn đạt được, thể của nó có hành tướng sai biệt hay không có hành tướng sai biệt? Đầu tiên là hỏi về thế đế, sau là hỏi về chân đế”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Là có tướng trạng hành giải phân biệt hư vọng, hay không có tướng trạng hành giải phân biệt hư vọng? Lời luận bàn ở đây, mới nghe tựa như sóng dữ, không tâm duyên cảnh thì không có hành tướng, nếu không có hành tướng, thì làm sao duyên cảnh, như Duy Thức đã nói. Nay hỏi hư vọng cho nên không bị lỗi.” Kinh: Nếu có hành tướng… lẽ ra chẳng thấy. Tán: Đây là hỏi riêng. Không Lý Nghóa ghi: “Nếu thể của nó có hành tướng thì không khác với năm thần thông của ngoại đạo, thì đâu thể gọi là nội đạo? Đẳng nghóa là không khác. Tức là chấp có thế tục đế. Nếu thể không có hành tướng tức là vô vi, vô vi chân đế, tánh của nó đều không, vậy làm sao có thấy”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Nếu có hành tướng hư vọng phân biệt, thì không khác với năm thần thông của ngoại đạo, vì đó là từ hư vọng phân biệt mà sinh. Tâm, tâm sở trong ba cõi đều hư vọng phân biệt. Nếu không có hành tướng phân biệt hư vọng tức đồng với vô vi chân như, lẽ ra chẳng thấy. Chân như tuy có, nhưng không có hành tướng, chẳng thể có thấy”. Xem xét câu hỏi này thì cũng nên hỏi hai câu về thiên nhãn của Thanh văn và Phật. Thiên nhãn của Phật thông với tâm tâm sở, chẳng phải không có hành tướng, nhưng chẳng phải là tâm phân biệt hư vọng, chẳng phải có hành tướng chẳng đồng với lời hỏi trước, cho nên không bị lỗi. Kinh: Vì sao Tôn giả… có thể thấy được? Tán: Đây là đoạn kết luận lời vấn nạn. Tất cả lý này đều chẳng phải, sao lại có thấy? Kinh: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ im lặng không thể đối đáp được. Tán: Đây là phần thứ hai, Vô Diệt im lặng. Lời và lý lẽ không, không thể thêm bớt được, cho nên im lặng không thể đáp. Kinh: Nhưng các Phạm vương… ai được chân Thiên nhãn? Tán: Thứ ba, Phạm vương hỏi. Thục tức là thùy (ai) Phạm vương nghe pháp ít có, liền được điều chưa từng gặp, nên hạ mình tôn người, hỏi trên thế gian này ai là người được chân thiên nhãn tối thắng. Kinh: Vô Cấu Xưng đáp rằng… các tướng. Tán: Thứ tư là đáp. Có Đức Phật Thích-ca, tu tập thiện căn đã lâu, được chân Thiên nhãn. Không Lý Nghóa ghi: “Chân trí của Đức Thích- ca bên trong thì khế hợp với chân không, chẳng xả bỏ tịch định, chẳng phải hữu vi, bên ngoài hay tùy thuận thế tục, thấy các cõi Phật chẳng phải vô vi, nên gọi là chân Thiên nhãn; chẳng đồng với ngoại đạo thấy hai tướng và các tướng khác. Hai tướng tức tổng tướng có không. Các tướng tức biệt tướng có không”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Thiên nhãn của Vô Diệt thì dụng mà chẳng tịch, đầu tiên nhập định rồi sau mới khởi Thiên nhãn. Thiên nhãn tán tâm là hữu lậu vô ký gọi là phi chân nhãn, chỉ thấy đại thiên. Thiên nhãn của Như Lai là vô phân biệt trí chánh quán chân như, chẳng bỏ tịch định, trong Hậu đắc trí, khởi nơi vô lậu là thiên tánh thiên nhãn, thấy các cõi Phật rộng khắp mười phương, không có hai tướng và các tướng. Hai tướng tức hữu hành và vô hành là tổng sai biệt tướng và cộng tướng. Các tướng tức biệt sai biệt tướng và tự tướng, đều là các tướng hư vọng phân biệt. Kinh: Lúc bấy giờ, các Phạm vương… bỗng nhiên biến mất. Tán: Thứ năm nói về lợi ích. Nghe pháp vi diệu hy hữu liền phát tâm thù thắng. Nghe hỏi đã xong, tự nhiên chẳng hiện nữa. Kinh: Cho nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Tổng kết nguyên do từ chối và tự thân thấy kém sút nên xin thoái lui. Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến vấn an bệnh ông ấy. Tán: Lần thứ tám, Đức Phật bảo Ưu-bà-ly. Đầu tiên là sai bảo sau là từ chối. Đây là lời sai bảo. Phạm Ưu-bà-ly, Hán dịch là Cận chấp. Khi Đức Phật còn làm Thái tử, Ưu-bà-ly là một cận thần, nắm giữ việc triều chính, cho nên gọi là Cận chấp. Tức vị quan giữ gìn kho tàng. Khi các vương tử họ Thích xuất gia, thì cho ông tất cả quần áo, mũ, vật báu, trang sức, voi cưỡi. Sau đó ông ấy nghó rằng, các Thích tử giàu có còn xả bỏ để xuất gia, ta là hạng người nào mà còn ở lại. Bèn treo mũ lên cành cây, cột voi vào gốc cây mà nguyện rằng, nếu có người đến lấy ta sẽ dâng cho, rồi đến chỗ của các vương tử thuật lại suy nghó của mình. Các vương tử đều vui mừng, bạch Phật xin độ Cận Chấp trước, làm bậc trên, để chúng con xả bỏ tâm ngã mạn, sinh lòng cung kính thừa sự. Đức Phật chấp nhận. Các vương tử cung kính lễ bái Bà¬ly, lúc ấy mặt đất chấn động, trên hư không có tiếng khen rằng: “Các vương tử họ Thích này, núi ngã mạn đã sụp đổ”. Hạ thấp đầu tôn quý của mình mà nay lễ bái chân thấp kém của người. Là bậc đệ nhất về trì luật, cho nên nay Đức Thế Tôn sai bảo. Kinh: Lúc bấy giờ, Ưu-bà-ly… đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đây là phần từ chối, gồm ba: Một là, nói chung về đạo đã bị khuất phục. Con y theo luật hạnh, dạy họ dứt trừ oan nghiệp, ông ấy nói chứng chân, thì tội nặng mới diệt. Con nói do thân ngữ mà tội được trừ, ông ấy nói hội nguồn tâm thì cấu uế mới sạch. Lý đã thua, lời cũng sút kém cho nên đều từ chối. Kinh: Vì sao?… chẳng dám đến chỗ Phật. Tán: Đây là đoạn nói về lý đã cùng tận, gồm hai: Nêu việc của mình. Thuật lời của Vô Cấu Xưng. Trong phần nêu việc của mình lại gồm hai: Hai người đến xin xuất tội. Mình như pháp dứt trừ. Trong phần hai người đến xin xuất tội lại chia ba: Nguyên do đến. Phép tắc đến gặp. Xin xuất tội. Đây là văn thứ nhất. Phật là Pháp chủ, oai đức đặc biệt tôn quý, việc tầm thường nhỏ nhặt thật chẳng thể đến, cho nên phá hoại luật hạnh xấu hổ chẳng dám đến gặp Phật. Kinh: Đến chỗ của con… mà nói với con rằng: Tán: Đây là nói phép tắc đến han hỏi. Kinh: Thưa ngài Ưu-bà-ly!… khỏi được tội này. Tán: Đây là phần xin xuất tội. Tội nhỏ đã sinh sợ hãi lớn, lại phạm luật hạnh, thật lấy làm xấu hổ, nguyện xin giải trừ sự lo buồn, sự phiền não trong tâm chúng tôi, mà tránh được tội này, tội đã có thể khỏi, nói chẳng phải là Ba-la-di. Kinh: Con liền vì họ… thanh tịnh tội đã phạm. Tán: Đây là nói Ưu-ba-ly như pháp trừ diệt tội lỗi cho hai vị kia. Nói như pháp tức như luật. Việc nhẹ hoặc Thế Tôn chế nặng, việc nặng hoặc có thể chế nhẹ. Nhưng khi xuất tội chỉ là tác pháp, đạo lý phải nên như thế, chẳng phải là cách y theo nghiệp đạo để trừ diệt gốc tội. Như luật pháp giải nói đạo lý khiến họ trừ ưu não, thanh tịnh được tội lỗi đã phạm. Kinh: Thị hiện, chỉ bày, khuyến tấn, an ủi. Tán: Hiển pháp tướng như gồm: Thị hiện. Chỉ dạy. Khuyến tấn. An ủi. Các kinh khác cũng thêm phần khiến lìa dục. Luận Du-già tám mươi mốt ghi: “Khiến lìa dục, nghóa là chê trách tất cả sáu hành hắc phẩm, chỉ bày tội lỗi, khiến xa lìa ái nhiễm”, tức là dạy khuyến trừ lo buồn ăn năn. Thị hiện nghóa là khiến thọ học các hạnh bạch phẩm, nêu ra bốn đạo lý chân thật. Chỉ dạy, nghóa là đã thị hiện thì được tin hiểu, liền lập bày chỗ học, khiến chánh thọ thực hành. Do đó họ được tự tại và liền hỏi: “Bây giờ tôi nên làm như thế nào? Xin chỉ dạy cho”. Nhân đó mà bảo rằng: “Bây giờ các ông đối với việc như thế nên làm nên học”. Khuyến tấn, nghóa là đối với chỗ biết, chỗ làm, chỗ được họ sinh tâm lui sụt, thì bấy giờ nên khen ngợi, sách tấn tâm họ, khiến đối với việc ấy có thế lực mạnh mẽ. An ủi, nghóa là họ dõng mãnh chân chánh thực hành pháp và tùy pháp, tức nên như thật vui mừng tán thán, khiến cho họ hoan hỷ. Có một cách giải thích khác cũng đồng như luận kia; tức trong đó cũng là khiến lìa dục nhiễm: Chỉ bày bạch phẩm, khuyên hành chánh hạnh, sách tấn khen ngợi chớ thoái lui, vui mừng với việc làm của họ, khiến sinh tâm hoan hỷ, gọi là như pháp mà thuyết, bản dịch xưa thiếu các việc này. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mà nói rằng. Tán: Thuật lại lời của Vô Cấu Xưng, gồm hai: Phép tắc đến han hỏi. Chính thức thuật lại. Đây là văn đầu tiên. Kinh: Thưa ngài Ưu-ba-ly!… chớ làm rối loạn tâm của họ. Tán: Thuật lời của ngài Vô Cấu Xưng, gồm năm: Nêu chánh lý. Tán dương. Đã dạy. Tội diệt. Phát nguyện. Nêu chánh lý, gồm có ba: Bài bác chung. Hiển chánh. Kết luận chánh lý. Đây là văn thứ nhất. Không Lý Nghóa ghi: “Hai người phạm tội, do chấp có tướng, nên xin diệt trừ tội, lại chỉ dạy là tội có khởi, lấy có tăng thêm vào có, cho nên gọi là tăng tội. Nên diệt trừ thẳng tâm ưu não cho họ, nên nói vô tướng, tội tánh vốn không, là diệt trừ tội cho họ, chớ dùng “có tội” mà não loạn tâm họ”. Nhiễu tức là loạn. Ứng Lý Nghóa ghi: “Hai người phạm tội, tội là nghiệp đạo, cần phải chứng lý thể, đạt được hư huyễn, mới nhổ được gốc tội. Nhưng y theo tác pháp là dùng sự để diệt, thì miệng đúng tâm sai, diệt mà chẳng diệt, tội nghiệp lại sinh, nên gọi là tăng tội. Nên nói chân lý, khiến cho chứng ngộ, nên nói tục chúng như huyễn, khiến họ liễu đạt, gọi đó là trừ diệt thẳng tội cho họ, nhổ sạch chủng tử tội lỗi, chớ dùng sự tướng làm não loạn tâm họ để hiện tội tiêu diệt. Kinh: Vì sao?… chẳng tại ở giữa. Tán: Hiển chánh lý, gồm có hai: Nói về chân lý khiến chứng được gốc tội. Nói về việc tục khiến biết được tội là hư giả, tức câu “Thưa ngài Ưu-bà-ly tất cả pháp tánh, sinh diệt chẳng trụ…”, tướng của tội không thật, dể dứt trừ, chủng tử gốc tội vốn chân thật, chứng đạt đó thì tội diệt. Tội diệt, tức là nhổ trừ các chủng tử quả khổ phiền não ác nghiệp như đoạn dứt chủng tử, tức diệt mà chẳng sinh, nếu thân ngữ sám hối thì chỉ gọi là chế phục, tăng sức giảm năng lực, chẳng phải là chân thật diệt tội, về sau tội lại sinh. Trong phần thứ nhất lại chia làm ba: Nói về chánh lý. Hỏi khiến cho hiển. Nói về tướng hiển tịnh. Trong phần nói về chánh lý gồm ba ý: Một là, nói về tánh tội; hai là, nói về chỗ y cứ của tội; ba là thể của tội. Đây là văn đầu tiên. Không lý Nghóa ghi: “Tánh tội tức Lý chân không, không có chỗ trụ; tánh tội nếu có thì trụ ở nội căn; và do ngoại sáu cảnh, nên có khoảng giữa. Tánh tội vốn không, đều không có chỗ trụ. Trong thế tục đế, tội trụ ở sáu căn, sáu trần làm duyên mà khởi tội, cho nên gọi là ở ngoài. Trong nhân, ngoài duyên, nên trụ ở giữa. Sáu thức… ở bên trong. Tánh tội đã không, cho nên không có chỗ trụ. Chứng biết được tánh tội vốn không, thì có tội gì?”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Tánh tội là lý chân như, lý này chẳng nương vào nội căn, ngoại cảnh mà trụ ở khoảng giữa. Do mê lý này nên xoay vần tội sinh, chứng đạt được lý này thì tội vónh viễn diệt tận. Kinh: Như lời Phật dạy… thì hữu tình thanh tịnh. Tán: Đây là nói về chỗ y cứ của tội, gồm có hai: Nói người giả y cứ vào tâm mà thành. Nói thể của tội y vào tâm mới khởi. Tội y vào tâm mới sinh khởi. Đây là đoạn văn đầu tiên. Tội tức do nghiệp thân ác tạo tác, thể của nó là hiện hành và chủng tử của tư bất thiện, lấy tâm làm chỗ y cứ, tức năng y của tư, việc này có thể phá hủy, chán lìa cho nên gọi là tội. Vì thế đầu tiên nói về chỗ y cứ của tội để khiến cho họ được liễu đạt, sau đó mới nói đến thể của tội. Sắp nói đến chỗ y cứ của tội thì trước dẫn lời Phật. Lý Không Nghóa ghi: “Đây là dẫn giáo thế tục. Tâm tức sáu thức, chẳng nói có tám. Nếu thật có tâm thì thật có tội, tức hữu tình có tạp nhiễm, tâm tánh vốn không thì tội chẳng có, hữu tình thanh tịnh”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Luận Thành Duy Thức nói tâm là thức thứ tám. Hữu tình là ngũ uẩn giả, đều là y vào tâm kia mà giả kiến lập. Thức tâm thứ tám nếu thuộc về hữu lậu tạp nhiễm thì người giả năng y cũng là tạp nhiễm, nếu thức tâm thứ tám sở y thuộc về vô lậu thanh tịnh thì người giả năng y cũng thanh tịnh. Nay ở đây đều nương vào tám thức kiến lập hữu tình giả, lấy tâm làm gốc, cho nên tội và người tội lìa tâm thì chẳng có. Kinh: Tâm như thế… chẳng trụ ở giữa. Tán: Nói về thể của tội nương vào tâm mới khởi. Lý Không Nghóa ghi: “Tâm như thế, nghóa là trong Thắng nghóa đế cũng chẳng y cứ vào trong, ngoài, chẳng ở giữa; vì bản tánh không hay khởi thể của tội, nên chẳng phải chân thật”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Tám thức tâm này chẳng đồng sáu thức mà Nhị thừa đã nói. Sáu thức thật chẳng trụ ở sáu căn, chẳng trụ ở ngoài hoặc ở khoảng giữa. Chỉ nương vào chân như pháp giới thanh tịnh mà trụ, do đó tội cấu cũng không có chỗ trụ. Kinh: Tâm ấy như thế… chẳng lìa như. Tán: Đây là nói về tội thể. Không Lý Nghóa ghi: “Tâm sở y như thế vốn không tịch, không có chỗ trụ, tội cấu năng y, trong Thắng nghóa đế cũng vô tự tánh, không có chỗ nương gá. Tội cấu đã như thế, các pháp cũng như thế. Vậy cái gì là duyên của tội, ai là người lìa tội? Vì tâm, tội và pháp chẳng lìa như, như là không vô”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Như bản tâm kia, chẳng trụ trong ngoài, chỉ y vào chân như. Tội cấu năng y cũng y vào như, chẳng y trong ngoài. Tội cấu như đã thế thì duyên phạm tội và người lìa tội và tất cả các pháp cũng chẳng lìa như, chẳng y trong ngoài, đều không có thật tội, tất cả đều là lý chân như. Do mê tâm cho nên các tội lỗi sinh khởi, có thể hủy có thể trách nên gọi là tội. Do ngộ được tâm nên tội diệt, thiện sinh, có thể tán thán vui mừng, cho nên gọi là phước. Vì thế nói “Tội do tâm sinh cũng từ tâm mà diệt”. Kinh: Thưa ngài Ưu-ba-ly!… đã từng nhiễm chăng? Tán: Đây là phần hỏi khiến cho hiểu, gồm có ba ý: Hỏi. Đáp. Khiến cho hiểu. Đây là lời hỏi: Không Lý Nghóa ghi: “Tâm ông vốn tịnh vì tánh vốn không. Không nhiễm cho nên tịnh, khi ông được Niết-bàn giải thoát quả A-la-hán thì tâm tánh không này có nhiễm chăng? Phàm Thánh tuy khác, nhưng tâm chẳng khác. Cho nên mới hỏi”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Luận Thành Duy Thức giải thích tâm tánh tịnh gồm hai nghóa: Tức tâm chân như pháp tánh, nên kinh Thắng Man nói tự tánh thanh tịnh tâm, mà có thể nhiễm ô, thật khó liễu tri được. Tâm nhân duyên, tức Luận Du-già năm mươi bốn nói tâm Y tha tánh, tánh chẳng có phiền não nên gọi là bản tánh tịnh. Nay nói tâm kia chẳng phiền não nên nói là bản tánh tịnh, tương ưng với nhiễm nên gọi là nhiễm tâm, chẳng phải thể của tâm nhiễm mà gọi là tâm nhiễm. Tâm này không chỉ khi chưa được giải thoát bản tánh vốn tịnh, mà khi được giải thoát cũng từng không nhiễm. Nay chỉ hỏi khi ông chưa được giải thoát, tâm bản tánh tịnh kia từng có nhiễm chăng? Dùng tâm khi chưa giải thoát so sánh với tâm bản tánh tịnh giải thoát. Kinh: Con nói: Không… cũng lại như thế. Tán: Đây là lời đáp. Được giải thoát tâm cũng chưa từng nhiễm. Kinh: Vô Cấu Xưng nói rằng… cũng như thế. Tán: Đây là lời nói khiến cho hiểu được. Không Lý Nghóa ghi: “Đạt Thánh chứng chân, biết tâm vốn không, vì thế chẳng nhiễm. Cho nên biết tâm tánh của hữu tình vốn tịnh, từng không nhiễm ô, ý cũng như thế, vì đồng là tâm không”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Dùng tâm nhân duyên phàm so sánh với tâm nhân duyên Thánh, xưa nay chẳng nhiễm thì ý cũng như thế; vì đều là tâm tánh. Do đó có thể biết tư ác là tội, như khách tạm có, nhiễm ô tâm kia, chứng lý thì trí sinh, khách tội liền diệt. Cho nên tâm đã đoạn trừ hoặc, gọi là lìa tương ưng phược, đây lại chẳng phải là duyên cảnh, nên gọi là lìa sở duyên phược. Do lìa hai phược nên gọi là tâm giải thoát, vì chứng đạt được lý, nên đạt được lý tâm. Nên gọi là tội diệt. Kinh: Thưa ngài Ưu-ba-ly… tức là tánh thanh tịnh. Tán: Đây là nói về tướng nhiễm tịnh, lược nêu ba phen, đây là phen thứ nhất. Tâm có phân biệt chung và phân biệt riêng tức có phiền não, phiền não khởi, tức tội bèn sinh, liền chiêu cảm sinh tử; nếu không có phân biệt chung và phân biệt riêng tức không có phiền não, không phiền não thì tội nghiệp chẳng khởi, liền được thanh tịnh chứng Niết- bàn. Phân biệt, tức nói chung về các phân biệt, phân biệt riêng tức các chấp trước. Do hai tâm này mà ông sinh phiền não. Nếu không phân biệt thì liền được thanh tịnh. Kinh: Nếu có điên đảo… tức tánh thanh tịnh. Tán: Đây là phen thứ hai. Điên đảo tức là chấp thật có thường lạc ngã tịnh. Trái với chân lý, nên gọi là điên đảo. Hoặc nói bảy điên đảo, tức bốn loại trên cộng với ba loại là tưởng, tâm và kiến. Khởi vọng tưởng phân biệt bốn loại trên nên gọi là tưởng đảo, chấp nhận ham thích bốn loại trên mà chấp trước, gọi là kiến đảo. Tâm đảo, tức các phiền não như tham… ở nơi các chấp trước kia. Gồm có ba loại: Lấy ngu si làm gốc. Lấy Tát-ca-da kiến, biên kiến, một phần kiến thủ,giới cấm thủ làm tự tánh. Lấy các phiền não khác làm Đẳng lưu, như Du-già tám đã nói, có các đảo này tức có phiền não, không có các đảo này tức trở thành thanh tịnh. Ông đã có phiền não nên nay có điên đảo. Kinh: Nếu có thủ ngã… tức tánh thanh tịnh. Tán: Đây là phen thứ ba. Thủ tức chấp thủ; chấp ngã là gốc thì tạp nhiễm liền sinh, nếu chẳng chấp thủ ngã thì liễu đạt vô ngã, tức tánh liền thanh tịnh. Ông đã có tạp nhiễm, nên nói có chấp thủ ngã, hiển thị hai người kia có nguyên do khởi phiền não. Ở trên là khiến cho biết chân thì tội cấu tự diệt, ở dưới đây là khiến cho biết tục thì tội dễ trừ. Như biết được duyên giặc thì dễ phá dẹp. Kinh: Thưa ngài Ưu-ba-ly!… như điện như mây. Tán: Đây là nói về việc tục, khiến cho người biết được chân ngụy. Gồm có bốn lớp. Đây là lớp thứ nhất, nói về tục có sinh diệt. lược nêu lên bốn dụ, như huyễn, hóa, điện, mây. Tất cả đều không thật, đều chẳng dừng trụ, tánh tự hư giả. Kinh: Tất cả pháp tánh… chẳng tạm dừng trụ. Tán: Đây là lớp thứ hai, nói tục mau chóng không thể nương gá, chẳng dừng trụ một niệm, mau chóng biến diệt. Kinh: Tất cả pháp tánh… như thành Kiền-đạt-phược. Tán: Đây là lớp thứ ba, nói thể của tục do hư vọng mà thấy. Ở đây gồm có ba dụ là như thấy cảnh mộng, do tưởng tư sinh khởi. Như dương diệm vì do khát ái mà sinh; chấp thật có nước. Như thành Kiền-đạt- phược, Hán dịch là thành Tầm hương. Ở Ấn Độ gọi người tấu nhạc là Tầm hương, những người này không chịu làm nghề gì để sinh sống, chỉ tìm mùi hương của thức ăn, đến tấu nhạc mà cầu xin. Ngôi thành huyễn hóa này có lầu gác rất đẹp dễ ưa thích nên gọi là thành Tầm hương. Hơi nước trên biển khi có ánh mặt trời chiếu vào thì ở xa trông như có tường thành, cũng tựa như huyễn thành, nước xao động phát ra âm thanh nhẹ nhàng như tấu nhạc, giống như thành Tầm hương, cho nên cũng gọi là Tầm hương thành. Vì dối hoặc mà sinh khởi cho nên nay lấy làm dụ. Kinh: Tất cả pháp tánh… như ảnh trong gương. Tán: Đây là lớp thứ tư, nói tâm tục tạo tác, như bóng trăng trong nước; trong nước thật chẳng có trăng, tâm vọng cho là có, chẳng biết lấy nước làm duyên, lại thấy mặt trăng thật. Tất cả các việc thế tục đều do tâm tạo, chẳng biết tự tâm, bèn cho là có ngoại cảnh. Ảnh trong gương, cũng chẳng phải là ảnh thật, lấy gương làm duyên thì lại thấy được mặt thật. Cảnh chấp thủ của tâm cũng như thế, chẳng biết tự tâm, cho rằng lìa tâm có cảnh. Nếu ảnh trong gương là thật có, vậy thấy đi vì sao chẳng đi, thấy đến vì sao chẳng đến? Gương kia đã chẳng thật, các việc tục cũng như thế. Kinh: Người biết như thế… gọi là khéo điều phục. Tán: Kết luận chánh lý. Luật tức luật nghi và giới, chứng chân biết tục, khéo có thể làm quy tắc cho người. Điều phục tức điều phục ba nghiệp, dứt trừ các pháp ác, biết rõ tánh tội, nương vào gốc tội; rõ biết tướng tội, gốc tội dễ nhổ sạch, đó gọi là khéo điều phục. Kinh: Lúc bấy giờ, hai vị Bí-sô… mà chẳng thể nói năng. Tán: Đây là phần tán dương. Đầu tiên thì được pháp chưa từng có, sau đó là chính thức khen ngợi trí tuệ biện tài, là điều mà Ưu-ba-ly chẳng thể bằng được. Kinh: Con liền nói rằng… khởi tưởng về cư só. Tán: Đoạn thứ ba nói về tự mình khuyên bảo. Đầu tiên thì nêu chung, sau là nói riêng. Đây là nói chung. Kinh: Vì sao?… thù thắng như thế. Tán: Trừ Đức Phật ra, còn không ai có thể chế phục được trí tuệ biện tài của ông ấy, trí tuệ và biện tài của ông ấy như thế. Kinh: Bấy giờ, hai vị Bí-sô… phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tán: Đoạn này nói về tội diệt. Tuy chưa chứng chân nhưng chủng tử tội đã trừ sạch. Đầu tiên nghe diệu lý thì ưu não đoạn dứt, không chỉ tội diệt mà còn phát tâm Vô thượng giác. Kinh: Liền lễ kính… tuệ biện thù thắng. Tán: Phần thứ năm, nói về phát nguyện. Các vị Bí-sô tân học, đã phạm tội, vừa thấy tuệ biện như thế, ai mà không cung kính, cho nên lễ bái. Kinh: Bấy giờ, con im lặng… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Kết luận nguyên do từ chối, tự thân sút kém xin thoái lui. <卷>QUYỂN 4 (PHẦN 1) Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến vấn an bệnh của ông ấy. Tán: Đây là lần thứ chín, Đức Phật bảo La-hổ-la. Đầu tiên sai bảo, sau là phần từ chối. Đây là lời sai bảo. La-hổ-la, Hán dịch là Chấp Nhật. Chấp Nhật vốn là tên của một A-tu-la. Tức là La-hầu A-tu-la vương nói trong kinh Pháp Hoa. Đây là tiền quân phi thiên. Khi phi thiên sắp đánh nhau với trời Đế Thích thì vị này làm tiền quân, thấy Thiên tử Nhật Nguyệt phóng ánh sáng chiếu vào mắt phi thiên, phi thiên này liền dùng tay cầm mặt trời che ánh sáng kia. Nay vị đệ tử này của Phật lấy dụ đó làm tên ý cũng như thế. Phật pháp như mặt trời, người con này làm chướng ngại ánh sáng mặt trời trí tuệ Phật pháp của Ta, như phi thiên kia, cho nên lấy đó làm tên. Xưa tên là Cung Sinh. Khi Da-du bị hiềm nghi, liền lập thệ tự minh oan: thật là con của Thái tử, chẳng phải là con của kẻ khác bên ngoài, cho nên gọi là Cung Sinh. Về nhân duyên của vị đệ tử này như các kinh đã nói rõ: “Khi xưa làm vua, có một vị Sa-môn cầu diện kiến, trải qua sáu ngày không cho gặp, hoặc cho rằng lấp hang chuột sáu ngày, ngăn chặn làm cho mẹ con chuột hết thức ăn. Cho nên nay bị quả báo ở trong thai sáu năm. Sau Đức Phật đến nước Ca-la-la, ngày thứ bảy hóa một ngàn vị Tỳ-kheo đều giống như Đức Phật, khiến La-hầu chọn đúng Đức Phật, La-hầu liền đến trước Phật, nói là con Phật. Đức Phật bèn bảo Xá-lợi và Mục-liên độ xuất gia. Bấy giờ La-hầu còn nhỏ. Sợ văn dài dòng nên không thuật đủ. Kinh: Lúc bấy giờ, La-hổ-la… không thể đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Từ đây trở xuống là phần từ chối, gồm có ba là nêu chung về đạo bị khuất phục. Xưa tán thán xuất gia là hữu vi hữu tướng, thì ông Vô cấu lại nêu xuất gia là vô vi vô tướng. Dùng chân mà cật vấn tục, cho nên đạo bị khuất lời đã cùng, vì thế chẳng kham nhận. Kinh: Vì sao?… công đức thắng lợi. Tán: Đây là phần nói về lý đã cùng tận. Đầu tiên tự hỏi sau là giải thích. Trong đoạn giải thích lại gồm có hai: Nêu lên việc của mình. Thuật lại lời của ngài Vô Cấu Xưng. Nêu việc mình gồm có hai là người khác hỏi và mình đáp. Đây là đoạn tự hỏi và người khác hỏi. Các đồng tử này thuộc giòng Bà-la-môn họ là Lý-chiêm-tỳ. Nếu Phật làm Luân vương thì La- hổ-la được kế thừa, cho nên nay tán thán cũng gọi là Luân vương. Luân vương có bốn hạng là Thiết, Đồng, Ngân, Kim, mỗi mỗi đều làm vua cai quản nhân dân trong một, hai, ba, bốn thiên hạ, như thường giải thích. Đã xả bỏ ngôi đế vương tầm thường mà xuất gia, vậy nêu công đức xuất gia có lợi ích gì? Kinh: Con liền như pháp… công đức thắng lợi. Tán: Đây là lời đáp. Xuất gia thì rộng lớn như hư không, tại gia thì bức bách giống như ở lao ngục. Cho nên kinh nói loài khổng tước tuy thân màu sắc rực rỡ nhưng không bằng loài hồng hạc bay cao xa, hàng bạch y tuy có giàu sang thế lực nhưng không bằng xuất gia có công đức thù thắng. Công đức tức sinh thiện, thắng lợi tức diệt ác. Công đức tức phước, thắng lợi là trí. Thắng lợi có thể xuất thế gian, công đức tức phước tuệ gồm đủ. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mà nói rằng. Tán: Đây là thuật lời của ngài Vô Cấu, gồm năm: Chánh thức nêu lý để cật vấn. Khuyên người xuất gia. Đồng tử hỏi. Vô Cấu chỉ dạy. Đồng tử đạt được lợi ích. - Trong phần thứ nhất lại chia làm ba: Bài bác chung. Hỏi riêng. Kết luận chánh lý. Đây là văn đầu tiên. Kinh: Vì sao?… đó là xuất gia. Tán: Đây là đoạn vấn cật riêng, gồm có hai: Nêu lên. Hiển thị. Đây là văn đầu. Không Lý Nghóa ghi: “Trước khen xuất gia thế tục có tướng, nay dùng thắng nghóa vô tướng để vấn cật, cho nên nói không có thắng lợi, không có công đức”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Thế tục sự là ngọn, thắng nghóa lý là gốc, trước khen xuất gia là khen tục sự là ngọn, nay dùng lý là gốc làm chánh, cho nên nói không thắng lợi, không công đức là chân xuất gia. Kinh: Thưa ngài La-hổ-la!… công đức thắng lợi. Tán: Đây là phần hiển bày, gồm có ba: Nói về xuất gia hữu vi hữu tướng. Nói về xuất gia vô vi vô tướng. Nói về công đức và thắng lợi của xuất gia Đại thừa. Đây là văn thứ nhất. Trước Vô Cấu nói rằng có công đức, thắng lợi, thể tướng, là thuộc hữu vi hữu tướng, chẳng phải là thắng nghóa đế. Kinh: Phàm xuất gia… công đức thắng lợi. Tán: Đoạn này là nói về xuất gia vô vi vô tướng. Không Lý Nghóa ghi: “Phàm xuất gia là muốn dứt trừ thế tục hữu tướng, mong cầu hướng đến thắng nghóa vô vi tánh không. Trong tánh không nào có đức và lợi”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Tất cả bậc Thánh đều là vô vi mà có sai biệt. Vô vi tức là Niết-bàn giải thoát, lý chân như tịch diệt; Niết-bàn xa lìa sinh tử trói buộc. Chân như vắng lặng xa lìa hư vọng điên đảo. Tánh trạch diệt xa lìa hai thắng chướng. Vì cầu vô vi nên xuất gia. Vì đó là gốc của đức cho nên chẳng phải hữu vi, vì chẳng phải là gốc của đức, nên vô vi vô đức vô lợi. Trong pháp vô vi, không có sai biệt, công đức tánh tướng cũng không sai biệt. Tác dụng thắng lợi không gì không là công đức và thắng lợi lắng trong. Vả lại người xuất gia là xa lìa phân biệt chấp, mà có đức có lợi là có phân biệt, chẳng phải là chân xuất gia. Cho nên chân xuất gia là phá phân biệt chấp trước, không có công đức và thắng lợi. Kinh: Thưa ngài La-hổ-la… chẳng sắc phi sắc. Tán: Đây là nói về công đức và thắng lợi của xuất gia Đại thừa, gồm hai mươi bốn câu. Bản dịch xưa có hai mươi hai câu thiếu câu chẳng sắc phi sắc và câu không có các thủ trong bản mới, nhưng trong câu chỉ quán song tu lại thiếu tu quán, trong đoạn ác tu thiện lại thiếu tu thiện. Đoạn này có ba câu, Không Lý Nghóa ghi: “Trong thắng nghóa đế không có kia là bỉ, đây là thử, cũng không có khoảng giữa, xa lìa các kiến, cũng không có sắc và vô sắc khác nhau”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Trong ba câu này thì một là nói về không có đây kia và khoảng giữa, người xuất gia nên dứt trừ phân biệt ta và người, ngoài thân không có kia là bỉ, nhiếp người đồng với mình, thường thực hành tế độ. Ngoài người không có đây là mình. Khi người được vui thú thì cũng như chính mình được. Cũng chẳng phải ngoài ta và người lại có khoảng giữa. Câu hai là nói về xa lìa các kiến. Năm kiến đều đoạn. Bản xưa nói sáu mươi hai kiến đều thuộc về biên kiến và tà kiến, tướng rất hạn hẹp. Câu ba là nói về chẳng phải sắc và phi sắc. Sắc tức để nghiêm sức dung nghi, vô sắc tức thông đạt rõ biết, cả hai đều không chấp giữ nên gọi là chẳng phải. Hoặc cho rằng ngoại đạo vọng kiến chấp ngã là sắc, vì chấp sắc uẩn là ngã, chấp ngã là phi sắc, vì chấp mạng căn do bốn uẩn hợp thành là thật ngã, như trong sáu mươi hai kiến nói ngã là có sắc, sau khi chết có tưởng, chấp ngã vô sắc, sau khi chết vô tưởng… tất cả đều chẳng phải là vô vi xuất gia. Cho nên lìa các lỗi mà thuận theo điều đúng, căn cứ theo văn sau sẽ biết rõ. Kinh: Là con đường Niết-bàn… được bậc Thánh nhiếp thọ. Tán: Đoạn này gồm ba câu. Không Lý Nghóa ghi: “Không phải đây kia và khoảng giữa, tức có thể đến Niết-bàn, cho nên gọi là con đường. Thông đạt các kiến, người trí khen ngợi. Chẳng phải sắc và phi sắc, nên bậc Thánh nhiếp thọ”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Vô vi mà xuất gia thì một là đạt đến Niết-bàn; hai là, bậc Thánh khen ngợi; ba là, các Thánh nhiếp thọ, tức được chư Thánh luôn luôn bảo vệ và lãnh nạp, vì đó là hơn hết. Bản dịch xưa ghi: “Trụ nơi Niết-bàn”, từ đây làm con đường có thể ở nơi Niết-bàn”. Lại ghi: “là chỗ làm của bậc Thánh” tức là bậc Thánh khen ngợi, vì khế hợp tâm bậc Thánh. Kinh: Hàng phục các ma… xa lìa các pháp ác. Tán: Đoạn này gồm bảy câu. Không Lý Nghóa ghi: “Phân biệt chấp có là các ma, liền vào năm đường, chẳng được năm nhãn, không có năm căn lực, làm tổn hại chúng sinh, ác của mình chẳng đoạn. Nếu đạt được không mà xuất gia, thì các ma tự quy hàng, cho đến… ác của mình liền tiêu diệt”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Vì pháp vô vi mà xuất gia thì một là, hàng phục được bốn ma, hai là, vượt khỏi năm đường, ba là, được năm nhãn; bốn là, lập được năm căn; năm là, đạt được năm lực; sáu là, không làm tổn hại tất cả chúng sinh; bảy là, xa lìa tất cả pháp ác của mình. Năm nhãn: Nhục nhãn, chẳng phải do tu định sinh mà lấy tịnh sắc do bốn đại tạo ra làm tánh. Thiên nhãn, tức tịnh sắc của bốn đại tạo, do tu tập mà sinh ra. Pháp nhãn, tức tuệ hữu duyên với giáo pháp. Tuệ nhãn, tức không trí duyên với lý. Phật nhãn, tức diệu trí chiếu soi tự tha. Còn bốn ma, năm đường, căn, lực thì như trước đã giải thích. Kinh: Phá dẹp ngoại đạo… lìa ngã ngã sở. Tán: Đoạn này gồm sáu câu. Không Lý Nghóa ghi: “Nếu là xuất gia hữu vi hữu tướng, thì không thể phá dẹp ngoại đạo, siêu việt giả danh cho đến chẳng thể lìa ngã và ngã sở. Nếu là xuất gia vô vi vô tướng thì có thể phá dẹp ngoại đạo lìa ngã và ngã sở”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Nếu xuất gia vô vi vô tướng thì: một là, có chánh kiến cho nên có thể phá dẹp ngoại đạo; hai là, pháp thể bặt lời cho nên siêu việt giả danh; ba là, được đại Niết-bàn, xa lìa vũng bùn tham dục; bốn là, không đắm trước cho nên không bị trói buộc; năm là, không có ta, người cho nên không có chỗ nhiếp thọ. Bản dịch xưa đảo nghịch rằng: “không có sở thọ nên lìa ngã và ngã sở”. Kinh: Không có các thủ… khéo hộ trì tâm người. Tán: Đoạn này gồm ba câu. Không Lý Nghóa ghi: “Thủ nghóa là phân biệt chấp thủ; nhiễu nghóa là phiền nhiễu. Loạn tức não loạn, điều tức chế phục; hộ tức tùy hộ vệ. Vì vô vi không mà xuất gia nên không chấp thủ, lìa phiền não, chế phục tự tâm, khéo bảo hộ ý người, vì hữu vi tướng ma xuất gia thì chẳng được như thế.” Ứng Lý Nghóa ghi: “Một, lìa các thủ, thủ tức là tham trước chấp thủ. Thể tức bốn thủ: Dục thủ duyên năm cảnh tham. Kiến thủ, chấp thủ các kiến. Giới thủ, chấp thủ các giới. Ngã ngữ thủ, chấp có một thật ngã riêng biệt, không có thể của ngã mà chỉ có tên, gọi là ngã ngữ thủ. Thể của ba thủ sau như tên gọi, mỗi mỗi đều lấy kiến chấp của chính mình làm tánh. Ở đây không có các thủ gọi là đạo chiết phục, đoạn trừ các thủ gọi là đạo đoạn hoặc. Hai là, không có nhiễu loạn, nhiễu nghóa là tản ra, loạn nghóa là xao động; tức là thể tán loạn tâm dong ruổi theo cảnh, loạn động không an định, cho nên gọi là nhiễu loạn. Hoặc nói sáu tán loạn: Tự tánh. Tướng. Thô trọng. Trong. Ngoài. Tác ý. Ba là, điều phục tự tâm, bảo hộ tha tâm; tự tâm phiền não thì khéo tự điều phục; bảo hộ tâm người chớ khiến người sinh phiền não, mà lại còn thành tựu cho họ. Kinh: Tùy thuận tịch chỉ… tu tất cả thiện. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Thuận theo định tu tập tuệ. Tịch chỉ tức là định; thắng quán tức là tuệ. Hai môn chỉ quán gồm thâu tất cả công đức. Lìa ác tu thiện gọi là chân xuất gia. Không Lý Nghóa ghi: “Quán thấu đạt được tánh không, tâm thường trụ tại nơi đây, cho nên gọi là chỉ quán. Biết tục chứng chân, cho nên gọi là đoạn tu. Kinh: Nếu có thể như thế thì gọi là chân xuất gia. Tán: Kết luận chánh lý. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nên cùng xuất gia. Tán: Đây là phần thứ hai, khuyên nên xuất gia. Đầu tiên là khuyên chung, sau là nêu lý do khuyên bảo. Đây là văn đầu tiên. Phật pháp khế hợp với chân lý, cho nên gọi là khéo thuyết. Tỳ-nại-da, Hán dịch là điều phục tức là quảng luật, người xuất gia chính là được Phật pháp điều phục nhiếp trí. Khuyên nên nương vào luật mà xuất gia. Đây chính là Tỳ-nại-da của Đại thừa. Kinh: Vì sao?… khó được bậc nhất. Tán: Đây là hiển thị nguyên do khuyên bảo, gồm có bốn điều khó: Khó gặp Phật xuất thế. Khó tránh khỏi tám vô hà. Khó được thân người. Khó gặp được cõi hữu hà. Nay đã được hữu hà, có thể cho rằng có công đức, các ông nên xuất gia. Bản dịch xưa không ghi ba việc sau. Kinh: Các đồng tử nói rằng… không được xuất gia. Tán: Phần thứ ba, các đồng tử hỏi. Trong các già nạn, cha mẹ không cho phép thì không được xuất gia, chẳng phải tự tâm chúng tôi không thích xuất gia. Kinh: Vô Cấu Xưng nói rằng… thành tánh Bí-sô. Tán: Phần thứ tư, ngài Vô Cấu Xưng chỉ dạy. Xuất gia gồm có hai: Thân xuất gia tức cạo tóc đắp y. Tâm xuất gia tức phát tâm tu hành. Phát tâm tu hành là chân xuất gia, thọ trì giới cấm, thành tựu tánh Bí-sô; đắp y cạo tóc thành tựu tướng Bí-sô. Nay khuyên xuất gia tức theo chân xuất gia. Kinh: Bấy giờ, ba mươi hai đồng tử… lập thệ tu chánh hạnh. ấy. Tán: Phần thứ năm, các đồng tử được lợi ích. Kinh: Bấy giờ, con im lặng… không kham nhận đến thăm bệnh ông Tán: Kết luận nguyên do từ chối, tự thân kém sút, xin thoái lui. Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến vấn an bệnh ông ấy. Tán: Đây là lần thứ mười, Đức Phật bảo A-nan-đà. Đầu tiên là lời sai bảo, sau là nêu lời từ chối. A-nan-đà, Hán dịch là Khánh hỷ. Khi Đức Thích-ca thành đạo thì trời người đều vui mừng, ngài A-nan sinh vào ngay đêm ấy, do đó mà có tên như thế. Đến năm hai mươi tuổi mới xuất gia nghe được hết tất cả Phật pháp, làm thị giả cho Phật, gần gũi hầu hạ, cho nên nay được Đức Phật sai bảo. Kinh: Lúc bấy giờ, A-nan-đà… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đây là phần từ chối, gồm có ba: Đây là phần nêu chung về đạo đã bị khuất phục. Cho rằng Đức Phật thật có bệnh, ta mới xin sữa, ông ấy nói hóa thân, chân Phật chẳng bệnh, cho nên đạo bị khuất mà từ chối. Kinh: Vì sao?… thường dùng cháo sữa. Tán: Đoạn này là hiển bày lý đã cùng tận, đầu tiên tự hỏi, sau là giải thích. Trong phần giải thích thì trước nêu việc của mình sau thuật lời của ngài Vô Cấu Xưng. Phần nêu việc của mình, gồm có hai: Nói vì có bệnh nên cần sữa. Xin sữa. Đây là phần tự hỏi và Phật bệnh cần dùng sữa. Hiện ít bệnh tức là Phật đau lưng, lúc bấy giờ cũng có, sữa hòa-tất-bát có thể chữa lành bệnh này. Kinh: Sáng sớm tôi… xin sữa bò. Tán: Thức ăn của tôi vừa xin chẳng phải là phi thời. Sáng sớm sắp vào tụ lạc, chỉnh trang y phục đầy đủ, đắp y ôm bát, ắt có chỗ nương, theo phép tắc vào trong thành để được cúng dường, theo đó mà xin sữa bò. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mà nói rằng. Tán: Thuật lại lời của ngài Tịnh Danh, gồm có hai: Nêu phép tắc đến han hỏi. Nêu lời của Vô Cấu Xưng. Đây là văn thứ nhất. Kinh: Thưa ngài A-nan… ôm bát đứng nơi đây? Tán: Thuật lời của ngài Vô Cấu Xưng, gồm năm ý: Hỏi. Đáp. Theo lý để cật vấn. Sinh hổ thẹn. Trên hư không có tiếng nói. Đây là ý thứ nhất. Mới trình bày lý để cật vấn, lúc đầu hiển thị chẳng biết, cho nên có câu hỏi này. Kinh: Con nói rằng… cho nên mới đến đây. Tán: Đây là lời ngài A-nan đáp. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… phỉ báng Như Lai. Tán: Theo lý cật vấn, gồm có hai: Trách A-nan cho rằng Phật có bệnh. Nêu Phật không có bệnh não. Hoặc đầu tiên hiển thị báo thân không bệnh, sau hiển thị pháp thân không bệnh. Trong phần đầu lại có hai: Trách chung. Trách riêng. Đây là văn thứ nhất. Chê nói chẳng đúng cho nên mới bảo: Thôi, thôi! Bài hủy tức là chê khinh, nghóa là Đức Phật không có bệnh mà cho là Phật có bệnh, cho nên gọi là dối chê. Kinh: Vì sao?… có bệnh gì, có não gì? Tán: Trách riêng, gồm có bốn: Pháp ác trừ đã lâu. Chê trách lời lẽ thô thiển. Căn lành đã đủ. Chịu xấu hổ. Bốn ý này gồm có hai đôi: Pháp ác đã trừ sạch, nói có bệnh là lời thô thiển. Pháp thiện đã đầy đủ, nói có bệnh là điều xấu hổ, cho nên phân làm bốn. Đây là đoạn đầu. Thân Phật vô lậu, do kim cang hợp thành, nhân quả sinh tử, hiện hành chủng tử của pháp ác và các tập khí vi tế đều đã tận trừ; các thiện căn đã đầy đủ, như thế thì có bệnh gì? Bệnh vốn do nhân ác sinh. Bốn đại chống trái nhau gọi là bệnh, do có bệnh nên khổ não sinh. Đối với Phật, pháp thiện đã tròn đủ, thì có khổ não gì nữa? Nhân thiện chẳng bao giờ chiêu cảm quả khổ não? Kinh: Thưa ngài A-nan-đà… nghe được những lời này. Tán: Thứ hai, trách nói lời thô thiển, bảo đừng nói nữa mà trở về trụ xứ, nên gọi là im lặng trở về trụ xứ. Nói Đức Phật có bệnh thật là quá sai trái, cho nên gọi là lời thô. Chớ để cho hàng dị nhân nghe được lời thô này, đây là chỉ chung. Sau đây là chỉ riêng. Dị nhân là những ai? Trời Đại oai đức, tức là các vị trời ở cõi Dục và cõi Sắc có thần thông và đạo đức lớn; Bồ-tát các cõi khác, đều thấy báo thân Phật nhưng chưa thấy bệnh, nay nghe nói Phật có bệnh, họ liền sinh kinh sợ nghi ngờ, cho nên gọi là lời thô. Kinh: Thưa ngài A-nan-đà… không có việc ấy. Tán: Thứ ba, nói thiện căn đã đủ. Chuyển luân Thánh vương có ít thiện căn, do tu nhân mười thiện cảm được, gọi là thành tựu một ít thiện mà còn không bị bệnh, huống gì Như Lai từ nhiều kiếp nay đã trồng vô lượng nhân thiện, phước trí đều đủ mà lại có bệnh, thật chẳng có lý ấy. Kinh: Thưa ngài A-nan-đà… chịu sự sỉ nhục này. Tán: Thứ tư sợ bị xấu hổ, gồm có ba: Trách chung. Trách riêng. Xua đuổi. Đây là văn thứ nhất. Hãy nhanh chóng trở về, chớ để cho chúng tôi chịu những lời thô lậu đáng xấu hổ này. Kinh: Nếu các ngoại đạo… các người có bệnh. Tán: Đây là trách riêng. Ngoại đạo tà kiến, phần nhiều đã sinh phỉ báng, nếu nghe lời thô thiển này niệm ác liền khởi, cho rằng bệnh mình chẳng cứu được làm sao cứu bệnh người? Kinh: Hãy lén đi nhanh chớ để người nghe biết! Tán: Đây là lời xua đuổi. Im lặng đi gấp, chớ để người ngoài nghe được. Kinh: Vả lại, ngài A-nan-đà… Thế pháp chẳng nhiễm. Tán: Từ đây trở xuống là hiển thị Đức Phật thật chẳng có bệnh, cũng là hiển thị pháp thân không bệnh, gồm có mười câu, năm đôi: Pháp thân, chẳng phải là thân tạp uế. Đây là thân do pháp công đức tạo thành, cho nên gọi là pháp thân, chẳng phải là thân chân như, vì đó là sự thân; chẳng phải là thân phiền não có các khổ. Thân xuất thế gian, chẳng phải thân thế gian. Xuất thế gian thì chẳng thể hủy hoại, chẳng phải đạo có thể tu. Tức chẳng phải thế gian có thể hủy hoại, chẳng phải đạo có thể tu. Cho nên các việc thế gian như bệnh não… chẳng thể nhiễm. Kinh: Là thân vô lậu… thì có bệnh gì? Tán: Vô lậu, chẳng phải là sở duyên của tương ưng, sở tùy tăng của hai phược, lìa các lậu. Thân vô vi, vô vi có hai: Một là, chân như, chẳng phải do nhân duyên sinh, cho nên gọi là vô vi; hai là, vô lậu uẩn, chẳng phải là pháp tạo tác của nghiệp phiền não, nên cũng gọi là vô vi. Thân năm uẩn của Phật cũng gọi là vô vi, vì chẳng phải do nghiệp phiền não tạo ra. Ngoài các số, tức chẳng rơi vào sinh số, các số vónh viễn tịch diệt; nhưng rơi vào pháp số, chúng sinh ắt là thuộc về thú giới sinh, thể tức là thức thứ tám dị thục vô ký. Thân Phật chỉ là vô lậu chỉ có pháp thiện chẳng thuộc vào sinh số. Thân như thế thì có bệnh gì? A-nan thấy nhỏ hẹp cho rằng hóa thân tức thân chân Phật là thân tạp uế, cho đến nói đó là thân rơi vào cõi người ở dục giới, cho rằng thật có bệnh. Cho nên nay nêu lên chánh lý hiển thị Đức Phật không có bệnh. Kinh: Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ, con… nghe lầm chăng? Tán: Thứ tư, sinh hổ thẹn. Mậu tức là lầm. Vô tức là chẳng phải. Chẳng phải gần Phật mà ta nghe lầm. Lại có lời giải rằng: Không gần tức xa, ta tuy là thị giả, nhưng tâm trí cách xa Phật, chẳng thể biết Phật, chẳng được gần Phật nên nghe lầm sao? Kinh: Liền nghe trên hư không… thật chẳng có bệnh. Tán: Thứ năm, trên hư không có tiếng bảo, có ba ý: Nói chân Phật không có bệnh. Hiển bày lý do hóa Phật có bệnh. Khuyên nên lấy sữa. Đây là văn thứ nhất. Chân thân tức báo thân, là thân thật công đức, do nhân tu mà đạt được, cho nên gọi là chân thân. Hoặc pháp báo Phật gọi là chân thân, chẳng phải thân quyền tích. Bản dịch xưa không có đoạn này: “Như lời cư só nói chân thân của Thế Tôn, thật không có các bệnh” Kinh: Nhưng vì Như Lai… thị hiện việc này. Tán: Thứ hai, hiển bày nguyên do hóa Phật có bệnh. Thế gian năm trược. Trược tức căn dơ, như căn bả dơ uế của thức ăn, gọi đó là trược. Phiền não trược vì nhiều phiền não. Kiến trược, năm kiến tranh nhau khởi. Mạng trược, thọ mạng ngắn ngủi. Hữu tình trược, nhiều chúng sinh ác. Kiếp trược, vì toàn là kiếp đói khát, dịch bệnh đao binh. Theo thứ tự thì khi con người thọ mạng còn ba mươi, hai mươi, mười tuổi thì phát khởi. Hôm nay đã có tướng dự báo trước rồi. Như Pháp Hoa Kinh Sớ ba nói: “Đức Thích-ca Từ bi, sinh vào đời ác này, vì muốn dẫn dắt, giáo hóa những chúng sinh hiện đời bị nghiệp ác chịu nghèo cùng khổ não, những hữu tình hành các nhân ác hạnh ác, nên đồng thị hiện có bệnh, chứ chẳng phải Đức Phật thật có bệnh. Thế Tôn tùy loại mà giáo hóa chúng sinh, hiển thị tất cả ác nghiệp ắt có ác quả, Thế Tôn hiện thọ còn chẳng tránh khỏi, muốn khiến cho người có đức sau này bị bệnh thì tự dứt trừ, Đức Phật cũng hiện có, thì ta là người nào? Vì chúng sinh bệnh nên Đức Phật bệnh. Do đó mà hiện bệnh, chẳng phải Phật thật có bệnh. Hỏi: Vì sao Vô Cấu chẳng trình bày nguyên do Phật hiện bệnh, mà khiến trên hư không phải nói? Đáp: Muốn hiển thị một lời khế lý sâu xa, tự tha thầm hợp, nghóa đều đồng nhau. Hỏi: Tiếng trong hư không là thế nào? Đáp: Đó là do ngài Vô Cấu Xưng dùng thần lực phát ra, hoặc các Đại Bồ-tát thầm hiển thị việc này. Lý chẳng trái nhau. Kinh: Thôi! A-nan-đà hãy nhận sữa đi, chớ có hổ thẹn. Tán: Đây là khuyên nhận sữa dâng Phật, chớ tự sinh hổ thẹn. Hỏi: Vì sao Vô Cấu Xưng bảo hãy lén đi, không bảo lấy sữa? Đáp: Nói Phật có thật bệnh cần sữa, điều này không đúng cho nên bảo đi. Nói hóa Phật có bệnh cần sữa, lý là đúng, cho nên bảo nhận sữa. Trách về pháp, trước quở trách bảo hãy đi, vì nêu lên pháp, nên sau bảo lấy sữa, cả hai ý không trái nhau. Kinh: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ con… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Kết luận nguyên do từ chối, tự thân thua kém xin thoái lui. Lúc bấy giờ con chẳng biết ông ấy nói gì, cho nên im lặng không đáp được. Kinh: Cứ như vậy, Đức Thế Tôn… đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Cuối phẩm, kết luận hàng Thanh văn đều từ chối không nhận đến thăm bệnh, có hai: Đầu tiên là hỏi chung, sau là đáp chung. Đây là trả lời chung. Kinh: Các Thanh văn… Không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đây là phần trả lời chung. --------------------------------- <詞>PHẨM 4: BỒ TÁT Chương nói riêng về quyền khi xưa, gồm có hai: Giáo hóa Thanh văn, đã luận xong ở trên. Giáo hóa Bồ-tát, kế đây sẽ bàn đến. Đức Phật biết hàng Thanh văn chẳng thể đối đáp, vì muốn hiển đức cao của ngài Vô Cấu nên cùng đến để phụ trợ. Nay nói về việc thăm bệnh của Bồ-tát, nên gọi là phẩm Bồ-tát. Toàn phẩm gồm hai phần: Nói về bốn vị có đức từ chối chẳng đến. Nói về các Bồ-tát khác đều từ chối chẳng kham nhận. Nhưng trong phần bốn vị danh đức được quy về hai đôi, khiến cầu đạo bất thoái, tự ngưỡng vọng Bồ-đề, chẳng biết ma oán, há biết được phước thế gian. Vô Cấu tùy theo cơ nghi mà phân tích bác bỏ, nên mỗi mỗi đều không đối đáp được. Cho nên bốn vị Bồ-tát tuy khác nhau, nhưng được quy về hai đôi để phân biệt. Trong mỗi một văn đều có hai phần: Sai bảo. Từ chối. Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… vấn an bệnh ông ấy. Tán: Đây là lời sai bảo. Phạm, Mai-đát-lợi-da, Hán dịch là Từ Thị; xưa gọi Di-đế-lệ, hoặc gọi Di-lặc đều là lầm lẫn. Bản duyên của vị Bồ-tát này như đã nói trong Di-lặc Thượng kinh Sớ, quyển thượng. Kinh: Bồ-tát Từ Thị… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Từ chối, gồm có ba: Đây là phần nói chung về đạo đã bị khuất phục. Kinh Phóng Quang ghi: “Bồ-tát Di-lặc nói với ngài Văn-thù rằng: Như trăm ngàn vạn ức các ông cũng không biết được việc nhấc chân hạ chân của Ta”, vậy há đạo của bậc tiểu sinh sở hệ lại bị khuất phục được sao? Nhưng bởi bậc cao đức tiên tri, mới suy danh là Thượng só, cho nên mới nhờ vào đó để chối từ trước. Nay được sai bảo đến đối đáp, chẳng phải ngài Di-lặc thật bị khuất phục. Xưa nói bất thoái. Khiến họ mong cầu, ông ấy nói môn như vô tướng, nay lại nói nhân duyên. Vậy đạo đã bị khuất phục, cho nên từ chối chẳng kham nhận. Kinh: Vì sao?… có pháp yếu. Tán: Hiển thị lý đã cùng tận. Đầu tiên tự hỏi, sau là giải thích. Trong phần giải thích thì trước nêu việc của mình, sau thuật lời của Vô Cấu. Đây là lời tự hỏi và trình bày việc của mình. Đổ-sử-đa là cõi trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi Dục, Hán dịch là Tri túc, hưởng thọ dục lạc, biết đủ. Do có căn tánh này, cho nên Bồ-tát trụ nơi đó để vị lai hạ sinh. Đức Phật thọ ký cho Bồ-tát Di-lặc mười hai năm sau sẽ trở về nơi đã sinh ra, ngồi kiết-già như nhập diệt định mà vào Niết-bàn, sinh lên cõi trời Tri túc, làm vị Bổ xứ nối dòng giống Phật, vì thế chư Thiên cõi ấy đều đến chiêm lễ. Từ Thị đã kế thừa giai vị Bất thoái cho nên tùy theo chỗ thích ứng, dùng hạnh bốn bất thoái pháp luân, thuyết cho chư Thiên kia nghe. Hoặc chỉ thuyết pháp vị pháp luân bất thoái thứ tư cho Bồ-tát Địa thứ tám trở lên. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mà nói rằng. Tán: Thuật lại lời của Vô Cấu, gồm hai phần: Nói về phép tắc đến han hỏi. Chính thức luận bàn. Đây là phần đầu. Di-lặc cạo tóc đắp y, kế đó làm bổ xứ. Vô Cấu hình như thế tục cho nên kính lễ. Kinh: Thưa Thế Tôn Từ Thị… Chánh đẳng Bồ-đề. Tán: Chính thức trình bày, gồm hai: Nếu kinh văn trình bày lý. Chúng đương thời được lợi ích. Phần đầu lại chia làm ba: Nêu chung kinh văn. Nêu lý để cật vấn. Kết luận khuyên bảo và hiển bày chân thật, tức là đoạn “Vì thế, ngài Từ Thị chớ nên dùng pháp này dụ dẫn các vị Thiên tử…”. Đây là đoạn văn đầu tiên. Thọ tức là trao cho. Ký tức là riêng biệt; thức tức nghiệm biết. Tự lãnh lời ký biệt cho nên gọi là thọ ký, thọ tức là nhận lãnh; Phật riêng biệt trao cho, cho nên gọi là thọ ký. Trong các luật và kinh Thượng Sinh, Phật đã trao cho lời ký biệt. Nhất sinh, tức là trừ thân này, chỉ tính một lần sinh vào cõi trời, cho nên gọi là nhất sinh. Trung hữu phương tiện thuộc về cõi trời, không tính trong cõi người. Có thuyết nói tại cõi trời và cõi người đương lai tính là một sinh, như nói bảy lần sinh, nói trời người hai lần sinh. Đức Phật nói vị lai Di-lặc sẽ sinh vào cõi trời Tri túc, hết một lần sinh ấy, tức sẽ thành Phật. Tại cõi trời Tri túc gọi là Bồ-tát Nhất Sinh sở hệ, chẳng phải ở tại cõi người mà gọi là nhất sinh. Lý này chính xác. Bồ-tát có ba: nhất sinh sở hệ ngồi đạo tràng và thân cuối cùng. Ở đây chỉ hỏi nhất sinh không hỏi hai thân sau. Kinh: Đâu cần dùng sinh… hiện tại ư? Tán: Nêu riêng về lý để cật vấn, gồm có ba ý: Căn cứ theo hữu vi vô vi khác nhau để vấn nạn. Căn cứ theo hữu vi vô vi là một để vấn nạn, tức là câu “nương vào như mà sinh…”. Căn cứ vào lý Bồ-đề Niết-bàn bình đẳng để vấn nạn, tức câu “Như Tôn giả Từ Thị sẽ chứng Bồ-đề, thì tất cả hữu tình lẽ ra cũng chứng…”, một, hai là vấn nạn về nhân, ba là vấn nạn về quả. Trong phần một lại có hai, đầu tiên là hỏi về hữu vi, sau hỏi về vô Trong ý thứ nhất lại chia hai: Nói chung. Nói riêng. Đây là đoạn nêu chung. Sinh là tướng sinh hữu vi, căn cứ theo đây mà vấn nạn. Trước nói một đời sẽ được Bồ-đề, cho nên đầu tiên nêu lên sinh để cật vấn chỉ bày pháp hữu vi, niệm niệm chẳng dừng trụ, không có thật thể sinh, thì nương vào đâu mà thọ ký? Kinh: Nếu quá khứ sinh… vị lai sinh thì chưa đến. Tán: Nêu riêng. Đối với Đại thừa thì ba thời đều không có thật thể. Nương vào một pháp có, thì đã có thì gọi là quá khứ, sẽ có gọi là vị lai, hiện có gọi là hiện tại. Ba thời đều là giả lập bày. Pháp hiện tại có thể là thật nhưng thời thì giả lập, pháp quá khứ và vị lai cũng đều giả lập, vậy y theo pháp thật nào? Nay vấn nạn rằng quá khứ đã diệt, vị lai chưa sinh, nếu y theo Tiểu thừa thì dụng quá khứ đã diệt, dụng vị lai chưa sinh, chẳng phải không có thể sinh, nếu chẳng vấn nạn về dụng, thì chẳng thành vấn nạn; nay y theo Đại thừa lập thể này để vấn nạn thì không bị lỗi. Kinh: Nếu hiện tại sinh, thì hiện tại sinh chẳng trụ. Tán: Vấn nạn về hiện tại. Đầu tiên hỏi, sau là chứng minh. Đây là câu vấn nạn. Trong pháp hiện tại thì xưa không nay có, có vị thì gọi là sinh, sinh vị tạm dừng, giả gọi là trụ. Trụ thì có trước sau khác biệt, giả lập tên khác, khi sau không còn thì gọi là diệt. Các pháp hiện tại không có thật dừng trụ, cũng không có tương tục. Trải qua sự dừng trụ lâu cho nên nói là hiện tại, mà thật không có trụ, cũng chẳng phải không là giả trụ. Nếu thật có trụ để làm nhân thì vị lai có thể nương vào đó mà thọ ký. Nhưng hiện không thật trụ để có thể làm nhân thì nương vào đâu mà thọ ký? Kinh: Như Thế Tôn nói… liền chết liền sinh. Tán: Đây là vấn nạn về vô trụ. Sợ ý nghóa không có căn cứ, cho nên dẫn kinh. Một thời gian ngắn nhất gọi là Sát-na, không chỉ một sát- na niệm niệm đều như thế, cho nên kinh lặp lại rằng: Sát-na, sát-na đều có đủ sinh già chết. Già tức dị thục biến chuyển là tướng dị. Chỉ nói có ba chẳng nói trụ. Hai thời của pháp hiện tại thì diệt là trở về quá khứ, đầu và cuối tạm gọi là một lần sinh. Khi sinh cũng là già, mà không phải ở thời gian khác, nên chỉ nói hai thời đầu cuối, sinh diệt. Như kinh nói có ba tướng hữu vi của hữu vi đó là sinh dị và diệt, không nói trụ. Đại thừa giải thích rằng, từ tất cả hành mà ba thời hiển hiện, do vị lai vốn không mà có sinh, đã có sinh thì rơi vào quá khứ; do một pháp đời hiện tại mà hai tướng hiển hiện, đó là tướng trụ và dị. Chỉ một pháp hiện tại mà có trụ và trước sau biến dị; cũng chỉ có hiện tại mà gọi chung là trụ dị, vốn chỉ là một tướng. Trụ là chỗ mà hữu tình yêu thích đắm trước, vì muốn làm cho nhàm chán, lại đồng một thời, cho nên nói chung như thế. Nay kinh này nói không có thật trụ, cũng không có trải qua một thời gian ngắn tạm thật trụ, cho nên chỉ nói ba tướng sinh, lão, tử. Hoặc cho rằng niệm niệm trong thân hiện tại đều có ba chi sinh, lão và tử trong mười hai chi. Kinh: Nếu dùng vô sinh… nhập chánh định. Tán: Đây là vấn nạn về vô vi. Đầu tiên nêu thể sau chính thức vấn nạn. Đoạn này là nêu lên thể. Lý Không Nghóa ghi: “Nhập tức là chứng; chánh tánh là chân tánh của pháp, tức thắng nghóa tánh không”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Thể của vô sinh tức là chánh tánh của chân như được chứng ngộ, chân như là tánh chánh chân của pháp. Bản dịch xưa ghi là chánh vị, vị tức là thể vị tức chánh tánh. Kinh: Nơi vô sinh này… được thọ ký ư? Tán: Chính thức vấn nạn. Không Lý Nghóa ghi: “Trong Thắng nghóa không, đâu có ký để mà thọ, đâu có giác để mà chứng. Có giác để có chứng thì mới có ký để mà có thọ, đã không có giác để chứng thì làm sao lại có ký… ? Ứng Lý Nghóa ghi: “Trước là vấn nạn về pháp môn nhân duyên, ở đây thì vấn nạn về pháp môn chân như, trong môn chân như đâu có giác để chứng, đâu có ký biệt để thọ nhận? Kim Cang Bát-nhã ghi: “Thật không có một pháp mà Đức Phật đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cho đến Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta”. Kinh: Nương vào như mà sinh… được thọ ký ư? Tán: Lấy hữu vi vô vi làm một để vấn nạn. Trước riêng biệt vấn nạn có thể có lỗi trước. Nay cho hữu vi vô vi là một nên có thọ ký, liền lấy đó nạn vấn. Trong đó gồm có ba: Vấn nạn riêng về việc nương vào như. Hiển thị chung về việc nương vào như. Kết luận vấn nạn về việc nương vào như. Trong đoạn đầu lại có ba: Vấn nạn chung. Vấn nạn riêng. Tổng kết cả hai. Đây là văn đầu tiên. Không Lý Nghóa ghi: “Nếu thế tục đế hữu và thắng nghóa không là một mà được thọ ký, thì đó là nương vào không sinh hay là nương vào không diệt mà được thọ ký? Ứng Lý Nghóa ghi: “Nếu pháp nhân duyên và chân như là một mà được thọ ký, thì đó là nương vào sinh hay nương vào diệt mà được thọ ký?” Kinh: Nếu nương vào như mà sinh… như thì không diệt. Tán: Đây là nạn vấn riêng. Lý không nương vào không, không sinh không diệt lý ứng nương vào như, nương vào như cũng không sinh diệt, làm sao mà có thọ ký. Bản dịch xưa đoạn này khó hiểu. Kinh: Không sinh không diệt… chẳng có thọ ký. Tán: Tổng kết cả hai. Thọ nhận nhân thì được quả, nhân diệt thì quả sinh, sinh diệt đã không, thế nào mà thọ ký? Kinh: Tất cả hữu tình… cũng như. Tán: Đây là hiểu chung về việc nương vào như. Hiểu chung tất cả đều nương vào như là muốn trình bày trong như không có thọ ký. Tất cả hữu tình và tất cả pháp đều nương vào như, trong đó tất cả hiền Thánh đều nương vào như, Di-lặc cũng nương vào như, muốn hiển thị phàm Thánh, nhân pháp, tổng biệt đều nương vào như. Không Lý Nghóa ghi: “Đều nương vào như tức đều là tánh không.” Ứng Lý Nghóa ghi: “Dụng nương vào tánh; thể nương vào tánh”. Kinh: Thưa Tôn giả… mà được thọ ký. Tán: Tổng kết về việc vấn nạn nương vào như, gồm hai: Trình bày chung về vấn nạn. Giải thích nguyên do. Đây là văn thứ nhất. Tôn giả nương vào như đã được thọ ký thì hữu tình nương vào như lẽ ra cũng được thọ ký? Kinh: Vì sao?… do các dị tánh hiển. Tán: Giải thích nguyên do vấn nạn. Chân lý thành hỗn tạp gọi là chẳng phải hai mà hiển, chỉ nương vào môn bất nhị mà được hiển, cũng chẳng phải do các sai biệt mà hiển, vì thể sẽ thành các loại, hoặc chẳng phải do hai ngã hiển, cũng chẳng phải do các chấp trước sai biệt mà hiển, vậy đây được có thọ ký. Ký tức biệt. Nghiệm nhân mà rõ quả có rất nhiều loại, chân thì không có các loại cho nên không có thọ ký, không có người thọ ký. Kinh: Như Tôn giả… có sở chứng? Tán: Thứ ba, dùng lý Bồ-đề Niết-bàn đồng đẳng để vấn nạn, gồm có hai: Vấn nạn về Bồ-đề. Vấn nạn về Niết-bàn. Bồ-đề có hai: Vấn nạn và giải thích. Đây là phần vấn nạn. Kinh: Vì sao… đều tùy giác. Tán: Đây là giải thích nguyên do vấn nạn. Bồ-đề tức là giác, tất cả hữu tình đều có Phật tánh, nếu siêng năng tu tập thì đều có thể tùy giác các pháp. Di-lặc đương lai tùy giác, Di-lặc được thọ ký, hữu tình đương lai tùy giác, lẽ ra hữu tình cũng được thọ ký? Bản dịch xưa ghi: “Tất cả chúng sinh tức là tướng Bồ-đề”, vì đều tùy giác tức có tướng Bồ-đề ở đương lai. Đây là bình đẳng về sự, đương lai đều được chứng ngộ. Kinh: Như Tôn giả… sẽ có Niết-bàn. Tán: Vấn nạn về Niết-bàn, gồm có hai: Đầu tiên vấn nạn, sau là giải thích, đây là lời vấn nạn. Kinh: Vì sao?… là Bát-niết-bàn. Tán: Giải thích nguyên do vấn nạn. Không Lý Nghóa ghi: “Chẳng phải tất cả hữu tình chẳng chứng không là chẳng Niết-bàn, và do không có quả khổ tức gọi là Niết-bàn. Vì Đức Phật quán chân như tánh không là Niết-bàn. Ứng Lý Nghóa ghi: “Bát-niết-bàn, Hán dịch là viên tịch. Niết-bàn có bốn: Tự tánh thanh tịnh Niết-bàn, tức là lý chân như của tất cả pháp tướng. Hữu dư y Niết-bàn tức chân lý hiển hiện do nhân khổ đã diệt. Vô dư y Niết-bàn, tức là Niết-bàn, tức chân lý hiển hiện do quả khổ đã diệt. Vô trụ xứ Niết-bàn, tức chân lý do đại bi Bát-nhã biến hiện khi đã tận trừ sở tri chướng. Nay dùng tánh tịnh để vấn nạn ba loại khác. Ý của câu vấn nạn là: Chẳng phải tất cả hữu tình chẳng sẽ nhập Niết-bàn, Đức Phật nói chân như là tánh tịnh Niết-bàn. Tánh tịnh Niết-bàn vốn có, thì ba nghóa kia tự hiển, vì sao lại chẳng có? Bản dịch xưa ghi: “Phật biết chúng sinh rốt ráo tịch diệt”, hiện có tánh tịnh, tức biết đương lai có tướng Niết-bàn. Lìa chân như này thì lại chẳng diệt nữa, vì nay đã diệt vậy. Kinh: Vì Phật quán thấy… là Bát-niết-bàn. Tán: Giải thích lần nữa về tướng đã nói ở trước. Không Lý Nghóa ghi: “Vì Phật quán biết hữu tình xưa nay tánh tịch diệt lý không, là thể Niết-bàn, cho nên chúng sinh sẽ chứng không chân như này là Bát Niết- bàn, vì thế đối với Tôn giả hai lý đều bình đẳng”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Vì Phật quán thấy chân như bản tánh là thể của Niết-bàn, cho nên nói hữu tình sẽ chứng chân như, đạt được ba loại Niết-bàn kia. Tôn giả sẽ được, hữu tình cũng sẽ được. Đã vấn nạn sẽ được, cho nên biết dùng bản tánh tịnh Niết-bàn để nạn vấn ba loại kia. Kinh: Vì thế, thưa ngài Từ Thị… Chớ dùng pháp này làm ngại các Thiên tử. Tán: Thứ ba, kết luận khuyên bảo và hiển chân thật, gồm hai: Lược khuyên và hiển chân. Rộng khuyên và hiển chân. Trong phần lược lại có hai: Lược khuyên. Lược hiển chân. Đây là đoạn lược khuyên. Không Lý Nghóa ghi: “Chớ dùng hữu tướng phân biệt mà dụ dẫn các Thiên tử, làm trệ ngại các Thiên tử, làm họ chẳng chứng chân”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Di-lặc trước nói pháp môn nhân duyên, nay Vô Cấu dùng pháp môn chân như, dùng lý sâu để nạn vấn lý cạn, cho nên chẳng thể đáp. Nhưng dùng pháp nhân duyên cạn cợt mà dạy kẻ sơ cơ thì gọi là dụ; chẳng thể tiến lên được gọi là tuệ; vì chậm chạp; nên dùng chân như và chân trí chỉ dạy cho họ khiến căn cơ được thuần thục mà mau chóng tiến vào Niết-bàn. Kinh: Phàm Bồ-đề… cũng không thoái chuyển. Tán: Lược hiển chân. Không Lý Nghóa ghi: “Không là Bồ-đề, cho nên chẳng cầu chẳng thoái. “Ứng Lý Nghóa ghi: “Kinh Giải Thâm Mật nói Bồ-đề, Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề.” Luận Trí Độ ghi: “Trí và Trí xứ gọi là Bát-nhã. Bồ-đề là trí năng quán. Bồ-đề đoạn là chân như, cả hai đều là Bồ-đề.” Nay nói chân như gọi là Vô thượng Bồ-đề. Cho nên chẳng mong cầu cũng chẳng thoái chuyển, Kinh: Thưa Tôn giả Từ Thị… xả bỏ các kiến phân biệt Bồ-đề. Tán: Rộng khuyên và hiển chân, gồm có hai: Nói rộng về sự khuyên bảo ở trước. Nói rộng về việc hiển chân ở trước. Đây là phần đầu. Có thú hướng thì có cầu, có thoái thì có chuyển. Thấy có các việc này gọi là cái thấy phân biệt Bồ-đề, chẳng khế hợp chân lý nên xả bỏ. Kinh: Vì sao?… chẳng phải do tâm có thể chứng. Tán: Hiểu rộng về chân. Đầu tiên là nêu lên, kế là giải thích, sau là kết luận. Đây là phần nêu lên. Chẳng thể dùng thân năm căn để chứng, chẳng thể dùng tâm phân biệt để chứng. Năm thức gọi là thân vì nương vào các sắc căn. Dù vô phân biệt trí tương ưng gọi là tâm phi tâm nhưng tâm này là vô phân biệt trí, chẳng phải tâm phân biệt, đó là tâm vô phân biệt. Nay ngăn che sự phân biệt, cho nên nói chẳng phải tâm có thể chứng ngộ. Kinh: Tịch diệt là Bồ-đề… đều là tịch diệt. Tán: Đây là giải thích Bồ-đề chẳng phải do thân và tâm chứng. Gồm ba mươi hai câu. Bản dịch xưa chỉ có hai mươi lăm câu. Trong ba mươi hai câu được phân làm bốn: Mười ba câu đầu là nói riêng về nghóa đoạn và chánh trí lìa Bồ- đề biến kế sở chấp, bản dịch xưa chỉ nói mười một câu. Năm kế tiếp nói riêng về nghóa đoạn và chánh trí là thể và dụng Bồ-đề. Chín câu kế nói riêng về nghóa đoạn và chánh trí lìa hữu lậu y tha là Bồ-đề, bản dịch xưa có bảy câu. Gồm năm câu nói chung về nghóa đoạn và chánh trí là Bồ-đề sâu xa vi diệu, bản dịch xưa chỉ ghi hai câu. Trong đoạn một lại chia làm hai: Tám câu đầu nói đoạn là Bồ-đề, bản xưa chỉ ghi sáu câu. Năm câu sau nói trí là Bồ-đề. Không Lý Nghóa ghi: “Văn, đoạn tuy đồng mà ý nghóa lại hoàn toàn khác. Bồ-đề tức chân đế tánh không, lý không là đoạn Bồ-đề, tâm không là trí Bồ-đề,” Ứng Lý Nghóa ghi: “Chân như là đoạn Bồ-đề, đoạn là tánh. Tuệ vô phân biệt là trí Bồ-đề, có đủ trí dụng. Bồ-đề nghóa là giác, giác tánh giác dụng, đều gọi là giác. Dẫn giáo như trước đã nêu. Trong tám câu nói đoạn Bồ-đề, được phân làm ba: Một câu đầu nói tổng quát về lìa tướng; sáu câu sau nói riêng về lìa tướng; một câu cuối tổng quát về lìa tướng. Đây là câu đầu. Tướng hữu tình và pháp tướng đều tịch diệt, tịch diệt là Bồ-đề. Do chánh trí này mà trong thầm hợp, chẳng thể dùng thân tâm để chứng ngộ. Bồ-đề được đề cập sau đây đều giải thích như trên, chẳng phải là nghóa thân tâm chứng ngộ được. Nhưng Bồ-đề nói sau đây đều có hai văn: Nêu lên. lên. Giải thích: “cố tức” sở dó (vì thế), giải thích nguyên do nêu Kinh: Chẳng tăng là Bồ-đề… vì đều chẳng hành. Tán: Khi hai loại ngã pháp năng duyên duyên nhau thì đều tăng trưởng, chân lý chẳng như thế, sở duyên chẳng tăng. Bản xưa ghi: “Quán xa lìa cái duyên”, chẳng thể dùng tâm biến kế để quán. Ngã và pháp là sở duyên hành tức danh ngôn phân biệt tạo tác, chân lý thì không như thế, cho nên gọi là Bồ-đề. Kinh: Vónh viễn đoạn là Bồ-đề… đều xả bỏ. Tán: Ngã và pháp là sở duyên của kiến thú; là chỗ chấp trước của thủ. Chân lý chẳng như thế, vónh viễn đoạn kiến và thủ, xa lìa kiến và thủ. Kinh: Ly hệ là Bồ-đề.. vì vónh viễn tịch diệt. Tán: Ngã pháp là pháp động loạn, là sở duyên của tất cả phân biệt; thể của nó chẳng tịch diệt; chân lý chẳng như thế cho nên lìa phân biệt. Động loạn trói buộc, tất cả phân biệt cũng vónh viễn tịch diệt. Bản xưa ghi: “Chướng là Bồ-đề”, tức là lìa hệ phược, nhưng ý khó hiểu. Nêu lên chỗ đối trị, hiển thị lìa là Bồ-đề, nhưng không có nghóa tịch tónh. Kinh: Rộng lớn là Bồ-đề… vì chẳng thể đo lường. Tán: Một câu này, tổng kết lìa tướng. Hoằng tức là đại, tất cả phân biệt đại nguyện chẳng thể đo lường được; vì xa lìa cảnh sở hành của tâm phân biệt. Bản xưa không có câu này. Kinh: Chẳng chứng là Bồ-đề… vì đều xa lìa. Tán: Đoạn này gồm năm câu nói trí Bồ-đề, được phân làm ba: Một là câu đầu nói thể không có tác dụng năng chứng chấp trước; hai là câu kế nói trí nương vào như, hai câu sau nói trí chỉ một vị. Đây là câu đầu, tất cả phân biệt tranh luận vónh viễn dứt trừ, cho nên không có tướng năng chứng để chấp trước, tức là trí Bồ-đề. Kinh: An trụ là Bồ-đề… vì tùy thuận chân như. Tán: Hai câu này lấy trí nương như. Pháp tức công đức, giới tức tánh; công đức pháp tánh, cho nên gọi là pháp giới. Trí trụ ở pháp giới, tùy thuận chân như đến cùng tột. Bản xưa ghi: “Thuận là Bồ-đề, vì thuận nơi như.” Kinh: Bất nhị là Bồ-đề… vì do thật tế kiến lập. Tán: Không chỉ lý bất nhị mà trí cũng bất nhị lìa pháp sai biệt biến kế sở chấp. Thật tế tức chân lý, trí duyên chân lý mà sinh cho nên gọi là kiến lập. Bản xưa không có môn kiến lập này. Kinh: Bình đẳng là Bồ-đề… vì rốt ráo xa lìa. Tán: Đây là đoạn thứ hai gồm năm câu nói riêng về nghóa đoạn và chánh trí là thể và dụng của Bồ-đề, gồm hai phần: Hai câu đầu nói đoạn là thể Bồ-đề, ba câu sau nói trí là dụng của Bồ-đề, đây là đoạn văn đầu. Câu đầu nói tánh đoạn bình đẳng cũng khắp mười hai xứ, nhãn và sắc, nhó và thanh cho đến ý và pháp đều bình đẳng, cùng khắp như hư không. Câu sau nói đoạn là vô vi, vì lìa bốn tướng. Kinh: Biến trí là Bồ-đề… vì chẳng hỗn tạp. Tán: Đoạn này gồm ba câu nói trí là dụng của Bồ-đề, tâm hành biến tri là dụng năng chiếu; chánh trí là môn năng tri, ngoài các việc này ra thì không có dụng năng tri, thể của nó không xa lìa sáu xứ bên trong, mà nương vào sáu xứ sinh khởi. Các pháp năng liễu tri gọi là các môn, lại không có môn nào khác. Bản xưa gọi là “chẳng hội”, văn lầm lẫn khó biết. Nếu quả trí có thể hội, thì chẳng phải nhân sáu xứ có thể hội. Kinh: Không tạp là Bồ-đề… vì vónh viễn xa lìa. Tán: Trí thể vô lậu, phiền não chẳng thể xen tạp, phiền não hiện hành tương tục và chủng tử tập khí, đều xa lìa vónh viễn. Kinh: Vô xứ là Bồ-đề… vì chẳng thể thấy. Tán: Đoạn thứ ba gồm chín câu, nói riêng về nghóa đoạn và chánh trí lìa hữu lậu y tha là Bồ-đề. Có hai: Tám câu đầu nói đoạn Bồ-đề lìa tướng hữu lậu, một câu sau nói về trí Bồ-đề lìa tướng hữu lậu. Câu đầu của đoạn này lý không có nơi chốn, câu thứ hai nói lý không có trụ xứ, y tha thì có nơi chốn, có hình thể, cũng có trụ xứ, có thể thấy. Bản xưa ghi là vô trụ. Kinh: Chỉ có tên là Bồ-đề… vónh viễn xa lìa. Tán: Tên của pháp hữu vi thì có tác dụng, từ tên mà giải thích, thì thể dụng liền tăng, có tên và thể; chân lý thì không phải như thế, chỉ do danh hiển bày, sắc không có tác dụng chẳng thể làm cho chân thể, dụng tăng trưởng, chỉ có giả danh, không có tướng để diễn bày. Bản dịch xưa ghi: là “giả danh”, ý nghóa hơi sai khác, chẳng đồng với y tha có thủ có xả; giống như sóng; hữu vi thì có xao động, chân lý thì chẳng thủ xả, cho nên gọi là không có sóng. Bản xưa ghi: “Như hóa là Bồ-đề”, thì văn tuy khác mà ý lại đồng. Kinh: Không loạn là Bồ-đề… vì bản tánh tịnh. Tán: Chân lý thường thanh tịnh, cho nên không động loạn; bản tánh thanh tịnh cho nên thể tịch tónh. Kinh: Sáng tỏ là Bồ-đề… vì lìa phan duyên. Tán: Chân lý không tạp nhiễm, cho nên thể luôn sáng tỏ; tánh lìa phan duyên nên không chấp trước. Bản dịch xưa không có ghi sáng tỏ. Kinh: Không khác là Bồ-đề… vì tánh bình đẳng Tán: Một câu này nói về trí Bồ-đề lìa tướng hữu lậu, tánh trí bình đẳng, thường tùy thuận các pháp, tất cả đều thấu suốt, cho nên gọi là không khác; chỉ một vị rõ biết phân biệt nên gọi là không khác. Bản xưa ghi: “Các pháp đồng đẳng” tức là đồng liễu tri các pháp. Kinh: Không dụ là Bồ-đề… vì rất khó biết. Tán: Đoạn này gồm năm câu. Nói chung về nghóa trí, đoạn đều là Bồ-đề sâu xa vi diệu, chẳng thể dụ và được dụ vì dứt bặt sự ví dụ. Thể của nó rất sâu xa vi diệu, nếu chẳng phải là chánh trí thì thật khó biết. Kinh: Biến hành là Bồ-đề… vì chẳng thể nhiễm. Tán: Đoạn này gồm ba câu. Bản xưa không có ba câu này. Đoạn thể dụng biến, chân lý có thể biết, trí dụng cũng đầy đủ, cho nên gọi là biến hành. Hành tức là tồn tại, tức là lý tồn tại khắp nơi. Hành tức là khởi, tức trí dụng khởi cùng khắp. Hoặc cho rằng trí cũng tồn tại khắp nơi, vì tánh của nó không ngăn ngại. Báo thân của Như Lai không đâu chẳng tồn tại. Đảnh là cao tột. Lý và trí cao tột; đều cùng cực, pháp hữu vi, vô vi đều là thượng thủ; cả hai, pháp thế gian chẳng thể làm nhiễm ô được. Kinh: Bồ-đề như thế… chẳng phải là tâm có thể chứng ngộ. Tán: Đây là phần thứ ba, tổng kết. Kinh: Bạch Thế Tôn… Vô sinh pháp nhẫn. Tán: Phần thứ hai: đại chúng đương thời được lợi ích. Trên nói về cõi trời Tri túc phần nhiều là các đại Bồ-tát nêu thuyết bất thoái chuyển, khiến cho được chứng ngộ, tức là hiển bày các Thiên tử đều xuất thế gian, khiến cho được Vô sinh pháp nhẫn đều là vô lậu, tương tục vô sinh, được vào giai vị Địa thứ tám. Kinh: Lúc bấy giờ, con im lặng… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Kết luận nguyên nhân từ chối, tự thân sút kém xin thoái lui. Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến vấn an bệnh ông ấy. Tán: Đây là nói về đồng tử Quang Nghiêm. Về tên như đã giải thích ở trước. Đầu tiên là sai bảo sau là từ chối. Đây là lời sai bảo. Kinh: Đồng tử Quang Nghiêm… con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Từ đây trở xuống là phần từ chối, gồm ba: Đây là nói chung về đạo đã bị khuất phục. Kia mê nhân Bồ-đề, chẳng biết thể dụng, do Vô Cấu trình bày mới được liễu tri, không đủ sức để đối đáp, cho nên nói là đạo bị khuất phục. Kinh: Vì sao?… từ đâu đến? Tán: Đây là nói về lý đã cùng tận. Đầu tiên tự hỏi, sau là giải thích. Trong phần giải thích lại có năm: Gặp và hỏi. Đáp. Vấn cật. Thuật lại. Kết luận nêu lợi ích. Đây là phần tự hỏi và gặp hỏi. Đã sắp ra khỏi thành, ông ấy lại vào, vừa gặp nhau liền thi lễ. Đồng tử thì theo phép tắc thường, nên hỏi từ đâu đến, liền dùng lý đối đáp; Di-lặc là hàng xuất gia nên Vô Cấu phải đảnh lễ; Quang Nghiêm hình tướng thế tục, cho nên lễ ngài Vô Cấu. Tăng tục tuy khác mà đạo đức đều đồng. Bồ-tát nối tiếp nhau được sai bảo đến thăm bệnh, tất cả đều từ chối. Nêu đức kể tên, chẳng trái nhau. Kinh: Ông ấy đáp: Tôi từ diệu Bồ-đề đến. Tán: Thứ hai nói về Vô Cấu đáp. Quang Nghiêm nêu lên nhân Bồ-đề mà chưa thể chứng ngộ. Nhân việc hỏi mà nêu lên nhân Bồ-đề, trả lời khiến đồng tử khai ngộ. Bồ-đề nghóa là giác. Tuệ chung cho nhân quả. Bản dịch xưa ghi là đạo tràng tức ý muốn hiển nhân Bồ-đề, cho nên dùng đạo tràng làm nhân. Trước trả lời Từ Thị phần nhiều nói về quả vị, lấy chân như chánh trí làm Bồ-đề, nay nói về nhân vị lấy năng sinh quả đức làm Bồ-đề. Vạn hạnh đều lấy tuệ làm đầu, vạn hạnh đều là quyến thuộc của tuệ, tất cả đều là cảnh của tuệ, đều gọi là Bồ-đề, Bồ-đề có năm: Bồ-đề tánh tức chân như. Bồ-đề dụng tức chân trí. Bồ-đề nhân tức ba tuệ luân có thể đạt được Bồ-đề. Bồ-đề bạn lữ tức vạn hạnh phước trí. Bồ-đề cảnh tức pháp chân tục. Văn sau tùy chỗ ứng hợp mà có năm loại này. Kinh: Con hỏi cư só… diệu Bồ-đề là nơi nào? Tán: Thứ ba, Quang Nghiêm hỏi. Hỏi thẳng về Bồ-đề, tức cho rằng có nơi chốn, nên mới hỏi Bồ-đề là nơi nào? Kinh: Ông ấy liền đáp rằng… vì chẳng hư giả. Tán: Thứ tư, Vô Cấu đáp, có hai: Hiển bày riêng về ba mươi hai thể của Bồ-tát. Từ câu: “Này thiện nam! Như thế…”, tổng kết nêu lên tất cả đều là Bồ-đề. Ba mươi hai loại phân làm sáu: Bốn loại đầu gọi là chân thật phát thú, tức là hạnh chân thật thú hướng đến Phật quả. Sáu loại sau gọi là Ba-la-mật-đa, tức là có thể làm cho hành giả đến bờ kia. Tám loại kế tiếp gọi là thành thục hữu tình, vì dùng tám thể này làm lợi ích chúng sinh. Hai loại kế tiếp gọi là nhất thiết thiện căn, tức tu thiện lìa ác, đầy đủ thiện căn. Sáu loại kế tiếp gọi là nhiếp thọ chánh pháp, bao gồm tất cả những duyên lãnh thọ chánh pháp của Phật. Sáu loại cuối cùng gọi là cúng dường Như Lai, tu tập pháp cúng dường là bậc nhất. Đến văn thì tùy theo đó mỗi mỗi giải thích tướng đầy đủ. Ở theo thứ tự giải thích nguyên do. Thuần tức trinh hậu, trực tứ ngay thật, dễ cộng trụ là sở học đầu tiên. Kinh: Phát khởi gia hạnh…có thể thành tựu. Tán: Gắng sức tu tác gọi là gia hạnh, cho nên tất cả việc làm đều thành tựu. Kinh: Tăng thượng ý lạc… pháp thù thắng. Tán: Dũng mãnh tu tác không sợ lao nhọc gọi là tăng thượng, cho nên cuối cùng chứng được Phật quả Bồ-đề Niết-bàn. Bản dịch xưa ghi: “Thâm tâm” tăng trưởng công đức, sẽ chứng được Phật quả. Kinh: Tâm đại Bồ-đề… chẳng quên mất. Tán: Giác ngộ tất cả pháp gọi là tâm đại Bồ-đề, luôn chiếu soi các pháp, không bao giờ quên sót. Bản xưa ghi là không sai lầm, thấu suốt chân lý, ý nghóa cũng giống nhau. Kinh: Thanh tịnh bố thí… đều viên mãn. Tán: Bốn loại kể trên gọi là phát thú, sáu loại sau gọi là đến bờ kia. Hy tức hy vọng. Khi vô tướng vô lậu thực hành bố thí thì gọi là thanh tịnh thí, chẳng mong cầu các quả dị thục như năm uẩn thế gian, tài sản, danh vị… Vững chắc giữ gìn các tịnh giới, vì thế mà các điều mong cầu đều được đầy đủ. Giới là bình chứa công đức báu. Kinh: Nhẫn nhục nhu hòa… không giãi đãi lui sụt. Tán: Do nhẫn nhục mà chẳng sân hận, do chuyên cần nên không biếng trễ. Kinh: Tịch chỉ tónh lự… tánh tướng các pháp. Tán: Do nhập thiền định, tâm được vắng lặng, tận trừ sự thô lậu, được điều hòa nhu thuận, khởi nghiệp thần thông, có năng lực gánh vác to lớn. Do tuệ phân biệt cho nên hiện tiền chứng biết được sự lý, thể dụng của các pháp. Kinh: Từ là diệu Bồ-đề… vì có thể nhẫn chịu. Tán: Thứ ba, gồm tám loại gọi là thành thục hữu tình. Bốn loại đầu là bốn vô lượng tâm, bốn loại sau là hạnh riêng. Từ thì có thể bình đẳng ban vui cho người. Bi hay cứu khổ, khi thực hành cứu giúp thì hay nhẫn chịu tất cả lao khổ. Kinh: Hỷ là diệu Bồ-đề… Vì vónh viễn đoạn tất cả tham ái và sân hận. Tán: Do bên trong chứng nhân, nhận pháp uyển lạc, cho nên thấy người làm điều thiện liền vui vẻ trợ giúp, không tật đố, trong tâm thường hoan hỷ. Do đã viễn đoạn trừ tất cả phiền não, cho nên có thể làm cho người xa lìa tham ái, sân hận. Trên là nói bốn vô lượng, sau là luận đến hạnh riêng. Kinh: Thần thông là diệu Bồ-đề… lìa phân biệt động loạn. Tán: Thần thông là diệu giác. Do đạt đến quả vị cho nên có đủ sáu thần thông. Giải thoát là Bồ-đề, thì bản dịch xưa ghi: “Hay bội xả” tức tám giải thoát. Thường trái thường xả bỏ tham dục… nay nói lìa phân biệt động loạn, tức là tám giải thoát kia xa lìa phân biệt động loạn chướng ngại định… Kinh: Phương tiện là diệu Bồ-đề… nhiếp phục các hữu tình. Tán: Phương tiện khéo léo phần lớn là để cứu khổ, cho nên thành thục hữu tình; dùng bốn nhiếp để thu phục chúng sinh thì lợi ích rất lớn. Kinh: Đa văn là diệu Bồ-đề… như lý quán xét. Tán: Đoạn thứ tư, có hai gọi Nhất thiết thiện căn, phần nhiều lấy đa văn làm nhân các thiện. Pháp đều viên mãn, cho nên kinh nói: Đa văn hay dẫn sinh sự vui thú, đa văn hay gom nhiếp các thiện, đa văn thì xa lìa vô nghóa, đa văn thì được Niết-bàn. Luận Nhiếp Đại Thừa cũng nói: “Đa văn huân tập là chủng tử của tâm xuất thế gian”. Cho nên có phát ra diệu hạnh chân thật, điều phục, tiêu diệt các việc ác của ba nghiệp, như lý quán xét thì đâu có việc ác gì để làm? Pháp ác đã diệt pháp thiện liền sinh khởi, cho nên gọi là thiện căn. Hai nhân Bồ-đề này gọi là Bồ-đề. Kinh: Ba mươi bảy Bồ-đề phần… chẳng hư dối. Tán: Đoạn thứ năm gồm có sáu loại gọi chung là nhiếp thọ chánh pháp. Do thực hành các giác phần mà chứng được vô vi, cho nên có thể xả bỏ hữu lậu hữu vi; ba nghiệp chân thật, thực hành lợi tha chẳng luống dối. Trước nói trực tâm là tâm chẳng tà vạy, chẳng kiêu mạn, chẳng trá ngụy. Ở đây nói đế thật, tức thân tâm chẳng luống dối, lời nói chẳng trá ngụy, cho nên cả hai khác nhau. Kinh: Mười hai nhân duyên… đều chẳng tận. Tán: Quán mười hai duyên khởi của các chúng sinh đều chẳng cùng tận, vì cõi chúng sinh không bao giờ tận. Kinh: Dứt các phiền não… chân pháp tánh. Tán: Do chứng chân như nên phiền não diệt. Tức nghóa là diệt. Bản dịch xưa ghi các phiền não là “Đạo tràng.” vì biết như thật. Giải thích thì đồng mà tới thì khác. Nghóa thiếu rất khó hiểu. Không thấy có từ “Diệt” (tức) cho nên thật khó hiểu. Kinh: Tất cả hữu tình… đều tánh không. Tán: Chúng sinh và pháp đều lấy chân như vô ngã tánh không làm tự thể, đều là Bồ-đề, hai ngã sở chấp là bất nhị. Vô ngã có thể là có cho nên là Bồ-đề. Giữ lấy chân như này gọi là diệu Bồ-đề, vì đó là đoạn Bồ-đề; là chỗ của trí, như trong phần ngài Di-lặc đã dẫn chứng. Những loại nói ở trên đều là cảnh, là Bồ-đề, vì hay sinh giác ngộ. Kinh: Hàng phục ma oán… xa lìa tất cả việc phát thú. Tán: Đoạn thứ sáu gồm sáu loại gọi chung là Cúng dường Như Lai, là cúng dường pháp. Bốn ma chẳng làm cho khuynh động, tùy nguyện mà hóa sinh, chẳng lìa ba cõi, xả bỏ Nhị thừa, chỉ thú hướng đến quả Thánh, vì họ không có việc lợi lạc quần sinh. Kinh: Tiếng rống của đại sư tử… không phiền trách nhàm chán. Tán: Khéo nói pháp yếu như tiếng của rống sư tử, dùng diệu tuệ phân biệt không có sợ hãi. Ha tức la mắng, yểm tức nhàm chán. Vì lực vô úy cho nên tất cả đều hoan hỷ. Khéo giáo hóa hữu tình mà không có người nhàm chán và quở trách. Vì thế mà thành tựu Bồ-đề. Do đó bản dịch xưa ghi không có lỗi, vì lực… không có các lỗi, cho nên không có người nhàm chán. Kinh: Ba minh soi chiếu… trí vô dư. Tán: Do đoạn tất cả ngu trong ba đời, phiền não diệt tận, mới đạt được ba minh. Ba minh và vị phiền não diệt tận là trí vô dư, cho nên đó là Bồ-đề. Kinh: Một sát-na tâm… đều chứng ngộ viên mãn. Tán: Một niệm tâm có thể đạt được chân tục, đạt được cùng tận lý sự các pháp mà không có thiếu sót, do đã chứng ngộ viên mãn Nhất thiết trí và Nhất thiết chủng trí. Nhất thiết trí, tức trí vô phân biệt đạt chân như; chủng trí tức Hậu đắc trí thấu suốt việc tục. Một niệm thông đạt cả hai, liễu tri lý sự, chẳng phải như Nhị thừa có tương tục mới biết. Cả hai trí được gọi chung là Nhất thiết trí trí. Trong ba mươi hai loại này thì hai mươi hai loại nói về nhân Bồ- đề và bạn lử Bồ-đề, kế đó hai loại là nói về cảnh Bồ-đề, kế đến hai loại là nói về tánh Bồ-đề, sau cùng sáu loại là nói về dụng Bồ-đề. Trong phần nhân Bồ-đề lại phân làm ba: Mười loại đầu là nói về tự lợi, tám loại kế là nói về Lợi tha, bốn loại sau là nói về cả hai. Tùy theo giai vị riêng biệt mà có thể biết được. Kinh: Này các thiện nam! Như thế… cúng dường Như Lai. Tán: Thứ hai, kết luận nêu lên tất cả đều là Bồ-đề, gồm hai phần: Nêu lên ý trước. Kết luận. Đây là văn thứ nhất. Chân thật phát thú tức là nêu lên bốn loại đầu trong ba mươi hai loại; Ba-la-mật-đa là nêu lên sáu loại kế, thành thục hữu tình là nêu lên tám loại kế, tất cả thiện căn là nêu hai loại tiếp theo, nhiếp thọ chánh pháp là nêu sáu loại kế, cúng dường Như Lai là nêu sáu loại cuối cùng. Việc làm đã viên mãn, gọi là cúng dường xong, như trước đã giải thích. Nguyên do này đã xong tất cả, đều đầy đủ hành chứng cho nên gọi là tương ưng. Tương ưng nghóa là chẳng xa lìa nhau, tùy thuận nhau hòa hợp năng hành, năng chứng. Bản dịch xưa chỉ ghi hai. Nếu tùy theo Ba-la-mật và giáo hóa chúng sinh, thì không nêu bốn loại kia. Ý nói tu hành không ngoài hai môn là tự lợi Ba-la-mật-đa và lợi tha giáo hóa chúng sinh cho nên chẳng nêu bốn loại kia, bản mới thì ghi đầy đủ. Kinh: Các việc làm… diệu pháp của chư Phật. Tán: Đây là kết luận, gồm ba loại. Do đây mà nói sáu nghóa tương ưng ở trước. Các việc làm tức là các hành động qua lại, đi đứng nhấc chân, hạ chân… Ba loại: Tất cả từ diệu Bồ-đề mà đến, tất cả đều chẳng xa lìa diệu tuệ rốt ráo. Tất cả đều từ các Phật pháp mà đến, vì tất cả Phật pháp đều hiện hành. Luôn luôn an trụ nơi diệu pháp của chư Phật, các nghiệp thân ngữ, ý thường ở nơi Phật pháp cho nên gọi là an trụ. Bản xưa chỉ ghi hai điều, từ đạo tràng đến, trụ nơi Phật pháp, không có điều thứ hai là từ Phật pháp đến, ý nói đạo tràng tức Phật pháp. Kinh: Bạch Thế Tôn!… tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tán: Kết luận, đạt lợi ích. Kinh: Lúc bấy giờ con im lặng… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Kết luận về nguyên do từ chối, tự thân sút kém, xin thoái lui. phần: Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến vấn an bệnh ông ấy. Tán: Đoạn này là nói việc Đức Phật sai bảo Trì Thế, gồm hai Sai bảo. Từ chối. Đây là lời sai bảo. Kinh: Bồ-tát Trì Thế… Không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đây là phần từ chối, gồm có ba. Đây là nêu chung về đạo đã bị khuất phục. Chẳng biết tướng của ma, bị ma não loạn. Vô Cấu chỉ tướng ma, cho nên từ chối chẳng kham nhận. Kinh: Vì sao?… tại nơi trụ xứ. Tán: Đây là đoạn nói riêng về lý đã cùng tận. Đầu tiên là tự hỏi, sau là giải thích. Trong phần giải thích gồm có hai. Nêu việc của mình. Thuật lại lời của Vô Cấu. Nêu việc của mình lại có năm: Nói về chỗ trụ của mình khi xưa. Ma đến đứng cung kính. Chẳng biết khuyên bảo họ. Bị ma làm não loạn. Nói về việc mình chẳng chịu nhận. Đây là đoạn nói về lời hỏi và nêu trụ xứ khi xưa. Kinh: Lúc bấy giờ, có ác ma oán… đứng trước mặt con. Tán: Đoạn hai, ma đến cung kính đứng trước mặt. Ma và quyến thuộc một vạn hai mươi ngàn Thiên nữ, với trống nhạc đàn ca, đảnh lễ cúng dường, cung kính mà đứng. Kinh: Trong tâm con lúc bấy giờ nghó rằng… chẳng nên buông lung. Tán: Đoạn ba, chẳng biết khuyên bảo. Đầu tiên là khuyên tổng quát, kế đó là khuyên riêng. Đây là văn đầu tiên. Vua cõi trời Đao-lợi họ là Thích-ca, hiệu là Đế Thích, tên là Kiều-thi-ca. Kiều-thi-ca, Hán dịch là Kiểu Nhi, là tên của tiền thân, Đức Phật thường gọi tên này, cho nên nay gọi là “Lành thay! Kiều-thi-ca”. Bản duyên của vị trời này như Thắng Man Kinh Sớ đã giải thích. Phước đức tuy có, nhưng ngươi chẳng nên quá buông lung mà làm các việc ca múa hát xướng vui chơi này. Kinh: Nên siêng năng quán xét… chứng pháp kiên thật. Tán: Đây là khuyên riêng. Dục tức năm dục. Các loại vui chơi này đều là vô thường, đối với thân, mạng và tài bảo, nên trinh chuyên tu tập, xả bỏ pháp chẳng bền chắc mà chứng pháp thân tuệ mạng, giữ pháp bảo Thánh tài, ba pháp này là pháp bền chắc chân thật. Kinh: Liền nói với con rằng… để giúp đỡ hầu hạ. Tán: Đoạn thứ tư, ma quấy nhiễu thử thách. Gọi Trì Thế là Đại só, Chánh só hợp chung là đại Chánh só. Cần hầu hạ giúp đỡ, cho nên dùng các người nữ làm vật cúng, để nhiễu loạn. Kinh: Con liền đáp rằng… đây chẳng phải là điều ta cần. Tán: Đoạn thứ năm, hiển thị việc mình chẳng nhận. Chỉ tức là mạc (thôi). Như lời Thế Tôn đã dạy, âm nhạc và nữ sắc chớ nên ban cho người, vì sẽ phá hoại tâm thanh tịnh của họ, huống gì là dùng vật phi pháp sinh tử cực xấu xa kia mà dâng cúng cho Sa-môn ta, chẳng phải là vật ta cần. Kinh: Nói chưa dứt lời… đến não loạn ngài đó. Tán: Đoạn này trở xuống là thuật lại lời của Vô Cấu, gồm mười tám câu: Chế phục tướng ma. Xin ma. Ma kinh sợ muốn bỏ đi. Hư không có tiếng khuyên bảo. Ma thí các người nữ. Vô Cấu chính thức tuyên thuyết. Thiên nữ hỏi pháp. Vô Cấu giải thích. Ma trở về cung. Thiên nữ không chịu theo về. Ma xin lại Vô Cấu. Vô Cấu ban cho. Thiên nữ hỏi. Vô Cấu đáp. Thiên nữ lại hỏi. Vô Cấu giải thích rộng. Thiên nữ đảnh lễ. Xả bỏ sự chế phục để ma trở về Thiên cung. Hoặc chia làm hai: Giải thích tướng ma. Chánh thức hàng phục ma. Đây là văn thứ nhất. Bồ-tát Trì Thế khuyến hóa, lời nói chưa dứt, thì Vô Cấu liền giải thích là ma não loạn, cho nên chắc chắn bị phiền nhiễu. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… Thích tử nên thọ nhận. Tán: Chánh thức hàng phục ma oán, gồm ba ý: Chánh thức hàng ma. Thuyết cho các Thiên nữ nghe, tức là câu “nói với các Thiên nữ rằng…”. Nói về việc khi muốn trở về cung điện, ác ma oán nói với các Thiên nữ rằng: “Các ngươi có thể đến…” Hàng phục có bốn: Xin Thiên nữ. Ma sợ hãi chạy trốn. Trên hư không có tiếng nói. Ma liền cho. Đây là đoạn thứ nhất. Khuyên chẳng nên thí cho Trì Thế mà nên cho ta, để nói lên viêc rõ biết oai nghi của Sa-môn Trì Thế. Hiển thị lý do Vô Cấu đảnh lễ nói ở trên. Kinh: Lúc bấy giờ, ác ma oán… không lẽ Vô Cấu Xưng sắp não hại ta sao Tán: Đoạn này là nói ma kinh sợ chạy trốn. Gồm có hai: Kinh sợ. Chạy trốn. Đây là nói về việc kinh sợ. Cho rằng Vô Cấu Xưng sắp muốn não hại, cho nên kinh sợ. Kinh: Muốn ẩn hình mà đi… cũng chẳng thể đi được. Tán: Đoạn này là nói ma chạy trốn, ẩn hình chẳng hiện, nhưng do thần lực giữ lại, muốn đi cũng không được. Kinh: Tức nghe trên hư không có tiếng nói… mới có thể trở về Thiên cung. Tán: Trên hư không có tiếng nói. Hễ thí nữ thì dễ trở về, không thí thì khó đi. Kinh: Lúc bấy giờ, ác ma oán… miễn cưỡng mà cho. Tán: Ma liền thí cho. Phủ tức là cúi; ngưỡng tức là ngữa tức bất đắc dó, cho nên nói là phủ ngưỡng. Ma sợ não loạn nên bất đắc dó phải cho, thật tâm chẳng muốn cho, cho nên gọi là phủ ngưỡng. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tán: Thuyết cho các Thiên tử nghe, văn gồm có ba: Lược thuyết. Giải thích rộng. Kết luận. Trong phần lược thuyết lại có hai: Khuyên phát tâm. Tùy thuận thuyết pháp. Đây là văn đầu tiên. Kinh: Tức tùy thuận chỗ thích ứng… Chánh đẳng Bồ-đề. Tán: Tùy thuận thuyết pháp. Vì hàng sơ cơ thuyết pháp tùy thuận Bồ-đề. Vì hàng tu học đã lâu mà thuyết pháp thành thục Bồ-đề, tất cả đều khiến cho thú hướng đến chánh đẳng Bồ-đề. Kinh: Lại nói: “Các chị đã phát tâm… chẳng nên thích năm dục lạc.” Tán: Giải thích rộng, gồm có ba: Nêu tổng quát pháp lạc, khiến xả bỏ dục lạc. Thiên nữ hỏi. Trả lời rộng. Đây là văn đầu tiên. Đại pháp uyển tức chân như thanh tịnh, nhân nơi đây mà sinh niềm vui, cho nên gọi là pháp uyển lạc. Đã được niềm vui xuất thế gián thì nên xa lìa năm dục lạc. Kinh: Các Thiên nữ nói rằng… đại pháp uyển lạc. Tán: Đây là Thiên nữ hỏi ngài Vô Cấu. Kinh: Vô Cấu Xưng đáp… cần kính sự lạc. Tán: Đây là phần trả lời rộng. Tổng cộng có ba mươi lăm câu pháp lạc. Bản dịch xưa chỉ có ba mươi hai câu, thiếu ba câu là: Đối với sở duyên thì vô y tục lạc. Đối với Bát-niết-bàn thì chánh phan duyên lạc. Đối với xảo phương tiện thì thiện nhiếp thọ lạc. Còn những chỗ lầm lẫn khác thì đến văn sẽ nêu rõ. Nhưng vẫn nói từ hân lạc đặt ở mỗi câu mà chẳng nói từ hý lạc. Ba mươi lăm câu được phân làm sáu nhóm: Ba câu đầu nói về niềm vui gặp được ruộng tốt. Hai câu kế nói về niềm vui lìa khổ, viên mãn chứng ngộ, bản xưa chỉ có một câu. Ba câu kế nói về niềm vui thể hội được hư huyễn. Mười câu kế nói về niềm vui phát tâm tu hành. Mười câu kế nói về niềm vui lìa ác nhiếp thiện, bản xưa chỉ có chín câu. Bảy câu cuối nói về niềm vui tự lợi và lợi tha, bản xưa chỉ có sáu câu. Ba câu của đoạn này nói niềm vui gặp được ruộng tốt, vì thắng trừ duyên ác, đối với ba thân Phật khởi tín tâm quyết định thanh tịnh, chẳng thể phá hoại, cho nên còn gọi là niềm vui chẳng hoại tâm tịnh. Đối với pháp thì thích nghe và giữ gìn tất cả. Đối với Tăng chúng thì luôn cung kính phụng sự, như kinh nói: “Chư Phật xuất hiện lại, diễn thuyết chánh pháp lạc, chúng tăng hòa hợp lạc, đồng tu tinh tấn lạc”. Đối với lương điền khởi niềm vui tu hành ở đây có hơi sai khác. Kinh: Nơi ba cõi… vô y trụ lạc (niềm vui vô y trụ). Tán: Phần thứ hai nói về niềm vui lìa khổ chủng ngộ viên mãn. Vượt khỏi khổ trầm luận. Đầu tiên nêu khổ, sau đó là chứng tịch diệt. Bản xưa ghi: “Niềm vui lìa năm dục”, nghóa rất cạn hẹp. Nay nói lìa ba cõi cho nên nghóa rất sâu rộng. Đối với cảnh sở duyên không có tâm sở y, không có chổ an trụ. Tâm chẳng duyên theo tức là chánh trí, chứng ngộ các pháp. Nếu tâm có chỗ nương gá dừng trụ thì chẳng phải là chân chánh chứng ngộ. Cho nên kinh Bát-nhã ghi: “Nên không nơi trụ mà sinh tâm kia”. Nếu tâm có chỗ trụ, tức chẳng phải trụ. Vì thế Đức Phật dạy Bồ-tát chẳng nên trụ tâm nơi sắc mà bố thí… bản xưa thiếu ý này. Kinh: Đối với các uẩn… như niềm vui không tụ. Tán: Thứ ba nói về niềm vui thể đạt hư huyễn, chẳng bị ba hoặc làm não loạn. Quán uẩn vô thường bức bách cho nên có khổ. Giống như oán tặc, cho nên nói là ma. Quán mười tám giới cắn chết loài hữu tình, cho nên gọi là rắn độc. Bản xưa thấy thì dụ liền nói là quán bốn đại, bốn đại thuộc về sáu giới. Quán mười hai xứ, giống như không tụ, không có gì. Bản xưa ghi là quán các nhập, văn ý rất cạn hẹp. Uẩn nghóa là tích tập. Đầy đủ mười một loại tích tập. Năm uẩn là sắc thọ tưởng hành thức. Giới nghóa là nhân, giữ gìn tự tánh nên gọi là trì tự tánh. Đó là nhãn giới sắc giới, nhãn thức giới cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới. Xứ nghóa là xuất sinh, gồm sáu căn, sáu trần xuất sinh sáu thức, nhãn nhó tỉ thiệt thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp. Kinh: Đối với tâm Bồ-đề… niềm vui siêng năng phụng sự Tán: Thứ tư gồm mười câu nói về niềm vui phát tâm tu hành, chiến thắng phá dẹp sinh tử. Một câu đầu nói về phát tâm, tám câu kế nói về tu hành, một câu cuối nói về quả. Nói về tu hành gồm có ba: Cứu chúng sinh. Phụng sự sư trưởng. Tu sáu độ. Đây là đoạn thứ nhất, có ba: Giữ gìn vững chắc tâm Bồ-đề đã phát. Làm lợi ích hữu tình. Siêng năng phụng sự sư trưởng. Kinh: Đối với tuệ thí… niềm vui lìa hoặc được sáng tỏ. Tán: Đây là nói về tu sáu độ. Biết bố thí thì xa lìa bần khổ; giữ vững tịnh giới, không biếng trễ mà mạnh mẽ nhanh chóng, luôn thủ hộ bền chắc; do nhẫn nhục nhu hòa mà xa lìa được sự thô bạo, khéo tu tinh tấn, tích tập các thiện căn; khi tu định thì biết tâm không loạn, khi tu Bát-nhã thì xa lìa các hoặc, tánh là, chiếu rõ. Đó là niềm vui. Kinh: Đối với Bồ-đề, có niềm vui rộng lớn. Tán: Đây là niềm vui biết được Bồ-đề. Biết trong Bồ-đề có niềm vui rộng lớn, mà phát sinh ham thích vui mừng, mong cầu hướng đến, mau chứng được niềm vui không có não loạn. Lược nêu lên bốn: Niềm vui xuất ly. Niềm vui xa lìa. Niềm vui biết pháp. Niềm vui tịch tónh. Niềm vui Bồ-đề ở đây gồm nhiếp hai niềm vui sau, vì đó là nói quả Phật. Bản dịch xưa ghi: “Niềm vui tâm Bồ-đề rộng lớn”, tức vui biết Bồ-đề mà tâm vô cùng vui thích, không trái nhau. Kinh: Đối với ma oán… niềm vui luôn biết khắp. Tán: Thứ năm gồm mười câu nói về niềm vui lìa ác nhiếp thiện, hay tu tập chẳng mê. Hai câu đầu là lìa ác, tám câu sau là nhiếp thiện. Đây là lìa ác đối với các ma thì thường phá dẹp, chẳng để bị chúng phá hại, biết các phiền não đều có thể diệt trừ vónh viễn. Kinh: Đối với các cõi Phật… niềm vui tu tập chân chánh. Tán: Đoạn này gồm tám câu nói về nhiếp thiện; gồm có hai; ba câu đầu là nhân trang nghiêm; năm câu sau nói về quả trang nghiêm. Đây là văn đầu. Tu nhân cõi Phật thì chẳng sinh cõi uế, thể của nhân như phẩm Tựa đã giải thích. Tướng quý và vẻ đẹp phụ đều tròn đủ, không thô xấu thiếu khuyết. Khéo tu phước tuệ, xa lìa sinh tử. Bản xưa câu thứ ba nói tu các công đức mà không có chữ lạc (niềm vui), tức thuộc về tu tướng quý và vẻ đẹp phụ, khác xa với bản dịch mới. Về ba mươi hai tướng thì kinh Bát-nhã ba trăm tám mươi mốt ghi: “Phật nói với Thiện Hiện rằng: Thế nào là ba mươi hai tướng Đại só của Như Lai Chánh Đẳng Giác? Này Thiện Hiện! Bàn chân Thế Tôn bằng, đầy đặn an trụ vững chắc giống như đáy hộp. Mặt đất tuy có cao thấp, nhưng bàn chân Thế Tôn khi bước đi vẫn luôn luôn tiếp xúc đầy đủ, đó là tướng thứ nhất. Bàn chân Thế Tôn, các đường vân tạo thành hình bánh xe ngàn nan hoa với đầy đủ vành trục, là tướng thứ hai. Tay chân Thế Tôn đều mềm mại như Đâu-la-miên, thù thắng hơn tất cả mọi loài là tướng thứ ba. Giữa các ngón tay ngón chân Thế Tôn giống như chân loài nhạn chúa đều có màng mỏng màu vàng ròng nối liền, các đường vân giao nhau giống như một bức họa kỳ tú, là tướng thứ tư. Các ngón tay thon dài, trông rất dễ mến, là tướng thứ năm. Gót chân đầy đặn cân xứng với lưng bàn chân, hơn các loài hữu tình là tướng thứ sáu. Lưng bàn chân nhô cao, cũng đầy đặn, mịn màng rất đẹp tương xứng với gót chân, là tướng thứ bảy. Hai đùi tròn, thon dần giống như đùi của lộc vương Ê-ni-da-tiên, là tướng thứ tám. Hai tay tròn thẳng và dài chấm gối, giống như vòi của voi chúa, là tướng thứ chín. Âm tướng của Thế Tôn ẩn kín như long mã, voi chúa, là tướng thứ mười. Mỗi lổ chân lông đều có một sợi lông, tất cả đều mềm mại, màu xanh ánh đỏ (xanh tía) và xoáy tròn về bên phải, là tướng thứ mười một. Lông tóc rất đẹp màu tía xanh, xoay tròn về bên phải, trang ng- hiêm trên lớp da màu vàng ròng, là tướng mười hai. Da mỏng, mịn, trơn láng, nước và bụi dơ không thể dính được, là tướng mười ba. Da màu vàng ròng, phát ánh sáng thanh tịnh, giống như đài vàng được các vật báu trang nghiêm, người thấy đều ưa thích, là tướng thứ mười bốn. Hai bàn chân, hai bàn tay, đỉnh đầu và hai vai đều đầy đặn là tướng thứ mười lăm. Vai và cổ đều tròn, đầy và đẹp lạ, là tướng thứ mười sáu. Hai nách đầy đặn là tướng thứ mười bảy. Dung nghi viên mãn và ngay thẳng là tướng thứ mười tám. Thân tướng đoan nghiêm là tướng thứ mười chín. Hình dáng cao, ngang cân xứng, tròn đầy không khuyết, như nặc- cù-đà, là tướng thứ hai mươi. Ngực và nửa phần trên của thân rất nở nang oai vệ như sư tử chúa, là tướng thứ hai mươi mốt. Hào quang ở đầu lúc bình thường phóng xa một tầm (tám mét) là tướng thứ hai mươi hai. Bốn mươi cái răng của Thế Tôn rất đều, khít, trong sạch, chân răng sâu và trắng như ngọc, là tướng thứ hai mươi ba. Bốn răng cửa rất trắng và sắc là tướng thứ hai mươi bốn. Miệng Thế Tôn thường tiết ra mùi vị thượng diệu, thực quản thẳng, vì thế có thể dẫn vị đến khắp các chi tiết trong toàn thân. Những vị thượng diệu này không bị các binh gió, nóng, lạnh làm cho tạp loạn, nên mạch xa lìa được các tướng không tốt như phù, trầm, diên (kéo dài), súc (ngắn), tổn hoại và đứt quãng. Khi nuốt thì nước miếng lưu thông cho nên thân tâm thư thái và luôn được thượng vị là tướng thứ hai mươi lăm. Lưỡi dài rộng có thể che kín cả mặt, phủ tới tai và trán, là tướng thứ hai mươi sáu. Âm vận hòa nhã, các loài đều nghe được. Về âm thanh, nếu Thế Tôn phát ra lớn thì như tiếng trống trời chấn động khắp nơi, khi nói ôn hòa thì như tiếng chim Ca-lăng-tần-già, là tướng hai mươi bảy. Hai mắt như mắt trâu chúa, là tướng thứ hai mươi tám. Trong hai mắt thì màu xanh tía và màu trắng đẹp được một vòng màu hồng phân cách rất rõ ràng đẹp lạ (đen trắng phân minh), là tướng thứ hai mươi chín. Mặt như trăng rằm, hai hàng lông mày sáng, đẹp và cong như cây cung của trời Đế Thích, là tướng thứ ba mươi. Giữa hai chân mày có một sợi lông trắng, xoáy tròn theo chiều bên phải, mịn như Đâu-la-miên, trắng hơn ngọc, là tướng thứ ba mươi mốt. Đảnh đầu có Ô-sắt-nị-sa nhô cao, tròn đầy, giống như lọng báu cõi trời, là tướng ba mươi hai. Này Thiện Hiện! Đó là ba mươi hai tướng Đại só. Thiện Hiện! Thế nào là tám mươi vẻ đẹp phụ của Như Lai đẳng chánh giác? Này Hiện Thiện! Móng tay Như Lai thon mỏng, sáng bóng sạch, tươi nhuận, sắc hồng như hoa, là vẻ đẹp thứ nhất. Các ngón tay ngón chân đều thon dài, thẳng và mềm mại, các đốt xương không lộ ra, là vẻ đẹp thứ hai. Hai tay hai chân không so le; khi khép giữa các ngón không có khe hở, là vẻ đẹp thứ ba. Tay chân tròn đầy như ý, màu sắc tươi nhuận, như hoa sen là vẻ đẹp thứ tư. Gân mạch chắc chắn, ẩn sâu dưới da, là vẻ đẹp thứ năm. Hai mắt cá chân không lộ ra ngoài, là vẻ đẹp thứ sáu. Đi thẳng về phía trước, an tường như voi chúa, là vẻ đẹp thứ bảy. Khi đi, dung nghi tề chỉnh, hùng dũng như sư tử chúa, là vẻ đẹp thứ tám. Bước đi đều đặn khoan thai như trâu chúa, là vẻ đẹp thứ chín. Bước đi và dừng trụ thật nhẹ nhàng uyển chuyển như ngỗng chúa, là vẻ đẹp thứ mười. Khi quay nhìn phía sau, thì toàn thân đều xoay theo, và đều xoay theo chiều phải, giống như long tượng vương, là vẻ đẹp thứ mười một. Các đốt ngón tay ngón chân đều tròn đầy, đẹp đẽ, rất khéo sắp xếp là vẻ đẹp mười hai. Các khớp xương giao kết nhau không có khe hở, như rồng cuộn là vẻ đẹp mười ba. Đầu gối tròn đầy, đẹp khéo sắp xếp, chắc chắn, là vẻ đẹp mười bốn. Chỗ ẩn kín có đường vân rất đẹp, đầy đủ oai thế và thanh tịnh là vẻ đẹp mười lăm. Thân hình tươi nhuận, mềm mại, bóng sạch, bụi dơ không bám được, là vẻ đẹp mười sáu. Dung nghi nghiêm chỉnh, thường không bao giờ sợ sệt, yếu đuối là vẻ đẹp mười bảy. Thân thể tráng kiện, khéo kết cấu nhau đầy sinh lực, là vẻ đẹp mười tám. Thân thể an định, vững chắc, chưa từng dao động, viên mãn, bất hoại, là vẻ đẹp mười chín. Thân tướng tròn đầy, đoan nghiêm sáng sạch, không khuyết điểm, giống như tiên vương, là vẻ đẹp hai mươi. - Thân có hào quang, khi đi đứng… thường tự chiếu sáng, là vẻ đẹp hai mươi mốt. Bụng vuông vắn không mềm nhão, có đầy đủ các tướng trang nghiêm, là vẻ đẹp hai mươi hai. Rún sâu, xoáy tròn về phía phải, và rất đẹp là vẻ đẹp hai mươi ba. Cuốn rún dầy, không lồi không lõm, tròn trịa rất đẹp, là vẻ đẹp hai mươi bốn. Da dẻ mịn, không có ghẻ lác, là vẻ đẹp hai mươi lăm. Bàn tay đầy đặn, mềm mại, bàn chân bằng phẳng là vẻ đẹp thứ hai mươi sáu. Chỉ tay sâu, rõ ràng, dài và thẳng, không gãy là vẻ đẹp hai mươi bảy. Môi đỏ thắm, mềm và bóng như trái Tần-bà, trên dưới cân xứng, là vẻ đẹp thứ hai mươi tám. Miệng không lớn không nhỏ, không rộng không hẹp rất đoan ng- hiêm, như ý, là vẻ đẹp hai mươi chín. Lưỡi mỏng mềm mại, dài rộng, màu sắc hồng tươi nhuận là vẻ đẹp ba mươi. Âm thanh phát ra chấn động vang xa, như tiếng rống của voi chúa là vẻ đẹp ba mươi mốt. Âm vận rất hay, như tiếng vang nơi hang sâu, là vẻ đẹp ba mươi hai. Mũi cao thẳng, lổ mũi kín, là vẻ đẹp ba mươi ba. Răng đều và trắng bóng, là vẻ đẹp ba mươi bốn. Răng cửa tròn, trắng bóng và sắc là vẻ đẹp ba mươi lăm. Mắt đen, trắng rõ ràng là vẻ đẹp thứ ba mươi sáu. Mắt dài rộng như cánh hoa sen xanh, là vẻ đẹp thứ ba mươi bảy. Lông mi trên dưới bằng nhau, dày và dài, không lộ da, là vẻ đẹp thứ ba mươi tám. Hai hàng lông mày dài, cong, không gãy và nhuyễn mịn là vẻ đẹp thứ ba mươi chín. Hai mày rất kỳ tú đều đặn, sắc như lưu ly xanh biếc, là vẻ đẹp thứ bốn mươi. Hai mày mọc cách xa mắt rất thanh tú, cong như trăng lưỡi liềm, là vẻ đẹp thứ bốn mươi mốt. Hai tai dày, rộng, trái tai dài thòng xuống phía dưới là vẻ đẹp thứ bốn mươi hai. Hai tai rất đẹp, cân đối, không có khuyết tật, là vẻ đẹp thứ bốn mươi ba. Dung nghi của Thế Tôn, người thấy được, thì không bị tổn hoại, nhiễm ô, mà sinh lòng kính tin là vẻ đẹp thứ bốn mươi bốn. Trán rộng, bằng phẳng, như ý, rất đẹp lạ, là vẻ đẹp bốn mươi lăm. Thân hình trên dưới cân đối như sư tử chúa, oai nghiêm không ai sánh bằng là vẻ đẹp thứ bốn mươi sáu. Tóc dài, dày, xanh tía, không bạc là vẻ đẹp bốn mươi bảy. Tóc sạch, thơm, mịn và mềm mại, đều xoay về phía bên phải, là vẻ đẹp thứ bốn mươi tám. Tóc không rối, luôn ngay thẳng là vẻ đẹp bốn mươi chín. Tóc bền chắc, không đứt rụng là vẻ đẹp thứ năm mươi. Tóc sạch sẽ trơn bóng, bụi không thể bám, là vẻ đẹp thứ năm mươi mốt. Thân thể rắn chắc, viên mãn như thân Na-la-diên, là vẻ đẹp năm mươi hai. Thân hình cao lớn, đoan chánh là vẻ đẹp thứ năm mươi ba. Cửu khiếu tròn đẹp và thanh tịnh là vẻ đẹp năm mươi bốn. Thân thể và sức lực không ai sánh bằng, là vẻ đẹp thứ năm mươi năm. Thân tướng của Thế Tôn thù thắng, mọi người đều thích chiêm ngưỡng không bao giờ chán là vẻ đẹp thứ năm mươi sáu. Mặt đẹp, trong sáng, thanh tịnh như trăng tròn là vẻ đẹp thứ năm mươi bảy. Dung nghi thư thái, tướng mạo sáng rỡ, thường mỉm cười trước khi nói, chỉ thuận theo mà không trái nghịch, là vẻ đẹp thứ năm mươi tám. Diện mạo tươi sáng, vui hòa, không có các lỗi như nhăn nhó kém vui, tái xanh hay đỏ tía, là vẻ đẹp thứ năm mươi chín. Thân thể luôn sạch sẽ, không bao giờ có cáu ghét và mùi hôi là vẻ đẹp thứ sáu mươi. Lổ chân lông thường phát ra mùi hương vi diệu, là vẻ đẹp thứ sáu mươi mốt. Miệng thường tỏa hương thơm thanh khiết, là vẻ đẹp thứ sáu mươi hai. Đầu tròn đẹp giống như Mạt-già-lê và Thiên cái, viên mãn, là vẻ đẹp thứ sáu mươi ba. Lông trên thân màu xanh tía sáng đẹp như lông khổng tước vương là vẻ đẹp thứ sáu mươi bốn. Pháp âm tùy theo chúng mà lớn nhỏ, không tăng không giảm, ứng hợp với lý, không sai biệt là vẻ đẹp thứ sáu mươi lăm. Đảnh tướng không ai có thể thấy là vẻ đẹp sáu mươi sáu. Ngón tay, ngón chân có màu đỏ hồng rõ ràng xinh đẹp là vẻ đẹp thứ sáu mươi bảy. Khi đi thì bàn chân cách mặt đất bốn ngón tay, và có hiện các đường vân trên dấu chân, là vẻ đẹp sáu mươi tám. Thế Tôn tự giữ gìn, không cần người khác bảo vệ, thân không lắc lư, cũng không nghiêng lệch, là vẻ đẹp thứ sáu mươi chín. Oai đức bao trùm muôn vật, những kẻ ác tâm thấy thì sinh vui mừng, người sợ hãi thấy thì được an ổn, là vẻ đẹp thứ bảy mươi. Âm thanh không cao không thấp, tùy thuận tâm ý chúng sinh mà vui vẻ luận nói. Là vẻ đẹp bảy mươi mốt. Có thể tùy thuận ngôn ngữ, âm thanh và ý thích của các loài hữu tình mà thuyết pháp, là vẻ đẹp thứ bảy mươi hai. Một âm thanh diễn thuyết chánh pháp, tùy các loại chúng sinh, tất cả đều tin hiểu là vẻ đẹp thứ bảy mươi ba. Thuyết pháp đều theo thứ tự và có nhân duyên, là vẻ đẹp thứ bảy mươi bốn. Thế Tôn bình đẳng quán xét các hữu tình, khen điều thiện, chê điều ác mà tâm không khởi yêu ghét, là vẻ đẹp thứ bảy mươi lăm. Trước khi làm việc gì đều quán xét kỷ, theo đúng phép tắc, khiến cho việc làm được hoàn mỹ là vẻ đẹp thứ bảy mươi sáu. Tướng tốt và vẻ đẹp phụ của Thế Tôn, các loài hữu tình chẳng thể thấy biết hết, là vẻ đẹp thứ bảy mươi bảy. Xương đầu viên mãn, cứng chắc là vẻ đẹp thứ bảy mươi tám. Thường trẻ không già, là vẻ đẹp thứ bảy mươi chín. Tay, chân và ngực của Thế Tôn đều có đức tướng Cát tường xoay theo chiều bên phải, các đường vân như bức họa kỳ tú, sắc đỏ như son (tức chữ Vạn) là vẻ đẹp thứ tám mươi. Này Thiện Hiện! Đó là tám mươi vẻ đẹp phụ. Này Thiện Hiện! Như Lai đẳng chánh giác thành tựu các tướng như thế, cho nên ánh sáng toàn thân, tự tại chiếu soi khắp tam thiên đại thiên thế giới. Nếu khi có tác ý thì chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới. Nhưng vì thương xót loài hữu tình, cho nên thu nhiếp lại, chỉ phát ra chung quanh trong khoảng một tầm mà thôi. Nếu Như Lai phóng ánh sáng toàn thân thì ánh sáng mặt trời, mặt trăng… không thể hiển hiện được, các loài hữu tình sẽ không biết được ngày đêm, nửa tháng, một tháng, năm, mùa, các công việc không thể thành tựu được. Âm thanh của Phật tự tại phát ra vang khắp tam thiên đại thiên thế giới, nếu có tác ý thì vang khắp vô lượng vô biên thế giới. Nhưng vì lợi ích của hữu tình nên tùy thuận chúng hội không tăng không giảm. Này Thiện Hiện! Công đức lợi ích thù thắng như thế, ta đã thành tựu khi còn là Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật- đa, cho nên hôm nay được tướng quý và vẻ đẹp phụ viên mãn trang nghiêm, khiến cho các loài hữu tình thấy được đều hoan hỷ, đạt được lợi ích an lạc. Này Thiện Hiện! Như thế, khi Bồ-tát Ma-ha-tát đạt được Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa thì hay dùng Tăng bảo và Pháp bảo, ban phát nhiếp phục loài hữu tình, đó là pháp rất kỳ đặc hy hữu”. Cho nên đầy đủ các tướng quý và vẻ đẹp gọi là an lạc. Các văn đều thiếu không ghi chữ Lạc. Về tu tập nhân hạnh này thì như Du-già đã nói. Kinh: Đối với diệu Bồ-đề… mà vui quán xét. Tán: Năm câu này là quả trang nghiêm: Trang nghiêm Bồ-đề để chứng chánh giác. Không kinh sợ pháp sâu xa hay thọ nhận, tuyên thuyết. Chánh quán môn giải thoát hay tu chứng. Đối với Niết-bàn thì duyên theo và mong cầu chứng nhập, bản xưa không có câu này. Quán chúng sinh rốt cuộc chẳng phải là phi thời. Thời tức là ứng cơ, thì quán xét mà làm lợi lạc, phi thời tức chẳng ứng cơ, lập giáo làm lợi lạc. Cho nên Thế Tôn thuyết pháp không bị phạm bốn lỗi: Không phải phi xứ. Không phi thời. Không phi căn khí. Không phi pháp. Kinh: Đối với đồng loại sinh… niềm vui thích bảo vệ. Tán: Thứ sáu, gồm bảy câu nói về niềm vui lợi tha và tự lợi, vượt qua sự tổn hại mình và người. Bốn câu đầu nói về lợi tha, ba câu sau nói về tự lợi. Đoạn này là nói về lợi tha. Đồng loại sinh nghóa là đồng tu tập phạm hạnh xuất thế, thấy công đức của người, thường thích gần gủi; thấy dị loại sinh, cũng không ghét bỏ; bạn lành thì thích gần, vì điều thiện tăng trưởng; bạn ác thì giúp đỡ khiến không sinh tội lỗi, nói Bồ-tát địa. Không thiếu giới hạnh, nghe nhiều tu chứng, thương xót không sợ, nhẫn thọ không mệt mỏi, ngôn từ luận biện đầy đủ, gọi đó là tướng bạn lành; mong cầu ban phát lợi lạc, đối với việc này có chánh tri, có sức thiện căn, chẳng bỏ việc lợi ích, lòng đại bi rộng lớn, gọi đó là bạn lành, việc làm chẳng hư dối, đầy đủ oai nghi, ngôn hạnh nghiêm túc, không kiêu mạn, không tật đố, cần kiệm tích chứa tùy thuận thí xả, khuyên can khiến ghi nhớ, dạy dỗ răn bảo, thường hay thuyết pháp, gọi đó là bạn lành, có thể theo đó nương cậy tin tưởng, không bệnh không tật, thương kính phụng sự, thăm hỏi lễ nghi, tu nghiệp hòa kính, bốn vật tùy thời không để thiếu sót, đầy đủ việc cung kính, hỏi nghe chẳng động, gọi là thân cận. Cho nên đối với nơi này có niềm vui ưa thích, gần gũi. Kinh: Đối với phương tiện thiện xảo… diệu lạc tối thượng. Tán: Đây là ba câu nói về tự lợi: Đối với mười hai loại phương tiện, khéo léo gom nhiếp tại thân. Bản xưa không có câu này. Tin tưởng vui thích chánh pháp, muốn cầu hiểu biết. Chẳng buông lung, thường tự sách tấn, tu tập Bồ-đề phần, vì đó là bậc nhất. Kinh: Như thế! các chị… chớ ham thích dục lạc. Tán: Trong phần nói cho các Thiên nữ nghe, phần thứ ba là kết luận thuyết. Pháp uyển lạc này, Bồ-tát thường trụ, thường ưa thích niềm vui này, chớ nên ham thích dục lạc, để khuyên bảo họ. Kinh: Lúc bấy giờ, ác ma oán… trở về cung trời. Tán: Thứ ba là nói ma muốn trở về cung trời. Theo văn gồm tám đoạn: Gọi Thiên nữ trở về cung. Thiên nữ từ chối không đi. Ma lại xin Vô Cấu. Vô Cấu lại ban cho. Thiên nữ hỏi đạo. Vô Cấu thuyết pháp. Thiên nữ lễ tạ. Xả chế buông tha cho ma. Đây là văn thứ nhất. Kinh: Các Thiên nữ đáp… cùng với người về cung. Tán: Thứ hai, Thiên nữ từ chối chẳng về, có ba: Từ chối. Nêu lý do. Nêu sự vui thích. Đây là phần từ chối chung. Kinh: Vì sao?… cùng với ông trở về. Tán: Đoạn này trình bày lý do không đi theo. Chúng ta đã thuộc về người khác, chẳng nên trái lại mà bỏ đi. Kinh: Chúng tôi hôm nay… ngài có thể trở về một mình. Tán: Hiển thị pháp lạc cho nên không thể về. Kinh: Lúc bấy giờ, ác ma oán… Ma-ha-tát. Tán: Thứ ba, ma xin ngài Vô Cấu. Tâm chẳng đắm trước, lìa xan tham là bậc Đại Bồ-tát. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… đầy đủ pháp nguyện. Tán: Thứ tư, Vô Cấu Xưng ban cho. Đại Bồ-tát thuận theo mong cầu của chúng sinh. Nay thuận cho nên xả bỏ, xả là hành, cho nên liền phát nguyện đương lai các ngươi và loài hữu tình được khéo đầy đủ pháp nguyện. Sinh tử có tội thì nguyện chẳng đầy đủ, thắng nguyện vô tội thì đều khiến cho đầy đủ. Kinh: Lúc bấy giờ, các Thiên nữ… làm thế nào để tu hành. Tán: Thứ năm, Thiên nữ hỏi đạo. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… các chị nên học. Tán: Thứ sáu, Vô Cấu xưng đáp, gồm có ba: Lược thuyết. Lại hỏi. Giải thích. Đây là đoạn thứ nhất. Muốn khiến cho việc truyền pháp chẳng đoạn dứt cho nên nói Vô tận đăng, muốn khiến cho có sự ân cần sâu nặng cầu nghe pháp, cho nên trước lược nói. Kinh: Thiên nữ lại hỏi… thế nào là Vô tận đăng? Tán: Thứ hai, Thiên nữ hỏi. Kinh: Đáp rằng: Các chị… cũng không tổn giảm. Tán: Thứ ba là giải thích, gồm có hai: Giải thích. Khuyên tu. - Trong phần giải thích lại có ba: Nêu dụ. Nêu tâm. Kết luận. Đây là phần dụ. Minh tức là tối. Bản mới ghi “Chẳng tận”, bản cũ ghi “chẳng giảm”. Kinh: Như thế, các chị… càng thêm tăng trưởng. Tán: Đây là nói về tâm. Câu-chi là một trăm ức, na-dữu-đa là một ngàn ức; Bồ-tát ở nơi hóa độ mà kiến lập Bồ-đề. Đạo tâm của Bồ-tát, không bao giờ cùng tận, trải qua bao nhiêu lần chuyển sinh, cũng không thối giảm, mà càng tăng trưởng. Đây là khuyên phát tâm. Kinh: Như thế, vì họ mà phương tiện… cũng không thoái giảm. Tán: Đây là nói về pháp. Nếu tuyên thuyết chánh pháp thì giáo pháp tăng trưởng, về sau không bao giờ cùng tận, lúc đầu cũng không tổn giảm. Tận nghóa là tất cả đều không còn. Giảm nghóa là giảm thiểu. Đây khuyên về pháp. Kinh: Các chị nên biết… các chị nên học. Tán: Khuyên tu hành. Đầu tiên kết luận khuyên bảo, sau là hiển thị oai đức. Đây là phần đầu. Kinh: Tuy trụ ở cung ma… tất cả hữu tình. Tán: Hiển thị tu đức. Khuyên phát tâm tức biết ân đức nhiều kiếp của Phật, thật nên báo đáp là hạnh tự lợi đã đủ; cũng là lợi lạc tất cả chúng sinh tức là lợi tha. Kinh: Các Thiên nữ này… Vô Cấu Xưng. Tán: Thứ bảy, Thiên nữ lễ tạ. Nghe đạo sâu xa cho nên đảnh lễ tạ ơn. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… trở về bản cung. Tán: Thứ tám, xả thần lực chế ngự, cho phép ma trở về cung. Lúc trước thì dùng thần lực chế ngự khiến ma chẳng thể trở về, nay thuyết pháp lợi ích đã xong thì xả bỏ. Kinh: Bạch Thế Tôn!… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Kết luận nguyên do từ chối, tự thân sút kém xin thoái lui.  <卷>QUYỂN 4 (PHẦN 2) Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… đến vấn an bệnh của ông ấy. Tán: Lần thứ tư, Đức Phật bảo ngài Tô-đạt-đa. Đầu tiên là sai bảo, sau là từ chối. Đây là lời sai bảo. Tô-đạt-đa, Hán dịch là Thiện Thí, vì hay khéo léo ban thí cho kẻ bần cùng cô độc, tâm không bỏn sẻn cho nên gọi là Thiện Thí. Bản xưa gọi là Thiện Đức, thì danh nghóa hơi trái. Kinh: Tô-đạt-đa… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đây là lời từ chối, gồm ba phần: Đầu tiên là nêu tổng quát về đạo lực đã bị khuất phục. Ông lập hội bố thí tài vật, là cầu phước báu thế gian; Ta dạy lập hội bố thí pháp, khiến cầu đạo xuất thế, cho nên đạo thì cùng lý thì khuất, vì thế mà từ chối. Kinh: Vì sao?… hết kỳ hạn bảy ngày. Tán: Hiển riêng về lý cùng, gồm hai: Tự hỏi và giải thích. Trong phần hiển có hai: Trình bày việc của mình. Thuật lời của Vô Cấu. Đây là lời tự hỏi và nêu việc của mình. Từ tức là cầu nguyện, hội tức tập hội. Tài bảo và thức ăn đều dâng hết, để cầu được quả báo thù thắng, và mọi người đều tập trung vào một nơi, cho nên gọi là từ hội; chẳng phân biệt tăng tục, cho nên có Sa-môn và Bà-la-môn, chẳng chọn lựa chánh tà, cho nên có ngoại đạo. Chẳng phân biệt người bần cùng, cho nên có người hành khất, cô độc. Không có cha mẹ gọi là cô, không có con, em là độc. Tâm cầu phước thế gian, cho nên chỉ kỳ hạn bảy ngày là xong. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… đâu cần dùng hội tài thí cầu khẩn. Tán: Hiển thị lời của Vô Cấu, gồm có bốn: Khuyên chung về việc bỏ tài mạng tu pháp thí. Hiển riêng về tướng của các hạnh pháp thí. Hai trăm Phạm chí phát đại tâm. Thiện Thí vui mừng ban thí chuỗi anh lạc… Đây là văn thứ nhất. Cách tài thí mà ông làm hôm nay là không đúng, cần phải lập pháp hội mà bỏ tài thí. Kinh: Con nói, thưa cư só… hội pháp thí Tán: Trình bày riêng về tướng của hội pháp thí, gồm có ba: Hỏi. Đáp. Kết luận lợi ích thù thắng. Đây là lời hỏi. Kinh: Ông ấy trả lời… hội pháp thí. Tán: Đây là lời đáp, gồm có ba: Đáp chung. Tự hỏi. Giải thích rộng. Đây là phần đáp chung. Thời gian thì chẳng trước sau để hiển tâm bình đẳng; thực hành mỗi một hạnh thì cảm đạt quả lợi lớn, cúng dường tất cả thì hiển nhân nơi cảnh mà biến chuyển thì quả cũng to lớn. Kinh: Việc ấy thế nào? Tán: Lời tự hỏi. Kinh: Nghóa là dùng… dẫn phát tâm xả lớn. Tán: Đây là phần giải thích rộng, gồm ba mươi hai câu. Phân làm năm: Bốn câu đầu nói về hạnh vô lượng. Sáu câu kế nói hạnh Ba-la- mật. Ba câu kế nói hạnh đẳng trì; chín câu kế nói hạnh tạp tu; mười câu sau cùng nói về hạnh thứ tự. Đây tức đoạn đầu. Thuyết niềm vui Bồ-đề ban phát cho chúng sinh gọi là Từ, vì thuyết trí giác dẫn phát đại Từ. Giải thoát tướng khổ dẫn phát đại bi, tức nhổ trừ tội khổ cho chúng sinh khiến họ được giải thoát, do thuyết Niết-bàn mà dẫn sinh đại bi. Bản xưa ghi là “Vì cứu chúng sinh”, nên bạt khổ, kính ngưỡng khiến được giải thoát. Muốn khiến chúng sinh đều tùy hỷ, dẫn phát tâm đại Hỷ. Bản dịch xưa ghi: “Vì giữ gìn chánh pháp mà khởi tâm hỷ”, nên tại tâm xả mà khiến cho xa lìa. Chánh pháp tức pháp giáo, lý, hạnh; đối với chánh pháp nên khiến nhiếp thọ. Vả lại nên khiến cho ở nơi quả pháp chánh trí mà dẫn phát đại Xả, tức là khiến xả bỏ tham, sân, si mà nhiếp thọ chánh pháp. Bản xưa văn khác biệt, ý nghóa cũng chẳng đồng. Kinh: Dùng thiện tịch tónh… Ba-la-mật-đa. Tán: Đây là hạnh sáu Ba-la-mật. Khiến các chúng sinh trừ xan tham… Khéo tu tịch tónh điều phục tâm hành, dẫn phát sự bố thí. Giáo hóa người phạm giới tức dẫn sinh tịnh giới. Kinh: Dùng tất cả pháp… Ba-la-mật-đa. Tán: Nếu có ngã thì chẳng thể kham nhẫn, vì thấy có khổ lớn, cho nên không có tướng ngã thì dẫn phát sự kham nhẫn. Nếu chấp trước thân tâm thì chẳng thể tinh tấn, mà sinh mệt mỏi; xa lìa tướng thân tâm, thì có thể tinh tấn, chẳng sợ lao nhọc. Kinh: Dùng giác chi tối thắng… Ba-la-mật-đa. Tán: Thất giác vô lậu ắt nương vào tịnh lự, cho nên giác chi dẫn phát thiền định. Bản xưa ghi là Bồ-đề tức là Bồ-đề phần. Nghe hai trí của Phật, nhất định sẽ chứng ngộ, cho nên dẫn phát Bát-nhã. Kinh: Dùng việc hóa độ tất cả chúng sinh… dẫn phát vô nguyện. Tán: Đây là hạnh, đẳng trì gồm ba câu. Thấy có chúng sinh, thì chẳng thể hóa độ, vì độ chúng thì cũng chẳng bền chắc. Quán ngã như không cho nên thường hóa độ. Vì thế dùng tướng hóa độ mà dẫn phát không, hữu vi hữu tướng thì tâm thần nhiễu loạn, vì đối trị việc này, cho nên dẫn phát tu vô tướng. Bản dịch xưa ghi: “Chẳng xả hữu vi”, thì trái ngược với bản này. Bồ-tát thường ở nơi hai cõi Dục và sắc tùy loại mà hóa sinh, gọi là cố tác ý thọ sinh hành tướng; dẫn phát vô nguyện, vốn chẳng nguyện cầu thọ sinh nơi ba cõi, gọi là cố tác yÙ. Kinh: Dùng sự khéo nhiếp thọ… dẫn phát vô mạn. Tán: Đoạn này nói về hạnh tạp tu gồm chín câu. Lực có hai loại là tư trạch và tu tập. Dùng hành tướng nhiếp thọ chánh pháp mà dẫn phát hai lực tư trạch và tu tập. Mạng căn có hai: Mạng căn thế gian, tức chủng tử thức thứ tám. Mạng căn thắng nghóa tức chủng tử tuệ. Khéo tu tập các pháp nhiếp, tùy thuận các hành tướng sai biệt thích hợp mà dẫn phát hai mạng căn này. Bản xưa, lời văn hỏi có sai khác. Bồ-tát trì giới, đối với loài hữu tình tâm không cống cao, mà như nô bộc, như Chiên-đà-la, như người con hiếu thảo. Cho nên như kẻ nô bộc mà dẫn phát tâm vô mạn (ngã mạn). Kinh: Dùng pháp chẳng chắc thật… dẫn phát chánh niệm. Tán: Tài sản sinh tử hữu lậu gọi là pháp chẳng chắc thật, tài sản xuất thế vô lậu gọi là pháp chắc thật, dùng cái này đổi lấy cái kia, cho nên gọi là mậu dịch. Đem thân mạng tài hữu lậu không chắc thật đổi lấy thân mạng tài hữu lậu chắc thật. Sáu tùy niệm là Phật, Pháp, Tăng, Thí, Giới, Tu, tùy theo giác mà duyên với sáu pháp này cho nên gọi là tùy niệm. Do tùy niệm mà niệm vô lậu sinh khởi, gọi là dẫn chánh niệm. Kinh: Dùng tu tập các pháp tịnh diệu… dẫn phát tịnh mạng. Tán: Quán hành tướng tịnh diệu của các pháp vô lậu mà dẫn phát tâm ý lạc tín giải. Bản xưa ghi: Nơi sáu pháp hòa kính mà khởi tâm chất trực. Sáu hòa kính là thân, ngữ, ý, giới, thí và kiến; đồng mà cung kính nhau nên gọi là sáu hòa kính, vì thế khởi tâm chất trực. Nghóa tuy như thế, nhưng văn còn thiếu. Tướng ba nghiệp chân chánh mà dẫn phát tịnh mạng, chẳng dùng tham sân… dẫn phát tà mạng. Kinh: Dùng tịnh hoan hỷ… dẫn phát tâm điều phục. Tán: Dùng thiện hoan hỷ, lại thích thân cận, cho nên có thể phụng sự các bậc Hiền Thánh; dùng hành tướng chẳng ganh ghét người chẳng bài xích bậc Thánh để điều phục tự tâm, chẳng sinh sân nhuế. Kinh: Dùng thiện thanh tịnh… thiện xảo đa văn. Tán: Đoạn này gồm mười câu nói về hạnh thứ tự. Vì khéo xuất gia, nên tâm sinh tin hiểu, thường tu trung đạo, dẫn phát đa văn. Chẳng đa văn thì chẳng biết trung đạo, tự có đa văn chẳng có thiện xảo. Có dụng diệu tuệ mà đa văn gọi là xảo đa văn. Đã xuất gia, thì kế đến được nghe pháp. Kinh: Dùng pháp vô tranh… dẫn phát yên tọa. Tán: A-luyện-nhã Xứ, Hán dịch là Nhàn tịch Sở. Bản xưa ghi là A-lan-nhã, tức là nơi vắng vẻ cách xa thôn xóm khoảng hai dặm trở lên. Do trụ nơi đây, nên chẳng cùng cạnh tranh với người nên tu được hạnh vô tránh. Vì thế muốn thông đạt được pháp tướng vô tránh, dẫn phát việc ngồi nơi vắng vẻ, thì phải cầu trí Phật, dẫn phát yên tọa. Yên tọa định tâm thì trí phát sinh. Kinh: Dùng chánh dứt trừ… diệu phước tư lương Tán: Du-già, Hán dịch là tương ưng, giáo và lý, tâm và cảnh, định và tuệ, nhẫn và quả, thuốc và bệnh, đều có thể thuận nhau cho nên gọi là Tương ưng. Sư tức là hành giả học hạnh tương ưng này. Các sư Du- già gọi là Du-già Sư. Địa là sở y của sư, cho nên gọi là Du-già Sư Địa. Tức tùy thuận cảnh hạnh quả tương ưng với các pháp của ba thừa. Vì dứt trừ phiền não mà dẫn phát các địa này. Bản dịch xưa gồm chung ba mươi hai tướng quý, tám mươi vẻ đẹp phụ và thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, dẫn phát diệu phước. Diệu phước tư lương chiêu cảm ba quả. Kinh: Dùng hành tướng biết tất cả tâm hành của hữu tình… diệu tuệ tư lương. Tán: Trí tức Ba-la-mật thứ mười, có hai loại: Thọ pháp lạc. Thành thục hữu tình. Vì biết tâm hành sai biệt của hữu tình mà thuyết pháp dẫn phát trí độ. Tuệ tức Ba-la-mật-đa thứ sáu, tức tuệ vô sai biệt, đối với tất cả pháp không lấy không bỏ. Nhất chánh môn tức là chân như, nên ngộ nhập vào đó mà dẫn phát diệu tuệ. Kinh: Dùng hành tướng đoạn tất cả phiền não tập khí… pháp Bồ- đề phần. Tán: Phiền não thô gọi là tập khí, các pháp bất thiện đều gọi là chướng ngại, vì ngại thắng pháp. Vì đoạn trừ được thì liền dẫn phát và chứng đắc tất cả pháp thiện. Nhất thiết trí trí tức hai trí của Phật. Tất cả pháp thiện tức công đức của thân Phật. Vì tùy giác, nhân nơi tướng tư lương này mà dẫn phát, chứng ngộ tu hành. Tất cả pháp Bồ-đề phần tu tập là nhân Bồ-đề, đều có thể dẫn nhiếp cho nên gọi là Nhất thiết (tất cả). Kinh: Thiện nam! Các ông… hội pháp thí. Tán: Phần thứ ba, kết luận được lợi ích thù thắng, gồm có hai: Kết luận. Lợi ích. Đây là văn thứ nhất. Kinh: Nếu các Bồ-tát… trời người cúng dường. Tán: Đây là nói về lợi ích. Tâm hành rộng lớn gọi là Đại thí chủ. Do thực hành cầu xuất thế có lợi ích rất nhiều, nên được trời người cúng dường. Kinh: Thế Tôn… tâm Chánh đẳng giác. Tán: Đoạn thứ ba, nói về việc hai trăm Phạm chí phát tâm Đại thừa. Kinh: Lúc bấy giờ con khen… ân cần dâng cúng. Tán: Đoạn thứ tư, nói về Bồ-tát Thiện Thí hoan hỷ cúng dường chuỗi anh lạc…, gồm năm phần: Vui vẻ cúng dường. Chẳng nhận. Lại dâng cúng. Mới nhận. Lợi ích. Đây là văn thứ nhất. Tâm không dối trá gọi là tịnh hoan hỷ. Hình tướng thế tục thấp kém, vị nhỏ cho nên kính lễ. Vật dùng để biểu thị tình cảm; lại cởi chuỗi anh lạc giá trị trăm ngàn là hiển thị tâm ân cần sâu nặng, cảm tạ ân đức, cho nên ân cần phụng hiến. Kinh: Ông ấy không chịu nhận. Tán: Thứ hai, nói về chẳng nhận. Tâm không đắm trước, tình cũng chẳng tham, cho nên đầu tiên không nhận. Kinh: Con nói rằng: Thưa Đại só!… tùy ý ban cho. Tán: Lại dâng cúng. Thương xót cho tâm của tôi, nguyện xin nhận lãnh; tâm không tham trước, thì tùy ý ban cho ai cũng được. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… Nan Thắng Như Lai. Tán: Thứ tư, mới thọ nhận, gồm hai ý: Nhận của mình ban cho người khác tu hành. Việc xong thuyết về pháp thí. Trong phần đầu lại có hai: Nhận của mình ban cho người. Hiện thần lực. Đây là văn thứ nhất. Chẳng trái tâm người cho nên mới thọ nhận; hiển thị mình không tham trước, cho nên mới ban cấp cho người, kính và Bi đều cùng tột cho nên phân làm hai phần để thí. Kinh: Dùng sức thần thông… Nan Thắng Như Lai. Tán: Đây là nói về thần lực. Thấy ruộng tốt. Thấy vật biến đổi. Đây là đoạn nói về thấy ruộng tốt. Thế giới hư huyễn, cho nên gọi là sóng nắng. Ruộng Phật là bậc nhất tức Nan Thắng Như Lai. Kinh: Thấy vật thí… rất yêu thích. Tán: Đây là thấy vật thí biến hiện. Cho người bần cùng thì vẫn như cũ, cúng dường cho Phật thì vật lại biến, cho nên nói là một phần. Hiển tùy thuận Phật tức được xuất thế; chẳng tùy Phật tức sinh tử vẫn như cũ. Trong hư không hóa hiện, gọi là cõi Phật, chứng nhân pháp đều không, thường trụ ở pháp giới; mỗi phương một đài, cho nên nói bốn đài tức bốn đế vô lượng, giáo hóa bốn loại sinh. Trang nghiêm đều đầy đủ cho nên gọi là đẳng phần, bình đẳng cứu độ không thiên lệch. Các báu vật trang nghiêm xen kẻ nhau cho nên gọi là gián sức. Do phước tuệ này đầy đủ mà thành tựu như thế. Làm mắt vui, tâm ưa thích cho nên gọi là khả ái lạc. Đó là chỗ quý trọng của chúng sinh. Kinh: Hiện như thế… pháp thí kỳ nguyện. Tán: Nói về việc thí đã xong thì thuyết pháp thí. Phàm pháp thí, thì tâm thấp kém, ắt do ruộng tốt cho nên tốt, ruộng xấu ắt do tâm tốt cho nên tốt, ruộng Phật và tâm thí cả hai đều tốt. Ruộng bi và tâm thí tốt, cho nên tốt. Vì thế thí cho người ăn xin cũng như tướng Như Lai, không phân biệt, tâm thù thắng bình đẳng, nguyện dùng tâm rộng lớn ban cho niềm vui và diệt trừ khổ não, ban phát khắp tất cả. Chẳng cầu quả báo sinh tử trong ba cõi, mà hồi hướng đến Bồ-đề, gọi đó là pháp thí mãn, trừ pháp ấy ra thì không thể viên mãn. Kinh: Lúc bấy giờ người ăn xin… tâm Chánh đẳng giác. Tán: Đoạn thứ năm nói về lợi ích. Bất thoái địa, tức là Tín thứ sáu trong mười tín, có lòng tin bất thoái, tín bất thoái này tức là thắng tín giải trong tăng thượng ý lạc. Đã được ý lạc này thì liền phát tâm Đại thừa. Kinh: Đức Thế Tôn… đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Kết luận nguyên do từ chối, tự thân kém sút xin thoái lui. Kinh: Như vậy, Đức Thế Tôn… đến vấn an bệnh ông ấy. Tán: Đoạn thứ hai, cuối phẩm là phần sai bảo các vị Bồ-tát khác, đều từ chối chẳng kham nhận. Gồm hai phần: Sai bảo chung. Từ chối chung. Đây là phần thứ nhất. Kinh: Các vị Bồ-tát này… không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Tán: Đây là phần tất cả đều từ chối. -------------------------------- <詞>PHẨM 5: VẤN TẬT Sau phẩm Phương Tiện gồm có bốn phẩm trong phần ẩn tích lợi tha. Một phẩm đầu nói chung về quyền, hai phẩm sau nói về riêng về quyền. Phẩm Thanh Văn và Bồ-tát đã nói riêng về quyền khi xưa, bây giờ phẩm Vấn Tật là nói quyền ngày nay. Hiện bệnh, không ăn mới mong có người hỏi. Nhân nơi đối đáp mà luận đạo, thuyết pháp cho người đến thăm bệnh để tế độ quần sinh. Phẩm này nói rộng về các việc trên, cho nên gọi là Vấn Tật. Kinh: Lúc bấy giờ Đức Phật bảo… đến thăm bệnh an ủi ông ấy. Tán: Phẩm này gồm có năm đoạn chính: Đức Phật sai bảo ngài Cát Tường. Ngài Cát Tường vâng mệnh. Trời người đi theo. Đến đó hỏi đáp. Chúng đương thời được lợi ích. Đây là văn thứ nhất. Thử qua hết tất cả hiền Thánh, đều từ chối không dám nhận, suy biết chỉ có ngài cho nên mới bảo. Phạm Mạn- thu-thất-lợi, Hán dịch là Diệu Cát Tường. Cát tức là khéo làm lợi ích, Tường tức vui mừng, lời nói và hình thức chẳng thể suy lường được cho nên gọi là Diệu. Vả lại thần lực cứu vật gọi là Cát, tích tập điều thiện gọi là Tường; lợi ích và công dụng siêu việt nên gọi là Diệu, tức là Diệu Cát Tường. Bản dịch xưa ghi là Văn-thù-sư-lợi, dịch là Diệu Đức, thì văn đã sai lệch. Ủy tức an ủi, vấn tức lời hỏi; an ủi thăm hỏi cho nên gọi là ủy vấn. Kinh: Lúc bấy giờ, Bồ-tát Diệu Cát Tường… khó mà đối đáp. Tán: Ngài Cát Tường vâng mệnh, ý gồm có ba: Lược cho là rất khó đối đáp. Nói riêng về đức cao của Vô Cấu. Kết luận, rất khó đối đáp, nhưng thừa oai thần của Phật mà phải đi. Đây là ý thứ nhất. Só tức só phu, là hiệu của người giả tạm, Đại tức chẳng nhỏ, lời tôn xưng bậc có đạo đức; thù tức là đáp; đối tức là địch. Đạo đức của ông ấy cao tột, cho nên khó đối đáp. Kinh: Thâm nhập pháp môn… tuệ giác vô ngại. Tán: Luận riêng về cao đức, gồm mười ba câu, bản xưa chỉ có chín câu, thiếu bốn câu, trong bản mới là: Đã đến bờ kia, thuyết pháp giới môn, biết căn cơ hữu tình, tự tại hỏi đáp. Còn các văn còn lại thì hơi khác. Nhưng ý nghóa phần lớn thì đồng. Trong mười ba câu hợp thành sáu đôi: Hai câu đầu nói về đức chứng chân thuyết chân; hai câu kế nói về đức thuyết tục chứng tục; hai câu kế nói về đức lợi tha tự lợi; ba câu kế nói về đức phá ác thuận thiện; hai câu kế nói về đức biết căn khéo hóa; hai câu cuối cùng nói về đức có trí luận biện. Trước còn phải chứng chân thì mới có thể đạt tục, đã biết được điều này, liền có hai lợi ích. Môn lợi ích không ngoài phá ác hợp thiện; họa diệt phước tăng mới có thể biết căn cơ mà khéo léo hóa độ; đạo viên mãn trí cao tột, luận biện nhanh nhẹn lời lẽ sâu xa; có trí tuệ khéo luận đàm, thật rất khó đối địch. Đoạn này gồm bốn câu, hai câu đầu là chứng chân thuyết chân, hai câu sau là thuyết tục đạt tục. Thâm nhập pháp môn, vì đã chứng chân, luận thuyết khéo léo, vì đã đạt chân, trụ ở diệu biện tài vì đã thuyết tục, giác tuệ vô ngại, vì đã chứng tục. Kinh: Tất cả Bồ-tát… đều có thể tùy nhập. Tán: Đoạn này gồm hai câu nói về đức tự lợi lợi tha. Các sự ng- hiệp của Bồ-tát đều đã thành tựu; có thể làm lợi ích cho người; vào nơi bí mật của hai bậc Thánh, làm lợi ích cho chính mình; sự nghiệp của Bồ-tát vốn là lợi tha, nhưng vào chân như bí mật thì thành tự lợi. Kinh: Khéo nhiếp phục các ma… rốt ráo đến bờ kia. Tán: Đoạn này gồm ba câu nói về phá ác khế hợp thiện. Một câu đầu phá ác, hai câu sau khế hợp với thiện. Hay chứng hay thuyết khế hợp với chân pháp giới cho nên thành hai câu. Trong hai câu này tức là nói về phá ác chứng chân, nhiếp tức nhiếp trì, tức chế ngự và nhiếp thọ, khéo léo chế ngự bốn ma, cho nên gọi là xảo tiện. Vì ma chẳng phải là ma cho nên gọi là không ngại. Bờ kia rốt ráo, thể là Niết-bàn xa lìa bờ này sinh tử, chân pháp giới này là sở hành của bậc Thánh, không có ngã và pháp, cũng không có các sở chấp sai dị khác, rất thù thắng; vì họ đã đến bờ kia; trí đã chứng chân cho nên gọi là đã đến. Kinh: Có thể ở nơi một tướng… trang nghiêm pháp môn. Tán: Đoạn này nói về năng thuyết chân. Vì lời nói hợp lý nên pháp giới thanh tịnh, vạn đức trang nghiêm. Vô tướng là tướng cho nên nói nhất tướng. Trong các kinh đều nói tất cả các pháp đều đồng một tướng. Vì vô tướng mà là tướng, cho nên có thể nơi pháp nhất tướng của pháp giới mà thuyết pháp môn trang nghiêm thanh tịnh pháp giới. Tức là thuyết vô lượng pháp môn như Phật tánh Như Lai tạng, chân như pháp thân, Niết-bàn giải thoát, pháp giới pháp tánh… có thể nói nhiều đức tướng trang nghiêm một tướng. Tuy nói có nhiều tướng nhưng vẫn khế hợp nhất tướng, cho nên gọi là năng thuyết. Kinh: Liễu đạt tất cả… thần thông tối thắng. Tán: Đoạn này gồm hai câu nói về đức biết căn cơ khéo giáo hóa. Căn tức căn tánh, hành tức ý lạc, hoặc cho rằng hành tức hành tướng, hành tướng của căn không có thể riêng. Do biết căn này cho nên được sáu thông khéo léo hóa độ. Kinh: Đến đại trí tuệ… tự tại không sợ sệt. Tán: Đoạn này gồm hai câu, nói về đức có trí hay luận biện. Phương tiện tức diệu dụng của trí, thú nghóa là cảnh huống, hoặc thú là chỗ quy về, cho nên hỏi đáp tự tại không sợ sệt, hãy phá dẹp sự luận biện của người khác, khéo đạt tự tông, luận thức hay luận nghiêm đều hiểu rõ. Kinh: Chẳng phải ngôn luận của kẻ hạ liệt… đối kháng được. Tán: Kết luận, thật khó đối đáp nhưng thừa oai thần của Phật mà đi. Gồm hai phần: Kết luận nói về khó đối đáp. Thừa oai thần mà đến. Đây là văn đầu, phong là sắc bén, nhanh nhẹn. Do đầy đủ các đức trước, cho nên lời lẽ sắc bén nhanh nhẹn của kẻ hạ liệt không thể đối đáp được. Hoặc cho rằng ý này thuộc về câu “hay luận biện” nói ở trên, sau đây mới là văn kết luận, sẽ hợp lý hơn. Kinh: Tuy nhiên ta sẽ… đàm luận với ông ấy. Tán: Đoạn này nói về việc nhờ oai lực mà đến. Lời nói “tuy nhiên” gồm cả ý nghóa đức đã kém hơn, ngài Cát Tường khiêm nhường cho nên mới nói: “Cao đức của ông ấy ta khó có thể đối đáp lại được”. Đây là ta kém hơn, đức của ta không bằng được, nương oai lực của Phật mà đến là đức của Phật. Cho nên mới nói “Tuy nhiên”, còn các ý khác thì cũng có thể biết được. Kinh: Như thế tám ngàn Bồ-tát, năm trăm Thanh văn trong chúng… đều nghó rằng. Tán: Đoạn thứ ba, trời người đều đi theo. Có ba ý: Nói về tâm nghó. Xin đi. Chính thức đi. Ý thứ nhất lại có hai: Nêu lên. Giải thích. Đây là đoạn văn thứ nhất. Kinh: Nay hai vị Bồ-tát… đều theo đến nơi ấy. Tán: Đoạn này nói về tâm suy nghó. Diệu Cát tường và Vô Cấu Xưng là hai vị Bồ-tát; lời nói và suy nghó chẳng thể suy lường được, cho nên nói là rất sâu xa. Dụng của tâm cùng khắp cho nên gọi là rộng lớn, chỗ biết thật đã nhất định cho nên gọi là Thắng giải. Đạo đã thanh tịnh, trí đã rộng lớn thì luận nói ắt sẽ sâu xa, chúng ta vì muốn nghe, nên cùng nhau đến đó. Suất nghóa là người khác lãnh đạo. Khuyên người thống lãnh một phần, theo nhau đến đó. Kinh: Lúc bấy giờ trong chúng… đều xin đi. Tán: Đoạn này nói về chúng xin đi, Đức Phật im lặng không đáp, tức đã chấp nhận. Bản xưa không có lời xin, chỉ nói muốn đi. Kinh: Lúc bấy giờ Bồ-tát Diệu Cát Tường… đảnh lễ Thế Tôn. Tán: Chánh thức đi gồm hai: Vâng mệnh Phật và cung kính từ giã. Chính thức diệt. Đây là văn đầu tiên. Thừa oai thần của Phật sắp đi cho nên đều đứng dậy, thừa mệnh chẳng dám xem nhẹ, cho nên phải đảnh lễ. Kinh: Trước sau vây quanh… đến thăm bệnh. Tán: Chính thức nói việc đến thăm bệnh. Ngài Cát Tường dẫn đầu, đại chúng theo sau, đã ra khỏi Am-la thẳng đến đó thăm bệnh. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… hiện bệnh mà nằm. Tán: Đây là phần thứ tư nói về việc đến đó luận đối. Gồm hai: Ngài Vô Cấu Xưng suy nghó đợi khách. Ngài Cát Tường theo lời dạy của Phật hỏi han về bệnh. Trong phần đầu lại có hai: Tưởng nghịch. Đón tiếp khách. Đây là đoạn nói về tưởng nghịch. Tổng cộng có sáu tưởng. Dùng thần lực của mình. Trong nhà trống. Dẹp tất cả. Không thị giả. Đặt một chiếc giường. Hiện bệnh nằm trên giường. Hiển đức của mình cao, bày sự bất tư nghì nói ở dưới. Nghó dùng thần lực của mình để hiển trí chứng chân, và nêu sự vấn đáp ở sau, vì sao để thất trống không. Nghó để trượng thất trống không, là hiển thị việc đoạn ái nhiễm, nêu bày việc sắc thân hiện cùng khắp và nghó tưởng đến thức ăn ở sau. Nghó trừ tất cả là hiển thị việc siêu việt ba cõi, nêu bày việc hỏi đáp vì sao không có thị giả ở sau. Nghó không có thị giả là hiển thị giải thoát không hai và nêu bày việc nghó đến tòa ngồi ở sau. Nghó đặt một chiếc giường là hiển thị nghó đến chúng sinh và nêu lên bốn câu hỏi ở sau. Nghó hiện bệnh mà nằm. Bốn câu hỏi là: Hỏi nguyên nhân căn bệnh. Hỏi tướng trạng của bệnh. Hỏi để an ủi. Hỏi về điều phục. Đến văn sau sẽ biết. Tuy có sáu tưởng, nhưng gom vào ba ý: Tức tịch mà dụng. Chứng ba không. Được đạo Bất trụ. Thần lực tức dụng, trượng thất trống tức tịch. Không có thị giả… là biểu thị chúng sinh không, trừ dẹp tất cả là biểu thị các pháp không. Đặt một chiếc giường nghóa là do có đại trí mà chẳng trụ sinh tử, nằm trên giường giải thoát. Thị hiện có bệnh nghóa là do đại bi cho nên chẳng trụ Niết-bàn tùy thuận cứu khổ. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… hiện bệnh mà nằm. Tán: Đây là phần đợi khách. Gồm có năm: Trừ tất cả và không thị giả hợp làm một câu; dẹp tất cả các vật đã có cũng ở trong lời văn này. Kinh: Lúc bấy giờ, Bồ-tát Diệu Cát Tường… nằm trên một chiếc giường. Tán: Ngài Cát Tường theo lời Phật dạy thăm bệnh, gồm hai: Nói về cảnh thấy và cả hai đàm luận. Đây là văn đầu. Kinh: Lúc bấy giờ Vô Cấu Xưng… chẳng nghe mà nghe. Tán: Đây là đoạn nói hai vị đàm luận. Lại chia làm hai ý: Phép tắc gặp nhau. Đàm luận. Trong phần phép tắc gặp nhau lại có hai: Chủ nhân nói trước, tức đưa ra lời chào hỏi mà nhận khách. Bậc thượng khách nói sau hiển thị việc đối đáp mà chẳng nên trái. Đây là văn đầu. Ở Ấn Độ, có phép tắc là khi gặp khách phải chào hỏi. Bồ-tát tu hành khi chào hỏi để vấn an, đều nói là Thiện lai, “vui mừng vì ông đã đến đây” mà lại nói ngược là xưa nay chẳng đến mà nay đến, xưa nay chưa nghe mà nay mới nghe, như người thế gian thường nói: “Lâu nay chẳng đến mà nay đến, thật là hân hạnh quá!” Cảm tạ sự đến thăm này. Vui không gì vui hơn ngày hôm nay ta được biết nhau, mừng không gì mừng hơn ta nay mới được gặp nhau! Do đó văn sau ngài Cát Tường đáp: “Nếu đã đến thì chẳng thể đến nữa, từ xưa chưa đến thì nay mới đến, mới đến thì gọi là đến, đến đã lâu thì chẳng gọi là đến. Đây là y cứ vào sự để giải thích. Còn theo lý thì giải thích như sau: “Sợ lời nói phạm lỗi, bỏ vọng hiển chân, cho nên lại nói chẳng đến mà đến…” Lý Không Nghóa ghi: “Nhân duyên thế tục thì có thể nói là có đến; kia đã chẳng phải chân, tức chẳng đến mà đến, thì đây cũng chẳng thấy mà thấy; thật đã chẳng thấy mà thấy thì nói cũng chẳng nghe mà nghe, tức hiển thị không hư vọng mà đến… Vì có đến chân thật”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Như sở chấp của phàm phu, nếu vô cớ thì chẳng đến, theo nhân duyên sự thế tục thì nơi giả có thể nói là có đến; kia đã có nhân duyên thì tạm có thể có đến, vì không có sở chấp, chân thật có đến, thì đây cũng không có cái thấy mà kia chấp, nhưng vì nhân duyên nên tạm gọi là thấy. Về thân đã thấy cái chẳng thấy, về lời thì nghe cái chẳng nghe, không có sở chấp hư vọng, thuận theo thế tục mà đến. Hoặc trong chân thật không có tướng, cho nên nói “chẳng đến”, trong tục có hình nên nói “mà đến”. Kia, nơi chân đã chẳng đến, trong tục có đến, thì đây nơi chân cũng chẳng thấy, nơi tục giả có thấy. Về thân, nơi chân thì chẳng thấy, tục giả có thể gọi là thấy, vậy về lời nói, nơi chân chẳng có nghe nơi tục có thể có nghe. Thể hội được chân, thông đạt được tục cho nên hay đến. Kinh: Ngài Diệu Cát Tường nói rằng… chẳng thể lại đi nữa. Tán: Đây là phần thượng khách trả lời sau, hiện đối đáp mà chẳng trái nghịch. Gồm hai ý, đầu tiên là trả lời nghóa đến, sau là trả lời thấy nghe. Trong phần đầu lại có hai: Nêu lời đáp. Giải thích lời đáp. Đây là nêu lời đáp. Căn cứ theo sự để giải thích: Như thị, tức là thuận theo ý của kia nói. Lai (đến) tức là hướng đến trượng thất; khứ (đi) tức trái lại với Am viên. Vả lại, nhân kia nói lai thì đây tùy thuận đáp khứ. Hướng vào đây mà đến thì ngược với kia mà đi. Nếu xưa đã đến, thì chẳng đến nữa, nhưng vì từ xưa chưa đến vì thế nay mới đến. Đi cũng như thế. Nếu căn cứ theo lý, thì Không Lý Nghóa ghi: “Thế tục đế có, nếu đã đến rồi, thì Thắng nghóa đế không chẳng thế đến nữa. Thế tục đế có nếu đã đi, thì Thắng nghóa đế không, chẳng lại đi nữa. Cho nên biết đến đi là tùy thuận thế tục. Nếu y cứ Thắng nghóa đế thì chẳng đến chẳng đi, thành ra Vô Cấu Xưng chẳng đến mà đến vậy. Ứng Lý Nghóa ghi: “Nếu Biến kế sở chấp chấp đã đến thì đây là thể không vô chẳng thể đến nữa. Nếu Biến kế sở chấp chấp đã đi, thì đây cũng là thể không vô, cho nên chẳng thể đi nữa. Cho nên biết đến đi đều là nhân duyên giả lập bày mà có, đều không có tướng thật”. Lại có thuyết giải thích rằng: Nếu tùy y tha khởi tánh thế tục thì có đã đến, còn trong Thắng nghóa thì chân như không có tướng sai biệt, nên chẳng thể đến nữa. Nếu tùy y tha khởi tánh thế tục, có đã đi thì trong thắng nghóa chân như không có tướng sai biệt, lại chẳng đi nữa. Cho nên biết đến đi đều là y tha của thế tục giả lập. Nơi Thắng nghóa thì đều không. Từ khi nêu lên đến đây, là nói về kia chánh thức đến, sau cũng như thế, cho nên không lập lại. Kinh: Vì sao?… có thể lập bày việc đi. Tán: Giải thích trả lời đến đi. Căn cứ theo sự để giải thích: chẳng phải đã đến mà có thể lập bày việc đến, mà cần phải chưa đến mới có thể đến; chẳng phải đã đi, mới lập bày việc đi cần phải chưa đi mới nói đi. Nếu y cứ vào lý giải thích thì Lý Không nghóa ghi: “Chẳng phải thế tục có các việc đã đến mà y theo Thắng nghóa đế có thể lập bày việc đến; chẳng phải thế tục đế có các việc đã đi, mà y cứ theo Thắng nghóa đế để lập việc đi, vì Thắng nghóa không”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Chẳng phải Biến kế sở chấp đã đến để có thể lập bày việc đến, mà còn phải nơi y tha chưa có việc đến, mới có thể giả lập đến. Chẳng phải Biến kế sở chấp chấp đã đi để lập bày việc đi mà cần phải nơi y tha chưa có việc đi, mới có thể giả lập việc đi”. Có cách giải thích rằng: Chẳng phải tùy y tha có đã đến mà y cứ vào chân như mà lập việc đến, cũng chẳng phải tùy y tha có việc đã đi mà y cứ vào lý chân như để lập bày việc đi. Đây là hiển thị việc y tha có đến đi, trong lý chân như thì không có đến đi. Bản xưa ghi: “Đến không từ nơi đâu, đi chẳng có chỗ đến”, khác với bản mới, chỉ có thể theo lý giải thích, không thể theo sự giải thích. Cũng có thể nói trong lý không có đến đi, sự thì có việc xưa chưa đến, nay mới đến. Kinh: Đã thấy… chẳng thể nghe nữa. Tán: Hai nghóa ứng lý và không lý tuy khác nhưng đều căn cứ vào đến đi, thấy nghe cũng như thế. Kinh: Thôi hãy gát việc ấy qua… chẳng đến nổi tăng chăng? Tán: Đây là nói về việc luận nghị, gồm có năm: Hỏi chung về bệnh và hỏi riêng về nguyên do bệnh. Hỏi về thất trống và không có thị giả. Hỏi tướng bệnh. Hỏi để an ủi. Hỏi về phép tắc điều tâm của người bệnh. Đoạn này là nói về bệnh của Bồ-tát và bệnh của dị sinh khác nhau. Như thế đâu có thể thành nhân pháp nhị không? Nhân pháp đã không thì lẽ ra không có tướng bệnh, bệnh đã không có tướng thì sao lại đến thăm hỏi. Tướng có thể biết còn người bệnh làm sao có thể điều phục tâm ý. Cho nên kế đó theo thứ tự có năm văn. Trong đoạn đầu lại có hai: Hỏi. Đáp. Trong lời hỏi cũng có hai là hỏi chung về bệnh và hỏi riêng về gốc bệnh. Hỏi chung về bệnh có ba: Năm câu hỏi. Truyền đạt lời Phật dạy. Hỏi hai câu để hiển thị sự ân cần thăm bệnh. Đây là văn đầu. Năm câu hỏi là hỏi khổ nhiều ít; hỏi mạng có hay không; hỏi về giới thuận nghịch; giới tức bốn đại; hỏi bệnh nặng nhẹ; hỏi bệnh ngừng tăng thêm không, tức dần ngừng tăng. Bản xưa ghi: “Không đến nổi tăng chứ”. Kinh: Thế Tôn ân cần thăm hỏi chẳng xiết. Tán: Truyền đạt lời Phật, lời tuy ngắn mà ý thăm hỏi lại vô kể. Kinh: Bệnh của cư só đây… có an ổn chút ít chăng? Tán: Hỏi hai câu để hiển thị sự ân cần an ủi. Thuyên tức là bớt, an tức bình. Bệnh có bớt được ít chăng? Đi đứng khí lực có được bình ổn chút nào chăng? Kinh: Nay gốc bệnh này… làm sao để trị dứt? Tán: Đây là hỏi riêng về gốc bệnh. Gồm ba câu: Hỏi nguồn gốc của bệnh. Hỏi bệnh đã lâu mau. Hỏi về diệt bệnh. Cửu tức là lâu xa, như tức là ví dụ. Ý lời hỏi là: Bệnh phát sinh lâu mau, dụ như thế nào… ? Kinh: Vô Cấu Xưng… bệnh của tôi sinh cũng như thế. Tán: Ông Vô Cấu Xưng trả lời. Chẳng đáp câu hỏi chung mà chỉ trả lời câu hỏi riêng. Gồm có ba: Đáp riêng về bệnh lâu mau. Trả lời lâu mau và bệnh diệt. Trả lời về gốc bệnh. Đây là văn thứ nhất. Hỏi theo thứ tự, đáp thì tùy theo ý nghóa, cho nên chẳng đồng. Hữu tình lấy vô minh làm nhân. Lấy hữu ái hay phát động các hành làm duyên, nhuần thấm các nghiệp, cho nên khởi sinh lão bệnh tử, lưu chuyển từ vô thỉ đến nay, si ái của chúng sinh đã có từ lâu, bệnh của tôi hôm nay cũng phát sinh từ vô thỉ lâu xa. Kinh: Xa từ mé trước… bệnh ta tức theo đó mà biết. Tán: Đây là đáp chung về bệnh lâu mau và bệnh diệt. Đầu tiên nêu lên, sau là giải thích. Đây là đoạn đầu. Việc lâu mau của bệnh ta thì nói rằng từ mé trước sinh tử lâu xa hữu tình đã có bệnh. Ta cũng tùy theo đó mà có lâu mau. Nếu hữu tình kia giải thoát sinh tử thì bệnh ta dứt trừ; nếu sinh tử của hữu tình rốt cuộc không có kỳ hạn giải thoát, thì bệnh ta chẳng bớt. Bệnh sinh từ vô thỉ, thì bệnh diệt cũng vô chung, vì cõi chúng sinh không bao giờ tận. Kinh: Vì sao?… lại không có bệnh. Tán: Giải thích lâu mau bệnh diệt. Gồm có ba: Pháp. Dụ. Hợp. Đây là pháp. Bồ-tát có sinh tử là vì độ hữu tình, gọi là nương vào hữu tình mà lưu chuyển sinh tử. Do nương vào bệnh sinh tử của hữu tình, cho nên Bồ-tát có bệnh, nếu các hữu tình xa lìa sinh tử thì bệnh của Bồ-tát cũng trừ. Kinh: Ví như… bệnh cha mẹ cũng hết. Tán: Đây là nói dụ. Trưởng giả dụ cho Phật, cư só dụ cho Bồ-tát. Người con dụ cho chúng sinh, thương yêu dụ lòng đại bi, hoan hỷ dụ cho sự mừng vui, chẳng bỏ dụ cho nhiếp thọ. Cho nên cũng tùy theo con mà có bệnh, mà lành bệnh. Kinh: Bồ-tát cũng như thế… bệnh Bồ-tát cũng lành. Tán: Đây là hợp. Bồ-tát hợp với cư só, để hiển thị Vô Cấu Xưng còn ở nơi nhân vị, cho nên chẳng hợp với trưởng giả, thương xót hợp với yêu mến, hữu tình hợp với người con, bệnh lành hợp với bệnh và lành nói ở trước. Chẳng hợp với hoan hỷ và không có lúc nào tạm rời thì ý có thể biết được. Kinh: Nói bệnh này… từ đại bi khởi. Tán: Đây là phần trả lời nhân bệnh. Do đại bi đốt nóng cho nên bệnh sinh, đại bi là nhân, cho nên bệnh của Bồ-tát khác với bệnh của dị sinh. Kinh: Bồ-tát Diệu Cát Tường nói rằng… lại không có thị giả? Tán: Đoạn thứ hai nói về trượng thất trống và không có thị giả. Gồm hai phần: Hỏi và đáp. Đoạn này có hai lời hỏi: Hỏi trượng thất trống. Hỏi không có thị giả. Đầu tiên hỏi về pháp không, sau hỏi về sinh không. Nếu các Bồ- tát tùy theo hữu tình mà bệnh sinh và bệnh lành, thì đâu thành hai không? Kinh: Vô Cấu Xưng nói rằng… cũng đều không. Tán: Đây là lời đáp. Có hai: Đáp về trượng thất trống. Đáp về việc không có thị giả. Trong phần thứ nhất gồm có mười ba câu hỏi đáp. Đây là lời đáp thứ nhất. Không Lý Nghóa ghi: “Tất cả các cõi Phật vốn không tịch, cho nên nay trượng thất của ta là chân tánh cho nên không”. Không Lý Nghóa ghi: “cõi Phật pháp thân do không mà hiển, vì lý không cho nên không. cõi Phật báo hóa, đều không có sở chấp vì sự không cho nên không. Thể đều chẳng phải không. Trượng thất của ta hôm nay, biểu thị cho cõi Phật không, cho nên trống không.” Kinh: Hỏi: Vì sao là không? Tán: Câu hỏi thứ hai. Vì sao cõi Phật cũng không? Kinh: Đáp: Vì không không. Tán: Câu trả lời thứ ba. Lý Không Nghóa ghi: “Vì Thắng nghóa đế không vô sở hữu, cõi Phật liền không, cho nên nói vì không không”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Vì không chẳng có Biến kế sở chấp kia, mới có thể hiển bày nơi cõi pháp, báo, hóa. Cõi pháp, báo và hóa do đó mà gọi là không. Gọi là không không, chẳng phải là không và chẳng không. Kinh: Lại hỏi: Không này là không gì? Tán: Câu hỏi thứ tư. Hỏi sở không này, thì cái gì là năng không. Kinh: Đáp: Không năng là không vô phân biệt . Tán: Câu trả lời thứ năm. Tâm có phân biệt, chấp có chẳng phải không. Do vô phân biệt, cho nên tất cả đều không. Không Lý Nghóa ghi: “Tuy biết bản tánh các pháp đều không nhưng cũng chứng vô phân biệt chứng không”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Tâm có phân biệt, có chấp và sở chấp, do không phân biệt nên chứng sở chấp không. Kinh: Hỏi: Tánh không có thể phân biệt được chăng? Tán: Câu hỏi thứ sáu, Không Lý Nghóa ghi: “Tánh của chân không có thể phân biệt chăng? Không có vô phân biệt thì chẳng chứng không”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Tánh không sở chấp có thể phân biệt chăng? Khi có phân biệt thì chẳng chứng không”. Kinh: Đáp: Cái hay phân biệt này cũng không… chẳng thể phân biệt là không. Tán: Câu đáp thứ bảy. Đầu tiên nêu lời đáp. Từ câu vì sao?… Là giải thích. Lý không nghóa ghi: “Tâm hay phân biệt, thể tánh chẳng không mà hay phân biệt tánh của chân không. Tâm hay phân biệt thể tánh vốn không làm sao có thể phân biệt tánh của chân không? Cho nên giải thích điều này rằng: “Tánh không chẳng thể phân biệt là không vì năng duyên sở duyên đều là tánh không. Ý trước là tùy theo chấp hữu, do đối đãi nên gọi là không. Kỳ thật không này chẳng không, chẳng phải chẳng không, thì làm sao có thể phân biệt?”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Chấp hay phân biệt đã là sở chấp, cũng là thể không, không chỉ cảnh sở chấp gọi là không, mà tâm chấp có năng thủ cũng là không, cho nên có năng thủ sở thủ thật này không thể phân biệt, tâm phân biệt cũng không, thì tánh không làm sao phân biệt được? Do đạo lý này mà giải thích rằng: Tánh không chẳng thể phân biệt là không. Trước là tùy theo đạo lý y tha chân như để đối phá chấp hữu. Nhưng nói không, kỳ thật không này chẳng phải không và chẳng không, làm sao có thể phân biệt được? Kinh: Hỏi: Không này nên tìm cầu ở đâu? Tán: Lời hỏi thứ tám. Hỏi về nguyên nhân của không; nên tìm cầu ở đâu mà biết tướng không này. Kinh: Đáp: Không này… cầu nơi nhị kiến. Tán: Lời đáp thứ chín. Sáu mươi kiến có rất nhiều loại, hoặc là lấy ngã kiến, ngã sở. Kiến làm gốc, đối với mỗi một uẩn đều chấp là Ngã, đều có ba đó là ngã anh lạc, ngã đồng bộc và ngã quật trạch. Do phân biệt hành duyên uẩn mà chẳng phân biệt chỗ sinh khởi, thành hai mươi câu, trong đó năm câu là ngã kiến, mười lăm câu là ngã sở kiến. Năm uẩn trong ba đời mỗi mỗi chấp hai mươi câu này, tổng cộng thành sáu mươi hợp với hai loại gốc nên thành sáu mươi hai. Có kinh nói sáu mươi hai kiến thuộc về hai kiến là biên kiến và tà kiến. Biên kiến gồm thâu bốn mươi bảy kiến: Bốn biên thường luận, bốn nhất phần thường luận, mười sáu hữu tưởng luận, tám vô tưởng luận, tám phi hữu tướng phi vô tướng luận. (Bốn mươi loại này thuộc về thường kiến). Bảy đoạn diệt luận (thuộc đoạn kiến), cho nên thành bốn mươi bảy thuộc biên kiến. Tà kiến gồm nhiếp mười lăm kiến: Bốn hữu biên luận, bốn bất tử kiều loạn, hai vô nhân luận, năm hiện pháp Niết-bàn luận. Các nghóa của kiến này như biệt chương đã giải thích, sợ văn dài dòng nên không thuật đủ. Do các vọng kiến này mà chấp các pháp có. Tâm chấp đã hư vọng thì biết cảnh không. Tuy biết “không” biến hiện là do năm kiến, nhưng nói sáu mươi hai là do có nhiều thuyết hư vọng nhận như thế, cho nên được riêng nêu lên, cũng không có lỗi. Kinh: Hỏi: Sáu mươi hai kiến tìm cầu nơi đâu? Tán: Câu hỏi thứ mười. Hỏi về nguyên do các kiến hư vọng này. Các kiến hư vọng này tìm cầu nơi đâu mới biết được. Kinh: Đáp: Nên cầu trong sự giải thoát của chư Phật. Tán: Lời đáp thứ mười một. Nghóa là chư Phật từ nơi đây mà được Bồ-đề Niết-bàn, cho nên biết vọng kiến. Vả lại mê giải thoát thì khởi các kiến này. Kinh: Hỏi: Giải thoát của chư Phật tìm cầu ở đâu? Tán: Lời hỏi thứ mười hai. Hỏi giải thoát này là năng chứng của ai? Chứng giải thoát này nên cầu ở đâu? Kinh: Đáp: Nên cầu nơi tâm hành của tất cả hữu tình. Tán: Lời đáp thứ mười ba. Do các hữu tình mê chánh lý nên các vọng kiến sinh khởi, chẳng được giải thoát. Tâm hành của hữu tình, nếu ngộ được chân lý, đoạn trừ các vọng kiến thì liền chứng Niết-bàn. Cho nên giải thoát nêu cầu nơi tâm của hữu tình. Sáu câu hỏi đáp trên đều là thuộc về nghóa ứng lý. Không Lý Nghóa ghi: “Vọng cảnh và tâm không hai, nên cầu không nơi các kiến. Vọng chân không hai, nên cầu kiến nơi giải thoát. Nhân quả không hai, nên cầu giải thoát nơi tâm hành. Trong Thắng nghóa đế đều không hai. Kinh: Vả lại nhân giả hỏi vì sao không có thị giả… đều là thị giả của tôi. Tán: Đáp câu hỏi thứ hai là vì sao không có thị giả. Đầu tiên là nêu lên, sau là giải thích. Đây là lời nêu lên. Kinh: Vì sao? Tán: Phần giải thích. Có hai: Hỏi. Giải thích. Đây là lời hỏi. Phàm thị giả là tùy thuận phụng sự các việc, hành động hay nghỉ ngơi đều phải có đủ, còn ở đây hai việc ấy đều không, thì vì sao gọi là thị? Kinh: Tất cả ma oán… đều là thị giả của ta. Tán: Ma thì thích sinh tử, sợ vượt ba cõi. Ta là chúng sinh, chẳng ghét chẳng bỏ mà chế phục chúng, khiến chúng tùy thuận cung giúp các việc thường ngày như thế, cho nên lấy ma làm thị giả. Ngoại đạo thích tìm cầu các ác kiến, và tán thán các kiến này. Còn ta thì cầu tri kiến, thấu đạt các pháp, chẳng chán chẳng bỏ mà lại giáo hóa họ, khiến họ tùy thuận mà đến phụng sự các việc thường ngày như thế, cho nên lấy ngoại đạo làm thị giả. Xưa ghi là: Các kiến chẳng động. Tuy khởi thiện kiến ác kiến nhưng đều chẳng động; lý cũng không trái với ý nêu trên. Không Lý Nghóa ghi: “Tuy chứng hai không, nhưng thật chẳng làm hoại việc tùy thuận thế tục, nên cũng có thị giả”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Tuy biết chân như tánh không sở chấp, nhưng trong nhân duyên sự, chẳng thể không có thị giả… cho nên có bệnh”. Kinh: Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi… có tướng gì? Tán: Đoạn thứ ba hỏi về tướng trạng của bệnh. Gồm có ba câu hỏi đáp. Đây là câu hỏi thứ nhất. Kinh: Đáp: Bệnh của tôi… cũng chẳng thể thấy. Tán: Đây là câu trả lời thứ nhất. Tướng tức là trạng. Bệnh của ta chẳng thuộc sắc, chẳng đồng như bệnh của thế gian do sắc biến chuyển, vì thế không có tướng trạng, cũng chẳng thể thấy. Vì đó là do tâm đại bi tinh tấn bức bách nên gọi là bệnh, bệnh này là do lợi lạc tinh tấn và đại bi phát khởi, đại bi thì chẳng phải sắc. Kinh: Hỏi: Bệnh này… tương ưng với tâm. Tán: Câu hỏi thứ hai. Hỏi bệnh tại thân hay tại tâm? Kinh: Đáp: Bệnh của ta… như huyễn hóa. Tán: Câu trả lời thứ hai. Vọng chấp có thân tướng, ở đây thân tướng đều không, nên gọi là thân tướng ly. Ly tức là không. Chẳng tương ưng với thân. Thân nhân duyên giả có, như ảnh tượng. Thân này chẳng phải không bệnh, tương ưng với thân, vì dùng nghiệp thân miệng cứu chúng sinh. Câu trả lời trước cho rằng bệnh thật chẳng phải là sắc tướng, nay lại đáp tùy chúng sinh, cho nên tương ưng với thân. Hoặc năm thức có, gọi là tương ưng với thân, chẳng thuộc sắc của sắc giới, cũng chẳng trái nhau. Vọng chấp có tâm tướng, tướng của tâm này đều không gọi là tâm tương ưng (tương ưng với tâm). Ly tức là không, chẳng tương ưng với tâm này. Tâm nhân duyên giả hữu như huyễn hóa, tâm này chẳng phải không, nhưng bệnh và tâm tương ưng, vì thường dùng ý nghiệp lợi lạc chúng sinh. Bản dịch xưa nói về thân chỉ có phi tương ưng nghiệp mà không có “cũng tương ưng”. Về tâm khi nêu thì phi tương ưng, giải thích thì có nghóa tương ưng. Suy xét kỹ thì mới biết lý không chân đế chẳng có hai tương ưng, tục đế có hai tương ưng. Hai tánh của ứng lý chẳng có hai tương ưng, Y tha thì có hai tương ưng. Kinh: Hỏi: Địa giới… bệnh của giới nào? Tán: Đây là câu hỏi thứ ba. Thể của bệnh là do bốn đại trái nghịch, khiến các khổ bức bách. Trong bốn giới này, thì giới nào bệnh, giới tức là tánh, là nhân, là loại. Thể loại của bốn đại gọi là nhân của sắc, cho nên gọi là giới. Kinh: Đáp: Thân các hữu tình… lìa tánh giới. Tán: Vì chúng sinh bệnh nên bệnh của ta sinh. Bốn giới của chúng sinh là bệnh, đồng với thân ông ấy cũng là bốn giới. Tánh giới là không, lìa, cũng chẳng phải là bốn giới của thân tâm. Bốn giới đều nói lìa. Không Lý Nghóa ghi: “Vì chân tánh không”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Vì không có sở chấp”. Ý có khác nhau, tất cả đều biết; tuy biết hai không nhưng vì chúng sinh bệnh, cho nên có tướng bệnh. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… khiến họ được hoan hỷ. Tán: Câu hỏi thứ tư. An ủi. Có hai là hỏi và đáp. Đây là lời hỏi. Chủ khách đối luận, cùng nhau phát khởi. Từ trên đến đây là phần khách hỏi chủ, đã xong, cho nên bây giờ là phần chủ nhân hỏi khách. Vả lại việc của chủ nhân, thì khách hỏi, việc của khách thì chủ nhân phải hỏi. Han hỏi an ủi người bệnh là việc của khách cho nên ngài Vô Cấu Xưng mới hỏi. Ủy là an, dụ là hiển dụ. Làm thế nào để an ủi hiển dụ người bệnh. Bản kinh xưa ghi ngài Văn-thù hỏi, ngài Vô Cấu đáp, ý nghóa thật trái nghịch, chẳng lẽ ngài Văn-thù không biết an ủi hiển dụ sao, mà phải hỏi ông ấy? Kinh: Ngài Diệu Cát Tường đáp… thích Niết-bàn. Tán: Đây là lời đáp. Có hai là đáp và kết luận. Lời đáp gồm mười câu, năm câu đầu là khuyên làm mà chẳng làm, năm câu sau khuyên chẳng làm mà làm. Hoặc cho rằng năm câu đầu là khiến lìa ác, năm câu sau là khiến tu thiện. Trong đó được chia làm hai phần. Nhị thừa thì chỉ bày vô thường, khuyên thân diệt trí bặt, xa lìa thân, còn Bồ-tát chẳng phải như thế, chỉ bày thân là vô thường nên sinh khởi tâm nhàm lìa, khuyên tu thân thường như kim cang chẳng hoại. Nhị thừa thì nêu lên khổ, khuyên thích Niết-bàn, vónh viễn nhập tịch diệt. Còn Bồ-tát thì nêu khổ để khiến xả bỏ thân khổ, chẳng khuyên nhập tịch, mà khuyên giáo hóa chúng sinh. Kinh: Chỉ bày thân này là vô ngã… rốt ráo tịch diệt. Tán: Chỉ bày thân này là vô ngã, ai là người bệnh, chẳng khuyên thành thục hữu tình, vì không thật có chúng sinh để thành thục. Nếu là giả hữu tình thì cũng khuyên thành thục. Bản xưa nói: “Dạy dỗ dẫn dắt chúng sinh”. Nhị thừa thì chỉ bày không, vónh viễn nhập tịch diệt. Còn Bồ-tát tuy chỉ bày tất cả đều không tịch, trừ những người có sợ sệt, chẳng khuyên chúng sinh nhập rốt ráo tịch diệt. Cả hai đều do đại bi huân thành. Kinh: Chỉ dạy sinh hối tội trước… khiến trừ bệnh cho họ. Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Nhị thừa chấp có ba thời. Tội hiện đã làm, liền rơi vào quá khứ, gọi là có di chuyển. Quá khứ có thể, thì vị lai sẽ cảm quả. Theo Đại thừa thì tội tánh đều không, thì đâu có di chuyển. Đó là nghóa sám hối chỉ dạy cho người bệnh. Ứng Lý Nghóa ghi: “Tội về Đại thừa, huân tập tại thân, khi chưa sám hối thì niệm niệm luôn ở hiện tại, chưa rơi vào quá khứ gọi là không di chuyển, chưa trừ chẳng diệt thì vị lai sẽ cảm quả. Tuy đã giáo hóa Bồ-tát có bệnh sám hối tội lỗi đã làm ở từ trước, nhưng tội luôn luôn ở hiện tại, mà chẳng nói là vào quá khứ, vì quá khứ đã không. Do đó bản dịch xưa ghi: “Mà chẳng nói nhập vào quá khứ”. Vả lại di chuyển nghóa là diệt không có quả, hiển thị tội đã làm từ trước sẽ cảm quả ác, khiến sám hối trừ tội, chẳng nói tạo tội chuyển diệt không có quả. Vì bệnh khổ của mình khó nhẫn chịu cho nên khuyên thương xót loài hữu tình, khiến dứt trừ bệnh khổ cho họ. Kinh: Khuyên nhớ đến… khiến tu tịnh mạng. Tán: Khuyên nhớ nghó đến các khổ đã thọ nhận từ vô thỉ, khó có thể nhẫn chịu được, do đó mà nên làm lợi ích cho hữu tình, chớ nên phiền não; nếu có kẻ tà mạng, thiện pháp chẳng sinh thì khuyên tu các thiện, lấy tịnh mạng làm căn bản. Vì tịnh mạng là gốc của các điều thiện. Kinh: Khuyên chớ kinh sợ… khiến vónh viễn tịch diệt. Tán: Tuy gặp bệnh tật, nhưng khuyên chớ kinh sợ các khổ hoạn của bệnh này, mà nên ra sức, tinh tấn dõng mãnh vượt khỏi sinh tử. Khuyên làm bậc y vương để chữa trị thân bệnh thế tục cho ta và người ở thế gian và chữa trị tất cả tâm bệnh thắng nghóa, khiến vónh viễn tịch diệt. Kinh: Bồ-tát… khiến cho hoan hỷ. Tán: Đây là phần kết luận ý trước. Đạo từ hoan hỷ sinh. Huống gì là khiến được diệu pháp, cho nên an ủi người bệnh, làm cho họ được hoan hỷ. Kinh: Bồ-tát Diệu Cát Tường nói rằng… điều phục tâm ấy. Tán: Thứ năm là hỏi về phép tắc điều tâm của người bệnh. Đầu tiên là hỏi, sau là đáp. Đây là lời hỏi. Điều hòa thì thiện sinh, chế phục thì ác diệt, gọi là điều phục tâm. Kinh: Vô Cấu Xưng nói rằng… phiền não phân biệt, hư vọng điên đảo khởi thì nghiệp sinh. Tán: Đây là lời đáp, gồm có ba: Nói về pháp điều phục tâm phàm phu. Pháp điều phục tâm Nhị thừa tức từ câu: “Bồ-tát Diệu Cát Tường có bệnh nên tự quán xét, như bệnh của tôi đây…”. Điều phục cả hai tâm, tức từ câu: “Thưa ngài Diệu Cát Tường! Bồ-tát có bệnh nên điều phục tự tâm như thế, chẳng nên an trụ nơi điều phục hay chẳng điều phục…”, năng điều phục của các Bồ-tát là trí vô phân biệt và đại bi, sở điều phục là hai chướng và tự lợi. Phàm phu có chướng cho nên hay tạo nghiệp, chịu quả khổ sinh tử. Nay phá hai chướng thì nghiệp hết, khổ trừ. Vì thế đầu tiên nói về pháp điều phục của phàm phu. Nhị thừa tuy ra khỏi khổ sinh tử, nhưng còn tâm phân biệt, chỉ cầu tự lợi, bỏ việc lợi lạc chúng sinh, vì thế thứ hai nói về pháp điều phục của Nhị thừa. Phàm phu chưa điều phục, Nhị thừa đã điều phục, đều chỉ là trụ một bên, chưa hợp trung đạo. Bồ-tát lìa xa cả hai để tu hạnh trung đạo, vì thế thứ ba là nói về pháp điều phục hai tâm trên. Vả lại các bệnh khởi đều là do hai chấp là chấp có và chấp không. Vì điều phục hai chấp này cho nên phân làm ba: Nói hai không để phá chấp có. Nói đại bi để phá chấp không; cuối cùng nói chẳng trụ để phá cả hai. Căn cứ theo sự phân khoa từ trước, phối hợp với ba đoạn này. Trong phần đầu có hai: Chính thức điều phục tâm phàm phu, nói hai không để phá hữu. Từ câu Diệu Cát Tường …. trở xuống là kết thành thắng giác hay đoạn các khổ. Trong phần một lại có hai: Phá bệnh của chính mình. Phá bệnh cho người, “Nếu khổ đến thân thì nên thương xót chúng sinh trong cõi hiểm nạn…”. Trong phần một lại có hai: Phá ngã chấp, đoạn phiền não chướng. Từ câu “đối với pháp tưởng này ta…” là phá pháp chấp, đoạn sở tri chướng. Đoạn một lại có hai: Nêu lên. Giải thích. Trong phần nêu lên lại có hai: Nói về pháp quán nhân duyên. Quán không thật ngã. Đây là văn đầu. Tâm và tâm sở nơi ba cõi đều hư vọng, chẳng chứng thật tướng; tức trái với chân mà gọi là điên đảo; hư dối phân chia nên gọi là phân biệt. Do phiền não này mà khởi nghiệp, khiến cho các bệnh sinh lão tử, khổ hoạn từ nghiệp phiền não nhân duyên của mình mà phát sinh. Biết đó chỉ là pháp mà thôi. Kinh: Trong thân đều không… mà chịu bệnh này. Tán: Đoạn này là nói về quán không có thật ngã. Do nhân duyên giả sinh, hợp lại thành thân, không có mảy may chân thật. Biết không có thật ngã mà chịu bệnh này. Ngã đã không thật, thì bệnh đâu có chân thật. Kinh: Vì sao?… thân cũng vô ngã. Tán: Đây là phần giải thích, gồm có hai: Quán vô ngã. Quán chỉ có pháp. Trong phần quán vô ngã thì đầu tiên nói về quán, sau là kết luận. Trong phần quán lại chia làm hai: Quán vô ngã. Quán nhân duyên. Theo thứ tự giải thích. Pháp bốn đại giả hợp gọi là thân, các đại là biệt đã không có chủ, vậy thân là tổng cũng không có chủ. Từ tổng và biệt mà suy ra thì ngã cũng chẳng phải có. Kinh: Bệnh này đã khởi… là gốc của bệnh. Tán: Đây là đoạn quán nhân duyên. Bệnh do nghiệp sinh, nghiệp do hoặc sinh, hoặc do chấp ngã mà sinh; ngã đã thật là không, vì vong chấp cho nên khởi. Chấp tâm vọng làm gốc thì bệnh liền sinh, cho nên biết bệnh chỉ là nhân duyên, chẳng thật có. Kinh: Do nhân duyên này… an trụ nơi pháp tưởng. Tán: Trên là nói về quán ngã không, ở đây là phần kết luận. Nên trừ nhân bệnh, chấp ngã tưởng chỉ có nhân duyên, trụ ở pháp tướng này mà quán pháp nhân duyên để phá ngã. Kinh: Nghó như thế… diệt chỉ là pháp diệt. Tán: Quán chỉ có pháp. Đầu tiên là nói về quán, sau là kết luận. Đầu tiên quán chung, sau quán riêng. Đây là phần quán chung. Quán chung thân này là do các pháp hợp thành, niệm niệm sinh diệt, sinh tử lưu chuyển trong ba cõi, năm đường, bốn sinh. Khi sinh chỉ có pháp sinh, khi chết diệt chỉ có pháp diệt. Chúng sinh vọng tưởng, cho rằng ngã có sinh tử, thật ra đó chỉ là pháp mà thôi. Kinh: Các pháp như thế… chẳng nói ngã diệt. Tán: Đây là nói quán riêng. Quán riêng thân này chỉ là các pháp tương tục, pháp thì vô tri, luôn luôn chẳng biết nhau, rốt ráo không có suy nghó. Sinh đã chẳng nói ta sinh, diệt cũng chẳng nói ta diệt. Cho nên biết vô ngã, không thật có tác dụng, chỉ có pháp. Kinh: Bồ-tát có bệnh… pháp tưởng như thế. Tán: Kết luận về quán các pháp. Biết chỉ có pháp, thì sẽ trừ ngã tưởng. Luận Thập Nhị ghi: “Nói không có ngã hữu tình, chỉ có nhân của pháp”. Kinh: Ta đối với pháp tưởng này… đại hoạn như thế. Tán: Trên là phá ngã chấp, đoạn phiền não chướng, sau là phá pháp chấp đoạn sở tri chướng; có ha:i đầu tiên là lược nêu, sau là giải thích rộng. Đây là lược nêu. Xưa chấp ngã tưởng, còn là gốc bệnh, nay chấp ngã tưởng là quá điên đảo. Ngã tưởng đã là gốc của sinh tử, pháp tưởng là nguồn của ngã chấp, là gốc chướng Bồ-đề thật là một hoạn họa lớn ta nên trừ diệt, cũng trừ diệt hoạn họa này cho hữu tình. Gốc của pháp chấp đã diệt thì phiền não tự trừ, cho nên trong phần phá pháp tưởng nói vì hữu tình, trong phần phá ngã chấp thì lược bỏ không nói. Kinh Thắng Man nói vô minh trụ địa và tất cả phiền não đều nương nhau kiến lập, nếu đoạn vô minh thì hằng hà sa phiền não ở quá khứ đều diệt tận. Nhị thừa không thể đoạn trừ, chỉ có trí Bồ-đề của Phật mới đoạn trừ được, vì thế vô minh trụ địa là sở y của phiền não. Kinh: Làm sao mà trừ… ngã và ngã sở chấp. Tán: Giải thích rộng, gồm hai: Phá bệnh chấp có. Phá bệnh chấp không, tức là câu: “Hai pháp này không là gì, cũng lại là không…” Đầu tiên phá chấp có, gồm năm câu vấn đáp, xoay vần phát khởi. Bản xưa chỉ có bốn. Đây là câu hỏi đáp đầu. Chịu khổ sinh tử, chẳng được Bồ-đề là thể của đại hoạn, đây là do phiền não chấp ngã và ngã sở, cần phải diệt trừ. Kinh: Làm sao có thể trừ… nghóa là lìa hai pháp. Tán: Câu hỏi đáp thứ hai. Do lìa hai pháp thì chấp tự diệt. Kinh: Làm thế nào để lìa hai pháp?… rốt ráo chẳng hành. Tán: Câu hỏi đáp thứ ba. Bên trong (nội) tức là thân, là sở y của ngã chấp. Bên ngoài (ngoại) tức là các pháp ngoài thân là sở y của ngã sở chấp. Chỉ hai pháp này không hiện hành thì ngã và ngã sở chấp tự diệt. xét. Kinh: Làm sao hai pháp rốt ráo chẳng hiện hành… không quán Tán: Câu hỏi đáp thứ tư. Hiển thị “không” trong và ngoài cần phải quán các pháp bình đẳng, không có phân biệt lay động, không có chỗ quán xét. Không có chỗ quán xét nghóa là quán tất cả các pháp không vô sở hữu, tức là bình đẳng, chẳng động chẳng lay. Kinh: Thế nào là bình đẳng… hai tánh đều không. Tán: Câu hỏi đáp thứ năm. Không Lý Nghóa ghi: “Ngã và Niết- bàn, trong Thắng nghóa đế, cả hai đều bình đẳng, do hai tánh kia là không, vô thể”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Biến kế sở chấp, ngã và Niết-bàn cả hai đều bình đẳng, vọng tâm chấp trước, vì tánh của nó đều không, chẳng phải chân Niết-bàn. Vả lại thể của nó chẳng phải là có, cùng với sở chấp ngã hư vọng là không. Niết-bàn chẳng phải là sở chấp hư vọng. Nếu chân Niết-bàn cũng là sở chấp hư vọng thì các Thánh làm sao chứng ngộ. Vả lại sở chấp đã có, khác với Niết-bàn nên gọi là chẳng bình đẳng. Sở chấp đã không, chẳng khác Niết-bàn cho nên bình đẳng. Kinh: Hai pháp này đã không… giả thuyết là không. Tán: Trong phần phá khổ hoạn của mình thì trên đã phá bệnh chấp có, sau đây là phá bệnh chấp không. Có ba: Nương theo ý trước mà phá hữu để hiển bày nghóa không. Chỉ bày chấp không cũng là đại khổ hoạn. Khuyên trụ nơi chân, xa lìa bệnh không và có. Đây là văn thứ nhất. Sở chấp chẳng có, lại có riêng thật không, nay hiển thị vì phá chấp có cho nên giả thuyết không, dùng danh từ giả không để phá chấp hai thật hữu; chẳng phải không tức là chân thật không. Kinh: Hai pháp này chẳng thật… chỉ có bệnh không. Tán: Ở đây là hiển bày nếu chấp không cũng là khổ não lớn. Gồm hai phần: Nơi chấp không là bệnh. Trừ bệnh chấp không này. Đây là lời văn thứ nhất. Chấp hai pháp này là có, đã là khổ não lớn, chấp không là không thì cũng là bệnh vậy, đều là vọng phân biệt chấp và sở chấp mà thôi. Kinh: Nên quán như thế… rốt ráo không. Tán: Đoạn này nói trừ bệnh chấp không. Không Lý Nghóa ghi: “Không chỉ bệnh chấp có đã thành không, mà bệnh chấp không, tánh của nó cũng không. Trong Thắng nghóa đế, rốt ráo đều không. Do đó các bệnh hư vọng của thế tục đều trừ”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Trên quán tánh của pháp cảnh đều không vô, biết tánh của năng chấp này cũng chẳng thật. Đã biết cảnh không là vọng chấp chẳng thật, thì tâm năng chấp không nhất định cũng chẳng thật, vì biến kế sở chấp rốt ráo không. Kinh: Bồ-tát có bệnh… mà lãnh các thọ. Tán: Đây là khuyên trụ chân, lìa bệnh hữu không. Đây là nói lìa tất cả hai bệnh không và hữu. Nói năng thọ tức là tâm và tâm sở pháp hay duyên, hay tu, hay chứng, hay lãnh nạp tất cả pháp. Nói sở thọ tức là tâm và tâm sở pháp là chỗ duyên, chỗ tu, chỗ chứng, chỗ lãnh nạp tất cả pháp. Hữu sở thọ tức là sở chấp hư vọng, hữu năng thọ tức năng chấp hư vọng. Bồ-tát có bệnh không nên dùng sở thọ hư vọng mà lãnh thọ các sở thọ”. Không Lý Nghóa ghi: “không có hai thọ thế tục nương vào thọ không của Thắng nghóa”. Ứng Lý Nghóa ghi: “không có hai thọ sở chấp nương vào hai thọ chẳng hư vọng. Nên không có sở thọ để lìa bệnh chấp hữu, mà thọ các thọ để lìa bệnh chấp không”. Kinh: Nếu nơi Phật pháp… thọ nhận các pháp. Tán: Đây trình bày riêng về việc lìa bệnh chấp có chấp không. Không Lý Nghóa ghi: “Phật pháp chưa viên mãn, chẳng nên nương vào Thắng nghóa mà diệt các thọ, chỉ cho rằng pháp không mà có sở chứng; cần phải nương vào tục đế mà lìa hai thọ hư vọng, cầu chứng ngộ viên mãn, diệt trừ bệnh”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Phật pháp chưa viên mãn, chẳng nên chỉ nương vào việc diệt sở chấp thọ. Một bề học không mà có sở chứng. Cần phải lìa năng thọ sở thọ sở chấp. Nương vào Y tha, Viên thành để cầu chứng ngộ viên mãn, trừ diệt nhân bệnh. Kinh: Nếu khổ đến thân… trừ diệt các khổ kia. Tán: Đây là phá trừ bệnh cho người, gồm bốn ý: Gặp duyên khởi tưởng. Hằng khởi tâm cứu độ. Biết pháp tánh không. Quán nhân thuyết pháp. Đây là văn thứ nhất. Nếu bệnh tăng, bệnh đến thân thì nên nhớ nghó đến người có bệnh khổ, khởi tâm đại bi mà nhổ trừ bệnh khổ cho họ. Ta có ít bệnh khổ mà còn khó có thể nhẫn chịu, nhờ người khác chữa trị, huống gì là người bị nhiều bệnh khổ, dài lâu khó chịu đựng nỗi, mà ta chẳng gia tâm cứu giúp ư? Kinh: Bồ-tát có bệnh… các bệnh của hữu tình. Tán: Hằng khởi tâm cứu độ. Nếu chẳng phải khổ tăng mà thường có bệnh thì nên luôn khởi niệm ấy, nghóa là quán ba cõi năm đường mà khởi đại bi. Kinh: Như thế trừ diệt… mà có thể trừ. Tán: Đây là nói về biết pháp tánh không. Quán thân của mình và người và các pháp đều không thật, thì đâu có một pháp nào để có thể trừ, cho nên các bệnh đều trừ, chẳng thấy có bệnh. Bản dịch xưa ghi: “Chỉ trừ bệnh ấy, mà không trừ pháp”; Không Lý Nghóa ghi: “Bản xưa nói bệnh hữu thì hư vọng, có thể trừ; pháp không thì chân thật, chẳng thể diệt, vì chân xưa nay là không, diệt đâu có chỗ để diệt. Ứng Lý Ng- hóa giải thích rằng: “Bản xưa nói bệnh do vọng chấp nên quán không để trừ. Pháp hữu vi vô vi chẳng phải là bệnh, đâu cần phải trừ bỏ”. Kinh: Nêu chánh quán xét… là chánh thuyết pháp. Tán: Đây là quán nhân thuyết pháp. Đầu tiên là nêu lên, sau là giải thích. Đây là đoạn nêu lên, quán xét nhân duyên bệnh của mình và người, nhanh chóng trừ diệt, mình đã trừ, sau trừ diệt cho người. Kinh: Thế nào gọi là… đều có bệnh. Tán: Giải thích. Đầu tiên gồm có năm câu hỏi đáp xoay vần phát sinh. Sau là kết luận đoạn trừ hai bệnh. Đây là câu hỏi đáp thứ nhất: Có tâm duyên lự tức có hư vọng, không có tâm phan duyên thì chứng không, bệnh liền diệt. Ứng Lý Nghóa ghi: “Duyên lự tức tâm tâm sở hữu lậu phân biệt. Do nhân duyên phân biệt này mà phân biệt liền khởi, cho nên vô minh sinh, vô minh đã sinh thì pháp chấp có, pháp chấp đã có thì ngã chấp có, ngã chấp đã có thì phiền não sinh, phiền não sinh thì nghiệp sinh, nghiệp sinh thì khổ sinh, vì thế mà có duyên lự, có tâm tâm sở pháp phân biệt hữu lậu làm nhân duyên cho bệnh, có duyên lự thì đều có bệnh. Thể của bệnh là khổ khổ, hành khổ và hoại khổ, đều là duyên lự của ba cõi, đều là bệnh. Kinh: Thế nào là duyên lự? Tức là duyên ba cõi? Tán: Câu hỏi đáp thứ hai. Tâm trong ba cõi, duyên nơi ba cõi, đó là duyên lự. Nếu trí gia hạnh chẳng duyên với ba cõi, phá trừ sinh tử thì chẳng phải là nhân của khổ, tất cả lý vô lậu chẳng phải là gốc của khổ, cho nên nói hữu lậu duyên khổ của ba cõi là duyên lự. Kinh: Vì sao biết được… thì không có duyên lự. Tán: Câu hỏi đáp thứ ba. Vì sao biết được tâm duyên lự này là nhân của các khổ? Nghóa là được trí xuất thế thì có thể liễu đạt được duyên lự hư vọng sinh khởi, các pháp sở chấp đều chẳng có được. Nếu khởi chánh trí đạt được vô sở đắc, thì không có duyên lự hư vọng trong ba cõi. Kinh: Thế nào là bặt duyên lự? Nghóa là chẳng duyên hai kiến? Tán: Câu hỏi đáp thứ tư. Làm sao dứt bặt được tâm duyên lự hư vọng? Nghóa là chẳng duyên hai kiến, tức trí vô phân biệt, trong chứng chân như, thì chẳng duyên hai kiến. Duyên nghóa là nương gá. Bản dịch xưa ghi “Hai kiến”, hai kiến vô sở đắc. Duy Thức ghi: “Nếu lúc bấy giờ nơi trí sở duyên đều vô sở đắc, thì trụ ở Duy thức, lìa hai tướng thủ”. Kinh: Thế nào là hai kiến? Đó là hai kiến trong ngoài. Tán: Đây là câu hỏi đáp thứ năm. Kiến bên trong tức ngã kiến, hoặc gọi là năng thủ; kiến bên ngoài là ngã sở kiến, hoặc gọi là sở thủ. Kinh: Nếu không có hai kiến… thì không có bệnh. Tán: Đây là tổng kết đoạn trừ hai bệnh. Đoạn này nói về mình không có bệnh. Nếu có hai kiến thì chấp có sở đắc. Nếu không có hai kiến thì vô sở đắc, chứng pháp chân như. Đã chứng đắc chân thì dứt bặt duyên lự hữu lậu vô lậu trong ba cõi. Duyên lự đã dứt, thì nhân chẳng khởi, quả khổ chẳng sinh, do đó không có các bệnh. Bản dịch xưa không có kết luận nên nghóa nêu trên không hiển bày. Kinh: Nếu mình không bệnh… bệnh của hữu tình. Tán: Đây là nói đoạn trừ bệnh cho người. Kinh: Thưa ngài Diệu Cát Tường… điều phục tâm kia. Tán: Đây là phần kết luận nói thắng giác hay đoạn trừ các khổ, gồm có ba: Kết luận. Nêu lên. Giải thích. Đây là đoạn kết luận ý trên dẫn sinh nghóa dưới. Kinh: Chỉ có Bồ-đề của Bồ-tát… tức là uổng phí. Tán: Đoạn này nêu thắng giác hay đoạn trừ các khổ. Thắng giác tuệ của Bồ-tát hay đoạn các khổ, chẳng phải tất cả Nhị thừa và ngoại đạo có được. Nếu chẳng phải thắng giác của Bồ-tát đoạn trừ được, thì việc tu tập của Bồ-tát trở thành uổng phí, vì chẳng có kết quả. Kinh: Vì sao?… mới gọi là Bồ-tát. Tán: Giải thích phần đã nêu trên. Đầu tiên là dụ, sau là hợp. Theo ý văn có thể biết được.  THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH SỚ <卷>QUYỂN 5 (PHẦN 1) Kinh: Diệu Cát Tường… chẳng thật chẳng có. Tán: Đoạn thứ hai nói về tâm điều phục tâm Nhị thừa, nói đại bi để phá chấp không. Nhị thừa chỉ có tự lợi, bị pháp chấp trói buộc, nay nói đại bi, diệu tuệ phương tiện để giải trừ, nên gọi là điều phục tâm Nhị thừa, nói đại bi để phá chấp không, vì chấp không thì chẳng có đại bi. Văn gồm ba đoạn: Nói về đại bi quán xét bệnh của mình và người. Từ câu vì sao… là giải thích nguyên do. Từ câu Bồ-tát như thế…, kết luận nói lìa trói buộc. Trong đoạn thứ nhất lại có hai: Quán tướng bệnh. Khởi đại bi. Đây là văn đầu. Bệnh của mình và người chẳng chân thật, chẳng nhất định là có vì do nhân duyên giả hợp mà thành. Kinh: Khi quán như thế… phát khởi đại bi. Tán: Đây là nói về khởi đại bi. Chẳng nên như phàm phu có ái mà khởi tâm Bi; chẳng nên như Nhị thừa khởi hai kiến mà phát tâm Bi, hoặc căn cứ theo văn sau, chẳng nên khởi ái đắm trước các thiền định mà khởi kiến chấp ái, không có tuệ phương tiện mà khởi tâm Bi, hoặc chẳng nên khởi kiến chấp thật có ái nhiễm danh lợi kia mà khởi tâm Bi. Chỉ nên đoạn trừ khách trần phiền não cho tất cả hữu tình mà khởi đại bi. Trước là nói điều chẳng nên, ở đây thì nói điều nên làm. Kinh: Vì sao?… mà có mệt mỏi nhàm chán. Tán: Giải thích nguyên do. Đây là giải thích lý do chẳng nên. Nếu đồng phàm phu và Nhị thừa khởi ái kiến, chấp trước ái nhiễm, ở nơi sinh tử tức có nhàm chán, phiền não chưa dứt, vật ngã chưa trừ, cho nên có lao nhọc mà sinh mệt mỏi nhàm chán. Kinh: Nếu đoạn trừ… thì không có nhàm mỏi. Tán: Đây là giải thích nên làm. Nếu phiền não đã đoạn trừ thì vật ngã liền bặt, nhiếp người đồng như mình, cho nên ở nơi sinh tử mà không nhàm mỏi. Kinh Bát-nhã ghi: “Diệt độ vô lượng chúng sinh như thế, thật không có chúng sinh được diệt độ”. Đây là tâm thường trụ, nhiếp người đồng với mình, không phải là tâm ái kiến trói buộc, cho nên thường độ sinh mà không mệt mỏi. Kinh: Bồ-tát như thế… trói buộc tâm kia. Tán: Phần thứ ba kết luận, lìa trói buộc có ba: Kết luận lìa trói buộc. Dẫn giáo chứng minh. Nói rộng về trói buộc và giải thoát. Đầu tiên nêu lên bốn phược, ba phược đầu là tự lợi; một phược sau là lợi tha. Đây là phược thứ nhất. Nương theo ý trước mà khởi văn sau, cho nên nói như thế, vì không nhàm mỏi, lại không có ái kiến trói buộc tâm kia, ở đây ý nghóa đắp đổi nhau. Trước nói không ái kiến, tức không có nhàm mỏi ở đây nói không nhàm mỏi, là không có ái kiến, cả hai làm nhân cho nhau. Kinh: Vì không có ái kiến… chứng đắc giải thoát. Tán: Đoạn này có hai phược. Vì ái kiến diệt nên chẳng có trói buộc; vì không bị trói buộc nên được đại Niết-bàn giải thoát. Kinh: Vì nơi sinh tử… chứng đắc giải thoát. Tán: Đây là phược lợi tha. Mình đã giải thoát thì có trí lực, liền thuyết diệu pháp khiến cho người lìa trói buộc, mà chứng giải thoát. Kinh: Đức Thế Tôn nương vào đây… thật không có việc ấy. Tán: Dẫn giáo chứng minh. Đầu tiên là lời dẫn, sau là kết luận. Nếu mình bị trói buộc, thì chẳng thể mở trói cho người, tức phàm phu và Nhị thừa. Nếu mình đã giải thoát, thì có thể giải thoát cho người, tức là các Đức Như Lai. Đây là nói rốt ráo làm lợi ích cho tất cả. Kinh: Vì thế Bồ-tát… xa lìa các sự trói buộc. Tán: Đây là lời kết luận. Kinh: Thưa ngài Diệu Cát Tường… gọi là Bồ-tát giải thoát? Tán: Đây là đoạn giải thích về giải thoát và trói buộc. Gồm có hai: Đầu tiên là hỏi, sau là đáp. Đây có hai câu hỏi. Kinh: Nếu các Bồ-tát… Bồ-tát giải thoát. Tán: Đáp, có hai đôi: Nói chấp trước thiền gọi là phược, không chấp trước thiền thì giải (giải thoát). Nói có trí mà không có xảo (khéo léo) gọi là phược (trói buộc), có trí có xảo thì gọi là thoát. Đây là đôi thứ nhất. Chấp trước bốn tịch lự, tám giải thoát, tám đẳng trì, chín đẳng chí thì gọi là phược; vì định chẳng tăng, tu các phẩm tuệ khác, nhiếp phục chúng sinh. Nếu trí thiện xảo, chẳng xả tịnh lự… mà tùy chỗ thích ứng nhiếp phục làm lợi ích chúng sinh trong ba cõi, tùy thuận sinh vào đó mà không tham trước, thì gọi đó là thoát. Kinh: Nếu không có phương tiện… gọi là giải thoát. Tán: Đây là nói không có xảo (khéo léo) mà có trí là phược (trói buộc). Gồm ba phần: Nêu lên. Giải thích. Giải thích diệu tuệ và thiện xảo sai biệt. Đây là phần một. Đoạn này có nghóa là nói: Nếu không có phương tiện thiện xảo, mà chỉ có diệu tuệ khéo nhiếp phục thì gọi là phược, như Nhị thừa… không có dụng của trí. Nếu có phương tiện thiện xảo và diệu tuệ khéo nhiếp phục thì gọi là giải, vì có phương tiện khéo léo, là dụng của tuệ. Kinh: Vì sao Bồ-tát… gọi là trói buộc? Tán: Đây là phần giải thích, có hai đôi. Bồ-tát trụ ở Nhị thừa vô học. Bồ-tát trụ ở Nhị thừa hữu học. Thứ nhất đều nói phược; thứ hai đều nói giải. Mỗi một phần thì đầu tiên là lời hỏi; thứ hai đều là lời đáp và cuối cùng là kết luận. Đây là hỏi về phược. Bản dịch xưa chỉ có hai đôi, lời văn khác, ý nghóa cũng bất đồng, nên xem xét kỹ. Kinh: Đó là các Bồ-tát… thành thục hữu tình. Tán: Đây là lời đáp. Nếu các Bồ-tát đồng với Nhị thừa dùng ba đẳng trì mà tự điều phục, có diệu tuệ khéo léo; do tu tập không, chẳng dùng tướng quý mà trang nghiêm nội thân, do tu vô tướng mà chẳng trang nghiêm cõi Phật, do tu vô nguyện mà chẳng lợi ích hữu tình thì gọi là không có phương tiện. Hoặc tùy chỗ thích ứng, chẳng cần theo thứ tự phối hợp. Bản dịch xưa ghi: “Dùng tâm ái kiến trang nghiêm cõi Phật…” nên nói dùng tâm không có chánh tuệ trang nghiêm cõi Phật, nên gọi là phược. Kinh: Các Bồ-tát này… thì bị trói buộc. Tán: Đây là lời kết luận. Kinh: Vì sao Bồ-tát… gọi là giải thoát. Tán: Đây là hỏi về giải thoát. Kinh: Nghóa là các Bồ-tát… tu tập để chứng ngộ. Tán: Đây là phần giải thích. Có hai: Giải thích có diệu tuệ. Giải thích có phương tiện. Đây là giải thích có diệu tuệ. Có tướng tức vô nguyện quán tánh y tha khởi. Vô tướng tức vô tướng quán tánh viên thành thật. Không có hai pháp này, quán và ngã sở đều bất khả đắc, đoạn nhiễm y tha mà tu tịnh y tha, gọi đó là tu tập nơi viên thành để chứng ngộ. Kinh: Lại dùng tướng quý và vẻ đẹp phụ… gọi là giải thoát. Tán: Đây là giải thích có phương tiện và kết luận. Bản xưa ý trước dịch là không quán xét, căn cứ theo văn trước có thể biết. Kinh: Vì sao Bồ-tát… gọi là trói buộc. Tán: Đôi thứ hai hỏi về phược (trói buộc). Kinh: Các Bồ-tát… sinh khởi chấp trước sâu nặng. Tán: Giải thích. Kiến nghóa là năm kiến, phiền não tức tham, sân, si mạn nghi; tám triền, ba phược thì như trước đã giải thích. Trên là nói về hiện hành. Tùy miên tức là chủng tử. Do an trụ nơi đây, nên khi tu gốc thiện không hồi hướng Bồ-đề, mà lại sinh chấp trước, thì có các phiền não không có phương tiện. Có thuyết giải thích rằng: Đây là cả hai đều không, tức tuệ và phương tiện đều không. Bản dịch xưa không có nói đến hồi hướng. Lấy cách giải thích thứ nhất làm chánh. Kinh: Các Bồ-tát này… gọi là trói buộc. Tán: Đây là kết luận. Kinh: Vì sao Bồ-tát… gọi là giải thoát? Tán: Đây là hỏi về giải thoát. Kinh: Các Bồ-tát… chẳng sinh chấp trước. Tán: Giải thích. Vì xa lìa các kiến, tu tập các thiện và hồi hướng Bồ-đề, chẳng sinh chấp trước hai loại. Kinh: Các Bồ-tát này… gọi là giải thoát. Tán: Kết luận. Kinh: Thưa ngài Diệu Cát Tường… đó gọi là tuệ. Tán: Đây là phần giải thích diệu tuệ và thiện xảo sai biệt. Gồm có hai: Đều giải thích tuệ. Giải thích phương tiện. Đây là giải thích tuệ. Hay quán các pháp, thân và bệnh đều là vô thường, khổ, không… thì gọi là tuệ, vì tuệ là năng quán. Kinh: Tuy thân có bệnh… gọi là phương tiện. Tán: Đây là giải thích phương tiện. Tuy có bệnh nhưng không nhàm mỏi, thường nhẫn nại hóa độ quần sinh, đó là dụng của tuệ. Kinh: Quán thân tâm… gọi là tuệ. Tán: Thứ hai, giải thích về tuệ. Thân tâm, tức là cái mà năm uẩn hòa hợp giả sinh ra bệnh, nương vào đây mà các khổ bức bách. Cả hai từ vô thỉ đến nay xoay vần nương nhau, sau sinh thì trước diệt, không giây phút gián đoạn. Chẳng phải xưa chẳng sinh, hôm nay mới sinh; chẳng phải xưa chẳng diệt nay mới diệt. Lại nếu nói mới có, tức là xưa đã bệnh, nếu nói xưa bệnh, thì có các niệm niệm mới sinh ra, vậy biết thân và bệnh có niệm niệm sinh diệt, cho nên nói là chẳng phải mới chẳng phải cũ. Kinh: Chẳng cầu thân tâm… gọi là phương tiện. Tán: Đây là giải thích phương tiện. Nhị thừa biết thân và bệnh sinh diệt, cầu rốt ráo diệt tận, vónh viễn nhập Niết-bàn, đó gọi là không có phương tiện. Bồ-tát chẳng như thế, chẳng cầu vónh viễn diệt, cho nên có phương tiện. Tuệ thì Nhị thừa đều có, dị sinh thì không có. Phương tiện thì Nhị thừa không có, Bồ-tát mới có. Kinh: Thưa ngài Diệu Cát Tường… chẳng điều phục tâm. Tán: Đoạn thứ ba, điều phục hai tâm, nói về hạnh Bồ-tát, luận chẳng nên trụ nơi đạo để phá cả hai. Văn gồm có ba: Nêu tổng quát. Lược giải thích. Giải thích rộng. Đây là phần nêu lên. Kinh: Vì sao?… Đó là sở hành của Bồ-tát. Tán: Đây là lược giải thích. Phiền não sinh tử, gọi là tâm chẳng điều phục; xuất thế lợi ích, gọi là tâm điều phục. Kinh: Nếu ở nơi này… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Giải thích rộng, gồm ba mươi bảy câu nói về sở hành của Bồ-tát, được phân làm hai: Ba mươi bốn câu đầu nói về chẳng đồng với sở hành của phàm phu và Nhị thừa; chỉ là sở hành của Bồ-tát. Ba câu sau nói về việc được chỗ hơn chẳng bỏ chỗ kém là sở hành của Bồ-tát. Trong ba mươi bốn câu đầu được phân làm bảy: Một câu đầu là nêu tổng quát. Bốn câu kế là theo thứ tự giải thích chẳng đồng phàm phu và Nhị thừa. Bốn câu kế thì hai câu nói chẳng đồng Nhị thừa; hai câu nói chẳng đồng phàm phu. Gồm bốn câu theo thứ tự nói chẳng đồng Nhị thừa phàm phu. Gồm bảy câu kế chỉ nói chẳng đồng phàm phu. Gồm hai câu, chỉ nói chẳng đồng Nhị thừa. Gồm mười hai câu, chỉ nói chẳng đồng Nhị thừa, đây là tổng kết. Xứ tức nơi chốn, tức nơi tu hành, hoặc là nơi chốn của đạo lý, những ý khác có thể tự biết được. Bản xưa chỉ có ba mươi mốt câu, hai mươi tám câu nói về việc chẳng đồng phàm phu và Nhị thừa, ba câu sau nói được chỗ hơn chẳng bỏ chỗ kém. Trong phần đầu lại có hai: Mười câu đầu nói xen về việc chẳng đồng phàm phu Nhị thừa, mười tám câu sau chỉ nói chẳng đồng Nhị thừa. Trong mười câu đầu lại phân làm bốn: Ba câu đầu nói xen về việc chẳng đồng phàm phu Nhị thừa; hai câu kế theo thứ tự nói về chẳng đồng phàm phu Nhị thừa; ba câu kế thì hai câu nói chẳng đồng Nhị thừa, một câu sau nói chẳng đồng phàm phu; hai câu cuối theo thứ tự nói chẳng đồng Nhị thừa phàm phu. Kinh: Nếu ở nơi quán xét… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Đoạn này gồm bốn câu, theo thứ tự nói chẳng đồng phàm phu và Nhị thừa. Ở đây gồm hai câu. Phàm phu quán sinh tử là cảnh sở hành thì liền khởi phiền não. Bồ-tát quán sinh tử mà không sinh phiền não. Nhị thừa quán Niết-bàn, liền rốt ráo tịch diệt; Bồ-tát quán Niết- bàn chẳng rốt ráo diệt. Kinh: Nếu nơi thị hiện… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Đoạn này gồm hai câu; phàm phu nếu thấy bốn ma thì thành việc ma, Bồ-tát thấy bốn ma thì vượt trên việc ma. Nhị thừa cầu quả trí, phi thời chứng đắc Thánh trí. Bồ-tát cầu chủng trí mà chẳng phải phi thời chứng đắc Thánh trí. Bồ-tát chứng trí, ngoài hợp với quần sinh, mà hay cứu giúp nên gọi là bất phi thời. Nhị thừa chứng Thánh trí, ngoài chẳng lợi sinh nên gọi là phi thời, vì chẳng ứng hợp thời, chẳng phải đạo lý. Kinh: Nếu cầu bốn đế… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Sau đây là bốn câu, hai câu đầu chẳng đồng Nhị thừa, hai câu sau chẳng đồng phàm phu. Đây là hai câu đầu. Bốn đế là phương tiện trước, quán nội chứng là pháp quán căn bản; phi thời chứng bốn đế là sở hành của Nhị thừa; chẳng phi thời chứng bốn đế là sở hành của Bồ-tát. Tự lợi chẳng lợi tha là phi thời; vừa tự lợi và lợi tha gọi là thời. Nếu chánh nội chứng, liền xả bỏ sinh tử, là sở hành của Nhị thừa. Tuy đã chánh nội chứng mà nhiếp thọ sinh tử là hạnh Bồ-tát. Kinh: Nếu hành tất cả… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Đây là hai câu sau nói chẳng đồng phàm phu. Phàm phu có duyên khởi liền sinh kiến thú. Bồ-tát hiện duyên khởi mà xa lìa kiến thú. Hiện duyên khởi nghóa là thấy sinh tử. Phàm phu thấy hữu tình và các pháp xen lẫn nhau thì có phiền não tùy miên. Bồ-tát thấy hai tướng tạp loạn mà không khởi phiền não tùy miên. Kinh: Nếu chánh quán xét… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Sau đây gồm bốn câu, thứ tự nói về việc chẳng đồng Nhị thừa phàm phu. Đây là hai câu đầu. Nhị thừa chứng vô sinh nên rơi vào chánh tánh Thanh văn, Bồ-tát chứng vô sinh chẳng đọa vào chánh tánh Thanh văn. Chánh tánh, tức lý nhân vô ngã, trí chứng chứng lý nhân vô ngã này gọi là chánh tánh; phàm phu nhiếp thọ hành xứ của hữu tình thì có hoặc chứng tùy miên; Bồ-tát nhiếp thọ hành xứ của hữu tình mà không có chủng tử phiền não. Kinh: Nếu chánh vui thích… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Đây là hai câu sau. Nhị thừa thích hạnh xa lìa cầu thân tâm diệt, nhập Niết-bàn; Bồ-tát thích xa lìa mà chẳng cầu thân tâm diệt vónh viễn vào Niết-bàn. Phàm phu quán ba cõi mà mê loạn chân như, Bồ-tát quán ba cõi chẳng mê loạn chân như. Pháp giới tức là chân như. Kinh: Nếu ưa thích quán xét… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Từ đây trở xuống là bảy câu, chỉ nói chẳng đồng Nhị thừa; phân làm hai: Ba câu đầu nói về hạnh đẳng trí; bốn câu nói về các hạnh khác. Đây là ba câu đầu. Nhị thừa quán tánh không thì không có, chỗ nương cầu, Bồ-tát quán tánh không, nhưng vẫn cầu công đức. Nhị thừa quán vô tướng, không giáo hóa chúng sinh ở ngoài, Bồ-tát quán vô tướng, bên ngoài vẫn giáo hóa chúng sinh. Nhị thừa quán vô nguyện, mà diệt tận hữu thú, Bồ-tát quán vô nguyện mà thị hiện nơi hữu thú, hữu tức ba cõi, thú tức năm đường. Bản xưa ghi: “Vô tác, tức là vô nguyện”. Kinh: Nếu thích dạo đi… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Đây là bốn câu nói về tu tập hạnh. Đoạn này gồm hai câu đầu. Vô tác tức không khởi tạo tác. Lý tánh không diệt, trước quán vô ngã cho nên thành sai biệt. Thế tức là phế bỏ. Nhị thừa dạo nơi không, chẳng khởi các hạnh. Bồ-tát dạo nơi không mà không có các hạnh thiện. Nhị thừa dạo nơi sáu độ liền thích Niết-bàn, Bồ-tát dạo nơi sáu độ mà chẳng thích Niết-bàn, vì trụ mà chẳng trụ; tâm hành của hữu tình là bờ kia diệu trí, vì là Niết-bàn. Bản xưa ghi: “Biết tâm tâm sở pháp”. Nghóa là hiển thị bờ kia mong cầu. Tuy biết mà chẳng cầu. Kinh: Nếu thích quán xét… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Nhị thừa tu hạnh vô lượng, cầu sinh phạm thế. Vì đó là nhân hữu lậu. Quả này ắt sinh ở sơ thiền. Bồ-tát tu hạnh vô lượng, cầu đại Bồ-đề, vì đó là nhân vô lậu. Nhị thừa dạo nơi sáu thông chứng Niết-bàn lậu tận, Bồ-tát dạo nơi sáu thông chẳng chứng Niết-bàn, trụ mà vô trụ. Kinh: Nếu thích kiến lập… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Đoạn này gồm hai câu, nói chẳng đồng phàm phu. Phàm phu kiến lập các pháp, duyên theo tà đạo, tà giải phân biệt các pháp, Bồ-tát kiến lập các pháp chẳng duyên tà đạo, hiểu rõ chánh lý để giải thích các pháp. Phàm phu khởi sáu niệm, tùy sinh các lậu, khởi các ái mạn… Bồ-tát khởi sáu niệm chẳng sinh các lậu, mà diệt các lậu. Kinh: Nếu thích quán xét… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Từ đây trở xuống gồm mười hai câu, chỉ nói về việc chẳng đồng Nhị thừa. Chia làm ba: Hai câu đầu nói về chẳng đồng lìa nhiễm thọ sinh; bảy câu kế tiếp nói chẳng đồng tu pháp Bồ-đề phần; ba câu cuối nói chẳng đồng chứng vô vi hữu vi. Đoạn này là hai câu đầu. Nhị thừa quán vô lậu, cầu mong lìa nhiễm; Bồ-tát quán vô lậu chẳng cầu lìa nhiễm, lưu giữ hoặc, đến khi hoặc tận trừ, chứng Phật Nhất thiết trí. Nhị thừa được định hữu lậu, tùy theo sức định mà thọ sinh, Bồ-tát đạt định vô lậu, chẳng tùy sức định thọ sinh. Kinh: Nếu thích dạo chơi… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Đây là bảy câu kế, nói về việc chẳng đồng tu pháp Bồ-đề phần. Đoạn này gồm ba câu. Nhị thừa tu niệm trụ cầu xa lìa thân, thọ, tâm, pháp; Bồ-tát tu niệm trụ chẳng cầu bốn viễn ly. Viễn ly tức đoạn phiền não. Nhị thừa khởi chánh đoạn, siêng năng đoạn trừ hai ác, siêng năng tu tập hai thiện, cho nên có thấy thiện và bất thiện; Bồ-tát từ vô phân biệt mà khởi bốn chánh đoạn. Chẳng thấy thiện và bất thiện. Nhị thừa khởi bốn Thần túc, chẳng có thể tự tại biến hiện, Bồ-tát khởi bốn Thần túc, tự tại biến hiện vì sức gia hạnh lớn. Kinh: Nếu thích dạo chơi… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Đoạn này gồm hai câu nói về Nhị thừa dạo nơi năm căn, tự mình đã được liền khởi diệu trí cảnh phân biệt các căn thắng liệt của hữu tình, Bồ-tát dạo nơi năm căn, không phân biệt, không khởi diệu trí cảnh phân biệt các căn của hữu tình. Tuy có sức căn thượng hạ nhưng vô phân biệt. Do đó bản dịch xưa ghi: “Vô phân biệt các căn lợi độn của tất cả chúng sinh”. Nhị thừa khởi năm lực chẳng cầu mười lực, Bồ-tát khởi năm lực mà cầu mười Lực. Kinh: Nếu thích an lập… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Đoạn này có hai câu. Thất giác của Nhị thừa đều viên mãn, nhưng do có phân biệt, nên sau đó cầu cảnh giới diệu dụng diệu trí sai biệt của Phật pháp; Bồ-tát cũng viên mãn thất giác nhưng vì vô phân biệt, nên chẳng cầu sở hành diệu trí diệu dụng sai biệt của Phật, vì quả trí đã viên mãn. Bản dịch xưa ghi: “Mà phân biệt diệu trí của Phật”. Văn thật trái nhau; chẳng đồng với Nhị thừa thì lý mới thành tựu. Bát chánh đạo của Nhị thừa đã viên mãn, nhưng nhàm chán và trái nghịch với tà đạo. Bồ-tát tám Chánh đạo cũng đã viên mãn, nhưng chẳng nhàm chán, mà thường giáo hóa họ. Bản xưa ghi: “Mà thích thực hành vô lượng Phật đạo”. Cầu quả viên mãn, Nhị thừa chẳng cầu làm Phật, cho nên chẳng thích làm. Kinh: Nếu cầu chỉ quán… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Đây là ba câu nói về chẳng đồng chứng vô vi hữu vi. Hai câu đầu nói chẳng đồng chứng vô vi, một câu sau nói chẳng đồng chứng hữu Nhị thừa cầu hai nhân chỉ quán, đọa vào rốt ráo diệt; Bồ-tát khởi chỉ quán chẳng rơi vào rốt ráo diệt, mà thường giáo hóa chúng sinh. Tư lương tức là nhân. Nhị thừa quán lý vô sinh diệt, chẳng có tướng quý và vẻ đẹp trang nghiêm thân và thành tựu Phật sự. Bồ-tát bên trong quán lý vô sinh, nhưng vẫn dùng tướng quý và vẻ đẹp trang nghiêm thân thành tựu các Phật sự. Đó là hai câu nói về việc chẳng đồng chứng vô vi. Sau là nói sự nghiệp hữu vi bất đồng. Nhị thừa khởi oai nghi, xả bỏ tất cả tâm duyên lự về Phật pháp. Đã phát khởi việc thế tục rồi thì chẳng thể quán sự lý xuất thế nữa; còn Bồ-tát hiện các oai nghi của Nhị thừa mà bên trong hay duyên với tất cả sự lý Phật pháp, vì sức gia hạnh lớn. Kinh: Nếu tùy các pháp… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Ba mươi bốn câu trên là nói về việc bất đồng với sở hành của phàm phu và Nhị thừa, ba câu này thì nói về hạnh được sự thù thắng chẳng bỏ pháp thua kém, gọi là sở hành của Bồ-tát: Nhập định hiện oai nghi. Chứng lý hiện các tướng. Đắc quả hiện tu nhân. Đoạn này gồm hai câu. Bản tánh rốt ráo thanh tịnh, chân như thường tịch. Diệu định tức là Định năng quán. Tuy được chân như nhưng lại hay duyên với định, tùy theo định mà thực hành, chẳng bỏ oai nghi mà hữu tình ưa thích, hoặc chẳng khởi diệt định mà hiện oai nghi, đó là một câu. Tất cả cõi Phật, tánh vốn không tịch, không thành, không hoại như hư không, đó là cõi pháp tánh. Tuy quán thù thắng tất cả cõi pháp tánh không vô tướng, nhưng chẳng phải không có các loại trang nghiêm cõi Phật, lợi lạc hữu tình, tu tập báo hóa độ kém. Đây là câu thứ hai. Kinh: Nếu thích thị hiện… là sở hành của Bồ-tát. Tán: Đoạn này gồm một câu. Tuy cầu hiện tám tướng thù thắng, nhưng vì Phật sự, nên chẳng bỏ việc tu tập các hạnh Bồ-tát kém thấp. Trong đó lại nói hai tướng của quả. Ba câu sau nói về việc hay thực hành việc thù thắng mà chẳng xả bỏ việc kém nhỏ. Kinh: Khi thuyết tất cả… phát tâm thú hướng. Tán: Đoạn thứ năm, kết luận nêu lợi ích. Tuy kế đến nói sở hành của Bồ-tát, Thiên tử phát tâm, nhưng là một phẩm nên cuối cùng nói lợi ích, vì thế thuộc về đoạn thứ năm của phẩm này mà chẳng thuộc văn sau. ------------------------------- <詞>PHẨM 6: BẤT TƯ NGHỊ Sau phẩm Phương Tiện gồm năm phẩm nói về hạnh lợi tha. Bốn phẩm đầu thuộc về ẩn tích lợi tha, vì chưa hiện đại thần thông, tùy loại mà cứu độ, cho nên gọi là ẩn tích lợi tha, tức mật quyền. Phẩm này hiện đại thần thông, nói về hiển tích lợi tha tức hiển quyền. Thần thông diệu dụng bậc thượng vị mới biết được, cho nên chẳng phải là chỗ suy nghó đến của người hạ vị, lại chẳng phải là chỗ tính bàn của hàng hạ vị. Nay ở phẩm này bàn luận rộng đến, cho nên gọi là phẩm Bất Tư Nghị. Bất tư nghị lấy tuệ căn vô lậu làm tánh, và thần thông làm thể, cảnh thần thông diệu dụng kia lại chẳng thể lường được, nên cũng gọi là Bất tư nghị. Kinh: Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử… nên ngồi ở đâu? Tán: Toàn phẩm được chia làm bốn đoạn lớn: Ngài Thu Tử suy nghó. Ngài Vô Cấu chê trách. Hiển thị Bất tư nghị, tức là câu: “Hỏi ngài Diệu Cát Tường mười phương ngồi…”. Chúng đương thời được lợi ích tức là câu: “Tám ngàn Bồ-tát được giải thoát”. Đây là văn đầu. Tâm nghó đến tòa ngồi, mong được ngồi. Văn xưa chỉ có ba, không có đoạn nói về chúng được lợi ích. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mong cầu tòa ngồi sao? Tán: Đoạn thứ hai ngài Vô Cấu chê trách. Gồm bốn phần: Hỏi ngài Thu Tử. Ngài thu Tử phản vấn. Ngài Vô Cấu giải thích rộng. Chúng đương thời được lợi ích. Đây là văn thứ nhất, hỏi do xưa nghó rằng chúng ta hôm nay vì nghe pháp, cả hai nên cùng nhau theo đến đó, đã chẳng cầu mong tòa ngồi cho nên nêu câu hỏi này. Kinh: Xá-lợi Tử… chẳng phải cầu tòa ngồi. Tán: Ngài Thu Tử đáp lại. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… huống gì là tòa ngồi. Tán: Thứ ba, ngài Vô Cấu giải thích rộng. Gồm ba phần: Nói tổng quát về cầu pháp. Nói riêng về cầu pháp. Tổng kết việc cầu pháp, tức là câu: “Cho nên Xá-lợi Tử! Nếu muốn cầu pháp…”. Đây là văn đầu. Phàm cầu pháp phải nên ở nơi năm minh mà cầu nghe chánh pháp của Phật, nên mạnh mẽ tha thiết cầu nghe, dẫu có được một câu thiện pháp mà khó khăn gian khổ cũng vui vẻ mà vào, huống gì là muốn nghe nhiều ngôn nghóa vi diệu. Tuy có yêu thích tự thân và các vật riêng tư, nhưng chẳng thể so sánh được với sự kính trọng ưa thích chánh pháp. Chẳng bao giờ đủ, chẳng bao giờ mỏi mệt, nhu hòa, tin sâu, tâm ngay thẳng, kiến giải ngay thẳng, mến đức mến pháp. Khi đến chỗ của pháp sư thì không có tâm cật vấn, chỉ khởi tưởng tuệ nhãn, diệu bảo trí minh, thắng quả, tâm ý vui thích, không lỗi lầm, rất mực cung kính, không có tâm cống cao ngã mạn, chẳng khởi tưởng phá giới, chủng tộc thấp kém, văn từ thô lậu, ý nghóa sai khác. Chỉ cầu điều thiện, không khoe đức hạnh của mình, không vì danh lợi mà cầu chánh pháp, luôn luôn ân cần cung kính nghe học; không nên khởi tâm tổn hại tìm cầu lỗi, chỉ cầu hiểu biết, chuyên tâm lắng nghe, thanh tịnh lãnh thọ giữ gìn, như thế gọi là cầu chánh pháp. Vì thế, nơi Tuyết sơn nghe được nửa bài kệ mà xả thân chẳng khó, Hương thành nghe được hết giáo mà bán thân rất dễ. Tất cả đều vì tôn trọng chánh pháp, mà chẳng kể đến thân mạng hà huống gì tòa ngồi? Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… cõi Vô sắc. Tán: Nói riêng về cầu pháp, gồm mười đoạn. Sở cầu nghóa là tu cầu chứng pháp, sở bất cầu nghóa là tuy có cầu biết, nhưng không cầu chứng đắc, gọi là chẳng cầu. Đây là văn thứ nhất, chẳng cầu pháp hư huyễn. Uẩn, xứ, giới và các pháp trong ba cõi đều hư huyễn. Kinh: Ngài Xá-lợi Tử… chẳng phải cầu pháp. Tán: Thứ hai, chẳng cầu pháp Nhị thừa. Nhị thừa chấp có tam bảo và bốn đế, đây chẳng cầu chấp biệt tướng tam bảo, chẳng phải không cầu Tam bảo; chẳng cầu hý luận phân biệt sai biệt biết khổ, đoạn tập chứng diệt, tu đạo nhưng chẳng phải không cầu chứng chân lý phi an lập đế. Kinh: Ngài Xá-lợi Tử… chẳng phải cầu viễn ly. Tán: Đoạn thứ ba, chẳng cầu pháp hữu lậu, có hai phần. Đây nói chẳng cầu ngăn chặn các pháp hữu lậu, vì pháp gọi là tịch tónh, là chân như và pháp cận tịch tónh là các pháp vô lậu khác. Nếu thực hành pháp hữu lậu sinh diệt thì chẳng phải là cầu pháp vô lậu và cầu pháp chân như viễn ly. Kinh: Các người cầu pháp… chẳng phải là cầu pháp. Tán: Trong phần chẳng cầu pháp hữu lậu, đoạn này nói chẳng cầu pháp phiền não tùy tăng. Pháp không có tham nhiễm, là chân như, lìa các tham nhiễm là các pháp vô lậu khác, đều chẳng có thể tham nhiễm. Kinh: Ngài Xá-lợi Tử… chẳng phải là cầu pháp. Tán: Đây là đoạn thứ tư, chẳng cầu pháp sở trí. Có hai cách giải thích. Một là chẳng cầu cảnh giới mà vọng tâm chấp thủ, vì chân như nhân duyên chẳng phải là cảnh vọng. Nếu tâm phân biệt chấp cảnh giới này thì chẳng phải là cầu pháp. Số tức là kế (chấp trước). Hai là, chẳng cầu cảnh giới hữu tướng sai biệt, vì chân như chánh pháp không sai biệt, số tức phân biệt. Kinh: Ngài Xá-lợi Tử… ngài chẳng phải là cầu pháp. Tán: Đoạn thứ năm, chẳng cầu pháp nhiếp khí. Thủ nghóa là nhiếp thủ (lấy), xả tức khí xả (bỏ). Các tâm phân biệt cho rằng pháp có lấy bỏ, nhưng nhân duyên chân như không có lấy bỏ, hoặc pháp có sinh diệt, có thể lấy bỏ; còn chân thì không sinh diệt, đâu có gì để lấy bỏ? Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… chẳng phải là cầu pháp. Tán: Đây là câu thứ sáu, chẳng cầu pháp ái nhiễm. Hay thâu giữ thì yêu mến (ái). Cái được thâu giữ này là sở duyên của ái. Vậy đã chẳng cầu tham ái, cho nên pháp chẳng thể thâu giữ, chẳng phải là cảnh ái nhiễm. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… chẳng phải là cầu pháp. Tán: Đây là câu thứ bảy, chẳng cần pháp hữu tướng. Chân như chánh trí đều là vô tướng, nếu tùy pháp tướng mà xa lìa, tức là cầu pháp tướng mà chẳng phải cầu pháp. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… chẳng phải là cầu pháp. Tán: Đây là câu thứ tám, chẳng cầu pháp thế tục. Các người cầu pháp chẳng cùng trụ nơi tất cả pháp thế tục, vì trong pháp chân như thì vô sở trụ. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… Chẳng phải là cầu pháp. Tán: Đây là câu thứ chín, chẳng cầu pháp bốn cảnh. Luận Đối Pháp ghi: “Nhãn thọ nhận là nghóa kiến, nhó thọ nhận là nghóa văn, tự nhiên suy nghó mà biết như thế là nghóa giác, sở thọ bên trong là nghóa tri (biết)”. Nhưng đối với Đại thừa thì căn thức và tâm hòa hợp thì gọi là thấy… Nhưng năm căn, nghóa mạnh hơn cho nên được lấy làm tên. Luận Du-già ghi: “Kiến tri thuộc hiện lượng, văn thuộc Thánh ngôn lượng, giác thì thuộc tỷ lượng”. Cho nên biết nhãn thì gọi là kiến, còn tỷ thiệt thân đều được gọi là tri, ý duyên với giáo gọi là văn, chỉ có riêng ý tư duy thì gọi là giác. Đối pháp lấy nhó làm cửa mà cho rằng ý duyên với giáo, cho nên nhó thọ nhận gọi là văn, kỳ thật văn (nghe) là do ý duyên với giáo. Bốn pháp này đều nương vào tâm hữu lậu sai biệt mà kiến lập, cho nên nói chân như chẳng phải là kiến văn. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… Chẳng phải là cầu pháp. Tán: Đây là câu thứ mười. Chẳng cầu các pháp phiền não ác ng- hiệp tạo tác. Các pháp vô lậu chẳng phải là chỗ tạo tác của các nghiệp ác phiền não, cho nên gọi là vô vi, vốn là cầu pháp này. Hoặc chỉ có chân như gọi là vô vi, vì đó là gốc của pháp. Kinh: Vì thế, ngài Xá-lợi Tử… nên không có chỗ cầu. Tán: Kết luận về việc cầu pháp. Các người cầu pháp chẳng nên cầu tất cả pháp phi pháp, đối với pháp phi pháp nên không cầu. Đối với pháp thì không cầu mà cầu, đó chính là cầu pháp. Kinh: Khi thuyết pháp này… được pháp nhãn tịnh. Tán: Đoạn thứ tư, chúng đương thời được lợi ích, đạt được quả Dự lưu. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… tòa sư tử cao lớn. Tán: Phần thứ ba, hiển thị bất tư nghị; có hai phần: Hiện sự bất tư nghị. Thuyết sự bất tư nghị, tức là từ câu “có pháp giải thoát gọi là chẳng thể nghó bàn”… Trong phần hiện sự bất tư nghị lại chia làm bốn đoạn: Hỏi về tòa ở phương nào. Ngài Cát Tường chỉ. Nói về việc đặt tòa. Ngài Thu Tử khen; theo văn có thể biết. Đây là đoạn đầu hỏi về tòa ngồi ở phương nào. Hỏi: Vì sao trước trách là nên cầu pháp chẳng nên cầu tòa ngồi, sau lại hỏi cầu tòa ở phương nào, mới đem đến mà đặt.? Đáp: Lý thì nên cầu chân chẳng nên cầu tục, vì thế đầu tiên là trách, lễ xong thì vì thuận theo cơ nghi, cho nên nay đặt tòa ngồi. Kinh: Ngài Diệu Cát Tường nói… an ổn trụ trì. Tán: Bồ-tát Diệu Cát Tường chỉ nơi chốn. Gồm hai phần: Chỉ nơi chốn; tán thán. Trong phần thứ nhất lại gồm chín câu: Chỉ nơi chốn; là phương Đông. Nêu xa gần, cách ba mươi sáu khắc-già-sa cõi Phật. Chỉ cõi Phật, là Sơn tràng. Nêu Đức Phật; là Phật Đăng vương. Nêu sự an lạc tức hiện đang trụ trì. Nêu thân lượng của Phật, tức tám mươi bốn ức du-thiện-na. Nêu tòa Phật cao rộng, tức sáu mươi tám ức du-thiện-na. Nêu thân lượng của Bồ-tát, tức bốn mươi hai ức du-thiện-na. Nêu tòa Bồ-tát cao rộng ba mươi bốn du-thiện-na. Đoạn này có năm câu, phối hợp riêng có thể biết được. Kinh: Thân Đức Phật ở cõi này cao… du-thiện-na. Tán: Đoạn văn này gồm bốn câu. Kinh: Cư só! Nên biết… đầy đủ các công đức. Tán: Đây là khen ngợi tòa thù thắng, chỉ ra để ông Vô Cấu lấy đem về, hoặc chỉ hóa tướng độ, hoặc chỉ tha báo độ, vì thế thân và quốc độ đều rất lớn. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… thần thông tự tại. Tán: Đoạn thứ ba, chính thức đặt tòa. Theo văn thì có ba phần: Khởi thần thông. Tòa đến. Khuyên ngồi lên tòa. Đây là văn thứ nhất. Đặt thứ tám trở lên, luôn ở nơi định, thuận theo thế tục mà khởi thần thông, khi nhiếp niệm thì lại nhập định. Kinh: Liền khi ấy ở phương Đông… trượng thất của Vô Cấu Xưng. Tán: Đoạn này nói về việc ngài Vô Cấu dời tòa đến. Có ba phần: Tòa đến. Việc kỳ lạ đặt biệt. Dung chứa. Đây là văn đầu tiên. Ứng theo số chúng đương thời nên có ba mươi hai ngàn ức tòa ngồi, hiển thị tòa chẳng thật, do sức thần tạo ra, nương hư không mà đến. Kinh: Các Bồ-tát này… trước chưa từng nghe. Tán: Đây là nói về việc kỳ lạ. Nghe có thể nghe ở xa mà xưa chưa được nghe, thấy là thấy việc ở gần, xưa chưa được thấy, khoảng giữa xa và gần cũng đều chưa có, cho nên nói là kỳ lạ. Kinh: Ngôi trượng thất tự nhiên rộng lớn… chẳng ngăn ngại nhau. Tán: Nói về ngôi trượng thất dung chứa; gồm có hai: Ngôi trượng thất biến hiện ra dung chứa tòa ngồi. Thế giới chẳng bị ép chật. Đây là văn thứ nhất. Ngôi trượng thất rộng lớn, sạch sẽ trang ng- hiêm mà chẳng dơ uế, có thể dung chứa tất cả các tòa sư tử. Khiến nhỏ thành lớn là thuộc về thư biến (duỗi) trong mười tám biến. Hoặc nhỏ có thể dung nạp lớn gọi là rộng, chẳng phải là biến thành rộng. Kinh: Thành Đại Quảng Nghiêm… trước sau không khác. Tán: Đoạn này là nói thế giới chẳng bị ép chật. Cõi Nam Thiệm- bộ nhỏ, tòa thì rất lớn, cả hai ở cùng một vị trí mà không ngại nhau. Thế giới nhỏ chẳng bị tòa lớn chướng ngại ép chật, cho nên nói vẫn như cũ, trước sau không khác. Trong hai mươi tám biến thuộc về biến các ảnh tượng nhập thân. Hỏi: Vì sao khiến trượng thất rộng, mà không làm cho thế giới cực nhỏ biến thành lớn? Đáp: Phương trượng là ngôi thất riêng. Đại chúng vân tập cho nên biến, thế giới là cõi chung, nên chẳng cần biến. Tính ngôi thất luận tòa ngồi, thì tất cả đều lớn hơn thế giới. Do sức thần thông tự tại mà có biến và chẳng biến. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… lên tòa sư tử. Tán: Từ đây xuống là phần thứ ba, chánh thức khuyên lên tòa ngồi, có hai: Khuyên thỉnh ngài Cát Tường lên tòa. Thỉnh đại chúng lên tòa. Đây là văn thứ nhất. Ngài Cát Tường dùng thần lực, chẳng đợi ông Vô Cấu thỉnh, theo phép tiếp khách, phải mời lên tòa, cho nên mới khuyên thỉnh. Kinh: Cùng với các Bồ-tát… xứng hợp với tòa sư tử. Tán: Mời những người khác lên tòa. Có hai: Mời. Ngồi. Đây là lời mời. Đạo lực chẳng cao, nên khuyên hiện thần lực, sợ chẳng tương xứng với tòa, cho nên phải biến thân. Kinh: Những vị được thần thông… đoan nghiêm mà ngồi. Tán: Đây là nói về lên tòa ngồi. Có hai: Bồ-tát lên tòa. Thanh văn lên tòa. Trong phần một lại có hai: Hiển năng lực của chính mình. Năng lực của người khác. Đây là văn thứ nhất. Thân và tòa ngồi tương xứng, cho nên gọi là đoan nghiêm. Kinh: Các vị Bồ-tát mới học… tòa sư tử. Tán: Hiển năng lực của người khác. Gồm có ba: Nói chẳng thể lên. Nói lợi ích. Mới lên được. Đây là văn đầu, những vị chứng lên được, tức các Bồ-tát trước Thập địa. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… được năm thần thông. Tán: Đây là nói lợi ích, được năm thần thông. Kinh: Tức dùng thần lực… đoan nghiêm mà ngồi. Tán: Đây là nói nhờ tha lực mới ngồi được. Kinh: Trong đó lại có… tòa Sư tử. Tán: Thanh văn lên tòa. Có năm phần: Chẳng thể lên. Hỏi. Đáp đã khuất phục. Nói lợi ích. Mới lên được. Đây là văn đầu nói về việc các Thanh văn không thể lên được. Thần lực của Nhị thừa, tuy đến Đại thiên, nhưng do tha lực chế phục nên không thể lên tòa, hoặc chẳng thể hiện thần thông, tùy thân lên tòa. Tòa đã cao rộng, vì thế chẳng thể lên được. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… chẳng thể lên tòa này. Tán: Đây là lời cật vấn. Chúng Thanh văn rất nhiều nhưng khó có thể đối đáp, ngài Thu Tử là bậc Thượng thủ, vì thế mới hỏi, để ông Vô Cấu biết được đạo của Thanh văn. Kinh: Xá-lợi Tử nói… tôi chẳng thể lên tòa. Tán: Trả lời đã bị khuất phục. Tòa quá phần sức của mình cho nên chẳng thể lên. Kinh: Vô Cấu Xưng nói rằng… mới có thể ngồi. Tán: Thứ tư, nói lợi ích. Tòa xuất xứ từ Phật Đăng Vương, cho nên bảo lễ kính. Cần phải được thêm thần lực mới có thể lên tòa, để hiển thị nếu quy kính thì nguyện ắt viên mãn, cũng hiển thị việc Phật gia trì để thực hiện các việc thiện. Nhưng trước thuyết cho Bồ-tát, khiến được thần thông mà lên tòa. Là vì căn cơ và giai vị đã kham nhận được. Còn ở đây các Thanh văn chỉ lễ Phật mà lên được tòa, chẳng được thần thông, vì căn cơ chưa thể kham nhận. Kinh: Lúc bấy giờ, các đại Thanh văn… đoan nghiêm mà ngồi. Tán: Phần thứ năm, mới lên tòa được. Thân và tòa tương xứng gọi là đoan nghiêm mà ngồi. Lễ tạ để được ngồi; quy kính gá nương, hiển thị chẳng phải là Thắng đạo để khiến phát tâm. Luận Thành Duy Thức ghi: “Nếu do sức định biến hiện, thì căn thân, khí giới, tự tha đều chẳng quyết định.” Do đó có thể biết tòa ngồi, thân lượng và thân đều do sức thần thông của người khác dẫn phát; thức tùy theo lớn nhỏ mà biến đổi, không trái nhau. Kinh: Xá-lợi Tử nói… chẳng ngại nhau. Tán: Trong phần hiện sự bất tư nghị, đây là đoạn thứ tư nói về việc ngài Thu Tử khen ngợi. Gồm hai: Khen ngợi trượng thất dung chứa. Khen thế giới vẫn như cũ. Đây là văn thứ nhất. Hỏi: Trước biến thành rộng lớn, thì ngôi thất chẳng phải là nhỏ, nay nói thất nhỏ, thì trái nghịch sao? Đáp: Có hai cách giải thích: Ngôi thất chẳng phải biến thành lớn, mà dùng nhỏ dung chứa lớn, nên gọi là rộng lớn; thất chẳng phải lớn, cho nên gọi là thất nhỏ. Ngôi thất biến thành lớn, lược có ba cách giải thích: Do thần lực biến thành lớn, cho nên trước nói rộng, hàng Thanh văn chẳng thể lường được nên còn thấy thất nhỏ, vả lại xưa nói đến mạt (ngọn) hôm nay, cho nên nói rộng lớn, nay luận đến bản, (gốc) khi xưa, cho nên nói nhỏ. Theo lý thật có biến thành lớn. Trước nói rộng lớn, đều thấy là nhỏ, nay nói thất nhỏ, thì cũng không trái nhau. Kinh: Thành lớn Quảng Nghiêm… trước sau không khác. Tán: Đây là khen thế giới vẫn như cũ. Về chỗ thấy theo trước giải thích thì thế giới lớn thất nhỏ; y theo cách giải thích sau thì thất lớn thế giới nhỏ, cho nên không bị ép chật. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… bất khả tư nghị. Tán: Đoạn thứ hai, nói về bất tư nghị. Nhân trước khen tặng mà giải thích rộng về việc hy hữu. Theo văn thì gồm có ba: Thuyết bất tư nghị. Ngài Ca-diếp tán thán. Lặp lại về giải thoát. Văn thứ nhất lại có ba phần: Nêu tổng quát. Nói rộng; tức từ câu: “Thưa ngài Xá-lợi-phất…”. Kết luận. Đây là phần một. Địa thứ tám trở lên gọi là bất thoái. Có thần thông tên là giải thoát; vì chứng chân giải thoát mới có thể phát khởi; cũng tên là giải thoát giải thoát định chướng cho nên gọi là giải thoát. Vì dụng của thần thông này khó lường, nên gọi là Bất tư nghị. Kinh: Nếu trụ như thế… hình lượng chẳng giảm. Tán: Từ đây trở xuống là phần nói rộng. Gồm có sáu phen mỗi một phen đều có phần nêu lên và kết luận. Sáu phen: Lớn nhỏ dung nhập nhau. Rộng hẹp lãnh nạp nhau. Đến đi tự tại. Kéo dài hay rút ngắn tùy ý. Vận chuyển tùy tâm; đồng loại đều đến. Năm phen đầu là chuyển cảnh; một phen sau là biến tâm. Trong phen thứ nhất lại gồm có năm: Nêu người năng biến. Chánh thức nói về thân biến. Không duyên nào chẳng biết. Căn cơ thành thục có thể ủy thác. Kết luận nói về sự sâu xa vi diệu. Đây là phần một; gồm có hai đoạn: Một là nêu người năng biến, tức Bồ-tát giải thoát; hai là nói về thần biến, núi và hạt cải dung nhập lẫn nhau. Hỏi: Núi lớn chẳng giảm, hạt cải nhỏ chẳng tăng, cả hai khác nhau làm sao mà dung nạp lẫn nhau? Đáp: Không Lý Nghóa ghi: “Thế tục hư giả, Thắng nghóa vốn không. Vì mê không và giả nên ngại nơi tâm, thì lớn nhỏ phân cách, nếu ngộ được huyễn hóa mà ý thông đạt, thì sao chẳng dung nạp nhau? Huống hồ lớn nhỏ cách xa, do mê nên chấp có, nếu đạt thắng nghóa không, thì ngại gì chẳng thông? Ứng Lý Nghóa ghi: “Lược có tám cách giải thích: Chấp có chỗ chấp thì lớn nhỏ sai biệt; biết chỗ chấp là không thì đâu có lớn nhỏ? Chẳng đạt y tha, cho rằng có thật lớn nhỏ, nếu thể hội được hư giả, thì lý nào chẳng thông? Sự có lớn nhỏ hoặc cho rằng chẳng thể dung nhập, nhưng lý đều viên thành, sao chẳng dung nhập được? Chấp pháp có tác dụng thì lớn nhỏ liền trái, biết pháp do nhân duyên, đồng như hư huyễn, thì nào có cách ngăn? Mê tâm chấp cảnh, cảnh thật thì khó dung chứa, biết cảnh đều do tâm đâu có gì chẳng được? Pháp chân có tướng thì lớn nhỏ chẳng dung nhập, biết Pháp vô tướng là chân, thì đâu có lớn nhỏ? Chưa khế hợp chân như thì tâm ngu tăm tối ngăn cách, biết chân đạt giả, thì trí sáng suốt thông đạt. Hàng giai vị thấp chẳng thể thông đạt; bậc Thượng nhân có oai lực thì việc gì chẳng hay. Đây là sức bất tư nghị chẳng phải là những hạng người khác có thể lường được. Hợp với trước thành mười câu, phần sau đều căn cứ theo đó mà biết. Nhưng tùy theo khả năng mới có thể làm được, mà chẳng thể cho là bất tư nghị thì liền trái với chánh lý. Lời này thành thật, người trí nên suy xét. Kinh: Tuy hiện như thế… đâu có đến, đâu có nhập? Tán: Đoạn thứ ba nói không duyên nào chẳng biết. Kinh: Chỉ khiến những người khác… nhập vào hạt cải. Tán: Đoạn thứ tư, căn cơ thuần thục. Hạng người thấy sức thần thông mà điều phục, tức là những người cần thấy thần thông để nhập đạo, là người có căn cơ thuần thục. Kinh: Như thế an trụ… Độc giác chẳng thể lường được. Tán: Kết luận, sâu xa vi diệu. Nhập tức chứng. Đây là sở chứng của trí thiện xảo của Bồ-tát, chẳng phải là cảnh giới mà hàng Nhị thừa phàm phu có thể biết được. Đã nói hơn Nhị thừa, thì phàm phu cũng không thể lường biết. Kinh: Ngài Xá-lợi Tử… hình lượng chẳng giảm. Tán: Phen thứ hai, hẹp rộng dung nạp nhau. Theo văn gồm có năm. Đoạn này có ba ý đầu là nói về người có thể biến hiện, và chánh thức nói về thần biến. Kinh: Tuy hiện như thế… lo sợ não hại. Tán: Thứ ba, không duyên nào chẳng biết. Có hai: Nói về sự linh nghiệm chẳng lường, tức là đoạn văn “nào có đến, nào có nhập” nói ở trước. Loài hữu tình chẳng kinh sợ tức là đoạn “Cũng chẳng làm cho chúng…” Kinh: Chỉ khiến những kẻ khác… chẳng phải là hàng Độc giác có thể lường được. Tán: Đoạn này có hai là: thứ tư hàng căn cơ thuần thục có thể ủy thác và thứ năm là kết thành sâu xa vi diệu. Kinh: Lại ngài Xá-lợi Tử… không có tăng giảm. Tán: Phen thứ ba là nói đến đi tự tại, theo văn gồm có năm. Đây là hai đoạn đầu: Nêu người năng biến hiện, chánh thức nói về thần biến. Đào gia luân tức là bánh xe ép gạch của người thợ gốm, đặt trong lòng bàn tay tự xoay chuyển mà ném ra rồi lại thâu về. Kinh: Tuy hiện như thế… cũng không làm lo sợ. Tán: Đoạn thứ ba nói không duyên nào chẳng biết. Sức vận động đã lớn, mà chẳng làm cho họ sinh khởi ý tưởng là có qua lại và không sợ hãi. Kinh: Vả lại thưa ngài Xá-lợi Tử… mà làm cho họ điều phục. Tán: Phen thứ tư, kéo dài rút ngắn tùy ý. Theo văn cũng có năm. Đây là đoạn đầu chánh thức nói về thần biến, lại có hai: Nói về việc làm. Nói về thần biến. Có thấy sinh tử tương tục ở thời gian dài thì mới có thể điều phục, vì kéo ngắn thành dài, có thấy sinh tử tương tục trong thời gian ngắn thì mới có thể điều phục, vì rút dài thành ngắn. Đây là nói việc làm, để hiển rõ việc thần biến nói ở sau. Kinh: Có thể dùng thần thông… mà khiến cho được điều phục. Tán: Thứ ba, chánh thức nói về thần thông. Kinh: Tuy hiện như thế… rõ biết được kéo dài hay rút ngắn. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Không duyên nào chẳng biết, tức câu “thời gian dài ngắn…” trở lên. Căn cơ thuần thục mới ủy thác, tức câu: “Chỉ làm cho những người khác…” trở xuống. Kinh: An trụ như thế… Độc giác chẳng thể lường được. Tán: Kết luận nói sâu xa vi diệu. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… chỉ bày các hữu tình. Tán: Phen thứ năm, vận chuyển tùy tâm. Theo văn cũng có năm. Nêu người hay biến hóa. Chánh thức nói về thần biến. Phần chánh thức nói về thần biến, gồm bảy câu: Gom các cõi Phật. Biến khắp mười phương. Hiện vật cúng tốt đẹp. Hiện khắp các sắc tượng. Có thể hút phong luân. Có thể hút lửa vào bụng. Ném các thế giới. Đoạn này có một câu nói về gom các cõi Phật. Kinh: Vả lại dùng thần lực… mà chẳng di chuyển. Tán: Biến khắp mười phương. Có hai cách giải thích: Ý thế thông, nghóa là chẳng phải dùng thân để đi mà dùng thế lực của ý, biến làm hữu tình đi khắp cõi nước trong mười phương để chỉ các cõi Phật, chẳng phải chỉ biến thân đi cùng khắp. Các hữu tình ấy trụ tại một cõi Phật, chưa từng di chuyển. Ý thế thông, tức vận động chỗ tạo tác của thân, tùy thuận thế lực của ý thì rất nhanh chóng, trong một sát-na đến khắp mười phương, chẳng đồng với việc thân của Tiểu thừa đến khắp mọi nơi. Tuy mang hữu tình đến các thế giới ở mười phương, nhưng đó chỉ là các Báo độ, các cõi Phật riêng biệt, vì pháp tánh tự tại, hoặc trụ ở Báo độ, trong một cõi Phật mà không di động. Kinh: Lại dùng thần lực… các sắc tượng như tinh tú… Tán: Đoạn này có hai: Câu thứ ba là nêu lên vật cúng tốt đẹp, câu thứ tư là hiện các sắc tượng. Kinh: Lại dùng thần lực… đều không tổn hại. Tán: Đoạn này có hai câu: Câu thứ năm có thể hút phong luân, câu thứ sáu là nói có thể hút lửa vào bụng. Kinh: Lại dùng thần lực… đều không tổn hại. Tán: Câu thứ bảy, ném các thế giới, tức thân trụ ở phương dưới lấy một thế giới; ném qua phương trên cách đây hơn vô số thế giới, tuy đặt ở một cõi khác nhưng thế giới ấy vẫn không bị tổn giảm, như dùng một cây kim găm vào một lá táo không có gì khó khăn. Kinh: Tuy hiện như thế… liền thấy việc này. Tán: Đây là đoạn thứ ba trong phần vận chuyển tùy tâm, nói về không duyên nào chẳng biết và đoạn thứ tư là hàng căn cơ thần phục mới được ủy khác. Kinh: An trụ như thế… Độc giác chẳng thể lường được. Tán: Kết luận nói sâu xa vi diệu. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi-phất… các loại sắc tượng. Tán: Phen thứ sáu nói về đồng loại đều đến. Văn chỉ phân làm hai: Biến thân. Biến ngữ. Biến thân lại có hai: Biến mình. Biến người. Đoạn này là nêu người hay biến và biến mình. Hoặc Thánh hoặc phàm, hoặc thầy hoặc trò, như văn đã nói, chẳng cần lặp lại. Kinh: Hoặc dùng thần lực… các loại sắc tượng. Tán: Đây là biến thân người khác. Kinh: Hoặc dùng thần lực… vi diệu bậc nhất. Tán: Đây là nói biến ngữ. Ví như biến lời nói của mình có năng lực quyết định. Gồm hai phần: Một là, biến âm thanh pháp vô ngại; biến âm thanh từ ngữ vô ngại. Một phen sau cùng từ câu: “Hoặc dùng thần lực… trở xuống”. Trong phần đầu lại có ba: Chuyển thành âm thanh của Phật làm căn bản. Có thể thuyết pháp… từ âm thanh của Phật lưu xuất. Kết luận nêu lợi ích. Đây là văn thứ nhất có thể chuyển âm thanh của ba phẩm hữu tình, đồng thời tạo thành âm thanh Phật, đều là bậc nhất. Kinh: Từ âm thanh của Phật này… ngôn từ sai biệt. Tán: Từ đây xuống là phần thứ hai; hay thuyết pháp, từ âm thanh Phật lưu xuất. Có ba câu: Thuyết pháp. Hiển ba thừa. Xuất âm vận. Đây là câu đầu. Kinh: Cho đến tất cả… đều từ trong đó lưu xuất. Tán: Đây là hiển âm thanh Tam thừa thuyết pháp. Kinh: Cho đến mười phương… từ âm thanh Phật lưu xuất. Tán: Đây là nói về âm vận. Âm vận của chư Phật, đều có thể lưu xuất. Kinh: Khiến cho tất cả… đều điều phục. Tán: Kết luận nêu lợi ích. Tùy theo các loại căn cơ khác nhau, tất cả đều điều phục. Kinh: Hoặc dùng thần lực… mỗi mỗi đều được lợi ích. Tán: Đây là nói biến âm thanh ngôn từ vô ngại, đều khiến cho được lợi ích. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi-phất… rốt cuộc chẳng cùng tận. Tán: Trong phần thuyết Bất tư nghị, từ đây trở xuống là phần thứ ba, kết luận để thành tựu nghóa nói ở trước, có hai: Kết luận nói trí của mình biện biệt khó cùng. Nói sự giải thoát của người khó tận. Đây là văn đầu. Kinh: Như trí tuệ của ta… vì vô lượng. Tán: Đoạn này là nói sự giải thoát của người khó tận. Kinh: Lúc bấy giờ, Tôn giả… khen là điều chưa từng có. Tán: Trong phần thuyết Bất tư nghị, từ đây trở xuống là phần thứ hai, Ca-diếp khen và tự hận, gồm hai câu: Khen và tự hận. Nói về lợi ích. Đây là văn đầu, gồm có hai: Khen. Tự hận. Đây là phần khen ngợi. Kinh: Liền nói với Tôn giả… cũng chẳng thể liễu ngộ. Tán: Tự hận gồm có sáu câu: Hận mình chẳng biết. Nói trí có thể ngộ. Than không phát thú. Oán mình mà buồn khóc. Mừng người đạo cao. Hiển thị hay phá ác. Đây là đoạn nói về hận mình chẳng biết. Theo văn gồm có hai là dụ và hợp. Kinh: Ai là bậc có trí… tâm Chánh đẳng Chánh giác. Tán: Thứ hai nói về trí có thể ngộ, vì thế mà phát tâm. Kinh: Chúng ta hôm nay… lại nên làm thế nào? Tán: Thứ ba là than không phát thú. Tuy đã có nhân Đại thừa, nhưng lại bị cực quả của Thanh văn làm tổn hại, đã đoạn phiền não mà như hạt giống hư thối, không thể làm gì được; đó là khi chưa phát tâm, mà tự khiêm nhường, chẳng phải nơi hội Pháp Hoa thì chẳng được thọ ký làm Phật. Kinh: Chúng ta tất cả… đại thiên thế giới. Tán: Thứ tư, oán mình buồn khóc. Kinh: Tất cả Bồ-tát… thế lực tin hiểu. Tán: Thứ năm, vui mừng thấy người đạo cao, vì có thế lực hay sinh, hay tưởng, tin hiểu kiên cố. Kinh: Nếu có Bồ-tát… không có khả năng tạo tác. Tán: Thứ sáu, hiển thị có thể phá ác, chẳng thể làm gì được. Kinh: Nên ở nơi Tôn giả… tâm Chánh đẳng giác. Tán: Kết luận nêu lợi ích. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… Bồ-tát giải thoát. Tán: Trong phần thuyết Bất tư Nghị, từ đây trở xuống là phần thứ ba lặp lại nghóa giải thoát. Có hai đoạn: Nói ma vương phần nhiều là giải thoát. Nói người ăn xin lớn phần nhiều cũng giải thoát. Trong đoạn một lại có hai: Nói ma vương phần nhiều là giải thoát. Giải thích lý do. Đây là văn đầu. Kinh: Phương tiện khéo léo… vì các hữu tình. Tán: Đây là giải thích lý do dùng phương tiện độ làm nhiều ma vương để lợi ích chúng sinh. Kinh: Đại Ca-diếp-ba… Bồ-tát giải thoát. Tán: Sau đây là nói về người hành khất lớn phần nhiều cũng giải thoát. Có hai: Hiển. Kết luận. Trong phần hiển bày lại có ba: Nói về chỗ tạo tác. Giải thích lý do. Lặp dụ để rõ nghóa. Đoạn thứ nhất lại có hai: Nói về vật xin. Nói về người xin. Vật xin có hai loại: Nội tài vật và ngoại tài vật. Ngoại tài vật gồm có bảy: Thân thuộc. Đất đai ở thế gian. Địa vị tôn quý. Ẩm thực. Vật trang sức. Bốn sự. Tài sản riêng tư. Kinh: Dùng xảo phương tiện… ý lạc vững chắc. Tán: Giải thích lý do. Đầu tiên là nêu lên, sau là giải thích. Đây là phần nêu lên. Muốn khiến cho ý lạc của Bồ-tát vững chắc, cho nên làm đại hành khất để thử nghiệm. Kinh: Vì sao?… vì việc này mà cầu xin. Tán: Đây là hiển rõ nghóa trước. Vị đại hành khất là Bồ-tát dũng mãnh vì làm lợi ích chúng sinh mà làm việc khó làm này, chẳng phải hàng hạ liệt có thể làm đại hành khất được vì ý chí kém cỏi. Kinh: Đại Ca-diếp-ba… vì việc này mà cầu xin. Tán: Đây là dụ để hiểu rõ. Có hai ví dụ: Nói về lực lớn hay bức bách. Nói về lực đối địch hay bức bách. Đây là văn đầu. Bồ-tát trước Địa thứ bảy làm vị đại hành khất giống như lửa đom đóm, vì giai vị thấp, chẳng thể bức bách bậc đại thí Bồ-tát, Bậc đại thí Bồ-tát giống như mặt trời oai thế rất lớn. Bồ-tát Địa thứ tám trở lên là Bồ-tát giải thoát mới có thể làm đại hành khất, mà bức bách được, vì có oai lực rất lớn, hoặc mới có thể bố thí lớn, chẳng phải là việc các giai vị thấp làm được. Kinh: Đại Ca-diếp-ba… cộng tướng bức bách. Tán: Đây là nói lực đối địch bức bách. Theo văn ý có thể biết. Kinh: Đó gọi là an trụ… cảnh giới giải thoát. Tán: Đây là thứ hai, kết luận. Kinh: Khi thuyết pháp này… cảnh giới giải thoát. Tán: Đoạn thứ tư của phẩm là phần kết luận nêu lợi ích. Cảnh giới giải thoát là Bồ-tát Địa thứ tám trở lên. Nay ở đây nói nhập, thì đều là chứng quả vị bất thoái. ------------------------------- <詞>PHẨM 7: QUÁN HỮU TÌNH Năm phẩm: Phương Tiện, Thanh Văn, Bồ-tát, Vấn Tật, Bất Tư Nghị nói về hạnh hay lợi ích. Còn phẩm này nói về chỗ được lợi ích. Sợ rằng nói chỗ được lợi ích thì chấp có thật chúng sinh, nên nay phá chấp kia, chỉ rõ tất cả đều chẳng thật, chỉ có giả hữu tình để làm chỗ lợi ích, cho nên một phẩm này gọi là chỗ được giáo hóa. Quán nghóa là quán xét, hữu tình tức cảnh chúng sinh được hóa độ. Trí tuệ phân biệt, chúng sinh được hóa độ, tuy có hóa độ nhưng chẳng phải thật có, nên gọi là quán hữu tình. Phẩm này nói rộng về việc ấy nên gọi là phẩm Quán Hữu Tình. Tuy phẩm này lại nói về hạnh thù thắng, nhưng chúng sinh được hóa độ là chủ, nên gọi là quán hữu tình; hoặc do quán hữu tình mà khởi thắng hạnh nên gọi chung là phẩm Quán Hữu Tình. Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Diệu Cát Tường… quán các hữu tình. Tán: Toàn phẩm được chia làm hai đoạn lớn: Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi đáp để nói về hạnh Bồ-tát. Thiên nữ đối đáp pháp chấp của Thanh văn. Trong đoạn lớn thứ nhất thì đầu tiên quán sở hóa và sau đó là nói về hạnh lợi lạc. Trong phần quán sở hóa lại có hai: Hỏi. Đáp. Đây là lời hỏi. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… tất cả hữu tình. Tán: Đây là lời đáp. Có hai, Không Lý Nghóa ghi: “Đầu tiên quán tục đế giả có hữu tình; kế đó quán chỗ chấp trước vốn không có hữu tình”. Đây là văn đầu. Tánh y tha khởi như việc huyễn, chỉ tương tợ mà chẳng chân thật. Kinh: Lại ngài Diệu Cát Tường… quán uẩn thứ sáu. Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Ở sau nói quán chân đế vốn không có hữu tình”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Sau nói quán chỗ chấp trước vốn không có hữu tình”, văn có hai ý: Đầu tiên nói rộng về dụ để chỉ rõ không có, sau kết luận nghóa trước, giải thích nguyên do là không. Trong phần đầu gồm có ba mươi ba câu, bản xưa chỉ có hai mươi chín câu. Đoạn này gồm mười câu đầu, tức là câu: “Như có người trí…” trở xuống là thuộc về dụ. Từ câu “Các Bồ-tát…” trở xuống là theo lời vấn nạn mà giải thích. Những ý khác thì dễ biết. Quán mé trước như bọt nước tụ mà có, mé trước vốn không, vì xưa nay không. Kinh: Quán căn thứ bảy… các độc tham, sân, si. Tán: Đoạn này gồm mười câu. Tiếng Phạm Tát-đỏa, Hán dịch là hữu tình, tức nói sáu căn. Bản xưa do đó nói là tình thứ bảy, nay nói căn. Trong cõi Vô sắc có định cảnh sắc, không có Nghiệp quả sắc. Ở đây nói nghiệp quả sắc. Tát-ca-da kiến chung cho câu sinh phân biệt, quả Dự lưu trở lên không có phân biệt, chẳng phải là không có câu sinh. Kinh Lăng-già ghi: “Đức Phật bảo Đại Tuệ rằng thân kiến có hai loại là câu sinh và vọng tưởng; vọng tưởng tức phân biệt Tát-ca-da kiến”. Quán hữu thứ ba là nhất lai, người đạt quả Nhất lai lại có hai lần sinh, tức từ cõi trời sinh làm người, chỉ có hai lần sinh; đây là căn cứ theo nghóa sinh Tiểu thừa, chẳng phải theo nghóa sinh của Đại thừa. Quả bất hoàn, chẳng sinh vào Dục giới, nên không vào thai. Kinh: Quán Bồ-tát đắc nhẫn… chẳng sinh phiền não. Tán: Đoạn này gồm mười câu. Bồ-tát Địa thứ tám trở lên gọi là đắc nhẫn, vì nhẫn được tương tục, cho nên không bỏn sẻn… Địa thứ bảy còn khởi tâm này vì lợi ích. Hoặc cho rằng Sơ địa trở lên được tánh giới, hoặc mới được nhẫn, không có bỏn sẻn… Đệ tứ thiền trở lên không còn hơi thở ra vào hà huống gì diệt định. Bán-trạch-ca, Hán dịch là tuyệt thế, tức là hoàng môn, tất cả gồm năm loại: Sinh tiện, trừ khử, tật đố, bán nguyệt, quán sái. Địa thứ tám trở lên tuy chưa đoạn tất cả phiền não nhưng vô lậu đã được tương tục; vì thiếu duyên nên phiền não chẳng sinh, do đó gọi là rốt ráo chẳng sinh phiền não. Kinh: Quán cảnh mộng khi đã tỉnh dậy… sau có tương tục. Tán: Đây là ba câu sau. Trong giấc mộng thấy cảnh, chưa biết là cảnh không, cho nên nêu lên khi đã thức quán cảnh mộng kia. Bậc vô học thì phần đoạn hậu hữu đều không, chẳng phải không có biến dịch. Kinh: Như thế Bồ-tát… không có hữu tình. Tán: Kết luận nghóa đã nói ở trên, giải thích lý do của không. Không Lý Nghóa ghi: “Trong Thắng nghóa đế, các pháp vốn không, chẳng có hữu tình”; Ứng Lý Nghóa ghi: “Biến kế sở chấp, các pháp đều không, không có hữu tình”. Kinh: Bồ-tát Diệu Cát Tường nói… tu tập đại bi. Tán: Đây là nói về hạnh lợi lạc. Gồm hai phần là: Nói về hạnh lợi tha. Hạnh tự lợi. Phần thứ nhất gồm có bốn đoạn nói về bốn Vô lượng, mỗi mỗi đoạn đều có hai phần là hỏi và đáp. Đây là câu hỏi thứ nhất. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… rốt ráo an lạc. từ. Tán: Đây là lời đáp, có ba: Nêu tổng quát. Nói rộng. Kết luận. Đây là văn thứ nhất. Từ có ba như trước đã nói: Vì hữu tình, duyên với hữu tình mà khởi gọi là hữu tình duyên Thuyết pháp như thế, duyên với pháp mà khởi, gọi là pháp duyên từ. Ban cho niềm vui rốt ráo, duyên với như mà khởi gọi là vô duyên từ. Kinh: Như thế Bồ-tát… lìa trong ngoài. Tán: Đây là nói rộng về từ, gồm ba mươi tám câu, phân làm hai, ba mươi câu đầu nói riêng về tu tập vô duyên từ, pháp từ và hữu tình từ, đây là theo thứ tự chứng đắc hơn kém. Tám câu sau là nói riêng về tu tập hữu tình từ, pháp từ và vô duyên từ, đây là căn cứ theo thứ tự trước sau của quán hành. Trong ba mươi câu đầu lại phân làm ba: Chín câu đầu nói về vô duyên từ, vì duyên chân như, mười một câu kế nói về tu pháp duyên từ, duyên pháp mà khởi, mười câu sau nói về tu hữu tình từ, duyên hữu tình mà khởi. Pháp duyên từ có hai: Duyên với hữu tình đều không thật thể, chỉ có pháp năm uẩn mà ban cho niềm vui, nên gọi là pháp duyên. Duyên với diệu pháp mà giáo lý hạnh quả đã có, gọi là pháp duyên từ. Ở đây chỉ nói đến loại sau, chẳng nói đến loại trước. Ở đây cũng chỉ lấy tăng thượng làm sở duyên; như tu tập chánh pháp rồi ban cho chúng sinh, vì trước duyên với pháp cho nên gọi là pháp duyên từ, như duyên với hữu tình mà tu tập chánh pháp, trước duyên với hữu tình, cho nên gọi là hữu tình duyên từ. Cả hai hoặc gọi chung là pháp hữu tình duyên, vì cả hai đều có. Chân tục cùng quán, ba loại từ đều có, theo lý cũng không trái nhau. Bản xưa chỉ có hai mươi chín câu. Hai mươi bốn câu đầu giải thích riêng về vô duyên từ, pháp duyên từ và hữu tình duyên từ; năm câu sau giải thích riêng về hữu tình duyên, pháp duyên và vô duyên. Hai mươi chín câu đầu thì chín câu thứ nhất nói về vô duyên từ, chín câu kế nói về pháp duyên và sáu câu cuối nói về hữu tình duyên. Đây là nêu lên năm câu đầu. Tâm Từ vô duyên xa lìa năng thủ và sở thủ, cho nên tu tập tịch diệt; lìa sự nhiễu loạn của phiền não, cho nên tu tập không nóng đốt; lý ba đời đều như nhau, cho nên tu tập như thật; không có nhân đẳng khởi, cho nên tu tập không trái nghịch; có sự sinh khởi từ bình đẳng, vì đồng là hữu vi, có thuận có nghịch; chân như không có nhân, không có chỗ mê chấp, cho nên tu tập không trái nghịch; chân như không trong ngoài, cho nên tu tập không hai. Kinh: Tu tâm Từ không hủy hoại… đồng như hư không. Tán: Đây gồm bốn câu sau của vô duyên từ. Chân thì rốt ráo trụ, cho nên tu không hủy hoại, vì không có thời gian hoại diệt. Bản xưa ghi: “Rốt ráo tận”, tức rốt ráo diệt tận các phiền não, cho nên thể chẳng hoại; hay duyên với ý lạc giống như kim cang, cho nên sở quán bền chắc khó phá. Tâm từ được tu tập gọi là tâm từ kiên cố. Chân tánh vốn tịnh, cho nên tu thanh tịnh. Chân như hư không, cho nên tu bình đẳng. Kinh: Tu tâm Từ A-la-hán… không nghỉ ngơi. Tán: Từ đây về sau là mười một câu, nói về tu pháp duyên từ, được chia làm ba: Ba câu đầu nói về ba thừa; hai câu kế nói về hai thân pháp báo, sáu câu sau nói về quả vị. Đây là ba câu nói về tâm Từ của ba thừa. Tâm Từ A-la-hán, lược có ba nghóa: Giết giặc phiền não. Không có phần đoạn sinh tử. Đáng được nhận của cúng dường quý báu. Ở đây nói theo nghóa thứ nhất. Chỉ riêng chứng Bồ-đề cho nên chẳng cầu thầy, chẳng cần trò, chẳng thể lợi cho người, nuôi dưỡng đệ tử. Hai hạnh của Bồ-tát làm lợi lạc chúng sinh cho nên duyên với hạnh của Nhị thừa mà khởi tâm từ. Kinh: Tu tâm Từ Như Lai… vì các hữu tình. Tán: Hai, đây là tâm Từ hai thân pháp và báo. Chân như là lý pháp của pháp thân Như Lai, báo thân gọi là quả vị Phật, hai thân khác nhau. Kinh: Tu tâm Từ tự nhiên… vì yêu ghét đã đoạn. Tán: Đoạn này gồm sáu câu nói về quả vị. Đây là ba câu đầu. Tại nơi quả thì tự tại bình đẳng biết các pháp, cho nên tu tự nhiên. Chánh giác và chân như bình đẳng, nên tu Bồ-đề. Vì tham sân vónh viễn đoạn, nên tu vô lậu. Kinh: Tu tâm Từ đại bi… vì quán tánh không. Tán: Đây là ba câu sau. Hiển phát Đại thừa, cho nên tu đại bi để lợi lạc chúng sinh. Quán đều vô ngã, cho nên tu vô tánh, nếu thấy có ngã thì khởi hoặc tránh (tranh luận phiền não). Vì quán pháp tánh không, cho nên tu không nhàm chán, nếu pháp tánh có thì liền có nhàm chán. Kinh: Tu tâm Từ pháp thí… khiến không tổn giảm. Tán: Sau đây là mười câu nói về tu hữu tình duyên từ, tức tu mười độ. Đoạn này có ba câu. Quyện tức là co rút lại, như người ban thí vật, lúc đầu thì mở tay ra, sau thì co nắm lại; pháp bỏn sẻn cũng như thế, đầu tiên thì cho, sau thì thôi không cho nữa, các văn khác tự có thể hiển. Kinh: Tu tâm Từ tinh tấn… vì hiện biết pháp. Tán: Đoạn này gồm ba câu. Chẳng đắm trước mùi vị thiền gọi là không ái vị. Luôn thành tựu chủng trí gọi là hiện biết pháp, đều là vì hữu tình, nên gọi là hữu tình duyên từ. Kinh: Tu tâm Từ phương tiện… tánh tướng các pháp. Tán: Đoạn này gồm bốn câu. Do có phương tiện khéo léo, nên không việc gì mà không lợi lạc, vì thế gọi là các môn, thị hiện khắp tất cả, mà tu tâm Từ phương tiện. Do mười nguyện lớn dẫn phát mà tu tâm Từ diệu nguyện để cứu giúp chúng sinh, vì thành tựu các việc lợi lạc, cho nên tu đại lực; thấu suốt pháp tánh để khai ngộ chúng sinh, cho nên tu trí độ. Nhã-na gọi là trí, tức trí ba-la-mật. Kinh: Tu tâm Từ thần thông… vì các hữu tình. Tán: Đoạn này gồm tám câu, nói riêng về tu tập hữu tình duyên, pháp duyên và vô duyên từ. Hai câu đầu nói về hữu tình, năm câu kế nói về pháp duyên, một câu sau nói về vô duyên. Đoạn này là nói về hữu tình duyên. Vì chẳng hoại chân như tánh của các pháp, là nhân của pháp tướng, cho nên tu thần thông. Tuy hiện thần thông, biến hiện các việc, mà chẳng làm hoại tánh tướng của các pháp. Kinh: Tu tâm Từ không chấp trước… vì lìa cấu uế. Tán: Đoạn này gồm năm câu nói về tu pháp duyên từ. Tâm không bị chướng ngại và không nhiễm ô cho nên tu không chấp trước. Vì ý lạc thanh tịnh cho nên gọi là không kiêu mạn, trá ngụy. Vì gia hạnh thanh tịnh nên gọi là không xiểm khúc, vì mọi việc chẳng hư giả nên gọi là không luống dối. Tâm không dơ uế cho nên tu thâm tâm. Hà tức là vết trầy xước trên viên ngọc, bệnh của ngọc. Tuy tướng bên ngoài là thiện, nhưng nội tâm có cấu nhiễm, nên gọi là hà uế. Kinh: Tu tâm Từ an lạc… vì sự an lạc. Tán: Đây là một câu nói về vô duyên từ. Sự an lạc vốn chỉ là chân như. Bản xưa, trong năm câu nói về hữu tình duyên, pháp duyên và vô duyên sau, thì một câu nói về hữu tình, ba câu nói về pháp duyên và một câu nói về vô duyên. Kinh: Thưa ngài Diệu Cát Tường… tu nơi đại Từ. Tán: Đây là lời kết luận. Kinh: Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:… tu đại bi. Tán: Đây là câu hỏi thứ hai. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… tu đại bi. Tán: Đây là lời đáp thứ hai. Ban phát vật của mình mà không bỏn sẻn, để nhổ trừ các khổ mà người hiện đang phải nhận chịu, cho nên gọi là đại bi. Vì thực hành tâm này rất rộng lớn, không tham tiếc không bỏn sẻn, gọi là đại bi, vì chỉ chuyên ban vui cho người. Kinh: Bồ-tát Diệu Cát Tường nói:… tu đại Hỷ. Tán: Đây là câu hỏi thứ ba. Kinh: Vô Cấu Xưng đáp… tu đại Hỷ. Tán: Câu trả lời thứ ba. Làm việc lợi ích mà không hối tiếc, vì khéo sinh niềm vui; không chỉ khuyên cho người vui mà gọi là Hỷ. Kinh: Bồ-tát Diệu Cát Tường nói… tu đại Xả. Tán: Đây là câu hỏi thứ tư. Kinh: Vô Cấu Xưng đáp… tu đại Xả. Tán: Câu trả lời thứ tư. Trong đó thực hành tâm xả và gồm cả bình đẳng, chẳng mong cầu báo đáp; không chỉ khuyên xả bỏ điều ác mà gọi là Xả. Kinh: Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi… nên nương vào nơi đâu? Tán: Từ đây về sau là nói hạnh tự lợi, có mười đôi hỏi đáp xoay vần phát sinh. Đây là câu hỏi thứ nhất. Bồ-tát trước mười Địa, vào sinh tử giáo hóa chúng sinh, nếu có sợ hãi thì nên nương vào đâu? Còn Bồ- tát Thập địa thì không sợ khổ sinh tử. Kinh: Vô Cấu Xưng đáp… đại ngã của chư Phật. Tán: Đây là lời đáp. Đại ngã của chư Phật là đại Niết-bàn. Ngã trong bốn đức gọi là đại ngã, trụ mà vô trụ, gọi là chánh y trụ. Kinh: Lại hỏi: Bồ-tát… trụ trong giải thoát. Tán: Câu hỏi đáp thứ hai. Khi chân như xa lìa phiền não thì giả danh là giải thoát, thể của giải thoát là trạch diệt vô vi. Kinh: Lại hỏi: Muốn trụ… trừ phiền não. Tán: Câu hỏi thứ ba. Cần phải trừ sự trói buộc vì thân giải thoát. Kinh: Lại hỏi: Muốn trừ… quán xét tác ý. Tán: Câu hỏi đáp thứ tư. Lý tức đạo lý chân như nhị đế, thuận với đây mà tác ý, gọi là như lý tác ý, thể của nó là tư tuệ. Kinh: Lại hỏi: Muốn tu… chẳng sinh chẳng diệt. Tán: Câu hỏi đáp thứ năm. Kinh: Lại hỏi: Pháp gì… pháp thiện chẳng diệt. Tán: Câu hỏi đáp thứ sáu. Đoạn ác tu thiện, gọi là chẳng sinh diệt; vì tư duy, khởi sự tu tập chân chánh này. Kinh: Lại hỏi: Thiện… lấy thân làm gốc. Tán: Câu hỏi đáp thứ bảy. Vì có thân cho nên thiện và bất thiện sinh; tất cả đều nương gá mà khởi, chẳng phải nhân đó mà cảm gốc. Kinh: Lại hỏi: Thân… dục tham làm gốc. Tán: Đây là câu hỏi đáp thứ tám, nêu lên nhân nhuận sinh cận vật và ái ở cõi Dục, cho nên chỉ nói dục tham do si. Kinh: Lại hỏi: Tham… phân biệt là gốc. Tán: Đây là câu hỏi đáp thứ chín. Do chấp tâm hư vọng phân biệt, cho nên dục tham sinh. Kinh: Lại hỏi: Hư vọng… điên đảo tưởng sinh. Tán: Đây là câu hỏi đáp thứ mười. Đảo tưởng tức cảnh. Do có cảnh điên đảo nên vọng tâm sinh. Vì thế, luận ghi: “Loạn tướng và loạn thức, nên chấp nhận là sắc thức và phi sắc thức. Như vô dư cũng không”. Bản dịch xưa nói đảo tưởng là hình tượng điên đảo do tâm phân biệt sinh. Kinh: Lại hỏi: Đảo tưởng… vô trụ làm gốc. Tán: Câu hỏi đáp thứ mười một. Vô trụ tức chân như. Do mê chân như nên cảnh điên đảo sinh. Kinh: Bồ-tát Diệu Cát Tường nói… tất cả các pháp. Tán: Câu hỏi thứ mười hai. Chân như không gốc, vì chẳng do pháp khác sinh, cũng chẳng có chỗ trị, lại chẳng có chỗ y cứ. Từ gốc này mà lập tất cả pháp. Tánh nhiễm ô thì mê liền sinh, tánh đã tịnh thì phát ngộ, cho nên duy thức nói đó là chỗ y cứ của mê ngộ. Gọi lập tất cả pháp, chẳng phải là nói hay sinh ra. Đó nghóa của ứng lý; Không Lý Nghóa ghi: “Vô trụ tức chân như tánh không, cũng là căn bản của hai pháp mê ngộ. Vả lại nhân duyên tánh không, từ tánh không mà sinh tất cả pháp, cho nên nói từ vô trụ lập tất cả pháp. Ứng Lý Nghóa ghi: “Nếu ngoại đạo nói hay sinh tất cả, thì chân như của ta chẳng phải là hay sinh, chỉ là sở y của pháp, cho nên nói từ vô trụ lập tất cả pháp mà chẳng nói sinh”. Trong kinh nói tâm tạo tất cả, đó là tâm nhân duyên, chẳng phải là tâm pháp tánh. Cho nên không trái nhau. Pháp tánh chẳng phải là năng khởi, vì sao mà nói là năng tạo tác được? Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… các đại Thanh văn. Tán: Phần thứ hai của phẩm nói về Thiên nữ đối đáp phát dương phá chấp của Thanh văn. Toàn văn gồm có ba phần: Thiên nữ rải hoa. Ngài Thu Tử hỏi đáp. Ngài Vô Cấu khen ngợi. Trong phần đầu lại có ba: Hoan hỷ rải hoa. Dính và không dính. Hỏi đáp để phá chấp. Đây là đoạn thứ nhất. Nói bản trụ tức để hiển thị Thiên nữ chẳng cùng đến chung với ngài Cát Tường. Thiên nữ, tức là vị Bồ-tát Địa thứ tám, thị hiện làm thân Thiên nữ. Cho nên cuối phẩm ghi: “đã đạt được trí tuệ du hý thần thông, chứng vô sinh nhẫn, đối với đạo giác ngộ vô thượng, vónh viễn không còn thoái chuyển. Thừa sức bản nguyện, tùy sự ưa thích mà thành tựu tất cả hữu tình. Cho nên biết đó chẳng phải là phàm phu, quỷ, thần… nhưng vì người nữ nhiều từ ái, tâm thương xót nhớ nghó sâu nặng, được lợi ích sâu kín, dùng phương tiện để cứu giúp hữu tình; huống hồ lại muốn giáo hóa hàng Thanh văn khiến họ xa lìa nhẫn trước nên thị hiện việc rải hoa để trợ giúp cho năng lực của ngài Vô Cấu, vì thế mà hiện thân nữ, chẳng hiện tướng nam. Đã là hóa hiện thì chẳng nhất định là vị trời nào. Nhưng căn cứ theo sự đoan nghiêm thù thắng của thân, thì đó là Thiên nữ ở cõi Tha hóa. Khi trước thất của ngài Tịnh Danh trống không, nên ẩn hình, bây giờ vì đã thuận lợi cho việc giáo hóa, cho nên hiện thân. Thiên nữ rải hoa, hoa có nhiều mùi hương thơm lạ, dễ nhiễm tâm của phàm tục thế gian, đó là muốn nêu lên hàng Thanh văn, còn chấp trước. Bồ-tát thì đã xa lìa, cho nên mới rải hoa. Vả lại hoa ở Am viêm hôi, gặp hương thơm của hoa trời, thì liền có khả năng nở đẹp và tươi tốt, mai sau sẽ kết quả, cho nên chỉ rải hoa mà không rải những vật khác. ---------------------------------- <卷>QUYỂN 5 (PHẦN 2) Kinh: Lúc bấy giờ, hoa trời kia… liền dính chẳng rơi. Tán: Đoạn này nói về hoa dính và không dính, gồm có hai: Nói dính và không dính. Nói phủi chẳng rơi. Đây là văn thứ nhất. Kinh: Lúc bấy giờ, các Thanh văn… chẳng thể rơi. Tán: Đây là nói phủi chẳng rơi. Kinh: Lúc bấy giờ các Thiên nữ… vì sao lại phủi hoa? Tán: Hỏi đáp để phá chấp, gồm có ba: Thiên nữ hỏi. Ngài Thu Tử đáp. Thiên nữ thuyết. Đây là lời Thiên nữ hỏi. Kinh: Xá-lợi Tử nói rằng… cho nên tôi phủi hoa. Tán: Ngài Thu Tử đáp. Kinh: Thiên nữ nói: Thôi!… chẳng như pháp. Tán: Thiên nữ thuyết. Gồm hai phần là nêu lên và giải thích. Đây là văn thứ nhất. Kinh: Vì sao?… tự chẳng như pháp. Tán: Đây là phần giải thích; có hai ý: Dùng hoa và người đối đãi nhau. Dùng Đại, Tiểu đối đãi nhau. Trong ý thứ nhất lại có hai: Nêu lên. Giải thích. Đây là phần nêu lên. Kinh: Vì sao?… có phân biệt khác. Tán: Đây là giải thích lý do hoa và người khác nhau. Không phân biệt tức không có các chấp trước phân biệt. Không phân biệt khác tức không có phân biệt sai khác. Vả lại đầu tiên nói không thuộc tướng chung, sau nói không thuộc tướng riêng. Kinh: Trong phần Thiện thuyết pháp của Tỳ-nại-da… là như pháp. Tán: Đây là nói về đại tiểu đối đãi, gồm có hai ý: Nói về người có sai biệt. Nói hoa dính thân có khác. Đây là văn thứ nhất. Nơi giới luật của Phật mà xuất gia, nếu có hai phân biệt trên thì gọi là chẳng như pháp, vì trái đạo lý; không có hai phân biệt, thì gọi là như pháp, vì thuận chánh lý. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… và phân biệt khác. Tán: Đây là nói về hoa dính có khác, gồm hai ý: Nói phân biệt khác nhau, thì hoa dính và chẳng dính. Tập khí đoạn trừ khác nhau thì hoa có dính và chẳng dính. Trong ý đầu tiên lại có hai câu: Nói phân biệt có khác nhau thì hoa có dính và chẳng dính. Sợ và chẳng sợ thì hoa có dính và chẳng dính. Đây là câu một. Bồ-tát không có hai phân biệt cho nên hoa chẳng dính; Thanh văn có hai phân biệt nên hoa dính thân. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… chẳng được tiện lợi, thừa cơ. Tán: Đây là nói về sợ và chẳng sợ thì có dính và chẳng dính. Đầu tiên là nêu dụ sau là hợp. Đây là phần dụ. Phi nhân tức quỷ thần… Kinh: Nếu sợ sinh tử… chẳng được tiện lợi, thừa cơ. Tán: Đây là hợp. Nhị thừa sợ sinh tử, các cảnh được tiện lợi, thừa cơ nhiễu loạn tâm ý; Bồ-tát không sợ sinh tử, nên các cảnh chẳng nhiễu loạn tâm ý của các ngài được. Kinh: Lại, thưa ngài Xá-lợi Tử… hoa chẳng dính. Tán: Đây là nói về tập khí đã đoạn có sợ hãi, thì hoa có dính và chẳng dính. Tập tức tập khí, thuộc thô trọng. Lìa ngoài chủng tử có thể tánh riêng biệt. Như chủng tử ác khẩu, chủng tử ca múa… Kinh: Xá-lợi Tử hỏi rằng… đến nay đã bao lâu? Tán: Thiên nữ đối đáp để phá chấp, đây là phần thứ hai ngài Thu Tử hỏi đáp. Theo văn gồm có năm: Hỏi trụ ở trượng thất này lâu mau. Hỏi phát tâm thừa nào. Hỏi khiến chuyển thân nữ. Hỏi về sau sinh cõi nào. Hỏi về thời gian chứng quả. Trong đoạn hỏi đáp, gồm mười hai câu. Đây là câu hỏi thứ nhất. Kinh: Thiên nữ đáp rằng… trụ giải thoát. Tán: Thứ hai là lời đáp. Giải thoát ở đây tức trạch diệt vô vi, Niết- bàn hữu dư, bản tánh là trụ không, cho nên nói là trụ giải thoát. Kinh: Xá-lợi Tử hỏi… lâu như thế sao? Tán: Thứ ba là câu hỏi. Kinh: Thiên nữ lại đáp… cũng lâu như thế chăng? Tán: Thứ tư, câu phản vấn. Ngài giải thoát lâu giống như thế ư? Kinh: Xá-lợi Tử im lặng không đáp. Tán: Thứ năm, chẳng đáp. Kinh: Thiên nữ hỏi: Tôn giả… im lặng chẳng đáp. Tán: Thứ sáu, Thiên nữ lại hỏi. Là bậc có tuệ biện tài bậc nhất, vì sao chẳng trả lời. Kinh: Xá-lợi Tử đáp… rốt cuộc biết nói thế nào? Tán: Thứ bảy, Xá-lợi Tử đáp. Niết-bàn vô danh, vì tánh lìa danh ngôn, hà huống bản tánh lại có thể trả lời là trụ lâu mau sao? Kinh: Thiên nữ nói… đều là tướng giải thoát. Tán: Thứ tám, giải thích về giải thoát, gồm ba phần: Nêu lên. Giải thích. Kết luận. Đây là phần nêu lên. Kinh: Vì sao… lìa trong ngoài và khoảng giữa mà có thể được. Tán: Đây là phần giải thích, có hai: Giải thích tướng giải thoát. Giải thích tướng văn tự. Đây là giải thích tướng giải thoát, lấy chân như làm thể. Kinh: Văn tự cũng thế… chẳng phải lìa trong ngoài và khoảng giữa mà được. Tán: Đây là thích tướng văn tự chỉ là giả lập trên âm thanh, không thật có văn tự, thì đâu có trong ngoài. Kinh: Vì thế… tánh của nó bình đẳng. Tán: Vì tất cả pháp, tánh chân như, thể chân giải thoát đều bình đẳng, không sai biệt. Kinh: Xá-lợi Tử hỏi… là giải thoát chăng? Tán: Thứ chín là câu hỏi. Ngài Thu Tử cho rằng lìa phiền não trói buộc là chứng đắc trạch diệt được giải thoát. Cho nên nêu câu hỏi này. Kinh: Thiên nữ đáp rằng Đức Phật… bản tánh là giải thoát. Tán: Thứ mười là giải thích. Nhị thừa là người tăng thượng mạn, vì chưa được quả Phật mà cho là bậc nhất, lại chẳng mong cầu gì nữa, được ít đã cho là nhiều, gọi là người tăng thượng mạn, đều thuộc về tánh vô phú. Đức Phật vì những người này mà nói lìa phiền não chứng Trạch diệt gọi là giải thoát. Các Bồ-tát gọi là bậc viễn ly, vì họ mà Đức Phật nói bản tánh của phiền não là chân như, đó là giải thoát. Kinh: Xá-lợi Tử nói… trí tuệ biện tài như thế? Tán: Thứ mười một, Xá-lợi Tử lại hỏi Thiên nữ chứng được gì mà có tuệ biện tài như thế? Kinh: Thiên nữ đáp… là tăng thượng mạn. Tán: Thứ mười hai, Thiên nữ đáp. Các pháp vốn không, không được không chứng, nói có được có chứng, thì gọi là tăng thượng mạn. Thật chỉ có được một ít, chẳng phải được nhiều. Kinh: Xá-lợi Tử nói rằng… phát tâm thú hướng thừa nào? Tán: Phần thứ hai hỏi về phát tâm hướng đến thừa nào? Gồm có bốn: Hỏi. Đáp. Vấn nạn. Giải thích. Đây là lời hỏi. Kinh: Thiên nữ đáp rằng… đều phát tâm thú hướng đến. Tán: Thứ hai là trả lời. Kinh: Xá-lợi Tử hỏi… nói như thế? Tán: Thứ ba là vấn nạn. Theo căn cơ mà học pháp thì gọi là thừa. Phát thú đến cả ba thừa thì lời thật khó hiểu. Cho nên gọi là mật ý. Kinh: Thiên nữ đáp… ta là Đại thừa. Tán: Thứ tư, giải thích, gồm có ba phần: Tự hành hạnh của người khác. Ứng theo người mà trình bày pháp. Giải thích các điều nghi. Đây là văn thứ nhất. Bản dịch xưa không ghi phần này. Thanh văn có hai nghóa: Phẩm thứ hai kinh Pháp Hoa nói nghe pháp tin nhận. Trong phẩm Tín Giải dùng đạo khiến được nghe. Ở đây căn cứ theo nghóa thứ hai, cho nên gọi là Thanh văn. Tự nhiên giác ngộ chân pháp tánh, chẳng đợi người khác dạy, chỉ thích tịch tónh cho nên gọi là Độc giác. Chẳng thuyết quán đãi duyên mà khởi giác ngộ cũng gọi là Duyên giác. Chẳng lìa bỏ Từ bi cho nên gọi là Đại thừa. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… tôi là Đại thừa. Tán: Đây là ứng hợp theo người mà trình bày pháp. Tùy thuận theo chúng sinh mà tuyên thuyết diệu pháp, hoặc hiện thân tướng của họ. Vì thế mà gọi là ba thừa. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… không thích ngửi mùi hương của các loài cỏ cây khác. Tán: Đây là giải thích nghi nạn. Nghóa là có người nghi rằng: “Thiên nữ hiện cả ba thừa, vì sao trong trượng thất này không thấy người Nhị thừa, chẳng nghe pháp Nhị thừa?”. Văn sau có bốn đoạn giải thích mối nghi này. Ta tuy là Tam thừa có đủ đức của ba thừa, nhưng trong trượng thất chỉ có Đại thừa, cho nên chẳng thấy hàng Nhị thừa, chẳng nghe pháp Nhị thừa. Trong bốn đoạn sau thì: Đoạn một, chỉ nói hạnh Đại thừa, đoạn hai nói về lý Đại thừa, đoạn ba nói về quả Đại thừa, đoạn bốn nói về giáo Đại thừa. Hạnh như hương thơm xông ướp, làm tăng trưởng gốc thiện; lý như thể của hương, hay dứt trừ điều ác; hai việc sau tự có thể biết được. Văn thứ nhất gồm có ba: Dụ. Pháp. Giải thích. Đây là nêu dụ. Chiêm-bát-ca, xưa âm là Chiêm-bặc, hương thơm vi diệu bậc nhất, ở cõi này không có. Kinh: Như thế nếu trụ ở thất này… hương công đức. Tán: Đây là pháp. Kinh: Do trong ngôi trượng thất này… thường xông ướp. Tán: Diệu Hương công đức là hạnh Đại thừa. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… mùi hương vi diệu mà đi ra. Tán: Thứ hai nói về lý Đại thừa. Na-ca tức là rồng. Tất cả đều thấy các bậc Đại thừa, nghe được nghóa lý đã nói, liền hiểu và quy hướng nhận mùi hương mà đi ra. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… lời nói tương ưng. Tán: Thứ ba nói về giáo Đại thừa. Mười hai năng tức mười hai trụ của Bồ-tát, đó là chủng tánh, thắng giải hạnh, cực hỷ, tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tam tuệ, vô tướng hữu công dụng, vô tướng vô công dụng, vô ngại giải, tối thượng Bồ-tát trụ và Như Lai trụ. Mười hai trụ trước gọi là Bồ-tát nhập vào giai vị Bồ-tát, chẳng từng nghe thuyết giáo pháp Nhị thừa. Giáo và lý thuận nhau gọi là tương ưng. Chẳng từng nghe thuyết giáo tương thuận với đạo lý của Nhị thừa, chỉ nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Đại thừa. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… pháp thù thắng. Tán: Phần thứ tư nói về quả Đại thừa. Do tu Đại thừa, nên được quả có tám loại thù thắng. Gồm ba câu: Nêu lên. Giải thích. Kết luận. Đây là câu thứ nhất nêu lên. Kinh: Những gì là tám? Tán: Đây là câu giải thích, có hai: Hỏi. Đáp. Đây là câu hỏi. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử! Đó là… pháp thù thắng. Tán: Đáp, có tám. Việc hy hữu thứ nhất về sự trụ nơi trượng thất trống có tám việc hy hữu này, biểu thị cho việc trụ ở chân không hay phát sinh tám việc, tùy theo chỗ thích ứng có thể nêu đầy đủ, nay sợ văn rườm rà cho nên không nêu. Bên trong có trí tuệ, nên cảm bên ngoài phóng ánh sáng. Thứ nhất là biết tri, ánh sáng màu vàng ròng luôn luôn, chiếu soi cùng khắp tất cả, ngày đêm không dứt, chỉ thuyết Đại thừa, không lấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng Nhị thừa để chiếu soi. Kinh: Lại, ngài Xá-lợi Tử!… là pháp thù thắng. Tán: Việc hy hữu thứ hai. Nghe pháp làm duyên, phiền não chẳng thể làm hại được. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử!… là pháp thù thắng. Tán: Việc hy hữu thứ ba. Gần gủi duyên lành, cho nên các chúng đều vân tập đến, chẳng để thất trống. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử!… pháp thù thắng. Tán: Điều hy hữu thứ tư. Giáo pháp sâu xa vi diệu, luôn tuyên thuyết pháp luân bất thoái sáu độ. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử!… là pháp thù thắng. Tán: Việc hy hữu thứ năm. Vật cúng rất tốt đẹp cho nên có niềm vui pháp. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử!… là pháp thù thắng. Tán: Viêc hy hữu thứ sáu. Bốn đại tạng thâu nhiếp vô lượng pháp. Vì bên trong hạnh đã đầy thì bên ngoài cảm được bốn tạng, vì pháp tuệ đầy đủ cho nên tài thí sung mãn. Thiếu tài bảo gọi là bần, hoàn toàn không có tài bảo gọi là cùng, không có vợ thì gọi là quan, không có chồng thì gọi là quả; không còn cha mẹ thì gọi là cô, không anh chị em thì gọi là độc, không còn thân tộc, gọi là không có chỗ nương (vô y). Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… pháp thù thắng. Tán: Điều hy hữu thứ bảy. Trong thấy pháp thân, ngoài thấy báo Phật, hà huống hóa thân làm lợi ích, vì sao lại cầu mà chẳng đến? Cho nên biết chí tâm cầu thỉnh, thì ứng theo sự nghó nhớ mà đến; cảm tha thiết về pháp hy hữu, nên nghe xong liền đi. Tổng cộng gồm mười một vị Phật ứng thỉnh. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi-phất… pháp thù thắng. Tán: Việc hy hữu thứ tám. Cõi chúng sinh đến kiếp tận thì tịnh độ vẫn thường an ổn. Phàm phu thì thấy đó chỉ là ngôi thất nhỏ, bậc Thánh biết đó là tịnh độ, huống gì có thể hóa hiện mà chẳng có thiên cung? Nhưng do bên trong đầy đủ đức nên bên ngoài cảm được tướng trang nghiêm. Thất nhỏ còn có tám điều hy hữu, thì cõi nước lớn có hằng hà sa điều khó có. Vì cứu tám nạn, thương xót tám bộ, đoạn tám thức, trừ tám tà, hiển tám Chánh đạo, được tám giải thoát, vì thế chỉ nêu tám điều hy hữu. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử!… là pháp Độc giác sao? Tán: Phần thứ ba, kết luận; cho nên không thấy có Nhị thừa nghe pháp, chỉ có pháp Đại thừa mà thôi. Kinh: Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử… chuyển thân nữ này. Tán: Đây là câu hỏi khiến chuyển thân nữ. Có ba: Khiến chuyển thân nữ. Chuyển Xá-lợi Tử. Trở lại thân cũ. Trong đoạn một có năm câu: Hỏi. Đáp. Phản vấn. Lại đáp. Giải thích. Đây là câu hỏi. Thu Tử ở giai vị thấp chẳng thể suy lường được trí đức của bậc thượng vị, cho rằng có thật thân nữ, cho nên bảo nên chuyển. Kinh: Thiên nữ đáp rằng… nên chuyển thế nào? Tán: Đây là lời đáp. Mười hai năm, hoặc để biểu thị mười hai nhân duyên, nên mượn câu nói mười hai năm tự sống trong sinh tử tìm cầu thân nữ chân thật đều chẳng thể được. Hoặc cho rằng đó là mười hai trụ của Bồ-tát, nên mượn nói mười hai năm; từ khi phát tâm đến nay, tìm cầu thân nữ chân thật, đều chẳng thể được. Hoặc cho rằng tự thân vào ngôi thất này đã mười hai năm để đợi ngài Tịnh Danh, chẳng nên mượn lời để ẩn dụ. Không chỉ hóa làm tướng người nữ, mà cầu tướng thật người nữ cũng không thể có được, đã không có thật người nữ, thì nên chuyển thế nào? Hỏi: Trước đáp là sống ở đây như trụ giải thoát, không có niên hạn, vì sao bây giờ nói là mười hai năm? Đáp: Trước là trả lời theo chân lý giải thoát nên đáp không có thời gian. Nay theo sự tu hành và phần hạn trụ nơi sinh tử, cho nên trả lời là mười hai năm. Cả hai không trái nhau. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi Tử… có phải là câu hỏi đúng chăng? Tán: Thứ ba là lời phản vấn, hiển thị đã là nữ huyễn hóa, chẳng phải là chân thật. Kinh: Xá-lợi Tử đáp… làm sao mà chuyển? Tán: Thứ tư lời đáp. Kinh: Thiên nữ nói như thế… chẳng chuyển thân nữ? Tán: Thứ năm, chánh thức giải thích. Tất cả hữu vi giống như huyễn hóa, thân nữ đã chẳng chân thật làm sao chuyển được mà bảo chuyển? Kinh: Liền khi ấy Thiên nữ… chẳng chuyển thân nữ? Tán: Thứ hai là chuyển thân Xá-lợi Tử. Gồm ba: Chuyển và hỏi. Trả lời chẳng biết. Giải thích. Đây là chuyển và hỏi. Chuyển đổi đây thành kia mà hỏi ngài Thu Tử. Kinh: Bấy giờ Xá-lợi Tử… chuyển thành thân nữ. Tán: Đáp chẳng biết. Chẳng biết nguyên do thân nam biến mất mà trở thành thân nữ. Kinh: Thiên tử lại nói… cũng có thể chuyển được. Tán: Đây là phần giải thích. Có ba đoạn: Lược nêu ví dụ. Thành tựu cho tất cả. Dẫn giáo. Đây là đoạn một. Kinh: Như ngài Xá-lợi-phất… mà thật chẳng phải nữ. Tán: Đây là thành tựu cho tất cả người nữ. Nêu lên người để hiển rõ mình là nữ thân huyễn hóa chẳng phải thật. Kinh: Đức Thế Tôn y cứ vào đây… chẳng phải nam chẳng phải nữ. Tán: Đây là dẫn giáo. Tướng thì có nam nữ mà thật không có nam nữ. Sự thì có nam nữ, lý thật không có nam nữ. Trong lời nói chỉ có ẩn ý như thế cho nên gọi là mật ý. Kinh: Lúc bấy giờ, Thiên nữ… nay ở đâu? Tán: Thứ ba, trở lại hình tướng cũ, có ba: Trả lại hình tướng và hỏi. Theo lý mà đáp. Khen ngợi và dẫn giáo. Đây là văn thứ nhất. Kinh: Xá-lợi Tử nói… không tại đâu, cũng không biến đổi. Tán: Theo lý mà đáp. Tướng nữ đã không, sao lại có tại? Vốn chẳng phải là người nữ thật thì đâu có biến? Vả lại pháp tánh không thì cái gì tại, cái gì biến? Bản xưa ghi: “chẳng tại đâu, chẳng phải chẳng tại đâu”. Không có người nữ thật xưa tại, nay chẳng tại; không có người nữ thật thì đâu có tại và chẳng tại? Kinh: Thiên nữ nói: Thưa Tôn giả… là lời nói chân thật của Phật. Tán: Khen ngợi và dẫn giáo. Pháp tánh vốn không, đâu có gì là tại là biến, vả lại không phải như tướng kia. Lập tất cả pháp đều không tại nơi đâu, vì pháp mỗi mỗi luôn luôn sinh khởi, không có tự tánh chân thật; vì sao lại có biến chuyển? Bản xưa nói: “Tất cả pháp cũng chẳng tại và chẳng phải chẳng tại”, vì không có thật tánh. Kinh: Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử… sẽ sinh vào nơi đâu? Tán: Thứ tư là hỏi sinh vào nơi đâu; gồm có bốn: Hỏi. Đáp. Vấn nạn. Giải thích. Đây là lời hỏi. Chẳng hỏi từ đâu đến mà chỉ hỏi chỗ sinh về là vì đã nói trụ ở đây như trụ giải thoát, cho nên chẳng hỏi từ nơi nào đến, chỉ hỏi chỗ sinh về. Kinh: Thiên nữ đáp… tôi sẽ sinh vào nơi ấy. Tán: Lời đáp. Nơi mà hóa Phật sinh đến tức là chỗ của ta sinh đến. Kinh: Xá-lợi Tử nói… là chỗ sẽ sinh về. Tán: Thứ ba là hỏi. Hóa thì chẳng phải chân thật, chẳng chết chẳng sinh, vì sao nay lại nói sẽ có chỗ sinh về? Kinh: Thiên nữ nói: Thưa Tôn giả… sẽ sinh nơi nào? Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Trong Thắng nghóa đế, các pháp về hữu tình đã không có thể tánh, thì nào có chỗ sinh?” Ứng Lý Nghóa ghi: “Pháp Biến kế sở chấp và hữu tình đều không có thật thể, thì đâu có chỗ đến, huống gì ta hóa hiện mà có sinh?” Kinh: Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất… Chánh đẳng Bồ-đề. Tán: Đoạn thứ năm là hỏi về thời gian chứng ngộ Bồ-đề, gồm có chín câu. Đây là câu hỏi thứ nhất. Người bao lâu nữa sẽ được Bồ-đề? Lâu như thế nào? Kinh: Thiên nữ đáp rằng… lâu cũng như thế. Tán: Đáp cũng như thế. Như ngài trở lại thành người giả dị sinh, trong thân khởi hữu lậu dị sinh, lâu như thế, ta sẽ được Bồ-đề. Kinh: Xá-lợi Tử nói… pháp dị sinh. Tán: Bốn, đáp lời phản vấn, không thể có đạo lý mà nói có nơi chốn thời gian để trở lại thành dị sinh. Kinh: Thân nữ nói… người chứng Bồ-đề. Tán: Thứ tư, phản vấn để thành tựu cho nghóa trên. Lý chân như là Đại Bồ-đề, cho nên không có chỗ trụ, cũng không có thời gian để có thể chứng đắc và người chứng ngộ. Cho nên kinh Bát-nhã ghi: “Thật không có một pháp gọi là Bồ-đề.” Kinh: Xá-lợi Tử nói… đã chứng sẽ chứng. Tán: Thứ năm, dẫn giáo để vấn nạn. Hiện tại thì hiện chứng, quá khứ thì đã chứng, vị lai thì sẽ chứng. Kinh: Thiên nữ nói rằng thưa Tôn giả… vượt qua ba thời. Tán: Thứ sáu, dùng đạo lý để giải thích. Kinh nói ba thời sẽ được Bồ-đề, đó là căn cứ theo văn tự ngữ ngôn thế tục mà nói có, chẳng phải y cứ theo Bồ-đề chân như thắng nghóa có ba thời mà nói có chứng đắc. Vì Bồ-đề chân như vượt cả ba thời. Kinh: Thưa ngài Xá-lợi-phất… A-la-hán chăng? Tán: Thứ bảy, lời phản vấn. Muốn làm cho nghóa lý sáng tỏ hơn, nên đặt câu hỏi này. Kinh: Xá-lợi Tử nói… được cái không thể được. Tán: Thứ tám, trả lời. Từ xưa chẳng được, hôm nay đã chứng đắc giải thoát; từ xưa đã được hôm nay chẳng được cảnh vọng. Khi chứng vô học thì cái trước chẳng được nay lại được, cái trước đã được thì nay chẳng được, cho nên gọi là được mà chẳng được. Vả lại nói chẳng được tức có chỗ được. Nếu muốn được tức không có được. Kinh: Thiên nữ nói: Thưa Tôn giả… chứng không có chỗ chứng. Tán: Thứ chín giải thích. Bồ-đề cũng như thế, từ xưa chưa chứng, nay chứng chân như. Không có chỗ chứng tức nay chẳng chứng chỗ chấp trước hoặc cảnh vọng. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… vónh viễn chẳng thoái chuyển. Tán: Đoạn thứ ba, ngài Vô Cấu khen ngợi. Đầu tiên khen đức, sau giải thích người nữ. Đây là phần thứ nhất. Gồm sáu đức: Gặp duyên tốt. Được sức thần thông. Được trí tuệ. Nguyện đầy đủ. Được vô sinh phần. Đến giai vị bất thoái Kinh: Nương sức bản nguyện… thành thục cho hữu tình. Tán: Đoạn này giải thích nguyên do làm thân nữ. Do nương vào nguyện lực, tùy ý muốn mà thọ sinh, cho nên vào thất này, thuận theo căn cơ của hữu tình, mà tuyên nói diệu pháp, vì thế mà hiện thân nữ. ------------------------------------ <詞>PHẨM 8: BỒ ĐỀ PHẦN Năm phẩm từ phẩm Phương Tiện trở xuống là nói về hạnh lợi tha thù thắng, kế đó một phẩm trên là nói giáo hóa. Kế đó hai phẩm dưới là nói về chân thật nghóa xứ, là hạnh tự lợi. Trong đó một phẩm đầu là nói về sự hạnh thế tục hữu vi chân thật. Một phẩm sau là nói về lý hạnh xuất thế vô vi chân thật; vì sau lợi tha ắt phải nói đến tự lợi. Muốn chứng ngộ được lý ấy, trước phải tu sự. Bồ-đề là quả giác ngộ, phần tức là nhân, tức đạt được hạnh nhân vị của Phật Bồ-đề, nay nói rộng về nghóa này nên gọi là Bồ-đề Phần, chẳng phải chỉ nói ba mươi bảy Bồ-đề phần. Kinh: Lúc bấy giờ, Bồ-tát Diệu Cát Tường… đến nơi rốt ráo. Tán: Toàn phẩm được phân làm ba đoạn lớn: Bồ-tát Diệu Cát Tường hỏi để lược nói về nhân Bồ-đề. Ngài Vô Cấu Xưng hỏi để nói rộng về dòng giống Như Lai. Ngài Thiện Hiện hỏi để nói rõ về nghiệp Bồ-đề. Có thể đến được cõi Phật là nhân Bồ-đề, là hạnh chánh tu. Nhân năng sinh là dòng giống Như Lai, là luận về bản tánh; các pháp, cha, mẹ… là nghiệp Bồ-đề, là quả đầy đủ. Không có nhân Bồ-đề thì quả Phật lấy gì làm thể; không có dòng giống Như Lai thì giác phần làm sao mà sinh. Không có cha mẹ… quả Phật do tướng gì mà viên mãn. Vì thế phân làm ba đoạn. Thứ nhất là thuận nhân, thứ hai là lập nhân, thứ ba là quả đức; khi được Bồ-đề thì pháp thiện và bất thiện đều gọi là Phật tánh, cho nên cả hai đều là nhân; thiện là nhân của báo thân, bất thiện là nhân của pháp thân. Kinh Thắng Man ghi: “Có hai loại Như Lai tạng, trí không và phiền não gọi là Như Lai tạng”. Trong đoạn thứ nhất gồm có bốn: Hỏi. Đáp. Nêu lên. Giải thích. Đây là câu hỏi. Các Phật pháp tức là chung cho nhân và quả; nơi rốt ráo tức là Bồ-đề Niết-bàn trong quả Phật, làm sao có thể đạt đến nhân của giác? Chẳng phải là ba mươi bảy Bồ-đề phần, vì đó là chung cho ba thừa, còn ở đây thì chẳng chung cho ba thừa. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… đến nơi rốt ráo (cứu cánh thú). Tán: Thứ hai là lời đáp. Chỗ trở về của phàm phu gọi là thú, chỗ trở về của bậc Thánh chẳng phải là chỗ trở về của phàm phu. Đi trên con đường chẳng phải này gọi là hành phi thú. Hoặc cho rằng thú có hai: Một là, sở thú gọi là thú, đó là quả pháp Phật; năng thú chẳng phải là thú, tức là Bồ-đề phần. Nay tu tập giác phần năng thú, cho nên nói hành nơi phi thú. Hành nơi phi thú này có thể đạt đến chỗ rốt ráo. Xưa ghi: “Hành nơi phi đạo” đạo tức là thú, như năm đạo… Kinh: Diệu Cát Tường nói… hành nơi phi thú. Tán: Thứ ba, nêu lên. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… phiền não trần cấu. Tán: Thứ tư là giải thích, gồm hai phần là giải thích và kết luận. Trong phần giải thích gồm có ba mươi ba câu được chia làm hai: Mười chín câu đầu luận về việc chẳng đồng phàm phu, mười bốn câu sau thì nói chẳng đồng Nhị thừa. Nhưng chính thức thì được phân làm bảy đoạn: ác. Sáu câu đầu căn cứ theo thú (các đường) mà xa lìa các hạnh Ba câu kế y cứ theo căn để diệt các hạnh độc hại. Mười câu kế căn cứ theo chướng để tu hạnh Ba-la-mật. Hai câu kế căn cứ theo Tiểu thừa để tu hạnh Đại thừa. Năm câu kế căn cứ theo pháp ác để hành pháp thiện. Bốn câu kế căn cứ theo pháp kém để tu pháp cao hơn. Ba câu cuối nói về tu hạnh bất trụ. Bản dịch xưa chỉ có ba mươi mốt câu, đoạn đầu chỉ có năm câu, đoạn cuối chỉ có hai câu. Sáu câu đầu y cứ theo các thú để lìa hạnh ác, thì hai câu đầu nói về địa ngục, một câu nói về bàng sinh, một câu nói về A-tố-lạc, một câu nói về ngạ quỷ, một câu nói về cõi trời. Không nói đến cõi người và cõi sắc. Bản dịch xưa ghi có cõi sắc là sai, vì kinh chỉ muốn nêu lên những nơi khó tu nhất, cho nên không có cõi người và cõi sắc và Bồ-tát thường giáo hóa hai cõi này, dễ tu nên chẳng luận đến. Đoạn này gồm hai câu y cứ theo địa ngục. Năm vô gián, đó là phạm năm tội nghịch như giết cha, giết mẹ… đây là chung cho ba thừa, nếu chỉ có Đại thừa thì năm tội nghịch là phá chùa, phá tháp… thì mãi mãi không gián đoạn sinh vào đó, đã sinh vào đó thì chịu khổ không lúc nào dứt, cho nên gọi là vô gián. Sinh vào năm vô gián, ắt phải là kẻ cực ác phần nhiều khởi các tâm sân hận độc ác. Bồ-tát sinh vào đó, vì lợi ích chúng sinh nên không có tâm sân hận mà tu tập Bồ-đề Phần. Na-lạc-ca, Hán dịch là ác giả (kẻ ác); Nại-lạc-ca dịch là khổ khiù, xưa gọi là địa ngục. Người sinh vào nơi khổ này (khổ khí) gọi là ác giả (kẻ ác). Hữu tình sinh vào đây ắt phiền não trần cấu phải rất sâu nặng. Bồ-tát sinh vào đây nhưng không có phiền não. Ở đây nêu cõi thấp nhất này, còn các địa ngục khác, như các câu sau nói “ở nơi ấy”, đều là Bồ-tát tùy loại hóa sinh, thị hiện ở nơi ác, khởi pháp ác, mà ở nơi đó không tạo tác mà thực hiện Bồ-đề phần, tất cả đều theo đó có thể biết được, không cần phải giải thích lại. Kinh: Tuy ở nơi đường bàng sinh… chẳng sinh khởi ngạo mạn kiêu căng. Tán: Bàng sinh gọi là hắc ám, phi thiên phần nhiều tự thị, ngạo mạn, kiêu căngg. Bồ-tát thì xa lìa các lỗi này. Kinh: Tuy ở nơi cõi Diêm-ma vương… chẳng thích thú hướng đến. Tán: Diêm-ma, Hán dịch là tónh tức; bản xưa dịch là Diêm-la. Dưới mặt đất năm trăm do-tuần là cõi nước của vua Diêm-ma. Vua này hoặc là vị Bồ-tát bất thoái hóa hiện, hoặc là hữu tình đảm nhiệm. Phàm người sống ở cõi Diêm ma, phần nhiều chẳng có tu tập nhân thù thắng, còn Bồ-tát sinh vào cõi đó thì hay tích tụ phước tuệ; phàm đạt được định vô sắc, tónh lự giải thoát, phần nhiều đều thích hướng đến định này mà sinh vào đó, còn Bồ-tát tuy ở nơi đó chẳng thích sinh nơi định kia. Kinh: Tuy ở nơi tham dục… mà tự điều phục. Tán: Đoạn thứ hai gồm ba câu; y cứ vào căn để diệt các hạnh ác, tức tham, đối với sự ham muốn, phần nhiều sinh nhiễm trước; sân, đối với cảnh hữu tình mà chẳng hợp tình thì sinh sân hận oán hại; si, đối với tất cả cảnh hắc ám thì không biết không tự điều phục được. Bậc Bồ-tát tuy ở nơi ba căn bất thiện mà hay diệt trừ tánh của ba độc. Kinh: Tuy thị hiện ở nơi… kinh sợ vô cùng. Tán: Đoạn thứ ba gồm mười hai câu, nói nương vào chướng để tu các độ. Đoạn này gồm hai câu đầu. Tuy hiện tham lam bỏn sẻn, nhưng hay thí tài bảo danh vị, không tiếc thân mạng. Tuy thị hiện phạm giới, mà hay lập mười hai đổ-đa mát trong, ham muốn ít chẳng cầu nhiều; biết đủ chẳng cầu, mà hay cầu tám điều giác ngộ của bậc đại nhân và bốn chi giới, ví như có phạm tội nhỏ thì sinh tâm sợ hãi lớn. Đổ-đa nghóa là trừ bỏ, tức trừ bỏ điều ác như Thanh văn Địa và biệt kinh đã nói. Tám điều giác ngộ của bậc đại nhân, như Niết-bàn, Di Giáo đã nói, còn bốn chi giới thì quyết trạch phần đã ghi. Kinh: Tuy hiện ở nơi sân hận… tinh tấn chẳng bỏ. Tán: Tuy hiện có sân hận nhưng an trú nơi tâm từ bi, nhẫn nhịn không giận dữ; tuy hiện giãi đãi nhưng luôn luôn tu thiện không bao giờ thôi nghỉ. Kinh: Tuy thị hiện thực hành các căn loạn động… Ba-la-mật-đa. Tán: Tuy hiện căn tán loạn nhưng thường an tónh vắng lặng trụ nơi định. Tuy hiện ác tuệ, nhưng thường đạt được cảnh tín và sở tín, đến tuệ đáo bỉ ngạn. Kinh: Tuy thị hiện hành dối trá… thành lập cây cầu tế độ. Tán: Xiểm khúc trá ngụy khiến cho người vui, làm chướng ngại phương tiện thiện xảo; còn Bồ-tát tuy hiện xiểm khúc trá ngụy, nhưng thường tu tập phương tiện khéo léo, cũng khiến cho người vui. Do kiêu mạn nên phần nhiều có lời nói bí mật, tự phóng túng lấn hiếp người, sinh khởi tà nguyện thế gian; làm chướng ngại nguyện rộng lớn. Bồ-tát tuy thực hành tà nguyện kiêu mạn mà hay thành tựu diệu nguyện, làm chiếc cầu xuất thế, cứu độ quần sinh. Vì hay cứu vớt, hay làm chiếc cầu độ các hữu tình, như thế gian nguyện cầu không bệnh, được sống lâu, thì Bồ-tát cũng tùy thuận mà chú nguyện cho họ; ý phù hợp với đạo xuất thế mà làm chiếc cầu cho thế gian. Kinh: Tuy thị hiện thực hành tất cả phiền não của thế gian… chẳng tùy theo duyên của ma. Tán: Tuy có khởi phiền não mà lại thành sức mạnh tốt đẹp, vì tánh thanh tịnh không nhiễm ô. Tuy hiện các ma mà chứng tuệ giác ngộ của Phật chẳng bị ma trói buộc. Tùy theo duyên của ma, tức là tùy theo duyên trói buộc của ma. Mười chín câu trên là nói về việc chẳng đồng với hạnh phàm phu; mười bốn câu sau là nói chẳng đồng với hạnh Nhị thừa. Nhị thừa có các việc kém xấu nhơ bẩn cùng căn khuyết… văn phân làm bảy câu, ý nghóa rất rõ ràng, Kinh: Tuy thị hiện hạnh Thanh văn… thành thục cho hữu tình. Tán: Đoạn thứ tư, gồm hai câu, căn cứ theo Tiểu thừa mà tu Đại thừa. Hàng Thanh văn thì tự lợi, chẳng biết cứu độ chúng sinh. Bồ-tát tuy ở vị Thanh văn, mà lại thuyết pháp cho Thanh văn nghe. Hàng Độc giác cũng thế, không có tâm đại Từ bi, Bồ-tát thì có đầy đủ, luôn thành thục cho loài hữu tình. Kinh: Tuy thị hiện ở nơi bần cùng… diệu sắc trang nghiêm thân. Tán: Đoạn thứ năm gồm năm câu, nương vào pháp ác mà tu pháp thiện. Tuy ở nơi bần cùng mà thường được đôi tay đầy của báu, ban phát vô tận. Tuy hiện các căn thiếu khuyết, mà đầy đủ các tướng quý, vẻ đẹp. Tướng có xấu nhưng tâm thì đạt được thiện. Kinh: Tuy hiện ở nơi ti tiện… phước tuệ tư lương. Tán: Tuy thị hiện sinh vào gia đình ti tiện mà thật sinh vào nhà Phật pháp giới thanh tịnh, có dòng họ tôn quý, tu tập nhân phước tuệ. Kinh: Tuy hiện ở nơi thô lậu, yếu kém đáng ghét… khởi sự chết đáng sợ hãi. Tán: Thân hình tuy hiện tướng xấu xí gầy yếu đầy dẫy sự đáng ghét mà thường được thân đẹp, mạnh như trời Na-la-diên; thân trời Na- la-diên là bật nhất, mọi người đều thích nhìn. Tuy hiện có bệnh, già mà hay xa lìa hoặc nghiệp căn bản, vượt khỏi năm sự sợ hãi trong sinh tử. Kinh: Tuy thị hiện cầu tài bảo, danh vị… tu tập hạnh xa lìa. Tán: Đoạn thứ sáu gồm bốn câu, nương vào chỗ kém để tu hạnh tốt đẹp. Dự lưu và Nhất lai còn có năm điều kém, Bồ-tát không như thế, các việc khác đều thông suốt, bậc vô học đều có đủ. Tuy hiện làm các việc mua bán mà luôn quán xét vô thường, chẳng sinh tham trước, đoạn dứt tâm mong cầu. Tuy ở nơi vui chơi mà vượt ra ngoài vũng bùn năm dục, tu hạnh xa lìa. Kinh: Tuy thị hiện nơi ngoan hiêu… độ các thế gian. Tán: Miệng chẳng nói lời trung tín gọi là ngoan, tâm chẳng tính lường đến lý nhân nghóa đạo đức thì gọi là hiêu. Bồ-tát tuy hiện ở nơi loại ngu si, mà đầy đủ biện tài, tuệ niệm tổng trì. Tuy thị hiện hành tà đạo, ở nơi ngoại đạo mà thường dùng chánh đạo hóa độ tất cả. Kinh: Tuy thị hiện ở nơi tất cả các loài sinh… sinh tử tương tục. Tán: Đoạn thứ bảy gồm ba câu nói về tu hạnh chẳng trụ. Đoạn gồm hai câu nói chẳng trụ sinh tử Niết-bàn. Bản dịch xưa chỉ có hai câu. Ở nơi sinh tử mà vónh viễn đoạn, ở nơi Niết-bàn mà thường chẳng trụ. Kinh: Tuy thị hiện được diệu Bồ-đề… tương tục không gián đoạn. Tán: Đoạn này gồm một câu nói về việc chẳng trụ nhân và quả. Tuy hiện được quả mà vẫn tu nhân hạnh. Kinh: Thưa ngài Diệu Cát tường… đến chỗ rốt ráo. Tán: Phần thứ hai kết luận. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nguyện xin được chỉ bày. Tán: Phần thứ hai, ngài Vô Cấu hỏi để làm rõ Như Lai chủng. Gồm bốn đoạn: Hỏi. Đáp. Nêu lên. Giải thích. Đây là câu hỏi. Chủng tức là nhân, tánh tức là loại. Thể loại nhân của Phật gọi là chủng tánh của Như Lai. Kinh: Bồ-tát Diệu Cát Tường đáp… là chủng tánh của Như Lai. Tán: Thứ hai là đáp, có hai: Nói riêng. Kết luận lược nêu. Trong phần nói riêng lại có hai: Trình bày riêng. Nói về loại. Đây là phần trình bày riêng, có bốn. Nghóa của Phật tánh có rất nhiều, kinh Niết-bàn ghi: “Hoặc có Phật tánh, người có thiện căn thì có, kẻ xiển đề thì không. Hoặc có Phật tánh, người xiển-đề có, người có thiện căn không có. Hoặc có Phật tánh, cả hai người đều có. Hoặc có Phật tánh, cả hai đều không”. Kinh Niết-bàn lại ghi: “Khi chưa đắc A- nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thì tất cả pháp thiện và bất thiện đều gọi là Phật tánh”. Kinh này cũng nói các trần lao là chủng tánh của Như Lai. Chủng tánh có hai loại là vô lậu và hữu lậu. Vô lậu lại có hai: Tánh vô vi; kinh Thắng Man ghi: “Tại triền gọi là Như Lai tạng, xuất triền gọi là pháp thân”. Kinh Niết-bàn ghi: “Sư tử rống, tức là quyết định thuyết, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”. Tánh nhân duyên, tại triền gọi là chủng tử pháp nhó, do nghe nhiều huân tập, xuất triền gọi là báo thân. Kinh Lăng-già ghi: “Thức A-lê-da gọi là Không Như Lai tạng; vì đầy đủ các pháp vô lậu huân tập nên gọi là Bất không Như Lai tạng”. Kinh Thắng Man y cứ vào nghóa vô vi, phiền não là hay che lấp, còn chân lý là thường bị che lấp. Kinh Lăng-già y cứ theo nghóa hữu vi, nên nói thức A-lê-da hay gom giữ, còn chủng tử thì được gom giữ. Hai loại hay che lấp, gom giữ, hai loại bị che lấp gom giữ đều gọi là Như Lai tạng. Hữu lậu cũng có hai, đều là Tăng thượng duyên: Gia hạnh thiện, tùy thuận tánh, tùy thuận tăng trưởng chủng tử vô lậu. Các bất thiện khác thì trái với tánh, chướng ngại pháp vô lậu. Do đoạn pháp này mà chứng đắc Bồ-đề, do phiền não này mà chân lý bị che lấp, cũng do công đức tăng thượng này hiện khởi cho nên gọi là Như Lai tạng. Do đủ hai nghóa này mà bất thiện gọi là Như Lai tạng. Vì thế các giáo nói: Khi chưa được Bồ-đề thì Bồ-đề là phiền não, vì bất giác cho nên mê, sau ở nơi khổ. Khi đã được Bồ-đề thì phiền não là Bồ- đề; vì chẳng mê cho nên giác; do đoạn trừ duyên kia nên được Bồ-đề. Chủng tánh của thân hư giả là thân năm uẩn duyên với Tát-ca-da kiến. Hữu ái, tức sau khi nhuận sinh thì hữu ái, do thân kiến làm gốc, vô minh làm nhân. Hữu ái là nhân, thì sinh tử trong ba cõi lấy đó làm chủng tánh, ba độc bốn đảo tùy theo đó mà sinh khởi, cũng đều như thế. Kinh: Chủng tánh năm uẩn có như thế… là chủng tánh của Như Lai. Tán: Đây là nói về loại. Năm uẩn, sáu xứ, tám tà, mười nghiệp bất thiện thì như trước đã nói. Bảy thức trụ là: Thân khác tưởng khác, như người, trời cõi Dục và Tónh lự thứ nhất, trừ kiếp sơ khởi tưởng, còn lại khởi tưởng cho rằng có khổ vui và không khổ vui. Thân khác tưởng đồng, như trời Phạm chúng, cho rằng kiếp sơ khởi, thân hình đã khác, nhưng đồng tưởng Phạm thiên là cha của chúng sinh. Thân một tưởng khác, tónh lự thứ hai thân tướng chẳng khác, lạc và xả lẫn lộn nhau. Thân một tướng cũng chỉ một như tónh lự thứ ba chỉ có tướng vui thích, cho nên gọi là tưởng một. Trong sơ tónh lự, do tưởng nhiễm ô cho nên nói tưởng một. Tónh lự thứ hai do tưởng hai thiện cho nên nói tưởng khác. Tónh lự thứ ba do tưởng dị thục cho nên gọi tưởng một. Trên là bốn thức trụ, dưới đây là ba vô sắc gọi là biệt tự thành. Năm uẩn, bốn uẩn tùy theo chỗ thích ứng mà gọi là thức trụ. Những nơi khác vì thức có tổn giảm nên không gọi là thức trụ. Đường ác quá khổ, tónh lự thứ tư, trời Vô tưởng định, cõi Phi tưởng đều có diệt tận định, làm tổn hoại thức, khiến thức luôn gián đoạn, cho nên chẳng phải là thức trụ. Vả lại còn một cách giải khác, như Câu-xá luận tụng ghi: “Thân khác và tưởng khác, thân khác tưởng là một, thân tưởng đều chỉ một, vô sắc sau có ba”. Cho nên biết có bảy thức trụ, những chỗ khác chẳng phải, vì thức có tổn hoại. Chín não, thể đều là sân; thích oan gia của ngã, ghét thân hữu của ngã và thân của ngã, tất cả là ba, nhân với ba thời thành chín việc não hại chúng sinh, nên gọi là chín não sự. Kinh: Tóm lại… là chủng tánh của Như Lai. Tán: Đây là phần kết luận tóm lược, chẳng thể nói đầy đủ cho nên tóm lại. Tất cả pháp phiền não, ác bất thiện đều là Phật chủng; trước đã nói, thức trụ của thân hư giả là quả hữu lậu, nghiệp đạo bất thiện là nghiệp hữu lậu, còn tất cả pháp còn lại đều là phiền não, trừ pháp hiện thuận với nhân, còn tất cả đều gom nhiếp vào pháp sinh tử khác. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… nói như thế. Tán: Thứ ba là nêu lên. Chủng nghóa là nhân, tức là liễu nhân năng sinh, trái với tánh bất thiện. Vậy thế nào là chủng? cho nên hỏi nói như thế có mật ý gì? Lời nói thật khó hiểu. Kinh: Ngài Diệu Cát Tường nói… Tâm chánh đẳng giác. Tán: Thứ tư, giải thích, gồm có hai: Giải thích rộng. Khen ngợi. Phần một lại có hai là giải thích và kết luận. Trong đoạn giải thích lại gồm ba pháp dụ: Dụ trên đồi cao hoa không thể sinh, mà ở vùng ẩm thấp mới sinh trưởng được. Dụ trong hư không, không thể gieo trồng, mà ở nơi đất đai ẩm thấp mới có thể gieo trồng được. Dụ biển mới có châu ngọc quý, chẳng có biển thì không có vật quý. Đầu tiên lại có ba là pháp, dụ và hợp. Đây là pháp. Chánh tánh tức đế lý. Nhập tức dự vào… Sinh tức là dị sinh. Lìa khỏi dị sinh này thì gọi là lìa sinh. Vị tức là giai vị. Dự vào đế lý này tức là lìa giai vị của dị sinh; tức là Dự Lưu… chẳng phải là người có thể phát tâm Chánh đẳng giác, mà phải ở ngay nơi phiền não mới phát tâm được. Đoạn văn này có rất nhiều thuyết. Bậc Thánh Nhị thừa chưa phát tâm, chẳng phải là vónh viễn không phát tâm, nhưng ở đây phần nhiều là nói phát tâm nhanh chóng mạnh mẽ siêu việt, cho nên nói Nhị thừa chẳng thể phát tâm, chẳng phải Nhị thừa không thú hướng đến Đại thừa. Ở hội Pháp Hoa có ba vòng thọ ký cho Thanh văn. Niết-bàn cũng nói bậc Tu-đà- hoàn tám vạn kiếp sẽ đến, cho đến Bích-chi mười ngàn kiếp sẽ đến, nói đến tức là đến tâm A-nậu-đa-la tam miệu Tam-bồ-đề. Lại nói, Ta trong một lúc nói Nhất thừa, Nhất đạo, Nhất duyên, Nhất hạnh, có thể vì tất cả chúng sinh mà làm bậc Đại tịch diệt, vónh viễn đoạn trừ tất cả sự trói buộc, sầu khổ và nhân khổ, khiến chúng sinh đến nơi Nhất hữu. Nhưng đệ tử của ta không hiểu ý của ta, bèn nói Như Lai thuyết tất cả chúng sinh đều được Phật đạo…, nói Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán đều chẳng được Phật đạo, tất cả không hiểu ý của Ta. Cho nên biết Nhị thừa cũng có người đạt được, như luận đã nói rõ. Vì thế nói chẳng nên luận theo một chiều. Kinh: Ví như trên vùng cao… bốn loại hoa này. Tán: Đây là dụ. Ôn-bát-la là màu xanh, Bát-đặc-ma là màu vàng, Câu-mẫu-đà là màu đỏ và Bôn-trà-lợi là màu trắng. Đây là nói bốn loại hoa sen. Kinh: Như thế chủng tánh Thanh văn… các Phật pháp. Tán: Đây là hợp. Nhị thừa như đồi cao, chẳng thể sinh phiền não như bùn lầy có thể sinh trưởng hoa. Do hoặc che mờ lý, lý hiển thì đạo sinh, đạo như hoa sen, phiền não chướng ngại trí, đoạn diệt nó thì trí sinh, trí như hoa sen. Do khởi phiền não làm lợi lạc chúng sinh, tăng trưởng trí tuệ, tuệ dụ như hoa sen. Kinh: Này thiện nam… mới được sinh trưởng. Tán: Dụ thứ hai. Đầu tiên nên dụ, sau là pháp. Đây là phần dụ. Kinh: Chủng tánh Thanh văn, Độc giác như thế… các Phật pháp. Tán: Đây là pháp. Nhị thừa như hư không, chẳng thể gieo trồng trên đó, vì vô ngã. Thân kiến như đất, có thể sinh ra thiện. Nhị thừa chứng không chẳng thể tiến tu; làm ngã xuất thế, hay cứu độ chúng sinh, chẳng sinh mà có thể tiến tu. Kinh: Này thiện nam… châu báu vô giá. Tán: Dụ thứ ba. Đầu tiên là dụ, sau là pháp. Đây là dụ. Kinh: Chẳng vào sinh tử… Nhất thiết trí tâm. Tán: Đây là pháp. Cần phải vào biển hoặc chướng mới biết được nó, mới phát khởi nó, mới đoạn được nó, mới phát được tâm Đại thừa. Kinh: Vì thế nên biết… là chủng tánh của Như Lai. Tán: Thứ hai, kết luận. Kinh: Lúc bấy giờ, Tôn giả… là chủng tánh Như Lai. Tán: Đoạn thứ hai là khen ngợi. Có ba: Khen ngợi và nêu lên. Giải thích nguyên do. Kết luận thành tựu ý nghóa. Đây là văn thứ nhất. Khéo thuyết là tổng quát; thật, như, vô dị là riêng biệt. Trong câu đầu lại có ba, như theo thứ tự phối hợp với ba dụ ở trước, hoặc thứ tự phối hợp với phiền não nghiệp khổ. Hoặc cho rằng lời nói chẳng dối là thật, lời nói thuận nghóa lý gọi là như, chẳng khác gọi là vô dị. Kinh: Vì sao… tâm Chánh đẳng chánh giác. Tán: Đây là đoạn giải thích nguyên do. Có hai là lược nêu và giải thích rộng. Phần một lại có hai: Nói chẳng thể được. Nói dẫu có thể được. Đây là đoạn văn đầu. Tương tục tức là thân; trong thân tâm chủng tử phiền não, đã bị đoạn trừ tiêu hoại, nhưng tâm chán ghét chẳng sâu, tâm tu hành chẳng mạnh, cho nên chẳng thể đạt được. Kinh: Dẫu có thể thành tựu… cứu cánh giải thoát. Tán: Đây là nói dẫu có thể được. Dẫu có tạo nghiệp vô gián, còn có thể phát tâm mà chẳng phải là Nhị thừa… Kinh: Vì sao?… vónh viễn không có năng lực này. Tán: Giải thích rộng. Có hai: Giải thích ý trước. Nêu dụ để hiển. Đây là phần thứ nhất. Từ câu thành tựu trở xuống là giải thích rộng ý “Dẫu có thể” nói ở trên. Từ câu: “Chúng tôi…” trở xuống là giải thích rộng ý “Chẳng thể được” ở trên. Ý văn có thể hiểu. Trước hội Pháp Hoa phát tâm chưa mạnh, chẳng thể tự biết, cho nên tự khiêm mà trách mình. Kinh: Như hàng thiếu căn… diệu pháp của chư Phật. Tán: Đây là dụ để hiển rõ. Tùy theo năm căn, nếu thiếu căn nào thì không thể lãnh thọ cảnh ấy. Bậc A-la-hán thiếu căn phiền não cho nên không có chí cầu Phật pháp. Kinh: Vì thế hàng Dị sinh… rốt cuộc chẳng thể báo đáp. Tán: Kết luận nghóa trước. Trước lược nêu, sau nói rộng. Đây là phần lược nêu. Kinh: Vì sao?… tất cả Phật pháp. Tán: Nói rộng để kết luận. Nói rộng về hàng Dị sinh báo ân. Nói rộng về Nhị thừa không thể báo ân. Đây là văn thứ nhất. Hàng Dị sinh có thể nhanh chóng mạnh mẽ phát tâm tu hành, mau chứng ngộ Phật pháp, hàng Nhị thừa thì không thể như thế, cho nên kinh Niết-bàn ghi: “Tu-đà-hoàn tám vạn kiếp mới đến, cho đến Bích-chi mười ngàn kiếp mới đến”. Nay nói nhanh chóng mạnh mẽ phát tâm, hàng Nhị thừa không thể được, nhưng chẳng phải hoàn toàn không thể. Vả lại nói hàng quyết định tánh không thể, chẳng phải là hàng bất định tánh. Nói phần nhiều không thể chứ chẳng phải hoàn toàn không thể. Kinh: Thanh văn Độc giác… tâm Chánh đẳng giác. Tán: Đây là nói rộng Nhị thừa chẳng thể có được ý nghóa như trước đã nói. Kinh: Bấy giờ, trong chúng hội… đều ở đâu. Tán: Đây là đoạn thứ ba, ngài Thiện Hiện hỏi để làm rõ nghiệp Bồ-đề. Có hai: Hỏi. Đáp. Đây là lời hỏi. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… tư duy thắng nghóa không, lấy đó gọi là nhà. Tán: Đây là lời đáp, gồm bốn mươi hai câu phân làm hai: Bốn mươi câu đầu chính thức trả lời câu hỏi trước; câu sau kết luận khuyên phát tâm. Trong bốn mươi câu đầu thì ba mươi chín câu là trả lời riêng, một câu sau là trả lời tổng quát. Trong ba mươi chín câu được phân làm ba: Mười hai câu đầu dùng pháp xuất thế tùy thuận phối hợp với pháp xuất thế để trả lời câu hỏi trước. Năm câu kế là dùng pháp xuất thế tùy thuận phối hợp với việc thế gian, để trả lời câu hỏi trước. Hai mươi hai câu cuối, nêu lên việc tùy thuận việc thế gian để trả lời câu hỏi trước. Tuy về sự cũng có thân tộc, nhưng muốn khiến cho các hữu tình vui thích đức hạnh, cho nên mới tạm dùng đức hạnh phối hợp với vợ con, hoặc đầu tiên nói về hạnh, kế đến nói về cảnh và sau cùng nói về trí. Cho nên đoạn sau tổng đáp ghi: “Vô biên hạnh, vô biên sở hành và vô biên trí viên mãn như thế để độ tất cả chúng sinh. Đoạn thứ nhất lại chia làm hai: Ba câu rưỡi đầu dùng pháp xuất thế tùy thuận phối hợp với hữu tình; tám câu rưỡi sau dùng pháp xuất thế tùy thuận phối hợp với phi hữu tình. Hữu tình có năm: Cha mẹ, vợ con, nô bộc, bạn bè, quyến thuộc. Hoặc phân làm mười, tức chia riêng cha, mẹ, vợ, con trai, con gái, phòng xá, kỹ nữ… Tuy phòng xá cũng gọi là phi hữu tình, nhưng vì lấy lý làm chỗ y cứ chính, cho nên nêu lên ở đây. Theo tông chỉ mà luận thì gọi chung là hữu tình. Một câu thứ nhất có một dụ là cha mẹ, câu thứ hai có một dụ là vợ con. Tuệ là độ thứ sáu, là trí vô phân biệt, là gốc của các pháp thiện, cho nên gọi là mẹ. Phương tiện là độ thứ bảy là cha, đó là Hậu đắc trí. Chư Phật, Bồ-tát bậc thầy của thế gian đều do hai trí này sinh ra. Bản dịch xưa ghi: “Trí độ là mẹ” tức là độ thứ mười, chẳng phải là gốc của các đức, thì làm sao gọi là mẹ? Cho nên biết trí độ là trí vô phân biệt mà chẳng phải là độ thứ mười. Pháp lạc là vợ, vì nghe pháp sinh niềm vui phát sinh hạnh thiện; Từ bi là con gái, vì hay nhu hòa. Đế pháp là con trai, vì quả thiện được tương tục. Do nghe đế giáo nên chủng tử pháp thiện sinh, kế thừa Tam bảo. Không Lý Nghóa ghi: “Các hữu được tư duy trong thế tục đế, trong Thắng nghóa không thì lấùy đó làm nhà, là chỗ về của tất cả Bồ-tát.” Ứng Lý Nghóa ghi: “Các”không” được tư duy, trong thắng nghóa chân như lấy đó làm nhà.” Nhà Như Lai tức là lý chân như. Hỏi kinh Phật Địa ghi: “Pháp lạc là thức ăn”, vì sao trong đây lại nói là vợ? Đáp: Căn cứ theo tên thì có khác biệt, như kinh kia thì căn cứ theo nhậm trì (giữ gìn) nên gọi là thức ăn, kinh này căn cứ theo năng sinh nên gọi là vợ, cũng không trái nhau. Kinh Pháp Hoa ghi: “Tâm Từ bi là nhà, các pháp không là tòa ngồi”, vì sao ở đó lấy không làm nhà, cả hai khác nhau. Vì hữu vi và vô vi cho nên nhà có hơn kém khác nhau. Kinh: Phiền não là nô bộc thấp hèn… bốn nhiếp là kỹ nữ. Tán: Đoạn này có ba: Nô bộc. Thân hữu. Quyến thuộc. Kỹ nữ cũng được xếp vào quyến thuộc. Phiền não là kẻ nô bộc thấp kém, mặc tình khởi diệt. Giác phần là thân hữu, vì có thể thành Bồ-đề, nhân để thành Phật đều gọi là giác phần chứ chẳng phải ba mươi bảy Bồ-đề phần. Sáu độ là quyến thuộc vì thâu nhiếp vạn hạnh, bốn nhiếp là kỹ nữ, vì hay sinh lợi lạc. Kinh: Lời kết tập chánh pháp… tẩy trừ các cấu uế. Tán: Đây là tám câu tụng rưỡi dùng pháp xuất thế, tùy thuận phối hợp với hữu tình. Phi hữu tình gồm mười sáu: Kỹ nhạc, vườn rừng, hoa quả, ao sen, xe ngựa, đường xá, vật trang nghiêm, y phục, tràng hoa, tài bảo, giường nệm, thức ăn thức uống, tắm rửa, hương thoa, diệt giặc, trừ oán, lập tràng. Đoạn này có bốn: Pháp âm là nhạc, vì làm vui vẻ tâm ý. Tổng trì là vườn rừng; vì gom giữ các hạnh, pháp Đại thừa là rừng vì vạn đức từ đây tươi tốt. Ba mươi bảy phẩm là hoa, vì sẽ cho quả Niết-bàn giải thoát, trí tuệ Bồ-đề là quả, nhân nói hoa mà có. Tám Giải thoát là ao tắm, vì trừ các cấu uế như tham… nước định tràn đầy lặng trong, nghóa là trong ao tám giải thoát thường có nước định, chẳng xao động, ao rộng nước đầy, như lý nên tư duy, hoa bảy thanh tịnh thường nở đầy khắp trong đó, như hoa sen trong ao. Ao tắm để làm gì? Để trừ dơ bẩn (cấu uế). Cấu tức sáu cấu: hai, hận, não, xiễm, cuống, kiêu. Bảy thanh tịnh là giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh, độ nghi tịnh, đạo phi đạo tri kiến tịnh, hành tri kiến tịnh, hành đoạn tri kiến tịnh. Hoặc phân tất cả làm ba mươi ba, ở đoạn này có chín là phân chia rừng, cây, hoa và trừ cấu. Kinh: Thần thông là voi ngựa… hồi hướng đại Bồ-đề. Tán: Đoạn này gồm năm dụ: Thần thông là voi ngựa, vì hay vận chuyển. Đại thừa làm xe, hay chuyển vận sự lợi ích. Thể của Đại thừa là hai chân trí, cho nên có thể chuyên chở lợi ích. Căn cứ theo Pháp Hoa thì hậu đắc trí là thể của Nhất thừa. Vô phân biệt trí là trâu trắng. Hay điều ngự tâm Bồ-đề giong ruổi trên con đường bất chánh. Dùng ba mươi hai tướng quý và tám mươi vẻ đẹp phụ để trang nghiêm thân, trang nghiêm nội đức. Tàm quý là y phục vì ngăn ngừa các điều ác; thắng ý lạc là tràng hoa vì làm tươi tốt tâm đầu. Chánh pháp là tài bảo hoặc là thất Thánh tài, như trước đã nói, hoặc là các Thánh pháp, đều gọi là tài, ban phát cho chúng sinh, nêu rõ pháp này là phương tiện, tự mình không có hạnh điên đảo là lợi ích thù thắng, hồi hướng Bồ-đề mà tự thọ dụng. Tài bảo có đức tự tha thọ dụng, cho nên dụ cho chánh pháp. Hoặc đoạn này có mười hai dụ là chia riêng, xe, người cỡi, trang sức, tốt đẹp ý mạn, phương tiện, hành, sở hành và hồi hướng Kinh: Bốn tónh lự là giường… kiến lập Bồ-đề tràng. Tán: Đoạn này gồm có bảy: Bốn tónh lự là giường, vì đó là nơi tâm hằng an trụ; không tham; tịnh mạng là mền nệm, vì đó là nơi ba nghiệp luôn luôn gần gũi nương tựa. Nhân là nệm, Xưa ghi: “Từ tịnh mạng sinh” thì nghóa hẹp mà khó hiểu, vì đó là vật mà thân gần gũi. Do ghi nhớ kỹ và trí quán xét nên thường tự giác ngộ, luôn ở trong định, cho nên lấy tónh lự làm giường, bản xưa ghi: “Đa văn tăng trí tuệ”, vì nhân nơi định mà tuệ tăng; lấy đó làm âm thanh tự giác tức dùng pháp được hỏi làm âm thanh tự giác, không có phối hợp riêng khác. Đã thực pháp chân như bất tử, vì không khởi diệt, lại uống vị giải thoát trạch diệt, xa lìa các khổ. Xưa ghi: “Giải thoát vị ghi là tương (nước) trừ khát nóng đốt phiền não. Nơi ao tám giải thoát tắm mát tâm tịnh diệu, khiến không nhiễm ô. Xoa giới hương thượng diệu nơi tâm này, để diệt trừ các ác pháp, xông ướt thân tâm bằng giới Bồ-tát. Diệt trừ giặc phiền não, cho nên dũng mãnh không ai hơn. Phá dẹp bốn oán. Dựng cờ Bồ-đề; vì Vô thượng Bồ-đề vô cùng cao lớn, cho nên dụ như cột cờ. Hoặc ở đây gồm mười hai dụ, tức là chia riêng mền nệm, niệm trí, thường định, ẩm vị và dõng kiện. Kinh: Tuy thật không khởi diệt… lợi vật không mỏi mệt. Tán: Đoạn này gồm năm bài tụng dùng hạnh xuất thế phối hợp với việc thế gian để trả lời câu hỏi trước. Gồm có sáu việc: Thọ sinh. Hiện cõi nước. Cúng dường. Tu nghiệp. Biến hiện. Phá ác. Đoạn này gồm có bốn: Tuy không có sinh tử mà cố tư duy nơi cõi Dục và Sắc để thọ sinh. Hay hiện cõi Phật sáng rỡ như mặt trời chiếu soi quần sinh. Ba việc cúng dường Như Lai, thể của nó đều không, tất cả đều không phân biệt, gồm cả vật cúng cũng thể không. Tuy biết cõi Phật và hữu tình đều không, nhưng do tu tịnh nghiệp và lợi sinh, nên chẳng từng thôi nghỉ, cũng không mỏi mệt. Kinh: Tất cả loại hữu tình… có biểu sự đều thành. Tán: Đoạn này có hai: Các pháp sắc thanh, oai nghi… của hữu tình, Bồ-tát học bốn Vô úy, mười Lực, trong một sát-na đều có thể hiện khởi. Ma nghiệp sinh tử, tuy có thể biết rõ, nhưng có thể thị hiện, tùy chúng khởi chuyển, khi đến cứu cánh thì dùng tuệ phương tiện đoạn trừ tất cả. Đầu tiên biết ma nghiệp mà thị hiện sinh khởi, sau đó thì đoạn diệt, khi đến chỗ rốt ráo dùng tuệ phương tiện đoạn trừ hết, cho nên gọi có biểu sự đều thành, sự mong cầu của bản tâm, nay đã đầy đủ. Bản dịch xưa ghi: “Tùy ý đều hiển hiện”, tức đều có thể hiện tiền đoạn dứt. Kinh: Hoặc thị hiện tự thân… chiếu khiến cho chóng diệt. Tán: Đoạn thứ ba gồm hai mươi hai bài tụng, nêu việc tùy thế sự để trả lời câu hỏi trước. Đoạn này được chia làm sáu: Hai bài đầu nói về vô thường. Một bài kế là khuyên cầu Phật. Hai bài kế nói về đạt biến tri. Bảy bài kế nói về trừ lo khổ. Ba bài kế nói về hiện thiện xảo. Bảy bài kế nói về cứu khổ nạn. Đây là văn đầu. Như vật vui chơi mà làm huyễn thuật, thị hiện bệnh, chết. Chẳng phải chân thật cũng như thế. Hữu tình phần nhiều chấp thế giới là thường, nên hiện lửa cháy và thân có già bệnh, khiến cho họ biết là mau chóng biến diệt. Kinh: Ngàn câu-chi hữu tình… đều hướng đến Bồ-đề. Tán: Đây là một bài tụng khuyên cầu Phật, thọ nhận người kia đến cúng dường, khuyên thú hướng đến Bồ-đề. Kinh: Đối với cấm chú thuật… mà chẳng đọa vào các kiến. Tán: Đây là hai bài nói về đạt biến tri, bài đầu nói biết sáu nghề cho đến rốt ráo làm lợi ích. Bài sau tùy các đạo pháp mà xuất gia lợi lạc quần sinh, tuy theo đó xuất gia mà chẳng theo kiến giải của họ, vì đã đoạn kiến nhiễm ô. Kinh: Hoặc làm trời nhật nguyệt… lợi ích các hữu tình. Tán: Từ đây xuống là bảy bài tụng nói về trừ ưu khổ. Gồm bốn đoạn. Đoạn này có một bài nói về tùy thời làm lợi ích cho vật và hữu tình. Kinh: Thường nơi kiếp dịch bệnh… vui vẻ không sân hận. Tán: Đoạn này gồm ba bài nói về cứu chúng sinh bị tam tai. Kinh: Ở nơi chiến trận lớn… khuyên phát tâm Bồ-đề. Tán: Đoạn này có một bài nói về khuyên các nước gây chiến tranh nên giải hòa và phát tâm. Kinh: Các cõi Phật vô lượng… lợi lạc là bản sinh. Tán: Đoạn này gồm hai bài nói về việc vào ác đạo để cứu độ. cõi Phật vô lượng, cho nên Bồ-tát cứu độ chúng sinh cũng vô biên, chúng sinh trái nghịch chánh pháp, thực hành hạnh ác, cho nên đọa vào địa ngục cũng vô biên. Bi tức mau chóng cứu khổ, từ tức ban cho an lạc. Hiện thành loài cá lớn nuôi dưỡng các loài trùng nhỏ trong vảy, để cho chúng thức ăn, hiện làm nai chúa để cứu nai có mang, hiện làm chim tró để cứu các loại hữu tình bị thiêu đốt. Như thế luôn luôn làm lợi lạc, việc này cho đến khi thành Phật rồi, gọi đó là bản sinh, chính là việc Bản sinh của Bồ-tát. Kinh: Thị hiện thọ các dục… sau khiến tu Phật trí. Tán: Đoạn này gồm ba bài tụng nói về hiển bày thiện xảo. Gồm có hai: Hai bài đầu hiện hai thiện xảo, một là theo cảnh dục mà thường tu định, hai là nhiễu loạn các ác ma làm cho chúng không thể tiện lợi, sau đó là giải thích lại việc thọ cảnh dục mà tu định. Câu thứ ba, thị hiện làm dâm nữ mà khuyên tu Phật trí, tất cả gồm ba loại thiện xảo. Kinh: Hoặc làm chủ thành ấp… khiến hưởng đại Bồ-đề. Tán: Từ đây xuống gồm bảy bài tụng nói về cứu nguy, được phân làm sáu. Đoạn này gồm hai bài tụng, một nói về việc làm người tôn quý để lợi lạc kẻ dưới, bài thứ hai hiện tài bảo để cứu kẻ bần khổ. Kinh: Đối với kẻ kiêu mạn… khiến phát tâm Bồ-đề. Tán: Đoạn này gồm hai bài tụng: Có năng lực trừ kiêu mạn. Khéo léo diệt sự sợ hãi. Quý tức khiếp sợ. Người kinh khiếp sợ hãi, thì khéo léo trấn an và khiến họ phát tâm. Kinh: Hiện làm Tiên ngũ thông… đều hay khéo tu học. Tán: Đoạn này cũng có hai bài: Tự hiện làm tiên, tu tập Phạm hạnh, lại khuyên các loài chúng sinh an trụ nơi giới, nhẫn, từ. Thấy người nghèo cần giúp đỡ, thì phương tiện mà làm người hầu hạ giúp đỡ. Tùy theo các loại hữu tình mà dùng trí tuệ phương tiện khuyên răn tiến tu, để theo nhận pháp lạc; nơi sự tu hành của Bồ-tát, đều dùng phương tiện khiến cho tùy thuận tu học. Kinh: Vô biên hạnh như thế… độ thoát chúng vô biên. Tán: Đoạn này gồm một bài tụng, trả lời tổng quát: Hạnh nghiệp vô biên. Vô biên cảnh sở hành. Trí vô biên. Dùng ba vô biên kể trên để độ thoát chúng vô biên. Do dùng trí chứng cảnh khởi hạnh vô biên mà độ thoát chúng sinh. Kinh: Giả sử tất cả Phật… đều không có trí tuệ. Tán: Đoạn này gồm hai bài tụng, kết luận khuyên phát tâm. Bài tụng thứ nhất kết luận nêu công đức thù thắng, cho nên khen ngợi chẳng thể cùng tận. Bài tụng sau khuyên phát tâm tu học. Từ trên là lược giải ý văn, các người có trí suy nghó có thể biết được, chẳng nên vì tâm chưa khai ngộ mà trách người. Bản dịch cũ và mới khác nhau mỗi mỗi đều đã trình bày, sợ văn dài dòng cho nên lược bớt chẳng nêu. -------------------------------- <詞>PHẨM 9: BẤT NHỊ PHÁP MÔN Phẩm Bồ-đề Phần và phẩm này đều nói về chân thật nghóa xứ là môn tự lợi. Phẩm trước nói về sự hạnh thế tục thuộc chân thật hữu vi, phẩm này nói về lý hạnh xuất thế thuộc Chân thật vô vi. Hành lợi tha ắt là vì tự lợi. Muốn chứng lý thì trước phải tu sự, hai có nghóa là sai biệt, hai và chẳng hai đều là hai; một, ba, bốn gọi là chẳng phải hai. Bồ-tát Hoa Nghiêm… cho một là hai; Bồ-tát Pháp Tự Tại cho hai là hai; Bồ-tát Thậm Thâm Giác… cho ba là hai; Bồ-tát Quang Tràng cho năm là hai; Bồ-tát Hỷ Kiến… cho sáu là hai; căn cứ theo các chấp một… cho nên đều gọi là hai.Ở đây trừ phân biệt và các sai biệt sự thì gọi là Bất nhị. Nhờ vào danh từ hai mà biểu thị hai và chẳng hai, chẳng phải do nói thể của hai mà chỉ trình bày hai. Đầu tiên có mười sáu vị Bồ-tát cho hai là hai, sau có mười lăm vị Bồ-tát lấy chẳng hai làm hai. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lấy lời nói và tâm làm hai; Vô Cấu Xưng lấy hữu thuyết làm hai, đến đoạn sau sẽ biết. Không Lý Nghóa ghi: “Tánh không không sai biệt, tục vọng có sai biệt, nay nói chân đồng tánh và tục vọng có sai biệt khác nhau, cho nên nói pháp chẳng hai. Không này tức là môn, duyên nơi đây thì hay sinh ra trí chân không, mà nói về chân tánh thì chẳng hai chẳng phải chẳng hai. Nay ngăn che pháp hai vọng, cho nên nói pháp chẳng hai. Vọng thì chẳng sinh trí không, chân thì mới sinh trí không. Ngăn trừ chẳng phải môn, cho nên chẳng phải môn gượng nói là môn. Phẩm này nói rộng về việc trên cho nên gọi là phẩm Pháp Môn bất nhị”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Tục sự và lý vọng sở chấp đều khác nhau, chân lý chẳng hư vọng, cho nên chẳng phải vọng có khác nhau. Nay nêu rõ lý chân như vô tướng chỉ là một, e rằng nghe một liền chấp nhất định có một, mà chẳng nói nơi một chỉ là nói để ngăn dứt vọng khác nhau, vì thế mà phải nói chẳng hai. Lý chẳng hai, có thể làm khuôn mẫu, cho nên gọi là pháp. Pháp này thông từ sinh tử đến trí giải vô lậu, nên đặt tên là môn. Theo thật lý thì chân như chẳng phải chẳng hai, chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp, chẳng phải môn chẳng phải chẳng môn. Ngăn trừ hai cho nên phải lập chẳng hai, ngăn dứt phi pháp cho nên lập pháp, dứt trừ chẳng phải môn cho nên lập môn, phẩm này bàn rộng về việc ấy nên gọi là phẩm Bất Nhị Pháp Môn. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mỗi mỗi tùy ý thích mà nói ra. Tán: Toàn phẩm gồm hai đoạn lớn: Nói pháp môn bất nhị. Vào pháp môn bất nhị. Tức là câu “Vô Cấu Xưng vào pháp môn bất nhị…”. Trong đoạn lớn thứ nhất lại có hai: Vô Cấu Xưng hỏi, các Bồ-tát nói pháp môn bất nhị. Các Bồ-tát hỏi, ngài Diệu Cát Tường nói pháp môn bất nhị. Hoặc nói ba mươi mốt vị Bồ-tát dùng phân biệt chấp làm hai, lý vô phân biệt làm chẳng hai, trí hội được lý này gọi là vào pháp môn bất nhị. Ngài Văn-thù dùng ngôn thuyết làm hai, pháp tánh lìa ngôn thuyết làm chẳng hai, trí đạt được tánh này là vào chẳng hai. Vô Cấu Xưng thì cho giả trí và ngôn thuyết đều là hai, chân như các pháp mới là chẳng hai; chánh trí chứng chân gọi là vào chẳng hai. Cho nên mỗi mỗi khác nhau. Trong phần một lại chia làm hai, là hỏi và đáp. Đây là lời hỏi. Nhập (vào) tức là chứng là thấu hiểu. Chứng hiển chân lý gọi là vào chẳng hai, mỗi mỗi tùy theo biện tài, tùy theo ý thích mà luận nói. Kinh: Bấy giờ, trong chúng hội… lần lượt giải nói. Tán: Đây là phần đáp, có hai: Lược nêu. Nói rộng. Đây là lược nêu. Kinh: Bấy giờ, có Bồ-tát tên là Pháp Tự Tại… pháp môn bất nhị. Tán: Nói rộng, gồm có ba mươi mốt vị Bồ-tát, đáp riêng câu hỏi đã nêu. Trong mỗi lời đáp toàn văn đều chia làm bốn phần: Nêu tên Bồ-tát. Trình bày pháp hai. Nói về pháp chẳng hai. Tổng kết. Nhưng Không Lý Nghóa đều cho tục vọng có hai, chân không thì không hai. Ứng Lý Nghóa thì cho y tha sở chấp có hai, chân như Viên thành thật chẳng hai. Hai nghóa này, văn giải thích về ngăn trừ chấp trước tuy đồng mà ý nghóa lại khác, sợ dài dòng nên ở đây không đối chiếu phân biệt, mỗi mỗi điều sớ, người đọc văn có thể biết rõ. Sinh diệt là hai, lý là chẳng hai, chứng đắc chánh trí vô sinh này gọi là nhẫn. Sơ địa trở lên, nhẫn này chứng chân như vào chẳng hai. Không Lý Nghóa ghi: “Không thì vô, hữu thì có”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Lý thì không, sự thì có hai, vì sinh diệt là hai, cho nên chẳng lìa phân biệt”. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Thắng Mật… vào pháp môn bất nhị. Tán: Phân biệt ngã và ngã sở gọi là hai, lý không hai gọi là chẳng hai, chứng được lý không hai này gọi là vào chẳng hai. Dưới đây đều là dùng lý để ngăn dứt chấp hai, cho nên nói chẳng hai. Vì thế trong hai đều nói là phân biệt. Bản dịch xưa không ghi từ phân biệt, là ý còn giữ lý không. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Vô Thuấn… vào pháp môn bất nhị. Tán: Hữu thủ tức chấp trước, vô thủ tức không chấp trước. Phân biệt có chấp trước và không chấp trước là hai. Nếu có chấp trước tức có sở đắc, vì có sở đắc nên có tăng giảm, có tăng cho nên có khởi và tạo tác, có giảm cho nên có thôi dứt. Nếu liễu ngộ không chấp trước, tức không có sở đắc, không có sở đắc tức không có tăng giảm, không tăng giảm tức khởi không diệt. Vì thế trong các pháp không có chỗ chấp trước, không có tâm chấp trước. Đạt được lý này tức gọi là vào chẳng hai. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Thắng Phong… vào pháp môn bất nhị. Tán: Tịch diệt tích tức là chân lý, lý tức là dấu tích của trí. Trí dụ như chân, vì hay bước đi; lý là dấu vết, dấu bước đi. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Diệu Tịnh… vào pháp môn bất nhị. Tán: Tán động tức là tâm giong ruổi theo ngoại cảnh. Tư duy tức là nhiếp niệm và duyên bên trong. Đầu tiên thấu hiểu được không hai, thì đã có tác ý, sau trụ nơi chẳng hai thì không tác ý. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Diệu Nhãn… vào pháp môn bất nhị. Tán: Nhất tướng tức là lý cộng tướng không, vô ngã… vô tướng tức chân như liễu tri các pháp, không có cộng tướng, cũng không có tự tướng, tự tướng tức là tướng sai biệt. Biết rõ hai tướng hữu vi cộng và tự này đều không, cũng là thể không chân không tướng, biết được lý hữu vi và vô vi này, hai trí bình đẳng thì gọi là vào chẳng hai. Cộng tướng tự tướng đều là hữu vi, đối lại là vô vi, cho nên gọi là hai. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Diệu Tý… vào pháp môn bất nhị. Tán: Hai tâm nhân duyên của Bồ-tát và Thanh văn, tánh của tâm này như huyễn, đạt được lý hai như huyễn này gọi là vào chẳng hai. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Dục Dưỡng… vào pháp môn bất nhị. Tán: Thiện và chẳng thiện không có chỗ sinh khởi, hai pháp hữu tướng và vô tướng này đều bình đẳng, không có thiện để lấy, không có ái để xả bỏ, liễu tri như thế gọi là vào chẳng hai. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Sư Tử… vào pháp môn bất nhị. Tán: Có tội thì gọi là trói buộc, không tội gọi là giải thoát, dùng trí kim cang vô lậu để đạt được không có trói buộc giải thoát, thì gọi là vào chẳng hai. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Sư Tử Tuệ… vào pháp môn bất nhị. Tán: Hữu tưởng tức tưởng hữu lậu, vô tưởng tức là tưởng vô lậu. Hoặc hữu lậu sinh, gọi là hữu tưởng, vô lậu sinh gọi là vô tưởng, hoặc có tâm tưởng gọi là hữu tưởng, không có tâm tưởng gọi là vô tưởng. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Tịnh Thắng Giải… vào pháp môn bất nhị. Tán: Xa lìa tất cả các hành hữu vi, sinh khởi giác tuệ, tức là trí quán vô vi như không, cùng cực thanh tịnh. Hoặc xa lìa hạnh hữu vi, tức trí vô vi giác tuệ như không, cùng cực thanh tịnh đã không có chỗ chấp trước, cũng không có chỗ ngăn dứt gọi đó là vào chẳng hai. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Na-la-diên… vào pháp môn bất nhị. Tán: Có thể hủy hoại nên gọi là thế gian, đối lại là xuất thế gian. Thấu suốt thế gian là không thì đầu tiên chẳng có nhập sau chẳng có xuất. Vì chẳng nhập nên chẳng theo dòng sinh tử; bản xưa nói dật tức trôi theo dòng, vì chẳng xuất, cũng không tan rã tiêu diệt nên lìa thế gian, cảnh đã như thế, nên tâm cũng không chấp trước. Kinh: Lại có Bồ-tát Điều Thuận Tuệ… vào pháp môn bất nhị. Tán: Biết sinh tử không, vốn không lưu chuyển cũng không có Niết-bàn. Hai cảnh vốn không thì phân biệt liền diệt. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Hiện Kiến… thì gọi là vô tận. Tán: Đây có hai phen giải thích, phen thứ nhất liễu tri không có tận và vô tận, cần phải rốt ráo tận mới gọi là tận, tức phiền não… pháp rốt ráo tận gọi là hữu tận, đã rốt ráo tận, lại chẳng thể được gọi là thường tận, thì đó gọi là vô tận, có hữu tận thì không có vô tận, thể vô tận liền không, vô tận tức hữu tận nên hữu tận cũng không có thể, cho nên cả hai đều không. Kinh: Vả lại hữu tận… vào pháp môn bất nhị. Tán: Đây là phen giải thích thứ hai. Đoạn trước là căn cứ theo tương tục để giải thích bất nhị, đây là căn cứ theo sát-na; hoặc trước căn cứ theo pháp nhiễm, đây là căn cứ theo pháp tịnh. Một sát-na tạm thời diệt thành không, nhất định là không có tận tức vô tận, trong một sát-na không có hữu tận thì vô tận cũng không, liễu tri cả hai vốn không, phân biệt chẳng khởi, gọi đó là chẳng hai. Xưa nói: “Nếu rốt ráo tận thì lại chẳng thể tận”, cho nên hữu tận tức là vô tận. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Phổ Mật… vào pháp môn bất nhị. Tán: Thể của ngã và vô ngã, tánh của nó đều không, chẳng thể luận là hai, phân biệt hai này gọi là hai, rõ biết hai cảnh đều không thì sự phân biệt kia đoạn diệt. Trí đạt được lý này gọi là vào pháp môn bất nhị. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Điện Thiên… vào pháp môn bất nhị. Tán: Rõ biết vô minh bản tánh vốn không, lý tức là minh, chấp hai pháp này là thật đều chẳng thể được, chẳng thể tính lường là có, siêu việt con đường tính lường, quán hai pháp này chẳng hai, gọi là vào chẳng hai. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Hỷ Kiến… vào pháp môn bất nhị. Tán: Mười sáu vị Bồ-tát kể trên lấy hai làm hai, còn mười lăm vị Bồ-tát từ đây trở xuống là lấy chẳng phải hai làm hai, hoặc có thể nói chung lấy hai làm hai, năm uẩn là một, không là một, văn sau sẽ biết rõ. Không Lý Nghóa ghi: “Tánh thủ uẩn thế tục tức chân không, Thể của không và uẩn không khác nhau; thủ uẩn hiện tại tức có chân không, chẳng phải uẩn diệt rồi mới có tánh không. Do đó mà nói ngay nơi sắc là không, chẳng phải sắc diệt mới thành không; đây là phá hai chấp: Chấp ngoài sắc của thế tục riêng có chân không, vì phá chấp này, cho nên nói tức sắc là không, sắc và không chẳng khác. Chấp sắc của thế tục diệt rồi mới có chân không, vì phá chấp này nên nói chẳng phải sắc diệt rồi mới thành không, mà uẩn hiện tiền đã có không. Ứng Lý Nghóa ghi: “Lược có hai cách giải thích: Một là sắc sở chấp tức là không, sắc không chẳng có hai thể, chẳng phải sắc sở chấp diệt rồi mới có không, khi sắc tướng hiện tiền tánh của nó đã không. Sắc đã là sắc sở chấp, không cũng là không vô; hai là sắc sở chấp và sắc y tha đều là chân như không, thể không và chân như chẳng riêng khác, cũng chẳng phải hai sắc diệt rồi mới có chân như không, khi hai sắc hiện tiền, chân như đã có. Đã không có hai pháp khác nhau nên gọi là vào pháp môn bất nhị. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Quang Tràng… vào pháp môn bất nhị. Tán: Bốn giới tức đất, nước, lửa, gió. Không thì Không Lý Nghóa ghi: “Không tức là tánh chân không” Ứng Lý Nghóa ghi: “Sở chấp tức không vô, chân như là tánh không”. Căn cứ theo hai cách giải thích thủ uẩn và không ở trước thì mé trước, khoảng giữa và mé sau, quá khứ vị lai và hiện tại, tánh của nó đều không đảo lộn tức là chân lý. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Diệu Tuệ… vào pháp môn bất nhị. Tán: Nhãn và sắc, phân biệt là hai cho đến ý và pháp, phân biệt là hai vì căn cảnh đối đãi. Rõ biết tánh của sáu pháp hai này đều không; kiến và nhãn tánh không, đối với cảnh chẳng khởi ba độc, cho đến ý và pháp cũng như thế; kiến đã an trụ vắng lặng nên gọi là vào chẳng hai. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Vô Tận Tuệ… vào pháp môn bất nhị. Tán: Bố thí là một, hồi hướng nhất thiết trí tánh là một, cho nên gọi là hai. Nhất thiết trí tánh tức lý chân như, là thể của trí. Biết bố thí… là tánh chân như, cho nên gọi là chẳng hai. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Thậm Thâm Giác… vào pháp môn bất nhị. Tán: Không quán ngã… là Không, Vô tướng, Vô nguyện, duyên vô vi hữu vi là hữu; rõ biết ngã không đều không có tướng, trong vô tướng này cũng không có nguyện, trong vô nguyện này thì tâm ý thức đều không thể khởi, sở thủ không, năng thủ cũng không, lại chẳng ngoài vô nguyện mà sinh tâm, vì không tức là vô nguyện. Kinh Lăng-già ghi: “Tàng thức gọi là tâm, tánh suy lường là ý, rõ biết các tướng cảnh, là thức”. Như thế đối với một môn không, giải thoát gồm thâu ba pháp. Thông đạt được lý này gọi là vào chẳng hai. Luận Thành Duy Thức ghi: “Không, Vô tướng, Vô nguyện, đối với biến kế sở chấp, y tha và viên thành hoặc đều là duyên chung, hoặc là thứ tự duyên riêng biệt”. Đây là căn cứ theo duyên chung nên gọi là chẳng hai, cho đến Vô nguyện cũng là Không, Vô tướng, đều căn cứ theo đây mà biết. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Tịch Tónh Căn… vào pháp môn bất nhị. Tán: Phật là trước, Pháp, Tăng là sau, Tam bảo, có thể riêng biệt, phân biệt là hai; rõ biết Phật tức Pháp, Tăng, Tam bảo đồng thể đều là tướng vô vi bình đẳng như hư không không đâu chẳng có. Các pháp cũng như thế, đều là tánh chân như, gọi đó là chẳng hai. Nghóa của đồng thể Tam bảo như trước đã giải thích. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Vô Ngại Nhãn… vào pháp môn bất nhị. Tán: Tát-ca-da là thân hư giả; diệt tức là chân lý. Thân hư giả và như, phân biệt là hai, biết thân hư giả tức là diệt, chẳng khởi kiến chấp thân hư giả, cho nên đối với thân hư giả và diệt không có phân biệt chung và phân biệt riêng, chứng ngộ hai chân như, tánh của nó rốt ráo diệt, không nghi ngờ, không kinh sợ. Nếu chấp có thân kiến thì có hoài nghi, lại có kinh sợ. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Thiện Điều Thuận… vào pháp môn bất nhị. Tán: Hai sắc thân ngữ và phi sắc là ý, phân biệt là hai. Không Lý Nghóa ghi: “Rõ biết ba pháp này vốn không đều không có tướng tạo tác, không có tướng tạo tác nên hai tướng đó chẳng hai, thân không tức ngữ không, ngữ không tức ý không, ý không tức tất cả pháp không. Nếu có thể tùy thuận vào tất cả pháp không, không có tướng tạo tác thì gọi đó là vào chẳng hai”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Rõ biết ba luật nghi vốn là tánh chân như, đều không tạo tác, thân chân như tức ngữ chân như, ngữ chân như tức ý chân như, ý chân như tức nhất thiết pháp chân như, có thể tùy nhập vào chân như không tạo tác, gọi đó là vào chẳng hai.” Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Phước Điền… vào pháp môn bất nhị. Tán: Các nghiệp bất thiện có thể nhàm chán phá hủy nên gọi là tội hạnh; thiện nghiệp ở cõi Dục có thể ưa thích yêu mến cho nên gọi là phước hạnh; các thiện định tâm ở cõi Sắc và Vô sắc trụ ở một cảnh nên gọi là bất động hạnh. Hai cõi định và tán phân biệt là hai. Về tướng vô tác, tức là tướng vô tác của không, ly tức là tánh chân không, tướng vô tác của ứng lý, tánh của nó tức chân như. Cho nên trong “không” này không có ba pháp sai biệt. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Hoa Nghiêm.. vào pháp môn bất nhị. Tán: Các vị Bồ-tát này đều lấy một làm hai. Tất cả pháp hai này tức là tất cả pháp phân biệt sai biệt đều từ ngã sinh khởi. Biết được lý ngã chân thật tức chẳng khởi hai. Vì chẳng khởi hai thì không có năng liễu, không có năng liễu thì không có sở liễu, gọi đó là vào chẳng hai, không có đầu cuối sai biệt, Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Thắng Tạng… vào pháp môn bất nhị. Tán: Pháp hai tức là tất cả phân biệt sai biệt. Có sở đắc tức bản kiến có tướng, nếu rõ biết bản có sở đắc thành không có sở đắc, thì không có khởi các kiến chấp lấy bỏ, đầu cuối sai biệt hai, đã không có lấy bỏ là hai, gọi đó là vào pháp môn bất nhị. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Nguyệt Thượng… vào pháp môn bất nhị. Tán: Thấu suốt được chân lý thì không có tối sáng, tối sáng đã không hai, như ở diệt định vô tâm, không còn tâm lậu minh, không còn tâm lậu ám, tất cả đều không phân biệt, cho nên nêu lên làm dụ. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Bảo Ấn Thủ… vào pháp môn bất nhị. Tán: Rõ biết sinh tử Niết-bàn vốn là tánh chân lý không hai, thì không có thích hay chán. Lý rốt ráo tức sinh tử chẳng có trói buộc, Niết- bàn chẳng phải giải thoát, thì đâu có gì thích và chán. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Châu Kế Vương… vào pháp môn bất nhị. Tán: Khéo trụ nơi chánh đạo, thì tà đạo liền diệt, chẳng còn hiện hành. Nếu thấy có tà đạo thì thấy có chánh đạo. Tà đạo đã chẳng thấy hiện hành, thì làm sao có chánh đạo được? Hai cảnh đã không hai năng giác chẳng có, không có giác hai, gọi là vào giáp môn bất nhị. Kinh: Lại có Bồ-tát tên là Đế Thật… vào pháp môn bất nhị. Tán: Hư giả tức là các việc hữu vi, thật tức là lý vô vi. Lý đế thật có thể chứng ngộ còn chẳng thể thấy là thật, huống là pháp hư giả chứng ngộ mà có thể thấy ư? Tánh chân lý này nhục nhãn chẳng thể thấy, chỉ tuệ nhãn mới có thể thấy được. Khi tuệ nhãn vô phân biệt tri chứng ngộ, thì đối với tất cả đều không còn phân biệt, chẳng thấy chẳng phải không thấy, gọi đó là vào chẳng hai. Kinh: Như thế các vị Bồ-tát trong hội… vào pháp môn bất nhị. Tán: Từ đây xuống là phần thứ hai, các vị Bồ-tát hỏi ngài Diệu Cát Tường nói về pháp môn bất nhị. Đầu tiên kết luận nghóa trước phát sinh ý sau để làm câu hỏi, kế đến là tùy theo câu hỏi mà trả lời. Từ câu “mỗi mỗi lại trình bày riêng…”, trở lên là kết luận ý trước, từ câu “đồng thời đều hỏi rằng…” trở xuống là phát sinh ý sau để làm câu hỏi. Khách đến ở giai vị thấp thì giải thích đã xong, cho nên hỏi đến khách tôn quý để luận rõ về nghóa Đại thừa. Kinh: Bấy giờ, Bồ-tát Diệu Cát Tường… còn gọi là hai. Tán: Tùy theo câu hỏi mà có lời đáp. Đầu tiên bác bỏ ý nghóa các Bồ-tát đã nói, sau đó chính thức trình bày. Đây là phần đầu. Các ông tuy ngăn dứt phân biệt hai mà gọi là chẳng hai, nhưng lại dùng có lời và phân biệt, nên còn gọi là hai. Ta nay trừ bỏ lời nói và bặt dứt phân biệt, mới gọi là chẳng hai. Cho nên biết hai tức là phân biệt sai biệt, chẳng phải là hai pháp, mà gọi là hai. Kinh: Nếu các Bồ-tát đối với tất cả pháp… vào pháp môn bất nhị. Tán: Đây là phần chính thức trình bày. Không có ngôn thuyết, không có biểu hiện, không có chỉ bày, xa lìa ngôn thuyết hý luận, dứt bặt tâm phân biệt khởi, gọi đó là chẳng hai. Dùng lý chẳng thể nói, chẳng thể phân biệt để ngăn dứt ngôn thuyết phân biệt cho nên gọi là chẳng hai. Kinh: Bấy giờ, ngài Diệu Cát Tường… vào pháp môn bất nhị. Tán: Từ trên đến đây là nói về pháp môn bất nhị thuộc về phương tiện nhân vị, giáo hóa lợi ích chúng sinh. Từ đây trở xuống là nói về pháp môn bất nhị chứng nhập quả vị, nội chứng tự lợi. Đầu tiên là lời hỏi, sau là khen ngợi. Đây là lời hỏi. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng im lặng không nói năng gì. Tán: Đây là nhập. Chánh lý u huyền, lời nói chẳng lường được. Dẫu cho dùng lời chẳng phải lời để trừ bỏ lời thì rốt cuộc cũng chẳng khế hợp với diệu lý. Cho nên mới im lặng không nói, dùng trí thầm hợp với chân, gọi đó là vào chẳng hai, thật là vô cùng sâu xa. Kinh: Ngài Diệu Cát Tường nói… lời nói phân biệt. Tán: Đây là lời khen ngợi. Ta nói chẳng hai là dùng lời để dứt lời, ông vào chẳng hai thì dùng trí hợp chân, chỗ thể hội tuy đồng, mà xa gần lại cách biệt. Nói khế hội chân, chân do nơi chứng thì nói là xa, chứng ngộ chân tức lìa lời nói, thì chứng là gần. Kinh: Các Bồ-tát… Vô sinh pháp nhẫn. Tán: Đây là đoạn thứ hai nói về lợi ích. Vừa vào Sơ địa gọi là ngộ nhập chẳng hai, lý chẳng hai tức là pháp chân như. Chứng hội vô sinh cũng là mới chứng đắc, hoặc Địa thứ tám tự tại vào chẳng hai, vì tương tục vô sinh cũng thuộc Địa thứ tám.  THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH SỚ <卷>QUYỂN 6 (PHẦN 1) <詞>PHẨM 10: HƯƠNG ĐÀI Tám phẩm, từ phẩm Phương Tiện trở xuống là nói về hai hạnh lợi lạc, còn phẩm này nói về hai quả lợi ích, khiến ưa thích mong cầu quả đức. Cho nên phẩm này nói về Bồ-đề xứ. Hoặc cho rằng tám phẩm trên nói riêng về hai lợi ích, phẩm này nói chung về hai lợi ích. Hương Đài là hiệu của Phật, nhờ vào quả đức của một Phật để nêu lên chỗ thù thắng của một Phật, khiến cho hàng giai vị thấp phát tâm mong cầu. Nêu lên hiệu Phật để làm tên phẩm; nói về hai lợi ích để tu tập, ánh sáng của thân Phật hiển bày; hình tướng của đài cao đều do mùi hương tích tụ mà thành, để lợi ích loài quần sinh, cho nên gọi là Hương Đài. Phẩm này nói rộng về việc trên cho nên gọi là phẩm Hương Đài. Kinh: Bấy giờ, Xá-lợi-phất… sẽ thọ thực nơi đâu. Tán: Toàn phẩm gồm năm đoạn: Ngài Thu Tử nghó đến việc thọ thực. Ngài Vô Cấu Xưng chê trách. Khiến người đến xin cơm. Được cơm trở về. Chúng đương thời được lợi ích. Đây là đoạn văn thứ nhất. Phật chế đúng thời mới được thọ thực, phi thời không được thọ thực. Giờ thọ thực đã đến, vì thế mới suy nghó. Ma-ha tức là Đại, Tát-đỏa tức hữu tình, để phân biệt với giai vị thấp nói ở trước nên nói là Đại hữu tình. Bản dịch xưa ghi: “Bồ-tát sẽ thọ thực nơi đâu”, ở đây nói cũng có Thanh văn. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… mà nghe chánh pháp. Tán: Đoạn thứ hai, ông Vô Cấu Xưng chê trách bảo thôi. Đây là lời chê trách. Tùy thuận Tiểu thừa thì tám giải thoát là để trừ tham dục, còn tám giải thoát của Đại thừa là trừ định chướng. Vả lại, trong định chướng thì tham là đầu. Tám giải thoát quán là trừ tham dục của năm cảnh. Nhân giả nay đã trụ, tham dục đã hết, mà tài thực còn mong cầu thì tâm nhiễm ô vẫn còn, chớ nên dùng tâm nhiễm ô mà nghe pháp; cần phải trừ sự ham muốn tài thực mà nguyện phát sinh pháp thực. Kinh A- hàm nói có chín loại thức ăn là: đoàn thực, xúc thực, tư thực, thức thực, thiền diệt thực, nguyện thực, niệm thực, giải thoát thực và hỷ thực, nên phải thường nghó xả bỏ bốn loại thực trước, mà nên chuyên cần ưa thích tu tập năm loại thực xuất thế gian kể sau, cho nên nói nhân giả đã trụ giải thoát, chớ để tài thực nhiễm ô tâm mình, tài thực thuộc về đoàn thực. nói. Kinh: Nếu muốn thọ thực… được thức ăn chưa từng có. Tán: Đây là bảo thôi dứt. Tức thôi đừng nghó đến nữa, hứa sẽ Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… thần thông thù thắng. Tán: Đoạn thứ ba, bảo người đến xin cơm, gồm bốn phần: Nêu lên nơi có thức ăn. Chọn ai có thể đến đó xin. Sai hóa nhân truyền lại lời này. Khiến thừa oai lực đến xin cơm. Đây là văn thứ nhất, lại gồm có ba: Nêu chung về việc khởi dụng. Nêu riêng điều chỉ bày. Kết luận chúng đều thấy. Đây là đoạn văn thứ nhất. Tuy thường ở trong định, vì thuận thế tục cho nên hôm nay lại nhập định. Nếu chẳng hiện thần thông, thì rốt cuộc họ chẳng thấy được cõi kia. Kinh: Chỉ cho các Bồ-tát… an ổn trụ trì. Tán: Đây là văn thứ hai nêu riêng về điều chỉ bày. Có mười bốn câu. Đoạn này gồm sáu câu: Khiến người thấy, tức Bồ-tát và Thanh văn. Nêu xứ sở, tức là phương trên. Xa gần, tức bốn mươi khắc-già-sa… . Tên cõi, tức cõi Nhất thiết Diệu Hương, vì tất cả cõi nước đều do mùi hương vi diệu tạo thành. Hiệu của Phật, tức Hương Đài. Khởi diệt tức hiện đang trụ trì. Kinh: Trong thế giới kia… tất cả đều viên mãn. Tán: Đoạn này gồm hai:1, Nói tổng quát về mùi hương rất thù thắng, vì do tu nhân năm uẩn thù thắng, nên chúng sinh cõi này nghe được mùi hương đó mà vào đạo; vì việc lợi lạc chúng sinh của chư Phật chẳng phải là một và để phá sự đắm trước mùi hương của loài hữu tình thế gian; hai là hiển thị cây cối phát ra mùi hương xông khắp nơi. Kinh: Trong đó không có tên Nhị thừa… vì họ thuyết pháp. Tán: Đoạn văn này có hai: Chỉ có chúng Đại thừa. Đức Phật ứng hợp thuyết pháp. Kinh: Trong thế giới đó… vô lượng cõi Phật. Tán: Đoạn văn này cũng có hai: Các việc đều do mùi hương tạo thành. Thọ thực mùi hương là bậc nhất; lìa hương vị và xúc, cả ba là thể của thức ăn, chất hương làm lợi ích, mùi hương là bậc nhất. Kinh: Bấy giờ, Đức Như Lai kia… và các Bồ-tát. Tán: Đoạn văn này cũng có hai: Phật… mới cùng thọ thực, thọ thực ắt nương vào đây, là cơ hội làm lợi ích. Hương Nghiêm cúng dường, hiển thị phước điền của Phật, vì chúng sinh tu hành pháp cúng dường. Bản dịch xưa ghi: “Có các Thiên tử đều tên là Hương Nghiêm”. Đây chỉ có một người, hai bản khác nhau. Kinh: Bấy giờ, đại chúng này… các việc như thế. Tán: Đây là đoạn tổng kết, đại chúng đều thấy. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… lấy thức ăn Diệu Hương. Tán: Thứ hai, chọn người có thể đến kia xin cơm. Gồm có bốn: Hỏi đại chúng. Im lặng trả lời. Hỏi lại. Trách cứ. Đây là văn đầu. Suy cử tất cả chúng chẳng được, mới tự hóa hiện. Vì muốn hiển thị tâm kính nhường là đức, cho nên mới lễ suy cử đại chúng. Kinh: Do Bồ-tát Diệu Cát Tường… đều im lặng. Tán: Đây là phần im lặng thay lời đáp. Ýù nghóa của sự im lặng gồm có bốn: Thức ăn dùng để đãi khách, khách chẳng nên đi, ngài Cát Tường lấy làm lạ về việc Vô Cấu hỏi khách, cho nên đều khiến cho im lặng. Đại só cầu pháp, chẳng theo tài thực, tuy có suy cử, nhưng cũng khiến cho im lặng. Hiển thị việc các Bồ-tát chẳng bị nhiễm ô đối với thức ăn, cho nên đều khiến tất cả im lặng, để làm rõ chỗ sâu xa này. Nên rõ việc ngài Vô Cấu Xưng có thần thông tự tại, chỉ cho các Bồ-tát thấy, khiến vui thích kính ngưỡng. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… khiến họ như thế. Tán: Đây là phần hỏi lại. Bồ-tát vì lợi ích hữu tình, vâng mệnh đến vấn an, đàm luận, đặt tòa; tòa tuy đặt đã lâu, luận đàm kế đó mới bày, cho nên hỏi ngài Cát Tường vì sao không dùng thần lực gia hộ cho các Bồ-tát, mà khiến cho họ đều im lặng chẳng đáp. Kinh: Bồ-tát Diệu Cát Tường nói… chớ khinh người chưa học. Tán: Đây là đoạn trách cứ. Nguyên do khiến im lặng đã trình bày ở trước. Đối với chúng mà chê khinh, nghó rằng chẳng phải là điều nên làm, cho nên nay trách cứ chớ khinh người chưa học. Chưa học còn chẳng thể khinh, thì bậc đã có đức sao lại xem thường được? Vì sự việc chưa thể biết được. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… che mờ đại chúng trong hội. Tán: Đoạn thứ ba, hóa hiện khiến truyền lại lời này. Gồm hai: Nói về thần thông hóa hiện. Khiến truyền lại lời nói. Đây là văn thứ nhất. Hỏi: Vì sao xin tòa, tâm nghó thì tòa đến, nay xin cơm, vì sao phải sai hóa nhân đến xin? Đáp: Thức ăn thì tùy theo khách đến, cho nên khiến hóa nhân, tòa ngồi thì không tùy theo khách xin tòa, cho nên xin tòa chẳng cần khiến đến xin. Vả lại thần thông biến hóa thì quyền nghi chẳng phải là một, hà tất chỉ khiến hóa nhân, chưa hẳn đều không tin. Kinh: Mà bảo rằng… mới cùng ngồi thọ thực. Tán: Từ đây là đoạn truyền lại lời nói, gồm có hai: Nêu xứ sở. Truyền lời nói. Đây là văn nêu xứ sở. Kinh: Ông đến nơi kia… ở có an lạc chăng. Tán: Đây là đoạn văn truyền lại lời nói. Gồm có bốn: Dạy phép tắc, tức đến đảnh lễ. Khiến cung kính vấn an, nên nói rằng. Xin cơm. Lý do. Đoạn này gồm hai câu là một và hai. Bản dịch xưa chỉ có truyền nói và đảnh lễ, không có lời dạy hóa nhân đến đó đảnh lễ. Kinh: Lóng tâm nhiễu về bên phải… làm Phật sự. Tán: Chánh thức nói về xin cơm. Kinh: Khiến cho các hữu tình thấp kém… tiếng tăm vang khắp. Tán: Nguyên do xin cơm, có hai: 1.Thấy cơm liền phát tâm gọi là vui thích Đại Tuệ; chúng sinh được lợi ích và phát dương đức của Phật gọi là tiếng tăm vang xa. Do hai nghóa này mà khiến xin cơm. Kinh: Bấy giờ, vị hóa Bồ-tát… chân của Phật Hương Đài. Tán: Phần thứ tư, Hóa nhân thừa oai thần đến xin cơm. Có hai: Thấy đến cõi kia. Nghe truyền lại lời dặn dò. Đây là văn thứ nhất. Kinh: Lại nghe nói rằng… trụ có an vui chăng? Tán: Nghe truyền lại lời dặn. Có ba câu: Nghe cung kính thăm hỏi. Nghe xin cơm. Nghe nguyên do. Đây là câu thứ nhất. Kinh: Lóng tâm đi nhiễu bên phải… mà làm Phật sự. Tán: Đây là câu nói về xin cơm. Kinh: Khiến hữu tình thấp kém… danh tiếng vang xa. Tán: Đây là nghe nói nguyên do. Kinh: Bấy giờ chúng hội Bồ-tát ở phương trên… vì sao gọi là hàng thấp kém thích dục lạc? Tán: Đoạn lớn thứ tư nói về việc xin được cơm trở về. Gồm sáu ý: Còn ở tại cõi kia chưa về. Được cơm trở về. Mọi người nghe đều vân tập. Khuyên mọi người dùng cơm. Chúng cõi này hỏi về Đức Phật cõi kia. Chúng cõi kia hỏi về Phật pháp ở cõi này. Trong ý thứ nhất lại có bốn câu: Bồ-tát khen ngợi han hỏi. Đức Phật cõi kia trình bày. Xin nói lại nguyên do. Nói rộng về đức tôn quý. Tán thán thì có thể tự biết được. Về câu hỏi thì có ba: Hỏi đến phương Đông. Hỏi cõi nước. Hỏi về ý tại sao nói thấp kém. Tất cả đều như văn kinh đã ghi. Kinh: Liền hỏi Đức Hương Đài Như Lai tối thượng… vì chúng con mà nói việc này. Tán: Kết luận xin trả lời giải thích. Kinh: Đức Phật liền dạy rằng… tuyên dương chánh pháp. Tán: Đức Phật cõi kia chỉ bày. Gồm hai: Nói về Đức Thích-ca. Nói về ngài Vô Cấu. Đây là nói về Đức Thích-ca, xuất hiện ở đời có năm điều xấu ác, vì độ các hữu tình dục lạc thấp kém mà tuyên dương chánh pháp. Câu trả lời này đã trả lời hai câu hỏi là trả lời về xứ sở tức từ câu phương dưới…, và trả lời câu hỏi về ý nghóa hạ liệt ý lạc, tức nói hữu tình ở đời có năm điều xấu ác, tiếng Phạm Khứ-tố-ha, Hán dịch là kham nhẫn, tức hay nhẫn chịu các việc khổ não, như các việc Thiên Thọ ra máu, Thiện Tinh quét sạch dấu vết… Kinh: Cõi ấy có Bồ-tát tên là… khai thị diệu pháp. Tán: Đây là nói về ngài Vô Cấu, có hai: Nói về thân mình. Nói về sai hóa Bồ-tát. Đây là ý thứ nhất. Kinh: Sai hóa Bồ-tát… căn lành tăng tiến. Tán: Đây là nói về sai khiến hóa Bồ-tát. Sở dó xưng dương Ta và cõi này là muốn khiến cho các Bồ-tát cõi kia tăng tiến căn lành, tức là ý nghóa của câu “Sẽ ưa thích đại tuệ” nói ở trước. Đây là trả lời câu hỏi từ đâu đến. Kinh: Chúng Bồ-tát cõi kia… không sợ sệt như thế. Tán: Hỏi lại nguyên do. Ông Vô Cấu Xưng kia đạo đức thế nào mà thần thông vô úy đáng kính nể như thế? Kinh: Đức Phật kia nói rằng… vô lượng hữu tình. Tán: Đây là nói rộng về Đức Bồ-tát Sơ địa có thể biến khắp trăm trăm ức cõi nước, Bồ-tát Địa thứ hai có thể biến khắp một ngàn trăm ức cõi, cho đến Bồ-tát Địa thứ mười có thể biến cùng khắp tất cả cõi nước trong mười phương. Trong giây lát có thể khiến hóa nhân đi khắp nơi làm Phật sự, lợi lạc loài hữu tình. Ông Vô Cấu Xưng kia, đức và vị đã cao tột, nên mới được như thế. Kinh: Bây giờ, Hương Đài Như Lai tối thượng… tay của hóa Bồ- tát. Tán: Đoạn thứ hai, xin được cơm trở về, gồm bảy câu: Hương Đài và cơm. Bồ-tát xin đi. Đức Phật cõi kia chấp nhận. Bồ-tát đến cõi này. Hóa tòa ngồi tiếp khách. Mùi hương của cơm xông khắp. Đại chúng nghe đều khoan khoái và kinh ngạc. Đây là văn thứ nhất. Có một vật chứa mùi hương hay sinh ra các mùi hương đựng đầy loại cơm thơm, trao cho hóa Bồ-tát. Nhờ Phật lực gia bị mà có đầy cơm để trao cho, đó là hiển thị Phật Từ bi muốn lợi ích tất cả, tự làm đầy cơm trao cho thì hoặc để hiển thị do Phật chưa hẳn đã tự đầy. Kinh: Bấy giờ, cõi Phật kia… nghe chánh pháp. Tán: Thứ hai, Bồ-tát xin đi. Xin đi đến cõi này lễ kính Tam bảo. Đây là lễ kính Phật và nghe chánh pháp. Bản dịch xưa không có ghi pháp. phép. Kinh: Đồng muốn chiêm ngưỡng lễ kính… gia hộ cho phép. Tán: Đây là kính lễ Tăng. Trình bày ý xin đi, nguyện mong cho Kinh: Đức Phật cõi kia dạy rằng… nay đúng là lúc nên đi. Tán: Thứ ba, Phật cho phép và dặn bảo. Có hai ý: Cho phép. Dặn bảo. Đây là ý thứ nhất. Kinh: Các ông phải nên… mê mờ buông lung. Tán: Đây là lời dặn bảo, có ba: Bảo nên thâu nhiếp mùi hương. Ẩn dấu sắc tướng. Bảo khi đến thế giới kia chớ nên sinh ý tưởng cho là thấp kém. Hoặc đầu tiên nói về người, kế đó nói về thế giới cho nên dặn bảo. Đầu tiên có hai lời bảo, đây là lời văn thứ nhất. Thế giới kham nhẫn chỉ có mùi hôi chẳng có hương thơm, nên vừa nghe mùi hương vi diệu, e rằng sinh mê mờ đắm nhiễm yêu thích, đã mê muội rồi thì không thể rõ biết bèn sinh buông lung, chẳng tự sách tấn. Kinh: Các ông nên tự ẩn dấu sắc tướng… tâm sinh xấu hổ. Tán: Đây là bảo nên ẩn dấu sắc tướng. Bậc Đại Bồ-tát cõi kia có tướng quý và vẻ đẹp trang nghiêm thân, sắc tướng đẹp đẽ bậc nhất. Các vị Bồ-tát nhỏ ở cõi này tùy thuận cõi xém xấu mà sinh, nên bên ngoài không có sắc tướng đẹp đẽ, vậy khi nhìn người xem lại mình thì tâm sẽ sinh hổ thẹn, vì thế nên phải ẩn dấu sắc tướng chớ khiến họ sinh tâm kia. Kinh: Các ông ở nơi… mà làm chướng ngại. Tán: Bảo đến cõi kia chớ nên sinh ý tưởng cho là hạ liệt. Đầu tiên là nêu lên, sau là giải thích. Đây là phần đầu. Thế giới Diệu Hương đều do hương quý giá tạo thành, thế giới này toàn là nơi dơ xấu thật thấp kém. Chướng ngại có hai: Đối với thế giới sinh ý tưởng thấp kém, thì tâm sinh ti tiện chẳng kính Phật cõi ấy chẳng thể độ sinh, tự làm chướng ngại; hai là, đối với thế giới sinh ý tưởng thấp kém, thì tâm sinh thấp hèn chẳng hóa độ người, làm chướng ngại cho chúng sinh ở cõi ấy. Kinh: Vì sao?… không sai biệt. Tán: Đây là giải thích ý dặn bảo. Tất cả cõi nước không có thật thể, giống như hư không, hoặc là cõi pháp tánh không có tướng trạng, như hư không, đâu có gì là thiện, là ác? Chư Phật vì hóa độ quần sinh, nên tùy chỗ ưa thích mà thị hiện, nhiễm hay tịnh không nhất định. Nhưng báo độ do Phật cảm nên thì thanh tịnh không sai khác, cho nên biết cõi của Đức Thích-ca là uế là do tùy chỗ ưa thích mà hiện, nhưng bản độ thanh tịnh không khác với cõi của Ta, vì thế chẳng nên sinh ý tưởng cho cõi kia là thấp kém. Kinh: Bây giờ, vị Hóa Bồ-tát… tự nhiên hiện ra. Tán: Thứ tư, chúng cõi kia đến cõi này. Đức Phật kia cho phép đến để hợp với ý của Tịnh Danh, tâm Vô Cấu nghó để lợi lạc chúng sinh hợp cơ. Cho nên cả hai nương vào oai thần mà tự nhiên hiện đến. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… đều ngồi trên đó. Tán: Đoạn thứ năm là hóa hiện các tòa ngồi để tiếp khách. Sắp đặt tòa ngồi để tiếp đãi khách là phép tắc thông thường, cho nên phải hóa hiện ra để khách quý ngồi. Kinh: Bấy giờ, vị Hóa Bồ-tát… mùi hương thơm ngào ngạt. Tán: Thứ sáu, hương của cơm xông khắp, gồm ba ý: Trao bát chứa cơm. Xông khắp thế giới. Do mùi hương thơm ngào ngạt, tất cả đều như văn kinh đã ghi, có thể tự biết. Kinh: Thành lớn Quảng Nghiêm… thân tâm thư thái. Tán: Thứ bảy, đại chúng nghe mùi hương thân tâm thư thái và kinh ngạc. Kinh: Bấy giờ, trong thành này… vào thất của ông Vô Cấu Xưng. Tán: Đoạn thứ ba nói về mọi người nghe mùi hương vân tập đến. Có hai ý: Vua và nhân dân vào trượng thất. Trời thần cùng đến. Đây là muốn hiển thị việc đáng tôn quý, u và hiển đều đầy đủ. Vua và nhân dân gồm có ba: Vào. Khen ngợi. Lễ kính. Đây là phần thứ nhất. Người nghe mùi hương ở gần đều đến. Kinh: Thấy trong ngôi trượng thất này… khen là điều chưa từng có. Tán: Thứ hai, khen ngợi. Thấy rất nhiều người, thấy tòa cao rộng, cho nên tâm sinh vui vẻ, khen là điều chưa từng có. Kinh: Lễ các Bồ-tát… lại đứng về một bên. Tán: Thứ ba là lễ kính. Bồ-tát và Thanh văn biến thân tướng xứng với tòa, các người đến thấy thế, liền kính lễ. Kinh: Bấy giờ, các Địa thần… đến trượng thất của Vô Cấu Xưng. Tán: Đây là trời thần đến. Hàng có oai linh nghe hương theo lý phải tìm đến, hà huống các vị có oai đức nghe rồi mà chẳng đến sao? Chư Thiên ở cõi Sắc tuy không có tỷ thức, nhưng các Thánh căn liên quan nhau, cho nên nghe được mùi hương cũng đã đến; lẽ ra phải nói y nơi định mà biết mùi hương, cho nên cũng đến. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… thức ăn có vị cam lộ. Tán: Đoạn thứ tư, khuyên mọi người thọ thực, gồm sáu: Khuyên tất cả đều dùng. Có người nghó cơm ít. Hóa nhân cật vấn. Ăn xong vẫn còn thừa. Ăn xong thân tâm được an lạc. Thân phát ra mùi hương. Đây là văn thứ nhất, lại có hai câu: Khuyên. Răn dạy. Đây là lời khuyên. Món cơm này là vị cam lộ do Hương Đài Như Lai ban cho, có thể làm tiêu tất cả những phiền não độc hại, đó là thức ăn có vị thượng diệu. Kinh: Món cơm như thế… nhất định chẳng thể tiêu. Tán: Đây là lời răn dạy. Chư Phật thực hành Đại bi, huân kết thân tâm mà biến sinh món cơm này, vốn muốn làm lợi ích loài hữu tình, chớ nên dùng tâm thấp kém có một ít lợi lạc sinh tử mà ăn món cơm này, không có từ bi thì nhất định cơm chẳng tiêu, đó là ý nghóa răn dạy quần sinh. Kinh: Bấy giờ, trong chúng… đại chúng nhiều như thế. Tán:Thứ hai, có vị nghó cơm có quá ít. Kinh: Hóa Bồ-tát… vô lượng phước tuệ. Tán: Thứ ba, hóa Bồ-tát cật vấn, có hai ý: Lược hỏi. Giải thích rộng. Lược hỏi lại có hai: Nêu lên. Giải thích. Đây là phần nêu lên. Món cơm này là do Như Lai ban cho, chớ nên dùng ít phước nhỏ để nghó là chẳng đủ. Kinh: Vì sao… rốt cuộc chẳng thể hết. Tán: Đây là lời giải thích. Nước ở biển thì vô cùng, món cơm cũng vô tận. Do sức Phật lập bày cho nên như thế. Kinh: Giả sử vô lượng đại thiên thế giới… còn chẳng thể hết. Tán: Giải thích rộng nghóa đã nêu trên, gồm có hai: Đầu tiên là nêu lên, sau là giải thích. Giả sử tất cả hữu tình trong cõi đại thiên, mỗi mỗi dùng tay vắt một nắm cơm này to như núi Diệu cao, trải qua một kiếp mà ăn vẫn không thể hết. Kinh: Vì sao?… rốt cuộc chẳng thể hết. Tán: Giải thích lý do. Năm phần pháp thân như trước đã giải thích. Thức ăn từ vô biên nhân này sinh ra, nên quả cũng vô lượng, Phật dùng còn thừa, cho nên hữu tình trải qua một trăm kiếp ăn vẫn chẳng hết. Kinh: Bấy giờ, đại chúng… mà vẫn còn thừa. Tán: Ăn xong vẫn còn thừa. Vừa thấy bát cơm thì nghó chỉ một người ăn là hết, nhưng nhờ đức của Phật gia hộ, cho nên ăn không bao giờ hết. Kinh: Bấy giờ, các Thanh văn… Tán: Thứ năm, ăn xong được an lạc. Đầu tiên là nêu pháp, sau là dụ. Được mùi hương vi diệu giữ gìn, oai đức của bậc Thánh tiếp dẫn, vốn vì muốn cứu giúp chúng sinh, cho nên thân an lạc. Nêu dụ nói rằng người ăn cơm này thì thân như thân an định của các Bồ-tát ở thế giới an lạc trang nghiêm, trong tất cả báo độ ở mười phương, vui vẻ khoan khoái không còn phiền não, giống như cõi kia. Không chỉ ở thế giới cực lạc Tây phương mà cả thế giới an lạc ở mười phương, đều được lấy làm dụ. Kinh: Các lổ chân lông trên thân… các mùi hương vi diệu. Tán: Thứ sáu, thân phát ra mùi hương. Người ăn cơm này cũng như các cây Diệu Hương trong cõi Diệu Hương ở mười phương, thường phát ra mùi hương, ngày đêm không dứt. Không chỉ lấy cây hương ở thế giới Diệu Hương ở phương trên làm dụ mà lấy tất cả thế giới Diệu Hương ở mười phương làm dụ, ý nghóa cũng không khác. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… thuyết pháp như thế nào? Tán: Đoạn thứ năm hỏi Đức Phật kia, gồm có hai: Hỏi. Đáp. Đây là lời hỏi. Giai vị thấp, có người chẳng biết, cho nên thử hỏi xem các ông có biết chăng? Kinh: Các Bồ-tát cõi kia… thảy đều điều phục. Tán: Đây là lời đáp, có hai: Trả lời sự bất đồng. Giải thích tướng lợi ích. Đây là văn thứ nhất. Chẳng giống với cõi nước này căn cứ vào âm thanh mà phát khởi ngôn từ để thuyết pháp, mà chỉ dùng mùi hương vi diệu, khiến họ dứt ác. Cho nên nói điều phục. Kinh: Các Bồ-tát cõi kia… công đức của Bồ-tát. Tán: Giải thích tướng lợi ích. Bồ-tát tọa thiền dưới gốc cây hương này, mùi hương phát ra các vị này nghe được liền đạt được định thù thắng. Định là căn bản để phát tuệ, công đức của Bồ-tát đầy đủ do đây mà sinh. Định hay phát sinh tất cả công đức, cho nên gọi là định nhất thiết đức trang nghiêm. Kinh: Bấy giờ, các vị Bồ-tát ở phương trên… thuyết pháp như thế nào. Tán: Đây là đoạn thứ sáu các Bồ-tát cõi kia hỏi pháp ở cõi này. Toàn văn gồm có sáu phần: Hỏi về hóa nghi. Trả lời về hóa pháp. Bồ-tát cõi kia khen ngợi. Nói về việc thành tựu. Hỏi về nhân sinh tịnh độ. Trả lời về nghiệp đắc sinh tịnh độ. Đây là phần thứ nhất. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… mà điều phục giáo hóa họ. Tán: Thứ hai, là trả lời về hóa pháp, có ba: Nêu lên là dùng lời. Luận riêng về tướng của lời nói. Giải thích nguyên do của lời nói. Đây là ý thứ nhất. Phàm giáo hóa là phải thích ứng với cơ nghi, cơ nghi đã khó điều phục, thì việc giáo hóa phải cứng chắc, dùng lời nói dẫn dắt làm lợi ích. Nếu đầu tiên chúng sinh tin theo, thì nên dùng mùi hương để hướng dẫn. Vì chúng có trái nghịch nên phải dùng lời nói cang cường để giáo hóa mà điều phục họ. Kinh: Vì sao gọi là… lời nói cang cường? Tán: Đây là luận riêng về tướng của lời nói, có ba là hỏi, đáp và kết luận thành tựu ý nghóa. Đây là lời hỏi. Kinh: Tức nên nói… đây là các căn thiếu khuyết. Tán: Đây là lời đáp, có hai: Gồm bốn đoạn nêu lên nhân ác quả ác khiến mọi người nhàm chán xa lìa. Gồm hai mươi đôi, chỉ chung về thiện ác khiến người sinh vui thích và nhàm chán. Đây là đoạn thứ nhất gồm năm câu nêu lên quả ác. Vô hà sinh nghóa là sinh vào tám cõi không an ổn, nghóa vô hà như trước đã giải thích. Trong ba ác thú, lẽ ra nên nói xứ sở, hình lượng, tướng khổ thọ mạng có hạn, như những chỗ khác đã nói, nhưng sợ văn dài dòng nên không thuật, Kinh: Đây là thân làm việc ác… là quả của ý làm việc ác. Tán: Thứ hai gồm ba câu nêu lên nhân quả ác của ba nghiệp. thể tánh của ba nghiệp có biểu hiện và không biểu hiện. Các văn nhiều ít, thế giới rộng hẹp, đều như đã nói ở chương trước, nhưng chung cho ba loại là căn bản, gia hạnh và hậu khởi, nghiệp nặng nhẹ, tất cả đều thuộc vào đây. Cho nên ngoài mười nghiệp đạo ác lại nói riêng về ba nghiệp. Nghiệp đạo chỉ có nặng vì chỉ thuộc căn bản. Kinh: Đây là đoạn sinh mạng (sát sinh)… là quả của dục tà hạnh. Tán: Đoạn thứ ba gồm mười câu nêu lên nhân quả của mười nghiệp đạo ác. Thân có ba ác, “bất dữ thủ” bản xưa ghi là trộm cắp; không chỉ cướp đoạt trộm cắp mới gọi là thuộc tội này; nay muốn hiển thị tất cả những vật người không cho mà cưỡng lấy đều thuộc về tội này, cho nên gọi là bất dữ thủ. Dục tà hạnh, dục tức tham dục, hiển thị tất cả thời đều là tham dục cho nên muốn cái chẳng phải vật của mình. Dẫu là của mình mà hành phi thời, phi xứ, phi lượng, phi độ thì cũng thành nghiệp đạo… khác với của mình mà hành phi nghiệp đạo, nên gọi là tà hạnh. Kinh: Đây là lời hư dối… là quả của lời nói tạp uế. Tán: Đây là bốn ác về lời nói. Tâm cảnh trái nhau thì gọi là hư, khiến cho người khác hiểu việc này thì gọi là dối gạt. Nếu lời vọng nói sinh tử là thật ngữ cũng gọi là vọng ngữ, vì thể đều hư vọng. Ly gián ngữ, bản dịch xưa ghi là lưỡng thiệt; lưỡng đầu thủ thiệt có thể gọi là lưỡng thiệt; ngũ đầu thủ thiệt có thể gọi là ngũ thiệt. Do đó nên gọi là ly gián ngữ, tức dùng lời nói chia cách tình thân hảo của người. Thô ác ngữ, bản dịch xưa ghi là ác khẩu, đây chẳng là miệng ác mà là lời ác, vì phát ra lời hèn kém, thô bỉ của thế tục, đáng ghét nên gọi là thô ác ngữ. Tạp uế ngữ, bản dịch xưa ghi ỷ ngữ, trau chuốt gọi là ỷ, các lời khen tặng đều gọi là ỷ ngữ. Nay nói tạp uế, thì dùng văn từ trau chuốt tạp nhạp, bỉ ổi nên gọi là uế, các lời khen tặng không có các lỗi này. Kinh: Đây là tham dục… quả báo của tà kiến. Tán: Đây là ba nghiệp ác của ý. Tên của quả ác nghiệp này mỗi mỗi có bốn: Quả dị thục, tức là tạo mười nghiệp đạo ác phẩm hạ, sinh vào ngạ quỷ, tạo mười nghiệp đạo ác phẩm trung thì sinh vào súc sinh; tạo mười nghiệp đạo ác phẩm thượng thì sinh vào Na-lạc-ca. Quả trời người thì đều do nghiệp thiện chiêu cảm. Dẫu cho có nghiệp quả bất thiệïn của biệt báo thì chẳng gọi là Dị thục. Do đó chỉ nói tại ba ác thú. Quả đẳng lưu, tức là từ đường ác chết đi sinh vào cõi người; do sát sinh, cho nên thân nhiều bệnh thọ mạng ngắn ngủi; do bất dữ thủ cho nên nghèo cùng, do dục tà hạnh nên vợ chẳng trinh thuận; do nói lời hư dối nên luôn bị phỉ báng, do nói lời ly gián nên bạn bè chia cách; do nói lời thô ác nên luôn nghe những âm thanh không như ý; do nói lời tạp uế nên lời nói chẳng nghiêm túc, do tham dục nên tham tâm càng mạnh, do sân hận nên tâm sân càng lớn, do tà kiến nên tà kiến càng tăng. Quả tăng thượng, do sát sinh cho nên tất cả những vật dụng đều thiếu thốn hoặc chẳng có gì, do bất dữ thủ cho nên phần nhiều gặp sương và mưa đá, do dục tà hạnh nên thường gặp bụi bặm; do nói lời hư dối nên thường gặp mùi hôi thối, do nói lời ly gián nên thường gặp chốn hiểm trở; do nói lời thô ác, nên nơi đất sinh sống thường là dơ xấu, đá sỏi, chua mặn, do nói lời tạp uế nên thường gặp thời tiết biến đổi trái nghịch, do tham dục nên quả hạt được ít, do sân hận nên mùi vị của quả thường đắng cay; do tà kiến nên mùi vị của quả đắng hoặc cay hoặc hoàn toàn không kết quả. Quả só dụng, khiến cho hai pháp tương ưng và câu hữu tăng trưởng, hoặc cho rằng không có một thể riêng biệt, tức do năm uẩn giả của ba quả trên chiêu cảm, không có nhiều tướng riêng biệt, cho nên không kể ra. Mỗi một quả như thế đều đã được luận Du-già năm mươi chín, sáu mươi; luận Đối Pháp bảy, và kinh này đã nói. Kinh: Đây là xan lận… là quả báo của ngu si. Tán: Đoạn thứ tư có sáu câu nói về nhân quả của sự xấu ác, cũng gồm có ba quả, theo trước tự có thể biết, tùy theo nghóa mà phối hợp. Kinh: Đây là sở học đã thọ nhận… đây chẳng phải là điều nên làm (phi ưng tác). Tán: Đây trở xuống là hai mươi đôi đối đãi. Bản dịch xưa chỉ có mười chín đôi chung cho thiện ác, khiến người sinh tâm chán ghét hoặc ưa thích. Đoạn này gồm ba đôi. Sở học đã thọ tức là giới luật khi mới thọ. Trì biệt giải thoát tức là giữ già giới, hoặc đầu tiên là già giới, sau là tánh giới; hoặc sau là đầu tiên vì đầu tiên đã xa lìa ác; hoặc đầu tiên là sau cùng, vì khiến lãnh thọ; giải thích theo trên thì có thể biết. Đây là ưng tác tức là tác trì giới; phi ưng tác tức chỉ trì giới hoặc tác phạm giới. Kinh: Đây là Du-già… đây chẳng phải là chướng ngại. Tán: Đoạn này gồm ba đôi đối đãi. Du-già nghóa là quán hành tương ưng. Vónh đoạn tức dùng Thánh đạo diệt trừ. Chướng ngại tức là pháp chướng ngại Thánh đạo. Kinh: Đây là phạm tội… đây là tà đạo. Tán: Đoạn này gồm ba đôi. Xuất tội tức pháp sám hối. Tạp nhiễm, nhiễm nghóa là phiền não… cùng với nhiễm xen lẫn, tức các pháp hữu lậu. Kinh: Đây là thiện… đây là lỗi lầm. Tán: Đoạn này gồm sáu đôi. Thuận với chánh lý lợi ích hữu tình gọi là thiện; có thể bị hủy hoại gọi là thế gian, đáng chán đáng sợ gọi là tội. Lậu tức phiền não, giống như ngôi nhà rách nát dơ xấu, rất đáng chán ghét. Vì có các phiền não này nên gọi là hữu lậu; làm điều đó nên gọi là tác, có chỗ làm đó nên gọi là hữu vi. Gia công mà được đức này nên gọi là công đức, giải thích theo trên có thể biết. Kinh: Đây là hữu khổ… đây là Niết-bàn. Tán: Đoạn này gồm năm đôi. Bức bách gọi là khổ, vui thích gọi là lạc; pháp ác thì đáng chán, pháp kém thì đáng bỏ, phiền nhiễu là sinh tử, theo trên thì có thể biết. Kinh: Các pháp như thế có vô lượng môn. Tán: Đây là đoạn tổng kết. Các môn kể từ trên đến đây gọi là vô lượng nghóa, sợ dài dòng nên không thuật đủ, nên như lý mà suy tìm, các chúng sinh ở cõi khác căn cơ lanh lợi dễ giáo hóa, thấy ánh sáng… liền có thể vào đạo, cõi này chẳng như thế, cho nên mỗi mỗi cần phải chỉ dạy rõ ràng. Kinh: Hữu tình ở cõi này… khiến cho họ điều phục. Tán: Giải thích nguyên do dùng lời nói, gồm ba: Pháp. Dụ. Hợp. Đây là pháp. Kinh: Ví như voi ngựa… sau đó mới điều phục được. Tán: Đây là phần dụ. Bản xưa gồm hai dụ. Gia sở độc tức là dùng roi gậy đánh đập khổ sở. Kinh: Các hữu tình cang cường ở cõi này như thế… hướng vào chánh đạo. Tán: Đây là phần hợp. Hối tức chỉ bày; dụ tức hiển dụ, tha thiết hiển dụ chỉ bày, khiến cho họ điều phục mà hướng vào chánh vị. Kinh: Bấy giờ, các Bồ-tát ở phương trên… được pháp chưa từng có. Tán: Thứ ba là khen ngợi, gồm hai câu: Được pháp chưa từng có. Phát lời khen ngợi. Đây là văn thứ nhất. Kinh: Đều nói rằng… điều phục nhiếp ích. Tán: Đây là lời khen ngợi. Đầu tiên khen ngợi Đức Như Lai, sau khen ngợi các Bồ-tát. Thích-ca tức là Năng là họ của Đức Phật; Mâu- ni tức Tịch Mặc. Hay tịch mặc (vắng lặng) các pháp ác nơi sinh tử, cho nên gọi là Năng Tịch. Thích-ca là họ, Cù-đàm là Vọng; Hán gọi là Nhật Chích, còn gọi là Cam giá, người có họ là Lô là Quỷ tử lô, thuộc về lô này thì trọng vọng còn lô khác thì chẳng phải. Như họ Thích-ca là Cù- đàm Thích-ca, thuộc họ Thích-ca này là đáng trọng vọng, còn Thích-ca khác thì chẳng phải. Bản duyên của ngài thì có chương riêng. Thật đức của Phật Thích-ca, ca ngợi chẳng bao giờ cùng, nay hiện sinh làm thân thấp kém cho nên gọi là che dấu. Chúng sinh cực ác cho nên gọi là hạ liệt. Không có pháp tài của bậc Thánh cho nên gọi là nghèo cùng, điều phục tức đoạn ác, nhiếp ích tức ban cho điều thiện. Kinh: Các Bồ-tát này… hữu tình khó hóa độ. Tán: Khen ngợi Bồ-tát. Nhẫn chịu các sự mệt nhọc, nghóa là khi làm lợi lạc chúng sinh có nhiều việc khổ não. Tối thắng, hy hữu, vững chắc nghóa là các việc não loạn không làm cho lui sụt. Vượt trên ngoại đạo… gọi là thắng tinh tấn, thế gian khó gặp nên gọi là hy hữu; chẳng thể lui sụt nên gọi là vững chắc, chẳng thể nghó bàn là lời khuyên gắng sâu xa. Đại bi tinh tấn là vì chúng sinh mà phát khởi. Lời tinh tấn này chung cho các nghóa trên là thắng, hy hữu, vững chắc, chẳng thể nghó bàn, đại bi. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… hữu tình khó giáo hóa. Tán: Thứ tư, thuật lại. Có hai: Thuật lại. Khen những điều hơn. Đây là thuật lại lời khen ngợi Như Lai đã nói ở trước. Kinh: Các Bồ-tát… vô lượng hữu tình. Tán: Đoạn này là thuật lại lời khen ngợi các vị Bồ-tát đã nói ở trước. Kinh: Đại só nên biết!… công đức đạt được. Tán: Tán thán những điều hơn, gồm có ba: Nêu lên. Giải thích. Kết luận. Đây là phần đầu. Ở cõi này tu hành các hạnh Bồ-tát thì hay nhẫn chịu gian khổ mà siêng năng, làm lợi ích rộng khắp, vì thế một đời tu phước còn hơn ở cõi Nhất thiết Diệu Hương, tu tập trăm ngàn kiếp. Vì các việc ở cõi này đều do mùi hương tạo thành cho nên gọi là Nhất thiết. Kinh: Vì sao?… chẳng có. Tán: Giải thích điều hơn, có hai: Nói nguyên do. Nói về hạnh. Đây là văn thứ nhất. Do tu mười pháp cứu chúng sinh khổ não, hơn các cõi Phật khác, trong các cõi Phật khác không có hữu tình khổ não và các phiền não… cũng không có hàng Nhị thừa, cho nên một đời tu tập hơn tu nhiều kiếp. Kinh: Mười pháp ấy là gì? Tán: Đây là nêu hạnh, có ba: Nêu lên. Giải thích. Kết luận. Đây là phần nêu lên. Kinh: 1.Dùng tuệ thí… nhiếp phục kẻ ngu si. Tán: Đây là sáu đáo bỉ ngạn, trừ sáu pháp tệ hại để nhổ trừ gốc khổ cho hữu tình, các cõi Phật khác, chỉ có hạnh thù thắng, không có sáu pháp tệ hại này. Kinh: 7.Dùng thuyết pháp trừ tám vô hà… người ưa thích pháp nhỏ. Tán: Đây là bốn luân phá dẹp tám nạn, nhiếp phục tất cả hữu tình như trước đã nói, các cõi khác không có tám nạn. Dùng pháp Đại thừa để nhiếp phục những người thích pháp Tiểu thừa, các cõi khác không có Tiểu thừa, cho nên là thù thắng. Kinh: 9.Dùng các căn lành… tất cả hữu tình. Tán: Các cõi khác không có hạng người chưa gieo trồng thiện căn, tất cả đều là hàng thiện căn đã thuần phục, cho nên cõi này hơn các cõi khác. Cõi khác không có hữu tình theo pháp ác, chẳng cần bốn nhiếp pháp; cõi này thực hành bốn nhiếp, nhiếp phục các hữu tình hành pháp ác, cho nên hơn các cõi kia. Kinh: Đây là mười pháp thiện tu tập. Tán: Kết luận. Kinh: Cõi kham nhẫn này… chẳng có Tán: Kết luận những điều hơn. Kinh: Bấy giờ, các vị Bồ-tát cõi kia… sinh vào các cõi tịnh khác. Tán: Đoạn thứ năm hỏi về nhân tịnh độ. Bồ-tát ở cõi này thực hành mười pháp đã nêu, trụ ở giai vị trước mười Địa, thành thục được mấy pháp mà chẳng hủy hoại pháp này, không làm tổn thương hạnh thiện? Hoặc chẳng hủy hoại hạnh thiện, không tổn thương mà khởi pháp ác, được trụ ở giai vị Thập địa, sau sinh vào tịnh độ? Nếu đã trụ ở mười Địa thì tự tại sinh vào tịnh độ, chẳng cần nhờ câu hỏi này. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… sinh vào các tịnh độ khác. Tán: Đoạn thứ sáu, đáp về nghiệp được tịnh độ, gồm ba phần: Nêu lên. Giải thích. Kết luận. Đây là phần một. Kinh: Tám pháp là gì? Tán: Đây là giải thích, có hai: Nêu lên. Giải thích. Đây là nêu lên. Kinh: 1.Bồ-tát tư duy rằng… mong cầu thiện báo. Tán: Đây là lời giải thích thế nào là tám. Thấy người đối với mình mà có ơn, thành Bồ-đề của mình, chẳng phải mình có ích cho người, vì chẳng thấy sự lợi ích lớn. Huống hồ ba việc đều không mà lại có mong cầu thiện báo? Kinh: 2.Các Bồ-tát nên nghó rằng… thảy đều hồi hướng cho tất cả. Tán: Tâm đại bi vận dụng rộng khắp, thay thế chúng sinh chịu khổ. Tâm đại bi rộng lớn hồi hướng thiện căn cho tất cả. Kinh: 3.Bồ-tát nên suy nghó… tâm không quái ngại. Tán: Oán thân chẳng hai, bình đẳng thực hành cứu độ, chẳng vì yêu ghét, tâm không chướng ngại. Quái tức là chướng. Kinh: 4.Bồ-tát nên nghó rằng… thương kính như Phật. Tán: Kiêu tức buông thả, thân tâm buông lung, mạn tức cao ngạo, tôn mình mà khinh người. Kiêu có bảy loại: Kiêu vì thân không bệnh; kiêu do tuổi trẻ; kiêu do sống lâu, kiêu do dòng họ tôn quý, kiêu do có sắc lực; kiêu do giàu sang; kiêu do đa văn. Mạn cũng có bảy loại: Mạn, người kém thì cho là mình hơn, hoặc người hơn thì cho là bằng mình. Quá mạn, đối với người hơn mình thì cho rằng mình bằng người, và nếu người bằng mình thì cho rằng mình hơn người. Mạn quá mạn, người hơn mà cho rằng mình hơn. Ngã mạn tức tự thị cao ngạo. Tăng thượng mạn, tức được ít cho là được nhiều. Ti mạn, tức người hơn mình nhiều phần mà cho rằng mình chỉ kém người ít phần. Tà mạn, nghóa là mình hoàn toàn vô đức mà cho rằng mình có đức. Xưa do bên trong kiêu nên bên ngoài sinh mạn, vì thế mà trầm luân trong sinh tử, nay nên trừ bỏ, tôn kính người như Phật. Kinh: 5.Bồ-tát nên suy nghóa rằng… không nghi không phỉ báng. Tán: Xưa chẳng nghe pháp, dẫu có nghe thì sinh nghi ngờ bài báng, nên trầm luân nơi sinh tử. Nay được nghe thì nên đoạn nghi, trừ dứt tâm báng bổ. Kinh: 6.Bồ-tát nên suy nghó… chẳng sinh kiêu mạn. Tán: Xưa thường hay ganh ghét đố kî với sự vinh quý của người, còn mình có lợi thì kiêu mạn, cho nên trầm luân nơi sinh tử. Nay thấy người có lợi thì không tật đố, mình có lợi thì không kiêu căngg. Kinh: 7.Các Bồ-tát nên suy nghó… chẳng chê lỗi người. Tán: Điều phục tự tâm, xa lìa pháp ác. Vì tâm động loạn như khỉ vượn khó chế phục, cho nên cần phải điều phục. Mỗi ngày ta ba lần tỉnh xét còn là lòng nhân của thế gian, huống hồ là luôn luôn xét nghó đến lỗi của mình, chẳng hủy báng lỗi người, chẳng phải là Bồ-tát ư? Kinh: 8.Bồ-tát nên suy nghó… pháp Bồ-đề phần. Tán: Đối với pháp ác chẳng nên buông lung, đối với pháp thiện nên luôn luôn cầu thực hành, tu pháp Bồ-đề phần, từng không si mê biếng trể. Kinh: Thế giới kham nhẫn… sinh vào tịnh độ khác. Tán: Đây là lời kết luận. Kinh: Vô Cấu Xưng… Vô sinh pháp nhẫn. Tán: Đoạn thứ năm của phẩm nói về chúng đương thời được lợi ích. Người chưa cầu thú hướng thì đồng phát tâm. Người đã tu hành thì được Vô sinh nhẫn. ------------------------------- <詞>PHẨM 11: BỒ TÁT HẠNH Tất cả mười một phẩm đều chánh thức nói về phần bản tông, trong đó lại có ba: Chín phẩm trên nói về cảnh Bồ-tát, một phẩm này nói về hạnh Bồ-tát. Biết cảnh mới khởi hạnh. Nghóa của từ Bồ-tát thì như trên đã giải thích. Hạnh tức là nhân nghiệp, tức nhân nghiệp mà Bồ-tát tu tập để thành Phật. Phẩm này nói rõ về việc trên cho nên gọi là phẩm Bồ-tát hạnh. Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Phật còn ở tại vườn Am-la-vệ… đều hiện sắc vàng. Tán: Toàn phẩm được phân làm ba đoạn: Hiện tướng khi chưa đến Am viên. Trình bày khi đã đến chỗ Phật. Bồ-tát khen ngợi xin trở về. Trong phần một lại có ba: Chưa đến mà đã hiện tướng. A-nan kinh lạ thưa hỏi. Thế Tôn chỉ dạy. Đây là văn thứ nhất. Các vị Bồ-tát muốn đến Am viên nên hiện trước các tướng: Biến rộng lớn, vì tăng trưởng hạnh Đại thừa. Biến trang nghiêm thanh tịnh, vì diệt phiền não. Biến thành màu vàng ròng, hiển thị thành tựu quả vị thù thắng bậc nhất. Kinh: Lúc bấy giờ, A-nan-đà… đều hiện màu vàng ròng. Tán: A-nan kinh ngạc thưa hỏi, chẳng biết những tướng này, nên hỏi do ai tạo ra. Kinh: Đức Phật bảo Cụ Thọ A-nan-đà… hiện trước các tướng này. Tán: Thế Tôn chỉ dạy. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nghe nhận diệu pháp. Tán: Đoạn thứ hai, trình bày khi đến chỗ Phật. Văn gồm bốn phần: Thảo luận về việc muốn đến. Đến rồi kính lễ. Thế Tôn chỉ ra và hỏi. Nghe mùi hương, kinh lạ thưa hỏi. Trong phần một lại được chia hai: Vô Cấu thảo luận. Ngài Các Tường trả lời nên đến. Đây là văn thứ nhất. Phật sai bảo đến thăm bệnh, theo lý đã hợp, tự luận biết, huống hồ lại muốn chiêm ngưỡng mà nghe pháp, nên cùng với đại chúng đến chỗ Phật sao? Kinh: Bồ-tát Diệu Các Tường nói… có thể cùng đi. Tán: Ngài Các Tường đáp nên đến. Chúng sinh căn cơ đã thuần thục lại thêm Thế Tôn đã vận tâm Từ bi rộng khắp, cho nên đúng là lúc nên cùng đến. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… thẳng đến chỗ của Phật. Tán: Thứ hai, đã đến và đảnh lễ, gồm có ba: Dùng bàn tay đưa đại chúng di. Đã đến liền kính lễ. Đức Phật bảo ngồi. Đây là văn thứ nhất. Dùng thần cảnh thông, làm cho đại chúng chẳng rời tòa ngồi, đặt tòa vào lòng bàn tay mang đến chỗ của Phật. Kinh: Đến xong bèn bước xuống đất… đứng một cánh nghiêm trang. Tán: Đã đến và đảnh lễ, gồm có ba: Vô cấu đảnh lễ. Bồ-tát đảnh lễ. Đại chúng đảnh lễ. Đây là đoạn một. Mọi người bước xuống đất, tự lễ kính Đức Thế Tôn, đi nhiễu rồi lại trang nghiêm mà đứng. Đảnh lễ thì năm chi đếu tiếp đất để biểu thị sự tôn kính, nhiễu theo chiều bên phải là biểu thị cho sáu thần thông hiện hóa; bảy vòng biểu thị diệt bảy tùy miên, được bảy giác phần, thành tựu bảy thanh tịnh; hướng về Phật tức biểu thị được Nhất thiết trí địa, được nhất vô tướng, chắp tay biểu thị thầm hợp chân cảnh, nghiêm trang mà đứng là may được Phật dạy bảo. Kinh: Các Đại Bồ-tát… nghiêm trang mà đứng. Tán: Đây là Bồ-tát lễ kính. Kinh: Các đại Thanh văn… nghiêm trang mà đứng. Tán: Đại chúng kính lễ, mới đến nên tôn kính, liền xuống tòa làm lễ; nghe pháp rồi sẽ đi, cho nên nghiêm trang mà đứng. Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn… mỗi mỗi đều đến tòa của mình. Tán: Đức Phật bảo đến tòa ngồi. Đầu tiên là bảo. Sau là ngồi. Đây là lời bảo. Tiếp người đến có lễ kính, nên như pháp thăm hỏi. Sắp ngộ Thánh đạo, nên bảo mỗi mỗi trở về tòa. Kinh: Bấy giờ, đại chúng… cung kính mà ngồi. Tán: Vâng mệnh chẳng dám xem thường. Mỗi mỗi đều trở về tòa của mình; biểu thị sắp được Niết-bàn, vì thế trước là ngồi, ngồi ắt sẽ đến lúc nằm, nằm là cực Niết-bàn. Kinh: Bấy giờ, Thế Tôn… chỗ làm. Tán: Thứ ba, Thế Tôn chỉ bày và hỏi, gồm có bốn: Đức Phật hỏi. Xá-lợi Tử đáp. Hỏi lại. Xá-lợi Tử thuật. Đây là văn thứ nhất. Đại só Vô Cấu trụ ở vị giải thoát, do việc bậc nhất này mà gọi là trí tối thắng, tự tại hóa hiện nên gọi là tự tại; diệu dụng vô ngại gọi là chỗ làm của thần lực. Kinh: Xá-lợi Tử… vâng con đã thấy. Tán: Thứ hai, Xá-lợi Tử đáp. Kinh: Thế Tôn lại hỏi: “Ông khởi ý tưởng gì?” Tán: Thứ ba, Thế Tôn lại hỏi. Ông đối với việc này giải thích thế nào? Kinh: Xá-lợi Tử thưa: Còn khởi tưởng cho rằng rất khó nghó bàn. Tán: Thứ tư, Xá-lợi Tử thuật, có hai: Nêu và giải thích. Đây là phần nêu lên. Kinh: Con thấy Đại só… chẳng thể nói năng tán thán được. Tán: Giải thích việc khó nghó bàn. Có hai phần: Ngài Vô Cấu xưng khó nghó bàn, cho nên nói: “Con thấy Đại só thật khó nghó bàn”. Nói về thần lực khó nghó bàn, tức nói: “Tác dụng của thần lực, công đức không thể dùng số lượng tính toán, không thể dùng suy nghó mà lường; cũng như thế chẳng thể dùng lời khen ngợi, chẳng thể dùng tâm suy lường.” Vì tất cả đều là đường tầm tư. Do bốn nghóa này mà chẳng thể trình bày tán dương được. Bản xưa ghi: “Chẳng phải ý có thể tính, chẳng phải suy nghó mà lường được.” Người chẳng phải ý có thể tính, sự việc chẳng phải suy nghó có thể lường.” Vả lại độ tức là căn; người có căn cơ kém chẳng thể lường được hàng căn cơ cao hơn. Kinh: Bấy giờ, A-nan-đà… là mùi hương của ai. Tán: Đoạn thứ tư, nghe mùi hương kinh ngạc thưa hỏi, có bốn phần: A-nan kinh nghi thưa hỏi. Thu Tử giải thích. Hỏi được bao lâu. Tán thán nêu Phật sự. - Trong phần một lại có hai: A-nan nghi hỏi. Thế Tôn trả lời. Đây là A-nan nghi hỏi. Kinh: Phật bảo rằng… từ lổ chân lông phát ra. Tán: Đức Thế Tôn đáp. Kinh: Bấy giờ, Xá-lợi Tử… cũng có mùi hương. Tán: Thu Tử phụ giải thích, có ba: Thu Tử đáp. A-nan hỏi. Thu Tử thuật lại. Đây là văn thứ nhất. A-nan bạch Phật, Phật trả lời là từ lổ chân lông của các Bồ-tát phát ra; Thu Tử chẳng được hỏi mà nói mình cũng có, bèn tự trình bày. Kinh: A-nan-đà hỏi… do duyên gì mà có được? Tán: Phần thứ hai, A-nan hỏi. Bồ-tát phát ra mùi hương ắt có thể do tu thành, còn ngài do nhân duyên gì mà có được? Kinh: Xá-lợi Tử đáp… cúng dường cho đại chúng. Tán: Thu Tử thuật lại. Đầu tiên thuật nguyên do thức ăn đến, sau là thuật nguyên do có mùi hương. Đây là phần đầu. Kinh: Trong đó những người ăn món cơm này… đều phát ra mùi hương Tán: Đây là nói về lý do có mùi hương. Kinh: Bấy giờ, A-nan-đà hỏi… sẽ còn được bao lâu? Tán: Thứ ba, hỏi còn được bao lâu, có bốn: Hỏi hương còn bao lâu. Trả lời đến khi cơm tiêu. Hỏi bao lâu cơm tiêu. Trả lời về thời gian cơm tiêu. Đây là câu hỏi thứ nhất. Thời gian mùi hương còn tại thân lâu như thế nào? Kinh: Vô Cấu Xưng nói… mùi hương ấy vẫn còn. Tán: Trả lời đến khi cơm tiêu hết. Hương tùy theo cơm, cơm còn thì hương còn, cơm phát ra mùi hương, cơm tiêu thì hương hết. Kinh: A-nan-đà nói… sẽ tiêu hết. Tán: Thứ ba, hỏi bao lâu cơm tiêu. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… mà chẳng bị bệnh hoạn Tán: Thứ tư trả lời về thời gian cơm tiêu. Có ba: Đáp chung. Giải thích riêng. Nêu dụ. Đây là văn thứ nhất. Thế lực của cơm này cũng tùy thuận theo cơm của thế gian, ở trong thân bảy ngày đêm mới tiêu. Nhưng do thần lực của đại bi tuy trải qua thời gian lâu chưa tiêu mà chẳng bị bệnh, chẳng đồng như món cơm thế gian nếu trải qua bảy ngày đêm mới tiêu hóa hết thì sẽ sinh bệnh. Nói bảy ngày là tùy theo món cơm thế gian, lấy số nhiều mà luận, chứ chẳng phải nhất định như thế, hoặc nhiều hoặc ít hơn không định. Như hàng Thanh văn lợi căn đắc quả phải trải qua sáu mươi kiếp, Bồ-tát từ phát tâm đến chứng vô sinh nhẫn ắt phải trải qua một đại a-tăng-kỳ kiếp, nếu chứng đắc rồi cơm mới tiêu, há chỉ bảy ngày mà được quả Thanh văn ư? Chỉ bảy ngày được Vô sinh nhẫn ư? Ba đời mới đắc quả chẳng phải chỉ bảy ngày. Do đó cho nên biết, đây là tùy theo đa phần món cơm thế gian mà luận là bảy ngày. Kinh: Cụ Thọ nên biết… sau đó mới tiêu. Tán: Giải thích riêng, gồm hai: Được quả Thanh văn. Được quả Bồ-tát. Thanh văn có ba: Đây là nói từ phàm phu mà được kiến đế. Cụ thọ bản xưa dịch là Tuệ mạng và gọi A-nan-đà là Cụ Thọ. Hữu tình thế gian phần nhiều yêu thích thân mạng, nghe nói sống lâu thì ai chẳng sinh ham muốn vui vẻ. Người xuất gia phần nhiều thích trí tuệ, nghe nói đến trí tuệ thì ai mà không sinh hoan hỷ, cũng như thế gian yêu thích thân mạng vậy. Do đó bản dịch xưa gọi là Tuệ mạng. Đầy đủ thọ mạng thế gian và mệnh trí tuệ xuất thế gian, chẳng thể nói riêng một bên nào. Mạng nay đã có đầy đủ nên gọi là Cụ thọ. Đã phát tâm Thanh văn chưa vào kiến đế, ăn rồi liền được vào, sau đó mới tiêu, nhanh nhất là ba đời chậm nhất là sáu mươi kiếp. Chánh tánh ly sinh thì như trước đã giải thích. Kinh: Người chưa lìa dục… sau đó mới tiêu. Tán: Thứ hai, từ kiến đế được lìa dục. Được ly dục tức quả bất hoàn. Kinh: Người chưa giải thoát… sau đó mới tiêu. Tán: Thứ ba, từ hữu học được vô học. Tâm giải thoát tức quả A- la-hán câu giải thoát, vì lìa các dục định chướng giải thoát và Niết-bàn tám giải thoát. tiêu. Kinh: Các người có chủng tánh Bồ-tát Đại thừa… sau đó mới Tán: Hiển thị được giai vị Bồ-tát, gồm có bốn: Đoạn này là nói từ phàm phu đầy đủ tánh Bồ-tát, cần phải phát tâm Đại thừa, sau đó cơm mới tiêu, ý nghóa hiển rõ, nếu hàng vô tánh thì không được món cơm này, vì chẳng thể phát tâm. Tuy đầy đủ năm căn hữu lậu thế gian, nhưng đây là vì lợi ích xuất thế, cho nên những người ấy chẳng được. Ý nghóa hiển thị rõ món cơm này có thể được cho hàng Bộ hành Độc giác, sau đó mới tiêu, giống như Thanh văn; vì phần nhiều họ chẳng gặp Phật cho nên chẳng nói đến. Giống như nói về hàng Thanh văn có chủng tánh được ăn món cơm này mà phát tâm, sau đó mới tiêu; văn đã lược không ghi, ý nghó thì ắt phải có như thế. Kinh: Đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề… sau đó mới tiêu. Tán: Thứ hai, người đã phát tâm. Cần phải được Sơ địa, vì mới được Vô sinh tức ở vị Sơ địa. Thứ ba, từ Sơ địa được Địa thứ tám, vì đầy đủ Bất thoái phải ở tại địa này. Thứ tư, từ Địa thứ tám đến Bổ xứ, Bổ xứ là vị nhất sinh sở hệ, cũng tức nhất sinh được ăn món cơm này rồi, đến thành Phật cơm mới tiêu. Nhưng thân Nhất sinh sống ở cõi Tri túc, món cơm này chẳng dùng cho thân nhất sinh, cho nên chẳng nói đến, hoặc nghóa thì có mà văn thì lược bỏ không ghi. Kinh: Cụ Thọ nên biết… sau đó mới tiêu. Tán: Thứ ba là nêu dụ. Đầu tiên là nêu dụ, sau là hợp. Đây là dụ. Kinh: Người ăn món cơm này… sau đó mới tiêu. Tán: Đây là hợp. Món cơm như vị thuốc quý hoặc như các loại độc. Căn cứ theo pháp dụ này thì chỉ dụ cho việc đắc đạo đoạn trừ hoặc căn bản, chẳng dụ cho chủng tánh mới phát tâm… vì chưa đoạn hoặc. Hoặc dụ này dụ chung cho tất cả phục đoạn và chánh đoạn, vì tất cả đều gọi là trừ. Kinh: A-nan-đà nói… làm các Phật sự. Tán: Đây trở xuống là nói về Phật sự và tán thán, có hai phần: A-nan khen ngợi. Nói về Phật sự. Đây là văn thứ nhất. Phật làm việc lợi lạc hữu tình, cho nên gọi là Phật sự. Kinh: Phật liền nói rằng… làm các Phật sự. Tán: Đây là nói về Phật sự. Có ba: Ấn chứng cho việc luận về Phật sự. Nêu những việc khác. Thân Phật đồng dị. Đây là văn thứ nhất. Như thế! như thế! Tức ấn chứng cho lời đã nói ở trước là nói Phật sự chắc hẳn như thế. Kinh: Bấy giờ, Đức Phật lại… làm các Phật sự. Tán: Nêu lên các việc khác, gồm có ba: Nêu việc của Vô Cấu Xưng. Hiển thị các cõi Phật khác. Kết luận nói lợi ích. Đây là đoạn văn thứ nhất. Kinh: Như thế ở mười phương thế giới các cõi Phật khác… mà làm Phật sự. Tán: Nêu cõi Phật khác; có mười bốn câu phân làm bốn: Mười câu đầu nói về ngộ nhập khác biệt. Hai câu kế nói về ngộ nhập ba tánh. Một câu kế, nhân nơi lời nói mà ngộ đạo. Một câu sau cùng, nhân vắng lặng mà chứng ngộ pháp, tất cả đều gọi là Phật sự. Đoạn này có năm câu, do thấy ánh sáng hoặc xúc chạm ánh sáng mà các khổ tiêu trừ, tu duy được trí tuệ, diệt trừ tối tăm ngu si. Thấy cây Bồ-đề, tư duy sinh cây giác, khởi bốn Tâm vô lượng, che mát quần sinh. Thấy các Bồ-tát, phát tâm tu hành, mong cầu được giống nhau, như nghó đến Địa Tạng Bồ-tát mà chẳng nghó đến Phật Thích-ca. Thấy tướng quý và vẻ đẹp của Phật thì phát tâm vui thích, chán thân sinh tử, đạt quả lớn. Do thấy hóa nhân thì căn khí mới thành thục; biết thần dụng của Phật mới khởi nguyện ưa thích. Kinh: Hoặc có cõi Phật lấy y phục… làm Phật sự. Tán: Đoạn này gồm năm câu: Do thấy y phục mà khởi tâm hổ thẹn; do thấy ngọa cụ mà thích tu bốn thiền, phát khởi tịnh mạng; do thấy thức ăn uống mà tư duy cầu vị giải thoát của nước giác ngộ, vì ham thích pháp thực, do thấy vườn rừng, mà tu tập pháp tổng trì vô lậu; do thấy lầu đài, điện quán mà thích tu tập các cõi thắng diệu như tịnh độ… Kinh: Hoặc có cõi Phật lấy hư không… làm Phật sự Tán: Đoạn này nói về ngộ nhập ba tánh, có ba câu, gồm hai phần: Nói riêng về ngộ nhập hai tánh. Một câu sau nói về ngộ nhập y tha. Đoạn này là nói ngộ nhập Biến kế sở chấp và biết viên thành do quán hư không đều không có tánh tướng, ngộ nhập sinh và pháp sở chấp, hai ngã vô thể cũng thế. Do đó hữu tình điều phục đoạn chấp ngộ được hai tánh là không, đạt được lý nhị không. Kinh: Hoặc có cõi Phật vì các hữu tình… mà làm Phật sự. Tán: Đây là nói về nhập y tha. Do duyên thuyết mười dụ là huyễn… chẳng phải có tựa như có, dối gạt kẻ ngu, nhờ vào các nhân duyên này mà nhập vào y tha. Kinh: Hoặc có cõi Phật dùng âm thanh… làm Phật sự. Tán: Đây là một câu nói về việc nhờ nơi ngôn ngữ mà ngộ đạo. Nghe nói thật tánh các pháp liền thấu rõ viên thành, nghe nói tướng tục đế liền biết y tha. Đã biết hai đế thì ngộ được sở chấp là không, chỉ có cảnh tướng, thì liền biết được Biến kế sở chấp. Gọi đó là nhập ba tánh, vì giải thích ba tánh này. Kinh: Hoặc có cõi Phật thanh tịnh im lắng… mà làm Phật sự Tán: Đây là một câu cuối cùng, nhân nơi vắng lặng mà ngộ pháp. Do thấy cõi Phật im lặng thanh vắng, không nói ác, không nói thiện, không quở trách, không khen ngợi, không tư duy, không tìm cầu các pháp, cũng không hý luận phân biệt các pháp, không biểu thị, không chỉ bày, nên ngộ bản tánh tánh tướng các pháp tịch mặc, thể lìa đường ngôn ngữ, trên cảnh tầm tư; hoặc trước cho rằng nhờ lời nói mà ngộ thế tục đế, ở đây nhân nơi vắng lặng ngộ Thắng nghóa đế. Kinh: Như thế nên biết… cũng vô số lượng. Tán: Kết luận nói lợi ích tốt đẹp, gồm có bốn: Nói Phật sự rất nhiều. Nói động dừng đều lợi ích. Nói nguyên do nhiều. Khuyên nêu đạo lý. Đây là văn thứ nhất. Vì thế giới vô lượng, nên cõi Phật vô biên, chư Phật đã vô biên thì việc lợi ích cũng vô số. Kinh: Tóm lại… đều gọi là Phật sự. Tán: Đây là nói động dừng đều có lợi ích. Đi đứng nằm ngồi gọi là oai nghi. Hoặc đi hoặc đứng gọi là tấn chỉ, theo duyên lãnh nạp các cảnh gọi là thọ dụng, phàm có phát khởi tạo tác thì gọi là thi vi, chẳng thể nói hết được. Tóm lại tất cả những việc như thế, đều khiến cho chúng sinh được hóa độ điều phục; điều tức sinh trưởng thiện căn, phục tức chế phục đoạn ác; vì thế tất cả đều gọi là Phật sự. Như hỏi A-nan trời sẽ mưa chăng? Biết mà còn hỏi là muốn khiến cho người khác xét kỹ sự việc. Phật biết mà còn hỏi, hà huống gì chúng ta, cho nên tất cả đều là Phật sự. Kinh: Lại như bốn ma, tám mươi bốn ngàn phiền não ở thế gian… mà làm Phật sự. Tán: Đây là nói có nhiều nguyên do, tám mươi bốn ngàn pháp môn, kinh Hiền Kiếp ghi: “Bấy giờ, có Bồ-tát tên là Hỷ Vương, ngồi im lặng tư duy, trải qua bảy ngày rồi đến chỗ Phật bạch rằng: Bạch Thế Tôn nên thực hành Tam-muội gì mà mau chứng được pháp môn? Phật dạy Hỷ Vương rằng: Có môn Tam-muội tên là Liễu chư pháp bản tế, các Bồ-tát thực hành rồi, mau chứng nhập tám mươi bốn ngàn pháp môn”. Như từ ánh sáng tối thắng cho đến cuối cùng phân bố thân Phật có ba trăm năm mươi, mỗi mỗi đều thực hành sáu Ba-la-mật, thành hai ngàn mốt, như trong kinh kia, mỗi mỗi đều nói riêng về tướng của sáu độ. Hai ngàn mốt này mỗi mỗi đối trị với tham sân và si, mỗi mỗi lại tăng đến ba đẳng phần. Bốn loại này trong tâm hành của hữu tình tổng thành tám ngàn bốn trăm, mỗi mỗi lại đối trị với các lỗi trong bốn đại và sáu vô nghóa sinh ra, như thế tổng cộng thành tám mươi bốn ngàn. Sáu vô nghóa tức là sáu cảnh, vì chẳng sinh nghóa lợi cho nên gọi là vô lợi. Do chúng sinh có tám mươi bốn ngàn căn cơ, cho nên bệnh khởi cũng có tám mươi bốn ngàn, trị bệnh cũng có tám mươi bốn ngàn phương, hạnh hay đối trị cũng có tám mươi bốn ngàn. Hạnh đã có tám mươi bốn ngàn thì pháp môn được nói ra cũng có tám mươi bốn ngàn. Chúng sinh đã bị bốn ma nhiễu loạn, tám mươi bốn ngàn phiền não nhiễu loạn, thì Như Lai tức lập bày các Phật sự để đối trị các pháp ấy. Phật sự vốn để đối trị bệnh mê hoặc, thích ứng với căn cơ hữu tình. Kinh: Ông nay nên biết… tất cả Phật pháp. Tán: Thứ tư, khuyên chỉ bày đạo lý. Có bốn: Nêu lên việc chỉ bày ngộ nhập. Khuyên trừ việc thuận nghịch. Khiến sinh tin thích. Giải thích để thành tựu nghóa trước. Đây là văn thứ nhất. Hay biết pháp cao tột nên gọi là ngộ nhập tất cả Phật pháp. Ngộ biết Phật pháp vốn để lợi sinh. Năng thuyên sở thuyên, năng trị sở trị, năng sinh sở sinh, không ngoài cách giải thích ở trước. Kinh: Nếu các Bồ-tát… chẳng sinh lo buồn sân hận. Tán: Khuyên trừ tâm thuận nghịch. Thấy tịnh độ thuận với mình chớ nên sinh vui mừng mà khởi tâm tham trước, thấy cõi tạp uế trái nghịch với mình chớ sinh lo buồn mà khởi sân hận. Tịnh và uế đều lợi lạc. có. Kinh: Ở chỗ của tất cả chư Phật phát sinh… khen là điều chưa từng Tán: Đoạn thứ ba, khiến sinh tin thích. Chớ khởi tâm hạ liệt, nên phát sinh tâm tin thích thượng phẩm. Kinh: Chư Phật Thế Tôn… cõi Phật khác nhau. Tán: Giải thích để thành tựu nghóa trước. Mười phương chư Phật công đức đều như nhau, vì đều được tánh chân như bình đẳng. Vả lại Sơ địa trở lên đã được ba bình đẳng là Phật, Bồ-tát và tất cả hữu tình. Công đức của thân chư Phật đều đồng nhau, hai hạnh của Bồ-tát đồng nhau, đại bi đối với chúng sinh đồng nhau, vì “không” và không có thật ngã đều đồng nhau. Vả lại đã đạt được mười loại tánh bình đẳng: Chứng đắc các pháp tăng thượng ái lạc. Xa lìa dị tướng và phi tướng. Lãnh thọ tất cả duyên khởi. Đại Từ cứu khổ tất cả. Đại bi không đối đãi. Thị hiện tùy theo sự ưa thích của chúng sinh. Tất cả hữu tình đều kính nhận điều đã nói ra. Thế gian vắng lặng đều đồng một vị. Khổ vui của thế gian đều đồng một vị. Gieo trồng vô lượng công đức rốt ráo. Do chứng chân như, đạt ba và mười bình đẳng, cho nên tất cả công đức của Phật đều bình đẳng, chớ nên sinh các ý tưởng thuận nghịch như lo buồn vui thích, tham sân… chỉ vì chúng sinh mà hiện cõi tịnh uế, chẳng phải pháp không bình đẳng mà cõi nước có tịnh uế. Gốc thì đồng mà ngọn thì khác. Kinh: Ông nay nên biết!… đều không sai biệt. Tán: Đoạn thứ ba nói về thân Phật đồng dị. Do nơi cõi đồng và dị cho nên phải nói đến thân. Toàn văn gồm có hai: Nêu dụ hiển nguyên do đồng dị. Nói rộng về tướng bình đẳng của pháp thuyết. Trong phần đầu lại có hai: Dụ. Pháp. Đây là dụ. Tuy cõi đất y cứ có hơn kém khác nhau, như vàng bạc tịnh uế tướng có khác nhau, nhưng hư không ở trên đều chẳng sai biệt. Kinh: Như thế nên biết… đều không sai biệt Tán: Ứng vật hiện thân, nhiều loại khác nhau, hợp với dụ nghóa “cõi đất sở y tuy có hơn kém” nói trên. Trí tuệ vô ngại, rốt ráo không cùng tận, đầy đủ không thiếu sót, tất cả đều không sai biệt, hợp với dụ hư không phía trên vô tận cũng không thiếu khuyết”. Phước tuệ tựa như thế, cho nên lấy làm dụ. Thân tha thọ dụng và thân biến hóa đều vì chúng sinh mà hiện nên có các loại khác nhau, nhưng thân tự thọ dụng thì tất cả đều bình đẳng, vì chứng được pháp thân chân như bình đẳng. Kinh: Ông nay nên biết tất cả Như Lai đều bình đẳng Tán: Đây là nói rộng về tướng bình đẳng của pháp thuyết. Văn gồm có bốn: Phật đức bình đẳng. Danh hiệu bình đẳng. Khen ngợi sự sâu xa. A-nan tự khiêm xin lui. Đoạn thứ nhất lại có hai: Nêu lên. Giải thích. Đây là đoạn nêu lên. Kinh: Cái gọi là hình sắc oai quang tối thượng, châu viên, vô cực… Phật pháp bất cộng. Tán: Đoạn này là hiển thị về bình đẳng. Tối thượng tức là bậc nhất; châu viên tức cùng khắp mười phương; vô cực tức về sau vô tận. Ba câu này chung cho các câu kể riêng biệt nêu ở sau, mỗi mỗi đều thông với các câu sau. Trong các câu nói riêng kể dưới đây thì phần thứ nhất nói về nội đức, phần kế nói về ngoại đức, phần sau nói về hai đức. Đây là phần đầu gồm có chín: Nói về hình lượng và sắc. Oai quang. Tướng hảo. Chủng tánh. Tôn quý. Năm uẩn thanh tịnh. Các lực. Vô úy. Phật pháp bất cộng. Chín điều này đều tối thượng, châu viên và vô cực. Năm việc trước nói về thân…, bốn việc sau nói về đức… Kinh: Đại Từ, đại bi… oai nghi sở hành. Tán: Đây là nói riêng về ngoại đức, gồm bảy việc: Đại Từ. Đại bi. Đại Hỷ. Đại Xả. Lợi ích. An lạc. Oai nghi sở hành. Bốn vô lượng thì chung cho ba thừa phàm Thánh, hữu lậu vô lậu, tưởng giả thật, nhưng chỉ quán ở cõi Dục chẳng chung cho cõi Vô sắc. Ở đây nói “đại” là riêng cho bậc Thánh chẳng có phàm, chỉ riêng cho Đại thừa chẳng có Tiểu thừa, chỉ vô lậu chẳng phải hữu lậu, chỉ là thật tướng quán chẳng phải là giả tưởng, duyên chung ba cõi, chỉ có Phật mới khởi, vì cảnh đại, hạnh đại và lợi lạc đại, vì thế đặc biệt nêu từ đại. Lợi ích thì nhiếp thọ pháp thiện, an lạc thì xa lìa pháp ác; lợi ích thì lìa khổ. An lạc thì ban vui. Các môn như thế có mười nghóa riêng như Duy Thức Sớ đã nói. Oai nghi tức là các phương tiện lợi lạc như đi đứng, nằm ngồi. Sở hành tức chỗ thực hành của Phật, nghóa là cảnh du hóa. Kinh: Chánh hạnh thọ lượng… tất cả đều bình đẳng. Tán: Hiển bày hai đức, gồm sáu câu: Chánh hạnh ba nghiệp. Thọ lượng, tức tùy cõi chúng sinh mà thọ lượng vô tận. Thuyết pháp. Độ thoát khiến lìa khổ. Thành thục, khiến được quả xa lìa; trên là nói về nội thân. Nói về tịnh độ; như thế tất cả đều bình đẳng. Do xưa tạo nhân, đúng thời gặp duyên, siêng năng ý lạc chứng được chân pháp tánh, ba và mười bình đẳng đều được bình đẳng, đến nay đắc quả thì hai pháp trong ngoài, trong thân ngoài cõi nước, tất cả đều không sai biệt. Kinh: Vì các Như Lai… gọi là Phật-đà. Tán: Thứ hai, danh hiệu bình đẳng. Vì các Phật pháp là tối thượng cùng khắp, rốt ráo vô tận, vô tận tức vô cực, hai nghóa như nhau, tên cũng giống nhau. Một là đồng tên là Tam-miệu Tam-Phật-đà nghóa là Chánh đẳng giác. Tam tức là Chánh, miệu tức là Đẳng, Phật-đà tức Giác giả. Nên nói là Chánh giác. Đẳng giác giả, chánh giác giả gọi chung là chánh đẳng giác giả. Chánh giảc tức phân biệt với phàm phu vì phàm phu là tà giác. Đẳng giác tức phân biệt với Nhị thừa, Nhị thừa chỉ biết tánh không vô ngã, chỉ biết sinh không vô ngã, chỉ biết pháp. Vả lại giác pháp là phân biệt với Bồ-tát, Bồ-tát tuy chánh đẳng giác nhưng chưa chân chánh viên mãn giác ngộ các pháp. Hai từ chánh đồng nhau nên gọi chung là Chánh đẳng giác. Đồng tên với Đạt-tha-yết-đa, Hán dịch là Như Lai. Kinh Niết-bàn ghi: “Như quá khứ chư Phật thực hành ba mươi bảy phẩm, mười một không… mà đến (lai) Niết-bàn cho nên gọi là Như Lai”. Như người mà tu hành, như người mà chứng lý, đạt đến (lai chứng) Niết-bàn, nên gọi là Như Lai. Phật-đà tức giác giả (người giác ngộ), có đầy đủ Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí, có thể tự giác ngộ, cũng có thể làm cho tất cả hữu tình được giác ngộ. Như tỉnh mộng, như sen nở, tự giác giác tha, giác là hạnh viên mãn, cho nên gọi là Phật-đà. Phật có mười hiệu nhưng ở đây chỉ kể ba tức chánh đẳng giác là trí đức, vì giác ngộ các pháp; Như Lai là đoạn đức vì đã đoạn tất cả các phiền não, hiển thị chân lý đoạn nên gọi là đoạn đức; Phật-đà tức ân đức vì khiến cho người khác giác ngộ. Vả lại ba hiệu này là bậc nhất cho nên được nêu lên. Kinh: Ông nay nên biết!… cũng chẳng thể hết được. Tán: Thứ ba, khen ngợi pháp sâu xa, có bốn: Lược nói chung về thuyết pháp khó cùng tận. Dẫu có chỉ bày thấy nghe cũng khó cùng tận. Chỉ có Phật lực mới có thể nói hết. Tổng kết để thành tựu đức biện biệt khó nghó bàn. Đây là văn thứ nhất. Kinh: Giả sử tam thiên… cũng chẳng thể tận. Tán: Dẫu cho chỉ, bày, thấy, nghe cũng chẳng tận. Niệm tức nhớ rõ; tổng trì nghóa là nghe văn nghóa giữ gìn không để quên sót, đa văn tức nghe tất cả ba tạng, nghe lâu tích tập. Kinh: Chánh đẳng giác này… chỉ trừ chư Phật. Tán: Chỉ có chư Phật mới nói hết. Trừ Phật, còn tất cả những hàng khác chẳng thể nói rốt ráo đủ ba nghóa; tuyên dương tức ngôn thuyết; quyết trạch tức tuệ rõ biết. Kinh: Như thế nên biết… chẳng thể nghó bàn. Tán: Đây là đoạn tổng kết thành tựu đức biện biệt khó nghó bàn. Công đức đã vô lượng thì biện biệt kỳ diệu cũng khó nghó suy, Bồ-đề vô lượng, cho nên có thể quyết trạch; biện biệt khó nghó suy, cho nên hay tuyên thuyết. Kinh: Nói lời này xong… đa văn bậc nhất. Tán: Thứ tư, A-nan tự khiêm xin thoái lui. Khiêm nhường xin lui. Phật ngăn. Đây là phần thứ nhất. Đối với ba nghóa này, nghe lâu mà chẳng biết, xưa gọi là đa văn nay lại thành kém hiểu biết, cho nên xin thoái lui, chẳng dám lãnh danh hiệu đệ nhất. Kinh: Đức Phật liền nói… chẳng phải đối với Bồ-tát. Tán: Phật ngăn, có ba ý: Để hợp với xưa gọi là đa văn đệ nhất. Ngăn chặn chung chẳng nên suy lường với hàng cao tột. So sánh hơn kém. Đây là văn đầu. Kinh: Ông nay hãy thôi… không thể suy lường. Tán: Ngăn chặn chung. Tổng kết để thành nghóa chẳng nên suy lường với hàng cao hơn, theo văn có thể biết. Kinh: Thanh văn các ông… không thể bằng được. Tán: So sánh hơn kém. Ông chớ nên suy nghó đến tất cả cảnh giới của Bồ-tát, vị thấp mà suy lường vị trên cao thì chẳng đến, vì căn cơ, giai vị, nhân độ đều sai khác. Ông Vô Cấu Xưng, trước một bữa cơm đã làm các việc như đặt tòa, xin cơm, dọn thất, tiếp khách đã nêu trên, đó là do thần lực hóa hiện, hàng Nhị thừa dù trong một trăm ngàn kiếp thực hành cũng chẳng thể bằng được. Bậc Bồ-tát giải thoát, đã chẳng phải cảnh khác thì chẳng thể so sánh, vì đó là cảnh thần thông. Kinh: Bấy giờ, các Bồ-tát ở phương Tây… xả bỏ tâm này. Tán: Đoạn thứ ba, Bồ-tát khen ngợi để xin trở về, gồm ba phần: Tán thán sám hối xin được nghe pháp. Phật nói rộng. Hoan hỷ cúng dường khen ngợi cao đức mà trở về. Trong phần một lại có hai: Nêu lên. Giải thích. Đây là đoạn nêu lên. Vốn trụ tại cõi nước Hương, nay thấy cõi uế thì sinh ý tưởng cho là thấp kém, bấy giờ nghe được lý vi diệu, nên tâm sám hối. Vốn cho rằng thân Đức Thích-ca kém xấu cõi nước dơ uế, nên sinh ý tưởng cho là thấp kém, cho thấp kém hơn cõi Phật Diệu Hương. Đâu biết nội đức của thân Phật và thật tịnh độ hôm nay vốn xưa nay bình đẳng, vì loài hữu tình mà hiện thân và cõi nước khác nhau, do đó mà hối lỗi tâm trước kia, sinh hổ thẹn. Kinh: Vì sao?… thị hiện cõi Phật. Tán: Đây là giải thích việc sám hối hổ thẹn nêu trên, cảnh giới Phật khó nghó suy, vì loài hữu tình. Lúc bấy giờ tôi không thể suy lường được cho nên phát lòng sám hối. Như hữu tình, nghóa là ý thích của hữu tình chẳng phải là một. Như thế! Như thế! Nghóa là nói việc làm lợi lạc của Phật cũng chẳng phải một. Tùy các sự ưa thích của hữu tình mà chư Phật thị hiện các loại thân và cõi nước. Ta trước kia chẳng hay biết, cho nên sinh ý tưởng cho là thấp kém, nay biết rồi thì sinh hổ thẹn sám hối. Kinh: Thưa vâng, bạch Thế Tôn!… thường nghó đến Như Lai. Tán: Đây là xin nghe pháp. Thấy vật mà nghó đến người, là việc thường tình ở thế tục, huống gì nghe diệu pháp mà chẳng nghó đến Như Lai ư? Kinh: Nói những lời này xong… nên siêng năng tu học. Tán: Phật nói rộng, có hai: Tổng. Biệt. Đây là phần tổng. Pháp giải thoát tức lý vô vi. Các pháp vô lậu xa lìa các phiền não nên gọi là giải thoát. Môn tức là giáo, giáo hay hiển thị nghóa, cho nên gọi là môn. Kinh: Thế nào gọi là hữu tận vô tận? Tán: Đây là phần biệt, gồm có ba: Giải thích hai nghóa khiến cho tận bất trụ. Nói rộng về hai nghóa bất tận bất trụ. Kết luận hai nghóa bất tận bất trụ, khuyên siêng năng tu học. Phần đầu lại có ba: Hỏi. Giải thích. Khuyên nên bất tận bất trụ. Đây là đoạn thứ nhất. Kinh: Nói hữu tận… pháp vô sinh diệt. Tán: Giải thích hai tướng. Tận có hai nghóa: Sát-na tận diệt. Sau cùng tận diệt. Hữu vi thì hữu tận, vô vi thì vô tận. Kinh: Bồ-tát chẳng nên… trụ nơi vô vi. Tán: Khuyên Bồ-tát chẳng tận hữu vi, chẳng trụ vô vi, khiến chẳng tận hữu vi tức là diệt tận hữu vi mà chẳng sinh khởi. Vì Bồ-tát thường tu hạnh hữu vi nên gọi là chẳng nên tận diệt hữu vi. Chẳng rốt ráo trụ ở Niết-bàn vô vi, thường ở nơi sinh tử giáo hóa chúng sinh. Đây là hiển thị chẳng trụ đạo Niết-bàn, hoặc lìa hai bên hiển nghóa trung đạo. Kinh: Vì sao Bồ-tát chẳng nên tận hữu vi? Tán: Phần nói rộng hai nghóa chẳng tận chẳng trụ, gồm có ba: Nói riêng về nghóa chẳng tận hữu vi. Nói riêng về nghóa chẳng trụ vô vi. So sánh để luận về hai nghóa. Trong phần một lại có ba: Hỏi. Đáp. Kết luận. Đây là câu hỏi. Kinh: Nghóa là các Bồ-tát… chẳng bỏ đại bi. Tán: Đây là lời đáp, gồm hai: Nói về ý chẳng tận. Nói về tướng chẳng tận. Đây là lời văn thứ nhất. Vì sao chẳng diệt tận hữu vi mà lại khởi tác dụng? Vì Bồ-tát chẳng bỏ từ bi, thường ở nơi sinh tử giáo hóa chúng sinh. Câu “chẳng bỏ Từ bi” chung cho các câu sau. Do chẳng bỏ hai việc trên, cho nên có các việc kể sau. Kinh: Từng sinh khởi… mà chẳng tạm quên. Tán: Nói về tướng chẳng tận, gồm năm mươi lăm câu, bản xưa chỉ có năm mươi câu. Đây là câu đầu. Đối với tâm được Nhất thiết trí thì tăng thượng ý lạc, giữ gìn chớ để quên sót. Các giai vị này chẳng nên phối hợp riêng, chỉ nên giải thích chung, hoặc các hạnh này đều là Thập địa, vì chẳng bỏ Từ bi, vì đều nói là đại. Tăng thượng ý lạc nói là từng sinh khởi. Nếu trước mười Địa thì ý tăng thượng ở ngay tại vị ấy mà chẳng nói là “từng”. Do đó nên biết chỉ là nói đến mười Địa. Kinh: Thành thục hữu tình… rốt cuộc không bao giờ chán. Tán: Đoạn này gồm bốn câu: Lợi sinh không mỏi mệt. Chẳng bỏ bốn nhiếp. Hộ trì chánh pháp. Đối với pháp thiện thì không bao giờ chán. Kinh: Thường an lạc… không sợ sệt. Tán: Đoạn này gồm năm câu: Các pháp thiện đã tu tập thì luôn hồi hướng. Cầu pháp không biếng trễ. Nói pháp không bao giờ rút lại, quyện tức là co, rút lại, cứ một bề ban phát, không tham tiếc. Chiêm ngưỡng cúng dường Phật. Chẳng sợ sinh tử. Tổng cộng trên là mười câu. Kinh: Tuy gặp hưng suy… chẳng đắm nhiễm. Tán: Đoạn này gồm năm câu: Tám gió thổi chẳng động; hưng suy chẳng vui thích sầu lo. Chẳng khinh người chưa học, vì biết đâu về sau sẽ hơn mình. Thương kính người đã học như Phật. Đối với tất cả hữu lậu phiền não tạp uế thì nên tư duy như lý, chẳng tùy theo nó mà tăng trưởng. Chẳng đắm nhiễm Niết-bàn. Kinh: Đối với việc mình ưa thích… phát sinh ý tưởng là bạn tốt Tán: Đoạn này gồm năm câu: Điều mình ưa thích thì chẳng đắm trước. Điều người ưa thích thì chẳng nên khinh ghét. Chẳng đắm nơi thiền định. Tuy dạo đi nơi ba cõi, năm đường, bốn sinh mà thường thực hành việc giáo hóa, như dạo chơi nơi thượng uyển, vô cùng vui thú, chẳng nhàm chán xa lìa. Thấy người cầu xin đến thì nghó đó là bạn tốt quý, thành tựu đại nghiệp Bồ-đề cho mình. Đến đây tổng cộng là hai mươi câu. Kinh: Xả bỏ các vật sở hữu… chẳng khiến rốt ráo. Tán: Đoạn này gồm năm câu: Thích thí xả không bỏn sẻn. Đối với trí thì luôn hồi hướng. Cứu hộ kẻ phạm giới. Chóng viên mãn các độ, trọng như cha mẹ. Ba mươi bảy phẩm, như sự giúp đỡ ở thế gian, hổ trợ cho ta thành tựu chánh đạo, chẳng phải như Nhị thừa, tu tập khiến đến rốt ráo. Kinh: Đối với các pháp thiện… không ngại, bố thí vô hạn Tán: Đoạn này gồm năm câu: Thường siêng năng tu thiện. Thích trang nghiêm cõi Phật. câu. Thích khen tặng cõi Phật. Chóng thành tựu cõi Phật. Bản xưa ba câu này hợp làm một Vì việc đầy đủ các tướng quý và vẻ đẹp nên tu hạnh vô ngại bố thí. Từ trên đến đây tổng cộng là ba mươi câu. Kinh: Là thân, ngữ, tâm… phiền não như phẩn hận. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Trì giới, nghiêm giữ ba nghiệp. Nhẫn chịu, giữ vững thân tâm. Bản cũ ghi là “ý”, mà có dũng. Kinh: Vì làm cho việc tu tập… dao gậy, Bát-nhã. Tán: Đoạn này gồm ba câu: Lưu chuyển sinh tử để tu tập viên mãn; bản dịch xưa ghi là “sinh tử vô số kiếp” thì văn lược nhưng ý vẫn đầy đủ, nên theo bản mới mà giải thích. Nhưng câu này là căn cứ theo câu trước, câu trước căn cứ theo câu sau. Nghe pháp tâm kiên cố. Tu tuệ đoạn phiền não; Bát-nhã như dao gậy, khống chế ngăn dứt các oán giặc phiền não. Sáu câu trên là nói về sáu độ. Kinh: Vì muốn gánh vác… cầu trí giáo hóa thiện xảo. Tán: Đoạn này gồm ba câu: Trí tuệ biết rõ ba khoa gánh vác cho hữu tình. Độ được hữu tình, biết chỉ có pháp mà thôi, cho nên gọi là gánh vác. Tinh tấn hàng phục các ma, ma tức bốn ma. Bốn ma này tức là quân ma, hoặc có mười quân ma, như ngài Long Thọ đã nói. Dục là quân ma thứ nhất của ông, ưu sầu là quân thứ hai; đói khát là quân thứ ba, khát ái là quân thứ tư, thùy miên là quân thứ năm, kinh sợ là quân thứ sáu, nghi hối là quân thứ bảy, sân nhuế là quân thứ tám, lợi dưỡng là quân thứ chín, tự cao khinh người là quân thứ mười. Các quân như thế làm chìm đắm người xuất gia. Ta dùng sức thiền trí phá các quân của ông để thành được Phật đạo, độ thoát tất cả người khác. Xa lìa ngã mạn, cầu trí hóa đạo khéo léo, vì hộ trì chánh pháp, chẳng tự cống cao, khéo cầu trí lợi tha; đối với chánh pháp của Phật có thể giữ gìn được. Bản dịch xưa ghi: thường cầu trí tuệ thật tướng vô niệm. Chánh trí vô lậu không có suy nghó gọi là vô niệm, chớ chẳng phải không có tâm niệm. Kinh: Vì các thế gian… tất cả thế giới. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Thường ham muốn ít chẳng mong cầu nhiều, biết đủ chẳng cầu, tu hành tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân, đó là vì muốn thế gian yêu mến tôn trọng thân mình, mà thọ nhận sự giáo hóa. Nếu mong cầu nhiều thì người thế gian chẳng kính trọng, chẳng thọ nhận giáo hóa. Tuy thuận thế gian mà chẳng nhiễm pháp thế gian. Từ trên đến đây là bốn mươi câu. Kinh: Đối với các oai nghi… chánh niệm tổng trì. Tán: Đoạn này gồm ba câu: Thị hiện tất cả các việc làm như sát… mà vẫn giữ gìn oai nghi. Phát thần thông khởi tuệ, lợi lạc hữu tình. Giữ gìn pháp đã được nghe mà khởi tuệ niệm. Kinh: Phát sinh các căn… thường không trệ ngại. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Phát sinh diệu trí biết rõ các căn hơn kém. Vì đoạn nghi hoặc nên ứng theo căn cơ mà thuyết. Chứng vô ngại biện, thuyết pháp không ngăn trệ. Kinh: Vì thọ nhận hỷ lạc thù thắng của trời người… bốn trí vô lượng. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Tu mười thiện, vì thọ nhận hỷ lạc. Tu bốn vô lượng, mở đường Phạm thiên. Người sinh vào Phạm thiên thì do tu tập bốn vô lượng; vô lượng chính là nhân lộ của Phạm thiên, khiến người tu vô lượng gọi là mở đường Phạm thiên, bất tất phải sinh vào cõi Phạm thiên. Kinh: Vì được chư Phật… tâm không nhiễm không dính mắc. Tán: Đoạn này gồm ba câu: Được âm thanh Phật, khuyên người thuyết pháp, tùy hỷ với điều thiện của người, khen rằng: Lành thay! Vì được oai nghi Phật là do tu tập ba nghiệp vắng lặng. Vì tu tập pháp thù thắng, nên đối pháp không bị nhiễm trước. Đến đây là năm mươi câu. Kinh: Vì khéo điều ngự… khuyên chúng sinh tu học. Tán: Đoạn này một câu, khuyên học Đại thừa, điều phục các Bồ- tát. Kinh: Vì chẳng mất… các đại nguyện. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Luôn chẳng buông lung, thì công đức chẳng mất. Thường tu diệu nguyện thì thiện căn tăng trưởng, vì do nguyện sách tấn. Kinh: Vì muốn trang nghiêm… phương tiện thiện xảo. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Tu thiện căn để trang nghiêm cõi Phật. Tu thiện xảo, chỗ tu tập vô tận đều hồi hướng đến trí Phật, cho nên pháp thiện chẳng cùng tận. Nếu chẳng thế, quả của sự tu tập sẽ cùng tận. Năm câu cuối đã xong. Bản dịch xưa, trước câu nói về cõi Phật thiếu hai câu và thiếu ba câu này cho nên chỉ có năm mươi câu. Kinh: Này các thiện nam!… chẳng tận hữu vi. Tán: Thứ ba, kết luận. Kinh: Thế nào là Bồ-tát chẳng trụ vô vi? Tán: Đây là đoạn thứ hai giải thích chẳng trụ vô vi, có ba phần: Hỏi. Đáp. Kết luận. Đây là lời hỏi. Kinh: Nghóa là các Bồ-tát… chẳng thích chứng ngộ. Tán: Đây là lời đáp, gồm hai mươi mốt câu. Bản xưa chỉ có mười chín câu, cũng chung cho việc tu tập, chẳng cần phải phối hợp riêng phàm Thánh, giai vị cao thấp. Đoạn này gồm ba câu: Hành tức là duyên theo giác, chứng tức thầm hội. Tuy thực hành ba pháp này, nhưng trí chưa tốt ráo, chỉ thầm hội ba, chẳng đồng Nhị thừa trụ trong ba pháp này. Ba cảnh ở đây đều chỉ giữ lấy vô vi, chẳng phải là rốt ráo chứng vô vi nên gọi là chẳng trụ. Kinh: Tuy hành vô tác… cho nên ý thọ sinh. Tán: Đoạn này gồm ba câu. Tác nghóa là tạo tác, tức do nhân duyên hòa hợp mà tạo tác, thể của nó là hữu vi. Tuy hành pháp vô vi vô tác mà chẳng thích chứng ngộ; tuy quán hữu vi nhưng cuối cùng lại diệt tận vô thường. Đối với pháp thiện chẳng nhàm chán, quán lý khổ, cho nên được tùy ý thọ sinh làm lợi lạc tất cả. Lý vô thường, khổ, không, vô ngã của Đại thừa thì đã giải thích ở phẩm Thanh Văn. Kinh: Tuy thích quán xét… nhàm chán thân tâm. Tán: Đoạn này gồm bốn câu: Quán tự thân vô ngã, chẳng nhàm chán thân, chẳng vào Niết-bàn, quán người chẳng phải là hữu tình, nên giáo hóa người không mỏi mệt. Tuy quán Niết-bàn mà chẳng vónh viễn tịch diệt, vì còn hóa độ hữu tình. Tuy quán chân như xa lìa thân khổ hoạn mà được an lạc; chẳng chán nhàm thân tâm vì nguyện cùng tận sinh tử, độ các hữu tình. Kinh: Tuy thích quán sát… việc lợi ích chúng sinh. Tán: Đoạn này gồm hai câu; A-lại-da tuy đầy đủ ba tàng, nay lấy nghóa năng chấp tàng. Không có A-lại-da thì không có nghóa năng chấp tàng, tuy không có thể năng chấp tàng thì cũng vẫn có pháp năng tàng tức pháp trong trắng cất giữ giáo Đại thừa. Trong mười đức của kinh thì đức thứ tám là thanh tịnh, thứ chín là trắng trong. Thanh tịnh, vì tự tánh giải thoát; pháp được thuyết ra, trong một sát-na cũng không có lỗi lầm, lìa các gốc của ba độc, lìa các sự trói buộc cho nên tánh giải thoát chẳng phải có ba độc mà khởi thuyết pháp. Trắng trong vì tương tục giải thoát, chẳng phải chỉ một niệm không có lỗi, mà tương tục thuyết pháp cũng không có lỗi. Vả lại pháp thể thanh tịnh nói ở trước xa lìa các lỗi, trong đó tánh trắng trong có thể làm cho thân của hành giả trắng trong. Tuy quán sinh tử vónh viễn tận, không có thể năng chấp tàng, mà chẳng bỏ pháp thanh tịnh trong trắng, giáo hóa chúng sinh. Tuy quán lý vô sinh mà thường gánh vác việc lợi ích chúng sinh. Kinh: Tuy quán vô lậu… chẳng bỏ đại bi. Tán: Đoạn này gồm ba câu. Tuy quán vô lậu vô vi, mà lại thuận hữu lậu lưu chuyển. Hành nghóa là vận động tạo tác. Không hành tức vô vi. Tuy quán không hành mà thường thực hành lợi lạc. Tuy quán lý trong ngoài vô ngã mà chẳng xả bỏ đại bi, nhổ gốc khổ cho hữu tình. Kinh: Tuy quán vô sinh… tu tập trí tuệ. Tán: Đoạn này gồm ba câu. Tuy nhân đồng Nhị thừa quán lý vô sinh, nhưng chẳng rơi vào chánh vị của Nhị thừa; tuy quán không tịch mà chẳng không tịch, tu tập phước đức, tuy quán xa lìa mà chẳng lìa trí tuệ. Kinh: Tuy quán các pháp … an lập hạt giống Phật Tán: Đoạn này gồm ba câu: Tuy quán lý hữu vi không thật mà chân như pháp tánh thường an trụ; tư duy viên mãn không thiếu sót. Tuy quán các pháp là chân như, không có chủ tể mà thường cầu tự nhiên trí, siêng năng không giải đãi. Có dấu hiệu tức các pháp hữu vi, như vua lấy cờ xí làm dấu hiệu. Vả lại các pháp hữu vi có năng tướng và sở tướng, dùng bốn tướng năng tướng làm năng tiêu xí (dấu hiệu) lấy tất cả các pháp hữu vi sở tướng làm sở tiêu xí (dấu hiệu). Vô vi thì không có các việc này nên gọi là vô tiêu xí (không có dấu hiệu). Tuy quán vô vi này, nhưng trong giáo liễu nghóa thường vẫn nghe biết chánh pháp, an lập hạt giống Phật. Các từ quán được nói ở các câu trên đều là quán vô vi. Nói “mà” tức là nói đều chẳng trụ. Kinh: Các thiện nam… chẳng trụ vô vi. Tán: Phần thứ ba là kết luận. Kinh: Lại, này các thiện nam… chẳng tận hữu vi. Tán: Đoạn thứ ba, so sánh hai việc để luận hai loại, gồm mười sáu đôi. Bản dịch xưa chỉ có mười bốn đôi. Đoạn này có hai đôi. Tu tập phước đức hữu vi thì thọ nhận quả sinh tử thiện; chẳng trụ vô vi thì tu trí tư lương cứu khổ cho chúng sinh, cầu đại Bồ-đề, cho nên chẳng tận hữu vi. Nếu trụ vô vi, tận diệt hữu vi thì liền thành Nhị thừa, vónh viễn nhập diệt, chỉ có tư lợi mà chẳng có lợi tha. Đây là ý của văn sau, tất cả nên biết. Nếu chẳng trụ vô vi chẳng tận hữu vi thì chẳng đồng Nhị thừa vónh viễn nhập diệt, thành tựu hai lợi ích; ban vui đầy đủ không thiếu thì chẳng trụ vô vi; đại bi lợi ích hữu tình thì chẳng tận hữu vi. Kinh: Lợi ích an lạc… chẳng tận hữu vi. Tán: Đoạn này gồm hai đôi. Lợi sinh chẳng bỏ nên chẳng trụ vô vi, Phật pháp viên thành nên chẳng tận hữu vi. Thành tựu viên mãn thân Phật nên chẳng trụ vô vi, được vô úy… nên chẳng tận hữu vi. Kinh: Phương tiện thiện xảo… chẳng tận hữu vi. Tán: Đoạn này gồm hai đôi. Khéo léo hóa độ chúng sinh nên chẳng trụ vô vi, diệu trí thường phán xét nên chẳng tận hữu vi; tu tập các cõi Phật báo hóa viên mãn nên chẳng trụ vô vi; báo thân Phật thường trụ vô tận nên chẳng tận hữu vi. Kinh: Thường làm lợi ích… chẳng tận hữu vi. Tán: Đoạn này gồm hai đôi. Thường lợi ích hữu tình, nên chẳng trụ vô vi, lãnh thọ các pháp, không phế bỏ nên chẳng tận hữu vi. Thiện căn vô tận nên chẳng trụ vô vi; thiện căn chẳng hoại nên chẳng tận hữu Do sức thiện căn giữ gìn công đức của thân khiến tất cả đều chẳng đoạn dứt nên chẳng tận hữu vi. Kinh: Vì muốn thành tựu viên mãn… chẳng tận hữu vi. Tán: Đoạn này gồm hai đôi. Vì thành tựu nguyện lợi sinh nên chẳng trụ vô vi; chẳng cần vónh viễn vào rốt ráo diệt nên chẳng tận hữu vi; ý lạc viên mãn; khéo léo thanh tịnh, tinh tấn hành lợi tha, nên chẳng trụ vô vi, tăng thượng ý lạc, khéo léo thanh tịnh, tự lợi không cùng tận, cho nên chẳng tận hữu vi. Kinh: Thường du hý… chẳng tận hữu vi. Tán: Đoạn này gồm hai đôi. Dùng năm thông lợi ích hữu tình nên chẳng trụ vô vi; khéo viên mãn, trí Phật, khéo viên mãn sáu thông, rốt ráo vô tận, nên chẳng tận hữu vi. Các độ tư lợi đã đầy đủ nên chẳng trụ vô vi; tư duy về lợi tha chưa đầy đủ cho nên chẳng tận hữu vi. Kinh: Gom tập pháp báo tài bảo… chẳng tận hữu vi. Tán: Đoạn này gồm hai đôi. Đối với pháp và tài bảo không nhàm chán, nên chẳng trụ vô vi, chẳng thích pháp nhỏ của Nhị thừa, chỉ thích pháp rộng lớn của Đại thừa nên chẳng tận hữu vi. Thệ nguyện không lui sụt, luôn độ hữu tình nên chẳng trụ vô vi; thệ nguyện đã viên mãn vì không bao giờ dừng nghỉ, nên chẳng tận hữu vi. Kinh: Tích tập tất cả… chẳng tận hữu vi. Tán: Đoạn này gồm hai đôi. Gom tập diệu pháp lạc chẳng dừng nghỉ, nên chẳng trụ vô vi; tùy bệnh cho thuốc chẳng bao giờ ngừng dứt, nên chẳng tận hữu vi. Rõ biết bệnh của chúng sinh vì hay theo ngoại cảnh, cho nên chẳng trụ vô vi; hay vónh viễn dứt trừ các bệnh không dừng nghỉ, nên chẳng tận hữu vi. Kinh: Này các thiện nam… siêng năng tu học. Tán: Kết luận thành tựu nghóa chẳng tận chẳng trụ. Kinh: Bấy giờ, tất cả… thân tâm vui mừng. Tán: Đoạn thứ ba, hoan hỷ cúng dường, khen ngợi cao đức mà trở về; gồm ba phần: Nghe pháp vui mừng. Rải hoa hương cúng dường. Khen ngợi kính lễ trở về. Đây là văn thứ nhất. Nghe pháp khai mở được điều chưa từng ngộ, khuyến lệ khiến cho tâm các Bồ-tát khai ngộ, cho nên vô cùng hoan hỷ, thân tâm sung sướng. Kinh: Dùng vô lượng các hoa… ngập đến đầu gối. Tán: Dùng hoa hương cúng dường, có hai: Cúng dường ba vị. Rải hoa đầy khắp thế giới, như văn kinh đã ghi có thể tự biết. Nơi có pháp như chùa tháp Phật theo lý nên cúng dường, huống hồ biểu thị cõi Phật chỉ là tịnh, cũng biểu thị hữu tình diệt ác phiền não, cho nên che phủ mặt đất, đủ để tu hành lợi ích pháp tánh bình đẳng, cho nên nói hoa ngập đến gối. Kinh: Bấy giờ, các Bồ-tát… liền đến nước kia. Tán: Đây là khen ngợi lễ bái mà trở về. Thân nghiệp quy kính cho nên đảnh lễ, ngữ nghiệp quy kính nên tán thán. Lợi ích đã đầy đủ cho nên phải trở về cõi nước. <篇> THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH TÁN <卷>QUYỂN 6 (Phần 2) <詞>PHẨM 12: QUÁN NHƯ LAI Mười một phẩm chính thức nói về phần bản tông, được phân làm ba: Chín phẩm đầu nói về cảnh Bồ-tát, một phẩm kế nói về hạnh Bồ- tát và phẩm này nói về quả Bồ-tát. Có tu hành ắt đương lai sẽ thành quả lớn. Danh từ Như Lai thì như trước đã giải thích. Quán tức quán xét, trí kiến chiếu soi, gọi là quán. Sợ người tu hành chấp có thật Như Lai, chẳng biết chánh quán ba thân sai biệt, nên nay dạy chánh quán, cầu chứng làm Phật. Nhân nơi ý của ngài Vô Cấu mà trình bày diện thể Như Lai. Phẩm này nói rộng về việc trên, cho nên gọi là phẩm Quán Như Lai. Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn… quán Như Lai ư? Tán: Thân Phật có hai là thân thật và thân quyền, do hai thân này mà phẩm được phân làm hai đoạn: Như Lai hỏi để nói về quán pháp thân Như Lai, hoặc gồm cả thân thọ dụng; tức từ câu chứng hội Nhất thiết trí trí… là nói về thân tự thọ dụng và thật thân. Thu Tử hỏi, nhân thấy Phật Vô Động, nói về quán thân tha thọ dụng, gồm hiển bày việc Đức Thích-ca trụ ở cõi tạp uế là Phật hóa thân đều là thân quyền hiện. Đoạn dưới Thu Tử khen ngợi Vô Cấu Xưng rằng: “Có thể xả bỏ cõi Phật thanh tịnh kia mà thích đến cõi có nhiều tạp uế này.” Cho nên biết Phật Vô Động là thân tha thọ dụng, Phật Thích-ca là hóa thân. Thân của chư Phật chẳng ngoài hai thân quyền thật, ở đây nói quán Như Lai thì cả hai đều đầy đủ, nhưng lấy Thích-ca làm quyền hóa, tùy sự mà quán xét hai thân pháp báo, lý sâu kín khó hiểu, nhờ vào đây để nêu câu hỏi làm rõ pháp quán Như Lai, chẳng phải chỉ quán hóa thân của Đức Thích-ca. Luận Phật Địa ghi: “Thân Phật có hai là Pháp thân và sinh thân. Chân như pháp thân và tự thọ dụng thân đều gọi là pháp thân vì do pháp công đức chân thật tích tập thành. Phật tha thọ dụng và Phật hóa thân đều gọi là sinh thân, vì chẳng phải do thật đức tạo thành”. Do đó phân khoa văn này căn cứ theo đó mà chia làm hai. Văn đầu tiên lại có hai: Hỏi. Đáp. Đây là lời hỏi nêu lên ý trước kia là quán Như Lai: “Ông nên quán Như Lai như thế nào? Là quán tướng quyền hay quán thật.” Kinh: Vô Cấu Xưng nói… nên quán như thế. Tán: Đây là lời đáp, gồm có ba: Nêu chung. Giải thích riêng. Kết luận. Đây là văn thứ nhất. Không Lý Nghóa ghi: “Thân Thích-ca là thân thế tục quyền hiện, có tướng mạo để thấy; thể của Phật chân thật tức các pháp tánh không, không hình không tướng, chẳng thể thấy được. Nay quán chân Phật cho nên nói là: “Con quán đều chẳng thấy”. Kinh Bát-nhã ghi: “Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu được ta, người ấy đi vào trong tà đạo, chẳng thể thấy ta được, cho nên quán Như Lai đều chẳng thể thấy. Ứng Lý Nghóa ghi: “Chân lý pháp thân, không hình không tướng, thân tự thọ dụng tuy là năm uẩn, nhưng vi tế thù thắng, Bồ-tát Địa thứ mười còn chẳng thể biết, huống gì là hàng giai vị thấp. Thể đầy khắp cả pháp giới, chẳng thể dùng sắc tướng mà có thể nắm bắt, cũng chẳng thể thấy được cho nên ở đây trả lời chung: “Nên quán như thế.” Bản dịch xưa ghi: “Như tự quán thật tướng của thân, quán Phật cũng thế.” Thật tướng tức chân như, hơi khác với bản dịch mới; chỉ được giải thích pháp thân mà thôi. Kinh: Vì sao?… hiện tại chẳng trụ. Tán: Sau đây là giải thích riêng. Không Lý Nghóa ghi: “Sau đây nói quán chân thân, có hai: Giải thích sơ lược. Giải thích rộng. Đây là phần một, thân y cứ theo thế tục mà hóa hiện, từ mé trước ở quá khứ tu tập cho đến mé sau ở vị lai hóa đạo và hiện tại xuất thế giáo hóa chúng sinh, đều có thể thấy được. Chân đế thì vô hình, tánh vốn không, không có ba thời đến đi và hiện trụ, thì làm sao có thể thấy được? Cho nên quán Như Lai đều không thể thấy. Bát-nhã ghi: “Diệu thể của Đức Như Lai kia tức là pháp thân của đấng đạo sư, thể ấy chẳng thể thấy, thức ấy chẳng thể biết. Ứng Lý Nghóa ghi: “Văn sau giải thích có hai: Từ câu “đến vắng lặng giải thoát…” là nói về pháp thân. Từ câu “chứng hội…” là nói về quán tự thọ dụng thân. Trong phần đầu có hai: Sơ lược. Giải thích rộng. Vì sao quán pháp thân đều không thấy, vì chẳng phải ba thời, nếu thuộc ba thời thì có thể thấy. Kinh: Vì sao?… tánh ấy chẳng thể biết. Tán: Không Lý Nghóa ghi: “Sau đây giải thích về quán chân thân, vónh viễn xa lìa các tướng thế tục, tuy có nhiều văn từ khác, nhưng ý nghóa đều hiển bày chân thân lìa các tướng, lìa các uẩn, tánh không”. Nhưng chẳng phải một bề như thế, cho nên quán ngoài các uẩn, chân tánh chẳng phải thức. Ứng Lý Nghóa ghi: Sau đây là giải thích pháp thân, gồm có sáu: Lìa tướng năm uẩn. Khác thân trong ba cõi. Thuận đạo xuất thế. Trừ pháp và phi pháp. Đồng chân vượt tục. Lìa trói buộc và giải thoát. Đây là văn thứ nhất. Năm uẩn chân như là pháp thân Phật, nên quán năm uẩn như phi năm uẩn, cho nên kinh Bát-nhã ghi: “Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy hành tà đạo, chẳng thể thấy được ta”. Diệu thể của Như Lai tức pháp thân Phật, thể ấy chẳng thể thấy, thức ấy chẳng thể biết. Nhưng kinh Niết-bàn… ghi: “Xả bỏ sắc vô thường mà đạt được sắc thường, thọ tưởng hành thức cũng như thế”, đó là nói là Phật báo thân, cho nên không trái nghịch. Bản xưa ghi: “Chẳng quán sắc, chẳng quán sắc như, chẳng quán sắc tánh”, theo Không Lý Nghóa ghi: “Sắc tức có tướng, như tức không tướng, tánh tức nhân duyên. Sắc thuộc nhân duyên thì đều không có tự tánh”. Ứng Lý Nghóa giải thích: “Sắc là y tha, như là viên thành, tánh là sở chấp. Cả ba nương vào lời nói mà diễn bày, pháp thân thì xa lìa điều đó, cho nên chẳng thấy”. Tuy giải thích như thế nhưng trái với bản mới, mà nghóa có thể giống nhau. Kinh: Chẳng trụ bốn giới… xa lìa ba cấu. Tán: Thứ hai, khác với thân ba cõi, gồm có sáu: Chẳng trụ bốn giới đất, nước, lửa, gió, vì chẳng do bốn giới này tạo thành. Đồng với hư không giới, vì không ngăn ngại, chỉ dụ như hư không mà thôi. Chẳng phải sáu xứ bên trong, vì tánh phát khởi tự thường hằng, bản xưa ghi: “Sáu nhập không tích tập, vì chẳng phải tích tập sáu trần làm tự tánh. Siêu việt sáu căn thế gian, vì do chánh trí chứng ngộ. Chẳng phải ba cõi xen tạp vì thuần là vô lậu. Xa lìa ba cấu vì lìa tham, sân, si có cấu là tự thể. Kinh: Thuận ba giải thoát… không có bờ mé chướng ngại. Tán: Thứ ba là thuận đạo xuất thế. Có ba: Thuận ba giải thoát, thể của ba giải thoát là Không Vô tướng, Vô nguyện; pháp thân là cảnh diệu trí thuận chánh trí năng quán. Tùy sáng tỏ, ba trí: túc mạng, thiên nhãn và lậu tận, vì đoạn trừ ngu của ba thời, chiếu soi ba thời, cho nên gọi là minh, chí tức là đến, đến ba minh tức là pháp thân Bồ-đề trí Phật, tùy thuận ba minh hay đến (năng đáo). Thể của chân như này chẳng phải là tuệ minh vô lậu, mà gọi là minh, mà là chân tánh của tuệ nên giải thích là minh. Chẳng phải hay đến mà gọi là đến mà vì thể là tánh của hay đến và được đến (năng đáo sở đáo) nên giải thích là đến. Đến bờ mé không chướng ngại của tất cả pháp, đây là tánh chân như đến tất cả pháp, hoặc phẩm trí chướng, không chướng không ngại cùng tận bờ mé. Kinh: Thật tế chẳng phải bờ mé… tánh đều lìa. Tán: Thứ tư, lìa pháp và phi pháp, có bốn mươi bảy câu, bản xưa chỉ có hai mươi chín câu. Đoạn này có ba câu, trong đó đều một bề ngăn chấp trước. Nhưng có lời nói có phân biệt thì chẳng phải là bản tánh của pháp thân, vì lời nói phân biệt chẳng xứng hợp với lý. Nay vì ngăn dứt điều này cho nên nói là phi (chẳng phải). Vả lại câu đầu, tuy nói thực tế nhưng chẳng phải là bờ mé của danh ngôn và phân biệt, chân như cũng thế, chẳng phải nhất định là chân như, cả hai đều vô sở trụ, cũng chẳng phải là trí năng duyên, cho nên chẳng phải tương ưng. Vì thời bình đẳng, chỗ y bình đẳng, xứ bình đẳng, sự bình đẳng cho nên gọi là tương ưng, và cũng đều lìa cảnh chân như và trí. Kinh: Chẳng phải do nhân sinh… chẳng phải dị tướng. Tán: Đoạn này có sáu câu: Chẳng phải do nhân duyên khởi. Chẳng phải tướng hữu vô. Chẳng phải tướng tự tha. Chẳng phải tướng nhất dị. Chẳng phải tướng sở. Chẳng phải tướng năng nhân gần là chỉ cho nhân duyên, duyên xa là ba duyên còn lại. Tướng sở tức chỗ biểu hiện, tướng năng tức hay biểu hiện, cả hai đều có tức lìa đồng dị, tất cả đều chẳng phải. Bản xưa ghi: Chẳng phải một với tướng không, chẳng phải khác với tướng hữu, chẳng phải tự tướng, chẳng phải tha tướng, cộng tướng, chẳng phải không có tướng, ngăn trừ tướng, chẳng phải chấp thủ tướng. Kinh: Chẳng phải bờ này… chẳng phải trụ chẳng phải khứ. Tán: Đoạn này gồm chín câu: Ba câu khứ, hiện tại và vị lai hợp thành một câu. Bờ này là sinh tử, bờ kia là Niết-bàn, giữa dòng là phiền não, chẳng phải “đều”, tức chẳng phải cũng trong ngoài. Chẳng phải “chẳng đều” tức chẳng phải chẳng phải trong, chẳng phải chẳng phải ngoài. Bản xưa ghi: “Nhưng vì hóa độ chúng sinh mà quán nên tịch diệt; mà chẳng phải vónh viễn tịch diệt; chẳng phải là pháp thân mà hay hóa độ, chẳng phải là thể của đây kia. Chẳng dùng đây kia tức là chẳng lấy đây kia để hiển bày, trí thế gian chẳng thể biết, tâm thức chẳng thể phân biệt. Kinh: Không danh không tướng… không có nghóa lý gì. Tán: Đoạn này gồm bảy câu. Danh tức năng thuyên, tướng tức sở thuyên, chẳng trụ trong thân sắc uẩn có phần lượng cũng chẳng lìa thân này, không có một thể để chỉ bày, không có một nghóa lý gì để nói cho người. Kinh: Không bố thí, không bỏn sẻn… chẳng trí tuệ, không ngu si Tán: Đoạn này gồm sáu câu. Sáu độ đối đãi với sáu tệ (sáu điều xấu ác). Kinh: Chẳng thật (đế) chẳng dối… chẳng phải sở thủ. Tán: Đoạn này gồm tám câu. Đế tức thật, vọng tức hư dối. Tất cả lời nói việc làm đều dứt bặt. Kinh: Chẳng phải tướng… bình đẳng, bình đẳng. Tán: Đoạn này gồm sáu câu. Chẳng phải có tướng trạng, chẳng phải không tướng trạng, chẳng phải làm chẳng phải chẳng làm. Thể không tính toán được, xa lìa các sự tính toán; thể không bị chướng ngại, trước sau tương tựa bình đẳng, trước như sau đều bình đẳng, sau như trước đều bình đẳng. Kinh: Đồng với mé chân thật… chẳng biết chẳng hay. Tán: Thứ năm, là nói đồng chân vượt tục. Hai câu đầu là nói đồng với chân, bảy câu sau nói về siêu tục. Mé chân (chân tế) tức trí vô phân biệt, không có chỗ duyên để đến; pháp thân đồng với trí này. Pháp giới tức công đức pháp tánh, vì các nghóa như pháp thân… đồng với Thể. Hai câu này là nói đồng với chân. Năng xưng tức là năng thuyết, sở xưng tức sở thuyết, chư xưng tánh tức là tánh năng thuyết sở thuyết, lượng nghóa là trù lượng; ba nghóa cũng như thế. Kinh: Xa lìa sự trói buộc, vắng lặng giải thoát. Tán: Thứ sáu là xa lìa trói buộc và giải thoát. Chẳng bị vật câu thúc gọi là pháp thân. Kinh: Chứng hội Nhất thiết trí trí… cùng khắp tất cả. Tán: Đây trở xuống là quán tự thọ dụng thân, tổng cộng có mười bảy câu. Bốn câu đầu nói về thể báo thân, mười ba câu sau nói lìa chấp trước pháp. Đây là bốn câu đầu. Chánh trí năng duyên hay chứng hội trí này mà thành Nhất thiết trí và Nhất thiết chủng trí, tâm cảnh thầm hợp, lý và thần hội, cho nên nói bình đẳng, đạt được bản tánh không hai của loài hữu tình, vì bản tánh chân như vốn không sai biệt. Hoặc bi trí này bình đẳng duyên với hữu tình không hai; đi tức là đến, đến tất cả tánh sai biệt của tất cả hữu tình, đây là thân Bồ-đề tự thọ dụng của chánh trí Phật, cùng khắp tất cả, đồng với chân như. Bản xưa ghi: “Đồng với các trí”, được Nhất thiết trí trí thì chư Phật đều đồng. Đồng với chúng sinh tức quán các chúng sinh không hai vì đồng chân tánh. Kinh: Chẳng tội chẳng khiên… chẳng khởi chẳng tận. Tán: Từ đây xuống là mười ba câu lìa các chấp. Đoạn này gồm bảy câu. Tội tức là quả khổ đáng nhàm chán; khiên tức là nghiệp, hoặc tội nặng, trược tức ba nghiệp y cứ vào kiến giải điên đảo của ngoại đạo mà sinh; thuộc về bất tín vẩn đục mà Thánh giáo đối trị; uế nghóa là ba nghiệp ô nhiễm tương tục, nương vào đó mà phát sinh các nghiệp chướng như thế; vả lại thuộc về tổn giảm kiến, làm tăng sự ô uế của pháp nghóa thanh tịnh gọi là uế. Tát-ca-da kiến chướng ngại nghóa chân vô ngã gọi là trược, tất cả đều vô ngại, cũng không chấp trước, xa lìa ba phân biệt và bảy phân biệt; tám phân biệt… không có vật được tạo tác, không có vật được sinh khởi, dứt trừ các tạo tác và sinh tự nhiên… cũng dứt trừ tạo tác và sinh của các pháp có thật, cũng không thật giả và thật có khởi và tận. Hoặc không có cõi sinh khởi, cũng không có các cõi diệt tận. Kinh: Chẳng đã chẳng sẽ… chớ chẳng thể nói năng. Tán: Đoạn này gồm sáu câu. Không thật có quá khứ vị lai, cho nên không có đã và sẽ, không có năm sự sợ sệt, không có lậu nhiễm; tám gió chẳng làm lay động, cho nên không vui buồn; đã đến rốt ráo cho nên không còn thích hay chán; hai, ba, bảy đều bình đẳng, phân biệt chẳng thể duyên, vì chỉ có trí hay chứng ngộ; lời nói chẳng thể bàn vì chẳng phải lời nói có thể chứng ngộ; tánh là y tha mà cũng lìa các sự chấp trước. Kinh: Thế Tôn Như Lai… gọi là tà quán. Tán: Đây là kết luận nêu chánh quán. Đây là nói quán hai chân thân là pháp và báo thân, gọi là chánh quán. Quyền là chân và tà quán. Kinh: Bấy giờ, Xá-lợi-phất… thế giới kham nhẫn. Tán: Đoạn thứ hai, Thu Tử hỏi. Nhân thấy Phật Vô Động, tu quán thân tha thọ dụng và gồm hiển Đức Thích-ca trụ ở uế độ là Phật hóa thân; trong thân đều quyền, có bốn phần: Thu Tử hỏi. Như Lai đáp. Vui mừng khi thấy cõi Diệu Hỷ. Thu Tử tán dương. Đây là lời hỏi. Không chỉ Thu Tử chưa biết nguyên do, mà còn nhờ vào câu hỏi này để nêu lên báo độ tha thọ dụng. Thiên nữ đã nói bản trụ nên hỏi chỗ đến mà chẳng hỏi từ đâu đến. Tịnh danh đã vì chúng sinh nên hỏi từ đâu đến mà chẳng hỏi chỗ đi. Kinh: Thế Tôn dạy rằng: “Ông nên hỏi ông ấy”. Tán: Từ đây là phần Như Lai trả lời. Có ba: Suy ra mà trả lời để hiển lý. Tự trả lời để hiển sự. Bản xưa ghi: “Hỏi Duy-ma-cật”, chẳng có lời văn hỏi Phật, sau đó Phật tự trình bày, vả lại không có lời hỏi về nơi chốn, thế thì rất trái nghịch. Trong phần đầu lại có hai: Suy hỏi. Hỏi Vô Cấu. Đây là phần đầu. Thu Tử hỏi về sự tích từ đâu đến đây, cho nên Đức Phật cũng trình bày sự tích để trả lời. Nhân lời hỏi hôm nay mà ngộ được lý sâu xa, cho nên suy hỏi. Kinh: Bấy giờ, Xá-lợi Tử… sinh đến cõi này. Tán: Phần hỏi Vô Cấu có tám: Chánh thức hỏi. Phản vấn. Chánh thức đáp. Trách vấn. Chánh đáp. Dẫn hỏi. Ấn khả. Chánh thức trình bày. Đây là phần đầu. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… từ chết sinh sao? Tán: Đây là phần phản vấn. Khổ nên biết khắp, diệt nên chứng ngộ. Nêu lên sự sai khác giữa hữu lậu và vô lậu khi chính thức chứng lý, mà làm câu hỏi. Kinh: Xá-lợi Tử nói rằng… có thể chết rồi sinh. Tán: Thứ ba chánh thức trả lời. Chứng ngộ nhập lý, thì không có việc chết sinh. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… sinh đến nước này. Tán: Thứ tư, trách vấn, có hai: Trách câu hỏi trước. Lại nêu lên lời trách. Đây là văn đầu. Kinh: Lại Xá-lợi Tử… mà sinh đến đây. Tán: Lại nêu lên lời trách. Trên là dùng lý để biện lý, không có chết rồi sinh, đây là dùng sự để luận nạn về sự, không có chết rồi sinh. Kinh: Xá-lợi Tử nói… có chết sinh. Tán: Thứ năm là chánh thức trả lời. Huyễn hóa đã chẳng phải chân, cho nên không có sinh rồi chết. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… như huyễn hóa chăng? Tán: Thứ sáu dẫn hỏi, dẫn giáo làm câu hỏi, để nêu lên nghóa chung. Kinh: Xá-lợi Tử nói: “Như thế! như thế!”. Tán: Thứ bảy, ấn khả. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… sinh đến nước này. Tán: Thứ tám, chánh thức trình bày. Trước dùng lý bình đẳng đã không có chết sinh, nay thì sự bằng nhau thì đâu cần phải hỏi. Phần này có hai: Nói thẳng. Hiển bày. Đây là nói thẳng. Kinh: Lại Xá-lợi Tử… các hành tương tục Tán: Đây là phần hiển thị, có hai: Giải thích riêng về tướng chết rồi sinh. Giải thích. Nay nói chết tức là tướng đoạn diệt của các hành hữu vi. Sinh tức là tướng tương tục của các hành hữu vi, thể của hai tướng này chẳng phải thường hay đoạn, mà tựa có hai tướng này, nên gọi là chết rồi sinh. tục. Kinh: Bồ-tát tuy chết… các hành tướng của pháp ác không tương Tán: Đây là phần chánh giải thích. Tuy thị hiện có chết, nhưng chẳng đoạn hạnh lành, mà không có tướng đoạn; tuy thị hiện có sinh, mà chẳng tương tục hạnh ác, mà chẳng có tướng thường. Ở đây tuy có chết sinh, nhưng không có tướng đoạn thường. Kinh: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn… sinh đến cõi này. Tán: Trả lời để hiển rõ sự, có ba phần: Phật chỉ dạy. Thu Tử tán dương. Vô Cấu vấn đáp. Đây là đoạn thứ nhất. Thế giới phương Đông tên là Diệu Hỷ, có các loại trang nghiêm, người thấy sinh ưa thích, có Đức Phật hiệu là A- súc, Hán dịch là Vô Động, thế giới này tám gió thổi chẳng động, bốn ma chẳng thể xâm hủy, thường an lạc chẳng biến dịch cho nên gọi là Vô động, vì độ chúng sinh nên ông ấy từ cõi kia sinh sang đây. Kinh: Xá-lợi Tử nói… cõi có nhiều tạp uế. Tán: Thu Tử tán dương kia là tha báo độ cho nên nói thanh tịnh, đây là biến hóa độ cho nên nói tạp uế. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… cùng với tướng tối xen lẫn không? Tán: Vô Cấu Xưng hỏi đáp, có năm. Đây là đoạn Vô Cấu Xưng hỏi. Kinh: Xá-lợi Tử nói… bóng tối đều diệt. Tán: Thu Tử trả lời. Sáng sinh thì tối diệt, cho nên chẳng xen lẫn. Ýù nói Bồ-tát chẳng thích đồng trụ với ác chúng sinh. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… lưu chuyển ở Nam Thiệm-bộ châu. Tán: Thứ ba, Vô Cấu hỏi. Vì để giải thích điều nghi rằng: “Nếu chẳng thích xen lẫn thì vì sao Bồ-tát sinh vào cõi này?” cho nên mới nêu câu hỏi trên. Kinh: Xá-lợi Tử nói… chiếu sáng. Tán: Thứ tư, Thu Tử trả lời. Kinh: Vô Cấu Xưng nói… bóng tối phiền não. Tán: Thứ năm, Vô Cấu xưng giải thích. Văn hiển rõ ý nghóa, cho nên chẳng giải thích thêm. Kinh: Bấy giờ, đại chúng… các chúng như Thanh văn… Tán: Đoạn thứ ba, vui thích thấy cõi Diệu Hỷ, có bảy phần: Đại chúng đều mong cầu được thấy. Đức Phật bảo hiện. Vô Cấu suy nghó. Chính thức khởi thần lực. Thế Tôn hỏi để khuyến khích. Trời người được lợi ích. Việc xong trở về. - Đây là phần đầu gồm có ba: Mong được thấy cõi nước. Mong được thấy Đấng Pháp Vương. Mong được thấy chúng hội, như văn đã ghi có thể biết được. Kinh: Đức Phật biết chúng hội… khiến sở nguyện viên mãn. Tán: Thứ hai, Đức Phật bảo hiện. Vì sao Như Lai chẳng hiện để khiến được thấy mà bảo cho Vô Cấu Xưng hiện? Vì muốn hiển việc cư só trợ giúp Phật giáo hóa còn hiện thần thông, hà huống gì Như Lai? Vả lại bản độ kia còn khiến cho tự hiện, đâu nhờ đến Phật? Lại đâu có phân biệt tự tha, muốn hiện liền được. Hơn nữa muốn hiển thị Bồ-tát đều sinh tịnh độ, ắt phải có thân tha thọ dụng; biết thân Thích-ca là thân quyền hóa, cho nên khiến Vô Cấu biến hiện, theo lý cũng không trái nghịch. Kinh: Lúc bấy giờ, Vô Cấu Xưng… nam nữ lớn nhỏ. Tán: Thứ ba, Vô Cấu tư duy, có ba: Di chuyển khí thế gian và hữu tình. Suy nghó dời cõi Phật xuất thế và việc lợi lạc. Suy nghó dời đại chúng trong cõi đại thiên. Đây là văn thứ nhất. Từ câu “vương đô…” trở về trước là nói khí giới Diệu Hỷ, từ “Bồ-tát Thanh văn, nam nữ lớn nhỏ…” là nói về hữu tình giới. Kinh: Cho đến nói rộng ra… đại chúng trong hải hội. Tán: Thứ hai, suy nghó dời Phật xuất thế và việc lợi lạc, có hai: Suy nghó dời Phật và đại chúng. Suy nghó dời Phật sự. Đây là văn thứ nhất, có ba: Dời Như Lai. Dời cây Giác (Bồ-đề). Dời hải chúng, tức chúng hội vô biên gống như biển. Kinh: Các hoa sen báu… làm Phật sự Tán: Suy nghó dời Phật sự, có hai: Dời hoa. Dời thềm. Đoạn này nói về dời hoa. cõi Phật ở mười phương muốn làm Phật sự, trước phải dùng hoa sen, hoặc gởi hoặc rải, như nói Bát-nhã, tùy xa gần nơi mười phương thế giới đều gởi hoa sen, cùng với Đức Thích-ca mà làm Phật sự. Hóa Phật nơi hội pháp hoa gởi hoa cũng thế. Trong cõi tịnh kia, có loại hoa sen này, cho nên nay dời đi. Kinh: Ba đường thềm báu… theo thềm báu mà lên. Tán: Thứ hai dời đường thềm. Đường thềm báu của Đức Thích-ca thì Thiên đế làm ra, đường thềm báu của Vô động thì từ đất xuất hiện ra. Thích-ca thăng lên hư không, trụ ở Đao-lợi, ba tháng kiết hạ là vì báo ân cha mẹ, cuối hạ sắp vềø Thiên đế sai Đại lực quỷ làm đường thềm cho Phật. Ở khoảng giữa lát vàng ròng, bên trái lát mã não, bên phải lát thủy tinh, cho nên gọi là tam đạo. Đường thềm báu ở cõi kia vì khiến trời người qua lại cho nên từ đất xuất hiện ra cũng không trái ng- hịch với lý. Chư thiên xuống nhân gian là vì muốn thấy Phật nghe pháp; người muốn lên cõi trời là vì muốn xem cung điện vườn rừng của Đế thích, vì thế cần phải có đường thềm báu. Phật sự ở mười phương mỗi mỗi đều chẳng đồng. Cõi kia tuy là tịnh độ nhưng cũng có hiệu Luân vi sơn… như Đức Phật Cực Lạc cũng có vương thành, cha mẹ, vợ con, ma vương, điều-đạt. Kinh: Thanh tịnh như thế… chỉ cho đại chúng. Tán: Thứ ba, suy nghó dời các đại chúng trong cõi Đại thiên, chỉ cho đại chúng. Dưới từ mé thủy luân, mà không lấy kim luân và phong luân là vì muốn giữ lại chỗ y cứ. Trên đến cõi trời Sắc cứu cánh mà không lấy cả cõi Vô sắc là vì không có hình tượng khí giới. Ở Tây phương hái hoa dùng dây mà xâu để trang sức, đem cõi nước mà đặt vào lòng bàn tay cũng nhẹ nhàng giống như thế. Kinh: Ông Vô Cấu Xưng… đặt vào thế giới này. Tán: Thứ tư, phát khởi Phật lực, gồm có bốn: Khởi thần thông. Người có duyên thì kinh ngạc thưa hỏi. Người vô duyên thì chẳng hiểu. Đây kia đều trái nghịch. Đây là đoạn một. Kinh: Thanh văn ở cõi kia… cứu hộ chúng con. Tán: Thứ hai, có duyên thì kinh ngạc thưa hỏi. Có hai: Hỏi. Đáp. Đây là lời hỏi: Người được Thiên nhãn mới thấy cõi nước bị dời đi. Cho nên nói bạch Thiện thệ! Cứu chúng con! Giúp chúng con! Kinh: Bấy giờ, Đức Phật Vô Động… chẳng phải là do ta làm ra Tán: Đây là lời Đức Phật cõi kia nói. Vì hiển thị các Bồ-tát ở cõi này có thần lực lớn, cho nên mới nói chẳng phải là do ta làm, đâu phải Đức Phật không thể phát khởi thần lực này? Do đó mà kinh ghi: “vì giáo hóa chúng sinh mà phương tiện nói như thế. Kinh: Các trời người mới học ở cõi kia… chẳng biết chẳng thấy. Tán: Thứ ba, người không có duyên thì chẳng thông đạt; có hai phần: Nói về việc chẳng biết. Nói về việc kinh sợ mà hỏi. Đây là phần đầu. Trong báo tịnh độ theo lý thì không có các chúng trời người, nay các Bồ-tát là do Như Lai hóa hiện ra, cho nên hiện chẳng biết thì cũng không có lỗi, hoặc cho rằng tịnh độ này chung cho Báo độ và Hóa độ. Trong tịnh độ thì có chúng trời người, có chúng thế giới như sông biển… làm sao lại trái nghịch được. Kinh: Nghe lời này xong… sẽ đưa đến nơi đâu? Tán: Đây là kinh sợ thưa hỏi. Nghe các Bồ-tát có duyên thưa hỏi, Đức Phật Vô Động trả lời. Vì nghe lời Phật nói xong mới kinh sợ và han hỏi Đức Phật đã nói trước, nên sau đều xét biết, do đó ở đây không có lời đáp. Kinh: Cõi Diệu Hỷ… không khác với quốc độ của mình. Tán: Thứ tư, đây kia chẳng trái nghịch. Tướng của cõi tịnh kia chẳng tùy theo cõi này mà giảm, cũng chẳng tăng trưởng. Cõi này cũng chẳng do cõi kia ép chặt, cả hai chen nhau mà lại không khác… Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn… Bồ-tát và Thanh văn chăng? Tán: Thứ năm, Thế Tôn hỏi và khuyên bảo, gồm bốn: Đức Phật hỏi. Đại chúng trả lời. Vô Cấu cúng hoa. Như Lai lại khuyên. Đây là đoạn thứ nhất. Kinh: Tất cả đều nói: “Bạch Thế Tôn! Chúng con đã thấy.” Tán: Thứ hai, đại chúng trả lời. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… Bồ-tát. Tán: Thứ ba, ngài Vô Cấu cúng dường hoa. Dùng thần lực biến hóa ra các loại hoa; tự làm và dạy người khác làm, khiến đại chúng cúng dường, các Bồ-tát cõi kia, để hiển thị tâm đại Từ bi khuyên chúng tu hành. Đoạn này là nói về Vô Cấu Xưng khuyên tu; đoạn sau nói Như Lai khuyên tu. Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn… các hạnh Bồ-tát. Tán: Thứ tư, Như Lai lại khuyên. Tức muốn bên ngoài thành tựu tịnh độ, bên trong là Bồ-tát, nên cần phải học hạnh Bồ-tát ở cõi Phật kia. Như các kinh nói: “Độ thoát các chúng sinh, liền sinh vào cõi Bất động, đồng tất cả thắng hạnh”. Kinh: Vô Cấu Xưng… cõi Phật cư trụ. Tán: Thứ sáu, trời người được lợi ích. Đầu tiên trời người phát nguyện, sau Phật thọ ký đương lai sinh; theo văn có thể tự biết. Kinh: Bấy giờ, Vô Cấu Xưng… hai chúng đều thấy. Tán: Thứ bảy, việc đã xong trở về bản xứ. Khi chia tay đây kia đều thấy. Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn… các Bồ-tát… chăng? Tán: Đoạn thứ tư, Thu tử khen ngợi; có hai: Phật hỏi Thu tử. Thu Tử đáp và khen ngợi. Đây là văn thứ nhất Phật đã rõ Thu Tử đã thấy mà còn hỏi là muốn Thu Tử phát ra lời ấy, khiến cho hàng Thanh văn đồng nguyện và khen ngợi. Kinh: Xá-lợi Tử nói: “Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Tán: Từ đây là lời đáp và khen ngợi, có bốn: Đáp. Nguyện. Vui thích. Khen ngợi. Đây là câu trả lời. Kinh: Nguyện các hữu tình… như Vô Cấu Xưng. Tán: Thứ hai là nguyện, có ba: Nguyện các chúng sinh đều sống ở tịnh độ. Nguyện thành tự phước trí như Đức Vô Động. Nguyện đạt được thần thông như ông Vô Cấu Xưng; tất cả như văn kinh, có thể tự biết. Kinh: Bạch Thế Tôn! Chúng con… Đạo só như thế. Tán: Thứ ba là vui thích. Vui thích vì mình đã gặp được duyên lành, học được hạnh Bồ-tát siêng tu ở cõi kia. Kinh: Các hữu tình kia… tinh tấn tu hành. Tán: Thứ tư, khen ngợi, gồm mười câu: 1.Ba tuệ đều hay làm lợi ích. Chỉ nghe giáo này mà nói là đạt lợi ích lớn, còn vónh viễn nhổ trừ gốc sinh tử hà huống gì đầy đủ sáu đức tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, thuyết và tu. Luận Trung Biên ghi: “Đó là biên chép, cúng dường, ban cho người nghe, xem, đọc, thọ trì, diễn nói, đọc tụng, suy nghó và tu hành. Tu mười pháp hành sẽ đạt được vô lượng phước thù thắng và vô tận, đó là do nhiếp phục người không dừng nghỉ. Đây là đức tin hiểu trong phần nêu chung, tức tư duy chỗ nhiếp phục. Văn sau có hai là cúng dường và biên chép, cộng với văn trước đã nói là thành chín. Đoạn dưới nói tùy hỷ tức là ban phát cho người, tức đầy đủ mười hạnh. Kinh: Nếu các hữu tình… tương tục kế thừa chư Phật. Tán: Sau đây gồm chín câu, hiển riêng về đức của kinh. Bản xưa có sáu câu. Đoạn này có hai câu: Tay có được tài bảo. Nếu tay được thì liền được pháp bảo, có thể làm lợi ích lớn, đáng trân trọng thuộc về tu hành. Tin hiểu nối tiếp Phật chủng. Nếu tin hiểu liền kế thừa được thân Phật, khiến thân được tương tục. Tin hiểu tức là tin và có văn tư tuệ, là nhân Phật, cho nên gọi là kế tục. Kinh: Nếu các hữu tình… chánh pháp vô thượng. Tán: Đoạn này có hai câu: Đọc tụng là bạn tốt. Nếu đọc tụng thì thân là Bồ-tát, giáo là pháp Phật, chẳng lìa đọc tụng, nên gọi cả hai là bạn. Thọ trì liền gom nhiếp chánh pháp. Nếu có thọ trì thì thâu nhiếp chánh pháp. Nhiếp tức bao quát, thọ tức lãnh nạp, giữ gìn tại tâm, luôn không quên sót, tức có thể nhận lãnh tất cả chánh pháp vô thượng. Thể của chánh pháp vô thượng tức là giáo, lý, hạnh, quả của Đại thừa. Kinh: Nếu có cúng dường… Nhất thiết trí trí. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Cúng dường người học pháp này biết trong thất ấy có Phật. Người học pháp này, sẽ giữ gìn thân Phật, trong thân đã có nhân báo, hóa thân, sở học tức pháp thân Như Lai, cho nên có thể cúng dường, người học pháp này sẽ biết được ngôi thất ấy có Như Lai. Biên chép gom nhiếp phước tuệ. Nếu biên chép cúng dường pháp này thì có thể gom nhiếp được phước đức trí tuệ. Vì kinh này hay sinh phước tuệ. Kinh: Nếu có người tùy hỷ… được giai vị bất thoái chuyển. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Tùy hỷ lập hội pháp thí. Có tùy hỷ thì có pháp thí, pháp này hay làm lợi ích cho chúng sinh. Cho nên nếu tùy hỷ thì sẽ làm cho được lưu hành, không chướng ngại, khiến người khác tu học. Nên có tùy hỷ thì thành pháp thí. Diễn thuyết thì đến giai vị bất thoái. Một bài kệ bốn câu, tức bốn câu là một bài kệ tụng. Thuyết bốn câu đầy đủ lý của kinh này gọi là một bài kệ bốn câu. Bất thoái có bốn: Tín. Vị. Chứng. Hạnh. Như đã nói ở trước, tùy theo chỗ thích hợp mà đạt bất thoái này. Kinh: Các thiện nam… đã được thọ ký. Tán: Đoạn này có một câu, nói về tư duy được thọ ký. Tức đối với pháp môn này mà tin, hiểu, chấp nhận, lãnh nạp, vui thích, quán xét, thì liền được thọ ký nơi đạo Bồ-đề. Có nhân Phật này thì sẽ đắc quả. Tuy không có lời của Phật, nhưng không khác với sự thọ ký, cho nên gọi là “đã được”. ------------------------------------- <詞>PHẨM 13: PHÁP CÚNG DƯỜNG Bộ kinh này gồm mười bốn phẩm, một phẩm đầu là phần duyên khởi. Mười một phẩm kế là phần bản tông đến đây đã xong; đến hai phẩm sau là phần tán thán trao cho lưu thông. Phần này gồm có hai: Một là một phẩm này là tán thán và lưu thông, tức khen ngợi người và pháp, khiến tất cả đều tu học. Một phẩm Chúc Lụy sau cùng thì nói về việc trao cho kinh này để được lưu thông. Tức giao phó cho Bồ-tát Di- lặc lưu hành ở hậu thế. Nếu chẳng khen ngợi đạo đức thù thắng thì lấy gì để khuyến hóa lưu truyền đời sau? Tùy thuận phụng sự chỗ cần dùng gọi là cúng, nuôi dưỡng đức của thân gọi là dường. Việc này chung cho cả pháp và tài. Tiền tài là vật dùng để tư dưỡng thân, pháp là điều để trưởng dưỡng đạo. Tài vật là việc cần dùng của thời gian gần, tức thuận theo bấy giờ mà có lợi ích. Pháp là sự lợi ích cho thời gian lâu xa, dùng Thánh đạo mà tư dưỡng. Nay nêu nhân thù thắng này khuyên hữu tình tin học, xả bỏ nghiệp kém nhỏ, trợ giúp pháp thể mà tu trì. Phẩm này trình bày việc trên, cho nên gọi là phẩm Pháp Cúng Dường. Kinh: Bấy giờ, trời Đế Thích… pháp môn giải thoát. Tán: Toàn phẩm chia làm ba đoạn. Thiên đế khen ngợi. Thế Tôn ấn chứng. Trình bày việc đã qua, để khuyên phát tâm tu hành thù tháng. Trong đoạn đầu lại chia làm bốn: Ta nghe được điều hy hữu. Người đạt được lợi ích tốt đẹp. Cung kính cúng dường người học. Tùy nơi khuyến hóa diễn thuyết. Đây là phần đầu. Xưa gặp hai bậc Thánh thường nghe được diệu pháp, nay nhận lấy cảnh thù thắng; thật chưa từng được nghe. Bản xưa ghi: “Tự tại”, tức là thần thông là sự thù thắng, quyết định thật tướng tức là lý thù thắng, cũng là hai thù thắng tự lợi và lợi tha. Đây là sở thuyên, kinh là năng thuyên. Kinh: Như con hiểu điều Phật nói… như lý tu tập. Tán: Thứ hai, người có lợi ích thù thắng. Có hai: Dẫu có tu nghiệp thấp kém thì cũng thành pháp khí, hà huống tu thắng hạnh chẳng được lợi ích lớn sao? Lợi ích của việc tu thắng hạnh. Hạnh thấp kém có sáu: Nghe, tin hiểu, tư duy, thọ trì, đọc, tụng, thuyết cho người khác nghe, còn gọi là bậc pháp khí; pháp khí tức là vật đựng tu pháp, đựng pháp. Trên đã nói về văn và tư, tuy là nhân yếu kém mà đã là pháp khí, hà huống gì tinh tấn siêng năng như lý tu hành, y giáo tu tập hành pháp thứ mười, ắt là thành nhân Phật, nghóa là tu tuệ nương nơi giáo mà thực hành. Kinh: Hữu tình như thế… mở con đường lành bằng phẳng. Tán: Nói về lợi ích của việc tu thắng hạnh, như lý tu tập, tất cả gồm bảy câu phân làm ba đôi đối đãi, hoặc chung cho các nghiệp thấp kém nói ở trước đều có năng lực này: Đóng đường ác mở đường thiện. Gặp duyên thiện lìa duyên ác. Được trí quán, diệu cảnh. Đây là văn thứ nhất, ba ác thú nghóa là đường ác nguy hiểm khéo đóng bít. Cõi trời người là con đường lành bằng phẳng khéo mở thông. Hoặc ác thú là quả ác, đường hiểm là nhân ác. Thiện thú là quả lành, đường bằng phẳng là nhân lành. Đối với hai con đường này thì khéo léo mở hoặc đóng. Kinh: Thường thấy tất cả… ma quân bạo ác. Tán: Đoạn này gồm ba câu nói về gặp duyên thiện lìa duyên ác sẽ thành tựu bảy biện và mười Lực. Kinh: Thanh tịnh đạo Bồ-tát… con đường sở hành của Như Lai. Tán: Đoạn này gồm hai câu nói về được trí quán và diệu cảnh. Đạo tức là nhân, do nơi nhân tịnh Bồ-đề, mà an lập được trí diệu giác. Từ đó mà thực tiển quán con đường thắng diệu, là cảnh giới sở hành của Như Lai. Kinh: Lại nói Bạch Thế Tôn!… Thiện nữ… Tán: Thứ ba, cung kính cúng dường người có học. Kinh: Bạch Thế Tôn! Nếu có… làm cho không có chướng nạn. Tán: Thứ tư, tùy nơi chốn khuyến hóa mà tuyên thuyết. Nếu có nơi lưu thông pháp môn này, thì chúng con sẽ đến nơi đó nghe nhận. Nếu có người chưa tin, khuyên họ tin, người đã tin thì hộ vệ làm cho họ không gặp nạn, đạt đến chứng đắc, hoặc cho rằng lưu thông tức là biên chép… Kinh: Bấy giờ, Thế Tôn… pháp môn vi diệu. Tán: Đoạn thứ hai, Thế Tôn ấn khả, có hai: Ấn khả lời nói trước. Thuật lợi ích tốt đẹp của kinh. Đây là văn thứ nhất. Đối với điều thiện thì chẳng trái, vui mừng khen ngợi để hỗ trợ, gọi đó là tùy hỷ. Bản xưa ghi: “Ta tán trợ sự tùy hỷ của ông”. Tức Thiên đế chẳng tùy hỷ, ý nghóa trái nhau. Kinh: Thiên đế nên biết… lược nói chỉ bày. Tán: Nói về lợi ích của kinh, có hai: Thuyết hơn cho nên hơn. So sánh số lượng hơn cho nên hơn. Trong đoạn đầu lại có hai: Đồng tuyên thuyết pháp thù thắng. Thành tựu việc cúng dường. Đây là ý thứ nhất. Bồ-đề cần phải chứng đắc, chẳng thể bàn luận rỗng suông, tất cả đều ở pháp môn này, cho nên lược nói khai thị. Kinh: Vì thế, nếu có… hiện tại chư Phật. Tán: Thành tựu việc cúng dường. Nói Vô thượng Bồ-đề của ba đời chư Phật, vô thượng giác tuệ của chân lý vô tướng. Nay thấy tùy thuận tức là pháp cúng dường ba đời Như Lai. Đức của Như Lai chẳng ngoài hai môn lý và tuệ. Trong phần này có tám ý là nghe, tin hiểu, thọ trì, đọc, tụng, tuyên thuyết, biên chép và cúng dường. Ban phát cho người và tu tập căn cứ theo đây cũng như thế. Kinh: Lại trời Đế Thích… phụng thí cúng dường. Tán: So sánh cho nên hơn, có ba: So sánh làm câu hỏi. Trời Đế Thích đáp. Như Lai lại thành tựu cho. Phần một lại có ba: So sánh hiện tại. So sánh sau khi diệt. Chánh thức hỏi. Trong phần một lại có ba: Dụ Phật nhiều ít. Thời gian cung kính. Tứ sự cúng dường. Nhân dân ở Ấn Độ trồng rất nhiều mía, tre lau, lúa mè. Cây trên rừng núi thân rất thẳng, cứng có thể làm đòn gánh, mọc dày kín, rất nhiều. Như trong núi sâu tự tạo thành rừng cây, cho nên lấy làm dụ. Quả viên mãn của Như Lai cũng như thế. Trải qua một kiếp hoặc hơn một kiếp, thân cung kính, ý tôn trọng, miệng khen ngợi, ba nghiệp thực hành việc phụng sự không thiếu sót trái nghịch. Vật cúng gồm có ba: Ẩm thực. Ngọa cụ. Thuốc men. Chỗ ở chỉ có một là phòng ốc. Dùng bốn vật thượng diệu ấy để cúng dường, để sinh an lạc, cho nên gọi là an lạc cúng cụ, thủ cư. Kinh: Đối với các Như Lai… trang nghiêm đệ nhất. Tán: Sau khi diệt so sánh, có hai: Xây tháp để cúng dường Xá-lợi. Cúng dường trải qua thời gian. Đây là văn thứ nhất, có ba: Cúng Xá-lợi. Tạo tháp. Nói về trang nghiêm. Tốt-đổ-ba, xưa dịch âm Phù-đồ, là sai lầm. Hán dịch là Cao hiển, rộng bao trùm cả bốn châu, cao đến trời Phạm thế, trên đỉnh có đặt luân báu, hai bên có hương hoa phan lọng, ở giữa có vật báu, dùng kỹ nhạc cúng dường, thù thắng bậc nhất. Kinh: Kiến lập như thế… tán thán cúng dường. Tán: Cúng dường trải qua thời gian, có ba: Nói về thời tiết. Nói về ngoại cúng. Nói về nội nghiệp. Ngoại cúng có mười hai thứ là tràng hoa hương đốt, hương xoa, hương bột, y phục, phan, lọng, tràng báu, lồng đèn, vật báu, kỹ nhạc và các loại khác. Cúng dường có ba: thân cung kính, ý tôn trọng và miệng khen ngợi. Ngoài mười hai loại này ra lại phải trải qua thời gian lâu xa cúng dường. Thiêu hương tức là loại trầm hương dùng để đốt, đồ hương tức là mùi hương chiên-đàn để xoa trên tháp, mạt hương tức nghiền hương thành bột để rải trên tháp. Kinh: Vì sao… được phước nhiều chăng? Tán: Chính thức hỏi. Kinh: Trời Đế Thích nói… phước ấy tụ rất nhiều. Tán: Thứ hai, Đế thích trả lời. Kinh: Đức Phật bảo Thiên đế… rất nhiều nơi đó. Tán: Thư ba, Như Lai lại thành tựu cho nghóa trên; gồm có ba: Nêu lên. Giải thích. Kết luận. Đây là phần một. Kinh: Vì sao?… chẳng thể dùng tài vật. Tán: Giải thích nguyên do. Trí vô thượng của Phật từ đây mà có, pháp thân nhân nơi đó mà hiển, báo thân nhân đó mà sinh. Kinh chỉ nói sinh, vì nêu Bồ-đề của báo Phật. Chỉ có pháp cúng mới gọi là cúng, vì lợi ích của pháp này rất lớn, chẳng phải tài vật, tài vật cúng Phật và pháp không hiển được pháp thân, chẳng sinh báo Phật. Cho nên học kinh này, đạt được phước nhiều hơn kia. Kinh: Thiên đế nên biết!… phước ấy rất nhiều. Tán: Đây là kết luận. Quả Vô thượng giác, công đức rất nhiều, cúng nhân pháp này thì phước cũng chẳng nhỏ. Kinh: Bấy giờ Đức Thế Tôn… Phật Thế Tôn. Tán: Đoạn thứ ba, nêu việc xưa để khuyến phát tu nghiệp thù thắng, có ba: Nói việc xưa. Dùng xưa tức nay. Khen ngợi pháp, trước nên tu tập thắng pháp. Phần đầu có năm: Phật tại cúng dường. Khuyên con tu học. Nguyệt cái tư duy và nêu lợi ích. Dược Vương chỉ dạy. Nguyệt cái truyền bá lưu thông. Văn thứ nhất lại có bảy: Thời gian. Nêu tên Phật. Tên cõi. Tên kiếp. Thọ lượng của Phật. Tăng số của hai bộ. Luân vương cúng dường. Đây là đoạn một có hai ý đầu. Kiếp có rất nhiều ở đây chỉ nói đến đại kiếp. Trong mười hiệu của Phật thì hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như trước đã giải thích. Du-già tám mươi ba ghi là Minh Hành Viên Mãn, tức ba minh, già hạnh và hạnh, hạnh hạnh đều viên mãn. Vả lại thanh tịnh ba nghiệp, hiện hành chánh mạng và bốn tâm tăng thượng, hiện pháp lạc trụ, tất cả đều viên mãn. Trước là hành hạnh sau là trụ hạnh, thầm giữ gìn căn môn là già hạnh viên mãn. Hai hạnh này có thể hiển bày ba pháp chẳng hộ trì, làm quên sót. Do chẳng tạo lỗi lầm, tónh lự thế gian có thể ngăn trừ tự khổ hạnh. Thiện thệ nghóa là nơi đêm dài có đầy đủ tất cả đức của hai loại lợi ích. Ở đây ý nói là như ở thế gian thấy người đạt được sự giàu có thì liền nói người này đã đi rồi. Nay Đức Phật đến quả vị thì nói đã khéo đi rồi. Cho nên gọi là Thiện Thệ. Thế gian giải nghóa là thông đạt tất cả các loại hữu tình và khí thế gian do khéo ngộ nhập hữu tình và thế gian, cho nên có thể y cứ vào mé trước mé sau mà túc trụ sinh tử, y cứ vào tất cả thời mà có tám mươi bốn ngàn hạnh sai biệt. Đối với khí thế gian thì trong mười phương thế giới như phương Đông… những việc vô biên, thành hoại đều khéo rõ biết. Lại còn rõ biết được tự tánh, nhân duyên, đắm trước, lỗi lầm, xuất ly, hạnh thú hướng… của các pháp thế gian. Vô thượng Trượng phu, Điều ngự Só, vì trí không ai bằng, không gì hơn; đối với hiện pháp thì làm Điều ngự của nhiều phần, làm Trượng phu của vô lượng, là bậc nhất. Thiên nhân sư, do ngài mà hàng trời người hiểu được nghóa sâu xa, siêng năng tu chánh hạnh, có năng lực. Phật-đà nghóa là rốt ráo đoạn trừ tất cả tập khí phiền não, hiện Chánh đẳng giác A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Bạc-già-phạm, bình thản ngồi yên, được tòa diệu Bồ-đề, tự tại phá dẹp tất cả ma quân, vì có thế lực lớn. Trong đó Như Lai là từ chung nêu đầu tiên, Ứng Chánh Đẳng Giác tức vónh viễn giải thoát khỏi phiền não chướng và sở tri chướng. Trong phần riêng lại có hai là cộng đức và bất cộng đức. Trong cộng đức là nói giải thoát phiền não chướng và sở tri chướng, còn các câu khác như Minh hành Viên mãn thì thuộc về bất cộng đức, xét kỹ văn nghóa cũng có thể biết được. Tuy kinh Niết-bàn, Bát-nhã… cũng có nêu lên mười hiệu, nhưng ở đây hãy theo luận, tùy ý lấy bỏ. Kinh: Thế giới của Đức Phật kia… mười hai câu-chi. Tán: Đoạn này gồm có bốn: Nêu tên cõi. Tên kiếp. Thọ mạng của Phật. Trong hai mươi loại kiếp thì đây là dùng số ngày tháng năm làm kiếp, chẳng phải kiếp tăng giảm… vì trái với chánh lý. Số tăng chúng, tức Thánh chúng ba thừa là đệ tử. Kinh: Bấy giờ, có Luân vương… hay chế phục các quân khác. Tán: Thứ bảy, Luân vương nói cúng dường, có hai: Nói về Luân vương. Nói về cúng dường. Đây là phần thứ nhất. Bảy báu tức là voi, ngựa, vị quan thống lãnh quân lính, vị quan chủ về kho tàng, ngọc nữ, châu và bánh xe báu; Kim luân vương mới đủ bảy báu vật này, cho nên mới cai quản bốn châu. Đây cũng là vật mà Đế Thích đã có. Luân vương xuất thế từ trời giáng hạ. Bảy báu này mỗi mỗi đều có công dụng thù thắng riêng biệt, như kinh Chánh Pháp Niệm Xứ hai và Di-lặc Thành Phật Kinh Sớ đã giải thích. Kinh: Bấy giờ, Luân vương Bảo Cái… dâng lên cúng dường. Tán: Đây là nói dùng tài vật cúng dường. Kinh: Đã qua năm kiếp… cung kính cúng dường. Tán: Thứ hai, khuyên các người con tu học, có hai: Khuyên. Nghe theo. Đây là đoạn văn thứ nhất. Kinh: Bấy giờ, một ngàn người con… đều nói lành thay! Tán: Thứ hai, nghe theo, có hai: Cha chỉ dạy đã quý trọng, nên lời nói và hành động đều thuận theo, hiệp tức là hòa, không tranh cãi. Kinh: Bấy giờ, có một Vương tử… hơn pháp này chăng? Tán: Thứ ba, Nguyệt Cái tư duy làm lợi ích, có năm: Tư duy lợi ích. Hư không phát ra tiếng nói. Đặt câu hỏi. Chư Thiên đáp. Cầu thỉnh. Đây là văn thứ nhất. Ta nay ân cần tôn trọng sống ở thế gian đã không, lại nêu có pháp nào hơn thì nên tu pháp ấy. Kinh: Nhờ thần lực của Phật… rất thù thắng. Tán: Hư không phát ra tiếng nói. Cúng dường tài vật là việc của thế gian, chưa đủ để quý trọng, pháp cúng là việc xuất thế mới là thù thắng nhất. Kinh: Liền hỏi rằng: Thế nào là pháp cúng dường? Tán: Thứ ba, hỏi. Kinh: Chư Thiên đáp rằng: Này Nguyệt Cái!… giảng thuyết chỉ bày. Tán: Thứ tư, chư Thiên trả lời. Kinh: Vương tử Nguyệt Cái… tướng ấy như thế nào? Tán: Thứ năm, cầu thỉnh. Từ câu “lại trụ” trở lên là nói về phép tắc thưa thỉnh. Từ câu “Bạch rằng…” trở xuống là chánh thức cầu thỉnh giải thích. Kinh: Dược Vương Như Lai… tổng trì kinh vương Tán: Thứ tư, Dược Vương Như Lai chỉ dạy, có hai: Nói về việc nương vào giáo, Bồ-tát trước mười Địa phần nhiều thực hành cúng dường pháp. Nói về việc nương vào hạnh, Bồ-tát mười Địa phần nhiều hành cúng dường pháp. Trong phần đầu lại có ba: Nêu lên. Giải thích. Kết luận. Trong phần giải thích có hai: Nói về pháp được cúng dường. Từ câu “Như thế! Kinh điển thích nghe…” là nói về pháp cúng dường. Trong phần nói về pháp được cúng dường có hai ý: Nói về thể của kinh. Nói về dụng của kinh. Đây là phần nói về thể của kinh. Có hai loại kinh: Kinh chân thật rất sâu xa, và kinh tương tợ sâu xa. Không Lý Nghóa ghi: “Loại đầu là giáo thắng nghóa tam vô tánh không, loại sau là giáo thế tục tam vô tánh hữu”. Ứng Lý Nghóa ghi: “Loại đầu là giáo chẳng không, chẳng có ba tánh bình đẳng, loại sau chỉ nói về giáo “không”, ba vô tánh. Hai loại kinh này gồm mười nghóa: Thế gian khó tin nhận. Khó vượt qua, để tu học đến rốt ráo. Khó thấy. U huyền sâu xa. Vi diệu sâu kín. Không tạp nhiễm. Đại thừa liễu nghóa. Chẳng thể phân biệt có thể biết. Thuộc Bồ-tát tạng, chẳng thuộc giáo Nhị thừa. Tổng trì kinh vương, bao hàm tất cả. Giáo lý đều gồm đủ là vua của các kinh. Bản dịch xưa chỉ ghi bảy nghóa. Kinh: Là sở ấn của ấn Phật… nên nhiếp thọ. Tán: Nói về dụng của kinh, gồm ba mươi câu. Bản dịch xưa chỉ có hai mươi lăm câu. Đoạn này có bốn câu: Sở ấn của ấn Phật; chân như vô tướng gọi là ấn Phật, những chân như được chứng khác còn chưa được viên mãn, vì thế chỉ có gọi là Phật ấn. Giáo là sở ấn của lý, cho nên nói là sở ấn của ấn Phật. Bản xưa ghi là Đà-la-ni ấn, là sở ấn của Tổng trì tánh, cũng là ấn lý chân như vô tướng. Hay phân biệt chỉ bày bốn bất thoái chuyển. Sáu đáo bỉ ngạn do đây mà khởi. Khéo gồm thâu sở nhiếp và sở ứng nhiếp, nghóa là giáo trình bày các đạo lý vi diệu và giáo làm lợi ích tất cả hữu tình. Bản xưa ghi: “Khéo phân biệt các nghóa?” Tức là hai loại này. Kinh: Pháp Bồ-đề phần… duyên khởi sâu xa. Tán: Đoạn này gồm sáu câu: Pháp Bồ-đề phần thực hành tùy theo chỗ hành, tức là tùy theo giáo mà hành Bồ-đề phần. Bảy Giác chi tự có thể dẫn phát, nghóa là giáo là do giác chi dẫn phát, phát khởi. Nếu bảy Giác chi là do giác dẫn dắt, do giáo phát khởi thì sẽ không phân biệt được với Bồ-đề Phần chính là pháp tùy hành. Bản xưa ghi: “Trên hết trong các kinh”. Vì do giác chi dẫn phát cho nên được gọi là trên hết. Hay luận thuyết, chỉ bày, đại Từ, đại bi. Nhổ sạch gốc khổ cho hữu tình, ban cho hữu tình sự an lạc. Hoặc do nói Từ bi cho nên hay trừ khổ. Bản dịch xưa không có ý này. Xa lìa năm kiến, sáu mươi hai kiến thú và bốn ma oán. Phân biệt diễn nói mười hai duyên khởi. Kinh: Luận bên trong thì vô ngã… vô khởi tương ưng. Tán: Đoạn này có hai câu: Luận bốn chỗ lìa ngã là bên trong vô ngã, bên ngoài không có hữu tình, khoảng giữa không có thọ mạng và người nuôi dưỡng, tất cả đều không có số thủ thú. Đây là tên khác của ngã. Tương ưng với lý tánh Không, Vô tướng, Vô nguyện, vô sinh khởi, vì giáo thuận với lý. Kinh: Hay dẫn sinh diệu giác… khen ngợi cúng dường. Tán: Đoạn này có ba câu: Dẫn sinh diệu giác, diệu giác tức là Phật. Chuyển pháp luân, vì giáo xoay chuyển bánh xe Thánh đạo. Tám bộ chúng cúng dường. Kinh: Dẫn dắt chúng sinh… từ tự đại pháp. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Dẫn sinh cúng dường pháp tất cả ruộng tốt mà khởi mười hạnh. Viên mãn tất cả những từ tự của chúng sinh. Từ tự là hội pháp thí, tức hay thành tựu viên mãn những hội pháp thí. Bản dịch xưa hợp hai câu này làm một và ghi là: “Vào kho tàng Phật pháp”. Kinh: Tất cả Thánh hiền… là chỗ quy về. Tán: Đoạn này có ba câu: Được Thánh hiền nhiếp thọ; vì đó là giáo cùng tột. Khai phát diệu hạnh vì nhân nơi giáo mà biết rõ. Pháp nghóa đều nương tựa quy về. Pháp chân thật và nghóa đều ở nơi đây, cho nên gọi là chỗ quy về. Kinh: Tối thắng vô ngại… bốn loại pháp Ôn-đà-nam. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Bốn vô ngại thù thắng nhân đây mà khởi. Bản dịch xưa không có câu này. Luận về pháp lược tập, tiếng Phạm gọi là Ôn-đà-nam, Hán dịch là Lược tập. Pháp Ôn-đà-nam tức là giáo lược tập. Bốn pháp lược tập là: Các hành vô thường. Hữu lậu đều khổ. Các pháp vô ngã. Niết-bàn tịch tónh. Như kinh Bồ-tát Địa và Bát-nhã Thắng Thiên Vương đã nói. Nếu gọi Ô-đà-nam thì Hán dịch là Tập thí, tức các kệ tập nghóa trong các kinh, nghóa là dùng kệ tụng để gom tập các nghóa lý mà ban cho người học, cho nên gọi là Tập thí. Nay nói pháp lược tập thì chỉ là phần trường hàng, do đó hai bản khác nhau. Hoặc nói bốn nghóa lược tập mà sinh bốn giáo lược tập, vì phân chia nên có hai. Kinh: Ngăn trừ tất cả… chúng ác ma quân. Tán: Đoạn này có bốn câu: Trừ bỏ sáu tệ; bản xưa ghi “hay cứu người phá hủy giới cấm” tức chỉ cho điều tệ ác do giới độ diệt trừ. Làm kinh sợ những ngoại đạo tà kiến, chấp trước. Mở thế lực pháp thiện cho hữu tình, khiến được sinh trưởng. Phá dẹp ác ma. Bản dịch xưa nói đoạn này đồng với ngoại đạo. Kinh: Chư Phật hiền Thánh… chư Phật cùng thuyết. Tán: Đoạn này gồm bốn câu: Thánh hiền khen ngợi. Trừ khổ sinh tử. Chỉ sự an vui của Niết-bàn. Chư Phật cùng tuyên thuyết. Kinh: Kinh điển như thế… gọi là cúng dường pháp. Tán: Trên là nói pháp được cúng dường, ở đây là nói đến cúng dường pháp, gồm có tám hạnh là nghe, tin hiểu, thọ trì, đọc, tụng (hai hạnh này là lợi ích chung); tư duy khiến cho lý hiểu rõ nơi tự tâm, rồi lập bày, phân biệt, khai thị nghóa ấy, khiến cho lý rõ ràng hiện tiền, tự thực hành như thế rồi; thì giảng thuyết cho người nghe; phương tiện khéo léo, giữ gìn chánh pháp, như giáo tu hành, gọi đó là cúng dường pháp. Pháp môn có mười như trước đã nói, trong đó biên chép và ban phát cho người thì thuộc về tài cúng, cho nên không nêu lên, chỉ nêu bảy hạnh, tin hiểu thì thuộc về tư duy. Thực hành những pháp này thì đều thuộc về cúng dường. Hạnh tuy có tám mà thể chỉ có bảy. Bản dịch xưa chỉ ghi sáu. Kinh: Lại Nguyệt Cái… như pháp tu hành. Tán: Đây là nói nương vào hạnh, Bồ-tát Thập địa thực hành cúng dường pháp, có ba phần: Nêu lên. Giải thích. Kết luận. Trong phần giải thích lại có mười sáu câu. Bản xưa có mười ba câu. Đoạn này có hai câu: Điều phục ba nghiệp xa lìa các pháp ác. Như pháp tu hành tu tập các điều thiện. Bản xưa không có câu này mà hợp làm một câu, nhưng vẫn đủ hai nghóa. Kinh: Tùy thuận duyên khởi… và không có hữu tình. Tán: Đoạn này có ba câu: Tùy thuận quán nhiễm tịnh, thuận nghịch của duyên khởi mà chẳng đồng như Độc giác tu hành chứng ngộ, cho nên nói tùy thuận; hoặc cho rằng tâm thuận cảnh mà quán duyên khởi cho nên gọi là tùy thuận, do đó có thể xa lìa tà kiến bác không có nhân quả. Tu tập Vô sinh nhẫn. Ngộ nhập được nội thân vô ngã, ngoại cảnh không có hữu tình. Kinh: Đối với nhân duyên… không có chỗ nhiếp thọ. Tán: Đoạn này gồm hai câu: Không có lời trái nghịch với nghóa lý của duyên khởi, không tranh cãi nên không có các luận thuyết khác. Lìa ngã và ngã sở, không có chỗ nhiếp thọ, nếu nhiếp thọ các pháp thì có chấp trước; vì có chấp hai. Kinh: Nương nơi nghóa… thấy có sở đắc. Tán: Đây là nói về bốn y, có bốn câu có thể tự biết. Như kinh Niết-bàn phối hợp với các giai vị, như luận Du-già pho thứ hai đã nói. Nêu y cứ theo nghóa lý, vì chẳng phải là văn tự; trí mới có thể quyết định, thức chẳng thể quyết định được, liễu nghóa thì rõ ràng, chẳng phải là mật nghóa; pháp mới nên làm quy tắc, chỉ duyên nơi pháp, chẳng phải nương nơi số thủ thú có sở đắc, thì liền tin nhận. Kinh: Tánh tướng như thế… diệt thức A-lại-da. Tán: Đoạn này có hai câu: Ứng Lý Nghóa ghi: “Như tướng y tha khởi. Tánh viên thành thật mà ngộ giải”. Không Lý Nghóa ghi: “Tùy các thế gian, tánh tướng như thế mà hiển thành vô đắc”. Ngộ nhập chân như không có sở nhiếp tàng diệt thức A-lại-da. Kinh: Dứt trừ vô minh… xả các kiến thú. Tán: Đoạn này có ba câu: Dứt mười hai chi duyên khởi. Dứt quả duyên khởi, trừ phiền não ưu bi sầu khổ; các điều này đều từ lão tử mà sinh là quả của duyên khởi. Quán các tướng duyên khởi dẫn đến vô tận; lìa cùng tận cho nên thường dẫn phát, chưa từng đoạn dứt, bi nguyện cứu độ hữu tình. Vì có duyên khởi này, luôn chẳng xa lìa nên cứu giúp họ. Xả bỏ các kiến thú, tức là trừ các kiến chấp vô nhân, ác nhân… Kinh: Như thế gọi là… cúng dường pháp tối thượng. Tán: Kết luận; nương vào đây tu hành, hoặc hạnh trước khi tu thắng quả của Bồ-tát mười Địa gọi là thượng cúng, chưa phải là chánh hạnh, còn đây là nói về chánh hạnh. Kinh: Đức Phật nói với Thiên đế… được thuận pháp nhẫn. Tán: Thứ năm, Nguyệt Cái truyền bá lưu thông, có bốn: Xin được truyền bá lưu thông. Thọ ký. Xuất gia đắc quả. Hành hóa sau khi diệt độ. - Trong phần thứ nhất lại có ba: Nghe pháp được lợi ích. Đáp trả cúng dường y và vật trang nghiêm. Chính thức xin được trình bày. Đây là văn thứ nhất. Vô sinh pháp nhẫn thì chứng tại Sơ địa, thuận với quyết trạch nhẫn vị trước mười Địa. Nay nghe pháp đạt được Thuận pháp nhẫn. Kinh Nhân Vương phối hợp nhẫn với các vị: Phục nhẫn trước mười Địa. Tín nhẫn tại Địa thứ nhất, hai, ba. Thuận nhẫn tại Địa thứ tư, năm, sáu. Vô sinh nhẫn tại Địa thứ bảy, tám, chín. Tịch diệt nhẫn tại Địa thứ mười và Phật địa. Nay nói thuận nhẫn là mới chứng Địa thứ tư, cho nên bản dịch xưa ghi: “Được nhu thuận nhẫn”, hai cách giải tùy ý mà chọn một. Kinh: Liền cởi y báu… Dược Vương Như Lai. Tán: Thứ hai là đáp trả cúng dường y và vật trang nghiêm. Kinh: Bạch rằng: Bạch Thế Tôn… tu hạnh Bồ-đề. Tán: Thứ ba, chánh thức cầu xin. Con mong cầu sau khi Như Lai diệt độ, sẽ nhiếp thọ chánh pháp mà thực hành cúng dường pháp, để giữ gìn chánh pháp. Nếu chẳng nhiếp thọ chánh pháp, thì chẳng thành tựu cúng dường pháp, cũng chẳng thể giữ gìn chánh pháp. Cho nên cầu xin Đức Phật thương xót ban cho Từ bi, thêm oai và lực cho thần thông cứu độ, khiến cho không nạn, khiến hàng ma, giữ gìn chánh pháp và khiến tu hành. Kinh: Dược Vương Như Lai… có thể giữ gìn thành trì chánh pháp. Tán: Thứ hai là thọ ký. Thấy nhân tu kia thì liền phát nguyện cầu xin; quán nhân thấy quả, cho nên thọ ký. Chánh pháp như thành trì, hành giả như người sống trong thành. Nguyệt Cái hay giữ gìn chánh pháp cho nên nói là giữ gìn thành trì chánh pháp. Kinh: Bấy giờ, Vương tử kia… tu các pháp thiện. Tán: Thứ ba, xuất gia đạt được quả, có năm câu. Đoạn này có hai câu: Hoan hỷ xuất gia. Tinh tấn tu thiện. Tu hạnh Niết-bàn viễn ly gọi là phi gia. Kinh: Vì siêng năng tu thiện… diệu biện không đoạn. Tán: Đoạn này gồm ba câu: Được năm thông. Được tổng trì. Được bảy biện hoặc đạt được vô đoạn tận biện và Đà-la-ni biện. Bản xưa thêm câu “Thông đến đạo Bồ-tát”. Kinh: Dược Vương Như Lai… chuyển pháp luân. Tán: Thứ tư, hành hóa sau khi diệt độ, có hai: Thời gian hành hóa. Chỗ giáo hóa nhiều ít. Đây là phần thứ nhất. Mười trung kiếp tức là kiếp ngày tháng năm, chẳng phải loại kiếp khác, vì trái với chánh lý. Kinh: Bí-sô Nguyệt Cái… sinh vào cõi trời. Tán: Đây là chỗ nói về chỗ giáo hóa nhiều ít, có ba: Khiến chứng bốn vị bất thoái của Đại thừa. Khéo điều thuận tâm Nhị thừa, được quả A-la-hán. Kinh Phật Địa, đầu tiên khen ngợi đức của bậc Vô học, vì tâm đã điều thuận. Dẫn hàng vô chủng tánh sinh vào cõi trời. Câu thứ nhất và hai là nói hàng có chủng tánh tùy thuận được ba thừa; một câu sau nói về vô tánh, cho nên khiến sinh vào cõi trời. Kinh: Phật bảo Thiên đế… Bảo Diệm Như Lai. Tán: Đoạn thứ hai, dùng xưa tức nay, có ba: Tức Luân vương. Tức một ngàn Vương tử. Tức Nguyệt Cái. Đây là đoạn một. Kinh: Một ngàn vương tử con của vua… còn những vị khác sẽ xuất thế ở đời tương lai. Tán: Đây là nói tức ngàn người con. Một ngàn người con ở đây chỉ nói có một duyên. Lại có các duyên riêng biệt như trong kinh Dược vương Dược Thượng và kinh Thiên Phật Nhân Duyên đã nói, đó chính là Phật Ca-lạc-ca-thôn-đà thứ nhất, Phật Ca-lạc-ca Mâu-ni thứ hai, Phật Ca-diếp-ba thứ ba, Phật Thích-ca Mâu-ni thứ tư đã giải thích trong Di- lặc Thượng Sinh Kinh Sớ. Bốn vị Phật này đã xuất thế, còn các vị khác đương lai sẽ xuất thế; về kiếp số, thứ tự, thời gian, giai vị, mỗi mỗi như Thượng Sinh Kinh Sớ đã nói. Kinh: Vương tử Nguyệt Cái hộ pháp lúc bấy giờ… tức là thân Ta. Tán: Đây là nói tức Nguyệt Cái. Hiển thị tự thân Như Lai giữ gìn pháp này, hành cúng dường pháp nay được Bồ-đề, khuyên các hữu tình cũng nên như ta giữ gìn học tập thực hành cúng dường pháp. Kinh: Thiên đế nên biết… vô thượng, tối thượng. Tán: Khen ngợi pháp, trước khuyên tu lợi ích thù thắng, có hai: Khen. Khuyên. Đây là đoạn thứ nhất. Tối tôn vì hạnh cao tột, tối thắng vì hạnh siêu việt, tối thượng vì hạnh bậc nhất; tối diệu, vì hạnh thiện vi diệu; vô thượng vì không có gì hơn; hoặc tùy theo thứ tự; bốn tối thắng đầu tiên là dùng ẩm thực, y phục, ngọa cụ, thuốc men để cúng dường; ý nói vô thượng là do bốn tối thắng trước cho nên thể là vô thượng. Vả lại do cúng dường pháp, nên hay được pháp thân năm uẩn vô lậu, đó là năm uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, theo thứ tự phối hợp. Hoặc được thanh tịnh pháp giới, đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quan sát trí và Thành sở tác trí, theo thứ tự phối hợp các loại tối thắng… nêu trên. Vì thế mà nêu lên năm nghóa bậc nhất cùng tột. Kinh: [Vì thế, này Thiên đế… không nên dùng tài vật.] Tán: Đây là lời khuyên. Chư Phật Bồ-tát, chỗ làm của bản tâm là đều muốn khiến cho các hữu tình tu tập pháp hạnh, sẽ được xuất thế, cho nên cúng dường pháp thù thắng hơn cúng dường tài vật. Hội Thắng Thiên Vương, kinh Bát-nhã nói rằng: “Hai người xa lìa, giặc của vua, chẳng thể xâm đoạt kho báu lớn, trăm ngàn đại kiếp vui nghe pháp, được nghe chẳng giữ chẳng ban phát, tâm đại Bồ-đề hộ chánh pháp, như giáo tu hành tu cúng dường, tự lợi lợi tha tâm bình đẳng, thế mới thật là chân cúng Phật”. Trong các loại cúng dường thì cúng dường pháp là bậc nhất. Sách thế tục còn nói rằng: “Cho dù một ngày giết ba con trâu để cung dưỡng cho cha mẹ, còn gọi là bất hiếu”, hà huống gì xuất gia? Vì Phật vốn chẳng mong cầu cúng dường tài vật. Kinh Kim Cang ghi: “Mỗi ngày xả bỏ thân ba thường hằng này, còn không bằng thọ trì bốn câu kệ”, cho nên cúng dường pháp thù thắng hơn cúng dường tài vật đến vô lượng. Vì tài vật làm sinh trưởng các hoặc, như cõi nước là bụi, pháp hay diệt ác như mặt trời chiếu phá tối tăm, cho nên chẳng thể ví dụ. ------------------------------------- <詞>PHẨM 14: CHÚC LỤY Trong hai phẩm cuối cùng nói về tán thán và trao phó lưu thông, thì phẩm trước nói về tán thán lưu thông, phẩm này nói về phó chúc lưu thông. Nếu chẳng trao phó kỹ càng thì hoặc là sợ người khinh mạn pháp chẳng rõ, cho nên mới trịnh trọng phó chúc, khiến sinh lòng tin mà tu học. Dùng lời mà trao cho, gọi là chúc, lặp lại nhiều lần gọi là Lụy. Phẩm này luận bàn kỹ về việc ấy nên gọi là phẩm Chúc Lụy. Kinh: Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Từ Thị… phó chúc cho ông. Tán: Toàn phẩm được chia làm ba đoạn: Phó chúc kỹ càng. Hỏi tên giữ pháp. Lợi ích đã xong hoan hỷ lưu thông. Đoạn đầu lại có hai phần: Phó chúc cho Bồ-tát, tự giữ và hành trì. Phó chúc cho Thanh văn, khiến lấy bỏ. Phần đầu lại có ba: Phó chúc cho Bồ-tát Di-lặc. Bồ-tát xin thọ trì. Thiên vương hộ vệ. Phần một lại có ba: Như Lai phó chúc. Bồ-tát Di-lặc tán thán lãnh thọ. Thế Tôn khen ngợi. Thứ nhất lại có hai: Phó chúc pháp. Nói về đức bị mất. Phần một lại có hai: 1. Phó chúc khiến hành trì. 3. Giải thích nguyên do. Đầu tiên lại chia làm ba: Phó pháp chung. Nói về pháp thắng diệu. Khiến đời sau truyền bá lưu thông. Đây là văn thứ nhất. Quả gom tập từ nơi biển nhân Thánh hạnh đem phó chúc cho ông, biểu thị thể dụng đều lớn. Kinh: Kinh điển như thế… gia hộ. Tán: Đây là nói về pháp thù thắng vi diệu. Do oai lực của Phật giữ gìn mà chẳng diệt, nhờ oai lực của Phật gia hộ nên không có tai họa. Kinh: Sau khi Như Lai Niết-bàn, ông sẽ… chớ khiến bị diệt mất. Tán: Đoạn này là bảo đời sau lưu thông. Nhiếp thọ tức gia hộ, nhiếp trì lãnh thọ, là tên khác của gia hộ. Kinh: Vì sao?… vô lượng thắng lợi. Tán: Trên là trao phó khiến hành trì, đây là giải thích nguyên do. Có hai: Nói về lợi ích và tổn hại của hai người. Phó chúc nhân pháp. Phần thứ nhất được chia làm hai: Nói về tổn hại. Nói về lợi ích. Đây là văn đầu tiên, ở đây có hai hạng người: Tuy chưa phát tâm Đại thừa mà đã gieo trồng thiện căn tốt đẹp. Đã phát tâm Đại thừa có thắng giải rộng lớn, tức Bồ-tát trước mười Địa; các tâm trước mười Địa trong mười ba trụ tâm gọi là Thắng giải hạnh, cho nên có thắng giải rộng lớn. Hàng phàm phu trước mười Địa nếu chẳng nghe kinh, như người chưa phát tâm thì chẳng thể phát tâm, người đã phát tâm, thì chẳng thể đạt lợi ích, gọi đó là thoái thắng lợi. Kinh: Nếu kia được nghe… hoan hỷ đảnh lễ vâng thọ. Tán: Đây là nói về nghe pháp được lợi ích. Bản dịch xưa dùng phát tâm Bồ-đề là một, thích pháp Đại thừa là hai, thứ tự phối hợp với hoan hỷ, đảnh lễ vâng thọ. Nhưng nói nên phát tâm nên ưa thích thì nghóa cũng đồng như bản dịch mới, không có lỗi. Kinh: Ta nay trao phó những người thiện nam, thiện nữ ấy… lưu hành rộng khắp. Tán: Đây là phó chúc nhân pháp. Phó chúc người là khiến được hộ niệm để không bị chướng nạn khi nghe pháp này. Phó chúc pháp là khiến pháp được lưu hành rộng khắp. Kinh: Từ thị nên biết… tướng ấn của Bồ-tát. Tán: Trình bày về đức bị mất, có ba: Nêu lên. Chỉ rõ. Giải thích. Đây là đoạn văn đầu. Ấn có hai loại: Vô tướng ấn, như trước đã giải thích. Hữu tướng ấn, chính là ấn nói ở đây. Tướng tức tướng mạo, ấn tức là quyết định, tướng trạng quyết định gọi là tướng ấn. Hai giáo này gọi là ấn, ấn hai hạng Bồ-tát. Kinh: Thế nào là hai?… ngộ nhập tướng ấn. Tán: Đây là hiển bày, có hai: Một là, nêu lên; sau là hiển thị. Đây là đoạn văn thứ nhất. Một là, thích những lời văn thêu dệt thì lý theo đó mà bẻ cong hay uốn thẳng; hai là, tùy thuận tánh tướng mà ưa thích pháp nghóa sâu xa, là thể của tướng ấn. Nhập tức là chứng giải. Kinh: Nếu các Bồ-tát… Bồ-tát tu học đã lâu. Tán: Đây là phần giải thích, có hai: Theo văn có thể biết, tức theo văn chẳng theo lý. Hàng thứ hai là các Bồ-tát không có tạp nhiễm không chấp trước, tức là đối với pháp sâu xa không sợ hãi, nghe liền tin hiểu cho đến tu hành, do đó liền được lòng tin thanh tịnh xuất thế, gọi là hàng tu học đã lâu, nếu chẳng phải hàng tu học lâu, thì chẳng thể tin thích pháp này. Kinh: Từ Thị nên biết… pháp nhẫn sâu xa. Tán: Nói về tướng mất, có hai là thứ tự nói về hai hàng Bồ-tát nêu trên. Trong phần một có ba: Nêu lên. Giải thích. Kết luận. Đây là văn thứ nhất. Pháp nhẫn tức trí nhẫn đạt được từ việc quán giáo pháp bốn Đế của Bồ-tát Sơ địa. Do bốn duyên nên Bồ-tát mới học không đạt được Sơ địa. Kinh: Thế nào là bốn… từ đâu mà đến. Tán: Đây là phần giải thích có hai: Nêu lên. Hiển bày. Trong phần hiển bày lại có hai: Hai việc đầu là đối với pháp. Hai việc sau là đối với người. Đây là lời văn thứ nhất. Đối với pháp chưa nghe thì phát sinh hai việc: một là, kinh sợ nghi ngờ, tâm không tùy hỷ cho nên trái nghịch; hai là dẫu đã nghe thì sau lưng lại trái nghịch phỉ báng, trước mặt lại khinh chê, nói rằng chẳng phải là pháp mà trước kia ta đã nghe, từ đâu mà có đây? Vì cho rằng không có xuất xứ nên khinh hủy. Kinh: Thứ ba là, thấy có người… phỉ báng. Tán: Đây là hai việc đối với người. Thấy người tin pháp này thì chẳng thích gần gủi, chẳng thích cung kính, chẳng thích lễ bái. Đối với người tin pháp này thì về sau thân khinh mạn, tâm ganh ghét, lời thì trước mặt hủy nhục, sau lưng phỉ báng. Bản dịch xưa ghi bốn việc này gom lại hai môn, cũng đồng có nhân và pháp. Kinh: Do bốn duyên này… pháp nhẫn sâu xa. Tán: Đây là phần kết luận. Kinh: Từ Thị nên biết… Vô sinh pháp nhẫn. Tán: Đoạn văn này có ba, đây là phần thứ nhất. Người được tương tục Vô sinh pháp nhẫn là Bồ-tát Địa thứ tám. Trước nói hàng mới học chưa được Sơ địa, ở đây nói hàng hữu học chẳng được Địa thứ tám, hoặc chẳng được Sơ địa. Kinh: Thế nào là bốn… trao cho, khuyên bảo. Tán: Đây là phần hiển bày, có hai: Nêu lên. Hiển thị. Hai duyên đầu là đối với người, hai duyên sau là đối với pháp. Khinh người mới học. Không thích thâu họ làm đệ tử, không thích chỉ bày học xứ, không thích dạy cho pháp thiện, không thích khuyên bảo chớ làm việc ác cho người mới học. Do hai duyên này mà khiến cho người mới học không thể tiến tu. Bản xưa ghi: “Chẳng dạy dỗ khuyên bảo”, tức duyên thứ hai. Kinh: Thứ ba… pháp thí thanh tịnh. Tán: Hai duyên đối với pháp. Học xứ rộng lớn là giới Bồ-tát. “Thậm thâm” thì Luận Nhiếp Đại thừa ghi: “Bồ-tát hành mười nghiệp như sát sinh… mà không có tội, sinh vô lượng phước, mau chóng chứng Bồ-đề”. Rộng lớn có bốn: Vô lượng học xứ rộng lớn. Vô lượng phước đức rộng lớn. Ý lạc lợi sinh rộng lớn. Kiến lập Bồ-đề rộng lớn, đều như luận đã nói. Hoặc cho rằng thậm thâm tức khó lường. Rộng lớn tức thể dụng rộng lớn. Một là, chẳng kính trọng sâu xa pháp này, mà xem nhẹ; hai là, thích tài thí chẳng thích pháp thí, thấy lợi lạc hiện tại, mà chẳng thấy lợi ích mai sau. Bản xưa không có hai duyên sau, cũng không có văn kết luận. Kinh: Do bốn duyên này… Vô sinh pháp nhẫn. Tán: Đây là kết luận. Kinh: Bồ-tát Từ Thị… rất vi diệu. Tán: Đoạn thứ hai, Bồ-tát Di-lặc tán thán lãnh thọ. Có ba: Tán thán. Lãnh thọ. Kết luận. Đây là lời Bồ-tát Di-lặc tán thán. Hy hữu vì rất khó được nghe, vi diệu là vì khó vào. Kinh: Như lời Phật đã chỉ dạy… rốt ráo xa lìa. Tán: Bồ-tát Di-lặc lãnh thọ có hai: Tướng lỗi của đức. Lãnh thọ sự phó chúc ở trước. Đây là văn thứ nhất. Văn mới nói rằng Bồ-tát có các lỗi lầm, tài chưa đủ đức còn thiếu, chẳng dám tự thọ nhận, nên nói lỗi lầm này con xin xa lìa. Đây là hiển bày Bồ-tát còn ở nơi nhân vị, chưa đạt đến quả vị, đến quả mới cùng tận, cho nên nói sẽ xa lìa. Kinh: Như Lai… khiến chẳng diệt mất. Tán: Lãnh thọ lời phó chúc đã nói ở trước, có hai: Lãnh thọ pháp. Lãnh thọ người. Đây là đoạn thứ nhất, giữ gìn pháp này khiến chẳng bị diệt; có người lưu thông thì pháp sẽ thịnh hành. Kinh: Các thiện nam, thiện nữ ở đời vị lai… giảng nói cho người khác nghe. Tán: Đây là lãnh thọ người. Có người chân pháp khí cầu Đại thừa, con khiến cho họ nhận được kinh điển này và trao cho niệm lực khiến họ thọ trì cho đến giảng nói cho người khác nghe. Kinh: Bạch Thế Tôn! Vào đời sau… trụ trì gia hộ. Tán: Đây là kết luận, thành tựu cho việc lãnh thọ và ban cho niệm lực nói ở trước. Kinh: Đức Thế Tôn dạy rằng… chánh pháp như thế. Tán: Thứ ba, Thế Tôn khen tặng. Ba nghiệp chẳng trái gọi là tùy hỷ; nhiếp thọ lãnh nạp, ủng hộ giữ gìn, rất khéo léo vi diệu. Kinh: Bấy giờ, trong hội… lưu bố tuyên dương khắp nơi. Tán: Đoạn lớn thứ hai, Bồ-tát xin thọ trì, có hai: Ủng hộ chánh pháp. Ủng hộ người. Đây là phần thứ nhất. Đức Phật tại thế thì nhờ oai thần tự có thể gia hộ, còn sau khi diệt độ thì con sẽ hộ trì, chẳng những ở phương này tự tại hộ trì mà còn đến phương khác để ủng hộ. Kinh: Nếu thiện nam… làm cho không bị chướng ngại. Tán: Đoạn này nói bảo hộ người: Ban cho niệm lực khiến chẳng quên sót giáo pháp. Khiến cho lưu thông rộng khắp mà không bị chướng ngại. Kinh: Bấy giờ, trong chúng… pháp môn này. Tán: Đoạn lớn thứ ba, Thiên vương ủng hộ, có hai: Nói về việc ủng hộ. Nói về xa gần. Đây là phần thứ nhất; thứ nhất là hộ trì chánh pháp, thứ hai hộ trì người. Pháp môn tức là pháp, giả tức người giả. Kinh: Bốn phương… chẳng được tiện lợi. Tán: Đây là nói về xa gần. Du-thiện-na, bản xưa ghi là do-tuần. Theo luận Câu-xá thì năm trăm cung là một câu-lô-xá bằng hai dặm; tám câu-lô-xá là một du-thiện-na, bằng mười sáu dặm. Xưa truyền rằng hoặc cho bốn mươi dặm là một du-thiện-na, thì cũng không trái với ở đây. Trong vòng một trăm do-tuần đều làm cho được an ổn, Thiên ma, ngoại đạo, tai chướng, suy hao, hiểm nạn không thể gây chướng ngại, kẻ ác cũng không thể thừa cơ thuận tiện dò xét, trừ người bị nghiệp quyết định. Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn… khiến được lưu thông. Tán: Trên là phó chúc cho Bồ-tát, gồm pháp và người; còn đây là phó chúc cho Thanh văn, chỉ có pháp không có người. Đoạn này có hai: nào? Phó chúc. Thọ nhận. Đây là phần đầu. Kinh: A-nan-đà bạch rằng… pháp môn như thế. Tán: Thứ hai là lãnh thọ. Kinh: Bạch Thế Tôn! Pháp môn như thế… con thọ trì như thế Tán: Đoạn thứ hai, hỏi tên và cách thọ trì, có hai: Hỏi. Chỉ dạy. Đây là lời hỏi. Hỏi tên pháp môn. Hỏi cách thọ trì. Kinh: Thế Tôn dạy rằng… nên thọ trì như thế. Tán: Đây là lời dạy. Nêu chung một tên mà thọ trì, tức là cách thọ trì. Bất khả tư nghị tức là siêu việc sự suy lường của tình thức và ngôn ngữ. Tự tại tức là nhậm vận, nghóa là tự do; thần biến tức là diệu dụng của thông quả, chuyển biến vô cùng, không mà rõ ràng là có; giải thoát tức định quả vô lậu, thoát khỏi định chướng cho nên gọi là giải thoát. Hoặc cho rằng định quả là tự tại thần biến, chân như ly hệ gọi là giải thoát. Pháp môn là giáo năng thuyên, tức là giáo pháp hiển bày nghóa sở thuyên. Nên thọ trì như thế tưc là khuyên người tu học, lãnh thọ giáo pháp. Đây là đoạn thứ ba nói về việc lợi ích đã xong vui mừng lưu thông. Đạo từ nơi không có phiền não, lìa sầu bi khổ mà khởi, vì thế nên hoan hỷ. Thuận mà tâm tịnh, lưu giữ tại lòng, y đó mà lưu truyền tu tập, cho nên gọi là tin nhận, vâng theo đó mà hành trì. ***** Vào ngày 27 tháng 12, niên hiệu Hàm Thuần thứ ba. Bấy giờ ngài Khuy Cơ chưa từng đọc các chương sớ của cổ đức, nhưng do chư vị ở chùa Bình đẳng, huyện Đại nguyên, ở Tinh châu ép giảng bản xưa kinh này. Nhân lần giảng đó mà chế lời sớ trên, để nêu lên huyền chỉ. Lúc ấy, ban đêm thì soạn văn, sáng sớm thì giảng thuyết. Cứ tùy thời mà chẳng biếng trễ. Nhưng chưa từng xem hỏi lại, mãi đến tháng 7 niên hiệu Hàm Thuần thứ năm, nhân đến U minh ở đất Tô, lại được mời giảng bản dịch xưa kinh này, thì mới được đọc lại, xét thấy văn tuy sơ lược mà nghóa lại đầy đủ, lời tuy thô mà lý lại sâu xa. Nhưng vì thời gian bức bách, nên thật chưa được hoàn toàn. Nay kinh văn có những chỗ khác nhau, đều lược nêu lên, hân hạnh được chư vị lưu tâm xem đọc. (Dương Tín, ở chùa Hưng phước, viết vào tháng 5, niên hiệu Bảo An thứ hai) <篇>