<經 id="n1779">DUY MA KINH LƯỢC SỚ THÙY DỤ KÝ (QUYỂN 1 ~ 5) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN DUY-MA KINH LƯỢC SỚ THÙY DỤ KÝ LỜI TỰA Tổ ta, ngài Trí Giả sớ giảng kinh này lời văn khá dài rộng mà ngài Kinh Khê sao lại soạn ghi tóm tắt văn sớ giải ấy (Sớ gồm ba mươi bốn quyển được ghi lại còn ba quyển) là có ý cắt bớt ở sớ văn để những ai không rãnh rang đều được tường tận. Từ đó về sau, phần lược sớ được thạnh hành ở đời. Kẻ mới học đời sau nương lời ký mà sớ giải theo nhưng văn nghóa quẩn quanh khó nhớ khó hiểu. Lại ở chỗ nói lý sự thì lời ký không giải thích, thường thường nghe với tình riêng nên có nhiều lầm lạc. Đến như nghóa “y, chánh cùng có”thì nói là ngoài tâm không cảnh, khắp ở văn này sáng rõ như chỉ trên bàn tay, nhưng lại cho rằng vô tình không thành Phật. Đây là cái lầm thứ nhất. Về Thông tướng tam quán đã mịt mờ, ngôi vị không nhất định chỉ cho ai. Đây là cái lầm thứ hai. Ba thứ Yết-ma không căn cứ vào Luật bộ mà nói càng, ấy là cái lầm thứ ba. Thời nhà Chu, đạo Phật hưng thạnh mà sao lại sa như mưa. Đại sư chánh chỉ Phật sinh ở hai đời Trang vương mà lại lấy năm Chiêu Vương thứ hai mươi bốn mà giải. Đây là cái lầm thứ tư. Trong khoảng đó, tên gọi Phương Bá Liên Sư và thuyết Giảng Võ Luyện Binh không lường xuất xứ, nên có nhiều xuyên tạc. Đây là cái lầm thứ năm. Thảy tóm tắt gồm năm điều trái lẽ. Và người xưa có nói: “Con đã sinh Không tránh được nạn nước lửa là tội của mẹ, thành trẻ rồi không đến học thầy là tội của cha, đến thầy học hỏi mà tâm chí không thông là tội của thầy.” Đem chí ta khuyên răn dạy dỗ, sao được không từ chối mà diễn giải rộng ra. Nơi nào tối ý thì làm cho sáng tỏ, chỗ nào khuất lấp mịt mờ thì làm cho thông, khiến đạo của các ngài Trí Giả, Kinh Khê luôn sáng tỏ, như nhìn lên Thiên đình thấy rõ vầng dương. Vả lại không vì kẻ mê muội mà giảng nhiều nói rộng và cầm bút. Năm Đại Trung Tường Phù thứ tám, tại Thanh long Ất mão. Mùa Thu tháng chín, từ Tiền Đường ngồi thuyền buồm đi mãi về Tây để thăm bạn cũ là Phụ Thiềm ở Long Sơn-lan-nhã, Võ Khang, Ngô Hưng. Được chỗ cao ráo, lầu gác thênh thang bên suối rừng vắng vẻ. Ngó sang bên trái thì núi non chập chùng nối tiếp chùa Tiểu Sơn của ngài Pháp Dao “Cao tăng Pháp Dao trong năm Nguyên Gia đời Tống, thượng thư Thẩm Dẫn Chi thỉnh ngài đến ở chùa Tiểu Sơn tại Võ khang để soạn thuật Sớ kinh Niết-bàn…”, nhìn xuống là ấp cũ Phòng. Phong nép mình bên sườn núi (đất này có hai núi Phong Ngẫu, là nơi thuở xưa Ngô vương Phù Sai hỏi đạo Trọng Ni, Phòng Phong Hà Thú nói là vua họ Uông Mang đóng quân ở Ngẫu sơn) cảnh đã đẹp lại còn xa hẳn thế tục. Nhằm khi hương lửa rảnh rang bèn bày bút mực mà giải thích Lược sớ. Nếu phần ghi cũ của ngài Kinh Khê phù hợp với lược sớ thì tùy đoạn mà dẫn ra dùng. Lại có Pháp sư Đạo Xiêm là môn nhân của ngài Kinh Khê cũng từng soạn ký, tuy giải nghóa nhưng không viện dẫn chứng cứ. Hoặc hiện thời chọn lấy cái hay mà theo thì đều nêu rõ danh mục. Trân trọng phần xưa nay sàng lọc mà chú thích, đem hết tấm chân tình ghi truyền. Không phải trộm danh của Quách Tượng, cũng chẳng thể nói là Hướng Tú. Cầm bút từ ngày mười hai tháng mười đến ngày mười ba tháng mười hai soạn phẩm xong, gồm mười quyển tên là Thùy Dụ ký. Bởi noi theo đạo Ưu dụ, để chỉ cho con cháu khiến không ảnh hưởng năm lỗi trên mà thôi. Nếu đem trình trước các bậc Đại nhân thì tôi nào dám. Hoặc có người nói: Đám học trò thông minh tìm xem lời ký của ngài Kinh Khê ắt được ý sâu sắc, đâu đợi ông nói rõ mà sau mới hết nhầm, ấy thời công ông vô dụng! Nay xin đáp rằng, phàm đánh thức kẻ ngủ mê, nếu người dễ tỉnh thức thì gọi nhỏ, kẻ ngủ mê thì phải la to, mà công dụng đánh thức thì cũng là một. Ôi, ngài Kinh Khê thì dịu dàng gọi trước, còn tôi thì kêu lớn ở sau, đến khi kẻ học hết chướng sẽ tự thấy khác hay không khác mà thôi. --------------------------------- DUY-MA KINH LƯỢC SỚ THÙY DỤ KÝ Hán dịch: Tiền Đường, Sa-môn Thích Trí Viên thuật. <卷>QUYỂN 1 Giải thích Duy-ma Sớ có hai phần: Phần đầu gồm hai bài Tựa: Tựa của Lương Túc và bài Tựa của ngài Kinh Khê. Về văn tựa có tên tựa kinh Duy-ma Lược Sớ Tự. Duy-ma, nói đầy đủ là Duy-ma-cật, Hán dịch là Tịnh Danh, Tịnh tức là chân thân, Danh tức là ứng thân, Chân tức là lý được chứng, Ứng tức là thân hiện ra. Kinh là dạy về pháp và thường (luật). Pháp làm khuôn phép cho mọi người. Thường (luật) là các điều trăm vua không thay đổi. Đây là nói việc ngài Tịnh Danh giáo hóa nên gọi là kinh Duy-ma. Lược sớ là đối với rộng mà được tên, bởi lược bớt chỗ rườm rà mà tóm tắt điều cơ yếu, nên gọi là lược sớ. Tự là lời tựa, tức tự thuật nguyên do tóm tắt của ngài Kinh Khê, cho đến ý chỉ lập giáo của Thánh sư, nên gọi là Tựa. Nhưng, sáu chữ của tên Tựa gồm bốn lớp năng sở: Trước hết Duy-ma là sở thuyên, Kinh là năng thuyên. Đây chỉ cho ngài Tịnh Danh, hai thứ trên đều là sở giải, sớ là năng giải. Đây là lời ngài Trí Giả. Còn sớ là sở lược (được tóm tắt). Lược là Năng lược (hay tóm tắt). Đây thuộc ngài Kinh Khê. Bốn thứ trên là sở tự, còn Tự là Năng tự. Đây là Lương Túc gom lại sở Thuyên làm tên riêng của kinh, nên cũng gom cả sở giải mà làm tên riêng cho sớ. Lại dùng sở lược theo năng lược mà được tên. Phân chia ngọn ngành là như thế, nhưng tổng quát năm chữ trên là tên riêng của tựa, để phân biệt với những tựa khác. Chữ tự đó là tên chung. Kế nói về hiệu: Môn nhân Hàn lâm học só Thủ Hữu bổ khuyết Lương Túc thuật. Môn nhân, tức Đệ tử, là người học đạo với ngài Kinh Khê. Vì ngài Kinh Khê soạn tựa mà tự xưng là môn nhân. Hàn lâm, là theo pháp chế nhà Hán, các Thượng thư lang chủ việc làm văn chương, mỗi sáng túc trực ở nội đài tại Kiến lễ môn, được cung cấp cho áo lụa xanh, lụa trắng hoặc áo gấm và màng trướng chăn nệm, thông qua trung thu thái quan cung cấp việc ăn uống. Bởi cùng quan Hàn lâm hiện nay cũng giống mà quyền hành cũng không nhẹ hơn. Hàn Lâm Thể Yếu nói rằng: “Triều nhà Đường sửa việc cũ của hai nhà Lương, Trần, Cơ trung thư xá nhân Lục Viên chuyên nắm pháp chế đã chất vấn rằng: Tuy nói là cấm bớt cũng không phải là cần thiết. Nên Ôn Đại Nhã, Ngụy Trưng, Lý Bá Dược, Sầm Văn Bổn, Chữ Toại, Lương Hứa Kỉnh Tông Thượng Quan Nghi, lúc mới thảo chế chưa có danh hiệu này. Đến niên hiệu Càn Phong trở về sau mới gọi là Bắc môn học só. Lưu Ý Chi, Lưu Y Chi, Châu Tư Mậu, Nguyên Vạn Khoảnh, Phạm Lý Băng là đó, thì ở thiên triều là Tô Vi Đạo Vỹ Thừa Khánh sau đổi là Hàn lâm đãi chiếu, thì có Trương Thuyết, Lục Kiên, Trương Cửu Linh, Dư An Trinh nối tiếp nhau làm. Lại đổi là Hàn lâm cung phụng. Năm Khai Nguyên thứ hai mươi sáu thì Lưu Khiêm Quang Trương Ký làm Học só mới bắt đầu lập riêng viện Học só. Phàm học só không định bao nhiêu người do các quan khác sung vào, dưới từ hiệu Thư lang, trên đến Thượng thư các Tào đều được làm. Đã vào thì cùng ban hành tuyệt tích, không thuộc Lý tư, không liên hệ với Thường tham. Làm quan ba năm là mãn hạn. Bổ khuyết là nắm quyền cung phụng can gián. Kinh thi nói: “Cổn chức có thiếu sót chỉ có ông Trọng Sơn bổ chính”. Hoàng Triều đổi tên là Tư Gián. Nói Thủ Hữu Bổ Khuyết là quan thấp mà bậc cao thì gọi là hành, quan cao mà bậc thấp thì gọi là Thủ bậc và quan ngang nhau thì không nói Hành thủ. Nay là không nói Hàm nên không có bậc. Lương Túc tự là Kỉnh Chi trong bài phú Quá Cựu Viên có lời tựa nói: Ta lúc lên tám vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Sửu, trộm cướp vào Lạc Dương ở Tam Hà đốt phá sạch, nhân đó ta lánh thân về Đông, gởi thân ở Ngô việt, rồi dời về Ngân Ách được hai mươi năm. Vua lên ngôi ra chiếu gọi về kinh sư. Năm sau mùa hạ được bổ chức Đông cung hiệu Thư lang. Năm Vạn Lịch nói rằng: Đời Đường Đức Tông niên hiệu Trinh Nguyên thứ sáu (tức năm Canh ngọ) Lương Túc làm Bổ khuyết. Thôi Cung trong bài tựa Lương Quân Tập có nói: Ông sớm theo đạo Phật, mới sinh ra đã biết nghóa lý, kết ý làm văn, chí luôn ở đấy. Luận bàn cười nói thường để tâm ở Nhất thừa. Nên làm tựa về đạo Phật rất là tinh bác cổ súy ảnh hưởng rất lớn cho Phật giáo. Triều đình chuộng đức nên đã dùng ông làm thái tử Thị Độc. Nước chuộng Thật lục nên dùng ông làm sử quán, sửa sang gạn lọc phô bày thịnh đức của vua, nên dùng ông làm Hàn lâm học só, ba chức đồng lúc nên trách vụ ông ở triều đình rất quan trọng. Tuổi mới hơn bốn mươi mà cả Só lâm đều kính trọng. Dù đám Nhan Hồi, Hoàng Thúc cũng không sánh bằng. Lý Cao cảm trong lời tựa của Phú Tri kỷ nói rằng: Năm Trinh Nguyên thứ chín, Cao mới đến làm quan ở châu phủ. Tháng chín năm ấy cầm một bản văn chương vào yết kiến Hữu bổ khuyết an định lương quân. Đương lúc ấy, tiếng khen Lương quân đầy khắp thiên hạ. Đám người chúc từ cầu tiến dâng văn chương đến cửa Lương quân. Bởi không có thời gian rảnh Lương Quân biết lỗi người, cũng đã gặp nhau, bèn đối với Lý Cao có tình tương tri. Cho rằng Lý Cao có được cốt cách cổ văn, mong rằng tên Lý Cao bất hủ muôn đời, nên cho Lý Cao hầu cận bên mình. Mới đầu cho là có điểm tiến bộ, nhưng cũng chưa được may lắm. Tháng mười một, Lương quân ngã bệnh mà tạ thế. Trong đám bạn bè giao du, hàng công khanh thường thường đều bảo “Ta đã mượn danh tánh của Bổ khuyết Lương quân”. Do đó mà biết thì Lương quân mất vào tháng chín năm Trinh Quán thứ chín. Các cao Tăng ở hoàng triều truyền nhau rằng: Học trò ngài Kinh Khê làm quan ở triều đình thông đạt tuy nhiều, nhưng người được đạo thì chỉ có Học só Lương Túc. Kinh Thi có nói: Chỉ con chim thước có tổ, chỉ con chim Cưu bay đến ở. Lương quân thấm sâu Phật lý nên gọi thế. Ông từng san định Chỉ Quán làm sáu quyển, tuyển soạn thành một sách để truyền người đời sau, lại còn bổ chính chú thích giúp dễ dàng học hiểu. Khi soạn bài tựa này thì Lương quân ở đất Việt. Về văn bài tựa tức nói tóm lược. Về nguồn gốc bài tựa: Nói về ngài Trí Giả truyền nghiệp. Phần này có hai: Nói về ba việc nương nhau. Thánh không phải đạo thì không sinh, đạo không phải giáo thì không sáng, giáo không phải người thì không hành. Đó là ba việc nương nhau mà trụ. Bạch Hổ Thông nói: Thánh nhân là gì? Thánh là Thông, Đạo là Tiếng. Đạo không chỗ nào không thông, sáng không chỗ nào không chiếu. Nghe tiếng biết tình gọi đó là Thánh nhân. Nay nói Thánh là chứng, đoạn hoặc chứng lý nên gọi là Thánh. Đạo tức là lý. Do chứng lý mà thành Thánh, do đó Như Lai thành đạo ở tịch đạo tràng. Đạo không phải giáo thì không sáng, lý ấy tuy không nói năng, nhưng nhân nói mà ngộ lý. Do đó ngài Tịnh Danh hiện bày giáo ở Tỳ-da. Giáo không phải người thì không hành, là giáo phủ dụ khắp đời sau nhưng nếu không nương vào bốn y thì không do đâu để lưu hành. Do đó mà ngài Trí Giả làm Sớ ở Thiên Thai. Ba thứ ấy là lý, giáo, người. Bảo rằng ngộ lý mà thành Thánh, là do giáo mà ngộ lý, truyền giáo ắt phải do người, ba việc nương nhau nên gọi nương nhau mà trụ. Riêng chỉ người truyền đạo. Có hai: Nói ngài Tịnh Danh hiện bày giáo. Đạo có lớn nhỏ quyền thật nên ngài Tịnh Danh dùng hình thức tại gia mà hóa đạo được thành. Đạo rốt ráo chỉ có một, tùy cơ mà có sai khác, nên ở lý chân trung có khác. Cơ Tạng, Thông thì thấy Đản không quyền lý, có biệt cơ viên thì thấy Trung đạo thật lý. Tiểu thừa là lý tạng , còn Đại thừa thì gồm cả ba giáo. Đã căn duyên không phải một, thì ngộ đạo cũng không thuần là một. Do đó mà ngài Tịnh Danh hiện thân Cư só khen ba giáo là Đại thừa, chê tam tạng là Tiểu thừa, khen Viên thật, chê Thiên quyền, có ý khiến thẹn Tiểu mà mộ Đại, từ quyền vào thật mà thôi. Nói ngài Trí Giả truyền nghiệp. Lại có: Làm sớ trình bày kinh. Người có Thánh hiền sâu cạn, nên ngài Trí Giả lấy y đầu mà mở pháp. Người tức là bốn y. Y đầu tiên ở Hiền vị nên cạn, ba y kia ở Thánh vị nên sâu. Cả bốn y đều có thể hành giáo. Nay ngài Trí Giả dùng y đầu ở Hiền vị làm Sớ để thông kinh mở mang giáo pháp. Năm phẩm, sáu căn là y đầu, Thập trụ là y thứ hai, Thập hạnh, Thập hồi hướng là y thứ ba, Thập địa là y thứ tư. Đều gọi là y, là vì bên trong có đạo pháp có thể làm chỗ y chỉ cho trời, người. Đời mạt pháp được lợi. Về sau nhân nói lời Di ngôn túc tượng quên tượng, khiến kẻ hậu học được con đường chánh chân mà dạo cửa đạo nghóa. Song Phật hội họp những kẻ học đạo do ngài Tịnh Danh chủ trì, còn ngài Trí Giả có công truyền thụ sau khi Phật diệt độ. Đem Sớ văn này làm rõ ý kinh, khiến người dễ hiểu. Vì văn tự giải thoát nên nói: “Nhân nói lời di ngôn”. Quán thân thật tướng nên nói: “Túc tượng quên tượng”. Nói tượng là nói Chu dịch. Nay dùng thân để nói phân chia, không dùng văn tự để hại ý. Chu Dịch lược nêu rằng: Lời, sở dó để làm sáng rõ tượng, được tượng thì quên lời. Tượng, sở dó để tồn ý, được ý thì quên tượng, giúp khiến kẻ hậu học đời mạt pháp tìm đọc nghóa Sớ mà đạt được ý kinh. Được giải thoát, là nói con đường chân chánh để dạo chơi cửa đạo nghóa Phương đẳng. Kinh Dịch nói: Thành là tánh còn, còn cửa đạo nghóa. Nói Tổ Kinh Khê thuật lại: Tổ mà thuật lại, việc đó tồn tại, thì gọi người là Tổ, những gì thuật lại là pháp. Văn Tuyển nói: Tổ cấu thành nơi chốn, lời chú nói Tổ là pháp người là chỉ ngài Kinh Khê. Kinh Dịch nói: “Thần mà sáng là còn ở nơi người”. - Nói rộng lý do đặt tựa có hai: Lý do của chánh tựa, có hai: Chánh tựa: Tổ Kinh Khê thuật, có hai: Nói nối tông được ý chỉ, lại có hai: Khen tóm lược: Thiên thai, đại Tỳ-kheo Trạm Nhiên Công Toản là người nối pháp của ngài Trí Giả, thấu hiểu rất tinh diệu về Tỳ- da, học văn tự nhất quán, uyên bác về hội quy giải thoát. Đại Tỳ-kheo, Đại là lời tán dương, như ở đời có kẻ tự xưng là đại Sa-môn, đâu phải chỉ là tự kiêu căng thất lễ, cũng là hiện rõ cái lỗi thất học ngu si. Toản là rèn tập, Dận là nối giòng. Thám là biết, có được, Trách là sâu sắc. Tỳ-da, Hán dịch là Quảng nghiêm, tức kinh này được nói ở thành Quảng nghiêm, là biển sâu. Văn Tuyển nói: “Sâu hơn là vực thẳm”. Chú thích: vực thẳm là biển. Đây là do ngài Kinh Khê thừa tiếp Thiên Thai nghóa môn tìm ra chỉ thú kinh này, có thể thấu suốt cái sự cạn cợt của văn tự mà đạt đến cái lý sâu xa của giải thoát. Nói rộng về tựa. Ngày xưa chính Đại sư Trí Giả diễn nói kinh ấy đầy đủ nghóa Thiên Viên Tiệm Đốn, rốt ráo cái thể sinh tô của Phương đẳng, ý chỉ sâu xa, đạo lý tinh vi, lời nói vi diệu ở đây. Dùng lời sớ này không mê lầm, nên thường ở ngoài thì mở mang giáo, bên trong thì lắng trong soi chiếu . Có đến cả trăm người học đều quyết tới bến bờ. Diễn nói kinh ấy, tức nhận lời thỉnh cầu của Hoàng đế Tùy Dạng mà soạn giảng lời Sớ. Đầy đủ Thiên Viên… vì trong kinh chê Thiên trách Tiệm cả bốn giáo đều nói. Sinh tô là kinh Niết-bàn Phật nêu ra năm chất vị, dụ cho cả một đời giáo pháp. Từ trâu sinh ra sữa là dụ cho Phật mới nói kinh Hoa Nghiêm. Từ sữa sinh ra lạc là dụ cho thời Lộc uyển. Từ lạc sinh ra sinh tô là dụ cho thời Phương đẳng. Từ sinh tô sinh ra thục tô là dụ cho kinh Bát-nhã. Từ thục tô sinh ra đề hồ là dụ cho kinh Pháp hoa, Niết- bàn. Từ “kỳ chỉ…” là khen sớ văn chỉ thú sâu xa, đạo lý tinh vi. Lời nói vi diệu tức là lời sớ rất tinh vi. Hiện còn ở đời nên gọi là tư. Tư là đây. Dùng đây không mê lầm, tức dùng lời vi ngôn này, bên trong thì tu quán pháp, bên ngoài thì dạy dỗ kẻ hậu lai, tự hành hóa tha quyết không nghi hoặc. Ngoài thì mở mang giáo ấy, tức là giảng nói hóa tha. Trong thì lắng trong soi chiếu, tức là tự tu quán hành, nước tâm lắng trong, châu liền hiện rõ, nên nói là “lắng trong soi chiếu”. Lại chiếu tức là sáng, lắng trong là sạch. “Có cả trăm người”…”, là nói người học trong sạch mà đến quy ngưỡng ngài Kinh Khê như trở về nhà mình. Bờ nước gọi là nhai. - Nói tóm tắt về chỗ nương của nhân: Ngài từng bảo các môn đệ rằng tác phẩm của Tổ sư đạo rất nổi tiếng. Người thích gọn thì cho là quá rườm rà. Kẻ chọn tinh thì bảo là còn sót phần thô vụng. Ta muốn nhân trình bày giáo ấy sửa lại lược bớt, chỉ giữ phần tinh yếu, được chăng? Chúng đệ tử Tỳ-kheo đều đảnh lễ xin ngài làm việc đó. Do đó ngài chỉ nêu lời hoàn hảo lập thành mười quyển, không mất ý xưa, nghóa lại sáng rõ, cùng bộ trước lưu hành tên là Tịnh Danh Lược Sớ. Đạo ấy rất nổi tiếng, tức Sớ giải, đề kinh gồm cả sáu quyển. Đề gọi là Huyền. Sớ giải văn kinh đến hai mươi tám quyển, tên gọi là Văn. Tổng sớ giải gồm ba mươi bốn quyển, nên gọi là rất nổi tiếng “thậm trứ). Bản khác nói là rất lớn (Thậm đại) cũng thông. Thậm đại là tiếng lấy từ Chu dịch. Thậm trứ là tiếng lấy từ Văn Tuyển. Nhi thị … là nói lỗi lời Sớ quá rộng dài. Thị là tham, Giản là lược, gọn. Ngã dục… là nói muốn cắt gọn. Ta muốn nhân trình bày là nhân lời sớ cũ thành văn, nay muốn trình bày giáo, thì không phải là soạn bản khác. Sửa mà cắt bớt, tức là cắt bớt những lời rườm rà lộn xộn mà giữ lại những lời tinh yếu. Cho nên ngài Kinh Khê tự đề tựa rằng: “Cái nào mang ý nghóa thì giữ lời, rườm rà thì lược bớt”. Hà như là đem việc để hỏi có được chăng? Đệ tử…, tức chúng đồng tình nên cùng yêu cầu thực hiện. Nêu lấy lời hoàn hảo. Chữ Tước có hai nghóa là bỏ, và lấy. Nay nói: Trong phần Sớ dài thì lấy lời hoàn hảo riêng làm một bộ. Lời văn tuy ngắn gọn mà nghóa môn không đổi, nên nói là “Không mất ý xưa”, vì lời rườm đã lược bỏ, nên tinh nghóa càng sáng rõ, nên nói là nghóa lại sáng rõ. Cùng bộ trước … , đây là nói ngài Kinh Khê chỉ giữ lấy những lời hoàn hảo mà không bỏ lời Sớ cũ, bản mới có tên là lược so với bản cũ là quảng, khiến ai thích nói rộng thì tìm bản cũ, ai thích nói gọn thì theo bản mới. Nên cùng bộ trước lưu hành, là theo sở thích người đọc, đều như nhau. - Nói chung về đại ý lập giáo. Có hai: Nói về Tùy cơ lập giáo: Nguyên Thánh nhân có vị thấy rõ chúng sinh có căn khí không giống nhau, nên dùng bốn giáo, năm vị sắp dọc sắp ngang; có vị thấy muôn pháp giương thả không khác, nên dùng một đạo Nhất thừa hội nhau mà thành. Trong văn trước nói Thánh nhân xem cơ không bằng nhau. Thánh nhân tức là Phật, sinh sinh là quần sinh, cũng gọi là mọi người. Song, tất cả chúng sinh đều vốn có đủ một đạo bình đẳng không khác, chỉ do huân tập cạn sâu, nên mới có quyền thật, lợi độn khác nhau. Nên gọi là không bằng nhau. Cố dụng … , là nói Đức Phật tùy cơ nên có một đời giáo pháp. Trước dùng bốn vị điều cho thuần thục rồi sau mới dùng Pháp hoa hội về. Từ “bốn giáo… vó chi”, là nói bốn vị giáo. Năm vị luận dọc như kinh, bốn giáo luận ngang như vó. Sở dó Hoa Nghiêm có hai giáo, Lộc uyển chỉ một, Phương đẳng đủ bốn, Bát-nhã chỉ có ba là vì căn khí không đồng, kỳ thật bốn vị nêu đủ nói là năm. Hữu dó… là nói Pháp hoa giáo. Thỉ trương (thả giương) là thả và giương. Lễ Ký nói: Một giương một thả là đạo văn võ. Chú thích: dùng cung nỏ dụ cho người. Nếu cung nỏ giương lâu thì mất sức, còn thả lâu thì mất hình thể. Nay nói thả giương cũng là phế và hưng. Các pháp sinh diệt tánh nó nhất như, nên nói là không khác. Chỉ thời Pháp hoa trở về trước vì cơ khí không bằng nhau, nên chưa kham lời nói này. Cơ duyên đã thuần thục rồi thì Thiên, Tiểu cùng về, nên nói là hội nhau mà thành. Nói ý lập giáo. Có hai: Trước nói xưa và nay khác nhau. Song Thánh nhân tùy cảm mà đem lại lợi ích, nên giáo không thể Không khác, kẻ Hiền triết nhân cảm mà lập ngôn, nên nghiệp ấy không thể Không truyền. Phật dùng đức cao quý ở quả vị, chúng sinh hợp cơ nên nói là lợi kiến. Kinh Dịch nói: Rồng bay trên trời, đại nhân thấy có lợi. Không thể Không khác, đã tùy căn cơ của vật nên có năm thời bốn giáo khác nhau. Hiền triết tức ngài Trí Giả, nên soạn lời sớ để trình bày ý chỉ. Kinh Dịch nói: Soạn lời lập ngôn để giữ nghiệp. Không thể Không truyền tức là làm lợi cho đời mạt pháp, nên sớ nghóa không thể Không truyền trao. Triết là trí. Nói phó cơ là một: Xem thấy cơ cảm, thì Tỳ-da cùng Thiên thai, im lặng và nói tùy ngôi bậc không đồng, rộng hẹp có khác, nhưng việc phó cơ thuyết giáo chỉ xem là môït. Ngài Tịnh Danh im lặng ở Tỳ-da, ngài Trí Giả lập ngôn ở Thiên thai. Lập ngôn là soạn lời Sớ. Tả Truyện Mục Thúc có nói: “Thái thượng có lập đức, sau đó mới lập công, sau đó mới lập ngôn. Đây gọi là bất hư. Ngôi bậc không đồng, tức ngài Tịnh Danh là Thánh nhân bậc Đẳng giác, còn ngài Trí Giả thì chỉ là Hiền nhân năm phẩm. Rộng hẹp có khác, gồm có hai ý: Một là, im lặng là hẹp, gọn (lược), lập ngôn là rộng; hai là, ngài Kinh Khê là lược, gọn, ngài Trí Giả là rộng. Đều phó cơ hợp lẽ nên có cái khác này. Luận việc lợi vật thì thật không khác, nên kết rằng đến việc phó cơ thì bằng nhau. Quý là lường. Tự khiêm nhường nói ý mình: Nói khiêm: Tôi từng học kinh với Công môn (ngài Kinh Khê), lu- ận đạo cùng nghóa học, tuy dùi ngước không đến nhưng ngợi khen chưa đủ. Cho nên viết lời tựa này kể rõ việc ngài làm, xem là lời khen lớn. Học kinh với Công môn là học kinh nghóa ở cửa ngài Kinh Khê. Dùi ngước không tới, là trong Luận ngữ, Nhan Uyên khen ngài Khổng tử rằng: “Ngước lên thì to cao, mà dùi mài thì quá rắn. Nên nói là không đến”. Khen ngợi chưa đủ, là trong bài tựa Mao Thi có câu: “Nay Lương quân đã học kinh nhận được chỉ thú, lại thấy văn ngài Kinh Khê sửa ngắn gọn khen ngợi không đủ, nên soạn bài tựa này để thuật việc trước tác văn từ”. Ghi lại năm tháng: Văn sớ viết xong vào năm Giáp thìn. Thầy tôi từ Tấn lăng trở về Phật lũng vào mùa hạ. Giáp thìn tức đời Đường Đại Tông năm Quảng Đức thứ hai. Tấn lăng là tên huyện ở Thường châu, Phật lũng ở Thiên thai. Thần Ung Sơn có ký rằng: Từ chùa Tu thiền đi về hướng Nam hai trăm bộ, có tảng đá lớn bằng phẳng như cắt gọt thành. Các Cổ lão truyền rằng Phật thường ở đấy phóng quang nên gọi là Phật lũng, mùa Hạ ấy ngài Kinh Khê ở chùa Tu thiền. - Bài tựa của ngài Kinh Khê: Tên trước đây là Tự tự, không nên đặt thêm hiệu người trước thu- ật. Như Khổng An Quốc truyền bộ Thượng Thư, Đỗ Nguyên Khải tập giải bộ Xuân Thu, Hà Yến tập giải bộ Luận Ngữ đều làm tựa dẫn mà không viết tên mình. Vì ngài Kinh Khê biết rộng mà đề tên là trái phép trước. Do đó, bản xưa không đề hiệu tác giả. Bản ngày nay nếu có đề là do người sau dối thêm vào. Về Bản văn có: Nguyên do viết lời Sớ: Tùy Dạng đế, nhà Tùy gồm có ba. Vua là Cao Tổ, Văn Đế và Da- ïng Đế. Dụng Đế sau nhường ngôi cho nhà Đường. Cha của Cao Tổ thờ nhà Chu, làm Trụ quốc đại tướng quân, được phong Tùy quốc công. Văn Đế được nhà Chu nhường ngôi, do đó lấy quốc hiệu là Đại Tùy, liền truy tôn cho Hoàng Khảo (cha đã chết) là Võ Nguyên Hoàng đế. Dạng là tên thụy. Thụy Pháp nói: “Nghịch với trời, bạo ngược với dân gọi là Dạng Đế”. Bạch Hổ Thông nói: “Đức hợp với trời đất gọi là đế.” Hỏi: Dạng Đế và Trần Hậu Chủ đều theo học với ngài Thiên Thai sao lại vô đạo mà mất nước, Đại sư lẽ nào chẳng liên lụy hay sao? Đáp: Trước là thiện, sau là hung dẫn đến mất nước. Dù học với thầy nhưng hành không đến thì phải thế thôi. Nên Thư có nói: “Chỉ kẻ điên mới nghó mình làm Thánh, chỉ Thánh mới không nghó mình làm điên.” Cho nên tánh người tầm thường không thể Không cẩn thận. Bậc Thượng trí thì không như thế. Nên nói rằng: “Có trước có sau chỉ là Thánh nhân.” Cho nên làm bậy là ở người ấy, đâu nên trách thầy. Xưa Lý Tư học Nho với Tuân tử, Nguyên Tung học Phật với người mất tên. Lý Tư làm thừa tướng nước Tần mà chôn Nho đốt sách, Nguyên Tung phò nhà Chu diệt mà Thích hủy Phật, há lại quy tội cho thầy ư? Nhìn lại Hiền Thánh như Nghiêu, Thuấn, Chu công mà có con như Đơn Chu, Thương quân là hàng bất tiếu, có em như Quản Thúc, Thái Thúc là kẻ bất nhân, há là Nghiêu Thuấn Chu công dạy không tường tận ư? Văn Trung Tử nói: “Thi Thư thạnh hành mà nhà Tần mất, không phải là tội của Trọng Ni; Hư Huyền lớn mà nhà Tấn loạn, không phải là tội của Lão Đam; trai giới tu mà nhà Lương đổ, không phải là tội của Thích-ca. Lấy đây mà nói Tùy Dạng vô đạo, Hậu chủ hoang dâm không phải là tội của Trí Giả. Lại, Bồ-tát trụ ở Thủ-lăng-nghiêm hoặc hiện vô đạo hoặc hiện có đạo. Nếu hiện vô đạo thì làm gương xấu (gương vua nhà Ân) cho trăm vua, khiến họ phải lánh xa ác. Nếu hiện có đạo thì làm khuôn phép cho trăm vua, khiến họ làm thiện.” Như thế thì tùy căn mà lý ứng đâu cầu luận là kịp hay không kịp. Dạng Đế tên húy là Quảng, ở ngôi mười một năm, thọ năm mươi chín tuổi, niên hiệu Đại Nghiệp. Về văn sắc chế… , về sắc thì Văn tâm Điêu Long có nói. Nhà Hán xưa định phép có bốn bậc: Một là, Sách thư; hai là, Chế thư; ba là, Chiếu thư; bốn là, Giới sắc. Về Giới sắc thì ban khuyên răn xuống châu quận. Chiếu là khuyên bảo trăm quan. Chế là thi hành lịnh đại xá. Sách là để phong chọn Hầu vương. Chế là cắt bớt, chế tài, Chiếu là khuyên bảo. Sắc là sửa cho đúng. Nói tóm tắt sắc là sửa trị cho đúng. Nghóa là vua nói ra là đã sửa trị đúng, quần thần không dám sai trái. Đại để thì Chiếu và Chế đồng nhau. Đời Đường trong năm Trinh Quán bắt đầu dùng giấy vàng để viết Sắc chế. Đến Đường Cao Tông năm Thượng Nguyên thứ hai, vua ra chiếu rằng: “Chiếu và sắc được thi hành xem như vónh viễn, so việc dùng giấy trắng có nhiều mối mọt. Từ nay về sau quan Thượng thư ban xuống thiên hạ đều nên dùng giấy vàng.” Quốc thanh là tên chùa; Bách lục, là ngài Chương An ghi chép việc ra quy chế phép tắc của Đại sư Trí Giả khi còn sống và các chiếu sắc của vua chúa, các thư khải tấu trình của khanh tướng… có một trăm điều, gồm năm quyển, nhân chùa đặt tên nên gọi là Quốc thanh bách lục. Khi sao chép sớ thì Dạng Đế còn là vua nhà Tấn. Khi Đại sư mất thì mới lên ngôi. Nay theo lúc sau nên nói Dạng Đế và sắc văn. Đời Hán quy định Thiên tử thì ban sắc, hoàng hậu, hoàng thái tử thì ban lệnh, các vương thì ban giáo. “Thị giả …”, là gọi người cung phụng hầu hạ. Thị giả gặp lúc Đại sư nhập diệt nên chỉ ghi đến phẩm Phật đạo, tức là niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bảy. Biệt Truyện nói: Dạng Đế đối di cảo Tịnh Danh Sớ mà phát thệ rằng: “Xưa thân thờ ân Sư chưa được học hiểu. Nay thừa hành di chỉ, do đâu được ngộ. Kính mong ân Sư thùy từ ngầm dạy, khiến đọc văn liền hiểu…”. Đêm ấy, vua mộng thấy chư Tăng tập hợp trên gác, vua tự nói nghóa, giải thích vấn nạn lưu loát như nước chảy. Chợt thấy Tiên sư bay trên không mà đến, khoảnh khắc thả bảy hạt châu chiếu sáng trong gác rồi giả từ bay đi, nhân đó vua có chỗ ngộ. Lại Biệt Truyện ghi: Đại sư một đời giảng nói, không soạn chương sớ, chỉ vâng sắc vua soạn Tịnh Danh Sớ đến phẩm Phật Đạo có hai mươi tám quyển, còn phần sau tức Bất Nhị Môn, Hương Tích, Bồ-tát Hạnh, A-súc Phật Quốc, Pháp Cúng Dường, Chúc Lụy… sáu phẩm. Chương An là tên đất, húy là Quán Đảnh, kẻ hậu học tôn vinh nên chỉ nơi sinh ngài mà gọi tên. Song Đại sư Trí Giả biện tài luận giảng như mây bay, mưa đổ, có khả năng ghi và nhận chỉ duy nhất có Chương An. Nên các bộ giáo thuyết đều do ngài Chương An kết tập nhuận sắc. “Phần sơ văn…”, là nói nhân sửa gọn. Kẻ hậu học ngại nhiều. Truy tố là tăng và tục. Ở Ấn Độ y phục của Tăng phải nhuộm màu, y phục của thế tục thì để trắng, nên nói là truy tố. Phương này “Hán) lấy sáu nhập làm huyền, bảy nhập làm truy. Truy thật ra có sắc đen, vì hàng Thích tử phải mặc áo hoại sắc, không phải là ngũ phương chánh sắc và gián sắc. Nhưng hoại sắc thì gần với truy sắc, nên gọi là truy y (sắc áo nhà tu). Thật ra không phải là truy sắc. “Xem xét kỹ…”, Sớ này nói về ba quán bốn giáo ý chỉ sâu xa, lời cao siêu không phải chỗ ưa thích của người hiểu biết cạn cợt. “Chỉ rằng…”: Tuy đều cảm mến nhưng chỉ sợ quá dài rộng. “Cố triếp…”, là ngài Kinh Khê sửa ngắn gọn còn ba quyển. Trước là nói ghi lệ chung. Triếp là chuyện. Sớ là thị giả ghi lại thành, nên nói ghi mà lấy bỏ, là chỉ về lệ chung. “Mang nghóa… …”, câu đầu là lấy, câu kế là bỏ. “Khiến bản cũ…”, là chỉ phần được của lược sớ. Thứ nào đủ nghóa thì giữ lại, tức văn thể của lời sớ cũ rõ ràng không thay đổi. Tiên sư tức Trí Giả. “Nhiên tự… …” là nói Đại sư ngầm gia hộ. Nhiên là tên húy của ngài Kinh Khê. Xưa các Cao tăng khi lập ngôn làm tựa phần nhiều chỉ xưng một chữ. Như Tăng Hựu Hoằng Minh trong lời tựa nói: “Hựu tôi vì học kém”. Trong Niết-bàn Duyên Khởi, ngài Chương An làm tựa nói: Đảnh tôi bị bệnh ở Dự chương, tính là xem, tức là tự xét mình tài hèn biết hẹp tuy muốn rút gọn, nhưng sợ mất phép cũ của Tiên sư, tức nguyên bản. Quy là phép tắc, Mạnh tử nói: “Người thợ lớn dạy người, ắt dùng quy cũ”. Thường là từng. Phần đường tức là tháp của Đại sư, tiếng Phạm gọi là Tháp-bà, Hán dịch là Phương phần “mã vuông). Đàn Cung nói: “Xưa là mộ mà không đắp cao thì nay chỉ còn gò đất.” Người các phương Đông, Tây, Nam, Bắc không thể Không biết, do đó mà xây kín cao bốn thước. Nay nói Phần đường, là bởi ở phần mộ mà xây nhà lập tượng, tức nay là Thiên thai tháp viện. Biệt Truyện Đại sư ở phần Di chúc có nói: “Là đất nơi chôn cất sau khi chết, chất đá quanh thi hài, trồng cây tùng để che mát.” Xây tháp ở trước khiến người thấy thì phát tâm. Cầu trưng tức tìm tòi đòi hỏi, có chứng cớ. Song ngài Nhiên xin xâm việc tốt xấu. Nếu chỉ rõ có lưu ngại là chứng cớ xấu, thì biết việc rút gọn là không hợp ý Tiên sư. Nếu không có lưu ngại là chứng cớ tốt, thì biết việc rút gọn là đã ngầm phù hợp với ý chỉ trước. Thượng thư có Hưu Trưng và Cửu Trưng. Khổng Truyện có nói: Xin ứng nghiệm bày việc tốt xấu. Lưu ngại tức là các duyên bệnh hoạn. Hai tuần, mười ngày gọi là một tuần. Phẩm Phật Đạo chấm dứt ở đây, là nay lược sớ đã được chín quyển. Đã không có lưu ngại thì biết là khỏi ngầm trách nên viết xong nhanh phẩm Phật Đạo. Đâu không phải là ngầm gia hộ. Ninh là há, u minh đều chỉ Đại sư ở cảnh Thường tịch quang. Hỏi: Ngài Kinh Khê là gương sáng hiểu sâu, cắt cỏ nhặt hoa đảm đương đại pháp quả thật thuộc bản thân, đâu cần tìm chứng cớ để làm chuẩn cho sau này? Đáp: Có hai ý: Một là, nói không phải khinh dễ mà dùng để khích lệ đám hậu côn; hai là, bày việc khế hợp ý Sư để ngăn việc chê bai của người khác. Bởi cắt bỏ văn mà chứng tỏ mình lúc đó cạn hiểu thì luôn luôn có lỗi, xưa cũng như nay. Văn Trung tử nói Vương tử đọc kinh có người cho là có lỗi. Đem việc nước Tiết đứt nghóa họ Diệu nói với ông. Ông bùi ngùi than rằng muốn kẻ trí làm quấy ư? Ta muốn làm việc tốt nhưng trở thành có lỗi. Vậy là kẻ ngu làm quấy ư? Ta nào biết làm sao? “Từ thảng bì …”: Là nhún nhường nói ý mình. Hai câu đầu là nói ý, vã lại như phần lược sớ này giúp bổ khuyết tông chỉ Đại sư, khiến kẻ hậu học sáng suốt dễ hiểu, tránh được sự mờ tối dài dòng. Văn Tuyển nói: “Dấy binh hùng mạnh, nghiệp vương huy hoàng! Quang, tức là quang minh.” Chú thích rằng: “Sáng rõ võ tướng là lầm.” Chỉ thấy thiên Nhó Nhã ý nói rằng: “Quang quang củ củ võ dã”, đến nổi đã giải thích sai điều này. Hậu côn, trong Thượng thư Trọng Hủy Chi cật vấn rằng: Thùy dụ hậu côn (để lời dạy cho bọn sau). Trong truyện Khổng An Quốc có nói: “Để lại đạo ưu dụ dạy cho đời sau.” “Mong các… …” là tự nhún mình. Ký là trông mong. Thứ là tiếng nói: Dùng tâm độ vật gọi là thứ. Về sớ văn có đề mục, tức chánh nêu đề mục. Sớ là sớ giải, phán quyết. Làm thông suốt kinh văn, quyết chọn ý chỉ Phật nên gọi là sớ. Văn Tâm Điêu Long có nói: “Sớ là khắp, khắp đặt đầu mối muôn vật, tóm tắt nêu ý gần, nên gọi là sớ”. Tách biệt năng, sở, giải thích tên tựa đã rõ. Hỏi: Vì sao không đề tên Lược sớ? Đáp: Dưới đề đã ghi Sa-môn tên gì đã lược, nên trong đề không có chữ Lược. Hoặc thiếu hoặc đề là Lược sớ, thì dưới đề chỉ được viết tên mà thôi, thì lại không hợp có chữ rút gọn. Như Đỗ Dự chú giải truyện Xuân Thu trên, đã đề Xuân Thu Kinh Truyện Tập Giải, nên dưới chỉ viết hai chữ Đỗ thị. Hà Yến chú giải bộ Luận Ngữ chỉ đề là Luận Ngữ Đệ Nhất, nên dưới viết là Hà Yến tập giải. Nay Kinh Khê lập đề, ý giống Hà Yến. Nói tên Lược để khen. Trước nói người, kế nói người lược. Thiên thai là núi của Đại sư Trí Giả đã ở. Đào Ẩn Cư Chân đã hỏi: Núi cao mười tám ngàn trượng, chu vi tám trăm dặm, núi có tám lớp, bốn mặt đều như một, trên có ứng hiện một đài sao Đẩu ngưu, nên gọi là Thiên thai. Hai chữ Trí Giả tức là Gia hiệu của Đại sư. Thần Ung Thiên Thai Ký có nói: Dạng Đế lúc ở Phiền để là Tấn vương. Năm Khai Hoàng thứ chín, dẹp nhà Trần xong thỉnh Đại sư truyền cho giới Bồ-tát. Khi vương đã học giới bèn theo Địa Trì kinh phong hiệu Sư là Trí Giả. Đại sư, là ôn cũ biết mới nên gọi là Sư. Pháp Ngôn nói: Sư là gương mẫu của người. Tôn Khanh tử có nói: Thuật làm thầy có bốn: Tôn ng- hiêm đáng kính sợ có thể làm thầy. Già lão đáng tin có thể làm thầy. Đọc nói không lẫn lộn có thể làm thầy. Biết chứng cớ mà luận có thể làm thầy. Đại là tiếng tôn xưng. Duyệt, Văn Tâm Điêu Long nói: Duyệt là vui. Đoái là miệng lưỡi, nên nói ngôn tư duyệt duyệt. Kế lược về hiệu: Sa-môn, Hán dịch là Cần tức, nghóa là siêng làm các thiện, ngăn dứt các ác. Dứt ác nội giới, là Sa-môn của Tạng, Thông giáo. Thứ lớp dứt ác nội ngoại giới, là Sa-môn của Biệt giáo. Nhất tâm khắp Trung dứt các ác nội ngoại, là Sa-môn của Viên giáo. Kinh Khê tức là người ấy. Húy là Trạm Nhiên, họ Thúc thị, ông cha ở Kinh Khê tại Tấn Lăng, là người Thường châu. Người tôn kính giáo ngài nên lấy Kinh Khê làm hiệu, hơn hai mươi năm học kinh với ngài Tả Khê, lấy việc ở ẩn học đạo làm vui. Năm Thiên bảo thứ nhất mới vào Tăng tịch, lúc đó ngài ba mươi bảy tuổi. Ngài theo học luật với Luật sư Đàm Nhất ở Cối kê. Đầu tiên ngài ở Tấn lăng, Ngô quận, khoảng giữa ngài đến ở Ngũ đài, cuối cùng ngài về Thiên thai đều hành trì và giảng Chỉ Quán. Cuối năm Thiên Bảo đầu năm Đại Lịch có nhiều chiếu thư của vua quan liên tiếp mời ngài nhưng ngài đều từ bệnh không đến. Ngày mồng năm tháng hai năm Kiến Trung thứ ba, đời nhà Đường ghi ngài thị tịch ở tại đạo tràng Phật lũng. Ngài hưởng thọ bảy mươi hai, pháp lạp ba mươi bốn. Bình sinh ngài luôn nhặt nhạnh, biên tập giáo pháp, giải quyết các điều nghi trước, mở mang các trệ ngại sau. Các giảng truyền của một nhà đều do ngài truyền thuật gồm hơn trăm quyển được thạnh hành trên đời. Nên trong Hoàng Triều Cao Tăng truyện nói: Xét bắt đầu từ năm Thiên Bảo cuối cùng là năm Kiến Trung, ngài đem tâm tự chứng mà nói pháp chưa từng nghe, kinh chưa từng nói. Trong thời gian ngắn làm Phật sự lớn chỉ có mình Sư. Lược là cắt bớt lời rườm, giữ nguyên nghóa tinh yếu. Về bản văn. Có hai: Một là, khai chương; hai là, giải thích, có năm. Kinh độ Bất tận: Có chính nói Bất tận, lại có lược nêu bản dịch đời Tần, có năm bản dịch kinh này : Đời Hậu Hán, do Thanh tín só Nghiêm Phật Điều dịch một quyển, tên Cổ Duy-ma kinh. Đời Ngô Triều, do ngài Chi Khiêm dịch, hai quyển tên Duy- ma-cật Thuyết Bất Tư Nghì Pháp Môn kinh. Đời Tây Tấn, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch, một quyển tên Duy- ma-cật Sở Thuyết Pháp Môn. Đời Tây Tấn, do ngài Thúc Lan dịch, ba quyển, tên Tỳ-ma-la- cật kinh. Đời Diêu Tần, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch, ba quyển tức bản nay đang giải thích. Đến đời Đường, có Tam tạng Huyền Trang lại dịch, sáu quyển, tên Phật Thuyết Vô Cấu Xứng kinh. Ở đời nay có sáu bản dịch. Ngài Trí Giả ở đời Tùy chỉ thấy có năm bản dịch. Nói dịch, thì vua có chế rằng: Dân ở năm phương tiếng nói không thông, ham thích không đồng. Muốn thấu suốt ý chỉ hiểu rõ ham thích thì phương Đông gọi là Ký, phương Nam gọi là Tượng, phương Tây gọi là Địch vó, phương Bắc gọi là Dịch. Trịch Huyền chú rằng: Đều là tên nghe thấy ở thế tục căn cứ vào việc mà suy ra. Vó là biết. Nay Ký bộ có nói Địch vó, nay chung với tiếng phương Tây mà gọi là Dịch. Bởi đời Hán có nhiều việc với phương Bắc, mà quan viên phải thông giỏi cả tiếng phương Tây. Nên ngài Ma-đằng khi mới đến đã dịch bộ kinh Tứ Thập Nhị Chương. Lại có khi thêm vào chữ Phiên. Như Đại Tống Tăng Truyện có nói: Như lật ngược gấm lụa thì cả mặt và lưng đều có hoa, nhưng hoa ấy thấy ở hai bên phải trái mà thôi. Nay bản dịch của ngài La-thập tức là một trong năm bản dịch trên. Tiếng Phạm gọi là Cưu-ma-la-thập-bà, Hán dịch là Đồng Thọ, vốn là người Ấn Độ, đến đời Diêu Tần năm Hoằng Thủy thứ ba mới vào Trường an. Vua ra sắc tám trăm Sa-môn đến học ý chỉ ngài La-thập. Vua Tần xem nhẹ tâm Vạn thặng mà tôn trọng giáo Tam bảo, ở chùa Thảo đường cùng ba ngàn Tăng tay cầm kinh xưa mà tham định thì đều thông suốt ý chỉ. Ngài La-thập từ năm Hoằng Thủy thứ bốn đến năm Hoằng Thủy thứ mười một đã dịch đến chín mươi tám bộ kinh gồm bốn trăm hai mươi mốt quyển. Các ngài Tăng Duệ, Tăng Triệu, Đạo Thường… làm bút thọ. Kinh này được dịch vào năm Hoằng Thủy thứ tám. Nên ngài Tăng Triệu chú kinh Duy-ma trong bài tựa có nói: Vua Đại Tần mỗi khi vui đọc sách này đều xem là chỗ dừng tâm. Mà tiếc ngài Chi Trúc nói lý bị trệ ở văn, nên thường lo Huyền Tông bị đổ bởi người dịch. Vào năm Hoằng Thủy thứ tám, vua sai Đại tướng quân Thường Sơn, Công hữu tướng quân An Thành Hầu cùng một ngàn hai trăm Sa-môn Nghóa học đến Đại tự, Trường an thỉnh ngài Pháp sư La-thập dịch lại chánh bản. “Từ Tầm kinh… …” là Chọn nêu rộng lược, có hai: Các bản Phạm còn rộng, lại có nêu chung chứng cứ và “từ Như mạng… …” là dẫn văn nêu rõ. Đại sư tìm xem văn nghóa năm chỗ thì biết các bản Phạm ở Tây Độ cũng nhiều: Phẩm Đệ Tử. Phẩm Bồ-tát. Phẩm Thăm Bệnh. Phẩm Bất Nhị Môn. Hai phẩm Bồ-tát Hạnh và A-súc Phật. Đây là năm văn từ chưa dịch hết. Trong văn sẽ thứ lớp trình bày. Như thế năm trăm, tức phẩm Đệ Tử Phật sai cả mười vị. Kinh Gia Thúc nói: Như thế năm trăm vị Đại đệ tử mỗi mỗi đều nói đủ bản duyên. Cho đến tám ngàn vị, tức là ở phẩm Bồ-tát, Phật sai cả bốn vị, ở cuối kinh có nói: “Như thế, các Bồ-tát mỗi mỗi đều hướng về Phật nói rõ bản duyên của mình.” Hỏi: Ở cuối phẩm Bồ-tát chỉ nói các Bồ-tát, sao lại nói tám ngàn? Đáp: Ở đầu phẩm Thăm Bệnh, kinh nói: “Liền khi ấy có tám ngàn Bồ-tát và năm trăm Thanh văn đều muốn đi theo”, thì biết trong phẩm Bồ-tát Phật sai tám ngàn vị. “Từ không kham …” là cả năm trăm và tám ngàn vị đều nói không kham. Bản Phạm đều có lời này và ở phần sau của phẩm Thăm Bệnh. Ân cần vô lượng, tức ngài Văn-thù nói ý Phật vậy. Kinh nói: Đức Thế Tôn ân cần thăm hỏi vô lượng. Gồm tám… …” tức là phẩm Bất Nhị Môn. Tám ngàn vị Bồ-tát cùng đi theo vào thất nói điều mình chứng, cũng là “họp lọng bày kinh” chỉ có ba mươi hai vị mà thôi. Các điều luận nói này: nếu nói đủ là Văn-thù hỏi vô lượng. Kể hết tám ngàn Bất nhị pháp môn đâu chỉ nửa quyển. “Viên chí …”, tức là hai phẩm Bồ-tát Hạnh và A-súc Phật. Viên là nói, lời nói. Đến vườn Am-la, tức là ngài Tịnh Danh tay nâng đại chúng trở về vườn Am-la đối trước Phật trở về tông nói nghóa Phật quốc. Thượng Thư có nói: Đối là nói sự kết thúc của Thiên tử. Khổng An Quốc truyện nói: Đối là đáp. Đáp nhận lệnh khen ngợi. Luận bàn cao siêu qua lại. Vãng là hỏi, phục là đáp. Há cho rằng chỉ có mấy tờ, là ý nói văn hai phẩm rất nhiều. Trình bày tóm lược cõi này. Chấn Đán, hoặc Chân Đan, Chiên đan, Chỉ-nan đều là tiếng Phạm nói trại. Nếu căn cứ vào Hoa Nghiêm thì dịch là Hán địa (đất Hán). Lại trong Bà-sa có hai âm: Chi-na, Hán dịch là Văn vật quốc, tức khen ngợi phương này là đất áo mão văn vật. Chỉ-nan, Hán dịch là Biên bỉ, tức là nơi đày ải tội nhân ở đấy không phải là Trung Quốc. Tây Vức ký phiên là Ma-ha Chi-na tức là nước Đại Hán. Hoặc nói mặt trời mọc ở hướng Đông sắc nó như son (Đan). Nên nói là Chấn-đán. Chân-đan, đây là lời nói trại. “Sửa cắt lấy… …”, là các ngài Tam tạng ở phương Tây đều sửa lấy yếu nghóa Phạm văn mà dịch truyền ở cõi này, cho nên có năm bản dịch không giống nhau nhưng chỉ đến hai, ba quyển mà thôi. Chọn lấy hạng người tiêu biểu, là đệ tử thì sai mười vị, Bồ-tát thì sai bốn vị tiêu biểu. Vốn có năm trăm và tám ngàn mà chỉ nói phần chánh, còn thì lọc bỏ không nói. Đến việc thăm bệnh thì chỉ nói luận bàn cao siêu vô lượng, chỉ giữ có mấy tờ, đây đều là góp nhặt các cương yếu. Pháp sư Chiêu-đề-diễm nói: Kinh này truyền đến đây không đầy đủ. Ở Ấn Độ có đến năm trăm quyển gồm mười vạn bài kệ. “Vấn thử… …” là đối luận giải thích việc phương hại, có dẫn luận mà hỏi lại có dẫn luận hỏi. “đáp… …” y vào nghóa mà giải thích phương hại có: Bác xưa bày nay. Từ “cố luận… …” là dẫn luận bày nghóa. Trong văn trước dẫn luận. “Cố pháp… …” nay Thầy chỉ nghóa luận nói không cùng chung Nhị thừa, tức giống như không vào tay Nhị thừa. Tay dùng để nhận vật là tiêu biểu cho sức tin để nhận pháp. Hàng Nhị thừa Không nghe do đâu mà khởi tin, nên nói không vào tay. Tức là nói chung… ngài Kinh Khê nói: Đây là nói Cộng bộ, không liên quan gì đến Cộng giáo, nên hai cộng (cùng chung) này đều là cộng Nhị thừa. Bát- nhã Phương đẳng đều có Nhị thừa gọi là Cộng bộ, tên chung là Cộng giáo. Vì ba hạng người đồng học. Căn cứ tên, nêu chứng cớ: Ý hỏi “Hoa Nghiêm đề… …” không đâu chẳng gọi là nghó bàn. “Nay kinh đề …” là nói việc có tên ấy, sao lại bảo là Thích luận nói kinh chẳng nghó bàn không phải là kinh này? Đáp, có hai: Lệ đồng mà chất trái, lại không có tên riêng, nào ngại Hoa Ng- hiêm có tên khác gọi là chẳng nghó bàn. “Nhiên tế… …” là dẫn luận nêu lỗi. Chính việc Hoa Nghiêm, Tấn dịch Hoa Nghiêm là Minh thứ bốn mươi, Ưu-bà-di Hưu-xá là Thiện Tài nói pháp độ chúng sinh, tức đồng với Thích luận dẫn kinh chẳng nghó bàn nói Âu-xá-na… cho nên biết luận nói kinh chẳng nghó bàn nhất định là Hoa Nghiêm. “Nhược dẫn… …” là trong luận phàm dẫn kinh này đều nói là kinh Tỳ-ma-la-cật Sở Thuyết. Đây là do người đời thấy kinh này có một tên là chẳng nghó bàn giải thoát liền cho là Thích luận dẫn kinh chẳng nghó bàn. Việc chấp đã sai nên phải phá kỹ. Tóm lược phân văn, gồm có hai: Mở chương và giải thích theo. Trước nói các Sư giải thích. Thập Sinh gọi là La-thập và Đạo Sinh. “Nhi Triệu… …” tức ngài Tăng Triệu chú thích kinh có tên là “Giải thoát chẳng nghó bàn”, tên chùa Khai thiện tức là Pháp sư Trí Tạng. Tam Chứng Thành, tức là tay nâng đại chúng trở về Am-la đối trước Phật mà chứng thành. Từ “Nhược Trang Nghiêm …” là ngài Tăng Mân ở chùa Trang Nghiêm, ngài Pháp Vân ở chùa Quang trạch cùng ngài Trí Tạng ở chùa Khai thiện đều là người thời nhà Lương, lúc đó xưng là ba đại Pháp sư. Ba luận, tức là Trung luận, Bách luận và Thập nhị môn luận. Người xưa lưu truyền thạnh hành ba bộ luận này. Các Luận sư đất Bắc, tức Hà Tỷ Nhiếp Đại thừa sư. Phân tranh lâu dài, là loạn lạc lộn xộn lâu dài. Về phán xét của người nay, có nói ý mở chương: là nói ý đối xưa không chê quấy: “Kim tầm… …” y nay nói phải. “Bên kinh mở khoa…” ngài Kinh Khê nói ý muốn đều khác với hai Sư. Vì bên kinh nên khác các Thiền sư. Vì không chấp nên khác với Pháp sư. Phàm nói rất đầy đủ, là năm thời không đồng, nhưng vì hợp cơ nên có sai khác nên nói khác nguồn. Nguồn tức là sự mở rộng của nước “Lạm Tràng) dụ cho lúc mới đầu khế cơ. Tuy năm thời không đồng nhưng không có lỗi lầm về cơ. Nên được trước lành sau tốt, có đầy đủ ba ý: Tựa là tựa đầu của chánh thuyết. Lưu thông là thông suốt tông chánh thuyết. Cả ba thứ này không thể thiếu, nên nói là đầy đủ. “Nay căn cứ… …” là mở chương: “Chánh… …”, là y chương mà nói nghóa có chánh bày kinh, tức là chung nêu các kinh có ba đoạn. Từ xưa đến nay giải thích thẳng kinh văn không từng có chương tiết. Phân kinh ra làm ba đoạn, người đầu tiên là ngài Đạo An. Đời sau tuân hành nhân đó mà thành Luật. “Như muốn… …”, phàm dẫn ba kinh nói tướng mượn cớ, đều là mượn việc giả hiện điềm lành mà được nói pháp. Ánh sáng tạp sắc, là ánh sáng biểu thị cho Bát-nhã soi chiếu sáng suốt. Tạp là biểu thị các hạnh khác nhau. Dùng trí dẫn dắt các hạnh cùng hội về Nhất như, như ánh sáng chỉ chiếu sáng. Dùng hạnh theo trí, các hạnh đã khác nên trí cũng thế, như ánh sáng nhiều màu sắc. Ngài Kinh Khê nói trí Bát-nhã luôn chiếu sáng, nên dùng ánh sáng mà biểu thị. Do đó các kinh thường có phóng quang như trong kinh Pháp hoa. Phóng quang biểu thị cho Trung đạo, nên kinh Pháp hoa cả ba đoạn đều trung đạo. Như kinh Niết-bàn Thường phóng quang biểu thị cho thường, nên cả ba thứ cũng đều Thường. Cho nên biết kinh này hiện ra cõi nước nên biểu thị cả ba nước đều là cõi Phật. Hiểu sâu ý chỉ này thì các giáo đều sáng tỏ. Hỏi: Nếu thế thì sao Pháp hoa không lấy Trung đạo làm tông? Đáp: Giữ lý đồng biên không đâu không phải Nhất thừa. Nên nói là tựa, song tựa riêng có hiện điềm lành tự thuật, nếu lu- ận về nguyên do thì chỉ là điềm lành hiện tại và tự thuật chỉ là kể việc hiện điềm lành trước và gần xa hai nguyên do mà thôi. Lại có kinh hoặc không có tự thuật, nên nay chung nêu nghóa của tựa chỉ có ở điềm lành hiện tại. Kham nghe Thánh ý, ngài Kinh Khê nói: Nên biết, do hiện điềm lành làm động đến cơ duyên muôn vật, nên có tên Phát khởi là thế. Cũng như việc bác Tiểu chê Đại ở khi xưa, tuy không phải có hiện tướng điềm lành nhưng cũng biểu thị cho kinh này. Có điềm lành rực rỡ giúp thành việc hiện nay. Nghóa có chánh phụ, lý hợp trước bày. Không ủng không trệ, ngài Kinh Khê nói: Trệ là cách ngăn nội pháp, ủng là ngăn lấp ngoại sự, thông suốt đến các đời tượng, mạt đều được thấm đượm. Cho nên không ngăn lấp, đều là nhờ sức Như Lai. Nói chánh tượng là sau khi chư Phật diệt độ thì pháp có ba thời kỳ. Nay Đức Thích-ca có chánh pháp và Tượng pháp mỗi thời một ngàn năm, còn thời mạt pháp là một vạn năm. Lý, giáo, hạnh, quả bốn thứ đều đầy đủ như lúc Phật còn tại thế nên gọi là chánh pháp. Tuy có ba thứ trên nhưng hoàn toàn không có người chứng quả nên gọi là tượng pháp. Tượng là giống, tương tợ. Vì giống chánh pháp nên việc tu hành hiếm ít, nhưng giáo lý vẫn còn nguyên. Pháp đã kém rốt nên gọi là mạt pháp. Tư trạch là thấm đượm. “Từ nay khai …”, nay riêng căn cứ văn này phân ra chương tiết, có chánh phân ba đoạn, tức là “từ hỏi …” xuống là căn cứ tên mà giải thích mọi trở ngại. Ý hỏi, là hướng về nói rằng: Mười một phẩm đều nói cõi Phật nhân quả là chánh thuyết. Ý đáp, do Phật ấn định mới được thành kinh. Tuy tên gọi Duy-ma nhưng nghóa quy về cõi Phật. Dùng làm chánh thuyết mà được diệu chỉ của kinh. Trong phần đáp có hợp dụ về pháp. Bố chánh “khắp chánh), thì Hoàng Chúc có nói: Chánh là pháp chế “luật pháp). Trịnh Huyền chú giải Chu Lễ nói: Chánh là sửa đúng những việc chưa đúng, mà đại thần được thưởng, Thượng Thư nói: “Dùng quan khuyên gắng đức, dùng thưởng khuyên gắng công lao”. Chú giải rằng: “Gắng là khuyên gắng tức khuyên gắng đức thì dùng chức quan, khuyên gắng công thì dùng tặng thưởng”. “Tịnh Danh… phương” là chánh, Kinh Khê nói: Pháp có thể ấn định thì thành chánh kinh, người đâu thể ấn định thành Hóa chủ. Căn cứ ở quán tâm, là nếu không tự quán tâm thì như người nghèo đếm của báu. Giải thoát của chư Phật tìm từ tâm hạnh, nên nương nhờ pháp tướng để thành diệu quán. Trong văn dựa vào thứ lớp ba quán để nói ba phần. Tuy nói có thứ lớp nhưng ý đều quy về nhất tâm. Tâm tâm vắng lặng, Kinh Khê nói từ tên mà nương nghóa gần để lưu thông. Quán môn cũng thế, cho nên giải thích này có ba thứ khác với các nhà có sáu thứ. Khác với ngài La-thập và các Thiền sư. Biết văn bắt đầu và kết thúc, ngài Kinh Khê nói: Chương trước chương sau là ý như văn đã phân; hai là Tựa; ba là Chánh thuyết. Trong Chánh thuyết có ở ngoài thất, ở trong thất và ra thất. Trong phần ra thất lại phân không, giả, trung… Khác với Triệu sư. Nghóa không phải thế. Ở phẩm Pháp Cúng Dường thì Thiên đế khen ngợi việc hoằng kinh. Phật nói Pháp cúng dường là bậc nhất, thì phần lưu thông không liên quan gì đến chánh thuyết. Khác với Linh vị, có hỏi và đáp, lại có tổng chê, “Hà giả… …” là chánh phá đạo vương. Được lợi lớn nhỏ là khi hiện tịnh độ thì năm trăm vị được nhẫn và tám ngàn vị phát tâm được lợi ích lớn. Khi cõi hiện lại uế thì trời người được pháp Nhãn tịnh, Tỳ-kheo hết lậu, ý giải là được lợi nhỏ. Đương cơ biên đạo là lợi ích. Như đây vì sao lại bác bỏ nói là không chánh thuyết. Nên nói đâu phải bác phá làm tựa. Lại “từ Tịnh… Phật giáo” là nếu không có Phật ấn khả thì không được tên kinh. Cho nên biết ngài Tịnh Danh giúp Phật hoằng hóa. “Há có thể… …” là kết trách. Khác với chùa Khai thiện “Trí Tạng). Ông ấy dùng tựa, chánh thuyết và lưu thông tên ba phần ấy lại thêm chứng thành để làm phần thứ tư nên không thông dụng. Nếu thế ngài Chương An phân kinh Niết- bàn làm năm đoạn thì cũng không phải. Song phân chương tiết văn kinh quý ở chỗ hiển sáng nghóa lý. Kinh này phân làm ba, nghóa đã sáng thì cần gì phải là bốn. Còn ý chỉ kinh Niết-bàn nếu không năm thì không sáng, huống lại lập riêng danh tướng. Không phải đồng với Khai Thiện thêm đủ ba phần coi đó là bốn. Như nói một khi triệu thỉnh chúng Niết- bàn cho đến lần thứ năm phá nhiếp dụng, Niết-bàn… Khác với các sư Trang nghiêm. Có hỏi và đáp, tức nói đến phần tựa quấy và “lại dùng… …” là nói phần lưu thông quấy. Lại đối ngài Tịnh Danh… đến nhân quả, tức là phẩm A-súc, trở về Tông mà nói cõi Phật nhân quả. Tóm tắt kinh trước sau, thì cõi Phật là trước, A-súc là sau, mà đều nói về y báo. Tông chỉ như đây há là lưu thông. Qua phần trong thất, thì ở phẩm A-súc khi hiện nước Diệu hỷ, có mười bốn na-do-tha người phát tâm Bồ-đề. Phần trong thất, ở phẩm chẳng nghó bàn, khi ngài Ca-diếp buồn than chỉ có ba mươi hai ngàn Thiên tử phát tâm. Ở cuối phẩm Thăm Bệnh chỉ có tám ngàn người. Khác với các Sư Đại thừa ở phương Bắc, việc phương hại đồng như trước, dưới trừ ba chữ phẩm Phật Quốc. Luận về nghóa cõi Phật, có nói ý khai chương, cũng có bày ý và giải thích… phải nói là giải thích nghóa cõi Phật. Chữ “phẩm” ở đây e là lầm. Thỉnh hỏi nhân quả cõi Phật, ngài Kinh Khê nói: “Nguyện được nghe cõi Phật thanh tịnh là hỏi quả, rất mong nói cho hạnh tịnh độ là hỏi nhân. “Kinh này… …” là cần nói cho biết, nên dùng tám lớp giải thích. “Nay lược… …” là khai chương: Có nói chung về cõi Phật. Ngài Kinh Khê nói: “Nói chung, là chưa phân bốn lần.” Trong văn đối với kinh khác nói ý là kinh Phổ Tập. Chính vì kinh này làm tựa. Không tan hội ấy mà nói kinh này. Đó cũng như kinh Vô Lượng Nghóa làm tựa cho Pháp hoa. Đó là khai mà làm hợp tựa, đây là chánh báo làm tựa cho y báo. Tuy lúc đó bộ có ý khác, nhưng tựa là nghóa của chánh thuyết. “Song kinh Phổ Tập…” tuy không có cõi Phật nhưng văn ấy thật đã đầy đủ, vì nghóa nó dùng tướng y chánh theo nhau. Việc kinh này nói chỉ là lớp nêu rõ nghóa trước, không phải là cho kinh trước chỉ có chánh báo. Ngài Kinh Khê nói: Văn tuy chưa có nhưng nghóa đã đầy đủ, nay chỉ trình bày lại ý chỉ ấy mà thôi. Cần nói rộng y báo. Nay kinh này chính là nói quả của y báo, phụ luận chánh báo, bỏ phụ lấy chánh, nên nói y báo mà thôi. Còn văn sau các phẩm nói chánh báo không phải một. “Ngôn Phật… …” là dựa vào tên phẩm mà chánh giải thích: Dựa vào tên giải thích nghóa, lại có ước danh nghóa chánh giải thích: Chánh giải thích cõi Phật. Nói tên khác. Cũng gọi là Sát. Nói đủ là Sát-na, Hán dịch là độ (cõi nước). Đã nói muôn cảnh không đồng, bởi lấy Trang nghiêm khác nhau mà gọi là Sát. “Nhiên Quốc… …” là chia sự lý mà giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Cõi Thường tịch thuộc lý còn ba cõi kia thuộc sự. Sự tức ứng thân…, là báo tha thọ dụng và Thắng liệt ứng đều gọi là ứng. Vức “cõi) tức là ba cõi Cực trí tức báo tự thọ dụng, chỗ chiếu tức Tịch quang rốt ráo. “Nhi chí… …” là cùng giải thích hai thứ có ước vào sự lý mà cùng giải thích. “Chí lý rất trống vắng…, ngài Kinh Khê nói: Nói có nguyên do của sự. Song lý vốn tuyệt đối đãi há phân biệt hai thứ khác nhau mà nói có sự lý, thì đã thuộc sự rồi. “Bổn vô …”, Vốn “không” có dưới chẳng phải là lý trên, há lại có dưới chẳng phải là sự trên. Năng tức ứng thân hay ở, sở tức cõi tạm ở, sự lý đều không, thường ngầm tuyệt đối đãi. “Đản dó… …” tức lý tuyệt đối đãi thành sự tướng có đối đãi, cho nên ba thân bốn cõi khác nhau. Chân thân thì ở tịch lý, ứng thân thì ở sự độ. “Nhiên… …” nói lý sự liên quan nhau, đây nói bổn tích bởi chỉ thể và dụng. “Cố văn …” là dẫn chứng. Về dẫn kinh: “Tắc ứng …” là giải thích nghóa: Luôn vắng lặng như hư không thì bốn cõi cũng không có được, mà hiện ra các thứ bốn cõi cho rõ ràng nên phải đồng phàm Thánh mà hiện thân, hiện có bờ cõi ranh giới là hiện độ “cõi). “Phàm Thánh… …” là nói chỗ hiện hai báo khác nhau. Việc hiện tịnh uế cũng như thế. Như thị tức là theo lệ Phàm Thánh thì có cao thấp. Năm trược nhẹ nặng đồng cư tịnh uế, thể tích khéo vụng là hữu dư tịnh uế, thứ lớp đốn nhập là Thật báo tịnh uế, phần chứng rốt ráo là Tịch quang tịnh uế. Hiện thân mười giới gọi là khởi ứng chúng sinh. Bày bốn cõi nước gọi là cõi khởi ứng. Hoặc có …”: Bày phá chấp người khác, tức nói người khác chấp nghiêng lệch, mỗi người đều căn cứ vào một văn mà khởi chấp nhất định đâu biết rằng diệu lý bốn tánh vốn “không”. Hiện sinh ở đây như nói cõi nước là dân có vua ở đấy. Cõi nước do Phật có, như nói nước là vua có dân ở đấy. Ước bốn tánh chê phá, tức là bốn chấp đều quấy. Chúng sinh đối Phật, là hợp hai chấp trước. Không nhân mà có cõi, ngài Kinh Khê nói chấp tuy tánh lỗi vốn là lý. Độ sinh Phật lý cụ, Phàm Thánh nhất như chấp, là thành lỗi cho cõi, thể nào có lỗi. Nếu chấp thành lỗi thì tánh chấp cần phá. Tánh phá vẫn là từ sự mà nói. Phá ba thứ có thể thấy không cần luận riêng. Từ sự, nếu nói một mực không có tự tha “mình người) nên khiến chỗ chấp thành lỗi không nhân, đều là nghóa tùy tánh, tức hai thầy có chấp đã thuộc tự tha, hoặc chấp cùng lìa há sinh ra tánh chấp, nên nói đều đọa, giống như trước. Phá hết bốn tánh đã nói ở huyền nghóa. “Phải biết… …” là tùy cơ mà nói. Có Tất-đàn phó cơ…” tức là muốn khiến vui mừng sinh thiện phá ác mà ngộ đạo nên nêu tự tha, tịnh uế mà nói. Tất là nói khắp; Đàn dịch là thí, cho. Dùng bốn thứ này khắp thí cho chúng sinh gọi là bốn Tất-đàn. Rõ ràng như huyền nghóa. Riêng nói Phật quốc bốn tướng đã phân, nên nói riêng: Nêu chương luận bày, tức chỉ rộng nên chương tức Nhân-đà-la võng… như kinh Hoa Nghiêm nói các lưới Đế Thích lồng chiếu vào nhau rực rỡ. Đây là dụ cõi ấy sắc tâm không ngại, các cõi nhiếp nhau. Nhân-đà-la, Hán dịch là Đế, trong cung Đế Thích có thứ lưới này, mỗi mỗi mắt lưới đều có châu. Kinh Khê nói: Tức Nhân-đà-la, thì một độ nhiếp tất cả độ, nên có được cõi này khắp nhiếp hai cõi dưới, duy không thể nhiếp được phẩm Tịch quang thượng. Nghóa này đã thông, lý nào có khác, chuẩn theo đây mà nói trên hay nhiếp dưới thì cõi Hữu dư cũng nhiếp được cõi Đồng cư. Thể của hoặc nội ngoại, tướng nó khác nhau. Cho nên kẻ đoạn hoặc nội giới cùng kẻ chưa đoạn báo nó không giống nhau. Biệt Viên hai người ấy từ Địa trụ trở về trước quán đạo chưa thông vẫn chưa thấy lý. Cho nên luận tướng báo đó có hơn kém còn khác nhau, hai thứ trước sau ước vào thân mà luận bày. Cũng ứng cũng báo, Tiêm sư nói đó là Thắng ứng, nên cũng gọi là ứng, tha thọ dụng nên cũng gọi là báo. Đây là Bồ-tát Địa thượng hiện ra. Chỗ ở của Pháp thân vì là báo tự thọ dụng nên cũng thuộc Pháp thân. Quán Kinh Sớ có nói: Trí đã ngầm ứng không phải thân cũng không phải thân. “Nói nhiễm… …” là y chương chánh giải thích, có giải thích riêng các cõi có Đồng cư độ. Bàn về luận tướng có uế độ, tức giải thích tên. Nói về nhiễm tịnh là nêu chung. Cõi này tức là nhiễm tịnh uế độ. Còn An dưỡng là nhiễm tịnh tịnh độ. Về chín đạo, thì Tiêm sư nói chỉ là chín cõi, Phật là Hóa Chủ nên nói là chín. Đến nhiễm… …”: Là bày tướng. Phàm Thánh mỗi thứ có hai. Phàm tức sáu đạo, Thánh có ba thừa. Mỗi cái có hai là phàm thì khai thiện ác, Thánh thì khai quyền thật như trong văn đã nói. Từ “Thánh giả… …”: Là bốn quả là chỉ thẳng La-hán, tức Thanh văn pháp giới, Duyên giác khá biết. Từ Thông giáo …”: Là Bồ-tát pháp giới. Bồ-tát ba giáo này đều chỉ ngôi vị đã dứt tư hoặc, cùng La-hán ngang nhau. Báo thân còn ở đó, là tử phược đã hết nhưng quả phược cũng còn. “Ba thừa… tánh thân, tức ba người trên bỏ báo thân sinh của cõi Hữu dư. Nguyện sinh cõi Đồng cư, là hàng Nhị thừa đến đó sẽ chuyển làm Bồ-tát, nên hay nguyện sinh. “Nếu thật… …” là Địa trụ của Biệt, Viên giáo trở lên, thì gọi là Pháp thân Bồ-tát, đều sinh cõi Thật báo. Bậc Diệu giác cực quả thì ở cõi Tịch quang. Đây là ước cõi Tịch quang rốt ráo. Ứng sinh cõi Đồng cư, là như mặt trăng hiện trong nước không mưu tính mà đến cho nên gọi là Ứng sinh, không giống do nguyện kép dắt tác ý mà sinh. “Là Đẳng… …” là kết danh. Minh… …” là tịnh độ: Là chỉ cõi An dưỡng, chánh giải thích, chưa ắt đều là người được đạo, nghóa không phải chỉ có Thánh nhân ba thừa được sinh, mà phàm phu cũng được sinh, nên nói là chưa ắt.. “cho nên kinh …” là dẫn kinh Vô Lượng Thọ ở văn Hạ phẩm làm chứng là phàm phu được sinh. Chỉ vì… …” là kết danh: Chỉ không có bốn ác trọng nhiễm, nên được tên tịnh. Kỳ thật cũng có hàng trời người khinh nhiễm nên gọi là Nhiễm tịnh tịnh độ. Lại có thể gọi tên nhiễm tịnh ước chánh báo, tên tịnh uế ước y báo. Hai độ phàm Thánh cùng ở chung, gọi là nhiễm tịnh. Cõi này cát đá đầy dẫy nên riêng chịu tên uế, cõi kia vàng ngọc trang nghiêm nên riêng nhận tên tịnh. Đây tuy không nói, các văn khác đều nói. “Nêu đây …” là nói gồm nhiếp nhiều loại. Văn sau nói: Có người nói: Kinh nói hai mươi bảy phẩm tịnh độ, cõi Vô lượng thọ chỉ là thứ sáu. Từ “Pháp hoa… …” tức ngài Thân Tử… ở vị lai thành Phật đều chỉ cõi Đồng cư. “Hỏi… …” là liệu giản, tức chọn kinh giáo làm chứng. Luận Tư Ích thì Tiêm sư nói chữ luận e đây sai lầm. Kinh Tư Ích Đệ Nhất có nói. Ở Đông phương có nước tên là Thanh khiết, Phật hiệu Nhật Nguyệt Quang, có Bồ-tát Phạm Thiên tên là Tư Ích trụ bậc không thoái chuyển, bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con muốn đến thế giới Ta-bà, nơi ở của Phật Thích-ca Mâu-ni viếng thăm cúng dường gần gũi học hỏi.” Đức Phật bảo: “Nay chính là lúc ông có thể đến đó ông nên dùng mười pháp dạo đến cõi ấy. Những gì là mười? Đối với chê, khen tâm không tăng, giảm. Nghe thiện, nghe ác tâm không phân biệt. Đối với người trí kẻ ngu luôn dùng tâm Bi. Đối với các chúng sinh thượng, trung, hạ tâm luôn bình đẳng. Đối với kẻ khinh chê, cúng dường tâm luôn không hai. Đối với việc người khác thiếu sót lỗi lầm luôn không thấy lỗi người ấy. Thấy các thừa đều là Nhất thừa. Nghe ba đường ác cũng không kinh sợ. Đối các Bồ-tát tưởng là Như Lai. Phật ra đời ở năm uế trược nghó là việc hiếm có. Phạm thiên hãy dùng mười pháp này mà dạo đến thế giới đó.” Khi đó Bồ-tát bạch Phật rằng: “Con được lợi lớn là không sinh làm các chúng sinh ác như thế.” Phật bảo: “Này thiện nam! Chớ nên nói như thế. Vì sao? Vì ở trong cõi nước này trăm ngàn kiếp tịnh tu Phạm hạnh không bằng ở cõi ấy từ sáng đến giờ cơm trưa, mà tâm không sân ngại thì có phước hơn nhiều.” Chọn tu nhân tịnh độ: Hỏi: Do uế mà rất sai khác, ngài Kinh Khê nói: Nhân ấy đã đồng, nên quả ấy không khác. Như uế độ mà nhân thiện, thì quả là báo trời người. Trong các tịnh độ cũng có mười điều thiện, vì sao báo ấy cùng cõi này trái hẳn? Đáp ý: Ngài Kinh Khê nói: Tên đồng; sự đồng mà giải khác, nguyện khác, nhưng chỉ thiện là một. Đối với chỉ thiện thì càng gia tu nguyện hạnh, nên khiến các cõi nước bậc cao thấp không đồng, trời người tên đồng, tùy độ mà nghóa khác. Nói hai xứ là lại lấy tịnh uế đối nhau mà luận. Cõi Hữu dư: Nói về luận tướng: Trong văn trước giải nghóa hữu dư, sau đó giải nghóa phương tiện, thông hoặc tuy đã trừ nhưng biệt hoặc hãy còn, nên gọi là Hữu dư. Bảy thứ sinh tử: Phần đoạn, nghóa là quả báo ở ba cõi. Lưu lai, tức lúc đầu mê chân. Phản xuất, tức lúc đầu tiên bối vọng. Phương tiện, tức là vào diệt của Nhị thừa. Nhân duyên, tức Sơ địa trở lên. Hữu hậu, tức là Địa thứ mười. Vô hậu, tức là tâm kim cang. Xét chọn báo ba cõi: Về giải thích nghóa tức giải thích quả báo. Tức là Hoa tạng, tức là Hoa nghiêm. Nói về Liên hoa tạng thế giới hải, tức tướng cõi này. Nhuận thấm nghiệp vô lậu, tức là phần chứng Trung trí, không rơi rớt vào hai biên, gọi là nghiệp vô lậu. “Dùng quán… …” gồm luận về tên khác có chánh chỉ tên khác. Vì cõi quả báo cũng gọi là Thật báo vô chướng ngại, nên đây giải thích, nên biết. Tên này từ nhân quả mà được tên. Trong văn trước giải thích Thật báo, kế giải thích vô chướng ngại. Chữ thật là ở nhân, chữ báo là ở quả. Vì quán thật tướng, đây nói danh tự quán hành tương tợ vị đều là viên nhân. Đây là giải thích chữ thật. “Phát chân …”: Sơ trụ phần chứng gọi là viên quả, đây là giải thích chữ báo. Từ “sắc tâm …” là giải thích nghóa vô chướng ngại, nghóa là Tu nhân vô ngại thì được quả vô ngại, nhân quả đều không chướng ngại. Tu nhân vô định thì thấu suốt sắc do tâm tạo, toàn sắc là tâm, tâm tánh dung thông. Toàn tâm là sắc, sắc tâm không hai, thì do đâu mà chấp nhất định. Đây là nhân khắc quả mà có thể sắc tâm vô ngại, y báo và chánh báo dung nhau. Ngài Kinh Khê nói: Vì khi tu nhân thì cảnh tịnh uế dung nhau không thể dùng một tên khác, nên nói là vô định “không nhất định). “Nói vô… …” là rộng giải thích vô ngại: Trước giải thích nghóa vô ngại. “Thử danh… …” biển lấy to rộng làm nghóa, tạng lấy bao gồm làm tên, hai thứ đều khắp, nên nói là như biển, lớp lớp vô tận nên gọi là tạng. “Biệt giáo… …” nói về người có khả năng nhập: Trước là nói rộng về Biệt địa, tiếp đến là lược nêu Viên trụ, chỗ chứng ngang nhau cần phải song hành. Về Biệt địa có bảy, đều gọi là tịnh, là vì thể tướng dụng nhân quả đều lìa vô minh hoặc nhiễm. Ngài Kinh Khê nói: Sơ địa… có bảy tịnh, đây là nghóa của các nhà hiện có: Một là, đồng thể, tức mười phương đồng thể và bốn cõi đồng thể. Độ này tức mười phương, nên nói một tức tất cả. Mười phương độ này, nên nói tất cả tức một. Lại một tức tất cả, là một độ tức ba cõi. Tất cả tức một, là ba cõi tức một độ. Cho nên do đó mà y chánh cùng ở một tâm, một tâm há phân năng sở, cho nên được rộng hẹp cùng khắp, lý sự dung nhau. Nên biết thể gồm y chánh và cả tự tha. Từ thứ hai đến thứ năm lại riêng nói. Tiền ngũ……” là tóm tắt bảy tịnh trước để làm ba pháp là thể, nhân, quả. Trong thể phân nhỏ thì có tướng, dụng khác nhau. Ngài Kinh Khê nói: Năm thứ trước thể đầy đủ là thể ở độ đầu tiên, nên từ một đến bốn đều thành tựu thể. Đây chỉ thành tựu chánh báo mà thôi. Cho nên cần chỗ ở của y báo thứ năm. y chánh đầy đủ, nên gọi là thể đầy đủ. Lại do bốn thứ trước trang nghiêm ở thể, nên khiến thể thứ nhất có tướng có dụng. Ba và năm thuộc tướng là ba tướng chánh báo, năm tướng y báo. Hai và bốn thuộc dụng là hai dụng lợi tha, bốn dụng tự lợi. Nếu thế thì tướng dụng phải thứ lớp, sao lại xen tạp? Đáp: Y chánh tuy lại đều thông, tự tha một mực theo phương tiện cho nên riêng đối nhau. Sáu và bảy tuy nói là nhân tròn quả đủ đã cho Sơ địa đủ cả bảy tịnh, lại là Sơ địa đối với Địa trước, để lập nhân quả, tức nhân tròn này gọi là quả đủ. “Sơ trụ… …” là lược nêu Viên trụ. Từ hỏi …” là y cứ vào giáo mượn Biệt mà gọi Viên, nên nói là Tam hiền. Nếu căn cứ Viên vị thì kỳ thật sơ trụ đã là Thánh vị. Tịch quang: Nếu giải nghóa thì chỉ rõ danh nghóa Tịch quang, lại có chỉ quả mà lược bày… Cực trí chiếu soi, là ba phẩm Tịch Quang đều gọi là Thượng phẩm, còn Trung hạ Tịch quang thì thuộc ở quả báo. Chọn Tiểu nói rõ tức là trí tánh chân tịch. Ngài Kinh Khê nói: “Trí là hay soi chiếu, lấy năng giải thích sở, ý muốn hiển bày đồng. Kế tiếp “Bất đồng… …” là nói về khác thể. Vì cảnh khác trí nên nói thiên chân, dẫn kinh Niết-bàn cũng chứng đồng trí. Kế tiếp “kinh này… …” nói nguyên do chứng đồng, chỉ tánh vô minh mà làm thể của trí. Trí này là cảnh, đây là thể mới đồng. Vì tánh vô minh cũng là tánh cảnh, cho nên từ chẳng nghó bàn …” là kết thành tên cảnh. Vì những giải thích vừa rồi đều thông trí cảnh, nên nay kết cảnh còn từ nơi cảnh. “Chỉ chân… …” là hiển bày y chánh không hai. Ngài Kinh Khê nói: Xét kỹ ý này đến các văn sau và dùng giáo môn để nói nghóa độ, đều dùng ý này mà trình bày lý đó mới hết. Nay bảo: Đã nói rằng lìa thân không có độ, khi thân thành Phật thì độ há không thành? Đã nói rằng lìa độ không có thân thì nói độ thành Phật đâu có gì trái nhau? Nhất tâm đầy đủ suy lường sâu sắc, không quá vọng tình mà cưỡng phân các thứ khác nhau. “Kim cang… …” là dẫn chứng. Tiêm sư nói: Thiên Thân luận, quyển thượng có kệ: “Trí tập duy thức thông… ”. Ngài Thiên Thân giải thích rằng: Đây là nói chân độ, chư Phật không có việc cõi Trang ng- hiêm, chư Phật chỉ có trí tuệ chân thật. Tập thức thông suốt, đó là tu tập trí vô phân biệt. Vì thông suốt tánh Duy thức chân thật. Như thế mà lấy tịnh độ tức tu trí tập Duy thức thông này. Hàng Bồ-tát bèn lấy được quả tịnh độ. Không phải hình đệ nhất thể, câu này là nói thể của tịnh độ: Không tự sinh diệt là hình của tịnh độ, bèn dùng chân thật Đệ nhất nghóa lý làm thể cho tịnh độ. Không phải trang nghiêm mà trang nghiêm là luận về hai thứ trang nghiêm. Một là, hình tướng độ, tức là tịnh độ chim, cây rừng… là sự Trang nghiêm; hai là, pháp tánh độ tức là chứng chánh trí, khế hợp chân như vô lậu công đức, không có hình tướng là trang nghiêm. Nay lại giúp giải thích không phải là sự trang nghiêm mà là lý trang nghiêm, cho nên nói không phải trang nghiêm mà trang nghiêm. “Vấn xuất… …” là bằng vào giáo. Rốt ráo của tâm tịnh, là tâm tịnh dựa vào tu chung ở năm tức, rốt ráo tột cùng. “Hỏi kinh… …” là đặt câu hỏi chọn chung có dựa vào giáo này nói đầy đủ có hỏi và đáp. Trước hết là các giáo bài xích chung. Kế “chánh như… …” là ước nghóa đầy đủ của kinh này. Từ “văn nói …” bốn câu kinh văn thứ lớp đối bốn cõi. Câu đầu tức cõi Đồng cư, là nội giới cụ phược “ phàm phu” chưa thấy chân lý, tâm thần tán động, thiện ác không chừng. Bồ-tát phương tiện quán xét nó là sinh hay thục, nếu sinh thì dùng uế nếu thục thì dùng tịnh. Câu kế tức cõi Hữu dư , Nhị thừa hai giáo, Bồ-tát ba giáo, nội giới hoặc dứt đều gọi là điều phục. Đã ra khỏi ba cõi tức phải có độ, nên gọi là hữu dư. Câu ba tức cõi quả Báo sơ trụ trở lên phá các hoặc vô minh, phần chứng được Trung trí gọi là nhập Phật tuệ. Câu bốn tức cõi Tịch quang, tức ở căn trần đã thấu suốt ba đế, đầy đủ không giảm bớt, ở thường của Như Lai, thế nên khởi căn, tức Tịch quang độ. Rõ ràng và tương tợ, là kinh có tên cõi gồm những người được hóa độ… tên tuy khác nhưng nghóa đã ngầm phù hợp. Nay giải thích riêng, trong phần đầu của lời Sớ sau lấy Đồng cư gọi chung bốn câu “bốn trường hợp). Kế dùng bốn câu suốt đối bốn cõi. Nay là ý kế. Đối kinh khác mà luận nghóa: Đối kinh Pháp hoa nói kinh này ngầm nhập, dựa vào hiển giáo mà đặt câu hỏi. Ngài Kinh Khê nói: Giải thích nghóa trái kinh lý nó ở đâu. Theo giáo hiển lộ mà nói thì trước kinh Pháp hoa không nói có chỗ sinh của Nhị thừa. Ngầm hiểu mà đáp giải thích: Nói ngầm ngộ cõi được sinh. Phật dùng một âm…, ngài Kinh Khê nói: Nên dựa vào Mật giáo một âm hiểu khác, tức chung cả hiển bí hai thứ bất định. Giải ngang, như trước đã dẫn văn kinh Pháp hoa, chỉ có độ này mà thấy có hai. Cho nên Cơ Tiểu thừa thì bác bỏ cái thấy tịnh mà không kinh sợ, khi ấn chân xuống đất tức có việc này. Đối Đại dọc nói Tiểu, nhưng vẫn hiểu ngang. Chuẩn vào chánh lý không nghe là hơn. “Ngang dọc …” là nêu rõ Phật tự tại. Luận về dọc rõ thật như đã hỏi. Luận về ngang ngầm nhập để nói chỗ sinh của Nhị thừa. Dọc không ngại ngang, ngang không ngại dọc. Hiển mật lợi vật nên nói là vô ngại. “Hỏi nếu… “ là đối kinh Hoa Nghiêm bày nghóa bốn cõi đều gồm hai. Trước nói bốn nghóa gồm thâu. Hỏi mười thứ Cõi Phật và đáp hai mươi bảy phẩm là dẫn thứ khác để giải mà không chỉ kinh. “Hỏi nếu… “ là nói đối giáo cần bốn thứ. Có hai là hỏi và đáp, tức là nói mười cõi… hoàn toàn có kinh. Đối với bốn giáo không như bốn cõi nên bày ý khó thấy. Thác là đặt bày. Nói muốn đối bốn giáo, là căn cứ vào văn chỉ quán mà dạy. Đối cõi có ngang có dọc. Đối ngang thì Đồng cư dùng Tạng giáo, Phương tiện dùng Thông giáo, Thật báo dùng Biệt giáo, Tịch quang dùng Viên giáo. Đối dọc thì Đồng cư dùng bốn, Phương tiện dùng ba, Thật báo dùng hai, Tịch quang dùng Viên giáo. Dọc thì căn cứ lập giáo đối cơ, cơ có tăng giảm không đồng, đến nổi khiến giáo có sai khác. Bốn cõi (độ) đối giáo hơn kém nhiều ít, nên gọi là ngang. Hỏi: Trong cõi Phương tiện đã không có thông hoặc, sao cần phải Thông giáo hai nghóa ngang dọc đều gọi là dùng Thông? Đáp: Đại thừa sơ môn phải điều phục cơ mà nhập Đốn là biết có học cũ không phải dùng đoạn hoặc. Như các Thanh văn đến hội Phương đẳng khắp chê trách xong, thì đều quen với thông môn. Nếu đến hội Phương đẳng thì ắt phải đến hội Pháp hoa. Ở cõi Phương tiện cần Thông giáo, đây là căn cứ ở người không nhập hội Phương đẳng. Hỏi: Nếu thế, Thật báo cần gì phải dùng biệt? Đáp: Căn cứ dạy đạo thì nói, chứng đạo ắt không. Hỏi: Tịch quang đã cùng cực sao cần phải dùng giáo? Đáp: Giáo khắp Trung hạ, không khắp rốt ráo. Sơ trụ trở lên gọi là hạ, Đẳng giác gọi là trung, diệu giác là thượng. Lại Thập địa gọi là hạ, Đẳng giác gọi là trung, diệu giác gọi là thượng. Đầy đủ như văn sau. Nói tu nhân cõi Phật: Y kinh tổng lập, tức nói về chỉ kinh. “Y nhân… …” là chính nói y nhân. Ngang ước mười bảy. Ngang tức là ngang trải các hạnh tu nhân có mười bảy pháp. Tức kinh nói: Trực tâm là tịnh độ của Bồ-tát, cho đến thập thiện là tịnh độ của Bồ-tát. Dọc căn cứ mười hai. Dọc nghóa là từ cạn đến sâu. Dọc cùng nguồn tâm, mười ba phen giúp nhau thành nhân tịnh độ. Tức kinh nói: Tùy trực tâm của mình thì có thể phát hành. Cho đến tùy tâm ấy tịnh tức tất cả công đức tịnh. Mà thứ dọc ngang này, hai phen đều nói dựa vào chánh nhân để nói y nhân. Ngài Kinh Khê nói cho nên biết. Trực tâm cho đến thập thiện cũng gọi là chánh nhân, cũng gọi là y nhân. Y nhân hai thứ tự lợi lợi tha. Nay cái chánh báo này phải vì người khác mà nhận lấy độ, tự tha cùng thành nghóa độ mới đầy đủ. Tùy cơ riêng nói thời bất đồng mà thôi. Cho nên lợi vật y nhân do có thêm nguyện riêng. Cho nên Bồ-tát làm một nhân có hai hướng: Trên là cầu vì mình, dưới hóa độ thành tựu người khác. Trong phần hạ hóa, phân thành hai thứ y chánh khác nhau. Tự hành và lợi vật. “Nước đã …” là căn cứ cõi mà nêu riêng: Tức nêu được quả lược nói. Quả tức là bốn cõi nhận được. Bốn giáo tất cả với bốn cõi. Ngài Kinh Khê nói nên biết, tự hành y cùng chánh, một nhân thành hai. Nên nói chánh nhân cảm được bốn quả Phật, y nhân lại cảm được bốn cõi. Sở dó nhân ấy không khác, mà nghóa lại khác cho nên khiến Tịch quang Pháp thân khác mà thường một. “Tử tế …” một là dùng bốn giáo đối bốn cõi như trước mà nói. Hai là hỏi cặn kẻ nên có chút ngại. Vì cõi Đồng cư mà dùng bốn, cõi Phương tiện thì dùng ba, cõi Quả báo thì dùng hai, đây là chút ngại vậy. Tử tế “kỹ càng tỉ mỉ) tức là hai lần. Kinh Khê nói có chút ngại là nếu nhân bốn giáo đối với bốn cõi, tuy có nghóa này nhưng đâu không khác chút ít. Vì sao, vì Tạng, Thông đối cõi Đồng cư tịnh uế, Biệt đối với cõi Hữu dư . Nếu ở trong cõi mà luận giáo nhiều ít thì không tiện. Cho nên lại đối độ mà dùng giáo thêm bớt luận tường tận đó. Nay bảo rằng nếu chuẩn theo chỉ quán tức là lấy cõi Đồng cư đối Tạng, cõi Hữu dư đối Thông đã như trước ghi. Ngài Kinh Khê dùng Tạng, Thông mà đối cõi Đồng cư, Biệt đối cõi Hữu dư. Hơn nữa, thuận với văn sau lại dùng giáo thêm bớt để nói. Cho nên văn sau nói cõi Hữu dư thành Phật, cho đến nói tu nhân hai giáo Biệt Viên . Đã không nói thông, nên dùng Biệt giáo đối cõi Hữu dư. “Nay lại …” là đối với cõi mà rộng giải thích: Duyên tập nội giới tức là kiến tư. Chúng sinh Biệt Viên sinh đến cõi nước ấy, ngài Kinh Khê nói: Cõi Hữu dư kia khi dùng giáo thì nói là Biệt Viên mà thôi. Nếu đến cõi Thật báo thì mất tên Biệt giáo. Chỉ một viên thường để gọi cõi ấy. “Mười phương …” là kết bày ý hóa tha. Trống vắng như hư không, là không còn chúng sinh bảy phương tiện khác nhau, không thấy cõi nước có tịnh uế khác nhau, nên nói không có thêm bớt. “Tận vị …”, ngài Kinh Khê nói: Dẫn phẩm Thọ Lượng của kinh Pháp hoa là dẫn ở thật quả để chứng quyền quả. Do đó, quá khứ nếu thường thì vị lai tất thường, như từ bổn quả để thùy tích, bày hạnh tịnh độ để nhận lấy chúng sinh. Thấy cõi nước không đồng, tức dẫn kinh tổng nêu: Cõi Tịch quang như bát báu, sắc cơm như ba cõi, do phước không đồng nên thấy sắc cơm khác nhau, do cơ không đồng nên thấy ba cõi có khác nhau. “Chí luận …” là tổng nêu ý ấy. Ngài Kinh Khê nói là có thể thấy, là vẫn dùng ba cõi từ Tịch quang mà luận. Cõi Tịch quang không có tướng nên cả ba cõi đều mất. Do không thể thấy nên được có thấy. Mười phen: Một là, cõi nước Đồng cư nặng nhẹ; hai là, ước Đồng cư đối hữu dư. Cho đến thứ mười là các cõi không phải cấu, Tịch quang không phải tịnh. Văn sau nói đầy đủ, đây không luận kỷ. Nêu cú riêng nói: Nêu cú chánh giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Trong đây hỏi đáp gồm có ba lớp bốn câu phân biệt. Đã nói không thể thấy mà được thấy. Tức là Tịch quang đối với ba cõi. Trước lấy cõi Hữu dư gồm nhiếp hai cõi Đồng cư. Đối hai cõi Đồng cư mà lập bốn câu. Vì hai độ này đều có thật chất mà luận dị đồng, cho nên được dựa vào chất để luận có không. Kế lấy cõi Thật báo đối hai cõi dưới mà lập bốn câu. Vì trong Thật báo, sắc không có chướng ngại. Đối hai cõi dưới có chất ngại mà luận khác. Cuối cùng là lấy Tịch quang đối ba cõi dưới để lập bốn câu. Vì trong Tịch quang sắc chất vắng bặt, nên lấy tướng hữu vô đối luận bốn cõi. Thế nên, luận phần tứ cú thứ hai, dựa vào có sắc chất mà luận chướng và không chướng. Trong phần bốn câu đầu, lại ước chướng để luận bốn cõi khác nhau. Nếu thế, cũng nên ở phần bốn câu đầu, lấy cái trước mà lập bốn câu: Chất tịnh và thấy uế như ngài Thân Tử…, chất tịnh thấy tịnh như người ở An dưỡng. Chất uế mà thấy tịnh như Đại phạm vương, Chất uế thấy uế như người ở năm trược. Tức hai tướng Đồng cư sánh nhau. Trong văn, có dựa vào cõi Hữu dư đối Đồng cư, tức chánh nói, ngài Kinh Khê nói: hỏi kinh nói là bỏ hỏi chung. Trước dẫn kinh để lập tông. Đây là kết việc hỏi ấy. Ý hỏi: Nguyên chỉ là một sắc cơm mà tự thấy có khác hay nguyên, có nhiều sắc mà thấy khác. Chuẩn theo văn đáp sau thì có bốn câu, đâu có chỉ một, hai cú mà thôi. Bồ-tát Biệt Viên dùng Thiên nhãn mà thấy. Ngài Kinh Khê nói thấy cõi không nên dùng mắt khác, cho nên đây là mắt của bậc Hiền Nhị thừa. Đây là căn cứ thân này ở cõi này mà luận. Nếu ở phương tiện mà thấy hai Đồng cư hẳn nhiên không có chất khác. “Một chất một thấy…” ngài Kinh Khê nói: Nói năm người cùng thấy hữu dư lại không khác, là trong năm người tuy gồm Biệt Viên. Lại căn cứ vào Nhị thừa của Tam tạng, Tam thừa của Thông giáo cùng thấy nên như thế. Đây là người Tam thừa của hai giáo cùng học giáo gần, cho nên đối cõi Hữu dư chỗ thấy chưa xa. Nhân tiện lấy hai cõi Đồng cư cùng cõi Hữu dư kia làm một thấy. Nếu đối cõi ấy mà phát tâm Biệt Viên, liền đồng cái thấy của Biệt Viên. Nói ba thứ ý sinh, lấy ra từ bốn quyển kinh Lăng-già gọi chung là ý sinh. Nay Sơn Gia giải nghóa: Do tác ý mà sinh nên gọi là ý sinh. Nên kinh Lăng-già nói: Do sức Như huyễn Tam-muội nhớ lại bản nguyện nên sinh trong hàng các Thánh, nên biết. Kinh nói nhớ nhớ, tức là tác ý. Phần thứ tư kinh ấy giải thích có ba tên riêng. Một là, phẩm Thường Vô Thường nói: Ý sinh ba thứ là: Nhập Tam-muội lạc ý thành thân, cũng nói là Chánh thọ, tức là Địa thứ ba, thứ tư, thứ năm, tâm vắng lặng không động. Giác pháp tự tánh ý thành thân, tức trong hàng Địa thứ tám khắp nhập Phật sát, nên lấy pháp làm tự tánh. Chủng loại câu sinh tác ý thành thân. Nghóa là hiểu Phật chứng pháp mà thành, cùng sinh đều từ quả mà nói. Đây là ước Thông giáo và lấy Biệt giáo mà tiếp. Trong Pháp hoa Huyền đều nói ở ba giáo trước dùng chung các giáo mà giải thích nghóa. Nay văn này trên nói La-hán, Bích-chi-phật, dưới nói ba thứ ý sinh, tức ba thứ này đều chỉ cho Bồ-tát Thông giáo, cho nên biết hàng Nhị thừa gồm hai giáo, còn Bồ-tát chỉ ở Thông, cộng làm ba thừa. Bồ-tát của tam tạng đã đồng nhân thiên không phải luận ở đây. Phụ hành có nói: Lăng-già đã nói Địa thứ tám là giác pháp tự tánh, nghiệm phần văn đầu tuy nói năm Địa cũng gồm cả bảy Địa, tức nhập không vị. Địa thứ tám tức sẽ nhập vào giả vị. Chủng loại câu sinh nói liễu Phật chứng pháp, tức là nhập trung, thuộc Phật chủng loại chưa phải là tự chứng. Nếu tiếp nhận vào Địa thứ bảy của Biệt giáo trở về trước sẽ nhập vào biệt Thập trụ. Địa thứ tám trở đi sẽ tiếp nhận vào thập hạnh. Biết Phật chứng pháp là nhập vào hồi hướng, đều không phải là chứng đạo nên gọi là ý sinh. Vẫn vốn là danh gồm không tiếp là cùng kết vị này, nên đều gọi là Địa. “Hỏi ai …” là giải thích trở ngại. Ngài Kinh Khê nói sao căn cứ hữu dư…, là một chất cùng một thấy đều nói là hữu dư. Nếu hai cõi Đồng cư mỗi mỗi tự thấy cũng được gọi là một chất một thấy, hà tất cần phải ước vào hữu dư? Kế đáp trong đó ba người là sẽ biết. Trước giải thích ba thứ ý sinh trong cú thứ bốn. Cần chỉ rõ lợi độn Bồ-tát trong Thông giáo, nhưng không được chỉ người lợi căn thấy Trung, vì Bồ-tát này chỉ đoạn thông hoặc cùng đồng Nhị thừa, vì nó từ Thông giáo đến, thế nên đáp trung. Lại chỉ ba thừa đồng thấy Đệ nhất nghóa đế. Những thứ này vốn khác, nay đều thành giống nhau. Nên lại nói nếu chỉ hai hạng người ở cõi Đồng cư tự thấy độ mình, sao đến không được. Chỉ vì luận khác nên cần phải nói rõ điều này. “Vô lậu… đồng nhau”, ngài Kinh Khê nói: Căn cứ vào tâm chưa phát Biệt Viên mà luận, thì chưa thấy Trung việc ấy cũng thế, cho nên ở Chân đế đồng một thấy. Căn cứ cõi Thật báo đối hai cõi. Tức Nhân-đà-la Võng, tức là cõi Thật báo. Căn cứ cõi Tịch quang đối ba cõi, mỗi thứ đều có hỏi đáp, đều như văn. Lược nêu …” là kết rộng , nêu ra năm điều nói về vãng sinh có hai: Nêu chương và Tùy giải thích. Lại có phần tổng nêu, tức cũng nói là lai sinh “sinh đến) đầy đủ như trong Đại phẩm. Tiêm sư nói: Trong quyển hai của Đại phẩm, ngài Xá-lợi-phất bạch Phật rằng: Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật. Thường như thế mà rèn tập tương ưng thì từ nơi nào chết rồi sinh đến cõi này và từ cõi này chết rồi sinh đến cõi nào? Phật bảo Xá-lợi-phất rằng: Các Bồ-tát ấy hoặc từ các cõi Phật phương khác sinh đến cõi này, hoặc từ Đâu-suất sinh vào cõi này, hoặc từ cõi người sinh đến cõi này. Từ “đây …”, nay Sư giải thích hai tên. Đây nói là đến ở. Đại phẩm nói là sinh đến thì chỉ là đó đây đối nhau mà được tên. Hai cõi cũng thế, ngài Kinh Khê nói: Hai cõi Đồng cư đối nhau đã vậy thì cõi Hữu dư và Thật báo đối nhau cũng thế, chỉ ngang dọc khác nhau mà thôi, là hai cõi Đồng cư trông ngang hai cõi kia thì gọi là dọc. Nếu thế chỉ cõi Ta-bà mới có thể vãng sinh tịnh độ, sao lại từ tịnh độ chết rồi mà sinh về cõi này? Đáp: Dưới Bát phẩm không thể sinh đến ở Thượng phẩm thượng sinh. Hoặc có thể hay đến cõi ấy rồi được chung nên đến. Kinh Pháp hoa nói: Người ấy tự bỏ nghiệp báo thanh tịnh mà đến sinh sống vui vẻ trong cõi đầy oán hại này, chỉ có cõi Thường tịch quang thì lời văn không có nghóa đến. Thượng phẩm như thế, thì nghóa Trung hạ tất thông. Nếu Trung hạ không thì Thật báo cũng không, nếu không đứng trong Trung hạ thì cũng thuộc Thật báo. Lại như nghóa Lập là không đến mà đến, ở Thượng phẩm cũng thông, đâu chỉ Trung hạ. Do lời thệ nguyện sinh mà có. Nghóa Như Lai tin cũng chẳng Không: Phần nêu, từ “nhiễm …”, là giải thích cõi nhiễm tịnh, tức uế độ, lại có thật sinh chín phẩm nhuận sinh… là dục hoặc chín phẩm thì Thượng thượng nhuận hai đời, Thượng trung, Thượng hạ và Trung thượng mỗi thứ nhuận một đời, Trung trung, Trung hạ cùng nhuận một đời, ba phẩm Hạ cùng nhuận một đời. Cho nên Sơ quả đối với trời người cõi Dục đều thọ sinh bảy đời, nên nói là thất phản “bảy lần trở lại). Quả thứ hai có ba phẩm, đoạn năm thì gọi Nhị hướng, đoạn sáu là quả Nhất lai, ba phẩm dưới là nhuận một đời. “Một lần vãng lai”, tức là một lần sinh lên trời, một lần đến cõi người, hay ngược lại cũng thế. Quả thứ ba gọi là bất lai, vì chín phẩm hoặc đã hết. Như đoạn đến tám phẩm còn lại một phẩm thì gọi là một chủng tử cũng còn sinh cõi Dục. Chung sáu Địa cùng đến sinh tức sáu Địa trở xuống thì các hoặc chưa hết, kiến Địa bảy lần trở lại là bạc Địa. Quả Nhất lai lìa dục thì không trở lại hạ giới. Sinh lên hai cõi trên là Thập trụ của Biệt giáo, bậc Sơ trụ đoạn kiến, từ Nhị trụ đến Thất trụ thì đoạn hết tư. Nay nói mười trụ là nói chung mà thôi. Luận về số sinh thì so trước liền biết. Năm phẩm kiến tư còn đủ. Bậc thất tín mới ra khỏi ba cõi. Ba giáo ước hoặc dẫn thọ sinh đều đồng với tạng giáo. Cho nên nói đều cùng loại quả thứ ba, nên biết. “Quyền sinh phương tiện nguyện sinh”, là chỉ có Bồ-tát, còn hàng Tiểu thừa được thọ ký, nghóa cũng đồng. Sinh cõi phương tiện chưa phá vô minh mà muốn hóa độ chúng sinh, thì cần phải nhờ nguyện dắt. Chưa thể tự tại, nên khiến ứng sinh chỉ ở hai cõi. Người ở tịnh độ đến sinh cõi trời người, ngài Kinh Khê nói: “Cõi ấy có đủ chư Thiên cõi Dục và cõi Sắc, chỉ không có ở đất của núi Tu- di, tất cả đều nương vào hư không mà ở”. Điều này ngài Kinh Khê nói là lấy ở kinh Vô Lượng Thọ. “Về cõi Hữu dư”, nói về Thật sinh có: Chánh giải thích: Thập hạnh Biệt giáo, Tín và Hậu tâm Viên giáo, ngài Kinh Khê nói căn cứ theo lý Biệt giáo nên nói có trụ ở hướng. Nay không nói, vì trụ đồng với Tạng, Thông. Nói bậc thứ năm tu trong thập hướng tuy cũng đồng sinh ở cõi Hữu dư, nhưng không phải là chánh ý. Nên căn cứ vào thể mà nói là thập hạnh. Nhưng nói Viên tín lại nói Hậu tâm, là bậc thất tín trở lên cũng có thể được sinh, chỉ là tóm lược mà thôi. “Cố thắng …” là dẫn chứng: Trước nói đến dẫn kinh, “hỏi vì sao…” là giải nghóa. Về chánh nói, có phần hỏi và đáp. “Trước giải thích về tên riêng”: Ngài Kinh Khê nói: Giải thích ba thứ ý sinh đều nói là e sợ, là tôn trọng kinh Phật bao gồm nói không chấp ba thứ cấp bậc, văn kinh nghóa đã bao hàm. Vì thế sao lại dạy Tam-muội Chánh thọ. Nếu căn cứ theo Thông giáo thì Địa thứ bảy trở lên hoặc đến Địa thứ chín. Nói tự tánh, là trụ của Biệt giáo đồng với Thông giáo nên lấy thập hạnh. Viên giáo đã nói phục được vô minh, liền biết đó là thập tín. Sở dó Biệt giáo nói tự tánh, là nếu không thấy trung thì không thấy tự tánh các pháp. “Đều nói …” là giải thích tên chung. Chưa phát chân tu, là Địa trụ của Biệt Viên trở về trước gọi là viên tu. Khi đăng địa đăng Trụ mới gọi là chân tu. Trước là ước ba hạng người vô minh hãy còn đầy đủ, nên đều phải tác ý mà sinh về cõi kia. Ban đầu dùng Tam-muội Chánh thọ, tuy ước Thông giáo mà vào không, tiếp vào Viên Biệt thì cũng thuộc duyên tu. Nên Kinh Khê nói: Nghóa chân duyên, nghóa ấy chung cả Thông và Biệt. Từ “hỏi” là giải thích phương ngại. Ý hỏi: Lăng-già nói ý sinh đã ở Địa thứ mười, họp sinh Thật báo, cớ sao vừa giải kinh Thắng Man chỉ nói người Thông giáo và bậc Địa trụ trở lên sinh cõi Phương tiện ư? Song Địa thứ mười của kinh Lăng-già lại ước thông mà nêu nghóa, đã như trước ghi thì tên Địa thứ mười là quá lạm. Nên đây ước Biệt, Viên mà hỏi, nên nói ứng sinh ở cõi Quả báo. Đáp: Trong đây từ hai hướng tu mà giải thích. Ước vào Biệt của Địa thứ mười mà phán quyết ba ý sinh. Nếu thế sao lại vừa bảo đều nói ý, là do chưa phát chân tu còn là tác ý ư? Biệt địa đã là chân tu thì nghóa của ý sinh lấy gì làm chủ. Đáp: Ngài Kinh Khê nói: Nếu dựa theo Biệt giáo thì có hai nghóa, ba thứ đều gọi là ý, ba thứ đều nhập Địa: Một là, chỉ là chưa rốt tên ý; hai là kèm theo giáo đạo nói là ý, nên nói ba thứ ý sinh, tức sinh vào Báo độ. “Dựa thông…” là chuẩn theo đây, tức như trước đã nói một chất một thấy. Tức là ba thứ ý sinh của Nhị thừa và Đương giáo chất khác một thấy mà nói tức là Biệt giáo Bồ-tát. Phải biết theo văn kinh ở Lăng- già tức là người Biệt Viên có ba ý. Nên nay Biệt lại từ Thông Bồ-tát mà nói vậy. Nếu thật …” là quyền sinh cõi quả báo thứ ba, và cõi Tịch quang thứ tư. Nói cực quả không sinh. “Nếu phân …” là phân nghóa chân sinh, trước là chánh nói: Từ dưới tịch diệt cho đến một đời, là kinh Nhân Vương nói: Tịch diệt nhẫn chỉ có hai phẩm. Nay nghóa khai là ba phẩm, thượng phẩm là Diệu giác. Đây lấy tịch nhẫn tức là Tịch quang, nên dựa theo riêng trung hạ để nói nghóa sinh. Hoặc nói dưới đây dựa theo Thông mà luận. Bắt đầu từ sơ trụ được Vô sinh nhẫn, cuối cùng là Đẳng giác, là trung phẩm tịch nhẫn đều gọi là phần chứng Phật tánh, đều gọi là vãng sinh Tịch quang. Nên nói đều có nghóa này. “Chỉ có…” cướp lời mà nói: Tịch quang chỉ là diệu giác vì phần chứng cũng còn có vô minh hoặc biến dịch sinh tử. “Tiền tứ …” là kết nêu: Hỏi phần …”, liệu giản, có chọn Đồng cư và Hữu dư, phần hỏi: Ngài Kinh Khê nói: Lấy kiến tư của Thông mà hỏi kiến tư của Biệt đã đồng thì xả thân cũng phải bình đẳng. Đáp, như: Văn. Chọn Thật báo Tịch quang, thứ nhất chọn bất sinh: ngài Kinh Khê nói: Hỏi Thật báo thọ sinh… lại lấy văn trên nói có sinh ba cõi kia, chỉ có Thường tịch quang thì không có vãng lai sinh hẳn nhiên câu hỏi này không hợp. Trong ý đáp là chỉ muốn làm rõ lại việc từ tên làm mất nghóa. Cũng dựa vào trung hạ ở cõi quả báo. Thứ hai chọn nghóa sinh, hữu biên luận nói sinh… ngài Kinh Khê nói dựa theo báo mà luận sinh, thế nên hữu biên luận ở quả báo. Nếu căn cứ sở nhập biên thì không phải quả báo. Nhưng sở nhập biên tức là thấy chân, nên nói là không sinh. Thượng phẩm không có báo chỉ có chân. Vô sinh mà nói sinh, tức không sinh mà sinh. Cho nên trong cõi quả báo thấy chân, thì cũng có quả báo, nghóa không sinh mà sinh. Rốt ráo mà luận thì Tịch quang chỉ có chân, không hẳn quả báo. Về nghóa mà nói thì cũng có thể được nghóa không sinh mà sinh. Đây thì không còn sinh nữa vậy; thứ ba chọn nghóa thường. Ngài Kinh Khê nói ý hỏi này từ tên mà lập, dùng chẳng sinh sinh cùng chẳng thường thường mà nói cái thế muốn đồng nghóa ấy. Vì giống như trái nhau nên lấy nghóa trái để hỏi thế đồng. Trong ý đáp, là tên khác nghóa đồng, nên chấp nhận lý này. “Hà giả …” là giải thích nêu tướng tên khác mà nghóa đồng. Rốt ráo mà luận thì chỉ gọi thường. Thường cho đến chẳng sinh, cho nên dẫn vào Thánh vị, tức là thường của chẳng thường, sinh của chẳng sinh bốn mươi mốt Địa. Chân lý không sinh, không sinh mà sinh, vì còn sót vô minh nên gọi là chẳng thường. Vì thấy một phần thường nên gọi là thường. Nghó kỹ sẽ thấy. Về phần nói giáo, có hai: Một là nêu; hai là “Một nhiễm…” giải thích có nhiễm tịnh, trong đó lại có uế và tịnh. Khai tiệm giáo, Tiêm sư nói: Khai là mở rộng ra nói về bổn nguyện. Ngài Kinh Khê nói: Ở thượng phẩm tịnh độ không cần phải khai tiệm, cho nên cần nhân nguyện, mới có thể nói được. Cõi Hương tích không nguyện nên không nói được. Không nói không nghe nên lại hỏi. Như cõi An dưỡng thì cây nói khổ không, người nghe La-hán. Đã không nói nguyện thì nghiệm ra tịnh độ không cao. Cõi Hữu dư, có thọ báo lợi độn đều được vãng sinh là tổng có chín người: Nhị thừa hai giáo, Bồ-tát ba giáo, Biệt vị khai ba nên thành chín Địa, đoạn hết tư thì vị được sinh cõi này. Bồ-tát thì lợi, Nhị thừa thì độn. Thông Biệt Viên rất lợi độn. Đây là căn cứ Bồ-tát mà truyền luận. Bồ- tát Thông giáo so với Nhị thừa là lợi, nhưng so với Biệt thì vẫn độn. Biệt Viên cũng theo lệ đó. “Như Lai …”: Nói giáo nhiều ít cho nên Pháp hoa… ngài Kinh Khê nói: Đây có hai ý: Thông chứng tất cả nên khai quyền. Biệt chứng Nhị thừa nên tiệm, đều là ý của Pháp hoa, thế nên dẫn ra. Nếu là ý của Biệt giáo thì là khai giáo mà không khai lý. Hoặc cũng khai lý để nêu Viên trung. Thứ đến là cõi quả báo và cõi Thường tịch quang, ở đây lại nêu cực quả Tịch quang; pháp thân ngầm giúp, là Tỳ-lô khắp nhiếp, nên nói là ngầm giúp. Tức tên ngầm giúp này là nói pháp. Lại nữa nên biết, chỗ ứng thân nói tức là pháp thân nói. Ta nay thân này tức là Pháp thân. Thích-ca Mâu-ni gọi là Tỳ-lô-giá-na nên không nói mà nói. “Nếu căn cứ …” là nói nghóa chung ba cõi. Có ước cõi Thật báo. Ngài Kinh Khê nói: Vô tác… có biên quả báo thì cần nói khổ tập, vì có khổ tập nên cần đủ bốn Đế. Đối với cõi quả báo phân luận cõi Tịch quang thì cần theo lý mà nói. Cho nên chỉ có nghóa Thật đế cũng phải ở Tịch quang mà nói pháp. “Hai …” là căn cứ vào hai cõi dưới. Ngài Kinh Khê nói: Loại này nên biết, tức cõi Hữu dư và Đồng cư đều được luận ngang tức là cõi Tịch quang. Như trong cõi Hữu dư cũng nói vô lượng để đối với Nhất thật. Hoặc nói Thông đối Nhất thật. Cho nên trong cõi Hữu dư nếu nói Nhất thật, tức là trong hữu dư có Tịch quang nói pháp. Thật báo cũng theo lệ đó, nên có thể thấy. Song ước ngang mà luận thì Đồng cư có đủ bốn, ba cõi kia dần dần giảm sút, lệ theo đó có thể thấy. Nếu gồm đồng thể thì tất cả đều có bốn. Về quán tâm, nói rộng về dễ sinh bốn cõi. Không rõ quán tâm bỏ đạo càng xa, nên mượn việc để thành quán, khiến không mê mờ tu tập. Văn có nói về tâm cảnh, tức tâm tánh rất là trống vắng. Ngài Kinh Khê nói: Trước lập tâm tánh là lý Tịch quang. “Mà các …” là nói vì mê Tịch quang mà thấy có ba cõi, hoặc mất một Đế mà thấy có bốn Đế, nên nói có nhiều điên đảo… Đây là nói chung về các nguyên do. “Không nói …” là chỉ quán pháp, có nương cảnh mà tu quán, từ vô minh đến pháp được sinh, là cảnh sở mê, đem sở mê này làm sở quán. Muốn lấy ba quán gồm thâu ba cõi dưới, nên cái mê cảnh này lại chỉ cho ba thiện ba ác ở sáu cõi nên nói thiện ác. Văn trước nói một chúng sinh ác tức là bốn thú, hai chúng sinh thiện tức là trời người. Lại có thể mười giới mà truyền luận thiện ác, thì việc tạo mười giới là Sở quán này. Nay quán thiện ác đều do tâm khởi tức là không, giả, trung. Một niệm cũng không được, nên là không lý, đủ ba ngàn nên là giả, tâm tánh bất động nên là trung. Một dung nhau mới gọi là diệu quán. “Trung là …” lấy quán phối cõi, điều này có phối cõi tức toàn lý thành sự, nên nói trung là cảnh nhân duyên thiện ác. Nên lấy cảnh này để nhiếp Đồng cư, kế lấy ba quán phối nhiếp ba cõi có thể thấy. Không phải nhân không phải quả mà nhân và quả, là trong lý không phải sự nên không phải nhân quả mà bắt đầu giải lý này gọi là nhân, cuối cùng hiển bày lý này gọi là quả. Nên nói mà nhân, mà quả. Nếu biết rõ cõi chí ngại, là nhân quả không khác, lý thỉ chung một tên vô ngại vậy. “Nên văn …” dẫn chứng lời Phật nói, như đây lẽ nào không quán tâm? Về dùng nghóa để giải thích kinh, có hai: Một là nêu lệ; hai là giải thích, đây giải thích phần tựa chung tức dâng cúng lọng nhỏ. Vi là nhỏ, nhân nhỏ mà quả lớn là biểu thị cho quả lớn chẳng nghó bàn. tịnh độ vô phương hiện ba ngàn cõi biểu thị nói ứng độ. Hiện ngã là ta hiện ba ngàn cõi. Ở thông chánh nói, có hai: Một là, nêu bày; hai là, “Một thông …” giải thích, tức nói chung ngoài thất, có nêu và “Bảo Tích …” giải thích, thông nửa phẩm. Lại cõi hiện ra Tiểu thừa được lợi, tức vừa tịnh nay liền uế. Nhân ngộ vô thường lại thấy cõi mà được lợi nhỏ. Huyền chỉ của phẩm này vậy, ngài Kinh Khê nói văn nghóa một phẩm này gồm cả tựa và chánh thuyết. Trong tựa biểu phát Bát chánh rõ ràng, “cho nên …” là chánh nói về huyền chỉ ở đấy. “Kế thông …” là thông ba phẩm, kết nghiệp chưa đoạn thì sinh cõi Đồng cư tịnh, ngài Kinh Khê nói: Chỉ chưa đoạn được sinh, không phải toàn chưa đoạn. Hai loại chúng sinh đến sinh, ngài Kinh Khê nói: Từ phẩm Phương Tiện và người đoạn hữu vi duyên tập, nên nói như thế. Vì phẩm Phương Tiện chỉ dùng hai giáo, nên lại cũng chỉ chúng sinh hai giáo đoạn hết hoặc mà đến sinh cõi ấy. Trong phẩm Đệ Tử lấy ba giáo mà chê trách, nên cũng chỉ có ba giáo đến sinh. Ấy thì ba giáo đến sinh, đến đó chỉ học hai giáo. Trong phẩm Bồ-tát chỉ nói một thứ chúng sinh đến sinh, là từ chỗ đến mà nói. Từ Thật giáo nói duyên tập ngoại giới tức là biệt hoặc. Hỏi: Tiến từ đoạn biệt hoặc sinh cõi quả báo, khiến đoạn vô minh sinh cõi Tịch quang. Biệt hoặc cùng vô minh khác hay đồng? Đáp: Đồng vậy! Chỉ vì chỗ đoạn của Sơ trụ không cùng chung với Tiểu thừa nên gọi là biệt hoặc. Đẳng giác đoạn được nguyên phẩm sau cùng nên gọi là vô minh. Nên nói là sinh cõi Tịch quang. Lấy bốn cõi để tách riêng Tịch quang, tức xét là cực quả. Nói về trong thất đều hiển bày cõi Phật y chánh tự tại, thật do y chánh chỉ duy tâm, ba ngàn vốn đủ. Lý này phần hiển tất có Đại dụng. Tâm tánh không ngoài, việc dung nạp của hạt cải nào nghi, cả Tu-di biển lớn đều thuộc y báo, nên nói đều hiển bày… “Thiên nữ …”, ngài Kinh Khê nói: Chính dẫn văn nói về trụ để chứng cho việc đồng trụ ở Tịch quang. Không lấy mười hai thông Phật đạo phẩm, tức ở chỗ bất tịnh mà hiện tịnh, đầy đủ như ý giải thích về việc hóa độ. Song trong đây lại theo ngang dọc mà nói. Lại dẫn kệ ngài Tịnh Danh, là chứng tỏ bậc Sơ trụ bỏ hạnh tịnh độ, không thể Không tu, người ở nhân hay ở quả cũng đều thế. Nói ra thất. “Nếu không hiểu rành…”, ngài Kinh Khê nói: Nếu không bắt đầu chưa giải nghóa cõi Phật, phẩm này chỉ nói Bồ-tát tịnh độ và chúng sinh đến sinh đều là hạnh tịnh độ, như thế các văn do đâu mà biết được. - Nói về lưu thông: Giải thích phẩm mục có chánh giải, tên phẩm là chánh giải: Tức giải thích tên chung. “Nhưng đây …” là nêu tên riêng. “Hỏi …” là giải nghi có giải nghi: Tức có chánh hỏi: Nghóa là nghi mà hỏi. “Đáp …” giải thích thông có tổng chê và “Nay giải …” là chánh đáp, có dẫn lệ. “Nếu chẳng …” cùng lệ. “Nếu thế …” là lại nêu chứng cớ: Tức nêu chứng cớ. Ngài Kinh Khê nói: Nếu thế, vì sao lại chẳng giống với kinh Đại phẩm kia từ tựa đề tên? Về giải thích, ngài Kinh Khê nói ý đáp, là dẫn kinh Kim Quang Minh cậy nhờ bài tựa cùng chánh thuyết đồng một phẩm. “Đây đã …” là khuyên răn người sau tức người dịch, không phải Phật và A-nan, là nếu cho Phật đặt tên phẩm mà kinh không có văn tự nói. Nếu bảo người không kết tập đặt tên phẩm thì cũng không có chứng cứ, cả hai người đều sai. Ấy bởi do người dịch đặt ra mà thôi. Thử luận xem, vả như Trọng Ni sinh ở phương này, giả sử một mai có người nói: Giáo ngài sao hai nước Tề, Lỗ phân chương không giống nhau, hai phần lớn nhỏ Lễ, kinh đều khác. Huống là Đông độ và Tây vức xa xôi, tiếng Phạm và Hán cách biệt, thì tùy người dịch khiến tên có khác. Nên nay khuyên rằng không đủ để chấp chặt. Nếu Phật tự đặt ra thì như phẩm Dược Vương của kinh Pháp hoa Phật tự nói lên. Nếu có người nghe là phẩm Dược Vương Bồ-tát bổn sự. Còn người kết tập tự đặt là như phẩm Diệu Âm cuối cùng. Người tập kinh nói là phẩm Diệu Âm Lai Vãng. Căn cứ vào văn kinh ấy để làm lệ cho phẩm này không phải là hai cách. Tin rằng người dịch chuẩn theo nghóa mà đặt tên. Như kinh Đại phẩm thì nhà kết tập chỉ nêu có ba phẩm, nhưng ngài La-thập dịch xong thì mở thành chín mươi phẩm. Lại như Đại kinh vốn “không” có phẩm Tựa, mà đầu tiên chỉ là phẩm Thọ Mạng mà thôi. Đến thời Nam triều sửa định lại, Tạ công căn cứ theo sáu quyển Nê-hoàn mà khai phần thọ mạng này thành bốn phẩm, bảo phẩm Tựa là Thuần-đà buồn trách việc sống lâu. Lại khai phẩm Như Lai Tánh thành mười phẩm. Đây không phải do người dịch, chỉ người sửa định lại thêm vào, chuẩn biết các kinh không phải do Phật tự nói mà do người kiết tập, tức là người sau thêm vào. “Kinh này …” là huyền thích nghóa chữ Tựa, có hai: Một là lý do có tựa; hai là “nghóa của tựa …” là chánh giải thích có nêu lệ và tùy giải thích, lại có lược thích: Tức chánh giải thích có nêu thích ba nghóa mị tri cũng như bất tri. Đệ tử ngôi cao, ngài Kinh Khê nói: Như khen ngài Bảo Tích thần trí cao sáng, huống còn là Hóa Phật hiện tích. Hóa Phật cũng còn là chung ở nhân quả khó lường về bổn, nên cũng đầy đủ các thứ. “Nay kinh …” là phối đối văn kinh. Về liệu giản, có chọn các kinh, hoặc hai hoặc một, Tiêm sư nói: Hoặc hai, là chỉ lý do của hai tựa sau, hoặc môït là tựa sau không thể thiếu. Cũng nói có ba tựa, nhưng không có kinh nào như thế. Trước là vào chánh tông. Tóm lược Bát-nhã là đó. Đây cũng giải thích người chọn lọc rút gọn mà thôi. Về chọn chữ. Hỏi: Tựa giảng không đồng. Nếu lấy nguyên do làm nghóa thì phải đặt lời nói đầu, nếu lấy luận bàn làm nghóa thì phải đặt lời tựa, sao được phẩm đầu ở các kinh lại viết tựa sau, viết mà gồm cả hai nghóa kia ư? Ý đáp rằng: Tuy viết chữ tựa sau nhưng kinh đã đầy đủ. Nguyên do sau nói có ba ý. Xưa nay các nhà đều đề chữ tựa sau. Ý nghóa …” là dẫn chứng Phật khiến y vào nghóa nên ở lời tựa sau mà trình bày ba nghóa cũng là không lỗi, sao lại chấp nhất định ở chữ viết. “Nên nói y nghóa…” lại căn cứ vào thiên Nhó Nhã mà giảng chữ sau, là phải nên viết tựa, nên Thích Hổ nói diễn bày sự việc thuận với Tựa. Quách Bộc chú rằng: Đều gọi là tựa sau. Thích Cung nói tường vách Đông Tây gọi là tự. Quách nói: Để phân cách trong ngoài. Nhưng các nhà Phật học thì dùng tựa sau để làm tựa, giảng nói lẫn lộn tùy chỗ sử dụng thôi. Về cách nói chung riêng, có chánh giải thích, tức nói gọn ba thành hai. Từ “các kinh” là giải thích danh nghóa hai tựa; Nay nhân …” là nói tựa nhân tên mà lập. Nhân tên riêng có tựa riêng, ngài Kinh Khê nói: Như nhân tên Duy-ma chẳng nghó bàn mà được có việc hợp lọng… chẳng nghó bàn, nhân chữ kinh mà có lời: Tôi nghe như vầy… Và căn cứ hành lý chung riêng, nếu không có hạnh lý thì đâu cần có giáo này huống là không có ba việc này thì sao có đồng mà nói. Cho nên tất cả kinh đều có đủ ba thứ này và dùng chung riêng, đầy đủ như Pháp hoa Sớ đã ghi. “Hỏi nếu …” là liệu giản, chọn sau khi Phật diệt độ có phần hỏi và đáp: Về hỏi đáp nghịch. “Để tiện việc lập tên…” trước nêu sở thuyên để làm sáng năng thuyên. “Để tiện làm tựa…, là trước nói Tôi nghe, sau mới nói việc. Lại nữa …” là hỏi đáp thuận , có chánh bày trước sau và thuận hỏi trước, nghóa không thông các phương nên nói một đường. Mới nói lời này, tức phó chúc khiến được yên. Căn cứ vào người kiết tập tuyên nói ắt trước chung sau riêng. Nay dựa vào Phật nói trước riêng sau chung. “Trước kinh …” càng chưa phân hiện. Trước kinh là tựa riêng, ở trước phần chánh thuyết là phần phát khởi. tựa sau kinh là tựa chung. Vì khi diệt độ mà phó chúc. “Nếu thế …” là chọn đời Phật. Đã có việc này, là đã nói văn lý và có A-nan là người có thể nghe… Về quán tâm, có chánh nói nghóa Tựa: Tức phần chánh nêu cuán tâm. Tâm tức là chung, quán tức riêng. Tâm một quán ba nên tâm chung quán riêng. Chung là sở quán nên phân ra ba thứ. Cho nên đây có hai Tựa. Nhân quán mà chứng lý, lý như chánh thuyết nói. Nhân đây …”, đối với quán tâm tựa riêng luận về nguyên do, nói các nghóa thiếu sót mà chưa luận đến. Thành tựu tất cả pháp, nghóa là pháp tự tha nhân quả đều do quán tâm mà thành. “Tức là …” là nêu nghóa nguyên do. Đạo nghóa là phần chứng và rốt ráo. Nhân quán mà vào đạo nên quán như cánh cửa là nguyên do tu của Sơ tâm ở đấy. “Hỏi nếu …” là chọn tên trước sau. Ý hỏi: Ngài Kinh Khê nói tâm chung quán riêng, nay nói quán tâm thì riêng trước, chung sau, vì sao lại nêu lệ chung riêng hai tựa? Ý đáp: Căn cứ theo cách nói tiện lợi ở đời nên không nói ngay là tâm quán, nhưng cũng là thuận theo cách nói của cõi này. Nếu theo tâm quán của Tây vức tâm quán thì có lỗi gì. “Hỏi huyền …” là nêu nghi ngờ để làm lợi ích, có nêu nghi: “Sợ không hoại loạn…” là sợ không phải cốt yếu làm mất văn. “Đáp …” là bày lợi ích. Xúc xứ quán hành, tức là hoặc sự việc hoặc pháp xâm nhập vào tự tâm. Như thế mà hoằng kinh há đồng với đếm của báu. Hễ một nhà nói quán gồm chung ba thứ. Một là, căn cứ hành, hai là phụ pháp, ba là phụ sự. Như chỉ quán đã nói quán thẳng ấn tâm, tức là ba Đế mình người đều khắp, ba thứ không sai khác gọi là căn cứ hành quán tâm. Còn hai thứ kia thì nhiếp sự tướng của pháp tướng kia, mà trở về ba đế tịnh tâm. Phụ sự đạt lý gọi là phụ sự. Phụ pháp cũng thế. Nay nói ba phần tức là phụ pháp. Dưới nói Am viên tức là phụ sự. Song loại tuy có ba nhưng cốt yếu chỉ quy về một chỗ. Chỉ sợ vướng ngoài nghe trong mà quên căn cứ ở hành, cho nên cần phải chỉ hai thứ mà trở về. Kẻ hậu học đến đây thì cần phải rất lưu ý, Tông chỉ rốt ráo của một nhà chính là ở đây vậy. Một khi mất nguồn cội thì khéo dụ càng thắm, khéo nói càng hợp lẽ. Tiêm sư nói: Không phải chỉ khiến văn nghóa lạnh tanh mà cũng khiến việc xem văn thành quán, tuệ giải sáng suốt. Phần chánh vào văn kinh: Tức nửa phẩm Tựa phân hai là phân khoa và tùy giải thích, có tựa chung và nêu chương. Về giải thích, có giải thích chung là nêu bày đại chỉ. Nói nhập tướng Phật pháp, tức sáu việc để chứng tín là tướng nhập đạo. “Đại luận …” là dẫn luận để rộng giải thích được dẫn rõ luận văn có dẫn chung luận văn. Thân thuộc ái kết, tức A-nan là em họ của Phật, đã chứng được ba quả nhưng chưa đoạn hết, các tư hoặc còn sót, nên có ái kết. A-nê-lâu-đà hoặc A-nậu-lầu-đà hoặc A-nê-lũ-đậu là tiếng Phạm thời Sở Hạ. Hán dịch là Vô bần, hoặc dịch là Như ý. Tư quyết, Tả Truyện nói: Hỏi han điều thiện gọi là Tư. Được sức niệm đạo là trong quán chân không, nên nói là niệm đạo, thường dẹp được ưu não nên gọi là sức. “Cho nên biết …” là riêng kết. Dẫn chứng giải thích có nêu bằng cớ và đáp giải thích tức giải thích việc xưa của kinh. Để đoạn nghi khuyên tin, khi kết tập, ngài A-nan đã lên tòa cao, lại hình thể giống Phật nên đại chúng nghi là Đức Thích Tôn lại xuất hiện, hoặc cho Phật từ phương khác đến, hoặc nói A-nan đã thành Phật, nhưng khi A-nan lớn tiếng nói: “Tôi nghe…” thì các nghi đều tan, nên nói đoạn nghi. Về khuyên tin, thì tin là hay vào trí, hay độ, không tin thì nói việc như thế, tin thì nói việc đúng như thế. Đó gọi là tướng kiết tường, trước là hiện tướng tốt để biểu thị trong kinh đều tốt. Đầy đủ như trong Bách luận thì Pháp hoa Sớ Ký quyển một có dẫn đủ. Về giải thích Phạm Đàn pháp trị. Tự ỷ mình thuộc dòng vua tức Xa-nặc cũng dòng họ Thích. Giải thích lấy giới kinh làm thầy: Hán dịch danh tiếng Phạm là xứ xứ giải thoát hoặc là biệt biệt giải thoát. “Hỏi …” là chọn phép răn ác. Phần lớn không phải chánh nghóa, nghóa là khi ăn thì cấm ăn phi thời. Luận nói: Trong thế giới ấy thật không phải thật trong Đệ nhất nghóa. Đã không phải thật trong Đệ nhất nghóa, vì sao lại chắc là được chân giải thoát. Trong lời đáp lại dẫn Đại luận không nên tìm thật, là vì khác ngoại đạo, vì muốn pháp trụ lâu dài. Tạm thời quyền chế không nên ở đây mà tìm thật lý. “Kim thời …” là Đại sư nhân dẫn Thích luận nói muốn pháp trụ lâu dài bèn chê người đương thời không tuân giữ giới luật. Dương Tử Pháp nói trị của Thánh nhân là thiên hạ, ngăn ngừa thì dùng lễ, nhạc, không dùng là loài cầm, khác là loài thú. Nghóa là giới luật cũng là lễ, nhạc của họ Thích, kẻ đầu tròn mà khinh bỏ đi đâu cũng chẳng là loài cầm thú ư? Giải thích niệm xứ tu đạo: Trước bày lỗi hiển lợi ích, nếu lìa đến thế trí là nêu lỗi lìa bỏ niệm xứ. Vì niệm xứ là tuệ xuất thế, nên nếu không có tuệ xuất thế thì chỉ ở trong sinh tử. Tùy thiền mà thọ sinh, tứ thiền sinh cõi sắc, tứ định sinh cõi vô sắc. Nếu tu …” là hiển bày lợi ích việc tu niệm xứ. Tạng, Thông thì phá bốn đảo nội giới, Biệt Viên thì phá bốn đảo ngoại giới. “Hỏi …” liệu giản Đại Tiểu: Tức chấp nhận Tiểu có Đại mà không gạn hỏi, nghóa là Tiểu thừa có niệm xứ, Đại thừa thì không. Là nói Đại Tiểu chung có. Nói Đại, thừa có niệm xứ, ba giáo sau đều quán niệm xứ mà được đạo. Niệm xứ chỉ là quán năm ấm. Nếu lìa năm ấm thì không có cảnh để quán. Thân niệm tức là sắc ấm, thọ niệm tức là thọ ấm, tâm niệm tức là thức ấm, pháp niệm tức là tưởng, hành ấm. Từ “Nếu lìa …” là ra ngoài ba giáo không có Đại thừa nào khác, cả ba giáo đều tu niệm xứ. Nếu bảo không cần thì chắc chắn là thuộc tà chấp đâu quan hệ gì đến Đại thừa. Huống là lời di chúc khi Phật Niết-bàn là sau khi Phật diệt độ khiến các Tỳ-kheo phải y niệm xứ mà khắp dạy cho tất cả, đâu lại chọn Đại, Tiểu. Than ôi, đời có người không biết danh nghóa niệm xứ tự bảo đó là Đại thừa, thật là lầm? Lại chấp danh tướng luật mà không tu niệm xứ. Người như thế cách đạo rất xa. Từ “chỉ Phật …” là nêu Đại thừa viên dung. Không ra ngoài Bán Mãn, tức chữ Bán chữ Mãn là tên của sách tục, Như Lai lấy đây mà dụ cho Đại và Tiểu thừa. Như kinh Niết-bàn nói: Trong khoảng khô vinh, là Phật ở khoảng rừng cây bốn khô bốn vinh mà nhập Niết-bàn. Chính là biểu thị Niết-bàn Phật tánh, không phải Bán không phải Mãn, mà song chiếu Bán Mãn, tức chiếu mà ngăn, ngăn mà chiếu. Cho nên Đại Tiểu khô vinh tất cả đều là dụng của Niết-bàn. Tức dụng là thể trung gian thấy tánh. “Ra ngoài niệm …” là nêu việc niệm xứ gồm nhiếp. “Ra ngoài niệm xứ đến với đạo là Đại Tiểu Bán mãn không ở ngoài niệm xứ. “Cho nên Phật …” là nói nếu không noi theo lời phó chúc của đấng cha lành thì gọi là con bất hiếu. Một nhà Chỉ quán chỉ quán ấm cảnh, tức là vô tác niệm xứ. Về giải thích riêng có huyền thị, tức ngầm nêu. “Nhất như …” là luận bày. Từ “Sáu thứ này …” là kết ý, có chánh kết ý. “Như thế …” là chỉ đầu mối. Từ “như …” là giải thích thêm có nói đầu mối khuyến tín, có ba: nhân duyên, ước giáo và quán tâm. Nếu không có ý đầu thì không khác ngoại đạo chấp. Nếu không có ý sau thì không luận thiên Tiểu. Nếu không có ý thứ ba thì làm sao nói lên được giáo công của năng thuyên, lấy gì làm gốc cho hạnh cõi Phật. Cho nên cần phải nhập tâm thành quán, phần quả mới có ngày. Nên Chỉ Quán nói: quán cùng kinh hợp nhau mới là không phải đếm báu của người. Ở đây mà lược biết tất không hạn cuộc ở giáo. Nếu muốn tu chứng phải nương chỉ Quán, lấy mười cảnh mười thừa chung làm tất cả Đại giáo hạnh môn. Bốn thứ Tam-muội không kinh nào chẳng có. Không thể vừa thấy quán tâm liền bảo không cần chỉ Quán. Cho nên một nhà làm chương Sớ phàm khi đến hạnh môn đều chỉ vào bộ ấy. Như Pháp hoa Sớ giải thích An lạc hạnh, Kim Quang Minh Sớ giải thích Không phẩm. Về thứ tự nếu so với văn quán môn khác thì rất rộng. Lấy mười thừa chưa luận, mười cảnh chưa tỏ. Nếu muốn tu tập, ra xa sợ phải chìm. Cho nên ngài Chương An đối với văn sớ ấy chỉ đặc biệt nêu chỉ Quán. Các văn khác cũng nhiều như thế. Đâu đợi phải trình bày tường tận, hàng hậu sinh khả úy, tìm thấy tất tự hiểu. Ba ý này nếu so bốn ý của Pháp hoa nêu văn thì chỉ thiếu bổn tích. Vì kinh này chưa nói bổn xa. Từ đây …” giải thích kinh văn, văn hợp với đây, nếu hoặc thiếu hoặc lược bỏ thì văn không liên lụy đến cách viết. “Đều quý” là hiểu được ý. Nhân duyên đầu, ngài Kinh Khê nói: Từ “đây …” giải thích chung văn tựa, nghóa đủ bốn Tất-đàn, ít nêu danh mục, cứ chuẩn theo Pháp hoa Sớ so sánh có thể thấy. Nay trong đây chỉ nêu một, hai chương tiết, khiến việc so sánh sau này ắt dễ hiểu. Nay văn nay đầu tiên là thế giới Tất-đàn. Lại “như thị …” là vi nhân Tất-đàn. Lại “Đại luận …” là đối trị Tất-đàn. Lại “xưa nay …” là Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Hiện đời đấu tranh là mình chứ chẳng phải người quấy. Không theo chánh lý thì báo ở nơi địa ngục chẳng cũng là phải sao? Thích tử mà như thế tức đồng kẻ ngoại đạo. Đại luận nói lệ rằng: Vì pháp mình ái nhiễm Chê bai pháp người khác Tuy là người trì giới Không khỏi khổ địa ngục. Lời nói này có bằng cứ, người học hãy thận trọng. Căn cứ ở giáo có chánh giải: Tức dựa vào giáo có nêu bổn lý vắng lặng tùy cơ phân làm bốn. Ở Đương giáo mà luận, lý đều không nói năng. Nên nói bốn không thể thuyết. “Một nhân …” là giải thích. Câu-lân tức Trần-như, cùng bốn nguời kia nên nói đẳng. Pháp nhãn tịnh là Sơ quả, nói năm nghóa, tức khổ, không, vô thường, vô ngã, tịch diệt. Dẫn Vô Lượng Nghóa nói Bát-nhã, Hoa Nghiêm để làm chứng giả danh, ngài Kinh Khê nói: Lại từ nhiều kiếp để chứng giả danh, không phải toàn bộ hai kinh đều ở giả, mà chỉ là nói nhiều, nên mượn dùng. “Nếu Bồ-tát …” là thấy Phật tánh, khai Phật tri kiến đều ở sơ trụ. “Phật pháp …” là kết. Chỉ chung bốn giáo gọi là Phật pháp. Ước theo vị có nêu chung năm vị. Từ “kinh này …” là riêng nêu kinh này. “Hỏi …” là giải nghi. Về quán tâm, có chánh giải thích: Trước là nêu bày. Từ “Hoa Nghiêm …” là dẫn chứng. Tâm Phật là chỉ chân, tâm chúng sinh là chỉ vọng. Mê chân mà thành vọng, Liễu vọng thì tức chân. Sóng nước, dây leo, rắn… thì ý dụ có thể biết. Chúng sinh và Phật lý bình đẳng, chân vọng nhất như. Thế nên muốn biết tâm Phật thì chỉ cần quán tâm chúng sinh. Như muốn biết nước thì quán sóng tất có thể biết. Nên Thập Bất Nhị Môn nói ba ngàn đồng ở đất tâm, cùng đất tâm Phật ba ngàn không khác. Một trần dụ cho tâm chúng sinh, kinh quyển dụ cho tâm Phật. Tâm đủ ba ngàn tức tâm Phật vậy. Ba quán tâm tức đủ bốn lý, do tâm vốn đủ ngoại cảnh hay huân. Cho nên quán như lý có bốn thứ khác nhau. Nếu hiểu ba quán sao lại không thu nhập? Về giải nghi. Lục tức là phân biệt, vì tức nên phàm cũng đầy đủ, vì lục nên Thánh chỉ có ở Phật. Thế nên bắt đầu là phàm mà lý đủ không nghi, không có thú để thọ sinh mà không sợ, còn cuối cùng là Phật, mà không thượng mạn vì sinh ra đã tự lớn. Nghóa Lục tức này khởi lên từ một nhà rất phù hợp viên chỉ, dứt khoát không có các lỗi. Ám thiền là nhiều tăng thượng mạn. Văn tự là suy công người trên đều do không hiểu Lục mà lại tức, nay người ở ngôi vị danh tự y kinh tu quán mà không đồng đếm báu. Hoa Nghiêm đời Tấn dịch nói: Thí như có người bần cùng trọn ngày đếm số châu báu của người khác mà chính mình không có nửa xu, nếu đối với pháp chỉ nghe nhiều mà không tu hành cũng thế. Thân thừa âm chỉ, có phần nêu bày. Từ “Nhất tổng …” là chánh giải thích có tổng giải thích: Chánh giải lại có ước nghóa mà lược giải. Về dẫn luận giải thích rộng: Người Học, Vô học, học tức là ba quả trước, Vô học tức quả thứ tư. Thị giả A-nan là người Học, đến khi kết tập xong thì là người Vô học. Tùy lẽ tục xưng “Ta” nên không trái lễ nghi, trong không chấp ngã nên không trái chân thật. Người không lấy làm lạ, là như Thánh nhân xưng ngã, như lấy vàng đổi đồng đời không lấy làm lạ. “Nhó căn không hư…” là nói theo xưa. Nhó thức do bốn duyên sinh ra: Căn. Trần. Không. Tác ý. Trong văn chỉ thiếu duyên không. Hòa hợp lại không phải thiếu các duyên kia nên hay sinh thức. Các nhà học mới nói nhó thức do chín duyên sinh ra, như các nhà danh số nói. “Hỏi …” là giải nghi: Ước lúc trước sau mà giải nghi có niềm nghi. Từ đây trở về trước, Nhó là đây. Bị ma che lấp, tức là ngoài rừng Ta-la, bị sáu mươi ức ma hiện thân Phật nói rộng pháp môn để mê hoặc A- nan. Phật sai Văn-thù đọc chú kéo lại, do đó A-nan được trở về, rõ ràng đầy đủ như phẩm Trần-như ở Đại kinh đã nói. Từ “Đáp …” giải thích có nói kết tập kinh tạng, xưng: “Ta nghe”: Tức lần lượt nghe, xưa y vào Đại luận giống như nghe ở người khác; kế là dẫn Xá-lợi-phất hỏi kinh, nhờ định lực tự nghe nên gọi lần lượt. Nói Phật giác, chỉ là Phật gia hộ sức biết như Phật, nên gọi là Phật giác Tam-muội, chứng rồi không phải từ người khác mà nghe. Nên nói tự mình có thể dùng sức bản nguyện để duy trì Phật pháp. Từ “Lại báo…” là Phật nói lại. Kinh Báo Ân, quyển sáu nói: “Phật tìm ông làm thị giả hứa chấp thuận bốn cầu xin: Không thọ nhận y cũ; Không nhận thỉnh riêng; Không giống như các Tỳ-kheo khác, muốn gặp Phật liền gặp. Như lời Sớ nói, Đại kinh cũng nói, A-nan xin bốn điều và điều thứ tư đó là ra vào không hạn lúc, nói khác với kinh Báo Ân. Cho nên nói ba điều xin giống kinh Niết-bàn. “Lại nữa …” là nói việc luật luận xưng “Ta nghe”. Khi Phật ở thành Ba-la-nại, đầu tiên nói cho năm người về tạng Khế kinh, sau khi Phật diệt độ thì A-nan kết tập. Khi Phật ở thành La-duyệt-kỳ, đầu tiên nói cho Tu-na-đề về tạng Tỳ-ni, sau khi Phật diệt độ thì Ưu-ba-ly kết tập. Khi Phật ở ao Mi-hầu tại thành Tỳ-xá-ly đầu tiên nói cho Bạt-kỳ Tử về tạng A-tỳ-đàm, sau khi Phật diệt độ thì năm trăm vị A-la-hán kết tập làm kinh Tương Tục Giải Thoát. Đó là Phật tự nói, nên lại gọi là kinh. Về sau rộng kết tập các pháp tướng, bèn gọi là luận. Cho nên biết luận tạng không phải riêng có khi Phật đã diệt độ. Nếu thế thì tam tạng đều do Phật nói, cho nên biết luận tạng cũng có nghóa xưng “Ta nghe”. “Hỏi vì sao …” là ước pháp Đại Tiểu mà giải nghi, có nghi và từ “đáp …” là giải thích được chỉ kết tập Tiểu thừa, cũng có kết tập cộng giáo. Gồm kết tập Bất cộng giáo trình bày tha giáo. Ngài Kinh Khê nói: Căn cứ theo đây thì phải dẫn kinh luận Đại thừa để làm chứng. Nay nói Chánh pháp niệm là căn cứ vào nhiều loại văn trong tích của Phật. Không phải bảo Tiểu thừa đã nói A-nan hay trì được cả Đại Tiểu. Đã có nhiều thứ thì không thể cùng trì một tạng Tiểu thừa. Cho nên ít nhiều gọi là ngầm ước định sâu rộng. Từ “nay gọi …” giải giúp người khác. Dẫn văn đã đúng, nên nay Sư dùng bốn giáo mà giải thích giúp. A-nan trì tức nhậm trì Đại thừa như đất giữ các vật. Bất cộng tức là Biệt Viên, trì giáo Trung đạo như biển bao dung tất cả. Pháp hoa Sớ lại dựa vào A-hàm mà thêm A-nan Điển Tạng trì Biệt, A-nan Hải chỉ trì Viên. Nay dựa vào Thật lý hai giáo, nên gồm làm một. Về giải thích riêng có nêu chương, “ngã cũng …” là giải nghóa. Có ngã: Gồm căn cứ giáo: Tức chánh nói ngã. Ở tạng thứ năm, thì Độc Tử là ngoại đạo phụ thêm Phật pháp. Ông ta tự ỷ thông minh, khi đọc Xá-lợi-phất Tỳ-đàm bèn tự đặt nghóa riêng nói rằng ngã ở ngoài bốn câu “trường hợp) nên nói là thứ năm. Nói bốn câu, là ngoại đạo chấp rằng: Sắc là ngã, lìa sắc là ngã, trong sắc có ngã, trong ngã có sắc. Bốn ấm kia cũng thế. Hoặc nói ba đời và pháp vô vi là bốn câu, gọi ngã là phần thứ năm, không thể nói là tạng. Các thứ đó gọi là ba bộ trên. Đều phá người ngoài, tức Độc Tử giúp Phật lại phá các ngoại đạo khác Biệt giáo, ngài Kinh Khê nói: Các điều Biệt giáo nói thì giống các Bộ giải thích nghóa chữ ngã, nhưng không phải là ý chánh, nên không nói riêng. Nay từ tính ưu thắng mà nói nên nói tự tại. Khéo giỏi thấy biết là xuất giả lợi tha, dùng đạo chủng trí pháp nhãn mà thấy, ứng bệnh cho thuốc nên không quái ngại. Tợ ngã thức, Tiêm sư bảo luận có nói hư vọng trần phải có mà hiển hiện y chỉ, nên gọi là y tha tướng tánh và giải thích rằng: Định vô sở hữu nên nói là phi hữu, không có vật mà làm duyên duyên sáu thức nên nói là hư vọng. Trần là ngã thức sinh trụ diệt… tâm biến khác sáng suốt rõ ràng nên gọi là hiển hiện. Hiển hiện này lấy tánh khác làm nhân nên nói y chỉ. Ví như chấp ngã làm trần, thì trần này thật ra không có, vì ngã không phải có nên do tâm biến đổi khác mà hiện ra giống ngã, nên nói phi hữu hư vọng trần hiển hiện. Vì việc này nên nói giống ngã “tợ ngã). Trung đạo Phật tánh tức nghóa của ngã, kinh Niết-bàn nói: Ngã tức là nghóa Như Lai tạng. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tức là nghóa ngã. Trong pháp Vô ngã có chân ngã, tức là biên mà trung, nên tức thiên mà viên. Từ “trước ba thứ …” là phán quyết giải thích có nói về quyền thật. Từ “hỏi …” là giải nghi ngại. Ngài Kinh Khê nói: Ý câu hỏi này là: Tùy tục nói ngã, thì bốn giáo đều phải cho ngã là thế tục, sao lập tên tự tại cho đến bất nhị. Ý đáp là ba giáo tùy tình phần nhiều theo tục. Biệt tuy tự tại song sánh với Viên thì vẫn tục. Biệt giáo Địa tiền chưa quán bất nhị. Hậu tâm tuy đã chứng từ giáo nhưng lý không được gọi là tự tại mãi mãi. Viên giáo nói ngã, ngã tức là nghe, hay nghe lại nghe đều là pháp giới. Cho nên khiến ngoài ngã thì không có nghe nào khác. “Dụng giáo …” là căn cứ vị; nói về nghe thì có căn cứ giáo: Tức dẫn kinh lập chung. Từ “Tạng …” là phối giáo giải thích nghóa có tạng: Chánh giải thích: Tiểu sinh sinh Đại sinh, luận Câu-xá nói: Đây có sinh mà sinh…. Ở trong tám thì một có năng, nghóa là bốn tướng bổn và bốn tướng tùy là tám. Tướng lớn gọi là bổn, tướng nhỏ gọi là tùy. Do tám thứ này nên khiến tất cả pháp thành tướng hữu vi. Nói sinh sinh nghóa là Tiểu sinh sinh Đại sinh. Đẳng nghóa là bằng nhau ba tướng kia. Tức là tiểu trụ trụ đại trụ, tiểu dị dị đại dị, tiểu diệt diệt đại diệt. Ở trong tám thì một có năng, là tiểu tướng ở một cơ năng. Tướng năng tướng đại. Tướng đại ở tám có năng, nghóa là một tướng đại khi khởi lên tất cùng với ba tướng đại và bốn tướng tiểu cùng khởi đều là pháp một bổn nên nói là tám, ba tướng đại kia cũng thế. “Nay cũng …” là lấy sinh biểu thị nghe. Vì tam tạng thật có nên còn Đại Tiểu. Về liệu giản: Hỏi: Ngài Kinh Khê nói sinh sinh đến bất đoạn, là vì pháp sinh sinh là thế tục. Đáp: Nói bỏ hành lấy giáo và nói căn cứ hành có ngại hai Thông ba Biệt. Khi thế đế chết, là nói chỉ quán để phá vô minh là thế đế chết. Nay là căn cứ phá trần sa. Mà sinh nghe giữ cho đến thường giữ, là được đạo Chủng trí học đủ bốn môn của giáo. Ngài Kinh Khê nói: Thông giáo không nghe mà nghe, Biệt giáo nghe mà không nghe, là nếu chuẩn theo văn hai cú đối giáo cùng văn tướng hiện nay thì có không đổi nhau là sao? Vì nghóa thông nhau nên có thể dùng chung. Ở văn gốc của kinh thì không thế. Đều là tùy nghóa nên được luận chung nhau. Vì trong Đại kinh sinh… giải thích là nghe. Câu “sinh” và nghe cũng đồng cho đến giải thích về Sinh cũng như thế. Cho nên Đại kinh nói: Sinh bất sinh bất sinh sinh sinh sinh bất sinh bất sinh”. Cho nên từ nghóa thì “không” đổi nhau tồn tại. Nói nghóa thông, sao lại lấy Thông giáo làm không nghe mà nghe, tuy không mà sắc. Nghe mà không nghe, là sắc tức là không. Nếu giải thích riêng không nghe mà nghe, thì từ không xuất giả. Nghe mà không nghe, tức như trồng cây trên không trung, tuy trồng mà trống không, hai nghóa đều thông chấp danh nào có ích gì. Viên có phần chánh giải: Tướng nghe dứt mất, tức hai biên dứt mất, nên nói không nghe mà không nghe. Dẫn chứng giải thích có dẫn chứng. Ý hỏi: Ngài Kinh Khê nói: E là không hiểu, tức thấy không nghe mà không nghe. Lại nói cùng dứt mất, nghóa là dứt khoát không nghe và nghe trái nhau, cho nên hỏi để có lời đáp sau. Ý này muốn hiển bày hai chết và nghe dứt mất tự tại nghe sinh thế nên trong đáp nếu tương tợ dứt thì hay tương tợ nghe, nếu rốt ráo dứt thì hay rốt ráo nghe. Về giải thích có sự chê bày lỗi. Từ “như pháp …” lấy phàm so với Thánh, tương tợ nội phàm nghe pháp còn thế, huống là phần Thánh ư? Từ “cố đại …” là dẫn chứng tướng nghe. Diệu lý rỗng sáng vốn “không” nói bày, hay như thế mà biết, mới nói là đa văn. Cho nên nói “nếu biết” là chung biết giống chân, biết tức là quán chiếu vậy. “Dùng bốn…” là căn cứ vị. Về giải nghi có nghi. Ngài Kinh Khê nói: Hỏi Đại luận… trước hỏi đều ứng gọi việc lưu bố ở đời sao có chân ngã. Nay hỏi nên ứng hợp tất cả đều không sao được trong đây lại luận là có, tức trái với câu hỏi. “Nếu thế …” là kết hỏi đáp. Về giải thích có nói pháp Không có tánh nhất định. Ngài Kinh Khê nói nếu nhất định có, thì không phải có bốn. Nếu nhất định không thì cũng không nên có bốn. Từ “nếu có …” là nêu lỗi chấp không. Ngài Kinh Khê nói tất có hai lỗi: Một là, lỗi phá hoại giáo phương tiện của Phật. Phương tiện đối thật tất có bốn thứ; hai là, lỗi làm tăng thêm số người không tin, phá hoại chánh giáo. Vì không tin nên không tin Phật có các giáo phù hợp cơ, nay trở lại không chấp nhận các giáo Phật pháp chánh nghóa phải đối với người không tin có cảnh . Trong tam tạng giáo còn có ba văn để nói đối ngã có giả thật không đồng, lại cùng phá lập, hiển bày ngã không đâu không có. Và ba giáo sau, đều nói có ngã. Thế nên phải biết, không thể Không có. Tuy nhiên cho có ngã thì nhất định không thể có một ý, muốn đều giữ còn quyền thật các thuyết, nên gạn kỹ thì Phật pháp là không có ngã nên biết việc mặc cho các vị kia lập ra tông mình. Trong giáo Phương tiện tam tạng đã nhiều, huống là ba Qquyền một thật đối nhau tên nó bất nhất sao được một mực nói là vô ngã ư? Cho nên biết hữu vô đều là Phật pháp. Ba quán tâm ba thời cảm giáo, có thời phương mà có mười phương là nơi chốn như thành Tỳ-da-ly…. Từ “một gồm …” là giải thích có tổng giải thích: Gồm dẫn luận tổng lập, số tức là một. Thật không, là Thật trong pháp chân không, không có thời số. Cho nên ấm… ba khoa không nhiếp về pháp vọng. “Tùy …” là chân không tuy không tùy tục mà nói có. Nên Đại luận quyển hai nói hỏi trong Phật pháp các pháp số thời có thật không. Ấm giới nhập vì không chỗ nhiếp nên lấy gì mà nói một thời Đáp: Tuy thật không có một thời, tùy thế tục mà nói một thời không lỗi. Nghóa như vừa giải thích không làm chung các thuyết. “Nói bốn …” là nêu tên giải nghóa nêu tên và từ “nhược thông …” là giải thích nghóa: Y danh luận nghóa được giải thích cảm giáo, một kỳ giáo, bắt đầu là phẩm Phật Quốc, cuối là phẩm Chúc Lụy gọi là một kỳ. Giới tự, ngài Kinh Khê nói: Kinh Phạm Võng xưa, ở đầu kinh có tựa, phần mùa xuân có bốn tháng, vì Phật pháp Không có mùa thu chỉ phân làm ba mùa nên phải bốn tháng. Từ “Nếu căn cứ …” giải thích về đắc đạo. Như khổ nhẫn một Sát- na là đã không xuất quán không nghe pháp nghóa, nhờ được nghe trước mà nhập vào kiến đế. Đây dùng sát-na làm một thời. Từ “nay căn cứ ..” là chánh bày ý nay, thế thiện cơ phát, là Thế thiện, nhân thiên thiện vậy, tức là nhiều thời, ngài Kinh Khê nói: Vì không đồng khổ nhẫn một sát-na, vì tâm hữu lậu thời tiết dài hơn, vì thế gian tâm thiện hỗn tạp. Ba môn sau cũng lại như thế. Cho nên ba môn trước đều đủ cả bốn Tất-đàn, chỉ có môn thứ tư riêng luận về thời. Từ “lại giải …” là nói những kinh chưa nghe được Phật nói lại cho A-nan biết. Từ “hai căn cứ …” là giải thích riêng, nói về ước giáo: Ngài Kinh Khê nói pháp Không có thời riêng, tất ước thật pháp để luận một thời. Phá thời điên đảo là nhập không, hay phân biệt… là xuất giả. “Nhiếp Đại thừa…”, Tiêm sư nói luận thứ năm ấy nói do bổn thức hay biến đổi làm thành mười một thức, bổn thức tức là hạt giống của mười một thức. Nói mười một thức là: Thân thức. Thân giả thức. Thọ giả thức. Ưng thọ thức. Chánh thọ thức. Thế thức. Số thức. Xứ thức. Ngôn thuyết thức.Các thức này nhân ngôn ngữ huân tập chủng tử sinh ra. Tự tha sai biệt thức. Thức này nhân ngã kiến huân tập chủng tử sinh ra. Thiện ác lưỡng đạo sinh tử thức. Thức này nhân có phân biệt huân tập chủng tử sinh ra. Giải thích rằng: Thân thức là nhãn… năm giới. Thân giả thức gọi là nhiễm ô thức. Thọ giả thức gọi là ý giới. Ưng thọ thức gọi là sắc… sáu ngoại giới. Chánh thọ thức gọi là lục thức. Thế thức gọi là Sinh tử tương tục bất đoạn. “Giải thích rằng” là nói quả báo của chúng sinh từ vô thỉ đến nay ba đời sinh tử tiếp nối không dứt, nên cần phải lập thế thức. Số thức, nghóa là từ một đến a-tăng-kỳ. “Giải thích rằng” là nói quả báo của chúng sinh, có các giới nhiều ít không đồng như bốn giới, sáu giới, mười tám giới… nên cần lập số thức để nhiếp giữ tất cả số. Xứ thức gọi là khí thế giới. “Giải thích rằng” là nói chỗ ở của chúng sinh như nhân thiên. Đường ác… có vô lượng thứ khác nhau, nên cần lập Xứ thức để nhiếp giữ tất cả chỗ. Ngôn thuyết thức, nghóa là thấy nghe hiểu biết đều có rất nhiều thứ, nhân đó mà có vô lượng nói năng, làm việc nói năng cùng thấy nghe… cùng hỗ tương hiển bày, cho nên cần lập ngôn thuyết thức để nhiếp tất cả nói năng. Cả mười một thức này đều lấy phân biệt làm nhân, hư vọng làm quả. Ngài Kinh Khê nói: Nếu từ phân biệt số cho đến thế để luận về thức thì số và thế có rất nhiều việc, nên thuộc Biệt giáo. Huống là trong Nhiếp luận không nói. Tiểu thừa lại có nghóa ít Viên, nên thế và số này tất thuộc Biệt giáo. Nay bảo rằng lìa chân có vọng càng thêm phân biệt. Việc nhiều tức là nghóa Biệt giáo, cho nên nói một thời dẫn ra số và thế. Một tức là số, thời tức là thế. Một thời nhập vào tất cả thời…, tức dài ngắn chỉ do tâm, nên hay nhập vào nhau. Ngài Kinh Khê nói: Đầy đủ như Hoa Nghiêm, sát-na là ba đời, chín đời đều đầy đủ, huống lại là bảy ngày đối một kiếp ư? Hoa Nghiêm mười nhất thiết, thì Tiêm sư nói kinh xưa quyển hai mươi lăm nói: “Này Phật tử! Tất cả chư Phật có mười thứ phương tiện khéo léo”. Phương tiện thứ sáu nói: “Tất cả chư Phật hay đối với một thời đều phân biệt biết tất cả thời không buông bỏ, sinh bình đẳng chánh pháp, mà tất cả thời đều không nhiếp giữ. Không phải ngày, không phải đêm cho đến nói không phải thời chẳng lìa thời mà đối với vô lượng thời chuyển pháp luân, chưa từng tạm nghỉ. Đó là phương tiện khéo léo của tất cả chư Phật”. Nay bảo lưu thông nêu mười ý ở phần thứ sáu để chứng một thời đã có lý sự viên dung, nên nó thuộc nghóa viên. Từ “hai …” là căn cứ vị; quán tâm dựa vào ba quán nhiếp một thời của bốn giáo, như văn.  DUY-MA KINH LƯỢC SỚ THÙY DỤ KÝ <卷>QUYỂN 2 Xét về Hóa chủ đầu tiên nói ý đến, chín mươi sáu thứ là chuẩn theo chín mươi sáu đạo kinh. Kinh ấy hai quyển nói rõ về các tướng trạng, trong đó một đạo là chánh tức Phật đạo còn chín mươi lăm đạo kia đều tà. Hoa Nghiêm Đại luận nói cả chín mươi sáu đạo đều tà, vì lấy Đại thừa chê Tiểu thừa. Nên Bách luận nói: Đạo thuận Thanh văn thảy đều tà. Vô Sư Đại Giác thì kinh Thụy Ứng nói ta hành Vô sư bảo, cũng gọi là Vô đẳng bảo, khiếp là phục. Về chánh giải thích, đầu giải thích Phật. Xưng danh cũng thế, hợp gọi là danh xưng, tức trong thì đức, ngoài thì tiếng tăm đều vô lượng. Về giải thích tại, là tên khác của trụ. Ngài Kinh Khê nói: Tất cả kinh, hai tên đầu đều dùng chung nhau. Tên khác nhưng nghóa đồng, người dịch tham khảo lấy. Trụ bố thí bình đẳng, là lấy nhân mà hiển bày quả. Nhân tu bố thí bình đẳng thì quả ở trời cõi Dục. Các thứ khác đều phỏng theo đây. Từ “Phạm…” cõi Sắc và Vô sắc đều lìa dục nhiễm nên gọi chung là Phạm trụ. Phạm là thanh tịnh. Ba Không là Không, Vô tướng, Vô nguyện, cũng là sinh Không, pháp Không, bình đẳng không. Lăng-ng- hiêm dịch là Kiện tướng, tức nhiếp chung các Tam-muội. Pháp Phật có được, ngài Kinh Khê nói Phật dùng không chỗ nương mà làm chỗ nương. Không chỗ nương tức là Thường tịch quang. Hiện ba cõi, là vì lợi vật, vì trụ biểu thị cho không trụ mà ở thành này. Thế gian giải thích Phật trụ chỉ dùng ở cõi đời, nên xem Phật đồng với người đời. Nay muốn nói chung nên gọi chung là Phạm thiên, huống chỗ Phật trụ chung cả Phạm thiên. Nay nói ngài Long Thọ nêu chung bốn trụ, riêng bày hai cái sau để giải thích văn kinh, nên luận tự kết rằng: Ở trong pháp bốn trụ mà trụ Thánh, trụ Phật, trụ Pháp. Vì thương xót chúng sinh nên trụ ở thành Vương xá. Các Sư khác không hiểu, nay gia sư toàn y vào Đại luận mà vọng có chê phá. Về giải thích riêng được nêu giải thích Phật có chánh giải thích, tức lược nêu giải thích tên đề và từ “sơ thành…” là dẫn các giáo rộng giải thích: Nói thành đạo; chuyển pháp luân. Tướng lớn nhỏ, lớn tức ba mươi hai tướng, nhỏ tức tám mươi vẻ đẹp. Theo giáo Biệt Viên thì Phật lớn nhỏ đều có tám mươi bốn ngàn. (liền cởi chuỗi Anh lạc), tức dùng văn Pháp hoa ví dụ năm thời để hiển ý này. Dấu thân Lô-giá-na bằng cách cởi chuỗi anh lạc và hiện liệt ứng thân như mặc áo xấu, tức làm thầy Tỳ-kheo già. Tướng cao quý trong nhà sang trọng “môn nội Tôn Đặc), đã tâm tướng thể tín, nên vào nhà thấy Trưởng giả đeo chuỗi Anh lạc. Như ở kinh này ngài Thân Tử thấy thân Phật như núi chúa Tu-di. “Hoặc hiện…” là mới vào Tiểu cơ. Còn thấy thân liệt ứng. Vì chúng sinh nghi, Tiêm sư nói trong Bát-nhã ấy có nghi rằng: Đầu tiên Phật sinh ở cung vua, năm mười chín tuổi xuất gia, năm ba mươi tuổi thành đạo, đến đây sao có thể hiện thân Bất tư nghì. Để dứt các nghi nên chỉ hiện thân trượng sáu, xung quanh mỗi bên có ánh sáng một trượng. Đây đều là các nghi. Người thường được thấy, là thân thường ánh sáng thường. “Niết-bàn…” là hiện thân tuy đồng Phương đẳng mà kẻ học Tiểu thừa đồng hiểu Viên thường, chỉ đây là khác. Hỏi: Có người bảo Hoa Nghiêm nói báo thân, còn các kinh Đại thừa khác đều nói ứng thân, để phán quyết hơn kém, là nhất định thế chăng? Đáp: Nói ba thân thì ứng thân thường nói nhất. pháp thân nhất định không nói, báo thân thì chung cả hai nghóa. Báo tự thọ dụng thì đồng với pháp thân không nói, Báo tha thọ dụng thì đồng với ứng thân có nói, ứng tức pháp nên nói tức không nói, pháp tức ứng nên không nói tức nói. Căn cứ theo lý thì không phải nói không phải không nói, ước theo sự thì có nói, có không nói. Lý sự tương tức tranh chấp từ đâu mà có. Cho nên Pháp hoa và Niết-bàn đã khai quyền còn là pháp thân nói, há không phải là báo thân nói. Cho nên nói Thích-ca Mâu-ni gọi là Tỳ-lô-giá-na. “Ta nay thân này) tức là pháp thân. Hạng cơ tầm thường xét mà suy nghó. Nhập Niết-bàn. Song ba văn này tới lui có khác chút ít. Thành đạo và nhập diệt đều ước vào bốn cơ, cùng lúc thấy khác. Trong khoảng chuyển pháp luân, bèn ước vào năm thời, thêm bớt mà nói. Cùng lúc thấy khác, tức là ý thông nhau, năm thời thêm bớt tức là ý thứ lớp, nên biết đều thông nhau và đều thứ lớp, chỉ cùng hiện ở văn mà thôi. “Kinh này…” là phán quyết thuộc kinh này. Nay phán quyết giáo bộ chính là y vào thứ lớp. “Hỏi…” là liệu giản. Từ “nếu đến…” là vì chướng nặng nên thấy thân kém, căn lợi nên được thấy nghe pháp cao quý. Giải thích Tại, Tại tức là nghóa Trụ “ở). quán tâm, sáu tức phân biệt, tường tận như trước ghi. Phàm luận quán tâm đều vì người ở vị sơ tâm danh tự mà chỉ rõ môn ấy. Nơi nghe kinh, có hai: 1, Ý nói phân chương. 2, Y chương giải nghóa, Chánh giải thích nơi chốn, Nơi chốn chung, căn cứ sự, nước Tỳ- da-ly ở phía Nam sông Hằng, tại cõi Trung Thiên Trúc. Bốn nghóa trong văn, tức là thế gian bốn Tất-đàn. Vì nghiêm tịnh nên người thấy đều vui mừng tức thế giới Tất-đàn, lương thực nuôi mạng sống, tức giúp tốt lành cho nhân sinh. Bằng phẳng không lồi lõm tức là đối trị phá ác. Ưa thích chánh đạo tức là Đệ nhất nghóa. Nhân nghóa chánh đạo tức lý thế gian. Chỉ trực là bằng phẳng. Khổng An Quốc chú thích Võ Công nói rằng: Chỉ nhỏ hơn lệ, đều là đá mài cả. Hiếu đạo là đôn hậu gắng gỏi. Năm trăm Trưởng giả… là phàm năm trăm nhà đều nhường ngôi làm vua. Đối pháp môn. Đối bốn giải thích trước cũng thành bốn Tất-đàn. Ba thứ trước đều là tên khác của Đệ nhất nghóa, bốn thứ đều ở lý, đọc văn có thể thấy. Ngài Kinh Khê nói: Kế đối pháp môn cũng nương vào bốn nghóa để lập cõi nước là chỗ nương tựa cho ba thân. Trăm thức lúa thóc, thì Dương Tuyền Vật Lý luận rằng: Nếu cốc khí mạnh hơn nguyên khí, thì khiến người ấy mập mà không thọ. Còn thuật dưỡng tánh thường khiến cốc khí yếu, nên bệnh không sinh. Lương là tên chung các loại lúa thóc, xưng là tên chung các đồ tưới giặt, thục là tên chung các loại đậu. Ba cốc, mỗi thứ đều có hai mươi giống thành sáu mươi. Các hạt rau quả giống lúa mỗi thứ có hai mươi gồm thành trăm giống lúa. Quán tâm, hướng đối pháp môn thì biểu thị ngay quả địa chứng được của Đức Thích-ca. Đây nói quán tâm là chính người tu phải nhiếp giữ một niệm, nói về tánh thì giống đồng nhau, nhưng phàm Thánh lại hai thứ rất khác biệt. Dưới giải nghóa Am viên cũng thế. Không nhiễm không đắm trước, là không nhiễm sinh tử, không đắm trước Niết-bàn. Lại không nhiễm hai biên, không đắm trước Trung đạo. Nghóa nhiễm trước một phần đã được giải thích như thế. Bách cú giải thoát, rút từ kinh Niết-bàn, bách cú tuy nhiều nhưng ba giải thoát gồm nhiếp cả. Ba giải thoát tương tức nhau chỉ là một tâm. Phân biệt nơi chốn, Nói ý: Trợ chứng Du Mạn, tức nêu chung tên nước, không biết Phật ở đâu, cho nên sau đó nói vườn cây Am-la. Chánh giải thích. Ước sự: đây cùng Đại kinh giống nhau khó phân biệt, tức sống chín khó phân. Đủ có bốn câu, là thấy trong văn quán tâm. Hoa sinh một gái…, đây là dựa vào kinh Nại Nữ Nhân Duyên mà nói. “Đối pháp môn”, từ Hoa thất giác khởi tâm Từ bi, ngài Kinh Khê nói: Nhân khi Tướng thành nương vào đó mà khởi thệ. “Tuy không phải hữu vô…”, tức tuy không phải cùng ngăn cách, “từ mà giống…” là song chiếu vậy. Vì trung và biên tương tức nên khó phân biệt. Căn cứ quán tâm, mười thứ vườn, Tiêm sư nói kinh xưa quyển ba mươi hai nói: Này Phật tử! Đại Bồ-tát có mười thứ vườn rừng. Những gì là mười, đó là vườn rừng sinh tử, vì làm hạnh Bồ-tát không khởi buồn lo. Vườn rừng giáo hóa chúng sinh, vì không chán chúng sinh… cho đến nói vườn rừng ở trong mỗi niệm tất cả chúng sinh hiện thành Chánh giác. Vì pháp thân như hư không đầy khắp tất cả thế giới Bình Đẳng giác. Quán bất tư nghì khó phân biệt lý, quán tức ba quán, lý tức ba đế, không một không ba gọi là khó phân biệt. Tận tường như văn chỉ quán thứ năm quán ấm cảnh. Từ “hỏi ai…” là giải thích nghi ngại. Trước nói quán pháp giải thích đều là ý Phật. Có Hỏi và Đáp: Nêu ý Phật bao hàm nhiều thứ để chê chung. Trước nêu bốn dụ để hiển bày bao hàm nhiều thứ. Do bao gồm nhiều thứ nên tùy cơ giảng pháp, đâu chỉ giải sự ư? Lưu niệm đối chủng là dụ cơ, Hải châu cảnh địa là dụ Ứng. Kế “Đại kinh…” là chê chung. Ngài Kinh Khê nói: Ông còn hiểu ở sự mà không chấp nhận pháp môn, như đều căn cứ vào ngà và đuôi mà mất đi thật thể. Cho nên một nhà giải thích nghóa, sự lý đều phải đủ cả hai, đâu không phải là được toàn phần con voi đấy ư? Như mười thành mười vườn trong kinh Hoa Nghiêm, há có thể chỉ là thành vườn ở thế gian? Việc rờ voi, như trong Đại kinh nói: Ví như có vị vua bảo một quan đại thần: Ông đem một con voi đến trước nhóm người mù. Mỗi người lấy tay rờ. Người rờ vào ngà thì nói voi giống như củ phục linh. Người rờ vào tai thì nói voi giống như cái ky. Người rờ vào đầu thì nói voi giống tảng đá. Người rờ vào vòi thì nói voi giống như cái chày. Người rờ vào chân thì nói voi giống như cái cối gỗ. Người rờ vào lưng thì nói voi giống cái giường. Người rờ vào bụng thì nói voi giống cái ảng lớn. Người rờ vào đuôi thì nói voi giống sợi dây. Vua là dụ cho Như Lai, quan đại thần là dụ kinh Niết-bàn, voi dụ cho Phật tánh, nhóm người mù dụ cho tất cả chúng sinh vô minh. “Nếu nói…” là dẫn văn kinh quán pháp để chánh đáp. Vả lại Phật nói lời thành thật, là trong Đại kinh Phật tự giảng nói ý nghóa biểu trưng của song lâm. Như kinh nói hai cây phía Đông là biểu thị cho thường và vô thường. Nên nói đều biểu thị cho Bán, Mãn. Vô thường tức là Bán, thường tức là Mãn. “Hỏi pháp…” là hỏi Phật tự giảng nói, tức kinh nói: “Lấy đại Bi làm nhà, lấy nhu hòa nhẫn nhục làm áo, lấy các pháp Không làm tòa ngồi”. Sư tâm, là tâm trước bất thiện mà tâm sau tùy theo gọi là Sư tâm “tâm làm thầy), nếu tâm trước bất thiện mà tâm sau cải đổi lại thì gọi là tâm sư “làm thầy tâm) vì tâm trước bị tâm sau dạy dỗ. Nên kinh Niết-bàn nói nguyện làm tâm sư chứ không nguyện làm sư tâm. Nay vọng mà giải thích là tâm bất thiện mà không biết cải đổi lại, nên gọi là sư tâm. “Đáp nếu…” “thố” là đặt để. Hà tằng tinh thị là như chia kinh làm ba phần, mỗi phần đều lập nghóa môn há đều là Phật nói sao? Song đây vì không biết Thích luận có nói Bồ-tát tứ y tùy nghóa mà lập tên, gọi là pháp thí. Nếu bảo các thứ đều giải nghóa, sao riêng pháp môn không giải nghóa? Hai, là nêu rõ các giáo Đốn Tiệm đều cần phải quán giải, có hai: a, Vấn nạn. b, Đáp giải thích, lại có hai: a’, Nói Phương đẳng có quán giải. b’, Nói Tiểu thừa có quán giải, tức vì người chăn trâu nói mười một pháp… Tiêm sư bảo: Đại luận nói: Thả trâu, ngài Nan-đà hỏi Đức Phật rằng: Có bao nhiêu pháp thành thục khiến bầy trâu dứt náo loạn, có bao nhiêu pháp Không thành thục khiến bầy trâu tăng trưởng không an ổn. Phật đáp: Chăn trâu có mười môït việc, có tụng rằng: Hiểu sắc và tương ưng Vuốt ve, băng bó ghẻ Đốt lửa và cỏ ngon An ổn và chỗ qua. Thời tiết, nuôi con nhỏ Giúp đỡ các trâu già Các Tỳ-kheo cũng thế Biết bốn đại tạo sắc Khéo phân biệt ngu trí. Vuốt ve căn sáu tình Khó che tướng mười thiện Truyền sở học là khói Ngăn bốn ý cỏ ngon Mười hai bộ ở yên Tám Thánh đạo đến nơi. Không nhận giặc nhỏ mời Gọi là biết thời nghi Tri túc là nuôi giữ Kính hộ là chở che. Cả mười một việc trên đây là phụ việc quán tâm của Tiểu thừa vậy. Song đâu chỉ là nội điển “sách Phật) mà ngoại giáo cũng thế. Như thiên Nho Hạnh có nói: Nho có trung tín làm giáp mão, lễ nghóa làm gậy gộc. Lại pháp ngôn của Dương Tử nói: Lấy tu thân làm cung, lấy cao vọng làm tên, lấy lập nghóa làm đích nhắm, nhắm kỹ mà bắn, bắn tất trúng. Có thể cũng giống như quán tâm. Do đó mà biết quán giải của Đại sư được ý cả nội ngoại. Đối giải thích đề, nói ý giáo quán trước sau. Huyền thích, là lìa văn giải thích trước “ức đoán) nên nói là huyền thích, tức chỉ huyền nghóa trước. Lại chữ huyền thích, Huyền là chung, tức lìa văn mà giải thích chung, không phải tùy văn mà giải thích riêng. Văn tuyển nói Duệ Triết huyền Lãm có chú thích rằng: Huyền là chung, cho nên hai chữ xử dụng cho nhau. Chứng tỏ không phải nhầm truyền: Nêu chung, nêu ý phân chương. Huyền nghóa giải thích ngại, có giải nêu các thứ lớp. Hỏi. Đáp, Nói dấu thích thân sơ. Người trong không được đạo thì dù đến chỗ Phật, kiết hoặc vẫn còn nguyên. Ngài Kinh Khê nói: Trong không được đạo xét khác Nhị thừa, ngoài thiếu hóa tha xét khác Bồ-tát. Ước pháp môn để biểu thị hai thứ, giải khen đức hữu vô, Hỏi, Đáp, Nêu lời giải xưa. Nói lời giải nay: chê xưa, “từ nay e…” nói nghóa nay. Như Đại luận, ngài Kinh Khê nói: Dẫn giải thích này thì Tiểu chỉ là Tiểu, còn Đại thì không nhất định, hoặc cùng hoặc riêng lẽ. Cùng là ý của bộ, riêng lẽ là theo người dịch. Cho nên chuẩn theo ý luận, Kim Cang há có thể là Tiểu thừa, do người dịch giữ lại hay lược bỏ nên nêu riêng như thế. “Một là nói…” là tùy giải thích, có Thanh văn, giải thích chung. Hồ Việt, Hồ ở phương Bắc, Việt ở phương Nam. Văn Tuyển Cổ Thi có nói: Ngựa Hồ hý gió Bắc, chim Việt làm tổ cành Nam. Chánh Bật nói: đồng thuyền mà cứu Hồ Việt lo gì sự phản phúc. Giải thích riêng, có hai: Nêu và giải thích, Giải thích, dẫn số đồng nêu, “nếu giải thích…” là y nghóa giải thích: Chọn khác Pháp hoa. Phát tích… ngài Kinh Khê nói: Hỏi: Phát bổn phát tích đồng dị thế nào? Đáp: Nói đầy đủ trong Thích Thiên. “Một chỗ…” là chánh nói nghóa nay. Vô tác, nhân tạo tác mà phát. Thành luận lấy phi sắc phi tâm bất tương ưng mà làm vô tác giới thể. Chín định là bốn thiền, bốn không và diệt thọ tưởng gọi là chín thứ đệ định. Đều chứng hữu dư là khổ nương thân mà tồn tại. Giải thích đại, có hai: a, Dẫn luận mà giải thích. b, “nay nói…” là nói nghóa nay, Căn cứ chung riêng mà chánh giải: Vi-đà cũng gọi là Tỳ-đà, Hán dịch là Trí luận, ngoại thư của Ấn Độ. Có bốn thứ: Ức lực Vi-đà là nói pháp thờ lửa sám hối. Gia viên Vi-đà là nói pháp bố thí cúng tế. A-tha Vi-đà là nói pháp chiến đấu. Tam-ma Vi-đà là nói pháp chiến đấu của nước khác. Biết thứ này thì sinh trí nên gọi là trí luận. Hiểu rành bốn thứ này gọi là Vi-đà ngoại đạo. Phật đối chí cộng duyên, là tánh niệm thì phá Nhất thiết trí, cộng niệm thì phá thần thông, duyên niệm thì phá Vi-đà. Tánh là chân duyên đế lý chỉ đoạn phiền não. Cộng là sự lý hợp tu tức gồm tu chín định, nên hay phát thần thông. Duyên là khắp duyên các cảnh. Nói là học đương giáo, tức học bốn môn giáo pháp và hiểu rõ ngoại điển Vi-đà. Được nhập tánh Địa là vị ở nội phàm. Thành ba giải thoát, là lấy ba niệm thứ lớp mà đối. Tâm được giải thoát tốt là tâm tức định. Tuệ và định đầy đủ được gọi là Câu giải thoát. Vô ngại giải thoát là trong ngoài khắp hiểu nên gọi là vô ngại. Gọi đại Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo là tên chung nhân quả, La-hán thì chỉ ở quả. Ba-la-mật, Hán dịch là Sự cứu cánh. 2, Đối nghóa mà chọn lựa. Trong lời đáp lấy Ma-ha Bát-nhã giống như tuệ giải thoát. “Tam tạng…” căn cứ giáo quán mà phán quyết kết: căn cứ Tạng, Thông Giáo Quán. “Tám thứ này…” là phán quyết: Giáo, Luận. Tỳ- đàm trình bày Tam tạng hữu môn, Thành luận trình bày Không môn. Giải thích Tỳ-kheo, có hai: Có dịch. Và Không dịch, Giải thích ba tên gọi trong nhân, có hai: 1] Dẫn luận nêu tên. 2] Y luận mà giải nghóa. Ma-la, Hán dịch là Sát, tức hay giết hại các thiện căn xuất thế. Trên cõi trời thứ sáu có chỗ ở riêng của Ma-la, cũng thuộc trời Tha hóa. Ba ma cũng sợ khi sắp muốn đoạn nhân phiền não thì diệt quả ấm tử, có nghóa phải sợ trước, vì ba ma sợ thì thiên ma mới sợ. Thanh nhã, nhã là chánh xa lìa bốn tà, tức cúi, ngửa, phương, duy nói rộng như Thích luận quyển bốn. Lược dẫn như giải thích sau ở văn của chương ghi Tu-bồ-đề. Hai thứ sau giúp thành, là ái và kiêu mạn đều thuộc ý nghiệp. Đứng đầu thân, khẩu thì ba nghiệp phá ác. Phá kiêu mạn, tự ỷ mình gọi là kiêu, hạ nhục người khác là mạn. Đi khất thực là khiêm nhường hạ thấp mình xuống để phá hai tâm ấy. Văn sau chê ngài Thân Tử tức là văn ở phẩm Hương Tích hai thứ này đầy đủ ở sau kết nêu quả theo tên. “Trực ngôn…” là phán quyết về ngôi vị. Giải thích chúng, có hai: 1, Giải thích chung về nghóa chúng. 2, Giải thích riêng dẫn bốn Tăng: Nêu tên giải nghóa. Ba học tướng khai giá thông tắc, thì khai giá là ước về giới luật, tướng nó dễ biết. Còn thông tắc là ước về định tuệ. Như văn chỉ quán biết thông tắc, như vì khổ tập mười hai nhân duyên sinh sáu tế gọi là tắc, còn đạo diệt mười hai nhân duyên sáu độ gọi là thông. Nay nên nói rằng: Tán loạn là tắc của định, còn yên tónh là thông của định. Tối tăm là tắc của tuệ, sáng suốt là thông của tuệ. Cũng như á dương luận nói: Ví như dê trắng cho đến người giết không thể lên tiếng. Nhầm đọa và Tăng số, cũng nói nhầm làm Tăng. Bốn sự tức là phòng nhà, y phục, ăn uống, thuốc men. “Hai thứ trước…” là kết phán lấy bỏ. Đã không phải sự hòa hợp thì không kham việc Tăng, ngài Kinh Khê nói: Không thể phân biệt định tuệ hai tạng, cũng có thể là sự hòa hợp. Giới tạng không rõ thì trì giới cũng có thiếu sót, cho nên tuy trì giới, cũng gọi là ngu si, huống là á dương Tăng. Giải thích số đối hành, số tức là căn cứ quán tâm. Chúng Bồ-tát, có hai: 1, Nêu ý phân khoa. 2, Rộng giải thích đầy đủ ở sau, Dịch giải danh nghóa, có hai: Lược bày và “Dịch…” là các nhà phiên dịch. Luận nêu các nhà khai só. Só đầu tiên, ngài Kinh Khê nói: Tâm mới mở nên mới phát tâm. Bản xưa dịch là Cao só, có hai bản là kinh này. Vượt hàng phàm tiểu nên gọi là Cao só. “Nay y…” là y vào Đại luận. Là người không ban lợi, tức chỉ tự độ không giúp ích cho người khác. “Chỉ ba…” là phân chọn kết bày. Phân biệt Nhị thừa hai giáo khác nhau. Nhị thừa là do chữ Tát khác Bồ-đề của Nhị thừa. Phân biệt Bồ-tát Tạng, Thông: Chánh phân biệt Biệt Viên đến hút sắt, là trung chân hiển phát không mưu cầu mà khắp ứng như đá hút sắt. “Hỏi…” là giải nghi. Về ý hỏi, ngài Kinh Khê nói: Y vào Tạng, Thông trước rồi văn sau mới làm câu hỏi. Trong ý đáp trước nói: Không được gọi Tát-đỏa vì không có nghóa Tát-đỏa của Biệt Viên. Nay nói ít có Từ bi, là Tạng, Thông Bồ-tát cũng có Từ bi nhưng khác hàng Nhị thừa mà được tên Bồ-tát. Trước nói: Không phải Tát-đỏa, là ý kiến riêng khởi Từ bi của Biệt Viên thì mới được riêng gọi là Tát-đỏa. Chỉ vì Bồ-tát Tạng, Thông có quán hành đồng Tiểu thừa, nên riêng chê. Chung được tên, tức là mỗi thứ tùy ở đương giáo. Nay nói ít có Từ bi là ý muốn lại lấy Bồ-tát Tạng, Thông hợp thành bốn thứ. “Bốn giáo…” là kết bày. Phần lớn dùng diễn, là Ma-ha-diễn, Hán dịch là Đại thừa, lược nói là Diễn. Không phải chánh của Diễn là kinh này ở Diễn, nên chê Bồ-tát có chung có riêng. Chung là chê cả ba, còn riêng thì chê ở Tạng. Cho nên khiến chung riêng có khen có chê. Tam tạng chỉ chê, Viên giáo chỉ khen. Chê chung thì lời khoan dung không phải chánh thể của giáo. “Có lúc…” là sớ văn: Hoặc nói tam tạng là đối nhau so sánh phán quyết, không liên quan gì với ý kinh. Kế là quán tâm dùng ba quán để nhiếp bốn Bồ-tát, như văn. Biện về số. Khen về đức: Phân khoa. và Tùy giải thích: Khen chung: Giải thích chung, có hai: 1) Nêu chương nói ý. 2) “Các thứ này…” là nói Đức giải thích tên. Hà trạch vô biên, nghóa là chúng sinh mang ân trạch của Bồ-tát. “Chỉ chúng…” là giải thích riêng, có ba: 1) Nói ý. 2) Chánh giải thích. Trong văn lại còn căn cứ gôi vị mà phân biệt. Ngài Kinh Khê nói: Khi đến ngôi vị này, mới có thể làm tri thức chung cho chúng sinh. Nếu chánh khen, là như kết văn sau đây tức vị Bổ xứ. 3) “nay các…” là kết bày. Ngài Kinh Khê nói ngang khắp dọc cao là chánh kết công dụng khen ngợi. Khen riêng, Chung riêng phân khoa: “hai…” là tùy văn giải ng- hóa: Lược khen đức tự tha: Lược khen đức tự hành, Chánh khen, Giải thích sự, Nêu văn phân chương. Tùy chương giải thích, Giải thích bổn hạnh đại trí, ước một pháp, Giải thích nghóa, “y…” là giải thích. “cho nên pháp…” là nêu chứng. Ngài Kinh Khê nói trước dẫn câu trên trong kinh Pháp hoa chứng bổn, câu dưới chứng hạnh. Y vào bổn mà tu hạnh nên tất sẽ làm Phật. Đã nói đại trí tức là bổn hạnh, thì cũng có thể bổn hạnh tức là đại trí. Kế nói rằng từ vô trụ bổn để chứng bổn, lập tất cả pháp để chứng hạnh. Phán quyết ngôi vị: Tựa xưa, chánh tựa. Ngài Kinh Khê nói: Hai nhà dịch Nam Bắc chưa thấy bản văn. Ngài La-thập tuy nói từ dưới đến trên dần dần các câu chuyển mạnh hơn, chưa ắt sau lại thắng trước. “đã giải…” là nghiên cứu kỹ. “Bắc phương…” các thầy này chuẩn theo kinh Địa Trì lấy mười độ mà đối mười Địa, nên lấy bảy độ của văn nay để đối bảy Địa. “Nếu muốn…” là chê phá. “nay nghóa là…” là nói nay, gồm tổng giải thích, Chánh giải, Bày cái đúng, chê cái lỗi. “Như khen…” là dẫn văn xưa mà gạn hỏi. Đâu có thể khen dưới, vì người phương Bắc lấy câu này để đối bậc Sơ địa. Nếu căn cứ vào thành tựu thì phải khen bậc Đẳng giác, sao lại riêng khen bậc trên, là bậc Sơ địa đã được phân làm sư tử hống. Người phương Nam sao cho rằng khen riêng Bát địa, nên biết dưới là kết vấn nạn. Chỉ do chấp nhất định một văn nên bị phá lẫn nhau. Nếu như nay Sư nay là người một phần chân vị đều đầy đủ các câu mà sâu cạn rõ ràng. Giải thích ngại, có hai: a, Dẫn văn lập ngại. hỏi gần bậc vô Đẳng, ngài Kinh Khê nói: Ước văn định nghóa chỉ ở bậc Đẳng giác. b, Ước nghóa mà đáp giải thích. Nói các đức đều khen bậc trên. “kết rằng…” là Đẳng giác, lân quả mới gọi đầy đủ. “Nếu thông…” là nói vô đẳng. “cũng thông…” là trước lấy định nghóa làm vấn nạn. Nay lấy thông nhau mà giải thích. “trước nói…” cũng gọi là gần. Đối đãi nhau, ngài Kinh Khê nói: Ấy là ước nghóa chung, tức là lấy trụ trước mà đối với Nhị trụ xem đó là xa, đối với Sơ trụ xem đó là gần. Sơ trụ mà đối với Nhị trụ là gần, mà đối với tam trụ thì gọi là xa. Cho đến Thập địa so đây khá biết. Đều lấy diệu giác làm vô đẳng đẳng. Đây thì Sơ trụ phần quả cũng được gọi là gần, há chỉ có bậc Đẳng giác. “Pháp hoa…” là nói nghóa gần, còn chung cả quán hành ngoại phàm, hà tất là Thánh vị. Hành xứ và Cận xứ, thì bên trong ôm ấp lý cao tột, trải duyên chịu đựng Sự, gọi đó là hạnh. Thể nhập thấu suốt ngoại duyên trụ vào chân cảnh, coi đó là gần. Bởi sự lý chung hiện đều ước vào ngoại phàm. Hoa Nghiêm trên đối dưới cũng gọi là xa, đất trong móng tay nhìn sang đại địa là quá xa nên biết. Ai cho rằng Thập địa Đẳng giác là gần với vô đẳng đẳng? “nay…” là giải thích riêng. Trải các giáo trình bày tường tận. Chỉ ước vào hai đế tức vì đạo quán song lưu. Phẩm bậc có hơn kém, là lấy tám, chín, mười Địa mà so nhau. “chỉ các…” là chê xưa bày nay. Nói Thánh đức khó lường, chê xưa có định chấp. Chỉ các Bồ-tát, tức chỉ ba vạn hai ngàn người đều trong ngầm thật tướng, ngoài ứng với quần cơ, luận về chỗ chứng, khó lường ai cao thấp. “nay không phải…” là giáo quán đầy đủ hiển bày được ý nay. Căn cứ hai pháp: Chánh giải thích, nêu ý, chỉ chân và mắt đều lỗi, có mắt không chân đâu thể tiến tới, có chân không mắt tất rơi vào chỗ hiểm, dùng đây nói giải và hạnh không thể riêng có. “sở dó…” chánh giải thích, Giải thích đại trí. Giải thích bổn hạnh. Các đức ngang dọc, ngài Kinh Khê nói: lấy chủng trí để hiểu tất cả hạnh, hạnh gọi là ngang. Lấy trí đến lý mà nhìn hạnh thì gọi là dọc, vì lý rất sâu và hạnh khá rộng vậy. Lại cũng có thể nói giải ngang mà hạnh dọc. Giải Sơ tâm đủ, hạnh dần mới thành. Nên biết giải hạnh nhiếp cả, không đâu không khắp. Giải thích đều được thành tựu, gồm hỏi và đáp Chánh đáp câu hỏi trước và ước giáo mà phân biệt. Đàn ba sự không, là người thí, vật được thí và người nhận đều như huyễn hóa. Quán giải, Giải thích khen, có Cùng nêu. Phụ thành việc hóa tha, tức chánh thành việc tự hành vậy. Ngài Kinh Khê nói: hóa tha tất phải nhờ oai thần chư Phật gia bị. “chánh…” là cùng giải thích, Giải thích chánh khen trước, Chánh giải thích, về sự dẫn luận lược nói. “nay…” là y nghóa giải thích rộng, Chánh giải thích, gồm Pháp. Dụ và hợp. “ngoài không…” là đất sinh, mặt trời chiếu, gió động, mưa thấm… sau đó mới thành hạt quả. Kế Chánh hợp dụ trước lại lấy dụ làm sáng tỏ. Chim đại bàng dụ cho Phật, tức ứng. Ảnh “bóng) dụ cho oai thần, tức Từ bi. Con dụ cho Bồ-tát, tức cảm. Ngài Kinh Khê nói: Nói cảm ứng diệu lý chưa đến mức mà gia bị thêm vô duyên Từ. Nói đại bàng, thì Trang tử có nói đại bàng nương gió cả bay lên cao đến chín vạn dặm, cánh như mây trời. Khổng thị Chí có nói: Sở Văn Vương lúc thiếu thời tánh ham săn bắn. Dưới tay có các loài chó nhanh, ưng giỏi trong thiên hạ. Có người hiến cho Vương một con ưng bảo rằng: Không giống loài ưng của Vương đang có. Bỗng ở tít trên mây cao, có một vật đang đứng yên lơ lững màu trắng mà không rõ hình dạng. ưng thấy liền xòe cánh phóng vút lên cao nhanh như ánh chớp, phút chốc lông rơi như tuyết, máu rưới như mưa. Lâu sau có con chim lớn rơi xuống đất mà chết. Đo hai cánh rộng đến mấy mươi dặm, bên mỏ có vệt vàng, không ai biết là con gì. Lúc đó có người thông thái “bác vật) bảo đây là chim đại bàng con mới tập bay, nên bị loài ưng bắt được. Văn Vương liền trọng thưởng cho người hiến ưng. “Cho nên Hoa…” là dẫn chứng. Bát địa trầm không, thì ngài Kinh Khê bảo; kinh xưa quyển hai mươi mốt nói: “Khi vào Bát địa rồi thì chư Phật mười phương bảo rằng: Tốt lắm! Tốt lắm! Thiện nam! Ngươi đã được Đệ nhất nhẫn, nên thuận các Phật pháp, chư Phật đều có pháp Vô úy, Bất cộng, chỉ ngươi chưa được, nên cần phải rất tinh tấn”. Quán giải: “đây chánh…” là kết bày. Giải thích hai thứ sự và quán đều ước vào tự hành, Phụ thành việc hóa tha: Giải thích sự. “Cho đến kim cang tạng…’ là gia thêm công đức lâm nói mười hạnh, gia thêm Kim cang tràng nói mười hồi hướng. Trong văn giữ lại hoặc lược bỏ, nên nói “cho đến”. Kinh Khê nói: Thập địa còn cần xin gia thêm, huống là Sơ tâm mà muốn khoanh tay bỏ qua sao? Thế nên tự tha đều cần xin thêm. Quán giải nếu muốn lợi vật, thì hàng Viên giáo thượng căn xuất giả ở ngôi quán hành, nếu nhờ Phật gia hộ hóa đạo không trở ngại, như gió thổi rạp cỏ. Mị là thổi rạp, hay hóa độ là như gió, cơ duyên như cỏ. Luận Ngữ nói: Đức người quân tử là gió, đức kẻ tiểu nhân là cỏ, gió trên cỏ tất đè rạp cỏ. Lược khen đức hóa tha, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích. Khen tâm hóa tha, sự giải thích. Giải thích là thành trì hộ pháp, căn cứ giáo pháp giải thích: Kinh là Hộ Trì, thông thường đọc bình khứ hai thanh, bình thanh là làm, khứ thanh là giúp. Phương hại không phải là kẻ thù địch, tức y giáo tu hành thì hay phòng hộ được ba nghiệp, không phải là chống địch ngoại ma. “lại…” là ước lý cảnh mà giải, tất cả chúng sinh đều ấm nhập hiện tiền. Bát-nhã nói không đều từ sắc khởi. Các nhà nay quán pháp ý đều như thế, nhưng lại nương vào các văn khác mà nói thẳng vào đế lý, nay giải thích nghóa của thành cùng ấm hợp, nên đây nói thấu đạt ấm tức chân, nên nói pháp này tức chân, trung đạo này là không bất tư nghì. Như trong thành ắt trống không, nên dùng tiếng không mà nói. Chúng sinh là vua, tức trong ấm chúng sinh là chủ tể. Chủng tánh đầy đủ, tức một tâm trăm cõi, cõi cõi gồm ba đạo, tức ba đức. Lý thể vốn đủ, Tự tha không hai, gọi là Phật chủng tánh. Giải thích thọ trì chánh pháp. Nội ngoại ái kiến, nội tức thông hoặc, ngoại tức biệt hoặc. Pháp vương chủng tánh đều được an ổn, là đạt ba đạo tức ba đức, gọi là an ổn. Hằng sa đến tan mất, là như dân không ly tán. Trong văn quán giải lấy không giả đối nhau nói quán pháp của Thông giáo, Trung giả đối nhau nói quán pháp của Biệt Viên. Lục đạo giả tức đản không nên nói là giả không, đản không tức là giả của lục đạo, nên nói là không giả. Thứ này ở nội giới gọi là tiểu Niết-bàn. Hai biên tức Trung đạo gọi là giả trung. Trung đạo tức hai biên, gọi là trung giả. Hai đế nói nghóa tục đế gồm chân, nên hai biên gọi là giả. Ý kinh ở tại diễn, nên quán pháp này chỉ nói ba giáo. Cũng có thể là giả không không giả gồm nhiếp tạng giáo. Giải thích thành công hóa tha giải thích Năng sư tử hống, Sự giải thích, cũng gọi là sư tử hống Tam-muội, ngài Kinh Khê nói: Nếu thấy Phật tánh thì mới quyết định nói như sư tử hống. Chú thích: Nói rằng là rộng như phẩm Sư Tử Hống của kinh Niết-bàn. Quán giải thoát ở bốn giáo, là trong thì nương vào không quán, ngoài thì nói Tạng, Thông. Trong thì nương quán giả , ngoài thì nói Biệt giáo, trong thì nương quán Trung , ngoài thì nói Viên giáo. Lại một tâm vốn đủ mười giới, nương bốn Thánh pháp giới mà nói pháp bốn giáo. Trong thì quán đã sáng, ngoài thì nói không khiếp sợ. quán tâm là gốc của các giáo, chính là ở đây vậy. Như sư tử con, là Phật như sư tử chúa, còn người tu như sư tử con. Ba quán viên quán, như trọn cả ba năm. Hay nói bốn giáo, như tức hay gầm thét. Nhưng quán giải này bất tất là bậc Sơ trụ. Năm phẩm tức hay quán hành mà nói. Tuy nói rằng bốn giáo mà ý ắt ở Viên. Dựa vào Viên mới nói tất cả loài có tánh gọi là Sư tử hống. Giải thích danh nổi khắp mười phương. Giải thích khen, Giải thích sự, Giải thích câu đầu, Nêu bày. “Bồ…” là giải thích, chánh giải “kỳ thỉnh”, kỳ là van xin. Liên quan đại tướng: Theo phép vua ở ngoài vạn dặm thì lập một phương bá, cứ năm nước thành một thuộc, thuộc có trưởng, cứ mười nước thành một liên, liên có sư, nên gọi là liên quan. Giải nghi: Không phải thỉnh có không là cơ chín thì không thỉnh cũng ứng, cơ sống thì dù thỉnh cũng không ứng. Hễ thỉnh thì lại ứng, không thỉnh thì không ứng. Thành thục và chưa thành thục có thể biết. Giải thích câu kế, nêu bày: “người đời…” là giải thích, Giải thích hữu, đồng môn gọi là bằng, đồng chí gọi là hữu. Mỗi người đều được đạo quả vô lậu, là Tạng, Thông thì phá kiến tư, Biệt Viên thì phá vô minh, tất cả đều ở vị vô lậu. “Pháp hoa…” là dẫn chứng. Thân là hữu “bạn bè). Trước nhỏ sau lớn, như trước sơ sau thân. Trong ẩn dấu đại hạnh mà quyền hiện là Nhị thừa, nên nói là nhị nhân. Đồng tu Tiểu hạnh, nên nói là cộng tác. Ông tức là cùng tử, là lấy dụ thật hành. “Nếu khai…” là thật hạnh cơ thành thục thì cảm ngộ được Viên thường, tức là thời Pháp hoa. Giải thích an. Hai quán giải bốn tâm không thỉnh ba quán, ngài Kinh Khê nói: Chỉ tâm làm cảnh, cảnh tuy không cần nghóa quán, nên không gọi là thỉnh. Vì không thỉnh nên cần phải siêng quán thì mới hợp được với quán. Nói khiến trụ, thì an là nghóa trụ. Giải thích công thành hóa tha: Giải thích sự và Nêu nhắc kinh trước. “Bồ-tát…” Chánh giải thích câu “nay”, Chánh giải nghóa nay, là, Ước bốn giáo. và, “nếu Đốn…” là căn cứ năm vị, có hai: Đốn Tiệm. Đốn tức là Hoa Nghiêm, Tiệm tức bốn vị. Bồ-tát đối bày năm thời để lợi vật. Hoa nghiêm gồm Biệt chíùnh là từ Viên mà nói, nên nói Viên cơ. Sơ tâm tức là sơ trụ. Về Tiệm thì là Lôïc uyển tam tạng, Pháp hoa chỉ có viên. Trong đó tóm lược hai vị nên nói “cho đến”. Dần dần dẫn đến chí thật cùng quy về Viên giáo. Lần lượt hưng phát và tàn lụi), là Lộc uyển thì một hưng ba tạ. Phương đẳng thì bốn hưng phát, Bát-nhã một tàn lụi, Pháp hoa khai hiển chỉ hưng một Viên, Niết-bàn lập lại biết viên không khác. “Bồ-tát…” là kết. Hiển bày công nói pháp của kinh trước, là dẫn Đốn, Tiệm cơ đồng, cùng quy về bí tạng. Công đó rất rõ. Quán giải, Lược chỉ Phật còn ở đời. Việc như trước nói tức là việc đã giải thích trước. Bồ-tát đối khi Phật ở đời mà Đốn, Tiệm lợi vật. “Phật…” là nói rộng sau khi Phật diệt độ. Ngài Kinh Khê nói: quán tâm trong đây trước nêu sự, tức là lấy sự làm gốc. Lại lấy tâm nối thạnh cùng làm cảnh. Sợ chánh vị, là chỉ có tin quán tâm, gồm khuyến khích các vua chúa dựng lập tượng giáo. Nối thạnh mà không quán tưởng còn thành lậu duyên, huống là còn mê tâm nối thạnh tương tùng sao? Năng biểu nếu mất thì Sở biểu cũng tự tan. Cho nên mỗi mỗi văn đều khiến quán tương tùng… Luận rộng về nối thạnh. Chúng đệ tử, tức là tại gia và xuất gia. Lời phó chúc đều ở Niết-bàn. Phó chúc cho Văn-thù, Ca-diếp và các Tỳ-kheo ở vị lai, là phó chúc cho chúng xuất gia. Phó chúc cho quốc vương, đại thần, cư só… là phó chúc cho chúng tại gia. “Sở dó…” là nói chúng tại gia nhận lời phó chúc tương nối thạnh. Ngài Kinh Khê nói: Chúng xuất gia là đã ở trong tương tùng của số Tam bảo. Cho nên lại nói tại gia. Kỳ thật bốn chúng đều cần nối thạnh và quán tương tùng, huống chi nối thịnh là việc lớn. Nếu không có sức vua chúa thì không làm nổi, nên đây ước tại gia để bày tướng ấy. Ưu-điền…, là khi Phật lên cung trời Đao-lợi kết hạ an cư, nói pháp cho mẹ nghe, vua Ưu-điền nhớ ân đức của Phật, bèn sai Tỳ-thủ Yết-ma khắc gỗ chiên-đàn giống hình dung Phật cao năm thước, để làm di tượng ở đời sau khi Phật diệt độ. Đây là tương tùng của Phật bảo. Vua Xà-thế thường cúng dường ngàn Tăng, thỉnh Ca-diếp kết tập pháp tạng, đây là tương tùng của Pháp bảo. Vua A-dục độ tám mươi bốn ngàn người xuất gia. Đây là tương tùng của Tăng bảo. Chuyện vua Ưu-điền tạo tượng có ghi đầy đủ trong các kinh A-hàm và Quán Phật Tam-muội. Chuyện vua Xà-thế và vua A-dục đều thấy trong Phó Pháp Tạng truyện và Dục Vương kinh. “Nhược tương tùng…” là nguyên do sau khi Phật diệt độ thì nối thạnh để lợi lạc quần sinh, để làm duyên được độ khi Phật hạ sinh. “Nhược hành…” là chánh khuyên đời mạt pháp. Trước là luận nói nối thạnh cũng còn là thời chánh pháp, nay ở thời tượng mạt thì việc nối thạnh càng cấp bách. Văn có hai: Trình bày sự hay giúp lý, độ người xuất gia, là vua Đường Đại Tông có lần hỏi ngài Tam tạng Huyền Trang về việc muốn gieo trồng công đức sao cho lợi ích nhất. Pháp sư đáp: Chúng sinh mê ngủ trong mê hoặc, nếu không có tuệ thì không thể mở mang sáng tỏ được. Mầm Tuệ phát triển là do pháp giúp đỡ, mà việc mở mang pháp là do người, nên việc độ Tăng là quan trọng nhất. “Tuy là…” là nhờ tượng mà biết chân, nhân sự mà biết lý. “Cho nên kinh…” là dẫn kinh chứng thành. Trong văn dẫn ba kinh làm chứng về Tam bảo. Ngài Kinh Khê nói: Kính tượng như Phật thật”, thì Đại luận dẫn kinh nói: Không nên ở gỗ đất mà có ý vấn nạn, đây có thể biết tượng tánh bằng hư không, ba thân rõ ràng, bốn đức không giảm. Ấy là quán tâm tương tùng. Nếu thường như thế là tương tùng tức là Phật thật. Đây là nói tâm quán tương tùng Phật bảo. Từ không lìa bỏ mà quán pháp tương tùng thì thấy được pháp thật. Kinh Hiền Ngu nói tâm quán tương tùng Tăng thì được hòa hợp chân thật. Nếu không như thế thì sao thấy được thường lưu như ngài Thân Tử? Nếu không như thế thì chỉ đối với Tam bảo mặc tình tâm kiến thủ. Do đâu mà có thể thấy được chân Tam bảo. Theo đó mà nghó thì bậc Hữu đức cũng không tránh khỏi. “Thiệu Long…” là kết khen. “Bồ-tát…” là chánh chỉ hai chúng tại gia, xuất gia ở đời mạt pháp. Bồ-tát để kết khen ngài Nam Sơn nói: Hai chúng đạo tục phước trí siêng tu. Trí luận nói: Hàng xuất gia tu nhiều trí tuệ, trí tuệ là nhân duyên giải thoát. Kẻ tục tu nhiều phước đức, phước đức là nhân duyên an vui. Tăng-kỳ nói: Cúng dường xá-lợi, tạo chùa tháp không phải là việc của chúng ta, hàng quốc vương, cư só người ưa thích phước kia phải tự cúng dường. Việc của Tỳ-kheo đó là kết tập tam tạng không để Phật pháp mau diệt mất. Rất mong hàng hậu đức có chí cốt ở nối thạnh phải nghó đến hai điều khác nhau này, có thế mới không cô phụ lời phó chúc của Phật khiến chánh pháp trụ thế lâu dài, cũng như hàng quần thần cai trị giúp nước nhà. Truyền giải thích nối thạnh không dứt, có hai: Giải thích Sự, Nói ngoại ma là do tâm, do mê chân tánh mà khởi ái khởi kiến, nên khiến ma được dịp khuyến dụ. Thảng hoặc ái kiến bên trong quên hẳn, thì thiên ma ngoại đạo khó thi thố tài sức. Song bọn ma ngoại kia cũng do đều mê chân tánh, ái kiến riêng Tăng, bèn mỗi ma giữ một chức mà làm duyên ác cho người. “Nay nói…” là Bồ-tát chế phục. Giải thích riêng, xét theo giáo, Chánh giải thích chế phục. “Nhược hàng…” kết bày giải thích trước. “hỏi…” là liệu giản, Chọn tiếng nghe ma. Tám ma, đó là bốn ma vô Thường, vô Lạc, vô Ngã, vô Tịnh. Bốn thứ ấm… là nôïi giới , bốn thứ vô Thường… là ngoại giới. Mười ma, Tiêm sư nói: Kinh mới quyển năm mươi tám nói: Bồ-tát có mười thứ ma: Ấm ma sinh các thủ. Phiền não ma sinh các tạp nhiễm. Nghiệp ma hay chướng ngại. Tâm ma khởi cao mạn. Tử ma bỏ chỗ sống. Thiên ma tự kiêu mạn buông lung. 6. Thiện căn ma luôn chấp thủ. Tam-muội ma khiến đam mê lâu về vị. Thiện tri thức ma khiến khởi tâm đắm trước. Bồ-đề pháp trí ma khiến thường không buông bỏ. Bồ-tát nên làm phương tiện cầu mau lìa bỏ nội ngoại. Phân biệt có thể biết là mười thứ danh nghóa này chung cho nội ngoại. Từ đây trở về trước, là ngài Ca-diếp Bồ-tát chưa nghe Niết-bàn Viên Đốn. Trở về trước đã khởi trí giải về ba giáo đều gọi là tà kiến. Đây tức là ngoại đạo ngoại giới. Nay kinh chê trách ngài Thiện Cát ý cũng giống thế. 2.Phân biệt ma và Bồ-tát, Bồ-tát thế nào, ngài Kinh Khê nói đó là hỏi Bồ-tát hai giáo trước. “Hoa Nghiêm…” trong mười ma trước thì ba thứ sau chỉ là Bồ-tát, bảy thứ trước nghóa chung cả Thanh văn. Tam-muội ma là thoái tâm Đại thừa nhận lấy tiểu Niết-bàn. Ngoại đạo cũng tu không…, Tiêm sư nói: Kinh Ương-quật quyển hai nói ngài Văn-thù nói kệ rằng: “Chư Phật như hư không. Hư không không có tướng”. Ương Quật trách rằng: Như Lai thật chẳng Không, lìa tất cả phiền não và các ấm trời người, nên gọi là không. Than ôi! Loài muỗi mòng chẳng biết nghóa chân không. Ngoại đạo cũng tu không, Ni-càn lại yên lặng. Quán giải thích Giả Không như trước đã giải thích. Rộng khen đức tự tha, Phân khoa chung riêng. “một tổng…” tùy văn giải nghóa, Rộng khen tự hành, có hai: Khen đoạn đức, có ba: Tổng khen, có hai: Giải thích Sự, Tổng: Kết hoặc tức là nhân, sinh tử tức quả, nhân quả đều mất, nên nói là đoạn. Chưa phân nội ngoại tức là luận chung. “kết hoặc…” là luận riêng. Hai chướng là phiền não và sở tri chướng. Quán giải: Hoặc nội giới hết thì quán Trung giả của Biệt Viên thành, lại ước theo phàm vị. Khen riêng, Giải thích sự, Chung, Chánh giải thích. Cái là nghóa bao che. Triền do bị buộc trói mà được tên. “Nay bảo…”, ngài Kinh Khê nói: Nay Đại sư lại ước gần mà dụ xa, chỉ cành lá khác nhau nhưng tên ắt đồng. Vì sao? Vì năm cái chi phối bốn phần. Tham sân hai cái, tên vốn đồng. Do si nên có thùy miên, do si nên nghi, do đó miên nghi hai cái đều phối hợp với si. Về phần điệu, tán là giới thủ, là lấy giới thủ tâm khắp khởi ba cõi, nên gọi là điệu tán. Nên lấy điệu cái đối với đẳng phần. “hỏi…” là liệu giản. Nay dựa vào riêng phần dưới, còn nói cái không đồng. Đồng là ở nội giới còn có thuyết khác, huống là ngoại giới. Mười triền là phẩn, khuể gọi là Sân. Che dấu tội mình gọi là phú; ý thức hôn mê gọi là thùy, năm tình mịt mờ gọi là miên. Vui chơi gọi là hý. Ba nghiệp tháo động gọi là điệu. Chỗ vắng gây tội không tự xấu hổ gọi là vô tàm. Gây tội công khai Không xấu hổ với người khác gọi là vô quý. Tài pháp Không thường bố thí cho người gọi là xan. Người khác vinh hoa tâm sinh giận ghét gọi là tật. Giải quán, giải thích khen, giải thích sự, giải thích giải thoát vô ngại, giải thích chung. “tàng…” là giải thích riêng. Trí chẳng đoạn hoặc, tức hoặc là trí, há dùng trí mà đoạn trí. Tức trí là hoặc, há lấy hoặc mà đoạn hoặc, thấu hiểu không hai, gọi là trí gọi đoạn. Giải thích tâm thường an trụ. Trước giải thích giải thoát trình bày sở an, nay nói năng an. Tiếp quán giải. Tiếp là khen trí đức Phân khoa. Tùy giải thích, Chung gồm giải thích, có hai: Cú giải thích hợp. “Dó thử…” giải thích ly, có hai: Giải thích niệm định, Giải thích sự, gồm giải thích chung: Nếu được nhất tâm… thì quán hành trở lên, chung được tên vương. Nay ở phần chân mà riêng khen Đẳng giác. “Nếu căn bản…”, căn bản tức là tứ thiền. Quán thiền tức chín tưởng, tám bội xả, mười Nhất thiết xứ. Luyện thiền tức là chín thứ đệ. Huân thiền tức là sư tử phấn tấn, tu thiền tức Siêu việt Tam- muội. Ba Không tức như trước đã ghi. Tự tánh… chín thứ tức kinh Địa Trì nói chín thứ Đại thiền. Bát-châu. Hán dịch là Phật lập tức thường hành Tam-muội. Nhất hạnh, tức thường tọa Tam-muội. Như ngài Văn- thù bảo hai thứ Bát-nhã đã nói: Chín tuần thường ngồi bỏ bớt thân nghi “hoạt động của thân) nên nói là nhất hạnh. Lại chỉ có quán tịch diệt, nên nói là nhất hạnh. “Căn cứ giáo…” là giải thích riêng: “Đại luận…”, ngài Kinh Khê nói: Tuy có giải thích khác, nhưng không ngoài bốn thứ này. Y diễn chỉ có ba. Tiếp dựa vào quán giải. Giải thích Tổng trì, 1) Giải thích chung. “Pháp hoa…” Giải thích riêng, dẫn kinh bày nghóa. Ngài Kinh Khê nói: Ba thứ Đà-la-ni mỗi mỗi phân chọn đều khiến chia riêng. Pháp âm có hai giải thích: 1), Nội chứng. 2) “Lại pháp…” là căn cứ ngoại dụng. “Được đây…” do ba thứ dung nhau nên gọi là vô ngại. Tiếp hỏi đáp giải nghi, Nghóa thông đầu đuôi. Ý hỏi, ngài Kinh Khê nói: Đã dựa vào ba quán lại thuộc Viên giáo. Nghóa ở Sơ tâm, nên có câu hỏi này. Đáp…”, tức Phát tâm là sơ trụ, rốt ráo là Diệu giác, chỗ chứng lý bằng nhau, nên hai thứ không khác. Nói Tam tạng cũng được. Nói Tiểu thừa Không có phần. Ngài Kinh Khê nói: Phàm nói trì, thì: Một là, nhiếp tất cả; hai là, sinh Không mất. Tiểu thừa Không có thứ này, nên không hợp luận. Quán giải. Giải thích câu kế, sự giải thích, là Giải thích biện tài, tổng nêu bảy thứ. Biện là hai mươi bốn biện…, Tiêm Ký có dẫn kinh luận đầy đủ. Người phải cần tìm đọc. “Căn cứ giáo…” là giải thích riêng, Rộng giải thích Tạng giáo. “căn cứ chung…” là lược lệ ba giáo. Tiếp giải thích bất đoạn, có hai: a, Giải thích chung. b, “lại nữa…” là giải thích riêng, tức dựa vào bốn giáo mà giải thích. Lần lượt chung khởi là chỉ rõ nghóa bất đoạn, đây là trong chứng ba giải thoát, ngoài ứng bốn cơ. Tiếp là quán giải. Tiếp nói riêng, sự giải thích, là Giải thích bảy độ, Khai hợp: Lại từ định tuệ mà khai ra, Tiêm sư nói: Chỉ là từ niệm định Tổng trì trên khai ra mà thôi. Bảy độ, là kinh này ở sáu độ trên thêm một độ phương tiện nữa là bảy. “Từ định khai bốn”, là từ niệm định mà khai thí, giới, nhẫn, tấn. Vì niệm định tức là thiền độ. Tuệ khai phương tiện, là dùng chiếu tục trí làm phương tiện, còn chiếu chân trí tức là Bát-nhã. “Nhược tác…” là khai sáu độ ra mười độ. Sáu độ là chung cho Đại, Tiểu thừa, mười độ chỉ có Đại thừa, hoàn toàn cũng chung cho Tạng, Thông, vì quyền lập ba trí vậy. Khai thiền ra nguyện lực là ở thiền độ có nguyện trí lực. Khai nguyện Ba-la-mật có thần thông lực cho nên khai lực Ba-la-mật. Căn bản định giữ thiền độ. Bát-nhã khai ra đạo Chủng trí và Nhất thiết chủng trí. Nhất thiết trí giữ gốc được gọi là Bát-nhã. Tiếp, căn cứ giáo. Tiếp giải thích đều đầy đủ. Kế tiếp là quán giải khéo vụng. Ngài Kinh Khê nói: Chỉ là phương tiện. Nếu thế phương tiện không vụng, vì sao lại nói đối nhau mà đến? Không phải gọi là có vụng. Xan tham cho đến ngu si cũng lại như thế. Tiếp, chung. Kịp nói đến, cập là đến, tức là đã đến pháp nhẫn không khởi, thì chỉ là tên khác của vô sinh. Không cảnh có thể quán, tức là phiền não, sinh tử hai pháp vốn “không”, thì Bát-nhã Niết-bàn còn gì để đối đãi. Lý sự đều dứt, nên không thể quán. Ngài Kinh Khê nói: Mà bảo rằng không chỗ được. Trong đây có hai ý: Một là, bỏ Đại thừa mà tịch diệt sớm. Hai là, Tịch gọi là không phải lập lại. Không chỗ được, tức là không chỗ được của tịch diệt. Nhân Vương năm nhẫn, tức là tín, phục, thuận, vô sinh, tịch diệt. Anh lạc bốn nhẫn thì thiếu phần tín. Lại nói kịp…”, là phần giải thích chữ kịp không giống trước. Nên viết ở trên và giải thích ở dưới. Lân quả là Trung nhẫn, gồm được dưới mười Địa là nhẫn vậy, Và nghóa là gồm, và nghóa không lấy đến. b, Giải thích riêng, có hai: a, Dựa theo bốn giáo. Tam tạng không văn, tức không có kinh luận nêu ra. Nghóa tác đẳng, tức là chuẩn theo Đại thừa mà nói. Thông… ba giáo tức là dựa vào kinh Anh Lạc. Nên kinh Nhân Vương nói: Dưới chứng Viên giáo trước sau đều đủ bốn. Phục nhẫn đã thông nay ở sau nghiệm thấy, ba thứ kia cũng thông ở phần đầu. Cho nên biết viên vị trước sau đều ngang đủ. Phổ Hiền, Hiền Thủ, Hiền tức là tên khác của phục nhẫn, lấy phàm vị gọi là Hiền. Cho nên đã chứng Đẳng giác thì gọi Hiền, cho nên biết rằng tên dưới thông trên, là trên thông dưới, các vị đều đủ bốn. “Hỏi…” là tóm lược hỏi. “Dưới khen ngài Tịnh Danh…”, tức đầu phẩm Phương Tiện khen đức rằng: Được Vô sinh nhẫn, biện tài vô ngại. Ý hỏi: Là các Bồ-tát này cho đến ngài Tịnh Danh đều là bậc Đẳng giác, cho nên biết không khởi pháp nhẫn chỉ là vô sinh, không phải tịch diệt. Trong lời đáp bèn dùng chung riêng hai ý. Tại nhân thì nhượng quả, tức ý riêng. Dưới khen ngài Tịnh Danh, bởi lấy nghóa này. Kế dẫn Đại kinh nói chẳng sinh, tức vô sinh. Đã gọi Niết-bàn, đâu không phải là tịch diệt. Kế dẫn kinh nay thì ý cũng thế. Nên biết vô sinh và tịch diệt là một thể mà khác tên, nên được dùng chung. Tiếp quán giải: Tâm nhu hòa nhẫn nhục là đó, tức nhu hòa là thuận với ba đế, còn nhẫn nhục là không khởi ba hoặc. Rộng khen hóa tha, có hai: 1) Phân khoa. 2) “trước là…” là tùy giải thích, Rộng khen pháp hóa tha, Phân khoa nêu trước, “nói…” là tùy văn chánh giải thích, Nói trong đủ, là giải thích câu đầu, nói rộng ba thuận. Chuyển bốn pháp luân, tức là bốn giáo. Bồ-tát tùy chuyển, tức Phật nói bốn giáo, Bồ-tát cũng thế, nên nói tùy chuyển. “nhân duyên…” tức lý bốn giáo. Hiểu bốn lý này thì chỉ là ba đế, ba đế không ngoài một tâm. Thuận hiểu mà nói, tức là người khác nghe thì bảo khác, mình hiểu lại thường đồng. Nên khiến văn sau dùng thuận hiểu mà nói là Thật trí. “Lại nữa…” là kết quy về hai trí. Là thuận thật trí, tức trong hiểu bốn lý tức là một tâm, tức là thật trí vậy. Là thuận quyền trí, tức tùy cơ nói bốn, gọi là thuận Quyền trí. Trong bốn viên tuy là thật đã đối với ba giáo chung được tên quyền. Lấy khai hiển chỉ viên mới gọi là thật, lại Bồ-tát tùy thuận đã làm bốn giáo, tất trải năm thời cũng dẫn dắt cơ duyên ấy đến khai hiển. Nay nói quyền trí thì cũng được gồm chung. Song Pháp hoa gọi quyền tức là thể nội phương tiện. Lại thuận kinh bộ để khen đức ấy không luận khai hiển, nên nói quyền trí. Thuận quyền thật hai trí, thể nội gọi là thật, thể ngoại gọi là quyền. Nội ngoại tuy khác nhưng chung gọi là phương tiện. Nay thuận ý Phật, nên được bao gồm tất cả. Trước thuận chúng sinh chỉ gọi quyền trí. Các học giả hậu lai cần nên biết tinh tường điều này. Phần giải thích về câu sau, Sự giải thích, là giải thích tóm lược về chuyển luân. “Có bốn…” là nói rộng bất thoái, có hai: a”, Ba giáo đối địch trong bốn giáo. Nếu ở Đương giáo mà luận kỹ thì mỗi thứ đều có vị, hạnh, niệm ba thứ nghóa bất thoái, đủ như văn sau đây. Nay ước vào đại đồ dùng ba đối giáo. Người Thông giáo đoạn hoặc không đồng ở sáu độ nên vị không lui sụt. Biệt giáo xuất giả rộng tu chúng sinh nên hạnh không lui sụt. Viên giáo đoạn vô minh, nên niệm không lui sụt. Đây là bỏ phụ lấy chánh. Mỗi thứ ở ý giáo mà phối hợp ba nghóa. “Nếu ba…” là theo giáo luận mỗi thứ. Gọi là Bạt-trí, gọi đủ là A-bệ-bạt-trí, Hán dịch là Bất thoái. Tế-la-hán, chữ Tế đọc khứ thinh. “Viên giáo…” là căn cứ ị sơ trụ mà nói ba bất thoái, để giản Biệt giáo thứ lớp mà được. Nếu ước không thứ lớp để nói thứ lớp ba vị bất thoái là dựa riêng mà nói. Tiếp đến quán giải. Giải thích. Ba giải thích hai câu sau. “Mười Lực…” là lại dùng mười Lực nói rõ ý văn. Vì Bồ-tát từng phần được mười Lực nên là ở Lực bậc nhất. Tri căn lực ở bậc thứ bốn. Giải thích mười Lực như pháp giới thứ đệ ở quyển sau. Ngoài đầy đủ vượt qua nhưng không đạt bậc trên thì người ở ba giáo trước đều gọi là chẳng đạt. Lại chưa tới Trụ là chẳng đạt phần Thánh là phần đạt. Giải thích chung trong ngoài, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Giải thích: Nội tâm vô úy, phước tuệ thường hiển cho đến tịnh tâm. Phước tức giải thoát, tuệ tức Bát-nhã, tự tánh tức pháp thân, lấy hai tu mà hiển một tánh. Nếu căn cứ vị mà phân biệt tuệ, tức là hiểu rõ nhân, vị ở danh tự. Phước tức là duyên nhân, vị ở quán hành tương tợ. Do hai tu này mà thành tựu, nên ở bậc sơ trụ mà hiển ra. Tự tánh vốn có đủ. Đây là trước Sơ trụ gọi là tu, lên bậc Trụ gọi là chứng. Nay khen bổ xứ là nghóa phần chứng… Song tự tánh này là tâm thanh tịnh, tức một niệm mà ba ngàn, ba đế. Không nghe thanh tịnh liền nói thuyết khác gồm cả quyền thật này, Tiêm sư nói: Không có thứ nào mà không đồng thể để trang nghiêm pháp thân, nên nói là gồm cả. Giải thích ngoại dụng vô úy, Hai câu đầu là giải thích ngoại dụng, giải thích cùng trang nghiêm. Ngài Chiên-diên Tử nói, tức là nói nghóa Tam tạng trăm kiếp gieo trồng tướng tốt. Dựa vào tướng chân tu, là dù thấu hiểu như hư không mà tu tướng hảo, chỉ thấy chân không, nên nói là Đế lý chưa rốt ráo. Dùng duyên tu, tức là riêng lấy Địa tiền làm duyên tu, Đăng địa làm chân tu. Nay luận ý giáo chính là căn cứ ở Địa tiền vậy. Duyên tu là trí chướng, là hai thứ quán trí cùng dùng phá hoặc, gọi là trí. Nay so với Trung đạo thì trí lại thành hoặc. Hai trí tức là trong đó trí bị chướng, nên nói trí chướng. “Pháp hoa…” tức là tội phước căn cứ vào mười giới mà truyền luận không phải là ba đế, nên nói là thâm đạt. Mười phương tức mười giới, mười giới chỉ tâm, ba ngàn gồm nhiếp. Như đây mà hiểu biết, nên gọi là biến chiếu “khắp biết). “Vi diệu…”, pháp thân tức là lý đạt được ở trên. Do ở trong chứng pháp thân, nên bên ngoài đủ tướng tốt. Ngài Kinh Khê nói: Ba giáo trước không phải là đệ nhất. Hơn nữa căn cứ bên đoạt nên dùng vượt tiết mà nói. Giải thích hình sắc. Diệu sắc trống rỗng. Chân lý có nghóa có thể thấy thì gọi là sắc. Kế giải thích hai câu. Giải thích kết thành vô úy, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, có hai: a’, Kết ngoài: Ba lời giải trong văn giống nhân duyên là căn cứ giáo quán tâm. b’, Kết trong: Không bị trong ngoài phá hoại. Trong là phiền não, ngoài là ngoại ma . Lợi thấu bổn tế, bổn tế tức là lớp Kim cang như phóng Kim cang đến bờ mé mới thôi. Chánh nói về hóa tha, có hai: a, Phân khoa chung riêng. b, “một phóng…” là tùy văn giải nghóa, Phóng quang nói pháp nói về hóa tha. Trước phóng quang nói pháp; phóng quang, tức thường bố thí…, là nói năm thứ kia. Vì kinh ấy phóng sáu Độ để phá sáu tế. Nay văn lược bỏ, dẫn phóng ánh sáng Đàn độ. Kinh Tư Ích ấy cho đến nói rằng: Ánh sáng hay giải thoát. Phật dùng ánh sáng này có thể khiến chúng sinh ngu si đều được trí tuệ. Nói pháp. Cam lồ thì Bạch Hổ Thông nói đó là rượu trời. Tiếp giải thích khen. Tùy ý hay đến, giống như nội phàm có tác ý mới đến, không như phần chân mặc tình khắp đến. Giải thích thành, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Khen đức trí giải thích thành, Nêu ý. “Duyên khởi…” là chánh giải thích. Trong văn, trước căn cứ chánh báo, kế căn cứ y báo. Văn đầu, sinh tử duyên khởi, tức chín giới nhiễm duyên khởi. Giải thoát duyên khởi tức là Phật giới tịnh duyên khởi. Thâm nhập sinh tử duyên khởi tức thành Phật pháp duyên khởi, là đạt chín giới tức Phật giới, vì mười giới chỉ là tâm. Kinh Pháp hoa nói Phật chủng có từ duyên khởi, tức nay thâm nhập mà gọi vậy. “Không phải chỉ…” là nói về y báo. “Vì thâm nhập…” là kết về y chánh báo trên. Thấu suốt y chánh mười giới chỉ là tâm, nên gọi thâm nhập. Khen Đoạn đức giải thích thành, có hai: a, Nói ý. b, “tà kiến…” là chánh giải thích, có hai: a’, Giải thích tà kiến hai biên, có hai: a”, căn cứ nội ngoại giới. Sáu mươi hai kiến đến hữu vô, một ấm khởi bốn kiến, thì năm ấm thành hai mươi kiến, ba đời thì thành sáu mươi kiến. Cốt yếu ở chỗ quy về không ngoài hai thứ đoạn, thường nên nói đều thuộc hữu vô. Tiếp, căn cứ ba đế. Giải thích các dư tập, có hai: Giải nghóa dẫn chứng, có hai: Giải nghóa: Cũng có tập ở đấy. Đây là nguyên phẩm vô minh gọi là dư tập, tức chỗ đoạn của hậu tâm Đẳng giác. Nhập trùng huyền môn tức lại nói việc trước vi diệu, nên nói là trùng huyền. Nên câu dưới nói: Trùng tu phàm sự, tức là tu lại khiến cho được diệu. Mười hạnh đã tu, nay sắp đến chỗ rốt ráo mà lại tu lại. Có việc như khói mỏng, tức là các tập hữu dư pháp tánh, như làn khói mỏng của Thái hư, không phải mây nặng mịt mờ. Soi xét ít như dư tập, Sông lớn như pháp tánh. “Cho nên đại…” là dẫn chứng. “thường đồ…” là chê quấy hiển bày phải, Chê lỗi người khác, Chung. “hỏi…” là bày lỗi. “ưu…” là nêu bày phải. Địa thứ chín đoạn hết kiến tập… chướng lý gọi là kiến, nhuận sinh gọi là ái. Đây chỉ là ước một hoặc mà có hai tên này “ái kiến). Mà phân hai Địa để đoạn, tức cũng ở chánh phụ mà nói, lại là mượn dùng nghóa riêng. Chánh nói pháp hóa tha, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Khen hóa tha thành tựu, có hai: Dụ nói quyết định tức là diệt ác. Hương tượng là loài thú. Phi là loài chim. “Không phải chỉ…” là ngoại ma hợp dụ với thú, các chúng sinh hợp dụ với chim. Không sợ họp là bất úy. “Cũng khiến…” là ngoại ma hợp dụ với Hương tượng. Cao tâm hợp với phi, tức là các chúng sinh có cao tâm “tâm vươn cao). Tiếp dẫn là dụ sinh thiện, tức sinh thiện quyền thật. Dưới có nói: ba cỏ, hai cây là quyền, một đất là Thật. Bốn thứ Pháp sư, Tiêm sư bảo Đại luận quyển năm bình về bốn pháp. Sư có kệ rằng: 1, Đa văn biện tuệ khéo nói năng Nói khéo các pháp chuyển tâm người Tự không như pháp, hạnh không chánh Ví như mây sấm mà không mưa. 2, Học rộng đa văn có trí tuệ Ậm ừ nói vụng không khéo léo Không thể hiển sáng pháp Bảo tạng Ví như có sấm mà mưa nhỏ. 3, Không rộng học vấn không trí tuệ Không thể nói pháp, không hạnh tốt Là Pháp sư xấu, không hổ thẹn Ví như mây ít, không sấm mưa. 4,Đa văn trí rộng khéo nói năng Nói khéo các pháp chuyển tâm người hành pháp tâm chánh, không sợ sệt Mây dày sấm sét, mưa vần vũ. Ý kệ xem đa văn học giỏi như mây, nói pháp như sấm sét, hạnh tốt như mưa. Nay lấy sấm dụ cho đa văn là theo tiện lợi mà nêu. Sấm làm loài trùng trập kinh sợ. Kinh điển Thích văn nói: Sâu trốn mùa đông gọi là trập . Tám âm: Rất hay. Dịu dàng. Hòa thích. Tôn tuệ. Không nữ tính. Không lầm. Sâu xa. Không dứt. Tám âm như sấm, nên nói sấm rền tám âm làm kinh động hai biên đến loài sâu trập, tức chấp có chấp không, như loài trùng trốn mùa đông. Pháp lôi kinh động khiến bỏ hai đắm trước. Nên nói làm kinh sợ loài trập. Ba giống cỏ, thì trời người là loài cỏ nhỏ, Nhị thừa là loài cỏ vừa, Lục độ là loài cỏ cao cấp. Hai giống cây, cây nhỏ là Thông Bồ-tát, cây lớn là Biệt Bồ-tát. Bảy hạng người thì sở chấp không lìa hai biên, suy ra ắt hiểu. Tổng khen công đức hóa tha. Đã vượt quá mức suy lường. Ngài Kinh Khê nói: Trùng hiển vô lượng. Trước tuy căn cứ ở sở hóa, mà nay lại căn cứ năng hóa. Tấn tu pháp môn hóa tha. Sức bỏ lại nhập, ngài Kinh Khê nói có sức nhập dưới, nên nói là nhập lực. Bỏ cái được xưa cần nhập vào hạ vị là hạ pháp môn tức lý hai đế, ba đế của mười pháp giới, tức dùng đế mà nhiếp giới nghóa có chung riêng. Chung thì mười giới đều không, giả, trung. Riêng thì chín giới là tục, Phật giới là chân, đây là hai đế. Sáu giới là tục, Nhị thừa là chân, Bồ-tát song chiếu, Phật giới tức Trung. Lại sáu giới chung làm cảnh bốn Thánh, tức là pháp nhân duyên sinh. Nhị thừa tức không, Bồ-tát tức giả, Phật giới tức Trung. Đây là ba đế. Hai và ba này hoặc chung hoặc riêng chỉ là một tâm, nên nói là thậm thâm. Khen đức tiếp cận quả, có hai: a, Phân khoa chung riêng. b, “nhất tổng…” là tùy văn giải nghóa, Khen tự hành, Khen trí đức, Chung, căn cứ Phật lý mà giải thích nghóa vô đẳng đẳng, có hai: căn cứ Phật mà giải thích người không sánh bằng tức người siêu. Nay bình đẳng với chư Phật, đây là nói cực quả tất cả đều đồng nhau. Nhưng hậu tâm Bồ-tát là gần. Nay lại giải thích nghóa vô đẳng đẳng. Nghóa gần ở dưới căn cứ vị mà hiển. Căn cứ lý mà giải thích. Giải thích trước y cứ vào người và vị ngang nhau gọi là đẳng. Giải thích này ước vào trí ngang nhau gọi là đẳng. Giải thích trước là tự tha đối nhau, còn giải thích này thì lý trí đối nhau. “Lại nếu…” là ước vị mà chọn, hiển bày nghóa gần, “Căn cứ …” là vị không phải gần. 2.“kim…” là hiển bày Đẳng giác là gần, Dựa thẳng vào Viên giáo. “nếu…” là truyền căn cứ ở bốn giáo. Ở ba giáo trước, Kim tâm Bồ-tát nhìn vào quả của Đương giáo, căn cứ Phật và lý đều được tên gần. Nhìn vào Viên đều xa, chỉ như Kim tâm của Biệt giáo mới đoạn mười một phẩm, chỗ chưa đoạn còn nhiều, đâu được gọi gần. Bốn giáo y cứ hoặc truyền mà so sánh. Dưới có lời Sớ tự luận nên nói là có thể biết. Tiếp nói riêng, Chung tức nhân duyên mà giải thích. Đại luận có hai giải thích nay thử tìm hiểu: Bồ-tát là chân nhân, Phật là chân quả. Pháp nhân quả khác nhau, nên nói: Có vô úy đẳng thì Bồ-tát là phần quả, Phật là cực quả. Nghóa quả đã đồng, nên nói phần được Phật lực mà đồng thế nên biết. Chân nhân phần quả theo tả hữu mà gọi, hai lời giải có khác nhưng một ý luôn đồng. Giải thích riêng, tức y cứ giáo. Hai cái đầu là chánh giải thích riêng lập tên giáo. Tiêm sư nói: Trong Tỳ-đàm lập tên mười Lực cùng Đại luận giống nhau. Nếu nói mười tám pháp Bất cộng, là chỉ lấy bốn Vô úy, đại Bi, ba niệm thêm mười Lực, thành mười tám pháp. Do đó đại luận đã phá bỏ. “Nay chỉ…” là ngài Kinh Khê nói: Tên đồng mà nghóa khác, vì dựa vào Đế không đồng. Đây y cứ bốn giáo để nói phần đắc, nhưng vẫn hiển bày nghóa vô đẳng đẳng trước nói truyền nhau có thể biết, bởi thấy điều này vậy. “Giáo trước…” là kết bày. Tiếp khen đoạn đức. Vô vi ác thú, trái nghịch Trung đạo gọi là đường ác. Kinh nói người cúng dường cho ông phải đọa vào ba đường ác, là nghóa này. Khen hóa tha. Hoặc khai trừ Tu-la, vì Tu-la thuộc thú quỷ súc nên chỉ có năm đạo. Mang kết nguyện sinh, Tiêm sư nói là tạng giáo Bồ-tát chưa đoạn hết hoặc, phàm người nguyện sinh thì đều bỏ đây sinh kia. Nếu dùng thần thông thì thân ở chỗ cũ mà hiện thân ở cõi kia. Nguyện mang dư tập, vì tập là hạt giống khiến vào sinh tử, thệ nguyện mang nó để thọ thân lợi vật. Đây không phải như gương hiện ảnh mà mặc tình chân hóa. Cũng ở các cõi ngoại giới, tức phương tiện Thật báo vậy. Chung giải thích thành, là tuy không có cái lợi nhập vào Đệ nhất nghóa. Tạng, Thông hai giáo tuy có nhập lý nhưng sánh ngang phần chứng Biệt Viên thì đều gồm thâu ba Tất-đàn. Nếu ước Viên vị, nói bốn Tất-đàn, thì Hoan hỷ ở tại danh tự, sinh thiện ở tại quán hành, phá ác ở tại tương tợ, Nhập lý ở tại phần chân. Cũng có thể mỗi thứ ước vào đương giáo để luận. Tuy không nhập lý mà nhận được ba lợi ích. Kết thành khen đức, có hai: a) Kết giải thích trên, trong đó phá xưa như lời sớ trước. b) “Lại giải…” là rộng giải thích tên liên hệ bốn quả, Đoán bày, Chánh nêu ý kinh. “nếu căn cứ …” là gồm bày nghóa môn. Đủ biết Đại huống, là các Bồ-tát đều do ba quán quán tâm mà được phần quả, đã nội chứng khắp Viên, nên hay thuận với bốn cơ ấy mà nói giáo lợi vật, tuy không ước giáo nghóa mà tự có thể biết. Nên hiểu rõ quán tâm, thì gọi là biết Đại “Đẳng…” là tùy giải thích, có hai: Theo tên giải nghóa, có hai: Rộng giải ba tên, có hai: Chánh giải hiện văn, có hai: Dùng ba quán để giải thích tên. Ngài Kinh Khê nói: Ba Bồ-tát trước có thể đối ba quán, thứ lớp thuộc đối cũng có thể thấy. Thể dụng họp luận, thì thể tức là đẳng, dụng tức bất đẳng, thể dụng không hai, gọi đẳng bất đẳng. Hai thứ trước là thể dụng luận riêng. Thật ra là luận ba người thể dụng đều đẳng. Tùy thuận vật cơ mà được gọi không một mà tức một, một người đều đủ đức của năm mươi mốt người. Tiếp căn cứ sáu tức, phán quyết ngôi vị, có hai: a, Chánh nói sáu tức, có ba: a, Nêu ý, vì nghóa viên để sinh lạm dụng nên cần phân biệt sáu ngôi vị. b, “tất cả…” là nói nếu quán Trung đạo… là mới tu quán hành, vẫn còn là vị danh tự, nếu tu quán hành thành tựu rồi, năm phen khai phát thì mới là người ở vị quán hành. “Đây…” là kết ý: “Hai thứ không được…” là răn ác khuyên tin. Trước là răn ác: Nêu xem mình ngang Phật thì việc giết hại chính giải là Bồ-tát Chiên-đà-la. “Nếu không…” là khuyên tin. Nếu không chịu quán tâm tức Phật là chẳng tin hiểu kinh, vì trong các kinh Liễu nghóa đều nói: Phiền não tức Bồ-đề, tức chúng sinh tức Phật… nên văn này nêu sáu nghóa răn ác khiến không tăng thượng mạn. Nêu nghóa “Tức” để khuyên tin khiến khỏi tủi hỗ thân. “Bỏ hai thứ sau…”, sau chỉ nghóa dụng. “Định tự…” là lược giải các tên. Ngài Kinh Khê nói: Trước đã ba người họp làm một mà giải thích. Sau đây là bốn mươi chín người có nhiều gấp bội, hai cách họp hoặc ba lẽ. Nay văn này là muốn tất cả đều thành quán, nên không làm đối nhau. Gọi là thượng định, nghóa là trong mười thông tâm thì định số gọi là hạ định, căn bản thiền gọi là trung định, Thủ lăng nghiêm gọi là Thượng định. Nay quán tâm tánh gọi là Thủ lăng nghiêm nên gọi là Thượng định. “được thứ này…” tức là quán tâm tánh ba đế tam thiên, tự tha cùng khắp, tâm, Phật và chúng sinh ba thứ không sai khác. Nên nói đối tất cả các pháp tức được tự tại. Nghóa Viên cũng thông đây mà giải thích Bồ-tát nhất định ở phần chân. “Quang tướng…”, ngài Kinh Khê nói: Quang tướng… ba thứ, năng sở đối nhau. Quang tướng tức là thể để trang nghiêm. Quang nghiêm là cái dụng năng nghiêm, đại nghiêm là năng sở đối nhau. Tuy nói năng sở tất cả đều quán đủ. Các thứ sau cũng đều thế, nên biết ngài Kinh Khê vả đã chỉ rõ thật tướng, nên nói là thể sở nghiêm. Nếu dựa vào tuệ quang năng hiển thì nó cũng thuộc năng nghiêm. “Bảo Tích…”, là ngài Kinh Khê nói Bảo Tích là thể, biện tích là dụng. Bảo là dựa vào dụ, biện căn cứ pháp. “Bảo Thủ…”: Quán tâm thành tựu thì quán tâm là ở trụ tiền, thành tựu tức là phần chứng. Tức do chưa đến vị Trụ (Trụ tiền) quán tâm mà được phần quả. “Tức đủ…” là Phần chân hai trí, để dụ với hai tay. Đây là nói cảnh thường phát trí. Tức tay quán trí, đây là nói cảnh cùng trí ngầm thông. Thương xót chúng sinh, là thương họ hôn mê không biết tự tánh. Như Lai tàng, là tâm đủ tam thiên, gọi là tạng. Mừng lớn khắp tâm, là do thấu suốt lẽ bổn cụ nên khắp mừng. Thấy các Pháp bảo, bảo là thật tướng. Hay ở sinh tử mà mạnh mẽ, tức là thấu suốt sinh tử tức Niết-bàn, nên ở trong sinh tử mà không khiếp sợ. Đế võng thì từ lý mà khởi giáo, rõ võng thì tứ lý mà khởi trí, nói bày trí là do giáo, nên giáo trước trí sau. Tuy mỗi thứ có một nghóa, nhưng chúng thật chung nhau. “Chánh quán ba đế đến thành lưới”, là vô lượng các pháp tức bốn môn bốn giáo, các môn đều đủ Tất-đàn, hoặc tín hoặc pháp, dọc suốt ba đời, ngang ước mười phương, đều từ quán tâm ba đế mà có. Cho nên nói: Đầy đủ vô lượng đẳng. Lưới các phiền não thì tự dùng phá các hoặc và các chúng sinh, thì dùng đây mà hóa tha. Lưới trí sáng suốt, là từ cảnh mà phát trí, tự tha đồng trước. Diệu sinh, là từ trí đoạn mà lập tên, các pháp đoạn dứt, không sinh mà Bát-nhã sinh trí. Khiến tưởng một chỗ, tức là có sự có lý chuyên quán tâm mạch chỉ ở một chỗ. Buộc duyên với lý thật tướng vào một chỗ. Nay văn ước lý không gì hơn, là trí hai biên không thể thắng lý thật tướng. Cởi lấy viên minh châu ở búi tóc, thì châu ở búi tóc là trong như thật mà ẩn quyền đưa châu trong búi tóc ra, thì như khai quyền hiển bày thật. Đem cho là quyền trí. Đem pháp trao cho người khác gọi là quyền trí. Kinh nói Pháp vương tử, thì Quán Kinh Sớ nói: Dùng pháp hóa độ người thì gọi là Pháp vương tử. Đây là ngài Văn-thù. Từ Tự hành đặït tên là Pháp vương tử. Đem hóa tha mà hiển xứng. Đại luận quyển ba mươi hai nói: Phật là Pháp vương, Bồ-tát nhập pháp chánh vị cho đến Thập địa nên đều gọi là Vương tử, đều sẽ được làm Phật, như ngài Văn-thù-sư-lợi. “Như thế…” là kết ý giải nghi, Kết ý, tâm. Một người đều đủ tất cả quán môn, là vì các Bồ-tát đều hiển sáng một niệm là lý tam thiên ba đế, tuy quán môn vô lượng há lìa tam thiên, huống là tự tha dung nhau, năng sở không hai. Cho nên biết tùy một người tức đủ các đức. Nội đức đã đẳng thì ngoại sự đều dung. Do đó mà danh tự nói năng, hiện thân nói pháp, thảy đều bằng nhau. Cho nên nói: Tức tự đẳng cho đến pháp đẳng. Nhưng vì dẫn vật quy tâm nên giấu kín viên, mà đều bày ra một đức, dùng để lập tên mà thôi. Nói tự đẳng, ngữ đẳng… đây là văn của Đại phẩm. Kinh ấy nói bốn mươi hai tự môn, môn môn đều dung nhau, nên nói là “đẳng”. Ngài Nam Nhạc giải rằng: Nói tự đẳng, nghóa là pháp tuệ nói mười trụ. Thập phương nói mười trụ, đều gọi là pháp tuệ. Cho đến Kim cang tàng cũng như thế. Nói ngữ đẳng, là mười phương chư Phật nói mười trụ cùng pháp tuệ nói đẳng. Cho đến mười Địa cũng như thế. Lại tất cả tự đều là không tự mà thường làm tất cả tự, đó gọi là tự đẳng. Phát ngôn không hai, gọi là ngữ đẳng. Tất cả các pháp đều ở chung lẫn nhau, nên nói các Tự nhập môn đẳng. Trước là sự giải, kế là lý giải: “hay như…” là kết bày phàm tâm hay thấy, Là nói tu quán thì có khả năng thấy. Hiểu như thế, tức nếu biết tâm mình là tam thiên khắp chung nhau. Tâm Phật, chúng sinh ba thứ không sai khác thì tâm mình không động, mà khắp thấy các Thánh. Đâu chỉ thấy Thánh, mà cũng hay thấy phàm. Vì mỗi mỗi chúng sinh đều đủ lý này. Chư Phật Bồ-tát, thì Phật là cực Thánh, Bồ-tát là phần Thánh, phần và cực tuy khác, nhưng lý tam thiên đều đẳng. Ta là phàm kia là Thánh, nhưng lý nào khác. Cho nên đối tâm phàm tức Thánh cảnh. Nếu thế, thì đâu chỉ thấy ngang tha Thánh ở hiện tại, mà hay dọc thấy tự Thánh ở vị lai, vì tự tha, nhân quả đều tam thiên gồm nhiếp. Mượn lời phân tích thử nên chăng? Nếu ôm ấp mãi một khi hiểu rõ tánh rồi thì các pháp tự sáng, chỉ tin một nhà mà không tin các thuyết khác. Chất đại tô diệu ngộ đâu phải là luống dối ư? “Cho nên pháp…” là dẫn kinh để chứng thành. Tin điều ông nói là Pháp bảo, thì thấy ta là Phật bảo, cũng lại thấy các ông và các Tỳ- kheo… là Tăng bảo. Đây là một tâm thấy đồng thể Tam bảo. Nay dẫn điều này để chứng tỏ trong quán tâm thì thấy chư Phật và Bồ-tát. “Hoa Nghiêm…” là nói lý ba thân đẳng chứng, ý đồng với trước. Giải nghi, Nghi hỏi. Đáp giải thích, Trước dẫn kinh chánh đáp. “nếu chấp…” là chê chấp nêu lỗi: Chấp văn tự như đeo đá, chìm sinh tử như nhảy xuống vực sâu, buông lung hôn tình như dạo chơi trong đêm tối, bỏ quán tâm như tắt đuốc. Tiếp, tổng kết, có hai: a) Chánh nêu. b) hỏi…” là gồm chọn vị. Cao thấp khó lường, là tuy không thể chấp nhất định, nhưng sớ văn giải thích thì phần lớn là ước bổ xứ. Nói tạp chúng, Tổng nêu, giải thích tên, có hai: a+, Nêu bày. “Trong đây…” giải thích tên. “Hai thứ này có…” là hiển bày quyền thật, có hai: Tổng nêu, chỉ quyền thật hai người. Thật tùy nghiệp sinh, là tùy nghiệp thiện ác mà thọ sinh vào năm đường. “Thử đẳng…” là riêng khai thừa giới bốn trường hợp, Nêu bày dẫn kinh: Nay phụ Đại kinh là ngài Kinh Khê nói: Đó chỉ một câu đã nêu cái hơn để so với kém. Nay phụ một câu ly làm bốn câu. “giải…” là phụ kinh giải nghóa, có hai: Nêu lệ bốn câu (trường hợp). “Nhược thông…” là phán quyết giải thích thừa giới, có hai: Căn cứ ở luận chung thì nghóa đồng. Nói luận chung là phàm giới thì lấy phòng ngừa ngăn chặn làm nghóa, còn thừa thì lấy vận chuyển ra vào làm tên. Lý sự đều có nghóa phòng ngừa ngăn chặn. Thế nên trước từ không thiếu sót, sau là sang bờ kia gọi chung là giới. Lý sự đều có nghóa chuyên chở ra. Thế nên trước từ nhân thiên, cuối là Phật thừa, gọi chung là thừa. “Tất cả…” là chính chỉ nghóa chung pháp lành làm lành riêng chỉ có giới. Nay ước nghóa chung cũng được gọi là thừa. Quán hành lý thiện thì riêng chỉ là thừa, nay ước nghóa chung cũng được gọi là giới, nên nói đều chung cả thừa giới. Đối với riêng mà phán quyết thì thể khác, Bày tướng: Nghe kinh sinh hiểu thì là tín hành; Quán trí suy tìm thì là pháp hành. b, “Cố đại…” là dẫn chứng. Không động không xuất, là không động phiền não, không ra khỏi sinh tử. “Chỉ giới…” là kết bày hai thứ. “Nay là…” là giải thích riêng, Tùy giải thích, Huyền giải thích, nêu chương. Ngài Kinh Khê nói: Phân làm bảy môn mà giải thích, là sáu thứ sau tuy khác, nhưng không thứ nào là không thành thừa giới đầu tiên. Đó gọi là tín pháp của thừa giới cho đến tự tha của thừa giới. Cũng có thể gọi là thừa giới của tín pháp, thừa giới của tự tha. Trong năm thứ kia lần lượt mà luận lẫn nhau. Nếu muốn sinh khởi bảy môn này, thì trước là thành căn lập đủ thừa giới. Để thành thừa giới thì phải khai tín pháp. Lại do tín và pháp có chủng tử riêng, nên cảm với hai thừa Đại Tiểu không đồng nhau. Do thừa Đại Tiểu mà có Tiệm Đốn, giáo hóa hay tiếp dẫn người thì cần phải thùy ứng tích, để thành việc hóa độ thì cần phải bày quán tâm và vì quán tâm nên hóa vật cơ được thuần thục. Tùy giải thích, có bảy: 1.Gặp Phật không đồng, có hai: a) Nêu chỉ. b) “Một giới…” là chánh giải thích. Bà Tẩu đến là kinh ấy quyển một có nói: Kinh ấy Bà Tẩu từ địa ngục thoát ra, đem chín mươi hai ức tội nhân đến thế giới Ta-bà, mười phương cũng thế. Bấy giờ ngài Văn- thù bảo ngài Xá-lợi-phất rằng: Các tội nhân này từ khi Phật chưa ra đời, đã tạo các hạnh bất thiện, đã trải đọa địa ngục. Nhân đức hoa tụ phóng ánh sáng lớn và nhờ ánh sáng ấy mà từ ngục A-tỳ thoát ra. Ngài Xá-lợi- phất nói: Từ lâu tôi nghe Phật nói Tiên Bà Tẩu này đã tạo hạnh bất thiện mà đọa địa ngục, nay vì sao lại nói từ địa ngục ra mà được gặp Như Lai. Đức Phật bảo: Vì muốn phá chấp nhất định phải thọ quả báo tất cả chúng sinh. Này thiện nam! Chớ cho Bà Tẩu là người địa ngục. Vì sao? Vì Bà là trời, Tẩu là Tuệ. Vì sao người trời Tuệ lại chịu khổ địa ngục. Lại Bà là rộng, Tẩu là thông, rộng thông tất cả, trụ rốt ráo lại ở địa ngục chịu khổ, không thể nào có việc này được. Lại Bà là Cao, Tẩu là Diệu; Bà là Đoạn, tẩu là Trí; Bà là cứng, Tẩu là mềm; Bà là Từ, Tẩu là Bi… rộng như câu đầu. Kinh vẫn nói rộng giết dê là duyên đầu tiên. Nên biết Bà Tẩu là quyền nhân, nhưng quyền tất dẫn đến thật. Cho nên biết là người thừa gấp giới chậm. “Hỏi ba…” đây là y cứ ba ác, là một trong tám nạn, vì sao lại được đạo? Như Xá-vệ…, là Đại luận quyển bốn nói: Xá-vệ có chín ức người, có ba tinh xá Phật, vì muốn báo ân đất nơi mình sinh ra nên thường ở tại Xá-vệ. Nhưng trong số chín ức người ấy chỉ có ba ức người là thấy Phật nghe pháp. Kỳ dư sáu ức người kia như lời sớ đã nêu, đều do thừa chậm, nên không được nghe kinh. “Chu thời…”, tức đời Cơ Chu thứ mười sáu, chúa Trang Vương là Thu, năm thứ mười, tức là Lỗ Xuân Thu, đời Trang Công thứ bảy, mùa Hạ tháng tư đêm Tân Mão, sao Hằng biến mất. Đêm ấy sao sa như mưa. Xét đây thì chính là lúc Như Lai sinh ra ở vương cung, mà cõi này chỉ thấy điềm lành chứ không thấy Phật, không nghe Phật nói há không phải là thừa chậm sao? Nói sao sa như mưa, thì kinh Xuân Thu có nói: Trang Vương năm thứ bảy, mùa Hạ tháng bốn ngày Tân Mão, đêm không thấy hằng tinh, giữa đêm sao sa như mưa. Đỗ Dự chú rằng: Hằng là thường, nghóa là sao thường thấy, năm Tân Mão, tháng bốn ngày mồng năm, ánh trăng yếu ớt, mặt trời chưa lặn hẳn, như mặt người. Nửa đêm bèn có mây sao rơi như mưa rất nhiều đều ghi khác nhau. Mặt trời chưa lặn hẳn, hằng tinh không thấy mà nói nửa đêm là do đồng hồ mà biết. Tả Truyện có nói: Mùa Hạ, Hằng tinh không thấy, đêm sáng, sao rơi như mưa và mưa rơi trên thềm. Các bậc Tiên hiền truy tìm năm sinh của Phật lại có sai lệch. Theo truyện Pháp hiển suy tìm lúc Phật sinh, thì vào đời nhà Ân, năm Võ Ất thứ hai mươi sáu “Giáp Ngọ) theo lời Pháp Thương đáp lời hỏi của nước Cao Cú Lệ thì đúng vào thời tiền Chu chúa thứ năm là Chiêu Vương Hà, năm thứ hai mươi bốn Giáp Dần, dẫn Mục Thiên Tử Biệt Truyện làm chứng, xưng con của Hà là Mãn, miếu hiệu là Mục vương, nghe Phật ra đời ở Ca-duy bèn sang Tây Trúc mà không trở về. Dựa vào Tượng Chánh ký thì đúng là thời Tiền Chu, chúa thứ mười bảy là Bình Vương Nghi Cựu, năm thứ bốn mươi tám Mậu Ngọ. Nếu dựa vào ngài Đạo An thời hậu Chu đã dùng niên kỷ của ngài La- thập và lời minh trong trụ đá thì đúng vào thời tiền Chu, chúa thứ mười tám là Hằng Vương Lâm, năm thứ năm Ất Sửu. Dựa vào Triệu Bá Hưu đời Lương, năm Đại Chu thứ nhất, ở Lô sơn gặp ngài Luật sư Hoằng Độ được Bộ Phật Diệt Hậu Chúng Thánh Điển Ký thì suy ra năm Phật sinh đúng vào thời tiền Chu, chúa thứ hai mươi chín là Lương Định Vương Lượng, năm thứ hai “Giáp Tuất). Lại Bộ Cảm Thông truyện có nói: Phật ra đời vào đời Hạ Kiệt. Theo Phiên kinh học só Phí Trường Phòng nói: Nay căn cứ vào các kinh Phổ Diệu, Bổn Hạnh… lại tra cứu về Lỗ sử, thì đúng ngày tám tháng tư niên hiệu Trang Vương năm thứ chín “Quý Tî) Phật hiện hình Bạch tượng, từ trời Đâu-suất giáng thần vào hông hữu của Ma-gia đệ nhất phu nhân của Tịnh Phạn Đại vương tại thành Ca-tỳ-la nước Trung Thiên Trúc. Năm thứ mười Trọng Xuân, đêm mùng tám tháng hai vào giờ Quỷ Tú, tại gốc cây Ba-la trong vườn Lâm-tỳ, Phật từ hông hữu sinh ra hình tướng khôi ngô. Nên kinh Phổ Diệu nói: Phóng đại quang minh chiếu khắp tam thiên giới. Đây tức là việc Tả Truyện nói: “Hằng tinh không hiện, đêm sáng”. Kinh Thụy Ứng nói: Phất tinh giáng hạ hầu Thái tử sinh. Nên Tả Truyện nói sao sa như mưa. Kinh Bổn Hạnh nói: Hư không không mây tự nhiên có mưa. Đỗ Thị chú giải: Bởi lúc ấy chẳng có mây. Tả Truyện lại nói: Có mưa trên thềm. Song theo lịch Cơ Chu thì tháng mười một là tháng giêng. Nay nói tháng tư thì tức là tháng hai “Cơ Chu). Nói ngày năm Tân Mão theo Lỗ Sử là sai. Ngài Sa-môn Đạo An làm Nhị giáo luận dùng lịch Cơ Chu mà suy lại thì nhằm ngày tám, chỉ lấy lúc sinh làm năm thành đạo, bèn khiến đời Phật cách xa ba mươi năm. Đến năm Canh Tý đời Hy Vương thứ nhất, Phật bảy tuổi ngồi xe dê đi học, năm Quý Mão đời Hy Vương thứ tư, Phật mười tuổi, ngài cùng các bạn trang lứa dòng họ Thích tranh tài. Đời Tuệ Vương năm thứ ba “Đinh Mùi) Phật mười bốn tuổi, xin vua cha dạo chơi đến cửa Đông thấy người bệnh rồi trở về. Năm Tuệ Vương thứ sáu, ngài mười bảy tuổi cưới vợ là Cầu-di. Năm Tuệ Vương thứ tám “Nhâm Tý) ngài mười chín tuổi, nửa đêm ngày tám tháng bốn, ngài vượt thành xuất gia. Năm Tuệ Vương mười chín “Quý Hợi) ngài ba mươi tuổi, ngày tám tháng hai khi sao Mai mới mọc ngài sáng suốt giác ngộ thành đạo Vô thượng. Suốt bốn mươi chín năm ở đời nói pháp, cảm duyên của chúng sinh đã hết. Vào đời Khuông Vương năm thứ tư “Nhâm Tý) vào khuya ngày rằm tháng hai, ngài nhập Niết- bàn tại thành Câu-thi-na ở nước Trung Thiên Trúc. Trong khi Phật hưng thịnh thì chúng sinh cõi này đều không nghe thấy. Giới gấp thừa chậm là ở đây. Phật nhập Niết-bàn đến nay là nhà Đại Tống, năm Đại Trung Tường Phù thứ tám “Ất Mão) đã được một ngàn sáu trăm sáu mươi mốt năm. Nay lấy thời Phật sinh là đời Trang vương và thời Phật nhập diệt là đời Khuông Vương làm nhất định. Đây là theo Phí Trường Phòng và sớ văn của Đại sư Trí Giả thì không lấy niên đại các nhà khác. Lại bộ Văn Tuyển đời Nam Tề của Vương Giản Thê nói ở chùa Đầu-đà có bia đề rằng: Hai vua Trang đời Chu và Lỗ nêu gương đêm sáng, hai vua Minh Hán Tấn đều sai người vẽ nét đan thanh. Lấy đây mà xét thì Giản Thê và ngài Trí Giả đều cho Phật sinh vào đời Trang Vương nhà Chu, chỉ không phải chỉ riêng có Trường Phòng. Nếu thế thì đời tượng pháp chỉ còn ba trăm ba mươi chín năm, vì tượng pháp chỉ có một ngàn năm. Chuẩn theo giáo tam tạng và luật Thiện Kiến có nói: Vì sao Phật không độ người nữ, là vì kỉnh pháp. Chánh pháp một ngàn năm, nếu độ người nữ thì giảm còn năm trăm năm, khi Phật đặt ra việc tu Bát kỉnh nên trở lại một ngàn năm. Sau đó tượng pháp cũng một ngàn năm và mạt pháp một vạn năm. Năm ngàn năm đầu thì mười người học có ba người đạt trí và đều được bốn quả. Ngàn năm thứ sáu…” thì học không được đạo, sau một vạn năm đó thì kinh điển văn tự, tự nhiên biến mất, chỉ còn cạo đầu và mặc áo ca-sa mà thôi. Thời chánh pháp Đại thừa vị rất thuần. Đến thời tượng pháp thì vị giảm sút, đạm bạc. Qua đời mạt pháp thì không còn Đại thừa. Kẻ tôi đòi xuất gia làm ô nhiễm Phạm hạnh. Vua bạo ác trị đời đánh thuế Tăng Ni. Nay chưa đến như thế vì còn ở thời tượng pháp. Các thời kỳ năm tháng này kẻ hậu học cần biết. Kẻ đến với đạo cần xem kỹ không nệ quá nhiều. Là căn tánh hàng tin pháp đều là người rất chí thành nghe pháp là nói giống dòng tín hành, tức ậc Chí nhân là nói giống dòng pháp hành. Ắt cần phải làm thiện, tức khiến tốt ý Phật. Pháp hành không phải loại thượng mạn, tín hành không phải nhóm đức bạc. Nhưng trong ký thì ngài Kinh Khê lại riêng răn dè hàng tín hành, đâu không phải chính vì bọn ta mà dạy dỗ. Nên ngài Kinh Khê nói: Đã nói là chủng “giống), thì chủng có sáng tối. Nếu dẫn chứng chủng xa, như trong đạo súc sinh lâu xa nghe một câu còn được làm nhân, huống là được nghe giảng nói pháp ư? Cho nên biết ý Phật không chỉ khiến nghe rồi nói rồi thì đứng chắp tay ngay ngắn đợi phát. Nếu như thế tức tinh tấn là vô ích. Hẳn là muốn gieo Phật chủng cho họ khiến từng phần khởi hành, cho nên làm Bồ-tát, nên làm lợi tha, nên chế phục phiền não, nên tùy chiếu liễu, nên chán sinh tử, nên hiểu rõ văn tự, nên xa quyến thuộc, nên làm thừa gấp, nên làm đều gấp, nên không mong cầu, nên không mời bè bạn, nên cầu gia bị, nên khen thuyết khác, nên lìa tạp ngữ, nên bỏ cười giỡn, nên bỏ như thế… hai mươi pháp. Đã tóm tắt những gì có thể dẫn chứng về tín hành thừa chủng. Nếu không thế thì muốn gieo trồng Phật chủng thật khó. Căn tánh Đại Tiểu, lợi độn là khác, tức pháp hành thì lợi, tín hành thì độn hoặc xen nhau lợi độn. Căn Tánh Đốn Tiệm, có hai: a, Nêu chương. b, Giải nghóa, Chánh giải thích, có hai: Chánh nói, có hai. Đốn Đại. Bảy chỗ tám hội, tức gặp lại ở điện Phổ quang minh, nhà Đường dịch gọi Tân kinh thì có chín hội, vì ba hội ở điện Phổ quang minh. Còn Đại sư chỉ thấy bản dịch cũ nên nói là tám hội. Hoặc nếu có nói là chín là do người sau dối sửa lại. “Ví như…” mặt trời là dụ cho Phật, chiếu là dụ nói pháp, núi cao là dụ cơ Biệt Viên. Đến các loài rồng, quỷ… đầy đủ như trong văn Hoa Nghiêm nêu về chúng. “Kế nói…” phàm nói pháp hành thì nghe ít mà hiểu nhiều, không phải hoàn toàn là không nghe. Đại Tiểu đều thế. Tiệm Đại, chánh giải thích: Được nghe tạng… bốn vị, là Lạc vị chỉ nghe tạng giáo, sinh tô là chuyển Tạng thành Thông, Bát-nhã có nghóa thành Biệt, Pháp hoa khai hiển tất cả hay Viên. Từ Tiểu đến Đại nên gọi là Tiệm, Đại. Tiệm sau rồi Đại nên gọi là Tiệm, Đại. “Đây như…” là chứng thành. Trống độc, là Đại kinh quyển chín nói: Ví như có người lấy đủ thứ độc thoa vào trống, rồi ở giữa chúng mà đánh, tuy không có tâm muốn nghe nhưng nghe thì đều chết, chỉ trừ người không hoạnh tử (chết bất đắc kỳ tử). Kinh này cũng thế, là ở trong chúng các hạnh nếu có người nghe, bao nhiêu ba cõi đều mất hết, tuy không tâm nghó nhớ nhưng do sức kinh ấy hay diệt hết phiền não. Kẻ phạm trọng cấm hoặc tội ngũ nghịch khi nghe rồi cũng làm nhân duyên Bồ-đề, dần dần đoạn trừ phiền não. Trừ không hoạnh tử và bọn Nhất-xiển-đề. “Nay đây…” là kết bày. Tín pháp…, tức ở trong hội này ba giáo là Đại, tạng giáo là Tiểu. Trải các vị trước đến đây gọi là Tiệm. Mới vào hội này tức học Viên giáo gọi là Đốn. Phần liệu giản, hỏi, đáp. Ngài Kinh Khê nói: Mộc-xoa là giới, niệm xứ là thừa. Đây là nói pháp hành. “Hựu phó…” là tín hành. c, Dẫn chứng, giải thích, Chánh giải lời hỏi. “tuy lại…” là luận hơn kém, Đối luận hơn kém. “Nên nói…” là song chứng giải thích thành, Song chứng dẫn chứng bằng nguyện văn của Lương Võ Đế. Câu đầu chứng giới chậm thừa gấp, câu kế chứng giới gấp thừa chậm. “Điều-đạt…” là giải thích thành. Ác nghiệp đến địa ngục, là cùng vua Xà-thế tạo tôïi ngũ nghịch. Điều-đạt đang ở trên đất thành Vương xá bỗng nhiên nứt ra mà rơi vào địa ngục. Như Đại luận quyển mười bảy đã nói rộng. Ngài Kinh Khê nói: Do vì tạo tội nghịch tuy hiện đời bị đọa vào khổ, nhưng khi chưa tạo tội ngũ nghịch thì giống đã định sẵn rồi. Tiên Lam-phất sinh lên trời do không thừa giống, nên phước hết rồi thì đọa vào khổ. Nếu thế thì Điều-đạt còn mới được là thừa chủng sao cần phải có hai mươi pháp từ trước đến nay. Đáp: Điều-đạt khi chưa tạo tội nghịch đã được Noãn pháp, còn không cùng hướng hai mươi mà trù định, sao được bỏ đi, lại lấy Điều- đạt mà so sánh. Nếu không sợ bị đọa khổ thì cứ mặc tình làm như Điều- đạt, sao cần phải luận thừa giới bốn trường hợp. Huống là giáo môn dẫn tội ngũ nghịch để khuyên gắng mà từ chối ư? Vì nghóa này nên phải khéo chọn ý. “Mất đầu…” là Đại luận quyển mười chín nói: Được Phi tưởng định có năm thần thông, ngày ngày bay vào cung vua ăn uống, phu nhân lạy dưới chân, do đụng chân nên dục phát mà mất thần thông, bèn tìm xe trở về núi cũ. Lại tu năm thần thông, nhưng bị rừng ao chim cá gây ồn ào, nên ông phát ác thệ là ăn nuốt hết. Sau được định như lúc đầu sinh vào Phi tưởng xứ, do lời thề xưa lôi kéo nên khi hết tuổi thọ ở Phi tưởng bèn đọa làm thân chồn bay. Luận Bà-sa nói: Thân chồn bay rộng năm mươi do-tuần, giết hại chúng sinh Không ai thoát khỏi. Ứng tích đồng phàm phu, là hiện thân quả báo ở hai mươi lăm hữu. Hai mươi lăm Tam-muội, là phẩm Thánh Hạnh trong Đại kinh có nói: Bồ-tát trị ở địa Vô úy được hai mươi lăm Tam-muội, phá hoại hai mươi lăm hữu. Vô cấu phá địa ngục, Bất thoái phá súc sinh, Tâm lạc phá ngạ quỷ, Hoan hỷ phá Tu-la. Nhật Quang phá Phất-bà-đề. Nguyệt Quang phá Câu-gia-ni. Nhiệt Viêm phá Uất-đơn-việt. Như Huyễn phá Diêm-phù-đề. Tất cả pháp bất động phá Tứ Thiên vương, Nan Phục phá trời Tam thập tam. Duyệt Ý phá Diêm-ma. Thanh Sắc phá Đâu- suất. Huỳnh sắc phá Hóa lạc. Xích Sắc phá Tha hóa. Bạch Sắc phá Sơ thiền, các thứ Đại Phạm cùng phá Nhị thiền, Sấm sét phá Tam thiền. Mưa rào phá Tứ thiền, Như Hư Không phá trời Vô tưởng, gương chiếu phá Tịnh cư, Vô Ngại phá Không xứ, Thường phá Thức xứ, Lạc phá Bất dụng xứ, Ngã phá Phi phi tưởng… Rộng giải nghóa như Pháp hoa hạnh diệu. Hai mươi lăm hữu là bốn châu, bốn ác thú, Vô tưởng và Na-hàm, Lục Dục cùng Phạm thiên, Tứ thiền, Tứ không xứ. “Nhận bốn ác…” là dùng Vô cấu Tam-muội mà hiện thân địa ngục. Dùng Bất thoái Tam- muội hiện thân súc sinh. Dùng Tâm lạc Tam-muội hiện thân ngạ quỷ. Dùng Hoan hỷ Tam-muội hiện thân Tu-la. “Kế trụ…” là dùng bốn Tam- muội mà hiện thân người, tức như huyễn, Nhật Quang, Nguyệt Quang, Nhiệt Viêm, như sau đó đối Nam, Đông, Tây, Bắc bốn châu. Còn mười bảy Tam-muội kia đều hiện thân trời, nên nói thọ thân nhân thiên. Song đây đều do phần chứng nhất tâm ba Đế, nên hay tùy loại mà hiện hình. Phá hữu để ích vật, nên biết hai mươi lăm chủng đều là khác tên với Trung đạo vương Tam-muội. Tiếp nói quán tâm thọ những thân nào cho đến những pháp nào? Nếu người trì cấm giới nương Hoa nghiêm mà tu quán thì ở vị lai sẽ thọ thân nhân thiên, gặp Phật Di-lặc nghe Đốn giáo đắc đạo. Nếu người không trì giới mà nương Hoa Nghiêm tu quán, thì sẽ thọ thân bốn Thú, gặp Di-lặc nghe Đốn giáo mà đắc đạo. Nương vào Tiệm mà tu Quán gieo trồng bốn vị dưới, so điều nói này có thể biết. Cho đến ngang ước bốn giáo, dọc trải năm vị thì gồm chung mà nói ra. Không thấy không nghe, tức là người thừa chậm và đều chậm thì không thấy Di-lặc, không được nghe pháp. Được vào đạo tức là người thừa gấp và đều gấp. Không được vào đạo tức là người thừa chậm và đều chậm. Được mất khá biết, tức là tự xét tâm mình ở vị lai như gương soi. Tiếp nói hóa tha, nêu văn, có hai: a, Phân liệu. b, Tùy giải thích, Chúng Phạm thiên. Trong văn trước nói thật hạnh, kế nói ứng tích. Đây nói là ly, tức là đã lìa hết dục nhiễm. Hoặc nói tịnh hạnh, là lìa nhiễm cho nên tịnh. Trụ Sơ thiền trung gian tức là Trung gian thiền, là ở giữa hai mức Sơ thiền và Nhị thiền. Phạm vương được thứ thiền này. Cho nên Tỳ-đàm chí đều có Phạm vương dẫn kinh luận nói khác. Nay gọi là chí nên làm vua ở thế tục. Nay Đại sư dung hòa hai văn. “Nếu ứng tích…” thì sắc trắng hiện thân ở Sơ thiền, chủng chủng hiện thân ở Phạm vương. Cho nên sinh ở Sơ thiền, là vì Sơ thiền có ba trời, Phạm vương ở trong đó, vì làm chúa lónh nên riêng lắm có một hữu. Nhìn bài Tựa Pháp hoa… là lời Tựa ấy nói: Làm chủ Ta-bà thế giới là Phạm Thiên vương và Thi-khí Đại phạm, Quang Minh Đại phạm… thì Thế chủ là vua Sơ thiền, Thi-khí là vua Nhị thiền, Quang Minh là vua Tam thiền và cùng làm vua Tứ thiền. “Sở ngôn…” là Pháp hoa nêu ba tên nên chữ “v.v…” chỉ ở Tứ thiền. Nay chỉ nêu hai tên thì chữ… “đẳng” phải ở Tam và Tứ thiền. Hoặc nói Phạm Thiên vương ở đầu có thể là nêu chung hư vị, còn Thi-khí là chỉ cho một người riêng biệt. Pháp hoa cũng thế. Cho nên Pháp hoa Sớ nói kinh nói tên Phạm vương lại nêu Thi-khí tưởng như hai người. Nhưng dựa theo Đại luận thì chính dùng Thi-khí làm vua. Nay lại nêu rõ tên và nói ngôi vị có lẽ là chỉ cho một người. Nếu muốn phối hợp Tứ thiền thì phải theo lời giải của Sớ. “Ứng Tích…” là trụ ở Sang Tam-muội mà hiện thân Nhị thiền, Lôi Âm thì hiện thân Tam thiền, Chu vũ “mưa rào) thì hiện thân Tứ thiền. Các cõi trên ở trên không… ngài Kinh Khê nói: Sơ thiền bao trùm một tứ thiên hạ và núi Thiết vi, Nhị thừa che trùm một tiểu thiên, Tam thiền che trùm một trung thiên, Tứ thiền che trùm một đại thiên, đều là lấy dưới mà định trên. Tóm tắt mà biết nơi chốn không đồng, vì ở trên không không thể định. Giải thích Trời, Chánh giải thích hiện văn. Dịch là người có khả năng tạo tác “đấng sáng tạo), chính nói Thích-ca Nhân-đà-la, Hán dịch là Năng Chủ, nói là chúa Trời có thể tạo. “Hỏi thắng…” là thông trước giải nghi. Ý hỏi; ngài Kinh Khê nói: Vì sao đối với Sắc chỉ nêu Sơ thiền, Dục giới chỉ nêu Đao Lợi. Đàn-việt, Hán dịch là Thí chủ. Tám Bộ chúng, Xét hiện văn giải thích nghóa, nêu bày. “Đại…” là chánh giải thích. Đại oai lực xuyên suốt tám bộ, dẫn đầu là chư Thiên, sau cùng là Ma-hầu La-già tất cả đều có oai lực. Các văn khác đều nói tám Bộ : Bốn vua mỗi vị thống lãnh hai Bộ là tám: Đông phương có hai là Càn-thát-bà và Phú-đơn-na. Nam phương có hai là Cưu-bàn-trà và Bế-lệ-đa. Tây phương có hai là Tỳ-xá-xà và Độc long. Bắc phương có hai là Dạ-xoa và La-sát. Nay kinh nói tám Bộ cùng đây không đồng, nên nói phần nhiều có liên quan. “Văn trên…” là giải thích tám Bộ, có tám: Chư Thiên, Chánh giải thích, Giải thích đến: Năm trời Na-hàm là: Trời Vô phiền. Trời Vô nhiệt. Trời Thiện kiến. Trời Thiện hiện. Trời Sắc cứu cánh, đây gọi là trời Ngũ tịnh cư, đều là quả thứ ba đến ở. Chọn không trở lại, trời Vô tưởng tức trời thứ mười ba của cõi Sắc. Ngoại đạo tu thiền này, là thọ sinh. “Thử đẳng…” là tổng kết. Giải thích về Rồng. Triệu sư nói: Rồng có hai thứ: Rồng ở đất và rồng ở hư không. Giống này có bốn cách sinh. Ngài Tăng Hộ Tỳ-kheo vì bốn rồng nói pháp, là trao cho bốn con Long vương bốn kinh A-hàm. Có loài nhìn thấy độc thì nhắm mắt mà nhận kinh, có loài hà hơi độc thì ngậm miệng mà nhận kinh, có loài rờ chạm độc thì đứng xa mà nhận kinh, có loài có khí độc thì xây lưng mà nhận kinh. Sư trách họ thất lễ. Họ đáp vì nhìn thấy thì giết người, cho đến có khí độc giết người nên phải nhắm mắt… Rộng như kinh Tăng Hộ. Giải thích thần Dạ-xoa. Ngài La-thập và Triệu sư đều lấy chữ Thần làm một loại khác loài Dạ-xoa. Triệu Sư nói: Thần chịu báo thiện ác lộn xộn, có hình thể hơn người nhưng kém trời, thân nhẹ mỏng khó thấy. Nay văn đã nói đều thuộc quỷ đạo, nghiệm thì biết, vì Thần tự làm một loại. Trong văn giải thích Dạ-xoa trước nói chịu báo, kế nói tu nhân. Văn sau đều như thế. Làm kẻ sai khiến cho trời. Triệu sư nói: Thiên Dạ-xoa ở dưới hai: Trời giữ cổng trời. “hủy giới…” là nói tu nhân. Thí ngựa xe…, ngài La-thập nói: Địa Dạ-xoa chỉ dùng tài thí nên không thể bay lên trên không. Thiên Dạ-xoa vì cho ngựa xe nên hay bay đi. Giải thích Càn-thát-bà: Bay vọt đứng trên không. Mười núi báu là: Tuyết. Hương. Kha-lê-la. Tiên Thánh. Do-càn-đà. Mã Nhó. Ni-dân-đà. Chiết-ca-la. Túc tuệ. Tu-di. Giải thích A-tu-la, nên nói không rượu, tức nghiệp lực của cá rồng thì nước biển không biến không đổi được giận ghét tật đố , vì thề đoạn bỏ nên gọi không rượu. Tiếp giải thích Ca-lầu-la, giải thích khẩn-na-la. Giải thích Ma-hầu-la-già, bố thí ít, cũng là ít làm việc bố thí. “Trước nay…” là căn cứ hừa mà kết bày. Bốn Bộ chúng có hai: a) Dựa vào thật hạnh mà giải thích, có hai: Chánh giải thích: Đây chưa thể dùng nhất định, ngài Kinh Khê nói: Dựa vào các văn kinh khác chỉ nói: Gần Phật mà được tên Thiện Túc. Không thể định rằng: Nam nữ không được cùng trọ ngủ qua đêm. Niết- bàn Sớ lấy một ngày một đêm để thọ Bát giới gọi là Thiện Túc. “Hỏi bốn…” là giải nghi. Tố là mặc đồ màu trắng vậy. Ở Tây vức có tục lệ ưa chuộng mặc màu trắng. “Bồ-tát…” là dựa vào quyền hạnh mà giải thích. Tiếp nói tựa riêng, có hai: a, Nêu ý phân chương, có hai: “phát…” là tùy văn mà giải nghóa, có hai: Phát khởi tựa, có hai: Huyền luận ý nghóa, có hai: Chánh nêu biểu phát, có hai: Nêu chung. “nhất hiện…” là nêu riêng. Ngài Kinh Khê nói trong văn đã biểu thị đầy đủ về ba Chánh báo và ba y báo. Tuy biểu thị cả hai, nhưng ý chánh là nói về y báo. Nếu căn cứ theo ý này, là vì khi nói kinh Phổ Tập thì thân tướng Phật đã cao quý rồi, chỉ chưa luận về cõi cao quý. Nay ở thân tôn quý lại thêm việc hợp lọng là biểu thị nói về các cõi. Hỏi: Bảo Tích đến lúc nào? Đáp: Chuẩn theo văn kinh này giống như phần cuối của Kinh Phổ Tập, do đâu mà biết? kinh nói: Bấy giờ ở thành Tỳ-da-ly có Trưởng giả… cho đến hợp thành một lọng lớn. Văn này đã không nói nghe kinh, chỉ nói là đem lọng đến cúng dường, nghiệm ra thì biết chỉ là phần cuối ở kinh Phổ Tập có nói “Lúc bấy giờ” vậy. Căn cứ vào lời khen về pháp Thắng Ứng rằng: Nói pháp chẳng có cũng chẳng Không… giống như nghe pháp. Ngại gì trước đó đã từng nghe Thắng pháp. Vì không nói nghe kinh Phổ Tập nên chỉ là đến đây mới thấy Phật Thắng Ứng. Ước thân mà định pháp đối lý không ngại gì. Liệu giản, giải nghi, Xét hiện thân, có hai: Hỏi và Đáp, Dẫn Đại phẩm mà nói đồng. b) Dẫn Pháp hoa nói đồng, chánh dẫn, nói rộng: Ở tại một thành, kinh nói bèn đến thành nơi cha ở. Thành tức là Niết-bàn. Chúng sinh khi đã giải hết các tập thì có nghóa có thể được Niết-bàn nên nói là đến thành. Oai đức đặc tôn, tức là tướng hảo cao lớn vòi vọi hình dáng Xá-na. Cùng tử kinh sợ lánh mặt, tức là không xứng cơ, không chịu giáo pháp Đại thừa. Liền cởi chuỗi Anh lạc là dụ việc ẩn dấu thân Xá-na vô lượng công đức, mặc áo xấu, là dụ hiện thân trượng sáu. Định nói giáo tam tạng, tức như ông Trưởng giả cầm đồ hốt phân cùng Cùng tử làm việc. Tâm tướng thể tín, là đã thân chứng Tiểu thừa thì tin Đại thừa là không hư dối, mà được tiền lương Niết-bàn, cho nên thể tích không giận ghét. Ở trong nhà, là vô duyên đại Từ dụ cho nhà cửa. Gia nghiệp, tức là giới, định, tuệ Đại thừa. Tập họp các quốc vương đại thần, tức các kinh Tiệm Đốn đều khế hợp chỗ giảng nói, đều là kinh vua, thường hợp cơ lợi vật, thịnh suy có lúc, các bộ không đồng nhau gọi là nước. Đều nói Đệ nhất tức là vua nước ấy. Pháp hoa hội thông các giáo, há không phải là tập họp các quốc vương. Di-lặc… các Đại Bồ-tát đều là bậc Đẳng giác tức quan đại thần. Định thiên tánh cha con, tức kinh nói rằng: “Đây thật là con ta, ta thật là cha nó”. Chúng sinh và Phật lý đồng, như cha con tánh trời có liên hệ nhau. Ngài Kinh Khê nói: Dẫn kinh Pháp hoa dẫn đủ năm thời, là hoàn toàn mượn ý Pháp hoa mà nói. Bộ này là thời thứ ba trong năm bộ. Nếu không dẫn đủ sao biết xa gần. b, “xưa thấy…” là kết bày. Xưa thấy ở xa mà lánh đi, Tiêm sư nói: Cả bốn thời đều hiện thân tôn quý đặc biệt, nên không nói về pháp ở Lộc uyển. “Phương này…” là kết đồng. Chọn biểu phát, Xét biểu thị pháp thân, Hỏi và Đáp, dẫn hai kinh. Ứng hiện ắt biểu thị nói pháp, vì ứng tức là pháp. b, Xét biểu thị cõi Tịch quang, có hai: a”, Chánh xét biểu thị cõi Tịch quang, Ý hỏi: Lấy thân biểu thị cho thân thì nghóa có thể được. Còn lấy thân mà biểu thị cho cõi thì nghóa hình như trái nhau. Đáp: Nói cõi là tông chính của kinh, trước đã nói hiện thân cõi Phật đâu chẳng biểu thị ư? “Pháp thân…” là hiển bày thân và cõi không hai, vì y chánh không hai, nên liền hiện thân, tức biểu thị cho cõi nước. Lìa thân không có cõi nước, ngài Kinh Khê nói đây là pháp thân nhưng văn nói thân và độ không hai. Văn trong các bộ tuy có ý này nhưng không có lời văn rõ ràng, nếu không có văn này thì lấy gì để nêu các Bộ là khác xa. Xin xem văn của Sớ và ý ngài Kinh Khê. Vô tình thành Phật đâu còn nghi gì? Hơn nữa lìa thân thì không có cõi, lìa cõi thì không có thân, cho nên khi thân thành thì cõi thành. Vì ngoài tâm không có cảnh, nên sâu sắc suy lường. Cho nên Kim Bài có nói: Một Phật thành đạo thì cả pháp giới không nơi nào không phải là y chánh của Phật. Một Phật đã thế thì chư Phật cũng vậy. Chúng sinh tự mình đối với y chánh của Phật mà thấy khác, nên lại hỏi: Khi Phật thành đạo thì độ cũng thành chăng? Thành thì rộng hay hẹp, không thành có lỗi chăng? “Chân như…” là giải thích cả nghóa trên. Chân như thật tướng chỉ là tên khác của tâm tánh. Cảnh và trí ai phân, thân và độ đâu khác, không gì ngoài tâm tánh, nhiếp thuộc khắp tất cả. Đã chỉ một tâm đâu lại có năng sở. Nên khiến cảnh, trí, thân, độ bốn thứ đều không phải. Song trọn ngày mà cùng không phải thì chưa hẳn đã cùng trái, thế là trí cảnh, thân độ rõ ràng tự khác. Cho nên nói cảnh trí cho đến thân độ tuy nói là tự khác nhưng nguyên thể vẫn không hai. Nên nay biểu thị thân tức là biểu thị độ. Nên nói đã biểu thị thân… kẻ học Phật thừa mà còn mê ý chỉ này thì uổng phí thời gian, muốn chứng được vô sinh thì ta không tin là được. Xe Bắc đến đất Việt hà chẳng mê sao? Cho nên “Kim…” là dẫn chứng không hai. Duy thức, thì Duy là ngăn ngoại cảnh, thức là biểu thị nội tâm. Duy chỉ là tâm, lại không ngoài trần nên nói là Duy thức. Chư Phật tu tập vô phân biệt trí thông đạt mà chỉ biết cái tánh chân thật, nên nói trí tập duy thức thông, lấy chánh trí khế hợp với chân như không có hình tướng thì gọi là trang nghiêm. Cho nên nói không phải trang nghiêm mà trang nghiêm, nghóa không phải là sự nghiêm mà lý nghiêm. “Kinh này…” là dẫn văn kinh để kết: Xét tâm mê Tịnh thì Cõi Phật tịnh, thì tâm tức là cõi, do đó tâm tịnh tức là cõi tịnh. “nhưng biểu…” là thể tuy không hai nhưng biểu thị phát ra thì tự chia, chỉ là do chúng sinh mê chấp ngộ có riêng khác, nên biểu thị thân biểu thị độ để mở mang. Nay riêng biểu thị độ ý chỉ đã rõ ràng. Gồm lựa chọn báo ứng độ, chỉ là do ba thân tướng tức bốn cõi không hai, thân và độ một thể, năng sở không khác. Cho nên khiến ba thân bốn cõi đều cùng phát hiện. Nay tuy mỗi thứ luận ra, nhưng cần hiểu là lý đồng. Văn gồm hỏi và Đáp. Dẫn chứng, giải thích Tùy văn chánh giải nghóa: Phán xét chung riêng. “xưa nói…” tùy văn giải nghóa, Như Lai hiện thân: Phật nói pháp. Những thứ này chung nhiếp tất cả chúng, nghóa là các nhà giải thích hoặc lấy tại gia và xuất gia mỗi loại hai chúng nam nữ thành bốn chúng, hoặc lấy trời, người, rồng, quỷ làm bốn chúng. Nay lấy bốn chúng, lần lượt kể đủ mỗi thứ có bốn. Nên nêu bốn thứ này để gồm nhiếp số đông. Chỗ ông ấy nói bốn thứ này đều lỗi. Nay có bốn. Thượng Thống Sư, tức là Sư Pháp Thượng. Nhà Bắc Tề sắc phong làm Chiêu Huyền Thống, nên gọi là Thượng Thống. “Lệ như…”: Ngài Kinh Khê nói: Đó do đây khai nên hợp, đây là nói do chánh mà có y, ý khai mà Bổn hợp, y chánh không khác không hai mà hai, vì vật nên phải thế. Thí dụ để làm sáng tỏ. Cùng thật tướng đảnh, tức là ba đức tột hiển ở đảnh phần chân. Bán trỉ, trỉ là đứng, thương minh là biển. Phật không trụ sinh tử cũng không bỏ sinh tử, là vì khác phàm nên không trụ, khác Nhị thừa nên không bỏ. Vì tự hành nên không trụ, vì hóa tha nên không bỏ. Vì Đại trí nên không trụ, vì đại Bi nên không bỏ. Vì sinh tử tức Niết-bàn nên không trụ, vì Niết-bàn tức sinh tử nên không bỏ. Phàm bốn thứ này mà giải thích tức là hiển sáng đức của Phật. Như nước biển không phải bốn sắc, là Tỳ-đàm Câu-xá đều nói: Núi Diệu cao “Tu-di) bốn mặt, mỗi mặt đều có một sắc. Mặt Đông thì sắc vàng ròng, mặt Nam thì sắc lưu ly, mặt Tây thì sắc trắng bạc, mặt Bắc thì sắc pha lê. Tùy mặt ở mỗi phương mà nước đồng với sắc của núi. Chúng sinh ở trong ấy đều đồng với sắc nước. Tâm không phải bốn môn, là vọng tâm ba hoặc không phải là bốn môn chánh giải thoát, nên nói là tâm không phải bốn môn. Cho nên dưới có nói: Mà nói bốn môn khiến tâm mất tâm. Cho nên biết không được dùng chân tánh để giải nghóa tâm này. Lại không phải khác, là như biển đồng với sắc núi. Tiếp hợp dụ, ấy là vạn thiện vô úy không tòa, vạn thiện tức là quả trên Tam thiên theo lý tục đế, vô úy tức là bất tư nghì không theo lý chân đế. Vạn thiện tức là vô úy không như các báu làm tòa sư tử, đây tức là quả trí đã khế hợp, lý chân tục không hai. Hỏi: Chư Phật không đoạn tánh ác, thì quả trên tam thiên cửu giới không giảm, sao gọi là lý vạn thiện? Đáp: Tu ác hết rồi chỉ còn tánh ác, ác này tức là thiện. Như nói gương sáng tánh đầy đủ hình ảnh xấu, đâu khiến sáng cũng xấu ư? Thân tướng vòi vọi, là tướng cao lớn vòi vọi, dụ cho quả trí vượt ngoài phần chân. Phần Trưởng giả dâng lọng: Phân chương đoán bày, “Hiến năm…” là đoán bàn biểu thị Báo, Nêu chương biểu thị. Chương đầu biểu thị cõi của pháp báo thân. Kế, “nhưng đối…” là nói chương hai, biểu thị cõi Ứng Phật thân. “Đại chúng…” là nói chương ba, biểu thị nghe ba thân bốn cõi y chánh không hai, mà ngộ đạo được pháp hỷ vậy. Văn đầu nói: Từ trong nhân mà hồi hướng Phật quả thành vô duyên Từ, tức là hồi chân nhân mà hướng cực quả. Viên Báo pháp thân, thì báo thân tức là quả, trí pháp thân tức là quả lý. Thành ybáo tịnh quốc, tức chỗ nương của pháp báo rốt ráo Tịch quang. Cũng hồi nhân hướng quả nên nói là thành. Biểu thị ứng độ, tức là ba cõi vậy. Ứng Phật Hóa Chủ, tức ở ba cõi đều gọi là ứng Phật. Báo tha thọ dụng tức là Thắng ứng. “Cho nên biết…” là kết làm nguyên do của bài tựa. “Một trưởng…” là tùy văn giải nghóa, Nguyên do phát biểu, Phân khoa. Tùy giải thích, Cùng đồng loại đều ở. Hoa Nghiêm nói: Đến tất cả ma đều ước viên mà giải thích nghóa. Tàm quý là hào sâu: Tàm đối với trời Đệ nhất nghóa, quý là đối với người Thánh hiền. Bốn đạo, là Viên bốn môn. Ba cõi tức là phần đoạn, biến dịch hai thứ ba cõi. Mà tánh nương nhân quả, Phổ Hiền Quán có nói: Nhân Đại thừa là các pháp thật tướng. Quả Đại thừa, cũng là thật tướng. Năm thứ chủng tánh, ngài Kinh Khê nói đó là Tập chủng tánh, Đạo chủng tánh, Tánh chủng tánh, Thánh chủng tánh, Đẳng giác tánh. Mỗi tánh có trăm thứ đều dùng thập thiện để cùng trang nghiêm. Thập thiện là gốc các thiện, nên thông cả cạn sâu. Kiền kỉnh. Dâng lọng. Hợp lọng hiện cõi: Phân khoa, tùy giải thích: Hợp lọng. Hiện tướng, Phân khoa chung riêng. Tùy văn giải thích: Hiện cõi nước, có bốn: 1] Hiện cõi nước rộng dài. 2] Hiện mười núi, có lẽ là biểu thị chúng sinh thế gian, vì mười núi là biểu thị cho mười giới. 3] Hiện các sông và biển lớn, có lẽ là biểu thị năm ấm thế gian, vì năm nước là biểu thị năm ấm. Nói năm nước thì: Biển. Sông lớn. Sông nhỏ. Sông nhánh. Suối nguồn. - Hiện nhật nguyệt và Thiên cung, hoặc là biểu hiện cho khí thế gian. Ngài Kinh Khê nói: Song ở văn trước đã biểu thị y độ, y độ tức là khí thế gian, cho nên biết, trong đây chỉ biểu thị y trong tiểu thế gian mà thôi. Tức như lệ vào một núi một châu. Nay nói Nhật nguyệt tinh cung đều như trước đã hiện tướng rộng dài trong tiểu thế gian. Chỗ nương của chúng sinh năm ấm, bốn thế gian này có hai thứ là sở y, tức y báo và khí; hai là năng y tức chúng sinh năm ấm. Vì lấy năm ấm để thành chúng sinh nên đây tức là thân chánh báo. Sao được biểu thị tình? Nghóa mười núi năm nước đều là vô tình, sao được biểu thị cho chúng sinh năm ấm là hữu tình ư? Đáp ý: Đại thừa đã luận về y chánh không hai, thì biểu hiện cho nhau nào hại gì. Cho nên Đại thừa hiện tướng đều như đây cả. Hiện chư Phật nói pháp, ắt có năng y, tức có nước, tức có người. Đại chúng hoan hỷ. Ba luân bất tư nghì hóa, tức là thân thông, miệng nói, ý soi, không mưu tính mà hóa gọi là Bất tư nghì. Bày kể khen, có hai: a, Nói ý phân khoa, có hai: a’, Nói ý có tựa. Ngài Kinh Khê nói: Thần trí cao minh, là ngôi vị tột cùng nên là cao, vì cao nên sáng. Nếu chuẩn theo văn kinh thì cả năm trăm người đều không ghét nhau đâu lại không cùng theo đến. Nếu không phải sắp được ngôi vị thì từ thấp đến thấp thỉnh nói nhưng vẫn là năm trăm người ấy đều đã phát tâm, đến văn sau được đạo mới nói là được nhẫn. Căn cứ vào đây thì hình như năm trăm vị chưa đồng ngôi vị với ngài Bảo Tích. Dù cho thuật lại việc của mình ở trong số năm trăm vị thì Bảo Tích há có thể cùng họ hoàn toàn giống nhau huống ngoài số trên còn có người cần có Bổn, đâu biết Bản vị, nên không lường được ngài Tịnh Danh. Cho nên nay bèn dùng cao minh mà khen chung. Nếu không cao thì sao biết được đầu mối của chỗ biểu thị hiện ra vì nghó định đến tướng tịnh thân tịnh độ. Người trí biết trí, cho nên hay ngầm hợp với tình ngài Tịnh Danh. Đã hiểu rõ Tịnh Danh nên cũng có thể nương vào mong cầu ở trí Phật. “Đến ba…” là chia văn kinh , Phân kinh: Kể khen nguyên do đến. Ngài Kinh Khê nói: Lấy thuật mà khen nên nói là thuật khen. Đã hiện hai thân tất nương hai cõi. Nên thuật hai ứng đều được làm nguyên do, nên nói thuật khen. “Ngôn thắng…” là nêu nghóa, Nêu nghóa thân hơn kém. Tìm ứng thân này… ngài Kinh Khê nói: Trong thắng ứng riêng nêu pháp thân, mà văn chỉ nói: Tìm ứng được pháp mà chưa nói ứng thân tức pháp thân, là vì còn mang phương tiện liệt ứng thân. Cho nên lại dùng sắc tướng liệt ứng, vì liệt cho nên không thể tìm thấy pháp thân. Diệt sắc tức sắc mới có thể thấy được huống lại tức sắc biểu hiện lại thông. Nên Pháp hoa nói: Đẳng, tuy dẫn kinh ấy nhưng có ba ý: Lấy liệt làm nguyên do. Lấy thắng chê liệt. Dẫn Tiểu về Đại. Nói đắm trước giải thoát không ở giáo này. Đây bèn nói thẳng là dùng thân tướng cát bụi nên có chỗ sợ mà thôi. Hiện có phiền não như cát bụi dính thân mà thị hiện đồng với những người ham sống sợ chết. “Hỏi…” là nêu gần xa hai nguyên do, có hai: a, Cùng giải thích hai nguyên do. Ngài Kinh Khê nói: Hỏi đáp trong đây, thì một là mượn ý Pháp hoa, b, gần dùng văn bộ kinh này. Nếu xưa tất không nói tiếng nguyên do, ở thời này thì mới có thể dùng tiếng ấy. “hỏi ba…” là kể lại nghóa xa. Hai mươi năm, thì tám nhẫn làm một, tám trí làm một, cùng chín vô ngại và chín giải thoát. Hốt phân, là đoạn bỏ kiến tư. “Đến gần…” là tùy văn giải nghóa. Nay ngài Bảo Tích nói kệ thì đối mười hai bộ tức là phân Cô khởi. Hoặc có người bảo: Sớ nói: Trước nói nguyên do, sau kể khen thì giống như Trùng tụng, là sai. Phàm Trùng tụng thì trước nói “Văn xuôi) xong rồi, sau mới dùng kệ tụng mà nói lại, cho nên có tên đó. Trong đây ngài Bảo Tích chưa lên tiếng, chỉ một mình tự nói Kệ, tự thuật, đâu phải dùng Trùng tụng ư? : Trước là kể khen nguyên do sự biểu hiện, có hai: a, Kể khen thắng ứng pháp thân là nguyên do gần, Phân khoa đoán trước. Do đâu mà được biết… ngài Kinh Khê nói: Kinh chưa nói đến chỉ lấy tướng hiện ra mà nghiệm biết, huống lại là có văn khen kém. Thân cao quý thì pháp cao quý, thân kém thì pháp kém. <篇> <卷>QUYỂN 3 “Hai…” là tùy văn giải nghóa, Lược khen hai lợi ích tiếng và hình, Phân khoa. “Trước lại…” là tùy giải thích, có hai: a”, Khen lợi ích về hình, có hai: a] Phân khoa đoán trước, Đại kinh trở đi , đoán trước, Dẫn Đại kinh: Cũng sắc không phải sắc, là hiển bày việc Phật tánh không lìa sắc tâm không phải sắc tức tâm. Thân Kim cang, là Ứng thể tức pháp Không thể hủy hoại. 2’, “Nay trước…” là phối nghóa nay. Trước nói nay khen mắt Tịnh nhiếp thân Kim cang. Khen hơn nhiếp kém, là ngài Kinh Khê nói chuẩn Phàm mà khen Thánh mà thôi, huống tướng Ứng thân giáo môn tự phân chia. Cho nên trong Thánh tướng không gì bằng lông mày và búi tóc. Nay từ mắt mà nói nên nói là Thắng nhãn. Huống nhãn lại đủ năm từ tên mà càng vượt trội vã khen lấy theo hình là kém. Kế từ “Lực vô…” là nói. Nay khen tâm tịnh nhiếp lực vô úy. “Nêu …” là Tổng kết cốt yếu. “Mắt…” là tùy văn giải nghóa, Khen công đức sắc, sự giải thích, Giải thích chung, Chánh giải thích: Can Bi…, Bạch Hổ Thông nói: Gan liên hệ với mắt, phổi liên hệ với mũi, tim liên hệ với miệng, tỳ liên hệ lưỡi, thận liên hệ tai. Nay lại chuẩn ở phàm mà định Thánh. Khi phàm phu buồn thương thì bên trong tất động ở gan, sau đó thì trong mắt ứa lệ. Cho nên nói gan buồn thương thì mắt nhỏ lệ. Ngài Kinh Khê nói: Như Lai tức vì lợi vật mà biểu thị Bi (thương). Lợi tất ở trí, nên mắt biểu thị cho trí, gan biểu thị cho định. Trí động định dụng cũng như gan buồn thương thì mắt nhỏ lệ. Đại luận…, ngài Kinh Khê nói: Bi đã sinh ở trí, trí do ở định. Khi định dụng tức Bi trí dụng vậy. Gan buồn thương (Bi) thì mắt nhỏ lệ, so ra có thể biết. Giải nghi, có hai: a, Hỏi. Ngài Kinh Khê nói: Đã tìm Thắng ứng để được Pháp thân, Thắng ứng có tướng, Pháp thân há không có ư? b, Đáp, Chính nói về mắt. Ngài Kinh Khê nói: Ý đáp mắt Phật đã là thể của bốn mắt, bốn mắt tức là tướng Pháp thân, cho nên khiến tìm tướng thấy vô tướng. Huống là tướng vô tướng là hơn hết trong các tướng. Cho nên dẫn kinh Pháp Hoa tức là sự ấy. “Ngoài ra…” là nêu các tướng khác. Chứng thành. Ngài Kinh Khê nói: Ý Pháp Hoa, thì Phật đủ năm nhãn, bốn không riêng lập, cho nên ba mươi hai là tướng Pháp thân. “Ta nay thân này” tức là Pháp thân. Tức là ở đây vậy. “Nhưng mắt…” là giải thích riêng, có hai: a, Chung bày lược bớt, chung bày năm nhãn, là căn cứ ụng giải thích tướng. Lại hay song chiếu đến sự lý: Ngài Kinh Khê nói: Cho nên biết năm nhãn chỉ là thể dụng mà thôi. Nếu từ tu Quán thì nhục nhãn ở đầu. Nay từ khen Phật nên thể dụng đồng lúc. “Căn cứ giáo…” là nếu ước vào Đương giáo thì mỗi thứ đều có năm nhãn, như đã thường luận. Nếu lấy Thiên viên đối đãi nhau mà nói chung, thì chỉ Viên là có Phật nhãn, Biệt giáo có pháp nhãn, thông giáo Bồ-tát có Tuệ nhãn, tạng giáo Bồ-tát có hai nhục nhãn và Thiên nhãn. Nếu căn cứ ở Nhị thừa thì hai giáo đều được tuệ nhãn. Nếu luận về ý Viên thì một tâm ba Đế, tức đủ năm nhãn. Chiếu tâm, nhân duyên sinh pháp tức nhục và Thiên nhãn. Chân đế là Tuệ nhãn, Tục đế là pháp nhãn, Trung đế là Phật nhãn. Ba Đế đã không dọc ngang thì năm nhãn đâu lại sai khác. Kinh Khê nói đó chỉ là thể dụng. Lời nói này có chứng cớ. Ấy là Phật nhãn là thể, bốn nhãn kia là dụng. Thể dụng không hai, giữa và một bên nhất như. Bốn giáo chung riêng tốt nhất là ở trung. Lục tức xét chọn, cao thấp thường chia. “Kim Cang …” là dẫn kinh làm chứng: Đủ ở trong một nhãn mà đủ dụng khắp năm nhãn. Cho nên biết năm nhãn không thể phân bày. “Nay Bảo …” là lược nêu văn kinh. Trong văn, trước nêu pháp. Kế “Như thanh…” là nêu dụ. “Nay lược…” là riêng nói về nêu giải thích, Nêu giải văn kinh, rộng ước Biệt Viên. Ngài Kinh Khê nói: Ở giải thích chung trước, tất cả đều trừ rốt ráo mà phán quyết, cho nên nói cùng nguồn và biến khắp pháp giới. Nay từ Biệt mà nói nên phân năm thứ khác nhau. Tuy năm thứ sai khác, nhưng giáo phần lại thuộc Biệt Viên. Vì sao biết được. Vì nhục nhãn thấy được trời Hữu đảnh, Tuệ nhãn ngoại giới có thể phá được kiến tư nội ngoại. Đã có thể vượt qua ba thừa của hai giáo. Nghiệm thì biết nghóa ở Biệt Viên giáo. Chỉ có Viên là không phải. Riêng nói năm dụng chỉ có Biệt là không phải. Thiên và Tuệ nhãn thông suốt cả bên ngoài. Chỉ vì khiến năm tướng riêng biệt nên ở trong Viên mà gồm nói Biệt. Nhân thiền mà lìa cái, tức lìa năm cái. Bốn đại tạo sắc, tức bốn Đại là Sở tạo “được tạo), bốn vi là Năng tạo “hay tạo), dùng bốn vi hòa hợp tạo thành bốn Đại, gọi là bốn Đại tạo sắc. Hỏi: Nghóa Vi có thể biết, còn nghóa Đại thế nào? Đáp: Địa thủy hỏa phong khắp nơi đều có, nên gọi là Đại. Đại tức có nghóa cùng khắp. Đại luận quyển năm mươi bảy có nói: Như Phật nói bốn Đại Không nơi nào không có, nên gọi là Đại. “Hai tạng …” là lược bày Tạng, Thông. Ngài Kinh Khê nói: Chánh dùng Biệt Viên gồm thâu ở trước. Kế mới dùng hình mà chê thông tạng. Biệt Viên chỉ thành thứ lớp mà không có thứ lớp ở Biệt. Tạng, Thông chỉ có bốn nghóa mà lập năm, huống lại nương thiền nương chân không đồng, đầy đủ như trong Pháp Hoa Sớ Ký phần A-na-luật có nói rõ. “hỏi…” là giải nghi nêu chứng riêng. Quán giải. Ngài Kinh Khê nói: Đã nói một tâm thì năm không phải khác, không khác mà khác, tạm thuộc đối đãi. Cho nên đây nên nói chỉ cảnh thô tế tức là Trung đạo. Khen công đức tâm, sự giải thích, Giải thích chung. Giải thích chung phải dùng nhân duyên. Giải thích riêng là ước giáo. Trên dưới phân khoa nhiều như thế. song đối quán giải …” tức trong bốn giải thích chỉ thiếu bổn tích, hoặc lập theo thời nghóa. Trước là giải thích chung, trong văn, trước giải thích tâm tịnh, kế trong giải thích về Dó độ thì trước lựa bỏ khác với thông. Trước nói ng- hóa lập chỉ có thông. “Đại kinh…” là dẫn thông mà hỏi Biệt. Kế, “nay căn cứ …” là chỉ Biệt. Nhân quả cách biệt dùng làm mất Dó độ. Nếu từ nghóa thông tâm Phật gọi là thiền, thì không thể vượt quá. “Hỏi…” là giải nghi. Ngài Kinh Khê nói: Kế từ hỏi Biệt mà theo nhân, do đó đã có quả chung, việc gì phải lập nhân. Đáp: Trong phần dẫn luận Đại Trí cho đến Niết-bàn đều chứng theo nhân, thì nhân quả mỗi thứ đều có văn. Vả lại dẫn tên phiên dịch mà giúp nghóa theo nhân. Cho nên bỏ lời ác, nhất định không chỉ có quả. “Căn cứ giáo…” là giải thích riêng, có hai: a, Về Tạng, Thông. Ngài Kinh Khê nói: Tam tạng giáo cũng nói: Lìa hẳn pháp ái, pháp ái là tiếng chung. Trong đây chỉ là đối với thiền mà lìa ái, nhưng Đương giáo thì Phật đối với thiền rất tự tại, nên nói lìa ái. Do đó La-hán chỉ nói siêu xuất siêu nhập địa ngục. Song luận về tự tại cũng không bằng Phật. Và nay căn cứ ở giáo, là đều phụ vào văn trước nghóa phụ theo nhân. Phật không còn đoạn nên nói là tự tại cho đến dứt hết vô minh… tức đối nghóa “Dó độ” thuận tiện. Lại trong Tạng, Thông tiếng “Nhất thời” (một thuở nọ) chỉ dựa vào chân đế của Đương giáo mà nói. Về Biệt Viên, ngài Kinh Khê nói: Nghóa chín thiền của Biệt Viên cần phải căn cứ Vị mà phân biệt, cho nên biết: Tên đồng mà nghóa rất khác. Do đó hai giáo đều có Trùng huyền cho đến chân duyên, nếu không ước vị mà nêu, thì do đâu có thể phán quyết. Văn có hai: a, Dẫn kinh Địa Trì để nói về chín thứ Đại thiền: Tự tại. Nhất thiết. Nan. Nhất thiết môn. Thiện nhân. Nhất thiết hạnh. Trừ não. Thử thế tha thế lạc. Thanh tịnh thanh tịnh thiền. Sẽ giải thích tường tận danh nghóa như thứ lớp pháp giới ở cuối quyển. Bồ-tát y thứ chín…, tức Đẳng giác hậu tâm nhập thiền này. Được quả Bồ-đề vượt khỏi thanh tịnh, là quả Bồ-đề tức tâm Phật. Tâm Phật không mê hoặc, vượt trên Đẳng giác. Nên nói vượt khỏi thanh tịnh. Thanh tịnh tức là thiền tứ chín. “Đây căn cứ …” là nêu chung thứ vị của chín thiền. Địa tiền tu tự tánh, ngài Kinh Khê nói: Chưa nhập vào Sơ địa, chưa đủ Phật pháp, chưa gọi là Nhất thiết thiền đang ở vị biệt tu nên gọi là Tự tánh. Phật quả ra khỏi quả, tức tâm Phật vượt khỏi chín thiền, nên có hai Viên, Chánh giải thích, dựa theo Biệt mà nói Viên. Lại dùng Tự tánh ở phàm, còn tám thứ kia ở Thánh. Rốt ráo lìa hư vọng, Sơ trụ này được một phần rốt ráo, không phải là quả cùng cực rốt ráo. Hiển bày tâm tự tánh thanh tịnh, thì vốn đủ tam thiên ở đây hiển một phần. Khi đã đủ Phật pháp thì gọi Nhất thiết thiền. Dẫn chứng, Dẫn kinh Quang Minh chứng thành Như Lai hiển trí Năng du, vô lượng thậm thâm là lý Sở du. Ngang khắp pháp giới, nên là vô lượng. Dọc suốt ba Đế nên là Thậm thâm. Từ “Quá chư …” là hiển bày Phật tâm cảnh trí vượt khỏi chín thiền. Dẫn kinh Anh Lạc để chê lầm: - Tập họp chúng tám thiền, tức Tự tánh thiền cho đến Thử thế tha thế thiền, tức là tập họp Địa tiền, Địa thượng Bồ-tát. Xưa tại thời Hoa Nghiêm…, ngài Kinh Khê nói: Nói “Xưa” là một nhà năm thời đều có kết giáo, vì kinh Anh Lạc mà kết Phương đẳng. Cho nên chỉ kinh Hoa nghiêm cho là xưa, cũng còn ngăn cách Lộc uyển Anh lạc ở sau, đạo lý tất như thế. Cho nên biết các giải thích khác chỉ tám thiền không thành, vì nghóa xưa chưa đầy đủ. Quán giải, ngài Kinh Khê nói: Trong quán tâm lấy lý Bản hữu, gọi là tâm tịnh, hay Quán lý này được tên là Dó độ, cho nên tiếng “Các thiền” là gồm nhiếp Địa tiền của Biệt và hai giáo trước. Khen lợi ích về tiếng, Chánh giải thích ích lợi của hình và tiếng. Ngài Kinh Khê nói: Chuẩn theo khai chương trước, nay chỉ họp lại gọi là tiếng… nay thêm hình, vì hình chưa hẳn là tiếng, mà tiếng ắt phải có hình. Khai chương thì theo riêng mà giải nghóa thì theo chung. Huống lại kinh văn nói Cữu tích tịnh nghiệp “Xưa chứa lâu tịnh nghiệp) cho đến dẫn dắt các nghóa gồm cả thân khẩu, nên được cùng nói. Trong văn trước giải thích bốn chữ “Cữu tích tịnh nghiệp). Ngài Kinh Khê nói: Trong văn cùng dựa theo hai quả thân tâm , tức hai nghiệp cùng thành mới đầy đủ tướng tốt. Vô úy… thần thông tướng hảo là quả thân, lìa cấu xứng lý là quả tâm . Kế, “ngoại xứng…” là giải thích ba chữ một câu sau. Từ ngoại xứng đến căn duyên là giải thích khen vô lượng. Từ năng ư đến dó tịch là giải thích dùng vắng lặng dùng chung để dẫn dắt chúng. Dùng bốn Tất-đàn dẫn chúng đến tịch diệt, cho nên sớ văn dùng chữ “Dó Liễu” là lầm “Hình thanh…” là giải thích. Nên Khể Thủ Thượng Thư nói: Chấp tay cúi đầu lạy. Khổng An Quốc nói: Bái thủ là đầu đến tay, khể thủ là đầu đến đất. “Lại giải…” là dùng Chủng trí dẫn dắt các hạnh đến quả rồi dừng nghỉ, nên nói đã vắng lặng. Đến đây thì mới dùng được chữ “dó liễu”. Ngài Kinh Khê nói: Đoán giải thích lại việc dẫn dắt chúng hướng về là tự hành thích. Câu trên phần trước là Tự hành, phần sau là ước hóa tha. Câu này trước là ước hóa tha, sau là căn cứ tự hành, tự tha cũng nhờ nhau vậy. “Câu trên…” là kết giải thích. Câu trên tức là “Cữu tích tịnh ng- hiệp”. Câu dưới là “Đạo chúng dó tịch”. Ngài Kinh Khê nói: Giải đã bày thành tướng. Lại trong phần lợi ích của hình trên thì gồm nêu tâm đức để hiển bày hình. Cho nên biết lợi ích của tiếng cũng nương vào tâm. Nên dùng sắc để giải thích sắc, lấy tâm để giải thích tâm. Tiếng từ miệng ba luân đầy đủ. Cho nên biết vì hay dẫn dắt chúng chỉ chuyên ở tâm, nên dùng hai nghóa để giải thích hai chữ. Nếu đây dùng chữ “ ) chữ “ ) hướng xuống. Vì là dó tịch nên là cúi đầu. Nếu đây dùng chữ, chữ hướng lên, thì gọi là dắt dẫn chúng đã xong. Khen rộng về hai lợi ích của hình tiếng, có hai: a, Phân khoa. b, “Ký…” là tùy giải thích, Rộng khen lợi ích của hình, Giải thích khen dụng của sắc tâm, có hai: Giải thích khen dụng của sắc, Khen sắc dụng thần biến: Từ “là Sắc tâm đến ư sắc” ngài Kinh Khê nói song thần thông biến hóa đó ở tất cả đầy đủ như Chỉ Quán Ký giải thích các thứ thần biến. Nay lại từ Sở Biến mà giải thích theo Sự. Đã dẫn tất cả đều ở thú sắc mà làm thần biến, đâu lại ngăn cách ở tâm mới được gọi là tất cả pháp thú. Vì thứ thần biến này có gốc Pháp thân nên thế. Hỏi: Nay phải khen độ “cõi nước), vì sao lại khen hình? Đáp: Hình tất nương độ, nghiệm Chánh báo tất biết Y báo, huống là sự hình như la cách mà theo lý tất đồng, nương sự hình như khác mà lý thì không hai. Giải thích sắc dụng một hàng giải thích thành sắc dụng, nếu dựa vào Văn kinh thì tiếng “chư Phật nói pháp” hình như nói về lợi ích của tiếng, sao lại bảo là dụng của sắc? Nên ngài Kinh Khê nói: nói sắc tâm, thì tiếng cũng thuộc sắc, huống nêu lời nói mà nghiệm ra hình, thì hình đó mới là thật. Nếu không suy nghiệm lời nói thì sẽ lẫn lộn với ngoại ma. Hỏi: Nghe Phật nói pháp bèn là lợi ích của tiếng, sao lại gọi là hình ? Đáp: Hình và tiếng cần phải từ Hóa chủ, nay chỉ là việc hóa độ mà hiện ra huống lại thấy Phật và Phật nói pháp đều thuộc sắc, huống nữa lại nói pháp là dụng của sắc. Cho nên có thể giải thích là sắc. Từ “nếu không phải Phật …” giải thích về tướng được ích lợi, không phải nói hình tiếng. Hỏi đây…” : Là ngài Kinh Khê nói: Đây đã hiện cõi lại đích thân hiện cõi, sao còn gọi là nguyên do. Nguyên do chỉ là Chánh báo sao lại phân xa gần. Trong đáp ý nói: Song bài tụng này trước khen nguyên do, kế tụng nêu biểu hiện, nên không thể lấy nguyên do làm biểu hiện. Nên ở trong đáp liền phá sự giải thích khác. Khen dụng của tâm Phật, Khen tâm dụng. Khen dụng tâm Phật, thì trong phần nêu chương trước nói hình làm lợi ích cho dụng của sắc. Nay nói tâm, thì ngài Kinh Khê nói: Tâm có dụng nên sắc mới có dụng. Như trong tóm lược trước thì cũng lấy tâm mà giải thích hai lợi ích của hình và tiếng. Tất cả các pháp đều thú ở sắc mà không ngăn cách với tâm, thì sắc mới có ích. Ích như trước đã giải thích. Được Tam-muội vương Tam-muội… là vì pháp ở nơi người, người mới gọi là vương. Pháp lực… là pháp Không vượt ngoài Đế. Lực tức tự tại. Đối với Đế tự tại thì pháp mới có lực vượt ngoài, thì Tam-muội là đoạn. Đế Quán thuộc trí, hai thứ đều vượt ngoài nên nói thế. Đã ra ngoài mười giới thì cũng ngoài tam giới. Bảy Thánh tài, tức là tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm, quý. Ngài Kinh Khê nói: Nay lấy đạo đế gọi là Thánh tài, kỳ thật tài là chung cho tất cả pháp, cũng lấy vô tác Thánh tài, lý thông. Như nói văn… thì không thể hạn cục. Cho nên thật ra thông cả bốn. Diệt là chỗ chứng, khổ tập cần phải phá, cho nên không nói đến. Ấy là thuộc sắc dụng hay tâm dụng, thì Thinh giáo thuộc sắc, cong vẹo nhờ tâm. Huống lại trong lời đáp dẫn vô tận ý, sắc tức là tâm. Cho nên nói thông. Chỉ năng thí là tâm. Tiếng này còn chung cả ý phương tiện giáo. Nên phải nói: Thí do tâm diệu Tài mới có pháp. Do tâm Năng thí dung nạp, mới có thể nói thí do tâm. Giải thích tâm dụng. Quyền trí phân biệt tướng thế đế, ngài Kinh Khê nói: Đây là căn cứ vượt tiết, chỉ có lý nhất thật làm Đệ nhất nghóa. Các giáo cạn sâu đều gọi là thế đế. Hỏi: Ở trên, phần nhiều dựa theo ba Đế, như lược khen hình tiếng vẫn dựa theo năm nhãn và chín Đại thiền, nên nhãn thiền này ba Đế đầy đủ. Trong đáp thì hợp chân nhập trung, Thông giáo bao gồm hai đế. Còn hợp chân nhập tục thì Biệt Viên xen tạp hai đế. Đã liệu giản, là Huyền văn. Hỏi: Chỉ nên lấy Viên giáo bất tư nghì chân làm thể, sao được lấy lý nội thông Biệt chân đế làm thể? Đáp: Pháp Hoa chính thẳng bỏ phương tiện chỉ lấy Viên chân làm thể. Kinh này còn mang phương tiện của thông biệt, cho nên đều lấy ba thứ phương tiện lý nội làm thể. Nay ý đồng với trước, nên chỉ cho Huyền văn. Ngài Kinh Khê nói: Nhưng khai hợp này cũng là một lượt. Nay lấy một thời kỳ Phật Pháp sự lý đối nhau. Luận chung hai Đế cũng được gọi là họp chân nhập tục, cho nên Phương đẳng này có đủ năm thứ ba Đế ly họp. Kế “lại giải…” là lấy chỗ hiểu của phàm phu làm tùy tình, lấy chỗ chứng của Thánh nhân làm tùy trí. Ngài Kinh Khê nói: Vì lấy tình trí mà nói, nên phải như Pháp Hoa huyền văn bảy lần vượt tiết. Kết khen dụng của sắc tâm. Tiếp khen rộng về ích lợi của tiếng, Nêu ý: Trên hiện tướng Tôn thắng… là trước dùng hình biểu thị tiếng, hình tiếng đều chánh báo, kế dùng chánh biểu thị y. Chánh được y hiển bày. “Không có …” là chánh giải thích, lợi ích của Tiếng, giải thích pháp chẳng hữu vô, có hai: a”, Giải thích chung. Ngài Kinh Khê nói: Nói pháp chẳng hữu… là văn đã “cùng không phải”. Lại nói nói pháp, phải biết “cùng không phải” tức là Trung đạo, e người không hiểu. Lại càng nói theo. “Những pháp nào …” là đối pháp nói ra mà giải thích rõ ý đó. Không thể nói đối với pháp Không phải. Cho nên biết năng phi tức là Sở Thuyết (điều nói ra), năng phi tức là pháp Trung đạo. “Vì sao…” là lại nêu ra Sở phi mà giải thích Sở thuyết (điều nói ra), Sở thuyết tất không phải pháp phàm tiểu vậy. Vả lại nêu phàm phu Nhị thừa cho tiện mà thôi. Cũng nên lại nói khác với ba giáo xuất giả. Bồ-tát phần nhiều nói Trung đạo, là bốn giáo Phương đẳng, hai cái trước không phải là Trung, trước không phải là ý chánh, nên được nói là “phần nhiều”. Liệu giản, Đối hai Đế mà xét chọn. Ngài Kinh Khê nói: Trên dùng hai Đế… chỉ cho Thượng thiện mà thường phân biệt các văn. Trí đã chiếu đế, nói ắt nương trí, sao được trước sau hai, ba chỗ không đồng. Ý đáp như trướcĐối tà tiểu mà liệu giản. Ngài Kinh Khê nói: Ngoại đạo…, là muốn chọn các giáo rất nhiều thứ cùng không phải để hiển bày cái không phải của Viên, nên lập câu hỏi này. Trong ý đáp thì đáp đủ cùng không phải là chẳng phải một. “Căn cứ giáo…” là giải thích riêng: Chính căn cứ ở giáo. Đơn phức đầy đủ, phức là trùng lắp. Hữu vô hai thứ đều “phi” cả. Bốn câu đơn là hữu hữu hữu vô cho đến Phi hữu phi vô hữu. Phi hữu phi vô vô. Bốn câu phức là hữu hữu hữu vô hữu, Diệc hữu diệc vô hữu, Phi hữu phi vô vô cho đến cùng “Phi” làm đầu cũng thế đầy đủ bốn thứ. Còn không hướng xuống giáo không hai mà không phi hữu, huống là Biệt Viên Trung của phi vô. Nếu được phương tiện… ngài Kinh Khê nói: Đây là ước đoạt biên chỉ nói Phi hữu. Tuy có bốn môn mà đoạt đản thành Không, nên nói là Phi hữu. Từ tam tạng giáo …” tuy lại cùng có Diệt nay, nên cũng được là hữu nhưng thành hữu vô còn không có cái thứ ba, sao được chỉ “đều song phi”. Cho nên hai giáo trước ắt không có song phi. Kế Biệt giáo nói Tạng tánh, thì cần chọn Biệt Viên. Chân như bị hoặc che, nên gọi là Tạng biệt, tức hoặc là lý, lý đủ các pháp nên gọi Tạng viên. Một môn tức bốn môn… là đã đạt ba Đế cùng dung nhau, há lại có bốn môn ngăn cách khác biệt. Không môn là chân đế, hữu môn là Tục đế. Hai thứ cũng “đều phi” chỉ là ngắn và chiếu của Trung đế. “Ư thử …” là đắm trước Viên cần phải phá huống lại là Thiên tiểu và Phàm ngoại. Vàng sắt hai khóa, quý tiện tuy khác nhưng đều có nghóa buộc chặt. “Nay chọn…” là phán quyết ý kinh, có hai: a, Riêng khen giáo Viên dung mà giải thích. b, “Lại …” là đều khen bốn giáo mà giải thích. “Vì nhân…” là giải thích pháp nhân duyên sinh, có hai: a, Đồng loại với duyên khởi có hai thứ. Như trước nói, ngài Kinh Khê bảo: Như trong khen đức Bồ-tát trước nói: Có mê ngộ hai thứ duyên khởi. Mê tức là mười hai nhân duyên, vô minh là gốc. Ngộ tức là quán mười hai nhân duyên. Trí hay diệt vô minh. Nay thì cũng hai thứ khổ tập là mê, còn đạo diệt là ngộ. Ngộ gồm lợi vật, mê toàn mình ngu. Mê phải diệt hết, ngộ tất cần hưng khởi, đều là ước lý Trung đạo đều song phi. “Song thể…” là chánh giải thích. Từ thể phi đến hữu sinh, chỉ là câu kinh trên, vì song giá nên không sinh. “Có nhân…” là chánh nêu nghóa duyên sinh, vì song chiếu nên sinh. Kết về lợi ích của tiếng. Bốn giáo nói ba thứ đến…, ngài Kinh Khê nói: Nếu có ngã thì có tạo tác, nếu có tạo tác thì ở đời sau sẽ có thọ. Cho nên biết không có ngã thì không có tạo tác và thọ. Nhưng hai giáo trước căn cứ chân nội giới, còn hai giáo sau căn cứ chân ngoại giới. Trong đây chánh căn cứ lúc vô ngã. Không phải nói không tạo tác mới là vô ngã. Cho nên biết khi tạo tác mà thể vốn “không”, tuy nói vốn “không”, nhưng nghiệp không tiêu mất. Chỉ là duyên với vốn “không” mà được luận. Ước quán tu khiến vô ngã, cho nên ước Phật nói tạo tác và thọ vốn “không”, nhưng chúng sinh tạo tác và Phật Bồ-tát tạo tác lại không mất, nên được dùng để kết chẳng hữu chẳng vô. Thông Biệt không nói…, là nội giới ngoại giới “Đều lấy khổ tập làm ác, còn đạo diệt làm thiện”. Đây là về đại cương. Nếu như cương mục luận kỹ thì mỗi thứ đều có thiện ác. Vả lại khổ tập nội giới bao gồm cả sáu đạo ba thiện ba ác. Đạo diệt thì ở nội giới gọi là thiện. Vì vô minh toàn ở đấy nên nhìn sang ngoại giới thì vẫn là ác. Thiện ác ngoại giới không thể so đây mà nói. Mà phải lấy Địa trụ so nhau cao thấp để nói thiện ác. Chỉ có Phật quả của Viên là diệt rốt ráo không có ác có thể luận. Nên ngài Kinh Khê nói: Chỉ riêng Phật là thiện, chỉ có thiện là không mất. Kế tiếp lập khen nguyên do xa của liệt ứng thân, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, có hai: Khen ích lợi về hình, có hai: Khen sắc của Ứng thân. “Có nói nguyên cát…” đây vốn là cây Ni-câu-đà. Phật nương vào cây này mà đắc đạo, nhân đó đặt tên đẹp cho cây. Ngài Kinh Khê nói: Ma vương… như Chỉ Quán Ký nói: Giữa đêm nhập Tứ thiền. Tất cả việc Ứng Phật thành đạo, nhập Diệt chuyển pháp luân… đều ở thiền này. Biết Thường vô thường…, Thường là định pháp, vô thường là bất định pháp. Đối với ba học như Tỳ-ni tạng, có chủ ý phạm trọng cấm nhất định là có nghiệp chướng, gọi đó là định, còn các giới khác không chướng nên gọi là Bất định. Chúng sinh số tức là Chánh báo, phi số tức là y báo. Khen ứng tâm, có hai: a, Chánh giải ng- hóa. “Không có tâm ý…”, ngài Kinh Khê nói: Tâm ý chỉ là thức. Tưởng hai ấm, thọ tức là thọ ấm. Chữ hành đọc bình khứ hai thanh, đều thuộc hành ấm, là Năng sở riêng mà thôi. Điên đảo tức ba thọ, nghóa là khổ thọ, lạc thọ, xả thọ. Thọ tức ba khổ, là khổ thọ khổ khổ, lạc thọ hoại khổ, Xả thọ hành khổ. hành tức hành ấm là hiểu như chữ kinh hành. Vì không nghiệp nên không tập… là hoặc và nghiệp hòa hợp, nên gọi tập đế. Do có tập nên hay chiêu lấy khổ quả. Đại phẩm nói năm thọ năm hành, ngài Kinh Khê nói: Có thọ tất hành không có năm kiến thọ hành, như phẩm hành tướng thứ ba trong Đại phẩm có nói: Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật, khi hành cũng không thọ, không hành cũng không thọ, cũng hành cũng không hành cũng không thọ, phi hành phi bất hành cũng không thọ, chẳng Không thọ cũng không thọ. Ngài Thân Tử hỏi không sinh sao lại không thọ. Đáp: Vì Bát-nhã không, nên tự tánh không thọ. Năm môn, ngài Kinh Khê nói: Chỉ là năm thọ lấy môn làm tên; môn từ giáo lập ra, còn thọ ở nội tâm. Ở trong mà thọ trung do thọ nên hành, nên đều có năm. “Như Phật…” là dẫn sự để làm chứng, Chánh dẫn Đại luận quyển một nói: Có ngoại đạo Phạm chí tên là Trường Trảo là Đại luận sư cho rằng tất cả luận có thể phá, tất cả lời nói có thể hoại, tất cả chấp có thể chuyển, cho nên không có một thật pháp nào có thể tin kính. Như Xá-lợi-phất trong kinh Bổn Mạt có nói: Đó là cậu của Xá-lợi-phất, vì người này trí tuệ, nhiều lần nghị luận bị thua. Nhân đó ông đi học, khắp nơi học xong về nước tìm cháu không thấy, liền đến hỏi Phật rằng: Tất cả luận có thể phá… Phật nói một câu trách rằng: Ngươi có thấy nhẫn chăng? Suy nghó rất lâu vẫn không nghó ra được điều gì. Bèn thưa: Sa- môn Cù-đàm đặt cho tôi trong hai phụ môn, nếu tôi đáp nhẫn là phụ môn thô thì mọi người đều biết. Vì sao tự nói không nhẫn mà nay lại nói nhẫn hiện thấy để thành nói dối. Nếu nay đáp: Tôi thấy không nhẫn là phụ môn tế, thì không ai biết, liền lại đáp rằng cái thấy ấy cũng không nhẫn. Phật bảo: Không nhẫn là thấy thì lấy gì mà phá người khác, mọi người không khác thì cần gì phải tự cao mà sinh kiêu mạn. Trường Trảo không đáp lời Phật được. Tự biết bị thua nhưng Thế Tôn không nêu lỗi ra. Bèn không nói phải trái, tự điều phục tâm nhu nhuyến mà được Pháp nhãn tịnh. Việc chấp của Trường Trảo song phi kiến ở trong bốn kiến đơn hoặc ba kiến sau trong bốn kiến đơn vô ngôn kiến. Nếu nói tất cả không thọ tức hình như không kiến. Ngài Kinh Khê nói mọi người không khác, đây là chỉ các người khởi kiến, dần dần bỏ đi mà chỉ nói là mọi người. Giải thích mọi trở ngại, có hai: a, Hỏi thời sau ngài Kinh Khê nói. Đem thời gian Trường Trảo cho đến ngài Thân Tử được đạo so với ngày lúc Phật ngồi dưới cội Bồ-đề, do đó Trường Trảo lại ở vào thời sau. b, Đáp, có hai: a’, Nói xưa đã trái kinh, có hai: a”, Nêu xưa giải nghóa. Thọ tám thiền định, là bốn thiền, bốn không. Đây chỉ là nêu chung. Thật ra sau khi vượt thành Thái tử học với ông A-la-la về vô sở hữu, kế học với Uất-đầu-lam-phất về Phi phi tưởng. “Nay bảo…” là chê xưa trái kinh. Vì lúc còn phàm phu, tức lúc còn là Thái tử. “Lại e…” là Chíùnh thông câu hỏi trước. Đề vị nhân duyên như Thụy ứng và Đề Vị kinh; nói năm giới tức là nhân thiên giáo vậy. Năm hành là mộc, hỏa, thổ, kim, thủy. Hành thì Lão Đam nói hành là khí của trời. Bạch Hổ Thông nói: Hỏa là Dương tôn (cao quý), Thủy là Âm ty (kém), Mộc là Thiếu dương, Kim là Thiếu âm, Thổ là Đại bao. Hai Âm ba Dương tôn, là phối ở trời Lục giáp, giáp là đầu. Một giáp năm hành là một ngày, Lục giáp sáu mươi ngày. Trong một năm thì giáp đi sáu vòng, ba mươi sáu lịch số. Có Tăng ở đương lai, vì chưa vào Lộc uyển, chưa độ năm người, cho nên chỉ năm người là đương lai Tăng. “Từ đó…” , tức là từ lúc đầu thi phục Đề Vị đến sau. Sau khi Niết-bàn đều lấy Bất thọ mà phá các ngoại đạo. Như trong Niết-bàn phá mười Tiên lục sư. Khen ích lợi của tiếng, có hai: a, Phân khoa. b. Tùy giải thích, Khen chuyển pháp luân, Câu đầu Giải thích pháp luân. Trong văn dùng hai nghóa mà giải thích. Luân là nghóa hay chuyển dời, hay hư hoại. Trải hai mươi mốt ngày, Đại thừa thì nói đã nghe nói Đốn, theo Tiểu thừa thì thấy hai mươi mốt ngày dừng nghỉ bởi có chỗ biểu thị. Bảy ngày đầu là muốn nói Viên, bảy ngày thứ hai là muốn nói Biệt, bảy ngày thứ ba là muốn nói thông, vì đều không có cơ ứng hợp, nên phải nhận lời thỉnh của Thích phạm mà nói bốn Đế sinh diệt của tam tạng. Giải thích ba chuyển. Nhãn trí Minh giác. Tiêm sư nói trong Câu-xá luận có nói: Đối trong kiến đạo thì pháp nhẫn gọi là nhãn, pháp trí gọi là trí, loại nhẫn gọi là minh. Trí gọi là giác. Quán kiến gọi là nhãn, quyết đoán gọi là trí, chiếu liễu gọi là minh. Cảnh sát gọi là giác. Lại nhãn gồm biết ba đời, trí thì biết quá khứ, minh thì biết vị lai, giác thì biết hiện tại, đó chỉ là tên khác của tam minh. Ba chuyển mỗi đời có bốn thứ này, nên nói là mười hai hành. Đại thiên, là bốn đại châu, nhật nguyệt, Tô-mê-lô, cõi Dục, Phạm thế, mỗi thứ đều có một thiên, gọi là tiểu thiên giới; gấp ngàn tiểu thiên này gọi là một trung thiên, gấp ngàn trung thiên này gọi là đại thiên giới. Giải thích câu thứ hai. Trong ba thứ thuốc…, đây là dẫn văn kinh Niết-bàn ở phẩm Trần-như làm chứng nghóa nay là bất tịnh. bất tịnh, Từ tâm, nhân duyên gọi là ba thuốc. Tham, sân, si gọi là ba bệnh. Lý sự cách nhau, nên thuốc và bệnh cùng không. Nay nói bất tịnh Nghóa nó lệ như thế. Đại Tập nói: Dẫn lý chân thật để chứng rằng xưa nay vẫn tịnh, Trần-như chỉ thấy lý Tiểu thật mà thôi. Giải thích câu ba. Câu-lân tức Trần-như là tiếng Phạm thời Sở hạ. Năm người, Tiêm sư nói: Câu-lân-như. Át-bệ cũng gọi là Mã Tinh. Bạt-đề cũng gọi là Ma-ha Nam. Thập lực Ca-diếp. Câu-lợi Thái tử. Thấy Đế được giới là mười tụng nói mười thọ, đây là một. Nên văn ấy nói: Mười thứ được giới như Phật tự nói: “Thiện lai! Tỳ-kheo” thì tự nhiên đã được giới Cụ túc. Như ngài Ma-ha Ca-diếp tụ thệ nhân duyên được giới Cụ túc. Như ngài Kiều-trần-như thấy Đế nên thọ giới Cụ túc. Như Tỳ-kheo Ni-Ba-xà-ba-đề vì pháp Bát Kỉnh mà thọ giới Cụ túc. Như Tỳ-kheo-ni Đạt-ma-đề-na khiến tin mà thọ giới Cụ túc. Như Sa-di Tu-đà-gia do luận nghị mà thọ giới Cụ túc. Như Da-xá Tỳ-kheo… do thiện lai mà thọ giới Cụ túc. Như Bạt-đà-la-ba Lăng-già do tam quy mà thọ giới Cụ túc, như Biên Địa Đệ Ngũ Luật sư thọ giới Cụ túc “trong năm người cần một người là đệ ngũ luật sư. Như Niết-bàn Ký đã nói rõ), mười người trong nước Bạch tứ Yết-ma mà thọ giới Cụ túc. Một người không gọi là Tăng bảo, vì bốn người trở lên mới thành Tăng. Nên ngài Kinh Khê nói: Đây là phá xưa. Nếu bốn người kia không phải thấy Đế, thì một mình Trần-như dù là Tỳ-kheo cũng không gọi là Tăng bảo. Sao gọi là Tam bảo ở thế gian? Trước phải đủ ba thứ này, sau đó mới y theo đó mà lập tướng theo ba thứ. Lục Sư như kinh Niết-bàn đã nói. Giải thích câu bốn. Không căn cứ một thể, ngài Kinh Khê nói, có hai nghóa: Bắt đầu Tiệm hóa chưa cần một thể. Lấy một thể. Nêu kinh văn không tiện. Khen pháp diệu mà trời người được lợi ích. Vì diệu pháp này, thì ngài Kinh Khê nói: Nay hỏi rằng người khác nếu từ tên nhất định phải đồng với Pháp Hoa. Cho nên cần phải phân biệt chỗ dị đồng của danh nghóa. Nay bậc Vô lậu trí… không phải chỉ vô lậu hơn Thế trí, mà ở vô lậu, thì Phật cũng khác với các đệ tử ba thừa. Ba mươi bốn tâm không gián đoạn nên Phật không thoái chuyển, rốt ráo không khởi động, thế nên được nói là Nhất thọ. Đại kinh có nói: Đẳng giả là dẫn việc trị tha chứng tự không lui sụt. Trị tha đã thế, thì nghiệm tự có thể biết. Xét luận Bà-sa và Đàm-vô-đức, có thoái và bất thoái, là lấy biên vô thoái để chứng bất thoái. Song trong Bà-sa lại có đủ hai văn. Nay nêu Biên thoái để Thành luận y nương không mà một mực bất thoái. Nay dẫn cả hai mà không phải dùng cả hai. Lại còn Bà-sa ước tu đạo biên, hữu lậu trí đoạn tức không vô sinh, chỉ là hữu tận trí, tức hữu thoái vậy. Thấy Đế và bất thoái, hai thứ luận thì đồng. Cũng như biển lớn. Biển có ba nghóa: Sâu, rộng, dung chứa các dòng nước, tức pháp lạc vô lượng rộng như biển. Tiếp là tổng kết khen: Dùng đức đại Bi, ba Niệm xứ. Ngài Kinh Khê nói: Tất cả chư Phật đều đủ ba thứ này, nghóa là được cúng không tự cao, gặp kẻ hủy báng không tự hạ, đối với không hủy cúng mà không sinh si mê. Ý này thường có ở Ứng Hóa Phật. Trong văn chỉ dẫn nữ chê và Phạm khen. Tiếp là tóm tắt: Không có Bát phong cũng chỉ nêu trái thuận, văn sau tự nêu, nên ở đây chưa đủ. Tu-di, Hán dịch là An minh, ở trong nước rất sâu nên nói là An, cao hơn các núi khác, nên nói là Minh. Còn nói Diệu thì tân dịch gọi là Độc hữu “riêng có), núi này do bốn báu tạo thành. La-hầu Tam-ma… là số nhiều nhất là việc trách mắng an ủi đến ba lần. Nhân Thân Tử xô đuổi, mà an ủi trách Thân Tử rằng: Ông sao lại khinh dễ con của Đại long. Bảo La-vân rằng: Đừng khóc! Đừng khóc! Trách Điều-đạt là Điều-đạt ở bên Phật mà dòi chúng. Phật trách rằng ngươi là người si vô tri, ta còn không đem chúng mà giao cho Thân Tử, Mục-liên. Huống ngươi là kẻ ngu ăn đờm dãi ư! “Hương thoa…” là căn cứ sắc tâm đủ sinh ra hai thứ tướng ba niệm. Tuy tức do cảnh mới đủ ba tâm mà nghóa chỉ thành một. Nay đều nói muốn hiển bày hai tướng. Khiến đi sau là nhân ngoài thức trong. Chánh kể khen hiện tướng, Phân khoa. Chánh kể khen. Nhân biểu phát…, ngài Kinh Khê nói: Trước đã phá xưa, cho nên do hai lý do trước mới có biểu phát. “Dâng bằng cớ…” là tùy giải thích, Kể khen chung việc hiện điềm lành. Biểu phát, Kể khen dâng lọng. Nhân nhỏ mà quả lớn, ngài Kinh Khê nói: Năm trăm người mỗi mỗi đều hiến lọng nhỏ. Lọng nhỏ nên nói nhỏ. Họp lọng biểu thị Tịch quang, là tột cùng của lớn (đại) đâu thể hơn đây được. Chưa hiểu thấu ý chỉ của việc biểu thị, nên nói là khó lường. Đây sẽ nói sau. Nay nói trước điềm lành về nhân quả tịnh độ. Vì sao? Vì do hiến lọng nên có nhận, do nhận nên họp lọng, do họp nên mừng, do mừng nên thỉnh, do thỉnh nên nói, do nói nên nghe, do nghe nên làm nhân, do nhân mà cảm quả. Lại có các thứ nhân quả khác nhau, tức thành các thứ hạnh tịnh độ. Nay từ hơn mà nói, nên nói vô phương. Lại từ nói chung mà chỉ nói nhân quả. Chánh kể khen việc họp lọng hiện điềm lành, biểu thị việc ứng thân. Ngài Kinh Khê nói: Hai chữ “chi sự” là cốt nói việc ấy. Kể khen đại chúng vui mừng: Kể khen riêng ba mật, có hai: a, Phân khoa. b, Nêu chung. Tức ba luân… là chuyển tự và tha có thể trừ hoặc lậu của người khác. Nghóa gọi là luân đã không lỗi nên không cần phòng hộ. “Đại Thánh…” là tùy văn giải thích riêng, Khen thân mật. “Tịnh tâm giả…” là giải nghóa tịnh tâm. Trước ước nghe giáo, kế ước tu hành. Lại trước là vị cạn, kế là vị sâu. Ví như một vầng trăng, trăng tức nương không, không dụ cho Pháp thân, Trăng dụ cho Báo thân, bóng dụ cho Ứng thân, các dòng nước dụ cho bốn cơ. “Hoặc thấy…” là hiện thân bốn giáo. Khen khẩu mật, Khen từ và pháp hai biện. Phật còn không phải Phạm âm… ngài Kinh Khê nói: Đại âm không tiếng, Phạm âm chỉ là tùy ở một loại quốc độ mà thôi. Phạm còn không phải Phạm, các thứ khác làm sao luận. Nêu việc hơn kém, việc khác đều chuẩn đây mà biết. Tiếp, khen nghóa biệân. Khen thuyết vô ngại biệân. Khen ý mật, Nêu ý phân khoa. Phật tâm không phải quyền…, vì Phật và tâm là không trung, nên không phải Quyền thật. Không Trung tức giả, hay hiển Quyền thật. Bởi do lý đủ mới có sự dụng. Y cứ mười giới mà nói chung thì chín quyền một thật. Y cứ bốn Thánh luận riêng thì là ba quyền một thật. Nay ước đối cơ bốn giáo, lại từ biệt mà luận về sáu đạo trước thì chỉ là chỗ sinh cơ mà thôi. Ba thứ Quyền thật hai trí, tự hành là trong tâm Thánh nhân mà chứng. Hóa tha là ở tâm phàm phu mà giải thoát tự tha đối nhau tức Thánh phàm cùng luận. Thánh tuy chiếu quyền nhưng đối phàm thì gọi là thật, vì thật chứng. Còn phàm tuy chiếu thật nhưng đối Thánh gọi là Quyền vì hiểu theo tình vậy. Thế nên biết ước tự hành tức toàn đoạt cả. Chỉ Thánh có hai trí, cho nên ước hóa tha tức hoàn toàn ban cho. Phàm phu cũng được luận hai thứ, nên tự tha tức nửa cho nửa đoạt. Đối với Phàm thì đoạt Thật mà cho Quyền. Ý này soi sáng ba thứ, như chỉ trong bàn tay. “Trước một…” tùy văn giải nghóa, dựa vào ba thứ Quyền thật hai trí để khen ý mật, Ước nội ngoại mà khen Tự hành. Nội trí đầy đủ, là hai trí đều viên. Do trong đủ Trí, nên ngoài có dụng. Ngài Kinh Khê nói: Khể Thủ mười Lực… là chỉ cho đủ lực mới có thể ngoại dụng. Đây tức đồng thể, là thể dụng của Quyền thật. Khen tự hành hóa tha. Ngài Kinh Khê nói: Khể Thủ trụ ở Bất cộng pháp, là vì Bất cộng, cho nên thường dắt dẫn vật. Đây từ Bất cộng làm tên, vì dắt dẫn vật nên có Bất cộng. Đây là từ dắt dẫn vật “đạo Vật) làm tên, tả hữu cùng luận nên thành hai nghóa. Khen hóa tha, Văn có hai giải thích, nghóa đều thông. Vì đối hai thứ trước, làm thành ba thứ nên lại lấy hóa tha để làm khoa. Tức là Hóa tha Quyền thật. Nói trí đoạn, ngài Kinh Khê nói: Đoạn dứt phược đến bờ kia nghóa đã thông. Nghóa chia Thiên viên tức là Quyền thật, huống lại các lý chúng nói đều gồm Quyền thật. Hoặc đoạn các kết là Quyền, Quyền đến bờ kia là Thật. Dựa vào văn hỏi đáp giải thích chung cho tiện. Kế đến, tổng kết, hai thứ Trí, Đoạn Quyền Thật ở trước. Đã nói hai thứ Trí Đoạn tức là kết khoa thứ ba. Lấy trí đoạn ở khoa thứ ba mà nói là để giải thích kinh thông về tự tha. Nếu chuẩn theo lời giải thích của ngài Kinh Khê thì nghóa rất tốt, bởi chữ “hai” lầm nên phải nói ba thứ Quyền thật… Cho nên ngài Kinh Khê nói: Khể thủ thường độ… hai câu nói kết ba Quyền thật, là trong ba thứ mỗi mỗi đều có nghóa hay độ và xa lìa. Tự độ độ tha, tự tha đối nhau nghóa đều thông. Kết ba thứ trên, là nếu tự độ đời cũng là tự xa lìa, là kết tự hành vậy. Năng độ là kết tha, vónh ly là kết tự, tức là tự tha. Độ tha là khiến người khác xa lìa hẳn và độ đời đều là kết tha. Bản rộng cũng viết hai chữ. Nay chuẩn theo nghóa ngài Kinh Khê giải thích e rộng lược hai bổn đều viết lầm. Căn cứ theo ba thứ Đế kết khen ý mật , Nêu bày, ba thứ hai Đế, là y theo Quyền thật cho đoạt ở trước khác nhau. Cũng phải trải qua bảy lớp hai Đế, mỗi thứ đều kể ba loại. “Sơ…” là tùy giải thích, căn cứ hai đế tùy tình, là đều dùng phàm tâm mà giải thích. căn cứ trí tùy tình. Tùy tình mà không nhiễm, là như hoa sen không dính nước bùn. Hai đế tùy trí. Đều vào một tướng, chân tục không hai, đều là Thánh chứng. Phần Chánh thuyết, Huyền luận ý nghóa, Phân chương nêu ý, Phân chương mạng tông. Mạng là mời, Tông là chủ. Ở đây kinh này mời Phật quốc làm chủ. Phục Tông…, ngài Kinh Khê nói: Phục cũng là phức (nhiều lần). Phật xưa tự nói nhân quả Phật quốc mà làm tông, nay nói lại, nên nói phức. Huống là đối ngài Tịnh Danh chê trách ngài Văn- thù đối đáp qua lại đều thuận ý chỉ Phật. Thế nên Như Lai lại nói lại, cũng gọi là phức “nhắc lại). “Sở dó…” là nêu ý. Thứ lớp kể ý ba khoa đều trước tiên nói là sở dó. Thành Phổ Tập trước…, tức chánh báo tất có y báo vậy. Thượng thư Phù, tức Thượng thư Tần Trí. Xưa đời Tần, Thiếu Phủ sai bốn quan viên ở trong điện chủ về phát thư, nên gọi là Thượng thư, Thượng cũng là chủ. Ngụy, Tấn, Tề đều nói Thượng thư đài. Lương, Trần, Hậu Ngụy, Bắc Tề, Tùy thì gọi là Thượng thư tỉnh. Thượng Thư nói: Rồng sai ông viết nạp ngôn. Kinh Thi nói: Ông Trọng Sơn ra nhận mệnh vua làm người phát ngôn của vua, đều là nhiệm vụ của Thượng thư. Phù, là đời Đường đặt ra Phù bảo lang thuộc môn Hạ Tỉnh. Quan đất Chu Lễ nắm quyền, xưng quan coi về điềm lành là nhiệm vụ. Tất cả phù tiết đều nạp vào cung. Nếu có tùy tùng thì xin Lang chủ ra nhận. Phàm phù tiết làm tin đều cất nửa trái còn nửa mặt để ráp lại. Loại một gọi là Đồng ngư phù, để khởi quân lữ, thay thủ trưởng. Loại hai gọi là Truyền phù, cấp cho Bưu trạm để truyền lệnh. Loại ba là Tùy thân ngư phù nói kẻ quý tiện đều theo lệnh mời. Loại bốn là Mộc khế, do đó mà nơi trấn thủ trọng yếu cẩn thận việc cho vào ra. Loại năm là Tinh tiết. Nước vùng núi thì dùng Thú tiết, nước vùng đất bằng thì dùng nhân tiết, nước vùng Nước thì dùng Long tiết, đều làm bằng vàng. Khắc tên họ thì quan mới thu nhận, nếu người không khắc thì truyền nhau mà đeo ở cổ. Phàm Tinh “cờ hiệu) là chuyên khen thưởng, còn tiết là chuyên việc giết hại. Phụng chỉ là tuân chỉ Thiên tử để dụ ngài Tịnh Danh tuân chỉ mà chê trách. Khai cảnh, nghóa là mở mang bờ cõi, để dụ ngài Tịnh Danh đánh phạt giặc tà Tiểu, mà mở mang đất nước Đại thừa. Chí Tôn là Thiên tử (vua). “Hỏi Tịnh…”, là giải thích vấn nạn mà hiển bày tông, , Nêu việc chê trách xưa quấy giúp hỏi Phật quốc. Lời hỏi xưa, từ trước đã chê trách nghóa là chê năm trăm, tám ngàn người đều kể việc xưa. Ngài Kinh Khê nói: Hỏi: Sao biết được việc chê trách đều ở lúc xưa. Đáp: Cả năm trăm và tám ngàn người đều nói: Nhớ thuở xưa ta từng ở… nên biết là thuở trước. Nay nói tịnh độ cách đấy không xa, cho nên biết khi chê trách là hiện tiền. Phần đáp giải thích, Chánh đáp, ngầm hội ý Phật. Minh là tối, hội là họp, ngầm họp ý Như Lai sắp nói Phật quốc. “Thế…” là nêu dụ. Khổn là bờ cõi. Tướng quân, đời Tần đặt chức Đại tướng quân. Đời Hán cử Hàn Tín làm chức đó, đời Võ Đế cử Vệ Thế, ngôi vị trên Tam Công. Đời Minh Đế cử Đậu Hiến. Thuở xưa được bái phong thì uy danh chấn động thiên hạ. Từ Thượng thư trở xuống muốn bái phong thì phải phủ phục xưng hô vạn tuế. Thượng thư lệnh Hàng Lăng nói: Từ xưa không có lệ này, việc lạy vua mới thôi. Tôn Tử nói: Tướng ở trong quân thì có lúc không cần nghe lệnh vua. Cổ ngữ có câu: Từ cổng thành trở vào thì quả nhân quản chế, từ cổng thành trở ra thì tướng quân quản chế. Lòng vua là ý trời. Hà tất phải đợi chiếu. Hán thư có nói: Chỉ nghe lệnh của tướng quân mà không nghe chiếu của Thiên tử. Ngài Kinh Khê nói: Nếu không phải thiệp tình thì trước làm sau mới tâu vua, càng đúng ý vua. Tiếp là hợp kết. “Kể xưa…”, ngài Kinh Khê nói: Khi đối trước Phật kể thuật có khế hợp nên Phật im lặng ấn khả. Ngày xưa chê trách… là đang lúc chê trách thì tiếng nhân quả Phật quốc chưa có. Kinh Phổ Tập đồng loại mà còn chưa nói đến, nên khiến trước đó chỉ giúp hai duyên huống nay trong kinh lại đầy đủ cả y chánh. Lại trước Phổ Tập thì các kinh Đại thừa phần nhiều chỉ nói Chánh báo, nên ngày chê trách chung giúp bao gồm hai duyên, nên nói là chung giúp. Giải thích lời hỏi giữa chín phẩm không có nghóa Phật quốc, có hai: a, Vấn nạn: ngài Kinh Khê nói: Ý hỏi rằng: Trước nói ngài Tịnh Danh giúp Phật hoằng hóa nghe gần thì từ trước nay việc giúp chung Chánh báo. Nếu thế trong đây phải nói riêng về y báo. Y báo đã là ý riêng thì tất cả mọi nơi phải nói là y báo. Ngài Tịnh Danh đã nói về số phẩm dù nhiều, nhưng nếu luận về y báo thì nghóa chẳng bao nhiêu. Bởi nói không đầy đủ chứ không phải hoàn toàn không nói. Tuy có hiện thất trống, cõi Diệu hỷ… bởi chỉ ít thế thôi. b, Đáp giải thích. Ngài Kinh Khê nói ý đáp rằng: Hà tất phải nói tên cõi mới là nhân quả tịnh độ. Mà làm tức là nhân, nhân tất phải vời quả, tức là nghóa ấy. Sao lại cố giữ chặt lấy tên. 3, Giải thích lời hỏi trong khoảng chín phẩm không nói về Phật quốc, có hai: a, Vấn nạn. Ngài Kinh Khê nói: Đầu tiên là Phật quốc, cuối cùng là Am viên. Trước hỏi cũng chung cho một phần nhỏ. Cho nên nói bởi không nói đủ. Bởi trong lời đáp chỉ lấy việc tạo nhân mà đáp câu hỏi. Việc tạo nhân đó cũng gồm chưa đủ quyết nghi. Nay trong chín phẩm này hai nghóa không thành: 1.Không phải Phật nói. 2.Không có tên cõi, mà ngài Tịnh Danh nói: Những gì là hai? Đáp giải thích, có hai: a, Trước dẫn văn Phật quốc. b, Tịnh Danh …” là xếp loại chín phẩm. Ngài Kinh Khê nói: Ý đáp là theo nghóa không phải lời, lý ở bình thường, há chấp chặt cái tên Quốc độ mà quên đi thuyết phương tiện. Cho nên từ “đây … Uyển nhiên” tức là sự ấy. Giải thích chữ Phù để thành nghóa Tịnh quốc vì không hiểu nên vấn nạn, Vấn nạn và Đáp giải thích, Tổng nêu chung: Đều có nghóa này, ngài Kinh Khê nói: Như ba nghóa trong lời hỏi, ngài Tịnh Danh một lời chê mà đủ cả ba lý ấy, cho đến chín phẩm cũng như thế. Huống ngài Tịnh Danh trước sau đều thành ba nghóa. Cho nên từ Pháp Hoa…” , nghóa nêu ba thứ. “Như…” là nêu riêng, Nêu ngài Tịnh Danh khế hợp thành. Ngài Kinh Khê nói: Trước dẫn kinh Pháp Hoa nêu việc Phật từ tịnh độ Phật để thành tựu chúng sinh, thành tựu chúng sinh mãi mãi không thôi. Hóa chủ đã như thế là để khuyên gắng các người sau. “Thử lại …” là chính nói ngài Tịnh Danh chỉ khế thành tịnh độ của Như Lai. “Tịnh Danh …” là trình bày ngài Tịnh Danh tự tịnh. “Đệ tử …” là trình bày các đệ tử… đã tịnh. Đệ tử Bồ-tát, ngài Kinh Khê nói: Đệ tử tức phẩm Đệ Tử, Bồ-tát tức phẩm Bồ-tát. Giải thích Thanh văn nhập diệt không phải tịnh Phật quốc độ mà vấn nạn, có hai: a, Vấn nạn: Ngài Kinh Khê nói: Bồ-tát có thể như thế…, là hạnh tịnh độ tất cần phải nguyện sinh. Tiểu thừa mất sinh, trái nghóa sinh diệt, sao được dẫn ra mà hỏi việc Bồ-tát. Đáp giải thích: Thanh văn tịnh Cõi Phật do đó đến nghóa này, là dẫn lời đáp lần thứ tư trước, để chê trách chung, nếu tìm xét từ bản thì Tiểu thừa có tịnh quốc. Nếu cạn hỏi từ tích thì Tiểu thừa lấy tịch diệt. “Như pháp …” là chánh đáp vậy. Ngài Kinh Khê nói: Từ bản mà nói mới có việc ấy, cho nên bị chê trách đều giống nhau. “ Lại hỏi …” là hiển bày Phật quốc làm tông cho kinh, Dẫn văn lập tông, ngài Kinh Khê nói: Đây là riêng đáp y hỏi, tức lại dẫn chung nghóa hiển thành Phật quốc làm tông. Nhân đây đối đáp qua lại. Ngài Kinh Khê nói: Đối đáp qua lại là chỉ chung chín phẩm. “Nếu không …” là trách xưa thành nay. Ngài Kinh Khê nói: Phá y xưa, đây đem giải thích xong để hỏi lỗi xưa, cho nên lấy thất trống để biểu thị cho Cõi Phật rất tịnh, để phá y xưa giải thích việc sinh ra các phẩm. Chê người xưa tuy thấy văn kinh, nhưng văn mười phương Cõi Phật đều không, cũng chưa khẳng định lấy tông làm Phật quốc. Ý ngài Tịnh Danh cho mười phương ba cõi cũng đều không. Bởi thất là biểu thị Thường tịch quang là không. Nên biết người xưa chưa hiểu ý kinh. Giải thích một tên giải thoát không phải liên hệ đến Phật quốc mà hỏi, Vấn nạn: Ý hỏi kinh này đã lấy Phật quốc làm tông, nếu lập tên khác thì phải gọi là Phật quốc. Đã nói giải thoát thì ắt trái nghóa Phật quốc. Ngài Kinh Khê nói: Kinh này tuy nhân pháp cùng nêu lên, nhưng e riêng tên nhân biểu thị cho pháp cũng quá lạm, nên từ pháp mà gọi, để làm câu hỏi. Đáp giải thích, ý đáp: Kinh này tên thông thường là Bất Tư Nghì Giải Thoát kinh. Trong đó riêng có phẩm Bất Tư Nghì danh nghóa phù hợp để nói về y báo, thì nghóa Phật quốc đã sáng tỏ. Ngài Kinh Khê nói: Trong lời đáp lại dùng tên riêng để đáp. Cho nên Bất tư nghì hiển bày Phật quốc rất sáng. Nhưng ý nay nói nghóa Bất tư nghì có chung có riêng. Chung đối với một bộ nên gọi là chung. Dùng pháp đối nhân cũng như thế. Thế nên nhân pháp hai ý không khác. “Tựu Bán…” là chánh giải thích văn kinh, Nửa phẩm Phật Quốc nói Đại Thánh đối cơ làm tông, mà nói nhân quả Phật quốc, Phân khoa. Tùy giải thích, Bảo Tích thỉnh nói, Đồng loại kham nghe. Trước đã phát tâm, ngài Kinh Khê nói: Hỏi năm trăm vị này phát tâm ở đâu. Sớ đã không nói thì đây khó phán định. Hoặc đây sinh hội này về trước. Hoặc ở Phổ Tập thấy nghe nhân, pháp thắng báo. Hoặc lại vừa đến thì thấy thần biến của Phật, hoặïc đang nghe Bảo Tích kể khen, hoặc khá đầy đủ ở các nơi trong các kinh từ trước nay, hoặc lần hai, hoặc lần ba, nhưng chỗ thấy nghe đều thuộc Phương đẳng gồm ở bốn giáo phát ra, đâu không phải thế, chỉ vì cơ nghi nghe giáo hạnh tịnh độ. Thế nên lại cần phải thỉnh hỏi mà thôi. Vì sao trong phát tâm trên cầu chỉ có một, còn hạ hóa lại thông, không ra Quyền thật trải các giáo nói lý nhận cõi nước mà nhiếp chúng sinh. Thế nên càng cần phải hỏi giáo tịnh độ. Thế nên Bảo Tích kể nói là thỉnh khiến được nghe về nhân quả tâm tịnh độ. Đây nói tâm chí đạo thì tiếng Phạm gọi là Chất-đa, Hán dịch là tâm. Trong kinh đã dịch. Đây nói tâm là kèm nhau mà đến. Nhưng phát tâm đến phần chân, ngài Kinh Khê nói. Đã hỏi về nêu chung Bồ-đề. Trong Lục tức không nêu lý tức và Cứu cánh tức, lý có thể như thế, vì sao không nói quán hành tức? Đáp: Nay phát tâm này đối với Phật kể là hạnh, còn Quán hành thì công năng còn mỏng nên không đủ luận. Huống chỉ Quán là tên chung của tương tợ… Biệt giáo thì phần chứng tương tợ đâu không phải là Quán hành? Từ hơn mà lập tên rồi mới kể thuật. Nếu muốn gồm chung lý tức, vì sao không thể được. Chỉ e là Trưởng giả Vị đã vượt hơn. “Nói tiếng …” là lại theo giáo mà chọn. Ở đây ba thứ chỉ nói tương tợ, vì tương tợ ở giữa, còn Danh Tự không có ngôi vị, phần chân thì chính đang ở vị vô sinh. Cho nên cần chánh ước vào vị tương tợ mà phán quyết. Đều căn cứ vào nội phàm thì tánh thông mà Địa biệt. Thập tín viên của ba mươi tâm. Sở dó ước ba giáo, vì các Trưởng giả nghóa thông đại thừa. Hỏi…” , ngài Kinh Khê nói: Ý hỏi Trưởng giả chỉ nói phát tâm Bồ-đề, nay căn cứ vào đâu mà nói tương tợ? Đáp …” là chỉ nói thông vị, vì lấy người xen Tiểu thừa nên cần phải phân biệt rõ Biệt Viên hai giáo ước nhẫn mà luận nghóa phát. Chuẩn theo đó mà biết. Ngài Kinh Khê nói: Trong ý đáp thì cũng chọn vô sinh và vị quán hành, cho nên biết trước đó nêu nghóa phát không thành, trước đã luận xong nay hỏi lại là muốn chọn cái khác mà thôi. Như tương tợ trong Thông giáo sơ tâm còn chưa thể phát. Cho nên biết Danh tự tuy có nghóa phát nhưng cách vô sinh còn xa gồm cả Phục thông. Đây cũng ước theo thứ lớp mà thôi. Chánh thỉnh nói, Phân khoa nêu ý, “Sở dó …” là tùy văn giải thích, thỉnh quả. Thỉnh nhân. Như Lai đáp, Phân khoa và tùy giải thích, Khen chấp nhận. Khuyên nghe. Khi niệm sinh thì tu tuệ, ngài Kinh Khê nói: Niệm trước là cảnh Sở của y nghe và suy nghó, phải như nghe và suy nghó mà tu hành. thông cả bốn giáo là kinh Phương Đẳng này. Thế nên nghe xong tất phải suy nghó và tu hành. Sách Nho còn nói: Học mà không suy nghó thì không được gì. Lại nói tu thân, cẩn thận ở việc làm, sợ nhục là trước nhất. Tục giáo luận về Tư tu đều cạn chỉ có danh mà không thật xuất thế. Thọ giáo. Chánh đáp, phân khoa. Văn xưa …” là tùy giải thích, chánh đáp, về quả, Nêu chương đáp chung sự giải thích, nêu chung: Từ “Nhiên độ bất tại…” đến “Dó như tiền thuyết”, ngài Kinh Khê nói: Hỏi đã không phải bốn câu “trường hợp) thì độ định ở đâu? Đáp: Chỉ là duyên định thuộc để thành cái lỗi về tánh. Trong bốn câu đều nói là “Không ở”. Nói bốn câu, là phá Phàm chứ không phải Thánh. Lý Phàm xưa nay cũng không lỗi về tánh chúng sinh nghiệp lực không thể nghó bàn, Phật và Bồ-tát cũng phải như thế. Há hai thứ đều khó lường hợp thành lỗi về Tánh, lìa hai mà không riêng khác, Bất khả tư nghì. Nên biết Tư Nghì tức là Bất tư nghì. Huống là lý Bất tư nghì có thể nghó bàn ư? Hoặc lìa hoặc hợp đều không vượt Lý. Quán như thế thì các cõi vắng lặng hẳn, không thể nói bày, bốn Tất-đàn đều nêu, tùy người nghe mà được lợi ích. Các thứ khác đều luận biết. “Chúng sinh…” là giải thích riêng, có hai: a, Giải thích chúng sinh. b, “Sở ngôn…” giải thích loại, Chính nói về hữu vi duyên tập… ngài Kinh Khê nói: Các duyên chứa nhóm hữu vi vô vi tất cả đều như thế. Nên biết: Hữu vi tức duyên tập gọi là hữu vi duyên tập. Nếu lấy vô vi làm duyên tập thì gọi là vô vi duyên tập. Và mở thêm Trung hạ Tịch quang tức hợp mà nói ở trong quả báo. Đây là chúng sinh ba cõi… ngài Kinh Khê nói: Nếu lấy “đều mê” thì chỉ có hai cõi, tức là Đồng cư và Hữu dư, nếu lấy “phần mê” tức chỉ cho cả Đồng cư, Hữu dư, Quả báo. Nếu lấy toàn “phần mê” thì tức là cõi quả báo và phần Trung hạ của Tịch quang. Thế nên trong văn câu trên nói: và “Khai thêm phần trung hạ của Tịch quang”. Cho nên lấy “phần mê” đều ở vô vi duyên tập. Tiếp căn cứ giáo và giải thích vấn nạn, giải thích ba cõi đã riêng, không phải đồng, là vô vi mà hỏi. Ba cõi, tức là phương tiện, quả báo và Trung hạ Tịch quang. Chỗ mê lý đồng tức là mê Trung đạo. b, Là giải thích chỗ mê đã đồng, không nên ba cõi sai khác mà vấn nạn. Ý hỏi rằng: Chỗ mê đã đồng thì cõi chỉ nên một. Ý đáp rằng: Hoặc đoạn cạn sâu nên cần phải phân biệt cõi. Chỗ mê lý đồng nên đều gọi là vô vi. Trong ý đầu, thì thứ lớp trình bày bốn giáo sinh ra ba cõi không đồng. Trước nói Tạng, Thông chỉ sinh ra cõi phương tiện. Năm người là tạng Nhị thừa và Thông Tam thừa. “Thọ Biến dịch…” là Thích luận nói hai chết thì thuộc Biến Dịch. Ở Nhiếp luận nói bảy chết thì thuộc phương tiện khai bảy hợp hai, hai gồm hết cả bảy. Nói bảy mà chỉ có hai. Kế, “Biệt Viên…” là nói Biệt Viên Phàm và Thánh đều sinh ba cõi. Đoạn Thông hoặc thì đều là vị nội phàm. Biệt thì Thất trụ trở lên, Viên thì thất tín trở lên đều sinh cõi phương tiện. “Và thấy kiến …” là thấy chẳng Không, tức là phần chứng Trung đạo, tức Địa của biệt, trụ của viên trở lên đều sinh cõi quả báo. “Nếu mười…” là lấy ba phẩm nhẫn của Tịch quang mà đối với Thập địa Đẳng giác và diệu giác. Cho nên Thập địa Đẳng giác gọi là phần Tịch quang độ. Tịch nhẫn tức là Tịch quang vậy. Phần chứng đã sâu riêng gọi là tịch diệt. Hữu hậu tức Thập địa, vô hậu tức Đẳng giác. “Tuy lại…” là ý kế. Chỗ mê lý đồng, cho nên gọi là vô vi. Giải thích: Cõi đã có bốn thì duyên tập cũng phải có bốn. hỏi bốn thứ duyên tập, đó là: Hữu vi. Vô vi. Tự thể. Pháp giới. Đây là luận sư lập ra, nhà ta chỉ dùng hai tên, nên cần phải tìm hỏi. Ngài Kinh Khê nói: Ý hỏi này là: Luận sư đã lập bốn thứ duyên tập. Nay nhà lại lập bốn thứ chúng sinh, sao không dùng bốn để đối bốn, hữu vi sinh diệt… thứ lớp đối nhau? Trong đáp cũng đã tạm nhận như thế. Tiếng “có ngại gì”, là nhân bài bác luận sư nói tự thể, pháp giới không khác gì vô vi, chỉ tên khác mà nghóa đồng, sao cần phải lập riêng. Nếu đối nghóa vô vi mà phân ra làm ba, thì chấp nhận có lý ấy. Song ba thứ tập này đều ở Trụ địa của Biệt Viên trở lên, nên không lấy ba mà đối ba thứ chúng sinh. Muốn lìa vô vi để đối ba, thì vô vi là Sơ địa trở lên, Tự thể là Thập địa, pháp giới có thể đối với Đẳng giác song thực ra là không bằng. Gọi thẳng là vô vi. Vô vi đều là chướng trong vô minh, cho nên cần hợp chung làm một vô vi. Quán giải. Ngài Kinh Khê nói: Quán tâm là đối hai thứ duyên tập rõ ràng. Nay lại dùng hai thứ duyên tập thứ lớp đối ba quán. Quán tướng còn thô thì duyên tập chưa dứt, nên cần phải luận một tâm ba Quán cùng lúc đều phá hai thứ duyên tập, tức ước Lục tức và duyên tập dứt hết. Giải thích riêng, nêu ý phân chương, y chương giải thích, Ước ngang với cõi Đồng cư. Ngài Mãn Nguyện thành Phật như kinh Pháp Hoa xét lường chỗ ở, tức xem chỗ ở quyến thuộc nhiều ít, nếu nhiều thì nhà lớn, ít thì nhà nhỏ. Tu thiện nhiều ít… là nếu chúng sinh tu thiện nhiều thì trang nghiêm hơn nhiều như Đức Di-đà, nếu chúng sinh tu thiện ít thì trang nghiêm kém như Đức Thích-ca. Trong câu thứ ba, nay nói Bồ-tát điều phục… Điều phục tức câu kế. Chuẩn theo ý văn này thì hai câu trước và hai câu sau là phương tiện. Cho nên biết giáo hóa điều phục vốn là khởi căn Phật tuệ. “Tùy các…” là giải thích câu khởi căn, ý cũng như thế. Nói khởi căn Bồ-tát, đã nói nhân cần yếu là sáu căn, khởi căn để nhận cõi nước. Nên biết Tiên Quang Minh Tịch Mặc Bồ-tát… đều ở tại Đồng cư Tịnh uế hai cõi. Đến nay trong văn cũng nói hai cõi ở trước, đầy đủ như văn sau ở phẩm Bồ-tát hạnh là ở phẩm ấy Phật nói rộng cho A-nan về Cõi Phật. Nghóa là Phật Quang Minh Bồ-tát hóa nhân, Phật, y phục… gồm mười bảy việc. Vì lấy bốn câu ở hai cõi, nên gọi là ngang, mỗi mỗi đối riêng nên gọi là dọc. Dọc đối bốn cõi, có hai: a, Nêu bày. Dọc đối, ngài Kinh Khê nói: Tùy thể cõi ấy đối với hoặc tăng hay giảm mà được các cõi nhiều ít không đồng gọi là dọc, “Văn đầu…” là chánh giải thích, Ba câu trước phối với ba cõi. Cụ phược tức là ba hoặc còn nguyên. Tịnh uế cũng thế, tức là phẩm loại quốc độ cũng vô lượng. Hay điều phục những khó điều phục, là kiến tư phiền não, mà phàm phu khó thể điều phục nên nói là khó điều phục. Hai câu sau phối với Tịch quang, Chánh giải thích, dẫn loại giải thích nghóa. Ngài Kinh Khê nói: Trong kiến chung riêng là lấy căn đối cảnh mà được tên chung riêng. Vì Căn có sáu, Tuệ có một tùy nghi không đồng, không phải tức có đối với cõi chung riêng. “Như Thanh văn…” là dẫn loại. Tướng chung, nghóa là bốn Đế nói chung về nhân quả. Tướng riêng nghóa là mười hai nhân duyên nói riêng về ba đời nhân quả. b’, “Cho nên hóa…” là dẫn chứng giải thích thành, Dẫn chứng. “Tức là…” là giải thích thành. Do ở căn và trần thấu suốt ba Đế, đầy đủ các pháp nên được tên là Phật nhãn. Ý Phật cũng do ba Đế đầy đủ gọi là không, tu, diệt. Liệu giản: “Cho và đoạt nhân quả…”, ngài Kinh Khê nói: Nhân cùng quả đều được vô sinh tịch diệt chủng trí. Cho thì Tịch quang thông nhân chung ở Trung Hạ, đoạt thì Tịch quang riêng ở cực Địa. Vì vị trên dưới đều được vô sinh Tịch nhẫn chủng trí. Riêng thì Tịch nhẫn không chung với nhân dưới. Loại chung cả bốn cõi. Như bốn nghóa trước, là chỉ ngang trước mà giải thích cõi Đồng cư đủ bốn. Lại ở văn này cùng chung bốn giải thích. Bốn thông Tịch quang…, ngài Kinh Khê nói: Trong đó Tịch quang chỉ dùng Trung hạ giáo hóa điều phục, Phật tuệ dần sâu, khởi căn thành tựu mà nhập vào Thường tịch quang rốt ráo. Căn cứ vào Quán tâm, Chánh nói Quán pháp. Trước nói hạnh nguyện, căn cứ sự thành Quán hành, gồm nhiếp chúng sinh và cõi. Cảnh là chỗ nương của tâm, tâm tức là Năng quán, Quán tức chúng sinh. Cảnh tức chỗ nương, cũng như Quốc độ. “Chúng sinh giả…” , chứng năng Quán là nghóa chúng sinh. “Nay nhân…” là riêng nhiếp ngang dọc. Căn cứ ở sự mà giải thích có ngang có dọc. Nay nương sự mà thành Quán mỗi mỗi nói rõ. Nương dọc thành Quán. Ngài Kinh Khê nói: Trong Quán tâm nói nhiều ít, tức là nhân duyên và Không. giả. Trung đối luận nhiều ít. Như lúc đầu Quán tâm chưa dám khắp duyên lại duyên với nhân duyên. Ở trong nhân duyên mà tùy đối tùy chiếu, nên nói là ít. Quán cảnh thuần thục, kế tâm giữ khắp , nên gọi là nhiều. Kế đến Không giả Trung nhiều ít chuẩn theo đó mà nói: Cảnh tức như cõi nước, hoặc tăng hoặc giảm. Thứ lớp và không thứ lớp căn cứ lệ đó mà biết. Đây giải thích câu đầu. “Điều năng…” là giải thích câu hai. Kế “như thị…” là giải thích câu ba. Kế “khởi Bồ-tát…” là giải thích câu bốn. “Lại nữa…” là nương ngang thành Quán. Ngài Kinh Khê nói: Trước đối câu đầu, điều cùng không điều phục tức câu thứ hai, nhập cùng không nhập tức câu thứ ba, khởi cùng không khởi tức câu bốn. “Thâm thức…” là căn cứ quán khởi thệ nguyện. Ngài Kinh Khê nói: Căn cứ Quán nói khởi thệ. Ngang lấy bốn cõi để đối bốn tâm, chỉ dựa theo hai thứ duyên tập mà làm. Duyên tập ở nhân rất cần phải đối Quán. Văn có hai: a, Quán hữu tâm mà khởi thệ, lại nhiếp câu đầu của kinh. b, Quán Không tâm mà khởi thệ, tức nhiếp câu bốn của kinh. Nhiều ít tức câu đầu. “Nếu chỉ…” là kết bày việc cần nhau. Ngài Kinh Khê nói: Trong kết Quán trên tất cần có hạnh nguyện, sự lý giúp nhau. Nên dọc đối thuộc hạnh, ngang đối thuộc nguyện. “Hành nhân …” là giải thích Sự. Ngang dọc vốn ở Quán tâm. Cho nên đem văn trước dùng Quán hành. Đã nói Quán tâm tất cần ở mình vì các chúng sinh Không rời tâm nên tâm mình đã thế thì tâm người khác cũng thế. Thế nên văn nói ý ở đây vậy. Dẫn chứng kết yếu, có hai: a, Dẫn chứng. Ngài Kinh Khê nói: Dẫn Đại Tập là chứng việc cần Quán, Quán thành thì tâm tịnh, tâm tịnh tất hay sự tịnh. b, “hành nhân…” là kết yếu. Từ đây mà khởi, tức là từ Quán mà khởi bốn cõi. Dựa vào giáo nêu văn. Hoặc đoạn không hết tức là Thánh nhân. Nếu căn cứ Tạng, Thông mà đoạn không hết, tức là ba quả sáu Địa rồi lại đều ở Thánh vị. Nếu căn cứ Biệt Viên mà đoạn không hết, tức là sáu tín sáu Trụ rồi lại cũng là nội phàm. Nay nhìn Tạng, Thông gọi chung là Thánh. Thấy chân Trung đạo, tức là Biệt địa, Viên trụ phần chứng Trung đạo. Vô Vi chưa hết, tức là Địa trên vô minh vẫn còn. Vô vi sắp hết, tức là Thập địa Đẳng giác. Vì chúng sinh được hóa độ này mà lấy Trung hạ Tịch quang. Ngài Kinh Khê nói: Trong ước giáo thì mỗi mỗi câu đều xét theo bốn giáo, đều trải bốn cõi cho đến trong cõi quả báo mà có Biệt giáo, là chỉ còn giáo đạo. Đến cõi Tịch quang mà nói Viên giáo là chung cả Trung Hạ. Lại từ cõi Hữu dư để lấy cõi quả báo dùng Biệt Viên là dùng riêng Địa tiền và giáo đạo mà thôi. “Đây giải thích …” là theo văn kết ý. Văn sau phần nhiều giải thích ngược, ngài Kinh Khê nói: Phẩm Bồ-tát hạnh kể đầy đủ bốn nghóa trước, không thiếu nhưng không có thứ tự. Thứ nhất thì giải thích nghóa thứ tư, thứ hai thì giải thích nghóa thứ ba, thứ ba thì giải thích nghóa thứ hai, và thứ tư thì giải thích nghóa thứ nhất. Văn sau tuy ngài Chương An có bổ túc thêm nhưng không trái ý chỉ của Tiên Sư. Kết thành, có hai dụ để hiển sáng, Phân khoa và tùy giải thích, Khai dụ thành. Ngài Kinh Khê nói: Bốn Bất Khả thuyết gọi là Không, nghóa là đều không nói như thế là mất ý chỉ bốn Bất khả thuyết. Cho nên phải nương vào bốn Bất khả thuyết có nhân duyên mà nói, đầy đủ Bi trí nhận lấy cõi mà lợi sinh. Hay đối với trong Không để thấy chẳng Không. Giáo hóa điều phục nhập vào Tuệ mà khởi Căn, bèn đối với chúng sinh mà làm xong việc. Cho nên nói là Không địa. Tùy ý nên có, vô ngại nên không. Cho nên nói bốn Bất Khả Thuyết, nên gọi là Không, Địa tức là nơi nương của Bi Nguyện, Không tức là Địa. Nói Cung Thất là chỗ nương của chúng sinh vì chúng sinh mà nhận lấy cõi, cõi thành thì vật được lợi ích. Khai dụ không thành, tiếp nói Hợp dụ, thành. “Nếu thuần dụng…”, ngài Kinh Khê nói: Kinh này bài bác Nhị thừa mà nói Bồ-tát Thông giáo sao cũng có thể Tịnh. Vì sao lại nói Thông giáo Bồ-tát có nhân tịnh độ, song chỉ để ngăn việc Thủ chứng không mà thôi. Tiếp nói hợp chẳng thành dụ Không. Phần đáp nhân, Phân khoa nêu ý. Hỗ tương thiệp nhập là ngang trải các hạnh đều dọc suốt tận nguồn tâm. Dọc tận nguồn tâm cũng là ngang gồm các hạnh, cho nên nói không được lìa nhau. “Cố Tiền…” là trước nói theo ngang, sau nói theo dọc từ rộng đến biểu thị, ngài Kinh Khê nói: Rộng là biểu thị ngang, dài là biểu thị dọc. Điều hiện lọng là chánh biểu thị giúp nhau ngang dọc không hai, mà ngang mà dọc. Lại mười phương chư Phật là biểu thị cho ngang. Chư Phật nói pháp cũng có thể biểu thị cho dọc. Đều ở trong lọng không hai cũng thế. Lại cùng nêu văn mà giải thích. Giải thích văn kinh cần phải hiểu thấu ý văn. Nếu văn kinh luận ngang thì giải thích theo nghóa dọc. Nếu văn kinh lu- ận dọc thì giải thích theo nghóa ngang. Rộng dài cùng ở đó, thân và cõi cũng thế, nên biểu thị không hai. “Nay trước…” là tùy văn giải nghóa, Ngang trải các hạnh tu nhân, Phân khoa. “Sơ Tam…” là tùy giải thích, căn cứ ba tâm, Phân chương. b] Tùy giải thích, có bốn: 1’, Nói riêng, có hai: 1”, Phối danh. Ba thứ tâm Bồ-đề, tức là đạo tâm ba thừa. Giải thích nghóa, trực tâm. Thâm tâm, Chính nói thâm tâm và Liệu giản chung với trước, Nói căn cứ Tiểu tu Đại, ngài Kinh Khê nói, ý hỏi này kinh nói trực tâm, Thâm tâm là tịnh độ Bồ-tát…, hai tâm này là tâm Nhị thừa. Vậy Bồ-tát sao lại tu tâm Nhị thừa? Trong lời đáp: Tuy mượn nghóa Thông giáo nhưng chưa sáng tỏ, nên phải dẫn Pháp Hoa mà giải nghóa. Tuy là nhiếp vật tu tâm Nhị thừa nhưng vốn ước hẹn tịnh độ, nên được dẫn để giải thích. Nói gồm mang Nhị thừa. Hỏi trong đây… ngài Kinh Khê nói: Văn kinh chỉ nói trực tâm và Thâm tâm như giải thích trước, đều là Bổn thể hạnh nguyện của Bồ-tát. Nếu trong văn có nêu tịnh độ lại không có tâm Nhị thừa, chính là dối thêm vào tiếng Nhị thừa. Ý đáp: Chỉ nói trực tâm không nói Nhị thừa, ấy là mang phương tiện nên không ước nói. Vì nói Nhị thừa thì có hại cho Đại thừa. Nếu nói Bồ-tát thì hại cho Tiểu thừa. Ý đã bao gồm cả hai, nên chỉ nói Trực và Thâm mà thôi. Nói chuẩn đây mà nhìn sang, ngài Kinh Khê nói: Lời kinh này có ngầm ý, chưa thể tiến hành bày rõ mà nói. Tòa này để hiển dụng Tiểu thừa, nguyên đều là người tu tịnh độ. Cho nên biết Bồ-tát tu hạnh Nhị thừa là nhiếp hóa chúng sinh. Nếu muốn hiển nói, cần dựa vào ý kinh Đại phẩm và Pháp hoa. Hỏi: Chuẩn nhìn Pháp hoa có thể có lý này, còn Đại phẩm thế nào? Đáp: Tất cả các pháp hướng đến đều duyên với Đế, là tiếng pháp hội Ma-ha-diễn bởi có như thế, cho nên có các pháp hướng đến tâm Nhị thừa. Hỏi: Tuy nói lời này cũng chưa thấy nêu ở văn Đại phẩm. Đại phẩm chỉ nói Bồ-tát Tam thừa công vị và Thập địa đều học hạnh này. Sao lại hiểu là hạnh tịnh độ? Đáp: Đã không thủ chứng thì lý ở việc độ sinh. Nếu tu nhân tịnh độ mà làm nhiếp pháp để nhiếp hóa chúng sinh thì cũng thông cả tâm Nhị thừa. Thông giáo còn thế thì Biệt Viên cũng rõ ràng. Kế dẫn Đại luận, đã nói có cõi thuần Tăng Thanh văn, tức là Thanh văn đến sinh cõi nước ấy. Đã có Sở dẫn há lại không Năng dẫn. “Đế duyên …” là kết vấn nạn, tức là hạnh của người Năng dẫn. Tiếp nói ba thứ này sau cùng hiển một thứ. Theo phần nhiều mà luận. Ngài Kinh Khê nói: Nếu trông sang các cõi thì đạo lý có hợp mà chưa khai hiển. Cho nên nói mười phương đều có việc này. Chỉ nghe hiển sáng là nhiều. Thế nên trước nêu các văn giáo hóa, tuy có ngang dọc căn cứ chung các Cõi trong đó, há lại không có chưa khai hiển. Cho nên lý văn kinh này cần mười phương ngang dọc mà giải thích. Song cũng còn có những cõi chưa khai hiển, bỗng lúc ấy dời đến cõi khác, hoặc dùng Mật giáo ở cõi ấy mà khai. Như Pháp Hoa Sớ giải thích về chiếu Đông phương. Tất cả đều khai là dẫn đồng, cho nên chỉ chiếu kẻ đồng chứng. Ý kinh có khác không thể theo một chuẩn mực. Tâm Đại thừa, hai thứ thông minh, có hai: a, Chính nói nghóa thông, có ba: a, Nêu nghóa: Chỉ là một tâm tự tánh thanh tịnh, tức là một tâm tam thiên ba đế. Đây là căn cứ một tâm mà có ba tên, đó là trực, thâm và đại tâm vậy. Giải nghóa như văn. “Bồ-tát …” là giải thích thành. Vô tác bốn đế là ấm nhập đều như, nên không có khổ để bỏ. Phiền não tức Bồ-đề, nên không có Tập để đoạn. Biên tà đều trung chính, nên không có đạo để tu. Sinh tử tức Niết- bàn, nên không có Diệt để chứng. Mà bốn pháp này chỉ là một tâm, vốn “không” tạo tác, nên gọi là vô tác. Gọi là thâm pháp nhẫn, là ba đạo tức ba đức, nên gọi là thâm. Nhất thật đế, là Biệt Viên chứng đạo đồng hiển ba Đế, gồm chứa không gì ngoài, nên gọi là Nhất thật. Vượt ngoài hai biên nên gọi Nhất thật. Nếu dựa theo giáo đạo thật là hoặc che, đã không tương tức thì nghóa khác Viên. “Nay đây …” là kết bày. Không có ba thứ sai khác, ngài Kinh Khê nói: Nên căn cứ ba tâm để nói ba đức. Lại ba tâm này nghóa chung hai giáo Biệt Viên , nhưng cũng không thể trước sau đều khác. Nói là tên khác của ba đức, Đại thừa tức giải thoát, thâm tâm tức Bát-nhã, trực tâm tức pháp thân. Đại thừa chỉ do Bi nguyện mà được tên, cho nên đối giải thoát tức là sơ tâm trụ ở ba đức, là đã đối ba đức lý hợp đều ba. Tiếp đối xưa mà hiển nay. Xưa luận đẳng, là xưa chỉ cho các kinh Phổ Tập Phương Đẳng. Nay nói Đẳng, là ngài Kinh Khê nói: Các kinh trước đây chỉ nói Chánh báo, chỉ nói ba thân đối với bốn giáo. Hai giáo trước Phật đều gọi là Ứng, cho nên nếu lấy y nhân để đối bốn cõi, thì Đồng cư, hữu dư đều gọi là Ứng độ. Cho nên nay thân và cõi hoặc bốn hoặc ba. Y nhân, tức là nhân nhận cõi để lợi vật. Nếu đối duyên tập hữu vi, vô vi cho đến sinh tử Phần đoạn, Biến dịch thì cõi nước phải phân bốn, tức hai cõi Đồng cư, phương tiện, Thật báo, hai tập, hai chết đều phân làm hai. Tiếp nói Quán tâm. Không Giả hai Quán ba tâm đều đẳng, ngài Kinh Khê nói: Lại nhờ từ trước nay, chung riêng hai giải thích, đến văn này cùng thành nghóa Quán. Ba tâm khác nhau, đầy đủ như giải thích riêng. Nếu giải thích chung về Không giả ba tâm, thì cũng bao gồm cả Đại. Vì Thông giáo Bồ-tát cũng nhập Không quán, bèn dùng Đế duyên. Giả ba tâm, là Tạng, Thông Bồ-tát tự Quán đế duyên cũng đủ ba tâm. Trung ba tâm mà nói một mà ba, ba mà một, là hai chưa tức Trung, nếu Trung ắt tức hai, vì Phàm quán vạn cảnh đều không hai. Nếu phân Biệt Viên là đối với Sơ tâm hậu tâm của hai giáo này thì Sơ tâm Biệt giáo nghóa ở Không giả. Cùng hai giáo trước ba thừa nghóa đồng. Tiếp, giải thích kinh, Giải thích trực tâm, trước dựa vào giáo nói đẳng, ngài Kinh Khê nói: Trước kinh Phổ Tập chuẩn theo giáo tu hành nhận quả Pháp thân. Nay không phải Không giáo. Nhưng đối giáo hạnh lại thêm Bi nguyện mà thành tựu nhân tịnh độ. Hỏi: Văn này trước sau đều nói kinh này căn cứ ở Y nhân (nhân Y báo), trong đây vì sao lại dẫn ngài Quang Nghiêm để chứng đó là Chánh nhân (nhân Chánh báo) ? Đáp: Đạo tràng là chỗ, nghóa đúng là Y nhân, mà cũng có thể dùng biểu thị cho năng y Pháp thân. Huống lại kinh này cùng biểu thị cả Y và Chánh, nên nêu các hạnh đều đủ cả hai thứ. Hỏi: Vì sao đây lại dùng giải thích riêng ở trước mà làm câu hỏi thông ngay cả duyên và độ há chỉ có riêng Đế ư? Đáp: Trong có hai ý: Để tiện lợi. Nhiếp cái khác. Thế thì cả hai đều dùng tên riêng kia để thành nghóa chung. Tiếp, giải thích riêng, Giải thích trực tâm, Nêu năm thứ trực tâm, ngài Kinh Khê nói hoàn toàn giống dọc. Như sau Bố thí tiếp đến Trì giới cũng gọi là ngang, mỗi mỗi lại thông năm thứ trực… cũng được tên dọc. Trong dọc này lấy năm vọng, năm phục làm ngang, cũng gọi là dọc, Song cuối cùng là ngang, chuyên đối ngang là có thể được, ngay một trực của thế gian cũng có nhiều thứ. Như trong ba cõi thì kiến ái đều khác. Dẫn lời ngạn ngữ nói si trực, là chỉ các trực ở thế gian lấy si làm gốc. Lấy đó mà nói cũng đủ tham sân. Các Thông Biệt sau cũng như giải thích trước. Ngạn là lời tục nói. “Năm thứ này …” là phán quyết Quyền thật. “Nay Viên…” , là nói Bồ-tát Viên tu, Tu quán hành. Biết tất cả pháp…, Biết tức người hay quán, tất cả pháp tức cảnh được quán. Tiếng “tất cả” là không ra ngoài mười giới, một trăm giới gồm cả không trung. Cho nên đều cùng không phải. Không phải chín giới, tức không phải Quyền, không phải Phật giới, tức không phải Thật. Trong Không tức giả mà hay song tu song dụng. Tu bốn trực trước là tu quyền, tu trực viên giáo là tu thật. Tu thành có dụng, lại dùng năm trực để hóa tha, nên nói là song dụng. Trong đây mới tu ở vị danh tự, tu thành song dụng đều ở năm phẩm. Ở vị năm phẩm thì hay hóa tha, tức là trong chỉ quán nói về bậc Viên thượng căn xuất giả. Trí Giả tức là người ấy. Nhưng song dụng này ước vào đời Phật có hiển có mật. Hiển là Bồ-tát Phương Đẳng đương giáo, Mật là hai giáo Nhị thừa trong đây. Mật chỉ ngầm dùng ý Pháp Hoa, không phải là thể của Bộ này. Như luận về dụng giáo đều là lý ấy. Cho nên nói dạy người khác tu hạnh năm trực. Văn này gồm có bốn tâm: Tự tác. Giáo tha. Tán thán. Tùy hỷ. Tự tác thuộc song tu, còn giáo tha, tán thán, tùy hỷ đều thuộc song dụng. Ngài Kinh Khê nói: “Viên Bồ-tát …” là nói tu hành tướng tịnh độ. Tất cả Bồ-tát đầy đủ bốn tâm này mới gọi là Đại hạnh. Nay đủ cái rốt sau nên gọi là Viên. Gồm cả ba thứ sau, cho nên tướng bốn tâm thiếu một không thể được. Đầy đủ như Chỉ Quán Ký dẫn văn Đại luận. Cho nên ở năm trực cũng đủ bốn tướng mà thành hạnh tịnh độ. Đạo lý tuy thế là vì biết được ý chỉ ấy. Nếu thật hành thì người hai giáo trước lấy hai, ba thứ trước mà làm Quyền. Chuẩn Biệt Viên mà nói có thể được ý. Mỗi thứ đều dạy khiến nhập vào Thật của đương giáo. Nếu người gốc Viên giáo chỉ vì nhiếp Đồng thể mà nhiếp giữ lấy. Lại người ở Thông cũng nói là tu hạnh tịnh độ. Nếu dùng đương giáo tuy có văn ấy vẫn là do lợi người mà kham tiếp độ (cõi). “Bồ-tát …” nhập vị tương tợ, đã từ quán hành mà chuyển nhập vị tương tợ. Song dụng năm trực bội thắng ở hai thứ trước. ‘Nếu nhập…” là giải thích việc sinh đến. Cho nên biết bậc trụ tiền tu năm Trực. Nếu nhập sơ trụ tám tướng thành đạo thì số người được giáo hóa trước sẽ sinh về cõi nước ấy. Phần chân thành Phật, đây tức giải thích kinh nói khi Bồ-tát thành Phật. cho nên biết, kinh nói Bồ- tát chính là chỉ bậc Trụ tiền, nói thành Phật chính là ở sơ trụ. Ngài Kinh Khê nói: Lại nói thành Phật bất tất phải là Diệu giác. Thông thường thì lấy Địa trụ của Biệt Viên trở lên. Từ vị này …” đều đủ tám tướng. Cho nên tất cả thân cõi mười giới đều nhận sinh. Hoặc lại Phật xưa Thùy tích lợi vật. nay văn chánh là ở Thật hạnh Bồ-tát. Cho nên tiếng “Thành Phật” cần hiểu thông thường. “Các văn sau đây…” đại ý đều như thế. Từ Tợ nhập chân để thành hóa tướng. Trong quả phần chân thì ba cõi không đồng. Vì thường Tịch quang không có nghóa thành Phật. Nếu khai Trung hạ chuẩn đó mà nói thì có thể biết. “Tức hiện…” là nói chúng sinh được hóa độ sinh đến. Đây tức giải thích kinh nói chúng sinh Không siễm nịnh đến sinh nước ấy. Sinh Đồng cư. Đầu tiên thì phó duyên… là nói bày năm thời giáo hóa. b, Sinh hữu dư. Sinh Thật báo. Không có hai biên… ngài Kinh Khê nói: Đang ở trong hoặc nên gọi là siễm, hoặc đoạn hết rồi thì gọi là trực. Sinh Tịch quang. Đây là căn cứ Trung hạ Tịch quang. Tức mười Địa Đẳng giác. “Hai ng- hóa…” là Kết chê. Trực tâm có năm, sinh cõi nước có bốn, nên nói nhiều chúng. Đây là kết bày chúng. Há có thể …” là chê giải thích khác. Tiếp, giải thích thâm tâm, chia văn tiết mà giải thích. Chuẩn theo trực tâm có thể thấy. Văn hoặc có thể thiếu thì xem lời nói trên. “Từ đây…” đều như thế. Đâu cần phải lìa mười hai nhân duyên, là pháp môn vô lượng thì nhân duyên gồm hết. Hoặc Sự hoặc lý, là đối với năm thâm tâm thì một Sự bốn lý, cũng có thể là bốn sự một lý. Duyên giác thâm tâm…, ngài Kinh Khê nói: Trong chung có riêng, ý vẫn ở tại chung. Kế chỉ đủ có …” là phân ngang dọc, Thông Biệt gồm đủ vì đầy đủ ở bốn thứ bốn cõi. Giải thích tâm Đại thừa. Tức bốn giáo Đại thừa… ngài Kinh Khê nói: Hỏi trước giải thích riêng nói Đại thừa chỉ ở Biệt Viên, hai tâm Trực, Thâm chỉ ở Nhị thừa, nay trong văn này sao được nói chung bốn? Đáp: Trước riêng đây chung, lý thường như thế. Nếu trong giải thích chung tuy đều có năm giải thích đối trong Đại thừa lại từ thế gian, suy nghó có thể thấy. Nay cho rằng trực thâm tâm ở thế gian đều có, còn gọi Đại thừa chỉ có ở xuất thế. Cho nên khiến sớ Thích Đại thừa chỉ nói bốn giáo. Lại còn nên biết: Tuy chuẩn có năm giải thích, nay Đại thừa này nhìn hai tâm trước toàn phần là trừ thế gian, từng phần là trừ hai thứ kia. Vì Tạng, Thông của Đại thừa Không phải Nhị thừa, nên không đồng trực tâm, thâm tâm vì chỉ ước ba thừa. Trên cầu…” là giải thích tên. Phàm đại thì có nghóa là bao quát rộng lớn. Bồ-tát bốn giáo đã trên cầu Phật quả, dưới hóa độ chúng sinh, bao gồm trên dưới, mà nói rộng lớn vậy. Hàng Nhị thừa tự độ cầu và hóa đều không, trái nghóa bao quát rộng lớn, nên gọi là Tiểu. “Đều duyên…” , thừa có nghóa là chở chuyên. Nương cảnh khởi thệ tu hành đến nguyện, tự chuyên chở thì từ nhân đến quả, chở người khác thì xuất phàm nhập Thánh. Mình người đều chở chuyên, nghóa thừa là ở đấy. Căn cứ tự hành, Ý đến. Ngài Kinh Khê nói: Nếu không có ba tâm… thì chân thật là trực tâm, cao là thâm tâm, rộng là Đại thừa tâm. b, “Bố thí…” là chánh giải thích, bố thí Giải thích năm thứ bố thí, Ngài Kinh Khê nói: Bố thí có năm, cũng là Bồ-tát cùng Nhị thừa bố thí để làm nhân tịnh độ nên có chia làm năm thứ và bốn giáo. Bồ-tát bố thí, là Tạng, Thông gồm cả Nhị thừa nên chỉ lược nêu Bồ-tát mà thôi. “Thế gian…” là giải thích, Thế gian sự bố thí, tức lục đạo thí. Ngài Kinh Khê nói: Song thế gian trực tâm và thâm tâm cũng có họp và ly thành sáu, trong sáu mỗi thứ đều phân rõ. Tài thí phi pháp hoặc phi lý mà cầu tài, hoặc bố thí trái chánh pháp đều gọi phi pháp. Nếu trì Thập thiện sẽ đến hai đạo trời người, mỗi thứ lại phân làm nhiều loại. Người thì có bốn tánh “dòng), trời thì phân ba cõi. Trong người lại có cư só thuộc bốn tánh. Nói bốn tánh “dòng): Bà-la-môn tịnh hạnh giữ đạo, không vợ con. Sát-đế-lợi dòng vua, vua cai trị đời. Tỳ-xá, là thương nhân, trao đổi có không. Thủ-đà, là nông dân, siêng năng cày cấy. Phàm bốn dòng này không thể cưới hỏi lẫn nhau, làm ăn khác lối. Đây nói cư só hoặc dòng Bà-la-môn hoặc dòng Sát-đế-lî. Như giòng Tỳ-xá ở nước ngoài xưng là cư só đều là dòng vua chúa, chỉ vì ở nhà không ra làm quan chức nên gọi là cư só. Nếu giòng Bà-la-môn mà không xuất gia thì cũng gọi là cư só. Trong văn nói đầy đủ về tướng bố thí, tức nhân của năm hạng người. Nếu khinh tâm…, là tâm không ân cần kính trọng nên nói là khinh định, ngày, định của gọi là cục, chọn người mà thí nên gọi là hạn ngại. “Nhược thắng phẩm…” là Thiên thí. Từ văn đầu đến được sinh là tạo nhân trời cõi Dục. “Nếu trì giới càng tinh tế…” là nhân trời cõi Sắc. Trời cõi Vô sắc suy thì biết. “Nếu ba…” là thí trạch giác của Bồ-tát bốn giáo…, ngài Kinh Khê nói: Trạch pháp thuộc tuệ, nay ở bố thí là thành thí. Cho nên thí mà không được tuệ, thì nhân xuất thế không thành. Thi-tỳ thay chim câu, trong Đại luận nói: Như Đức Thích-ca xưa tên Thi-tỳ được Đà-la-ni quy mạng cứu hộ, xem chúng sinh như mẹ thương con. Đế Thích cùng Tỳ-thủ Yết-ma cố ý đến thử thách. Tỳ-thủ biến làm chim câu, Đế Thích làm chim Cắt. Chim câu bay trốn vào nách vua Thi-tỳ run rẩy, mắt nhìn kêu cứu. Chim cắt đậu trên cành cây gần đó bảo vua: “Hãy trả chim câu cho tôi!”. Vua nói: “Ta đã phát nguyện độ tất cả chúng sinh”. Cắt nói: Tôi không phải là tất cả chúng sinh sao, mà lại cướp thức ăn của tôi? Vua nói: Ngươi cần ăn gì? Cắt nói: Tôi cần thịt tươi thắm máu. Vua bèn tự cắt thịt đùi của mình mà trao cho. Cắt nói: Nên cân nặng nhẹ cho công bằng. Vua bèn lấy cân, cân chim câu. Nhưng thân chim câu càng nặng mà thịt vua lại càng nhẹ, mãi đến cả toàn thân vua. Đầy đủ như trong Phụ hành quyển năm đã dẫn. Thích-ca nai chúa chết thay. Đại luận có nói: Xưa vua Ba-la-nại vào rừng săn bắn, thấy có hai bầy nai mỗi bầy khoảng năm trăm con và một nai chúa. Một con nai chúa mình sắc bảy báu, chính là Bồ-tát Thích-ca, con nai chúa kia là Đề-bà-đạt-đa. Nai chúa Bồ-tát thấy vua giết hại đám nai, bỗng khởi tâm đại Bi, liền đến thẳng trước vua. Mọi người tranh nhau bắn tên bay như mưa. Vua thấy con nai ấy không chịu tránh tên tất là có tình ý gì. Vua bèn ra lệnh đừng bắn nữa. Nai chúa đến trước vua quỳ xuống tâu rằng: Vua vì việc nhỏ vui chơi nhất thời khiến loài nai chúng tôi chịu chết. Nếu vua cần thịt để tiệc tùng thì mỗi ngày chúng tôi luân phiên hiến cho vua một nai. Vui vui mừng nhận lời. Do đó hai nai chúa sắp thứ tự luân phiên nhau hiến thịt. Một hôm trong bầy của Điều-đạt tới phiên một nai mẹ, nàng lên thưa nai chúa: Phần tôi có chết cũng đáng, ngặt tôi mang thai, con tôi chưa đến phiên phải chết, cúi mong ngài liệu toan cho tôi được sống. Tôi không dám lạm dụng chỉ mong được ở phiên sau. Chúa nai nổi giận quát: Ai không tiếc mạng sống, tới phiên là phải đi. Nai mẹ suy nghó bảo chủ ta không có từ tâm, mới thấy đã giận dữ. Nàng bèn đến nai chúa Bồ-tát thưa rằng: Đại vương nhân từ, như tôi ngày nay trời đất mênh mông mà không có nơi để kháng cáo, nên xin đến trình bày cùng ngài. Nai chúa Bồ-tát nghó: Nếu ta không xử lý tất giết oan đứa con, nếu không đúng thứ tự sau này khó điều khiển, chỉ có cách là ta thế chỗ. Suy nghó xong bèn đem thân tự hiến, nai chúa Bồ-tát bảo nai mẹ trở về bầy mình rồi đến cung vua. Mọi người thấy lấy làm lạ về sự tự nộp mình của nai chúa. Bèn đem việc tâu vua. Vua hỏi: Bầy nai đã hết rồi ư, sao bỗng tự đến? Nai chúa bảo: Đại vương nhân từ không có người phạm tội, chỉ có lòng từ nẩy nở không bao giờ hết. Chỉ vì nàng nai kia đến mách tôi, tôi thương tình dù không phải phần của mình nhưng không thể bỏ qua được. Nếu bỏ mặc không cứu thì không khác gì loài gỗ đá. Nếu tới số thân này không bao lâu cũng chết. Lòng Từ bi cứu nguy ách công đức vô lượng. Nếu người không có từ tâm thì khác gì loài hổ lang. Vua nghe lời ấy liền từ chỗ ngồi đứng dậy nói kệ rằng: Ta thật là loài thú Mà là nai đầu người Ngươi tuy là súc sinh Mà là người đầu nai. Suy lý chính là người Đâu phải hình mới người? Bắt đầu từ hôm nay Ta không ăn các “thứ) thịt. Ta nay vô úy thí Để an lòng nhà ngươi. Đầy đủ như trong kinh, Tiêm sư nói: kinh Tu-đại-noa có nói: Có vị Bà-la-môn sau khi được cúng dường cho ăn xong liền bảo thái tử rằng: Người nước Câu-lưu từ lâu đã nghe tiếng Thái tử thích tu hạnh bố thí, danh vang khắp mười phương. Tôi là kẻ bần cùng, xin Thái tử một việc được chăng? Thái tử nói: Đối với ông ta không tiếc gì cả, nhưng ta có bao nhiêu đã thí hết rồi, không còn gì cho ông nữa. Bà-la-môn thưa: “Nếu không còn gì thì hãy cho tôi hai đứa con của thái tử, để hầu hạ tuổi già”, nói thế đến ba lần. Thái tử bảo: Ông từ xa đến cốt ý muốn xin hai đứa con tôi, nệ gì mà không cho. Khi ấy hai trẻ đang nô đùa. Thái tử gọi con đến bảo rằng: Ông Bà-la-môn này từ xa đến xin hai con, ta đã hứa cho rồi, các con hãy theo ông ấy. Hai trẻ chạy vào lòng cha khóc sướt mướt thưa rằng: Chúng con nhiều lần thấy ông ta không phải là Bà-la-môn mà là quỷ dữ!… Cho đến hai trẻ không chịu đi. Rộng như trong kinh nói. Mười thứ bố thí, Tiêm sư nói: Bộ Hoa Nghiêm xưa, quyển thứ mười ở phẩm Vô Tận Tạng nói về Thí Tạng. Trong đó nói thế nào là Bồ-tát Thí tạng. Bồ-tát này tu mười thứ bố thí, đó là: Tu thí pháp. Tối hậu nan thí pháp. Nội thí pháp. Ngoại thí pháp. Nội ngoại thí pháp. Nhất thiết thí pháp. Quá khứ thí pháp. Vị lai thí pháp. Hiện tại thí pháp. Cứu cánh thí pháp. Như kinh đã nói rộng. Lại phẩm Ly Thế Gian có nói: Bồ-tát có mười thứ thí, những gì là mười. Đó là bình đẳng tâm thí vì không ghét bỏ chúng sinh. Cho đến nói: Ba thứ bình đẳng thanh tịnh đầy đủ là người thí, người nhận và tiền của thí đều bình đẳng thanh tịnh như hư không. Luận Địa Trì nói chín thứ thí. Tiêm sư nói: Quyển bốn luận ấy nói: Tự tánh thí. Nhất thiết thí. Nan thí. Nhất thiết môn thí. Thiện nhân thí. Nhất thiết hạnh thí. Trừ não thí. Thử thế tha thế thí. Thanh tịnh thí. Sinh tử mé sau, tức là Niết-bàn rốt ráo. Như Lai đàn, tức đạt đến thí tức pháp giới. Đàn Ba-la-mật, là bỉ ngạn (bờ kia). Tất cả pháp thú đàn, đàn tức là pháp giới, pháp giới nhiếp khắp không thứ nào không ở trong đó. Nên trong phẩm Phát hướng đến có nói: Tất cả Pháp hướng đến đàn là sự hướng đến không quá đàn còn không thể được sao lại nói có thú hay không phải hướng đến. “Tự hành…” là nói Bồ-tát viên tu. Văn này quá tóm lược. Chuẩn theo trực tâm mà nói có hai. “Sau thành …” là giải thích đời sau. Trì giới. Bốn thứ trì giới, sự giới không khác nhưng do người trì giới có tâm khác, nên thành bốn thứ khác nhau. Lệ như bố thí có thể biết. Nếu nói riêng thì Tạng, Thông trì thiện tụ, Biệt Viên trì Phạm Võng, chánh ngữ… thì ở Bát chánh, thứ này thuộc giới. Nhẫn nhục. Đều nhẫn làm gốc. Ngài Kinh Khê nói: Phàm nhẫn là nhân đoan chánh, nên xuất thế nhẫn hay cảm được quả tướng, cho nên được xem là gốc tất cả tướng. Về bốn thứ tu tướng Chỉ quán ký đã nói đầy đủ. Tinh tấn. Chỉ ước các hạnh, nghóa là siêng tu năm độ mà được tên tinh tấn. Nói chánh cần, tức siêng đoạn hai ác, siêng sinh hai thiện, đều thuộc về tinh tấn. Cho nên dùng bốn thứ này cùng căn, lực, giác, đạo là tám. Đây lại ở nghóa ban đầu mà nói tinh tấn. Thiền định. Trí tuệ, Chánh giải thích, trí độ. Từ “trước nay …” là chung trước mà suy nghóa. Giải nghi. Ngài Kinh Khê nói: Ý hỏi rằng đẳng trí hữu lậu nương căn bản thiền. Nếu nói chánh định thì nghóa chung cả năm, là bốn chánh định sau, vị ở nội phàm. Thiền thế gian thì toàn là hữu lậu phàm phu, ý này sao cho là nhóm chánh định? Ý đáp: Phân biệt mới có khác, còn hợp nói thì không ngại gì. chánh định đối với tán loạn cũng có thể dùng chung. Căn cứ Hóa tha, Thử nêu: Há làm hạnh lục độ… ngài Kinh Khê nói: Như nói về Lục độ, Bồ-tát đều dùng để độ người nhưng pháp ấy chỉ thuộc tự hành. Nay bốn Vô lượng tâm đều là pháp tự hành mà thuộc hóa tha. Nay bốn Vô lượng tâm và Lục độ đều thành Đại hạnh và đều đủ tự và tha. “Bốn vô…” là tùy giải thích, Bốn đẳng, vô lượng từ cảnh, bốn đẳng từ tâm. Cảnh tuy vô lượng, nhưng tâm ta thường đẳng. Bốn giáo, thì ba giáo sau đều nói pháp duyên. Ngài Kinh Khê nói: Không phải nói pháp duyên Từ trong ba Từ đâu. Tên pháp đã chung nên đều gọi là pháp, chỉ là pháp các duyên mà thôi. Nghóa là sinh, diệt, vô sinh là pháp vô lượng. Ở trong vô lượng mà đắm pháp duyên chữ, tức là hằng hà sa Phật pháp trong bốn vô lượng. Tức trong ba Đế có hằng sa Phật pháp. Cho nên biết đây nói pháp duyên không phải pháp duyên trong ba Từ. Cho nên biết chữ pháp cũng có thể có chung cả năm. Nghóa là pháp của phàm phu sự…, thì Viên giáo riêng được tên vô duyên, là từ trội hơn mà nói. Bốn nhiếp đều không phải chỗ làm của phàm Tiểu… ngài Kinh Khê nói: Như ba tâm trước, trực tâm thâm tâm chung cả Đại, nhưng Đại Không chung Tiểu. Vì hạn cục ở tên, nên trong chung cũng cần có riêng, chỉ có thể chung với các Đại thừa mà thôi. Nay cũng như thế. Như Lục độ và bốn Vô lượng tâm trước. Lý chung cả Đại Tiểu. Cho nên bốn Nhiếp này cho đến Đại thừa …” là văn phương tiện hồi hướng mà không chung với thế gian và cả Nhị thừa. giáo ấy tất không có việc này. Lại bốn vô lượng cho đến bốn Nhiếp trải các giáo riêng giải thích Tu tướng và Chứng tướng không dễ phân biệt, cũng không thể cùng tồn tại, cho nên đều lược nêu. Nói bốn Nhiếp là Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự. Nếu ở bên đồng thì các giáo hình như đồng, nhưng xét kỹ thì trí nguyện cao thấp lại khác hẳn, vì lấy trên mà gồm dưới vậy. Cho đến các vị cấp bậc không đồng, tức như bổn tích cao thấp bốn câu “trường hợp). Nay phần nhiều lấy từ hàng phàm phu thấp kém khó dạy nhất mà nói, thì tên ắt chung, lý không ủng tắt. Chúng sinh được nhiếp hóa, nghóa là năng nhiếp thì có giải thoát của bốn giáo, được giáo hóa dù chung pháp thế gian, nhưng Bồ-tát hóa độ người đều khiến được giải thoát cho nên khảy móng, chấp tay đều phải theo lệ. Nên nay từ Bổn ý mà nhiếp độ. Phương tiện, ngài Kinh Khê nói: Hỏi Tự hành… ba thứ và phá ngoại… ba thứ có gì khác nhau? Đáp: Có đồng có khác. Từ tên thì khác, mà từ nghóa thì đồng. Tuy có dị đồng nhưng ly hợp lại khác. Nói nghóa đồng, là Tự hành… ba tên tuy có ba pháp nhưng chỉ là hai. tự tha đối nhau không có thể riêng cho nên phá lập… ba thứ cũng không có ba tên mà chỉ có hai nghóa. Phá lập hai thứ cùng thành Tự hành giáo tha. Nên chỉ thành hai thứ. Nếu thế đâu cần gì phải nhắc lại. Đáp: Kinh luận hợp cơ mỗi thứ có ý chỉ riêng. Đạo phẩm pháp Nhị thừa này có phần. Ngài Kinh Khê nói: Vì pháp bốn Đế hàng Nhị thừa sơ tâm tức cần phải quán. Huống lại bốn thứ có bốn mỗi mỗi không đồng sinh diệt đều dùng đủ pháp Nhị thừa nên nói là “có phần”. Ba mươi bảy phẩm đầy đủ như Chỉ quán và Ký đều là pháp giới thứ lớp, không phải đây có thể đầy đủ. Nếu chuẩn theo luận Bà-sa thì đạo phẩm hữu lậu lệ như trước làm năm thứ có gì không thể được, nhưng chỉ vì chỗ phàm phu ngoại đạo tu hành cũng là chỗ hành giả tu hành Phật pháp, chỉ chưa phát vô lậu thì gọi hữu lậu mà thôi. Chỉ có pháp ngoại đạo là không có tên niệm xứ. Hồi hướng, khiến sinh đến đầy đủ, ngài Kinh Khê nói: Nếu không hồi hướng thì Phước thí có hạn định, chỉ cảm được giàu sang vui vẻ. Còn hồi hướng cực quả và cùng với chúng sinh khiến phước đầy đủ. Phước trí, thừa giới, thể dụng, sự lý… tất cả đều không thiếu sót. Nếu thế đối với đẳng lục độ đều đủ cả năm, há lại không đầy đủ, đâu cần phải lập riêng một môn này? Đáp: Tất cần phương tiện thì mới đầy đủ. Hỏi: Nếu thế việc hồi hướng phải gá nhờ các hạnh. Các hạnh tuy đều không nói hồi hướng, hồi hướng cũng không nói các hạnh. Còn mất tuy khác, nhưng nên biết là không có thể riêng, thì cần gì phải lập riêng? Đáp: Tuy tướng đạo dẫn sở trị mỗi thứ sai khác, được tên lại khác. Thí là để trị xan tham, cho đến trí là để trị ngu si. Hồi Hướng tự làm lợi để trị quả gần. Do đó có Nguyện mà không hạnh khiến tu Lục độ thì lấy Lục độ làm tên. Nếu người có Lục độ mà không có hồi hướng thì khiến tu hồi hướng, tức từ hồi hướng làm tên. Trừ các nạn. Tiêm sư bảo: Thành luận nói: Bồ-tát lập bốn luân để tồi phục tám nạn: Sinh Trung Quốc Luân hay tồi phục năm nạn nghóa là ở ba nẽo, ở Bắc châu, ở Trường thọ thiên. Tu Chánh nguyện luân hay tồi phục nạn thế trí biện thông. Thực thiện nhân luân, hay tồi phục nạn mù điếc bẩm sinh. Cận thiển nhân luân hay tồi phục nạn trước Phật sau Phật. Đến ngài Thiện Cát…. Ngài Kinh Khê nói: Chương đó cũng là đối Nhị thừa mà luận nạn ngoại giới. Cũng lại không ước vào phương tiện quả báo. Nếu muốn nói tóm tắt thì người ba mươi tâm trong cõi Hữu dư là ba đường ác. Trụ pháp vô ngã thì gọi là ở Bắc châu. Địa tiền pháp ái thì như là Trường thọ thiên. Chưa có Sơ địa mười thứ sáu căn thì gọi là các căn không đầy đủ. Địa tiền trí cạn như thế trí Biện thông. Không thấu suốt lý trung thì như trước Phật sau Phật. Nếu trong Thật báo mỗi vị trông nhau thực hiện từng phần. Đây đều là chướng ở lý Trung đạo. Thế nên kết rằng ước bốn cõi mà chọn kỷ luận đủ, là đối ý đến mà suy nghó kỹ, đây không phải dễ dàng nên không lạm thuật. Giữ giới. Cơ, Thiên Quãng Nhã nói cơ là châm chọc, là hỏi, là nói. Thuyết Văn nói là chê bai. Ngài Kinh Khê nói: Bốn câu, là chuẩn theo kinh Chính dụng cú thứ hai trong bốn câu, là nhân tịnh độ chê người khác được tiện lợi dùng chung cú thứ ba. Sơ tâm Bồ-tát chưa hoàn toàn tự giữ, nên không luận. Trong cú thứ tư thì không chê một nữa lý cũng khá thông. Do không tự giữ nên cũng không phải. Chỉ ở cú đầu đều không có chỗ lấy. Kế dẫn Đại kinh chứng cú thứ ba, cho nên trong cú đầu đã không chê tự giữ, thì có ích gì? Thân ấy chẳng chánh tuy khiến vẫn không theo. Cho nên cú thứ hai Không khiến mà làm. Nếu thấy được Cơ thì nhất định dùng cú thứ hai, thứ ba vậy. Thứ hai là tự hành, thứ ba là lợi tha tức là hạnh tịnh độ vậy. Giả sử ba con… là Trưởng giả gồm có bốn con. Dụ về Phật cũng thế. Bắc Viễn nói: Hủy báng pháp. Phạm bốn trọng tội. Tội ngũ nghịch. Thập ác. Ba thứ trước gọi là do đánh gậy mà chết, vì không đánh gậy nên thập ác còn có thể sám hối. Có nghóa sinh thiện nên cần phải khổ trị. Trong sớ ngài Chương An lại ước giáo mà giải thích, thì ba thứ trước bị chê trách gọi là do đánh gậy mà chết. Ở Viên mà khởi tham đắm cũng phải chê trách, cho nên như một con cần phải khổ trị. Nay văn chứng giới lại đồng với lời giải thích xa. Đã nói chỉ thấy bốn cơ không nhầm, lại cần phải nương chứng cớ của ngài Chương An đã giải. Ngài La-thập chú rằng: Trên nói giới độ, nay lại nói giới, thì nghóa không ở giới. Muốn nhân giới để nói không chê. Nó thiếu sót nên không chê. Nó thiếu sót nên không biết mình thiếu sót. Không biết thiếu sót thì không gọi là phạm cấm. Lấy đây làm hạnh. Cho nên được thứ này làm quả, thì các ác đều dứt. Nên lấy thập thiện kế tiếp. Trước gồm ba giải thích đều rất chí lý, tùy người học lấy bỏ. Thập thiện, Nêu chung ngăn dứt, và làm. Ngăn dứt thì chỉ hay ngăn các ác trước không quấy não người khác. Làm thì đức cao quý được lợi an. Tất cả gọi chung là thiện. thiện là nghóa thuận lý, dứt điên đảo, về chân. Nên nói thuận lý. Đây là ngăn dứt mười ác, là chính nêu văn kinh, tức là không giết hại cho đến không tà kiến… đều là ngăn các việc ác trước. Còn nếu phóng sinh, bố thí, kính lễ, nói thành thật, nói lời hòa hợp, nói lời êm ái, nói lời có ích, quán bất tịnh, từ nhẫn, trí tuệ… thì gọi là làm thiện. Thứ lớp đối không sát đạo dâm vọng, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham, sân, si… mà nói. Bốn thứ sau là ước bốn giáo, ngài Kinh Khê nói: Nghóa ngăn dứt ác là chung, từ hạnh nguyện là riêng. Hỏi: Thập thiện này cùng với Thi-la trước đồng hay khác? Nếu đồng thì sao lại nhờ nêu tướng riêng là sao? Đáp: Thi-la tương thông đối với một người mà nói. Nay lìa mười thứ là đối với nhiều người. Tiêm sư nói văn trước, trong trì giới nói thập thiện, là ước mười thiện trên lại thêm trì giới, còn đây chỉ riêng tu thập thiện mà không thọ luật nghi. “Khiến không …” là giải thích riêng. Dọc suốt nguồn tâm. Tu nhân, Nêu ý phân chương là mười ba phen giúp nhau thành nhân tịnh độ. Ngài Kinh Khê nói: Trước giúp phen thứ hai cho đến thứ mười hai. Trong mười ba phen xét kỹ đầy đủ như trong giải thích sau: Trên từ trực tâm… là trên giải thích các hạnh, các hạnh so nhau nên gọi là ngang. Mỗi mỗi đều từ thế gian đến viên. Nghóa ấy tuy dọc nhưng kinh chỉ một lần nêu thẳng mà thôi. Cuối cùng thành hạnh ngang. Huống tuy dọc mà giải thích. Nhưng chỉ căn cứ giáo phán quyết cạn sâu không đồng. Thế nên tận nguồn cội mà tìm xét tâm niệm khiến từ hạnh cạn mà thấy ngang lý sâu, mới gọi là dọc. “Một căn cứ …” là tùy chương giải nghóa, Ước giáo. Ngài Kinh Khê nói: Khiến ra ngoài Viên giáo tận nguồn cội dễ hiển sáng, nên cần ước ba giáo mà giải thích thành hạnh dọc. Chọn bày: Trong kinh Thanh văn không có mười phương Phật, song tông Tiểu thừa chấp không đồng. Cũng có người nói có. Như Đàm-vô-đức Giới Bổn nói: “Cúi đầu kính lễ chư Phật”. Lại định Tiểu thừa thì trong ánh sáng thấy được mười phương Phật. Đây đều là nói có. Tát-bà-đa Giới Bổn nói: Kính lễ Đấng Thích sư Tử, thì không nói chư Phật, ấy là không có mười phương. Song phần lớn đều nói không. Nên nay nói không. Người xưa nói trong Tứ phần, phần chung Đại thừa, là thấy ở đây nói mười phương Phật, nhưng không biết tông Tiểu thừa mỗi phái chấp có khác. Về ngài Thân Tử nghi. Ngài Kinh Khê nói: Trong giáo tam tạng không có giáo tịnh độ, nhưng vì lấy phiền não nhuận nghiệp mà sinh, cho nên ở uế độ mà thành Phật, không làm lạ khi nghe Đại thừa nói có tịnh độ. Cho nên khiến ngài Thân Tử do đó nổi nghi. Lại dựa vào Đại thừa mới có việc biến đất, cho nên dùng bấm đất để trách Thân Tử, đâu thành giúp nghi cho Thân Tử. Nếu trong Tam tạng giáo mà lập giáo tịnh độ cùng giáo xưa trái nhau, thì Phật không do đâu mà giải nghi cho Thân Tử. Vô hạnh vô nhân, là có hạnh Lục độ mà không có giáo tịnh độ. Giáo không và hạnh thiếu thì trọn không thể thành Phật. Không có nhân tịnh độ, không có Phật của hạnh là có giáo mà không người. Hạnh Lục độ có nhân mà không quả hành đã không quả thì trở thành không hạnh. Hỏi: Nếu thế vì sao trước giải thích trực tâm… mà văn đều đủ năm. trực tâm của thế gian còn thành hạnh Bồ-tát, Tam tạng vì sao lại bỏ mất mà không nói là hạnh ư? Đáp: Từ bổn thì có, dựa vào tích mà nói thì không. Có giáo mà không người còn có thể tin vậy. Cần phiếm luận là Thông Biệt, hai giáo cũng không phải chánh ý, chỉ có thể phiếm luận để xét lường. “Nay là…” là chánh giải thích, Thông giáo. Ngài Kinh Khê nói: Ước Thông giáo mà giải thích. Trước lấy trực tâm đối Kiến địa mà nói Đăng địa thấy lý là thế nào? Đáp: Ở Thông giáo thì Bồ-tát thượng căn Sơ địa thấy chân, nghóa ở ba nguời cùng vị kiến chân. Nhập Địa thứ ba là thâm tâm, đây là trong mười ba cú nói: thâm tâm, không phải là thâm tâm của ba tâm trước. Cho nên thâm tâm trước chỉ là thâm tâm mới phát. So với người Thanh văn nên được tên là thâm mà thôi. Thứ tư …” nói sự lý đều làm cho đến trí tuệ để đối Thập địa đều từ thành tựu Biệt mà nói riêng. Sơ tâm của Thông giáo thì lý sự đều làm cũng phải hợp, có giáo hóa điều phục cho đến khởi căn, nên được gọi là xứ biệt. Cho nên riêng đối để thành nghóa dọc. Thông giáo còn thế, huống lại Viên giáo ư? Nói Thiện Tuệ, là mượn tên riêng để gọi chung, cho nên về Địa chẳng cần nêu tên, chỉ nói Sơ địa cho đến Thập địa. Chỉ có thứ chín thì tạm mượn tên riêng. Đến Thập địa thì gồm ba cú sau cùng kết thành Địa. Mượn mười Địa này, chính là mượn riêng vậy. Văn kinh chỉ nói từ đầu đến cuối tuy không có tên Địa, nhưng đã nói Đăng địa thì đã thấy chân lý, đâu phải chỉ dùng tên càn tuệ… Sơ địa của Thông giáo chưa gọi là trực, cho nên có thể mượn Biệt mà gọi thông. Sơ địa đoạn kiến vẫn thành nghóa Thông. Lại còn Thông giáo thì Địa tiền, không có Hiền. Cho nên Địa thứ mười bao gồm cả ba cú. Hai Địa trước đều gọi là trực, cho nên khiến Địa thứ mười bao gồm cả ba cú. Hỏi: Bồ-tát của Thông giáo có hạnh Tịnh độ, thì Bồ-tát biết là có mười phương chư Phật, còn Nhị thừa thì thế nào? Đáp: Tuy đồng một giáo nhưng Đại Tiểu khác nghóa. Nhị thừa thì đạo lý không hợp biết. Tuy cùng Nhị thừa đồng chứng giải thoát nhưng tự hạ mình không phát, vì vónh viễn không cầu. Lại Bồ-tát tuy biết có Phật cũng dứt hẳn. Dứt hẳn cho nên cùng nghóa nhận lấy cõi nước trái nhau. Cho nên biết Phật này không người mà có giáo. Giáo đã quyền lập không gọi nhân hạnh. Cho nên ở quyền giáo không cần hết khổ. Biệt giáo, có hai: a, Đối vị Thập địa. b, Đối mười bốn Bát-nhã. Ngài Kinh Khê nói: Giải thích xong đem các cú đối Địa. Kế lại ước mười bốn Bát-nhã, là đối biên mà khai hợp để tiện gọi tên nên hợp lý, nên tên thông cả đầu cuối. Nên hợp Địa tiền, là hợp ba mươi tâm làm ba, sau lấy Đẳng giác thành bốn, khai mười Địa thành mười nên có mười bốn. Sớ bổn nói gồm Địa tiền, thì chữ này là lầm vậy. Nếu nương mười bốn Bát-nhã, song muốn giải thích để nêu lý tức như văn từ trước nay đã nêu, thế nên một nhà giải nghóa, lấy nghóa giải văn, ắt không dùng tên mà chỉ hạn cục ở nghóa. Nên nói không đến thì không thông. Cho nên biết dùng tên mà hạn cuộc nghóa thì không Viên giáo, Chê biệt. b, “Nay vì…” là hiển bày Viên, Căn cứ sơ trụ, Chánh bày các cú. Trí tịch chiếu, là từ Sơ địa đến Đẳng giác chỉ gọi chiếu tịch, còn một vị diệu giác mới gọi tịch chiếu. Nên kinh Anh Lạc nói: Đẳng giác chiếu tịch, diệu giác tịch chiếu. Nay ước nghóa Viên thì đầu cuối cùng có, ở môn chữ A đủ tất cả nghóa. Cho nên biết sơ trụ từng phần có tịch chiếu từng phần nhập Tịch quang. Nếu ước văn trước thì dùng tịch nhẫn ba phẩm phối hợp với ba Tịch quang. Nay đây bèn dùng sơ trụ lý hiển gọi là hạ Tịch quang, Nhị Trụ trở lên gọi là trung phẩm, chỉ có Phật mới gọi là thượng. “Nên biết …” là kết Viên dung. Bốn mươi mốt chữ, thì trong Đại phẩm, bốn mươi hai chữ dùng dụ cho Viên vị. Đều đầy đủ các môn, ngài Kinh Khê nói: Đối với mười hai cú, mỗi cú khắp nhiếp mười bảy cú trước, cho đến mười vạn tất cả Phật pháp. Cho nên cú cú …” tùy việc nói mà nghóa thông ngang dọc. Phát tâm chánh hạnh… là bậc sơ tâm của Viên giáo phải ở sơ trụ mới được vô sinh. Đã đoạn vô minh hợp lý thì chỉ ở trong cõi quả báo. Phụ là nhận cơ hóa độ hai cõi dưới, tức là phương tiện và Đồng cư nào có ngại gì. Cũng được hóa độ một phần cõi Tịch quang. Hai cõi dưới không phải chánh nên gọi là phụ. “Sơ trụ …” là dựa vào vị sau.  <卷>QUYỂN 4 Quán tâm: Chánh giải thích nhân quả của quán tâm: Chánh nói nhân quả, có hai: Nói nhân tu quán hành. Sự lý giúp nhau, ngài Kinh Khê nói: Sự tức mười bảy cú trước, lý tức nay chỉ trực tâm. Sự lý bất thiện, tức là sự lý hai hoặc. Vì cõi Phật tịnh tức cảnh giới tịnh, nghóa là cảnh giới tức là chúng sinh được hóa độ. Cảnh được hóa độ tịnh thì nói pháp tịnh. Nói pháp tịnh nên rất minh tịnh. Do vật cơ sinh ra khiến nói ra uế, cho nên khiến chưa kham dùng tịnh trí để hóa độ. Hóa đạo chưa khắp nên chưa thấy bốn tịnh. Cho nên khiến chỗ nói ra được tên tịnh. Trí tuệ công đức tức là phước tuệ. Gọi quán hành tức, đây là dựa theo quán mà thành, tức vị năm phẩm mới tu ở vị Danh tự. “Pháp Hoa” là hướng đến quán hành đạo tràng. Cận phần chứng Bồ-đề. “Nếu công…” là nói quả nhập Phần chân, Từ hạnh mà nhập tương tợ. Quán hành trong thuần thục chư Phật, ngoài thêm nội ngoại mượn nhờ nhau, thô cấu tự mất. “Từ tương…” là từ tương tợ nhập chân. Hai phần đầu là phần chân làm Phật. Vào Đồng Luân, là Anh Lạc dùng sáu luân để dụ cho vị Thập trụ Đồng luân. Tức đối hai cõi Tự hành…, ngài Kinh Khê nói: Uế tịnh hai thứ cõi Đồng cư. Nói rằng khi trụ ở vị tương tợ của quán hành mà tu nhân Tịnh độ, nếu vào đồng luân thì ở hai cõi mà nhiếp giữ đồng loại, cho đến khiến vào cõi Hữu dư hay quả báo. “Cho nên” là dùng bốn câu kinh kết rằng giáo hóa chúng sinh điều phục… Tức dùng văn trước ngang dọc đối cõi mà giải thích hai thứ tịnh uế Đồng cư vậy. Nếu lấy trên hóa dưới tức là Hữu dư Đồng cư. Vì nói Đốn Tiệm… là lập năm thời giáo hóa. Nếu …” là chống vấn nạn giải thích thành. Nếu không ở hai cõi nhiếp độ chúng sinh năm thời giáo hóa, thì cần gì phải tám tướng? Tám tướng là giáng Đâu-suất, gá thai mẹ, giáng sinh, vượt thành xuất gia, hàng ma, thành đạo, thuyết pháp và nhập Niết-bàn. “Một mực” là kết khen quán giải. Một mực nghóa là quán tâm, đối văn nêu không phải thiết yếu. Hai phen không phải căn cứ quán tâm, thì không do đâu mà trình bày nghóa tâm tịnh thì cõi tịnh. Cho nên biết quán tâm đối nêu văn là rất cần thiết. Nên nói thật là nghóa cõi Phật chân tịnh Cõi Phật. Phần lớn là chấp văn… Văn tức văn tự, chỉ cho văn giải thích riêng ở trước. Ngài Kinh Khê nói: Giải thích riêng tức đối văn ba giáo. Cho nên trong ba tâm giải thích chung ở trước, thì chỉ là tâm tự tánh thanh tịnh mới gần với quán, còn các thứ khác đều nói là giáo. Thế nên căn cứ tâm Viên đốn mà giải thích để nói là đã hiểu sâu. “Lại nữa” là kết bày thành tướng Viên Biệt. Trước chính nói sự cần nhau. “Ví như không phải nhật…”, ngài Kinh Khê nói: Chỉ đến lý mà giải thích thì nghóa phải ở ngang, đối văn mà giải thích thì nghóa phải ở dọc. Thật sự ở Viên mà giải thích thì không cả ngang dọc. Viên Biệt đều là giáo còn chung thành ngang dọc cùng giúp nhau có ích, huống lấy giáo quán mà làm ngang dọc, chỉ đối ngang dọc mà càng giúp nhau. Cho nên lấy ngang… đối ba đức, tức đức Bát-nhã không phải dọc, mà dọc , đức Giải thoát không phải ngang mà ngang . Tức ngang dọc này là lý song phi “cùng không phải) của đức Pháp thân. Cho nên nói nếu không phải nhật thì không gì bằng. Nhật như hạnh ngang, Nguyệt như sơ trụ. “Năm…” tức như vị bốn mươi hai. “Nay ngang…”là chung thành ba đức. Nghóa cao rộng đã hiển sáng. Cao tức là dọc suốt lý như, rộng tức là ngang khắp pháp giới. “Không phải dọc” là phối hợp với ba đức như vừa ghi. “Như thế …” là nói cõi ấy có hai chữ nhất mới cũ. Thể chữ nhất mới có một chấm ở trên, hai chấm ở dưới. Cũng như ở Trung Quốc viết lối thảo chữ hạ. Cho nên dụ cho ba đức không dọc ngang. Phẩm Ai Thán trong kinh Niết-bàn có nói: Những gì gọi là tạng Bí mật cũng như chữ nhất ba chấm, nếu đều ngang thì không thành chữ nhất, mà dọc cũng không thành, như ba mắt trên mặt Ma-hê-thủ-la bèn thành chữ nhất. Ngã cũng như thế. Pháp giải tho- át cũng không phải Niết-bàn, thân Như Lai cũng không phải Niết-bàn, Ma-ha Bát-nhã cũng không phải Niết-bàn, ba pháp mỗi thứ đều khác cũng không phải Niết-bàn. Cho nên biết tức một mà ba, tức ba mà một mới là Niết-bàn vậy. “Nếu ba” là kết bày. Ba cõi bốn cõi, ngài Kinh Khê nói: Đối trong bốn cõi hợp ở phương tiện và Đồng cư đều là cõi ứng hóa nên nói là ba. Tiếp phần nêu văn, Mười hai cú giúp nhau. Nêu văn giải thích, ngài Kinh Khê nói vừa căn cứ giáo quán đều là giải kinh chưa phải là theo cú mà giải văn vậy. Trực tâm tức Trung đạo Viên giáo. Viên giáo như trong giáo quán trước. Hai thứ giáo quán đầy đủ mới là nghóa Viên môn chân Tịnh độ. Đầy đủ mắt chân, mắt và chân là dụ cho giải và hạnh. Ao tắm mát là dụ cho Niết-bàn. Ao tắm là trích từ Đại kinh. Mê hoặc ở Nhất đế pháp giới, tức là kiến tư mê chân, trần sa mê tục. Kim cang đảnh, tức bậc Đẳng giác nhập Kim cang dụ định có thể phá trừ nguyên phẩm Vô Minh, nên gọi là Kim cang đảnh. Cũng gọi là Kim cang tâm. Vì hoặc này khó phá, định như Kim cang đều nghiền nát tất cả. Nói có chung có riêng. Riêng thì ở Đẳng giác, nghóa thì chung các Địa. Chúng sinh Chánh báo đến Cõi Phật tịnh, ngài Kinh Khê nói: Trong đây chia làm Chỉ, Hành hai thiện. Nhưng đối Y tịnh và cõi Phật nghiêm, thì không phải chỉ riêng Y và cõi nghiêm mà thôi, mà cả Chánh báo cũng hợp với Thanh tịnh và nghiêm. Nhưng nay chính là nói về y báo. Chánh báo chỉ hành tức là Bố thí và Nguyện gia hộ gọi là Thanh tịnh. Như thành năm độ cho đến Thập thiện tất cả đều như thế. Như bốn Vô lượng tâm vốn là lợi tha còn có chỉ hành. Như trị sân… há không phải là chỉ thiện, vì nhiếp sinh há không phải là hành thiện. Các hạnh khác chuẩn theo đó mà biết. Cũng như người đời…, tức còn đời trước, vì pháp có liên quan nên mới cảm ứng như thế. Kết toát yếu: Cõi Phật tịnh…, ngài Kinh Khê nói: Y vào văn kinh này giải thích cho đến văn bốn thứ, sở dó đủ hai thứ là do trước đã ước phần này. Từ “Hựu bốn… “ tức căn cứ vượt tiết. Tự hành thì ước lý tánh, hóa tha thì căn cứ bi nguyện. Nguyện căn cứ đều khiến đến tự tánh. Cho nên Chánh ý đều là tịnh tâm. Đây có hai ý: Câu câu đều nêu khác nhưng không ngoài tịnh tâm. Ý mười hai cú là tại cú tịnh tâm thứ mười ba. Cho nên biết: Tịnh tâm, là trước phải tịnh tâm mình, sau mới tịnh tâm người. Tâm người nếu tịnh, thì ở chỗ thành Phật, các chúng sinh tâm tịnh sẽ sinh về nước ấy. Kế nhảy tiết, tức chỉ do tự tánh thanh tịnh, tâm tịnh tức nhập sơ trụ, có thể hiện bốn cõi, để nhiếp lấy chúng sinh. Bốn cõi bốn tâm thảy đều thanh tịnh. Bốn tâm chúng sinh, phân biệt tuy khác, nhưng rốt ráo vẫn không ngoài một thể. Cho nên tịnh tự tha, chỉ là tự tánh tịnh tâm tịnh. Khi hoặc sự lý trừ hết, thì đến đây mới gồm luận Chánh báo. Sự lý chỉ là hoặc chướng chân và Chướng trung mà thôi. Chướng chân là sự, Chướng trung là lý, hai hoặc đều trừ hết. Cảm cõi Thường tịch mỗi thứ đều thấy tịnh uế, tức năm trược nhẹ nặng thì ở Đồng cư tịnh uế. Thể tích khéo vụng thì ở hữu dư tịnh uế. Thứ lớp đốn nhập vào Thật báo tịnh uế. Phần chứng rốt ráo là Tịch quang tịnh uế. Đây đều tùy cơ mà cảm thấy sai khác, như sắc cơm có khác. Diệu thể của Tịch quang vốn tự không sai khác cũng như một thứ đồ đựng cơm. Tiếp, Thân Tử sinh nghi, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, lý do sinh nghi. Từ Đại thừa Phương đẳng đến Tịnh độ, ngài Kinh Khê nói từ trước Phương đẳng không nói trong cõi uế này có tịnh, thuần là người Tiểu thừa, từ trước từ đó đến nay chưa biết, cho nên nói là bí mật. Bởi do trước đây chưa kham hiển lộ. Đến nay trong kinh mới hiển bày bí mật xưa. Vì chê bác Tiểu tông nên nói là có căn cứ giáo tạm Không. Nương nhờ đạo lý mà luận, do đó nói có. Chưa thể xứng cơ nên nghi mà hỏi, hơn nữa từ tích mà nói là nhờ Phật lực. Nếu từ bản là luận tự lực thì cũng có thể tự lực, tuy chung quy cũng phải nhường chủ nhân. Cho nên dẫn kinh Pháp Hoa để dẫn việc phát tích. Lại nếu không nhờ gia hộ thì không do đâu mà sinh nghi thêm lý do nghi có thể thêm lý do trí. Chánh nghi, ngài Kinh Khê nói: Bồ-tát ba phen bỏ lập nghi tông. Tam Tạng giáo tông khi tu ba phen là hạnh Tịnh độ. Cùng mười phương Phật Chánh báo có quả đồng. ‘Sao được” là nhân nghe mà có nghi. Nếu hạnh ba kỳ là tịnh hóa cõi Phật, thì cõi Đức Thích-ca nay tức phải tịnh. Đây nghi Đức Thích-ca khi còn là Bồ-tát thì tâm không tịnh. “Nếu không …” là kết nghi. Nói lật ngược lại, tức vì cõi mà nghi Phật, vì Phật mà nghi cõi Tiếp, Phật giải nghi, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Phật dùng nhật nguyệt mà hỏi. Do các báu mà thành, tức nhật cung là do Xích kim pha lê tạo nên. Nguyệt cung là do bạch ngân lưu ly tạo thành. “Trong đó”, ngài Kinh Khê nói: Thiên tử dụ chân thân, cung điện dụ chân độ. Mà nói chân Ứng hai cõi “độ), chỉ là văn tóm lược. Ứng là cùng nêu thân và độ. Vạn đức …” là nói chân hay khởi ứng, cho nên hợp mà nêu. Chỗ nương của chân ứng Pháp thân, thì chân là Pháp thân chung gọi chỗ nương cho đến chỗ chiếu, tức là Đồng cư tịnh… bốn cõi. “Lại dụ” là trước gồm lấy nhật nguyệt cho đến Thiên tử để chỉ dụ cho năng chiếu sở y. Nay đặt Thiên tử. Lại lìa nhật nguyệt mà dụ cho chân duyên, thì dụ thành thục và chiếu bày vậy. Mù là hai việc đều không thấy. Cho nên duyên tu địa tiền, chân tu đăng địa, chân duyên lúc hợp, thì phá được một phần vô minh. Tức có chân thân nương vào cõi thật mà thường soi chiếu cả ba cõi. Chúng sinh thành thục, là dụ cho Chánh báo nói pháp. Chiếu bày, tức dụ cho Cõi Phật nhiếp chúng sinh. Thường Tự chiếu bày bốn thứ Tịnh độ, là lại đặt ra Đồng cư uế vậy. “Là hai duyên tập…”, đây bèn cùng nêu các thứ đã dứt trừ. Ngài Thân Tử tuy trừ hữu vi duyên tập nhưng cũng còn vô vi nên không thấy bốn cõi tịnh. Lại nữa, Thân Tử dẫu đã trừ uế trong hữu vi duyên tập mà cũng không thấy được tịnh Đồng cư. Cho nên gồm lấy hai chướng, che hết năm nhãn, để trách Thân Tử. Lại hữu vi và vô vi, là giải thích về mù là do các thứ ấy. Tiếp, Thân Tử dùng sự mà đáp. Ngài Kinh Khê nói: Ngài Thân Tử cũng chưa ngộ ở ý chỉ sâu xa về dụ nhật nguyệt, lại chỉ nương sự mà đáp thôi. Tiếp là Phật hợp. Chúng sinh đến không thấy Đồng cư Tịnh độ, là tuy từ gần mà nói, chính là lấy văn này mà trách ngài Thân Tử không thấy bốn tịnh. Thế nên lại lấy Đồng cư mà nói. Đâu lại khiến Thân Tử thấy được cõi Hữu dư và quả báo. Vì theo lý nên văn gồm lấy hữu dư… mà hợp. Cho nên từ “tội nội giới …” thứ lớp mà hợp. Nói tội nội giới, tức là chấp chân đế nội giới, bèn làm chướng cho Đồng cư Tịnh độ. Tội này tức lấy vô vi tập họp cùng chướng che năm nhãn cho nên không thấy được bốn thứ Tịnh độ. Nếu chỉ chê trách riêng là không thấy Tịnh độ Đồng cư thì không cần nói hai thứ duyên tập để trách chung. Nên thứ lớp mà giải thích ra. Nếu thế trong Đồng cư tịnh cũng có chấp chân cùng hợp với vô vi, sao được thấy Đồng cư là tịnh? Đáp: Vì người sinh cõi ấy đã trừ hết hai thứ chướng nội giới, nên nay từ uế mà trách. Cho nên nói chướng ông ấy Đồng cư Tịnh độ. Nếu từ Đồng cư tịnh mà trách thì chỉ được nói không được thấy hữu dư, quả báo… ba cõi. Có bốn thứ tội chướng trước, là chướng hữu vi duyên tập nội giới, chướng trần sa nội giới, chướng trần sa ngoại giới, chướng vô minh ngoại giới, mà bốn chướng này ở bốn tịnh. Cho nên biết Thân Tử đủ bốn thứ chướng ấy. Ngài Thân Tử tuy trừ được ác tập hữu vi, nhưng do ở tịnh tập hữu vi không nương Phật tuệ, cho nên khiến ở cấu không thấy được tịnh. Do đó, cả bốn tịnh đều không thấy. Tiếp là Ngài Loa Kế tự đem sở kiến của mình giải nghi cho ngài Thân Tử, có hai: a, Nêu ý phân khoa. Sinh thiện nghe tin, ngài Kinh Khê nói: Mới nghe chưa tin, khi thấy tướng rồi mới phục, phục rồi mới tin, nên những gì nghe không uổng phí. Thế nên hai thứ đều gọi là sinh thiện. “Văn đầu …” là tùy văn giải nghóa, Trước trách ngài Thân Tử nghi. Chính nêu chỗ thấy mà giải nghi: Phân khoa. Tùy giải thích, Phạm vương thấy tịnh, ngài Kinh Khê nói Phạm vương muốn hiển bày sự không kỳ lạ về việc bấm đất của Như Lai. Đệ Lục Thiên Bảo, kinh Vô Lượng Thọ quyển thượng nói: Thế giới Tây phương gọi là An lạc, cõi nước Phật ấy bảy báu tự nhiên vượt hẳn tất cả thế giới ở mười phương, các báu vật trong cõi ấy đẹp tinh như báu vật ở trời thứ sáu. Ngài Kinh Khê nói. Hỏi: Nếu Đồng cư tịnh đối với uế là ngang, thì cõi Hương tích cũng được phán quyết là tịnh Đồng cư, vì sao trên ấy cho là hằng Sa? Đáp: Phàm luận dọc, là căn cứ cạn sâu chưa hẳn đã hơn nhiều thì ở trên. Nếu thấy cõi hai, ba là như cõi một, nên nói là ngang. Trên dưới đều đồng nhau há được là dọc. Nếu dựa vào hình tướng thì không khác chi cõi An dưỡng, chỉ không nêu Tiểu thừa là không đồng. Tuy An dưỡng gồm cả Tiểu nhưng nghóa chỉ là Đại. Hỏi: Báu vật để trang nghiêm cõi nước là ở đâu nói? Đáp: Chỉ là cõi An dưỡng nêu gần để so xa, tức nêu báu vật của sáu tầng trời cõi Dục này để so với báu vật ở Tây phương Tịnh độ thì không ngang nhau. b, Thân Tử thấy uế. c, Giải thích nguyên do thấy uế tịnh. Ngài Kinh Khê nói: Văn này lại dựa vào việc nói nương Phật tuệ thì thấy Tịnh độ. Nên biết Phật tuệ lý thông với Đại thừa, nói bình đẳng lại gồm ba giáo, đây để trách chung ngài Thân Tử chỉ thấy uế mà không thấy được bốn tịnh. Tiếp, Phật hiện Tịnh độ giải nghi, Phân khoa. Tùy giải thích, Bấm đất hiện cõi tịnh. Ngài Kinh Khê nói: Theo Biệt thì chỉ có một Đồng cư. Theo lý thông thì chung bốn tịnh, cùng với ý dụ nhật nguyệt trước cũng đồng. Trước nói các Phương đẳng trở đi, ở trước dù thấy thân Phật Thắng ứng cũng không cho thân này riêng có Tịnh độ, nay nhờ Phật lực cũng chưa biết được cõi Thường tịch của Phật cho đến cõi quả báo. Tùy cơ mà thấy nên bỏ mà không luận. Nên việc tùy cơ này vẫn thuộc bí mật không đồng với Hoa nghiêm, tất cả đều thấy đều nghe. Tất cả đều có lý sinh Tịnh độ là ngồi tòa sen biểu thị cho Đồng cư tịnh nhưng vẫn thông với bốn tịnh. Nếu đến Pháp Hoa nhân bốn tịnh đã đầy đủ nhờ được thọ ký, sau phá từng phần vô minh, đâu không phải đã một phần hiển bày cõi Thường tịch quang. Cho nên trong Tịch quang thì ba cõi đã đầy đủ, tự lực ở đấy. Nên nói lý thế. Tiếp đến hỏi Thân Tử. Đáp và Chánh giải nghi, Phân khoa và Tùy giải thích, pháp. Dụ, gồm Phân khoa và tùy giải thích: “Khai dụ cơm khác…” ngài Kinh Khê nói: Thường tịch tức là đồ đựng, Đồng cư, hữu dư, quả báo là ba, đều là ngài Thân Tử thấy lý phải có bốn. Đồng cư tịnh uế hợp lại một cõi mà nói. Cho nên chỉ nói ba mà không được nói bốn. Hợp dụ. Ngài Kinh Khê nói: Mười thứ là: Một phen riêng trách Thân Tử, chín phen sau là ngầm trách chung. Cùng dụ người và dụ bấm đất thì ý rất giống. Văn thứ mười nói: Các cõi không phải cấu… là phải đem Tịch quang mà đối với chín thứ trước. Nên nói rằng chín thứ trước không phải cấu không phải tịnh mà gọi là cấu. Cõi Thường tịch quang cũng không phải cấu tịnh mà gọi là tịnh. Trước Đồng cư tịnh uế nói năm trược nặng nhẹ… thì cũng được là nhẹ nên gọi là cùng tịnh. Vì ở đó kiến tư nhẹ, chúng sinh ở đó có thọ mạng kiếp số… các tướng tất cả đều hơn cõi này, nên gọi là nhẹ. Trên dưới so nhau, bắt đầu là sơ trụ của Viên, cuối cùng là Địa thứ chín đều gọi quả báo. Địa thứ mười và Đẳng giác, Diệu giác là ba phẩm Tịch nhẫn tức là ba phẩm Tịch quang, như văn sớ trước đã giải thích. Nay so sánh xét văn này là chính dùng nghóa này. Nói quả báo cùng hạ Tịch quang đều ngang nhau, tức là Cửu địa và Thập địa ngang nhau. Bảy và tám tức là Đẳng giác, Diệu giác. Mười, các cõi trở đi, ngài Kinh Khê nói: Tuy tức tất cả đều không phải cấu tịnh mà cấu mà tịnh, cũng thành khác nhau. Hỏi: Vì sao không phải cấu không phải tịnh? Đáp: Có sự lý, nếu luận về lý thì không có cấu tịnh, còn căn cứ sự thì chỉ có Tịch quang luôn tịnh. Lại cõi Tịch quang khác các cõi, cho nên không phải cấu tức là các cõi, cho nên không phải tịnh các cõi tức là Tịch quang, cho nên không phải cấu. Khác Tịch quang nên không phải tịnh. Hỏi: Trong giải thích Thiên khí “đồ đựng cơm trời) trước, có lấy Tịch quang để dụ cho khí, còn các cõi như cơm. Nay vì sao đem Tịch quang dụ cho cơm? Đáp: Không thể lấy dụ mà dụ cho chân giải thoát. Nếu dùng thí dụ thì chung riêng đều thông. Riêng thì như việc đó, còn chung thì như ở đây. Đó đây đều là lý thí dụ sao bỏ mất đi? Các cõi và cõi Tịch quang đều không phải cấu tịnh mà cấu mà tịnh, nên lấy làm cơm. Nếu mượn mà luận, thì ở cõi quả báo nhìn sang Tịch quang sắc đồ đựng sẽ nhập vào sắc cơm, khiến cơm có sắc khác, cho nên trên một sắc cơm có đồ đựng thì cơm có hai sắc, cũng gọi là sắc cơm có khác. Các bậc hạ, trung, thượng của Tịch quang lần lượt cùng sánh với đồ đựng có nhiều sắc cùng đều nhập vào sắc cơm. Lần lượt hỗ tương sánh nhau cũng gọi là sắc cơm có khác. Nếu lại lấy Tịch quang mà đối các cõi khác thì đều cùng không phải tịnh uế. Riêng luận về sắc cơm có khác, thì cơm và đồ đựng đều bốn vi tế, mỗi mỗi không phải cơm và đồ đựng mà thường thành cơm và đồ đựng. Cho nên phải chung riêng hai ví dụ, lý nó đều khéo thành. Tiếp là phần Thời chúng được lợi ích, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Hiện Tịnh độ được lợi ích, có năm trăm vị được nhẫn, tức thông với Thất địa…, ngài Kinh Khê nói: Đã chung nhận ba giáo là vô sinh nên phải đem cái trước lần lượt vào cái sau để luận về được. Hoặc vượt bâïc hoặc thứ lớp bắt đầu từ Bát địa phàm phu mà ra, hoặc từ Tiểu thừa phương tiện mà đến. Tám vạn người phát tâm như trước đã phân biệt. Như trước nói năm trăm vị đã phát tâm là ước vị tương tự. Ngài Kinh Khê nói tám vạn người phát tâm chuẩn theo trước mà được nhẫn. Hoặc ở giáo trước đã từng phát tâm, nay nghe giáo sau mà có thể phát lại. Hoặc vượt bực hoặc thứ lớp mà từ phàm đến Thánh. Chuẩn theo mà nói có thể biết. Lại còn uế mà được lợi ích. -------------------------------- <詞>PHẨM : PHƯƠNG TIỆN Từ phẩm Phương Tiện đến hết phẩm Hương Tích, cả chín phẩm này nói Đại só giúp Phật mở mang bất tư nghì giải thoát nhân quả Phật quốc, có hai: Một là nêu ý phân chương. Để phá hữu vi…, ngài Kinh Khê nói: Nay dựa vào nhà mua bán dâm, quán rượu… các nơi, chính nói việc hữu vi duyên tập. Đã nói hiển bày bất tư nghì Pháp thân tức chỉ điều kinh trước nói, phù hợp thành tức chỉ thuyết kinh này. Một mực tuy như thế, nhưng không bằng nói phá hữu vi vô vi duyên tập để thành bốn cõi “độ). Hai là dựa vào chương giải nghóa, có ba: a, Nói phương tiện. Nói đến Phật quốc, Chánh nói: Nói Như Lai thân bàn bậc Thượng căn học đạo. Trước đối Phổ Tập, ngài Kinh Khê nói: Kinh này tông khác nhưng thể cùng nó đồng, vì vậy cũng lấy chân tánh làm thể. Sở dó lại dùng thể kinh trước, là vì Pháp Hoa độc hiển còn cùng tất cả Đại thừa đồng thể, huống là đều gồm mang thể đồng có gì lạ! Song chỉ cần lấy tông đối thể mà lựa chọn. Nên nói thể là thể của tông gia, tông là tông của thể gia. Thể là sở thủ, tông là năng thủ. Cho nên đem kinh này so với kinh Phổ Tập thì y chánh tự phân chia. Vì vậy khiến Pháp Hoa một thừa nhân quả, sở thủ của tông không đồng các kinh. Kinh này bèn là Tông sở thủ của nhân quả Phật quốc. Cho nên khiến tông của thể gia khác hẳn các thuyết. Vì thể trông vào tông đồng mà lại khác, vì tông trông vào thể khác mà lại đồng. Hiểu sâu ý này có thể dùng để phán quyết các giáo, có thể hội nhập các bộ. Nay vì mê, nên y chánh mỗi thứ đều luận. Khi đã hiểu rõ há lại nghe Chánh báo mà mịt mờ y báo ư? Cho nên nay nói y cần phải kể lại. Nên ở văn sau hỏi đáp mà chọn ra ý chỉ. Lại cần phải biết, nghe kinh Phổ Tập trước kịp khi nghe Phật quốc thì liền được khai ngộ. Tuy có trước sau, nay trông vào phương tiện mà gọi chung là Thượng căn. “Phương tiện…” thì gọi trung gọi hạ. Thượng căn thì lợi, Trung hạ thì độn, cho đến truyền làm lợi độn. Vi mạt …” là ngài Tịnh Danh khen thưởng trung hạ được ngộ, Chánh nói nhận lợi ích. Vì người chưa hiểu tức căn trung hạ, khiến lìa các duyên tập. Ngài Kinh Khê nói: Tiếng gọi chung về các duyên tập. “ Nếu tịnh …” là cảm quả đến sinh. Hỏi …” là liệu giản. Chung làm thể cho các kinh, đây là nói nghóa thể đồng, như trước đã ghi “ký). Nếu lại dùng sự mà phân biệt “giản) thì kinh Phổ Tập đâu không nói tông, kinh này há không nói thể? Cho nên biết cả hai kinh đều luận về tông thể. Văn theo ảnh lược, cho nên lấy kinh Phổ Tập làm thể cho kinh này, kinh này làm tông cho kinh Phổ Tập. Sinh khởi thứ lớp khiến không rối loạn. Cũng lại lấy kinh Phổ Tập làm tựa cho kinh này, đâu lại khiến kinh Phổ Tập không chính thức mà kinh này không tựa ư? Lược giải thích nghóa phương tiện: Nêu chương. Tùy giải thích Giải thích năm chương, có năm: 1’, Lược giải thích tên. Ngài Kinh Khê nói: Trong Pháp Hoa sớ vì hiển thật nên phân làm ba giải thích. Nghóa là pháp dụng, môn và bí diệu. Nay bỏ hai, chỉ lấy pháp dụng, tức môn là luận hướng vào, Bí diệu thì khai quyền. Nay chưa khai quyền nên thiếu giải thích sau. Không lấy môn, là vì Bồ-tát có thể nhập, còn Nhị thừa thiếu sót. Đối với Bồ-tát đã căn cứ đương phần lại bỏ truyền nhập cho nên lại không nói. Dựa vào lý cũng hợp cùng dụng môn một nghóa. Vì đương phần nhập cùng pháp dụng đồng, nên lại chỉ dùng một ý với pháp dụng. Lại thông suốt Bí giáo cũng có thể dùng đầy đủ ba nghóa ấy, mới là chỗ trí hiểu thiên lệch. Pháp thì văn nay lại chỉ cho phép ba lệch. Pháp Hoa sớ đều chỉ bốn giáo đều gọi là pháp. Cho nên vì chưa viên dung nên mới thuộc phương tiện của kinh này, không giống với kinh kia xét về bốn giáo. Căn cứ ở giáo đồng dị, ngài Kinh Khê nói: Kế căn cứ bốn giáo mà luận chỗ bất đồng, tức là kinh luận chỗ nêu ra không đồng. Văn trước đều chỉ nêu hai môn Có và không có mà thôi. Thiếu ba, bốn, tức hiểu hai thì hiểu ba, bốn. Song dụng là ba, song phi là bốn. Thế nên không nêu lại ba, bốn. Lại còn giáo sau trông vào giáo trước hoặc Thật hoặc Quyền mà nói giáo nói chứng. Hoặc tha hoặc tự, tự tha đối nhau đều gọi là quyền. Đã không phải việc làm của đương giáo, dụng trông từ nói, nên đều là Quyền. Lại trong đương giáo tự tha đối nhau đều dùng giáo trước hoặc chứng hoặc nói đều là quyền cả, vì cùng đoạt nhau, đoạt trước là thật, thành sau là quyền. Đương giáo cũng được gọi là Thật. Vì muốn đối luận một đôi nên lập tự tha. Như Đại kinh có nói: Chỗ thấy của người đời… tam giác Ngài Kinh Khê nói như Tỳ-đàm đến Thật trí. Hỏi: Trong đây đã nói: Sự lý vô thường. Sự thì có thể là vô thường, còn lý vì sao như thế? Đáp: Chiếu lý về Không cũng gọi là vô thường. Cho nên khiến thành luận để trong hữu môn, sự lý đều quyền, vì chấp lý hữu môn tức sự. Pháp chướng, tức là nội giới trần sa. Thông giáo, ngài Kinh Khê nói: Cũng có thể dẫn Đại phẩm. Nếu có pháp khác Niết-bàn, là chứng ở thật trí cũng gọi là huyễn. Phật và Bát địa chỗ chứng ngang nhau, chỉ Phật là ít lưu lại tập dư thôi. Biệt giáo chiếu lý tạng, tức lý Đản trung bị hoặc che như mây ngoài trăng, như vàng trong đá… Viên giáo, ngài Kinh Khê nói. “Thế nên Văn-thù…”, đây là chánh dẫn chứng thật tự hành. Cũng nên dẫn cả ba mươi hai người mỗi mỗi tự nói để chứng về môn hóa tha. Nhưng môn không đồng tức là quyền vậy. Các môn không hai, Hóa tha ấy là thật. Cũng có thể ngài Văn-thù vì chứng tự tha, vì có nói năng, nên gọi là Hóa tha. Nói đối không nói gọi là tự hành. Phương tiện dùng pháp, Chánh nói sở dụng. Nói chung. Càng luận càng không phải thật, một tâm đầy đủ gồm cả Không Trung. Không Trung còn mất cả quyền thật đâu ở Tất-đàn mà hành bốn giáo lợi vật. “ Nhưng Anh Lạc …” là giải thích riêng, , Dẫn kinh Anh Lạc nêu tên. Ngài Kinh Khê nói: Chỉ trước kể ba thứ phương tiện trong kinh Anh Lạc, giải nghóa lại nguyên do của phương tiện, ý nói trong phẩm này Đại só đã dùng các phương tiện khéo léo, đầy đủ như kinh Anh Lạc nói về ba thứ phương tiện khiến chánh pháp trụ thế lâu dài. Phối hợp với kinh này mà giải nghóa, Xa gần phối giải; ngài Kinh Khê nói: Nói xa gần, là ở ngoài thất các nơi như nhà mua bán dâm, quán rượu… như thế các việc nay đã lìa xa, nên gọi là xa. Nhìn về các người đến thăm bệnh nói trở về Am viên để Phật ấn chứng là thời gian gấp, nên gọi là gần. Xa gần đều là duyên trợ hóa, tất cả đều khiến Chánh pháp được lâu dài. Nói trụ thế lâu dài, là thấy được Phật tánh. Khuyên cầu thân Phật, tức đoạn kinh sau nói: Này các nhân giả đây nên chán sợ, hãy ham thích thân Phật. Tiếp dẫn luận giải thích thành. Ngài Kinh Khê nói: Do đó Trung luận…, tức cùng Trung luận đời sau đại ý của quán pháp đều đồng. Kinh luận xa gần không ngoài ba thứ này. “Cho nên trước…” là nêu kinh luận để kết. Ngài Kinh Khê nói. Nay dẫn văn kinh tùy phương tiện mà nói đều hàm ý phá lập việc trụ thế lâu dài. Nói giúp Phật, thì việc đại hóa của Phật cũng không ngoài ba nghiệp này. Dựa vào hỗ dừng của ba nghiệp. Chánh giải thích ba nghiệp. Chính nói ba mật. “Chư Phật Bồ-tát…” ngài Kinh Khê nói: Tức là tự hành vốn “không” ba nghiệp và mười giới, cho nên không phải một và khác. Vì hóa độ chúng sinh mà lấy ba nghiệp và mười giới để hóa vật. Các dụng như thế người khác không thể lường biết được, nên gọi là mật. “Tạng, Thông…” là căn cứ tên mà phán giáo. Hai giáo tác ý không phải như bóng của gương, cho nên chỉ nói về thần thông mà không nói về việc ứng hiện. “Biệt Viên …” là Địa trụ trở lên không mưu cầu mà hóa độ thì như gương hiện cảnh vật, như nước hiện trăng, nên gọi là ứng hiện. Vì hơn hay bao gồm kém nên cũng gọi là thần thông. Tên dầu đồng với hai giáo nhưng thể dụng hoàn toàn khác hẳn. Ngài Kinh Khê nói: Lấy thần thông phẩm trước để chỉ bày phẩm nay, chỗ dùng không giống nhau, cho nên đối ba nghiệp mà nói phương tiện. “Phẩm này…” là nay luận kinh này. “Ba thứ này…” là kết tên bày nghóa, có hai: a, Chỉ nghóa mật. Vô phương lợi vật là cơ thành thục thì ứng không nhất định một phương nào, nên nói vô phương. Chu Dịch nói: “Thần không có phương, Dịch không có thể”. Khổng Dónh Đạt giải rằng: Không nhất định hệ thuộc vào một phương nào. Không lường được cội gốc, là chỉ thấy ba nghiệp ra làm mà không lường biết được chứng cớ rốt ráo. Đây là thấy dụng mà không lường được thể, nên lấy không lường để giải thích nghóa mật, tức như ngài Kinh Khê nói người khác không thể lường biết được nên nói là Mật. Lại ngài Kinh Khê nói: Mật là trong tất cả mỗi giới đều đủ mười. Cho nên không thể lấy một giới mà lường biết, cũng không thể lấy nhiều giới mà lường biết được, nên gọi là mật. “Cũng gọi…” là kết tên khác. Thánh nhân ba nghiệp đã gọi là Mật, lại dựa vào công dụng mà lập bốn tên khác là: Luân, không lỗi, bất hộ và tùy trí. Dùng tuệ độ người dẹp tan các hoặc, là dụ cho luân. Đã không lầm lỗi nên không cần phòng hộ và ngu hoặc đã hết, nên tùy trí mà làm…“Bởi vì…” là kết bày diệu dụng. Đồng ở thất trống. Thất trống là biểu thị cho cõi Tịch quang. Ngài Kinh Khê nói chính là bày cõi Đồng cư hiện bệnh mà được tên, nên gọi là phẩm Phương Tiện. Căn cứ quán tâm: Nhất tâm đến ý biết, ngài Kinh Khê nói: Đây chỉ là tướng các căn mới tu ba nghiệp mười giới. Nếu Bát-nhã lập các giáo các quán, thì nguyên ý chỉ là thành cái diệu quán này. Chọn nói, hỏi. Đáp. Lời giải xưa. Ngài Kinh Khê nói: Đây đủ ba ý mà không như xưa, đâu ngại gì một phẩm là tập hợp kinh. Vì trong các kinh tiếng lúc bấy giờ đều do người kết tập nói nên không dùng. Kế là nhà giải thích, há có Bảo Tích mà không nói là bạch Phật. Ở trước Phật mà kể việc ngài Tịnh Danh bèn chuyên nói Tỳ-da-ly… b, Nay giải thích e là, là biểu thị không phải chấp nhất định, là Đại sư khiêm nhường mà nói thế. Từ “A-nan… vi thuyết”, đây là một trong bốn nguyện của kinh Báo Ân. Như phần giải thích thông tự đã nói rõ. Đã nguyện nay nhắc lại để nghiệm biết. Lúc đó Phật vì A-nan nói lại phẩm này, cho nên đến khi kết tập liền đọc ra. Ngài Kinh Khê nói: Cho nên biết. Nay hiểu sâu được ý chỉ kinh nói thêm bản nguyện của ngài A-nan cho biết là do đâu mà có. Vào văn giải thích: Phân khoa nêu ý, “Hình thanh …” là nêu ý. “Căn cứ phần đầu…” là theo văn giải nghóa, Nửa phẩm nói về phương tiện lợi ích của hình, có hai: Phân khoa. Tùy giải thích, Khen đức, Nêu trụ xứ và người, có hai: 1+, Giải thích chung. Có đức người lớn, Phong Tục thông nói rằng: Cuối thời Xuân Thu, nước Triïnh có Hiền nhân làm một thiên sách tên Trịnh Trưởng giả, cho rằng: Tuổi già đức lớn, địa vị hơn người do đó gọi là Trưởng giả. Lại làm lợi ích cho cơ nay, tức nghe kể lại việc chê trách thì đều được lợi ích về Viên Đại. Nhân đó công thành, ngài Kinh Khê nói: Xưa ích nay ích, chung riêng đều ích, kẻ bị chê ích, kẻ thuần thục cũng ích, hiện tại hay vị lai cũng ích, Đại hay Tiểu, Thiên hay Viên cũng đều ích, trước sau thâu gồm bệnh nhiếp tất cả. Bệnh là công năng cùng cực nhứt của pháp giới. “Duy-ma…” là giải thích riêng, Giải thích Duy-ma như giải thích trước, ngài Kinh Khê nói: Đầy đủ như huyền văn đã nói trong giải thích tên. “Trưởng…”, nay giải thích Trưởng giả, luận bày Bổn tích. “Nay lược…” là khai chương giải nghóa, Nêu chương. “Trích văn giải thích…” là văn khen đức. Do đó mà thử phân khoa. Ngài Kinh Khê nói: Pháp Hoa Sớ giải thích Trưởng giả chia ra bốn nghóa. Nay cũng đủ bốn: Thế Trưởng giả, là mượn để dụ sự lý. Pháp thân Trưởng giả, là sự lý phù hợp nhau, tên đồng mà lý khác. Quán tâm Trưởng giả, tức là hành tướng của Pháp thân Trưởng giả, cũng là nhân quả của Pháp thân Trưởng giả. Thiếp kinh Trưởng giả tức là thành chứng của nhân quả Trưởng giả. Cũng có thứ lớp hiển bày trong văn kinh. Hỏi: Đã nói nhân quả, nay tu mười pháp tức được mười pháp của ngài Tịnh Danh chăng? Đáp: Y kinh mà tu quán đạo lý đều như thế. Ngài Tịnh Danh một đức đủ cả chín, khi tu tất cả các cú dung nhau. Nếu tu một đức còn đủ mười đức, huống tu mười đức mà không đủ mười sao? Chỉ lấy một đức mà nói đầu mối, nên tu mười đức cùng thành một đức. Các đức khác cũng thế mới gọi là cụ đức. Cho nên khi tu thì một cú khắp nhiếp, thì khiến đến quả một đức gồm thâu. Hỏi: Nếu thế thì mười đức này tức là mười hiệu chăng? Đáp: Tên khác mà nghóa hợp. Vì sao, vì từ đạo như thật, nên gọi là tánh quý kham ứng cúng, do đó mà vị cao. Vì khắp biết đâu chẳng phải lợi ích nhiều. Đã đủ cả thông minh tức là có oai thế. Khéo khế hợp bí tạng, do đó mà trí sâu. Hiểu khắp ba đời thế gian tất do tuổi cao, là bậc trên của hàng só do ba nghiệp thanh tịnh, chúng trượng phu đều khuất phục nên là bậc đủ lễ, là hàng thầy trời người, chư Phật mới khen, các bậc trưởng thượng ở thế gian đều quy phục. Cho nên một hiệu này mà đủ cả chín đức. Hỏi: Ngài Tịnh Danh có phải là Phật quả đức chăng? Đáp: Từ Bản thì như thế, Tích do nhân hóa ra. Quán tâm mười Đức còn được gọi là quán hành Như Lai. Phát tâm rốt ráo đâu vượt bỏ thứ này. Tiếp là theo văn giải thích, có bốn: Thế gian Trưởng giả: Trong văn trước nêu danh, kế vì sao mà giải nghóa. Quý tộc là dòng Sát-lợi, cũng như ở Trung Quốc là giòng dõi Vương công. Tước vị, vua ra luật rằng: vua ban phước lộc gồm năm bậc là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam đây là luật nhà Chu. Bạch Hổ Thông nói: Tước là Hoạch, tức mỗi người đều lường chức sát với tài năng. Nghèo không bố thí tiền của, Lễ Ký Đàn Cung nói: Xưa ở nước Vệ gặp nạn đói lớn. Khổng Tử ăn cháo để cùng cả nước chịu đói là chẳng ban bố ư? Vương Bậc nói: Phàm trả vật nhanh chóng, thì nghóa không bằng lợi. Nên nay nói không tiền thì đời không trọng. Không được yêu không oai. Sủng là yêu thương, được vua chúa yêu thương trọng nể thì ắt có uy quyền. Văn Tuyển nói Tân An vương sủng ái thì mão quan luôn phiền. Thần trí sáng suốt, như trí của Võ Trọng. Vật tình không kính, tức không chào hỏi kính trọng. Tuổi già, Thiên Nhó Nhã nói Kỳ là già lão, tóc bạc trắng. Tư ác, nghóa là nuôi dưỡng thường thấp kém. Làm việc không tỳ vết, hà tức ngọc có vết. Cầm quyền thuần hậu liêm chính như ngọc không tì vết. Kinh Thi nói lời nói ý nghóa của bậc Quân tử kín đáo như ngọc mà người ngoài đến chiêm ngưỡng quý mến. Thi nói: Người mà vô lễ sao chẳng chết sớm, người mà vô nghi không chết thì làm gì? Người tên không hòa mục tin dùng. Bậc giàu sang là người trên, lỗi quấy đều do mình. Danh không được vang xa, là do không được người trên khen ngợi. Hào quý ca ngâm, tức là được người trên thương yêu tin dùng, nên khen ngợi đức mình. Khúc Lễ nói: “Bạn bè xưng là em, bạn đồng chí khen nhân đức, bạn giao du khen tín thành”. Trịnh chú giải rằng: Liêu hữu là bạn đồng quan, Chấp hữu là bạn đồng chí. Không kể ơn với người dưới. Người dưới tức là dân thường. Tả Truyện nói: “Xem dân như con”. Lại nói: Tử Sản tham chánh một năm thì phu khiêng kiệu khen ngợi, được ba năm thì mọi người đều ca tụng rằng: Ta có con em thì Tử Sản dạy dỗ, ta có ruộng nương thì Tử Sản gieo trồng, Tử Sản chết rồi biết ai thay thế? Lại có thi rằng: Cỏ Bồ chớ cắt chớ nhổ, vì là lều tranh của Triệu Bá. Đây đều là người biết ơn đến hạ dân nên tôn kính như thế. Xuất thế Trưởng giả, có hai: a, Nêu ý. b, “Một từ…” là chánh giải thích. Từ sơ phát tâm. Nếu xa thì suy từ đầu, lấy vị tương tợ làm phát tâm. Nghóa như giải thích trước. Nếu gần thì lấy Phần chân, lấy sơ trụ làm Phát tâm. Nay ngài Tịnh Danh vị ở Đẳng giác, nếu tìm phát tâm thì có hai ý: Phát sinh lý tuệ thì đều ước Phần chân, sinh trong Pháp vương chủng tánh diệu lý trung đạo, là Phật chủng tánh. Nay quán lý này mà phát diệu tuệ thì gọi là sinh trong chủng tánh, tức dòng sang quý. Chứng Vô sinh nhẫn, ngài Kinh Khê nói: Chỉ nhường Phật tịch diệt, thì vô sinh là vị cao tột. Hàng ma chế phục ngoại đạo là tương ưng nói kẻ chế nội giới, ngoại giới. Quyền thật, tức là đồng thể quyền thật. Ký riêng, nên nói là thọ ký Pháp thân, Thích Phạm đều quy kính, người dưới tôn sùng. Vả căn cứ theo gần mà nói. Nếu ước bốn giáo thì được Thiên Thánh kính trọng. Người hiền quy phục. Hay phụ giúp Đức Thích Tôn…, phải nói hay mở mang Phật pháp khắp mười phương bốn cõi. Nói Tịnh độ không hạn cục ở Đồng cư uế độ mà thôi. Quán tâm, Chánh giải thích. Ngài Kinh Khê nói trong giải thích quán tâm mỗi mỗi đều phụ thuộc vào văn sau trích giải thích để làm quán tướng. Giáo lý có bằng cớ nên cùng người khác nói quán có khác. Chỉ khác ở quả mà đều gọi là quán tâm. Ái kiến ma ngoại, ái hoặc tức ma, kiến hoặc tức ngoại. Giở chân đến Già-lê, đây là căn cứ sáu tác để nói tu quán. Nói sáu tác, tức là: Hành. Trụ. Tọa. Ngọa. Nói nín, cũng gọi là nói bàn. Tác, tác tức việc làm. Hai chữ tác đều đọc khứ thinh. Giở chân hạ chân tức là đi. Mặc Tăng-già-lê tức là tác tác. Trong đó lược bỏ bốn, nên nói cho đến. Tất cả đều một tâm, sáu tác tuy khác, nhưng quán tâm đều khác. “Phải …” là kết khen. “Cho nên Pháp Hoa…” đây là dẫn bài tụng thứ năm văn hiện tại bốn tín, diệt hậu năm phẩm. Bốn tín là: Một niệm tùy hỷ. Lược giải ngôn thú. Rộng vì người khác nói. Tin sâu thì quán thành. Bài tụng thứ tư này tức là năm phẩm Chánh hạnh lục độ. Nay luận tu quán ở vị danh tự, dẫn kinh này làm chứng không cần phải chấp văn làm hại tâm. Nên ngài Kinh Khê nói: Đây dẫn kinh Pháp Hoa chính là quán quán hành bốn vị, quán tâm rõ ràng ở trước tùy hỷ. Phật tử trụ ở địa ấy, tức là chỗ trụ của tu quán hành, tức là Phật thọ dụng… tức là lý diệu quán… cùng Phật không khác. Cho nên chỉ chỗ ở là Phật thọ dụng. Bốn oai nghi vận động đều cùng Phật đồng còn dưới là kết tình huống. Nếu chuẩn theo Pháp Hoa còn đồng với Cực quả diệu giác, đâu không được tên Đẳng giác của ngài Tịnh Danh ư? Phật như Trưởng giả, Tịnh Danh như con. Khen đức, có hai: a, Nêu. b, Cúng …” là giải thích mười thứ: Là dòng quý tộc cúng dường chư Phật làm chủng tánh. Ngài Kinh Khê nói: Như cha mẹ ở đời có con cháu, không phải do mình sinh thì đâu có thể cung phụng nuôi dưỡng. Chúng sinh lý đồng nên hay phát tâm. Nếu phát sinh đến pháp phần, là phát lý sinh tuệ chánh ở phần chân. Từ Phật trí sinh ra gọi là thật con Phật nên nói là khẩu sinh. Từ lý pháp sinh nên gọi là Pháp vương tử, nên nói là hóa sinh. Lý trí được từng phần hiển sáng thì gọi là được Phật pháp phần. Ba tuệ hiển lý, do vị hiền viên mà khởi văn tư tu. Được vào sơ trụ cho đến Đẳng giác nên nói là hiển lý. Giải thích thành chủng tánh, là như đứa con hiếu ở đời, còn mất không trái cha còn xem chí, cha mất xem hạnh. Cho nên biết cha mẹ là gốc đức, chân tánh được xem nguồn các thiện. Nương đó mà gieo trồng thiện thiện có gốc. Cùng nương gốc thiện gọi là chân cúng dường. Quán không rốt ráo, trồng giống đại trí. Chủng trên và chủng dưới đều đọc khứ thanh. Năng quán thuộc trí, chân không là cảnh. Đại trí quán cảnh nên gọi là chủng chủng. Từ giải sinh hạnh trí là năng quán, nên gọi là đại giải “hiểu sâu). Theo đây mà lập hạnh, hạnh mới xứng cảnh. Cảnh trí đã ngầm muôn hạnh đầy đủ. Dẫn Đại phẩm nói rằng: Các pháp tuy không… nhưng trí phải ở không thì hạnh nay mới đầy đủ. Vị cao. Nghóa này cũng thông. Ngài Kinh Khê nói la vị thông Địa trên dưới. Nay vị ngài Tịnh Danh thuộc Biệt không phải Thông. Trong Biệt ba vị có bổn có tích, tích là nhân, bổn là quả vậy. Trong nhân lại có hai vị Biệt là tùy các kinh có lập hay không, cho nên còn mất khác nhau. Nếu ở trong đó… mà lập ba phẩm là gồm Thông mà nói. Đẳng giác vẫn còn như vừa mới nói. Không thể lôi kéo, là vì Trung hạ của Tịch nhẫn là Tịch quang độ không thể kéo dắt sinh vào quả báo độ. Đại phú. Công đức ba nghiệp. Ngài Kinh Khê nói: Tức các thứ ba nghiệp trong nhà, nên thuộc tiền của. Tổng trì tất cả công đức ý nghiệp vã đã theo Biệt mà nói, nếu do nẻo Thông mà luận thì chỉ do ý trì giữ thân khẩu mới dùng lời nói kịp các thứ là do đây vậy. Nói và các thứ khác, tức ngoài ba nghiệp không còn pháp nào khác. Nay nói các thứ khác là nhờ phương tiện giáo từ Biệt mà nói. Nên nói là các thứ khác. Cho nên Viên ba nghiệp gồm trong phương tiện tất cả các pháp như nước lớn bao gồm nhiều nước nhỏ. Uy báo. Lao oán, ngài Kinh Khê nói rất cực nhọc đối với ngã vậy. ma tức bốn ma, là gồm cả nội ngoại giới. Hay lại …” là khiến ba đế ba trí không được khai phát. Trung trí không phát gọi là hại mẹ trí độ. Hai trí không phát gọi là hại cha thiện quyền, khiến trợ đạo không thành gọi là hại thân quyến pháp. Chánh hạnh trợ đạo đều bị các ma hại, nên gọi là lao oán. Bồ-tát hàng phục rồi cũng như báo oán. Như thế lễ có nói: Oán thù cha mẹ đến không đội trời chung, oán thù anh em không cùng ở một nước, oán thù bè bạn chẳng giao hảo binh ma hại quyền thật hai trí, tức Bồ-tát oán thù cha mẹ, hại các thân tộc thiện pháp tức như anh em bè bạn thù nhau. Cho nên dùng binh lực vô úy để hàng phục, nên gọi là báo oán. Chữ oán đọc bình thanh. Luận ngữ nói báo oán thẳng chữ là như kể thiết văn nói là oan. Ngài Kinh Khê nói: Cho nên hại cha mẹ trí độ thiện quyền, tức hại tất cả thiện quyền nội ngoại. Hay lại quyền thật không bằng nội ngoại Thiên ma ngoại đạo. Cho nên người hay hàng phục có sức thì gọi là đại. Trí sâu. Ngài Kinh Khê nói: Nhập vào thâm pháp môn, tức là giáo môn. Do môn sâu sắc nên là trí thiện. Chính là dùng chữ thiện để khen vậy. Hiểu rõ chỗ đến của tâm chúng sinh, chỗ đến không đồng nên phải dùng quyền. Nay vì giải thích thật, thì thú có hai thứ gần xa khác nhau. Đầy đủ như phẩm Thảo Dụ của kinh Pháp Hoa đã Sớ thích, chung quy là ở không. Ước bảy phương tiện đều có hai thú. Thú xa chỉ một, thú gần nhiều thứ không đồng. Nay từ xa mà nói, nên nói là một. Đây nếu không phải thật sao cần phải lập lại. Tuổi già. Ngài Kinh Khê nói: Ở lâu bên Phật đạo mà khen tu hành. Câu trên là hai câu trên của tựa. Thấy lý của tựa thì quyết định là Đại thừa. Tuổi già là dụ một câu trên thấy lâu là dụ một câu dưới. Thuần thục, thượng thư nói làm chánh trị chỉ có thuần, Khổng An Quốc nói: thuần túy. Nhó Nhã nói thuần là lớn. Phương ngôn nói thuần là tốt. Thục, Thi truyện nói thục là đẹp, là tốt. Kinh gốc hoặc viết là thuần cũng là chuyên nhất, nếu viết chữ “thục) là sai. Hạnh khiết, có những việc làm. Ngài Kinh Khê nói: Ba nghiệp tùy trí gọi là hay khéo suy lường. Trí tức là Tuệ. Do Tuệ khéo suy lường mà khiến ba nghiệp đều thiện, vì ba thứ tùy trí vậy. Văn sau nói: Trước thí sau làm, nếu trước làm sau trí thì tuy gọi là giác tức Không giác. Địa trụ các Thánh thảy đều như thế. Trừ Địa trụ tiền và các Tiểu thừa Không nhập quán, nghóa là đây cùng hạ địa không đồng mà thôi. Lễ bị, khen hình tâm. Ngài Kinh Khê nói: Câu trên là hình, câu dưới là tâm. Hàm hoằng, hoằng là lớn. Lại trụ trở đi, thì Tả Truyện có nói: Có uy đáng sợ thì gọi là uy. Có nghi đáng noi theo thì gọi là nghi. Voi chúa học Phật quay đầu nhìn lại, ngài Kinh Khê nói: Lại mượn nghi thức ứng Phật. Người phỏng theo đây chưa ắt hoàn toàn được như thế. Có lời rằng: Đủ tướng hảo của Phật, trước là ước nghi mà thử giải nghóa oai nghi, đây là ước hình dạng mà giải oai nghi. Nay nói …” là chánh giải thích. Nghóa là thường ngầm chí cực, khắp ứng mười giới, nên nói không khởi… Cũng như Chu Dịch nói vắng lặng bất động, Cảm mà bèn thông. Lời nói này tuy gần mà có thể nêu lệ xa. Tám bất tư nghì là: Dần dần thâm nhập “vào sâu). Sâu khó đến đáy. Đồng một vị mặn. Nước triều không quá mức. Chứa mọi thứ kho báu. Chúng sinh thân lớn sống trong ấy. Không chứa thây chết. Vạn dòng nước chảy vào không tăng không giảm. Văn kinh đã đầy đủ lấy tám nghóa Niết-bàn mà hợp dụ. Nên nói là Phật pháp cũng như thế… nay nói …” là tâm cũng lớn như biển, cũng đủ tám nghóa lệ đồng Niết-bàn. Như văn sau nói trong thất này hiện tám thứ chưa từng có, tức là Biển Phật tánh đầy đủ các pháp. Nay văn lại dùng không tăng giảm một. Các dòng nước… là chín đạo thường chảy vào mà Phật giới không tăng, các chủng trí thường chưng nấu mà chúng sinh giới không giảm. Vì chín đạo không dứt tánh thiện, Phật quả không dứt tánh ác, nên không tăng giảm. Nên đầy đủ lấy hai câu mà hợp dụ. Chín đạo luôn chảy vào nhưng do tâm không thu nhận nên không tăng. Chủng trí tuy quán nhưng do tâm không bỏ nên không giảm. Đây là đầy đủ hai sự lý mà giải thích. Ốc tiêu là tên núi hay hút nước biển. Trên khen. Ngài kinh khê nói: Tư ta là tiếng khen tốt. Đây là mượn việc phàm để biểu thị Thánh nghi. Thiên vương thượng nhân, tức là Thiên vương thiên tử. Vua Ngô Sở tiếm hiệu xưng vương. Trọng Ni chính danh lấy vua nhà chu làm Thiên vương. Kinh xuân thu có nói Thiên vương đi tuần thú ở Hà dương là đó. Dưới đều quy ngưỡng. Chúa cõi Dục cõi Sắc, Đế Thích là chủ Địa thiên ở Dục giới, phạm vương là chủ Tứ thiền thiên ở Sắc giới. Nên hai người này đều gọi chung là thế chủ. Ngài Kinh Khê nói: Đệ tử Thích phạm là nêu hình sắc và y phục giống nhau và là chúa hai cõi. Gồm chung mà nói nên nói chín đạo và bảy phương tiện. Bậc Đẳng giác trở lại đều quy kính. Tiếp là chính nói về lợi ích của hình, có hai: a, phân khoa. b, theo văn giải thích: Nêu chỗ lợi vật. Ở nước Quảng Nghiêm, ngài Kinh Khê nói: Như bốn giải thích trước đều cần đến đây để hợp với chỗ ở của ngài Tịnh Danh. Chính nói ích vật, Phân khoa xét đoán, Chánh phân khoa. b’, Sơ lục …” là phán xét bổn tích. Đây là từ bổn thùy tích. Ngài Kinh Khê nói: Tên lục độ là gần với bổn, cho nên từ bổn sáu thứ mà thùy tích sáu thứ. Hai mươi chín câu là lấy ngọn nên nói là tiền của tích…. Sự là ngọn thùy sự ngọn này mà nhiếp lấy chúng sinh khiến về với thật. Phân biệt nghóa trước. Hỏi: Trong câu hỏi này phải nói vì sao lấy tâm mật là từ bổn mà thùy tích, còn thân khẩu là nhân tích mà hiển bổn? Đáp: “Sáu độ…”, ngài Kinh Khê nói: Đây là căn cứ từ lý đối sự mà hỏi. Cho nên sáu độ đầy đủ cũng gọi là thân. Chỗ ý mật thì thân khẩu đầy đủ. Do đó sáu độ sự lý tên đồng mà bổn tích mỗi thứ đều khác. Cho nên văn sau nói: Từ bổn sáu thứ để thùy tích sáu thứ. Nếu từ sự nói thân khẩu là chưa đến nguyền mà đồng phàm, trước đồng sau khác mới chỉ rõ bổn. Hóa tài …” là tùy văn mà giải nghóa, tâm mật, Chánh giải thích, Bố thí, Ước giáo giải thích, Bác lời giải xưa. Ngài Kinh Khê nói: Nếu theo xưa… thì ngài Tịnh Danh không đâu không dùng thế tài mà nhiếp chúng sinh, nhưng nói thẳng thế tài là ý khen không hết, nên ước bốn cõi… từ đây trở đi đều theo lệ như thế. Cho nên nói là có sự lý. “Nay …” là nói giải thích ngày nay, Chánh giải thích văn kinh, Nói bốn giáo nhiếp vật, Giải thích của cải vô lượng. “Nhiếp các …” là nhiếp giữ các dân nghèo, Giải thích sở nhiếp, Nêu kẻ nghèo. Giáo chiếu đều đọc khứ thinh. Giáo là chỉ dạy, chiếu là bảo, đều đọc bình thanh cũng được. “Bỏ cha…” là bỏ cha thắng ứng, cầu việc nhỏ cơm áo. Quán vô thường như muối mặn, quán khổ như dấm chua. Sinh Không thô như gạo, pháp Không tế như mì, được tiểu Niết-bàn như tiền công một ngày. “Bồ-tát ba kỳ…” ngài Kinh Khê nói: Tam tạng Bồ-tát trường thời tu sáu độ nên được gọi giàu. Biệt giáo ngang dọc biết Như Lai tàng càng giàu hơn trước. “Viên giáo…” hiển bày giàu sang. Viên giáo tất cả đều là bí tạng, trong đó giàu tột bậc. Tuy bốn giáo Bồ-tát đều có tên giàu có, nhưng ba thứ trước thì do còn bị lấy lại nên còn gọi là nghèo. Thế nên chỉ khen là giàu có bậc thượng. Kim cang bảo tạng, là không bị hai biên phá hoại nên gọi là kim cang, gồm nhiếp tam thiên nên gọi là bảo tạng. Lý nó thường trụ nên không khuyết giảm. Cho nên thuần …” là dẫn Đại kinh làm chứng ba giáo đều nghèo. “Đại só… “ là hiển bày năng nhiếp. Ngài Kinh Khê nói: Đại só… là nói về bổn. Thường khởi… là nói về tích. “Do bốn…” là nói quả mãn thì sinh về. Ngài Kinh Khê nói: Lại dựa theo đốn tiệm…, chỉ là nơi tám tướng thành đạo đều cần tám giáo để hiển bày Nhất thừa, chỉ trừ riêng hiển một viên Đại thừa, như Hương tích…. “Cho nên biết …” là dẫn giống mà trách xưa. Quán tâm mà giải thích: Ngài Kinh Khê nói: Phàm quán tâm trước cần phải sự thí để làm quán cảnh, kế mới quán sự làm thí pháp giới, sau lại vận đại Bi thành hạnh Tịnh độ. Tùy nơi chốn mà có hóa độ, tức là trước làm thí chủ, rồi vì họ mà nhận cõi nước đâu giống người đời tự gọi là cao sâu. Chỉ khiến thí người khác bị dính mắc về thí cho nên biết. Đây… là hiện bắt đầu thiếu sự nhiếp sinh cuối cùng không có cõi ịnh ắt phải nguyện học tông. Người nói người làm đều lường xét kỹ, dùng giáo dễ hiểu để khiến làm được việc khó làm. Thánh thường bày quán pháp, Quán tâm nhiếp vật, và nêu chung. Không thấy có xan tham và bố thí. Ngài Kinh Khê nói: Tức khi làm bố thí thì không phải riêng trị xan tham. Thấy xan tham pháp giới mà bố thí. Thí cũng pháp giới mà dùng để nhiếp sinh. Khi nhiếp sinh thì sinh cũng pháp giới. Như thế mà quên mất năng trị sở trị, năng độ sở độ và đều là pháp giới. Như thế mới gọi là không thấy có xan tham và bố thí. Thường thường nói mất cả ba thứ mà bố thí. Quên mất ba thứ nào? Phàm người tu quán chỉ nói không có bố thí mà không cả không xan tham. Dù không có không xan tham mà không cả thí pháp giới. Huống lại còn bị năng lợi vật phá hoại. “ Nếu là …” là nêu riêng, chuyển hóa thành quán, Chánh nêu chuyển hóa. Như ở lệnh trưởng, Dư địa chí nói rằng: Tần Thủy Hoàng làm vua thiên hạ đặt ra ba mươi sáu quận, mỗi quận thống lãnh các huyện. Đứng đầu huyện có vạn hộ trở lên thì gọi là lệnh, huyện dưới vạn hộ thì gọi là trưởng. “Ví như …” là nêu dụ giải thích thành. “Đó là …” là sở nhiếp được lợi ích. “Là các …” là quả mãn sinh đến. “Đây tức …” là kết khuyên: Người tu nếu thường ba quán nội tu, Từ bi vận động bên ngoài, lý sự không hai, nội ngoại dung nhau. Phàm như thế thì Đại só Tịnh Danh chính ở trong tâm ta, đâu cần gì phải tìm kiếm xa xôi. Tiếp nói trì giới, Sự giải thích, Bốn giáo nhiếp vật, có hai: a”, Nêu sở nhiếp: Mười thứ giới tàng, Đại luận nói: Mười giới nhiếp tất cả giới, nên gọi là tàng. Không sứt mẻ, tức tánh trọng. Nếu phạm thì như đồ đựng bị rò rỉ sứt mẻ. Không bị phá bể, tức trì tăng tàn, nếu phạm như đồ bị bể. Không lủng, tức trì ba dạ đề, nếu phạm như đồ đựng bị nứt lủng. Không tạp loạn, tức trì định cộng. Điïnh giữ tâm, nên dục niệm không khởi thì gọi là không tạp loạn. Bốn phần trên là giới ước luật nghi. Tùy đạo, tức tùy thuận đế lý, hay phá kiến hoặc. Không đắm trước, tức đối với tư hoặc không bị nhiễm trước. Hai phần trên là giới căn cứ chân đế. Trí được khen, Bồ-tát hóa tha được Phật khen ngợi. Tự tại, đối với sự thế gian mà được tự tại. Hai phần trên là giới căn cứ ở tục đế. Tùy định, tức là Tùy-lăng-nghiêm định. Đầy đủ giới trung đạo, gồm nhiếp các giới. Hủy tùy đạo…, tức là chưa phá kiến tư, tức là hủy giới chân đế, chưa phá trần sa, tức là hủy giới tục đế, chưa phá vô minh, tức là hủy giới trung đế, nên dùng ba đế này mà thứ lớp nhiếp hộ. “ Người khác…” là phân biệt năng nhiếp: Ngài Tịnh Danh là bậc Đẳng giác, tuy có dư hoặc các việc, nhưng chỉ như làn khói mỏng, nên cũng được gọi là đầy đủ tịnh giới. “Các thứ này …” là quả mãn sinh đến. Quán giải, có hai: a, Chánh nói giới độ. b, Nêu lệ cho bốn cõi sau. Văn sau đã tóm lược, nên ở đây nêu lệ: Ba nhẫn điều phục bốn khuể nộ. Chưa được bốn nhẫn thì gọi là bốn nộ, bốn tấn, năm thiền, sáu tuệ. “Thế nên…” là kết bày, chỉ bày việc làm sáu độ, tức chỉ bày việc làm sáu độ của bốn giáo. Thân mật, Nêu việc giáo hóa không nói năng, tức thấy thân là được ích lợi không cần nói năng, nên nói là không nói năng. Tùy giải thích, Hiện đồng bạch y, chính nói nghóa naySự giải thích, Trong nhân nhiếp vật, Nói về tích bổn lợi sinh. Sa-môn đến cần hành là phiên dịch tên. Không đắm trước hai biên, siêng hành trung đạo. Thế nên bậc Diệu giác rốt ráo gọi là đại Sa-môn. Luật là suy lường tội nặng nhẹ, Phong tục Thông có nói: Cao đào mô ngu tạo luật: Luật giảng nói dạy về phép tắc. Thượng thư đại truyện nói: Lớn lao thay đại luật, chú rằng pháp lớn thờ trời, pháp cũng gọi là luật, cho nên tên luật bắt đầu từ thời vua Thuấn. Tỳ-ni là môn học luận giảng về tội nặng nhẹ, như pháp luật ở phương này “Trung Quốc), nên dịch là luật. “Đây không …” là nói không nói năng mà giáo hóa. Ngầm chê xuất gia, là hỏi: Niết-bàn Thánh hạnh chỉ khuyên xuất gia, cho nên nói tại gia không giữ luật cũng như lao ngục. Xuất gia rộng rãi cũng như hư không và các kính luật khuyên khen không phải một, vì sao cư só lại ngầm chê xuất gia? Đáp: Nên lấy hai thứ bốn câu để so lường hơn kém mà hiểu rõ ý chỉ này. Bốn câu đầu gồm có: Xuất gia trì giới. Tại gia trì giới. Xuất gia phá giới. Tại gia phá giới. - Bốn câu kế là: Xuất gia học đại. Tại gia học đại. Xuất gia học tiểu. Tại gia học tiểu. Nay cư só ở câu hai và bốn mà ngầm chê. Ngầm khuyên. Thánh hạnh thứ hai ngầm khuyên chánh cần, câu đầu chê câu hai, câu bốn cho nên nói như lao ngục. Hoặc lấy câu ba ngầm chê câu bốn, tức như kinh nói: Tỳ-kheo phá giới thì hơn bọn ngoại đạo. Nếu hiểu ý chỉ này, thì một là Đại Tiểu hoặc hiển hoặc mật, hoặc khuyên hoặc chê, các ý ấy thì ở Niết-bàn sớ ký đều đã nói rõ. “Đại kinh …”trong phẩm Ai Thán là văn Phật chê Tiểu thừa. Đây là phần bốn câu sau lấy hai câu đầu mà chê câu ba. Vì các Tỳ-kheo chính là người xuất gia học Tiểu thừa. Cho nên nay cư só ngầm chê, tuy giống ở bốn câu đầu lấy câu hai mà chê câu ba. Thật ra gồm hợp. Trong bốn câu sau lấy đại chê tiểu. Cho nên dẫn Đại kinh mà giải thích nêu ý đó. “Nhưng nay …”là tâm nhiễm trước Đại thừa gồm trì luật hạnh gồm nhiếp câu hai và câu bốn. Nên nói chỉ khiến nhiễm tâm lập hạnh Sa-môn. ‘Ngài Tịnh Danh …”là quả mãn sinh đến, có hai: a, Chính hiện quả mãn sinh đến. b, Chỉ Phật …” là gồm nói phù hợp với phẩm trước. Kiến ở phẩm này, kiến tức là hiện. Quán giải, “hai thứ này …” là nêu văn sau. Chỉ nơi ở. Bói chỗ ở, tức bói rùa. Người xưa muốn dời nhà nếu bói tốt thì ở. Ba giới có hai thứ, ngài Kinh Khê nói đó là biến dịch và phần đoạn. Khai hợp đối bốn cõi, là khai biến, dịch, hợp. Phần đoạn. Khai biến dịch, là ra khỏi hai cõi Hữu dư và quả báo. Hợp phần đoạn, là không phân biệt đồng cư Tịnh uế khác nhau. Hỏi: Phần đoạn đã hợp sao lại nói hai cõi? Đáp: Phân chia tuy có hai, nhưng đều là phần đoạn, chỉ luận về đường ác năm trược hữu vô mà phân chia có uế tịnh mà thôi. Biến dịch khai, là do vô minh có đoạn và không đoạn. Chân ứng có không. Tịch quang thấy không có, cần phải phát tâm và không phát… lại có công dụng và không công dụng. Thứ này có nhiều thứ khác nhau nên phân làm hai. Đây và các câu… nghóa là câu này và các câu dưới đều phải quán tâm. Ngài Kinh Khê nói: Lấy một quán môn gồm thông các thuyết. Song ở trong đây và lấy văn trước mà dọc quán nguồn tâm, giải nghóa quán tâm không giống các thuyết khác. Văn khác nói quán tâm đều mượn sự gần để nói lý xa, nhân đó gọi là dụng nghóa. Mượn số mà luận hạnh, từ người mà hiển pháp, căn cứ pháp mà thông trí. Nay bèn nói sự quán thông theo dọc . Thế nên phẩm này căn cứ sự. Ngài Tịnh Danh ngầm khen đàn hậu tấn học quán môn này tự hành khuyến tha, gia thêm nguyện mà lợi vật. Quyền thật song dụng, trông vào quả mà làm nhân thì ta tức là Tịnh Danh, cần gì phải tìm đâu xa. Cho nên đều mượn hình thức bạch y “cư só) mà công tư văn võ đều xem là bậc cao. Tuy tạm nhờ nhưng phải biết Bồ-tát phát tâm là đó, đâu cần phải chọn trắng đen. Cho nên hành giáo là Đại só chân quán hành. Do đó mà cả bốn chúng đều khâm kính, mong muốn được bằng ngài để làm khuôn phép. Song luận Bồ-tát tuy lý thuận khắp bốn chúng xuất gia, nhưng ở nghóa tục thì trái. Cho nên hiện dòng tục, lập phép hành trì, đầy đủ các đức, là bậc cao quý trong tất cả, bài bác để dẫn dắt kẻ mới học, biện tài vô tận là muốn khiến người đời sau đều quy ngưỡng. Thị hiện có vợ con: Lìa bốn ái trước, tức pháp ái bốn giáo còn cần phải buông bỏ, huống là vợ con trong sự. Thị hiện có quyến thuộc. Hiện đồng phục sức: Thường dùng bốn nhẫn để tu tướng tốt, ngài Kinh Khê nói: Ý này như trước nói Tịnh độ thì tướng tốt sinh về, cho nên lập môn này để vời bốn cõi. Hiện đồng ăn uống: Mỗi người đều tám thiền duyệt, tức bốn như ý túc và định căn, định lực, định giác và chánh định là tám. Hiện bác dịch (cờ bạc). Bác là đẳng giải nghóa tên. Thế bản có nói: Ô tào đổ bác. Thuyết văn nói bác là trò chơi đánh cuộc “có sáu trước mười hai ky). Phương ngôn nói tự mình làm chủ. Trong thời Tề Lỗ đều gọi cờ vây là dịch . Luận ngữ nói không có cờ bạc, là đó. Lời sớ nói cờ bạc là việc lừa gạt. Trung Tử nói: Cờ bạc chơi bời. Dạy khiến không đắm trước, ngài Kinh Khê nói: Phàm bày nghi lễ tục đều hiện chí bền chắc. Đời lấy hỗn tạp hòa hợp hạnh xấu để dụ dỗ nhau. Tịnh Danh là bậc thâm hậu nên chưa thể được. Vô ký, là trong bốn vô ký tức khéo léo, nên luận nói: Dị thục, oai nghi, lộ công xảo xứ, thông giới đều làm cả, hình như thuộc vô ký. Nhân đó được vật, huống bị hãm ở thiên đầu. Huống lại đường đê nhất định là không cứu được Tịnh Danh bày ra việc đó là ý kiến không làm. Nay không hiểu, trái lại muốn bắt chước, bên trong tán loạn và kiêu mạn. Toàn là theo tham kết mà không nghó đến quả báo ở đời sau. Cậy nhờ dấu Thánh mà uổng công xuất thế. Còn ngại nghiệp đời đâu thể xuất thế được. Lưu Nghóa Khánh trong thế Thuyết Tân Thư nói quan thái úy Đào Khản, đời Tấn bảo người rằng: Thánh nhân tiếc từng tấc bóng, mọi người phải tiếc từng phân bóng, các quan tham tá vì ham chơi mà bỏ việc, lại lấy bàn cờ mà ném xuống sông. Ngô Chí nói: “Thái Dónh ở Đông cung tánh thích cờ bạc, thái tử Hòa xem đó là vô ích, sai vó diệu luận việc ấy. Nên Bác Dịch luận nói rằng: Người đời nay phần đông không thích kinh thuật chỉ ưa cờ bạc, bỏ phế sự nghiệp quên ăn bỏ ngủ. Lại nói, giả sử khiến kẻ só ở đời đem sức ham cờ bạc mà dùng cho thi thư tất là có chí của nhan mẫn. Nếu đem dùng cho suy tính tất là có các người lo yên bình, nếu đem dùng cho tiền của tất có kẻ giàu nhanh chóng. Nếu dùng cho cung nỏ tất đủ tướng văn võ. Như kẻ cờ bạc này mà lập công danh thì hèn kém thô lậu càng xa! Đây đều là ý khuyên sâu sắc của các người hiền xưa. Ở tục còn thế huống là xuất gia đâu làm thế ư? Đến như có kẻ đem cờ bạc cả y bát, thân gởi vào hình danh, đây đều là kẻ hạ ngu còn luận gì mất nghiệp. Nên Tăng Sử Lược có nói: Làm Sư tăng dù chưa tu hành chỉ hay tránh được các hình pháp thì cũng là bậc Cao só tiêu dao, lời phải không nghe khác nào cầm thú. Ngài Tịnh Danh độ người do chỉ lỗi người. Ta trình bày đạo ngài nên được lời cùng cực. Phàm người mê cờ bạc hễ vào cuộc thì tranh nhau, hồn mê thân mõi, việc đời bỏ mặc chẳng tu tỉnh, khách khứa lánh mặt chẳng tiếp đâu rãnh rang mà thưa hỏi học đạo ư? Cho nên Đại só xem thấy ai có cơ thì liền nói pháp. Triệu Sư nói: Nhân chơi bời mà dứt chơi bời. Hiện đạo khác: vì để điều phục vật, nên bộ Đàm-vô-đức cho Tỳ- kheo trong mười hai giờ được một giờ học ngoại điển là để hàng phục ngoại đạo vậy. Tỳ-nại-da nói: Ngày phân làm ba buổi, buổi sau cho học. Huống nay cư só vốn chúng tại gia. Đời nay Tỳ-kheo quên gốc theo ngọn, hình giống Sa-môn mà tâm trái với Phật học. Đại pháp sắp mất mà đám học trò lại bị trói buộc. Đã từng tuyển soạn sư hàn một thiên, để làm phép tắc cho kẻ hậu học. Nên ngài Kinh Khê nói Tiểu thừa chế phục ngoại đạo hơi thông một lúc. Đại thừa nêu tông chế luật cho kẻ sơ tâm ngại nhập vào diệu đạo nên chẳng khiến làm. Năm Địa Bồ-tát mới tu thế nghiệp là đoạn dứt Phật chủng, chướng nhân duyên đạo. Khiến người xuất gia tâm giới, định, tuệ một chút chẳng tu, mà nói là hàng phục ngoại đạo, nghóa thật ngược đời, đắm nhiễm dịch lưu đạo pháp khó nhờ cậy, thêm lớn kiêu mạn, trái ngược kinh tông. Thật đáng thương thay, thật đáng lầm thay. Huống là ngồi viện thường trụ mà mê y tín thí, cơm ngon nhiều bữa, đi đất già lam mà ba nghiệp theo tục, oai nghi toàn mê. Nếu muốn bắt chước thì phải nghó đến mười đức dù chưa tương tự thì quán hành thế nào? Đại tập nói như Phú-lâu-na quyển hạ Bảo Tráp cũng nói việc này. Như phần cuối quyển sáu bộ phụ hành cũng có dẫn. Học sách đời, ở Trung Quốc thế điển là ngũ kinh… Kinh thi có nói: Điển truyện của Văn Vương có nói: Điển là pháp tức giáo pháp. Thích danh nói kinh là đường tắt, điển là pháp thường. Nói như đường tắt thì không nơi nào không thông, có thể thường dùng vậy. Ngũ kinh, Bạch Hổ Thông nói đó là dịch, thượng thư, thi, lễ, nhạc. Xưa kể cả Xuân Thu là sáu kinh. Đến đời Tần đốt sách, thì kinh nhạc mất, nay lấy dịch, thư, thi, lễ, xuân thu làm ngũ kinh. Lại lễ có chu lễ, nghi lễ, lễ ký là ba lễ. Còn Xuân thu thì có tả thị, công dương và cốc lương ba truyện, cùng dịch, thư, thi thì tính ra có chín kinh. Nay nói… thì… là lấy sáu và chín. Lại luận chung về thế điển “sách đời) thì phải dùng bốn loại gồm thâu, đó là kinh, sử, tử, tập. Đường thư nói: Tập hiền viện bốn kho sách gồm chung có tám vạn chín ngàn quyển là đó. Kinh thì như vừa nói. Sử tức là Từ Mã thiên, Ban cố cho đến lịch đại quốc sử. Tử, tức như Lão trang văn liệt. Sách của bách gia chư tử. Tập là biên khảo để lại của các bậc hiền xưa. Nay chỉ nêu các kinh… là lấy ba thứ khác, “nên nói… Tây độ …” là bốn bộ Vi-đà như phân giải thích thông tự có ghi, mười tám Đại kinh đều là sách ngoại đạo, mà hay dùng lá vàng… là như phẩm Anh Nhi hạnh trong Đại kinh, như cha mẹ muốn ngăn bé khóc, nên lấy lá vàng làm vàng để dụ cho khác thường. Nhân thiên thật ra đều là vô thường. Như Lai nói trời Tam thập tam là thường, là muốn khiến phàm phu lìa bỏ khổ ba nẻo như ngăn khóc. Nay ngài Tịnh Danh nói thế điển là để dạy dỗ người. Ý đó cũng thế. Bỏ độc vào sữa, cũng là dụ trong Đại kinh. Nay lấy thế điển như sữa, thường ưa Phật pháp như bỏ chất độc. Vì ưa Phật pháp nên tuy dẫn Thế điển nhưng ý cũng còn Đại thừa. Nên khiến ở vị lai nhập vào pháp môn Bất tư nghì, như chất độc phát tiết giết người. Ngài Kinh Khê nói: Ở lý trung điểm sau tất giết người. Khẩu mật, có hai: a, Nêu bày. b, Tùy giải thích, Thấy kính cúng dường. Trong văn có hai ý: Căn cứ Tịnh Danh kính người khác. Căn cứ người khác kính ngài Tịnh Danh. Phàm nói Khuyết chi lưu e lầm, phải nói là hạ lưu. Khuyết là kỳ: Cái ấy. “Thông quán …” mười chín câu, ngài Kinh Khê nói mười chín câu sau đều khiến sinh cung kính mà được lợi ích sau cùng. Nếu tùy câu mà nêu thì đều khiến thành. Chuẩn theo ý trong đây thì thấy cung kính là hơn hết. Văn trước trong câu bạch y hai việc gồm chung: 1.Tổng quan, có hai mươi chín câu, mỗi câu đều có ghi (=) tuy là bạch y nhưng trì luật đầy đủ. 2. Ở chín câu trước thì đầu, thân miệng là riêng. Thị hiện giữ chánh pháp. Nắm giữ phép nước, Triệu Sư nói rằng: Ở ngoại quốc các bộ luật đều lập ba trưởng lão, người có đức sẽ nắm giữ luật nước để phán quyết các việc tranh tụng của cả già trẻ trong thôn xóm. Ngài Tịnh Danh hiện cầm giữ pháp tục mà lại thông suốt đạo pháp. Nay sư nói nắm giữ phép nước, thì Triệu Sư nói: Phán quyết việc tranh tụng trong thôn xóm, thì cao thấp có khác nhau chút ít. Phương này đời Hán trong mỗi thôn xóm đều lập ba vị trưởng lão. Thị hiện được lợi tục: Trong văn trước dựa vào việc lợi ích thế gian mà giải thích. Kế, từ “lại nữa…” , là nêu pháp môn mà giải thích. “Tích đồng phàm tục…”, Triệu Sư nói: Pháp thân của Đại só là cả sỏi đá đều là châu ngọc, nếu thế thì đối với người không quý bằng ban bố ân huệ. Cho nên lý đồng cầu lợi há không vui mừng khi có được ư? Kinh nói giai ngẫu, Nhó Nhã nói giai là hài hòa, hòa hợp, ngẫu là hội họp. Thị hiện việc dạo qua ngã tư đường. Nhó Nhã nói: Đường thông bốn ngã thì gọi là ngã tư (cù). Quách Phác nói là ngã tư đường đi bốn hướng. Liệt Tử nói: Người dạo chơi thì nhìn ngắm những gì thấy được, còn ta dạo chơi thì ngắm nhìn những gì biến đổi há Pháp thân Đại só dạo chơi mà không biểu thị điều gì ư? Thị hiện làm chánh trị: Triệu sư nói: Trị chánh pháp luật là việc quan. Đạo dùng chánh pháp khiến dân không làm sai. Nay giải thích không phải thế. Các tướng soái cùng liên kết khiến các trưởng lo việc trị an gọi là pháp chính trị. Cho nên dùng lễ hình mà giải thích, không phải căn cứ ở luật quan. Dùng lễ dùng hình, Luận ngữ nói: Nước Tề dùng hình phạt, dân khỏi tội rồi không thẹn. Nước Tề dùng lễ thì dân biết xấu hổ và đổi mới. Song hễ dân khinh nhờn thì dùng hình phạt, hễ dân thuần hậu thì dùng lễ. Gia ngữ nói: Phong chức tước cho người thì ở giữa triều cùng mọi người mà chung vui, hình phạt người thì ở giữa chợ thì cùng mọi người giết bỏ. Lễ ký nói: Lễ thì nhân tình người mà làm tiết văn để phòng hộ cho người. Thượng thư phủ hình nói: Hình phạt ở đời, tùy tội nặng nhẹ chỉ cần công bằng, có luân thường cốt yếu hay không. Khổng An Quốc truyện nói: Hình phạt tùy đời có nặng nhẹ. Nếu nước mới lập thì dùng luật nhẹ, nếu nước loạn thì dùng luật nặng, hình phạt lúc nước bình thường thì dùng luật trung bình. Phàm hình phạt có công bằng hay không mỗi thứ đều có luân lý, có hướng thiện. Nhạc ký nói: Lễ thì chí ở nơi đạo đức, nhạc thì tiếng phải hòa, chánh là thống nhất hành động, hình thì để phòng ngừa gian tà. Lễ nhạc hình chánh cuối cùng vẫn là một. Do đó mà lấy chỗ đồng tâm của dân mà ra trị đạo. Hoàng Phạm Thế Yếu luận rằng: Đức nhiều hình phạt ít là đời ngũ đế, hình đức ngang nhau là đời tam hoàng, hình nhiều đức ít là đời ngũ bá. Thuần dùng hình phạt mà mất nước là nước Tần. Phương tiện cho thu là khinh nhờn thì thu lễ mà cho hình phạt, dân hòa thì thu hình phạt mà cho lễ. Lễ hình đúng lúc khoan dung dữ dằn giúp nhau quanh co dối trá như thế, nên nói phương tiện ban cho và cướp lại. Nên Trọng Ni có nói chánh trị mà khoan dung thì dân khinh nhờn. Khinh nhờn thì phải họp với dữ dằn. Dữ dằn thì dân tàn, dân tàn thì dùng khoan dung mà ban cho. Khoan thì dữ dằn mà giúp. Dữ dằn thì lấy khoan giúp. Chánh trị là giữ cho yên hòa. Ngài Kinh Khê trong giải thích cũ nói: Dùng lễ mà ban cho, dùng hình mà thu lại. Lại làm lễ hình thì mỗi thứ đều có ban cho và thu lại. Lễ thì cướp của tiểu nhân mà ban cho quân tử, hình thì cướp ở trọng tội mà ban cho lỗi nhỏ. Cho nên nay tục quan đều có đại quyền để giúp hành sự. Không phải là bỏ đạo, tức nói ngài Tịnh Danh không phải đích thân nắm quyền mà khéo dùng lễ hình. Lại khuyên răn ở vị lai bọn người nương nhờ dấu Thánh mà bỏ đạo. Vừa giải thích cậy nhờ ban cho và cướp lại. Ngài Kinh Khê đã thành ba nghóa đều chí lý và rất tinh tường. Thị hiện việc vào chỗ giảng luận: Ở Thiên Trúc có rất nhiều dị đạo, ai cũng nói mình hơn. Cho nên ở trong nước có lập riêng một nhà luận giảng để luận chỗ hơn kém. Ai muốn nói đạo mình thì gióng trống tập hợp mọi người đến nhà ấy. Ai luận hơn thì làm thầy, ai thua thì làm trò. Ngài Tịnh Danh đã lên ngôi nhà này để nhiếp phục ngoại đạo. Sau mới dùng Đại thừa dắt dẫn mà làm thầy. Nay nói tích nhập phàm tiểu. Nghóa là không phải vào chỗ phàm phu ngoại đạo giảng luận, mà cũng vào chỗ giảng luận của Tiểu thừa dùng Đại thừa để dắt dẫn. Như việc chê trách Mục-liên, Mãn nguyện, Chiên-diên đều là việc này. Thị hiện việc vào học đường. Nói học đường, cũng như ở phương này có quốc học hương hiệu “trường quốc học ở thôn quê). Lễ ký nói: Thời xưa các vua lập nước nuôi dân dạy học làm đầu. Thị hiện việc dạo nhà bán dâm. Ngài La-thập nói: Ở ngoại quốc có một cô gái thân thể sắc vàng, có một cậu con trưởng giả tên là Đạt- mộ-đa-la đem ngàn lượng vàng rủ nàng cùng vào vườn Trúc. Ngài Văn- thù-sư-lợi ở giữa đường biến thân làm người bạch y, mặc áo quý giá rất đẹp. Cô gái thấy thì tâm tham nổi lên. Ngài Văn-thù bảo cô gái: Nàng muốn được áo này thì phải phát tâm Bồ-đề. Cô gái hỏi: Thế nào là tâm Bồ-đề? Ngài bảo: Là thân cô đó. Cô gái hỏi: Là sao? Ngài đáp: Bồ-đề tánh không, thân cô cũng không, nên nó là Bồ-đề. Cô gái này đã từng ở trước Phật Ca-diếp gieo trồng gốc thiện, tu trí tuệ. Khi nghe nói thế liền được Vô sinh pháp nhẫn. Được pháp nhẫn rồi, nàng muốn chỉ rõ lỗi dâm dục, bèn trở về cùng con ông trưởng giả vào vườn Trúc. Khi vào vườn trúc cô gái liền hiện thân chết sình chương rã thúi. Con ông trưởng giả thấy thế rất kinh hãi, liền đến chỗ Phật, nghe Phật nói pháp cũng được pháp nhẫn. Việc bày lỗi dâm dục có lợi ích như thế. Triệu sư nói: Ở ngoại quốc các gái mại dâm ở riêng một xóm, người sang trọng không thèm liếc mắt nhìn. Mà Đại só lại hiện thân đến tham dự rồi sau mới chỉ rõ lỗi ấy. Chín lỗ là hai lỗ mắt, hai tai, hai mũi, miệng và hai đường tiểu tiện, chín nơi này thường tiết ra chất bất tịnh, có gì mà ham thích. Bốn thiện căn phát sinh, là cơ bốn giáo thuần thục. Nếu tham …” là pháp bốn giáo khởi ái trước. Cho nên văn sau trở đi, câu trên là chứng minh vào nhà bán dâm, câu dưới là chứng tỏ bày lỗi dâm dục. Trước dùng móc dục lôi kéo, tức dục cảnh như câu móc hay lôi kéo người tu. Thị hiện việc vào quán rượu. Tứ là bày ra, tức bày rượu ra. Chu lễ ty nắm việc bày biện các vật ở chợ. Trịnh Huyền nói: Tứ tức là chỗ bày vật, mọi vật bày biện khác nhau. Ba mươi sáu lỗi, Đại luận có nói ba mươi lăm lỗi, dẫn đủ thì rườm nay xin tóm tắt bằng bài tụng: Phí tiền, bệnh, tranh cãi Lõa lồ, người không kính Ngu si, được liền mất Lộ mật, bỏ sự nghiệp, Tỉnh thẹn, thân yếu ớt Thân tàn, khinh cha mẹ Không kính bậc Sa-môn Cho đến Bà-la-môn, Tam bảo và Hiền thiện Xa hiền, theo bạn ác Phá giới, không xấu hổ Bê bối, không đoan chánh, Người ghét, bà con đuổi Làm ác, bỏ pháp thiện Bạn, khách không tin dụng Lánh xa cõi Niết-bàn, Nhân điên, đọa đường ác Bị người ngu dối gạt Lỗi có ba mươi lăm Trí luận đã nói rõ. Tiêm sư nói: Kinh Sa-di-ni nói uống rượu có ba mươi sáu lỗi. Thượng thư tửu cáo có nói: Đi đến các nước lớn nhỏ đều bị chê bai, chết chóc đều do rượu. Rượu chỉ gây tội. Truyện nói: Nước lớn nước nhỏ mất đi đều do rượu gây nên. Hôn thần loạn đạo tức tâm thần tối tăm làm loạn chánh đạo. Lại nữa, rượu là phiền não…, ngài Kinh Khê nói: Chuẩn theo câu này là nghóa tu quán tâm. Văn trước các câu cũng phải y theo đó. Như An lạc hạnh có mười thứ não loạn còn làm quán tâm nhưng không bằng giải thích trước về hóa tài… có văn tướng đầy đủ, khuyên gắng cả đạo tục khiến thành chân thật hạnh của ngài Tịnh Danh. Thị hiện thân Trưởng giả: Trong văn có hai: a, Nêu ý chung. Khen đức tôn quý, tức là mười một đoạn này. Riêng nêu tôn quý, thì Triệu sư nói: Phàm người dễ theo uy ắt khó theo lý, cho nên Đại só mỗi chỗ tôn quý đều dùng phong tục lớn mà giáo hóa. Nên nay nói đức là khuôn phép cho người. b, “Nói trưởng …” là chánh giải thích văn hương lư thương kính, cứ một vạn hai ngàn năm trăm nhà là một hương “làng). Lư là cổng làng. Ngài La-thập nói: Trưởng giả như nay là hàng giàu có của bốn dòng họ. Thị hiện làm cư só: Đây là bậc đức độ cao quý, nghóa là đức hạnh trong trắng. Nay nói …” là theo ngoại quốc mà giải nghóa cư só. Vì kinh nói đoạn hết tham đắm, cho nên biết không phải là đức trong sạch. Nói bốn pháp đàn, là bố thí của bốn giáo. Thị hiện ở dòng Sát-lợi: Sát-lợi, Hán dịch là Điền chủ. Triệu sư nói: Sát-lợi là dòng vua, Tần dịch là Điền chủ. Ở kiếp sơ người ăn vị đất, rồi chuyển sang ăn gạo lúa tự nhiên. Sau tình người dần dối trá, mỗi người có đất cát trồng trọt riêng, bèn lập người có đức phân chia ruộng đất công bang. Đây là vị vua đầu tiên. Nên lấy đó làm tên. Thị hiện ở dòng tịnh hạnh: (Bà-la-môn). Mỗi người nên có tâm lìa ngã. Bốn giáo lìa ngã, như đã giải thích trong “ngã văn”. Thị hiện làm đại thần, mỗi người đều có quyền hành, cũng như ở phương này có tam công, cửu khanh quyền hành có khác. Dùng sáng suốt mà chỉ bày. Vì họ mà nói đạo giảng kinh và các việc lễ hình. Hạng người này tiến thì nghó việc tận trung, thối thì nghó việc dạy dỗ. Sau đó để thuận điều tốt đẹp để cứu khỏi ác nên nói chỉ dạy điều sáng suốt, nên ở trong chánh pháp này mà thuận bốn căn tánh chỉ điểm lý vô sinh sinh diệt. Thị hiện làm vương tử. Minh đạt Hiếu kính, hiếu kinh có nói: Học việc thờ cha đem thờ mẹ mà thương đồng. Học việc thờ cha đem thờ vua mà kính đồng. Ngài Tịnh Danh thường nói hiếu kính nên được tôn quý. Thị hiện làm nội quan. Cung nữ, nếu chuẩn theo phương này (Trung Quốc) thì như chu lễ nói: Thiên tử lập hoàng hậu có sáu cung, ba phu nhân, chín tần là hai mươi bảy thế phụ, tám mươi mốt ngự thê. Trịnh chú rằng: Một cung trước, năm cung sau. Về năm cung sau thì hoàng hậu là một cung, ba phu nhân một cung, chín tần một cung, hai mươi bảy thế phụ là một cung, tám mươi mốt ngự thê một cung. Hoàng hậu ở chánh vị cung vì có hình thức đồng như của vua. Phu nhân thì ngồi mà nói chuyện với vua, thế phụ thì phải lạy. Chín tần, nắm dạy bốn đức, thế phụ biết việc tang tế tiếp tần. Nữ ngự lo việc ăn ngủ cho vua. Nhà Hán chế hậu cung gồm mười bốn bậc tức Chiêu nghi, Tiệp dư hónh nga dung, Hoa mỹ nhân, Bát tử sung y, Thất tử lương nhân, Trưởng sử, Thiếu sử, Ngũ quan, Thuận thường vô thanh. Đây là mười bốn bậc… Ban cố trong Tây Đô phú có nói: Hiệu hậu cung có mười bốn vị, bởi gọi như thế. Trong sinh tà ý, Triệu sư nói là ủy mị trau chuốt tình chất nữ tính, nên làm mờ tối chánh trực. Bốn thứ bát đạo, là bát chánh đạo của bốn giáo. Thị hiện làm thứ nhân. Thứ là chúng, là chúng nhân trong thiên hạ. Thị hiện làm Phạm thiên, là ba trời Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền. Mỗi mỗi có ba từng trời, Tứ thiền có chín từng trời đều lìa dục nhiễm mà được chung tên Phạm. Dùng thắng tuệ dạy bảo. Ngài Kinh Khê nói như chi thiền quán là tuệ thì không phải thắng Phạm cũng được chứ không cần phải bậc tôn quý. Cho nên bày ra bốn thứ thắng tuệ xuất thế. Tịnh thiền quán… và Vô cấu thiền, Thông minh đắc thắng đới căn bản, tu mà không đắm trước. Thị hiện làm Đế Thích. Mười lăm quán môn đối đãi kiểm xét lập thứ tự. Biệt giáo kim cang trở lại đều là vô thường, ngài Kinh Khê nói: Đây là chấp của họ. Nay nhân phán xét khiến thuộc Biệt giáo. Lại Phạm vương bảo thường hơn Đế Thích, tự bảo là cha mẹ chúng sinh cho nên nay phạm không lấy vô thường để trị, tức các phạm đã được thâm căn bản thiền. Chỉ vì thắng tuệ đoạt lấy hữu lậu. Sát-lợi Bà-la-môn… đều chung được bảo thường. Đây cũng bỏ thông mà theo Biệt, mỗi thứ đều riêng nói là do đây. Lại còn cũng muốn bày các thứ giáo môn không đồng khiến đều biết hết, nên mỗi mỗi đều nói. Thị hiện làm bốn vương: Mỗi vị đều cai quản hai bộ quỷ thần. Chúa phương Đông thì cai quản Càn-thát-bà Tỳ-xá-xà. Chúa phương Nam thì cai quản Cưu-bàn-trà Miệt-lệ-đa. Chúa phương Tây thì cai quản độc long Phú-đơn-na. Chúa phương Bắc thì cai quản Dạ-xoa La- sát. Trên mỗi mỗi việc, dưới gồm chung nêu bày. Ba mươi lăm việc trên đều là phò giúp thành Phật quốc. Người giảng nói nên biết ý đó. Tiếp là phần kết: Tám phẩm rưỡi nói về lợi ích phương tiện của tiếng, có hai: a, Nêu ý phân khoa, có hai: a’, Nêu ý, có hai: a”, Nêu chung. Trừ tội cấu cho mọi người. Ngài Kinh Khê nói tên tội cấu cần phải thông bốn giáo hoặc hai thứ duyên tập. Cho nên trong một bộ giáo môn nay, rộng lược chiếu nhau xem thế nghóa mà giải thích. Nên họp rộng, là không do lời lược mà khiến nghóa hòa lẫn vào nhau. Cho nên khi thấy tóm chung thì nên dùng rộng mà phân biệt. Hoặc nếu thấy văn riêng rẽ thì nên dùng chung mà gồm nhiếp. Do đó hoặc thể Không hai, trí không phải do ai khác mà thành. Từ một khai thành các thứ, từ các thứ quy về một. Thấy họp cũng không ít lại, lìa gốc cũng chẳng phân chia thân, độ, hoặc. Trí tất cả đều như thế. Cho nên đây dẹp trừ kiến cấu làm nhân bốn cõi (cõi), đâu chỉ nói thẳng nội giới mà thôi. Nêu ý riêng, nêu chương: Khởi đầu phẩm Thăm Bệnh. Ngài Kinh Khê nói: Hỏi: Trong thất có sáu phẩm, vì sao chỉ nói khởi đầu việc thăm bệnh ư? Đáp: Trong thất, các kiến hoặc của sáu phẩm đều nhân bệnh sinh ra. Chỉ cần nêu tên thăm bệnh thì tự gồm nhiếp cả năm phẩm kia. “Sơ ý…” là chánh giải thích: Mượn lời nói chê trách họ để tiện khuyên răn. Ngài Kinh Khê nói: như nói thân này vô thường… mượn thân mình bệnh để chê họ chấp thường, lấy lời chê trách để răn khuyên quán pháp thân. Ấy là một ng- hóa chê mà bao gồm răn khuyên. Huống sau răn lại khuyên quán. Nên nói nhập bất tư nghì giải thoát. Văn thiếu chữ bất. Tức xa thì dẫn nhập vào bất tư nghì, gần thì làm nhân cho hai cõi. Sinh đồng cư, hữu dư… ngài Kinh Khê nói: Vì đoạn hữu vi có hết và chưa hết thì đều là kiến. Kiến là nhân xa để chứng giải thoát, nhưng làm mất hạnh gần của Đại só, đâu dám nói ngay. Ngài Kinh Khê nói: Tủi xưa thẹn nay tình ẩn sợ sệt. Ai lại chẳng nói ngay việc bị khuyết phục xưa nay được sai bảo sợ e phải chịu nhục phen nữa. Tuy hết lòng kính ngưỡng nhưng lại thành bị nhục. Đối trước Phật kể lỗi thắng tu có lần bị chê trách. Nên xứng bản mà nói ra gồm cả hóa đạo. Ấy thì chủ khách và thầy trò đều được lợi quyền thật. Ham Tiểu chấp Tiểu, ham Tiểu tức là Tiểu thừa phương tiện, chấp tiểu tức là Tiểu thừa thấy có quả có người. Ngưỡng mộ Đại thừa tức là biết có Đại thừa mà khởi thấy kính phục. Lúc đó ắt có thể phát đại tâm. Thấu biết đã là lương duyên. Nếu không chê trách thì không kham việc gạn lọc, huống là hai vị làm nhân thấy đề hồ. Được ký bỏ sinh tử ắt chiêu lấy quả báo. Khắp khiến ba giáo… ngài Kinh Khê nói: Tuy có ba giáo, nhưng chánh ý dùng Viên mà chê trách các Bồ- tát, Bồ-tát không trụ Đại, chỉ thấy kiến đồng Tiểu thừa là người Tạng, Thông tức lấy Biệt mà bác cái chấp phương tiện. Ở trong Phương đẳng, người lợi căn thì nhập thật, kẻ độn thì vẫn chưa. Cho nên biết trong đây chia ba mà nói Thông, hoặc chỉ vào Thông vào Biệt mà thôi. Đến hội Pháp Hoa thì các kiến đều quy về. Song chánh ý của kinh là nhập thật, lấy dụng chân tánh làm thể, lấy bốn cõi làm tông vậy. Trong đây lại từ đối cực để nói. Ba thứ này …” là kết bày bốn ý này, ngài Kinh Khê nói đầy đủ như văn trước đã nêu giải thích là đó. Lại gồm bốn ý trước. Lại có bốn thứ khác: Sai được ngài Văn-thù. Ngài Văn-thù luận đạo. Thanh văn tự tủi thẹn. Bồ-tát ra làm. Cho nên biết hai ý trước là thành hai ý sau, hai ý sau lại có xa gần hai ý. Gần xa lại có hai; a, Chung. b, Riêng. Sở dó nói chung là xa gần mỗi thứ đều có xa gần. Thanh văn hai thứ là xa thì thành rốt ráo, gần thì nhập thục tô. Bồ-tát hai thứ là độn thì đồng với Nhị thừa, thấy kiến thì có thừa, lợi căn thì ngộ ở tức. Nói riêng, là Thanh văn thì được lợi ích xa, Bồ-tát thì được lợi gần. Nay sớ theo riêng, nên Thanh văn tự tủi thẹn. Bồ-tát tiến hành. “Nay nói …” là phân khoa, Tổng phân: Ngài Kinh Khê nói: Ý có bốn: Kinh văn hai đoạn, bốn thứ như trước đã nêu. Nói hai đoạn, tức là chiết phục và nhiếp thọ ở văn này. Cũng có hai, tức trong thất thì nhiếp thọ, ngoài thất thì chiết phục. Ở trong chiết phục lại có nay có xưa. Nay tức là nhóm tục thăm bệnh, còn xưa là nhóm chúng đạo bị chê trách. Ở nhiếp thọ cũng có hai ý: Năng sinh và sở sinh. Năng tức ở thất trống, sở tức là ở sáu phẩm. Lại cũng có thể phân về tự tha. Tha thì truyền ý Phật, tự thì kể tình mình. Tức từ “cư só có bệnh ấy …” . Văn sau nói về ngoài thất đã có vô số trăm ngàn người cùng đến thăm bệnh. Khi ấy; chưa vì các trưởng giả, quốc vương hiện việc khó nghó bàn. Cho nên kiến kiến khi có thăm bệnh. Về bệnh, tuy lại ở trong thất mà kẻ được giáo hóa, cơ hình đều sơ sài. Hơn nữa, nói ở ngoài thất là từ được giáo hóa mà nói là ngoài thất. Lại chiết nhiếp… cũng dùng ý ba phương tiện của kinh Anh Lạc, suy nghó ắt có thể biết. Trong chiết phục thì đầy đủ cả nhiếp thọ. Chiết thì như chiết quán, nhiếp thì như thể quán. Lại chiết thì như quán thân, nhiếp thì như khuyến cầu. Lại trong nhiếp mà chiết, tức điều phục thì như chiết, còn ủy dụ kiến kiến thì như nhiếp. Lại Tạng chiết thì thông nhiếp, Biệt chiết thì Viên nhiếp. Lại quyền thì chiết, thật thì nhiếp. Cho đến không phải quyền không phải thật trở đi các văn sau thì kiến kiến có phẩm. So cách nói này thì có thể biết. “Nay đến …” là phân biệt, có hai: a, chánh phân, tức là chiết phục tự thể duyên tập, ngài Kinh Khê nói: Hỏi: Trước đã phá việc xưa tự lập hai thứ duyên tập, nay vì sao lại lập tập tự thể? Đáp: Gồm phá Luận sư lập tên riêng nay, nhưng nay chỉ lập một tập vô vi, nên hợp nêu. Lại trong văn nay trước đã dựa vào đó mà lập tên tự thể nhưng đã ngầm bỏ đi. Liệu giản, có hai: a, Phen đầu, ngài Kinh Khê nói từ “hỏi đáp …” là lập lại lỗi ấy, mà luận đại tiểu được tên có khác đôi chút, tức là chánh giải thích. Song cần được ý chỉ chánh giải thích mà gồm muốn chiết phục kiến kiến. Các Sư Nhiếp Đại thừa lấy nội ngoại trần sa cùng vô minh mà hợp nói. Nay nói Nhị thừa cùng các Bồ-tát đồng có vô vi duyên tập nội ngoại đã phân xong tức có kiến kiến. Nhị thừa đều từ đắm trước vô vi mà lập tên. Bồ-tát thì không đắm trước chỉ quán tự thể và pháp giới cho nên riêng được tên gọi là pháp giới, pháp giới không phải duyên, vì duyên cùng thể của pháp giới ấy hợp từ sở chướng mà nói. Nên nói là tự thể pháp giới duyên tập. Vì thế cần phải đặt trần sa từ vô minh mà lập. Vì trần sa hoặc đều không lôi kéo chúng sinh ra nội ngoại giới nên bỏ đi mà không lập. Do đó văn nói tên khác mà thể đồng. Cho nên nói người học cùng phàm phu đồng có tư hoặc ba cõi. Văn có hai: a, Hỏi. b, Đáp, Chánh đáp. “Như phàm…” là dẫn lệ. Phen hai, ngài Kinh Khê nói học vấn… đây là hỏi từ văn đáp trước mà có, hoặc chân hoặc trung đều được gọi là lý. Trong đó nương hoặc đã gọi là tự thể, vậy nương chân cũng gọi là hoặc tự thể chăng? Đáp trước đã dùng tên của nhiếp Luận sư mà gọi. Nay lại nhân đây mà vấn nạn. Trong ý đáp hai chân đã khác thì nghóa chân bèn khác. Cho nên chướng nội giới hoàn toàn không phải tự thể, không thể đồng với chướng mà lập tên, huống hai hoặc thể đã khác mà thô tế càng khác hẳn. Hai chân này đầu tiên đã khác xa sao lại cưỡng ép là đồng. Cho nên biết: Tự thể đem đối trung thì hiển bày thiên chân, không phải tự không phải thể, nhưng đối với vô vi không hợp mà lại lập riêng cho nên dựa vào phá trước mà giữ nguyên lý cũ. “Thử bán …” là tùy văn giải nghóa, phẩm rưỡi đầu chê trách chiết phục, nửa phẩm nói về chiết phục nội giới hữu vi duyên tập, Phân khoa. tùy giải thích, Phương tiện hiện bệnh, Chánh giải thích. Liệu giản, chánh biểu thị hai duyên tập. Sao biết được như thế, song cũng như ở đây vậy, là lời chỉ trên nói vì sao biết được việc ngài Tịnh Danh ngọa bệnh là biểu thị cho hai thứ duyên tập này? Ý đáp: Vô duyên đại Bi… che khắp mười giới gồm thâu tất cả chúng sinh. Cho nên biết hiện bệnh là dẫn dắt sáu phàm bốn Thánh khiến cho không bệnh. Tiếp nói đồng tiểu: sở dó hỏi là ngài Tịnh Danh tích hiện thân cư só vốn là Bồ-tát, hai bệnh đã đủ sao cần phải đồng tiểu? Ý đáp: Phổ môn thị hiện đâu có chướng Nhị thừa. “Lại nữa …” là chỉ dựa vào bốn giáo Bồ-tát, mà Thông giáo đã gồm nhiếp Nhị thừa, nên lấy chỗ chứng là đồng. Các người tham vấn. Nhân vì nói pháp, Đoán luận ý nghóa, chung nêu phân khoa. “Văn đầu …” là riêng nêu ý, Nói pháp chỉ quy: “Nay đây …” là phán quyết chỗ thuộc của quán môn. “Các nhân giả …” là tùy văn giải thích, Tổng nêu nói pháp. b, Chánh nói quán môn đoán nêu ý, đoán bày quán moan: Bỏ xưa dùng nay. Một ước …” là chánh nêu nghóa nay. Mười tưởng, ngài Kinh Khê nói: Đầy đủ như thứ lớp pháp giới. Nói ba thứ trước, tức vô thường, khổ, vô ngã. Bốn thứ giữa là ăn, bất tịnh thế gian, không thể vui, chết bất tịnh. Ba thứ sau là đoạn, ly, tận. Nay ước theo khuyến cầu… nếu nhập vào ba thứ sau tức là nhập vào vô vi, cho nên không nói. Ước hai thứ niệm xứ. Hỏi vì sao không ước duyên niệm xứ? Đáp: Duyên không phải là chánh quán, chỉ là phân biệt văn tự các môn, cho nên lại bỏ đi. Song trong năm thứ trên, hai hạnh chính giúp tướng đại đồng, tuệ hành là chánh, hạnh hành là phụ. Nay lập riêng thì hạnh tức hay làm. Đạo tức nơi dẫm đạp, đi qua. Đạo hạnh không đồng nên riêng lập. “Nay ước …” là nói ý dụng môn, Riêng bày. Ngài Kinh Khê nói: “Lược nêu …” là nói về năm tu. Trong bốn văn trước thì ba cõi đầy đủ, vì sao không nói cõi Thường tịch? Đáp: Văn thứ năm nói: Trụ bất tư nghì tức là cõi Thường tịch, đâu cần phải lập riêng, chỉ vì Thường tịch quang mà làm sở thành, tức lấy ba cõi mà làm năng thành. Cho nên sở thành chỉ một, mà năng thành có ba. Thế thì việc năng sở có khác nhau. Hỏi:Ba thứ trước thuộc chúng sinh, đối với chúng sinh mà thành tự (mình). Tịch quang thuộc sở, đối với Phật mà thành tự. Từ tự nhìn sang tha, lại thành hai thứ tha, nghóa nó thế nào? Đáp: Phá nghóa tự tha đã như trước giải thích. Nay từ sở đoạt cứ một mực như thế, đầy đủ phải như trước đã phá. Vì sở khế năng khế nên có bốn cõi. Lý lại tương tức, nên không riêng mà riêng. Trong đó cái thứ ba tức là ngang. Đồng cư tức là đồng ở Tịnh đồng cư. An dưỡng mới là khác chỗ ở Tịnh đồng cư, đầy đủ như phẩm Công Đức của Pháp Hoa đã nói. Kế dẫn việc ngài Loa Kế thấy mà nêu lệ Tịnh đồng cư. Lại nữa, Phật tuệ là thấy tịnh mà không trược “dơ). Bởi do Phật tuệ tức như Pháp Hoa. Do Phật gia hộ mà dẫn việc thấy của ngài Loa Kế. Ngài Phổ Hiền cũng chứng Phật tuệ, là người trừ hết trược, là hàng Nhị thừa thấy ngang. Cũng do vừa nghe được Phật tuệ. “Giả bệnh…” là tổng kết. “Nay đến…” , là tùy văn chánh giải thích, Kiến đạo, Nói vô thường, Chánh nói vô thường, nêu ba việc vô thường, Ca-la-la cũng là Yết-la-lam, Hán dịch là tạp uế, hình trạng như sữa đặc. Đây là gá thai bảy ngày đầu. Ở thai phải trải qua ba mươi tám lần bảy ngày. Nói phàm phu khởi lệ. Khởi các phiền não… là bảo thân là thường còn nhân đó khởi các hoặc, vì hoặc nên nhuận nghiệp, vì có nghiệp nên kéo dắt thọ sinh ba đạo không cùng, luân chuyển mãi không ngớt. “Bất giác …” là nêu tướng vô thường. Ba việc phân ly, tức gió hơi thở đã dứt, hỏa đại liền diệt, thì thức theo nghiệp mà chạy đi, nên nói là ly tan. “Nay tịnh…” là nói ngài Tịnh Danh phá các điên đảo, Nói pháp phá điên đảo. b, Nếu hay …” là cơ duyên ngộ đạo, Nói quán tế vào đạo. Quán tế vô thường, một lần chết mất gọi là thô. Niệm niệm dời đổi gọi là tế. Tức sau đó nói rằng: Tất cả thấy như đều vô thường. “Nhược tỳ…” là bày hai môn khác mà nói, có hai: nêu chung hai môn. “Thành luận …” là vì vô thường là pháp hữu, cho nên lấy không mới thấy đạo. Nay ước trở đi, là nay y vào hữu môn. Giúp thành, có bốn: Giải thích vô cường. Giải thích vô lực. Giải thích vô kiên. Giải thích hoại nhanh. Câu kết: Phá chấp. Nói khổ, Chánh nói khổ môn, Nêu hiện văn mà giải thích trực tiếp. Ba khổ, là khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Tám khổ, bốn khổ sinh… thì bốn khổ lại thêm oán tăng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc, ngũ thạnh ấm. Về chín não, thì Tiêm sư nói: Quấy não ta. Quấy não bà con ta. Khen kẻ ta thù ba đời đều như thế, nên họp làm chín. Hỏi: Quá khứ đã qua, vị lai chưa đến sao gọi là não? Đáp: Não tuy cảnh ở quá khứ, vị lai nhưng ở hiện tại cùng gặp nhau thì sinh não. Và ở quá khứ từng quấy não thì đối với ta luôn ghi nhớ mãi trong lòng. Căn cứ khổ giải thích lại. Hành khổ, là niệm niệm đổi dời gọi là hành khổ. Trái duyên phá hoại lạc thọ, trái tình cảnh gọi là trái duyên. Khổ chung có bốn… văn sau nói: Bốn khổ có hai. Nếu nói tức sinh, tức lão, tức bệnh, tức tử đó là ước lý, tức là khổ chung. Sự bốn khổ tức nay là khổ riêng. Khổ khổ riêng đối với khổ chung thì sự khổ nặng hơn lý khổ. Cho nên biết sinh… đều là khổ khổ. Vì sao văn nay chỉ lấy bệnh là khổ? Đáp, trong đó có hai ý: 1. Căn cứ bệnh khổ ở hiện tại rất mạnh mẽ nên khác với ba thứ kia. Nói kỳ thật sinh… đều gọi là khổ. Chỉ ngài Tịnh Danh hiện bệnh, nên riêng lấy khổ bệnh mà đáp. Kết thành nghóa khổ. Còn gì để cậy nhờ. Kinh Thi nói: Không cha cậy ai, không mẹ thì nhờ ai. Chú thích hổ là nhờ, thị là cậy. Nói không, Đoán nêu Nêu chương. Tùy giải thích, Chung riêng giải thích, Chánh nêu. và liệu giản, phân biệt hay dụ đại tiểu. Không nên dùng dụ ánh lóa và huyễn hóa, vì Tiểu thừa Không có dụ ánh lóa và huyễn hóa, nên không nên dùng. Bọt bèo, trong bóng, thì mười dụ của Đại thừa Không có dụ bọt bèo… mười dụ là: Huyễn hóa. Ánh lóa. Trăng trong nước. Hư không. Tiếng vang. Thành Càn-thát-bà. Mộng. Bóng. Hình ảnh trong gương. Hóa. Tạp dụ không hợp lẽ, đã bốn giáo đều nói, cho nên Tiểu thừa dùng chung các dụ. Chỉ Đại luận đến như huyễn, ngài Kinh Khê nói: Đầy đủ như huyễn hóa, tục thì đồng, chân thì khác, một tục ba chân. Lệ theo ý có thể thấy. Cho nên đối với một huyễn mà chỗ thấy không đồng. Do đó Thông giáo ba người lại thấy khác. Người Biệt giáo thì thứ lớp diệt huyễn mà thấy lý. Người Viên giáo thì tức huyễn mà thấy pháp tánh. Người lợi căn thì chỉ là người Biệt Viên. Khuyên tu quán, là lưu ý suy nghó tìm văn, mê tông thì gọi là kẻ đếm báu. Từ nhiều mà luận… nghóa là Thinh văn cũng là lợi căn mà nói như huyễn… nhưng kinh phần nhiều nói dụ về bọt bóng nước… kinh Đại thừa cũng nói về bọt, bóng nước… để làm trợ đạo, nhưng phần nhiều đều nói dụ như huyễn… cho nên bỏ ít mà theo nhiều, lấy dụ để phân giáo. Cho nên nói đều có nẻo gốc . “Đại phẩm …” là chánh bày. Kinh Đại thừa cũng nói ít dụ. Nhưng nhiều ít cũng khác nhau. Sáu dụ, chọn dụ ly hợp. Ly hợp, ngài Kinh Khê nói giả thân tức là các pháp hợp thành, thế nên được tên là ly hợp không nhất định. Cũng như Bà-sa giải thích về mười hai nhân duyên. Hoặc nói một pháp tức hữu vi, hoặc nói hai pháp tức nhân quả, hoặc nói ba pháp tức ba đạo, hoặc nói bốn pháp tức hai nhân hai quả, hoặc nói năm pháp là hai nhân, ba nhân. Hoặc nói sáu pháp là ba đời nhân quả, hoặc nói bảy pháp là hai nhân năm quả, hoặc nói tám pháp là ba nhân năm quả… đều dùng ba đời sánh nhau mà nói nhân duyên tạo thành tức giả thân. Cho nên các kinh luận về pháp tướng ly hợp đều là bất định. Nay dùng ba sự, nếu căn bản thiền thì phần nhiều từ hơi thở mà nhập. Nếu Thông minh thiền thì quán đủ ba việc, nếu vô lậu thiền thì quán bất tịnh và ba việc. Thế nên văn nay chỉ nói ba việc. Thông tướng mà giải thích, Luận khác. Cho nên không đồng trước, tức không đồng trước đem chung riêng mà giải thích. Lấy thứ khác mà đối sắc thọ… văn nay nói đủ là thân ấy. “Nay thông …” là chánh nêu, có hai: a, Dùng Tạng, Thông để phân dụ là thân không, tức nhập không. Căn cứ Tạng, Thông quán môn, ngài Kinh Khê nói: Hỏi: Ở quán không tức dùng Đại thừa mà nói pháp, là sao? Đáp: Trong đây nói Không, là Không gồm cả thể và tích. Cho nên ở đây mà nói nghóa cho tiện. Lập hỏi đáp để giải thích thành, Nêu phần dụ để làm bằng, có hai: Hỏi. Đáp. Nêu thể dụ có không, có hai: Hỏi. Đáp. Nêu ý chỉ lập dụ, có hai: Hỏi. Đáp. Dễ hiểu không, tức là huyễn… thì người đều biết là không. Nên nêu huyễn… để dụ cho ấm không… vốn “không” mà phàm phu vọng chấp. Nên nói là khó hiểu. Bày các dụ mà hạn cục chung, có hai: Hỏi. Đáp. Nhiếp Đại thừa đến tám dụ, là dẫn chứng huyễn…. Làm dụ cho Biệt Viên. Tiêm sư nói: Luận ấy quyển sáu nói: Nếu thật không có vật thì sao lại thành cảnh giới. Để giải nghi này nên nói dụ việc huyễn hóa. Nếu không có cảnh giới, tâm và tâm pháp thì sao được sinh? Để giải nghi này nên nói dụ nai khát nước. Nếu thật không có trần ái và phi ái thọ dụng thì sao được thành, để giải nghi này nên nói dụ mộng tưởng. Nếu thật không có pháp thiện ác hai nghiệp ái phi ái quả báo thì sao được sinh, để giải nghi này nên nói dụ về bóng “ảnh). Nếu thật không có pháp thì sao các thứ trí sinh, để giải nghi này nên nói dụ về bóng sáng. Nếu thật không có pháp vì sao các nói năng khởi lên, để giải nghi này nên nói dụ tiếng vang trong hang. Nếu thật không có pháp, vì sao lại thành duyên pháp chân thật định tâm cảnh giới, để giải nghi này nên nói dụ trăng trong nước. Nếu thật không có pháp, vì sao các Bồ-tát cố làm tâm không điên đảo, vì người khác làm lợi ích mà thọ sinh ở lục đạo, để giải nghi này nên nói dụ huyễn hóa. “Nay giải thích… ” là kết đại ý lập dụ. “Thân ấy… ” là tùy giải thích, có mười: Tụ bọt nước, kinh nói Toát ma, thì Quảng Nhã nói Toát là nắm giữ. Thích Danh nói Toát là chọn. Nghóa là tạm chọn lấy. Ngài Kinh Khê nói về tụbọt nước là dụ người không, ý muốn hiển bày pháp Không kiến kiến chưa sáng rõ, như lấy nước rót vào nước. Nước dụ cho thật pháp, bọt nước dụ cho giả danh, chỉ phá bọt nước. Cho nên chỉ phá mây giả… cũng thế. Nếu dụ như huyễn thì toàn thể là huyễn, đâu phá người huyễn mà lại còn giữ huyễn pháp. Ảnh “bóng)… cũng thế. Nếu kiến như nhân thuốc, nhân vật mà thành con thỏ ảo thì nghóa cũng giống như bọt nước. Bóng cũng vậy. Tiếp là bóng nước. Ánh sáng lóa. Ngài Kinh Khê nói: Thân ấy như ánh sáng lóa. Từ khát ái sinh ra, tức ánh lóa do khát nước sinh ra. Như thân kiến kiến từ ái sinh ra. Lấy ánh lóa dụ cho thân nên cùng nêu thứ ấy. Bóng cùng nghiệp duyên cũng như thế. Tiếp là thân chuối. Huyễn. Mộng. Bóng. Tiếng vang, có hai: a, Giải thích hiện văn, căn cứ ở hang và tiếng vang mà giải thích. Hang trống và tiếng vang ứng hợp nhau. Lão tử nói đó là hang thần bất tử. Căn cứ tiếng vang mà giải thích: Bảy chỗ, Đại luận quyển sáu mươi giải thích về dụ tiếng vang có nói: Như khi người nói thì hơi trong miệng phun ra gọi là Ưu-đà-na, khi hơi này ra rồi lại trở vào đến rún. Có kệ rằng: Gió tên Ưu-đà-na. Tới rún thì bay lên, gió này đụng vào bảy chỗ. Đảnh và răng, nơứu, môi, lưỡi, yết hầu và ngực. Do đó tiếng phát ra. Tiếp Thông qua các phân biệt trước mà nêu rõ mỗi thứ đều có dụ, tức lấy huyễn dụ cho cảnh giới. Cho đến lấy biến hóa dụ cho Bồ-tát thọ sinh. Cho nên nói mỗi thứ đều có dụ, rõ ràng như đã ghi trước. Ý hỏi: Đã đồng Đại thừa, vì sao lại khác. “Tám thứ biệt dụ…” là chánh phán quyết Nhiếp luận là Biệt giáo. Như lấy bốn đức để đối bốn thứ Tam-muội. Ngài Kinh Khê nói: Tức trong hai mươi lăm Tam-muội thì lấy vô ngại Tam-muội để phá không xứ, lấy thường Tam-muội để phá thức xứ, lấy lạc Tam-muội để phá Bất dụng xứ, lấy ngã Tam-muội để phá phi tưởng xứ. Tuy không tịnh mà gọi là vô ngại tức tịnh. Nếu định dựa vào đối tức nghóa riêng. Nói phá bốn thứ người, tức chỉ là người ở trời Tứ không. Mây trôi. Mây từ rồng mà ra. Chu Dịch nói: Mây từ rồng, gió từ cọp. Cũng là khí âm dương. Xuân thu nguyên mạng bao nói: Âm dương hợp lại làm mây. Điện chớp, nghóa sấm chớp chưa rõ. Lại Ngũ kinh thông nghóa có nói: Sấm chớp là ánh sáng. Cố Khởi Chi nói: Âm dương đụng nhau làm sấm làm chớp. Lại Kinh Luật Dị Tướng nói: Có bốn thầy nói về điện chớp cùng hai giải thích trước nói khác nhau, chưa thể phán định được nên nói là chưa rõ. Nói về vô ngã, Phân khoa giải nghi, Đối không mà giải nghi, gồm hỏi và đáp Không, là phá giả danh mà được người, không phá thật pháp mà được pháp Không. Vô ngã, ngài Kinh Khê nói: Chúng sinh vô ngã, pháp vô ngã, bình đẳng vô ngã. Bình đẳng vô ngã tức Đệ nhất nghóa không, đầy đủ như văn sau. Trong phẩm Quán Chúng Sinh đầy đủ ba Không, tức ba vô ngã. Tiếp đối giáo mà giải nghi Hỏi và Đáp, “Năm loại đầu …” là theo văn giải nghóa, Căn cứ bốn đại chủng mà nói vô ngã, là tùy giải thích. Cùng nêu. Cùng giải thích, Phá ngoại. Tiêm sư nói: Đây phá kiến hoặc, do đó trước phá ngoại chấp (), ngoại chấp chính là kiến hoặc. Nội quán, Dẫn bộ chấp. Hữu môn giám địa… mà lập tên chúng sinh, cho nên chúng sinh giả mà địa thật. Không môn lấy bốn vi thành bốn đại, cho nên địa chỉ có tên mà bốn vi là thật, bốn đại còn giả thì chúng sinh có thể biết. “ Nay nói …” là nay giải thích, có hai: a, Căn cứ bốn vi mà kiểm phá. Bốn vi nội địa được thành… ngài Kinh Khê nói: Đây tạm thời thuận với ngoại chấp mà nói, tức trong hai mươi lăm đế thì có chấp này. Cho nên nói: Trong bốn đại, vi có tăng giảm, là ý nói: Sức nói mỏng thì phải nhiều vi mới thành. Nếu sức lớn, thì do ít vi mà thành. Cho nên trong bốn đại, thì sức của phong rất lớn chỉ một vi thành. Tức thủy không có hương vi, hỏa không có hương vị. Cứ một mực quán thì cũng gọi là giống đây. Song đối Phật pháp trọn không có một vi riêng rẽ mà thành pháp được. Chỉ những thứ có chất đều do bốn vi mà thành. Nay muốn phá chấp, cho nên phải từ chấp. “Cho nên…” là nói hỏa do hai vi thành. “Nếu bên trong…” là bốn đại đã không chủ thì ba việc đâu không như thế. Vì trong ba việc thì mạng sống tức phong đại, sức ấm tức hỏa đại, thức tức thức đại trong sáu đại. “Hai Hựu thỉnh …” là ước bốn câu mà kiểm phá, Chánh kiểm phá. Địa không có tánh bền chắc, tức là văn kinh ấy. “Nếu có… …” là nay Sư căn cứ cú mà kiểm phá. Giải thích kinh về nghóa không bền chắc. Kim Cang trở … đi là dẫn chứng kinh. Kiểm hỏa duyên vô tự tánh, đã không tự tánh thì cũng không tha tánh… cho nên phá tánh bốn câu. Kiểm phong: Bốn câu kiểm phong, Tiêm sư nói: Nếu chấp phong là có, tức là có ngại. Còn ba thứ kia cũng thế. Kiểm thủy, nếu thủy đến thì ông cũng như thế. Đây nếu thủy mà y theo đó thìđể cật vấn về việc có thần. Nếu ông nói người có thể từ bi đối với người dưới, thì tùy vật mà biết có thần. Vả lại nước là vô tình mà thường thấm xuống dưới. Tùy đồ vật mà thấm xuống, nào khác gì lòng từ nghó khắp. Tùy vật vuông tròn nào khác tùy người. Người nếu có thần thì nước cũng có. Nếu bảo nước không, thì người cũng không. Cho nên nói ông cũng như thế. Bốn câu kiểm thủy, nghóa là có người bảo không hai, nhưng cũng song phi (đều không phải), tất cả đều là nghóa trụ mà không khởi bốn chấp mới gọi là bất trụ. Đây kiểm bốn đại thì văn đều dẫn ở thỉnh Quan Âm. Tức kinh ấy, ngài Thân Tử vì Ưu-ba-tư-na mà nói bốn đại Không chủ, cả hai đều nhập vào bờ mé như thật, ý đó cũng đồng với Đại thừa. Rôïng giải thích kinh ấy để phá bốn đại như trong tùy tự ý của chỉ quán. Kiểm chung. Tổng căn cứ bốn đại mà nói vô ngã. Ngài Kinh Khê nói: Hỏi: Vì sao không nói thí dụ mà nói căn cứ? Đáp: Căn cứ là y vào đó mà thành, tức như y ngoại phá nội nên chỉ nói là căn cứ . Nay suy từ địa ở ngoài cho đến vô chủ thì biết thân vô chủ. Căn cứ ngoại mà biết nội, nên nói là ước. Các đại kia chuẩn đây mà biết. Ngoại nói y thần “nương sức thần). Nội nói thân ấy y vào các đại. Lấy đại so với thân thì đại là thật pháp. Người ngoài mê đó, gọi là có thần…. Bốn đại Không phải do một thần làm ra thì nương vào đâu? Nếu cùng nương bốn đại thì phải có bốn ngã. Sớ nói: bốn thân chính phá bốn ngã, vì ngã nương thân nên nói bốn ngã, vì trong ngoài đều có bốn đại. Tiếp dựa theo không chủng mà nói vô ngã. Sở đã là không thì sở tức là đại hư không. Bao vây hư không, đó là không đại ở trong thân. Trong văn nói cho đến ngoại không là lời nói phụ, cũng nói và là. Lại lấy đó mà giảng dạy. Trong kinh luật đều nói cho đến như tựa luật Tứ phần cho đến thân chứng. Từ xa xưa viết lách nói luận đều nhanh chóng đổi là và . Trọng Ni nói: Ta cùng Sư thiếu văn, nay đã mất rồi. Kẻ hậu sinh học cạn cẩn thận chớ vọng đổi, lần lần thành sai lầm. Cũng là một tướng diệt Phật pháp, các việc khác đều phỏng theo đây. Dựa theo thức chủng mà nói vô ngã, dựa theo thức chánh phá: Cỏ cây ngói gạch cũng do âm dương chuyển biến, tức cỏ cây thì mùa xuân tươi tắn sum xuê, mùa thu tiêu điều. Gạch đá thì mưa đến tất ngầm rã, đều giống như có cảm biết. Ngài Kinh Khê nói: Gạch ngói cũng có bốn mùa biến động như đốt ngói thì biết trời mưa. Tiêm sư nói khi sắp mưa thì ngói nặng, sắp tạnh thì tro than nặng. Thần khiến biết mà biết, nghóa là lấy biết mà biết vật, nên nói biết mà biết. Dựa theo phong mà giúp phá. Cho nên Đại tập nói… ngài Kinh Khê nói tâm niệm lôi kéo phong. Cho nên đều do tâm niệm làm tăng thượng duyên. Cho nên các nghóa trước đều do tâm cùng bốn nghóa trước họp nhau mà sinh. Sinh các thứ chấp là phá ngoại nhân và các nội chấp. Nên mỗi thứ đều phá. Khi không hợp thời thì không có việc tay chân bất toại. Toại là tiến tới. Tiếp nói Tu đạo, Đoán nêu: Nghiên cứu rõ mà chỉ định. Nếu tiếp theo trước… ngài Kinh Khê nói: Dựa theo năm đôi trước. Nay chỉ năm đôi nên ở một đôi kiến tu mà tiếp kiến đạo, tức là tu đạo. Đây lại bất định, là ở trong năm đôi tùy đối một đôi, là một đôi nào? Lại hướng về trước… ở một đôi kiến tu đạo, nếu lại hướng về bốn hạnh mà nói bất định này thì chỉ thành trong ngũ đình tâm. Cho nên nói kiến đạo phương tiện. Vì đứng đầu Thất hiền nên nói là trước. “Minh dữ… …” là sáu hiền cùng thành phương tiện. “ Bồ-tát… …” là chánh căn cứ tu đạo, có hai: a, Hiển công bày vị. Ngài Kinh Khê nói: Bồ-tát nếu nhập…, tạm dựa vào đương giáo, ý gần thì là Thông Bồ-tát, nếu xa mà luận thì cũng giúp Biệt Viên. “Nay chẳng …” là căn cứ vào nghóa mà thử giải thích, Y theo bốn tưởng. Bốn thứ này tức bốn trong mười tưởng: Tưởng bất tịnh trong thân mình người có ba mươi sáu vật. Ngoài thì có chín lỗ thường tiết ra chất dơ, từ sinh ra đến khi chết không có một thứ nào là sạch cả. Thực bất tịnh, xem các thứ ăn uống bất tịnh đều từ nhân duyên bất tịnh mà có. Thế gian không có gì đáng ưa vui. Thế gian có hai: a, không thấy có chúng sinh tốt đẹp. b. Không thấy có cõi nước tốt đẹp. Tử tưởng. Tử là thường bị chết chóc đuổi theo. Khi thở ra không chắc được hít vào thì thân sẽ lâm nguy. Đây là căn cứ ở chúng sinh thế gian. Căn cứ ở bốn khổ, chánh nêu: lại nữa… làm bốn khổ, ngài Kinh Khê nói: Không nhất định từ trong bốn Niệm xứ mà quán vô thường, vì thông tu đạo. Cho nên khổ cũng thế. Tức là ba cõi đều khổ. Tuy miễn trở lại bốn thú, nhưng phải bảy lần trở lại nhân thiên đầy đủ… huống vẫn nhân thiên ở Dục giới mà qua lại thì cũng có thể đối sinh… Chỉ bốn…”, là kết phán quyết. Ngài Kinh Khê nói: Về lý bốn khổ là sát-na vô thường vô thường. Sự bốn khổ, tức ở tu đạo, vì khi tu quán mà quán tư hoặc. Vì tư hoặc thuộc sự nên gọi là sự. Nay nói lý sự thì cũng gọi là chung riêng, cũng gọi là thô tế. Lý chung thì sự riêng, lý tế thì sự thô. Đối thô gọi là lý, lý này vẫn là sự. “Thân ấy …” là tùy giải thích. Năm thứ bất tịnh là: Chủng tử bất tịnh, là thân này nắm di thể của người khác mà gởi thức vào đó. Trụ xứ bất tịnh, mười tháng ở thai mẹ trong khoảng hai tạng sinh thục. Khi sinh thì từ niệu đạo mà ra ngoài. Tự tướng bất tịnh, là nằm ngủ nơi phấn uế, chín lỗ thường tiết ra chất dơ. Tự tánh bất tịnh, là trong thân chỉ có máu mủ cứt đái. Rốt ráo bất tịnh, là khi chết rồi thì thân như chó chết hư rã hôi thối. Nói rộng như trong Chỉ quán quyển bảy. Ngài Kinh Khê nói nó hơn hết cho đến chín tưởng đầy đủ như trong pháp giới thứ lớp đã nói. Các thứ khác đều sinh khổ. Tự tướng bất tịnh còn thông cả trong thai lúc đầu mới gá thai, huống là tánh ư? Thế nên biết cũng thuộc sinh vậy. Tuy lại tắm rửa… có người nói: Chữ y đọc bình thanh, chữ thực đọc nhập thanh. Nay nói không phải thế. Khi chưa thọ dụng thì có thể đọc hai thanh bình và nhập. Nếu chánh thọ dụng thì phải đều đọc khứ thanh. Nếu hai chữ y và tự đọc theo bình và nhập thanh thì tắm rửa chỉ phải nói là nước nóng. Chưa thọ dụng cho nên là giếng hư. Ngài Kinh Khê nói nghóa là rã mục vô dụng ở đồi gò. Nghiệp lực giữ gìn, đây là giải thích thân ấy ở nghóa vô định. Ngài Kinh Khê nói: Nếu chuẩn theo mọi người thì mỗi người đều có nghiệp, cũng có thể có nghiệp nhất định, có thể phá, cũng có thể là vô định. Lại có người gặp duyên hoạnh tử lớn nhỏ như kinh Dược Sư nói, Đại kinh quyển hai mươi bốn nói có chín thứ hoạnh tử cũng thành bất định. Huống lại chỉ căn cứ mọi người có nghiệp. Hình tướng các nghiệp cùng so nhau đều gọi là bất định. Ở núi, biển, khoảng không và chợ búa, như kinh Pháp Cú quyển hai có nói: Có bốn anh em Phạm chí, mỗi người đều có thần thông biết sau bảy ngày đều sẽ chết, cùng nhau bàn mưu trốn thoát. Một người nói ta trốn vào biển khơi, dưới không đụng đất trên không ngoi khỏi mặt nước. Một người nói ta chui vào giữa bụng núi Tu-di và biến hình thành núi ấy. Người khác nói tôi bay lên ẩn mình giữa không trung. Người chót nói tôi trà trộn giữa mọi người trong chợ. Ai cũng bảo chỗ trốn như thế thì vô thường sát quỷ đâu biết chỗ ta ở. Bàn xong bèn từ tạ vua và nói rõ ý mình phải lánh đi. Qua bảy ngày sau thì cả bốn người đều chết. Quan coi chợ tâu vua có một Phạm chí chết giữa chợ. Vua nói có bốn người trốn, một người đã chết, ba người kia đâu thoát được. Than ôi, cái chết đã đến không thể tránh được. Linh nghiệm thay! Tấn thư nói Quách Phác rất giỏi nghề bói toán âm dương lịch số. Ở đời Tấn Nguyên đế, ông cùng Hoàn Di kết bạn luôn qua lại nhau. Một hôm Di thấy Phác ở giữa phòng vợ mình bảo rằng: Anh đến xứ người đi đường tắt đến trước. Nhưng không nên gặp tôi ở nhà tiêu. Nếu đến đó tất có tai ương. Về sau Di nhân say rượu bèn đến chỗ Phác ở, lại đứng ngay trên nhà tiêu “xí) mà nhìn thấy một người mình trần xỏa tóc ngậm dao đang tế rượu. Phác thấy Di đến hỏi an ủi thì cả kinh bảo rằng: Ta đã dặn anh đừng đến, nay lại đến đây, không phải mình ta bị tai vạ, mà anh cũng không khỏi. Trời đã khiến xui nào biết trách ai. Phác bị Anh vương là Đôn bức tử và Di cũng bị chết. Thế mới biết việc của cảm báo đã định đâu cầu phước kịp mà nói là trời thật hại ta. Biết mà nào có tránh khỏi. Xin nhắn nhủ kẻ hậu côn nên tin lời ngài Tịnh Danh nói mới thật sự là cầu phước. Đây là văn trong quyển bảy mươi lăm của Đại luận. Đại kinh đã kể đầy đủ, tức là nói đám giặc rắn ở xóm vắng. Nên phẩm Thánh Hạnh kinh ấy có nói: Ví như có ông vua đựng đầy bốn con rắn độc trong một cái hộp rồi đưa cho một người chăm sóc nuôi lớn, nếu để một con rắn độc nổi giận thì ta sẽ theo luật mà hành hình bỏ ngoài chợ. Người này hoảng kinh quăng hộp rắn chạy trốn. Vua liền sai năm tên Chiên-đà-la giắt dao rượt theo, lại sai một kẻ giả làm thân thuộc. Nhưng người ấy không tin bèn ẩn trốn vào xóm vắng thì nghe trên không trung có tiếng nói: Trong đêm nay có sáu tên giặc cướp đến. Người này sợ bỏ chạy. Trên đường đi gặp một con sông, liền dùng bè theo dòng nước vượt thoát mà được an ổn. Bốn rắn dụ cho bốn đại, năm tên Chiên-đà-la là dụ cho năm ấm, kẻ giả làm thân thuộc dụ cho tham ái, xóm vắng dụ cho sáu nhập bên trong, sáu tên giặc cướp dụ cho sáu trần bên ngoài. Con sông dụ cho phiền não, thuyền bè dụ cho sáu độ đạo phẩm. An ổn không nạn tai dụ cho được đại Niết-bàn.  DUY-MA KINH LƯỢC SỚ THÙY DỤ KÝ <卷>QUYỂN 5 Khuyên cầu thân Phật, Phân khoa, “Nêu …” là tùy giải thích, Nêu chương, có hai: a) Thuật ý. b) Thuật kỹ bốn lớp. Lớp một gồm hỏi và đáp: Cùng nêu. Giáo phương tiện tức Tạng, Thông. Thân Phật thường trụ tức là Biệt Viên. “Vì sao… …” là cùng giải thích. Há có thể khuyên cầu…, ngài Kinh Khê nói: Không phải là chuyên khiến cầu thân kém. Đã khuyên bỏ thân vô thường thì đâu thể lại cầu quả vô thường. Dẫn văn tuy lại nói chân thật ở văn sau. Lại căn cứ bốn thứ chân thật. Thật là có thể gồm quyền lý vô gián. Lớp hai Hỏi: Câu hỏi này từ nghóa thứ hai của lời đáp trước mà có. Đáp, có hai: Dẫn kinh. Nhân vô thường mà quả thường, tức là ý của Biệt giáo. Địa tiền vô thường mà đăng địa là chứng thường. Ngài Kinh Khê nói: Phật đáp Phạm chí… là mượn việc phá ngoại đạo mà chứng đây thì trước là quyền. Nếu cứ một mực y đó thì đâu được dẫn ra đây. Tiếp so sánh giải thích, só thứ, Mao Thi truyện nói: Só là sự việc. Bạch Hổ Thông nói: Só là nói kẻ nhận sự việc, theo Chu lễ thì vua có dân chúng gồm nguyên só, trung só, hạ só, tức là người trong thiên hạ vậy. Không Giả nhất tâm, Phụ Hành nói: Tâm tánh không động mà giả lập tên trung. Mất hẳn ba ngàn giả lập tên Không. Tuy mất mà còn nên giả lập tên Giả. Nay nói một tâm là một tâm tức trung vậy. Lớp ba hỏi: Định dụng để phán quyết thứ nào? Trước đáp chung, nên đây phải định rõ. b, Đáp: nào ngại khuyên chung. Tùy loại mỗi thứ mà hiểu thì thành khuyên chung bốn hạng người. Ngài Kinh Khê nói: Vì y vào bộ giáo nay mà tìm thì cơ đủ khắp. Các vị cảm được không đồng, là Hoa Nghiêm Biệt Viên hai nhân cảm một quả thường. Lộc uyển một nhân sinh diệt cảm quả khôi đoạn. Đại phẩm ba nhân cảm hai quả hôi đoạn và thường trụ. Pháp Hoa một viên nhân cảm một quả thường. Niết-bàn bốn nhân cảm một quả thường. Cho nên nói các vị… nay Phương đẳng…, là chỉ kinh này là thời thứ ba vậy. Bốn nhân được hai quả, là hai nhân sinh diệt và vô sinh đồng được một quả hôi đoạn. Hai nhân vô lượng và vô tác đồng được một quả thường trụ. Chuẩn theo văn một bộ tùy phẩm bất định. Phương tiện chỉ hai. Phẩm Thăm Bệnh và bất tư nghì chỉ ở đại. “Quán chúng sinh…” ba phẩm phân ba. Cho nên một bộ trước sau mới đủ cả bốn. Nếu từ một bộ hiển mật nghe khác, thì chỉ phẩm Phương Tiện Mật Giải Viên Biệt. Hiển mật đối nhau bốn nhân hai quả, nghóa nó rất rõ ràng đầy đủ. Lớp bốn, hỏi: Do lời đáp trước bốn nhân mà được hai quả, nên đây phải hỏi: Thân Phật đã có bốn giáo không đồng, sao được Niết-bàn chỉ có khôi đoạn, thường trụ hai thứ. Đáp: như nói đến là một, là chỉ văn trên. Đại sớ nói như trên đã nói. Khéo vụng hai độ… là Tạng, Thông nội giới khéo vụng mà bệnh kiến tư lành là một. Biệt Viên ngoại giới khéo vụng mà bệnh vô minh lành là một. Chánh quán: Chánh khuyên biết quả. Ngài Kinh Khê nói: “vì sao như thế…” cũng gọi là chuyển thích. Chuyển giải thích từ trên phải ham thích thân Phật. Hàng quốc vương, trưởng giả chỉ thấy thân Phật là thân do cha mẹ sinh ra ở cung vua. Cho nên cần phải khuyên thân Phật tức là pháp thân. Các câu tiếp theo tuy lại chuyển giải thích câu này mà là chung. “Từ đây …” là riêng. Nói thiên chân lý không… là năm phần. Vẫn y pháp hữu vi. Lý không tức là công đức vô vi. Dẫn kinh thiền và Tu-bồ-đề làm chứng đại tiểu tự rõ. Phật Bảo Liên Hoa… là ni cô này hóa làm Luân vương, chúng đều lánh bỏ tòa đi hết. Khi hóa vương, gặp Phật liền hiện lại thân cũ là ni. Gặp Phật trước tiên nên Phật chê trách. Khiến mến quả tạo nhân, Tổng nêu trong quả thì phước trí tức là Pháp thân. Phước trí tức năm phần. Tuệ và tri kiến thuộc trí, còn ba thứ kia là phước. Phước trí của Biệt Viên hiển bày Phật tánh, thì phước trí tức là duyên, liễu. (Duyên nhân, liễu nhân). Duyên, liễu căn cứ tu thì mỗi vị đều ngang đầy đủ. Nếu căn cứ dọc mà phán quyết thì tức là duyên nhân, vị ở quán hành và tương tợ. Trí tức là liễu nhân, vị ở danh tự. Khi hiển Phật tánh vị ở sơ trụ. Đây là do trí ba giác bổn có ba. Lại do phước ba trợ trí nghiêm bổn. Cho nên đến bậc Sơ trụ, tu tánh nhất hợp không còn phân chia. Vì ba đức phần hiển nên gọi là hiển bày Phật tánh. Tu thường hiển tánh, nên nói là từ vô lượng công đức trí tuệ sinh ra. Nên biết công đức vô lượng nói duyên thì gồm nhiếp. Trí tuệ vô lượng nói liễu thì gồm nhiếp. Dựa vàoViên đã như thế, thì Biệt chuẩn đây khá biết. Nhưng tức và bất tức mà phân ra hai thứ khác nhau. Tạng, Thông một mực cũng có thể lập duyên, liễu gọi là gồm thâu phước trí. Tên giáo riêng biệt, hai định trước không có ngài Kinh Khê nói: Khuyên mến quả tạo nhân, là tuy đối các pháp Không bằng duyên liễu thì tên nói rất sáng rõ chí quả vẫn còn. Hai giáo Biệt Viên lấy hiển làm sinh, vì khác với Tạng, Thông nên tên nó phải lập riêng. Ta cho rằng, ngài Kinh Khê nói: Đối các pháp tức là chỉ vào riêng mà nêu mười hai khoa. Duyên liễu tức chỉ văn nay nêu chung phước trí, huống lại đâu chỉ có hạnh nhân mà gọi là hiển hay là cũng kể riêng, không nêu phước trí. Nêu chung mà gồm riêng, nên trước nói. Từ chung mà nêu riêng, cho nên dưới phải nêu đủ. Riêng có hai: a, Năm phần. Ngài Kinh Khê nói: Giới, định, tuệ… mà nói, là từ năm phần Pháp thân sinh ra, là trong giáo phương tiện thì năm phần và Pháp thân thì tên ở tại quả. Lại giới… ba thứ tuy chung ở nhân hai thứ giải thoát, nhưng Tạng, Thông chỉ có quả. Cả bốn thứ trước đều từ sau khi liễu mới được nhận tên. Song nay vì từ viên cho nên năm phần chung nhân. Giáo đã nêu bốn, mà nghóa Viên không hạn cục cho nên tu kết năm thứ sau. Lại nói: Dùng năm thân này lại sinh Pháp thân. Năm thân tức là nhân của năm thân. Năm phần của Thông giáo, thì hai phần đều như trước đã nói. Tội không tội… đều nương vào năm phần giáo trước làm cảnh. Cho nên các giáo sau đều là các quán trước. Chỉ có một tiếng mà hiểu năm thứ khác nhau. Trong Thông giáo nói kiến chân viên cực, đây không phải là viên của viên dung, chữ cực là nói viên mà thôi. Chín thứ giới… là địa từ sáu độ mỗi mỗi đều có chín, tên đồng mà nghóa khác. Nên nay dùng văn ba thứ chín đó mà phân ba. Thấy biết rõ ràng Pháp thân hiển bày là tự mình thấy lý. Chung về mê ngộ nhân quả các vị, vị có ẩn hiển. Viên giáo nói rằng cứ một mực cùng biệt không khác, là ý nói đồng đến cực quả thường trụ. Viên tu thì cảnh trí nhân quả rất khác nhau. Song Biệt giáo ba thứ đều nói có chín thứ, là chung chỉ cho Địa tiền cho đến Đẳng giác thì chứng đạo lại đồn, nên nói không khác. “Muốn phân biệt …” là biện biệt. Ba giáo trở về trước không có một thời tu. Năm, nhân nghóa sự đồng… lấy sự so lý là lý, nên nói sự đẳng. Tức là cái lớn của Pháp thân ở trong cái nhỏ của phiền não. Lớn nhỏ thường như thế không hề ngại nhau, huống là khi đến quả, thì lớn luôn ở tại nhỏ. Cho nên thường dùng việc hạt cải bằng núi Tu-di, vì vậy luôn nói chỉ cho phàm phu một niệm sát-na mà thấy đầy đủ Pháp thân khó nghó bàn. Xưa nay vẫn tồn tại không quan hệ với sự thông. Thế nên người trong giáo phương tiện mê tướng ở lý bất tư nghì. Dẫu nghe thường trụ mà vẫn hiểu theo lối tầm thường. Cho nên khiến người quyền mà do giáo chưa thật. Nếu đến đăng địa thì thắng dụng không khác. Cho nên trong giáo đạo vẫn còn hiểu khác. Cho nên chỉ viên giáo đầu đuôi nhất như. Nên khiến năm phần Pháp thân không trái chất phàm. Tuệ hạnh duyên lý gọi là tuệ thân, là tướng tu nhân. Giới định là phụ. Cho nên lại nói trong sự thì tuệ đầy đủ thiên môn các tuệ, lấy viên tuệ mà làm chánh đạo. Dùng chánh bỏ trợ không chỗ nào là không dung nạp, vì đủ các chánh trợ hợp làm. Bốn đẳng, song bốn đẳng này đều phải y theo ba, tức là sinh duyên, pháp duyên và vô duyên. Mà ở Đại kinh Đại luận đều từ Từ mà nói, lấy Từ mà so với ba, nghóa chuẩn khá biết. Nay bốn giáo này chung lấy sinh duyên làm cảnh. Tạng, Thông đến hai, Biệt Viên đủ ba. Lại tuy đủ quán sinh mà cảnh có rộng hẹp. Tạng, Thông quán sáu, Biệt Viên quán mười. Tạng, Thông lấy không mà mất cảnh, chỉ đến pháp duyên. Còn Biệt Viên quán trung đều tu vô duyên. Nên Đại kinh nói: Sơ duyên của Từ thì duyên với tất cả chúng sinh như cha mẹ vợ con thân thuộc. Đó gọi là chúng sinh duyên. Thấy tất cả pháp đều từ duyên sinh, đó gọi là pháp duyên. Không trụ pháp tướng và chúng sinh tướng, đó gọi là vô duyên. Tạng, Thông đến đại Từ bi, là tu nhân được quả, nhân quả đều từ. Văn sau y theo đây. Trong đó người Tam tạng giáo (Tiểu thừa) không đoạn hoặc mà tu quán vô thường thì cũng thuộc pháp duyên. Biệt viên hai giáo tuy đều đủ ba mà Biệt giáo vô duyên Sơ địa mới được. Không giống như Viên giáo sơ tâm đã đủ ba. Nên Đại kinh nói: Từ nếu hữu vô, phi hữu phi vô. Từ như thế thì không phải các Thanh văn, Bích- chi-phật… có thể biết được. Đây tức ba từ một thể là chỗ tu của người Viên giáo. Nếu mới phát tâm… ngài Kinh Khê nói có các ý đều như trên đã nói. Văn này cũng thế đều đã nói qua. Cho nên nói nhập không. Nên biết đều lấy chúng sinh duyên Từ mà làm quán cảnh. Thế nên từ trước đến nay mỗi mỗi trong các giáo đều nói pháp duyên. Do đó Tạng, Thông chỉ đến pháp duyên. Biệt giáo hậu tâm mới được vô duyên. Viên giáo sơ tâm tức tu ba từ. Ôm lòng mừng vui quên mất, là do dụng Từ bi mà thấy người khác lìa khổ được vui. Khởi tâm vui không cần báo ân tức là xả tâm, cho nên nói là quên mất. Các cõi. Sáu độ bốn giáo như trước đã nói. Ngài Kinh Khê nói: như trong phẩm Phật Quốc trước đã nói, dùng đây khuyên cầu làm hạnh , nên phải như thế. Hoặc khai sáu độ thành bảy, mười, một trăm còn bảy, mười thì đầy đủ như trước đã ghi. Khai làm một trăm, thì ngài Kinh Khê nói: Đối với mười mỗi mỗi cùng giúp nhau. Tám vạn…, là đối Tam-muội phiền não Đà-la-ni đều nói là tám vạn. Tám vạn đó đều đáo bỉ ngạn nên được tên như thế. Các Ba-la-mật, là một hạnh một tâm đều đến bờ kia. Bốn phương tiện như trước nói, ngài Kinh Khê nói: Như giải thích tên phẩm Phương Tiện là đó. Ba thứ là: Một là phá; hai là lập; ba tùy thuận chúng sinh. Sinh quả địa Pháp thân phương tiện, ngài Kinh Khê nói: Vì thông đến viên quả vậy. Nhân là thông ở tự hành, quả toàn là lợi tha. Năm, sáu thông, ngài Kinh Khê nói: Sáu thông là quả, mà cũng từ thông sinh ra, khi tập chưa hết, dầu thấy đạo, vẫn gọi là năm thông, là chỉ nhường quả mà thôi. Thật ra đã được vô lậu thông rồi. Cho nên từ sáu nhân mà sinh sáu quả. Biệt Viên cũng mượn quả mà gọi. Cho nên biết cũng có nhân phân sáu để thành sáu quả. Tam minh đều căn cứ ở ba thông, là ở sáu thông thì lấy túc mạng thông để thấy khổ ở quá khứ mà sinh nhiều chán lìa, Thiên nhãn thông thì biết sinh khổ ở vị lai mà sinh chán lìa. Lậu tận thông thì ở hiện tại mà tu chánh quán để đoạn phiền não. Cho nên ba thông này riêng có tên minh. Còn ba thông kia là thân thông, chỉ là công phu khéo léo. Như Thiên nhó chỉ là nghe tiếng người khác, duyên tâm người khác mà biết tưởng riêng. Thế nên ba thứ kia chỉ có tên thông. Đây giống như trong Bà-sa nói. “Thông minh …” là hỏi rằng ba thứ này đã được tên thông, sao còn gọi minh, hai nghóa khác nhau thế nào? Cho nên nay giải thích thông minh khác nhau… toàn làm rõ việc xa, tức biết thẳng ba đời. Thấy cội gốc, tức biết rõ nhân duyên hạnh nghiệp ba đời. Đây cũng căn cứ vào Bà-sa. Nên ngài Kinh Khê nói: Lấy từ nghiệp thì nghiệp làm cội gốc. Biệt Viên tức lấy mê ở chân như làm cội gốc. Cho nên nói đều thấu suốt ba đời ngoại giới. Cũng phải nói là chín đời. Ba minh cũng là từ nhân mà được tên tức lấy thời tiết bất tư nghì trí làm thể. Văn sau nói: Nếu chuẩn theo ý này thì chỉ ở Viên, còn không có Thông Biệt. Lấy đây mà luận chung thì có thể biết. Bảy đạo phẩm, tám chỉ quán duyên lý…, ngài Kinh Khê nói: Chỉ quán là năng duyên, sự lý là sở duyên, đầy đủ như chỉ quán nói về chánh trợ, tức là chỉ quán của các giáo không đồng. Chỉ quán đã khác thì sự lý cũng khác. Luận chung thì thật gọi là lý, còn quyền đều thuộc sự. Chứng Phật thân quả định tuệ, tức là quả địa báo ứng hai thân, cũng là tịch chiếu, cũng là hai đức, cũng là hai trí, cũng là hai nghiêm. Không hai mà hai để phân làm báo ứng bốn giáo khác nhau. Ba pháp: ngài Kinh Khê nói: Ba thứ này đều dựa vào đẳng. Phật quả bốn giáo đều có mười Lực đẳng ba. Ba thứ này chỉ là quả. Nay ước thông mà nói thì nhân và người có đủ. Cho nên nói trong nhân cho đến tu ba pháp này. Đoạn tập: duyên lý thiện pháp tức là trí tuệ. Duyên sự thiện pháp tức là phước đức. Chân thật: ngài Kinh Khê nói từ chân thật sinh ra, đây là từ chỗ nhập lấy làm tên. Các giáo chân đế đều chân thật. Không phóng dật là tướng bạt trí bất phóng dật tức không lui sụt “bất thoái). Cả bốn giáo đều nói bất thoái, có thể thấy. Tiếp nêu rộng mà khuyên cầu, có hai: a, Chánh giải thích hiện văn pháp thanh tịnh như thế, ngài Kinh Khê nói chỉ về các pháp đều thanh tịnh. Cho nên biết lý thanh tịnh không quyền. Lại còn nên biết các pháp môn này mỗi mỗi đều cùng thâu nhiếp như lúc đầu tiên. “Ng- hiêm nhiếp…”, là mười hai thứ đều đầy đủ như trong Chỉ quán nhiếp pháp đã nói, cho đến trợ đạo nhiếp Phật oai nghi, tức là tướng đó. Nói chung là không ngoài thường quán Niết-bàn hạnh đạo. Vì Bát-nhã, giải thoát tức hai nghiêm, cho nên một âm diễn nói… đây bèn lấy một âm mà kết, khiến xứng hợp ý chỉ của kinh. “Kỳ tầm …” là khuyên tìm đại chỉ. Tiếp kết khuyên, nói thời chúng được lợi ích. Giới khuyến hai môn, giới môn tức chính nói quán môn, khuyến môn tức khuyên cầu thân Phật. Giới nghóa là răn ác, khuyến tức là khuyên thiện. ----------------------------------- <詞>PHẨM: ĐỆ TỬ Phẩm Đệ Tử là chiết phục vô vi duyên tập, có hai: a) Nêu ý phân chương. b) Tùy chương giải nghóa, Chính nói ý có phẩm này: nói chung ý có phẩm này. Nhẫn độ, tức là Ta-bà, Hán dịch là Kham nhẫn. Nói riêng ý có phẩm này, Nêu chương và tùy giải thích, Trình bày ngài Tịnh Danh thắng trí. khiến bốn chúng bỏ tiểu mến đại, Chính là Tiểu thừa. Bỏ thọ trì y…, là kinh ấy ba trăm Tỳ-kheo nghe Bát-nhã, đều dùng y Tăng-già-lê mà cúng dường. Trong luận hoặc nói vong tướng, hoặc nói trong ngày ấy lại được lại. Hai, “cũng thông …” là chê khai bốn chúng. Khai phát bốn chúng không phải là riêng làm Tỳ-kheo Tiểu thừa. Giúp thành Phật quốc, như ngài Thân Tử tự kể. Tức đáp Phạm vương rằng ta thấy cõi này dẫy đầy uế ác. Ngài Tịnh Danh đến thì mất. Đây là phá lỗi chấp tiểu của năm trăm vị. Không phải chỉ riêng có ngài Thân Tử. “Cho nên …” là nói sự hèn kém của mình. Khiến được ngồi tòa, là do xưa bị chê trách để ngầm phát ý mến mộ đại. Do đây làm duyên khiến được dự ngồi tòa này, được nghe pháp nay tức Phật quốc. Tình đồng năm trăm, là cùng đồng với năm trăm trưởng giả nguyện nghe được Phật cõi thanh tịnh. Chưa bày ra thân khẩu nên nói là tình đồng. “Mà đăng …” là mượn tòa ngồi của Phật Đăng Vương và xin cơm ở Hương tích là chỉ cho bổn ở Vô động. Tiểu thừa đã mục kích nói giúp thành nghóa chương Phật quốc ý chỉ rất sáng tỏ. Tiếp, trách Nhị thừa thành giáo sinh tô, Tiếng chấn động đại thiên, là trong phẩm bất tư nghì ngài Ca-diếp tự thuật. Sự… sinh tô, là những kẻ hèn kém mến việc chuyển lạc thành sinh tô. Nguyên do thành sinh tô, Tiêm sư nói: Việc chê trách ngày xưa là đã được sinh tô. Cuối cùng nay nhắc lại thời chúng lại được lợi sinh tô. Xưa là nguyên do của ích lợi ngày nay. Tiếp phần giải nghi. Aán định thành kinh, chánh giải: Tức bỏ giáo phương tiện. Chữ “phương” là người sau vọng thêm vào. Nay tìm xem lại ở quảng sơ và tiêm ký thì đều không thấy chữ phương. Nói dứt tiện giáo, nghóa là trách người ấy nghe xong lời ấy liền bỏ. Nếu không nhân sai kể lại việc xưa thì giáo ấy sẽ hưng lại. Những điều nói ra đối trước Phật mong được ấn định, lợi ích đến vị lai, chức vị do đây vậy. Ấn định, Lưu hy trong Thích danh nói: Ấn là tin. Do đó đối vật để chứng nghiệm. Hóa thân trong thuyết văn nói: “Chấp chính phải giữ tín”. Phật đã chấp nhận có thể như thế là có ấn tín. Tiếp đến giải nghi. Và lược giải thích nghóa đệ tử. Đây tức giải thích tên phẩm. Văn có hai: a, Nêu vấn đề. b, tùy giải thích: Lược giải thích danh nghóa, có hai: Chánh giải thích. Trong văn trước giải thích danh. Kết quy. Giải thích danh lại có ba: a, Phân bày nghóa thầy trò. b, chánh giải thích nghóa đệ tử. c, Dẫn Nho làm chứng. Phân giải nghóa thầy trò, nói thợ có khả năng thành việc, Tôn Khanh Tử nói: Can tương, mạt tà, cự khuyết tịch lữ… đây là những loại kiếm quý ngày xưa. Song nếu không gia công mài thì không bén, không có sức người thì không chặt đứt được. Phàm người tuy có tánh chất tốt nhưng tâm trí phải sáng suốt tìm thầy hiền mà thờ, chọn bạn lành mà chơi. Đức tư bẩm tức là sự thu nhận của người học thọ pháp ở thầy nên gọi là tư (trò). Luận ngữ nói: Tử Lộ nghe lời Khổng Tử nói chưa thể làm được chỉ sợ có nghe. “Tư tắc… ” là kế chánh giải nghóa Đệ tử. Trước giải nghóa chữ tử, sau giải nghóa chữ đệ. Sở dó nói đệ tử, nói đệ là chỉ thầy khiêm nhường, còn tử là chỉ mình kính trọng. Khiêm kính đều bày nên nói đệ tử. Do đó mà xưng là đệ tử. Thầy cũng gọi mình là đệ tử. Cho nên biết tiếng ấy gồm cả kính nhường. Bỏ cha theo thầy, Cốc Lương nói Lỗ Chiêu Công nói: Con đã sinh rồi không tránh được nạn nước lửa là tội của mẹ. Thành trẻ rồi mà không đến học thầy là tội của cha. Đến thầy học hỏi hết cách mà tâm chí không thông là tội của thầy. Kính thầy như cha, đời người có ba việc thờ kính, luôn kính thầy như cha, xem trò như em là đối xử với học trò coi họ như hàng em cháu. Cố phu …” là dẫn nho làm chứng. Luận ngữ nói: Nhan Uyên chết học trò muốn làm đám tang trọng hậu, Khổng Tử nói không nên. Học trò vẫn chôn cất trọng hậu. Khổng Tử nói nhan hồi xem ta như cha, mà ta không xem ông ấy như con, không phải lỗi ở ta: Vì ta có đến hai, ba con vậy. Nay đại sư dẫn ra đổi lời khiến cho dễ hiểu mà thôi. Song giải thích nghóa đệ tử lại có hai nhà: 1.Ngài Nam Sơn giải rằng: Học sau thầy nên gọi là đệ, hiểu do thầy nên gọi là tử. 2. Tiên Nho giải rằng: Lấy lễ phụ huynh mà thờ thầy nên gọi là đệ tử. Tóm lại có ba giải thích cũng giống như lan cúc. kim thân …” là kết quy. Cho nên biết đệ là hiển bày sự khiêm nhường của Như Lai. Tử là bày rõ sự kính trọng của hàng Thanh văn. Nên gọi là phẩm Đệ Tử. Liệu giản: Hỏi: Tất cả chúng sinh đều là Phật tử là vì sinh sinh tâm Phật, tâm Thánh phàm là lý một cũng như Thiên tánh tương quan nhau giữa cha con. Chúng sinh ở mê như con, chư Phật ở ngộ như cha. Đáp: Thái tử. Theo luật nhà Hán thì con nối ngôi vua gọi là thái tử, con nối ngôi các vương hầu thì gọi là thế tử. Đây tức là căn cứ ở lý, là so với tục mà gọi là lý, kỳ thật là căn cứ ở sự. Thế gian và xuất thế gian, tức thái tử là thế gian, thành Phật đạo là xuất thế. Thuận tục không tranh cãi, như Đại kinh nói: Nếu đời nói có, ta cũng nói có, nếu đời nói không ta cũng nói không. Cho nên thuận theo giáo của Trọng Ni mà giải thích nghóa đệ tử. Riêng nói chỉ hầu gần, có hai: a, Hỏi. b, Đáp. Thần tiêu là sớm tối sự lý tròn đủ, là từ nghe sinh hiểu, là căn cứ ở lý làm đệ tử. Sự sự tiếp nhận, là căn cứ ở sự làm đệ tử. “Lại nữa …”, là từ tiểu lập ra mà gọi. Trước tiểu diễn đối nhau mà nói năm thứ Phật tử, Tiêm sư nói tức bốn quả và Bích-chi-Phật. Ngài Kinh Khê nói: cho nên Đại luận nói kinh Thanh Văn lấy Bồ-tát làm giống như con, vì chưa đoạn hết hoặc. Thanh văn là con thật, vì đã đoạn hoặc. Kinh Đại thừa lấy Bồ-tát làm con thật mà cầu thật quả, còn Thanh văn là giống như con vì không có nguyện Đại thừa. “Nay …” là bỏ Diễn theo Tiểu. Đời nhiều tin dùng, là nói theo ý Tiểu. Vì hình thức y phục Tiểu thừa đã thân quen nên người tin dùng. Kinh gia nêu ý phẩm ở đây vậy. Giải thích mười đệ tử, có hai: a, trước nói hạnh nêu dị đồng. “Một mực … ý đồng” ngài Kinh Khê nói Pháp Hoa ba khắp cũng lấy Thân Tử làm thượng căn. Nay ngài cũng đứng đầu. Pháp Hoa dùng Ca-diếp… bốn người làm trung căn. Nay kinh cũng thứ lớp để sau Thân Tử. Pháp Hoa lấy A-nan làm hạ căn. Kinh này cũng lấy phần đủ của chín đức, trung tiểu không đồng nên nói một mực. “Nhưng như …” là giữ pháp giúp Phật, có hai: a, Chánh giải thích. Như Lai Pháp vương là nối đạo Như thật, Lai thành Chánh giác. Đây cũng theo lịch số mà lên ngôi vua. Vương là cùng về, là tất cả người trong thiên hạ đều quy về. Nay cả pháp giới đều về nên xưng là Pháp vương. “Trước khai … Phụ dực”. Phụ là phò tá, Dực là giúp đỡ. Ngài Kinh Khê nói theo lệ khi mới định xã tắc việc lập công phải nhờ trung thân tâm phúc phò tá giúp đỡ. Luận nghị đến cùng, luận nghị đều thuộc về nói năng bàn bạc. Văn Tâm Điêu Long nói: Luận là đạo lý. Luân lý mà không ngạc nhiên thì Thánh ý không đổ vỡ. Nghị là tuyện nói. Có người nói một mình làm nghóa là sai. Đến cùng là nghị luận rốt ráo để phân định chánh tà. Liệu giản, có hai: a, Hỏi: Ngài Thân Tử cầm giải áo, là trong kinh A-hàm quyển hai mươi có nói: Khi Phật ở ao A-nậu-đạt, Long vương thưa Phật rằng: Chúng ở đây chưa thấy ngài Xá-lợi-phất, xin Đức Phật cho mời đến. Phật liền sai ngài Mục-liên đến Kỳ hoàn gọi ngài Thân Tử. Đang lúc ngài may y ngũ nạp. Ngài đáp thầy về trước tôi sẽ đến sau. Ngài Mục-liên nói tôi được Phật sai làm sứ giả, sao về trước được. Ngài Mục-liên lấy tay sờ vào y ngài Xá-lợi-phất đang may thì y liền may xong. Ngài Thân Tử nghó thầy Mục-liên đùa thử ta chăng, thì ta cũng thử lại, rồi ngài quăng sợi dây buộc áo “dãi áo) xuống đất và nói: Thầy thử lấy lên xem được chăng? Ngài Mục-liên tự nghó: Thầy Thân Tử đùa thử ta đây, bèn cố hết sức nhấc dây lên, nhưng không được. Khi ấy ngài Thân Tử lấy dây buộc vào cây Diêm-phù. Ngài Mục-liên kéo dây thì cả một châu thiên hạ cho đến cả đại thiên đều rúng động, nhưng cây vẫn không đứng lên được. Ngài Thân Tử lại buộc dây vào các tòa Phật khác ở mười phương, ngài Mục-liên kéo dây nhưng vẫn bất động. Ngài Mục-liên tự nghó thần lực của ta là bậc nhất mà cố làm vẫn không động đậy được, có lẽ thần lực sắp mất. Nhân đó hối thúc ngài Thân Tử mau đến chỗ Phật. Ngài đáp thầy cứ đi trước. Khi ngài Mục-liên về đến chỗ Phật thì thấy ngài Thân Tử đã đến trước mình. Ngài Mục-liên đem việc bạch Phật… đầy đủ như trong sớ nói. Đáp: Ở mười đức tự có người riêng đứng đầu, nghóa là mười người mỗi vị đều có đủ mười đức. Như ngài Mục-liên so với ngài Thân Tử thì mười đức của ngài Mục-liên đều kém, mười đức của ngài Thân Tử đều cao hơn. Nhưng ngài Thân Tử đối với mười đức của mình thì trí tuệ là cao hơn hết, còn ngài Mục-liên đối mười đức của mình thì thần thông là bậc nhất. Cho nên nói từ chỗ hơn mà được tên. Cả mười đức của ngài Thân Tử đều hơn thì Thần thông của ngài Mục-liên kém hơn đâu có gì lạ? Đem hai người xét tượng trưng thì tám người kia có thể biết. Bát tòa khanh mỗi vị đều nắm quyền. Tục Hán Thư nói: Quang Võ đế lại phân thêm Tam Công Tào làm hai tào. Một tào chủ việc ghi chép số sinh suất và từ suất ở các châu quận. Đổi Thường thị tào làm Lại tào, chủ việc tuyển chọn người nối ngôi. Hôn Tào chủ việc ruộng muối ao vườn. Khách tào chủ việc hộ giá vua và việc các Rợ, Khương Hồ triều cống. Nhị Thiên Thạch Tào chủ việc Từ tụng, Trung đô quan chủ việc nạn nước lửa trộm cướp. Tam công là sáu tào cùng có hai người hầu nên gọi là bát tòa. Cho nên nói mỗi vị đều nắm quyền. Do đó, phân mười đức, mỗi đức thuộc một người. Hỏi: Thân Tử có mười đức đều cao, vì sao Thân Tử không chuyên quyền cả mười đức? Đáp: Minh quân cầm quyền còn không bỏ người. Đấng Pháp vương độ đời há lại lấy một mình. Cho nên tùy sở trường mỗi người mà gọi là bậc nhất. Nên kinh Tăng Nhất nói các đệ tử ta Thần thông yếu chỉ kể Mục-liên là bậc nhất, các đệ tử Phật đều riêng khen ngợi. Đối chung tâm số: dẫn luận bày nghóa. Dẫn kệ luận nói số. Ngài Kinh Khê nói: Trong đây chỉ dựa vào tên cũ mà nêu. Nếu bản dịch mới nói thọ tưởng tư xúc dục tuệ niệm cùng tác ý, thắng giải, Tam-ma-địa khắp ở tất cả tâm, thì so với tên cũ này chỉ lấy xúc là canh lạc, thọ là thống là khác, còn các tên khác đều giống. Song hai tên này chỉ tên là khác mà nghóa thì đồng. “ Đây thông …” là căn cứ ở vua tôi mà bày nghóa. Như nước có mười quan đại thần “tôi). Cho nên trong Cao Tăng truyện ngài Tùy Đức Sơn nói: Về pháp phiền loạn thì đạo tục đồng tội xấu. Cho nên chính trị phiền thì nước loạn, tâm phiền thì ý loạn. Nước trong thì có thể thấy được cá đá (ở đáy). Thần trong mà tưởng đảo thì có thể biết. Kẻ học thanh giản còn tự ồn ào, huống là ở trong loạn sử thì đâu có thể làm đạo được. “ Lại nữa …”, là phối hợp sư đệ. Nói sư đệ lợi tha, Dẫn chứng về phối hợp. Giúp nhau đến như thế, là nếu sư đệ cùng làm thiện ác thì kẻ hậu học đều làm theo. Lệ theo vua tôi trước nên nói cũng lại như thế. Dẫn văn làm chứng: Nay vương số có nghóa sư đệ. Phật vì …” là chánh bày lợi tha. Cộng hóa chúng sinh vương số, là khiến chúng sinh học giáo tu hành, thì tâm vương và tâm số đều thiện. “Nếu chúng …”, ngài Kinh Khê nói kiến tu hai đạo đều tu chánh trợ, vì sao trong kiến đạo thì dùng chánh hạnh, còn trong tu đạo lại dùng hạnh hạnh? Đáp: Đây có hai nghóa: 1. Lấy pháp so pháp, quán lý quán sự để phán quyết chánh trợ. 2, Từ người đã nhập sơ quả rồi mới được chánh vị. Kế “từ đây …” là lại tu sự quán trợ, hiển bày chánh lý thành ba quả sau. Lại ở tu đạo mới là từ hạnh tu hạnh, nên nói là hạnh hạnh. Căn cứ ở pháp môn nhập đạo, có hai: a, Nói chúng sinh mười số đều có thể thông, tức mười pháp môn có thể thông đến Niết-bàn. Ngài Kinh Khê nói: Nói ý này đâu chỉ gọi thẳng thế gian tâm số mà thôi, mà cũng thành pháp môn. Vì sao, nếu ở phàm phu thì chỉ gọi là hữu, đến khi bốn khô thì gọi là khô trong đó thọ tương tư… thành khô pháp môn, vinh và song phi (đều không phải). Chuẩn theo đây để nói trong đây phương đẳng không định Tiệm đốn, đều không ra ngoài thọ tưởng… “Cho nên như hợp …” là dụ để làm sáng hợp dụ ôm ấp thành đạo. Hào mạ là dụ mười tâm số. “ Nay pháp …” là thầy trò tùy cơ mà giáo hóa, có hai: a, Pháp vương tùy người ưa thích mà thí pháp. Trước dùng móc dục mà kéo dắt… mười tâm số này cùng chung nhập. Nay lại từ thông dục mà nói. Trước dùng mười tâm số dục thế gian, sau khiến cho nhập vào mười số Phật. “Nay mười …” là nói đệ tử thuận cơ nắm pháp. Tùy người dùng loại tụ hợp, như người thích trí tuệ thì thích ngài Thân Tử, người thích thần thông thì thích ngài Mục-liên. Các người khác thì theo lệ mà nói. Dịch nói: Trước dùng loại tụ mà đổi làm nhân dục phụ với nghóa nay. Riêng đối mười tâm có mười: Tưởng đối Mãn từ, chánh giải thích Mãn từ. Nói nắm pháp giáo hóa chúng. Biết được thật pháp… Tiêm sư nói tâm vương nhất định thấy chung vật thể, nên nói được thật pháp. Tâm số tư tưởng giả danh cú văn mới thành, nên nói tưởng được giả danh. “Các hữu …” là cơ duyên học đạo đều do thầy Mãn từ. Cho nên mười người giáo hóa đều tùy người thích. “Cho nên hai …” là dẫn chứng. Tức trong việc chê trách ngài Ưu-ba-ly có hai người phạm giới không dám hỏi Phật bèn đến hỏi ngài Ba-ly. “ Thế nên …” là nêu lệ chỉ chín vị kia, Chuẩn theo tưởng dùng nghóa. “Như nay …” là dẫn ước lệ chung kết thành. Ước lệ chung ví như người đời thích Luật học thì gần gũi Luật sư, thích Thiền học thì gần gũi Thiền sư, thích tuệ học thì gần gũi Pháp sư. Nên nói tùy ba học…. Dục đối với ngài Ca-diếp. Tất cả thiện pháp thì dục làm gốc, ngài Kinh Khê nói dục là gốc vì sao lại riêng đối mình ngài Ca-diếp? Đáp: Nghóa có chung riêng. Nghóa chung có thể như thế, nếu luận nghóa riêng thì chỉ lấy dục cho nên nay ngài Ca-diếp ở trong thiện dục mà nhận được tên. Vì pháp Đầu-đà, thiện hạnh là bậc nhất. Cánh lạc đối với ngài Ca-chiên-diên. Cánh lạc tức bản dịch mới gọi là xúc. Nên ngài Kinh Khê nói: Cánh lạc là luận nghị, cánh lạc là xúc. Xúc tức xúc đối, tức đối người kia mà đối đáp qua lại nên được tên. Vả lại thuận tên xưa mà nêu giải thích, tức như càng nói càng nghe. Các thứ khác thì lệ theo ngài Ca-diếp, nghóa là đồng trước mà hiển phát giáo khô vinh nhập đạo. “Từ đây …” đều y theo đây. Tuệ đối với ngài Thân Tử. Niệm đối với ngài Ba-ly. Ngài Kinh Khê nói: Việc dùng niệm số, là dựa theo nghóa năng trì đem đối với trì luật mà gọi thì rất tiện. Tư đối với ngài La-vân. Ngài Kinh Khê nói: Tư gọi là mật ha- ïnh, là tư ở bên trong, người rất khó lường biết. Giải thoát đối với ngài Thiện Cát. Ngài Kinh Khê nói: Nếu chẳng thấy Không thì chẳng do đâu mà giải thoát. Tác ý đối với ngài Na-luật. Tác ý gọi là ức số. Ngài Kinh Khê nói: Có tác ý mới được gọi là ức (nhớ). Phật khiển khởi các số này, là khi tu Thiên nhãn thì nhớ ánh sáng để làm phương tiện. Cho nên buộc tâm ở ngoại cảnh. Định đối với ngài Mục-liên. Tam-ma-đề, Hán dịch là Định. Phàm phu đều có số này. Ngài Kinh Khê nói: Như định căn bản thì tất cả chúng sinh đều từng được, nên nói đều có. Nếu không …” là chứng định tâm số. Vì chúng sinh …” là nêu trụ tâm sở không thể tiến tu. Nếu riêng tâm sở thì chỉ gọi là quyết định. Thống đối với ngài A-nan. Bốn quyển, ngài Kinh Khê nói A-tỳ-đàm tâm luận, văn có bốn quyển. Xưa dịch thọ số gọi là Thống. Tạp tâm là Tạp Tâm luận. Sở dó cùng dẫn hai tên là nói thống chính là thọ, sợ người hiểu lầm nên cùng nêu. Tiếp trang nghiêm song thọ, lược bày: Trên tuy nói… ngài Kinh Khê nói: Trên căn cứ mười tâm số để giải thích mười người. Tuy ở mỗi mỗi người lược nói khô vinh, tức mỗi mỗi người phải trải qua năm vị. Tướng vị chưa hiển bày nên bảo nói ít. Trong đây chính dùng Đại kinh Niết-bàn trong khoảng Song thọ. Niết-bàn chính biểu thị khiến vật nhập trung. Nên nói đặt an các con cũng tự nhập trung. Mười người đệ tử ấy…, là Như Lai có ý nhập khiến đệ tử đều nhập trong ấy. Ý này trước sau đều dùng văn Sư tử hống của Đại kinh. Nói Sư tử hống, ai hay trang nghiêm Ta-la Song thọ. Như Lai lần lượt đáp nêu ra sáu người. Sư tử hống tất cả đều hiểu rõ rồi nói: Chỉ có Như Lai mới hay trang nghiêm cho nên biết đến quả cao tột mới nhận được tên cao quý. Phải biết đệ tử chỉ đồng một ít phần của Như Lai mà được song phi khô vinh. Nếu thế không phải chỉ Niết-bàn gọi là phi khô vinh. Tám giáo hiển bày thuyết Phật tánh đều được tên, hoặc hành hoặc chứng đều gọi là Niết-bàn, tất cả đều gọi trang nghiêm. Trong đây cần dùng đại chỉ Pháp Hoa suy nghó thì mới thấy. “Tam tạng …” là rộng giải thích, Dựa vào nghóa chánh giải thích, Trang nghiêm bốn khô, Chánh giải thích. và Giải nghi. Vừa nói hai ngàn trang nghiêm là ý gồm chung năm trăm pháp môn được dùng pháp tướng chưa hiển pháp môn đã tràn khắp, cho nên liền hỏi. Chưa thấy năm trăm sở truyền là chỗ truyền của năm trăm pháp môn vậy. Chưa thấy kinh văn nêu điều này. Vả lại dùng mười tướng phối nhau mà thành năm trăm. Lại dẫn thân nhân để chứng thành. Nay tìm đọc… ngài Kinh Khê nói: đây chỉ mượn số mà đối số. Nghóa cốt yếu, là không ra ngoài căn cảnh. Cho nên dùng đối tiêu nêu năm trăm. Nên dẫn thân nhân năm trăm làm chứng. Cho nên biết thân nhân không ngoài căn cảnh. Đại kinh nói: Năm trăm Tỳ-kheo đều hỏi ngài Thân Tử: Đức Phật nói thân nhân là gì? Ngài Thân Tử nói các thầy đều được giải thoát do đâu lại hỏi câu này? Có thầy Tỳ-kheo nói: Khi tôi chưa được chánh giải thoát có ý bảo vô minh tức là thân nhân. Khi quán như thế thì được quả A-la-hán. Có người nói hành thức danh sắc lục nhập xúc thọ ái thủ hữu sinh ẩm thực năm dục tức thân nhân. Năm trăm Tỳ-kheo nói xong cùng đến chỗ Phật nói nghóa như trên. Ngài Thân Tử bạch Phật: Ai nói đúng? Phật nói đều đúng cả. Trang nghiêm bốn vinh, Nói thùy tích điều phục cơ. Trong văn nói đầy đủ về bốn vị điều phục cơ. Bắt đầu ở Lộc uyển đều theo lệnh thầy, Xá-lợi, Mục-liên và Ca-diếp ba người… theo học bốn khô, là học Tam tạng chứng quả nhỏ. Dáng vẻ học trò, tức như Xá-lợi, Mục-liên cùng hai trăm năm mươi người đệ tử… Mị là đè bẹp, đều thuận theo giáo Phật như cỏ bị gió thổi rạp xuống. “Quá thị …” là kế thời Phương đẳng đều thẹn tiểu mến đại, ý gồm hai loại tô. “Khai Phật …” là Pháp Hoa và Niết-bàn. Đều do đến Phật sự, ngài Kinh Khê nói: Nói các đệ tử trải đủ bán mãn đều là hạng thành thục giúp đỡ Pháp vương. Cho nên nay trải đủ một đời giáo pháp. “Chúng sinh … khai Phật tri kiến” là ý chỉ cho Pháp Hoa nhập bí mật tạng, tức là trung gian Niết-bàn của Đại kinh. Ý nói hai kinh có đại chỉ đồng nhau. “Lại đại …”, là nói vương số tức lý, nói nguyên do Niết-bàn giảm bốn nhân. Đại kinh quyển hai mươi tám nói: Khi ấy Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Những Tỳ-kheo nào thường trang ng- hiêm Ta-la Song thọ. Phật nêu sáu người và đến Như Lai, sáu người ở nhân, Như Lai ở quả. Nhân quả đều được tên trang nghiêm. Nhân quả trước sau bốn đức đầy đủ, nghóa biểu hiện sáng tỏ, nên nói trang ng- hiêm. Nhân sáu người, kinh nói: Nếu có Tỳ-kheo nào thọ trì đọc tụng đúng văn cú của mười hai bộ kinh, Tỳ-kheo như thế mới luôn trang nghiêm Ta-la Song thọ. Sư Tử Hống nói: Như con đã hiểu nghóa Phật nói thì A-nan tức là vị Tỳ-kheo ấy. Được tịnh Thiên nhãn chỉ cho ngài A-na-luật. Thiểu dục tri túc chỉ cho ngài Đại Ca-diếp. Không tranh cãi không hạnh chỉ cho ngài Tu-bồ-đề, khéo tu thần thông chỉ cho ngài Mục-kiền-liên. Được đại trí tuệ chỉ cho ngài Xá-lợi-phất. Ở mỗi mỗi hạng người nói rộng như A-nan. Sau nêu người quả nói rằng: Nếu có Tỳ-kheo hay nói chúng sinh đều có Phật tánh thì được Kim cang Tam- muội, đầy đủ bốn đức, tám ngã tự tại. Tỳ-kheo như thế rất thường trang nghiêm Ta-la Song thọ. Nếu không như thế thì không đoan nghiêm. Cúi xin Như Lai thường trụ ở đấy. Phật nói tất cả pháp tánh không trụ mà trụ, sao lại thỉnh trụ? Sáu người trước tuy nói đa văn cho đến đại trí tất yếu phải nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Đã ở thời Pháp Hoa nghe được thọ ký rồi đều có thể nói nhưng không đạt được người quả. Nên nói Như Lai rất thường trang nghiêm. Người nhân người quả đều đủ bốn đức, người nhân mới nhập nên nói chỉ có Phật. “Hà …” là chỉ kinh này đủ mười chỉ thú. Chúng sinh quay lưng lại với tánh thành mê. Phật tánh rõ ràng, vì ba nhân đầy đủ. “Phiền não …” vì mê cho nên không biết. Đây lấy mười số tóm đối ba nhân, mỗi thứ đều theo nghóa tiện. Nếu luận lý thể thì mỗi mỗi đều có ba. Tâm sắc còn đồng há cách biệt vương số. “Thế nên …” là các Thánh biểu thị báo khiến ngộ. Ngài Kinh Khê nói: Khai Phật tri kiến tức chỉ kinh Pháp Hoa, nhập bí mật tạng tức Đại kinh trung gian Niết-bàn. Ý nói hai kinh đại ý đồng nhau. “ Kim dó …”, là kết bày lỗi chê trách. Tiếp, nói sinh ở cõi quả báo. Ngài Kinh Khê nói: Sinh cõi quả báo còn chỉ cho văn trước. Tâm Nhị thừa là tịnh độ Bồ-tát lấy làm ý hỏi đáp. Cho nên người chê trách và người bị chê trách, người nghe đồng lúc và người nghe thuật lại, người đồng vào thất và người vào thất sau luận xa đều vào Tịch quang. Phần cư quả báo, đều nhập nhưng thật ra chưa phá vô minh. Chỉ ở trong Phương tiện hữu dư mà thôi. Nay ở trong đó nói trung thuyết cho đến nhập thật. Cho nên nói là quả báo. Khắp trùm đại cơ, tức có hiển lợi ích, nếu đối tiểu hạnh chỉ có ngầm giúp. Nay từ ý nói nên được lời. Sinh cõi Hữu dư, đối trong các vị người vô học liền nhập diệt độ không đến pháp hoa và không có ích ngầm nên nói như thế. Nói tịnh Phật quốc độ, giải thích chung. Ngài Kinh Khê nói: Tịnh Phật quốc độ chính là hạnh Bồ-tát. Người khác nêu kinh văn đều không có ý chỉ này. Nay điều này là ở quyền hạnh mà nói. Nếu từ chưa hiển bổn thì nói là Tiểu thừa. Thật hạnh mà nói, là trước đây chưa từng cùng vật kết duyên, cho nên ở thời Pháp hoa xưa được thọ ký, lại cần tu hạnh tịnh độ. “Nhược tề …” là riêng bày, dựa theo đương phần không phải tịnh quốc. “kim thủ …” là dựa vào vượt tiết làm tịnh quốc. Nay lấy…, ngài Kinh Khê nói: Nói dùng Pháp Hoa cần có hai thứ khác nhau. Dẫn các ông… là chứng sở hành đã khai quyền. Kế mới dẫn thiểu dục mà chứng hiển bổn. Nên giải thích văn này mới được nói phù hợp việc thành tịnh độ. Cho nên biết ngài Tịnh Danh cùng các đệ tử đều có thật bổn. Cho nên từ đó trở đi thì lấy nghóa bổn tích đối bổn ngài Tịnh Danh mà kết là từ xưa chỉ nói những lời chê trách… làm mất hẳn lý phù thành Phật quốc. Tiếp nói Quán tâm. Giải thích trước cũng là quán tâm, tức chỉ cho phần thứ ba là đối chung, thứ bốn là đối riêng. Ngài Kinh Khê nói: Không phải chỉ Phật và đệ tử là nghóa vương số, phàm người nhập đạo thì tâm vương và tâm số tất cả đều thế. Lập giáo là vốn muốn khiến phàm phu tu tập, nghóa là vương số, các tâm cọng hóa toàn thành chánh giác như lấy mười số mà phối hợp với người đã như đoạn trước, cho nên nay lược theo. Tức đồng ngài Thân Tử, là lược bày một người. Như thế mỗi mỗi… tức định đồng với ngài Mục-liên. Cho đến thống đồng với ngài A-nan. Lệ như ngài Thân Tử để nói tự tha. Cho nên nói mỗi mỗi…. Đều căn cứ tự tha, là nghóa hóa tâm giống như Phật tịnh độ. Nếu hay đến trụ Niết-bàn thì phải ước vị quán hành, tương tợ phần chân mà trụ Niết-bàn vậy. Nay nói kiến tánh tức nhập phần chân trang nghiêm Song thọ, chỉ là ba đế một tâm gọi là nghiêm Song thọ. Chiếu chân là nghiêm khô, chiếu tục là nghiêm vinh, chiếu trung tức là trung gian nhập diệt. Lại ba đế này mỗi mỗi đều Thường, Lạc, Ngã Tịnh và bốn phi thường nên gọi là nghiêm thọ. Sớ chưa tận tâm ví như kinh Dịch nói là thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý vậy. Nói sai hỏi trước sau; vào văn giải thích, Phân khoa. Tùy giải thích, Ngài Tịnh Danh im lặng, Tự nghó mình đang bệnh. Tự nghó là giải thoát tri kiến Pháp thân, ngài Kinh Khê nói: Giải thoát tri kiến là tự hiểu mình đã đắc pháp. Nay ngài Tịnh Danh biết mình đã chứng, các ngôi vị đều ở bậc Đẳng giác, đầy đủ ba đức. Tự nghó cũng là dùng đức giải thoát mà lợi ích chúng sinh. Nghó mình đã giải thoát thì phải lợi tha. Dứt các lao phiền. Phiền là phiền não sự tức là nghiệp bệnh ở đời cũng cần phải dứt hai sự này. Nay cũng hai sự biểu thị cho hoặc nghiệp. Cảnh trí tương ưng hai sự liền dứt. Vì sao? Vì hai thứ này thể tức là hạt giống của hai đức Bát-nhã và Giải thoát. Mà nay ngài Tịnh Danh dứt chuyển sự để hiển bày tên. “Đại kinh …” bốn câu tức phẩm phạm hạnh. Vua A-xà-thế tạo tội nghịch, thân bị ghẻ lở sưng nhức không ngủ yên. Nên phát lời nói Như Lai hoặc nghiệp đã rốt ráo dứt hết gọi là được ngủ yên. Cho nên cùng nghóa ngủ của Tịnh Danh khá phù hợp, chỉ phần rất nhỏ là khác, nhưng sau đó không lâu nên được dẫn làm chứng. Tu nhân đã viên, Đẳng giác là nhân chân ở vị cao tột. Hòa quang không đồng trần là phương tiện hiện có bệnh, nên nói là hòa quang. Nhưng bên trong không có hoặc nghiệp nên nói là không đồng trần. Lão tử nói: Hòa vào ánh sáng, đồng với bụi trần, trong suốt giống như còn. Đây tức là hòa quang đồng trần mà diệu bổn không xen tạp. Cho nên nói trong suốt giống như còn. Nay mượn lời này mà đổi để dùng. Tức dùng không đồng trần thì thành nghóa diệu bổn không tạp. Hỏi: “Ngài Tịnh Danh …”, ngài Kinh Khê nói: Ý phải là chỉ nên thương xót họ vì sao phải tự nghó. Ý đáp: Đây là biểu thị cho ba đức, trong ba đức này cảnh và trí hòa hợp. Cho nên nói Pháp thân cho đến Bát-nhã. Nhưng giải thoát chưa hợp với nghóa hóa nên cần nói phải tự nghó. Đại Bi tức là tướng giải thoát, gá vào tự nghó ấy nên gọi là gởi. Niệm Phật thùy chỉ. Ba thứ duyên tập, ngài Kinh Khê nói: hai thứ duyên tập gia thêm pháp giới tập. Phẩm Phương Tiện trước đều chỉ lập có hai thứ. Phẩm Phương Tiện đầu tiên nương nhiếp sư mà lập pháp giới tập, là vì muốn tiện cần phẩm cần văn. Nếu không thế, thì đệ tử Bồ-tát chỉ cùng làm một thứ Vô vi duyên tập. Đại tiểu như thế là quá lạm. Cho nên lại theo xưa mà chia làm ba thứ. Nếu thế sao lại lấy đó mà bác phá người đáp: Tên đồng mà nghóa khác, đã như trước nói. Như Lai sai thăm bệnh, Phật biết tâm niệm. Người trí biết người trí, tức người trí cực quả biết người trí phần chân. Lấy rắn mà dụ cho trí, ý có thể biết, tức đồng loại mới có thể biết nhau, khác loại khó thấy. Lời này trích từ Đại luận. Sai thăm bệnh, Phân khoa. và Tùy giải thích, Sai mười đệ tử, có mười: Sai ngài Thân Tử, có hai: a, Phật sai, có hai: a’, Lược giải thích. Người hầu ở bên trái. Chữ trái là lầm, nên nói ở bên phải. Ở Ấn Độ thì vua cha thầy đều quay mặt về hướng Đông tức bên trái là Bắc, bên phải là Nam. Bắc là phương âm, âm tónh biểu thị cho định. Thần thông nhân định mà phát, cho nên ngài Mục-liên ở bên trái. Nam là phương dương. Dương động biểu thị cho tuệ, nên ngài Thân Tử ở bên phải. Đại luận nói: Mục-liên là đệ tử ở bên trái Phật, Thân Tử là đệ tử ở bên phải Phật. Nếu thế Thân Tử phải đứng dưới Mục-liên, sau gọi là Thượng thủ được? Đáp: Vì phương Tây “Ấn Độ) chuộng bên phải, nên ở bên phải là tôn quý. Cũng như ở phương này thiên tướng quân thì ở bên trái, thượng tướng quân thì ở bên phải. Có người nói việc tốt lành chuộng bên trái, việc hung ác chọn bên phải. Như thượng tướng quân chủ việc binh mưu chuyên giết hại, nên chọn chỗ tang lễ mà ngồi, đâu lại so sánh với người khác? Đáp: Ở hai cõi nước, phần lễ nghi có khi ngầm hợp, có khi trái nhau. Như lui ngồi một phía, từ tòa ngồi đứng lên thì so với phương này là hầu chỗ thầy ngồi. Lại việc đoan thỉnh và ích thỉnh chỉ nghiệp đều khởi thì ngầm phù hợp, cho đến phương này thì lấy vai trần để tạ lỗi, phương kia thì lấy vai trần để tỏ sự quý kính. Phương này việc tốt thì chọn bên trái, phương kia lại chọn bên phải thì việc này là trái nhau, có gì phải nghi? Nay ngài Thân Tử ở bên phải, là ở vị trí của thượng tướng quân, nhiệm vụ rất quan trọng nên phải sai đi thăm bệnh trước. “Nhưng…” là rộng giải thích, có hai: a, Chánh giải thích, lược chỉ nhân duyên. “Thác …” là nói rộng năm vị, ngài Thân Tử năm vị đều trước. Gá thai trở về sau… khi đã gá thai mẹ mượn miệng mẹ mà luận. Trước đây mẹ ngài nghị luận đều thắng. Sau gặp Phật… là ngài Thân Tử thờ thầy là Phạm chí Sa Nhiên, và đã học hết đạo thầy. Sau khi thầy qua đời thì ngài gặp được A-bệ, nghe nghóa ba đế mà được Sơ quả. Nhân đến gặp Phật bèn thành La-hán. “Cho nên Đại kinh …” nói là người trang nghiêm. Ngài Kinh Khê nói: Như Lai ở trong ấy là biểu thị nhập trung. Thể trung sao gọi là biên. Thế nên khô ấy liền nghiêm ở vinh, vinh sở dó được nghiêm tức do khô. Cho nên các đệ tử từ Lộc uyển đến hội Niết-bàn thì khô vinh còn cách nhau. Hóa sự trong tích, tướng nó vẫn khác nhau. “ Có nói …”, là Đại sư nhân tiện mà chê xưa, chỉ là nắm lấy ý Pháp Hoa mà thôi. Ngài Kinh Khê nói: Đến thời Pháp Hoa thì ba thừa khắp hội, ba tức một biên mới có thể nghiêm được. Vì ở hội Pháp hoa đều nhập trung. Cho nên đến thời Niết-bàn thì lại dùng để biểu thị hiển bày chỉ thú của một đời thuyết giáo. Không phải đợi đến Niết-bàn mới kham việc trang nghiêm Song thọ. Cuối cùng dẫn Pháp Hoa về mùa thu gặt hái, mùa Đông cất giữ, mà có lẽ ấy. “Dó thị …” là tổng kết. Tiếp đáp lời, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Đáp lời chẳng kham. kể nguyên do không kham. Như rùa giấu sáu phần, là bốn chân và đầu, đuôi. Như có một con rùa ra phơi nắng ở cánh đồng. Giả can xắp bắt ăn thịt, rùa ta bèn giấu cả sáu phần vào trong mai. Giả can không làm gì được. Trích ở các kinh Tạp thí Dụ… sáu thức không nhiễm sáu trần như rùa giấu cả sáu phần. Ma là dụ cho giả can. Pháp giống Niết-bàn, Tiêm sư nói: Câu-xá luận quyển hai mươi bốn nói: Được diệt định không còn chuyển trở lại gọi là thân chứng. Luận nói: Được diệt định tức không trở lại. Như ở trong thân có diệt định được chuyển gọi là thân chứng. Nghóa là do thân chứng được pháp giống Niết-bàn, nên gọi là thân chứng. Lại nghó rằng thứ diệt định này rất tịch tịnh giống như pháp Niết-bàn. Như thế mà chứng được tịch tịnh cho thân, nên gọi Thân chứng. Kể việc không kham, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, chê chung, là chỉ văn nêu chung. Bất tất, ngài Kinh Khê: Không hẳn chỉ là định tức bất định. Đây không nói hoàn toàn không phải, vì Đại thừa cũng ngồi yên. Chỉ trách cái thấy của Tiểu thừa thiên lệch hẹp hòi mà thôi. “Ngài Thân Tử…” là dẫn chứng giải thích chỗ hẹp hòi, có hai: a, Dẫn chứng. b, “Đem …” là giải thích, Lược giải thích đại chỉ. Tương …” là so văn. Ngài Kinh Khê nói: Tức chuẩn theo văn chê riêng. Đã nói không ở ba cõi… nghiệm mà biết. Lấy Viên mà trách Tạng thì có sáu lỗi. “Như…” là trách riêng ba đôi. “Tỳ …” là rộng giải thích chỗ nhập, Chánh nói các định, Nêu ra bộ chấp. “Bất tương ưng hành … bổ xứ”. Tiêm sư nói đem mười bốn bất tương ưng hành trong vô tưởng định, diệt tận định để thay thế. Ý Tiêm sự giải thích chưa sáng tỏ, đợi kiểm Tỳ-đàm sẽ thấy kể rõ. Không tâm hai xứ diệt, Tiêm sư nói chỉ là không xứ, thức xứ, hai xứ nhập diệt. Nay chánh nói, Nêu bày. Ngài Nam Nhạc đã nêu đều như hai kinh, cho nên phải dựa vào sở chứng mà nói để chỉ cho người. “Một y …” là chánh giải thích có hai: a, Giải thích các thiền. Tịnh thiền mười thứ tế pháp, tức thọ tưởng… mười thông số. Tiêm sư nói: Thọ tức thức biết điều mình nhận được. Tưởng tức thức tưởng điều mình nghó tưởng. Hành tức pháp hành. Xúc tức chạm xúc của ý. Tư tức là nghó về pháp, dục tức muốn nhập định. Giải tức pháp thắng giải. Niệm tức niệm Tam-muội. Định tức tâm trụ ở như pháp. Tuệ tức là tuệ căn, tuệ lực. 2. Quán thiền, Chánh giải thích tướng. Nói Bối xả, Đại luận nói: Xoay lưng với năm dục tịnh khiết mà bỏ đi tâm đắm trước. Bối xả. Thắng xứ. Ngài Kinh Khê nói: Ở trong sắc mà quán bên ngoài nhiều ít. Phân ra làm hai, ba, bốn. Thắng xứ, tức trong không sắc mà quán bên ngoài nhiều ít, cũng phân làm hai. Bốn thứ thắng xứ kia thì ở tịnh bội xả, tức bốn sắc trong tám nhất thiết xứ. Nói rộng như thiền môn. Nói tám Nhất thiết xứ, thì Nhất thiết có mười, tám thứ Sắc giới nên lấy bốn sắc, hai thứ ở vô sắc nên không luận tức là không và thức hai nhất thiết xứ. “ Đối với nhân …”, là nói được tên, có hai: a, Nhân quả thông nhau. b, “Mà nay …” là từ nhân mà lập tên. Thân chứng Na-hàm, Tiêm sư nói: Câu-xá tụng nói rằng: Được diệt định không còn chuyển gọi là thân chứng. Diệt định không tâm do thân mà chứng được, nên gọi là thân chứng. “Căn cứ Bối xả…” là kết: Thắng tiểu ở trước. Thắng thông minh, Tiêm sư nói thông minh cũng là đó, cũng là thiền hữu lậu, vô lậu bội xả một mực thuộc vô lậu cho nên thắng. 3.Luyện thiền. Chín thứ đệ, tức càng tu luyện quán thiền thể dụng khiến thuần thục. Nói thứ đệ, tức khi nhập thiền nếu thâm tâm trí tuệ nhanh nhẹn thì có thể từ một thiền nhập một thiền, tâm tâm nối tiếp không có niệm khác xen tạp, nên gọi là định thứ đệ. 4.Huân thiền Sư tử phấn tấn, là mượn dụ để hiển bày pháp. Như ở đời có Sư tử phấn tấn làm hai việc: a, là gắng sức bỏ đất cát. b. Là chạy về phía trước nhanh hơn các loài thú. Tam-muội này cũng thế. Một là, nhanh chóng diệt trừ các hoặc vi tế vô tri. Hai là, xuất nhập thiền nhanh chóng không gián đoạn, khác với các thiền định trên có được. Nên gọi là Sư tử phấn tấn Tam-muội. 5. Tu thiền, thường vượt qua các địa tự tại xuất nhập, nên gọi là siêu việt. “Nay đây …” là lược bày tướng siêu nhập. Nếu siêu xuất, là từ diệt định khởi dậy mà nhập vào tán tâm, từ tán tâm khởi dậy lại nhập vào diệt định, từ diệt định khởi dậy lại trụ vào tán tâm. Từ tán tâm khởi dậy lại nhập vào phi phi tưởng. Như thế thứ lớp đến sơ thiền khởi nhập vào tán tâm. Đầy đủ rõ ràng như pháp giới thứ lớp. Căn cứ ở vị mà phán quyết: Nói năm vị, ngài Kinh Khê nói: Tạm nhờ năm thiền để nói năm vị mà thôi. Nguyện trí, phải nói là nguyện trí đảnh thiền. Tiêm sư nói đó chỉ là tu thiền có nguyện có trí. Mạnh mẽ nhất như ngài Ca-diếp nhập ở Kê Túc sơn có nguyện lực đợi Đức Di-lặc xuất hiện sau đó mới giao y, tức là việc này. Mười tám biến, Tiêm sư nói tụng rằng: Chấn động và rực cháy Lưu bố cùng thị hiện Chuyển biến và tới lui Co duỗi các hình thức Thân đồng đến các thú. Ẩn hiển và tự tại Cùng chế phục người khác Bày biện cùng nghó nhớ Cho an và phóng quang. “Đối các …”, ngài Kinh Khê nói: Tất cả các thiền nếu nương vào quán… đến huân tu đều được gọi là đảnh. Tiếp liệu giản. Hỏi: Đó là những gì, ngài Kinh Khê nói: Nếu chỉ về căn bản, thì không có câu hỏi này. Lại có quán… bốn đối căn bản thành năm vì Bối xả… đều nương thiền địa, vì sao lại riêng lập quán… bốn thứ? Ý đáp: Chỉ là lại lấy quán… mà quán luyện căn bản. Liệu giản…, Tiêm sư nói: Số nhân chỉ nói ở trong đệ tứ thiền mà tu huân luyện. “La-hán …” là kết bày cực tông. Ma-ha Na-già, Ma-ha, Hán dịch là Đại; Na-già, Hán dịch là Long. Như Niết-bàn thán đức nói rồng ở trong loài người. Phần kết bày chê trách. Hang sâu thiền định, là Lăng nghiêm đại định. Dọc suốt ba đế gọi là thâm. Các pháp đều nương vào gọi hang. Riêng bày chân yên tọa, có hai: a, phân khoa. Ba đôi, ngài Kinh Khê nói đều là chê trách Viên, nhưng tên thể trung cũng còn lạm tiểu. Vì sao Thân Tử cũng bảo. Ta nhập diệt định mà không phải là hiện ý ở ba cõi, sau mới nhập vô dư là không hiện thân. Vì sao lại trách hiện thân ý ư? Song ngài Tịnh Danh ý trách ở hiện tại. Nếu nói ở vị lai thì phàm phu cũng diệt, đâu riêng trách ngài Thân Tử. Còn hai đôi kia, đôi một đều không phải là cảnh kiến văn, kế trong định dụng chính là chê trách ngài Thân Tử định đã nhập thì không thể như thế. Còn hai đôi kia tức là trách trong định không có tuệ. Ở đôi thứ hai vẫn gồm định dụng trước để chê trách một đôi dưới. Đôi một phần nhiều đều thuộc tuệ. Lại nhân quả tuy cùng đến đôi thứ ba mới lập tên. Song hai đôi trước dựa vào quả mà chê trách. Dưới lại nói quả là để đối nhân. Cho nên tuy lại lập nhân đều là thành quả. Vì khi chê trách ngài Thân Tử thì không đối các người khác, chỉ dùng quả phần chứng Đại thừa để chê trách tiểu quả. Cho nên trừ bỏ nhân xong thì năm pháp kia đều dẫn thẳng đến Bồ-tát. Sau đó lại thỉnh pháp thân Bồ-tát dùng người phần chứng đối trách tiểu quả. Đến duyên chê trách ngài Mục-liên đối tám trăm người thì hết, dùng pháp nhân ba giáo mà trách. “Tám trăm người …” đến văn sẽ phân biệt. Tiếp tùy giải thích, dựa theo thể dụng, dựa theo thể, Nêu lời kinh. “Thân Tử …” là giải nghóa, Sự giải, Chê thân hư dối. Như gỗ đá… là tuy có thân này như gỗ đá, tuy có thời hạn như tro chết nhưng đều gọi là hữu vi. Thân Tử hà tất phải mời lợi danh. Do hiện nghi này toàn giống hiện tướng. Thế nên Đại só mượn đó để trách. Hiển chân, là dựa theo sinh thân mà trách. Đến Phật tuệ, tức sinh thân được nhẫn, phần chứng ba trí. Chín đại thiền, tức thiền của Biệt giáo và định Nhị thừa tức là thiền của Tạng, Thông. Thấu suốt biên tức Trung, tùy cơ ham thích. Cho nên nói tùy ý liền nhập. Ở cõi Dục mà hành thiền, ngài Kinh Khê nói: Đây cũng dựa theo quả địa chân diệt định mà nói lời này, ý khiến nhập vào giả bất tư nghì, nên nói ở dục. Không lấy người đời ở dục mà gọi là có thiền. Nay ý nói: Ma vốn lấy dục mà làm loạn người đời, đã lấy ma giới mà làm Phật sự, cho nên ma thấy tâm ấy thì quấy loạn tất không xảy ra. Ở phương dưới nhờ người nhân mà không hiện quán thân tâm. Dựa theo pháp thân mà trách. Pháp thân Bồ-tát, tức Bồ-tát trong cõi quả báo. Ngài Kinh Khê nói: Chính dùng nhân thừa vô sinh phần quả mà đến chê trách. Đại tiểu đều là quả, ông sao lại dùng ba quả mà hiện thân tâm. Nếu lý trở đi, e là suy đại quả, cho nên dùng sự lý bất tư nghì mà đối trách sự lý đều không có như chỗ ông nhập. “Nếu tu …” là quán giải. Sáu thứ yên tọa tức thể, dụng, pháp, tâm, nhân, quả. Nay quán một tâm mà gồm nhiếp cả sáu thứ này, thì thể tức một niệm ba đế, diệu dụng rất rộng, há vượt ngoài mười giới. Tức sự mà lý một niệm khắp nhiếp. Tâm pháp Không khác, nhân quả lý một, tam thiên ba đế đều gồm. Quán một tâm này gọi là chân yên tọa. Ở đây nêu chung. Văn dưới còn giữ lại hoặc bỏ đi. Dựa theo dụng tự tha không ích không dụng, là mình đã được hữu dư, sao còn dùng định này. Cho nên ở mình không còn dùng các oai nghi ấy, nên đối với người không lợi ích. Do nó không thể, tức do không có diệu thể nên không có đại dụng. Ngài Kinh Khê nói chính là chê trách cái thể Không dụng. Nay chê trách không dụng bèn thành một đôi chê trách. “Bất tư nghì định …” là chỉ bày viên định. Trong văn cũng trước nói sinh thân được nhẫn, kế nói pháp thân. Hiện oai nghi mười giới, Đại luận quyển hai mươi chín nói: Thanh văn nhập định thì không nói. Phật ở định thì lại thường du hành như trong kinh Mật tích thần mật tâm mà nói tâm chư Phật thường ở trong định mà tâm cũng luôn nói pháp. Nên biết bốn oai nghi hiện ở mười giới, nói nín mỗi mỗi đều không ngại nhau. Căn cứ ở pháp tâm, Về pháp, Thân Tử xuất chân tức là xuất định. Vì nhập định thì ngầm chân, nên xuất định thì gọi là xuất chân. Pháp Không được bỏ nhau. Chữ (nhau) là nhầm. Phải nói là không được bỏ. Quảng bổn cũng giống, nghóa là Tiểu thừa phàm Thánh hai pháp đã khác thì không được không bỏ đạo pháp mà hiện việc phàm. Hiện việc phàm cho đến việc bất thiện, ngài Kinh Khê nói: Đó chỉ là các việc làm của phàm phu ba nghiệp hữu lậu cũng đều là ngoại dụng định pháp của Bồ-tát. Cho nên không cần phải bỏ việc dẫn vật đến tịnh độ. Cho nên biết sáu pháp chỉ có một pháp, tức thường lợi sinh. Vì lợi sinh nên thường nhận tịnh độ. Đầy đủ các việc như quyển hai mươi chín trước đã nói. Tâm nhập xuất động tán, ngài Kinh Khê nói có xuất có nhập cho nên định gọi là tán động. Căn cứ ở nhân quả Căn cứ nhân mà trách, nêu kinh lược bày. Khi câu rộng giải thích. Nay phải… ngài Kinh Khê nói: Trong bốn câu thì câu thứ ba là bị chê, câu bốn là thường chê, còn hai câu kia chỉ đi theo mà thôi. Cho nên trong kinh Tu-bạt Phật làm Sư tử hống là nói quyết định. Trong pháp ngoại đạo không có Thánh quả, cho nên không động không tu, tức có thân kiến nên có biên kiến, có biên kiến nên có giới thủ và tà kiến, tám mươi tám sử đầy đủ, cho nên nói là không động tu. Bốn khô niệm xứ…. Chữ “đẳng” là Chánh cần, Như ý, Căn, Lực, Giác đạo vậy. Đây là nẽo thông đạo phẩm như Chỉ quán quyển bảy và ký đã nói. Nếu có thân biên, tức có đủ năm ấm. Ấm là cảnh sở quán của bốn giáo. Bảy mươi ba người, là ở tám địa trên, mỗi địa có chín phẩm, tám lần chín là bảy mươi hai người, cùng lấy một người cụ hoặc ở Dục giới là bảy mươi ba người vậy. Không lấy không bỏ, là kiến tức Bồ-đề, không kiến nào có thể bỏ. Bồ-đề tức kiến, không Bồ-đề nào có thể lấy. Về sóng nước lấy bỏ ý dụ có thể thấy. Ấm ô uế là chỉ quán nói có chín thứ năm ấm: Một là, hẹn sắc tâm quả báo ấm; hai là, bình bình tưởng thọ vô ký ấm; ba là, khởi kiến khởi ái hai thứ ô uế ấm bốn năm sáu là ba nghiệp thiện ác và thiện ác hai thứ ấm bảy là Biến hóa thị hiện khéo léo ấm. Tám là, người thiện căn dung phương tiện ấm. Chín là, chứng bốn quả gọi là vô lậu ấm. Nay quán kiến ái năm ấm tức lý ba đế, nên nói ô uế…. Không phải cấu không phải tịnh… là cấu tức khô, tịnh tức vinh, ba thứ dưới cũng lệ như thế. Chỉ là trung đạo niệm xứ đều không phải hai biên. Tuy cùng dùng nhau nhưng từ ưu thắng mà nói. Đây là quán riêng về bốn Niệm xứ. Đây dựa theo viên trung thì cảnh quán đều khác. Song căn cứ theo Tiểu thừa thì niệm xứ có hai: 1. Là riêng. 2. Chung. Chung lại có ba: Cảnh riêng mà quán chung. Cảnh chung mà quán riêng. Cảnh quán đều chung. Nay là riêng niệm xứ vậy. Tám tự tại: Một nhiều, biểu thị một thân là nhiều thân, số thân nhiều như vi trần. Lớn nhỏ, biểu thị một thân bụi nhỏ mà đầy khắp cả đại thiên. Nặng nhẹ, là lấy thân nặng đầy cả đại thiên giới mà nhẹ bay đi rất xa. Sắc tâm, tâm an nhiên bất động mà thị hiện hóa vô lượng hình loại. Căn, sáu căn đều hỗ dụng cho nhau. Đắc (được), được tất cả pháp mà tưởng như không được. Nói, diễn nói một kệ trải vô lượng kiếp. Thân biến khắp tất cả như hư không. Rộng như Đại kinh nói. Trong đó Cần sách…, Tiêm sư nói đây là đạo phẩm nhiếp nhau. Dựa theo quả mà chê trách, nêu kinh lược bày. Hoặc bảy ngày hoặc mười lăm ngày, Đại luận nói: Đến chỗ Phật bảy ngày liền thấu suốt biển sâu Phật pháp. Lại nói sau mười lăm ngày thì được quả A-la- hán. Tiếp khai câu rộng giải thích, Khai câu chánh giải thích, Y cứ câu chánh luận. b, Đoạn mà vào thất đến biệt Bồ-tát, ngài Kinh Khê nói: Đây là người sơ trụ của thập trụ Biệt giáo dùng pháp Nhị thừa. “Nếu thân …” là dẫn dụ so sánh mà phán quyết. Không thể dùng phiền não làm Phật sự, là hàng Nhị thừa có thể biết. Trước dựa theo câu đã nói là Biệt Bồ-tát. Nay nói không thể dùng phiền não… ngài Kinh Khê nói: Chính là y cứ ở vị sơ trụ. “Giải thích khác …” là chê xưa hiển nay, có hai: a, Giải thích chê xưa. Có lỗi như thế, là lấy đại và tiểu, chính nói trên quả có dụng khó nghó bàn. Nếu nói là không, dùng đại vào không thì diệu dụng ở đâu? Đây tuy y theo nghóa phá trước, cũng thấy chê nhà giải thích hạt cải dung nạp núi Tu-di là nói đều không. Tự cho là cao thâm, nhưng xét kỹ thì quá cạn. “Nếu phiền …” là bày giải thích nay. Tuy nói thường vào… ngài Kinh Khê nói: Phải nói Niết-bàn xưa nay bất động nên tế hợp dụ này. Nay bảo: Nếu tế hợp thì phải nói tánh phiền não không phải sự không phải lý mà sự không ngại lý. Cho nên tức phiền não là Niết-bàn. Tánh Niết-bàn cũng không phải sự không phải lý, mà lý không ngại sự. Cho nên tức Niết-bàn là phiền não. Tuy sự lý tương tức mà bổn tánh không động. Cho nên biết do đủ tánh này mà cực quả hiển phát, nên có được đại dụng. Nay mượn đại tiểu nhập nhau để dụ cho sự lý dung nhau. Tiếp, kết thành ấn định. Sáu thứ này… tức thể dụng… đều là viên cực. Nên nói tức là rốt ráo. Vì viên so với thiên nên gọi rốt ráo, mà không phải là ước định ở cực quả. Vì trước thường chê trách sáu thứ, nên đều ước định ở phần chân. Kết thành không kham, , chánh giải thích hiện văn. “Nếu trách … nào khác” là dẫn vấn nạn. “Lý mà… …” là đáp giải thích. Hoa Nghiêm toàn không nhận là ích. Nay nghe chê trách xa mà làm nhân tịnh độ. Câm điếc tuy đồng mà ích không ích lại khác. Đối sau mà liệu giản, Hỏi và Đáp, Lược nêu. Viễn sư …” là dẫn chứng. “Thân Tử… …” là giải thích thành, Thân Tử cố dùng thiền chê trách gồm được trí. Ngài Kinh Khê nói: Ngài Thân Tử không phải chỉ có trí vô định mà cũng nhập định vô trí. Vì nghóa ấy nên từ định mà chê trách. Ngài Mục-liên. Sai ngài Mục-liên, có hai: a, Phân khoa. b, “Sở dó …” là tùy giải thích, Sai thăm bệnh. Ngài Kinh Khê nói: Kế sai Mục-liên là đối Cư só hoàn toàn từ nhân mà chê trách. Lại từ nói pháp biên đều dùng giáo mà trách Cư só và chúng tục tất cả đều đủ hữu vi duyên tập. Cho nên cần gồm thông đới Biệt mà nhập Viên. Nếu chỉ ngài Mục-liên thì dùng ba thứ mà trách tiểu. Sở dó kế sai ngài Mục-liên, là trí tuệ đã không kịp thì phải dùng định mới kham. Tên Câu-luật-đà, là hỏi Đại kinh nói Mục- kiền-liên là họ, nhân họ lập tên, nên gọi là Mục-liên, vì sao lại nói tên Câu-luật-đà ư? Đáp: Vốn tự có tên, nhưng người thời ấy phần nhiều đều dùng gọi họ, nên Đại kinh nói thế. “Văn-thù hỏi …”, là phiên dịch họ Lai Phục. Chính ra phải viết là lô phục. Thời nay viết là La-bặc, là chữ tục mà thôi. Quách Phác nói hoa màu tím rễ lớn, tục gọi là Bạc- đột. Đột-lô-bặc ở Nhó Nhã là đó. Kẻ hậu học không hiểu thường thường đọc là lai phục. Cha mẹ thích ăn, là tổ tiên cha mẹ ăn vào thành tiên. Nhân đó mà lấy làm họ. Pháp Hoa sớ nói: Hai thứ mà tiên xưa rất thích là hồ đậu, bản dịch mới gọi là thái thúc thị “họ đậu), bởi đồng nghóa này. Thục cũng là đậu. Tìm sâu đến chỗ rốt cùng. Ngài Kinh Khê nói: Khuyên chớ quên gốc. Nên nói là tìm sâu. Trở đi đều thế. Ngài Thân Tử cũng vậy. Năm thứ lợi ích: Thị hiện làm ngoại đạo mà hóa độ các đồng loại. Ở Lộc uyển hiển giáo bốn khô. Thời Phương đẳng thẹn tiểu mến giáo bốn vinh. Thời Bát-nhã tin hiểu giáo bốn vinh. Thời Pháp Hoa ngộ giáo bốn vinh. Tất cả là dùng quyền dẫn thật căn cứ năm nghóa này, nên gọi là tìm sâu đến chỗ rốt cùng. Từ chối không kham, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Chánh từ chối không kham. nói lý do không kham. Biểu thị đi tắt và quanh co, là ba giáo tích quán quanh co đến Hóa thành nên gọi là khúc kính (đi tắt và quanh co). Bán mãn đối nhau, ngài Kinh Khê nói chỗ phá định là bán, hay chê trách là mãn. Trung môn hoặc ba, hai, một tuy lại bất định nhưng ba thứ đều gọi là mãn, vì do đây được tên đối nhau. c’, chánh kể việc bị chê trách, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Chê trách chung, có hai: Chánh giải thích. Không phải chỉ đến tiểu ích, ngài Kinh Khê nói: Nói pháp nhỏ để dạy kẻ đại cơ, cho nên cả hai đều lỗi. Nên chê trách chung rằng không đúng như nhân giả nói, ý nói điều không nên nói. “Do vì…” là kết bày. “Thiền định … không sáng” là sức định cạn bên đại pháp Không sáng. Chê trách riêng, có hai: a, Phân chương nói ý. b, “Như Pháp Hoa …” là tùy văn giải nghóa, ngoài nói trong hiểu dùng Thông giáo tức Không để phá nói pháp Không đúng đạo lý. Phải đúng như pháp mà nói, gồm nêu chương khuyên chung. Riêng nói, phân khoa nêu nghóa, “Cần lược …” là nêu nghóa, nói Tiểu, Đại Không đồng, là Nói hạnh tướng của ba Không. Khác, nói ba Không của tiểu, gồm Chánh giải thích, Nói chung về ba Không. Phân tách năm ấm không, là tâm thì niệm niệm sinh diệt, sắc thì bốn đại Không đồng. Ở mỗi mỗi đại lại phân tích mà phá. Như một địa tách ra đến lân hư trần thì thấy năm ấm là Không, nên gọi là pháp Không. “Cho nên A-hàm …” tuy một kinh hai luận đều nói nhiều ít về nghóa ba Không gồm thâu tất cả. “Ai già chết…” Đại luận dẫn kinh Tạp A-hàm nói: Mười hai nhân duyên từ vô minh đến lão tử. Nếu có người nói già chết ấy hoặc nói ai già chết đều là có tà kiến cho đến vô minh cũng như thế. Nếu nói không ai lão tử thì phải biết đó là hư vọng, đó gọi là sinh Không. Nếu nói không lão, tử ấy phải biết đó là hư vọng, đó gọi là pháp Không. Cho đến vô minh cũng như thế. Kinh kia nói Phật ở tại xóm điều phục trâu, bảo các Tỳ- kheo rằng: Trước giữa sau đều thiện cho đến Phạm hạnh thanh tịnh nói là đại Không. Kinh nếu có hỏi nói người ấy ai già chết, già chết thuộc ai. Người ấy tức nói ngã là già chết. Nay già chết thuộc ngã, già chết là ngã sở. Nếu lìa vô minh mà được minh thì bị ai già chết, già chết thuộc ai, già chết thì dứt. Đoạn dứt căn bản thì vô minh diệt mất, vô minh diệt mất thì các hành cũng diệt mất đầy đủ hai Không nên gọi là đại Không. Cho nên biết Tiểu thừa Không ở ngã sở thì gọi là pháp Không. Không ở ngã nhân thì gọi là chúng sinh Không. Nếu các Bồ-tát lấy không Niết- bàn trần sa Phật pháp thì gọi là pháp Không. Có người bảo Tiểu thừa Không biết pháp Không là chưa hiểu ý kinh. Dẫu có giáo Thành thật nói người Thanh văn chỉ được sinh Không lại nhường Bồ-tát. Là nói ban cho và đoạt. “ Có sư… …” là giải thích riêng về bình đẳng, có hai: a, Người xưa giải nghóa. b, Thầy nay xét hỏi, Xét hỏi bày nghóa. Trong văn trước lấy bình đẳng đều sinh pháp. “Nếu thẳng …” là dùng sinh pháp đều bình đẳng. Đã cho sinh pháp cùng không khác nhau, thì theo lệ chung phải bình đẳng và không có khác. Thế nên sư nay lập nghóa ba Không khác nhau. “Nếu chỉ …” là nhiếp thuộc về hai Không. Như A-hàm chỉ nói hai Không mà pháp nhiếp bình đẳng. Cho nên biết ba Không mọi nơi đều đầy đủ. “Niết-bàn không…” là còn nhiếp Niết-bàn huống là bình đẳng, vì bình đẳng chỉ là khởi sinh kiến pháp bình đẳng. Kiến này cần phải phá. Nên có năng sở. “Tuy lại…” là kết: 1.Nêu. 2. Phá vụng…” là nói ba Không của Diễn, “Nay…” là căn cứ dụ làm sáng tỏ: Nắm tay ngón tay thật dụ cho tích Không. Bóng nắm tay ngón tay ở trong gương là dụ cho thể Không. Nắm tay ngón tay thật… là tuy biết mở ngón thì không còn nắm tay, nhưng ngón tay máu thịt vẫn còn, cho nên cần phải tích phá mới không. Còn những vật nhìn thấy trong gương thì hai thứ đều vốn “không”. Ngón tay còn không thì nắm tay sao có được. Nắm tay là dụ cho giả danh, ngón tay là dụ cho thật pháp. “Người trí…”, ngài Kinh Khê nói: Không có nắm tay là sinh Không, không có ngón tay là pháp Không, không có không tức là bình đẳng không. “Ba thứ này…” là kết: Bốn câu tánh tướng chẳng tồn tại là tánh không. Trong tự, ngoài tha, khoảng giữa, và chung tự có không có nhân, bốn tánh ấy đều Không, cho nên nói là chẳng tồn tại. Cũng không là chẳng trụ. Nghóa là bốn câu nói chẳng trụ ở không có. Đây tức là tướng Không. Cho nên ba Không trước mỗi thứ đều đủ tánh tướng hai Không. “ Nếu ba …” là luận ba Không nhập đạo, hai thứ khác nhau. Trước nói, tiểu giáo nhập đạo. Kế, “nếu diễn …” là nói Diễn môn nhập đạo. Trước nói ba thứ trước là phương tiện… chữ ba lẽ ra viết là hai, e lầm. Ngài Kinh Khê nói hai thứ Không trước là phương tiện… là do nhân pháp đều Không mới nhập vào Chân không, bèn gọi là bình đẳng. Phải biết rằng chỉ không của sở chứng gọi là bình đẳng. “Nếu diễn…”, thì diễn chung cả ba giáo. Trước nói Biệt Viên, kế nói Thông giáo. Vì cơ Thông giáo xen tạp nên cần phải nói riêng. Lại trước là nói chung, chỉ nói tức chân nhập trung. Kế là nêu riêng, bèn phân biệt lợi độn, độn thì tức chân, lợi thì nhập trung. Trước nói tức chân nhập trung, ngài Kinh Khê nói: Đã là Không thiện xảo tức chân tức trung thì không nên nói riêng. Nói tức chân, là không hẳn đều tức. Nhưng nói chân này thông đến trung. Thế nên giải thích rằng đều thông pháp tánh. “Nếu thông …” là riêng nói về Thông giáo, cũng là riêng bày ng- hóa Diễn. Bậc Trí thượng căn văn thoát chữ lợi lẽ ra nói là thượng căn lợi trí, ngài Kinh Khê nói: Trước nói độn căn không thấy pháp tánh chỉ trụ ở thiên chân, nên nói đồng được thấy chân. Thượng căn lợi trí thông đến pháp tánh, tức là kẻ lợi căn trong hàng Bồ-tát. Đã chung lợi độn nên nói là “cộng Không”. Ngài Kinh Khê nói: Nếu không tin có nghóa “cộng Không”, là nay hỏi người khác rằng: Vả lại như kinh nói pháp Không có chúng sinh lìa cấu chúng sinh… đâu không phải là không có chúng sinh, ngã, nhân, thọ mạng… bốn thứ. Bốn pháp này Nhị thừa đã lìa bỏ, sao lại còn lấy để chê trách Tiểu thừa. Đã trách tiểu thì đại tiểu cần phân biệt. Nay phải nói là sở ly (chỗ lìa) không khác mà trí năng không thì khác. Nay ý nhà ta lấy ba thứ trong năng ly mà thông chân cùng chứng vung không khác. Nên biết năng ly của Biệt Viên vónh viễn trái nghịch. Giải thích nghóa, là các thứ đều căn cứ đủ vào ba giáo, tục đồng mà chân khác, chân và thể cần phân ra. Nay sớ từ ưu thắng, lại theo viên mà giải thích, thì tâm pháp pháp tánh lời nói ấy còn thông. Ba cú Không dưới đây tất cả đều thế. Khéo được ý chỉ này mới có thể nói là hiểu rõ ba Không. Lại nữa, kinh văn đã nêu các câu phàm chữ “các pháp” cho đến tên các pháp tánh trong giải thích tất cả đều cần phân biệt khiến đủ ba chân. Nếu riêng mình viên, thì ngoài tâm không có cảnh, một nhiếp tất cả, đều dung thông. Nay gồm nghóa chê tục, nghóa thông Quyền thật cho đến sơ tâm. Nên biết chỗ quán không ra ngoài tất cả tâm pháp nội giới. Vì do tức mà nghóa tạp, chân khác. “ Nay tịnh …” là kết bày ý kinh. “Pháp Không …” là tùy văn chánh giải thích, Nói thể pháp sinh Không phá tích pháp sinh Không, Nêu bày huyền giải, “Hỏi …” là huyền giải, Huyền đoạn (ngầm đoạn) sinh Không tức trung, nên nghi hỏi trung trước là nhắc lại nghóa trước, sao được nhập trung là chánh hỏi. Ngài Kinh Khê nói: Đây là dựa vào trung của Thông giáo thiên sinh Không mà hỏi. Trong lời đáp đều căn cứ lợi căn trong Thông, từ trong lợi căn của Viên giáo mà giải thích nghóa không. Dẫn kinh để chứng nghóa tất cả đều như thế. Xét kỹ trung bảy lần, hiểu sâu ý ba chân mới rõ được trung này. Kinh văn trước sau dựa vào viên mà giải thích, chúng sinh còn được tức pháp tánh huống là chúng sinh Không đâu thể Không phải ư? Cho nên khiến tất cả đều hướng đến ngã nhân. Kế dẫn sáu pháp của Đại kinh mà đáp. Hỏi: Năm ấm thần ngã gồm thành sáu pháp Không tức không ly đã như văn kia, trong đó chỉ lấy ngã không mà thôi, cho nên dẫn sáu mươi hai kiến tức là đáp vậy. Ở nhiều chỗ văn đã liệu giản xong, đây sao còn nghi? Như nói tức chân nhập trung, cho nên ở văn sau phân căn thượng hạ. Hạ căn tức chân còn thượng căn tức trung. Tức trung thì ở sâu, tức chân thì ở cạn. Sâu không mất cạn, cạn thì sót sâu. Cho nên che cạn mà theo sâu, một tiếng thông khắp. Huống lại dựa vào kinh bộ, lý hợp tùy cơ, chuẩn theo hiện văn của kinh lại từ thông mà giải thích. Như nói pháp Không có chúng sinh. Pháp ba giáo đều không có chúng sinh. Do dụng trí không đồng mà khiến thành ba thứ khác nhau. Cho nên pháp tánh thật tuệ cho đến phương tiện lời nói ấy đều thông. Nhưng thí dụ chữ nhất là không chung Thông Biệt, lại cần phải biết. “Đã…” là các câu trở xuống, trong phương tiện tuệ đều có hai ý tự hành và hóa tha. “Lại …” các câu nói tâm và tất cả pháp, là do các câu này trải tâm căn cứ pháp ai có kiến mà chẳng nghó hạnh mình, cứ một mực chuyên căn cứ vào pháp văn tự ư? “Nay nói …” là huyền thích: Pháp tức nghóa vọng tâm. Tâm cấu, tức tùy nhiễm duyên, tâm tịnh là tùy tịnh duyên. Nhiễm tịnh đã khác thì mười giới đành phân chia. Do tánh bổn cụ (vốn đủ) nên tùy duyên mà năng tạo. Cho nên phụ hành giải thích “tạo” gồm hai nghóa: Dựa vào lý thì tạo là cụ. Dựa vào sự thì tức là mười giới y chánh đều do tâm khởi, nêu bày rõ ràng như hiển tánh lục. “Pháp Không…” là tùy văn chánh giải thích, Nói không có chúng sinh, Nêu tên chỉ chung. Đây trở đi, đều đủ ba nghóa. “ Một căn cứ …” là chính nói ba giải. Tâm và các pháp, tâm tức năng tạo, các pháp tức sở tạo. Pháp đã do tâm tạo thì nói toàn pháp là tâm, chỉ quán năng tạo tức đủ các pháp. Lý này không đổi, gọi đó là tánh. Vì tánh của các pháp nên gọi là pháp tánh. Lại tánh thường làm phép tắc nên gọi là pháp tánh, tánh tức là ba đế vậy. Không bị hoặc nhiễm là tức hoặc là lý, nên không bị nhiễm. Như tâm tướng Ưu-ba-ly… ngài Kinh Khê nói: Văn sau chính căn cứ vào tâm phạm tội xưa nay vốn vô cấu. Như Ưu-ba-ly được giải thoát Tiểu thừa lẽ nào không thấy tâm có tội. Tánh tâm không khác nên dựa vào lý tánh thì tất cả không cấu. Thắng Thiên vương là dẫn tự tướng không để chứng lý pháp Không có chúng sinh cấu. Dẫn tự tướng ly để chứng lý trung lìa chúng sinh cấu, đều ước pháp tánh và đều nói tự tướng. Kế, trong thật tuệ, trước cũng nhắc lại pháp tánh, là do tánh Không có nên nay tuệ mới Không có. Tuy là tánh Không có mà cũng có, ấy là do Không có tuệ chẳng thể tự nhiên Không có. Chỉ nói nếu pháp… mà không nói tâm, là tâm pháp nhiếp nhau nên chỉ nêu một thì thông cả hai. Các câu tiếp theo tất cả đều thế. “Pháp tánh … phiền não cấu”, là trong đây đủ cả hai: Hoàn toàn không biết trong chân không có ngã. Dẫn biết chân đế nhưng không biết trung đạo. Do đây nên khiến ngã cũng còn cấu. Vì có cấu nên đều gọi là vọng kế. “Nếu hiểu …” là nói rõ thật tuệ bèn khế lý không. Các câu tiếp theo tất cả đều thế. “Ba thứ này tức …” là tổng kết hiển quán khác, có hai: a, kết khác Tiểu thừa. “tiếp theo…” là hiển tức quán tâm. Nói về vô ngã, có hai: a, Nêu chung đối phá. b, Chánh nói ba giải thích. Đều so với tạo tác trước là so phương tiện trước đều có tự tha và kết ba thứ như chữ nhất ở đời. Tiếp nói pháp Không có thọ mạng, nói không có nhân. Ngài Kinh Khê nói: Không đồng như phàm phu đến dẹp trừ bờ mé, vả lại đã căn cứ vào đây tiện ở hai biên, cho nên phải nói đầy đủ lẽ ra nói không đồng với bảy thứ người phương tiện. Đây không phải riêng mình viên không được mà nói. Mà tiếp theo sau đều căn cứ theo đây. Nói thể pháp pháp Không, phá tích pháp pháp Không, có tám: Nói pháp thường tịch nhiên. Kế tám phen nói thể pháp nhập pháp Không, ngài Kinh Khê nói: Trước nói người Diễn môn, tức là pháp Không phải nói riêng. Nhưng chỉ ở trên sinh Không tới trước mà chỉ bày pháp Không. Cho nên thể pháp nói thông nhân pháp, vì vậy đối nhân pháp sở không còn có khác. Dựa theo sở không mà nói nên lại nói lại. Cho nên trong nhân sở không chỉ đối thọ mạng chúng sinh, tức năng không kia thể thường tịch diệt. Các tướng thường diệt tức gọi là pháp Không. Nếu không nói, thì lấy gì mà biết. Tiếp theo sau đều như thế. Độc là thể nhập. Hành là xét, tiêu là hiểu rõ. Ý giáo trước sau so nhau đều thế. Luôn luôn dung hội nhau không khiến mê ý chỉ. Nói pháp lìa ở tướng. Mười tướng, ngài Kinh Khê nói: Kinh Niết- bàn nói sắc thanh hương vị xúc sinh trụ diệt và tướng nam nữ. Chỉ lìa mười thứ này chưa đủ để hiển bày đức của đại Niết-bàn. Song ý kinh là nói : Trong Niết-bàn không có mười tướng này, không phải chỉ phá thứ này mà thành đại Niết-bàn. Trí thức là thức phân biệt, cũng là trí phân biệt. Ở đây chính là không. Giả hai tướng, nên nói là phân biệt. Cho nên lý trung đạo không phân biệt thì cảnh ắt không phải là sở năng duyên của trí thức. Hỏi rằng: Cũng có một trí mà duyên với nhiều cảnh. Như dùng tục trí mà chiếu đầy đủ chiếu trung, cho đến chân tục lại cùng chuyển chiếu lẫn nhau, lý đó như thế nào? Đáp: Nếu luận thông tướng nhập cảnh không trí tức dùng một tục đối ba chân. Chiếu lẫn nhau chuyển chiếu không luận ở đây. Nói pháp Không có danh tự. Nói pháp Không có ngôn thuyết. Ngài Kinh Khê nói: Vì các ngôn thuyết từ giác quán sinh ra. Phàm các thứ có nói năng đều từ giác quán. Pháp tánh đều lìa năng thuyết sở thuyết. Pháp tánh vốn là thật tuệ “không” soi chiếu, phương tiện không đắm trước nên khiến như thế. Nói pháp Không có hình tướng. Nói pháp Không hý luận . Không có pháp ái kiến hý luận, tức tâm ái tâm kiến, vốn có nói năng không hợp với thật lý, nên gọi là hý luận. Triệu Pháp sư nói: Đủ cảnh vô ngôn, phàm có nói bàn đều là hư hý. Nói pháp Không có ngã. Nói pháp Không có phân biệt. Không phải sáu, bảy, tám thức, thức gọi là phân biệt, nên nói đều là vô ngôn. Sáu thức là gồm nhiếp năm thức trước, nêu đủ nên nói sáu. Không phải chỉ thức thứ sáu. Mà các thức đều vọng, nên không phải là chân lý. Như kinh sau nói: Không nương cả sáu trần, há chỉ có thức thứ sáu. Nói thể pháp bình đẳng Không để phá tích pháp bình đẳng không, gồm nêu bày. “Và các câu, là …” có chín câu. Tợ bình đẳng Không, ngài Kinh Khê nói vì chuẩn vào tuyệt đối đãi và đồng pháp tánh, tùy Như trụ thật tế đẳng mà nói thì toàn là bình đẳng. Nhưng thế các câu như lìa xấu tốt và qua mắt đẳng cũng muốn đồng hai pháp sinh Không ở trước, bao gồm tiến thối nên nói là tợ (giống). Lại không đồng với bảy thứ trước, nên nói không thuộc nhân duyên. Không tới lui… đã ba Không là một thể nên được nói thế. Đã sinh pháp giống nhau có đối đãi, nên lấy bình đẳng mà duyên lại. “ Pháp Không …” là tùy giải thích, có hai: a, Nói bảy phen, Pháp Không có so sánh, chánh căn cứ ba giải thích. Ngài Kinh Khê nói trước nói không có đối đãi nhau thì vô ngã là dứt mất, dứt mất đối đãi, ấy nên từ tâm dứt mất không phải từ sự mà dứt mất. Sự dứt mất vô cùng thì dứt mất lại chẳng dứt mất. Tâm dựa vào thật lý, lý tức pháp tánh. Mà pháp tánh vốn “không”, còn không dứt mất huống là chẳng dứt mất. Các hoặc đối nhau tự nhiên diệt mất, là trí xứng pháp tánh mới gọi là diệt. Thế nên pháp tánh cũng diệt mất cả dứt mất. “Nay lấy …” là nêu nghóa bình đẳng không. Ngài Kinh Khê nói: Lý bình đẳng vẫn có chỗ còn, cho nên được hai Không tức gọi bình đẳng. Nói chỗ còn, tức ý muốn khiến dứt mất thì không còn gì nữa. Nên biết bình đẳng tự nó không có bình đẳng ấy mới gọi là bình đẳng Không. Nếu không thế, thì đâu gọi là Diễn môn! Ba Không cùng lúc muốn hiển công năng cả ba vì không sai khác, nên nêu chỗ còn mà hiển bày chỗ không còn. “Muốn được bình đẳng thì cả sinh pháp cũng Không, há lại còn thấy bình đẳng, cho nên nói bình đẳng cũng không. “Nhưng tam tạng …” là lại dẫn ba thứ tiểu để hình thành ba thứ đại. Dẫu có bình đẳng mà trọn không có lý khác, huống lại khi thành tiểu giáo hai Không mà còn chưa có bình đẳng, huống lại tu không để không có bình đẳng. Thế nên ba Không của đại tiểu chẳng đồng. Trí chướng tâm diệt, là khi có trí chướng thì vẫn thuộc đối đãi. Trí chướng chỉ là trí Không, Giả mà thôi. Tuy nhân chung thừa mà đến vị sơ trụ thì trí chướng ắt diệt. Pháp Không phải nhân duyên. Sáu nhân bốn duyên, luận Câu-xá nói: “Năng tác và câu hữu, Đồng loại và Tương ưng. Biến hành cùng Dị thục. Kể nhân chỉ sáu thứ”. Đại luận nói sáu nhân là sở tác nhân, cộng nhân, tự chủng nhân, biến nhân, tương ưng nhân, báo nhân. Bốn duyên là nhân duyên, thứ đệ duyên, duyên duyên, tăng thượng duyên. Bản dịch mới thì thứ đệ duyên gọi là đẳng vô gián duyên, duyên duyên gọi là sở duyên duyên. Còn hai thứ kia thì đồng tên. Sở tác nhân thì không ngại người khác. Tương ưng nhân thì tâm và tâm số pháp đồng nhân đồng duyên. Vì tâm và tâm pháp cùng tương ưng nên gọi là tương ưng nhân. Tâmvà tâm số pháp lấy tâm tương ưng làm nhân, nên gọi là tương ưng nhân. Như thân hữu tri thức hòa hợp mà thành việc. Cộng nhân, tất cả pháp hữu vi đều là cộng sinh nhân. Vì cộng sinh nên giúp đỡ nhau, anh em đồng sinh cùng cứu giúp lẫn nhau. Tự chủng nhân tức thiện pháp quá khứ làm nhân cho thiện pháp ở hiện tại, thiện pháp hiện tại làm nhân cho thiện pháp vị lai. Pháp ác vô ký cũng như thế. Tất cả mỗi mỗi đều có nhân tự chủng. Biến nhân như Tập đế… mười một biến sử gọi là biến nhân. Báo nhân, là làm nhân thiện ác được báo thiện ác. Bốn duyên, như năm nhân trên gọi là nhân duyên. Tâm và tâm số pháp thứ lớp tiếp nối không gián đoạn mà khởi, thì gọi là thứ đệ duyên. Tâm và tâm số pháp gá nhờ duyên sinh, nên gọi là duyên duyên. Các pháp khi sinh, không sinh chướng ngại thì gọi là tăng thượng duyên. Ngài Kinh Khê nói đại thể chỉ là pháp tánh chẳng từ nhân duyên sinh mà thôi. Vì pháp ở nhân ắt thuộc duyên. Cho nên nhân duyên tất là pháp hữu vi. “Và mười hai…”, tức sáu nhân, sáu duyên và mười hai đều là sinh tử. Sinh tử tức ba đạo, ba đạo tức ba đức. Ba đức là pháp tánh. Ngoài ba đức thì không có ba đạo. “Nói cũng không phải…” là lấy mười hai duyên tên đồng việc đồng, mười hai chỉ là bốn và sáu mà thôi. Cho nên biết: Chỉ là ly hợp mà nói. Lại như vô minh tức là năng thông của hành. Tức hành của nhân đồng loại ắt có bốn tướng, tức câu hữu nhân năm bộ trong hành cũng là đồng loại. Trong hành vô minh thì tâm và tâm sở pháp cộng hành cộng cảm thì sở tác ắt đồng. Hành hữu ắt phải chiêu cảm thức dị thục… hành này ắt có hoặc của năm bộ biến hành. Về bốn duyên thì Trung luận nói: Tăng thượng tức năng tác. Nhân duyên, tánh năm nhân. So sáu nhân mà nói có thể biết. Song trong sớ văn thì nhân duyên, sở tác và tăng thượng nói cùng đối đãi đồng nhau, là như trong tăng thượng thì có lực không lực đều là năng thành so với sở thành, năng sở khác nhau nên gọi là đối đãi nhau. Huống trong năng sở đều có dài ngắn lớn nhỏ… trong ngã pháp tánh đều không có việc đó, cho nên bị bình đẳng phá. Song trong Tiểu thừa người đã phá nhân duyên thì được nhập chân đế. Nay nói pháp tánh không thuộc nhân duyên, cho nên khác tiểu. Pháp đồng pháp tánh. Một pháp nhập tất cả pháp… ngài Kinh Khê nói: Đã nói các pháp đều có an lạc, tức có nghóa là vốn có nói tương nhập tức vốn tương tại. Lại nói hỗ nhập là chỉ tướng nhiếp tướng, khiến biết rõ tương tại. Thấu suốt pháp tánh tuy vốn đồng, tu thật tuệ mà khắp nhập vào mới rõ tánh hỗ nhập của các pháp. Lại pháp tức trí tuệ. Vì cảnh và trí không hai nên lý trí hợp nhau. Một và nhiều nhập vào nhau, thùy ứng tự tại. Pháp tùy ở Như, ngài Kinh Khê nói: Như như không khác là pháp tánh như và nhất như không hai. Lý trí hợp, là nói tất cả pháp ứng dụng đều thuận pháp tánh, chân như khởi tức chẳng khởi. Chẳng khởi tức là không có chỗ theo (sở tùy). Pháp trụ ở thật tế, ngài Kinh Khê nói: Pháp tánh, thật tế cho đến như như đều là tên khác nghóa đồng. Cho nên không có bốn biên, nghóa cũng thông ba. Nay văn có một ý là do lược bỏ. Lý trí hợp, là giải thích tuy lý không biên, đã vốn đủ mà có thể khởi bốn môn của bốn giáo. Nhiếp vật mà trong không có lỗi chấp trước lưu động, nên nói các biên không động. Pháp Không lay động. Không nương sáu trần, ngài Kinh Khê nói: nương là chấp trước vậy. Nếu thế thì tam tạng giáo Tiểu thừa lẽ nào chấp trước sáu trần sao? Đáp: Có tức có lìa, lìa nhưng vẫn đồng chấp trước, tức vì không đắm trước trung vậy. Trần và lìa hai chấp trước, tên chấp trước không khác. Như khóa vàng hay sắt đều có nghóa là trói buộc. Nay Ma-ha-diễn hai thứ đều lìa bỏ do thấy chân tục pháp giới nên phải thế. Lý trí hợp là phương tiện hòa quang mà không đồng trần, nên nói không nương sáu trần. Pháp Không tới lui. Ngài Kinh Khê nói: Hỏi: Nói không trụ, thì chỉ là tới lui, sao được tới lui mà giải thích không tới lui? Đáp: Không trụ thì không đi, không trụ không đi thì không tới lui, cho nên lấy đó mà giải thích không tới lui, là ý nói pháp tánh không thiên trụ. Cho nên nói không trụ, là khác Nhị thừa có đi có trụ. Lý trí hợp, là phương tiện hóa vật không tướng tới mà tới, không tướng lui mà lui. Nói chín câu, có hai: a, Nêu câu chánh giải thích. “Nếu Thanh văn” đến “mười sáu hạnh…”, là ngài Kinh Khê nói: Thất tức là không vô ngã, vô tướng tức là diệt. Bốn vô tác tức mười thứ kia nương đế mỗi thứ riêng khác, ba thứ không gồm thâu nhau. Nếu Diễn môn thì ba pháp thâu nhau, hoặc chân hoặc trung đều không có hướng khác. Ba trong một pháp tánh cũng đâu có khác. Dẫn kinh Tư Ích, là chúng sinh tức lý tánh diệt định, lý tánh diệt định còn đầy đủ cả ba. Cho nên biết lý tánh không khác, vì vô tướng, vô nguyện vậy. Cho nên trong một lý rất có thể tương tức, còn tức chúng sinh thì các thứ khác nào khác. Tức là trở về tông mà nói nghóa, tức trở về ba lý diệt định trong thân chúng sinh kia . Lý là tông gốc nên nói là trở về. Ứng dụng tức là tuệ phương tiện cũng có ba. Tuy đồng tha hữu mà hữu thường đồng lý. Trong lìa tốt xấu thì ly tuệ hợp nhau, tức hiện mười giới xấu tốt mà không lấy bỏ, tức là lìa vậy. Tăng tổn…, ngài Kinh Khê nói: Hỏi: Trong tăng tổn cũng gọi sinh tử cho đến Niết-bàn, nào khác với trước mà đây lại nói? Đáp: Xấu tốt dựa theo quả báo, tăng tổn căn cứ ở công năng, hai môn tuy khác, mà sinh tử vẫn đồng, tên khác mà nghóa đồng, luận lại có gì lạ. Tiếp sau, chuẩn theo đây mà biết. Pháp qua tai mắt…, tức cùng trước lìa các thứ cho đến không nương sáu trần và nay là qua tai mắt…, tức chỉ là pháp tánh không phải ba thứ căn, cảnh, thức. Văn tuy cách vượt, thật ra ý vẫn thông nhau. Ngài Kinh Khê nói: Song pháp tánh không có tên gọi như mắt v.v… trong mỗi mỗi căn đều là pháp giới nên nói là qua. Nếu thật tuệ, thì được tuệ cho nên qua, hoặc phương tiện nhập giả cho nên qua. Văn lược bỏ không nói cao thấp. So sánh ắt biết. “ Tứ chẳng …” là lược chỉ liệu giản, có hai: a, chỉ tóm lược lời nói trước. b, Chọn nghóa dùng trước. Ngài Kinh Khê nói khác tam tạng giáo, là lý đều khác ba giáo, sao chỉ có tam tạng giáo. Nay mất hai thì nên biết, có thể khác ắt khác ba giáo. Nay trong văn kinh Thông giáo giống hiển nên lại theo đó. Người giải nghóa vì cần khiến viên hiển ý văn, vì môn phải tu, vì sâu gồm cạn, vì ý đầu của Phật… cho nên khiến phải suy nghó chọn lọc khiến nghóa trở về Viên. Tiếp kết phá, có hai: a, Chánh giải chỉ ngài Mục-liên đến có thể nói ư? Ngài Kinh Khê nói: Cho nên biết không phải chỉ viết tam tạng nói. Nói như thế, tức pháp tương ưng như vừa giải thích, há có thể chỉ như ngài Mục-liên mà nói ư? Mục-liên đâu không thể nói: Trong tam tạng giáo pháp Không có chúng sinh lìa cấu chúng sinh… mà bị ngài Tịnh Danh chê trách ư? Pháp đã gồm ba, Ngài Mục-liên còn chẳng thể nói huyễn tục trong ba pháp thì sao có thể nói ba chân tức huyễn, các pháp lý trung trong Viên của tức chân. Cho nên kết chỉ rõ pháp tướng như thế, đâu như Mục-liên lấy tam tạng giáo mà nói. “Hỏi …” là giải thích nghi hai thứ phải như pháp mà hiểu, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, có hai: a’, Chê trách không hiểu, có hai: a”, không hiểu hay nói không. Ngài Kinh Khê nói phàm người nói đều bình đẳng. Song chuẩn theo thứ lớp thì trước chê trách hiểu, sau mới chê trách nói. Nay trước chê trách nói, sau chê trách hiểu là chính chê trách ngài Mục-liên nói pháp tướng nên phải thế. Nói không như pháp là bởi do không hiểu, cho nên trách nói sau mới trách hiểu. Như thế mà hiểu, thì mới có thể hiểu đúng mà nói cho người khác nghe. Cho nên trước kết rằng hiểu phải như thế, đâu có thể vội vàng vì cư só mà nói ư? Bốn bất khả thuyết, nên biết pháp tánh còn không thể làm Viên giáo mà nói, huống lại làm ba giáo, đâu có thể nói ư? Dẫn kinh Pháp Hoa, vì chứng từ cực ba giáo nên gọi là dư (còn lại). Thông Biệt giáo còn mê huống là tam tạng giáo. Không hiểu thường nghe không có. Ngài Kinh Khê nói: Người nghe pháp thì không nghe không được… đây là cũng chê cái lỗi nói bày, chỉ do nói bày mà không chỉ cái thể Không nghe không được. Cho nên khiến người nghe có nghe có được. Nếu “Mục-liên …” là lấy có nói bày mà chánh kết, để trách không thể đối trong pháp tánh mà quên đạo thầy trò. Mục-liên há không thể đối chân đế thể trung mà quên thầy trò ư? Chuẩn ở xuất định chân cũng không quên. Tiếp mượn huyễn làm dụ. Ngài Kinh Khê nói: Văn trước phần nhiều nói rằng huyễn tùy ba chân. Nay ai nói rằng bốn lý như huyễn? Đáp quá huyễn Niết-bàn suy ra có thể biết. Văn đầu chỉ nói căn cứ Thông giáo mà trách, giải nghóa trước sau đều làm một huyễn tùy ba chân mà chuyển, bèn thành ở Biệt Viên tiếp thông đối Thông tức ba, đâu chỉ hiểu ý chỉ của kinh dành riêng cho Thông giáo ư? Đáp: Thông là năng Thông, Biệt Viên là sở thông. Có công năng thông Biệt Viên, cho nên trước chỉ dựa thông giáo mà giải thích. Năng sở đối nhau, tức đủ cả ba. Nếu từ tiếp biên, thông là sở tiếp, Biệt Viên là năng. Chỉ duyên bao nhiêu lý có thể tiếp, thì khiến năng tiếp có công năng. Huống nghóa ở Thông đều bao gồm năng sở. Nếu nó không lấy nghóa tiếp để giải thích, thì do đâu để nói lợi căn ở Thông căn sinh tiếp đãi, thì cơ tiếp đãi thành. Nay còn ba giải thích là thuận tiếp nhập Viên mà tiếp Biệt giáo. Văn này trước sau ít nói về nghóa tiếp, chỉ được từ bao gồm mà phán chung. Cho nên cần liệu giản tường tận Thông cả văn trên dưới. Huống nay trách Mục-liên, hoặc hiểu hoặc nói không xứng pháp tướng. Chính phải không được hiểu sâu ý chỉ về hai thứ nhập thông, thông nhập hai thứ. Nên phải khiến Mục-liên nương vào ý quán giải trung đạo mà nói pháp, huống lại nói tiếp. Song cần phải biết cơ. Mục-liên lại không có trí quán cơ. Nên khiến nói hiểu không đúng cơ. Nếu nhập như huyễn…, đây dẫn Tam-muội Như huyễn trong hai mươi lăm Tam-muội. Cho nên khiến nương lý Viên bất tư nghì mà nói pháp. Ngoài hiểu rõ căn duyên, trong khéo tri kiến, dùng Biệt giáo mà phá việc nói pháp Không đúng căn duyên, có hai: a, nêu ý phân khoa. Ngài Kinh Khê nói phải hiểu biết đến tùy bệnh cho thuốc là. Hỏi: Trước đã dựa theo Viên, đây vì sao vẫn là Biệt? Đáp: Trước chính ở Thông chân lý trong Thông tuy gồm Viên Biệt nhưng chỉ là tục, chưa phải là trí tri căn. Mục-liên có thể trong nhân môn này mà nhập Viên nhập Biệt, còn cần khuyên dùng trí trung chiếu tục khiến thành diệu tục. Huống trước đây đã vì lợi căn mà luận chung cơ duyên không đồng mà vẫn cần biệt. Cho nên do đây mà lấy biệt để chê trách. Một là trách chẳng biết căn, hai là trách có ngăn trệ. Trách ngăn trệ vẫn cùng Thông giáo lược đồng, vì trong Thông giáo trước chân sau giả vậy. Cho nên trước trách ông không biết căn duyên, huống có trách ngăn trệ. Chính là do không biết căn duyên. Văn ở sau, tức văn sau ý trước. Tiếp tùy văn mà giải nghóa, trách không biết căn duyên. Như Lai biết căn, là biết chúng sinh căn độn mà nói Tạng giáo tích không. Nên nói cho nên kinh Thanh Văn… nay cư só lợi căn phải nói Thông giáo thể Không, vì sao lại nói tam tạng? Cho nên ngài Kinh Khê nói: Trong văn chỉ nói Tạng, Thông đối nhau để luận lợi độn cũng chỉ một mực nhờ thông mà thôi. Nay cũng có thể nói tất cả lợi độn đều không biết. Ngài Mục-liên chỉ đoán nhầm người khác mà vụng nói giáo. Đã không biết tiểu độn mà cũng không biết đại lợi, huống là mười sáu môn và sáu mươi bốn đều lợi độn ư? Cho nên nói lợi độn thì có Thông có Biệt. Thông thì căn cứ mười sáu, Biệt thì chỉ Diễn môn mà nói. Cũng có thể dung hòa mà biết mười sáu của tam tạng. Cho nên nay do đó chê tiểu mà dạy đại. Ba Không đều thế. Cho nên cần phải hiểu đây. Tiếp là trách tri kiến có trệ ngại. Ngoài thương chúng sinh, trong nghó nhớ báo ân Phật, nên dùng Viên giáo mà phá việc nói pháp Không đúng tâm Phật, Nêu ý phân khoa. Ngài Kinh Khê nói: Hỏi: Trước đã dùng Biệt, lý hợp có bi. Nay đây cũng lấy đại Bi mà trách. Sao được phán quyết rằng lấy Viên mà trách? Đáp: Trước đối Chân không, lại lấy trệ không chẳng biết căn mà trách, không phải hoàn toàn không bi. Nay nói bi là thêm báo ân Phật, tức là vô duyên đại Từ bi. Cho nên lấy đại Bi nghó báo ân Phật mà trách thiên, chỉ là Từ bi lợi tục mà thôi, huống là tám vạn cư só cần ở tại từ. Cho nên tiến lên trách để cùng lợi cả hai. Tùy văn giải thích, có hai: a, Nên khởi tâm đại Bi. b, Nghó nhớ báo ân Phật. “Ứng báo … bảo chủng”, ngài Kinh Khê nói: Vận vô duyên Bi tức là đại Bi nghó báo ân Phật. Nếu báo ân Phật tức là không đoạn chủng. Nên biết Nhị thừa đã tự đoạn chủng mà cũng đoạn chủng người khác. Bởi không biết trong ba Không của Tiểu thừa, không có vô duyên Bi. Tuy nói trọn ngày mà không phải báo ân Phật. Nghe pháp được lợi ích. Ngài Kinh Khê nói: Chuẩn theo đây cũng cần lược nói ba Không để kết về đức khéo nói của ngài Tịnh Danh, để trách nói pháp Không đúng pháp tướng, không biết căn duyên. Cho nên lại nói là đại cơ. Cư só phát tâm, cho nên trên phá xưa chê tiểu đậu đại cơ không liên quan đến nhân thiên. Lại tiếng phát tâm là chung cả các cư só căn duyên không đồng, hoặc là chỉ Viên hoặc là Thông Biệt, hoặc có Viên cơ, nên trước phải Thông Biệt, hoặc chỉ Thông Biệt đồng tòa mà nghe khác. Tiếp, kết thành không kham. Sai ngài Ca-diếp: Có hai: a, Phân khoa nêu ý. Đầu-đà, Hán dịch là Đẩu tẩu nghóa là. Phủi sạch phiền não vậy. Kinh Thiện Trụ Ý, Thiên tử nói: Đầu-đà là phủi sạch tham dục sân nhuế ngu si, sáu nhập trong ba giới. Ngài Kinh Khê nói: Kế sai ngài Ca-diếp, là Thân Tử đã dựa theo quả mà trách. Mục-liên lại căn cứ nhân mà trách. Nay đây trong văn lại căn cứ nhân bao gồm quả mà trách. Nhờ đại nhân quả mà trách tiểu quả. Nhờ tiểu nhân quả mà bày đại giáo. Đại nhân là chỉ cho môn khất thực. Đại quả là chỉ cho pháp chánh thực. Tiểu nhân là tập đạo đế, tiểu quả là diệt đế. Đại giáo là Đốn giáo. “Ca-diếp …” là tùy văn giải nghóa, sai thăm bệnh, gồm Chánh giải thích hiện văn, Giải thích. Ca-diếp, Hán dịch là Quy “rùa), bởi đời trước ông học đạo với Linh quy mang tiên đồ mà ứng hiện. Từ đức mà lập dòng họ, nên gọi là họ quy. Lấy họ làm tên, vì người thời ấy thường lấy họ mà kêu gọi , nên nói thế. Thật ra, ngài có tên là Tất-bát-la. Do cha mẹ cầu con ở thần cây, nhân lấy đó mà đặït tên. Tiếp giải thích chữ đại, Giải thích nay, nêu nay căn cứ chỗ biểu thị, nên nói là đại trí… nếu dựa theo sự mà giải thích, thì trong hàng đệ tử Phật có nhiều người tên Ca-diếp, như thập lực Tam Ca-diếp… trong số đồng họ thì tôn giả là người lớn nhất. Nên đặt tên đại để phân biệt. “ Sở …” là giải thích thứ hai. “Có người nói …” là giải thích khác cũng là giải thích về sự mà thôi. “Nêu sâu …” chỉ đồng ý trước. Tiếp từ chối không kham, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Từ chối không kham. nói lý do không kham, có hai: a”, Chỉ lược chê trách quấy. Mười hai hạnh Đầu-đà, thì Nam sơn sao có nói: Vị phân làm bốn, tức là y ăn, chỗ ở và oai nghi. Trong y “áo) có hai: Nạp y. Chỉ ba y. Về ăn có bốn: Khất thực (xin ăn). Không ăn thừa. Ngồi ăn một lần. Ăn từ muỗng. Về chỗ ở có năm: Lan-nhã. Nơi gò mã. Dưới tàn cây. Nơi đất trống. Tùy nơi mà ở. Về oai nghi có một là thường ngồi. Ngài Kinh Khê nói: Đầu-đà có ba ý, Bán mãn chỉ là căn cứ giáo mà thôi. Pháp Hoa sớ văn phân biệt rộng đầy đủ. “Nay hỏi…” là phá cách giải khác về trung. Nay lấy hai môn đối hai người. Ý tóm lược có thể thấy. Nay lại giúp một giải thích hai. Môn tuy được khác mà cơm thì một nghóa , tức là Niết-bàn. E là người lầm mà viết quán hành… hỏi Đại sư thường dùng cách nào để trốn người khác? Đáp: Không phải tức không nhận chỉ chê trái văn. Một nhà nêu văn đều là việc trước tiên, kế là giáo, sau mới quán môn. Dẫu là quán môn thì nương văn nhờ giáo kham học chỗ chí đạo để làm lợi ích. Ngay đây mà lý giải, chỉ sợ mê tông kinh. Tiếp “Nay nói …” là chánh bày nghóa kinh. Bần lý (xóm nghèo) theo Chu lễ, cứ năm nhà là một lân, năm lân là một lý. Lý là ở. Khiến hiện chuyển báo, ngài Kinh Khê nói: Phàm thí Thánh chúng đều mong được lợi ích hiện tại. Như ngài A-na-luật cứu kẻ đương nghèo khổ. Kê thời phế nghiệp, Kê là ngăn dứt không phải là khuôn phép cho người, là quen thói ngon ngọt đâu được gọi là Đẩu tẩu (đầu đà) thì đâu thể làm khuôn phép cho người được. Nói việc không kham, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Chê trách chung. Có tâm Từ bi…, ngài Kinh Khê nói việc khéo cúi xuống và ngước lên là ở đây. Để khen người có Từ bi thì cúi xuống khiến cho khắp. Như Lai khen ngợi mời cùng ngồi, là ngài Ca-diếp lúc nọ từ trong núi ra, thân thể dơ bẩn hôi hám mặc áo dơ xấu đến trước Phật. Các Tỳ- kheo nhìn thấy đều khinh gớm. Phật muốn diệt trừ tâm khinh mạn của các Tỳ-kheo, nên khen rằng “Thiện lai”, rồi chia ghế mời ngồi chung. Ngài Ca-diếp từ chối rằng: Đức Phật là Đại sư, con là đệ tử, làm sao lại cùng ngồi. Phật nói: Ta thiền định Giải thoát trí tuệ Tam-muội, đại Bi giáo hóa chúng sinh. Còn thầy cũng như thế, có gì khác nhau. Các Tỳ-kheo nghe xong liền khởi lòng kính mến. Bổn quan phước trí, kinh Pháp Hoa nói: Nếu người có phước từng cúng dường Phật ví nói Duyên giác. Cho nên biết phước đức lợi trí thì là dễ độ. Đây là chê trách ngài Ca-diếp theo nghèo. Cho nên một mực chuẩn theo lý dễ độ ở căn, đâu thể chọn giàu nghèo. Nếu như người nghèo mà ngu độn, người giàu lại trí lợi thì đâu thể bỏ giàu mà theo nghèo ư? Tiếp, chê trách riêng, Ngài Kinh Khê nói trong chê trách riêng có bốn ý, từ đầu đến cuối là thứ lớp chê trách. Cho nên từ đầu biết ngài Ca-diếp lập ý muốn đến khất thực chỗ nhà nghèo, ý phát ra đã lầm. Do vậy sau đó chê trách khi đến xóm làng thì tâm lại lỗi. Cho nên không có tưởng thể nhập vào không tụ, vào rồi thì được ăn, ăn ắt có lỗi, chẳng phải do quán đế đều không hợp lý. Nếu muốn trách thì dùng pháp nào, bèn luận đốn tiệm mà chê trách. Sự cùng lý tận nên kết khuyên. “Văn đầu…” là tùy giải thích, Trách lỗi tâm lỗi khất thực, Phân khoa chọn bày, “Hỏi nếu …” là chọn bày. Khổ tâm sở khế, chữ khổ phải viết là cổ (xưa), vì lầm. Tâm xưa khế hợp, tức khổ tập đạo ba thứ ngày xưa đã khế hợp với tâm. Tức văn sau nói: Trước là phá khổ đế này. Cho đến nói trước là được quả không ăn… tìm đọc sớ văn sau có thể thấy rõ. “ Trụ bình đẳng …” là tùy văn giải nghóa, có bốn: a, dựa theo Tiểu thừa để phá chứng diệt, vốn có lý diệt đế bình đẳng tức ba đế tam thiên. Chúng sinh và Phật nhất như tự tha thông suốt, nên nói là bình đẳng. Hành sinh tu, Đại luận quyển tám mươi trước nêu kinh nói: Tu-bồ-đề bạch Phật rằng Bồ-tát như thế nào là hành Bát-nhã Ba-la-mật, như thế nào là sinh Bát-nhã Ba-la-mật, như thế nào là tu Bát-nhã Ba-la-mật? Phật nói: Vì sắc là vắng lặng, vì sắc là hư dối, vì sắc là không thật nên phải hành phải sinh phải tu Bát-nhã Ba-la-mật. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Tu Bồ-đề lại hỏi hành sinh tu vào lúc nào? Phật nói từ sơ tâm cho đến ngồi đạo tràng đều hành Bát-nhã Ba-la-mật, sinh Bát-nhã Ba-la-mật, tu Bát-nhã Ba-la-mật. Đã nói trước sau đều hành sinh tu tức là nghóa viên. Cho nên biết tức khi hành thì sinh, sinh nên lại tu. Nên kinh lại nói Tu-bồ-đề lại hỏi thứ lớp trong tâm đều hành sinh tu… ư? Đức Phật nói luôn không lìa tâm Tát-bà- nhã. Không khiến niệm khác được nhập là hành là sinh là tu. Nếu tâm và tâm số pháp Không hành là hành, là sinh, là tu. Có người giải thích rằng hành là ở Càn tuệ địa, sinh là Vô sinh nhẫn, tu là ở sau Vô sinh nhẫn, đây là ý của Thông. Nếu chuẩn theo ý thông thì biệt có thể biết. Tát-bà-nhã thì Đại luận dịch là Nhất thiết trí tướng. Ngài Kinh Khê nói ý nói trong tâm thứ lớp phải ứng hợp với Bát-nhã, tức thường cùng Tát- bà-nhã tương ưng. Vì thứ lớp tức không thứ lớp vậy. Ca-diếp sao không đem tâm như thế mà thứ lớp hành khất, mà chỉ mang tâm lấy bỏ ư? Do tích hiển bổn, tức là thấu suốt sự tức lý. Đây gọi là thể dụng bổn tích. “Nếu Ca-diếp …”, ngài Kinh Khê nói: Kế đem quả Thân Tử nhập định mượn giải thích nhân ấy. Cho nên biết không lìa tâm Tát-bà-nhã, còn đối với ăn thấy tám tà tức là tám giải thoát. Nếu thường thấu suốt cơ lý, há khiến làm việc bỏ giàu theo nghèo. Sự làm còn thiếu sót thì đâu thể hội được chí lý. Bồ-tát tuy biết đến giải thoát, là tuy biết lý thường bình đẳng nhưng không ngại việc thứ lớp tu học. Tức tà là chánh nên nói không bỏ tám tà. “Vì sao…” là giải thích thứ lớp cầu tướng Đại thừa. Đây tức là giải đốn mà hạnh tiệm. Nếu ước sơ tâm tức là ý thứ lớp chỉ quán. Tâm Tát-bà-nhã tức là giải viên dung. “Từ phàm …” là nói việc trải thứ lớp mà hành. Thiền duyệt các định là ngăn dục tan lưới đạt đến định sắc và vô sắc. “Lại nhập …” là ngăn dứt ngục ba cõi mà thấu suốt đạo Nhị thừa. “Lại nhập Bồ-tát …” là ngăn dứt tự chứng mà thấu suốt đạo Bồ-tát. Đã nói các thiền thượng thượng tức gồm và dứt hai biên, thấu suốt đạo thường trụ vậy. Đối mỗi mỗi thiền đều có ba trí, ngài Kinh Khê nói: Nói đầy đủ như trong chỉ quán thiền cảnh. Quán các sự thiền đều thành diệu cảnh. Đây là người Viên giáo quán căn bản, cho đến chín thứ đại thiền của Biệt giáo, trong mỗi mỗi thiền đều thấy Phật tánh. Nếu người Biệt giáo tự tánh thiền thì chỉ ở địa tiền mà thôi. “Ấy là …”, Đại luận quyển tám mươi bảy nói hành gọi là Bố thí, học gọi là Trì giới, đạo gọi là Trí tuệ. Lại hành gọi là Trì giới, học gọi là Thiền định, đạo gọi là Trí tuệ. Không quán giàu nghèo, tâm không lấy bỏ, thì đã là tâm, Phật và chúng sinh là ba thứ không sai khác, thì đâu lại bỏ giàu mà lấy nghèo ư? Nương pháp phân vệ, tức không chọn giàu nghèo cứ thứ lớp mà đi qua trước các nhà. Luật nói phép khất thực không được ở một nơi là vì làm phước cho người khác cho nên khiến phải đến bảy nhà. Phân-vệ, Hán dịch là Đoàn đọa, tức là lấy một nắm cơm để vào bát. “Ca-diếp nội tâm…” là chính nêu lỗi Tiểu thừa. Căn cứ phá biết khổ. Ngài Kinh Khê nói: Kế sau là ba đế, trong mỗi mỗi đế đều ở trước pháp Vô học mà phá ngài Ca-diếp. Kế “nếu ở học địa…” thì lấy người học chưa đủ mà chỉ trích Ca-diếp. “Ca-diếp kiết lậu …” là lại lấy ứng nhập vô dư mà vấn nạn. “Nếu vì lợi …” là lấy pháp lợi tha mà vấn nạn. Nếu Bồ-tát…” là chỉ bày đại pháp. Bèn lấy Bồ-tát lợi tha mà kết. Căn cứ đoạn tập mà phá. Đoàn thực, Hán Thư nói: Đoàn, đâu cần phải bỏ nắm cơm vào. Đây chỉ là giả mượn chữ. Bốn cách ăn, ngài Kinh Khê nói: Là xúc, tư, thức, đoan. Đoàn là tiếng dịch xưa, bản dịch mới không dùng, tức là uống nước cơm… đâu có thể là đoàn được. Phàm nói ăn là lấy cái nghóa nuôi lớn. Diệt hoại thân là nói không được gọi là ăn. Như thuốc độc… tuy ăn mà không phải ăn. Xúc như lạnh… tư như ý nghó có thể kéo dài mạng sống. Thức như phân biệt khiến trụ được mạng sống. Người xưa có nêu nhưng không nói kỹ. Nay ý chỉ ở đoàn thực, là tiếng thừa, chỉ đi kèm. Ngài La-thập nói: Ăn có bốn thứ: Một là đoàn thực; hai là nguyện thực, như thấy túi cát mạng sống không dứt gọi là nguyện thực; ba là nghiệp thực, như ở địa ngục không ăn mà vẫn sống, do vì tội nghiệp khiến chịu đau khổ lâu dài; bốn thức thực. Chúng sinh vô sắc thì có tưởng thức liên tục nối nhau. Căn cứ tu đạo mà phá. Chê trách vào xóm làng tâm lỗi, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Chê chung, căn cứ ở ngoài xóm giải thích mà chê. Chê ông có tâm…, ngài Kinh Khê nói: Ngài Tịnh Danh chê, là ý nói: Đã có lấy bỏ, tin mà biết vào xóm không khỏi có tâm, đâu có thể bốn oai nghi thường trụ ở đế lý. Mà có lánh và đến, tức thích người ng- hèo mà đến, ghét người giàu mà lánh. “Lại nếu …” là căn cứ trong xóm giải thích mà chê, có hai: a, Chính nêu. Tụ lạc “xóm làng), thì Quãng Nhã có nói: Lạc là ở, nghóa là người tụ họp nhau mà ở. Sớ nói sở y, y tức là ở. “ Trước đã …” là kết ý: Ở trần có đới. Ngài Kinh Khê nói: Hỏi: Ngài Ca-diếp chứng không trước đã bỏ có, sao lại lấy có tâm mà trách? Đáp: Đây có hai ý: Tâm không tâm vào xóm. Chẳng có rỗng không mà phân biệt giàu nghèo. Muốn biết ngài Ca-diếp vào xóm thì tâm tán loạn, nhưng lấy phân biệt giàu nghèo để nghiệm tin mà biết. Không thấy lý xóm làng Viên giáo, tin Không há là không diệt định mà hiện oai nghi. Tin mà biết. Ngài Ca-diếp đã được lý Không của Tiểu thừa, nay lấy sự lý chẳng Không mà chê trách. Cho nên mỗi mỗi văn đều lấy thể Không nhập vị mà cùng chê trách. Tiếp chê trách riêng, Trách nhãn căn, Nêu lỗi bị chê. “Cùng mù…” đến không lấy bỏ. Ngài Kinh Khê nói: Sáu căn vốn là chỗ nương của trần thức, sinh các phân biệt và ở sáu trần mà được đoạn không. Cho nên dùng như mù mà chê trách khiến hội được lý. Ngài Ca-diếp được đại ý chỉ không xuất nhập. Từ “Ca-diếp chi kiến”, là ngài Ca-diếp chỉ nhập quán khi mù, khi xuất quán cũng thấy không khác gì phàm tục. Có thấy không thấy thì chỉ không phải là mù lớn. “ Bồ-tát …” là hiển bày hay chê trách mà được, Giải thích chung. Cho nên cùng mù… ngài Kinh Khê nói: Mượn cái mù ở đời mà dụ việc không phân biệt. Thấy mà không thấy, không thấy mà thấy. Cho nên tuy nói mù mà khắp nhìn thấy pháp giới. Có thể như thế mà quán không có giàu nghèo thường gặp nhất như. Ngài Ca-diếp chưa được như thế nên nêu ra mà chê trách. Song lại nên biết mù không phải là hết lý. “Cho nên từ tai …” thì chỉ nói như tiếng vang mà không nói như điếc. “Lại còn …” là giải thích riêng, Căn cứ vị tương tợ, Chánh nói. Ngài Kinh Khê nói: Kế dẫn Đại kinh chính đáng ở tợ vị. Kế dẫn Đại phẩm không thấy…, phải biết như mù nói hạn cục không thấy bèn thông. Ba tụ là chánh định, tà định và bất định. “ Thế thì …” là kết chê trách. “ Thiết luân …” là kết hiển phần chân. Ngài Kinh Khê nói: Thiết luân là dùng để phán quyết văn sau. “Năm căn …” là nói biệt vị đồng. Do đó mà dẫn đồng luân làm chứng. Được đến sơ trụ mới có một phần vì như mù vậy. Chê trách nhó… bốn căn, Chỉ lỗi bị chê. Chẳng hiểu nhó không…, là không hiểu rõ tiếng xấu tốt như tiếng vang trong hang trống rất sợ nhà giàu ham thích tiếng tốt, không sợ nhà nghèo sầu lo tiếng xấu. Không hiểu rõ thơm thối là do gió. Gió không thơm thối. Hương đã cùng gió… thế thì không có nhà giàu hơi thơm tho ngại đạo có thể lánh và nhà nghèo mùi hôi tanh không phải ngại có thể gần. Chẳng hiểu pháp Không có tánh nhất định, do phân biệt chấp tướng, gọi đó là mùi vị, nếu chẳng phân biệt thì không phải mùi vị. Do đó mà dự tiệc trời vẫn không nhiễm, ăn chất chát đắng vẫn không ghét. Hà tất phải bỏ cơm ngon ngọt của nhà giàu mà lấy cơm đạm bạc của nhà nghèo? Tóm lược khoảng giữa nên nói “cho đến”. Như trí chứng, ngài Kinh Khê nói: Như trí khế lý, lấy chứng được lý. Cho nên khi tiếp xúc thì phải như dùng trí mà xúc thật tướng. Do không hiểu, nên khi xuất quán thì nhận xúc giàu nghèo ở ngay tại chỗ ngồi thiền mà tình có lấy bỏ. Xấu thì lấy, tốt thì bỏ, là bốn trần xóm nghèo thì lấy, bốn trần nhà giàu thì bỏ. Tiếp hiển bày hay trách mà được, có hai: a, Giải thích chung. b, giải thích riêng. Chung thì chỉ chung lý không lấy bỏ, riêng thì bày ba đế. Năm nhãn và căn cứ vị… trên dưới đều theo như thế. Riêng giải thích tường tận như nhãn căn. Giải thích đầu: Hưng trí, chữ hưng là lầm, phải viết dữ trí khế lý. Ắt chẳng bỏ lý lấy lý, tức tốt xấu đều là lý đâu cần phải lấy bỏ, mọi vật đều không, sao lại lánh hay đến. Một tướng từ tâm, tức là vô duyên từ. Từ tâm khắp đủ, không duyên tướng chân tục giàu nghèo mà sinh lấy bỏ. “ Nếu Bồ-tát …” là giải thích riêng. Tiếp là chê trách ý căn, có hai: a, Nêu lỗi bị chê trách. Thương quý, tự coi mình hiền gọi là căn . Thượng thư có nói: Ông chỉ không thương thiên hạ, không thể cùng ông mà tranh hơn kém. “Bồ-tát …” là hiển hay chê mà được. Phật đáp Đức nữ… ngài Kinh Khê nói: Như trong Đại phẩm, đức nữ hỏi Phật: Trong có vô minh chăng, cho đến không phải trong không phải ngoài có chăng? Phật đầu tiên đều đáp không vậy. Kế nói như thế có văn nay, rất tóm tắt đầy đủ ý đó. Như huyễn không phải trong ngoài, tức là ý đáp đầu của Phật. Hiện tất cả việc tức ý Phật đáp sau. Văn có hợp dụ, văn đầu là dụ, kế vô minh …” là hợp. Bốn câu kiểm xét… là phàm nói như huyễn tất bốn câu (trường hợp) suy ra khiến rốt lý. Đã lại luận về đại tiểu, nay mỗi mỗi đều lấy văn viên mà đối trách tam tạng. Đã lấy văn Viên giáo mà chê trách tiểu, chỗ nêu Bồ-tát đạo lý phải Viên. Trình bày pháp chánh thực, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Nêu chánh thực, nói thực thể, giải thích chung. Đâu thể ăn tạp dục… ngài Kinh Khê nói: Chính nói khi ăn cần phải xứng Phật tuệ, cho nên không phải Phật tuệ đều gọi tạp dục. Cho nên biết: Ngài Ca-diếp tán tâm khi ăn và việc bỏ tà nhập chánh khi xưa đều gọi tạp dục. Đã không có Phật tuệ mà quán ắt xuất nhập khiến ăn thành tạp. Cho nên không nên ăn. Nếu lấy dục ở cõi Dục mà giải thích tạp, nói là dục thì vì ngài Ca-diếp là đồng phàm phu. Không phải tà chánh là, đều không phải là phàm tiểu tà chánh vậy. “Nhưng tà …” là giải thích riêng, có hai: Nói lỗi bị chê trách, Xét chọn sự lý. “Thanh văn …” là chánh nêu chỗ chê trách. Duyên lý tám tà, tức là kiến hoặc. Nêu hay chê trách mà được. Không bỏ vị thiền…, ngài Kinh Khê nói: Đối mỗi mỗi chi mà thấy thật tướng thiền, gọi là chân Bối xả thành thường giải thoát, trách khiến ngài Ca-diếp thấy được chân Phật tánh. <篇>