<經 id="n1778">DUY MA KINH LƯỢC SỚ (QUYỂN 1 ~ 1 0) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN DUY-MA KINH LƯỢC SỚ Thiên thai, Sa-môn Trạm Nhiên lược. <詞>LỜI TỰA KINH DUY-MA LƯỢC SỚ Sớ văn này là do vua Tùy Dạng Đế thỉnh ngài Thiên Thai Trí Giả Đại sư nói ra, dùng làm pháp tâm yếu. Văn ghi chép đầy đủ trong Quốc Thanh Bách Lục, vua sai người hầu theo đó ghi chép tâu lại. Nhưng từ sau phẩm Phật Đạo thì ngài Chương An ghi tiếp. Lúc đầu văn do người hầu nghe giảng ghi lại nên rất dài dòng. Có những đạo tục đọc thấy chỗ sâu sắc rất hâm mộ nhưng đều bảo văn quá rườm. Tôi bèn từ bài ghi chép đó mà bỏ lời dài dòng, chỉ giữ lại các nghóa, khiến bài văn rõ ràng không trái ý xưa của tiên sư. Nhưng luôn tự xét mình ngu kém e làm mất ý chỉ, bèn thường ở trước tháp đường Đại sư đốt hương khấn nguyện, nếu có mảy may điều chi làm tổn hại đại đạo thì xin linh ứng chỉ bày cho. Gần hai tuần việc tu sửa đã xong mà vẫn không bị thầm trách, phải chăng các ngài đã ngầm hỗ trợ để tông chỉ này được sáng mãi với hậu côn? Kính nhờ các bậc Đạt nhân sẵn lòng tha thứ. ----------------------------------- DUY-MA KINH LƯỢC SỚ <卷>QUYỂN 1 GIẢI THÍCH PHẨM: PHẬT QUỐC (Phần 1) Giải thích văn kinh đại lược có năm ý: 1- Nói kinh độ bất tận. Tóm lược chia văn. Luận nghóa Phật quốc. 4- Giải thích phẩm. 5- Chính thức giải thích văn. <詞>KINH ĐỘ BẤT TẬN: Trước sau kinh này có năm bản dịch khác nhau nay chỉ giải thích một bản của ngài La-thập để tìm hiểu văn nghóa. Ở Tây Vực còn nhiều bản khác, do đâu mà biết? Như sai mười người đệ tử đến thăm ngài Duy-ma rồi năm trăm cho đến tám ngàn ai cũng từ chối không kham nổi. Nói lý không kham để khỏi đến thăm. Suy đây mà luận thì kinh này có rất nhiều quyển. Lại như việc ngài Văn-thù vào thất để truyền ý chỉ của Như Lai, ngài vô cùng ân cần đến cả tám ngàn Bồ-tát mà mỗi vị ngài đều nói pháp Nhập môn. Những lời lẽ luận bàn này đâu thể chỉ có nửa quyển. Rồi ngài ra thất đến Am-la viên để phô bày nghóa Phật quốc, lúc đó lại đối đáp luận bàn cao xa thì ý kinh văn há chỉ chứa trong mấy tờ giấy nhỏ? Bèn cho là nhân dân ở nước Chấn Đán thần trí thấp kém không đủ sức đọc tụng thọ trì đầy đủ kinh ấy mà cắt bớt chỗ nhiều lời, tóm tắt cương yếu vẫn giữ nguyên nghóa mà truyền vào cõi này. Hỏi: Văn kinh này ở Tây Vực rất rộng lớn đâu không phải là Đại luận nói về kinh Bất Tư nghị mà Đức Phật đã nói, có mười vạn bài kệ chăng? Đáp: Có người nói thế, nay bảo không phải vậy. Bởi Đại luận nói về kinh Bất Tư nghị là tên khác của kinh Hoa Nghiêm. Cho nên luận rằng Bát-nhã có hai thứ: Một là, cùng nói chung với hàng Nhị thừa; hai là, không cùng nói chung với hàng Nhị thừa. Không cùng nói chung là như kinh Bất Tư nghị này. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói kinh này không trao vào tay người Nhị thừa. Cùng nói, tức như kinh Ma-ha Bát- nhã và các kinh Phương đẳng. Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm đâu được gọi là Bất Tư nghị, kinh này một tên là Bất Khả Tư nghị Giải Thoát, vì sao lại nói là Không phải? Đáp: Kinh này đã có hai tên, vậy kinh Hoa Nghiêm sao không có tên khác. Song xét kỹ thì Đại luận trước sau dẫn kinh Bất Tư nghị đều nói là Hoa Nghiêm cả. Âu-xá-na Ưu-bà-di nói cho Tu-đạt-na Bồ-tát về số lượng chúng sinh độ được, chính là kinh Hoa Nghiêm nói về việc đã nghe của Thiện Tài nhập pháp giới, nếu dẫn kinh này thì gọi là Tỳ-ma- la-cật Sở thuyết. CHIA VĂN KINH: Có hai phần: Nói các Sư xưa nay. Nói về một nhà. Nói về các Sư: Ngài La-thập, Đạo Sinh và các sư xưa không chia các khoa đoạn, cứ đi thẳng vào văn mà giải thích. Nhưng ngài Tăng Triệu nói: “Bắt đầu từ Tịnh Độ, chấm dứt ở Pháp Cúng Dường, còn khoảng giữa tuy nói khác nhưng vẫn là một bất tư nghị.” Vậy thì từ Bảo Tích đặt câu hỏi trở về trước là tựa, một phẩm Chúc Lụy là phần Lưu thông, đoạn giữa còn lại là phần Chánh thuyết. - Ngài Linh Vị Tiểu Lượng nói rằng: “Tên của kinh này là Tịnh Danh Sở thuyết, từ phẩm Phương Tiện đều là phần Chánh thuyết.” Sư Khai Thiện thì phân làm bốn: “Một là tựa, tức trọn phẩm Bồ- tát; hai là chánh thuyết, tức sáu phẩm trung thất; ba là Chứng thành, tức hai phẩm Bồ-tát hạnh và A-bệ Phật; bốn là Lưu thông, tức hai phẩm Pháp Cúng Dường và Chúc Lụy.” Như ngài Trang Nghiêm Quang Trạch thì cùng dùng bốn phẩm đầu làm phần tựa, sáu phẩm nhập thất làm Chánh thuyết, bốn phẩm sau làm phần Lưu thông. Về sau thì Tam Luận Sư cũng theo cách chia này. Còn các Luận sư phương Bắc thì lấy phẩm Phật Quốc làm phần Tựa. Phẩm Phương Tiện đến A-bệ Phật mười một phẩm, làm Chánh thuyết và hai phẩm sau làm phần Lưu thông. Nhưng xưa nay không giống nhau về việc phân biệt, kẻ nối truyền đều theo tông môn mình. Các Thiền sư thấy việc phân biệt này gây nhiều tranh cãi nên không phân chia khoa tiết chỉ căn cứ vào quán môn mà nói thẳng vào đạo. Nói các nhà thời nay: Nếu không phân chia khoa đoạn thì không biết được khởi đầu và chấm dứt việc thừa tiếp Phật giáo. Còn nếu chia khoa đoạn thì chấp chặt và tranh cãi, mà đối với pháp giải thoát nảy sinh hệ lụy. Nay muốn tìm ý thú kinh thì phải y vào kinh mà chia khoa đoạn nhưng không cố chấp. Phàm khi Phật nói pháp tuy nói có nhiều mối nhưng trước, giữa, sau đều khéo bày văn nghóa đầy đủ. Nay căn cứ vào ba thứ đối nhau mà chia ba như tựa… nhưng vẫn đủ ba ý: Chánh thức phân kinh. b- Xét theo quán tâm. c -Các nhà khác nhau. Phân kinh: Kinh không luận dài ngắn đều phân thành ba phần: Phần tựa. Phần chánh thuyết. Phần lưu thông. Phần tựa: Khi Đức Phật muốn nói pháp trước hết hiện ra các tướng lành để biểu hiện nguyên cớ cho việc thuyết giảng. Như muốn nói về Đại phẩm thì Ngài phóng ánh sáng đủ các tạp sắc là biểu hiện nói về Bát-nhã để dẫn đạo các hạnh, muốn nói kinh Pháp Hoa thì phóng quang ở giữa chặng mày, là biểu hiện nói về trung đạo thật tướng. Nay kinh Duy-ma này họp lọng hiện cõi nước là biểu hiện nói về nhân quả Phật quốc độ. Có nguyên cớ không đồng chính là để tiêu biểu cho giáo môn trong việc ứng cơ có khác, khơi dậy cái tình của quần sinh khiến họ cùng tin, kính mến mộ, nương về với tông chủ hiện có, nên gọi là tựa. Phần chánh thuyết: Khi bốn chúng thấy tướng lành hiện ra thì đều vui mừng chịu nghe Thánh chỉ “ý Phật”, Đức Phật biết rõ thời và cơ mà thuyết giáo thì chúng lúc đó nghe kinh đều được lợi ích của pháp mầu nên gọi là chánh thuyết. Phần lưu thông: Lưu là dòng nước chảy thấm xuống. Thông tức không bị ngăn trở. Đức Như Lai đại từ bình đẳng nói pháp Không phải chỉ cho người ở hiện tại mà muốn khắp đủ cho các hữu tình ở cả ba đời chánh, tượng, mạt. Ai có duyên đều được thấm nhuần diệu pháp, như dòng nước pháp chảy rót vô cùng, tất cả đều thấm ướt nên gọi là lưu thông. Nay chia ra ba phần, phần một từ “Như thị ngã văn…”đến hết phần kệ bảy chữ, là đủ hai phần Tựa chung riêng, đối với chánh thuyết thì nguyên cớ đã đầy đủ nên gọi là phần tựa. Phần hai từ “ngài Bảo Tích hỏi về nhân quả cõi Phật…”đến hết phần A-bệ Phật gồm mười một phẩm rưỡi, đều nói về nhân quả Phật quốc bất tư nghị giải thoát, đều là giáo pháp ứng cơ. Lợi ích khắp người hiện tại, đó là phần chánh thuyết. Phần ba từ “Pháp cúng dường”đến hết phần “Chúc lụy” là nói Thiên đế phát nguyện hoằng kinh. Đức Như Lai ấn khả khuyến khích dặn dò Thiên đế suốt cả vị lai nên giúp truyền bá mãi không dứt. Đây đều là Chúc lụy lưu thông. Hỏi: Kinh này tên là Duy-ma-cật Sở thuyết, vì sao lại được từ “Phật quốc” làm chánh? Đáp: Ngài Tịnh Danh nương oai thần của Phật giúp Phật hoằng hóa, hóa đạo có công hiệu nên từ đó mà được khen. Cũng như quốc vương sai quan đại thần khắp trị, việc khắp trị có công hiệu nên đại thần được thưởng. Chủ quyền hành là quốc vương, có công danh dự mà đại thần được khen, thì không thể nói đại thần được khen thưởng mà đại thần là chính thức, vua dù quyền hành chính thức vẫn đứng một bên. Ngài Tịnh Danh được Phật ấn khả bèn là chính thức nên gọi là Duy-ma- cật Sở thuyết kinh. Xét theo quán tâm: y cứ theo ba quán làm ba phần: Hai quán phương tiện tức là tựa, được vào trung đạo tức là chánh thuyết, cùng chiếu hai đế các tâm đều vắng lặng tự nhiên lưu nhập vào tức là lưu thông. Chọn lựa các nhà khác: Hỏi: Sao không theo ngài La-thập và các Thiền sư không phân chia khoa đoạn? Đáp: Nếu luận về Quán hạnh thật không cần phải phân chia. Nay muốn các học giả biết văn có khởi đầu và chấm dứt, biết lời nói của bậc Thánh khéo léo nói ra có thứ tự. Nếu giải thích văn thông suốt thì Quán hạnh càng biết rõ ràng. Hỏi: Vì sao không dùng toàn phần chú thích của ngài Tăng Triệu? Đáp: Vì pháp cúng dường cho là phần chánh thuyết thì không đúng. Hỏi:Vì sao không theo cách của ngài Linh Vị? Đáp: Cho phẩm Phật Quốc là tựa thì cũng không đúng. Tại sao Phật là Đấng Pháp vương, Đạo vương nói các việc ở tam thiên mà không phải là chánh thuyết? Chỉ vì ngài Bảo Tích thỉnh hỏi được Phật đáp lại, đáp ứng cơ duyên này nói về nhân quả Phật quốc, chúng nghe kinh lúc đó được ít nhiều lợi ích há lại tách ra làm lời tựa được ư? Vả lại ngài Tịnh Danh giúp Phật hoằng hóa chính được khen là giúp thành giáo pháp của Phật, đâu thể xem lời trợ thuyết của đệ tử là chánh còn lời của Đại sư lại là tựa ư? Hỏi: Vì sao không theo cách của ngài Khai Thiện? Đáp: Kinh không luận dài ngắn, lớn nhỏ đều phân làm ba phần, thì sao riêng kinh này lại được phân làm bốn? Hỏi: Vì sao không theo cách của ngài Trang Nghiêm Quang Trạch và các sư Tam luận? Đáp: Nếu dùng Phật quốc làm tựa thì có phương hại như trước đã nói. Lại dùng phẩm Bồ-tát hạnh A-bệ Phật làm phần lưu thông thì e không đúng. Vì sao ngài Tịnh Danh lấy tay nâng đại chúng trở về Am-la viên, đối trước Phật được ấn khả, rồi vào thất nói ra mới được thành kinh. Lại Phật trở về ở trước ngài Tịnh Danh mà luận rõ về nhân quả Phật quốc tóm tắt kinh trước sau, tông chỉ rõ ràng, đại chúng được lợi ích. Phải qua việc trong thất mà nói thì đây mới là chánh thuyết, đâu thể bảo là lưu thông. Hỏi: Vì sao không theo cách của các sư Đại thừa ở phương Bắc? Đáp: Lấy phẩm Phật Quốc làm tựa thì cũng phương hại như trước nói. <詞>GIẢI THÍCH NGHÓA PHẬT QUỐC: Đây nói trưởng giả Bảo Tích hỏi về nhân quả Phật quốc, Đức Thế Tôn đáp đầy đủ, ngài Thân tử sinh nghi. Đức Phật dùng thần lực hiện tướng Tịnh độ. Lúc đó đại chúng đều được lợi ích Đại thừa. Khi hiện lại cõi uế thì chúng cầu Thanh văn được đạo Tiểu thừa. Căn cứ vào đó mà đặt tên nên gọi là phẩm Phật Quốc. Kinh này đã dùng Phật quốc làm tông, tất phải nói rõ về nghóa Phật quốc. Nay tóm tắt có tám điều: Nói chung về Phật quốc. Nói riêng về Phật quốc. Nói về tu nhân Phật quốc. Nói thấy Phật quốc không giống nhau. Nói về vãng sinh. Nói về giáo. Ước quán tâm. Dùng nghóa Phật quốc mà giải thích chung về kinh này. Nói chung về Phật quốc: Trước nói phổ cập và các kinh Phương đẳng phần nhiều nói về chánh báo. Nay nhân Bảo Tích dâng lọng, Như Lai họp lọng, hiện ra cõi nước tức biểu thị muốn nói về y báo. Vì sao chánh báo đã hiển hiện lại phải nói rộng về y báo. Như nói vua của dân tất phải biết về cõi nước và việc cai trị. Nói Phật quốc là nơi Phật ở nên gọi là Phật quốc. Cũng như vương quốc tuy là thần dân cùng ở nhưng từ vua mà có tên là vương quốc gì. Nay Phật tuy cùng kẻ có duyên cùng ở, nhưng do Phật mà có tên là Phật quốc gì. Nơi thân Phật nương tựa thì gọi là cõi Phật. Phật ở trong phần giới nào thì gọi đó là thế giới Phật. Nơi Đức Phật ở có muôn cảnh không giống nhau thì gọi là sát. Song “Quốc”có lý và sự. Về sự tức là cõi của ứng thân, về lý tức là cảnh của cực trí chiếu sáng. Mà chí lý hư tịch vốn không có cảnh và trí khác nhau, sao lại còn có khác nhau của năng sở. Chỉ vì tùy cơ ứng vật mà nói là có chân có ứng, nên cần phải nói rõ về lý và sự. Song nếu không có bổn thì không thể hiện tích. Cho nên có ứng thân và ứng độ. Vì không có tích nào không hiển bày bổn, nên phải dẫn vật đồng quy về chân quốc pháp thân. Cho nên văn kinh nói: “Tuy biết các cõi Phật vắng bặt hẳn như hư không, nhưng hiện ra nhiều thứ cõi Phật thanh tịnh, tất ứng đồng phàm Thánh mà hiện ra có bờ cõi lãnh thổ.” Quả báo phàm Thánh có cao thấp khác nhau nên cõi hiện ra có uế tịnh cũng thế. Nên kinh Anh Lạc nói: “Tùy theo tất cả chúng sinh ứng mà có tất cả quốc độ ứng.” Hoặc có nơi giải thích chữ ứng quốc là do tập nghiệp của chúng sinh chiêu cảm mà có cõi nước ấy. Cho nên văn kinh có nói: “Loại chúng sinh là tịnh độ của Bồ-tát, Thánh nhân từ bi hiện sinh đến đấy”. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: “Mà sinh ra ba quả trong nhà lửa rã mục, vì độ chúng sinh mà sinh ra sinh, lão, bệnh, tử.” Có nơi nói rằng: “Pháp thân chư Phật cũng như một tấm gương sáng, tất cả hình sắc đều hiện trong đó”. Thế thì tất cả Quốc độ cũng đều từ Pháp thân bổn quốc ứng hiện ra. Quốc do thân Phật nên nói là Phật quốc. Nên kinh Pháp Hoa có nói: “Nay ba cõi này đều là ta có, chúng sinh trong ấy tất cả đều là con ta.” Nay biết rõ lời này như nói ứng quốc đều từ pháp thân hiện ra, tức là tự sinh, nếu từ chúng sinh tức là tha sinh, chúng sinh đối với Phật tức là cộng sinh, nếu lìa chúng sinh lìa Phật tức là Không nhân. Đâu mà có cõi này, đều là nghóa đọa tánh, đây cần phải phá bỏ. Phải biết rằng quốc độ hoặc tịnh hoặc uế, đều không thể nói. Vì có nhân duyên mà có thể nói Tất-đàn ứng cơ đều nói được. Nói riêng về Phật quốc: Chư Phật làm lợi ích chúng sinh tướng khác nhau vô lượng, biên không. Nay tóm tắt có bốn: Một là, cõi nhiễm tịnh phàm Thánh cùng ở. Hai là, cõi các bậc hữu dư phương tiện ở. Ba là, cõi quả báo thuần pháp thân ở, tức cõi Nhân-đà-la Võng không chướng ngại. Bốn là, cõi Thường tịch quang tức bậc Diệu giác ở. Hai cõi trước là ứng, tức Ứng thân Phật ở. Còn cõi thứ ba là cũng ứng cũng báo, tức Báo thân Phật ở. Riêng cõi sau chót là Chân tịnh, không ứng không báo, tức Pháp thân ở. Nói về cõi nhiễm tịnh thì có chín đạo cùng chung ở, đó là sáu đạo nhơ uế nên gọi là nhiễm, còn ba thừa thấy chân đế nên gọi là tịnh. Vì tam thừa lục đạo cùng ở, nên gọi là nhiễm tịnh. Cũng gọi là cõi nước phàm Thánh đồng cư. Về cõi nhiễm tịnh thì phàm Thánh đều có: Hai thứ phàm cư: Một là, ác chúng sinh tức là bốn ác thú; hai là thiện chúng sinh, tức là trời và người Hai thứ Thánh cư: Một là, thật; hai là, quyền. Thật Thánh là Tứ quả và Bích-chi-Phật, sáu địa của Thông giáo, thập trụ của Biệt giáo, Thập tín hậu tâm của Viên giáo, các thông hoặc tuy dứt mà báo thân vẫn còn ở. Quyền Thánh là bậc Tam thừa phương tiện hữu dư, thọ thân thiên chân pháp tánh, vì lợi ích cho những kẻ có duyên mà nguyện sinh cõi Đồng cư. Như thật báo và Tịnh quang pháp thân. Đại só và Diệu giác Phật, vì lợi ích những kẻ có duyên mà ứng sinh cõi Đồng cư, đều là quyền cả. Đó là những Thánh nhân cùng phàm phu đồng cư nên gọi là phàm Thánh đồng cư. Vì có bốn ác thú cùng ở nên gọi là cõi uế. Nói về Tịnh độ đồng cư: Cõi nước của Đức Vô Lượng Thọ, tuy quả báo thù thắng khó thể so sánh nhưng cũng là nhiễm tịnh phàm Thánh đồng cư. Bởi tuy không có bốn ác thú mà có hàng trời, người. Vì sao biết? Vì người sinh về cõi đó chưa hẳn đều là người được đạo. Vì trong kinh có nói: Người phạm trọng tội khi lâm chung biết sám hối niệm Phật thì nghiệp chướng liền chuyển mà được vãng sinh. Nếu chỉ có bậc Thánh sinh thì phàm phu sao được nguyện sinh về cõi đó. Cho nên biết tuy còn đầy đủ hoặc nhiễm, nhưng do nguyện lực trì tâm nên cũng được ở. Còn Thánh sinh do quyền thật thì như trước nên biết. Chỉ vì không có bốn ác thú nên gọi là Tịnh độ. Nêu các loại vãng sinh này thì biết đồng ở trong một nước mà hơn kém nhiều loại không phải một. Tuy lại uế tịnh nhiều thứ, như kinh pháp trao lời ký cho đệ tử về cõi nước sẽ ở. Tóm lại mà nói thì đều thuộc về cõi Phàm Thánh đồng cư. Hỏi: Tên nước nhiễm tịnh xuất phát từ kinh luận nào? Đáp: Tư Ích luận có nói: Đức Phật Nhật Nguyệt Quang sai Phạm thiên đến cõi nước này bảo rằng: “Ngươi nên đem mười pháp dạo chơi thế giới ấy. Cõi Ta-bà gọi là thế giới Nhiễm tịnh. Nhiễm tức là phàm, tịnh tức là Thánh. Hỏi: Thập ác ở cõi uế chiêu cảm y chánh báo bốn thú đều là uế đúng rồi, nhưng quả thập thiện ở tịnh độ nhân đồng vì sao lại được y chánh báo nhanh chóng khác biệt? Đáp: Hai chỗ tu nhân thiện tuy đồng tên nhau nhưng tu thiện Tịnh độ thì tinh vi hơn, nên ở cõi đó y chánh báo mà Thánh phàm có được không giống như ở cõi uế. Nói về cõi Hữu dư: Là chỗ ở của Nhị thừa và ba thứ Bồ-tát chứng đạo phương tiện. Vì nếu tu hai quán dứt hết các thông hoặc, nhưng hằng sa các hoặc riêng và vô minh chưa dứt hết, nên bỏ thân phần đoạn mà sinh vào ngoại giới, thọ thân pháp tánh tức ở cõi có biến dịch gọi là cõi Hữu dư, cũng gọi là Phương tiện, tức nơi ở của người làm phương tiện. Cho nên bảy thứ sinh tử ở nhiếp Đại thừa thì đây là sinh tử phương tiện thứ tư vậy. Nói về cõi quả báo: Tức là Nhân-đà-la võng, là thế giới Hoa tạng chỉ thuần là các pháp thân Bồ-tát ở đó, vì họ quán Nhất thật đế phá tan vô minh, hiển bày Pháp tánh, được quả báo chân thật, nhưng vô minh chưa dứt hết mà thấm nhuần nghiệp vô lậu, thọ báo thân pháp tánh. Báo thân ở vào y báo tịnh quốc nên gọi là cõi nước quả báo. Vì quán thật tướng phát ra các chân vô lậu mà được quả báo nên gọi là thật. Họ tu nhân vô định sắc được tâm vô ngại nên cũng gọi là cõi nước Thật báo vô chướng ngại. Nói không chướng ngại tức là nói một thế giới thu nhiếp tất cả thế giới cũng như thế. Đó gọi là thế giới hải, cũng gọi là thế giới Vô tâm tạng. Sơ địa của Biệt giáo vào thế giới này có bảy nghóa tịnh: Đồng thể tịnh, như một tức tất cả, tất cả tức một. Tự tại tịnh, là tất cả cõi nước đều bình đẳng thanh tịnh. Trang nghiêm tịnh, tất cả các cõi Phật đều thần thông trang nghiêm. Thọ dụng tịnh, tức lìa tất cả hoặc mà thành đạo thanh tịnh. Trụ xứ tịnh, các chúng sinh đại trí đều đầy khắp ở cõi ấy. Nhân tịnh, vào cõi Phật diệu bình đẳng cảnh giới. Quả tịnh, tức tùy cơ thích hợp mà thị hiện. Năm thứ trước là thể đầy đủ, có thể tướng dụng, cái thứ sáu là nhân viên, cái thứ bảy là quả mãn. Người sơ trụ sinh về cõi này đều thành tựu được bảy tịnh đó. Hỏi: Điều này xuất phát từ kinh luận nào? Đáp: Kinh Nhân Vương có nói: “Tam hiền, thập Thánh trụ ở quả báo. Phải biết quả báo tức là cõi này vậy.” Kinh Pháp Hoa nói: “Thế giới Ta-bà bằng phẳng thẳng thắn, các Bồ-tát đều ở đó.” Đại Luận cũng nói: “Thân Phật pháp tánh nói pháp cho các pháp thân Bồ-tát, nước ấy không có tiếng Thanh văn và Bích-chi-Phật.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thế giới Nhân-đà-la võng”. Nhiếp Đại Thừa nói: “Thế giới Hoa vương”, đều là nói cõi quả báo không có tướng chướng ngại đó. Nói về cõi Tịnh quang: Tức là lý diệu giác cực trí chiếu soi pháp giới Như Lai là gọi về cõi ấy. Chỉ là Đại thừa pháp tánh tức là Chân tịch trí tánh không giống như lý thiên chân của Nhị thừa, nên kinh Niết-bàn nói: “Đệ nhất nghóa không tên là trí tuệ.” Kinh này lại nói: “Nếu biết tánh vô minh tức là minh”, như thế đều là nghóa Thường tịch quang. Vì bất tư nghị cực trí ở đó nên gọi là Tịch quang, cũng gọi là cõi pháp tánh. Nhưng chân như Phật tánh không thân không cõi mà nói thân cõi, lìa thân không có cõi, lìa cõi không có thân. Gọi đó là cõi, vì một pháp mà hai nghóa. Nên Kim Cang Bát-nhã luận có nói: Trí tập chỉ thức thông Như thế là Tịnh độ. Không hình, đệ nhất thể Không trang nghiêm”mà) trang nghiêm. Hỏi: Điều đó xuất phát từ kinh luận nào? Đáp: Kinh Nhân Vương nói: Chỉ duy nhất có Phật ở Tịnh độ. Kinh Duy-ma này nói: Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Rốt ráo của tâm tịnh, tột cùng là Phật vậy. Phổ Hiền sám cũng nói: “Đức Thích-ca Mâu-ni tên là Tỳ-lô-giá-na biến khắp tất cả chỗ, chỗ Đức Phật ở gọi là Thường tịch quang. Hỏi: Các cõi nước này kinh luận nói tản mát, có thể như ở trước nói không thấy đủ bốn cõi cùng nói ở một chỗ. Đáp: Kinh luận nói việc này vốn không nhiều, người tìm đọc lại không đầy đủ. Cùng nói cả về bốn cõi đâu chẳng có. Chính như kinh Duy-ma này đáp lời trưởng giả tử là ý đó. Kinh nói: “Tùy việc hóa độ chúng sinh mà nhận lấy cõi Phật, tùy việc điều phục chúng sinh mà lấy cõi Phật, tùy các chúng sinh nên lấy cõi nước nào mà vào trí tuệ Phật, tùy các chúng sinh nên lấy cõi nước nào mà khởi căn Bồ-tát…”. Đối với bốn cõi ấy hoặc rõ ràng hoặc tương tợ, tên tuổi khác nhau, ý Phật khó lường. Ở đó ta chỉ đối văn mà giải thích. Hỏi: Kinh Duy-ma này chưa nói về khai quyền hiển thật, sao được nói về hàng Nhị thừa sinh ở cõi Hữu dư? Đáp: Kinh nói: “Đức Phật dùng một thứ tiếng diễn nói pháp. Chúng sinh tùy loại mà đều hiểu được”thì có phương hại chi đến việc hiểu ngay của Nhị thừa và Bồ-tát Thông giáo, còn hai giáo Biệt, Viên hiểu ngang dọc cũng không ngại chi. Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm nói mười thứ cõi Phật, kinh này nói bốn thứ, vậy có bao gồm hết chăng? Đáp: Đâu chỉ gồm nhiếp mười độ, cho đến có người bảo kinh nói hai mươi bảy bậc cõi Phật, như cõi Vô lượng thọ là hàng thứ sáu. Nay xem văn thấy nói bốn cõi nhưng đều gồm nhiếp tất cả. Hỏi: Sao không theo mười độ và hai mươi bảy độ? Đáp: Chỉ đọc qua một lần muốn đối đủ cả bốn giáo nên khó thấy ý sai lệch. Nói về tu nhân Phật quốc: Kinh Duy-ma này đâu phải chỉ căn cứ vào quả chánh báo mà nói về cõi nước y báo, mà cũng dựa vào chánh nhân để nói về y nhân. Y nhân tức là nhân Phật quốc. Nên Phật đáp lời Bảo Tích mà căn cứ chiều ngang về mười bảy chánh nhân để nói về y nhân, lại căn cứ chiều dọc về mười ba chánh nhân để nói về y nhân. Cõi nước có bốn loại, vậy cần nên nói về bốn nhân. Một lần nói bốn giáo là nhân hạnh nguyện của Bồ-tát chiêu cảm được bốn quả Phật. Y nhân cảm được bốn thứ cõi nước, khảo sát tường tận thì không mảy may phương hại. Nay lại nói về bốn nghóa mà phân biệt. Bồ-tát tu nhân nguyện hạnh ba quyền một thật, thành tựu chúng sinh, hoặc bốn loại chúng sinh chưa dứt hết giới nộïi duyên tập, hoặc dứt chưa hết nội giới của Bồ-tát. Khi thành Phật, thì bốn thứ chúng sinh đến sinh ở cõi Đồng cư mà tu nhân bốn thứ nguyện hạnh. Bồ-tát tu bốn hạnh quyền thật thành tựu bốn thứ chúng sinh. Bốn thứ chúng sinh này quán phương tiện để dứt hết các kiết nội giới. Bồ-tát ở cõi Hữu dư khi thành Phật thì bốn thứ chúng sinh cùng sinh lên cõi nước đó mà tu nhân hai giáo Biệt, Viên. Bồ-tát đối với giáo Biệt, Viên mà tu nhân nguyện hạnh, thành tựu hai thứ chúng sinh. Hai thứ chúng sinh lại thường đoạn trừ vô minh. Bồ-tát ở cõi nước quả báo khi thành Phật, chúng sinh Biệt, Viên thành tựu nhân vô lậu thật tướng, đến sinh vào cõi nước ấy đồng tu nhân Viên. Tu Viên mà đoạn trừ nhân nguyện hạnh. Nhân tròn quả mãn chứng vị diệu giác mà ở cõi Thường tịch quang. Chúng sinh có bản chất Viên hoặc tu nhân viên mà nguyện hạnh đã cực Viên thì cũng ở cõi Tịch quang. Mười phương chư Phật trong suốt như hư không, không tăng giảm. Vì thành tựu chúng sinh mà khởi tu nhân bốn cõi nước dẫn bốn thứ chúng sinh đồng ở Phật quốc. Tu nhân nguyện hạnh thành quả Bồ-đề mà đồng ở cõi Tịch quang suốt cả vị lai, như phẩm Thọ Lượng, kinh Pháp Hoa đã nói. Nói về việc thấy Phật quốc không đồng nhau: Kinh Duy-ma này nói: “Như các trời cùng có bát báu, tùy phước đức của mình mà sắc cơm có khác.” Còn như luận về cõi Phật thì đều trong suốt như hư không đâu thể thấy khác nhau được. Nếu tướng không thấy mà thấy thì phải đủ mười lần giải thích sắc cơm, cần nên phân biệt. Hỏi: Kinh nói chư Thiên cùng có bát báu quý, tùy phước đức mình sắc cơm có khác, đây là một chất mà thấy khác hay khác chất mà một thấy? Đáp: Nên phân ra bốn trường hợp: Khác chất thấy khác. Như Ta-bà và Cực lạc, cõi này thì thấy uế, cõi kia thì thấy tịnh. Khác chất một thấy, như Ta-bà và Cực lạc, cấu tịnh khác chất hàng Biệt, Viên Bồ-tát dùng Thiên nhãn mà nhìn thì thấy chỉ một cõi Hữu dư. Một chất thấy khác, như Thân tử thấy Loa Kế ở cõi Hữu dư đồng cư mà cấu tịnh có khác nhau. Một chất thấy một. Như La-hán, Bích-chi-Phật và ba thứ ý sinh. Cả năm loại này khi kết nội giới đã hết, cùng sinh lên cõi Hữu dư thì thấy không khác. Hỏi: Sao căn cứ cõi Hữu dư nói là một chất? Đáp: Tam thừa cùng dùng không nói năng mà hiển phát chân vô lậu, nó chiêu cảm được cõi nước một pháp đồng nhau, nên nói là một chất. Hỏi: Kinh này thí dụ như chư Thiên đồng có bát báu mà thấy cơm có sắc khác, vậy đây là Không sắc chướng ngại, mà có thấy chướng ngại hay có sắc chướng ngại, có thấy chướng ngại mà khác nhau? Đáp: Cần phân ra bốn trường hợp: Có sắc chướng ngại có thấy chướng ngại, tức là hai cõi nhiễm tịnh và hữu dư không đồng nhau. Có sắc chướng ngại không thấy chướng ngại, tức pháp thân Bồ-tát dùng Thiên nhãn vô ngại thấy nhiễm tịnh và hữu dư đều không chướng ngại. Không sắc chướng ngại có thấy chướng ngại. Tức Nhân-đà-la võng nhiễm tịnh và hữu dư, hai thứ chúng sinh thấy có chướng ngại. Không sắc chướng ngại không thấy chướng ngại, tức tam hiền, thập Thánh ở cõi quả báo thấy không chướng ngại. Hỏi: Kinh Duy-ma này nói: “Cùng có bát báu thấy cơm có sắc khác”, thì đây là có chất thấy khác hay không chất thấy khác. Đáp: Cũng phân ra bốn trường hợp: Nhiễm tịnh, Hữu dư, Thật báo đều có chất mà thấy khác. Sắc có chất ngại, thấy không chất ngại, tức là Bồ-tát nương Phật tuệ mà thấy ba cõi kia đều là Tịch quang. Sắc không chất ngại thấy có chất ngại, tức chúng sinh ba cõi kia đối với Thường tịch quang thấy có khác chất. Sắc không chất ngại thấy không chất ngại, tức là chư Phật tâm tịnh cõi tịnh, thấy cõi Thường tịch quang như như bình đẳng pháp giới không hình không chất. Lược nêu ra mười hai thứ bất đồng, suy ngọn ngành thì vô lượng, tuy có vô lượng nhưng đều như hư không, cho nên không thất của Tịnh Danh là biểu thị cho mười phương cõi Phật đều là hư không. Nói về vãng sinh: Có hai: chung và riêng. Chung căn cứ bốn cõi nói về vãng sinh, cũng gọi là lai sinh, đầy đủ như trong Đại phẩm. Từ cõi này đến cõi kia gọi là vãng sinh, từ cõi kia đến cõi này gọi là lai sinh. Hai cõi cũng thế chỉ ngang dọc khác nhau thôi. Cõi Thường tịch quang dứt hẳn với sinh nên gọi là Không vãng lai. Ứng lai ở ba cõi nước mà không ứng vãng. Riêng căn cứ bốn cõi nói về vãng sinh: Có bốn thứ: Một là, cõi nhiễm tịnh nói vãng sinh: Có uế có tịnh. Nếu ở cõi uế mà thọ sinh là vì kiến tư hoặc. Hoặc thấm nhuần ác nghiệp thì sinh ở bốn ác thú, hoặc thấm nhuần thiện nghiệp thì sinh ở trời, người. Nếu nói về Tam thừa Thánh nhân vãng sinh thì bậc Sơ quả đã đoạn kiến hoặc mà chưa đoạn chín phẩm Tư Dục, thì thấm nhuần sinh cõi nhân thiên, bảy lần trở lại. Bậc Nhị quả, ba phẩm nhuận sinh cõi Dục một lần qua lại. Bậc Tam quả còn tư duy hoặc của hai giới nên thấm nhuần sinh của hai giới, sáu địa sau của Thông, thập trụ của Biệt cùng năm phẩm sau của Viên cho đến người ở Thập tín mà thông hoặc chưa hết thì đều thuộc về tam quả. Nên biết đó đều là thật, lai sinh đồng cư độ. Nếu quyền mà lai sinh thì là hàng Tam thừa Thánh nhân mà nội giới hoặc đã hết, hoặc ở cõi phương tiện mà nguyện lai sinh, hoặc từ quả báo Tịch quang mà ứng lai. Nói về Tịnh độ mà phàm phu thật sinh, thì ở đây không có bốn ác thú, chỉ vì kiến tư hoặc thấm nhuần thiện nghiệp mà sinh làm trời, người. Còn ở Tịnh độ mà Thánh quyền thật thọ sinh thì giống như trước. Hai là cõi hữu dư nói vãng sinh: Tức Tam tạng giáo Nhị thừa, Thông giáo tam thừa, Biệt giáo thập hạnh, Viên tín hậu tâm…bỏ hẳn tam giới thì đều là thật vãng sinh. Nên kinh Thắng-man nói: “Biến dịch sinh tử thì gồm hàng Nhị thừa, Đại lực Bồ-tát chưa dứt ba thứ ý sinh, nên sinh vào cõi hữu dư thọ thân pháp tánh.” Hỏi: Những gì là ba thứ Ý sinh thân ? Đáp: Một là, Tam-muội chánh thọ. Đây e là Thông giáo đồng nhập vào cái vui của Chân không tịch định. Nên kinh Niết-bàn nói: “Thanh văn có định lực nhiều nên không thấy được Phật tánh.” Hai là, giác pháp tự tánh: Đây e là Biệt giáo Bồ-tát, tuy đã chứng thiên chân mà biết có trung đạo pháp tánh. Ba là, vô tác: Đây e là Viên giáo Bồ-tát quán trung đạo vô tác Tứ đế, dẹp hết vô minh đều nói là ý vì chưa phát khởi chân tu còn là tác ý, vô minh làm duyên, nghiệp vô lậu làm nhân bèn từ cõi này cõi kia mà thọ thân pháp tánh. Hỏi: Như kinh Lăng-già nói ba thứ ý sinh đều là Thập địa ứng sinh vào cõi quả báo sao nói là Hữu dư? Đáp: Dựa theo Thập địa Biệt giáo mà phán quyết ba thứ ý sinh thì sinh vào cõi quả báo. Dựa theo Thập địa của Thông giáo mà phán quyết thì chính cùng với Bồ-tát của ba giáo đã giải thích trước, đã dứt hết nội giới hoặc thì cùng sinh lên cõi Hữu dư ý đồng. Nếu ở Thật báo Tịch Quang mà phá vô minh hiển bày pháp thân thì ứng sinh vào Hữu dư. Ba là, cõi quả báo nói lai sinh: Nếu ở cõi Đồng cư, Hữu dư mà phá trừ vô minh thì Thập địa của Biệt giáo, Thập trụ của Viên giáo đều được vãng sinh. Bốn là, cõi Thường tịch quang: Nếu rốt ráo Tịch quang tức là Bất sinh. Bất sinh thì đâu còn có sinh qua lại. Nếu phân rõ Tịch quang trở xuống Tịch diệt nhẫn và Thập địa có hai lần sinh, thì Tịch diệt nhẫn Đẳng giác là một lần sinh. Hoặc nói Sơ trụ của Viên giáo một phần phá vô minh thấy lý Phật tánh thì cũng được một phần sinh, cho đến bậc Đẳng giác đều có nghóa này. Chỉ có quả báo của vô minh biến dịch sinh tử ràng buộc, nên nói là trụ quả báo. Còn bậc Diệu giác thì dứt hẳn, nên nói người duy nhất ở Tịnh độ. Cả bốn mươi mốt địa trước nếu căn cứ theo quả báo thì gọi là sinh quả báo. Nếu dựa theo phần kiến chân lý thì gọi là Thường tịch quang. Hỏi: Phần đoạn Đồng cư cần phải dứt hết kiến tư hoặc, bỏ thân này mới sinh vào cõi Hữu dư. Ở cõi Hữu dư cũng phải dứt hết biệt kiến tư của Biệt giáo, bỏ thân biến dịch thì mới sinh vào cõi quả báo chăng? Đáp: Không phải vậy. Phần đoạn thì chất ngại, phiền não tuy hết ắt cần phải bỏ báo thân. Nếu ở cõi Hữu dư mà tùy phá biệt hoặc, nhân dời quả đổi liền gọi là Thật báo. Hỏi: Thật báo thọ sinh thì Tịch quang có sinh chăng? Đáp: Đã nói là Thường tịch, đâu được thọ sinh. Sinh tức còn lưu động đâu thể gọi là Thường tịch. Hỏi: Vậy sao ở trước lại gọi là sinh Thường tịch quang? Đáp: Nếu cõi quả báo có biện luận về sinh mà khi phát tuệ thấy chân, mà chân tức là Bất sinh, thì tức là Bất sinh mà sinh. Hỏi: Nếu bất sinh mà sinh thì cũng nên nói bất thường mà thường. Đáp: Cũng đều như thế cả, vì sao rốt ráo? Thường tịch không sinh mà sinh. Bốn mươi mốt phần cư thường tịch tức là Không sinh mà sinh, không thường mà thường. Nói về bốn cõi thuyết giáo không đồng. Có bốn phần: Cõi Nhiễm tịnh thuyết giáo không đồng: Tức Phàm Thánh đồng cư, đã có uế tịnh. Uế là năm trược chướng nặng mà căn có lợi độn. Lợi thì cảm giáo nhanh, cũng như mặt trời mọc trước chiếu trên đỉnh núi cao. Vì độn căn chướng nặng mà mở ra Tam tạng giáo, phương đẳng, đại phẩm để phương tiện điều phục. Đối với Pháp Hoa, Niết-bàn mới nghe Viên giáo thấy được Phật tánh mở Bí mật tạng. Về tịnh, thì như cõi Hoa quang, tuy không phải ác thế mà vẫn nguyện nói tam thừa. Đây cũng có giáo đốn, tiệm. Hỏi: Tịnh độ cũng được mở Tiệm giáo thì vì sao Hương Tích Bồ- tát lại kinh ngạc? Đáp: Vì bổn nguyện nên nói thế. Cõi Hữu dư thuyết giáo bất đồng: Đoạn hết kết sử của Thông giáo đều được vãng sinh, không đâu không lợi độn, Nhị thừa của Tạng Thông đều độn, nên Đại luận nói La-hán có thân pháp tánh độn vì đối với Phật đạo mà đi quanh co. Thông, Biệt, Viên giáo lần lượt nói là lợi độn nên biết. Như Lai đối với họ chỉ nói Nhất thừa. Tuy không mở ra ba thừa mà đối với Nhất thừa không đâu không quyền biệt ứng phó với hai thứ cơ duyên. Nếu nói khai hiển tuy không có Tạng Thông mà mở Biệt quyền, hiển thật Viên. Nên kinh Pháp Hoa nói: “La-hán sinh cõi ấy cầu trí tuệ Phật, được nghe kinh ấy chỉ vì Phật thừa mà được diệt độ. Cõi quả báo thuyết giáo không đồng: Đây đều đã phá hết vô minh, khi vãng sinh thì đồng một căn tánh, đi trên đường thẳng lớn không quanh co. Phật đối với cõi ấy chỉ nói Nhất viên. Cõi Thường tịch quang thuyết giáo bất đồng: Nếu Thường tịch quang rốt ráo thì không nói không bày mà nói bày, pháp thân vô duyên ngầm giúp tất cả. Không nói mà nói, tức là pháp thân nói pháp. Nếu căn cứ quả báo mà nói Thường tịch quang. Phân biệt hai thứ nói pháp Không đồng là: Nói Vô tác Tứ đế tức cõi quả báo, nói Nhất thật đế tức Thường tịch quang. Hai loại cõi nước sau căn cứ vào đây mà biết. Căn cứ quán tâm nói các cõi nước: Tâm tánh xưa nay vốn rốt ráo vắng bặt, nhưng chúng sinh kẻ điên đảo thì nhiều, không điên đảo lại ít, do vô minh nhân duyên mà khởi thiện ác, liền từ các pháp đã sinh mà tức không tức giả tức trung. Trung là cảnh của nhân duyên thiện ác, tức cõi Phàm Thánh đồng cư. Bởi quán thấy thiện ác thì liền ở trong cõi uế tịnh mà hiểu rõ nhân duyên vốn hư dối, tích thể mà vào Không. Ở cảnh không đó thì liền là cõi Hữu dư. Biết không chẳng phải là Không mà không cho là chứng biết. Trong không phải nhân không phải quả mà là nhân là quả. Nếu hiểu rõ nhân quả không chướng ngại thì đó là cõi quả báo không chướng ngại. Tuy lại không, giả có ra vào khác nhau mà nguồn tâm vô minh tức là Phật tánh. Nếu biết tánh vô minh tức là minh thì liền là cõi Thường tịch quang. Cho nên văn kinh nói: Tùy tâm mình tịnh tức cõi Phật tịnh. Trong Đại tập có nói: “Muốn tịnh cõi nước Phật thì phải tịnh tâm ông.” Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: “Vô lượng các thế giới thảy đều từ tâm duyên khởi, tất cả các pháp giới đều ở vào một đầu lông nhỏ.” Dùng nghóa Phật quốc mà giải thích kinh này. Có ba phần: Nói về phần tựa. Phần chánh thuyết. Giải thích phần lưu thông. - Nói về phần tựa: Chung họp các lọng báu và hiện ra cõi nước, điềm lành này biểu thị Đức Phật muốn nói về Phật quốc. Nên Bảo Tích liền khen ngợi rằng: “Nay xin dâng lọng báu mầu cho Đức Thế Tôn, trong đó hiện ra tam thiên giới.” Bảo Tích hiểu rõ Đức Phật muốn nói về Tịnh độ, nên khi khen ngợi xong liền hỏi Phật về nhân quả Phật quốc. Trình bày ý hiện ra điềm lành trên là muốn nói về Phật quốc. - Nói về chánh thuyết. Có ba phần: Ngoài thất, trong thất và ra thất. Ngoài thất, có ba phẩm rưỡi: Bảo Tích thỉnh Phật nói nhân quả Phật quốc. Như Lai đáp đầy đủ và đưa ngón chân ấn đất thì liền hiện ra cảnh tịnh độ, khiến các chúng sinh được lợi ích Đại thừa. Rồi đất trở lại như cũ để người cầu Thanh văn được lợi ích Tiểu thừa. Nếu mê nghóa y báo Phật quốc thì đâu thể biết được huyền chỉ của phẩm này. Sau đó nói phẩm phương tiện, vì quốc vương, trưởng giả mà phân tích cái thể của hai quán, khuyên mọi người cầu chánh nhân Phật quả. Nếu thành y nhân thì những người chưa đoạn nội giới kiết nghiệp sẽ sinh về cõi Đồng cư tịnh, những người đã đoạn xong kết nghiệp, liền sinh cõi Hữu dư. Khi thành Phật thì hai thứ chúng sinh đó cùng lai sinh cõi ấy. Kế đến nói phẩm Đệ tử, trách các Thanh văn có ý khiến họ đoạn bỏ tạp duyên ngoại giới. Nếu đến thời Pháp Hoa thì tiến lên đoạn bỏ Biệt hoặc mà sinh lên cõi quả báo. Sau khi thành Phật thì ba thứ chúng sinh lai sinh cõi nước ấy. Tiếp đó nói phẩm Bồ-tát, trách các Bồ-tát khiến đoạn hết vô minh thì liền sinh vào cõi Tịch quang, sau khi thành bậc Diệu giác thì một thứ chúng sinh lai sinh cõi nước ấy. Trong thất, có sáu phẩm, ngài Văn-thù vào thành Tỳ-da-ly thăm bệnh, ngài Tịnh Danh liền hiện ra thất trống, nói rằng cõi nước mười phương chư Phật đều trống không, nên hiện ra thất trống không. Đây đâu không phải là chính thức hiển bày nghóa Phật quốc giúp thành Như Lai nói nghóa Phật quốc. Kế đến phẩm Bất tư nghị hiện núi Tu-di chui vào hạt cải… các việc bất tư nghị, đều hiển bày Phật quốc có y báo tự tại. Sau tới phẩm Quán Chúng Sinh, Thiên nữ ở trong thất mười hai năm, tức cùng ngài Tịnh Danh ở cõi nước Thường tịch quang, chính là giúp bày nghóa Phật quốc. Nên nói: “Mười phương cõi Phật thường hiện trong thất này.” Kế đến phẩm Phật Đạo, là hành ở phi đạo mà thông suốt Phật đạo, tức là ở cõi nước bất tịnh mà hiển hiện cõi tịnh, nên nói kệ rằng: Tuy biết các Phật quốc Thường cùng chúng sinh không Mà thường tu tịnh độ Giáo hóa các quần sinh. Kế đó là phẩm Bất Nhị Pháp Môn. Các đại Bồ-tát đều nói nhập môn, muốn phá vô minh ở hai cõi trước mà trụ vào cõi quả báo và Thường tịch quang. Sau nữa là phẩm Hương Tích, trong thất này hiện ra tịnh quốc Chúng Hương đối với cõi uế Ta-bà, tức là năm phẩm trong thất giúp thành Phật nói hai loại cõi nước uế- tịnh. Ra thất, có hai phẩm: Phẩm Bồ-tát Hạnh. Ngài Tịnh Danh lấy tay nâng đại chúng đưa về Am-la viên. Đức Phật nói với ngài A-nan các loại cõi nước làm sáng tỏ nghóa chính. Nếu không hiểu rõ văn của phẩm kinh này do đâu có thể phân biệt được? Tiếp theo là phẩm A-bệ Phật, tức là ở ngoài thất mà hiện cõi nước chứng minh thành. Như Lai nói các thứ cõi nước nghóa rất rõ ràng, khai kinh đắc đạo gấp đôi trước đó. Dùng nghóa Phật quốc giải thích phần lưu thông, gồm hai phẩm: phẩm Pháp Cúng Dường là Thiên đế phát nguyện hoằng kinh, Như Lai ấn khả chính cái thể của phần lưu thông bất tư nghị giải thoát là gốc nhân quả Phật quốc. Và phẩm Chúc Lụy là phó chúc cho ngài Di-lặc và A-nan… lưu thông bất tư nghị giải thoát pháp môn và làm sáng tỏ nhân quả Phật quốc nói trên, khiến không dứt mất. <詞>GIẢI THÍCH PHẨM: Phẩm là phẩm loại, có nghóa loại giống nhau họp vào một đoạn thì gọi là phẩm. Nhưng phẩm đề này nên gọi là phẩm tựa. Tiếng “Phật quốc” là do phần chánh thuyết mà có tên. Hỏi: Đã có tựa chính thức, sao lại dùng phần chánh thuyết để ở phẩm đầu? Đáp: Lời hỏi này sai. Giả sử dùng phần tựa mà đặt tên thì lại hỏi sao không dùng phần chánh. Nay nên hiểu không phải là Không có cách này như kinh Ma-ha Bát-nhã. Nửa phẩm đầu là tựa, từ “bảo Xá- lợi-phất …”nửa phẩm về sau là chánh, mà gọi đó là phẩm tựa thì có hại gì? Nếu không cho tựa kinh này nhận tên phần chánh thì cũng không nên cho kinh kia để phần chánh trong phẩm tựa. Hỏi: Nếu thế thì nhất định dùng tựa mà đặt tên. Đáp: Kinh Kim Quang Minh có chánh và tựa cùng phẩm thì cũng là có phương hại. Đây là do người sau này sắp phẩm để ý không đồng, không phải do Phật nói cũng không phải do A-nan, vậy không nên chấp chặt điều đó. Kinh này không nêu tên phẩm tựa ở đầu mà nghóa tựa rất rõ ràng, việc đó cần giải thích kỹ. Tựa có nhiều nghóa, tóm tắt có ba ý: Một là, lời giải thích sơ lược; hai là, nói rõ về chung và riêng; ba là, phân định theo quán tâm. Giải thích sơ lược. Có ba phần: Thứ tự: Phàm viết văn thì đoạn văn đầu là tựa. Nay sáu nghóa ở đầu kinh ấy thì gọi là tựa. Nguyên do: Đức Phật nói pháp ắt cần có nguyên do, đó là hiện ra điềm lành khiến mọi người vui mừng ham thích nên nói đạo từ hoan hỷ sinh ra, bởi nguyên do này mà nói pháp. Tự thuật: Đã sinh vui mến mà Thánh ý khó lường, khi mọi người để ý thì không biết nơi đến. Do đó cần phải nhờ một đệ tử bậc cao hoặc các hóa Phật, Bồ-tát đặt vấn đề trước. Khi mọi nghi ngờ đã hết thì còn quy tâm mới có thể phát khởi giáo pháp nên gọi là tự thuật. Nay sáu nghóa đầu kinh này tức là thứ tự, họp các lọng báu hiện ra cõi nước là nguyên do, Bảo Tích thuật khen là tự thuật. Hỏi: Các kinh đều có đủ ba phần tựa chăng? Đáp: Có kinh đủ có kinh không đủ, hoặc hai, hoặc một đều là phần tựa. Hỏi: Lời tựa không đồng sao dùng thứ tự để hiểu các nghóa? Đáp: Chữ viết như thế nhưng ý kinh vẫn gồm đủ ba phần, nếu dùng chữ thứ tự thì cũng không hại chi, chỉ lấy nghóa, không cần chú trọng đến lời. Nói về chung riêng: Tóm tắt ba điều trên nói về chung riêng. Như thế sáu nghóa tức là tựa chung, hiện điềm lành và tự thuật là tựa riêng. Các kinh đều dùng sáu nghóa để ở đầu, nên gọi là tựa chung. Các kinh có phần đầu là hiệm điềm lành và phần tự thuật đều khác, nên gọi là tựa riêng. Nay nhân tên riêng mà có tựa riêng và có nói pháp riêng. Nếu nhân tên chung thì có tựa chung, hạnh lý chung riêng nhân đây mà có hai tựa. Hỏi: Nếu lấy hai tựa, từ hai tên mà lập. Lập tên thì trước riêng sau chung, làm tựa sao được trước chung sau riêng? Đáp: Tiện việc lập tên thì trước riêng sau chung, còn tiện việc làm tựa thì trước chung sau riêng. Lại còn một đường lối thì cũng trước riêng sau chung. Vì sao? Vì như hiện điềm lành nêu nguyên do là trước khi nói kinh, sau đều như thế là lúc Như Lai sắp nhập Niết-bàn mới nói lời ấy, nên biết nó ở sau. Lời tựa trước kinh chính là làm phát khởi tín tâm của các đệ tử hiện tại. Còn lời tựa ở sau kinh là khiến đệ tử ở vị lai khởi lòng tin. Hỏi: Nếu thế thì lúc Phật còn tại thế, ở đầu kinh không có tựa thì không gọi là kinh sao? Đáp: Trước tựa riêng tuy không có sáu nghóa, bởi khi Phật nói pháp đã có việc đó rồi, nên vẫn được gọi là kinh. Phần định theo quán tâm: Tâm tức là chung, quán tức là riêng, nhân quán tâm này mà thành tựu được tất cả Phật pháp, tức là cửa vào đạo, tức là nguyên do. Hỏi: Nếu lấy quán tâm làm hai tựa, đâu không điên đảo? Đáp: Tiện việc lập tên nên gọi là quán tâm, tiện việc tu hành thì gọi là tâm quán, có nghóa cùng loại trước mà lý rất rõ ràng. Hỏi: Phần huyền nghóa, nơi nơi phần nhiều đều nói về quán tâm, sợ rằng khi vào văn không được như thế thì há chẳng làm hoại loạn kinh giáo ư? Đáp: Nói kinh văn cho kẻ muốn vào đạo, nếu các bậc hiền tu trì đạo gặp chỗ thì quán hạnh, đâu có ai tìm cầu Thánh đạo mà không quán hạnh ư? Chỉ khéo nói là được, không chỉ không làm hại văn nghóa mà còn gồm được quán hạnh rõ ràng để phân biệt pháp môn, không quán còn đợi gì, sao lại là lỗi hoại loạn ư? <詞>VÀO KINH VĂN. - Phần tựa có hai: Chung và riêng. Trước giải thích phần tựa chung: Sáu nghóa là tựa chung của các kinh, cần phân ra làm hai là tổng và biệt. Tổng giải thích: Đức Phật dạy ngài A-nan cùng các đệ tử lớn mà nói tướng vào Phật pháp. Đại Luận nói rằng: “Khi Phật sắp nhập Niết- bàn thì A-nan và các thân thuộc vì ái kiết chưa trừ, tâm bị chìm sâu trong bể sầu thương. Ngài A-nê-lâu-đà bảo ngài A-nan rằng: Ở việc vị lai nếu có những nghi ngờ gì thì nên kịp thời hỏi mau, cớ sao cứ sầu thương mãi như những kẻ phàm phu? A-nan nhờ sức đạo niệm mà lòng buồn sầu chợt tỉnh liền hỏi Phật bốn việc: Sau khi Phật Niết-bàn rồi thì tu đạo thế nào? Ai đáng làm thầy? Kẻ ác khẩu Xa-nặc làm sao chung ở? Đối với đầu các kinh Phật nên để lời gì? Đức Phật bảo A-nan rằng: Như ở đời hiện tại hoặc ở đời sau tuân theo Tứ niệm xứ mà tu đạo, giới kinh giải thoát là thầy của các ông, ác khẩu Xa-nặc thì theo pháp thanh tịnh “giới luật) mà xử trị, nếu ông ta có tâm phục thiện thì nói cho nghe kinh Na-đà Ca-chiên-diên tất sẽ được vào đạo. Khi tập hợp các pháp tạng của ta suốt trong ba a-tăng-kỳ thì ở đầu nên ghi như vậy: “Như vậy tôi nghe: Một lúc nọ, khi Phật ở tại… cùng số đại chúng.” Không phải chỉ riêng pháp ta như thế, mà ở đầu các kinh của ba đời chư Phật cũng đều như thế. Hỏi: Vì sao ở đầu các kinh phải để như thế… cho đến khiến tu các niệm xứ? Đáp: Đầu kinh nên để như thế là vì muốn dẹp bỏ nghi ngờ khiến mọi người tin tưởng, cũng là ấn định rằng Phật nói mà không phải là hàng đệ tử và chín mươi sáu phái ngoại đạo nói ra, cũng để phá việc ở đầu kinh của người ngoài và ngoại đạo thường dùng hai chữ A Âu đặt ở trước giáo pháp của họ. A Âu là nói tướng lành để tránh tà quái, có nói đầy đủ trong Bách luận. Về ác khẩu Xa-nặc theo giới luật mà xử trị, vì ông này ỷ mình thuộc dòng vua mà khinh chê các Tỳ-kheo, theo tăng pháp lúc đó là tội khinh cười, như lá rụng bị gió xoáy thổi tụ vào một nơi, đâu cần phải luận bàn, cách Phật sau này cũng không đổi khác. Phật bảo dùng Phạm đàn gọi là mặc tẩn (ngầm đuổi) cũng nói theo cách trị tội của Phạm thiên là lập một đàn riêng, khiến người phạm tội vào ở trong ấy, các người thanh tịnh không cùng nói chuyện. Nếu biết phục thiện thì nói cho nghe kinh Na-đà Ca-chiên-diên, khiến người ấy lìa bỏ có, không, liền chứng sơ quả. Một nhà nói Tam tạng giáo lập môn “chẳng phải có, chẳng phải Không”khác với ba môn là ý ở đây vậy. Phật dạy các Tỳ-kheo tuân trụ theo Ba-la-đề-mộc-xoa, Ba-la-đề- mộc-xoa, Hán dịch là Bảo đắc giải thoát, cũng gọi là Báo giải thoát, cũng gọi Xứ xứ giải thoát. Hỏi: Tỳ-ni nói về thời thực thời y… phần nhiều chẳng phải là nghóa đúng sao gọi là Bảo đắc giải thoát? Đáp: Đại luận bảo: Phật nói Tỳ-ni là muốn khiến Phật pháp được trụ lâu dài, không nên cầu thật, liền sinh tà kiến. Thời nay tăng chúng tâm không luôn nghó đến giới luật e rằng Phật Pháp sẽ diệt mất. Nay khiến nương vào các niệm xứ mà tu đạo, nếu lìa bỏ niệm xứ mà làm việc thì chỉ có nhiều người giữ giới để sinh lên cõi trời, người. Tọa thiền thì được định, tùy thiền mà thọ sinh. Học nói rộng pháp chỉ là trí tuệ thế tục;nếu tu niệm xứ thì mới có thể phá được bốn thứ điên đảo. Hỏi: Kinh Thanh văn nói cần nương vào niệm xứ, còn Ma-ha-diễn dạy vô sinh để vào đạo đâu cần có Niệm xứ để quán ư? Đáp: Đại thừa có ba niệm xứ vô sinh, vô lượng, vô tác. Nếu lìa bỏ ba thứ này thì không phải là chánh quán. Nhưng Phật giáo tuy có nhiều mà không ngoài bán mãn. Niệm xứ sinh diệt tức chữ Bán, còn ba niệm xứ kia là chữ Mãn. Bán thì khô héo, Mãn thì xanh tươi, trong khoảng khô héo xanh tươi mà thấy được Phật tánh, trụ ở Đại Niết-bàn gọi là chư Phật pháp giới. Ngoài Niệm xứ thì không có một pháp nào vào đạo nên Phật để lại di chúc khiến nên nương vào Niệm xứ. Biệt giải thích: Xưa phần nhiều đều dùng năm nghóa, nay nương vào sáu nghóa: “Như thị” là đầu mối khuyến tín¬. “Ngã văn” là đích thân nhận ý chỉ lời nói. “Nhất thời” là lúc cảm nhận giáo. “Phật trụ” là nêu Hóa chủ. “Nơi chốn” là nơi nghe kinh. “Kể người cùng nghe” là nêu chứng không phải truyền sai. Với sáu nghóa này là giúp việc thấy nghe cho đệ tử Phật khi ngài đã diệt độ hết nghi ngờ, tăng lòng tin, lợi mình lợi người, công thành đạo mãn, đó gọi là đầu mối khuyến tín. Sáu thứ “Như thị”… đều là khuyến tín. Như thị đứng đầu nên gọi là đầu mối. Xưa chữ “Như thị”có ba ý: Một là, nói chung; hai là, căn cứ giáo; ba là, quán tâm. Nói chung, ý ở chỗ khuyến tín là hiểu đúng pháp tướng, nói đúng pháp tướng, điều nói ra là chắc thật đáng tin theo. Đại luận có nói: “Phật pháp như biển cả, do lòng tin mà vào được.” Lại “Như thị” là lời khen khéo tin. Người không tin thì nói việc không phải Như thị và điều tin ấy nói là việc Như thị. Lại Đại luận nói: “Chữ Như thị là chỉ cho pháp Không có người tranh cãi.” Đức Phật dùng tâm chắc thật mà nói, đệ tử dùng tâm không vướng mắc mà nhận mới được giải thoát nên nói là Như thị. Không như ngoại đạo nói và người nghe đều dùng tâm chấp chặt vướng mắc. Hiện sống đấu tranh chết rồi vào địa ngục thì đâu thể gọi là “Như thị”. Xưa nay phần nhiều nói Như thị là văn Như thị. Văn khéo nói là “Như”, lý không sai là “thị”. Căn cứ giáo có bốn thứ không thể nói. Ứng cơ mà nói thì có bốn thứ: Sinh diệt. Tức không. Giả danh. Tức trung. Nói Nhân duyên sinh diệt “Như thị”: Đức Phật khi xưa ở thành Ba-la-nại nói về năm ấm sinh diệt, Câu lân… những người nghe nói như thế liền được ngộ đạo. Kinh này khi hiện lại quốc độ cũ để người cầu Thanh văn biết pháp hữu vi là vô thường mà được quả A-la-hán và pháp Nhãn tịnh Nói tức không “Như thị”: Như ở Đại phẩm nói Tam thừa đồng thấy đạo không nói năng mà đoạn dứt phiền não, kinh này bác phá Ca- chiên nói về năm người, hai trăm vị Tỳ-kheo nghe nói như thế mà tâm được giải thoát, tức là chỉ dạy người pháp Không có tranh cãi. Nói giả danh Như thị: Như kinh Vô Lượng Nghóa nói: “Ma-ha Bát-nhã, Hoa Nghiêm, Hải Không tuyên nói Bồ-tát trải nhiều kiếp tu hành.” Kinh này cũng nói: “Dùng không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ.” Nếu nghe nói như thế thì được Đạo chủng trí, chứng ngôi vị Bồ-tát biết rõ các căn cơ chúng sinh. Nói Trung đạo Như thị: Như ở Đại phẩm nói: “Phật vì thật tướng các pháp mà xuất hiện ra đời, hóa Phật cũng dùng thật tướng các pháp mà xuất hiện ra đời.” Kinh Pháp Hoa nói: “Nghóa thật tướng các pháp đã vì các ông mà nói. Ở kinh này, các Bồ-tát đều nói vào pháp môn Bất nhị. Nếu Bồ-tát nghe nói như thế liền thấy Phật tánh, khai Phật tri kiến, trụ vào Bất tư nghị giải thoát. Phật pháp có bốn thứ Như thị nên ở đầu các kinh đều để Như thị. Hoa Nghiêm đốn giáo có nhân duyên và giả danh trung đạo hai thứ Như thị, còn Tam tạng giáo chỉ có nhân duyên sinh diệt Như thị, các kinh Phương đẳng có đủ bốn thứ Như thị, Ma-ha Bát-nhã chỉ có ba thứ, kinh Pháp Hoa chỉ có trung đạo thật tướng. Hoặc kinh Đại Niết-bàn nói chư Phật pháp giới cũng đủ bốn thứ. Kinh này cũng là Phương đẳng Đại thừa sinh tô bất định mà nói đầy đủ bốn thứ như trên đã dẫn. Kinh này đã đầy đủ bốn nghóa như thị, nên ở đầu kinh để Như thị. Hỏi: Lý không hai sao được có bốn thứ? Đáp: Các pháp rốt ráo đều không có nói năng, không quyền, không thật, còn không có một thứ huống là bốn thứ. Nhưng quyền mà có thật, quyền nên nói ba, thật nên nói một, đủ cả quyền thật nên nói có bốn. * Xét theo Quán tâm mà nói: Tức ba quán mà nói bốn Như thị. Kinh Hoa Nghiêm nói: Muốn biết tâm Như Lai chỉ nên quán tâm chúng sinh, nếu thấy tâm Như Lai liền thấy tâm chúng sinh. Như phá bỏ một hạt vi trần mà đưa ra cả đại thiên kinh quyển. Chúng sinh do một niệm vô minh, tâm nhân duyên sinh ra liền có đủ bốn lý, nếu quán tâm nhân duyên sinh diệt mà vào “không”tức sinh diệt, tức “không”như thế thì tức “giả”tức “trung”cũng có thể biết. Hỏi: Nếu quán tâm có đủ cả bốn thì tức là Phật chăng? Đáp: Sáu tức phân biệt, tiến lên thì không lạm bàn mà sinh tăng thượng mạn, thoái lui thì tránh được lỗi người nghèo đếm của báu. “Ngã văn”: Tức ngài A-nan đích thân nghe pháp nên nói là ngã văn. Ngã văn cũng có ba cách giải thích: a/ Giải thích chung, tức A-nan đích thân thừa tiếp ý lời, nếu nghe qua người khác ắt có nhiều sai lầm. Nay đích thân nghe tức là đáng tin. Nhiều người cùng nghe ắt không còn nghi ngờ. Đại luận có nói: Tùy tục mà nói tôi “ngã) hòa hợp mà nói “nghe”văn. Tùy tục nói tôi thì người học truyền pháp, lợi sinh thuận thói tục mà nói tôi, ngoài thì không trái nghi, trong không trái thật. Như dùng tiền vàng để mua đồng, bán đồng lấy tiền mua pháp, người này không cho là kỳ lạ. Hòa hợp thì nói là nghe. Tức nhó căn không hư, tác ý muốn nghe, tình trần hòa hợp nhó thức liền sinh. Ý thức phân biệt các điều nghe thấy, nhân duyên hòa hợp nên gọi là nghe. Ngài A-nan trong thì nhó căn sáng nhạy, ngoài thì đối với tám âm của Phật nhận hiểu không sai, nên gọi là tôi nghe. Hỏi: Đại luận nói: “A-nan sinh vào đêm Phật thành đạo”, còn kinh Niết-bàn nói: “Sau khi Phật thành đạo hai mươi năm, A-nan mới làm thị giả.” Vậy những kinh nói trước đó mà A-nan chưa nghe và khi Phật sắp nhập Niết-bàn vì bị ma ám nên cũng không nghe được. Vì sao đều bảo là “Như thị ngã văn”? Đáp: Đại luận nói: “Khi A-nan sắp kiết tập pháp tạng, liền chắp tay hướng về nơi Phật Niết-bàn nói kệ rằng: Khi xưa Phật nói pháp Lúc đó con không thấy. Như thế lần lượt nghe Cho đến ở Ba-la-nại. Việc lần lượt nghe, như kinh Xá-lợi-phất Vấn có nói: “A-nan tu thiền không quên mà được Phật giác Tam-muội, nhờ sức Tam-muội ấy mà tự có thể nghe. Lại kinh Báo Ân có nói: “A-nan xin Phật bốn điều ước, ba điều như kinh Niết-bàn nói, còn điều thứ tư là các kinh Phật nói mà chưa được nghe thì xin Phật nói lại. Phật chấp nhận, bèn nói lại các điều A-nan chưa nghe.” Lại nữa Đại luận nói: “Khi kiết tập pháp tạng thì Ưu-ba-ly… khi lên tòa cao đều nói: “Như thị ngã văn”chưa hẳn đều do A-nan nói. Hỏi: A-nan chỉ kiết tập pháp Tiểu thừa hay cả Đại thừa? Đáp: Người giải không đồng, có người nói chỉ kiết tập Tiểu thừa, còn các kinh Đại thừa là do các ngài Văn-thù và Di-lặc cùng kiết tập. Lại nói A-nan cũng kiết tập kinh cả Nhị thừa và Đại thừa. Cho nên trong phẩm Phó Chúc cho A-nan, kinh này cũng thế. Còn các kinh Bất cộng là Đại Bồ-tát kiết tập. Lại nói: A-nan cũng kiết tập kinh Bất cộng của hàng Nhị thừa. Như kinh Chánh Pháp Niệm nói: “A-nan có ba thứ là A-nan Hiền, A-nan Trì và A-nan Hải.” Nay gọi là A-nan Hiền giữ Tam tạng giáo, A-nan trì giữ cộng Đại thừa và A-nan Hải giữ Bất cộng Đại thừa. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Khi A-nan nghe Phật thọ ký cho tức thì nhớ lại tất cả pháp tạng của vô lượng ngàn ức chư Phật từ quá khứ như nay vừa mới nghe.” Cũng nên biết do bổn nguyện thì sao không thể nhớ đầy đủ giáo tạng của chỉ một Đức Phật ư? b/ Giải thích riêng. Có hai phần: Ngã. Văn. Ngã lại có bốn là: Xét theo Tam tạng giáo mà nói ngã: Theo Tát-bà-đa thì ngã chỉ có tên. Theo Đàm-vô-đức nói thì có giả ngã. Độc-tử-bộ nói ngã ở tạng thứ năm. Những thứ ngã ấy tuy khác nhưng tất cả đều cốt phá cái chấp thần ngã của ngoại đạo mà giả gọi là ngã. Ngã theo Thông giáo: Như kinh Đại Phẩm nói: Sắc tánh như ngã tánh và ngã tánh như sắc tánh, ngã và sắc chỉ có danh tự, đều là huyễn hóa cả. Ngã theo Biệt giáo: Lấy tự tại làm ngã. Khéo đối với tri kiến mà được không trở ngại, đó là nghóa của ngã. Lại luận Nhiếp Đại thừa nói: Mình và người khác nhau mà biết, cũng nói giống mình mà biết, thì đều là nghóa khác nhau cả. Ngã theo Viên giáo: Phật tánh trung đạo là nghóa của ngã. Trung luận nói: Phật có lúc nói ngã, có lúc nói vô ngã, trong chánh pháp của Phật thì không có ngã cũng không phi ngã. Kinh Duy-ma này nói: Đối với ngã và vô ngã mà không hai, mới thật là nghóa vô ngã. Đại kinh có nói: Trong pháp vô ngã có chân ngã. Lại nói: Ngã cùng vô ngã tánh nó không hai, tánh không hai tức là thật tánh, thật tánh là chân ngã của hai mươi lăm hữu. Ba thứ trước là quyền ngã, còn ngã của Viên giáo là thật ngã. Hỏi: Nếu thế thì Đại luận sao được nói là tùy thế tục mà nói ngã. Đáp:Ba giáo tùy hữu tình há không phải là tùy thế tục ư? Còn Viên giáo nói ngã tức là Phật tánh là Không phải tùy thế tục. Ba giáo nói ngã văn đều dựa theo nhó căn Viên giáo mà nói ngã. Ngã tức là văn. Vì điểm về sắc tánh mà nói chân ngã, nên lìa ngoài pháp tánh thì riêng không có tai nghe. Dùng giáo dựa theo các kinh mà nói Ngã thì nhiều ít như trước đã nói nên biết. Văn: Theo Đại kinh cũng có bốn: Nghe cái nghe. Không nghe cái nghe. Nghe cái không nghe. Không nghe cái không nghe. Nay e đây lấy bốn giáo mà luận về nghe. 1/ Theo tạng giáo tức nghe mà nghe, vì lấy tiểu sinh mà sinh đại sinh nên gọi là sinh sinh. Nay cũng được gọi là nghe ít mà thành nghe nhiều nên gọi là nghe cái nghe. Hỏi: Trong Đại kinh sinh sinh là mười hai nhân duyên nối nhau không dứt, vì sao lấy đó mà giải nghóa nghe cái nghe? Đáp: Kinh ấy giải thích sinh đầy đủ có hai nghóa. Nay không căn cứ theo hạnh mà chỉ xét theo lý. Nếu căn cứ theo mười hai nhân duyên nối nhau để nói về sinh sinh thì tức đối với Thánh nhân mà nghe kinh thì không tiện. Vì sao? Vì theo Tạng giáo các nhà đắc đạo sinh sinh đã hết chỉ còn có báo thân, căn trần hòa hợp nên gọi là nghe. 2/ Theo Thông giáo: Tức không nghe cái nghe. Như mộng như huyễn, điểm trên không mà nói là nghe. 3/ Theo Biệt giáo: Tức nghe cái không nghe. Việc nghe tất tự tại. Vì sao? Vì Thế đế khi chết tức là nghe cái nghe của chết mà sống thì nghe nhớ được tùy đó mà có nghe tự tại nhớ được. Nhiếp Đại Thừa luận nói hữu trần tức là phải thọ thức, đó là Biệt giáo Đại thừa nói về nghe. 4/ Theo Viên giáo: Tức là Không nghe cái không nghe. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “Tướng nghe dứt mất”. Hỏi: Nếu không có tướng nghe sao gọi là nghe? Đáp: Nếu tướng nghe đã mất thì đều không nghe. Phật trụ ở Niết- bàn nên đều không nghe các âm thanh pháp giới. Như kinh Pháp Hoa nói: Công đức của nhó căn giống như tướng nghe dứt mất. Mười phương vô số Phật có tướng một trăm phước trang nghiêm vì chúng sinh nói pháp thì đều có thể nghe nhận thọ trì, huống là bậc phần chứng tướng nghe dứt mất, nghe pháp Phật mười phương cũng như mây giữ mưa ư? Bậc Diệu giác tướng nghe đã dứt mất rốt ráo, thì tất cả âm thanh pháp giới trong một lúc đều nghe đầy đủ. Nên Đại kinh nói: Nếu biết Như Lai thường không nói pháp đó gọi là bậc cụ túc đa văn. Kinh này cũng nói: Người nghe pháp Không nghe không được, dùng bốn giáo mà phán định nghóa nghe, các kinh nhiều ít cũng thuộc loại như thế, nên biết. Hỏi: Đại luận nói Phật pháp vô ngã, vì sao lại phân làm bốn, nếu thế thì có ngã? Đáp: Nếu nhất định là có ngã thì sao bốn giáo khác nhau được. Còn nhất định là vô ngã thì sao kinh giáo lại có vô ngã khác nhau. Nếu không chấp nhận việc phân biệt này thì không chỉ phá hoại giáo môn phương tiện của Phật mà còn thuận theo nghóa gốc của những kẻ bất tín nữa vậy. c/ Căn cứ theo quán tâm thì cũng thế nên biết. “Nhất thời” là khi bốn chúng cảm nhận giáo pháp mà được đạo. Đây cũng giúp thành cái “như thị”đáng tin. Cho nên Đại luận có nói: “Thời gian và nơi chốn”đều giúp sự tin tưởng. Cũng có ba phần: Một giải thích chung: Đại Luận có nói: Số thời gian thật ra không có ấm nhập, không thuộc về trì, chỉ tùy thế tục nói nhất thời mà không lỗi gì. Nói lúc bốn chúng cảm nhận giáo pháp được đạo mà gọi là nhất thời. Nếu theo Thông giáo mà luận, bốn chúng cùng lúc cảm nhận giáo pháp thì bắt đầu hay chấm dứt, mới hay đã từ lâu, đều gọi là nhất thời, tức lâu hay mau cũng gọi là nhất thời “một lúc nọ”. Như lời tựa giới có nói: Xuân phân bốn mùa ngày tháng làm thời gian, xuân phân thật có nhiều thời gian nhưng chỉ nói tắt lại là nhất thời. Nếu căn cứ được đạo mà nói “nhất thời”, tức ứng cơ nói giáo chỉ một sát-na nhập như khổ nhẫn, đây kể là thời gian ít nhất mà nói nhất thời. Nay căn cứ theo đây lâu hay mau đều nói chung là nhất thời, tức là một thời hạn nói pháp, chung gọi là nhất thời, việc này có năm phần: Xét theo cơ phát: thì cơ phát thế thiện là thời gian dài, cơ phát xuất thế là thời gian ngắn. Tóm lại ở đây, thời gian lâu mau đều gọi là nhất thời. Xét theo giáo Phật nói: Dùng ba Tất-đàn mà khởi giáo là thời gian dài, nếu dùng Đệ nhất nghóa là thời gian ngắn.Tóm lại ở đây thời gian dài ngắn đều gọi là nhất thời. Xét theo Cơ và Giáo hợp nhau mà nói nhất thời, cũng lấy thế tục và xuất thế thiện họp làm dài ngắn. Vì cơ và giáo hợp nhau không ở hai thời nên gọi là nhất thời. Xét theo bốn chúng được đạo mà nói nhất thời: Thế và xuất thế dài ngắn cùng theo tên. Tóm lại ở đây thời gian dài ngắn đều gọi nhất thời. Xét theo A-nan nghe kinh mà nói nhất thời: Dựa theo Phật nói kinh thời gian dài hay ngắn, A-nan nghe không phải thời gian khác nhau nên nói là nhất thời. Lại A-nan đã được Phật giác Tam-muội như trước đã nói. Lại hiểu rõ Phật vì A-nan mà nói lại tức lúc nghe kinh thì gọi là nhất thời. Hai là xét theo giáo: Tam tạng giáo nói nhất thời sinh diệt, Thông giáo nói nhất thời như mộng huyễn, Biệt giáo thì phá thời gian điên đảo là hay phân biệt số thời gian không trệ ngại. Nhiếp Đại thừa luận nói số thức nhiếp cả a-tăng-kỳ, nói thế thức nhiếp cả ba đời, tức là Biệt giáo nói nhất thời. Viên giáo căn cứ theo Bất tư nghị pháp tánh mà nói nhất thời. Một thời vào tất cả thời, tất cả thời vào một thời. Như kinh này nói: Trụ vào Bất tư nghị giải thoát Bồ-tát lấy bảy ngày làm một kiếp, một kiếp làm bảy ngày. Kinh Pháp Hoa nói: Sáu mươi tiểu kiếp nói như khoảng bữa ăn. Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: Thập Nhất thiết… Mỗi mỗi giáo đều có đủ năm thứ nhất thời, dựa theo các kinh nhiều ít giống như trên, nên biết. Ba là quán tâm: Quán nhân duyên sinh diệt, khi tâm ở trong định có thể biết được các pháp tướng sinh diệt của thế gian, thì chỉ một niệm tuệ nhãn mở ra sẽ thấy rõ lý sinh diệt, nên gọi là nhất thời. Nếu không phải do định tâm thấy lý, thì tức là suy nghó trước biết sau nhớ tưởng điên đảo, tuy hiểu sinh diệt nhưng không thể thấy lý, nên không phải nhất thời. Nếu thể không, tuệ nhãn nhập vào Giả pháp nhãn và Trung đạo Phật nhãn thì đều là định tâm. Một niệm nhanh chóng hoát nhiên khai ngộ thấy rõ đế lý nên gọi là nhất thời vậy. Phật tại: Phật là người nói pháp chỉ cho hóa chủ, cũng để giúp thành việc truyền nghe đáng tin. Vì sao? Vì chín mươi sáu nhóm ngoại đạo không tin tưởng. Hàng ba thừa Thánh nhân ở riêng một mình không lột tả hết là chưa rốt ráo. Nay nói bậc Vô sư trí đại giác sáng suốt nói ra pháp đốn ngộ tín thành nghe kinh ấy ứng hợp cơ duyên chúng hữu tình đều mừng vui thỏa ý. Cũng có ba phần: 1/ Nói chung: Xưa gọi là Phật-đà, Hán dịch là Bậc Giác ngộ. Tự giác, giác tha nên gọi là Phật. Trí luận có nói: Phật-đà dịch là Bậc hiểu biết. Biết những pháp nào? Tức là biết trong ba đời các số chúng sinh và không phải số chúng sinh cùng tất cả các pháp thường và vô thường, dưới cội Bồ-đề tất cả đều hiểu biết rõ ràng đầy đủ nên gọi là Phật. Lại mười hiệu đầy đủ cũng gọi là Bậc Nhất Thiết Trí. Đức của Phật vô lượng nên cũng gọi như thế. Nay không cần giải thích đầy đủ. Nói về “ở tại”“Phật ở tại) là tên khác của “Trụ”. Đại luận nói: Trong “bốn thứ oai nghi mà ở”nên gọi là trụ. Trụ có bốn thứ: Thiên trụ, tức làm ba việc bố thí, trì giới, thiện tâm… Phạm trụ, tức trụ ở định bốn thiền, bốn Vô lượng tâm, bốn vô sắc… Thánh trụ, tức trụ ở lý Ba không, Tứ đế, mười hai nhân duyên… Phật trụ, tức trụ ở Thủ-lăng-nghiêm… vô lượng Tam-muội và lực vô úy… tất cả Phật pháp. Đức Phật đắc pháp trụ ở Trung đạo, nhưng vì thương xót chúng sinh nên thị hiện trụ ở thành Tỳ-da-ly. 2/ Nói riêng: Căn cứ theo giáo, thì bốn giáo nói về Phật, lược nêu ở trên. Chỉ vì hóa độ bốn thứ căn tánh nên hiện tướng cũng có bốn. Như lúc mới thành đạo cho đến Niết-bàn cũng đều hiện bốn tướng. Lúc mới thành đạo, như kinh Thắng Thiên Vương nói: Khi xưa ngồi dưới cội Bồ-đề mà thành chánh giác, hoặc hiện ngồi trên cỏ, hoặc ngồi trên thiên y, hoặc ngồi trên bảo tòa, hoặc ngồi trên không trung, tức biểu hiện tướng Phật bốn giáo không đồng. Kế đến là chuyển pháp luân hiện tướng không đồng, ở hội Hoa nghiêm viên đốn thì hiện tướng lớn nhỏ, còn ở Lộc dả chuyển sinh diệt Tứ đế thì hiện tướng Tỳ-kheo già cởi bỏ chuỗi anh lạc. Nếu nói kinh Phương đẳng thì hiện tướng thân tôn quý trong nhà, hoặc hiện tướng thân bụi bẩn ngoài cửa, nếu nói Bát-nhã thì cũng hiện tướng thân Tôn quý trong nhà và hiện ra các tướng các thứ thân Phật. Vì chúng sinh nghi ngờ nên hiện ra thân thường tịch và phóng ra thường quang minh. Nếu nói Pháp Hoa thì chỉ hiện thân tôn quý, nếu nói Niết-bàn thì hiện đủ bốn tướng đồng với Phương đẳng. Như thế mà tùy duyên hiện các thứ thân, vừa rồi đã tóm tắt nói đủ bốn thứ thân. Sau đây nói thân tướng không đồng. Như kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói: Khi Đức Như Lai sắp nhập Niết-bàn, lúc đó đại chúng thấy ngài là hình dáng Sa-môn hoặc thấy ngài đầy đủ oai đức tướng hảo đoan nghiêm, hoặc thấy ngài ngồi hoa sen báu nói pháp môn tâm địa, hoặc thấy thân ngài như hư không không bờ mé. Vì đây không phải là việc biểu thị để nói bốn giáo. Việc làm của ngài đã xong sắp nhập Niết-bàn nên hiện tướng như thế. Kinh này đã thuộc về phương Đẳng giáo, cũng nên tùy cơ cảm mà thấy có bốn thứ thân, nên trưởng giả tử nói kệ khen rằng: Đều thấy Thế Tôn hiện ra trước Đây là thần lực Bất cộng pháp. Hỏi: Cả bốn giáo đều thấy nhất định như trước chăng? Đáp: Vừa rồi nói lý tương đối ở chỗ tùy duyên. Nếu với kẻ bị chướng ngăn cản thiên kiến thì cũng có thể hiện thân thấp kém mà nói pháp cao quý, như ngài Quán Thế Âm dùng mọi hình tướng dạo khắp các quốc độ nói pháp Đại thừa huống là Đức Như Lai. Sau đây là dùng bốn giáo nói về nghóa Trụ. Tức tùy giáo mà luận pháp môn không đồng. Đức Phật ở Trung đạo vì thương xót chúng sinh mà hiện ra ở thành Tỳ-da-ly. 3/ Căn cứ Quán tâm: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Muốn thấy tâm Như Lai chỉ cần quán tâm chúng sinh”. Vì sao? Vì một tâm ba quán mà viên quán ba đế thì khai Phật tri kiến, tuy có nhục nhãn nhưng gọi là Phật nhãn, cũng gọi là chủng trí. Nếu dùng ba trí không trụ vào pháp mà trụ vào Tam-muội ba đế, cũng là pháp Phật đã chứng. Phật ở trung đạo vì thương xót chúng sinh không bỏ đạo pháp mà hiện việc phàm phu trụ vào pháp thế gian. Đây nên khéo dùng sáu tức mà phân biệt để vào yếu môn Đại thừa trọng yếu. “Vườn cây Am-la ở thành Tỳ-da-ly” là nói về nơi chốn, tức chỉ rõ chỗ nói kinh giúp thành việc khuyến tín vậy. Có hai phần: Nơi chốn chung là thành Tỳ-da-ly, nơi chốn riêng là vườn Am-la. Về nơi chốn chung lại có ba: Căn cứ sự: Hán dịch là Quảng bác nghiêm tịnh “rộng rãi sạch sẽ”. Vì nước ấy bằng phẳng rộng rãi nên gọi là Quảng bác, thành ấp đẹp đẽ nên gọi là Nghiêm tịnh. Có sự dịch là lúa tốt, vì nơi ấy có lúa gạo tốt hơn nơi khác. Có người gọi là đường tốt. Vì nước ấy có đường xá tốt đẹp bằng phẳng ngay ngắn. Lại gọi là Ưa đạo, vì nhân dân nước ấy ưa thích chánh đạo thuần lương nhân nghóa, không cần vua chúa, chỉ năm trăm trưởng giả cùng hành xử đạo pháp, tất cả nhân dân ở đấy đều trọng đạo đức nên gọi là Ưa đạo. Đối pháp môn mà giải thích. Tùy chỗ dịch trước mà đối giải. Nếu là rộng rãi đẹp đẽ thì đó là pháp thân Đức Thích-ca, vì vốn ở Tịch quang nên tánh nó rộng rãi cũng như hư không, công đức trí tuệ ngài không có các uế ác nên gọi là đẹp đẽ “nghiêm tịnh”. Ngài hiện tích ở nhân gian trong cõi nước rộng rãi đẹp đẽ. Thế mới biết không phải Bổn không do đâu mà hiện tích. Cho nên khi ở cõi nước đẹp đẽ trong nhân gian thì không phải tích không thể hiển bày được bổn. Ở tạm xứ Tỳ-da-ly mà nói các Phật quốc vắng lặng như hư không để hiển bày cõi nước Giá-na thường tịch. Nếu nói là lúa tốt, tức bổn trụ của Đức Thích-ca, là bách cú giải thoát của Đại bát Niết-bàn. Nên kinh Pháp Hoa nói mầm mống trăm thứ lúa thóc đều lớn nhanh, nhân lớn nhanh mà hạt lúa được thành tức là diệu quả của Bách cú giải thoát là lúa tốt. Thùy tích hiển bổn giống như trước nên biết. Nếu nói đường xá tốt, thì đây là biểu thị đường lớn trí độ từ đó Phật đến. Nên Đại kinh nói: Ví như đường hẹp không chứa nổi hai người cùng đi. Còn đường giải thoát thì không thế, càng chứa nhiều người mới là chân giải thoát. Nay Đức Thích-ca ở trên đường lớn Pháp giới Bất tư nghị tức là chỗ dung chứa đông đảo nên gọi là đường tốt. Thùy tích hiển bổn cũng như trước nói. Nếu nói Ưa bình đạo, tức đạo bất tư nghị, khi tác ý mà tu không gọi là ưa thích đạo. Đạo Bất tư nghị tự làm, mặc tình chân tu, lý sáng thì đem dạy người, như đá nam châm hút sắt không duyên không nghó nhớ, đây là tánh ham thích đạo. Do bổn mà thùy tích nên gọi là thích đạo. Nhân tích mà hiển bổn nên ở nước ưa đạo tại nhân gian mà nói tâm tịnh thì cõi tịnh. Căn cứ theo Quán tâm: Tức một tâm ba quán hay quán tâm tánh, liền biết tâm tánh cũng như hư không, tức đầy đủ phước tuệ hai thứ trang nghiêm, không đắm nhiễm không vướng mắc rốt ráo thanh tịnh. Đó là tâm tịnh nên cõi Phật tịnh. Căn cứ theo lúa tốt: Nếu quán tâm tánh tức là gốc của bách cú giải thoát thì gọi là lúa tốt. Nếu dựa theo đường xá tốt, tức như quán nhân duyên trung đạo, tức là đi trên đường lớn ngay thẳng không nạn tai, nên không có các ma đạo tặc ở vào đường này, rất cao quý nên gọi là đường xá tốt. Nếu dựa theo ưa bình đạo, tức như quán thiên chân dứt hết khổ, được Niết-bàn, thì đối với tất cả đạo pháp Không có tâm ham thích. Nay quán đạo viên chân thì ham thích tất cả tâm không chán đủ suốt mãi đời vị lai nên gọi là ưa thích đạo. Về nơi chốn riêng: Trên nói về nơi chốn giúp làm chứng cũng đã quá nhiều. Nay nêu chỗ ở giúp tin tưởng càng rõ ràng, cũng có ba phần: Căn cứ sự: Triệu Sư chú thích rằng: Am-la là tên của một loài cây có quả, lấy quả chỉ cây nên gọi là Am-la thọ, quả nó giống quả đào mà không phải đào. Lại nói qiống quả táo mà không phải táo. Lại dịch là cây khó phân biệt, quả nó giống đào mà không phải đào, táo mà không phải táo, nên gọi là cây khó phân biệt. Nghóa này giống nghóa trong đại kinh. Kinh nói như trái Am-la sống chín khó phân biệt. Có bốn trường hợp giải thích khó phân biệt. Có thầy nói: Cây này nở hoa, hoa sinh ra một cô gái. Người trong nước kinh dị, làm vườn nhốt lại, vườn này thuộc cô gái, cô gái giữ vườn nên gọi là vườn cây Am-la. Do nghiệp lành đời trước hun đúc nên khi gặp Phật nàng rất vui mừng bèn dâng cúng vườn cây, Đức Phật liền nhận làm nơi ở. Dựa vào pháp môn: Đức Phật trụ ở đạo phẩm pháp Tổng trì nên gọi là trụ ở vườn cây Am-la. Vì sao? Vì đạo phẩm là cây, Niệm xứ là hạt giống, Chánh cần làm sinh trưởng, như ý làm mầm cây, năm Căn là rễ, năm Lực là nhánh lá, bảy Giác chi là hoa, tám Chánh đạo là quả. Từ hoa bảy Giác mà khởi tâm từ bi, vì các chúng sinh phát thệ nguyện lớn, nhân nguyện siêng làm mà phát được Tổng trì, nên nói dùng Tổng trì làm vườn. Kinh Đại Tập có nói: Ba mươi bảy phẩm là tên Bồ-tát Bảo Cự Đà-la-ni. Đà-la-ni, Hán dịch là Tổng trì. Vườn giữ gìn cây trái không để bị xâm phạm nên biểu thị là Tổng trì. Hoa sinh ra cô gái, tức là hoa Thất giác sinh ra cô gái từ bi. Cô gái đem vườn cúng Phật là biểu thị trong nhân Tổng trì hồi hướng về quả Phật. Đức Phật nhận ở, là do nhân thành quả, như Phật được Phật pháp mà trụ ở trung đạo. Do bổn mà thùy tích nên nói ở Am viên, dùng tích để hiển bổn nên trụ ở Am-la viên mà nói bất tư nghị vườn Tổng trì. Cây khó phân biệt: Như Lai ở trong vườn là biểu thị Như Lai ở trung đạo, ba mươi bảy phẩm tuy không phải có, không mà giống có, không. Như Lai trụ ở lý khó phân biệt này mà thành tựu đạo phẩm qủa Phật Bồ-đề như nương vào cõi nước của diệu quả này mà có đủ bảy thứ phương tiện khó lường là biểu thị của cây khó phân biệt. Căn cứ quán tâm: Ba quán quán tâm, tâm tánh không loạn động mà tu đạo phẩm, nhân đó khởi bi thệ, các thiện căn bền chắùc mà thành tựu các Tổng trì, tức trụ ở vườn vậy. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ-tát có mười thứ vườn”, tức là vườn đạo phẩm vậy. Nếu căn cứ theo quán tâm mà giải thích khó phân biệt, thì như Đại kinh nói đủ về bốn trường hợp. Như tu ba quán quán lý Bất tư nghị khó phân biệt cũng có bốn thứ: Từ khi có quán tâm nhưng vì oai nghi còn thô lậu nên như quả Am-la trong ngoài đều còn sống. Từ khi có oai nghi tề chỉnh giống như bậc nhu hòa, nhưng tâm nội quán chưa chứng định tuệ, như quả Am-la ngoài chín trong sống. Từ khi có oai nghi chưa đủ quán, mà quán hạnh thuần thục nhập vào các môn, như quả Am-la ngoài sống trong chín. Đã tu nhất tâm tam quán mà điều phục thân khẩu, nhu hòa giống tướng đã đắc đạo. Tam quán khai phát nhập vào các pháp môn, hoặc thành quán hạnh, hoặc giống như thế thì như quả Am-la trong ngoài đều chín, thế nên hành nhân khó thể phân biệt như quả Am-la. Hỏi: Sao được ở mọi chỗ đối pháp môn mà phán định theo quán tâm, ý Phật đâu phải thế? Đáp: Tâm Phật như biển cả, mọi dòng nước đều đổ về, ý châu như như tùy niệm mưa báu, cũng như tấm gương sạch tùy hình ảnh đối gương đều hiện, cũng như đại địa tùy giống mà sinh trưởng. Các hình ảnh trong kinh thật khó thể biết hết. Người chấp thấy nghe tự bảo mình đã bỏ tranh luận phải quấy đâu biết rõ ý Phật, như nói trong kinh có pháp môn vô đối. Như ngài Phổ hiện sắc thân hỏi ngài Tịnh Danh rằng: Cha mẹ vợ con thân thích quyến thuộc… tất cả là ai? Đại só đáp: Trí độ Bồ-tát là mẹ, Phương tiện coi như cha. Hỏi: Ngài Tịnh Danh đã là Bồ-tát tại gia đâu cho phép là Không cha mẹ gia đình thân thuộc mà không nương cậy thờ kính? Đáp: Tất cả đều xét theo pháp môn, nên biết không khởi đạo pháp hiện việc phàm phu. Tuy hiện việc phàm phu nhưng bên trong đều biểu thị đạo pháp cả. Cũng như nói Phật nhập Niết-bàn ở khoảng khô héo xinh tươi thì đâu thể hiểu thẳng đó là cây cối… Vả lại, lời Phật nói thành thật đều biểu hiện cho Bán mãn. Nay muốn nói pháp môn Bất tư nghị giải thoát mà không bỏ đạo pháp. Hiện tích cùng phàm phu đồng ở tại Da-ly, đâu không phải là biểu thị việc trụ pháp môn ở Cực địa. Kinh Hoa Nghiêm nói mười thành, mười vườn đâu phải chỉ là thành vườn ở thế gian. Đoạn dưới kinh này ở phẩm Bồ-tát hạnh có nói: Các oai nghi của chư Phật mọi việc tới lui đều là Phật sự. Đâu được chỉ hiểu theo việc làm mà không nghó việc các Thánh nhân đã quyền biến, hoặc ngầm ý phát biểu. Lại kinh Pháp Hoa có nói: Muốn nói kinh ấy phải vào thất Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai, sau đó mới ở giữa bốn chúng dùng tâm vô úy mà nói. Hỏi: Nếu kinh ấy là Pháp môn Bất đối, khi muốn giảng nói kinh ấy thì không vào điện Phật, không lên tòa Phật, không mặc áo Phật, ở giữa chúng mà nói thì có đúng ý Phật chăng? Hỏi: Kinh Pháp Hoa Phật đã tự giải đáp nghóa rất rõ ràng. Nay thành vườn này Phật không giải thích sao biết được ý thầy đối với pháp môn ư? Đáp: Nếu Phật không giải thích thì không nên để ý đến, vì tất cả kinh văn đâu đều là lời Phật tự giải thích, nếu là ý riêng của mỗi thầy đâu phải đều có lỗi. Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm là đốn giáo thì có thể căn cứ hạnh mà nói các pháp môn, còn kinh Phương đẳng này và kinh Tiểu thừa thì sao được ước quán hạnh mà nói nghóa? Đáp: Kinh này đã nói các giải thoát của chư Phật thì phải ở trong tâm hạnh chúng sinh mà tìm cầu. Nếu không căn cứ heo quán hạnh thì đâu thể hợp với văn này. Nếu không dùng Tỳ-da, Am viên đối với các pháp môn thì không được căn cứ quán tâm mà giải thích, sao được ở tâm hạnh chúng sinh mà tìm cầu giải thoát của chư Phật. Nếu không ở tâm mà tìm giải thoát thì sao nói được trụ vào Bất tư nghị giải thoát. Nếu không trụ vào Bất tư nghị giải thoát thì sao được nói ở mỗi lỗ chân lông đều thấy cõi Phật biến hiện tự tại, rộng như trong phẩm Bất Tư nghị. Lại há được như trong kinh Hoa Nghiêm nói: Vô lượng các thế giới đều từ tâm duyên khởi, vô lượng các cõi Phật đều từ lỗ chân lông hiện ra. Nếu nói Tiểu thừa không được dựa theo quán tâm mà giải thích, vì sao trong kinh Thanh Văn, Đức Phật vì người chăn trâu mà nói mười một pháp, tất cả bên trong đều hợp với việc quán tâm của Tỳ-kheo. Nêu rõ các điều như thế há không phải là các kinh Phương Đẳng và Tam tạng giáo kinh đối với Quán tâm mà nói nghóa các pháp môn ư? Hỏi: Ba quán bốn giáo trên đã giải thích kinh này thì nói quán trước nói giáo sau mà vào văn, sao được nói giáo trước nói quán sau? Đáp: Luận từ ý chỉ sâu kín, còn giáo từ quán mà ra, như phá hạt vi trần lấy ra đại thiên kinh quyển. Vào văn giải thích là tự sự mà vào lý, cho nên trước cần bốn giáo mà giải thích kinh văn. Tìm văn vào lý ắt cần quán hạnh, nên kế đó là nêu ra chương môn ba quán, thì một phẩm, một kệ, một câu cũng đều vào pháp môn Bất nhị và trụ vào Bất tư nghị giải thoát cả… - “Cùng chúng Đại Tỳ-kheo tám ngàn người đều tập hội”… từ đây trở đi là phần thứ sáu nói về chúng cùng nghe. Đây là chứng cớ ngài A- nan và các Thanh văn, Bồ-tát, Thiên long, Bát bộ, tứ chúng cùng nghe đâu thể truyền sai. Ở đây có ba: Chúng Thanh văn, chúng Bồ-tát và tạp chúng. Hỏi: Nếu lấy nhỏ làm đầu thì phải nói Thiên long trước, nếu lấy lớn làm đầu thì trước phải nói Bồ-tát chứ? Đáp: Tiểu thừa xuất gia được đạo vì cảm ân sâu của Phật nên thường ở bên Phật mà hầu hạ thờ kính, tự giữ giới hạnh được mọi người quy kính, là nghóa gần làm chứng cho kinh nên cần phải nói trước. Còn Bồ-tát hóa độ người không luôn ở bên Phật, chỉ hóa quang làm lợi ích muôn vật thật khó suy lường, người đời chỉ thấy Tích không biết rõ Bổn là nghóa xa về chứng tín nên phải nói kế. Hàng Thiên long tứ chúng các kiết hoặc chưa dứt cũng còn địa vị phàm phu, trong không có công được đạo, ngoài thiếu việc độ người mà việc làm chứng cớ cho kinh rất kém nên phải nói sau. Lại nữa, việc này còn biểu thị ý hàng Nhị thừa còn chấp Không, phàm phu chấp có, riêng Bồ-tát không trệ ngại, thường hành bất nhị, nên nói ở khoảng giữa. Nên Đại kinh có nói: “Phàm phu chấp có, Nhị thừa chấp Không. Còn Bồ-tát là người chẳng không chẳng có.” Hỏi: Vì sao không khen đức của Thanh văn? Đáp: Các sự hiểu theo lời nói đã bị quở trách là Không có đức để khen. Nay bảo không phải thế vì Bồ-tát cũng bị trách nhưng sao lại được khen? Lại kinh Kim Cang Bát-nhã cũng không khen đức mà không phải bị quở trách. Nay e là kinh nói còn có chỗ lược bỏ. Lại nói chỉ một chữ “Đại”liền là tóm tắt khen đức. Đại luận có nói: Nếu nói Tiểu thừa chỉ nói chúng Tỳ-kheo, nói Ma-ha-diễn không phải chỉ là Tỳ-kheo ắt phải là Bồ-tát. Như kinh Kim Cang Bát-nhã chỉ nói Tỳ-kheo mà không nói Bồ-tát đâu có thể Kim cang là kinh tiểu thừa. Ấy chỉ là người dịch kinh lược bỏ. Ý không khen của kinh này nên biết. 1/ Nói chúng Thanh văn: Trước nói Tỳ-kheo tức là nói chung về nhiều loại người, như Hồ và Việt không đồng. Theo phép Phật xuất gia đều gọi là Tỳ-kheo. Đây giải thích có năm: Và, Đại, Tỳ-kheo, chúng và số”tám ngàn”. Giải thích “Và”, kinh này nói “và”, Đại phẩm nói “cùng”, và tức là cùng. Đại luận nói bảy thứ một mà gọi là cùng: Một chỗ, một lúc, một giới, một tâm, một thấy, một đạo, một giải thoát. Nếu giải thích kinh Pháp Hoa thì cần xét theo Bổn tích. Nay kinh này chưa phát tích chỉ là việc nhân duyên hiểu quán hạnh mà thôi. Một chỗ là đồng ở Am viên; một lúc là lúc hội họp; một giới là đồng được vô tác; một tâm là đều được chín định; một thấy là đều thấy Tứ đế; một đạo là đều được bậc vô học; một giải thoát là đều chứng vô dư. Giải thích “Đại”, nếu theo bản chữ Phạn thì gọi là Ma ha. Đại luận nói: Gọi là Ma-ha hoặc Đại, hoặc Hơn, hoặc Nhiều. Vua chúa kính trọng nên gọi là Đại, hơn chín mươi sáu thứ nên gọi là Hơn, số đến tám ngàn nên gọi là Nhiều. Nay nói ngoại đạo có ba thứ: Một là nhất thiết trí; hai là thần thông; ba là Vi-đà. Nếu đủ ba thứ này thì gọi là đại ngoại đạo. Phật phá việc này nên đối Tam tạng giáo mà nói ba niệm xứ, gọi là tánh, cộng, duyên. Ai tu ba thứ này không những chỉ phá ba thứ ngoại đạo mà được nhập vào Tánh địa, khi chứng quả thì được ba thứ giải thoát, đó là tuệ được giải thoát, tâm được giải thoát và bậc được vô ngại giải thoát. Gọi là đại Tỳ-kheo hay đại La-hán. Nếu Biệt đối giải thích thì được tuệ gọi là đại, được tâm gọi là hơn, được vô ngại gọi là nhiều, cả ba thứ đầy đủ thì gọi là Ba-la-mật. Thanh văn thành tựu tất cả công đức của La-hán nên gọi là Đại. Hỏi: Được tuệ giải thoát liền gọi là đại, sao cần phải đủ ba thứ? Đáp: Như ba đức đầy đủ nên gọi là Đại Niết-bàn, mà Ma ha Bát- nhã cũng nhận được tên đại. Tam tạng giáo, Thông giáo mỗi thứ có bốn môn họp thành tám loại đều gọi là Ba-la-mật Thanh văn nên gọi là đại. Nếu xét theo quán tâm thì tức căn cứ ở phân tích thể từ giả nhập vào Không mà nói quán, tám Tỳ-kheo này, Tỳ-đàm, Thành luận mỗi thứ có một nghóa đại Tỳ-kheo, sáu thứ khác không nói. Giải thích về Tỳ-kheo: Hoặc nói có dịch hoặc nói không dịch. Nói có dịch, tức dịch là Trừ cẩn “trừ đói”, tức chúng sinh bạc phước do nhân không có pháp để tự giúp mình được nhiều báo lành mà bị nhiều thiếu đói. Xuất gia giữ giới là ruộng phước lành hay sinh mọi vật tốt lành, dẹp trừ nhân quả đói nghèo. Nói không dịch, thì tên này gồm ba nghóa. Trí Độ luận nói là phá ác, bố ma, khất só. Phá ác: Như lúc đầu được giới liền gọi là Tỳ-kheo, dùng ba phép Yết-ma phát thiện luật nghi và phá ác luật nghi nên gọi là phá ác. Nếu chung về hạnh giải mà tu giới, định, tuệ. Giới để ngăn phòng hình phạt. Định để trừ tâm loạn. Tuệ để hiểu rõ tưởng hư dối luôn phá bỏ ác của kiến tư, nên gọi là phá ác. Bố ma: Đã có thể phá ác thì Ma-la sẽ nghóa rằng: Người này không chỉ ra khỏi cõi ma ta mà nếu có truyền đăng hoằng hóa thì bạn bè quyến thuộc ta sẽ bỏ trống cung điện này, nên sinh kinh sợ. Nói chung thì ba thứ ma cũng sợ. Khất só: Khất là xin, só là chỉ người thanh nhã. Người xuất gia trong tu đức thanh nhã ắt cần tránh xa bốn thứ tà, sống đời thanh tịnh làm phước lợi cho chúng sinh, phá tâm kiêu mạn mà nhún nhường kh- iêm tốn, tự hạ mình xin ăn để nuôi sống, hoàn thành đức thanh nhã nên gọi là Khất só. Lại giải rằng: Phá ác là nghóa chánh, hai nghóa kia giúp thành. Vì sao? Vì thọ giới là để phá ác nghiệp của thân khẩu. Bố ma tức phá sự ưa thích việc xấu ác. Khất só là phá tính kiêu mạn ganh ghét. - Căn cứ theo quán hạnh, thì thứ lớp từ ấm, giới, nhập mà cầu pháp hỷ thiền duyệt, giúp nuôi vô lậu tuệ mạng, thàng tựu đức tận vô sinh trí đoạn, nên gọi là Khất só. Đoạn văn dưới trách ngài Thân Tử “Xá-lợi-phất) rằng: Phật nói tám giải thoát, nay Nhân giả vâng làm đâu thể muốn bỏ ăn uống mà nghe pháp ư? Đây đủ ba nghóa: Một là Sát tặc, từ phá ác mà được tên; hai là Bất sinh, từ bố ma mà được gọi; ba là Ứng cúng, nhân khất só để thành tựu đức. Nói thẳng về Tỳ-kheo thì lớn nhỏ chưa nhất định, hoặc ở địa vị người học thuộc ngoại phàm tánh địa. Nay nói đại tức là đại La-hán, nên biết một chữ đại là bao gồm hết tất cả, tức tóm tắt mà khen đức. Giải thích chung: Tiếng Phạm nói Tăng-già, Hán dịch là chúng. Đối với một Tỳ-kheo không gọi là chúng, nhiều người họp chung nhau mới gọi là chúng. Luật nói bốn người trở lên đều gọi là chúng. Như nhiều cây cùng tụ hợp nhau thì gọi là rừng. Trí luận nói: Tăng có bốn thứ: Ngu si Tăng : Tức là Tăng phá giới phóng túng. Á dương Tăng: Tuy có giữ cấm giới nhưng không thể phân biệt rõ về ba học và tướng khai, giá, thông, tắc. Có người nghi hỏi xin giải quyết thì nín câm không đáp cũng như dê câm. Hữu tu Tăng: Nếu người xuất gia tu giới, định, tuệ, cũng hay phân biệt hiểu biết vì người khai quyết, nhưng chỉ vì chưa phát chân, vẫn còn ở vị nội ngoại phàm, tự thẹn chưa thể thành tựu được Thánh pháp, nhầm rơi vào hàng Tăng, bốn sự luôn kính giữ, thường hỗ thẹn tự trách mình cũng gọi là sự hòa tăng. Chân thật Tăng: Từ khổ nhẫn đến bốn quả Thánh nhân đều gọi là Chân thật Lý hòa Tăng. Hai loại Tăng trước tuy có tên Tăng nhưng không hòa hợp, không kham được việc Tăng. Hai loại Tăng sau đảm nhận được Tăng nghiệp. Giải thích “Số”: Số có tám ngàn, nghóa nên biết. Đối hạnh mà nói số ý rất khó thấy. Nói Bồ-tát đây là phần thứ hai nói chúng Bồ-tát để làm chứng cho việc cùng nghe, đâu chỉ có Thanh văn mà cũng có Đại Bồ-tát đến ba vạn hai ngàn vị, đích thân nghe diễn nói không phải là truyền sai. Bồ-tát có năm: Loại. Nói về số. Khen đức. Nhiều tên. Tổng kết. 1.Nói về Loại: Phàm người tu Đại thừa gọi chung là Bồ-tát, đó là khí loại của người tu hạnh Đại thừa. Nói đủ theo tiếng Tây Vực là Bồ-đề-tát-đỏa. Ngài La-thập sợ dài nên lược bỏ hai chữ Đề, Tỏa mà gọi là Bồ-tát. Việc dịch không đồng. Luận A-tỳ-đàm nói: Tự giác giác tha gọi là Bồ-tát. Có người nói Bồ-đề là Vô thượng đạo, Tát-đỏa là đại tâm, gọi Vô thượng đạo đại tâm là người này phát tâm rộng lớn vì chúng sinh cầu đạo vô thượng nên gọi là Bồ-tát. An Sư gọi là Khai só Thủy só “người khai hóa đầu tiên”. Lại dịch là Đại đạo tâm chúng sinh. Bản xưa dịch là Cao só. Có nhiều từ dịch khác vẫn còn giữ âm Phạm. Nay theo Đại luận mà giải thích thì Bồ-đề là Phật đạo, Tát-đỏa là thành chúng sinh, dùng các Phật đạo mà thành tựu chúng sinh nên gọi là Bồ-đề Tát-đỏa. Lại Bồ-đề là tự làm, Tát-đỏa là độ người. Tự mình tu đạo Phật rồi đem độ người khác nên gọi là Bồ-tát. Nếu không như thế thì việc tu trì của mình không giúp ích khai tuệ cho ai. Chỉ có hàng Tam thừa đồng tên Bồ-đề của Nhị thừa mà không gọi là Tát-đỏa, vì họ không có lòng từ bi cứu giúp muôn loài nên không nhận được danh hiệu ấy. Vậy tuy lược bỏ hai chữ nhưng rất khác hàng Nhị thừa, nghóa rấr rõ ràng. Tạng Thông kiến chân gọi chung là đạo mà không gọi là Tát- đỏa. Biệt, Viên kiến chân như nam châm hút sắt, không phải chỉ gọi là Bồ-đề mà cũng gọi là Tát-đỏa. Nên Đại kinh có nói: Nhất thật đế tức là Đại thừa, nếu không phải Đại thừa thì không phải là Nhất thật đế. Hỏi: Hai loại Bồ-tát trước không gọi là Tát-đỏa thì có gì khác hàng Nhị thừa? Đáp: Vì họ có một ít hạnh nguyện từ bi nên khác với hàng Nhị thừa. Tứ giáo Bồ-tát có đầy đủ nghóa trên. Kinh này phần nhiều lấy ý diễn ba giáo mà giải thích khen đức. Không dùng Tam tạng giáo không phải là chánh ý Đại thừa. Có lúc dẫn ra làm chánh là vì muốn so sánh để phán quyết đại tiểu không đồng nhau. Quán tâm nói Bồ-tát là căn cứ theo ba quán mà phân biệt, phân tích thể nhập không khởi tâm đại bi cũng gọi là Bồ-tát, sau tu hai quán tùy ý tự tại tức là nghóa Bồ-tát. Luận về số ba vạn hai ngàn là theo việc, biểu thị cho pháp khó thấy trước nay chưa ai đối định được. Khen đức Từ “chúng đều quen biết”có ba phần: Chung, riêng và kết. Nói chung về khen đức, tức là phần đầu khen đức, nếu không có đức tự hành hóa tha thì đâu được nhiều người quen biết. Các bậc đại só này tùy duyên hóa độ, rãi đức khắp nơi mười phương chúng sinh không ai không quen biết. Nghe tên kính đức là quen, thấy hình kính thờ là biết. Chỉ vì chúng sinh có bốn thứ căn tánh, Bồ-tát bèn dùng bốn cách để giáo hóa mà có được bốn thứ quen biết “tri thức) theo Tam tạng giáo, thì hạnh ba tăng-kỳ đã tu xong các tướng trăm kiếp, tướng đại nhân hiện ra muôn vật đều quy kính nên gọi là chúng đều quen biết. Bát địa Thông giáo ở Đạo và Quán cùng tu thần thông lợi ích muôn loài nên chúng đều quen biết. Bậc Đăng Địa ở Biệt Giáo, bậc Sơ trụ Viên giáo, Như Lai một thân hoặc vô lượng thân hiện khắp mười cõi giới tùy duyên lợi vật nên chúng đều quen biết. Người chưa khắp rộng suốt mười phương ba cõi được tất cả kẻ hữu duyên quen biết. Nay các Bồ-tát đều là bậc bổ xứ mà khắp rộng suốt tất cả kẻ có duyên đều quen biết nên nói là chúng đều quen biết. Nếu căn cứ theo quán tâm, thì ba quán tâm sáng lên liền được khen là bậc cao đức, nên nghe tên kính đức, thấy hình đều kính thờ mà được chúng đều quen biết. Riêng khen đức: Từ “Đại trí Bản hạnh”trở đi chia ba phần: Lược khen đức tự tha. Rộng khen đức tự tha. Lân quả khen đức. Lược khen đức: Có hai Lược khen tự hành. Lược khen hóa tha. Lược khen tự hành. Lại có hai: Chánh khen và giải thích khen. Chánh khen tự hành: Hai câu đầu nói về chánh khen, tức là Đại trí bản hạnh. Hiểu như đây hoặc căn cứ một pháp, hoặc căn cứ hai pháp. Căn cứ một pháp, thì đại trí tức là Bản hạnh, theo bản mà khởi trí thì trí tức là hạnh, nên nói là Đại trí bản hạnh. Nên kinh Pháp Hoa có nói: Các pháp xưa nay tướng thường tự tịch diệt “vắng bặt”. Phật tử đã hành Đạo đến đời sau sẽ được làm Phật. Kinh Duy-ma này nói: Từ gốc vô trụ mà lập tất cả pháp. Như Nam độ cựu giải phần nhiều đều từ tám địa căn cứ vị mà giải thích thỏa đáng. Các sư ở phương Bắc từ sơ địa căn cứ vị mà giải thích. Ngài La-thập từ dưới dần lên lần lượt khen ngợi. Vì giải thích không đồng nên không dám riêng dùng. Vì sao? Vì các sư ở phương Nam dẫn oai thần mà lập văn chứng nên biết trước khen tám địa. Còn các sư ở phương Bắc thì dẫn bảy Ba-la-mật làm chứng mà khen ngợi sơ địa cho đến thất địa. Mỗi lần dẫn chứng kinh văn đều là tiện lợi, nếu muốn dung hòa nhau thì càng trái nhau nhiều. Chỉ theo văn kinh đối các địa các nơi đều có thì chưa đủ quyết định chấp cho là đúng ý người kiết tập kinh. Nay cho rằng thường phần nhiều là khen đức của thượng địa. Nếu khen thượng địa ắt gồm cả hạ địa. Vì sao? Vì luận chung các hạnh là đồng nhau, nhưng thượng địa là phẩm hơn, hạ địa là phẩm kém. Nay lấy hơn bao gồm kém thì không thể thượng hạ cùng khen. Như khen Đại trí bản hạnh thảy đều thành tựu, mà kim cang trí đầy đủ mới gọi là thành tựu, vậy đâu thể khen hạ địa. Như khen bậc Sư tử hống bèn như sấm vang. Hạ địa cũng có lời khen này, đâu chỉ riêng khen thượng địa, cho nên biết phân biệt thì ắt cùng có lỗi. Hỏi: Đã gần bậc Vô đẳng đẳng há không phải khen thượng địa? Đáp: Nay nói các đức đều là khen bậc thượng địa cần phải căn cứ theo lân cận quả. Từ: “Cho nên… trở đi” là kết rằng: Như thế tất cả công đức đều đầy đủ. Nếu kể chung với lời hạ địa vô đẳng là căn cứ heo đối đãi mà nói có gần xa. Như kinh Pháp Hoa nói “hành xứ cận xứ”, hạ địa cũng gọi là gần. Hoa Nghiêm nói trí tuệ của hàng Thập địa như đất trong móng tay, còn trí tuệ của chư Phật cũng như đại địa, đây rất khác xa. Nay theo Ba giáo hành loại của Bồ-tát là đồng, mà giáo có chủ đều có cạn sâu. Từ Bát địa của Thông giáo trở đi là chỉ dựa vào hai đế mà phẩm có hơn kém. Nếu căn cứ theo Bổ xứ thì tự gồm cả vị dưới. Từ đăng Địa của Biệt giáo trở đi tức là địa của ba đế nhập vào Phật trí, hạnh loại là đồng nhau. Chỉ dựa theo phẩm sâu cạn mà phân biệt địa có hơn kém. Nếu khen Bổ xứ tức là gồm nhiếp cả địa dưới sơ trụ của Viên giáo, ba đế viên hiển có đủ tất cả công đức của chư Phật, chỉ có phẩm vị không đồng không có hơn kém. Nếu khen bậc Đẳng giác tức đều gồm nhiếp cả địa dưới. Chỉ các Bồ-tát ngoại đạo tùy chỗ cảm mà thấy nghe không đồng, bên trong thì bổn tích cao thấp khó lường, đâu có thể chấp nhất định. Không phải chỉ căn cứ vào giáo mà phân biệt công đức pháp môn của Bồ-tát. Hoặc có lúc bên trong họp quán tâm muốn khiến cho hành giả biết thắng diệu công đức đều từ tâm mà ra, ấy là giải thoát của chư Phật đều từ tâm hành chúng sinh mà tìm cầu. - Nếu căn cứ hai pháp mà khen thì Đại trí khen giải, Bản hạnh khen hạnh. Nếu giải hạnh cùng thiếu thì như mắt và chân đều mất, không đến đâu được. Nếu giải hạnh đều đủ thì Như có đủ mắt và chân mà đến ao tắm, nên cần khen cả hai. Do đó khen giải rằng: Đại trí chỉ là quán giải, như vào Không ra giả hai trí phương tiện không gọi là đại, trung đạo mà quán giải nhất thiết chủng trí mới gọi là Đại trí. Nên Đại luận có nói: Ta nay sức biết muốn diễn nói nghóa đại trí bỉ ngạn thật tướng. Nên biết đại trí tức là quán cái quán các pháp thật tướng. Nói Bản hạnh tức là khen hạnh, từ gốc Đại trí nhất tâm đầy đủ các Ba-la-mật. Nên trong Đại phẩm nói: “Các pháp tuy không mà có thể nhất tâm đầy đủ muôn hạnh.” Kinh Kim Quang Minh cũng nói: “Nhất thiết chủng trí mà làm căn bản thì vô lượng công đức đều được trang nghiêm.” Nên biết tự hạnh tuy có nhiều môn, nhưng chỉ lược khen giải hạnh thì ngang dọc các đức đều lấy. Hỏi: Bồ-tát chưa chứng được cực quả sao được nói tất cả đều thành tựu? Đáp: Quả hạnh chưa đủ nhân hạnh đã tròn nên nói là thành tựu. Nhưng xét theo giáo thì nghóa thành tựu không đồng. Theo Tam tạng giáo, lúc đầu duyên với Tứ đế sinh diệt mà phát thệ gọi là đại trí, tu hạnh sáu độ gọi là bản hạnh, nghiệp chủng tướng thành tựu nên gọi tất cả đều thành tựu. Theo Thông giáo, lúc đầu duyên với vô sinh mà khởi thệ gọi là Đại trí. Ba sự của Đàn “bố thí) rỗng, không cho đến Bát-nhã gọi là bản hạnh. Thập địa như Phật nên gọi tất cả đều thành tựu. Theo Biệt giáo: Lúc đầu duyên với vô lượng sinh giải “hiểu) gọi là Đại trí, làm vô lượng Ba-la-mật gọi là bản hạnh, chứng Thập địa Đẳng giác, nên gọi tất cả đều thành tựu. Theo Viên giáo: Lúc đầu duyên với vô tác mà phát tâm, gọi là Đại trí, nhất tâm đủ muôn hạnh gọi là bản hạnh, chứng Thập địa Đẳng giác, biên tế trí đầy đủ, các việc rốt ráo nên gọi tất cả đều thành tựu. Về quyền thật cũng biết được. Nếu quán tâm mà hiểu, xét theo ba quán mà nói: Quán đầu, quán sinh diệt Tứ đế, phát tâm đại bi mở nguyện lớn gọi là đại trí, dùng quán hạnh lục độ tức là bản hạnh. Đây là tích Giả vào Không quán của Tam tạng giáo, còn thể giả của Thông giáo, Nhập giả của Biệt giáo, Nhất tâm của viên giáo, tìm theo đó có thể biết. Giải thích khen: “Hai câu chư Phật oai thần”. Cũng thêm việc thành tựu hóa tha. Đây là chính nói Phật gia hộ. Kinh Kim Cang có nói: Ở thân Bồ-tát, Phật cho sức công đức trí tuệ nên gọi là gia hộ. Nay nói giải hạnh có nhân tròn đủ là do oai thần chư Phật lập ra, trí tuệ giúp cho giải mà đại trí được thành, công đức thêm cho hạnh bản hạnh được thành. Nội nhân tuy là Bồ-tát tự tu, ngoại duyên thì ắt nhờ chư Phật ngầm hộ. Cũng như hạt giống bên trong tuy có nhân sinh sản, ngoại đạo nếu không có các duyên đất, ánh sáng, gió mưa… thì đâu có thể thành hạt. Bồ-tát cũng thế, dù có nhân từ bi trí tuệ, tinh tấn thiền định tự hành hóa tha, nếu không nhờ đất từ bi, ánh sáng trí tuệ, gió thần thông, mưa nói pháp của chư Phật… thì nhân tự hành hóa tha đâu thể tròn đủ. Như bóng chim đại bàng che phủ con mau lớn. Nên kinh Hoa Nghiêm có nói: “Bát địa sắp chìm vào Không phải có Phật gia hộ thì quán mới được phát khởi.” Nếu căn cứ theo quán tâm, thì khi tu ba quán ắt cần sám hối thỉnh mười phương Phật. Nếu tâm chí thành thì Phật sẽ gia hộ tự nhiên hạnh thành. Đời có tà kiến, người học thiền chỉ tin tâm có Phật mà không tin vào các oai thần chư Phật gia hộ. Đây là chánh giải thích đoạn trước, phụ thành tựu việc hóa tha ở sau. Nếu thêm việc hóa tha như kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát Pháp Tuệ nói Thập trụ, chư Phật phóng quang gia hộ mới nói được. Cho đến ngài Kim Cang tạng nói thập địa cũng thế. Đây tức thành tựu về sau là thành trì hộ pháp. Nếu căn cứ theo quán tâm , khi ba quán đã thành mà muốn lợi vật thì cần nên sám hối thỉnh mười phương oai thần hiện ra có cảm ứng gia hộ để tùy chỗ lợi sinh, như gió thổi rạp cỏ. Lược khen đức hóa tha: Từ “ là thành trì hộ pháp”trở đi có ba phần: Khen tâm hóa tha. Khen công thành. Giải thích khen. Khen tâm hóa tha: “Hai câu đầu”. Phật pháp như thành trì có thể phòng trừ cho người tu các địch hại, tai nạn, nên gọi là thành. Nếu giữ gìn Phật pháp tức giữ thành. Lại hiểu pháp ấm nhập giới, pháp này tức không, lý tức không gọi là thành Niết-bàn. Chúng sinh là vua, mà chủng tánh đầy đủ hằng sa Phật pháp, như người và vật trong thành. Nên kinh có nói: “Tất cả chúng sinh tức Đại Niết-bàn, tức tướng Bồ-đề”. Nhưng diệu lý này, ngoài thì bị thiên ma ngoại đạo phá hoại, trong thì bị các kiến tư của Thông biệt giáo xâm phạm, Bồ-tát vì hộ trì thành Niết-bàn vốn có của chúng sinh, khiến không vọng khởi các ái kiến. Thọ trì chánh pháp tức chánh pháp của bốn giáo. Bồ-tát từ mười phương Phật nghe giáo pháp này mà được Đà-la-ni. Tổng trì không quên gọi là thọ trì. Đem dùng pháp này mà hàng phục ma, chế trừ ngoại đạo và phá các nội ngoại ái kiến cùng các giặc phiền não cho chúng sinh mà giữ thành Niết-bàn. Khiến các chúng sinh Pháp vương chủng tánh đều được an ổn, hằng sa Phật pháp Không bị tan mất nên gọi là Hộ pháp thành trọ trì chánh pháp. Dựa theo quán tâm: Thì giả không không giả là hộ trì tiểu Niết- bàn, giả trung trung giả là hộ trì Đại Niết-bàn. Chính khen hóa tha công thành: “Hai câu năng sư tử hống…” Đại kinh có nói: Phật tánh, gọi là sư tử hống Tam-muội. Bồ-tát trụ ở Tam- muội này mà có thể sư tử hống. Sư tử hống, gọi là vô úy thuyết… Nếu xét theo quán tâm, khi ba quán đã thành thì việc làm đúng như lời nói, nói về bốn giáo tâm không khiếp sợ, như con của sư tử khi đầy đủ ba tuổi có thể gầm thét. Nói: “Tiếng đồn mười phương…”đây cũng là công hóa tha đã thành. Công hóa tha đã thành thì mười phương đều mong nhờ lợi ích, cùng tuyên dương tiếng đồn vang xa như đại tướng phá địch, công danh cái thế. Chúng nhân không thỉnh” là giải thích hóa tha. Hai câu đầu là giải thích tâm hóa tha để làm thành trì hộ pháp. Bồ-tát vì bi nguyện đâu đợi thỉnh mời, như giặc dữ vây hãm các quan viện, đại tướng phải cấp tốc cứu nguy, đâu đợi người trong thành đến mời thỉnh. Hỏi: Nếu Bồ-tát là bạn chẳng cần mời thỉnh, thì vì sao Phật lại đợi Phạm vương Thiên đế thỉnh chuyển pháp luân? Đáp: Bồ-tát còn chẳng đợi mời huống chi Phật. Nhưng vì nghi lễ nói pháp là ân nặng của muôn loài nên cần phải đợi thỉnh. Hỏi: Bồ-tát chẳng đợi thỉnh, phàm người có tâm ắt đến ứng cứu chăng? Đáp: Người có duyên liền đến không đợi thỉnh, ai chưa an thì khiến được an. Đây là giải thích thọ trì chánh pháp. Người đời cùng kẻ đồng chí làm bạn. Bồ-tát khéo léo hòa đồng căn duyên với vật cùng tu Tứ đế ai nấy đều được đạo quả vô lậu. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Chúng ta hai người cùng làm việc của ông.” Nếu khai quyền hiển thật thì đồng ngồi xe Phật mà đến thẳng đạo tràng. Đây tức là thân làm bạn pháp “mà khiến được an” là kẻ chưa an Đạo đế thì khiến cho an. Như thế bốn thứ chúng sinh khiến an bốn thứ Đạo đế. Nếu khai quyền hiển thật thì đều khiến cho an trụ ở vô thượng Niết-bàn, cho nên nói làm bạn mà khiến được an. Nếu căn cứ theo quán tâm Tích thể, Nhập không, Giả danh, Trung đạo, bốn thứ tâm này không mời ba quán, mà ba quán tự quán tức là nghóa bạn không đợi mời. Quán phân tích thành tâm khiến tâm này trụ ở bốn Đạo đế, tức là làm bạn mà khiến cho an. Chánh giải thích: “Hai câu Thiệu long Tam bảo…”khi công hóa tha đã thành có thể làm sư tử hống tiếng đồn mười phương. Bồ-tát dùng tâm vô úy nói bốn giáo tức là: “Nối thạnh bốn thứ Tam bảo”. Nếu nhanh chóng hợp Viên cơ thì liền vào Phật tuệ. Sơ tâm thành tựu nhất thể Tam bảo tăng tiến mãi không gián đoạn cho đến an trụ vào Diệu giác trạm nhiên. Đây tức là Đại thừa nhất thể Tam bảo thường trụ mãi không dứt, nên nói khiến cho không dứt mất. Nếu Tiệm giáo phó cơ thứ lớp nói không dứt mất, là từ đầu Tam tạng giáo cho đến Viên giáo Nhất thể Tam bảo không dứt mất, giáo quyền thật lần lượt khởi lên và dẹp đi. Cho nên Bồ-tát dùng bốn giáo Tam bảo này mà tiếp dẫn chúng sinh khiến Phật chủng không dứt mất, đều khiến họ an trụ vào Đại Niết-bàn thường trụ Tam bảo. Đều là công năng Bồ-tát nói pháp, tức là làm sư tử hống. Công hóa tha quy về mình tức là tiếng đồn khắp mười phương, cho nên nói nối thạnh mãi không dứt. Nếu xét theo quán tâm nối thạnh mãi không dứt, tức nếu Phật còn ở đời thì việc nối thạnh Tam bảo như trước đã nói. Nếu Phật đã diệt độ thì đem Phật pháp phó chúc cho hai chúng đệ tử, do đó mà vua Ưu-điền tạo tượng, vua Xà-thế kết tập, vua A-dục độ người. Nếu thế thì Tam bảo tương tùng không dứt mất, khi Đức Di-lặc ra đời thì chân chánh Tam bảo, Nối thạnh không dứt, sau khi Đức Di-lặc diệt độ rồi thì cũng như thế. Nếu người tu hành từ nay đến hết đời mạt pháp mà tạo tượng viết sách Đại thừa, độ người xuất gia tức là giúp Tam bảo nối thạnh mãi không dứt. Nếu trụ vào tâm ba quán mà quán tưởng Tam bảo tương nối theo này không bị trệ ngại vào hàng không hữu, thì Đệ nhất nghóa nhất thể Tam bảo kia nối thạnh mãi không mất. Nên kinh có nói: “Kính tượng như Phật sống thì công đức cũng như thế”. Nên văn kinh nói: Không lìa văn tự mà nói tướng giải thoát. Lìa tánh văn tự tức là giải thoát, giải thoát tức là các pháp. Kinh Hiền Ngu có nói: “Ở đời vị lai có nhiều Tỳ-kheo phá giới thì cũng nên cung kính cúng dường như đối với các ngài Xá-lợi-phất hay Mục-kiền-liên và công đức có được cũng nhiều vô lượng”. Nối thạnh Tam bảo công đức lớn nhất, ví như đại thần quản lý việc quốc gia thì công trạng rất lớn. Bồ-tát nối thạnh giống Tam bảo khiến mãi không dứt mất, thì công đức vô lượng, mười phương chư Phật nói mãi cũng không hết. Hàng phục các ma oán, hai câu này tức giải thích việc nối thạnh mãi không dứt. Chỉ vì chúng sinh trong có ái kiết, ngoài có quỷ thần sáu cõi thiên ma vương, trong có các kiến, ngoài có mười tám lục sư và chín mươi sáu thứ ngoại đạo luôn phá hoại thành trì Phật pháp khiến Tam bảo dứt mất. Nay nói Bồ-tát hoằng hóa bên trong tu thiền định trừ ái kiết, ngoại đạo dùng thần lực hàng phục ma oán. Bên trong dùng trí tuệ đoạn trừ các kết, ngoại đạo nói pháp chế phục các ngoại đạo. Ma oán trong ngoài đã phục rồi, ngoại đạo trong ngoài đều quy về, thì thành Niết-bàn còn mãi, Tam bảo không dứt mất nên gọi là được nối thạnh. Nếu căn cứ theo bốn giáo, đối với nội giới ái kiến thì dùng thiền định sinh vô sinh Đạo đế mà phục ái, dùng trí tuệ chế trừ kiến. Đối với ngoại giới ái kiến thì dùng định trang nghiêm của vô lượng vô tác Đạo đế mà phục trừ ái và tuệ trang nghiêm mà chế trừ kiến. Nên văn nói: Các ma là ưa sinh tử, ngoại đạo là thích các kiến. Bồ-tát ở trong đó mà không bỏ không động nên nói là các ma ngoại đạo đều là kẻ hầu của ta. Nếu hàng phục được nội giới ái kiến thì ngoại ma liền hộ trì hóa thành Niết-bàn, khiến Tam bảo của Tạng Thông còn mãi không mất vậy. Nếu hàng phục ngoại giới ái kiến thì ngoại ma hộ trì thành Đại Niết-bàn, khiến Tam bảo của Biệt Viên không mất. Cho nên biết đây đều là giải thích việc hóa tha ở trước. Hỏi: Nội giới có thể có ngoại ma, còn ngoại giới làm sao có? Đáp: Đại kinh nói tám ma tức có bốn nội và bốn ngoại vậy. Kinh Hoa Nghiêm nói mười ma là chung cả nội ngoại giới, phân biệt có thể biết. Trong kinh Niết-bàn, ngài Ca-diếp tự than rằng: Từ trước nay đều là tà kiến, thì Tam thừa Thánh nhân của Tạng, Thông đều gọi là giời ngoại ngoại ma cả. Cho nên trách ngài Thiện Cát rằng: “Vào tà kiến mà không đáo bỉ ngạn, các ông cũng là cánh tay của ngoại ma”, há không phải là ngoại giới có ngoại ma ư? Hỏi: Thanh văn có thể như thế, còn Bồ-tát ra sao? Đáp: Kinh Hoa Nghiêm nói: Ma Bồ-đề tâm, ma Tam-muội, ma Thiện tri thức đều là ma Bồ-tát. Ương-quật-ma-la trách ngài Văn-thù rằng: Ngoại đạo cũng tu không, Ni-càn chỉ yên lặng tức là ngoại ngoại giới đạo. Nếu không phải thế thì tại sao tám ngàn Bồ-tát bị trách mà không ai đáp lời? Nếu căn cứ theo quán tâm, khi giả không không giả quán thành thì hàng phục được nội ngoại giới ma, khi giả trung trung giả quán thành thì hàng phục được ngoại giới ngoại ma. “Tất cả đều đã thanh tịnh”… trở xuống hai câu là rộng khen về tự tha. Có hai phần: Từ đây trở xuống đến hết câu: “không khởi pháp nhẫn” là rộng khen về tự hành. Từ đã hay tùy thuận… đến hết câu “cập tâm sở hành” là rộng khen về hóa tha. Khen tự hành lại có hai là: Đoạn đức. Trí đức. Khen Đoạn đức lại có ba: Khen chung, khen riêng và giải thích. Khen chung về đoạn đức: Là nói Bồ-tát này các kiết hoặc sinh tử đều dứt, nên nói tất cả đã thanh tịnh. Kiết hoặc sinh tử có hai thứ là nội giới và ngoại giới. Nếu bổ xứ của Tam tạng giáo chỉ phục được kiến tư mà chưa dứt hết các kiến hoặc. Còn bổ xứ của Thông giáo tuy trừ được các tập khí mà các kiến tư ngoại giới chưa dứt. Bổ xứ của Biệt giáo thì trừ hết mười một phẩm vô minh còn ba mươi mốt phẩm kia vẫn còn. Ba bậc này đều không phải là tất cả đã thanh tịnh. Riêng bổ xứ của Viên giáo thì bốn mươi mốt phẩm đã hết nhưng còn một phẩm kia như làn khói nhẹ thì mới gọi được tất cả đã thanh tịnh. Như kinh Địa Trì nói: Tịnh thiền thanh tịnh thứ chín cho đến tịnh thiền lìa tất cả kiến đều thanh tịnh, hai chướng này đã dứt, Bồ-tát nương vào thiền này mà được quả đại Bồ-đề. Nên căn cứ theo bổ xứ của Viên giáo mà nói tất cả đều đã thanh tịnh. –Nếu căn cứ theo quán tâm, khi giả không không giả và giả trung trung giả hai quán này đã thành, nội giới hoặc đã hết thì không phải tất cả đã thanh tịnh, khi ngoại giới phiền não chướng đã hết thì mới gọi tất cả đều thanh tịnh. –Về dứt hẳn triền cái, là khenriêng về đoạn đức. Cái là năm cái, triền là mười triền. Có người nói mọi cái triền đã tiếp cận, đâu đủ để khen là đức của đại Bồ-tát, nay bảo không phải thế. Nếu chỉ căn cứ theo năm cái mười triền này phân ra tất cả nội ngoại giới hoặc, thì lìa đây lại không còn hoặc nào sinh ra nữa. Nội giới chỉ là nhánh lá, còn ngoại giới là gốc rễ. Nếu lìa năm cái của nội giới mà hiện đủ tám vạn bốn ngàn trần lao thì sao tham dục, sân nhuế, thùy nghi thuộc si, trạo cử, tán loạn là giới thủ tức là đẳng phần, bốn thứ này mỗi thứ đều có đủ hai vạn một ngàn hợp thành tám vạn bốn ngàn, các loại căn bản phiền não ngoại giới hiện ra rõ ràng. Hỏi: Ngoại giới vì sao ø năm cái cũng đối tám vạn bốn ngàn? Đáp: Đã có ba độc sao được không có năm cái? Lấy Niết-bàn là tham, bỏ sinh tử là sân, mê thật đế là si. Đã có căn bản ba độc thì phải có căn bản năm cái mà có đủ tám vạn bốn ngàn. Nay dựa theo giáo mà nói lìa cái không giống nhau. Nhiều người nói cái chướng ở Sơ thiền, còn cõi trên thì không còn cái. Như Thành Luận nói hai cái tham, sân đều chung cả cõi trên, cả hai luận trên đều là Tam tạng giáo mà nói cái không giống. Nếu Bồ-tát của Tam tạng giáo lìa cái phát thiền thì đồng với phàm phu chưa đủ để khen đức của bổ xứ. Nếu Bồ-tát của Thông, Biệt, Viên lìa cái thì thuộc loại đều đã thanh tịnh. Nên biết mười triền mở ra năm trăm triền, phân biệt lìa hẳn các cái, có thể biết. Nếu căn cứ theo quán tâm, khi giả không không giả, giả trung trung giả một nơi mà quán thành thì lìa hết hai loại cái triền như trên, nên biết. Từ: “Tâm thường an trú ở vô ngại giải thoát”… là , giải thích Đoạn đức. Vô ngại giải thoát tức là tên khác của Bất tư nghị giải thoát nên Đại luận có nói: Đối trong các giải thoát thì Vô ngại giải thoát là cao nhất. Tạng Thông đều nói: Vô ngại đoạn tất cả, giải thoát chứng tất cả. Có sư nói: Vô ngại hàng phục, giải thoát đoạn trừ. Đây chỉ là nội giới tư nghị vô ngại giải thoát. Thập địa của Biệt giáo cũng nói: Vô ngại đạo đoạn, giải thoát đạo chứng, tuy lìa bỏ ngoại giới kiến tư cũng căn cứ theo định mà đoạn, không phải là Bất tư nghị vô ngại giải thoát. - Viên giáo nói nghóa giải tướng hoặc tức trí không đoạn hoặc mà rốt ráo lìa hẳn hai thứ triền cái, nên gọi là vô ngại giải thoát. Nên văn nói: Không đoạn si ái, khởi ra minh, thoát tâm thường an trụ, nghóa là nếu tư nghị chiếu tịch thì không phải là an trụ rốt ráo, nếu bất tư nghị tịch chiếu không hai trụ Đại Niết-bàn thì mới gọi là tâm rốt ráo thường an trú, vì vô ngại giải thoát là tên khác của Đại bát Niết-bàn mà thôi. Kế căn cứ quán tâm, nếu biệt tướng ba quán thì không phải là rốt ráo an trụ, còn nhất tâm ba quán tức là tâm thường an trụ ở vô ngại giải thoát vậy. Từ “Niệm định tổng trì biện tài bất đoạn”… trở đi là phần hai: Khen trí đức, cũng có ba phần: chung, riêng và giải thích thành. Khen chung: Tức là niệm định tổng trì. Như các kinh khác đều khen đức Tam-muội Đà-la-ni, nay khen Niệm định tổng trì tức là khen Tam-muội Đà-la-ni . Do đó ở đây nêu khen cả hai. Niệm tức là niệm Phật Tam-muội… các Tam-muội. Nếu Bồ-tát được Tam-muội này thì mười phương chư Phật đều hiện ra trước, nếu được nhất tâm thì gọi là Vương Tam-muội. Vì sao? Vì nếu căn bản mà quán luyện huân tu là tục đế Tam-muội, quán đế duyên với ba không là chân đế Tam-muội, tự tánh… các lực và Ban chu Nhất hành Thủ-lăng-nghiêm… một trăm lẻ tám Tam-muội, đều là Trung đạo nhất tâm Tam-muội gọi là Vương Tam-muội. Cho nên biết khen niệm định là khen đức Tam-muội vậy. Căn cứ theo giáo, nếu phân tích thể của tục vào Chân thì chỉ căn cứ hai đế gọi là Vương Tam-muội. Nếu từ Tục đế và Chân đế căn bản thứ lớp vào trung thì tức là Tam đế của Biệt giáo gọi là Vương Tam- muội. Nếu Nhất tâm viên mãn vào Tam đế tức là ba đế của Viên giáo Tam-muội gọi là Vương Tam-muội. Đại luận nói có nhà khác giải thích Tam-muội và Vương Tam-muội không giống nhau là ý này vậy. Nếu căn cứ theo quán tâm tức ba quán mà quán ba đế thành Vương Tam-muội, thì tự nhiên có thể biết. Tổng trì, tức là khen đức Đà-la-ni. Đây là nói khả năng giữ gìn, khả năng ngăn chận. Giữ gìn thiện không cho mất, ngăn chặn ác không cho khởi, nên gọi là Năng trì, năng giá, cũng gọi Tổng trì, là giữ các pháp thiện không cho dò rỉ. Kinh Pháp Hoa nói ba thứ Đà-la-ni: Triền Đà-la-ni. Bách thiên vạn ức triền Đà-la-ni. Pháp âm phương tiện Đà-la-ni. Triền là xoay, quay lại, tức xoay Giả vào Không mà được vào chân đế. Nhưng phá nội giới tức thuộc Thông giáo. Nếu nhất tâm phá trọn vẹn thì thuộc Viên giáo. Bách thiên vạn ức tức là từ không vào Giả, xoay chuyển phân biệt phá trần sa hoặc mà hiển lộ hằng sa Phật pháp. Nếu biệt phá ngoại giới vô tri là Biệt giáo, còn nhất tâm phá trọn vẹn thì tức là Viên giáo. Pháp âm phương tiện tức là hai quán làm phương tiện mà được nhập vào Trung đạo. Thứ lớp đoạn mà nhập vào trung, là ý của Biệt giáo. Không đoạn vô minh, nhất tâm viên mãn nhập vào trung đạo tức là Viên giáo. Lại pháp âm phương tiện, tức là được Đà-la-ni này thì liền hiểu biết tất cả các thứ tiếng nói, cũng có thể một thứ tiếng nói pháp mà tùy loại đều hiểu. Được Đà-la-ni này tức là nhập vào Vô ngại Đà-la-ni, đầy đủ tất cả Đà-la-ni vậy. Hỏi: Kinh này khen Bổ xứ, vì sao được căn cứ ở sơ tâm mà giải thích? Đáp: Phát tâm và rốt ráo cả hai không khác, cho nên chỉ hậu tâm mà nhập vào ba đế vô ngại, rộng ngang nhỏ nhặt sâu thẳm tận cùng tức là Vô ngại Đà-la-ni của bổ xứ . Hỏi: Tam tạng giáo Bồ-tát có Đà-la-ni này chăng? Đáp: Như vua Thi Tỳ được quy mạng cứu hộ Đà-la-ni, nên biết cũng có các tiểu Đà-la-ni, Luân vương còn được, huống là Bồ-tát. Hỏi: Thanh văn có được chăng? hiểu. Đáp: Vì họ đã nhập diệt nên không cần. Căn cứ quán tâm, thì Đà-la-ni ba quán, giống như đã nói nên dễ Biện tài, tức là bốn biện tài. Đại phẩm có bảy biện tài, Đại tập có hai mươi bốn biện tài, Hoa Nghiêm có bốn mươi biện tài. - Căn cứ theo giáo nói về bốn biện tài: Xét theo Tam tạng giáo, thìsinh diệt Tứ đế không trệ ngại các pháp danh tự, tức là Pháp vô ngại biện. Đối với Nghóa Tứ đế không bị trệ ngại tức là nghóa vô ngại biện. Thấu suốt ngôn từ của sáu nẻo cũng giống tiếng nói của mình, nói về sinh diệt Tứ đế ngôn từ không trệ ngại tức là Từ vô ngại biện. Nêu xứng hợp căn duyên đời đời không kể xiết tất cả bốn loài đều phó cơ nói vô cùng tận tức là Nhạo thuyết vô ngại biện. Biện là luận rõ, tài là tài năng. Dùng mật giúp thuốc uống vào để công hiệu. Lại nói: Hóa y cứ ước vô tác, như giải thích có thể hiểu. Nói không dứt là Không hết. Pháp, Nghóa duyên với khổ tập là biết bệnh vô tận. Pháp Nghóa duyên với đạo diệt là biết thuốc vô tận. Từ và nhạo thuyết là trao thuốc vô tận. Lại nữa, từ sinh diệt biện mà khởi vô sinh biện cho đến vô tác. Vô tác bốn biện tài như gió trên hư không, nói pháp Không chướng ngại nên nói là Không dứt. Căn cứ quán tâm mà tu nghóa bốn biện tài, thì nghóa như giải thích có thể biết. Từ “Bố thí”… đến “cụ túc” là phần khen riêng trí đức. Trở lại từ định tuệ mở ra bảy độ, từ định mở ra bốn tuệ khai phương tiện, nên nói là riêng. Nếu làm mười độ để đối với mười địa thì mở Thiền ra Lực và Nguyện, mở Bát-nhã ra Phương tiện và Trí. Nếu căn cứ theo giáo, thì đức theo bốn thứ Tứ đế. Tu bố thí… tức bốn giáo nói bảy độ vậy. Nói “không gì không đầy đủ”tức đều là Ba- la-mật. Ba-la-mật dịch là sự cứu cánh, cũng gọi là Đáo bỉ ngạn. Bố thí… cho đến phương tiện đều là sự lý cứu cánh kiến… Pháp giới của Đàn “bố thí) tức là bờ kia cứu cánh, nên nói không gì không đầy đủ. Quán tâm nói bảy độ, tức nhất tâm ba quán mà không thấy có xan tham và bố thí, cho đến không thấy có khéo hay vụng mà có thể khéo léo phân biệt xan tham và bố thí cho đến khéo vụng im lặng tự hiểu, tức không gì không đầy đủ. Từ “Vô sở đắc… hai câu” là a, khen ngôi vị giải thích thành. “Kịp” là nói đến khi… không khởi là Không khởi các phiền não nội ngoại, sinh tử không có cảnh để quán nên gọi là Không khởi pháp nhẫn, tức là Đại vô sinh nhẫn, cũng gọi là Tịch diệt nhẫn. “Vô sở đắc”, là trong Đại phẩm có nói: “Không có gì được mà cho là được tức là được cái không có gì được.” Kinh Nhân Vương có năm nhẫn, Anh Lạc có bốn nhẫn, hai kinh tuy khác nhưng đều nói Tịch diệt nhẫn. Tịch diệt nhẫn có thượng hạ. Như Kim cang tâm thì gọi là hạ nhẫn, còn Phật địa thì gọi là thượng nhẫn. Nếu khai Thập địa riêng lấy Đẳng giác cũng có ba phẩm hạ, trung, thượng. Nay khen gần đến quả lại nói về kịp, tức là sẽ kịp hạ nhẫn vậy. Căn cứ giáo mỗi giáo nói về bốn nhẫn, thì Tam tạng giáo không có văn mà nghóa cũng có bốn nhẫn: A tăng kỳ kiếp đầu là Phục nhẫn, thứ hai, thứ ba là Thuận nhẫn, trăng kiếp là vô minh nhẫn, ba mươi bốn tâm là Tịch diệt nhẫn. Thông giáo thì cân tuệ là phục nhẫn, Tánh địa là Thuận nhẫn. Từ quả Tu-đà-hoàn cho đến địa thứ chín gọi là Vô sinh, Địa thứ mườinhư Phật thì gọi là Tịch diệt nhẫn. Biệt giáo thì Thiết luân là phục nhẫn, ba mươi tám là Thuận nhẫn. Từ Sơ địa đến địa thứ chín là Vô minh nhẫn. Địa thứ mười Kim cang tâm gọi là Tịch diệt. Viên giáo thì năm phẩm gọi là Phục, Thiết luân gọi là Thuận. Từ sơ trụ đến Địa thứ chín gọi là vô sinh, Thập địa kim cang tâm gọi là tịch diệt nhẫn. Luận chung về Viên giáo, sơ tâm trở lên đều đủ bốn tên. Nên kinh Nhân Vương có nói: Từ sơ phát tâm đến Kim cang đảnh đều gọi là Phục nhẫn. Phổ Hiền Hiền Thủ ý giống đây vậy. Hỏi: Đoạn văn sau khen ngài Tịnh Danh chỉ nói vô sinh, phải biết không khởi pháp nhẫn chỉ là vô sinh, vì sao phải dùng tịch diệt mà giải thích không khởi pháp nhẫn? Đáp: Ở nhân nhường quả nói là vô sinh, nếu luận chung về vô sinh thì chỉ là tên khác của tịch diệt. Nên trong Đại kinh có nói: “Niết nói là bất sinh, Bàn nói bất diệt, là bất sinh bất diệt gọi là Đại Niết-bàn.” Nên văn kinh nói: “Pháp vốn không sinh nay thì không diệt”, đó là nghóa của tịch diệt, như thế tịch diệt tức là vô sinh, còn nghi ngờ gì nữa. Căn cứ theo quán tâm, thì một tâm ba quán ba đế hoặc không khởi, tức là tu không khởi pháp nhẫn. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Mặc áo Như Lai”. Áo Như Lai tức là tâm nhu hòa nhẫn nhục vậy. Từ “Đã có thể… trở đi” là, rộng khen về hóa tha, có hai phần: Trong đủ pháp hóa tha. Chính nói về hóa tha. Phần một, có ba: Nói về trong vốn đủ. Nói về ngoài vốn đủ. Giải thích chung nội ngoại. Như Đại luận có nói: Trong đủ trí tuệ gọi là lực, ngoài dùng không khiếp sợ gọi là vô úy. Nếu trong mà trí không sáng, ngoài mà nghi cách không đủ, xử chúng có chỗ sợ sệt làm sao có thể khuất phục mọi người. Nếu trong ngoài đều hoàn bị thì chúng hóa độ đều theo. Nói về trong đủ pháp hóa tha “nội cụ”, tức là đã có khả năng tùy thuận. Tùy thuận có ba là: Thuận Phật, thuận lý và thuận căn duyên. Phật vì chúng sinh mà chuyển bốn pháp luân, Bồ-tát theo đó mà chuyển, tức là thuận Phật. Nhân duyên sinh diệt tức không giả trung, thuận lý mà hiểu, thuận hiểu mà nói, đó gọi là thuận lý. Căn tánh tuy nhiều nhưng không nằm ngoài bốn loài, ứng cơ không nhầm lẫn, nên gọi là thuận căn duyên. Lại nữa, thuận hiểu mà nói là thuận thật trí, thuận chúng sinh mà nói là thuận quyền trí, thuận Phật phương tiện là thuận quyền thật hai trí. Nay nói tùy thuận là đủ cả ba nghóa này. Chuyển bất thoái chuyển pháp luân: Bốn thứ Tứ đế là thể của luân, dụng bốn Tất-đàn là chuyển. Có bốn thứ không thoái chuyển: Sự bất thoái chuyển pháp luân sinh diệt Tứ đế. Vị bất thoái chuyển vô sinh. Hạnh bất thoái chuyển vô lượng. Niệm bất thoái chuyển vô tác. Nếu Tam tạng giáo thì chỉ là sự, Tam tạng giáo nói vị không thoái chuyển không cần đoạn kiết, chỉ nói là Không sinh bốn ác đạo, không thọ thân nữ, không sinh biên địa, các căn đầy đủ, được trí túc mạng, đủ năm việc này thì gọi là Bạt trí . Về Thông giáo từ sơ quả trở đi đều ngang ngôi vị của La-hán không còn thoái chuyển. Thất địa thì hạnh không thoái chuyển, Bát địa thì niệm không thoái chuyển. Về Biệt giáo lấy Trụ, Hạnh, Hướng đối ba thứ bất thoái chuyển Địa chứng niệm bất thoái, Hướng chỉ tu mà thôi. Về Viên giáo thì một tâm đủ ba bất thoái. Sơ trụ pháp thân không rơi vào ngôi vị trước, gọi là vị bất thoái. Đủ tất cả hạnh nên gọi là hạnh bất thoái. Niệm niệm đều lưu nhập tức là niệm bất thoái. Căn cứ ở biệt tướng ba quán, thì lấy không, giả, trung mà đối ba bất thoái. Căn cứ ba thứ mà xét riêng thì nghóa này còn sơ sài. Nay căn cứ một tâm chánh quán trung đạo thì gọi là vị bất thoái. Cùng chiếu cả hai đế thì gọi là hạnh bất thoái. Tự nhiên lưu nhập là niệm bất thoái. “Khéo hiểu pháp tướng, biết rõ căn chúng sinh…” là khéo hiểu pháp tướng, là hiểu đúng như pháp tướng. Biết căn duyên chúng sinh gọi là biết bệnh. Khéo hiểu rõ thuốc của bốn thứ Tứ đế, biết rõ bốn bệnh của chúng sinh, lấy đó mà dạy người ắt không có lỗi sai căn cơ. Trong mười lực thì có lực thị xứ phi xứ tức là hiểu đúng pháp tướng, có tri căn lực tức là biết căn chúng sinh đều là nội lực đầy đủ. Từ “Vả lại các đại chúng… “hai câu” là nói ngoài đủ pháp hóa tha. Dùng Vô duyên từ để bao trùm cả mười pháp giới nên nói trùm khắp các đại chúng. Lại chữ trùm khắp là nói đi sâu vào bốn thứ Tứ đế, thấu đạt đến chỗ cùng tột nhất. Được Vô sở úy là từ bi phước tuệ luôn bao trùm tất cả, nên không có sợ sệt, tức là giải thích cái ngoại dụng của pháp vô khiếp vô úy vậy. Từ công đức trí tuệ”… trở xuống là giải thích chung về nội ngoại của pháp tha hóa, có ba phần: Giải thích nội tâm vô úy. Giải thích ngoại dụng vô úy. Kết thành vô úy. Hai câu đầu giải thích về nội tâm, đủ hai thứ trang nghiêm có thể làm sư tử hống mà giải thích nên nội tâm vô úy. Tâm tức là tâm tự tánh thanh tịnh, cũng gọi là pháp thân, phước tuệ có thể hiển sáng tâm tự tánh thanh tịnh. Nên nói lấy tu tâm trở lại dùng để trang nghiêm cho tâm tự tánh thanh tịnh, tức đầy đủ hai thứ trang nghiêm để trang nghiêm pháp thân. Phước tuệ của bốn giáo có ba quyền một thật, gồm chung các quyền thật này để tu tâm, nên tâm không có gì sợ hãi. Từ “Tướng hảo… đến “sức hảo” là giải thích ngoại dụng pháp vô úy. Các chủng tánh sắc thân được mọi người tôn trọng như ngài Ca- chiên-diên nói việc gieo trồng nghiệp ba mươi hai tướng. Phước nhỏ mà gây được như thế đâu có gì lạ, nên không phải là bậc nhất. Thông giáo căn cứ ở tướng chân tu, đế lý chưa tột cùng nên tướng không phải là đệ nhất. Biệt giáo là Duyên tu, Duyên tu là trí chướng nên tướng cũng không phải bậc nhất. Viên giáo là tướng hảo, pháp thân nếu hiển bày tướng hảo đầy đủ, nên kinh Pháp Hoa có nói: Thấu suốt sâu xa tướng tội phước, chiếu khắp mười phương, tịnh pháp thân vi diệu đầy đủ ba mươi hai tướng. Pháp thân đầy đủ diệu tướng này chúng sinh không do đâu biết được. Vì hiển bày tướng này cho nên ở ứng thân mà thị hiện tướng bạch hào để biểu thị lý trung đạo, thị hiện tướng mắt biếc để biểu thị vô duyên bi. Các tướng khác đều có biểu thị, cho nên biết tướng này tức là ba mươi hai tướng pháp thân. Sắc tướng bậc nhất, tức là sắc pháp tánh. Đại kinh có nói: Diệu sắc rỗng suốt luôn an trụ, không bị sinh, lão, bệnh, tử dời đổi. Diệu sắc này đối trong các sắc là bậc nhất, hiện rõ các hình ảnh trong mười giới như châu như ý. Sắc ứng hiện biểu thị cho chân mà chân sắc là bậc nhất. Sắc của ứng thân Phật đối với sắc của hóa thân cũng là bậc nhất. Từ “Xả các thế gian… hai câu” là giải thích chân tướng hảo ở trước, là Không phải bỏ vật trong suốt ở thế gian này. Nếu bỏ thứ đó thì ngoại đạo cũng làm được đâu đủ để khen. Nay nói bỏ là Bồ-tát của Tam tạng giáo bỏ cả đồ trang sức đẹp ở cõi trời, người, chủng tướng của trăm kiếp để làm đồ đựng Bồ-đề. Bồ-tát của Thông giáo bỏ tâm hữu sở đắc trang sức ở thế gian. Nên Đại luận phá tướng trăm kiếp. Kinh Kim Cang Bát-nhã nói: “Nếu dùng sắc để thấy ta, người ấy hành tà đạo” Bồ-tát của Biệt giáo bỏ không tâm trang sức của nội giới, dùng duyên tu ngoại giới mà tu tướng hảo Bồ-tát của Viên giáo cho rằng nội ngoại giới tu đều là thứ trang sức thế gian đều phải xả bỏ. Pháp thân nếu hiển bày tức là chân tướng. Cho nên nói: Thân tướng hảo trang ng- hiêm là sắc tượng bậc nhất, đâu thể đồng với tu nhân trang sức thế gian hư vọng mà gọi là cao xa hơn cả núi Tu-di được. - Kết thành, có hai phần: Kết ngoại và kết nội. 1.Hai câu đầu kết ngoại về vô úy: Bồ-tát ngoại đạo hóa khắp mười giới ở mười phương nên gọi là cao xa. Lại nên hiểu, Phật của Thông Biệt giáo như núi Tu-di, nay Phật Viên giáo có tâm Kim cang thì cao hơn hai giáo kia, cho nên nói hơn núi Tu-di… Lại núi Tu-di bền chắc cao xa như lý cao của pháp tánh bất động. Trí vô thượng có công hiển lý nên nói là vượt cao hơn núi Tu-di. Từ “tin sâu bền chắc…”hai câu là, kết nội về pháp vô úy. Tín có hai thứ là nghe và chứng. Bốn giáo phân biệt mỗi thứ có theo thứ lớp. Nay chỉ căn cứ Viên giáo, nếu năm phẩm đệ tử một mực tin nghe tín lý ba đức bất tư nghị , thì sáu căn thanh tịnh cũng nghe và cũng được tươngtợ chứng. Bậc sơ trụ trở lên cũng nghe và được phần chứng. Phật địa thì chỉ có chứng. Nay các Bồ-tát đã ở vị cao hai tín trọn vẹn sâu xa nên nói là tin sâu. Nói bền chắc là hai tín không bị trong ngoài hủy hoại. Cũng như đem kim cang mà ví với tin sâu. Kim cang có hai nghóa: Bén, cắt tận gốc, bên trong hợp với hai thứ bén tín, định, tuệ dùng để đến cùng thật tế. Thể nó bền chắc muôn vật không thể phá hoại, ví cho hai tín không bị các phiền não sinh tử làm hại. Từ “Pháp bảo chiếu khắp…” là , chính nói về hóa tha. Có ba phần là: Phóng quang thuyết pháp nói về hóa tha. Chính nói pháp nói về hóa tha. Nói môn tiến tu hóa tha. Phần một lại có hai: Chính nói về phóng quang thuyết pháp. Giải thích phần a lại có ba: Phóng quang. Nói pháp. Giải thích khen. Phóng quang: Nói Bồ-tát dùng bi trí duyên với lý ba đế sinh ra pháp thiện quý báu, dùng đó hóa độ tất cả chúng sanh có duyên. Nói “chiếu khắp “ là nhập phóng quang Tam-muội và Phổ quang Tam-muội nên có thể chiếu khắp . Nếu là các phàm phu thì phải dùng thiện quang thế gian mà chiếu, nếu là xuất thế thiện và xuất thế thượng thượng thiện mà được hóa độ, thì Bồ-tát tùy chỗ đáng dùng Tam-muội nào để phóng ánh sáng pháp lành nào khiến được độ. Nên kinh Hoa Nghiêm Tư Ích và Đại phẩm đều nói: Đức Phật có ánh sáng tên là Vô xan, nếu phóng ánh sáng này chiếu đến các chúng sinh keo kiệt thì các chúng sinh đó liền thường bố thí… như thế các thứ lợi ích khiến họ được đạo. Nếu một luồng sáng trừ xan tham, một luồng sáng trừ sân là ý Biệt giáo, không gọi là chiếu khắp. Nếu phóng luồng sáng hai đế cũng không gọi là khắp. Nay các Bồ-tát chỉ phóng một luồng sáng đầy đủ tất cả ánh sáng chiếu tất cả nơi, mười cõi chúng sinh đều được lợi ích, tùy căn cơ mà vào đạo, nên gọi là chiếu khắp. Hỏi: Ánh sáng vì sao có thể phá ác sinh thiện? Đáp: Ví như xông thuốc, khói gặp bệnh, khổ liền trừ, thân được an lạc. Ánh sáng chiếu vào cũng thế. Vì các ánh sáng này từ các pháp lành xuất ra, tùy chỗ gặp thì khổ liền hết. Nên văn nói dùng ánh sáng mà làm Phật sự. “Mà mưa cam lộ”… là nói về nói pháp. Cam lộ là loại thuốc mầu nhiệm các trời uống vào thì được bất tử. Trung luận nói: Thật tướng gọi là cam lộ Trời có thể khiến cho ba thừa đồng được Thánh đạo. Thật tướng cam lộ có hai thứ: Chân và trung. Chúng sinh tùy nên dùng thật nào và mưa cam lộ nào để độ thì đều khiến được lợi ích. Các Bồ-tát này chỉ nói trung đạo thật tướng cam lộ thì tùy thiên hay viên mà được lợi không đồng nhau. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: Phật bình đẳng nói như mưa một vị tùy tánh chúng sinh thọ nhận không đồng. Từ “Đối chúng nói tiếng vi diệu bậc nhất”… là giải thích khen. Mưa cam lộ, mưa vì sao nói mưa pháp cam lộ? Vì có tiếng nói vi diệu. Như kinh Pháp Hoa nói: Muốn dùng một thứ tiếng nói vi diệu biến khắp cõi tam thiên, tùy ý liền đến. Thiết Luân vương còn được thế huống là bậc bổ xứ mà không thể dùng một thứ tiếng nói khắp đầy đủ tùy loại đều hiểu, khắp được lợi ích. Từ “Phật trở đi… không ai hơn được”nên nói là tiếng nói vi diệu bậc nhất. Lại nên hiểu, vì là ngôn âm pháp tánh nên vi diệu bậc nhất. Từ “Thâm nhập duyên khởi”… trở xuống” là giải thích thành việc phóng quang nói pháp, có hai phần: Nói vào duyên khởi khen trí tuệ để giải thích thành. Từ “đoạn các tà kiến”trở xuống… là khen Đoạn đức để giải thích thành. Văn nói: Do đó phóng quang nói pháp lợi ích sâu khắp, thật là do trí mới có thể thâm nhập vào duyên khởi. Duyên khởi có hai: Sinh tử duyên khởi tức là vô minh, mười hai nhân duyên, tất cả sinh tử. Giải thoát duyên khởi, là quán nhân duyên thì trí khởi tất cả Phật pháp. Nay nói “thâm nhập”, là thâm nhập sinh tử duyên khởi liền thành Phật pháp duyên khởi. Nên Đại kinh nói: Mười hai nhân duyên có bốn thứ quán, nếu người thâm nhập vào thì được trí thượng thượng thấy tánh rõ ràng. Nghóa ấy thế nào? Vì nếu quán nhân duyên sinh diệt tức là ý của Tam tạng giáo, tức không là ý của Thông giáo. Vào Giả mà phá trần sa của nội ngoại giới và tiến nhập vào trung đạo để phá mười một phẩm vô minh là ý của Biệt giáo đều không phải là thâm nhập. Bồ-tát của Viên giáo nhất tâm Viên quán từ sơ trụ đến bổ xứ phá bốn mươi mốt phẩm, mới gọi là thâm nhập. Các Bồ-tát này đều nhập mười hai nhân duyên. Chánh báo duyên khởi cũng nhập y báo thành hoại duyên khởi. Vì đã thâm nhập nên có thể nói của nhân duyên thật tướng và nghóa cam lộ thâm tín, ý cũng rất rõ ràng. Từ “Đoạn các… đến các thói quen khác” là khen Đoạn đức. Giải thích phóng quang nói pháp, chỉ vì mình không có các hoặc ám tối nên có thể khắp phóng quang chiếu các chúng sinh tối ám. Chỉ vì tự mình không bị trói buộc nên có thể mưa cam lộ để mở trói cho chúng sinh, khiến họ dứt hết nhị biên tà kiến có không Tà kiến có hai: Nội giới và ngoại giới. Nội giới có sáu mươi hai thứ đều thuộc có, không, ngoại giới các thứ kiến cũng thuộc có, không. Nay gồm chung nội giới thuộc hữu biên, ngoại giới thuộc biên không. Nên Đại kinh có nói: “Phàm phu thì có, Nhị thừa thì không , Bồ-tát rỗng không cái có, rỗng không cái không .” Chánh kiến trung đạo thì phá tất cả tà kiến nhị biên, nên nói đoạn dứt tất cả các tà kiến… Lại giải thích: Chánh quán trung đạo phá hai biên Chân Tục , đến được Kim cang đảnh, trí biên tế đầy đủ. Khi thể trung đạo hiển sáng thì ba hoặc mới hết. Không còn các tập khí nữa: Viên giáo bắt đầu từ sơ trụ, chấm dứt ở Pháp vân địa, viên đoạn các kiến cũng còn các tập khí. Bậc Đẳng giác vào Trùng huyền môn thiên vạn ức kiếp tu lại các hạnh, thấy lý rõ ràng, tập khí mới mỏng bớt, giống như khói nhẹ nên gọi là Không còn các tập khác. Như đổ ít muối xuống sông lớn thì không còn vị mặn. Nên trong Đại luận nói: Hai kiến Có, không diệt mất không còn. Các pháp thật tướng mà Phật nói thường chỉ nói đoạn dứt hai kiến nội giới là dùng nghóa riêng của Địa luận. Bậc Đăng địa lìa chướng ngã tướng phàm phu đoạn hai kiến, có, không há được bỏ văn kinh này. Hỏi: Đây có lỗi gì? Đáp: Ở Tạng Thông, Kiến đạo liền đoạn các kiến, còn Đăng địa của Biệt giáo chỉ đoạn các kiến ngoại giới, đều không thể khen đức của bổ xứ. Kinh Ưu-bà-tắc nói: “Địa thứ chín thì đoạn kiến tập, Thập địa đoạn Ái tập.” Kinh Địa Trì nói: “Lìa tất cả kiến là tịnh thiền thanh tịnh.” Đây căn cứ vào bậc Đẳng giác. Nay căn cứ theo đây để bỏ văn này, thì nghóa đoạn trọn vẹn của một nhà chuyển rõ ràng. Từ “Diễn pháp… đến quá lượng” là chính nói thuyết pháp khen hóa tha. Trước hết cùng nêu ra hai thí dụ để khen hóa tha thành tựu, sau đó khen ngợi chung công đức hóa tha. Trước nêu thí dụ sư tử rống gọi là lời nói quyết định, quyết định nói: “Các chúng sinh đều có Phật tánh.” Diễn pháp vô úy là: Diễn giảng rộng lớn tâm không sợ sệt gọi là vô úy. Có thể đối với bốn thứ bất khả thuyết mà dùng bốn Tất-đàn phó duyên rộng giảng bốn lộ được không có gì sợ sệt, như lúc sư tử rống lên không phải chỉ không sợ hãi đối với cầm thú mà còn khiến cho loài hương tượng vãi ra phân uế đái, và loài đang bay phải rơi xuống. Tức các Bồ-tát này khi diễn giảng pháp môn cam lộ không chỉ tâm không sợ sệt đối với các ngoại ma và chúng sinh , mà còn khiến các ngoại ma đã phẩn uế ái kiến, kẻ có tâm cao ngạo phải hàng phục, cũng khiến cho tất cả ái kiến đều dứt hết. Việc diễn giảng của các ngài như sấm sét. Thí dụ thứ hai là tuôn xuống mưa pháp am lộ khiến sinh pháp lành. Như Đại luận nói đầy đủ bốn loại pháp sư. Sấm sét là dụ người học rộng, mưa là dụ cho hạnh tốt, có đầy đủ trong văn luận. Nay dùng sấm là để nói làm cho sợ hãi trốn mất, dùng mưa là nói được thấm nhuần sinh trượng. Nói pháp cam lộ. Nói cam lộ pháp vũ, sấm vang tám âm dùng để làm kinh sợ đám côn trùng Nhị thừa tà kiến khiến tất cả mầm mống thiện căn nảy sinh, tức, bảo là nghóa ba thứ cỏ, hai thứ cây cùng sinh trên một thứ đất, khiến tất cả thiện căn đời trước của người tu hành phát hiện ra. Từ “Không lường… đã quá lượng”… hai câu là khen chung công đức hóa tha. “Không lường”đây là nói các Bồ-tát có các thứ thần thông, trí tuệ, phóng quang, nói pháp để hóa độ mười phương không có hạn lượng, bảy thứ phương tiện cũng không lường được. “Đã quá lượng” là số lượng đông đảo của Thập địa Viên giáo hóa độ. Từ “Tập chúng pháp bảo…”trở xuống là nói tiến tu pháp hóa tha. Nói các Bồ-tát tuy công lao hóa độ rất lớn, nhưng chưa chứng được quả tột cùng, còn phải tiến tu pháp hóa tha, tức là bậc Đẳng giác ngàn vạn ức kiếp phải vào Trùng huyền môn để tu hạnh hóa tha. Trùng huyền môn, kinh Địa Trì ù nói: “Nhập vào, trụ khởi lực thiền, xả ra lại nhập vào lực thiền.” Nhập, là từ tâm phàm phu mà nhập vào tất cả pháp môn cho đến những địa trên. Khởi lực, tức là từ bậc Đẳng giác mà khởi nhập vào tất cả pháp môn. Trụ, tức là tùy trụ ở một pháp môn liền trụ tất cả pháp môn. Xả lại vào lực, là trăm ngàn vạn ức kiếp tu lại. Cho nên trong kinh Pháp Hoa ngài Di-lặc khen Bồ-tát ở hạ phương rằng: Khéo vào ra và trụ ở vô lượng trăm ngàn Tam-muội…”như người dẫn đường trên biển, là khi dẫn dắt mọi người vào biển tìm châu báu thì mọi người đều được báu, cũng là mình được. Bồ-tát vào biển sinh tử không phải chỉ khiến chúng sinh được báu vật Phật pháp mà công hóa độ người quy cho mình vào Trùng huyền môn, pháp lợi cũng rất nhiều. Nên kinh này nói: Không vào biển lớn thì sao có được bảo châu vô giá . Bồ-tát không vào biển cả phiền não thì không được ngọc báu Nhất thiết trí. Thấu suốt các pháp là khi vào Trùng huyền môn thì nội tuệ tăng tiến hiểu biết thấu suốt, là tên khác của trí. Các pháp tức là pháp của mười giới. Nghóa thâm diệu, tức là pháp mười pháp giới, hai đế, ba đế lý rất thâm sâu, nên gọi là sâu. Thấy ba đức không ngang không dọc nên gọi là diệu. Từ “Khéo biết… đến sở hành”, hai câu này là chính nói Bồ-tát trụ ở Trùng huyền môn, tiến thêm thì ngoại đạo thấy được căn duyên chúng sinh hóa độ. Các Bồ-tát này được chân Thiên nhãn thường ở trong Tam-muội, không dùng hai tướng để thấy các chúng sinh. Chết đây sinh kia gọi là vãng, chết kia sinh đây thì gọi là lai. Nói chỗ đến là biết rõ nhân của nghiệp duyên thiện ác mà có quả đến thọ sinh cái báo tốt xấu”. Và tâm sở hành, là dùng lực chủng trí biết rõ tập nhân đã làm đời trước. Ba thứ cỏ, hai thứ cây, một thứ đất sinh ra căn tánh không đồng. Ba thứ cỏ, hai thứ cây tức là bảy thứ phương tiện. Một thứ đất sinh ra tức căn duyên của Viên giáo. Trước nói dùng thuốc nay nói biết bệnh. Đã biết thuốc biết bệnh tức có thể theo bệnh mà cho thuốc. Cho nên biết trụ ở Trùng huyền môn thì đức hóa tha càng chuyển thêm sâu lớn. Từ “Gần bâïc Vô đẳng đẳng… trở đi là căn cứ ở gầnlân quả khen đức, có ba phần: Khen tự thành. Khen hóa tha. Giải thích chung. Phần một lại có hai: Khen Trí đức. Khen Đoạn đức. Phần a có hai: chung và riêng. Khen chung về Trí đức tự hành, tức gần trí tuệ của Phật không bậc nào bằng. Nói vô đẳng đẳng là Không ai ngang bằngvới mười phương chư Phật. Nay bằng chư Phật nên nói là vô đẳng đẳng. Xét theo lý, thì lý của thật tướng không thể ngang bằng, chỉ Phật chủng trí viên cực mới có thể bằng thật tướng, nên nói là vô đẳng đẳng. Lại nếu Sơ trụ của Viên giáo, tuy đã phát được chân kiến, lý đáng được pháp vô đẳng, nhưng cũng còn bốn mươi mốt phẩm vô minh cách Diệu giác còn xa, nên không gọi là ở gần quả “lân quả”. Căn cứ ở Phật và lý cũng không phải gần vô đẳng đâu được gần vô đẳng đẳng. Bồ-tát Kim cang tâm căn cứ ở Phật và lý đều gần nên nói gần vô đẳng, kiến lý đã viên mãn thì gọi là vô đẳng đẳng. Nếu xét theo giáo thì có thể biết. Mười Lực vô úy, mười tám bất cộng là khen riêng về trí đức tự hành như Đại Luận có giải thích: Phần này có hai: Nói Bồ-tát tự có vô úy bất cộng. Nói Bồ-tát được một phần Phật lực vô úy bất cộng. Bậc bổ xứ như trăng ngày mười bốn, còn Đức Phật như trăng ngày rằm, rất gần nhau. Nếu xét theo giáo, như Tam tạng giáo nói thập lực vô úy thì tên gọi là đồng Đại thừa. Luận Tỳ-đàm nói pháp bất cộng riêng lập tên gọi là giáo. Nên Đại Luận bác rằng: “Tên gọi Lực vô úy đã đồng Đại thừa thì pháp Bất cộng vì sao không được riêng lập?”. Nay chỉ dựa theo việc đoạn phục để phân biệt sự dị đồng mà danh nghóa không phương hại. Về Thông giáo y cứ theo chiếu hai đế, bát địa một phần được mười tám lực Vô úy đẳng nên nói là gần vô đẳng. Thập Địa thì như Phật nên gọi là vô đẳng đẳng. Sơ địa của biệt giáo một phần được mười Lực đẳng pháp nên gọi là gần vô đẳng. Còn Thập địa thì được mười Lực đẳng pháp nên gọi là vô đẳng đẳng. Về Viên giáo, bậc Sơ trụ trở lên một phần được Lực vô úy bất cộng đẳng pháp nên gọi là gần vô đẳng. Kinh Hoa Nghiêm nói: Sơ trụ là được thị xứ phi xứ … Thập lực trí của Như Lai. Nay lấy đến vị Đẳng giác cho đến gần vô đẳng là gần mười lực Vô úy của Phật vậy. Nhân dụng đã viên mãn tức vô đẳng đẳng, các giáo trước đều chẳng phải. Nói trí tuệ tự tại của Phật , tức trong trí tuệ Phật không có vô minh nhưng nên rốt ráo tự tại. Bồ-tát tuy có vô minh cũng như làn khói nhẹ sắp được Phật tuệ nên lấy đây mà khen. Phần b. Đóng chặt tất cả cửa ác thú, đây là khen đoạn đức trong tự hành. Cửa ác thú, “nẻo ác” ác thú tuy nhiều nhưng không ngoài hai thứ duyên tập. Tạng Thông thấy Không đóng chặt cửa có là ác thú, Biệt Viên thấy bất không đóng chặt cửa vô vi ác thú. Các Bồ-tát này thấy nguồn gốc Trung đạo mà đóng chặt tất cả các cửa có, không ác thú hoặc đây là ngợi khen việc hóa tha đóng chặt các cửa ác thú của chúng sinh. Từ “Mà sinh… đến phục hành” là phần hai khen về hóa tha. Nếu triển khai thêm Tu-la tức là Lục đạo. Nếu là Tam tạng giáo còn các kiết hoặc thì nguyện sinh hoặc dùng thần thông hiện thân ở năm đạo, “Trời, người, Địa ngục, Ngạ quỷ, súc sinh) ở cõi nhiễm tịnh mà giáo hóa chúng sinh. Thông giáo, thì Thất địa, kết nội giới đã hết nguyện chống đỡ các tập khí còn lại mà hiện thân ở năm đạo cũng dùng thần thông mà sinh Biệt Trụ trở lên và Viên trụ trở lên được một thân và vô lượng thân thanh tịnh diệu pháp thân rỗng suốt ứng với tất cả, tức là hai mươi lăm lực Tam-muội giúp sinh hai mươi lăm hữu vậy. Nay Bồ-tát ấy do từ thiện ngầm hun đúc tùy cơ ứng hiện vào năm đạo để độ sinh. Về nghóa luận thì cũng hiện thân vào các cõi ngoại giới để hóa độ chúng sinh ấy. “Làm Đại y vương khéo trị lành các bệnh của chúng sinh”, là đã sinh vào năm đạo, ắt có ý ở chỗ lợi vật trị bệnh cho chúng sinh. Đối Tiểu nói Đại. Bồ-tát của Ba giáo và hạ địa của Viên giáo đều là Tiểu. Sức trị bệnh của các Bồ-tát này có lực dụng gần như Phật, nên gọi là Đại y vương, trị các nghiệp bệnh bất thiện ở nội ngoại giới “trong ngoài tam giới”. Theo bệnh mà cho thuốc, tức là dùng bốn Tất-đàm nói bốn thứ pháp dược. Nay khiến được phục hành, tức là chúng sinh nghe pháp, đoạn bỏ các kết nội ngoại giới mà được Thánh đạo giải thoát, Đại Tiểu thừa. Từ “Vô lượng công đức… đến không luống uổng” là giải thích chung xác lập khen đức gần quả “vô lượng công đức đều thành tựu” là giải thích phần tự hành đã viên mãn. “Có vô lượng cõi Phật đều được nghiêm tịnh”, là giải thích việc hóa tha đã hoàn mãn. “Thấy nghe đều được lợi ích” là Pháp thân không phải sắc không phải thinh, tùy cảm mà thấy nghe ắy được lợi ích, làm cho được niềm vui thế gian và xuất thế gian. “Có các nương nhờ cũng không luống uổng”, tức là uổng phí bỏ đi, cũng là mất. Giải thích về tự hành, là tùy tâm sở hành tự nhiên khế lý, ắt thành tựu được nhân thù thắng, cảm được quả không mất, nên nói là Không luống uổng. Giải thích về hóa tha, là chúng sinh tuy không vào Đệ Nhất nghóa mà không mất ba Tất-đàn, hướng về sinh thiện phá ác được lợi ích và công hóa độ quy về mình cũng không luống uổng. “Như thế tất cả công đức đều đầy đủ” là tổng kết xác nhận phần khen Đức: như trên đã khen tất cả đều thành tựu. Nếu y cứ Nam Bắc mà trích cú phối với các địa thì đâu được tất cả đều đầy đủ. Một nhà giải thích lý tự ngầm hiểu. Lại có giải thích công đức của Bồ-tát vô lượng, biên không như trên đã khen chỉ mấy mươi câu đâu thể kể đủ. Từ “Tên gọi đó… xuống đến là Pháp vương tử là lập nhiều tên gọi làm chứng xác nhận hạng đồng nghe pháp. Tuy khen thắng đức mà không nêu tên thì chẳng biết là ai. Nên lược nêu ra năm mươi hai người để làm chứng cớ là tầng nghe pháp. Nếu y cứ theo bốn giáo thì việc trở thành rườm rà dài dòng. Nay tóm lược xét theo ba quán mà giải thích tên thì đủ biết đại khái đẳng là dùng hai quán nhập vào trung, tức là bình đẳng, nên gọi là đẳng quán. Bất đẳng là chỉ chiếu vào hai đế vô lượng khác biệt không là đẳng quán. đẳng bất đẳng, là chánh quán Trung đạo cùng chiếu cả hai đế. Vào trung, gọi là đẳng chiếu hai bất đẳng, thể dụng họp luận, gọi là đẳng bất đẳng. Cần phải dùng sáu tức thì không lộn xộn. Tất cả chúng sinh tức là thật tướng gọi là lý đẳng quán. Nghe tên thật tướng hiểu sâu lý đó, là danh tự đẳng quán. Nếu quán Trung đạo mà thấu suốt vô ngại tức là quán hạnh đẳng quán. Phát ra hiểu biết tương tợ tức là tương tợ đẳng quán. Nếu phát ra sáng suốt chân thật thì gọi là phần chứng đẳng quán. Cùng tột nguồn thật tướng gọi là cứu cánh đẳng quán. Nay thứ này chính là ngôi vị phần chứng gần với cứu cánh nên gọi là Đẳng quán. Không được nghe quán tâm tức thị mà lại càng hỗn loạn sinh Tăng thượng mạn thì làm Bồ-tát Chiên-đà-la. Nếu không nhận lời nói này tức là Không tin lời nói của các kinh Đại thừa liễu nghóa. Từ sau đây trở đi dưới mỗi mỗi tên đều thêm “Một tâm ba quán”, sau đó mới y theo văn. Như nói: Một tâm ba quán tức hay quán tâm tánh… Định tự tại vương là chủ thể quán tâm tánh gọi là thượng định, khi được thượng định này đối với tất cả pháp liền được tự tại như vua trên đời. Pháp Tự tại là chánh quán ba đế, tâm không trệ ngại, nên ở nơi pháp mười pháp giới mà được tự tại. Pháp tướng là quán pháp tướng ba đế của mười pháp giới. Quang minh là ánh sáng tuệ này có thể hiển bày thật tướng. Quang nghiêm là tâm trí sáng suốt để trang nghiêm pháp thân. Đại nghiêm là quán về tâm tánh, tánh nó rộng lớn cũng như hư không, dùng cảnh lớn trí lớn để trang nghiêm Pháp thân. Bảo Tích là quán tâm tuy Không mà đầy đủ muôn hạnh, các báu muôn hạnh chứa nhóm ở lý nên gọi là Bảo tích. Biện tích, là cùng pháp tánh tương ưng tức tích chứa đủ cả bốn biện . Bảo thủ, là quán tâm thành tựu liền đủ cả tay báu quyền thật hai trí. Bảo ấn thủ là quán thật tướng ấn. Ấn quán tay trí. Thường Cử Thủ, tức chính quán tâm ở trên tay mà cầu Phật quả. Thường Hạ Thủ, là tay quán trí dùng đại Từ vô duyên mà hóa độ chúng sinh. Thường Thảm, là trụ trong chánh quán, tâm thương xót chúng sinh. Hỷ căn, là được Như Lai tạng, tâm khắp mừng lớn. Hỷ vương, là được hỷ trung pháp sở nguyện được tự tại như vua ở đời. Biện âm, là phân biệt trong mười cõi các nơi chốn và tiếng nói khác nhau mà đều thấu suốt vô ngại. Hư không tạng, là quán về tâm tánh, cũng như hư không chứa nhóm các thứ, mới gọi là tạng. Chấp bảo cự, là quán đạo phẩm, đuốc báu chiếu sáng nguồn tâm. Bảo dõng là thấy các pháp báu thì đối với sinh tử ý luôn mạnh mẽ. Bảo kiến là quán thật tướng báu thấy tánh rõ ràng. Đế võng, ví như mắt lưới của Đế thích có vô lượng, chính quán ba đế đầy đủ vô lượng lưới các pháp để lưới lấy các phiền não và các chúng sinh. Minh võng, là chính quán tâm tánh, lưới trí và lưới ánh sáng lưới lấy các phiền não và các chúng sinh. Vô duyên quán, là quán tâm tánh, chân tu thì thể hiển sáng, không duyên không niệm, vắng lặng mà thường quán chiếu. Tuệ tích, là quán về thật tướng đầy đủ nhóm trí tuệ. Bảo thắng, là báu của chánh quán, là báu của phương tiện hơn hết. Thiên vương, là được Đệ nhất nghóa thiên, tự tại như vua. Hoại ma, là quán về tâm tánh luôn phá bỏ được tám ma hai biên. Lôi đức, là thấy Trung đạo nhanh chống, liền thành ba đức, như ban đêm thấy sấm chớp liền được thấy đường đi. Tự tại vương, là được tánh chân ngã, đối với tất cả pháp tự tại như vua. Công đức tướng nghiêm, là chính quán tâm tánh đủ tất cả pháp để trang nghiêm pháp thân. Sư tử hống, là được thấy Phật tánh hành tựu Sư tử hống Tam-muội. Lôi âm, là chánh quán tâm tánh Trung đạo, học rộng hạnh tốt như tiếng vang của sấm sét làm kinh sợ tất cả những loại trùng lạnh nhị biên. Sơn tướng kích âm, là như hai núi chạm nhau có tiếng vang truyền khắp bốn phương. Cảnh trí tương ưng sinh ra tiếng vang của bốn biện. Hương tượng, là Không có sự hôi độc của phiền não có khả năng dùng sức Từ mà gánh vác tất cả. Bạch hương tượng, là gốc pháp tánh vốn không đen xấu. Lý tịnh và trí tịnh, hương năm phần thân khởi các từ bi mà gánh vác tất cả như hương tượng trắng. Thường tinh tấn, là khi thấy được pháp tánh thường thành tựu vô tác chánh cần. Bất hưu tức, là quán không và bất không, không trụ vào hóa thành thiên không mà nghỉ ngơi . Diệu sinh, là đối với tâm tánh không sinh thì tất cả pháp cũng không sinh, mà Bát-nhã diệu sinh. Hoa nghiêm, là hoa nhân, phước tuệ trang nghiêm cho pháp thân. Quán thế âm, như Thỉnh Quán Âm có nói: quán ở tâm mạch khiến tưởng ở một chỗ liền thấy Đức Quán Thế Âm. Đắc Đại Thế Chí, chính lúc quán tâm tánh mà hàng phục các ma oán và ngoại đạo của nội ngoại giới . Phạm võng, là khi chánh quán Pháp võng thanh tịnh thì lưới được các phiền não và tất cả chúng sinh. Bảo Trượng, là đủ cả hai thứ phước tuệ đem làm gậy báu để sách tấn tiến đến quả Bồ-đề. Lại nói: Chúng sinh dựa vào gậy mà cầu vào Trung đạo. Vô thắng, là được trí tuệ thế xuất thế của pháp thật tướng không ai hơn nổi. Nghiêm độ, là tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Kim kế, là trí tuệ thật tướng sáng rõ như vàng. Kế “búi tóc”, là quyền trí dùng để trang nghiêm trên đầu tâm, nên gọi là Kim kế. Châu kế, tức là thật tướng trí tuệ, như vua Pháp Hoa mở lấy minh châu trong búi tóc đem cho. Người cho, là quyền trí. Di-lặc, là được Từ vô duyên gồm nhiếp tất cả. Văn-thù-sư-lợi, là nếu thấy Phật tánh liền đủ ba đức, không dọc không ngang, nên gọi là Diệu Đức… Như thế… các Bồ-tát tùy quán mà đặt tên để dẫn dắt mọi người quy tâm. Một người đều đủ tất cả quán môn, danh tự thông nhau, tức là chữ đồng, lời đồng, thân đồng, pháp đồng… Hiểu như thế, tức ở trong tâm quán mà thấy các Phật, Bồ-tát. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Nếu có người tin lời các ông nói thì là thấy Ta cũng thấy các ông, Tỳ-kheo Tăng và các Bồ-tát”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Mười phương các Như Lai đồng cùng một pháp thân, một kiến, một trí tuệ, lực vô úy cũng thế. Cho nên chư Phật và Bồ-tát đều căn cứ ở quán tâm mà nói. Hỏi: Phàm phu quán tâm sao được dùng nghóa giải thích về Phật và Bồ-tát? Đáp: Kinh này có nói: Giải thoát của chư Phật phải tìm cầu trong tâm hành của chúng sinh, nếu chấp chặt danh tự lìa bỏ tâm mà cầu giải thoát của chư Phật và Bồ-tát thì có thể nói đó như ôm đá nhảy xuống vực sâu, đi chơi đêm mà bỏ đuốc. “Như thế… Ba vạn hai ngàn người”, là đoạn lớn thứ năm kết số chúng. Hỏi: Các Bồ-tát này nhất định đều là vị Thập địa Đẳng giác chăng? Đáp: Các Luận sư Bắc phương nói từ Sơ địa đến Thập địa. Còn các Sư ở phương Nam thì nói là Bát, Cửu và Thập địa. Lại có Sư theo như Đại phẩm mà nói đều là bậc Bổ xứ. Nay nói không phải thế. Trước đã nói về bổn tích cao thấp chẳng thể lường thì sao cần phải phán quyết là nhất định?  DUY-MA KINH LƯỢC SỚ <卷>QUYỂN 2 PHẨM: PHẬT QUỐC (Phần 2) Từ: Lại có một vạn Phạm thiên… là luận về tạp chúng chứng thành nghóa không sai. Trong đây có đủ Phàm Thánh Đại, Tiểu thừa nên gọi là tạp. Đây có quyền thật. Thật là tùy nghiệp mà sinh. Nếu Pháp thân trụ ở hai mươi lăm Tam-muội để ứng hiện thọ sinh thì gọi là quyền. Nên văn trên có khen Bồ-tát rằng: “Mà ứng hiện thân mình sinh vào năm đạo.” Lại đoạn văn dưới có nói: “Chúng sinh bệnh thì Bồ-tát bệnh”. Đây là chư Thiên… dự tòa nghe kinh. Nay ở Đại kinh phụ mở ra bốn trường hợp: Kinh ấy nói: Đối với người giới chậm không gọi là chậm, đối với người thừa chậm mới gọi là chậm. Giải thích điều này có nhiều cách, nay chỉ lấy nghóa tiện dụng với văn kinh mà nêu bốn trường hợp: Giới thừa đều gấp. Giới chậm thừa gấp. Giới gấp thừa chậm. Thừa giới đều chậm. Nếu luận chung giới và thừa thì tất cả pháp lành, tất cả quán hạnh đều coi chung là thừa giới. Nay lấy riêng mà xét thì tam quy, ngũ giới, thập thiện, bát quan trai, luật nghi xuất gia… cho đến định cộng để ngăn thân, khẩu, ngừa quả ác đạo, để được báo trời, người thì gọi là giới. Nếu nghe kinh mà hiểu, nếu quán trí suy tìm Tứ đế, mười hai Nhân duyên, mà sinh lý vô sinh, trí luôn phá các hoặc, thoát khỏi ba cõi… thì gọi là thừa. Nên trong Đại phẩm có nói: “Thiện có hình tướng không động không xuất, thiện không hình tướng thường động thường xuất”. Nhưng giới có thô tế, thừa có lớn nhỏ. Nay phân làm hai: Giải thích huyền nghóa. Giải thích văn. GIẢI THÍCH HUYỀN NGHÓA có bảy: Gặp Phật không đồng. Tín pháp căn tánh. Căn tánh đại tiểu. Căn tánh đốn tiệm. Ứng tích đồng phàm. Quán tâm. Hóa tha. Giới thừa chậm gấp gặp Phật không đồng. Giải thích bốn trường hợp trước: Giới thừa đều gấp: Giới gấp thì thọ báo cõi trời, người, thừa gấp thì gặp Phật đắc đạo. Tức số trời, người đến hội ở kinh này. Giới chậm thừa gấp: Giới chậm thì sinh vào ba đường ác. Thừa gấp thì gặp Phật đắc đạo. Chính nay là Long, thần… cùng đến nghe pháp. Cho đến khi nói Phương đẳng Đà-la-ni. Bà Tẩu từ địa ngục ra đem các tội nhân cùng đến nghe pháp. Lại các ngạ quỷ cũng đến nghe pháp. Khi nói Đại kinh thì các quỷ thần… cùng đến tập họp. Lại khi nói Đại phẩm thì Phật phóng quang chiếu xuống địa ngục, các người bỏ báo thân thọ sinh ở sáu tầng trời cõi Dục đều xuống nghe pháp… đều là người trước kia giới chậm thừa gấp. Hỏi: Ở ba ác đạo vì sao lại được đạo? Đáp: Số ít là Không được chứ không phải đều không được. Trong Đại luận có nói: Như thân có nốt ruồi đen, tuy không phải là người đen nhưng không phải Không đen. Giới gấp thừa chậm: Giới gấp là được thân làm trời, người. Thừa chậm là Không được gặp Phật. Dù có gặp Phật cũng không được nghe kinh vào đạo. Như ở nước Xá-vệ có ba ức người không thấy Phật, ba ức người thấy mà không nghe pháp. Lại ở cõi trên số chư Thiên đắm mê dục lạc không đến nghe pháp… đều là việc này. Trọn thời gian Phật hoằng pháp sao rơi như mưa, nhưng cả cõi này không thấy không nghe cũng là nghóa đó. Giới thừa đều chậm: Giới chậm thì đọa vào tam đồ, thừa chậm thì không gặp Phật, luôn lưu chuyển trong sinh tử không có bến bờ. Hai hạnh không đồng tức là tín và pháp: Do tin mà làm, tức do văn tuệ huân tập mà thành, đều do ở quá khứ là người học rộng, thọ trì đọc tụng, nghe pháp. Do pháp mà làm, tức do tu tuệ huân tập mà thành, tức ở quá khứ là người thiền quán. Hai hạng người này đều đủ giới thừa bốn trường hợp theo trên mà suy ra. Nhưng trong hai hạng người này lợi độn có khác. Về lợi thì ít học nhưng lại thường quán sát mà thấu suốt, hai hạng người này… ắt hẳn cầu thỉnh pháp thiện. Căn tánh đại tiểu không đồng. Lại căn cứ tín và pháp thì mỗi thứ đều có đại tiểu. Nói tín hành Đại thừa, xưa nghe học Đại thừa, giới thừa đều gấp. Giới gấp thì sinh làm trời, người, thừa gấp thì lại được nghe Đại thừa. Còn ba trường hợp kia suy theo trước. Tín hành Tiểu thừa, xưa nghe học Tiểu thừa, giới thừa đều gấp. Giới gấp thì sinh làm trời, người, thừa gấp thì lại được nghe Tiểu thừa, ba trường hợp kia nên biết. Sau tiếp nói về pháp hành Đại, Tiểu thừa, giới thừa có bốn trường hợp như trên nên biết và chỉ riêng lợi độn là có khác. Căn tánh đốn tiệm, có hai: Đốn đại, tiệm đại. Đốn đại lại có hai là tín và pháp. Nói về căn tánh đốn của tín hành Đại thừa. Lúc xưa nghe Đại thừa, thọ trì đọc tụng giảng nói biên chép… Nếu thừa giới đều gấp thì sinh làm trời, người, dùng thân Đế Thích, Phạm thiên mà gặp Phật-xá- na ở bảy xứ chín hội. Thí như mặt trời mới mọc trước chiếu lên các núi cao. Nếu giới chậm thừa gấp thì đọa vào ba ác đạo, lấy thân rồng, quỷ, tu-la các thần mưa gió đối với Xá-na mà nghe pháp và đạo. Nếu giới gấp thừa chậm thì tuy ở cõi lành mà không nghe nói đốn thừa. Nếu thừa giới đều chậm thì đọa vào ba đường ác không thấy Phật, không nghe pháp. Nói về căn tánh đốn Đại thừa pháp hành: Ở quá khứ học Đại thừa tu một tâm ba quán. Nếu giới thừa chậm gấp thì có bốn trường hợp như loại tín hành trên nên biết. Riêng lợi độn có khác chút ít. Nói về căn tánh tiệm đại tín pháp. Tín hành căn tánh tiệm: Đã không có đốn cơ thì ắt không dự nghe thuyết giảng ở xứ hội Hoa nghiêm, lại có Tiệm cơ thì được nghe Tạng… bốn vị. Giới thừa đều có bốn trường hợp như trước có thể biết. Đây như Đại kinh nói nghe tiếng trống độc gần xa đều chết. Gần thì như người nghe Hoa nghiêm liền tin nhận nhập vào Như Lai tuệ. Xa thì tức như người tiệm ngộ căn duyên. Trước tu Nhị thừa xa lìa Phật đạo, kế nghe Phương đẳng Bát-nhã đến Pháp Hoa Niết-bàn thì vì Như Lai diệt độ nên đều diệt độ cả. Năm vị tương sinh là ý này vậy. Nay ở pháp tòa này mà có bát bộ cùng nghe tức là hàng giới thừa đều gấp hoặc giới chậm thừa gấp. Nói về căn duyên tín pháp đại tiểu tiệm đốn. Hỏi: Hàng giới gấp thừa chậm và giới thừa đều chậm thì làm sao được đắt đạo? Đáp: Được gặp Phật là nhân duyên đều gấp. Nếu không gặp Phật mà sinh trong đời chánh, tượng pháp thì cũng là duyên đều gấp. Cho nên Đức Như Lai di chúc khiến nương vào Mộc-xoa Niệm xứ mà tu đạo. Lại phó chúc lưu thông giáo pháp, thì đều là tạo nhân duyên tín hành giới thừa đều gấp. Hỏi: Nếu chỉ tạo nhân duyên đều gấp, sao lại còn có căn duyên giới chậm thừa gấp? Đáp: Chư Phật, Như Lai dùng đạo an ẩn làm nhân duyên, chỉ vì chúng sinh tội cấu sâu nặng, mà tu thiền quán hạnh không thể tịnh trì cấm giới đến nổi thành duyên giới chậm thừa gấp. Tuy loại giới chậm phải đọa ba đường ác, nếu gặp được Di-lặc và ngàn Phật, nghe pháp Tiệm đốn liền được vào đạo. Đại kinh có nói: “Ở giới chậm không gọi là chậm, chỉ có thừa chậm mới gọi là chậm.” Thừa chậm giới gấp tuy sinh làm trời, người nhưng không gặp Phật nghe pháp. Nếu hết quả báo sẽ lưu chuyển mãi trong sinh tử. Cho nên nói thà làm Điều-đạt mà chết vào địa ngục chứ không làm Lam-phất mà sinh lên trời thọ vui. Điều- đạt vốn được pháp chậm, do ác nghiệp mà bị đọa vào địa ngục, khi ra làm thân người sẽ là Bích-chi-Phật, thông minh lợi trí hơn ngài Xá-lợi- phất. Còn Uất-đầu-lam-phất tuy được sinh lên trời, khi phước báo hết, phải đọa vào tam đồ lưu chuyển sinh tử chưa biết bến bờ. Bồ-tát ứng thân. Vì để tiếp dẫn những kẻ có duyên được thấy Phật nghe pháp nên trụ vào hai mươi lăm Tam-muội, hiện thân thọ bốn đường ác ở hai mươi lăm hữu, đó là bậc Vô cấu bất thoái tâm lạc hoan hỷ. Dùng bốn thứ Tam-muội Từ thiện căn lực để tiếp dẫn kẻ căn tánh giới chậm thừa gấp tín pháp đại tiểu đốn tiệm về nghe giáo Đốn tiệm khiến được vào đạo. Nếu kẻ đều chậm thì khiến tạo duyên đều gấp. Kẻ trụ vào như huyễn… hai mươi lăm thứ Tam-muội dùng Từ thiện căn lực mà thọ thân người trời để tiếp dẫn các chúng sinh giới thừa đều gấp tín pháp đại tiểu đốn tiệm, giúp họ nghe giáo đốn tiệm để được vào đạo. Cũng vì hạng giới gấp thừa chậm mà tạo duyên đều gấp. Nay trong pháp tòa này tám bộ bốn chúng có kẻ là pháp thân Bồ-tát hiện thân ấy chính là nghóa này. Căn cứ theo quán tâm. Nếu người quán hạnh là Đại hay Tiểu thừa, Thừa giới có bốn trường hợp thọ thân nào, thì được thấy Đức Di- lặc và nghe những pháp nào, hoặc không thấy không nghe không được vào đạo, được vào đạo hay không có thể biết. Hoặc không tu thiền quán đọc tụng thuyết pháp tức thành tín hành có giới gấp thừa chậm thì được đạo hay không có thể biết. Về hóa tha. Nếu người quán hạnh giảng nói phải tự xét tâm hành dùng bốn ý này mà phân biệt được vào đạo hay không, liền thấy người được hóa độ các hạnh nghiệp không giống nhau, ở đời vị lai lên xuống đều biết rõ ràng, phải lấy ý này mà dẫn dắt hóa độ. <詞>GIẢI THÍCH VĂN KINH Phần tạp chúng có bốn: Phạm thiên. Đế Thích. Bát bộ. Bốn Bộ chúng. Một vạn Phạm thiên vương: Phạm là tiếng Tây Vực, dịch là Ly dục hoặc gọi là Tịnh hạnh. Phạm Vương là chúa cõi Ta-bà ở khoảng Sơ thiền. Tỳ-đàm nói: Từ Nhị thiền trở lên không có nói năng nên không lập vua. Kinh Anh Lạc nói mỗi cõi thiền đều có Phạm vương. Nay bảo là do tu nhiều Vô lượng tâm có quả báo hơn cả nên được làm vua không có thống trị. Ở cõi Sơ thiền có giác quán và nói năng, ắt có vua chúa thống lãnh nên có vua ngự trị ở đời. Đây do xưa được giới thừa đều gấp nên lãnh chúng Sơ thiền đến nghe pháp. Nếu ứng hiện thân thì trụ ở Bạch sắc Tam-muội và các thứ Tam-muội có sức huân tập mà sinh cõi Sơ thiền, dẫn Phạm chúng đến nghe pháp. Thi khí, đây gọi là Hỏa hay Hỏa Thủ, lại nói là bầu tóc, vì nhục kế giống như quả bầu. Xem phần tựa Pháp Hoa thì e đó là vua trời Nhị thiền. Nói vân vân “v.v…” là luôn cả Tam và Tứ thiền. Nếu hiện thân, là cả hai thứ tiếng sấm và nước mưa ba thứ Tam-muội dẫn các Phạm chúng đến. Hỏi: Vì sao từ các bốn thiên hạ khác đến? Đáp: Các cõi trên ở giữa hư không chỗ đến khó biết, lấy dưới định trên nên nói từ các tứ thiên hạ khác đến, lại có mặt ở tòa giảng. Tiếp mới nói chúng Đế Thích. Chúa trời Địa cư, gọi là Thích Đề- hoàn Nhân, Hán dịch là Năng tác. Nói về Đế Thích là khi xưa, lúc Phật Ca-diếp đã diệt độ, có người nữ phát tâm tu sửa tháp Phật ấy, lại có ba mươi hai người cũng phát tâm trợ giúp việc tu sửa. Do công đức sửa tháp vị nữ ấy làm vua trời Đao-lợi, các người trợ giúp kia trở thành các quan phụ tá. Họp vua tôi lại thành ba mươi ba vị chúa trời, vì thừa gấp nên đồng đến nghe pháp. Nếu hiện thân thì vua tôi đều là sức nan phục Tam-muội để sinh lên cõi ấy. Nên dẫn những kẻ ham mê dục lạc cùng đến nghe pháp. Nói “theo các trời khác”, trong một tứ thiên hạ chỉ có một Thiên đế. Đã có một vạn hai ngàn nên nói từ các tứ thiên hạ khác đến. Hỏi: Các trời trội hơn rất nhiều, vì sao chỉ nêu riêng Phạm vương Đế Thích? Đáp: Phạm vương là trời chủ thế giới , Đế Thích là chúa trời Địa cư đều là chủ việc thỉnh Phật chuyển pháp luân, Lại đều là đàn-việt của Phật, nên nêu ra trước để làm chứng cứ cho kinh. Cùng các người khác đến hội tòa là phần nói chúng Bát bộ. Nghóa của Bát bộ có nhiều liên hệ, nay lược xét văn mà giải thích. Đại oai lực, là thấy suốt cả tám bộ. Văn trên chỉ nói Phạm thích nay lại nêu chung cả năm cõi trời Dục giới và năm trời Na-hàm trong Tứ thiền, mỗi nơi đều có vua và quyến thuộc cùng đến nghe pháp. Nếu quyền hiện thân sinh vào các trời này thì trụ vào Bất động Tam-muội, sinh vào cõi trời Tứ thiên vương. Nếu thích ý thì sinh cõi Viêm-ma, sắc xanh thì sinh cõi Đâu-suất, sắc vàng thì sinh cõi Hóa lạc, sắc đỏ thì sinh cõi Tha hóa, chiếu gương sáng thì sinh cõi Na-hàm… đều dẫn các trời đến nghe pháp. Hỏi: Trời Vô tưởng vô sắc vì sao không đến? Đáp: Vô tưởng là trời ngoại đạo. Bồ-tát trụ Hư không Tam-muôïi cũng sinh vào cõi ấy, theo số đông mà luận thì hàng giới gấp thừa chậm phần nhiều không đến. Bốn cõi trời Vô sắc Bồ-tát trụ vào Vô ngại Tam- muội thì sinh vào Không xứ, Thường thì sinh vào thức xứ, Lạc thì sinh vào bất dụng xứ, Ngã thì sinh vào Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, chỉ các cõi trời Vô sắc ấy không đến nghe pháp. Giả sử có đến cũng không thấy, nên không thể làm chứng. Những cõi trời này chưa nói đến nên lập lại là chư Thiên. Về Long “rồng) là loài súc sinh, chánh báo có thân giống rắn, y báo có cung điện bảy báu giống trời, cũng có thể biến thành hình người đẹp đẽ, do giới chậm thừa gấp nên thế. Cũng như Tỳ-kheo Tăng Hộ nói pháp cho bốn rồng nghe rồi liền ngộ. Thần Dạ-xoa đều là loài quỷ. Dạ-xoa, Hán dịch là Khinh tật “đi nhanh) có ba loại: Loại ở trên đất, loại ở trên không, loại hầu hạ các trời. Vì phá giới nên đọa làm loài Quỷ thần, vì độc ác nên làm thân Dạ- xoa. Do xưa tu thừa gấp nên được thấy Phật nghe pháp. Vì ít bố thí nên được quả báo nhỏ, bố thí xe ngựa nên bay được trên không. Càn-thát-bà, Hán dịch là Hương ấm, đây cũng là loại thần bay trên không, không ăn rượu thịt, chỉ cần mùi hương nuôi thân. Lại gọi là Thần âm nhạc của vua trời, ở núi Thập bảo, có thân đen đúa, thường tấu nhạc trời, do xưa ham nghe kỷ nhạc. Vì giới chậm nên đọa làm Thần, vì bố thí nên quả báo giống trời. A-tu-la, xưa gọi là Không rượu hoặc gọi thân lớn, vì nhặt hoa biển trong bốn thiên hạ gầy rượu không thành nên gọi là Không rượu. Lại nói là phi thiên. Quả báo của Thần này trội nhất trong các Thần, chỉ kém trời mà không phải trời. Lại gọi là Không đoan chánh, chỉ có thân nữ chỉ là đẹp tuyệt luân còn bà con đều xấu nên gọi là Không đoan chánh. Lại nói trai xấu gái đẹp. Do xưa ghen ghét não hại người khác nên luôn bị sợ hãi. Ca-lầu-la, Hán dịch là Kim sí điểu “chim cánh vàng”, thuộc loài súc sinh, do kiêu mạn nhiều bị đọa, do bố thí mà trên cổ có châu Như ý, bắt rồng ăn thịt. Về quyền thì kinh Hoa Nghiêm nói: Pháp thân Kim sí điểu Bốn Như ý làm chân từ bi làm mắt sáng Đậu cây Nhất thiết trí Bồ-tát vua Kim sí Trong biển sinh tử lớn Tóm lấy trời, người, rồng Đặt lên bờ Niết-bàn. Đây là trụ bất thoái Tam-muội Kim sí pháp môn. Nên biết pháp thân trụ các Tam-muội, Long thần, Tu-la… đều có pháp môn. Giống như Kim sí nên biết. Khẩn-na-la, Hán dịch là Nghi thần, trên đầu có sừng là Thần nhạc của chư Thiên, có quả báo thấp kém hơn Càn-thát-bà. Vì ham thích âm nhạc nên sinh vào loài Quỷ thần làm Thần âm nhạc. Vì tu ít công đức nên quả báo nhỏ. Bồ-tát trụ Tâm lạc Tam-muội, nên lực kém mà sinh làm loài này. Ma-hầu-la-già, tức Rắn thần, cũng gọi là Địa long, là Thần không chân bò bằng bụng. Tức là miếu thần ở thế gian nhận rượu thịt của người đều vào bụng rắn mãng xà. Do phá giới tà nịnh và nhiều giận dữ, ít bố thí, ham rượu thịt, Giới chậm mà đọa làm Quỷ thần. Vì sân nhiều mà các loài trùng chui vào thân ăn hút. Do xưa ít bố thí nhưng khiêm kính nên được người cúng dường, vì thừa gấp nên gặp Phật nghe pháp. Từ trên đều là thừa giới đều gấp và giới chậm thừa gấp, nên đến nghe pháp, do đó ở đầu kinh đều có Bát bộ. Bát bộ mỗi mỗi đều ước nói người có căn duyên tín pháp đại tiểu đốn tiệm suy theo trước mà biết. Các Tỳ-kheo đến hội tòa là phần bốn nói về bốn chúng. Tên Tỳ- kheo gồm ba nghóa như trước đã giải thích. Ni là người nữ. Kinh xưa nói trừ cận nam, trừ cận nữ hay Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Hán dịch là thanh tín só, thanh tín nữ, cũng gọi là thiện túc nam, thiện túc nữ. Tuy ở tại gia giữ năm giới, nhưng nam nữ không ngủ chung qua đêm nên gọi là Thiện túc. Điều giải thích này chưa thể coi là nhất định. Đây đều là giới thừa đều gấp. Giới gấp vì sinh vào loài người, thừa gấp nên được gặp Phật nghe pháp làm đệ tử. Hỏi: Bốn chúng đều là giới thừa đều gấp vì sao lại có tại gia xuất gia? Đáp: Do ham và chán không đồng. Tuy đều ưa thích Phật pháp, nhưng có người thích cạo tóc đắp y vào đạo, có người thích mặc áo trắng không chán, nên không đồng nhau. Bồ-tát nhập vào bốn thứ Tam-muội Nhật quang, Nguyệt quang, Như huyễn, Nhiệt viêm mà sinh vào tứ thiên hạ làm bốn chúng đệ tử, đây là dẫn các phàm phu nghe pháp vào đạo. Từ “Khi ấy Phật… đến hết lời kệ thất ngôn” là tựa riêng. Các điềm lành thứ tự hiện ra là biểu thị muốn nói kinh này, nên tướng hiện ra không giống các kinh khác. Đây có hai phần: Từ “Lúc ấy Phật cùng… đến hết phần trường hàng” là tựa phát khởi. Từ “trưởng giả tử… đến hết kệ” là tựa tự thuật. Tựa phát khởi: là hiện tướng riêng biểu thị muốn nói kinh này nhưng dùng tướng biểu hiện làm nghóa nên hiện ra ba điềm lành để biểu thị ý muốn nói về ba đức pháp thân, ba thứ Tịnh độ. Hiện thân tôn quý vòi vọi là biểu thị muốn nói cái thể chân tánh giải thoát pháp thân, cũng biểu thị muốn nói về cảnh tánh Tịnh chân thật, còn nước Thường tịch quang. Còn Trưởng giả hiến tặng năm trăm lọng báu, Đức Phật dùng oai thần hợp thành một lọng là biểu thị ý muốn nói các nhân đã tròn đủ cùng hợp thành một Viên báo pháp thân viên mãn thật tuệ giải thoát, cũng biểu thị muốn nói về cõi nước Thật báo Viên tịnh . Là hiện ba ngàn cõi nước chư Phật đang nói pháp đều hiện ra trong lọng. Đây là vô phương đại dụng biểu thị muốn nói phương tiện giải thoát Ứng thân, cũng muốn nói là phương tiện ứng độ. Hỏi: Sao biết được khi hiện thân cao quý là biểu thị muốn nói chân tánh Bất tư nghị pháp thân giải thoát ? Đáp: Đại phẩm nói: Thân tôn quý, lấy núi Tu-di soi mình xuống biển làm dụ, vì các núi khác không sánh kịp. Kinh này cũng thế. Lại nữa, kinh Pháp Hoa nói: Trưởng giả ở trong một thành oai đức tôn quý, kẻ cùng tử kinh sợ lánh mặt. Đây là Như Lai thị hiện thân tôn quý nói kinh Hoa Nghiêm, kẻ có căn cơ Tiểu thừa không kham nổi thế nên bỏ trốn xa. Ông liền cởi chuỗi anh lạc mặc áo xấu, đây là làm thân Tỳ- kheo già định nói Tam tạng giáo. Từ đó về sau tâm tướng thể tín ra vào Không khó, ra thì hiện thân áo xấu, vào thì hiện tướng oai đức, tức là hiện thân tôn quý nói giáo Phương đẳng. Trong nhà trưởng giả hiện thân oai đức khiến kẻ cùng tử hiểu biết gia nghiệp. Đó là hiện thân tôn quý tốt đẹp, chuyển dạy Bát-nhã cho các Bồ-tát. Lại ở trong nhà tập hợp các quốc vương đại thần định rõ thiên tánh cha con: “Ngươi thật là con ta, ta thật là cha ngươi”. Tức là kinh Pháp Hoa hiện thân tôn quý lúc thọ ký cho các Thanh văn. Lúc mới gặp thì luôn lánh xa, sau ra vào Không khó khăn, kế đó biết các vật rồi định tính cách cha con… gồm bốn phen hiện thân trưởng giả tôn quý có đeo chuỗi ngọc anh lạc làm đẹp đều là dụ cho Đức Thích-ca hiện thân tôn quý có ánh sáng rực rỡ vô lượng, biên không đều là biểu thị ý muốn nói thật tướng pháp thân giáo Phương đẳng này, vào ra không khó khăn, tuy thấy xuất phát từ Thảo am mặc áo xấu. Trưởng giả khi vào nhà cũng hiện thân có chuỗi anh lạc, anh lạc chính là trưởng giả. Nay là Phật cùng vô lượng đại chúng cung kính vây quanh là hiện thân tôn quý. Hỏi: Sao biết hiện thân tôn quý là biểu thị muốn nói pháp thân. Đáp: Kinh Pháp Hoa nói: “Ta dùng tướng thân đẹp, ánh sáng chiếu thế gian, vô lượng chúng tôn kính , vì nói ấn thật tướng.” Đại Phẩm kinh cũng nói: “Các pháp thật tướng tức là Phật.” Hỏi: Sao được biểu hiện Tịch quang tịnh độ? Đáp: Kinh này đã lấy Phật quốc làm tông chỉ, há không là biểu hiện cõi Tịnh cảnh? Pháp thân tức cõi nước, lìa thân không có cõi nước. Cõi nước tức pháp thân, lìa cõi nước không có thân. Chỉ có Chân như thật tướng không phải trí không phải cảnh mà nói trí nói cảnh. Không phải thân không phải cõi mà nói thân nói cõi. Đã biểu hiện thân tức biểu hiện cõi. Nên Kim Cang Luận có nói: Trí tập duy thức thông Như thế lấy Tịnh độ Không hình, đệ nhất thể Không trang mà nghiêm trang. Còn kinh này thì nói: “Tùy tâm tịnh thì cõi Phật tịnh.” Vậy biểu thị nói Thật tướng chân tâm lẽ nào đâu chẳng phải là nói cõi nước Thường tịch quang? Nhưng nghóa biểu hiện thân là chung, chung với kinh, phổ tập, nghóa biểu hiện cõi nước là riêng, riêng biểu hiện riêng Phật quốc. Hỏi: Hợp lộng và hiện cõi nước sao được biết là biểu thị cho thân và cõi nước Báo ứng? Đáp: Năm trăm cái lọng nhỏ hợp thành một lọng lớn há không phải là biểu thị các nhân hợp thành một quả. Một quả tức là Viên báo pháp thân viên mãn mà có thân tức là có cõi nước. Nên Văn kinh nói: khi Bồ-tát tu các hạnh bố thí… thành Phật chúng sinh như thế thì sinh vào cõi nước ấy. Hỏi: Đây là nói Ứng thân thành đạo, đâu được chứng minh là Báo độ? Đáp: Do Báo thân thành thì có ứng thân và ứng độ thành. Căn cứ Tựa Phát khởi có hai: Như Lai hiện thân. Trưởng giả hiến lọng. Phần một, lại có ba: Phật nói pháp. Nói thí dụ. Hợp thí dụ mà nói. Lúc đó Đức Phật cùng vô lượng đại chúng, chúng có bốn loại: Chúng phát khởi, như các vị Bảo Tích, Văn-thù, Di-lặc… Phát khởi cho nhau. Chúng ảnh hưởng, là pháp thân Bồ-tát ở cõi này cùng các cõi khác hiện thân làm Bát bộ và tứ chúng… Chúng Đương cơ, tức chúng nghe kinh được lợi ích như năm trăm Bát bộ và bốn chúng… đều là giới thừa đều gấp và giới chậm thừa gấp. Chúng kết duyên, là giúp chúng ở vị lai được giải ngộ do tu tiệm, đó là Bát bộ, bốn chúng thuộc giới gấp thừa chậm và giới thừa đều chậm. Nhóm bốn chúng này gồm chung tất cả chúng. Cung kính là nói cơ thiện bên trong phát sinh. Vây quanh, là như bốn cửa thành cùng vào gặp vua, biểu thị cho bốn môn cơ động tùy giáo của Phật chuyễn hóa mà được thấy chân tánh giải thoát pháp thân. Vì nói pháp cho nghe, câu này xưa Sư Quang Thượng Thống hỏi Trường Nhó Tam tạng giáo rằng Đức Phật khi ấy nói cho vô lượng đại chúng những pháp gì? Đáp: Nói kinh Phổ Tập tức thuộc giáo Phương đẳng. Do đó mà nay làm tựa cho kinh này. Kinh ấy nói Chánh báo nhân quả, nay nói Y báo nhân quả. Do Chánh mới có Y nên được làm tựa, giống như trước nói kinh Vô Lượng Nghóa kế nói kinh Pháp Hoa. Từ “Ví như…” đến “biển cả”: Nêu hai thí dụ. Núi Tu-di, Hán dịch là An minh cũng gọi là Diệu cao. Đâu những Diệu cao mà cũng là Diệu đại. Vì cũng như thân thật báo tôn quý của Phật trên cùng có thật tướng đảnh nên nói là Diệu cao. Công đức trí tuệ đầy khắp thế giới nên gọi là Diệu đại. Hiển bày ở biển cả tức hiển bày tòa này nói về bốn môn thiện căn của bốn chúng có duyên, cũng là hiển thị biển sinh tử của tất cả chúng sinh như núi cắm sâu trong biển xanh mà vượt ra khỏi mặt biển. Phật không trụ ở sinh tử cũng không bỏ sinh tử, không trụ như núi vượt cao không bỏ như bóng hiện trên biển cả. Như nước biển không phải có bốn màu mà do bóng núi hiện ra nên có bốn màu. Đây là nói tâm chúng sinh không phải có bốn môn, Phật dùng Tất-đàn phương tiện mà nói có bốn môn khiến họ mất đi tâm ác; hiểu bản tướng là đồng với bốn môn lại không thể hiểu khác được. Từ “An xứ…” “đến đại chúng” là , hợp thí dụ. Báu là chỉ cho lý pháp tánh vạn thiện. Tòa vô úy là các pháp “Không chính là tòa vạn thiện vô úy “Không”. Thân tướng vòi vọi tương xứng với tòa là ví thật tuệ vi diệu tương ưng với lý không vạn thiện vô úy, “không”đây là hợp dụ núi Tu-di. Che phủ đại chúng, là nói đại giáo che các hiểu biết sai lầm “Vọng giải) đồng với chân giải, che các tà tiểu hiểu bốn môn đồng với thành bốn môn của Đại thừa, đây là hợp bày về thí dụ biển cả. Từ “Bấy giờ… trở đi” là nói về con trưởng giả hiến lọng, có ba phần: Trước nói nguyên do biểu phát. Như Lai hợp lộng hiện tướng lành. Đại chúng thấy tướng lành đều hoan hỷ. Năm trăm lọng hợp thành một lọng, là biểu thị từ ở trong nhân hướng về Phật quả thành vô duyên, tức biểu thị cho báo, pháp thân viên mãn, cũng biểu thị cho Y báo tịnh quốc. Chính là biểu thị kinh này lấy nhân quả Phật quốc làm gốc. Trong lọng hiện ra tất cả cõi nước là biểu thị quả địa Tịnh độ hiện ra tất cả ứng độ, tức là biểu thị cho lực dụng của kinh này. Lại hiện ra mười phương chư Phật nói pháp, là biểu thị ở ứng độ ắt có ứng Phật làm hóa chủ. Đại chúng hoan hỷ tức là nghe bất tư nghị giải thoát. Căn cơ Phật quốc đã phát ắt thấm nhuần được lợi ích Đại thừa, người dự nghe đều hoan hỷ. Cho nên biết hiện tướng bí mật là biểu thị phát khởi kinh này, do đó mà làm tựa riêng. Phần hai, Trưởng giả làm nguyên do phát khởi nên hiến lọng. Có ba phần: Đồng loại cùng đến. Chí thành, cung kính. Dâng lọng. Tỳ-dá-ly, đã giải thích đầy đủ ở trước. Thành là chỉ cho Niết- bàn. Nên kinh Hoa Nghiêm nói: Bạch tịnh pháp làm thành, quán tuệ làm tường vách, vô thượng trí làm lầu gác, tàm quý làm hào sâu, ba môn “không”giải thoát chánh niệm làm phòng hộ, bốn đạo làm đường chánh du hành ra khỏi tam giới, tạo lập Vô thượng pháp tràng để trừ diệt tất cả ma. Nay nói tánh tịnh Niết-bàn như thành trì. Không phải trưởng giả không phải Như Lai cùng ở trong thành ấy. Vì nhân mà xưng là con, vì quả mà xưng là Phật tánh không phải nhân quả mà nhân quả, tánh Y báo có nghóa giống với thành trì. Giải thích về Bảo Tích như trước đã nói. Sự việc về năm trăm trưởng giả tử nên biết hoặc biểu thị cho pháp môn, hoặc biểu thị cho năm thứ chủng tánh thiện căn, mỗi chủng tánh có một trăm, tức năm trăm thiện căn đều là nhân, nên gọi là con. Lọng bảy báu là biểu thị bảy Giác chi điều phục khiến tất cả dừng lại mà sinh thật tướng chân giải nên gọi là bảy báu. Trải các pháp mà khởi Từ nên gọi là lọng. Lọng có nghóa che chở, tức Từ tâm che mát tất cả chúng sinh. Đến chỗ Phật, là nhân tu trải các pháp riêng, mà duyên với Từ. Nay phát ra nhân Vô duyên hướng về quả vô duyên che khắp tất cả. Chí thành, tức đầu mặt lễ Phật chân thật là tỏ rõ sự tôn kính, biểu thị nhân trí ở trên tiếp với quả trí ở dưới. Dâng lọng, nhân có nghóa trợ giúp quả của cải là quả nên nói cúng dường. Từ “Oai thần của Phật…” trở đi là nói Như Lai hợp lọng và hiện các tướng lành. Có hai phần: Nói việc hợp lọng. Chính nói về hiện tướng lành. Văn nói năm trăm trưởng giả tử đều hiến lọng là biểu thị mỗi người đều tu nhân. Hợp thành một lọng: là biểu thị một quả Viên. Đã có Chánh nhân có thể cảm lấy Chánh quả tất là Y nhân sẽ cảm được Y quả. Nói “biến khắp tam thiên” là biểu thị một quả thể Vô duyên đại từ khắp che pháp giới. Như luận về Chánh báo kinh Phổ Tập đã nói. Nay hiện tướng Chánh báo biểu thị Y báo khắp che tất cả. Từ “Mà thế giới này…”trở đi, là nói chánh hiện tướng lành. Có hai phần: Hiện ra cõi nước. Hiện Phật nói pháp. Hiện cõi nước có bốn: Hiện tướng cõi nước rộng dài. Hiện mười núi. Hiện biển lớn và các sông. Hiện nhật nguyệt và Thiên cung. Hiện cõi nước chính là biểu thị Y báo thế gian, rộng cả trăm ức, nên nói là rộng, cao suốt trời Hữu đảnh nên nói là dài. Lại giải thích ngang khắp mười phương nên gọi là rộng, suốt khắp bốn cõi nên gọi là dài. Từ tam thiên này đến cả núi Thiết vi hiện mười núi, e là nói về thế gian chúng sinh. Hiện biển lớn và các sông Từ “đại hải đến triền nguyên) e là biểu thị cho năm ấm thế gian. Hiện nhật nguyệt và Thiên cung Từ “nhật nguyệt đến bảo cái) hoặc biểu thị cho khí thế gian. Bốn thứ thế gian hiện ra trong lọng là y báo, là chỗ nương của thế gian chúng sinh và năm ấm. Hỏi: Hiện tướng vô tình sao được nương vào hữu tình? Đáp: Hễ nói Đại thừa hiện tướng thì đều thế cả. Hiện chư Phật nói Từ “mười phương đến bảo cái”. Nếu nói y báo ắt có năng y. Đã có chúng sinh được hóa độ ắt có ứng Phật hóa đạo, cho nên trong lọng hiện ra chư Phật và Phật nói pháp, vì có bốn Phật trụ ở bốn cõi nên đều gọi là Phật quốc. Đại chúng thấy tướng lành đều vui mừng Từ “Nhó thời nhất thiết trở đi”. Phần này có ba: Khen chưa từng có là khẩu nghiệp cúng dường. Từ xưa đến nay chưa từng hiện ra tướng lành hợp lọng, biểu thị là sẽ nói về Phật quốc. Chắp tay lễ Phật là thân nghiệp cúng dường. Chiêm ngưỡng Tôn nhan là ý nghiệp cúng dường. Vì hiện ra tướng lành nên tất được nghe bất tư nghị Phật quốc, sẽ được ba nghiệp thanh tịnh và ba luân bất tư nghị hóa, sẽ được lợi ích đó nên tâm vui mừng của người dự nghe phát ra, do đó đều bày ra ba nghiệp cúng dường. Chỉ hiện ra tướng lành là biểu thị việc phát khởi tình ý cho mọi người. Khi tâm ý mọi người đã kính ngưỡng và đã hiện ra chư Phật ắt phải phó duyên mà nói pháp. Việc mừng vui làm tựa để nghóa càng thêm gần gũi. Tựa tự thuật, từ “trưởng giả tử Bảo Tích…” : Đức Phật hiện tướng lành khó lường, nếu không phải thần trí cao sáng của Bảo Tích thì ai biết được chỗ biểu thị ấy, vì muốn khiến chúng lúc đó biết việc hiện tướng lành là muốn nói về Phật quốc để tin hiểu rõ ràng, nên nói kệ để khen ngợi. Với ba mươi sáu hàng kệ thì chia làm hai, mười bảy hàng đầu là thuật nguyên do khen ngợi hiện tướng, mười chín hàng sau là chính khen ngợi thuật lại tướng hiện ra. Nguyên do hiện tướng lại có hai phần, chín hàng kệ đầu là khen ngợi thắng ứng pháp thân cho là nguyên do gần, tám hàng kệ sau là khen ngợi liệt ứng cho là nguyên do xa. Nói về thắng ứng là hoặc vì Bồ-tát nói pháp Đại thừa thì hiện tướng oai đức thù thắng, liền từ thắng ứng này mà được pháp thân. Nói về liệt ứng, hoặc vì Thanh văn nói pháp Tiểu thừa thì thân tướng thô kém, liền từ liệt ứng đó mà không thấy pháp thân. Cho nên kinh Pháp Hoa có nói: “Liền cởi bỏ chuỗi anh lạc mặc áo xấu, thân đầy bụi nhớp, dáng vẻ đáng sợ sệt.” Hỏi: Vì sao thắng ứng là nguyên do gần, liệt ứng là nguyên do xa? Đáp: Thắng ứng tức là ngay ở tòa nói kinh Phổ Tập, do đây mà hiện điềm lành nên là nguyên do gần, còn liệt ứng là thân nói pháp Tiểu thừa, thuở xưa làm nguyên nhân nên là xa. Hỏi: Liệt ứng của Tam tạng giáo tự nhiên là việc xưa, vì sao lại làm nguyên do xa cho việc này? Đáp: Kinh Pháp Hoa có nói: Trong suốt hai mươi năm thường kh- iến quét dọn phân, từ đó trở về sau tâm tướng thể tín vào ra không khó khăn, cho nên ngay lúc này hiện Thắng ứng thân mà nói pháp Đại thừa cho hàng Thanh văn. Việc hợp lọng hiện tướng lành là biểu thị nói Phật quốc, phải biết là do liệt ứng ngày xưa mà hiển bày thắng ứng ngày nay, nên nói là nguyên do xa. Xét nguyên do gần có hai: Hai hàng kệ đầu là lược khen về hai ích lợi của hình và tiếng. Bảy câu kế là rộng khen ích lợi của hình và tiếng. Rộng và lược đều là khen cả. Lược là nói chánh báo nhân quả trong kinh Phổ Tập. Vì sao biết được? Vì tiếp theokhen nói pháp là Không hữu cũng không vô, do nguyên nhân duyên mà các pháp sinh. Hai hàng đầu lại có hai: Hàng đầu là khen ích lợi về hình, hàng hai là khen ích lợi về tiếng. Phần hình lại hai: Câu đầu khen công đức của sắc, câu hai khen công đức của tâm. Đại kinh có nói: Phật tánh cũng là sắc mà không phải sắc. Vì sao gọi là sắc, vì đó là thân Kim cang. Sao gọi là Không phải sắc, vì là mười lực Vô úy không phải là sắc pháp. Nay trước khen về sắc lại căn cứ vào mắt mà khen, tức là một trong ba mươi hai tướng của thân Kim cang . Nhưng thân có nhiều phần mà quý nhất là đầu, đầu có nhiều phần mà tông chỉ là mắt, khen phần cao quý ắt gồm cả phần thấp kém. Về lực Vô úy… thì trí tuệ có nhiều thứ, nhưng khen tâm là bao gồm tất cả. Thế nên khen cái tông chỉ là sắc và tâm. Mắt là tên khác của nhãn. Nhãn chủ ở gan, gan buồn thì mắt ứa lệ, vậy khen nhãn tức là khen đức đại bi. Đại luận nói: Bát-nhã là mẹ Phật, đại bi mẹ là Bát-nhã. Cho nên căn cứ tướng này mà khen sắc công đức. Hỏi: Pháp thân cũng có tướng ư? Đáp: Đây là Thắng ứng biểu thị cho pháp thân, tìm ở tướng mắt này mà được pháp thân Phật nhãn, cho nên khen ứng thân tức là khen pháp thân Phật nhãn. Các tướng khác nên suy theo đây. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Tịnh pháp thân vi diệu, đầy đủ ba mươi hai tướng, “. Nhưng mắt là tên chung, từ dụng mà phân biệt có năm thứ: Nhục nhãn, nhìn thấy sắc thô. Thiên nhãn, thấy sắc tế nhân quả. Tuệ nhãn, nhìn thấy sắc tâm thô tế và lý thiên chân. Pháp nhãn, thấysắc thô tâm tế, các pháp nhân duyên giả danh Tục đế. Phật nhãn, thấy lý Trung đạo Phật tánh viên chân. Lại luôn song chiếuề nhân duyên lý sự thô tế. Căn cứ theo giáo thì bốn Phật năm nhãn không đồng. Trong Kim Cang Bát-nhã Phật hỏi ngài Thiện Cát: Như Lai có nhục nhãn cho đến có Phật nhãn chăng? Ngài Thiện cát đáp: Như Lai có Nhục nhãn cho đến có Phật nhãn. Nay Bảo Tích khen năm nhãn đều lìa cấu chướng nên nói là mắt sạch. Nói tu quảng, tu là dài, quảng là rộng. Cả năm mắt nhìn thấy cảnh dọc sâu tận đáy nên nói là tu, rộng khắp pháp giới nên gọi là quảng. Như hoa sen xanh, ở Tây Vực có hoa sen xanh lá rất to có hình dài rộng giống mắt Phật nên dùng để thí dụ. Lại không phải chỉ là hình giống mắt Phật mà nó ở trong bùn lại không dính hôi bùn, năm nhãn cũng thế, không phải chỉ chiếu thấy cảnh tận khắp ngang dọc, mà dù chiếu cảnh đời cũng không bị ô nhiễm nên khen mắt sạch như hoa sen xanh. Nay lược năm nhãn theo văn mà giải thích: Nhục nhãn là quả công đức không do nghiệp chướng xấu ác hun đúc, nên gọi là mắt sạch, thấy dọc các sắc từ địa ngục lên đến trời Hữu đảnh nên gọi là tu, rộng khắp trăm ức không sắc nào không thấy nên gọi là quảng. Tuy thấy các sắc mà không bị nhiễm trước, nên nói như hoa sen xanh. Thiên nhãn, nhân thiền định mà lìa các cái, phát ra tịnh nhãn căn, vì nhãn căn trong sạch nên gọi là mắt sạch. Thấy dọc ngoại giới nên gọi là tu, ngang thấy cả mười giới nên gọi là quảng, tuy thấy mà không bị nhiễm như hoa sen xanh. Tuệ nhãn, không còn kiến tư hoặc ở nội ngoại giới nên gọi là mắt sạch, chiếu dọc cả chân lý rốt ráo nội ngoại nên gọi là tu, thấy ngang khắp chân lý nội ngoại nên goị là quảng, thấy chân mà không bị nhiễm nên như hoa sen xanh. Pháp nhãn, là Không có trần sa hoặc nên gọi là mắt sạch, thấy dọc cả bốn pháp Tứ đế, dọc suốt nội ngoại giới nên gọi là tu, thấy ngang pháp bốn thứ Tứ đế khắp mười giới mười phương nên gọi là quảng, không đắm nhiễm các pháp nên như hoa sen xanh. Phật nhãn là Không có pháp giới vô minh nên gọi là mắt sạch, thấy dọc cả Trung đạo pháp giới cả nội ngoại giới đến tận nguồn rốt tánh nên gọi là tu, thấy ngang mười giới Trung đạo một thời viên chiếu nên gọi là quảng, không bị pháp giới vô minh sinh tử làm ô nhiễm như hoa sen xanh. Đây chỉ là lược nêu ra năm nhãn của Biệt, Viên, còn Tạng Thông thì đều xéttheo hai đế nội giới để nói về năm nhãn. Nếu căn cứ theo tình ý sắc tâm phân biệt thì tức là năm nhãn của Tam tạng giáo. Nếu căn cứ theo huyễn hóa sắc tâm phân biệt thì là năm nhãn của Thông giáo. Hỏi: Nay trưởng giả tử quyết định khen nhãn nào? Đáp: Kinh thuộc Phương đẳng thì tùy bốn căn duyên mà nói đủ bốn giáo, khiến không còn có sự nghe biết khen ngợi nào trái ngăn. Sau đó nói là dùng một thứ tiếng diễn nói mà tùy loại đều nhận hiểu. Nếu với người quán tâm thì một tâm ba quán, quán chiếu về tâm, các nhân duyên thô tế và tức không, giả, trung để đối tu năm nhãn mà tâm ý biết được, hoặc tâm tịnh đã trải qua các Thiền định mà biết. Câu kế tiếp khen tâm. Nói “Tâm tịnh”, là khi Phật trí đã xét biết tận nguồn gốc sự vật thì không còn pháp giới hoặc nữa, nên nói là tâm tịnh. “Đã trải qua các thiền định” là luận chung về Thiền định đều thông cả nhân quả. Nên trong Đại kinh có nói: Đại Niết-bàn gọi là “Hang sâu Thiền định”, đâu lại được khen là tâm tịnh đã trải qua các Đại Niết-bàn. Nay xét theo nghóa riêng thì thiền định căn cứ vào nhân, còn tâm Phật là dựa vào quả, quả nằm ngoài nhân nên nói là đã độ. Hỏi: Do đâu mà biết thiền gọi là nhân? Đáp: Đại Luận có nói: “Thiền Trung hoa nói là tu tư duy”, nhưng tâm Phật là gương trí tròn sáng đâu có phát ra tư duy, Phật là bậc Vô học rốt ráo đâu được nói là tu. Lại dịch là bỏ ác. Như Lai là bậc Thuần tịnh còn ác nào mà bỏ. Nên trong Đại kinh có nói: “Có chỗ đoạn trừ thì gọi là Thượng só, không còn chỗ đoạn trừ thì gọi là Vô thượng só.” Cho nên các nghóa tư duy đều là nhân. Xét về giáo, thì tâm của Phật Tam tạng giáo không có tập khí nên gọi là tâm tịnh, Tứ thiền Tứ không luôn quán luyện luân tu, dứt hẳn pháp ái nên gọi là đã độ, chỉ có lực Vô úy không thể đẳng chiếu. Tâm của Phật Thông giáo, chiếu suốt cội nguồn Chân đế, tập khí nội giới dứt hết, đối với các thiền định đều tự tại vô ngại, mười lực Vô úy cùng một lúc chiếu vào cảnh, nên gọi là đã độ. Theo Biệt giáo, trí duyên tu hiển bày tâm tự tánh, thanh tịnh, mười hai phẩm vô minh rốt ráo dứt hẳn. Kinh Địa Trì nói: Chín thứ Đại thiền, Bồ-tát nương vào thanh tịnh thiền thứ chín mà được quả đại Bồ-đề, hơn cả thanh tịnh nên nói là đã độ. Đây là căn cứ theo trước Địamà tu tự tánh thiền . Đăng địa được tất cả thiền cho đến bậc Đẳng giác trụ ở thanh tịnh thiền, đoạn dứt mười một phẩm vô minh mà vào trùng huyền môn nên gọi là thanh tịnh thiền, Phật quả hơn cả nên nói là đã độ. Về Viên giáo, thì sáu căn thanh tịnh tức là tự tánh thiền, sơ phát tâm trụ tức Nhất thiết thiền, khi đã rốt ráo lìa bỏ các hư vọng thì hiển bày tâm tự tánh thanh tịnh. Như thế cho đến thanh tịnh thiền phá tan bốn mươi mốt phẩm vô minh mà trụ vào địa Vô cấu. Tâm Như Lai tịnh trải qua các thiền định này mà lên quả Diệu giác, nên nói là đã độ. Cho nên kinh Kim Quang Minh có nói: “Khi đó Đức Như Lai dạo khắp vô lượng pháp tánh, rất sâu hơn các sở hành thanh tịnh của Bồ-tát đã làm.” Kinh Anh Lạc nói: Thuở xưa ở hội Hoa nghiêm nói tập hợp chúng Bát thiền tức tám thiền trước vì nói kinh Hoa Nghiêm, để được nhập vào thanh tịnh thiền mà trụ ở địa Vô cấu. Thường Theo thì hàng Thanh văn còn như câm điếc, thì Bát thiền ngoại đạo sao có thể tập hợp nghe kinh được. Nếu căn cứ heo quán tâm, một tâm ba quán thì tâm mỗi mỗi chúng sinh tức là tâm Như Lai, bổn tánh thanh tịnh nên nói là tâm tịnh có thể vượt qua sự thiền nên nói là đã độ. Hàng thứ hai: Khen ích lợi về tiếng của việc hóa tha Từ ““Tích chứa đã lâu”… một câu): Sở dó như thế, vì từ lâu tu thiền, trong thì thành tựu tướng hảo, ngoài đủ các thần thông, xứng hợp tình ý muôn vật. Lại từ vô lượng kiếp đến nay luôn tu trí tuệ, trong luôn lìa bỏ các kiết, xứng lý pháp tướng nên được tịnh tâm trải các thiền định, ngoài xứng hợp với vô lượng căn duyên chúng sinh, có thể đối với bốn bất khả thuyết dùng bốn Tất-đàn mà khởi bốn đạo giáo hóađộ tất cả chứng được bốn diệt lý, nên nói là giáo hóa các chúng đã xong. Lợi ích của hình và tiếng về ân đức độ sinh rất nặng nên cần kính trọng cúi đầu. Lại nên hiểu Bát-nhã hướng dẫn đến khi chứng quả liền ngưng dứt, nên nói là đã xong. Câu trên là giải thích mắt sạch rộng dài, câu dưới là nói tâm tịnh đã độ. Từ “đã thấy”trở xuống bảy hàng rộng khen về hình tiếng .. có hai phần: Rộng khen ích lợi về hình “năm hàng đầu”. Rộng khen ích lợi về tiếng “hai hàng kế”. Đã thấy đại chúng: Thấy sắc dụng thần biến của Phật, tức là sắc của pháp thân thanh tịnh vô ngại giống như châu như ý cũng như gương sáng, cho nên việc phóng quang, đất chấn động và mười phương cõi Phật đều hiện ra. Đó là sắc tất cả hướng đến. Sắc là tạng bất tư nghị, sắc là pháp giới hải, vì nó rộng lớn như hư không không bờ mé cho nên uớc về sắc mà khen dụng của công đức. Từa Trong đó chư Phật… trở xuống một hàng…là giải thích việc thành tựu sắc dụng Nếu không do thần lực của Phật gia bị cho hội này thì đâu thể thấy được chư Phật ở phương khác và nghe được Phật nói pháp. Như trong kinh Pháp Hoa, Phật dùng thần lực khiến chúng thấy được trăm ngàn vạn ức cõi nước và Bồ-tát trên không trung. Hỏi: Đây là lý do hiện tướng biểu thị sao được là nguyên do biểu thị gần? Đáp: Có Luận sư nhầm bảo là hợp lọng thì hiện cõi nước. Nay tìm thấy văn kinh không phải thế. Đây là khen nói kinh Phổ Tập mà hiện tướng, không phải là hợp lọng hiện tướng lành. Hợp lọng hiện tướng lành thì như đoạn kệ sau nói: “Nay dâng Thế Tôn lọng nhỏ này, trong đó hiện ra tam thiên giới”mới chính là khen tướng biểu thị. Từ “Pháp vương pháp lực…” một hàng trở xuống là khen tâm dụng của Phật . Nói Pháp vương, là được Tam-muội vương Tam-muội nên gọi là Pháp vương. Pháp lực là vì đối với hai đế, ba đế, bốn thứ Tứ đế, tất cả các pháp đều rất tự tại . “Vượt cả quần sinh”, là tâm Phật thanh tịnh vượt ngoài hai thứ sinh tử, ø biểu thị việc ra khỏi mười giới. “Thường dùng pháp tài thí cho tất cả” là đem Thất Thánh pháp tài bốn loại Đạo đế luôn bố thí cho mười giới tùy ý xứ dùng. Hỏi: Pháp tài là thuộc dụng của sắc hay của tâm? Đáp: Tài chung cho sắc và tâm, như các ngài Vô Tận Ý và Tịnh Danh bố thí đều gọi là pháp thí. Nhưng căn cứ ở tâm, sắc, tiếng của năng thí thì đều là thuộc pháp tài thí. Từ “Khéo phân biệt… trở xuống một hàng là xét theo hai trí lấy đógiải thích về dụng của tâm “ pháp thí và tài thí) xác định thành nghóa của pháp thí. Quyền trí thì phân biệt pháp tướng thế đế, thật trí thì đối với Đệ nhất nghóa mà bất động. Hỏi: Ở trên phần nhiều phán định theo ba đế, nay sao lại được dùng hai đế mà khen? Đáp: Hợp chân vào trung, hợp chân vào tục là hai đế của Thông giáo Biệt giáo, theo huyền văn tinh giản. Lại giải thích nếu tùy tình mà biện tức là thật trí vắng lặng mà thường chiếu. Thế nên khen nói “đối với Đệ nhất nghóa mà bất động. Từ “Đã đối với các pháp… một hàng trở xuống” là kết phần khen dụng của sắc và tâm. Đã đối sắc pháp mà được tự tại nên có thể chuyển biến khắp hiện cõi Phật. Đã đối với tâm pháp mà được tự tại nên hai đế khai hợp tùy cơ hội vật. Công dụng của sắc và tâm đã hoàn bị chính là nơi đáng để quy y, do đó mà kính thành cúi đầu. Từ “Nói pháp chẳng có…” hai hàng là rộng khen ích lợi của tiếng. Thuật lại ở trên khen bốn chúng vây quanh vì họ nói pháp. Trước hiện tướng tôn quý là biểu thị nói pháp Đại thừa. Nay cũng hiện nói pháp biểu thị sẽ nói về y độ, chứng nghiệm là Không nói gì khác, do đó dùng làm tựa khiến có lời khen này. “Chẳng có chẳng không”, tức là pháp Trung đạo. “Chẳng có”nên không phải tục, “chẳng không”nên chẳng phải chân. Song nói pháp vốn căn cứ ở hai đế, đã không phải hai bên thì là nói pháp gì? Nên biết đó là nói Trung đạo Đại thừa. Vì sao? Vì phàm phu là “Có”, Nhị thừa là “không”, còn Bồ-tát thì chánh quán Trung đạo Phật tánh. Thế nên Phương đẳng vì các Bồ-tát mà nói nhiều về pháp môn Trung đạo bất nhị. Cho nên nói “Chẳng có cũng chẳng không”. Hỏi: Trên đã dùng hai đế để khen Phật trí nay nói pháp sao căn cứ theo ba đế? Đáp: Có, không là tục, Trung đạo là chân, tức là hai đế. Hỏi: Ngoại đạo cũng nói Thần và thế gian không phải thường, không phải vô thường tức là Không phải có không phải Không. Tiểu thừa cũng vì Xa-nặc mà nói lìa có, không. Nay vì sao được nói chỉ là Đại thừa? Đáp: Phàm phu ngoại đạo còn không thấy “hiểu) được lý không vô của chân đế, huống là thấy lý không phải Không. Trong kinh Thanh Văn nói không phải có không phải Không là thấy lý không của chân đế mà đâu từng thấy được Lý trung không phải Không. Căn cứ giáo mà nói hai thứ “Không phải”chẳng giống nhau. Nếu ngoại đạo cho rằng câu song phi đầy đủ đơn, phức và bất khả thuyết… đều là vọng tìn thì không thấy được lý “không”, không thoát khỏi sinh tử,. Họ thấy “khôn”còn chẳng được huống là thấy “chẳng phải Không”thấy đều bị Tam tạng giáo hữu môn phá bỏ. Tam tạng giáo phá kiến gồm có bốn môn. Vì Xa-nặc mà nói kinh lìa có, không thì chỉ là môn “chẳng phải có, chẳng phải Không”thôi. Nếu được phương tiện từ môn vào lý thì chỉ gọi là “chẳng phải có” chứ không gọi là “chẳng phải Không”ô. Nếu không được phương tiện thì rơi vào chấp có, không đồng như ngoại đạo. Giả sử có vào Lý cũng không phải chẳng có chẳng không của Đại thừa Thông giáo quán Sắc… đều như huyễn hóa không nói có, không. Nếu từ môn mà vào lý thì đây tức là môn “chẳng phải có, chẳng phải Không”. Nếu hướng về người Thông giáo hoặc nghe nói thấy Lý hoặc chấp là bị lửa hý luận tà kiến thiêu đốt. Giả sử có vào lý thì cũng không phải là chẳng có chẳng không của Trung đạo Biệt giáo quán Trung đạo, ước phá hai bên nói “chẳng phải có, chẳng phải Không”, thì đây là theo bốn môn của Tạng tánh mà nói “chẳng phải có, chẳng phải Không”, khác xa hai giáo trước, nếu được vào Lý thì không cần phá. Nếu chưa ngộ là luận ngu si không phải thật là chẳng có chẳng không của Trung đạo. Về Viên giáo tuy có bốn môn, mà một môn tức là bốn môn, bốn môn tức là một môn, có, không bất định, không có chỗ nương cậy, đem cái tâm hư dối này rỗng trong thấy Trung đạo, nếu ở đây còn đắm trước thì vẫn cần phải phá, huống là các thứ khác. Nay nhặt bỏ các dối trá để chỉ rõ các chân thật mà được ý viên giáo “chẳng có, chẳng không” là để khen cái Thắng ứng thân chẳng có chẳng không vậy. Lại nữa, ba thứ đều “phi”ở trước là quyền, viên giáo là thật. Quyền thật đều nói, nên nói “thuyết pháp chẳng có cũng chẳng không”ết pháp về duyên khởi. Duyên khởi có hai đã như trước nói. Nay khen thì ý đầy đủ gồm hai thứ này. Song thể nó không phải là có, không thì đâu thể có sinh. Vì có nhân duyên cho nên cũng nói. Vì thuận theo nhân duyên nội giới vô minh thì hai thứ khổ, tập sinh ra, khi nhân diệt vô minh thì hai đạo diệt sinh ra. Ngoại giới cũng chuẩn theo đây mà nói. Cho nên nói do có nhân duyên mà các pháp sinh ra. “Không có ngã, không tạo tác, không thọ nhận”, một câu này là kết nghóa “chẳng phải có, chẳng phải Không”lại phối hợp bốn giáo mà nói bốn thứ vô ngã vô thọ… “Thiện ác không mất… một câu” là kết do nhân duyên mà các pháp sinh ra. Vô minh của Thông giáo biệt giáo là ác của nội ngoại giới thì hai xứ khổ tập không tiêu mất. Nếu vô minh của thông giáo Biệt giáo mất thì hai xứ đạo và diệt không tiêu mất. Nhân duyên sinh diệt do đây mà biết. “Mới sinh tại Phật thọ… trở xuống tám hàng”, là khen Liệt ứng thân làm nguyên do xa. Có hai phần: Hai hàng đầu là khen ích lợi của hình, sáu hàng sau là phần khen ích lợi của tiếng. Khen ích lợi của hình có hai: Khen ứng sắc. Khen ứng tâm. Phật thọ, là ngồi dưới cây này mà thành Phật. Có người nói là Nguyên cát, cũng gọi là Bồ-đề. Khi mới thành đạo, Phật đến ngồi dưới cây này. Ma sợ ngài thành đạo sẽ hóa độ quyến thuộc mình khiến trống cung điện. Bèn trước sai ba cô gái, nhưng Bồ-tát tâm vẫn an không thể quấy động. Ma vương càng giận bèn đem cả tám mươi ức quỷ thần binh chúng ở Dục giới đến chỗ Bồ-tát, nhưng cuối cùng đều bại tan “nói đầy đủ trong kinh Thụy Ứng) Cam lộ diệt. Ma vương đi rồi, đến giữa đêm Bồ-tát nhập vào Tứ thiền ba mươi bốn tâm thấy rõ lý Tứ đế, gọi là được cam lộ, các chánh tập khí đều dứt hết nên gọi là diệt, thành giác đạo là vì Tứ đế phát khởi, chân kiến Đệ nhất nghóa, lúc đó sáng suốt đại ngộ, biết thường và vô thường, biết chúng sinh số và phi số đủ các pháp như Lực, Vô úy… gọi là Thành tựu giác đạo, thần lực hàng ma, là thần thông, tức là dụng của công đức sắc pháp . Đã không tâm ý… một hàng, là khen ứng tâm. Không tâm ý… là khi được cam lộ rồi, thì thấy ái bốn ấm điên đảo, đều mất, nên gọi là Không tâm ý. Bởi sao? Vì nếu có tâm ý liền có tâm điên đảo, điên đảo tức là ba thọ, thọ tức ba khổ, tức là Khổ đế. Hành tức là hành ấm, suy nghó luôn tạo nghiệp. Nghiệp chiêu vời sinh tử tức là Tập đế. Không tâm thì không có thọ, không thọ thì không hành, không hành thì không nghiệp, không nghiệp nên không tập. Không tập thì không khổ. Khổ tập nếu diệt tức là được cam lộ diệt thành tựu giác đạo. Kinh Đại Phẩm nói: “Năm thọ năm hành.” Hành là Tập đế, Tập đế đã đoạn nên Phật không tâm ý. Không tâm ý nên không có năm kiến thọ hành, nên thường phá được năm kiến thọ hành của ngoại đạo. Tuy không có thọ hành nhưng vì điều phục ngoại đạo mà nói năm môn của Tam tạng giáo, như việc Phật phá Trường Trảo nói rằng: Ông có thấy thọ không? Ông có cái thấy không thọ thì trở lại thành thọ, thọ tức là khổ thì đâu khác gì ai, mà dựa vào chỗ không thọ rồi kiêu mạn, khinh chê người khác. Khởi thân, khẩu, ý hành, hành thành thì gọi là tập, tập chiêu cảm sinh tử đâu phải là thật tướng? Trường Trảo tin phục bèn được pháp nhãn tịnh, Hàng phục các ngoại đạo khác đều theo cách này. Hỏi: Trường Trảo là việc sau này, đây là khen nói trước khi chưa chuyển pháp luân hàng phục ngoại đạo, đó là những ngoại đạo nào? Đáp: Xưa có nói: Thuở xưa khi Phật còn là phàm phu theo Tiên A-la-la học tám thứ thiền định, Bồ-tát không có ý học ông ấy, chỉ vì hóa độ ông ta thôi. Nay cho là trái lời kệ khen. Kệ nói Phật hàng ma khi chưa thành đạo, thành đạo rồi mới hàng phục ngoại đạo. Vì sao được cho rằng lúc ngài còn phàm phu thọ lạc tám thiền để hàng phục ngoại đạo. Lại e là lúc Như Lai mới thành đạo xong chưa chuyển pháp luân, bèn vì nói cho trưởng giả Đề Vị về năm giới, chống lại thói quen của ông mà luận về ngũ hành, lục giáp, âm dương, lịch số… Khi ông tin phục liền khiến quy y Phật pháp và dạy nếu sau này có Tăng thì ông nên quy y. Trưởng giả Đề Vị được Sơ quả, Phật không có tâm thọ hành về ngũ hành lục giáp, chỉ vì muốn hàng phục nên phải nói ra. Xét theo kết tập pháp tạng thì nói từ Ba-la-nại đến đêm Niết-bàn, kết làm Tu- đa-la tạng, cho nên biết hàng phục Đề Vị là trước khi chuyển pháp luân. Từ đó trở về sau đều lấy pháp Không thọ mà phá các ngoại đạo, cũng đúng như cách hàng phục Trường Trảo. Từ “ba lần chuyển pháp luân”trở xuống đi sáu hàng là phần khen ích lợi về tiếng. Hai hàng đầu khen về chuyển pháp luân. Hai hàng kế là khen trời, người nhận được lợi ích pháp diệu. Hai hàng sau là kết khen. Nói về ba lần chuyển pháp luân, tức là đến Ba-la-nại nói Tứ đế sinh diệt. Luân là Phật đã chứng Tứ đế, pháp có nghóa có thể chuyển đi nên gọi là luân. Lại giải thích do có thể phá hoại các phiền não nên gọi là luân, vì như xe báu của vua có thể phá hoại địch oán. Pháp luân báu của Phật có thể phá hoại phiền não nên gọi là pháp luân. Đức Như Lai thành đạo trải qua hai mươi mốt ngày mới đến thành Ba-la-nại. Đời đời tuy không thể nói nhưng dùng Tất-đàn phương tiện phù hợp tiểu cơ Trời, người mà nói Tứ đế chuyển vào tâm họ để phá các phiền não của họ nên gọi là chuyển pháp luân. Ba lần chuyển là: Thị chuyển “chỉ bày) tức bảo: Đây là khổ, đây là tập, đây là diệt, đây là đạo. Khuyến chuyển, tức đây là khổ nên biết, đây là tập nên đoạn, đây là diệt nên chứng, đây là đạo nên tu. Chứng chuyển, tức đây là khổ ta đã biết, đây là tập ta đã đoạn, đây là diệt ta đã chứng, đây là đạo ta đã tu. Thị chuyển là chỉ cho kiến đạo, khuyến chuyển là chỉ cách tu đạo, chứng chuyển là chỉ cho Vô họ đạo là pháp luân. Là ba lần chuyển mười hai hành . Chuyển lần đầu thì sinh nhãn trí minh giác. Ngài Đàm-vô-đức giải thích ba chuyển không đồng sự như nói riêng biệt. Nói “đại thiên, tức là thế giới Ta-bà cõi nước của Đức Phật Thích-ca, tức nơi hóa độ khi chuyển pháp luân. Luân “xe) ấy xưa nay vốn thường thanh tịnh, như trong ba thứ thuốc không có ba thứ bệnh. pháp luân Tứ đế không có cấu của kiến tư nên gọi là bổn tịnh. Lại giải thích đời đời không thể nói mà nói Tứ đế. Không thể nói tức là chân đế, nó không có khổ tập nên nói là bổn tịnh. Như trong Đại Tập có nói: Kiều-trần-như đã nhận được tri kiến chân thật. Hỏi: Trần-như kiến chân thật như Thành Thật luận chăng? Đáp: Trần-như nương vào hữu môn, Thành Thật luận là Không môn. Giáo môn tuy khác nhưng kiến chân là một. Không môn được đạo là ngài Tu-bồ-đề. Trời, người được đạo, trời là tám vạn chư Thiên, người tức là bọn Câu-lân “Kiều-trần-như) năm người, năm người nghe pháp đầu tiên được kiến đế, tám vạn chư Thiên được pháp nhãn tịnh. Có người nói Câu-lân được đạo trước còn bốn người kia đến mùa Hạ mới được. E là kinh luận nêu ra khác biệt không đồng. Chính kinh này nói: “Trời, người được đạo, Tam bảo hiện ở đời.” Nếu bốn người không được kiến đạo tức ø không phải kiến đế được giới. Chỉ một mình Câu-lân thì không thể gọi là Tăng bảo. “Đây làm chứng”, Đức Phật nói pháp thảy đều khế lý khế duyên, không phải như bọn lục sư còn vọng nói ra không thể làng cho người được đạo. “Tam bảo do đó hiện ra thế gian, là Không căn cứ nhất thể Tam bảo. Vì sao? Vì khi bắt đầu giác đạo thì mới có Phật bảo, ba lần chuyển pháp luân tức là Pháp bảo, Câu-lân-như… thấy Đế được giới đó là Tăng bảo. Sau khi Đức Phật Ca-diếp diệt độ thì Tam bảo ẩn mất, chỉ có cựu Nay Phật ra đời Tam bảo mới đầy đủ. Từ đem pháp diệu này… trở xuống hai hàngKhen pháp diệu trời, người được lợi : là Tứ đế sinh diệt là pháp diệu, vì hay khiến tất cả chúng dứt bỏ thân cũ không tạo thân mới, nên gọi là pháp diệu. Một khi thọ nhận pháp ấy thì không thoái chuyển luôn được vắng bặt, tức là khi mới thấy Thánh đế thì vónh viễn không thối thất. Nếu Thế trí đoạn hết các kiết, thì khi gặp duyên liền khởi, nay là Vô lậu trí, dứt hết các hý luận, rốt ráo không khởi nên nói là luôn vắng bặt. Đại kinh có nói: Thầy thuốc thế gian trị bệnh, bệnh hết lại sinh, Như Lai trị bệnh rốt ráo, không phát sinh nữa, nên nói là luôn vắng bặt. Xét thấy ở cõi Ta- bà có người được đạo Tận trí, nhưng cũng còn thoái chuyển, thoái về bậc Sơ quả. Ngài Đàm-vô-đức nói thấy “Khôn”được đạo thì hoàn toàn không còn thoái chuyển. Tuy giáo không giống nhau nói về kiến đạo nhưng nghóa không thoái chuyển nó không khác. Nay ý của kệ chính thức khen kiến đạo không thoái chuyển là chỉ cho hàng phàm phu. Bậc Đại y vương độ thoát lão, bệnh, tử. Câu này là khen chung về pháp của Y vương nhân do Phật nói. Phật đã tự mình vượt qua tam giới suy tư về lão, bệnh, tử , rồi còn có thể nói pháp khiến cho chúng sinh cũng thoát được cái chết trong ba cõi, một khi thọ nhận không còn lui sụt nên gọi là Đại y vương. Nói “Thường nên kính lễ”, là chúng sinh có vô lượng bệnh thì thuốc pháp của Phật cũng vô lượng như biển cả, thế nên cần phải quy kính. Từ “chê khen không động”… xuống hai hàng là Kết khen chung Khi đức Phật bằng sanh thân thì tám gió không thể lay động mà luôn dùng đức ba niệm đại bi, nên cô gái Bà-la-môn vu cáo chê bai Phật mà Phật không buồn khổ, được các trời Đại phạm khen mà Phật cũng không mừng, bất động trước tám gió như núi Tu-di, là khen về đoạn đức, đối với thiện và bất thiện đều dùng lòng từ, là khen về trí đức. Ba lần xoa đảnh La-hầu-la, ba lần quở trách Điều-đạt. Quở trách để làm cho cải ác, xoa đảnh để làm cho tinh tiến tu thiện. Là chỉ một Từ tâm mà thôi. Tâm hành bình đẳng, tức là căn cứ theo ba niệm xứ mà nói về bình đẳng: Thoa hương bên trái. Dao cắt bên phải. Không thoa không cắt thấy đó là bình đẳng Không có tưởng khác. Đây là căn cứ vào sắc pháp làm ba Niệm xứ. Gặp pháp thuận ta không mừng, gặp pháp trái ta không giận, gặp không trái không thuận luôn hành tâm xả, đây là xét theo tâm pháp mà nói ba Niệm xứ. Tâm Phật đối với Từ niệm này thì bình đẳng. Người là của báu, tức là người trí , vì luôn phân biệt chân ngụy nên người nghe tôn kính vâng theo. Từ “nay kính dâng… trở xuống mười chín hàng là phần kệ thứ hai chính khen việc hiện tướng lành là phần kệ thứ hai. Lại chia làm hai phần nhỏ: Bốn hàng đầu khen chung việc hiện tướng lành. Mười lăm hàng kế, khen riêng ba bí mật của Phật. Bốn hàng đầu, lại chia làm ba phần: Nửa hàng đầu là khen việc dâng lọng. Hai hàng rưỡi tiếp là chính thuật lại việc biểu hiện tướng lành hợp lọng. Một hàng sau là nói đại chúng vui mừng. Dâng lọng nhỏ, nhỏ là nói nhân nhỏ có quả nhỏ. Lớn là biểu thị cho quả lớn không thể nghó bàn, Tịnh độ, không giới hạn phương cõi, khó lường. Nói việc dâng lọng, bên trong có hiện cõi nước Phật và Phật nói pháp Từ “hiện tam thiên giới”… hai hàng rưỡi là biểu thị nói Ứng độ, Ứng thân. Thương xót mà hiện, là lòng từ nghó đến chúng sinh. Muốn nói cho nghe nhân quả Phật quốc này, nên trước hiện tướng lành để kh- iến những người tiệm căn được mở mang, nên nói thương xót mà hiện. Từ “chúng thấy”… một hàng đại chúng khen chưa từng có là mười lăm hàng tiếp theo từ “Đại Thánh”v.v… trở xuống khen riêng ba bí mật của Phật là Gồm ba phần nhỏ. Hai hàng đầu khen thân Phật bí mật. Sáu hàng kế khen khẩu bí mật. Bảy hàng sau khen ý bí mật. Ba mật tức ba luân bất tư nghị hóa, tức ba thứ không lỗi, ba thứ không cần giữ gìn “Bất hộ”. “Đại Thánh Pháp vương được mọi người quy kính, là khen Pháp thân thắng ứng. Hoặc Pháp thân Tam-muội, Vương Tam-muội, ba đế tự tại là chỗ quy kính của Bồ-tát bốn mươi mốt tâm Thánh chúng. Và bốn bộ còn lại, tức là đã nói ở phần trước. Đức Phật ngồi yên trên tòa Sư tử bằng các báu che tất cả đại chúng đến nghe, nên được chúng quy kính. Tịnh tâm, tức là cơ phát của bốn chúng Đại thừa, tâm không nghi ngờ, vẫn đục muốn nghe Tịnh đạo hoặc cũng là các Đại Bồ-tát dùng tịnh tâm nhập quán Phật Tam-muội, nên nói là tâm tịnh. Khen thân mật mỗi người đều thấy Đức Thế Tôn ở trước mặt. Đây là nói Ứng thân đối với mười pháp giới, ai cũng thấy đồng nhau. Cũng như chỉ một mặt trăng mà bóng hiện trên nhiều mặt nước. Hoặc thấy ngài là hình dạng của một Tỳ-kheo già, hoặc thấy ngài có tướng hảo quang minh, hoặc thấy thân tôn quý, hoặc thấy hiện thân lớn nhỏ cùng ngồi trên hoa sen báu, hoặc thấy thân như hư không. Đây là đức của thân bí mật. Do đó trước nói Phật ở thành Da-ly, mỗi người đều thấy không đồng nhau là ý ở đây vậy. Không cùng thấy như đây, tức thân bí mật không cùng chung cho hàng Nhị thừa và Địa dưới. Từ Phật dùng một loại âm thinh…” sáu hàng là khen khẩu mật có ba phần nhỏ: Phần một: Hai hàng đầu là hai biện tài Từ, Pháp . Đồng một thứ tiếng nói tức là từ biện, mỗi người đều hiểu là pháp biện. Từ “lời”, là tất cả chúng sinh khác phương, khác loài ngôn âm đều khác mà đồng với ngôn âm của mỗi loài v.v… nên gọi là từ biện. Pháp là tất cả các pháp tên gọi khác nhau các thứ không phải một mà đều có đối tượng nhận lấy. Người được Pháp biện là đều hiểu lời pháp, tức đồng với ngôn âm của họ nên gọi là Pháp biện. Phật dùng một ngôn âm mà Từ và Pháp hai thứ khác nhau đều xứng hợp với vạn vật, đó là Khẩu mật. Phật còn không phải là Phạm thiên huống đồng với chúng sinh. Khiếncho khác tiếng nói mà hiểu, tức không phải Từ - pháp mà hiện ra Từ - Pháp là do sức của khẩu mật. Phần hai: Từ Phật dùng một thứ tiếng nói… “trở xuống hai hàng, là khen về nghóa biện. dùng một thứ tiếng nói pháp, người tin làm được lợi ích, tức là xét lời tìm ý được nói nguyên do thế này thế nọ tức là nghóa. Như Lai vốn không có cú nghóa sao lại có Nghóa biện, mà có thể phân biệt tất cả cú nghóa, tức là khẩu mật. Phần ba, từ “Phật dùng một thứ tiếng nói trở xuống hai hàng” là khen Nhạo thuyết biện, xoay đổi vô cùng, chúng đều thích nghe Tứ đế hợp cơ, ta sẽ vì nói những sự sợ hãi. Cả ba cõi đều khổ. Khổ nên sinh sợ hãi, tức là Khổ đế. Cầu vui Niết-bàn. Vì vui nên hoan hỷ tức là Diệt đế. Chán lìa, tức nhân của các khổ do lấy tham dục làm gốc, tức là Tập đế. Đoạn nghi tức là Đạo. Lại căn cứ theo Tất-đàn, thì ba cõi khổ đáng sợ tức là thế giới Tất-đàn. Vui mừng, tức Vị nhân Tất-đàn, khiến sinh thiện căn cho nên mừng vui. Chán lìa, là chán lìa phiền não, tức Đối trị Tất-đàn thuốc và bệnh đối nhau. Đoạn nghi, liền thấy Đạo đế là Đệ nhất nghóa Tất-đàn, ngôn âm diễn bày với năng lực như thế. Như Lai vốn không phải chỉ nói bốn Tứ đế bốn Tất-đàn mà thôi, còn thường dùng pháp này khéo léo làm lợi ích, tức là khẩu mật. Từ “Khể thủ…” bảy hàng là khen tâm mậtøTâm Phật không phải quyền, không phải thật mà có thể hiện quyền thật, tức là tâm mật. Văn này có hai phần: Phần một: Bốn hàng đầu, căn cứ ba thứ hai trí quyền thật để khen tâm mật. Phần hai: Ba hàng kế, căn cứ ba thứ hai đế kết khen tâm mật. Phần một có bốn hàng: 1.Hàng đầu là dựa theo nội ngoại để khen. Tự hành mười lực là y cứ nội trí viên mãn đủ, Vô úy là căn cứ vào ngoại dụng không khiếp sợ. Đây là một cặp, tức dựa theo tự hành quyền thật mà khen tâm mật. “Cúi đầu không cùng chung…” một hàng, là khen tự hành và hóa tha. Không chung “bất cộng) là pháp của ự chứng. Đạo sư tức là hóa tha. “Cúi đầu thường đoạn…” một hàng: Đây có hai dụng. Nếu khen tự hành tức là khen trí đoạn của Phật. Thường đoạn là đoạn đức, đáo bỉ ngạn là trí đức. Như nói khen hóa tha thường đoạn các kiết trói buộc, tức là hóa tha quyền thật nói trí đoạn vậy. Chúng là: Mọi người, nên thuộc hóa tha. Hỏi: Vì sao một kệ lại được có hai dụng? Đáp: Đức Phật tự mình không có các ràng buộc lại có thể cởi mở các trói buộc của người khác nên có hai dụng. “Cúi đầu thường độ…” một hàng là tổng kết ba thứ trí đoạn quyền thật nói ở trước. Phần hai: “Đều biết chúng sinh…” ba hàng tiếp là ba thứ hai đế kết khen ba thứ bí mật “thân, khẩu, ý mật”. Có ba hàng: -. Một hàng đầu là tùy tình hai đế. Vì sao? Vì tục đế vô lượng thì tâm cũng vô lượng, hoặc là cầu chân, hoặc ưa muốn tục. Tình có lấy bỏ nên nói có đến, đi. “Khứ lai”. Đến lấy vô lượng thì, Phật cũng tùy theo mà khởi nói vô lượng hai đế, tức là tùy tình. “Không đắm trước thế gian…” một hàng” là căn cứ theo tùy tình trí hai đế. Tùy tình thì vô nhiễm, tùy trí thì không tịch. “Thấu suốt các pháp tướng. “Thấu suốt các pháp tướng …”một hàng là khen tùy trí hai đế,. Những pháp gì tâm trí quán chiếu đều thâm nhập một tướng không còn trở ngại, như hư không không có nương tựa gì nên gọi là tùy trí. Bấy giờ, trưởng giả tử… đến hết nửa phẩm mười một A-bệ Phật, là phần thứ hai, Chánh thuyết Phân văn làm ba phần: Nửa phẩm Phật Quốc, là Đại Thánh đối cơ lập tông nói nhân quả Phật quốc. Từ Phương tiện đến hết phẩm Hương Tích thứ chín, là Đại só giúp Phật mở mang, nói nhân quả giải thoát bất tư nghị Phật quốc. Từ Bồ-tát hạnh đến hết hai phẩm A-bệ, là ngài Tịnh Danh tiếp các đại chúng trở về Am-la viên. Như Lai đối đại chúng lại nêu lên nói nhân quả Phật quốc. Do đó Đức Như Lai phó cơ đáp lời Bảo Tích thỉnh nói về y báo, hoặc trước nói kinh Phổ Tập về nhân quả Chánh báo, nên ngài Tịnh Danh giúp Phật tuyên nói, giúp Phật nói nhân quả Phật quốc bất tư nghị giải thoát để khải ngộ cho người có duyên. Cũng như quan thượng thư phụng chỉ vua dạy dỗ dân, do đó mà trở về Am-la viên. Phật đối đại chúng nói đầy đủ về Phật quốc cũng như đại thần vì nước mở mang đất nước xong trở về triều. Đức vua vui mừng bằng lòng và ấn khả. Hỏi: Các quở trách của ngài Tịnh Danh từ trước đây há được giúp thành giáo này? Đáp: Phật dù chưa nói nhân quả Phật quốc nhưng ngài Tịnh Danh dự đoán ngầm biết ý Phật mà giúp thành giáo này, sao lại không được? Việc quốc chính ở ngoài thành là do tướng quân đảm trách chỉ hợp ý trời hà tất phải đợi chiếu chỉ. Nhưng đệ tử kể chuyện xưa Như Lai đã mặc nhiên ấn khả là ngầm hiểu được tâm Phật. Há không phải giúp thành giáo ngày nay, cho nên những quở trách ngày xưa là chung giúp cho Chánh báo, bây giờ nhắc lại thành Y báo hôm nay. Hỏi: Nửa phẩm này và hai phẩm ra thất đều là Phật tự nói về Phật quốc. Trong suốt chín phẩm nói về Phật quốc mà chưa đủ nghóa, sao được giúp thành giáo nghóa Phật quốc? Đáp: Trước sau Phật đều nói về Phật quốc, ngài Tịnh Danh trong khoảng đó đâu thể trái ý Phật. Như Phật đáp lời Bảo Tích nói: Mỗi mỗi các hạnh đều là nhân của cõi Phật thanh tịnh. Ngài Tịnh Danh đã nói về mỗi mỗi các hạnh, vậy sao lại không phải? Hỏi: Trước sau Phật quốc đều là chính Phật nói, trong khoảng chín phẩm lại không có lời nào về Phật quốc vậy đâu thể giúp thành giáo nghóa Phật quốc? Đáp: Như phẩm Phật Quốc nói về nghóa Tịnh độ rằng: Tùy theo Phương tiện thì thành tựu chúng sinh, tùy thành tựu chúng sinh tức cõi Phật thanh tịnh. Ngài Tịnh Danh có đại phương tiện, cho nên ở ngoài thất thì quở trách chiết phục, ở trong thất thì khuyến dụ mà nhiếp thọ. Quở trách chiết phục thì tâm không cấu nhiễm, khuyến dụ nhiếp thọ thì các thiện trang nghiêm. Thế thì điều phục chúng sinh há hơn đây sao? Nếu chánh báo của chúng sinh thanh tịnh trang nghiêm thì y báo quốc độ đều nghiêm tịnh cả. Thế nên văn kinh nói: “Tùy thành tựu chúng sinh tức cõi Phật thanh tịnh.” Như đây mà suy thì những điều ngài Tịnh Danh nói tuy không nói rõ về nhân quả tịnh độ, nhưng theo như đã nói nhiếp phục chúng sinh thì tức là giúp Phật nói về Tịnh độ, nghóa rất rõ ràng. Hỏi: Nếu thế, thì Tịnh Danh giúp thành Phật quốc, hay Tịnh Danh tự mình tịnh hóa Phật quốc, hoặc giúp đệ tử Phật v.v… thanh tịnh hóa Phật quốc ư? Đáp: Tìm kỹ lý này đều có nghóa đó. Như kinh Pháp Hoa nói: thọ lượng của Đức Thích-ca thành Đạo đến nay rất lâu xa, nay phân thân Phật ở mười phương Tịnh độ mà nói pháp, ở vị lai cũng thế. Đây giống như ý nghóa Tịnh Danh giúp thành cõi Tịnh độ của Thích-ca. Ngài Tịnh Danh đã có thể chiết phục nhiếp thọ những kẻ có duyên, nếu ngài Tịnh Danh thành Phật thì họ sẽ đến sinh vào nước ngài, tức là Tịnh Danh có thể điều phục chúng sinh để cõi Phật tịnh. Đệ tử Bồ-tát cũng nhận sự chiết phục để điều phục chúng sinh. Chúng sinh đã nhờ các đệ tử Bồ-tát mà dứt ác sinh thiện. Các đệ tử đó sau khi thành Phật thì các chúng sinh được điều phục kia sẽ sinh vào cõi nước ấy. Cho nên nói, tùy theo chúng sinh được điều phục thì cõi Phật thanh tịnh. Hỏi: Bồ-tát thì có thể như thế, còn Thanh văn chọn lấy diệt độ đâu thể có nghóa này? Đáp: Vì thế nói tìm kỹ lý đó mới có nghóa này. Như kinh Pháp Hoa phát khởi dấu tích Thanh văn khen nói ít dục, chán sinh tử, thật và là tự tịnh cõi Phật. Lại ở phẩm Thăm Bệnh, ngài Văn-thù mới đến thất trống của ngài Tịnh Danh biểu thị Phật quốc là Không, nhân đây luận trở lại về nghóa Phật quốc. Kế đến là phẩm Bất Tư nghị có nước Tu-di đăng vương, đến phẩm Hương Tích hiện ra nước Chúng hương. Nếu đây không giúp Phật nói nhân quả Phật quốc là tông chỉ của kinh này. Nếu không cho nhân quả Phật quốc dùng làm tông chỉ của kinh này, thì tại sao từ xưa nay phần đông đều nói sáu phẩm trong thất, nhân thất trống mà có, sáu phẩm đã nhân đây mà sinh há không phải là từ Phật Quốc sinh ra? Ngài Tịnh Danh giúp thành nghóa Phật quốc là tông chỉ nghóa ấy rất rõ ràng. Hỏi: Kinh này nói bất tư nghị giải thoát thì có liên quan gì đến nghóa Phật quốc? Đáp: Phẩm Bất Tư nghị có hạt cải dung nạp núi Tu-di, biển cả ở trong lỗ chân lông… đều là căn cứ vào Y báo mà hiển bày việc bất tư nghị. Xét nửa phẩm này “Phật Quốc) có hai phần: Bảo Tích thỉnh nói Như Lai đáp lời. Phần a, có hai: Đồng loại có thể nghe. Chính thỉnh Thế Tôn, nói. Nói vì trước đã phát tâm nên có thể nghe, nói: A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề Tâm, Hán dịch là Vô thượng chánh biến tri đạo tâm. Nhưng phát tâm có ba: Danh tự. Tương tợ. Phần chứng. Nay năm trăm trưởng giả tử là ở ngôi vị Tương tợ phát. Do đâu mà biết? Vì đoạn văn dưới nói khi Phật hiện Tịnh độ thì mới được vô sinh, đó là phần chứng. Nói tương tợ thì mỗi vị Thông, Biệt Viên đều xét theo nội phàm. Hỏi: Vì sao chỉ căn cứ vào tương tợ phát? Đáp: Hàng Thanh văn Căn tuệ, hàng Bồ-tát phục nhẫn đều chưa có nghóa “phát.” Nếu Thanh văn tánh địa, Bồ-tát nhu thuận thì mới có nghóa phát, cho nên phần nhiều đều y cứ theo nghóa này mà nói ngôi vị phát tâm. “Nguyện nghe được Phật…” là Chánh thỉnh, Bảo Tích và đồng loại đã có căn cơ có thể nghe, người có căn cơ vượt trội thỉnh nói nhân quả Phật quốc. - Phần này có hai: Xin được nghe cõi Phật thanh tịnh tức là xin nói quả. Xin nói Bồ-tát hành Tịnh độ, tức là xin nói nhân. Nếu luận theo thứ tự thì nên nói nhân trước quả sau. Nay vì chúng nghe pháp do thích quả mới tu nhân, do đó trước thỉnh nói quả sau mới thỉnh nói nhân. Sở dó nói lời thỉnh này là vì nhìn lên thấy Phật hợp lọng và hiện các tướng lành nên biết Phật muốn nói về quả Phật quốc mà hiện ra tướng này, nên thỉnh nói quả. Kế thỉnh nói nhân là vì quả Phật quốc ắt phải nhờ nhân thù thắng , đại chúng nếu nghe quả tịnh quốc thì mến quả mà tạo nhân, nên thỉnh nói nhân. “Phật nói lành thay”… là phần hai của nữa phẩm Phật quốc Phật đáp lời. Có bốn phần: Khen nhận. Khuyên nghe. Trao lời. Phật chánh đáp. “ lành thay”, là khen nhận. Sở dó Phật khen nhận, là vì Bảo Tích thưa hỏi ý biểu thị của việc hiện tướng lành, lại vì đồng bạn xin được giải thích nên Phật nhận lời. Từ: “Lắng nghe… đến vì ông mà nói” là khuyên người nghe pháp nên lắng nghe và gắng nghó nhớ để sinh ba thứ tuệ lành. Lắng nghe thì sinh văn tuệ. Khéo suy nghó thì sinh tư tuệ, nhớ nghó thì sinh tu tuệ. Nếu nghe mà không không chú ý thì không được thấm nhuần lợi ích. Nếu nghe mà không suy nghó thì không thấy rõ được chỉ thú, nếu suy nghó mà không tu thì trọn không được chứng lý. Nếu ba thứ tuệ ấy đầy đủ thì việc nhập đạo không còn nghi ngại gì. Do đó khi đến nghe, nhận ba điều dạy mà nghe, tức là vâng giữ đúng ba tuệ mà Phật đã khuyên dạy. Từ “Phật nói”trở xuống là Phật chính thức trả lời. Có năm phần: Phật chính thức trả lời. Xá-lợi sinh nghi. Phật giải thích. Phạm vương tự kể để làm sáng tỏ lời Phật răn. Phật hiện Tịnh độ chúng được lợi ích. Phần a có hai: Đáp quả. Đáp nhân. Đáp quả lại có hai: Chánh đáp. Thí dụ. Chánh đáp có ba: Nêu chương tổng đáp. Giải thích riêng. Kết. Nêu chương tổng đáp: Văn kinh nói: loại chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát nghóa là. Bồ-tát từ chỗ thông suốt đến tịch cảnh trí đều quên vì không độ nào là Không phải độ, chỉ vì hóa sinh mà có cõi Phật. Cho nên nêu loại chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát. Những cõi không tồn tại ở Bồ-tát chúng sinh cũng không phải cùng lìa hẳn vắng lặng như hư không không thể nói bày, mà là dùng Tất-đàn phương tiện tùy ý phó duyên tự tại không lầm lỗi như trước đã nói. Nay căn cứ ở đối tượng được hóa độ nên nói chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát. Về nghóa chúng sinh như trước đã nói trong mười giới. Nói loại, tức là khí loại, khí loại biên không nhưng chính yếu không ngoài hai thứ là hữu vi duyên tập và vô vi duyên tập. Hữu vi, tức là cõi nước nhiễm tịnh ở nội giới, mê chân trệ hữu mà khởi các kiết nghiệp, nhận lấy phần đoạn sinh tử, đều là loại này. Vô vi, tức là Hữu dư quả báo của ngoại giới và chia ra trung hạ tịch quang. Ba cõi này chúng sinh còn mê Trung đạo Phật tánh, trệ ở vô vi duyên tập, khởi các kiết nghiệp, chịu biến dịch sinh tử, đều là loại này. Xét theo giáo mà luận, thì hữu vi duyên tập của Tạng Thông tức là loại sinh diệt vô sinh, về vô vi của Biệt Viên tức là loại vô lượng, vô tác. Cho nên căn cứ bốn giáo mà mở ra hai loại duyên tập và bốn thứ chúng sinh. Hỏi: Nói về ba cõi nhận quả báo không đồng nhau, chỗ ở đều khác, vì sao đều đồng là vô vi duyên tập? Đáp: Đồng là mê lý đều là vô minh biến dịch sinh tử, nên chung là một loại. Hỏi: Nếu thế, vì sao lại phân biệt làm ba cõi bất đồng? Đáp: Năm bậc người hữu dư tuy đồng thấy chân và các nội giới hoặc đã dứt hết nhưng chưa thấy Trung đạo, đoạn tập hữu vi nên đồng sinh vào hữu dư chịu biến dịch sinh tử, gọi là phương tiện sinh tử. Về hai giáo Biệt Viên đoạn các thông hoặc, là thấy Không và Bất không. Vì thấy không nên đoạn tập hữu vi và thấy chẳng không nên xâm nhập vào tập vô vi. Nếu từ bậc Sơ trụ, Sơ địa cho hết Địa thứ chín oạn tập vô vi, thì đồng chịu quả báo biến dịch sinh tử, cũng gọi là Nhân duyên sinh tử. Nếu Thập địa trở xuống tịch diệt nhẫn thì còn sót hai đời, Đẳng giác trung nhẫn thì còn sót một đời mà phần trụ ở tịch quang liền mở biến dịch ra khỏi thân sau, không còn sinh tử đời sau nữa. Tuy lại khác quả báo chỗ ở đều khác nhưng cùng là ngoại giới đồng mê Trung đạo, nên đồng là khí loại vô vi duyên tập. Hỏi: Sao không dùng bốn thứ duyên tập đối với bốn cõi mà nói bốn loại chúng sinh? Đáp: Mới nhìn qua có vẻ tiện lợi, nhưng đối với lý thì có phương hại, vì không khác về tự thể pháp giới mà khác vô vi. Việc được mất đến phẩm Thăm Bệnh sẽ nói rõ. Nếu lại căn cứ vô vi nêu ra hai thứ thì không lỗi, ắt cần phải nêu ra, nhưng căn cứ bốn giáo mà nêu ra bốn loại chúng sinh này thì rất tiện. Nếu xét theo quán tâm, do nhân duyên sinh ra tức là loại hữu vi từ Giả vào Không để phá tập hữu vi mà thành loại vô vi. Nếu nhập giả danh Trung đạo phá vô vi chưa hết, thì đều gọi là loại vô vi. Giải thích riêng: Từ “Sở dó vì sao…” Chỉ vì Thánh tâm khó lường, nay nêu năm ý để nói chung về kinh này: Căn cứ cõi nhiễm tịnh về chiều ngang nói chung về bốn thứ kinh văn. Xét bốn cõi về chiều dọc. Suy chung bốn cõi. Xét theo quán tâm. Căn cứ giáo. Xét Đồng cư về chiều ngang “không gian”, y vào kinh có bốn: Tùy việc hóa độ chúng sinh mà nhận được cõi Phật. Nay nói về cõi Phật rộng hẹp không đồng do chỗ hóa độ nhiều ít mà như thế. Như Đức Thích-ca dùng số trăm ức để làm cõi Đồng cư, viên mãn nguyện ấy mới thành Phật. Hay là dùng đại thiên hằng sa để làm cõi đồng cư. Như ở đời tạo số nhà rộng hẹp để ở do số chúng sinh hóa độ được mà nhận được cõi Phật cũng thế. Lại Bồ-tát hóa độ chúng sinh tu thiện nhiều ít có khác nhau, nên quốc độ trang nghiêm hơn kém cũng khác nhau. Nên nói chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát. Tùy chúng sinh được điều phục mà nhận lấy cõi Phật, là nói Bồ-tát vì chúng sinh mà nhận lấy cõi nước, uế tịnh không đồng, đều thì việc điều phục được thích hợp, chứ không liên quan gì đến phước tuệ hơn kém của Bồ-tát. Như nuôi con tuy có yêu thương đánh mắng khác nhau, nhưng đều là để giúp cho thành nhân. Nhận cõi nước cũng thế. Nếu có người bức bách hại đạo thì dùng tịnh quốc mà khiến an, nếu có kiêu mạn hại đạo thì dùng cõi uế để điều phục. Không phải dùng cõi uế để khiến sinh khổ não, không phải dùng lạc quốc để giúp buông lung không tu. Vì sao Bồ-tát không vì chúng sinh mà tạo nhân duyên phiền não, đều cần làm ra cõi uế tịnh khiến họ lưu chuyển? Chính là do chúng sinh ác nghiệp đã dứt được nhiều ít mà nhận được cõi không đồng. Tùy chúng sinh đáng dùng cõi nước nào để nhập Phật trí tuệ mà nhận lấy cõi Phật. Kinh Pháp Hoa nói: Chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời, vì khiến chúng sinh khai Phật tri kiến, nên nay nói Bồ-tát điều phục chúng sinh mà đến cõi uế tịnh, đều là khiến họ nhập Phật trí tuệ, đáng dùng tịnh quốc mà nhập, thì sự lý đều gấp, nếu khiến họ vào Phật tuệ đáng dùng uế quốc mà nhập, thì sự chậm rãi mà lý gấp. Khiến vào Phật tuệ do căn tánh cũng khác nên nhân cõi nước không đồng. Nên nói chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát. Tùy chúng sinh nên lấy cõi nước nào để khởi căn Bồ-tát mà nhận lấy cõi Phật. Chúng sinh vào đạo do căn nhận pháp mà vào Phật tuệ. Bồ-tát quán xét lục căn của chúng sinh như nhãn, nhó…, căn nào lanh lợi. Nếu như nhó căn lanh lợi thì dùng tiếng làm Phật sự, tất cả pháp đều quy về tiếng như tiếng giảng nói ba đế, tuyên bày bốn giáo. Dùng cách khởi nhó căn làm căn của Bồ-tát tụ họp lại ở một cõi nước, sau khi thành Phật thì Bồ-tát dùng tiếng làm Phật sự. Nhãn… các căn kia y theo đây nên biết. Nói đầy đủ trong phẩm Bồ-tát Hạnh ở sau. Chính do sáu căn nhanh nhạy nên khiến Phật sự không đồng, đều là vì khởi căn tùy loại chúng sinh. Như ở cõi Ta-bà dùng tiếng nói làm Phật sự cho đến cõi Hương tích thì dùng hương làm Phật sự, đều là do căn loại của chúng sinh khác nhau cùng ở cõi ấy mà Phật sự không đồng. Nên nói chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát. Xét bốn cõi về chiều dọc: có bốn Tùy việc hóa độ mà đối có cõi Đồng cư. Tùy việc điều phục mà đối có cõi Hữu dư. Tùy nhập Phật tuệ mà đối có cõi quả báo. Khởi căn Bồ-tát mà đối có cõi Tịch quang. Do hóa độ, ở hàng cụ phược nội giới chưa thấy được chân lý, tâm thần loạn động, thiện ác bất định. Bồ-tát phương tiện quán sát thấy rõ ai đã thuần thục, chưa thành thục. Nếu chưa thuần thục thì dùng cõi uế, thuần thục thì dùng Tịnh độ, thuần thục, chưa thuần thục vô lượng, uế tịnh cũng thế. Do điều phục mà có cõi Hữu dư vì sao? Vì các A-la-hán có khả năng điều phục những thứ khó điều phục nên gọi là điều phục. Đoạn văn dưới nói: “Nếu trụ ở tâm điều phục là pháp của Thanh văn.” Nên biết hàng Nhị thừa và Bồ-tát của ba giáo sau các hoặc nội giới đã hết thì đều gọi là điều phục, liền ra khỏi ba cõi, liền ứng hiện có cõi nước gọi là Hữu dư. Nên biết Bồ-tát vì chúng sinh này mà nhận lấy cõi Hữu dư. Do vào Phật tuệ. Bậc Sơ trụ trở lên thấy được lý Trung đạo phá một phẩm vô minh, cho đến ba mươi chín phẩm, đều sinh quả báo, nên biết Bồ-tát vì đây mà vào Phật trí tuệ. Khởi căn Bồ-tát, đối cõi Tịch Quang ở trước, nhập Phật tuệ là loại tổng tướng thấy Trung đạo. Nay nói khởi căn là loại Biệt tướng thấy Trung đạo. Như Thanh văn thì tổng tướng Tuệ là kém, còn Duyên giác thì biệt tướng tuệ là hơn. Nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật nhãn cho đến Phật ý.” Kinh Ương-quật nói: Nói về nhãn thì các Như Lai luôn đầy đủ không hề giảm bớt, do tu mà thấy phân biệt rõ ràng nên nói là thấy. Tức là ở một căn trần mà thấu suốt ba đế tất cả các pháp vắng lặng mà thường chiếu, không thứ nào không thông suốt. Các căn trần khác cũng thế. Tỳ-lô-giá-na biến khắp tất cả nơi, ấy là dùng cõi Thường tịch mà khởi căn Bồ-tát. Nên biết chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát. Dùng pháp giới hải sáu trần khởi các loại hậu thân của Bồ-tát thì đều nhập vào Tịch quang. Hỏi: Kinh Nhân Vương nói: Cả Tam Hiền Thập Thánh đều trụ ở quả báo chỉ có Phật là người duy nhất ở Tịnh độ, nay vì sao nói Thập địa cũng ở cõi Tịch quang? Đáp: Nhân quả cho và cướp lấy vô sinh tịch diệt Nhất thiết chủng trí. Suy chung cả bốn cõi nước: Chung cõi Đồng cư như bốn nghóa trước. Chung cõi Hữu dư, là tùy theo chúng sinh được hóa độ mà trụ vào quán phương tiện mà đoạn các kiết nội giới. Chúng sinh không thể không có phước tuệ hơn kém, cũng như các trời cùng đồ đựng báu nhưng sắc cơm có khác, để hóa độ chúng sinh này mà dùng cõi Hữu dư hoặc cõi Tịnh uế để điều phục vào Phật tuệ. Dùng sáu trần ở mười giới mà khởi các căn, khiến đối với các trần thấu suốt không ngăn ngại mà thấy lý Tịch quang. Đây tức là loại chúng sinh cõi Hữu dư, đều được dùng chung bốn trường hợp “tứ cú”. Chung cõi quả báo Bồ-tát nhận lấy cõi này chính vì giáo hóa hàng Biệt viên. Các địa công đức đã có hơn kém, tức là các pháp môn điều phục tịnh uế các pháp môn tiến vào, các pháp môn tiến vào tức là pháp thân vào Phật tuệ, khiến các căn sáng tỏ đạt được sáu căn trong pháp giới hải của Phật, tức liền khởi căn. Thông cõi Thường tịch. Phẩm đầu Vô Minh chưa dứt hết nên cần phải hóa độ, quả báo đã có cao thấp túc là điều phục tiến lên quán thật tướng, liền nhập Phật tuệ mà vào Trùng huyền môn hư không pháp giới hải. Tự hành và hóa tha ngang dọc chuyển sáng tức là khởi căn. Căn cứ ba quán quán bốn cảnh, nghóa là cảnh nhân duyên không giả trung. Cảnh là nơi tâm nương vào, tức nghóa là cõi nước. Chúng sinh, như Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: Các ông ngày đêm nên thường sinh vô lượng trăm ngàn chúng sinh. Nay do nhân duyên tâm nhiều cảnh nhiều, tâm ít cảnh ít, do chiếu cảnh nhiều ít nên gọi là nước lớn nhỏ. Như thế mà quán cảnh, thì gọi là hóa tâm; chúng sinh, duyên thiện ác tức là cõi tnh cõi uế điều phục cái tâm năng duyên khiến nó trụ vào chánh đạo, tức là điều phục, như thế mà điều tâm ngộ và giải bất định. Tùy quán thiện ác nhận lấy ngộ bất đồng nên gọi là cõi tịnh uế. Thiện ác có khác nhau mà nhập vào Phật tuệ không khác. Khởi căn Bồ-tát là tùy quán thiện ác hiểu rõ trần này tức là pháp giới Thường tịch rốt ráo . Cảnh của Thường tịch phát ra chân trí, là chỗ sở y của trí thì cảnh tức là Tịch quang. Lại nữa, người tu quán bốn cảnh ấy không bị đắm trước vào cảnh, chỉ điều phục tâm số phiền não của chúng sinh, tùy mỗi mỗi cảnh mà quán rộng hẹp cùng với chẳng điều phục nhập cùng với chẳng nhập, khởi cùng với chẳng khởi. Hiểu rõ ý này ở trong cảnh nhân duyên, dùng bốn tâm này mà khởi thệ nguyện, nguyện các chúng sinh đều được như mình, hóa độ tâm số này thảy đều thanh tịnh tức là Tịnh độ mà an lập chúng sinh hữu vi duyên tập. Dùng bốn thứ quán ở “không’ tâm nhiều ít nhập tuệ và khởi căn liền phát thệ nguyện, nguyện các chúng sinh như mình. Điều phục khiến tâm sáng rỡ tức là cõi Hữu dư thanh tịnh mà an lập chúng sinh vô vi duyên tập. Nếu chỉ có hạnh mà không nguyện thì không thể cõi Phật thanh tịnh. Như có trâu mà không có người cỡi. Có nguyện mà không có hạnh Như có người cỡi mà không trâu, đều không đến đâu được. Người tu hành tâm trụ ở ba quán nguyện và hạnh đầy đủ mà thành tựu chúng sinh. cõi Phật thanh tịnh là ý ở đây vậy. Kinh Đại Tập nói: Muốn tịnh hóa thành cõi Phật phải tịnh tâm ông, tức là bốn thứ tâm vậy. Nên Phật đáp Bảo Tích rằng tùy tâm tịnh tức cõi Phật tịnh. Người tu hành nên biết tất cả Bồ-tát làm cõi Phật thanh tịnh đều từ tâm mà khởi. Căn cứ giáo, có bốn phần: Vì hóa độ chúng sinh chọn cõi Đồng cư. Chúng sinh được bốn giáo hóa độ chưa dứt hết các hữu vi, tức là phàm phu, đoạn hoặc chưa hết, tức là Thánh nhân. Vì loại này mà hóa độ thì chọn các cõi Đồng cư Tịnh uế. Nếu chúng sinh được bốn giáo hóa độ mà đã đoạn hết các hữu vi, để độ loại này thì chọn cõi Hữu dư. Nếu chúng sinh được Biệt viên hai giáo hóa độ, và đoạn hết các hữu vi thấy chân trung đạo, nhưng chưa hết vô vi, để hóa độ loại này thì chọn cõi quả báo. Nếu chúng sinh được viên giáo hóa độ vô vi sắp hết, để hóa độ nhóm này thì chọn cõi Tịch quang. Vì điều phục chọn cõi Phật, chúng sinh do bốn giáo điều phục, đoạn hữu vi và vô vi hết và chưa hết thì hoặc phàm hoặc Thánh. Dùng giáo đối cõi theo như trước nên biết, chỉ nói điều phục có khác. Nhân cõi nước vào Phật tuệ. Nếu vì chúng sinh nhận bốn giáo tu giáo nào để đoạn hoặc nào, đã hết hay chưa hết, ở quốc độ nào mà được khai quyền hiển thật. Tùy theo cõi nước tương ưng được nhập vào Phật tuệ, mà chọn lấy bốn cõi ndựa theo “việc hóa độ”ở trên mà suy biết. Khởi căn chọn cõi nước. Nếu nhận lấy tiếng bốn giáo khởi nhó căn, vốn đoạn hữu vi chưa hết, thì vì họ lấy tiếng làm Phật sự ở cõi nước Đồng cư, còn năm trần kia khởi năm căn để làm Phật sự cũng thế. Nếu nhờ vào tiếng bốn giáo, chúng sinh đoạn hữu vi đã hết, thì chọn âm thinh làm Phật sự ở cõi Hữu dư. Năm căn trần kia cũng đều như thế. Nếu nhờ vào tiếng của Biệt viên giáo mà thấy Trung đạo và đoạn hết vô vi thì dùng âm thinh làm Phật sự ở cõi nước quả báo. Khởi nhó căn cho đến khởi ý căn, nhưng trong đây sáu căn chúng sinh được xử dụng lẫn nhau, tùy trần khởi một căn tức khởi sáu căn, nếu là nhơ Viên giáo đoạn vô vi sắp hết thì chọn cõi nước Tịch quang. Dùng sáu trần mà khởi sáu căn, đều là sáu căn tịch chiếu khiến thành sáu căn diệu giác. Đây riêng giải thích là vì chúng sinh chọn cõi nước, ở phẩm Bồ-tát Hạnh sẽ nói rõ. Vì đoạn văn sau phần nhiều giải thích đảo ngược nên khó thấy. Khi gặp văn đó sẽ nói riêng ra. Tứ câu “Vì sao vậy”đến “chúng sanh là Tổng kết “phần c trong Chánh đáp”. Nói rõ về bốn cách chọn cõi nước này đều vì muốn làm lợi chúng sinh về hữu vi và vô vi duyên tập, tức là đáp chung về chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát. Từ “Thí như trở xuống là “Phần Đáp quả Thí dụ. Có hai phần: Mở Thí dụ. Hợp dụ. Phần mở có hai: Mở thí dụ thành. Mở thí dụ không thành. Mở thí dụ thành. Muốn ở chỗ đất trống mà tạo dựng nhà cửa, thí như thường ở trong không mà thấy cõi Phật chẳng không, tức là nghóa thành. Bốn thứ bất khả thuyết nên gọi là Không. Có nhân duyên nên nói bốn thứ nhân quả nên gọi là chẳng không. Bồ-tát căn cứ ở chúng sanh có bốn thứ khổ tập, dùng bốn thứ đạo diệt mà thành bốn Tịnh độ. Mở thí dụ không thành, như ở hư không trọn không thành, thí như bốn thứ bất khả thuyết không thấy được bốn thứ Tứ đế, thì bốn thứ cõi Phật trọn không thành. Phần hợp thí dụ, cũng có hai: Họp thí dụ thành, nhưng có đất không có không thì trọn không thành. Có đất có không mới có thể lập cung thất, muốn có cõi Phật thì hai pháp cần hợp thành. Nếu thuần dụng có phàm phu Tam tạng giáo thì Bồ-tát làm sao có thể Tịnh độ được. Nếu thuần dụng Nhị thừa “không”thì Bồ-tát của Thông giáo cũng đâu thể Tịnh độ. Nếu có không gian và đất thì xây cất nhà cửa mới được thành . Dùng tâm “không”bất khả đắc duyên với bốn thứ khổ tập chúng sinh mà tu bốn thứ đạo diệt nguyên hạnh, bèn thành nhân Tịnh độ. Như bốn thứ bất khả thuyết của Niết bàn tức là “không”vậy. Vì nhân duyên nên khởi thệ nguyện từ bi tu bốn cõi, nói bốn cõi không thể nói mà không thể lập mà lập, không và hữu không mất nhau cũng không ngại nhau là ước bất tư nghị mà luận về bốn cõi nước vậy. Như ngài Diệu Đức hỏi “Thất này vì sao để trống?”Ngài Tịnh Danh đáp: “Mười phương cõi Phật cũng đều trống không.” Lại nói: “Tuy biết các Phật quốc độ vắng bặt như không trung, mà lại thường tu tịnh độ giáo hóa quần sinh”, nên biết bốn thứ không thể nói vắng bặt như hư không. Do có nhân duyên nên cũng có thể nói, tức là khởi tất cả các thứ cõi nước thù thắng, nguyện nhận lấy Phật quốc mà không phải là hư không. Hợp dụ không thành. Nếu chỉ ở không thì Tịnh độ không thành. Đây là chê hàng Nhị thừa và Bồ-tát của Thông giáo tu nhân đản không”“chỉ không) nên không thành Tịnh độ Phật quốc độ. Từ: “Bảo Tích nên biết…” là phần đáp nhân chính đáp lời Bảo Tích hỏi về nhân Phật quốc. Có hai phần: Trải rộng các hạnh mà tu nhân. Dọc suốt nguồn tâm mà tu nhân. Cả ngang rộng dọc sâu hỗ trợ lẫn nhau không được tách rời. Chỉ vì sách không muốn diễn bày trùng lên nhau nên nói có thứ tự trước sau thôi. Kinh Pháp Hoa nói tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa thì việc hợp lọng hiện cõi có tướng rộng dài là biểu thị cho điều đó. Ngang rộng dọc suốt văn kinh càng phải giải thích khiến cho nghóa cao rộng được thành. Nay trước là nói rộng tu nhân Tịnh độ, có mười bảy pháp môn, văn chia ba phần: Ba khoa căn cứ ba tâm. Sáu khoa căn cứ tự tu. Tám khoa căn cứ hóa tha. Ba tâm có bốn ý: Nói về riêng. Nói về chung. Nói về quán tâm. Giải thích theo kinh. * Nói riêng về tu Tịnh độ, tức ba thứ tâm Bồ-đề: Trực tâm, Thâm tâm và Đại thừa tâm. Quán Tứ đế gọi là trực tâm. Quán nhân duyên gọi là thâm tâm. Phát bốn hoằng nguyện gọi là Đại thừa tâm. Về trực tâm, là quán lý Tứ đế, tức ba thứ Tam-muội lìa bỏ tà kiến cong vẹo, nên gọi là trực tâm. Nên trong Đại luận có nói: Đó là tâm Từ vô thỉ luôn cong vẹo không thẳng, nếu được tâm Tam-muội thì liền ngay thẳng . Nay nói hàng Thanh văn tu ba thứ Tam-muội duyên với bốn chân đế mà có thể phát ra vô lậu đoạn bỏ các tà kiến, nên gọi là điều trực định. Thâm tâm, là quán mười hai Nhân duyên tức trí tuệ Duyên giác. Trí sâu hơn Thanh văn, do trí quán nhân duyên mà diệt trừ các tập khí. Hỏi: Tịnh độ là hạnh Bồ-tát sao được căn cứ ở tâm Nhị thừa? Đáp: Đại phẩm nói: Ba thừa, Thập địa đều tu đều học mà không thủ chứng, còn Phật thì cũng học cũng chứng. Kinh Pháp Hoa nói: Thiểu dục và chán sinh tử là thật sự tự mình cõi Phật thanh tịnh. Nếu tâm Nhị thừa không phải là tịnh cõi Phật thì tại sao khi Bồ-tát thành Phật, các chúng sinh Nhị thừa lại sinh vào cõi nước ấy. Hỏi: Trong đây chỉ nói trực tâm và thâm tâm đâu cần phải gượng ép đối với hàng Nhị thừa quán tâm? Đáp: Kinh này vẫn còn mang phương tiện nên có giải thích này. Nếu chuẩn theo các kinh Đại Phẩm, Pháp Hoa e là phải căn cứ ở tâm Nhị thừa tu hạnh Tịnh độ mà tiếp dẫn hàng Nhị thừa sinh vào cõi nước ấy. Nên trong Đại luận giải thích về phần Khuyến Học trong Bát-nhã nói: “Có cõi Phật toàn là Thanh văn làm Tăng, có cõi Phật toàn là Bích-chi-Phật làm tăng, có cõi Phật thuần là Bồ-tát làm Tăng. Nếu người tâm quán duyên đế mà không phải là tịnh cõi Phật, thì há thuần là Thanh văn đều sinh vào cõi nước ấy, Duyên giác, Bồ-tát cũng như thế nên biết. Hỏi: Kinh này nói: Tùy các chúng sinh đáng dùng loại cõi nước nào để vào trí tuệ Phật. Lại kinh Pháp Hoa nói mười phương ba đời chư Phật ở cõi đồng cư đều khai ba hiển một. Nếu có cõi Phật toàn là Thanh văn thì sao được vào Phật tuệ mà khai hiển? Đáp: Theo số nhiều mà luận. Cõi Đồng cư phần nhiều là khai ba hiển một. Đại phẩm nói điều này là cốt chỉ rằng cả mười phương không thể không có Phật sự ấy, chỉ là chư Phật thường làm một việc. Tuy ở Đồng cư mà không được hiển một, thì các Thanh văn ở cõi Hữu dư được vào Phật tuệ. Đại thừa tâm là Bồ-tát Tịnh độ duyên với Tứ đế mà khởi Bi thệ nên gọi là tâm Đại thừa. Hàng Nhị thừa tự độ thì Thanh văn chỉ là trực tâm, Duyên giác chỉ là thâm tâm, còn Bồ-tát độ khắp gồm cả trực và thâm tâm, nên thêm vào tâm Đại thừa. Nói chung thì ba tâm chỉ là một tâm, chỉ khác tên mà thôi. Bởi vì ba tâm chỉ là một, tự tánh thanh tịnh không có hai bên cong vẹo, gọi đó là chân. Khó tìm nguồn cội nên gọi là thâm sâu, tánh nó rộng khắp nên gọi là đại. Bồ-tát tuy quán Tứ đế nhưng không chung với Thanh văn, vì quán vô tác Tứ đế mà tu tám Chánh đạo. Như Đại kinh có nói: Bồ-tát tu tám Chánh đạo tức là Phật tánh, nên nói: Trực tâm là đạo tràng không hư giả. Cho nên nếu quán vô tác mà tu tám Chánh đạo tức lìa bỏ kiến giải tà tiểu thấy quanh co gọi là chân trực tâm, nên biết trực tâm chính là đó. Kế đến, Bồ-tát quán nhân duyên mà không chung với Duyên giác. Kinh Đại Phẩm nói: Mười hai Nhân duyên là pháp riêng của Bồ- tát. Đại Luận cũng nói: Mười hai Nhân duyên là thâm pháp nhẫn, cho nên biết thâm tâm chính là ở Bồ-tát. Về tâm Đại thừa thì không cùng chung với hàng Nhị thừa và Bồ-tát của Tạng Thông như Đại kinh có nói: “Một thật đế gọi là Đại thừa”, nay ba tâm này không có ba thứ sai khác, không dọc không ngang là tên gọi khác của ba đức, muốn được dễ hiểu nên phân làm ba thứ. Lại tuy nói ba thứ mà như chữ “Y”ở đời thế gian Bồ-tát tu ba tâm này là gốc các tâm, tức là tâm đầu tiên trụ vào ba đức. Nếu xưa luận ba tâm nhân cảm được quả ba thân và thân Phật của bốn giáo, nay nói chỗ nương tựa phân nơi ba tâm liền cảm được quả ba cõi, bốn loại Phật quốc. Căn cứ quán tâm mà nói ba tâm, đầu tiên là thể từ Giả vào Không. Không giả hai quán, vì phương tiện nên ba tâm có khác. Nếu tu Trung đạo về ba tâm, thì ba tức một, một tức ba. Giải thích theo Văn kinh. Có ba phần: Giải thích về trực tâm. Nay nói trực tâm là Tịnh độ, trước căn cứ theo giáo mà nói trực tâm là chánh nhân có thể cảm chánh quả, tức đoạn văn sau nói về quang nghiêm. Trực tâm là đạo tràng không hư giả, nên nay căn cứ theo trực tâm mà nói rõ là chỗ nương tựa nhân đó có thể cảm được quả quốc độ Y báo. Hỏi: Vì sao riêng căn cứ Tứ đế mà nói trực tâm? Đáp: Các tâm còn lại cũng đều căn cứ theo Tứ đế, và cũng làm sao lìa Tứ đế mà có môn khác? Về Trực tâm có năm: Thế gian và dùng bốn giáo. Trực tâm, của thế gian như người ghi chép sự thật không có dối trá, đây là cái trực của phàm phu ngoại đạo. Tuy thế tình đã mất nói người đó là trực tâm mà vẫn còn có chỗ cong vạy, cũng nói là si trực tức nghóa này vậy. Bốn giáo thì có bốn thứ tâm Chánh đạo mà không có bốn thứ tà khúc. Tam tạng giáo thì căn cứ sinh diệt lìa bỏ sáu mươi hai kiến tà khúc. Thông giáo thì vô sinh lìa bỏ khúc sinh diệt. Biệt giáo thì lìa bỏ khúc hằng sa. Viên giáo thì lìa bỏ khúc hai bên. Mỗi đều dựa theo về Tứ đế mà tu tám Chánh đạo thì đều gọi là trực tâm. Năm thứ trực tâm này có bốn quyền một thật. Nay Bồ-tát của Viên giáo biết tất cả pháp Không quyền không thật mà song tu, song dụng Bi thệ, độ người mà tu hạnh năm trực, khen năm pháp trực, thấy người tu năm trực càng thêm tùy hỷ. Bồ-tát như thế dù chưa tám tướng thành đạo, song thường có thần thông ở khắp mọi nơi, dùng năm pháp trực mà thành tựu cõi Phật thanh tịnh cho chúng sinh. Nếu vào Sơ trụ đầy đủ Chân ứng tùy cơ độ người, liền hiện cõi Tịnh uế đồng cư mà tám tướng thành đạo, thì không chỉlà các chúng sinh có trực tâm thế gian đã hóa độ từ xưa đến ở nước này mà còn. Các chúng sinh được hóa độ thuở xưa do tu sinh diệt Tứ đế và bốn thứ tám Chánh đạo đoạn hết hữu vi nhưng vô vi chưa đoạn, các chúng sinh ấy không siễm nịnh này đều đến ở đây. Hoặc các chúng sinh này ở quá khứ có các thứ căn tánh đốn, tiệm, bất định, bí mật… không đồng thì Bồ-tát khi thành Phật sẽ hiện ra bốn thân không đồng và pháp luân cũng có đốn tiệm… khác nhau. Như lúc đầu thì phó cơ dùng phương tiện, khi đến thời Pháp Hoa thì liền bỏ phương tiện chỉ nói đạo Vô thượng, bỏ cả ba quyền xưa trở về một thật. Chúng sinh được giáo hóa đều không trụ vào cái dua nịnh quyền giáo. Cho nên nói trực tâm là Tịnh độ của Bồ-tát cho đến tới sinh ở nước ấy. Lại nữa, Bồ-tát ở cõi Hữu dư được thành Phật, lúc đó chúng sinh có trực tâm Thập thiện không được sinh về cõi nước ấy. Vì sao? Vì các nội giới kiết nghiệp chưa đoạn hết. Cho nên nếu chúng sinh được hóa độ khi xưa tu trực tâm Tứ đế tám Chánh đạo, các kiết nghiệp nội giới đã hết, thì mới sinh vào cõi nước ấy, tức là Nhị thừa của Tam tạng giáo, có ba thừa của Thông giáo, một Thừa của Biệt viên… tổng gồm bảy trực tâm do chúng sinh không còn hữu vi duyên tập dua vọng đến ở cõi Hữu dư, cho nên nói trực tâm là Tịnh độ của Bồ-tát. Bảy loại chúng sinh không dua nịnh đến sinh ở nước ấy. Lại nữa, Báo độ của Bồ-tát khi thành Phật thì chúng sinh với hai trực tâm của Tạng Thông đều không được sinh, vì biệt hoặc chưa hết chỉ có hai thứ chúng sinh trực tâm Biệt Viên được độ từ xưa không còn sự dua nịnh của hai biên sinh vào nước ấy, nên nói chúng sinh không dua nịnh sinh vào nước ấy. Lại nữa, Bồ-tát khi thành Phật ở cõi Tịch quang thì chỉ có chúng sinh không dua nịnh do tu Biệt viên Bát trực “tám Chánh đạo) được độ thuở xưa là sinh vào nước ấy. Nghóa này như thế. Đâu có thể một thứ si trực thế gian sinh vào cõi nước ấy được. Thâm tâm sinh vào nước ấy, giải thích nhân duyên để biện minh về nghóa thâm tâm, căn cứ các pháp môn khác không phải Không được nhưng cũng đâu thể lìa mười hai nhân duyên. Thâm tâm cũng có năm: là Sự thâm tâm, tức tu phước thế gian, và bốn thứ kia là căn cứ ở quán mười hai nhân duyên để nói về thâm tâm. Nghóa là bậc Hạ trí quán sinh diệt, bậc Trung trí quán vô sinh, bậc Thượng trí quán vô lượng, bậc Thượng thượng quán vô tác, gồm ba quyền một thật. Bồ-tát hiểu biết không phải quyền không phải thật, mà quyền mà thật, để song tu thâm tâm mà thành tựu chúng sinh, cõi Phật thanh tịnh, và từ bi thệ nguyện, tất cả đều khắp thấm nhuần, tán thán tùy hỷ. Bậc Thượng thượng thành tựu đầy đủ, Chân ứng hai thân, tám tướng thành đạo. Tùy theo bốn thứ chúng sinh đáng dùng thân Phật nào để độ và bốn cõi nước nào khi thành Phật thì tùy loại chúng sinh thâm tâm có duyên đều đến ở cõi nước ấy. Tùy theo chỗ tu của họ hoặc Lý hoặc Sự mà nói pháp, phân biệt các nghóa lý… Suy từ trực tâm sẽ hiểu. Nói “đầy đủ công đức”, là bậc Duyên giác thâm tâm tu phước đức, nên kinh Pháp Hoa nói: “Như người có phước từng cúng dường Phật, có chí cầu thắng pháp thì nói pháp Duyên giác”, tức là nghóa này. Nhưng đầy đủ có hai nghóa. Một là thâm tâm rộng và đủ tịnh hóa cõi: đồng cư gọi là đầy đủ công đức sinh về cõi ấy. Hai là thâm tâm tận nguồn nhân duyên. Mọi công đức sở hữu ở ba cõi đầy đủ tức là dọc đủ các loại trực tâm khác. Nói về tâm Đại thừa từ câu tâm Bồ-đề”đến “nước ấy”tức Đại thừa của bốn giáo phát tâm Bồ-đề, trên cầu quả Phật dưới độ chúng sinh nên gọi là đại, đều duyên Tứ đế phát bốn hoằng thệ nên gọi là thừa, gồm ba quyền một thật. Bồ-tát của viên giáo tu quyền thật Đại thừa, thành tựu chúng sinh, cõi Phật thanh tịnh thì tự độ độ người tán thán tùy hỷ, sau khi thành Phật thì cõi Đồng cư có bốn thứ, cõi Hữu dư có ba thứ, cõi Thật báo có hai thứ và cõi Tịch quang chỉ có một. Các thứ khác so với trực tâm mà biết. Sáu khoa căn cứ ở tự tu: tø câu “Bố thí…”trở xuống là nói về Lục độ tức nhân Tịnh độ Từ “Bố thí trở xuống Đã hiểu rõ ba thứ tâm, nay căn cứ theo hạnh mà luận, cũng như mắt và chân đâu thể tách rời. Nếu không có ba tâm thì hành không chân thật, và hành cũng chẳng cao rộng. Cho nên dùng ba tâm mà vào tất cả hành. Bố thí, có năm là sự thí của thế gian và bốn thí của Bồ-tát. Sự thí của thế gian tức là Lục đạo thí. Nếu kẻ tạo tội ác, phá giới tà tâm và phá hoại Tam bảo mà bố thí thì cũng như Điều-đạt dạy vua A-xà- thế thí cho các Tỳ-kheo, hoặc làm mưu nghịch đem tiền của thí cho… Những người bố thí như thế, khi chết tất vào Địa ngục. Bố thí đó là Địa ngục đạo Bố thí Thí “Đàn”. Nếu người tạo tội ác phá giới, nhiều giận dữ mà bố thí thì sau khi chết sẽ đọa làm rồng, có cung điện bảy báu, y báo giống các trời, có chánh báo giống loài rắn. Hoặc như kẻ phá giới kiêu mạn, khủng bố mà được tiền của đem bố thí, thì sau sẽ chịu thân Kim sí điểu. Những kẻ bố thí như thế đều là súc sinh đạo bố thí. Kẻ làm mười ác nghiệp phá giới dua nịnh độc hại được của phi pháp mà bố thí thì bị báo Dạ-xoa, hoặc kẻ phá giới dua nịnh lừa dối, ham mê rượu thịt, nhiều giận dữ đem của phi pháp bố thí, thì đọa làm Ma-hầu-la-già, bố thí như thế gọi là Quỷ thần đạo bố thí. Nếu kẻ ít giữ giới, ôm lòng ghen ghét giận dữ nhưng tu nhiều phước đức thì đọa làm A-tu-la. Có thế lực Y báo cùng chống cự với các trời, nhưng cảm nhận chánh báo có nhiều sợ sệt. Như thế cho đến Càn-thát-bà, Khẩn-na-la… đều là bọn siễm nịnh mê thích âm nhạc mà làm bố thí thì đều thuộc quỷ đạo. Nếu kẻ giữ năm giới, thập thiện tự giàu sang làm việc bố thí, nếu có tâm khinh khi, cục bộ hoặc hạn chế, trở ngại mà bố thí gọi là Tỳ-xá Thủ-đà Bố thí. Hoặc người trì giới có tâm ân cần cẩn trọng, đúng pháp bố thí gọi là Cư só bố thí. Hoặc người trì giới ham thích đạo, cung kính rộng học mà bố thí là Bà-la-môn Đàn. Nếu người trì giới, cung kính phát từ tâm đại thí, tự bỏ tiền của của mình, lại khuyên dạy người khác tu phước thì là Sát-lợi bố thí . các cách bố thí như thế đều là nhân bố thí . Nếu người ở bậc cao Thập thiện trì giới rất kỹ lưỡng, cung kính nghe pháp, từ thiện hiếu thuận cúng dường hương hoa đèn đuốc, các vật quý hiếm đúng pháp tịnh thí thì đều là Thiên bố thí . Như Luật tạng nói: Có một đứa bé làm thuê được tiền cúng thí chúng Tăng nguyện được sinh lên trời Đao-lợi, Đức Phật thọ ký cho được sinh. Nếu người trì giới càng tinh tế cho đến tu thiền, có tâm chán lìa thế gian mà bố thí thì được sinh lên trời Sắc giới gọi là tu Thiên đàn. Từ trên đều là thế gian sự thí có quả báo không đồng. Bố thí của hàng Nhị thừa theo Tam tạng giáo là quán Tứ đế và mười hai nhân duyên, vô thường, dùng trạch pháp và xả hai giác chi, bỏ thân mạng tiền của được đạo Nhị thừa. Hoặc là Bồ-tát bố thí , là bỏ thân mạng tiền của, quán sát vô thường, phát thệ nguyện đại bi như vua Thi-tỳ dùng thân mình thay chim Bồ câu, đó gọi là xả viên mãn bố thí thân đàn mãn. Bỏ thân mạng như Đại luận nói: Tiền thân Đức Thích- ca và Điều-đạt cả hai cùng làm nai chúa, thì Thích-ca đã chết thay cho Nai chúa Điều-đạt, liều mình một cách không chút luyến tiếc. Còn việc tài thí như khi làm Thái tử Tu-đại-noa đã bố thí cả hai đứa con cho Bà- la-môn như trong kinh đã nói đầy đủ. Đó gọi là Bồ-tát Tam tạng giáo viên mãn hạnh bố thí . Thông giáo bố thí là quán thể của vật thí, người thí, người nhận đều như huyễn hóa, khởi đại Từ thương xót chúng sinh mà bỏ tiền của thân mạng để thí. Về Biệt giáo bố thí thì tuy ba việc tức không mà chẳng trụ ở không, vào Giả để độ người làm các hạnh bố thí, bỏ tiền của thân mạng như kinh Hoa Nghiêm nói mười thứ bố thí. Kinh Địa Trì nói chín thứ. Về Viên giáo đàn, thì kinh Thắng-man nói: Về bỏ thân là thân kiếp sau sinh tử… lìa bỏ lão bệnh tử mà được thường trụ bất hoại, về tiền của cũng thế. Lại kinh Hoa Nghiêm nói Như Lai bố thí . Đại kinh cũng nói bố thí Ba-la-mật là Phật Tánh. Đại phẩm nói tất cả pháp đều hướng về bố thí . Kinh này nói: Bố thí là đạo tràng, không trông cầu quả báo, cho nên tự làm và dạy người, tán thán tùy hỷ. Về quyền thật bố thí, là sau khi thành Phật thì năm thứ chúng sinh thường xả bỏ tất cả sẽ sinh đến nước ấy. Phân biệt bốn giáo về đoạn các duyên tập hữu vi hay vô vi đã hết hay chưa hết… các căn duyên bốn giáo sinh đến bốn cõi nước… thì suy theo trực tâm ở trước mà biết. Trì giới sinh về cõi nước ấy cũng có năm: Một thứ là sự tướng trì giới là phàm phu, còn bốn thứ trì giới kia tức là bốn giáo đã nói. Bốn thứ chánh ngữ và nghiệp, mạng… đều gọi là trì giới giải thích đầy đủ sự việc sẽ rất nhiều. Nói “Các chúng sinh mãn nguyện sẽ đến ở cõi nước ấy.” Các giáo đều nói “mãn nguyện”vì do trì giới thanh tịnh nên các thiện được sinh việc mong cầu đều có kết quả nên nói là mãn nguyện. Các thứ khác suy theo trực tâm sẽ biết. Nhẫn nhục sinh về cõi nước ấy cũng có năm: Một sự nhẫn thế gian như phàm phu, bốn nhẫn kia lại căn cứ theo bốn giáo mà luận cách thức như trước nên biết. Bồ-tát sau khi thành Phật họ đều sinh đến cõi nước ấy. Như Luân vương, Đế Thích và các trời ở thượng giới có ba mươi hai tướng. Thanh văn, Duyên giác cũng có tướng là bốn thứ tướng nghiệp của bốn giáo không đồng, đều do nhẫn làm gốc. Bốn thứ tu tướng trong việc khen đức ở trước có nói việc bỏ đồ trang sức tốt đẹp. Đã lược nói xong, các thứ khác suy ở trực tâm thì biết. Tinh tấn sinh vào cõi nước. Có Luận sư cho rằng không có biệt thể mà chỉ căn cứ vào các hạnh. Hoặc có người nói là có biệt thể, cũng có năm thứ: Một thứ là sự tinh tấn tức là phàm phu, còn bốn thứ Đạo phẩm kia, mỗi thứ có tám tinh tấn, tức là bốn Chánh cần, và tấn lực, tấn căn, tấn giác, tấn đạo là tám. Sau khi Bồ-tát thành Phật, năm thứ chúng sinh này siêng tu tất cả công đức đều sinh lên cõi nước ấy. Các thứ khác suy trực tâm mà biết. Thiền định sinh về cõi nước ấy cũng có năm: Một thứ là thế gian thiền định như phàm phu được bốn thiền bốn không. Bốn thứ sau căn cứ về bốn giáo, có bốn thứ đạo phẩm mỗi thứ có tám định, tức là bốn như ý định và định căn, định lực, định giác, định đạo… Cho đến tám bội xã, chín thứ đệ… đều là thiền định. Sau khi Bồ-tát thành Phật theo bốn giáo thì năm thứ chúng sinh nhiếp tâm bất loạn sẽ sinh đến nước ấy. Các thứ khác suy theo trực tâm. Trí tuệ sinh về cõi nước ấy cũng có năm, trí thế gian tức là phàm phu trí, bốn thứ trí tuệ kia tức là bốn giáo nói về bốn thứ đạo phẩm đều có tám thứ trí tuệ. Đó là bốn Niệm xứ tuệ căn, tuệ lực, tuệ trạch giác và chánh kiến. Sau khi Bồ-tát thành Phật thì năm thứ chúng sinh chánh định đó sinh vào cõi nước ấy. Trên đây là các trường hợp quyền thật và các nghóa đều suy theo trực tâm. Hỏi: Trí của phàm phu v.v… sao được vào chánh định tụ? Đáp: Phàm phu thế gian có chánh kiến cũng nhập vào chánh định tụ của xuất thế, nên cũng được gồm nói. Tám khoa căn cứ hóa tha: Từ “bốn Vô lượng tâm”trở xuống là xét về hóa tha là tu nhân Tịnh độ. Đây là việc luôn thường phải vậy. Vì sao? Đây là việc xưa cũ. Vì sao? Vì Bồ-tát từ lúc mới phát tâm thường khởi lòng đại bi câu sinh, há hành Lục độ mà không có việc hóa tha. Bốn Vô lượng tâm cũng có năm thứ: Một thứ là sự bốn Vô lượng tâm là phàm phu tu mà được sinh vào cõi Sắc làm Phạm vương. Mỗi bốn giáo đều có bốn Vô lượng tâm. Tam tạng giáo là pháp sinh diệt duyên với bốn Vô lượng tâm. Thông giáo thì pháp Vô sinh duyên, Biệt giáo thì tạng thức ngoại giới, pháp hằng sa Phật pháp duyên với bốn Vô lượng tâm, còn Viên giáo thì pháp Trung đạo Phật tánh vô duyên duyên với bốn Vô lượng tâm như nam châm hút sắt tức là vô tác. Sau khi Bồ-tát thành Phật thì năm thứ chúng sinh Từ, Bi, Hỷ, Xả đến sinh vào nước ấy. Quyền thật và các nghóa đều suy theo trực tâm mà biết. Bốn nhiếp sinh vào cõi nước ấy, bốn nhiếp pháp này cho đến hồi hướng đều không phải chỗ làm của phàm phu tiểu thừa, mà chỉ Bồ-tát của bốn giáo nói về nhiếp quyền thật không đồng. Bồ-tát sau khi thành Phật thì bốn thứ chúng sinh giải thoát sinh đến nước ấy Bồ-tát dùng bốn Nhiếp nhiếp giữ chúng sinh khiến họ vào Đệ nhất nghóa. Do đó, chúng sinh được nhiếp thọ đều có nhân giải thoát đến sinh vào bốn cõi nước ấy cho đến các nghóa đều suy theo trực tâm mà biết. Về Phương tiện đến ở nước ấy, theo bốn giáo mỗi thứ có ba thứ Phương tiện: Tự hành. Hóa tha. Tự hành và Hóa tha. Lại , mỗi thứ đều có ba thứ phương tiện: Phá pháp. Lập pháp. Giáo hóa. Sau khi Bồ-tát thành Phật thì bốn thứ chúng sinh với tất cả phương tiện vô ngại đều sinh đến cõi nước ấy. Quyền thật và các nghóa đều suy theo trực tâm mà biết. Về ba mươi bảy phẩm đến cõi nước ấy. Pháp Nhị thừa này có đủ các phần như Huyền nghóa. Bốn giáo nói ba mươi bảy phẩm không đồng. Sau khi Bồ-tát thành Phật thì các chúng sinh như thế đều sinh đến cõi nước ấy. Các nghóa quyền thật cũng suy theo trực tâm mà biết. Về tâm hồi hướng đến cõi nước ấy. Đại Luận có nói: Hồi hướng như tiếng thổi vào sừng. Bốn giáo Bồ-tát hồi hướng không đồng. Sau khi Bồ-tát thành Phật thì bốn thứ chúng sinh đầy đủ công đức đến cõi nước ấy, hồi công đức mình chung cho chúng sinh phước thiện đều đầy đủ, nên nay sinh đến thì công đức đều đầy đủ vậy. Cũng nên nói rằng chúng sinh muốn tu hồi hướng thì sinh đến nước ấy, e là văn đã lược bỏ mà thôi. Về quyền thật các nghóa suy theo trực tâm. Nói trừ bỏ cho đến tám nạn. Về tám nạn, thì ba ác đạo là ba; bốn là Bắc Uất-đơn-việt; năm là trời Trường thọ; sáu là mù, điếc, câm, ngọng; bảy là thế trí biện thông; tám là sinh ra trước hay sau Phật. Đây có hai thứ: Nội giới là nạn của hai giáo trước. Ngoại giới là nạn của hai giáo sau. Bồ-tát xét theo bốn giáo nói về trừ bỏ hai thứ tám nạn. Đến chương Thiện Cát lại sẽ phân biệt. Bồ-tát tự trừ tám nạn hoặc dạy người khác, tán thán tùy hỷ. Sau khi thành Phật thì cõi nước đó sẽ không có ba ác đạo và tám nạn. Căn cứ bốn cõi phân tích có nạn và không nạn, nghóa tướng rất nhiều khó thể luận đủ. Các thứ khác suy theo trực tâm. Về tự giữ mình, xét theo bốn giáo cũng có bốn thứ. Tự giữ mình không chê bai có bốn trường hợp “bốn cú Không tự giữ mà chê bai người khác. Không tự giữ mà không chê bai. Tự giữ mà chê bai. Không tự giữ mà không chê bai. Đại kinh nói: Giả sử có ba đứa con do đánh đòn mà chết. Chỉ có người con còn lại là đánh thật đau thì sao được hoàn toàn không chê người ấy, chỉ mong không có ác tâm tất là đối người khác có ích, không phải đều không chê bai vậy. Chỉ thấy bốn điều chê bai là Không lầm lẫn. Nói quyền thật các nghóa suy theo trực tâm. Về thập thiện sinh về cõi nước, có hai: Chỉ và Hành “ngăn chặn ác, hành thiện”. Chỉ Thập thiện, cũng có năm thứ đó là Sự Thập thiện là việc làm của phàm phu. Bốn thứ còn lại thì căn cứ theo Bồ-tát của bốn giáo tự hành giáo tha, tán thán tùy hỷ. Sau khi Bồ-tát thành Phật thì năm thứ chúng sinh Thập thiện đến ở nước ấy. Không chết yểu là do không sát, giàu sang là do không trộm cắp, phạm hạnh là do không dâm, lời nói thành thật chắc chắn là do không vọng ngữ, thường nói lời dịu dàng là do không ác khẩu, quyến thuộc không xa lìa khéo hòa giải tranh cãi là do không nói hai lưỡi, lời nói ra có lợi ích là do không thêu dệt, không ganh tị là do không tham, ganh tị là do cấu sân giận. Nay căn cứ tham, thì do tham mà có ganh tị, không giận là Không sân, chánh kiến là Không si… Quyền thật và các nghóa khác đều như trực tâm. “Từ Như thế Bảo Tích”trở xuống là phần nói, dọc suốt nguồn tâm tu hạnh Tịnh độ. Có mười ba lần giúp nhau thành nhân Tịnh độ. Trên theo chiều ngang của trực tâm mà căn cứ theo mười bảy hạnh, nay lại từ chiều dọc của trực tâm mà nói từ cạn đến sâu. Đem dọc xét theo ngang thì không có một pháp nào không tu dọc; đem ngang ước dọc thì cũng như thế, như trước đã nói đầy đủ. Mỗi mỗi các hạnh cho đến tâm Kim cang, tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Đây có ba: Xét theo giáo. Quán tâm. Giải thích văn. Xét theo giáo: Tam tạng giáo không nói cõi Phật thanh tịnh, bởi trong kinh Thanh văn không có mười phương Phật há lại luận về cõi nước và việc tu hạnh Tịnh độ? Nếu nói có thì thành mối nghi của ngài Xá-lợi. Đã không có giáo này thì không có hạnh, không người sao cần phải luận. Về hai giáo Thông và Biệt thì cần luận tông mà có ba ý sau: a/ Căn cứ ở Thông giáo Thập địa thì trực tâm đối với kiến địa, trước chưa phát chân nên gọi là tà khúc, khi đăng địa thấy lý, lìa các kiến tà vạy nên gọi là trực tâm. Nhân trực tâm này mà tiến vào Nhị địa. Từ Nhị địa có thể biến khắp mười bảy trường hợp này, nên gọi là phát hành. Do phát hành mà vào Tam địa. Ở Tam địa các giải hạnh đều tiến bộ nên gọi là thâm tâm. Do thâm tâm mà vào được Tứ địa. Ở Tứ địa thì sự lý đều làm mà tự điều phục mình điều phục người nên gọi là điều phục. Do điều phục mà được vào Ngũ địa. Ở Ngũ địa sự lý đã điều phục đúng như lời nói mà làm được vào Lục địa. Ở Lục địa đối với tất cả pháp lành đều hồi hướng về Phật quả, dùng đó thí cho chúng sinh, vì hồi hướng nên vào Thất địa. Ở Thất địa liền có phương tiện có thể tu tự hạnh và hóa tha nên được vào Bát địa. Ở Bát địa có thể đạo quán cùng thực hành, cũng thường mọi nơi mà giáo hóa điều phục chúng sinh. Chúng sinh đã điều phục thì cõi Phật liền tịnh, vì cõi Phật đã tịnh nên vào Địa thứ chín. Ở cửa địa có thể nói pháp tịnh, nói pháp tịnh tức trí tuệ tịnh, ở Địa thứ chín đầy đủ cả bốn mươi biện tài nên gọi là trí tuệ địa. Nhân trí tuệ tịnh mà được vào Thập địa. Ở Thập địa tức tâm tịnh nên tất cả công đức đều tịnh. Bắt đầu từ trực tâm đến hết câu kết nói “Muốn được cõi tịnh phải tịnh tâm mình, tâm tịnh thì cõi Phật tịnh, mượn mười Địa này đối thành chiều dọc của Thông giáo mà nói hạnh Tịnh độ hỗ trợ nhau. Căn cứ Biệt giáo đối với Thập địa, vẫn có hai ý: Một là Từ Sơ địa có thể thấy Phật tánh liền phá vô minh, lìa bỏ kiến giải tà vạy hai bên nên gọi là chân tâm. Từ Nhị địa đến Thập địa cũng giống Thông giáo khá biết. Chỉ thấy Thiên và Viên cho là khác mà thôi. Hai là Y cứ kinh Nhân vương thập tứ Bát-nhã thì mất nghóa hỗ trợ nhau theo nghóa dọc. Kinh đó lấy ba mươi tâm cùng đối với ba thứ Bát-nhã. Nếu thế thì trực tâm tức đối Thập trụ, Vì sao? Vì khi vào lý Bát-nhã thì gọi là trụ, dù chưa thấy Viên nhưng hiểu tương tự nên gọi là trực tâm. Phát hành đối với Thập hạnh, Thập hạnh chính là nghóa tu hành. Thâm tâm đối với Thập hồi hướng có thể quay sự vào lý, khiến cho giải và hạnh đều sâu. Điều phục đối với Sơ địa, thì Sơ địa phát chân, đạo quán cùng thực hành nên gọi là điều phục. Từ Nhị địa đến Thập địa thứ lớp đối câu kế, Đẳng giác đối câu sau “Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”, nên gồm Địa trước sau mà nhận lấy Đẳng giác. Nương vào Thập tứ Bát-nhã dọc đối các trường hợp, các số nghiêm chỉnh đầy đủ, tùy lời có chỗ không xứng với tên các Địa, như muốn giải thích thì tất cả đều thông suốt. c/ Căn cứ ở Viên giáo, dựa theo những phân biệt ở trước nghóa cũng còn sót, đâu có thể cho Sơ địa chỉ là điều phục mà không có công đức khác. Nếu có đầy đủ thì đâu chỉ được tên điều phục, nếu chỉ có một phần thì đâu đáng gọi là điều phục. Phải biết, còn là chưa đạt đến Viên giáo. Nay dùng mười trường hợp đều đối với giai vị Viên giáo để luận về dọc sâu, dùng nó mà nói về rộng ngang thì đều ở Sơ địa đã tự đầy đủ. Vì sao? Vì như bậc Đồng luân vương thấy lý đã phá vô minh, đâu không phải là trực tâm? Đã đầy đủ muôn hạnh đâu không phải là phát hành? Niệm niệm đều lưu nhập đâu không phải là thâm tâm? Năm trụ đã trừ sạch đâu không phải là điều phục? Giải hạnh giúp nhau đâu không phải là đúng thuyết mà hành? Muôn hạnh đều lưu nhập đâu không phải là hồi hướng?Quyền thật đầy đủ đâu không phải là phương tiện; được khắp hiện sắc thân đâu không phải là thành tựu chúng sinh. Nếu ở cõi nhiễm tịnh mà thành đạo chúng sinh bốn giáo cùng sinh đến nước ấy đâu không phải là cõi Phật thanh tịnh? Một âm diễn nói phó cơ khắp bốn thứ đâu không phải là tịnh nói pháp? Trí tịch chiếu không mưu cầu mà nói, há không phải là tịnh trí tuệ; thật tướng chân tâm cũng như hư không đâu không phải là tâm tịnh; một tâm muôn hạnh đầy đủ phước tuệ, đâu không phải là tịnh công đức? Chánh báo đã tịnh, Y báo cũng thế. Đồng đối với chư Phật thấy lý pháp tánh. Ở Nhân-đà-la võng mà phân nhập vào Tịch quang đâu không phải là tịnh cõi Phật. Nên biết trong tâm sơ trụ dọc sâu cùng tận nguồn tâm, mười bốn trường hợp này và vô lượng trường hợp đều ảnh hưởng tất cả. Cho nên môn chữ A đầu tiên đủ bốn mươi mốt chữ, bốn mươi mốt chữ cũng đủ ở môn chữ A. Nên biết luận dọc thì tận cùng các đời sau, nói ngang thì đầy đủ các môn. Phát tâm tu chánh hạnh hóa độ thêm hai cõi thành tựu chúng sinh tất cả đều đầy đủ trong sơ tâm. Cho nên trong Đại Phẩm có nói: “Khi mới phát tâm liền thành chánh giác.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Được một thân và vô lượng thân Như Lai.” Ở vị ban đầu đã dọc ngang các trường hợp cõi Phật thanh tịnh, các giai vị khác cũng thế. Như trước đã dẫn Đại kinh nói dụ về mặt trăng ngày rằm vậy. Xét theo quán tâm: Từ chiều, dọc mười ba lần giải thích giúp nhau về sự hỗ trợ tu nhân Tịnh độ? Còn một tâm ba quán thì quán các pháp tánh tức là trực tâm. Tâm một niệm này đủ cả mười bảy hạnh trước, tức là tùy theo trực tâm thì có thể phát hành. Sự lý giúp nhau tức có thể tiến nhập vào pháp giới thậm thâm. Vì thâm tâm nên tất cả sự lý bất thiện ý đều được điều phục. Vì ý đã được điều phục nên bao nhiêu pháp nói ra đều như thuyết mà làm. Hồi hướng việc làm của mình khắp thí cho tất cả. Đã có thể hồi hướng mà thí tức khiến cho tất cả chúng sinh dứt ác tu thiện. Vì tu thiện nên có thể tịnh cõi Phật. Cõi Phật đã tịnh nên cảnh giới liền tịnh. Cảnh giới tịnh nên nói pháp tịnh. Nói pháp tịnh nên nội tâm trí tuệ chuyển thành minh tịnh. Trí tuệ tịnh nên tất cả công đức đều thanh tịnh. Đây đều như thế, nên quán tâm thanh tịnh thì cõi Phật tịnh. Cho nên nói: “Muốn tịnh cõi Phật phải tịnh tâm mình, tùy tâm mình tịnh thì cõi Phật tịnh.” Thế thì, chiều dọc tu mười ba trường hợp rõ ràng đầy đủ trong quán tâm, gọi đó là quán hạnh tức vậy. Do đó, Pháp Hoa nói: “Nên biết người ấy đã đến đạo tràng gần quả Bồ-đề ngồi dưới đạo thọ. Nếu công hạnh đã thuần thục thì chư Phật ngầm gia hộ liền nhập vào tương tợ. Từ tương tợ mà tiến nhập vào đồng luân phần chứng chân thật, liền ở hai cõi mà tự hành hóa tha, cùng vật kết duyên, đáng dùng thân Phật để hóa độ, liền hiện thân Phật nói các pháp môn đốn tiệm, bất định, bí mật, để giáo hóa điều phục họ, nhập tuệ khởi căn mà nhận lấy cõi Phật. Nếu không như thế bậc Sơ trụ, làm sao duyên với tám tướng thành đạo? Tuy nói nghóa quán tâm thật là tịnh hóa cõi Phật, đây là liễu nghóa, nếu người lìa đây thì phần nhiều chấp văn theo lời mà sinh kiến chấp. Lại nữa, không phải Biệt giáo thì không do đâu biểu thị dọc, nếu không phải Viên giáo thì không do đâu biểu thị ngang. Cũng như nếu không có ngày thì không do đâu thành tháng, nếu không có tháng thì không do đâu để đếm ngày, ngày tháng giúp nhau mới thành năm, cho đến nhiều năm. Nay ngang dọc giúp nhau nghóa cao rộng đã rõ. Không phải dọc không phải ngang mà dọc mà ngang. Như chữ nhất ba mắt Thủ-la. Nên biết nghóa Tịnh độ là nương vào ba đức bí mật tạng mà có, nếu ba thân ba đức đã là chánh báo, thì ba cõi, bốn cõi tức là y báo, y chánh cũng thành nghóa này đã rõ. Giải thích văn: Tùy trực tâm mà có thể phát hành, thì trực tâm tức là Viên giáo quán trung, tu tám trực vô tác, được trực tâm này có thể hay đủ muôn hạnh, nên gọi là phát hành. Hoặc nói khi được trực tâm này liền có thể làm mười bảy pháp ngang ở trước, tùy theo phát hành mà được thâm tâm. Trực tâm là giải, phát hành là hạnh. Giải dẫn dắt hạnh, hạnh giúp đỡ giải. Giải và hạnh cùng thành, như mắt và chân đầy đủ thì mới đến ao thanh lương nên gọi là thâm tâm. Tùy thâm tâm thì ý được điều phục, là giải hạnh đã sâu thì có khả năng điều phục các hoặc của sự và lý . Hoặc của lý là vô minh mê Trung đạo. Hoặc của sự là mê hoặc hai đế trong ba cõi. Như khi nói phát tâm liền nhập vào Trung đạo song chiếu cả hai đế, tâm tâm tịch diệt, tự nhiên lưu nhập, tức có thể điều phục được các hoặc của sự lý. Kinh Nhân Vương nói: Bồ-tát từ khi mới phát tâm đến Kim cang đảnh đều gọi là phục nhẫn, tức điều phục được ý. Tùy theo sức điều phục như thuyết mà làm, tức là mọi ngôn thuyết, không nhưng chỉ có lợi ích các căn cơ, nội tâm thanh tịnh mà còn như thuyết thực hành, nói và làm cùng giúp thiện căn thành tựu. Tùy theo như thuyết mà làm thì có khả năng hồi hướng, tức bên trong đã thành tựu các công đức thiện xoay chuyển những tu nhân hướng về Phật quả và thí cho chúng sinh.. Tùy chỗ hồi hướng ắt có phương tiện, tức xoay chuyểncác hạnh tự làm của mình, trong thì hướng về Phật quả, ngoài thì thí cho chúng sinh, liền có thể phá hay lập khéo léo, giỏi độ chúng sinh nên nói là phương tiện. Tùy theo phương tiện mà thành tựu chúng sinh, tức phương tiện đã phá lập khéo léo, thì cái phá nên chiết phục, cái lập nên nhiếp thọ. Nếu chúng sinh bốn giáo chỉ và hành thiện đều thành tựu, tức là trí đoạn của bốn giáo đã lập thì nhân quả Chánh báo liền thành.. Tùy thành tựu chúng sinh thì cõi Phật tịnh, tức loại chúng sinh là cõi tịnh của Bồ-tát. Nếu chánh báo của chúng sinh chỉ thiện không ác, thì quốc độ y báo sẽ thanh tịnh. Nếu chánh báo hành thiện nhân thành thì cõi Phật trang nghiêm, nếu cõi nước thanh tịnh trang nghiêm thì gọi là cõi Phật tịnh.. Tùy cõi Phật tịnh thì nói pháp tịnh, nếu ở cõi uế nói pháp thì như trưởng giả cầm đồ hốt phân, đây là phó duyên nói pháp khổ thiết yếu, cũng như ngài Tịnh Danh vì các Bồ-tát đến cõi nước Hương Tích mà nói pháp chiết phục cõi này, mà không nói về giáo thanh tịnh các pháp thật tướng. Nếu là cõi Tịnh nói pháp thì chỉ nói pháp môn thanh tịnh các pháp thật tướng gọi là nói pháp tịnh. Tùy nói pháp tịnh thì trí tuệ tịnh, tức nói pháp vốn phù hợp căn cơ chúng sanh . Cơ duyên nếu tịnh thì cảm trí tuệ Bồ-tát cũng tịnh, sở thuyết cũng tịnh. Ví như gió mạnh thì tiếng linh sẽ kêu to, cũng như người đời nói pháp giải thoát có lợi thì người phước trí đến nghe. Người nói không có ý khai giải trí tuệ. Tùy trí tuệ tịnh thì tâm tịnh tức người nói pháp trí tuệ sáng suốt càng tiến thì các hoặc cấu dần dần tiêu mất, tâm trở nên sáng, tức là tâm tịnh. Tùy tâm tịnh thì tất cả công đức đều tịnh, tức là chân tâm thanh tịnh mà tu các công đức và đều không nhiễm trước thì tất cả đều thanh tịnh. Thế nên Bảo Tích đến cõi Phật tịnh là phần kết sau cùng toát yếu, chánh nói về nhân Tịnh độ. Muốn tịnh cõi Phật phải tịnh tâm mình, là từ trực tâm trở đi có mười ba câu, danh và nghóa tuy khác nhưng đều là tịnh tâm. Tùy tâm tịnh thì cõi Phật tịnh, tức tùy bốn giáo mà nói bốn thứ tâm tịnh, tức bốn thứ cõi Phật đều thanh tịnh cả. Lại bốn thứ tâm chỉ là một tâm tự tánh thanh tịnh. Tâm này nếu hiển bày tức là tất cả cõi Phật đều thanh tịnh. Bồ-tát từ xưa dùng bốn thứ Đạo đế mà tịnh tâm, ba thứ trước là quyền, một thứ sau là thật. Hoặc của sự lý đã trừ thì chánh báo liền được Phật quả thanh tịnh, y báo tức là Thường tịch quang rốt ráo thanh tịnh. Bốn giáo chúng sinh có tâm cấu tịnh cùng cảm đến Tịch quang, mỗi người đều thấy có tịnh hay uế. Cũng như chư Thiên cùng có đồ đựng quý báu, nhưng tùy phước đức mà cơm có màu sắc khác, ý thí dụ này là ở đây. Từ bấy giờ… trở xuống là phần hai: Thân tử sinh nghi . Có hai phần nhỏ: Một, Lý do sinh nghi. Hai là Chính suy nghó nghi. Lý do nghi, do nhờ oai thần của Phật mà sinh nghi. Thần lực của Như Lai gia bị cho ngài Thân tử, tức kinh này tuy đối Tiểu thừa mà nói Đại thừa. Ngài Thân tử là người trí tuệ bậc nhất trong hàng Tiểu thừa, được các Thanh văn kính nhường, bỗng ngài sinh nghi tức các Thanh văn cùng nghi. Đại thừa Phương đẳng có việc bí mật khó nghó bàn tức ở giữa cõi uế mà có Tịnh độ. Ngài Thân tử chưa thể xứng cơ hỏi điều nghi ắt phải nhờ Phật lực mới hiểu được vật tâm, nên nói là nhờ oai thần Phật. Nương ý kinh Pháp Hoa phát bổn hiển tích nói các Thanh văn nội bí ngoại hiện “trong là Bồ-tát ngoài là Thanh văn”, sao lại bảo là Không thể xứng cơ của vật mà sinh nghi. Chính nói suy nghó nghi: Nghi Phật đáp lời Bảo Tích về tâm tịnh thì cõi tịnh, do chấp chặt Tam tạng giáo trước đây mà sinh nghi rằng: Bồ-tát suốt ba a-tăng-kỳ tu hành thành Phật là đồng nhau, vì sao nay lại nói Bồ-tát tâm tịnh tức cõi Phật tịnh. Riêng Đức Thích-ca không có tịnh độ, lẽ ra khi làm Bồ-tát ắt tâm không thanh tịnh, mà tâm không thanh tịnh sao được thành Phật. Nếu tâm tịnh mà thành Phật thì cũng phải ứng với tâm ấy mà có cõi Phật tịnh chứ sao được có cõi Phật uế ác. Vì trái với điều này nên sinh nghi mà chưa dám hỏi. Hoặc có thể do tự cho là hèn kém hẹp hòi, hoặc sợ là thất lễ, hoặc cho Như Lai sáng suốt tự đoán biết được nên chưa dám hỏi. Từ “Phật biết ý ông…” Phật giải nghi. Có ba phần: Phật hỏi về nhật nguyệt. Ngài Thân tử đáp lời Phật. Phật hợp dụ giải thích. Về nhật nguyệt thì ví cho chân ứng Tịnh độ, cũng như cung Nhật Nguyệt do các báu tạo nên, chiếu sáng khắp bốn thiên hạ, trong đó có các trời ví như hai cõi Chân ứng , do muôn đức tạo thành thường chiếu sáng bốn cõi, tất cả chúng sinh chân ứng pháp thân đều nương vào đấy. Lại dụ cho chân duyên hai tu như nhật nguyệt cần nhau để thành tựu muôn vật, chiếu bày ra tất cả, chân duyên cũng thế, giúp nhau thành sáng. Vì chân duyên họp lại nên thường tự chiếu bày bốn thứ Tịnh độ mà người mù không thể thấy được, vì tội chướng của hai duyên tập che lấp năm nhãn. Thế nên nêu nhật nguyệt làm dụ để hỏi ngài Thân tử. Từ “thưa rằng”… đến “không phải lỗi của nhật nguyệt là Thân tử là đáp Phật. Từ “Xá-lợi-phất”… đến “mà ông không thấy là hợp dụ, giải nghi Thân tử. Chúng sinh do tội nên không thấy cõi Phật nghiêm tịnh, trước là hợp dụ người mù, tức chúng sinh do các duyên tập nội giới trược ác chướng nặng, nên không thấy được cõi Đồng cư tịnh độ. Do tội giới nặng cùng vô vi hợp nhau và do tội nội giới trần sa nên không thấy cõi Hữu dư tịnh độ. Do tội trần sa vô minh ngoại giới nên không thấy cõi quả báo Tịnh độ. Do tội vi tế vô minh pháp giới nên không thấy cõi Tịch quang Tịnh độ. Các cõi Tịnh độ này của ta mà các ông không thấy, đây là hợp dụ nhật nguyệt nói về bốn cõi nước thường luôn tịnh. Do ngài Thân tử có bốn thứ tội chướng trên nên không thấy vậy. Từ “khi ấy…”trở xuống là phần nóiS: Phạm chí Loa Kế tự dẫn chỗ thấy của mình giải nghi cho Thân tử. Sở dó Phạm vương dẫn chỗ thấy, là các hàng Tiểu thừa nghi Phật, tuy nói cõi tịnh mà có ai thấy, thế nên Phạm vương ngầm hiểu ý Phật dẫn chỗ thấy của mình để chứng tỏ Phật không lừa dối, giúp chúng sinh điều lành tin nghe. Văn đây gồm hai phần: Một là dẹp bỏ niệm nghi của Thân tử. Hai là nêu chỗ thấy để giải nghi. Phần một xem văn dễ hiểu. Phần hai có ba ý Phạm vương thấy tịnh. Thân tử thấy uế. Giải thích lý do thấy cõi tịnh uế. Phạm vương Tự tại kể lại việc mình thấy. Về Tự tại thiên có hai chỗ đồng tên Tự tại, hoặc ở đỉnh Lục dục hoặc ở đỉnh Sắc giới. Đây là cõi Dục trang nghiêm đẹp đẽ như Đồng cư tịnh độ. Cõi phương Tây tịnh độ cũng là Đồng cư tịnh độ. Kinh ấy cũng nêu trời thứ sáu để dụ nên nói đẹp báu cũng như ở cõi trời thứ sáu. Nhưng chánh báo của trời thứ sáu so với thân người Tây phương thì chỉ như kẻ ăn xin đứng bên trời Đế Thích. Đây là nói gần để thấy việc xa mà thôi. Từ “Xá-lợi”… đến “sung mãn” là Thân tử nói chỗ thấy uế như văn. “Từ Loa-kế…” đến “thanh tịnh” là nói lý do thấy và không thấy : do ở tâm nhân giả có cao thấp: Vì không nương vào Phật tuệ nên không thấy tịnh. Bồ-tát tâm không cao thấp lại thưởng nương Phật tuệ nên thườngthấy tịnh. Phật tuệ là nguyên do thấy tịnh. Sinh tử là thấp, Niết- bàn là cao. Lại nói tịnh là cao, cấu là thấp. Do cái thấy này mà thấy uế. Phật tuệ trái với thứ này nên gọi là bình đẳng, không dơ nói dơ không sạch nói sạch, cái tướng của dơ sạch không ngăn cách nhau. Cho nên Loa Kế thấy cõi nước dơ tức sạch, còn ngài Thân tử đối với sinh tử và Niết-bàn dơ sạch có khác nhau, không nương vào Phật tuệ nên chỉ thấy là dơ. Từ “Do đó…” trở xuống là phần năm, Phật hiện cõi Tịnh độ để giải nghi , Văn có bốn: Ấn đất hiện Tịnh độ. Phật hỏi Thân tử. Thân tử đáp. Giải nghi. Ấn đất, cũng như ý dụ nhật nguyệt ở trên. Đất là dụ cho chân tu, ngón chân là dụ duyên tu. Chân và duyên hợp nhau thì cõi chân độ hiện, như ngón chân và đất hợp nhau thì cõi nước trang nghiêm hiện ra. Hỏi: Trong bốn cõithì đây hiện cõi nào? Đáp: Có hai ý: Một là, hiện cõi Đồng cư thanh tịnh; hai là tùy cơ hiển hiện. Tất cả đại chúng khen là chưa từng có, không nhưng chưa từng thấy khi Phật nói kinh Thanh văn, mà trước đây khi nói các kinh Phương Đẳng rất nhiều lần hiển bày chánh báo và hiển bày y báo tịnh độ, thì cũng chưa thấy như hiện nay, và đều chỉ thấy Phật ngồi trên tòa sen báu. Đây là biểu thị lý đại chúng này đều sinh Tịnh độ hoặc sẽ sinh. Từ “Phật bảo…” đến “trang nghiêm” là Phật hỏi Thân tử : như văn. Từ “Xá-lợi…” đến “đều hiện” là Thân tử đáp , trước đây Phật nói kinh Tiểu thừa hay Phương đẳng chưa được nghe thấy. Từ “Phật bảo…”Phật chánh thức giải nghi có ba phần: Một là Pháp. Hai là Thí dụ. Ba là, Thời chúng được lợi ích. Một Pháp: Như văn nói. Hai Về thí dụ, có hai là khai dụ và hợp dụ. Về khai dụ, đồ đựng báu dụ cõi Tịch quang, sắc cơm khác là dụ ba cõi kia, báo của ba cõi kia không hơn được Tịch quang, nương vào Tịch quang mà thấy không đồng. Từ “như thế…” đến “trang nghiêm” là hợp dụ nay dùng mười thứ hợp dụ với thấy sắc cơm có khác nhau: Xét theo cõi Đồng cư: trược nặng thấy cấu, trược nhẹ thấy tịnh. Vì tướng cấu tịnh này cách nhau nên cấu không thấy tịnh. Xét theo Đồng cư Hữu dư, trong cõi Đồng cư thanh tịnh tuy không có trược nặng nhưng các kiến tư lôi kéo sinh ra nên cũng là cấu. Còn trong cõi Hữu dư đã đoạn từ lâu cấu này nên gọi là tịnh. Vì cấu tịnh chưa dung hòa nhau nên cấu thì không thấy tịnh. Tự xét theo Hữu dư. Hàng Nhị thừa sinh vào cõi nước ấy là kém nên gọi là cấu, hàng Bồ-tát sinh vào cõi nước ấy vì đầy đủ phước nghiệp do cảm báo cũng cấu cũng tịnh, nên không thấy tịnh. Xét theo quả báo hữu dư. Cõi Hữu dư chưa phá vô minh nên cõi ấy đều cấu. Sinh thật báo rồi đã phá vô minh nên người ấy thấy tịnh cũng cấu, nên không thấy tịnh. Tự xét theo quả báo, trên dưới so với báo ắt có hơn kém, tự nhiên thành cấu tịnh cũng là cấu, nên không thấy tịnh. Xét theo cõi quả báo, so với hạ phẩm của Tịch quang. Hạ phẩm Tịch quang so với trung phẩm Tịch quang. Trung phẩm Tịch quang trông vào thượng phẩm Tịch quang. Các cõi đối chung với Tịch quang Các cõi không phải cấu, Tịch quang không phải tịnh. Rốt ráo không nói không phải cấu không phải tịnh, mà nói các cõi là cấu, Tịch quang là tịnh. Nên ở đoạn văn sau nói rằng: Tuy biết các cõi Phật Quốc vónh viễn vắng bặt như hư không mà hiện ra các loại cõi Phật thanh tịnh. Đây là mười lần cấu tịnh đối với sắc cơm có khác nhau. Ba Thời chúng được ích lợi. Văn này có hai: Việc hiện Tịnh độ được ích lợi. Cả cõi nước được ích lợi Phần hiện Tịnh độ có hai: Năm trăm vị trưởng giả tử nghe nói được Vô sinh nhẫn, tức Thông giáo là Thất địa, Biệt giáo là Sơ địa, Viên giáo là Sơ trụ. Có tám vạn bốn ngàn người phát tâm Bồ-đề. Vị tâm Bồ-đề như trước đã phân biệt. Nói hiện lại cõi uế, từ “Phật nhiếp… đến”ý giải thì đại chúng đều ngộ vô thường chứng đắc đạo Tiểu thừa. Mới đầu thấy uế là tịnh, uế là vô thường, lại tịnh trở về uế, tịnh là vô thường, vô thường nhanh chóng, nên được Pháp nhãn tịnh, thấy rõ ràng pháp sinh diệt Tứ đế. Ở pháp nhãn Tiểu thừa mà thấy ngôi vị phải là pháp nhãn của Đại thừa. Tám ngàn người chẳng thọ, là chứng đạo Vô học không thọ nhận pháp hư vọng sinh tử trong ba cõi nữa. Cho nên biết kinh này cũng mang cả thuyết vụng về. Ý là ở đây vậy. <篇> <卷>QUYỂN 3 PHẨM: PHƯƠNG TIỆN (Phần 1) Phẩm này ở sau phẩm Phật Quốc, tức là nói pháp hữu vi duyên tập hiển bày pháp thân bất tư nghị giúp thành giáo Như Lai tịnh quốc. Ý Phật rất nhiều, nay tóm có ba phần: Nói phẩm này tiếp sau phẩm Phật Quốc. Giải thích nghóa phương tiện. Giải thích văn. <詞>PHẨM NÀY TIẾP SAU PHẨM PHẬT QUỐC. Trước đối với Phổ Tập đã nói về thể chân tánh giải thoát, sau đối kinh này mà triển khai cái tông chỉ nhân quả Phật quốc, vì người chưa hiểu ắt cần có bậc Bồ-tát cao cấp mở bày. Nay ngài Tịnh Danh trụ ở quyền mưu bất tư nghị giải thoát nên thường giúp Phật để chiết phục và nhiếp thọ những người có cơ duyên khiến họ lìa bỏ các duyên tập mà thành tựu được giải thoát bất tư nghị. Nếu hạnh Tịnh độ đã thuần thục thì tùy nghiệp mà sinh về, mỗi người ở cõi ấy nghe pháp được điều phục vào Phật tuệ mà khởi căn. Hỏi: Phổ tập thì chân tánh là theo thể của kinh ấy sao lại dùng làm thể cho kinh này? Đáp: Chân tánh giải thoát là thể chung của các kinh, lẽ nào không gần gũi làm thể cho kinh này ? Chẳng qua văn ở phẩm Phật Quốc chưa nói đến, từ đây trở đi nơi nào cũng nói, đều không trái với lời nói trước, cho nên được làm thể cho kinh này. GIẢI NGHÓA PHƯƠNG TIỆN Có năm phần: Lược giải tên. Căn cứ theo giáo có đồng dị. Phép dùng phương tiện. Căn cứ ba nghiệp nói cách dùng. Căn cứ quán tâm. Lược giải tên phương tiện: Phương là cách riêng của trí, tiện là công năng khéo léo của cách dùng. Dùng các pháp tùy cơ để lợi vật nên nói là Phương tiện. Nên văn kinh nói: “Bồ tát lấy Trí độ làm mẹ, Phương tiện thiện quyền làm cha.” Phương tiện có ba, tức ba thứ hai trí: Một là, giáo tha; hai là, tự hành và hóa tha; ba là, tự hành, “có đầy đủ trong Huyền nghóa. Nói về dị đồng: tức xét theo bốn giáo. Phật Tam tạng giáo, với ba thứ hai trí - Tỳ-đàm hữu môn, chiếu sự thì vô thường, khổ… gọi là quyền trí, chiếu lý thì vô thường, khổ… gọi là thật trí. Thành thật không môn cho Sự lý của Tỳ-đàm đều là quyền trí, chiếu lý đế không mới là thật trí. Như thế bốn môn, bốn Tất-đàn phó duyên nói các thứ hai trí đều là hóa tha. Hai trí quyền thật của tự hành hóa tha: Phật dùng bốn Tất-đàn nói các thứ quyền thật của bốn môn trên, tùy ý và lời của người khác đều là quyền trí hóa tha. Khi ngồi đạo tràng chứng lý hai đế không thể tuyên nói tức là thật trí tự hành. Hai trí quyền thật của tự hành: Khi ngồi đạo tràng chứng trí tục đế rốt ráo rõ ràng, các pháp chướng đều dứt hết, nên gọi là quyền trí tự hành . Khi chứng lý chân đế rốt ráo phân minh chánh tập khí đều dứt, gọi là thật trí tự hành. Ba thứ hai trí của Phật thông giáo: Nếu dùng Tất-đàn mà nói về ba thứ hai trí của Tam tạng giáo và hữu môn của đương giáo, thì nếu chiếu về sự huyễn hóa đều gọi là quyền trí, còn chiếu về lý huyễn hóa gọi là thật trí. Nếu không môn mà nói nghóa chiếu huyễn hóa, thì sự lý đều là quyền trí, còn chiếu huyễn hóa lý Không tức là thật trí. Cho đến bốn môn các thứ quyền thật đều là hai trí quyền thật hóa tha. Hai trí tự hành hóa tha tức gồm chung Tam tạng giáo trước và đương giáo nói các thứ quyền thật đều là tùy ý và lời người khác, đều thuộc về hóa tha quyền trí, còn Phật và Bát địa nội tâm được chứng đều gọi là thật trí. Hai trí tự hành: Phật và địa thứ tám chiếu lý chân tục tức là hai trí quyền thật . Ba thứ hai trí của Phật Biệt giáo: Chung cả ba thứ hai trí Tạng Thông trước và đương giáo “Biệt giáo) là đối hữu môn phân biệt sự tướng đều là quyền trí, nếu chiếu lý Như Lai tạng thì gọi là thật trí. Nếu không môn mà chiếu sự lý hữu môn thì gọi là quyền trí. Còn hữu môn quyền thật rốt ráo đều không tịch thì gọi là thật trí tự hành. Hai trí quyền thật của tự hành hóa tha: gồm chung hai giáo trên và bốn môn của đương giáo đều là tùy người khác nên gọi là quyền trí, hóa tha còn lý nội chứng của Phật và Địa thứ mười thì gọi là thật trí tự hành. Hai trí quyền thật của tự hành. Phật và địa thứ mười với nội chứng lý chân tục bất khả thuyết, thì gọi là quyền thật hai trí. d/ Ba thứ hai trí của Phật viên giáo: gồm ba giáo trước và đương giáo “viên giáo) là đối hữu môn không đoạn dứt phiền não, chiếu pháp nội ngoại giới giới các thứ pháp môn, thì gọi là quyền trí, còn không đoạn dứt phiền não mà chiếu tự tánh tâm thanh tịnh thì tức là thật trí. Từ không môn, của Viên giáo không đoạn phiền não mà chiếu sự lý về hữu của nội ngoại giới gọi là quyền trí, còn chiếu sự lý đều không, gọi là thật trí. Như thế… bốn môn dụng bốn Tất-đàn mà nói các thứ hai trí, đều gọi là hai trí hóa tha . Hai trí của tự hành hóa tha: các thứ hai trí của ba giáo trước và Viên giáo đây đều là tùy người khác, đều là quyền trí hóa tha. Phật và bốn mươi mốt tâm chứng lý hai đế bất tư nghị đều gọi là thật trí. Hai trí của tự hành Phật và bốn mươi mốt tâm nội chứng lý hai đế bất tư nghị, gọi là quyền thật hai trí. Thế nên ngài Văn-thù thỉnh ngài Tịnh Danh nói nhập pháp môn Bất nhị thì ngài Tịnh Danh lặng yên. Ngài Văn-thù khen ngợi là ý ở đây vậy. Phép dùng Phương tiện: Luận đến các pháp Không phải quyền không phải thật mà nói quyền thật, đều là bốn Tất-đàn khéo léo lợi vật. Đây là Phương đẳng Đại thừa dùng một âm diễn nói tùy cơ cảm được bốn thứ không đồng. Lại phẩm này chính nói giúp Phật mở bày quyền mưu khéo léo tùy cơ lợi vật, khiến họ vào tuệ mà khởi căn, nên gọi là Phương tiện. Kinh Anh Lạc nói có ba pháp dùng: Phá pháp. Lập pháp. Giáo hóa chúng sinh. Nay căn cứkinh này mà luận xa. Ngoài thất là chiết phục là phương tiện phá người khác chấp pháp. Trong thất là nhiếp thọ tức là phương tiện dẫn người khác lập pháp. Dùng chiết phục và nhiếp thọ khiến pháp được lâu dài. Hai thứ trước cũng là phương tiện giáo hóa chúng sinh. Nếu căn cứ kinh này mà luận gần, thì phẩm này chê trách các người tức là phá pháp để chiết phục, khuyên họ cầu thân Phật tức là lập pháp để nhiếp thọ, vì chiết và nhiếp nên khiến pháp được lâu dài. Pháp được lâu dài tức là khiến chúng sinh vào chân tánh giải thoát cõi Phật thanh tịnh. Cho nên các phẩm Trung Luận đều nói phá tức là phá pháp, Tứ đế phẩm sau thì nói Tứ đế Tam bảo, bốn quả Sa-môn tức là lập pháp. Lại bài kệ kết nói “pháp do nhân duyên sinh ta nói tức là Không, là phá pháp mà chiết phục vậy, cũng gọi là giả danh lập pháp mà nhiếp thọ. Cũng là nghóa Trung đạo mà giáo hóa chúng sinh khiến pháp được lâu dài. Pháp trụ lâu dài khiến thấy Phật tánh trụ vào Đại Niết-bàn. Nên ba phẩm trước nói rằng: Tùy phương tiện mà có thể thành tựu chúng sinh, tùy thành tựu chúng sinh thì cõi Phật tịnh. Nên biết khen tịnh gọi là phương tiện, là chánh thức khen việc giúp Phật mở bày giáo Phật quốc giải thoát bất tư nghị. Căn cứ ba nghiệp nói cách dùng, lý do đã rõ, ba nghiệp của chư Phật, Bồ-tát thanh tịnh, tánh như hư không, không phải một không phải khác, không thể phân biệt. Vì hóa độ chúng sinh mà từ bi thệ nguyện thần thông cảm ứng, ứng hiện mười pháp giới, hiện ra các thứ thân ng- hiệp bất khả thuyết để lợi vật khắp mười phương. Đã là thân mật phương tiện hiện bày. Lại dùng Bi thệ thần thông ứng hóa hiện đồng mười giới, có bao nhiêu loại âm thinh khắp mười phương cõi Phật, để chỉ bày các thứ pháp bất khả thuyết đó là khẩu mật phương tiện làm lợi ích, lại dùng Bi thệ thần thông ứng hóa, hiện tâm mười giới, ở khắp mười phương cõi Phật hiện ra tâm thức, các thứ phân biệt bất khả thuyết, tức là tâm mật phương tiện làm lợi ích. Tạng Thông giáo chỉ nói ba nghiệp thần thông. Biệt viên giáo có pháp thân ứng hiện ba nghiệp, cũng gọi là ba nghiệp thần thông biến hóa. Cho nên ước vào ba nghiệp để nói phương tiện. Phẩm này nói Lục độ nhiếp vật tức là tâm mật phương tiện. Vì hàng bạch y cư só… mà thị hiện các thứ thân, tức là thân mật phương tiện. Ai thấy đều kính trọng giả bệnh để hoằng hóa nói các thứ pháp tức là khẩu mật phương tiện. Cả ba nghiệp phương tiện này lợi vật cùng khắp, khó lường biết được nguồn gốc. Đó là tam mật, cũng gọi là tam luân hóa bất tư nghị , là tam vô thất, tam bất hộ, ba nghiệp làm theo trí tuệ, khéo dùng ba nghiệp pháp thân hóa vật không lầm lỗi, không mưu tính, không nghó ngợi, vắng bặt mà thường dùng, ứng hiện ở bốn cõi, hiện bày thân, khẩu, ý để chiết phục nhiếp và thọ lợi ích khắp chúng sinh. Cho nên ở phương trượng không bệnh tật mà thị hiện có bệnh tật. Nhân đó mà khai ngộ, khiến tất cả vượt bỏ các duyên tập, đồng ở trong nhà trống. Từ đó mà nêu tên gọi là phẩm Phương Tiện. Xét theo Quán tâm. Nếu ba quán Biệt tướng thì hai thứ trước làm phương tiện, nếu nhập vào Trung đạo, tức là thật tuệ. Đầu tiên từ giả nhập không là nghóa phá pháp chiết phục. Kế đó là từ không vào Giả là lập pháp nhiếp thọ. Chánh quán Trung đạo tức là giáo hóa chúng sinh vào thật tuệ, nhập thật tuệ gọi là pháp lâu dài. Pháp được lâu dài thì pháp thân thường hiện hữu. Nếu một tâm ba quán thì phương tiện thật tuệ không một không khác, dùng ba quán trải khắp ba nghiệp, nói phương tiện khéo dùng, ý có thể biết được. Hỏi: Phẩm này nhất định do ai nói? Đáp: Có ba cách giải thích: Có người nói là người kiết tập kinh, khen đức của ngài Tịnh Danh, vì người thăm bệnh mà nói pháp như thế. Có người nói: Trước là người kiết tập kinh khen đức, kế nói pháp là Bảo Tích hướng về Phật kể việc ngài Tịnh Danh có bệnh nên không đến được, vì người người thăm bệnh mà nói pháp như thế. Có người nói là Đức Phật cùng khen việc ngài Tịnh Danh có phương tiện này để nói pháp lợi ích chúng sinh. Nay e là Phật nói. Kinh Phổ Tập và phẩm Phật Quốc đều có ý nói ngài Tịnh Danh giúp Phật hoằng hóa, có lời khen ngợi ngài Tịnh Danh biết trước nên phương tiện giả bệnh để nói pháp cho những người đến thăm bệnh. Ngài A-nan vốn đã xin Phật nói lại những kinh nào ngài chưa nghe, nên khi kiết tập kinh, sau Phẩm Phật Quốc thì ngài đọc lại. Trong sáu phẩm Nhập Thất nói ngài A-nan có mặt ở Am-la viên và đều phó chúc cho ngài A-nan, cũng là Phật nói lại cả. GIẢI THÍCH VĂN KINH: Ngài Tịnh Danh giúp Phật hoằng hóa có chín phẩm, đại loại có hai phần lớn: Nửa phẩm khen đức, chính là dùng thân làm phương tiện. Từ hiện thân có bệnh trở đi là nói phương tiện lợi ích về tiếng và lợi ích của thân và tiếng hổ trợ nhau. Lại có hai phần chánh phụ khác nhau. Ích lợi của thân, tức là dùng tiếng để truyền bá nối nghiệp. Vì sao? Vì cõi này dùng âm thinh để làm Phật sự, nên ích lợi của tiếng là chánh. Phần này có hai: Một là khen đức Hai là ích lợi của thân. Phần khen đức có hai: Nói chỗ ở và người. Chính khen đức. 1. Nói chỗ ở và người. Về “thành”trước đã giải thích. Trưởng giả là người có đức độ của bậc Trưởng thượng. Nhưng nói tên người và chỗ ở là có chủ ý. Vì Tịnh Danh và Bảo Tích cùng ở tại thành này vốn là pháp hữu, chỉ riêng Bảo Tích đến, Tịnh Danh không đến là vì có bệnh. Nhân có bệnh nên đến thăm hỏi, nhân hỏi mà thừa dịp nói pháp. Người đã có thăm hỏi Phật đồng thói tục há không thăm hỏi ư, chỉ vì các học trò được sai thăm hỏi có kham hay không. Không kham như năm trăm trưởng giả tử và tám ngàn Bồ-tát, mỗi vị thuật lại việc chê trách xưa của ngài Tịnh Danh mà khen đức ngài, lại cũng khiến chúng hiện tại được lợi ích vì những lời chê trách ấy. Đây là có ngầm ý, không phải tất cả đều không kham mà có người kham được là ngài Văn-thù. Ngài vâng lệnh Phật vào thất ngài Tịnh Danh để đối đáp tuyên bày về đạo giải thoát và số người cùng theo ngài đến thăm bệnh đều được lợi ích. Ấy là ngài Tịnh Danh phó duyên rộng bày đại pháp, giúp thành công việc nói nhân quả Phật quốc. Duy-ma, như trước đã giải thích. Trưởng giả: Nay cần lược giải. Trong Bản địa xưa nói Như Lai Kim Túc là pháp thân của trưởng giả. Như kinh Pháp Hoa nói Đại Phú trưởng giả tức là Như Lai, là nói về tích của ngài địa vị ở Pháp vân hoặc Đẳng giác, so với Phật là Bồ-tát, còn so với các địa thấp thì ông là Phật Đẳng giác. Nghóa trưởng giả tóm tắt có bốn thứ: Ngoài đủ mười đức gọi là thế gian trưởng giả. Trong hợp mười đức pháp thân gọi là xuất thế trưởng giả. Xét theo quán tâm đủ mười đức. Giải thích văn. Ngoài đủ mười đức: Cao quý sang trọng. Vị cao. Giàu to. Quyền thế. Trí sâu. Tuổi cao. Không lầm lỗi. Lễ đầy đủ. Trên khen. Dưới quy phục. Đủ mười đức này thế gian gọi là đại trưởng giả. Vì sao? Vì trong nước gọi những người đáng kính là trưởng giả thì ắt phải là quý tộc. Tuy là quý tộc, nhưng tước vị thấp kém thì không đáng trọng vọng. Tuy có chức cao, nhưng nghèo không thể ban phát nên đời không trọng. Tuy có nhiều của, nhưng không được vua yêu quý, không có quyền thế nên không được người kính sợ. Dù có quyền thế lớn, nhưng ngu si bất tài thì người trí khinh khi. Tuy thần trí sáng suốt, nhưng trẻ tuổi nên người không trọng vọng. Dầu tuổi cao trí sáng, nhưng thiếu đạo đức tư cách thì ai cũng ghê tởm. Tuy có tài đức, nhưng thiếu lễ nghi ắt không được yêu chuộng. Dù giao thiệp rộng, nhưng không được người trên yêu vì danh tiếng không bay xa. Tuy giàu sang ca vịnh, nhưng không ân tuệ ban phát ắt không được tôn kính. Nếu đủ mười đức trên thì gọi là đại trưởng giả. Trong hợp mười đức pháp thân. Ngài Tịnh Danh hiện tích làm người ắt đủ mười đức ở đời, nên dân thành Tỳ-da-ly đã tôn ngài là đại trưởng giả. Song về bản địa thì các đức tuyệt diệu không thể kể hết, nói tóm lược là ngài trong đủ mười đức, tức là xuất thế pháp thân trưởng giả: Từ khi mới phát tâm thường gặp Phật nghe pháp, chánh quán Trung đạo phát sinh lý tuệ tức là sinh trong chủng tánh Pháp vương . Tích lũy nhiều công đức, chứng Vô sinh nhẫn. Tài pháp muôn thiện đều đầy đủ. Có mười Vô úy hàng ma chế phục ngoại đạo. Hai trí quyền thật đều thông suốt. Được gặp nhiều Phật, quán hành thuần thục. Ba nghiệp tùy trí được ba thứ không lầm lỗi. Đầy đủ oai nghi tới lui đều ích lợi. Chư Phật riêng thọ ký thành thật khen ngợi. Hàng Thích phạm quý kính kẻ quy tâm tôn sùng. Đủ mười thứ này tức là đức pháp thân đầy đủ nên gọi là pháp thân trưởng giả. Thế nên thường giúp Đức Thích-ca hoằng khai pháp môn bất tư nghị mở sáng giáo nhân quả Tịnh độ. Xét theo tâm nói đủ mười đức: Dòng họ sang quý; tức là chánh quán thuận giáo khế lý mà sinh trí, đó gọi là phát tâm sinh vào nhà Phật dòng dõi chân chánh. Được Vô sinh nhẫn, là quán lý ba đế, ba hoặc không khởi, tức là tu Nhẫn vô sinh, tuy không phải là bậc Thượng địa, nhưng tâm quán ha- ïnh cũng gọi là vô sinh. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Nếu nói kinh này phải mặc áo Như Lai.” Áo Như Lai tức là tâm nhu hòa nhẫn nhục, nhẫn đây là tịch diệt nhẫn, đâu không được gọi là vô sinh, đây là ngôi vị cao. Giàu lớn, tức là tâm chánh quán ba nghiệp thanh tịnh gồm cả ba đế, một tâm muôn hạnh, giàu có pháp tài. Quyền thế, là chánh quán mà hàng phục được các ngoại ma di kiến. Trí sâu, tức quán Trung đạo làm thật, song chiếu làm quyền, hai trí đều đầy đủ. Tuổi cao, là gieo trồng thiện căn lâu đời mới tu được quán này. lỗi. Không lầm lỗi, tức chánh quán tâm tánh ba nghiệp không lầm Lễ đủ, tức tới lui đều là đạo tràng cho đến mặc Tăng-già-lê cũng đều nhất tâm. Bậc thượng nhân khen ngợi, là người quán hành thường được chư Phật mười phương khen ngợi. Nên kinh Pháp Hoa có nói: Người thường trì kinh ấy chư Phật đều hoan hỷ, hiện vô lượng thần lực mà khen người trì kinh tốt . Được người kính trọng, kinh Pháp Hoa nói: Người trì kinh thì Thiên long bát bộ đều đến cung kính cúng dường người ấy. Nên biết người quán hạnh đầy đủ đức như ngài Tịnh Danh đồng hàng với Đại só là Phật chân thật tử. Nên kinh Pháp Hoa có nói: Phật tử trụ vào địa ấy tức Phật thọ dụng. Thường ở trong đó mà kinh hành ngồi nằm còn đồng với thọ dụng của trưởng giả đâu không được gọi là trưởng giả tử. Từ “đã từng cúng dường”trở xuống là chính thức khen đức, tức là mười đoạn, giải thích mười đức không nhiều không ít. Cúng dường chư Phật, hai câu này khen “Đệ nhất chủng tánh chân chánh.” Như thế gian trưởng giả có dòng họ cao quý. Nay ngài Tịnh Danh gặp Phật đã nhiều nghe pháp cũng rộng ắt đúng theo điều nghe mà làm, thâm quán thật tướng, nếu phát sinh lý tuệ tức là từ miệng Phật mà sinh, từ pháp hóa độ mà sinh, mà được phần Phật pháp. Lý ba tuệ hiển sáng bẩm tánh tương quan gọi là Phật chân thật tử, đó là sinh vào nhà Phật dòng dõi chân chánh. “Trồng sâu các gốc lành”, giải thích là gieo trồng, quán cái không rốt ráo, là gieo giống đại trí. Trí là gốc của hạnh, từ giải mà sinh hạnh, đầy đủ muôn đức. Nên Đại Phẩm có nói: Các pháp tuy không, mà một tâm đầy đủ muôn hạnh, tức là pháp thân, mới sinh ra đã đầy đủ các đức. Được Vô sinh nhẫn, một câu này khen đức thứ hai là pháp thân vị cao, như thế trưởng giả vị cao, điều này rất rõ ràng. Bậc Sơ trụ của Viên giáo, một địa cũng đầy đủ công đức các địa, nghóa này cũng thông. Nay ngài Tịnh Danh có người gọi là Kim Túc Như Lai đã được Thượng phẩm tịch diệt nhẫn, hoặc gọi là vị ở Đẳng giác được Trung phẩm mtịch diệt nhẫn, hoặc gọi là vị ở Pháp vân được Hạ phẩm tịch diệt nhẫn. Nếu được trung và hạ, vô minh đã đoạn, chỉ vì các tập vi tế tập nên không thể lôi kéo sinh ra, gọi là Vô sinh nhẫn, tức là vị cao. Sở dó không được gọi Tịch diệt nhẫn là vì nhường Phật, chỉ nói là Vô sinh nhẫn. Từ “Biện tài… đến “Tổng trì”, ba câu này là khen đức của thứ ba, khen công đức ba nghiệp. Đức của pháp thân, có bốn biện pháp tài cũng lại vô lượng. Cũng như thế trưởng giả giàu to. Biện tài là khẩu vô ngại biện, luôn nhiếp tất cả pháp tài công đức của khẩu nghiệp. Du hí thần thông tức là thân nghiệp, luôn nhiếp tất cả công đức của thân nghiệp. Đến các Tổng trì tức là các Đà-la-ni Tổng trì “nhiếp) tất cả công đức của ý nghiệp và tất cả pháp tài công đức khác. “Được Vô sở úy, hàng phục lao oán”: Hai câu này là khen đức thứ tư: Dụng ngoại đạo không khiếp sợ, như thế trưởng giả có oai thế. Vì sao? Vì mười lực Vô úy “Hàng ma chế phục ngoại đạo.” Ma tức là bốn ma, tám ma, mười ma như đã nói trên. Lao oán, tức ma có sức trần lao “phiền não) hay hại mẹ trí độ cha thiện quyền, các người thân thiện pháp của Bồ-tát nên gọi là lao oán. Từ “Vào sâu”… đến “lợi độn”tám câu này khen đức thứ năm về hai trí, như thế trưởng giả có trí sâu. Bốn câu trước là chánh khen, bốn câu sau là giải thích khen. Thâm nhập vào pháp môn tức khen về thật trí thật tướng sâu sắc của pháp môn bất nhị chỉ có Phật mới rốt ráo tận cùng, nên gọi là thâm pháp. Khéo léo với trí độ tức là đến bờ kia mà khen thật trí. “Thông suốt phương tiện, đại nguyện thành tựu’, hai câu này khen quyền trí. Quyền trí khéo léo có thể thành tựu đại nguyện. Đại nguyện thành tựu thì dụng phương tiện mới thành. “Hiểu biết chỗ đến của tâm chúng sinh, hai câu này giải thích khen thật trí. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, phàm có tâm thì đêu được Bồ-đề, như các dòng nước đều chảy vào biển. “Lại thường phân biệt các căn lợi độn, hai câu này giải thích khen quyền trí. Căn chúng sinh có lợi độn không đồng, mà hay khéo léo đậu cơ khiến họ được giải ngộ, tức là phương tiện. Từ “Đã lâu “đến’ Đại thừa”, ba câu này là khen đức thứ sáu tu hành đã lâu thấy lý rõ ràng, như thế trưởng giả tuổi già thấy lâu. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Văn-thù đã từng lâu xa gặp chư Phật tu học nhiều kiếp.” Đây cũng thế, nên nói thuần thục. Quyết định là Đại thừa tức thấy lý rõ ràng hay Sư tử hống. Sư tử hống là nói các chúng sinh đều có Phật tánh. Phật tánh, Đại kinh nói là Đại thừa. “Các việc ra làm đều khéo suy lường”, hai câu này khen đức thứ bảy là ba nghiệp làm theo trí tuệ được ba thứ không lầm lỗi như thế trưởng giả trong không lầm lỗi. Vì sao. Vì tất cả việc làm đều do ba ng- hiệp hay khéo suy lường. Nếu nói trước trí sau lỗi thì không thể truy xét. Nay nói trước dùng trí sau làm là Không lỗi lầm sai sót, tức ba nghiệp tùy trí tuệ mà làm thì được ba thứ không lầm lỗi. “Trụ vào oai nghi Phật, tâm như biển khơi”, hai câu này là khen đức thứ tám nói về hai thứ thân và tâm. Thân thì đi dừng đều đúng pháp, tâm thì bao gồm không ngăn cách, như thế trưởng giả lễ nghi đầy đủ có hoài bảo của bậc Đại nhân. Lại trụ vào oai nghi Phật như Thập địa Bồ-tát học cách tới lui quay nhìn… của bậc Tượng vương, đứng ngồi vận động đều là Phật sự, có người nói là đầy đủ tướng tốt của Phật. Nay nói có thể như định không khởi diệt của Phật mà hiệp các oai nghi khắp lợi ích cho tất cả. Tâm lớn như biển cả, như Đại kinh nói biển có tám thứ bất tư nghị, Phật pháp cũng thế, đầy đủ như kinh ấy nói. Nay nói Bồ- tát dùng Vô duyên đại từ bao dung tất cả tâm không chấp tướng, thế nên không tăng. Tuy quán các pháp rốt ráo không tịch nhưng không bỏ chúng sinh nên không giảm. Cũng như biển cả các dòng chảy vào mà không tăng, đóng băng bốc hơi chưng nấu mà không giảm, nên nói tâm lớn như biển cả. “Chư Phật ca tụng”, một câu này khen đức thứ chín, nói chư Phật ngợi khen. Như thế trưởng giả được Thiên vương trên khen ngợi Đại só đã đủ các đức lại xứng duyên với mọi người nên được chư Phật ca tụng. “Đệ tử Thích phạm vua chúa đều kính”, hai câu này là khen đức thứ mười của Đại só, trong thì đức đầy đủ, ngoài là bậc Thầy phép tắc, ân tuệ sâu xa, nên được kính mến, như thế trưởng giả được dân tôn quý.. Đệ tử là chỉ cho các Thanh văn Thích phạm vua thế gian tức là chủ các cõi Sắc và cõi Dục, vua chúa đã quy tâm thì quan dân đều kính quý. Từ “muốn độ…” trở xuống là phần nói ích lợi của thân phương tiện . Có ba phần: Một, Nêu chỗ ở làm lợi ích vật. Hai, Chánh nói ích vật. Ba. Kết thành phương tiện. Nêu chỗ ở Đại Só sắp muốn giúp Phật hoằng truyền đại đạo phương tiện độ thoát chúng sinh, nên đến ở nước Quảng Nghiêm tức lý do có phẩm này. Từ “Tự tài…” Nói về sự lợi ích vật có ba phần: Sáu câu đầu nói về tâm mật. Từ “tuy là…” chín câu nói về thân mật. Từ “tất cả…” hai mươi câu, nói về khẩu mật. Sáu câu đầu căn cứ theo lục độ nhiếp vật, đây là từ bổn thùy tích. Trở xuống hai mươi chín câu, đều là hiện tích đồng với phàm tục. Hỏi: Vì sao tâm mật là thùy tích, còn thân khẩu là hiển bổn? Đáp: Thân tâm lục độ lý rất sâu kín. Dùng phương tiện giáo hóa tùy cơ bày việc thân khẩu khi dùng đến đều hợp phong tục, phải tìm kiếm đầu mối mới biết được cái biểu thị cho bổn. Nay trước từ bổn mà thùy tích, lợi vật mà hiển bổn, đều căn cứ theo Lục độ. Lục độ tức Ba-la-mật đầy đủ khắp thân. Ba thân ba đức không dọc không ngang như chữ nhất ở đời. Vì tiền của vô lượng nhiếp giữ các dân nghèo. Xưa phần nhiều giải thích: Tiền của chỉ là tiền của vải lụa, dân nghèo chỉ là người nghèo thế gian. Nếu thế thì việc hành thí ở thế tục đâu có gì khác, đâu đủ để khen ngài Tịnh Danh thùy tích khéo léo nhiếp vật, lại sinh đến bốn cõi nước. Nay giải thích tiền của là có sự và lý. Sự thì dễ hiểu. Còn lý tức là tiền của về chân Lý thiện pháp. Nên Văn kinh nói: Pháp vương có pháp lực vượt quần sinh, thường dùng pháp tài thí cho tất cả, dùng pháp tài của bốn giáo mà thí cho tất cả, tức là đàn độ đầy đủ khắp pháp giới, nên nói là vô lượng. Về nhiếp giữ dân nghèo, không phải chỉ là dân nghèo thế gian. Nhân tiền của mà gồm thâu, dùng đạo mà dạy dỗ sai khiến. Nay nói dân nghèo là bảy thứ phương tiện đều là dân nghèo, nên biết đều là phương tiện mật ngữ của Như Lai. Nếu là loại dân nghèo phàm phu thấp kém nhất thì dùng tiền của thế gian hoặc dùng giới luật thiện pháp để nhiếp hộ họ. Nếu là hàng Nhị thừa cùng tử ấu trỉ bỏ cha để tìm cơm áo, thì dùng loại tiền của có giá trị trong một ngày như cơm rau dưa muối của Tam tạng giáo Tứ đế sinh diệt mà nhiếp hộ họ. Hàng Nhị thừa dù giàu có nhưng sánh với Bồ-tát thì cũng còn nghèo thiếu pháp tài. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: “tự nghó mình nghèo túng không hề có vật này.” Bồ-tát tuy có công đức trong ba a- tăng-kỳ là vô lượng nhưng chỉ sánh với Thanh văn là giàu có. Đó là Bồ- tát của Thông giáo cũng còn nghèo túng, dầu đã có pháp tài là thông suốt đế lý vô sinh và các cõi nhưng sánh với Bồ-tát Biệt giáo thì vẫn là nghèo. Bồ-tát Biệt giáo trải tu vô lượng đế lý, có “vô lượng pháp”tài Ba-la-mật tự cho là giàu, nhưng sánh với Bồ-tát của Viên giáo thì vẫn là nghèo. Bồ-tát Viên giáo có các pháp tài đầy đủ về ba đế, vô tác đế lý, các Ba-la-mật… cả kho báu Kim cang không chút thiếu sót mới gọi là giàu. Cho nên ông Thuần Đà tự than là mình còn nghèo thiếu thứ tiền của vô thượng pháp, nếu được vô tác mới thật là tiền của vô thượng. Đại só pháp thân trụ ở đàn thí viên mãn, không phải keo kiệt không phải bố thí, hay đem tiền của bốn giáo pháp thí, bố thí có bảy thứ dân nghèo. Cho đến Viên giáo thiện căn chưa phát cũng là dân nghèo, như ông Thuần Đà kia vậy. Dùng bốn thứ pháp tài nhiếp hộ chúng sinh khiến họ sinh về bốn cõi nước. Đây là thùy tích dẫn mọi người về bổn vậy. Lại căn cứ bốn thứ pháp thí: Đốn, tiệm, bất định, bí mật mà nhiếp hộ chúng sinh, giúp thành Bồ-tát hạnh, khiến họ sinh về Tịnh độ. Ngài Tịnh Danh giúp Phật thành tựu việc bố thí là nhiếp hôï chúng sinh sinh về cõi nước ấy. Cho nên biết việc nói này là giúp thành phẩm trước. Phật nói bố thí là Tịnh độ của Bồ-tát, tất cả chúng sinh hay xả bỏ đến sinh vào cõi nước ấy, đâu có thể không dùng Phật quốc làm gốc. Nếu xét theo quán tâm, thì nay bốn chúng này ai có thể trụ vào một tâm ba quán không thấy có keo kiệt và bố thí mà từ bi lợi vật, cứu giúp kẻ nghèo thiếu, tu phước cúng dường, tùy hỷ khen thưởng giúp thành, như ông trưởng giả lập đàn thí trong một thôn ấp, nhân thí mà thuyết pháp, đám người nhận của thí cảm mến ân đức mà quy tâm, nghe sự dạy dỗ dần dần bỏ tham tiếc và bắt chước theo thí chủ mà bỏ tiền của tu phước. Hoặc được khiến trụ mãi vào tâm chánh quán mà tài thí pháp thí, như là nhiếp hộ một người dân nghèo quy tâm nghe dạy mà tâm tham tiếc tự dứt lại thường bố thí… cho đến hàng Thiên vương vua chúa trụ ở tâm chánh quán, không thấy có tham tiếc và bố thí, từ ái ban phát cho dân nghèo, nhân đó nói Tứ giáo pháp môn. Bốn chúng mang ân quy tâm, thọ giáo được đạo, cũng luôn hành thí cho mọi người. Ví như một ngọn đèn mồi thắp cả ngàn ngọn đèn, chỗ tối đều sáng, sáng mãi không dứt. Ấy là bốn chúng vua chúa trưởng giả trụ vào đèn pháp môn Bố thí vô tận đăng mà nhiếp hộ chúng sinh và cũng nhiếp hộ cho tất cả bà con ở vị lai đều sinh về Tịnh độ, gặp Phật nghe kinh, chánh tuệ khai phát, và các thí chủ đó đều được Vô sinh nhẫn, ở cõi nước có duyên mà thị hiện thành chánh giác. Những kẻ được nhiếp hộ do việc bố thí xưa đều cùng đến cõi nước ấy tu đạo Tam thừa, nếu nghe kinh Pháp Hoa thì đồng vào Phật thừa. Đây tức là ngài Tịnh Danh Đại só ở đâu cũng đổi ra thành Tỳ-da-ly cả. Giữ giới thanh tịnh nhiếp hộ những kẻ hủy bỏ giới cấm. Pháp thân Tịnh Danh trụ vào thân chẳng trì chẳng phạm ba đức Thi-la đầy đủ, mà thường dùng phương tiện mười thứ giới nhiếp hộ những kẻ hủy giới. Trước là dùng thập thiện, ngũ giới để nhiếp hộ hàng trời, người, sau dùng luật nghi nhiếp hộ, không cho kẻ phá giới hủy phạm… Rồi dùng các chánh ngữ, nghiệp, mạng sinh và vô sinh để nhiếp giữ kẻ hủy phạm, tùy đạo mà không đắm nhiễm, rồi dùng ba thứ chánh nhiếp hủy Vô lượng mà được các Thánh khen ngợi tự tại, kế đến dùng ba thứ chánh nhiếp hủy vô tác đầy đủ tùy định. Các người khác chưa được chẳng trì chẳng phạm đều gọi là hủy. Cho nên Đại kinh có nói: Chỉ có Phật là người duy nhất đầy đủ tịnh giới, còn các người khác đều gọi là ô giới. Các chúng sinh đã nhờ giới nhiếp hộ, vì không hủy cấm giới mà thành hạnh Bồ-tát, tùy tu giới thiện. Khi ngài Tịnh Danh thành Phật thì các chúng sinh giới thiện được nhiếp hộ sẽ đều ở quốc độ của ngài. Văn trên nói trì giới là Tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật các chúng sinh trì giới sẽ đến ở quốc độ của ngài. Nay xét về quán tâm, thì các đệ tử Phật, bốn chúng sinh thường tu một tâm ba quán, trụ ở tâm quán này không thấy có trì và phạm, từ bi lợi vật nghiêm trì cấm giới. Do trì giới có đức mà được người quy phục, nhân đó chỉ bày cho các pháp môn. Nếu là trưởng giả thường khiến các quan châu vua chúa hay trì trai giới, thì một làng, một huyện, một châu, một nước… các thần dân bốn chúng tự nhiên sẽ dứt ác mà tu giới thiện. Ấy là Không nói mà hóa độ, dùng bốn nhân Tịnh độ mà tu bốn giáo đạo, tự trụ vào đèn pháp môn Thi-la Vô tận để nhiếp hộ các chúng sinh. Và các chúng sinh được nhiếp hộ sẽ là quyến thuộc ở vị lai. Các việc khác đều như việc bố thí nói trên. Về bốn cõi sau “nhẫn nhục, thiền định…” xét về theo quán tâm thì căn cứ sau đây mà biết. Dùng nhẫn điều hành nhiếp hộ các khuể nộ. Ngài Tịnh Danh trụ vào thân phi khuể phi nhẫn ba đức Sằn-đề đầy đủ, luôn thị hiện trụ ở phục thuận vô sinh tịch diệt, phương tiện điều phục bốn thứ chúng sinh khuể nộ đều lìa bỏ sân khuể thành Bồ-tát hạnh. Ngài Tịnh Danh khi thành Phật, những chúng sinh do nhẫn nhục nhiếp hộ sẽ đến sinh ở cõi nước ấy giúp thành Phật quốc. Các nghóa khác chuẩn theo trước. Dùng đại tinh tấn nhiếp hộ các giải đãi. Tịnh Danh với pháp thân trụ vào thân chẳng tinh tấn chẳng giải đải dùng đầy đủ, tám thứ tinh tấn của bốn đạo phẩm để nhiếp hộ bốn giải đãi, chúng sinh đến ở nước ấy các nghóa đều như trước. Nhất tâm thiền tịch nhiếp hộ các loạn ý: Tịnh Danh với pháp thân trụ vào thân chẳng định chẳng loạn, ba đức đầy đủ, thường khéo phương tiện, dùng tám thứ thiền định của bốn đạo phẩm để nhiếp hộ bốn thứ loạn ý, khiến mỗi người đều được tám thứ thiền và các thứ thiền định, thành Bồ-tát hạnh, cùng sinh đến Tịnh độ đủ như phẩm Phật Quốc đã nói. Dùng quyết định tuệ nhiếp hộ các vô trí. Pháp thân Tịnh Danh trụ vào thân chẳng ngu chẳng trí rốt ráo Bát-nhã ba đức đầy đủ, luôn giỏi phân biệt các pháp tướng ở Đệ nhất nghóa mà không động, dùng tám thứ tuệ quyết định của bốn đạo phẩm mà nhiếp hộ bốn thứ chúng sinh vô trí, đầy đủ như trong phẩm Phật Quốc đã nói. Thế nên Bồ-tát từ pháp thân bổn địa sáu Ba-la-mật chân thật mà khởi phương tiện tích, thị hiện làm lục độ để nhiếp hộ chúng sinh, tức là thành tựu chúng sinh, cõi Phật thanh tịnh, khiến họ trở về bổn địa, đồng thời giúp thành việc Phật nói giáo giải thoát Tịnh độ bất tư nghị. Chín việc sau đây, tuy là “không nói”mà hóa độ tức là thân mật. Làm phi đạo mà thông suốt Phật đạo để phương tiện lợi vật. Trước nói tuy làm bạch y tức thùy tích mà tu hạnh Sa-môn để dẫn họ về bổn. Sa- môn cũng gọi là vô trước, cũng gọi là cần hành. Trong Đại kinh nói: Như Lai là đại Sa-môn tức thị hiện Sa-môn ở bốn giáo vậy. Luật là nói lượng nặng nhẹ, nói lượng tội cấu nặng nhẹ ở cả bốn giáo đều cốt dẫn mọi người trở về gốc Tịch quang. Đây nói về “không nói mà hóa độ, tức là ngầm chê hàng xuất gia, ngầm khuyên hàng tại gia. Nói về ngầm chê: Trong Đại kinh nói: “Tuy đã nhuộm y mà tâm vẫn chưa nhuộm”, là chưa nhuộm pháp Đại thừa của bốn giáo, thì tuy là Sa-môn vẫn gọi là bạch y. Về ngầm khuyên: Đâu cần phải nhuộm áo, chỉ khuyên nhuộm tâm lập hạnh Sa-môn, tức là nhân Tịnh độ bất tư nghị, há không phải Không nói mà hóa độ thành giáo Tịnh độ ư? Ngài Tịnh Danh sau khi thành Phật nhiếp hóa chúng sinh sinh về quốc độ ngài, đều là phương tiện giúp thành Phật quốc, nghóa đã rõ ràng. Nhưng phẩm Phật Quốc nói: Phương tiện là Tịnh độ của Bồ-tát. Khi Bồ-tát thành Phật chúng sinh đầy đủ phương tiện đến sinh vào nước ấy, chính là nêu tên mà thôi. Nay ngài Tịnh Danh giả bệnh mà hưng giáo, khen đức ngài đầy đủ thì có hai mươi chín việc. Nêu vấn đề khen phương tiện của ngài Tịnh Danh nên biết phương tiện là vô lượng. Nghóa phương tiện của phẩm Phật Quốc khi đọc sẽ thấy rõ. Căn cứ ở quán tâm. Đang là bạch y tín só, nếu trưởng giả khuyên được các quan châu vua chúa… có thể đoạn ác tu thiện, một tâm ba quán không đắm nhiễm các dục, quán hạnh minh tịnh… tức là tuy làm bạch y mà trì hạnh Sa-môn. Từ đây trở đi tám câu thì nửa phần trên là thùy tích, nửa phần dưới là về bổn. “Tuy ở nhà mà không đắm mê ba cõi còn tránh bỏ nhạc trời, huống là chọn ở nhân gian”, đây là dẫn bốn thứ chúng sinh khiến họ lìa tam giới đến sinh ở bốn cõi. Ba cõi có hai thứ: Khai và hợp với bốn cõi nước xét kỹ sẽ biết. Đây và các câu nêu việc cần phải quán tâm, không muốn dài dòng, xem phần trước sẽ biết. “Thị hiện có vợ con thường tu Phạm hạnh, trong tu bốn thứ Phạm hạnh, lìa bỏ bốn ái trước”, cũng là ngầm chê xuất gia, ngầm khuyên tại gia, khiến người có hạnh bất tư nghị thành nhân bốn cõi. Thị hiện có quyến thuộc thường ưa xa lìa, làm bốn thứ xa lìa kh- iến chúng sinh xa lìa bốn phược, nhập vào nhân bất tư nghị sinh đến bốn cõi nước. Tuy mặc áo đẹp để trang nghiêm thân tướng hảo, thường dùng bốn nhẫn mà tu các tướng hảo nhưng, trang nghiêm pháp thân dẫn chúng sinh vào bốn Tịnh độ. Tuy vẫn ăn uống mà dùng thiền duyệt làm mùi vị; dùng tám thứ thiền duyệt của bốn thứ đạo phẩm khiến thành tựu được diệu nhân dẫn nhập vào bốn cõi nước. Nếu đến chỗ cờ bạc thì nhanh chóng độ người. Nhanh chóng độ người là hóa độ khiến họ được công xuất thế không đắm nhiễm vào vô ký, trạo cử, tán loạn tan mất cách luống uổng. Ở mỗi người tùy căn tánh mà tìm đến bốn thứ thật lợi xuất thế gọi là độ người. Khiến nhập vào Giải thoát bất tư nghị đặt ở bốn cõi. Nói nhanh chóng là cơ khởi liền hóa độ không đợi thưa hỏi. Học các đạo khác không bỏ chánh tín là học các dị đạo, là muốn chiết phục người nên không bỏ. Chánh tín, tức lòng tin bên trong không tổn thất dùng chánh pháp mà độ thoát. Kinh Đại Tập nói: Phú-lâu-na tuy hóa độ ngoại đạo lại bị chê trách. Ngài Văn-thù hiện đồng ngoại đạo mà đến hóa độ. Vì các ngoại đạo ở quá khứ cũng từng gặp Phật nghe pháp. Bên trong đã có sẵn căn lành thì phó cơ mà dẫn nhập vào hạnh bất tư nghị khiến thành nhân bốn cõi, tuy nói luật thế tục mà thường ưa vui Phật pháp. Sách luật phương này chính là Ngũ kinh… Sách ở Tây độ tức là bốn thứ Phệ-đà mười tám đại kinh, thuốc tiên, chú thuật… thường ưa Phật pháp, tức là thường ưa bốn giáo nói về Phật pháp. Dẫn dắt khiến họ nhập vào Giải thoát bất tư nghị ở bốn cõi Phật. Nhưng chỉ có pháp thân bổn địa, ba đức bí mật mà hay huân tu các nghiệp, bỏ chất độc vào sữa, phương tiện dẫn dắt mọi người cùng về bốn cõi nhập vào pháp môn Bất tư nghị. Từ Tất cả…” trở xuống là hai mươi câu nói khẩu mật phương tiện, do tiếng nói pháp làm lợi ích, cũng là thùy tích mà dẫn mọi người quy bổn. Tất cả thấy đều kính trọng, có hai nghóa: Nói ngài Tịnh Danh quán tất cả chúng sinh tức tướng Bồ-đề, tức Đại Niết-bàn, thế nên đều kính trọng. Nói Đại só làm hóa chủ gặp mọi người thì đều ban ân huệ, phàm ai thiếu sót đều thấm nhuần, đều mến mộ ân đức, thế nên tất cả đều cung kính cúng dường. Lại đó là phước điền trên hết, bậc A-la-hán Vô học còn được ứng cúng, huống là ngài Tịnh Danh phương tiện thuyết pháp giáo hóa cho mọi người đều quy bổn! Một câu này thông suốt cả mười chín câu kia. Bởi vì sao, bởi phương tiện lập giáo nếu mọi người không kính trọng thì việc hóa đạo đâu được rộng khắp, giữ gìn chánh pháp nhiếp hộ cả lớn bé. Ở ngoại quốc lập ra người có đức cho là tam lão giữ gìn phép nước, đây là thùy tích vậy. Nói lớn bé thì đâu phải chỉ người mới có lớn bé mà tất cả thiện căn cũng có to nhỏ nên nói là lớn bé. Lớn bé tuy khác, nhưng luận về thiện căn thì không ngoài bốn giáo, liền ứng hợp bốn căn cơ mà nhiếp hộ họ về bốn cõi. Tất cả trị sinh hài ngẫu “người nói pháp và người nghe”, tuy được nhiều lợi ích thế tục nhưng không vui mừng, xứng ý là hài “) được lợi là ngẫu ““. Hiện tích đồng phàm tục tìm cầu lợi ích cao quý hơn đời nên không lấy làm mừng, là vì dẫn mọi người về bổn nên không vui mừng. Phàm phu có ái tâm thì mừng vui vì các kiết hoặc che lấp bốn thiện căn. Đại só dẫn chúng có tình không đắm trước, vì tình đắm trước thường phá bốn thiện căn, Bồ-tát nhiếp hộ cho sinh về được bốn cõi nước. Lại nữa, Bồ-tát chứng được bốn công đức ba thứ quyền là tục đế, tu ba pháp này để phát sinh định tuệ gọi là được lợi thế tục, vì người mà nói. Đây gọi là trị sinh, người nghe được lợi, gọi là hài ngẫu. Bồ-tát thường làm hành xả gọi là Không vui mừng. Dạo chơi ở bốn đường nhiêu ích chúng sinh là hiện tích đồng kẻ phàm phu mà dạo chơi ở bốn đường thông suốt, biểu thị cho Tứ đế. Dùng bốn loại tứ đế mà ích lợi bốn thứ chúng sinh dẫn dắt họ vào bốn cõi. Vì trị chánh pháp cứu hộ tất cả tích, đồng kẻ phàm tục mà dùng lễ nghi hình phạt. Phàm người chấp pháp phần nhiều đều có cong vạy vướng trệ. Bồ-tát làm chánh trị, vì cứu hộ chúng sinh mà bày ra hoặc dẹp bỏ. Nhân đó dùng bốn giáo cứu độ để dẫn nhập vào bốn thứ Tịnh độ. Không phải là bỏ đạo, đến nỗi cầm quyền cai trị nhầm lẫn. Vào chỗ giảng luận thì dùng tích Đại thừa. Vào chỗ phàm tiểu thì dùng phương tiện về ứng xử và nói bốn giáo Đại thừa mà dẫn nhập vào bốn cõi. Vào nơi học đường thì dạy dỗ kẻ tối tăm thơ dại. Bốn thứ thiện căn nhỏ nhặt là vô minh hoặc chướng. Xuất thế giải thế chưa mở nên gọi là kẻ tối tăm thơ dại. Dùng bốn giáo tiếp dẫn phá các hoặc chướng khai mở bốn thiện căn khiến tăng trưởng, để thành tựu việc sinh đến bốn cõi nước. Vào các nhà bán dâm thì chỉ bày lỗi lầm của dục nghóa là vào nhà bán dâm nói cho họ biết chín lỗ thường tiết ra chất bất tịnh khiến họ biết lỗi về dâm dục. Nếu dục tâm dứt thì bốn thiện căn phát sinh. Nếu tham đắm bốn pháp cũng gọi là dâm. Biết lỗi tham ái mà không đắm nhiễm, dùng tịnh tâm mà vào bốn cõi bất tư nghị. Cho nên văn nói rằng: “Trước dùng móc dục kéo ra, sau khiến cho vào Phật trí.” , “Vào nhà bán rượu hiện tích lập chí, vào quán rượu có ba mươi sáu lỗi.” Phàm người uống rượu thì thần trí tối tăm loạn đạo, chí cả suy sụp, Đại só vào đó thị hiện là người lập chí khiến người cùng lập, tạo nhân không lui sụt để dẫn nhập vào bốn cõi. Lại còn, rượu là cửa hàng bán phiền não. Tức là năm ấm phàm phu uống rượu phiền não, hàng Nhị thừa uống rượu tướng không vô chưa ói được. Cho nên đối Phật tánh mà sinh tưởng vô thường. Nên Đại kinh nói: Cầm bình Không Tam-muội mà uống rượu say rượu Vô tướng Bát-nhã. Thông giáo đồng với hàng Nhị thừa, còn biệt giáo thấy trung, chưa dứt được cái say của rượu vô minh. Bồ-tát tuy vào các phiền não để làm Phật sự, uống cạn ba ngàn chung mà vẫn không hôn loạn nên nói là thường lập chí. Nếu ở trong hàng trưởng giả hoặc là hàng trưởng giả cao quý, thì vì họ nói pháp cao quý.” Đây là khen đức cao quý của ngài Tịnh Danh, dùng khẩu mật phương tiện mà lợi ích chúng sinh. Khắp nơi Đại só đều hiện có tôn quý và thấp hèn. Nay riêng nêu việc tôn quý để thành việc khen đức, cho nên đức là khuôn phép cho mọi người và ở trên quần hiền. Nói là bậc tôn quý trong hàng trưởng giả, tức là bậc trưởng giả thế gian hơn cả bạn bè người làng nên tự cho là quý. Đại só hiện tích hơn các bậc đồng đức nên được họ tôn quý, trước nói pháp thế tục cao quý đều khiến cho kính phục, rồi ứng hợp bốn cơ mà nói bốn thắng pháp. Khi đã tôn quý rồi thì mọi việc đều thuận theo mà dẫn nhập vào bốn cõi. Nếu ở trong hàng cư só hoặc là hàng cư só cao quý, đoạn cho họ các tham trước. Ở ngoại quốc nếu tài sản khoảng một ức thì gọi là cư só hạng thấp, cho đến một trăm ức thì gọi là cư só hạng cao. Ở nước ta gọi người có đức độ cao là cư só. Nay gọi người nhiều tiền của là cư só, nên thường lấy tài sản làm chuẩn. Ngài Tịnh Danh hiện tích là bậc Thắng đức tiền của vô lượng, bố thí vô cùng nên được mọi người tôn quý, nhân tùy căn cơ mà nói bốn pháp thí khiến họ lìa bỏ tham trước dẫn họ vào Tịnh độ. Nếu ở trong hàng Sát-đế-lợi hoặc là hàng Sát- lợi cao quý thì dạy họ về nhẫn nhục. Sát-lợi, Hán dịch là Vương chủng tức là Đại điền chủ. Ngài Tịnh Danh hiện tích từ nhẫn cao quý nên được tôn quý. Dạy họ nhẫn nhục, vì hàng Sát-lợi tự tại nhiều uy quyền nên dạy họ nhẫn nhục. Dựa vào bốn căn tánh của bốn giáo mà ứng nói các từ nhẫn. Nếu ở trong hàng Bà-la-môn hoặc là hàng Bà-la-môn cao quý thì dẹp bỏ cho họ ngã mạn. Bà-la-môn, Hán dịch là Ngoại ý, đời đời nối nhau, là hạng tài cao của ngoại học. Lại gọi là tịnh hạnh. Ngài Tịnh Danh hiện tích làm ngoại đạo siêu tuyệt không ai sánh bằng nên được họ tôn quý. Các Bà-la-môn tự ỷ mình Tịnh Hạnh, khinh khi người khác. Nếu thấy tịnh danh học sâu thắng pháp thì ngã mạn tự mất, rồi dựa vào bốn căn tánh dùng pháp bốn giáo, thích ứng mà nói để ai nấy đều lìa bỏ tâm ngã mạn. Nếu ở trong hàng đại thần hoặc là hàng đại thần cao quý thì dạy họ dùng chánh pháp: vì đại thần trong nước ai cũng nắm quyền hành cai trị, nếu có người không sáng suốt thì Tịnh Danh hiện tích là người đồng liêu chỉ bày cho thông suốt nên được họ tôn quý. Dùng chánh pháp trị đạo dựa vào bốn căn tánh cho đến dẫn nhập vào bốn cõi. Nếu ở trong hàng vương tử hoặc hàng tôn quý của hàng vương tử thì dạy họ về trung hiếu. Ngài Tịnh Danh hiện tích là người sáng suốt hiếu kính nên được họ tôn quý. Vương tử làm con và làm quan, nếu là con thì cần hiếu kính, nếu là quan thì cần trung chánh, dựa vào bốn căn tánh dùng bốn giáo mà nói bốn thứ đạo thành thật hiếu kính bèn thành con của bốn thứ Pháp vương, thuận theo bốn giáo hạnh gọi là hiếu, không tiếc thân mạng, rộng hoằng bốn giáo gọi là trung mà dẫn dắt chúng sinh khiến họ cùng vào bốn cõi. Nếu ở trong hàng nội quan hoặc hàng nội quan cao quý thì dạy họ đứng đắn với cung nữ. Theo quốc pháp của ngoại quốc chọn người có đạo đức bảy đời không lang chạ cho làm nội quan, tin tưởng giao cho cáng đáng việc trong cung coi là tâm bí. Ngài Tịnh Danh hiện tích là người cao thượng không lầm lỗi nên được họ tôn quý. Cung nữ bị hạn chế ngoại đạo nên sinh tà tưởng che lấp thiện căn. Đại só liền ứng cơ nói bốn thứ tám Chánh đạo khiến họ được chánh kiến và dẫn nhập về bốn cõi. Nếu ở trong hàng thứ dân hoặc là hàng thứ dân cao quý thì khiến họ tu phước lực. Thứ dân có phước báo ít ỏi, nghèo kém quê mùa mà hèn hạ không được hàng thượng lưu ưa chuộng. Đại só thị hiện tuy ở bậc cao mà thương khắp dân đen, thứ dân cảm ân đức nên càng quý kính ngài, ngài tùy căn tánh mà nói bốn giáo, do công đức bố thí sẽ sinh Tịnh độ được quả báo thù thắng. Nếu ở trong hàng Phạm thiên hoặc trong hàng Phạm thiên cao quý thì dạy họ về thắng tuệ, mười tám Phạm thiên ở bốn thiền và bốn Vô lượng định phần nhiều sinh đắm trước, nên vào định không sâu. Ngài Tịnh Danh hiện tích quán luyện huân tu vào sâu không bờ bến, nên được các Phạm thiên quý kính, mà nói cho họ tịnh vô cấu thiền, khéo léo nhập xuất và trụ vào phương tiện thắng tuệ, rồi tùy căn tánh mà dẫn họ vào bốn cõi. Nếu ở trong hàng Đế Thích hoặc hàng Đế Thích cao quý thì thị hiện vô thường. Đế Thích mê âm nhạc tự biết là đọa lạc. Ngài Tịnh Danh lìa dục thanh cao nên được họ tôn kính, ngôi trời được trường tồn. Đại só nói cho họ mười lăm quán môn vô thường như trong Đại phẩm Trí Độ đã nói. Và tùy căn tánh dùng bốn giáo phó duyên nói cho họ tướng vô thường cũng không đồng. Tam tạng giáo nói vô thường sinh diệt có tướng nhất định. Vô thường của Thông giáo đều như huyễn hóa. Về Biệt hướng đến thú vô thường chẳng qua dùng bốn thứ giáo dẫn nhập vào bốn cõi. Nếu ở hàng Hộ thế hoặc ở trong hàng Hộ thế cao quý thì ủng hộ các chúng sinh. Trời Tứ Thiên vương ở trên bốn góc của nửa núi Tu-di, mỗi vị làm chúa hai bộ quỷ thần không cho họ làm hại nhân dân bốn châu. Tịnh Danh hiện ra đồng loại nhưng từ bi hộ vật hơn họ nên được họ quý kính, rồi tùy căn tánh mà nói pháp thích ứng khiến họ phát bốn thệ nguyện giữ gìn bốn thứ chúng sinh thiện căn, tu trí Tứ đế. Tức là bốn vua một đế, mỗi vị có hai bộ quỷ thần kiến tư, hộ trì khiến không ai nhiễu hại. Số người thiện tâm tức là hộ trì chúng sinh, và đậu duyên nói bốn giáo khiến họ hộ trì bốn pháp Tứ đế mà sinh ra chánh pháp. Tất cả mọi sự việc nêu trên đều là ca tụng khen ngợi ngài tiếp dẫn chúng sinh đến sinh vào bốn cõi bất tư nghị. Nên biết những điều nói trên rất sâu xa. Từ “trưởng giả…” đến “chúng sinh” là kết thành phương tiện. Ở thành Tỳ-da-ly chỉ có ngài Tịnh Danh dùng ba nghiệp thanh tịnh giúp bày Phật quốc là pháp biến khắp mười phương pháp giới đâu chỉ ba mươi lăm việc nêu trên. Hỏi: Nay nói ngài được tôn kính là dùng một thân vào nhiều thân mà được tôn trọng hay phải thác sinh vào các nơi ấy mà được kính trọng? Đáp: Đều có nghóa này, suy việc hiện các thân như trong phẩm Phổ Môn nói. Nay chính là lấy việc giả bệnh để hưng giáo nên dùng một thân trưởng giả, hiện tích khéo léo tùy chỗ thị hiện đều được kính trọng, thừa cơ hoằng hóa đều được lợi ích. Nên biết pháp thân trưởng giả không có các nghiệp duyên chỉ thị hiện ra như thế thôi. Để nêu bằng chứng thân trưởng giả vốn không bệnh, vì chúng sinh nên giả bệnh mà truyền giáo nên trước kể các phương tiện để khen ngợi, do đây kết thành. Từ trên đều là từ bổn mà thùy tích để hiển bổn phương tiện dùng tiếng và hình đều làm lợi ích. ----------------------------- PHẨM: PHƯƠNG TIỆN (THANH TỊNH) (PHẦN 2) Từ “ngài dùng phương tiện…” đến hết phần vào thất có tám phẩm rưỡi. Đây là phần lớn thứ hai nói về ngài Tịnh Danh phương tiện giả bệnh nói giáo để giúp Phật hoằng hóa khiến nhập bất tư nghị giải thoát, dẹp bỏ tội cấu để tiếp dẫn mọi người vào bốn cõi, lập thành hạnh cõi Phật thanh tịnh. Giả bệnh có bốn ý: Để giáo hóa các quốc vương và thần dân. Phát khởi phẩm Đệ Tử. Phát khởi phẩm Bồ-tát. Phát khởi phẩm Thăm Bệnh. Giáo hóa các quốc vương thần dân: Vì giả bệnh, các quốc vương và trưởng giả đều đến thăm hỏi, do thân bệnh nên mượn lời chê trách, nhân cơ hội đó khuyên răn, khiến họ sinh tâm chán và ưa mà đoạn bỏ các duyên tập và tu hành muôn hạnh, ấy là ca tụng việc nhập vào Giải thoát bất tư nghị, lập thành cái nhân sinh về Đồng cư hữu dư tịnh độ. Phát khởi phẩm Đệ tử: nếu không thị hiện bệnh thì do đâu Phật sai đệ tử đến thăm hỏi. Nếu không sai thì họ đâu dám thuật lại việc chê trách ngày xưa. Do đó khiến hàng Nhị thừa cùng nghe việc ngày xưa vướng Tiểu thừa mà bị chê trách. Có kẻ ưa và chấp Tiểu thừa khi nghe việc này thì tâm chấp bị vỡ tan mà ngưỡng mộ Đại thừa. Gần là vào thất nghe pháp bất tư nghị mà thành cái nguyên do sinh tô. Xa là Đại phẩm và Pháp Hoa ca tụng thành thục tô và đề hồ. Cũng là sinh cái lương duyên của cõi quả báo. Phát khởi phẩm Bồ-tát: nếu không giả bệnh làm lý do sai đi thì Bồ-tát đâu dám thuật lại việc bị quở trách ngày xưa, mà khiến Bồ-tát của ba giáo dẹp bỏ cái vướng đọng phương tiện, đồng thời bỏ đạo Viên đốn mà thành cái thắng nhân cõi Phật thanh tịnh để nhập giải thoát bất tư nghị. Phát khởi phẩm Thăm Bệnh: nếu không giả bệnh thì do đâu Phật sai Văn-thù vào thất luận đạo để khai phát tâm người, khiến các đệ tử tiếng tăm chấn động đại thiên tiến lên hạnh tam quán của các Bồ-tát mà nhập đạo giải thoát bất tư nghị, thành tựu nhân tịnh cõi Phật. Bốn ý này đều do giả bệnh. Bệnh không thật có nên nói là phương tiện. Sức phương tiện gửi trong phần nói pháp đây chính là ích lợi của tiếng. Nay nói ngài Tịnh Danh giả bệnh nói giáo, ý có bốn đoạn văn kinh, phân ra làm hai đoạn lớn: Từ đây trở đi đến phẩm Bồ-tát có hai phẩm rưỡi, là ở ngoài thất nói pháp trình bày việc chê trách chiết phục. Từ phẩm Thăm Bệnh trở đi có sáu phẩm, là ở trong thất, nói pháp trình bày việc tiếp dẫn nhiếp thọ tạo nhân duyên khiến chánh pháp lâu dài, tức là trụ bất tư nghị giải thoát. Trong chiết phục có đầy đủ nhiếp thọ, trong nhiếp thọ cũng vậy. Nhưng nghóa có chánh phụ. Ở ngoài thất mà chiết phục, văn có ba phần: Nửa phẩm này nói về chiết phục hữu vi duyên tập của nội giới “trong tam giới”. Phẩm Đệ Tử là chiết phục vô vi duyên tập. Phẩm Bồ-tát là chiết phục tự thể duyên tập của pháp giới . Hỏi: Vô vi và tự thể đồng hay khác? Đáp: Các thuyết nói không đồng, nay nói tên thể riêng khác là đồng hàng Nhị thừa mê tự thể mà khởi đắm trước vô vi, khi đã mê đắm vô vi nên nhận tên vô vi. Bồ-tát cũng mê tự thể mà khởi duyên tập vô vi, nhưng Bồ-tát quán phá vô vi, chỉ khi vô vi chưa dứt thì hoặc này mới bám vào thể nên riêng nhận tên tự thể. Như phàm phu mê chân mà khởi hữu vi duyên tập. Bậc Hữu học đoạn bỏ kiến, tư duy chưa hết thì cũng ở chân lý mà có tên là hữu sắc nhiễm, vô sắc nhiễm. Hỏi: Bậc Hữu học chưa biết hữu vi thì tuy thấy chân nhưng cũng còn hoặc ấy, không xét định theo chân thì gọi là tự thể. Còn Bồ-tát chưa hết vô vi cũng được thấy chân sao lại riêng nhận tên là tự thể? Đáp: Hàng Nhị thừa thấy chân thì đó chỉ là lý không, chẳng phải là pháp thân nên không được lập tên tự thể, còn Bồ-tát thấy chân thì đúng là pháp thân. Pháp thân thường còn nên được riêng lập tên là tự thể. Bồ-tát duyên hoặc chưa hết nên cần phải chiết phục. Nửa phẩm này có bốn phần: Phương tiện thị hiện có bệnh. Các người thăm hỏi. Nhân đó thuyết pháp cho. Thời chúng được lợi. Vì không bệnh mà thị hiện bệnh: đây là biểu thị pháp thân không có hoạn nạn hệ lụy của nhân quả thuộc hai thứ duyên tập, vì muốn tiếp độ người nên phương tiện hiện ra có hoạn nạn, hệ lụy nhân quả thuộc hai thứ duyên tập của phàm phu, Nhị thừa và tự thể Bồ-tát . Hỏi: Sao biết được? Đáp: Đoạn văn sau có nói: Bồ-tát bệnh là do khởi lòng đại bi, vì chúng sinh bệnh nên mình cũng có bệnh. Nếu chúng sinh được không bệnh thì mình cũng không bệnh. Hỏi: Ngài Tịnh Danh hiện tích ở cõi người thì có thể đồng phàm phu mà có bệnh, trong đồng với Bồ-tát có tự thể bệnh, đã không phải hàng Nhị thừa sao được đồng với họ mà có bệnh vô vi? Đáp: Ngài Tịnh Danh trụ vào bất tư nghị đáng dùng thân Nhị thừa để độ sinh thì hiện đồng với bệnh thân ấy. Lại nữa, hiện bệnh Bồ-tát của Thông giáo thì cùng nghóa bệnh với hàng Nhị thừa… Đến phẩm Thăm Bệnh sẽ phân biệt đầy đủ. Từ “Dó kỳ”đến “vấn bệnh” là nói các người thăm Bệnh . Ngài Tịnh Danh được mọi người tôn kính đầy đủ như trước đã khen, đại chúng này đều nhờ ân, nay ngài có bệnh lẽ nào chẳng đến thăm hỏi. Thế nên cả vua quan dân đều đến thăm bệnh. Những người đến thăm đều là người quen biết hiện đời với ngài Tịnh Danh, nhưng ở quá khứ đã từng kết duyên bốn giáo. Khi cơ duyên đã đến nên khiến xảy ra việc thăm bệnh. Phần ba: Từ “Kỳ vãng”… trở xuống là Nhân đó nói pháp . Nếu không hiện có bệnh thì không do đâu trách được các hào tộc. Giả sử những người đến không có việc bị trách cứ, song so với thân người bị trách thì mình cũng có bệnh. Cho nên nhân có bệnh mà nói rộng pháp, khiến họ chán thân này mà khuyên cầu thân Phật. Văn có ba phần: Một là, nêu chung việc nói pháp; hai là, chánh nói quán môn; ba là, khuyên cầu thân Phật. Phần một, dễ hiểu. Hai thứ nói pháp, là đại ý Phật pháp tiếp đến là răn nên đoạn ác khuyên nên sinh thiện. Nhân đây mà thành được nghiệp Tịnh độ. Và nếu chỉ khuyên chán lìa đoạn ác mà không khuyên cầu thân Phật là sợ ở thế gian đọa vào Nhị địa, nếu ở vào Nhị thừa thì kinh này và Đại phẩm đều tác thành cho bậc Căn bại. Nếu dựa vào Pháp Hoa và Niết-bàn thì đi lòng vòng ở Phật đạo. Nay quán môn này phần nhiều là ở Tạng Thông. Vì các thí dụ về thân cây chuối là tạng, còn thí dụ huyễn hóa là ở Thông. Từ “các nhân giả trở xuống là phần hai chánh nói về quán môn. Có Sư nêu năm môn mà giải thích, có vị dùng năm phi thường mà giảng. Nay dùng hai môn mà nói nghóa tóm tắt có năm thứ: Căn cứ hai đạo kiến tư. Làm sao biết được? Trước nói về khổ… bốn hàng, là nói về kiến đạo. Kế nói về bất tịnh quán là xét theo tu đạo. Nên Đại luận giải thích mười tưởng rằng: Ba thứ trước là kiến đạo, bốn thứ giữa là tu đạo, ba thứ sau là Vô học. Nay khuyến cầu quả Phật thì không cần ba thứ sau. Căn cứ hai thứ Niệm xứ: từ “khổ…”trở đi bốn hàng tức là tánh niệm xứ; nói bất tịnh quán là cộng niệm xứ. Căn cứ hai hạnh, từ “khổ …”bốn hàng tức là tuệ hạnh; như nói về bất tịnh, tức là hành hạnh. Nói về hai quán, từ “khổ…”bốn hàng tức là thật quán; như nói về bất tịnh tức là giải quán. Nói về chánh trợ, từ “khổ…”bốn hàng tức là chánh đạo; nói bất tịnh… tức là trợ đạo. Như thế các thứ hai môn rộng chỉ bày cho mọi người về giáo, giúp họ được lợi ích vui vẻ. Nay Căn cứ hai môn này để thuyết pháp ý có nhiều lối nhưng tóm tắt có năm cách tu: Khiến người nghe pháp chán lìa để tu cầu đạo Vô thượng, nếu duyên tập chưa đoạn hết thì lại đắm nhiễm Tịnh độ. Nội giới đã đoạn hết thì sinh vào cõi Hữu dư. Nếu nương vào Phật tuệ thì như Loa Kế đã thấy. Nên Phổ Hiền Quán nói rõ về lực sám hối thì tội chướng dần tiêu liền ở ngay thân này mà thấy được cõi nước tịnh diệu. Nếu chứng chân vô sinh liền sinh về cõi quả báo. Nếu trụ vào Giải thoát Bất tư nghị liền có thể thành tựu chúng sinh cõi Phật thanh tịnh. Chúng sinh khi duyên đã thuần thục, ngồi đạo tràng tùy nơi hóa sinh mà nhận lấy cõi Phật. Giả bệnh nói hai thứ quán môn này làm lợi ích chúng sinh đã được biết đại ý. Nay từ “kiến đạo khổ…”trở xuống bốn hàng. Trước hết nói về vô thường, tức có ba việc: Thân vô thường, do hòa trộn ba thứ mà có thân, thân chỉ là giả danh, vì ba thứ vô thường nên nói thân vô thường không có thân riêng. Như Đại tập nói: Khi Ca-la-la liền có ba thứ: Mạng sống, hơi ấm và thức. Thở hơi ra vào gọi là mạng sống; không hôi thúi rã mục gọi là hơi ấm “noãn”, và tâm ý ở đó thì gọi là thức. Hòa trộn ba thứ này gọi là Ca-la-la. Ba thứ sinh diệt tiếp nhau không dứt cho đến suy lão đều do nghiệp sai sử. Phàm phu không hiểu, khởi các phiền não, gây tạo các nghiệp. Không biết khi hơi thở dứt rồi thì ba thứ chia lìa, một đời luống qua hối tiếc không kịp. Nay ngài Tịnh Danh nói vô thường để phá cái chấp thường điên đảo. Bởi ba thứ tạo thành thân, khi hơi thở ra mà không trở lại thì thân như gạch đá, mạng sống nào giữ được. Khí ấm giữ sinh thân còn. Lửa từ duyên sinh thì từ duyên tan. Lửa mất thì thân hôi thúi rã tan, đâu thể sống còn. Nghiệp bị vọng thức trói cột cho ngã là thường còn. Lại sợi dây trói cột bỗng đứt thì tâm liền thác sinh. Phải biết ba thứ đều vô thường. Nếu hay như thế thì ngộ vô thường thô, tức có thể bỏ duyên sự thô. Khi quán vô thường tế, nếu tâm ở tại định thấy lý vô thường, liền vào kiến đạo, gọi là Tu-đà-hoàn. Nếu Tỳ-đàm hữu môn thấy tế lý vô thường tức là kiến đạo. Nếu Thành Thật không môn, thì nhân quán tế vô thường tế mà nhập vào Không, mới là kiến đạo. Nay y cứ hữu môn khéo tu vô thường, phá chấp thân biên, liền vào kiến đạo, gọi là có, không… sáu mươi hai kiến và tất cả thấy biết đều là vô thường, tức có thể thấy lý mà đoạn dứt kiến hoặc. Nếu quán sâu vô thường thì đâu chỉ đoạn kiến mà cũng có thể đoạn tư hoặc. Nên Phật nói: Khéo tu vô thường tưởng, có khả năng đoạn được các nhiễm sắc và vô sắc. Không cưỡng ép tức là thành vô thường, nên nương vào ba thứ, giả gọi là thân. Nếu ba thứ này sinh diệt mạnh mẽ thì không có gì dời đổi được. Nếu hữu vi sinh diệt biến đổi thì nên biết ba thứ ấy thể yếu ớt không mạnh. Không có sức cũng giúp thành vô thường. Nếu thân giả gọi mà ba thứ có sức, liền có thể chống cự. Do hữu vi biến đổi sinh diệt, không có tự tại nên phải biết là Không sức. Không bền chắc, là thể của ba thứ, đều không có tánh nhất định. Nếu có tức là như kim cang đâu thể bị sinh diệt phá hoại. Vì ba thứ giả danh, không tự tại, nên bị sinh diệt phá hoại, nên biết là Không bền chắc. Như các La-hán muốn kiết tập pháp tạng trước nói kệ rằng: “Vô thường kim cang đến, phá tan núi Thánh chúa.” Pháp mau rã mục, tức ba thứ giả danh chuyển đổi, thể gầy yếu sinh diệt nhanh chóng, nên biết thân này là thứ nhanh chóng rã mục. “Không thể tin” là câu kết phá chấp. Thân doba thứ này nếu thường còn, mạnh mẽ có sức bền chắc không rã mục… thì có thể cho là thường còn. Nếu nghiệp hết không hẹn cùng người, hơi thở ra không chắc có hít vào, niệm trước không chắc có niệm sau, hiện thấy người đời bỗng mất đi mà không tự biết, sao cho là thường còn. Do tin điều này mà vọng tình tự phát triển tạo ác mà không tu đạo là từ “bị khổ”… đến “không nhờ cậy”căn cứ ở khổ môn mà nói pháp . Bị khổ, là do vô thường nên khổ. Bởi ba thứ thành thân bị vô thường bức ép. Lại bị ba khổ, bốn khổ, tám khổ làm khổ nên khổ càng nhiều. Bị não, tức giả thân ba thứ thường bị chín não và các khổ cảnh ép ngặt, nên khổ bên trong là khổ, khổ ngoại đạo là não. Lại nữa, khổ đầu tiên là khổ, khổ lặp lại nhiều lần là não. Các bệnh tụ tập, giả thân ba thứ thì hơi thở và hơi ấm là sắc, sắc pháp bốn đại có bốn trăm lẻ bốn bệnh tụ tập nơi thân này. Tâm có bốn phần bệnh phiền não sinh ra tám vạn bốn ngàn. Bệnh sắc tâm này tụ tập ở giả thân nên nói các bệnh tụ tập. Lại nữa, bị khổ là hành khổ. Vô thường hành khổ không mau chậm, không nặng nhẹ nên nói là khổ. Bị não là hoại khổ, trái duyên phá hoại niềm vui nên nói là não. Các bệnh là khổ khổ. Thân là bốn khổ, lại thêm các bệnh nên gọi là khổ khổ. Hỏi: Khổ chung có bốn, khổ riêng cũng bốn. Khổ riêng thì khổ hơn khổ chung, bốn thứ đều là khổ khổ, vì sao chỉ nói bệnh là khổ khổ? Đáp: Sinh khổ đã qua, tử khổ chưa đến, lão khổ thì yếu ớt chậm chạp, nên căn cứ bệnh khổ mà nói là khổ khổ. Lại giải thích: Ngài Tịnh Danh giả bệnh nên ước vào bệnh là khổ khổ. Nói người trí không chỗ nhờ cậy là kết thành nghóa khổ, xét đế quán sát, thấy khổ rõ ràng không chút tạm vui, nên gọi là trí. Nếu thân giả ba thứ thường bị ba khổ làm khổ, không có một lúc nào vui thì sao nhờ cậy được. Nên kinh Thụy Ứng nói: Thánh nhân thường coi thân là hoạn nạn, mà kẻ ngu thì bảo vệ nó đến chết vẫn không chán bỏ. Từ “Thị thân”đến “bất trụ”, đây là thí dụ mười hành không . Nay có hai giải thích: Giải chung riêng. Giải chung theo tướng chung. Giải riêng, trước hết là thí dụ riêng về năm ấm, sau đó là thí dụ chung về năm ấm, sao biết? Kinh luận đã nói thật điều ấy. Quán sắc như nhóm bọt nước, quán thọ như bong bóng nước, quán tưởng như hơi nóng, quán hành như cây chuối, quán thức như huyễn hóa, năm thứ sau không có văn dụ riêng. Nên biết là lấy thí dụ chung cho thân là trống không. Hỏi: Thí dụ riêng năm ấm là thuộc giáo nào? Nếu Tam tạng giáo thì không dùng dụ hơi nóng, huyễn hóa; nếu Thông giáo thì không dùng dụ bọt nước, bóng nước, cây chuối… Đáp: Phương Đẳng bốn giáo dùng xen chung thí dụ không nên nghi ngờ. Như Đại luận nói: Trong kinh Thanh văn hoặc vì lợi người mà dùng dụ như huyễn… theo phần đông mà luận, mỗi phái đều có tông đồ. Đại phẩm có đoạn chỉ hai giáo trước nói năm ấm, sáu thí dụ, mười thí dụ là thí dụ chung về năm ấm cho đến Nhất thiết chủng trí. Hỏi: Mười thí dụ chung riêng đều thí dụ cho năm ấm là Không, vì sao trước sau vẫn lập thân giả danh với ba thứ mà không hợp với năm ấm? Đáp: Đây cũng đâu có sao. Vì có lúc Phật dùng hai pháp danh sắc mà lập thân, hoặc dùng ba thứ như nay đã dùng, hoặc dùng năm thứ tức là năm ấm, hoặc nói sáu thứ tức là lục nhập, đều rút từ kinh luận, phân ra, hợp lại, tùy duyên ứng cơ đều hợp lý không lỗi. Nay dùng ba thứ thì tiện cho quán môn. Kế nói tướng chung mà giải thích mười thí dụ đều dụ cho thân là Không. Các kinh khác tuy dùng năm dụ trước dụ cho năm ấm, kinh này có mười dụ đều nói về thân, không lấy riêng năm thứ để dụ cho năm ấm nên không đồng trước. Nay nói chung thì mười dụ này phần nhiều là dụ cho thân không mà cũng dụ cho pháp Không. Mười dụ này, năm thứ của Tam tạng giáo, năm thứ của Thông giáo. Phẩm này là căn cứ theo Tạng Thông quán môn. Về năm dụ của Tam tạng giáo là bọt nước, bong bóng nước, cây chuối, mây, điện chớp; năm thứ của Thông giáo là hơi nóng, huyễn hóa, mộng, bóng, tiếng vang… Hỏi: Vì sao biết được? Đáp: Đại Luận có nêu lên, trước đã nói đầy đủ. Hỏi: Bọt nước… so với hơi nóng… có gì khác? Đáp: Bọt nước… có sắc chất, nhưng chỉ là hư giả, phân tách thì dễ thấy không, Do người không biết sắc thân là Không nên dùng các dụ này. Còn hơi nóng… giống Như có thật nhưng không có thể chất. Dùng các thứ không thể chất này dụ cho những sắc có chất thô tế để biết các pháp đều không. Hỏi: Các pháp đều không sao được lấy các thứ không để dụ cho không? Đáp: Đại Luận nói rằng: Dùng “không”dễ hiểu, để thí dụ cho “không”khó hiểu không, nên căn cứ sáu dụ, mười dụ để dụ cho pháp Không. Hỏi: Bọt nước… là dụ chung cho ba thừa sao không phải là Đại thừa. Còn hơi nóng… cũng là ba thừa, vì sao riêng gọi là dụ của Thông giáo? Đáp: Hơi nóng… Không phải chỉ là dụ chung của ba thừa mà cũng là dụ của Biệt Viên, nên kinh Đại thừa đã dùng. Luận Nhiếp Đại thừa nói: Nương A-lê-gia nói tám dụ như huyễn… Còn dụ nhóm bọt nước không phải thế, đâu được cùng loại. Nay giải thích mười dụ để dụ cho sinh không và pháp Không. Nếu Tam tạng giáo nhiều dụ cho nhân không, ít dụ cho pháp Không, nhưng hai giáo thì dùng chung nhau không phân loại bộ, đây chính là tùy cơ mà ứng duyên. Thân này như nhóm bọt nước không thể nắm lấy, cọ xát. Dòng nước vỗ mạnh tạo nên nhóm bọt nước, mới nhìn dường có nắm lấy liền không, thân này cũng thế. Do vô minh, hành, thức gá nương trên các ấm, người mê thì cho là có, kẻ trí quán kỹ thấy nó không thật nhất định như nắm bọt nước thì khi không có bọt mà chỉ là nước thôi. Dụ này chỉ cho nhân không, ý rất rõ ràng nhưng đối với pháp Không thì chưa sáng tỏ. Như bong bóng nước là do nước trên chảy nhễu xuống nước dưới. Nước trên là nhân, nước dưới là duyên mà có bong bóng nước nổi lên. Khi lấy thì không được, hoặc chạm vào thì tan mất, mới nhìn thấy khác nước, xét kỹ biết lìa nước không có được. Thân này cũng vậy, nghiệp xưa làm nhân, cha mẹ là duyên mà có thân bóng nước, dần dần lớn lên, duyên hết thì mất, hoặc do người khác giết chết. Kẻ vô trí bảo là có, nếu quán xét kỹ về ba thứ thì thân không không, có thân riêng. Như về hơi nóng, là do ánh sáng mặt trời chiếu nơi đồng trống, gió thổi khiến hơi nóng bốc lên, bốc mãi người ngu tưởng có nước, nhưng tìm kiếm kỹ thì hơi nóng và nước đều không có, thân này cũng thế. Do ánh sáng tâm trí, nghiệp gió khuấy trộn ba thứ mãi không dứt. Người nhiễm ái cho đó là thân. Người trí tuệ thấu đạt thì thấy không phải chỉ thân không mà cả ba thứ cũng không có, cho nên nói như hơi nóng ““, đó là dụ dùng cho sinh pháp đều không, không giống dụ bọt nước của Tam tạng giáo. Còn như cây chuối chắc chắn kia, từ khi mới sinh thân bẹ lá thì tất cả đều thấy không thật, thân này cũng thế. Khi Ca-la-la đến với giả thân ba thứ thì da thịt xương tủy mỗi thứ đều có chín mươi chín lớp, kiểm xét từng thứ thì đều trống không chả có gì. Như thở ra hít vào cả trăm ngàn lần, nhưng mỗi mỗi hơi thở trong thân đều không có. Các sát-na tâm thức thứ lớp sinh diệt, mỗi mỗi sát- na thì thân không thể được, lìa ba thứ thì không có thân riêng. Cho nên biết thân tướng trong ngoài đều không cũng như cây chuối. Thân này như huyễn hóa, do điên đảo khởi lên. Cũng như ảo thuật hóa làm ngựa, thỏ, người ngoài nhìn thấy cho là có thật. Nhà ảo thuật vô minh, dùng các pháp hành ảo ảo hóa ra ba thứ, thấy thân chấp tướng cho là thật có, nếu biết vô minh không khởi các pháp hành ảo cho đến ba thứ thì chỉ là ảo hóa không có. Thân này như giấc mộng, do hư vọng mà thấy, thấy hư dối. Vì giấc ngủ nó che tâm, thân nằm đó mà thấy dạo chơi nói năng là có thật. Khi thức dậy mới biết là mộng. Bị vô minh che tâm là nằm, vọng khởi các hành gá thai ba thứ cho đến già chết, như mộng thấy thân đến khắp mọi nơi. Quán tâm được giác ngộ liền biết là hư dối. Thân và ba thứ trống không chẳng có gì nên nói như mộng. Thân này như bóng, từ nghiệp duyên hiện ra. Vật che ánh sáng ắt có bóng hiện ra, vật khác thì bóng khác, vật cử động bóng cử động. Vô minh, hành, nghiệp ngăn cản ánh sáng lý trí, ắt có ảnh là báo thân ba thứ hiện ra, nghiệp khác thì báo khác, từ sinh ra đến chết lưu động mãi không phải một. Nếu biết vô minh, hành, nghiệp vốn không có, thì báo thân ba thứ đều rốt ráo không cũng như bóng vậy. Thân này như tiếng vang thuộc các nhân duyên. Tiếng vang là do hai vật gõ vào nhau thành tiếng và trong hang trống có tiếng vang lên. Thân cũng như thế. Vô minh ở trong loạn động như vật gõ vào nhau, nghiệp hành như tiếng, bụng mẹ, và ba thứ như hang trống, ba thứ hòa hợp mà thành thân giả danh. Thuộc các nhân duyên, là vô minh, hành làm nhân, bụng mẹ hang trống làm duyên. Do nhân duyên mà sinh ra không có mình, người… Nên nói là vô sinh, sinh tức như tiếng vang. Lại như môi, lưỡi, răng, lợi, yết hầu… gió báo thổi lên chạm vào bảy chỗ của thân nên có tiếng phát ra. Tiếng thuộc các duyên nên cũng không thể có. Thân cũng như thế nên nói như tiếng vang. Hỏi: Nhiếp Đại thừa có nói: Tám dụ đều có đối tượng để thí dụ. Nay kinh này năm dụ sao chỉ dùng dụ cho thân? Đáp: Nay nói Thông, Biệt đồng khác ý chính là ở đây vậy. Như Thông, Viên hai giáo thì năm dụ, sáu dụ, tám dụ, mười dụ đều có thể dụ chung cho nhau. Như Đại Phẩm nói: Sắc cho đến Nhất thiết chủng trí đều như huyễn hóa. Kinh này cũng là chung, tám dụ riêng là ý của Biệt giáo. Như dùng bốn đức đối với bốn thứ Tam-muội mà phá bốn loại người. Nếu lấy nghóa Viên giáo mà khảo hạch thì không thể hiểu. Thân này như mây nổi, phút chốc biến mất. Mây từ rồng làm ra, cũng do khí âm dương biến hiện làm khác màu sắc. Ở xa thấy có, ở gần thì không. Do rồng vô minh, hành và khí cha mẹ hợp nhau mà có thân giả danh. Các việc làm từ sống đến chết, người ngu ở xa trông thấy thì có thân tướng, người trí ở gần quán sát thấy thân không có. Phút chốc biến mất, tức Tam tạng giáo phân tách vô thường mà vào Không. Thân này như điện chớp, các niệm không trụ. Nghóa điện chớp chưa rõ ràng. Chỉ có vô minh, hành, thân ba thứ, ánh sáng niệm niệm vô thường như ánh điện chớp tắt nhanh. Ý dụ vô thường này dần sáng tỏ. “Thị thân đến sở chuyển”, tám lần nói về vô ngã, căn cứ sáu pháp kiểm xét phá ngã… mười sáu tri kiến. Năm lần nói về bốn đại chủng, một lần sau y cứ Không chủng, hai lần tiếp căn cứ thức chủng. Hỏi: Vô ngã và “không”có gì khác nhau? Đáp: Có bốn trường hợp không nhất định: Chúng sinh gọi không, ấm gọi vô ngã, tức bên trong lìa bỏ nhân người nên nói là Không. Pháp Không tự tại nên nói là vô ngã. Ấm gọi là Không, chúng sinh gọi vô ngã. Vì ấm chỉ là pháp nên gọi là Không. Chúng sinh là nhân người nên gọi vô ngã. Đều gọi là Không, cũng như hai không. Đều gọi là vô ngã như ba thứ vô ngã. Kinh này trước nói không môn, phần nhiều là hai không, nay nói vô ngã là căn cứ pháp vô ngã. Hỏi: Trên nói hành không chính là hai giáo vào Không, nay hành vô ngã cũng là hai chăng? Đáp: Văn tuy là một cũng được giải thích là hai, bởi sao? như nói vô chủ tức là như đất. Nếu phân biệt phá đất thì được vô chủ là vô ngã của Tam tạng giáo. Nếu thể nhập pháp tánh, ngã tánh đều như, ngã và các pháp đều rốt ráo không có, tức là vô ngã của Thông giáo. Năm lần trước có hai: Kiểm xét riêng. Kiểm xét chung. Về kiểm xét riêng có bốn: Thân này vô chủ là như đất. Nay có hai giải thích: Phá ngoại đạo. Căn cứ nội quán. Nếu phá ngoại đạo, ngoại đạo nói nếu không có thần ngã thì sao có thể gánh vác? Phá rằng đất có thể mang núi, thì có thần ngã ư! Kế đến nội quán, như Tỳ-đàm nói: chúng sinh là giả danh, đất là thật pháp. Thành Thật Luận lại nói: Đất là giả danh, bốn vi là thật. Nay nói tuy là giả mà khác nhau về thật. Từ “đồng là khổ trở xuống là nói thuộc quán vô ngã. Như bốn vi của đất, một vi là chủ thì ba vi kia cũng là chủ, nếu một thứ không phải thì ba thứ kia cũng không phải, nên biết vô chủ. Ngoại đạo đất không có, bên trong đất cho bốn vi của thành cũng đều vô chủ, nếu trong ngoài đều vô chủ thì thân của ba thứ sao có ngã được. Nên nói thân này vô chủ là như đất. Lại Thỉnh Quan Âm có nói: Đất mà không có tánh bền chắc nếu đất có tánh bền chắc làm tánh tự tha thì chung là tánh vô nhân. Trong bốn thứ tùy theo chấp là kiến chấp có. Nếu cho đó là sự thật, còn các thứ khác là nói dối thì thật tức là nghóa bền chắc. Nếu tánh ấy chủ. Aáy kiểm xét không được thì nên biết đó là Không. Cho đến “chẳng phải có, chẳng phải Không”. Nếu ở bốn trường hợp “tứ cú) này mà có chấp chặt gì tức là tánh thật thì tức là. Kinh Kim Cang nói: Nếu tâm chấp tướng hoặc chấp phi tướng thì đều đắm trước vào ngã nhân. Không chấp bốn trường hợp này là quán vậy. Vì vô chủ vô ngã nên nói thân này vô chủ như đất. Thân này vô ngã là như lửa, tức ngoại đạo nói là có thần ngã. Vì sao biết? Vì thân hay chạy nhảy và phát ra âm thanh nên biết là có ngã. Phá rằng: căn cứ một pháp lửa, mà phá cả hai chấp. Vì sao? Vì lửa đốt cháy cỏ đồng hoang và cả mọi vật, khi đốt cháy gỗ trúc thì cũng luôn phát ra tiếng, vậy cũng có ngã ư? Về nội quán: lửa do hai vi thành thì không có tánh nhất định, danh sắc thành thân cũng không có tánh nhất định. Nếu không có tánh nhất định tức là vô ngã. Lại nữa, chất ấm trong thân tức là lửa. Nếu lửa ngoại đạo là vô ngã thì lửa bên trong cũng vô ngã. Thỉnh Quan Âm có nói: Lửa từ duyên mà có. Do duyên sinh thì không có tự tánh, tức là vô ngã. Bốn câu phá tánh suy theo đất mà biết. Thân này không thọ vì là như gió. Ngoại đạo nói có sống lâu. Vì sao? Nếu không thọ thì đâu có thở liên tục? Phá rằng: Thở ra hít vào là tướng của gió. Gió ngoại đạo không thọ thì gió bên trong cũng không. Về nội quán, tướng gió chạm nhau nên nhẹ nhàng trống rỗng tự tại như đi trên không trung không ngăn ngại thì làm sao có thọ mạng. Kinh Đại Tập nói: Hơi thở ra vào gọi là thọ mạng. Quán đây mà thở ra hít vào, hít vào thì không tích tụ, thở ra thì không phân tán. Tới không bước đi không dở chân, như gió trên không trung tìm không thấy. Gió đã không phải là thọ thì hơi thở cũng không phải. Thỉnh Quan Âm nói: Tánh gió vô ngại. Bốn câu quán về gió y cứ theo trước mà biết. Thân này không có người vì như nước. Ngoại đạo nói có thần nên có người. Vì sao? Nếu thân không có thần sao có thể thấm ướt cong vẹo tùy tình ý mọi người. Phá rằng: nước có thể thấm xuống nhưng tùy đồ đựng vuông tròn . Nếu nước không có người, không thần thì ông cũng thế. Về nội quán nước do ba vi tạo thành thì không có tánh nhất định. Không có tánh tức là Không có nước thì ba việc thành thân, là Không có tánh nhất định. Không có tánh tức không có người cho nên nói thân này không có người vì như nước. Như trong nước thấy bóng thì nói là có người, vào nước tìm người thì cuối cùng không có, thấy thân ba thứ gọi thân là người, nhưng quán sâu ba thứ thì không thấy thân tướng tức không có người. Thỉnh Quan Âm nói: Tánh nước không dừng trụ, nhưng chướng ngại ở ao vuông tròn, tức là dừng ở tánh không phải tánh dừng. Người cũng thế. tùy pháp mà được tên, người không có tánh nhất định. Bốn câu kiểm xét về ndựa theo như đất mà biết. Thân này không thật, bốn đại là nhà. Đây là xét theo chung về bốn đại mà nói hành vô ngã. Ngoại đạo nói nếu vô ngã, là hiện thấy sáu tình nương trụ vào thân, nên biết là có ngã. Phá rằng hiện thấy sáu tình nương vào bốn đại mà trụ, không có ngã nào để nương. Về nội quán thì thân gọi là một, một thân không thể trụ ở bốn chỗ. Về ngã trụ vào một đại thì ba đại kia lẽ ra không có thân, nếu mỗi đại đều có, tức có bốn thân. Hoặc tức là thân hoặc lìa thân bốn trường hợp kiểm xét thân đều không có, nên nói là Không thật. Nếu không có thân tức là thân kiến bị phá. Thân kiến bị phá tức là ngã kiến mười sáu tri kiến đều tan rã. Thân này là Không, lìa bỏ ngã, ngã sở, hai là ước không chủng để phá ngã. Ngoại đạo nói: Nếu không có thần ngã sao lại thật có quốc độ người vật? Ngã sở nếu thật nên biết ngã là thật. Phá rằng: nếu thế, ngã sở đã không thì ngã cũng phải Không. Như thân chủng trong thân cho đến Không ở ngoài không ở ngoài là ngã sở; Ngã sở đã không nên ngã cũng Không. Về nội quán, chánh căn cứ theo Không chủng mà phá kiến. Bốn đại tạo sắc vây chặt hư không nên giả gọi là thân, lìa không thì không có thân. Nếu trong ngoài đều không, Không không thể có, thì thân kiến bị phá. Thân kiến bị phá tức lìa ngã và ngã sở. Thân này vô tri như cỏ cây gạch đá, là y cứ ở Thức chủng mà phá ngã. Ngoại đạo nói rằng: Nếu trong thân không ngã thì sao biết được bốn thời? Phá rằng: Như cỏ cây gạch đá cũng do âm dương theo thời chuyển biến, dường Như có cái biết “thức) mà không phải thần biết. Nay thân tuy có biết mà biết không có tự tánh, như cỏ cây gạch đá. Lại ngoại đạo nói: trong thân có thần, thần khiến biết mới biết. Phá rằng: Nếu thần khiến biết mới biết thì ai khiến. Thần bèn không khiến, đâu cần thần khiến. Nếu không có thần khiến tức là Không người biết. Nếu không người biết thì như cỏ cây gạch đá. Về nội quán tức căn cứ theo thức chủng. Vì sao? Vì ba thứ thành thân thì mạng sống và hơi ấm không biết, chỉ có thức là biết. Nếu bảo thức biết mà ở quá khứ thức mất. Mất nên không biết. Thức ở hiện tại không trụ, cũng không thể biết. Và vị lai chưa có, đâu được có biết. Ba đời tìm thức không thể có biết. Nếu lìa bỏ ba đời thì không riêng có biết. Nên nói thân này không biết như cỏ cây gạch đá. Thân này không phải thần làm chỉ do sức gió chuyển. Đây là căn cứ về gió động để giúp thành việc phá thức. Ngoại đạo nói: Trong thân có ngã nên có tạo tác chuyển động. Phá rằng: Đây không phải thần làm mà do sức gió chuyển. Nói về nội quán là: Vọng niệm tâm động, trong thân nương vào gió mà có tạo tác. Nên trong Đại Tập có nói: Do gió mà có thể lên, do gió mà có thể xuống. Nếu tâm nghó lên thì tùy tâm mà khởi lên, nếu tâm nghó xuống thì tùy tâm kéo xuống. Vận hành tạo tác đều do gió tùy tâm mà làm tất cả việc. Nếu đường gió không thông, thì tay chân chẳng theo ý muốn, tâm tuy có nghó nhưng cử động không theo. Cũng như các thứ máy móc làm việc, khi sợi dây điều khiển “giây thiều) bị đứt thì không làm việc được nữa. Do đó biết đều là nương ở gió mà có tạo tác. Nay quán nương vào gió, không phải do mình hay cái khác… sinh ra tức là Không vậy. Nay quán ba thứ thành thân trọn không thể được, vậy do cái gì làm việc. Thân này bất tịnh, là thứ hai nói bất tịnh quán để phá tư duy của Dục giới. Nếu nối tiếp theo trước tức là tu đạo cộng niệm xứ mà được giải, quán hạnh hành trợ đạo. Cho nên đây không nhất định phải đổi hướng theo trước mà nói tức là kiến đạo phương tiện. Nay đã kiến đạo rồi mới nói, nên căn cứ tu đạo… Bồ-tát nếu vào kiến đạo muốn tiến tu bất tịnh để phá ái. Đối trị các thiền, trước hết phải dùng bốn thứ này để phá kiết cõi Dục. Nếu đoạn được sáu phẩm tức là quả Tư-đà-hàm, hoặc trí hoặc đoạn là Bồ-tát vô sinh. Nếu dứt được chín phẩm tức là quả A- na-hàm, trí hay đoạn là Bồ-tát vô sinh. Nay bất tịnh quán căn cứ đối bốn tưởng: Đọc qua kinh văn sẽ thấy rõ bốn ý này. Nói bốn tưởng là: Tưởng thân bất tịnh. Tưởng ăn bất tịnh. Tưởng thế gian không đáng ham. Tưởng về chết. Thân này bất tịnh tức tưởng thân bất tịnh. Tuy giả dùng y thực, tức tưởng ăn bất tịnh. Thân này là tai họa, tức tưởng thế gian không đáng ham. Thân này vô định tức là tưởng chết. Kế đến dụ rắn độc… là dụ chung về bốn tưởng. Tưởng thứ lớp dựa theo đây mà nói bốn khổ là thân này bất tịnh cho đến giả dùng y thực, tức là sinh khổ. Kế nói một trăm lẻ một loại bệnh quấy não tức là bệnh khổ, kế nói gò, giếng… tức là lão khổ. Rồi nói tông chỉ phải chết tức là tử khổ. Kế nói rắn độc… cũng là dụ chung về bốn khổ. Nhưng bốn khổ này có hai: Nói tức sinh, tức lão, tức bệnh, tức tử là căn cứ theo lý, đây thuộc tuệ hành đã giải thích đủ ở trước. Còn căn cứ theo sự thì bốn khổ tức là hành hành. Đây là bốn khổ về sự là thân bất tịnh nhơ nhớp đầy dẫy , tức năm thứ bất tịnh hoặc nhân tùy vào hơi thở mà thấy thì thứ bất tịnh này tệ nhất. Nhân quán hơi thở mà thấy tức là nói chung. Nhân tưởng giả có mà thấy tức là chín tưởng bội xả…. Nói sinh khổ, tức năm thứ bất tịnh, trừ cứu cánh còn lại đều là sinh khổ. Thân này bị tiêu mòn, hủy diệt là tưởng ăn bất tịnh vì ăn vào bụng liền thành phân nhơ và các lỗ chân lông luôn tiết ra chất bất tịnh. Tuy có tắm rửa nhưng dơ bẩn lại tiếp tục sinh, tuy ăn ngon mặc đẹp trang điểm kỹ lưỡng nhưng phút chốc thì hôi hám dơ dáy, thân và y phục ắt bị tiêu ma hủy diệt. Thức ăn bất tịnh hợp cùng đàm dãi như chất nôn ói, cho đến ba mươi sáu vật đều từ thức ăn. Khởi tưởng này phá diệt tham ăn. Nói sinh khổ là sinh ra liền có. Thân này rất bị ép ngặt, tức là hai thứ khổ già, bệnh, vì chúng sinh năm ấm thế gian mà có khổ này, nên thuộc về tưởng thế gian không đáng ưa. Chỉ vì không đáng ưa chánh báo nên y báo cõi nước đều không đáng ham thích. Các thứ bệnh khổ từ thân khởi lên, nên biết thân là chỗ tai họa. Một trăm lẻ một thứ bệnh quấy não; một đại không điều hòa thì khởi lên một trăm lẻ một bệnh, bốn đại không điều hòa thì bốn trăm lẻ bốn bệnh từ thân mà phát ra, các bệnh khổ đều quấy não thân, nên thân là tai họa. Bốn khổ trong văn nói tức sự bệnh khổ, thân này như gò giếng là bị già khụ nó ép ngặt. Bốn tưởng còn thuộc chúng sinh năm ấm bị khổ bức ngặt nên không đáng ham thích. Nếu dựa vào bốn khổ thì đó là lão khổ. Ngài La-thập nói gò, giếng thì đó là giếng rã mục, tức không còn dùng được nữa. Thân này không cố định ắt phải chết, tức là tưởng tư, trong bốn khổ đây là tử khổ. Ba thứ thành thân do nghiệp duy trì, nhân duyên giả hợp nên hễ duyên tan thì thân mất, hoặc do cái khác hại chết, ở trong núi dưới biển, trên không ngoài chợ đều không tránh khỏi, cho nên ắt đều phải chết. Như Phật hỏi các Tỳ-kheo. Các sư tu tưởng tư như thế nào? Có Tỳ-kheo thưa: Mạng sống không quá bảy ngày, có người nói sáu ngày, cho đến một ngày, nửa ngày. Phật nói đều là kẻ lười tu tưởng tư. Có người thưa thở ra mà không chắc hít vào. Phật nói tốt, đúng thay đó là người thật tu tưởng tử . Nếu luôn tưởng tưnhư thế thì không bao lâu sẽ được giải thoát Niết-bàn. Từ “Thân này”… đến “hợp thành”, kế là dụ chung về bốn tưởng như rắn độc ở trên không hợp cùng giặc cướp rất hiện ra sợ, tức bốn tưởng dần sáng tỏ. Nếu căn cứ theo bốn khổ thì đó là dụ chung. Thân này có bốn khổ như rắn độc giặc cướp… là tưởng không đáng ham thích. Trong Đại kinh nói đầy đủ, kinh này chỉ nêu tóm tắt: Như rắn độc, tức như bốn con rắn độc lớn cùng nhốt trong một hộp luôn cắn mổ nhau. Bốn đại cũng thế. Lại như rắn độc người thường nuôi dưỡng nhưng khi giận thì liền cắn người không biết ân nuôi dưỡng. Bốn đại của thân cũng thế. Hành giả nuôi dưỡng cần nên báo ân, nhưng một đại nếu gây trái hại con người, thì khiến người phải đọa lạc biển khổ, khó có ngày ra khỏi. Như giặc cướp: Vì lấy tiền của và gây thương tích, giết chết mạng người, năm ấm cũng thế, ở trong thân người cướp lấy tiền của thiệnvà giết chết tuệ mạng của người. Như ở trên không, ở trên không, không có vật, không sinh nhân ái. Tức quán sáu căn trống không, không có vị thần ngã, không nên đắm nhiễm. Lại như ở trên không, là Không có dân cư chỉ có quỷ mị trên đó. Quán sáu căn nhóm họp không phải chỉ là vô ngã, mà còn có quỷ mị phiền não tụ tập trên ấy. Ấm là năm ấm, giới là mười tám giới, nhập là mười hai nhập. Các Ấm giới nhập thể của chúng vốn không thực, sao được có ngã Quán về lý của ấm … tức là tuệ hành, quán rộng về sự thì khởi các thứ hành. Từ “các Nhân giả”trở xuống là phầ ba khuyên cầu thân Phật. Gồm có ba phần nhỏ: Một là Nêu chương. Hai là Chánh khuyên. Ba là Kết khuyên. 1/ Nêu chương: Phàm phu thương yêu thân mà trầm luân trong sinh tử. Trên đã nói rộng về quán môn mà trách cứ, khi chán lìa rồi thì cầu Nhị thừa, đoạn diệt Phật chủng, cho nên khuyên phải nên ham thích thân Phật. Hỏi: Nay đây khuyên cầu thân Phật theo giáo nào? Đáp: Khó thể quyết định, hoặc là phương tiện của hai giáo hoặc là Phật thân thường trụ. Vì sao biết? Vì quả vốn đáp ứng với nhân, đã nói phương tiện lại khuyên cầu trụ Phật ấy tức là quả hữu dư. Hoặc là khuyên cầu quả thường trụ, tức các người đã chán thân là vô thường là nhóm khổ, nên cần khuyên cầu thường lạc Niết-bàn, há lại khuyên cầu thọ vương tro đoạn. Cho nên ở đoạn văn dưới nói: “Thân Như Lai từ chân thật sinh ra”. Hỏi: Khuyên cầu quả thường trụ vì sao lại nói môn Phương tiện ? Đáp: Như trong Đại kinh, Phật đáp lời Phạm chí rằng: Pháp của người có nhân thường mà quả vô thường, vì sao pháp ta không được nhân vô thường mà có quả là thường ư? Chỉ có đám hào tộc só thứ là phàm phu cụ phược, nếu trước không dùng nhân quán môn phương tiện để đoạn hoặc vào Không, thì sao có thể vào Giả. Dù bậc Du hý thần thông cũng không thể vào Không giả nhất tâm khai Phật tri kiến. Cho nên kinh Pháp Hoa có nói: “Vì các chúng sinh ấy chưa khỏi sinh, lão, bệnh, tử thì do đâu có thể hiểu được trí tuệ Phật”. Hỏi: Định dùng cách nào mà phán quyết? Đáp: Phương đẳng Đại thừa một âm diễn nói đâu ngại khuyên chung. Tùy cơ cảm mà được không thể phán định. Lại xét theo các vị thì chỗ cảm không đồng, nay bốn nhân Phương đẳng được hai thứ quả suy lời nói nên biết. Cho nên nay chỗ khuyên hoặc là đáp lại hai quán trước mà nêu hai quả Phật, hoặc là một âm diễn nói hiểu khác tùy căn tánh, nhìn quả mà tu nhân. Hỏi: Vì sao Phật có bốn loại mà Niết-bàn chỉ có hai? Đáp: Phật y cứ dụng trí không đồng, còn Niết-bàn chỉ y cứ đoạn đức. Như nói hai mức độ chữa giỏi và dở, mà lành bệnh chỉ một. Lại chia Niết-bàn không phải là Không được giáo không có văn đích thị. 2/ Chánh khuyên từ “Sở dó vì sao”trở xuống là Nhưng pháp thân có bốn: Tam tạng giáo dùng năm phần làm pháp thân. Có lúc cũng chỉ cho chân lý thiên không. Như Tạp A-hàm Thiền kinh có nói: “Nếu người có chướng nặng ngăn trở thiền thì phải nghó nhớ Phật pháp thân.” Pháp thân là Không. Như Phật từ Đao-lợi giáng xuống, tứ chúng hân hoan muốn tới trước nhìn thấy Phật, chỉ ngài Thiện Cát ngồi thẳng trong hang đá thấy “không”. Đức Phật bảo Liên Hoa Sắc và Tu-bồ-đề rằng: “Thấy không là thấy pháp thân ta.” . Thông giáo chính dùng chân trí tột cùng lý pháp tánh hợp làm pháp thân, có lúc chỉ cho lý thiên Chân không. Như Đại phẩm có nói: Các ông nên quán không, pháp Không là Phật, vì không chẳng có tới lui vậy. Biệt giáo chính dùng Trung đạo làm pháp thân Phật. Công đức trí tuệ là báo thân, pháp báo hợp nhau liền cơ ứng thân. Viên giáo chỉ dùng bất đoạn hiển bày chỉ pháp thân là khác. Từ vô lượng công đức trí tuệ sinh ra. Đây chính là khuyên mến quả mà tu nhân. Tạng Thông thì nhân phước trí cảm quả phước trí. Phước trí trong quả tức là pháp thân, nên nói từ vô lượng công đức trí tuệ sinh ra. Biệt, Viên thì phước trí hiển bày Phật tánh, tức dùng chỗ hiển bày làm sinh, nhưng công đức trí tuệ đều là tuệ hành cho đến hành hành. Bồ-tát phát tâm vì cầu pháp thân thì từ hai pháp này mà tu hai hành, hai hành đầy đủ thì pháp thân hiển bày. Từ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến sinh ra thì Tam tạng giáo nói tác vô tác giới là giới thân, căn bản tịnh thiền quán luyện huân tu là định thân, quán Tứ đế sinh diệt cho đến ở đạo tràng thấy Tứ đế dứt hết gọi là tuệ thân. Chánh tập đều dứt gọi là giải thoát thân. Hiểu biết rõ ràng chánh tập đã dứt, giới, định, tuệ đầy đủ, không thọ thân sau gọi là giải thoát tri kiến thân. Theo Thông giáo thì năm phần giới như trước nói. Tội và không tội không thể được nên gọi là giới thân. Định như trước nói không loạn không mê muội gọi là định thân. Quán Tứ đế vô sinh từ Bát nhân giác kiến chân cho đến Phật địa kiến chân, viên rốt ráo thì gọi là tuệ thân. Từ bậc Sơ kiến địa, giải thoát hết các kiến hoặc mà chuyển nhập vào địa trên, cho đến khi ngồi đạo tràng nhất niệm tương ưng với tuệ, các tập khí đều hết, trụ vào Niết-bàn Hữu dư, thì gọi là giải thoát thân. Rõ ràng không còn thấy trói buộc và giải thoát mà luôn dùng chủng trí Phật nhãn tự thấy mình trụ vào hữu dư không có tử phược, nhập vào vô dư không có quả phược, cũng thấy chúng sinh vốn không có giải thoát và trói buộc, mà thấy giải thoát gọi là giải thoát tri kiến thân. Biệt giáo dùng chín thứ giới làm giới thân, chín thứ thiền làm định thân, chín thứ trí làm tuệ thân. Đây là trích ra từ kinh Địa Trì, các tập khí ngoại giới đã hết là giải thoát thân. Chủng trí Phật nhãn thấy biết rõ ràng pháp thân hiển hiện, cũng thấy biết các pháp thân khác ẩn hiện. Kế là ngôi thứ không loạn gọi là giải thoát tri kiến thân. Viên giáo thì cùng Biệt giáo không khác, muốn phân biệt thường phàm phu chưa đoạn bỏ ấm thân mà có thể thành tựu được pháp thân tức là bất tư nghị. Về năm phần pháp thân… là Tu-di không ngại hạt cải. Muốn biết tu nhân là nghe ở hai hàng trước. Chán lìa thế gian không khởi ác tâm tự động sinh ra thiện, gọi là tu giới thân. Chuyên tu hành hạnh thiền định gọi là định thân. Chuyên tu tuệ hạnh duyên lý gọi là tuệ thân. Chánh trợ đã hợp tùy phần phục đoạn gọi là giải thoát thân. Phân biệt sáu tức mà không lạm gọi là giải thoát tri kiến thân, dùng năm thân này mà sinh thân Phật. Từ Từ, bi, hỷ, xả sinh ra. Tạng Thông dùng pháp tu sinh vô sinh Tứ đế duyên với bốn Vô lượng tâm mà sinh ra Phật quả pháp thân đại từ bi. Biệt giáo dùng pháp tu vô lượng Tứ đế duyên với vô duyên tứ vô lượng tâm. Viên giáo dùng vô tác Tứ đế chỉ vô duyên bốn Vô lượng tâm, đều thành Phật quả, pháp thân Vô duyên đại từ bi. Nếu bậc Sơ tâm tu học lại theo tuệ hành, thì tuệ hành nhập “không”duyên với chúng sinh khiến được vui lìa khổ. Ngài Khánh Hỷ quên mất buồn thương là đó. Do tu bốn Vô lượng tâm mà có thể sinh ra pháp thân đại từ bi. Từ bố thí đến Ba-la-mật bốn giáo lục độ như trước đã nói. Nên nói bốn giáo lục độ sinh thân bốn quả Phật viên mãn. Nghóa đã đã rõ ràng. Nói “các” là hoặc khai sáu thành bảy, thành mười, thành một trăm hoặc thành tám vạn bốn ngàn, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết… Nên nói là từ các pháp Ba-la-mật sinh ra. Muốn biết sơ tâm tu lục độ, tức hành hành làm thiện là tu năm độ, tuệ hành tức tu Bát-nhã. Từ Phương tiện đến tam minh sinh ra bốn giáo mỗi thứ đều có ba thứ phương tiện như nói trước. Từ nhân phương tiện sinh ra quả địa pháp thân phương tiện, nên nói từ phương tiện sinh. Từ lục thông sinh: Năm thông của Tam tạng giáo từ hành hành căn bản tịnh thiền quán luyện tu huân tu mà được. Vô lậu thông, từ sinh diệt Tứ đế tuệ hành tu được. Trong nhân Bồ-tát thành tựu năm Thông căn cứ ở vào sinh diệt Tứ đế mà tuệ tu Vô lậu thông. Ba mươi bốn tâm đầy đủ liền đủ quả địa pháp thân lục thông, nên nói từ lục thông sinh ra. Ngũ thông, lục thông của thông giáo. Về ngũ thông xem qua thì đồng với Tam tạng giáo, tu vô lậu thông căn cứ vào vô sinh Tứ đế ở tâm của Bồ-tát thì hoặc ngũ hoặc lục thông. Nếu đoạn dứt chánh sử thì là lục thông, nếu tập chưa hết thì là ngũ thông. Nay dùng nhân lục thông mà được quả địa lục thông nên nói là Lục thông sinh ra. Về Biệt Viên, Biệt thì căn cứ ở ngoại giới ba cõi ma tu lục thông thành quả. Sơ địa từng phần được pháp thân lục thông chỉ dùng đoạn và không đoạn mà phân biệt biệt viên có khác nhau. Tam minh, thì Tạng Thông, đều căn cứ ở tam thông thấy việc ba đời rõ ràng là nhờ tam minh. Về khác nhau của thông và minh, khi thấy việc xa thì gọi là thông, còn thấy nguồn gốc thì gọi là minh. Trong nhân Bồ-tát dùng hành hành mà tu hai minh, tuệ hành tu vô lậu minh, chứng quả thì được Phật địa pháp thân tam minh, nên nói từ tam minh sinh ra. Biệt Viên thì thấu suốt ngoại giới ba đời là do tam minh. Đoạn văn sau nói tam minh và vô minh… tức là tam minh bất tư nghị của Viên giáo. Từ ba mươi bảy đạo phẩm sinh, từ chỉ quán sinh. Đạo phẩm của bốn giáo như trước nói. Tứ giáo mỗi giáo tu chứng quả Bồ-đề gọi là pháp thân. Đạo phẩm đều thuộc tuệ hành đương giáo. Về chỉ quán sinh, chỉ quán tức là nhân của định tuệ, duyên lý là tuệ hành, duyên sự là hành hành. Bốn giáo mỗi thứ tu nhân chỉ quán lý sự mà chứng quả định tuệ Phật pháp thân, cho nên nói từ chỉ quán sinh. Từ Thập lực đến Bất cộng pháp sinh, ba pháp là quả của công đức cao, chỗ chiếu của nội trí gọi là lực, dụng ngoại đạo không khiếp sợ gọi là vô úy. Phật địa có mười tám pháp Không cùng với pháp hạ địa chung nhau nên gọi là Bất cộng, ba thứ này đều duyên với công đức Phật địa. Nay nói từ ba pháp này sinh ra, thì phải là trong nhân bốn giáo dùng hai hạnh này mà tu ba pháp này, nên nói từ… sinh ra. Biệt, Viên thì căn cứ vào ngoại giới nên biết. Từ đoạn tất cả bất thiện pháp, nhóm họp tất cả thiện pháp sinh. Bồ-tát của bốn giáo, mỗi giáo dùng tuệ hành mà đoạn kiến tư hoặc, dùng hành hành mà đoạn vô tri gọi là đoạn bất thiện, tuệ hành tập họp các duyên hý thiện pháp, hành hành tập họp các duyên sự thiện tánh, cảm được bốn thứ pháp thân, các ác dứt hẳn, các lành khắp hội. Chỉ có Biệt, Viên hai giáo thì ngoại giới hoặc đoạn dứt, hoặc tập họp phân biệt không đồng nhau. Từ chân thật sinh, từ bất phóng dật sinh. Tạng Thông quán sinh và vô sinh vào lý thiên chân gọi là chân thật. Biệt viên thì quán vô lượng, vô tác mà vào Trung đạo Phật tánh, thì gọi là chân thật. Bồ-tát của bốn giáo quán chân cùng tột chứng bốn quả Phật nên nói từ chân thật sinh ra. Bất phóng dật sinh, là nếu bốn Bồ-tát tuệ hành quán chân duyên với sự, liền thối lui gọi là phóng dật, nếu dùng tuệ hành mà duyên với lý, tâm tâm tiếp nối không buông bỏ đại bi, gọi là đại phóng dật. Còn bất phóng dật là tướng bạt trí, tâm tâm vắng lặng tự nhiên lưu nhập, nên nói là bất phóng dật sinh. Từ vô lượng pháp thanh tịnh như thế sinh thân Như Lai. Đây là nói rộng về loại khuyên, chỉ ngài Tịnh Danh dùng đây mà làm đầu mối cho khuyên bảo. Có vô lượng pháp môn đều cần căn cứ theo trước mà tu tập, nên nói từ vô lượng pháp thanh tịnh như thế sinh ra, vì các công đức này đều sinh thân Như Lai. Một âm diễn nói tùy loại đều hiểu. Đây là bốn giáo đã nói các loại nhân quả hành dùng bốn Tất-đàn để ứng cơ lợi vật, khắp được vâng làm đều được lợi ích. Với người tìm học nếu hay giữ chắc hai thứ thuyết pháp đã năm lần nêu rõ trước đây để khuyên mến mộ quả mà tu nhân thì kinh này không luống công. 3/ Từ “các nhân giả”… đến “ba thứ tâm Bồ-đề” là Kết khuyên , đã biết công đức Phật thân do các thắng nhân như thế, nếu muốn mến quả mà tạo nhân thì đâu chỉ tự lợi. Đại só giả bệnh giúp Phật hưng giáo chính là lợi vật. Các nhân giả nếu luôn mến quả mà tu nhân thì cũng nên giống như Phật và ngài Tịnh Danh mà đoạn trừ tất cả bệnh cho chúng sinh. Bệnh chúng sinh như trước đã nói. Phàm phu và Lục độ Bồ-tát, Nhị thừa, Thông giáo Bồ-tát… đều có bệnh về hữu vi và vô vi nhân quả. Bồ-tát của Biệt, Viên có bệnh về tự thể nhân quả. Cho nên nay bốn giáo mỗi thứ đều tùy chỗ hiểu mà nên đoạn trừ và cầu đạo vô thượng, thì kết thành ý hóa tha. Từ “Như thị”… đến “Bồ-đề tâm” là nói thời chúng được lợi ích . Ngài Tịnh Danh tùy cơ mà ước khuyên răn hai môn, dùng bốn Tất-đàn phó bốn căn duyên nói pháp Không sai khác nên nói “Như nên thuyết pháp”. Khiến vô số người đều phát tâm, tức phát bốn thứ tâm Bồ-đề, tùy theo bốn duyên mà mỗi người đều khai phát đạo tâm, tức là khắp được tuân làm đều được lợi ích. Đây là do thần lực Bất cộng pháp, bốn giáo phát tâm Bồ-đề đầy đủ như huyền nghóa của bốn giáo.  DUY-MA KINH LƯỢC SỚ <卷>QUYỂN 4 PHẨM: ĐỆ TỬ (Phần 1) Phẩm này kế sau phẩm Phương Tiện để phá vô vi duyên tập mà thành tựu giáo nghóa cõi Phật thanh tịnh. Như trước đã nói ý nghóa nó rất phong phú mà kẻ phàm phu khó suy lường. Nay tóm tắt có ba ý giải thích chung về phẩm này: Nói duyên do có phẩm này. Lược giải thích nghóa “đệ tử”. Giải thích văn kinh. <詞>NGUYÊN DO CÓ PHẨM NÀY: Đức Phật từ bi muốn khiến chúng sinh được chánh báo giải thoát pháp thân chẳng thể nghó bàn và y báo cõi Phật thanh tịnh, nhưng chỉ hóa độ được những kẻ có duyên. Ngài Tịnh Danh ở cõi Nhẫn này cùng muôn vật từ lâu xa đã kết thắng nghiệp Bồ-đề, ngài đoán biết ý Phật nên trước giả bệnh để nói các pháp giúp thành tựu giáo nghóa giải thoát Phật quốc. Nay lại ngã bệnh thầm nghó Đức Như Lai đại từ sẽ đoái hoài đến ta mà sai các đệ tử đến thăm hỏi. Các vị ấy sẽ từ chối vì xưa kia bị chê trách, tức được hiển bày điều Như Lai muốn nói. Nay nêu nguyên do có phẩm này tóm tắt có năm ý: Nêu rõ thắng trí của ngài Tịnh Danh. Khuyên bảo bốn chúng bỏ Tiểu thừa ưa thích Đại thừa. Giúp thành giáo Phật quốc. Chiết phục Nhị thừa thành giáo sinh tô. Ấn định thành kinh. Thắng trí của ngài Tịnh Danh: Nếu sai đệ tử ắt đệ tử sẽ thuật lại việc xưa kia để từ chối, đại chúng nghe được ắt sẽ đối với ngài Tịnh Danh sinh tưởng khó lường mà càng kính trọng. Nếu cai trong tâm phát khởi tin sâu thì có khả năngnghe nói giáo Tịnh độ vì chưa vào thất. Khuyên chúng bỏ Tiểu thừa ưa thích Đại thừa: Các vị chứng quả Thanh văn chưa hồi tâm như đất trên nguồn cao không sinh được hoa sen, người chưa vào ngôi vị dầu ưa thích Tiểu thừa, nhưng nghe việc bị chê trách xưa ắt phát tâm Đại thừa. Như khi nói Đại phẩm, những người chưa vào ngôi vị đã đem y đang mặc cúng dường Như Lai mà phát tâm lớn lao. Phật liền phóng quang thọ ký cho, đồng thời khai phát cho bốn chúng được đại đạo lợi ích vô lượng. Vì sao? Vì việc chê trách xưa có ít người nghe. Như việc quở trách ngài Ưu-ba-ly thì chỉ có hai vị Tỳ-kheo được tâm thanh tịnh; việc chê ngài A-na-luật chỉ có một vạn Phạm thiên phát tâm Bồ-đề… Nhưng ở tòa giảng này đại chúng được nghe cả nên ích lợi vô lượng, cho nên cần mỗi vị thuật lại việc xưa bị chê trách. Giúp thành giáo Phật quốc: Muốn làm rõ việc chê trách hàng Nhị thừa thuở xưa đồng với ý chỉ Phật quốc hiện nay. Sao biết? Vì chúng sinh có tội nên không thấy được Tịnh độ. Như ngài Thân Tử kể lại việc ngài Tịnh Danh xưa đã quở ngài chấp Tiểu thừa khiến mọi người chê Tiểu mến Đại, do đó tội chấp Tiểu tạm trừ mà ngầm phát tâm mến Đại. Nay dự ở tòa này nhờ thần lực của Phật mà được nghe các lời kể này cả năm trăm vị đều như thế. Nhân đó được vào trong thất nghe pháp chẳng thể nghó bàn mà cõi Đăng vương Hương Tích không động hiện ra trước mắt. Chiết phục Nhị thừa…, như lúc mới mở bày đốn giáo thì chỉ có hàng căn cơ cao. Hạng căn tánh thấp nhỏ do cấu nặng nên không được lợi ích cũng như chất sữa. Sau đó Tam hưng giáo hưng khởi, phương tiện mở bày ba thừa, hàng căn tánh thấp nhỏ nhân đoạn được kiến tư mà xa phàm thành Thánh, tức như chuyển chất sữa thành chất lạc. Kế nghe việc Đại só chê trách thuở xưa, cho đến vào trong thất của bậc tiếng vang cả tam thiên, thì ắt phải bỏ Tiểu mà mến Đại. Tín tâm dần đổi chuyển thành sinh tô, nên kinh Pháp Hoa có nói: Từ đây về sau tâm tánh thể tướng ra vào Không khó khăn. Như đến Đại phẩm biến thành thục tô, vào Pháp hoa Niết-bàn liền thành đề hồ. Đó tức là thuật lại việc chê trách xưa mà thành nguyên do chuyển đến vị sinh tô. Hỏi: Nếu năm trăm vị Thanh văn đều kể lại sáng ngời đức của ngài Tịnh Danh là nguyên do chuyển thành vị sinh tô để vào trong thất thì đây nhất định là thuộc phần Tựa chứ không thuộc phần Chánh thuyết? Đáp: Nếu thành sinh tô thì há chỉ là vào trong thất, hoặc là trước đây nghe các kinh Phương đẳng như Ương-quật đã bị trách hoặc khi trách thuở xưa hoặc nay nghe thuật lại, hoặc đến vào trong thất hoặc ở các thời nói Phương đẳng sau này, các lúc như thế đều là sinh tô, đâu được vào trong thất mới nhất định thành sinh tô, mà thuộc phần tựa? Nếu lấy việc khen ngợi nguyên do thành sanh tô để làm tựa thì nguyên do vào trong thất và trở về Am viên cũng là phần tựa. Ấn định thành kinh: Thuở xưa ngài Tịnh Danh tùy vật mà ứng cơ, tùy chỗ quở trách mà dạy dỗ, nếu Phật không sai đệ tử thì đại chúng sao được cùng nghe. Ấy là Như Lai ấn định lợi ích cho bốn chúng ở các đời chánh, tượng, mạt. Hỏi: Việc quở trách Thanh văn này đối với ba quán của bốn giáo mỗi giáo dùng bao nhiêu? Đáp: Dùng đủ ba quán, một là chê trách tích không vào Giả quán, dùng ba giáo của Đại thừa mà trách Tam tạng giáo. LƯỢC GIẢI NGHÓA ĐỆ TỬ, có chín ý: Lược giải tên nghóa đệ tử. Giải thích mười đệ tử. Đối chung mười tâm số. Đối riêng với mười tâm số. Nói trang nghiêm song thọ. Nói sinh về cõi quả báo. Nói cõi Phật thanh tịnh. Xét theo quán tâm. Khiển trách trước sau. Lược giải tên đệ tử: Phàm thầy thì có công năng giúp dạy bảo. Người học thì có đức tiếp thu. Trò thì bỏ cha theo thầy, kính thầy như cha. Thầy khiêm nhường thương dạy trò như con em mình. Nên Khổng tử có nói: “Nhan Hồi coi ta như cha, ta xem Nhan Hồi như em.” Nay nhóm Thân tử theo học với Phật là tình thầy trò nên gọi là đệ tử. Hỏi: Phật là cha lành của chúng sinh, tất cả chúng sinh đều là con Phật. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Tam giới này đều là ta có, chúng sinh trong đó đều là con ta”, há lại theo phép tắc của Khổng tử ư? Đáp: Kinh có hai nghóa là hoặc nương lý mà đặt tên hoặc thuận phong tục mà kêu gọi. Như kinh Pháp Hoa nói: Khi ta làm Thái tử thì La-hầu-la là con lớn, nay ta đã thành Phật đạo thì học pháp mà làm pháp tử, đây là căn cứ theo lý. Thế gian và xuất thế gian đều là cha con. Nếu thuận theo phong tục thì như phụ tử. Việc truyền giáo thường thuận theo phong tục không tranh cãi, chỉ lòng không trái thật pháp, nên theo nghóa ngoài mà giải thích tên, không lỗi gì. Hỏi: Nếu vậy thì người thế tục đều là đệ tử đâu riêng gì Thanh văn? Đáp: Luận chung thì thật như thế, nhưng luận riêng thì không phải vậy. Người thế tục tuy đến học đạo nhưng vẫn theo phép thông tục kính thờ cha mẹ vua chúa, đâu thể sớm chiều hầu hạ thường được học hỏi nương nhờ. Bồ-tát thường lấy việc lợi vật làm hoài bão, có cơ liền đến không chuyên ở bên Phật. Còn hàng Thanh văn bỏ nhà làm quyến thuộc của Phật, do nghe sinh hiểu biết, học tập kế thừa mọi việc, về lễ, đệ tử đều đầy đủ sự lý . Lại nữa, trong kinh Thanh Văn nói về năm loại Phật tử, cả năm loại đều được quả mà không nói đến Bồ-tát, ấy là tên đệ tử dùng riêng cho Thanh văn. Như trong Đại thừa phần nhiều đều nói Bồ-tát là Phật tử. Nay vẫn theo gốc, căn cứ kinh Thanh Văn gọi là đệ tử được người đời phần nhiều tin dùng nên lấy đặt tên phẩm. Giải thích mười vị Đệ tử: Các kinh nói mười vị đại đệ tử thứ lớp phần nhiều không giống nhau. Nay căn cứ theo kinh này cho rằng thứ lớp thường đồng với ý nghóa ba căn của Pháp Hoa, chỉ có ngài Ca- chiên-diên đứng sau ngài Phú-lâu-na là khác. Nhưng Như Lai là đấng Pháp vương dẫn dắt ba cõi mới khai bày Tam tạng giáo ắt cần có người giúp sức. Mười vị Thanh văn đây đều có sở trường, mỗi vị giữ một pháp giúp Phật khai hóa. Như ngài Thân Tử có trí tuệ, ngài Mục-liên có thần thông, ngài Ca-diếp có khổ hạnh Đầu-đà, ngài Thiện Cát có Không hạnh vô tránh, ngài Phú-lâu-na có biện tài thuyết pháp, ngài Ca-chiên- diên có tài luận nghóa qua lại, ngài A-na-luật có Thiên nhãn, ngài Ưu- ba-ly có trì luật, ngài La-hầu có mật hạnh, ngài A-nan có đa văn… đều gọi là bậc nhất. Hỏi: Như đứng đầu mười sở trường này mà được gọi tên, nhưng việc ngài Thân Tử cầm giải áo, ngài Mục-liên dùng hết sức thần lực đến nổi cả tam thiên đều chấn động, nhưng không làm lay động được giải áo của ngài Thân Tử cầm, bèn đem việc ấy bạch Phật. Phật nói Phật nhập thiền, Thân Tử không biết tên thiền ấy, Thân Tử nhập định Mục Liên cũng không biết tên. Nếu Mục-liên có thần túc không lớn hơn Thân Tử thì tám vị kia chưa hẳn mỗi người có sở trường. Đáp: Hoặc có sở trường riêng hoặc không, tại sao phải đặt cho người khác chưa hẳn nhất định phải có sở trường, ở mười đức này tự có sở trường riêng nên gọi là bậc nhất. Nhưng Phật là Pháp vương cũng đặt ra các pháp thần giống như đại thần với vua chúa. Tuy mỗi người đều có khả năng nhưng Bát tòa khanh đều có chỗ nắm giữ. Mười vị đệ tử lớn của Phật tuy mỗi người đều gồm đủ các tài năng kia, nhưng riêng một người không thể chuyên hai việc, nên phân mười đức, mỗi đức thuộc một vị, để giúp Phật tuyên bày mười thứ giáo môn, khiến mọi người đều ngưỡng mộ, nên nói là bậc nhất, để tùy căn duyên của họ mà có chỗ quy tâm. Tuy mỗi người giúp tuyên bày nhưng rốt cuộc cùng về một đạo. Tổng đối mười tâm số: Tỳ-đàm có kệ rằng: Tưởng dục cánh lạc, tuệ Niệm tư và giải thoát Tác ý nơi cảnh giới Tam-ma-đề và thống. Thứ này chung cả đại địa giúp tâm vương khởi tất cả số như mười quan đại thần cùng giúp một vua, nếu cùng làm việc phi pháp thì dân đều tạo ác, nếu cùng làm Chánh đạo thì dân đều làm lành. Tâm vương của chúng sinh cùng chung tâm số cũng thế. Do chung tâm này thông cả thiện ác, nên cùng tâm vương khởi vô lượng thiện ác. Lại vương là thầy, số là đệ tử giúp nhau lành dữ cũng thế. Nên văn kinh nói: “Chúng đệ tử trần lao tùy ý xoay chuyển.” Phật là Pháp vương, đệ tử là đại thần cùng giáo hóa vương số, nếu chúng sinh tin nhận tu hành tuệ hạnh liền thành các thiện tâm số kiến đạo , tu tập hành hạnh liền thành các thiện tâm số tu đạo . Lại nữa, mười số tức là mười pháp môn có thể thông suốt vào Niết-bàn. Xưa lấy mười số làm chủng tử, từ đó tu tập cho đến thành đạo, như muốn ôm cả một cây ắt phải từ các ngọn nhỏ. Nay Pháp vương muốn dùng giáo Bán mãn dạy dỗ chúng sinh, trước phải tùy thuận chỗ ham thích. Nên ở đoạn văn sau nói: “Trước dùng móc ham thích lôi kéo, sau mới khiến vào Phật trí.” Nay mười đệ tử mỗi vị hoằng hóa một pháp, Người do loại tụ mà hợp thành nhóm đoàn, tùy sự ham thích mà mỗi một pháp môn nhiếp làm quyến thuộc, tuy mỗi người nắm giữ một pháp, nhưng không phải là Không gồm đủ mười đức. Như mười tâm số tùy thuộc một tâm khởi lên thì các tâm số kia tùy thuận khởi theo, tuy một số mang một tên mà thật sự gồm cả mười. Đối riêng: Tưởng tâm số đối với Phú-lâu-na, vì Tưởng tâm số của ngài riêng mạnh nên từ tưởng mà vào đạo. Thế nên trong số đệ tử Phật thuyết pháp ông là bậc nhất. Vì sao? Thành luận có nói: Thức được thật pháp, tưởng được giả danh, ngài dùng Tưởng tâm số rất rõ ràng nên luôn phân biệt danh tướng, có biện tài vô ngại là bậc nhất trong số người thuyết pháp. Khi có ai ưa thuyết pháp thì ngài đều giúp mãn nguyện, bởi Phật quá tôn quý nên họ không dám hỏi thẳng. Những kẻ mới học tùy chỗ ưa thích ngài đều phục vụ đầy đủ, cho nên hai Tỳ-kheo không dám hỏi Phật. Do đó, mười vị đều dùng một pháp để vào đạo, trong hàng Thanh văn mỗi người ấy đều được gọi là bậc nhất. Đối văn mỗi mỗi đều tùy nghóa tiện lợi dựa vào tưởng mà nói. Như nay người đời xem tam học, mỗi học đều có thủ lãnh. Cho nên nói Tỳ-ni, Tỳ-ni Cộng… chính là để phát khởi giáo Như Lai khô vinh nhập đạo. Dục tâm số đối với ngài Đại Ca-diếp, vì ngài có Dục tâm số riêng mạnh, nhân đó mà vào đạo. Bởi tất cả thiện pháp lấy dục làm gốc. Ngài Ca-diếp dứt bỏ vinh hoa, chí vui niềm sơn cốc, đó là nhân tâm thiện dục bỏ ác dục ở đời. Người ham thích hạnh Đầu-đà xem ngài là thầy, ngài thu phục làm quyến thuộc, hiển bày pháp giáo Đầu-đà khô vinh mà vào đạo. Cánh lạc tâm số đối với ngài Ca-chiên-diên, vì ngài riêng mạnh mẽ về tâm số này, dùng nó suy xét mà vào đạo, hỏi đáp qua lại không có trệ ngại vì tâm số này rất mạnh, các thứ khác thì như Ca-diếp. Tuệ tâm số đối với ngài Thân Tử, ngài dùng tuệ tâm số này để nhập đạo, nên là đại tướng chuyển pháp luân, các thứ khác như ngài Ca-diếp. Niệm tâm số đối với ngài Ba-ly, ngài dùng niệm tâm số mà trì luật vào đạo. Ngài tạo duyên nhớ giữ gọi là niệm, đối duyên nói lượng không hề quên mất, là hàng trì giới bậc cao tâm số này rất mạnh, các thứ khác như ngài Ca-diếp. Tư tâm số đối với ngài La-hầu-la, ngài dùng tư số riêng lợi ích mật hạnh mà vào đạo, hành ấm là tư, tư tâm số để lợi ích cho tu các giới hạnh, công đức mật hạnh ẩn giấu, ngài là bậc nhất, các thứ khác như ngài Ca-diếp. Giải thoát tâm số đối với ngài Thiện Cát, ngài dùng tâm số này riêng mạnh để vào đạo, nên nhập Vô tránh Tam-muội, nghiêm túc riêng mình giải thoát, không tranh giành với mọi người, các thứ khác thì giống như ngài Ca-diếp. Tác ý tâm số đối với ngài Na-luật, vì ức số của ngài riêng mạnh, nhân ngài mù mắt, nên Phật khuyên ngài khởi số này mà tu Thiên nhãn vào đạo. Vì sao? Vì phàm người tu Thiên nhãn ắt phải trụ tâm duyên cảnh với ánh sáng mặt trời, mặt trăng thì mới phát được Thiên nhãn thông, các thứ khác như ngài Ca-diếp. Tam-ma-đề tâm số đối với ngài Mục-liên, vì Định tâm số của ngài riêng mạnh nên tu thứ đó mà vào đạo vì sao? Vì phàm phu đều có tâm số này. Người vô định thì đứng ở đất bằng cũng ngã nghiêng. Do chúng sinh không thường tu tập nên không được thâm định, các thứ khác đều như ngài Ca-diếp. Thống tâm số đối với ngài A-nan, vì Thọ tâm số của ngài riêng mạnh nên ngài dùng nghe nhận vào đạo, vì sao? Vì Thọ số quyển bốn này gọi là thống, Tạp tâm luận gọi là thọ, nay nói chung là thọ. Thọ lấy ý nghóa là lãnh nạp. Tâm số này rõ ràng lãnh nạp giữ gìn Phật pháp như bát đựng đầy nước, các thứ khác đều giống ngài Ca-diếp. Nói về Song thọ. Trên nói tươi khô, lời ngắn ý sâu kín ấy là mười người đệ tử cùng giúp Như Lai để trang nghiêm bán, mãn, dẫn dắt chúng sinh thấy tánh. Trụ vào Đại Niết-bàn, tức là nghóa nhập Niết- bàn ở khoảng rừng Song thọ. Dùng Tam tạng giáo vô thường để phá bốn điên đảo thường… , trang nghiêm bốn khô để tiếp dẫn chúng sinh. Trong mỗi mỗi số dùng bốn Tất-đàn mà nhiếp vật, tùy khéo léo mà gi- úp Phật Pháp vương thành tựu Bán giáo , lợi ích cho tất cả. Một người dùng bốn Tất-đàn, mười người thì có bốn mươi trang nghiêm, cho đến năm trăm thì liền có hai ngàn trang nghiêm, bốn khô. Hỏi: Nếu mười người đối mười số, năm trăm người thì như thế nào? Đáp: Pháp vương nói ra ắt có nguyên do, nay chưa thấy năm trăm, nên chỗ tuyên truyền không thể sắp xếp. Nay tìm xét nghóa lý mà tạm giải thích: Một số có mười, mười số tức một trăm, đem đối năm căn có năm trăm số. Lại Đại kinh nói: Năm trăm vị, mỗi thứ thuyết và thân nhân đều là chữ Bán mà dùng bốn khô vào đạo. Tiếp nói đối mười số pháp môn giúp Phật hoằng truyền mãn giáo bốn vinh . Vì chúng sinh không kham nổi nên dùng sức phương tiện lập ra Bán giáo bốn khô. Mười đệ tử ấy đều là pháp thân trong ẩn ngoài hiện. Như Lai đã thác sinh ở vương cung, đệ tử cũng tùy duyên mà xuất hiện. Như Lai ngồi dưới gốc cây giác ngộ, thì đệ tử đều thông minh sáng trí làm thầy ngoại đạo. Cho nên kinh Pháp Hoa có nói: Từ xưa mang tà kiến Làm các sư Phạm chí Thế Tôn biết tâm ta Dẹp tà, nói Niết-bàn. Do đó khi làm thầy họ, thì điều phục họ dễ dàng. Khi Như Lai thành đạo thì tất cả đều đến quy y học tập bốn khô. Vua thầy đã hàng phục các thói tật của học trò, nên từ đó trở đi tâm tướng thể tín vào ra không khó khăn. Thế nên ngài Tịnh Danh chê trách các Nhị thừa khiến họ ham đại mà bỏ tiểu. Cho nên thị hiện ở trên cái đe chưa đủ, mà chịu cái chày chê trách cùng vật khí chín muồi khiến thành đại sự, hiển bày phương tiện của Như Lai ngầm dạy chúng sinh đều thẹn tiểu mến đại, khai Phật tri kiến mà được Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, vào pháp môn chữ Mãn. Đều do đệ tử dùng pháp môn mười số, giúp thành Phật sự. Nghóa của năm vị ủy thác ở Pháp Hoa, không phải chánh ý ở đây nên không nói đủ. Lại Đại kinh nói: Trang nghiêm bốn vinh đáng lẽ phải nêu đủ mười người, nhưng chỉ lấy sáu thôi vì để đối phá lục sư hủy phá Song thọ. Tất cả chúng sinh đều có Vương số là nghóa gì? Tức là nghóa ba thứ Phật tánh. Vương tức chánh nhân, tuệ tức liễu nhân, các số khác duyên với nhân Phật tánh rõ ràng, do phiền não số che lấp mà không được hiển phát. Thế nên Như Lai cùng mười đệ tử chày đe gỏ lên thành sinh thục tô, khiến nhập vào chữ Mãn, khai Phật tri kiến, hiển bày ba tánh Phật, vào bí mật tạng. Nay lấy đệ tử đối số Như Lai làm vua thành ích lợi Bán mãn, nghóa nó rất rõ ràng, từ xưa đến nay không nói nghóa này, đâu biết được ý sai đệ tử là giúp thành giáo giải thoát bất tư nghị. Nói sinh về cõi quả báo. Mười đại đệ tử dùng mười môn này mà giúp trang nghiêm Song thọ. Nếu chúng sinh được hóa độ thành tựu được bốn khô, khi vào vô dư mà sinh vào cõi Hữu dư, thì đó là người ấy vì căn độn nên đối với Phật đạo phải lòng vòng. Nay đối ngài Tịnh Danh chuyển nhập vào bốn vinh, nếu đến Pháp hoa khai Phật tri kiến được Vô sinh nhẫn, bỏ báo thân này liền sinh vào Tịnh độ quả báo, làm quyến thuộc với Lô-xá-na. Chỉ nghe Viên giáo, tâm tâm vắng lặng, tự nhiên lưu nhập. Nói cõi Phật thanh tịnh. Mười vị đại đệ tử này dùng mười pháp môn để trang nghiêm Song thọ, tức là thành tựu cõi Phật thanh tịnh chúng sinh, đến thời kinh Pháp Hoa được Phật thọ ký. Sau khi thành Phật, số người được giáo hóa ấy đều trụ ở mười thứ pháp môn mà tu nhân khô vinh, cõi Phật thanh tịnh. Khi thành Phật các chúng sinh như thế đều đến cõi nước. Đến đây thì giáo chỉ chê trách hàng Thanh văn, khen ngợi các Bồ-tát trụ ở cõi Phật thanh tịnh bất tư nghị. Hàng Nhị thừa mất hẳn vì căn hư hoại không kham nổi, thế nên ngài Ca-diếp danh chấn động khắp tam thiên. Nay lấy ý trong kinh Pháp Hoa mong thọ ký cho ngài Thân Tử… tức chỗ bọn các ông đang làm là đạo Bồ-tát”. Lại nói việc ít dục chán sinh tử là tự tịnh cõi Phật. Theo lýmà suy thì ngài Tịnh Danh chê trách đều vì hàng Tiểu thừa lần lượt đều thành nhân Tịnh độ, lời thuật lại của các đệ tử giúp thành phẩm Phật Quốc, ý rất rõ ràng, từ xưa đến nay có ai biết được. Nói theo quán tâm. Nay xét lời giải trước cũng là quán tâm. Vì sao? Vương và số của người tu tức là thầy và trò. Chỉ vì chúng sinh ngày đêm sinh vô lượng các pháp chánh tà đều do vương số. Thế nên người tu cần làm khéo ý này. Nếu siêng năng tu tập, suy nghó phân biệt mà phát trí Bán mãn, tự hành hóa tha tức đồng với ngài Thân Tử trang nghiêm Song thọ. Như thế tất cả đều căn cứ theo tâm số và hành thành việc hóa vật. Hạnh hiển bày là do tâm. Nếu luôn quán kỹ, thật tâm tánh thì liền thấy Phật tánh trụ vào Đại Niết-bàn, tức đồng Như Lai trang nghiêm Song thọ. Nếu quán hành và tâm thấy rõ tâm ấy, thì vương tức Pháp vương, số tức đệ tử và trang nghiêm Song thọ, cũng như trước mắt. Quán tâm, nói có sâu cạn, há nói hết tâm. Liệu giản về thăm bệnh trước sau: Hỏi: Vì sao Như Lai không sai Bồ-tát đến thăm bệnh trước? Đáp: Nếu Bồ-tát kể việc không thể thăm bệnh của mình thì hàng Thanh văn sẽ so sánh ngại khó mà mất đi năm trăm pháp môn. Còn sai Thanh văn trước, thì năm trăm pháp môn của Thanh văn sẽ được làm kinh. Sau đó sai Bồ-tát thì lập đủ pháp môn kể việc xưa. Hỏi: Nếu lấy thấp kém làm đầu, thì trước hết phải sai A-nan? Đáp:Ai cũng có phần riêng của mình nên sai ai trước cũng không lỗi. GIẢI THÍCH VĂN: Từ “Nhó thời… trở xuống, có hai phần: Tịnh Danh im lặng thầm nghó. Như Lai sai hỏi bệnh. Phần một có hai: Tự nghó mình nằm bệnh. Nghó Phật có thương tưởng dạy bảo. Tự nghó có bệnh: Ngài Tịnh Danh ở bậc Đẳng giác thì có bệnh gì? Nay tự nghó, tức muốn chính nhờ đây mà khởi giáo lợi sinh. Tự nghó tức là giải thoát tri kiến pháp thân trụ ở ba đức của bậc Đẳng giác . Nằm biểu thị cho đức Bát-nhã, bệnh là biểu thị cho đức giải thoát, giường là biểu thị cho đức pháp thân. Đây không dọc không ngang như chữ Y ở đời. Vì sao? Vì pháp thân tức là tâm tự tánh thanh tịnh ẩn kín gọi là Như Lai tạng, hiển sáng gọi là pháp thân, tức là chân tánh giải thoát. Nằm biểu thị cho Bát-nhã, như người nghỉ ngơi, tức nghó dứt các phiền não và các tạo tác. Trong Đại kinh có nói: “Ai ngủ yên an ổn, gọi đó là chư Phật, thường quán Không Tam-muội, thân tâm yên, không động.” Nay dùng Bát-nhã Quán không mà tu nhân khi đầy đủ rồi thì các hành nghỉ ngơi, lý bổn tịnh hiển bày, cho nên nói nằm là Bát-nhã, tức là thật tuệ giải thoát. Bệnh biểu thị cho giải thoát, Bát-nhã cùng với lý chân tánh hợp nhau, tức có đại từ vô duyên không bỏ chúng sinh. Lấy từ bi hun đúc thân nên thường phương tiện hiện có bệnh. Đại kinh nói: Điều phục chúng sinh gọi là giải thoát. Vì chúng sinh bệnh, nên Tịnh Danh cũng bệnh, khéo léo hòa quang nhưng không đồng trần, tức là phương tiện tịnh giải thoát. Hỏi: Vì sao Tịnh Danh tự nghó nằm bệnh? Đáp: Nằm đã là Pháp thân Bát-nhã, vì đại bi mà thị hiện đồng chúng sinh có bệnh duyên phược “bị duyên buộc”, việc chưa bày ra còn ôm ấp mãi trong lòng không yên vui, nên mới tự nghó rằng: Thế Tôn đại bi há không thương tưởng đến mình. Nghó Phật tưởng đến thăm bệnh: Mình nay đang tu nhân còn thương chúng sinh muốn cứu hết cái khổ ba thứ duyên tập mà tự thị hiện có bệnh. Như Lai ở quả địa Vô duyên đại bi luôn muốn cùng muôn vật vui Đại Niết-bàn còn hơn ta nữa, há lại không thương tưởng mình? Nếu sai người đến thăm hỏi, nhân tiện mình sẽ thuật việc có bệnh.” Ý này nêu bày ra thì bệnh ba thứ duyên tập nhân quả của chúng sinh sẽ lành. Đoạn này nói chúng sinh hết bệnh thì Tịnh Danh hết bệnh, há không phải là đại từ của Như Lai trùm khắp ư? Phật sai người thăm bệnh Từ “Phật biết…” trở xuống, có hai phần: Phần một Phật biết tâm niệm. Phần hai Chánh thức thăm hỏi. Phần một, Phật biết ý ngài Tịnh Danh: Đức Phật dùng trí tịch chiếu đoán biết việc giả bệnh do Vô duyên đại bi, vì bệnh chúng sinh. Người trí biết nhau như rắn biết rắn. Phần hai Phật sai bảo người thăm bệnh Từ câu “bảo Xá-lợi-phất… hai hàng lại chia hai phần: Sai bảo mười đệ tử và sai bảo năm trăm vị. Phật sai bảo mười đệ tử, trong mỗi phần của mỗi đệ tử gồm có hai ý: Phật sai bảo và đệ tử trả lời. Một là: Phật sai Thân Tử. Phật sai: Thân Tử là thị giả hầu bên tả Phật, vì trong chúng Thanh văn ngài là bậc danh cao đức trọng trong ngoài đều kính quý. Ngài Tịnh Danh tuy ở tại gia nhưng tinh thông Phật pháp, trí sáng biện tài khó bề ứng đối, nên sai Xá-lợi-phất trước. Nhưng Thân Tử nhân duyên khá nhiều khó nói đủ, nay chỉ lược nói thôi: Khi thác thai đã thông minh hơn người, muốn hóa độ tất cả ngoại đạo thông minh làm đệ tử trước. Sau gặp Phật xuất gia làm A-la-hán, dẫn tất cả ngoại đạo thông minh đều làm đệ tử Phật là hiển bày giáo bốn khô. Nay bị quở trách nín thinh không đáp được, là muốn chiết phục tâm thô bỉ hẹp hòi của đám học trò bốn khô, khiến họ ngưỡng mộ giáo trí tuệ bốn vinh. Đến nói Ma-ha Bát-nhã trước, và đối với Thân Tử mà nói, là khiến hàng Thanh văn tin hiểu trí bốn vinh chữ Mãn. Đến nói kinh Pháp Hoa là đối trước ngài Thân Tử khai Phật tri kiến thì tám bộ bốn chúng đều khai Phật tri kiến, vui mừng khen ngợi nói kệ rằng: Đại trí Xá-lợi-phất. Nay được Phật thọ ký Chúng ta cũng như thế Thảy đều sẽ làm Phật. Ấy là tất cả đều biết rõ về bốn vinh. Nên trong Đại kinh, Bồ- tát Sư Tử Hống hỏi Phật: “Người nào có thể trang nghiêm Ta-la song thọ?”Phật đáp: “Người ấy là Đại trí Xá-lợi-phất.” Có người nói Pháp Hoa là giáo vô thường, Thân Tử khi Phật chưa nhập Niết-bàn ba tháng mà đã diệt độ rồi, thì không nghe được giáo Niết-bàn song thọ. Làm sao được khen là “Có thể trang nghiêm song thọ”? Phải biết Pháp Hoa là trao lời thọ ký cho tám bộ và bốn chúng, tức nghóa song thọ đã sáng tỏ, đây là hiểu sâu về ý của Pháp Hoa mà thôi. Do nhân duyên đó Phật sai ngài đến thăm bệnh. - Thân Tử đáp lời không kham Từ “Xá-lợi-phất…” hai hàng. Văn có bốn: Đáp lời không kham. Nêu lý do không kham. Chánh kể việc không kham. Kết không kham. Đáp lời không kham: Xưa bị chê trách không biết nói gì nên không kham đến thăm bệnh. Nói lý do không kham Từ “Sở dó giả hà thọ hạ trở xuống: Do ngồi yên tọa dưới gốc cây trong rừng. Yên, có người nói là súc chỉ “co lại ngăn dứt”, như rùa dấu cả đầu đuôi bốn chân, tức co giữ sáu thức sáu trần, ma không thể quấy não, nên nói là súc chỉ. Nay nói yên là an, tức an trụ vào căn bản tịnh thiền cho đến diệt định… dứt hết các phiền lụy ngoại đạo, giống như Niết-bàn, đặt pháp trong tâm, thân chứng tưởng thọ diệt, nên nói là yên tọa. Chánh kể việc không kham “Thời Duy-ma”trở xuống Văn này có ba: Một là Quở chung. Hai là Riêng bày thật yên tọa. Ba là Kết, ấn định. Một. Chê chung: Không hẳn chỉ ngồi mới là yên tọa. Đây là là hoàn toàn muốn chê việc ở nơi hẻo lánh đó không phải là cứu cánh thôi. Thân Tử yên tọa như thế nào mà bị chê trách. Xem văn sau. Phần lớn là các thiền diệt tận định thuộc chữ Bán của Tam tạng giáo nên không thể đến được yên tọa của chữ Mãn. Nhập vào các thiền diệt tận định có sáu lỗi nên chê trách. Nói không hẳn tức chỉ là Không hiểu, nếu bất tư nghị tức là hẳn nhiên. Tỳ-đàm nói: Diệt tận bất tương ưng hành. Bổ xứ có mười ba thứ nhập diệt định. Thành luận nói: “Không tâm hai xứ diệt.” Nay nói ba thừa nhập diệt thọ tưởng của Tam tạng giáo, có năm xứ không giống: a/ Căn bản thông minh tịnh thiền. b/ Y vào tám bối xả quán thiền. c/ Y vào chín thứ đệ định luyện thiền. d/ Y vào Sư tử phấn tấn huân thiền. e/ Y vào siêu việt tu thiền. Thứ đầu rút từ Đại tập, bốn thứ sau rút từ Đại phẩm. Đây là của ngài Nam Nhạc nêu lên. a/ Y vào căn bản tịnh thiền, thông minh quán sát mà được. Đầu tiên là thiền quán sắc như bọt nước; hai là, thiền quán sắc như mây; ba là, thiền như bóng; bốn là, thiền như ảnh trong gương. Kế đến diệt sắc lấy không, một tâm duyên với không cho đến phi tưởng. Tuy không có thô phiền não mà thành tựu được mười thứ tế pháp, cũng là phiền não sinh tử. Đệ tử Phật biết đó không phải là Thánh pháp, liền có thể diệt đi, cũng diệt tâm năng diệt, tâm số pháp đã diệt nên nói là diệt thọ tưởng định. b/ Nói về bối xả: Quán thân trong ngoài bất tịnh, xương trắng theo dòng sáng nhập vào bối xả; hai, thắng xứ diệt hoặc Sơ thiền mà vào Nhị thiền; ba là, bốn Thắng xứ diệt hoặc Nhị thiền. Từ đây trở đi không có sắc bụi nước, mây, ảnh trong gương… nữa, chỉ quán tịnh sắc mà vào Tam thiền. Duyên với tịnh nên nói là tịnh. Luyện tám sắc lưu quang để diệt hoặc Tam thiền mà thành Tứ thiền; bốn là thắng xứ vào tất cả xứ. Nếu diệt sắc duyên với không, cho đến Phi tưởng. Cũng nên biết Phi tưởng còn bốn ấm và mười thứ tế hoặc, quán sâu lìa chấp trước, tiến tu diệt thọ tưởng. Nếu hay diệt thọ các tâm pháp số, thân chứng diệt thọ tưởng, tức là diệt thọ tưởng bối xả, ở nhân nên gọi là bối xả. Nếu phát vô lậu dứt hết Phi tưởng hoặc, lúc đó bối xả chuyển gọi là giải thoát. Nếu trong nhân nói quả thì gọi là giải thoát. Nếu trong quả nói nhân thì gọi là bối xả, mà nay chẳng gọi là giải thoát là vì bậc A-na hàm y vào tám bối xả mà được vào chín thứ đệ định cũng không được gọi là giải thoát. Nếu là giải thoát thì phải là La-hán, sao được còn là thân chứng Na-hàm. Ước bối xả mà nhập là thắng thông minh của Tiểu thừa. c/ Y vào chín thứ đệ định. Các bối xả trước tuy nhập vào diệt định tác ý có lúc chẳng phải là nhậm vận “tự động”. Nay luyện bối xả bắt đầu từ Sơ thiền thứ đệ mà vào cho đến Phi tưởng, nhậm vận vào diệt định thì rất dễ, chỉ khi xuất thiền thì như ngủ mới thức. d/ Y vào Sư tử phấn tấn, trước đây nương vào luyện thiền, chỉ theo thứ lớp mà vào. Nay nói không phải chỉ thứ lớp vào đến diệt định. Cứ thế không gián đoạn, từ diệt định khởi thứ đệ xuất Phi tưởng cho đến Sơ thiền, định lực càng mạnh. e/ Y vào siêu việt. Trên tuy vào ra tự tại không gián đoạn, nhưng chưa thể siêu nhập siêu xuất. Nay siêu thiền này có thể từ bất dụng xứ mà siêu nhập vào diệt định, cho đến sơ thiền siêu nhập vào diệt định đầy đủ như trong Đại phẩm. Đây như sư tử vàng siêu việt, đó gọi là khéo nhập xuất trụ, sinh ra trăm ngàn Tam-muội. Công lực của định này rất lớn. Nay ước vào năm thứ này mà nói năm vị thì thiền tịnh như sữa, bối xả như lạc, chín định Như sinh tô, phấn tấn như thục tô, siêu việt như đề hồ. Siêu việt thiền có đủ các công đức như nguyện trí, Vô tránh Tam-muội, bốn biện tài, ba minh, sáu thông, mười tám thứ biến hóa… trong các thiền nó là tột đỉnh, cho đến ở trong các thiền siêu việt xuất nhập đều gọi là đỉnh cả. Hỏi: Vì sao trên căn bản tịnh thiền lại có bốn thứ khác? Đáp: Như cách thuộc da ở đời. Thông minh như ngâm nước, bối xả như cạo lông, cửu định như vào óc, phấn tấn như xông khói, siêu việt như thuộc da cho mềm. Đây cùng các nhà giải thích về tập luyện không có liệu giản giống nhau…. La-hán nếu được thiền siêu việt thì gọi là Ma-ha Na-già. Tâm được điều phục nhu nhuyến, việc thiền định của tam thừa đến đây là tột. Ngài Thân Tử ở trong rừng đã nhập các thiền này mà dứt được các phiền lụy, vì không nương vào Phật tuệ mà khởi các thiền này, nên bị quở là bất tất. Ấy bởi vì sao? Vì Thân Tử đã được định không phải là định quật của chín thứ đại thiền không hẳn, không cần thâm thiền của Mãn tự nên nói là bất tất. Chỉ riêng về thật yên tọa, Từ “Phàm yên tọa”trở xuống: Sáu thứ yên tọa bất tư nghị gồm ba cặp: Xét về thể dụng. Xét về tâm pháp. Xét về nhân quả. Trong phần Thể-Dụng, có hai: Xét về thể nói rằng: Không ở ba cõi mà hiện thân ý gọi là yên tọa. Ngài Thân Tử không hướng đến Phật tuệ mà nhập các thiền trên ắt phải ở chỗ vắng mà thẳng thân nhất niệm mới được vào định thì là tướng ở cõi Dục hiện thân ý. Thân như gỗ đá tức là hiện thân, tâm như tro lạnh theo hơi thở ra vào tức là hiện ý. Vả lại khiến mọi người cung kính kinh sợ thì có diệt được gì. Còn yên tọa chân thật là hướng về Phật tuệ ở chín đại thiền và định của Nhị thừa tùy ý liền nhập thì gọi là Không ở ba cõi mà hiện thân ý. Nên ở đoạn văn sau có nói: Ở cõi Dục mà hành thiền khiến tâm ma hoảng loạn, không cần phải ngồi nghiêm, không vận tưởng là Không hiện thân ý, thân ý đồng với thế tục không trái diệt định, tuy nhập diệt định mà không làm hại đến oai nghi, tức là Không có lỗi xuất nhập động niệm, cũng tránh được lỗi ba cõi hiện tướng, tức là yên tọa chân thật, là yên tọa chân thật bất tư nghị. Lại nữa, pháp thân Bồ-tát ở thân pháp tánh mà nhập vào các thiền định, không ở ba cõi mà hiện thân ý, là yên tọa chân thật. Nếu theo lý mà luận thì chúng sinh đều là diệt định mà Thân Tử không biết. Nếu ở sự mà nói thì trong thân pháp tánh quyết định không có thân ở ba cõi nhập vào. Thân Tử còn thấy ý ba cõi đâu thể được gọi là yên tọa chân thật nên phải làm thinh là chê không biết cái thể của yên tọa chân thật nên bày ra như thế. Nếu tu một tâm ba quán là hướng đến về Phật tuệ khởi sáu thứ yên tọa vậy. Chỉ về dụng bất tư nghị Từ “Không khởi”… đến “yên tọa”. Chê diệt định là vô dụng, vì Thanh văn nhập định không thể hiện ra bốn oai nghi như Ca-diếp nhập định không có chỗ dùng. Đến khi ngài Di-lặc ra đời mới biến hiện được. Cho nên biết hàng Nhị thừa nhập định thì mình và người đều vô ích không có chỗ dùng, do đó nói không thể có. Còn định bất tư nghị có thể có dụng. Cho nên thường chẳng khởi diệt định mà hiện mười giới oai nghi. Như đàn Tu-la tùy người ca ngâm. Bồ-tát tùy cơ khắp mười phương hiện hình mà ẩn hiện tự tại. Sao ông không dùng thệ nguyện để huân tập định khiến cho vật cơ cảm hiện các oai nghi, thật là do không thấy chân tánh và không nguyện Ba-la-mật vậy. Định vô dụng thì người không tôn trọng nên chê trách nói là bất tất. Lại nữa, thân pháp tánh dùng hướng đến Phật tuệ nhập vào các diệt định hay ở ba cõi mà hiện bốn oai nghi ở mười giới, tất cả các pháp Không thứ nào chẳng thị hiện, ấy là rốt ráo yên tọa chân thật. Xét về cặp tâm pháp. Từ “Bất xả”trở xuống là chê sự vụng về của pháp, tâm, nên nói “Bất tất”. Cũng có hai phần: Xét về pháp mà chê. Thân Tử thật xuất thiền mới đồng là phàm phu. Nếu không xả các thiền sao được hẹn lúc xuất định, tức là xả đạo pháp mới đồng với phàm pháp, nên biết hai pháp này không được cùng xả. Đâu như Bồ-tát dùng hướng đến Phật tuệ, hai pháp Không khác, há bỏ đạo pháp lại nhập vào đạo pháp, hành phi đạo mà thấu suốt Phật đạo. Nếu không thấu suốt sao bảo là đạo. Bốn giáo mỗi thứ đều có hai hạnh đạo pháp. Hiện việc phàm phu, nghóa là việc của ba nghiệp thiện và bất thiện. Như nói tuy là bạch y cư só nhưng ngài Tịnh Danh vẫn đủ hai mươi chín việc và vô lượng phương tiện. Pháp thân thường ở trong Tam-muội mà thường khắp đồng phàm phu, tức là ở trong thân phàm phu mà nhập vào Vương Tam-muội, tất cả Tam-muội cũng đều vào trong ấy. Lấy đó mà dẫn mọi người nhập vào Phật Tịnh độ giải thoát bất tư nghị, tức yên tọa chân thật rốt ráo. Do đây mà chê sự vụng về của đạo và pháp nên nói là “Bất tất”. Xét về tâm mà chê trách Từ “tâm bất”…. đến “yên tọa”. Nói “Không trụ”tức ngài Thân Tử nhập định trụ bên trong, khi xuất định ra ngoài, duyên với lý thiền ở bên trong, duyên với tịnh thiền ở ngoại đạo. Nhập diệt định trụ bên trong xuất diệt định ở ngoại đạo, ấy là tâm nương vào trong ngoài, nhập xuất, động tán, sao gọi là yên vắng, thế nên trách là “bất tất.” Bồ-tát dùng hướng đến Phật tuệ quán pháp tánh Trung đạo còn không thấy có sinh tử Niết-bàn trong ngoài đáng trụ đáng ở, sao lại có diệt định xuất tán trong ngoài đáng trụ đáng ở. Còn có phấn tan ở hai biên, không phải là yên tọa chân thật, nên nói là “bất tất.” Nay Bồ-tát tâm ngầm ở pháp tánh không loạn không mê tức là yên tọa chân thật bất tư nghị. Một đôi căn cứ nhân quả, từ “Ư chư kiến trở xuống, đó là chỉ rõ cái yên tọa chân thật mà chê cái không phải chân. Trước hết, nói về cái thấy không động là chê cái nhân thiên lệch không phải là yên tọa chân thật. Cái thấy không động tức trong nhân mà yên tọa chân thật. Nay nêu bốn trường hợp để phân biệt: Tự có thấy động mà không tu đạo phẩm. Có không động mà không tu. Có động mà tu. Có không động mà tu. Có động mà không tu: như các ngoại đạo, bỏ hữu lấy vô, cho đến “chẳng phải có, chẳng phải Không”, sáu mươi hai kiến như lánh hư không, tuy bỏ các kiến muốn lấy Niết-bàn mà không biết tu ba mươi bảy phẩm. Nên Phật ở trong kinh Tu-bạt đã làm Sư Tử Hống cho rằng ai không tu tám Chánh đạo quyết định không có bốn quả Sa-môn. Không động không tu: ngoại đạo khởi kiến nói là sự thật, còn các người khác đều cho là nói dối chấp chặt không dời như chấp hư không cũng không tu đạo phẩm. Động mà tu, như hàng Nhị thừa của Tam tạng giáo, biết thân biên là nhơ nhớp, điên đảo, nhân duyên, vô thường, lưu động. Động đây là lưu động nên gọi là động. Tu đạo phẩm, là quán phá thân biên năm ấm, tu bốn khô niệm xứ… thành tựu noãn đảnh nhẫn, nhập vào kiến tư vô lậu. Nên trong Đại kinh có nói: Noãn pháp quán là bảy mươi ba người đệ tử của ta có, còn ngoại đạo thì không. Thân Tử và các Nhị thừa đều như thế nên quở là “bất tất”. Không động mà tu; như hàng Bồ-tát hiểu rõ sáu mươi hai kiến tức là Bồ-đề, không lấy không bỏ, nên nói không động. Tu đạo phẩm, như quán ấm ô uế, tu niệm xứ… Khi quán sắc tánh không dơ không sạch, thọ không phải khổ lạc, tâm không phải thường hay vô thường, tưởng hành không phải ngã hay vô ngã. Đây là quán riêng tứ niệm xứ. Nên kinh Nhân Vương có nói: Pháp tánh của sắc, thọ, tưởng, hành, thức Bồ- tát dùng thú Phật tuệ mà quán sắc pháp tánh tức sạch rốt ráo, quán thọ pháp tánh tức lạc Niết-bàn, quán tâm pháp tánh tức pháp thân, quán tưởng hành pháp tánh tức tự tại ngã, tức lấy bất động mà tu vinh niệm xứ. Ở trong cần sách là tứ chánh cần cho đến trong hành trong an ổn đạo tức tám Chánh đạo, tức là yên tọa chân thật rốt ráo bất tư nghị. Đây là chê trách ở các kiến động mà tu đạo phẩm là yên tọa vụng về vậy. b) Xét về quả mà nói yên tọa chân thật Từ “bất đoạn”đến “yên tọa”, là chê Thân Tử chấp quả diệt định là thiên lệch. Thân Tử đầu tiên gặp Át-bệ được kiến đế rồi thì bảy ngày hoặc mười lăm ngày các chánh sử đều dứt hết, gọi là đoạn phiền não nhập vào Hữu dư Niết-bàn, khi thân trí đều dứt thì vào Vô dư Niết-bàn. Đây cũng có bốn trường hợp: Không đoạn không nhập, là phàm phu và Bồ-tát của Tam tạng giáo. Đoạn mà nhập là bậc Vô học. Đoạn mà không nhập, tức là Bồ-tát của Thông, Biệt giáo. Không đoạn mà nhập, là Bồ-tát của Viên giáo. Cho nên tánh dâm, nộ, si tức là giải thoát. Tánh sân khuể si đủ tất cả pháp tức là phiền não không thể đoạn vậy. Ấy là Không diệt si ái mà khởi minh thoát “sáng suốt giải thoát”. Nếu ngài Thân Tử đoạn hoặc mà nhập Niết-bàn, thì như phá vách mà ra. Sợ hãi sinh tử không luôn dùng phiền não mà làm Phật sự. Bồ-tát dùng thú Phật tuệ không đoạn mà nhập. Như được thông suốt, tức là vách không thể ngăn ngại, ấy là trở lại dùng phiền não mà làm Phật sự. Đó gọi là Không đoạn phiền não mà nhập Niết-bàn. Người khác hiểu phiền não là Không, nên không cần đoạn. Nếu như thế thì núi Tu-di nhập vào hạt cải, mà không có hạt cải để nhập vào. Hạt cải rỗng không, tức là núi Tu-di vào Không mà không vào hạt cải. Có lỗi như thế. Nếu rõ ràng phiền não không cần phá mà bất động được vào Niết-bàn, tức là tánh hạt cải không phải lớn, không phải nhỏ, nhỏ không hại lớn, nên có thể chứa được cái lớn của núi Tu-di. Tánh núi Tu-di cũng không lớn không nhỏ, lớn mà không hại nhỏ, nên chui vào được cái nhỏ của hạt cải. Tuy nói rằng hay vào cái chỗ xưa không động. Nếu nói không vào mà thật vào hạt cải không thể nghó bàn thì là Không đoạn phiền não mà vào Niết-bàn. Nếu hay như thế thì là yên tọa chân thật. Đây là chê Thân Tử còn đoạn nhập, không phải là yên tọa chân thật, nên nói là “bất tất”. Nếu hay như thế mà yên tọa, Phật ấn khả là ba, kết thành nghóa yên tọa chân thật: Nếu Thân Tử luôn dùng hướng đến sáu thứ Phật tuệ này tức là yên tọa rốt ráo, được Phật ấn khả đâu dám chê trách nói là bất tất. Kết thành không kham Từ “Thời ngã”trở xuống: Nghe lời nói ấy thì làm thinh, là Không hiểu sáu nghóa chê trách để chỉ rõ ý bất tất. Không hiểu thì như điếc, không thể đáp lại thì như câm, đã như thế thì đâu dám kham nhận truyền ý chỉ của Phật, nên nói: Không nhận việc đến thăm bệnh. Nếu theo cách này thì cùng việc như câm như điếc ở tòa Hoa Nghiêm nào có khác chi. Theo lý mà luận bác bỏ tuệ nghiệp Vô học của Nhị thừa để dẫn nhập vào Giải thoát bất khả tư nghị, khiến họ sinh vào Tịnh độ quả báo lại thành cái nhân cõi Phật thanh tịnh. Hỏi: Thân Tử tức là trí tuệ dùng định mà bị chê trách, Mục-liên thiền định nói pháp mà bị chê trách… Ý này thế nào? Đáp: Không phải thiền thì không có tuệ, không phải tuệ thì không có thiền. Viễn Sư có lời tựa trong Thiền kinh rằng: “Thiền mà không trí thì không thể đi sâu vào nơi yên tịch; trí mà không thiền thì không thể chiếu soi đến chỗ tận cùng”. Ngài Thân Tử nếu có đi sâu vào thiền thì mới được đại trí, nếu thiền không xa thì trí cũng không lớn. Cho nên dùng chê trách để gồm được trí vậy. Đoạn văn sau có nói: Do hướng đến Phật tuệ mà khởi yên tọa, đã không nương vào Phật tuệ mà yên tọa, đủ ở bốn vinh mà chê bỏ là ý ở đây vậy. Nếu ngài Mục-liên thâm tu thiền định mà được thần thông, sao được có thần thông mà thuyết pháp sai cơ. Nếu thuyết pháp đã nhầm thì phải biết định ấy cạn cợt. Dùng thần thông soi xét thì dụng cũng không sâu. Cho nên quở trách cách dùng Định là ý ở đây. Bát đại nhân giác như Pháp hoa đã chú sớ, nay chỉ lược nói thôi. --------------------------------- <詞>PHẨM: ĐỆ TỬ (Phần 2) Hai là Phật sai Mục-liên “Phật bảo Đại Mục-liên…” cũng có hai phần: đi thăm bệnh và Mục Liên trả lời không kham đi nổi. Phật sai bảo Sở dó sai Mục Liên kế tiếp là vì ngài Thân Tử từ chối không kham thăm bệnh. Ngài Mục-liên là thiền định bậc nhất nên sai tiếp đó. Mục-liên là họ, tên Câu-luật-đà. Vì cha mẹ không con, cầu xin ở cây mà đẻ ra ngài, nên lấy đó đặt tên. Trong Văn-thù Vấn Kinh dịch là Lai Phục Căn, vì cha mẹ thích ăn nên lấy đó đặt tên con. Ngài Chân Đế Tam tạng giáo dịch là Hồ Đậu, vì Tiên nhân đời thượng cổ thích ăn nên lấy đó làm họ, cho đến chỉ rõ chí thâm cầu khô vinh hết mực. Đầy đủ nghóa năm thứ lợi ích trước như đã nói rõ trong phần nói ngài Thân Tử. Mục Liên đáp không kham Từ “Mục-liên bạch Phật…” văn có bốn: 1/ Đáp lời không kham. 2/ Nói lý do không kham. 3/ Chính nói việc bị chê trách. 4/ Kết thành không kham. Đáp lời không kham: Xưa nói pháp cho cư só mà bị chê trách lúc đó không biết trả lời sao, nên nay đâu dám truyền ý chỉ Như Lai mà đến thăm hỏi. Nói lý do không kham Từ “Sở dó”… đến “thuyết pháp”. Do ở trong ngỏ hẻm nói pháp cho cư só. Ngỏ hẻm là một con đường nhỏ quanh co. Hoặc biểu thị cho lý đoạn của kinh quanh co lý đoán không phải là đường thẳng lớn. Cư só có nghóa như trước. Vì nói pháp: Có thầy nói là vì nói giới thiện nay e không phải. Giới thiện là nhân thiên thừa, không phải đế lý nhập đạo. Mục-liên phần nhiều nói tích không nhập đạo. Sao biết được? Vì loại chê trách các Thanh văn đều đối nhau với Bán mãn, tìm xem đoạn văn chê trách ở sau thì đúng thế. Chính kể việc bị chê trách Từ “Thời Duy-ma”trở xuống văn có ba: Một là Chê chung. Hai là chê riêng. Ba là nghe pháp được lợi ích. Một, Chê chung: “Không phải như nhân giả đã nói.” Nếu dùng tiếng bỏ tức là Không đúng pháp tướng căn duyên. Có ba thứ không đúng: Không đúng pháp tướng, không đúng căn duyên, không đúng tâm Phật. Về không đúng pháp tướng, thì pháp tướng tức không, sao nói phá bỏ, đây là trái pháp tướng, không đúng đạo lý. Về không đúng căn duyên: với đại thừa căn duyên cần nói pháp đại thừa, không thể lấy bát quý mà đựng đồ dơ, đã không được đạo lớn mà còn mất lợi nhỏ, nên là Không đúng căn duyên. Về không đúng ý Phật: Bổn ý Phật là đại sự nhân duyên, đối kẻ không nhận được thì mới dùng tiểu thừa mà tiếp dẫn. Nay đối với đại cơ tức đáng nói đại, sao bỗng lấy tiểu mà hóa độ đại căn. Đây là Không đúng ý Phật. Gồm ba ý này mà chê trách nên nói không đúng như nhân giả nói. Thật ra vì sức thiền định của Mục-liên còn cạn, nên pháp tướng không sáng tỏ, như nước không lóng trong thì tướng châu không hiện rõ. Lại định Tiểu thừa quán căn không biết lợi độn, đến nỗi có lỗi lậu cơ. Hai, Chê riêng Từ “Phàm thuyết”… trở xuống, có ba phần: là dùng ba giáo diễn môn riêng phá ba thứ không đúng của Mục-liên. Đây có ba cặp: a/ Ngoài nói đúng pháp tướng, trong hiểu đúng pháp tướng, là dùng tức không của Thông giáo mà bài bác không phải tức không, phá việc nói pháp của Mục-liên không đúng đạo lý. b/ Ngoài hiểu rõ căn duyên, trong khéo biết thiện được vô ngại, là dùng Biệt giáo mà phá việc không đúng căn duyên, không được bốn vô ngại. c/ Ngoài từ bi nghó nhớ chúng sinh, trong nghó báo đền ân Phật, là dùng Viên giáo mà phá cái không đúng tâm Phật, luôn dùng Ba giáo mà nói pháp, tức là đúng pháp tướng mà nói. Mục-liên không dùng ba thứ này nói pháp cho cư só, cho nên bác việc nói của ngài không đúng Tam tạng giáo, khiến nương ba Như pháp tướng của Đại thừa mà nói. Cặp thứ nhất có hai, là nói đúng như pháp, và hiểu đúng như pháp. Nói đúng như pháp có ba phần nhỏ: Nêu chương khuyên chung, nói riêng và phần kết. Đầu tiên, khuyên chung: Phải nương vào môn thể pháp ba không của đại thừa, như pháp mà nói. Tiếp nói riêng về thể pháp ba không Từ “pháp vô…” trở xuống phá cái lỗi dụng tích ba không. Có ba phần: Bốn phen nói về cửa sinh không của Đại thừa mà phá tích sinh không. Tám phen nói về thể pháp pháp Không mà phá tích pháp pháp Không. Bảy phen đều có sáu trường hợp nói bình đẳng Không phá bình đẳng Không của Tam tạng giáo. Cần tóm tắt phân biệt ba không khác nhau. Ba không của Tam tạng giáo, giáo là nói: Năm ấm thành người tức là ấm, lìa ấm tìm người không được nên gọi là chúng sinh không. Phân tích năm ấm không gọi là pháp Không. Nên kinh A-hàm có nói: Ai lão tử là lão tử, cả hai đều là tà kiến. Không thấy ai lão tử gọi là chúng sinh không. Không là lão tử gọi là pháp Không. Nương vào Tỳ- đàm môn chỉ nói sinh không. Thành luận không môn nói đủ ba không. Có sự giải thích bình đẳng Không rằng: Nếu có nhân pháp thì không gọi là bình đẳng, không có nhân pháp khác nhau, đó là bình đẳng. Bình đẳng tức không, nên gọi bình đẳng Không. Nay nghiên cứu lời này nếu nói bình đẳng tức là bình đẳng Không thì lẽ ra sinh pháp tức sinh pháp Không. Nếu sinh pháp thẳng thì không phải là sinh pháp Không. Phải phá sinh pháp gọi là sinh pháp Không, tức cũng phải phá bình đẳng, mới gọi là bình đẳng Không. Nếu chỉ nói hai không thì bình đẳng thuộc pháp. Pháp ngữ tuôn tràn thâu nhiếp tất cả. Nên Đại luận có nói: Pháp Vô thượng Niết-bàn, thế nên Niết-bàn không cũng là pháp Không. Tuy lại hai, ba đều là tích giả danh gọi là độ vụng về, dùng khéo phá vụng mới nói thể không. Nay dùng dụ để làm sáng tỏ cái khác nhau của tích và thể. Như ngoại đạo đưa tay lên thì ảnh trong gương cũng đưa tay lên “đầy đủ trong huyền nghóa”. Người trí phân biệt và ảnh trong gương không nắm tay kia có ngón tay cũng không trống không. Không cần phải phá tích mới biết là Không không. Ba pháp này chỉ có danh tự. Pháp danh tự thì không ở trong ở ngoài hay ở giữa, cũng không tự có, chữ ấy không trụ cũng không đâu không trụ, bặt đường ngôn ngữ không nói không bày, pháp tướng như thế há có thể nói ư? Như ba không của Tam tạng giáo, thì hai thứ trước là phương tiện, bình đẳng Không mới là chân, nếu ba không của Đại thừa thì tức chân nhập trung. Nếu ba không của Thông giáo thì cùng được thấy chân. Bậc thượng căn lợi trí tuy nhờ Thông giáo thấy Không mà chẳng Không, tức là thấy Phật tánh. Nay ngài Tịnh Danh dùng thể phá tích, nên nói không đúng như nhân giả nói. Từ “pháp Không trở xuống” là trước hết bốn phen nói thể pháp nhập chúng sinh không tức nhập Trung đạo. Hỏi: Sinh không sao được vào trung? Đáp: Đại Phẩm nói: “Tất cả pháp hướng đến ngã kiến…” Đại kinh nói: Chúng sinh và Phật tánh. “Không”tức sáu pháp mà không lìa sáu pháp. Đây nói sáu mươi hai kiến là Như Lai chủng. Nay nói pháp tức là tâm vô minh đầy đủ tất cả pháp. Nên ở đoạn văn sau nói: Tâm cấu nên chúng sinh cấu, tâm tịnh nên chúng sinh tịnh. Hoa Nghiêm có nói: Tâm như ông thợ vẽ, vẽ đủ thứ năm ấm, tất cả mọi thứ trong thế gian đều do tâm tạo, căn cứ đây để nói về tất cả pháp. Pháp Không chúng sinh, vì lìa chúng sinh cấu, thì nay có ba cách giải: Xét theo lý tánh. Xét về tuệ. Xét về phương tiện tuệ. Từ đây trở đi nói lìa tất cả quán hạnh căn cứ vào ba thứ này đều nên để ý. Xét về lý tánh: tâm và các pháp tức là pháp tánh, pháp tánh vốn tịnh, rốt ráo không có gì, sao lại có chúng sinh. Nếu không có chúng sinh, tức là Không có chúng sinh cấu. Ấy là tự tánh thanh tịnh, tâm không bị hoặc nhiễm, nên gọi là lìa. Đoạn văn sau nói: Như Ưu-ba-ly do tâm tướng được giải thoát, lúc đó có cấu chăng? Chúng sinh không cấu cũng thế. Kinh Thắng Thiên Vương có nói: Vì tự tướng Không, nên lìa tự tướng. Xét theo thật tuệ, nếu pháp tức pháp tánh, pháp tánh không có chúng sinh mà vọng chấp là có chúng sinh, cho nên có mười sáu, sáu mươi hai… các kiến phiền não cấu. Nếu hiểu biết pháp tánh, rốt ráo không có chúng sinh, tức lìa cấu các kiến trên… Nên gọi là lìa chúng sinh cấu. Xét theo phương tiện tuệ. Nếu thật tuệ cùng lý hợp nhau thường không có chúng sinh mà hiện có chúng sinh, có thể khiến chúng sinh lìa chúng sinh cấu, thì đây tức là ba thứ giải thoát, không dọc không ngang như chữ nhất ở đời. Chúng sinh Không này đâu có thể cho là đồng với Thanh văn kia. Từ đây trở đi đều có ý này. Vì không đâu không phải là quán tâm nên không cần y cứ quán tâm mà giải thích. Vì pháp chẳng đoạn rốt ráo, ngay nơi ấm mà lìa ấm, tìm ngã không được, thì ngã kiến liền diệt, mới lìa được tất cả kiến phiền não cấu là pháp thể ngã không vậy. Xét về lý, thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, pháp tánh xưa nay ngã phi vô ngã là chân vô ngã. Pháp tánh còn không có chỗ naò có ngã, tức là tự tánh lìa ngã cấu. Xét về thật tuệ, nếu pháp tánh vô ngã mà có ngã cấu, là bởi vì không biết nghóa chân vô ngã. Nếu hay nhận biết pháp tánh và vô ngã, tất cả thuộc kiến, các cấu tự lìa nên nói là lìa ngã cấu. Xét về phương tiện tuệ và kết thành ba thứ giải thoát suy như trước mà biết. Pháp Không có mạng sống vì lìa sinh tử. Theo lý giải thích tâm và các pháp tức là pháp tánh. Pháp tánh sao được có vọng báo, có mạng sống, nếu không mạng sống tức là Không có sinh tử, nên nói là lìa sinh tử. Về thật tuệ, thì pháp tức pháp tánh, hiểu biết như thế tức không thấy có mạng sống được lìa sinh tử. Về phương tiện cho đến ba giải thoát đều suy như trước nói. Pháp Không có nhân “người) vì bờ mé trước sau đều đoạn. Nếu theo sự giải thích thì bờ trước là sinh tử, mé sau là Niết-bàn. Theo lý giải thích, thì tâm và các pháp tức là pháp tánh sao lại có sinh tử Niết- bàn trước sau? Nếu căn cứ pháp tánh không phải hai pháp, thì tức là Trung đạo Phật tánh, sao có trước sau, ấy tức là từ xưa không có nên nói là đoạn dứt. Kế tiếp xét theo thật tuệ, do vô minh không biết nên vọng chấp là có. Nếu thể nhập pháp tức là pháp tánh không đồng sinh tử của phàm phu, không đồng Niết-bàn của Nhị thừa, nên nói bờ mé trước sau đều đoạn dứt. Về phương tiện tuệ cho đến ba giải thoát giống như trước nói. Từ “Pháp thường”trở xuống là tám phen nói phân biệt pháp nhập vào pháp Không. Pháp thường vắng lặng vì các tướng diệt mất, nếu theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, gọi là thường tịch nhiên, tức là Đại Niết-bàn không thể diệt mất, mà nói các tướng diệt mất, về lý của pháp tánh vốn không khởi tướng. Đây là căn cứ tánh diệt nên nói là diệt. Nếu xét theo thật tuệ, thì thể đạt lý tịch nhiên, các tướng vọng tưởng tự nhiên diệt mất. Còn xét theo phương tiện cho đến ba giải thoát thì đều như trước đã nói. Lìa pháp bỏ tướng vì không chỗ duyên, nếu theo lý giả thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, vốn không có mười tướng nên nói là lìa tướng. Nếu không có tướng cảnh thì không bị vọng niệm duyên với trí thức. Theo thật tuệ giải thích, thì nếu hiểu biết tự tánh của pháp tánh là lìa tướng, thì vọng niệm tự dứt, không duyên với niệm. Lý trí hợp nhau thì có phương tiện, cho đến ba giải thoát như trên. Pháp Không danh tự vì ngôn ngữ đoạn dứt, nếu theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh vốn không thể nói, gọi là ngôn ngữ đoạn dứt. Nếu theo thật tuệ giải thích, thì thấu suốt lý pháp tánh, tức vô ngôn thuyết , nên gọi là ngôn ngữ đoạn dứt . Lý trí hợp nhau thì có phương tiện cho đến thành ba giải thoát suy diễn như trước. Pháp Không nói năng lìa bỏ giác quán, nếu theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, xưa nay không nói năng, sao có giác quán. Nếu theo thật tuệ giải thích thì thấu suốt pháp tánh không có nói năng, thì phan duyên với giác quán tự nhiên không khởi, nên nói là lìa bỏ. Lý trí hợp nhau cho đến ba giải thoát nên biết. - Pháp Không hình tướng vì như hư không, theo lý giải thích thì, tâm và các pháp tức là pháp tánh, không hình không chất, không có tướng mạo, không thể phân biệt, cũng như hư không. Nếu căn cứ thật tuệ, là thấu suốt pháp tánh không thấy tướng mạo, tâm như hư không. Lý trí hợp nhau cho đến ba giải thoát nên biết. Pháp Không hý luận vì rốt ráo không, căn cứ lý giải, tâm và các pháp tức là pháp tánh, vốn không ái kiến, pháp hý luận rốt ráo không có. Theo thật tuệ giải thích, thì thấu suốt pháp tánh vốn không hý luận, tức rốt ráo không tịch. Lý trí hợp thành ba giải thoát nên biết. Pháp Không có ngã vì lìa ngã sở: theo lý giải thích , thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, xưa nay vốn không ngã, sao có ngã sở. Vì tự tánh lìa vậy. Theo thật tuệ giải thích là thấu suốt pháp tánh là vô ngã, tức lìa tất cả ái trước. Lý trí hợp thành ba giải thoát nên biết. Pháp Không phân biệt vì lìa các thứ, theo lý giải thích thì, tâm và các pháp tức là pháp tánh vốn không phân biệt, vì tánh không phải sáu, bảy, tám thức. Xét về thật tuệ, thì thấu suốt pháp tánh là lý không phân biệt, tức lìa các thức sinh tử duyên khởi. Lý trí hợp nhau cho đến ba giải thoát nên biết. Từ “Pháp Không”… trở xuống là bảy phen và các trường hợp bình đẳng Không pháp Không vậy. Pháp Không so sánh không có tướng đối đãi, theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh. Như Đại Phẩm có nói: Bồ-tát khi hành Bát-nhã không thấy ngoài pháp tánh còn có pháp, đã không có pháp lấy gì so sánh, tức là dứt hết đối đãi. Hỏi: Nếu nói pháp Không có so sánh là tuyệt dứt đối đãi, “tuyệt đãi) là chỉ lấy đối đãi mà nói là Không đối đãi, há là tuyệt mất ư? Đáp: Nếu dùng tâm có đối đãi, phân biệt không có đối đãi, thì cũng là chấp có đối đãi. Nếu pháp tánh không tâm, thì tất cả đối đãi đều là Không đối đãi. Theo thật tuệ, giải thích thì thấu suốt pháp tánh lại không có một pháp nào có thể so sánh, hoặc đối đãi nhau tự nhiên diệt mất. Lý trí hợp nhau phương tiện không trệ ngại, cho đến thành ba giải thoát nên biết. Nay lấy không đối đãi mà đối với bình đẳng Không, thì mê hoặc về đối đãi đã vi tế, cho đến lý bình đẳng cũng còn. Nếu có thể dứt hết đối đãi, tức không đối đãi mà chẳng đối đãi, nên pháp bình đẳng cũng là Không. Nhưng Tam tạng giáo nói về bình đẳng Không thì chỉ là đối đãi của thiên chân, do đâu mà dứt được. Nay nói pháp tánh không có so sánh, tâm trí chướng diệt mới là nghóa tuyệt đãi thật sự, pháp Không thuộc nhân vì không ở nơi duyên, theo lý giải thì tâm và các pháp tức là pháp tánh vốn chẳng phải sáu nhân không ở bốn duyên, cũng không phải mười hai nhân duyên lưu chuyển. Nhưng sáu nhân thì có nhân Sở tác mà có chỗ tạo tác, bốn duyên thì có duyên tăng thượng, cùng đối đãi nhau, ý đồng. Cho nên thuộc bình đẳng Không phá bỏ. Xét theo thật tuệ, nếu hiểu pháp tánh không phải là sáu nhân, bốn duyên và mười hai nhân duyên thì như trên nói đều diệt mất. Lý trí hợp nhau cho đến ba giải thoát nên biết. Pháp đồng pháp tánh vì nhập vào các pháp, theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, nên nói là đồng. Trong tất cả pháp đều có tánh an lạc, một pháp vào tất cả pháp, tất cả pháp vào một pháp. Cho nên nói: Nhập vào các pháp. Theo thật tuệ giải thích thì, thấu suốt pháp tánh tức là trí tuệ, nhập vào tất cả pháp đều là pháp tánh. Lý trí hợp nhau cho đến thành ba giải thoát nên biết. Pháp tùy thuộc ở Như không chỗ có gì tùy thuộc. Theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, pháp Không trái Như nên nói là pháp tùy theo Như, pháp tức pháp tánh, mà pháp tánh tức Như, không có năng sở khác nhau, nên nói là Không có gì tùy thuộc. Về thật tuệ thì, thấu suốt pháp tánh như như không khác, tức không thấy có trí năng quán mà khác ở như, nên nói không có gì là tùy. Lý trí hợp nhau cho đến ba giải thoát nên biết. Pháp trụ thật tế vì các biên không động. Theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh. Pháp tánh tức là tên khác của thật tế. Nếu pháp nương vào pháp tánh tức là trụ ở thật tế. Thật tế không phải biên, nên không động ở bốn biên, hay hai biên. Theo thật tuệ, giải thích thì có thể thấu suốt việc trụ ở thật tế nên không bị bốn biên, hai biên tà kiến lay động. Lý trí hợp đến ba giải thoát nên biết. Pháp Không dao động vì không nương vào sáu trần. Theo lý giải thích, thì tâm và các pháp tức là pháp tánh không nương vào sáu trần. Theo thật tuệ giải thích thì nếu thấu suốt pháp tánh tức là sáu căn, luôn tịnh không nhiễm sáu trần. Lý trí hợp cho đến ba giải thoát nên biết. Pháp Không tới lui vì thường không trụ . theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh, không tới không lui, ắt không hề có ttrụ. Thật tuệ giải thích thì thấu suốt pháp tánh vốn không tới lui, tức không trụ ở sinh tử hay Niết-bàn. Lý trí hợp nhau cho đến ba giải thoát nên biết. Pháp thuận Không tùy vô tướng ưng vô tác. Như kinh Thanh văn nói: Ba thứ Tam-muội căn cứ mười sáu hành thì Đại thừa nói nghóa đồng còn duyên thật tướng, tùy thuận mà ứng hóa. Ba tên tuy khác mà đồng một thật tướng. Nếu giải thích theo lý thì ba thứ Tam-muội, như kinh Tư Ích nói: Tất cả chúng sinh tức là diệt định không có ba thứ sai biệt thì tự có theo thật tuệ mà nói ba thứ Tam-muội tức là nói nghóa trở về gốc và tự có dựa theo ứng dụng luận về ba thứ Tam-muội, tuy thuận tướng hữu tác mà ở nội tâm không trái thật pháp, tức là ba thứ giải thoát chuẩn theo trên. Lìa pháp tốt xấu, nếu theo lý giải thích thì tâm và các pháp tức là pháp tánh không có Niết-bàn là tốt, sinh tử là xấu. Nếu theo thật tuệ giải thích thì thấu suốt pháp tánh không có tốt xấu, lìa bỏ cái khác nhau của sinh tử đáng ghét và Niết-bàn đáng yêu. Lý trí hợp cho đến ba giải thoát chuẩn theo trên. Pháp Không tăng giảm: tâm và các pháp tức là pháp tánh, không có sinh tử tăng thêm, không có Niết-bàn giảm bớt. Về thật tuệ và lý trí hợp thành ba thoát cùng suy như trước. Pháp Không sinh diệt: là tâm và các pháp tức là pháp tánh. Xưa vốn không sinh, nay thì không diệt. Pháp Không chỗ về, tâm và các pháp tức là pháp tánh, sao lại có chỗ về. Pháp ở ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm, tâm và các pháp tức là pháp tánh ở ngoài sáu vọng căn, vì không thuộc căn. Pháp Không cao thấp, tâm và các pháp tức là pháp tánh, còn không có cái cao chủng trí Niết-bàn, thì đâu lại có cái thấp của phiền não sinh tử. Pháp thường trụ bất động, tâm và các pháp tức là pháp tánh thường hằng không biến đổi, nên nói là bất động. Lìa pháp tất cả quán hạnh, tâm và các pháp tức là pháp tánh, vốn không có quán hạnh, vì tự tánh vốn lìa. Từ “Không sinh diệt”… trở xuống sáu câu, đều phải dựa theo thật tuệ và lý trí hợp thành phương tiện tuệ, làm nghóa ba giải thoát thì chuẩn theo trên mà biết. Hỏi: Sao được các câu giải thích theo ba cách đều có đủ ba giải thoát? Đáp: Đại kinh có trăm câu giải thoát, Hoa Nghiêm có vi trần giải thoát, Pháp Hoa có nhất thiết giải thoát. Nay mấy mươi câu sao gọi là nhiều. Nếu không có câu câu biện giải, câu câu tung hoành dọc ngang thì đâu giống chữ Y, giống như ba mắt của Thủ-la ở đời và khác với Tam tạng giáo ư? Đây chỉ nói tổng quát. Cuối cùng là kết phá: Đã không thể như ngài Tịnh Danh nói như pháp tướng, mà lại dùng pháp của ba thừa tuyên nói cho các cư só trái với đại pháp tướng nên bị chê trách là Không đúng như nhân giả nói. Hỏi: Pháp tánh không thể nói, sao ngài Tịnh Danh nói được? Đáp: Ở đoạn văn sau có nói: Không lìa văn tự nói tướng giải thoát lìa tánh văn tự tức là giải thoát. Giải thoát tức là các pháp. Ngài Tịnh Danh dùng bốn Tất-đàn khéo léo không nói mà nói, tức là như pháp tướng mà nói. Từ “Phàm nói”trở xuống là phẩm hai của cặp thứ nhất nói không thể hiểu đúng pháp tướng. Lại có hai phần nhỏ: và mượn huyễn làm dụ. Chánh thức chê: Nói phàm thuyết pháp là Không nói không chỉ bày, đây tức là như pháp tướng mà hiểu. Pháp tướng chân như, không nhân không ngã, thì ai là người nói. Nếu không có người nói, tức không thể chỉ bày. Không người nói, tức như Đại kinh có bốn bất khả thuyết. Không chỉ bày tức không có bốn lý để chỉ bày. Nên kinh Pháp Hoa nói: Pháp ấy không thể chỉ bày, vì tướng ngôn từ lặng dứt, các loại chúng sinh khác không thể hiểu được. Người nghe pháp Không nghe, không được gì, nếu như pháp tướng mà hiểu, chẳng những không có người có thể nói mà cũng không có kẻ nghe pháp. Đã không có người nghe thì ai nghe ai được. Không nghe tức là Không có bốn môn nghe ở bốn nói, không được tức là Không có bốn lý có thể chứng. Nếu Mục-liên không thấu suốt cái thể này tức là còn chấp chặt có thầy trò năng sở, đâu được là như pháp tướng mà hiểu. Huyễn dụ “Từ Thí như … nội pháp”Bồ-tát nhập vào Như huyễn Tam-muội mà hiểu biết, kẻ nói người nghe đều biết là người huyễn hóa, tuy biết không thật mà có điều nói ra, tức là biết bốn thứ bất khả thuyết. Tất-đàn phó duyên chỉ cho mọi người bốn lý mà lý cũng như huyễn hóa. Cho nên trong Đại phẩm có nói: “Giả sử có pháp hơn Niết- bàn thì ta cũng nói đó là như huyễn.” Người ví như nghe đều do vô minh huyễn sự mà có, thế thì không có mà có. Tuy có việc nghe nhưng là nghe huyễn, không nghe không được gì. Nếu ngài Mục-liên nhập vào Như huyễn Tam-muội mà nói thì có thể như pháp tướng mà hiểu, nếu không như thế tức là Không như pháp tướng mà hiểu, thì sao có thể như pháp tướng mà nói. Nên chê trách là Không phải như nhân giả nói, ý là ở đây vậy. Cặp thứ hai, Chê trách nói pháp Không hợp căn duyên Từ “Phải hiểu…” trở xuống. Đây là Không hiểu Biệt giáo không nhập giả quán, không được đạo chủng trí pháp nhãn mà biết bệnh biết thuốc, tùy bệnh cho thuốc. Văn có hai phần: Trách không biết căn và trách đối với tri kiến có trệ ngại. Trách không biết căn: Nói phải hiểu căn chúng sinh có lợi độn, Mục-liên hoặc nghó rằng Như Lai cũng nói pháp này sao bị chê trách. Ngài Tịnh Danh biết ý nghó đó liền quở rằng: Như Lai biết căn cho nên ở kinh Thanh Văn thì nói giáo tích Không này. Nay cư só lợi căn sao dùng cách vụng về mà nói pháp cho họ. Cho nên nói thể Không để hợp cơ của họ mà khéo léo ở tri kiến không hề trở ngại. Trách tri kiến có trệ ngại. Vì không có chủng trí pháp nhãn, nên nói pháp có trệ ngại. Nay ngài Tịnh Danh thấu suốt được đạo chủng trí của Biệt giáo, nên biết pháp Không trệ ngại. Được pháp nhãn, nên thấy pháp Không trệ ngại, nên biết bệnh biết thuốc, tùy bệnh cho thuốc. Dùng bốn vô ngại mà phó cơ không trệ ngại. Cặp thứ ba, Trách nói pháp vận tâm không đúng ý Phật Từ “Dó đại…”trở xuống. Đây do không hiểu Đại thừa của Viên giáo, nên trách không phải như nhân giả nói. Văn có hai phần: Phải khởi tâm đại bi và nghó báo ân Phật. Đem tâm đại bi mà khen ngợi Đại thừa. Bi thường cứu khổ . nếu bi Tiểu thừa thì nói cứu khổ nhỏ trong cõi “nội giới, còn bi Đại thừa thì có khả năng cứu khổ lớn ở trong ngoài cõi và khiến được giải thoát bất tư nghị trụ ở Đại Niết-bàn. Nghó báo ân Phật Từ “Niệm báo… thuyết pháp”. Ngài Mục- liên nhờ Phật mà được giải thoát nên nghó báo đền ân Phật, phải độ chúng sinh nối thạnh giống Tam bảo. Nay nói Tiểu thừa vô thường nhập Không, khiến cư só đoạn kiết nhập diệt, tức là dứt giống Tam bảo, đâu gọi là báo ân. Nếu theo Viên giáo thâm quán, tất cả các pháp khai Phật tri kiến tức là ba thoát, ba đức, ba báu không dọc không ngang, khai tâm chân giải, tâm tâm đều vắng lặng, tự nhiên lưu nhập vào biển Tát-bà-nhã. Đó là Không đoạn giống Tam bảo tức là thật báo ân Phật xứng hợp tâm Phật. Cư só được lợi Từ, “Duy-ma… Bồ-đề tâm”Ngài Tịnh Danh đã hay như pháp tướng mà hiểu, Như pháp tướng mà nói, khế hợp với Đại cơ, thì tám trăm cư só đều phát đại tâm. Kết thành không kham, Từ “ngã vô… vấn bệnh”. Ngài Mục-liên tự xét mình không đủ biện tài của ba giáo đến nỗi khi xưa bị chê trách. Nay đâu dám nhận lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh. <詞>PHẨM: ĐỆ TỬ (Phần 3) Ba là Phật sai ngài Đại Ca-diếp. Văn có hai phần: Phật sai thăm bệnh và Ca diếp trả lời không kham nhận được. Sở dó Phật sai đi vì trong hàng Thanh văn, ngài có hạnh Đầu-đà bậc nhất. Ca-diếp là họ, Hán dịch là Quy, tức lấy họ làm tên, như ngài Mục-liên vậy. Nói đại (lớn) là do trí lớn, đức lớn hoặc tâm lớn, nên gọi là Đại Ca-diếp. Vì sao? Đó là căn tánh hàng Đại Bích-chi, xuất hiện ở đời không có Phật cũng có khả năng một mình được giác ngộ thành Bích-chi-ca-la. Nay đã gặp Phật làm hàng Thanh văn, trí tuệ ngài vượt trội hơn hết nên gọi là đại. Cũng do đức mà được gọi đại, là người Đầu- đà khổ hạnh bậc nhất, đức rất trọng đại nên gọi là đại. Hoặc do tâm mà được gọi đại, là trong hàng đệ tử Thanh văn, ngài có tâm từ bi lớn nên gọi Đại. Có người nói ngài là Tăng thượng tọa xem xét việc chúng, nên gọi là Đại Ca-diếp. Nếu xét đến chỗ cùng cực cho đến nêu năm nghóa lợi ích, thì đại ý đều giống trước. Đáp lời không kham “Ca-diếp bạch Phật”trở xuống. Văn có bốn: Đáp lời không kham. Nói lý do không kham. Chánh kể việc không kham. Kết thành không kham. Đáp lời không kham, do xưa bỏ giàu theo nghèo mà bị chê trách không đáp được, nên không kham lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh. * Nói lý do không kham Từ “Sở dó … hành khất” là do khất thực. Khất thực tức một trong mười hai hạnh Đầu-đà. Giải nghóa mười hai hạnh Đầu-đà có ba ý: Một là căn cứ sự lý của Bán tự. Hai là căn cứ sự lý của Mãn tự. Ba là căn cứ theo quán tâm. Đầy đủ trong văn. Vì nhiều nên lược không kể lại đây. Có sư nói Tiểu thừa thấy lý gọi là nghèo. Nay xin hỏi, nếu nói lý nghèo là Tiểu thừa, thì ngài Thiện Cát “Tu-bồ- đề) theo giàu phải gọi là Đại thừa. Đã không phải Đại thừa thì nghóa này đã hỏng. Nay theo quán giải căn cứ hai môn Hữu, Không. Ngài Ca-diếp do Hữu môn vào đạo, hữu môn là hạn cục hẹp hòi nên gọi là nghèo. Ngài Thiện Cát từ Không môn vào đạo vì Không môn rộng lớn nên gọi là giàu. Tuy là hữu - không khác nhau, nhưng đồng là Tam tạng giáo không liên quan chi đến Đại thừa. Nên Thành luận luôn luôn bài bác Tỳ-đàm, là ý ở đây vậy. Sợ e người nhầm lẫn lấy làm quán hạnh sai kinh nên cần so sánh bác bỏ. Đây không phải nghóa chánh của kinh nên không cần phải chấp. Nay nói người nghèo đi xin ăn có hai ý: Lợi tha và Tự lợi. Lợi tha: người có tâm từ bi thấy người nghèo hèn bèn ôm bát đến làm phước, khiến họ hiện đời chuyển báo ở kiếp sau sẽ khỏi khổ. Lại chúng sinh không khổ thì không cầu Niết-bàn, người gặp nghèo khổ tất dễ hóa độ, nên cần phải đến đó. Còn người giàu tham đắm hội vui không theo sự giáo hóa, đến đó chỉ kêu gọi cũng vô ích thôi. Tự hành: Nhà giàu lầu các cao rộng cầu khó được và ắt khi ngừng mà bỏ sự nghiệp. Theo nghèo thì dễ không ngại gì. Lại người nghèo có quả báo kém, ăn uống đạm bạc nên không sinh tâm đắm nhiễm. Người giàu thì ăn uống ngon quý, đầy đủ, có nhiều thói tật trái hạnh Đầu-đà, không làm khuôn phép cho mọi người, vì thế, tình có lệch lạc đến nỗi bị chê trách, đó là lý do không kham đi thăm bệnh. Chánh kể việc bị chê trách Từ “Thời Duy-ma trở xuống. Văn có ba: Một là chê chung. Hai là chê riêng. Ba là kính trọng. Chê chung: Có tâm từ bi mà không ban khắp: ngài có tâm từ bi bậc nhất trong hàng Thanh văn. Như Lai khen ngợi và mời ngài cùng ngồi, chỉ vì từ bi của Tiểu thừa mà không khắp đủ. Lợi tha mà không bình đẳng. Vì bỏ giàu theo nghèo mà bị Đại só trách. Vì Phật chế hạnh Đầu-đà khiến phải thứ lớp khất thực, nay bỏ giàu theo nghèo là trái ý chỉ Phật. Nếu vì hiện khổ cứu nghèo khiến ở vị lai được vui, thì giàu lại đam mê ham muốn chẳng biết tu, khi sắp đọa vào hố sâu sao chẳng đến hóa độ khiến đời sau được giàu tiếp. Nếu bỏ mà không hóa độ sao bảo là khắp từ bình đẳng. Nếu nói làm nhân giải thoát thì phải giàu nghèo cùng độ bình đẳng, độ đã không bình đẳng đâu thể thành khắp đủ. Nếu bảo người nghèo chán khổ dễ độ. Dễ độ vốn chỉ liên quan đến phước tuệ hà tất phải nghèo khổ. Nếu tự hành là dễ sao lại tiếc một thời gian ngắn để giáo hóa mà khiến người giàu mất lợi ích. Dầu để tâm giáo hóa kẻ giàu thì có hại chi đến tự hành. Nếu bỏ đạo pháp mà đến với kẻ nghèo thì cũng phải đến với người giàu. Nếu bỏ đạo pháp đến với người giàu có hại thì đến với kẻ nghèo cũng có hại, cả hai bên đều có hại thì sao đến một bên mà bỏ một bên. Vả lại, đối với pháp bình đẳng thì đối với ăn cũng phải bình đẳng, nếu ngon và không ngon đều bình đẳng mà pháp và ăn không bình đẳng thì có bao nhiêu hạnh đều không bình đẳng. Thế nên chê rằng có lòng từ bi mà không khắp đủ. Nay khi người khất thực quán hạnh phải làm theo lời của ngài Tịnh Danh. Chê riêng: “Ca-diếp” trở xuống. Văn có bốn phần: Trách khất thực tâm quấy. Trách vào xóm tâm quấy. Chỉ pháp chánh thực. Kết khuyên. Phần một có bốn: Phá Tiểu thừa chứng diệt. Phá biết khổ. Phá đoạn tập. Phá tu đạo. Hỏi: Nếu căn cứ Tứ đế mà phá tâm quấy, thì nên trước đối khổ mà phá, sao lại đối diệt? Đáp:Ngài Ca-diếp chứng Niết-bàn hữu dư đi khất thực mà tâm quấy, nên trước phải căn cứ vào diệt. Kế mới phá tâm xưa khế hợp vào việc bây giờ quả là tâm có sai trái, cho nên căn cứ ba đế còn lại để phá. Phải trụ vào pháp bình đẳng mà thứ lớp khất thực, là trước hết phá bỏ lý diệt chưa được bình đẳng, gặp việc lấy bỏ, đến nỗi trái pháp khất thực thứ tự. Nếu Bồ-tát được diệt đế lý bình đẳng, tức tâm làm bình đẳng xem như hư không, đối với các việc thiện và bất thiện đều dùng lòng từ, tức đối với giàu nghèo tâm không lấy bỏ hay thứ lớp mà tìm cầu. Đại Phẩm nói: Tu-bồ-đề bạch Phật trong tâm thứ lớp có hành Bát-nhã chăng? Phật đáp: Thường không lìa tâm Tát-bà-nhã làm hạnh sinh tu, tức là trụ vào pháp bình đẳng mà hay thứ lớp làm hạnh sinh tu, tức là ở lý trung mà thứ lớp cầu pháp hỷ thiền duyệt. Do bổn thùy tích nên gặp việc đi khất thực, do tích hiển bổn nên thường làm bình đẳng. Như ngài Ca-diếp phá tám tà vào tám giải thoát, nhưng chỉ được pháp hỷ thiền duyệt của Tiểu thừa. Đây tức là bỏ tà lấy chánh sao được gọi là thứ lớp cầu pháp hỷ thiền duyệt. Bồ-tát tuy biết pháp tánh chân diệt bình đẳng mà không thể bỏ tám tà vào tám giải thoát, tức là thứ lớp cầu pháp hỷ thiền duyệt Đại thừa. Vì sao? Vì tâm Tát-bà-nhã từ thiền duyệt của phàm phu mà vào các định thế gian, lại vào định xuất thế gian của Nhị thừa, lại vào các thiền thượng thượng của Bồ-tát đều là Ma-ha Diễn đều không thể được, cho nên đối với mỗi mỗi thiền đều có một tâm ba trí mà được chân pháp hỷ. Đều có ba đế Tam-muội nên được chân thiền duyệt. Nên nói trụ pháp bình đẳng phải thứ lớp mà đi khất thực. Ấy là Bồ-tát làm thứ lớp, học thứ lớp, đạo thứ lớp. Kinh Pháp Hoa có nói: “Khéo thường thứ lớp tu tập các pháp lành.” Cho nên Bồ-tát khi thực hành hạnh Đầu-đà thì tâm đại bi bình đẳng như hư không. Chẳng xem giàu nghèo, tâm không lấy bỏ, căn cứ vào pháp khất thực mà thứ lớp đi xin ăn. Ngài Ca-diếp nội tâm không được Vô duyên đại từ, không trụ vào bản hữu diệt đế chân pháp bình đẳng cho nên không thể đối với các thiền chánh tà mà thứ lớp được pháp hỷ thiền duyệt của Đại thừa. Chỉ trụ vào diệt đế thiên chân mà bỏ sinh tử, cho nên gặp việc đi khất thực thì tâm có lấy bỏ, bỏ giàu theo nghèo mà ngài Tịnh Danh trách là ý ở đây vậy. Căn cứ ở biết khổ để phá: Vì không có ăn nên phải khất thực. Chỉ vì khổ đế là thân ấm nhập nên cần phải khất thực để nuôi tánh mạng. Nếu ngài Ca-diếp không phá khổ đế này vì cầu Niết-bàn mà theo pháp Không ăn, nên cần phải khất thực để nuôi sống thân hành đạo. Nếu phát nhân vô lậu vào vô dư như hư không tức là Không ăn. Nếu ở địa hữu học tuy phát vô lậu nhưng các kiết chưa hết, thì nhân không ăn chưa thành, có thể cho vì không ăn cho nên phải đi khất thực. Ngài Ca-diếp các kiết lậu đã hết, nhân ăn đã mất. Nếu là Không ăn thì chỉ bảy ngày không ăn liền nhập vô dư, tức không còn hoạn nạn về ăn uống, còn ngày ngày đi khất thực thì ý muốn làm gì. Nếu vì lợi sinh khiến được không ăn mà đi khất thực thì không nên bỏ nhà giàu và vào vô dư. Nếu Bồ-tát quán khổ vì lẽ không ăn nên phải đi khất thực, là muốn phá cái ăn sinh tử nội ngoại giới để cầu Vô thực Tam-muội Đại Niết-bàn, cho nên cần đi khất thực để nuôi thân mà tu nhân không ăn thì việc này không lỗi. Nếu vì hóa độ chúng sinh khiến được quả không ăn, thì giàu nghèo đều đến khất thực để độ đời, trọn không tắt mất mà vào Niết-bàn không ăn uống. Đây đều là quán tâm, không cần làm nữa. Căn cứ ở đoạn tập mà phá “Vì hoại tướng hòa hợp nên phải nhận cách ăn đoàn thực”. Tập là phiền não hòa hợp tùy sự thọ báo, tức cần có bốn cách ăn. Vì Ca-diếp đoạn tập vốn phá sự hòa hợp này nên tìm cách ăn đoàn thực để nuôi thân mà quán hạnh. Nếu ở địa Hữu học mà tập hòa hợp chưa hết, có thể nên đi khất xin đoàn thực nuôi thân để đoạn cho hết. Nay chứng hữu dư tập hòa hợp đã hết, lại đi khất thực nuôi thân, là ý gì? Nếu nói là phá tập hòa hợp chúng sinh thì không nên bỏ nhà giàu và nhập vô dư. Bồ-tát không như thế, khi phá nội ngoại giới Tập đế chưa hết, phải nhận cách đoàn thực để nuôi thân mà phá tướng hòa hợp. Nếu vì hóa độ người không nên lựa giàu nghèo, đều khiến họ như mình, không nên vội nhập Niết-bàn. Căn cứ ở tu đạo mà phá “Vì không thọ mà thọ thức ăn”. Ngài Ca- diếp không vì được quả không ăn uống nhưng cần nhận ăn uống nuôi thân để tu đạo, thế thì có ăn mới sống, có thân mới có đạo. Như bậc Hữu học thì cho nhận thức ăn ấy để tu đạo không ăn. Nay đã ở bậc Vô học nhân không ăn đã thành sao còn thọ nhận. Nếu vì lợi sinh khiến được nhân này thì không nên bỏ nhà giàu và nhập Niết-bàn. Nếu Bồ-tát vì tu Đạo đế vô tác làm nhân không ăn, nên nhận thức ăn cầu nhập Niết-bàn là quả không ăn.. Nếu vì lợi sinh khiến họ được nhân quả không ăn, thì nên giàu nghèo đều thọ nhận. Lại chúng sinh chưa được nhân quả này nên thị hiện sống lâu trên thế gian để khiến họ được phước mà không nhập Niết-bàn. Trách vào xóm tâm quay: “Vì tưởng xóm vắng…” trở xuống. Văn lại có hai phần nhỏ: Trách chung. Trách riêng. -Trách chung là trách bỏ nhà giàu theo nhà nghèo, là trách khi vào xóm có tâm lấy bỏ. Vì sao? Vì khi vào xóm thấy có trần cấu, tức có phân biệt giàu nghèo, có sáu trần tốt xấu, cho nên sinh lỗi bỏ giàu theo nghèo, lòng từ bi không khắp, nhân đó mà bị quở trách. Nếu vì tưởng xóm trống vắng mà vào xóm thì xóm trống vắng ở thế gian không có người vật tốt xấu khiến sinh lấy bỏ. Nếu có thể quán trần như thế thì không có giàu nghèo tốt xấu để có thương ghét mà có lánh bỏ, mà bị luận là làm mất lợi ích, thì đâu có lỗi lòng Từ không khắp đủ. Lại nếu theo sự mà giải thích thì nơi người vật tụ tập gọi là xóm làng. Còn theo lý mà giải thích thì căn là chỗ nương nhóm của trần và thức, gọi là xóm làng. Nên kinh Kim Quang Minh có nói: “ làng sáu nhập là nơi giặc kết ở, tất cả tự ở đều không biết nhau.” Đại Phẩm cũng nói: Tất cả pháp đến nhãn cho tới đến ý, phải biết sáu căn là chỗ nương tựa của tất cả trần thức tốt xấu. Trên đây căn cứ chung về xóm làng ngoại đạo mà chê trách Ca-diếp trệ ngại nơi hữu, nay căn cứ sáu căn nói làng bên trong trách người quán không biết sáu căn mà có trệ ngại với trần nên bị lỗi lấy bỏ. - Trách riêng “Sở kiếp”trở xuống, hễ người có phân biệt thì có yêu ghét. Mù, là Không thấy nên không lấy bỏ. Ngài Ca-diếp là Thánh nhân nhập quán duyên chân giống với người mù, khi xuất quán trở về duyên tục thì đồng với kẻ phàm phu. Vì có tình ý lấy bỏ nên ở trong sắc cũng sinh cái thấy giàu nghèo. Bồ-tát thì không như thế. Không bỏ đạo pháp đồng với cái thấy của phàm phu mà thấy sắc tức không, không còn phân biệt, nên đồng với người mù. Tuy không phân biệt mà hiểu rõ tất cả pháp là Không đồng với mù, vì tuy phân biệt mà không lấy bỏ, luôn từ tâm bình đẳng. Lại nữa, nếu biết tất cả pháp đến với nhãn, hiểu nhãn là xóm làng, tức được nhục nhãn thanh tịnh của Bồ-tát, thấy sắc khắp mười giới gọi là thấy không bị nhiễm trước, tức đồng với người mù. Đại kinh nói: “Người học Đại thừa tuy có nhục nhãn mà gọi là Phật nhãn.” Ấy là năm nhãn đầy đủ. Thấy sắc thô tế theo lý ba đế gọi là thấy mà thật không có gì thấy, tức đồng với người mù. Nên Đại Phẩm có nói: Ta dùng năm nhãn quán sát không thấy có ba nhóm chúng sinh, ấy là Không thấy mà thấy, không thấy nên đồng với người mù, mà thấy nên năm nhãn đầy đủ. Ấy là từ vô duyên bình đẳng trùm khắp. Năm nhãn thanh tịnh thấy mười pháp giới, cứu khổ ban vui, khắp đồng phước lợi, đâu có một chút tà vạy bên trong mà bỏ giàu theo nghèo. Thiết luân còn như thế, há Đồng luân sắp lên mà có thể so sánh được sao? Từ “Sở văn đến trí chứng”đây là chê ngài Ca-diếp xuất quán vào xóm làng không hiểu rõ. Tiếng “không” là như tiếng vang trong hang, cho đến thân không nhận các xúc như dùng trí mà chứng, cho nên đến với bốn trần như tiếng v.v… của giàu nghèo mà sinh khó dễ, lấu xấu bỏ tốt khác đối với nhập quán chứng diệt định. Bồ-tát không như thế. Vì hiểu tánh của tai là Không, nên tiếng như âm vang, cho đến đối xúc cùng trí khế hợp lý cả hai đều không khác, ắt không có lý bỏ, lý lấy nên đối với nghèo giàu tình không lấy bỏ, một tướng từ tâm, phước lợi đồng khắp. Bồ-tát biết tất cả pháp đến tai đều bình đẳng, Thể thấu suốt tức không, cho đến không thấy có đến hay không đến, thân như gương sạch, cả y chánh mười giới đều hiện trong thân. Rộng như trong kinh Pháp Hoa nói về sáu căn thân thanh tịnh rất đầy đủ, căn cứ vào sắc mà biết. Từ “Tri chư… đến vô diệt”, là chê ngài Ca-diếp không biết ý căn tức không, các pháp như huyễn, cho nên phân biệt nghèo giàu khó dễ khác nhau. Giàu thì oai nghi lễ tiết rắc rối khó gần, nghèo thì hệch hạc sơ sài tới lui dễ dàng, cho nên từ bi có ngăn cách, phước lợi có lệch lạc, trái với chánh pháp Đầu-đà bình đẳng. Bồ-tát thể theo đó mà biết tất cả pháp đều từ vô minh khởi lên, đều như huyễn hóa, hóa nên không phải là thật tướng. Như Phật đáp lời Đức Nữ rằng: “như huyễn không phải trong ngoài, mà hiện ra tất cả việc huyễn hóa.” Vô minh cũng thế, không phải trong ngoài mà có tất cả pháp. Nay thể theo ý có bốn trường hợp xét về sinh đều không thể được, tức xưa không sinh thì nay không diệt. Nếu xưa không sinh nay không diệt, thì không còn có sinh tử Niết- bàn để lấy bỏ, huống là có giàu nghèo dễ khó mà lấy bỏ ư? Đây là thấu suốt ý Trung đạo, vì lợi ích chúng sinh mà giao du cả chân tục nên đối với giàu nghèo khó dễ đều đến khất thực. Bồ-tát biết tất cả pháp đến ý tức không thì không thấy có đến và không đến. Các thứ khác như phân biệt về nhãn đã nói rộng như trong kinh Pháp Hoa. Phần ba. Chỉ pháp chánh thực Từ “Ca-diếp”trở xuống. Văn cùng có hai phần: Chỉ về chánh thực và Giải thích lại. - Chỉ về chánh thực, lại có hai: Nói về thể của ăn và nói về dụng của ăn. Nói về thể của ăn, tức khất thực có tâm quấy, thật ra vì không biết pháp chánh thực. Do đó ở đoạn văn sau trách ngài Thân Tử rằng: “Phật nói tám giải thoát, nhân giả tuân làm đâu lại xen việc muốn ăn vào mà nghe pháp ư?”. Tám giải thoát của Tiểu thừa tức là chân pháp hỷ, nhưng không nương vào Phật tuệ bỏ tám tà vào tám giải thoát, tức giải thoát tư nghị nên không được thức ăn Đại thừa pháp hỷ. Vì vậy Đại kinh có nói: Tỳ-kheo các ông tuy hành khất thực mà chưa từng được pháp thực của Đại thừa. Nếu Bồ-tát luôn dùng Phật tuệ để thấy lý Trung đạo, không phải tà không phải chánh mà cả tà chánh đều giao tiếp, thì nhập vào tám giải thoát bất tư nghị, tức là chân pháp hỷ của Đại thừa. Song tà chánh mỗi thứ đều có lý và sự. Về sự tà, tức căn bản vị thiền đều sinh ái kiến, tức là Tứ thiền Tứ không, nếu so với ma định quỷ thì cũng là chánh thiền, nếu so bối xả thì là sự tà. Về lý tà. Là thấy tâm duyên với lý không chánh nên nói là tà, tức tà kiến, tà ngữ… tám thứ. Chánh có hai thứ, chánh sự tức là tám giải thoát phá sự tám tà. Về lý chánh, tức chánh kiến… tám thứ đối phá tám tà của lý duyên tám tà. Thanh văn không được Phật tuệ, tu tám bối xả đoạn bỏ sự tà tám thiền mới được tám giải thoát, là bỏ tám tà mà vào tám giải thoát. Tu tám Chánh đạo phá tám tà của duyên lý được vào kiến đế, ấy là lìa bỏ tà tướng mà vào chánh pháp, đều là tư nghị pháp hỷ, không phải là chân đại thừa pháp hỷ thực. Bồ-tát nương vào Phật tuệ không bỏ vị thiền sự tà mà tu bối xả, nhập vào tám giải thoát, tà không hại chánh, thành ba đế Tam-muội, tức là Đại thừa thiền duyệt. Lại thường quán tám tà mà vào vô tác bát chánh, tà không hại chánh, thành lý nhất tâm tam trí tam đế, tức là pháp hỷ đại thừa, đó gọi là pháp thực bình đẳng. Ca-diếp không như thế đến nỗi mới có lòng Từ không khắp. Còn Bồ-tát nhất quyết là hiểu biết cho nên được chân pháp hỷ thiền duyệt bất tư nghị. Tức là Vô duyên đại từ, giàu nghèo đều được lợi như vì một người, hay đông chúng đều như thế. Nếu đối với tất cả chúng sinh mà tâm không thiên lệch hay đối với thực có bình đẳng thì đối với pháp cũng bình đẳng. Nói về dụng của ăn, từ “dó nhất… khả thực”Ngài Ca-diếp đã được pháp hỷ thiền duyệt tư nghị, đây không phải là cái dụng rộng lớn. Bồ- tát nương vào chân pháp hỷ thiền duyệt bất tư nghị giao tiếp có hai đế mà được bữa ăn về cả thế và xuất thế, cho nên luôn dùng một bữa ăn mà thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và chúng Thánh hiền, cho đến một bát cơm ở cõi Hương Tích mà cả chúng ăn cũng không hết, đó là chân ứng cúng. Hay làm chân phước điền đáp ân thí chủ sau đó mới ăn. Nếu không được như thế trách sao trong tâm không nhận được bữa ăn thiền duyệt hư ngụy. Ngoài không phải thật phước điền mà bỏ giàu nhận nghèo, khiến cho cả giàu nghèo đều không được phước lợi chân thật. - Giải thích lại Từ “Như thị …”trở xuống. Văn có hai phần: 1/ Ba lần giải thích thể của thực, 2/ Giải thích dụng của thực. 1/ Lần một giải thích thể của thực: Xét về lý tìm tà chánh không trở ngại nhau, nếu nương vào Phật tuệ thì không thấy có tà kiến, chánh kiến… tám thứ, cho nên nói không phải có phiền não, không phải lìa phiền não. Không phải có tức là Không thấy tà kiến… tám thứ. Không phải lìa tức là Không thấy chánh kiến… tám thứ, không phải nhập định ý, không phải khởi định ý. Lần hai là giải thích tám tà tám chánh theo sự. Bồ-tát có tâm nương Phật tuệ nên không thấy có tám giải thoát, chín định, có thể nhập, nên nói không phải nhập định ý. Không thấy xuất nhập vị thiền và các tà định, nên nói không phải khởi định ý. Hỏi: thì sao lý trước sự sau? Đáp: Sự lý bất tư nghị không nhất định trước sau, không phải trụ thế gian cũng không trụ Niết-bàn. Lần ba giải thích chung về sự lý. Bồ-tát tâm nương vào Phật tuệ không trụ vào sự tà, lý và cho nên nói không phải trụ thế gian. Không trụ vào sự chánh lý chánh mà nhập vào có, không hai thứ Niết-bàn, cho nên nói không phải trụ Niết-bàn. 2/ Giải thích dụng của thực “Kỳ hữu”đến “vi tổn”thường vì thí chủ làm chân thật phước điền. Người bố thí không có phước lớn hay phước nhỏ như chê Ca-diếp, không thể tâm trọng người nghèo vì có phước lớn nên cần tìm đến khất thực, tâm khinh người giàu vì có phước nhỏ mà không đến. Bồ-tát là thực điền vô thượng, nếu có thí thì đều vào Phật đạo đâu có lớn nhỏ khác nhau. Nếu xét lý mà giải thích, phước sinh vào Niết-bàn gọi là lớn, phước sinh vào cõi nhân thiên gọi là nhỏ, cho nên được chân phước điền không sinh kiến chấp hai biên lớn nhỏ. Không làm lợi ích, không gây tổn hại, như chê ngài Ca-diếp, mà Ca-diếp cho là đến người nghèo không đến người giàu là tổn ích, thì kia đây đều tổn ích. Bồ-tát nương vào Phật tuệ không thấy tổn ích như thế, chỉ vì tâm Từ bình đẳng làm sáng tỏ lý pháp tánh không tăng giảm. Nếu xét theo lý giải thích thì thì không làm ích lợi quả báo thế gian, không làm tổn hại cái tổn hại, khiến hết sinh tử mà được Niết-bàn hôi thân đoạn trí, đó là bố thí rốt ráo. Phần bốn, Kết khuyên cũng là chê trách: Khai Phật tri kiến vào sơ phát tâm tức là Phật một phần chân thật vậy. Không nương vào Thanh văn: nếu là thuyết không liễu nghóa mà nói thì không được quả Bồ-đề, nếu nương ý liễu nghóa thuyết thi tạm vào Phật tuệ. Cho nên kinh pháp Hoa nói: Các người ấy nên dùng pháp đó mà dần dần vào Phật tuệ. Vì chẳng không ăn vật thí của người thì luôn dùng Vô duyên đại từ giàu nghèo cùng đến, tất cả đều khắp được lợi ích. Y vào Tứ đế Đại thừa đi khất thực nuôi thân chánh nhập xóm làng được chân pháp thực bất tư nghị, chân thật tức là tùy chỗ thí mà làm phước điền vô thượng Đại thừa, đó tức là chẳng không ăn vật thí của người. Ba, Từ “Thời ngã… đến chi-Phật” là kể chuyện khi xưa nghe lời chê trách này mà ôm lòng kính sợ. Nghe ngài Ca-diếp kể lại những điều chê trách và chỉ bày pháp khất thực chân thật của ngài Tịnh Danh, các Bồ-tát thuở xưa chưa nghe nên đều khởi tâm cung kính tự hứa không có tâm như thế mà rèn phục giáo bốn khô, tức là làm sáng tỏ giáo bốn vinh của Như Lai. Kết lời không kham: “Thế nên không dám đến thăm bệnh vì xưa bị ngài chê trách như thế, lúc đó không biết trả lời sao. Nay đâu dám lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh. -------------------------------------- <詞>PHẨM: ĐỆ TỬ (Phần 4) Bốn là Phật sai ngài Thiện Cát Từ “câu Phật bảo Tu-bồ-đề … trở xuống”. Văn có hai phần: Phật sai đi thăm bệnh và Thiện Cát trả lời không kham nhận được . Sai hỏi bệnh. Sở dó sai tiếp, đến Thiện cát vì ngài là bậc giải không đệ nhất trong hàng Thanh văn. Tu-bồ-đề, Hán dịch là Thiện cát, cũng gọi là Thiện Nghiệp hay bất Sinh. Vì ngày sinh ra ngài thì nhà cửa đều trống không. Cha mẹ thấy quái dị bèn hỏi thầy tướng số, thấy chiêm quẻ đáp: Đây là tướng tốt, nhân đó đặt tên là Thiện Cát. Bản tánh ngài từ thiện, không tranh giành cùng ai. Ngài xuất gia thấy không mà được đạo, gồm tu Từ tâm được Vô tránh Tam-muội. Do đó, ngài thường hay hộ trì tâm mọi người, nên gọi là Thiện Nghiệp. Vì lúc sinh ngài, nhà cửa đều trống không, nên gọi là Không Sinh. Nhà cửa đều trống không tức biểu thị khi lớn lên thành tướng giải không. Nếu tìm xét tận cùng thì cũng lập nên năm thứ lợi ích như trước nói trong chương đầu ngài Thân Tử. Đáp lời không kham “Tu-bồ-đề… trở xuống. Văn có bốn: Đáp lời không kham. Kể lý do không kham. Chánh nói việc không kham. Kết thành không kham. Đáp lời không kham. Vì ngày xưa bị chê trách mà không đáp được đâu dám lãnh ý chỉ đến thăm bệnh. Nói lý do không kham Từ “Sở dó … khất thực”. Do đến khất thực mà bị quở trách. lýdo đến nhà ngài Tịnh Danh khất thực có hai nghóa: Một là bỏ nghèo đến giàu. Hai là tự ỷ mình giải không. Nghóa thứ nhất lại có hai ý: Hóa tha. Tự hành. Hóa tha: Người nghèo khốn khó, thường lo không đủ, vì Từ tâm không tranh giành,Ý hộ trì họ, nên không đến khất thực. Còn nhà giàu no ấm may mắn đến xin thì không làm hao tổn, nên không có lỗi làm phiền não họ. Lại hiểu người nghèo: thì tệ hại nghèo đói nên dễ giáo hóa, bởi gặp duyên liền phát, không đáng tâm lo nghó. Còn nhà giàu lại có thêm lòng kiêu căng phóng dật khó dạy, nếu tự mình không nhận xin ăn thì không do đâu mà khai hóa. Đây cùng lỗi với ngài Ca-diếp. Ngài Ca-diếp theo nghèo mà lòng từ bi Không khắp. Còn ngài Thiện Cát theo nhà giàu không tranh giành cũng là thiên lệch. Tự hành: Ngài Thiện Cát hành không Tam-muội không bị lầu đài sang trọng khó cầu làm phương hại. Nếu bày lễ cúng trang trọng, vì không, và chẳng chút phân biệt nên chẳng động tâm, nên ngài bỏ nhà nghèo theo nhà giàu, vì đối với quán hạnh tâm không ngại. Nghóa thứ hai: Tự ỷ giải Không. Ngài Tịnh Danh với biện tài không có giới hạn, nên những kiến chấp gì cũng đều bị chê trách cho nên hàng Thanh văn Bồ-tát không dám đụng đến pháp môn của ngài. Ngài Thiện Cát suy nghó nếu còn kiến giải “Có”thì ắt sẽ bị chê trách. Nhưng đã “Không”không có gì thì sao bị chê trách được. Tự ỷ Giải không lòng chẳng sợ khó, nên đến cửa khất thực, bèn bị chê trách dữ dội đến độ muốn vô phép để bát bỏ đi, lý do không kham là như thế. Chánh nói việc bị chê trách “Lúc bấy giờ Duy-ma … trở xuống. Văn có năm phần: Cầm bát đầy cơm. Chánh chê trách. Bỏ bát mà đi. Ngài Tịnh Danh an ủi. Người nghe ngộ đạo. Bưng bát cơm đầy, theo sự mà giải thích thì thí chủ có vẻ không muốn cho cơm mà chê trách, Như có ý luyến tiếc. Nay cho cơm mà chê trách là biểu thị tâm không luyến tiếc mà chỉ vì người khất thực có tâm quấy nên thương mà chỉ bày cho. Theo lý à giải thích thì, ôm bát không mà đến là biểu thị chỉ thấy “không”. Đem cho bát đầy là biểu thị diệu dụng có chê trách chỉ rõ lý “chẳng không”. Nên trong Đại kinh có nói: Thanh văn thấy “không”mà không thấy “chẳng không”. Bồ-tát không những thấy “không”mà còn thấy “chẳng không”muốn trách ông ấy vướng trệ ở không, để chỉ rõ chẳng không, nên lấy bát không để đầy cơm mà đem cho. Chánh chê trách: Đại ý có hai câu hỏi: Một, nếu là kính điền thì lấy ăn. Hai nếu là bi điền thì lấy ăn. Câu hỏi đầu phần lớn dựa vào Thông và Viên giáo, câu hỏi hai phần lớn dựa vào Biệt viên. Vì sao? Vì không phải vì tiếc bữa ăn, chỉ vì Thiện Cát tự có ý tưởng mình đến ứng cúng để sinh phước điền, nên phải hỏi đó là thật hay giả. Nếu là Thánh nhân thì đáng làm kính điền. Nếu không phải kính điền thì phải đồng là bi điền của ngoại ma mà lấy ăn. Ngài Thiện Cát không lường được ý chỉ sâu xa của câu hỏi, muốn từ kính điền mà lấy ăn, nhưng với câu hỏi về Thánh pháp thảy đều không biết, muốn từ bi điền mà lấy. Đâu thể chấp nhận cho bậc Vô học đốn căn lại đồng với ngoại ma, nên lừng chừng tiến thối lưỡng nan muốn bỏ bát mà đi. Ngài Tịnh Danh chê trách, ý chính ở đây. Câu hỏi đầu về kính điền có hai phần; một là, hỏi có biết Thánh pháp chăng; hai là, hỏi có phải Thánh nhân không. Hỏi có biết Thánh pháp chăng, từ “nhược năng” đến “thử thực”, nếu biết thì mới lấy ăn, vì pháp giúp thành người. Trước căn cứ theo pháp mà hỏi, nghóa có hai là hỏi về sự và hỏi về pháp. Về sự, nếu biết sự trong Thánh pháp đối với ăn bình đẳng thì sự đối với pháp cũng phải bình đẳng hóa tha, tự hành, từ bi bình đẳng Không nên bỏ nghèo theo giàu như trước đã nói. Vì ăn không bình đẳng nên từ bi quán hạnh đều không bình đẳng. Vì ăn không bình đẳng nên đối với pháp cũng không bình đẳng. Đã từ bi quán hạnh không bình đẳng, nên khất thực cũng không bình đẳng. Ấy là đối với pháp Không bình đẳng, đối với ăn cũng không bình đẳng. Nếu đều không bình đẳng thì sao được lấy ăn. Lại nữa, nếu cho rằng “Có”có thể phá, mà “không”chẳng thể phá, nên không sợ cật vấn mà đến xin ăn, thì “Có”và “Không”không bình đẳng, thì đối với pháp Không bình đẳng. Pháp Không bình đẳng cho nên đến hỏi xin ăn thì ăn cũng không bình đẳng. Bồ-tát không như vậy Không và “Có”chẳng thiên lệch, ấy là pháp bình đẳng. Pháp bình đẳng nên ăn bình đẳng. Vì ăn bình đẳng nên tức không, như Thiện Cát cậy vào Không mà không sợ. Nhân ăn mà có tranh giành sao được gọi là vô tránh. Nếu luôn Có, Không bình đẳng đối với ăn không tranh giành thì tức là có thể biết Thánh pháp, có thể gọi là kính điền. Người tu quán hạnh nếu được như thế tức là chân khất só. Về lý, như trong Đại Phẩm nói: tất cả pháp hướng đến vị, sự hướng đến ấy chẳng ngoài vị còn không thể được thì sao đáng có hướng đến và không phải hướng đến . Nay nói tất cả hướng đến vị, vị tức là pháp giới bao gồm tất cả pháp. Có ăn nên có pháp, ăn nên không pháp không . Nay ăn cái “không thể có được”còn chẳng thấy Có sao gọi là có hướng đến , còn chẳng thấy không sao gọi là Không phải hướng đến . Tức là Trung đạo Tam-muội chân thiền duyệt thực mà hay thấu suốt hướng đến và không phải hướng đến, song chiếu cả hai đế được ba đế Tam- muội gọi là chân pháp hỷ. Đó gọi là pháp thực bình đẳng. Lại các pháp bình đẳng, là tất cả các hướng đến, ấm, nhập, giới cho đến Nhất thiết chủng trí, vì ấm nhập giới Nhất thiết chủng trí không thể được, vì sao lại nói đáng có hướng đến hay không hướng đến. Rõ ràng đầy hướng đến và không hướng đến thì tất cả các pháp đều đủ ba đế. Như Đại luận có dụ ba tướng sát-na ấy là các pháp cũng bình đẳng. Nếu thấy pháp tánh của ăn không khác pháp tánh của các pháp tức là hai pháp đồng một. Lại đối với ăn mà bình đẳng, nếu thông suốt các pháp về lý ba đế, tức là lý ba đế trong ăn, do đó mà đối với ăn cũng bình đẳng. Thường biết như thế là biết Thánh pháp, bèn là kính điền thì mới có thể lấy ăn. Nếu không thể như thế tức là Không phải kính điền sao được lấy ăn. Từ đây trở đi phần nhiều là quán tâm mà nói nghóa nên không cần lập riêng. Hỏi có phải là Thánh nhân chăng? “Nếu Tu-bồ-đề … trở xuống Nếu là Thánh nhân thì phải chứng Thánh pháp, có thể làm kính điền mà lấy ăn. Còn nếu không phải là Thánh nhân đâu nên làm ứng cúng mà thọ nhận. Sở dó đặt câu hỏi này là sợ ông ta nghó rằng: Ta tuy không biết pháp bất tư nghị thì có hại gì, bởi khi thấy lý Tứ đế là được quả Thánh nhân, tức là Ứng cúng, kính điền mà lấy ăn thì có tội gì cho nên dựa vào Tứ đế mà hỏi. Nếu ý ông bảo thấy lý Tứ đế được quả là Thánh nhân, thì nay lần lượt Tứ đế mà hỏi. Nếu thật thấy thì sao lại cho được quả Thánh nhân là kính điền. Còn nếu không biết thì sao được vọng bảo là đã được. Nếu không phải kính điền thì đâu được lấy ăn. Văn phần này có ba phần: Một là xét hỏi riêng lần lượt theo Tứ đế. Hai là chung kết Tứ đế để giải thích lại. Ba là kết phá. Phần một có bốn: Xét Tập. Xét Khổ. Xét Đạo. Xét Diệt. Như đã thường nêu, là xét theo thứ tự khi nói pháp, tức nói quả trước nhân sau, tức muốn khiến chán khổ thì đoạn tập, mến diệt thì tu đạo. Nay cũng theo thứ tự nhân quả mỗi mỗi xét hỏi. Riêng hỏi về Tập đế: Nay đem vô tác Tập đế mà hỏi để phá hữu tác Tập đế. Nếu phàm phu ba độc cùng tâm đều sinh đều diệt, tức cùng đều có sinh diệt. Nếu là bậc Thanh văn thì không ai biết Tập mà không đoạn, đây là đoạn mà không đều có. Còn Bồ-tát quán vô tác Tập đế thì tánh dâm, nộ, si cũng như hư không nên không đoạn, cũng không cùng đều, nên không đồng với phàm phu và Nhị thừa. Bồ-tát luôn dùng Phật tuệ quán tánh ba độc tức là Phật tánh, thấu suốt ba độc thấy tất cả Phật pháp đều đầy đủ, tức là vô tác Tập đế. Nên Vô Hạnh nói rằng: “Tham dục tức là đạo, khuể si cũng như thế.” Như thế trong ba pháp đầy đủ tất cả Phật pháp. Nếu có thể thấy được như thế thì mới đáng là thấy Đế được quả Thánh nhân, là kính điền Ứng cúng, mới được lấy ăn. Hỏi riêng về Khổ đế: “Bất hoại … Nhất tướng”: Hàng Nhị thừa quán hữu tác Khổ đế, phân tích kiểm tra sưu tìm giả danh thật pháp mới được lý khổ gọi là hoại thân. Bồ-tát quán vô tác Khổ đế thật tướng thể thân, như thấy ảnh trong gương, không cần phân tách. Ấy là bất hoại đối với thân mà theo một tướng. Thông giáo còn thiên chân nên không gọi là một tướng. Còn Viên giáo thì pháp thân không có tướng thấy khác, nên gọi là một tướng. Nên ở đoạn văn sau nói: Quán thân thật tướng, quán Phật cũng thế. Thấy ở một tướng không đồng với phàm phu, bất hoại đối với thân không đồng với Nhị thừa. Quán vô tác khổ, thấy một thật đế thanh tịnh pháp thân, gọi là thấy Đế mới là Thánh nhân, tức là kính điền chân thật, nếu không thế thì không nên lấy ăn. Hỏi riêng về Đạo đế: Từ “Bất diệt … Minh thoát”. Nếu hàng Nhị thừa bỏ tám tà vào tám chánh, khởi ba minh vào tám giải thoát, thì đây là diệt bỏ si ái mà khởi minh thoát, tức là hữu tác Đạo đế. Bồ-tát tu vô tác Đạo đế chỉ quán tất cả chúng sinh tức tướng Bồ-đề, pháp tám tà tức là tám giải thoát. Nếu đoạn mà khởi, thì không phải là tu vô tác. Dùng Phật tuệ mà quán không phải sáng không phải tối, cùng giao tiếp với cả sáng tối không ngăn ngại nhau, mà hiển bày Bồ-đề. Tức là làm phi đạo mà thấu suốt Phật đạo, nên không cần đoạn si ái, khởi minh thoát. Thì minh đối với si, thoát đối với ái, nên kinh Tư Ích có nói: dùng tướng Bất nhị mà quán minh đạo Thánh đế. Nếu có thể tu đạo Thánh đế như thế mới là chân Thánh nhân Kính Điền mà lấy ăn. Không thế thì không nên lấy ăn. Riêng hỏi về Diệt đế: Từ “dó ngũ … bất phược”hỏi hàng Nhị thừa quả phược đoạn dứt thì gọi là được hai thứ Bát-nhã tức là tên khác của Diệt đế Niết-bàn. Giáo Thanh văn nói người phạm tội ngũ nghịch còn chẳng được xuất gia thọ giới, đâu được nói là giải thoát Diệt đế. Viên giáo thì không thế, vì hiểu thật tướng ngũ nghịch tức là Diệt đế. Nên đoạn văn sau có nói: “Tất cả chúng sinh tức Đại Niết-bàn”nên không còn diệt nữa. Kinh Tư Ích nói: “Pháp xưa không sinh, nay thì không diệt, là Diệt Thánh đế.” Kinh Phương Quảng nói: Cho đến tội ngũ vô gián đều sinh tướng giải thoát. Ngũ nghịch là phược dữ dội mà còn vốn là diệt, huống là tất cả pháp mà không phải giải thoát ư? Như Điều-đạt tạo tội ngũ nghịch đọa vào ngục Vô gián mà vui như ở Tam thiền, thường tự vắng lặng, tức là Đại Niết-bàn. Vì tướng ngũ nghịch nên không đồng với Nhị thừa, mà được giải thoát nên không đồng với phàm phu. Nếu có thể như thế mà thấy vô tác Diệt đế, thì đó là Thánh nhân vô thượng kính điền. Không thế thì không nên lấy ăn. Chung giải thích lại “không thấy… Thánh nhân”: Trước hỏi vô tác Tứ đế vì ngài Thiện Cát không hiểu, nên giải thích lại . Không thấy Tứ đế không phải là Không thấy Đế, thì nay dùng ba nghóa giải thích chung: Giải cả hai đều không phải. Giải cả hai lấy, bỏ. Căn cứ bốn bất khả thuyết. Giải cả hai đều không phải: Không thấy tức không phải Có, không phải thấy tức không phải Không. Sở dó nói điều này để giải thích là vì ngài Thiện Cát tự bảo rằng nếu thấy hữu tác Tứ đế là được quả. Trên đã trình bày vô tác lấn át hữu tác, tức không có lý hữu tác đế thấy được, nên nói không thấy Tứ đế. Nếu nói không thấy có hữu tác tức không có Tứ đế có thể thấy. Trên đã nói vô tác, vì sao lại bảo như thế, nên nói không phải chẳng thấy Đế. Lại giải không thấy Tứ đế không giống Nhị thừa, không phải Không thấy Đế, không đồng với phàm phu. Giải cả hai lấy bỏ Tứ đế của bốn giáo thì bỏ một lấy ba. Bỏ một, tức là Không thấy, không thấy có Tứ đế sinh diệt. Lấy ba, tức không phải Không thấy Đế, không phải Không thấy Tứ đế của ba giáo. Đây như Trung luận nói về lỗi của ngoại đạo. Luận chủ nếu phá tất cả pháp, tức là Không có Tứ đế, bốn quả Sa-môn, ấy thật đáng sợ. Luận chủ hỏi gặn lại: Nếu như chỗ ông chấp có tức phá Tứ đế của bốn quả Sa-môn, ta tuy phá tất cả pháp Tứ đế bốn quả Sa-môn nghóa đó rất rõ ràng. Tương tự với đây mà phá tức như nay phá sinh diệt Tứ đế. Về “Có”thì nay diễn môn có ba thứ, huyền văn đã phân biệt, nay không nhắc lại. Căn cứ bốn bất khả thuyết: Đại kinh nói bốn bất khả thuyết, tức bốn lý Tứ đế. Nói có bốn nhân duyên, tức bốn Tất-đàn phó cơ nói bốn thứ. Không thấy Tứ đế, tức bốn lý Tứ đế đều bất khả thuyết. Không thể thấy nên nói không thấy Tứ đế. Tuy bất khả thuyết mà bốn giáo thuyết, tuy không thể thấy mà năm nhãntướng mà thấy, bất khả thuyết mà thuyết. Nếu không thể như thế tức không phải là Thánh nhân chân kính điền sao được lấy ăn. Không phải được quả, có Sư nói, đây e là loại rơi rớt cần có đối, nay nói không phải thế. Ngài Tịnh Danh đã giải thích không phải thấy Đế, tức không có Thiện Cát và hàng Nhị thừa thấy Đế được quả. Nếu thế, không phải Không thấy Đế nên có Đại thừa Bồ-tát được quả. Nay nói Bồ-tát trong nhân không chứng, nên nói không phải được quả. Nhưng hàng Nhị thừa cho rằng thấy Tứ đế thì được hai quả Niết-bàn. Ý nay trách là chỉ chứng thiên chân mà gọi là được quả hai Niết-bàn. Đã phá quả hóa thành tức là Không phải quả nên nói là Không phải được quả. Nếu Bồ-tát của Thông giáo tuy trong nhân thấy vô sinh mà chưa chứng nên không phải được quả. Biệt giáo trong nhân tuy thấy vô lượng nhưng nếu nhập vô tác, Thập địa chưa đủ thì đâu được chứng quả. Bồ- tát của Viên giáo chưa đến Diệu giác đâu được ở Sơ tâm mà được quả vô thượng. Đoạn văn sau có nói: Tuy lại thị hiện thành đạo, chuyển pháp luân, mà không bỏ hạnh Bồ-tát, tức là Không phải được quả. Ngài Thiện Cát còn chưa thấy được ba thứ Tứ đế của Diễn môn, không phải là chân Thánh nhân, sao được chứng quả Vô học. Đây không phải là kính điền thì đâu được lấy ăn. Không phải phàm phu tức không phải cụ phược, không phải lìa pháp phàm phu, tức không phải pháp giải thoát của Nhị thừa. Lại nữa, không phải phàm phu, tức là pháp bốn thứ Diệt Đạo. Không phải lìa pháp phàm phu, tức là pháp bốn thứ Khổ tập. Vì sao? Vì tất cả phàm phu và hàng Nhị thừa là ở ngoài lý Trung đạo, đều là phàm phu. Còn Bồ-tát quán Trung đạo mà thấy Phật tánh, nên không phải phàm phu. Không phải lìa phàm phu là năm loại phàm phu luận nói Thập địa, vẫn gọi là Thánh tuệ phàm phu, thế thì dưới quả vị Phật trở xuống đều là phàm phu nên nói không phải lìa pháp phàm phu. Không phải Thánh nhân, là nếu cho cả hai đều không phải, Bồ- tát quán pháp bình đẳng còn không thấy Thánh pháp, thì có chỗ nào là Thánh nhân, nên không phải là Thánh nhân Nhị thừa. Không đâu không phải Thánh nhân thì tức là Không phải phàm phu. Lại không phải Thánh nhân, là chẳng phải Thánh nhân ngoài lý. Hàng Nhị thừa không thấy Trung đạo thì đâu phải là Thánh nhân. Lại không đâu không phải Thánh nhân là chỉ cho hàng Tam hiền Thập Thánh. Xét theo Viên giáo thì đều là Thánh nhân cả. Ngài Thiện Cát đã ở ngoài lý mà không dự vào số Thánh nhân này, thì không phải là kính điền đâu được vọng dối lấy ăn. Kết giải thích “Tuy thành … thủ thực”. Tuy thành tựu tất cả pháp, là thấu suốt bốn thứ Tứ đế, tất cả các pháp quyền thật đều thành tựu. Nhưng lìa các pháp tướng, tức là pháp giới bình đẳng Không phải nhân, không phải quả mà không thể nói. Vì không thấy bốn tướng Tứ đế, nên tâm không đắm trước. Lại nữa, nếu thấu suốt bốn thứ Tứ đế, tức thấy trung đạo song chiếu với hai đế, mà được tam đế Tam-muội, ba trí đầy đủ, định tuệ trang nghiêm, thành ba đức bí tạng rốt ráo không thể được, thuận đạo pháp, ưa bất sinh, tức nhập vào sơ trụ của viên giáo, tâm tâm vắng lặng, tự nhiên lưu nhập. Nếu được như thế tức là chân Thánh nhân, Ứng cúng phước điền mới được lấy ăn, đã không như thế đâu được lấy ăn. Câu hỏi thứ hai: nếu đồng Bi điền mới được lấy ăn Từ “Nếu Tu- bồ-đề… trở xuống Sở dó nêu câu hỏi này là nếu biết Thánh pháp, thì tức là Thánh nhân đáng là kính điền. Đã không biết vô tác Tứ đế Thánh pháp , tức không phải là chân Thánh nhân, chỉ biết pháp phàm hẹp hòi thì tức là bi điền đáng nương cậy mà lấy ăn. Văn này khó thấy, xưa giải không đúng. Có người nói: Nếu phân biệt Phật pháp là chân chánh, ngoài pháp là tà, thì tâm có phân biệt không phải là giải không bậc nhất, nhưng tà chánh một tướng mới thật là hiểu không, mới có thể lấy ăn. Hoàn toàn ý giống Thông giáo, e ý kinh này không phải thế. Có Sư nói: Ngài Thiện Cát là Thanh văn không thể lời nói ra lại đồng với ngoại đạo, ngài Tịnh Danh chê trách khiến ngài đồng với lục sư, là Bồ-tát, mới có thể lấy ăn. Ý không phải thế. Nay nói ngài Tịnh Danh hỏi ngài Thiện Cát nếu muốn ma ngoại đạo tức là bi điền bèn có thể lấy ăn. Đây có hai câu hỏi: Một là, hỏi có muốn đồng với bọn tà đạo thì hãy lấy ăn; hai là, hỏi có muốn đồng với tà pháp thì lấy ăn. Vì sao, bởi đã không phải là Thánh nhân thì tức là muốn đồng với tà nhân thành tựu pháp hẹp hòi phàm phu, đã có ái kiến thì há không phải là ma ngoại, há không phải là ý muốn đồng với bi điền mà lấy ăn ư? Ý kinh nếu thế đâu lại đồng với các Sư. Câu hỏi đầu có ba phần: Căn cứ không thấy Phật không nghe pháp mà hỏi. Căn cứ đồng lục sư mà hỏi. Kết, khiến lấy ăn. Căn cứ không thấy Phật không nghe pháp. Phàm chúng sinh không nhất định, tà chánh là ở duyên. Ngài Thiện Cát đã không thấy pháp thân Phật , không nghe pháp vô tác Tứ đế, tức là Không thấy Phật không nghe pháp. Thế thì những thấy nghe xưa đâu chẳng phải là thấy bọn ngoại đạo và nghe pháp của họ? Như Tam tạng giáo nói: “Nếu không thấy có Phật trượng sáu ở cung vua, không nghe pháp sinh diệt Tứ đế , riêng có thầy dạy học, tuy có thiền định thần thông trí tuệ, nhưng đều là ngoại đạo.” Nay ngài Thiện Cát đã không thấy ba thân Phật ba đức của Đại thừa, không nghe pháp ba thứ Tứ đế Đại thừa, tức là Không thấy Phật không nghe pháp, chỉ lúc xưa thấy Phật là Tỳ-kheo già và nghe pháp sinh diệt Tứ đế , thì tức không thấy được Phật chân thật, không nghe được pháp chân thật. Cho nên Kim Cang Bát-nhã Luận nói rằng: “Ứng hóa không phải Phật chân thật, cũng không phải nói pháp.” Như ở đạo tràng vắng lặng Hoa nghiêm khi mới thành chánh giác, nói đốn giáo viên mãn, hàng Thanh văn ở tòa giảng như câm như điếc, tức là Không thấy Phật không nghe pháp. Lại như trong kinh Pháp Hoa, kẻ cùng tử nghỉ đêm trong chòi lá, chỉ thấy cầm đồ hốt phân, không thấy thân tôn quý. Đó là Không gặp chánh duyên, không thấy chánh đạo, rơi vào hàng Nhị thừa, đồng loại với ngoại đạo, nên không thấy được chân lý, đều không phải là Thánh nhân, tất cả là bi điền. Căn cứ lục sư mà hỏi Từ “Bỉ ngoại đạo… xuất gia”. Sở dó hỏi, tức đã không thấy Phật không nghe pháp, thì thọ học với ai về thần thông trí tuệ, đúng là phải theo học với lục sư. Vì sao biết? Vì lục sư sinh trước, Thiện Cát học sau. Đã không thấy Phật nghe pháp, ngoài ra không có ai dạy dỗ. Nếu như thế, thầy đã tà thì đệ tử đâu chánh được, cớ sao không đồng với bi điền mà lấy ăn? Phú-lan-na là tên, Ca-diếp là họ, đã nói các pháp Không sinh không diệt. Mạt-già-lê là tên, Câu-xa-lê là mẹ, nói ở chúng sinh tuy có khổ vui mà không có nhân duyên, tự nhiên như thế. San-xà-dạ là tên, Tỳ-la-chi là tên mẹ nói chúng sinh cứ phó mặc, đến lúc chín muồi sẽ được đạo, cũng như hòn bi lăn hết mức sẽ dừng lại. Lại nói: Đủ Tám vạn kiếp tự nhiên sẽ được đạo. A-kỳ-đa-xí-xá là tên, Khâm-bà-la là áo xấu nói rằng chúng sinh phải chịu khổ báo, nay người ấy cạo tóc xông mũi, mặc áo xấu để thay thế, cho rằng sau sẽ được vui Niết-bàn. Ca-la-cưu-đà là tên, Ca-chiên-diên là họ nói rằng: Chúng sinh cũng có cũng không. Ni-kiền-đà là tên chung của ngoại đạo xuất gia, Nhã-đề là tên mẹ nói rằng: Tất cả đều do nghiệp làm ra, nhất định không đổi được, không trốn tránh được. Nay Đại só chỉ dùng phần ít để chê trách phân tích như mắng người là lừa, chưa chắc phải có bốn chân và đuôi lông… Tam tạng giáo chưa rốt ráo thì cùng tướng tà giống nhau, đây là chê trách nói tướng cũng giống thế. Tam tạng giáo có bốn môn vào lý, lục sư cũng có bốn môn tà chấp. Như Phú-lan-na thấy về không nhân không quả, không sinh không diệt. Không sinh tức không hữu, không diệt tức không vô, tức là môn “chẳng phải có, chẳng phải Không”. Mạt-già-lê nói tất cả đều tự nhiên không có tạo tác, đây tức là phá nhân mà không phá quả, như Trang, Chu đã chấp về tự nhiên. Đây giống như không môn. San- xà-dạ thì chấp tà nhân và không nhân chưa rõ ràng. Ca-chiên-diên thì chấp môn có, không, chấp hai thứ kia đều là hữu môn, nên biết lục sư có bốn chấp. Trong giáo Thanh văn nói Phật quá khứ khi ra đời, người có tuổi thọ dài ngắn, được đạo… đều có định số. Sau khi Đức Di-lặc ra đời thì lúc người sống đến tám vạn tuổi được đạo, còn các lúc khác không được đạo, nên Phật không ra đời, đây bị Đại luận chê trách. Là cùng với San-xà-dạ có gì khác. Giáo này lại nói cạo tóc, nhuộm y quét phân, khổ hạnh, cùng với Khâm-bà-la có gì khác. Lại nói Thi trọng Tỳ-ni làm phép đuổi và các tội giá làm ngăn ngại Thánh đạo thì cùng Nhã-đề tử có gì khác. Cũng nói là giống nhau cho nên dùng để chê trách. Lại ngoại đạo có ba thứ: Một là, Nhất thiết trí; hai là, Thần thông; ba là, Vi-đà “Phệ-đà”. Trong kệ bốn chữ có luyện tập suy nghó thật tinh tế mà thấu nhập thì thấy tâm rõ ràng. Mỗi người ở môn của mình mà biện thuyết vô ngại khó thể bắt bẻ khuất phục, tức là Nhất thiết trí ngoại đạo. Tuy có trí này nhưng chưa được thiền định thì chưa có thần lực. Nước lửa, vách núi chạm vào còn bị ngăn ngại. Nếu được thiền định nhân đó phát thần thông thì có thể đi đứng trên mặt nước, ở lỗ tai biến ra dê, tay nắm bắt ánh sáng trời trăng sao, miệng ngậm nước bốn biển… thần lực như thế cùng Thánh không khác, ấy là thần thông ngoại đạo. Tuy được trí tuệ thần biến nhưng chưa thông suốt luận bốn Vi-đà. Đó là thiên văn, địa lý, thuốc men và chú thuật. Gặp việc không biết phần nhiều đều bị khuất phục. Đây là có tuệ mà không nghe học. Nếu người có khả năng học thuộc bốn bộ Vi-đà thì là bậc thượng thủ trong đạo. Trong tất cả thế gian đều có các Sư, mười sáu nước kính trọng họ như Phật, nên đem ba thứ này căn cứ làm lục sư, một sư có ba mươi ba ngàn sáu trăm mười tám ( 3 3. 618) Sư ngoại đạo. Tam tạng giáo cũng có ba thứ La-hán. Người mới tu ba thứ niệm xứ gọi là tánh cộng duyên, nên được quả thành ba thứ La-hán, gọi là tuệ câu vô ngại. Nếu căn cứ ở bốn môn thì có mười hai A-la-hán. Nhất thiết trí, Thần thông, Vi-đà các việc đều giống nhau. Sở dó nói hạng người tà này mà không chê trách, là vì sợ Thiện Cát tự bảo ta là La-hán thấy chân đoạn kiết thì được Nhất thiết trí, lại được ba minh sáu thông, lại tinh thông cả Tam tạng giáo là Đại La-hán, đây sánh được với bọn ngoại đạo này, nên Đại só lấy ba thứ của lục sư để bài bác. Nếu ba thứ của ngoại đạo là tà thì ba thứ của ông đâu phải là chánh. Tâm làm ngoài lý từ trước nay đều gọi tà kiến, không phải là vô tác. Đại só biết tâm ông ấy “Tu-bồ-đề) có hồi phục. Cho nên tóm kết nhiều lần mà chê trách, khiến không đối đáp được. Như thế mà cật vấn tới lui “ông đâu khác gì đám ngoại đạo kia, ông đã xuất gia với họ, học của họ Nhất thiết trí…” Kết thành bi điền hãy lấy ăn Từ “Bỉ sư … thủ thực”. Thầy ông bị đọa, tức hàng tà kiến lục sư, ông cũng đọa theo, tức ông xem họ là thầy, họ đọa vào sinh tử thì ông cũng đọa theo. Tuy là phân ra hai thứ sinh tử khác nhau, nhưng đều là Không thấy tánh, đồng nghóa với đọa lạc, nếu muốn cùng đọa thì đồng với bi điền hãy nên lấy ăn. Câu hỏi kế tiếp là hỏi có muốn đồng tà pháp chăng? “Nếu Tu-bồ- đề trở xuống Sở dó lại hỏi câu này, tức nếu đúng chưa muốn thì tự bảo ta tuy không thấy Phật chân thật, không nghe chánh pháp vô tác, nhưng là La-hán, đủ cả ba nghóa, đâu đồng với lục sư, là đệ tử của bi điền mà lấy ăn. Đại só biết ý đó nên hỏi lại: Ông tự cho là A-la-hán đầy đủ ba nghóa, không đồng với bọn lục sư và đệ tử của họ, sao lại còn dùng pháp kiến tư hẹp hòi xấu xa. Nếu người có điều đó tức không đủ ba nghóa, đâu lại là La-hán, mà chẳng muốn đồng với bi điền lấy ăn. Văn này lại có ba phần: Căn cứ Sát tặc mà chê trách. Căn cứ Ứng cúng mà chê trách. Căn cứ Bất sinh mà chê trách. Căn cứ Sát tặc mà trách: nếu tự cho là La-hán, theo lý phải sát tặc sao được có đủ hoặc kiến tư hoặc Văn đây có hai phần nhỏ: Trách có kiến tư mà nhập vào tám nạn. Trách có tư duy mà lìa pháp thanh tịnh, đã đủ hai hoặc này, sao gọi là Sát tặc? Trách về kiến hoặc: “Nếu Tu-bồ-đề… vô nan”. Nói tà kiến là những kiến nào. Nếu hợp với Trung đạo làm hai đế, chân đế hợp với tục đế, lại là hữu kiến. Nếu làm ba đế riêng thuộc vô kiến. Nên Đại kinh nói: Phàm phu là hữu, Nhị thừa là vô, còn Bồ-tát thì chẳng có chẳng không. Vì sao? Vì phàm phu không thấy Trung đạo mà khởi sáu mươi hai kiến, lưu chuyển trong hai mươi lăm hữu, nên thuộc hữu kiến, còn Nhị thừa không thấy Trung đạo mà đoạn sáu mươi hai kiến nhập Không, nên thuộc vô kiến. “Không”đối với sinh tử lại là hai biên, đều không vào Trung đạo. Nếu cùng luận với họ rằng đã thấy hoặc của tam giới mà đến bờ kia nên cướp lời nóiđó chính là kiến hoặc của ngoại giới đâu thể đạt đến chỗ thấy kiến hoặc rốt ráo . Vì mê Trung nên thấy Không bất động, không tu vô tác đạo phẩm, sao lại nói đến biệt kiến của bờ kia, Do đó không phải là sát tặc. Trụ ở tám nạn không được không nạn, tám nạn là chướng kiến đạo, Thanh văn nếu có nạn này thì không được vào. Bồ-tát bất định tự mình có bị nạn che chướng. Tự mình tuy có đang ở trong tám nạn mà khéo léo dùng chánh quán, liền được không nạn, mà thấy được Phật tánh. Đây tức là làm phi đạo mà thấu suốt Phật đạo. Ngài Thiện Cát tuy đã lìa tám nạn giới nhưng trụ vào tám nạn của ngoại giới nên, đâu được đến bờ kia của kiến đạo Vô tác. Nên cần phân biệt hai thứ tám nạn: Một là phàm phu trụ sự tám nạn, hai là Nhị thừa trụ lý tám nạn, đều không được không có nạn. Ngài Thiện Cát gồm cả hai, đâu được không nạn. Chỉ có Bồ-tát của Viên giáo tu quán Trung đạo trụ sự tám nạn, đều được không nạn, nên ở tám nạn, mình người đều không trệ ngại. Về sự tám nạn, là tám nạn của nội giới , chướng Thiên, Viên kiến đạo, sự số như trước đã nêu. Nay nói về lý tám nạn, chỉ chướng Viên chân. Ba nạn trước là ba ác đạo có Sư dùng ba không làm ba ác đạo. Đây chưa hẳn như thế. Vì Bồ-tát cũng tu ba không, mà không phải là Nhị thừa ác đạo. Nay dùng kiến tu Vô học của Tam tạng giáo làm ba ác đạo, vô vi chánh vị không thể phát tâm, gọi là đọa ác đạo. Cho đến bậc Vô học cũng như thế. Nếu vào vô dư, ắt trái hẳn Phật đạo, đâu không phải ba ác đạo là nạn. Bồ-tát không sợ tội ngũ nghịch và ba ác mà chỉ sợ sinh tâm Nhị thừa. Như Đại Luận có nói: Cây lớn đổ thì cành lá không có chim oán đậu nghỉ đêm. Nạn thứ tư là Bắc Uất-đơn-việt Định tức đem diệt của Tứ đế đối với phương Bắc, Thanh văn chứng diệt như định thọ ấy. Nạn thứ năm là Trường thọ thiên. Thanh văn gọi là Tịnh thiên. Nếu nhập Vô dư thì về Đệ nhất nghóa thiên đâu có thể hóa sinh. Có người nói Nhị thừa vô dư là định đại diệt, trải bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp Phật sẽ phóng quang chiếu kẻ có duyên, khi ra đời mới nói pháp cho nghe. Nếu dựa vào Đại Luận mà nói thì ra khỏi ba cõi rồi thọ thân pháp tánh, các loại như thế là khác với trầm độn khó hóa độ, đồng với trời Trường thọ. Nạn thứ sáu là, sinh trước Phật sau Phật, hàng Nhị thừa quán thấy Chân, khi xuất quán thì duyên với tục, không thấy lý Trung đạo, tức là trước Phật sau Phật. Nạn thứ bảy là, Thế trí biện thông ngoại đạo không thấy lý chân, mà phát kiến tuệ gọi là Thế trí biện thông. Hàng Nhị thừa chưa thấy Trung đạo mà phát tuệ vô lậu đồng là thế trí biện thông. Nạn thứ tám là, mù điếc câm ngọng, hàng Nhị thừa không có căn Bồ-tát, tuy được lục thông, nhưng không thấy sắc của mười giới thì như mù, không nghe tiếng ở mười giới thì như điếc, không thể dùng một âm mà tùy loại được hiểu thì như câm. Như tám nạn này nghiêng về Sự mạn. Ngài Thiện Cát không thể trụ ở sự lý nạn mà được không nạn, mình và người không trệ ngại, lại trụ ở lý mạn mà chướng kiến Trung đạo, sao đạt được , kiến đạo đến bờ kia , tức đồng pháp phiền não lìa thanh tịnh. Trách còn có tư duy: chỉ vì phiền não gọi chung ở trên đã thuộc kiến, nay phải thuộc tư. Ngài Thiện Cát có đủ biến dịch phiền não tâm cùng thứ này hợp nhau, nên nói đồng với phiền não. Như trong Đại Lu- ận nói: Kết sử có hai thứ: Một là, Nhị thừa cộng đoạn; hai là, Nhị thừa bất cộng đoạn. Bất cộng đoạn, tức như Ca-diếp… chưa đoạn được nên khi nghe Ca-la nữ đàn lên thì không thể tự an. Lìa pháp thanh tịnh, tức là lìa pháp tâm tự tánh thanh tịnh. Kẻ phàm phu cụ hoặc gặp duyên cũng có thể cầu được pháp thanh tịnh. Hàng Nhị thừa chấp chứng của mình là rốt ráo không cầu, tâm mê lý Trung đạo tức là lìa hẳn pháp thanh tịnh. Thế thì tư hoặc vẫn còn sao tự bảo là sát tặc được? Trách không phải Ứng cúng: Từ “ông được… ác đạo”. Ngài Thiện Cát cho rằng mình được Vô tránh Tam-muội thì là phước điền tốt, tất cả chúng sinh cũng được định ấy sao nói họ không phải là Ứng cúng phước điền. Căn bản thiền định, bốn Vô lượng tâm, Vô tránh… các định, trải nhiều kiếp chúng sinh cũng từng được. Cho nên Đại kinh có nói: Phàm phu đều có Sơ địa vị thiền. Hỏi: Ngài Thiện Cát đã tu quán luyện huân tu mà được định Vô tránh, chúng sinh không tu thứ này, vì sao nói cũng được định này? Đáp: Quán luyện huân tu đều nhân căn bản thiền. Nay bèn một loạt lấy đây nêu ra nên nói đều được. Lại nữa, các lục sư… đều được thâm thiền, đều có Từ tâm từ thiền định mà khởi, dù có hương xông dao cắt, tâm vẫn không nghó khác. Như thế thiền này cùng với thiền Vô tránh của Thiện Cát đâu khác? Những người thí cho ông không gọi là phước điền, chúng sinh cũng được định ấy nhưng vì có cát muối kiến tư nên không gọi là phước điền. Các ông lại được định ấy thì cũng đủ cả cát muối kiến tư. Người cúng dường các ông tất đọa vào ba ác đạo, tức cúng dường cho Tiểu thừa. Khi báo trời, người hết rồi, gặp duyên lại phát nghiệp Tiểu thừa, thì nhập vào kiến tư Vô học ba ác đạo. Lại nói cúng dường cho Tiểu thừa, sau này tâm buông lung không trú Đại thừa, phần nhiều lại chê bai, nên bị đọa vào ba ác đạo. Như Thắng Ý chấp Tiểu chê Đại sinh thân mà đọa lạc trải nhiều kiếp chịu khổ. Đây chính là nhân tội đâu thể gọi là Ứng cúng. Trách không phải Bất sinh: Từ “Vi dữ … thủ thực”, chúng ma, thì ham mê sinh tử. Nếu cùng ma đồng, tức đồng sinh tử, sao gọi là Bất sinh. Là cùng chúng đồng tức có hai nghóa: a/ Căn cứ tự hành. b/ Căn cứ hóa tha. Căn cứ tự hành, tức ma và Thiện Cát đều cùng ưa sinh tử, tuy có hữu vi vô vi không đồng nhau, nhưng đều là Không thấy tánh. Như làm một vật giống nhau nên nói là một tay. Căn cứ hóa tha, như Đại Phẩm nói: Khi Bồ-tát hành Bát-nhã thì ma đến nói rằng: Các ông sao không học theo Tu-đà-hoàn cho đến Bích-chi-Phật, nay gọi là hàng Nhị thừa cũng dạy chúng sinh tu hành pháp của mình, tiếp dẫn nghóa đồng nên nói là một tay. Lữ nghóa là bạn bè, người cùng chí hướng. Lao nghóa là đều có trần lao thấm đượm vào nghiệp việc đồng. Lại giải lao tức là bền chắc, tức đều nhiễm sinh tử chấp nhân khó chuyển, nên nói là lao lữ “bạn trần lao”. Ông nay cùng chúng đồng, tức ma có đủ tám vạn bốn ngàn trần lao, ông cũng có đủ nên nói là đồng. Lại đủ cả tám vạn bốn ngàn ngoại giới. Đối với tất cả tâm chí oán, tức như kẻ phạm pháp vua, là tên giặc cướp lớn không thể cứu. Hàng Nhị thừa tự cho mình khỏi cứu chúng sinh mặc tình với luân hồi là tên cướp lớn. Lại như đám giặc cướp thiến người. Nhị thừa cũng thế, phá hoại thiện căn của người, dứt chủng tử của Phật, nên nói mà có oán tâm. Lại hại pháp thân tuệ mạng của chúng sinh và thiện pháp quyến thuộc. Đó gọi là hại mẹ Trí Độ, hại cha Thiện Quyền, hại vợ Pháp Hỷ, hại con trai Thiện Tâm, hại con gái từ bi, há không phải là tên cướp lớn của thiện pháp. Chê bai chư Phật, chê bai có hai nghóa: Tăng và tổn. Phật không có các nạn sinh tử bệnh não… mà nói là có, tức là tăng thêm mà chê. Thân Phật thường trụ công đức trí tuệ lặng sáng đầy đủ, mà nói là Không có, tức là làm mất đi mà chê. Như đoạn văn sau trách A-nan rằng: Chớ chê Như Lai. Thân Như Lai là thể kim cang, các ác đã dứt hẳn, các thiện khắp đầy, đâu còn bệnh tật sầu não nào… Hủy pháp, nếu nhất định nói pháp hữu tác tức là chê pháp vô tác. Lại pháp tức là pháp tánh không thể nói bày, nếu nói có, tức là hủy báng. Kinh Kim Cang Bát-nhã nói: Nói có thuyết pháp tức là hủy báng Phật, vì không hiểu điều ta nói. Tam tạng giáo chân đế nói bốn hủy báng, tức là bốn môn Tiểu thừa có bốn trường hợp nói pháp, là nói pháp chê Đại thừa vậy. Nếu ở chúng sinh có oán chê Phật hủy pháp gọi là đại ác nghiệp. Do biệt hoặc mà thọ sinh biến dịch, sinh tử mênh mông sao gọi là Bất sinh? Không vào số chúng ấy, nếu có chướng thì không được vào số Thánh hiền của Viên giáo. Thiết luân ở giáo này thì sáu căn hỗ dụng nhau, hàng Nhị thừa không có, đâu được ở trong số đó. Trọn không diệt độ, là chấp có Tiểu thừa diệt độ, trọn không thể được Thường Lạc Niết-bàn, tức là Biến dịch sinh tử chưa hết, sao gọi là diệt độ. Nên kinh Pháp Hoa nói: Chỉ lìa hư vọng thì gọi là giải thoát. Thật sự chưa được giải thoát tất cả , Phật nói người này chưa được diệt độ, người này chưa được đạo Vô thượng. Cho nên ông nay chấp chứng, quyết không được Đại diệt Niết-bàn, tức không phải Bất sinh, sao được tự gọi là Bất sinh? Thảy đều không có ba nghóa của La-hán, đâu khác gì ma ngoại kia, thì đâu được không muốn đồng với Bi điền mà lấy ăn. Người đời không hiểu sâu ý kinh, phần nhiều đều nghi lời giải này, đến Pháp Hoa mới rõ. Nên bốn vị đại Thanh văn tự mừng rằng: Bọn ta nay mới thật là A-la-hán ở thế gian, đáng nhận thọ cúng dường. Đây mới ngộ được sự chê trách lúc xưa của ngài Tịnh Danh. c/ Bỏ bát mà đi khi ấy ta đến nhà, ba lần Thiện Cát để bát tự bằng lòng là chưa biết Thánh pháp, lại không phải là Thánh nhân. Lại ta thật đã đoạn hết các hoặc ở tam giới đâu được tức đồng ma ngoại, suy nghó tới lui đều không thể làm bi hoặc kính điền mà lấy ăn, mê muội ngẩn ngơ không biết đáp sao, bèn bỏ bát mà đi. Lúc đó Đức Thế Tôn tôi nghe kẻ hoang mang này thuật lại việc mê mờ kinh nghi không hiểu. Vì sao? Vì trong Tam tạng giáo chỉ nói vụng về vượt qua sinh diệt, chưa từng nghe Phật nói vô tác Tứ đế , ngu si không hiểu thế nên hoang mang. Không biết nói gì, đâu biết đáp sao, tức không hiểu điều ngài Tịnh Danh nói đều là lý viên giáo, không biết sự quyền thật khai giá của Phật pháp, thế nên không biết đáp sao. Bèn để bát muốn đi ra khỏi nhà ấy, đã không thành kính điền mà cũng không muốn đồng với bi điền, bỏ hai lối này không còn cách nào khác, do đó để bát mà đi ra khỏi nhà. Ngài Tịnh Danh an ủi: Từ “Duy-ma-cật”trở xuống, ngài Thiện Cát cậy mình giải Không, không sợ vấn nạn, nên đến khất thực để xem biết thần trí sắc bén của ngài Tịnh Danh. Nếu thế sao Tịnh Danh hỏi thì mờ mịt không biết gì. Song việc ngài Tịnh Danh cật vấn vốn là muốn bác bỏ chỗ trệ Không, chỉ rõ pháp chưa nghe, không phải vì tiếc của mà gây buồn lo, do đó đã an ủi khiến ngài Thiện Cát lấy bát về. Văn có ba phần nhỏ: Hỏi an ủi. Ngài Thiện Cát đáp. Lại an ủi giải thích. An ủi lấy bát chớ sợ, đã Không, tức đồng với lục sư thì chỉ là có lỗi trệ Không, sao lại tự hạ mê mờ như thế. Nói Phật hiện ra hóa độ người dùng việc đó để gạn hỏi, tức là pháp thân khởi ứng, mà dùng lời cật vấn này, đâu nên sợ. Việc hóa độ tức Không, là đã hiểu nghóa Không. Trong Đệ nhất không thì không có người, sao lại sợ sệt. Thiện Cát đáp lời “Tôi nói Không… “, dùng tâm giải không mà nghe lời giáo hóa, tâm nhỏ bé tỉnh ngộ, hết sợ sệt nên nói Không. Lại an ủi giải thích “Duy-ma-cật… trở xuống. Văn đây lại có ba: Chính an ủi. Giải thích. Luận lại. Nói tất cả các pháp đều như tướng huyễn hóa, nay Ngài không có gì phải sợ. Đây là dùng huyễn hóa của Thông giáo để an ủi, khiến không sợ hãi. Nên ngài Thiện Cát tích pháp Không mà quán nhập, ắt không còn lo âu, nhưng khi xuất quán nghe nói khác, thì tâm liền biến động, nên dùng huyễn hóa tức không mà an ủi. Giải thích Từ “Sở dó… sở cụ”. Những điều vừa nói trên cùng đồng tất cả pháp, đều huyễn hóa tức Không. Nếu được tức Không, nên không đắm trước danh tự, thì tâm không kinh sợ. Lại luận văn tự tánh lìa Từ Hà dó… pháp dã”. Không ở mình người bốn câu tức chữ là tánh. Tánh vốn không có, nên nói tánh lìa: Đó là bất tư nghị giải thoát, đâu được giải thoát mà tâm còn kinh sợ? Nói thời chúng được lợi ích Từ “Duy-ma… nhãn tịnh”. Pháp nhãn tịnh, tức ngộ lý tức không mà vào kiến đạo, nên gọi là Pháp nhãn tịnh, cần dùng Thông giáo mà giải thích ý ở đây. Cho nên nói “Con không dám lãnh lệnh đến thăm bệnh ông ấy”. Kết lời không kham. Với hai câu hỏi của ngài Tịnh Danh mà khiến ngẩn ngơ không biết gì, đâu dám lãnh ý chỉ Phật mà đến thăm bệnh ông ấy. <篇> DUY-MA KINH LƯỢC SỚ <卷>QUYỂN 5 PHẨM: ĐỆ TỬ (Phần 5) Năm là Phật bảo ngài Phú-lâu-na. Văn cũng có hai phần: Phật sai thăm bệnh và đáp lời không kham. Sai đi thăm bệnh. Sở dó sai Phú lâu na, vì ngài là thuyết pháp bậc nhất trong hàng đệ tử Phật. Phú-lâu-na là họ, lấy họ làm tên, Hán dịch là Thiện tri thức. Di-đa-la-ni là tên mẹ, Hán dịch là Mãn nguyện. Mãn nguyện sinh ra nên gọi là Mãn nguyện tử. Sở dó phải thêm tên mẹ vào để phân biệt các tên khác. Ngài là hàng hạ căn mới được thọ ký ở thời Pháp Hoa, nhưng sai ngài thì hoặc vì ngài ở gần Phật, hoặc vì cơ duyên thuận tiện, nên sai trước. Vì sao? Vì ngài có biện tài trang nghiêm, văn từ sắt bén nói năng lưu loát, đẹp lòng mọi người, nếu sai ngài truyền ý chỉ Phật ắt chúng sẽ đồng tình kính trọng, nên sai ngài trước. Như khi Phật nói Đại Phẩm thì chỉ sai ngài Thân Tử, ngài Thiện Cát và ngài Phú-lâu-na. Khi chuyển nói Bát-nhã Đại luận thì đã sàng lọc đầy đủ để thâm cầu nghóa rốt ráo, cho đến thành tựu năm thứ lợi ích trước. Đáp lời không kham Từ “Phú-lâu-na trở xuống. Văn có bốn: Đáp lời không kham. Nói lý do không kham. Chính kể việc không kham “chê trách”. Kết thành không kham. Đáp lời không kham: Bởi vì thuở xưa nói pháp trái cơ, đến nỗi bị chê trách, nên không kham truyền ý chỉ Phật. Nói lý do không kham “Sở dó”đến “thuyết pháp”: Do xưa ở dưới cội cây nói pháp cho Tỳ-kheo mới học. Dưới cội cây là chỉ nơi nói pháp, hoặc có biểu thị, xem lại phần Thân Tử sẽ rõ. Mới học là người mới phát tâm ở tam thừa. Nhưng các vị Tỳ-kheo này thuộc cơ Đại thừa, không xét quán kỹ mà vọng nói pháp Tiểu thừa, đây không nêu lời nói pháp, xét trong kinh sẽ rõ. Văn nói rằng: Muốn đi đường lớn chớ chỉ đường tắt nhỏ. Đường tắt tức đường Tiểu thừa đang đi. Đây trái với Đại cơ nên bị chê trách. Nguyên do không kham là do trái cơ. * Chính kể việc chê trách: Văn có bảy phần: Một là, trách nói pháp sai cơ; hai là, kết lỗi; ba là, ngài Tịnh Danh nhập định như các Tỳ- kheo; bốn là các Tỳ-kheo tâm chí khai phát; năm là, ngài Tịnh Danh nói pháp cho họ; sáu là, các Tỳ-kheo được bất thoái chuyển; bảy là, Phú-lâu-na kính ghi nhận. - Phần một có bốn: Trách không quán bổn tâm. Trách không biết tâm niệm. Trách không quán căn nguyện. Trách không quán ưa thích. Bốn điều trách này suy nghó tức dùng bốn Tất-đàn Đại thừa . Không biết bổn tâm, tức là tâm tự tánh thanh tịnh, tức Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Đại kinh có nói: Chánh nhân Phật tánh là tâm chúng sinh. Không biết tâm niệm, tức vị nhân Tất-đàn, người có ác niệm tu không đồng. Nên kinh Pháp Hoa có nói nghó việc gì, tu việc gì… Không biết căn nguyên, tức là đối trị Tất-đàn, như người có lợi căn mà bị ngăn cản nên không khai phát, nếu đối trị mà phá ngăn cản thì công dụng liền phát. Không biết ham thích, tức là thế giới Tất-đàn. Nếu người thích nghe Đại thừa thì phương tiện nói tất cả pháp, đều dùng danh tự thế gian mà phân biệt. Nhưng theo thứ lớp bốn Tất-đàn thì Đệ nhất nghóa ở sau, nay đổi ra trước, là bỏ gốc cũ. Mãn nguyện không dùng bốn Tất-đàn nên có lỗi sai cơ. Trách không quán bổn tâm. Phàm muốn nói pháp cần phải xét về đế, nếu không nhập định tất không thấy được căn duyên, đến nỗi có lỗi sai cơ. Do đó mà chê trách trước không nhập định để quán xét tâm Tỳ- kheo, nên không thấy họ đã phát Đại thừa từ lâu, mà lại vọng nói Đệ nhất nghóa Tiểu thừa. Hỏi: Nhập những định nào để biết được căn duyên? Đáp: Định có tám thứ. Ngoại đạo căn bản ám chứng, vốn không phải chiếu cơ, nếu nhập vào định này thì không thể biết căn duyên. Phàm phu ngoại đạo nếu đoạn chướng thì cũng không biết, tuy được tha tâm nhập định thì chỉ biết được tâm niệm của người khác mà không biết được căn duyên. Tuệ giải thoát của Tam tạng giáo, người được tám thứ định của hữu tác Tứ đế, thứ này vốn duyên lý cũng không thể biết được căn duyên. Câu giải thoát của giáo này, người được căn bản thiền mà quán luyện huân tu, phát tha tâm trí, nhưng cũng chỉ biết tâm niệm của người khác, mà không biết căn duyên. Tuệ giải thoát của thông giáo, tu tám định của vô sinh Tứ đế , đây cũng là duyên lý mà không thể chiếu cơ. Câu giải thoát của Giáo này, người được thiền căn bản mà quán luyện huân tu, phát tha tâm trí cũng chỉ biết được tâm người khác, mà không thấy đươäc căn duyên, Bồ-tát cũng thế. Bồ-tát của Biệt giáo tu tám định của vô lượng Tứ đế, nếu nhập định này thì biết được tâm niệm của người khác cũng thấy được căn duyên của mọi người. Bồ-tát của Viên giáo, tu tám định vô tác, Tứ đế tịnh mà thường chiếu, biết được tâm niệm và các căn duyên. Sáu thứ trước là Không biết, hai thứ sau là biết. Nay xét hai thứ sau đều biết về tâm niệm và căn duyên mà chê trách kia không nhập vào hai định này. Hỏi: Tâm và căn duyên có gì khác? Đáp: Biết tâm chỉ là tha tâm trí, phàm phu và Tiểu thừa đều có, còn biết căn duyên là đạo chủng trí, Biệt giáo mới có, Thông giáo thì không, huống là hàng phàm Tiểu. Hỏi: Nếu thế, ngài Tịnh Danh sao được chê trách không biết tâm? Đáp: Chủng trí thì biết căn duyên, nhân đó cũng biết tâm người khác, cho nên ở sau căn cứ theo thứ lớp không biết tâm mà chê trách. Hỏi: Vô lượng và vô tác biết căn khác nhau thế nào? Đáp: Tám định của vô lượng từ Không vào Giả phát Đạo chủng trí thì biết được căn của vật. Đây là duyên tu mà làm hiển sáng chân tu, không phải là định mà mặc tình chiếu khắp. Còn vô tác là chân tu, tịch mà thường chiếu, không dùng hai tướng khắp thấy các cõi, tức là tướng Bất nhị mà chiếu khắp các căn duyên. Hỏi: Nếu thế sao được khuyên ngài Mãn Nguyện nhập định này? Đáp: Lời nói này giống như đem tám định của Biệt giáo để đối phá hàng Nhị thừa không quán căn duyên của người, nên nói trước phải nhập định. Viên giáo thì không có tướng nhập và xuất. Hoặc là phá để giúp phương tiện nói nhập. Lại nữa, tâm tâm tự nhiên lưu nhập mới là chân nhập. Không đem đồ ăn dơ đặt trong bát báu, đây là đã phát đại tâm từ lâu xa. Đại tâm tức là pháp tánh chân tâm, ra ngoài pháp tánh không có chân tâm nào khác. Bát báu, tức tâm Bồ-đề như báu vật dung chứa Phật pháp, như bát báu này, tức là Đại thừa khí thế gian vậy. Đồ ăn dơ, tức là pháp hỷ thiền duyệt của Tiểu thừa, mang chất dơ trần sa vô minh. Ngài Mãn Nguyện vì không nhập định, quán các đồ đựng báu đại tâm của các Tỳ-kheo mà nói cho họ nghe thức ăn pháp hỷ thiền duyệt Tiểu thừa thì không thể được. Trách không nhập định không biết tâm niệm, niệm tức là nghó nhớ tính toán, các Tỳ-kheo ấy đã từng phát tâm Đại thừa tu các hạnh lục độ. Đời nay dầu mất nhưng vẫn còn tập nhân nên dùng Đại thừa mà nói để họ phát sinh hạnh xưa, tại sao lại dùng Tiểu thừa nói tiểu pháp cho họ, như ngài Thân Tử có lỗi khi dạy hai đệ tử. Đại thừa chân thật được dụ cho lưu ly, còn Tiểu thừa không thật thì dụ như thủy tinh, không phải vật báu thật. Trách không nhập định trước để biết căn nguyện, là các Tỳ-kheo ấy từ lâu đã gieo trồng thiện pháp gọi là căn, vốn xưa gặp Phật và phát tâm nên gọi là nguyện. Ngài Mãn Nguyện đã không nhập tám định vô lượng vô tác, nên không thấy được căn nguyện của các Tỳ-kheo có che chướng, đáng lẽ nói Đại thừa đối trị, vì sao lại vọng nói tiểu đối trị, khiến họ chán khổ mà cầu diệt độ, người ta không bệnh chớ gây tổn thương, tức thí dụ đã sáng tỏ. Các Tỳ-kheo này phát tâm Đại thừa đến nay đã tạo những căn lành nào đều chưa có ý đắm trước pháp bệnh Tiểu thừa. Bỗng nói cho họ pháp Tiểu khiến họ sinh niệm đắm trước, tức làm tổn thương căn thiện pháp Đại thừa. Trách không biết sự ham thích Từ “dục hành… lửa đóm”, các Tỳ- kheo này ham thích Đại thừa thì phải nói thế giới Đại thừa để thành tựu sự ham thích, sao lại nói thế giới Tiểu thừa làm hư lòng ham thích Đại thừa. Căn, dục, tánh này là ba lực trong mười lực. Căn là quá khứ, dục là hiện tại, tánh là vị lai. Trong đây chỉ nói về căn và dục mà không lu- ận về tánh, vì căn lành chưa thành thì ham thích cũng thay đổi được, tức chưa thành tánh vậy. Nên Đại luận có nói dục gọi là tùy duyên mà khởi, còn tánh thì tâm thâm sâu làm việc. Nếu thiện căn ở quá khứ thành tựu bền chắc thì đời này gặp duyên liền khởi. Đây là nhân tánh thành dục. Nếu các thiện căn ở quá khứ chưa bền chắc mà đời này gặp duyên khởi ham muốn. Tập luyện nhiều tất thành tánh, cho nên nói tánh là Không thể sửa đổi. Dục và tánh có liên quan nhau, nên trách không biết ham thích “Dục) là gồm nói cả tánh. Đây có ba dụ, tức là ba thứ tâm ham thích Đại thừa. Một là, Ham thích đi đường lớn thì đừng chỉ bày đường nhỏ tắt. Đây là thí dụ muốn quán thật tướng pháp thân Vô thượng đại đạo, tức trí độ đại đạo Phật gọi Thiện lai. Vì sao? Vì các Tỳ-kheo này đã có tâm ham thích tìm cầu tâm thật tướng, mà ngài Mãn Nguyện chỉ nói cho pháp chữ Bán, tức chỉ bày đường nhỏ vậy. Hai là, Chớ đem để nước cả biển lớn mà để ở lỗ chân trâu. Đây là thí dụ muốn tu công đức vạn hạnh Đại thừa. Vì sao? Vì các Tỳ-kheo này muốn tu vạn hạnh đại Từ, đại tâm tức là biển lớn. Ngài Mãn Nguyện đã nói đạo phẩm Tiểu thừa tức lổ chân trâu, khiến cho người vốn có Đại tâm lại tu tiểu hạnh tức là nước cả biển lớn để ở lổ chân trâu. Ba là, Chớ cho ánh sáng mặt trời đồng với lửa đom đóm, đây là thí dụ dùng vô tác Tứ đế Nhất thiết chủng trí Đại thừa sánh với hữu tác Tứ đế Nhất thiết trí Tiểu thừa. Vì sao? Vì các Tỳ-kheo này muốn cầu Nhất thiết chủng trí của Đại thừa mà ngài Mãn Nguyện lại nói Nhất thiết trí tuệ của Tiểu thừa. Nếu nói thấy chân là đồng thì lý phải cùng đồng. Song lấy ánh sáng mặt trời mà so với lửa đom đóm là Không được. Tóm tắt có năm nghóa: Ánh sáng côn trùng không phải là ánh sáng báu. Sáng nhấp nháy không dừng. Phá tối ít. Chỉ sáng trong đêm. Không lợi ích gì nên không thể bì được với ánh sáng mặt trời. Bởi ánh sáng mặt trời thì: Ánh sáng báu. Sáng mãi không nhấp nháy. Phá tối tăm khắp nơi. Tự soi và soi vật khác. Tất cả đều nhờ ơn nguồn sáng ấy. Hợp năm thí dụ trên ắt thấy rõ. Các Tỳ-kheo có đủ ba thứ dục này ắt thành ba đức bí tạng. Vì sao? Vì đường lớn tức là Pháp thân, ánh sáng mặt trời tức là Bát-nhã, vạn hạnh tức là Giải thoát, đâu thể đem ba dục của Tiểu thừa mà sánh được ư? Lại nữa, ngài Mãn Nguyện không biết bốn tâm này, không thể thấu suốt từ xa xưa gặp Phật đến nay có tâm số căn dục này, ở khoảng giữa đã quên đi bốn tâm, tuy có nhưng chưa quyết định. Nếu nghe Đại thừa thì đại tâm liền phát do nhờ các thiện căn đời trước giúp cho bất thoái chuyển. Đã là bất định, nếu nghe nói Tiểu thừa liền theo Nhị địa, nên không thể được. Phần hai, Kết lỗi Từ “Phú-lâu-na trở xuống: Văn có hai: Một là, chánh kết lỗi chê trách; hai là, thí dụ làm sáng tỏ. Chánh chê lỗi: Ở quá khứ gặp Phật đã phát bốn tâm trước, ở khoảng giữa lại quên mất ý này. Từ đấy trở đi phải trải bao sinh tử, tuy bị báo chướng ngăn cản, nhưng vẫn có thể phát, sao lại đem Tiểu thừa bốn Tất-đàn mà dẫn dắt khiến trái ý xưa. Hỏi: Thiện căn ngày xưa nhất định mất hay không mất? Đáp: Tuy quên mà không mất. Nên kinh Pháp Hoa có nói: Không biết trong áo mình có hạt bảo châu vô giá. Kinh lại nói: Một câu nhiễm thần trí muôn kiếp không phai mờ. Thí dụ làm rõ việc kết lỗi Từ “Ngã quán… lợi độn”. Trí Tiểu thừa nhỏ cạn, quán sinh diệt thấy chân thì gọi là Nhất thiết trí. Trí này không đoạn dứt trần sa vô minh, lại không thể thấy được các căn duyên của mọi người. Không thể viên chiếu pháp giới nên gọi là nhỏ, như thỏ bơi qua sông không đụng đáy thật tướng nên gọi là cạn. Cũng như người mù không thể phân biệt, là hàng Nhị thừa chỉ có ba thứ nhục nhãn, Thiên nhãn và tuệ nhãn mà không có pháp nhãn, nên không thấy được căn duyên. Không có Phật nhãn nên không thấy được Phật tánh. Không có căn Bồ-tát đối ba đế trần sa không phát ba trí, tâm không thấu suốt nên như kẻ mù. Lại như người mù bẩm sinh, tức hàng Nhị thừa có nhục nhãn mà không như lục căn tịnh của Pháp Hoa nói một lúc thấy cả sắc mười pháp giới của tam thiên giới nên như mù. Hàng Nhị thừa có Thiên nhãn nếu tác ý có thể thấy được thiên giới cho đến đại thiên. Còn chư Phật và Bồ-tát có chân Thiên nhãn, không dùng hai tướng mà thấy các cõi Phật. Hàng Tiểu thừa không có thứ này, nên như kẻ mù. Nếu Tuệ nhãn của Bồ-tát thấy ít Phật tánh và không rõ ràng thì tuệ nhãn của hàng Tiểu thừa đều không thấy được. Vì chỉ thấy ở không tức là mù. Tuệ nhãn của chư Phật như mười sáu Vương tử khen ngợi nguyện được tuệ nhãn Đệ nhất tịnh như Thế Tôn. Nên biết Nhị thừa hoàn toàn không có năm nhãn, nên nói như mù. Nếu không có năm nhãn thì không thể phân biệït căn lợi độn của chúng sinh đối với ba đế lý. Phần ba, Ngài Tịnh Danh nhập định gia hộ các Tỳ-kheo Từ “thời Duy-ma-cật… Tam-bồ-đề”. Sở dó phải gia hộ là vì muốn khiến họ nhớ lại đời trước đã ở trước năm trăm Đức Phật phát tâm tu hành hồi hướng đại đạo. Phần bốn, Các Tỳ-kheo lại được bổn tâm “tức thời” trở xuống Văn có hai: Một là nói được bổn tâm; hai là chí kính. Dùng sức Tam-muội gia hộ các Tỳ-kheo khiến ngộ lại việc tu bốn tâm thuở xưa, nên nói được lại bổn tâm. Các Tỳ-kheo kính lễ. Ngài Mãn Nguyện đã sai cơ nên quẩn quanh vô ích, nay nhờ gia hộ liền biết việc đời trước, thiện căn khai phát cảm ân trọng hậu thẹn thùng đảnh lễ. Hỏi: Xuất gia sao lại lạy người tục? Đáp: Vào được đạo thì ân sâu dù nát thân cũng khó đền đáp. Các Tỳ-kheo này mới tu đại đạo đâu cần giữ tiểu nghi. Phần năm, Ngài Tịnh Danh nói pháp cho nghe “Thời Duy-ma- cật” trở xuống chính dùng Đại thừa bốn Tất-đàn nói pháp cho bốn tâm. Phần sáu, Các Tỳ-kheo được bất thoái chuyển Từ “A-nậu”… đến thoái chuyển” được tương tự giải thoát bất thoái của Viên giáo, tức ngôi vị Thiết luân vương. Nếu thật sự không thoái chuyển là bậc Sơ trụ của Đồng luân. Vì phát tâm từ xa xưa nên là ở vị ngũ phẩm bất định mà thôi. Hoặc là bất thoái của Thông giáo hay Biệt giáo chưa thể quyết định. Phần bảy, Ngài Mãn Nguyện tự thẹn Từ “ngã niệm đến thuyết pháp”. Vì không có chủng trí pháp nhãn nên không thấy được căn duyên đến nỗi bị sai cơ, há được xưng là nói pháp bậc nhất mà lại lầm nói pháp vô ích không lợi ích cho người, rất hỗ thẹn sợ sệt, nên không kham lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh. * Kết lời không kham. Tự nghó lúc xưa nói pháp sai cơ nên bị chê trách, nay đâu dám lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh. Sáu là Phật sai ngài Ma-ha Ca-chiên-diên. Văn có hai phần: Phật sai đi thăm bệnh; và đáp lời không kham. Sai đi thăm bệnh: Sở dó sai ngài kế tiếp vì ngài là luận nghóa bậc nhất trong hàng đệ tử Phật. Ma-ha là Đại, Chiên-diên là họ, lấy họ đặït tên, lại dịch là Bất định. Có người nói là Vai lệch “kiên oai”. Có người gọi là Văn sức, chưa biết ai đúng. Như Sa-di Tu-đà-da mới tám tuổi mà biết luận nghóa nên được thọ giới. Lại như mười tiên Phạm chí đều nhân luận nghóa mà phát tâm vào đạo. Nên Đại kinh nói: Người ham luận nghóa thì sinh lên ngũ Tịnh cư, ở cõi trời ấy mà nhập Niết-bàn. Xét đến cùng cho đến thành tựu năm thứ ích lợi, đã nói đủ ở chương ngài Thân Tử. bốn: Đáp lời không kham: Từ “Ca-chiên-diên” trở xuống. Văn có Chính đáp lời không kham. Nói lý do không kham. Chính kể việc không kham. Kết thành không kham. Đáp lời không kham: Vì lúc xưa giải thích năm nghóa mà bị chê trách không đáp được nên không kham việc truyền ý chỉ Như Lai. Nói lý do không kham Từ “Sở dó” … trở xuống. Do Phật lược nói pháp yếu cho các Tỳ-kheo, ta tiếp đó mà diễn giảng nghóa lý đến nổi bị chê trách. Văn có hai: a) Phật lược nói pháp yếu - b) Ca-chiên-diên sau đó giảng rộng ra. Phần a có bốn trường hợp là: Danh tóm nghóa rộng, tức giáo ít giải nghóa nhiều. Danh rộng nghóa tóm, tức giáo nhiều giải nghóa ít. Danh nghóa đều rộng, tức giáo nhiều giải nghóa cũng nhiều. Danh nghóa đều tóm, tức giáo ít giải nghóa cũng ít. Nói về tổng tướng Khổ đế không cần giải thích nhiều, tức là danh nghóa đều tóm. Nếu phân biệt về biệt tướng khổ đế thì có bốn hành, các thứ thí dụ giải thích tức là danh rộng nghóa rộng. Nếu chỉ nói chung về năm hành mà giải thích các thứ, tức là danh tóm nghóa rộng. Nếu nói đủ mười sáu hành, nhưng không phân biệt giải thích thì tức là danh rộng nghóa tóm. Phật nói cho các Tỳ-kheo hoặc dùng tổng tướng lược nói Khổ đế mà không giải thích riêng, hoặc tóm tắt mười sáu hành tổng tướng mà nói năm hành, không rộng phân biệt Biệt tướng, tức là danh tóm nghóa tóm, nên nói là lược nói. Hỏi: Ngài Ca-chiên-diên rộng giải năm nghóa của Phật, sao được dựa theo năm hạnh mà giải? Đáp: Xét theo lý thì gọi là năm nghóa, dựa theo trí thì gọi là năm hành, xét về định thì gọi là năm thiền, nghóa chuyển đổi tương quan đều không trái khác nhau. Nói pháp yếu: Vì năm hành tóm tắt các hành, ý chỉ quy về nhập đạo cao tột nên nói là pháp yếu. Vì sao? Vì mười sáu hành này gồm nhiếp tất cả hành. Nay lấy bốn thứ này, tức khổ… bốn hành duyên chung với Niệm xứ thì sinh ra Noãn pháp, tức là tương tợ đạo cho đến Thượng nhẫn Thế đệ nhất pháp, tùy dùng một hành mà được vào khổ nhẫn, tức chân đạo vào sự đạo đầy đủ nên nói là pháp yếu. Lại năm hành này tức là ba pháp ấn. Ấn là kinh Thanh Văn. Vì sao? Vì Khổ hợp với vô thường, không hợp với vô ngã và được tịch diệt tức là ba pháp ấn. Nên nói là pháp yếu. Lại năm hành này tức là ba giải thoát môn. Không, vô ngã là Không. Tịch diệt Niết-bàn tức là Vô tướng. Vô thường, khổ tức là Vô tác. Ba thoát môn này gồm nhiếp tất cả pháp, nên nói là phát yếu. Ngài Ca-chiên-diên nói rộng. “Ta ở sau giải bày nghóa ấy”, tức là nói vô thường… năm thứ. Nói diễn bày ở sau, tức Phật vì các Tỳ- kheo mà nói tổng tướng khổ, hoặc nói ổng tướng năm thứ chính, cốt ý khiến họ hiểu mà tiến tu đạo nên không nói rộng phân biệt biệt tướng, e trái cơ làm mất ý chánh đạo. Ngài Ca-chiên-diên cho là các Tỳ-kheo không hiểu nên sau đó diễn giảng rộng ra. Phu là kê khai, diễn là giảng rộng ra, tức giảng rộng về năm nghóa. Lại giảng rộng có hai thứ: Một là, giảng rộng chiều ngang; hai là, giảng rộng chiều dọc. Giảng rộng về chiều ngang, tức trải qua ba cõi mỗi mỗi đều riêng nói năm nghóa của Khổ đế. Giảng rộng về chiều dọc, tức căn cứ theo thân biên hai kiến, bốn kiến, sáu mươi hai kiến, mỗi mỗi đều phân biệt nói về năm hành. Như thầy trò của Số luận sư. Có phân tích kỹ về năm nghóa thì chỉ giảng rộng chiều ngang chứ không thể vào đạo. Nay một nhà phân bày ngang dọc là cho vào đạo thì chỉ có ngài Chiên-diên thấy rõ có, không mà vào đạo, tạo ra luận Côn Lặc luận sáng nghóa lý. Như nói Niệm xứ thì liền biết bốn điên đảo; nói ba đôïc liền biết ba Thánh hạnh, nói hữu liền biết vô. Nay vì các Tỳ- kheo ắtcăn cứ vào luận đó mà dựa theo môn có, không, bao gồm hai biên, nói rộng năm nghóa: Chỉ có Phật ở đời thì nói ra các điều không trái và không tranh cãi. Vào môn tuy khác nhưng được đạo vẫn là một. Ai có soạn ra luận thì chỉ nói về môn của mình không nói đến các pháp khác. Cho nên Đại kinh nói năm trăm Tỳ-kheo mỗi người đều nói nhân của mình, tức là việc này vậy. Ngài Chiên-diên tạo luận nếu không thông suốt bốn môn, Tam tạng giáo, phân biệt không trệ ngại, thì luận ấy đâu được truyền bá ở Nam Thiên Trúc. Tỳ-đàm hữu môn cho đến Phi không phi hữu môn đều nói năm nghóa. Bốn môn nói nghóa đều đầy đủ ở huyền văn, suy xét kỹ ở kinh thì bốn thứ năm nghóa có thể thấy rõ ràng, nếu nói đủ e rườm. Hỏi: Những gì là có, không gồm chứa năm tướng nghóa? Đáp: Như hai môn hữu và không vừa rồi, hai Sư phán quyết khác nhau rất xa. Nay luận Côn Lặc dễ dàng chấp nhận cho nhân hữu và vô đều được vào đạo, mà lại dùng đây rộng giảng năm nghóa cho các Tỳ- kheo. Ngài Thanh Mục chú giải Trung Luận có nói: “Kẻ ít hữu ít vô mà vào đạo là hàng độn căn.” E rằng sự dễ dàng này không quyết, phán là thuộc độn căn. Hoặc ngài Chiên-diên nhân đây mà chấp nhận giảng nói năm nghóa không thể phán quyết khiến vào Đạo đến nỗi bị chê trách, tức lý do không kham. Hỏi: Phật nói tóm tắt các Tỳ-kheo chưa hiểu, Ca-chiên-diên rộng giảng nói thì có lỗi gì. Nếu Phật dùng giáo Tam tạng giáo mà không hợp cơ thì lỗi này do Phật có liên quan gì đến Ca-chiên-diên? Đáp: Ý Phật rất khó lường ẩn hiện có nhiều mối. Tuy lúc đầu dùng Tam tạng giáo để tiếp dẫn nhưng người vào đạo ắt dùng Diễn môn của Thông giáo. Ấy là Như Lai quyền dụng năm nghóa của Tam tạng giáo. Ngài Ca-chiên-diên không hiểu mà giảng rộng ra, đã không khiến các Tỳ-kheo tiến đạo, đến nổi bị chê trách, nên nói là nguyên do. Chính nói việc không kham “Thời Duy-ma-cật” trở xuống. Văn có ba: Trách lỗi tâm năng thuyết. Trách lỗi pháp sơ thuyết. Các Tỳ-kheo tâm được giải thoát. Trách lỗi tâm năng thuyết: Hàng Tiểu thừa vào Chân không có nói năng, khi từ Chân xuất Tục thì có tâm có nói, ấy là dùng tâm sinh diệt mà nói pháp thật tướng. Đã là sinh diệt thì không gọi là thật tướng, há lại dùng tâm này mà nói thật tướng. Lại bốn nghóa là sinh, tịch diệt là diệt. Như đây mà phân biệt thì không phải nói thật tướng. Lại khi xuất quán, tâm khởi là sinh, khi nhập quán tâm mất là diệt. Thật tướng không như thế, sao dùng tâm này mà nói pháp thật tướng. Lại ngài Chiên-diên nhân có, không mà nhập đạo. Lại căn cứ theo có, không mà nói năm nghóa, thì sinh tức là hữu, diệt tức vô, sở thuyết đã là sinh diệt có, không thì năng thuyết tức phải như thế. Cho nên nói không dùng tâm hành sinh diệt mà nói pháp thật tướng. Lại bốn môn năm nghóa của Thanh văn đều là quán tích pháp sinh diệt. Nên Trung luận có nói: Nếu vì hàng độn căn Thanh văn nói nhân duyên sinh diệt, tức nói pháp thật tướng. Vì sao? Vì Bát địa của Thông giáo trở lên thì Nhị đế song chiếu, tức chân mà nói. Bậc Sơ địa của Biệt giáo cả đạo và quán cùng song lưu, nói về tức tịnh, đều e là có giáo mà không có người. Chỉ có sơ tâm của Viên giáo tức tịnh mà nói như đàn Tu-la gọi là Không phải sinh diệt mà nói pháp thật tướng. Lại ngài Chiên-diên không những chỉ tâm quấy nói pháp mà cũng không biết cả căn duyên, các Tỳ-kheo này chỉ nhân Thông giáo khéo độ mà đắc đạo không cần nhờ Tam tạng giáo. Cho nên Đại só trách ngài còn sinh diệt, không có sức định tuệ, không thấy được cơ duyên của người khác, lầm nói năm nghóa lòng vòng. Trách lỗi pháp sở thuyết “Ca-chiên-diên đến tịch diệt nghóa”. Sở dó trách là vì pháp ngài Ca-chiên-diên nói là vụng độ nên tâm các Tỳ- kheo không khai ngộ. Nay ngài Tịnh Danh nói cho pháp thể năm nghóa, không phải chỉ thông suốt chân, mà cũng thông Trung đạo, các pháp rốt ráo không sinh không diệt. Ấy là nghóa vô thường, tức Tam tạng giáo nói thô tế sinh diệt vô thường chỉ là vô thường, không phải nghóa vô thường. Nếu hiểu rõ các pháp Không phải sinh không phải diệt mà chấp càng là sinh diệt, nên dùng bốn trường hợp để kiểm, sinh, hồi, đắc thì liền không có diệt, tức không sinh không diệt là nghóa vô thường. Năm thọ ấm rỗng suốt không có chỗ khởi, là nghóa của khổ. Tam tạng giáo nói thô tế năm ấm vọng chấp là có, nên thể của hữu tức là Không. Không thấy tướng khổ nên gọi là Không có chỗ khởi, tức là nghóa của khổ. Các pháp rốt ráo không có, ấy là nghóa của không, là Tam tạng giáo nói sinh và pháp hai không, đây chỉ là Không mà không phải là ng- hóa của không. Đại thừa nói thể các pháp này tức là thật tướng xưa nay vốn vắng lặng vì vọng chấp là có nhân và pháp. Đã nói rốt ráo không có gì tức không cần phải phá bỏ. Nếu không có hữu để bỏ, thì đâu thể có không, tức rốt ráo không có gì, đó là nghóa Chân không. Đối với ngã và vô ngã mà không hai, đó là nghóa của vô ngã. Tam tạng giáo nói nhân vô ngã thì chỉ là vô ngã mà không phải là nghóa của vô ngã. Đại thừa nói: Thật tướng Chân không xưa nay vốn không có ngã và vô ngã, vọng chấp là có, nên nói đối với vô ngã nếu không được ngã thì cũng không được vô ngã. Ngã cùng vô ngã xưa nay vốn không hai, không hai tức là vô tánh, tánh của vô tánh tức nghóa chân vô ngã. Pháp xưa vốn không như thế thì nay tức không mất, ấy là nghóa của tịch diệt. Tam ta- ïng giáo nói: Đem có về không, nên gọi là tịch diệt Niết-bàn, chỉ là tịch diệt không phải là nghóa của tịch diệt. Đại thừa nói các pháp xưa nay thường là tướng tịch diệt, tức Đại Niết-bàn, không thể còn diệt nữa, tức là nghóa của chân tịch diệt. Mà phàm phu vọng thấy lưu động, Nhị thừa đối trị để diệt đi. Bồ-tát thể thấu suốt pháp vốn không phải thế, tức là lý chân đế tịch diệt, xưa nay vốn không có phiền não sinh tử, thì nay cũng không có nhân diệt, quả diệt tức Diệt đế Niết-bàn. Nếu thấy sinh diệt và Chân không lý chẳng hai, tức là nghóa của chân diệt. Tam tạng giáo nói năm pháp danh nghóa đều khác. Đại thừa nói năm pháp giả danh tuy khác, danh tự tức không, nghóa nó là một. Đây là cách chung giải thích năm nghóa. Đại thừa cũng tức là năm nghóa Viên giáo vậy. Nếu phá ngài Ca-chiên-diên do có, không chấp nhận mà nói năm nghóa, phải nói rằng: Các pháp rốt ráo không sinh không diệt là nghóa vô thường, sao được có, không chấp nhận là nghóa vô thường. Từ “phá” trở xuống bốn nghóa, suy ra sẽ biết. Hỏi: Trên nói ngài Ca-chiên-diên vì giảng số bốn vinh mà bị chê trách, nay Đại thừa nói năm nghóa để kết bốn khổ ở trước, há là hiển bày vinh? Đáp: Nếu phá chân mà nhập trung, kết chân thành khô, từ đó thành vinh. Như kinh Niết-bàn nói: Như hai chim cùng bay. Thường và vô thường đều đủ nghóa chân vô thường, không được lìa thường, nên kinh này nói: “Đối với ngã và vô ngã mà không hai”tức là nghóa chân vô ngã. Như trong Đại kinh nói: Ngã và vô ngã tánh nó không hai, tánh không hai tức là nghóa chân ngã, tức là trong pháp vô ngã có chân ngã. Ngài Tịnh Danh kết chân nói bốn khô, ý là hiển bày vinh. Chính là ý giáo sinh tô Phương đẳng, ẩn hiện chưa rõ ràng, há được đồng ngay với Pháp Hoa, Niết-bàn. Nói các Tỳ-kheo ngộ đạo Từ “thuyết thị … giải thoát”. Các Tỳ-kheo này tất nhân sinh diệt mà điều tâm để được nhập vào vô sinh chánh đạo, ấy là vì lúc đầu Phật nói tóm tắt sinh diệt để điều phục tâm. Sau nhân ngài Tịnh Danh chê trách, ngài Chiên-diên mới bỏ sinh diệt, dùng năm nghóa vô sinh xứng cơ mà nói, bèn vào đạo, tâm được giải thoát. Nhân nghe thể pháp nhập không mà được quả A-la-hán. Cho nên Đại Phẩm khen đức của A-la-hán có nói: “Tâm được giải thoát tốt, tuệ được giải thoát tốt”tức là tư duy thoát ba cõi, tâm được tại đủ tám giải thoát. Kết thành không kham “Cho nên con không kham đến thăm bệnh”: Ca-chiên-diên tự nghó thuở xưa vì các Tỳ-kheo rộng giảng năm nghóa, bị ngài Tịnh Danh chê trách làm thinh không đáp được, đâu thể lãnh lệnh truyền ý chỉ Phật nên từ chối không kham. Bảy là Phật sai ngài Na-luật. Văn có hai: Phật sai thăm bệnh; và đáp lời không kham. Sai thăm bệnh: Sở dó sai A na luật tiếp, vì ngài có Thiên nhãn bậc nhất trong hàng đệ tử Phật. Ngài thuộc dòng Sát-lợi con vua Bạch Phạn. Hoặc gọi là A-ni-lư-đậu hoặc A-nâu-lầu-đà như tiếng Sở, Hạ không giống nhau. Hán dịch là Như ý hoặc Vô bần. Vì ở quá khứ đã cúng dường một bữa ăn cho một vị Bích-chi-Phật mà được chín mươi mốt kiếp ở trên trời. Khi làm người thì được vui như ý nên gọi là như ý. Từ đó đến nay không bị thiếu hụt nên gọi là vô bần. Ngài là em họ của Phật. Khi mới vào đạo ngài ngủ nhiều nên bị quở trách. Nhân đó ngài không ngủ mà bị mù mắt. Ngài bạch Phật, thưa đủ mọi việc. Phật bảo: Ngủ là cho mắt ăn, như người bảy ngày không ăn tất chết, còn bảy ngày không ngủ thì mắt cũng hư không chữa trị được, vậy cần phải tu Thiên nhãn để nhìn thấy việc đời. Nhân đó ngài tu thiền mà được bốn đại tịnh sắc. Chỉ cần nửa phần quán thấy Đại thiên thế giới như trái cây trong lòng bàn tay. Nếu cả Tam tạng giáo Phật thì dùng toàn phần Thiên nhãn thấy suốt không ngăn ngại. Tuy không bằng Phật nhưng trong hàng Thanh văn thì ngài là bậc nhất tức là dùng Tác ý số để vào đạo như trên đã nói đủ. Nếu xét đến cùng cho đến đạo thành năm lợi ích trước như đã nói đủ trong chương ngài Thân Tử. Đáp lời không kham “A-na-luật” trở xuống. Văn có bốn phần: Đáp lời không kham. Nêu lý do không kham. Chính kể việc bị chê trách. Kết thành không kham. Đáp lời không kham: Bởi vì thuở xưa có Phạm vương hỏi về Thiên nhãn, ngài đáp về sở đắc của mình đến nỗi bị chê trách mà không biết trả lời sao, nên nay không dám lãnh ý chỉ đến thăm bệnh. Nêu lý do không kham. Văn lại có hai phần nhỏ: Phạm vương đến hỏi. A-na-luật đáp lời. Phạm vương hỏi: Phạm vương chỉ là chúa thế giới thống ngự đại thiên có báo được Thiên nhãn cũng thấy được đại thiên. Có báo được Thiên nhãn thì không ai bằng Phạm vương. Phạm vương và quyến thuộc nghe ngài A-na-luật có Thiên nhãn bậc nhất trong hàng Thanh văn, muốn biết hơn kém thế nào nên đến hỏi từ ta tức … Mã-lặc-quả. Na-luật đáp lời: Các Thanh văn khác được Thiên nhãn đều không ai thấy được đại thiên giới. Nên Đại luận có nói: Thiên nhãn của Đại La-hán chỉ thấy được tiểu thiên, Đại Bích-chi-Phật thì thấy được trăm thế giới Phật, chư Phật Như Lai thấy tất cả cõi Phật. Riêng Na-luật thấy được đại thiên, vì ngài riêng tu Tác ý số, nên ngài có Thiên nhãn bậc nhất trong hàng Thanh văn. Việc thấy cùng Phạm vương hình như giống nhau, dụng đã không hơn nên ông ta không kính trọng đâu thể khiến ông phát tâm, đến nỗi bị Đại só chê trách, tức là lý do không kham. Hỏi: Nếu thế đâu có gì khác? Đáp: Phạm vương được báo ở chỗ mình ở thì thấy được đại thiên, còn các nơi khác thì không thấy. Ngài Na-luật vì tu căn bản năm thứ bốn thiền, tám sắc thanh tịnh… mà phát chân Thiên nhãn, tùy chỗ đến đều thấy được đại thiên, như xem trái cây trong bàn tay. Các La-hán tuy không thấy đại thiên nhưng tùy chỗ thấy như bóng theo hình. Lại Phạm vương chỉ thấy tổng tướng, thấy không rõ ràng. Na-luật thì thấy biệt tướng tất thấy rõ ràng. Cho đến các La-hán nhân tịnh thiền mà được, tức đều biệt tướng mà thấy nên thấy rõ ràng. Lại Thiên nhãn của Phạm vương là thông chứ không phải minh, còn Thiên nhãn của La-hán là thông cũng là minh, có khác như thế. Hỏi: Thiên nhãn của Phạm vương thấy đại thiên cùng với nhục nhãn của Pháp Hoa có gì khác? Đáp: Đại Luận có nói: Báo sinh Thiên nhãn là ở trên nhục nhãn. Thiên nhãn thì mở rộng, còn nhục nhãn thấy sắc nên thấy đại thiên. Đại Phẩm nói: Nhục nhãn của Bồ-tát thấy một trăm do-tuần cho đến cả đại thiên, quá đây thì dùng Thiên nhãn. Vì nhục nhãn cùng phong tướng trái nhau nên không nói thấy cõi khác. Nếu nhờ sức kinh Pháp Hoa thì nhục nhãn có thể thấy được tất cả pháp ở đại thiên, hàng Nhị thừa Tam tạng giáo có Thiên nhãn và tuệ nhãn, chỗ thấy sự lý còn không bằng, huống là chỗ thấy của Phạm vương mà bằng sao? Cho nên Đại kinh nói rằng: Người học Đại thừa tuy có nhục nhãn thì gọi là Phật nhãn, còn hàng Nhị thừa tuy có tuệ nhãn vẫn gọi là nhục nhãn. Vì tuệ nhãn thấy chân đoạn. Hoặc nên so cùng nhục nhãn của Viên giáo hoặc bằng hoặc kém. Nhục nhãn của Viên giáo gọi là Phật nhãn, vì tuy nó đầy đủ tánh phiền não nhưng hay biết được bí mật tạng của Như Lai. Chiùnh kể việc bị chê trách “Thời Duy-ma-cật trở xuống. Văn có năm phần nhỏ: Hạch nạn. Na-luật bị khuất phục. Phạm vương thưa hỏi. Tịnh Danh trả lời. Phạm vương và quyến thuộc phát tâm. Hạch nạn. Văn có hai: Song hạch. Song nạn. a) Song hạch. Công đức của La-hán có hai thứ hữu vi và vô vi. Hữu vi tức là mười trí, ba thứ Tam-muội, tam minh, lục thông; vô vi tức là tam giới kiến tư đoạn xứ, vô sinh vô diệt. Thiên nhãn nếu thuộc hữu vi là thấy những thứ có tướng, nếu thuộc vô vi là thấy những thứ không tướng. Định nương vào đâu mà thấy được đại thiên. Song kết nạn “Giả sử… hữu kiến”. Thiên nhãn của Tịnh thiền đều thấy tướng có tạo tác sinh diệt, tuy cùng dùng sức của căn bản thiền có khác, nhưng đều là hữu vi, mới xem qua không khác, nên nói cùng đồng với năm thông của ngoại đạo. Nếu tướng vô tác tức là vô vi không phải có thấy, đây là dựa theo công đức vô vi mà kết nạn. Vô vi chính là chứng số duyên đã hết không còn chỗ duyên để thấy thì đâu thấy được đại thiên. Nếu vô vi còn có thấy thì đâu khác gì ngoại đạo. Đã không được có thấy đâu được nói thấy đại thiên. Nếu chấp hữu vi là thấy được đại thiên thứ này yếu kém đồng với Phạm vương, phàm Thánh đâu khác. Đã không hơn được thì đâu thể khiến Phạm vương phát tâm. Lỗi của Na-luật chính là ở đó. Vì sao? Vì Tam tạng giáo tích không chẳng được Trung đạo. Vào quán tức đồng với vô vi không thấy, ra quán lại đồng với hữu vi có thấy. Có lỗi như thế nên bị hạch sách khuất phục. Na-luật chịu khuất phục “Bạch Thế Tôn! Con bấy giờ yên lặng”. Vì sao? Vì đối với việc hạch sách này không biết nói thế nào cho thông. Phạm thiên thưa hỏi “Bỉ chư Phạm”. Văn có ba: Khen việc chưa từng có. Kính lễ. Thỉnh hỏi. Khen việc chưa từng có: Nghe ngài Na-luật trả lời, chưa biết là có khác, nay nghe Đại só hạch sách thì Thiên nhãn của Na-luật đã hỏng mà Phạm vương cũng không thật, tức còn có một loại chân Thiên nhãn nên sinh tâm chưa từng có. Nói Phạm vương và quyến thuộc phát tâm kính lễ Từ “Tức vị tác lễ…” : Trong lòng phát ý cung kính cũng là lễ nghi thưa hỏi rằng trên đời ai là người có chân nhãn. Phạm vương thưa hỏi: Thiên nhãn của ngài Na-luật và của mình không phải chân, vậy ắt có người được chân Thiên nhãn, nên hỏi trên đời ai có. Đại só đáp “Duy-ma-cật…”: Văn có hai: Đáp có chân Thiên nhãn. Luận về tướng chân Thiên nhãn. Người có chân Thiên nhãn dùng thấy Trung đạo không có hai biên, giả gọi là chân Thiên nhãn. Hỏi: Không có hai biên giả gọi là chân tuệ nhãn, sao gọi là Thiên nhãn? Đáp: Tức trung thấy sắc thì gọi là chân Thiên nhãn. Luận về tướng chân Thiên nhãn Từ “Thường tại … Nhị tướng”, tức thường ở trong các đại Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, cũng gọi là ở trong các hang sâu thiền định đại Bát-niết-bàn, cũng là tướng diệt định của tất cả chúng sinh. Thấy các Phật quốc, tịch mà thường thấy, như gương sáng và mặt nước trong thì muôn hình đều hiện rõ. Không dùng hai tướng mà thấy, tức không giống với Thiên nhãn của Phạm vương ngoại đạo thấy tướng hữu vi có tạo tác, cũng không giống với Nhị thừa thấy vô vi thiên chân mịt mờ không thấy. Lại không dùng hai tướng, là Trung đạo chân Thiên nhãn, không phải tướng Nhị đế mà thường khắp soi hai thứ sinh tử trong bốn cõi, chết đây sinh kia, y chánh báo đều hiện trong Vương Tam-muội, tức là chân Thiên nhãn. Hỏi: Thứ chân Thiên nhãn này thuộc giáo nào? Đáp: Không phải Thiên không phải Viên, mà Thiên Viên cùng thấy, tức là chân Thiên nhãn thuộc Viên giáo. Hỏi: Nếu Phật thấy Trung đạo thì gọi là Thiên nhãn sao lại gọi là Phật nhãn? Đáp: Nay lấy chứng lý thì thấy mười phương cõi và thấy sắc thô tế của mười pháp giới thì gọi là Phật Thiên nhãn. Viên thấy ba đế không hai, thì gọi là Phật nhãn. Tùy nghóa phân biệt năm nhãn rõ ràng. Nếu đã hiểu được ý sâu của Thiên nhãn thì ngại gì bốn nhãn kia. Như Kim Cang Bát-nhã có nói: Nếu phân biệt đầy đủ khỏi luận các việc khác. Phạm vương phát tâm. Văn có hai: Nói các Phạm vương phát tâm. Nói chí kính mà đi. Phạm vương phát tâm: Trước nghe ngài A-na-luật nói thì không biết rõ được lý thật tướng, lại không có việc thấy tất cả cõi nước nên không khiến các Phạm vương phát tâm. Nay nghe Đại só nói mới rõ chân lý sự việc rộng rõ hơn trước xứng hội căn duyên nên đều phát tâm. Tợ phát của Viên giáo tức là Thiết luân, còn chân phát tức là Đồng luân. Chí kính: Phạm vương kính lễ ngài Duy-ma-cật rồi biến mất. Nên con không kham lãnh ý Phật đến thăm bệnh. Kết thành không kham: Ngài Na-luật tự nghó thuở xưa đã nói cho Phạm thiên về Thiên nhãn đến nổi bị Đại só chê trách mà không đối đáp được, đâu dám lãnh ý Phật đến thăm bệnh. ----------------------------- <詞>PHẨM: ĐỆ TỬ (Phần 6) Tám là: Phật sai ngài Ưu-ba-ly “Mạng Ưu-ba-lị…” . Văn có hai phần: Phật sai thăm bệnh và đáp lời không kham. Sai thăm bệnh. Sở dó sai tiếp “Ưu ba ly”, vì ngài là người trì luật bậc nhất trong số đệ tử Phật. Ưu-ba-ly, Hán dịch là Thượng thủ. Có người dịch là Hóa sinh là người có ứng theo Niệm tâm số mà vào đạo. Vì sao? Vì Tu-đa-la và A-tỳ-đàm của Tam tạng giáo do Phật nói hoặc các đệ tử hóa nhân, Thiên, Tiên tùy cơ mà nói ra được Phật ấn khả thành kinh. Còn Tỳ-ni kiết giới đều do chính Phật chế ra, vì muốn giữ gìn Phật pháp, sửa chính hàng quyến thuộc cần tu niệm giữ gìn giới luật, khiến không quên mất, niệm lực nếu mạnh thì không sai sót. Lại nữa người trì giới cấm luật, nếu không chuyên niệm cân nhắc khinh trọng ắt sẽ có nhiều sai sót, làm việc lỗi lầm, cho nên Phật dạy các Tỳ-kheo sáng sớm thường tu lục niệm tất tránh nhiều sai phạm, làm việc không lỗi lầm, nên ngài là bậc Thượng thủ trì giới. Xét đến cùng cho đến thành tựu năm lợi ích trước đầy đủ như trong chương ngài Thân Tử. Đáp lời không kham Từ “Ưu-ba-ly…”. Văn có bốn: Chánh đáp không kham. Kể lý do không kham. Kể việc chê trách. Kết thành không kham. Chánh đáp không kham: Bởi vì lúc xưa phán đoán không sáng suốt đến nỗi bị chê trách, đâu dám truyền chỉ Như Lai. Kể lý do không kham “Sở dó giả hà” trở xuống do vì hai thầy Tỳ-kheo giải thích Luật tướng không khế hợp cơ lý. Văn có hai: Hai thầy Tỳ-kheo phạm giới nghi hỏi. Thượng thủ giải thích. Hai thầy Tỳ-kheo hỏi: Có hai Tỳ-kheo phạm giới khinh trọng chưa biết, nếu khinh sao lại không dám hỏi Phật. Nếu là trọng thì luật không có văn sám hối hoặc phương tiện về trọng tội. Có thầy từng thấy kinh nói: Có một Tỳ-kheo nằm ngủ trần trong Lan-nhã có cô gái hái củi thấy được đến phạm tội dâm. Tỳ-kheo thức dậy nghi mình phạm trọng tội. Lại có Tỳ-kheo nổi giận muốn đánh cô gái, cô gái sợ chạy lọt hố mà chết. Thầy Tỳ-kheo nghi mình phạm giới sát, rất xấu hổ không dám hỏi Thế Tôn, bèn đến xin ngài Ưu-ba-ly quyết nghi. Trên nói mười vị đại đệ tử cùng giúp Như Lai hoằng truyền mười pháp môn là ý ở đây vậy. Ngài Ba-ly giải thích “Ta sẽ vì các ông nói đúng pháp) Y vào luật mà phán đoán hoặc dạy tập họp Tăng làm phép Yết- ma để đuổi đi nên nói giảng giải đúng pháp. *) Chính kể việc bị chê trách “thời Duy-ma-cật … trở xuống. Văn có hai: Chính kể việc bị chê trách. Hai thầy Tỳ-kheo tâm được thanh tịnh. Phần (a) có bảy ý: Chánh chê trách. Khuyên dẹp bỏ. Giải thích. Dẫn lời Phật làm chứng. Hạch sách ngài Ba-ly. Phán xét theo lý chân. Kết thành tuân giữ giới luật. Ý một chánh chê trách: Nếu căn cứ theo lý mà sám hối thì không phiền phải can thiệp bằng sự. Về sự tướng lăn xăn nào có lợi gì với lý. Không làm nặng tội thêm của hai Tỳ-kheo này, vì tội từ tưởng sinh ra, vậy phải dẹp bỏ tưởng. Còn ngài Ba-ly lại cưỡng phân biệt là trọng là khinh Yết-ma như thế là can thiệp bằng sự, dối làm loạn tâm; sinh ăn năn nặng nề, che lấp định tuệ, ấy là làm nặng thêm tội, cần dẹp bỏ ngay, chớ làm động tâm người. Ý thứ hai khuyên dẹp bỏ: Quán kỹ tánh của tội thì vọng tưởng tự dứt, ấy là dẹp bỏ ngay. Vì sao? Vì tội từ tâm sinh, tất do tâm diệt, nên tội có hay không có đều do ở tâm. Nếu quán tâm rốt ráo không thể được, tức không thấy tướng tội, đó là dẹp bỏ ngay, không nên làm loạn tâm họ. Nay nói tội diệt có ba cách: Tác pháp sám. Quán tướng sám và quán vô sinh sám. Tác pháp sám thì diệt trừ tội trái vô tác, nương vào Tỳ-ni môn. Quán tướng sám thì diệt trừ tánh tội, thứ này nương vào định môn. Quán vô sinh sám thì diệt trừ tội vọng tưởng, thứ này nương vào tuệ môn. Lại nữa, tội trái vô tác thì chướng giới, tội tánh thì chướng định, tội vọng tưởng thì chướng tuệ. Tác pháp sám như luật đã nói: Tác pháp thành tựu luôn diệt trừ các tội trái vô tác, nhưng không trừ được tánh tội. Đại luận nói: Như Tỳ- kheo cắt cỏ, làm mất mạng thì hai tội cùng một thiên, tác pháp sám hối thì hai thứ vô tác diệt, mất mạng thì không diệt. Tuy tội trái vô tác diệt nhưng tánh tội chưa diệt vì nó không phải thật diệt mà khi tác pháp thì loạn động phân tán bỏ phế việc tu thiền định; chướng ngại việc nhập vô sinh tức là làm nhiễu loạn tâm người ấy. Quán tướng sám, thì như các kinh Phương Đẳng đã nói về hành pháp để thấy tướng tội diệt. Bồ-tát giới có nói: Nếu thấy các tướng lạ như hoa và ánh sáng thì các tội liền diệt mất. Nếu không thấy tướng lạ dầu sám hối cũng vô ích. Nếu thấy tướng đẹp thì hai tội tánh và vô tác đều diệt mất. Chấp tướng thì tâm động, tức nước tâm không trong thì ngọc châu đâu thể hiện ra. Đây cũng là quấy nhiễu tâm, không phải là diệt thẳng tội. Quán vô sinh sám, khi quán này thành thì có thể diệït trừ hết các tội thuộc vọng hoặc căn bản. Như đào bật gốc cây thì các cành lá đều chết. Phổ Hiền Quán có nói: Tất cả biển nghiệp chướng, đều từ vọng tưởng sinh, người muốn sám hối tội, ngồi thẳng nghó thật tướng, các tôïi như sương sớm, mặt trời tuệ chiếu tan không cần phải tác pháp và thủ tướng lăng xăng. Hỏi: Nếu thế, các kinh nói về Sám hối ắt phải rất xấu hổ sợ sệt mà sửa đổi tội lỗi thì sao được không cần tác pháp và thủ tướng sám. Đáp: Người có lợi độn. Nếu người độn căn tạo tội thì tâm nặng, sám hối thì tâm nhẹ. Tâm nhẹ không thể trừ được tội tâm nặng, cho nên khiến phải sinh tâm rất xấu hổ sợ sệït sữa lỗi, cần phải theo tác pháp và thủ tướng sám hối. Còn người lợi căn tâm chánh quán tánh tội vốn tự mất, lo sợ hối lỗi không khởi tất là rốt ráo, nên không tạo tội mới là gọi là diệt thẳng tội lỗi, không quấy nhiễu tâm. Nên Đại luận có nói: Nếu người phạm tội hay sám hối, sám hối rồi không còn lo âu. Như thế tâm an lạc không còn nhớ nghó nữa. Nếu hối lỗi quá nặng thì việc hối lỗi sẽ như mũi tên đâm vào tim, hiện đời sầu khổ chết rồi bị đọa vào địa ngục. Lại nếu chấp có tội này, thì tội trở thành nặng, nếu không chấp tội thì tội nhẹ dần. Nếu hay thấy được lý sự của tánh căn bản thì tất cả các tội liền diệt mất. Ấy là diệt thẳng, không quấy nhiễu tâm. Ý thứ ba, giải thích Từ “dở dó … trung gian”“, tánh tội không ở trong, ngoài hay khoảng giữa, là tội tánh vốn không. Nếu thường quán “không”, tức là Không tội. Vì sao? Vì nếu tội là có tức có định tánh. Nếu có định tánh thì không ngoài ba chỗ: Ở trong tâm. Ở ngoại cảnh và ở khoảng giữa, tức tâm cảnh cùng sinh. Nay kiểm tra lại nếu ở trong tức là tự tánh. Tự tánh là tội, khi chưa đối cảnh thường phải luôn có tội, nên không phải là tự tánh. Nếu bảo là ở ngoại cảnh, thì cảnh là tánh khác. Nếu người khác có tội thì tội thuộc người khác đâu liên quan gì đến mình. Nếu bảo trong ngoài hợp lại mà tội sinh ra, tức là cùng sinh ra tội, cùng có hai lỗi, gọi là mình người, tức hai tội cùng sinh như chặt cỏ cây. Nếu người có tội cỏ cây cũng phải có. Nếu bảo là ở khoảng giữa thì dao cũng có tội đâu phải chỉ ở hai phía. Lại giải thích không phải ở nội căn, ngoại trần hoặc khoảng giữa sáu thức, nếu mười tám giới “không” thì không có tội tánh nào có tội. Lại tội từ tâm sinh, mà quán tâm không từ mình người cùng sinh thì tâm không ở trong hoặc ở ngoài hay ở giữa. Tâm như thế thì tội cấu cũng thế, các pháp cũng thế. Nên Phổ Hiền Quán có nói: Quán tâm không có tâm, pháp Không trụ ở pháp, tâm ta tự trống không, tội phước không chủ, các pháp như thế, không trụ, không hư hoại, sám hối như thế gọi là đại sám hối, gọi là trang nghiêm sám hối, gọi là vô tội sám hối, gọi là phá hoại tâm thức sám hối. Làm pháp sám hối này tâm như nước chảy, niệm niệm không dừng trụ, thấy được Phổ Hiền Bồ-tát và mười phương Phật. Hai lời giải trước là quán hạnh có sơ thất nhỏ không hợp với kinh, lời giải sau là giúp ngài Tịnh Danh dẫn lời Phật nói. Nếu hay như thế mà quán tội vô sinh là diệt trừ thẳng không quấy nhiễu tâm. Ngài Tịnh Danh lấy đây mà giải thích mà thấy rõ ý chê trách trước. Ý thứ tư dẫn lời Phật nói làm chứng để giải thích điều nghi của Ba-ly “Như Phật đến ư như”. Vì sao? Vì ngài Ba-ly tự nghó Tỳ-ni do Phật chế ra. Nay sử dụng theo pháp chế này nào có lỗi gì. Thế nên Đại só cũng dẫn lời Phật nói sao không nhận. Nhưng lời Phật nói có hai là liễu nghóa và bất liễu nghóa, đâu thể chấp nhận lời nói bất liễu nghóa mà không chấp nhận lời liễu nghóa, cũng là khiến hai thầy Tỳ-kheo tín tâm được sáng sạch. Cho nên dẫn lời Phật nói để phá nghi chấp của họ. Nếu căn cứ vào đây mà phán quyết trái lời Phật nói, tức trong Tỳ-ni Phật hỏi ông khởi tâm nào, nếu khởi tâm cấu bẩn thì khinh hay trọng đều là tội cả, chẳng nói là Không. Đại só liền dẫn lời Phật: Tâm cấu nên chúng sinh cấu. Phải biết tội từ tâm sinh, nếu thấy có chúng sinh tức có tội cấu. Nếu biết tâm trống không, không có tướng chúng sinh, tức là tâm tịnh, mà tâm tịnh tức chúng sinh tịnh. Chúng sinh tịnh, nên không có tội cấu. Đây thì tâm năng tri sở tri đều không ở trong, ở ngoài hay ở khoảng giữa. Ấy là Không tâm, không tâm sao có tội cấu? Cho nên nói tội cấu cũng như thế, các pháp cũng như thế, không ở ngoài Như. Như Đại Phẩm nói: Khi Bồ-tát hành Bát-nhã thì không thấy có pháp ở ngoài pháp tánh, pháp tánh tức là tên khác của như. Ý thứ năm, hạch sách “Như Ưu-ba-ly … trở xuống có ba phần nhỏ: Đại só hỏi, Ưu-ba-ly đáp và Đại só so sánh chỉ rõ Chân không vô cấu Đại só hỏi: Đây hỏi Ba-ly tích pháp quán tâm, khi nhập vào thiên chân thì có cấu chăng. Ngài Ba-ly đáp “ta nói là Không”. Tích pháp quán tâm, khi thấy chân, chân là tướng vô cấu. So sánh hiển sáng Từ “Duy-ma… như thị”. Đại thừa nói tướng tâm chúng sinh tức không tức trung. Vô cấu cũng thế. Ý thứ sáu nói ba Giả vào Không phê đoán đoạn trừ “Duy Ưu-ba-ly đãi nhau” trở xuống. Ba giả là: Nhân thành. Nối nhau. Đối đãi nhau. Thể là Giả vào Không, cho nên dùng các thí dụ huyễn mộng… để luận về tướng giả. Như thể giả này cũng vào Viên, Chân đối phá tích giả Thiên chân của Tam tạng giáo. Vì sao? Vì ba giả của Tam tạng giáo chỉ tùy theo tình mà vào chân, còn giả của Đại thừa nói thì theo lý mà vào chân, đầy đủ như trong huyền nghóa. Đây là diệt tội khéo vụng không đồng, ngài Ba-ly thì thô dùng vụng, ngài Tịnh Danh thì dùng khéo léo vi tế. Văn có ba: Thể nhân thành. Thể nối tiếp nhau. Thể đối đãi nhau. Thể này vào Không tức chân tức trung, thì không có tội tướng, tức là dẹp bỏ thẳng của Tỳ-ni Đại thừa. Có ba điên đảo, chính là căn cứ theo vô minh sáu uế thành năm ấm, giả gọi là người tội, tức nhân thành ra giả. Vô minh điên đảo không ngoài ba thứ, tức tưởng, tâm, kiến luôn thành ba điên đảo, ba ấm đều do vô minh tạo thành. Ba thứ đảo ấm này giúp tâm vương khởi mà có tất cả các hành tội cấu. Nếu có thể hiểu rõ ba điên đảo không có mình người không nhân cùng chung tức là Không sinh. Không sinh, không diệt, không tâm, không tội. Chỉ do Ba-ly vọng tưởng là cấu, không vọng tưởng là tịnh. Đây nói là tâm điên đảo, thể nó giả tức không, điên đảo không khởi thì không có tội cấu, cho nên nói không điên đảo là tịnh. Điên đảo là cấu, không điên đảo là tịnh. Chấp ngã là cấu, không chấp ngã là tịnh. Chấp ngã tức là ngã kiến… năm thứ, là kiến điên đảo. Thể nó giả tức không, tức không chấp ngã. Nếu không chấp ngã, thì không có tội cấu, nên nói không chấp ngã là tịnh. Cả ba thứ này đều là nhân thành giả cùng căn cứ tâm mà luận tội cấu nên cần thể hội. Nói về thể nối tiếp Giả để nhập vào Không như huyễn. Thí dụ pháp nối tiếp chỉ gia bày ra nối tiếp có tội. Nếu thể nối tiếp thì không phải mình người… tức được nhập không thì không thấy tội tướng. Tội tướng hư vọng không thể được, tất tội cấu tự diệt mất. Như thí dụ về điện chớp là hiển sáng việc tranh diệt tiếp nối nhanh chóng. Hỏi: Điện chớp là thí dụ của Tam tạng giáo sao được vào môn dụng của Đại thừa? Đáp: Đã nói thí dụ huyễn hóa về tiếp nối nhanh chóng không thật nhưng chưa sáng tỏ, nên phải mượn thí dụ về điện chớp để hiển sáng việc nhanh chóng, sao lại không được? Nói về thể nối tiếp đối đãi Từ “các pháp… tương sinh”. Giả nhập vào Không đối đãi có hai thứ: Khác thời và đồng thời. Đây xét theo khác thời nên nói cho đến một niệm cũng không trụ, dùng bốn trường hợp kiểm soát cũng không thể được, liền được nhập vào Không. Nói đối đãi nhau, tức đều thấy hư vọng. Lại từ các pháp trở đi là chung thí dụ về ba giả thành tất cả pháp, đều là Không có mà phân biệt sinh ra tất cả pháp, là đều do vọng thấy, nên nói như mộng, như hơi nóng, như trăng trong nước… đều là vọng tưởng sinh ra. Thể giả tức không thì vọng tưởng không khởi, tâm không tội, tức là thanh tịnh. Nên ngài Tịnh Danh nói phải dẹp bỏ thẳng. Ý thứ bảy kết thành việc giữ luật Từ “kỳ tri đến thiện giải”. Phật giáo vốn khiến đoạn ác vào đạo. Nếu hiểu sâu được ý Phật phó cơ phán đoán người hay trừ tội cấu mà được vào đạo, tất không trái lời Phật dạy, tức là tuân thủ giới luật. Người biết điều này thì gọi là khéo hiểu biết, tức là biết tướng tôïi khinh trọng đều như huyễn hóa. Biết rõ khinh trọng, nhập vào Không có khinh trọng Đệ nhất nghóa đế, tức là biết rõ sự khéo léo vượt qua của Tỳ-ni. Phần (b) Hai thầy Tỳ-kheo tâm được thanh tịnh. Văn có ba: Hai thầy Tỳ-kheo khen ngài Tịnh Danh. Thuật việc ngài Ba-ly hàng phục thành. Hai thầy Tỳ-kheo tâm tịnh mà phát tâm. Hai thầy Tỳ-kheo khen “ư thị…”, khen ngài Ba-ly là vụng về giữ luật, còn ngài Tịnh Danh là khéo léo giữ luật. Vì Khéo và vụng khác nhau nên khen là bậc Thượng trí. Ngài Ba-ly vì vụng không bằng xảo độ nên không nói được. Chỉ nói ngài là bậc Thượng thủ trì luật của Tam tạng giáo chứ không thể dùng cho Đại thừa. Thông, Biệt, Viên giáo thì phó cơ phán đoán nên nói mà không thường nói. Thuật ngài Ba-ly hàng phục thành Từ “ngã… thử dã”. Ngài Ba-ly được hai Tỳ-kheo khen ngợi tự xả và kẻ tu học ba giáo cùng các ngôi vị dưới của Viên giáo không thể phán quyết việc ngài Tịnh Danh luận về quyền thuật nhạo thuyết. Người có trí tuệ thấu suốt được như đây thì thể pháp lý soi thấy cơ rõ ràng. Biết bệnh biết thuốc, tùy bệnh cho thuốc thấu suốt vô ngại. Nói hai thầy Tỳ-kheo phát tâm “thời nhị… thị biện”. Mối nghi ăn năn đã hết, tức nghi về tội dâm và tội sát đã hết. Ăn năn, tức ăn năn phạm tội đã hết và ăn năn tội thành nặng cũng hết. Tâm Bồ-đề như trước đã phân biệt. Làm các việc như thế là nguyện khiến được vô ngại biện tài Đại thừa như Đại só. Kết thành không kham “nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy”. Ngài Ba-ly tự nghó việc vụng về giữ luật thuở xưa không thể trừ tội của hai Tỳ-kheo được đến nỗi bị Đại só chê trách. Khi ấy bèn đến kính lễ, nên không kham lãnh ý Phật đến thăm bệnh. Chín là Phật sai ngài La-hầu-la: Văn có hai: Phật sai thăm bệnh và đáp lời không kham. Sai thăm bệnh. Sở dó sai tiếp La-hầu-la, vì ngài là Mật hạnh bậc nhất trong hàng đệ tử Phật. La-hầu-la là con của Phật khi còn làm Bồ- tát, cũng gọi là La Vân, Hán dịch là Phú chướng, vì ở trong thai sáu năm nên gọi là Phú chướng. Bởi xưa đã lấp hang chuột nên bị báo này. Đại Luận nói: La Vân xưa làm vua có hẹn gặp một Tiên nhân, nhưng mãi ham nghe nhạc mà quên mất. Vị Tiên nhân phải hầu chờ ngoại đạo suốt sáu ngày không ăn uống, nên sáu năm phải ở trong thai, nhân đó gọi là Phú chướng. Có nơi dịch là Cung sinh, vì Thái tử Tất-đạt khi sắp vượt thành xuất gia, đã chỉ tay vào bụng vợ bảo rằng: “Sáu năm sau nàng sẽ sinh một trai.” Gia-du phu nhân đó biết mình có thai. Người trong nước đều nghi rằng Thái tử xuất gia, còn vợ ở tại cung làm sao có thai được nếu không phải là thông dâm. Phật và vua Tịnh Phạn về sau đã làm chứng đó là con của Thái tử do đó có tên là Cung Sinh. La Vân đã từ Tư tân số mà vào đạo, nên là Mật hạnh bậc nhất. Nếu xét kỹ cho đến thành năm thứ lợi ích trước, như nói đủ trong chương ngài Thân Tử. Đáp lời không kham “La-hầu-la trở xuống. Văn có bốn: Chánh đáp lời không kham. Nêu lý do không kham. Chính kể việc chê trách. Kết thành không kham. Đáp lời không kham, vì xưa đã nói cho các Trưởng giả tử về công đức xuất gia, nên bị chê trách mà không đáp được, đâu dám lãnh ý thăm bệnh. b) Nêu lý do không kham “sở dó” trở xuống. Do xưa đã nói cho các Trưởng giả tử về công đức xuất gia nên bị chê trách. Văn đây có hai: Trưởng giả tử hỏi. La-hầu-la đáp. Trưởng giả tử hỏi: Đức Phật nếu ở tại gia sẽ làm Luân vương xuất gia thì thành Phật. Ngài La Vân ở tại gia cũng làm Luân vương, nhưng nay bỗng b) La Vân đáp Từ “ngã… chi lợi”, có thầy bảo trong kinh Hiền Ngu có nói: Suy xét độ người mà nói công đức xuất gia. Nay nói không phải vậy. Trưởng giả tử hỏi La Vân công đức xuất gia há lại luận việc độ người được phước nhiều ít. Bèn vì nói việc xuất gia theo Tam tạng giáo sẽ được mười trí, ba thứ Tam-muội, tam minh, lục thông, tám giải thoát… ra khỏi sinh tử được hai thứ Niết-bàn… Công đức xuất thế đâu như Luân vương còn bị lưu chuyển trong sinh tử không bến bờ. Chánh kể việc chê trách “Thời Duy-ma…”. Văn có năm: Chánh chê trách. Giải thích. Rộng bày công đức xuất gia. Kết chân xuất gia. Khuyên các trưởng giả tử xuất gia. Chánh chê trách, không cho nói: Đây có ba ý: Đã là Mật hạnh sao được nói lợi của xuất gia, bèn nói rõ thế nào là Mật hạnh. Nói công đức xuất gia nhỏ hẹp của Tiểu thừa không xứng với căn duyên Đại thừa của các trưởng giả tử. Nếu nói công đức xuất gia phải đúng hình thức thì các trưởng giả tử sẽ bị trở ngại, trọn không thể có được hình thức xuất gia. Vì ba lỗi trên, nên bị chê trách là Không nên nói. Giải thích: “sở dó” đến “công đức”. Tam tạng giáo nói công đức hữu vi vô vi che giấu giới, định, tuệ gọi là Mật hạnh. Nay Đại só chê trách có sự có lý. Về sự chê trách, nếu là Mật hạnh thì không nên tự nói công đức xuất gia, nếu vì lợi sinh thì không nên tự khoe. Đã không biết căn, nói không hợp cơ nào có lợi ích gì? Về lý chê trách, thì không lợi ích, không công đức ấy là xuất gia. Vô vi tức là hư không Phật tánh. Nếu thấy Phật tánh ra khỏi hai nhà chết mới là chân xuất gia. Nếu thấy Phật tánh được Đại Niết-bàn tất không chứa nhóm, mới gọi là tạng, gọi là chân Mật hạnh. Đây tức là Mật hạnh đối khô hiển bày vinh. Pháp hữu vi thì có thể nói lợi, có công đức. Đây là trách La Vân thấy chân, thiên lệch trí đoạn ấy là pháp hữu vi. Pháp hữu vi thì có lợi, có công đức. Đã là hữu vi thì không thể ra khỏi biến dịch sinh tử, sao gọi là xuất gia. Nên Đại kinh có nói: Không tức là sinh tử, chẳng không tức Đại Niết-bàn. Phàm xuất gia là pháp vô vi. Trong pháp vô vi thì không có lợi, không có công đức. Đây là chê trách La Vân xuất gia tâm quấy. Phàm xuất gia vì vốn muốn ra khỏi nhà sinh tử, tìm đến chân vô vi. Chân vô vi như đoạn văn sau nói rằng: Thân Phật vô vi không rơi vào các số. Nếu chưa khỏi sinh tử mà trụ vào hữu vi, thì đây là cầu xuất gia tâm quấy. Vì sao? Vì Tiểu thừa thấy chân được Số, duyên hết mà được Hữu dư Niết-bàn, mà bảo là vô vi. Nếu nương Đại thừa được thấy Trung đạo, không còn biến dịch sinh tử nữa, mới là pháp chân vô vi, tức là bình đẳng. Ở chân pháp giới, Phật không độ chúng sinh, nên nói trong pháp vô vi không có lợi, không có công đức. Nên trong Đại kinh nói: Tăng Thanh văn gọi là Tăng hữu vi, Tăng Bồ-tát gọi là Tăng vô vi. Hỏi: Ngài Tịnh Danh chính dùng vô vi phá hữu vi, vô vi chỉ là Hư không Phật tánh, sao được nói dùng chân mật hạnh Đại thừa để phá Bất chân mật hạnh của La Vân? Đáp: La Vân đắm trước hữu vi, bao nhiêu Mật hạnh có được đều là hữu vi. Nay Tịnh Danh vừa rồi đem vô vi mà phá. Nếu biết rõ chân vô vi như châu Như ý, không gì chẳng có, cho nên trước nói vô vi, sau liền nói rộng về công đức xuất gia. Rộng bày công đức xuất gia “La-hầu-la…”, vì La Vân nói công đức xuất gia Đại thừa, tức là trong pháp vô vi có đầy đủ tất cả hạnh, gọi là chân Mật hạnh. Văn có hai: Tự hành và Hóa tha. Về tự hành, tức chánh quán Trung đạo để phá bên này, bên kia, và khoảng giữa vô vi Niết-bàn của Tiểu thừa. Vì sao? Vì kinh Thanh Văn nói: Niết-bàn là bờ bên kia, sinh tử là bờ bên này, phiền não là dòng chảy ở giữa, thì tất cả bờ kia đây, dòng chảy ở giữa đều là bờ bên này của Đại thừa. Nếu quán Trung đạo được chân vô vi, thì không thấy kia đây và dòng chảy ở giữa, tức là thấy Phật tánh, gọi là chân vô vi. Lìa sáu mươi hai kiến là chánh quán Trung đạo, được chân vô vi, dứt bỏ tất cả kiến của nội ngoại giới. Nên kinh Địa Trì giải thích thanh tịnh thiền có nói: “Lìa tất cả kiến tức thanh tịnh thiền”tức là nghóa đó. Ở nơi Niết-bàn, là nếu quán Trung đạo liền thấy Phật tánh, trụ vào Bổn hữu Niết-bàn, thành ba đức bí tạng bất tư nghị, như chữ nhất ở đời. Người trí thọ nhận, đây là nêu quả để thành nhân. Trí, tức tất cả người trí tuy không thọ nhận, nhưng tâm còn mù mờ về Trung đạo nên gọi là thọ nhận. Chỗ làm của Thánh, Trung đạo là chỗ làm của Thánh. Nên Đại luận có nói: Phật từ đường lớn trí độ mà đến. Lại người trí thọ nhận, tức là quán Trung đạo mà chứng quả. Chỗ làm của Thánh nhân là tu nhân quán Trung đạo. Trung không phải nhân quả mà thường thành nhân quả công đức muôn hạnh, tức là chân Mật hạnh. Về Hóa tha Từ “hàng phục trở xuống, tức nói về công đức xuất gia hóa tha của Đại thừa. Văn có hai: Hàng phục chúng ma. Tồi phục ngoại đạo. Về hàng phục chúng ma tức là phá ái luận, tồi phục ngoại đạo tức là phá kiến luận. Nhưng ái kiến lại có hai: Nội giới tức là đám Ba-tuần, lục sư, ngoại giới tức là hàng Nhị thừa và Bồ-tát của Thông giáo. Căn cứ hàng ma nói về công đức hóa tha, kinh Đại Tập nói: Được đạo Bồ-tát phá ma phiền não, được thân pháp tánh tức phá ấm ma. Được đạo Bồ-tát và thân pháp tánh tức là phá tử ma, được Bất động Tam-muội là phá Tha hóa thiên tử ma. Đại kinh có nói tám ma, tức là bốn thứ thường… và bốn thứ vô thường. Bốn thứ trước là giới nôïi, bốn thứ sau là ngoại giới. Dựa theo ma phiền não trước mà nêu ra tám thứ này. Thường… thì khởi bốn thứ phiền não… tức là nội giới, khởi bốn thứ phiền não thường v.v… tức ngoại giới. Nếu chánh quán Trung đạo được pháp chân vô vi là tự hành phá tám ma. Nếu hóa tha, là nói Trung đạo không phải có để phá bốn thứ thường…, nói Trung đạo không phải Không, là để phá bốn thứ vô thường… Nên nói là hàng phục chúng ma. Độ cho năm đạo, tức năm đạo đều là bà con của ma. Bồ-tát dùng căn lực từ thiện mà sinh vào năm đạo, hiện thân đồng sự và thuyết pháp giúp độ năm đạo, sáu đạo. Mở toang sáu đạo vượt thoát hai mươi lăm hữu. Bồ-tát quán Trung đạo, cùng chiếu soi hai đế, liền được ba đế Tam-muội, thành được hai mươi lăm Tam-muội. Mười phen phá hữu thường độ được năm đạo nội giới và Nhị thừa ngoại giới. Thành được ba thứ ý sinh thân của hàng Đại lực Bồ-tát. Tịnh năm nhãn, là Bồ-tát tu chân vô vi, viên quán ba đế, quán cảnh thô của tục đế, phá các ác nghiệp gọi là tịnh nhục nhãn. Quán cảnh tế của tục đế, phá các loạn tâm, gọi là tịnh Thiên nhãn. Nếu quán chân đế, phá các hoặc nội giới, gọi là tịnh tuệ nhãn. Quán nội ngoại giới của tục đế, phá hằng hà sa vô tri thì gọi là tịnh pháp nhãn quán trung song chiếu, trừ sạch vô minh là tịnh Phật nhãn. Được năm lực, là nếu tịnh được năm nhãn tức được năm lực, nghóa là được năm lực trong bốn đạo phẩm. Vì sao? Vì nếu tích thể, tịnh tuệ nhãn thì được năm lực vô sinh. Từ không vào Giả, tịnh pháp nhãn thì được năm lực vô lượng. Nếu quán Trung đạo, viên chiếu pháp giới tịnh Phật nhãn thì được năm lực vô tác, đó là ba quyền một thật. Lập năm căn, Bồ-tát biết pháp giới bình đẳng cũng như hư không, không phải quyền không phải thật, mà hay thành tựu được năm lực quyền thật, hóa độ bốn thứ chúng sinh đều được năm căn, tức là lập năm căn vậy. Không quấy não họ, là dùng bốn Tất-đàn để xứng hợp bốn căn duyên, trọn không sai cơ phá hỏng thiện căn của họ, tức là Không quấy não họ. Lìa bỏ các tạp ác, tức Bồ-tát tự thành tựu bốn thứ năm lực, lìa bỏ tất cả tạp ác nội ngoại giới, hay lập năm căn cho bốn thứ chúng sinh, lìa bỏ bốn thứ tà nghi bất thiện phiền não, tức là khiến chúng sinh lìa bỏ các tạp ác. Căn cứ tồi phục ngoại đạo nói công đức hóa tha Từ “tồi phục… chúng quá”. Tức là tồi phục chín mươi sáu phái lục sư nội giới và hàng Nhị thừa cùng Bồ-tát của Thông giáo ngoại giới. Vì sao? Vì Bồ-tát quán Trung đạo được chân vô vi, tức có thể tự phá bọn ngoại đạo hai biên. Vì chúng sinh mà nói phi hữu “không phải có) tức là tồi phục hàng ngoại đạo nội giới, nếu nói phi vô “không phải Không) tức là tồi phục hàng ngoại đạo ngoại giới. Vì sao? Vì tâm hành lý ngoại thì không đâu là Không phải ngoại đạo. Tồi phục khiến cho vào Trung đạo tức là hóa tha thành tựu. Vượt khỏi giả danh, tức là sinh tử và Niết-bàn đều là giả danh. Bồ-tát quán trung, được chân vô vi tức là vượt khỏi giả danh của hai biên. Nếu vì chúng sinh mà nói đảo ngược để tồi phục ngoại đạo giúp ra khỏi bùn lầy, tức là chánh quán Trung đạo, ra khỏi bùn lầy kiến tư nội ngoại giới. Nếu vì chúng sinh nói “chẳng phải có, chẳng phải Không”thì căn cứ theo trước mà biết. Không bị phược trước, phược là nghiệp, trước là ái, phiền não thắm nhuần nghiệp nên gọi là phược trước. Quán Trung đạo thì hay đoạn nghiệp ái hai biên. Nếu vì chúng sinh y theo trước có thể thấy. Vô ngã sở, tức là chánh quán Trung đạo, không còn thấy có ngã, ngã sở nội ngoại giới. Nếu vì chúng sinh thì y theo trước sẽ thấy rõ. Không thọ nhận, tức chánh quán Trung đạo, không thọ nhận hai biên. Nếu vì chúng sinh thì chuẩn theo trước sẽ thấy rõ. Không làm nhiễu loạn, là quán Trung tức Không, thì không có nhiễu loạn hai biên Không và Có. Nếu vì chúng sinh chuẩn theo trước có thể thấy. Bên trong phá hoại hỷ, là nếu quán Trung đạo, song chiếu hai đế, liền được bốn thứ hỷ của giác phần. Nếu vì chúng sinh mà nói Trung đạo hai đế bốn thứ hỷ giác chúng sinh sẽ được mừng vui của Bồ-tát, tức thành tựu hỷ vô lượng tâm. Hộ trợ ý người khác, tức quán bốn căn duyên dùng bốn thứ Tất- đàn không trái với bốn cơ nên gọi là hộ trợ ý người khác. Tùy thiền định, là nếu quán Trung đạo, song chiếu hai đế, tức là theo ba đế Tam-muội, trụ ở Đại Niết-bàn, vào sâu hang thiền định, không khởi diệt định mà hiện các oai nghi, vì chúng sinh nói pháp như đàn Tu-la khiến tất cả chúng sinh đều theo ba đế Tam-muội các thiền định vậy. Lìa các lỗi là nếu quán Trung đạo, không có lỗi phiền não nội ngoại giới, được ba thứ không lỗi, ba thứ bất hộ, ba nghiệp tùy trí tuệ hạnh, ba luân hóa bất tư nghị, hóa độ tất cả chúng sinh nội ngoại giới, không bị lỗi làm tổn hại căn duyên người khác, hay khiến chúng sinh lìa bỏ các lầm lỗi nội ngoại giới. Kết thành chân xuất gia “Nếu có thể như thế là chân xuất gia”. Nếu hay như thế, là như trước đã nói, đều là Trung đạo mà được chân vô vi, đầy đủ công đức tự hành và hóa tha. Ấy là một tâm đầy đủ muôn hạnh, như châu Như ý đầy đủ tất cả báu, tức là chân Mật hạnh bốn vinh. Là chân xuất gia, tức chánh quán Trung đạo được chân vô vi hay thoát khỏi hai mươi lăm hữu của phàm phu và ra khỏi nhà của Nhị thừa và Bồ-tát của Thông giáo, tức ra khỏi hai nhà sinh tử và Niết-bàn, nên gọi là xuất gia. Ngài Tịnh Danh khuyên các trưởng giả tử xuất gia “ư thị trở xuống. Văn có bốn: 1/ Khuyên xuất gia. 2/ Từ chối có trở ngại. 3/ Lại khuyên. 4/ Phát tâm. Ngài Tịnh Danh khuyên xuất gia, tức là khuyên tu Trung đạo, ra khỏi nhà sinh tử, nên nói: Các ông ở trong chánh pháp, nên cùng xuất gia. Chánh pháp tức là chánh lý Trung đạo. Hay quán lý này mà được ra khỏi hai biên gọi là xuất. Vì sao? Vì Phật Thế Tôn tất khó gặp, có Phật ra đời mới được nghe pháp, nếu không có Phật ra đời, dù có chánh lý thì suốt kiếp cũng không được nghe. Nay được gặp Phật, được nghe pháp đâu không nhanh chóng tu tập khiến ra khỏi hai nhà chết. Các trưởng giả tử từ chối có trở ngại không xuất gia được Từ “chư trưởng giả tử… xuất gia”. Ngài Tịnh Danh vốn khuyên quán chân vô vi mà ra khỏi hai nhà chết. Các trưởng giả tử cho là khuyên phải theo hình thức xuất gia, nên đồng từ chối có trở ngại, nên dẫn lời Phật nói. Ghi đủ ở luật Tăng-kỳ. Khuyên quán hạnh xuất gia Từ “Duy-ma… cụ túc”. Cần nêu đủ bốn trường hợp: Hình và tâm đều không xuất gia. Hình xuất gia mà tâm không. Hình không mà tâm xuất gia, tức là quán hạnh xuất gia. Hình và tâm đều xuất gia. Nên lại khuyên nói: Các ông chỉ phát tâm này tức là xuất gia rồi. Điều Phật đã dạy ngài Tịnh Danh vốn biết làm như thế cố nhiên là được, chỉ cần các Trưởng giả tử đều có thiện căn Đại thừa, do đó khuyên họ phát tâm cầu chân vô vi liền ra khỏi hai nhà chết. Nhưng Giới từ tâm sinh. Đạo tâm nếu phát thì giới phẩm Bồ-tát tùy tâm đều phát sinh, nên nói liền đầy đủ. Nói các trưởng giả tử phát tâm Từ “Nhó thời… Bồ-đề tâm”. Các trưởng giả tử y lời khuyên đều phát tâm Vô thượng đạo. Về tâm Bồ-đề đã giải thích ở trước. Kết lời không kham “nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy”. Ngài La Vân tự nghó lúc xưa, vì các trưởng giả tử nói về công đức xuất gia, nhưng văn nghóa thô thiễn không xứng hợp căn duyên của các trưởng giả tử, đã bị chê trách, đâu dám lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh. Mười là Phật sai ngài A-nan. Văn có hai: Phật sai thăm bệnh và đáp lời không kham. Sai thăm bệnh: Sở dó Phật tiếp sai ngài, vì A nan là Đa văn bậc nhất trong hàng đệ tử. Ngài là con thứ của vua Hộc Phạn, em ruột của Điều-đạt và là em họ của Như Lai. Hán dịch là Hoan hỷ. Sở dó gọi Hoan hỷ thì như Đại Luận nói có ba nguyên do: Từ bản nguyện mà được tên là Hoan hỷ. Tức tiền thân Đức Thích-ca là người thợ đồ gốm đã phát nguyện với Đức Phật Thích-ca ở quá khứ rằng: Con nguyện khi thành Phật thì lại có tên là Thích-ca và thị giả cũng tên là A-nan. Nay được làm thị giả rất xứng với bản nguyện, nên gọi là Hoan hỷ. Từ cha mẹ mà đặt tên là Hoan hỷ, là khi Như Lai sắp thành đạo thì ma đến chỗ vua Tịnh Phạn bảo rằng “Con ông đã chết.” Vua cùng quyến thuộc rất buồn khổ, khi ấy trời Tịnh cư đến báo tin Thái tử đã thành chánh giác thì vua rất mừng rỡ. Lát sau khi vua Hộc Phạn báo tin sinh con trai. Vua càng vui mừng, bảo đứa nhỏ này sinh ra trong lúc vui mừng nên đặt tên là Hoan hỷ. Từ thấy mà được tên. Vì A-nan thân tướng đoan nghiêm, người nhìn thấy đều yêu kính, sinh tâm vui mừng nên gọi là Hoan hỷ. Xét đến cùng cho đến thành tựu được năm lợi ích trước thì đã nói đầy đủ như trong chương Thân Tử. Đáp lời không kham “A-nan trở đi”. Văn có bốn: 1/ Chính từ chối không kham. 2/ Nói lý do không kham. 3/ Chính kể việc chê trách. 4/ Kết thành không kham. Chíùnh đáp không kham. Bởi thuở xưa vì Phật xin sữa nên bị chê trách không đáp được, đâu dám lãnh ý thăm bệnh. Nói lý do không kham. Do Phật có bệnh nhẹ phải dùng sữa bò. Ngài A-nan cầm bát đi xin nên bị chê trách. Vì sao? Vì Tam tạng giáo chỉ nói sinh thân của Phật mà không nói pháp tánh ba thân ba đức. Sinh thân có chín việc, ép ngặt như đói, khát, lạnh, nóng, bệnh tật… Sở dó thân có chút bệnh phải dùng sữa bò, A-nan không biết là thân pháp tánh, bảo có bệnh là thật, nên bưng bát đi xin sữa. Ấy là bán tự đa văn không nghe pháp thân là thể kim cang, thường trú rỗng không do đó mà bị chê trách. Chính kể việc chê trách “thời Duy-ma trở xuống. Văn đây có ba phần: Hỏi ý xin. Chính chê trách. A-nan hổ thẹn. Phần một lại có hai: Tịnh Danh hỏi. A-nan đáp. Tịnh Danh hỏi: Sở dó hỏi, vì giờ khất thực chưa đến, nay ôm bát đến đây là muốn xin gì, muốn trách cứ nên trước hỏi rõ ý định. Nên hỏi vì sao sáng sớm ôm bát đứng đây. A-nan đáp “ngã ngôn… chí thử”. A-nan chỉ chấp ý giáo Tam tạng giáo cho rằng Phật có bệnh nhẹ cần uống sữa, phận đệ tử phải cung phụng không trễ nãi, nên đến mà xin sữa. Phần hai, Chíùnh chê trách: Từ “Duy-ma-cật…”. Văn có bốn: Lại ngăn A-nan có hai hủy báng. Chỉ rõ thể kim cang. Kết hủy báng. Lại giải thích để đối phá. Ngăn A-nan hủy báng: Nói chân pháp thân thì không có bệnh này. Sở dó ngăn hai thứ là ngăn hai hủy báng. Nói hai hủy báng là chê thêm và chê bớt. Chê thêm, là chân pháp thân của Phật Đoạn đức đầy đủ không có nhân quả của khổ, mà nói là có, tức chê thêm pháp thân. Nói chê bớt, là chân pháp thân của Phật Trí đức viên mãn, tức là thường quả, mà nói có bệnh, tức là chê bớt. Cho nên ở đoạn văn sau nói: “Chê hủy báng Như Lai.” Nay A-nan nói: “Thân có chút bệnh”tức có đủ cả hai hủy báng. Thế nên ngăn A-nan đừng nói lời ấy. Chỉ rõ thân kim cang của Như Lai “Như Lai… hà não”: A-nan không lường được ý lại ngăn, do đó Tịnh Danh chỉ rõ thân Kim cang để đối phá giáo Tiểu thừa nói về sinh thân. Thân Như Lai là thể Kim cang, tức pháp thân, thường thân. Sở dó dụ với kim cang là vì thể bền chắc dụng, nhọn thấu suốt cả nguồn cội. Bền chắc dụ cho pháp thân không bị vọng hoặc sinh tử xâm phạm, thường trụ bất biến. Bén nhọn dụ cho trí đức Bát-nhã của pháp thân có công năng chiếu dụng khắp mọi nơi. Thấu suốt đến cội nguồn là dụ cho đoạn đức giải thoát của pháp thân, dứt hết tận cùng các hoặc chướng, ấy là ba đức như chữ nhất ở đời, nên mượn kim cang để dụ cho pháp thân. Các ác đã đoạn, các thiện khắp hội, các ác đã đoạn tức là năm trụ đều dứt. Các thiện khắp hội, tức là Ma-ha Bát-nhã hay dẫn dắt muôn thiện còn mịt mờ ở Trung đạo được rốt ráo viên cực, ấy là ba đức của pháp thân nghóa rất rõ ràng. Còn có bệnh gì, còn có não gì, tức các ác đã hết thì không còn khổ quả, thì còn có bệnh gì? Các thiện khắp hội rốt ráo thường lạc nào có não gì? Đây là phá báo thân trí đoạn của Tam tạng giáo, nên nói là bệnh. Pháp thân trí đoạn của Đại thừa không có khổ, nên nói không có bệnh. Nói có bệnh tức là hai thứ hủy báng. Nhưng xưa ước bốn thời, năm thời nói rằng nói Bát-nhã cũng là Phật tám mươi tuổi. Giáo Phương đẳng này đồng với Thủ-lăng-nghiêm nói sống bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp mà chẳng chịu giải thích, mười đệ tử là hiển bày khô vinh, đâu được dùng vô thường làm mất văn kinh này. Kết hai hủy báng. Văn có hai: Kết chê bớt. Kết chê thêm. Một, Kết chê bớt, đem Luân vương làm chứng để làm sáng tỏ nghóa này “hãy làm thinh bước đi”, là ngăn việc chê bớt nên nói “hãy làm thinh”; để ngăn việc chê thân nên nói “bước đi.” chân thân không bệnh, sao nhọc công xin sữa, nên khiến đi vậy. Nếu nói có bệnh, tức là nói thêm, chớ khiến người khác nghe lời thô thiển này, là kẻ ngoại đạo ôm lòng dị kiến, tức là người khác nghe Phật có bệnh cho rằng Phật tu thiện còn thô thiển, lạc quả không trọn nên còn bệnh tật, có khác gì người đời, tăng thêm hủy báng bậy, nên khuyên làm thinh đi đi. Không nên khiến… là người có báo lành nhỏ đều được không bệnh tật. Nếu nghe A-nan nói Phật có bệnh liền rất quái lạ là Phật không hơn Luân vương. Vì Luân vương chỉ ba đời tu thập thiện, và tự hành hóa tha, đây là phước nhỏ mà còn được không bệnh, huống là Như Lai có vô lượng phước, hội vượt trội. Phật từ vô lượng kiếp đã tu Ma-ha Bát-nhã để dẫn dắt người muôn hạnh gặp chân lý tột chứng quả thường lạc, đâu được có bệnh. Nếu nói Phật có bệnh tức không bằng Luân vương, người có oai đức ở Tịnh độ và chư Thiên. Đâu không phải là làm tổn thương lớn ư? Hai, Kết chê thêm Từ “Hành hỷ… nhân văn”. Đây là ý chê trách rằng: Nếu nói Phật có bệnh tức là chê thêm, pháp thân vốn không bệnh mà nói là có, tức là có quả bệnh. Quả tất do nhân, vậy nhân là Không lành, nếu có bệnh ác, tức là người ác há lại làm thầy người. A-nan đã là ngừời tu, tất phải xấu hổ với đồng bạn. Nếu nói lời này tất phải xấu hổ với Bồ-tát bốn chúng đệ tử. Nên nói: Chớ khiến bọn ta cùng chịu sự xấu hổ này. Ngoại đạo… đây là nêu đủ về thầy trò cùng chịu nhục, lại khiến nhiều tà nhân mang trọng tội phỉ báng, là việc không nên. Nên khiến hãy đi nhanh đi chớ để người nghe, nếu người không nghe thì không phô bày, không gây tổn nhục cho môn đồ và thêm nhiều người phỉ báng khác. Lại giải thích “đương tri… hà tật”. Nói pháp thân không bệnh để phá A-nan thấy sinh thân có bệnh, chấp đây mà nói, liền thành hai hủy báng. Văn có bốn ý: Từ “Đương tri… dục thân”, đây là giải thích về pháp thân đoạn đức. Tư tức là hành, dục tức là ái. Nếu cùng hành hợp với nhuận nghiệp mà thọ sinh, pháp thân đã đoạn dứt các nghiệp phiền não nội giới ngoại giới, nên nói không phải thân tư dục. Tức là phá báo thân Hữu dư của Tam tạng giáo, cũng còn là quả của nghiệp phiền não nội giới, nên nói là bệnh nhỏ. Nếu chấp đây mà nói tức là chê thêm. Phật là Thế Tôn vượt ngoài ba cõi, đây là giải thích pháp thân trí đức, vượt ngoài hai thứ của ba cõi. Há lại có bệnh của ba cõi nội giới, đây là phá sinh thân Hữu dư cũng còn có báo thân nội giới, nên có bệnh. Nếu chấp đây mà nói tức là chê bớt. Thân Phật vô lậu, các lậu đã hết, đây là giải thích pháp thân đoạn đức, không có ba lậu, hai thứ nội ngoại giới, nên không đọa lạc vào hai thứ sinh tử, há lại có cái quả hữu lậu nội giới, mà có bệnh ư? Đây là phá sinh thân hữu dư của Tam tạng giáo, là quả hữu lậu nên có bệnh nhẹ. Chấp đây mà nói tức là chê thêm. Thân Phật vô vi không đọa vào các số. Đây lại giải thích về pháp thân trí đức. Vô vi không phải là hữu vi nội ngoại giới, tức không có hai thứ số pháp ấm nhập, há lại có pháp ấm giới nhập nội giới. Nương theo đây mà có bệnh tức là phá sinh thân Phật của Tam tạng giáo cũng còn có quả báo ấm giới nhập… các pháp số, nên có bệnh. Nếu chấp đây mà nói tức là chê bớt. Thân như thế thì có bệnh gì, đây là tổng kết về pháp thân trí đoạn. Đã không có bốn lỗi này há được có bệnh, để phá lời A-nan nói, đến nổi thành hai hủy báng, trước đã giải thích ở chương Tu-bồ-đề nói về nghóa hủy báng Phật. Đến đây thì ý đã sáng tỏ. Phần ba, A-nan rất xấu hổ “thời ngã…”. Văn có hai: Chánh hổ thẹn. Trên không trung có tiếng an ủi. Chánh hổ thẹn. Xưa tự cho mình là học rộng, lãnh hội không nhầm lẫn, nay bị chê trách, bèn gây nên hai hủy báng, làm nhục cả thầy trò nên ôm lòng hỗ thẹn. Lại sợ ở gần Phật mà Phật nói không ngộ đến nỗi nghe lầm nên bị chê trách. Tiếng trên không trung an ủy dụ A-nan “tức văn… vật tàm”, đã rất xấu hổ sợ gây ra tội hai thứ hủy báng, nên có tiếng trên không trung giải thích an ủi. Tiếng trên không trung là tiếng của pháp thân Tỳ-lô-giá-na, như Phổ Hiền quán đã nói. Như cư só nói, là như ngài Tịnh Danh nói pháp thân trí đoạn đầy đủ, thân này không bệnh không cần phải xin sữa, tức là thật trí. Lời nói ấy không hư dối. Chỉ vì Phật hiện ra trong đời ác năm trược bày việc này để độ thoát chúng sinh. Năm trược là: Kiếp trược. Phiền não trược. Chúng sinh trược. Kiến trược. Mạng trược. Nếu Phật xuất hiện trong đời ác năm trược này để độ các đệ tử Thanh văn độn căn thì chỉ dạy cả về người và pháp, nên hiện ra có bệnh, tức là quyền trí. Nay vì hóa độ Bà-la-môn nên nói cần lấy sữa để làm phước cho họ, vậy không nên xấu hổ. Ấy là hai thân Chân ứng ng- hóa không đồng nhau. Bổn địa pháp thân tuy không có bệnh tật, nhưng trong tích phải ứng hiện đồng phương tiện để lợi vật. Nếu biết rõ ý này thì không có hai thứ hủy báng, không cần xấu hổ. Kết thành không kham: Từ “Thế Tôn… vấn tật”. Ngài A-nan tự nghó ngài Tịnh Danh đã biện tài chê trách như thế, đâu dám lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh. Phật sai năm trăm đệ tử Từ “Như thị…”. Kinh vốn lược nêu khoảng này. Nhưng nếu năm trăm người bị chê trách, tức là có năm trăm Tỳ-kheo nương Tam tạng giáo vào đạo, ai nấy đều nói việc của mình, ngài Tịnh Danh lại dùng năm trăm pháp môn Đại thừa mà chê trách chiết phục, phân biệt các tướng, riêng hiển bày khô vinh, nhưng không trình bày ra đây chỉ nên để tâm mà hiểu. ----------------------------------- <詞>PHẨM: BỒ-TÁT (Phần 1) Phẩm này tiếp sau phẩm Đệ Tử là phần thứ ba phá về tự thể duyên tập, hiển bày pháp thân giải thoát bất tư nghị, thành giáo Tịnh độ của Như Lai. Ý nghóa của phẩm rất nhiều, hàng phàm tình không lường biết được. Nay lược dùng ba ý để giải thích chung: Chính nói ý có tiếp phẩm này. Lược giải thích nghóa phẩm Bồ-tát. Giải thích văn kinh. 1.Nói có tiếp phẩm này: Đấng Đại Thánh Pháp vương muốn kh- iến chúng sinh y báo, chánh báo bất tư nghị. Trước sai các đại đệ tử kể việc không kham của mình, vì các Thanh văn lấy cái chứng thiên chân đều trệ ngại vô vi, nên ai nấy đều bị chê trách mà không kham lãnh truyền ý chỉ Phật. Bồ-tát không thế nên sai tiếp theo. Nhưng Bồ-tát tuy không trệ vào vô vi mà lại có bệnh về tự thể, nên thuở xưa đều bị chê trách. Đây là nói về ba giáo đều là phương tiện bất tư nghị pháp thân chánh báo chưa hiển bày, Y báo Phật quốc chân tịnh chưa thành, nên các Bồ-tát ai nấy đều từ chối không kham. Nay nói có phẩm này tóm tắt có năm lý do: Hiển bày thắng trí của ngài Tịnh Danh. Chuyển giáo môn phương tiện. Giúp thành giáo Phật quốc. Bác bỏ phương tiện Bồ-tát để tiếp nối vị sau. Ấn định thành kinh. Năm danh số này giống phẩm Đệ Tử trước nhưng nghóa có khác nhau. Thắng trí của ngài Tịnh Danh, các đệ tử ở phẩm trước tuy đều kể việc bị chê trách không đáp được, nhưng hàng Thanh văn trí đoạn dù vượt ngoài ba cõi, mà phước trí cạn hẹp Tiểu thừa, làm sao hiển bày hết Thần trí của ngài Tịnh Danh. Như đấu sức với kẻ yếu kém đâu có gì lạ. Do đó tiếp sai bốn vị Đại Bồ-tát và các Đại só, nếu tất cả đều kể việc không kham thì vì nghe ngài Tịnh Danh trí đức siêu quần không ai không kính ngưỡng và quy phục. Nếu ngài Văn-thù được sai vào thất luận đạo thì tất cả đều được lợi ích lớn. Ý này giống như lấy ở trong thất làm phần tựa, nhưng bốn nghóa kia đều là chính thuyết. Vì nhiều người mà luận cho nên không thuộc phần tựa. Trước đã liệu giản rõ ràng. Chuyển giáo cũng là chuyển quán. Vì sao? Vì độn căn chuyển giáo thì gọi người là tín hành, còn lợi căn chuyển quán thì gọi là người pháp hành, tức có hai là chuyển giáo và chuyển quán. Về chuyển giáo: Bồ-tát độn căn không kham nghe Viên giáo, nên phương tiện tiếp dẫn điều phục họ thuần thục. Tu hạnh phương tiện đã được thuần thục kham nghe Viên giáo vào đạo, nên các Bồ-tát quyền thuở xưa thị hiện việc bị chê trách. Nay muốn chuyển quyền, dùng sự thật cần kể lại cho mọi người cùng nghe biết. Tiếp sai đến các Bồ-tát có ba việc bất đồng: Chuyển giáo phương tiện của Tam tạng giáo. Chuyển giáo phương tiện Bát-nhã trong đêm đắc đạo. Chuyển giáo phương tiện trong Hoa Nghiêm. Chuyển giáo phương tiện, có hai nghóa tiệm và đốn. Về tiệm chuyển thì Bồ-tát độn căn một lần chuyển giáo, cùng Thanh văn đồng năm vị. Nhưng căn cứ người thì có khác chút ít. Vì sao? Vì Tam thừa đồng học, Nhị thừa đoạn các kiết thành lạc, thì giáo và người đều là lạc, còn Bồ-tát phục kiết, giáo là lạc, người còn là sữa. Về đốn chuyển, Thanh văn đối với Phương đẳng Không được đốn chuyển, còn Bồ-tát lợi căn đối thời Phương đẳng thì được ngộ, tức là Đốn chuyển. Đây là ý bất định giáo tức độc trong sinh tô phát ra giết người. Chuyển giáo phương tiện Bát-nhã. Tức là Phật từ đêm đắc đạo luôn nói Bát-nhã. Giáo này như ở Tam tạng giáo vì lợi ích người mà nói, tức là bí mật giáo. Nếu các Bồ-tát riêng nghe tức là bất định giáo. Nhưng đây đã từ vườn Lộc giả đến mà nói Bát-nhã, nói đủ ba trí, tức có ba thứ Bồ-tát, hai loại người trước là học từ phương tiện giáo môn của Bát-nhã, nên bị ngài Tịnh Danh dùng Viên giáo bắt bẻ. Nếu chê trách về Thông giáo, ở Nhất thiết trí mà thấy Trung đạo, tức là độc trong sinh tô phát ra giết người. Nếu chê trách về Biệt giáo, ở đạo Chủng trí mà khai Phật tri kiến, là độc trong thục tô phát ra giết người. Về tu Viên giáo thì có chê trách và không chê trách. Không chê trách tức là hiểu sâu được ý của giáo không chấp sinh kiến, không thuận đạo ái thì không còn chê trách. Hoặc sinh ngữ kiến hoặc thuận đạo ái nên bị chê trách. Nếu tâm khai ngộ vào pháp môn Bất nhị tức là độc trong đề hồ phát ra giết người. Nói học Biệt giáo trong Hoa Nghiêm mà thiên lệch chấp trệ nên bị chê trách. Nếu khai ngộ thì cũng là độc trong thục tô phát ra giết người. Nếu học Viên giáo thì có chê trách và không chê trách, căn cứ trong thời Bát-nhã mà được mất khá biết. Lại nữa trong bốn vị mà phương tiện được ý và không được ý cả hai đều bị chê trách. Vì sao? Vì người đóng kín giáo hạnh sinh kiến, ắt phải chê trách. Tuy ngang bằng giáo hạnh nhưng giáo hạnh chưa chân thật, nên chê trách khiến cho vào thật. Nếu học thật giáo thì căn cứ vào Bát-nhã có thể thấy. Hỏi: Vì sao phải thế? Đáp: Do giáo phương tiện dạy người đều bỏ. Viên giáo thì được ý không bỏ nên như thế. Giải thích phẩm này, Bồ-tát của Thông và Biệt giáo hoàn toàn bị chê trách. Viên giáo thì bất định, căn cứ theo trên mà suy ra. Khi vào văn thì chuyên dùng ý này, từ đây trở đi cần nhớ chớ nghi. Lại ba giáo thì pháp và bệnh đều bị chê trách. Viên giáo trách bệnh không trách pháp. Hỏi: Từ đêm được đạo Bát-nhã, nếu có Thông giáo, thì phải có hàng Nhị thừa được đạo? Đáp: Đúng như lời hỏi. Hỏi: Phương tiện Bồ-tát có nhất định là một mực bị chê trách chăng? Đáp: Đã chưa bằng trong thời Pháp Hoa e là chưa được bỏ hết. Hiển bày chánh ý của Phật nên cứ theo trước mà phán quyết. Căn cứ theo phương tiện giáo thì phương tiện Bồ-tát cũng chỉ trách bệnh mà không trách pháp. Đây cần nên phân biệt. Nếu dựa theo người tu thì bệnh và pháp đều trách. Pháp muốn tiếp độ người sau chưa cần phải bỏ. Hỏi: Hoa Nghiêm Viên Đốn sao được ở người Hữu học mà chê trách khiến chuyển giáo? Đáp: Người lợi căn được ngộ sao lại chê trách, chỉ vì thần căn thấp kém cần phân biệt để tiếp dẫn. Nếu đóng kín giáo không dời thì mất chánh ý của Hoa Nghiêm, nên phải chê trách để lại nhập vào pháp giới hải của Hoa Nghiêm Viên Đốn. Hoặc tuy có học Viên Đốn vẫn phải chê trách như trước nói. Ấy là chê trách lỗi làm trệ ngại chánh ý của Hoa Nghiêm, không phải chê trách giáo pháp Đốn giáo. Hỏi: Cũng nói đêm thứ hai luôn nói Niết-bàn, nên trong kinh Niết- bàn Phật đáp lời Ca-diếp rằng: “Khi ta mới thành đạo, ta đã có mười phương Bồ-tát đến hỏi nghóa này.” Vậy trong đó cũng có Bồ-tát chưa liễu ngộ, sao không nêu ý này? Đáp: Tuy có ý này, nhưng chưa thấy văn rõ ràng. Nếu muốn thấy, căn cứ vào Bát-nhã sẽ biết. Đây dựa theo bộ nên có khác. Nếu có khác tên Hoa Nghiêm Bát-nhã thì trước đã nói bị chê trách, tức là nghóa này. Hỏi: Đêm được đạo thì Bát-nhã là khác tên với Hoa Nghiêm hay là có nói riêng? Đáp: Đại Luận nói: Bát-nhã có hai thứ là chung nói với hàng Nhị thừa và không chung nói. Không chung nói, là như kinh Bất tư nghị, nếu xét theo văn đây thì chỉ là tên khác. Lại nữa, Đại Luận khen Bát-nhã có kệ rằng: Nếu đúng pháp quán Phật Bát-nhã và Niết-bàn Là tướng ba tức một Kỳ thật không khác nhau. Nếu thế, thì Niết-bàn cũng là tên khác của Hoa Nghiêm, sao chỉ có Bát-nhã? Đáp: Hoa Nghiêm từ Đại Phương Quảng Phật mà được tên, Bát- nhã do từ trí tuệ mà gọi, Niết-bàn thì từ giải thoát mà nêu tên. Nếu xét theo luận thì văn khác, bộ khác nhưng danh và lý cũng không mất. Song chưa thấy văn nói rõ ràng nên chưa thể phán quyết. Hỏi: Từ trước khi ngài Tịnh Danh chê trách tất cũng có người trệ ở phương tiện, nhân chê trách mới chuyển giáo, sao không nói ra? Đáp: Chưa thể quyết định nên chưa nêu riêng ra. - Về chuyển quán, là Bồ-tát pháp hành lợi căn tùy trụ phương tiện Quán môn mà nghe chê trách, tức chuyển quán. Vì những Bồ-tát lợi căn này nghe giáo Tam tạng giáo, hoặc nghe Như Lai đêm đắc đạo nói giáo Bát-nhã, hoặc nghe giáo Hoa Nghiêm có ba chỗ phương tiện mà tin hiểu khai ngộ, nhưng chưa thấy Chánh đạo, nay nghe chê trách các Bồ-tát liền hoát nhiên khai giải mà nhập vào pháp môn Bất nhị. Lại nữa, nếu có Bồ-tát ở ba chỗ trước nghe được ít nhiều liền có thể phát tâm, nhưng còn là phàm phu như chất sữa. Nếu vào Không mà thấy lý, tức là như chất lạc. Nếu vào Giả thấy tục, tức là chất sinh tô. Nếu phát Trung đạo giống như giải thoát tức là chất thục tô. Nếu phát chân giải thoát tức là chất đề hồ. Nếu Bồ-tát nghe chê trách, tùy chất vị mà được ngộ, nhập vào pháp môn Bất nhị, tức gọi là ở đương vị có chất độc phát ra giết người. Ấy là Đại só thuở xưa đã chê trách, gột rửa các Bồ-tát để tạo nên Bồ-tát khí. Khi xưa, ai nấy đều được lợi ích. Nay trong đại chúng này ắt có người đủ căn cơ kham nghe, nên sai tiếp thăm bệnh. Nếu ai nấy đều kể việc xưa bị chê trách, thì lúc đó cả tòa đều được lợi về chuyển giáo, chuyển quán. Như việc chê trách trước đều được lợi ích, nên tiếp sai các Bồ-tát là ý ở đây vậy. Lại nữa, khi xưa tùy chỗ nghe khác nhau, nên lợi ích không nhiều. Nay ở Am viên số người tập họp quanh Đức Thế Tôn đông đúc, cùng nghe kể lại, lợi ích vô lượng, đích thân mình được Phật ấn chứng, nên nghóa chuyển giáo mới được quyết định. Hỏi: Chê trách các Bồ-tát chỉ dùng một giáo sao được lợi ích khắp? Đáp: Khổng tử còn nói Thi ba trăm thiên một lời mà át tất cả. Đại só dùng một Viên giáo mà chê trách người học giáo quyền thật, có trệ ngại đều được lợi ích Nhất đạo sao còn quá nghi ngờ? Hỏi: Chê trách các Bồ-tát nhất định đều được lợi ích Nhất viên cả chăng? Đáp: Kiếm bốn Bồ-tát để chê trách, thì lời văn đều như được ích lợi Viên dung, còn văn kể việc chê trách của các Bồ-tát khác đều lược bỏ, nên không thể phán định được. Vả lại kinh Phương đẳng còn mang thêm phương tiện chưa hoàn toàn đồng với Pháp Hoa đâu cho không được lợi ích phương tiện. Giúp thành giáo Phật quốc: Khi chê trách, các Bồ-tát học giáo phương tiện tùy duyên tập đoạn xứ thì tội trừ chướng chuyển, phước tuệ thêm sáng kham thấy được Tịnh độ. Nên khi vào thất thì đồng thấy thất trống. Lại thấy được nước Phật Đăng Vương Hương Tích nên tùy tạp đoạn xứ mà được sinh vào ba cõi. Lại tùy phước tuệ thêm sáng, tùy số chúng sinh được điều phục, sau khi thành Phật, số chúng sinh ấy đều sinh đến nước mình. Đây là giúp thành giáo Như Lai nói cõi Phật thanh tịnh ở trên. Bác bỏ phương tiện Bồ tát để tiếp nối vị sau: như luận Pháp Giới Tánh nói: Như người lợi căn thì ở thời Ma-ha Bát-nhã vào pháp giới. Nếu người trung căn thì ở thời Pháp Hoa vào pháp giới. Người hạ căn thì ở thời Niết-bàn vào pháp giới. Vì chê trách nên sinh tô thành thục tô. Cho nên đến thời Bát-nhã thì thành đề hồ được nhập pháp giới. Vì chê trách, lạc là sinh tô, nên ở thời Bát-nhã là thục tô, đối với Pháp Hoa thành đề hồ, được nhập vào pháp giới. Vì chê trách sữa thành lạc đến thời Đại Phẩm thì thành sinh tô, đến thời Pháp Hoa thì thành thục tô, đến thời Niết-bàn thì thành đề hồ mà nhập pháp giới. Nếu không như thế thì không thể khiến các căn thượng trung hạ đều nhập pháp giới. Ấy là nhập vào tiếp nối của ba kinh. Hỏi: Kinh này đã nói nhập giải thoát bất tư nghị sao được không nói nhập pháp giới? Đáp: Trên là chuyển giáo quán, nhập vào pháp môn Bất nhị, cùng với Hoa Nghiêm pháp giới không khác. Chỉ người chưa được chứng nhập Chí hậu Tam-muội. Hỏi: Nếu thế sao luận Pháp Giới Tánh không nói? Đáp: Phương đẳng và Đại phẩm thì đại đồng mà tiểu dị. Vì đại đồng nên cả hai chỗ không khác, vì tiểu dị nên hai tô có khác. Hỏi: Từ trước nay, nói Pháp Hoa thuộc thượng căn, sao nay Pháp Giới Tánh luận lại nói Đại phẩm là thượng căn? Đáp: Vì trên là căn cứ theo người Tam thừa mà phán quyết, còn Pháp Giới Tánh luận thì căn cứ theo người nhất Phật thừa. Hỏi: Huyền nghóa phán giáo đều nói Niết-bàn và Pháp Hoa đồng vị, nay sao đến thời Pháp Hoa lại như thục tô? Đáp: Huyền nghóa căn cứ theo giáo mà phán quyết vị, thì hai kinh đồng vị. Nay ở đây căn cứ theo người, nên đến thời Pháp Hoa thì có như thục tô. Hỏi: Nếu căn cứ theo người mà phán quyết vị, thì Pháp Hoa cũng có người Như sinh tô chăng? Đáp: Đúng như câu hỏi. Nói lúc xưa chê trách đối cơ liền khởi, tuy có lợi ích lúc đó, nhưng chưa được Phật chứng khả, nên không được gọi là kinh. Nếu không nhân việc sai đi thăm bệnh thì không duyên cớ đâu thuật lại các diệu chê trách xưa. Nhân sai đi thăm bệnh mà mỗi người kể lại việc đã nói lúc xưa, để đại chúng cùng nghe và đều được Như Lai ấn định thành kinh mà lợi ích cho đời sau. Vì năm ý này nên phải sai tiếp bốn đại Bồ-tát và các Đại só. Lược giải thích nghóa phẩm: phiên dịch danh nghóa đầy đủ như ở huyền văn. Nay chỉ nói về giáo không đồng: Bồ-tát của Tam tạng giáo tức duyên với sinh diệt Tứ đế mà khởi từ bi thệ nguyện, phát tâm Bồ-đề, suốt ba a-tăng-kỳ tu lục độ để trừ phục hoặc, được thuần thục mà nhập vào địa A-bệ-bạt-trí. Bồ-tát của Thông giáo duyên với vô sinh Tứ đế mà khởi từ bi thệ nguyện, phát Bồ-đề tâm, tu vô sinh Lục độ, đoạn hết các hoặc nội giới, mà nhập vào địa A-bệ-bạt-trí. Đại thừa của Biệt giáo duyên với vô lượng Tứ đế mà khởi từ bi thệ nguyện phát Bồ-đề tâm, tu vô lượng Lục độ, cho đến mười độ, đoạn trần sa vô minh, mà nhập địa A-bệ-bạt-trí. Bồ-tát của Viên giáo duyên với vô tác Tứ đế mà khởi từ bi thệ nguyện, phát Bồ-đề tâm, tu vô tác lục độ cho đến mười độ, đoạn trừ pháp giới vô minh, nhập vào vị A-bệ-bạt-trí. Phát tâm hạnh vị ngang dọc không đồng đầy đủ như ở huyền nghóa. Chỉ có đại Thánh đối bốn bất khả thuyết, dùng bốn Tất-đàn, phó cầu Phật tuệ, ở bốn thứ căn duyên chúng sinh mà nói bốn giáo. Nói nghóa Bồ-tát ba quyền một thật, không phải quyền không phải thật mà quyền mà thật. Nay nói phẩm Bồ-tát, thì bốn Đại Bồ-tát và các Bồ-tát đều là quyến thuộc của Thích-ca pháp thân. Như Lai hiện sinh ứng duyên lợi vật, thị hiện bốn thân Phật, nói bốn giáo Đại thừa. Bồ-tát pháp thân, mỗi người cũng tùy cơ cảm mà thị hiện làm bốn thứ Bồ-tát, phò tá giúp đỡ Pháp vương, tiếp dẫn bốn duyên chúng sinh đều cùng tin nhận ba thứ phương tiện. Đạo quán mới thành chút ít, mà muốn chuyển quán, liền khiến học đạo Viên giáo rốt ráo. Nếu trước không phá bỏ thầy thì khó chuyển được đệ tử. Không chấp nhận giáo do Phật tự nói, người bỗng tự xoay gót chuyển đổi là việc khó thể có. Ngài Tịnh Danh đã nhiều phen thị hiện ở thượng địa Viên giáo, nên được quyền chê trách các thượng địa phương tiện. Thượng địa phương tiện ai cũng chịu khuất phục. Còn quyến thuộc của họ còn ở phương tiện tức chiết phục nội tâm, tự coi hạnh mình là hèn kém chưa được tột chân và đều ngưỡng mộ đại đạo viên chân hoặc tức phát viên tâm, hoặc mở sáng thông suốt được vô sinh chân thật. Như thế đều do bốn Đại Bồ-tát và các Đại só phương tiện khéo dẫn dụ. Nay sai thăm bệnh, tức mỗi người đều thuật lại việc bị chê trách, lại giúp thêm cho thời chúng thành năm thứ lợi ích, nên nói phẩm Bồ-tát. Hỏi: Ba vạn hai ngàn người đều là Luân quả thán vị cùng ngài Tịnh Danh không khác, sao lại dùng Đốn này mà chê phá? Đáp: Tuy đã lược nói nhưng có rất nhiều ý, nay cần nói lại. Có người nói các Bồ-tát này là thật lân quả, còn Tịnh Danh là quyền lân quả, nên vượt trội hơn. Có người nói đồng là thật lân quả. Như kinh Nhân Vương Bát-nhã nói: Thập địa có ba đời, các Bồ-tát là đời đầu, đời giữa, còn ngài Tịnh Danh là đời cuối nên hơn các Bồ-tát. Nay phải thật xác định rằng các Bồ-tát và ngài Tịnh Danh đều có bổn tích đồng quyền đồng thật, chỉ là cùng đến giúp Phật thành tựu chúng sinh. Còn bốn Đại só… đều ẩn thật, dùng quyền giúp thành quyền giáo. Ngài Tịnh Danh và Ương-quật ẩn quyền dùng thật, giúp thật thành giáo. Quyền là như cái cối, thật thì như cái chày mà thành đồ đựng chúng sinh. Nếu luận về ích vật thì quyền thật đều lợi ích. Nếu luận về giả đập chày chê trách vào cối thọ nhận thì đều có lợi chung, bất tư nghị cho chúng sinh. Không phải là hàng Nhị thừa và các tiểu Bồ-tát biết được, há là Bác địa phàm phu biết được bổn tích cao thấp. Hỏi: Mười vị đại đệ tử trên đối với mười tâm số cùng giúp Pháp vương hiển thành bán mãn năm trăm người, ai nấy đều kể việc chính mình bị ngài Tịnh Danh chê trách, đều có nguyên do. Nay bốn vị Đại Bồ-tát tiêu biểu cho những gì? Đáp: Bốn vị này e như trong kinh Pháp Hoa nói trời mưa bốn hoa tiêu biểu cho khai, thị, ngộ, nhập. Lại ở phương dưới xuất hiện bốn đại Đạo sư tiêu biểu cũng thế. Ba vạn hai ngàn người chỉ sai có bốn người e chỉ là cho bốn môn này. Lại kinh Hoa Nghiêm có thêm bốn Đại Bồ-tát nói bốn mươi vị, nếu tìm xét phẩm này thì cũng giống ý đó. Vì sao? Vì như chê trách ngài Di-lặc một câu ở chân như tịnh lý để hiển bày Bồ- đề, e là chỉ cho khai Phật tri kiến. Nên nói tất cả chúng sinh tức là tướng Bồ-đề, đây e là tướng thập trụ. Kế đến chê trách ngài Quang Nghiêm, ở mỗi điểm, đều chỉ bày tất cả hạnh đều là đạo tràng. Đây e là chỉ cho tướng thập hạnh. Tiếp theo là chê trách ngài Trì Thế, khiến biết ma giới Phật giới đều nhất như không hai, các quyến thuộc ma tu Vô tận đăng tức là sự lý vô ngại, ma sự Phật sự, thiện ác đều dung thông, đây e là chỉ cho tướng ngộ hồi hướng. Sau đó chê trách ngài Thiện đắc làm việc bố thí cao thấp không hai, trong tài có pháp, trên dâng lên đức Nan Thắng, dưới giúp người ăn xin, bi kính đều không sai khác, gọi là hội pháp thí, đây e là chỉ cho tướng nhập Thập địa. Việc chê trách bao hàm nhiều ý, một tiếng khó giải thích, hà tất cứ một mực đều đổi Viên vị, chỉ tìm nơi văn thôi e là như thế. Hỏi: Nếu thế, Di-lặc chính là Bổ xứ Bồ-tát, cần phải hiển bày sâu xa, đâu được cạn cợt như thế? Đáp: Người lớn là hơn, nên cần sai trước, còn pháp phải từ cạn đến sâu, nên đối với ngài Di-lặc mà khai Phật tri kiến. Lại nữa, tuy đối với người hiển bày ngôi vị, ý không cần cạn sâu, bởi vì Viên giáo từ một Địa đầu đã đầy đủ tất cả công đức của các địa, thế thời mới khai liền thị ngộ nhập. Bốn người có ngôi vị cao cũng thế, chỉ là nói bốn vị viên tột mà thôi. Hỏi: Phá ngài Di-lặc thì tất cả được lợi ích chuyển giáo quán như trên chăng? Đáp: Ngài Di-lặc là bậc Bổ xứ dùng quyền thật hóa độ, chỗ giáo hóa bất định, nếu thấy Di-lặc bị chê trách mà người học quyền thì đều bỏ giáo quán, người học Viên giáo không được ý thì chấp lời mà quên tâm, pháp ái tự mất, còn người được ý thì biết là cối chày cùng lợi vật mà thôi. Hỏi: Trên nói các Bồ-tát ẩn thật dùng quyền, nay sao được nói Di-lặc cùng hàng đệ tử học thật giáo. Đáp: Chỉ là nói thôi, bậc Bổ xứ tùy cơ, há chỉ một mực ôm cây đợi thỏ ư? Song việc có chánh phụ cũng là theo số nhiều. Hỏi: Nếu thế thì kinh này cùng Hoa Nghiêm, Pháp Hoa có gì khác? Đáp: Kinh này riêng đối với hàng lợi căn Bồ-tát mà có nghóa này. Còn hàng Nhị thừa và độn căn Bồ-tát chỉ là chuyển làm sinh tô. Như Hoa Nghiêm thì chỉ là Bồ-tát học Viên mới được vào, còn hàng Nhị thừa và Tiểu Bồ-tát đều không nghe được. Còn Pháp Hoa thì tất cả đều vào. Giải thích văn: Từ “ư thị …”. đến phẩm này có hai: 1/ Trước sai bốn Đại Bồ-tát. 2/ Kế sai các Bồ-tát. Sai bốn đại Bồ tár: Một là Sai ngài Di-lặc. Có hai phần: Sai thăm bệnh và đáp không kham. Sai thăm bệnh, sở dó sai trước, vì ngài Di-lặc đối bốn giáo đều là bậc Bổ xứ. Nay ẩn Viên còn ba thứ kia, thì người học phương tiện giáo của Phật đều tôn kính ngài Di-lặc. Ngài Di-lặc là bậc Đương lai Đạo sư kế tiếp sau Phật. Nói Di-lặc, có chỗ nói là lấy họ làm tên. Nay bảo không phải họ, e đó là tên. Bởi Di-lặc, Hán dịch là Từ thị. Thuở quá khứ làm vua tên là Đàm-ma-lưu-chi, thương yêu nuôi dạy dân nên họ gọi ngài là Từ Thị. Từ đó đến nay thường gọi là Từ Thị. Họ là A-dật-đa, Hán dịch là Vô Thắng. Có nơi nói A-dật-đa là tên. Chưa thấy được văn chính thức nên chưa thể quyết định. Nói Từ Thị, thì kinh và luận nói Từ có ba thứ bất đồng: Chúng sinh duyên từ. Pháp duyên từ. Vô duyên từ. Đại Luận nói: Chúng sinh duyên từ, chấp tướng chúng sinh là pháp hữu lậu. Pháp duyên từ hoặc hữu lậu hoặc vô lậu. Vô duyên đại từ hoàn toàn vô lậu. Lại nữa, bốn giáo tức có bốn thứ Từ thị, ba giáo trước là tùy duyên, giáo này là đạo diệt khởi từ ban vui tức là giáo này. Từ thị cùng vui với giáo này. Chỉ có Viên giáo hay cùng vui với ba thứ đạo diệt trước. Như nam châm hút sắt tức là Từ Thị của Viên giáo. Vì Phật có bốn nên bổ xứ cũng có bốn. Bốn thứ Từ Thị này là ba quyền một thật. Ngài Di-lặc là người xưa ở Ta-bà giúp Phật, thường làm giáo ba quyền. Ngài Tịnh Danh là Đại só ở phương khác dạo đến cõi này giúp Phật, nhiều lần thị hiện làm giáo một thật. Chê trách ngài Di-lặc, để thành tựu chúng sinh khiến họ vào thật mà thôi. Lại quyền thật tùy nghi ẩn hiện không nhất định. Pháp thân thường tịch cũng như hư không còn chẳng là thật, sao lại luận có quyền. Chỉ vì tùy duyên lợi vật mà cùng giả đập, quyền thật đâu nhất định được. Nay Phật kế sai ngài là ý sau đây. Đáp lời không kham: “Di-lặc…”. Văn có bốn: 1/ Từ chối không kham. 2/ Kể lý do không kham. 3/ Chính kể việc bị chê trách. 4/ Kết thành không kham. Từ chối không kham: Vì lúc xưa nói cho Thiên vương Đâu-suất về hạnh Bất thoái chuyển nhưng không lợi ích cho họ nên bị chê trách, đâu dám truyền ý chỉ Phật đến thăm bệnh. Nói lý do không kham “sở dó… chi hạnh”. Sở dó Thiên vương Đâu- suất đến chỗ ngài Di-lặc, là các trời Đâu-suất từng nghe Đức Thích-ca thọ ký cho ngài Di-lặc sẽ sinh ở cõi Đâu-suất làm thầy các trời nên đến quy y hỏi đạo. Ngài Di-lặc nói cho nghe hạnh bất thoái, là các Thiên tử từng nghe quyền giáo Đại thừa mà phát tâm. Trời rất ưa thích, lại nhạc trời rất mạnh. Sợ các trời thoái chuyển nên nói cho hạnh bất thoái. Nói bất thoái là thấy lý thì mới là vị bất thoái. Ở lý bất động thường sinh các thiện là dụ như đất. Trong nhân được lý, có nghóa hướng quả nên nói là hạnh. Nhưng bốn giáo mỗi thứ có ba tức vị, hạnh, niệm. Nếu Bồ-tát của Tam tạng giáo có ba thứ bất thoái suốt a-tăng-kỳ làm các hạnh được vào Noãn, Đảnh, Nhẫn, tức là địa Bất thoái chuyển. Nếu căn cứ theo số luận thì đem ba phẩm Nhẫn pháp phân làm ba bất thoái. Nếu Phụ thành luận căn cứ bốn Niệm xứ là vị bất thoái, Noãn, Đảnh là hạnh bất thoái, Nhẫn pháp là niệm bất thoái. Nếu theo Thông giáo thì từ Thánh địa cho đến La-hán, sáu địa công hạnh ngang nhau đều là vị bất thoái. Ở địa Bích-chi-Phật thì bảy địa công hạnh ngang nhau và Bồ-tát tu phương tiện tức là hạnh bất thoái. Bát địa Bồ-tát, đạo và quán song lưu gọi là niệm bất thoái. Nếu Bát địa cùng Bích-chi-Phật bằng Địa thứ chín mới là niệm bất thoái. Nếu Biệt giáo, thì Thập trụ là vị bất thoái, thập hạnh thập hồi hướng là hạnh bất thoái. Đăng địa ba quán hiện tiền là niệm bất thoái. Nếu Viên giáo, thì Thập tín sơ tâm là vị bất thoái. Trung tâm trở đi là hạnh bất thoái, sơ phát tâm trụ là niệm bất thoái. Lại nữa, Thập tín tương tợ ba bất thoái, bậc Sơ trụ được một phần chân có ba bất thoái, ba thứ trước là quyền, một thứ sau là thật. Di-lặc nói biết giáo quyền thật của Phật, ẩn thật dùng quyền, vì chư Thiên mà nói, nên bị chê trách. Hỏi: Ngài Di-lặc biết căn cơ, sao lại ẩn thật dùng quyền, nhân đó mà bị chê trách? Đáp: Vì các Thiên tử trước mà phải nghe quyền giáo, nên ngài Di-lặc dùng quyền làm cối, muốn hiển bày cái chày thật giáo của Tịnh Danh để cùng thành tựu các đạo khí Thiên tử. Nên thị hiện việc bị chê trách. Trong đó hoặc nghe ngài Di-lặc nói Viên mà không được ý chánh, nhân nghe chê trách ngài Di-lặc, liền được nhập. * Chính kể việc bị chê trách “Thời Duy-ma..” . Văn có năm: a/ Tổng định trước. b/ Chính chê phá. c/ Kết lỗi, khuyên bỏ. d/ Nói rộng về tướng chân Bồ-đề. e/ Các Thiên tử được lợi ích. Tổng định trước: Đức Thế Tôn đã thọ ký cho nhân giả một đời nữa sẽ được quả Bồ-đề. Sở dó phải định, vì sắp muốn chê phá nên trước phải định. Một đời là nói sẽ sinh vào cõi Diêm-phù này một đời. Đại luận có nói ba đời, là đời này ở cõi Đâu-suất và đời sau sẽ sinh cõi Diêm-phù. Về nghóa ba Bồ-đề thì huyền văn đã nói: Chỉ bốn giáo thì nói được thọ ký không đồng. Như theo Tam tạng giáo thì nói Di-lặc đến sinh dưới cội Bồ-đề, các tập khí đều dứt, gọi là Bồ-đề ký, rút ở Tiểu Di-lặc kinh. Về Thông giáo, thì các chánh sử nội giới đã trừ, nhưng dư tập chưa hết. Thân sau sinh dưới cội Bồ-đề, một niệm tương ưng Tuệ đoạn, tất cả tập đều hết, nên gọi là Bồ-đề ký. Rút ở Đại Di-lặc thành Phật kinh và ở Đại Phẩm. Về Biệt giáo, thì Di-lặc pháp thân, mười phẩm vô minh hoặc đã hết, trụ vào Vô cấu địa, chỉ còn một phẩm vô minh và tập khí, sau sinh vào tịch diệt đạo tràng ở cõi Diêm-phù, thị hiện đoạn một phẩm vô minh và các tập dứt hết, Báo thân quả mãn mà ngưng nhiên thường trụ. Như ở kinh Hoa Nghiêm nói ngài Thiện Tài vào Lâu quán thấy ngài Di-lặc ở vị lai có tướng thành Phật, tức là việc này. Về Viên giáo, thì nói Di-lặc pháp thân, bốn mươi mốt phẩm vô minh đã đoạn hết, trụ vào địa Đẳng giác, chỉ còn sót một phẩm vô minh và tập khí, đời sau sinh vào cõi Diêm-phù ở tịch diệt đạo tràng mà đại ngộ sáng suốt. Một phẩm vô minh và các tập đều hết tức là dùng tích biểu thị bổn được ba thân Bồ-đề Diệu giác rốt ráo; không dọc không ngang như chữ Y ở đời. Cũng như kinh Hoa Nghiêm nói Thiện Tài vào Lâu quán thấy Di-lặc có tướng thành Phật ở vị lai, ba quyền một thật, chỉ có Di- lặc pháp thân thường tịch dứt mất đâu thể duy lường cao thấp chỉ tùy cơ lợi vật, giúp đỡ Đức Thích-ca tiếp nối hóa độ nên cần phải thọ ký riêng. Tùy vật cơ cảm có bốn căn duyên mà trao cho bốn thứ ký, tùy mỗi người nghe biết. Nay ngài Tịnh Danh tùy chỗ nghe biết dùng một âm diễn nói tùy loại đều hiểu. Nếu định ngài Di-lặc được thọ ký còn một đời tức là tổng định bốn thứ một đời. Chê trách để phá: “vi dụng…”. Văn đây lại có hai phần nhỏ: Sinh môn. Vô sinh môn. Về sinh môn, nay giải thích chung và riêng. Giải thích riêng, căn cứ theo Sinh môn chánh chê trách Bồ-tát của Tam tạng giáo. Vì Tam tạng giáo là chữ bán, còn sinh diệt. Nên Trung Luận nói: Vì hàng đệ tử Thanh văn độn căn mà nói tướng nhân duyên sinh diệt. Căn cứ vô sinh môn, tức là chê trách Bồ-tát Đại thừa, Đại thừa dùng không sinh diệt làm giáo môn chữ mãn. Nên Trung luận nói: Phật vì Bồ-tát lợi căn nói tướng nhân duyên không sinh diệt. Sở dó căn cứ vô sinh mà chê trách, là trách Bồ-tát Đại thừa của Thông và Biệt giáo và trách Bồ-tát Viên giáo sinh ngữ kiến thuận đạo ái… các lỗi. Giải thích theo Thông giáo, là chê trách chung Bồ-tát bốn giáo và đều có sinh và vô sinh. Về Tam tạng giáo sinh, tức là sinh. Về thông giáo sinh, là hội nhập vào thiên chân, tức là các pháp Không sinh, Bát- nhã sinh, cũng là Không sinh mà sinh. Về Biệt giáo, là duyên tu Trung đạo trí tuệ, cũng là Không sinh mà sinh. Viên giáo chân tu sinh cũng là Không sinh mà sinh hoặc có thất ý cũng cần phải phá. Về bốn giáo đều vô sinh, ở Tam tạng giáo dù chưa đoạn hoặc, đâu chẳng biết là có lý chân đế. Trông vào quả mà tạo nhân, nhân là sinh, quả là vô sinh. Về Thông giáo thì nhân là lý vô sinh nội giới, quả là sự lý vô sinh nội giới. Về Biệt giáo thì nhân là lý vô sinh giới nôïi ngoại, quả là lý vô sinh ngoại giới. Về Viên giáo thì vô sinh một mực đồng với Biệt giáo, nhưng chân duyên với trí đoạn chế lập ra có khác. Bồ-tát bốn giáo đều trông vào quả mà tạo nhân. Muốn được thọ ký riêng thì đương phần sinh và vô sinh đều bị chê trách. Tuy làm hai thứ giải thích nhưng ý phẩm này thì giải thích riêng làm chánh. Nay trong phần giải thích riêng mà căn cứ Tam tạng giáo sinh môn mà riêng chê phá, có ba thứ: Xét theo ba đời mà định. Hỏi phá. Dẫn chứng. Phán định căn cứ ở ba đời: như Tỳ-đàm nói ba đời là có. Quá khứ tuy đã qua, nhưng thiện pháp Không mất, như bị dây buộc chặt. Vị lai tuy chưa có, thời đến liền khởi. Ở hiện tại, các thiện pháp thành tựu ở tâm nên đều là cơ. Đàm-vô-đức thì căn cứ hai đời là Không. Ở quá khứ thật pháp khó diệt, nên là Không, chỉ có giả danh được báo không mất. Ở vị lai vì chưa có nên không. Ở hiện tại thiện pháp thành tựu ở tâm, nên là có. Cả hai nhà tuy nói hai đời, ba đời có không mà đều có ba tướng. Người Số luận nói một thời có ba tướng. Thành luận thì nói dị thời ba tướng. Một thời là sinh tức có trụ và diệt, còn dị thời tức là sinh thời không phải là trụ thời, trụ thời không phải là diệt thời. Do nghóa này nên trước phải định ba đời. Chánh phá ba đời được thọ ký: Từ “nhược quá… vô trụ”, nếu sinh ở quá khứ, mà đời quá khứ đã mất, vậy thân và thiện pháp đều mất. Pháp đã mất thì không có thân không có thiện, sao được có được thọ ký. Nếu dựa theo hiện tại, lấy thiện ở quá khứ mà được thọ ký ở vị lai, thì sao không ở quá khứ mà ký lại ký ở hiện tại. Nếu sinh ở vị lai mà đời vị lai chưa đến, thiện ở vị lai chưa có. Nếu vị lai đã có thì phải gọi là dó lai không gọi là vị lai, nếu chưa có thì không thân không thiện, sao được ước vị lai mà thọ ký. Nếu ước vị lai chưa đến chưa có mà được ký ở hiện tại thì chúng sinh cũng thế, phải được thọ ký. Nếu sinh ở hiện tại, đời hiện tại không trụ, vì ở hiện tại các ý thiện tùy tâm mà sinh, tâm niệm diệt thì thiện cũng tùy diệt, thức mất không đến được vị lai, sao được dùng thiện hiện tại mà được nhận ký ở vị lai. Đây là phá ba đời có. Nếu không có quá khứ vị lai sao được dùng thiện ở đời quá khứ mà được nhận ký. Nếu nói hiện tại là có, thì được ước vào hiện tại mà được nhận ký, là đời hiện tại không dừng trụ, sinh mà tức diệt còn không thể tự trụ, sao có được thiện đến vị lai mà ước hiện tại để được thọ ký cho vị lai. Lại nữa ba đời đều không. Không có ba đời, sao được ước vào ba đời mà được nhận ký. Không là Không có thọ ký mà chấp là có, tức là điên đảo. Điên đảo mà được thọ ký thì tất cả chúng sinh đều điên đảo cũng phải được ký. Đây là phá ba đời không. Dẫn lời Phật làm chứng: Từ “như Phật đến cũng diệt) chính là chứng minh hiện tại không dừng trụ mà không được thọ ký một đời ở vị lai. Vì sao? Vì ngài Di-lặc chưa đạt đến. Nếu quá khứ và vị lai đều không thì không được căn cứ vào thân quá khứ vị lai mà được thọ ký quả Bồ-đề. Nay Phật căn cứ thân hiện tại mà thọ ký ở vị lai, sao được nói hiện tại không dừng trụ mà không được nhận ký ở vị lai. Do đó dẫn lời Phật nói cũng sinh cũng già cũng mất là để làm chứng, là phá cái chấp “một lúc”của ngài Di-lặc về hiện tại có dừng trụ, nên căn cứ hân này mà phá cái được thọ ký ở vị lai. “Cũng sinh…” là nếu y vào ba tướng Tát-bà-đa đồng thời sinh tức có diệt, tuy có lý một lúc nhưng tìm xét thì không có lúc nào tạm dừng, sao được ước hiện tại mà được thọ ký ở vị lai. Hỏi: Ba tướng, bốn tướng không nghe nói có già, nay sao được nói Phật nói cũng có già? Đáp: Bốn tướng có dị “khác”, vậy già là dị. Sở dó dẫn già mà không dẫn trụ, là vì ngài Di-lặc chấp Phật nói ba tướng, bốn tướng trong đó có tướng trụ, ước tướng trụ này ở hiện tại mà được ký. Ngài Tịnh Danh lại dẫn lời Phật, trong ba tướng chỉ có già mà không có trụ để chứng minh hiện tại không trụ, không được ước hiện tại mà được thọ ký ở vị lai. Nhân giả không nhận tức là trái lời Phật, nhưng hiện tại tuy có dị thời ba tướng nhanh chóng. Tuy nói có trụ nhưng Phật nói cũng có già. Nếu trụ tức già, tức là tướng biến đổi, không có tướng định trụ sao được dựa theo đó mà được thọ ký vị lai. Có Sư cho rằng ngài Tịnh Danh dùng không để phá việc được thọ ký. Nghóa này trái tông. Tìm xét văn kinh này lại dùng giáo sinh diệt của Tam tạng giáo phá đâu cần phải dùng không. Về Vô sinh môn “Nếu dùng vô sinh…”. Sở dó căn cứ môn này là chê trách Thông, Biệt và Viên của Đại thừa mất ý mến quả tạo nhân cầu ký vô sinh, nay tâm vọng động ngăn việc nhập vào chánh đạo. Vì ba giáo đều thấy vô sinh mới được thọ ký. Như kinh Thủ-lăng-nghiêm nói có bốn ký: Ký lúc chưa phát tâm. Mật ký. Ký ở hiện tiền. Ký thấy vô sinh. Theo Tam tạng giáo thì phục chế các kiết không có ký vô sinh, chỉ được ba thứ ký trước. Về ký chưa phát tâm, dầu là hàng cụ phược hoặc Nhị thừa phương tiện. Về căn tánh Đại thừa của ba giáo kia chưa phát nhưng vẫn cho ký. Như khi Phật ở bên rừng Kỳ-hoàn đã thọ ký cho chim câu và chim sẻ. Nếu mật ký “ngầm thọ ký) thì những giả danh Bồ-tát và phục nhận Càn tuệ địa Bồ-tát phần nhiều đều dùng mật ký. Nếu thuận nhẫn tánh địa Bồ-tát thì đều hiện tiền thọ ký cả. Hỏi: Vì sao phải mật ký? Đáp: Có Bồ-tát tâm hạnh chưa thuần thục, nếu nghe thọ ký thì tâm liền phóng dật nên không được hiện tiền thọ ký. Về ba giáo Đại thừa đều dứt các kiết nên ký vào ngôi vị có, không sinh, ba thứ trước không phải thọ ký thật, cái sau thấy vô sinh là chân thọ ký. Vì sao? Vì cái thứ ba, nếu chưa thấy lý chưa được tự tại, tự lợi lợi tha chưa được thành lập. Còn nếu thấy được vô sinh dầu ở trong sinh tử vẫn mặc tình tự tại, tự lợi lợi tha công đức không thoái chuyển, nên ba ký này là chân thọ ký. Bồ-tát của ba giáo tâm cầu ký này nên mượn ngài Di-lặc để trách phá ba thứ này. Văn có hai: một là căn cứ lý vô sinh mà phá. Hai là căn cứ hạnh vô sinh mà phá. Căn cứ lý vô sinh mà phá: Vô sinh của ba giáo không giống nhau. Thông giáo thì chỉ nói về thiên chân vô sinh, Biệt, Viên giáo thì nói về trung. Hai lý vô sinh trên, huyền nghóa đều nói đủ. Nhưng ký ngôi vị của ba giáo thường giống nhau mà nghóa có khác không thể lẫn lộn. Bốn thứ ký ngôi vị của ba giáo, là ký chưa phát tâm của ba giáo, tuy là hàng cụ phược nhưng không có căn tánh của Đại thừa của đương giáo, hoặc là hàng Nhị thừa phương tiện, tuy chưa phát tâm mà vẫn thọ ký cho. Còn hàng giả danh Bồ-tát, ngoại phàm phục nhẫn phần nhiều đều là mật ký, hoặc hiện tiền ký. Về nội phàm Bồ-tát của ba giáo, đều được hiện tiền ký, ba loại ký này đều không phải là nhất định. Về Thông giáo nếu nhập vào Bát nhân giác kiến địa là ký vô sinh. Đại phẩm có nói: Tu-đà-hoàn hoặc trí hoặc đoạn là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn, tức là thấy ký ngôi vị thấy thiên chân vô sinh. Vì sao? Vì kiến đế đã đoạn, tám mươi tám thứ phiền não dứt hết, nhập vào đạo lưu vô lậu tức là kiến địa, gọi là Hoan hỷ địa. Nếu tiến lên quán vô sinh, đoạn hoặc tư duy, tu sâu các thiền định, thần thông du hí, tự hành hóa tha, thành tựu chúng sinh, cõi Phật thanh tịnh. Nếu chúng sinh Tam thừa, căn đã thuần thục liền có tám tướng thành đạo, nên Phật đối với Đại thừa của Thông giáo mà trao cho ký Bồ-đề. Sơ hoan hỷ địa của Biệt giáo tức là thấy chân vô sinh mà thọ ký. Vì sao? Vì Đăng địa phát chân mới thấy Chánh đạo, tức là thấy lý viên chân vô sinh, liền đoạn một phẩm vô minh ngoại giới, các biệt kiến hoặc đều dứt. Đây là trí đoạn là vô sinh ký vị. Nếu trao cho tám tướng ứng Phật, mới xem qua giống đồng với Thông giáo, chỉ có đem tích tiêu biểu cho bổn để ký cho được thường trụ Phật quả là khác. Nay suy theo Thông giáo mà nói Tu-đà-hoàn thấy lý thiên chân, đoạn kiến nội giới, hoặc trí hoặc đoạn gọi là Bồ-tát vô sinh. Nay Biệt giáo thấy Viên chân, đoạn kiến nội ngoại giới, hoặc trí hoặc đoạn, gọi là Biệt giáo vô sinh, ấy thì thâm tâm đều vắng lặng, tự nhiên lưu nhập vào Tát-bà khổ hải, pháp thân tự hành, ứng thân hóa tha ắt thành thường trụ Phật quả. Thế nên Đăng địa được chân vô sinh, Phật liền thọ ký cho, ấy là ký nhất định. Viên giáo vô sinh ký, ở Sơ phát tâm trụ được thọ ký, tức là viên chân vô sinh được thọ ký. Vì sao? Vì sơ phát tâm trụ tức là ngang với Hoan hỷ địa của Biệt giáo. Chỉ có giáo môn nói đoạn hoặc thì như lột, hành xắt hành là khác nhau. Các sư không hiểu được ý này phần nhiều đều nghi lời nói ấy, nhưng tìm xem các kinh luận thì phần nhiều đều có nghóa này. Được ý liền dùng huyền nghóa nói đầy đủ. Ấy là Sơ phát tâm trụ, hoặc trí hoặc đoạn là Viên giáo Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn, tức là Viên giáo vô sinh ký. Chỉ học ba giáo chưa được vô sinh, trong nội tâm trông mong nhầm lẫn phan duyên mà cầu thì đều mất Viên giáo tuy không khởi tâm tưởng nhầm lẫn, như động nước thì làm đục bẩn châu, vì những lỗi này nên mượn ngài Di-lặc mà chê trách. Sở dó mượn để chê trách, vì ngài Di-lặc ở ngôi vị bổ xứ của ba giáo, sắp thông suốt tận nguồn gốc vô sinh của ba giáo. Các người cầu Sơ tâm của ba giáo, tuy biết ngôi vị này đều chưa được vào. Nếu nghe chê trách ngài Di-lặc về ký Bổ xứ Bồ-đề của ba giáo tức là Đại só dựa theo lý ba giáo mà vấn nạn hạch sách. Ngài Di-lặc còn không nhận ký, huống các người mới học Bồ-tát tâm của ba giáo mà cầu vô sinh, mong được chân thọ ký, há không giác ngộ. Ai nấy đều dứt trông mong. Nếu Bồ-tát của Thông và Biệt giáo dứt cầu vô sinh tức có thể chuyển nhập vào ký vị viên vô sinh. Nếu Bồ-tát của Viên giáo biết vị vô sinh mà không nhận ký, cũng không khởi tâm mong cầu ký vô sinh, thì nước tâm lắng trong, ngọc châu hiện rõ. Lại nữa, Thông giáo trụ ở kiến địa. Ngài Di-lặc hậu tâm bị chê trách, thì nội tâm phá bỏ, bèn chuyển nhập vào ký vị vô sinh của viên . Về Sơ địa của Biệt giáo đồng với Sơ trụ của Viên giáo không bị chê trách. Như ba mươi tâm kiến của ngài Di-lặc ước lý bị chê trách, nếu bỏ tâm này thì có thể chuyển nhập nhận ký sơ trụ của Viên giáo. Nếu hàng sơ phát tâm và năm phẩm đệ tử của Viên giáo khởi tâm trông cầu vào ngôi vị được thọ ký về chân vô sinh, thì nước tâm dấy đục không thể vào được sáu căn thanh tịnh. Nay nghe Đại só chê trách ngài Di-lặc vô sinh sắp cùng tận, còn ước lý bị chê trách không có nghóa được thọ ký, huống lại là hàng sơ tâm, ngũ phẩm mà mong được vô sinh, tâm nhớ tưởng diệt. Nếu tâm thanh tịnh thường nhất liền phát tương tợ, nhập vào vị Thập tín. Nếu được ý căn thanh tịnh như kinh Pháp Hoa nói: Tuy chưa được trí tuệ vô lậu, mà ý căn thanh tịnh như đây, thì là tướng trăm phước trang nghiêm của mười phương vô số Phật, vì chúng sinh thuyết pháp, đều nghe và hay thọ trì, đã không quên sót nhầm lẫn, đâu còn nhớ tưởng mong cầu thô chướng nổi lên. Thập tín còn thế, huống là phát tâm trụ mà cần chê trách ngài Di-lặc là có ý mượn nhờ. Nếu vì vô sinh mà được thọ ký, tức vô sinh là chánh vị. Đây chính là ở lý vô sinh mà phá ngài Di-lặc. Trong lý không có ký. Vì sao? Vì thọ ký vốn được ước với trí đoạn đầy đủ. Nên Trí Luận có nói: Bồ-đề nói sự đầy đủ hoàn hảo, lý không phải sinh diệt, tức không có trí đoạn. Sao lại luận trí đoạn đầy đủ, ấy là thiên vô sinh, đều không phải trí đoạn, còn không có trí đoạn huống là quả Bồ-đề. Vô sinh tức chánh vị, là Thiên Viên vô sinh đều là chánh vị, tức là lý tột cùng. Nếu ước lý nói tột cùng. Cực lý không phải ngôi vị, mà gốc của các ngôi vị. Như vua là ngôi vị tột cùng nhân đó mà có các ngôi vị quan văn võ. Nay có ngôi vị Bồ-tát của ba giáo đều do lý vô sinh. Nên kinh Kim Cang Bát-nhã có nói: “Tất cả Hiền Thánh đều dùng pháp vô vi mà có sai khác.” Vô sinh chánh vị tức là bình đẳng chân pháp giới. Phật không độ chúng sinh, sao được có nghóa thọ ký một đời sẽ được quả Bồ-đề của ba giáo. Cho nên ở trong chánh vị cũng không có thọ ký, cũng không được quả Bồ-đề. Vì sao? Vì hai thứ vô sinh không phải nhân không phải quả thì đâu được ở trong nhân của ba giáo mà được thọ ký trí đoạn đầy đủ ở vị lai. Hai thứ vô sinh chánh vị không phải quả, sao luận được ba giáo nói về quả Bồ-đề. Cho nên nói rằng: Sao Di-lặc lại nhận ký một đời ư? Nếu Di-lặc sắp gần cực quả chánh vị còn không được thọ ký, huống là hàng sơ phát tâm của ba giáo, mà muốn trông cầu vào chính vị vô sinh, mà được thọ ký Bồ-đề. Đó là để chê trách Di- lặc được thọ ký lân quả. Mượn ý phá học ba giáo trông mong ký vị vô sinh. Đó là sự mong cầu lầm lẫn của Thông và Biệt giáo, đều chuyển về Viên giáo, các mong cầu cũng đều dứt hết. Hỏi: Ngài Tịnh Danh chỉ chê trách ngài Di-lặc, do đâu được biết mượn ý để bác bỏ ba thứ? Đáp: Văn trên nói: Vì Thiên vương Đâu-suất nói hạnh bất thoái chuyển. Sau đó lại nói thật không có phát ba tâm Bồ-đề. Cũng không có thoái chuyển, tức không có ngôi vị bất thoái chuyển, tức là nhập vô sinh chánh vị, là ngôi vị chân thọ ký. <篇> <卷>QUYỂN 6 PHẨM: BỒ-TÁT (Phần 2) Căn cứ hạnh vô sinh mà phá thọ ký một đời: Từ “vi tùng…”. Sở dó căn cứ hạnh mà phá, chính do Di-lặc đã dùng hữu để hỏi rằng: lý không thọ ký đã thế thì đâu có trở ngại duyên với hạnh vô sinh. Hạnh thành trí đoạn được thọ ký quả Bồ-đề. Văn có bốn: Song định. Song phá. Song cùng. Song kết. Song định (Quyết định song song), từ đâu sinh ra thì từ đó diệt mất. Vì sao? Vì ngài Di-lặc tình chưa đạt đến, nếu vô sinh là lý, mà lý là như, thì không ký nào không ký. Chỉ vì chúng sinh từ vô thỉ mê lý liền có sinh tử. Chư Phật, Bồ-tát quán vô sinh, chân trí sáng thì sinh ra, mê hoặc tối thì tạm mất. Nếu trí sinh ra chiếu cùng cực thì vọng hoặc này dứt mất, trí đoạn đầy đủ gọi là quả Bồ-đề, há sự như lý mà chê trách có thọ ký, cho nên trước song định là Như sinh, Như diệt, trí đoạn quả mãn mà được thọ ký chăng. Về Thông và Biệt giáo mới xem qua thì sự đồng mà lý có khác. Về Thông và Viên hai giáo thì sự và lý đều khác, cùng với Biệt giáo thì lý đồng mà sự khác. Hỏi: Biệt và Viên giáo sao được lý đồng mà sự khác? Đáp: Đồng là Trung đạo nên đồng, còn tu có hai cách riêng nên khác. - Song nạn “nhược dó… hữu diệt”. Đã im lặng chịu quyết định tức căn cứ ở hạnh mà vấn nạn song song cũng là ngầm căn cứ ba giáo về trí đoạn mà thọ ký một đời được quả Bồ-đề tức là dựa theo Thiên, Viên hai chân để vấn nạn song song. Một là dựa theo Thông giáo, Thiên chân của Thông giáo tức là lý chân như. Lý không phải trí đoạn, nếu quán chân như tức là trí sinh và hoặc diệt. Như dù là vô sinh nhưng thường phát trí. Trí từ Như sinh, sinh không lìa như, tức là trí đức của Như sinh. Như tuy không phải diệt mà thấy như thì hoặc diệt. Diệt không lìa như, tức là đoạn đức của Như diệt. Nay ngài Tịnh Danh gạn hỏi nếu vì Như sinh Như diệt mà được thọ ký thì từ Như có sinh, mà như không có sinh, từ Như có diệt mà Như không có diệt. Ý vấn nạn chính nói rằng: Thể của Như không phải sinh không phải diệt, ước như nói sinh nói diệt là có đức của trí đoạn. Nếu Như có sinh diệt thì không gọi là như, tức là Thế đế, nếu không phải sinh không phải diệt không phải Thế đế, tức là Chân không sinh diệt, tức là như không phải sinh diệt, không được nói từ như mà có trí đoạn sinh diệt. Do đó, ngài Tịnh Danh nói: Từ Như có sinh mà như không có sinh, từ Như có diệt mà như không có diệt. Nếu như không sinh diệt không thành trí đoạn, thì đâu được lìa như mà riêng có trí đoạn sinh diệt. Tức là Không có căn cứ ở hạnh vô sinh có thể nhận được thọ ký trí đoạn của một đời . Lại nữa, do tâm năng duyên vô sinh thành trí đoạn, ấy tức là tự sinh. Nếu do lý sở duyên tức là tha sinh, nếu năng sở hợp lại tức là cộng sinh. Nếu lìa năng sở tức là vô nhân sinh trí đoạn. Nên ngài Long Thọ có kệ rằng: “Các pháp Không tự sinh” cho nên, đâu thể được tâm năng duyên Chân như. Sinh trí đoạn mà được thọ ký? Cho đến tất cả không thể vô nhân sinh và như ở câu đầu, đều là dẫn kệ ở Trung luận để thành bốn câu, chính là phá tha sinh. Vì sao? Vì ngài Di-lặc cho rằng nhân như phát trí thành trí đoạn mà hành giả được thọ ký. Hai là song nạn về Biệt, Viên hai giáo, mỗi mỗi đều suy Thông giáo hạch sách không mất một câu. Nhưng Thông, Biệt hai giáo thì Thông giáo duyên với thiên chân, còn Biệt giáo duyên với tu. Lại Biệt giáo duyên tu là tự, còn Viên giáo chân tu cũng là tự, cẩn thận chớ lộn. Hỏi: Vì sao Thông và Biệt dùng duyên tu làm tự, còn Viên giáo dùng chân tu làm tự? Đáp: Thông và Biệt dùng trí để thành Phật, như chỉ là cảnh, nên duyên là tự. Còn Viên giáo dùng chân để thành Phật, duyên tu chỉ là phước tuệ trang nghiêm, nên chân như là tự. Hỏi: Thông giáo chỉ là cái chân đoạn không phát trí mà thôi, trí là người tu nói là tự, lý chỉ là cảnh có thể được là tha. Biệt giáo nói lý trung sao không đồng với Viên mà lại đồng với Thông giáo? Đáp: Lý tuy đồng Viên cơ, nhưng giáo không đồng. Biệt giáo nói duyên chân, chân tuy thường nhưng lý không phải trí. Dùng trí quán lý mà chưa phát chân trí. Trí duyên tu thì không gọi là thường, nên không đồng với Viên. Hỏi: Biệt đồng với Thông giáo cùng duyên làm tự, mạch suy chung bốn trường hợp có thể biết, còn Viên dùng chân làm tự thì bốn trường hợp là thế nào? Đáp: Trí đoạn không phải tự sinh, không phải chân tu mà thành, cũng không phải tha sinh, không phải duyên tu mà thành, cũng không phải cộng sinh, không phải chân duyên hợp thành, cũng không phải Không nhân sinh, không phải lìa chân và duyên mà thành, mà có trí đoạn của Viên giáo. Nếu bốn trường hợp kiểm tra trí đoạn không được thì không nhận thọ ký một đời của Viên giáo. Chỉ ý vấn nạn của ngài Tịnh Danh là vấn nạn về tự sinh chân tu trí đoạn của Viên giáo, trong đó sát hạch tột cùng không phải là sở năng của hai lần mười phen. Hễ không thấy sâu ý này thì nghóa Viên giáo chân tu cũng khó tồn tại. Viên chân còn thế, thì Biệt Thông duyên tu đâu dễ còn. Nhân ngài Tịnh Danh gạn hỏi một mà thành ba, ý rất rõ ràng không quá mức. Hỏi: Chỉ dùng một lần đâu khiến đóng kín cả ba giáo, mỗi người nghe tất bỏ chấp riêng của mình? Đáp: Như xưa ta về Thiểm tây thấy ở chùa đạo nhân, Trương Công vì Lương Tuyên đế vẽ trên vách Bắc đại điện hình Phật Lô-xá-na và một con rùa. Tượng có hai mắt, tùy người động tónh đều thấy mắt nhìn mình, mắt rùa cũng thế. đó là Sắc pháp ở đời mà còn tuyệt diệu như thế, huống ngài Tịnh Danh đã trụ vào diệu trí Bất tư nghị. Một phen vấn nạn khiến cả ba cùng phá cái bệnh chấp tâm tự bỏ thay. - Song cùng “nhất thiết chúng sinh…”. Văn có hai phần: 1/ Do bốn Như là nguyên do “cùng”. 2/ Chánh kết nghóa cung” Phần một gồm có bốn: căn cứ tất cả chúng sinh như, căn cứ tất cả pháp như. Căn cứ chúng Hiền Thánh Như. Căn cứ Di-lặc như. Cả bốn thứ này cùng tìm xét kỹ ý ấy cũng ngầm dựa theo nghóa của ba giáo: Căn cứ Thông giáo làm bốn cùng có ba là cùng thuận. Từ đầu đến một câu cuối là cùng nghịch, từ cuối đến một câu đầu là căn cứ chúng sinh Như. Căn cứ chúng sinh Như mà cùng thuận tức là giả nhân (người giả). Giả nhân như và Di-lặc như là một như không phải hai như. Nếu chúng sinh như không sinh không diệt, thì không được thọ ký. Di-lặc cũng thế, sao được thọ ký riêng. Di-lặc như không sinh không diệt được thọ ký, thì hai Như là khác, mà khác là Không phải Như. Nếu là Như mà không thọ ký riêng ký thì phải đồng mà không thọ ký cũng đồng. Hoặc chung hoặc cùng không phải là số của ba phen. Căn cứ tất cả pháp Như cùng thuận, tất cả pháp như chung cả tình và vô tình. Tình tức là năm ấm thật pháp, vô tình tức là ở ngoài cõi nước, tất cả đều là Như. Cùng Di-lặc Như là một Như không hai. Đây chỉ lấy vô tình thế cho chúng sinh, câu câu đều đồng, cần suy ra mà nói. Vì sao? Bởi pháp vô tình Phật không thọ ký. Nên Đại kinh nói: Nếu cây Ni-câu-đà hay tu giới định và trí tuệ thì ta cũng thọ ký cho quả Bồ-đề, vì nó vô tâm nên không thọ ký. Nên cho đó là cùng, vì khác loài hữu tình vậy. Căn cứ chúng Thánh hiền như, cùng thuận, tức ba thừa Thánh hiền của Tạng Thông tất cả đều như, cùng Di-lặc như thì nhất như không hai. Đây cũng theo như trước. “Nếu chúng sinh trở xuống câu câu đều đồng thì chuẩn theo trước mà nói. Từ Pháp Hoa trở về trước thì Hiền Thánh Nhị thừa đều không có thọ ký, nên cho đó là cùng. Căn cứ Di-lặc như ba ngược lại ba thứ cùng ở trước nên gọi là phản. Đây có ba lớp, tức là cùng ba phen trước. Mỗi mỗi đều nói rằng một Như không hai, ký và không ký đều như nhau, ý rất rõ ràng. Căn cứ Biệt giáo, Viên giáo đều làm bốn cùng, thì suy theo Thông giáo sẽ biết. Phần hai, chánh kết nghóa cùng Từ “Nhược Di-lặc… bất nhị bất dị” cũng có bốn ý: căn cứ theo chúng sinh, căn cứ theo tất cả pháp, căn cứ theo các Thánh hiền, căn cứ theo Di-lặc. Cả bốn ý này cũng ngầm dựa theo ba giáo Căn cứ đều cùng của Thông giáo, cũng có ba thuận một nghịch. - Căn cứ chúng sinh mà kết luận đều cùng thuận. Nói rằng nếu ngài Di-lặc được thọ ký thì tất cả chúng sinh cũng phải được thọ ký, vì hai Như đã đồng nhất tất phải đều được thọ ký. Ngài Tịnh Danh tự giải thích rằng phàm là Như thì không hai không khác, nếu có hai có khác thì mới được một bên thọ ký, một bên không thọ ký. Đã là Không hai không khác thì cả hai đều phải được thọ ký. Hỏi: Hai và khác có gì khác nhau? Đáp: Hai là chỉ luận thể nó riêng biệt, còn khác là nói tướng nó không đồng. Căn cứ theo tất cả pháp mà kết đều cùng và Căn cứ chúng Thánh hiền mà kết đều cùng. Văn lược bỏ không nói ra, nên suy từ phần chúng sinh trên mà biết. Căn cứ Di-lặc đều cùng nghịch, thì văn cũng lược bỏ không nêu ra, cần chuẩn theo trước. Về cùng nghịch là nếu các Hiền Thánh không được thọ ký thì Di-lặc cũng không được thọ ký. Vì sao? Vì phàm là Như thì không hai không khác. Nếu tất cả chúng sinh không được thọ ký thì tất cả các pháp cũng đều như thế. Căn cứ Biệt và Viên giáo cũng làm bốn thứ kết luận nghóa đều cùng, y theo phần Thông giáo trên mà biết. Nếu Di-lặc không thể thông thì nghóa thọ ký của ba giáo đều hỏng nên bị chê bỏ. Song kết giải thích “Nhược Di-lặc trở xuống. Văn có hai: 1/ Căn cứ phá Trí đức mà giải thích. 2/ Căn cứ phá Đoạn đức mà giải thích. - Căn cứ ở phá Trí đức, cũng ngầm dựa theo trí đức của ba giáo mà giải thích. Giải thích theo Thông giáo : Bồ-đề đối với chúng sinh phiền não. Chúng sinh phiền não như thì Bồ-đề như, không hai không khác. Nếu Di-lặc được quả Bồ-đề thì tất cả chúng sinh cũng đều phải được. Trong đây ngài Tịnh Danh giải thích rằng tất cả chúng sinh tức là tướng Bồ-đề. Chúng sinh đã là tướng Bồ-đề mà như không tự sinh, lại không được có quả thượng trí đầy đủ Bồ-đề có thể thọ ký cho. Giải thích theo Biệt giáo , cũng đồng với Thông giáo, chỉ thấy Trung đạo là khác. Giải thích theo Viên giáo , chúng sinh phiền não có tướng trí tuệ như mặt người có tướng phước đức. Tướng Bồ-đề này tức Tướng Như như, tức tướng trí tuệ. Chúng sinh và Di-lặc đều có tướng này. Phật quán thấy hai như đều được thọ ký. Tuy gồm cả hai giáo trước, nhưng ý kinh là ở Viên giáo. Hỏi: Vì sao dùng ba giáo để phá, mà giải thích chỉ dùng Viên? Đáp: Phá là phá chấp, giải thích là thành cái thật nghóa. Ở giáo trước không người không hạnh, giáo phá đều không. Viên giáo chấp phá tức giáo, chân, hạnh đều rõ ràng, nên chánh ước ở Viên. Đây kết giải thích chân tu như không sinh, tức không có trí đức nên không được thọ ký. - Căn cứ ở phá Đoạn đức mà giải thích “Nhược Di-lặc đến bất phục cánh diệt”. Cũng ngầm dựa theo ba giáo. Phá Thông giáo: Niết-bàn và chúng sinh đã Như nên không khác, cả hai đều diệt độ, nên ngài Tịnh Danh tự giải thích rằng: Chư Phật biết tất cả chúng sinh tức tướng Niết-bàn không còn diệt nữa. Chúng sinh là tướng Niết-bàn sẵn có Như đã không diệt mất thì không có Đoạn đức diệt trên quả có thể thọ ký. Ước phá Biệt giáo, nếu chúng sinh Như, tức tướng Niết-bàn không thể diệt, là Không có Thập địa hậu tâm không nói diệt rốt ráo đoạn đức Niết-bàn . Phá Viên giáo suy theo Thông giáo mà biết. Trên đây là phá giáo, còn nhân, hành cũng suy theo trên mà biết. Đây là giải thích chân như bất diệt tức không có đoạn đức nên không được thọ ký Đại Niết-bàn. Chánh kết lỗi mà khuyên bỏ: “Thị cố Di-lặc trở xuống có ba phần: Kết lỗi. Khuyên bỏ kiến chấp và giải thích. Kết lỗi: Nếu không phương tiện dạy quả Bồ-đề nói quả Bồ-đề này khuyến dụ tâm người khởi sinh kiến Bồ-đề, tức có lỗi dối lừa người, nên ngài Tịnh Danh tự nói: Thật không có phát tâm Bồ-đề cũng không có ngôi vị bất thoái, như Bồ-đề tâm Viên giáo còn không thể được, tức không có người thoái chuyển há lại có phương tiện dạy phát tâm và vị bất thoái. Đã không có nhân tức là Không có quả có thể được. Không có quả kiến cầu mà thọ ký cho tức là dối khuyến dụ tâm người. Hỏi: Quả là Phật nói và thọ ký cho Di-lặc, vậy Phật khuyến dụ lừa dối nào có liên hệ gì đến Di-lặc? Đáp: Đại Luận có nói: Khi Phật ngồi đạo tràng thật không được một pháp nào, tay không mà dối dụ trẻ con để độ tất cả. Lúc đầu Phật tuy có khuyến dụ nhưng đến Thật thì cần phải bỏ nên dùng kết lỗi để chê trách Di-lặc. Khuyên bỏ kiến chấp “Di-lặc đến chi kiến”, phương tiện Bồ-đề không người có giáo, nếu chấp Không bỏ thì chướng nhập vào nhất thật. Nên trong Đại kinh nói: Từ đây trở về trước đều gọi là tà kiến, nên cần phải bỏ. Hỏi: Do đâu Di-lặc khuyên Thiên tử bỏ kiến chấp? Đáp: Ngài Di-lặc dạy ông ta phát tâm tu vị bất thoái, không tin vào lời người khác, nên lại khiến Di-lặc khuyên bỏ. Giải thích ý khuyên bỏ “sở dó đến tâm đắc”. Phá về thân tâm được thì bốn giáo không đồng. Phá Tam tạng giáo kinh Thanh Văn nói ví như người nghèo muốn cưới con gái nhà giàu. Gia đình cô gái nói: Muốn được con ta thì phải làm sạch nhà ngươi. Quả Bồ-đề cũng nói với Hậu Tâm Bồ-tát rằng: Muốn được Bồ-đề phải tu tướng hảo, nếu các tướng đầy đủ mới được Bồ-đề. Đây tức là Thân được. Điều phục kiết thuần thục, ở đạo tràng hàng ma, tại gốc Bồ-đề mà được diệt cam lộ tức là Tâm được. Đại luận nói hủy phá tức là Không thể dùng thân tâm mà được. Phá Thông giáo, nếu dùng “không” tâm mà tu các tướng hảo, cõi Phật thanh tịnh, trang nghiêm y chánh báo, gọi là thân được. Khi ngồi đạo tràng, một niệm tương ưng với tuệ, đoạn dứt chánh tập tức là tâm được. Phá như Kim Cang Bát-nhã nói: Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy làm tà đạo, không thấy được Như Lai. Đây tức là Không thể dùng thân tâm mà được. Phá Biệt giáo. Nếu nói nhân diệt là sắc nhận được thường sắc, tức là thân được, thọ, tưởng, hành, thức cũng thế, tức là tâm được. Nay kiểm lại lời này là vô thường sắc ấy diệt thì nhận được thường sắc. Vô thường sắc không diệt thì nhận được thường sắc. Như thế bốn trường hợp kiểm không thể được, tức là Không thể dùng thân tâm mà được. Phá Viên giáo, chân tu diệu sắc tâm hiển sáng, không cần duyên tu công đức trí tuệ mà hiển sáng, tức là Không thể dùng thân tâm mà được. Lại nữa, nếu chân tu thì thể sắc tâm hiển sáng đầy đủ được Bồ- đề, cũng là nghóa thân Tâm được. Nên trước phá Như sinh Như không có sinh tức là sắc pháp tánh, pháp, tánh, thọ, tưởng, hành, thức không sinh. Không sinh tức là vô lậu đầy đủ, nên không thể dùng thân tâm mà được. Nói rộng về chân Bồ-đề “Tịch diệt…”: Sở dó nói rộng , là trên đã vấn nạn để phá, lại khuyên bỏ kiến chấp. Ấy là tin giáo thiên lệch nên quy tâm chớ theo. Nhận Viên giáo mà chưa nhập, thì cũng không biết chánh nghóa, nên cần phải rộng bày hai mươi lăm phen Chánh nghóa Bồ-đề. Văn có ba phần Một phen nói tóm lược thật tướng của biểu tượng Bồ-đề. Hai mươi hai phen căn cứ chân trí đoạn, mà nói Bồ-đề. Hai phen lại căn cứ thật tướng diệu lý mà kết thành chân trí đoạn Bồ-đề. Một phen nói tóm lược: Vì sao? Vì trên đã phá không có trí đoạn, không được thọ ký. Học theo bốn giáo, là bệnh chấp đã bỏ, nay lại nói cho họ nghóa chân trí đoạn đều là Bồ-đề. Đó là ba đức Bồ-đề như chữ y ở đời, tức là chân Bồ-đề của Viên giáo. Giải thích hai mươi lăm trường hợp hoàn toàn dùng Viên. Tịch diệt là Bồ-đề, tức tất cả pháp đến tâm, tâm tức Trung đạo. Lý chân như xưa không sinh thì nay không diệt. Không sinh tức không phải trí, không diệt tức không phải đoạn, tức là nghóa chân tịch diệt, cũng là Đại Niết-bàn bất sinh, bất sinh bất khả thuyết. Nói Bồ-đề tức là thật tướng Bồ-đề của Viên giáo. Nói diệt các tướng, nếu không biết thật tướng Bồ-đề thì không thể nói chấp tướng bốn giáo mà khởi phiền não sinh tử. Bốn thứ tướng này có mười sáu tướng sinh ra tất cả tướng, cho nên có tất cả phiền não sinh tử rối rấm. Nếu thật tướng Bồ-đề tức là bất sinh, bất sinh không thể nói, tức là bốn môn đều diệt huống là sinh hay bất sinh… Ba tướng bốn môn và tất cả tướng hoặc mà không diệt mất ư? Ý ngài Tịnh Danh nói là thật tướng không có tướng, hay diệt các tướng nên nói là diệt. Chính thức căn cứ Trí Đoạn chân thật tức Bồ-đề “Bất quán…”. Lại có hai, là nói lược và nói rộng . Về lược nói có hai: Hai phen chính nói trí đức chân thật tức là chân Bồ-đề, tức là Ma-ha Bát-nhã. Bốn phen nói đoạn đức chân thật. Chẳng quán là Bồ-đề, tức là dứt phương tiện quán, tức là chẳng quán. Lìa các duyên, tức lìa các duyên tu và tất cả duyên cớ. Không làm là Bồ-đề, nếu biết Chân không thì không làm lụng tạo tác, vì tất cả muôn hạnh tức là Bồ-đề. Nên Đại Phẩm nói: Nếu tâm và tâm số pháp Không làm là làm Bát-nhã. Không nghó nhớ, là Không nghó nhớ bốn thứ thọ ký Bồ-đề và tất cả pháp. Đây là chân quán hạnh tức là Bồ-đề trí đức chân thật. Bốn phen nói đoạn đức chân thật tức Bồ-đề “Đoạn thị Bồ-đề… Vô tham trước cố”, tức là đức giải thoát. Đoạn là Bồ-đề, tức là chân như hiển hiện, kiến tư hoặc đều dứt, tức là đoạn đức Bồ-đề. Bỏ chấp bốn giáo, khởi kiến Bồ-đề và tất cả kiến, tức là bỏ các kiến. Lìa là Bồ-đề, là lìa bốn giáo nói về quán hạnh và tất cả pháp, tức là Bồ-đề đoạn đức chân thật. Lìa các vọng tưởng, là lìa duyên tu của bốn môn và tất cả vọng tưởng. Chướng là Bồ-đề, là nếu biết bình đẳng chân pháp giới Phật không độ chúng sinh, tức là Phật không hay làm, tức là ngăn chướng các phương tiện giáo môn thệ nguyện, đây là đoạn đức chân thật. Không nhập là Bồ-đề, nếu biết chân như rốt ráo không hình tướng, tức là Không nhập vào quyền giáo Niết-bàn và tất cả pháp, vì không nhập nên không tham trước, tức là Bồ-đề Đoạn đức chân thật . Về nói rộng “Thuận là Bồ-đề…”. Chân trí đoạn tức là Bồ-đề. Trong đây phần nhiều nói rộng về trí đức, ít nói về Đoạn đức. Vì sao? Vì Bồ-đề là trí, còn đoạn là thuộc Niết-bàn nên là phụ. Có hai phần: Chín phen nói theo trí đức. b) Bảy phen nói không thể dùng thân tâm mà được. Thuận là Bồ-đề, chín phen nói theo trí đức là nếu : quá vượt chẳng thấy Bồ-đề của bốn giáo tức là thuận Trung đạo chân như của Viên giáo. Trụ là Bồ-đề, là trí chẳng trụ ở bốn giáo và tất cả pháp, tức là trụ ở pháp tánh của Viên giáo. Đến là Bồ-đề. Nếu quán các pháp và Bồ-đề của bốn giáo thì rốt ráo không thể được, tức là thường đến thật tế chân như. Không hai là Bồ-đề, nếu có phương tiện Bồ-đề Thiên giáo và tất cả pháp, thì tức là pháp trần đối với nội ý căn tức là hai. Quán hai pháp này đều không thể được mà nhập vào môn không hai (Bất nhị) mà thấy Trung đạo liền lìa bỏ hai chết, đây là một phen nói thuộc đoạn đức. Bình đẳng là Bồ-đề. Nếu quán Niết-bàn cùng sinh tử bình đẳng, tức là bình đẳng đối với Phật tánh hư không, là Bồ-đề trí đức chân thật. Vô vi là Bồ-đề, nếu quán pháp tánh rỗng sáng Thường tịch tức là chân vô vi, không bị sinh tử bệnh tử biến dời. Trí là Bồ-đề, là các phương tiện giáo duyên tu mà vào chân chẳng thấy có tâm hành chúng sinh, chân trí của Viên giáo tịch mà thường chiếu. Tâm hành chúng sinh tự quán trí Trung đạo sáng rỡ rõ ràng. Bất hội là Bồ-đề, các phương tiện giáo nói trí duyên tu hội nhập ở lý mới gọi là trí. Chân tu trí thể của Viên giáo tức là lý tịch diệt không phải là trí đến hội. Bất họp là Bồ-đề, là phương tiện chân trí về lý mà nói cùng vô minh hợp nhau, chưa thể lìa các tập. Chân tu trí thể mà không cùng họp, tức là thường lìa ở nguyên phẩm tậïp. Đây nói thuộc đoạn đức, bỏ lấy rất khó, cần suy nghó chín chắn. Bảy phen không thể dùng thân tâm mà được “Vô xứ thị Bồ-đề trở xuống. Vô xứ là Bồ-đề, đây à không thể dùng thân tâm mà được. Bồ-đề Thiên giáo trí nương vào sắc thân, sắc thân là xứ, đây không thể dùng thân mà được. Bồ-đề của Viên giáo thì sắc tâm không hai, đã không có năng sở tức là vô xứ. Đây tức là Không thể dùng thân mà được. Từ”giả danh” đến “đẳng cố” đây là sáu phen nói nghóa chân trí, Bồ-đề không thể dùng tâm mà được. Giả danh là Bồ-đề, tâm là giả danh, bốn thứ Bồ-đề chỉ có danh tự, nếu quán tức không mà thấy ở Phật tánh tức chân trí Bồ-đề không thể dùng tâm mà được. Như Hóa là Bồ-đề: các pháp như hóa, bốn thứ Bồ-đề đều như hóa. Nếu biết như hóa đều không thể được, tức là Không chấp tướng Bồ-đề, không bỏ phiền não tức là chân trí Bồ-đề. Không loạn động là Bồ-đề: phiền não vọng tưởng và duyên tu động niệm đều là loạn tưởng. Biết các loạn tưởng này đều không thể được, thì dứt tâm thấu suốt cội nguồn, nội tâm thường tịch, lặng lẽ, thì không có cảnh trí loạn động. Thiện tịch là Bồ-đề, phương tiện duyên tu chưa thể thuận lý, không gọi là chân thiện. Có duyên có niệm tức là loạn tưởng, không gọi là tịch. Sơ tâm của Viên giáo, trí tức chân như, gọi là thiện. Chiếu mà không động niệm, gọi đó là tịch. Trí tức pháp tánh, pháp tánh không nhiễm tức là tánh tịnh. Không chấp lấy là Bồ-đề, nếu biết Bồ-đề của bốn giáo và tất cả pháp đều không có, tâm không đắm trước, tức là Bồ-đề của Viên giáo, lìa bỏ tâm phan duyên Bồ-đề và tất cả các pháp. Không khác là Bồ-đề: các giáo phương tiện nói Bồ-đề khác phiền não. Nếu biết Bồ-đề không khác phiền não tức là bình đẳng trí đức Bồ- đề của Viên giáo. Hai phen căn cứ diệu lý thật tướng mà kết luận: Nói ba đức Bồ-đề bất tư nghị kết thành Từ “vô tỉ đến nan tri cố”. Không sánh được là Bồ-đề bất tư nghị, chân như Trí, Đoạn tức là tất cả pháp, không thể dùng pháp lại sánh với pháp, nên không thể dụ. Vi diệu là Bồ-đề, lý quyền không phải là diệu. Các pháp của Viên giáo tức là chân như, chân như tức là Trí, Đoạn. Các pháp đều là ba đức Bồ-đề bất tư nghị mới là cực diệu, không phải các phàm tiểu và phương tiện Bồ-đề biết được. Chư Thiên được lợi ích “Thế Tôn… pháp nhẫn”, mong cầu đã dứt, nước trong châu hiện, được bậc Sơ trụ Vô sinh pháp nhẫn của Viên giáo. Hoặc một thứ tiếng mà hiểu khác, thì được vô sinh của Thông và Biệt giáo. Đã chưa bằng Pháp Hoa đâu thể phán định. Kết lời không kham “nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy”. Ngài Di-lặc tự nghó lúc xưa vì trời Đâu-suất nói bất thoái chuyển không lợi ích cho họ mà bị chê trách, không trả lời được. Nay đâu dám lãnh ý Phật đến thăm bệnh nên từ chối không kham. Chánh văn: Đức Phật bảo Quang Nghiêm Đồng tử: Ông đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật. Hai là: Sai Quang Nghiêm Đồng tử. Văn có hai phần: Sai thăm bệnh, từ chối không kham. Sai thăm bệnh. Kế tiếp sai ngài Quang Nghiêm, ngài là Bồ-tát tại gia, pháp hữu của ngài Tịnh Danh và Bảo Tích. Cũng là pháp thân Đại só ngôi vị ở bậc Bổ xứ. Sở dó gọi Quang Nghiêm Đồng tử, vì Quang có ba ý nghóa: Sắc. Tâm. Phi sắc phi tâm. Sắc quang như bối xả, quán xương, phát ra tám thứ ánh sáng chuyển làm Thắng xứ và tất cả chỗ phóng ra các thứ ánh sáng. Tâm quang, tức là ánh sáng trí tuệ thường chiếu soi các Hoặc mờ tối. Phi sắc phi tâm quang tức ánh sáng Đệ nhất nghóa, như kinh Phạm Võng phóng ra ánh sáng, Đệ nhất nghóa. Đại kinh nói: Lưu Ly Quang Bồ-tát phóng ra ánh sáng tức là việc này. Kinh ấy nói: Ánh sáng, tức là Đệ nhất nghóa đế, không phải sắc không phải tâm mà hiện ra sắc tâm. Vì sao? Vì kinh nói: Ánh sáng không phải sắc xanh mà thấy xanh…, tức là sắc không phải sắc. Ánh sáng đó là trí tuệ, tức không phải tâm mà nói tâm. Tam tạng giáo, Thông, Biệt giáo chỉ có hai thứ ánh sáng sắc và tâm. Chỉ có Viên giáo mới có ánh sáng Đệ nhất nghóa, đó là ánh sáng bất tư nghị. Nghiêm, tức là phước, trí hai nghiêm, đầy đủ như trong Đại kinh nói. Cũng là sức định tuệ trang nghiêm đầy đủ như trong kinh Pháp Hoa. Sắc quang tức là phước nghiêm, tâm quang tức là trí nghiêm, Đệ nhất nghóa quang tức là pháp thân. Hai thứ ánh sáng trang nghiêm hiển phát pháp thân, nên gọi là Quang nghiêm. Hỏi: Nếu Đệ nhất nghóa là ánh sáng thì đâu cần ánh sáng sắc và tâm? Đáp: Như mặt trời và gương làm hiển lộ mắt. Mắt được mặt trời thì thấy, tức mặt trời trí và Gương phước cùng làm hiển lộ mắt Đệ nhất nghóa. Tức được khai Phật tri kiến mà thấy mình và người. Đồng tử, là Bồ-tát trụ ở địa Cưu-ma-la-ca gọi là Đồng chân. Như trẻ thơ ở đời, tâm không ái nhiễm, nghóa là Không yêu đắm vợ mình vợ người. Không yêu vợ mình là như ngài Kim Sắc Ca-diếp. Không yêu vợ người, tức là Không yêu tất cả phụ nữ và vợ người. Bồ-tát cũng thế. Tuy quán ba đế chứng các pháp hỷ, nhưng ở hai đế pháp hỷ không yêu thích, tức là Không yêu tất cả phụ nữ và vợ người. Không yêu thích Trung đạo pháp hỷ, tức là Không yêu vợ mình. Đầy đủ hai nghóa này như trẻ con ở đời, nên gọi là Quang Nghiêm Đồng tử. Trước sai ngài Di-lặc để hiển bày Bồ-đề của Viên giáo, khai Phật tri kiến không nhằm ở thân sau. Nay sai ngài Quang Nghiêm là muốn nói về đạo tràng Viên giáo, bày Phật tri kiến, cũng không ở tại gốc Bồ- đề ở vị lai. Khai kiến là tướng chung, như lúc đầu thấy châu Như ý chỉ là một tướng tròn. Hiện bày là tướng riêng. Như thấy châu Như ý mưa ra các ngọc báu, rồi dựa vào tâm đầu tiên mà không cầu xa xôi. Nên trong Đại Phẩm có nói: Mỗi mỗi pháp môn đều là Ma-ha Diễn. Kinh này nói đó là đạo tràng. Ngài Tịnh Danh thuở xưa phá ngài Quang Nghiêm là mượn ngài để phá Bồ-đề của ba giáo không phải là chân đạo tràng. Quang Nghiêm hiện bày việc bị chiết phục chính là hiển bày chân thật đạo tràng của Viên giáo. Nay Phật sai tiếp ngài, là nếu ngài kể việc bị chê trách xưa thì cả đại chúng cùng nghe được nghóa chân đạo tràng của Viên giáo, thành tựu được năm ích lợi trước. - Từ chối không kham “Quang Nghiêm…”. Văn có bốn: Đáp lời không kham. Nói lý do không kham. Chính kể việc bị chê trách. Kết thành không kham. Đáp lời không kham: Vì thuở xưa hỏi nghóa đạo tràng mà không đáp được, nên không kham truyền ý Phật đến thăm bệnh. Nói lý do không kham: Do không biết nghóa chân đạo tràng. Văn có năm: Ra vào gặp nhau. Quang Nghiêm chí kính. Hỏi từ đâu đến. Đáp ở đạo tràng đến. Quang Nghiêm lại hỏi. Ra vào gặp nhau, mà có sự chê trách là lý do không kham. Hoặc trên biểu: Thành là gốc vắng lặng. Ra là trái lý, vào là thuận chân. Quang Nghiêm là biểu thị: Học phương tiện vốn yên lặng chưa sáng, tâm mê lý xa, nên gọi là ra. Ngài Tịnh Danh nương vào Viên từ lâu ngộ một thật vào dòng nước pháp, gọi đó là vào. Do Quang Nghiêm trái lý nên mê đạo tràng, cơ cảm gặp nhau mà có bị gạn hỏi chê trách. Hỏi: Từ trước các đệ tử Bồ-tát đều bị chê trách, nay Quang Ng- hiêm được nói thẳng nghóa đạo tràng chưa thấy bị khuất phục, sao lại từ chối không kham? Đáp: Nghe đạo tràng của Viên giáo mịt mờ không hiểu, tức là khuất phục. Tâm đã chịu phục bèn thỉnh hỏi đạo tràng và liền nói mà không đợi hỏi, nên không kham thăm bệnh. Quang Nghiêm chí kính. Sở dó lạy, là Quang Nghiêm cúi đầu mọp dưới chân vì biết rõ Đại só cao đức lợi vật vô cùng nên rất chí kính. Hỏi từ đâu đến “mà hỏi rằng Cư só từ đâu đến” vì không biết từ đâu nên hỏi. Đại só đáp: Ta nói ta từ đạo tràng đến. Thật không phải từ chỗ Phật thành Đạo đến, vì muốn nói nghóa sơ tâm chân đạo tràng của Viên giáo để phá các giáo thiên lệch về sự tích Viên giáo để nói về đạo tràng. Nên đáp rằng từ đạo tràng đến. Quang nghiêm lại hỏi “con hỏi đạo tràng là gì”. Sở dó Quang Nghiêm mê lời đáp này vì đạo tràng vốn là nơi Phật thành đạo. Như ở đời, sân lúa là nơi loại bỏ trấu cám để được gạo. Bồ-tát cũng thế, loại bỏ tâm mê hoặc để hiển bày thật tướng, nên nơi thành đạo gọi là đạo tràng. Nói theo Tam tạng giáo, thì dưới cội Bồ-đề dùng cỏ làm tòa chánh tập đều dứt, nơi thành Phật gọi là đạo tràng. Theo Thông giáo thì dưới cội Bồ-đề, dùng Thiên y làm tòa, chánh tập đều hết, nơi ấy thành Phật gọi là đạo tràng. Theo Biệt giáo thì dưới cội Bồ-đề bảy báu làm tòa, Phật Lô-xá-na hoặc ngoại giới đều hết, nơi đầu tiên thành chánh giác tức là tịch diệt đạo tràng. Theo Viên giáo thì ở trên hư không hoa sen làm tòa vô minh pháp giới dứt hẳn, nơi đầu tiên thành Phật cũng là tịch diệt đạo tràng. Ngồi tòa cỏ thành Phật, nói kinh Thanh Văn và thiên y, bảy báu, hư không hoa sen hơn cả vua trời… đều là tùy cơ cảm mà thấy bốn thứ đạo tràng này, tiểu cơ thì thấy nhỏ, Đại thừa thì thấy Bồ-tát của ba giáo, nên có ba tướng đạo tràng thành Phật khác nhau. Ngài Quang Nghiêm không thấy Đại só từ các nơi này đến, sao bỗng đáp từ đạo tràng đến, cho nên hỏi lại. Chính kể việc bị chê trách: “Đáp rằng…”. Quang Nghiêm chỉ biết nghóa quả đạo tràng đầu tiên của phương tiện giáo mà chưa biết phát tâm cũng là đạo tràng của Viên giáo. Giống như ngài Di-lặc nói pháp đều trông vào quả quyềnmà dẫn thành hạnh bất thoái. Nay ngài Tịnh Danh nói Viên để phá ngài Quang Nghiêm chấp có đạo tràng trên quả phương tiện giống như Đại phẩm nói đốt cháy không phải trước không phải sau mà không lìa trước sau. Nếu không lìa trước sau, lấy sau làm đạo tràng, thì sao không lấy trước làm đạo tràng. Nếu trước không thể, thì sau cũng không thể. Do đó ngài Tịnh Danh căn cứ sơ tâm của Viên giáo mà nói rộng nghóa đạo tràng chân thật. Hỏi: Ba giáo đã có hậu tâm là đạo tràng, thì sơ tâm cũng được là đạo tràng chăng? Đáp: Các giáo phương tiện hoàn toàn dựa theo quán sao lại không được nhưng xét về đạo lý thì nghóa không thành. Vì sao? bởi phương tiện hậu tâm mới đủ Phật pháp, còn sơ tâm thì không thể, đâu được liệt vào. Nhưng ngài Tịnh Danh đáp chung mà chưa nói rõ hình tướng, do đó ngài Quang Nghiêm lại hỏi. Nay chấp quyền là biết một trong vô lượng bất tư nghị. Như ngọc báu trong túi mà không chỉ cho người thì người không thấy. Do đó ngài Tịnh Danh khắp trải các hạnh nói nghóa đạo tràng, ấy là hiện bày Phật tri kiến ý ở đây vậy. Nhưng hiện bày có hai là dọc và ngang, dọc ngang chính là đó. Xe ấy cao rộng. Cao thì suốt đến đời sau, rộng thì pháp giới không bờ bến. Tướng cao rộng đầy đủ như nghóa Tịnh độ ngang dọc ở trước nói phân tán ở các hạnh. Nếu theo văn mà bỏ biệt thì chỉ thành Thông giáo mất đi ý chánh của Biệt giáo. Nay đều ước vào sơ tâm của Viên giáo để nói về đạo tràng. Nên ở đoạn văn sau có nói: Nếu Bồ-tát hành trì Ba-la-mật thì đi đứng đều là đạo tràng, đầy đủ Phật pháp vậy. Văn đây có bốn phần: Bốn phen một lượt nói theo chiều dọc. Hai mươi lăm phen một lượt nói theo ngang. Một phen tóm kết giải thích. Nói thời chúng được lợi. Căn cứ bốn tâm: nếu y vào Biệt giáo đối bốn mươi tâm mà giải thích thì trực tâm tức là Thập trụ, phát hành tức là Thập hạnh, thâm tâm tức là Thập hướng, Bồ-đề tâm tức là Thập địa cũng không hoàn toàn như thế. Vì sao? Vì ngài Tịnh Danh nói sơ tâm đạo tràng của Viên giáo đâu có thể dọc đối với ngôi vị bốn mươi tâm. Nay nói sơ trụ tức có bốn tâm cho đến Phật quả. Trực tâm tức là nhập vào Nhất thật đế, phát hành tức là thật đế của muôn hạnh, thâm tâm tức là tiến sâu niệm niệm lưu nhập, Bồ-đề tâm tức có đủ ba tâm ấy, như nam châm hút sắt. Các câu sau đây nếu bậc Sơ tu đều căn cứ ở năm phẩm, mà nhập vào vị tương tợ, đến phát tâm trụ thì đều đủ tất cả hạnh, là chân đạo tràng. Trực tâm đạo tràng vốn không hư dối, là như kinh Hoa Nghiêm nói: Khi mới phát tâm liền thành chánh giác, thấu suốt tánh chân thật của các pháp. Lại nói: Rốt ráo lìa bỏ hư vọng không nhiễm như hư không, thanh tịnh diệu pháp thân, rỗng sáng ứng với tất cả, tức là nghóa đạo tràng. Được tám trực vô tác, không có khổ tập hư giả nội ngoại giới. Nếu có hóa vật thì đủ bốn dụng như đã giải thích trong phần Tịnh độ. Nên Pháp Hoa khen năm phẩm rằng: “Phải biết người ấy đã đến đạo tràng gần với quả Bồ- đề ngồi dưới đạo thọ.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Trụ ở sơ phát tâm có thể ngồi đạo tràng mới thành chánh giác.” Cũng như Đại Phẩm nói: “Có Bồ-tát từ sơ phát tâm liền ngồi đạo tràng chuyển pháp luân”. Phát hành là đạo tràng: Là thập hạnh của Biệt giáo được mười Ba- la-mật. Nay sơ trụ của Viên giáo thấy Nhất thật đế phát đủ muôn hạnh, phá các ác nghiệp, hiển bày các pháp môn, tức là đạo tràng. Tự lợi lợi tha gọi là hay làm xong mọi việc. Thâm tâm là đạo tràng, là thập hướng của Biệt giáo, giải hạnh đều thâm nhập. Nay sơ tâm của Viên giáo thấy Đệ nhất nghóa hay thấy không cùng chẳng không. Vì chẳng không tức là thâm nhậïp, không phải là hàng Nhị thừa và Bồ-tát của Thông giáo riêng có ba mươi tâm. Lại nữa, hàng sơ trụ được vào Trung đạo, song chiếu hai đế, tự nhiên lưu nhập vào biển Tát-bà-nhã tức là sâu dần. Vì thâm tâm nên võ vô minh bị tróc rồi, thì chân pháp hiển bày tức nghóa đạo tràng. Dọc tiến thâm nhập rộng khắp, các công đức cũng tùy theo đó mà tăng trưởng. Bồ-đề tâm là đạo tràng, là Sơ địa của Biệt giáo gọi là chân phát tâm. Nay sơ tâm của Viên giáo thấy chân gọi là chân phát hành là rộng lưu nhập, là rộng mà sâu nên gọi là thâm quảng tâm. Bồ-tát được tâm này nên Vô duyên từ bi và vô tác hoằng thệ như nam châm hút sắt, tức là tâm chân Bồ-đề, hay tự dẹp bỏ pháp giới phiền não, hiển bày pháp thân, tức là đạo tràng. Thấy Nhất thật đế không phải nhân không phải quả, phân biệt pháp giới Tứ đế vô tác, nhân quả không rối loạn, tức là Không nhầm lẫn. Lại còn, chung cả ba tâm trước tức ba đức Bồ-đề, nên gọi tâm Bồ-đề là đạo tràng. Từ “bố thí…” là hai mươi lăm phen nói các hành xét theo chiều ngang mà nói nghóa đạo tràng. Về Biệt giáo, lục độ đối dọc các pháp môn là từ địa thứ sáu trở xuống, và địa thứ bảy đến địa thứ mười là sơ tâm của Viên giáo tức là ngang nói, lấy ngang đối dọc, tức là nói sự cao rộng của xe ấy. Văn có năm: Xét theo lục độ tự hành. Xét theo bốn đẳng hóa tha. Xét theo đa văn tiến tu quán đế. Xét theo hàng ma nói pháp. Xét theo quả đức lục vô úy. Xét theo lục độ: tức là hạnh gốc. Lục độ đều đủ năm thứ bốn quyền một thật, đầy đủ như giải thích trước. Bố thí là đạo tràng, là sơ phát tâm trụ Đàn Ba-la-mật bỏ tâm san tham tất cả hiển bày pháp thân bố thí, tức là đạo tràng không trông mong quả báo là trụ vào chân tu mà bố thí không mong cầu báo thế gian và duyên tu. Trì giới là đạo tràng, là sơ phát tâm trụ vào Thi Ba-la-mật này mà phá tất cả ác nghiệp, hiển bày pháp thân chân giới, tức là đạo tràng. Trong giới có đầy đủ tất cả Phật pháp, tức là được nguyện đầy đủ. Nhẫn nhục là đạo tràng, là sơ phát tâm trụ vào Sằn-đề Ba-la-mật này, luôn dẹp trừ được sân khuể pháp giới, hiển bày pháp thân chân nhẫn nhục, tức là đạo tràng. Đã đầy đủ sức Từ nhẫn quyền thật đối với chúng sinh pháp giới, tâm không trở ngại. Tinh tấn là đạo tràng, là sơ phát tâm trụ vào tinh tấn này, luôn lìa bỏ sự lý giải đãi pháp giới mà được pháp thân chân tinh tấn tức ở đạo tràng này, tự nhiên lưu nhập, tức là Không giải đãi. Thiền định là đạo tràng, là sơ phát tâm trụ vào thiền định này, luôn dẹp trừ tất cả tán loạn pháp giới, hiển bày pháp thân chân thiền định, tức là đạo tràng. Đối với sự lý các thiền định mà xuất nhập tự tại, tức là tâm điều nhu vậy. Trí tuệ là đạo tràng, là sơ phát tâm trụ vào trí tuệ này mà đoạn trừ tất cả vô minh pháp giới, hiển bày pháp thân chân trí tuệ, tức là đạo tràng. Thấy lý bốn bất khả thuyết niệm niệm hiện tiền, tức là hiện thấy các pháp. Xét theo bốn vô lượng tâm: Từ… là đến với chúng sanh bình đẳng. Bốn đẳng tức là tâm lợi vật đứng đầu các hạnh. Từ là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát được Vô duyên từ chân thật , lìa bỏ các hoặc pháp giới hiển bày pháp thân từ chân thật, tức là đạo tràng. Khắp che pháp giới tức đẳng chúng sinh. Bi là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát trụ vào vô duyên Bi tùy phá khổ lười mỏi, chân pháp thân hiển bày tức là đạo tràng. Tuy ở ba cõi mà cứu giúp chúng sinh tâm không lười chán. Hỷ là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát được vô lượng tâm chân vô duyên, phá tâm không vui hoạn nạn khắp pháp giới, hiển bày pháp thân chân hoan hỷ vẻ. Xả là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát trụ vào địa không bình đẳng tức phá yêu ghét, hiển bày pháp thân chân hư không tức là đạo tràng. Tuy lợi ích chúng sinh nhưng tâm không lấy bỏ, tức là dứt hẳn yêu ghét. Thần thông là đạo tràng, là pháp thường biến hóa. Sơ tâm liền được sáu căn thanh tịnh và chân Như ý thông, phá các căn chướng, làm thông suốt vô minh cấu, hiển bày sáu căn pháp tánh chân tịnh, tức là đạo tràng. Đây tức thành tựu sáu thông như ứng hóa vật. Giải thoát là đạo tràng, do giải thoát mà thành thông, nên nay tiếp nói về minh. Kinh Địa Trì nói Bồ-tát được tất cả thiền, bèn ra khỏi biên hạn giải thoát của hàng Nhị thừa. Nếu sơ tâm nhập vào ba đế Tam- muội, tức là hai mươi lăm Tam-muội, dẹp trừ tội cấu phiền não của hai mươi lăm hữu, hiển bày ngã chân tánh của hai mươi lăm hữu, tức là đạo tràng. Vì từ nhân ấy mà bội xã được ba cõi, nên được thành tựu tám giải thoát và hai mươi lăm Tam-muội. Phương tiện là đạo tràng tức là khéo léo hóa tha. sơ tâm trong hữu, tức có phương tiện song chiếu hai đế, phá hằng sa vô minh, hiển bày các pháp môn phương tiện, tức là đạo tràng. Thường dùng ba luân hóa tam vật bất tư nghị, thị hiện quyền xảo giáo hóa tất cả chúng sinh. Tứ nhiếp là đạo tràng, bốn nhiếp là pháp phương tiện hóa vật, như phẩm Phương Tiện đã giải thích là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự để nhiếp giữ chúng sinh khiến họ giải thoát. Xét theo đa văn tiến hành “Đa văn… không cố”, tuy là đầy đủ trí tự tha, nhưng Sự cần phải tiến tu, khiến thành Viên rốt ráo. Đa văn là đạo tràng: sơ tâm Bồ-tát được nghe chân thật, giữ gìn các điều nghe biết Phật pháp mười phương, phá các vọng ám, đa văn hiển phát, tánh lìa văn tự, tức là đạo tràng. Vì hay tùy thuận làm đúng như nghe thấy. Điều phục tâm là đạo tràng, kinh Anh Lạc nói: Từ sơ phát tâm đến kim cang đảnh đều gọi là phục nhẫn. Hàng sơ tâm viên phục vô minh, tiến đến hiển bày chân thật tức là đạo tràng. Một tâm ba quán tức là chánh quán các pháp. Ba mươi bảy phẩm là đạo tràng, Bồ-tát sơ tâm được vô tác đạo phẩm, luôn dẹp trừ tám thứ điên đảo tất cả vọng hoặc, hiển bày pháp thân năm ấm pháp tánh, tiến tu giải thoát cho đến được Đại Niết-bàn tức là đạo tràng. Tứ đế nội giới, ba đế ngoại giới đều gọi là hữu vi mà bội xả vậy. Vô lượng diệt đế, vô tác đạo diệt tức là chân vô vi. Đế là đạo tràng. Từ đây trở đi năm phen là cảnh sở quán của đạo phẩm. sơ tâm Bồ-tát luôn dùng đạo phẩm để thấy bốn thứ Tứ đế, đoạn dứt mê lý phiền não nội ngoại giới, hiển bày lý quyền thật tức là đạo tràng. Nói bốn thứ Tứ đế tức là Không lừa dối thế gian. Duyên khởi là đạo tràng, quán mười hai nhân duyên có bốn thứ tướng. sơ tâm Bồ-tát luôn dùng vô tác đạo phẩm mà quán nhân duyên ở ba đạo, được ba thứ Bồ-đề, tức là đạo tràng. Nếu quán nhân duyên thấy ba Phật tánh tức vô tận. Các phiền não là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát luôn dùng đạo phẩm quán ba cõi, không nhiễm hư ngụy, hiển bày Phật chân thật pháp, tức là đạo tràng. Cũng nên biết phiền não cho đến Phật pháp đều rốt ráo không. Chúng sinh là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát luôn dùng đạo phẩm quán chín đạo chúng sinh đều không, không thấy có tướng chúng sinh thì vọng hoặc không khởi. Thấy chân tánh chúng sinh tức là Phật tánh, tức là đạo tràng. Nếu không thấy chúng sinh có tánh nhất định thì đối với ngã và vô ngã là Không hai, đó là nghóa chân vô ngã. Tất cả pháp là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát luôn dùng đạo phẩm quán tất cả ấm nhập… đều không, phá các điên đảo vọng hoặc trong các pháp, hiển bày năm ấm Phật tánh, được năm thứ Niết-bàn, tức là đạo tràng. Cũng nên biết các pháp và Niết-bàn đều không. Xét theo hàng ma thuyết pháp mà nói nghóa đạo tràng “Hàng ma… úy cố) Bồ-tát quán hạnh thành tựu, nên thường chế phục các ma oán. Hàng ma là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát hay hàng phục bốn ma cho đến tám ma, thấy ma giới như, tức Phật giới như, tức là đạo tràng. Luôn ở ma giới mà tâm không lay động. Tam giới là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát không lìa tam giới, không đắm trước tam giới. Thấy ba đế ở tam giới thành Vương Tam-muội và hai mươi lăm Tam-muội, hiển bày tất cả Phật pháp, tức là đạo tràng. Biết tam giới là Không, vốn không chỗ đến. Sư tử hống là đạo tràng, sư tử hống gọi là nói quyết định. sơ tâm Bồ-tát luôn phá nghi hoặc, thấy các chúng sinh đều có Phật tánh, tức là đạo tràng. Bốn thứ bất khả thuyết, nói bốn thứ nhân quả, phó cơ lợi vật quyết định không sợ sệt. Xét theo quả đức mà nói đạo tràng “lực Vô úy… trí cố”. Lực vô úy Bất cộng pháp là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát thành tựu mười thứ trí lực như kinh Hoa Nghiêm nói, tức là quán Nhất thật đế, thường phá vô minh được lực vô úy bất cộng chân pháp tức là đạo tràng. Lực vô úy bất cộng tự hành không lầm lỗi, hóa tha được thích hợp tức không có các lỗi. Tam minh là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát liền được ba minh thấu suốt sự lý ba đời không trở ngại. Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, sơ tâm Bồ-tát thấy lý Trung đạo tức luôn song chiếu hai đế, phá vô minh pháp giới, chân trí hiển bày, tức là đạo tràng. Tướng chung của sơ tâm khi tất cả trí thành thì cũng là Phật. Một phen tóm kết nghóa đạo tràng “Như thị … Phật pháp hỷ”. Nếu căn cứ theo ngài Tịnh Danh, như trên đã thành tựu các Ba-la-mật, giáo hóa chúng sinh, tùy việc đi đứng đều là trừ ngụy hiển chân, tức là từ đạo tràng mà đến, đâu có thể từ nơi Phật đắc đạo mà đến. Nếu theo sơ phát tâm trụ mà giải thích thì sơ tâm Bồ-tát dùng các Ba-la-mật để giáo hóa chúng sinh, trừ ngụy hiển chân, khi đi đứng đều quán thường ở hiện tiền, tức là từ trong đạo tràng đến. Cho đến Thập địa cũng như thế. Nếu căn cứ theo thập tín năm phẩm đệ tử mà giải thích thì: Nếu thường tu quán này, giáo hóa chúng sinh không mất chánh niệm, thì đi đứng đều là từ đạo tràng đến, đầy đủ tất cả Phật pháp. Như kinh Pháp Hoa nói: Nên biết người ấy đã đến đạo tràng. Thời chúng được lợi ích “thuyết thị… Bồ-đề tâm”. Cả năm trăm Trời, người đều phát tâm Vô thượng đạo tức là trụ phát tâm. Kết lời không kham: Cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Ngài Quang Nghiêm tự nghó lúc xưa đã mê chân đạo tràng, nhân ngài Tịnh Danh giải thích mà thần trí yếu kém đâu dám lãnh chỉ Phật đến thăm bệnh. ------------------------------------ <詞>PHẨM: BỒ-TÁT (Phần 3) Chánh văn: “Phật bảo ngài Trì Thế Bồ-tát: Ông hãy đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật”, Ba là: Phật sai Bồ tát Trí Thế. Văn có hai phần: Sai thăm bệnh và từ chối không kham. - Sai thăm bệnh. Sở dó sai tiếp Bồ tát Trí Thế vì ngài là Bồ-tát xuất gia, cũng là pháp thân Đại só nối ngôi tôn quý. Nói Trì Thế là hiểu nhớ không quên nên gọi là trì. Thế là nghóa ngăn cách. Chân tâm thật tướng hiểu nhớ các pháp Không quên mất, nên gọi là Trì Thế. Trì có nhiều nghóa tóm lược, có năm nghóa: Giá trì. Tổng trì. Văn trì. Trụ trì. Nhậm trì. Bốn giáo đều có năm thứ trì này nhưng ba quyền một thật. Nay căn cứ ở Viên giáo mà nói năm thứ trì: Giá trì: Bồ-tát được thật tướng chân minh thường ngăn chặn các phiền não pháp giới và các khổ báo sinh tử. Tổng trì, tất cả công đức muôn hạnh tự lợi lợi tha, như chén nước đầy không nứt nẻ rò rỉ. Văn trì, cả mười phương chư Phật nói pháp cho đến các ngôn từ của mười giới một lần nghe qua đều nhớ rõ, như mây giữ mưa không quên mất. Trụ trì, giữ gìn các pháp môn của mười phương chư Phật nối tiếp mãi không mất. Nhậm trì: Vô duyên đại từ gánh vác tất cả giữ gìn không buông bỏ. Bồ-tát từ mới phát tâm, tâm như hư không không phải Thiên không phải Viên, mà luôn giữ được quyền thật, cho đến vị Pháp vân Đẳng giác. Ngài Trì Thế ở vị Bổ xứ, cả năm trì quyền thật đều rốt ráo, lẽ nào không biết ma Ba-tuần hóa thân làm Đế Thích, nhưng vì muốn khiến chúng sinh biết ma giới như và Phật giới như, nhất như không hai, cho nên lúc xưa đã thị hiện việc không biết ma, thị hiện việc chịu chê trách để khiến chúng sinh ngộ Phật tri kiến. Khai tức là chung, thị tức là riêng, chung riêng không hai tức là ngộ. Đây lại dựa vào sơ tâm mà không tìm cầu xa xôi, cho đến bậc Diệu giác cũng như thế. Trước chê trách các ngài Di-lặc, Quang Nghiêm đều phá cái báo hẹp trên quả, nên căn cứ Bồ-đề đạo tràng để chê trách tiếp các ngài Trì Thế và Thiện Đức thì đều là phá việc nhầm chấp về nhân. Cho nên căn cứ việc ma đến hội thí để chê trách. Nay Phật sai tiếp ngài Trì Thế là nếu có kể việc chê trách xưa, sẽ khiến các Bồ-tát biết việc ma mà ngộ Phật tri kiến. Đại chúng đồng nghe liền thành năm lợi ích trước. Đáp lời không kham “Trì Thế…”. Văn có bốn: Đáp lời không kham. Nói lý do không kham. Kể việc không kham. Kết thành không kham. Đáp lời không kham: vì lúc xưa không biết ma biến làm Đế Thích, bị ngài Tịnh Danh chê trách, đâu dám truyền chỉ thăm bệnh. Nói lý do không kham: do không biết ma làm Đế Thích hiện đến. Văn có năm: Ở trong tịnh thất. Ma làm Đế Thích mà đến. Ma đến không biết. Ma lại cho ma nữ. Sợ kỳ lạ không nhận. Ở trong tịnh that: ngài Trì Thế đang ở trong tịnh thất tránh ồn ào mà nhập định. Đó là pháp thân Đại só đâu cần sinh thân vào đạo, hiện tích đồng phương tiện làm phép tắc cho mọi người để dẫn dắt mọi người tiến tu, nên ở trong tịnh thất thị hiện tu thiền định, lúc đó ma đến đứng một bên. b. Ma hiện làm Đế Thích đến, sở dó hiện làm Đế Thích đến, vì Đế Thích là đệ tử Phật đã được Thánh đạo, lại là đàn-việt của Phật thường đến gần gũi. Ngài Trì Thế là Bồ-tát xuất gia thấy đàn-việt đến theo lý ắt phải thăm hỏi liền bị quấy loạn. Nay nói theo bốn giáo về biết ma không đồng: Bồ-tát của Tam tạng giáo do chưa lìa phiền não ma và ấm ma, chỉ quán hạnh hiểu biết chiết phục mà thôi. Bèn nhờ đây mà tu đạo. Nếu được thần thông, khi tác ý thì biết Thiên ma, không tác ý thì không biết. Nếu biết rồi dùng thần thông hàng phục, thì chưa thể phá hẳn được. Khi đến cội Bồ-đề trước liền hàng ma, sai khi ma rút lui thì ba mươi bốn tâm đoạn dứt các kiết, bốn ma và nội giới đều hết. Bồ-tát của Thông giáo kiến địa, đoạn từng phần kiến phiền não ma được năm phần pháp thân, từng phần đoạn trừ ấm ma. Đến địa thứ sáu thì không có các chánh sử thấm đẩm nghiệp, trừ hết ấm ma và tử ma giới nôïi. Lại còn thệ nguyên giữ lại tập khí để, thọ sinh vào nội giới có ấm có tử, tuy có ấm tử nhưng không mất đạo. Đến địa thứ bảy thì dù có thần thông nhưng tác ý thì mới biết và phá được Thiên ma, không tác ý thì không biết và không phá được. Khi đến dưới cội Bồ-đề thì mới phá rốt ráo, một niệm tập hết, không phát thệ lưu tập khí thọ sinh, tức là bốn ma đã hết hẳn. Bồ tát Biệt giáo là Thập trụ nhập lý thiên Chân mà phá phiền não ma, ấm ma và tử ma. Bậc Thập hạnh được thần thông cũng phải tác ý mới biết Thiên ma, không tác ý thì không biết và không hàng phục được. Đến bậc Sơ địa thì được một thân và vô lượng thân, làm Phật trăm cõi, các tập ở nội giới đều dứt, các ấm tử thiên ma đều phá hết. Bồ tát Viên giáo thì năm phẩm đều phục trọn cả bốn ma, nếu vào Thập tín thì liền Viên đoạn tất cả, không cần tác ý tự biết ma đến. Đây là tóm tắt phân biệt việc phá các ma ấm… Nếu phá tám ma thường, vô thường… thì Bồ-tát của Tam tạng giáo chỉ chế phục bốn ma, khi đến đạo thọ mới phá hết. Nếu bậc kiến địa của Thông giáo và thập trụ của Biệt giáo thì dẹp trừ Thường, Lạc… bốn thứ. Thập hạnh, Thập hướng đã phục được vô thường… bốn thứ, Đăng Địa thì phần phá được vô thường… bốn thứ. Nhân tuy vô thường nhưng quả là thường, đầy đủ như trong Đại kinh Phật trả lời Phạm chí. Đến Thập địa ở Biệt giáo thì tám ma đều dứt. Bậc Sơ trụ của Viên giáo thì phá trọn cả tám ma, nội giới dứt hẳn. Nếu bốn thứ vô thường… ngoại giới, thì cho đến hậu tâm thì mới rốt ráo phá hết. Hỏi: Ngài Trì Thế vì sao bị ma quấy nhiễu? Đáp: Nếu luận về hiện tích phương tiện ở Bổ xứ thì lẽ nào lại không biết ma, có giáo không người không cần phải sát hạch. Chỉ vì nhờ các phương tiện giáo để làm phép tắc gương mẫu nên thị hiện là Không biết. Giải điều này có ba ý: Một là, Phương tiện Bồ-tát chưa thể thấy ma và Phật nhất như. Phật giới thuộc lý còn ma giới thuộc sự. Các phương tiện giáo tuy đã vào chân lý nhưng không thể vô ngại ở sự lý. Đoạn kiết nhập chân bỏ sự vào lý. Như lúc người sợ thì hàng phi nhân được dịp, không thể thể nhập cùng Phật giới nhất như, do đó mà bị quấy nhiễu. Còn Đại só Tịnh Danh thì hai giới không hai, thấu suốt vô ngại, không có lấy bỏ, nên biết được và hàng phục được. Hai là, Các phương tiện giáo duyên tu chiếu tịch, có nhập và xuất quán, tác ý thì biết ma không tác ý thì không biết. Về Viên giáo chân tu thì không xuất nhập quán, luôn ở trong Tam-muội Tịch mà thường chiếu. Ngài Trì Thế dù ở trong tịnh thất nhưng vẫn chưa nhập quán không tác ý để soi chiếu, thế nên không biết, còn Đại só Tịch Chiếu, nên luôn hay biết. Ví như người tu thiền không biết tà mị, phải nhờ gương sáng, nên dù quỷ mị mê hoặc mắt người, nhưng không thể biến nguyên hình ở gương được, ma Ba-tuần cũng thế. Chỉ có thể lừa dối duyên tu chưa nhập quán, mà không thể lừa dối chân tu tịch chiếu. Ba là, Các người học phương tiện giáo nếu nhập quán thì biết ma, hoặc tạm thời hàng phục nhưng không thể ở cảnh giới mà vô ngại. Như người không thể điều phục được đệ tử hung ác thì bỏ đi không nhận. Cũng có người không bỏ lại dùng phương tiện điều phục cho thuần thục, theo đuổi khiến họ thành kẻ thuận thiện. Bồ-tát điều ma cũng thế. Không phải chỉ điều phục tâm ác khiến thành thiện mà cũng hay khiến họ phát tâm Bồ-đề, chứng Vô tận đăng, rộng hóa độ tất cả. Đối với Phật pháp chưa từng có tổn giảm, mà lại rộng nhiêu ích khắp chúng ma. Quyền giáo Bồ-tát thiếu ba nghóa này nên bị ma nhiễu loạn. Nay ngài Trì Thế đang tịnh, bị ma hiện hình trời muốn quấy nhiễu. Ngài Trì Thế không biết nhân chướng mà nhập định. Còn Phật biết cơ hóa độ người thành đạo, ma biết người được đạo nên cũng đến phá hoại. Ma đến không biết mà nói pháp cho nghe “ngã ý… kiên pháp”. Nói “Thiện lai”, vì không biết là ma, cho đó là Đế Thích đến cầu thiện pháp nên khen là “Thiện lai.” Kiều-thi-ca vốn là họ người, lấy họ làm tên. Tuy phước đáng có, là phước cảm được quả báo vui giàu của Thiên vương nhưng không nên phóng túng không tu. Phải quán năm dục vô thường để cầu gốc thiện. Nếu Tiểu thừa chỉ dùng vô thường làm gốc thiện xuất thế. Đại Luận nói Thiên vương luôn mê đắm năm dục, Phật nói cho nghe vô thường… Mười lăm thứ quán, để phá hết dục, liền khiến chuyển giáo. Ngài Trì Thế cho đó là Thiên vương nên khuyên quán vô thường để lìa dục, đối với thân mạng tài mà tu pháp kiên cốcó pháp. Tam kiên cố có năm thứ: Một là, Ba kiên cố của thế gian: không đánh đập mà ban ân tuệ nên được thân kiên cố ở vị lai; do phóng sinh cấm sát nên được mạng kiên cố ở vị lai, do trực tâm bố thí nên được tài kiên cố ở vị lai. Nên khiến Thiên đế quán vô thường. Quả báo trời không lâu dài, nên phải gieo trồng nghiệp kiên cố ở vị lai. Hai là, Kinh Thanh Văn nói tu ba kiên cố, là nếu quán vô thường thì được năm phần pháp thân, vô lậu tuệ mạng và thất Thánh tài. Không thể bị tổn hại nên gọi là kiên. Bồ-tát vì chúng sinh vì Phật pháp mà hy sinh thân mạng không chút luyến tiếc, thì báo đẹp được ba kiên cố thế gian, sau khi thành Phật mới được ba kiên cố, đại thể đồng với Thanh văn. Ba là, Theo Thông giáo thì quán ba kiên cố không sinh không diệt, phiền não sinh tử Thiên ma ngoại đạo không thể phá hoại. Bốn là, Biệt giáo thì bậc Đăng địa lìa sinh tử nội ngoại giới, pháp thân hiển bày gọi là thân kiên cố; Bát-nhã tuệ mạng trọn không đoạn mất tức là mạng kiên; muôn thiện pháp tài không bị cướp đoạt tức là tiền của kiên cố. Năm là Viên giáo nói bỏ thân mạng tài đều suốt cùng sinh tử kiếp sau, lìa bỏ lão bệnh tử được thường trụ bất hoại. Tất cả pháp đến thân mạng tài cũng là ba đức kiên cố . Ngài Trì Thế lầm vì Thiên vương nói pháp năm thứ ba kiên cố chưa biết nói như thế nào. Nói ma thí ma nữ “tức ngữ… tảo sái”, ma biến hình làm Đế Thích đã bỏ thiền tâm lại hiến dâng ma nữ để lại quấy nhiễu. Trước hiện thân Đế Thích là giặc yếu nhập vào, nay đem ma nữ dâng hiến để trái tình là giặc mạnh lại nhập, hai loại giặc cướp này quấy hại tâm. Trì Thế không biết là đã bị ma nhiễu hại. Nói Trì Thế thấy quái lạ không nhận ““Ta nói”… “trái phép ta”“. Nữ là cảnh phi pháp đâu được cưỡng dâng cho nên nói: Chớ đem vật phi pháp này dâng cho ta. Sa-môn là bậc phạm hạnh thanh khiết, không được nhận vật ô nhiễm phi pháp cúng dường, nên nói không hợp với ta. tám: * Kể việc bị chê trách nên không kham “Sở ngôn…”. Văn có Ngài Tịnh Danh cảnh tỉnh ngài Trì Thế. Tịnh Danh đến ma đòi ma nữ. Ma sợ hãi muốn đi. Tiếng trên không khuyên bỏ. Ma bỏ ma nữ. Đại só nói pháp cho ma nữ. Ma xin lại ma nữ. Đại só trả lại ma nữ. Ngài Tịnh Danh cảnh tỉnh: Vì ngài Trì Thế không thể tự tỉnh giác bởi duyên tu không tới nơi, nên bị ma huyễn hoặc mà không biết. Đại só ngộ Phật tri kiến, tự ngộ ngộ tha, soi chiếu cùng tột, nên có thể phát giác được ma huyễn hoặc, chỉ rõ phải quấy. Trước chỉ rõ ma muốn phá chánh đạo nên nói: “Ma vây chặt quấy nhiễu ông”. Ngài Tịnh Danh đòi ma nữ “tức ngữ… ưng thọ): Như ta đáng thọ nhận. Đây có hai ý: Ta là người thế tục nhận thì không hại gì. Viên hạnh Đại só thấu suốt cội nguồn của sắc, trái hay thuận, mạnh hay yếu đều là Chánh đạo, không hại gì nên nói: “Như ta đáng thọ nhận”. Ma sợ muốn đi “ma tức… đắc khứ”. Vốn khinh ngài Trì Thế việc phá hoại sắp thành bỗng gặp ngài Tịnh Danh phát hiện sự giả trá, lại biết không thể đối địch, đành phải chịu nhục, thế nên kinh sợ. Muốn ẩn hình biến đi nhưng cố hết thần lực cũng không đi được. Vì ma tuy có thần lực nhưng không bằng pháp thân Đại só có năng dụng không cần mưu cầu, nên cố hết sức vẫn không đi được. Tiếng trên không trung khuyên bỏ: “Tức văn… đắc khứ”, tiếng trên không trung. Quan Hà xưa có giải rằng: Bồ-tát hóa độ ma này, nhân căn cơ mà trợ giúp: Trước đây ngươi muốn hiến dâng cho ngài Trì Thế, nay ngài Tịnh Danh xin sao lại không cho. Cho thời không trái với bổn tâm thì mới có thể đi được. Hoặc là ngài Tịnh Danh phát tiếng nói trên không trung để điều phục ma, hoặc là tiếng nói của Pháp thân Tỳ- lô-giá-na Đức Thích-ca, như Phổ Hiền Quán đã nói. Ma vì sợ nên gắng gượng kính cho. Ma đã bỏ ma nữ, nhưng không thể tự ẩn đi. Tiếng trên không lại khuyên ma nên tự niệm nhớ, nếu không dâng nạp các ma nữ e càng bị nhục. Sợ không nhận nên lại xin dâng nạp. Nhận ma nữ và nói pháp để điều phục tâm ma “Bấy giờ trở đi”. Thế nên nhận các ma nữ, để lợi ích cho họ nên cần nói pháp. Văn có hai: Một là Khuyên phát tâm. Hai là Khuyên tu hành. Phát tâm là mắt, tu hành là chân. Mắt chân đầy đủ nên vào được ao Thanh lương. Do đó trước khuyên phát tâm, sau khuyên tu hành. Như ứng hiện nói pháp, là tùy bốn căn duyên khiến đều phát tâm. Từ “các ngươi…) là khuyên tu hành, tuy đã phát tâm cần phải tu hành thay cho nguyện suông, nên khuyên tu hành Bồ-tát pháp lạc. Vì để phá dục lạc, nên nói pháp lạc, khiến ma tu tập. Văn đây lại có ba phần nhỏ: Khuyên tu pháp lạc. Thiên nữ thỉnh hỏi. Tịnh Danh đáp. Khuyên tu, như văn. Thiên nữ liền hỏi: Sao gọi là pháp lạc là Thiên nữ hỏi. Thiên nữ ở cung ma nhận được dục lạc thế tục, không nghe nói pháp lạc thanh tịnh xuất thế. Nay nghe chưa hiểu nên hỏi. Tịnh Danh đáp “đáp rằng…”: Pháp lạc là tất cả ham muốn thiện pháp là gốc của nó, nếu có ham thích thì là vui. Như người yêu kính nghó đến cha mẹ thân thích thì lấy đó làm vui. Nếu là đệ tử Phật thì lấy Phật thay cha, lấy Pháp thay mẹ, lấy Tăng thay cho thân thuộc, lấy hạnh thay cho tài sản, cái vui sâu sắc đó là pháp lạc xuất thế. Văn có năm: Một là, Vui quy y Tam bảo. Hai là, Vui lìa bỏ Tập đế. Ba là, Vui quán Khổ đế. Bốn là, Vui tu Đạo đế. Năm là Kết thành pháp lạc. Nếu hay như thế chẳng những trong nhân liền được pháp lạc mà sau này lại được cứu cánh thường, lạc của Diệt đế Niết-bàn. Vui quy y Tam bảo, Tam bảo của bốn giáo, tùy chỗ tin vui tức là pháp lạc, vui lìa ngũ dục. Vui lìa bỏ Tập đế. Tập cần nên là đoạn, nên nói vui lìa ngũ dục. Kinh Pháp Hoa nói: Các khổ đều do tham dục làm gốc, nên biết ngũ dục tức là tập vậy. Như người bệnh hết liền được an lạc. Nếu lìa ngũ dục tức được pháp lạc. Việc lìa tập tùy cơ của bốn giáo không đồng. Chỉ lúc đầu chê trách Thiên nữ mê đắm năm dục lạc là dùng nhiều về Tam tạng giáo. Ba, Vui quán Khổ đế “Lạc quán… không tụ”, nếu không có lạc quán thì là bị khổ làm khổ, đâu có pháp lạc. Nếu hay quán thì liền được quán trí chân pháp lạc. Quán khổ của bốn giáo tùy căn đem dùng. Khuyên tu Đạo đế: “lạc tùy hộ…”. Văn có ba: Tu hạnh gốc. Chánh hạnh. Biến hạnh. Tu hạnh gốc là vui tùy ý hộ đạo, đây là khuyên tự làm thiện, khéo hộ trì đạo tâm thì đạo tâm không hư hoại. Lấy đạo tự vui tức là pháp lạc. Thích làm lợi ích chúng sinh, tức là khuyên hóa tha. Như cha mẹ thấy con lìa khổ được vui thì cha mẹ cũng vui. Ưa thích kính dưỡng thầy, là bỏ cha theo thầy, thầy giúp thành đức tốt. Kính thầy và đạo pháp thấm vui, với Thần vi tức là pháp lạc. Biết ân kính dưỡng, báo đức thỏa lòng cũng là pháp lạc. Ấy là trong tu tự hành hóa tha, ngoài có Minh sư dắt dẫn, nhân duyên đầy đủ, không hạnh nào không thành, chỗ mong cầu đều xứng ý, tức là pháp lạc. Nói chánh hạnh của Bồ-tát “Lạc quảng… Minh Tuệ”, Lục độ là tông chỉ chung của các hạnh, bốn giáo đều tu để cầu Bồ-đề nhưng giáo môn không đồng, nên có sinh diệt… Tứ đế, như trong Phẩm Phật Quốc khen đức của Bồ-tát và hạnh Tịnh độ đã giải thích đầy đủ. Chỉ ngài Tịnh Danh tùy ứng mà nói, cốt mong các Thiên nữ chỗ ra làm đềøu tùy được vui, đạo vị thấm trí, xứng tâm thỏa ý đều gọi là pháp lạc. Nói về biến hạnh “Lạc quảng chi pháp”. Hạnh có hai thứ là chung và riêng. Chung là sáu pháp Ba-la-mật. Riêng là trải khắp muôn hạnh. Nay khuyên các thiên nữ làm khắp muôn hạnh mà tóm tắt nêu ra vài điều để làm tướng pháp lạc. Lại còn, nếu làm một hạnh thì hạnh nào không thuộc. Vui thích mở rộng tâm Bồ-đề tức là hoằng thệ, ắt khiến biến khắp nên gọi là rộng. Từ lúc đầu phát hoằng thệ cho đến vô tác, tức là nghóa thêm rộng. Đạo cao quý tăng trưởng, pháp vị đổi mới tức là pháp lạc. Vui hàng phục các ma, như tâm bình thắng oán thù thì tất vui sướng. Vui đoạn các phiền não. Bệnh phiền não hành tức là Niết-bàn. Vui cõi Phật thanh tịnh, nghóa cõi Phật thanh tịnh như trước đã nói. Như nhà cửa ở đời cần nên sửa sang cho sạch đẹp, chủ khách nhìn vào tất vui vẻ. Vui thành tựu tướng hảo, nên tu các công đức. Như người tự tại thoải mái tất hình nghi đoan chánh, trong có đức tốt liền vui sướng. Vui nghiêm đạo tràng. Về đạo tràng của bốn giáo đã giải thích rõ trong phần ngài Quang Nghiêm. Đây là trừ ngụy hiển chân, chân hiển thị thì ngụy diệt, tất sẽ vui mừng. Vui nghe pháp sâu không sợ, tuy mỗi thứ đều có pháp sâu nhưng thiên chân của Tạng Thông thì chưa lấy làm sâu. Biệt viên thì viên trực mới là pháp sâu khó đạt đến đáy. Nếu người sợ sệt tâm sẽ kinh nghi, nên khổ mà không vui. Nếu nghe mà không sợ thì ham thích cầu mong được vui chân thường. Nhưng vui ở ba môn giải thoát, không vui phi thời. Về ba giải thoát môn của bốn giáo, hai thứ trước có thời và phi thời. Phi thời tức là Nhị thừa, còn thời là Bồ-tát. Lại còn, hai thứ Bồ-tát trước cũng là phi thời. Biệt và Viên giáo quán Trung đạo, tu ba giải tho- át môn tức là thời. Biệt so với Viên lại là phi thời. Riêng Viên giáo mới chính là chân thời. Vì sao? Vì các giáo hạnh phương tiện không phải chứng thời, nếu muốn lấy chứng thì đều là phi thời. Nếu thời mà cầu thì liền được chân rốt ráo ba giải thoát môn, tức là chân pháp lạc. Vui gần và đẳng, thì bốn giáo mỗi thứ đều có đồng học thân cận, đồng tu hòa đồng được khen thưởng tức là pháp lạc. Nếu ở phàm phu Tiểu thừa thì không phải đồng hành. Nếu tâm có sân khuể chướng ngại thì phá hư chân pháp lạc. Nếu tâm không có sân khuể chướng ngại lại hay tùy hỷ những việc cao hơn thì lại được pháp lạc tùy hỷ. Vui hộ trì ác tri thức, nếu không hộ trì ý người ấy tất họ phá hoại pháp lạc, nếu hay đem điều thiện hộ trì thì ác tâm họ không sinh, không đến nổi phá hư các nội thiện pháp lạc, luôn được an ổn tồn tại. Vui gần Thiện tri thức. Thiện tri thức là người hay chỉ bày giáo pháp tạo niềm vui, tạo nên pháp lạc cho người. Vui tâm hỷ thanh tịnh, Đại tập có nói như biết đúng thật, biết nhiều tâm động hoàn toàn là hỷ. Biết đúng thật, biết nhiều tức là chân pháp lạc. Tâm động hoàn toàn gọi là tịnh pháp lạc. Vui tu vô lượng pháp đạo phẩm. Đạo phẩm của bốn giáo, nếu ở tâm Bồ-tát để hóa độ chúng sinh đều gọi là vô lượng. Sở dó nói đạo phẩm gọi là pháp lạc, là như kinh Pháp Hoa nói: “Có căn, lực, giác, đạo vô lậu liền được vô lượng an ổn vui vẻ”, hàng Nhị thừa còn được thế, huống là Bồ-tát. Nhưng chỉ phân biệt vô lượng đạo phẩm, mở nghóa bốn giáo lấy bỏ khó hiểu. Đó là căn cứ pháp lạc của Bồ-tát. Năm, Kết thành pháp lạc. Nếu Bồ-tát có tâm ham thích tu các pháp này thì đều là pháp lạc. Chỉ lược nêu ra một thứ, các thứ khác đều là pháp lạc. Như người tự hành nghe kinh, học tập thiền tọa… tâm vui liền vui, nếu tâm không vui liền sinh khổ thọ. Ma khuyên Thiên nữ về cung: “Do đó…”. Văn có ba: Một là Ma khuyên Thiên nữ. Hai là, Thiên nữ thích pháp lạc không trở về. Ba là, Ma đến xin Thiên nữ. Đều như văn nói. Ngài Tịnh Danh trả lại Thiên nữ: “Duy-ma-cật…”. Đây có bốn: Một là Tịnh Danh trả các Thiên nữ. Hai là, Các Thiên nữ thỉnh pháp muốn trở về. Ba là, Ngài Tịnh Danh nói Vô tận pháp môn. Bốn là,Các Thiên nữ chí kính ra đi. Ngài Tịnh Danh trả Thiên nữ: Đại só vốn thường tu xả hạnh, chính để điều phục ma, nên nói “như ta đáng nhận lãnh.” Điều phục ma xong thì các Thiên nữ phát tâm nên thả trở về ma cung lại hay rộng giáo hóa nên trả lại cho ma. Khiến tất cả chúng sinh đều được pháp nguyện đầy đủ. Trả về liền mãn nguyện, nhân đó mà lập nguyện khiến cầu pháp, là đều được pháp nguyện đầy đủ. Các Thiên nữ thỉnh pháp muốn trở về “Ư thị… ma cung”. Đệ tử riêng thờ thầy là cần thưa hỏi và xin được dạy bảo những điều cần làm. Nói cho pháp môn Vô tận đăng “Duy-ma… chúng sinh”. Bồ-tát của bốn giáo đều có pháp môn này, chỉ có rốt ráo hay không rốt ráo mà thôi. Về Tạng Thông do hôi đoạn thì quả có dứt hết mà trong nhân được truyền hóa đến quả, tuy đã nhập Niết-bàn, nhưng vẫn lần lượt thọ ký, nên giáo pháp Phật không dứt mất. Đây là làm vô tận Hữu tận đăng. Trong Biệt viên thì thấy biết tất cả pháp như không vô tận, trí cũng vô tận. Tự mình bất khả tận mà hóa tha cũng thế. Ví Như có hai cái đèn, một cái dầu ít ngọn lửa nhỏ, một cái dầu nhiều ngọn lửa to. Dầu nhiều ngọn lửa to vốn là Bất tận đăng, đốt mồi các đèn khác cũng không thể dứt. Ngài Tịnh Danh dùng pháp môn này để chuyển độ người khác. Lại khiến cho cả trăm ngàn người khác đều phát tâm mà không tổn hại chi ngọn đèn gốc, nên lấy đó làm dụ. Ấy thời ngầm biết, là tất cả đều sáng mãi trọn không dứt mất. Khiến các chúng sinh nối giòng Pháp vương, tức là hay báo đền ân pháp làm lợi ích cho tất cả. Bốn, “Nhó thời… bất hiện” Thiên nữ thọ giáo chí kính rồi trở về cung, như văn. Kết thành không kham “Thế Tôn…”. Ngài Tịnh Danh có thần lực này, là tịch chiếu tri kiến đều phục ma tự tại. Trí tuệ biện tài, là nói pháp lạc và Vô Tận Đăng. Ngài Trì Thế tự nghó lúc xưa không bằng ngài, đâu dám lãnh ý đến thăm bệnh. Chánh văn: Phật bảo Trưởng giả tử Thiện đắc. Bốn là sai Thiện đắc. Văn có hai phần: Phật sai thăm bệnh và Từ chối không kham. Sai thăm bệnh, sở dó sai tiếp ngài Thiện đắc, vì ngài là Bồ-tát tại gia, là một trong số năm trăm người, cũng là pháp thân thị hiện ở vị bổ xứ. Sở dó gọi là Thiện đắc, thiện là khéo léo, đắc là được lý, khéo léo được lý nên gọi là Thiện đắc. Nhưng xét theo giáo thì không đồng. Theo Tam tạng giáo thì Nhị thừa tự khéo léo được lý, nhưng không có thể đoạn tập, còn Duyên giác đoạn tập không hết nên không phải nghóa Thiện đắc. Bồ-tát thì không thế. Ý luôn cứu giúp tất cả để đạt quả được lý, các chánh tập đều hết nên gọi Thiện đắc. Theo Thông giáo, thì giáo trước tích không đạt được lý, ba thừa đều không phải Thiện đắc, giáo này thể chân tức là khéo độ, ba thừa thảy đều là lý Thiện đắc Đệ nhất nghóa. Chỉ Nhị thừa không có Bi, liền nhập Niết-bàn nên không gọi là Thiện đắc. Bồ-tát được lý thì rộng lợi ích quần sinh đạt đến tận cùng, đạt đến quả Phật, tập khí đều dứt, nên gọi là Thiện đắc. Theo Biệt giáo, thì Thông giáo thiên chân đâu thể gọi là Thiện đắc. Giáo này được chân, không trụ ở tu hằng hà sa Phật pháp, đoạn hết biệt hoặc, thấy lý Trung đạo, bèn gọi là Thiện đắc. Theo Viên giáo thì Biệt giáo duyên tu đâu thể gọi là Thiện đắc. Một tâm ba quán năm nhãn đầy đủ, viên chiếu pháp giới, viên thành ba đức, rốt ráo Niết-bàn, đó là chân Thiện đắc. Thế thì không đắc mà đắc. Đắc vô sở đắc nên gọi là Thiện đắc là ba quyền một thật. Nay Trưởng giả tử khéo biết không phải quyền không phải thật mà luôn thành tựu được quyền thật Thiện đắc. Do đây mà hóa vật, tự lợi lợi tha, nhập Phật tri kiến, nên gọi là Thiện đắc. Nghóa này đã thế, đâu lại đáp là Không biết hội pháp thí nên bị ngài Tịnh Danh chê trách. Nhưng chỉ là dùng chày cối để thành vật mà hiển bày nhập Phật tri kiến. Vì sao biết được? Nay sai thăm bệnh là lấy bốn nghóa này. Ba nghóa trước là hiển bày ba nghóa khai, thị ngộ ở sơ tâm. Nay sai ngài Thiện đắc là muốn chỉ bày đạo nhập Phật tri kiến. Trước ngài Trì Thế, là chỉ cho biết chính nói ma như không khác Phật như. Nay là hiển bày việc vào hội pháp thí không có trước sau, cùng một lúc bình đẳng thí, tức là Không hai mà hai. Đạo quán song lưu, nên nhận chuỗi anh lạc phân làm hai phần, một phần dâng ngài Nan-thắng, một phần cho người ăn xin, tức là hội bình đẳng pháp thí. Lại căn cứ theo sơ tâm chớ cầu xa xôi. Thuở xưa phá hội tài thí bảy ngày, tức là mượn ý để phá người học Ba giáo chưa vào Trung đạo, bao nhiêu đàn thí không phải là hội pháp thí. Nay sai thăm bệnh, nếu thuật lại việc bị chê trách xưa, thì đại chúng đều được khắp nghe về học phương tiện, và đều hỗ thẹn mà cầu chân pháp thí, tức là thành tựu được năm thứ lợi ích trước. - Từ chối không kham “Thiện đắc…”. Văn có bốn: Từ chối không kham. Kể lý do không kham. Chính kể việc bị chê trách. Kết không kham. Từ chối không kham, vì thuở xưa lập hội thí bảy ngày, nhưng không phải là hội pháp thí không lợi ích vật, đến nỗi bị chê trách, nên không kham truyền chỉ Phật đến thăm bệnh. Nói lý do không kham “Sở dó… bảy ngày”. Do ở tại nhà cha lập hội đại thí cúng dường tất cả, thời hạn bảy ngày, nhưng không biết pháp thí. Nói nhà cha là chỗ ở của tổ phụ. Lập hội đại thí, thì Quan Hà cựu giải nói rằng: Nhà Tổ phụ có tà kiến nhiều đời luôn tu theo cúng tế tà. Tế nhỏ thì dùng dê, tế vừa dùng trâu, tế lớn thì dùng người. Thiện đắc giáo hóa dẹp bỏ được thờ cúng tà này, khuyên tu chánh đạo là chân đàn thí. Nhà ông rất giàu tứ sự đều dư giả, nên lập đại hội thí này, cúng dường cho tất cả hàng xuất gia, tại gia, nội đạo hay ngoại đạo và cho kẻ ăn xin hèn kém nhất, cung cấp đầy đủ không phân biệt các thứ cần dùng suốt cả bảy ngày. Nhưng hội thí là đàn. Xét theo bốn giáo là: Theo Tam tạng giáo là thường bỏ tài vật cho đến thân mạng, mới thành Đàn độ (Bố thí độ). Như vua Thi-tỳ chết thay cho chim câu không hề hối hận. Theo Thông giáo, nếu chỉ buông bỏ tất cả thì chỉ là đàn mà không phải độ. Hiểu rõ ba việc đều không “người thí, của thí, người nhận) có gì thí nấy mới là đàn là độ. Theo Biệt giáo, tuy ba việc đều không, thì vẫn là Đàn mà không phải độ. Hay độ Biệt hoặc, đến được Đại Niết-bàn, luôn phân biệt thí có vô lượng tướng, phó cơ độ vật thì mới là Đàn là độ. Theo Viên giáo, trước tuy đã phá Biệt hoặc, tùy cơ mà thí, nhưng vẫn là Đàn chưa phải độ, vì không phải rốt ráo. Nếu biết tất cả hướng đến, đàn không ngoài thú, mà đàn còn không thể được, sao còn có hướng đến không hướng đến, tức là Đàn độ vậy. Vì sao? Vì là đàn rốt ráo thấu suốt các pháp vậy. Ba quyền một thật, thật là hội pháp thí. Ngài Thiện đắc thị hiện phương tiện làm ba thứ trước, không hiểu đàn độ rốt ráo của Viên giáo là hội pháp thí, cho nên bị chê trách. Nguyên do không kham là do đây. * Kể việc bị chê trách “Thời Duy-ma…”. Văn có sáu: Chánh chê trách. Thiện đắc thưa hỏi. Tịnh Danh lược nói. Thiện đắc lại hỏi. Tịnh Danh lại nói rộng. Thời chúng được lợi ích. Chánh chê trách. Thiện đắc tuy có đại hội tài thí nhưng không biết trong tài có pháp thí, nên không phải pháp thí. Do đó trước chê trách sau khuyên. Trước chê trách là Không thấy trong tài có tất cả Phật pháp, đâu gọi là đại thí. Sau khuyên là khuyên tu đại hội pháp thí. Hỏi: Hội pháp thí là nói pháp làm hội thí hay trong tài có đủ tất cả pháp, vì khi tài thí tức là hội pháp thí? Đáp: Đầy đủ cả hai nghóa. Kinh luận đã nói nhiều, cho tiền của là tài thí, nói pháp là pháp thí, đây là cách chung về hai thí của bốn giáo. Nay đạo Viên thông bất tư nghị không phải chỉ nói pháp mới là pháp thí. Trong tài thí đã đầy đủ tất cả Phật pháp để thí cho chúng sinh. Khi làm tài thí này tức là pháp thí, như ngài Vô Tận Ý cởi chuỗi anh lạc ở cổ để thí cho ngài Quán Thế Âm và bảo rằng: “Nên nhận chuổi ngọc trân bảo pháp thí này.” Chỉ thí chuỗi anh lạc mà nói là pháp thí, tức trong chuỗi anh lạc có đầy đủ Phật pháp, khi thí chuỗi anh lạc tức là pháp thí. Nay ngài Tịnh Danh nói: “Không trước không sau cùng lúc cúng dường tất cả chúng sinh gọi là hội pháp thí.” Đây như trên đã chê trách ngài Ca-diếp: “Dùng một bữa ăn mà bố thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và chúng Thánh hiền.” Nay nhận chuỗi anh lạc phân làm hai phần, một phần dâng lên Đức Như Lai Nan Thắng, một phần thí cho kẻ ăn xin thấp hèn nhất, mà nói rằng nếu thí chủ tâm bình đẳng thí cho một người ăn xin thấp hèn kém nhất cũng xem như tướng phước điền của Như Lai không thể phân biệt, đồng với đại bi không cầu quả báo, ấy là cũng đầy đủ pháp thí. Do đây mà nói đâu cần phải nói pháp. Nay văn chính là ước tài thí có đầy đủ Phật pháp tức là hội pháp thí. Vì sao? Vì tài thí tức là năm trần. Đại Phẩm nói: Tất cả hướng đến sắc cho đến thú phi thú thinh… cũng thế. Nếu hay thấu suốt trong tài thí có pháp thí, thì từ bi thệ nguyện phước trí huân tu, dùng thứ tài thí này tùy như trước mà được. Như bỏ chất độc vào sữa nghe tiếng trống độc gần xa đều chết. Như đây mà thí thì không phải chỉ người thọ nhận trong bảy ngày được lợi, mà tất cả đều có ích. Thiện đắc không hiểu, nên bị chê trách rằng: Đáng làm hội pháp thí sao lại làm hội tài thí. Hỏi: Chỉ có Viên giáo là có pháp thí, ba thứ kia cũng có vậy? Đáp: Đối với Đàn mà ước quán thì cũng có nghóa này, nhưng không phải Viên khắp. Lại phương tiện giáo môn ẩn hiện, chưa ắt là nói nghóa này. Nên ngài Tịnh Danh dùng thí Viên giáo để hiển bày nhập Phật tri kiến, thấu suốt vô ngại mà mượn việc chê trách ngài Thiện đắc, khiến thời chúng vốn theo phương tiện giáo hiểu rõ tài thí này mà thành tựu pháp thí. Thiện đắc xin nói: “ngã ngôn… chi hội”. Sở dó xin nói, Thiện đắc đâu không biết nói pháp mà là pháp thí, chỉ sợ ý ngài Tịnh Danh có gì sâu sắc hơn nên xin nói. Ngài Tịnh Danh lược đáp: “pháp thí… chi hội”. hội pháp thí là Không trước không sau. Đây tức là quán thí sắc… tất cả sắc hướng đến tức là trong sắc có đủ pháp của mười giới gọi là pháp, dùng thứ này mà cúng thí Phật tức là pháp thí. Như châu Như ý đầy đủ tất cả báu. Không phân biệt, là chỉ có người thí bà người nhận là khác. Đây như viên giáo, nếu người thí và người nhận đều biết đủ các báu thì đây như Ba giáo. Nên Đại kinh nói: Có hai loại người được phước lợi lớn: Một là, đúng pháp mà thí, hai là, đúng pháp mà nhận. Đây tức là hội pháp thí. Không trước không sau, là bờ mé trước tức sinh tử, lục đạo chúng sinh. Bờ mé sau tức Niết-bàn, bốn thứ Thánh nhân. Nếu quán ba việc “người thí của thí người nhận) là nhất như không hai đều là Trung đạo, là Không có bờ mé trước sau, cùng lúc cúng dường tất cả chúng sinh, đó gọi là hội pháp thí. Ở giữa không phải hai biên mà hay song chiếu sáu đạo bốn Thánh. Mười thứ này khắp nhiếp tất cả chúng sinh. Bồ-tát nhân thí một sắc thì khiến tất cả chúng sinh đều thấy được Trung đạo. Tức là đại sự nhân duyên vì khiến tất cả chúng sinh khai thị ngộ nhập, nên nói thí tất cả. Lại còn, nếu chúng sinh nào chưa được lợi lớn thì do căn duyên mình đều được pháp lợi, nên gọi là thí tất cả. Ấy là Không phải quyền không phải thật, mà hay quyền hay thật song chiếu cả hai thí, tâm tâm vắng lặng, nhập Phật tri kiến, đó gọi là hội pháp thí. Thiện đắc lại hỏi, sở dó lại hỏi, là ngài Tịnh Danh lược đáp tóm nói nghóa sâu sắc, tuy chỉ bày việc pháp thí ý rất rõ ràng, nhưng vẫn chưa hiểu. Lại hiện tích chưa ngộ để khiến thời chúng khắp nghe mà được hiểu rõ lợi ích của pháp thí. Ngài Tịnh Danh lại đáp “vị dó…”. Nói rộng pháp thí có ba mươi hai việc, không thứ nào không ước trong tài có pháp. Nếu lìa tài thì trong tài không có pháp, gồm nhiếp pháp bất tận. Tất cả hướng đến đàn sao chỉ có ba mươi hai thứ, đây chỉ là lược nói mà thôi. Do đó trong tài có đủ muôn hạnh, đem thứ này mà thí thì người nhận tài liền nhận được tất cả pháp. Năm trần cũng đều thế, như tên độc tẩm thuốc, bất cứ vào đâu, chất thuốc độc sẽ phát tán giết chết người. Quán pháp vào tài, tùy thí cho mọi người, sáu căn nhận thí thì pháp liền vào. Như Đại kinh nói: Cho chất độc vào sữa biến khắp năm vị đều hay giết chết người. Chúng sinh thọ nhận tài, quán pháp thấm đượm, để làm thiện căn. Sau nếu gặp Phật khai phát thiện đời trước, thì liền được ngộ. Như chất độc phát tán giết người. Nếu tài thì không đủ pháp tài cùng thí, thì lợi ích bé nhỏ không nhập đạo duyên. Văn có năm: Căn cứ bốn đẳng. Căn cứ lục độ. Căn cứ ba thoát. Căn cứ các hạnh. Kết thành pháp thí. Căn cứ bốn đẳng, đây là hoài bão lợi vật của Bồ-tát, nghóa là vì Bồ-đề mà khởi từ tâm. Đoạn văn trên có nói: tịch diệt là Bồ-đề. Nếu quán tài hướng đến rốt ráo tịch diệt, tức là chân Bồ-đề mà khởi Vô duyên đại từ như nam châm hút sắt, cho vui Đại Niết-bàn. Vì cứu chúng sinh mà khởi tâm đại bi. Tất cả chúng sinh đều vì hai biên mà chìm đắm trong biển khổ. Nếu quán tài này lìa bỏ hai biên, tức là Vô duyên đại bi cứu khổ hai biên. Vì giữ gìn chánh pháp mà khởi tâm hỷ. Chánh pháp là lý nhất thật, nếu thấy lý này, tức là đầy đủ chánh pháp. Pháp này hay khiến lìa khổ hai biên, được Đại Niết-bàn, thành tựu vô duyên đại hỷ. Vì nhiếp giữ trí tuệ mà khởi tâm xả. Nếu quán ba việc thấy lý ba đế Phật tánh hư không, tức là nhiếp ba trí, không thí không thọ nhận. Biết bốn bất khả thuyết, bình đẳng chân pháp giới Phật không độ chúng sinh, tuy lại cứu khổ ban vui, tâm không phân biệt, không chấp giữ ân nghóa với vật, tức là vô duyên đại xả. Căn cứ lục Độ “dó nhiếp… Ba-la-mật”. Vì nhiếp giữ xan tham mà khởi Đàn Ba-la-mật. Quán ba việc thấy Trung đạo, lìa bỏ hai biên, không xan tham, cũng không bố thí, gọi là chân đàn. Vì nhiếp năm thứ xan tham mà khởi năm thứ đàn. Bốn quyền một thật, nhiếp chúng sinh như phần khen đức của ngài Tịnh Danh trước đã tóm tắt phân biệt. Vì hóa độ việc phạm cấm mà khởi Thi-la. Bồ-tát ra làm thấy Đế Nhất thật liền quên trì phạm, đó là chân Thi-la. Vì hóa độ chúng sinh mà nói về đàn. Vì pháp vô ngã mà khởi Sằng-đề. Quán thí thật đế, tức đối với ngã và vô ngã không hai, ấy là chân vô ngã. Nếu thấy chân vô ngã thì không giận cũng không nhẫn. Đó là chân Sằng-đề, vì hóa độ chúng sinh cũng giống như trước. Vì lìa tướng thân tâm mà khởi Tỳ-lê-gia, là quán ba việc Thí thất đế Nhất thật, tức là Không thấy thân tâm có tướng cũng không tướng, không tinh tấn cũng không giải đãi, là chân Tỳ-lê-gia. Vì hóa sinh cũng giống như thế. Vì Bồ-đề tướng mà thiền định là quán thật đế của thí tức là tịch diệt. Diệt là Bồ-đề không có tướng định và loạn, đó là chân đế của định. Hóa sinh giống như trước. Vì Nhất thiết trí mà khởi Bát-nhã, tức quán thí Trung đạo, không thấy có ngu hay trí, ấy là chân chủng trí, vì hóa sinh cũng giống như trước. Hỏi: Căn cứ bốn đẳng mà giải thích pháp thí, sao chỉ lấy thật, còn giải thích sáu độ để nói pháp thí sao lại song thích? Đáp: Bốn đẳng là căn cứ vào hoài bảo bên trong, ở ngoài không biết được. Còn Lục độ nhiếp vật, mà vật có tình không phải một, nên cần phải song khởi. Vả lại, bốn đẳng thật tức là nhiếp quyền trong nội tâm ẩn kín trọn không thể biết, nên không cần giải thích đầy đủ. Căn cứ ba giải thoát môn “giáo hóa… vô tác”. Vì giáo hóa chúng sinh mà khởi không. Quán thí thật đế tức Chân không Tam-muội. Vì hóa độ chúng sinh mà đoạn dứt các duyên tập nội ngoại, khởi bốn thứ Tam-muội ở bốn giáo, ba quyền một thật. Chẳng bỏ pháp hữu vi mà khởi vô tướng. Quán thí hai biên, tức thấy chánh đạo, là chân Vô tướng Tam-muội, vì hóa độ chúng sinh như ở không môn trước. Thị hiện thọ sinh mà khởi vô tác, hàng Nhị thừa không nghiệp nên không còn thọ sinh, gọi là vô tác giải thoát. Bồ-tát quán thí thấy một đạo thanh tịnh, lìa nghiệp hai biên, tức là chân vô tác Tam-muội. Do căn lực từ thiện vì vật mà thọ sinh, quyền thật như trước nói. Căn cứ các hạnh “Hộ trì… đạo pháp”. Hộ trì chánh pháp mà khởi sức phương tiện. Quán thí chánh đạo tức là bảo thành chánh pháp. Hộ trì chánh pháp này mà khởi ba nghiệp phương tiện, ba luân hóa độ bất tư nghị. Đối bốn bất khả thuyết dùng bốn Tất-đàn khéo nói bốn giáo, tức là khởi sức phương tiện. Vì độ chúng sinh mà khởi bốn nhiếp pháp. Quán thí thấy lý, muốn đem lý này độ thoát chúng sinh. Nhân đàn mà khởi bốn nhiếp quyền thật khá biết. Vì kính thờ tất cả mà khởi pháp trừ kiêu mạn. Quán ở người thọ nhận đều như cúng Phật, khởi tâm yêu kính, không sinh khinh mạn, tức là khởi pháp trừ mạn. Từ đây trở đi các câu đều nói ba quyền một thật. Đối với thân mạng tài mà khởi ba kiên cố. Nếu thấy thí thật đế hay khởi ba kiên cố thì như trước đã nói. Đối với sáu niệm mà khởi pháp tư niệm, biết đàn thật đế tức là niệm Phật. Niệm đàn pháp tánh tức là niệm pháp. Niệm trí cùng đàn hợp nhau, tức là niệm Tăng, niệm đàn mà hay đoạn ác tức là niệm giới. Niệm đàn mà hay buông bỏ tất cả pháp, tức là niệm xả. Niệm nhân đàn mà sinh Tịnh thiên đệ nhất nghóa thiên, tức là niệm Thiên… Nhưng pháp ngữ không thông suốt tràn đầy. Sáu niệm duyên với bốn giáo, phân biệt quyền thật các pháp, tư niệm không quá mức, đó gọi là khởi pháp tư niệm. Đối với sáu pháp hòa kính mà khởi tâm chất trực. Nếu khi bố thí, tức bốn giáo đã nói bốn thứ lục hòa, đó là thân từ, khẩu từ, ý từ, đồng thí, đồng kiến, đồng giới. Đã biết bốn bất khả thuyết thì hay khởi tâm chất trực. Chính khi làm pháp lành mà khởi tịnh mạng hành thí. Trụ vào bốn chánh thiện mà khởi bốn thứ tịnh mạng, đều là vì lợi vật mà không sinh tà mạng. Tâm tịnh hoan hỷ mà khởi gần gũi Hiền Thánh. Thấy thí thật đế, bổn tánh thanh tịnh, được chân pháp hỷ, mà gần gũi các phương tiện nói về Hiền Thánh, đồng với các Hiền Thánh, làm lợi ích cho chúng sinh. Không ghét người ác, mà khởi tâm điều phục. Khi bố thí, người ác đến xin thì không sinh chướng ngại, mà điều phục tâm người ấy, để nhập vào tất cả Bố thí bình đẳng pháp giới. Vì pháp xuất gia mà khởi thâm tâm. Khi bố thí thấy Đế nhất thật, ra khỏi hai biên sinh tử, quán phương tiện giáo, nói pháp xuất gia. Biết rằng tất cả đều quy về nhất Đại thừa mà xuất gia, nên khởi thâm tâm. Vì làm đúng như nói mà khởi đa văn, quán thí thật đế, tức tâm điều khuyến hay làm đúng như lời nói. Khởi đa văn khắp muốn nghe bốn giáo nói về quyền thật. Vì pháp vô tránh mà khởi chỗ trống vắng. Biết bốn bất khả thuyết thì không tranh giành, phương tiện mà khởi các chỗ trống vắng, để nhiếp giữ các chúng sinh ồn ào. Hướng về Phật tuệ mà khởi ngồi yên, thấy Đế nhất thật tức là hướng đến Phật tuệ, mà khởi ngồi yên, là như đã giải thích ở chương ngài Thân Tử. Vì mở trói buộc cho chúng sinh mà khởi địa tu hành. Quán đế nhất thật luôn dùng phương tiện mở các phược nội ngoại giới cho chúng sinh. Ước các giáo môn khởi địa tu hành thì xét các ngôi vị Hiền Thánh đoạn phục không đồng, đã như huyền nghóa phân biệt. Vì đủ tướng hảo và tịnh cõi Phật mà khởi nghiệp phước đức. Khởi nghiệp ba mươi hai tướng như Đại lu- ận đã nói. Nhân thí mà khởi nghiệp Tịnh độ, như đã giải thích ở phẩm Phật Quốc. Biết tất cả chúng sinh bình đẳng là thấy Đế nhất thật, tức là biết tất cả tâm niệm chúng sinh. Hay phó cơ nói pháp mà khởi hai thứ trí nghiệp quyền thật tùy tình. Biết tất cả pháp bình đẳng, là biết tất cả hướng đến đàn, thấy Đế nhất thật, tức là Không lấy bỏ mà nhập vào nhất tướng môn. Nói khởi tuệ nghiệp, tức là quên hai trí quyền thật ở trước. Đoạn tất cả phiền não…, tức là thấy thật đế chân tu, hiển bày thì hay như thế. Nhưng muốn tiến sâu về tự hành hóa tha, thì cần phải khởi duyên tu để giúp đạo pháp. Kết thành hội pháp thí: “Như thị… phước điền”, tức ở trong đàn có đủ tất cả Phật pháp, tùy chỗ tài thí, như tên độc tẩm thuốc. Nếu có người đắm trước xứ ở, diệt các phiền não, thành tựu tất cả thiện căn, đó là hội pháp thí, là đại thí chủ, cũng là phước điền của tất cả chúng sinh. Nếu nội tâm thành tựu tất cả Phật pháp, nếu có bố thí, tất hay nuôi lớn tất cả thiện căn, đó là chân phước điền. Thời chúng được lợi ích: “Thế Tôn…”. Văn có hai: Bà-la-môn phát tâm. Thiện đắc thanh tịnh. Nghe nói Đàn độ có đầy đủ Phật pháp, thành tựu hội pháp thí, thì tâm ý khai mở liền phát tâm vô thượng. Thiện đắc tâm được thanh tịnh “ngã thời…”. Văn có bốn: Thiện đắc tâm được thanh tịnh chí kính cúng dường. Tịnh Danh khiêm nhường không nhận. Thiện đắc lại xin nhận cho. Tịnh Danh nhận rồi thí lại. Thiện đắc tâm thanh tịnh: Thiện đắc nghe nói pháp thí liền thấy trong thí có tất cả Phật pháp, suốt chiếu không nhiễm tức là tâm được thanh tịnh. Xưa học phương tiện chưa từng nghe được điều này, nên khen ngợi chưa từng có. Vì việc lớn lợi ích chúng sinh, nên cảm Đức chí kính, liền cởi chuỗi anh lạc cúng dường đền ân. Tịnh Danh khiêm nhường: “không chịu nhận”, vốn vì pháp làm lợi ích không có ý tài vật, bỗng nhận lấy tất gây chê bai cũng là biểu thị rằng Bồ-tát bên trong không nhận tất cả pháp. Thiện đắc lại xin nhận lấy: “ngã ngôn… sở dữ”. Kính trọng báo ân rất muốn cúng dường, nhưng không có dịp bày tỏ, nên lại xin nhận lấy. Nếu không cần dùng thì nhận rồi cho lại, cũng nói lên lòng chân thành thân thiết, nên lại xin nhận lấy. Tịnh Danh nhận rồi cho lại: “Duy-ma-cật…”. Thiện đắc quyết lòng khó thể làm ngược lại. Cũng biểu thị cho Bồ-tát vì hóa độ chúng sinh, dùng không thọ nhận mà thọ nhận các thọ. Nhận rồi thí lại là đủ cả Bi và kính điền. Văn có bốn: Thí lại bi kính hai điền. Chúng thấy chuỗi anh lạc bên Phật Nan Thắng. Tịnh Danh lược nói hội pháp thí. Trong thành người ăn xin phát tâm Bồ-đề. Biểu thị phước điền không hai tức là hội pháp thí. “Tất cả… chướng tệ”, chúng thấy Đức Như Lai Nan Thắng nhận. Ngài Tịnh Danh hiến cúng biến thành đài báu, tức biểu thị ngài Tịnh Danh, nhân bố thí mà ở vị lai sẽ được thượng quả, bốn đức không chướng ngại Đại Niết-bàn. “Thời Duy-ma… pháp thí”, ngài Tịnh Danh nhân thí chuỗi anh lạc nói hội pháp thí, nếu thí cho người ăn xin cũng xem như tướng phước điền của Như Lai, không có phân biệt. Đây tức là quán điền thí nhập vào bình đẳng pháp giới, không có hai tướng, mà thành tựu Vô duyên đại từ, đầy đủ tất cả Phật pháp, không mong cầu báo duyên tu, tức là đầy đủ hội pháp thí, văn nói như thế. Các sư sao được chỉ ước vào nói pháp để nói pháp thí. “Thành trung… Bồ-đề”. Trong thành người ăn xin phát tâm Bồ- đề. Người ăn xin nhân nhìn thấy thần lực, lại nghe nói hội pháp thí, tâm ý khai mở liền phát đạo tâm vô thượng. * Kết thành không kham “cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ta”. Thiện đắc tự nghó thuở xưa ở nhà cha đã lập hội pháp thí bất nhàn, liền bị chê trách, tâm liền thanh tịnh, đâu lại dám lãnh ý chỉ Phật đến thăm bệnh. Từ “như thị… vấn tật” là phần lớn kế tiếp. Người dịch kinh còn lược bỏ hoặc kinh chưa nói hết. Các Bồ-tát được sai thăm bệnh đều từ chối không lãnh việc. Nếu dựa vào khen đức thì có ba vạn hai ngàn người. Nếu dựa theo văn nói số người vào thất thì chỉ có tám ngàn chưa thể phán định. Chỉ có bốn Bồ-tát kể lại việc bị chê trách mà văn đã mấy tờ. Nếu kinh thuật đủ các Bồ-tát đều trình bày cả, thì văn sẽ đến mấy ngàn tờ. Như thế đại chúng đồng nghe Như Lai ấn định, đều thành nghóa năm thứ lợi ích, đâu thể chỉ riêng phần tựa. ---------------------------------- <詞>PHẨM: THĂM BỆNH (Phần 1) Phẩm này đến tiếp sau phẩm Bồ-tát. Trước Phật đã sai các đệ tử Bồ-tát ai nấy đều từ chối không kham. Nay tiếp sai ngài Văn-thù. Ngài Văn-thù tuân lời nên gọi là phẩm Văn-thù-sư-lợi thăm bệnh. Trước nói ngài Tịnh Danh giả bệnh để hưng giáo. Đại lược có hai phần: hai phẩm rưỡi trước là nói pháp ở ngoài thất, còn sáu phẩm này là nói pháp ở trong thất. Ở ngoài thất chê trách chiết phục phần nhiều dùng để đối trị. Còn trong thất tiếp dẫn nhiếp thọ phần nhiều dùng vì người, đều khiến cho vào Đệ nhất nghóa. Nên kinh Thắng-man nói: Chỗ chiết phục nhiếp thọ là khiến chánh pháp được lâu bền. Được lâu bền tức là nhập vào Đệ nhất nghóa vô lậu chân pháp dứt hẳn lui sụt. Đã chiết phục xong liền nói nhiếp thọ, nên tiếp có phẩm này. Nay lược dùng năm nghóa để giải thích phẩm này và năm phẩm tiếp sau: Lý do có phẩm này. Văn-thù kham thăm bệnh. Giải thích hai bệnh quyền thật. Nhân bệnh mà nói sáu phẩm. Giải thích văn kinh. Lý do có tiếp phẩm này: Ngài Tịnh Danh trụ ở quyền mưu Bất tư nghị, giúp Phật hiển bày chân tánh giải thoát bất tư nghị, giúp thành tựu giáo nhân quả Phật quốc. Trước đã dùng bốn giáo để chiết phục phàm phu Nhị thừa và các Bồ-tát thiên lệch, nay khen quả ba giải thoát của Viên giáo, để tiếp dẫn nhiếp thọ, khiến họ tu nhân ba quán, nhập vào Giải thoát bất tư nghị, được thấy cõi nước thanh tịnh, tùy nghiệp vãng sinh, thành tựu hạnh Tịnh độ, cho nên có phẩm này và năm phẩm sau. Đây lại có năm: Khởi tâm khát ngưỡng cho thời chúng. Làm ba quán nhiếp thọ dẫn nhập. Giúp thành giáo Tịnh độ. Vì vào dòng Đại phẩm Pháp Hoa. Lại về chỗ Phật kết định. Khởi tâm khát ngưỡng, tuy các vua quan só thứ đệ tử Bồ-tát khen kể lại thắng trí thắng đức của Đại só, nhưng đại chúng chỉ luống khát ngưỡng mà thôi, vì chưa được thấy nghe, nếu được người thăm bệnh tùy việc khơi mở thì liền được thấy nghe thần trí của Đại só giả bệnh hưng giáo để lợi ích chúng sinh, nên vâng lệnh ứng hợp tâm của thời chúng khiến họ thấy được sự biểu thị về giả bệnh, nhà trống nghe nói hai bệnh quyền thật bất tư nghị. Làm ba quán để nhiếp thọ dẫn nhập, ở ngoài thất chê trách các người học giáo thiên lệch, chưa nhập chánh vị và các phàm phu, tuy đã tâm phục ngưỡng mộ chánh đạo, nhưng chưa biết cách thức tu nhập. Nếu ngài Văn-thù vào thất hỏi Bồ-tát có bệnh làm sao điều phục tâm mình, thì ngài Tịnh Danh sẽ rộng hẹp trình bày ba quán điều phục, tức là nghóa nhiếp thọ dẫn nhập vậy. Giúp thành giáo tịnh độ, nếu nhân ngài Văn-thù thăm bệnh mà hay tu ba quán, tùy các chứng dứt được nhiều ít mà mỗi người được sinh Tịnh độ, có bao nhiêu nguyện hạnh đều thành tựu hạnh Tịnh độ. Vào dòng Đại phẩm Pháp Hoa, nếu người đã vào chánh vị, trước tuy có nghe Đại thừa, nhưng chưa chuyển thành lạc, thì nay nhân ngài Văn-thù vào thất, lại được nghe nói thêm sáu phẩm, liền chuyển thành sinh tô. Nên ngài Ca-diếp có nói: Nay các Thanh văn đều gào khóc là việc này vậy. Nếu đến Đại phẩm mà được thục tô thì đến thời Pháp Hoa Niết-bàn liền thành đề hồ. Các Bồ-tát độn căn của Tam tạng giáo thứ lớp hưởng qua các mùi vị, phần lớn đồng với hàng Nhị thừa, còn các vị lợi căn thì bất định, như đã giải thích ở phẩm Bồ-tát. Lại về chỗ Phật kết định, nếu không nhân ngài Văn-thù thăm bệnh vào thất biện luận qua lại suốt sáu phẩm, thì đâu được tay nâng đại chúng đem về Am-la viên, được Phật ấn định các điều nói trước sau để khởi phát việc A-nan được Phật nói rộng Tịnh độ, tiếp dẫn người cõi Diệu hỷ vào cõi nước này, khiến đại chúng đều được thấy nghe mà phát nguyện vãng sinh tu hành bất động. Ấy là tóm tắt những điều diễn bày của ngài Tịnh Danh ở ngoài thất và trong thất, đều nhằm giúp Phật thành tựu giáo nhân quả cõi Phật thanh tịnh và pháp thân giải thoát bất tư nghị. Nói ngài Văn-thù có thể làm người thăm bệnh. Trên sai năm trăm vị và các Bồ-tát, ai nấy đều kể việc bị chê trách mà từ chối không kham. Nay ngài Văn-thù riêng kham lãnh ý chỉ Phật, tóm tắt có năm ý: Vị cao. Thùy tích. Hiển bày viên. Thỏa tình chúng. Tùy căn cơ người. Vị cao: Ngài Văn-thù cùng các Bồ-tát tuy cùng ở vị Đẳng giác, nhưng đều có cao thấp. Nên kinh Anh Lạc có nói: Trụ ở vị Đẳng giác vào trùng huyền môn, trải vô lượng kiếp, sửa tu việc phàm.” Ngài Văn- thù tu hành đã lâu, trí đức cao tột, có ngôi vị ngang hàng với ngài Tịnh Danh, nên kham làm người thăm bệnh. Đây cùng là một loại. Thùy tích: các Bồ-tát phần nhiều là thật vị bổ xứ, nhưng ngài Văn-thù bổn địa là long chủng Như Lai, nay hiện tích là bổ xứ, cùng với ngài Tịnh Danh có nghóa bổn tích ngang nhau nên kham làm người thăm bệnh, cũng một loại mà nói. Hiển bày Bồ-tát: Viên giáo với bổn tích đâu thể lượng định, chỉ vì các Bồ-tát hiện bày nhiều phương tiện, nên đều bị chê trách. Ngài Văn-thù hiện hoằng truyền Viên giáo cùng ngài Tịnh Danh đồng việc, nên kham làm người thăm bệnh. Hỏi: Nếu thế sao bị Ương-quật chiết phục? Đáp: Văn-thù đồng việc từ nhiều, còn Ương-quật từ ít, và Văn-thù chưa bị ngài Tịnh Danh chê trách nay lãnh chỉ Phật thì không hại gì? Thỏa vật tình. Hỏi: Các Bồ-tát đồng giúp Phật sao được có và không thỏa mãn tình người? Đáp: Ngài Di-lặc tuy là bổ xứ, nhưng hầu Phật bên hữu, là các Bồ-tát làm việc ngoại đạo. Còn ngài Văn-thù tuy đồng vị bổ xứ, nhưng đứng hầu bên tả, cũng như các đại thần bên tả thì tự do quyết đoán, nên thỏa mãn vật tình. Tùy cơ mọi người. Các Bồ-tát cùng ngài Tịnh Danh, như chày cối thành vật. Nay ngài Văn-thù cùng ngài Tịnh Danh như hai chày mà thành vật, cho nên vào thất đối đáp qua lại mà không trệ ngại, vui lòng mọi người, được ngài Tịnh Danh khen ngợi, đâu giống như các Bồ-tát khác nói ra thì bị chê trách. Do các nghóa đó mà kham làm người thăm bệnh. Giải thích về bệnh quyền thật. Nghóa bệnh do nhiều nguyên do nhưng ý chánh không ngoài quyền thật. Quyền là chư Phật pháp thân Bồ-tát không bệnh mà thị hiện có bệnh. Thật là chín đạo chúng sinh thật có nhân quả bệnh hoạn. Nếu từ năng hóa mà ứng hiện trước quyền sau thật, thì kinh văn nói “ là bệnh có thể chịu được chăng?”Lại nói: Bồ-tát có bệnh, làm sao điều phục tâm ấy. Nếu từ sở hóa thì trước thật sau quyền, nên ngài Tịnh Danh nói: “Vì chúng sinh bệnh nên tôi có bệnh.” Nay dựa theo sở hóa làm thứ lớp, nên trước nói bệnh thật. Tóm dùng bốn nghóa để phân biệt: Luận về tướng nhân quả của bệnh. Giải thích. Chung riêng. Xét theo độ có nặng nhẹ. Về tướng bệnh. Bệnh về chướng ngại sắc tâm nên gọi là tật, cũng gọi là bệnh, cũng gọi là hoạn. Nói về nhân bệnh, tức là trong nhân có bốn phần chướng ngại về tâm thần gây ra các não loạn, tức là tâm bệnh. Phiền não làm nhân nên nói là nhân. Về quả bệnh, là cảm thân bốn đại, đồng một hộp mà tánh khác, cùng khởi lên thêm bớt trở ngại sắc thân, tức là thân bệnh, đáp lại nhân phiền não nên nói là quả bệnh. Giải thích bốn phần trong nhân hoàn toàn phân biệt ba độc đối với ba bệnh lớn, ba chỗ cùng khởi nên gọi là đẳng phần. Thân là bệnh địa đại đối tham dục như nước. Kinh nói sông ái nổi trôi dìm chết chúng sinh, bị vô minh làm mê mờ không thoát ra được. Ái thấm đẩm nghiệp như nước thấm đẩm thân sân khuể là lửa, tâm sân một khi khởi lên thiêu đốt tất cả thiện căn. Ngu si là gió, vì ngu si có bốn điên đảo. Cho nên kinh nói: Gió dữ điên đảo đè bẹp núi gò đất đủ ba phần, như nước lửa gió đều tụ tập ở một thân, nên do cớ đối trên mà dùng bốn phần làm bốn nhân bệnh. Kẻ phàm phu ngu hèn có bốn phần này ắt có tám vạn bốn ngàn thứ, tùy duyên phát động não hại tâm thần, nên nói là nhân bệnh. Về quả bệnh tức là bốn phần cảm thân bốn đại, một đại không điều hòa thì một trăm lẻ một bệnh khởi động, bốn đại không điều hòa thì có bốn trăm lẻ bốn bệnh. Bệnh quấy não không phải một. Lại nữa do bốn phần này cảm thành Báo thân, tức có sinh, lão, bệnh, tử. Đây cũng là bệnh lớn của chúng sinh. Ở đoạn văn sau có nói: Có sinh tử tức có bệnh. Bệnh này cũng nhân ở bốn phần sinh ra. Như kinh Thụy Ứng có nói: Tham dục gây già, sân giận gây bệnh, ngu si gây chết. Suy nghóa ra có thể nói là đẳng phần gây sinh. Có bốn đại thì có khổ bốn bệnh, tức là quả bệnh vậy. Nhưng kinh luận tùy duyên, có lúc lửa ví cho tham dục, nước ví cho sân giận, gió cũng không nhất định. Nay chỉ căn cứ theo phần đông đối ví như trước. Nếu thông suốt đâu cần phải ví dụ. Nói về chung riêng, nhân quả hai bệnh đều có chung riêng. Về nhân bệnh, bốn phần là chung cả mười ác, còn bốn trọng tội là riêng. Về quả bệnh, thì bốn đại bốn khổ là chung. Còn bốn đại tăng giảm hoặc sinh lão… bốn khổ thêm nhiều, cho đến tam đồ khổ nặng, đều là quả tột của bệnh riêng. Do nhân chung riêng nên quả cũng có chung riêng. Như ở nhân chỉ chung thì quả lúc đó cũng chung, nếu chung mạnh riêng yếu hay chung yếu riêng mạnh thì quả lúc đó cũng thế. Nhân quả giúp thành cho nhau nghiệm ra không sai. Xét về cõi nặng nhẹ, tức bốn cõi không đồng. Xét về cõi đồng cư, thì bốn phần là nhân bệnh, phần đoạn là quả bệnh. Đây có hai thứ là uế và tịnh, uế thì nặng, tịnh thì nhẹ. Vì sao? Vì Đồng cư cõi uế thì có đủ năm đạo. Quả bệnh Thiên đạo chỉ có chung mà không riêng, vì nhân bệnh bất định. Như người, súc và quỷ thì nhân quả chung riêng nhiều ít tùy nghóa. Quả bệnh địa ngục thì chỉ riêng mà không chung, vì nhân cũng bất định. Như Đồng cư tịnh, thì chỉ chung mà không riêng. Vì sao? Vì tuy có bốn phần mà không có thập ác… bốn thú và bốn khổ nặng, nên bệnh nhân quả chỉ có chung và nhẹ. Nói về cõi Hữu dư, tức là bệnh của ngoại giới, là ba thừa Thánh nhân mê đế nhất thật, đắm trước vào lý thiên không, khởi bốn phần vô vi mà cảm quả biến dịch, cũng gọi là phương tiện sinh tử. Còn Biệt, Viên đoạn hết hoặc nội giới nhưng chưa thấy Trung và chưa đoạn hết vô minh, thì đều sinh vào cõi này, bệnh hoạn nhân quả đồng với hàng Nhị thừa. Bệnh hoạn này tức là bệnh nhân quả. Chỉ có chung riêng của Biệt giáo, không có chung riêng của Thông giáo. Hỏi: Cõi Hữu dư sao được còn bệnh nhân bốn phần? Đáp: Phần vô vi duyên tập là bốn phần vậy. Vì sao? Vì chấp thiên chân là tham, bỏ tục hữu là sân, mê nhất thật là si, ba phần đầu chấp lấy tức là đẳng phần. Đây tức là nhân bệnh của kiến tư biệt hoặc. Hỏi: Cõi Hữu dư đã có bệnh nhân bốn phần, cũng được có quả bệnh của bốn đại bốn khổ nữa chăng? Đáp: Cũng có tướng chung bốn khổ của bốn đại biến dịch. Hỏi: Chư Thiên ở cõi trên còn không có già bệnh thì tịnh độ này sao lại có? Đáp: Không riêng mà chỉ có chung. Văn trên có nói: Cũng sinh cũng già biến dịch, nếu bốn đại không có tướng trái nhau thì không có biến dịch. Tuy có bệnh chung bốn phần biến dịch ngoại giới nhưng đều nhẹ, đâu thể giống phần nặng của phần đoạn. - Xét theo cõi quả báo, bậc Sơ địa và sơ trụ của Biệt, Viên thấy Đế nhất thật đồng đoạn hết vô vi nhưng tự thể chưa hết, nên dựa vào vô minh mà được có bốn phần, tức là nhân bệnh. Cảm quả biến dịch tức là quả bệnh, cũng gọi là nhân duyên sinh tử. Vì bệnh hoạn nhẹ nên với tự thể không thành bệnh thật, chỉ là tên chung biến dịch. Nếu trước phương tiện biến dịch có tướng thô thì bệnh hoạn cũng thô. Nếu luận bệnh hoạn của tự thể là nhẹ nhỏ thì cõi Hữu dư là nặng cõi quả báo là nhẹ, cho đến không có sau mới chuyển dần thành nhẹ nhỏ, tuy là nhẹ nhỏ nhưng đồng là bệnh thật, nên mới từ nhân Xiển-đề mà có quả địa ngục A-tỳ. Cho đến Kim cang Đẳng giác nguyên phẩm vô minh, tuy nặng nhẹ có khác nhưng đềøu là bệnh thật. Hỏi: Thật báo sao còn được có bệnh nhân bốn phần? Đáp: Mở duyên tập tự thể coi là bốn phần. Vì sao? Vì lấy nhất thật là tham, bỏ hai biên là sân, các vô minh khác là si, ba phần đều lấy, tức là đẳng phần. Đó là ba độc căn bản. Nên thỉnh Quan Âm có nói: “Tịnh được gốc ba độc, thành Phật đạo không nghi”. Hỏi: Thật báo nếu có nhân bệnh bốn phần thì cũng có quả bệnh bốn đại bốn khổ chăng? Đáp: Đã có tự thể sinh tử đâu không có tự thể bốn đại. Nên Đại phẩm có nói: Tất cả địa hướng đến cho đến thú, không hướng đến ba Đại cũng như thế. Nếu tự thể bốn đại bốn khổ đã hết thì tức là thường an trú trong diệu sắc rỗng sáng như Đại kinh nói, không bị sinh tử biến đổi. Nếu các sư cho rằng vị Pháp vân Đẳng giác không còn sinh tử, thì giáo ấy như thế nào? Lại văn nói: “Từ si mà có ái thì bệnh ta sinh.” Nếu Kim cang Đẳng giác mà vô minh chưa hết thì bệnh vi tế nhân quả sinh ra. - Xét theo cõi Tịch quang, giải thích có hai cách: Nếu cõi Tịch quang chỉ có bậc Diệu giác ở thì bệnh hoạn nhân quả tự thể đều dứt hẳn không có bệnh nào để luận. Nếu chung cho hạ địa Bồ-tát ở thì ắt phải có bệnh nhân quả vi tế. Đây là chấp hay không có sinh tử sau đó. Nếu y vào pháp vân ba đời của kinh Nhân Vương thì không có hữu hậu chung sinh và hữu hậu trụ sinh. Pháp vân mới sinh cho đến Hoan hỷ đều thuộc nhân duyên sinh tử. Đây là cách của Biệt giáo. Còn nếu dựa theo nghóa Viên giáo mà suy, thì không có hữu hậu tức là Đẳng giác, nếu có hữu hậu hoặc từ vị Pháp vân đến ba mươi tâm thì đều là nhân duyên nặng nhẹ xoay vần. Tuy giải thích như thế nhưng chưa nhất định. Chỉ dựa vào Giải thích trước. Cõi Tịch quang là rốt ráo thanh tịnh há lại có tướng bệnh nhân quả vi tế, đối đãi nhau mà phán quyết là nặng hay nhẹ ư? Hỏi: Học theo ngài Long Thọ sao lại dùng nghóa của ngài Thiên Thân? Đáp: Đây là hai Đại só đâu không cùng dùng pháp môn Bất nhị. Nay là giáo chung của Phật pháp tùy chỗ liên quan mà sử dụng, sao cần phải chấp chặt. Nếu muốn phân biệt danh nghóa các kết hoặc sinh tử nội giới và các hành thì nên xét kỷ theo ngài Thiên Thân, còn nếu quán môn để thanh đãng an tâm nhập đạo thì không ai qua ngài Long Thọ. Chỉ kinh này nói rõ về nghóa bệnh mà chưa thấy các kinh khác nói. Nếu không chấp địa nhiếp tướng để đối nhau thì người khác sẽ cho là phi nghóa lý, rồi theo nhiều thuyết mà cưỡng nói. Tiếp nói về bệnh quyền , Bồ-tát trụ vào Đại Niết-bàn có năm hạnh. Cho rằng nếu được Tam đế Tam-muội thì có đủ hai mươi lăm Tam-muội, tức thành Thánh hạnh. Từ Thánh hạnh mà sinh Thiên hạnh và Phạm hạnh. Từ Phạm hạnh mà khởi Anh nhi bệnh hạnh. Anh nhi hạnh khởi từ đại Từ thiện căn, Bệnh Hạnh khởi từ đại bi thiện căn. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ-tát thanh tịnh pháp thân, các ác đoạn dứt, các thiện khắp hội, đâu còn phương tiện thiện căn nhỏ nào để làm, đâu còn bệnh nhân quả nội ngoại giới nào để trị. Chỉ vì đại bi thiện căn mà muốn cứu dứt các bệnh hoạn nhân quả nội ngoại giới. Cho nên hiện thân khắp các pháp giới, không bệnh thị hiện có bệnh, tức là bệnh hạnh. Lại thị hiện phương tiện thiện căn ít để trừ dẹp chúng sinh duyên tập nội ngoại giới, tức là Anh nhi hạnh. Nếu bệnh nhân quả này lành thì chư Phật, Bồ-tát bỏ ứng mà về chân. Chỉ vì chúng sinh bệnh, nên có việc hưng phế nặng nhẹ, Bồ-tát lại đồng với hưng phế nặng nhẹ, nên văn nói Bồ-tát bệnh là từ đại bi mà khởi, vì chúng sinh bệnh nên Bồ-tát cũng bệnh. Nếu chúng sinh không bệnh thì Bồ-tát cũng không còn bệnh. Nay ngài Tịnh Danh mượn phương trượng trống này trong thất chỉ đặt một cái giường vì bệnh mà nằm, đó là Không bệnh mà hiện bệnh, xa là biểu hiện ở các cõi cũng có bệnh quyền vậy. Nhưng về bệnh thật nặng nhẹ thì như trên đã phân biệt. Nay nói về bệnh quyền cũng xét theo bốn cõi: Ở Đồng cư uế tịnh mà hiện bệnh quyền, uế tịnh đã có bệnh thật nhân quả ở mười giới, vì có bệnh đó, nên có bệnh quyền nhân quả ở mười giới, nếu bệnh nội giới lành thì ngài Tịnh Danh cũng lành. Hỏi: Sáu đạo nhân quả có bệnh, có thể biết được, còn bốn thứ hành nhân thì nội giới nhân quả tướng nó như thế nào? Đáp: Đây là ước bệnh hoạn nội giới nhân quả chưa hết. Nếu ở Tịnh độ đồng cư thì chỉ có bốn thứ hành nhân ở trời, người và sáu thứ bệnh thật nhân quả pháp giới, vì có bệnh ấy nên ngài Tịnh Danh cũng có sáu thứ bệnh quyền nhân quả. Nếu các bệnh này lành, thì ngài Tịnh Danh cũng lành. Ở cõi Hữu dư, thì Nhị thừa và ba thứ Bồ-tát đều có bệnh thật nhân quả biến dịch vô vi. Vì có bệnh này, nên ngài Tịnh Danh cũng có, nếu bệnh này lành thì ngài Tịnh Danh cũng lành. Nói về cõi quả báo hiện bệnh quyền. Chỉ có bốn mươi tâm của Viên giáo và Đẳng giác địa thọ thân pháp tánh mỗi người đều có bệnh thật nhân tự thể và bệnh thật quả về nhân duyên sinh tử hữu hậu và không hữu hậu. Vì có bệnh này nên ngài Tịnh Danh cũng có. Nếu những bệnh thật này lành thì ngài Tịnh Danh cũng lành. Cõi Tịch quang thì có bệnh và không bệnh trước đã phân biệt, ngài Tịnh Danh cũng khởi đại bi tật hạnh, quyền đồng với bốn cõi, không bệnh hiện bệnh để đảm trách mười giới nên gọi là bệnh quyền. Hỏi: Ngài Tịnh Danh đã là bậc Đẳng giác, nguyên phẩm vô minh không có hữu hậu sinh tử, thì quả bệnh thật nhân hay còn, đâu được ước với cõi thật báo mà nói là bệnh quyền? Đáp: Bổn tích cao thấp nghóa khó lường, đã ở Huyền Văn sao lại đem hỏi. Nhưng nghóa bệnh quyền đem ước ngôi vị, thì nghóa không đồng. Nếu bậc Diệu giác tột cao thì không có bệnh pháp giới mà hiện có bệnh pháp giới thì như ngài Tịnh Danh có bệnh quyền. Bậc Đẳng giác còn có nguyên phẩm vô minh thì không có quả bệnh thật nhân của hữu hậu sinh tử. Từ hiện có bệnh nhân quả hữu hậu cho đến phần đoạn thì đều là quyền cả. Như đây mà suy nếu ngang vị là bệnh thật, đồng với vị sau là bệnh quyền. Cho đến ở cõi Hữu dư, Đồng cư mà hiện có bệnh nhân quả, thì đều là quyền cả. Nếu ở cõi Hữu dư, hàng Nhị thừa và ba thứ Bồ-tát đồng ngôi vị mà có bệnh thật nhân vô vi và bệnh thật quả phương tiện. Dùng thần thông thệ nguyện vào cõi Đồng cư tịnh, đồng có sáu bệnh nhân quả vào cõi Đồng cư uế, đồng có bệnh nhân quả mười giới thì đều là bệnh quyền. Nếu ở cõi Đồng cư, bốn thứ hành nhân đoạn hoặc nội giới chưa hết, hoặc đã đoạn hết mà thân ở cõi Đồng cư là Không bệnh hiện có bệnh, để lợi ích chúng sinh thì đều là bệnh quyền. Cho đến tiên nhân có năm thông và các Thiên báo được thần thông, thì tùy chung việc ra làm Không bệnh hiện có bệnh, thì cũng là bệnh quyền. Nếu ước quán tâm, người khéo tu quán, hoặc tự hành hoặc hóa tha, không có bệnh nhân quả mà hiện có bệnh nhân quả, còn gọi là bệnh quyền, cho đến tất cả chúng sinh đều có nghóa này. Như thế thì tất cả bệnh hướng đến cho đến thú hay không hướng đến, như đây mà nói bệnh, thì dọc là tận cùng nguồn cội thật tế, ngang là rộng khắp hư không pháp giới, nghóa lý sâu kín. Nếu không phải bậc Diệu giác chủng trí Viên minh thì còn ai có thể thấu suốt vô ngại. Ngay ngài Tịnh Danh hiện có bệnh là biểu thị ý này, cho nên hàng Thanh văn Bồ-tát đều không kham không dám truyền ý Phật. Chỉ có ngài Văn-thù hiểu rõ nghóa bệnh nên tuân lời Phật mà hỏi đáp qua lại về quyền thật không trệ ngại. Nói về nhân bệnh nêu ra sáu phẩm. Ngài Tịnh Danh giả bệnh cốt ý hưng giáo. Nhân Văn-thù hỏi bệnh quyền thật mà ngài đáp về bệnh quyền ở nữa đầu phẩm này và đáp về bệnh thật ở nữa sau phẩm này. Lại nhân bệnh quyền mà nói phẩm Bất Tư nghị, nhân bệnh thật mà nói phẩm Quán Chúng Sinh, phẩm Phật Đạo, phẩm nhật Bất Nhị Pháp Môn và phẩm Hương Tích. Thế nên sáu phẩm ở trong thất đều từ một chữ bệnh quyền thật mà có. Khi giải thích văn nên phù hợp như thế. Hỏi: Có sư nói phẩm này là năm nguồn tám cội, đây là sao? Đáp: Có giống như thế nhưng đậm nhạt không có chủ đối. Vì sao? Vì ngài Tịnh Danh vốn giả bệnh để hưng giáo, chỉ dựa vào một chữ bệnh mà nói sáu phẩm ở trong thất, đâu phải đợi nhà trống làm năm nguồn cội. Nay nói một bộ kinh gồm mười bốn phẩm, chỉ có phẩm Phật Quốc đầu chính là Đại Thánh pháp vương tự nói, còn mười ba phẩm kia đều nhân ngài Tịnh Danh giả bệnh mà hưng truyền. Xét kỹ một chữ bệnh mà là ba nguyên do, sáu nguồn cội, hai đầu mối, hai nguyên nhân. Ba nguyên do là do ngài Tịnh Danh giả bệnh nên có các vua quan thứ dân đến tham vấn, Phật sai đệ tử Bồ-tát đến thăm bệnh, tức do bệnh mà có ba phẩm ở ngoài thất. Sáu nguồn cội là vì hiện có bệnh nên ngài Văn-thù vâng lệnh Phật vào thất hỏi về hai bệnh quyền thật và ngài Tịnh Danh đã rộng hẹp giải đáp, ấy là sáu phẩm trong thất từ bệnh mà có. Bệnh tức là nguồn gốc có sáu phẩm. Hai đầu mối: Tức là hai phẩm Bồ-tát Hạnh và Kiến A-bệ Phật cũng nhân ngài Tịnh Danh giả bệnh mà có. Vì sao? Nghe nói sáu phẩm có duyên lành bệnh thì ngài Tịnh Danh cũng không còn bệnh, nên bàn tay nâng đại chúng đưa về Am-la viên, mở đầu cho việc trở về điểm chính của Như Lai để nói về nhân quả Phật quốc, hai phẩm từ bệnh lành mà có nên nói là hai đầu mối. Hai nguyên nhân, là hai phẩm Cúng Dường và Chúc Lụy cũng nhân giả bệnh mà có. Vì sao? Vì hai phẩm này là phần Lưu thông cũng nhân ngài Tịnh Danh giả bệnh mà có chánh thuyết. Lưu thông tức là lưu thông phần chánh thuyết, ấy là nhân bệnh mà có hai phẩm lưu thông nên nói là hai nguyên nhân. Nay nói sáu phẩm trong thất có ba phần lớn. Một phẩm này tức lược nói hai bệnh quyền thật, kế nói phẩm Bất Tư nghị là rộng giải thích về bệnh quyền, bốn phẩm sau là nói rộng về bệnh thật. Chánh giải thích văn: “lúc bấy giờ Phật…”. Có hai phần: Phật sai ngài Văn-thù. Ngài Văn-thù vâng lời. Phật sai Văn-thù. Ở trên, các người được Phật sai đi đều kể việc bị chê trách mà từ chối không kham, nhưng việc vào thất thăm bệnh có lợi ích rất quan trọng, nếu không phải ngài Văn-thù có đủ năm nghóa trước, thì không ai kham được nên sai ngài đi. Văn-thù vâng lời “Văn-thù…”. Ngài Văn-thù không có lỗi bị chê trách nên không thể từ chối. Lại năm lợi ích là việc hệ trọng, đâu thể trái lệnh Phật mà bỏ lợi lớn, thế nên vâng lời. Văn có năm: 1/ Vâng lời đi thăm bệnh. 2/ Đại chúng cùng đến. 3/ Chủ khách hỏi đáp qua lại. 4/ Chánh nói ý chỉ. 5/ Thời chúng được lợi ích. - Phần một có hai: Trước tự khiêm nhường. Chánh vâng lời. Phần (a) lại có hai: Một là Tự khiêm. Hai là, Nói việc khiêm nhường khó vấn nạn. Tự khiêm là lẽ thường của người tu mà nói vấn nạn là để đối đáp, vì bậc Thượng nhân trí sâu đức trọng đối đáp không phải dễ. Từ “thâm đạt trở xuống là nói vấn nạn khó. Văn có bốn: Một là, Trí sâu rộng. Hai, Nhân quả đức đầy. Ba, Hóa tha công lớn. Bốn, Kết hai trí rốt ráo. Vì đủ bốn thứ này nên có thể khiêm nhường vấn nạn. Nói hai trí sâu rộng: Nói thấu suốt thật tướng, tức là thật trí sâu rộng. Nếu Bồ-tát của Tam tạng giáo vốn không nhập thật thì đâu thể xét cạn sâu. Bồ-tát của Thông giáo có thật tướng Thiên chân thì chưa đủ sức để vấn nạn thật trí của Đại só. Còn bậc Đăng địa của Biệt giáo cho đến Đẳng giác, chỉ phá mười một phẩm vô minh, chưa thành thấu suốt, huống chi bậc có giáo không người đâu đủ sức vấn nạn. Nay bậc Sơ trụ của Viên giáo cho đến Đẳng giác, chỉ phá bốn mươi mốt phẩm vô minh, sắp cùng tận nguồn cội, trí gần bậc Diệu giác, nên nói là thấu suốt. Khéo nói pháp yếu, tức là biết không sinh. Không sinh thì bất khả thuyết, dùng bốn Tất-đàn mà phó cơ nói pháp thật tướng. Nếu dùng quyền trí mà nói dù nhiều nhưng lợi ích không bao nhiêu, nên không phải là thiết yếu. Nay dùng thật trí nói tướng nhất thật thì lợi ích rất sâu rộng, nên nói là pháp yếu. Như kinh Pháp Hoa nói dù thí nhiều vàng bạc châu báu, nhưng không bằng mở búi tóc. Đây có bốn trường hợp: Nói ít gồm ít. Nói nhiều gồm ít. Đây không phải là pháp yếu. Nói ít gồm nhiều. Nói nhiều gồm nhiều. Đây là pháp yếu. Biện tài không trệ ngại, là nói về quyền trí không trệ ngại, nên có thể kính hỏi. Đây là sinh sinh, chẳng sinh sinh, sinh chẳng sinh bất khả thuyết là luận việc phó duyên ba thứ không trệ ngại. Trí tuệ vô ngại, tức là lý ba giáo sở thuyên. Biết bệnh biết thuốc tùy bệnh cho thuốc, phương tiện tri kiến Ba-la-mật đều đầy đủ, nên nói là trí tuệ vô ngại. Nói về đức nhân quả đầy đủ “tất cả… được nhập”, nên có thể kính hỏi. Tất cả pháp thức của Bồ-tát, tức là pháp thức quyền thật tự hành giáo tha không phải chỉ đều biết mà cũng hay thành tựu. Nhân đức này đầy đủ nên có thể kính hỏi. Bí tạng của chư Phật đều được nhập vào, là hai quyền một thật đều có đương giáo nói về bí tạng. Đem Thật so với quyền. Quyền là tùy người khác, không phải là chân bí tạng. Còn thật là tùy ở mình, thầm nhận yếu này không cần nói nhiều đó là chân bí tạng. Tất cả pháp môn mỗi mỗi đều là kho báu đó là nghóa của tạng. Nên kinh Pháp Hoa nói: Tất cả các kho báu đều được tràn đầy. Đức quả sắp trọn nên nói là đều được nhập vào tức là quả thành đức sâu, nên có thể kính hỏi. “Du hí thần thông…”. nói công đức hóa tha đã thành cho nên kính hỏi. Hàng phục các ma, tức hàng phục ma như trước đã giải thích. Nhưng ma là chúa của chúng sinh được giáo hóa, nếu chúa mà không có dân khách khâm phục, đâu thể quy tâm. Nay Đại só đã hay hàng phục các ma ở mười phương cõi Phật, thì tất cả chúng sinh đều quy tín. Du hí thần thông, chúa dân đã phục do đó thần thông biến hiện thành tựu chúng sinh, cõi Phật thanh tịnh công đức ấy rất rộng lớn. Tất cả hạ địa đều không thể sánh được nên có thể kính hỏi. “Tuệ phương tiện ấy đều đã được độ) là kết hai trí rốt ráo nên có thể kính hỏi. Tuệ là kết thật, phương tiện là kết quyền, hai trí dắt dẫn các hạnh ra làm, đều rốt ráo nên nói là đã được độ. Phần (b) Chánh vâng lời thăm bệnh “tuy nhiên… hỏi bệnh”. Ngài Văn-thù đầy đủ sự khiêm nhường. Tuy trí đức của ngài gần giống dáng vẻ của các đệ tử Phật, nhưng chỗ ra làm đều nương sức Phật. Dầu do Phật sai lại mong nhờ sức Phật gia hộ, để tránh được các lỗi lầm trệ ngại, nên nói tuân Thánh chỉ của Phật đến thăm bệnh. Hỏi: Nếu nương nhờ sức Phật gia hộ thì các Bồ-tát trên cũng đều đến được. Đáp: Gia hộ những ai có thể gia hộ. Ngài Văn-thù đã đủ năm ng- hóa nên có thể gia hộ. Lại kinh Pháp Hoa có nói: Di-lặc và bốn chúng có điều nghi, chỉ nhờ ngài Văn-thù giải quyết, há các Bồ-tát sánh được. Phần hai, Đại chúng cùng đến “do đó” trở xuống. Văn có hai: Chúng muốn theo đến. Văn-thù và chúng cùng đến. Chúng muốn theo đến: Sở dó cùng nghó muốn đến, vì ngài Tịnh Danh thần trí rất khó đối đáp nên hàng Thanh văn, Bồ-tát lúc xưa không dám đương đầu. Nay ngài Văn-thù trí đức cao xa, vâng Thánh chỉ Phật tất biện luận đại pháp rất sâu kín, nên đều muốn theo đến. Cùng đại chúng đến “Do đó… đại thành”. Vì người có cơ duyên vào thất nghe pháp tất được lợi ích, nên đều cùng vào thành. Phần ba, Chủ khách đối đáp “bấy giờ…”. Văn lại có bốn: a/ Ngài Tịnh Danh hiện tướng thất trống. b/ Văn-thù thấy tướng biết có biểu thị. c/ Ngài Tịnh Danh khen ngài Văn-thù. d/ Văn-thù đáp lời. Phần (a) lại có hai: Một là, Thần lực hiện thất trống. Hai là, Vì bệnh mà nằm. - Thất trống là biểu thị muốn giúp thành giáo Phật quốc. Hiện có bệnh là muốn hiển bày ba giải thoát. Liền dùng thần lực… thần lực là biểu thị dùng trí tuệ. Thất trống là biểu thị Phật quốc đều không, hiển bày cõi Chân tịch quang. Dẹp bỏ các thứ là biểu thị dẹp bỏ y báo. Và các thị giả là biểu thị dẹp ngoại ma, đầy đủ như ngài Tịnh Danh đáp ngài Văn-thù. Thất trống là biểu thị cho Phật quốc, có hai ý: Thành việc trước. Sinh cái sau. Thành cái trước: Ở trên Phật nói Tịnh độ vì chúng sinh tội nên không thấy cõi Phật thanh tịnh, không sinh được cõi Phật, không thể thành hạnh Tịnh độ, nên nói rộng phẩm Phật Quốc để phá cho chúng sinh các tội cấu trói buộc các nghiệp bất tịnh, khiến họ thành tựu nhân Tịnh độ. Ngài Tịnh Danh vì giúp thành giáo Phật, nên làm phương tiện trái ngược, là chê trách chiết phục. Lại nhân giả bệnh vì phàm phu nói pháp. Lại muốn nhắc lại việc chê trách xưa đều vì muốn giúp thành thuyết Tịnh độ. Nay ngài Văn-thù đã đến do đó hiện ra thất trống để biểu thị cõi Phật đều không, muốn cùng ngài Văn-thù rộng luận về Phật quốc, tức là thành cái trước. Sinh cái sau, nếu hiện thất trống là biểu thị Phật quốc đều không, ngài Văn-thù biết việc biểu thị đó bèn đến đối đáp luận nghóa Phật quốc. Nên phẩm này được nói là Phật quốc. Lại nhân thất trống, ngài Thân Tử vì chúng cần giường ngồi, nghó đến giờ ăn, chúng sẽ được thấy cõi Phật Đăng Vương, tịnh sát Hương Tích. Trong lúc đối đáp biện luận, các phẩm đều nói về nhân quả Phật quốc. Nghóa này đã xong dùng bàn tay đưa đại chúng đến chỗ Như Lai là phát khởi việc trở về điểm chính của Như Lai mà nói rộng phẩm Bồ-tát Hạnh nói nhân quả Phật quốc và phẩm Kiến A-súc Phật, vô lượng đại chúng thấy cõi Phật ấy, nhân đây mà phát tâm tu hạnh Tịnh độ A-súc Phật, sinh vào cõi ấy đều do hiện tướng thất trống mà lập, tức là sinh cái sau. Nay dựa theo bốn cõi mà giải thích sự biểu thị này: Ở cõi Đồng cư uế tịnh. Nếu biểu thị cho cõi uế, thì có tạp uế y báo và ngoại ma chánh báo. Ngài Tịnh Danh hiện uế liền biết uế tức không, muốn dùng sức trí phá trừ uế nghiệp. Nếu uế chẳng không, thì không thể phá hoại. Vì uế nghiệp là Không, nên y báo có thể dẹp bỏ, tức là dẹp trừ các thứ, phá các ngoại ma ái kiến chánh báo, tức là và các thị giả. Kế là biểu thị cho Đồng cư tịnh độ. Tuy không có tạp uế y báo và ngoại ma chánh báo, nhưng lại có phần đoạn thanh tịnh y báo và phần đoạn ái kiến chánh báo. Ngài Tịnh Danh hiện đời biết tịnh tức không, dùng sức trí tuệ đoạn trừ nghiệp phần đoạn Y chánh báo, nên nói là dẹp hết các thứ và các thị giả. Sau là biểu thị cõi Hữu dư, tuy không có phần đoạn uế tịnh y Chánh, nhưng có biến dịch y báo và vô vi Chánh báo, tức là ái kiến ngoại ma kia. Nên ngài Tịnh Danh chê trách ngài Tu-bồ-đề rằng: “Đồng ở phiền não nhập vào các tà kiến.” Ngài Tịnh Danh hiện đời biết nước ấy là Không, liền dùng trí lực mà dẹp bỏ y Chánh báo, tức là dẹp bỏ các thứ và các thị giả. Kế là căn cứ cõi Thật báo, cõi nước này tuy không có phương tiện y Chánh, nhưng lại có tự thể tinh diệu y báo và tự thể ái kiến chánh báo. Ngài Tịnh Danh ứng hiện, biết cõi nước tức không, dùng sức trí tuệ dẹp bỏ y chánh ấy, nên nói là dẹp bỏ các thứ và các thị giả. Sau nữa là cõi Thường tịch quang rốt ráo thanh tịnh. Không cả các thứ, tức là ở chỗ cao tột nhất, không còn gì để dẹp bỏ. Nên trong Đại kinh nói: Không còn chỗ đoạn trừ, gọi là Vô thượng só. Nay ngài Tịnh Danh dùng thần lực làm trong thất trống không, dẹp bỏ các thứ và các thị giả, là biểu thị quả báo rốt ráo sau, sắp vào Tịch quang. Nên kinh Trì Địa có nói: “Khi đoạn hai chướng, lìa tất cả các kiến, được thanh tịnh tịnh thiền”, đây là nghóa ấy. Nếu biểu thị cho quyền ở ba thứ trước để phương tiện lợi vật, thì đủ như trước đã giải thích. Lại nữa, có nước có người có thị giả thì là phương tiện, nay tất cả đều dẹp bỏ, là hiển bày cái thật. Hiện tướng thất trống lược giải thích như thế. Chỉ đặt một cái giường để người bệnh nằm là hai, nói muốn hiển bày ba đức giải thoát. Giường là biểu thị cho chân tánh, bệnh là biểu thị cho phương tiện, nằm là biểu thị thật tuệ. Đây cũng có hai: Thành cái trước và sinh cái sau. Một là thành cái trước là giúp thành việc Phật nói pháp thân ba giải thoát. Vì sao? Vì ngài Tịnh Danh giúp thành Như Lai nói giải thoát bất tư nghị. Cho nên trước chê trách các đệ tử Bồ-tát, sau giả bệnh vì các phàm phu, muốn nhắc lại cái chê trách xưa để thành tựu giáo giải thoát bất tư nghị, nên không bệnh hiện có bệnh. Nay ngài Văn-thù nhận lệnh Phật vào thất thăm bệnh, việc cần phải hiện bệnh biểu tướng, để mở đầu cho việc đối đáp qua lại, nhân đây mà luận hai bệnh quyền thật của Như Lai đã nói và ngài Tịnh Danh chê trách, để giúp các điều nói trên được sáng tỏ. Hai, sinh cái sau tức là sinh sáu phẩm trong thất và hai phẩm ngoài thất. Vì sao? Vì hiện bệnh có biểu thị, khiến ngài Văn-thù hỏi bệnh quyền thật mà có phẩm này. Ngài Tịnh Danh nói rộng nên có năm phẩm sau, trở về rừng Am-la để thành giáo giải thoát bất tư nghị, tức có thêm hai phẩm Bồ-tát Hạnh và Kiến A-súc Phật, nên nói là sinh cái sau. Đến các văn sau thì nghóa này tự sáng tỏ. Sở dó chỉ đặt một cái giường để biểu thị chân tánh, kinh Pháp Hoa nói: Các pháp Không là tòa ngồi, không tức là chân tánh giải thoát. Bệnh biểu thị cho đại bi phương tiện. Đồng bệnh tức là phương tiện giải thoát. Nằm biểu thị cho thật tuệ, tức là bệnh chân báo. Nằm là tướng thân yên dừng nghỉ. Nếu thật tuệ cùng tương ưng với chân tánh, thì các hạnh lặng dừng, tâm an không động. Trí đoạn đã viên mãn, tức là thật tuệ giải thoát. Nên Đại kinh nói: Ai được ngủ an ổn đó gọi là từ bi, thường tu không phóng dật, xem chúng sinh như con một, dùng Vô duyên từ bi của chư Phật mà cứu tất cả khổ. Không làm hạnh phóng dật nói là được giấc ngủ an ổn. Như nam châm hút sắt, không duyên không niệm, tức là giấc ngủ an ổn. Như giấc ngủ của người không bệnh có bệnh. Thật tuệ cũng thế. Nếu chúng sinh không bệnh tức là pháp thân Phật tuệ không có bệnh nhân duyên, nếu chúng sinh có duyên có bệnh tức thật tuệ pháp thân đại bi ứng hiện. Như ngài Tịnh Danh ở Đồng cư cõi uế hiện có bệnh này. Tịnh độ cũng thế, cho đến cõi Hữu dư và quả báo cũng thế. Hỏi: Bệnh là pháp duyên tập chướng ngại, sao được biểu thị cho đức giải thoát? Đáp: Đây khác với Tạng Thông, họ cho không có phiền não sinh tử là giải thoát. Nay bất tư nghị phương tiện giải thoát chấp nhận phiền não sinh tử, mà tự không trói buộc lại giải thoát các trói buộc. Nên Đại kinh có nói: Chư Phật, Bồ-tát tùy chỗ chúng sinh được điều phục gọi là giải thoát. Hỏi: Kinh này nói tứ thiền làm giường tòa, sao được đem giường biểu thị cho chân tánh? Đáp: Kinh giáo tùy duyên dùng thí dụ không nhất định, đâu nên chấp chặt. Nay giải thích biểu thị của ngài Tịnh Danh là từ không mà được châu giải luận nghiên cứu cùng tột không mất báu vật. Cũng như ở văn sau nói nhà cửa trống vắng rốt ráo. Nay thấy thất trống tức là biểu thị cho các Phật quốc độ đều không. Phần (b) “Văn-thù… một giường”, nói Văn-thù vào thất thấy tướng biết ý biểu thị. Thấy thất trống không có các thứ vật khác, tức biết biểu thị cho các cõi Phật là Không, tất muốn khai mở giúp thành giáo Phật quốc. Thấy ngài bệnh riêng nằm trên một giường liền biết biểu thị cho ba đức giải thoát, muốn hiển bày giúp thành việc Phật nói giáo giải thoát bất tư nghị. Nên Đại luận có nói: Người trí hay biết trí như rắn biết chân rắn. Hỏi: Vì sao biết được Văn-thù thấy tướng liền biết ý biểu thị? Đáp: Ngài Tịnh Danh khen: “Ngài mới đến; không thấy tướng mà thấy….” không thấy tướng tức là bốn bất khả thuyết. Không thấy tướng Y Chánh mà thấy là hiện tướng biểu thị cho thân, biểu thị cho cõi nước. Nếu không như thế, thì Văn-thù là bậc dưới sao được thăm bệnh liền hỏi thất trống, nhân đó mà đối đáp qua lại. Lại, ngài Văn-thù còn biết Như Lai sắp nói kinh Pháp Hoa đã hiện tướng báo hiệu, đâu thể không biết việc hiện tướng biểu thị của ngài Tịnh Danh. Nếu không biết, thì đâu được lãnh chỉ đến thăm bệnh. Phần (c) Ngài Tịnh Danh khen ngợi “lúc đó ngài Duy-ma-cật…”. Sở dó khen ngợi vì ngài Tịnh Danh biết ngài Văn-thù đã đủ năm nghóa, nay đến thăm bệnh tất hay hiển bày giáo giải thoát bất tư nghị của nhân quả Phật quốc để giúp thành việc Pháp vương nói rộng lợi ích cho những kẻ có duyên, nên khen ngợi là khéo đến. Văn có hai: Chánh khen và Giải thích khen. Chánh khen, đối việc không phải khéo đến mà khen là khéo đến. Nếu các phàm phu đệ tử Bồ-tát không đủ năm nghóa thì không thể hiển bày giải thoát bất tư nghị của Tịnh độ nhân quả, rộng lợi ích quần sinh, nên không phải là khéo đến. Nay ngược lại ngài Văn-thù hay giúp thành Đại giáo cho Pháp vương, tạo nhiều lợi ích, nên gọi là khéo đến. Còn các người khác không phải khéo đến lược có bảy thứ: Các vua dân đều có duyên phược, tuy nhờ nói pháp mà trừ bỏ các kiết hoặc, nhưng chưa thật làm hưng thịnh đại pháp. Các đệ tử Thiên chân đoạn kiết, không có tâm đại bi, không cầu quả Diệu giác, không hay dẫn dắt mọi người ra khỏi nhà lửa. Tuy từ nhân đến Hữu dư Niết-bàn, nhưng lại nhập vào hôi đoạn, không phải là chân Niết-bàn, đâu thể gọi là khéo đến. Các Bồ-tát của Tam tạng giáo tuy cầu Phật quả nhưng các phục kiết chưa đoạn, tâm không thanh tịnh, lại chỉ cầu Phật quả ở đạo thọ rồi nhập Niết-bàn. Chỗ cầu không phải cần thật quán chuyển tâm, đâu gọi là khéo đến. Bồ-tát của Thông giáo thiên chân đoạn kiết, tuy có từ bi, nhưng trọn cầu vô dư vô thường Phật quả, cần chuyển tâm quán, đâu gọi là khéo đến. Bồ-tát của Biệt giáo, tuy cầu thường quả, nhưng không thể viên quán pháp giới, thứ lớp mà đoạn các hoặc nội ngoại giới, rồi vào Thập địa, cũng cần chuyển tâm quán, đâu gọi là khéo đến. Hàng sơ tâm và trung tâm của viên giáo, tuy thấy trung Vô duyên đại từ khắp che tất cả, không trụ vào các Địa, nhưng trí đức còn cạn, không sức ngang bằng, đâu gọi là khéo đến. Hàng hậu tâm Viên giáo, bổn tích tuy ngang hàng, nhưng không cùng người có duyên thăm bệnh, nên không thể cùng hiển bày, đâu gọi là khéo đến. Sở dó Thanh văn, Bồ-tát đâu không kham lãnh lệnh là do có những “Không khéo đến”như thế. Nay Văn-thù là Đạo só Viên giáo, Bổn tích ngang bằng biết cùng thời chúng có duyên gõ đập, nên dắt đại chúng như voi chúa kéo bầy cùng vào thất, tuyên chỉ thăm bệnh, ắt vì thời chúng khiến nhập vào bất tư nghị thấy Tịnh độ, sinh Tịnh sát, thành tịnh hạnh mà làm duyên lành, nên đến thăm bệnh là thật khéo đến. Ngài Tịnh Danh nêu gương có ích, nên khen ngợi là khéo đến. Giải thích khen: “tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy”. Có thầy nói tướng không đến là chân đế, có đến là Tục đế, nên nói Tướng không đến mà đến. Nếu thế phải khen Nhị thừa. Lại có thầy nói pháp thân không tướng đến, Ứng thân có đến, nên nói tướng không đến mà đến. Nếu thế, ngài Tịnh Danh cần khen các Bồ-tát. Lại có thầy nói: Nếu đến là đến mà đến, tức là tự tánh đến. Nếu đến là Không đến mà đến, tức là giả đến. Giả đến thì không phải đến, tức là tướng không đến mà đến. Nay nói là đến, mà đến là tự tánh, thì đến là Không đến mà đến, tức tha tánh đến, đâu thể được khen. Nay nói nếu do tướng đến mà đến, thì không phải là khéo đến. Nay Văn-thù do tướng không đến mà đến, nên khen là khéo đến. Vì sao? nếu các phàm phu đều có ái kiến, nay chấp tướng này mà đến. Nếu các Thánh nghe nói phá Giả vào chân mà đến, thì đây là con đường quanh co chấp tướng thiên chân mà đến. Bồ-tát của Tam tạng giáo phục kết mà đến, chưa đoạn chấp tướng. Bồ-tát của Thông giáo từ thể giả thấy chân vào kiến đạo cho đến nhập vào vị Bồ-tát mà đến. Đây là chấp tướng hai đế mà đến. Đây là nương vào tướng ba đế mà đến. Đây đều là Không phải tướng không đến mà đến. Nếu người Viên giáo biết bốn bất khả thuyết, tức không thấy tất cả tướng mà hay quán Trung đạo, Vô duyên đại từ hóa độ pháp giới chúng sinh đồng đến cõi Tịch quang, ấy là Tướng không đến mà đến. Đây là hợp với chương Như Lai sai nói nghóa Tịnh độ, cũng khen là đúng hoài bảo của ngài Tịnh Danh. Nhưng các bậc Sơ trung hậu tâm Viên giáo, cùng với thời chúng này không có duyên về thăm bệnh, đâu dám tuân lệnh Phật đến thăm bệnh. Vì thiếu nghóa này, nên ngài Tịnh Danh không khen. Nay ngài Văn-thù từ Sơ phát tâm biết bốn bất khả thuyết, không có tướng tự hành hóa tha quyền thật mà đến, nên nói tướng không đến, song hay đạo quán song lưu mà quyền mà thật tự hành hóa tha mà đến, ngang bằng đức bổn tích của ngài Tịnh Danh, nên nói mà đến. Lại biết thời chúng là bốn bất khả thuyết, nay có nhân duyên nên thấy cơ duyên có thể nói mà đến, nên sắp lành bệnh mà vào, để nghe nói về cõi Phật thanh tịnh giải thoát bất tư nghị đều được lợi ích lớn, nên giải thích nói tướng không đến mà đến. Về tướng không thấy mà thấy, cũng là giải thích khen khéo đến. Vì ngài Văn-thù với tướng không đến mà đến vào thất, vì tướng không thấy mà thấy thất trống và do bệnh mà nằm đều biết là có ý biểu thị thì theo tướng xứng hợp do đó mà khen. Nói tướng không thấy mà thấy, vì đối với tướng thấy mà thấy, thì không phải là khéo đến. Vì sao? Vì nếu các phàm phu dùng nhục nhãn, Thiên nhãn để thấy các tướng thô tế, hàng Thanh văn chỉ có ba thứ nhãn, nhục nhãn, Thiên nhãn việc thấy giống như trước, còn tuệ nhãn là thấy chân, tức là thấy tướng hai đế. Bồ-tát của Tam tạng giáo vì chưa đoạn kiết nên không thấy chân đế, chỉ có nhục nhãn và Thiên nhãn dùng để thấy tướng thô tế của Thế đế. Bồ- tát của Thông giáo cũng chỉ có ba loại nhãn chỉ thấy tướng huyễn hóa của hai đế. Bồ-tát của Biệt giáo có bốn loại nhãn, ba thứ nhãn trước, riêng pháp nhãn thì thấy lý hằng sa Phật pháp vô lượng Tứ đế của nội ngoại giới thì đều là tướng thấy mà thấy. Nếu Bồ-tát ở Viên giáo, trụ ở vị thập tín, tuy có nhục nhãn gọi là Phật nhãn, tương tợ viên thấy pháp giới, tướng hoặc pháp giới chưa trừ hết, còn gọi là kiến. Nếu nhập vào sơ phát tâm trụ mà phát chân vô lậu, tức là năm nhãn đều mở cả. Tuy được năm nhãn biết bốn bất khả thuyết, không thấy có ba nhóm chúng sinh, tức là tướng không thấy mà thấy cả pháp giới, đây là tướng không thấy mà thấy. Cho đến diệu giác cũng như thế. Nay ngài Văn-thù có bổn tích năm nhãn ngang hàng ngài Tịnh Danh. Ngài Tịnh Danh không phải tướng mà hiện tướng để biểu thị, ngài Văn-thù do tướng không thấy mà thấy chỗ biểu thị. Ý này cùng với ngài Tịnh Danh ngầm hợp nên khen ngợi. Hỏi: Đến và thấy có gì khác? Đáp: Đến là ba trí, thấy là năm nhãn. Pháp Hoa nói: Vì khiến chúng sinh khai Phật tri kiến. Lại nói: tri kiến của Như Lai rộng lớn vô lượng, tức là nghóa này. Lại nữa, Bồ-tát của Viên giáo từ Phát tâm trụ biết bốn bất khả thuyết, được một tâm ba quán, ba trí năm nhãn, từ quả nhìn nhân, tâm luôn vắng lặng tự nhiên lưu nhập vào biển lớn diệu giác. Nên nói tướng không đến mà đến. Năm nhãn chuyển sáng, khi đến quả vị thì thấy cả pháp giới, nên nói tướng không thấy mà thấy. Phần (d) Ngài Văn-thù ấn khả kể thành “Văn-thù…” . Như thế Cư só, trước Cư só đã khen là khéo đến, nay Văn-thù cũng ấn khả như thế. Đây có hai: Văn-thù hiểu ý đáp đúng. Giải thích kể thành. Văn-thù nói nhưng thế cư só, đây là chánh ấn khả. Nếu đến rồi lại không đến tức là nói thành. Câu đầu, đây là nói thành việc khéo đến đối với không phải khéo đến. Vì sao? Vì năm người trước do tướng mà đến, cho nên đến rồi có thể lại đến. Như phàm phu ngoại đạo tu thiền đến Phi tưởng rồi trở lại đọa vào tam đồ luân hồi lên xuống. Như Nhị thừa ra khỏi ba cõi hơn ba trăm do-tuần, tức ở tại hóa thành, nếu dẹp mất hóa thành lại về bảo sở. Bồ-tát của Tam tạng giáo, muốn cầu Phật quả hành lục độ mà đến không tới quả diệu giác, nếu nghe quán của Thông giáo, từ quán vô sinh mà đến. Bồ-tát Thông giáo đến cầu Phật địa, nếu nghe quán cải tâm của Biệt giáo, từ biệt quán mà đến. Nếu Bồ-tát Biệt giáo tu ba quán Biệt Tướng đến cầu quả Diệu giác, thì cũng còn là đường quanh co. Nếu nghe cải tâm cải quán của Viên giáo rồi từ Viên giáo mà đến. Đây đều là đến rồi lại đến. Nay Bồ-tát Viên giáo ngồi xe không hẹp hòi trọn không ở giữa đường mà đổi tâm quán, tức là kim sa đại hà đi thẳng vào Tây hải, nên là đến rồi không đến nữa. Lại còn, sơ tâm và trung tâm Viên giáo tuy từ đường thẳng mà đến, không cần thay đổi tâm quán. Nhưng chưa tới quả, cũng có nghóa đến. Các ngài Văn-thù và Tịnh Danh đều đã đến cực địa, tất không lại đến nữa, nên nói nếu đến rồi lại không đến nữa. Đây là kể thành việc giải thích khen khéo đến, là tướng không đến mà đến. Nếu đi rồi lại không đi nữa. Đây là nhắc lại để thành nghóa đến. Cũng ước vào năm người, tuy đi dùng tướng mà đi chẳng phải là khéo đi. Đây là đi rồi cũng còn lại đi. Nếu nương vào Viên giáo phát tâm chánh quán Trung đạo, một đi thì không có lý đổi tâm thay quán lại đi, nên nói nếu đi rồi lại không đi. Đây là cách nói thứ hai, là nghóa khác của nhất thể đổi tên mà thôi. Nếu ở quả trông vào nhân tức là từ nhân mà đến, cho nên nói Phật từ đường lớn trí độ mà đến. Đem nhân nhìn thấy quả tức là nghóa đi, nên Đại phẩm có nói: Thừa này từ trong ba cõi thoát ra, đến ở trong Tát-bà- nhã. Lại Đại luận nói: Các Thánh đến như thế, Phật cũng đến như thế. Các Thánh đi như thế Phật cũng đi như thế. Như ngài Văn-thù vào thất trống của ngài Tịnh Danh thì gọi là đến, lãnh lệnh Phật thăm bệnh gọi là đi. Văn-thù vì ngài Tịnh Danh nói mà đến, nên lại dùng nghóa đi mà kể thành. Văn-thù nói chỗ có thể thấy lại không thể thấy. Đây là nói tướng không thấy mà thấy. Không thể thấy mà thấy, là thất trống hiện có biïnh để biểu thị cho quả của y chánh. Nếu biểu thị ngoài hạng người này thì lại không có Tịnh độ và pháp thân có thể thấy. Lời này thành nghóa cõi Phật. Nếu dẫn việc chúng sinh đến vào thấy Tịnh độ và pháp thân thì ngoài hạng người này ra lại không thể thấy. Cho nên nói cái có thể thấy lại không thể thấy. Lại nữa, như người đời dùng nhục nhãn thấy sắc thô mà không thấy sắc tế thì không phải thấy rốt ráo. Nếu lại tu Thiên nhãn khiến thấy được sắc tế. Tuy thấy sắc tế mà không thể thấy chân. Nếu hàng Nhị thừa và Bồ-tát Thông giáo tu được Tuệ nhãn thì liền thấy chân. Tuy lại thấy chân nhưng không thấy được bệnh và thuốc. Bồ-tát Biệt giáo tiến tu pháp nhãn, thì thấy được pháp sai biệt. Tuy thấy sai biệt, nhưng không thể thấy trọn được ba đế. Tất cả pháp nhập vào một pháp, một pháp đầy đủ tất cả pháp. Bồ-tát Viên giáo nếu được Phật nhãn thì thấy cả pháp giới cùng tận cội nguồn cũng như hư không. Nếu ngoài Phật nhãn lại không thể thấy. Nên nói chỗ có thể thấy lại không thể thấy. Nói Văn-thù giải thích kể thành “Sở dó giả hà… Cánh bất khả kiến”. Sở dó nói: “Đến không từ đâu đến.” Đây là giải thích: Nếu đến rồi lại không đến, bốn bất khả thuyết tức là bình đẳng pháp giới. Chư Phật không làm gì cả, đây là tướng không đến. Ước đây nói đến tức là Không từ đâu đến. Nói thành việc không đến mà đến. Đi không chỗ đến, là bốn bất khả thuyết tức bình đẳng chân pháp giới. Chư Phật không đến đâu cả, nên nói là đi không chỗ đến. Lập lại thành tướng không đến mà đến, đến không chỗ đến. Chỗ có thể thấy lại không thể thấy, là bốn bất khả thuyết, trong bình đẳng chân pháp giới không có chỗ có thể thấy mà nói là thấy. Phật nhãn thấy cùng tột lại không thể thấy, tức là giải thích việc trên, nói thành tướng không thể thấy mà thấy.  DUY-MA KINH LƯỢC SỚ <卷>QUYỂN 7 PHẨM: THĂM BỆNH (Phần 2) Phần bốn, Chánh nói thăm bệnh: “Thả trí…” . Từ trên đã luận về cách tương kiến giữa chủ khách, không phải là ý chánh. Thần trí ngang sức biện luận vô cùng bày tỏ ý Phật, nên nói “gá lại việc này”. Văn có hai: Trình bày ý Phật. Vốn rất tôn trọng ý chỉ Phật nên cần nói trước, kế thăm hỏi cặn kẻ việc Đại só thâm ý giả bệnh để mở bày lợi ích cho mọi người, nên tự kể ý mình, nếu chỉ nói ý chỉ Phật thì các Thanh văn Bồ-tát không cần phải từ chối, nhưng đây là nghóa đối với người giỏi thăm hỏi bệnh, đối đáp qua lại là việc khó, người khác không kham được, ý là ở đây. Nên ngài Văn-thù tiếp đó nói ý mình. Nói lệnh Phật có hai: Chánh tuyên chỉ. Chung nói ý Phật. Phần tuyên chỉ có ba câu là ba phần: -Câu đầu nói: Bệnh ấy có thể chịu được chăng? Ngài Tịnh Danh vốn pháp thân không bệnh, không nhẫn nào chẳng chịu, đã là chúng sinh lại căn cứ ở chúng sinh mà luận về nhẫn và không nhẫn. Nhưng Phật ở đời tích đồng thế gian, nên có việc thăm hỏi. Như trong Tỳ-ni, Phật cũng thăm hỏi an ủi các Tỳ-kheo rằng: “Đi đường có mệt nhọc chăng, khất thực có dễ dàng chăng?” Lại như trong Đại phẩm chư Phật cũng thăm hỏi nhau: “Có ít bệnh não chăng… Trí Độ luận giải thích đây đều có thâm ý. Nay Phật hỏi ngài Tịnh Danh: Có thể chịu được chăng, là ngài Tịnh Danh vì chúng sinh mà bệnh, chúng sinh không đồng, vậy chịu được hay không chịu được? Như người tuy bệnh mà còn bước đi được, ấy là chịu được, hoặc có bệnh khổ mà đi đứng không được, ấy là Không chịu được. Nay cũng căn cứ vào bốn cõi nước: Nói về Đồng cư uế tịnh: bệnh của cõi uế là các nghiệp trong sáu đường, mười ác, bốn trọng tội… là nhân bệnh ba ác, còn quả khổ tam đồ là quả bệnh. Đây là bệnh nặng, là tướng không thể chịu được. Nếu mười thiện là bệnh nhân của trời, người, A-tu-la, thì tám khổ, năm suy… là quả bệnh. Khổ này nhỏ, là tướng chịu được. Lại còn, quả bệnh ở cõi Đồng cư uế có một mà nhân bệnh có chín thứ không đồng, đó là sáu đạo và ba thừa. Nếu có nhân bệnh sáu đạo, mà không có căn tánh ba thừa, là tướng không chịu được. Nếu có căn tánh ba thừa, tức là chịu được. Lại nữa, phàm phu tu hạnh ba thừa, căn có lợi độn, nên ngăn cản có nhẹ nặng. Căn lợi ngăn cản nhẹ là bệnh chịu được, còn độn căn ngăn cản nặng là bệnh không chịu được. Lại còn, ba thừa tiến hành đoạn kết. Nếu đoạn kết là nhẹ thì chịu được, nếu chưa đoạn là nặng, là Không chịu được. Ngài Tịnh Danh bệnh quyền nên đều đồng. Nói về Đồng cư thanh tịnh là trừ bốn ác thú, chỉ xét về trời, người còn ba thừa giống như trên. Nói về cõi Hữu dư, không có khổ phần đoạn, thì nói chung là chịu được, chỉ có hình tướng thô tế thôi. Hàng Nhị thừa và Bồ-tát Thông giáo sinh về cõi ấy, là độn căn là Không chịu được. Còn Bồ-tát Biệt, Viên sinh vào cõi ấy là lợi căn, là chịu được. Quyền đồng cũng thế. Nói về cõi quả báo, các Bồ-tát ấy đều là pháp thân không khác ba thừa, tuy có vô minh tự thể, nhưng bệnh nhân quả đều chịu được, quyền đồng cũng thế. Như địa vị và hình tướng không phải là Không chịu được, chỉ không như cõi Hữu dư trước đồng có tướng ấy. Nói về cõi Thường tịch quang là cõi cao tột, các ác dứt hẳn, các thiện khắp cùng, không bệnh, không não, không có bệnh quyền hay thật, chịu được hay không chịu được khác nhau. Phật chỉ một câu thăm hỏi ngài Tịnh Danh mà rộng lớn sâu xa khó nói hết. Hỏi: Trên nói cõi Tịch quang có bệnh, nay sao nói là Không? Đáp: Không nhất định, chỉ theo Thánh giáo. Giáo nói có là có, nói không là Không. Nay căn cứ vào cõi cao tột thì không có bệnh thật. Câu hai: trị bệnh có bớt chăng? Trị bệnh có bớt chăng là thế gian có bệnh ắt phải dùng thuốc để trị. Đã vì chúng sinh khổ, nếu trị chúng sinh tức là trị ngài Tịnh Danh. Nhưng bệnh của chúng sinh có ba thứ không đồng, tức là kiến, tư và vô minh vô tri. Ba bệnh này gốc của tất cả bệnh nhân quả nội ngoại giới. Dùng ba quán mà trị thì ba bệnh đều hết, điều này đã nói trong ba quán, đầy đủ trong huyền nghóa. Khi giải thích văn sau sẽ thấy rõ. Cũng nói về bốn cõi: Cõi Đồng cư: Từ Giả vào Không chính là trị bệnh kiến tư ở Đồng cư. Từ không vào Giả chính là trị bệnh hằng sa Hữu dư, phụ trị vô tri ở Đồng cư. Trung đạo chánh quán, chính là trị vô minh hữu dư, quả báo. Bồ-tát lợi căn phụ trị kiến tư vô tri ở Đồng cư, cũng phụ trị vô tri ở Hữu dư. Cõi Tịch quang thì không có bệnh để trị, nay nói trị ở cõi Đồng cư. Trong Đại Luận có nêu bốn trường hợp: Một là căn độn chướng nặng, tức là phàm phu căn độn , cấu phiền não nặng không thể trị. Hai là độn căn chướng nhẹ, như ngài Châu-bàn-đặc trong suốt mùa hạ chỉ tụng một bài kệ mà phát chân, thành Đại A-la-hán. Ba là căn lợi chướng nặng, như Ương-quật-ma-la, một ngày giết chín trăm chín mươi chín người, nhưng vì căn lợi, chướng không thể ngăn cản, nên thấy Phật liền ngộ. Bốn là căn lợi chướng nhẹ, như Xá-lợi-phất nghe A-thấp nói một bài kệ về ba đế liền chứng được sơ quả. Ngài Tịnh Danh đồng với những bệnh này khó trị và dễ trị. Như trong bốn trường hợp thì Châu- bàn-đặc và Thân Tử là bệnh dễ trị giảm bớt. Nếu đến cõi Hữu dư thì không có việc trị giảm bệnh. Nếu hình tướng ba thừa cũng phân biệt ba thứ có giảm bớt. Bệnh quyền cũng thế, nếu vào cõi quả báo bình đẳng pháp giới thì đây là lợi căn có một chướng vô minh. Xét quyền vị mà luận nhẹ nặng không có chướng ngăn riêng thì chỉ có một trường hợp giảm bệnh. Nếu xét về Sơ tâm nghiệp đời trước hoặc có hai trường hợp phân biệt không có độn căn. Bệnh quyền cũng thế. Cõi Thường tịch quang là địa cao tột tịch nhiên không có những phân biệt này. Kế đến câu thứ ba. Phật hỏi rằng: Bệnh trệ đều giảm không tăng chứ? Đây là ý hỏi như người đời bệnh đủ bốn thứ: Từ lúc đầu uống thuốc, nhưng bệnh chỉ tăng mà không giảm, trọn không chữa được bệnh đó, gọi là tăng tăng. Tuy lúc nguy khốn mà dốc lòng tìm thuốc chữa trị và bệnh lành, đó gọi là có tăng giảm. Tuy lúc đầu có uống thuốc bệnh có tạm giảm, nhưng sau lại tăng, gọi là giảm tăng. Từ đầu bệnh tạm giảm cho đến bình phục, đó gọi là giảm giảm. Ngài Tịnh Danh ứng hiện sinh vào cõi Đồng cư, nói mười hai bộ kinh, trị bệnh cho chúng sinh, cũng có bốn căên duyên. Tăng tăng tức là hạng phàm phu thấp kém nhất. Nếu vì họ thuyết pháp thì họ liền khởi tội bài báng không tin, như Thiện Tinh, Điều-đạt… Tăng giảm như Thi-lợi-cúc-đa, Ương-quật… Giảm tăng. Như Đại Luận nói: Bốn thiền của Tỳ-kheo đó là bốn quả. Khi lâm chung thấy chỗ sinh chê không phải là Niết-bàn, liền đọa vào địa ngục. Lại Tỳ-đàm, Thành Thật nói người thoái pháp đều có tướng này. Giảm giảm, tức là các người được đạo như Thân Tử… Ngài Tịnh Danh ở Đồng cư bệnh quyền cũng thế. Về cõi Hữu dư, có ba thứ, không có tăng tăng. Đã được vị bất thoái, thì không sinh vào ba cõi, nhưng ba thừa sinh vào cõi ấy có lợi có độn. Căn cứ ở hạnh thoái niệm thoái cũng có ba thứ, về bệnh quyền cũng thế. Nếu xét theo cõi quả báo đều là niệm bất thoái, tâm luôn vắng lặng, tự nhiên lưu nhập, thì đều là giảm giảm. Nếu căn cứ nghóa xuất nhập quán, thì có ba trường hợp, bệnh quyền cũng thế. Về cõi Thường tịch quang tột cao rỗng rang, không có bệnh tật. Ngài Tịnh Danh đồng bệnh quyền với ba cõi trước. Về trị bệnh thật có giảm mà không tăng. Ngài Tịnh Danh cũng thế, nên khi thăm hỏi nói “bệnh không tăng chứ?” Từ câu “Đức Thế Tôn ân cần thăm hỏi vô lượng”… trở xuống là Văn-thù tuyên chung ý Phật thăm hỏi. Nói thăm hỏi vô lượng là bệnh thật ở ba cõi, khắp mười phương pháp giới nhiều vô lượng. Ngài Tịnh Danh từ bi nghó nhớ hiện vô lượng bệnh quyền, nên khiến Như Lai thăm hỏi vô lượng. Chỉ kể có ba câu, đây là biểu thị các câu hỏi đầu, có thể có nhiều câu, nhưng dịch giả đã lược bỏ hoặc kinh không nêu, giống như năm trăm và tám ngàn người ai cũng kể việc chê trách, nhưng lược bỏ không nêu, hoặc chỉ nói chung là vô lượng, đủ biểu thị ý Phật, không cần phải nói nhiều. Văn-thù tự nói ý mình Từ câu “Cư só…” là. Việc vâng lời Phật thăm bệnh để hỏi là ý ở đây. Văn có hai: Một là, Hỏi bệnh quyền trong quả. Hai là, Hỏi bệnh thật trong nhân. Do hỏi quyền, nên ngài Tịnh Danh nói ra phẩm Bất Tư nghị. Do hỏi thật, nên ngài Tịnh Danh nói bốn phẩm Quán Chúng Sinh… Đến văn sẽ thấy rõ. Văn Hỏi bệnh quyền trong quả có ba phần: Từ Cư só bệnh này nhân đâu mà khởi trở đi, là hỏi nhân khởi bệnh quả. Đại só quả địa pháp thân thanh tịnh nhất định, không có mọi bệnh hoạn, mà nay hiện có bệnh, do đâu mà khởi. Từ “thất này vì sao trống không và không có thị giả…”, là hỏi Đại só pháp thân y báo quyến thuộc nay ở đâu, mà chỉ thấy thất trống. Từ “bệnh này có những tướng gì …”, là hỏi bệnh đồng ứng thân lấy gì làm tướng, là đồng pháp thân hay đồng với phàm phu, nên hỏi tướng mạo nó. Phần a, có hai: Một là Văn Thù hỏi, hai là Tịnh danh đáp. Phần Văn thù hỏi có ba: Hỏi bệnh do đâu khởi. Hỏi bệnh mới hay đã lâu. Hỏi cách làm hết bệnh. Hỏi bệnh do đâu khởi, là nếu quả địa pháp thân thì có bệnh não gì mà nay bỗng nói có bệnh là do đâu mà khởi. Kế hỏi bệnh đã lâu chưa. Pháp thân vốn không bệnh, đã có bệnh quyền thì có từ lúc nào? Sau là hỏi làm sao hết bệnh. Nếu vì chúng sinh, nay chúng sinh trong các cõi nước mười phương vô tận. Quyền thì không thể diệt, bệnh này làm sao diệt được? Văn-thù có ba câu hỏi đại ý là thế. Phần Tịnh Danh đáp “Duy-ma…” trở xuống có hai phần trước và sau: Trước trả lời hai câu hỏi sau, sau trả lời một câu hỏi trước: Sở dó hỏi đáp có trước sau là có ý. Ngài Văn-thù hỏi, có ý muốn khiến chúng sinh biết từ bổn khởi tích. Ngài Tịnh Danh đáp, có ý muốn khiến chúng sinh tìm tích vào bổn. Cũng là hiển bày thành nghóa tướng sinh diệt. Phần đáp trước lại có ba ý: Đáp chung hai câu hỏi sau. Giải thích. Thí dụ để chỉ rõ. Ý một Đáp chung gồm hai: Trước đáp câu hỏi: Bệnh mới hai đã lâu. Sau đáp câu hỏi. Làm sao dứt bệnh. Đáp câu hỏi bệnh sinh đã lâu mau? Từ si hữu ái thì bệnh tôi sinh, bệnh ấy lâu mau đều do chúng sinh mười hai nhân duyên mà sinh. Ngài Tịnh Danh bệnh quyền đồng với sự lâu mau ấy. Sở dó biết căn cứ nhân duyên mà đáp, là kinh Niết-bàn nói: Bờ mé gốc của sinh tử gồm hai thứ là vô minh và ái, ở khoảng giữa hai thứ ấy liền có sinh, lão, bệnh, tử. Vô minh là si ở quá khứ ái , là si ở hiện tại, hai đời cách nhau nên lập làm hai tên. Vô minh thấm đẩm hành khiến có thức… năm quả ở hiện tại. Ái thủ ở hiện tại thấm đẩm hữu, nên có sinh tử ở vị lai, nên có mười hai nhân duyên luân chuyển ở ba cõi, hai mươi lăm hữu có trải qua sinh tử nên có nhân bệnh và quả bệnh. Ngài Tịnh Danh, vì chúng sinh có si ái mà sinh ra pháp thân Đại só, tức sinh bệnh quyền. Si ái của chúng sinh từ sinh ra đến nay, không phải mới, thì bệnh quyền cũng thế. Đáp bệnh đã lâu mau, là ý ở đó. Lại nữa, ngài Tịnh Danh vì chúng sinh bệnh, đâu chỉ ở Đồng cư. Nếu bệnh hữu vi si ái sinh, thì bệnh quyền ắt sinh, vô vi ở hữu dư cũng thế. Vì sao? Vì si ái ở Đồng cư hết, thì si ái ở hữu dư ắt sinh. Vì mê Trung đạo, nhiễm Niết-bàn, nên si ái sinh. Ở khoảng giữa hai thứ đó, thì có nhân bệnh quả bệnh mười hai nhân duyên. Chỉ có biến dịch nhân duyên và phần đoạn là khác nhau. Phần đoạn thì lên xuống qua lại sáu nẽo, còn biến dịch thì không thế. Nhưng ước vào ái có mà sinh tử. Ái diệt rồi liền sinh lên Thượng địa, trọn không thoái lui mà sinh vào Hạ địa. Vì sao? Vì ở tam giới nhận thô. Suy ra như Na- hàm, thân cõi Dục tu được Sơ thiền, ở Sơ thiền chết rồi liền sinh lên Nhị thiền, trọn không sinh vào cõi Dục mà lui sụt vào Sơ thiền. Thánh nhân nội giới cũng thế, huống là ngoại giới mà lại sinh vào phần đoạn và nhận thô biến dịch. Nếu chúng sinh biến dịch có thứ si ái này, thì ngài Tịnh Danh đại bi liền sinh bệnh si ái. Đó là đáp lời việc bệnh sinh đã lâu mau. Nếu ở cõi quả báo thì vô minh chưa hết là si, nhiễm y chánh báo là ái, ở giữa hai thứ đó mà có bệnh nhân quả của tự thể sinh tử mười hai nhân duyên sinh ra. Nên kinh Thắng-man nói: Vô minh trụ địa sức rất lớn mạnh chỉ trí Bồ-đề của Phật mới đoạn đứt được. Nếu bệnh si ái ở cõi Hữu dư hết, thì bệnh si ái ở cõi quả báo sinh. Ngài Tịnh Danh pháp thân đại bi cũng đồng sinh bệnh. Đây cũng đáp lời về bệnh sinh lâu mau. Cõi Tịch quang cao tột không thật có bệnh si ái nên không có bệnh quyền sinh ra lâu mau. Hỏi: Nếu xét theo chúng sinh để nói ngài Tịnh Danh bệnh sinh lâu mau, mà si ái thì vô thỉ nên không lâu không mau, sao được lấy đây mà đáp lời hỏi ngài Văn-thù? Đáp: Si ái của chúng sinh thì vô thỉ, không lâu không mau nên Vô duyên đại bi của ngài Tịnh Danh cũng thế. Luận về lâu mau, là dựa theo sự mà có, bởi vì quả địa đại bi tận nguồn cội vẫn không có, nhưng tùy bệnh chúng sinh mà đồng thể, ấy là nhân đại bi mà có tên, có lâu mau. Văn nói: Từ vô trụ mà lập ra tất cả pháp, vô minh từ vô thỉ khởi hằng hà sa vô tri bốn điên đảo ngoại giới và bốn điên đảo nội giới. Ngài Tịnh Danh cùng duyên khởi cũng thế. Nếu theo lý thì bệnh sinh ở cõi quả báo là lâu, còn bệnh sinh ở cõi Đồng cư, Hữu dư là tạm mới. Nếu theo sự thì bệnh sinh ở cõi Đồng cư là lâu, ở cõi quả báo, Hữu dư là mới, như đoạn dứt hết các si ái ở Đồng cư thì ở cõi Hữu dư si ái mới sinh. - Đáp câu hỏi làm sao hết bệnh? Từ “Nêu tất cả chúng sinh… bệnh ta hết”, nếu dùng ba quán bốn giáo, đoạn dứt si ái của chúng sinh ở ba cõi, bệnh thật hết thì bệnh quyền của ngài Tịnh Danh cũng hết, nên nói bệnh ta hết. Vì sao? Vì ở cõi Đồng cư khởi bệnh nhân quả thì ngài Tịnh Danh cũng đồng ở cõi ấy mà nói bốn giáo, khiến tu ba quán. Nếu chúng sinh ở cõi ấy bệnh hết thì bệnh quyền của ngài Tịnh Danh cũng theo đó mà hết. Nếu chúng sinh ở cõi Hữu dư có bệnh nhân quả, thì ngài Tịnh Danh cũng bệnh quyền mà nói Biệt, Viên, khiến họ tu giả, trung. Nếu bệnh của chúng sinh ấy hết thì bệnh quyền của ngài Tịnh Danh cũng theo đó mà hết. Nếu chúng sinh ở cõi quả báo có bệnh nhân quả, thì ngài Tịnh Danh liền bệnh quyền, chỉ nói Viên, khiến họ tu trung quán, nếu bệnh của chúng sinh ấy các phần bốn mươi mốt phẩm đều hết, thì ngài Tịnh Danh cũng thế. Cõi Tịch quang cao tột trí đoạn viên cực, thì không còn gì để hết nữa. Lược đáp câu hỏi thứ ba đã xong. Nếu các sư không căn cứ hai cõi ngoại giới, để nói về quyền thật thì hai cõi ấy lẽ ra cũng không có vô minh. Nếu cõi ấy có vô minh thì ngài Tịnh Danh sao lại không quyền được? Hỏi: Chúng sinh ở ba cõi, si ái không hết thì bệnh quyền của ngài Tịnh Danh sao hết được? Đáp: Luận chung về bệnh quyền thì chúng sinh không hết, bệnh cũng không hết. Vả nay căn cứ vào một thời hạn về số chúng sinh có duyên được hóa độ ở ba cõi, nếu bệnh hóa duyên hết, thì bệnh quyền cũng hết. Ý hai, giải thích việc đáp hai câu hỏi sau “sở dó… vô phục bệnh”. Có hai ý: Trước nói vì chúng sinh mà vào sinh tử, có sinh tử liền có ba bệnh sinh ra. Đây là giải thích việc đáp có bệnh quyền sinh ra lâu mau. Kế nói: Nếu chúng sinh lìa bệnh thì Bồ-tát không còn bệnh nữa, đây là giải thích đáp câu hỏi sau về lý do bệnh quyền được hết. Ý ba Thí dụ làm sáng tỏ Từ “Thí như …”. Văn có hai: Khai dụ và hợp dụ. Khai dụ có hai: Khai dụ có bệnh. Khai dụ hết bệnh. Khai dụ có bệnh, lấy cha mẹ làm dụ, là Bồ-tát từ hai trí sinh đại bi trụ ở địa con một, tức là cha mẹ của chúng sinh. Tất cả chúng sinh đồng có tánh lý nên nói chỉ có một con. Nếu chúng sinh ở ba cõi có bệnh thật si ái thì pháp thân hai trí đại bi liền ứng sinh ở ba cõi, nên có bệnh quyền. Khai dụ hết bệnh, có thể tự hiểu. Hợp dụ Từ “Bồ-tát… cũng hết”. Cũng có hai: Hợp dụ có bệnh quyền. Hợp dụ bệnh quyền hết. Như văn. Phần đáp sau Từ “Lại nói… Bi khởi” là trả lời câu hỏi đầu: bệnh áo đâu khởi. Trên đây đã luận về sinh và hết của bệnh quyền, nay đáp về nguyên do có bệnh quyền. Nguyên do là do đại bi, tức do sức thiện căn Vô duyên từ bi của giải thoát bất tư nghị, nên thường hiện thân có bệnh để lợi ích chúng sinh ở ba cõi. Đây là vô tâm đối với vật. Đại kinh nói: Từ năm đầu ngón tay phóng ra năm con sư tử, Như Lai không khởi niệm mà voi thấy sư tử. Phải biết đều là do sức Từ thiện căn. Nay ngài Tịnh Danh do đại bi hun đúc tâm, hiện bệnh ở ba cõi cũng thế. Chúng sinh duyên và Pháp duyên thì không thể như thế. Nay ngài Tịnh Danh do Vô duyên đại bi, nên có thể hiện thân có bệnh ở ba cõi mà nói bốn giáo ba quán, như bỏ chất độc vào sữa cho đến đề hồ cũng có khả năng giết chết người. Bồ-tát đại bi cũng lại như thế. Tùy chỗ hiện thân mà đồng sự, lợi ích, các công năng đó không luống uổng. Nên Đại kinh nói: Từ tức Như Lai, Từ tức giải thoát. từ bi này đầy đủ tất cả Phật pháp, như nam châm hút sắt. Bi cũng như Từ. Hỏi: Đá khác với hút hay hút khác với đá? Đáp: Nếu đá khác với hút, thì đá không hút, còn hút khác với đá thì hút ở ngoài đá. Nay không thế, vì không một cũng không khác, tức là đá hút. Vô duyên từ bi tức là pháp thân, pháp thân tức là Vô duyên đại bi, luôn vắng lặng thanh tịnh, không nghó nhớ, không hút. Như gương vốn không có hình ảnh, tùy các duyên đối với gương mà hình ảnh hiện ra. Chúng sinh vốn tánh thanh tịnh, không có si ái. Bồ-tát pháp thân xưa nay vốn không bệnh, vì chúng sinh ở ba cõi có bệnh si ái khởi lên, nên Bồ-tát đại bi ở ba cõi liền có bệnh quyền, nên nói từ si có ái thì bệnh ta sinh. Phần b) Ngài Văn-thù hỏi thất trống và không có thị giả từ câu “Văn-thù …”. Văn có hai: Hỏi và đáp. Ngài Văn-thù hỏi. Ngài Văn-thù vào thấy thất trống liền biết có biểu thị việc thời chúng chưa ngộ, nay muốn hiển bày nghóa Phật quốc nên hỏi tiếp. Đây là hỏi về cõi nước y báo là nơi chánh báo nương tựa, để khiến thời chúng biết Tịnh độ rốt ráo là nơi pháp thân Đại só nương tựa không có y báo quyến thuộc. Nếu ứng với vật, thì có y báo quyến thuộc, nên hỏi tiếp thất này vì sao trống không và không có thị giả. Câu hỏi này chính là khởi phát việc giúp thành Phật quốc đã nói ở phẩm Phật Quốc. Ngài Tịnh Danh đáp từ câu “Duy-ma…”. Văn có hai: Trước đáp thất trống. Kế đáp không có thị giả. Phần đáp thất trống có bảy lần đối đáp qua lại. Lần một, đáp thất trống. Nói quốc độ chư Phật cũng đều không. Đại só khéo léo có nhiều cách biểu thị không phải một. Từ khi đến thất này việc bày biện, người hầu, đều nhằm biểu thị việc muốn nói các giáo Phương tiện về duyên tập chưa trừ thì chưa được hiển bày cõi nước thanh tịnh. Nay muốn chỉ rõ chân Tịnh độ không có các phiền lụy về phần đoạn, biến dịch y chánh, để dẫn nhập vào bổn quốc thường tịch, bổn tánh lý không rốt ráo. Nên dẹp bỏ các thứ, biểu thị cho giáo xả phương tiện mà nói có. Nay muốn mở bày Tịnh độ Chân không Tịch quang rốt ráo, nên đáp nói các quốc độ của chư Phật cũng đều không. Vì cái không đó đâu chỉ biểu thị cho tánh tịnh thường tịch trống không chẳng có chi vì tất cả các quốc độ cũng đều không. Nếu các quốc độ chẳng phải là Không, thì Tịch quang không khắp, mà đã khắp tất cả, thì ba cõi cũng đều không. Hỏi: Có cõi Tịch quang riêng chăng? Đáp: Không phải thế, chỉ có phần đoạn biến dịch tức là Thường tịch quang. Như ngài Loa Kế đã thấy uế tức là tịnh nên lại không riêng cầu. Nên nói thí như chư Thiên cùng có bát báu, nhưng cơm có sắc khác. Nói chư Thiên là biểu thị cho ba cõi, đều có y chánh. Chánh báo tức là thân, y báo tức là chỗ ở và các thứ tịnh diệu ngũ dục. Nói đều “không” tức biểu thị cho Thường tịch quang. Đây không có sự khác nhau của giới hạn cảnh vật y báo, cũng không có các loại chánh báo khác nhau, mà đồng nhập vào lý Chân không rốt ráo. Như thất trống này không có các vật cũng không có thị giả. Từ trước nay đối với phương tiện khách khứa mà bày trí mọi vật, nay các khách đã thành cơ rốt ráo không, giả sử ai chưa vào thì khiến vào, không bao lâu liền được chất cơm thơm, như nghe trống độc. Đến khi nghe Pháp Hoa thì tất cả đều vào. Thế nên thất trống chính là biểu thị việc này. Lần hai, hỏi đáp “Lại hỏi… không không”. Hỏi lấy gì làm Không. Phần đoạn, biến dịch đều có y, chánh, sao lại khiến chúng cùng quy về một không? Lại kinh Thanh Văn nói: Có không Tam-muội, mười tám không của Đại thừa thì có không không, chưa biết lấy gì làm Không nên gọi là Không. Đáp rằng lấy không làm Không, nếu dựa theo cảnh trí, chung nói pháp Không. Như Đại kinh nói: Vì không không nên là Không. Cũng vì Bồ-tát tu không, nên là Không. Như muối có tánh mặn, khiến khác các vật mặn, nên nói lấy không làm Không. Nay nói nếu mê ý giáo, chỉ chạy theo lời nói, mà nói không không, thì không là vô cùng không khỏi rơi vào hý luận. Việc Tạng Thông nói chỉ là Không không của nội giới. Nay ở Trung đạo mà chánh quán thì hay không sinh tử, mà cũng rỗng không cả Niết-bàn, nên nói là Không Không. Nếu rỗng không sinh tử tức là Đồng cư không, nếu không Niết-bàn tức là Biến dịch Không, nên nói lấy Không làm Không. Vì sao? Vì nội giới đóng khối cũng còn là Không, huống là quả báo ngoại giới rất tế diệu, mà chẳng không ư? Lấy đây mà suy, thì thất trống là biểu thị cho các Phật quốc đều không, tức biểu thị các cõi nước là Tịch quang vậy. Lần ba, hỏi đáp “Lại hỏi… nên là Không”. Sở dó lại hỏi thêm “Đã Không, cần gì phải Không?”, là nếu pháp vốn xưa nay tự không, thì cần gì đợi tu mới Không. Nếu cho tu mới không, thì bổn tánh của Không chẳng là Không. Lại nếu quán phần đoạn, từ Giả vào Không, không tức chân đế, đâu cần lại không. Nếu cần lại không, thì phải biết là có, nên hỏi đã không cần gì phải Không? Đáp rằng: Vì không phân biệt không nên không. Nếu ở bản tánh, thì lý không là một, nhưng học phương tiện Nhị thừa Bồ-tát còn phân biệt chấp Không, chưa hiểu được Chân không. Nếu bỏ trí chướng phân biệt hai đế, liền hiểu lý Trung đạo Chân không. Nên nói vì không phân biệt không nên không. Lại nữa, nếu phân biệt tục là có thật không, phá tục vào chân, thì sinh tử Niết-bàn là hai, gọi là phân biệt. Chỉ được cái đản không mà không được cái “Không chẳng thể được.” Nếu thể nó không phải tục không phải chân, tức không có sinh tử Niết-bàn khác nhau, há là có trí chướng để bỏ ư? Không có sinh tử tức là đản không, không có Niết-bàn tức là cái “Không chẳng thể được”, đó gọi là vì Không nên Không. Nếu biết vô phân biệt là Không, thì không có nội ngoại giới để phân biệt, tức là Thường tịch quang chân cực Tịnh độ. Lần bốn hỏi đáp “Lại hỏi… cũng không”. Ngài Văn-thù hỏi ý này là ngầm vấn nạn rằng: Nếu phân biệt chẳng phải là Không thì vô phân biệt là Không, sao được nói không. Nếu nói là Không, thì đâu không phải là phân biệt. Nếu dùng phương tiện Nhị thừa phân biệt Bồ-tát chấp Không thì đều chẳng phải Không, nay sao được bỏ phân biệt không, mà chấp chẳng phân biệt mới là Không. Nếu có lấy bỏ không phân biệt, lại thành phân biệt. Đã thành phân biệt thì không phải Không nữa. Nếu là Không thì không cần phân biệt, nên hỏi nói là Không mà có thể phân biệt ư? Ngài Tịnh Danh đáp nói phân biệt cũng không. Lý Không này, bản tánh tự không mà dối sinh phân biệt, chỉ phân biệt này chưa từng có. Tuy lại có các thứ nhớ tưởng phân biệt mà phân biệt tức không, nếu tánh tự không tại sao tu không mới thấy Không. Nếu cảnh sở quán phân biệt tức không, không phân biệt thì năng quán cũng thế. Nếu trí năng quán phân biệt chẳng không mà không phân biệt, thì sở quán cũng thế. Vì cảnh sở quán phân biệt không, tức là Không phân biệt thì năng quán cũng thế. Các phương tiện giáo sự lý không dung nhau, vì phân biệt có thể làm chướng lý không phân biệt. Viên giáo thì không thế, tất cả phân biệt tức là Không phân biệt, không phân biệt tức là phân biệt. Phân biệt tức không. Do đó văn trên có nói: Luôn khéo phân biệt các pháp tướng ở Đệ nhất nghóa mà không động, tuy lại phân biệt nhưng chưa từng lìa không, do đó nói phân biệt cũng không. Lại nữa, ba cõi đều là vọng tưởng phân biệt nên có. Nếu đều tức là Trung đạo pháp tánh nhất như không hai. Thì đây là phân biệt tức không, tức là Tịch quang vô phân biệt vậy. Lần năm hỏi đáp “Lại hỏi… Trung cầu”. Hỏi: Không tìm ở đâu? Nói lý Không chẳng phân biệt này vi diệu huyền tuyệt, người tu phải tìm nó ở đâu? Ngài Tịnh Danh liền đáp phải tìm trong sáu mươi hai kiến. Ví Như có người mê, cho Nam là Bắc, không thể bỏ phương Bắc, mà cần phải trở về chỗ lầm là Bắc, để tìm phương Nam. Khi ngộ, thì trở về chỗ mê cho là Bắc, thì thấy phương Nam. Nay chúng sinh chưa ngộ tức Bồ-đề là phiền não, cho nên có sáu mươi hai kiến phiền não. Nếu ngộ tức phiền não là Bồ-đề, thì sáu mươi hai kiến chấp cho là chỗ phiền não, tức là Tịnh độ Thường tịch Bồ-đề Chân không vậy. Nay nói sáu mươi hai kiến, tuy có rất nhiều nguồn, nhưng gốc rễ của nó không ngoài hai kiến. Từ hai sinh ra bốn và trải ấm ba đời tức là sáu mươi hai vậy. Nên kinh Pháp Hoa có nói: “Hoặc hữu hoặc vô nương vào các kiến đầy đủ sáu mươi hai thứ.” Phàm phu bốn giáo có năm thứ bốn kiến có, không: Bốn kiến của phàm phu sinh ra sáu mươi hai thứ như vừa mới nói. Bốn môn Tam tạng giáo chưa ngộ chấp trước tức là bốn kiến, như Đại luận nói: Nếu vào Tỳ-đàm tức đọa vào hữu, không môn, Côn lặc môn… đều đọa vào kiến. Bốn môn của Thông giáo, nếu chưa được chân, chấp bốn trường hợp này (bốn cú) tức là bốn kiến. Như Đại luận nói: “Bát-nhã như lửa lớn, đốt nóng bốn bề không thể lấy.” Xem phẩm pháp ở Trung luận cũng có lời nói đó. Bốn môn của Biệt giáo, như Đại kinh có nói: Sữa ví như Phật tánh bốn trường hợp. Nếu chưa thấy Phật tánh chấp bốn trường hợp này tức là bốn kiến. Bốn môn Viên giáo, nếu chưa thấy tánh, chấp bốn trường hợp này cũng thành bốn kiến. Nên kinh Tư Ích nói rằng: Thật ngữ là hư ngữ, sinh ra ngữ kiến. Cho nên trong Đại kinh nói: Từ đây trở về trước đều gọi là tà kiến. Lấy bốn giáo này trải qua ấm ba đời và hai vô ngã, mỗi thứ cũng đều sinh sáu mươi hai kiến. Có người nói: Đại Tập có loại phân biệt này chưa được viết thành văn. Sở dó nêu năm thứ sáu mươi hai kiến này, là để thành lời đáp của ngài Tịnh Danh, cho nên nói phải tìm ở sáu mươi hai kiến. Nếu từ sáu mươi hai kiến của phàm phu và bốn kiến của Ta- ïng, Thông mà tìm, thì được cái “đản không”, tức là kiến ở Đồng cư và hữu dư. Nếu từ bốn kiến của Biệt, Viên mà tìm, thì được kiến của cõi quả báo. Nếu ở bốn kiến của Viên giáo… mà tìm cho đến lìa tất cả kiến thanh tịnh Tịnh thiền, tức là kiến Tịch quang. Như mê Nam cho là Bắc, thì từ chỗ mê mà tìm, liền được thấy gốc. Nay muốn tìm lý, chỉ căn cứ vào kiến mà tìm liền được chẳng phân biệt Không, nhập vào Thường tịch quang. Nên đáp nói ở sáu mươi hai kiến mà tìm. Lần sáu, hỏi đáp “Lại hỏi… trung cầu”. Hỏi sáu mươi hai kiến phải tìm ở đâu? Đây là nói các kiến điên đảo xưa nay vốn không thật, nương vào đâu để khởi mà tìm thấy các kiến. Ngài Tịnh Danh liền đáp: Phải tìm ở giải thoát của chư Phật. Vì sao? Vì các giải thoát của chư Phật tức là tâm Thanh tịnh, Trung đạo tự tánh, không bị phiền não vấy nhiễm, vốn không phải trói buộc hay giải thoát, không nhiễm hay nhiễm, khó thể biết rõ. Tức là chúng sinh mê chân tánh giải thoát, nên khởi sáu mươi hai kiến mà có trói buộc, có giải thoát. Kiến này, không phải ở chỗ khác khởi lên, tức do mê chân tánh giải thoát mà khởi. Nay muốn tìm thấy các kiến mê tình này, thì phải tìm ở chân tánh giải thoát của chư Phật, thì biết nguồn gốc chỗ khởi sáu mươi hai kiến. Như muốn tìm băng giá thì không được lìa nước. Lần bảy, hỏi đáp “Lại hỏi… trung cầu”. Nếu muốn tìm sáu mươi hai kiến thì phải từ chân tánh giải thoát của chư Phật mà tìm, thì quả địa ba đức giải thoát của chư Phật phải tìm từ đâu? Ngài Tịnh Danh liền đáp: Phải tìm ở tâm hạnh chúng sinh. Văn trên có nói: “Tùy tâm tịnh thì cõi Phật tịnh.” Nay quán tâm của chúng sinh nhập vào trí bổn tánh thanh tịnh, tột cùng nguồn cội chúng sinh, tức là hiển bày quả giải thoát của chư Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Phá một vi trần sinh ra Đại thiên kinh quyển.” Nên Ban Chu Tam-muội có nói: Chư Phật từ tâm mà được giải thoát. Tâm là thanh tịnh gọi là vô cấu. Năm đạo tươi sạch không nhận màu sắc, hiểu được nghóa này là thành đại đạo. Nên ngài Tịnh Danh khuyên tìm ở tâm hạnh chúng sinh. Như khuyên tìm băng thì không được lìa nước. Hỏi: Tìm chân tánh giải thoát cũng được thật tuệ và phương tiện chăng? Đáp: Tâm tánh chúng sinh tức là chân tánh, si ái tức là thật tuệ, các hạnh bất thiện tức là phương tiện, đầy đủ như trong huyền nghóa nói về mười hai nhân duyên, ba thứ phi đạo thông suốt bất tư nghị, ba thứ Phật đạo giải thoát. Nếu thấy tâm chúng sinh tịnh tức cõi Phật tịnh, tức là ở tâm hạnh chúng sinh mà thấy ba thứ pháp thân giải thoát của Phật, không dọc không ngang, như chữ nhất ở đời. Do đó mà pháp thân cao tột, lìa thân không có cõi, lìa cõi không có thân. Thân cõi lý đồng, mà tên có khác. Như trời Đế Thích có nhiều tên, giải thoát cũng thế. Hoặc gọi là Tỳ-lô-giá-na, hoặc gọi là Thường tịch quang độ, nên thất trống của ngài Tịnh Danh biểu thị cho các Phật quốc là Không, chỉ đặt một giường để bệnh nằm, là biểu thị cho ba đức giải thoát. Nếu thấy thất trống, tức là thấy giường bệnh nằm. Nếu thấy giường bệnh nằm, tức là thấy thất trống. Nếu thấy tâm chúng sinh không, tức là thấy các Phật quốc không, tức là trong tâm hạnh mà tìm được ba giải thoát. Nên ngài Tịnh Danh nhân đáp Phật quốc tức không, vẫn đáp là giải thoát của chư Phật, thì lại giúp thành việc Phật nói chỉ thú giải thoát bất tư nghị, hiển bày tông chỉ Phật quốc, giúp Phật rộng hóa độ, chính ý là đây. Đến năm phẩm nói trong thất, tuy nói nhiều thứ, nhưng tóm tắt đường lối thì chỉ do đây mà ra. Tiếp là phần đáp không có thị giả “Hựu nhân sở vấn…”, tức biểu thị cho tánh tịnh, không có các ái kiến, nên nói là Không có thị giả. Như người đời luôn hầu hạ ở hai biên, luôn chạy nhảy sai khiến, hầu hạ các thứ, chính là biểu thị việc này. Văn có hai: Chánh đáp và Giải thích. Chánh đáp: Tất cả các ma ngoại đạo đều là thị giả của tôi. Ý đáp này, là Đại só lấy ma và ngoại đạo làm thị giả. Nay thất trống không có thị giả, là biểu thị cho Thường tịch quang không có ái kiến, tức không có ma ngoại, nên không có thị giả. Nhưng có nghóa hầu hạ là, nếu ở ba cõi có chúng sinh ái kiến, tức là ma ngoại, thì ngài Tịnh Danh chuyển dùng họ để làm Phật sự, lợi ích chúng sinh, tức là nghóa hầu hạ. Nếu chúng sinh ái kiến ở ba cõi tức không, chẳng có gì cả, là Không có nghóa hầu hạ. Nhưng ngài Tịnh Danh vì chúng sinh ở ba cõi đều có ái kiến nên thị hiện ở các cõi, tức là có hầu hạ. Nếu ở Đồng cư cõi uế tức có Ba-tuần quyến thuộc và thuộc ái chúng sinh đứng hầu bên hữu, chín mươi sáu thứ Lục Sư và thuộc kiến chúng sinh đứng hầu bên tả. Vì sao? Vì ngài Tịnh Danh ở Đồng cư cõi uế hiện các thứ thân, không buông bỏ các ái, hoặc làm ma vương điều phục quyến thuộc để làm Phật sự, mà ở kiến không động, hoặc làm ngoại đạo hồi tà quy chánh, điều phục quyến thuộc của họ để cùng làm Phật sự. Đây tức là dùng ái kiến tạo chúng sinh làm người hầu. Thị hiện ở Đồng cư tịnh cũng thế, chỉ không có bọn ác ma ngoại. Nếu kiến ái ở cõi Hữu dư, thì hàng Nhị thừa và Bồ-tát Thông giáo, sinh vào cõi ấy có thiền định trí tuệ. Thiền định là tánh ái, trí tuệ là tánh kiến, cũng là ái kiến tội cấu nghiệp đời trước, nên không thấy cõi thanh tịnh của Như Lai. Ngài Tịnh Danh cũng ứng hiện sinh, đồng có ái kiến với họ mà điều phục giáo hóa, khiến làm Phật sự tức là kẻ hầu vậy. Nếu Bồ-tát Biệt, Viên, tuy có phước tuệ, nhưng chưa thấy Phật tánh, chưa đoạn hết vô minh, tức là do ái kiến tạo nên, thì cũng là ma ngoại. Cõi biến dịch ấy, tuy không có Thiên ma, nhưng có ma ưa sinh tử, làm nhiễm Niết-bàn, tức là ái, vì ái nên có biến dịch quả báo tức là ma vậy. Tuy không có ngoại đạo ngoài lý chân đế, mà có ngoại đạo ngoài lý Trung đạo. Đại só đối với ái không bỏ, đối với kiến không động, mà hóa độ, tức lấy chúng làm thị giả. Nếu ở cõi quả báo bắt đầu từ sơ trụ, tuy thấy thật đế, viên đoạn các kiến tư pháp giới, nhưng chưa đoạn hết, cho đến vị pháp vân cũng còn có ái kiến vi tế, bị các hoặc vô ngã trói buộc, nên còn ở một phẩm Tử Ma. Ngài Tịnh Danh vì họ hiện sinh cõi ấy, điều phục Bồ-tát do ái kiến tạo nên này để làm quyến thuộc, tức đều là thị giả của tôi vậy. Nếu ở cõi Tịch quang rốt ráo, các nghiệp chiêu cảm y báo đều hết nên nói không, chẳng có gì, dứt hẳn chẳng có ái kiến chiêu cảm Chánh báo, nên nói là Không có thị giả, ấy là thất trống không có thị giả, biểu thị xa vậy. Giải thích “Sở dó… bất động”, như đồng Cư só lấy ái kiến ma ngoại làm thị giả, thì chúng sinh do ái kiến tạo nên ở ba cõi, cũng đều gọi là thị giả. Nếu ái kiến tức không, không bỏ không động, tức là Không có thị giả, tức không mà có ái kiến chúng sinh. Ngài Tịnh Danh không vướng vào Không buông không động mà điều phục, khiến đầy đủ tất cả các Phật pháp, tức có nghóa thị giả. Cõi Tịch quang dứt hẳn không có ái kiến, tức không có ma ngoại, nên không có thị giả. Phần c) Ngài Văn-thù hỏi tướng bệnh “Văn-thù…”. Có ba lần hỏi đáp: Lần một, Hỏi thể tướng bệnh. Lần hai, Hỏi dụng của bệnh. Lần ba, Hỏi việc gây bệnh. Hỏi bệnh có những tướng gì, tức là hỏi thể tướng của bệnh. Sở dó hỏi, đã nói pháp thân thì các bệnh dứt hẳn, nhân đại bi mà hiện ra bệnh này. Bi tức là thể của bệnh. Có những tướng gì. Nếu có tướng nhất định thì luôn làm lợi ích, nếu không có tướng nhất định thì há có chỗ dùng. Ngài Tịnh Danh đáp nói “Bệnh tôi không có hình tướng không thấy được.” Đây là nói pháp thân xưa nay không bệnh, vì đại bi thiện căn mà hiện ra bệnh này. Vô duyên đại bi không có nơi chốn, há lại có hình tướng. Nếu chúng sinh duyên với pháp duyên, có chỗ nương nhờ, thì có thể luận về hình tướng của nó. Nó đồng thể với đại bi không duyên không niệm, há lại thấy được. Như nam châm hút sắt, như bệnh hoạn của thân phàm phu còn không hình tướng, huống là pháp thân vô duyên mà thấy được ư? Cho nên đáp nói: Bệnh ta không hình tướng, không thể thấy, tức là đáp thể bệnh vậy. Hỏi về dụng của bệnh “Lại hỏi… như huyễn”. Sở dó hỏi dụng của bệnh, ứng thân có bệnh quyền tức là dụng của bệnh. Tiến thoái hai thứ cùng hợp với pháp nào? Cùng hợp với thân Kim cang hay hợp với tâm trí tuệ. Nếu cùng hợp với thân, thì pháp thân phải có bệnh ấy. Nếu cùng hợp với tâm, thì tâm lực vô úy… phải có khổ. Đây là dựa theo nghóa tấn hợp mà hỏi. Sở dó ước Kim cang làm sắc, trí tuệ làm tâm là trích từ Đại kinh. Phật đáp ngài Sư tử hống. Nếu cùng thân chúng sinh hợp mà thân chúng sinh thật có bệnh, thì ứng thân phải thật có bệnh. Nếu cùng tâm chúng sinh hợp, mà tâm chúng sinh có thật khổ, nên ứng tâm cũng có thật khổ. Đây là ước nghóa thối hợp mà hỏi. Nếu không cùng thân Kim cang và tâm trí tuệ hợp, thì vì sao lại gọi: Pháp thân khởi ứng từ đại bi sinh. Nếu không hợp với thân tâm của chúng sinh, thì sao lại nói ứng đồng bệnh ấy. Ngài Tịnh Danh đáp nói: Không phải hợp với thân, vì thân tướng vốn lìa. Như phàm phu bệnh hiện thấy không hợp cùng thân tâm, suy thân giả danh không thấy bệnh thật, chỉ có danh tự, mà danh tự thì không luận hợp hay không hợp. thân tướng vốn lìa nên tìm thật không được. Cho nên bệnh không hợp với thân cũng không hợp với tâm vì tâm như huyễn, niệm niệm không dừng trụ, huống là ứng thân bệnh quyền mà hợp với thân Kim cang ư. Vì thân tướng vốn lìa, mà cùng hợp với tâm trí tuệ. Vì tâm như huyễn, nên chỉ có danh tự. Ví như gương sáng, tất cả hình ảnh màu sắc đều hiện trong gương các hình ảnh này không hợp với gương. Vì sao? Nếu gương tròn đầy thì hình tượng cũng tùy tròn theo, nếu không tròn đầy thì phải biết hình ảnh không hợp cùng gương, cũng không hợp với hình. Vì sao? Vì ngoại đạo là hình thật còn hình ảnh này không thật. Hình không thật thì đâu thể thật hợp. Tuy không cùng gương hợp, nhưng nhân gương hiện ra ảnh, tuy không hợp cùng hình nhưng hình đối với gương thì ảnh sinh. Bệnh này cũng thế. Không hợp cùng thân Kim cang và tâm trí tuệ. Vì sao? Vì thân Kim cang vốn tướng lìa, tâm trí tuệ như huyễn, vì tánh vốn không bệnh cũng không cùng thân tâm phàm phu hợp nhau. Vì sao? Vì thân phàm phu vốn lìa, tướng bệnh không dừng, tâm thì như huyễn hóa bệnh ở vào đâu. Phàm phu thì bệnh thật, mà bệnh này lại quyền hiện tuy không cùng pháp thân và phàm phu hợp nhau, nhưng nhân đại bi khởi, mà có bệnh thật. Nên từ vô trụ vốn lập tất cả pháp mà hiện có bệnh ở ba cõi, nên lấy gương làm dụ. Hỏi việc gây bệnh “Lại hỏi… bệnh của ta”. Sở dó hỏi, là hễ có bệnh thì ước vào thân. Thân có bốn đại như bốn rắn độc lại tranh hại nhau. Đại Luận nói: Bốn rắn đuổi nhau luôn tàn hại nhau, một đại không điều hòa thì có một trăm lẻ một bệnh não. Nên văn nói Bồ-tát vì chúng sinh có sinh tử, có sinh tử thì có bệnh. Vì sao? Vì ứng hiện chịu thân rắn độc này tức có bốn đại. Nay hiện thân có bệnh, thì đại nào bệnh. Ngài Tịnh Danh đáp nói: Không phải Địa đại. Nếu Địa đại là bệnh thì đất đá rừng cây cũng phải là bệnh. Nếu các thứ này… Không phải bệnh, sao được nói Địa đại là bệnh. Thủy, hỏa, phong cũng lại như thế. Bốn đại ngoại đạo không phải, thì bốn đại bên trong cũng thế. Lại nữa, nếu bốn đại là bệnh, thì những gì có bốn đại này đều phải là bệnh, đâu được nói hoặc có hoặc không. Nếu khi không bệnh thì phải Không có bốn đại. Tuy có bốn đại, nhưng có lúc không bệnh. Nên biết bệnh không phải bốn đại, cũng không lìa bốn đại, chỉ ước thân này được luận là có bệnh. Ví như nhân đích mà có tên trúng há lìa bốn đại mà riêng luận bệnh, nên nói không lìa địa đại. Ngài Tịnh Danh cũng thế. Tuy đồng bệnh thật hà tất phải đồng ngay bệnh khổ ư? Nên nói không phải bốn đại vậy. Không lìa, vì ngài Tịnh Danh là bệnh thật thế nên phải đồng lý do của ứng bệnh thành bệnh thật. Nên nói là Không lìa, tức là Không lìa để luận bệnh quyền vậy. Lại không phải địa đại, là như Thỉnh Quan Âm nói: Địa không có tánh bền chắc, tánh thủy không dừng, lửa từ duyên sinh, tánh gió không ngăn ngại mỗi mỗi đều nhập vào bờ mé như thật. Thật tế của bốn đại tức không phải bệnh, nên nói không phải bốn đại. Không lìa là chúng sinh không hiểu rõ bốn đại như thật, nên khởi các bệnh. Do đó mà ứng thân đồng bệnh bốn đại, nên nói không lìa. Cho nên ngài Tịnh Danh nói: Vì bệnh chúng sinh từ bốn đại khởi lên mà có bệnh. Thế nên tôi bệnh, là chúng sinh do bốn đại tạo nên, cũng hiện thân do bốn đại tạo nên. Vậy bốn đại tức là việc gây bệnh. Nay khắp ước ba cõi, nếu ba cõi có bệnh thì ngài Tịnh Danh có đại bi này. Thể của bệnh không hình tướng cũng như hư không, tuy lại hiện đồng nhưng không hợp nhau với thân tâm ba cõi. Việc tạo nên bệnh vốn do đại bi, nào có liên quan chi đến bốn đại, cũng không lìa bốn đại, nên sinh ở ba cõi mà hiện bệnh quyền. Nên nói “thế nên tôi bệnh.” Cho đến tâm Kim cang ở vị pháp vân cũng thế. Tiếp hỏi bệnh thật trong nhân “Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi…”. Sở dó hỏi tiếp, vì từ trước đến đây là bệnh quyền nhân đâu lại đồng bệnh thật, vì có bệnh thật nên bèn phương tiện hiện đồng sự để trị bệnh. Thế nào là vì chúng sinh bệnh thật mà nói pháp, thế nào là an ủi ủy dụ bệnh thật Bồ-tát. Văn có hai: Hỏi về người tín hành. Hỏi về người pháp hành. Vì sao? Hỏi an ủi như thế nào? Ngài Tịnh Danh đáp dùng ba giáo để ủy dụ, tức là người tín hành. Từ đó lại hỏi làm sao điều phục. Ngài Tịnh Danh đáp: Dùng ba quán để điều phục, tức là người pháp hành. tín hành, tất phải nhờ ngoại duyên, luôn vì nói pháp, chỉ bày rõ ràng mới được ngộ, tức là hàng độn căn? Còn pháp hành thì không chuyên nhờ ngoại duyên, ít việc học hỏi nghe pháp, mà luôn quán hạnh để nhập đạo, tức là hàng lợi căn. Cũng chưa hẳn nhất định như thế, chỉ vì tín pháp hai hạnh xen nhau các Căn lợi độn, tánh chất không đồng. Ngài Văn-thù nhân đây đặt hai câu hỏi. Lại nữa, chúng sinh nhiều kiếp có lúc nghe pháp, có lúc tự tu, nên hỏi về ủy dụ và điều phục để xin nói ra ba giáo, ba quán. Nếu đem ba giáo mà thành kinh trên ở ngoài thất, tức là dùng Thông giáo để ủy dụ và từ Giả vào Không quán để điều phục, để thành việc nói pháp cho quốc vương, trưởng giả, chê trách hữu vi duyên tập. Nếu dùng Biệt giáo để ủy dụ, thì từ không vào Giả, quán để điều phục, mà thành việc chê trách vô vi duyên tập của mười đệ tử Phật. Nếu dùng Viên giáo mà ủy dụ, thì không giả một tâm ba quán, để điều phục là thành việc chê trách tự thể duyên tập của Bồ-tát. Nếu đem thành đoạn văn sau này, thì từ trên đã hỏi về bệnh quyền, lấy phẩm Bất Tư nghị làm gốc. Nay hỏi bệnh thật, nếu dùng Thông giáo mà ủy dụ và từ Giả vào Không để điều phục, thì lấy phẩm Quán Chúng Sinh làm gốc. Nếu dùng Biệt giáo để ủy dụ, từ không vào Giả để điều phục, thì lấy phẩm Phật Đạo làm gốc. Nếu dùng Viên giáo để ủy dụ, Trung đạo chánh quán để điều phục, thì lấy hai phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn và Hương Tích làm gốc. Nhưng chẳng dùng Tam tạng giáo, vì đây là nghóa Ma-ha-diễn. Khi chưa vào thất nói bốn giáo là để chiết phục chê trách việc mê đắm dục lạc của phàm phu Tiểu thừa. Nay vào thất nói ba giáo ba quán, chính vì muốn nhiếp thọ, phân biệt như trước. Nên biết một bộ kinh này nói ba quán bốn giáo, lời văn rất rõ ràng sáng tỏ, so trước nhìn sau các nghóa tương đương. Cùng một nhà dùng bốn giáo ba quán hơi giống. Cho nên trước ở huyền nghóa đã nói đủ bốn giáo ba quán, ý là ở đây vậy. Lược xét đã xong. * Nay ngài Văn-thù trước hỏi nói Bồ-tát ủy dụ Bồ-tát có bệnh như thế nào? Tức là mời nói giáo môn an ủi. Ngài Tịnh Danh đáp “Duy-ma…”. Văn có bốn: Ba tức là ủy dụ của ba giáo và bốn là kết thành. Nay nói ba giáo là chỉ an ủi ủy dụ Bồ-tát không lấy hàng Nhị thừa, vì không từ bi mà nhập hẳn vào Niết-bàn. Nên nay dùng Tạng Thông cùng thành một giáo để ủy dụ, các bệnh hữu vi kiến tư nội giới chưa đoạn hết, Bồ-tát có bệnh thật nhân quả phần đoạn, cho nên cần Tam tạng giáo giúp Thông giáo Đại thừa mà ủy dụ. Cũng được gồm dùng Biệt, Viên mà ủy dụ. Nếu nói Biệt giáo chính là ủy dụ Bồ-tát có hữu vi, vô vi duyên tập, vì họ có bệnh thật nhân quả Vô tri biến dịch, nên phải dùng Biệt giáo mà ủy dụ. Nếu nói Viên giáo, chính là để ủy dụ Bồ-tát có tự thể duyên tập, vì họ có bệnh thật nhân quả tự thể, nên dùng Viên giáo mà ủy dụ. Dùng Tạng, để giúp thông mà ủy dụ, là khuyên họ từ Giả vào Không quán tu tất cả trí tuệ nhãn. Văn có hai: Từ quả Giả vào Không. Từ nhân Giả vào Không. Quả là thân năm ấm vọng hoặc do ba thứ giả có nên gọi là quả giả, tức là bốn hành trong khổ đế, vô thường đứng đầu. Nói thân vô thường nhưng không nói chán lìa thân, là như Thanh văn quán thân vô thường, khởi chán lìa, mà bỏ xa sinh tử. Bồ-tát thì không thế. Họ quán thân vô thường hoặc tích hoặc thể để phá thường điên đảo, mà không nói chán lìa để phá tâm Nhị thừa Bồ-tát. Tuy biết vô thường niệm niệm tiêu mất nhưng chưa độ chúng sinh, chưa đủ Phật pháp thì trọn không buông bỏ. Nói thân có khổ mà không nói ham thích Niết-bàn, là Thanh văn quán khổ thì ham cầu Niết-bàn. Bồ-tát thì không thế. Họ hoặc tích hoặc thể hiểu khổ là Không khổ, để phá chấp lạc điên đảo, nhưng chưa độ chúng sinh, chưa đủ Phật pháp, thì trọn không thể nhập Vô dư Niết- bàn. Nói thân vô ngã mà nói giáo dẫn dắt chúng sinh, là Thanh văn quán thân vô ngã mà chứng diệt, không từ bi cứu độ chúng sinh. Bồ-tát thì không thế. Họ hoặc tích hoặc thể mà quán ngã giả nhập vào vô ngã, là phá mười sáu tri kiến chấp ngã điên đảo, không chấp nhận chúng sinh có tướng rốt ráo không, nên hay vì chúng sinh mà nói pháp vô ngã, như thế mà truyền dạy. Nói thân không tịch mà không nói tịch diệt rốt ráo. Vì pháp Thanh văn nhập chân thì rơi vào tịch diệt, Bồ-tát thì không thế. Họ hoặc tích hoặc thể nhập giả thật hai không, mà biết lý Trung đạo, không lấy thiên chân làm rốt ráo. Ấy là tuy còn từ Giả vào Không mà muốn vào Trung đạo làm dòng dõi không bỏ quần sinh. Cho nên vì Thanh văn quán khổ có khác, ý là ở đây vậy. Nói ủy dụ “Thuyết hối… quá khứ) khiến quán nhân Giả vào Không. Nhân tức Tập đế, các kết nghiệp đều là nhân của khổ. Hàng Nhị thừa vì Niết-bàn chỉ đoạn gấp các kiết mà không sám hối các tội đời trước. Vì ngài Thân Tử có tội nên không thấy Tịnh độ là ý ở đây vậy. Bồ-tát biết rõ tánh phiền não nên không vội vã đoạn kiết, mà vào ngay Niết-bàn, chỉ lấy sám hối làm đầu được tịnh các công đức nên ngài Loa Kế thấy tịnh, là ý ở đây vậy. Đây chính nói quán nhân Giả vào Không, nếu chỉ quán quả Giả vào Không thì không phải lìa hoặc bốn trụ, mà tội xưa không trừ thì nói làm chướng pháp môn công đức hóa tha. Bồ-tát vì độ chúng sinh ắt cần phải trừ tội, nếu không còn oán đối tức có thể được giáo hóa. Nên Bồ-tát giới cấm sát làm đầu, còn Thanh văn giới thì cấm không trái phạm hạnh làm đầu, là ý ở đây. Nay nói Bồ- tát tu từ Giả vào Không mà sám hối tội quá khứ, cho nên nói sám hối tội trước. Như Tỳ-đàm nói ba đời có tội từ vị lai đến hiện tại nhập vào quá khứ thành dây nhợ trói cột người tu. Hoặc Thành luận nói hai đời không tội chỉ tùy tâm ở hiện tại. Nay Bồ-tát quán vô sinh sám còn không có ba đời, huống là tội nhập vào quá khứ và ở hiện tại. Chỉ vì ở quá khứ điên đảo vọng tạo ra các tội. Nếu biết tâm ta tự không, tội phước không chủ, như đây mà sám hối thì các tội như sương mốc bị mặt trời tuệ diệt trừ. Thể Giả vào Không phá các vọng tội tạo ra từ xưa, nên nói sám hối tội trước ba đời trống không, nên không nhập vào quá khứ. Nói về dụng “Dó dó…”, nói dùng Biệt giáo mà ủy dụ vô vi duyên tập. Bồ-tát tự có bệnh thật nhân quả, hằng sa biệt hoặc, khiến từ không vào Giả quán phá vô tri, được pháp nhãn đạo chủng trí, thấy cơ nhập giả mà hóa vật. Văn có năm: Ủy dụ khuyên khởi Bi tâm. Khuyên pháp nguyện nhiêu ích chúng sinh. Khuyên tu phước tuệ. Khuyên sinh tâm mạnh mẽ. Khuyên tinh tấn không lui sụt. Nếu đủ năm điều này tức việc nhập giả quán đã thành, có thể lợi ích cho tất cả. Do biết bệnh mình mà thương xót bệnh người, nên trước khuyên khởi tâm bi. Vì sao? Vì hàng Nhị thừa không có tâm Bi chỉ chìm đắm trong không mà hưởng vui. Bồ-tát ra khỏi giả nên cần khởi đại bi. Hỏi: Bồ-tát tự mình có bệnh thì có thể thương người khác, mình đã không bệnh sao được thương người khác bệnh. Lại Biệt giáo tuy có vô minh trần sa cùng phần đoạn khác nhau, sao được lấy mình mà thương người khác? Đáp: Đây có hai cách giải: Bồ-tát khi đoạn bốn trụ chỉ có vô minh và tập liền nghó rằng: Ta nay bị bệnh vô minh còn thế huống chúng sinh cụ phược, sao có thể chịu được khổ nặng ở nội giới. Ấy là so mình nhẹ mà thương người nặng nên cần ra khỏi giả. Giả bệnh vô minh thì nhẹ, bệnh bốn trụ là nặng, sao được lấy nhẹ mà thương nặng. Phải biết đời trước đã trải vô số kiếp khổ, vì việc khổ xưa mà thương xót tất cả. Như kẻ nghèo hèn được làm vua do biết rõ mọi khổ vui của người mà nghó làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. b) Nói ủy dụ khuyên phát nguyện lớn, tức từ bi mà khởi thệ nghó muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tức là nhập giả thắng duyên, nhớ nghó việc tu phước, luôn nghó đến tịnh mạng. Nói ủy dụ khiến tu phước trí, khi đã vào Không thì không phước không mạng sống. Đây là nhập giả tu muôn hạnh, như trồng cây trên không trung. Tu phước, tức phước đức trang nghiêm, tịnh mạng tức trí tuệ trang nghiêm. Như Đại luận nói bốn thứ, năm thứ chánh mạng đều là việc này. Nếu không có chánh kiến thì tuệ mạng đều là, sao có thể thương người khác khiến không sinh ưu não. Nói ủy dụ khuyên sinh tâm mạnh mẽ. Nghe sinh tử vô lượng kiếp mà ý mạnh mẽ. Tâm Thủ-lăng-nghiêm mới có thể vào Giả hóa độ chúng sinh. Nếu sợ sệt buồn khổ hoặc lui sụt thì rơi vào Nhị thừa. Nên nói chớ sinh ưu não phải khởi tinh tấn. Ủy dụ khuyên tu tinh tấn: Bồ-tát có bệnh nếu muốn vào Giả, ắt cần tinh tấn không được nghỉ ngơi, chưa đủ Phật pháp Không được thủ chứng. Lại mới muốn gánh vác không nên biếng nhác. Đây tức là từ không vào Giả, lợi ích cho tất cả. Nếu nói không là chẳng có gì, không tu tinh tấn liền lui sụt rơi vào Nhị thừa, há có thể từ không vào Giả mà lợi ích cho tất cả. Nên làm vua thuốc trị lành các bệnh. Nói dùng Viên giáo để ủy dụ. Bồ-tát có bệnh thật tự thể duyên tập thì khiến tu không giả, một tâm ba quán mà được pháp nhãn Nhất thiết chủng trí. Nếu các phương tiện giáo thì đây không phải là thầy thuốc lớn, nên không gọi là vua. Viên giáo phát tâm làm ba đế Viên quán của Phật, nếu được khai Phật tri kiến là Đại y vương, hay viên tập các pháp dược mà trị bệnh cho cả pháp giới. Nên nói làm vua thầy thuốc trị lành các bệnh, bệnh mình bệnh người đều lành rốt ráo. Văn ủy dụ này nói đủ ý bốn giáo ba quán, vì lược bỏ mà văn chưa sáng tỏ. Đến đoạn giải thích về ba quán sau này, thì văn mới sáng tỏ đầy đủ. Kết thành “Bồ-tát… hoan hỷ”, tức là khuyên ba giáo để ủy dụ ba thứ Bồ-tát bệnh thật. Nếu nương vào giáo mà đoạn trừ ba thứ duyên trói buộc giải thoát về bệnh hoạn nhân quả ở ba cõi tức ai nấy đều vui mừng. ------------------------------------- <詞>PHẨM: THĂM BỆNH (Phần 3) * Tiếp, vì Bồ-tát bệnh thật hỏi quán pháp để điều phục “Văn-thù- sư-lợi nói…”. Lại có hai: Một là, Văn-thù-sư-lợi hỏi. Hai là Tịnh Danh đáp. Về hỏi, ý cũng như trước nói về pháp hành, đối chung hai hành giúp nhau phát triển nên hỏi. Ngài Tịnh Danh đáp “Duy-ma…”, chính căn cứ ba quán để điều phục. Vì sao? Vì ba quán phá ba hoặc, tức là tu ba trí ba nhãn để điều phục ba thứ bệnh thật nội giới của Thông biệt viên, cũng là điều phục bệnh thật nhân quả ba cõi. Văn có ba phần: Căn cứ từ Giả vào Không để điều phục bệnh kiến tu nội giới. “Vì không có chỗ thọ nhận…) là nói từ không vào Giả để điều phục bệnh vô tri. “Bồ-tát có bệnh tự nghóa…) là nói chánh quán Trung đạo để điều phục bệnh thật vô minh, nghóa của ba quán nói đầy đủ như ở huyền văn. Phần (a) lại lược nói về tướng của ba quán. Tam tạng giáo đã không thấy Chân không cần phải luận. Về Thông giáo thì ba quán chỉ dựa vào hai đế nên chỉ thành hai quán mà không có quán thứ ba, không phải là ý đáp hiện nay. Nay chỉ dựa vào Biệt, Viên giáo chọn lấy ba quán, thì có ba thứ: Biệt tướng. Thông tướng. Nhất tâm. Biệt tướng, (tướng riêng) lần lượt quán riêng ba đế, từ Giả vào Không chỉ được quán chân, còn không quán tục há được quán trung. Từ không vào Giả chỉ được quán tục cũng chưa quán Trung. Nếu nhập Trung đạo mới được song chiếu. Huyền nghóa đã nói đủ. Thông tướng, (tướng chung) có khác với đây. Từ Giả vào Không không phải chỉ Tục không, mà chân Trung cũng không. Từ không vào Giả không phải chỉ tục giả, chân Trung cũng giả. Nếu vào Trung đạo không phải chỉ biết Trung là Trung, tục chân cũng trung. Ấy là một không thì tất cả không, chẳng có giả trung nào chẳng không. Một giả thì tất cả giả, chẳng có không trung nào chẳng giả. Một trung thì tất cả trung, chẳng có không giả nào chẳng trung. Chỉ dùng một quán mà giải tâm đều thông. Tuy nhiên đây là tín giải giả thông, đến quán trừ bệnh đều có trước sau. Nhất tâm, biết tâm một niệm bất khả đắc bất khả thuyết mà luôn quán trọn cả ba đế. Tức kinh này nói: Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, thành tựu tất cả trí. Huyền nghóa đã nói đủ. Ba thứ tam quán này, ban đầu là tướng riêng chính ở Biệt giáo, tướng chung và nhất tâm là thuộc Viên giáo. Nay sáu phẩm trong thất chính là thuộc tướng chúng hoặc dùng nhất tâm. Sao biết được? Trước hết từ Giả vào Không, quán rằng: Chỉ có bệnh không, bệnh không cũng không. Đây giống như không ở Trung đạo. Lại phẩm Quán Chúng Sinh là từ Giả vào Không quán suốt ba đế. Xem văn mới thấy. Hỏi: Hai thứ ba quán này đều là Viên, sao lại là hai? Đáp: Thông tướng căn cứ chung. Luận Viên e là Phương đẳng kèm phương tiện của Viên, không đồng với Pháp hoa. Nay nói từ Giả vào Không quán, cũng gọi là quán hai đế, tức là tu tất cả trí tuệ nhãn. Văn có ba: Một là Quán chúng sinh Giả Không. Hai là, Quán thật pháp Giả Không. Ba là, Quán bình đẳng Giả Không. Quán chúng sanh giả không: Văn kinh hoàn toàn giống như phân tích giả. Vì sao? Trước phá ngã tưởng và chúng sinh tưởng là chúng sinh Không. Kế đến phải khởi pháp tưởng, là riêng tu pháp Không. Đây trái với dụ hình ảnh ngón tay và nắm tay trong gương. Nay nói không phải thế. Đây có ý riêng. Nếu người Thanh văn chỉ cầu tự độ thì tướng chung phá người tức là phá pháp Không. Bồ-tát vì hóa độ chúng sinh mà có tướng chung tướng riêng. Nếu tướng chung chỉ thể nhập ba giả đều như huyễn hóa. Về tướng riêng mà quán vào Không, trước cần phân biệt chúng sinh, Thật pháp, bình đẳng Không nhầm lẫn, sau đó mới quán Không. Vì sao? Vì Bồ-tát tập họp pháp dược cần phải phân biệt kỷ, vì phải phân biệt thuốc và bệnh để làm phương tiện. Do đó Đại luận giải thích việc Bồ-tát dùng đạo chủng tuệ để vào Không, là khắp phân biệt các đạo mới vào Không vậy. Cho nên kinh này nói tuy trước quán chúng sinh vào Không mà lại cần phải khởi pháp tưởng. Đoạn văn sau nói: Lấy gì làm Không? Chỉ lấy danh tự nên không. Nếu nói chỉ lấy danh tự, tức là như huyễn như hóa là ý thể Giả nhập không. Trước nói chúng sinh Không, văn có ba: Chính nói phá chúng sinh Giả vào Không tức là căn cứ nhân mà phá quả. Giải thích là ước quả phá nhân. Kết thành. Đời trước vọng tưởng tức là vô minh và hành thường chiêu cảm năm quả thức… đời này, nếu có quả này tức là có bệnh. Do nhân hư vọng, quả báo không thật, lý đúng là hư giả trong ấy không có ngã, nên nói ai thọ nhận. Văn này cũng không phán xét tích thể. Nay so nghóa văn dưới, suy ra phần nhiều là dùng thể giả. Giải thích “Sở dó… sinh đắm trước”, tức là dùng quả phá nhân, quả tức là thân này là bốn đại không chủ. Vì không chủ nên vô ngã. Phá bốn đại, như trước đã dựa theo thỉnh Quan Âm nói. Nói dùng quả phá nhân là kinh nhắc lại mà giải thích rằng: Lại bệnh này đều do đắm trước ngã. Do mê quả này mà chấp ngã tức là si, thuận theo ngã tức là tham, trái ngã liền sinh sân, tức ái, thủ, hữu cho nên có sinh tử ở vị lai, các khổ không dứt. Nếu biết vô chủ thì không chấp ngã và khởi ái, thủ, hữu, nên nói là dùng quả phá nhân. Kết thành “Đã biết… sinh tưởng”, nếu biết vọng chấp là gốc bệnh, tức là trừ ngã tưởng và chúng sinh tưởng. Nếu tưởng ngã nhân diệt thì mười sáu tri kiến và sáu mươi hai kiến, tất cả thuộc kiến phiền não đều diệt, tức là quả Tu-đà-hoàn trí đoạn, là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn. Tiếp nói về pháp Không “Đương khởi…”. Văn có ba: Phân biệt pháp. Phá trừ. Giải thích. Phân biệt pháp. Bồ-tát vì lợi ích chúng sinh, trước phân biệt pháp tướng rồi mới nhập không. Nên Đại luận nói: “Trước dùng pháp trí phân biệt các pháp, sau đó mới dùng trí Niết-bàn.” Do đó nhập quán chúng sinh Không rồi lại khởi pháp tưởng phân biệt các pháp, sau đó mới có thể nhập pháp mà vào Không. Như ngài Thân Tử lợi căn nhập kiến đạo xong liền mới có thể đoạn kiết mà thành quả A-la-hán. Dừng lại bảy ngày để theo Phật làm tướng chuyển pháp luân. Nên cần ở bậc Hữu học khắp biết các pháp người học phải làm, rồi mới chứng La-hán. Nay Bồ-tát muốn quán pháp từ Giả vào Không, trước phải khởi pháp tưởng. Chỉ vì các pháp họp thành thân này, tức trước phân biệt các pháp nhân duyên, đó là hai nhân ở quá khứ mà thành năm quả ngày nay, do các pháp ấm, nhập, giới tạo thành thân giả danh, cũng là pháp mười pháp giới. Sao biết được? Vì thân chúng sinh đầy đủ sáu đạo, sau phá Niết-bàn tức phá bốn thứ người tu chấp Niết-bàn. Khởi chỉ là pháp khởi, là ấm, nhập, giới chỉ là pháp sinh trong ấy không có ngã kiến khởi khiến diệt. Lại hiểu khởi là chỉ là pháp khởi, là pháp khởi nhân quả sáu đường. Diệt chỉ là pháp diệt là bốn thứ Thánh nhân được hai thứ Niết-bàn, tức là pháp diệt nhân quả tam giới. Lại pháp này, là mỗi thứ đều không biết nhau, là sắc không biết tâm, tâm không biết sắc. Nhập, giới đều như thế mỗi thứ không biết nhau. Vì sao? Vì các pháp vô tánh, vô tri giả kiến giả. Do đâu mà biết, lúc khởi không nói ngã Khởi. Trước nói “Không biết” là đều không biết nhau. Nay nói các pháp vô tánh không biết nhau khởi lên, tuy có pháp khởi nhưng không có tánh mình và người, hư giả không thật, khi diệt không nói là ngã. Nghóa diệt cũng thế. Nói phá trừ pháp tưởng “Bỉ hữu bệnh… Niết-bàn…” , là diệt pháp tưởng, là biết pháp tưởng điên đảo, là tai họa lớn. Không có pháp mà sinh pháp tưởng tức là điên đảo. Đây tức là thể nhập như huyễn hóa. Không đồng với người số luận pháp tưởng tức là si, trái và thuận tức là tham và sân. Nhân đó có mười sử, chín mươi tám sử, các nghiệp thiện ác khởi lên tức có bệnh thật nhân quả phần đoạn, nên nói tức là “tai họa lớn.” Cho đến chấp có bốn hạng người Niết-bàn, đều là tai họa lớn. Ta phải nên lìa bỏ, là lìa các pháp tưởng hai biên điên đảo. Đây có hai nghóa: Biết pháp được phân biệt đều như huyễn hóa mà được lìa pháp tưởng. Biết do tâm thì có phân biệt. Nếu thể nhập nội tâm tùy lý ba giả tạo thành không có mình người… Huyền nghóa đã nói từ Giả vào Không, bốn mươi tám lần phá kiến tức không có có, không… bốn kiến pháp tưởng. Lại dùng chín trăm bảy mươi hai lần phá tư, tức là tư duy pháp tưởng trong tam giới hoàn toàn hết. Đó là quả Tư-đà-hàm cho đến A-la-hán trí đoạn, đều là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn. Tức là thể pháp giả nhập không. Thế nào là lìa, lìa ngã, ngã sở, nội tâm pháp tưởng là ngã, chấp mười pháp giới là sở. Nếu thể nhập nội tâm hay khởi pháp tưởng điên đảo huyễn hóa không có mình người… Như trước phá, tức là lìa ngã. Nếu hiểu mười giới huyễn hóa hư giả không mình người… tức là lìa sở. Thế nào là lìa ngã, ngã sở…, trước ước lìa năng quán ngã là nội, lìa sở quán ngã là ngoại, gọi là Không nghó hai pháp. Trong đây tức sinh tử nội giới là nội, Niết- bàn ngoại giới là ngoại, gọi là Không nghó hai pháp. Nếu hai biên đều không, thì gọi là bình đẳng, tức là thể giả nhập pháp Không, nghóa là ngã bình đẳng Niết-bàn bình đẳng như trước đã nói. Tâm hay khởi pháp tưởng là ngã. Ngã này tức không, Niết-bàn là sở, sở cũng tức không, lý không chẳng hai, tức là bình đẳng vậy. Cũng nên nói rằng sinh tử là sở. Niết-bàn còn không huống là pháp sinh tử. Giải thích “Sở dó… định tánh”, ngã và Niết-bàn là hai thứ đều không, tức là từ thể nhập pháp hai biên là giả để vào Không. Lại nhắc lại giải thích nói chỉ vì danh tự nên là Không. Hai pháp Không có tánh nhất định. Đây chính là hiển bày thể nhập pháp giả không, chính ý là ở đây. Nên trước phán xét cái quán đầu này là thể nhập cái không của Đại thừa. Vì danh tự rỗng không, nên tánh không quyết định, tức là sinh tử và Niết-bàn đối đãi nhau mà có danh tự, không có pháp nhất định là sinh tử hay Niết-bàn. Tìm xét bốn trường hợp. Nếu bất khả đắc mà nói hai pháp là chỉ có danh tự không có tánh quyết định. Cuối cùng nói bình đẳng Không “đắc thị… diệt không”. Tức là thể nhập bình đẳng giả để vào Không. Nói bình đẳng là sinh tử hữu vi, Niết- bàn vô vi, e pháp khác nhau nên không bằng nhau, nay hai pháp đều không, chẳng có hai tướng khác nhau tức gọi bình đẳng. Nếu còn bình đẳng thì không phải là Bình đẳng Không. Như còn sinh pháp thì không phải sinh pháp Không. Đắc là bình đẳng chỉ có không bệnh là đẳng tức là thể nhập bình đẳng giả để vào Không. Sở dó bình đẳng là giả là đối đãi với bất bình đẳng mà có bình đẳng, tức là giả đối nhau. Tìm xét bốn trường hợp. Nếu bất khả đắc chỉ có danh tự, mà danh tự tức Không, tức là thể nhập bình đẳng Giả Không, bệnh không cũng không. Hỏi: Đây là trái với kinh Anh Lạc nói: Từ Không vào Giả mới là bình đẳng. Vì sao lại lấy quán đầu nói là bình đẳng Không. Đáp: Bồ-tát lợi căn nếu không được sinh tử biết Niết-bàn cũng không, có thể xa phá bệnh trệ không, gọi là bình đẳng Không. Đây có hai thứ: Thông giáo vào Không, chưa phát khởi chân trí, vọng chấp Niết-bàn sinh ra hý luận. Đây như Đại luận phá Đệ nhất nghóa không, dẫn Tỳ-đàm hữu duyên vô vi sinh sử. Biết bệnh không cũng không tức là chẳng có bệnh không. Thấy Đệ nhất nghóa là ý của Thông giáo. Biệt và Viên giáo không thế. Nếu thấy thiên chân mà khởi nhiễm trước là Không thể vào Giả, như trụ ở hóa thành nên gọi là bệnh không. Biết không cũng không tức là Trung đạo. Lại nữa, nếu nói ngã đẳng… tức sinh tử không, Niết-bàn đẳng… tức chân đế không, bệnh không cũng không, tức là vọng chấp, Trung đạo bệnh không cũng hết. Xem ý văn tức như thế. Quán này tức tướng chung vào Không, chẳng phải chỉ giả không mà Trung chân cũng không. Quán đầu tuy như thế nhưng vị và hạnh sau cùng từ Giả vào Không, há biết không của Trung như vô minh tức đoạn giống như Thanh văn ở đạo phương tiện chưa vào chánh vị. Tuy hư tâm phá không nhưng thật chưa thấy Đế. Xét kỷ ý này cùng với ủy dụ lần đầu ý đồng. Phần (b) từ Không vào Giả “ là có bệnh…”, từ không vào Giả để điều phục bệnh vô tri. Quán này chính là điều phục bệnh thật vô tri nội ngoại giới, cũng gọi là bình đẳng quán, tức là tuy pháp nhãn đạo chủng trí. Đây chính là Phật đạo phẩm làm gốc. Vì không chỗ thọ nhận tức vẫn là Không quán nói trên đã đoạn các thọ nội giới. Sở dó nhận các thọ này vì hóa độ các chúng sinh ái kiến. Xuất giả có ba thứ: Từ Niệm xứ tương tợ Không mà xuất. Vì sao? Vì Bồ-tát có tâm hóa vật thì nặng mà tự lợi thì nhẹ. Vì từ bi nặng nên không lo việc đoạn kiết. Từ tương tợ không, liền khiến xuất giả, kiến tư chưa đoạn nên nói có bệnh. Từ kiến Đế trọn không lui sụt bèn xuất giả. Tư hoặc chưa hết, tức là có bệnh. Đoạn kiến tư hết rồi mới xuất giả. Thông giáo ngang đây. Đây mới là Không có chính bệnh ở tam giới, cũng còn tập khí vô tri cũng là có bệnh. Như Biệt giáo nhập vào vô lượng Tứ đế, Giả của trần sa nên gọi là nhập giả. Chỉ Biệt, Viên đều có quán nhập giả. Nay lấy Thông giáo mà đoạn hết phần đoạn, chính là ở Biệt giáo xuất giả. Nên nhờ thông mà hiển bày, không phải là dùng Thông. Nhưng Thông giáo thì Biệt hoặc, kiến tư, vô minh cũng chưa hết, nên Biệt, Viên cũng còn đầy đủ có bệnh ngoại giới. Trước nói nhập không đã thể nhập ba Giả. Nay nói vào Giả lại nhập ba Giả. Phần nhập giả ủy dụ thứ hai của Biệt giáo trên thì văn kinh có đủ năm phần, nay phần quán điều phục thứ hai thì văn cũng đủ năm. Tuy không có thứ lớp Đại ý vẫn gần đồng. Văn đủ năm phần là: Vì không chỗ thọ mà thọ các thọ, đây là người có Thần căn lợi nên có thể xuất Giả. Chưa đủ Phật pháp Không nên diệt thọ mà thủ chứng, ấy là người đại tinh tấn, thường vì chúng sinh rèn tập Phật pháp. Giả sử thân có khổ, phải khởi Bi tâm tức là đại bi. Mình đã điều phục, vậy nên điều phục người khác, tức là nguyện lớn. Thường điều phục được tuệ lợi ích, tức tâm mạnh mẽ. Nay giải thích vì không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ. Nếu Niệm xứ, Noãn, Đảnh, phương tiện phục kiến thì gọi là Không chỗ thọ. Nếu kiến Đế thì một khi thọ nhận không lui sụt mà thường vắng lặng. Không thọ sáu mươi hai kiến gọi là Không chỗ thọ. Đoạn kết kiến tư rồi vị bằng A-la-hán. Nên Pháp Hoa có nói: Đối các pháp Không thọ nhận đều thành A-la-hán. Trí đoạn là Bồ-tát vô sinh, tức là thật không chỗ thọ. Như đối với ngoại giới cũng còn gọi là thọ, không hại chi đến kiến tư tam giới, đã đoạn tùy phần thì gọi là thật không chỗ thọ. Đại Phẩm nói: Không thọ có năm, đó là thọ, không thọ, không thọ cũng không thọ cho đến không phải thọ, không phải Không thọ, cũng không thọ, không thọ cũng không thọ. Bốn thứ trước là phá ngã tức không thọ sinh tử mà được nhập Niết-bàn, một thứ sau là Không thọ Niết-bàn tức hay nhập giả. Bồ-tát từ bi nên cần phải cứu độ. Thế nào là Không thọ mà thọ Niết-bàn, vì cần phải nhập giả thọ các thọ ấy, nên nói chúng sinh bệnh thì ta bệnh. Chúng sinh nếu lìa các thọ kiến tư thì ta cũng lìa. Nên nói chúng sinh bệnh lành thì bệnh ta lành. Là nghóa ấy, nên dùng không thọ mà thọ các thọ. Thọ gồm có ba: Một là Thọ của phàm phu. Hai là, Thọ của Nhị thừa. Ba là, Thọ của Bồ-tát. Thọ phàm phu, là thuộc ái thuộc kiến, ái kiến đều có thiện ác. Nếu thọ thuộc ái ác, tức là Ma-la ưa sinh tử, khởi ba độc, mười sử, phỉ báng phương đẳng, ngũ nghịch, tứ trọng tội, thập ác, ba đường dữ… các thọ này, là Bồ-tát dùng không chỗ thọ mà thọ nhận các ác này. Như Điều-đạt, Bà-tẩu chịu nghiệp trọng tội bị khổ ở địa ngục cho đến nhận các khổ ngạ quỷ súc sinh. Nếu thọ thuộc ái thiện, từ ái phiền não mà khởi thập thiện, mười hai môn thiền có quả báo Tu-la, nhân, Thiên phương tiện gần gũi mà dạy dỗ dẫn dắt. Thọ thuộc kiến cũng có hai thứ: + Nhân kiến mà tạo ác như Ni-kiền kiến. + Nhân kiến mà tạo thiện tức là Phạm chí thấy Bồ-tát. Thật ra không phải chín mươi sáu thứ ngoại đạo mà do thương các chúng sinh thuộc kiến, nên nhận lấy các kiến thiện ác, hòa quang nhưng không đồng trần mà hóa độ. Thọ Nhị thừa. Tức là thọ thuộc hai thừa, Tạng, Thông một là thọ bốn môn của Tam tạng giáo. Thấy hữu mà được đạo như Tỳ-đàm. Bồ- tát nhập không biết sinh sinh bất khả thuyết, há có sinh diệt để thọ nhận vì đáng dùng môn này mà được độ mà thọ các thọ ấy để rồi nói pháp, làm luận Tất-đàn lợi sinh. Thọ Không môn như Thành luận nói: Thấy không mà được đạo. Bồ-tát từ lâu biết sinh sinh bất khả thuyết, há có tích sinh và pháp hai không cho đến diệt ba tâm Niết-bàn có thể thọ. Vì tiếp môn này mà vào đạo thọ lấy để làm luận và Tất-đàn lợi sinh. Thọ “cũng có cũng không” như Côn Lặc luận. Còn môn thọ chẳng phải có chẳng phải Không thì như vì Xa-nặc mà nói lìa có không. Hai là thọ Nhị thừa của Thông giáo. Đây là ước mười dụ để nói về bốn môn, như phẩm Quán Pháp của Trung luận đã nói. Nên Đại luận khen Bát-nhã rằng: Bát-nhã như lửa nóng bốn bề không thể lấy. Bồ-tát từ Giả vào Không từ lâu mà biết bất sinh sinh bất khả thọ bất khả thuyết, chỉ vì chúng sinh căn tánh có bốn môn này, mà nhập giả thọ lấy để làm luận thuyết pháp, dùng bốn Tất-đàn mà giáo hóa hàng Nhị thừa. Thọ của Bồ-tát, Bồ-tát từ Giả vào Không biết bốn bất thọ bất khả thuyết bốn giáo Đại thừa. Vì có bốn thứ căn tánh Đại thừa từ không vào Giả mà thọ mười sáu môn của bốn giáo, hóa độ bốn căn tánh, dùng bốn Tất-đàn nói pháp làm luận mà độ thoát. Hỏi: Nếu vào Giả thọ bốn môn của Viên giáo thì cần gì quán thứ ba? thích. Đáp: Quán kinh này ý cần dùng Thông tướng nhập giả mà giải Nói tinh tấn thường đủ Phật pháp: “Chưa đủ… thủ chứng”. Bồ-tát lợi căn từ không nhập giả, tuy luôn dùng không chỗ thọ mà nhận các thọ, như trồng cây trên không trung, nhưng nếu không có sức đại tinh tấn thì không thể ở trong các thọ mà thành tựu tất cả Phật pháp. Như người lười biếng dẫu có đồ đạc mà chẳng làm gì nên. Nếu đại tinh tấn thì như Thái tử Đại thí “không” như biển lớn. Như kinh Hoa Nghiêm nói: Bậc Thất địa muốn chìm đắm không, chư Phật không chấp nhận điều đó, mà khuyên phát khởi sức đại tinh tấn, nên Bồ-tát nhập giả. Chưa đủ Phật pháp nên khuyên tinh tấn không nên thọ diệt thủ chứng. Nay nói đầy đủ Phật pháp, là lại căn cứ vào ba thứ thọ của tất cả pháp. Một, nói về thọ phàm phu đủ tất cả pháp là ước thọ thuộc ái kiến. Thọ thuộc ái ác như trước đã nói, thọ các thọ này là tu đủ tất cả pháp. Bồ-tát đối với các thọ bất thiện mà biết bệnh biết thuốc. Biết bệnh tức là biết khổ tập, biết thuốc tức là biết đạo diệt. Biết bốn điều chẳng thể nêu bày mà thông suốt Tứ đế, tức là hành phi đạo mà thấu suốt Phật đạo. Đạo bất thiện này tức giống Như Lai dùng bốn Tất-đàn tự hành hóa tha, đầy đủ như ở Phật đạo phẩm… Kế nói về thọ ái thiện, đầy đủ Phật pháp thì cũng như trước đã giải thích. Đối với thiện thọ này hay biết thiên văn địa lý, sách sử phê-đà, ngũ minh, lục nghệ luận về thập thiện của Luân vương, Thần tiên có ngũ thông, luận về các thiện của Thích Đề-hoàn Nhân, luận nói các Phạm thiên vương ra khỏi cõi Dục, không thứ nào không biết. Lại đối pháp này mà biết bốn điều chẳng thể nêu bày như nói trong ác trước. Sau lại nói thọ thuộc kiến về thọ ác thọ thiện. Đem tà tướng vào chánh pháp mà tu tất cả Phật pháp cũng như thế. Thọ của Nhị thừa đủ tất cả Phật pháp, tức bốn môn của Tạng Thông đều biết bốn điều chẳng thể nêu bày như đã nêu trong ác trước. Thọ của Bồ-tát đủ tất cả Phật pháp. Bồ-tát bốn giáo như trước nói. Bồ-tát biết bốn điều chẳng thể nêu bày, nhập giả lợi ích quần sinh. Bồ-tát của Tam tạng giáo có môn sinh diệt Tứ đế, khởi bốn hoằng thệ nguyện, suốt a-tăng-kỳ kiếp hành hạnh lục độ, đủ tất cả pháp mà ở sinh diệt Tứ đế, thấu suốt ba thứ Tứ đế tự lợi lợi tha. Ba môn kia cũng thế. Mười hai môn của Thông Biệt, Viên cũng như thế. Nếu thọ cái thọ phàm phu mà chưa đủ Phật pháp thì không được diệt để thủ chứng. Cho đến thọ của Bồ-tát cũng thế. Kinh Hoa Nghiêm chê bậc Thất địa chìm đắm trong không, là ý ở đây vậy. Kinh Anh Lạc nói: Bậc Đẳng giác trong vô lượng trăm ngàn vạn kiếp nhập Trùng huyền môn, tu việc phàm phu, tức là chưa diệt thọ phàm phu mà thủ chứng. Thọ phàm phu còn thế. Còn thọ Nhị thừa Bồ-tát chưa đủ Phật pháp sao được diệt mà thủ chứng. Nói nhập giả khởi bi: “Thiết thân… đại bi tâm”, nhập giả tinh tấn, học Phật pháp đầy đủ, vốn vì hóa tha. Nếu tâm đại bi ít, thì tâm tinh tấn yếu, nên cần phải tu nhiều tâm Bi. Giả sử thân có khổ. Nếu là niệm xứ… xuất giả, phục hoặc chưa đoạn, nếu vào sinh tử bị khổ ép bức thân mà sinh hối hận. Nếu đoạn kiết thấy chân hoặc tự ích kỷ ham muốn vào Niết-bàn mà buông bỏ tinh tấn. Nên khuyên thương các ác thú, từ vô lượng kiếp đến nay không biết chân, chính vì chìm đắm trong biển khổ. Nay được niệm xứ noãn đảnh mà biết không, khổ còn khó chịu nổi, huống là đám người ấy. Cho đến thấy Đế mà xuất giả. Nay có tư duy, khổ còn khó chịu huống là đủ các phược trong ác thú. Cho đến đoạn hết kiến tư mà xuất giả. Nay chỉ có rèn tập, khổ còn khó chịu nổi, huống là phàm phu tam giới… Khi nghó như thế thì đại bi lần lượt tăng trưởng, nên cam tâm mà chịu khổ, gánh vác chúng sinh, tinh tấn xuất giả, đủ như trước đã giải thích. Lấy bệnh mình mà thương bệnh người, ý này đồng. Nói về nguyện lớn: “Ta đã…”. Văn có bốn: Đáp lại bổn nguyện hóa vật. Lấy bỏ. Chánh hóa vật. Truyền giải thích. Nói đáp lại bản nguyện “Ta đã… chúng sinh”. Vì sao? Vì lời nguyền từ bi độ sinh, chỉ vì trị bệnh bên trong còn nặng, chưa hoàn thành xong pháp hóa tha. Nay cần tu hai quán, để điều phục chấp tướng phá trừ vô minh, làm cho giảm bớt hoặc dứt hẳn, nên nói ta đã điều phục. Vì bổn nguyện độ vật, nay cần điều phục tất cả chúng sinh, chỉ trừ bệnh mà không bỏ pháp. Nói về lấy bỏ. Có thầy nói: Như mắt bệnh thì thấy hoa đóm. Khi bệnh lành thì hoa đóm không còn. Chúng sinh cũng thế, vọng thấy các pháp, khi vọng hoặc đã diệt thì không còn pháp nào để dẹp trừ. Đây là vốn không pháp sao cho là trừ pháp. Nay nói tất cả chúng sinh đủ các pháp ở mười giới, vì vô minh không hiểu tùy chỗ gặp mà bệnh sinh. Nếu có trí tuệ vô ngại tự tại thì tất cả đều là Phật sự. Ví như lửa là pháp đốt cháy, nếu gặp liền đốt, cũng như bệnh, cẩn thận không chạm đến tức là trừ bệnh, đâu thể trừ lửa. Trừ lửa tức là mất công năng làm ấm thân, chiếu sáng và tạo thức ăn. Về mười hai nhân duyên ở ba đường cũng thế. Đây có pháp lấy bỏ không đồng với việc dẹp trừ. Lại lửa có công năng đốt cháy, người có pháp thuật thì ra vào tự do không cần phải trừ lửa. Cho nên tám vạn bốn ngàn phiền não đối với phàm phu là bệnh nặng, còn đối với chư Phật, Bồ-tát thì xem đó đều là Phật sự. Cũng như trị mắt là bỏ bệnh mà để nguyên tròng mắt, vì trị gốc bệnh mà dạy dỗ dẫn dắt. Chính nói về hóa vật: gốc bệnh tức là một niệm vô minh chấp tướng. Nên kinh Hoa Nghiêm nói: Trong tam giới không riêng có một pháp nào, chỉ là một tâm tạo ra. Nay nói chỉ là một niệm vô minh chấp tướng do tâm tạo ra, đây tức là gốc bệnh của tam giới. Nếu biết vô minh không khởi, thì chấp có liền hết, nên không tạo thứ mới, tức là đoạn được gốc bệnh. Truyền giải thích “Sao gọi gốc bệnh…”. Văn đây lại có hai phần: Một là, Giải thích nêu ra gốc bệnh. Hai là, Giải thích giáo hóa đoạn trừ. Giải thích thế nào gọi là gốc bệnh. Phan duyên chỉ là vọng niệm chấp tướng vô minh. Hành ở quá khứ hợp với ái, thủ, hữu ở hiện tại, họp với phan duyên ở quá khứ làm gốc bệnh ở hiện tại; phan duyên ở hiện tại làm gốc bệnh ở vị lai. Phan duyên với cái gì, đó là phan duyên với tam giới. Phan duyên ở quá khứ hiện tại đều duyên với tam giới. Nếu lìa tam giới thì không có duyên nào khác. Giải thích giáo hóa đoạn trừ “Hà… vô sở đắc”, tức tâm không thể được là Không tuệ vô tướng, không được một niệm vô minh chấp tướng tam giới, tức tâm không chỗ được, các phan duyên đều dứt, như kinh nói không có chỗ phan duyên, gọi hai kiến là ngã và Niết-bàn hai thứ này đều không tức là tâm nội ngoại kiến đều không chỗ được. Nếu tâm không chỗ được thì mọi vô minh chấp tướng, phan duyên đều dứt, thì nước tâm thanh tịnh, tướng châu tự hiện ra. Nếu được tâm thanh tịnh luôn nhất như thì có thể thấy được Bát-nhã. Đó là yếu đạo của việc hóa vật. Nói về tâm mạnh mẽ: “Văn-thù…”. Kết giải thích bốn thứ trước. Văn có hai: Một là Chánh kết giải thích. Hai là, Thí dụ làm sáng tỏ. Chánh kết: Ấy là Bồ-tát có bệnh điều phục tâm mình, là kết từ không vào Giả để điều phục tâm, tu tất cả Phật pháp, là kết hay lợi ích tất cả chúng sinh. Như kinh Kim Cang Bát-nhã có nói Bồ-tát điều phục tâm mình diệt độ vô lượng chúng sinh mà thật không có chúng sinh được diệt độ, tức là nghóa này. Vì đoạn khổ, lão, bệnh, tử là Bồ-đề của Bồ-tát. Bồ-đề nói là đạo. Nếu không lợi vật tức là đạo của Nhị thừa Bồ-đề, gọi là đạo, Tát-đỏa gọi là thành chúng sinh. Nếu không thế là Không có tuệ lợi, chúng sinh không được pháp thí tuệ lợi, đối với vật không có lợi ích lớn để ra khỏi sinh tử. Nói thí dụ để hiển bày “Thí như thắng giặc dữ”, Bồ-tát tâm lợi vật rất mạnh mẽ. Tâm ái kiến hay dạy chúng sinh vào ma ngoại, tức là chúng sinh vào oán đạo, Bồ-tát hay đoạn kiến tư là thắng giặc dữ. Gồm trừ là gồm nói chưa chánh thức, Bồ-tát chưa hết các kết hoặc pháp giới, do đó cần tự hành phụ thêm gồm lợi vật, nên nói gồm trừ. Lại gồm trừ là ở nhân mà gồm trừ các chúng sinh sinh tử, khi thành Phật thì đoạn trừ rốt ráo. Phần (c) Nói Bồ-tát có bệnh “Người ấy có bệnh…”, Bồ-tát có bệnh thì dùng Trung quán để điều phục, hai quán trước làm phương tiện quán này tức là trí Bồ-đề của Phật, để đoạn bệnh thật vô minh tự thể. Nên kinh Thắng-man nói “Vô minh trụ địa công lực lớn nhất, chỉ có trí Bồ-đề của Phật mới đoạn được. Nhân đó mà phát chân, khai phát tri kiến, cũng gọi là Nhất thiết chủng trí, cũng gọi là Phật nhãn. Ấy là dùng phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn làm gốc, đầy đủ như ở huyền nghóa. Tu vị quán này ước giáo có ba. Về Thông giáo thì bậc lục địa đoạn được bốn trụ, thất địa đoạn các trần sa, bát địa đạo quán song lưu. Nếu Biệt giáo tiếp theo Bát địa của Thông giáo thì tu Trung đạo để trị bệnh vô minh, bậc Địa thứ chín thì tương tợ giải thoát gọi là Văn kiến, bậc Thập địa thì phát chân gọi là nhãn kiến. Về Biệt giáo, thì bậc Thập trụ đã đoạn bốn trụ, thập hạnh trừ hết trần sa, nhân giải hạnh trước mà được tu quán này. Thập phẩm thì tương tợ giải thoát tức là hồi hướng. Bát địa Phát chân phần phá vô minh, đạo quán song lưu, vào biển Tát-bà-nhã. Về Viên giáo, bậc năm phẩm tức tu quán này, nếu sinh tương tợ giải thoát thì được sáu căn tịnh, nếu luôn phát chân thì liền nhập sơ trụ, đoạn bệnh thật vô minh, đạo quán song lưu, tự nhiên lưu nhập. Cho đến bậc Đẳng giác, vô minh chưa hết, đều gọi là có bệnh. Lấy Biệt tiếp thông và đoạn phục Biệt giáo đều là phương tiện. Nay hạnh sơ phát tâm sinh tu cho đến ngồi dưới cội Bồ-đề, cho nên hàng sơ tâm của Viên giáo liền học Trung quán. Văn có hai: Một là, Chính nói về Trung quán. Hai là, Đạo quán song lưu. Phần một có hai: Nói về quán thể và Chọn phi. Phần nói về quán thể lại có hai: Nói về tự quán. Nói về quán chúng sinh. Nói về tự quán: Như bệnh ta đây không phải thật không phải có, là nói về tự quán pháp thân có bệnh vô minh tự thể. Không phải chân, không phải Không, không phải hữu, không phải giả. Lại không phải chân, là Không phải từ Giả vào Không để trị bệnh. Không phải có là Không phải trị bệnh từ Không vào Giả. Cho nên hai phương tiện trước không phải là chánh quán. Nhân hai thứ không ấy nay nhập Trung đạo. Bốn trường hợp xét kiểm vô minh rốt ráo không thể được, tức biết tánh vô minh tức là minh. Minh cũng không thể được. Ấy là nhập pháp môn bất nhị, tức là thấy thật đế Phật tánh như hư không, gọi là quán Trung đạo. Huyền nghóa có nói đủ. Quán như thế là phá bệnh vô minh mê thật đế. Bệnh chúng sinh không phải chân, cũng không phải có. Nói về quán chúng sinh. Khi tu quán này không phải chỉ tự biết bệnh không phải Chân không phải hữu, mà biết chúng sinh cũng thế. Đó là quán bệnh căn bản chúng sinh. Vì sao? Vì chúng sinh xưa nay cùng Bồ-tát không phải chân, không phải hữu, nhất như bất nhị, không sai khác nhau. Chúng sinh vì mê nên đọa vào hai thứ sinh tử, Bồ-tát quán chiếu thấu suốt mười giới đều có bệnh vô minh Trung đạo, cho nên mình người bệnh đồng, là chân thể một vô minh. Lấy đây mà ng- hiệm biết kinh này Quán trung, thì chẳng giả không nào chẳng trung Nói về chọn phi, có ba:. Một là, căn cứ ái kiến đại bi. Hai là căn cứ thiền định. Ba là căn cứ hai trí. Ba phi này chính là chọn trong hai thứ trang nghiêm pháp thân. Một căn cứ ái kiến đại bi: Nếu quán Trung đạo mà sinh ái kiến thì không thể song chiếu hai đế, nếu chiếu hai đế thì cũng không thể chiếu được Trung. Nay quán Trung đạo mà không sinh ái kiến, nếu chiếu Trung đạo liền có thể song chiếu mà không mất Trung đạo, tức là một tâm ba quán, tức là chánh thể của quán chân trung. Đây là ái kiến chánh ước với Trung đạo. Như căn cứ hai đế thì thuộc hai quán trước. Nếu nói theo ba đế quyền thật, thì đây là tự hành quyền thật. Vì sao? Vì tự hành chiếu thật đế là thật, chiếu hai đế là quyền. Nếu ước chánh đạo mà sinh ái kiến Bi, tức là pháp thân có bệnh. Đây có bốn: Chính nói khởi ái kiến. Giải thích thị phi. Dẫn lời Phật làm chứng. Kết khuyên buông bỏ. Nói khởi ái kiến đại bi, tức phải lìa bỏ. Nếu đối với Trung đạo pháp thân mà khởi ái, tức là thuận đạo ái sinh, gọi là đảnh đọa. Bồ-tát tuy vậy không đọa vào Nhị địa, vì nó chướng nhập ngôi vị Bồ-tát. Nếu dùng Bi tâm muốn cứu khổ sinh tử hai biên, gọi là ái kiến Bi, thì không phải chỉ tự thể thành bệnh cũng do hai định tuệ đại bi song chiếu không rõ ràng, tổn sức phương tiện, ngăn ngại đại dụng. Như thân có bệnh thì chân tay cũng yếu ớt không thể làm việc, chính biết thể có bệnh ái kiến, định tuệ đại bi đều có chướng vậy. Lại chân tay có bệnh thì hay liên lụy đến thân. Nếu định tuệ có chướng thì hay chướng quán thể. Chướng quán thể này nếu có ái kiến duyên với chúng sinh, tức là ái kiến Bi, không phải chỉ tự thể có chướng. Cũng chướng phước tuệ trang nghiêm, hai đế cùng song quán khắp lợi ích chúng sinh. Giải thích thị phi: “Sở dó… giải phược” trừ thất hiển bày đắc. Văn có hai: Trừ thất và hiển đắc. Trừ thất. Bồ-tát đoạn trừ khách trần, ái kiến tức vô minh, không có mà có nên gọi là khách trần hay che tâm tự tánh. Nếu dùng Bi tâm muốn cứu khổ nhị biên của chúng sinh, tức đối với sinh tử có tâm lười chán. Vì sao? Vì quán thể nếu có ái kiến thì dụng chiếu hai đế không rõ ràng. Nên từ bi hóa người ngoài, liền có lười mỏi, như thân có bệnh chẳng muốn bước đi. Đây là trừ thất. Hiển đắc, nếu hay lìa đây không có lười mỏi. Nếu hay lìa ái kiến này, thì nội quán thấu suốt song chiếu không trệ ngại, dùng Vô duyên đại từ hóa vật không mệt mỏi. Như thân không bệnh, việc làm đều thành, các thứ sinh ra đều không bị ái kiến ngăn cản. Nếu đoạn vô minh ái kiến, thì không có phiền não ngoại giới. từ bi thệ nguyện, tùy chỗ chúng sinh có bệnh duyên mà thọ thân hóa vật. Mình đã không có các ràng buộc của phần đoạn, biến dịch, thì có thể mở các buộc ràng của chúng sinh ấy. Cho nên nói rằng: Ứng sinh không có triền phược, nên hay vì chúng sinh mà thuyết pháp cởi mở triền phược cho họ. Đây là hiển đắc. Dẫn chứng lời Phật nói để giải thích nghóa chánh quán “Như Phật… thị xứ”. Nghóa rất sâu xa nhưng hạnh cạn thấu suốt mà sinh nghi ngờ, nên cần phải dẫn chứng. Kết khuyến giải thích. Thế nên Bồ-tát không nên khởi phược phân bày chứng cứ rõ ràng có thật, đủ để đoạn nghi sinh tin tưởng. Nên kết khuyên rằng “Không nên khởi phược”. Hai, căn cứ thiền bỏ phi bày thị “Sao gọi là…”. Văn có hai: Bỏ phi. Bày thị. Bỏ phi: Tham đắm thiền vị là triền phược của Bồ-tát, phược tức là phi. Nếu tham đắm hữu lậu căn bản thiền mười hai môn thì liền đọa sinh vào đồng cư. Nếu tham đắm vô lậu quán luyện huân tu, liền đọa sinh vào hữu dư. Nếu tham đắm chín thứ Đại thiền Thủ-lăng-nghiêm… một trăm lẻ tám Tam-muội, thì đọa sinh vào quả báo, đều không tránh khỏi triền phược. Căn cứ thiền bày thị “nếu Phương tiện sinh là Bồ-tát giải tho- át”. Nếu quán Trung đạo mà không nhiễm ba thứ trước, thệ sinh vào ba cõi là dùng phương tiện mà sinh, tuy sinh vào ba cõi mà ba thứ phược kia không có lại hay cởi mở các phược cho chúng sinh nên nói phương tiện sinh là Bồ-tát giải thoát. Ba, căn cứ hai trí nói phi “Lại không phương tiện…”. Văn có hai: Xét về tu hành hai trí. Xét về chân ứng hai trí. Tu hành là dụng nhân chân ứng là xét quả. Xét về tu hành có ba: Một là Lược dùng bốn trường hợp nêu chương. Hai là Bốn lần giải thích. Ba là Tổng kết. Nêu chương, hai trường hợp đầu là nêu phược thoát chương môn của thật trí. Hai trường hợp sau là nêu phược thoát chương môn của quyền trí, như văn nói. Giải thích bốn chương môn trước “Hà vị… phương tiện giải”. Một, là giải thích không có phương tiện tuệ thì buộc nghóa là dùng tâm ái kiến khi tu chánh quán thì không thể thấu suốt bất sinh, bất sinh bất khả thuyết. Lại không có trợ đạo nhờ phát thật tuệ. Thật tuệ không phát, đến nỗi sinh ái kiến. Nếu dùng tâm này mà tu hành sáu Độ, trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sinh. Tu ba thoát môn mà điều phục, thì không thể phát chân, phá vô minh chướng mà hiển hiện pháp thân, tự lợi lợi tha, tức là Không có phương tiện tuệ phược. Như thân có bệnh không thể vận động. Hai, là giải thích có phương tiện tuệ thì mở, nghóa là Không dùng tâm ái kiến. Chỉ không dùng tâm ái kiến trái với trước là khác, còn nghóa khác đều đồng với trước nói. Ba, là giải thích không có tuệ phương tiện thì buộc, nghóa là trụ ở ba cõi, đây là tu quán hạnh, không gia công tu chân tuệ để phá ba độc thông biệt. Dùng tâm bất tịnh mà vào phương tiện muôn hạnh không dẫn dắt, tức là Không có tuệ phương tiện thì buộc. Như người tay chân có bệnh không an vui. Bốn, là giải thích có tuệ phương tiện thì mở, nghóa là lìa ba độc, vì lìa ba độc trái với trước là khác, còn các thứ khác thì đồng trước nói. Hỏi: Ái kiến cùng ba độc có gì khác? Đáp: Ái kiến là thuận đạo mà khởi, còn ba độc phần nhiều là đắm trước ở y chánh báo mà sinh. Hỏi: Thành tựu chúng sinh cùng gieo trồng gốc các đức có gì khác? Đáp: Lợi vật Vô duyên đại bi gọi là thành tựu chúng sinh tức là trí tập dung thức thông, như thế mà nhận lấy Tịnh độ, tự hành nhất tâm mà đầy đủ muôn hạnh, hồi hướng quả Bồ-đề, gọi là gieo trồng gốc các đức. Tức là Không phải hình dùng mà đệ nhất thể, không phải trang nghiêm mà trang nghiêm. Tổng kết khuyên “Văn-thù… Quán chư pháp”, Bồ-tát có bệnh thật vô minh, nên như thế mà khéo dùng hai trí để quán các pháp, tức là dùng trợ giúp chánh, dùng chánh dẫn trợ. Đây tức là khéo dùng hai trí để tự lợi lợi tha. Xét về chân ứng luận hai trí “Lại còn quán thân…”. Văn có hai: Một là, Quán thân có bệnh thật bệnh quyền mà nói hai trí. Hai là, Quán thân bệnh không lìa bất diệt mà nói hai trí. Phần một, lại có hai: Quán pháp thân bệnh thật, tức là thật trí , và quán ứng thân bệnh quyền tức là quyền trí. Vì sao? Vì chiếu cảnh quyền thật tùy cảnh mà được tên. Quán thân bệnh thật: Lại còn quán thân vô thường, khổ, không vô ngã. Đó gọi là lấy tuệ làm quán này, trước nói về thật tuệ. Quán pháp thân lý thật cảnh sâu xa rỗng sáng gọi là thật tuệ. Nay Bồ-tát pháp thân có bệnh, cũng còn bệnh nhân, bệnh quả ấy là vô thường… tức việc không thật, tức là pháp tánh là thật tuệ. Bồ-tát chưa chứng cực quả, nhân địa pháp thân có thường và vô thường như hai chim cùng dạo chơi là ý ở đây. Nói chiếu cảnh ứng thân bệnh quyền “Tuy thân… phương tiện) tức là trí phương tiện vậy. Vì sao? Vì tuy thân có bệnh tức là pháp thân Bồ-tát có, hoặc lụy chưa hết, cũng có bệnh thật vô minh biến dịch. Thường ở trong sinh tử, tức là ứng thân thường ở sinh tử nội ngoại giới. Sở dó thường ở, tức vì nhiêu ích tất cả mà không lười mỏi. Đó gọi là phương tiện, tức là chiếu quyền cảnh làm quyền trí. Phần hai, quán thân không lìa bất diệt “Lại còn…) nói hai trí. Văn có hai: Căn cứ không lìa mà nói thật trí và căn cứ bất diệt mà nói quyền trí. Căn cứ không lìa: Lại còn quán thân, thân không lìa bệnh, là Bồ-tát có bệnh quán thân thật tướng, tức là tự tánh thanh tịnh, tâm không nhiễm mà nhiễm, khó thể biết rõ, nếu đoạn chưa dứt tức là thân không lìa bệnh. Lại pháp thân đại bi đồng bệnh chúng sinh. Pháp thân hiện bệnh nên nói thân không lìa bệnh. Bệnh không lìa thân, là bệnh thật bệnh quyền không lìa pháp thân, mà có bệnh ấy. Thân ấy không phải là mới không phải cũ, tức là vô minh bệnh thật cùng bổn pháp thân không có trước sau, chỉ không phải đầu hay cuối. Chúng sinh bệnh từ vô thỉ không mới không cũ. Bồ-tát đồng bệnh cũng không phải mới cũ. Ấy gọi là tuệ, tức là thật trí. Căn cứ bất diệt để nói quyền trí “giả sử thân có bệnh mà không mất hẳn”. Bồ-tát có bệnh đã trụ vào chánh quán không ứng hiện thân bốn đại tăng động do túc nghiệp gây ra. Giả sử có bệnh nặng, liền quán nhập pháp môn. Nên nói là Không mất hẳn. Giả sử là giả lập, hai trí quyền thật đều là giả lập. Bệnh thật tức là vô minh giả lập. Nên kinh Kim Quang Minh có nói: “Không có các thứ nên giả gọi là vô minh.” bệnh quyền do chúng sinh mà khởi, cũng là giả lập. Mà không mất hẳn, là cũng không có thật và quyền. Thật là tuy có bệnh này nhưng thể nhập bệnh là Không bệnh, không đoạn, không phá. Vì bệnh mình mà thương xót bệnh người. Nếu quán bệnh này mà nhập thật tướng, thì được Vô duyên đại bi, lại dùng đó mà lợi sinh nên nói là Không mất hẳn. Quyền là, nếu có một chúng sinh hết bệnh thì vì các chúng sinh khác cũng phải hiện bệnh, nên không mất hẳn. Phần hai, Đạo quán song lưu, Nhân quán thành hạnh “Văn-thù- sư-lợi…”. Đây là phẩm Hương Tích làm gốc. Phẩm đó nói hạnh Bồ-tát ở cõi uế tịnh. Để thành nghóa này, văn có hai: Kết quán trước để làm gốc hạnh. Chính nói hạnh song lưu. Phần a, lại có ba: 1/ Nói điều phục quán thành. 2/ Giải thích. 3/ Kết thành gốc hạnh. Nói điều phục quán thành: Bồ-tát có bệnh nên như thế mà điều phục tâm mình. Cũng lại không trụ ở tâm chẳng điều phục. Ở trên phần nhiều nói không đoạn phiền não, nếu bất đắc ý thì buông lung với phiền não, tâm theo vọng pháp lại đồng với phàm phu. Giải thích kết lỗi “Sở dó… Thanh văn pháp”. Nếu trụ ở tâm không điều phục là pháp người ngu, hoàn toàn đồng ngu, không phải tức ngu thông thường. Cũng như mắng người là lừa thì không phải là lừa. Nếu trụ ở tâm điều phục là pháp Thanh văn, cũng chỉ là tương tợ không phải đồng. Kết thành gốc hạnh “Thị cố… Bồ-tát Hạnh”. Nếu lìa hai pháp mà được chấp nhận thì gốc của Bồ-tát lập hạnh, nên nói là hạnh Bồ-tát. Phần b Chính nói hạnh song lưu. Văn có năm: 1/ Cùng nói hạnh song lưu căn cứ . 2/ Riêng nói hạnh song lưu căn cứ . 3/ Ước đạo phẩm chánh quán nói hạnh song lưu căn cứ . 4/ Ước hiện tướng tự nói hạnh song lưu căn cứ . 5/ Ước y chánh báo nói hạnh song lưu căn cứ . Cùng nói hạnh song lưu: Có ba hàng: Ở trong sinh tử mà không có hạnh nhiễm ô. Nếu Trung quán tương ưng vào tục không nhiễm, trụ ở Niết-bàn mà không diệt độ hẳn, lưu nhập thiên chân mà không thủ chứng. Không phải hạnh phàm phu, là lưu nhập chân vậy. Không phải hạnh Hiền Thánh, là nhập tục tự tại, không đồng với Nhị thừa. Không phải hạnh nhỏ, là lưu nhập vào chân. Không phải hạnh sạch là lưu nhập vào tục. Riêng nói hạnh song lưu “Tuy quá… là Hạnh Bồ-tát”, có mười lăm hạnh. Tuy ngoài ma hạnh mà hàng phục các ma, vì chánh quán tương ưng nên hay vào tục mà hàng ma. Cầu Nhất thiết trí là lưu nhập vào Chân không. Không cầu phi thời, chứng Nhất thiết trí mà không rơi vào Nhị địa. Tuy quán các pháp Bất sinh, lưu nhập Chân không. Tuy hóa độ Nhị thừa mà không rơi vào Nhị địa. Tuy quán mười hai duyên khởi vốn tự bất sinh mà lưu nhập tục đế duyên khởi. Khởi sáu mươi hai kiến hóa độ các ngoại đạo. Tuy nhiếp tất cả chúng sinh, tuy vào tục đế dùng bốn nhiếp pháp nhiếp phục tất cả chúng sinh vào Nhất thật đế, hòa quang mà không đồng trần nên không đắm trước. Tuy ưa xa lìa, lưu nhập vào Chân không, hay xa lìa phiền não sinh tử mà không hôi đoạn. Tuy hành ở ba cõi. Tuy vào tục đế hành ở ba cõi, tức chiếu thế đế mà không hư hoại pháp tánh, tức là chiếu chân đế. Tuy hành ở không, lưu nhập thiên chân mà tu đủ muôn hạnh, như trồng cây trên không trung. Tuy hành vô tướng, lưu nhập thiên chân mà vô tướng không hại độ sinh. Tuy hành vô tác lưu nhập thiên chân, mà vô tác không hại việc thọ thân lục đạo. Tuy hành vô khởi lưu nhập thiên chân, không khởi mà khởi muôn thiện. Tuy hành Lục độ, tuy nhập tục đế mà đồng sáu Độ của Bồ-tát, mặc tình chiếu khắp tâm chúng sinh. Tuy hành lục thông tự nhiên vào tục, nên được ngũ thông nhập chân mà không lậu tận, không đồng với Nhị thừa. Tuy hành bốn Vô lượng tâm, lưu nhập Phạm thiên, hành ở tục đế mà không chịu tập sinh tử của Phạm thế. Làm thân Phạm vương. Tuy hành thiền định giải thoát Tam-muội, tuy nhập các thiền tục đế mà không tùy thiền sinh sắc giới. Không tùy định sinh cõi Vô sắc, không tùy giải thoát mà sinh Tịnh cư. Cũng không tùy giải thoát Tam-muội mà sinh cõi Hữu dư. Căn cứ Ước ba mươi bảy phẩm chánh quán mà nói hạnh song lưu “Tuy hành… là Bồ-tát hạnh”. Tuy hành bốn Niệm xứ, chánh quán tương ưng, tự nhiên lưu nhập tích thể niệm xứ thấy chân mà không bỏ, thân thọ tâm pháp của tục đế. Tuy hành bốn Chánh cần, lưu nhập tích thể chánh cần, thấy chân mà không bỏ thân tâm tinh tấn tục đế. Tuy hành bốn Như ý túc, lưu nhập tích thể như ý, thấy chân mà luôn được thần thông tự tại tục đế. Tuy hành ngũ căn, lưu nhập tích thể ngũ căn, thấy chân mà thường vào tục, phân biệt các căn lợi độn chúng sinh. Tuy hành ngũ lực, lưu nhập tích thể ngũ lực, thấy chân mà luôn cầu mười lực của Phật chiếu tục. Tuy hành bảy Giác phần, lưu nhập tích thể thất giác, thấy chân mà phân biệt Nhất thiết chủng trí của Phật. Tuy hành tám Chánh đạo, lưu nhập tích thể bát chánh thấy chân mà ham thích Phật đạo. Tuy hành pháp chỉ quán trợ đạo lưu nhập sự chỉ quán trợ tích thể, thấy chân mà không nhập vào khôi đoạn. Ở thế tục mà hóa độ, đây là Nhị đế song lưu đều khác với Nhị thừa, nên đều kết thành hạnh Bồ-tát. Căn cứ hiện tướng “Tuy hành… là hạnh Bồ-tát” nói hạnh song lưu. Vẫn có ba hàng. Tuy hành bất sinh bất diệt, là chánh quán tương ưug lưu nhập chân đế bất sinh bất diệt mà hiện tướng hảo trang nghiêm tục đế. Tuy hiện oai nghi Thanh văn và Bích-chi-Phật lưu nhập hiện ngoại oai nghi, nhập chân mà hay nhập tục, không buông bỏ tất cả Phật pháp. Đây tức là hạnh nội bí của Bồ-tát ngoại đạo hiện làm Thanh văn, tuy tùy các pháp tịnh tướng rốt ráo, lưu nhập bốn bất khả thuyết bình đẳng pháp giới, mà hay hiện thân lợi ích ngoại giới. Căn cứ y chánh báo toát yếu giúp thành thể tông này. Văn có hai hàng. Tuy quán bình đẳng, nếu chánh quán tương ưng biết Thường tịch quang mà hay khởi tịnh độ Đồng cư nội giới, tịnh độ Hữu dư và tịnh độ quả báo ngoại giới. Đây là kết thành nhân quả Phật quốc làm tông. Tuy được bình đẳng, là nếu chánh quán tương ưng về Biệt thì nhập Sơ địa, về Viên thì nhập sơ trụ. Với chúng sinh đáng dùng thân Phật để độ thì hay hiện ra tám tướng, mà chân ứng chưa rốt ráo cần phải tu các trụ hạnh cho đến Đẳng giác các đạo hạnh Bồ-tát, nên nói không buông bỏ đạo Bồ-tát đó là hạnh Bồ-tát. Đây là kết thành thể dụng trụ ở giải thoát bất tư nghị. Nếu các sư không tin kinh này nói pháp thân Tịnh độ quả ngoại làm sao hiểu được văn này? Phần năm nói về thời chúng được lợi ích Từ “Thuyết thị đến Tam Bồ-đề tâm” : Tám ngàn Thiên tử phát tâm Bồ-đề. Nghóa tâm Bồ-đề thì trước đã giải thích đầy đủ. -------------------------- <詞>PHẨM: BẤT TƯ NGHỊ Năm phẩm sau đây tiếp sau phẩm Thăm Bệnh, tức là đoạn lớn thứ hai vào thất khơi lại ý phẩm Thăm bệnh ở trước. Vì sao? Vì trước nói phẩm Thăm Bệnh là căn cứ bệnh quyền, luận về bệnh thật của quả mà nói nhân. Chỗ nói tóm tắt, hàng lợi căn như tám ngàn Thiên tử đã phát đạo tâm. Đám người chưa ngộ thì rộng luận bàn nhân quả để gợi lại ng- hóa bệnh thật quyền ở trước, cho nên nó có sau. Năm phẩm này có hai: Phẩm này chính là gợi lại phẩm Thăm Bệnh trước ước bệnh quyền nói về quả. Từ phẩm Quán Chúng Sinh đến Hương Tích gồm bốn phẩm chính là gợi lại phẩm Thăm Bệnh trước, căn cứ bệnh thật mà nói cái nhân ủy dụ ba giáo và ba quán điều phục. Nay sơ lược dùng ba ý giải thích chung phẩm này: 1/ Nói ý có phẩm này. 2/ Lược giải thích bất tư nghị. 3/ Giải thích văn. 1- Ý có phẩm này: (Phẩm Bất tư nghị) Phẩm Thăm Bệnh nói bệnh có quyền thật. Bệnh quyền tức là pháp thân ứng dụng bổn tích đều có chỗ ở, cho nên ngài Tịnh Danh ở thất trống hiện bệnh mà nằm, biểu thị cho cõi, cho thân, cho bổn, cho tích. Ngài Văn-thù thấy tướng biết là có biểu thị, cho nên nhân đó đối đáp qua lại luận quyết về nghóa y chánh của quả địa. Ý tuy sáng tỏ mà thùy tích bất tư nghị. Nhưng cái dụng bệnh quyền y chánh khó lường còn chưa sáng tỏ. Cho nên nhân ngài Thân Tử sinh ý nghó về tòa ngồi của Phật Đăng Vương mà trong thất nhỏ này chứa rất nhiều tòa lớn cũng không ngại gì, tức hiển bày việc thùy tích bất tư nghị, chỗ ở của bệnh quyền thần dụng thật khó lường. Rộng luận về quả địa từ bản mà khởi tích, trong tích biến dụng y chánh tự tại. Rộng hiển bày lại về bệnh quyền, thùy tích biến hiện, bệnh chúng sinh lành thì bệnh quyền cũng lành, cho nên có phẩm này. 2- Lược giải thích bất tư nghị: Có hai ý: 1) Nói ba đức giải thoát bất tư nghị. 2) Nói bổn tích nương cõi bất tư nghị. Nói ba đức giải thoát, có ba: Chân tánh. Thật tuệ. Phương tiện. Nên ngài Tịnh Danh nói: Chư Phật, Bồ-tát có giải thoát gọi là bất tư nghị. Nếu Bồ-tát trụ ở giải thoát ấy, thì có thể đem núi Tu-di cao rộng để trong một hạt cải, cho đến các thứ biến hiện khó lường, đó là nghóa ba thứ giải thoát bất tư nghị. Vì sao? Vì Chư Phật, Bồ-tát có giải thoát tức là chân tánh. Nếu Bồ-tát trụ vào đó tức là thật tuệ. Hay đem núi Tu-di để trong hạt cải… tức là phương tiện. Chỉ có bốn giáo cùng nói lý ba thứ đều có nghóa bất tư nghị, nhưng có hai thứ là đối đãi và tuyệt đối đãi. Như chỗ ba giáo nói tức là đối đãi. Vì sao? Vì ba giáo tuy ý lời người khác căn cứ việc đoạn kiết để nói giải thoát, tức là đối đãi. Còn Viên giáo thì tự ước vào việc không đoạn kiết mà nói giải thoát, tức là tuyệt đối đãi bất tư nghị. Đối đãi tức là có suy nghó và không suy nghó, đều là tư nghị. Còn tuyệt đối đãi là Không suy nghó, không suy nghó tức là chân bất tư nghị. Nay một phẩm này là dứt đối đãi không suy nghó để giải thích về bất tư nghị. Sở dó ba giáo thành việc đối đãi nhau. Như ở Tam tạng giáo thì Phật quả thần dụng biến hóa, thì phàm phu Nhị thừa và các Bồ-tát khó lường biết được, tức là bất tư nghị. Nếu đối Thông giáo đã thể nhập pháp giải thoát thì lại là tư nghị. Nếu Thông giáo từ Bát địa trở lên, đạo quán song lưu, thì Nhị thừa là hạ địa không thể lường biết được nên gọi là bất tư nghị. Nếu đối Phật địa cũng là tư nghị. Còn Thông đối với Biệt lại là tư nghị. Biệt giáo đăng địa thấy Nhất thật đế được ba giải thoát, mà đối với ba thừa Thông giáo riêng ba mươi tâm không thể lường biết được tức là bất tư nghị, nếu đối Thượng địa thì lại là tư nghị. Ba thứ này đều là dưới không suy lường được trên, không phải là bất tư nghị ngang hàng tuyệt đối đãi. Nay nói tuyệt đối đãi bất tư nghị của Viên giáo, là mười hai nhân duyên, ba thứ phi đạo tức là ba đức giải thoát của Phật đạo. Nếu Bồ-tát hành trì mười hai nhân duyên ba thứ phi đạo này mà không đoạn ba hoặc, không phá ba pháp, lại trụ ở đạo ba thứ giải thoát, tức là ba đức giải thoát tuyệt đối đãi bất tư nghị vậy. Ấy là chẳng những địa dưới không thể tư nghị địa trên, cho đến Thượng địa chư Phật, Bồ-tát cũng không thể tư nghị địa dưới và tất cả nhân duyên ba đạo chúng sinh, tức là bất tư nghị tuyệt đối đãi. Cho nên Văn-thù trong Bát-nhã có nói: Phật giới, chúng sinh giới đều không thể nghó bàn, không có khác nhau. Trên đã giải thích xong tên Giải thoát bất khả tư nghị. Nói về cõi nương tựa của bổn tích: Ở phẩm trước, thất trống biểu thị cho cõi nướùc. Ngài Văn-thù thấy tướng hỏi về Phật quốc thì chỉ nói Tịch quang rốt ráo không tịch. Đây chỉ là pháp thân và cõi nước bất khả tư nghị mà chưa hiển bày ứng thân tích ở tướng bất tư nghị. Nay dùng thần lực xếp đặt tòa ngồi để nói tích ở cõi uế hiện việc bất tư nghị, cả núi Tu-di và biển lớn, đất nước lửa gió, mười phương cõi Phật đều tập trung ở một cõi nước, chỉ bày cho mọi người những việc như thế đều là nương cõi nước hiện tướng bất tư nghị khó lường biết được, nói đầy đủ trong văn. Nếu tích ở phần đoạn y báo là một khối lớn, còn hiện bày vô ngại, thì đối với ba cõi kia đâu thể lường biết được. Hỏi: Cả mười bốn phẩm này đều bất tư nghị đâu được chỉ nêu riêng phẩm này? Đáp: Tuy đều như thế, nhưng chỉ phẩm này nói rộng về sự biến dụng rất rõ ràng nên lấy đó đặt tên. Như ma-ha Bát-nhã trước sau đều nói Bát-nhã. Phật nói muốn cầu Bát-nhã thì cần phải tìm ở phẩm Tu- bồ-đề, mà Tu-bồ-đề đối với Phật như Thích Đề-hoàn Nhân, Xá-lợi- phất vấn nạn, một mực đều vào thật tướng Chân không, tức là Chánh ý Bát-nhã, nên khuyên phải tìm trong phẩm đó. Nay trong phẩm này cũng thế. 3- Giải thích văn “Nhó thời…”. Phẩm này chung có sáu phần: Ngài Thân Tử vì chúng nghó về tòa ngồi. Ngài Tịnh Danh mượn tòa. Nói thần dụng bất tư nghị. Ca-diếp mừng ngưỡng mộ. Thời chúng được lợi. Ngài Tịnh Danh kể thành. Thân tử vì chúng nghó về tòa ngồi. Có năm phần nhỏ: a) Ngài Thân Tử có ý nghó. b)Tịnh Danh hỏi. c)Thân Tử đáp. c)Tịnh Danh trách. Thiên tử được pháp nhãn tịnh. Ngài Thân Tử có ý nghó: Ngài Thân Tử là bậc Cổ Thánh tích có ý nghó này là muốn mở bày nghóa bất tư nghị. Nếu không có ý nghó ấy do đâu hiện bày dụng bất tư nghị lại muốn khiến hàng Nhị thừa chưa chứng quả được Pháp nhãn tịnh, hoặc những người phát đại tâm đã vào ngôi vị được thành sinh tô, cho nên hiển bày việc có ý nghó, nhân đó bị chê trách, để mượn tòa Đức Đăng Vương mà nói rộng đại dụng. Như thế các Thanh văn chê tiểu mộ đại, kham nghe được Đại phẩm, Pháp Hoa. Ước Sự, mà luận thì đại chúng đứng đã lâu mà hai Đại só mới luận đại đạo, luận bàn chưa xong e đại chúng mỏi mệt không thâu nhận được pháp lợi. Nếu Như có giường ghế thì đều được an ổn tất sẽ thu nhận được lợi ích lớn, nên có nghóa này. Cũng nhân thất trống mà có ý nghó ấy. Nhân đây mà chê trách, dùng thần lực mượn tòa ngồi liền được là nói rộng thần lực giải thoát bất tư nghị, đều là công năng tự tại thùy tích bệnh quyền để lợi vật. Nếu có cơ hội tốt đẹp này dùng để hóa vật, tất trừ được bệnh thật nhân quả của chúng sinh, đâu lại chẳng nghó. Nếu bệnh nhân quả chúng sinh lành thì bệnh thị hiện của Phật, Bồ-tát và ngài Tịnh Danh cũng đều lành. Ấy là đã thành được nghóa quả địa bệnh quyền ở trước. Hỏi ý nghó “Trưởng giả… sàng tòa da”. Ngài Thân Tử tuy nghó thế, nhưng chúng sinh đều chưa biết, sắp muốn chê trách nên hỏi ý nghó ấy: “Vì cầu pháp hay cầu ghế ngồi?”Nếu vì ghế ngồi thì không gọi là người tu hành. Nếu nói vì pháp thì không nên cầu ghế ngồi, nên cần phải gạn hỏi. Nếu ý nghó đã tỏ lộ đại chúng đều biết thì mới có thể chê trách. Ngài Thân Tử đáp đúng ý nghó “Xá-lợi đều cầu Sàng tòa): Tôi vì pháp mà đến chứ không phải vì ghế ngồi. Vừa đáp câu này liền có ba lỗi: Tâm nghó ghế ngồi mà nói là vì pháp, là lỗi trái tâm mình. Nghó về các pháp Tam bảo, Tứ đế… trong pháp Thanh văn là lôãi không xứng lý. Chân pháp Không nghó nhớ mà nay lại nghó nhớ ấy là lỗi bỏ đạo pháp mà vào phàm phu. Tịnh danh trách ba lỗi ấy “Duy-ma…”. Một là Chê trách lỗi trái tâm. Phàm người cầu pháp Không tham tiếc thân mạng, há lại từ chối đứng lâu, không thấm được pháp vị do thân có mệt mỏi. Cho rằng chúng cũng thế, bèn nghó đến ghế ngồi… Cho đến gạn hỏi và đáp nói vì pháp. Nếu vì pháp thì không tiếc thân mạng, há được mỏi mệt mà nghó đến giường ghế? Hai là, Trách lỗi không xứng lý “Phù cầu…”. Vừa nghe Đại thừa mà lòng không đắm nhiễm vẫn còn giữ pháp Tiểu thừa, đến nỗi biếng nhác nghó đến tòa ngồi, nên chê trách vẫn còn ôm giữ tiểu pháp. Văn có bốn: Căn cứ ấm nhập tam giới mà chê trách. Căn cứ Tam bảo mà chê trách. Căn cứ chung Tứ đế mà chê trách. Căn cứ riêng Tứ đế mà chê trách. Căn cứ ấm nhập mà chê. Ngài Thân Tử nương Tam tạng giáo mà nhập đạo, ấm nhập là báo thân. Nhân đây tu thiền được phát tứ thiền tứ không là định cõi Dục. Trụ các thiền này mà quán sát ấm nhập ba cõi đế lý sinh diệt mà đoạn kiết ba cõi. Tuy đã thành A-la-hán quán khắp vô lậu và từ đây mà vào. Nay ngài Tịnh Danh dùng Đại thừa chê trách ngài là vụng về pháp tánh ấm nhập, không được tức không, không phải là pháp thật cầu, không tránh khỏi việc chiêu cảm cái chết thô biến dịch. Lại có quán xuất nhập, khi xuất quán thì biếng lười nghó đến tòa ngồi. Căn cứ Tam bảo mà chê “Tuy Xá-lợi-phất… chúng cầu”. Sở dó phải ước Tam bảo mà chê, là hàng Thanh văn do nghe pháp hiểu ba không mà vào đạo, do Phật nói pháp mà được làm Tăng. Nếu chê trách người ấy lỗi, thì lỗi là do Phật pháp, chúng Tăng cũng bị lỗi, nên chê là Không nên chấp trước. Giáo Bất liễu nghóa nói ba mươi hai tướng là Phật, chín Bộ là pháp, Yết-ma được gọi là sự Tăng, thấy Đế được quả là lý Tăng. Các pháp thật tướng Đại thừa vốn tự rõ ràng là Phật, lý tánh không điên đảo là pháp, trí lý không hai là Tăng. Lại biết pháp gọi là Phật, lìa tướng là pháp, vô vi là Tăng. Nếu không biết Tam bảo nhất thể này bèn đắm trước biệt tướng Tam bảo nên chê trách là Không nên chấp trước. Căn cứ chung về Tứ đế mà trách “Phù cầu…”. Sở dó kế ước Tứ đế mà chê trách, là vì Thân Tử không thích. Nếu Tam bảo không thật không nên chấp trước thì quán đế thấy lý há không có Tam bảo, liền chê trách ông hành Tứ đế không rốt ráo. Văn có hai là chê và giải thích. Một, chê rằng: “Không thấy…” , đây là chê Tứ đế sinh diệt, nếu do đây mà thấy lý thì không nên cầu nữa, vì đó chỉ là trụ hóa thành chưa đến được bảo sở. Như trách ngài Tu-bồ-đề không hoại nơi thân mà tùy một tướng há lại tích quán khổ mà nói là thấy lý, không dứt dâm, nộ, si cũng chẳng chung cùng nó, há nhất định đoạn tập dùng tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, há dứt hết phiền não cho là chứng diệt, như việc tạo tác ra hóa thành vậy. Có thầy nói hiểu biết rốt ráo, e là Không như giải thích trước. Không đoạn dứt si ái mà khởi minh thoát tức là hành phi đạo mà thấu suốt Phật đạo, há lìa phi đạo mà riêng có chánh đạo để tu? Nếu chấp Tứ đế của Thanh văn là thật tức là Không thấy ba Tứ đế của Đại thừa. Hai, giải thích rằng “Sở dó… phi cầu pháp”. Nếu chấp sinh diệt thì có tranh luận, tức là hữu vi hý luận nội giới. Nếu nhân đây thấy chân, đoạn ái kiến nội giới mà luận, thì cũng là vô vi hý luận ngoại giới. Nay Thân Tử tuy đoạn hữu vi, nhưng cũng còn ở Tứ đế, tức là vô vi giới duyên tập hý luận, không phải cầu pháp ba đế Đại thừa há lại thấy được Phật tánh, nhập vào vương Tam-muội và nhập vào tất cả Tam-muội. Căn cứ riêng Tứ đế mà chê trách “Duy Xá-lợi-phất…”. Sở dó lại ước riêng mà chê trách, vì sợ Thân Tử chưa muốn. Nếu nói Tứ đế là hý luận, thì tại sao Phật mở cho là các thứ pháp môn lợi vật. Lại hiểu là chưa ngộ nên cần phải riêng chê trách. Có bốn: Một phen trách theo Khổ đế. Hai phen trách theo Tập đế. Bốn phen trách theo Diệt đế. Hai phen trách theo Đạo đế. Ước trách khổ đế, pháp gọi là tịch diệt, thì khổ pháp như ấm… xưa tự không sinh, nay ắt không diệt tức nghóa chân ấm diệt, quán ấm khổ pháp là thấy sinh diệt bèn bài bác sinh diệt, há thấy được Nhất thật đế lý vô sinh. Nếu không thấy lý thì không phải là cầu pháp. Như trách ngài Ca-chiên-diên không dùng tâm sinh diệt mà nói pháp thật tướng, đã không được chân vô sinh mà lại chiêu cảm cái khổ biến dịch. Hai phen riêng chê trách theo tập đế “pháp danh… phi cầu pháp”. Tập là do hai nhân báo và tập tạo nên. Tập nhân căn cứ phiền não, báo nhân căn cứ nghiệp. Phiền não và nghiệp hợp nhau hay chiêu quả khổ nên gọi là Tập đế. Trước trách tập nhân của Tập nói rằng: Pháp Không đắm nhiễm, là như Đại kinh có nói: Chín thứ ái hữu hay khiến sinh tử tiếp nối không dứt, nếu đắm nhiễm Thế đế liền có phần đoạn sinh tử gọi là Tập nội giới. Nếu nhiễm chân đế liền có biến dịch sinh tử gọi là Tập ngoại giới. Kế trách báo nhân rằng pháp Không hành xứ, là trách hành nghiệp. Trí năng quán là hành, cảnh sở quán là xứ. Nên kinh nói trí và trí xứ, tâm hành đối với cảnh tức là hành nghiệp. Phàm phu hành Thế đế thì chiêu cảm cái khổ quả nội. Hàng Nhị thừa hành chân đế thì chiêu cảm cái khổ biến dịch, tức là Tập vậy. Bốn phen riêng tráchtheo Diệt đế “pháp vô… pháp giả”. Pháp Không có lấy bỏ là Thật đế chân diệt vốn không lấy bỏ. Mà phàm phu thì lấy Thế đế bỏ Niết-bàn, cho nên có sinh tử nội giới, không được chân diệt. Còn hàng Nhị thừa thì lấy chân đế bỏ Thế đế, tức chịu biến dịch sinh tử, cũng không phải chân diệt. Do lấy bỏ nên không thấy Trung đạo, không phải thật cầu pháp. Pháp Không xứ sở, đây là nói Diệt đế, tức là hữu dư, vô dư chỗ của người tu Nhị thừa quy tâm. Nếu đắm trước vào chỗ Diệt đế Niết-bàn, tức là có vô vi phiền não sinh tử, không phải chân diệt đế nên không phải là cầu pháp. Pháp gọi vô tướng, là trách chấp lấy diệt đế vô tướng Niết-bàn. Vì sao? Vì phàm phu chấp tướng thế gian sinh ở sáu thức, cho nên có nội giới sinh tử, mà không gọi là diệt. Còn Thanh văn chấp tướng Diệt đế, tức có bảy thức gọi là tùy tướng sinh thức, liền có ngoại giới sinh tử không phải chân diệt đế, nên không phải là cầu pháp. Pháp Không thể trụ, là chê trách trụ ở diệt đế. Vì sao? Vì phàm phu trụ ở phần đoạn không phải diệt. Còn ở hàng Nhị thừa trụ ở chân tức có biến dịch, đâu được là chân diệt. Vì trụ ở chân đế hữu dư, vô dư, không thấy được Phật tánh, không phải là Đại Niết-bàn rốt ráo tịch diệt, sao phải là thật cầu pháp. Hai phen riêng trách theo Đạo đế “pháp Không… pháp”. Pháp Không thể thấy nghe hay biết. Phàm phu có thấy nghe hay biết thế tục ắt có kiến tư, do đó mà lưu chuyển và đều là lậu đạo. Tiểu thừa có tuệ nhãn thấy chân, từ nghe pháp mà sinh hiểu, mười sáu tâm ngộ lý tức là giác tri, nên Đại kinh nói: Bậc Tu-đà-hoàn dùng đạo chánh giác đoạn trừ phiền não, cũng gọi là Phật. Nhất thiết trí biết tức là tri, cho nên đối với thấy Đế nói nhãn, trí nói giác. Đây là thấy nghe giác tri, không thấy Nhất thật đế lý, không phải là cầu kiến tư vô lậu Đại thừa, há là thật cầu pháp. Pháp gọi là vô vi, Tiểu thừa thì Diệt đế là vô vi, Đạo đế là hữu vi, còn vô lậu Đại thừa thì đạo diệt đều là vô vi. Nên Đại kinh có nói: “Đệ tử Thanh văn là hữu vi Tăng.” Trên có trách ngài La Vân rằng: “Nói lợi công đức hữu vi không phải là xuất gia vô vi” là ý ở đây vậy. Ba là, Kết trách Thân Tử lỗi dấy niệm “Thị cố… sở cầu”. Do nghó cầu pháp đến mỏi mệt mà nghó đến giường tòa. Nếu thật cầu pháp thì không nghó không cầu, đợi nước lắng trong thì châu liền tự hiện. Ấy là chân cầu không có biếng lười mỏi mệt há là nghó đến giường tòa. * Nói Thiên tử được Pháp nhãn tịnh “Thuyết thị… Nhãn tịnh”. Pháp nhãn tịnh, có thầy nói là pháp nhãn Đại thừa. Nay xét văn này tuy không cốt ý so sánh văn trên nhưng e cũng là Pháp nhãn tịnh Tiểu thừa. Vì sao? Vì ngài Tịnh Danh có hàm ý nhập chân Thông giáo Đại thừa mong cho hàng Tiểu thừa nghe xảo độ này tức là Pháp nhãn tịnh. Lại xưa phân biệt suy tìm đạo lý pháp tướng, vì nước tâm nổi sóng nên không thấy lý. Nay nghe nói “Không chỗ cầu”mà tâm mong cầu lặng dứt, nước tâm lắng trong thì bỗng nhiên thấy lý. Như A-nan suốt đêm thiền quán muốn dứt các kết còn sót nhưng không thể hết, khi định đi ngủ thì bỗng nhiên phát chân, lậu ba cõi dứt hết. Đây cũng thế. Tịnh danh dùng thần lực mượn tòa: “Nhó thời…”. Trên trách ngài Thân Tử chỉ cầu ghế ngồi chứ không phải cầu pháp. Nhân đây mà nói pháp các Thiên nhân đều được đạo, nhưng chưa hiển hiện thần lực Bất tư nghị. Nếu không bày tòa thì như kẻ nghèo không tiền bạc không có sắm sửa để chê trách tân khách. Nay dùng thần lực mượn tòa đáp lại ý nghó của ngài Thân Tử, xem là nguyên do nói giải thoát bất tư nghị. Văn có sáu: Hỏi ngài Văn-thù có chỗ ngồi tốt đẹp chăng. Ngài Văn-thù đáp chỗ ngồi. Hiện thần lực mượn tòa ngồi. Đức Đăng Vương gởi tòa. Đại chúng mừng đón. Ngài Tịnh Danh khiến chúng đến tòa. Hỏi chỗ tòa, muốn hiện bày thần lực bất tư nghị đặt tòa ngồi, ắt cần phải vừa ý tân khách. Sở dó trước hỏi chỗ tòa thắng diệu, ước lý mà hiểu thì ngài Văn-thù ứng dụng cơ nào, ngài Tịnh Danh đậu cơ ấy tất sẽ xứng hội, thế nên trước hỏi. Ngài Văn-thù đáp “Văn-thù… đệ nhất”, biết có diệu tòa xứng hợp cơ nghi của đại chúng, nên chỉ rõ thế giới Tu-di có tòa đẹp đẽ, Đức Phật đó có thân cao tám vạn bốn ngàn do-tuần, biểu thị cho tám vạn bốn ngàn pháp Ba-la-mật đã tạo nên pháp thân hoàn hảo. Tòa ấy cao tám vạn bốn ngàn do-tuần, biểu thị cho tám vạn bốn ngàn cảnh Chân không vô úy. Chính nói thần lực mượn tòa “Ư thị… thần lực”. Nếu căn cứ vào văn sau sai hóa Bồ-tát đến nước Hương Tích xin cơm. Nay văn này không thấy việc biến hóa, tức là Đại só đã thông linh ngầm cảm, do đó đức Phật kia theo tâm ý nghó mà gởi tòa đến hoặc có thể các nhà làm kinh đã lược bỏ. Đức Phật gởi tòa đến “Tức thời… Duy-ma-cật thất”. Đức Phật ấy gởi ba mươi hai ngàn tòa đến và phương trượng tiểu thất của ngài Duy- ma chứa đủ không chật chội. Vì trụ ở thần lực Bất tư nghị nên được như thế. Tức là biểu thị quả báo vô ngại đối với cõi nước y báo. Hỏi: Thần lực do đâu mà nhanh thế? Đáp: Linh Quỷ Chí có nói: “Chồn ngàn năm có thể đem xe mà chui vào gò mã, mã không thủng lổ mà xe vẫn không hư”, yêu nhỏ còn thế huống là thần lực của Bồ-tát bất tư nghị. Đại chúng đón mừng “Chư Bồ-tát… như cố”. Bao nhiêu tòa lớn để trong tiểu thất đó rốt cuộc không chật chội, hình dạng thành Tỳ-da-ly cũng không thay đổi, từ xưa nay chưa từng thấy nên đều khen ngợi. Mời lên ngồi “Nhó thời…”. Văn có ba: Một là, Văn-thù… cùng đến ngồi. Các Bồ-tát có thần thông đều theo tòa mà ngồi. Ba là, Các Bồ-tát mới phát tâm đều không thể lên ngồi được. Mời lên tòa ngồi, bảo tự biến thân cao lớn giống tòa ấy, tức tự khiến hai, Đáng ngồi mà ngồi “Kỳ đắc… sư tử tòa”. Các Bồ-tát có thần thông đều là thân bốn vạn hai ngàn do-tuần. Trên nói thân Phật đầy đủ tám vạn bốn ngàn do-tuần. Nay Bồ-tát ở nhân nhường quả nên giảm còn phân nửa. “Các Bồ-tát mới phát tâm…) là nói những Bồ-tát mới phát tâm và các đệ tử Thanh văn… đều không thể lên ngồi. Văn có năm: Một là, Những người mới phát tâm đều không thể lên ngồi. Hai là, Nói ngài Thân Tử đến tòa. Ba là, Ngài Thân Tử từ chối không thể lên được. Bốn là, Khiến đảnh lễ Đức Đăng Vương. Năm là, Các người mới phát tâm đều đảnh lễ mới lên ngồi được. Phần đầu theo văn mà biết. “Nhó thời… Sư tử tòa” nói ngài Thân Tử đến tòa. Từ trước nay nghó cần có tòa ngồi nay đã bày tòa sao không như các Bồ-tát kia đến ngồi. “Xá-lợi-phất… không thể lên ngồi” là nói ngài Thân Tử từ chối vì không thể lên ngồi. Tòa này cao rộng, kinh Pháp Hoa nói: Các pháp Không làm tòa. Lý không sâu rộng tức là sự cao rộng. Ngài Thân Tử và các đệ tử mới phát tâm đều chưa vào Phật tuệ, không được thần thông Bất tư nghị, sao được đồng các Đại Bồ-tát mà lên, cho nên tuy thấy tòa này mà không thể lên ngồi. Như người thấy trò ảo thuật hóa một hay nhiều việc mà mình không làm được. Thân Tử… cũng thế. Tuy thấy trong thất các việc rộng lớn như thế mà không có thần lực này nên không thể lên ngồi. Sở dó người mới phát tâm không thể lên ngồi, là vì hàng phục kiết ngũ thông của Tam tạng giáo không phải bậc Lậu tận, không bằng Nhị thừa sao có thể lên ngồi. Hàng Lục địa của Thông giáo đoạn kiết cùng A-la-hán ngang nhau, được Lục thông nội giới. Nếu xem về Viên giáo cũng còn là La-hán mới phát tâm, cũng chưa thể lên ngồi, hàng Lục địa sao có thể ngồi. Riêng ba mươi tâm của Biệt giáo tuy được năm thông ngoại giới, cũng gọi là mới phát tâm, chưa vào Sơ địa của giải thoát bất tư nghị, sao có thể lên ngồi. Hàng Thập tín của Viên giáo tuy đã tịnh sáu căn, cũng gọi là mới phát tâm, chưa vào sơ trụ chân ứng hai thân, sao có thể lên ngồi. Khuyên đảnh lễ “Duy-ma-cật… bèn có thể đến ngồi”. Sở dó phải đảnh lễ, là vì Thân Tử và các đại đệ tử chưa vào đại đạo. Người mới phát tâm… tuy là Bồ-tát nhưng chưa trụ giải thoát Bất tư nghị, không được sức tự tại nên không thể lên ngồi. Nếu đảnh lễ Đức Phật ấy, nhờ thần lực Phật mới có thể lên ngồi. Lại giải Tiểu thừa quy hướng Như Lai, tức là hồi tâm hướng về Đại thừa. Biểu thị đến thời Pháp Hoa sẽ được an trụ vào thật trí, được thọ ký làm Phật, cho nên được lên ngồi. Các người mới phát tâm nghe lời nói bất tư nghị này, tâm liền ngộ giải. Hoặc đến thời Đại phẩm thì được vào. Nếu đến thời Pháp Hoa mới nghe chánh trực xả phương tiện đều có nghóa nhập, nên được lên ngồi. “Do đó… tòa sư tử) là những người mới phát tâm nghe lời khuyên đảnh lễ mà được lên tòa, là do nhờ thần lực của Đức Phật ấy. Cũng là biểu thị xa về sắp xứng hợp lý không của Đại thừa nên được lên tòa. Phần ba, Chính nói ngài Tịnh Danh nói lực dụng giải thoát bất tư nghị. “Xá-lợi-phất…’ Văn có hai: * Ngài Thân Tử thấy thần dụng bất tư nghị này khen là chưa từng có. Hai là Ngài Tịnh Danh đáp lời nói rộng chư Phật, Bồ-tát trụ vào quả vị giải thoát bất tư nghị, có thần dụng lớn. Ngài Thân Tử thấy thần lực này về các tòa cao rộng, nếu đặt một Tòa cao rộng tám vạn bốn ngàn do-tuần thì cõi Diêm-phù này không đủ chứa. Vì sao? Vì đất cõi Diêm-phù-đề chỉ dài có bảy ngàn do-tuần đâu thể chứa được một tòa này, huống là ba mươi hai tòa cùng vào một tiểu thất, mà y chánh của thành Tỳ-da-ly trong cõi Diêm-phù đều không hư hại, cũng không chật chội, thật khó lường. Thế nên ngài Thân Tử mừng khen. Hỏi: Nhà nhỏ sao chứa được các tòa lớn? Đáp: Thế đế có hai, tư nghị thì nhỏ không chứa được lớn. Bất tư nghị thì nhỏ ắt chứa được lớn, như cả cảnh tượng lớn vẫn hiện đủ trong mặt gương một thước. “Duy-ma-cật nói…” là chính căn cứ quả địa giải thoát ba đức bất tư nghị mà đáp. Sở dó ước quả mà đáp, là vì ngài Thân Tử thấy việc này khen là chưa từng có mà không suy biết là những pháp môn nào. Thời chúng chưa trụ vào Giải thoát này cũng không biết như thế. Cho nên ngài Tịnh Danh hiển bày chư Phật được thứ giải thoát này mà đáp là Bồ-tát trụ vào Giải thoát này tức hay có đại thần dụng. Nay ngài Tịnh Danh là Đại Bồ-tát trụ vào Giải thoát này, nên hiện ra sự việc như thế. Văn có ba: Một là, Nói Phật, Bồ-tát hiển bày thể bất tư nghị. Hai là, Nói Bồ-tát trụ vào trí bất tư nghị. Ba là, Nói đại dụng bất tư nghị. Đây là chính nói ba đức giải thoát, hiển bày cái dụng của quả địa pháp thân đại bi bệnh quyền trong phẩm Thăm bệnh ở trên. Vì sao? Vì trên chỉ hiện một nhà trống để một cái giường để người bệnh nằm. Nay lại hiển bày việc này là cốt nói chư Phật, Bồ-tát có giải thoát, tức hiển sáng chân tánh. Trên chỉ đặt một cái giường là biểu thị cho chân tánh này vậy. Bồ-tát trụ vào Giải thoát này. Đây là thật tuệ cùng chân tánh tương ưng nhau mà nhập lý Bát-nhã gọi là trụ. Trụ là yên tịnh dứt nghỉ. Thật tuệ thấy lý nghỉ làm phương tiện. Trên hiện nằm ngủ là biểu thị việc này. Có thể đem núi Tu-di cao rộng để trong một hạt cải nhỏ bé, tức là phương tiện. Trên không bệnh hiện có bệnh, chính là biểu thị việc này. Sở dó ngài Tịnh Danh hiển bày lại ba đức giải thoát, là trên tuy nói về bệnh quyền chính vì lợi vật, nhưng chưa nói về vô lượng phương tiện Bất tư nghị để ích vật. Thời chúng sao biết được việc tích xứ bệnh quyền lợi vật biên không ở mười phương. Nay nhân mượn tòa vào thất làm chứng cho việc tích xứ bệnh quyền có cái dụng lợi vật bất tư nghị này. Trước nói chư Phật, Bồ-tát có giải thoát hiển bày chân tánh, là chân tánh cùng chúng sinh cùng có. Vì như Phật, Bồ-tát hay được lý này, nên có được đại dụng. Như được châu Như ý thì ắt có mưa báu. Hai, nói trụ trí Bất tư nghị “nếu Bồ-tát trụ ở giải thoát này) tức là thật tuệ. Vì được thật tuệ thì có thể dùng bất trụ pháp mà trụ vào chân tánh này. Tạng Thông không nói lý này, nên Bồ-tát không trụ. Về Biệt, Viên địa trụ trở lên thì luôn trụ ở lý này tức có đại dụng. Như châu Như ý tự nhiên hiện ra vật. Nay ngài Tịnh Danh hậu tâm trụ ở lý có công dụng không ai sánh được. Về đại dụng bất tư nghị “Đem núi Tu-di…”. Tức là thật tuệ cùng chân tánh hợp nhau mà có được sự khó suy lường này. Đại luận nói nước bạc hòa cùng vàng ròng đem tô đắp các tượng. Công đức hòa cùng pháp thân, nơi nơi đều hiện đến. Văn có hai: nói tắt riêng về dụng bất tư nghị và nói rộng chung nói dụng bất tư nghị. - Tóm tắt riêng nói: Văn nêu ra tám cặp đối nhau. Cặp đầu là núi biển đối nhau cũng là y chánh báo đối nhau. Đem núi Tu-di… Người được giải thoát Bất tư nghị bèn nương y báo mà được tự tại. Việc này không dễ. Có Sư nói do thần lực mà được như thế. Nay cho ràèng đó là tánh bất tư nghị, không phải do thần lực của Phật hay trời, người, Tu-la nào có thể làm được. Có sư nói: Nhỏ không tướng nhỏ, lớn không tướng lớn nên được vào. Nay bảo nhỏ là nhỏ, lớn là lớn là tự tánh. Nhỏ lớn không được vào nhau, tức là nhỏ lớn lớn nhỏ, đã là tha tánh thì sao được vào. Nay hiểu theo kinh Hoa Nghiêm nói: “Một hạt vi trần có đại thiên kinh quyển.” Quán chúng sinh một niệm tâm vô minh tức là tâm Như Lai. Nếu thấy được tâm này thì có thể đem núi Tu-di để vào hạt cải, nào có ngại gì? Các việc bất tư nghị sau này dầu cùng kiếp nói cũng không hết, đều là ý này. Nên văn nói: Giải thoát của chư Phật phải tìm ở tâm hạnh chúng sinh, nếu quán tâm hạnh chúng sinh thì được giải thoát của Phật. Trụ vào Giải thoát này thì có thể hiện được các việc bất tư nghị như thế. Vì sao? Vì các phương tiện giáo có nói: Hàng Nhị thừa giải tho- át thiên chân là giải thoát tư nghị, như được chất pha lê mà không được mưa báu. Viên giáo Trung đạo thì chân tánh viên chân, tức là giải thoát bất tư nghị. Như được châu Như ý mưa báu đại thiên. Thấy chân tánh tâm hạnh chúng sinh, tức được chân tánh của hạt cải và núi Tu-di nhất như không hai. Nếu được cái nhỏ của chân tánh hạt cải hay dung chứa cái lớn của núi Tu-di thì được cái lớn của chân tánh núi Tu-di thì không ngại gì cái nhỏ của hạt cải. Nêu một ý này có thể suy các ý khác. Nói chúng sinh ở trong ấy… chúng sinh đã không thấy cái chân tánh nhỏ lớn thì đâu biết được cái cơ được độ, nhờ thần lực gia hộ mà thấy được việc đó. Nếu hay quán chân tánh này mà vào quán hạnh tương tợ. Nhân đây tất được Diệt độ của Như Lai. Cho nên nói bèn có thể thấy. Nên kinh Pháp Hoa nói sáu căn thanh tịnh chỉ riêng mình thấy rõ ràng, người khác không thấy được. Lại đem cả nước bốn biển lớn để vào một lổ chân lông. Biển đối với núi Tu-di vào một lổ chân lông, là chánh báo tự tại. Nếu gặp nước biển chân tánh tức là chân tánh một sợi lông, tức hay đem nước biển để vào một sợi lông, đối với thân chánh báo không ngại gì. Cặp thứ hai là ném thế giới, đi lại đối nhau “Hựu Xá-lợi-phát… bổn tướng như cũ”. Nếu Bồ-tát trụ vào chân tánh thế gian tức có thể làm như thế. Cặp thứ ba là dài ngắn đối nhau “Hựu Xá-lợi-phát… bảy ngày”. Nếu Bồ-tát trụ ở chân tánh thời tiết thì có thể như trong một niệm mà rộng thấy việc ba đời như thế. Nếu nói là ngắn thì thấy việc ba đời, nếu nói là dài thì chỉ một niệm chiêm bao. Cặp thứ tư là kia đây đối nhau “Hựu Xá-lợi-phát… bổn xứ”. Cặp thứ năm là có quốc độ đối nhau “Hựu Xá-lợi-phát… kiến chi” Cặp thứ sáu là gió, lửa đối nhau “Hựu Xá-lợi-phát… vi hại) Cặp thứ bảy là trên, dưới đối nhau “Hựu Xá-lợi-phát… sơ nhiễu” nhưng kinh lược bỏ không đem trên đặt dưới, nghóa suy ra ắt có. Cặp thứ tám là thân và tiếng đối nhau “Hựu Xá-lợi-phát… đắc văn”. Các việc trên đều nên căn cứ theo núi và biển. Trụ vào chân tánh thì được như thế. Vì bệnh quyền biến hiện để lợi vật, thật khó lường, những ai thấy nghe thì đều được độ. Nói rộng kết chung Về đại dụng bất tư nghị vô lượng, “Xá-lợi- phất… bất tận”. nếu trụ vào chân tánh tức các pháp tánh. Pháp tánh thì vô lượng, biên không, ắt có đại dụng bất tư nghị cũng vô lượng, biên không, há có thể cùng kiếp mà nói hết được sao. Tức là thùy tích bệnh quyền ở ba cõi lợi vật và hư không bằng nhau. Hiển bày quả địa đại bi bệnh quyền nghóa đã khá rõ. Ngài Đại Ca-diếp khen ngợi “Nhó thời…”. Văn có hai: Tự khen ngợi. Bảo ngài Xá-lợi-phất là việc đáng khen. Tự khen: Ngài Ca-diếp nghe nói về dụng khó thể suy lường, việc chứng của hàng Nhị thừa không như việc này. Từ xưa nay chưa nghe nên khen là chưa từng có. Nói với ngài Xá-lợi-phất là việc đáng phục “vị Xá-lợi-phất…”. Lại có bốn: Một là, Hàng Tiểu thừa nghe nói không hiểu được. Hai là, Khuyên người trí phát tâm. Ba là, Tự trách Thanh văn không có phần. Bốn là, Mừng Bồ-tát được lợi. Hàng Tiểu thừa không hiểu: Vì hàng Tiểu thừa không có ba căn vô lậu Đại thừa, tuy nghe vẫn không hiểu. Ngài Ca-diếp tự đặt thí dụ mù để làm sáng tỏ nghóa này. Tức có hai: Khai dụ và hợp dụ. Đối trước kẻ mù hiện bày hình sắc, người mù tuy không thấy nhưng không phải Không nghe sắc. Đây là thí dụ hàng Nhị thừa không có ba căn vô lậu Đại thừa. Nghe nói về thần lực, nhưng đã không thấy lý thì không biết được thần dụng ý thú do đâu mà có. Như người mù không thấy sắc, tuy nghe người khác nói mà không biết nhân đâu mà có. Nên nói không thể hiểu là như thế. Vì sao? Vì hàng Nhị thừa tuy được tuệ nhãn để thủ chứng nên căn Pháp nhãn hư hoại. Tuy lại nghe nói nhưng không thể phát ra thức để thấy được việc ấy. Như người mù ở đời vì căn nhục nhãn hư hoại, tuy đứng trước các màu sắc nhưng không thể phát ra thức thấy được. Khuyên người trí phát tâm “trí giả Tam-bồ-đề tâm…”, trừ hàng Nhị thừa chánh vị, còn người có trí của năm thừa kia đều có thể phát tâm học pháp môn này. Ca-diếp tự trách hàng Thanh văn không có phần “ngã đẳng… thế giới”. Vì tất cả Thanh văn đã mất hẳn căn, là hạt giống không nảy mầm. Nghe nói lời ấy đều gào khóc tiếng vang động đại thiên, không gây nhân ở ba cõi, đối đại thiên thế giới thì mất hẳn việc này, nên thảm thương tự trách. Ngài Ca-diếp ở đây trách các chánh vị khiến thành sinh tô, khi vào Đại phẩm thì thành thục tô, đến Pháp Hoa thì thành đề hồ. Bốn, Ca-diếp mừng các Bồ-tát “Nhất thiết trí…”. Có hai: Mừng khuyên lãnh thọ, như văn kinh. Được chân pháp này, Đại só trụ trong pháp môn này liền biết ma huyễn. Nên nói Bồ-tát tin hiểu pháp môn, thì tất cả chúng ma không làm gì được. Phần năm, Thời chúng được lợi ích “Đại Ca-diếp… Tam Bồ-đề tâm” hàng Thiên nhân được lợi ích, chính là do nghe nói độ dụng bất tư nghị này, cũng là ngài Ca-diếp tự khen khuyên nên đều phát tâm. Phần sáu, Kể thành việc ngài Đại Ca-diếp “Nhó thời…”. Ở trên ngài Đại Ca-diếp nói: Pháp môn này ma không thể phá hoại. Nay thuật thành ý này có hai: Một là, Nói ma không thể phá hoại. Hai là, Nói trụ vào Bất khả tư nghị thì Bồ-tát hay thành tựu được người tu hành. Một, Ma không thể phá hoại. Tất cả chúng ma không thể phá hoại, là phàm làm ma vương phần nhiều đều trụ ở pháp môn này để khích động các người mới học phương tiện Bồ-tát và những kẻ mới học tu Viên đạo. Nếu là chân đạo thì như bình báu kim cang không thể phá. Cũng như heo cọ cột vàng thì cột càng sáng bóng, như ma đến thì lại tăng thêm phước trí. Hai, Nói Bồ-tát trụ vào bất tư nghị hay thành tựu người tu “Hựu Ca-diếp… chi môn”. Các người học Phương tiện và người sơ học Viên giáo hành trì lục độ bố thí… hay trụ vào bất tư nghị thì các Bồ-tát thường đến thử thách, khiến họ càng bền chắc. Như kinh Pháp Hoa nói Thích- ca nhân địa luôn nhờ Điều-đạt giúp thành. Nếu hàng Tiểu Bồ-tát thì không thể như thế được. Tức dùng thí dụ mà hiển bày. Khai dụ hợp dụ xem văn có thể hiểu. <篇> DUY-MA KINH LƯỢC SỚ <卷>QUYỂN 8 GIẢI THÍCH PHẨM: QUÁN CHÚNG SINH Phẩm thứ tư sau đây tiếp sau phẩm Bất Tư nghị. Lược dùng ba nghóa để giải thích chung: Nói phẩm này và ý của ba phẩm kế sau. Lược giải thích tên phẩm. Giải thích văn kinh. 1. Giải thích ý có phẩm này. Một phẩm Bất Tư nghị trên lập thành nghóa Thượng quả. Gần mà nói tức để thành phẩm Thăm Bệnh thì dẹp hết các thứ trong thất là biểu thị cho mười phương cõi Phật đều không, chỉ đặt một chiếc giường để người bệnh nằm, chính là biểu thị pháp thân có đại bi ứng dụng. Vì để thành nghóa này nên nói rộng trụ vào Giải thoát chẳng thể nghó bàn, có các việc không thể suy lường được. Chính là nói bệnh quyền không phải bệnh. Hiện bệnh nhân duyên chẳng thể nghó bàn là bệnh để đem lại lợi ích cho mọi người. Xa mà nói là thành phẩm Phật Quốc trên nói về Tịnh độ. Ngài Thân Tử và chúng sinh vì có tội nên không thấy Tịnh độ. Ngài Loa Kế không tội nên thấy tịnh trang nghiêm. Đây là đại dụng vô phương chẳng thể nghó bàn, chỉ có người đáng độ mới thấy được. Kế từ phẩm này có bốn phẩm nữa. Gần mà nói, chính vì thành phẩm Thăm Bệnh với ba giáo ủy dụ, ba quán điều phục, ba thứ Bồ-tát có bệnh được nói rộng trong đó, nên được giải thích trước. Luận việc xa, thì cũng gồm thành bốn phẩm ngoài thất. Về phần bốn phẩm này đối với phẩm Thăm Bệnh trên là ba giáo ủy dụ, ba quán điều phục và Bồ-tát bệnh thật , thì phẩm này tức thành phẩm Thăm Bệnh từ Giả vào Không mà quán điều phục vậy. Trên nói “Nay bệnh ta…” từ vọng tưởng đời trước sinh ra, cho đến ngã và Niết-bàn hai thứ đều không. Được pháp này, là Không có bệnh khác. Chỉ có bệnh không. Bệnh không cũng không. Văn trên dựa thẳng vào Không, chưa luận dựa vào Không mà khởi bốn Vô lượng tâm. Phẩm này luận đầy đủ nên hơi khác. Lại trên chỉ nói vào Không. Phẩm này ngài Văn-thù có xét hỏi tận nguồn cội. Ngài Tịnh Danh đáp đến nguồn cội vô trụ mới thôi. Lại ngài Thân Tử và Thiên nữ đối đáp qua lại rõ ràng, nên nói rộng trước. Kế giải thích phẩm Phật Đạo để thành việc phẩm Thăm Bệnh từ không vào Giả mà quán điều phục. Trên nói đem không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ. Chưa đủ Phật pháp cũng không diệt thọ mà thủ chứng. Tức từ không vào Giả mà quán. Nay phẩm Phật Đạo nói hành ở phi đạo mà thông suốt Phật đạo, tức là khơi lại phẩm Thăm Bệnh trên nói vào Giả rõ ràng. Hai phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn và Hương Tích, giải thích thành việc thăm bệnh nói Trung đạo chánh quán điều phục. Trên nói: “Như bệnh ta không phải Chân không phải hữu, chúng sinh bệnh cũng không phải Chân không phải Có.” Lại nói không phải cấu hạnh, không phải tịnh hạnh, đạo quán song lưu. Phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn nói các Bồ-tát đều nhập pháp môn bất nhị, để thành việc phẩm Thăm Bệnh nói không phải Chân không phải Có. Về phẩm Hương Tích thì cấu tịnh song hành để thành việc phẩm Thăm Bệnh nói nghóa đạo quán song lưu. Nếu luận xa thì gồm thành bốn phẩm Ngoài Thất. Phẩm này để thành việc trên nói cho các quốc vương, trưởng giả về các dụ thân vô thường mộng huyễn… khiến họ cầu pháp thân. Phẩm Phương Tiện chỉ nói hữu vi duyên tập thế đế, Thông giáo thì thể Giả vào Không chưa luận nhiễm chân đế Niết-bàn, không bệnh cũng Không. Nay đây nói đủ nên được rộng nêu ở trên. Kế phẩm Phật Đạo là thành việc phẩm Đệ Tử trên nói nghóa Biệt giáo. Chê trách các đệ tử vì thủ chứng chân đế Niết-bàn mà không chịu nhập giả phương tiện. Nay nói hành ở phi đạo mà thông suốt Phật đạo. Rộng luận về nhập giả danh phi đạo, phá hằng sa vô tri, khéo ở tri kiến mà được vô ngại ngại. Kế phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn là phẩm Hương Tích, thành ng- hóa Viên giáo của phẩm Bồ-tát trên. Nếu Biệt giáo Bồ-tát thì cần riêng trải tu hành. Tại nhân tuy hay nhập giả, nhưng không thể song quán chân tục. Nay phẩm Bất Nhị Pháp Môn nếu nhập thì mọi sinh diệt đều mất. Còn phẩm Hương Tích khi xuất thì có, không tịnh uế đồng hành. Hiển bày Viên giáo pháp môn, dẹp trừ tự thể duyên tập. Nay được giúp thành phẩm Phật Quốc, là thành cái nghóa nhân Phật quốc. Vì sao? Vì duyên phược nếu đoạn tất được vãng sinh. Nếu khi thành Phật thì các chúng sinh được hóa độ liền sinh đến cõi nước ấy. Bốn phẩm này gồm ba phân đoạn: Phẩm Quán Chúng Sinh chính nói từ quán Giả vào Không . Phẩm Phật Đạo chính nói quán từ không vào Giả quán. Phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn và phẩm Hương Tích nói Trung đạo chánh quán song lưu vậy. Nay một phẩm này trước hết nói về thông tướng từ quán Giả vào Không . 2.Lược giải thích tên phẩm này: Nói “Quán Chúng Sinh”, thì trước đây phẩm Thăm Bệnh nói từ Giả vào Không, nhưng chỉ quán bệnh ở tự thân. Nay phẩm này nói từ Giả vào Không, tức quán mình và người khác, nhất như không hai. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm, Phật và chúng sinh, là ba thứ không sai khác.” Tự và tha cùng ở một bên, nếu không thông tự thì không đạt tha. Trên nói thông tựlà tự điều phục. Nay nói đạt tha,là từ bi tiếp vật cho nên nói là phẩm Quán Chúng Sinh. Quán, là lấy quán đạt làm nghóa, cũng là quán xuyên suốt. Nói quán đạt là thấu suốt chúng sinh vốn có cội nguồn thanh tịnh. Như từ Giả vào Không mà quán chiếu thấu suốt, tuy còn Phàm, Thánh khác nhau, nhưng đồng quy vào Không tịch, nhất như không hai. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm nói: “Như tâm và Phật cũng thế, như Phật và chúng sinh cũng vậy, tâm, Phật và chúng sinh là ba, mà không sai khác.” Văn trên nói: “Di-lặc Như chúng sinh Như, nhất Như không hai.” Đây tức là rõ biết chúng sinh rốt ráo thanh tịnh. Tục đế sinh không, chân đế pháp Không, Trung đạo đệ nhất nghóa đế chân bình đẳng Không. Thấu suốt ba nghóa sâu sắc này là vì chúng sinh ba đế hoặc chướng không đồng nhau, gọi là chấp tướng vô tri, vô minh khác nhau. Tuy có ba hoặc che chướng ba đế lý, nhưng Bồ-tát chiếu soi thấu suốt vô ngại. Nên Đại kinh nói: Tức dùng đục bén mà đục tan đá tảng sỏi cát đều không ngại đục thấu tới kim cang, tức là nghóa của quán đạt. Về nghóa của quán xuyên suốt, là khi Bồ-tát từ Giả vào Không thì quán xuyên suốt qua đá tảng của kiến tư tục đế. Cát vô tri trệ chân, sỏi đá vô minh che lấp nhất thật, nay đều rỗng suốt vô ngại, tức là tột đến bản tế kim cang của tâm tánh. Nên kinh Pháp Hoa có nói: Thí Như có người khát cần nước chạy lên vùng cao nguyên đào đá tìm nước, chỉ thấy toàn đất khô cứng, biết nước còn xa đào mãi mới thấy đất ướt, dần đến lớp bùn, lòng quyết biết nước đã gần. Thấy đất khô là quán chúng sinh giả thấy chân đế. Thấy đất ướt là quán Chân không trụ, thấy giả vô ngại. Dần đến lớp bùn, đây là nói Trung đạo cùng vô minh hợp nhau, như nước họp cùng bùn. Nên nói đến lớp bùn nếu được nước trong, tức là lý Trung đạo hiển bày, lìa bỏ bùn vô minh, lắng thành nước trong mát, tức là chân giải thoát. Cho nên vào phẩm này nói quán chúng sinh có ba thứ, tức định ba thứ này là nghóa của quán đạt. Lại đoạn văn sau kiểm xét tận nguồn cội đến gốc vô trụ tức là quán xuyên suốt năm trụ đến lý bản tế kim cang của tâm. Nói “chúng sinh”, tức là các pháp ấm, nhập… nhận lấy thứ này làm thân nên gọi là chúng sinh. Tỳ-đàm nói sở thành chúng sinh là vô, năng thành Phật pháp là hữu. Độc Tử nói ngã ở đại thứ năm chẳng thể nói là tạng. Thành Thật luận nói không phải chỉ “Sở thành là giả mà năng thành cũng giả.” Cho nên đem ba giả làm thế đế mà có giả chúng sinh, nếu từ không nhập chân, liền không có chúng sinh. Không phải chỉ không có sở thành mà năng thành cũng không. Đây là tích giả mà nói năng thành và sở thành để nhập không vậy. Phương quảng nói: Chúng sinh và thật pháp đều như mộng huyễn, không sinh không diệt rốt ráo đều không. Đại luận phá lỗi này là làm mất ý Đại thừa. Nay kinh nói thể của sở thành luôn dùng để nhập không, đều như huyễn hóa… Hỏi: Nếu như huyễn tức không thì cùng Phương quảng có gì khác? Đáp: Phương quảng tuy nói như huyễn tức không, lấy không hý luận để phá tuệ nhãn, còn không được nhập chân, há được Chân không mà nhập trung. Kinh này nói quán ba đế cùng nguồn tột tánh, nghóa suy ra liền có ba thứ chúng sinh: Tục. Chân. Trung. Về tục đế, là nhận năm ấm phần đoạn để thành giả danh chúng sinh, đều như huyễn mộng. Nếu thấy chân đế, tức nhận năm ấm biến dịch để thành chúng sinh. Nếu thấy Trung đạo, tức là năm ấm pháp tánh để thành chúng sinh. Nên Đại kinh nói: Chúng sinh và Phật tánh không lìa sáu pháp. Đại Luận nói: Chúng sinh cao tột nhất chính là Phật, pháp cao tột nhất là Niết-bàn. Nay Trung đạo là năm ấm pháp tánh, thì cái gì chẳng gọi là chúng sinh. Khắp nguồn cội chúng sinh là ba thứ chúng sinh, tức là nghóa Bồ-tát quán chúng sinh. Hỏi: Kinh này nói quán chúng sinh nhập chân như đại thứ năm mà không nói có năm ấm biến dịch, sao lại dùng cái này để giải? Đáp: Quán chân đế thì không thấy chúng sinh tục đế như đại thứ năm, y vào chân thì đều là năm ấm chúng sinh vô vi biến dịch cả. Lại nữa, Bồ-tát quán không khác với Nhị thừa. Nhị thừa quán chúng sinh không, còn không quán Niết-bàn không, thì đâu thể quán Trung đạo là Không. Nay nói từ Giả vào Không, ắt là ba đế đều không. Nên phẩm Thăm Bệnh nói: Ngã và Niết-bàn là hai thứ đều không. Ngã không, tức sinh tử, tục đế chúng sinh không. Niết-bàn không, tức pháp chân đế không. Lại nói: Bệnh không cũng không, phải biết vọng chấp Trung đạo thì bệnh này cũng không. Sở dó có lúc dùng không mà nói Trung đạo, là vì dùng không hai biên. Nếu chấp có Trung đạo, thì ở Trung đạo có bệnh. Bệnh này cũng không, nên nói Trung đạo cũng không. Một khi vào Không mà quán thì ba đế đều không. Tuy lại đều không mà cũng không đoạn diệt vì thấy Trung đạo, thì một tâm muôn hạnh đâu chỉ là Không đoạn. Cho nên phẩm này nói cho đến Trung đạo. Như ở cõi Vô sắc mà thí dụ về sắc… Phải biết khi Bồ-tát từ Giả vào Không, tuy đồng với Nhất thiết trí vào Không, nhưng đối với không này, lại thấy Lý ba đế, đầy đủ cả ba trí. Nên Đại Luận có nói: Ba trí thật là nhất tâm trung mà được. Vì nói với mọi người để dễ hiểu nên cần thứ lớp phân biệt. Như thế mà vào Không, đủ cả ba quán, là tuy dùng không để gọi, nhưng phải thật đủ ba quán, tức có Từ, Bi, Hỷ, Xả. Như phẩm này đã nói. Nếu quán đủ ba không, mà thấy ba đế, thì tức là nghóa của quán đạt và quán xuyên suốt, nên gọi là phẩm Quán Chúng Sinh. Hỏi: Trước dùng chân phá tục, kế dùng trung phá chân, được gọi là Chân không. Nay lấy gì phá trung mà gọi là trung không? Đáp: Bất sinh, bất sinh bất khả thuyết, tánh tự là Không. Lại nữa, phá người chưa chứng trung chỉ vọng chấp hý luận, nên nói Trung đạo là Không. Lại nữa, vì phá pháp ái nên nói trung không. Không có đế lý nào khác để phá trung. Nếu “lại có”thì lý “lại có”này cần phải phá, tức có lỗi vô cùng. 3.Giải thích văn kinh “Bấy giờ…” . Như trước chia bốn phẩm gồm ba ý, đến phẩm này văn có bốn: Chính nói quán chúng sinh từ Giả vào Không. Nói khởi vô lượng tâm lợi vật. Đối đáp qua lại xét cội nguồn chúng sinh. Thiên nữ tán hoa. Phần 1) có hai: Văn-thù hỏi và Tịnh Danh đáp. Văn-thù hỏi, sở dó hỏi là vì ở phẩm Thăm Bệnh trên nói Bồ-tát bệnh thật từ Giả vào Không chỉ là luận việc tự điều phục, chứ chưa nói quán để phương tiện lợi vật. Nay ngài Văn-thù hỏi nếu trước dùng từ Giả vào Không mà quán để lợi vật, vì sao lại quán chúng sinh, nên phải hỏi. Ngài Tịnh Danh đáp “Duy-ma-cật nói…”. Văn có ba: Một là, Nói mười dụ như huyễn… để quán chúng sinh thế đế. Hai là, Nói năm dụ như đại thứ năm… để quán chúng sinh chân đế. Ba là, Nói các thí dụ về Sắc và Vô sắc để quán chúng sinh Trung đạo thật đế. Nói về mười dụ, tự nơi có thể tánh mà nói không chỉ trừ vọng chấp tánh nhất định, thì cũng còn là giả danh chúng sinh. Nếu thể giả tức thật đều là huyễn có, thì tùy lý ba giả có tên là tánh không. Chẳng phải là Không có tùy lý huyễn giả mà có chúng sinh ấm nhập thế đế. Về mười thí dụ thì năm thứ trước là theo lý, năm thứ sau là theo tình. Lại có hai ý: Trước nói dụ như huyễn, tiếp nói chín thí dụ. Nói dụ như huyễn: nhà huyễn thuật thấy người huyễn mình hóa ra, tức như nhà huyễn thuật hóa vật làm người. Tự biết pháp huyễn nên biết vật đó là huyễn ảo không thật, mà người không biết thì cho đó là người thật. Do có pháp huyễn nên có tự tha chúng sinh. Như ở phẩm Thăm Bệnh nói: Quán tự chúng sinh và ngoại chúng sinh đều như huyễn. Người bị hoặc, không hiểu rõ cho là thật có. Cho nên theo tình mà có ba thứ giả chúng sinh. Nay quán chúng sinh tuy như huyễn không mà không ngại chi, cũng tùy lý mà có ba thứ giả chúng sinh thế đế. Cho nên nói Bồ-tát quán chúng sinh là như thế. Nói Chín dụ “Tri giả… cữu trụ”, bốn dụ trước thuộc tùy lý, năm dụ sau thuộc tùy tình. Như trăng trong nước. Nhân trăng trên trời mà biết có trăng trong nước. Tuy là Không thể được nhưng không ngại chi việc có trăng Bồ-tát tự biết trong nước pháp tánh có mặt trăng mặt trời vô minh tức là chúng sinh. Như trong gương thấy đủ dáng hình. Bồ-tát biết có dáng vô minh ở trong gương chân pháp tánh thấy hình chúng sinh. Như ánh lóa lúc trời quá nóng. Vô minh như thời tiết nóng, nương pháp tánh không mà khởi ánh lóa chúng sinh. Như âm vang của tiếng gọi. Như có tiếng gọi vô minh, tức đối với hang pháp tánh không mà có tiếng vang chúng sinh. Nếu như tám thí dụ của Nhiếp Đại thừa phải nương vào A-lê-da mà có. Mọi thứ đều có chủ. Đây là ý riêng. Nay dùng chung để dụ cho chúng sinh thì đó là ý của hai giáo Viên, Thông. Còn năm dụ sau như mây trên không trung… là Tam tạng giáo tùy tình có ba giả, giúp thành các dụ tùy lý, đầy đủ như trong phẩm Phương Tiện đã nói. Về như mây trong không trung, tức trong năm ấm không có thân người. Vì kiến lực nên có mây chúng sinh. Về như đám bọt nước… các dụ thì phẩm Phương Tiện đều đã giải thích. Nói năm dụ quán chúng sinh chân đế không “Như đại thứ năm… là năm thí dụ như thế”. Trên nói các thí dụ, thì dụ quán chúng sinh không có tánh nhất định, không hại gì đến chỗ thấy điên đảo, như huyễn hóa, tiếng vang chúng sinh. Nay năm dụ này nói chúng sinh đều như lông rùa sừng thỏ không thể được. Không phải chỉ không có chúng sinh, mà cũng không có cả thật pháp. Dứt đường ngôn ngữ, bặt cả tâm hành. Như đại thứ năm… Không có đạo lý này, là quán chúng sinh vào chân rốt ráo, không thấy tướng chúng sinh. Nói quán chúng sinh Trung đạo ““Như vô sắc…” … “vi nhược thử thập lục thí” . Pháp Trung đạo không phải có không phải Không. Không như huyễn các dụ là có, không như năm dụ Đại… là Không. Như sắc ở cõi Vô sắc, nếu giáo bất liễu nghóa nói không có sắc ở cõi Vô sắc, thì giáo liễu nghóa nói có sắc ở cõi Vô sắc. Nên Đại kinh nói như sắc ở cõi Vô sắc. Vì sao lại được có tới lui dừng nghỉ. Nghóa như thế không phải là các cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác, chính là chỗ thấy biết của chư Phật, Bồ-tát. Giải thoát cũng thế. Cũng sắc mà không phải sắc. Không phải sắc là Thanh văn, Duyên giác. Sắc là chư Phật Như Lai. Sắc này không đồng với sắc có chất ngại của thế gian, chính là diệu sắc rỗng sáng thường an trụ, không bị sinh tử dời đổi. Có người nói Xá-lợi- phất trong Tỳ-đàm có nói có sắc ở cõi Vô sắc. Thí dụ này là Trung đạo, không phải có của thế đế nên gọi là Không. Không phải Không của chân đế, nên có diệu sắc. Nên biết từ đây trở đi các dụ đều dựa theo người trí thấy không và chẳng không, để nói về Trung đạo. Nên trong Đại phẩm có nói: Các pháp Không có gì, như thế là có, là sự không biết nên gọi là vô minh. Vô minh trụ địa sức nó rất lớn, chỉ có trí Bồ-đề của Phật mới đoạn được. Nay sắc ở cõi Vô sắc là cảnh giới của Phật. Phải biết các thí dụ đều dụ chúng sinh Trung đạo là Không. Lại trên đã nói xong về mười chín cõi, liền kết rằng Bồ-tát Quán chúng sinh. Và vì cõi này lại lập chương nói về sắc của cõi Vô Sắc, nên không đồng trước. Đây đều là giải thích để thành phẩm Thăm Bệnh về từ Giả vào Không. Ngã và Niết-bàn là hai thứ đều không. Khi được pháp này thì không có các bệnh khác, chỉ có bệnh không. Bệnh không cũng không, thì cùng với quán chúng sinh này, ba đế cùng thành. Cho nên nói phẩm Quán Chúng Sinh là ý ở đây. Như mầm lúa bị đốt, ở trên ngài Ca-diếp tự nghó là hạt giống hư. Nhưng nếu hư luôn thì đến khi nói kinh Pháp Hoa Phật sao lại thọ ký cho, nếu được làm hạt giống Phật thì tất không bị cháy hư. Đại kinh có nói: Nếu người phương tiện dùng dầu mỡ tưới sẽ khiến nó nảy mầm. Cho nên biết nghóa hạt giống cháy hư có nảy mầm. Như thân kiến bậc Tu-đà-hoàn. Đây là người đoạn kiến được vào sơ quả. Phần đoạn ba cõi thân kiến dứt hẳn, biệt hoặc chưa hết thì thân kiến ắt có. Như A-na-hàm nhập thai, tuy không trở lại cõi Dục thọ thai, nhưng biệt hoặc chưa đoạn hết. Nếu phát đại tâm thì mới nhập vào Thánh thai. Cho nên nói an trụ thế đế. Khi mới xuất thai thì gọi là bất sinh sinh. Như ba độc của A-la-hán, tuy không có ba độc nội giới, nhưng không phải ngoại giới đều rốt ráo không có. Như việc tham giận phá giới của Bồ-tát được nhẫn. Đã được Vô sinh nhẫn tất sẽ không có tham giận nội giới và phá cấm giới, ngoại giới cũng đều không. Kinh nói: Duy nhất chỉ có Phật là tịnh giới, các người khác đều gọi là ô giới. Phải biết Bồ-tát được Nhẫn có nghóa là hủy cấm giới. Như phiền não tập của Phật, Phật thì chánh tập đã dứt hẳn, chủng trí đều viên mãn. Nếu có người đáng dùng tập khí để độ thì cũng hiện khởi lên. Như trách Điều-đạt và chê Xá-lợi. Hỏi: Nếu thế thì cũng khởi chánh sử, sao lại chỉ có tập? Đáp: Chánh sử đã thuộc về La-hán, Bồ-tát được nhẫn mà chưa đoạn tập, không phải tự thị hiện nên không được nói là có. Như kẻ mù thấy sắc, tuy không hiện thấy nội tâm tư tưởng, cũng không có hình dáng muốn thấy, đây cũng có tâm. Lại là nghóa mới có được thấy. Như người nhập diệt định còn thở ra vào, diệt định thì không còn thở vì được sức định duy trì, không được xuất nhập mà không phương hại vì có phép thở. Như băng giữ cá, băng tan cá liền bơi đi. Lại Nhiếp Đại thừa nói: Diệt Định biết diệt liền lại được khởi. Vì nương vào Lê-gia mà được lại xuất nhập. Như dấu chim trên không trung, vì nhục nhãn không thấy nên nói là Không có dấu vết. Kinh Ương-quật nói: Người có Thiên nhãn thấy được dấu chim trên không. Như con của thạch nữ, đây trọn không sinh, nữ báo nếu chuyển thì cũng có thể sinh. Như ngài Thân Tử làm Thiên nữ, Thiên nữ làm Thân Tử. Tất cả nữ thân đều không có tướng nhất định. Như phiền não của hóa nhân. Đây không có phiền não, hóa nhân có lúc hiện tướng ba độc. Như những gì thấy trong mơ khi đã tỉnh. Tỉnh tuy không mơ, nhưng không ngại chi các việc nhớ lại trong mơ. Cũng có lý là lại mơ. Như kẻ diệt độ thọ thân La-hán hoàn toàn nhập diệt không còn thọ sinh, mà lại thọ sinh ở biến dịch ngoại giới. Như lửa vô nhân, nếu bốn trường hợp phá lửa ắt là lửa vô nhân. Nếu dặp duyên thì liền sinh, há hoàn toàn không có? Các trường hợp này há đồng với mười chín giới hoàn toàn đều không ư? Cho nên biết tuy không mà không đồng với chân đế; tuy có mà không đồng với thế đế. Không phải Không, không phải có mà không và có rõ ràng, như sắc của vô sắc không có mà có, là cảnh giới của chư Phật Bất khả tư nghị, cho nên biết Bồ-tát quán chúng sinh từ Giả vào Không, thấy suốt ba đế, để thành phẩm Thăm Bệnh trước. Hỏi: Phẩm Thăm Bệnh quán chúng sinh Trung đạo mà phá bệnh không. Nay quán mà không phá, há lại đồng với trước ư? Đáp: Trước là chấp trước là cố ý phá. Nay nói ở lý. Lý tự nó không có bệnh nên không cần phải phá. Phần 2) Quán chúng sinh khởi bốn Vô lượng tâm “Văn-thù-sư- lợi…”. Sở dó khởi tâm này là gốc việc lợi sinh. Nếu không có tâm này thì sẽ rơi vào hàng Nhị thừa. Bốn tâm tức là bốn phen hỏi đáp. Trước tiên, nói về tâm Từ. Văn có hai là hỏi và đáp. Sở dó hỏi, là vì Bồ-tát quán chúng sinh giả nhập ba đế không, tất cả là Không có hữu vi, vô vi, tự thể ba thứ chúng sinh, thì Từ nhân đâu mà khởi. Chỉ là đạo hóa vật của Bồ-tát làm đầu. Nay đã đều không, thì Từ đâu thể khắp. Nếu quán không và mất hết thì Từ cùng Nhị thừa đâu gì khác. Nên mới có câu hỏi này. Đáp ý “Duy-ma…”. Nguyện chúng sinh nói lý không này, khiến họ ngộ lý không này mà nhập vào Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của bí mật tạng, tức ba mươi hai thứ Từ chân thật. Văn có bốn: Một là căn cứ nói pháp này tức là trí đức chân thật. Hai là căn cứ về đoạn đức. Ba là, căn cứ nói về Thánh đức. Bốn là căn cứ nói về các hạnh. Một, Muốn biết nói trí ở đâu, nay nói vì chúng sinh nói pháp này là Từ chân thật, là Bồ-tát chứng Đại Niết-bàn biết bất sinh, bất sinh bất khả thuyết, phó duyên mà nói tức là trí đức. Nay mọi người thấy tánh được vui Niết-bàn, tức là Từ hay ban vui. Đại kinh có nói: Từ tức là Như Lai, Từ tức là giải thoát, giải thoát tức là thấy Phật tánh Trung đạo, trụ ở Đại Niết-bàn, thành bách cú giải thoát. Đây tức là quán không, thấu suốt đến Trung đạo. Trung đạo tức là pháp thân Vô duyên đại từ như đá nam châm hút sắt. Lìa đây thì không có chân từ. Nếu y trên mà trải quán, thế đế tức là chúng sinh duyên. Chân đế tức là pháp duyên, thấy Trung đạo tức là vô duyên. Nên quán ba đế tức là ba đức. Nếu quán chúng sinh vào Không rồi, thì có từ như thế. Đây chỉ lấy không làm chủ, được tên Nhất thiết trí mà thật đủ cả ba quán, được luận là ba từ. Bồ-tát có bệnh tự tu quán này tất là tự hành điều tâm, vì chúng sinh mà nói, tức là hóa tha ban vui. Cho nên nói vì chúng sinh mà nói, ấy là chân từ. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Tuy chưa được vô lậu, đã vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai.” Nay Bồ-tát có bệnh chưa được thân pháp tánh, liền vào nhà hạnh từ Như Lai. Lại Đại kinh nói: Xưa nương vị Bồ-tát đủ tánh phiền não, hay biết bí mật tạng của Như Lai. Người ấy có bao nhiêu pháp nói ra, đều có thể tin nhận. Đây là vị tương tợ mà còn như thế, huống là phần chân từ vì chúng sinh nói, đâu không phải là chân đại Từ. Nói Đoạn đức chân thật mà nói về Từ “Hành tịch diệt từ… như hư không cố) có chín câu, mỗi mỗi câu trước đều nói: Nếu quán chúng sinh mà vào Không, được đến Trung đạo, sau đó nương câu văn mà giải thích. Hành tịch diệt từ vì không có chỗ sinh là, nếu thấy chúng sinh Trung đạo, tức thấy các pháp vốn tự tịch diệt. Vì vốn không có tướng hai biên lăng xăng, mà là Trung đạo tịch diệt. Đây tức là chân từ. Tức lý chân sinh bất sinh. Nếu thấy lý này thì hai biên đều đoạn, nên nói là Không chỗ sinh. Hỏi: Nếu hai biên đã đoạn thì gọi là Không chỗ sinh, tại sao bậc Sơ trụ cũng còn bốn mươi mốt phẩm sinh? Đáp: Một phẩm sinh mà đoạn, tức là Không chỗ sinh, tuy có bốn mươi mốt phẩm sinh, nhưng đều không có tánh nhất định, tức là Không sinh. Nên Đại Luận có nói: Tuy chưa thoát tử địa tức là đã được thoát. Hành vô nhiệt từ là để vào ao Đại Niết-bàn mát mẻ tất là Không có phiền não hai biên nóng bức. Hành từ bình đẳng, là hai biên ba đời đều bình đẳng, tức là chân pháp thân Vô duyên từ. Hành từ vô tánh, là vì hai biên khác nhau nên có tranh nhau, vì tranh nhau nên khởi phiền não sinh tử. Không có hai biên tranh nhau khởi lên là chân từ vậy. Hành từ không hai tức là từ một đạo thanh tịnh, nên gọi là từ không hai, không hợp nhau với phiền não sinh tử nội ngoại giới, nên nói không hợp nội ngoại. Hành từ bất hoại, tức là Vô duyên chân từ, không thể phá hoại, vì hai biên phiền não sinh tử đã dứt hết. Hành từ kiên cố, thì tâm như kim cang. Thành tựu được tâm chân từ này, thì không bị tám gió nội ngoại giới hủy hại. Hành từ thanh tịnh, là được đế nhất thật, tức biết các pháp xưa nay vốn thanh tịnh, không bị đắm nhiễm. Hành biên không từ tức là biên không chân từ, đem thiện mà nhập vào pháp tánh, không vướng trệ các biên, Đại từ phủ khắp, cũng là thấy Phật tánh không, nên nói như hư không. Căn cứ Thánh đức mà nói chân từ, có sáu câu “Hành A-la-hán… Đẳng nhất vị cố”. Hành từ A-la-hán, A-la-hán, Hán dịch là Sát tặc. La- hán thấy không, chỉ là giết giặc phiền não nội giới. Bồ-tát quán chúng sinh vào Không, không phải chỉ thấy đản không, mà cũng thấy không không thể được, tức là đế nhất thật giết đại tặc phiền não nội ngoại giới. Bồ-tát lấy việc lợi vật làm đầu, tự mình đã giết giặc mà cũng giết giặc nội ngoại giới cho chúng sinh, nên nói phá giặc kết. Từ đây trở đi năm câu đều phá, cần trước nói: Nếu quán chúng sinh mà vào Không, được thấy chánh đạo. Sau tùy câu mà giải thích. Hành từ Bồ-tát, là được đạo chủng trí, tức hay lợi vật, gọi là Bồ-tát tự lợi lợi tha, tức là chân từ. Trước hành từ La-hán, nói được chánh đạo mà trị bệnh chúng sinh. Nay nói từ Bồ-tát, là nói được Trung đạo, nuôi lớn thiện căn, khiến kẻ chưa an được an. Nên nói vì an chúng sinh. Hành từ Như Lai tức là đế nhất thật, đó là thừa hành đạo từ như thật, nên gọi là từ Như Lai. Được tướng như, tức là tướng khác của biên không. Hành Phật từ, tức là trí Trung đạo Đệ nhất nghóa, gọi là Phật bảo, đây tức là hành Phật từ. Tự giác giác tha gọi là giác chúng sinh. Hành từ tự nhiên là tâm tâm vắng lặng, tự nhiên lưu nhập, tức là tự nhiên trùm khắp tất cả. Không do nhân mà được, là chánh đạo không phải do nhân duyên sinh ra, cho nên Đại kinh nói Đệ nhất nghóa đế không phải do nhân duyên sinh. Hành từ Bồ-đề, tức là Bồ-đề Vô thượng. Được một vị, tức như kinh Pháp Hoa nói: Một tướng một vị. Bốn thứ này đều ước Phật pháp. Đại phẩm nói: Có bốn thứ pháp, đó là Phật pháp, Như Lai pháp, tự nhiên nhân pháp, Nhất thiết trí nhân pháp. Căn cứ các hạnh mà nói từ “Hành vô tỷ … là như thế) có mười bốn câu. Hành từ không gì sánh. Nếu quán chúng sinh vào Không mà thấy Đế nhất thật, tức là từ tuyệt đối đãi, không có hai biên để so sánh. Nếu không đắm trước đế nhất thật, tức là các ái khuể đều đã đoạn hết. Từ đây trở đi mỗi mỗi câu đều như câu đầu. Nếu quán chúng sinh vào Không mà thấy Đế nhất thật. Sau đó tùy câu mà giải thích. Hành từ đại bi là hay cứu khổ hai biên nên gọi là từ đại bi. Hay dẫn dắt chúng sinh hai biên vào đế nhất thật, được vui Đại thừa. Hành từ không chán, tức là biết hai biên rốt ráo không thể được. Không có tâm sợ khó sợ khổ nên không chán. Vì quán hai biên không thể được, tức là rốt ráo không và vô ngã. Hành từ pháp thí, có Sư nói từ đây trở đi đối với Thập địa mà hành từ. Nay không dùng lời giải này, vào Không thấy Trung, tức là đầy đủ tất cả thiện pháp. Không keo kiệt không buông bỏ gọi là từ pháp thí đem hạnh thường xả dạy người nên đối với chúng sinh không bỏ sót và lẫn tiếc. Hành từ Trì giới tức không phải trì giới không phải phạm giới, gọi là từ Trì giới, vì hay giáo hóa việc hai biên hủy giới cấm. Hành từ Nhẫn nhục, tức không giận không nhẫn, gọi là từ Nhẫn nhục, không quấy não chúng sinh hai biên, tức hộ trì kia đây vậy. Hành từ Tinh tấn tức không siêng không lười, gọi là từ Tinh tấn, hay gánh vác chúng sinh. Hành từ Thiền định, tức không thọ nhận các vị Thiền định của hai biên chân tục. Hành từ Trí tuệ, tức không trí không ngu, gọi là từ Trí tuệ, mà hay đậu cơ phó duyên không lỗi, đều biết đúng lúc. Hành từ Phương tiện, tức khéo ở tri kiến mà được vô ái ngại, gọi là từ Phương tiện, nên không hay khởi diệt định, luôn hiện các oai nghi, khởi ba Luân ở mười cõi hóa độ bất tư nghị. Hành từ vô ẩn, tức là pháp thân hiển hiện là chân vô ẩn từ, trực tâm vô tác, không bị phiền não nội ngoại giới ô nhiễm, nên được thanh tịnh. Hành từ thâm tâm, tức là vào sâu duyên khởi từ, không nhiễm hạnh phương tiện ở hai biên. Hành từ không dối trá tức không bị phiền não hai biên dối gạt, nên gọi là từ không dối trá, không làm pháp hư giả hai biên. Hành từ an lạc, tức là trụ vào tất cả pháp chân an lạc, hay khiến chúng sinh được Niết-bàn của Phật. Từ của Bồ-tát là như thế. Bồ-tát quán chúng sinh vào Không, mà thấy được Trung đạo, để thành tựu các Từ như thế. Tại sao hỏi phải hành từ như thế nào. Tiếp nói về tâm Bi “Văn-thù… Cộng chi” có hai là hỏi và đáp. Hỏi: Đã nghe hành từ quán chúng sinh vào Không mà thấy được Trung đạo, còn Bi là thế nào, nên hỏi. Đáp: Ngài Tịnh Danh đáp: Nếu Từ là ban vui thì Bi là cứu khổ. Nguyện đem công đức tu về Từ này đều cùng vô duyên với chúng sinh, khiến họ được niềm vui Trung đạo Đệ nhất nghóa, gọi đó là Từ. Từ tức là Bi vậy. Lại cứu cái chấp hai biên, lìa bỏ cái Khổ hai thứ sinh tử. Nên gọi là Bi. Tiếp nói về tâm Hỷ “Hà vị… vô hối”. Gồm hỏi và đáp. Hỏi ý như trên. Ngài Tịnh Danh đáp: Mừng chúng sinh này lìa hai khổ hai biên được vui Trung đạo, gọi đó là Hỷ. Nếu mừng vui sau hỷ hữu dư, vô dư thì có hối tiếc. Pháp Hoa nói: Ôm mối hối hận tự nghó mình già yếu mà có nhiều tiền của, nay đã có niềm vui rốt ráo, nên mừng vui không hối tiếc. Cuối cùng nói về tâm Xả “Hà Vị… hy vọng”. Gồm hỏi và đáp. Hỏi ý suy như trên. Ngài Tịnh Danh đáp: Nếu quán chúng sinh mà vào Không, thấy Đế nhất thật, tánh như hư không. Có Phật hay không Phật, tánh tướng thường trú, tất cả đều có tánh an lạc. Tuy lại ban vui cứu khổ, nhưng thật ra không có vui để ban, không có khổ để cứu, sao còn có mừng vui. Đại kinh nói: “Thường hành xả”. Xả đây là ba tâm không mong cầu nên gọi là xả. Phần 3) Tìm xét cội nguồn chúng sinh “Văn-thù…) có mười hai lần hỏi đáp. Văn có hai: Một là, Sáu phen trách theo bốn hoằng nguyện mà thành bốn Vô lượng tâm. Hai là, Sáu phen chính nói cội nguồn chúng sinh tức thành việc vào Không đến Trung đạo ở phẩm Quán Chúng Sinh trước. Sáu phen đầu: Nếu chỉ khởi bốn Vô lượng tâm mà không có hoằng nguyện thì như bức họa màu không keo sẽ mau phai. Văn có bốn: a/Hai phen thành Từ. b/ Một phen thành Bi. c/ Một phen thành Hỷ. d/ Hai phen thành Xả. Phần a) Có hai: 1/ Hỏi đáp chính nói tu Từ phải nương vào công đức Như Lai; 2/ Hỏi đáp lại quyết nương công đức Như Lai. Phần đầu hỏi và đáp: Ngài Văn-thù có ý hỏi là để thành từ Vô lượng tâm. Hỏi sinh tử có đáng sợ. Nếu Bồ-tát mới học quán chúng sinh không, tức là quán Trung đạo. Nếu chưa phát chân mà tu Từ vô lượng tâm không bỏ chúng sinh đã ở trong sinh tử, khổ sinh tử khó nhẫn. Lại trải nhiều kiếp hoặc bị ác duyên ngăn trở hủy hoại, nhân đó phải lui sụt. Có nỗi lo này nên nói “đáng sợ, phải nương vào đâu?”. Ngài Tịnh Danh đáp: Phải nương vào sức công đức của Như Lai. Hoặc như sáu niệm đầu nói công đức niệm Phật hay trừ được sợ sệt. Nay đoạn văn sau tự nói: Muốn nương vào công đức Như Lai phải trụ vào việc độ thoát tất cả chúng sinh Từ, Bi, Hỷ, Xả là pháp độ sinh, chỉ nguyện Vô duyên từ đầy đủ tất cả pháp. Như Đại kinh nói: Từ hay đầy đủ tất cả công đức như mười lực Vô úy… đó là từ Như Lai, là công đức Như Lai. Vô duyên từ này còn không thấy hai biên sinh tử, há lại đối với sinh tử mà có lo sợ. Văn trên chỉ nói quán chúng sinh không mà nhập Chánh đạo, tức là tu Từ, chưa nói có sợ sệt. Nay nói có sợ, thì phải biết Bồ-tát có bệnh đó, chưa đoạn hết các hoặc chung riêng, chưa phát chân minh, chưa thấy Trung đạo, nên nói có sợ sệt. Nay vì muốn giữ yên tâm sợ khó, sợ khổ của chúng sinh để thoát khỏi lo sợ, nên khuyên phải nương vào công đức Như Lai, tức là dùng hoằng nguyện tu Từ đầu tiên. Nếu quán ba đế không mà dùng hoằng nguyện tu Từ ban đầu, thì còn lo sợ chi! Như nhân duyên từ Đồng nữ bỗng phát tâm chịu thay khổ địa ngục cho chúng sinh, thì vòng lửa rơi xuống và liền sinh về cung trời Đao-lợi, tức là nghóa này. Phần tiếp theo hỏi đáp lại quyết nương vào công đức Như Lai “Văn-thù… chúng sinh”. Ý hỏi: Nếu sinh tử có lo sợ, mà khuyên nương vào công đức Như Lai, vậy thế nào là công đức? Kế đáp: Phải trụ vào việc độ thoát tất cả chúng sinh, tức là sức công đức của Như Lai. Vì sao? Vì Từ hay ban vui, tức là độ sinh. Nên hoằng thệ đầu tiên là thệ độ chúng sinh. Chúng sinh biên không thì công đức cũng biên không. Đây tức là công đức Như Lai. Nên Đại kinh nói: Phát tâm rốt ráo cả hai không khác. Như thế hai thứ, tâm trước và tâm sợ khó, mình chưa được độ trước đã độ người, thế nên kính lễ phát tâm đầu. Phần b/ Hỏi đáp thành Bi vô lượng tâm “Lại hỏi… phiền não”. Trước hỏi phải trừ bỏ những gì để thành Bi. Kế đáp khiến trừ phiền não, tức là Bi hay cứu khổ. Đây là khiến phát hoằng thệ thứ hai. Ai chưa giải bỏ Tập đế khiến giải bỏ, để thành Bi vô lượng tâm. Cũng gọi là phiền não vô số thệ nguyện đoạn, đoạn các duyên tập hai biên, tức là thành Bi hay cứu khổ vậy. Phần c/ Hỏi đáp “Lại hỏi… Chánh niệm”. Trước hỏi: Muốn trừ phiền não phải làm gì để thành Hỷ vô lượng tâm, nên có câu hỏi này. Kế đáp khuyên nên thật hành chánh niệm, tức là bốn Niệm xứ. Bốn Niệm xứ chính phá tám điên đảo. Tám điên đảo diệt tức si diệt. Si diệt thì phiền não nội ngoại giới đều diệt. Nếu khiến chúng sinh hành bốn Niệm xứ, tức lìa phiền não được vui Đạo đế. Cứu khổ được vui, nên sinh vui mừng. Đó là hoằng thệ thứ ba. Ai chưa an Đạo đế, khiến được an. Cũng gọi là pháp môn vô tận thệ nguyện tri. Phần d/ Lại hỏi đáp “Lại hỏi… bất diệt”. Một phen sau đây là thành Xả vô lượng tâm. Trước hỏi đáp nói chung về chánh niệm. Kế phân biệt tướng chánh niệm không đồng. Trước hỏi vì sao phải hành chánh niệm. Đây hỏi vì sao tu hành chánh niệm thì sinh thiện đoạn ác, thành hoằng thệ thứ tư trì Xả vô lượng tâm khiến không lui sụt. Kế đáp: phải hành bất sinh bất diệt, tức là bốn thứ tinh tấn trong bốn Niệm xứ gọi là chánh cần. Nếu chánh cần thành tựu, sẽ ngăn hai pháp bất thiện và tập họp hai pháp thiện. Nếu hai bất thiện diệt tức là diệt đế. Duyên diệt đế này mà phát thệ nguyện thứ tư. Cho nên nói chưa được Niết-bàn khiến được Niết-bàn, tức là diệt đế. Thành tựu Xả vô lượng tâm này thì bỏ được hai tâm yêu ghét. Tức là tất cả phiền não diệt, cũng là vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành vậy. Lại hỏi đáp “Lại hỏi… bất diệt”. Cũng thuộc thệ nguyện thứ tư mà thành Xả vô lượng tâm, tức phân biệt chánh niệm. Trước hỏi pháp nào không sinh, pháp nào không diệt, chính hỏi phân biệt tướng không sinh diệt. Kế đáp bất thiện bất sinh tức là hai thứ chánh cần ngăn ác pháp hai biên không sinh, thiện pháp Không diệt tức là hai thứ chánh cần. Tập họp hai thứ thiện pháp Không diệt, ác pháp Không sinh là thành đoạn đức. Thiện pháp Không diệt là thành trí đức. Hàng Nhị thừa đoạn ác pháp Không sinh. Thân tro lạnh trí diệt tức là thiện pháp diệt. Đây là giải thoát tư nghị. Nay giải thoát Đại thừa bất tư nghị tức là nương công đức Như Lai. Nhưng không sinh diệt có hai thứ: Một là, thế đế; hai là, chân đế. Đây là thế đế không sinh diệt. Hai, Hỏi đáp sáu phen, tiếp theo là xét cội nguồn chúng sinh “Lại hỏi…”, là hỏi đáp lần thứ nhất, tức thành việc quán chúng sinh vào Không đến nguồn Trung đạo. Chúng sinh có cái ác bất sinh và cái thiện bất diệt, là bốn thứ ngăn cản bốn Chánh cần. Lấy gì làm gốc, tức là nghiệm xét tột cùng cái gốc năm trụ. Phiền não tuy nhiều nhưng không ngoài năm trụ. Hoặc năm trụ thì vô minh là gốc, suy tìm cùng cực vẫn không thấy nơi nương nhờ của hoặc đầu tiên, vì thấu đạt đến cội nguồn. Trước ngài Văn-thù hỏi thiện và bất thiện cái nào là gốc. Kế đến ngài Tịnh Danh đáp: Lấy thân làm gốc, tức là từ ngọn mà tìm gốc. Nay hiện thấy, nhân có thân nên có ác có thiện, thân tức thân kiến. Nương nơi thân kiến này mà khởi sáu mươi hai kiến… phiền não, khởi các thiện ác, thiện ác liền sinh sáu nẽo, ba cõi đều phụ thuộc vào ngã kiến. Do đó chúng sinh ba cõi đều vì ngã mà khởi hành thiện ác, cho đến sơ tâm của tam thừa cũng đều vì ngã mà tu đạo. Phải biết ngã của thân kiến là gốc của tất cả, tức là thấy nhất xứ trụ địa. Tuy thiện ác có vô lượng, nhưng chấp ngã là một, nên nói là nhất xứ. Hỏi đáp lần hai “Lại hỏi… làm gốc”. Trước Văn-thù hỏi thân kiến là gốc của thiện, bất thiện, thân kiến lại lấy gì làm gốc. Nếu thân kiến không gốc mà có, thì thiện ác cũng phải Không gốc mà có. Ngài Tịnh Danh đáp: Thân kiến lấy tham dục làm gốc. Nếu không có tham dục tất không có thân, cho nên biết tham dục làm gốc cho thân. Nên Đại kinh có nói: Phiền não cùng thân trước sau không thể được. Tuy nhiên cần nhân phiền não mới có thân. Thế nên tham dục tức là gốc của thân. Tham dục tức là dục ái trụ địa. Vì sao? Vì đoạn thân kiến vẫn còn có dục hoặc. Hỏi đáp lần ba “Lại hỏi… là gốc”. Trước ngài Văn-thù hỏi. Nếu tham dục là gốc của thân, dù đoạn thân kiến rồi vẫn còn dục. Vậy tham dục lấy gì làm gốc? Kế ngài Tịnh Danh đáp: Hư vọng phân biệt là gốc. Vì sao? Vì tâm hư vọng suy tìm đủ các thứ, hoặc nói lìa tâm mà nêu sắc, hoặc lìa sắc mà nêu tâm. Thật ra không có sắc tâm, chỉ vì hư vọng mà cho sắc khác tâm, nên khởi tham dục. Đoạn tham dục hết rồi vẫn còn có sắc tâm. Hư vọng phân biệt tức là sắc ái trụ địa. Hỏi đáp lần bốn “Lại hỏi… là gốc”. Trước ngài Văn-thù hỏi hư vọng phân biệt là gốc của tham dục, đoạn tham dục hết rồi vẫn có sắc ái trụ địa. Vậy hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc. Kế ngài Tịnh Danh đáp: tưởng điên đảo làm gốc. Tưởng điên đảo là thật không có tâm, do điên đảo chấp có mà hay sinh ra các hư vọng. Phân biệt sắc tâm khác nhau nên có sắc ái, nếu đoạn hết sắc ái tất không còn phân biệt có sắc khác tâm. Chỉ vì điên đảo chấp có tâm này. Nếu chỉ có tâm tức là Không có sắc ái trụ địa. Hỏi đáp lần năm “Lại hỏi… là gốc”. Trước ngài Văn-thù hỏi. Nếu hư vọng phân biệt lấy tưởng điên đảo hữu ái làm gốc. Khi đoạn hết hư vọng phân biệt, thì sắc ái hết mà cũng còn có tưởng điên đảo hữu ái. Vậy cái gì là gốc của tưởng điên đảo. Kế ngài Tịnh Danh đáp: Lấy vô trụ làm gốc. Vô trụ tức là vô minh không đầu mối “vô thỉ) làm gốc cho hữu ái điên đảo ở cõi Vô sắc. Vì sao? Vì nếu đoạn tưởng điên đảo hữu ái cõi Vô sắc hết rồi vẫn còn vô minh trụ địa. Hàng Nhị thừa và Bồ-tát Thông giáo vẫn chưa đoạn hết. Nhiếp Đại thừa nói: A-lê-gia thức là gốc của tất cả sinh tử thế gian, nên luận ấy nói: Thức ấy từ vô thỉ là chỗ nương của tất cả, còn vô minh này lại không nương nhờ, nên nói là gốc vô trụ, tức là vô minh vô thỉ sức nó rất lớn, chỉ có trí Bồ-đề của Phật mới đoạn hết được. Hỏi đáp lần sáu “Lại hỏi… lập tất cả”. Trước ngài Văn-thù hỏi: Nếu tưởng điên đảo lấy vô trụ làm gốc, tức đoạn hết tưởng điên đảo hữu ái cõi Vô sắc, các hoặc dứt hết, chỉ còn vô thỉ vô minh, thì vô trụ vô minh này lấy gì làm gốc, đâu không có gốc mà có ư? Kế ngài Tịnh Danh đáp: Vô trụ thì là Không gốc, chính là nói vô minh nương vào pháp tánh. Pháp tánh tức vô minh không hai không khác, há được tánh lại nương tánh. Phải biết vô minh không có gốc, nên thập trụ thấy có chấm dứt, mà không thấy có lúc bắt đầu. Chư Phật Như Lai thì thấy cả chấm dứt và bắt đầu. Nếu quán chúng sinh vào Không, mà đến gốc vô trụ thì là đến tận đáy lý Trung đạo. Đã nói vô trụ không gốc tức là chúng sinh có Phật tánh hư không. Cả ba đế trước đây đều không. Lại nói từ gốc vô trụ mà lập tất cả pháp, tức là tất cả các pháp hữu vi, vô vi, thế gian, xuất thế gian đều từ gốc vô trụ mà lập. Vì sao? Vì nếu mê vô trụ thì tam giới, sáu đạo lăng xăng mà có, ắt lập ra tất cả các pháp thế gian. Nếu hiểu vô trụ tức là vô minh vô thỉ thì trở về cội nguồn mà phát chân thành Thánh, nên có bốn Thánh pháp xuất thế, nên nhân vô trụ mà lập tất cả pháp. Nay dùng sáu phen hỏi đáp này để tìm xét tột cùng đến cội nguồn vô trụ, mà thành việc quán chúng sinh ba đế trên. Vì sao? Vì lần hỏi đáp đầu tiên nói về thiện và bất thiện, tức là quán chúng sinh thế đế, như huyễn đều từ thân kiến mà sinh, chưa được thấy chân. Kế đến ba phen hỏi đáp về đoạn sinh tử của chúng sinh ba cõi, tức là quán chúng sinh thấy chân như Đại thứ năm… Kế đến hai phen hỏi đáp về quán chúng sinh bị vô minh che lấp Trung đạo, gọi là gốc vô trụ. Nếu thấy Trung đạo tức như, không có sắc ở cõi vô sắc… Vô minh Trung đạo là nguồn của chúng sinh, là gốc của giải hoặc, nên nói từ vô trụ mà lập tất cả pháp. Hỏi: Vô trụ tức là vô minh vô thỉ, vì sao lại gọi vô thỉ? Đáp: Thân kiến… các hoặc đều có chỗ nương mà khởi. Hễ khởi thì có bắt đầu “thỉ”. Thứ này không có chỗ nương mà khởi nên cũng không có bắt đầu, nên nói vô minh vô thỉ, tức là vô trụ. Đây có hai cách giải thích, cũng nói không trụ cũng nói có trụ, cũng nói không gốc cũng nói có gốc. Vì sao? Nếu kiểm xét gốc của năm trụ, thì trước hết thân kiến… đều ước là gốc phiền não, nên có bắt đầu và có trụ. Nay ngoài vô minh ra, không còn phiền não nào là gốc của vô minh nữa, nên nói là Không gốc. Không gốc nên không có bắt đầu và không trụ. Nên nói không trụ thì không gốc. Hỏi: Vô minh nương pháp tánh, vậy pháp tánh là đầu mối “bắt đầu) sao được nói không có đầu mối? Đáp: Nếu vô minh nương pháp tánh là có đầu mối “bắt đầu”, mà pháp tánh không phải là phiền não, nên không thể chỉ pháp tánh là gốc phiền não, nên nói không trụ thì không gốc. Nếu nương pháp tánh mà lập tất cả pháp, mà vô minh không ngoài pháp tánh, pháp tánh tức là gốc vô minh. Đây thì lấy pháp tánh làm gốc. Nay xét gốc phiền não, mà pháp tánh không phải phiền não nên nói không trụ không gốc. Đã không có gốc thì không được tự trụ mà phải nương vào cái khác mà trụ. Nếu nói tự trụ tức nhìn sang pháp tánh là cái khác, nên cũng được nói là nương cái khác mà trụ. Nói tự trụ tức là ý của Biệt giáo, nương vào cái khác mà trụ là ý của Viên giáo. Hỏi: Nếu Biệt tiếp Thông mà nói nghóa năm trụ là thế nào? Đáp: Nếu nói bốn trụ là kiến tư nội giới, vô minh được xem là ngoại giới. Do ngoại giới lưu nhập vào nội giới. Nay lại nói trước đoạn thân kiến, kế trừ tham dục…, sau đoạn vô minh là trở về gốc vô trụ. Đây là Biệt tiếp Thông. Hỏi: Nghóa Biệt giáo là thế nào? Đáp: Ý của Biệt giáo là kiến tư nội giới không gọi là kiến nhất xứ. Vì sao? Vì bốn trụ này không phải là hoặc căn bản, như cành là nương cây mà không nương đất. Nên thân kiến nội giới có các thứ không giống nhau, nên không gọi là nhất xứ, cũng không phải là trụ địa. Vì đã đoạn bỏ hết cành lá chấp có Niết-bàn. Đây là mê pháp thân mà khởi. Nếu thấy chân đế Niết-bàn là một pháp thì gọi là thấy một xứ. Kiến này nhân vô minh mà khởi nên gọi là trụ địa cũng gọi là thân kiến. Đây là từ pháp thân mà khởi kiến. Nếu ở năm trần của y chánh biến dịch mà sinh tham dục, tức là dục ái trụ địa. Sắc tâm biến dịch do hư vọng phân biệt, tức là sắc ái trụ địa. Quên sắc quán tâm cũng còn thấy có tâm, tức là tưởng điên đảo, tức là hữu ái trụ địa. Bốn thứ này nương vô trụ mà khởi, tức là vô minh trụ địa. Ngoài vô minh ra lại không có chỗ nương, nên nói là vô trụ không gốc. Hỏi: Không trụ và có trụ có khai hợp chăng? Đáp: Nếu hợp vô minh mà xem là pháp tánh, pháp tánh không trụ nên vô minh không trụ, nên nói không trụ. Nếu khai pháp tánh mà nói vô minh, mà vô minh nương pháp tánh nên cũng nói được là có trụ. Có trụ là trụ ở pháp tánh. Trụ pháp tánh không phải là phiền não, tức là Không trụ. Nhưng căn cứ vô minh để nói tu vô lượng bốn Thánh đế mà luận việc đoạn phục, thì đây là Biệt giáo, đến ngoại giới mà nói nghóa năm trụ vậy. Hỏi: Viên giáo phân biệt năm trụ như thế nào? Đáp: Năm trụ của Viên giáo, chỉ thân kiến nội giới… bốn trụ hữu vi duyên tập là mê vô trụ mà khởi đoạn kiến, nhập Niết-bàn, bốn trụ sinh ra cũng mê vô trụ mà khởi vô vi duyên tập. Nay viên quán bốn trụ nội ngoại giới đều đến gốc vô trụ, cho nên hiểu tận cùng nguồn cội chúng sinh ba đế, thành việc quán chúng sinh trên như huyễn hóa, là đại thứ năm, là sắc của cõi Vô sắc… đều không thể được mà nhập vào ba đế. Như khói bụi mây sương nổi lên tuy có nặng nhẹ nhưng không lìa hư không. Nặng như nội giới, nhẹ như ngoại giới. Thí như nương pháp tánh mà có các pháp thế gian nội ngoại giới. Thí như ánh sáng của lửa, sao, mặt trời, mặt trăng soi chiếu trừ hết bóng tối của mây sương, dẹp hết các hiện tượng trên không trung. Thí như nương pháp tánh mà có các pháp thế, xuất thế nội ngoại giới. Nên nói từ gốc vô trụ mà lập ra tất cả pháp. Hỏi: Thí dụ về hư không này đâu chỉ có đản không thể được cái khác không. Đáp: Không còn chẳng có một, đâu được có hai. Nếu dựa theo duyên thì tướng bày ra đều có khác. Như kinh Luận Đại thừa có nghóa phá hư không, tức có thể lấy thí dụ đản không mà hiển bày cái không chẳng thể được. Lại còn, các thí dụ voi trắng, mặt trăng tròn sáng đầy đủ sao? Hỏi: Về nặng nhẹ của khói mây để thí dụ hai thứ nội giới và ngoại của năm trụ thì nghóa như thế nào? Đáp: Đây không dựa theo văn chỉ lấy nghóa mà giải thích. Hỏi: Bốn thứ ánh sáng của lửa… thì ý nào là chủ? Đáp: Một mực nêu pháp giới tánh mà luận. Nay mượn ý này để biểu thị cho trí bốn giáo chiếu sáng không đồng lấy nghóa này mà giải thích. Phần 4) Từ “Thiên nữ tán hoa: thời Duy-ma-cật trở xuống đây là nói Thiên nữ trong thất hiện thân cùng ngài Xá-lợi-phất luận nghóa, hiển bày việc quán chúng sinh, thấu lý ba đế trụ bất tư nghị. Văn có bảy: Thiên nữ hiện thân cùng ngài Thân Tử đối đáp nói về hai thứ giải thoát, hoặc dứt không đồng. Từ ngài Thân Tử hỏi Thiên nữ trở đi nói hai thứ giải thoát thể nó khác nhau. Từ Thân Tử hỏi Thiên nữ đối ba thừa trở đi là nói lực dụng giải thoát không đồng. Từ Thân Tử hỏi Thiên nữ không chuyển thân nữ trở đi là nói pháp môn chuyển biến tự tại bất tư nghị. Từ Thân Tử hỏi Thiên nữ ở đây chết rồi trở xuống là nói giải thoát bất tư nghị ẩn hiện tự tại, chân ứng bổn tích khó lường. Từ Thân Tử hỏi Thiên nữ được Bồ-đề trở đi, là nói pháp thân, sinh thân thành đạo không đồng. Ngài Tịnh Danh kể thành việc Thiên nữ nói. Phần một, Thiên nữ hiện thân… văn có bốn: Thiên nữ nghe pháp hiện thân. Thiên nữ tán hoa cúng dường. Hoa đến Bồ-tát đều rơi. Hoa đến các đại đệ tử lại dính. Thiên nữ nghe hiện thân: Quan Hà giải rằng: Đây là thần nhà cửa của ngài Tịnh Danh, thủ hộ phương trượng nghe pháp vui mừng hiện thân cúng dường. Nay nên hiểu đây là đại Từ pháp thân ảnh hưởng ngài Tịnh Danh cùng hoằng dương đại đạo. Bổn địa đồng khế hợp vô sinh mà trụ giải thoát bất tư nghị ở tại Thường tịch quang, mà ở trong thất hiện thân, là biểu thị ẩn thì gọi là Như Lai tạng, hiển thì gọi là pháp thân. Đây là đại Từ pháp thân ứng hiện làm thân nữ để giúp hoằng hóa đại đạo, muốn nhân việc tán hoa mà chê trách lỗi ngài Thân Tử, để hiển bày việc được giải thoát bất tư nghị. Lại giải việc trên nói dùng thần lực dọn trống trong thất là biểu thị mười phương đều không. Quả trí của ngài Tịnh Danh ở vào lý không này, tức là thật trí pháp thân ở tại Thường tịch quang, nằm giường chân tánh, đồng vật có bệnh, tức là đại bi hiện bệnh ứng thân. Mà thất có Thiên nữ, thiên là thiên nhiên. Đây là biểu thị ngài Tịnh Danh từ lâu đã ở lý thiên nhiên của trời Đệ nhất nghóa, là chúng sinh thường Từ có ba mươi hai tướng. Cho nên ở Chân không tánh tịnh mà hiện hình Thiên nữ, ẩn thì gọi Như Lai tạng, hiển thì gọi là pháp thân. Pháp Thân tức là từ, từ tức Như Lai, Như Lai tức pháp thân, pháp thân ứng hiện làm hình Thiên nữ để biểu thị pháp môn Đại từ của ngài Tịnh Danh, nên hiện làm thân nữ. Tán hoa cúng dường “Tức dó… đệ tử thượng”. Hoa như trong đại phẩm, các Thiên nữ nói hoa ấy không phải do cây sinh, hoa do cây tâm sinh ra. Ngài Tu-bồ-đề nói hoa ấy không phải sinh, hoa không từ cây tâm sinh ra. Nay nói pháp thân Bồ-tát ấy đoạn hết biệt hoặc, khởi nhân muôn hạnh mà cảm được quả thật báo thắng diệu. Nên nói Tam hiền, Thập Thánh trụ quả báo. Hoa này tức là hoa quả báu Vô sinh thanh tịnh, là hoa nhân Vô sinh tịnh diệu công đức. Thiên nữ pháp thân Bồ-tát vì không phân biệt khắp tán hoa cúng dường các Bồ-tát và các đại đệ tử. Hoa đến các Bồ-tát đều rơi “Hoa đến… đều rơi”. Đây là biểu thị Bồ-tát trụ vào Giải thoát bất tư nghị, sinh ở cõi Thật báo, đã lìa hết các biệt hoặc, không bị diệu ngũ dục quấy nhiễu nên hoa không dính vào thân mà đều rơi rụng. Nói hoa đến các đại đệ tử thì đều dính vào “Chí Đại đệ tử…”. Văn có năm: Một là, Hoa đến liền dính. Hai là, Dùng thần lực vẫn không phủi được. Ba là, Thiên nữ hỏi ý. Bốn là, Thân Tử đáp. Năm là, Thiên nữ chê trách. Hàng Nhị thừa chỉ đoạn ngũ dục nội giới, nên Ngũ dục thế gian không thể khuấy động. Vì biệt hoặc chưa trừ, nên bị sắc thịnh thượng diệu ngoại giới ô nhiễm, nên trách rằng: Vì kiết tập chưa hết nên hoa mới dính thân. Như trong Đại Luận ngài Ca-diếp nghe tiếng đàn Yên- ca-la mà không thể ngồi yên liền nói: “Gió tám phương không thể lay động được núi Tu-di, nhưng gió lam đến thì phá nát như cỏ mục. Ngũ dục ba cõi ta đã đoạn hết, không thể quấy động được tâm. Đó là của tịnh diệu ngũ dục Bồ-tát. Ta đối với việc này không thể ngồi yên” là nghóa này vậy. “Nhất thiết… linh khứ”, Thân Tử… phủi hoa không rớt. Bởi trụ ở giải thoát tư nghị, chưa đoạn hết các biệt hoặc, như ngài Ca-diếp vừa kể. Hỏi: Kinh này nói kết tập chưa đoạn nên hoa dính thân, có liên quan gì đến biệt hoặc? Đáp: Đại Luận nói: Ở kinh Thanh Văn nói là tập khí, ở Ma-ha Diễn “Đại thừa) nói là chánh sử, tức là biệt hoặc. Hỏi: Đoạn Thông hoặc và Biệt hoặc đều lập tên bốn trụ chăng? Đáp: Nếu dựa theo Thông giáo thì nội giới có tên bốn trụ. Nếu biết tiếp thông thì ngoại giới chỉ có tên là vô minh. Vô minh hay che chướng Phật tánh, không gọi là kiến tư. Nếu dựa theo Biệt giáo thì vô minh là chánh sử, cũng có tên kiến tư bốn trụ. Nên Thiên nữ trách rằng: Nếu đối với Phật pháp có phân biệt, là Không như pháp, đã có phân biệt ắt là có kiến hoặc. Lại nói: Kết tập chưa hết thì hoa ắt dính thân, nên có tư hoặc. Cũng được phân tư để làm ba trụ. Nay nói các đại đệ tử dùng thần lực phủi hoa. Nếu dựa vào sự mà giải thích, thì Thiên nữ tán hoa đến các Bồ-tát đều rơi, nhưng đến các đại đệ tử thì dính lại không rơi. Ngài Thân Tử muốn tránh xa hiềm nghi, nên phủi hoa đi. Theo lý giải thích thì thích, là nói hàng Nhị thừa chán ngũ dục ở đời mà chấp lấy Niết-bàn. Đây thì tâm có lấy bỏ. Nay thấy quả báo ngũ dục của Bồ-tát cũng cho là Không như pháp phủi đi mà không thể được. Dùng hết thần lực, vì La-hán trụ vào Giải thoát tư nghị, tuy có thần lực nhưng biệt hoặc chưa đoạn, không được tự tại giải thoát bất tư nghị nên phủi hoa không rơi.Ba, “Bấy giờ… phủi hoa”, Thiên nữ hỏi ý phủi bỏ muốn trách là quấy nên trước hỏi ý phủi hoa. “Đáp rằng… phủi đi”, ngài Thân Tử đáp rằng không như pháp, ý cho rằng Thiên nữ có nhiễm tâm nên phải phủi đi. Thiên nữ trách “Thiên viết…”. Văn có bốn: Chê trách. Giải thích nêu được mất. Thí dụ. Kết. Chánh chê trách, rằng đừng bảo hoa này là Không như pháp, tức không phải là hoa tư nghị ở thế gian. Đây là tu lý vô sinh, làm nhân muôn hạnh mà cảm được hoa như pháp thật báo này. Lại dùng tâm như pháp mà tán hoa bình đẳng cúng dường, sao gọi là Không như pháp? Giải thích hoa này do không có phân biệt, là Thiên nữ dùng tâm không phân biệt mà cảm được, lại dùng tâm không phân biệt mà tán hoa. Các Bồ-tát không có tâm phân biệt thì hoa không dính. Còn Thân Tử… thì phân biệt sinh tử Niết-bàn có khác. Phân biệt tức là biệt kiến hoặc. Suy ra như nội giới nhân thân kiến phân biệt mà có tất cả kiến. Nên khiến không nhập được sơ quả, nếu dứt kiến không tranh chấp, liền thấy Đế được quả. Biệt kiến cũng thế. Phân biệt sinh tử Niết-bàn là hai thứ, thì đó là kiến. Nếu lìa kiến này mà riêng nhập vào Thánh vị. Ngài đối với Phật pháp xuất gia mà có phân biệt thì không thể ra khỏi biệt kiến hoặc, có thể gọi là xuất gia không như pháp. Xem thấy hoa ở các Bồ-tát đều không dính vì họ đã đoạn tưởng phân biệt. Tức là pháp thân hiển hiện ra khỏi kiến tư sinh tử nội ngoại giới. Đó là chân xuất gia, gọi là như pháp, nên hoa tự rơi rụng. Đây ước vào đắc thất “được mất) mà chê trách. Thí dụ làm sáng tỏ “Thí như… vi dã”. Có mở dụ và hợp dụ, chỉ việc bỏ sinh tử lấy Niết-bàn tức là phân biệt. Nên có kiến hoặc gọi là Không như pháp. Ý đó có thể hiểu. Kết trách “Kiết tập… trước dã”. Văn này nói không phải chỉ có tập, cũng nói có Biệt kiến tư, tức có Thông kiến tư tập khí đầy đủ như trước đã dẫn Trí Luận mà giải thích. Hỏi: Nhất định là Biệt kết chưa đoạn hay đây là tập của Thông kết? Đáp: Nếu dựa theo Thông giáo, như việc ngài Ca-diếp là tập khí. Nếu dựa theo Biệt giáo, tức biệt kiết chưa đoạn nên có tập khí. Như Đại Luận nói: Hai thứ kết sử; một là, cùng hàng Nhị thừa đoạn; hai là, không cùng hàng Nhị thừa đoạn. Nếu cùng là Ca-diếp đã đoạn, không cùng là Ca-diếp chưa đoạn, đã như trên nói. Nay kinh này đã nói giải thoát bất tư nghị thì chính là dùng Biệt, Viên mà đoạn. Nhưng kinh không có văn rõ ràng. Giáo Phương đẳng này cũng còn mang phương tiện, không giống với Pháp Hoa, Niết-bàn. Hai thứ giải thoát thể riêng không giống. Đây là căn cứ đản Không và chẳng đản không mà phân biệt. Văn có bốn: Thân Tử dựa sự để hỏi, Thiên nữ dùng lý mà đáp. Thiên nữ dùng sự hỏi, Thân Tử dùng lý đáp. Thân Tử lại quyết định Thiên nữ trách. Thân Tử khen ngợi. Phần a, có năm: Một là, Thân Tử ước sự mà hỏi. Hai là, Thiên nữ dùng lý đáp. Ba là, Thân Tử tâm mê lại hỏi. Bốn là, Thiên nữ lại dùng lý đáp. Năm là, Thân Tử ngộ mà ngầm hiểu. Thân Tử là đầu mối khởi giáo, nên lấy sự ở thất lâu mau mà hỏi. Hai- giải thoát, mà lý chân đế không lâu không mau. Tôi ở tại thất này là được không bất khả đắc mà trụ giải thoát bất tư nghị. Lý Đệ nhất nghóa vốn không có nói năng, không có lâu mau. Việc số năm giải thoát đã không lâu mau, sao hỏi lâu mau? Cho nên đem số năm giải thoát để đáp chê Thân Tử. Thân Tử vốn dùng sự mà hỏi. Thiên nữ bỗng dùng lý mà đáp, ngài Thân Tử ngạc nhiên không hiểu nên lại - Thiên nữ lại đáp: Năm giải thoát của ngài bao lâu mà ngài hỏi ở đây bao lâu, nên đáp số năm giải thoát lý không lâu mau. Vì sao lại hỏi có lâu mau. Nếu thế nhân giải thoát không lâu, sao được lại hỏi có lâu chăng? Ngài Thân Tử ngộ được ý cao siêu của Thiên nữ, yên lặng ngầm hiểu. Phần b) Thiên nữ dùng sự hỏi “Thiên viết…”. Thân Tử dùng lý đáp, văn có năm: Một là, Thiên nữ dùng sự hỏi. Hai là, Thân Tử dùng lý đáp. Ba là, Thiên nữ luận tướng giải thoát bất tư nghị. Bốn là, Giải thích. Năm là, Kết hiểu. Thiên nữ dùng sự hỏi: Vì sao bậc kỳ lão đại trí lại im lặng, tức là hỏi vì sao im lặng. Thân Tử dùng lý đáp: Yên lặng, chính vì lúc thấy lý chân đế mà được giải thoát, dứt đường ngôn ngữ, không có nói năng. Nay không biết nói thế nào nên yên lặng. Đây là dùng lý yên lặng mà đáp sự yên lặng. Hỏi: Ngài Thân Tử nghe thuyết nào trình bày ba đế là thấy có được đạo, tức có nói năng. Nay sao được nói giải thoát không có nói năng không biết nói sao. Đáp: Nếu có giáo môn ấy đâu không phải nói năng. Đây dùng Chứng mà đáp, nên nói không nói năng. Như trong Đại Tập có nói: Kiều-trần-như là Tỳ-kheo đầu tiên được lý không nói năng. Đây cũng nhân hữu môn không nói năng vậy. Thấy hữu, thấy không đều là giáo môn. Lý không nói năng thì hữu và không chẳng khác. Nếu nói khác, thì Thân Tử thấy có được đạo, sao được nói “Tôi nghe giải thoát không nói năng”. Thiên nữ dùng Bất tư nghị mà chê Thân Tử… là trụ ở tư nghị “Thiên viết… giải thoát tướng”, hàng Nhị thừa ở pháp văn tự sinh tử không được tự tại bỏ nhập Niết-bàn. Nay nói lìa tướng văn tự, thì ắt sinh tử không ngăn ngại Niết-bàn. Như hạt cải không ngại núi Tu-di, tức là tướng giải thoát bất tư nghị. Giải thích “Sở dó… lưỡng gian”. Bổn thể, thể tức là pháp. Nếu pháp ở hai phía trong ngoài, thì tên có thể như thế. Nay tìm thể và tên của pháp thì không thể được, vì đều không có hai phía trong ngoài, tức là giải thoát. Đâu được lìa phương này mà gọi giải thoát. Lại giải, các pháp Không có thể mà chỉ có danh tự. Danh không thể được tức là tướng giải thoát. Đây tức là khác với giải thoát tư nghị. Nói tướng hai thứ giải thoát khác nhau là ý ở đây vậy. Năm, Kết hiểu “Thị cố… giải thoát tướng”. Nếu không lìa, đâu chỉ văn tự là giải thoát; hai mươi lăm hữu đều là giải thoát. Cho nên Thiên nữ tự giải thích. Vì sao? Vì tất cả các pháp là tướng giải thoát. Phần c) Thân Tử lại quyết định “Xá-lợi-phất nói…”. Văn có hai: Một là, Thân Tử lại quyết định. Hai là, Thiên nữ chê trách. Thân Tử quyết định lại nói không còn… đây là ý nhắc lại. Thân Tử thuở xưa đã nghe giáo Tam tạng giáo, đoạn bỏ ba độc, được giải thoát tử phược. Nếu nói lìa dâm, nộ, si không phải giải thoát, thì Phật xưa đã nói, sao được không phải. Thiên nữ liền đáp rằng Phật vì hai thứ căn duyên. Nếu là người độn căn tăng Thượng mạn thì Phật nói lìa dâm, nộ, si là giải thoát, nếu là người lợi căn không có tăng Thượng mạn thì Phật nói tánh dâm, nộ, si tức là giải thoát. Hỏi: Tăng thượng mạn là người chưa được cho là được, chưa chứng cho là chứng. Còn các ngài Thân Tử… đều đã được giải thoát sao được cho là người tăng Thượng mạn? Đáp: Như Pháp Hoa chọn chúng nói về Tăng thượng mạn, là hàng Tiểu thừa chưa vào đạo phương tiện mà ngang bướng nhầm lẫn gọi là được bốn quả, là Tăng thượng mạn. Nên ngài Thân Tử không lựa bỏ hết là người được thọ đầu tiên. Nay trách là Tăng thượng mạn là có hai chỗ khác nhau: Nếu ngài Thân Tử ở Tam tạng giáo đoạn kết chứng được giải thoát tư nghị, lạm gọi là đồng chỗ được như chư Phật. Đây tức là chưa được gọi là được, chưa chứng cho là chứng. Trong đây bài bác cái tâm thâm lạm gọi là Thượng mạn. Vì sao? Vì nếu chấp Tạng, Thông nói về chân đế của ba thừa là khôi đoạn, cho là Phật cũng thế. Nhưng Phật đã chứng thường trụ Niết-bàn đâu đem thấy chân mà cho là đồng với Phật chứng. Cho nên nói là Thượng mạn. Chính là nói giải thoát tri kiến của các giáo ngang bằng nhau không đồng với ngoại đạo và là Tiểu thừa lầm chấp phương tiện. Viên giáo nói chư Phật, Bồ-tát không đoạn phiền não mà vào Niết-bàn, không bỏ tám tà mà vào tám chánh, không giống như hàng Tiểu thừa phải lìa dâm, nộ, si, bỏ tám tà mà vào Giải thoát tư nghị. Vọng chấp cho là đồng được như Phật, há không phải là Thượng mạn ư? Chánh ý Thiên nữ trách là ở đây vậy. Ở Pháp Hoa nói kẻ không phải thượng mạn đã bị chê trách, đã nghe giải thoát bất tư nghị, không cùng chung với hàng Nhị thừa, tự biết chỗ được không phải là cảnh giới Phật, không có lỗi ham hố, chỉ ngang bằng với cái học về giáo đoạn mà nói giải thoát. Tạm trú ở thảo am mà tự nghó mình nghèo hèn, nên không phải là Thượng mạn. Bồ-tát không có các lỗi này nên không phải Tăng thượng mạn. Đấy là giải thoát bất tư nghị lìa và không lìa, đều không cùng với hàng Nhị thừa đồng cùng chung, nên lìa và không lìa không phải chỉ là nội giới, mà cũng căn cứ ba độc ngoại giới, văn tự Thông, Biệt đều là tướng giải thoát. Đây là hiển bày giải thoát bất tư nghị đoạn và không đoạn đều được tự tại, gọi là giải thoát. Phần d) Thân Tử khen ngợi Thiên nữ “Xá-lợi-phất nói…”. Văn có hai: Thân Tử khen và Thiên nữ đáp. Thân Tử khen: Ngài Thân Tử nghe nói diệu pháp này mà suy ra thì được chứng thắng giải thoát, nên trước khen, kế hỏi sao được biện tài như thế? Thiên nữ trước đáp sau chê. Đáp rằng vì không được, không chứng nên có biện tài như thế. Đại kinh nói: Có được thì gọi là Tiểu thừa, chỉ ai không thủ chứng, không chỗ được thì gọi là Đại thừa. Vì chẳng thể được là Không, nên không trụ ở hóa thành. Hàng Thanh văn học thiên lệch mà thủ chứng, còn hàng Bồ-tát viên học mà không thủ chứng, đầy đủ như trong Đại phẩm. Nay nói biết bốn thứ chẳng thể được, nên không trụ vào ba quyền một thật, tự tại vô cùng nên biện tài như thế. “Sở dó…” . Kế nhân đó mà giải thích để gởi lời chê trách, chê ngài chỉ được thiên không, hóa thành Niết-bàn cho là rốt ráo, mà không cầu Đại Niết-bàn Trung đạo, đó là hàng Tăng thượng mạn của Phật pháp. Nói dụng lực của hai giải thoát không đồng: “Xá-lợi-phất…”. Đã nói thể của hai giải thoát khác nhau, thì bao nhiêu lực dụng lý phải Không đồng. Ngài Thân Tử chưa hiểu nguyên do nên hỏi. Nhân hỏi mà có đáp, phân biệt có tướng khác nhau. Trước hỏi, kế đáp. Thân Tử hỏi: Ở ba thừa nàng cầu thừa nào? Hoặc ước Tam tạng giáo mà hỏi. Nay cho là phần nhiều đều dựa theo Thông giáo. Vì sao? Vì người ba thừa đồng học Bát-nhã của Thông giáo. Nếu cầu quả hữu dư, vô dư của Thanh văn thì không thể tu thừa Duyên giác, Bồ-tát. Nếu cầu quả hữu dư, vô dư của Bích-chi-Phật, thì không thể cầu thừa Bồ-tát Thanh văn. Nếu cầu thừa Bồ-tát, thì phải từ bi thệ nguyện ở lâu trong sinh tử để độ thoát chúng sinh, thì không thể lui sụt để cầu vô dư của Nhị thừa. Tuy cùng học Bát-nhã nhưng chí cầu đều khác. Tức là Tư nghị mà hỏi muốn cầu thừa nào? Thiên nữ đáp “Thiên nữ nói…”. Văn có hai: Hóa tha và Tự hành. Hóa tha thì cả ba thừa đều cầu, tự hành thì chỉ cầu Đại thừa. Hóa tha, Nói cầu cả ba thừa, nếu Bồ-tát Thông giáo thì vốn không có pháp thân, không thể ứng hiện nếu không hóa độ ba thừa. Nay thì Biệt viên thừa tiếp căn tánh ba thừa của Thông giáo nên hiện ở ba thừa đều muốn cầu và đều có dụng. Như ngài Văn-thù đã ở hai vạn đời làm Bích-chi-Phật để độ người. Huống là ở các thừa khác, tuy vô số sinh diệt mà luôn hành trì nhất thừa, nên nói là hóa tha. Tự hành “Xá-lợi-phất…”. Nếu pháp thân thọ đạo như Pháp Hoa nói: Chỉ một sự thật mà không hai không ba. Văn có bốn: Một là, Chính hiển bày Phật thừa. Hai là, Dẫn Thích Phạm làm chứng. Ba là, Nói ở thất đã mười hai năm. Bốn là, Nói trong thất có việc chưa từng có. Một, Trước thí dụ, sau hợp dụ. Lấy rừng Chiêm-bặc mà dụ, khi Chiêm-bặc tỏa hương thì các mùi hương khác đều kém xa, nên dùng Chiêm-bặc để gọi tên rừng, huống là vào rừng chỉ nghe mùi Chiêm- bặc. Nay nói tự hành thọ đạo theo Viên giáo là Không có ba thừa, mà chỉ là pháp môn phương tiện. Nên kinh Pháp Hoa nói: Và các pháp khác của chư Phật. Các pháp khác kém xa không bằng pháp vị sâu xa của Đại thừa. Cho nên pháp thân Bồ-tát chỉ học Đại thừa mà tấn đạo, không quý các công đức ra làm của Nhị thừa, nên hợp dụ rằng: Chỉ nghe mùi hương công đức của Phật, mà không thích mùi hương công đức của Nhị thừa. Thất trống vốn biểu thị cho Phật quốc đều không. Pháp thân Bồ- tát viên trí thanh tịnh, đã ở lý này, đâu ham thích trí thiên không. Hỏi: Thiên nữ chỉ nói không thích mùi hương Nhị thừa, đâu được ba thừa đều nói là hóa tha? Đáp: Đại thừa của Tạng Thông đồng nương “Đản không”đồng với Nhị thừa, chỉ có đại bi lợi vật là khác. Hỏi: Vì sao nói ba thừa đều là hóa tha, còn Nhất thừa chỉ là tự hành? Đáp: Tam thừa là tùy ý người khác mà nói, cho nên hoàn toàn là hóa tha. Nhất thừa là tùy ý mình mà nói, nên hoàn toàn là tự hành. Nhưng luận rốt ráo đều có tự tha. Hỏi: Nếu đều có tự tha thì lấy gì làm khác? Đáp: Mùi hương Chiêm-bặc há đồng với các mùi hương khác, dụng của nhất Phật thừa há không đồng với ba thừa. Hai,Dẫn Thích phạm làm chứng “Xá-lợi-phất… phát tâm mà ra”. Các Thích Phạm đầy đủ hữu vi duyên phược, mà vào trong thất nghe Đại thừa còn có thể phát tâm, huống là pháp thân đã khế hợp vô sinh, thất trống rốt ráo mà lại ham thích công đức Nhị thừa nên hai dụng nghó bàn và chẳng thể nghó bàn không đồng. Như hương Chiêm-bặc khác hẳn với các mùi hương khác. Ba, Nói ở trong thất lâu mau “Xá-lợi-phất… chi pháp”. Trên Thân Tử hỏi ở thất đã lâu chưa. Nay Thiên nữ dùng lý mà đáp nói: Đã ở thất từ mười hai năm, luôn nghe Đại thừa, để chê ngài Thân Tử mười hai năm trước chỉ nghe Tiểu thừa. Đây chưa ắt như thế. Như sáu năm nghe kinh Ương-quật nói một Phật thừa lại vẫn như thế. Trước đã chê trách các đệ tử há chờ mười hai năm sau. Nay nói lìa tướng văn tự tức là giải thoát. Mười hai nhân duyên tức là văn tự, lìa tướng văn tự tức là giải thoát, nên được ước để nói lâu mau do đó lấy sự để biểu thị cho lý. Nói mười hai năm, tức biểu thị cho mười hai nhân duyên. Căn cứ giáo nghóa tức có hai thứ: Tạng Thông nói nhân duyên có thể nghó bàn, hai là Biệt Viên nói nhân duyên chẳng thể nghó bàn. Nên Đại kinh nói mười hai nhân duyên có bốn thứ quán. Hạ quán là Thanh văn, Trung quán là Duyên giác không thấy được Phật tánh, Thượng quán là Bồ-tát, Thượng thượng quán tức là Phật. Ngài Thân Tử chỉ quán nhân duyên có thể nghó bàn, Thiên nữ lại quán nhân duyên chẳng thể nghó bàn. Nhân duyên tên đồng lại chỉ là tên giải thoát. Trên Thiên nữ đáp ngài Thân Tử rằng: Tôi ở nhà này như ngài giải thoát đã lâu năm, mà giải thoát không lâu không mau. Nếu Biệt Viên nói mười hai nhân duyên như Đại phẩm nói: Mười hai nhân duyên riêng của Bồ-tát là pháp chẳng chung với Nhị thừa. Nhị thừa lìa văn tự mà giải thoát không có nói năng. Bồ- tát không lìa văn tự mà giải thoát lại được có nói năng, nên được căn cứ để nói lâu mau. Đây tức không lâu mau mà lâu mau. Do đó Thiên nữ nói mười hai năm là chính biểu thị cho việc này. Nay tu pháp này, há rèn tập pháp Thanh văn ư? Hỏi: Trên Thiên nữ nói: Dùng pháp nhân duyên mà đắc độ, tôi là Bích-chi-Phật, nay sao được nói là pháp riêng của Bồ-tát? Đáp: Phương tiện giáo này dạy cho biết là Bích-chi-Phật. Nếu giáo liễu nghóa bác bỏ mà dạy thì Bích-chi-Phật không có phần. Vì sao? Vì mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh. Không thấy Phật tánh há biết được vô minh căn bản. Thập trụ thấy tánh không cùng vô minh còn chẳng rõ ràng, huống là Bích-chi-Phật. Phải biết nhân duyên là pháp riêng của Bồ-tát, mười hai nhân duyên tức là tất cả văn tự, nên nói ở đây đã mười hai năm. Trước không nghe nói pháp Nhị thừa, chỉ nghe pháp của chư Phật, Bồ-tát. Cho nên thật tướng nhân duyên không phải nhân không phải quả mà là nhân là quả, là pháp riêng của Bồ-tát và chư Phật. Bốn, Nói thất này có tám việc chưa từng có “Xá-lợi-phất…”. Hàng Nhị thừa còn nghó bàn nên không có. Văn có ba: Nêu chương. Luận tướng. Kết chê. Đầu tiên, nêu chương, tức dụng chẳng thể nghó bàn, Nhị thừa không có. Nay giải thích chính đối với biển lớn Niết-bàn có tám dụ chẳng thể nghó bàn nghóa nó hơi giống, chỉ danh nghóa thứ lớp khởi duyên trước sau có khác chút ít. Tiếp luận tướng. Văn có tám: Thứ nhất: Trong thất thường có ánh sáng vàng chiếu rọi. Về sự thì dễ hiểu. Ước lý thì thất trống biểu thị cho Phật tánh tịch quang, là ánh sáng Đệ nhất nghóa. Ngày đêm không khác, tức là tịch mà thường chiếu, trí tuệ không hai. Không dùng mặt trời, mặt trăng, tức không nhờ duyên tu quyền thật mà chiếu. Hàng Nhị thừa còn tư nghị không có việc này, nên gọi là chưa từng có. Đại kinh nói: Đồng một vị mặn. Nghóa là tất cả chúng sinh đồng một Phật tánh “thất này… chi pháp” là việc chưa từng có thứ hai. Nếu vào Chân không Tịch quang pháp tánh thì không còn các cấu bẩn phiền não nội ngoại giới. Đại kinh nói: Không ngụ trong thây chết. Như trong nội ngoại giới nếu phạm trọng cấm của Phật pháp thì thây chết không vào được Tịch quang. “Thất này… chi pháp” là việc chưa từng có thứ ba. Thích Phạm tức là hàng hữu vi, đến hội lý tánh, tịnh là biểu thị sắp nhập vào cõi Tịch quang. Bồ-tát ở phương khác đến hội không dứt, là nói tự hành và hóa tha nhập vào các cõi Phật, tùy phương lợi vật đồng về cõi Tịch quang. Nên nói đến hội, Đại kinh nói dần dần chuyển sâu, gọi đó là quy giới, cho đến quả Phật, tức là dần dần sâu. “Thất này… chi pháp) là việc chưa từng có thứ tư, pháp Không thoái chuyển tức là sáu Ba-la-mật của bốn giáo, bốn thứ không thoái chuyển. Nếu không thoái chuyển tức là tự nhiên lưu nhập vào Tát-bà-nhã hải. Đại kinh nói sóng triều không quá hạn, thà mất thân mạng trọn không phạm ác. Ác tức là sáu tế “ngăn cản) trọn không thoái chuyển mà khởi sáu tế. “Thất này… chi pháp” là việc chưa từng có thứ năm. Tất cả pháp trong đó không quái ngại, trí nói không thể cùng, tức là quả báo thắng diệu, như đàn Chân-ca-la, nói pháp Tứ đế pháp Vô lượng vô tác. Đại kinh nói sâu xa khó đến đáy. Thí như tiếng pháp giáo hóa. “Thất này… chi pháp” là việc chưa từng có thứ sáu. Theo sự mà giải thích, tức là các giáo pháp của bốn giáo cũng là quán mười hai nhân duyên, bốn thứ pháp tạng thí cho chúng sinh mười giới không thể hết. Đại kinh nói: Có các thứ kho báu, để ví cho kinh này tức là kho báu. Nghóa là bốn thứ đạo phẩm anh nhi hạnh… bốn thứ công đức Thánh nhân…, vô lượng kho báu. “Thất này… chi pháp” là việc chưa từng có thứ bảy. Thất này có mười phương Phật hiện. Tức là cõi nước lớn, quán mười hai nhân duyên là Không, thì được niệm Phật Tam-muội. Mười phương chư Phật chân ứng hai thân, tùy niệm mà hiện ra. Đại kinh nói: Chúng sinh thân lớn ở chỗ chúng sinh lớn, tức là chỗ trụ của Phật, Bồ-tát. “Thất này… chi pháp) là việc chưa từng có thứ tám. Thất này Thiên cung Tịnh độ đều hiện trong ấy, thất trống chính biểu thị cõi Phật đều không. Lại văn trên nói: Tuy biết các cõi Phật vắng lặng như hư không, nhưng hiện các cõi Phật thắng diệu là biểu thị việc này. Đại kinh nói: Không tăng không giảm ví như Đại Niết-bàn, không có bờ mé, cho đến vì tất cả tánh đồng một tánh. Tức là thất trống biểu thị cho tất cả quốc độ đều không. Đây là dụng bất tư nghị chưa từng có há lại đồng với công dụng tiểu trí của hàng Nhị thừa trụ ở giải thoát tư nghị. Đại kinh nói tám thứ bất tư nghị nghóa đồng. Cuối cùng Kết chê “Xá-lợi-phất… pháp hồ”. Nếu thất này thường hiện tám thứ chưa từng có tức là quán nhân duyên mà trụ ở giải thoát bất tư nghị, thành tựu tám dụng bất tư nghị. Ai chứng quả này đâu lại ham thích trụ ở tiểu trí vô dụng lìa văn tự mà cầu giải thoát. “Xá-lợi-phất nói… là nói về thần biến tự tại của giải thoát Bất tư nghị. Nếu chân tánh giải thoát, không chuyển nào chẳng chuyển. Căn cứ hạnh lợi vật thì có chuyển và không chuyển. Như Đại phẩm nói: Tu-bồ-đề hỏi A-bệ-bạt-trí về nghóa chuyển và không chuyển. Phật nói: Chuyển và không chuyển đều gọi là Bạt-trí. Nay cũng như thế. Nếu quán chúng sinh để nhập vào bất tư nghị, thấu suốt pháp tánh, không nhiễm không trệ. Chuyển và không chuyển, đều là Bạt-trí, nên có văn này. Trước hỏi kế đáp. Trước hỏi, cũng dùng ý của giáo Tam tạng giáo. Bồ-tát Tam tạng giáo đủ năm việc gọi là bất thoái chuyển, nghóa là được Túc mạng trí, các căn đầy đủ, không sinh vào hàng hạ tiện, không sinh vào ba ác đạo, không thọ thân nữ, đầy đủ năm việc trên thì gọi là Bạt-trí. Nay Thiên nữ biện tài như thế, đã có thắng giải, tức là Không lui sụt để làm thân nữ, nếu là người nữ đâu được như thế. Cho nên biết dùng nghóa Bồ-tát của Tam tạng giáo mà hỏi. Tuy Thân Tử có thần lực hơn cả Mục-liên nhưng chỉ là sức cầu giải thoát tư nghị. Nay muốn hiển bày lực dụng bất tư nghị, nên Thân Tử dùng tư nghị mà hỏi. Kế đáp “Thiên viết …” là Thiên nữ đáp. Văn có ba: Một là Nói không chuyển đổi. Hai là, Nói không chuyển đổi. Ba là, Nói không phải chuyển không phải Không chuyển để thành phẩm Quán Chúng Sinh này mà vào ba đế không, chẳng không, chẳng phải Không chẳng phải chẳng không. Không chuyển đổi, là quán chúng sinh từ thế đế như huyễn… mà nhập chân đế. Như giới thứ mười chín… dụ không có tướng chuyển đổi. Cũng như Thân Tử đáp lời Thiên nữ rằng giải thoát không có nói năng. Đây tức là trên nói chân đế rốt ráo không thể chuyển đổi. Chuyển đổi là chân mãi không chuyển lại, nhập vào Giả danh dẫn dắt chúng sinh được nghóa có chuyển. Như huyễn hóa… tuy vô định nhưng thật ra không ngại giả danh, cũng được nói là chuyển. Như trên quán chúng sinh tục đế giả danh như huyễn hóa… Không phải chuyển không phải Không chuyển. Chuyển và không chuyển đều không thể được. Vì chuyển nên không đồng với chân đế như giới thứ mười chín. Vì không chuyển nên không đồng với chuyển của danh tự huyễn hóa. Lìa hai biên này thì là Không phải chuyển không phải Không chuyển, tức là chánh quán Trung đạo. Như quán chúng sinh trên như sắc của cõi Vô sắc. Chỉ khác chút ít về thứ lớp với văn trên, tức là trên hoàn toàn nói về nhập, còn đây thì nói về chuyển biến, cùng đồng nhau với ba quán. Trước trên nói không chuyển đổi. Văn có ba: Thiên nữ hỏi. Thân Tử đáp. Chê trách. Thiên nữ hỏi: Đem chánh quán mà thí dụ để hiển sáng. Lại hỏi ngài Thân Tử rằng: Ta từ mười hai năm nay cầu tướng nữ nhân rốt không thể được, là quán pháp tánh nhân duyên mà cầu tướng nam nữ rốt không thể được, thì sao lại phải chuyển đổi. Nay nói nam nữ không phải chỉ căn cứ người, tướng nó rất nhiều đều không thể được, đều như huyễn hóa. Từ lý nhân duyên mà tìm hạnh vô minh… vốn không phải nam nữ chỉ là điên đảo vọng thấy. Nếu có nam nữ tức là có hai tướng. Quán chân lý nhân duyên thì không có hai tướng, rốt ráo không thể được. Chánh báo đã thế thì y báo cũng vậy. Như trời thì dương, đất âm, mặt trời dương, mặt trăng âm, bốn tiết, ngũ hành đều là tướng nam nữ. Đại kinh có nói: “Nếu xem tham ái là mẹ, vô minh là cha”thì tức có nam nữ. Cho đến các thứ xuất thế như định tuệ, phước trí, trí độ, phương tiện, từ bi, thiện tâm… đều là nghóa nam nữ. Nếu quán nhân duyên tức là Phật tánh, Phật tánh tức là pháp tánh. Chân lý pháp tánh còn không thấy một, sao lại có hai; còn không thấy có tướng nam nữ thế xuất thế, sao được có hai tướng thân người. Nên Thiên nữ hỏi: Quán mười hai tướng nhân duyên để cầu tướng nữ nhân rốt không thể được, sao được khuyên chuyển đổi. Lại đến thế đế ba nghóa, về nữ không thể chuyển. Nghiệp không thể chuyển. Ở vô minh hành, tạo nghiệp nam nữ, nghiệp nếu không chuyển thì là báo cũng không chuyển. Như ngài Xá- lợi-phất là do nghiệp nam tạo thành, còn Ni-liên-hoa là do nghiệp nữ tạo thành. Tuy được quả La-hán các tử phược đã đoạn hết, đó là chuyển nhân mà không chuyển hiện quả. Nếu nghiệp không dứt thì nhất định không thể chuyển. Thần thông không thể chuyển, như Thiên nữ dùng sức thần thông biến ngài Thân Tử thành nữ. Nếu chưa bỏ thần lực thì ma ngoại và Nhị thừa dùng hết sức thần lực của mình cũng không chuyển lại được. Thệ nguyện không thể chuyển: Như Phật và pháp thân Bồ-tát tùy các quốc độ đáng dùng thân nữ để độ thì liền hiện thân nữ. Nếu chúng sinh chưa độ thì thân nữ vẫn không đổi, khi chúng sinh cơ duyên đã hết, thì liền chuyển đổi. Đem ba ý này hỏi lại ngài Thân Tử vì sao không đổi bỏ nữ thân mà hỏi. Đây tức mười hai năm quán tướng nữ trọn không thể được, sao cần phải chuyển đổi. Ví như nhà huyễn thuật hóa hình nam nữ. Nếu có người hỏi vì sao không đổi thân nữ, đây không phải là chánh hỏi. Nay ngài Thân Tử hỏi lời này tức không phải chánh hỏi. Do đó lại dùng câu hỏi này để hỏi ngài Thân Tử là chánh hỏi chăng? Ngài Thân Tử lãnh hội “Xá-lợi-phất… sở chuyển”. Do huyễn hóa không có tướng nhất định, sao cần phải chuyển đổi, tức là Thân Tử tự nhận lời hỏi là sai. Thiên nữ trách “Thiên viết… nữ thân”. Nhân Thân Tử hiểu và tự nhận bỏ câu hỏi mình là sai nên chê trách rằng: Tất cả các pháp cũng lại như thế không có tướng nhất định. Nói tất cả pháp tức là như trên. Nam nữ, âm dương, định tuệ… tất cả các pháp đều là vọng phân biệt, nhưng quán nhân duyên mà cầu thì không thể được, sao cần phải chuyển đổi, ngài đã đáp rằng huyễn pháp Không nhất định vì sao lại khuyên chuyển đổi, tức là chê trách. Tiếp thứ hai nói về chuyển “Tức thời…”. Tức là chuyển nên gọi là Bạt-trí. Thấu suốt tánh chuyển đổi như hư không không thể được. Nương vào Thế tục hai tướng không nhất định, từ không vào Giả do danh tự mà phân biệt nên được nghóa có chuyển đổi. Văn có bốn: Một là, Thiên nữ tự biến làm Thân Tử mà hỏi. Hai là, Thân Tử dùng thân nữ mà đáp. Ba là, Thiên nữ giải thích. Bốn là, Dẫn lời Phật làm chứng. Một, Thiên nữ tự biến thành Thân Tử, đổi Thân Tử làm Thiên nữ, rồi dùng hình Thân Tử mà hỏi. Tức là trên nói nghóa dùng thần lực làm nữ, nếu không nhiếp phục thần lực thì không chuyển đổi được. Đây là chỉ cho nghiệp không thể chuyển thì phàm nữ thân là Không chuyển đổi. Nếu cơ duyên không chuyển thì ứng hiện cũng không chuyển đổi. Hai, Thân Tử dùng thân nữ mà đáp “Xá-lợi-phất… nữ thân”. Không biết vì sao biến thành. Là nói Thân Tử có thần lực Tam tạng giáo hơn ngài Mục-liên, nhưng chỉ là tư nghị nên không thể chế phục được thần lực của Bồ-tát. Nên bị Thiên nữ biến đổi. Nay bất tư nghị không phải là tư nghị biết được. Nên nói không biết vì sao chuyển đổi để thành việc trên như trước nói. Ba, Thiên nữ giải thích “Thiên viết… nữ dã”. Thiên nữ nói nếu ngài Xá-lợi-phất có thể chuyển đổi thân nữ này, thì tất cả người nữ cũng có thể chuyển đổi được. Như ngài Thân Tử bị thần thông cầm giữ nên không chuyển đổi được, thì tất cả người nữ bị nghiệp cầm giữ cũng không thể chuyển đổi được. Nếu tất cả người nữ không dẹp trừ nghiệp mà có thể chuyển đổi được, thì Thân Tử cũng có thể chuyển đổi được. Như ngài Xá-lợi-phất không phải là nữ mà bị thần lực của người khác biến làm thân nữ, thì tất cả người nữ mà bị nghiệp lực biến làm thân nữ, thì tuy hiện là thân nữ, nhưng trong bốn đại, năm ấm nhân duyên mà tìm, tướng nữ không thể được, tức là Không phải nữ. Nay Thiên nữ tức là do nguyện lực biến làm thân nữ. Nếu cơ duyên chúng sinh cần chuyển đổi thì cũng ứng hiện chuyển đổi. Như gương đối mặt hiện ra mặt, mặt nếu không lìa bỏ thân thì cũng không thể đổi được. Bốn, Dẫn chứng lời Phật “Thị cố… phi nữ”. Như Phật đã nói tất cả các pháp Không phải nam không phải nữ. Như ở thế gian nam nữ cho đến âm dương, định tuệ tất cả các pháp đều không phải nam nữ. Thứ ba, Thiên nữ nhiếp thần lực “Tức thời…) tức không phải chuyển không phải Không chuyển thành Trung đạo trên ở trước. Văn có bốn: Một là, Thâu thần lực hiện lại thân cho ngài Xá-lợi-phất rồi hỏi tướng nữ ở đâu. Hai là, Ngài Thân Tử đáp. Ba là, Thiên nữ ấn định Trung đạo thì không phải chuyển không phải Không chuyển. Bốn là, Dẫn chứng lời Phật. Một, Nói tất cả chúng sinh nữ nghiệp nếu hết thì thân nữ chuyển đổi không còn thấy tướng nữ. Nếu chúng sinh cơ duyên hết thì việc ứng hiện thân nữ cũng hết. Không còn tướng nữ nữa. Hai, Thân Tử đáp không ở mà không đâu không ở. Ba, Thiên nữ ấn khả lời nói này là hiểu thuyết Trung đạo, thành nguồn cội quán chúng sinh trước đây nên ấn khả. Bốn, Dẫn chứng lời Phật “Phù vô tại… thuyết dã) là Không phải chỉ hiểu đúng ý Thiên nữ mà cũng không trái lời Phật dạy. “Xá-lợi-phất…” là Thân Tử hỏi về việc sống “sinh) chết “mất”. Đây là hiển bày giải thoát bất tư nghị sống chết tự tại, chân ứng bổn tích. Tư nghị thì không chết vì là gốc pháp thân. Sống “sinh) là ứng hóa thùy tích. Chính là muốn hiển bày thành việc quán chúng sinh vào Không mà đến được đế nhất thật, cùng nguồn tột cội thì gọi là chết “mất”, thật hành ba mươi hai thứ Vô duyên đại từ, do sức thiện căn hun đúc, thọ thân để lợi vật thì gọi là sống. Lại giải thích chết sống tức là ứng thân thùy tích. Không phải sống không phải chết là pháp thân sẵn có. Từ đây trở đi hỏi đáp đều là nghiên cứu hiển bày việc ngài Tịnh Danh trên nói về nghóa quán chúng sinh. Văn có bốn: Một là, Thân Tử hỏi. Hai là, Thiên nữ đáp. Ba là, Thân Tử lại hỏi. Bốn là, Thiên nữ giải nghi. Một, Ngài Thân Tử hỏi. Chính là dựa theo Tam tạng giáo hoặc dùng ý Thông giáo. Vì sao? Vì Tam tạng giáo nói Phật Vô dư hội tận. Đây chỉ có chết (mất) mà không có sống “sinh”. Nhị thừa Tạng Thông cũng chết mà không có sống “sinh”. Còn Bồ-tát Tam tạng giáo thì hóa độ chúng sinh đã không đoạn kết tuy, chết mà lại có sống “sinh”. Bồ- tát Thông giáo thì khác với Nhị thừa. Nhị thừa không nguyện, không thọ thân sau (hậu hữu) nên chỉ chết mà không sống (sinh). Phật tuy có nguyện và chánh tập đều đoạn, chỉ chết mà không sống (sinh). Còn Bồ-tát tuy đoạn chánh sử mà vì có tập có nguyện nên được là có sống “sinh”. Nay chính ước Tam tạng giáo, đã chưa đoạn kết tất phải có sống thì sẽ sinh chỗ nào? Hai, Thiên nữ đáp. Phật hóa sinh thế nào thì tôi cũng sinh như thế. Ý đáp là Phật pháp thân lý vốn không có sinh. Ứng đồng thì sinh, đây như hóa sinh không phải do kiết tập sinh. Thiên nữ được pháp thân cũng phải là hóa sinh mà không phải do kiết tập sinh, nên nói tôi cũng sinh như thế. Ba, Thân Tử lại hỏi. Phật hóa sinh không phải là chết rồi mới sinh. Thân Tử không biết ý Thiên nữ ở chỗ ứng hóa sinh, bèn lấy Tam tạng giáo cho rằng Phật báo thân có thể hóa sinh, hóa thì không có thể chất mà chợt có, không có tướng nhất định, bỏ đây lấy kia. Bồ-tát do kết nghiệp mà thọ sinh, sao bảo Phật hóa sinh. Nên nói: Phật hóa sinh không phải chết rồi mới sinh. Trên, Thiên nữ đã dùng ứng hóa của Biệt giáo mà đáp. Thân Tử không hiểu vì còn chấp Tam tạng giáo, Phật có Báo thân mới có thể hóa sinh. Nên nói Phật hóa sinh không phải chết rồi mới sinh. Bốn, Thiên nữ giải nghi. Thiên nữ biết ngài không hiểu ý sâu xa liền dùng ý Thông giáo mà đáp. Tất cả chúng sinh cũng không phải chết rồi mới sinh, qua lại năm nẽo đều như biến hóa. Không phải chết rồi mới sinh, tức Thiên nữ cũng là hóa hiện đâu có chết rồi mới sinh. Đây cũng là hoàn toàn ý ở pháp thân ứng hóa. Đến khi ngài Tịnh Danh kể thành việc chân ứng bổn tích thì nghóa mới sáng tỏ. Đó là việc Phật hóa sinh chính là ứng hóa. Thiên nữ được pháp thân, tùy sinh chỗ nào cũng đều ứng hóa cho nên không phải chết rồi mới sinh. “Xá-lợi-phất…” là Thân Tử hỏi Thiên nữ được Bồ-đề lâu mau? Tức là hiển bày việc thành đạo của Viên giáo. Văn có hai: Một, Thân Tử căn cứ Tạng Thông mà hỏi được đạo lâu mau. Thiên nữ căn cứ bất tư nghị chân đế mà đáp. Hai, Thân Tử căn cứ tư nghị tục đế mà hỏi. Thiên nữ lại dựa vào bất tư nghị chân đế mà đáp. Trong phần đầu, Thân Tử có ý hỏi: Nàng đã vì lợi vật sao lại ở đạo tràng mà tám tướng thành đạo. Kế Thiên nữ đáp và hỏi lại có hai ý: “Nếu Xá-lợi-phất trở lại làm phàm phu thì tôi mới thành Bồ-đề.” Nếu nói ngộ chân vô sinh há có lý lại làm phàm phu. Tôi được đạo Viên chân, đã trừ hết biệt hoặc đâu có thể mới nương vào tám tướng thành đạo của Tạng Thông. Cho nên nói tôi chứng Bồ-đề, cũng không có lẽ đó. Nếu Thân Tử thấy chân tư nghị còn lại làm phàm phu, thì tôi vào chân bất tư nghị mới tám tướng thành đạo. Ngài không có việc kia thì tôi sao có việc này. Song La-hán hay hóa làm phàm phu mà không phải thật là phàm phu. Pháp thân thành đạo cũng không phải là tám tướng. Chúng sinh phải tám tướng mà được độ thì liền hiện ra tám tướng. La- hán thật không lại làm phàm phu, thì tôi được vô sinh, cũng thật không có tám tướng. Đây là đối tướng mà giải thích. Kế Thân Tử đáp rằng: “Tôi làm phàm phu, không có lẽ đó.” Thiên nữ liền thưa rằng “Tôi được Bồ-đề cũng không có lẽ đó.” Sở dó cùng nói như thế là nếu Thân Tử hỏi pháp thân thành đạo rốt ráo. Đây là thập trụ mà không thấy đầu mối, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể hiểu rốt ráo Thiên nữ lấy thời gian lâu như của Thân Tử mà đáp. Như kinh Pháp Hoa nói đạo thông thành đạo, Vương tử tu nhân. Thân Tử há có thể biết được tám tướng này, chỉ khi nào được vô sinh liền hay tám tướng tùy duyên mà làm Phật, đâu cần phải hỏi. Kế Thiên nữ tự giải thích rằng Bồ-đề không chỗ trụ nên không được. Đây là pháp thân quán chân đế bất tư nghị là Không, không có nơi chốn, chư Phật không đi cũng không đến, nên nói là Không có được. Kế tiếp Ngài Thân Tử căn cứ tư nghị tục đế mà hỏi “Xá-lợi-phất nó…”. Thiên nữ lại ước bất tư nghị chân đế mà đáp. Trước hết ngài Thân Tử hỏi, nay chư Phật được Bồ-đề như hằng sa. Đây là đem tám tướng tục đế thông giáo mà hỏi, nên nói là như hằng sa. Vì sao? Vì Tam tạng giáo không nói có mười phương Phật, tuy có ý nghóa này, nhưng không nói rõ ràng. Kế Thiên nữ đáp rằng: đều là dùng văn tự thế tục mà nói có Phật ba đời. Không phải bảo chân đế có ba đời mà giả gọi ba đời, nhưng chân Bồ-đề thì đâu có thuộc đời. Thiên nữ nhân đáp mà hỏi lại ngài Thân Tử: Ngài có được đạo La-hán chăng? Thân Tử đáp: Vì không được nên mới được. Đây như trong Đại phẩm Phật có bốn câu hỏi ngài Thiện Cát được đạo. Ngài Thiện Cát đáp: Không trụ ở bốn câu mà thật được đạo. Đây là bốn câu tục đế dứt tư nghị mà thấy chân được đạo. Thiên nữ nói “Chư Phật, Bồ-tát cũng như thế.” Đây là bốn câu tục đế dứt bất tư nghị thấy chân bất tư nghị mà được đạo. Vì sao? Vì ý của Thiên nữ Tiểu thừa được đạo tư nghị còn cho không được mà được. Huống là Đại thừa được đạo bất tư nghị mà không dứt hết bốn câu không được mà được. Lời lẽ giống nhau nhưng ý rất cách xa. “Nhó thời…” là ngài Tịnh Danh kể thành việc Thiên nữ trên đáp lời ngài Thân Tử đều thật không dối. Văn có bốn: Một là, Được gặp chư Phật từ lâu. Hai là, có thần thông du hí. Ba là, được Vô sinh nhẫn. Bốn là, nguyện tùy ý hiện ra. Tuy có gạn hỏi ngài Thân Tử nhưng nghóa chưa được rõ. Nên ngài Tịnh Danh kể thành việc Thiên nữ đáp thì sáu nghóa mới hiện rõ: Một, Đã từng cúng dường chín mươi hai ức Đức Phật, là thuận theo giáo Phật mà hay quán nhân duyên ba đế, nên được ở trong thất trống này mà huân tu từ bi hiện ra thân Thiên nữ, tán hoa như pháp, bình đẳng cúng dường, biểu thị cho thông hoặc đã dứt, biệt hoặc đã dẹp trừ mà được lìa tánh văn tự. Giải thoát bất tư nghị tức là thuật thành việc Thiên nữ đáp câu hỏi đầu của ngài Thân Tử, nói nếu lìa hết biệt hoặc thì họa không dính thân. Cũng thuật thành việc đáp câu hỏi hai của ngài Thân Tử nói hai thứ giải thoát là tư nghị và bất tư nghị không đồng nhau. Hai, Được Du hí thần thông, thệ nguyện đầy đủ, kể việc vào rừng Chiêm-bặc không ngửi mùi hương khác, cũng kể việc đáp lời câu hỏi thứ tư về chuyển đổi thân nữ, như vì bổn nguyện nên hiện ra thân nữ. Ba, Được Vô sinh nhẫn, tức kể câu hỏi thứ sáu của ngài Thân Tử hỏi được quả Bồ-đề bao lâu. Thiên nữ đáp không được mà được, tức pháp thân thành đạo. Bốn, Vì bổn nguyện nên tùy ý hiện ra để giáo hóa chúng sinh tức kể câu hỏi thứ năm của ngài Thân Tử về sống “sinh) và chết. Thiên nữ đáp như Phật hóa sinh. Pháp thân sinh và chết là do bổn nguyện ứng hóa, chân ứng bổn tích nghóa rất sáng tỏ. Hỏi: Vì sao ngài Thân Tử trước hỏi sống chết “sinh mất”, kế hỏi được đạo bao lâu. Ngài Tịnh Danh kể thành vì sao trước nói pháp thân thành đạo, sau mới nói việc sống chết “sinh mất)? Đáp: Ngài Thân Tử vì mê tâm mà hỏi, dứt sự mới đến lý. Còn ngài Tịnh Danh dùng lý mà kể thành. Được Vô sinh nhẫn tức là được pháp thân rồi thì mới có ứng dụng. Ngài Thân Tử tuy có sáu câu hỏi và Thiên nữ đáp lưu loát, nhưng chánh ý cũng còn khó thấy. Nên dùng bốn nghóa để thuật thành, thì ý mới thật rõ ràng. <篇> <卷>QUYỂN 9 PHẨM: PHẬT ĐẠO Nay nói phẩm này lược dùng ba ý giải thích chung: Nói lý do có phẩm này ở tiếp sau. Giải thích tên phẩm. Giải thích văn. Lý do có phẩm này tiếp sau phẩm Quán Chúng Sinh, là phẩm trước chính nói về tướng chung vào Không, để hoàn thành việc phẩm Thăm Bệnh nói về Bồ-tát có bệnh. Theo Thông giáo quán từ Giả vào Không để điều phục Bồ-tát có bệnh nội giới. Lại gồm thành việc nói pháp cho các quốc vương, trưởng giả ở ngoài thất, như đã nói ở trước. Nay phẩm này nói tướng chung về quán từ không vào Giả để nói đạo phi đạo, chủng phi chủng, quyến thuộc phi quyến thuộc. Đây tức là Không có mà có, chính để thành việc phẩm Thăm Bệnh nói tướng chung của Biệt giáo về quán từ không vào Giả để điều phục hằng sa Bồ-tát bệnh thật. Văn trước có nói: “Lấy không chỗ thọ mà thọ các thọ”chưa đầy đủ Phật pháp Không nên diệt thọ thủ chứng, cũng gồm việc ở ngoài thất chê trách các đại đệ tử không thể trụ các kiến bất động mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, dùng tướng ngũ nghịch mà được giải thoát… Cho nên có phẩm này. Giải thích tên phẩm này. Nói Phật đạo, thì Phật nghóa là giác, tu giác giác tha gọi là Phật. Đạo nghóa là thông suốt, là lý sở giác hay thông quán các trí từ nhân đến quả, gọi đó là đạo. Đây dùng trí và lý làm tên nên gọi là Phật đạo. Chính như phẩm này dùng lý chẳng phải đạo tức là Phật đạo. Do đó ngài Tịnh Danh đáp ngài Văn-thù rằng: Bồ- tát hành trì ở phi đạo mà thấu suốt Phật đạo gọi là Phật đạo. Nói chẳng phải đạo, thì Đại Luận nói: Mười hai nhân duyên có ba thứ đạo: Phiền não đạo. Nghiệp đạo. Khổ đạo. Phiền não tức là vô minh, ái, thủ ba thứ. Nghiệp tức là hành, hữu hai thứ. Khổ tức là thức, danh, sắc, lục nhập, xúc, thọ, sinh, lão, tử bảy thứ. Đây là ba đạo không phải Phật đạo nên nói là chẳng phải đạo. Lý chẳng phải đạo tức là lý thật tướng trí tuệ công đức của chư Phật. Lý tức là đạo, nên nói chẳng phải đạo tức là Phật đạo. Hỏi: Phẩm này không căn cứ nhân duyên mà nói nghóa, sao được ước ba đạo của nhân duyên là phi đạo? Đáp: Tất cả phi đạo không ngoài ba thứ này. Vì sao? Vì tất cả chín giới trong mười giới đều là Phi đạo, chỉ có Phật pháp giới gọi là Phật đạo. Kinh này nói Phật đạo bất tư nghị, nên cả chín giới chẳng phải đạo đều là Phật đạo. Trong chín giới đạo thì sáu đạo là mười hai duyên hữu vi, ba thừa là mười hai duyên vô vi. Tức là đạo hai biên thế và xuất thế mỗi thứ đều có ba đạo là Không thể thông nhau. Từ không vào Giả để thuận nhập vào đạo giải thoát bất tư nghị, nên đều là phi phải đạo. Nhưng phẩm này không riêng nói Bồ-tát là phi đạo, vì có bốn giáo là đạo Bồ-tát. Biệt Viên vào trung tức là Phật đạo. Lại nữa, phương tiện Bồ-tát đều có Bi nguyện, rất thích thuận Phật đạo, nên không chọn ra thật Phi Phật đạo. Nếu là Phật đạo thì tại sao ngài Tịnh Danh lại chê trách bốn Bồ-tát và tám ngàn học đồ. Lại nữa, phẩm này nói khắp nhập vào các đạo, đoạn hết nhân duyên, đâu không vào phương tiện giáo Bồ- tát, để đoạn các duyên tập hữu vi và vô vi. Hỏi: Nếu Phật là trí năng giác, đạo là lý sở giác thì lý phi đạo này có phải là lý Phật tánh chăng? Đáp: Đúng như lời hỏi. Hỏi: Nếu “tức là”, thì Phật tánh có ba là chánh, duyên, liễu, thì phi đạo cũng được là ba nhân chăng? Đáp: Cũng như thế, đầy đủ như trong huyền nghóa. Vì sao? Vì khổ tức là chánh nhân, phiền não tức là liễu nhân và nghiệp tức duyên nhân. Nên Đại kinh nói mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh. Phật tánh không ngoài ba thứ. Nhân gọi là ba thứ Phật tánh. Quả gọi là ba đức Niết-bàn. Vì sao? Vì khổ tức là pháp tánh năm ấm, thuộc chánh nhân Phật tánh. Nên Đại kinh nói vô minh có ái là hai thứ trung gian thì có sinh tử gọi là Trung đạo. Trung đạo tức là chánh nhân. Nếu chuyển vô minh thành minh, tức là do hoặc mà có giải thoát, tức là liễu nhân. Nếu chuyển ác thành thiện thì do ác mà có thiện, tức là duyên nhân. Cho nên biết lý ba thứ phi đạo tức là lý ba thứ Phật tánh. Nên ngài Tịnh Danh nói hành ở phi đạo mà thông suốt Phật đạo. Hỏi: Các sư phần nhiều đều nói kinh này chưa nói Phật tánh, sao được dẫn kinh Niết-bàn mà nói mười hai nhân duyên là nghóa Phật tánh, để giải thích phẩm này? Đáp: Đại kinh nói: Nếu nói mười một bộ kinh mà không nói Phật tánh thì không phải phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu nói mười hai bộ kinh mà không nói Phật tánh, tức là phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Nay Phương đẳng này đủ mười hai bộ, sao được nói là Không nói Phật tánh? Hỏi: Kinh này trước sau đều không có tên Phật tánh, sao được nói là có nói Phật tánh? Đáp: Phẩm này, ngài Tịnh Danh nói Phi đạo là đạo, ngài Văn-thù nói phi chủng là chủng. Chủng tánh tức là tên khác của mục. Như trời Đế Thích đâu khác Kiều-thi. Nếu cho rằng không nói danh thuyết Phật tánh, là Không triển khai nghóa Phật tánh. Có kinh không dùng danh từ hai đế cũng không phải là Không liên quan đến hai đế, sao được nói chư Phật thường nương hai đế mà thuyết pháp. Hỏi: Nếu Phật tánh có ba thì chủng “hạt giống) cũng có ba chăng? Đáp: Đúng như câu hỏi. Nên ngài Văn-thù nói: Có thân là chủng, sáu nhập là chủng, tức là chánh nhân của khổ đạo là tên khác của chủng tánh. Vô minh tham khuể… là chủng, tức là liễu nhân của phiền não đạo là tên khác của chủng tánh. Mười thứ bất thiện là chủng tức là duyên nhân nghiệp đạo là tên khác của chủng tánh. Chủng tánh cùng tánh, nghóa thật đối nhau. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: “Chỉ có Như Lai biết chủng tướng thể tánh của chúng sinh này”, tức là nghóa ấy. Hỏi: Chủng có nghóa là năng sinh, nghóa nó đối với vô thường. Tánh có nghóa là Không đổi, nghóa nó đối với thường, hai nghóa này khác nhau sao được nói đối nhau? Đáp: Duyên và liễu nhân đối với chủng không có gì phải nghi. Chỉ có Chánh nhân đối với Chủng hình như trái nhau. Nếu xét kỷ thì cũng không đối nhau. Như thật không phải là nhân quả mà nói là chánh nhân, đó là phi nhân tánh mà nói là chánh nhân tánh, thì sao không được phi nhân chủng mà nói là chánh nhân chủng. Hỏi: Nếu kinh này nói Như Lai chủng cùng Phật tánh Niết-bàn đồng nhau. Vì sao lại nói nếu thấy vô vi nhập chánh vị thì không thể lại phát tâm Bồ-đề, cũng như căn hư, nghóa chủng có thể đoạn mà nghóa Phật tánh lại không thể đoạn, vì sao lại được đồng? Đáp: Đây mang tính phương tiện mà nói nghóa chủng tánh, đối với Bồ-tát lợi căn tức là rốt ráo, còn hàng Nhị thừa không hiểu, nên cần phải chê bác chê trách Thanh văn để ngầm có phát Lý. Nên kinh Pháp Hoa có nói: “Khi xưa ở trước Bồ-tát chê bai Thanh văn ham thích pháp Tiểu thừa. Song Phật thật chỉ dùng Đại thừa mà giáo hóa”, tức là nghóa này. Hỏi: Mười hai nhân duyên pháp tánh đều là chánh nhân, quán nhân duyên mà trí thông suốt là liễu nhân, các pháp thiện trợ tu đều là duyên nhân. Vì sao chỉ thiên lệch phán quyết là mỗi thứ đều thuộc riêng? Đáp: Nghóa có chung riêng. Nếu như câu hỏi thì là nghóa chung. Nghóa riêng không phải vậy. Năm ấm pháp tánh có vô minh ác nghiệp liền thành năm ấm sinh tử. Như khí âm khởi thì nước kết thành băng, vô minh chuyển làm minh thì Bất thiện thành thiện, tức chỉ rõ năm ấm thành năm thứ Niết-bàn. Như khí dương khởi, thì băng lại thành nước. Hỏi: Vô minh phiền não há là trí tánh? Đáp: Văn nói: Không vào biển lớn phiền não thì không được báu Vô thượng trí. Thập địa Luận Sư nói: Thức thứ bảy là trí thức. Nhiếp Đại thừa nói thức thứ bảy chỉ là chấp kiến thức. Tranh luận… đều là do không hiểu nghóa liễu nhân chủng tánh. Không hiểu rõ thức thứ mười khởi lên tranh cãi cũng thế. Hỏi: Nếu thế thì Bát-nhã Pháp Hoa có nói Phật tánh chăng? Đáp: Kinh Phương Đẳng này còn có nghóa này huống là Bát-nhã. Nên Đại kinh nói: Nói Phật tánh thì có năm tên, đó là Phật tánh, Bát- nhã, Thủ-lăng-nghiêm, Kim cang Tam-muội, Sư tử hống Tam-muội. Lại Đại kinh có nói: Thành quả trái lớn thấy tánh Như Lai. Dẫn thời Pháp Hoa có tám ngàn Thanh văn được thọ ký riêng thành quả trái lớn. Như mùa Thu gặt hái, mùa Đông chứa nhóm rảnh rang không làm việc, là nghóa này. Quán tâm, là nếu biết một niệm mười hai nhân duyên đầy đủ lý ba đạo ở mười pháp giới, tức là ba Như Lai chủng, ba thứ Phật tánh. Ấy là ba đạo phi đạo không che chướng ba đức, như chữ nhất ở đời. Các pháp cũng thế. Là lý trí bất tư nghị, tức là phi đạo thấu suốt Phật đạo nên gọi là phẩm Phật Đạo. 3.Giải thích văn “Nhi thời…”. Văn có ba: Nói Phật đạo. Nói Như Lai chủng. Nói quyến thuộc. Ba thứ này tên khác mà ý đồng, đều là quán thông tướng vào Giả. Nếu tới chỗ hiểu biết lý phi đạo, thông suốt không ủng tắt thì gọi là Phật đạo. Lý này hiển bày lý hay sinh Như Lai gọi là Như Lai chủng. Sinh ra phước tuệ tự hành hai trang nghiêm, hay sinh pháp thân và các công đức, tự lấy đây làm quyến thuộc. Nếu là hóa tha thì giả gọi là Không ủng tắt. Ba văn tuy khác nhưng đồng là Thông tướng từ không vào Giả. Nên Đại phẩm nói: Bồ-tát hay lấy tất cả đạo mà khởi tất cả đạo chủng đạo, gọi là đạo chủng trí, tức là trí từ không vào Giả. Nói Phật đạo có bốn: Văn-thù lược hỏi. Tịnh Danh lược đáp. Văn-thù lại hỏi. Tịnh Danh rộng đáp. Văn-thù lược hỏi: Sở dó hỏi là vì giả danh phân biệt Phật đạo có vô lượng thứ chứa ở phi đạo. Bồ-tát sơ tâm nghe phẩm Thăm Bệnh nói thông tướng nhập giả Bất tư nghị mà không hiểu gì, nên hỏi Bồ-tát rằng làm sao thông đạt Phật đạo? Ngài Tịnh Danh lược đáp “Duy-ma… Phật đạo”. Bồ-tát lấy không chỗ thọ mà thọ nhận các thọ phi đạo, tức là hành phi đạo hai biên thế và xuất thế. Thông suốt Phật đạo, thông suốt hai biên này tức là Phật đạo. Lại nữa, phi đạo thế gian tức là ái kiến. Ái tức là ma phi đạo, kiến tức là ngoại đạo phi đạo. Phi đạo xuất thế, tức là bốn môn của Nhị thừa… các thứ môn, đầy đủ như trên đã giải thích về từ không vào Giả không mà nói các thọ. Thế và xuất thế này đều gọi là phi đạo. Bồ-tát đem cái không chỗ thọ làm cái muốn thấu suốt thọ phi đạo mà thọ các thọ, tự hành hóa tha, vào Giả mà phân biệt thuốc và bệnh, chưa đủ Phật pháp, trọn không diệt thọ thủ chứng, tức là hay thông suốt tất cả Phật đạo. Nên phẩm Thăm Bệnh trên có nói: “Các ma ngoại đạo đều là thị giả của tôi”. Văn-thù lại hỏi “Hựu vấn… phi đạo”. Sở dó lại hỏi là vì ý đáp vừa rồi sâu xa, thời chúng chưa hiểu, nên lại xin nói rộng. Tịnh Danh rộng đáp “Đáp viết…”. Văn có tám lại dùng để nói phi đạo: 1/ Ước căn cứ nhân vô gián. 2/ Ước căn cứ sắc cõi Vô sắc. 3/ Ước căn cứ ba độc. 4/ Ước căn cứ mười tệ. 5/ Ước căn cứ Nhị thừa. 6/ Ước căn cứ các ác quả báo ở nhân gian. 7/ Ước căn cứ nhập Vô dư. 8/ Tổng kết. Căn cứ nhân quả năm vô gián mà nói hành phi đạo. Bồ-tát vào Giả vì lợi ích chúng sinh, chỉ tội nhân ngũ nghịch chịu quả tam đồ, tuy làm việc này nhưng không hề giận ghét, tức là thấu suốt Phật đạo. Vì sao? Vì quán nhân duyên tội ngũ nghịch này sinh tâm từ Giả vào Không, còn chẳng thấy nghe tâm, huống là có nghịch quả, lấy không chỗ thọ vì vật mà thọ nghịch tâm nghịch quả. Tâm ngũ nghịch này tức là vô sinh, tức là môn chữ A. Nghóa là các pháp đầu tiên không sinh, nên cũng là Vô cấu Tam-muội. Nếu biết các pháp Không sinh, tức đủ tất cả Phật pháp, như trong một hạt vi trần có đại thiên kinh quyển. Ng- hịch tâm cũng thế. Đầy đủ pháp thế và xuất thế, đạo phẩm đốn tiệm, tất cả Phật pháp, mười tâm số, mười đệ tử khởi mười pháp môn. Trang nghiêm giáo pháp song thọ khô vinh, đầy đủ ở một niệm trong tâm ngũ nghịch sinh tử. Nên nói hành ở phi đạo mà thông suốt Phật đạo. Đây tức là nhân ngũ nghịch trong ba đạo. Tức là phi đạo của phiền não đạo và nghiệp đạo. Quả tam đồ tức là phi đạo của khổ đạo. Nay lấy nhân quả cực ác còn thông suốt Phật đạo các thứ khác Lý cũng như thế. Nên nói Bồ-tát hành ngũ Vô gián mà không giận ghét, tức là thông suốt Phật đạo. Vốn không nghịch nghiệp mà hành nghịch, tức là lấy không chỗ thọ mà thọ các thọ. Thông suốt Phật đạo, tức là chưa đủ Phật pháp, tự hành hóa tha chưa đầy đủ, nhưng không diệt thọ mà thủ chứng. Bồ-tát đối với ngũ nghịch như thế mà thông suốt đầy đủ tất cả các pháp, tức là tự hành. Chỉ bày hạnh này tức là hóa tha. Chỉ bày có hai thứ: Chỉ bày sám hối như Xà vương chưa thọ ác quả mà cầu sám pháp, khiến vô số người phát tâm Bồ-đề. Chỉ bày không sám hối. Như Điều-đạt cho đến vào địa ngục. A-nan theo Mục-liên đến thăm khuyên nên sám hối. Điều-đạt đáp: Tôi chịu khổ này như niềm vui ở Đệ tam thiền. Ấy là hành phi đạo để lợi ích tất cả. Lại nếu không có ác thì lấy gì để hiển sáng thiện. Thế nên Điều- đạt từ vô số kiếp đến nay thường cùng Thích-ca thật hành đạo Bồ-tát. Một người làm Phật đạo, một người làm Phi đạo, cùng nhau khởi phát. Như Pháp Hoa có nói: Đến ở địa ngục không có tội cấu mà ước quả. Đây là Vô cấu Tam-muội phá cái hữu địa ngục. Khi nhập Tam-muội này thì tất cả Tam-muội đều vào trong ấy. Như Điều-đạt ở địa ngục nói với ngài Mục-liên rằng: “Nếu ngài trở lại làm phàm phu thì tôi mới ra khỏi ngục này.” Lại như Bà-tẩu ở trong địa ngục mà dạy vô số người. Khi ra khỏi địa ngục được nghe kinh Phương đẳng. Nếu là có tội sao được như thế? Bởi do ở địa ngục không có tội cấu mà lại hay lợi tha. Ra khỏi địa ngục tức là hành ở phi đạo mà không có tội cấu, tức là nhập Vô cấu Tam-muội mà thông suốt Phật đạo. Vốn không có nghiệp địa ngục mà đến địa ngục, tức là lấy không chỗ thọ mà thọ mà không thủ chứng. Từ đây trở đi đều cần lấy lời văn “lấy không chỗ thọ mà thọ các thọ”của phẩm Thăm Bệnh đem đối với lời “hành ở phi đạo”, khắp mỗi mỗi câu đều giống đây. Còn như Súc sinh không có các lỗi vô minh kiêu mạn… là như các loài voi, khỉ vượn, chim chóc… đều kính trọng nhau nhân đó hóa làm người, tức là nhập bất thoái Tam-muội mà thông suốt tất cả Phật đạo. Đến như ngạ quỷ mà đầy đủ tất cả công đức. Như Thỉnh Quan Âm nói: Hiện thân làm ngạ quỷ tay phóng ra sữa đẹp đẽ thơm tho, tức là nhập tâm lạc Tam-muội mà thông suốt cả Phật đạo. Hai, căn cứ sắc cõi Vô sắc nói hành Phi đạo mà thông suốt Phật đạo “Hành sắc… vi thắng”. Sở dó ước các cõi trên vì hai cõi này là thiện thế gian, nếu ở nhân mà đắm trước là Phược Bồ-tát, nếu thọ quả báo tức là thuộc nạn trời Trường thọ, tức là phi Phật đạo. Bồ-tát từ Giả vào Không, lấy không chỗ thọ mà thọ nhân quả này không cho là cao quý. Vì không phải là thắng pháp của quán luyện huân tu, mà đối với phi đạo này tu Bạch sắc Tam-muội cho đến ngã Tam-muội… Mười một thứ Tam-muội chưa phải là tự hành hóa tha đầy đủ tất cả Phật pháp, trọn không diệt thọ thủ chứng, tức hay thông suốt Phật đạo vậy. Căn cứ hành ở ba độc “Thị hành… Kỳ tâm) tức là phiền não phi đạo mà thông suốt Phật đạo. Lấy không chỗ thọ mà thị hiện hạnh tham dục phi đạo lại lìa các nhiễm trước, tức là Phật đạo Vô lậu thiền định. Thị hiện hạnh sân giận phi đạo mà không có sân giận tức là tu pháp duyên Phật đạo vô duyên. Thị hiện hạnh ngu si phi đạo mà dùng trí tuệ điều phục. Tức là Phật đạo của ba trí. Nếu chưa đủ Phật pháp, thì không diệt thọ ba độc mà thủ chứng, đó là thông suốt Phật đạo. Cho nên kinh Chư Pháp Vô Hành có nói: Tham dục tức là đạo, khuể và si cũng thế. Như thế là trong ba pháp mà đầy đủ tất cả Phật pháp. Căn cứ mười tệ phi đạo thông suốt Phật đạo “Thị hành… tha giáo”. Mười thứ này phần nhiều cho là phiền não, cũng có người cho là ng- hiệp. Nghóa suy ra có thể biết. Nếu lấy không chỗ thọ mà thọ mười tệ nhập giả tu mười Ba-la-mật mà chưa đủ Phật pháp, thì trọn không diệt thọ mười tệ mà thủ chứng, tức là hay thông suốt tất cả Phật đạo. Hỏi: Tám tệ tám Độ như văn có thể hiểu, còn kiêu mạn đối với nguyện, phiền não đối với lực, nghóa ấy ra sao? Đáp: Kiêu mạn là khinh người khác, nếu không phát nguyện thì đâu có làm cầu đường cho người dẫm đạp. Nếu không chuyển phiền não sao có thể hòa quang không nhiễm mà luôn thanh tịnh ư? Năm, Nói hành Nhị thừa phi đạo mà thông suốt Phật đạo “Thị nhập… chúng sinh”. Hàng Nhị thừa bị chìm ngập bởi không nên có vô vi duyên tập mười hai nhân duyên phi đạo của ba đạo. Bồ-tát lấy không chỗ thọ mà thọ cái trầm không của Nhị thừa, mà hay từ phi đạo thông suốt Phật đạo. Thị hiện làm Thanh văn vì chúng sinh nói cho họ pháp chưa từng nghe, như các ngài Thân Tử, Thiện Cát. Nếu làm Bích-chi- Phật thì đại bi giáo hóa như ngài Đại Ca-diếp chưa đủ Phật pháp trọn không diệt thọ Nhị thừa mà thông suốt Phật đạo. Cho nên Pháp Hoa có nói: Biết chúng ham Tiểu pháp mà sợ đại trí. Thế nên các Bồ-tát làm Thanh văn, Duyên giác ít muốn chán sinh tử, thật sự tự mình tịnh cõi Phật. Nói thọ phi đạo quả báo Khổ đạo nhân gian mà thông suốt Phật đạo “Thị nhập … nhân duyên”. Đây có tám câu, bảy câu đầu là thị hiện thọ báo nhân gian, một câu sau là tổng nói hiện nhập các đạo. Bảy câu trước là thọ các thọ của bốn thiên hạ. Các quả báo này đều là phi đạo, mà từ không vào Giả tu như Huyễn… bốn thứ Tam-muội. Chưa đủ Phật pháp, trọn không diệt các thọ này mà thủ chứng. Một câu sau là hiện khắp nhập vào các đạo mà trọn nhân duyên ấy, là các đạo thế gian không ngoài sáu câu ấy. Văn này chưa nói về Tu-la và sáu tầng trời cõi Dục. Nếu thọ đạo này cũng là khổ đạo phi đạo, mà tu Hoan hỷ Tam- muội và Bất động… sáu thứ Tam-muội. Chưa đủ Phật pháp trọn không diệt thọ quả báo này mà thủ chứng. Tức là hay thông suốt Phật đạo. Nói đoạn nhân duyên ấy, là được hai mươi lăm Tam-muội luôn phá hai mươi lăm hữu, tức là đoạn dứt nhân duyên ấy. Lại nữa, biến hiện ở khắp các đạo, tức là biến nhập mười đạo pháp giới, đoạn dứt nhân duyên ấy, tức là đoạn dứt nhân duyên ba đạo của Bồ-tát bốn giáo. Nói hiện hai thứ Niết-bàn phi đạo mà thông suốt Phật đạo “Hiện ư … sinh tử”. Trên nói về công đức hữu vi của Nhị thừa. Nay nói về công đức vô vi của Nhị thừa đều là phi đạo. Lại trên chỉ nói hàng Nhị thừa, nay gồm nói ba thừa nhập vào hai Niết-bàn đều là phi Phật đạo. Trừ bậc Viên diệu giác thị hiện, ngoài ra đều là hữu vi vô vi duyên tập ba đạo phi đạo. Nếu đáng dùng ba thừa diệt độ mà độ, tức là hiện ba thừa mà không đoạn sinh tử. Bồ-tát Đại bi ở trong sinh tử thấu suốt sinh tử phi đạo tức là Phật đạo thì sao lại đoạn bỏ. Tổng kết thành nghóa Phật đạo “Văn-thù… Phật đạo”. Bồ-tát nếu hay thực hành bảy thứ trước nói, đối với lý phi đạo mà đầy đủ tất cả Phật pháp, tức là thông suốt Phật đạo. Nói về Như Lai chủng “Ư thị…”. Sở dó ngài Tịnh Danh hỏi ngài Văn-thù. Như văn trước, ngài Văn-thù hỏi ngài Tịnh Danh đáp phi đạo là Phật đạo. Nay ngài Tịnh Danh hỏi ngài Văn-thù đáp phi chủng là Như Lai chủng, hai vị Đại só này lần lượt làm chủ khách vì muốn hiển bày việc nói trên là Không phải từ không vào Giả, Lý nó rất sâu kín, những ai chưa ngộ tất rất nghi ngờ quái dị. Nay ngài Tịnh Danh hỏi Như Lai chủng, là muốn hiển bày phi đạo và Phật đạo khiến nghóa rõ ràng. Nếu biết ba đạo là Như Lai chủng, tức là hay thông suốt phi đạo là Phật đạo. Văn có năm: Ngài Tịnh Danh hỏi. Ngài Văn-thù đáp. Ngài Tịnh Danh lại hỏi. Ngài Văn-thù giải thích. Ngài Ca-diếp lãnh hội khen ngợi kết thành. Ngài Tịnh Danh hỏi: Thế nào là Như Lai chủng, chính là để thành việc phi đạo là đạo. Ngài Văn-thù đáp “Văn-thù-sư-lợi…) tức là lấy phi chủng làm chủng. Vì sao? Vì trên ngài Tịnh Danh đã lấy phi đạo làm đạo, e thời chúng chưa hiểu, nên hỏi nghóa chủng. Nay ngài Văn-thù lấy phi chủng làm chủng, lý thú đồng hiển bày cùng một ý cao siêu. Nói Như Lai chủng, thì Đại Luận có nói: Như pháp tướng mà hiểu, như pháp tướng mà nói, gọi là Như Lai chủng. Nếu như pháp tướng mười hai nhân duyên của ba đạo mà hiểu, tức là Như Lai chủng. Vì sao? Vì lìa ngoài ba đạo lại không có Như Lai chủng. Ba thứ chủng là: Chánh nhân tức khổ đạo. Liễu nhân tức phiền não đạo. Duyên nhân tức nghiệp đạo. Văn trước đã nói đủ. Nói Như Lai, là như pháp tướng nhân duyên ở ba đạo này mà hiểu mà nói nên gọi là Như Lai. Nay ngài Văn-thù đáp lại dựa vào Như Lai mà giải thích nói, nên nói ba thứ chủng phi chủng là Như Lai chủng, để thành việc ngài Tịnh Danh đáp ba thứ phi đạo là Phật đạo. Nói Như Lai chủng, thì chủng có ba thứ, Như Lai cũng có ba: Pháp Phật Như Lai. Báo Phật Như Lai. Ứng Phật Như Lai. Như Pháp Hoa nói đều là một tướng một chủng tức là chánh nhân chủng. Như Trí Luận nói: Các trí tuệ môn là chủng, tức là liễu nhân chủng. Lại Pháp Hoa nói: Khảy móng tay, tán hoa, Phật chủng từ duyên khởi lên, tức là duyên nhân chủng. Chủng lại có nghóa là hay sinh ra, là chủng loại, là chủng tánh. Về nghóa hay sinh, nếu không sinh thì không gọi là chủng “hạt giống”. Đây dùng ba chủng hay sinh ba Phật. Từ nhỏ bé đến đắm trước Đại quả tức là nghóa hay sinh. Về nghóa chủng loại, nếu ba thứ chủng này không phải loại Phật chủng thì ngoài thứ này ra không có pháp nào đồng loại. Về nghóa chủng tánh, thì tánh danh không thay đổi, ba pháp này từ đầu đến cuối vẫn không đoạn không diệt, tất rốt ráo đến ba quả Phật ba đức, nên nói là Không thay đổi. Nay ước chúng sinh nói chủng thì không ngoài ba thứ này. Do phiền não thấm đẩm nghiệp mà thọ thân có khổ. Ba thứ không trước sau cũng không phải cùng một lúc, chẳng dọc chẳng ngang. Nếu phụ vào tánh mà nói Nghóa thì lấy chân tánh làm chánh nhân chủng, trí tuệ là liễu nhân chủng, muôn thiện làm duyên nhân chủng. Đây phần nhiều đều căn cứ đoạn hoặc thì được giải thoát, lìa sinh tử thì được Niết-bàn, trừ ác thì có thiện. Đây là dựa theo tư nghị mà nói chủng, không phải là ý của kinh này. Nếu trừ hoặc mà được giải thoát, thì không có liễu nhân chủng, như lửa này từ củi khởi lên, nếu củi hết thì lửa tắt. Cho nên hàng Nhị thừa đoạn kiết hết rồi, liền không có nhân Phật tuệ, nên không thể thành tựu được Nhất thiết chủng trí, mà mất liễu nhân chủng. Nếu trừ ác có thiện, khi ác hết rồi thì không còn sinh thiện, đâu lại có duyên nhân chủng. Cho nên Nhị thừa không có ác thì mất đi duyên nhân chủng. Nếu lìa sinh tử thì nhập Vô dư diệt không còn thọ sinh, há lại có chánh nhân chủng. Nên Đại kinh nói: Hoặc có Phật tánh, người Xiển-đề thì có, người thiện căn thì không, Xiển-đề đầy đủ các ác phiền não mà thọ thân sinh tử. Tức là lấy ác làm tánh nhân duyên. Người thiện không có trong tánh ác này, nên nói là Không. Người thiện có, vì đã có thiện pháp nhân duyên. Xiển-đề không thứ này nên nói là Không. Cả hai người đều có, tức là có tánh chánh nhân, hai người đều không là Không có tánh liễu nhân. Nếu căn cứ thức làm nghóa thì thức thứ sáu là duyên nhân chủng, cả thiện ác đều do thức thứ sáu khởi lên, lìa ngoài thức thứ sáu thì không có ác, không có thiện, không có duyên nhân chủng. Thức thứ bảy là liễu nhân chủng mê hoặc cùng giải thoát đều là thức thứ bảy. Nếu lìa thức thứ bảy thì không có hoặc, không có giải thoát. Thức thứ tám là chánh chân chủng, không có thức thứ tám thì không có sinh tử Niết-bàn. Ngài Chân Đế nói có thức thứ chín là chân thức. Cả tám thức cũng còn chủng tử hư vọng sinh tử nương nhờ. Như Địa Luận Sư dùng thức thứ bảy đoạn bỏ thức thứ sáu. Trí Chướng diệt thức thứ tám, chân tu mới hiển bày. Đây cần dùng bốn Câu Trung luận mà kiểm xét đầy đủ. Nay kinh nói chủng bất tư nghị, lấy phi chủng làm chủng. Cho nên xem thân… Phiền não bất thiện đều là Như Lai chủng. Như ong làm mật tuy hái các phấn hoa nhưng không vì tiện lợi mà mật trọn không thành. Cho nên biết tiện lợi đều là hạt giống của mật. Nay bất tư nghị cũng thế. Không phải chỉ pháp tánh trí tuệ thiện pháp là Như Lai chủng của ba Phật, chỉ ba đạo này là ba thứ Như Lai mật chủng so sánh mà biết. Nếu Bồ-tát nghiên tầm tu lý của ba chủng này, được phần tương ưng gọi là tập chủng tánh, tâm này tăng trưởng thì gọi là tánh chủng tánh, thông suốt không trệ ngại thì gọi là đạo chủng tánh, thấy biết rõ ràng thì gọi là Thánh chủng tánh, ba chủng đồng tu thì gọi là Đẳng giác tánh, ba thứ cực diệu thì gọi là diệu giác tánh. Ba chủng tánh này không trước không sau, không phải cùng một lúc, chẳng dọc chẳng ngang như chữ Y ở đời, ba mắt Thủ-la. Đến Văn-thù đáp thì văn có sáu đoạn nói về Như Lai chủng: Một là, Lược căn cứ về khổ đạo. Hai là, Rộng căn cứ về phiền não đạo. Ba là, Lại rộng căn cứ. Bốn là, Lại căn cứ về phiền não đạo. Năm là, Căn cứ về nghiệp đạo. Sáu là, Nhập vào bảy thức xứ. Nay ở năm văn trước phân biệt ba nghóa: Có thân, sáu nhập, bảy thức xứ; ba thứ này là chánh nhân Như Lai chủng. Vô minh, hữu ái, ba độc, bốn đảo, năm cái, tám tà, chín não, sáu thứ này là liễu nhân Như Lai chủng. Mười bất thiện là ác nghiệp tức là duyên nhân Như Lai chủng. Một, Lược căn cứ về khổ đạo. Nếu luận chung thì mỗi mỗi đều là ba Phật Như Lai chủng. Song chúng sinh thọ thân tuy lấy nghiệp làm nhân, nếu không có phiền não thì không được sinh. Cả ba chủng cũng thế. Tuy có chánh nhân mà không có liễu nhân dẫn dắt duyên nhân gi- úp hiển bày chánh tánh, thì ba Phật không được sinh trưởng. Do tuệ mà thấu suốt phiền não để dẫn dắt duyên nhân, ba nhân thành tựu, pháp thân hiển hiện. Nên ngài Văn-thù có nói: “Chỉ trong bùn lầy phiền não mới có Phật pháp mà thôi.” Có thân là chủng, thân tức là năm ấm, năm ấm tức là pháp tánh. pháp tánh sắc, pháp tánh thọ, tưởng, hành, thức… tức là chánh nhân chủng vậy. Lại thân là chủng, vì sinh phước tuệ nên nói là chủng. Bồ-tát lấy không chỗ thọ mà thọ thân này, nếu chưa thành tựu việc tự hành hóa tha đủ tất cả Phật pháp, thì trọn không diệt thân mà thủ chứng. Tức là từ không vào Giả nói nghóa chủng bất tư nghị. Tại sao, vì mê nơi thân thì có chủng sáu đạo sinh tử, hiểu rõ thân thì có chủng bốn Thánh nhân, nên có chủng mười pháp giới. Nếu diệt thân thì không có tất cả chủng. Nếu đoạn năm ấm tức đoạn Phật chủng, đây tức là phi chủng làm chủng… Bồ-tát như thế mà quán thân thấy tất cả chủng là Như Lai chủng. Như mắt người vì mắt kéo mây nên không thấy, nếu các y sư vụng về châm cứu hoặc thoa thuốc dù hết cay xốn nhưng khiến mắt sẽ mù vónh viễn không thấy gì, là Không có chủng Như Lai. Nếu người bệnh mắt chưa hư mắt, gặp nhà huyễn thuật đọc chú cấm đau xót trị lành mắt lại được trong sáng. Đây dụ cho phàm phu tuy đầy đủ phiền não cũng còn có nghóa chủng trở đi trở lại chưa hư, thế nên nói thân là Như Lai chủng. Hai, Rộng căn cứ về phiền não đạo là Như Lai chủng “vô minh… vi Chủng thử tứ”. Phiền não ở quá khứ là vô minh, phiền não ở hiện tại là ái, quán phiền não hai đời này như hư không không thể hết, tức là liễu nhân Như Lai chủng, cũng là ba Phật Như Lai chủng. Tham khuể si là chủng, tức ba độc cũng là vô minh quá khứ là hữu ái ở hiện tại, cũng đều sinh ra ba độc. Nếu lìa chấp ngã tức đầy đủ đẳng phần sinh ra tám vạn bốn ngàn trần lao. Nếu biết như thế nên gọi là chủng. Bốn thứ điên đảo, là nói nghóa theo Biệt giáo, tức mê sắc mà khởi tịnh đảo, mê thọ mà khởi lạc đảo, mê tâm mà khởi thường đảo, mê tưởng hành mà khởi ngã đảo. Vì thường sinh niệm xứ chánh cần, như ý căn lực giác đạo nên là chủng. Năm cái là tham dục, sân khuể, thùy miên, trạo, hối, nghi hay sinh căn bản quán luyện huân tu các thiền Tam-muội, nên có nghóa chủng. Đã biết nghóa Biệt giáo thì đối Thông giáo tất không trệ ngại. Ba, Lại căn cứ khổ đạo nói rộng chánh nhân chủng “sáu nhập là chủng, bảy thức xứ là chủng”. Sáu nhập tức là ước Báo thân khổ đạo. Như kinh Ương-quật nói: Sáu căn này ở Như Lai thường đầy đủ không giảm bớt tu sáng suốt thấy rõ ràng. Cũng như Pháp Hoa nói: Cha mẹ sinh ra mắt thường trong sáng… Được sáu căn thanh tịnh tức là sáu căn giống nhau cùng hiện. Nên kinh Hoa Nghiêm nói: Mười thứ lục căn, nhân đó được nhập sáu căn của Như Lai, nên biết tịnh là nghóa Như Lai chủng. Bảy Thức xứ, ngài Cưu-ma-la-thập nói nhân Thiên dục giới là một, ba thiền ba không là sáu họp thành bảy thức trụ. Vì sao? Vì ở ba ác khổ nhiều, thức không thích trụ “ở”, đệ Tứ thiền thì thức và sắc vi tế, lại vì có trời Vô tướng nên thức không thích trụ, đệ tứ Vô sắc, vì pháp vô tưởng vi tế, nên thức không thích trụ. Tùy thức thích trụ tức là pháp tánh. Bốn, Lại căn cứ phiền não đạo làm chủng “Bát tà … vi chủng”. Về tám tà như đã nói ở chương Ca-diếp trước. Không bỏ tám tà mà vào tám chánh, tức là nghóa chủng. Chín não, tức là ước ba đời trái tình ý là duyên sinh sân giận. Nghóa là người này hiện đời làm ta bực bội, não ngã người thân thì khen mà ta thì oán. Quá khứ và vị lai cũng thế, đó là chín não. Nếu có phương tiện là duyên sinh tử, nên được là Như Lai chủng. Năm, căn cứ nghiệp đạo mà nói Như Lai chủng. Mười bất thiện đạo là chủng. Mười bất thiện thì nhiếp được ngũ nghịch. Nhân ác sinh thiện liền có mười thiện. Nếu hay sinh mười thiện, tức là sinh ba bất hộ, ba mật thị hiện, ba nghiệp tùy trí tuệ làm các công đức Như Lai, nên là chủng. Sáu, Tổng kết thành Như Lai chủng “Dó yếu… Phật chủng”. Phiền não bất thiện không ngoài kiến ái vì thứ này gồm thâu, nên tất cả bất thiện đều ở trong ấy, đều là Như Lai chủng. Ngài Tịnh Danh lại hỏi vì sao nói thế. Ngài Văn-thù đáp “Đáp viết…”. Văn có hai: Chánh đáp và Thí dụ làm rõ. Chánh đáp rằng: Nếu người thấy vô vi mà nhập chánh vị là đoạn Như Lai chủng, không thể hành trì ở phi đạo, vì đã diệt thọ mà thủ chứng, nên không thể phát tâm Bồ-đề. Câu nói nếu thấy vô vi mà nhập chánh vị, là bậc Sơ tâm khổ nhẫn tức là thấy Đế gọi đó là kiến. Khi thấy Đế thì các hoặc dứt trọn không khởi lại, tức là nhất phần số duyên, vô vi tức là chánh vị. Nếu kiến hoặc dứt, tức là phiền não Như Lai chủng bị đoạn dứt. Người ấy xa nhất là bảy đời, sẽ rốt ráo không thọ thân sau, tức chủng của phi chủng ba đạo nội giới rốt ráo dứt hẳn, nên không thể phát tâm Bồ-đề để vào Giả hành đạo, học tất cả pháp tự lợi lợi người, hành ở phi đạo mà thấu suốt Phật đạo thành chủng ba Phật. Thí dụ “thí như…”. Văn có bốn: Cũng có thể dùng thí dụ Thông giáo trên nói về nghóa chủng, cũng có thể dùng thí dụ của Biệt giáo. Biệt dụ có hai, trước là ba dụ riêng chỉ cho ba chủng, sau là một tổng dụ. Đến Biệt dụ có ba: Một, Bãi bùn mọc ra hoa sen, ví cho phiền não đạo là liễu nhân chủng. Ở đất phân hoại mục mới dễ mọc mầm, ví như bất thiện nghiệp đạo làm duyên nhân chủng. Kế đó là khởi thân kiến dụ cho khổ đạo làm chánh nhân chủng thấu suốt năm ấm tức tánh chánh nhân. Sau là dụ vào biển phiền não… Ba chủng thường sinh ba chủng pháp thân, như vào biển lớn ắt được châu báu trí tuệ. Thí như đất gò cao. Đất gò cao vốn họp với nước sẽ thành bùn, vì cách xa nước nên không có bùn và không nở hoa. Là nói hàng Nhị thừa vốn có chủng phiền não nhưng vì đã đoạn nên như đất gò cao không bùn mà hoa không sinh. Đây là căn cứ khi nhập vào chánh vị không có phiền não nên không phát tâm Bồ-đề. Hai, Dụ người nhập chánh vị được đạo cộng giới “Lại như … Phật pháp”. Là đoạn hết nghiệp bất thiện của ba ác đạo, không có ác nghiệp chủng nên không sinh Phật pháp. Hỏi: Trong đây nói đất phân hoại mục rất màu mỡ, Đại phẩm nói trồng cây trên không trung, hai ý này nói nhập giả ra sao? Đáp: Có vẻ hơi khác nhưng đại ý vẫn đồng. Đây nói Bồ-tát thấu lý bất thiện hay sinh Phật pháp. Ác pháp là hạt giống “chủng) giúp thành pháp thân, cho nên ước phân mục để nói nhập giả. Còn Đại phẩm tức là Không đoạn mà đoạn, đoạn hoặc mà nhập không, hay từ không nhập giả. Học tất cả Phật pháp hóa độ chúng sinh. Như sức huyễn thuật ở đời có thể trồng cây trên không trung, nên ước không mà nói nhập giả. Nếu theo đây mà giải thì hàng Nhị thừa đã có nghóa nhập giả. Chỉ vì họ chưa ngộ nên không thể đổi quán, đến thời Pháp Hoa mới được hội nhập. Đại phẩm chỉ hội pháp Không hội người. Ba, “Khởi… pháp hỷ” là dụ người nhập chánh vị, nếu không thân kiến thì thân nhân dứt hết, không có chủng ba ác, nên không phát tâm Bồ-đề làm đạo Bồ-tát. Từ “Thị cố đến trí bảo” là tổng dụ. Hàng Nhị thừa không có phiền não… để vào ba đạo, tức là Không có báu Phật pháp Nhất thiết trí… Từ “Nhó Thời trở xuống”. Ngài Đại Ca-diếp lãnh hội khen ngợi. Văn có ba: Một là Chánh khen ngợi vì hiểu rõ. Hai là, Dụ để làm sáng. Ba là, Tự than trách. Một, Sở dó Ca-diếp khen ngợi, vì ngài Văn-thù khéo nói phi chủng hiển sáng Như Lai chủng bất tư nghị, lý nó rất sâu kín. Hiểu rõ hai ý: Ruộng trần lao là Như Lai chủng. Hiểu thấy vô vi nhập chánh vị, nên không phát tâm Bồ-đề. Hai, Thí dụ làm sáng dụ này Từ “Thí như đến Chí nguyện”, chỉ hiển sáng việc hiểu vào chánh vị thì không phát tâm Bồ-đề. Có khai dụ và hợp dụ, Ba, Ngài Ca-diếp tự than trách “Thị cố… đạo Ý”. Văn có hai: Chánh thấy thấp hèn. Giải thích “Sở dó…”. Theo văn. Nói về pháp môn quyến thuộc Từ “Nhó thời …” cũng là thành nghóa đạo và chủng ở trước. Vì sao? Vì pháp môn có vô lượng, tùy nghóa mà có các thiện thân cận, tức là quyến thuộc. Đây đều là trong không có danh tướng mà giả gọi phân biệt, để thành giả danh Phật đạo và chủng. Lại nữa, phẩm Quán Chúng Sinh trước nói quán chúng sinh vào Không, thấu đạt nguồn cội mà có Vô duyên Từ, Bi, Hỷ, Xả. Vì hiển sáng nghóa này, nên Thiên nữ bỗng hiện đổi thân với ngài Thân Tử, để hiển bày diệu lý giải thoát Chân không bất tư nghị. Kế phẩm này nói hành ở phi đạo mà thông suốt Phật đạo, nhập giả tự hành hóa tha, tuy thọ các thọ mà không chỗ thọ, hay ở trần lao mà đạt được Như Lai chủng. Thế nên khắp hiện sắc thân. Nhân hỏi quyến thuộc để hiển thành việc thông suốt Phật đạo, các thứ pháp môn đều là quyến thuộc. Văn có hai là hỏi và đáp. Một, Hỏi: Nói khắp hiện sắc thân, có ba nghóa: Khắp hiện nội sắc. Khắp hiện ngoại sắc. Khắp hiện nội ngoại sắc. Về hiện nội sắc: Như kinh Pháp Hoa nói: Thân căn thanh tịnh, y chánh mười cõi ở thân hiện ra, cũng như gương sạch hiện các hình ảnh. Về hiện ngoại sắc: cũng như phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa thị hiện tùy cơ không đồng mà hiện thân ở mười cõi. Về hiện nội ngoại sắc: Như Đại Tập nói: Quán thân mình, thân chúng sinh, thân Phật đều hiện ở thân mình, cũng thấy thân mình thân chúng sinh hiện trong thân Phật. Và trong thân chúng sinh cũng đều ảnh hiện như thế. Tức là sắc nhập pháp giới hải. Bồ-tát trụ đây mà khắp hiện thân. Biểu thị thành nghóa nhập giả của văn trên, không đâu không hiện. Trước sau cùng thành, khiến nghóa dễ hiểu, nên khắp hiện sắc thân. Nhân đó đặt câu hỏi về quyến thuộc. Đại só nếu là sinh thân thì phải có sinh thân và quyến thuộc giúp sinh. Nếu là pháp thân, tức có các pháp để làm quyến thuộc. Vì sao lại thất, trống không thấy sinh thân quyến thuộc: Cũng chưa nghe nói pháp môn pháp thân quyến thuộc nên có câu hỏi này. Quyến thuộc giúp sinh là do đâu? Câu hỏi có hai ý: Hỏi quyến thuộc. Hỏi giúp sinh. Như văn. Hai, “Ư thị…”. Ngài Tịnh Danh đáp. Có bốn mươi hai hàng kệ, có bốn phần: Phần một: Mười hai hàng, chánh đáp pháp thân quyến thuộc giúp sinh tức tự hành. Phần hai: Từ tuy biết không khởi diệt trở xuống hai mươi bảy hàng, là nói Bồ-tát nhập giả quyền trí, có đại dụng vô cùng, thành việc đạo và chủng ở trước đều là hóa tha, nhập giả quyền dụng. Phần ba: Có hai hàng, là kết khen tự hành hóa tha. Phần bốn: Một hàng là chê phá hàng Nhị thừa. Phần một, văn có ba: Bốn hàng đầu nói về quyến thuộc. Kế bảy hàng nói đủ về giúp sinh. Một hàng kết về đức tự hành đầy đủ. Câu đáp đầu: Nếu là pháp thân thật tướng thì không phân biệt, vì sao lại có thân sơ để nhập giả, nên ước pháp môn để nói quyến thuộc, thì có liên quan gì đến lời giải cũ. Ở ngoại quốc nếu người không có quyến thuộc cha mẹ gốc gác, thì không phải là người sang quý. Nay ước vào lý lời giải cũ này mà giải thích. Nói không có quyến thuộc là người hèn hạ, tức là hàng Nhị thừa Thiên chân hôi đoạn, không có mẹ trí độ, cha thiện quyền và quyến thuộc vạn hạnh công đức. Cho nên kinh Pháp Hoa lấy người cùng tử làm dụ. Nếu là pháp thân Đại thừa thì quyến thuộc quan tâm dân chúng rất đông. Ngài Tịnh Danh tức là người quý tộc Phật pháp, nên dùng kệ để đáp là có quyến thuộc, trí độ tức là thật trí. Thật trí có năng lực hiển bày ra pháp thân, như mẹ hay sinh sản. Phương tiện là quyền trí. Quyền trí có ngoại dụng, hay giúp thành mọi việc như cha hay giúp thành. Nếu ở kinh này mà luận về cha mẹ, như phẩm Quán Chúng Sinh soi suốt ba đế, khế hợp chân như gọi là mẹ thật trí. Phẩm này nói hành ở phi đạo mà thông suốt Phật đạo, khắp nhập vào trần lao mà thành tựu Phật pháp, tức là cha quyền trí. Nên kinh Kim Cang Bát-nhã nói: Như Lai khéo hộ niệm các Bồ-tát, tức là mẹ thật trí, khéo phó chúc các Bồ-tát tức là cha quyền trí. Bồ-tát từ đầu tu hai quán này mà được vào Trung đạo, song chiếu hai đế là quyền, tự nhiên lưu nhập là thật. Đem thật quán này không chỗ thọ mà thọ đầy đủ Phật pháp, không chứng diệu giác trọn không diệt thọ dứt hết quyền thật này mà thủ chứng. Lại hành ở phi đạo là quyền, thấu suốt Phật đạo là thật. Nhân hai trí này mà khắp nhập trần lao làm Như Lai chủng. Ví như lúc mới sinh thường được mẹ bảo hộ, đến lúc trưởng thành thì cha giao phó nghiệp nhà. Bồ-tát an trụ ở thế đế, khi mới xuất thai dùng trí quyền thật mà nhập không nhập giả. Cho đến bậc Diệu giác chưa từng lìa bỏ cha mẹ quyền thật. Tất cả các Đạo sư đều do đấy sinh ra. Như hai khí trời đất ở đời giao hợp mà muôn vật được sinh ra. Lại như khi hòa hợp thì có gá thai. Giống như tình huống này, nếu hai trí quyền thật không hợp nhau thì pháp thân Bồ-tát không sinh trí tuệ, nếu quyền thật dung nạp nhau, thì pháp thân liền hiển hiện. Cho nên nói tất cả các Đạo sư đều do đấy mà sinh. Căn cứ quán tâm, nếu quán tâm tức không là thật trí, tức giả là quyền trí, không phải Không, không phải giả tức là nhập Thánh thai. Quán đạo rõ ràng. Rỗng suốt như thế mà tương ưng thấy được Trung đạo tức là xuất thai. Như thế, cho đến chưa nhập diệu giác đều gọi là Phật tử, nên nói “Phổ Hiền thật Phật tử”, nếu lên bậc Diệu giác liền mất tên tử, chỉ gọi là Phật. Đại Luận có nói: Cúi đầu trí độ không con Phật. Xem pháp hỷ là vợ, như vợ ở đời đòi hỏi yêu thương cưng chìu. Nếu Bồ-tát thấu suốt lý phi đạo cảnh trí xứng nhau, hay sinh pháp hỷ cùng yêu thương vui thích. Nên có các thứ dụng do giả sinh ra. Xem tâm từ bi là con gái là chỉ cho ba mươi hai thứ Từ ở trên là con gái. Từ và Bi giúp nhau nên cùng là con gái. Xem thiện tâm thành thật là con trai, là chỉ cho quán lý ba đế trên thuận nhập thật tướng, một tâm mà hay đủ muôn thiện. Quyền giả hóa vật như người con trai cáng đáng công việc. Rốt ráo là nhà trống vắng, nhà có công năng che chở an thân, rốt ráo lý không, ngăn cản hai thứ ái kiến, là chỗ ở tạm của pháp thân, nên gọi là nhà. Các đệ tử trần lao, tức là ba độc đẳng phần đã nói từ trước nay. Tám vạn bốn ngàn trần lao chuyển thành tám vạn bốn ngàn Tam-muội Đà-la-ni, Ba-la-mật, hoặc giống hoặc thật đều là Phật sự. Như chuyển đệ tử thành Hiền Thánh, đạo phẩm Thiện tri thức. Nếu tu Trung đạo phẩm tức là biết Trung chánh. Biết tà nhị biên được thành chánh giác. Các bạn độ pháp…, là năm độ và tám vạn bốn ngàn pháp môn đáo bỉ ngạn, là phước trí độ, hai thứ tuệ này là hai bánh xe trang nghiêm nên gọi là các bạn. Xem bốn Nhiếp pháp là các kỹ nữ “nàng hầu”. Kỷ nữ vốn để nô đùa khi buồn vui dẫn các quán, bốn nhiếp pháp hay thuận tình người để dẫn họ thọ học, nên gọi là kỹ nữ. Ca vịnh đọc tụng pháp ngôn là chân lạc để tự vui mình và làm vui người. Tụng kinh nói pháp cũng tự vui và vui người. Bảy hàng kế nói đồ đạc giúp sinh đầy đủ “Vườn tược Tổng trì… giới phẩm làm hương thoa”. Vườn tược Tổng trì. Vườn để giữ gìn hoa quả, ngăn kẻ trộm cắp khiến không mất mát. Đà-la-ni cũng thế. Giữ gìn các nhân quả thiện, ngăn các pháp ác. Cây rừng để che chắn mát mẽ. Các pháp vô lậu không khế hợp với phiền não là nghóa mát mẽ. Giác ý tức là bảy Giác chi, bảy giác điều hòa sinh ra hoa nhân chân trí. Nên Đại Luận nói: Bậc Vô học thật biết bảy thứ này thì hay đáo bỉ ngạn, nên xem là hoa. Quả giải thoát, tức là diệu giác quả mãn giải thoát bất tư nghị. Ao tắm bát giải, là bát bội xả, bát giải thoát như trước đã phân biệt. Nhập chín định, chứng chân thành bát giải thoát bát bội xả tu thành chín định. Định đầy đủ như nước đầy đủ. Bát giải thoát như ao. Hoa bảy tịnh là giới, tâm, kiến, đoạn nghi, phân biệt, hành, Niết-bàn. Giới tịnh là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Tâm tịnh là tinh tấn, niệm, định. Kiến tịnh là chánh kiến, chánh tư duy. Đoạn nghi tịnh là kiến đạo, phân biệt tịnh, hạnh tịnh là tu đạo. Niết-bàn tịnh là vô học đạo. Kiến tư của Biệt Viên lệ theo đây đều gọi là hoa bảy tịnh. Bồ-tát ở nhân đều gọi là hoa. Tắm ở đây là Không làm dơ người, đây là dựa theo Biệt Viên. Nếu Tạng Thông thì các sự hoặc cấu nội giới dứt hết, thị gọi là người vô cấu. Cũng có lý cấu hằng sa ngoại giới, nên cần phải tắm. Nội giới giải là La-hán Tuệ giải thoát đã đoạn hết cấu phần đoạn thì cũng là vô cấu. Lại tu tám giải thoát để trừ bỏ cấu vô tri, nên cần phải tắm. Voi ngựa năm Thần thông chạy nhảy, Bồ-tát các tập chưa hết không có lậu tận thông. Lại nói: Chánh sử ngoại giới chưa hết, cũng gọi là năm thông. Như ý thông gánh vác chúng sinh, sức mạnh như voi. Các thông khác như ngựa. Khắp cả mười phương một niệm liền đến, nên nói chạy nhảy nhanh. Đại thừa làm xe, thật tướng là thể của xe, hai trí là hay ngồi cưỡi đến trụ trong Bát-nhã. Đức Điều Ngự dùng một tâm pháp giới, một tướng thường tại, một hạnh Tam-muội mà dạo khắp tám chánh lộ vô tát bát trực đạo đầy đủ các vật trang sức để làm đẹp dung nhan, không giống với Tam tạng giáo nói về tướng hảo. Pháp thân tự có thật báo, tướng lớn hay nhỏ, hiển sáng pháp thân để trang sức. Phật tánh Trung đạo mặc áo đẹp tàm quý, là trời Đệ nhất nghóa. Vì Bồ-tát thấy Phật tánh chưa rõ ràng hỗ thẹn là trời Đệ nhất nghóa. Chư Phật là người hành đạo cao tột, thẹn với kẻ cao quý này nên gọi là người biết thẹn. Che tâm không biết thẹn nên gọi là áo. Lại áo đây là nhẫn ác hai biên chứ không nhẫn lý Trung đạo, là áo nhẫn nhục. Thân tâm là tràng hoa, tiến vào viên nhân muôn hạnh, tức là nhân tối thượng. Như đầu có tràng hoa báu. Thất tài gồm có: Văn, tín, giới, định, tinh tấn, xả, tàm quý. Văn là Thập địa nghe pháp như mây giữ mưa. Chư Phật mười phương nói pháp cùng một lúc có thể giữ gìn đủ nên gọi là văn. Tín, tin sâu bền chắc, cũng như Kim cang tức là viên nhân, giới, Thập địa được chân giới. Kinh nói chỉ có Phật là người duy nhất đủ tịnh giới, các người khác đều gọi là ô giới, định, tức là Thủ-lăng-nghiêm… các định. Tấn tức niệm niệm đều lưu nhập vào Tát-bà-nhã hải. Xả là luôn làm hành xả. Tàm quý như trước đã nói: Như nói về người tu hành, tức ngôn hạnh tương ưng, việc làm như lời nói hay đáo bỉ ngạn. Dạy dỗ để giúp sống, nói pháp lợi người thấm nhuần khắp tất cả, công hóa độ quy về mình tức là tư tức. Hồi hướng vì lợi lớn, hồi nhân thiện hướng về quả, được Tam bảo thường trụ nên gọi là lợi lớn, tứ thiền là giường tòa. Như giường giúp trừ ẩm thấp, tránh các côn trùng rắn rít. Tứ thiền thế gian giúp lìa bỏ ẩm thấp dục ái, giác quán độc trùng. Từ tịnh mạng mà tâm tu thờ có cây cối công đức, từ tà mạng mà tâm tu thì đọa vào quỷ đạo. Tứ thiền xuất thế, Bồ-tát đều nhiếp giữ, rừng cây công đức tất cả đều đầy đủ. Nghó ngơi các hành hay lìa độc trùng hai thứ chết và phiền não. Nếu tà mạng mà tu, thì đọa vào Nhị địa. Nếu tịnh mạng mà tu, sẽ khế hợp Trung đạo, tịch diệt an lạc. Nên nói Tứ thiền là giường tòa. Đa văn tăng thêm trí tuệ, coi là tiếng tự giác. Ở ngoại quốc “Ấn Độ) luôn dùng âm nhạc để giác ngộ vua. Nay đa văn trí tuệ giác ngộ tâm vương, tự giác giác tha vậy. Ăn pháp cam lộ, là dùng trí chân tu, khế hợp thật tướng cam lộ gọi là pháp thực. Đại kinh nói Tỳ-kheo các ông chưa được ăn pháp Đại thừa. Giải thoát là nước uống. Thoát là tên định. Định tức là nước, nước tức là tương. Tịnh tâm dùng tắm gội quán lý sám hối, tức nước tâm lắng trong thì tắm gội trừ tội cấu phiền não. Giới phẩm là hương thoa làm của thiện vô tác để xông pháp thân. Một hàng kết, gồm một hàng, là dẹp trừ giặc phiền não. Khi nhân tự hành đã thành thì dẹp trừ phiền não. Thấy chân thì giặc nội giới bị diệt, thấy trung thì giặc ngoại giới bị trừ, mạnh mẽ không ai hơn. Trụ ở kiện tướng Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, hàng phục bốn thứ ma, thì đầy đủ như khen Bồ-tát trước đã nói. Dùng tràng phan báu, kiến lập đạo tràng, nếu chúng sinh bỏ tà quy chánh, đạo cơ thuần thục, thì Bồ-tát liền ngồi đạo tràng, nhân viên quả mãn. Nếu quán tâm thì đi đứng đều là từ đạo tràng đến, đầy đủ tất cả Phật pháp. Phần hai: Hai mươi bảy hàng “Tuy biết không khởi diệt…) , là nói về thông tướng nhập giả, quyền trí vô phương, cũng là trụ ở bình đẳng pháp giới, mà phó duyên lợi vật. Văn có ba: Hai hàng đầu là nhập giả cúng dường chư Phật. Một hàng nhập giả cõi Phật thanh tịnh. Hai mươi bốn hàng, nói về nhập giả thành tựu chúng sinh. Hai hàng đầu, tuy biết không khởi diệt, nhập Đản không vô sinh và không vô sinh bất khả đắc, mà hay quyền xảo xuất giả. Khắp chỉ bày cho chúng sinh sinh tử nội ngoại giới, cúng dường chư Phật. Một hàng kế “Tuy biết nước chư Phật” một hàng, là nói thông tướng nhập giả cõi Phật thanh tịnh. Như phẩm Phật Quốc trước đã giải thích. Hai mươi bốn hàng sau, là nói về thông tướng nhập giả, quyền trí thành tựu chúng sinh. Văn có năm: . Nhập giả để giác ngộ chúng sinh. . Nhập giả dùng thế pháp dạy dỗ. . Nhập giả cứu tai nạn muôn loài. . Nhập giả cứu khổ ác đạo. . Nhập giả đồng sự lợi vật. Năm hàng đầu “Có các loại chúng sinh”, chính nói thành tựu chúng sinh. Nhập giả quyền xảo, khéo giác ngộ quần sinh, như văn có thể hiểu. Hai hàng kế “kinh sách, các loại bùa chú… ” là nói nhập giả dùng trí pháp giáo dạy dỗ chúng sinh, mà không đọa vào tà kiến. Năm hàng kế “hoặc hiện ra nhật nguyệt trời” là nói nhập giả cứu tai nạn chúng sinh. Hoặc hiện ra chư Thiên và làm đất nước, tức dùng giả quyền biến làm Chánh báo cho đến y báo cao quý, tự tại cứu nạn tam tai. Tam tai như văn nói. Hai hàng kế “Tất cả trong quốc độ…” là nói nhập giả cứu các khổ địa ngục, súc sinh, cũng cứu khổ ngạ quỷ. Văn lược mà nghóa gồm. Mười hàng cuối “Thị hiện thọ nhận năm dục…”, là nói nhập giả đồng sự lợi vật, đều vì họ dẫn nhập vào Phật đạo mà khéo léo phương tiện xứng cơ không tổn hại. Phần ba: Kết khen “Dùng đạo vô lượng như thế…” kết khen nhập giả khéo léo dùng duyên khởi mà tự hành lợi vật, không thể nói hết. Phần bốn: Kết chê hàng Nhị thừa phàm phu “Những ai nghe pháp như thế…” hơi giống, giống đều tốt. Bồ-tát là con Phật tất giống Phật, là chủng loại Phật, khéo thuận tâm Phật, nếu nghe nói những điều này thì liền phát tâm. Hàng Nhị thừa không căn tánh Đại thừa, tất không giống, không phải Phật, không phải chủng loại Phật, không thuận tâm Phật, nghe việc giải thoát bất tư nghị nhập giả quyền xảo, tất không thể phát đạo tâm vô thượng nên nói “dẹp bỏ hạng người bất tiếu ấy.” Mê mờ vô trí, tức là hạng phàm phu thấp kém nhất là người không có thiện căn Đại thừa. --------------------------------------- <詞>PHẨM: NHẬP BẤT NHỊ PHÁP MÔN Có ba phần: Nói lý do có phẩm này. Giải thích phẩm. Giải thích văn. <詞>Nói lý do có phẩm này: Để thành việc phẩm Quán Chúng Sinh nhập vào Trung đạo. Để thành việc ở phẩm Thăm Bệnh ủy dụ Bồ-tát có bệnh của Viên giáo. Để thành việc ở phẩm Thăm Bệnh, Bồ-tát có bệnh Trung đạo chánh quán mà tự điều phục. Để thành việc phẩm Bồ-tát ở ngoài thất dùng Trung đạo Viên giáo chê trách Bồ-tát. Đó là thành bốn nghóa đồng khiến họ nhập vào pháp môn Bất nhị này. Giải thích phẩm: Song môn có nhiều nghóa, nhập cũng không đồng. Nay lược nói mười thứ bốn câu “bốn trường hợp) xét chọn dị đồng. Phần bốn trường hợp thứ nhất: Thiên môn nhập Thiên lý, là ba thừa của Tam tạng giáo. Viên môn nhập Thiên lý, là ba thừa nghe Viên mà nhập thiên. Thiên môn nhập Viên lý, là Nhị thừa căn bại, cao nguyên không luận nghóa nhập, Bồ-tát của Tam tạng giáo không ngại luận nhập. Viên môn nhập Viên lý, tức là nhập Phật tuệ Bồ-tát. Hai câu sau là nhập vào pháp môn Bất nhị. Phần bốn trường hợp thứ hai: Thứ đệ môn nhập Thứ đệ lý, là Bồ-tát của Biệt giáo nhập Sơ địa. trụ. địa. Thứ đệ môn nhập Viên lý, là Bồ-tát của Biệt giáo nhập Sơ Viên môn nhập Thứ đệ lý, là Bồ-tát của Viên giáo nhập Sơ Viên môn nhập Viên lý, là Bồ-tát Viên giáo nhập Sơ trụ. Tuy lại bốn trường hợp giao nhau do căn tánh bất định mà đồng vào Trung đạo, nên đều đồng vào Bất nhị pháp môn này. Phần bốn trường hợp thứ ba: Giáo môn là lý môn, tức là nghe giáo mà ngộ lý. Lý môn là giáo môn, tức là do Lý mà biết giáo. Giáo là giáo môn, là nếu người nghe một câu mà thông suốt vô lượng nghóa. Lý là Lý môn, vì từ Lý tiến vào. Bắt đầu từ Sơ trụ cho đến diệu giác. Nên Hoa Nghiêm nói: Bao nhiêu tuệ thân không do người khác mà ngộ, đâu lại do giáo xưa. Ba trường hợp đầu phần nhiều là ba mươi mốt Bồ-tát nhập Bất nhị pháp môn, một trường hợp sau phần nhiều là Văn-thù Tịnh danh nhập Bất nhị pháp môn. Tuy đồng ứng tích, mà hóa công quy về mình để tiến nhập, nào có hại gì. Phần bốn trường hợp thứ tư: Giáo môn không phải lý môn, là giáo là năng thông, lý là sở thông, năng sở khác nhau. Lý môn không phải giáo môn, là tôi nghe trong giải thoát không có nói năng. Giáo môn tức lý môn, là văn tự tức giải thoát. Lý môn tức giáo môn, giải thoát tức văn tự. Hai câu đầu là lý giáo Tam tạng giáo, không phải nhập môn này. Hai câu sau là nhập Bất nhị pháp môn này. Phần bốn trường hợp thứ năm: Mặc môn không nhập, tức là Thân Tử yên lặng. Mặc môn nhập, tức là Tịnh Danh nín thinh. Yên lặng và nói đều không nhập, tức là lý giáo của Tam tạng giáo, người là Nhị thừa vậy. Giáo lý đều nhập, là giáo lý của Viên giáo. Người là ba mươi ba vị Bồ-tát vậy. Phần bốn trường hợp thứ sáu: Giáo môn nhập, là nay nghe nói nhập. Hạnh môn nhập, là chứa lâu tịnh nghiệp xứng vô lượng. Luận chung thì Phật tử hành Đạo đến đời sau được làm Phật. Giáo hạnh cùng là môn nhập, là như môn mà hành nhập. Không phải giáo không phải hạnh nhập, tức là Văn-thù và Tịnh Danh. Không phải nay nghe giáo hạnh mà nhập, vì từ lâu đã trở thành Phật đạo. Phần bốn trường hợp thứ bảy: Được giáo, không được môn, là Pháp sư văn tự. Được môn, không được giáo, là Thiền sư quán tuệ. Được Môn lại được giáo, là Pháp sư văn tuệ. Giáo môn đều không được, là giả danh A-luyện-nhã. Hai câu trước và sau không phải môn cũng không nhập, hai câu ở giữa là chân ngộ nhập, cũng là môn cũng là nhập. Người chưa ngộ nhập thì trong quán hạnh luận môn luận nhập, không phải thật nhập Bất nhị pháp môn. Phần bốn trường hợp thứ tám: Xuất môn mà luận nhập. Kinh Pháp Hoa nói: Dùng Phật giáo môn thoát khổ ba cõi, ngồi xe báu ấy đến thẳng đạo tràng. Tức ba thừa trải giáo năm vị mà nhập. Xuất môn không được nhập. Kinh Pháp Hoa nói: Bỏ cha mà đi hơn năm mươi năm, tức là phàm phu ở năm đường. Cũng xuất cũng nhập mà được nhập. Kinh Niết-bàn nói: Bỏ sắc vô thường mà được thường sắc. Thọ tưởng hành thức cũng thế. Tức Bồ-tát Biệt giáo nhập. Không xuất không nhập mà nhập. Kinh nói sinh tử tức là Niết- bàn, sao còn luận gì xuất nhập. Tức như văn trên, không đoạn phiền não mà nhập Niết-bàn, là chân nhập Bất nhị pháp môn, tức Bồ-tát Viên giáo nhập. Phần bốn trường hợp thứ chín: Nhập mà không nhập, tuy nhập hóa thành nhưng chưa nhập Bảo Sở. Nhập mà luận nhập. Kinh Anh Lạc nói nhân là hai không mà nhập Trung đạo. Xuất mà luận nhập, tức từ Trung đạo song chiếu hai đế. Không nhập không xuất mà nhập, tịch chiếu đều mất. Phần bốn trường hợp thứ mười: Ba môn không nhập, tức hai giáo Tạng Thông, nghóa suy ba quán môn là ba môn không nhập. Ba môn nhập, tức Viên giáo Bồ-tát, một tâm ba quán môn mà nhập. Ba môn cũng nhập cũng không nhập, tức là Biệt giáo Bồ-tát Biệt nhập không phải Viên nhập. Ba môn không phải nhập không phải Không nhập, là người tu ba quán môn, không nhất định là Biệt Viên. Đây là ba mươi hai Bồ-tát, mỗi vị đều nói nhập Bất nhị pháp môn. Đây căn cứ theo tình ngộ mà giải thích. Ngài Tịnh Danh nín thinh mà chân nhập Bất nhị pháp môn, đây là ở lý mà giải thích. Hoặc như hướng về hiểu hai mà chẳng hai, ước mê ngộ mà giải thích vậy. Nếu ở trong chiếu mà gọi chẳng hai, tức là chiếu mà song tịch cũng gọi là nhập. Song chiếu hai đế gọi là hai, tức là tịch mà song chiếu, cũng gọi là xuất. Đây là hai chẳng hai mà nhập và xuất đều ở ngộ mà luận. Pháp là pháp hai chẳng hai được chiếu. Môn lại là chiếu pháp hai chẳng hai, thấu suốt không trệ ngại, thì gọi là môn. Ấy là một pháp, nhưng căn cứ dụng xứ mà gọi khác tên, nên gọi là pháp môn bất nhị. Lại hai là tục đế và chân đế, sinh tử và Niết-bàn là hai. Nếu riêng giữ tục đế là sinh tử lưu động, hoặc chấp có Niết-bàn là vô vi hôi tịch, hay dựa vào chân tục ấy là hai, là ở ngoài cửa, ngủ nhờ trong am cỏ chớ chưa được vào cửa Bất nhị mà thấy Trung đạo. Nay nói pháp môn Bất nhị là Không trụ vào hai cửa sinh tử, Niết-bàn, cũng không lìa chẳng hai của sinh tử Niết-bàn, cùng bỏ hai biên và chẳng hai biên, suốt đến Trung đạo, gọi là nhập Bất nhị pháp môn. Lý Trung đạo này gọi là môn. Kinh Pháp Hoa nói: Chỉ có một môn “cửa) mà rất nhỏ hẹp, đó là cửa trí tuệ. Lại nói: Cửa trí tuệ ấy rất khó hiểu khó vào. Không phải hàng Tạng Thông Bồ-tát vào được. Ba mươi tâm Biệt giáo cũng không vào được. Chỉ trừ các chúng Bồ-tát tín lực bền chắc. Lại hàng Viên quán thập tín chỉ hay tin hiểu cũng chưa vào được, chỉ hàng thập trụ sơ tâm mới vào được. Hỏi: Thập tín sao chẳng tợ giải thoát mà nhập tợ? Đáp: Ý Thông giáo thì thế nhưng nghóa Biệt giáo không phải vậy. Như người biết nhà kia có vật nhưng chưa chắc đã vào được bên trong. Nay nói nhập là chứng được Sơ trụ để hiển bày pháp thân mà được gọi là nhập. Như trong khai thị ngộ nhập của sơ trụ mà luận. Ý có phẩm này do từ trước xa mà có. Các Bồ-tát bị chê trách trụ ở Thông giáo và địa ở Biệt giáo từ trước đến nay đều được vào vị Vô sinh nhẫn của môn này. Nay muốn hiển sáng thành giáo của Biệt viên đối với nhị môn không còn câu chấp, thông suốt không ủng trệ, cũng không trụ ở chẳng thông. Lại tiến lên mà luận về phần ủy dụ và điều phục trong thất trên, có nói: Nay bệnh ta không phải thật không phải có, bệnh chúng sinh cũng không phải thật, không phải có. Trên chỉ nói ý đó mà văn quá tóm tắt. Nay muốn nói song dụng của Trung đạo là pháp ấy, nên có phẩm này. Lại nữa, phẩm Quán Chúng Sinh trên thì phải ba đế cùng quán. Không có trung giả mà chẳng có không, chính là nhập không, tức là thật trí. Một phẩm Phật Đạo phải là ba đế cùng chiếu. Không có không, trung mà chẳng có giả, chính là xuất giả, tức là quyền trí. Cũng chưa dung thông khiến quyền thật không hai. Giống như trời đất, âm dương, nếu không giao hợp thì muôn vật không sinh. Nên nếu quyền thật cách biệt thì thật tuệ không sinh. Nay muốn hiểu quyền thật này hiển bày Trung đạo, nên có phẩm này. Lại nữa, môn nói là hay thông thương, thì không phải chỉ thông nhập mà cũng là thông xuất. Hai mà chẳng hai thì gọi là thông nhập, chẳng hai mà hai thì gọi là thông xuất. Bồ-tát Thông giáo từ tư nghị hữu tác hai đế mà nhập. Không thấy Trung đạo, chấp có sinh tử Niết-bàn là được. Cho nên khi đem Biệt giáo mà tiếp thông thì nói là thấy Trung đạo, gọi là nhập. Đây là hai mà chẳng hai gọi là nhập Trung đạo. Nếu từ biệt giáo mà chiếu về sum la vạn tượng, tục đế tư nghị mà phần đoạn thì tức là chẳng hai mà hai, gọi là xuất. Lại còn không phải chỉ không hai gọi là nhập, mà hai cũng gọi là nhập. Pháp môn vô lượng nhiều thứ không đồng. Như kinh Pháp Hoa nói: Trưởng giả xây cất nhà cửa, năm thứ dục để vui đùa, vàng bạc kho lẫm mọi thứ đều có đủ. Đây là chiếu tục đế bất tư nghị, không hai mà hai gọi đó là xuất. Từ đó ở Trung đạo mà chứng xuất nhập ấy, không giống với tục đế tư nghị ở ngoài cửa mà luận về xuất nhập. Như ngài Xá-lợi-phất và Thiện Cát khi được Phật gia bị nói Bát-nhã để lãnh gia nghiệp. Đây cũng từ hai mà nhập vào Không hai. Gia bị khiến như thế mà thôi, không phải là thật ngộ nhập. Nếu hiểu rõ các vật ra vào khắp cả hiểu rõ tục đế bất tư nghị mới thật là ra khỏi nhà cỏ của Nhị thừa. Lúc đó gọi là từ hai bất tư nghị mà ra khỏi “không” ai tư nghị. Nay nói vào cửa “không hai”, tức là cửa không hai bất tư nghị. Giải thích văn: có ba phần: Ngài Tịnh Danh hỏi. Các Bồ-tát đều nói. Nghe phẩm này được lợi ích. Các sư đều nói có ba mươi ba Bồ-tát. Nếu dựa theo văn này có năm ngàn người đều nói nhưng chỉ nói có ba mươi ba vị ắt là có biểu thị. Nay nêu ba nghóa để giải thích qua: Nói ba mươi ba là biểu thị cho trời Tam thập tam có niềm vui không chết. Bồ-tát tức là trời Tam thập tam cùng nói môn “không hai”, tức là cam lộ không chết, tức là dụng ba mươi ba đối với bốn mươi hai địa, dùng ba mươi đối với ba mươi tâm, dùng hai đối với Đẳng giác và Diệu giác, dùng một để đối với Thập địa. Đây là hợp địa mà khai ba mươi tâm. Nếu như kinh Nhân Vương nói mười bốn cõi là hợp ba mươi tâm làm ba. Khai mười Địa là mười, Diệu giác là một. Cũng đối với bốn mươi hai tự môn của Đại phẩm. Trước là chữ A sau là chữ Đồ. Chữ A đầu gọi là các pháp đầu tiên không sinh. Trong đó pháp đầu tiên rất tự tại, Bồ-tát nói pháp môn Bất nhị không sinh không diệt. Nếu nghe môn chữ A tức là hiểu theo nghóa. Chữ A đầy đủ bốn mươi hai công đức, chữ Đồ sau cũng đủ bốn mươi hai chữ công đức, bốn mươi chữ giữa đều đủ bốn mươi hai công đức. Cho nên Sơ địa liền đủ bốn mươi hai địa công đức. Nếu trong không phân biệt mà luận phân biệt, không hai mà hai, nói có bốn mươi hai địa. Nếu trong phân biệt mà phân biệt, mà hai không hai, thì trong một địa đều có đủ các địa. Trong một chữ đều đủ các chữ. Qua chữ Đồ không có chữ có thể nói, như ngài Duy-ma là địa Diệu giác chữ Đồ sau cùng. Thế nên yên lặng không nói. Phải biết ba mươi ba Bồ-tát tức biểu thị cho ba nghóa này. Tự hành mà nói, giống như năm trăm Tỳ-kheo mỗi người đều nói nhân của mình, Như Lai ấn định mỗi mỗi Tỳ-kheo đều là chánh thuyết. Nhưng vì ước vào một pháp mà được thấy chân đoạn kết. Nay bèn nói quán nên riêng khác không đồng, gọi là mỗi người đều nói nhân của mình, thấy lý không khác nên nói đều là chánh thuyết. Ba mươi ba vị Bồ-tát này cũng thế. Lý vô sinh không khác mà nhập môn không đồng, quán pháp đều khác nên có ba mươi ba thứ. Như nói Nê- hoàn là chân pháp bảo, chúng sinh dùng nhiều thứ môn mà vào. Về hóa tha mà nói, tức là tùy bốn Tất-đàn mà có ngộ không đồng. Ước vật có khác đến nổi có sai biệt hẳn. Người thật hành chưa nhập lạc vô sinh, lại nghe không sinh không diệt tức là tùy thế giới. Hoặc chấp sinh diệt tức dùng không sinh không diệt liền bài bác sinh diệt ấy tức là tùy đối trị. Hoặc có người nghe pháp khác không sinh thiện tâm. Nếu nghe không sinh không diệt đều mất hai biên thì thiện tâm liền tiến phát. Tức là vì người tùy được chỗ ngộ. Cũng là quán năm ngàn ngộ được Vô sinh nhẫn, tức là Đệ nhất nghóa vậy. Căn cứ vào một môn đều có đủ bốn ý: Ngã, vô ngã; thường, vô thường; cấu tịnh, khổ lạc… cũng thế. Căn cứ Biệt Viên mà phán quyết. Nếu là ba mươi mốt Bồ-tát đều dùng có nói năng, nói với không nói đó gọi là Biệt giáo. Ngài Văn-thù dùng không nói mà nói không nói. Ngài Tịnh Danh lại dùng không nói mà không nói, đó gọi là Viên giáo. Viên giáo có hai thứ: Một là Thánh nói pháp; hai là Thánh yên lặng. Về Thánh nói pháp, Thánh gọi là chánh, chánh tức Trung đạo. Bèn không phải nói cùng không nói, cũng được luận nói và không nói. Thế nên Văn-thù hiển bày Thánh nói pháp bất tư nghị, nên dùng không nói mà nói không nói. Còn ngài Duy-ma hiển bày Thánh yên lặng nên dùng không nói. Không nói đây là Thánh nói tức là yên lặng, yên lặng tức là Thánh nói. Nên Đại kinh nói: Nếu biết Như Lai thường không nói pháp, đó gọi là nghe nhiều. Hỏi: Nếu nói tức là Không nói, trước ba mươi mốt Bồ-tát dùng có nói mà nói không nói, đều là Viên giáo ư? Đáp: Làm mỗi mỗi môn mà phán quyết được nhập vào Không nói là ý của Biệt giáo. Nếu làm một môn bất sinh bất diệt mà hay nhiếp được bốn mươi hai Địa, tức là ý của Viên giáo. Trong đây tuy chỉ có ba mươi ba người, nhưng thâu tóm để nói không ngoài bốn môn. Như Thích luận nói Đệ nhất nghóa Tất-đàn, tuy nói tất cả thật không phải thật… đều là nói Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Nay bốn môn này cũng thế. Tuy bốn môn không đồng mà đều là nói Trung đạo Bất nhị môn. Pháp Tự tại là nói Bồ-tát này đối với pháp ba đế mà được tự tại. Như trên nói: Thể không bệnh nên tay chân tự tại thì thân tự tại. Nay đây cũng vậy. Ở lý Trung đạo không sinh ái kiến, thì quyền thật hai dụng được tự tại, tuệ cũng không trói buộc thể dụng tự tại. Nhưng đây vẫn là tên. Sinh diệt là hai, là sinh tử Niết-bàn đối nhau làm hai. Nếu thấy tất cả chúng sinh tức tướng Niết-bàn, không còn diệt nữa. Các pháp từ xưa nay luôn là tướng tự vắng lặng, đâu được có sinh. Đã là vô sinh thì chỗ nào mà luận diệt, không sinh không diệt, hai biên đều mất, không còn có hai. Nhân ngộ Trung đạo, khi thấy lý thì gọi là môn. Nếu không ngộ thì đều là tùy tình không phải là môn. Hỏi: Nếu nói không sinh không diệt là nhập môn Bất nhị , như Phú-lan-na cũng nói không sinh không diệt, sáu mươi hai kiến cũng chấp có không sinh không diệt là tạng bất khả thuyết cũng đáng là môn nếu không phải, thì có những khác biệt nào? Đáp: Sáu mươi hai kiến tà tâm hư vọng, đều là theo tình mà nói không sinh không diệt, không phải là môn tùy trí mà ngộ đạo, còn không được lý Tiểu thừa, huống là được đồng với môn không sinh không diệt bất tư nghị. Hỏi: Nếu thế thì trong Tam tạng giáo có môn hữu vi sinh diệt, có môn vô vi không sinh không diệt, với không sinh không diệt này có gì khác? Đáp: Tam tạng giáo đã nói môn không phải sinh không phải diệt. Đây chính là ngộ lý thiên chân của hữu tác Tứ đế, đắm nhiễm ở pháp, chấp có Niết-bàn, không phải ngộ Phật tánh Trung đạo là môn cùng mất có, không không sinh không diệt. Lại nữa, bốn môn của Thông giáo thể nhập sắc như huyễn hóa, như ảnh trong gương, bốn cú “trường hợp) không được mà nói là sinh, thì cũng như huyễn hóa giả nói là sinh, như ảnh trong gương diệt, thì giả nói là diệt. Không đồng với hình tượng ngoại đạo mà chấp tánh sinh diệt, chỉ giả nói sinh diệt mà thôi. Đó gọi là hữu môn trong Thông giáo. Không môn, tức huyễn sắc là Không, không đợi huyễn diệt mới là Không. Môn cũng có cũng không, huyễn sắc không thể thấy mà thấy, thấy mà không thể thấy, tức là môn cũng có cũng không. Môn không phải sinh không phải diệt, tức là huyễn sinh còn không thể được, huống là có huyễn diệt, vì sinh diệt không thể được, nên nói không phải sinh không phải diệt. Đây khác nhau thế nào? Đáp: Nếu Thông giáo chưa ngộ mà chấp theo đây, thì là tùy tình mà nói. Nếu được ngộ chân, thì là môn thiên chân bất sinh bất diệt, không phải là Trung đạo môn không hai. Nay trong đây nói bất sinh bất diệt đều không đồng như trên nói, tóm lại lấy phàm phu làm sinh. Nên Đại Tập nói: Ngoài pháp nhiếp tâm, phàm phu dựa vào thiền hữu lậu trở lại chịu sinh tử. Hàng Nhị thừa và Bồ-tát Thông giáo chỗ chứng Niết-bàn đều đồng là diệt, như pháp diệt nhiếp tâm ở sau. Nay nói không sinh không phải phàm phu, không diệt không phải là diệt của Niết-bàn Nhị thừa, chính là phá cái chứng Niết-bàn diệt ở hóa thành. Không đồng với Thông giáo, chứ chẳng phá chỗ được của Thánh nhân. Phàm phu thì chịu phần đoạn sinh tử, Nhị thừa thì chịu báo biến dịch. Nay nhập vào môn bất nhị thì lìa hai biên này, mà lấy Trung đạo làm môn. Nên ngài Long Thọ nói kệ rằng: “Tuy chưa được thoát tử địa, thì mình đã được thoát.” Nếu ước Thông giáo mà giải thích thì Bồ-tát đã đoạn chánh sử phải thọ sinh các hữu khác là do lòng từ bi vì vật, chứ không phải thật báo của mình, nên nói đã được thoát. Nếu dựa theo ý Biệt giáo, thì người đã đoạn phần đoạn, dẹp trừ vô minh, tức từng phần mà thoát hoặc chưa thoát, thì chưa khỏi được sinh các đời khác. Đức Thủ, tức là pháp ba đức giữ gìn không mất, lý thật tướng thích giữ bền chặt, từ đây mà đặt tên. Ngã và ngã sở là hai, đã không ngã thì không có ngã sở, hoàn toàn lời nói này giống như không môn, sao lại là Bất nhị môn. Chỉ trong Biệt giáo đủ cả bốn môn. Hoặc tùy căn tánh muốn vào đạo không đồng, hoặc vì phó cơ hóa vật có khác, cần phải tu bốn môn để tiếp dẫn, không chỉ có một môn, không phải có không phải Không. Đây tuy giống không môn, nhưng trọn là Bất nhị, tức là Không của trung. Nếu Nhị thừa đoạn ngã mà thấy Đế được nhập Niết-bàn. Thì đây chỉ là ngã không mà ngã sở chẳng không, vì được Niết-bàn. Nên nói “Đời ta đã hết, việc làm đã xong”, phải biết đây là sở vẫn chưa không. Nay nói không, là như văn trên có nói: Ngã và Niết-bàn là hai thứ đều không. Ngã không nên không sinh tử, Niết-bàn không nên là sở không, nên nói cả hai đều không, bệnh không cũng không. Cả hai biên đều trái thì ắt nhập vào pháp môn Bất nhị. Bất Thuấn, về sự mà giải thích, thuấn là mắt người chỉ nhìn lên, mắt trời thì trên dưới đều thấy. Như đảnh sinh trên Đao-lợi, cả hai vua cùng ngồi mà không thể biết khác nhau, chỉ cách nhìn có khác mà thôi. Nếu nhìn lên thì nói là đem trí đến cảnh, nếu trên dưới cùng nhìn là trí và cảnh cùng phù hợp. Bồ-tát không thế, không động không nhìn. Hoặc có thể từ đây mà được tên. Về lý mà giải thích, thì người trời động mi là thấy hai tướng, chỉ thấy sinh tử Niết-bàn. Bồ-tát không động không nháy, là thấy tướng không hai, tức thấy lý Trung đạo vậy. Từ đây mà được tên. Thọ, không thọ là hai. Không thọ có năm thứ. Như cái dụng rộng lớn của Bất thọ Tam-muội trong Đại phẩm thì không thấy thọ và không thọ, cả hai đều không đắm trước, nên thọ và không thọ đều bỏ. Nếu bỏ thọ mà chấp Không thọ tức là có lấy và bỏ. Có lấy thì có tạo tác nên có hành. Nay cả hai đều mất, không lấy không bỏ, không tạo không làm là Bất nhị pháp môn. Thọ tức là phàm phu thọ báo hai mươi lăm hữu, không thọ tức là hàng Nhị thừa khi được quả A-la-hán. Không thọ các pháp, lậu hết, ý giải. Nay nhập Bất nhị thì không đồng thọ của phàm phu, nên không lấy, cũng không đồng với không thọ của Nhị thừa, nên không bỏ. Không lấy không bỏ là tên của Bất nhị pháp môn. Đức Đảnh, trong pháp Thanh văn là đảnh thiền, là cao nhất trong các thiền. Nay nói Bồ-tát này nếu không có đức Trung đạo thì ắt có đảnh đọa. Có đức Trung đạo nên không có đảnh đọa. Không có ái thuận đạo, nên gọi là đức đảnh. Cấu tịnh là hai, như ở cõi Dục thì khổ tập là cấu, Phi tưởng định lìa hạ địa nên là tịnh. Như tam giới, kiến tư là cấu, hàng Nhị thừa đoạn cấu tam giới là tịnh. Tịnh không thể là cấu. Cấu không thể là tịnh, thế nên là hai. Nay quán thật tánh của cấu này cũng như hư không, tướng hư không thì không cấu không tịnh, tất cả pháp đều như. Tướng tịch diệt, tức là thuận tịch diệt. Đã cấu tịnh là hai, thì không thuận không diệt. Nay không thấy có cấu tịnh, cả hai đều mất hai biên mà được nhập Trung đạo. Thiện Túc, là tên của tinh tú, hai mươi tám tinh tú đều thuộc năm sao. Năm sao đã phối hợp cho đến năm ấm. Nếu ở lý mà nói, tức được Nhật tinh tú Tam-muội, do đây làm tên. Là động là niệm. Cảnh giới sinh diệt gọi là động, tâm quán cảnh thì gọi là niệm. Đó là hai biên, nên có phân biệt. Nay thấu suốt tánh cảnh không động, thấu suốt tánh tâm không niệm. Đã biết tâm không niệm, thì cảnh cũng không động. Đó là nhập Bất nhị pháp môn. Thiện Nhãn, là tên của thuận lý, vì tuệ nhãn nên thấy được một ít Phật tánh, gọi là thiện nhãn. Nhị thừa tuy có tuệ nhãn nhưng không thuận Trung đạo. Không thấy Phật tánh nên gọi là bất thiện. Bồ-tát này do thấy thiện lý mà được tên. Một tướng không tướng là hai, người khác giải thích có ba, hoặc nói một tướng hơn không tướng. Vì sao như thế, sinh tử là có tướng, Niết-bàn là Không tướng. Đối có tướng mà nói không tướng cũng thành có tướng. Trung đạo không đối có tướng, nên gọi là một tướng hoặc nói không tướng hơn một tướng. Sinh tử sinh diệt là hai tướng, Niết-bàn không sinh không diệt là một tướng. Một tướng này cũng là đối với hai mà được tên. Cũng gọi là Trung đạo hai tướng, không có hai tướng cũng không có một tướng, hoặc nói là ngang nhau. Vì sao? Vì trong chân đế tự có một tướng và không tướng, trong Trung đạo tự có một tướng và không tướng, nên nói là ngang nhau. Lại Tỳ-đàm có nói: “Một pháp hai tướng.” Một pháp là tùy dựa vào một pháp, hoặc là tâm pháp hoặc là phi tâm pháp. Chỉ đem tâm mà ước vào một pháp này, liền có hai tướng sinh diệt. Hoặc trụ hoặc khác, hoặc lớn hoặc nhỏ… Nếu ước vào bốn pháp là có tám tướng. Tám tướng đều ước vào một pháp mà khởi, nên gọi là một pháp. Vì ước vào pháp nên ắt có hai pháp cho đến tám pháp, nên gọi là hai tướng. Nếu không được một pháp này, thì cũng không được tám pháp. Tám pháp đã không tức là Không tướng. Tuy có giải thích này, nay đều không dùng. Nay lấy Thích luận mà phá trung nhất thời, tướng cùng pháp là một cũng không thể được, tướng cùng pháp là khác cũng không thể được. Trong không phải một không phải khác mà luận một và khác. Cũng như trong tất cả số chỉ có một pháp lại không có hai. Như tâm là một pháp, ước vào bình nên nói một bình. Lại thêm một gọi là hai, ba cái một gọi là ba, bốn cái một gọi là bốn. Như thế trăm ngàn vô lượng cũng không ngoài một, nên nói một tướng không tướng là hai. Nếu không được một tướng, cũng không được không tướng, mà một tướng không tướng đều không, nên gọi là Bất nhị môn. Lại A-hàm Tăng Nhất nói nghóa rằng: Tỳ-kheo chỉ có một pháp, gọi đó là tâm. Lại có hai pháp tức khai tâm làm sắc. Lại có ba pháp tức khai tâm làm bốn cho đến vô lượng, đều ước vào một tâm mà sinh ra. Nếu không được tướng một tâm thì cũng không được tất cả tướng từ tâm sinh ra. Thấu đạt hai biên này thì biết tướng của tâm không phải một, tướng từ tâm sinh ra cũng không phải nhiều tướng, mà có thể là một tướng hoặc nhiều tướng, một và nhiều này không một không nhiều, rốt ráo thanh tịnh đều mất cả một và hai, mà gọi là bình đẳng. Bình đẳng nên là nhập Bất nhị pháp môn. Lại dựa theo ba thoát môn, dùng mười tám không mà phá tất cả pháp, cũng còn có cái không, nên nói là một tướng. Kế phá bệnh không. Bệnh không cũng không, nên gọi là Không tướng. Không được không tướng cũng không có vô tướng, nên nói nhất tướng, vô tướng cũng không thể được, gọi là nhập Bất nhị pháp môn. Diệu Tí, hoặc dùng diệu trong sự nên được tên. Hoặc quyền thật hai trí là hai. Trí xảo diệu này từ đây mà được tên. Tâm Bồ-tát, tâm Thanh văn là hai, Thanh văn sợ hãi sinh tử, tự lấy giải thoát. Còn Bồ-tát không sợ ở trong sinh tử. Tâm Nhị thừa không thể là tâm Bồ-tát, tâm Bồ-tát không thể là tâm Nhị thừa. Nhị thừa trụ ở tâm điều phục, còn Bồ-tát không trụ ở điều phục, tâm điều phục và không điều phục, thế nên là hai. Nếu hay quán tâm tánh này cũng như hư không. Trong không chẳng thấy có tâm, huống lại thấy có mình khéo vì người khác, là hai thứ khác nhau. Vì tâm tánh không, nên không đắm trước hai biên, là nhập Bất nhị pháp môn. Phất-sa, là tên sao, nói là sao quỷ trong hai mươi tám sao. Bồ-tát lúc sinh ra cùng tương ưng với sao này. Thiện, bất thiện là hai, chấp mười thiện, mười ác là hai, mất thứ thiện ác này dẹp trừ nghiệp phần đoạn chỉ thành Bất nhị môn của Thông giáo. Nay chấp tâm ba cõi là bất thiện. Vì trái lý nên chấp Nhị thừa tho- át khỏi sinh tử vào chân đế là thiện, do đó mà có hai. Thấu đạt thiện và bất thiện tức là thật tế. Thật tế tức là Không. Trong không còn không thấy khởi thiện, huống là bất thiện, tánh nó vắng lặng, cả thiện và bất thiện đều mất. Đó là nhập Bất nhị pháp môn. Sư tử là tên loài thú không biết sợ. Như Niết-bàn Sư Tử Hống giải thích: Quyết định nói lý ba đế mà tâm không sợ sệt, do đây mà được tên. Tội phước là hai. Trước thiện ác từ nhân do nhân mà luận Bất nhị. Nay nói tội phước là từ quả. Gọi là tội vì tội nghiền nát thân tâm người tu. Phước là phước báo. Nếu chấp tội phước thế gian, đây chỉ thành Bất nhị môn của Thông giáo. Nay lấy quả giàu sang của tam giới mà thọ thân thì đều gọi là tội. Nhị thừa gọi là Không tội, vì tử phược đã đoạn hay ra khỏi tam giới. Đại phẩm có nói: Ma-ha Na-già gọi là Không tội, không tội tức là phước, có tội tức là sinh tử, không tội tức là Niết-bàn, lấy đây làm hai. Nay thấu đạt tánh tội phước này là Không trói cột cũng không giải thoát. Tướng ngũ nghịch tức là Bồ-đề, đâu thể lìa tội phược này mà riêng tìm giải thoát, tức là Không được tội cũng không được phước. Hễ hiểu rõ tướng này tức là nhập Bất nhị pháp môn. Sư Tử Ý, như sư tử không sợ tất cả, vì được tướng mạnh mẽ Thủ- lăng-nghiêm. Hữu lậu vô lậu là hai. Lậu là rơi rụng đọa lạc, vì khởi tội mà đọa lạc tam đồ. Lại lậu là rơi mất, tức lui sụt thiện pháp xuất thế. Hai nghóa này cũng giống nhau, chỉ do lui sụt mất pháp xuất thế nên đọa lạc ở tam đồ. Chỉ vì đọa lạc tam đồ bởi lui sụt mất pháp thiện xuất thế. Vô lậu là Không lui sụt mất mát pháp xuất thế, cầu nhập Niết-bàn ở tam giới gọi là vô lậu. Đây cũng khác nên là hai. Nếu quán tánh lậu và vô lậu này là một tánh, bình đẳng Không sai khác, không phải sinh tử lậu, cũng không phải Niết-bàn vô lậu. Vô lậu tức là Không tướng, lậu tức là có tướng. Khi thấu đạt tánh này thì không còn chấp trước vào tướng hai biên, tức là nhập Trung đạo Bất nhị pháp môn. Tịnh Danh hiểu rõ, hữu vi chưa ắt là hữu lậu, như được vô lậu cũng là hữu vi. Hữu vi là đủ cả ba tướng. Vô vi là ba thứ vô vi tức là hư không vô vi, số duyên diệt và phi số duyên duyệt vô vi. Vô vi hữu vi, số phi số pháp, thế nên gọi là khác. Nhưng ba thứ vô vi thì một là Niết- bàn, hai là Không phải Niết-bàn. Số duyên không được là hư không, hư không không được là phi số “không phải số”. Ba, là tuy mỗi thứ khác nhau nhưng lại là số pháp. Nay đem lìa tất cả số đối với số kia là hai. Thấu đạt hai thứ này thì như hư không, không thấy có số hay không phải số “phi số”, lại không có hai biên, không hề trệ ngại tức nhập Bất nhị pháp môn. Na-la-diên, là Đại lực kiện tướng Tam-muội, nên từ đây mà được tên. Phàm phu gọi là thế gian, Nhị thừa là xuất thế gian, xuất cùng không xuất là hai. Nay quán thế và xuất thế này không xuất cũng không đến. Đại phẩm nói: Là thừa này không động không đến không xuất, vì tánh nó là Không, nên không có tướng xuất hay không xuất, gọi là nhập Bất nhị pháp môn. Thiện Ý, sinh tử là trói cột, là thế, Niết-bàn là giải thoát là diệt, là hai thứ. Nay quán sinh tử xưa nay thường vắng lặng, vốn tự không trói cột sao cần luận giải thoát. Lại cũng không thế há lại là diệt. Đã thế và diệt không hai thì là nhập Bất nhị pháp môn. Hiện Kiến, là hết. Tức Nhị thừa kiến tư đã hết. Không hết là phàm phu sinh tử không bờ bến. Nay quán hết và không hết đều không, không thì chẳng thể hết, chẳng thể không hết. Nên nói si như hư không, chẳng thể hết. Lão tử như hư không chẳng thể hết. Không phải hết, chẳng không phải hết. Nếu lấy hết mà nói thì rốt ráo không, nếu lấy không hết mà nói thì diệu sắc rỗng sáng luôn an trụ, không bị sinh tử dời đổi. Đã không phải hết và không hết thì không có hai biên, được nhập Bất nhị pháp môn. Phổ Thủ, tức là khéo giữ thật tướng, khéo hộ trì Bồ-đề, không một thứ nào lậu thất từ đây mà được tên. Ngã, vô ngã là hai, ngã tức là sự chấp chặt của phàm phu; vô ngã tức không cảnh của Nhị thừa. Nay thấu suốt hai biên này tức không có hai tướng, nên đối với ngã và vô ngã mà không hai, gọi là thật tánh. Tánh của thật tánh tức là Phật tánh, vì ngã tự tại gọi là chân vô ngã. Như Đại phẩm nói. Đã không hai tức là Trung đạo. Điện Thiên, là quán Đệ nhất nghóa, trời phát điện thiên Tam- muội thấy lý làm tên. Minh và vô minh là hai. Vô minh tức là minh. Nên nói mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh. Phật tánh tức là minh, nên nói Phật tánh chúng sinh sáng như mặt trời bị phiền não che lấp nên mờ tối như sơn. Kinh Niết-bàn nói: Minh cùng vô minh, tánh nó không hai. Tánh không hai tức là thật tánh, thật tánh tức là Phật tánh. Minh có ba thứ: Bồ-tát minh tức là Niết-bàn, Phật minh tức là Phật nhãn, Vô minh minh tức là rốt ráo không. Vì không nên đâu có minh và vô minh khác nhau, khác và không khác nên không. Vì không nên nhập Bất nhị pháp môn. Hỷ Kiến, tất cả hỷ kiến của chúng sinh từ đây có tên. Sắc và sắc không là hai, đây là diệt sắc là Không. Nay tức sắc là Không, mà không được diệt sắc là Không, nên nói là Bất nhị môn. Cho đến năm ấm đều thế. Nếu ngay đây mà luận thì chỉ là Thông giáo. Nay luận sắc pháp tánh… tức là thật tánh. Thật tánh tức là Trung đạo diệu sắc. Bèn gọi là nhập Bất nhị pháp môn. Minh Tướng, là bốn thứ, bốn đại chúng cùng không chủng là hai. Bốn chủng vây quanh hư không mà trụ, nội ngoại đều không. Đều không tức là Không có bốn chủng. Bốn chủng cùng không chủng không khác, nên đều mất cái chủng không và hữu, tức nhập Bất nhị pháp môn. Diệu Ý, nhãn và nhãn sắc là hai. Vô Tận Ý bố thí hồi hướng Nhất thiết trí là hai. Nếu lấy hai pháp này là hai, bèn thành ý của Thông giáo, nhưng chưa hiển sáng môn Bất nhị. Nay lấy lục Độ dạy Bồ-tát bố thí mà không hồi hướng cầu Phật thường trụ. Thông giáo thì hay bố thí hồi hướng Nhất thiết trí làm hai. Nay nói tánh bố thí tức tánh hồi hướng. Không có riêng lục độ của Thông giáo, ấy là nhập môn Bất nhị. Lại thí… là nhân, Nhất thiết chủng trí là quả, đó là hai. Lại tự hành lục Độ là thiện thì ít, vì hồi hướng quả mà hành lục độ thì phước ắt nhiều. Nhiều ít là hai. Quán hai tánh này không khác nên gọi là Bất nhị pháp môn. Thâm Tuệ, không và vô tướng… là hai. Ba không của Thông giáo duyên với chân đế, ba không của Biệt giáo duyên với thật tướng đã nói đầy đủ ở Thích luận. Bốn hàng từ vô tướng duyên diệt trở đi tức là pháp vô vi. Mười hai hàng từ không vô tác duyên với khổ tập đạo trở đi là hữu vi. Nên ba đế nhập vào tướng hữu vi. Tướng hữu vi tức là pháp hữu vi thế gian. Vô tướng duyên với diệt là pháp vô vi, nên là hai. Nay nói không thấy tánh không, khác với vô tướng. Không thấy vô tướng khác với vô tác, tức là thật tướng. Trong thật tướng còn không thấy một, làm sao có hai. Hai thứ đã đều mất tức được nhập Bất nhị pháp môn. Tịch căn, tức ba căn vô lậu từ thật tướng tịch diệt sinh ra, cũng là quán sáu căn được thanh tịnh, tức là tịch căn, dùng đây làm tên. Phật, Pháp, chúng Tăng là Tam bảo, sao được là hai? Đã nói Tam bảo, Tam bảo riêng khác. Vì khác nên không gọi là như, không như nên là khác, là hai. Lại giải Phật cùng chúng Tăng đều là người. Nên nói chúng sinh cao tột nhất là Phật. Pháp cao tột là Niết-bàn, đó là pháp được làm, nên cùng người là hai. Đây là Tiểu thừa nói về biệt thể Tam bảo, thềm bậc khác nhau không đồng, nên gọi là khác, vì khác nên là hai. Nay quán Tam bảo là một thể, nhập vào trong một thật tướng không, không thấy có ba tướng khác nhau. Phật tức là Pháp và Tăng, Pháp tức là Phật và Tăng, Tăng tức là Phật và Pháp. Vì sao? Vì Phật có ba thứ là Pháp, báo, ứng, là một thể mà luận ba. Không phải là ba thân khác nhau mà nói có ba Phật. Ba Phật đã không khác. Pháp tức báo và ứng lại không sai khác. Nay ở ba thân mà nói về Tam bảo, thì pháp thân tức là thật tướng chư Phật không đến không đi. Tánh pháp tánh tức là pháp bảo. Báo thân là trí. Trí chiếu tròn sáng khế hợp với pháp tánh, phát sinh ra minh giác mà hiển hiện pháp thân gọi là Phật bảo. Ứng thân thì tùy duyên hóa vật, cùng vật hòa đồng nhau. Lại ứng thân này hòa đồng với pháp thân, đồng với thật tướng. Vì hai nghóa này đều là Tăng bảo. Cả ba thứ này chưa từng khác nhau, nên biết là Không hai. Lại nữa, ở pháp Phật mà nói Tam bảo thì pháp thân là pháp tánh, pháp tánh tức thật tướng, luôn luôn không biến đổi, đó là thầy của pháp Phật, pháp làm khuôn mẫu, nên gọi là Pháp bảo. Tánh của pháp tánh cũng gọi là Thường tịch quang, tịch mà thường chiếu. Văn trên có nói: “Thất ấy thường có sắc vàng chiếu sáng, ngày đêm không khác, không cần nhờ mặt trăng mặt trời soi chiếu, tức là trí tánh, gọi là giác, tức là Phật bảo. Đây nói Minh giác cùng pháp tánh hòa đồng, cảnh trí tương xứng, nên gọi là Tăng bảo. Tức ở trên pháp thân mà luận Tam bảo. Lại nữa, trí chiếu tròn sáng là nghóa của giác, gọi là Phật bảo. Pháp viên chiếu là nghóa làm khuôn phép tức là Pháp bảo. Trí báo Phật này cùng lý tương ưng thuận như, tức là Tăng bảo. Đây là ở báo Phật mà luận ba nghóa. Ở ứng thân mà nói về Tam bảo, thì ứng thân chiếu cơ được thích nghi, cũng là tự giác giác tha, gọi là Phật bảo. Ứng thân vì vật làm khuôn phép là Pháp bảo. Hòa quang độ vật, cùng vật hòa đồng nhau, gọi là Tăng bảo. Tuy trên thật tướng mà phân làm ba thân, ba thân phối hợp nhau là Tam bảo. Trong Tam bảo đều có Tam bảo. Phàm mười hai bảo chưa từng có khác. Vì không khác nên không có người và pháp khác nhau, mà nhập vào thật tướng Bất nhị môn. Nghóa của Tam bảo đã thế, thì các pháp cũng thế. Nên văn trên nói: “Tất cả chúng sinh như và Di-lặc như, không hai không khác”. Tâm vô ngại, là quán ba đế thông suốt không có trở ngại, thân và thân diệt là hai. Nếu kiểm tra phân tích thân này thì không thấy thân đâu, tức là nhân của thân diệt, nhân diệt thì quả diệt. Quả diệt tức Niết- bàn diệt. Diệt tức cùng sinh tử là hai. Nay quán thật tướng thân tức là Niết-bàn nên nói tức sắc là Không. Nói Niết-bàn tức là sắc. Ta tuy nói Niết-bàn là cũng không phải chân diệt. Trong thật tướng còn không thấy thân, thì chỗ nào lại luận diệt. Tức sinh tử là Niết-bàn, tức Niết- bàn là sinh tử. Vì sao? Vì tánh không khác nên không có nhân quả khác nhau, không thấy thân cùng diệt, nên gọi là nhập Bất nhị pháp môn. Thượng thiện, quán ba đế thuận lý thiện này là cao nhất do đây làm tên. Ba nghiệp là ba, sao được là hai. Cũng giống như giải thích trước. Vì thân không phải khẩu, khẩu không phải ý… đây khác biệt nhau nên luận là hai. Lại thân khẩu là sắc pháp, ý là tâm pháp, sắc tâm là hai. Vì là hai nên tướng ngoài hay động. Nếu nhập vào một thật lý, còn không có ba nghiệp riêng khác, sao có ba nghiệp tác tướng, tánh của tác tướng cùng tánh của ba nghiệp không hai không khác, gọi là Bất nhị pháp môn. Thượng thiện mắt sáng, một tướng và vô tướng đều nhập vào bình đẳng tướng. Đây là từ vô tướng môn mà nhập. Bốn chủng và không chủng đều tức hư không. Đây là từ không Tam-muội mà nhập. Trong đây nói ba nghiệp vô tác, tức là tất cả vô tác. Từ vô tác mà nhập ba môn liền khác. Đồng duyên Trung đạo mà nhập vào trong thật tướng của Bất nhị môn không khác. Phước Điền, là như chương Tu-bồ-đề trên đã nói. Phước hạnh là phước mười thiện. Tội hạnh là mười ác nghiệp. Không động mà giữ gìn đầy đủ cành lá công đức của bốn thiền, cũng là phước vậy. Lại nói: Trong ba thiền đều không phải Không động. Sơ thiền thì giác động, Nhị thiền thì hỷ động, tam thiền thì lạc động. Tứ thiền bốn không mới là Không động. Tội phước hai thứ đều là tác pháp. Gọi là động hạnh. Vô lậu chân đế thì vô vi không động. Không thấy hai tướng này, thì không thấy động cùng không động, thấu đạt tánh động tức tánh bất động, còn không khởi bất động hạnh huống là tội phước động hạnh ư? Đó là nhập Bất nhị pháp môn. Hoa Nghiêm, là nêu hai mươi lăm Tam-muội mà phá hai mươi lăm hữu, thấu đạt ngã tánh trong hai mươi lăm hữu. Ngã tánh tức Phật tánh. Ngã của Phật tánh tức chẳng có ngã cùng vô ngã khác nhau, là nhập Bất nhị môn. Vô thức thì ngã và vô ngã đều không hai. Đức Tạng, tức là kho tàng ba đức, chứa cất muôn hạnh, dùng đây làm tên. Có tướng sở đắc chỉ là một pháp, sao được là hai. Nay nói có sở đắc là đối không sở đắc. Nếu sinh tử là có đắc tức đối Niết-bàn là Không đắc. Nếu đối không có hữu vi lại tức là hai. Tuy nói Niết-bàn không đắc nhưng đối Niết-bàn sinh nhiễm trước thì cũng gọi là có đắc. Vì sao Thân Tử nói: Có cầu chứng đắc đều không phải là cầu pháp, cho nên biết không được sinh tử bèn được Niết-bàn. Nay cứ một mực chấp lấy Niết-bàn là Không, là Không đắc. Nếu không thấy sinh tử là có đắc, không thấy Niết-bàn là Không đắc. Không có sinh tử thì không có buông bỏ, nếu không có Niết-bàn thì cũng không có chấp lấy. Không chấp lấy cũng không buông bỏ, tức là nhập Bất nhị môn. Nguyệt Thượng, là như mặt trăng tròn đầy trên trời cao chiếu hình xuống khắp các mặt nước. Bồ-tát này trên chiếu lý viên ba đế, dưới ứng vào nước tâm của mười giới, nên gọi là Nguyệt thượng. Sáng tối là hai thứ. Trước nói minh và vô minh là hai, là luận lý để bày sự. Nay nói sáng tối là mượn sự để hiển bày lý. Cùng nêu sự lý phó cơ không đồng mà vào Bất nhị môn, vì nó là như một. Nếu nói ở lúc sáng thì không tối, lúc tối thì không sáng là khác. Nay thấu đạt tánh sáng tánh tối nào khác. Như trong hư không chẳng phải sáng chẳng phải tối. Sáng tối ước vào Không. Nếu không có hư không thì không có sáng tối. Sáng tối tuy ước vào hư không, mà hư không thật không phải sáng tối, sáng tối không được lìa hư không, hư không cũng không được khác với sáng tối. Nếu thấu đạt tánh như hư không, thì không thấy sáng cùng tối khác nhau. Không khác nên liền nhập Bất nhị môn. Bảo Ấn Thủ, là thật tướng bảo ấn, để ấn trí quyền thật nên gọi là ấn thủ. Ham thích Niết-bàn chán thế gian. Đây lại là cùng sinh tử và Niết-bàn trước nào có gì khác? Sinh tử Niết-bàn dựa theo sự mà nói. Nay luận về ham thích và nhàm chán ở tâm mà nói. Niết-bàn đáng ham tức là tâm vô vi, sinh tử đáng chán tức là tâm hữu vi. Thế gian tức tịch diệt như tướng Bồ-đề, sao có thể luận chán. Đã nói sinh tử tức Bồ-đề, sao có thể chán Bồ-đề mà lại ham thích Bồ-đề. Nếu vốn có thế gian có thể chán, và Niết-bàn có thể ham thích. Đã không có thế gian thì luận gì để chán, cũng không có Niết-bàn thì chỗ nào để ham. Cả hai thứ đã không, thì nhập vào tướng như thật. Ham chán tự dứt trói cột và giải thoát, như văn. Châu Đảnh Vương, chánh đạo tà đạo là hai. Như bỏ tám tà vào tám chánh là đoạn các kiến mà tu đạo phẩm. Nếu dùng tà tướng mà vào chánh tướng, tức là Không hai. Tám tà mà vào tám chánh ở kiến không động mà tu đạo phẩm. Chánh không tức là giải thoát, lại không phân biệt là tà là chánh, lại không hai biên, ấy là nhập môn. Nhạo Thật, là mến Trung đạo thật tướng làm tên. Thật và không thật là hai. Không thật là tục, thật là chân. Vì đây có hai nên phải có khác. Nay trong thật tướng, không được phàm phu không thật mà gọi là Không tục, không được Nhị thừa là thật mà không chân, tức nhập Bất nhị môn. Vì nhục nhãn không thấy bằng tuệ nhãn, nên kinh Niết- bàn nói: Hàng Nhị thừa tuy có tuệ nhãn gọi là nhục nhãn, người học Đại thừa tuy có nhục nhãn gọi là Phật nhãn. Hàng Nhị thừa tuy có tuệ nhãn nhưng chỉ đoạn kiến tư của tam giới, nên không thấy Phật tánh, vì không thấy nên tuy có tuệ nhãn vẫn gọi là nhục nhãn. Nếu vị Viên giáo sáu căn thanh tịnh, tuy là nhục nhãn do cha mẹ sinh ra, khi ấy đã đoạn phần đoạn kiến tư, thế nên hàng Nhị thừa tuy dùng tuệ nhãn để đoạn hoặc, nhưng chỉ ngang với lục căn của Viên giáo. Nên nói hàng Nhị thừa gọi là nhục nhãn. Sáu căn thanh tịnh này ở vị phương tiện đã quán Trung đạo, tuy là nhục nhãn vẫn gọi là Phật nhãn. Chỉ Đại thừa thấy Phật tánh không đồng. Nếu ước Biệt giáo mà nói, thì nếu chánh quán Trung đạo chưa thấy Phật tánh, là tuệ nhãn. Chiếu hai đế, là pháp nhãn ba đế đồng quán, là Phật nhãn. Đến Viên giáo mà nói, thì ở Đồng Luân vương liền được Phật nhãn, ba đế đồng quán. Nên kinh Niết-bàn nói: Người học Đại thừa tuy có nhục nhãn thì gọi là Phật nhãn. Lời nói này giống như chỉ cho nhục nhãn của lục căn thanh tịnh gọi là Phật nhãn, huống là bậc Sơ trụ ư? Được Phật nhãn này mà quán, há lại phân biệt thật hay không thật, nên gọi là nhập Bất nhị pháp môn. Trong đây nói các Bồ-tát mỗi mỗi đều nói, đầy đủ có năm ngàn, sao chỉ có ba mươi ba vị, ấy là kinh gia nói không đủ mà thôi. Hoặc bản tiếng Phạm nói không hết. Nếu dùng ba mươi ba đối bốn mươi hai Địa, thì năm ngàn người đều nói, lại đối những gì? Đáp: Trong một địa có vô lượng pháp môn, huống là nhiều đến năm ngàn thì có ngại gì. Ngài Văn-thù nói trong Bất nhị, có hai: Một là, các Bồ-tát hỏi; hai là, ngài Văn-thù nói. Nếu có bày có nói, tức là khởi sóng thì động tâm thức. Nếu không bày không nói thì tâm thức không khởi, lìa danh tự mà nhập vào đạo Vô ngôn thuyết. Vắng lặng không tiếng nói, ấy là nhập Bất nhị môn. Nên nói rằng: Tâm khởi tưởng tức là si, không tưởng tức là Nê-hoàn. Đã chọn xong Bất nhị môn của Biệt Viên như trước… Nếu làm năm môn đối cơ không đồng. Bồ-tát thấu suốt tánh tội phước không trói cột, không giải thoát. Đây nói nghóa tánh tức là pháp tánh. Pháp tánh thường trú, không có biến đổi, không do Phật hay Trời, Người, Long thần, A-tu-la… làm ra, trọn không biến đổi, tức là nhập Bất nhị pháp hữu môn. Tuy nói hữu môn, nếu chỉ nói về tánh, tức là hữu môn, nếu nói về tánh không, tức là Không môn. Tùy lời nói xét kỷ mà lấy ý. Nếu dùng thí dụ hay để nói về tâm Thanh văn, tâm Bồ-tát như hư không, như huyễn hóa, đây đều là Không môn. Như điện trời nói tánh vô minh tức là minh. Minh là sắc pháp, đâu không phải là hữu. Lại nói minh cũng không thể lấy, há lại không phải cũng vô. Lại như Niết-bàn nói vô minh và minh, thì cũng là sắc pháp tức có nghóa hữu. Lại nói tức rốt ráo không. Không tức nghóa vô. Phải biết đó là môn cũng có hữu cũng không. Pháp tự tại nói: Pháp xưa không sinh, nay thì không diệt, đó là Phi không phi hữu. Như các cặp này, phi môn thì nhiều, ba môn thì ít. Tuy ít nhưng phàm có bốn môn, thì nên tìm xét lời nói mà phán định nghóa của môn. Các Bồ-tát dùng bốn môn tùy bốn Tất-đàn đậu cơ mà nói. Kẻ đáng được ngộ đều nhập vào pháp nhẫn. Những ai chưa ngộ, thì ngài Văn-thù dùng môn Bất khả thuyết vô ngôn thuyết tạng thứ năm để đậu cơ cho. Cho nên trong đây đầy đủ nghóa cả năm môn. Hỏi: Bốn môn này mà nói khả thuyết là giáo, nhưng nó là môn bất khả thuyết, sao được là giáo? Đáp: Ngài Văn-thù nói, còn ngài Duy-ma không nói là bất khả thuyết, đâu được là Không phải giáo. Nên biết năm môn đều được là giáo. Nếu căn cứ bốn Tất-đàn, thì các Bồ-tát nói ba Tất-đàn. Ngài Văn- thù nói Đệ nhất nghóa Tất-đàn… cũng dùng ý chỉ vô ngôn mà hiển thành việc Bồ-tát nói Bất nhị đều mất. Lại nữa, Thích luận có nói: Tất cả pháp thật không thật, cũng thật cũng không thật, không phải thật không phải Không thật, chư Phật đối với các thứ đó mà nói Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Quán pháp phẩm của Trung luận cũng dùng kệ này. Cho nên biết chư Phật nói pháp đều ước vào bốn môn này. Nếu thật, tức là dùng môn hữu vi của thật lý pháp tánh. Nếu không phải thật, tức là ước rốt ráo không làm môn. Nếu cũng thật cũng không thật, tức là vô minh tức minh của văn trên đã nói. Minh tức là rốt ráo không, tức là cũng thật cũng không thật làm môn. Nếu không phải thật không phải Không thật, tức là nghóa không và có đều không phải. Như dùng Trung đạo không phải Không, không phải có làm môn. Bốn môn như thế để hướng dẫn người vào đạo, nghe nói liền ngộ, như số năm ngàn người kia được Vô sinh nhẫn, tức là thấy Đệ nhất nghóa. Nếu nghe mà không ngộ, do chấp mà khởi tranh đua, tức gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Thí như trận đại hỏa tai cả bốn bên đều không thể lấy, vì lửa tà kiến đốt cháy. Nếu do các Bồ-tát nói đắc ý liền ngộ. Cũng chấp lời nói chưa hiểu, thế nên ngài Văn-thù không dùng bốn môn, bèn dùng môn thứ năm bất khả thuyết để hướng dẫn người, nghe nói liền ngộ. Đây là Không nói năng cũng là ấn chứng Bất nhị môn, cũng là định riêng cho Viên giáo. Được ý Viên giáo, tức từ trước đến nay riêng nói không phải sinh không phải diệt… các môn, liền đủ tất cả đều nhập vào trong ấy, tức là ý Viên giáo. Nếu chỉ nói một môn ngộ nhập Bất nhị, liền thành Biệt giáo. Môn Bất khả thuyết cũng như thế. Nếu biết Bất khả thuyết nhiếp tất cả pháp, tức là Viên môn. Nếu chỉ luận Bất khả thuyết môn, thì lại nhập vào ý của biệt môn ấy. Vô ngôn bất khả thuyết tự có sáu thứ: Như ngoại đạo Trường Trảo, cũng nói tất cả pháp ắt có thể phá tất cả chấp, có thể chuyển tất cả luận, có thể phá hoại trong ấy không chỗ nào bất khả thuyết. Sa-môn lấy pháp nào để dụ dỗ vợ con ta. Dầu có thứ bất khả thuyết này bèn là vọng tình chấp chặt, đều gọi là độc khí. Bảo rằng các pháp Không thọ nhận không phải là chân bất khả thuyết. Tâm Phật không có ba độc đã nói từ lâu, tức dùng hai đế khổ tập để chỉ bày mà phá đó. Cái không thọ của ông, ông thấy là có thọ chăng? Nếu thấy là thọ, sao được nói tất cả pháp đều không thọ. Nếu không thấy là thọ, sao được thấy thọ của người khác, tức muốn phá thọ của người kia. Đã lấy thọ mà phá thọ kia, phải biết thọ của ông đối với thọ là đã có thọ. Thọ tức là khổ đế, đối với không thọ này mà khởi kiêu mạn phá hại người khác, tức là Tập đế, trôi lăn ly sinh tử thọ đủ các thọ. Sao lại nói tất cả pháp đều không thọ. Cho nên biết đây không thọ mà thọ, ở đây không lời lẽ nói năng là trong vọng tình mà nói sự thật, ngoài ra đều là vọng ngữ, là những điều phá trừ của Tu-đà-hoàn mới thấy Đế, nên không phải chân ngộ. Đệ tử đạo nhân phần bất khả thuyết thứ năm, tuy học ở Phật pháp nhưng còn một ngã đản bất khả thuyết. Trong Tam tạng giáo cũng có môn không nói năng. Như ngài Thân Tử nói: Tôi nghe trong giải thoát không có nói năng, nên không biết gọi là gì, thì cũng là bất khả thuyết. Thông giáo cũng có bất khả thuyết. Đại phẩm nói: Hàng ba thừa đồng cùng không nói năng, là Đệ nhất nghóa đạo đoạn phiền não nhập Niết-bàn. Biệt viên hai giáo dó nhiên là cùng có môn này. Làm sao biết? Tướng nó cần phải xem kinh mà tìm. Trong kinh không hoàn toàn nói rõ, tìm kỹ ắt có như trước. Nếu từ trước đến đây nói ý của Tam tạng giáo mà cũng có không nói năng thì phải biết là thuộc giáo ấy. Nếu luận về nghóa tướng Thông giáo mà được không nói năng, thì tức là thuộc giáo ấy. Nếu riêng nói các hạnh vị của Bồ-tát, kế nói không nói năng là thuộc giáo ấy. Nếu là Viên giáo nói một pháp hành nhiếp tất cả pháp hành, kế dùng không nói năng, đó là Viên giáo. Trước cần phải biết ý trong các giáo, mới có thể phán quyết được điều này. Nay có ba mươi mốt Bồ-tát nói môn Bất nhị, mỗi vị đều căn cứ vào một hạnh. Nếu gặp môn sau đây thì mỗi mỗi đều không nói năng. Đó là môn Vô ngôn của Biệt giáo. Nay khắp riêng nói xong. Ngài Văn-thù tổng ấn chứng, phải biết đó chỉ là môn Vô ngôn của Viên giáo. Từ tổng ấn chứng trên, mà nói thành nghóa Biệt giáo. Theo lời văn nói: Tất cả pháp Không thể nói, không thể bày, đâu chỉ là pháp Không phải sinh không phải diệt, không nói năng. Pháp sinh diệt cũng không nói năng. Như kinh Niết- bàn nói: Sinh sinh bất khả thuyết tức là tục đế phàm phu bất khả thuyết. Sinh bất sinh bất khả thuyết tức là lúc chết của thế đế là chân đế bất khả thuyết. Bất sinh sinh bất khả thuyết an trụ thế đế, lúc mới xuất thai liền là Bồ-tát giả bất khả thuyết. Bất sinh bất sinh bất khả thuyết, tức là trung đạo Viên thường bất khả thuyết. Cho nên biết chữ “Tất cả” là bao hàm cả thế gian và xuất thế gian đều bất khả thuyết. Kinh Pháp Hoa nói: Phật và các pháp khác thật không lường biết được, yên lặng không cần nói, ngôn từ đều vắng lặng. Phải biết tất cả pháp đều bất khả thuyết. Cho nên biết là môn Bất khả thuyết của Viên giáo. Đã tách biệt hai thứê1iên và Biệt giáo mà nói. Lại nữa, ngài Văn-thù đã nói tất cả pháp là Không nói năng, không chỉ bày, không tìm biết, nên được hiểu sâu Viên lý. Ngài Duy-ma yên lặng không nói. Do đây mà luận qua tất biết. Ngài Duy-ma từ trong Viên giáo mà không nói năng, tức là nhập Bất nhị, dùng lời thì sóng gió động loạn nổi lên, yên lặng thì tâm tịnh, nước lắng trong thì châu hiện ra. “Nói là…” là phần cuối, nói năm ngàn người nghe môn Bất nhị được ngay lợi ích, nhập Vô sinh nhẫn. Do đây mà được ngộ những gì Bồ-tát nói…  <卷>QUYỂN 10 GIẢI THÍCH PHẨM: HƯƠNG TÍCH Hương là lìa uế trược mà nói, nhưng lại có cái dụng tỏa hương thơm ngào ngạt, cho nên có vô lượng kinh nghóa do gió đạo hương đức thổi xông khắp tất cả, các hương giới, định, tuệ vô thượng theo lý trung sực nức mãi không dứt, nên gọi là hương. Tích là nhóm họp. Chứa nhóm các công đức hợp thành pháp thân không chứa nhóm, bèn gọi là tạng. Nếu từ Phật thì tên phẩm gọi là Hương Tích, nếu từ nước làm tên thì gọi là Chúng Hương. Nay y chánh báo đều hơn người, nên lấy đó đặt tên là phẩm Hương Tích. Lý do có phẩm này là ở trong thất mà nói cái Trung phi chân phi hữu mà hay đạo quán song lưu, tịnh uế đều viên thông không trệ ngại, dung hội vô cùng. Nhập Bất nhị pháp môn cùng mất hai biên, chánh nhập vào Trung đạo. Phẩm này song chiếu hai đế, tịnh uế đều dung hợp. Trên văn phi chân phi giả mà rộng thành nghóa đạo quán song lưu, hiển bày cái dụng tự tại viên thông. Nay văn khác trên về cái dụng song chiếu cả hai đế. Phẩm Thăm Bệnh trên chưa nói rõ về song dụng kết thành hạnh Bồ-tát, nêu đủ các hạnh. Tuy biết quốc độ của chư Phật luôn vắng lặng như hư không, mà hiện ra các thứ cõi Phật thanh tịnh, là hạnh Bồ-tát. Nay văn lại giải thích hai dụng trên, mà nói hai cõi Tịnh uế giao nhau. Trong văn mọi nơi đều giải thích nêu ý Tịnh độ. Cho nên biết kinh này trước sau đều giải thích thành nhân quả Phật quốc, nghóa nó rất rõ ràng. Văn này nói hai hạnh uế tịnh của hai cõi đã thế, thì các hạnh cũng thế. Nêu đây để làm lệ chung cho các thứ khác, nên có phẩm này. Đại ý phẩm này có hai: Một là nói ngài Thân Tử nghó đến bữa ăn. Hai là nói Đại só chê trách. Ngài Thân Tử là người khởi giáo làm hai việc nên nghó đến bữa ăn. Thân Tử nghó đến bữa ăn là theo đạo pháp chư Phật không ăn quá ngọ mà giờ ăn của các Đại nhân sắp đến nên ngài Thân Tử khởi niệm, hai là văn trên nói nên dùng pháp gì để khởi căn Bồ-tát. Từ trước đến đây là trong thất tuyên bày thắng pháp âm thanh làm Phật sự là đây, dùng âm thinh khởi căn Bồ-tát. Kế đó phải dùng hai pháp Hương vị mà khởi căn Bồ-tát. Thời chúng bèn đem hai căn mũi lưỡi để nghe thiền duyệt pháp hỷ Đại thừa. Ở cơ không nêu lên nên Thân Tử mượn cơ này mà khởi niệm. Đại só chê trách, là nói hàng Nhị thừa được tám giải thoát có thuyền duyệt đã lâu sao không tự dùng nuôi mình mà lại nghó tìm thức ăn ngoại đạo nên chê trách. Chê trách có năm đoạn Chê trách. Cho ăn. Sai hóa nhân đi xin cơm. Hai cõi Phật hành hóa không đồng. Thời chúng được lợi ích. Đoạn một: Chê trách, như văn. Đoạn hai: Cho ăn. Trong văn nói hãy đợi chút, tức là cơ chưa đến. Việc chưa từng có, là nói ngài Thân Tử ở trong tám giải thoát không có pháp hỷ thiền duyệt này. Đoạn ba: Xin cơm có bốn phần nhỏ: Một là Nhập Tam-muội. Hai là, Sai xin cơm. Ba là, đến cõi nước ấy thăm hỏi. Bốn là, Nhận cơm đem về. Phần nhập Tam-muội có ba: 1- Nhập Tam-muội. 2- Hiện đến nước xin cơm. 3- Đại chúng đều thấy. Nay nói nước ấy dùng hương để làm Phật sự, dùng hương để nói lý là tỷ căn thọ đạo. Cõi ấy không có Thanh văn, chỉ thuần là Bồ-tát. Lời nói này giống như Liên hoa tạng cõi Thật báo. Song cõi Đồng cư cũng có uế tịnh. Cũng có giáo hóa nhất thừa mà không có ba thừa khác nhau; là chưa biết cõi nước ấy thuộc cõi nào. Văn nói: Thiên tử đều gọi là Hương Nghiêm. Đã có Thiên tử để gọi người cao quý, lại giống như tùy duyên Tịnh độ. Nhưng tiếng Thiên là chung, hà tất là hàng trời, người ở cõi này. Hoặc có thể dùng Bồ-tát làm Thiên nhân Đệ nhất ng- hóa. Dùng quyền gọi là Bồ-tát, còn thật là Thiên nhân. Hoặc đúng như đây nhưng chưa dám quyết chắc. Sai xin cơm, có năm: 1- Tìm người xin cơm. 2- Văn-thù dùng thần lực, chúng không lên tiếng. 3- Ngài Tịnh Danh chê trách. Ngài Văn-thù dẫn chứng mà đáp. Hóa làm Bồ-tát lập môn giải thích việc xin cơm. Ngài Văn-thù dùng thần lực tất cả đều im lặng. Có hai ý: Một là nói phép chủ khách mời ăn. Vốn là chủ nhân sao để khách phải xin ăn; Hai là muốn hiển bày thắng đức của ngài Tịnh Danh nên im lặng. Ngài Tịnh Danh chê trách, như văn. Ngài Văn-thù dẫn lời Phật đáp lời: Chớ khinh kẻ chưa học, nếu có người được giải thoát bất tư nghị thì đến xin cơm không khó. Người chưa được cũng có nghóa được, nên chớ khinh, ngoài ra thì như văn. Đến cõi nước ấy thăm hỏi nói ý. Có hai: Một là chính nói thăm hỏi xin cơm. Hai là, các Bồ-tát nước ấy khen ngợi. Nói ý gồm có hai: Kính lễ và nói ý. Các Bồ-tát nước ấy khen ngợi có bốn: 1- Khen chưa từng có. Sinh nghi. Hỏi Phật. Phật đáp. Trong phần Phật đáp có ba: 1- Chánh đáp cõi nước xa gần và công đức hóa chủ. 2- Lại hỏi đức của Đại só. 3- Phật đáp rất lớn. Xin cơm trở về. Phần này lại có bốn: 1- Phật khiến cho cơm. 2- Chín trăm vạn Bồ-tát đều phát tâm muốn đến. 3- Dâng cơm cho Đại só. 4- Khiến các Đại Đệ tử cùng dùng cơm. Chín trăm vạn Bồ-tát đến có ba: 1- Trình bày việc muốn đến. Phật khuyên răn. Cùng hóa Bồ-tát đều đến. Phật khuyên răn có ba: 1- Khuyên nhiếp hương. 2- Khuyên nhiếp hình. 3- Khuyên tâm chớ khinh. Trong phần khuyên tâm chớ khinh lại giải thích ý ra vào ở cõi uế, nói các quốc độ Phật đều như hư không, đâu có nhất định là tịnh uế mà chấp lấy, nên đừng sinh tâm khinh. Như văn. Phần cùng đến lại có ba: 1- Cùng nhờ Phật lực mà đến. 2- Tịnh Danh hóa tòa ngồi. 3- Bồ-tát đều ngồi. Ở phần dâng cơm có hai: Nói mùi cơm thơm xông khắp đại thiên này. Nói kẻ có duyên đáng được cơm này, tức là duyên mời đến. Về duyên tự đến có ba: 1- Các người ở cõi nước ấy đều đến. 2- Nguyệt Cái đến. 3- Các Thần cùng đến. Khiến ăn cơm, có bốn: 1- Khiến ăn. Khuyên bỏ tâm nhỏ. Các Thanh văn khác trộm nghó. 4- Hóa Bồ-tát chê trách. Kế khuyên chớ dùng tiểu ý mà ăn, sẽ không tiêu thức ăn này. Nếu không phát tâm mến mộ Đại thừa, thì thức ăn này không tự tiêu. Như trống độc Niết-bàn, dầu không tâm muốn nghe, gần xa đều chết. Các Bồ-tát ăn, tức là ngộ vô sinh. Đây là gần mà chết. Hàng Nhị thừa tuy trước chưa chết, đến thời Pháp Hoa đều bỏ tiểu phát đại nên gọi là chết. Phần hóa Bồ-tát trách có hai: 1- Khen công đức cơm. 2- Kể công đức cơm. Đoạn bốn: Bồ-tát hai cõi cùng hỏi đáp việc hành hóa của Phật hai cõi không đồng. Đây là ý có phẩm này, vì đem điều này làm chứng để thành việc đạo quán song lưu. Bồ-tát Trung đạo đều hay giao du cả tịnh uế, thông suốt vô ngại. Song cơ ngộ không đồng. Do đó chư Phật phải phương tiện tùy căn duyên mà khởi giáo “giáo hóa”. Nếu ở cõi này nhó căn lanh lợi thì tất dùng tiếng để thuyết lý, mà giáo hóa hàng cang cường, gọi là cõi uế. Còn cõi kia thì dùng mũi lưỡi hai căn linh lợi nên dùng hương vị để giáo hóa, chỉ thuần một Đại thừa không có ba thừa sai khác, gọi là Tịnh độ. Nay chỉ muốn nói tịnh uế đều có, nên cõi này thuộc uế, cõi kia thuộc tịnh. Nếu xét tìm nghóa ấy thì chưa hoàn toàn như thế. Vì sao? Vì đến như Tây phương là Tịnh độ, cả cây báu, ao, sông đều nói tiếng Vô sinh nhẫn. Lại như Liên hoa tạng là cõi nước Biệt giáo, thuần các Bồ-tát hình sắc biên không, âm thanh biên không. Trong đó cũng có âm thinh làm Phật sự, vậy sao được phán quyết tiếng nhất định là thuộc cõi uế. Nếu từ nhó căn khởi đạo, thông cả hai cõi uế tịnh, thì tỷ căn khởi đạo cũng thế. Sao biết, nếu mùi hương ở cõi nước ấy thường là hóa độ Đại thừa. Nay chợt vào cõi Ta-bà khiến cả ba thừa cùng nhận hương vị. Cả ba thừa đồng nhờ hương vị mà nhập đạo, đâu không phải là hương vị chung cả ở uế quốc ư? Như Đức Thích-ca ở đạo tràng tịch diệt thinh sắc biên không, là Phật cao quý, nên gọi Tịnh độ. Vì chúng sinh tội, nên phân ra ba thừa để giáo hóa, nên gọi là cõi uế. Nếu hương ở tịnh quốc kia đến giáo hóa cõi Ta-bà thì cũng như thế. Phàm phu mà ăn chánh vị thì mới tiêu, phát tâm mà uống chánh vị mới tiêu, phát tâm mà ăn Vô sinh nhẫn thì mới tiêu, tức là một mùi hương thuần nhất đậu ở ba cơ, đâu chẳng phải là hương chung cho cả cấu tịnh. Nay chính luận về tịnh uế đều có. Căn cứ vào lời của Biệt giáo mà định có tịnh uế. Hỏi: Phật sai Bồ-tát khiến nhiếp thân hương, sao không nhiếp phạn hương? Đáp: Phạn hương cũng gồm nhiếp. Vì sao? Vì cơm ở nước ấy đi khắp mười phương, được đến Ta-bà chỉ xông hương ở tam thiên giới. Giảm bỏ cơm đệ Nhất thừa hợp với ba thừa cũng là nghóa nhiếp. Nhưng Bồ-tát từ chối dạo đến độ khác nên Phật phải khuyên răn. Cơm là Phật sai cắt bớt phần mình, không lẽ Phật sai Phật giảm bớt cơm hương. Nay theo nghóa đó mà suy, hàng tam thừa đồng ăn chỉ thơm ở đại thiên, thì biết đã nhiếp rồi. Nay nói khiến Bồ-tát nhiếp hương, không phải là nhiếp trừ dứt hẳn mà nhiếp là ngăn bớt có chừng mực, là nghóa trù liệu, khế hợp với đương cơ mà không khiến quá mức, nên gọi đây là nhiếp. Sau đó phân biệt chánh phụ, nhưng ở cõi Hương tích thì hương là chánh giáo. Như Bồ-tát ở dưới cây thơm tức nhập Đức tạng Tam-muội liền được ngộ đạo, gọi là lợi căn. Có kẻ chưa ngộ, tức cùng đại chúng mới cùng ngồi ăn, nên biết vị là phụ. Chánh và phụ hai đạo này, đậu ở hai căn lợi độn. Nay người ở cõi Ta-bà này là độn căn, thế nên hương và vị cùng đưa nhau đến, chính phụ hai môn, hóa độ người độn căn. Ví như cõi này bệnh có nặng nhẹ mà thuốc có chung riêng. Nếu mắc bệnh tầm thường thì nói là nhẹ, còn bốn đại tăng động, ngoài đến trong phát, thì gọi là nặng. Vì thân thường đói khổ, liền dùng thuốc chung đến trị cho ăn uống bổ dưỡng, ăn được thì bệnh lành, ăn không được tất chết. Đây là thuốc chung để trị bệnh nhẹ. Nếu bệnh tăng mạnh gồm cả các bệnh khác, thì nay thức ăn này không thể trị cho lành bệnh được, nên cần phải thêm các vị khác, đắng ít cay chua. Đại hoàng, bã đậu, trợ vị cho thức ăn này, để trị bệnh nặng, thì bệnh mới lành. Nên nói là thuốc riêng để trị bệnh nặng. Nay hai đạo chính phụ cũng như thế. Nếu người lợi căn, như con ngựa lanh vừa thấy bóng roi liền chạy nhanh. Đây là chỉ dùng chánh mà không cần phụ. Ngựa ngu cần phải dùng gậy đánh đập khổ sở mới đi, thế nên cần có chánh phụ giúp nhau mà thành. Đồng là một gậy nhưng ngựa có lợi độn. Đồng là một hương, nhưng dụng có chánh phụ. Nghóa tiếng ở cõi này cũng thế. Lợi thì một lần nghe liền ngộ. Độn thì phải nhờ các phương tiện. Hoặc mắt thấy thần thông, tâm nghó đến các cảnh, nhờ phương tiện mới ngộ. Trong đây Bồ-tát ở hai cõi cùng hỏi đáp nhau. Ngài Tịnh Danh hỏi, là ý muốn hiển bày ở phương khác khởi căn không đồng, tịnh uế có khác, nên cần hỏi. Đáp về Luật hạnh, tức Ba-la-đề-mộc-xoa Đại thừa. Như ngài Tịnh Danh vì Ưu-ba-ly dạy hai Tỳ-kheo. Phải như thế, là chân trì luật, không có lỗi hai biên, được hạnh Trung đạo gọi là luật; Các Bồ-tát hỏi ngài Tịnh Danh, có sáu: Hỏi. Đáp. Các Bồ-tát ấy khen ngợi. Ngài Tịnh Danh kể thành. Lại hỏi hạnh các Bồ-tát ở cõi này. Ngài Tịnh Danh đáp. Phần (b) có hai: Mở giáo hóa chúng sinh cang cường của năm chúng. Thí dụ làm sáng tỏ. Nay nói thừa lục Độ chỉ ở trung, là nói khi xưa lúc mới khai Tam tạng giáo thì Bồ-tát chưa đoạn kiết, chỉ có đại tâm hóa độ vật, các hạnh không hạn định ở ba ứng cúng, không phải là năm thứ Phật tử. Cho nên kế đó nhân Thiên thừa thuộc phàm phu số. Ở nhân thừa thì trước nói về quả khổ, tức là nói ba ác đạo mà không luận nhân, khiến biết tội lỗi ác nghiệp, chỉ là ở nhân. Nhân tức là ba nghiệp, mở làm năm giới. Nghóa mở thân nghiệp làm tam giới, khẩu bốn giới là một việc nói dối, tức giữ được ba lỗi của miệng. Ý là một giới uống rượu. Nên tà mạng nhiếp được ác của ý. Thế nên ý và khẩu hai nghiệp không mở, chỉ mở thân nghiệp làm ba, hợp với năm giới chế ra nhân thừa. Hành tà, là pháp tà quái, chiêu mời được quả báo ác của ba đường tà. Người ngu, là làm ba nghiệp ác. Người trí, là làm ba nghiệp thiện, học năm giới nhân thừa. Kế là mở năm giới thành thập thiện, nói đủ nhân quả, tức là thiên thừa. Từ xan tham trở đi là sáu tế nói về sáu Độ, tức là Bồ-tát thừa. Kế từ kết giới trở đi là Thanh văn thừa. Kết giới của Tam tạng giáo, là nói lúc đầu Như Lai chế ra giới này, nên nói là kết giới. Nếu thuận thì gọi là trì, trái thì gọi là phạm. Bất động là Tỳ-ni, nên gọi là ưng tác “nên làm”. Động không phải là Tỳ-ni, nên gọi không ưng tác “không nên làm”. Ba-dật-đề, gọi là che chướng chưng nấu, nên là chướng ngại. Sám pháp để diệt trừ, nên không phải chướng ngại hoặc nói sự ngăn cấm ấy là chướng ngại, không ngăn cấm là Không chướng ngại. Phạm bảy tụ nên là bị tội. Ba thứ Yết-ma sám nên là lìa tội. Lại tác pháp, thủ tướng, vô sinh ba thứ sám pháp nên là lìa tội. Kết giới tạng là tịnh, là cấu, bỏ các thứ ấy là định tạng. Nói giới là loạn tâm, tạp pháp, cấu pháp. Định là vắng lặng gọi là tịnh pháp. Trong cõi Dục có nhiều ác trược gọi là cấu. Trong Tứ thiền lìa năm cái… gọi là tịnh. Lại đắm trước vị các thiền, gọi là cấu, không tham không vị gọi là tịnh. Từ hữu lậu vô lậu ấy, tức là tuệ tạng. Hữu lậu là như từ phàm phu đến noãn… vô lậu, tức khổ nhẫn chân minh phát, tức là vô lậu. Từ đây pháp vô lậu liền phân làm ba thừa, tu vô lậu này, hành sáu Ba-la-mật để phá trừ sáu tế. Khi tu hành dù chưa đoạn kiết phát vô lậu, mà trông vào vô lậu tu hành, đến dưới gốc thọ vương mà phát chân, nhập đạo vô lậu, cùng hàng Nhị thừa không khác. Cho nên biết đồng ước vô lậu mà mở thừa Bồ-tát. Phá báo sáu tế, như trong giới Bồ-tát nói: Phá tế xan tham trừ nghiệp ngạ quỷ, phá tế phạm giới trừ nghiệp địa ngục, phá tế sân giận trừ nghiệp súc sinh, phá tế giải đãi trừ nghiệp tu-la, phá tế loạn tâm trừ nghiệp nhân “người”, phá tế ngu si trừ nghiệp Thiên. Dứt nhân sáu đạo, trừ khổ sáu xứ gọi là đạo. Sáu tế đoạn trừ gọi là diệt. Khi chứng hữu dư thì rốt ráo vắng lặng. Căn cứ vô lậu mà mở thừa Thanh văn, dùng tâm vô lậu, tu Tứ đế quán biết Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo. Ước vô lậu này mà mở thừa Bích-chi, dùng pháp vô lậu tu quán mười hai nhân duyên. Vô minh diệt thì lão tử diệt là thừa Bích-chi. Tuy ước vào vô lậu này mà mở ba thừa vô lậu không khác nhau, nhưng quán pháp có khác, nên thành ba thừa. Đó là chánh đạo, là Bát chánh. Về hữu vi, là trong đạo phương tiện. Vô vi là phát chân thấy Đế mà được đoạn gọi là vô vi. Lại từ Tu-đà-hoàn đến A-la-hán có được trí tuệ, gọi là hữu vi, có được đoạn, gọi là vô vi. Vô vi tức Hữu dư Niết-bàn. Niết-bàn ấy tức là Vô dư Niết-bàn. Hỏi: Ba thừa mỗi thứ đều có quán pháp, vậy mỗi thứ cũng có giới chăng? Đáp: Giới là để hòa hợp chúng. Nếu lại riêng lập ra giới Bích- chi-Phật tức là có hai giới, hai chúng không gọi là hòa được. Nên giới không riêng lập. Ba thừa có quán pháp rèn tập riêng không đồng, nên phải phân biệt. Bồ-tát ở tục, không thuộc Tăng số cho nên phải riêng khai giới. Hàng Nhị thừa nếu là bạch y không nhập vào tăng số, thì gọi là Chi-Phật, một đời không hai, Phật không cho biệt chúng, đồng với chúng Thanh văn. Nếu chúng đã hòa hợp thì không mở giới… Phần (c), Bồ-tát khen ngợi, có hai: Khen Phật và khen Bồ-tát. Phần (d), ngài Tịnh Danh kể thành việc khen ngợi, có hai: Là khen chung và khen riêng, kể mười việc. Trong đây không nói khen Phật, là nói Như Lai mặc tình tự tại nên bất khả tư nghị. Chỉ các Bồ- tát chưa đồng với Như Lai, vì còn duyên lụy, nhưng hay được công lao như thế, nên kể ra đây. Nói một đời ở cõi nước này đã trăm ngàn kiếp số làm nhiều tịnh quốc, là chỉ có chúng sinh thiện căn thuần thục ở tịnh quốc thì mới dễ khai hiểu, dụng công cũng dễ. Vì phiền não ở cõi này rất nhiều, việc độ thoát rất khó. Như trong Thích luận có nói: Khi Bồ-tát thành Phật muốn khiến quốc độ mình không có tên ba độc thì phải học Bát-nhã. Liền hỏi gặn: Phật là Y vương ra đời để trị bệnh cho người, nếu cõi nước không có ba độc thì ra đời hóa độ ai? Đáp: Không có tà ba độc nhưng có chánh ba độc. Tuy có chánh ba độc cũng dễ dạy răn. Trong cõi Ta-bà này có tà ba độc trần lao nặng nề, tuy nghe tướng “Không”nhưng chẳng liền ngộ được. Ở đây nêu hai thí dụ để giải thích. Như vị Đại mãnh tướng dẹp an bọn cường địch thì công trạng to lớn, nếu trấn áp đám giặc nhỏ tất công trạng không nhiều. Nếu trị bệnh khó lành, thì là thầy thuốc nổi tiếng, trị bệnh dễ lành là việc tầm thường. Nay chúng sinh ở cõi Ta-bà, phiền não oán tặc rất ương ngạnh bướng bỉnh, mà hay phương tiện khiến cho được giải thoát. So sánh với Tịnh độ, thì xét thấy cõi này là hơn, vì ở cõi này kiến tư rất dày nặng, mà luôn dùng thuốc lập phương tiện, khiến pháp thân tuệ mạng không đoạn dứt, nên có sức nhiều ít rất nhiều. Lại nữa, như người lúc hàn vi hay khép mình cởi áo đổi miếng ăn, việc quyên góp bố thí không thấm tháp chi với sự đói nghèo quá mức, nhưng vẫn cảm nhận ân sâu luôn mong đền đáp. Một ngày nào đó may mắn ở ngôi vị cao hoặc lên ngôi cửu ngũ tất nhớ ân xưa mà đáp đền trọng hậu. Nếu thí cho kẻ giàu sang tất việc trả ân sẽ kém. Cõi Ta-bà là nơi rất nghèo thiếu thiện pháp mà hay bố thí pháp tài khiến cho thoát khốn khổ, được phát chân đoạn kiết, giàu có bảy pháp tài, thì việc nghó nhớ ân xưa tất trọng đại. Nếu vì kẻ giàu có bảy tài phát chân mà nói pháp, thì lực dụng tất yếu kém. Dùng hai nghóa thí dụ đó đối với việc các Bồ-tát ở cõi này hay giáo hóa là hơn, ở Tịnh độ là kém. Nếu làm truyện để so về cạn sâu từ phàm đến Thánh, thì mọi nơi đều có nghóa oán tặc, mọi chốn đều có nghóa thiếu pháp. Đến như ở cõi Đồng cư tự có uế tịnh. Tịnh là ít bệnh là nhẹ hơn ở cõi uế. Đây so ra phương tiện Hữu dư còn là bệnh nghèo nặng phương tiện Hữu dư đem so với cõi Thật báo Biệt giáo thì lại là nặng, vì cõi Thật báo của Viên giáo thì thập tín và sơ trụ đến thập trụ thì chưa bằng thập hạnh, thập hạnh chưa bằng thập hồi hướng, thập hồi hướng chưa bằng Thập địa. Như thế mà truyền mãi thành nặng. Nay xem hàng phàm phu là kẻ đứng đầu cang cường bướng bỉnh nên cần phải có dũng tướng tốt dùng thuốc hay. Thế nên nói là hơn. Kế trải mười việc dùng hai nghóa này ước mười pháp mà nói, trong mỗi mỗi pháp đều làm hai nghóa này. Như dùng Bố thí để nhiếp phục nghèo hèn, tức là phá giặc tham để trị bệnh nghèo, thí tiền của giúp kẻ giàu sang. Như tịnh giới để nhiếp phục hủy cấm giới, tức là phá giặc phạm giới, trị bệnh trái luật mà bố thí tiền của tịnh giới. Trải mười pháp cho đến bốn giáo đều làm đầy đủ… Phần (e), các Bồ-tát ấy hỏi thành tựu bao nhiêu pháp Không có hạnh bướu nhọt mà được sinh hạnh Tịnh độ, tức là quán giải, tâm bướu Đại thừa khởi các duyên niệm khác, liên hệ đến chánh hạnh này. Hạnh tạp nên gọi là bứu. Như trong phần chê trách A-nan, việc chê thêm và chê bớt. Chê bớt gọi là hạnh tổn. Nếu khởi các vọng kiến, tức là nghóa chê thêm. Ước đây mà nói thừa gấp giới hoãn, giới gấp thừa hoãn, đều gấp đều hoãn nói ở hạnh bứu. Hành Đại thừa quán giải thuần thục. Thừa gấp, là hành tịnh giới, không thường hay phạm giới, không khởi lỗi quấy thân khẩu. Đây là nói không có bứu nhọt, tức là thừa giới đều gấp, được sinh Tịnh độ vậy. Nếu là thừa gấp giới hoãn, là quán Đại thừa thường luôn chân chánh, không hay ngăn ngừa thân khẩu, hủy tổn giới cấm. Đây là có hành trì mà giới nhiễm ô, nên là có bứu nhọt. Vì có thừa nên sinh ra liền thấy Phật. Vì hạnh có bứu nhọt nên sinh tạp, tạp đồng với cõi uế. Nếu chỉ có giới gấp mà không có thừa, ấy là Thanh văn, Duyên giác, đều hoãn là phàm phu… Phần (f) Ngài Tịnh Danh đáp. Từ trước Thập hạnh căn cứ vào quyền hóa của Đại só để luận về thắng hạnh khó nghó bàn. Trong đây không có tám pháp ung nhọt, ước vào thật hạnh, là hạnh không tạp uế thì ắt sinh tịnh quốc. Tám pháp như văn nói. Đoạn 5 : là thời chúng được lợi ích, như văn. --------------------------------- <詞>GIẢI THÍCH PHẨM: BỒ-TÁT HẠNH Trong Chánh thuyết có ba đoạn lớn là: Phẩm Phật Quốc là diễn bày tông chỉ chính của Như Lai. Từ phẩm Phương Tiện đến phẩm Hương Tích là Đại só giúp bày Thánh hóa. Từ phẩm này đến phẩm A-súc trở về lại chỗ Phật là ấn định thành kinh. Lý do có hai phẩm này, có năm ý: Đại só giúp Phật diễn bày chúng có duyên các duyên phược đã hết, công giáo hóa đã xong, cần trở về chỗ Phật. Phật xưa nói nhân quả Phật Quốc, Đại só giúp nói nghóa này khác với dị luận nếu không trở về để Phật xác định, thì hoặc có kẻ lưới nghi không trừ, nên cần phải trở về chỗ Phật lập tông nói nghóa. Cho nên thầy trò đối nhau lập tông diễn bày sáng tỏ nghóa Phật quốc. Chúng đương cơ ngồi tòa riêng trong thất hoặc có người sinh nghi, để đoạn nghi này nên phải trở về chỗ Phật để đối bày. Kẻ có căn cơ được ngộ ở chỗ Phật thì không thể ngộ với người khác, nên phải trở về chỗ Phật. Tuy ở trong thất luận nói chỗ chí đạo, nhưng nếu không nhờ Phật ấn khả thì không thành kinh. Để được ấn khả nên phải trở về chỗ Phật. Ý có phẩm này là như thế. Phẩm Bồ-tát Hạnh, trong đây tiếp theo phẩm Hương Tích là để phân biệt các pháp môn của Bồ-tát nói về hạnh cõi Phật thanh tịnh có cấu tịnh, Bồ-tát nương vào đây mà hành nên gọi là phẩm Bồ-tát Hạnh. Ở hai phẩm này văn có hai: I/ Từ đầu phẩm này đến “khen chưa từng có”, là ngài Tịnh Danh tay nâng đại chúng đồng vào Am viên nên gọi trở về chỗ Phật. II/ Từ Phật bảo: “A-nan, đúng thế, đúng thế…” trở xuống cho đến hết phẩm A Súc, gọi là lập tông lại nói nhân quả Phật quốc. Lại có khi mở đầu chia hai phẩm này làm hai: phẩm đầu nói hành Phật Quốc là lập tông lại nói nghóa – Kế phẩm kiến A Súc Phật là chính nói hiển bày quả. Phần đầu (I) có hai: Một là Tay nâng đại chúng cùng đến Am viên. Hai là A-nan nghe mùi hương liền phát nghi mà hỏi. Phần một, tay nâng đại chúng, có sáu: 1/ Hiện tướng. 2/ A-nan thấy tướng bạch Phật. 3/ Phật giải thích. 4/ Ngài Tịnh Danh nói muốn trở về. 5/ Ngài Văn-thù cùng trở về. 6/ Dùng thần lực nâng đại chúng đến Am viên. Phần đầu hiện tướng nói đồng sắc vàng, là biểu thị những người được ngài Tịnh Danh hóa độ, các duyên phược đã trừ hết, đều nhập vào cõi tánh tịnh thường tịch, nên đồng một ánh sáng vàng. Phần sáu, trong tay nâng đại chúng có hai: Đến chỗ Phật kính lễ. Phật an ủi thăm hỏi. Ở phần kính lễ có ba: a- Đại só kính lễ. Các Bồ-tát kính lễ. Hàng Thích Phạm kính lễ. Phật an ủi có ba: a- Thăm hỏi. Khiến ngồi. Vâng lệnh ngồi. Trong phần hai, A-nan nghi hỏi có hai: Phật hỏi Xá-lợi-phất. A-nan nghi mùi hương. Ở phần hỏi Xá-lợi-phất có bốn: Ông có thấy thần lực của Đại só đã làm chăng. Đáp. Lại hỏi: Như thế nào? Đáp: Là pháp bất tư nghị, không thể dùng tâm trí tư nghị mà suy lường được. Phật sở dó hỏi là cũng muốn xác định thành việc trong thất, cũng vì trong thất số người hoài nghi chưa hết. Nếu nghe Phật xác định thì hết nghi. Vì không còn ngăn ngại nên sinh lòng tin nghi, vì xác định nên được thành kinh. Ở phần A-nan nghi mùi hương và hỏi, có hai: Hỏi mùi hương. Hỏi mùi hương hết. Phần hỏi mùi hương có năm: a- A-nan hỏi. Phật đáp. Ngài Thân Tử nói thân tôi cũng có mùi hương. d- A-nan hỏi duyên được mùi hương. e- Ngài Thân Tử đáp do ngài Tịnh Danh được cơm. Trong phần hỏi hương hết có ba: a- Ngài A-nan hỏi. b- Ngài Tịnh Danh đáp. c- A-nan khen ngợi. Phần Ngài Tịnh Danh đáp lại có hai: Đáp chung và Đáp riêng. Đáp chung : Hương này tùy cơm, cơm nếu hết thì hương cũng tùy đó mà hết. Lại hỏi bao lâu thì hết. Liền đáp riêng có hai: Đáp về sự, đáp về lý. Đáp về sư: bảy ngày mới hết, cũng như ở đời ăn để nuôi sống thân, chỉ làm hết đói trong một ngày. Còn thức ăn này bảy ngày mới hết. Lại ví như uống một loại thuốc để giữ thân bảy ngày mới hết, sức thuốc xông thân đến khi lành bệnh, đây là giải thích theo sự. Đáp về lý: không như vậy nếu xét theo tiếng nói trong việc chuyển pháp luân thì cõi này có giáo Bán, Mãn. Như Nhị thừa gọi là chữ Bán, Đại thừa gọi là chữ Mãn. Như chữ Bán có ba lần chuyển pháp luân: Một là, chỉ bày; hai là, khuyên; ba là chứng. Về chỉ bày, là chỉ bày Tứ đế, thấy Đế nên chân phát; hai là, khuyên, tức khuyên đoạn hoặc tư duy; ba là, chứng đạo Vô học, nên gọi là tam chuyển. Nay mùi hương đến nói lý Bán, cũng là nói chữ Bán ba lần chuyển pháp luân. Trong đây đều đầy đủ nghóa. Trước dùng bảy ngày làm phương tiện ngũ đình tâm “năm cách dừng tâm”, Niệm xứ chung riêng, ước bốn pháp Noãn, Đảnh. Nay nói vị phàm phu ăn cơm có mùi hương này chuyển nhập bảy phương tiện mới hết. Ăn trong bảy phương tiện là chuyển nhập chánh vị thì mới hết, nếu không nhập thì không hết, cần phải thấy Đế phát chân, thì mới có thể hết. Đây gọi là thị chuyển. Từ chánh vị mà ăn, là Không nhập tư duy thì không tiêu hết, được nhập tư duy thì mới hết. Đây gọi là khuyến chuyển. Nếu tư duy mà ăn, là Không được Vô học thì không tiêu hết, được tâm giải thoát, thành Vô học mới tiêu. Đây gọi là chứng chuyển. Bốn chỗ luận về tiêu hết, tức là ba lần chuyển Tứ đế pháp luân, nghóa thị, khuyến, chứng rất rõ ràng. Lại nữa, mùi hương này nói nghóa ba lần chuyển chữ Mãn của Đại thừa, là trước trách chữ Bán chưa nhập chánh vị, ăn cơm nhập chánh vị mới tiêu. Như ngài Thân Tử đã đoạn hết tam giới, chứng tâm giải thoát được tận trí và vô sinh trí. Cơm này lại tiến đến quả nào, nếu không tiến quả thì cơm không tiêu. Nếu tiến quả tức là nghóa Đại thừa. Phải biết A-la-hán tuy chứng bốn quả, đoạn kết tam giới, nếu chưa phát tâm Đại thừa thì cũng còn là Đại thừa lý ngoại, chưa phải là trong vị phương tiện. Nên Pháp Hoa có nói: Chỉ hầu ở ngoài cửa, đứng trong thảo am. Nếu luôn phát tâm Đại thừa thì gọi là cơm đã tiêu, là trụ ở vị phương tiện. Nên nói bảy ngày mới tiêu. Từ vị phương tiện này mà ăn, là nhập chánh vị mới tiêu. Tức như ngài Thân Tử trong thời Pháp Hoa nhập Phật tri kiến, nhờ được thọ ký, riêng gọi là chánh vị. Ước trong Đại thừa làm ba căn là: Vị tri dục tri căn, tri căn và tri dó căn. Nếu nhập phát tâm tức là dục tri căn. Từ phát tâm mà ăn cơm cho đến Vô sinh nhẫn mới tiêu thì gọi là tri căn. Trong vô sinh mà ăn cơm cho đến bổ xứ mới tiêu, gọi là tri dó căn. Tức là hương giáo nói ba căn vô lậu. Cho nên chuyển pháp luân chữ Mãn hợp ở người Đại thừa có duyên, thí như thuốc quý bỏ đi để thí dụ mà nói các cõic của thân diệt hết, đâu chỉ diệt có độc của phần đoạn tam giới. Trên là biến dịch của Thông giáo, Biệt giáo, về độc Biệt giáo của thật báo thì các cõic vô minh từng phần bị tiêu diệt. Đây phải đem trống độc làm dụ để giải thích thành nghóa này. Không luận xa gần nghe qua đều chết. Đầy đủ như giải thích trước… Phần A-nan khen chưa từng có, xưa chỉ nghe nói ba lần chuyển pháp luân Bán, Mãn, mà nay trong mùi hương lại có đủ khuyến, thị, chứng…, nên khen chưa từng có. Phần hai, nhân A-nan hỏi, tức là nói lập lại tông. Ở đây có hai: Một là từ đây trở đi đến hết phẩm, là nói cõi Phật không đồng, khởi căn mỗi khác. Đây tức ý có phẩm này là hai ý trong năm lớp. Nếu công hóa độ đã xong thì tay nâng đại chúng về Am-la viên là nghóa này. Kế trong thất nghi tình chưa giải quyết nên cần được xác định. Do đó Phật liền bảo Xá-lợi-phất: Ông thấy việc làm thần lực tự tại của Đại só chăng? Trong đó có ý xác định việc nói trong thất cũng là đoạn dứt các niềm nghi. Nếu Đại só khen bày dù luận về các pháp khác nhưng cũng đều là hiển bày về tịnh quốc. Tịnh quốc đã hiển sáng thì lập lại tông phải trở về lời do Phật nói, tức ý văn trong đây. Lại chúng sinh có cơ ngộ với Phật, tức là việc khai tông ở trên do các Trưởng giả tử trước hỏi về quả, kế hỏi về nhân. Phật trước đáp về quả, sau mới đáp về nhân. Trong quả có hai: Một là nói về quả và hai là giải thích. Trong nhân cũng có hai là: Một là, nói về nhân và hai là giải thích. Trong đây việc lập lại tông cũng có hai ý: Lập lại tông nói quả tức là Phật quốc, Phật sự không đồng. Lập lại tông nói nhân tức là các hạnh Bồ-tát. - Trong quả có hai: Chánh nói quả. Giải thích ý. Trong nhân cũng có hai: Chánh nói hạnh Bồ-tát. Giải thích Trước sau đối nhau, ý nghóa hơi ngang nhau cho nên biết là lập lại tông nói rõ nghóa. Trước nói nghóa ở môn quả: Có bốn: Tùy chúng sinh được hóa độ mà nhận lấy cõi Phật. Vì điều phục chúng sinh mà lấy quốc độ. Tùy dùng pháp nào nhập Phật tuệ mà chọn lấy quốc độ. Dùng pháp nào để khởi căn mà chọn lấy quốc độ. Nay môn quả này cũng đủ bốn nghóa để thành việc nói về Phật quốc của đương tông rõ ràng là đồng, nhưng chỉ không thứ lớp trước sau là khác mà thôi. Do nói không lập lại nên không an tâm. Do đó cùng nói muốn khiến hành giả không chấp chặt trước sau. Giống như Pháp Hoa ba lần nói pháp tên khác mà nghóa đồng. Lại như kinh Niết-bàn ba mươi sáu lần hỏi đáp mà nghóa đối nhau nhưng danh tự không đồng. Về ý nghóa nếu chánh danh dù khác cũng chẳng hiềm gì. Trong đây tuy trước sau không thứ lớp, nhưng nghóa gần ngang nhau. Nay cái thứ nhất giải thích cái thứ tư trên, tuy tên có khác nhưng nghóa là một. Cái thứ tư giải thích cái thứ nhất trên thì văn nêu đầy đủ. Trong đây giải thích việc khởi căn Bồ-tát mười ba câu nói về các Phật quốc, khởi căn không đồng, cùng dùng pháp sáu trần mà khởi sáu căn. Như Tỳ-đàm nói sắc là chất ngại, không được cùng thông như các trần khác. Mắt chỉ thấy sắc không thể dùng cho các trần khác. Nghóa của Đại thừa nói thì khác với đây. Trong căn trần có thể dùng chung nhau viên thông các pháp. Như mắt thấy sắc giấy mực, sắc này có thể dùng nói tất cả các pháp hoặc Không hoặc Giả hoặc Trung, thế, xuất thế tất cả các pháp đều đầy đủ, chỉ là một thứ mực mà thôi, mà gồm chứa các các đức viên thông vô ngại. Nên trong Đại phẩm nói: Tất cả hướng đến sự hướng đến ấy chẳng ngoài sắc cho đến tất cả hướng đến vị sự hướng đến ấy chẳng ngoài vị. Đối với ăn nếu bình đẳng thì đối với pháp cũng bình đẳng. Phải biết căn trần đủ tất cả pháp, nên dùng trần này mà khởi căn Bồ-tát vậy. Nay đem một trần để nói, thì đây là từ hơn mà làm tên. Như nếu tỷ căn nhập đạo lanh lợi nhất thì dùng hương trần mà khởi, nếu thân căn linh lợi nhất thì dùng ánh sáng mà chạm xúc. Ở cõi này nhó căn lanh lợi, nên dùng thanh trần mà khởi. Chưa hẳn chỉ có thanh trần mà không dùng năm trần kia. Như ở cõi này dùng tiếng làm Phật sự, nhưng cũng có phóng ánh sáng, cũng có hương vân, hương cái, y phục… để làm Phật sự. Chỉ từ cái nào hơn là chánh còn các thứ khác là phụ. Cho nên căn cứ ở tiếng để làm Phật sự. Các cõi nước khác nếu có nói dùng một trần nào đó thì cũng y theo trên. Ánh sáng làm Phật sự, là phóng ánh sáng chạm thân nói đủ các pháp tùy chạm xúc mà hiểu. Đâu chỉ các cõi nước khác dùng ánh sáng làm Phật sự, mà cõi này cũng dùng ánh sáng để hóa độ người. Như khi nói các kinh Đại thừa Phật đều phóng ánh sáng làm rúng động tất cả. Chỉ không phải chánh ý nhập đạo ở cõi này mà chỉ là ý chung về Phật sự thôi. Phải biết rằng trong ánh sáng có đầy đủ tất cả pháp, như kinh Tư Ích đã luận rõ. Lại như Đại phẩm phóng quang, chúng sinh nào thấy được đều phát tâm Bồ-đề. Như kinh Hoa Nghiêm nói Như có ánh sáng tên là vô tham, diệt hết các tật xấu tham dục… đều dùng ánh sáng này làm chánh, vì đầy đủ các pháp vậy. Chỉ trong Tiểu thừa hoặc nói ánh sáng đến chạm xúc, hoặc nói không đến chạm xúc. Đại thừa thì nói Bất tư nghị mà luận việc đến chạm xúc. Về việc dùng hóa nhân làm Phật sự, là như Phật Tu-phiến-đa đã để lại hóa Phật để độ chúng sinh. Hoặc có Phật làm lợi ích chúng sinh, dùng hóa nhân, hóa Bồ-tát… để khởi căn chúng sinh. Lại như nói kinh Bát-nhã có Hóa Bồ-tát nói Bát-nhã tức là ở cõi này dùng hóa để làm Phật sự. Về Bồ-tát làm Phật sự, là hoặc có cõi Phật chỉ thuần dùng Bồ-tát làm quyến thuộc để lợi tha dẫn dắt chúng sinh, Phật chỉ làm tôn chủ mà thôi. Cõi này cũng có nghóa này. Như nói trong kinh Hoa Nghiêm có bốn Đại Bồ-tát nói công đức các Địa , Phật chỉ làm chủ. Phải biết cũng dùng Bồ-tát để làm Phật sự thì tiếng Bồ-tát này chỉ là nói chung không nhất quyết phải là hóa nhân, cho nên thuộc về căn trần. Về cây Bồ-đề làm Phật sự, là Phật ngồi dưới cây này mà được đạo trang nghiêm và phóng quang thuyết pháp điều phục chúng sinh. Nếu cây che chắn mát mẻ để làm Phật sự tức là khởi thân căn. Riêng quán cây và đi kinh hành dưới cây là khởi nhãn căn. Như ở cõi này cũng ngồi dưới cây Bồ-đề mà đắc đạo. Trong kinh nếu có chỗ phải dùng cây Bồ-đề làm Phật sự, tức là giải thích ý này… Về vườn rừng và lầu gác cũng có hai nghóa là che mát và quán tưởng không thể nhất định. Về thuộc tướng hảo, tức là sắc trần khởi nhãn căn, chỉ thấy tướng hảo. Tướng hảo tự có giảng nói khiến người ngộ giải. Như ở cõi này khi nói Bát-nhã thì Phật hoặc hiện thân cao lớn đặc biệt hoặc hiện thân thường để đoạn nghi. Phải biết cũng là dùng tướng hảo để làm Phật sự. Về hư không, là chỉ bày tướng Không. Tướng Không có thể giảng nói các pháp như Bất nhị môn nói: Bốn thứ không chủng là hai. Nếu thấu hiểu bốn thứ Không và không chủng chẳng khác, tức là nhập Bất nhị pháp môn. Nếu thấy hư không này là Không, mà không thì chẳng thấy, nếu thấy thì chẳng phải Không, rỗng rang không chướng ngại. Nhân đó ngộ các pháp, chỉ dùng thứ Không này làm Phật sự. Cho nên như A-nan muốn thấy bụng Phật. Phật bảo chui đầu vào liền thấy bụng trống không chẳng có gì. Như từ Hư không tạng đến cõi giới này thì tất cả các pháp đều không. Cõi này cũng dùng không làm Phật sự, tức mộng huyễn mười dụ làm Phật sự, thường nói pháp này. Pháp này giảng nói rất nhiều điều. Hoặc có người ngộ mộng huyễn là Không, cho đến ngộ mộng huyễn là chẳng phải Không, chẳng phải có, đầy đủ như ở Thông giáo. Dùng mười dụ này cho cả Đại và Tiểu thừa. Tiểu thừa thì chỉ chấp mộng huyễn là Không, còn Bồ-tát thì thấy Có. Hoặc các Địa Luận sư cho mười dụ này làm tướng giả dối. Đây bèn được không của Tiểu thừa mà mất hẳn cái có của Đại thừa. Nếu nói đã là tướng giả dối mà Bát-nhã lấy đó làm Phật mẫu; mẹ đã giả dối thì con cũng không thật. Cho nên biết mộng huyễn là nghóa chung không thể chấp nhất định sẽ mất ý Đại thừa. Nếu nói có cõi Phật dùng mộng huyễn làm Phật sự, thì cõi Phật đó là tướng giả dối không thật. Về dùng âm thanh, thì như cõi này khởi nhó căn. Về tịch mịnh đây là chỉ tâm huân. Tuy không nói năng nhưng không hại gì có niềm vui tịch mịch. Nếu không phải vui thì sao được nói là làm Phật sự ư? Nếu Phật không chỉ bày tâm thì cả bậc Thập địa cũng không biết. Nếu bày tâm thì loài côn trùng cũng hiểu được. Phải biết đây là nghóa bày tâm. Ở cõi này cũng dùng không nói năng để chỉ bày mà làm Phật sự. Như ngài Tịnh Danh ngậm miệng mà ngài Văn-thù khen ngợi. Hoặc Phật có lúc im lặng và ngài Thân Tử cũng im lặng. Nói rộng thì vô lượng mà tóm tắt thì chỉ có mười ba cõi nước. Ngang đây là lập lại tông làm sáng nghóa Phật quốc, giải thích phần thứ tư trên về nghóa khởi căn Bồ-tát. Phần thứ hai (II) từ “Đúng thế A-nan, chư Phật các oai nghi tới lui đều làm Phật sự…” trở xuống là giải thích phần thứ ba trên, nói về nghóa nhập Phật tuệ. Phần này có hai: Thiện môn. Ác môn. Từ “oai nghi tới lui” trở xuống… là nói về thiện môn, tức là nghóa tịnh quốc. “Bốn ma trần lao” trở xuống… là nói về ác môn, tức là nghóa cấu quốc. Văn trên nói tùy chúng sinh dùng cõi nước nào mà nhập Phật tuệ. Phật tuệ thì Pháp Hoa gọi là Phật tri kiến. Trong đây thì nói là nhập Phật pháp môn. Nhưng chư Phật hiện ra cõi nước cấu tịnh không đồng, để khiến chúng sinh được nhập Phật tuệ. Nếu chúng sinh đáng thấy thiện pháp oai nghi tới lui tướng hảo phóng quang rực rỡ mà nhập liền hiện như thế. Nếu đáng dùng ác pháp mà nhập, thì liền hiện bốn ác phiền não mà khiến được nhập. Như kinh Hoa Nghiêm nói: Người nữ bày pháp môn tham dục, nếu người phàm phu thì đây là đọa lạc, nhưng với Thiện Tài thì một phen chạm xúc liền ngộ vô lượng trăm ngàn pháp môn. Đây là hiện bày dục ma mà nhập Phật tuệ. Như ngài Thiện Tài đầy đủ vương hạnh như huyễn pháp môn. Phẩn-đà giết vô lượng mạng người nhân đây mà được ngộ, tức là nhân khuể ma mà được nhập. Như thấy vị Bà-la-môn từ đỉnh núi cao khi gieo mình vào lửa xả thân thì thấy Phật pháp hiện tiền, tức là dùng si ma mà nhập Phật tuệ. Từ ba độc này khởi đẳng phần. Bốn phần sinh tám vạn bốn ngàn trần lao mà khiến các chúng sinh vào Phật tuệ. Vì có hai môn thiện ác không đồng, nên chư Phật hiện ra hai thứ cõi nước cấu tịnh. Tuy có cấu tịnh khác nhau, nhưng nhập môn đồng một thứ. Phần thứ ba, nếu nhập vào môn này thì thấy tịnh không mừng thấy cấu cũng không buồn lo. Đây là giải thích phần thứ hai trên. Về điều phục chúng sinh mà chọn lấy cõi Phật, nhưng chư Phật vì thu phục tất cả hạng người cang cường và nhu nhược nên hiện ra có cấu tịnh. Sao được thấy việc tịnh uế này mà khởi tâm có cao thấp, mừng lo. Nếu tâm có mừng lo thì không gọi là điều phục. Không mừng không lo mới là tướng điều phục. Ví như thầy thuốc giỏi, vì trị bệnh nên trao cho hai thứ thuốc đắng ngọt, thuốc tuy có khác nhưng trị bệnh không khác. Như nhìn thầy thuốc với hai loại thuốc để trị lành bệnh mà không sinh tâm thương ghét thầy thuốc, thì Phật cũng thế. Chỉ vì điều phục chúng sinh đừng thấy có cấu tịnh mà sinh nghi. Phần thứ tư, từ chư Phật bình đẳng trở xuống là giải thích phần thứ nhất trên, là chư Phật vì giáo hóa chúng sinh mà chọn lấy cõi nước. Trong đây nói mười phương Như Lai công đức đều bình đẳng, một thân một trí tuệ, lực Vô úy cũng thế. Đã là bình đẳng sao bỗng một Phật quốc là tịnh, một Phật quốc là cấu, cấu tịnh đã khác, sao gọi là bình đẳng. Chỉ vì giáo hóa chúng sinh, nên ở trong bình đẳng mà khởi từ bi làm bình đẳng và không bình đẳng. Vì giáo hóa chúng sinh đến nổi phải có cấu tịnh không đồng mà thôi. Đây là giải thích thành nghóa bốn loại cõi nước, hoàn toàn không trái nhau, chứng biết là lặp lại tông tuyên nói, kết tóm đầu đuôi, thành tựu trước sau việc nói nghóa Phật quốc. Phần thứ hai, từ “chư Phật quốc độ” trở xuống…, là giải thích thành ý bốn thứ cấu tịnh, hiển bày cõi phương tiện tùy duyên mà có cõi tánh tịnh Tịch quang. Phần này có bốn: Ở hư không mà kết thành giải thích. Tóm tắt về thân trí. Nói rộng về thân trí. Căn cứ ba hiệu. Nay ở hư không mà kết giải thích: Đối việc Phật quốc trên, khi luận về quả có dùng thí dụ: Như có người muốn xây cất cung điện trên hư không thì chắc chắn không thành, mà phải xây dựng trên đất mới thành. Tuy xây trên mặt đất nhưng không có hư không thì cũng không thành. Đây là nói Bồ-tát ở ngay trên lý pháp tánh Chân không thì không có muôn hạnh công đức và các Ba-la-mật để trang nghiêm pháp thân. Nếu y vào tục đế thì thành tựu chúng sinh cõi Phật thanh tịnh. Tuy lại là muôn hạnh công đức, nhưng trọn ước vào pháp tánh mà không có thành tựu. Nếu không có pháp tánh không, thì phàm các việc làm đều không thành tựu. Nay kết giải thích này cùng việc lập tông trên đồng nói về cõi tùy duyên. Vì hóa độ chúng sinh muốn điều phục khiến họ nhập Phật tuệ mà khởi căn Bồ-tát, tuy là cát đá làm đất hay bảy báu làm đất, cho đến phương tiện Hữu dư, tự tánh Thật báo các loại cõi nước đều là ước vào chúng sinh mà có bao nhiêu thứ sai khác như thế. Cõi tánh tịnh là nơi ở của bậc Cực trí, không có các việc cấu, tịnh cao thấp hơn kém. Cho nên dẫn hư không không có các thứ mà làm dụ. Tuy hư không không có các thứ mà ở khắp các cõi nước có các thứ. Các cõi nước có các thứ không lìa được không không có các thứ, trọn không lìa ngoài các thứ mà riêng có một cái không không có các thứ. Nay bốn thứ cõi tùy duyên tuy lại cấu tịnh không bình đẳng, vì đều là ước cõi Thường tịch quang nên có tùy duyên hóa tha. Cõi Thường tịch quang cũng biến khắp các cõi nước phương tiện, lìa cõi nước phương tiện thì không riêng có Tịch quang. Nên kinh nói: Chỗ Phật ấy ở gọi là Thường tịch quang, biến khắp tất cả nơi, không nơi nào không có. Như bậc Cực trí quán tất cả pháp, không thứ nào không phải là pháp tánh. Cho nên biết pháp tánh gọi là thường tịch. Kinh nói vô minh mà minh, gọi là rốt ráo không. Rốt ráo không tức là tánh vô minh, mà tánh vô minh, nên gọi là Tịch quang. Thường trụ bất biến nên gọi là thường, thế nên đồng với hư không không có các thứ. Giải thích thành cõi cấu tịnh. Lược nói thân trí Phật, giải thích thành hai thứ cõi nước. Như Đức Thích-ca có thân trượng sáu, còn Đức Di-lặc có thân ngàn thước hoặc hai vạn thước. Đây là ứng thân sai khác vì hóa vật lớn nhỏ mà thân có cao thấp. Như Đức Thích-ca là Phật theo Tam tạng giáo nói đã được trí đoạn lại được năm phần pháp thân, có tuệ vô ngại, so với Tuệ vô ngại của Đức Di-lặc có được, các chánh tập đều hết, nào có khác gì. Mười phương chư Phật một thân một trí, tuệ lực vô úy cũng đâu có khác, thường tịch pháp tánh chỗ này cũng không khác. Hoặc chỉ là Ứng thân tùy hiện có dáng cao thấp, là tùy duyên mà có hơn kém sai khác không đồng, cho nên có thân trượng sáu hay ngàn thước, cấu hay tịnh khác nhau. Nên nói đem thân và trí mà giải thích thành cõi nước cấu tịnh vậy. Nói rộng về thân trí Phật. Nếu rộng lược mà nói nghóa thì trước thuộc tóm, sau thuộc rộng. Nếu theo tư nghị và bất tư nghị mà nói nghóa, thì tóm tắt là thuộc hai đế, Tam tạng giáo. Phật vô ngại tuệ tư nghị, còn nói rộng thân trí là thuộc hai đế nói vô ngại tuệ bất tư nghị. Không phải chỉ chân đế bất tư nghị là khác với chân trong tư nghị của Tam tạng giáo, mà tục đế bất tư nghị cũng khác với bao nhiêu tục của Tam tạng giáo. Thân trí sai khác cũng lại như thế. Vì sao? Vì nếu Tam tạng giáo chấp thân ứng sinh của cha mẹ mà luận ra các thứ, thì chấp chân đế gồm năm phần pháp thân cũng luận ra không có các thứ ấy. Bậc Cực trí ở cảnh pháp tánh Thường tịch, chỗ này không có các thứ. Nếu nói sắc thân trong cửa là to lớn, là thân cao quý đặc biệt trong Liên hoa tạng, là tướng lớn, tướng nhỏ hiện ra bao nhiêu thứ ở ứng thân cao quý này, chấp chỗ ở của bậc Cực trí là cảnh Thường tịch pháp thân không có các thứ, phải biết là chân tục khác hẳn nhau vậy. Nay mười tướng Phật sắc… là một, là ứng thân ở cấu quốc mà hành hóa thì cũng đều như nhau. Pháp thân diệu sắc rỗng rang an trụ ở nơi này cũng bình đẳng. Trí tuệ bình đẳng, là ứng thân Phật Tam tạng giáo, mười lực vô úy từ bi cũng bình đẳng, cho đến pháp thân, ứng thân cao quý mười lực vô úy cũng không khác. Dòng họ bình đẳng, tức là ứng thân sinh trong giòng quý tộc như Sát-lợi, Bà-la-môn, thì việc này cũng đồng nhất. Tánh pháp thân, tánh tập chủng, tánh tánh chủng, tánh đạo chủng, tánh Thánh chủng, cho đến diệu giác pháp tánh cũng đều đồng đẳng. Hóa chúng sinh bình đẳng, là ứng thân hóa độ chúng sinh cõi Hữu dư, ứng thân cao quý cũng là hóa độ chúng sinh trong cõi Thật báo. Các chỗ này đã bình đẳng, thì y báo cấu tịnh cũng lại bình đẳng, sao chỉ chư Phật riêng có tịnh quốc. Đức Thích-ca cũng có tịnh quốc gọi là Vô Thắng, mà ở phương Tây đâu chỉ riêng có Đức Thích-ca hành hóa ở cõi Ta-bà. Kinh Niết-bàn nói: Tất cả chư Phật cũng ở trong đó mà hiện chuyển pháp luân. Cho nên biết chư Phật đều có cõi nước tùy duyên bao nhiêu thứ, đồng có bình đẳng Thường tịch vô ngại tuệ. Nên nói là rộng ước thân trí mà giải thích thành các cõi nước cấu tịnh. Nếu là vì chúng sinh mà chấp lấy cõi nước, đến nổi có tịnh uế khác nhau, thì y báo hơn kém không bình đẳng. Nếu y báo không bình đẳng, thì vì chúng sinh mà nhận chánh báo thân trí cũng không bình đẳng. Đây là đem cõi nước mà giải thích thân trí làm nghóa này, nên tức là dùng thân trí mà giải thích cõi nước. Dựa theo đây tức là hiển bày tịnh uế… Căn cứ ba hiệu mà giải thích hai loại cõi nước. Có hai: Một là, Chánh giải thích ba hiệu. Hai là, Luận nghóa rộng khó nhận. Một, Chánh giải thích: Tam-miệu Tam-Phật-đà gọi là Chánh Biến Tri. Như Tam tạng giáo nói Chánh Biến Tri, thì Chánh là đối với sáu mươi hai kiến tà lệch mà được tên. Quán Chân không quán tục tuy gọi là Biến Tri, nhưng nếu so về Đại thừa thì trọn gọi là thiên lệch không phải là chánh rốt ráo. Tri tức là thấu suốt chân tục đều rõ ràng. Thích Luận nói: Tri là biết số pháp và phi số pháp, hoặc thường và vô thường đều biết, đều khắp biết phi số pháp tức là chân đế mà tuệ không có các thứ. Khắp biết số pháp tức là tục đế, hiểu sâu căn cơ tùy duyên phương tiện có bao nhiêu thứ. Ước đây nên gọi là Biến tri. Tự giác là giác chân; giác tha là giác tục. Vì giác tục nên tùy duyên phương tiện bao nhiêu thứ không đồng. Giác chân tức là tam tịnh vô ngại tuệ, không có các thứ. Chánh trong Bất tư nghị là quán Trung đạo gọi là chánh. Ba đế chiếu khắp gọi là Biến, biết ba đế nên gọi là Tri, chỉ trong Trung đạo không phải số không phải phi số, không phải thường không phải vô thường. Hiểu sâu lý này thì gọi là Vô ngại tuệ. Song chiếu hai đế trong tục có sai khác, biết bệnh biết thuốc, tùy duyên phương tiện mà cấu, tịnh không đồng. Vì điều phục chúng sinh, nên có bao nhiêu thứ. Chân tục tự giác giác tha căn cứ theo trước… Nên gọi là Chánh biến tri. Đa-đà A-già-độ, gọi là như pháp tướng giải, như pháp tướng thuyết. Như trong Tam tạng giáo nói như pháp tướng giải, tức là khế hợp lý chân như, cũng gọi là tục lý mà biết, cũng gọi là như pháp mà hiểu, là vô ngại tuệ không có các thứ. Phải dùng pháp nào mà giáo hóa, phải dùng pháp nào mà điều phục, pháp nào mà nhập Phật tuệ, pháp nào mà khởi căn… Cơ cảm sai khác, mà nói có bao nhiêu thứ. Tuy lại nói khác, nhưng đều thật không có hư dối, nên nói như pháp tướng thuyết. Nên gọi là Như Lai. Đã giải thích thành nghóa cấu tịnh. Trong bất tư nghị là như thế. Phật-đà gọi là giác, cũng gọi là tri, cũng giống như giải thích trước. Hai, Luận về ba câu rộng, có năm: 1- Nói nghóa rộng về ba câu A-nan không thể nhớ. 2- Nói giả sử nhiều A-nan cũng khó nhớ. 3- Nói A-nan hối hận. 4- Nói Phật an ủi. 5- Giải thích nghóa không thể nhớ như văn. Tiếp nói Bồ-tát ấy xin làm hạnh Bồ-tát, tức là đối trên mà lập lại tông nói nhân Phật quốc. Có ba: Xin pháp. Phật nói pháp. Khen ngợi trở về bản độ. Trong phần a, có ba: Hối trách. Hiểu rõ. Xin pháp. Về xin pháp là ở nước Hương Tích đem hai pháp hương và vị đến cõi này độ người, nay muốn đem pháp cõi này đến cõi ấy làm Phật sự, do đó mà xin. Bồ-tát cõi ấy thuộc cơ Đại thừa, được ngộ Trung đạo, mà ở song chiếu hai đế còn chưa thấu suốt xa xôi, huống là hàng Tiểu thừa đoạn phục trong tục chưa xong. Thế nên Như Lai vì nói nghóa song chiếu khiến việc hóa đạo không ưng trệ. Ví như vua chúa có đủ các quan văn võ, gặp lúc yên, loạn mà có hưng phế, lúc không giặc giả thì lính yếu, binh khí lụt, khi nước loạn thì binh tinh nhuệ tướng mạnh. b/ Nay nói Phật pháp mười phương đủ nghóa ba đế. Chỉ có cõi Ta-bà nhiều nạn mà quyền hóa khơi sáng. Các Bồ-tát… đã song chiếu thuần thục, thiện căn cõi ấy đã sâu dày, thì đối với thật tuệ Trung đạo mau thông suốt, nhưng ở quyền đạo còn nghi. Bồ-tát muốn dạo khắp mười phương hóa độ, cần phải hành đủ ba đế nên cần phải xin pháp. Phật đáp nghóa nhân, có hai: Nói ngang và nói dọc. Trong đây cũng lại có giải thích chung và riêng, tuy cùng văn trên nhưng tên khác mà nghóa đồng. Nay ở phần Phật đáp có ba: Chung nên khuyến học. Giải thích. Kết thích. Giải thích lại có hai: Giải thích tóm lược, giải thích rộng chi tiết. Trong giải thích rộng chi tiết lại có ba: Nói không hết hữu vi. Nói không trụ vô vi. Giải thích lại hai thứ. Trong phần nói không hết hữu vi lại có ba: Nêu.Giải thích và Kết thích. Suốt bốn mươi câu trong đó để nói chưa hết hữu vi. Nay nói hết và không hết là Không hết ở tục mà rộng tu muôn hạnh, không trụ ở vô vi, không đồng với hôi đoạn, chân tục cùng chiếu, đạo quán song lưu, tịnh uế dung thông, quyền thật tự tại. Tục đế sinh tử, hữu vi là pháp có thể hết, nên gọi là hết. Chân đế là Niết-bàn, vô vi pháp Không, nên gọi là Không thể hết. Nên nói môn tận vô tận chúng sinh nào đáng được dùng môn này đắc độ, thì liền dùng pháp này khởi căn Bồ-tát, mà khiến nhập Phật tuệ. Đây cũng là giải thích thành những điều nói trong thất, như ý nói bệnh không phải Chân không phải hữu. Như nhập vào môn này bèn có thể tịnh uế song hành, đạo quán tự tại, thì không bị ngài Tịnh Danh chê trách. Hỏi: Nếu Bồ-tát ở cõi Hương Tích mới xin pháp này, vì sao có thể dạo đến cõi Ta-bà này? Đáp riêng: Dùng quyền dẫn thật, nên có câu hỏi này. Đem thật tùy quyền, nên hay dạo chơi cõi Ta-bà… trong văn nói thiền định như địa ngục, sinh tử như vườn tược. Đây là mượn việc con đang bị nạn mà cha ở tại nhà, tuy có ngũ dục nhưng lòng cha luôn đau khổ, nếu cứu con thoát nạn thì dạ mới vui… Từ không trụ vô vi, cũng có ba: Nêu.Giải thích riêng. Kết. Ở trong phần giải thích có mười sáu câu, nói rộng về không trụ vô vi, như văn. Giải thích lại về không hết và không trụ, tức là giải thích thành hai ý ngang dọc ở phẩm Phật Quốc trên. Ngang thì có mười bảy câu, trong các câu đều ước bốn giáo bốn môn để nói tướng ngang. Về dọc thì từ chân tâm thấu triệt đến Phật quả, có mười ba câu nói cạn sâu. Cũng có kết thích về nghóa ngang dọc. Nay trong đây trước lần lượt qua bốn mươi câu luận về Bất tận hữu vi, kế mười sáu câu rộng luận về bất trụ vô vi. Đối với ngang dọc trên mà nói ý pháp tướng sâu rộng. Sau đó có bốn đôi giải thích lại ba thứ hai trí quyền thật. Ở tự địa thì dọc sâu, hóa tha thì tròn nguyện, giải thích thành nghóa ngang dọc. Trong phần nói ngang dọc trước, thì phần đầu là bất tận, phần sau là bất trụ. Trong phần giải thích lại, thì bất trụ ở trước, bất tận ở sau. Trước sau cùng luận, là ý nói không trước không sau, trước sau cùng dung hợp. Nay nói bất trụ vô vi, thì đối với thật đế không trệ ngại, việc tự hành được thành. Còn bất tận hữu vi, thì đối với tục đế khắp biết, hóa tha không ủng tắt. Quyền thật cùng chiếu, tự tha gồm thông. Nếu ba đế viên minh, tự mình hay thấu suốt, ấy là vô ngại tuệ không có các thứ. Nếu dùng hóa tha không trệ ngại, cho nên hay cấu tịnh song hành, phương tiện bao nhiêu thứ. Trong phần giải thích lại này có bốn đôi: Một là, phước đức trí tuệ làm một đôi; hai là, từ bi và thệ nguyện làm một đôi; ba là, biết thuốc trao thuốc làm một đôi; bốn là, biết bệnh diệt bệnh làm một đôi. Ước đây mà nói quyền thật hai trí, tự có tự hành quyền thật tự hành, hóa tha quyền thật hóa tha. Trong quyền thật tự tu, lý Trung đạo là thật, song chiếu hai đế là quyền. Đây là tự hành nói quyền thật. Nếu là tự quán lý hai đế là thật, vì người khác nói hai đế là quyền. Ấy gọi là tự hành hóa tha nói quyền thật. Nếu hóa tha nói quyền thật, thì đây là ước duyên vô định, hoặc nói quyền là thật, hoặc nói thật là quyền, hoặc ở trong quyền mà luận quyền thật, hoặc ở trong thật mà luận quyền thật. Tùy cơ sâu cạn, theo vật thích nghi không nhất định. Ước đây mà quyết ba thứ hai đế tư nghị và bất tư nghị. Nếu là tự hành quyền thật, nhất định phán quyết nó thuộc hai đế bất tư nghị. Nếu tự hành hóa tha quyền thật, thì trong đó cũng thuộc bất tư nghị mà cũng thuộc tư nghị. Vì sao? Vì như Thông giáo nói về hai đế, bao hàm Trung đạo trong chân đế. Cho nên nói hàng Tam thừa đồng dùng đạo không nói năng mà đoạn phiền não, vào Niết- bàn. Nếu là hợp chân nhập tục thì kinh Niết-bàn nói: Ta và Di-lặc cùng luận thế đế, năm trăm Tỳ-kheo cho là nói chân đế, tức nghóa này. Tuy không nêu tên Trung đạo nhưng có nghóa đó. Nghóa ấy thuộc cả hai nên gọi là Thông. Thông tức là thông ở Nhị thừa thấy không ở chân đế. Nếu thông cả Biệt giáo, Viên giáo thì cũng thấy không và cũng thấy chẳng không. Hay thông thấy không, tức là tư nghị, nếu thấy chẳng không tức là bất tư nghị. Thấy không thì trí tuệ như lửa đom đóm, thấy chẳng không thì trí tuệ như mặt trời, mặt trăng. Mặt trời mặt trăêng thì có dụng chiếu rộng khắp mà trị hoặc cũng lớn. Trí tuệ của hàng Tiểu thừa đã nhỏ mà chỗ đoạn cũng nhỏ. Nếu Bồ-tát tự hành thì thấy không chẳng không. Hóa tha lợi vật thì chỉ thấy không mà chẳng thấy chẳng không. Cho nên biết tự hành hóa tha quyền thật cũng thuộc tư nghị, mà cũng thuộc bất tư nghị. Nếu hóa tha quyền thật một mực là tư nghị. Vì sao hai đế lại tư nghị. Hai đế không có thể Trung đạo, cho nên khi nói chân thì vắng lặng như hư không. Khi nói có thì như trong đá có vàng. Đá và vàng khác nhau, đối với không vắng bặt, thì chân tục rất khác. Đó là dùng ý vắng lặng mà suy lường chân, như lấy tâm đá vàng mà hiểu tục. Cho nên nói hai đế ấy tư nghị. Nhưng chân tư nghị thì có nghóa tiệm đốn. Thí như đá vàng dung hợp dần dần, tiêu mòn chút chút, cuối cùng thì đá hết vàng hiện. Chân tư nghị cũng thế. Nên có ba thứ. Như tất cả sum la đối mặt với ngàn thứ vạn hình, gốc đồng bốn đại, sẽ nói sau đây. Như bốn Đại biến khắp thành muôn vật, nhưng đều là pháp sinh diệt vô thường, gọi là Trung đạo. Như sinh diệt tuy lại biến mất thì đồng là Không sinh diệt, mà nhập chân đế, đây há không phải là đốn tiệm ư? Bất tư nghị thì không như thế. Vì là có gốc Trung đạo. Thể ước với thể mà nói hai đế, gọi là bất khả tư nghị. Ví như châu như ý hay mưa các thứ bảy báu. Trong châu hoàn toàn chẳng có gì, tìm không thể được, chỉ nói hoàn toàn không mà hay mưa ra các báu. Lý bất tư nghị cũng thế. Không phải Chân không phải tục, rốt ráo thanh tịnh mà hay đầy đủ chân tục, vẹn toàn tất cả. Chân tục đều không thể lượng định, nên khen là Bất khả tư nghị. Nếu ước châu này để luận về Thông giáo, như lúc châu không mưa báu, thì không có hình tướng vàng bạc, đây cùng châu thường nào có khác gì. Tức là phá tục để tìm báu rốt ráo trống không. Cái không cùng với chân đế đoạn không, chẳng có gì khác, dựa theo đây mà nói tướng tư nghị là hai đế tư nghị của Tam tạng giáo. Nếu biết công năng ấy mà phát nguyện tìm báu thì hay ở trong không trung hiện ra các vật để nuôi sống. Cái không này không đồng nhập Chân không của hàng Tiểu thừa. Các báu sinh ra khác với trân bảo của thế gian. Đây không với việc có của phàm phu thế tục. Như Bồ-tát thấy hai đế bất tư nghị cũng có khai hợp. Chân tục đều hiện ra, hai thứ đầy đủ như trước. Nay đem ba thứ quyền thật để giải thích nghóa bất tận quyền thật song hành. Lại nữa, trải bốn giáo mà nói bất tận và bất trụ. Tam tạng giáo nói: Nếu quán chân đoạn kết, lấy không làm chỗ chứng, thì đồng với Nhị thừa hôi đoạn mà trụ ở vô vi thì do đâu mà được thành tựu Phật pháp từ ba a-tăng-kỳ. Nên không được trụ ở vô vi. Bất tận hữu vi là từ bi lục độ vốn ước có tu hành giáo hóa chúng sinh trong tục. Nếu nhập chân thì không có việc này. Nếu đoạn hết nhân các hữu thì nhân hết quả mất. Làm sao được chỗ ở ba cõi để rộng làm Phật pháp. Nay lấy Bất tận hữu vi làm lậu kiết mà tu Phật pháp, thì mới có thể thành đạo chuyển pháp luân, mà dùng Tam tạng giáo hóa tha quyền thật đầy đủ. Về bất tận bất trụ của Thông giáo, nếu dứt hết hữu vi thì đồng với Nhị thừa, nếu trụ vô vi thì trái đạo Bồ-tát. Thế nên phương tiện từ không xuất giả, để lợi ích chúng sinh. Như trồng cây trên không, khéo léo phương tiện nên là bất tận hữu vi, không lấy chứng không nên bất trụ vô vi. Về Bất tận bất trụ của Biệt giáo, nếu chỉ dùng hai quán làm đạo phương tiện mà được nhập Trung đạo, ấy là trụ vô vi mà tận hữu vi. Nay tuy được nhập lý Trung đạo, nhưng trần sa Phật pháp đều chưa hiện tiền, thì đều biết đều học. Đâu được giữ Trung đạo này cần phải chiếu tục. Thế nên từ trung trở lại chiếu hai đế gọi là bất trụ vô vi. Nếu trừ tục của hai đế thì không có tục có thể quán. Nay chiếu hai đế này, khắp làm tất cả Phật đạo. Nên nói bất tận hữu vi. Không giữ Trung đạo nên nói bất trụ vô vi. Về trung, Viên giáo trở lại ước Biệt giáo mà nói nghóa, nếu chỉ quán trung tức là dứt hết hai đế, không chiếu hai đế tức là trụ vô vi. Nay ba đế viên quán một lúc liễu ngộ, liễu chân mà không trụ ở chân, liễu tục mà không dứt hết tục, không trụ không dứt cùng một lúc, song chiếu quyền thật đều sáng… Như ở cõi này nhiều ác nên việc luyện binh dạy võ cũng nhiều, dùng hai đế hóa tha mà đậu cơ đối với tự hành hai đế chưa xong, nên cơm thơm lại đến nơi này, tiện cho hàng Tam thừa gần xa đều như dòng Thân Tử. Ăn cơm này xong phát tâm rồi mới tiêu hết. Ở thời Pháp Hoa khai Phật tri kiến, tức là ba thứ quyền thật mà được đầy đủ. Cõi ấy không có các ác, nhưng đặt bày lễ nhạc chỉ tự hành quyền thật còn hóa tha quyền thật thì chưa liễu đạt. Thế nên ân cần xin phương tiện này, lại trở về cõi Hương Tích, bày Phật sự khiến cho họ thật hành, tức ba thứ quyền thật, thảy đều viên thông tự tại vô ngại. Hỏi: Các Bồ-tát ở cõi ấy dưới cây thơm được công đức tạng Tam- muội, tất cả Phật pháp đều ở trong đó, vì sao lại nói đối với hóa tha quyền thật chưa rõ? Đáp: Có hai nghóa: Một là, Tuy các Bồ-tát ấy có đủ ở cõi đó nhưng không hành pháp ấy, nên đối với đạo nhỏ của Nhị thừa, biết căn biết thuốc nhưng không sáng tỏ. Hai là, Ở cõi ấy tuy tịnh mà có quyền có thật. Thật thì chỉ học một giáo Thật mà chưa học phương tiện, thế nên xin pháp. Lại nữa, đem phước đức, thệ nguyện, biết thuốc biết bệnh bốn đôi, trải bốn giáo mỗi mỗi đều nêu tướng phân biệt thành tựu… Nay lại ước vào Viên giáo mà nêu, thì phước đức trang nghiêm là pháp năm Độ, ắt cần khắp ước hữu tác, vô tác, hai thứ Tứ đế, trong cõi ấy tu hành các cõi, đầy đủ trần sa Phật pháp. Nếu ở phần đoạn tu phước đức đầy đủ, hay ngồi ở đạo tràng Tam tạng giáo, làm Phật giáo hóa chúng sinh, nên nói Bất tận hữu vi. Nếu phương tiện ở trong hữu dư, tu phước đức đầy đủ, liền ở cõi ấy mà ngồi đạo tràng. Cho đến Biệt giáo, Viên giáo ở cõi quả báo, phước đức đầy đủ, liền ngồi đạo tràng làm Phật. Nay vì khắp đủ các phước đức trang nghiêm này, cho nên có bất tận hữu tác, vô tác hai thứ hữu vi làm trí tuệ, nên là bất tận hữu vi, là cảnh luôn phát trí. Nếu bỏ phần đoạn hữu dư biến dịch… thì quán sát cái gì. Đã không biết tướng mạo hằng sa cảnh giới Phần đoạn, thì trí tuệ không đầy đủ. Trí tuệ không đầy đủ, thì không thể được tùy duyên các cõi mà ngồi đạo tràng, cho nên bất tận hữu vi làm tăng trưởng trí tuệ. Đây là dùng phước đức hai nghiêm mà kết thành hạnh Bồ-tát trên. Đôi thứ hai Bất tận hữu vi, là muốn dùng đại Từ đại bi cứu khổ ban vui. từ bi này đâu chỉ cứu khổ hữu tác của hai đế tư nghị mà còn ban vui chân đế tư nghị, cũng là cứu khổ cả Tứ đế vô tác bất tư nghị và ban vui Trung đạo rốt ráo. Nếu khổ phần đoạn dứt, thì hay ở đạo thọ mà làm Phật Tam tạng giáo, cho đến khổ biến dịch dứt, thì tức là Phật Biệt giáo. Dùng đại Từ đại bi này mà lợi ích cho tất cả, nên nói là Bất tận hữu vi. Đầy đủ bản nguyện, tức là khi xưa khởi bốn thệ nguyện lớn, rộng duyên hữu tác và vô tác hai thứ Tứ đế, khởi thệ nguyện này. Mà nguyện chưa đầy đủ, sao được tận hữu vi. Tập pháp dược cũng thế. Trần sa Phật pháp ước vào hữu mà luận sâu cạn, căn cơ lớn nhỏ, tánh dục thiện ác mà đối trị, hoặc sắc hoặc hương, tất cả muôn pháp thảy đều khắp biết. Nhưng chưa đủ Phật pháp thì không nên diệt thọ mà thủ chứng. Thế nên bất trụ vô vi. Trong vô vi thì không bệnh, không thuốc, không năng thọ sở thọ. Nay muốn làm Đại Y vương để độ già, bệnh, chết, trao cho chúng sinh thuốc trị phiền não, đâu được đoạn dứt hữu vi. Vì bất tận, nên có thể làm Phật Tam ta- ïng giáo. Biết nhân duyên pháp dược trị bệnh phần đoạn của Tứ đế Nhị thừa, cho đến hay làm Lô-xá-na của Biệt giáo Viên giáo, ban vui pháp dược Trung đạo, nếu tận hữu vi thì không có các thứ này. Chúng sinh là hữu vi, nay trụ vô vi thì không vào biển lớn hữu vi sao biết được các thứ tướng mạo của các bệnh tham dục sân si. Đã không biết bệnh thì sai cơ nói pháp mà oan cho chúng sinh, dối trao lầm thuốc không phải là thầy thuốc sáng, vì biết bệnh nên bất trụ vô vi, vì diệt bệnh nên bất tận hữu vi. Nói diệt thì không phải là diệt cái diệt của không. Chư Phật, Bồ-tát tùy chỗ điều phục nơi ở của chúng sinh gọi là giải thoát. Ở trong đó mình không có phược mà hay mở các phược cho người khác, cũng không có phược, không có giải thoát mà khiến cho chúng sinh được không có phược, không có giải thoát, gọi là diệt, là điều phục. Vì bất tận hữu vi mà được giải thoát nên gọi là diệt bệnh. Phần thứ ba là kết, như văn. Khen ngợi trở về bản độ: Các Bồ-tát nghe được pháp phương tiện hóa tha quyền thật này thì liền giải ngộ, vui mừng kính lễ từ giả trở về bổn quốc. Văn trên nói: Khi mới xin pháp thì xấu hổ hối lỗi, là hối việc hóa tha quyền thật chưa rõ, cho nên sám hối dẹp trừ chướng cái, xin được pháp cao quý liền được khai giải, ba thứ quyền thật đầy đủ trọn vẹn. Đây là ở cõi khác đến cõi này được lợi ích. Nếu ở cõi này hối lỗi được lợi ích, như nhóm ngài Thân Tử… ăn cơm thơm rồi ở thời Pháp Hoa xấu hổ tự trách ăn năn các lỗi xưa. Khi tự trách thì chướng cái được tiêu trừ mà khai Phật tri kiến, nhập vào Phật tuệ, được thọ ký thành đạo, tự hành hóa tha, ba thứ quyền thật đầy đủ rõ ràng. Tức là ở ba cõi này nhờ lợi ích cõi khác, hai cõi song hành, cấu tịnh không hai thành tựu đầy đủ nghóa song quán, hoàn toàn ở tại đây… ------------------------------------- <詞>GIẢI THÍCH PHẨM: A SÚC PHẬT A là Vô, Súc là Động. Ngài Tịnh Danh dùng thần lực Bất tư nghị mà tiếp cõi Diệu Hỷ. Nay bốn chúng cõi này nhìn thấy Đức Thế Tôn Vô Động và cõi nước ngài ở, nhân đó lấy tên là phẩm Vô Động “phẩm A-súc”. Chỉ bộ kinh nay văn gồm ba nơi hiện bày nghóa Phật quốc: Như phẩm Phật Quốc đáp lời Trưởng giả xong, nhân ngài Thân Tử nghi mà hiện ra tịnh quốc. Vào thất luận đạo việc sắêp xong, do ngài Thân Tử nghó đến việc ăn, mà hiện ra cõi Hương Tích. Khi ra thất trở về chỗ Phật, trở về tông luận đạo nói hạnh Bồ- tát, liền hiển hiện chỗ ở của ngài Tịnh Danh là cõi nước Diệu Hỷ. Phải biết ba nơi đều nói pháp trừ hoặc lụy cho chúng sinh, khi duyên phược đã hết, nghiệp tịnh độ thành thì hiện tướng này để biểu thị. Văn trên luận hạnh Bồ-tát nói nhân Phật quốc, phẩm này bèn hiện cõi Diệu Hỷ bày quả Phật quốc. Môn nhân quả để nói khi ra thất đề xướng trở về tông mà dẫn chứng cho biết đã thành nghóa nhân quả Phật quốc trên. Kinh này dùng nhân quả Phật quốc làm tông. Văn ấy chỉ rõ phần này có hai: Nói thể dụng của pháp thân. Nói chỗ ở của tịnh quốc. Thể dụng của pháp thân: Chư Phật đã có pháp, ứng hai thân thì cũng có tánh tịnh, tùy duyên hai cõi. Ngài Tịnh Danh là Đại só cực địa cũng đồng chư Phật có hai trí không phải cấu, không phải tịnh. Do ng- hóa này cho nên không bỏ cõi Diệu Hỷ mà hay cấu tịnh song hành. Hai thân, hai cõi lợi ích chúng sinh khiến được giải thoát. Văn sau tự nói mặt trời, mặt trăng du hành ở thế gian dẹp tan bóng tối, Bồ-tát cũng hiện ở hai cõi để dẹp trừ các nghi hoặc. Quán thân thật tướng tức đồng pháp thân Phật Vô Ngại Tuệ không có bao nhiêu thứ. Ở phương trượng giả bệnh nằm để hưng giáo, tức là đồng Phật có ứng thân phương tiện tiếp dẫn. Ở cõi Diệu Hỷ trợ giúp Đức Vô Động “A-súc”, tức là đồng chư Phật có tịnh quốc. Ở cõi Ta-bà mà giúp Đức Thích-ca hoằng hóa, tức là đồng chư Phật mà thị hiện cơ cõi uế tùy duyên lợi ích chúng sinh. Tịnh uế song hành viên thông vô ngại, là đồng chư Phật có được quyền thật. Dụ như trăng ngày mười bốn khác ngày rằm để phân biệt sự khác nhau của Phật và Bồ-tát mà thôi. Trong phần pháp thân có hai: Một là, Phật hỏi pháp thân. Hai là, Ngài Thân Tử hỏi ứng thân. Phật hỏi có hai: Phật hỏi và Đại só đáp. Trong phần Đại só đáp có bốn: Đáp chung. Đáp riêng. Kết. Biệt tà chánh. Đáp chung nói: Quán thân thật tướng thì quán Phật cũng thế, tức là chỉ quán thật tướng mình cùng thật tướng Phật không khác, thật tướng Phật cùng mình không khác. Nên Đại phẩm nói: Các pháp như thật tướng, tức là thật tướng Phật không tới không lui. Đây có ba ý: Tìm ngọn lấy gốc. Ở ngôi vị. Quán tâm. Tìm ngọn lấy gốc, nói Đại só là Kim Túc Như Lai mà được pháp thân, cùng pháp thân Đức Thích-ca ngày nay không khác. Nên văn trên nói: Chư Phật có chủng tánh sắc thân đều bình đẳng. Thế nên được biết quán thật tánh mình cùng thật tánh Phật là một thứ không khác. Nên nói quán Phật cũng thế. Ở ngôi vị, là nói ngôi vị của Đại só ở vị Thập địa bổ xứ, ở gần kế Phật sẽ tiếp nối ngôi vị Phật nhưng tướng Thập địa cùng thật tướng của diệu giác chứng được nào có khác gì? Quán tâm. Như văn trên nói: Giải thoát của chư Phật phải tìm ở tâm hạnh của chúng sinh, tìm tướng tâm tất cả chúng sinh tức tướng Bồ-đề. Chúng sinh như Phật như, nhất như không hai. Thật tướng, tức là Phật. Nên kinh nói tâm dạo pháp giới như hư không, người ấy có thể hiểu biết cảnh giới chư Phật. Quán tâm tánh mình đã là thật tướng tức cùng tâm tướng chư Phật nghóa đồng thí như người tạ pháp… Nếu chánh quán tướng này đầy đủ như nhập Bất nhị pháp môn, quên mất hai biên chánh hiển bày Trung đạo. Trong đây lập lại ý đó. Sở dó Như Lai hỏi. Vì trước luận Vô ngại tuệ không có các thứ, công đức thân trí chư Phật đều bình đẳng. Phật muốn hiển bày pháp thân của Đại só cùng chư Phật không khác. Thế nên hỏi rằng: Quán pháp thân thế nào? Nếu luận pháp thân thì pháp thân ắt có chỗ chỉ, chỗ chỉ tức là Phật quốc, nên có câu hỏi này. Có người khác giải rằng ứng thân Phật mới có tên bờ cõi ranh giới, cõi nước pháp thân thì ngầm lặng sao có cõi nước? Nay giải không phải thế. Pháp thân chư Phật còn không phải cấu không phải tịnh, mà hay tùy duyên song hành cấu tịnh. Nay pháp thân Phật không phải cảnh không phải trí, mà cũng song chiếu cảnh trí, ý gì lại không được luận chân cảnh giới cõi nước ư? Nên kinh Kim Quang Minh nói: Trí cảnh bất khả tư nghị, trí chiếu bất khả tư nghị, cảnh bất khả tư nghị này đâu không phải là nơi ở của linh trí pháp thân. Phổ Hiền Quán có nói: Tỳ-lô- giá-na là cực diệu pháp thân, mà nói có cõi nước tên Thường tịch quang biến khắp mọi nơi. Đây đâu không phải là cảnh chân quốc. Đáp riêng: Quán trong ba đời mé trước không đến. Như thấy có pháp vị lai nhập vào hiện tại mà có thể được là sinh là đến, có thể được là có bờ cõi và không có bờ cõi. Xưa không thấy có vị lai để đến, huống là có đến nhập vào hiện tại. Thế nên mé trước không đến mé sau không đi. Nếu có pháp diệt đi vào quá khứ thì có thể được nói là diệt nói là đi. Có thể nói được rằng như đi không như đi. Nay không thấy có pháp đi vào quá khứ. Thế nên mé sau không đi. Nay thì không trụ, là nếu có pháp ở hiện tại, sao được nói là trụ, có thể nói là thường và vô thường. Nay không thấy pháp ở hiện tại, sao được nói là trụ. Cho nên ba đời tìm không thể được. Có người giải rằng từ Kim cang trở về trước là Không có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, từ kim cang trở về sau là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Nay giải không phải thế. kim cang trở về trước là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Vì sao? Vì pháp Phật tánh vốn có từ xưa, không phải bỗng nay mới có. Kim cang trở về sau là Không có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Vì sao? Vì kinh nói Bồ-tát Thập địa ở vô lượng kiếp, đã đảo tu việc phàm phu. Nếu pháp thân khởi ứng ở lục đạo đồng với phàm phu sinh diệt, tức cũng phải có hay không có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Thế nên đồng với người khác mà thật không đồng. Lại có người giải: Ứng chỉ là hóa, hóa chỉ là ứng. Nay giải không phải thế. Ứng thì hay là hóa mà hóa thì không thể là ứng được. Như các phàm phu ngoại đạo, các Tiên, ngũ thông, Thiên thần quỷ mị đều có thể biến hóa nhưng họ không thể là ứng được. Việc hóa hiện thì cũng chỉ tạm thời quyền có không thể nguyên vẹn trước sau. Nay nói ứng là đồng với ứng, đồng một pháp trước sau như nhất nên gọi là ứng. Như Lai dùng tâm không phân biệt và trí tự tại mà tùy cơ có cảm ứng, mà chỗ dùng vô ngại không nhọc sức nghó ngợi giữ gìn như gương sáng có hình tượng nào đều hiện rõ không chút tương tợ hay sai khác. Như các Thiện tiên hóa hiện, phải gắng sức vận niệm mới hóa được. Như phải vận niệm hết sức vào cánh tay để vẽ hình người… Nhưng chưa ắt là hoàn toàn không động niệm. Về diệu và không diệu thì ước vào hai thí dụ này có thể biết. Không quán sắc, là tâm như nhà huyễn thuật làm các hình sắc. Nếu biết nhà huyễn thuật lừa dối thì không có được cái sắc huyễn hóa đó. Nay sắc từ tâm nhà huyễn thuật huyễn hóa ra, còn không được tâm này thì chỗ nào mà thấy có sắc này. Nên không quán sắc. Không quán sắc như, nếu thấy sắc cùng như khác nhau, ấy là dứt sắc nhập vào như. Nay không thấy sắc khác như, nên không quán sắc như. Sắc tánh, hoặc nói như chỉ là tánh, tánh chỉ là như, hoặc có nghóa này. Nay Thánh nhân không cho lập lại một pháp, hai lần nhắc lại là biểu thị điều đó. Nay đem tánh này làm Phật tánh không quán sắc là Không của tục đế, không quán sắc như là Không của chân đế. Không quán Phật tánh là Không của Trung đạo. Đem cái chấp có Phật tánh Trung đạo này mà khởi thuận đạo ái sinh, ấy là đảnh đọa. Nên văn trên nói ngã và Niết-bàn hai thứ đều không, chỉ có bệnh không, bệnh không cũng không. Nay không quán tánh là Không thuận đạo ái. Nên không quán tánh. Không phải bốn đại khởi, là tuy quán thân ấy không ở bốn đại khởi hoặc như là phàm phu. Không ở bốn đại khởi giải như Nhị thừa, không hoặc không giải cho nên nói là Không khởi đồng với hư không. Đó gọi là thật tướng. Lục nhập, là hay chứa nhóm sáu trần mà tạo ra sinh tử. Không đồng sáu nhập chứa nhóm của phàm phu. Cho nên nhãn nhó đã qua khác với cảnh giới sáu căn của phàm phu. Không ở ba cõi, là đã ra khỏi chân tục. Ba cấu đã lìa, là Không có ba cấu quốc. Thuận ba thoát, là duyên với nhất thật tướng mà thuận ba giải thoát. Ba minh cùng vô minh bằng nhau, là nguồn gốc vô minh tức là thật tướng pháp tánh. Pháp tánh này không có gì bằng, tức là Không có trí nào có thể ngang hàng. Đây gọi là vô đẳng đẳng. Ba minh, là Thiên nhãn minh hay chiếu thấu vị lai, Lậu tận minh thấu suốt hiện tại và Túc mạng minh biết cùng tận quá khứ, thấu suốt đầu mối của vô minh. Dù Thập trụ cũng không thấy được đầu mối, chỉ có Phật mới thấy được thỉ chung. Đã nói quán thân thật tướng, quán Phật cũng thế. Phật thấu suốt đầu mối vô minh, nay biết đầu mối ấy ngang bằng “đẳng) với vô minh. Lậu tận thì hay biết được lậu của năm trụ. Hoặc vô minh dứt hết nên nói là đẳng. Tướng “Một” là tướng của chân đế, tướng khác là tướng sai khác của tục đế. Nay thật tướng không phải Chân không phải tục, nên không phải một không phải khác. Không tự, là du hành đến nước khác gọi là tha tướng, đến gặp nhà cha gọi là tự tướng. Đây là ứng dụng chân tu và duyên tu, tự sinh tha sinh mà rộng phá, lìa hẳn các đẳng tự tha này mà nhập vào thật tướng. Không phải vô tướng, là Không phải Niết-bàn. Không phải thủ tướng, là Không phải sinh tử. Không phải sinh tử, không phải phàm phu, không phải Niết- bàn, không phải Nhị thừa. Không phải ở bờ bên này, không phải tục đế, không phải ở bờ bên kia, không phải chân đế. Không ở giữa dòng, không phải các phiền não. Bờ bên này lìa đây lìa kia, trái với bờ bên kia không phải kia không phải đây mà giáo hóa chúng sinh. Đây là nói chung về ứng dụng pháp thân. Không đây không kia, tức là Không sinh tử không Niết-bàn. Không dùng đây không dùng kia, là quán trí hai đế, cảnh trí cùng sáng. Không thể dùng trí mà biết là phá tan các pháp tức là chân đế. Không thể dùng thức mà biết, tức nhóm họp các pháp, nên gọi là thức, tức là sinh tử tục đế. Không tối không sáng, tức là giải hoặc. Giải hoặc tức là sinh tử và Niết-bàn, gọi là tức thế gian, tương tức với xuất thế, nên chân đế gọi là thật tướng. Không mạnh không yếu tức sinh tử là pháp dữ dằn nên gọi là mạnh. Trí tuệ là lý giúp dễ ngộ nên gọi là yếu. Không phải mạnh không phải yếu nên là thật tướng. Không ở nơi nào, tức pháp tánh không ở bờ cõi sinh tử, há lại có cõi giới nên nói không ở nơi nào. Không lìa, chỉ là ở cõi Thường tịch quang, cũng là ở tất cả chỗ, nên nói không lìa không phải hữu vi, không phải vô vi như vô tận môn vậy. Không bày không nói như ngài Duy-ma nín thinh. Không bố thí là Không phải bờ kia đàn độ, không keo kiệt, là Không đồng bờ này bí lẫn phàm phu. Cả lục độ cũng y như thế. Niết-bàn thẩm đế là thành thật. Sinh tử hư giả là dối trá, chẳng đến là thừa như thật đạo, đến là thành chánh giác. Không đi thừa ấy là từ ba cõi mà ra đến Tát-bà-nhã. Lìa bỏ tới lui này không ra khỏi không phải Nhị thừa, không nhập vào Không phải phàm phu. Dứt đường nói năng như ngài Tịnh Danh im lặng. Không phải phước điền như trách ngài Tu-bồ-đề, không phải chẳng phước điền như ủy dụ Tu-bồ-đề. Không phải đáng nhận cúng dường như trách Tu-bồ-đề, cũng không phải Không đáng nhận cúng dường Như Lai chánh giác gọi là ứng dụng. Đồng với chân tế bình đẳng, pháp tánh ngầm hợp, chân thật không thể suy lường, tức là pháp giải thoát bất tư nghị. Cho đến động cũng như thế. Đồng chúng sinh tất cả chúng sinh cũng thế. Không phân biệt, là nhập vào nhất thật tướng không thấy cao thấp, không lỗi, không có ba thứ lậu rơi vào ba cõi không mừng, không chán… đều ước vào ba cõi phiền não để nói, không có cái đã có và sẽ có… Nên ước vào kinh Niết-bàn giải thích kệ ba đời, mà giải thích ý này. Kết và Phân biệt tà chánh như văn. Xá-lợi-phất hỏi: Ngài Xá-lợi là người khởi giáo. Đã biết Đại só có pháp thân thật tướng đồng với chư Phật. Kế hiển bày ứng thân tùy duyên hóa vật, có công năng đại dụng vô cùng, cho nên hỏi. Câu hỏi này cũng so ý của Tam tạng giáo. Nếu Phật Tam tạng giáo mất rồi thì không sinh, nếu Bồ-tát Tam tạng giáo còn có hoặc lụy thì còn có sinh. Nếu thế thì hỏi sao chết rồi còn sinh cõi này. Phần này có hai: Một là trách ngài Thân Tử. Hai là, Phật nói cõi nước đã ở. Phần trách Thân Tử lại có hai: Thân Tử hỏi và Phật đáp. Trong phần Phật đáp lại có năm: Chất vấn lại. Thí dụ làm sáng tỏ. 3- Hỏi. Đáp. Dẫn lời Phật để giải thích. Chất vấn lại: Trong giải thoát ông còn không chết rồi sinh lại, trong pháp thân ta sao được có chết rồi sinh, ông đã không như thế sao được lấy đó mà hỏi. Thí dụ, như nhà huyễn thuật thì chỉ là chết huyễn và sinh huyễn. Đây há là thật. Nếu không là thật sao được nói có chết rồi sinh lại. Dẫn lời Phật để giải thích. Trong đó nói: Bồ-tát tuy chết rồi nhưng gốc thiện không mất, không đồng với hàng Nhị thừa hôi thân tận trí gọi là hết gốc thiện. Bồ-tát không diệt trí thì công đức ra làm cũng không thể mất. Lấy gốc thiện này mà lợi ích chúng sinh. Không nuôi lớn ác, không đồng chứa nhóm như phàm phu, cũng không dứt mất gốc thiện, không đồng diệt hết như hàng Nhị thừa. Do gốc thiện không mất, nên hay ứng hiện vào các cõi cấu tịnh, nhưng đều không nuôi lớn thiện ác hai cõi nước cấu tịnh. Trong phần Phật đáp Tịnh Quốc có ba: Một là Phật nói chỗ của tùy duyên tịnh quốc. Hai là Thân Tử khen ngợi. Ba là Đại só nêu giải thích. Trong phần giải thích có năm: 1- Hỏi mặt trời và bóng tối có hợp nhau chăng. 2- Đáp. 3- Hỏi mặt trời từ đâu ra. 4- Đáp. 5- Nêu giải thích sự ra đều ở đây, là nói người đồng chư Phật có pháp ứng hai thân… Phần đáp thứ hai, từ đại chúng đến khát ngưỡng muốn thấy nước Diệu Hỷ trở đi, tức là hiện tịnh quốc, là nơi Đại só ở đấy. Có ba ý: Một là Thử nghiệm tịnh quốc của Đại só. Hai là khiến thời chúng khởi hạnh tịnh quốc. Ba là, khuyên phát nguyện vãng sinh. Thế nên có một đoạn văn này, có bảy phần: 1- Đại chúng khát nguỡng muốn thấy. 2- Khiến hiện cõi nước. Vâng lời dời cõi nước. Phật khuyên thời chúng tu hành. 5- Đại chúng phát tâm. 6- Lợi ích xong trở về bổn quốc. 7- Ngài Thân Tử khen ngợi. Nay nói đại chúng khát ngưỡng muốn thấy. Nghe nói nước Diệu Hỷ trên là nơi ở của Đại só, thế nên một lòng khát ngưỡng. Phật khiến hiện cõi nước. Có hai: 1- Nói Phật tịch chiếu biết có ý niệm. 2- Phật khiến hiện cõi nước. Vâng lời hiện cõi nước. Có sáu: 1- Một lòng muốn dời núi rừng thế giới Diệu Hỷ. 2- Chánh hiện thần lực. 3- Kẻ có thần thông biết mà kinh hãi quái lạ. 4- Phật khen việc làm của ngài Tịnh Danh 5- Người không có thần thông không biết. 6- Cõi ấy vào cõi này không tổn giảm. Phật khuyên thời chúng tu hạnh của Vô Động Như Lai. Phần này có ba: 1- Khuyên quán cõi nghiêm tịnh. 2- Thời chúng đáp là đã thấy. 3- Chánh khuyên tu hạnh Vô động như trong phẩm Phật Quốc đáp lời Trưởng giả tử đã nói. Lại như ở phần vào thất an ủi điều phục hành ở phi đạo mà thông suốt Phật đạo như môn tận vô tận tức là hạnh Tịnh độ. Thời chúng phát tâm tu hành, có hai: 1- Phát tâm. 2- Phát nguyện. Có mười bốn na-do-tha người ngộ, đều là từ trước đến nay các thứ nói pháp các thứ thần biến sắp xong, liền hiện tịnh quốc này, đều mong Như Lai khuyến phát. Thế nên cùng lúc có mười bốn na-do-tha người được ngộ. Phát nguyện, là tịnh hạnh tinh tế sâu sắc khó thể hiện, liền lập thệ sinh cõi nước ấy, ở đấy mà tu hành. Trong đó Phật thọ ký cho được sinh. Phần ký có hai: Thọ ký xa và thọ ký gần. Nếu lập thệ thì sau này nhất định được sinh, tức là ký gần. Nếu tu nhân tịnh hạnh thì ắt là chiêu quả tịnh độ như Phật quốc ấy, tức là ký xa. Như văn. Ngài Thân Tử khen ngợi. Có sáu: 1- Phật hỏi thấy không. Đáp đúng thế. Vì tất cả chúng sinh mà phát nguyện. 4- Tự mong được nhờ cậy. 5- Khen công đức nghe kinh. 6- Nêu ra phước sâu. Trong đó có sáu phen giải thích. Như văn. Nếu căn cứ theo lời ý này thì đây là đoạn lưu thông. Nay nói ngài Thân Tử là người Tiểu thừa không phải là người gánh vác Đại thừa nên không thuộc phần Lưu thông, chỉ là phần bắt đầu cho lưu thông thôi. ------------------------------------- <詞>GIẢI THÍCH PHẨM: PHÁP CÚNG DƯỜNG Phẩm này chính nói Đế Thích hoằng kinh hộ trì Đại pháp tức là đoạn Lưu thông thứ ba gồm có hai phẩm. Lưu thông từ thí dụ mà được tên, như “Kỳ nguyên nhó”đã giải thích là từ trên suốt dưới gọi là Lưu, không chỗ nào bị trở ngại gọi là Thông. Nay dùng kinh pháp bảo thật tướng Vô thượng này khắp đủ các đời chúng sinh khiến cho không ủng tắc cách ngăn, ở đời rốt sau những kẻ có duyên đều thắm đượm lợi ích, đây là do lòng từ bi thuần hậu vậy. Văn này có hai: Từ phẩm này nói Thiên đế hộ pháp nêu việc ngài Nguyệt Cái dùng pháp cúng dường để nói sâu sắc lợi ích hộ trì hiển bày đức trọng việc hoằng kinh. Từ phẩm Chúc Lụy trở đi nói Đại Thánh ân cần phó chúc, trịnh trọng khiến cho đời tượng mạt, giáo pháp vẫn được tuyên thông. Phần này có hai: Thiên đế khen ngợi hoằng kinh. Như Lai kể thành ý ấy. Phần một Thiên đế khen, có ba: a- Khen pháp. Khen người. c- Phát thệ. - Khen pháp: Nay nói Thiên đế muốn hộ trì Đại Điển, tu tập pháp môn cao quý giữ gìn kinh này cốt ý duy trì sự hoằng hóa, tức là dùng pháp cúng dường pháp thân. Như Thích Luận nói: Ca-tỳ-la là nơi sinh sinh thân, Ma-già-đà là nơi sinh pháp thân, vì báo ân mà thường ở tại hai nước nói pháp. Trong hai nước thì báo, pháp thân thường nói pháp ở nước Ma-già-đà. Hộ trì tức là pháp cúng dường vậy. Lại nữa, Thiên đế và Phạm vương đồng thỉnh Phật nói pháp. Như Lai nhận lời quán biết cơ không kham lãnh Đại thừa, bèn khai giáo Tiểu thừa. Khi Tiểu giáo đã hưng, bèn nói Đại. Nay giải thoát Bất tư nghị này cũng là đáp lời thỉnh xưa. Thích Luận nói: Nói Bát-nhã cũng là đáp lời thỉnh của Phạm vương Thiên đế. Thiên đế đã được đáp thỉnh nên vui mừng hộ trì. Như nói Thiên chủ được quả A-na-hàm không cần lưu thông Đại giáo. Đây là trong Tam tạng giáo gọi là Na-hàm. Kinh Hoa Nghiêm nói Thiên chủ trụ ở mười pháp môn bất tư nghị, đâu lại không kham lưu thông pháp này. Lại vì Thiên chủ giáo hóa quần sinh rất là nổi tiếng. Trong phần khen pháp thì trước khen cái dụng của giải thoát bất tư nghị, kế khen pháp thật tướng. Không có pháp thì không do đâu mà thành người, không có người thì lấy gì mà hiển bày pháp, nên phải cùng khen. Trăm ngàn kinh, tức là các kinh dạy đầu tiên A-hàm… trong A- hàm cũng có thọ ký cho ngài Di-lặc, đâu ngại gì đối Văn-thù nói pháp. Lại nữa, Thông giáo, Biệt giáo chưa từng nghe pháp môn Viên giáo này là đạo đầy đủ, thể dụng khó lường, xưa chưa từng nghe. Khen người có hai: Giải thích công đức nghe kinh. Nêu hạnh Như pháp. Đóng các nẽo dữ là chỉ thiện, mở các cửa thiện là hành thiện. Hành tức là quán, chỉ tức là định. Trong đây ước hai thứ nhân quả mà xét. Vì Phật hộ niệm, là nói người tu hai nhân chỉ và hành, khế hợp đạo lý sâu sắc, thế nên gia hộ những gì đáng gia hộ, nên nói hộ niệm. Nhưng Phật khắp hộ chúng sinh, chúng sinh không có ghẻ độc thì không được nhập. Nếu tu nhân chỉ, hành này tức là có nghóa tín tâm bị ghẻ độc cũng được hộ niệm. Quán tâm, là dùng chỉ quán điều tâm gọi là giác. Tất cả tà niệm loạn động liền dùng hai pháp chỉ quán mà quán, không cho duyên niệm được khởi. Đó là thường hộ niệm cho giác tâm. Hàng phục ngoại đạo tức là điều phục hai hoặc kiến tư, sáu mươi hai kiến các đạo tà chấp, được đạo Bồ-tát đã hay hàng phục các ma phiền não như trước nói. Cho đến bốn ma, tám ma, mười ma… Nên văn trên nói: Đầu tiên ở cội Bồ-đề, ra sức hàng ma được cam lộ diệt, khi đã thành giác đạo, đối với các pháp Không còn quái ngại, chí hay tồi phục các ngoại đạo, tức là người phát tâm tu học viên quán. Khi nhập sơ phát tâm liền hay tám tướng thành đạo gọi là Phật. Hàng phục ma oán, độ thoát tất cả mà tu trị Phật đạo, tức là giáo hóa ngoại đạo làm tám tướng của Phật, nhưng nội tâm đối với pháp thân luôn tu trị đạo thành tựu đầy đủ Phật pháp nào thiếu sót, ở yên chốn đạo tràng, như ngài Quang Nghiêm luận tướng đạo tràng. Tiếp bdựa theo Phật làm những việc Phật làm, trụ nơi Phật trụ. Chư Phật đến như thế, ta cũng đến như thế đều là lân quả lần lượt khen ngợi. Phát nguyện hoằng pháp “Như có người trì tụng…” Phần hai từ ‘Phật nói lành thay…, là kể thành ba đoạn Thiên đế trên: Kể việc khen pháp. Kể việc khen người. Kể việc phát thệ. Kể việc khen pháp: Ta giúp ông vui mừng, là nói kinh này là Bồ- đề bất tư nghị của Phật ba đời tức là kể việc khen pháp. Nói Bồ-đề Bất khả tư nghị của Phật ba đời tức là pháp thật tướng, Phật do thật tướng này mà được Bồ-đề. - Kể việc khen người: “Nam nữ thọ trì kinh này là cúng dường Phật ở quá khứ, vị lai, hiện tại…” là kể việc khen người. Phần này có bốn: 1- Suy lường công đức. 2- Hỏi. Đáp. Chánh suy lường. - Ở phần suy lường có hai: Cách cúng dường Phật hiện tại. 2- Xây tháp sau khi Phật diệt độ. Phần hỏi, như văn. Phần đáp, có hai: 1- Đáp rất nhiều. Giải thích lý do không kể hết. Trong kinh Đại thừa nói suy lường cúng dường sinh thân không bằng pháp thân. Vì sao? Vì đây chính nói phước sinh thân không động không xuất, còn công đức của pháp thân thì hay động hay xuất. Xuất là lìa khỏi sinh tử, nên nói phước không hướng đến Bồ-đề; hai là hướng đến Bồ-đề. Đối với thật gọi là liễu nhân, đối các tên khác thì gọi là sinh nhân. Sinh nhân là duyên nhân. Phước đức không động không xuất không tiến đến Bồ-đề. Công đức thì có hết đối với thật gọi là liễu nhân. Thật tức là thật tướng, liễu nhân là chiếu liễu, cùng thật tướng tương ưng có thể tiến đến Bồ-đề. Công đức không hết đồng với hư không bình đẳng pháp giới. Đâu được cùng phước đức bất động bất xuất mà trước là pháp hữu hạn mà suy lường. Cúng dường sinh thân gọi là sinh nhân không tiến đến Bồ-đề, cúng dường pháp thân thật gọi là liễu nhân hay tiến đến Bồ-đề, thế nên không thể suy lường cùng cực được. Kim Cang Bát-nhã có nói: Trụ tướng bố thí như người vào chỗ tối không thấy gì, còn không trụ tướng bố thí như người mắt sáng ở dưới ánh mặt trời thì thấy rõ mọi vật. Hư không ở Đông phương không thể suy lường, ở Nam, Tây, Bắc phương cũng khó lượng định, pháp cúng dường là cao nhất. Lại nữa Đại phẩm có nói: Thật tướng là mẹ của chư Phật ba đời, nếu mẹ bị bệnh thì các con đều buồn lo. Nếu pháp thật tướng không rộng khắp chúng sinh ước vào chúng sinh nên nói thật tướng có bệnh. Nếu chỉ cúng dường một Phật còn đối các Phật khác thì không có công đức, nếu chê bai một Phật đối các Phật khác thì không tội, nếu cúng dường tướng thật tướng mẹ Phật thì đầy đủ công đức của chư Phật ở mười phương ba đời, nếu hủy báng mẹ Phật thì mắc tội đối với chư Phật. Thế nên kể việc Thiên đế nói: Bồ-đề của chư Phật đều từ đó sinh ra. Tướng Bồ-đề không thể hạn lượng. Phần Chánh suy lường, trong đó cũng khen hai hạnh tín pháp, nghe kinh bất tư nghị ấy mà tin hiểu, đó là kể thành bậc Tín hành trên. Tu hành có nhiều phước là kể thành pháp hành trên. Kể việc phát thệ hoằng kinh hộ trì để truyền rộng rãi “Quá khứ Dược Vương Phật…”. Văn có bốn: 1- Nói nguyên do pháp cúng dường ở quá khứ. 2- Nói về vương tử Nguyệt Cái. Kết hội xưa nay. Kế giải thích thành. Trong phần nói nguyên do pháp cúng dường ở quá khứ có ba: 1- Nói có Phật. 2- Nói có lệnh vua sai các con cúng dường. 3- Nói các con vâng lệnh vua cúng dường. Trong phần nói về vương tử nguyện cái “Vua có một người con tên là Nguyệt Cái” trở xuống…. Văn có chín: Vương tử ngồi một mình suy nghó tìm pháp cúng dường cao quý. Trên không trung có tiếng cảnh giác. Nhân đó hỏi pháp cao quý. Trời khuyên hỏi Như Lai. Đến xin Phật. Phật chỉ cách. Nghe pháp được thuận nhẫn. Phật ký việc hộ pháp. Xuất gia vì đạo cúng dường pháp. Ở phần sáu, Phật chỉ cách có hai: 1- Nói pháp thắng diệu. “Nếu nghe những kinh ấy mà tin hiểu…” là nói tâm cúng dường. - Ở phần pháp thắng diệu, có bốn: 1- Phật nói … là nói pháp tối diệu. Bồ-tát Pháp Tạng dựa pháp luận nhân. Thường khiến chúng sinh ngồi đạo tràng… là dựa pháp luận quả. 4-“Phật Hiền Thánh…” là Phật khen và ấn định nhân quả. Nay nói về người tin sâu kinh này, là về lý thật tướng thì không phải sâu không phải cạn, mà làm sâu cạn hai duyên. Trong không phải sâu cạn mà nói hai thứ sâu cạn. Cạn là kinh thuộc Tam tạng giáo, Thông, Biệt giáo, còn sâu là giáo viên cực, gọi là kinh sâu. Hình dạng kinh sâu tức như nghóa quán thân thật tướng mà Đại só từ trước nay đã nói, tức là kinh sâu thanh tịnh. Khó tin là như trong một hạt vi trần có cả đại thiên kinh quyển. Người không tin là lý thật tướng chỉ ở trong tâm không phải nhọc tìm đâu xa, gần mà không biết, nên nói là Không tin, nên gọi là khó tin. Khó nhận là nếu có nhận thì có làm, nếu không nhận thì không làm. Tức tin nhận thật tướng thì hay tu hành, nếu không tin nhận thì không thể tu tập. Vi diệu, tức là tên khác của giải thoát bất tư nghị. Cũng là ba đức vi diệu: Ngã, pháp, diệu khó nghó bàn. Thanh tịnh không nhiễm, là Không bị ba thứ kiến tư dấy nhiễm, cũng như hư không không có uế tịnh. Không phải suy lường phân biệt mà hay được, là động niệm suy tưởng thì không thể khế hợp. Không nghó nhớ, không phân biệt, tự nhiên lưu nhập biển Tát-bà-nhã. Cũng không phải là hạng người phương tiện của Tam tạng giáo, Thông Biệt lường biết được. Nói về nhân: Bồ-tát Pháp Tạng nhiếp bộ, là nói Bồ-tát Pháp Tạng nghe và giữ hạnh trước. Tạng ba đức bí mật là Không dọc, không ngang không chỗ chứa nhóm bèn gọi là tạng “kho) gồm nhập các pháp đều ở trong ấy. Đà-la-ni ấn, Đà-la-ni gọi là hay ngăn giữ. Giữ các thiện không mất, ngăn các ác không khởi, không khởi không mất gọi là ấn. Đến bất thoái chuyển, tức là ngăn giữ các thiện không có thoái chuyển, cũng là vị bất thoái Vô sinh pháp nhẫn mà thành tựu sáu Độ… Khéo phân biệt thuận với Bồ-đề, tức là khéo hay phân biệt tướng các pháp ở Đệ nhất nghóa mà không động. Ở trên các kinh, là trên các kinh của Tam tạng giáo, Thông, Biệt giáo. Nhập đại từ bi, tức là khởi Vô duyên từ như ba mươi hai thứ từ đã nói trên. Lìa các ma, tức là lìa tám ma, mười ma… cũng là lìa ba thứ ái. Thiên ma thuộc sinh tử bị ái lưu chuyển, Bồ-tát lìa đây, nên gọi là lìa ma. Và tà kiến, cũng là tất cả các kiến trong ba thứ phương tiện, từ đây trở về trước đều gọi là tà kiến. Trong thật tướng đều lìa các kiến này. Thuận nhân duyên, tánh nhân duyên tức là thật tướng, thuận thật tướng này mà quán sâu các pháp, đủ nhân duyên thứ hai sinh và pháp Không, tức là pháp Không. Duyên thật tướng tu hai không Tam-muội. Dựa theo luận nói quả: Ngồi ở đạo tràng, là nếu hay như đây mà viên quán thật tướng nhập Niết-bàn. Bát-nhã gọi là trụ. Khi trụ ở phát tâm trụ tức hay tám tướng thành đạo, tùy duyên làm Phật. Cho nên nói: “Khi mới phát tâm liền ngồi đạo tràng”. Chuyển pháp luân, là viên, đốn, tiệm ba giáo, nên nói chuyển pháp luân. Thiên long cùng khen ngợi, tức là đã ngồi đạo tràng làm Phật lợi ích cho tất cả, nên nhân Thiên kính ngưỡng. Nhập Phật pháp tạng, tức đặt các con trong bí mật tạng. Viên giáo nhiếp bốn mươi hai Hiền Thánh, Thiên giáo nhiếp hai mươi bảy Hiền Thánh, đều là Phật pháp tạng “kho Phật pháp”. Tất cả trí tuệ, tức đều khiến người học Thiên, Viên được nhập Phật tuệ. Kinh Pháp Hoa nói: Người như thế ta cũng khiến cho nhập Phật tuệ. Nói đạo ra làm của chúng Bồ-tát, là Bồ-tát lấy thật tướng làm đạo, tuy học các giáo khác, nhưng cuối cùng vẫn dẫn về thật tướng. Nương nghóa thật tướng, là hoặc nhân hoặc quả không được lìa thật tướng, ước vào thật tướng này mà luận giáo Thiên, Viên. Nên Pháp Hoa có nói: Nếu người trí sâu vì nói pháp này, tức nói thật tướng. Lại nói: Nếu không hiểu pháp này, thì Như Lai trong các thâm pháp khác, bày giáo lợi hỷ tức nói giáo Thiên tiệm, là tuyên nói vô ngã trụ ở không tịch diệt vậy. Hay cứu việc hủy cấm là trong phương tiện giáo đều trái với viên cực gọi là hủy cấm, nếu vào viên trung thì không còn lỗi phương tiện. Cũng là trong Tiểu thừa hủy trọng cấm mà không sám hối, nếu là Đại thừa thì hay có vô sinh chánh quán mà chùi rửa, nên nói là cứu việc hủy cấm. Các ma ngoại đạo kinh sợ, tức là đoạn trừ tâm hai thứ ái kiến, nên không có năm sợ. Chư Phật khen ngợi, tức là khế hợp với thật tướng, sơ tâm tức hay làm Phật, nên vì các Thánh mà khen ngợi. Xây lưng với sinh tử, tức xây lưng với ba thứ sinh tử. Hiện bày Niết-bàn, tức thị hiện bách cú giải thoát, mười phương Phật đã nói, tức tất cả Phật đạo đều cùng nói thật tướng này. Từ “nếu nghe các kinh như thế” là phần nói về tâm cúng dường. Phần này có hai: Nói tín hành. Nói pháp hành. Nếu nghe nói pháp thật tướng, tức từ nghe mà sinh hiểu, thấu suốt vô ngại, gọi là tâm tín hành cúng dường. Nếu nghe và không nghe mà như pháp tu hành, quán nhân duyên là Không đoạn các vọng kiến, thấy lý thật tướng, được Vô sinh nhẫn, đó gọi là tâm pháp hành cúng dường. Lại ước vào bốn y mà giải thích, là đối với pháp liễu Bất khả đắc thì gọi là y nghóa. Giáo của chư Phật vốn đậu căn cơ vật mà tuyên nói, không cố chấp nhất định, nên nói không y ngữ. Thức là pháp có đủ phiền não nên không thể y thức. Không hiểu nghóa kinh là ba giáo phương tiện không phải thật, nên không thể y, hiểu là nghóa có thể y. Người là sinh thân nên không thể y. Thấu suốt tận đáy vô minh, là biết xưa nay không sinh nên rốt ráo không diệt. Quán nhân duyên không dứt hết, tức là si cũng như hư không không thể hết. Ở phần bảy nghe pháp được nhu thuận nhẫn, tức có hai: Được thuận nhẫn. Cởi bảo y cúng dường để báo ân. Nếu theo Viên giáo mà nói nhu thuận nhẫn, thì nhu là nhu phục tức thập tín, ngôi vị thiết luân sáu căn thanh tịnh, nếu phát chân minh nhập lý tức được Vô sinh nhẫn. Cởi y cúng dường có hai: Cúng dường và phát nguyện làm pháp cúng dường. Thỉnh oai thần Phật gia bị khiến được hàng phục ma oán, tuyên thông đại pháp. Phần tám: Phật thọ ký, chỉ ký vào đời sau là người hoằng pháp hộ trì hay hưng lập đạo pháp cùng người có duyên, chưa thấy văn thọ ký cho làm Phật. Xa mà luận cũng nêu lên ra đây. Toàn văn chưa có. Phần chín: Nói xuất gia tu đạo làm pháp cúng dường. Phần này có hai: Nói xuất gia hộ pháp. Nói hóa độ người nhiều ít. Trăm vạn người phát Bồ-đề tâm là dùng Viên giáo mà nói, mười bốn na-do-tha người phát tâm Nhị thừa là dùng phương tiện mà dẫn dụ. Dùng hai pháp Thiên Viên này dẫn dắt chúng sinh, nên nói là pháp cúng dường. Phần Kết hội xưa nay. Như văn. Phần Kể thành việc phát nguyện hoằng kinh hộ trì lưu truyền rộng khắp, cũng nói là hộ trì người hành kinh đều khiến được an ổn. ------------------------------------ <詞>GIẢI THÍCH PHẨM: CHÚC LỤY Phẩm này là đoạn văn lưu thông thứ hai. Đoạn trước nói Thiên đế phát thệ hoằng kinh, đoạn này luận việc Như Lai kim khẩu phó chúc. Chúc là nghóa phó chúc dặn dò, đem thật pháp vô tướng mà phó chúc cho người hộ trì hoằng kinh. Lụy là nghóa gánh vác cực nhọc. Nay đem đại pháp này làm nhiệm vụ của mình khiến người ngoài khó tiêu diệt và người trong tuân hành thông suốt, nên gọi là Chúc Lụy. Phần này có ba: Phật phó chúc cho ngài Di-lặc. Phó chúc cho A-nan. Đại chúng nghe kinh vui mừng. <詞>Phần I: Phật phó chúc cho Di-lặc có ba: Chánh phó chúc kinh này. Giải thích. Chọn đắc thất. (được, mất) Chánh phó chúc có hai: Một là, Phó chúc kinh cao quý. Hai là, Khiến thần thông giữ gìn. Đem các điều vô lượng a-tăng-kỳ đã tập họp mà giao cho ông. Nếu xét theo ngài Ca-chiên-diên đã giải thích trong Tam tạng giáo mà nói việc học tập Phật pháp trong ba a-tăng-kỳ trăm kiếp chủng tướng Phật đạo hiện tiền, thì đây là pháp Tam tạng giáo Tiểu thừa cạn cợt có tu học nghiên cứu hàng mấy kiếp cũng là ít. Nếu xét theo Thích luận chê nghóa này thì Phật pháp có vô lượng, đâu chỉ học trong ba a-tăng-kỳ mà đủ. Phải trải qua vô lượng ức a-tăng-kỳ mà học tập trần sa Phật pháp các pháp môn thâm diệu thì mới có thể đầy đủ Đại thừa thâm diệu, thế nên học một kiếp cũng đã nhiều. Nay nói học tập vô lượng kiếp, nên biết là đem pháp thâm diệu Đại thừa mà phó chúc cho ngài Di-lặc. Phần hai, là phải dùng thần lực mà lưu truyền rộng khắp, khiến không dứt mất, tức là khiến giữ gìn. Nhưng chỉ đem Đại pháp này mà phó chúc cho ngài Di-lặc, là chính nói ngài sẽ nối tiếp làm Phật. Trí đoạn vuông tròn cùng vật có duyên, đầy đủ thần thông mới có thể kham việc hoằng truyền, gìn giữ khiến không dứt mất. Nếu ở đời mạt pháp chúng sinh cách Phật đã lâu không phải chỉ có thần căn tăm tối mà cũng được chướng ngại nhiều cho việc truyền bá. Như chỗ nhiều báu vật ắt có nhiều giặc cướp. Đạo cao thì ma thạnh, gặp nạn liền sinh. Nếu không được Phật lực ngầm phò hộ, thì nạn ngoại đạo sẽ xâm nhập bức ngặt, hoặc mong nhờ thần quang gia bị cũng khiến tâm giải được khai thông. Nội nhân ngoại duyên đã chỉnh tề thì pháp bảo ắt không dứt mất. Thế nên khiến dùng thần lực gia bị khiến các chúng sinh kham nghe. Trong đây nên dẫn việc Tổ Ưu-ba-cúc-đa bị ma quấy nhiễu, khiến vô số người không được ngộ đạo. Bèn làm cho người được độ. Bị ma mê hoặc, ngài dùng thần lực cột trói ma lại khiến tất cả nghe kinh được lợi ích nhiều không thể kể hết. Cũng e đây là ý dùng thần lực hoằng kinh. II. Giải thích “sở dó giả hà? vị lai thế…” có hai: Nói đời mạt pháp cũng có cơ đắc đạo. Nói người không nghe kinh này thì mất lợi hành. Nói đời mạt pháp có cơ đắc đạo, chỉ là phàm phu duyên ngộ không đồng. Hoặc thấy Pháp vương hiện trước mặt được lợi ích, hoặc nhân Phật diệt độ sinh khát ngưỡng mà được ngộ. Nên kinh nói: Đáng dùng diệt độ mà đắc độ thì bèn hiện diệt độ. Như trị bệnh kẻ điên thật sống mà nói chết, bèn để lại các dược thảo mùi vị thơm tho khiến ham thích mà uống vào liền lành bệnh. Nếu không thấy Phật liền tự trách cứ, siêng năng, tủi hổ không được gặp Phật, nhân đó mà được vào đạo ra khỏi hoặc phiền não. Cho nên sau khi Phật diệt độ một trăm năêm thì mười vạn người xuất gia có chín vạn được đạo. Phải biết căn cơ sau khi Phật diệt độ cũng có vô lượng. Đây nên dẫn việc lúc Phật còn tại thế, Cúc-đa xin xuất gia mong được có trí tuệ bằng ngài Thân Tử, Phật nói không được liền lui về theo pháp ngoại đạo. Nhân đó Phật thọ ký rằng: Người này là cơ đắc đạo sau khi Phật diệt độ. Sau ông làm đệ tử ngài A-nan độ vô lượng hằng sa người đắc đạo, người thời ấy kính gọi ngài là Phật Vô Tướng. Tức là giải thích ở đời vị lai có hàng trời, người, rồng, quỷ có duyên phát tâm ham thích pháp Đại thừa, tất được độ thoát, nên không thể hoằng truyền thắng giáo, như thế khiến đều được nghe. “Nếu khiến không nghe kinh ấy là mất Đại thừa…”. Nếu chỉ nghe nói Tam tạng giáo phương tiện là mất lợi trống độc Đại thừa. Phổ Hiền Quán có nói: Khi pháp sắp diệt năm trăm năm mà nhất tâm tu Pháp hoa Tam-muội này thì sáu căn thanh tịnh. Cho nên biết ở đời mạt pháp cũng hay có người vào cơ Đại thừa. Nếu không nghe kinh này thì mất hẳn pháp lợi, nên cần phải lưu bố rộng khắp. “Bồ-tát có hai tướng…” là chọn đắc thất. Phần này có hai: Chọn đắc thất. Rộng nêu lỗi mà giải thích. Phần đắc thất có ba: Nêu tướng. Giải thích tóm tắt. Căn cứ người mà giải thích. Nếu là Tam tạng giáo phần nhiều đều ở nhân duyên trải riêng sự tướng mà nói các pháp. Nếu nương đây mà học thì các người mới phát tâm đối các thuyết của các kinh Đại thừa Biệt viên không nhờ không cậy lìa các tâm thức. Nói thâm kinh tức là tham, dục tức là đạo. Sân si cũng thế. Như thế ba pháp đầy đủ tất cả Phật pháp. Nếu lìa ba pháp này mà cầu Bồ-đề, ví như trời và đất, chỉ ba tánh độc này mà có thể thấu suốt thật tướng ba độc là không thể được, cũng như hư không mà có thể sinh ra tất cả Phật pháp. Kinh ấy nói: Người thấu suốt pháp này cũng không phá giới, người thấu suốt pháp này cũng không vướng mắc vô ngại. Người tu phần nhiều gọi ba độc là đạo, mà đắm trước vô ngại này phá các chánh giới kiến, thì sao gọi là thấu đạt được tánh ba độc. Người đạt tánh này không hủy bỏ, không đắm trước mới xứng với ý kinh. Pháp thật tướng không phải nhân không phải quả, mà nói là tánh nhân quả. Cho nên nói nhân ấy không phải quả như Phật tánh, quả ấy không phải nhân như đại Niết-bàn. Nay tánh ba độc không phải nhân không phải quả mà nói là nhân quả. Nói là nhân, tức nói ba độc là đạo đầy đủ tất cả Phật pháp. Nói là quả, tức tất cả chúng sinh là tướng thường tịch diệt, không thể còn diệt nữa. Nếu hay nghe trong tham dục này mà luận hai đạo chân quả, không hủy bỏ không đắm trước, không sinh sợ sệt, phải biết đó là Bồ-tát tu lâu. Như thế, Bồ-tát chỉ ham mê thật tướng thâm pháp, không còn ham thích lời hoa mỹ trau chuốt giải thích pháp trong trắng. Dùng đây mà lần lượt suy biết thì đó là Bồ-tát tu lâu. Nếu ham thích lời văn biện bác mạnh mẽ hoa mỹ, có văn tự chương tiết để cốt làm vui lòng người nghe thì cuối cùng là thêm nước vào sữa. Đối với thật tướng không phải đã làm hạnh tu lâu. Lấy đây mà chọn biết đó là Bồ-tát mới phát tâm, tức như người Số luận thời ấy phân biệt hỏi đáp nói có rõ ràng cũng nghe thuyết Đại thừa không chỗ tựa, cho đó là trống trơn không đáng tin ưa. Trong đây phải dẫn việc Tu-đạt thỉnh Phật nói pháp cho mẹ già. Bà quay lưng với Phật khắp mười hướng, thì mười hướng Phật đều hiện hình ở trước mặt nhưng bà vẫn không tin nhận. Về sau A-nan hóa làm Luân vương, phương tiện dẫn dắt khiến bà tâm địa vui mừng rồi sinh tâm tin phục rồi quy y với Phật nghe pháp tu đạo. Vì sao như thế? Đây là ngày xưa Sa-di Hòa thượng nói nhiều về thật tướng lời lẽ thậm thâm, nhưng nghe không hiểu nên không tin tưởng ham thích. Xà-lê nói nhiều về sự tướng nhân duyên các pháp giáo hóa việc xứng hội với tâm người ấy, nên sinh ham thích. Do duyên cớ ấy nên nay nghe lời ta nói rốt cuộc vẫn không để lòng. Có cơ duyên với A-nan nên hồi tâm nhập đạo. A-nan dù khiến bà ấy sinh tin tưởng nhưng cuối cùng phải quy y ta thì mới đắc đạo. Cho nên biết lời trau chuốt chỉ làm duyên vui tai mà thôi, không phải là ý chỉ rốt ráo. Phương tiện dẫn nhập để lần lần được ngộ, nên không cần luận, thật tướng thâm pháp hay làm yếu chỉ được đạo, đây là thí dụ về trống độc vậy. Ước đây mà nói hai hạng người mới phát tâm và tu lâu, chỉ xem văn từ trau chuốt hay nói thẳng là biết đắc thất. Phần nêu rộng lỗi “lại có hai pháp khiến chưa nghe kinh…” Phần này có hai: Trước nói hai pháp giải thích người mới học, hủy báng không gần gũi. Sau nói hai pháp giải thích người học lâu không nên khinh mạn chấp tướng. Trước hủy báng không gần gũi, là trong đây như ngài Hỷ Căn Bồ- tát chỉ nói pháp thật tướng, nói trong tất cả pháp có tánh an lạc. Ngài Thắng Ý học pháp Tam tạng giáo oai nghi đầy đủ, trì giới tu hạnh Đầu- đà, bỗng nghe điều Hỷ Căn nói liền thấy việc học tập trái nhau, tâm rất kinh quái rồi chê bai hủy bỏ không tin nhận. Tăng chúng liền làm phép tẩn với Hỷ Căn, khi pháp tẩn đã thành, Hỷ Căn liền đọa vào địa ngục. Đây là người mới phát tâm học phương tiện giáo hủy báng Bát-nhã, không tin thâm kinh. Người như thế cần biết sâu cạn. Hoặc lúc đó không chê bai pháp này, song đối với người trì giới lại không kính cẩn gần gũi. Hoặc có lúc nói họ quấy ác. Đây cũng là tướng của thất. Đều không phải là hạnh tu lâu điều phục tâm. Nêu việc khinh mạn chấp tướng. Đại phẩm có nói: Bồ-tát nếu đối với kẻ đồng trụ mới phát tâm mà khinh miệt, cho người ấy không biết gì. Khởi một niệm khinh mạn này thì phá hư công đức vô số kiếp, lại còn bị tội. Khi tội báo này hết rồi, mới có thể phát tâm. Bèn đối với việc đức hạnh ngày nay mà nói tâm khinh mạn là một lỗi rất lớn, không phải chỉ chướng ngại việc được Vô sinh nhẫn, mà lại còn bị tội họa, nên xem là quấy. Lại nữa, có Bồ-tát tuy hiểu thâm pháp nhưng chấp tướng phân biệt thứ lớp thềm bậc. Chấp tướng phân biệt sinh tưởng quyết định, lại là pháp động niệm, không phải đạo rốt ráo. Vì sao? Vì các pháp thật tướng thanh tịnh rỗng sáng còn không có một tướng, huống là có hai thứ không nói không bày. Nói là mất lý, bày là trái tông. Lấy tâm phân biệt suy lường này sao có thể khế hội được với pháp tịch diệt. Như ba thời, bốn thời, năm thời, Bán, Mãn bốn Tông, sáu Tông các nghóa đều gọi là Pháp sư, thâu nhặt các ý kinh mà chế lập danh mục, phán thích nghóa môn, muốn nói lý hiện tại đều không phải là một thuật cùng tột không lời. Nay chánh ý chúng tôi không như thế, mà viên dung pháp giới, ngầm khế hợp với chân cực, không muốn khiến tâm cùng chúng sinh trái nhau. Tuy lại lập bốn giáo này là muốn giải thích thẳng thông suốt tận nguồn cội văn các kinh, nhưng trọn không chấp chặt nghóa bốn giáo. Hoặc có lúc dùng ba giáo, hai giáo, một giáo hoặc không dùng giáo nào, lại có lúc dùng cả tám giáo, lấy bỏ không nhất định, nhiều ít không chừng, chuyển biến tự tại, tùy người mà bài bác hoặc tán dương. Nhưng không khiến tâm này tiếp xúc với việc đó mà đắm trước tự chấp mình, đem lỗi người mà luận giải. Nếu làm như thế thì chỉ là tranh luận không phải là phương pháp nhập đạo. Ngài Nam Nhạc nói kệ: Chó thấy bóng liền cắn Cắn mãi chẳng chịu thôi Bèn chịu khát mà chết… Nay ước đây mà chọn lỗi quấy với ý xây dựng đạo. Nhưng vì đường tâm người tu không đồng, tuy mọi việc không bày hai tu, là Thánh nói pháp và Thánh im lặng. Cần biết rõ tâm mình mà tiện dụng phương tiện. Nếu có chỗ trầm tắt ở đạo lặng im mà tâm không khai phát, thì cần phải nghe pháp hoặc gần gũi các Thiện tri thức hay khai phát tâm người. Hoặc từ kinh điển nghiên tìm nghóa lý mà hiển phát tâm này. Hoặc lúc nghe pháp thì phấn động không thể nhiếp yên. Tìm kinh khảo nghóa đối với việc phấn kết thì biết việc bồi bổ tâm mình không có lợi ích sâu chắc. Bấy giờ phải nhắm mắt giữ thân tự tịnh tâm mình vào đạo lặng im. Nói năng hay im lặng hai hạnh, mà điều phục tâm mình. Tiện dụng thô tế thích nghi, khéo hay lấy bỏ, phân biệt chọn lựa chân ngụy. Trong lúc như thế mà gắng tu tịch tónh, trong lúc như thế mà gắng tu trí tuệ. Ví như trời đất hoặc mưa hoặc tạnh, âm dương điều hòa chừng mực thì muôn vật sinh sôi. Nếu thuần mưa không tạnh thì hạt giống thối rã, nếu thuần tạnh không mưa thì hạt giống khô đét cũng không thể sinh sản muôn vật. Cần phải điều hòa thích nghi sau đó mới tốt. Hành giả nếu một mực như thế mà im lặng thì chìm mê trong tối tăm ủng tắt. Nếu thuần dùng phân biệt thì các kiến bùng dậy lăng xăng. Ấy thì quyền thật không hợp, đạo lợi không sinh. Khéo léo vận hành bỗng nhiên vào đạo. Đêm thấy ánh điện sáng thì được vào Phật pháp. Đó là người học đạo khéo biết thị phi, phân biệt tà chánh. Nên Đại Luận nói: Trời thường mưa, ngũ cốc càng sinh sôi, pháp vũ càng nhiều, pháp thiện càng phát triển. Nếu không thường thường có Phật nói, Phật im lặng thì lúa thóc thật tướng Điều Ngự không sinh. Nếu riêng đắm trước tri kiến, thì trọn không được vào lý. Cho nên có câu rằng: Dầu đọc trăm ngàn kinh Tà kiến nuôi các quấy Độc tôi ta càng mạnh Tuy có thai con thường Gái đá đâu sinh đẻ. Nếu nghe lời Phật nói pháp liền ngộ. Thấu suốt các pháp tự tại rõ ràng đó tức là tín hành. Nghe mà không ngộ, tâm niệm tư duy, càng thấu cùng chiếu đạt đến nguồn cội, đó gọi là pháp hành. Trong chỗ Phật im lặng cũng có tín hành và pháp hành. Khi thiền quán như thế, thì tùy quán một cảnh mà khắp thông các cảnh. Tâm địa mở sáng không chút nghi ngại, như gió ở không trung gọi là pháp hành. Nếu khi đòi quán không thể được ngộ càng cố gắng gia công lại càng không hiểu. Nếu từ Thiện tri thức mà nghe giảng giải trong kinh quyển thấy được thì như bỗng giữa hư không không mây, trong ngoài đều rỗng suốt, đây gọi là người tín hành. Lại từ nghe mà được độ, nói đúng như nghe mà làm là Phật im lặng, đúng như làm mà nghe là Phật nói pháp. Phần trước, Di-lặc bạch Phật, chính nói vâng lệnh nhận ý chỉ. Phần này có ba: Di-lặc nhận ý chỉ. Các Bồ-tát nhận ý chỉ. Bốn vua nhận ý chỉ. Di Lặc nhận ý chỉ, có hai: Nhận ý và kể thành. Trong phần nhận ý lại có hai: Nhận ý răn và nhận ý khuyên. “Phụng trì Như Lai vô số kiếp…” là nhận ý khuyên. Phần này lại có hai đối với hai thứ nói trước: Tuân ý lưu thông kinh. Tuân ý dùng thần lực hộ trì kinh. Trong đó tự nói rằng: Cùng niệm lực đó mà lập nên. Nếu dựa vào An lạc hạnh trì có pháp thuyết về “Không” mờ mịt, lợi ích cho niệm lực, cũng như người khi nói pháp thì suy lường đến điều một, điều hai. Người này đến khi nói thì thấy có ba, có năm tiết. Hoặc có thể là tâm nhập nghóa môn mà hay biết rõ, hoặc mịt mờ trống không, liền trợ niệm gia bị cho người ấy. Phật kể thành. Các Bồ-tát nhận ý chỉ phát thệ. Bốn vua nhận ý chỉ phát thệ. Phần II là khiến A-nan tuyên nói kinh, A-nan tích ở đạo Tiểu thừa lại được thân La-hán. Khi nhập Vô dư thì sinh phần dứt hẳn, sao được vâng lệnh tuyên nói Đại kinh. Đây chỉ là ý khiến truyền trì “giữ gìn và truyền bá) đừng nhầm lẫn với việc kiết tập pháp tạng, nên sai tuyên đọc kinh. Nếu ở Bổn là nói hay truyền trì tất cả Phật pháp mười phương, đâu nên vì Hôi diệt mà không thể tuyên bố kinh này. Ở phần này có ba: Phật mệnh lệnh. Hỏi tên kinh. Phật đáp có hai tên. Yếu chỉ, tức là thật tướng. Thật tướng gồm nhiếp các pháp, khi được yếu chỉ tức là được các pháp. Phần III, là đại chúng nghe kinh đều rất vui mừng..  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 137