<經 id="n1777">DUY MA KINH HUYỀN SỚ (QUYỂN 1 ↘ 6 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN DUY-MA KINH HUYỀN SỚ Sa-môn Trí Khải, chùa Tu Thiền, núi Thiên Thai soạn. <卷>QUYỂN 1 Kinh này nghóa lý sâu xa, chỉ thú u huyền, nếu như y văn giải thích, e chỉ biết ở nơi trụ tướng mà thôi, tông yếu của một giáo rốt cuộc khó có thể thông đạt, cần phải nghiên tầm chỗ vi diệu để hiển bày chỉ thú chẳng thể nghó bàn. Nay theo văn trước lập năm lớp huyền nghóa: Giải thích danh. Nêu thể. Luận về tông. Bàn về dụng. Phán giáo tướng. Giải thích năm nghóa này gồm hai phần: Giải thích chung, giải thích riêng. GIẢI THÍCH CHUNG NĂM LỚP HUYỀN NGHÓA: Gồm sáu ý: Nêu chung danh của năm nghóa. Luận thứ tự. Dẫn chứng. Bàn về chung riêng. Căn cứ theo quán tâm. Đối bốn Tất-đàn. Nêu chung danh của năm nghóa: Kinh này dùng nhân pháp chẳng thể nghó bàn làm Danh, dùng chân tánh giải thoát chẳng thể nghó bàn làm Thể, dùng nhân quả cõi Phật chẳng thể nghó bàn làm Tông, dùng quyền thật chiết phục nhiếp thọ chẳng thể nghó bàn làm Dụng, dùng đới thiên hiển viên chẳng thể nghó bàn làm giáo tướng. Cho nên nay nói kinh này đầu tiên từ “Như thị ngã văn” đến cuối cùng là “Hoan hỷ phụng hành” đều bàn luận về sự chẳng thể nghó bàn. Luận về thứ tự: Lý tuy bặt dứt danh ngôn, nhưng chẳng phải không có danh ngôn. Vì lập giáo, cho nên nơi đạo không danh ngôn mà tạm nhờ danh ngôn để thuyết, nhưng danh là để gọi pháp, pháp là để ứng danh, vì thế chỉ thú của kinh ẩn chứa nơi danh. Cho nên trước tiên nêu danh. Phàm từ nơi danh mà được lý, lý tức là chân tánh giải thoát, chân tánh giải thoát tức là Thể của kinh, nên tiếp theo là nói về Thể. Thể thì chẳng tự nhiên đạt đến, tìm cầu ắt phải có phương tiện, tức phải lập hạnh tu nhân, rồi sau mới đạt đến quả. Cho nên dùng nhân quả cõi Phật để làm cương tông vào lý. Giềng mối đã được nêu thì mắt lưới phải động, cho nên kế đó phải luận đến Tông. Tu nhân hướng đến quả, đã được quả thì khéo léo dùng quyền thật để chiết phục, nhiếp thọ làm lợi ích chúng sinh, cho nên kế đến luận Dụng. Bậc Thánh lập giáo tùy thuận cơ duyên, cơ duyên chẳng phải một, vì thể giáo chẳng đồng, nên cuối cùng luận đến giáo tướng. Dẫn chứng: Phẩm Chúc Lụy nói “Kinh này tên là Duy-ma-cật Sở Thuyết, cũng gọi là Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát Pháp Môn”. Đó là nhân pháp đồng nêu để lập danh. Phẩm Quán Chúng Sinh ghi: “Đức Phật nói lìa dâm, nộ, si là giải thoát cho những kẻ tăng thượng mạn, với kẻ không tăng thượng mạn Đức Phật nói tánh của dâm, nộ, si là giải thoát.” Tánh của dâm, nộ, si tức chân tánh giải thoát chẳng thể nghó bàn, đó là Thể. Phẩm Phật Quốc nói về việc Bảo Tích dâng lọng báu, hỏi Phật về tịnh độ, Đức Phật giải đáp đầy đủ về nghóa nhân quả của tịnh độ, đó là Tông. Ngoài thất quở trách, trong thất nhiếp thọ. Lại phẩm Bất tư nghị nói: “Bồ-tát trụ ở Bất tư nghì có thể hiển hiện các thần lực tự tại, như loài long tượng dày đạp thì lừa ngựa chẳng thể chịu nổi”, cho nên biết nhân pháp quyền thật chiết phục nhiếp thọ là Dụng của kinh. Về giáo tướng tức nói chung về sự đồng vị giữa kinh này và kinh khác, nên cần phải phán giáo tướng. Luận về chung riêng: Năm việc đã nêu ở trước gom về ba nghóa: Chỉ nêu nhân và pháp, đây là chung. Chia ra Thể, Tông, Dụng, đây là riêng. Nói về nghóa giáo tướng là gồm chung và riêng. Vì sao? Đề thứ nhất là nêu tên người, tên gồm đủ ba nghóa, nêu danh (tên) là chung, nay muốn phân Biệt giáo môn, thì cần phải phân biệt về Thể, Tông, Dụng khác nhau, nên gọi là riêng. Vậy nhân (người) là chung của riêng, ba nghóa là riêng của chung, thế thì chung là chung ở nơi riêng, riêng là riêng đối với chung. Vì sao? Vì người tên là Tịnh Vô Cấu Xưng. Tịnh tức chân tánh, chân tánh thanh tịnh tức là Thể. Vô cấu tức thật tuệ, nhân quả của thật tuệ tức là Tông của kinh. Xưng tức năng lực khéo léo của phương tiện tức là Dụng của kinh. Dẫn dụng ra mà trình bày nên gọi là riêng. Giáo tướng, đã nói chung về sự đồng dị của các kinh cho nên gồm cả chung và riêng. Những nghóa này rất vi diệu sâu kín, khó thông đạt rõ ràng, nên nay phải nhờ vào việc ở gần làm Dụ để khởi sự ham thích cho kẻ phàm tình. Ví như thân người mới thọ báo nhập thai, khi tượng thành Ca-la-xa thì có đầy đủ ba pháp là mạng, hơi ấm và tâm thức, đến Hô-hạo-thủ cũng còn ba việc, luận chung thì cùng có tên người, luận riêng thì đủ ba pháp, tuy là cảnh thế gian mà tương ứng với diệu lý. Vì sao? Vì ba pháp thành thân dụ cho chung đầu tiên, tâm thức làm chủ là dụ cho thể nói ở trước, sức gió và mạng tương tục dụ cho Tông đã nói, cử chỉ động tác dụ cho Dụng, con người tuy là đồng mà có chủng tánh khác nhau, tức dụ cho giáo tướng đồng dị. So sánh với năm pháp này thì các nghóa trên có thể biết. Hỏi: Lập năm nghóa này là chỉ nói về kinh này hay chung cho tất cả các kinh? Đáp: Các nhà lập nghóa, có chủ ý khác nhau, nay năm lớp huyền nghóa này tổng gom tất cả các kinh điển. Hỏi: Giáo tướng các kinh luôn sai biệt nhau, sự sai biệt há tất cả đều đồng có năm lớp nghóa này ư? Đáp: Ví như do năm ấm thành người, người tuy khác nhau nhưng đều bẩm thọ năm ấm. Vả lại như năm nghóa của lời tựa chung ở đầu kinh thì đồng mà sự việc lại khác. “Căn cứ quán tâm để giải thích năm nghóa”: Tất cả vạn pháp vốn tự vô danh, đã vô danh mà có danh, đó đều do tâm sinh khởi, nên tâm tức là danh. Tâm là thể, tức tâm tánh chúng sinh là chân pháp tánh nên nói là thể. Tâm là Tông, như kinh này nói “Như tâm tịnh tức cõi Phật tịnh.” Tâm ở đây tức là nghóa của Tông. Tâm là Dụng, tức dùng chánh quán và phương tiện quyền xảo để chiết phục ái kiến, nên gọi là Dụng. Tâm là giáo, như kinh nói “Trần lao là đệ tử, tùy ý mà sai khiến”, đó là giáo tướng. Hỏi: Vì sao phải căn cứ vào quán tâm để giải thích năm nghóa? Đáp: Phẩm Vấn Tật ghi: “Sự giải thoát của chư Phật nên tìm cầu nơi tâm hành của chúng sinh”, cho nên luận Đại Trí ghi: “Đức Phật vì người học hỏi, theo nghe cầu hiểu, nên lấy cây cối làm dụ, vì người tọa thiền từ tâm cầu đạo, nên chỉ thân làm dụ. Nhân nơi cây mà hiểu là người tín hành, từ thân mà ngộ là người pháp hành.” Luận Đại Trí Độ bình rằng “Có tuệ mà không đa văn thì chẳng biết thật tướng, ví như ở nơi tối tăm dù có mắt cũng chẳng thể thấy, người này chỉ chuyên tu quán giải mà không nghiên cứu kinh luận. Nếu có đa văn mà không có trí tuệ, cũng không biết thật tướng, ví như ở nơi ánh sáng rực rỡ, đèn chẳng thể chiếu soi, người này chỉ nghiên cứu kinh luận mà chẳng tu quán giải. Nếu có đa văn và trí tuệ lanh lợi, thọ nhận tất cả những pháp được nói ra, người này, bên ngoài thì thông đạt kinh luận, bên trong thì quán giải rõ ràng. Nếu không có đa văn và trí tuệ, thì đó là con trâu mang thân người.” Phàm bậc Thánh thuyết pháp, đều soi xét rõ ràng cơ duyên, chỉ dùng một âm diễn nói mà tất cả căn cơ đều nghe hiểu, nếu không có Đạo nhẫn, đâu có thể làm được như thế mà chỉ chấp vào một bên, cho nên diễn thuyết pháp môn ắt cần phải đầy đủ cả hai, ngõ hầu người học thấu suốt được chỗ sáng tối. Hỏi: Năm nghóa của quán tâm với năm nghóa của kinh là một hay là khác? Đáp: Chẳng tức cũng chẳng khác. Hỏi: Vì sao gọi là chẳng tức chẳng khác? Đáp: Tức, là lý tuy đồng, khác, vì nghóa gồm có sáu: Một là lý tức; hai là danh tự tức; ba là quán hạnh tức; bốn là tương tự tức; năm là phần chứng chân thật tức; sáu là cứu cánh tức. Lý tức: Kinh này nói rằng “Tánh của dâm, nộ, si là giải thoát”, đây là nghóa Lý tức. Danh tự tức: Như kinh Đại Niết-bàn ghi “Những ngoại đạo và thầy thuốc xưa, hư vọng chấp Niết-bàn là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, như trùng ăn cây, ngẫu nhiên thành các chữ, các con trùng chẳng biết là chữ hay chẳng phải chữ? Người có trí chẳng bao giờ nói các côn trùng này biết chữ.” Nay những người học hiểu, tạo thiền ở đời mạt pháp nghe các kinh Đại thừa phương đẳng nói tánh của dâm, nộ, si tức giải thoát, liền cho đại Niết-bàn chẳng thể diệt, chẳng chịu nghiên cứu nghóa sâu xa mà chấp ngay nơi danh tự (tức sinh) này là chân giải thoát, thế thì đồng với lỗi của các thầy thuốc xưa, trùng tạo thành chữ. Đó là Danh tự tức. Quán hành tức: Người tu hành tinh thông ba quán, khéo biết hai Đế, ba Đế, bốn Đế, khai hợp chẳng lẫn lộn, tin hiểu rõ ràng, hay biết tâm này tức giải thoát, nguyện hạnh khéo léo vào giai vị Ngũ phẩm đệ tử, là phục nhẫn vị. Đó là quán hành tức. Tương tự tức: Như Thập tín của Thiết luân vương, tuy có nhục nhãn mà gọi là Phật nhãn, tức là nghóa sáu căn thanh tịnh nói trong kinh Pháp Hoa. Ở đây, giai vị Nhu thuận nhẫn là Tương tự tức. Phần chứng chân thật tức: Từ Sơ phát tâm được Vô sinh pháp nhẫn cho đến bốn mươi mốt Địa của Kim cang đảnh đều gọi là Phần chứng. Vì sao? Như kinh Hoa Nghiêm ghi “Khi vừa phát tâm liền thành chánh giác”, hiểu đạt tánh chân thật của các pháp, tuệ thân có được chẳng từ người khác mà ngộ.” Đây là phần chứng chân thật tức. Cho đến Thập địa, Đẳng giác, đều là Phần chứng, nhưng có sâu cạn nên có các giai vị cao thấp khác nhau. Cứu cánh tức: Tức Diệu giác vị, chỉ một niệm tương ưng, thông đạt cùng tận cảnh thật tướng bất tư nghị. Kinh Pháp Hoa nói “Chỉ có Phật với Phật mới có thể đạt đến cùng tận thật tướng các pháp.” Kinh Nhân Vương ghi “Tam Hiền, Thập Thánh đều là tu hành trong nhẫn, chỉ có Phật mới tận nguồn”, tận nguồn là cứu cánh tức. Sáu “Tức” này về lý thì chẳng khác, nhưng căn cứ theo hạnh giải thì đất trời cách tuyệt đâu có thể vừa nghe “Tức” thì cho là giống nhau được ư? Những kẻ học hiểu và những người tọa thiền ở đời nếu chẳng hiểu rõ được sự khác nhau của sáu tức, phần nhiều sinh cường điệu, chưa hiểu nói đã hiểu, chưa đắc nói đã đắc, rơi vào hàng Tăng thượng mạng, tạo các tội lỗi, đó đâu phải là người học Phật pháp mà đạt được ý? Nay nêu lên một việc để dụ cho tất cả. Tất cả những kinh điển sâu xa của Đại thừa hoặc nói chúng sinh tức là Phật, tức là Đại thừa, tức là Bồ-đề, tức là Niết-bàn; nói như thế nghóa là “Tức thị” đều cần dùng nghóa sáu Tức, căn cứ theo đó thì tất cả chẳng sinh cường điệu. Đối với bốn Tất-đàn giải thích: Gồm hai ý: Dùng bốn Tất-đàn đối với năm nghóa trước. Lược giải thích bốn Tất-đàn, khởi quán giáo tướng. Thứ nhất, đối với năm nghóa trước: gồm có năm: Đối với tên của kinh, tên kinh là Duy-ma-la-cật, Duy-ma-la-cật là Thế giới Tất-đàn. Đối với Thể, Thể tức là chân tánh giải thoát, chân tánh giải thoát tức Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Đối với Tông, Tông là nhân quả Phật quốc. Khuyên người tu các hạnh Tịnh độ, tức là Vị nhân Tất-đàn. Đối với dụng, chê trách chiết phục tức Đối trị Tất-đàn. Đối với giáo tướng, tức dùng bốn Tất-đàn mà khởi lập các kinh giáo, cùng với kinh này có đồng và dị. Tức phán giáo tướng mà biết đồng dị. Thứ hai, dùng bốn Tất-đàn khởi quán giáo: Phàm nguồn tâm diệu tuyệt, vạn pháp sâu kín, chư Phật Bồ-tát nếu chẳng dùng bốn Tất-đàn, thì đâu có thể tu ba quán mà tiến đạo, diễn thuyết giáo môn mà độ tất cả. Dùng bốn Tất-đàn khởi lên quán giáo để thông suốt kinh này, gồm bảy ý: Phiên dịch. Luận về tướng. Giải thích thành. Khởi ba quán. Khởi bốn giáo. Khởi kinh luận. Khởi kinh này. Phiên dịch: Tất-đàn là âm Phạm, các Sư giải thích khác nhau, hoặc cho là nên phiên dịch, hoặc cho là không phiên dịch. Không phiên dịch vì tiếng Phạm có những từ ngữ bao hàm nhiều nghóa, Trung Quốc không có từ nào bao hàm nhiều nghóa tương đương để phiên từ Tất-đàn. Như Tu- đa-la bao hàm năm nghóa, Trung Quốc không thể phiên dịch ra được. Nên phiên dịch, thì hoặc là Tông thành, hoặc phiên là Mặc (mực), hoặc phiên là Ấn, hoặc phiên là Thật, là Thành tựu cứu cánh. Như thế phiên dịch thành nhiều nghóa khác nhau chẳng phải là một, khó có thể xác định được. Thiền sư Nam Nhạc lại cho rằng: “Ở đây cũng giống như đại Niết-bàn mà Phạm, Hán đồng gọi. Nay nói Tất-đàn, “Tất” là từ Trung Quốc, “đàn” là âm Phạm; Tất, là biến, tức cùng khắp; Đàn, dịch là thí, tức ban cho. Đức Phật thuyết bốn pháp này ban khắp cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Tất-đàn. Luận về tướng của Tất-đàn: Thế giới Tất-đàn. Các các vị nhân Tất-đàn. Đối trị Tất-đàn. Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Bậc Đại thánh phá dẹp bốn Tất-đàn tà, nêu thuyết bốn loại Tất- đàn chánh, thuyết các kinh giáo Đại Tiểu thừa. Thế giới Tất-đàn, tức là danh tướng của tất cả pháp năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới của chúng sinh sai biệt bất đồng, cho nên gọi là thế giới. Ngoại đạo lầm mê thế giới này, hoặc chấp không có nhân duyên mà có thế giới, hoặc chấp do tà nhân duyên mà có thế giới. Bậc Đại thánh tùy những điều chúng sinh thích nghe mà thuyết pháp chánh nhân duyên có thế giới khiến chúng sinh có chánh kiến về thế giới, tức thế gian pháp thí, nên gọi là Thế giới Tất-đàn. Các các vị nhân Tất-đàn, bậc Đại thánh quán xét tâm chúng sinh mà thuyết pháp, tâm mỗi mỗi người đều khác nhau, cho nên đối với một việc hoặc là nghe hoặc chẳng nghe. Như kinh nói do tạo nghiệp báo mà tạp sinh ở thế gian, đượïc tạp xúc, tạp thọ. Lại có các kinh phá các tà nói không có người được xúc, không có người được thọ, ý này chính là vì phá chấp, sinh tín tăng trưởng căn lành. Vì ban cho các pháp thiện, nên gọi là Các vị nhân Tất-đàn. Đối trị Tất-đàn, luận Đại Trí ghi: “Có pháp đối trị thì có, thật tánh thì không”, đối trị thì có, nghóa là nếu gặp người nhiều tham dục thì dạy tu bất tịnh quán, người nhiều sân hận thì dạy tu Từ tâm quán, người nhiều ngu si thì dạy tu quán nhân duyên. Đức Phật nói pháp dược đối trị ban phát khắp chúng sinh, để đoạn trừ ác nghiệp, nên gọi là Đối trị Tất-đàn. Đệ nhất nghóa Tất-đàn, luận Đại Trí nói Đệ nhất nghóa Tất-đàn có hai:Một là: Căn cứ vào tướng bất khả thuyết để nói về Đệ nhất nghóa Tất-đàn; hai là căn cứ theo tướng khả thuyết để nói về Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Căn cứ theo tướng Bất khả thuyết để nói về Đệ nhất nghóa Tất-đàn: Như pháp chân thật mà chư Phật, Bích-chi-Phật, La-hán chứng đắc là Đệ nhất nghóa Tất-đàn, nên luận Đại Trí ghi “Lời nói đã bặt, tâm hành cũng đoạn dứt, pháp chẳng sinh chẳng diệt như Niết-bàn.” Nói các hành xứ tức là thế giới, nói chẳng phải hành xứ là Đệ nhất nghóa. Căn cứ theo tướng khả thuyết để luận về tướng Đệ nhất nghóa Tất-đàn: Luận Đại Trí ghi: “Tất cả thật, tất cả chẳng thật, tất cả cũng thật cũng chẳng thật, tất cả chẳng thật chẳng phải chẳng thật đều gọi là thật tướng các pháp.” Đức Phật đối với các chỗ này lập các kinh nói tướng Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Đó là một nhà nói về bốn môn nhập vào ý Đệ nhất nghóa. Nên Trung Luận nói “Nếu là người hướng vào đạo nghe nói bốn câu này liền nhập thì đó chính là thật tướng các pháp, nếu người nghe bốn câu này tâm sinh chấp trước thì đều là hý luận.” Hỏi: Nếu cho sinh thiện là vị nhân, đoạn ác thuộc về đối trị, nhưng vị nhân chung cho cả thiện ác, vì sao nhất định nói vị nhân thuộc về sinh thiện? Đáp: Thiện tùy thuộc người, xưa nay bị hoặc ngăn che, ác là pháp mới sinh khởi, chẳng tăng trưởng thuộc về người, vì thế vị nhân thì dứt điều ác sinh pháp thiện, thiện thuộc về người, đối trị là đoạn ác. Người ta chẳng phải là ác, nếu người là ác thì khi ác diệt người cũng theo đó mà diệt. Cho nên biết ác chẳng thuộc người. Hỏi: Vị nhân và đối trị có đủ các nghóa sinh thiện đoạn ác, đã đồng nhau, vì sao lại phân biệt làm hai? Đáp: Tuy đồng như thế, nhưng ý nghóa chánh chẳng phải như thế,vì vị nhân thì ác mới khởi, thiện đã có từ lâu, đối với đối trị thì ác có đã từ lâu còn thiện thì mới sinh. Vì đối với vị nhân, ác mới khởi dễ diệt, nên vừa thuyết liền dứt, thiện chứa nhóm đã sâu dày, nên tự nhiên khai phát. Đối với đối trị thì ác đã có từ lâu nên khó trừ, thiện mới sinh nên sức yếu, nếu chẳng gia công tu tập đối trị thì pháp ác chẳng diệt. Hỏi: Các nghóa này chẳng theo thứ tự, vì sao kinh nói “Chẳng nên làm các điều ác, vâng làm các việc thiện?” Đáp: Cần phải đạt được ý này, bởi vì đối với vị nhân thì thiện pháp sâu dày, ác pháp nhẹ mỏng, nên chỉ cần không làm điều ác thì điều thiện tự nhiên khai phát, còn đối với đối trị thì ác sâu dày, thiện cạn mỏng, nên cần phải vâng làm các điều thiện mới xa lìa được điều ác. Giải thích thành : Nay dùng bốn tùy giải thích thành bốn Tất- đàn. Bốn tùy là tùy lạc dục, tùy tiện nghi, tùy đối trị, tùy Đệ nhất nghóa. Một, tùy lạc dục tức thế giới Tất-đàn, như luận Trí Độ ghi “Dục là gốc của tất cả thiện ác. Nếu nói bốn môn hoặc là sự là lý chỉ hợp với dục lạc, đó đều là thế giới Tất-đàn. Cho nên kinh này, nói “Trước dùng dục kéo dắt, sau đó khiến vào đạo.” Đó gọi là thế giới Tất-đàn. Hai, tùy tiện nghi, tức vị nhân Tất-đàn. Luận ghi: “Đối với nhiều việc, hoặc nghe hoặc chẳng nghe, nghi (nên) tức là nghe, bất nghi (chẳng nên) tức chẳng nghe. Như đối với thợ rèn nên quán sổ tức, giặt y thì nên quán bất tịnh, đó là tiện nghi. Nếu nói bốn môn hoặc sự hoặc lý, tiện nghi sinh thiện thì gọi là nghe, nếu sinh bất thiện thì gọi là chẳng nghe. Đó là vị nhân Tất-đàn. Ba, tùy đối trị tức đối trị Tất-đàn. Nếu nói bốn môn như sự lý, lấy tướng làm chủ để đối phá tâm chấp trước thì gọi là đối trị. Luận ghi: “Các pháp vô thường cũng là đối trị.” Kinh Niết-bàn nói mười loại đối trị như thường vô thường… đều là đối trị Tất-đàn. Hỏi: Nếu nói sự là đối trị, thì thuyết lý bốn môn vì sao gọi là đối trị? Đáp: Tuy thuyết lý nhưng đã chẳng liễu ngộ, mà phá chấp trước còn thuộc về đối trị. Bốn, tùy Đệ nhất nghóa tức Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Nếu nói bốn môn hoặc là sự hoặc là lý, vừa nghe thuyết liền ngộ, thì đều là Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Cho nên dùng bốn tùy để thành tựu bốn Tất-đàn. Hỏi: Thuyết lý bốn môn đúng là Đệ nhất nghóa, nếu thuyết sự, vì sao được gọi là Đệ nhất nghóa? Đáp: Không nói sự hay lý, chỉ nói vừa nghe liền ngộ thì đều là nói Đệ nhất nghóa. Nên kinh nói: “Từ khi mới thành đạo cho đến đêm nhập Niết-bàn, phàm nói một sắc một hương đều là Trung đạo.” Hỏi: Vì sao dùng bốn tùy kết luận thành bốn Tất-đàn chung cho sự và lý, vì sao một sự một lý cùng có bốn nghóa? Đáp: Như phần kệ của kinh này ghi: “Phật dùng một âm diễn nói pháp, có người sợ hãi hoặc vui mừng, hoặc sinh nhàm lìa hoặc đoạn nghi, đây là thần lực pháp bất cộng.” “Sinh sợ hãi” tức thế giới Tất-đàn. Biết do nơi dục mà có thế giới, thế giới như nhà lửa, nên sinh sợ hãi. “Hoặc vui mừng” tức vị nhân Tất-đàn, vì phát khởi thiện căn được niềm vui pháp. “Hoặc sinh nhàm lìa” là đối trị Tất-đàn, vì nhàm chán phiền não mà khởi pháp đối trị. “Hoặc đoạn nghi” là Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Đầu tiên nhập kiến đạo Đệ nhất nghóa đế tức là giai vị đoạn nghi. Thế thì tùy thuận nói một sự, lý mà tất cả đều thành bốn Tất-đàn. Khởi ba quán: Tức dùng bốn Tất-đàn khởi ba quán. Phàm chí lý thì sâu xa diệu tuyệt, chẳng thể dùng trí mà biết, chẳng thể dùng thức mà biết, há có thể tu quán hạnh mà được khế hội ư? Nếu chẳng có sự xảo diệu của Tất-đàn, thì đâu có thể dùng ba quán để hội với lý Tam đế! Nay dùng Tất-đàn làm phương tiện phát khởi, quán từ nhân duyên giả nhập Không là thế giới Tất-đàn, là biết được pháp mà tâm ưa thích, là chánh nhân duyên, tức từ chánh nhân duyên để vào không. Hoặc phân tích hoặc thể hội hai loại quán tâm, cần phải biết đó là vị nhân tiện nghi. Tiện nghi, nghóa là nên tu quán ắt phải phát khởi ba giác phần là: trạch pháp, tinh tấn và hỷ. Nếu cần phải tu chỉ thì cần ba giác phần là niệm, xả, định để nhiếp phục. Thế thì tùy chỗ tiện nghi mà tâm thiện phát khởi. Nếu tâm có bệnh phù trầm thì phải dùng đối trị Tất-đàn. Khi tâm trầm thì dùng ba giác phần trạch pháp, tinh tấn, hỷ để đối trị, nếu tâm phù thì dùng ba giác phần niệm, trừ xả và định để đối trị. Khéo léo sử dụng vị nhân Tất-đàn thì thiện căn sẽ phát khởi. Khéo léo sử dụng đối trị Tất-đàn thì kết sử dần tiêu diệt. Nếu người tu hành là bậc lợi trí thì thiện căn thuần thục, kết sử phiền não cạn mỏng. Trong bảy Giác phần tùy thuận nương một giác phần chưa rõ ràng mà trụ nơi đó để tu tập, nếu quán tuệ được rõ ràng tức phát sinh chân kiến. Đệ nhất nghóa, đó gọi là dùng bốn Tất-đàn phát khởi, quán từ giả nhập vào Không thành tựu tuệ nhãn Nhất thiết trí, từ quán Không vào Giả, nếu khéo léo sử dụng Tất-đàn thì liền được pháp nhãn đạo chủng trí, quán Trung đạo Đệ nhất nghóa nếu khéo léo sử dụng bốn Tất-đàn thì liền được Phật nhãn Nhất thiết chủng trí. Khởi bốn giáo, tức đối với bốn bất khả thuyết mà phát khởi bốn loại thuyết pháp giáo hóa bốn hàng chúng sinh. Trong kinh này, ngài Tịnh Danh im lặng không nói tức là ý nghóa của bốn bất khả thuyết nói trong kinh Đại Niết-bàn. Bốn bất khả thuyết là: Sinh sinh bất khả thuyết. Sinh bất sinh bất khả thuyết. Bất sinh sinh bất khả thuyết. Bất sinh bất sinh bất khả thuyết. Ở đây căn cứ theo bốn câu bất khả thuyết tức không tức giả tức trung của tâm nhân duyên sinh diệt mà được bốn khả thuyết, đó đều là do Tất-đàn nhân duyên ứng với bốn loại căn cơ mà có được bốn khả thuyết. Cho nên kinh Đại Niết-bàn ghi: “Pháp mười nhân duyên là sinh tác nhân cũng có thể thuyết. Pháp mười nhân duyên tức là vô minh cho đến chi hữu.” Nếu dùng bốn Tất-đàn ứng hợp với bốn loại này thì mười nhân duyên đối với bốn bất khả thuyết mà thành bốn giáo bốn khả thuyết. Căn cứ theo đó tức có bốn: Tất-đàn khởi Tam Tạng giáo. Tất-đàn khởi Thông giáo. Tất-đàn khởi Biệt giáo. Tất-đàn khởi Viên giáo. Luận về dùng bốn Tất-đàn để khởi Tam Tạng giáo: Đức Phật đối với sinh sinh bất khả thuyết dùng bốn Tất-đàn ứng với pháp mười nhân duyên của Tiểu thừa để thành tựu cho các đệ tử Thanh văn độn căn chướng nặng, ưa thích pháp thiện nhỏ hẹp, thuyết bốn đế sinh diệt của Tam Tạng giáo cho các Thanh văn và các Bồ-tát độn căn. Cho nên kinh Pháp Hoa ghi: “Các pháp đều có tướng tịch diệt, chẳng thể dùng ngôn thuyết chỉ bày, vì dùng sức phương tiện, nói cho năm Tỳ-kheo nghe, đó gọi là chuyển pháp luân.” Dùng bốn Tất-đàn khởi Thông giáo: Đức Phật đối với sinh bất sinh bất khả thuyết dùng bốn Tất-đàn ứng với pháp mười nhân duyên để thành tựu cho hàng căn tánh Tam thừa, thuyết bốn đế huyễn hóa vô sinh của Thông giáo để chỉ dạy hàng Tam thừa. Cho nên kinh Đại phẩm ghi: “Muốn học Tam thừa nên học Bát-nhã.” Lại nói: “Hàng Tam thừa đều dùng đạo Đệ nhất nghóa đế vô ngôn thuyết để đoạn trừ phiền não.” Dùng bốn Tất-đàn khởi Biệt giáo: Đức Phật đối với bất sinh sinh bất khả thuyết dùng bốn Tất-đàn ứng với pháp mười nhân duyên để thành tựu căn cơ Biệt giáo, tuyên thuyết Bồ-tát trải qua nhiều kiếp tu hành vô lượng bốn đế của Biệt giáo để chỉ dạy các Bồ-tát. Dùng bốn Tất-đàn khởi Viên giáo: Đức Phật đối với bất sinh bất sinh bất khả thuyết ứng với pháp mười nhân duyên để thành tựu căn cơ Viên giáo, thuyết Đại thừa Viên giáo là bốn đế vô tác nhất thật đế để chỉ dạy các Đại Bồ-tát khai mở tri kiến Phật. 6- Khởi kinh luận: Phàm lý cùng tột của Phật pháp thì chẳng thể dùng lời nói để tuyên thuyết, há lại dùng lời để nói ra mười hai thể loại kinh gốc ư? Nhưng mười phương chư Phật vì lợi ích tất cả chúng sinh nên đều dùng bốn Tất-đàn ứng duyên mà khởi thuyết mười hai thể loại kinh. Danh nghóa của mười hai thể loại kinh đều xuất phát từ Đại bản của Tất-đàn. Căn cứ theo đây gồm có năm ý: Bốn Tất-đàn khởi mười hai thể loại kinh. Bốn Tất-đàn khởi bốn mươi tám ngàn pháp tạng. Bốn Tất-đàn khởi kinh giáo đốn tiệm. Bốn Tất-đàn khởi luận Đại, Tiểu thừa. Bốn Tất-đàn khởi Thánh thuyết pháp, Thánh yên lặng. Thứ nhất, luận về bốn Tất-đàn phát khởi tướng của mười hai thể loại kinh, gồm bốn ý: Thế giới Tất-đàn phát khởi mười hai thể loại kinh. Các các vị nhân Tất-đàn khởi mười hai thể loại kinh. Đối trị Tất-đàn khởi mười hai thể loại kinh. Đệ nhất nghóa Tất-đàn phát khởi mười hai thể loại kinh. Nói về việc dùng thế giới Tất-đàn để phát khởi mười hai thể loại kinh, như nên nghe trực thuyết thế giới, trực thuyết nghóa là gốc của ngôn giáo, dùng thế giới Tất-đàn nói trực tiếp vào danh tướng của thế giới tức là kinh Tu-đa-la, các câu kệ bốn chữ, năm chữ, sáu chữ trùng tụng thuyết về thế giới, tức là kinh Kỳ dạ, việc thọ ký chúng sinh và thế giới ở vị lai, như thọ ký cho chim bồ câu thành Phật là kinh Hòa-già- la-na, kệ cô khởi thuyết về thế giới, chẳng trùng tụng lại phần trường hàng là kinh Già-đà, không người hỏi mà tự thuyết các việc thế giới là kinh Ưu-đà-na, vì thuyết những nhân duyên bất thiện của thế giới mà kết chế thành giới là kinh Ni-đà-na, nếu có người chẳng biết tướng thế giới, thì dùng các thí dụ như xe, sữa để dẫn, đó là kinh A-ba-đà-na, nói các việc khi xưa của thế giới là kinh Y-đế-việt-đa-già, thuyết việc thọ sinh của thế giới vào thời quá khứ là kinh Xà-đà-già, thuyết các việc rộng lớn của thế giới là kinh Tỳ-Phật-lược, thuyết những việc chưa từng có của thế giới là kinh A-phù-đà-đạt-ma, nạn vấn, xét kỹ về thế giới để khiến cho người dễ hiểu tức là kinh Ưu-ba-đề-xá. Đó là chỉ căn cứ theo thế giới Tất-đàn để khởi đủ mười hai thể loại kinh, còn ba Tất-đàn kia mỗi mỗi phát khởi mười hai thể loại kinh, so sánh đối chiếu với thế giới Tất-đàn cũng có thể biết được. Đức Phật dùng mười hai thể loại kinh làm gốc của ngôn giáo để thuyết các giáo đốn tiệm. Nên luận Trí Độ ghi: “Bốn Tất-đàn gồm nhiếp mười hai thể loại kinh”, ý nghóa tại nơi đây. Thứ hai, luận về bốn Tất-đàn phát khởi tám mươi bốn ngàn pháp tạng: Danh nghóa của tám mươi bốn ngàn pháp tạng đều xuất phát từ Đại bản của ba quán, nay dùng bốn Tất-đàn khởi tám mươi bốn ngàn pháp tạng tức là bốn thứ riêng biệt: Thế giới Tất-đàn khởi tám mươi bốn ngàn môn trần lao. Các các vị nhân Tất-đàn khởi tám mươi bốn ngàn Tam-muội, tám mươi bốn ngàn các Đà-la-ni. Đối trị Tất-đàn khởi tám mươi bốn ngàn môn đối trị để đối trị tám mươi bốn ngàn môn phiền não. Đệ nhất nghóa Tất-đàn khởi tám mươi bốn ngàn pháp môn, cũng gọi là tám mươi bốn ngàn môn Ba-la-mật, môn gọi là năng thông, thông đến các Ba-la-mật Đệ nhất nghóa Tất-đàn gọi là cứu cánh. Đệ nhất nghóa Tất-đàn tức là cứu cánh. Nay nói tám mươi bốn ngàn pháp tạng, pháp tức thông cùng khắp, bao hàm tám mươi bốn ngàn phiền não, các Tam-muội Đà-la-ni, các môn đối trị và các pháp Ba-la- mật, nên gọi là pháp tạng. Cho nên luận Đại Trí Độ nói: “Bốn Tất-đàn gồm nhiếp tám mươi bốn ngàn pháp tạng”, ý nghóa tại nơi đây. Thứ ba, luận về bốn Tất-đàn khởi kinh giáo đốn tiệm Tất-đàn đã gồm nhiếp mười hai thể loại kinh tám mươi bốn ngàn pháp tạng, bậc Đại thánh dùng Tất-đàn ứng duyên mà thuyết các kinh giáo đốn tiệm thì không đâu chẳng thành, gồm có hai ý: Chánh thức nói về bốn Tất-đàn khởi giáo viên đốn. Tất-đàn khởi giáo thứ tự tiệm viên. Tất-đàn khởi giáo viên đốn, như Đức Phật Lô-xá-na thuyết kinh Hoa Nghiêm, chính là dùng hai phen bốn Tất-đàn để thuyết vô lượng Tứ Thánh đế, vô tác Tứ thật Đế. Vì ứng với hai căn tánh Biệt và Viên mà thuyết kinh Hoa Nghiêm đốn giáo. Khởi tiệm Viên giáo, như Đức Thích-ca khai mở tiệm giáo chỉ dùng một phen Tất-đàn ứng với căn cơ Thanh văn Tiểu thừa mà thuyết Bốn đế sinh diệt, khởi Tam Tạng giáo. Đại thừa phương đẳng có bốn loại căn tánh, dùng bốn phen Tất-đàn ứng duyên thuyết bốn loại Thánh đế mà khởi Phương đẳng. Kinh Ma-ha Bát-nhã có ba loại căn tánh thì dùng ba phen Tất-đàn ứng duyên mà thuyết ba loại bốn Thánh đế, khởi giáo Bát-nhã. Kinh Pháp Hoa có một loại căn tánh thì dùng một phen bốn Tất-đàn ứng duyên mà thuyết vô tác nhất thật đế, khởi giáo Pháp Hoa. Kinh Niết-bàn có đủ bốn loại căn tánh mà đều quy về một lý Phật tánh Niết-bàn, nên dùng bốn phen Tất-đàn để thuyết bốn loại Bốn đế, ứng duyên khởi giáo Niết-bàn. Hỏi:Hai giáo là Niết-bàn và Phương đẳng có gì khác nhau? Đáp: Khi nói kinh Phương đẳng thì Nhị thừa đạt được hai Thánh đế trước mà chẳng vào hai loại thánh đế vô lượng vô tác, còn thời Niết- bàn thì chẳng phải như thế, Nhị thừa và Bồ-tát chẳng phải chỉ được hai loại Thánh đế trước mà cũng chung cho hàng Nhị thừa vào hai loại Thánh đế vô lượng vô tác, thấy được Phật tánh. Các kinh Phương đẳng gọi là các kinh Đại Tập, vì gom tập tất cả Phật pháp nên gọi là Đại tập. Tên đại Niết-bàn gọi là chư Phật pháp giới, Phật tánh Niết-bàn, vì bao hàm tất cả Phật pháp. Hỏi: Luận Trí Độ nói các kinh khác phần nhiều thuyết ba Tất-đàn, ở đây, muốn khai Đệ nhất nghóa Tất-đàn, nên nói kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, nếu thế thì vì sao dụng bốn Tất-đàn khởi lập khắp các kinh giáo đốn tiệm? Đáp: Tam Tạng giáo phần nhiều nói ba Tất-đàn, ít nói đến Đệ nhất nghóa Tất-đàn, còn Bát-nhã, phần nhiều nói Đệ nhất nghóa mà ít nói đến ba Tất-đàn. Vả lại Bát-nhã tuy có nói đến ba Tất-đàn, nhưng đều tương ưng với Đệ nhất nghóa. Như nói các kinh Đại thừa Phương đẳng thì hoặc là hợp thuyết hoặc là biệt thuyết. Thứ tư, Bốn Tất-đàn khởi các kinh luận Đại Tiểu thừa: Luận Địa Trì ghi: “Bồ-tát nhập định tạo luận chẳng điên đảo Ma đắc lặc già, vì khiến cho chánh pháp được lâu dài nên trụ nơi thiền mà tạo luận. Bồ- tát trụ ở thiền định này, quán sau khi Phật diệt độ thì pháp mười nhân duyên trở thành căn duyên Đại tiểu của chúng sinh, dùng bốn Tất-đàn ứng với các căn duyên này mà tạo luận để giải thích kinh. Như Bồ-tát Thiên Thân tạo luận Thập địa, dùng hai phen Tất-đàn tạo luận Thập địa giải thích kinh Hoa Nghiêm. Ngài Xá-lợi-phất tạo luận Tỳ-đàm, năm trăm vị La-hán tạo Tỳ-bà-sa đều dùng một phen Tất-đàn để giải thông Tứ thánh đế sinh diệt của Tam Tạng giáo, thấy chánh ý hữu đắc đạo như ngài Ca-chiên-diên tạo luận Côn-lặc cũng dùng một phen Tất-đàn để giải thích Tam Tạng giáo, thấy được chánh ý không hữu nhập đạo. Cho nên luận Thành Thật ghi: “Cho nên ta muốn luận thật nghóa trong Tam tạng.” Các Sư Thành thật nói thật nghóa tức là không. Bồ-tát Long Thọ tạo luận Chánh quán dùng bốn phen Tất-đàn, trong đó ba phen chánh thức giải thích tam giáo của các Ma-ha diễn, một phen phụ giải thích giáo nhân duyên sinh diệt. Bồ-tát Di-lặc tạo luận Địa Trì Xứ, tức là dụng hai phen Tất-đàn để giải thích các kinh Đại thừa, Hoa Nghiêm, Phương đẳng, Bát-nhã nói về hai giáo Biệt và Viên. Bồ-tát Vô trước tạo luận nhiếp Đại thừa cũng như thế. Bồ-tát dùng ba phen Tất-đàn tạo luận Đại Trí Độ giải thích kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật. Bồ-tát Thiên Thân dùng một phen Tất-đàn tạo luận Pháp Hoa giải thích kinh Pháp Hoa. Có người cho rằng luận đại Niết-bàn, ngài Long Thọ và Thiên Thân mỗi mỗi tạo ra chưa đến được cõi này, thầm xét có thể biết được. Như thế tất cả các bộ luận đều y cứ vào Tất-đàn mà lập nghóa. Hỏi: Các luận và các kinh sách của trời người nương vào đâu mà tạo? Đáp: Bồ-tát pháp thân trụ nơi Tam-muội sinh vào cõi trời, cõi người mà làm thầy của trời người, tạo luận soạn các kinh sách. Như kinh Kim Quang Minh nghi: “Tiên ngũ thần thông tạo luận thần tiên, các phạm vương thuyết luận Xuất Dục, Thích Đề-hoàn Nhân tạo các loại Thiện luân cũng là phương tiện của phen Tất-đàn thứ nhất.” Cho nên kinh Tạo Lập Thiên Địa ghi: “Bồ-tát Bảo ứng Thanh văn thị hiện có hiệu là Phục Hy dùng đạo Thượng hoàng để giáo hóa cõi này.” Kinh Thanh Tịnh Pháp Hành ghi: “Ma-ha Ca-diếp ứng sinh đến Chấn đán có hiệu là Lão Tử, ngoài thì dùng để trị nước, bên trong lập giáo vô vi luyện thuật thần tiên là để tu thân.” Kinh ấy còn ghi: “Đồng tử Quang Tịnh gọi là Trọng Ni, vì ứng cơ duyên nên cũng du hóa đến cõi này dùng văn hành, thành tín, định lễ, lập thi để dẫn dắt hậu nhân.” Các giáo như thế tức là thế giới Tất-đàn. Quan lại dùng sức để lưu hành ở thế gian gọi là vị nhân Tất-đàn, phản loạn mà đánh thì hình phạt chắc chắn cũng không nhỏ, tức là Đối trị Tất-đàn, chánh trị ở nơi trong sạch an tỉnh, đạo hợp với tâm trời, bậc Nhân vương vô thượng, tức là Đệ nhất nghóa Tất-đàn thế gian. Hỏi: Vì sao thế gian lại có Đệ nhất nghóa đế? Đáp: Ở đây đều căn cứ theo thế giới Tất-đàn để giải thích chung bốn Tất-đàn, chứ chẳng phải là xuất thế Đệ nhất nghóa. Hỏi: Nếu Phật, Bồ-tát, Lão tử, Chu, Khổng là Thánh nhân, vậy đối với nhân giáo có gì sai biệt? Đáp: Bản địa thì bất khả tư nghị, đâu thể phân biệt được, nhưng thùy tích giáo hóa thì có sai biệt, cao thấp, sâu cạn chẳng thể nói là một. Thứ năm, Tất-đàn khởi Thánh thuyết pháp, Thánh im lặng: Như kinh Tư Ích ghi: “Đức Phật dạy các Tỳ-kheo rằng: Các ông nên thực hành hai việc là Thánh thuyết pháp và Thánh im lặng.” Nay nói dùng bốn bất khả thuyết này có nhân duyên, cho nên dùng bốn Tất-đàn mà thuyết pháp, đó là Thánh thuyết. Bốn loại Bốn đế này đều là pháp mà bậc Thánh Tam thừa chứng ngộ, hàng phàm phu chẳng thể biết được cho nên chẳng thể thuyết. Ví như nói màu trắng cho người mù, thì người mù chẳng thể thấy được vì chẳng thấy cho nên chẳng thể thuyết, vì chẳng thể thuyết cho nên gọi là Thánh im lặng. Hỏi: Thánh thuyết pháp thì lợi ích cho chúng sinh, còn Thánh im lặng có lợi ích chăng? Đáp: Như Tỳ-kheo Hiếp im lặng mà bẻ gãy sự luận nghị của ngài Mã Minh, những tướng trạng như thế tức là lợi ích. Hỏi: Thánh thuyết pháp dùng Bốn Tất-đàn để phát khởi, còn Thánh im lặng thì thế nào? Đáp: Im lặng đã có lợi ích đối với chúng sinh thì đâu có thể xa lìa Tất-đàn. Sau đây căn cứ các giáo để nói về tướng Thánh thuyết pháp và Thánh im lặng. Như kinh Hoa Nghiêm lập hai phen Tất-đàn ứng duyên mà thuyết hai loại Thánh đế Vô lượng vô tác, gọi là Thánh thuyết pháp; bất sinh sinh bất sinh bất sinh bất khả thuyết cho nên gọi là Thánh im lặng. Tam Tạng giáo một phen Tất-đàn ứng duyên thuyết tứ Thánh đế sinh diệt cho nên gọi là Thánh thuyết pháp; vì sinh sinh bất khả thuyết cho nên gọi là Thánh im lặng. Phương đẳng dùng bốn phen Tất- đàn ứng duyên thuyết bốn phen Thánh đế cho nên gọi là Thánh thuyết pháp. Sinh sinh sinh, bất sinh bất sinh sinh, bất sinh bất sinh bất khả thuyết cho nên gọi là Thánh im lặng. Ma-ha Bát-nhã dùng ba phen Tất- đàn ứng duyên thuyết ba phen tứ Thánh đế nên gọi là Thánh thuyết pháp. Sinh bất sinh, bất sinh sinh, bất sinh bất sinh bất khả thuyết cho nên gọi là Thánh im lặng. Kinh Pháp Hoa dùng một phen Tất-đàn ứng duyên thuyết giáo gọi là Thánh thuyết pháp; bất sinh bất sinh bất khả thuyết cho nên gọi là Thánh im lặng. Kinh Pháp Hoa ghi: “Pháp ấy chẳng thể chỉ bày. Tướng ngôn từ đều vắng lặng các loài chúng sinh chẳng thể hiểu được.” Kinh Đại Niết-bàn dùng bốn phen Tất-đàn ứng duyên thuyết bốn phen tứ Thánh đế nên gọi là Thánh thuyết pháp, kinh Đại Niết-bàn ghi: “Thuyết pháp tức là cảnh giới của chư Phật, hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết được.” Sinh sinh sinh, bất sinh bất sinh sinh, bất sinh bất sinh bất khả thuyết, nên gọi là Thánh im lặng. Đức Phật đáp lời ngài Văn-thù, Như Lai rốt ráo chẳng chuyển pháp luân, chẳng chuyển pháp luân tức là Thánh im lặng. Kinh Tịnh Danh này thuộc về giáo Đại thừa Phương đẳng, dùng bốn phen Tất-đàn ứng duyên mà thuyết, nên gọi là Thánh thuyết pháp; bốn loại Bốn đế đều bất khả thuyết nên gọi là Thánh im lặng, như ba mươi hai vị Bồ-tát dùng phen Tất-đàn thứ tư thuyết Nhất thật đế vào pháp môn Bất Nhị nên gọi là Thánh thuyết pháp. Bốn Nhất thật đế đều bất khả thuyết, nên gọi là Thánh im lặng. Như ngài Tịnh Danh im lặng rốt ráo chẳng nói, tức là chân thật im lặng. Hỏi: Chỉ lấy pháp môn Bất nhị làm Thánh thuyết pháp, thì lẽ ra những phẩm khác của kinh này chẳng phải là Thánh thuyết pháp? Đáp: Nay nêu lên một việc để làm ví dụ thì tất cả những việc khác có thể tự biết. Như kinh này rốt ráo đều chẳng thuyết mà thuyết pháp vậy. Hỏi: Ngài Tịnh Danh không nói gọi là Thánh im lặng còn ngài Thân Tử không nói có phải là Thánh im lặng chăng? Đáp: Ngài Thân Tử không nói cũng gọi là Thánh im lặng. Hỏi: Đã đồng là im lặng, vì sao ngài Tịnh Danh im lặng được ngài Văn-thù khen ngợi, còn ngài Thân Tử không nói lại bị Thiên nữ chê trách? Đáp: Thân Tử là Thánh Thanh văn im lặng, Thánh Thanh văn im lặng tức là tướng tư nghị giải thoát bất khả thuyết, vì thế Thân Tử im lặng không nói, vì tư nghị cho nên bị chê trách. Ngài Tịnh Danh im lặng là bất tư nghị vì đó là bất tư nghị giải thoát cho nên được ngài Văn-thù khen ngợi. Hỏi: Lý bất nhị gọi là im lặng, vì sao còn phân biệt thành hai loại im lặng? Đáp: Im lặng tức là bất khả thuyết. Một nhà cho rằng nghóa có nhiều loại bất khả thuyết, tuy đều có lời bất khả thuyết, nhưng nghóa lại khác nhau. Nay lược phân biệt sáu tướng bất khả thuyết: Một thiền định thế gian bất khả thuyết: như ở Sơ thiền có giác quán nên còn có thể thuyết, còn Nhị thiền trở lên không có giác không có quán nên bất khả thuyết. Ngoại đạo thấy tâm nói về tướng bất khả thuyết: Như Phạm Chí Trường Trảo nói rằng “tất cả lời nói có thể chuyển, tất cả ngôn luận có thể phá, tất cả chấp trước có thể trừ, còn thật tướng của các pháp này thì thế nào là tánh thế nào là tướng? Tự hỏi như thế rồi suy nghó rất lâu mà chẳng được một pháp thâm nhập nơi tâm, đó là bất khả thuyết, nếu so sánh phân biệt về lý tuyệt ngôn của tất cả ngoại đạo, thì có thể y cứ vào đây mà luận đồng dị. Kinh của ba tạng Thanh văn luận về bất khả thuyết: như kinh Đại Tập tán thán lời nói Đệ nhất nghóa của các pháp vắng lặng không lời của ngài Kiều Trần Như, cho nên ngài Xá-lợi-phất chẳng nói tướng giải thoát, tức là nghóa này. Nói về bất khả thuyết của Thông giáo: Tức kinh Bát-nhã nói ba thừa đồng tu Bát-nhã, dùng đạo vô ngôn của chân đế vô sinh mà đoạn trừ phiền não. Nói về bất khả thuyết của Biệt giáo: Tức y cứ vào Phật tánh đại Niết-bàn bất khả thuyết. Như nói màu trắng với người mù bẩm sinh, tuy người trí dẫn dụ tất cả tướng để làm cho người mù hiểu, nhưng người mù rốt cuộc chẳng thể thấy được màu trắng. Đó là dụ cho Phật tánh chẳng thể thuyết. Nói về tướng bất khả thuyết của Viên giáo: Như kinh Niết-bàn thuyết sáu tướng bất khả thuyết, đó là ý của việc ngài Tịnh Danh im lặng. Bất khả thuyết, lời nói tuy là đồng, nhưng nghóa thú thật chẳng lẫn lộn. Người tọa thiền, nghe giảng đời sau chẳng hiểu điều này, vừa nghe nói bất khả thuyết liền sinh lẫn lộn, đó cũng như khó phân biệt hai quả trấn đầu và ca-la. Nếu phân biệt được nghóa này thì ngài Thân Tử và Tịnh Danh còn chẳng thể so sánh được, hà huống là ngoại đạo và phàm phu có thể bình đẳng được ư? 7- Kinh Tất-đàn phát khởi này: Gồm ba phần: Phát khởi bên ngoài trượng thất. Phát khởi vào trượng thất. Phát khởi rời trượng thất. Phát khởi ngoài trượng thất: Dùng bốn phen Tất-đàn phát khởi bốn cõi Phật, phát khởi phẩm Phương tiện, kế đến dùng ba phen Tất- đàn phát khởi phẩm Đệ tử, sau cùng dùng một phen Tất-đàn phát khởi phẩm Bồ-tát. Phát khởi vào trượng thất: Gồm sáu phẩm. Dùng ba phen Tất- đàn khởi phẩm Vấn Tật, dùng một phen Tất-đàn sau cùng khởi phẩm Bất tư nghị giải thoát, dùng phen Tất-đàn thứ hai phát khởi phẩm quán chúng sinh, đại ý đồng với ý nghóa bốn chân đế trong kinh Niết-bàn. Dùng phen Tất-đàn thứ ba khởi phẩm Phật đạo, dùng phen Tất-đàn thứ tư khởi phẩm Pháp Môn Bất Nhị và phẩm Hương Tích. Khởi rời trượng thất: Chánh thuyết gồm hai phẩm. Dùng bốn phen Tất-đàn khởi phẩm Bồ-tát Hạnh, phẩm Thấy Phật A-súc, phẩm Pháp Cúng Dường và phẩm Chúc Lụy của phần Lưu thông lại nhờ bốn phen Tất-đàn để lưu thông. Hỏi: Trong thất nói sáu phẩm vì sao chỉ dùng bốn phen Tất-đàn để phát triển, còn lúc chưa vào trượng thất nói bốn phẩm, ra khỏi trượng thất nói bốn phẩm vì sao đều dùng bốn phen Tất-đàn để phát khởi? Đáp: Vì trong trượng thất chỉ nói nghóa Ma-ha-diễn, còn ngoài trượng thất thì nói chung cho nghóa Tam tạng. Hỏi: Nghóa Tam tạng vì sao nói ngoài trượng thất? Đáp: Vì Tiểu cách biệt với Đại, giống như sống ở ngoài cửa, chỉ tá túc ở thảo am. Hỏi: Nghóa Tam tạng đã chẳng được vào Ma-ha-diễn, đúng ở ngoài trượng thất, còn ba phen kia vì lý do gì cũng thuyết bên ngoài trượng thất? Đáp: Bất tư nghị chiết phục nhiếp thọ, xuất nhập vô ngại, cho nên kinh Pháp Hoa ghi: “xuất nhập tức, lợi lạc khắp các cõi nước.” Hỏi: Pháp Ma-ha-diễn đã xuất nhập tự tại vô ngại, còn Pháp Thanh văn thì Tiểu cách biệt với Đại, đâu được nói trước sau? Đáp: Như kinh Pháp Hoa nói: “Từ đây về sau, tâm tướng, thể tín xuất nhập chẳng khó.” Đó là năm nghóa lập kinh dùng bốn Tất-đàn.  DUY-MA KINH HUYỀN SỚ <卷>QUYỂN 2 Đoạn 1: GIẢI THÍCH DANH: Nêu chung năm ý đã luận đủ ở khoa trước, ở đây giải thích danh, được phân làm hai phần: Giải thích tên riêng. Giải thích tên chung. Giải thích tên riêng: Kinh này tên là Duy-ma-cật Sở thuyết, tên khác với các kinh khác, nên nói là riêng. Giải thích tên chung: Từ kinh là tên chung. Sở dó phân biệt tên chung và tên riêng là có ba ý: Căn cứ theo giáo. Căn cứ theo hạnh. Căn cứ theo lý. Căn cứ theo giáo: Như kinh Hoa Nghiêm, Đại Phẩm… vì giáo khác nhau nên lập danh cũng khác, đó là riêng, vì đều do Phật thuyết nên đồng gọi là kinh, đó là chung. Căn cứ theo hạnh: Như Chân pháp Bảo Nê-hoàn, chúng sinh có các môn để vào, các môn để vào gọi là hạnh riêng, nên cần có tên riêng. Nhưng đồng đến Niết-bàn là một lý, nên lập tên chung. Căn cứ theo lý: Lý chỉ là một pháp, nhưng danh nghóa thì rất nhiều. Cho nên kinh Đại Niết-bàn ghi: “Như trời Đế Thích có nhiều tên, giải thoát cũng như thế, có rất nhiều tên.” Danh tự khác nhau, cho nên danh là riêng, vì đồng là một lý nên có tên chung. Từ giáo khởi hạnh, từ hạnh vào lý, đều có chung và riêng. GIẢI THÍCH TÊN RIÊNG: gồm hai ý: Trước giải thích Duy-ma-cật. Nói về pháp được thuyết ra. Duy-ma-cật là tên người, pháp được thuyết tức là bất tư nghị giải thoát. Vì thế nên biết không có người thì không biết lấy gì để hoằng pháp, chẳng có pháp thì không biết lấy gì để hiển thị người. Ngài Tịnh Danh đã đạt đến giai vị Bổ xứ, trí tuệ gần cảnh giới rốt ráo, giáo được thuyết ra tức là giải thoát bất tư nghị. Kinh này cùng nêu nhân pháp làm đầu của giáo, đó là tôn kính người, xem trọng pháp. - Giải thích Tỳ-ma-la-cật: Gồm bốn lớp: Phân tích danh nghóa. Giải thích theo ba quán. Phân biệt theo bốn giáo. Bản tích của ngài Tịnh Danh. <詞>1. PHIÊN DANH THÍCH NGHÓA : Gồm hai ý: Phiên dịch danh từ Duy-ma. Giải thích. Phiên dịch: Tiếng nói của vùng Ấn Độ tự có chỗ bất đồng, giống như sự khác biệt giữa Sở và Hạ ở Trung quốc, nên việc phiên dịch trước sau chẳng phải không có tăng giảm. Lập nghóa về tăng giảm, gồm có ba nhà: Một là ghi Tỳ-ma-la-cật Đế-lệ, Trung Quốc phiên là Tịnh Danh Vô cấu xưng, Xưng hoặc gọi là Thán (ngài La-thập phiên); hai là ghi Tỳ-ma-la-cật, Trung Quốc phiên là Tịnh Danh (ngài Tăng Triệu phiên); ba là ghi Tỳ-ma-la-cật-lật-trí, Trung Quốc phiên là vô cấu xưng (Quang Đại Sư kế thừa Tam tạng Pháp sư phiên). Giải thích: Từ phiên dịch đầu tiên tựa như đã rõ, vì dài dòng khó có thể giải thích. Thứ hai phiên là Tịnh Danh, nay hãy căn cứ theo sự giải thích này để đối với hai thân chân, ứng. Tịnh tức là Chân thân, chân trí không có hoặc nhiễm nên nói là Tịnh; Danh tức Ứng thân, ứng hiện các hình để độ sinh, danh vang cùng khắp. Nhà thứ ba phiên là Tịnh Vô cấu xưng, nay dùng từ phiên dịch này phối hợp với ba thân để giải thích. Gồm hai ý: Một là căn cứ theo sự giải; hai là căn cứ theo quán tâm. Căn cứ theo sự giải thì ba thân là Pháp thân, Báo thân, và Ứng thân. Nghóa của Tịnh pháp là Pháp thân, và tự tánh thanh tịnh, trong sáng không một điểm tì vết, tức là thanh tịnh pháp thân. Nghóa của Vô Cấu tức là Báo thân, trí báo thân tròn sáng không có cấu nhiễm, tức là viên tịnh báo thân. Nghóa của Xưng tức là Ứng thân, tâm đại Từ giáo hóa thế gian, thanh danh vang khắp, tức là Ứng thân. Luận Trí Độ ghi: “Thủy ngân và vàng ròng, hay lập các sắc tượng; công đức và Pháp thân, hiện khắp tất cả nơi.” Nhưng nghóa của ba thân đã nói đầy đủ trong các kinh, lý tuy rõ ràng mà danh chẳng thật hiển rõ. Như kinh Lăng-già có nói đầy đủ danh nghóa ba thân Phật. Lại kinh Phổ Hiền Quán ghi: “Ba thân Phật từ Phương đẳng sinh.” Nghóa ba thân chẳng trái với hai thân, nếu biết được chỗ khai hợp, thì há lại nhất định sử dụng thiên lệch ư? Ở đây cũng giống như sự khai hợp của Tam đế và Nhị đế. Căn cứ theo hai cách phiên dịch này để đối chiếu với nghóa mà giải thích danh, thì có thể thấy được ý nghóa. Căn cứ theo quán tâm để nói về ba thân: phàm đã có tâm, thì tâm tức pháp tánh, pháp tánh tức là bản tịnh, bản tịnh tức pháp thân. Quán tâm tương ưng thì khi sáng chẳng có tối, không tối tức là nghóa của vô cấu, vô cấu tức là quả trí đoạn, là Báo thân. Tùy thuận làm lợi ích chúng sinh mà khởi tất cả việc, đều như huyễn hóa, như bóng trăng trong nước, như ảnh trong gương, hòa quang mà không nhiễm tức là nghóa xứng duyên ứng thân. Ba nghóa như thế chhẳng dọc chẳng ngang, là chủng tử Bồ-đề. Kinh Niết-bàn ghi: “Khi mới phát tâm và lúc đã rốt ráo. Không sai biệt.” Hai tâm này, tâm đầu tiên khó khởi , tức là tự chưa độ mà trước đã độ người. Vì thế kính lễ người Sơ phát tâm. Khéo biết Lục tức thì chẳng lẫn lộn. 2.DÙNG BA QUÁN GIẢI THÍCH DANH TỪ DUY MA CẬT Ba quán đoạn trừ các hoặc làm mê Nhị đế, Tam đế, mà hiển bày diệu lý của Nhị đế, Tam đế. Chân lý sáng trong gọi là Tịnh, hoặc chướng đã tận trừ gọi là Vô cấu, quán và lý hợp, đạo dụng vô cùng nên gọi là Xưng. Nghóa Tám quán giải thích thành Tịnh Vô cấu xưng, ý tại nơi đây. Kinh này nói bên ngoài thất thì quở trách, bên trong thất thì nhiếp thọ. Nếu chẳng hiểu pháp môn ba quán nhập vào Huyền chỉ của văn, thì thật là khó đấy. Nay, luận về nghóa ba quán, lược phân bảy lớp: Phân biệt cảnh, trí. Giải thích tên của ba quán. Luận về tướng của ba quán. Đối trí nhãn. Thành nghóa các thừa. Căn cứ đoạn kết sử để giải thích nghóa Tịnh Danh. Thông văn kinh. *. Phân biệt cảnh, trí: Cảnh là sở quán, trí là năng quán. Cảnh sở quán tức là lý tam đế mười hai nhân duyên, trí năng quán là ba quán. Sở dó căn cứ theo mười hai nhân duyên để luận về cảnh sở quán, là vì bậc Đại thánh thuyết pháp chánh nhân duyên này để phá ngoại đạo chấp tà nhân duyên, sinh tà chấp không nhân duyên. Nếu mê chánh nhân duyên này thì liền có sáu đường sinh tử, nếu ngộ chánh nhân duyên này tức có bốn bậc Thánh. Thế thì căn cứ theo mười hai nhân duyên để luận mười pháp giới. Lý hai đế, ba đế tức là cảnh mà ba quán chiếu soi. Nay một nhà luận về Bốn đế đã có bốn loại thì mười hai nhân duyên cũng có bốn loại: Một là mười hai nhân duyên sinh diệt; hai là mười hai nhân duyên vô sinh; ba là mười hai nhân duyên vô lượng; bốn là mười hai nhân duyên vô tác. Sinh diệt và vô sinh diệt là cảnh quán thứ nhất, nhân duyên vô lượng là cảnh quán thứ hai, nhân duyên vô tác là cảnh quán thứ ba. Nay căn cứ theo bài kệ của Trung luận để nói về ba cảnh quán này. Kệ ghi: Pháp do nhân duyên sinh Ta nói tức là không Đó gọi là giả danh Cũng là nghóa Trung đạo. Hỏi: Đương cảnh tự là cảnh hay từ trí mà nói cảnh? Đáp: Nếu nói cảnh tự là cảnh, tức là tự tánh cảnh; nếu nói từ trí mà nói cảnh, tức là tha tánh cảnh; nếu nói do cảnh trí mà nói cảnh, tức là tự tha tánh cảnh; nếu lìa trí mà nói cảnh, tức không có nhân duyên mà nói cảnh, từ nhân duyên mà nói cảnh còn chẳng thể được, hà huống không có nhân duyên mà thuyết cảnh? Bốn câu nói về trí cũng phạm lỗi như thế. Nay Trung luận nói các pháp chẳng tự sinh, thì đâu được cho rằng do cảnh nên nói cảnh, cũng chẳng từ pháp khác sinh thì đâu được cho rằng do trí nên nói cảnh, cũng chẳng phải là cộng sinh thì đâu được cho là do cảnh trí hợp mà nói cảnh, cũng chẳng không có nhân sinh thì đâu được lìa cảnh trí mà nói cảnh. Bốn câu xét về trí cũng như thế. Nay bốn câu xét về cảnh đã chẳng được, mà lại nói về cảnh thì đó là cảnh giả, cũng là cảnh bất tư nghị. Về trí cũng như thế. Tất cả hữu vô, nhân duyên, thiện ác, thị phi, cấu tịnh, thế gian xuất thế gian cũng đều được xét như thế. Nếu dùng ý này để nghiệm thì các nhà giải thích kinh luận khó tránh khỏi rơi vào “nghóa tánh”. Hỏi: Nếu cảnh là cảnh, thì cảnh là tự tánh, cảnh, nay đối trí nên nói cảnh, vì sao nói là tha tánh cảnh? Đáp: Nếu cảnh là tự, thì trí đâu chẳng phải là tha? Nếu trí chẳng phải là tha thì cảnh đâu thể là tự. Vậy cảnh là tự tánh, trí là tha tánh. Cảnh là Tự tánh thì chẳng phải là giả. Thì trí là tha tánh đâu được nói giả? Nếu trí là tha tánh được nói giả, thì cảnh là tự tánh lẽ ra cũng nói là giả. Nếu kiểm nghiệm như thế, do cảnh nói trí tức phạm lỗi tự tánh, nói trí là cảnh tức rơi vào lỗi tha tánh. Luận như thế, từ trí nói cảnh thì chẳng thành giả, nếu chẳng thành giả cảnh, tức chẳng được bất tư nghị. Nếu dùng bốn câu nghiệm xét cảnh đều chẳng được mà được nói là cảnh thì đó là giả cảnh, cũng là cảnh bất tư nghị, trí cũng như thế. Cảnh trí bất tư nghị này tức là nghóa chính cảnh trí bất tư nghị nói trong kinh này. Cho nên phẩm Tán Chi Quỉ Thần trong kinh Kim Quang Minh nói: “Ta hiện thấy trí quang bất tư nghị, trí cảnh bất tư nghị.” *. Giải thích tên của ba quán: Tên của ba quán xuất tứ từ kinh Anh Lạc. Kinh ghi: “Quán Từ giả vào không gọi là quán Nhị đế, từ không vào giả gọi là quán bình đẳng, hai pháp quán này là đạo phương tiện. Nhân nơi quán Nhị không này mà quán vào Trung đạo Đệ nhất nghóa đế , song chiếu Nhị đế thấy tâm tâm đều vắng lặng, tự nhiên lưu nhập biển Tát-bà-nhã.” Quán Từ giả nhập không , không mà giả lập ra thì gọi là giả, quán giả biết không thật, như huyễn như hóa, chỉ có danh tự tức, là nhập không. Nhưng nói là quán Nhị đế, thì hoặc là tình trí Nhị đế, hoặc căn cứ theo tùy trí Nhị đế. Kế đến giải thích quán từ không nhập giả ; như chẳng trụ không mà lại vào huyễn hóa, thế đế giả danh phân biệt không ngại, tức là từ không vào giả quán, mà lại nói bình đẳng quán là vì ở trước phá tục dùng chân chẳng gọi là bình đẳng. Kế đến giải thích quán Trung đạo , Trung lấy bất nhị làm nghóa, Đạo lấy năng thông làm tên, chiếu soi nhất thật đế rỗng thông chẳng ngại, gọi là quán Trung đạo . Cho nên kinh nói: “Hai pháp quán trước là đạo phương tiện, nhân nơi quán nhị không mà vào Trung đạo, song chiếu Nhị đế, các tâm đều vắng lặng, tự nhiên lưu nhập biển Tát-bà-nhã.” Cả ba gọi chung là quán, là vì quán nghóa là quán xuyên, quán đạt, quán xuyên tức xuyên suốt các hoặc kiến tư, trần sa, vô minh. Quán đạt tức đạt lý tam đế. Cho nên kinh Đại Niết-bàn ghi: “Như người biết rõ kho tàng, dùng cuốc, xẻng sắc bén đào đất, xuyên thẳng qua cát soi, đá tảng chẳng khó, chỉ khi đến kim cang thì chẳng thể xuyên qua được.” Đá tảng tức hoặc kiến tư, cát tức hoặc trần sa vô tri, sỏi tức hoặc vô minh trụ địa; xuyên qua tức là quán xuyên; đến kim cang tức là đạt đến lý Phật tánh nhất thật đế. Hỏi: Ba quán đều chiếu Nhị đế, nhưng có gì khác nhau? Đáp: Quán thứ nhất tuy chiếu Nhị đế, nhưng phá và dụng chưa bình đẳng, vào pháp quán thứ hai thì phá và dụng đã bình đẳng, vào pháp quán thứ ba thì thấy được Trung đạo, song chiếu Nhị đế, tức nhất thời bình đẳng. *. Luận về tướng của ba quán: Gồm hai ý: Nói về tướng riêng của ba quán. Nói về nhất tâm ba quán. Tướng riêng của ba quán: Tức quán lý Tam đế do nhân duyên sinh, sai biệt bất đồng, quán ba hoặc chướng thủ tướng, trần sa, vô minh có thô tế, thứ bậc khác nhau, quán lý phá hoặc và dùng trí cũng bất đồng, nên gọi là tướng riêng của ba quán, tức ba trí tướng nói trong phẩm Tam tuệ kinh Đại phẩm. Nay giải thích tướng riêng của ba quán, gồm ba phần: Một là từ quán giả nhập không ; hai là quán từ không nhập giả ; ba, nói về quán Trung đạo Đệ nhất nghóa đế . Một, nói về tướng quán từ giả vào không , lược nêu ba ý: Thứ nhất, nói về giả sở quán; thứ hai, nói về quán môn bất đồng; thứ ba, nói về nhập trí không quán. -Thứ nhất, giả sở quán: Có hai loại giả gồm thâu tất cả pháp là ái giả và kiến giả. Ái giả tức là ái luận, kiến giả tức là kiến luận. Hai loại này đều là hý luận, phá tuệ nhãn, chướng ngại Kiến chân thật. Ái luận tùy theo cảnh được thấy mà sinh ái trước, là ma nghiệp; kiến luận tùy cảnh được thấy mà sinh phân biệt, là nghiệp ngoại đạo. Cho nên kinh này ghi: “Thiên ma thích sinh tử, ngoại đạo thích các kiến.” Lại nhân nơi ái kiến này mà khởi chín mươi tám sử, khiến cho ba nghiệp làm thiện, tạo bất thiện, luân chuyển sáu đường, chịu khổ sinh tử. Cho nên kinh này nói: “Từ si có ái nên bệnh của tôi sinh.” Lại nói: “Bệnh này khởi đều do chấp ngã, vì thế chẳng nên sinh tâm chấp ngã.” Nay nói nếu biết ái kiến do vô minh sinh thì tất cả ba cõi đều từ tâm khởi. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Ba cõi không sai biệt, tất cả pháp chỉ do một tâm tạo ra”, mà các pháp này đều từ giả là vì pháp do vô minh ái kiến khởi đều có tướng của tam giả. Tam giả là nhân thành giả, tương tục giả và tương đải giả. Ba pháp này là dối lập nên soi là giả. Hỏi: Ba tạng và Ma-ha-diễn đều nói về Tam giả, vậy làm sao phân biệt hai kinh khác nhau? Đáp: Nếu tùy tình nói về giả, thì tạng Thanh văn tuyên thuyết, nếu theo lý nói về giả đều như mộng huyễn, tức là tạng Ma-ha-diễn tuyên thuyết. Nơi kinh này quở trách Ưu-ba-ly tức đã nói rõ về tướng của ba giả này. Hỏi: Ba thừa đều từ ba giả vào không, vậy làm sao phân biệt? Đáp: Có người nói rằng hàng Thanh văn phần nhiều dùng nhân thành giả, Duyên giác phần nhiều dùng tương tục giả, Bồ-tát phần nhiều dùng tương đải giả. Ở đây thì cho rằng Tam tạng nói ba giả khác nhau, tùy tiện nhập lý, còn như Ma-ha-diễn nói ba giả như huyễn hóa, ba thừa đồng quán như thế, mà vào không. Thứ hai nói về quán môn bất đồng: Tức là hai loại quán môn là tích và thể. Như kinh Thanh Văn nói phân tích giả mà nhập sinh không, pháp không, như không của nắm tay của bàn tay thật; Ma-ha-diễn nói thể hội giả mà nhập sinh không pháp không, như không của nắm tay, của ảnh trong gương. Phân tích giả nhập không gọi là chuyết độ, thể hội giả nhập không gọi là xảo độ. Cho nên luận Đại Trí Độ lập hai thí dụ về chữa bệnh đối với xảo độ và chuyết độ. Nay giải thích thí dụ này, như trị bệnh mắt có chuyết có xảo, chuyết thì dùng kim châm, nhỏ thuốc rất đau đớn bệnh mới giảm, xảo thì dùng chú thuật không đau đớn gì mà bệnh tự lành. Thuyên giảm đồng nhau, thấy sắc cũng chẳng khác. Cho nên Trung Luận ghi: “Hay thuyết nhân duyên này, khéo diệt các hý luận.” Chuyết độ là chẳng khéo diệt, xảo độ là khéo diệt. Hỏi: Cả hai có gì khác? Đáp: Khéo diệt tức chẳng đoạn mà đoạn, chẳng khéo diệt tức nhất định đoạn trừ. Thứ ba, nói về nhập trí không quán: cũng gồm hai ý: là phân tích giả để nhập không và Thể hội giả nhập không của đạo Ma-ha-diễn. Một, phân tích giả nhập không, lại gồm hai ý là phân tích Kiến giả nhập không và phân tích Ái giả nhập không, tất cả đều là giáo môn chuyết độ của Tam tạng. Hỏi: Trên nói hai giả Ái và Kiến, ái trước kiến sau, ở đây nói tu quán, vì sao nói Kiến trước ái sau? Đáp: Chúng sinh có hai loại sử là độn sử, thô thuộc ái và nghiệp ma, lợi sử, vi tế thuộc kiến là nghiệp ngoại đạo, cho nên ái trước kiến sau. Nay chánh đạo Phật pháp duyên với lý mà đoạn kết. Trong Kiến đạo có hai hạng người, hàng độn căn dùng hạnh vô thường, khổ đế nhập kiến đạo, trước đoạn ái; hàng lợi căn dùng hạnh không, vô ngã nhập kiến lý đoạn kiến, đầu tiên là kiến tận dứt, sau là được tu đạo, kế đến là trừ ái kết. Một, nói về tích kiến giả nhập không: Tức là phân tích phi kiến giả nhập không. Tích giả quán, như luận Đại Trí phá chăn dạ đến lân hư trần, phân tích sắc giả, trần vi tế sinh diệt này để vào không, quán thân tâm bên trong cũng như thế. Nhưng ba vị Đại Pháp sư của Thành thật, mỗi mỗi lại dùng để phá trần vi tế này, nếu trần vi tế tận trừ thì không tránh khỏi đoạn kiến, nếu trần vi tế chẳng tận thì lại rơi vào thường kiến, chẳng ra ngoài hai kiến thì há có thể vào “Không” được ư? Nay xét rõ ý của Luận Đại Trí thì chẳng như sự suy luận của các Sư Thành thật. Luận chủ dẫn dụng lời Phật rằng “Dù sắc thô hay tế đều quán là vô thường, vô ngã, chẳng nói có sắc cực vi.” Ở đây cho rằng nếu biết các sắc thô tế đều vô thường vô ngã, tức là nhân thành, tương tục, tương đãi hư giả chẳng thật. Đã chẳng có sắc hữu, há lại trệ ngại nơi sắc không cũng có cũng không, chẳng phải có chẳng phải không ư? Thế thì thân kiến, biên kiến đều do bốn duyên ba giả tạo thành, đều chẳng thật là không. Niệm tưởng quán đã trừ, pháp ngôn ngữ đã diệt, chỉ còn nhất tâm, thiền tịch tâm ở nơi định, nên hay biết được pháp tướng sinh diệt của thế gian. Nếu biết bốn kiến và sáu mươi hai kiến vô thường, không tịch thì hoát nhiên khai phát chân vô lậu thành Tu-đà-hoàn, đó là Tích kiến giả nhập không quán. Hỏi: Tích giả nhập không chỉ nên phân tích sắc, còn tâm thì có không, cũng có cũng không, chẳng có chẳng không, làm sao phân tích? Đáp: Tùy theo chỗ chấp trước của kiến, ắt bốn duyên, ba giả đều là tướng sinh diệt, phá sinh diệt thô phù đến phá sinh diệt vi tế, sinh diệt vi tế tận trừ tức nhập vào không. Hỏi: Làm thế nào để phân biệt tướng của bốn kiến và hai pháp sinh không, pháp không? Đáp: Thân kiến biên kiến đều là năm ấm ô uế vô ký, quán năm ấm này tức ấm lìa ấm, đều chẳng thấy tướng ngã chỉ có pháp ấm, như quán năm ngón tay mà chẳng thấy tướng nắm tay. Đó là từ mười sáu tri kiến giả để nhập sinh không. Hữu môn của Tỳ-đàm dùng nhân không này khai phát chân vô lậu thấy Đệ nhất nghóa, đoạn trừ ba kết, chứng Tu-đà-hoàn. Không môn của Thành thật quán biên kiến này chỉ là hành ấm, hành ấm là ba giả, đã giả thì chẳng thật, nhân đó mà vào không, phá các kiến kết, thành Tu-đà-hoàn. Đó là chánh ý tích thật pháp giả nhập không, là tướng pháp không mà kinh tạng Thanh văn đã nói. - Phân nói về tích ái giả để nhập không: Ái tức là dục ái, sắc ái và vô sắc ái, đều do bốn duyên, ba giả tạo thành. Nếu quán bốn duyên ba giả nhập vào không phát chân vô lậu, đoạn đạo vô ngại, chứng đạo giải thoát, đến giải thoát thứ chín phi tưởng thành quả A-la-hán trụ ở hữu dư Niết-bàn, đến đây thì công phu tích giả nhập không quán mới dứt, đó cũng gọi là Nhất thiết trí, cũng gọi là tuệ nhãn. Hai thể hội giả nhập không quán của Ma-ha-diễn: quán môn nhập không có rất nhiều, nay chỉ căn cứ theo quán môn vô sinh để nói về thể giả nhập không. Quán môn này cũng có hai pháp riêng biệt là: thể hội kiến giả để nhập không; và, thể hội ái giả để nhập không. Trước nói về Thể hội kiến giả để nhập không, tức thể hội pháp thân kiến… do nhân duyên sinh đều như mộng huyễn, nhân thành, tương tục, tương đãi chỉ có danh tự, danh tự tức là không, chẳng phải diệt rồi mới không, không tức là chân, chân tức là Niết-bàn, đó là thể hội giả nhập không quán. Ở đây căn cứ theo ba giả để kiểm nghiệm: Một, căn cứ theo nhân thành giả để kiểm nghiệm: Bên trong có ý căn, bên ngoài có pháp trần, căn trần đối đãi thì ý gặp nhân duyên sinh ái, ái đã sinh thì thân kiến ý thức sinh. Nay quán kiến thức này từ đâu sinh, từ ý căn sinh hay từ ý pháp trần sinh, hay từ căn trần hợp sinh hay lìa căn trần sinh? Nếu từ ý căn sinh tức là tự tánh sinh, nếu từ pháp trần sinh là tha tánh sinh, nếu do căn trần hợp sinh tức cộng sinh, nếu lìa căn trần sinh tức không nhân duyên sinh. Từ nhân duyên sinh còn chẳng thể nói, hà huống không có nhân duyên sinh. Cho nên bài kệ Trung luận ghi: “Các pháp chẳng tự sinh, cũng chẳng từ tha sinh, chẳng phải do cộng sinh, cũng chẳng phải không nhân, cho nên nói vô sinh.” Nên biết tâm thân kiến vốn tự chẳng sinh, chẳng sinh mà nói sinh, đó là vì tùy thuận danh tự thế gian cho nên nói sinh, pháp danh tự chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở khoảng giữa, cũng chẳng thường tự có, danh tự này chẳng trụ cũng chẳng phải chẳng trụ, danh tự này vô sở hữu, đường ngôn ngữ đoạn dứt, đó gọi là từ nhân thành giả nhập không. Hỏi: Không có hai loại là tánh không và tướng không, vậy làm thế nào để phân biệt? Đáp: Theo bốn câu trước mà nghiệm xét thì tánh sinh bất khả đắc là tánh không; Vô sinh mà nói sinh là giả sinh, giả sinh tức là chẳng sinh, chẳng sinh tức là tướng không. Cho nên Thế đế phá tánh lập giả, Chân đế phá giả tức tướng không. Thứ hai, căn cứ theo tương tục giả để kiểm nghiệm: Như một niệm tâm là từ sinh sinh hay từ diệt sinh, là từ sinh diệt sinh hay lìa sinh lìa diệt mà sinh? Nếu từ sinh mà sinh là tự tánh sinh, nếu tự diệt sinh là tha tánh sinh, do sinh diệt hợp sinh là cộng sinh, nếu lìa sinh lìa diệt mà có sinh tức không nhân duyên sinh. Từ nhân duyên sinh còn chẳng thể được hà huống không có nhân sinh. Nay quán tâm này chẳng phải tự tánh sinh, nên chẳng phải từ sinh mà sinh, chẳng phải tha tánh sinh nên chẳng phải từ diệt sinh, chẳng phải tự và tha tánh sinh nên chẳng phải do sinh diệt cộng sinh, chẳng phải không có nhân duyên sinh, nên chẳng phải lìa sinh lìa diệt mà sinh. Nghiệm, xét bốn câu như thế, sinh chẳng phải sinh mà nói sinh, là vì thuận theo danh tự thế gian nên nói là sinh, danh tự sinh tức giả sinh, sinh giả danh tức chẳng sinh, danh tự vô sinh thì đường ngôn ngữ đoạn dứt. Đó là từ tương tục giả để nhập không. Hỏi: Nếu nói từ sinh mà sinh là tự tánh sinh, còn đợi diệt mới sinh, thì sinh chẳng phải sinh, tức là giả, vậy sao gọi là tha tánh sinh? Đáp: Nếu gọi sinh là tự, thì diệt há chẳng phải là tha? Nếu diệt chẳng phải là tha, thì sinh đâu được gọi là tự? Sinh là tự tánh, diệt là tha tánh, sinh là tự tánh chẳng thành giả thì diệt là tha tánh há được nói giả ư? Diệt là tha tánh được cho là giả thì sinh là tự tánh cũng được nói là giả. Nghiệm xét kỹ như thế, nếu do sinh mà sinh tức phạm lỗi tự tánh, nói do diệt mà sinh tức rơi vào lỗi tha tánh. Luận biện như thế, do diệt mà nói sinh thì giả chẳng thành. Thứ ba, căn cứ theo tương đãi giả để kiểm nghiệm: Tâm thân kiến này sinh là do sinh sinh ra hay từ chẳng sinh mà sinh, do sinh và chẳng sinh hợp sinh hay lìa sinh và chẳng sinh mà sinh? Nếu do sinh mà sinh thì thuộc tự tánh sinh, nếu do chẳng sinh mà sinh tức thuộc tha tánh sinh, nếu từ sinh và chẳng sinh hợp sinh thì thuộc cộng sinh, nếu lìa sinh lìa chẳng sinh tức không nhân sinh, từ nhân duyên sinh còn chẳng thể nói, hà huống không có nhân duyên mà nói sinh. Nay quán tâm kiến này chẳng phải tự tánh sinh nên chẳng phải từ sinh mà có sinh, chẳng phải tha sinh nên chẳng phải từ diệt mà có sinh, chẳng phải tự tha hợp sinh nên chẳng phải từ sinh và chẳng sinh cộng sinh, chẳng phải không có nhân duyên sinh, nên chẳng lìa sinh và chẳng sinh mà có sinh. Bốn câu như thếâ nghiệm xét sinh chẳng được tức là chẳng sinh, chẳng sinh mà nói sinh, là vì tùy thuận danh tự thế gian cho nên nói sinh, sinh danh tự là giả sinh, sinh giả danh tức chẳng sinh, danh tự đã vô sinh tức đường ngôn ngữ đoạn dứt, đó là từ tương đãi giả để nhập không. Hỏi: Từ sinh mà sinh đúng là tự tánh sinh, đợi chẳng sinh mà nói sinh, đâu phải là tha tánh sinh? Đáp: Nếu sinh là tự thì chẳng sinh đâu chẳng phải tha? Tiếp tục phân biệt đồng thời kiểm xét xong rồi so sánh kó, có thể tự rõ biết, kinh Đại Phẩm ghi: “Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu bồ-đề là từ sinh sinh hay là từ chẳng sinh mà có sinh? Ngài Tu bồ-đề đáp chẳng phải từ sinh sinh, chẳng phải từ chẳng sinh mà sinh”, thế thì Tam giả phá kiến chấp về sinh tổng cộng có mười hai quán môn. Nếu quán sinh, chẳng sinh của ba giả mà chấp vô sinh thì lại dùng mười hai phen quán để phá trừ. Phá kiến chấp cũng sinh cũng chẳng sinh cũng có mười hai phen quán phá bốn chấp tổng cộng có bốn mươi tám phen quán. Năng phá bằng sở phá, tức phá tâm năng quán cũng có bốn mươi tám phen, tổng cộng có chín mươi sáu phen quán môn. Khéo tu pháp quán này, quán tướng sinh rốt ráo bất khả đắc, cho đến bốn kiến kép đầy đủ bốn kiến bất khả thuyết, kiến đều bất khả đắc tức hoát nhiên khai ngộ, sáu mươi hai kiến tám mươi tám sử đều diệt tận, chứng đắc Tu-đà-hoàn. Cho nên kinh Niết- bàn ghi: “Tu-đà-hoàn như trí như đoạn là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn.” Đó là xảo độ chẳng đoạn mà đoạn, không đồng với chuyết độ nhất định phải đoạn. Tiếp đến, thể nhập ái giả nhập không: Phân biệt ái giả giống như đã nói ở trước. Ở đây nói tu đạo thể hội ái trong ba cõi đều như mộng huyễn, tam giả tức không. Bốn câu nghiệm xét sinh đều chẳng được, đó là thể hội ái giả trong ba cõi để nhập không, không tức chân trí tăng trưởng. Các pháp sinh mà Bát-nhã sinh là vì đã đoạn kết sử của ba cõi. Nếu sáu phẩm dục ái dứt thì đắc quả Tư-đà-hàm, Tư-đà-hàm như trí như đoạn là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn; kế đó đoạn dứt ba phẩm kết sử hạ phần thì đắc quả A-na-hàm, A-na-hàm như trí như đoạn là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn. Sau đó đoạn ái của hai cõi Sắc và Vô sắc, tận trừ năm phẩm kết sử thượng phần tức thành A-la-hán, A-la-hán như trí như đoạn là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn. Cho đến Bích-chi-Phật dần dần đoạn trừ tập khí, như trí như đoạn cũng là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn. Đó đều là xảo độ chẳng đoạn mà đoạn, là quán nhân duyên tức không; công phu quán Bốn đế nhập không chẳng sinh mà sinh vô sinh đồng với ở đây, đó cũng gọi là Nhất thiết trí, là tuệ nhãn. Hai quán từ không nhập giả : gồm ba ý: Một là, nói về ý nhập giả; hai là, nói về tu nhập giả quán; ba là, nói về quán thành tựu giáo hóa chúng sinh. Ý nhập giả: Pháp quán này chính là quán Tục đế phá trừ trần sa vô tri, như Nhị thừa chẳng giáo hóa chúng sinh, thì chẳng cần pháp quán này, còn Bồ-tát vì cứu độ chúng sinh nên cần tu pháp quán này. Nói từ không nhập giả, nếu trệ ngại nơi không thì đọa vào Nhị thừa. Như kinh Đại Phẩm nói: “Ta dùng thiên nhãn quán hằng hà sa Bồ-tát trong mười phương thế giới tu tập Bồ-tát đạo thấy rất ít người nhập vào giai vị Bồ-tát , còn phần nhiều rơi vào Nhị thừa. Vì thế hàng Bồ-tát Thông giáo cần phải từ không nhập giả, dùng đạo chủng trí để nhập vào Bồ-tát vị. Nếu chẳng trệ ngại nơi không như trồng cây trên hư không, thì khéo phân biệt được thuốc bệnh giáo hóa chúng sinh. Tu nhập giả quán: Nhập giả có hai loại: Một là nhập kiến giả nhất thiết pháp; hai, nhập ái giả nhất thiết pháp. Nhập kiến giả nhất thiết pháp, tức là Bồ-tát trụ ở thiền định sâu xa biết không chẳng phải không, đầy đủ Đại từ bi quán giả thấy giả. Giả có bốn loại: Từ bốn kiến này mà phát sinh vô lượng kiến: Một là, tự sinh kiến; hai là, tha sinh kiến; ba là, cộng sinh kiến, bốn là, vô nhân sinh kiến. Bốn kiến này mỗi mỗi đều có bệnh tranh chấp nhau. Vả lại chấp có hai lớp: Một là, chấp các kiến tà nhân duyên vô nhân duyên tứ sinh của ngoại đạo, đó là tứ minh sinh giác, từ vi trần sinh Tự tại thiên, khi sinh thời tự nhân sinh. Hai, chấp các kiến chánh nhân duyên sinh tự, tha, cộng, vô nhân trong Phật pháp. Chấp tự sinh kiến nghóa là nếu chấp ý căn sinh ý thức tức là tâm sinh tâm, cho nên kinh Chánh Pháp Niệm ghi: “Tâm như người họa só khéo vẽ các loại năm ấm.” Tất cả pháp thế gian đều do tâm tạo như luận Duy Thức đã giải thích. Về tha sinh kiến thì như kinh đã nói tâm chẳng thể độc lập sinh, nhờ nơi duyên phát khởi. Kinh Đại Phẩm nói rằng “Có duyên tư thì sinh, không có duyên tư thì chẳng sinh. Nên biết tất cả pháp đều từ ngoại duyên mà sinh.” Về cộng sinh, có người nói rằng như kinh nói sáu xúc nhờ nhân duyên mà sinh sáu thọ được tất cả pháp. Nói về tự nhiên sinh kiến, như kinh Long Vương nói: “Tất cả đều tự nhiên sinh.” Kinh Đại Phẩm ghi: “Mười hai nhân duyên chẳng phải do Phật, Trời, Người, Tu-la lập ra, vì tự tánh như thế. Đức Phật có bốn cách nói đều từ Tất-đàn phương tiện để vào giả làm lợi ích chúng sinh mà chúng sinh điên đảo chẳng biết, hoặc chấp bốn bên tà thuyết của ngoại đạo, hoặc chấp bốn bên trong kinh luận của Phật pháp mà sinh kiến chấp. Cho nên luận Trí Độ ghi: “Bát-nhã như đống lửa lớn, bốn bên chẳng thể chấp thủ, lửa tà kiến thiêu đốt. ” Nay nói tùy chỗ chấp kiến tức là khổ tập, nếu biết được khổ, đoạn được tập ắt cần phải tu đạo chướng diệt, đó đều là giả danh như huyễn hóa mà biết. Kế đến nói vào ái giả nhất thiết pháp, nghóa này có thể tự biết. Quán thành tựu giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát từ không vào giả tu chứng tức là quán nhân duyên giả, đó gọi là vô lượng bốn đế sinh chẳng sinh, cũng gọi là Đạo chủng trí, cũng gọi là pháp nhãn, vượt trên Nhị thừa dùng Đạo chủng trí nhập Bồ-tát vị, vào giả tu chứng. Đạo chủng trí có ba loại: Một là, sinh diệt đạo chủng trí; hai, vô sinh đạo chủng trí; ba, y tạng thức đạo chủng trí. Bồ-tát trụ ở giai vị này, vì hàng phục Thiên ma và quyến thuộc của chúng mà vào ái giả hiện các thần thông cho đến đồng sự lợi ích chúng sinh, thuyết các ái luận. Như Tam phần (sách của vua Phục Hy, Thần nông và Hoàng đế), ngũ điển là các kinh sách dạy an quốc dưỡng dân ở nước này. Vì hàng phục ngoại đạo và các quyến thuộc của chúng mà nhập vào kiến giả hiển phát trí tuệ cho đến đồng sự lợi ích chúng sinh, thuyết các kiến luận như mười tám loại Lục sư đều tự xưng là Nhất thiết trí, biết rõ bệnh ái kiến, khổ tập vô lượng thì thuốc đạo diệt cũng có vô lượng, tất cả đều như vô lượng mộng huyễn, dùng bốn Tất-đàn ứng hợp căn duyên tùy bệnh cho thuốc. Vả lại các Bồ-tát vì cứu độ vô lượng chúng sinh như thế cho nên du hý thần thông. Vì làm thanh tịnh cõi Phật, thành tựu chúng sinh mà nhập vào giả để tu tập vô lượng hạnh nguyện, đó là quán đã thành tựu mà giáo hóa chúng sinh. Ba, quán Trung đạo Đệ nhất nghóa đế gồm ba ý: Một, nói về cảnh sở quán; hai là, nói về tâm tu quán; ba, nói về chứng thành. Nói về cảnh sở quán: hai pháp quán nói ở trước là phương tiện, tuy có chiếu trí Nhị đế nhưng chưa phá trừ vô minh, chẳng thấy được Trung đạo, chân trụ riêng biệt chiếu soi đó là trí chướng. Cho nên luận Nhiếp Đại thừa ghi: “Trí chướng rất mê mờ cho rằng chân trụ khác nhau.” Trí chướng tức là nương nơi thức A-lại-da mà biết, tức là vô minh trụ địa, tức là căn bản của sinh tử. Cho nên kinh nói rằng: “Từ gốc vô trụ mà lập tất cả pháp.” Gốc vô trụ tức là vô thủy vô minh mà không có hoặc nào khác để y trụ.” Nói về tâm tu quán: Nếu tu pháp quán này thì phải dùng phương tiện song vong song chiếu của hai pháp quán trước. Phương tiện song song nghóa là đầu tiên quán biết tục chẳng phải tục, tức là tục không, kế đến quán biết chân chẳng phải chân, tức là chân không, vong tục chẳng phải tục, vong chân chẳng phải chân, chẳng chân chẳng tục tức là Trung đạo, nhân nơi nhị không quán này mà nhập trung đạo Đệ nhất nghóa, tuy quán trung đạo mà chẳng thấy, đều là vô minh che lấp, cần phải quán thật tướng tu tam Tam-muội. Luận Đại Trí Độ ghi: “Trong kinh Thanh Văn nói Tam Tam-muội duyên với mười sáu hành của Bốn đế, còn trong Ma-ha-diễn nói Tam Tam-muội chỉ duyên với thật tướng các pháp.” Ở đây nói đầu tiên tu Tam-muội Không, quán vô minh này chẳng tự sinh, chẳng tự pháp tánh sinh, chẳng phải tha sinh chẳng lìa pháp tánh mà riêng có nương vô minh nào khác để sinh, chẳng phải cộng sinh, cũng chẳng phải pháp tánh cộng với vô minh sinh, chẳng phải không có nhân duyên sinh, chẳng phải lìa pháp tánh lìa vô minh mà có sinh. Dùng bốn câu để nghiệm xét như thế thì biết vô minh vốn tự chẳng sinh, nguồn sinh bất khả đắc tức là vô thủy không, gọi là Tam- muội không, gốc của không vô trụ là tất cả pháp. Nếu như thế há lại hoàn toàn đồng với các sư Địa Luận chấp nhân như pháp tánh sinh tất cả pháp ư? Há hoàn toàn đồng với các sư Nhiếp Đại thừa chấp thức A- lại-da sinh tất cả pháp ư? Hỏi: Những kiến chấp trên có gì sai trái? Đáp: Lý thì không hai, hai vị luận sư Đại thừa này đều kế thừa ngài Thiên Thân thì đâu được tranh luận đồng như nước lửa. Kế đến quán vô tướng Tam-muội tức quán vô sinh thật tướng chẳng phải có tướng, chẳng như hữu tướng của bình chén trong nhà tối, chẳng phải không tướng, chẳng giống như không có tánh của lạc trong sữa, chẳng phải cũng có tướng cũng không tướng, chẳng như người trí thấy không và chẳng không; chẳng phải chẳng có tướng chẳng phải chẳng không tướng. Nếu chấp trước là ngu si luận, nếu chẳng chấp trước tướng nhất định của bốn bên tức là vô tướng Tam-muội nhập vào thật tướng. Nếu như thế há hoàn toàn đồng với các sư Địa luận dùng Phật tánh bổn hữu giống như bình chén trong nhà tối, cũng chẳng hoàn toàn đồng với các sư Tam luận phá chủ trương có tánh của lạc trong sữa, rốt ráo thanh tịnh chẳng có tánh hữu. Hỏi: Các chấp trước trên đây có gì sai lầm? Đáp: Nếu không có sai lầm, thì hai luận sư Đại thừa đâu được luận tranh như nước lửa? Kế đến nói về việc tu vô tác Tam-muội, quán chân như thật tướng, chẳng thấy duyên tu tác Phật, cũng chẳng thấy chân tu tác Phật, cũng chẳng thấy chân tu duyên tu hợp tác Phật, cũng chẳng lìa chân tu duyên tu mà tác Phật. Bốn câu nói về tu tức là bốn nghóa tác Phật. Nếu không có bốn tu tức không có bốn y, đó là vô tác Tam-muội. Nếu như thế há đồng với Bắc đạo nói nghóa duyên tu tác Phật, các sư Đại, Tiểu thừa ở phương Nam phần nhiều cũng dùng thuyết duyên tu tác Phật; cũng chẳng đồng với Nam đạo ở Tương châu nói nghóa dùng chân tu tác Phật. Hỏi: Nếu sử dụng thiên về một bên thì phạm lỗi gì? Đáp: Chánh đạo không có tranh luận, thì đâu được tranh luận như nước và lửa. Nay nói dùng tam Tam-muội tu Nhất thật đế. Khai trừ vô minh hiển thị pháp tánh, bặt chân duyên, lìa tranh luận, pháp ngôn ngữ diệt vô lượng tội tiêu trừ, tâm thanh tịnh như nước lắng trong, bảo châu Phật tánh tự nhiên hiện. Thấy Phật tánh tức được trụ đại Niết-bàn. Hỏi: Nếu như thế thì nay nói thuyết gì? Đáp: Kinh Đại Niết-bàn ghi: “Bất sinh bất sinh gọi là đại Niết- bàn”, vì tu đạo mà chứng đắc, cho nên bất khả thuyết, há như luận sư Đại thừa thiên chấp định thuyết. Nay dùng nhân duyên cho nên cũng có thể thuyết, nếu biết được ý bốn Tất-đàn như dị thuyết ở trước, đều là vì lợi ích chúng sinh, hưng khởi Phật pháp. Nói về chứng thành: Nếu quán vô minh nhân duyên nhập pháp môn bất nhị thì được trụ ở giải thoát bất tư nghị. Cho nên kinh này nói nhập pháp môn bất nhị, tức là Trung đạo song chiếu Nhị đế, tự nhiên lưu nhập biển Tát-bà-nhã. Đây là quán nhân duyên tức Nhất thật đế chẳng sinh chẳng sinh mà chứng ngộ vô tác tứ thật đế, cũng gọi là Nhất thiết chủng trí, cũng gọi là Phật nhãn, tức là vào sơ địa thấy Phật tánh trụ đại Niết-bàn. Nhất tâm ba quán: đây là pháp tu tập của hàng Bồ-tát lợi căn thuộc Viên giáo, vì sao? Vì lý nhân duyên của tâm bất tư nghị rất sâu xa vi diệu, quán môn ấy khó hiểu khó vào, nay nói nhất tâm ba quán cũng có ba ý: Một là, nói về cảnh sở quán bất tư nghị; hai, nói về ba quán năng quán; ba, nói về chứng thành. Nói về cảnh quán bất tư nghị: tức một niệm tâm vô minh nhân duyên sinh ra mười pháp giới là cảnh. Hỏi: Một người đủ mười pháp giới, thứ tự trải qua vô lượng kiếp,vì sao chỉ tại một niệm tâm vô minh mà không phương ngại nhau? Đáp: Kinh này nói về bất tư nghị, như núi Tu-di nhét vào hạt cải mà chẳng ngăn ngại. Vật vô tình còn được như thế, huống gì tâm thần vi diệu, trong một niệm có đủ tất cả các tâm các pháp trong ba đời, vậy đâu đủ để nghi ngờ? Thí như khi ngủ thì tâm bị che lấp trong một niệm mộng thấy các tâm các việc, như trong thời gian mộng cho rằng đã trải qua vô lượng kiếp. Như kinh Pháp Hoa nói mộng thấy vô lượng các việc từ lúc mới phát tâm đến khi thành Phật, nếu so sánh với khi tỉnh thức thì nhìn lại chỉ trong một niệm tâm ngủ. Tâm dụ cho tự tánh thanh tịnh tâm, ngủ che lấp tâm dụ cho vô minh, vô lượng việc mộng dụ cho hằng sa vô tri che lấp tất cả hằng sa Phật pháp, các việc thiện, ác, vui, buồn trong mộng chẳng thật, dụ cho kiến tư hoặc che lấp chân không, chẳng suy xét kỹ về mộng, dụ cho mối nghi bất tư nghì rốt cuộc không quyết định được nghóa lý. Cho nên các kinh Đại thừa phần nhiều nói mười dụ, nhưng các Pháp sư chẳng lấy trọn vẹn ý của dụ, chỉ thiên chấp bên không hư ngụy mà chẳng thấy bên pháp tánh vô lượng vô minh của dụ, cho nên nghóa của cảnh Tam đế chẳng thành. Nói về năng quán: Nếu quán một niệm tâm vô minh này chẳng phải không chẳng phải giả, tất cả pháp cũng chẳng phải không, giả, mà hay biết được tâm không giả, tức là chiếu soi tất cả pháp không giả. Thế thì nhất tâm ba quán chiếu tròn đủ lý tam đế, chẳng đoạn si ái mà khởi các minh thoát, như nước lắng trong thì hạt châu tự hiện, đó tức là quán hành tức. Nói về chứng thành: Nếu chứng đắc nhất tâm ba quán, tức đạt được nhất tâm, tam trí, ngũ nhãn. Nếu được sáu căn thanh tịnh thì gọi là Tương tự chứng tức, thuộc giai vị Thập tín. Nếu phát chân vô lậu thì gọi là Phần chứng chân thật tức, là Sơ trụ. Kinh này nói rằng “Một niệm Nhất thiết trí.” Cho nên kinh Đại Phẩm nói: “Có vị Bồ-tát khi vừa phát tâm đã ngồi Đạo tràng, nên biết vị Bồ-tát này như Phật.” Luận Trí Độ ghi: “Ba trí, thật ra chỉ được trong một tâm, Đức Phật muốn phân biệt nói cho người nghe, khiến cho dễ hiểu, nên theo thứ tự tuyên thuyết.” Đối trí, nhãn: Trí tức ba trí, nhãn tức năm nhãn. ba quán biết rõ nhân duyên của lý tam đế, tức là ba trí, thấy rõ được nhân duyên của lý tam đế tức năm nhãn. Nếu biết được ba quán thì yếu nghóa của hai khoa, ba trí, năm nhãn rõ ràng hiển lộ. Nêu luận riêng thì ba quán là nhân, ba trí năm nhãn là quả; nếu luận chung thì ba quán là tên khác của ba trí năm nhãn. Như luận Đại Trí giải thích Bát-nhã rằng “Nói riêng thì Bát-nhã là nhân, khi đạt đến Phật tâm thì đổi tên là Nhất thiết chủng trí.” Nếu nói chung thì gồm cho nhân quả. Như kệ của luận Đại Trí ghi: “Nếu như pháp quán Phật, Bát-nhã và Niết-bàn, cả ba chỉ một tướng kỳ thật chẳng sai biệt.” Cho nên biết danh từ Bát-nhã cũng được goiï khi đến quả Phật. Lại như ba đức thành đại Niết-bàn chẳng dọc chẳng ngang, như chữ nhất thế gian. Ma-ha Bát-nhã là một đức của quả. Hỏi: Ba quán đối với ba trí thì số lượng vừa hợp, còn ba quán đối với năm nhãn, số lượng đâu tương đương? Đáp: Nếu quán nhân duyên thô, đế tức là các cảnh thiên nhãn, nhục nhãn; nếu thấy lý tam đế tức là tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Thành nghóa các thừa: ba quán tức là Tam trí, Tam trí có hai loại là Biệt tướng tam trí và Nhất tâm tam trí. Biệt tướng tam trí tức khai mở ba thừa, nhất tâm tam trí chỉ thuộc Nhất Phật thừa. Biệt tướng tam trí khai mở ba thừa: gồm hai ý: Một là, chính thức căn cứ ba quán khai mở ba thừa, gồm ba ý: a) Căn cứ theo Tích pháp quán khai mở ba thừa của Tam Tạng giáo; b) căn cứ theo thể pháp quán khai mở ba thừa Thông giáo; c) Căn cứ chung Tích và Thể biệt tướng ba quán để thành Đại thừa Biệt giáo. Nói về nghóa tích pháp quán khai mở ba thừa Tam Tạng giáo: Tam Tạng giáo nói hành nhân của ba thừa đồng phân tích nhân duyên giả để nhập không, như hàng Thanh văn dùng tổng tướng phân tích pháp để nhập không, phát chân vô lậu, thành tựu Nhất thiết trí, gọi là Thanh văn thừa. Như Bích-chi-Phật dùng biệt tướng phân tích pháp nhập không, khai pháp chân vô lậu, thành tựu Nhất thiết trí, gọi là Bích- chi-Phật thừa. Như Bồ-tát dùng tổng tướng biệt tướng phân tích pháp để nhập không mà chẳng đoạn kết sử thủ tướng, lại vào tục giả tu tập sáu độ, cần Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, tức là Đại thừa Tam Tạng giáo. Nói về Thể pháp quán khai mở ba thừa Thông giáo: hàng Tam thừa đồng thể hội nhân duyên giả để nhập không, nếu phát chân vô lậu, đoạn trừ kiến tư hoặc, là hàng Tiểu thừa độn căn chỉ trừ chánh kết sử, thành tựu Nhất thiết trí, đó là Thanh văn thừa. Hàng Duyên giác trung căn dần dần đoạn trừ tập khí, thành tựu Nhất thiết trí, gọi là Bích-chi- Phật thừa. Hàng Bồ-tát được Nhất thiết trí vào giả tu tập Đạo chủng trí, giáo hóa chúng sinh cầu Nhất thiết chủng trí, tức là Đại thừa Thông giáo. Căn cứ chung Tích thể biệt tướng ba quán để thành Đại thừa Biệt giáo: Như Bồ-tát Biệt giáo quán nhân duyên tu Biệt tướng ba quán, theo thứ tự thành tựu Nhất thiết trí, đạo chủng trí cho đến tu Trung đạo quán thấy được Phật tánh, thành tựu Nhất thiết chủng trí, cầu Niết-bàn thường trụ; đó là nghóa Đại thừa Biệt giáo. Hai, nói về việc đầy đủ mười pháp thành Tam thừa ba quán là thể chánh của Tam thừa, nếu chẳng y cứ theo mười pháp hòa hợp thì nghóa thừa chẳng thành. Vì sao? Vì ba thừa đều chuyển vận ra khỏi nhà lửa ba cõi, ắt cần phải trợ giúp cho các pháp thiện hòa hợp, cho nên nghóa vận dụng thành tựu. Căn cứ theo đó gồm ba ý: Một là nêu tên mười pháp; hai, nói về thứ tự thành các thừa; ba, liệu giản. Nêu tên mười pháp: Một là, biết pháp chánh nhân duyên; hai, chân chánh phát tâm; ba, tu tập chỉ quán; bốn, phá các pháp biến; năm, khéo biết thông bít; sáu, điều hòa thích hợp các đạo phẩm; bảy, đối trị giúp đỡ khai mở ba môn giải thoát; tám, biết rõ thứ vị; chín, nhẫn chịu hai giặc cang cường và nhu nhuyến; mười, thuận theo đạo pháp chẳng sinh ái trước. Hàng Tam thừa tu học ba quán, nếu có đủ mười pháp này tức thành tựu Tam thừa, nhập Niết-bàn. Thứ tự thành các thừa: Sở dó đầu tiên cần phải biết chánh nhân duyên sinh, vì biết vô minh nhân duyên sinh tất cả pháp tức là chánh nhân duyên, ngoại đạo chấp tà nhân duyên, vô nhân duyên sinh tất cả pháp. Kế đó là chân chánh phát tâm, hành nhân Tam thừa rõ biết chánh nhân duyên sinh ra nhà lửa ba cõi, giác ngộ sinh tử, chí cầu Niết-bàn, nhưng Bồ-tát có tâm đại Bi cứu độ chúng sinh nên có khác nhau. Kế đến là tu tập chỉ quán, phát tâm tin hiểu rõ ràng, ắt phải tu tập định tuệ, đó là căn bản của hàng Tam thừa. Kế đến là phá các pháp biến, nếu chẳng phá hai chấp kiến tư hoặc, cảnh vọng chẳng biến thì trở ngại chỉ quán. Kế đến cần phải biết thông bít, tùy theo pháp được phá từ cạn đến sâu đều là thông đạo, diệt và bít khổ tập, nếu mê mờ lý này thì chẳng phải được mất, chỗ đúng chỗ sai, lấy bỏ, nên chẳng nêu. Kế đến là điều hòa thích hợp Đạo phẩm, ba mươi bảy đạo phẩm là pháp chánh yếu hàng Tam thừa nhập đạo, có thể dẫn dắt đưa các hạnh tiến đến ba giải thoát vào Niết-bàn. Kế đến là dùng đối trị để giúp khai mở ba môn giải thoát, tức dùng các pháp đối trị như bốn thiền, bốn vô lượng tâm, bốn vô sắc định, chín tưởng, mười tưởng, tám bội xã, tám thắng xứ, mười một tất cả xứ, chín định thứ đệ, sáu độ trong sự… để trợ giúp khai ba môn giải thoát. Kế đến là biết thứ vị, ba thừa vào đạo đều từ Càn tuệ địa đến Phật địa, nếu phân biệt rõ ràng, chẳng lầm lẫn tức chẳng sinh tham lam, phá được tâm tăng thượng mạn. Kế đến là nhẫn chịu hai tên giặc cang cường và nhu nhuyến, chưa vào giai vị Ngoại phàm thì tám gió trong ngoài phá hoại thiện căn xuất thế của hàng Tam thừa, nếu có thể an nhẫn thì chẳng bị phá hoại, vào được Càn tuệ địa, rồi nhân đó phát Noãn đảnh mà vào giai vị Tánh địa. Kế đến là thuận đạo pháp, chẳng sinh ái, hàng Tam thừa nếu vào vị tánh địa, phát sinh năm ấm thiện hữu lậu, thì những pháp thiện và công đức trí tuệ có được đều thuận với đạo, nếu sinh pháp ái thì liền ở vị đảnh, chẳng thể tiến vào pháp nhẫn, thành tựu pháp Thế đệ nhất, phát khởi chân vô lậu, nếu chẳng sinh pháp ái tức chẳng rơi vào vị đảnh, được vào giai vị pháp nhẫn, thành tựu Đệ nhất nghóa, phát sinh chân vô lậu. Đó là hàng Tam thừa đồng thấy Đệ nhất nghóa đế, đoạn trừ phiền não Kiến tư ở giới nội, ra khỏi nhà lửa ba cõi. Thế thì Thừa này từ ba cõi vượt ra, đến Niết-bàn hữu dư, trụ ở tận trí, vô sinh trí, lại vận chuyển nhập Niết-bàn vô dư. Cho nên dùng mười pháp để thành tựu ba thừa thì ý nghóa hiển rõ. Liệu giản: Hỏi: Nếu có chúng sinh gặp Phật vừa nghe được một pháp liền đắc đạo, hoặc tùy thuận tu một pháp môn liền vào đạo, như kinh Pháp Hoa nói nhà lửa ba cõi, các người con ra khỏi cửa liền cầu được xe, hà tất phải cần đủ các pháp này mới thành thừa? Đáp: Đó đều là những vị ở quá khứ lâu xa đã tu tập mười pháp này thành thục thành căn tánh rồi. Hỏi: Ba xe ngoài cửa, vì sao nay được mười pháp thành các thừa phải từ ba cõi mà vượt ra? Đáp: Kinh Pháp Hoa y cứ vào Tận vô sinh, công đức vô lậu hữu vi của ba thừa là rốt ráo, ba thừa có thể chuyển vận nhập Niết-bàn vô dư, đó mới là chân thừa, đã không thể chuyển vận đến thường trụ Niết-bàn thì nghóa ba thừa chẳng thành, cho nên cầu ba xe chẳng được. Nay nói chung về nghóa thừa, gồm có sáu loại: Một là lý thừa; hai, giáo thừa; ba, hạnh thừa; bốn, tương tự thừa; năm, phần chứng chân thật thừa; sáu, cứu cánh thừa. Lý thừa: Các hành giả Tam thừa đều có lý bốn đế, mười hai nhân duyên, sáu độ; hàng Tam thừa mỗi mỗi đều có căn tánh khác nhau. Giáo thừa: tức Phật khai mở giáo Tam thừa, các hành giả Tam thừa dùng giáo môn của Phật mà ra khỏi khổ của ba cõi, cũng gọi là Danh tự thừa. Quán hạnh thừa: Tức hàng Tam thừa tu tập các quán hạnh của Càn tuệ địa như Ngũ đình tâm quán, Tổng tướng và Biệt tướng niệm xứ; nên kinh Thắng Man ghi: “Nghiệp đầu tiên của ba thừa đã chẳng ngu lầm nơi pháp”, chính là ý này. Tương tự thừa: Tức hàng Tứ thiện căn đạt được năm ấm hữu lậu thiện. Phần chứng chân thật thừa: Tức hàng Học trí từ phát Khổ nhẫn, chân thật rõ được vô lậu cho đến Tam-muội Kim cang vô ngại thứ chín phi tưởng. Cứu cánh thừa: Tức hàng Vô học trí A-la-hán, Bích-chi-Phật và Phật đạt giải thoát đạo thứ chín phi tưởng, tận trí, vô sinh trí, Phật như thật trí, có thể chuyển nhập Niết-bàn vô dư. Đó là Tích pháp quán của Tam Tạng giáo, thể pháp quán mười pháp thành thừa của Thông giáo ý nghóa cũng tại nơi đây, nhưng ba quán mười pháp thành thừa của Biệt giáo nói về sáu thừa, thì ý nghóa khác nhau, phân biệt rất phiền tạp. Hỏi: Phật pháp có vô lượng, vì sao lại lấy mười pháp này để thành tựu ba thừa? Đáp: Phật pháp tuy có vô lượng, nhưng chỉ cần giữ những điều chánh yếu, như các kinh luận Đại, Tiểu thừa nói về nghóa thừa. Thành tức giáo môn phải có đủ mười nghóa rõ ràng, nhưng tùy duyên mà nói rải rác khắp mọi nơi, chứ không tụ tập một chốn. Nay xét kinh luận lập mười ý để thành nghóa thừa là vì muốn khiến cho các nhà nghóa học và hành giả tu thiền biết được chánh ý nhập đạo, mà các kinh luận Đại Tiểu thừa của Phật pháp đã nói, khác với ngoại đạo nước ngoài mỗi mỗi đều nói đến đạo cứu cánh. Đời mạt pháp có những hạng Pháp sư Thiền sư như loài trùng trong thân sư tử cho rằng Lão, Khổng và Phật là một giáo. Nếu hiểu như thế, thì có thể dùng mười pháp này để đối chiếu so sánh, nếu người kia rõ được không, có đầy đủ mười ý rõ ràng thì gọi là nghóa thành tựu, có thể chấp nhập là đồng; nếu không có pháp này hoặc danh nghóa tợ đồng, nhưng xét kỹ thì ngang dọc chẳng thông, sự lý trệ ngại, danh tự thiếu sót thì gọi là nghóa bất thành, thì há lại đồng được ư? Nay nói tuy Tỳ-đàm, Thành Thật là các luận của Phật pháp Tiểu thừa, đạt không để vào đạo, nhưng xét văn luận thì mười ý rõ ràng, danh ng- hóa không ngại, thông đạt Phật pháp, ý Tiểu thừa nhập đạo xoay chuyển phân minh, huống gì kinh luận Đại thừa? Còn kinh sách của ngoại đạo không có danh nghóa này, thì chẳng nói là đồng với Phật pháp. Nhất tâm tam trí chỉ là nhất Phật thừa: Nếu quán nhân duyên tam đế thì sơ tâm liền được Nhất tâm tam trí, khai mở Phật tri kiến, gọi là thấy Phật tánh, tức là Đại thừa, ở đây chẳng cần khai ba thừa riêng biệt, cho nên phẩm quán chúng sinh của kinh này ngài Xá-lợi-phất hỏi Thiên nữ rằng “Nàng cầu thừa nào trong ba thừa?” Thiên nữ đáp “Tôi giáo hóa cả ba thừa, như người vào rừng cây chiêm-bặc thì chỉ ngửi mùi hương chiêm-bặc, không còn ngửi mùi hương nào khác, như người vào trượng thất này chỉ nghe mùi hương công đức Đại thừa, chẳng thích mùi hương công đức của Thanh văn và Bích-chi-Phật.” Nếu biết nhất tâm nhị trí tức Viên giáo, Bát-nhã Ba-la-mật tức Đại thừa, nên phẩm Hội Tông, kinh Đại Phẩm ghi: “Bát-nhã Ba-la-mật tức Ma-ha-diễn, Ma-ha- diễn tức Bát-nhã Ba-la-mật, Bát-nhã Ba-la-mật và Ma-ha-diễn không hai, không khác.” Nay nói Nhất tâm ba quán thành Đại thừa, thì Đại gọi là Bất khả tư nghị, Thừa nghóa là hay vận chuyển. Cảnh và trí nhất tâm ba quán đều là pháp bất tư nghị, hay chuyển vận Bồ-tát đến đạo tràng, nên gọi là Đại thừa. Ở đây cần căn cứ theo lục tức để nói về Viên giáo Nhất Phật thừa, tức là sáu nghóa Đại thừa. Lý tức Đại thừa: Kinh Niết-bàn ghi: “Tất cả chúng sinh đều là Đại thừa.” Danh tự tức Đại thừa: Vừa duyên với lý liền phát tâm Đại thừa. Quán hạnh tức Đại thừa: nghóa là tu mười pháp bất tư nghị, thông đạt vô ngại. Mười pháp như trước đã nói, nay lược nêu mười pháp bất tư nghì để thành quán hạnh tức. Một, biết chánh nhân duyên bất tư nghị là cảnh sở quán, như trước nói một tâm khi ngủ có đầy đủ tất cả pháp mộng, ví như một niệm vô minh đầy đủ lý tam đế của tất cả pháp, chẳng dọc chẳng ngang, tức là nghóa này. Ở đây cần phải căn cứ vào lời “Tất cả chúng sinh tức đại Niết-bàn, tức tướng Bồ-đề” mà ngài Duy-ma dùng chê trách Bồ-tát Di-lặc để nói về nhân duyên bất tư nghị này, vì sao? Vì Trung đạo Đệ nhất nghóa chẳng phải nhân duyên, là nhân duyên vô tác bốn đế, nếu nói Niết-bàn tức sinh tử, nhất thật đế tức là khổ nhân duyên; nếu nói sinh tử tức Niết-bàn thì nhất thật đế tức là Diệt nhân duyên; nếu nói Bồ-đề tức phiền não thì nhất thật đế là Tập nhân duyên; nếu nói phiền não tức Bồ-đề thì nhất thật đế là Đạo nhân duyên, vì thế biết được chánh nhân duyên thế gian, xuất thế gian bất tư nghị. Hai, chân chánh phát tâm, tức vô duyên Từ bi, vô tác tứ hoằng thệ nguyện. Nếu dùng vô duyên đại Từ quán sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ- đề, ban cho chúng sinh niềm vui diệt đạo này thì gọi là vô duyên Đại từ, nếu quán Niết-bàn tức sinh tử, Bồ-đề tức phiền não, muốn vứu vớt chúng sinh khỏi khổ hư vọng này thì gọi là vô duyên đại Bi. Vô tác tứ hoằng nguyện là biết Niết-bàn tức sinh tử, người chưa được độ Khổ đế thì khiến được độ Khổ đế, biết Bồ-đề tức phiền não, chưa hiểu Tập đế thì làm cho hiểu Tập đế, biết phiền não tức Bồ-đề, người chưa an lập được Đạo đế thì khiến cho an lập được Đạo đế, biết sinh tử tức Niết-bàn thì người chưa Niết-bàn làm cho chứng đắc Niết-bàn. Tâm Từ bi, thệ nguyện vô duyên vô niệm của Bồ-tát như thế mà che phủ tất cả chúng sinh, giống như đám mây lớn chẳng cần dụng công, như nam châm hút sắc, đó gọi là tâm Bồ-đề chân chánh. Ba, hành đạo Bồ-đề siêng năng tu quán chỉ quán; nếu biết sinh tử tức Niết-bàn là khéo tu chỉ, nếu biết phiền não tức Bồ-đề là khéo tu quán, như âm dương điều hòa thì vạn vật sinh trưởng. Nếu khéo tu chỉ quán tức có thể nơi một tâm đầy đủ vạn hạnh. Hỏi: Lấy gì làm Tập? Đáp: Theo kinh này và kinh Niết-bàn, thì tất cả phiền não vô minh ác là Tập đế, nghiệp thuộc về Khổ; đến nay đối với nghóa ấy là thuận tiện. Thứ tư, phá các pháp biến, nếu biết sinh tử tức Niết-bàn, là phá hai loại sinh tử, đều biến là phần đoạn và biến dịch; nếu biết phiền não tức Bồ-đề thì phá phiền não biến ở trong và ngoài ba cõi; giống như Chuyển luân thánh vương hay phá dẹp tất cả các cường địch mà cũng chẳng có chỗ phá. Bát-nhã Ba-la-mật cũng như thế, hay phá dẹp tất cả pháp mà chẳng có chỗ phá. Năm, khéo biết thông bít, biết sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề, thì tất cả đều thông; biết Niết-bàn tức sinh tử, Bồ-đề tức phiền não thì tất cả đều bít. Sáu, khéo tu Đạo phẩm, quán năm ấm sinh tử trong mười pháp giới tức năm ấm pháp tánh, năm ấm pháp tánh tức là tánh tịnh Niết-bàn, tức là bốn Niệm xứ phá tám điên đảo; biết Niết-bàn tức sinh tử là hiển bốn khổ; biết sinh tử tức Niết-bàn là hiển bốn vinh. Biết nhất thật đế là thấy hư không Phật tánh, trụ tại đạo Niết-bàn. Nhân nơi bốn Niệm xứ này, mà tu bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, Căn, Lực, Giác, Đạo tức là Đạo phẩm, Thiện tri thức nhân nơi đây mà thành chánh giác, cũng là trang nghiêm song thọ, thế thì phiền não tức Bồ-đề. Bảy, đối trị trợ tu các Ba-la-mật, biết Bồ-đề tức phiền não sâu nặng, vì thế biết sinh tử tức Niết-bàn, đối trị các pháp Ba-la-mật, các pháp độ để trợ giúp cho phiền não tức Bồ-đề, khai mở ba môn giải thoát, nếu đối trị thành thì phiền não tức Bồ-đề. Tám, khéo biết thứ vị, Niết-bàn tức sinh tử, Bồ-đề tức phiền não, đây là lý tức. Nếu biết sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề là danh tự tức. Nhân nơi đây mà quán hành phân minh thành Ngũ phẩm Đệ tử là quán hành tức, đạt được sáu căn thanh tịnh là Tương tự tức, thành tựu bốn mươi mốt Địa là phần chứng chân thật tức, chứng quả Diệu giác là cứu cánh tức. Nếu hiểu rõ thứ vị này thì chẳng khởi các lỗi Đại thừa Tăng thượng mạn, Đại thừa Chiên-đà-la. Chín, an nhẫn thành tựu, nếu biết sinh tử tức Niết-bàn thì chẳng bị các cảnh ấm giới nhập, cảnh bệnh hoạn, cảnh nghiệp tướng, cảnh ma sự, cảnh thiền môn, cảnh Nhị thừa, cảnh Bồ-tát làm loạn, nếu biết phiền não tức Bồ-đề thì chẳng bị các cảnh phiền não, cảnh các kiến, cảnh tăng thượng mạn phá hoại, có thể an nhẫn nơi vô tác này thì khổ tập chẳng thể phá hoại, như luận Đại Trí ghi: “Hay kham nhẫn việc thành đạo, chẳng động chẳng thoái lui, tâm ấy gọi là Tát-đỏa.” Mười, thuận Đạo pháp, ái chẳng sinh, quán sinh tử tức Niết-bàn thì phát sinh các công đức thiền định Tam-muội …, quán phiền não tức Bồ-đề thì phát sinh các môn Đà-la-ni, bốn Vô sở úy, mười tám Pháp bất cộng, bốn Vô ngại trí, Nhất thiết chủng trí, tùy thuận Đạo pháp, chẳng tham ái chẳng chấp trước, đó là quán hành thừa. Tương tự tức Đại thừa: tức là được sáu căn thanh tịnh, như kinh Pháp Hoa nói. Phần chứng chân thật tức Đại thừa: tức là sơ phát tâm trụ cho đến Đẳng giác. Cứu cánh tức Đại thừa: tức quả Diệu giác. Như kinh Pháp Hoa nói Phật tự trụ nơi Đại thừa dùng pháp đạt được và sức định tuệ để trang nghiêm, cho nên kinh Đại Phẩm ghi: “Thừa này từ trong ba cõi vượt ra, trụ nơi Tát-bà-nhã, thừa này chẳng động chẳng xuất”, cho nên lý tức Đại thừa từ phát tâm Bồ-đề thành danh tự tức, quán hành tức, tương tự tức, vậy thừa này từ nơi ba cõi mà xuất. Kinh Pháp Hoa ghi: “Cưỡi (thừa) trên xe báu này mà đi khắp bốn phương, vui chơi khoái lạc, thẳng đến Đạo tràng.” Nếu đạt được phần chứng chân thật tức trụ nơi Thập trụ, khai tri kiến Phật, cưỡi trên xe báu này mà đi về phương Đông, nếu trụ nơi Thập hạnh tức là Thị tri kiến Phật, cưỡi xe báu này mà đi về phương Nam; nếu trụ nơi Thập hồi hướng tức ngộ tri kiến Phật, cưỡi trên xe báu này mà đi về phương Tây, nếu trụ nơi Thập địa Đẳng giác tức nhập tri kiến Phật, cưỡi xe báu này mà đi về phương Bắc, nếu trụ ở vị Diệu giác tức cưỡi xe báu này mà thẳng đến Đạo tràng, gọi là đến trụ trong Tát-bà-nhã. Lý tức Đại thừa, tánh như hư không, cho nên nói: “Thừa này chẳng động, chẳng xuất.” * Căn cứ theo đoạn kết sử mà giải thích nghóa Tịnh Danh: Ba quán thành nghóa Tịnh Danh, lược có ba ý: Một là, đoạn kết sử bất tư nghị; hai, thành nghóa Tịnh Danh; ba, Nhiếp pháp. Nói về đoạn kết sử bất tư nghị: Nếu nói ba quán nhất định có đoạn hoặc của Tam đế mà chứng lý Tam đế thì Trí đoạn tức thành tựu gọi là Tịnh vô cấu xưng, đây đồng với tướng Chuyết độ, chẳng phải là đoạn hoặc bất tư nghị mà kinh này đã nói. Ở đây nói ba quán bất tư nghị thì thấy lý Tam đế bất tư nghị, chẳng đoạn các hoặc kiến, tư, trần sa, và vô minh mà lại tương ưng với lý Tam đế. Trí nhất tâm quán chẳng ngại phiền não, phiền não chẳng chướng trí nhất tâm ba quán, trí chẳng đoạn hoặc mà tương ưng với lý đế, tức chẳng đoạn phiền não mà vào Niết-bàn, cho nên kinh này nói: “Chẳng đoạn si ái mà khởi minh thoát, Bồ-tát trụ nơi giải thoát này có thể nhét núi Tu-di vào hạt cải, thị hiện đủ các loại.” Hỏi: Vì ý gì mà quyết định nói chẳng đoạn phiền não mà vào Niết-bàn là tướng giải thoát bất tư nghị? Đáp: Núi Tu-di nhét vào hạt cải, nhỏ chẳng chướng lớn, lớn chẳng ngại nhỏ, nên gọi là Bất tư nghị. Nay nói phiền não kết hoặc chẳng chướng trí tuệ Niết-bàn, trí tuệ Niết-bàn chẳng ngại phiền não kết hoặc, nên mới gọi là bất khả tư nghị. Nếu không còn hoặc, có trí tuệ nhập Niết-bàn mà gọi là bất tư nghị, thì nay tức phản vấn cũng nên lấy nghóa không có Tiểu có Đại để luận Bất tư nghị. Dùng ba quán giải thích Tỳ-ma-la-cật-lật dẫn đến nghóa Tịnh Vô cấu xưng: Tâm nhân duyên sinh và lý tánh tam đế của Tịnh Danh cư só thường hằng sáng tỏ, nên gọi là Tịnh; chẳng đoạn hoặc của tam đế mà hay khởi minh thoát nhất tâm ba quán tam trí, minh thoát tuy ở nơi ba hoặc mà chẳng bị ba hoặc nhiễm ô, nên gọi là vô cấu. Nhất tâm tam trí hợp với lý tam đế khởi đại dụng vô cùng, xứng cơ mà giáo hóa, nên gọi là Xưng. Vì thế gọi là Tịnh vô cấu xưng. Ba quán nhiếp tất cả pháp: ba quán đã gồm nhiếp tất cả pháp, thì Tịnh vô cấu xưng cũng gồm nhiếp tất cả pháp. Nói gồm nhiếp tất cả pháp, lược nêu bảy pháp được nhiếp: Một là nhiếp lý; hai, nhiếp kết nghiệp; ba, nhiếp y chánh báo; bốn, nhiếp trí; năm, nhiếp hạnh; sáu, nhiếp vị; bảy, nhiếp giáo. Bảy pháp này gồm nhiếp tất cả pháp, cùng tận không gì chẳng thâu, cho nên nếu khéo hiểu ba quán thông đạt danh từ Tịnh vô cấu, thì biết rõ tất cả Phật pháp không ngăn ngại. Dùng ba quán để thông kinh văn: gồm ba ý: a) Giải thích ngoài trượng thất; b) Giải thích việc bên trong trượng thất; c) Giải thích việc ra khỏi trượng thất. Giải thích các phẩm ngoài trượng thất: Tức ba quán thành ng- hóa nhân quả cõi Phật, như phần luận về Tông đã nói, đó là giải thích phẩm Phật quốc; kế đến là hai loại Tích và Thể nhập không, dùng để giải thích phẩm phương tiện, chê trách các quốc vương và trưởng giả. Dùng pháp quán thứ hai là Thể giả nhập không để giải thích phẩm Đệ tử, ý chê trách mười đại đệ tử tại nơi đây. Kế đến dùng pháp quán thứ ba là Trung đạo Đệ nhất nghóa để giải thích phẩm Bồ-tát, chê trách bốn vị Đại Bồ-tát. Giải thích sáu phẩm trong trượng thất: nếu nơi phẩm Vấn tật, ngài Tịnh Danh dùng trượng thất trống để nằm dưỡng bệnh, tức biểu thị Trung đạo Đệ nhất nghóa đế quán tương ưng với quả tu trí, nương theo cõi thường tịch mà hiện tướng trượng thất trống không. Còn an ủi Bồ- tát có bệnh tự điều phục tâm, tức là dùng ba quán an ủi Bồ-tát có bệnh, Bồ-tát có bệnh cũng dùng ba quán để điều phục hoặc bệnh của Tam đế. Phẩm Bất tư nghị giải thoát tức là quả của ba quán tu trí bình đẳng trụ nơi chánh đạo, song chiếu Nhị đế, thị hiện các loại. Kế đến giải thích phẩm quán chúng sinh, tức là dùng pháp quán thứ nhất để giải thích, kế đến là phẩm Phật đạo là dùng phép quán thứ hai để giải thích, kế đến là phẩm Nhập Pháp Môn Bất Nhị thì dùng pháp quán thứ ba để giải thích, phẩm Hương Tích thì lại dùng song chiếu Nhị đế, tịnh uế đều vào của pháp quán thứ ba mà giải thích. Hỏi: Trong trượng thất đã chính thức nói về nghóa Bất tư nghị, vì sao lại căn cứ theo Biệt tướng ba đế để giải thích các phẩm? Đáp: Văn kinh vừa xem qua thì tựa như căn cứ theo ba quán để thuyết, nhưng xét kỹ ý thú thì tất cả đều cùng vào Trung đạo nhất tâm. Giải thích ý nghóa ra bên ngoài trượng thất: Phẩm Bồ-tát hạnh, phẩm thấy Phật A-súc là dùng ba quán để giải thích chung nhân quả cõi Phật, đồng với ý của cõi Phật bàn ở trước. Kế đến giải thích phẩm Pháp Cúng Dường, phẩm Chúc Lụy; phần lưu thông là lưu thông các phẩm nói trong thất và ngoài thất, dùng ba quán chiết phục, quở trách. <篇> DUY-MA KINH HUYỀN SỚ <卷>QUYỂN 3 3.PHÂN BIỆT THEO BỐN GIÁO: Trước dùng ba quán giải thích Tịnh Vô cấu xưng là y cứ theo lý trí không hoặc nhiễm, Trí hay xứng lý, lý lại xứng duyên, nên có hiệu là Vô cấu xưng. Nhưng vì chúng sinh có cơ duyên bất đồng, nên dẫn đến sự sai biệt đốn tiệm, sự khác nhau về bất định và bí mật. Vì thế xưa nay các sư, mỗi mỗi đều dùng lý giải thích. Nay lập nghóa lại khác với các quy tắc từ trước, cho nên lý vô ngôn dùng Tất-đàn ứng duyên mà khéo thuyết, lược soạn ra bốn giáo để diễn xướng Tông chỉ mà giải thích danh từ Tỳ-ma-la-cật. Nếu có thể đạt được yếu chỉ ấy, không chỉ sáng tỏ được ý nghóa của văn kinh này, mà còn không trệ ngại nơi các giáo đốn, tiệm, bí mật, bất định nửa. Nay luận nghóa này lược nêu bảy lớp: Giải thích tên của bốn giáo Luận về sở thuyên Phân biệt theo vị Luận về quyền thật Đối với quán tâm Thông các kinh luận. Giải thích văn kinh này. * Giải thích tên của bốn giáo: Gồm bốn ý: giải thích tên Tạng giáo, giải thích tên Thông giáo, giải thích tên Biệt giáo, giải thích tên Viên giáo. Giải thích tên Tam Tạng giáo: Giáo này nói về lý bốn Thánh đế nhân duyên sinh diệt, chính là giáo hóa Tiểu thừa, phụ giáo hóa Bồ-tát. Nói Tam tạng là Tu-đa-la tạng, Tỳ-ni tạng và A-tỳ-đàm tạng. Tu-đa-la tạng, Tu-đa-la ở Trung Quốc hoặc không phiên, hoặc nói có phiên, có rất nhiều nhà nói khác nhau về việc này. Nhưng phần nhiều phiên là Pháp bản. Vì đó là gốc của ngôn giáo xuất thế nên gọi là Pháp bản, tức bốn bộ kinh A-hàm. Tỳ-ni tạng, Trung Quốc phiên là Diệt, tức Đức Phật thuyết giới tác, vô tác để trừ diệt ác nghiệp của thân khẩu, nên gọi là Diệt, tức là Bát thập tụng luật (đó là từ quả mà lập tên). A-tỳ-đàm tạng, A-tỳ-đàm Trung Quốc phiên là Vô tỷ pháp. Bậc Thánh dùng trí tuệ phân biệt pháp ng- hóa, giới định không sánh bằng, nên gọi là Vô tỷ pháp. Như Đức Phật tự phân biệt nghóa của các pháp tướng, hoặc các đệ tử phân biệt pháp tướng, đều gọi là A-tỳ-đàm. Ba pháp này gọi chung là tạng, vì tạng nghóa là hàm chứa. Nhưng giải thích nghóa hàm chứa lại khác nhau. Có người cho rằng văn hay hàm chứa lý nên gọi là tạng, có người lại cho rằng lý hàm chứa văn nên gọi là tạng. Ở đây nói tên của ba pháp này, mỗi mỗi có một câu, ba tên mỗi mỗi đều hàm chứa văn và lý nên gọi là tạng. Trong đó A-hàm là Định tạng nên nói là Thứ đệ cầu, Tỳ-ni là giới tạng nên nói nhân duyên cầu, A-tỳ-đàm là tuệ tạng nên nói Tánh tướng cầu. Giáo này thuộc Tiểu thừa, nên kinh Pháp Hoa nói: “Những học giả tham chấp Tam tạng của Tiểu thừa.” Giải thích tên Thông giáo: Thông tức là đồng. Cả ba thừa đồng vâng thọ nên gọi là thông. Giáo này nói về lý bốn chân đế nhân duyên tức không vô sinh, là cửa đầu tiên của giáo Ma-ha-diễn, chánh là dạy Bồ-tát và phụ gồm Nhị thừa. Phẩm Khuyến Học, kinh Đại Phẩm nói rằng “Muốn học giáo chung của ba thừa thì nên học Bát-nhã.” Nói Thông, gồm rất nhiều nghóa, nay chỉ lược nêu ra tám nghóa: Giáo thông, lý thông, trí thông, đoạn thông, hạnh thông, vị thông, nhân thông, quả thông. Giáo thông tức ba thừa đồng vâng thọ giáo huyễn hóa tức không, lý thông tức đồng là lý Thiên chân; trí thông tức đồng đạt được Nhất thiết trí xảo độ; đoạn thông tức đồng đoạn trừ hoặc trong ba cõi; hạnh thông tức đồng tu hạnh Kiến tư vô lậu; vị thông tức đều đồng từ vị Càn tuệ địa đến Bích-chi-Phật; nhân thông tức đồng có chín vô ngại; quả thông tức đồng hai quả Niết-bàn của Cửu giải thoát. Nghóa thông có tám mà nay chỉ gọi là Thông giáo, là vì nếu chẳng nhân nơi giáo thông thì chẳng biết lý thông cho đến thành quả thông. Cho nên các kinh Đại thừa Phương đẳng và các Bát-nhã có nói Nhị thừa đắc đạo, đó đều là vâng thọ giáo này. Giải thích tên Biệt giáo: Biệt tức là tên khác của bất cộng (chẳng cùng chung). Giáo này chẳng nói chung cho hàng Nhị thừa mà chỉ dạy riêng hàng Bồ-tát nên gọi là Biệt giáo. Giáo này nói về lý Tứ Thánh đế vô lượng nhân duyên giả danh, mục đích giáo hóa Bồ-tát mà chẳng đề cập đến Nhị thừa. Nói biệt, ý nghóa rất nhiều, nay chỉ lược nêu tám ý. Giáo biệt, lý biệt, trí biệt, đoạn biệt, hạnh biệt, vị biệt, nhân biệt và quả biệt, đầy đủ tám ý này nên gọi là Biệt giáo. Giáo biệt, tức nói hằng hà sa Phật pháp chỉ vì các Bồ-tát. Lý biệt, tức tạng thức có hằng hà sa lý các Tục đế. Trí biệt, tức Đạo chủng trí. Đoạn biệt, tức đoạn hằng hà sa vô tri và các hoặc Kiến, tư, vô minh ở giới ngoại. Hạnh biệt, tức Bồ-tát trải qua nhiều kiếp tu hạnh tự lợi và hóa tha. Vị biệt, tức ba mươi tâm là vị Hiền, mười địa phát chân trí đoạn trừ vô minh gọi là vị Thánh. Nhân biệt, tức nhân Kim cang vô ngại. Quả biệt tức quả bốn đức đại Niết-bàn giải thoát. Biệt có tám nghóa mà chỉ gọi Biệt giáo, là vì nếu chẳng nhân nơi Biệt giáo, thì chẳng biết Biệt lý cho đến được Biệt quả. Hỏi: Vì sao chẳng nói là Bất cộng giáo mà gọi là Biệt giáo? Đáp: Luận Đại trí nói bất cộng Bát-nhã tức chẳng thuyết chung cho hàng Nhị thừa, như kinh chẳng thể nghó bàn. Nay nói Biệt giáo, như thuyết Phương đẳng, Đại phẩm thì Nhị thừa cùng nghe thuyết nhưng chỉ dạy riêng Bồ-tát, lại muốn phân biệt chẳng phải là Viên giáo, Biệt tuy khác Thông nhưng còn chưa Viên. Giải thích tên Viên giáo: Viên nghóa là chẳng thiên. Giáo này nói về lý thật tướng trung đạo nhân duyên chẳng thể nghó bàn, sự lý đầy đủ, chẳng thiên, chẳng biệt, dùng để giáo hóa bậc Đại só có căn cơ tối thượng, nên gọi là Viên. Nghóa của Viên rất nhiều, nhưng ở đây chỉ lược nêu tám ý: Giáo viên, lý viên, trí viên, đoạn viên, hạnh viên, vị viên, nhân viên, quả viên. Giáo viên tức nói thẳng vào nhất thật đế, ngôn giáo chẳng thiên bên nào. Lý viên, nhất thật tức biển pháp giới, lý chẳng thiên lệch. Trí viên tức Nhất thiết chủng trí. Đoạn viên tức đoạn tận năm trụ hoặc. Hạnh viên, tức một hạnh gồm tất cả hạnh. Vị viên, tức từ Sơ địa đã đầy đủ công đức của các Địa khác. Nhân viên, tức song chiếu Nhị đế, tự nhiên lưu nhập. Quả viên, tức quả Diệu giác đầy đủ ba đức chẳng thể nghó bàn. Nghóa của Viên có tám nhưng chỉ nói về Viên giáo là vì nếu chẳng nhờ nơi Viên giáo thì chẳng biết Viên lý cho đến thành Viên quả. Hỏi: Bốn giáo phát xuất từ kinh luận nào? Đáp: Bốn giáo được đề cập rải rác khắp các kinh luận, không nơi nào chẳng nói đến. Như câu “Người học tham trước Tam tạng Tiểu thừa” trong kinh Pháp Hoa dẫn chứng ở trên, rồi luận Thành Thật nói: “Ta chính là muốn nói đến Thật nghóa trong Tam tạng”, đó chẳng phải là nói đến Tam Tạng giáo ư? Phẩm Khuyến Học kinh Đạo Phẩm khuyên ba thừa đồng học, Bát-nhã, Trung luận ghi: “Đạt được thật tướng các pháp, có ba loại người”, đó chẳng phải là nói Thông giáo ư? Kinh Vô Lượng Nghóa nói: “Ma-ha Bát-nhã, Hoa Nghiêm Hải Không, tuyên thuyết Bồ-tát trải qua nhiều kiếp tu hành”, luận Đại Trí ghi: “Bát-nhã có hai loại là thuyết chung cho hàng Nhị thừa và chẳng thuyết chung cho hàng Nhị thừa”, các kinh luận nói như thế chẳng phải là Biệt giáo ư? Kinh Hoa Nghiêm nói Tu-đa-la viên mãn; kinh này nói một niệm biết tất cả pháp thừa thì liền ngồi nơi Đạo tràng; phẩm Cụ Túc trong kinh Đại phẩm ghi: “Một niệm đầy đủ vạn hạnh”, kinh Pháp Hoa ghi: “Chắp tay, khởi tâm cung kính, muốn được nghe đạo đầy đủ”, kinh Niết-bàn ghi: “Đại Niết-bàn này gọi là pháp giới của chư Phật”, luận Đại Trí ghi: “Nói ba trí, kỳ thật chỉ được nơi một tâm.” Các kinh luận ghi như thế, há chẳng phải nói đến Viên giáo ư? Nghóa này đến văn sau sẽ tự rõ. Hỏi: Văn nói về bốn giáo đúng là rải rác ở các kinh luận, nhưng chưa thấy kinh luận nào gom lại một nơi để thuyết? Đáp: Tuy không có đích xác danh mục bốn giáo, nhưng nay căn cứ theo kinh luận Đại thừa mà lập ra danh nghóa bốn giáo. Như kinh Đại Niết-bàn nói về bốn bất khả thuyết, nhưng vì có nhân duyên nên cùng có thể lập bốn loại khả thuyết để giáo hóa những kẻ có duyên từ trước, đó là bốn giáo. Kinh Đại Niết-bàn nói bốn phen chuyển pháp luân Bốn đế, tức là ý nghóa của bốn giáo. Kinh Pháp Hoa nói ba loại cỏ hai loại cây đều từ một mặt đất sinh trưởng, tức là ý của bốn giáo. Trung luận phá các Dị chấp, lại nói bốn câu về nhân duyên sinh đồng với bốn khả thuyết của Phật, tức là ý của bốn giáo. Bốn cách nói như thế, tùy cơ làm lợi ích chúng sinh, tức là ý nghóa của bốn giáo, đều là tên khác của bốn giáo. Hỏi: Kinh Pháp Hoa nói: “Đức Phật bình đẳng thuyết pháp, như nước mưa chỉ có một vị, đâu từng ấn định có bốn cách thuyết khác nhau? Đáp: Ở trên, nơi nơi đều có dẫn bốn điều chẳng thể thuyết, vì có nhân duyên nên cũng có thể thuyết, vậy còn chưa định là có một thuyết, thì đâu từng định là có bốn giáo? Nhưng vì chúng sinh có bốn căn tánh khác nhau là hạ, trung, thượng và thượng thượng nên dẫn đến cơ cảm có bốn thuyết bốn giáo khác nhau, như kinh Pháp Hoa lập dụ ba loại cỏ, hai loại cây đều từ đất sinh để dụ cho bốn loại căn cơ này. Vì thế kinh này nói: “Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sinh tùy loại đều hiểu rõ”, tức bốn căn cơ khác nhau, hiểu Phật pháp cũng sai biệt. Nhưng các kinh giải nghóa khác nhau, hoặc cho là dị thuyết dị giải, hoặc cho nhất thuyết nhất giải, dị giải nhất thuyết, dị thuyết nhất giải, vô thuyết vô giải. Cho nên kinh này ghi: “Người thuyết pháp thì không thuyết không chỉ bày, người nghe pháp không nghe, không chứng đắc.” Nếu đạt được ý này thì bốn giáo nương nơi không mà lập nghóa, đâu có gì phải nghi ngờ? Hỏi: Nghóa của bốn giáo có đồng với nghóa bốn tông của Địa luận chăng? Đáp: Nếu có người hỏi bốn đế đồng với bốn đại chăng, thì trả lời thế nào? Đáp rằng: nay chẳng y theo bốn tông lập bốn giáo, có rất nhiều ý, nay chỉ nêu lên ba điều trở ngại: Một là danh nghóa của bốn Tông, về ngôn luận tựa như ngăn ngại; hai là nghiệm xét kỹ về lập danh tạo nghóa tựa như có điều không thuận tiện; ba là luận về nghóa của bốn tông, tuy ngôn luận rộng nhiều, nhưng so với việc từ một nhà mà nhìn đến việc gom nhiếp giáo môn của Phật, thì còn có chỗ thiếu sót. Danh nghóa bốn tông về ngôn luận tựa có ngăn ngại, tức kia chẳng y cứ theo bốn bất khả thuyết mà dùng bốn Tất-đàn để luận thuyết thì có ngăn ngại. Nghiệm xét kỹ về danh nghóa thì tựa như bất tiện, tức bốn Tông của Địa luận, thì Tỳ-đàm cho rằng thấy Hữu đắc đạo, nên lấy nhân duyên làm tông; tam giả là Thế đế, thấy Thế đế chưa đắc đạo, đâu được lấy giả danh làm Tông, Thành Thật cho rằng thấy không là đắc đạo, đâu chẳng lấy làm tông? Vả lại, luận Đại Trí nói giáo Tam tạng có ba môn đắc đạo, không là môn thứ hai, không có môn giả danh. Luận Đại trí lại chê bai Đạo nhân Phương Quảng chấp thủ mười dụ, nói tất cả pháp chẳng sinh chẳng diệt, mất đi ý nghóa của Bát-nhã, đâu được lấy huyễn hóa làm Bất chân tông. Nay hỏi rằng Bất chân tông là Thông giáo, chân tông là Thông tông, vì Tông thì chung cho chân và bất chân. Bất chân đâu được bỏ Tông mà dùng giáo? Chân tông vì sao bỏ giáo má lập tông? Nếu Tông không có giáo thì làm sao biết chân? Đáp: Kinh Lăng-già ghi: “Thuyết Thông giáo cho hàng Sơ cơ, thuyết Thông Tông dạy Bồ-tát”, cho nên lấy Chân làm Thông tông. Hỏi: Nếu thế thì nhân duyên và giả danh chẳng chân, đều là chỉ dạy hàng Sơ cơ, thì chẳng nên lập danh Tông, như thế thì che lấp mất ý quyết định, nghóa là lập danh bốn tông tựa như bất tiện. Nay nói bốn giáo, tức là Đức Phật từ khi mới thành đạo cho đến đại Niết-bàn, chỉ bày tất cả pháp môn, không gì chẳng phải ngôn giáo. Bốn Tông luận về nghóa, nếu so với các thuyết xưa nay thì thật rộng nhiều, nhưng từ một nhà mà nhìn về ý gom nhiếp Phật pháp thì còn thiếu sót; nay xét các kinh luận lập nghóa bốn giáo, mỗi giáo đều có bốn môn, bốn giáo tổng cộng là mười sáu môn, tức mười sáu tông luận về nghóa. Hai tông nhân duyên và giả danh kia giống như hai tông Không hữu của Tam Tạng giáo nói ở đây, nhưng còn thiếu Côn lặc môn và Phi hữu Phi không môn. Bất chân tông nói như huyễn hóa, tựa như Hữu môn của Thông giáo, còn ba môn thì kia chẳng nói. Chân tông thì tựa như hữu môn của Biệt giáo, còn ba môn kia thì họ chẳng nói. Thế thì bốn tông nói về nghóa chỉ đồng với bốn môn của ba giáo còn bốn môn của Viên giáo thì họ chẳng nói đến. Bốn giáo còn mười hai môn, thì bốn Tông chẳng nói đến. Lại Pháp sư Hộ Thân lập năm tông nói về nghóa, bốn tông thì như trước, lại lập thêm Pháp giới, tông tựa như Hữu môn của Viên giáo, vậy bốn giáo còn mười một môn thì chẳng nói đến. Pháp sư Kỳ-xà lập sáu tông nói về nghóa, trong đó ba tông tựa như ba môn như trên đã phân biệt, chân Tông tương đương với không môn của Thông giáo; Thường Tông tương đương với Hữu môn của Biệt giáo, Viên Thông tương đương với Hữu môn của Viên giáo. Vậy bốn giáo còn mười môn thì sáu tông kia chẳng nói đến. Cho nên biết bốn tông, năm tông, sáu tông tuy xưa nay nói về nghóa rất rộng nhiều, nhưng nay từ một nhà mà nhìn về ý gom nhiếp giáo môn của Phật thì vẫn còn thiếu sót. Sở dó trước nói bốn Tất-đàn, chính là thuật về cách nói của một nhà giải thích của giáo, khác với cách nói mà xưa nay đã vận dụng. Trước nói ba quán, dọc phá các pháp, lược nêu mười phen, kế sau đây nói về việc căn cứ các giáo lập nghóa mà bốn giáo đã luận bàn, người xem đọc biết được ý lập nghóa và phá nghóa khác với các Thiền sư và các Sư tam luận. Hỏi: Bốn giáo biến thông các kinh thì đâu được riêng dùng để giải thích kinh này? Đáp: Nay soạn nghóa bốn giáo thông khắp các kinh nhưng riêng có bản chánh, lược tóm đại ý để giải thích văn kinh này, chính là nói kinh này giải thích về bốn giáo vào đạo, nên cần phải biết đại ý, nhưng các Sư phần nhiều dùng kinh để giải thích luận, khiến cho người sau cho rằng luận thì rộng kinh thì hẹp; nay dùng luận để giải thích ý kinh là muốn khiến cho người đời sau biết kinh rộng luận hẹp. Kính trọng vô lượng công đức của Đại thừa được chân Phật thuyết là chánh nhân vào đạo, còn nếu khinh kinh trọng luận thì thật đáng thương xót! * Nói về Sở thuyên: Phần giáo là năng thuyên, lý là sở thuyên, nêu nhân nơi lý mà lập giáo, do giáo mà hiển lý, tức lý thì chẳng phải giáo, tức giáo thì chẳng phải lý, lìa lý thì không có giáo, lìa giáo thì không có lý. Cho nên kinh Tư Ích ghi: “Trong Bồ-đề không có văn tự, trong văn tự không có Bồ-đề. Vì lìa Bồ-đề thì không có văn tự, nên y cứ vào lý để lập giáo, lìa văn tự không có Bồ-đề năng lập giáo để hiển lý”, thế thì ý nghóa giáo là năng thuyên lý là sở thuyên được hiện rõ ở đây. Lý tức là Đế. Nay căn cứ theo Đế để nói về lý, từ Lý khởi giáo. Giáo hay trình bày lý nên giáo là năng thuyên, lý là Sở thuyên. Sở thuyên gồm bốn nghóa: Một là căn cứ lý bốn đế để nói về Sở thuyên; hai, căn cứ lý tam đế để nói về Sở thuyên; ba, căn cứ lý Nhị đế để nói về Sở thuyên; bốn, căn cứ lý nhất đế để nói về Sở thuyên. Căn cứ lý bốn đế để nói về Sở thuyên: gồm ba ý: Một là nói về bốn đế lý Sở thuyên; hai, nói về giáo năng thuyên; ba, y cứ kinh luận. Lý bốn đế Sở thuyên: bốn đế có bốn loại là sinh diệt bốn đế, vô sinh bốn đế, vô lượng bốn đế và vô tác bốn đế, đại ý xuất xứ từ kinh Niết-bàn. Giáo năng thuyên: tức là bốn giáo hay giải thích bốn loại lý bốn đế, đó là: Tam Tạng giáo nói về lý bốn đế sinh diệt, Thông giáo nói về lý bốn chân đế vô sinh, Biệt giáo nói về lý bốn đế vô lượng, Viên giáo nói về lý bốn đế vô tác. Đối kinh luận: gồm hai ý là Đối kinh và đối luận. Một, Đối kinh, nếu kinh Hoa Nghiêm, phần lớn nói về hai giáo Biệt Viên trình bày hai loại bốn đế là vô lượng và vô tác, thì các kinh thuộc Thanh văn chỉ nói về Tam Tạng giáo, trình bày lý bốn đế sinh diệt, còn kinh Đạo tập, Phương đẳng và kinh này thì nói đủ bốn giáo trình bày hết bốn loại lý bốn đế; kinh Ma-ha Bát-nhã, phần nhiều nói đến ba giáo, trình bày ba loại lý bốn đế, kinh Pháp Hoa chỉ nói Viên giáo, trình bày lý vô tác bốn đế; kinh Niết-bàn nói bốn giáo trình bày đủ bốn loại lý bốn đế. Đối lu- ận: Nếu đối với những bộ luận giải thích riêng kinh, thì so sánh với kinh có thể tự biết, nếu những luận giải thích chung các kinh thì như Trung luận, sau khi phá các tranh chấp điên đảo rồi, ngoại đạo bèn hỏi rằng “nếu tất cả thế gian đều không, chẳng có gì, tức không sinh không diệt, vì không sinh không diệt thì không có bốn đế, bốn quả Sa-môn và Tam bảo. Nếu chấp nhận pháp không, thì phạm lỗi này?” Luận chủ đáp rằng “Ngươi nay thật chẳng biết không tức nhân duyên không, chư Phật y cứ vào Nhị đế để thuyết pháp cho chúng sinh nghe, nếu chẳng biết Nhị đế thì chẳng hiểu được Chân Phật pháp. Vì có nghóa không nên tất cả pháp được thành lập, nếu chẳng có nghóa không thì tất cả pháp chẳng thành. Tất cả pháp được thành lập thì có bốn đế, bốn quả Sa-môn và Tam bảo.” Nay giải thích lời này, luận chủ phá kiến chấp đã xong, liền nói có bốn đế, bốn quả Sa-môn và Tam bảo, tức là nêu lên ba loại bốn đế, ba loại bốn quả Sa-môn và ba Tam bảo của giáo Ma-ha-diễn. Hỏi: Vì sao biết được? Đáp: Vì căn cứ theo kệ mà luận chủ đã nói nên biết được? Kệ ghi: Pháp do nhân duyên sinh Ta nói tức là không. Hai câu kệ này nói về Đại thừa Thông giáo, trình bày Bốn đế vô sinh, bốn quả Sa-môn và Tam bảo. Câu: Cũng gọi là giả danh. Là nói về Đại thừa Biệt giáo, trình bày bốn Thánh đế vô lượng, bốn quả Sa-môn và Tam bảo. Câu: Cũng là nghóa Trung đạo. Là nói về Đại thừa Viên giáo, trình bày Tứ thật đế vô tác, bốn quả Sa-môn và Tam bảo. Ý phá và trình bày ba giáo Đại thừa chỉ trong một bài kệ, công năng tạo luận kì diệu là tại nơi đây. Sau đó nói hai phẩm, phẩm đầu nói: “Hỏi: Đã biết Ma-ha-diễn vào Đệ nhất nghóa, nay muốn nghe kinh Thanh Văn vào Đệ nhất nghóa? Luận chủ bèn nói mười hai nhân duyên sinh diệt, phá sáu mươi hai Kiến vào Đệ nhất nghóa.” Tức là vì hàng đệ tử Thanh văn độn căn thuyết về tướng nhân duyên sinh diệt, nhân duyên sinh diệt tức sinh diệt Bốn đế, bốn quả Sa-môn và Tam bảo. Trung luận, trước nói về ba loại Bốn đế, ba loại bốn quả Sa- môn, ba loại Tam bảo của ba giáo Thông Biệt Viên thuộc Ma-ha-diễn, hai phẩm sau nói về sinh diệt Bốn đế, bốn quả Sa-môn, Tam bảo của giáo Tam tạng, là vì các chúng sinh vào đời sau, căn cơ dần dần chuyển thành độn, lại cần phải dụng giáo này. Thế thì Trung luận, văn thì sơ lược mà nghóa rất sâu rộng, trình bày bốn giáo của Phật đã rõ ràng, đối với lý bốn đế cũng đã hiểu, nên nói có bốn đế. Đó chính là bộ luận quý giá, chẳng phải là bộ luận tầm thường; nếu chẳng biết nghóa này, thì đơn phức đan dệt, chưa thể biết được, còn nếu giải thích bốn giả của kinh để thông hiểu ý kinh, thì rốt cuộc cũng khó thấy biết. Căn cứ vào lý Tam đế để nói về Sở thuyên của bốn giáo: gồm ba ý: nói về Tam đế lý Sở thuyên; hai, nói vềø bốn giáo năng thuyên; ba, căn cứ kinh luận. Nói về Tam đế lý Sở thuyên: Danh nghóa của Tam đế xuất xứ từ kinh Anh Lạc và kinh Nhân Vương. Kinh ghi: “Một, Hữu đế; hai, Vô đế; ba, Trung đạo Đệ nhất nghóa đế.” Hữu đế, như lý mà tâm của người thế gian thấy được là Hữu đế, cũng gọi là Tục đế. Vô đế, lý mà tâm của người xuất thế gian nhận biết gọi là Vô đế, cũng gọi là Chân đế. Trung đạo Đệ nhất nghóa đế, lý mà chư Phật Bồ-tát nhận biết gọi là Trung đạo Đệ nhất nghóa đế, cũng gọi là Nhất thật đế. Cho nên kinh Đại Niết-bàn ghi: “Phàm phu chấp hữu, Nhị thừa chấp Vô, chư Phật Bồ-tát thì chẳng có chẳng không.” Nghóa của Tam đế đến khi giải thích phẩm Nhập Pháp Môn Bất Nhị sẽ lược nêu. Nói về giáo năng thuyên: gồm bốn ý: Tam Tạng giáo chỉ nói về lý Nhị đế, vì thế những căn cơ thọ nhận giáo này chẳng thể nghe được Phật tánh, thường trụ Niết-bàn. Thông giáo chỉ nói lý Nhị đế, nên căn cơ thọ nhận giáo này cũng chẳng nghe Phật tánh, thường trụ Niết-bàn. Tam thừa còn chấp nơi quả thân diệt trí đoạn. Biệt giáo nói riêng lý Tam đế, cho nên những người thọ nhận giáo này đạt ba mươi tâm, chỉ thành tựu nhị quán nhị trí phương tiện, đến khi đạt Sơ địa mới thấy Phật tánh, vào dòng pháp. Viên giáo nói lý Tam đế một cách viên mãn, cho nên những vị thọ nhận giáo này vừa phát sơ tâm liền khai tri Kiến Phật, tự nhiên lưu nhập biển Tát-bà-nhã. Đối kinh luận: Kinh Hoa Nghiêm chỉ nói Tục đế giả danh và Trung đạo. Lại nói Giáo Hoa Nghiêm trình bày về biệt tam đế nhất tâm. Tam tạng tiệm giáo nói về Nhị đế Chân tục. Giáo Phương đẳng Đại thừa nói về Tam đế, đồng với Hoa Nghiêm; Ma-ha Bát-nhã cũng nói đầy đủ Tam đế, đồng với Hoa Nghiêm; Pháp Hoa chỉ nói Nhất tâm Tam đế; Niết-bàn nói đầy đủ Tam đế cũng đồng với Hoa Nghiêm. Còn các luận thì tùy thuận so sánh, đối chiếu với kinh, có thể tự biết được. Bài Kệ Trung luận ghi: “Pháp do nhân duyên sinh Ta nói đó là không”. Đó là nói về Chân đế. “Cũng gọi là giả danh” Câu này nói về Tục đế. “Cũng là nghóa Trung đạo”. Câu này nói về Trung đạo Đệ nhất nghóa đế. Toàn bài kệ này nói về Ma-ha-diễn trình bày lý Tam đế. Còn hai phẩm sau nói về kinh Thanh Văn vào Đệ nhất nghóa, tức nói riêng về Tam Tạng giáo trình bày lý Nhị đế. Căn cứ theo Nhị đế để nói về Sở thuyên: Cũng gồm ba ý: Một là nói về lý Sở thuyên; hai, nói về giáo năng thuyên; ba, căn cứ kinh luận. Nói về lý Sở thuyên, tức là lý Nhị đế: Nhị đế có hai loại là lý ngoại Nhị đế và lý nội Nhị đế. Nếu Chân đế chẳng phải là Phật tánh tức Nhị đế ngoài lý; Chân đế tức Phật tánh là Nhị đế trong lý (lý nội). Lý ngoại Nhị đế lại có hai loại là Bất tức Nhị đế là Sinh diệt Nhị đế, Tương tức Nhị đế là Vô sinh Nhị đế. Kinh Đại Phẩm ghi: “Tức Sắc là không, chẳng phải sắc diệt rồi mới không, sắc diệt mới không là Bất tức Nhị đế, tức Sắc là không là tướng tức Nhị đế.” Lý nội Nhị đế cũng có hai loại là Bất tức Nhị đế và Tương tức Nhị đế. Bất tức Nhị đế là Vô lượng Nhị đế; kinh Đại Niết-bàn ghi: “Phân biệt Thế đế có vô lượng tướng, Đệ nhất nghóa đế có vô lượng tướng đó chẳng phải là điều mà Thanh văn, Duyên giác có thể biết được.” Tương tức Nhị đế tức Vô tác Nhị đế. Nói về bốn giáo năng thuyên: Tam Tạng giáo nói về Bất tức Nhị đế của Lý ngoại, Thông giáo nói Tương tức Nhị đế của Lý ngoại, Biệt giáo nói về Bất tức Nhị đế của Lý nội, Viên giáo nói Tương tức Nhị đế của Lý nội. Đối kinh luận: Kinh Hoa Nghiêm nói hai loại Nhị đế của Lý nội, Tam Tạng giáo nói Nhị đế bất tức của Lý ngoại, Phương đẳng Đại thừa nói bốn loại Nhị đế của lý nội, lý ngoại, Ma-ha Bát-nhã nói về Tương tức Nhị đế của Lý ngoại và hai loại Nhị đế của lý nội, kinh Pháp Hoa chỉ nói Nhị đế tương tức của lý nội, kinh Niết-bàn nói chung về bốn loại Nhị đế của lý nội, lý ngoại. Các luận giải thích kinh thì so sánh đối chiếu với kinh có thể biết. Bài kệ Trung luận ghi: “Pháp do nhân duyên sinh, Ta nói đó là không”, hai câu này nói về Nhị đế tướng tức của lý ngoại; “Cũng gọi là giả danh, cũng tức nghóa Trung đạo” là nói về hai loại Nhị đế Bất tức và tương tức của lý nội. Hai phẩm sau nói về Thanh văn vào Đệ nhất nghóa, tức nói Tam Tạng giáo trình bày Nhị đế bất tương tức của lý ngoại. Căn cứ theo lý nhất đế nói về Sở thuyên: gồm ba ý: Một là nói về lý Sở thuyên; hai, nói về giáo năng thuyên; ba, căn cứ kinh luận. Nói về lý Sở thuyên: Tức lý Nhất đế. Thế nào gọi là lý Nhất đế? Đế gọi là Thẩm thật (chắc thật), pháp Thẩm thật tức bất nhị, vậy há có ba Đế ư? Hai đế đều gọi là Thẩm thật. Nay nói chân tục là thật, đó chỉ là phương tiện, chưa thật là Đế, nên kinh Niết-bàn ghi: “Nói Nhị đế, thật ra chỉ là một, Như Lai dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh nên nói hai, ví như mặt trời mặt trăng chẳng xoay chuyển, mà người say thấy xoay chuyển. Nên biết chỉ có một mặt trời bất động mà người không say đồng thấy, há có riêng một mặt trời di chuyển ư? Nếu thật có một mặt trời di chuyển thì lẽ ra người không say đồng thấy. Nhất đế như mặt trời chân thật, Nhị đế như mặt trời di chuyển, mặt trời chân thật là thẩm thật đúng gọi là Nhất đế, mặt trời di chuyển chẳng thật thì đâu có Nhị đế, chỉ vì phương tiện mà nói hai, nghóa thật chẳng thành, nên chẳng phải là đế. Nay lấy Nhất thật đế này làm lý sở thuyên vậy. Nói về giáo Năng thuyên: Tạng giáo Thông giáo chưa thể làm mửa ra những rượu ác phiền não, chỉ nói mặt trời di chuyển, trình bày Nhị đế, chẳng thể nói Nhất thật đế. Biệt giáo trình bày lý Nhất thật đế, như lìa bỏ mặt trời xoay chuyển mà có được mặt trời bất động. Viên giáo trình bày Nhất thật đế, nói mặt trời xoay chuyển tức mặt trời bất động. Đối kinh luận: Kinh Hoa Nghiêm nói về Chân tục tức Nhất thật đế gồm phương tiện Bất tức. Tam Tạng giáo một bề chẳng nói Nhất thật đế. Giáo Phương đẳng nói về Nhất thật đế đồng Hoa Nghiêm. Ma-ha Bát-nhã nói Nhất thật đế cũng đồng Hoa Nghiêm, nên kinh Vô Lượng Nghóa ghi: “Đức Phật từ khi thành đạo đến nay hơn bốn mươi năm, chưa từng hiển thị chân thật.” Nay cho rằng đâu chẳng nói Thật đế, nhưng có lúc ứng duyên lập phương tiện khai hai đế, ba đế bất tức nhất đế. Giáo Pháp Hoa ngược lại chỉ nói về Nhất thật đế; không nói phương tiện bất tức, mà chỉ nói nhất thiết tức nhất thật đế. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: “Hai vạn ức Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều thuyết nghóa thật tướng các pháp, vì các ông mà nói.” Nay Đức Phật phóng quang trợ giúp khai phát nghóa thật tướng. Đối với các Phật pháp, về lâu dài mai sau cần nên thuyết nghóa chân thật, xả bỏ phương tiện, chỉ nói đạo Vô thượng. Kinh Niết-bàn đồng giải thích như Phương đẳng, nhưng nói nhập vào Phật tánh thì có khác. Các luận thì tùy theo kinh mà so sánh có thể tự biết. Như kệ của Trung luận ghi: “Cũng là nghóa Trung đạo”, câu này là nói về giáo Nhất thật đế. Cho nên Thanh Mục Thích ghi: “Lìa nhị biên nên gọi là Trung đạo, tức là xa lìa nhân duyên không và giả. Chẳng phải hai bên thì chẳng có chân tục, nên gọi là Nhất thật đế.” Kinh Niết-bàn ghi: “Nhất thật đế thì không hai”. Văn lại ghi: “Tánh không hai tức thật tánh” tánh không hai tức là vào pháp môn bất nhị. Nhất thật đế tức là bất sinh, bất sinh bất sinh, bất sinh bất khả thuyết. Ngài Tịnh Danh im lặng không nói được ngài Văn-thù khen ngợi ý nghóa tại nơi đây. * Căn cứ theo vị của bốn giáo để phân biệt giai vị của Tịnh Vô cấu xưng: gồm năm ý: Một là căn cứ theo giáo Tam tạng để nói về ng- hóa Tịnh Vô cấu xưng; hai, căn cứ theo Thông giáo để nói về nghóa Tịnh Vô cấu xưng; ba, căn cứ theo Biệt giáo để nói về nghóa Tịnh vô cấu xưng; bốn, căn cứ theo Viên giáo để nói về nghóa Tịnh Vô cấu xưng; năm, căn cứ theo thí dụ năm vị để kết luận. Căn cứ theo giáo Tam tạng nói về giai vị để giải thích nghóa Tịnh vô cấu xưng: Tam Tạng giáo của Đức Phật ứng duyên có rất nhiều phương tiện nhưng chủ yếu không ra ngoài bốn môn nhập đạo là hữu môn, không môn, hữu không môn và phi hữu phi vô môn. Nay dùng hữu môn của Tỳ-đàm để phán định giai vị còn ba môn nói về nghóa Bồ-tát đã chẳng đến được há có thể luận sao? Nay căn cứ theo hữu môn để giải thích nghóa Tịnh Vô cấu xưng, gồm ba ý: Một là khai Tam thừa; hai, lược nói về giáo Tam tạng để luận về giai vị Bồ-tát; ba, giải thích danh từ Tịnh Vô cấu xưng. Một lược nói về việc khai ba thừa: Đức Phật đối với lý sinh sinh bất khả thuyết chẳng phải ba, dùng bốn Tất-đàn, căn cứ theo Khổ Tập Đạo để khai mở giáo môn ba thừa, ứng hợp căn duyên của ba hạng người tu hành mà đồng khiến cho họ chứng đắc Diệt đế Niết-bàn. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: “Vì người cầu đạo Thanh văn, mà thuyết pháp Bốn đế, vượt sinh, lão, bệnh, tử đạt đến cứu cánh Niết-bàn. Vì người cầu Bích-chi-Phật mà thuyết pháp mười hai nhân duyên, vì người cầu Bồ-tát mà thuyết pháp Lục độ Ba-la-mật khiến đạt được Tam-bồ-đề thành tựu Nhất thiết chủng trí. Giáo môn của Thanh văn Tiểu thừa, thì Khổ đế là sơ quán của Bốn đế để vào đạo, phát Chân vô lậu, đoạn trừ chánh sử chứng đắc quả vị A-la-hán, đầy đủ ba minh tám giải thoát, nhưng không có Từ bi cứu độ chúng sinh mà hiện thân vào Niết-bàn, cho nên luận Trí Độ ghi: “Như con nai giữa đám người thợ săn, sợ hãi một mình bỏ chạy mà không ngó gì đến bầy đàn. Nay chẳng y cứ theo đó mà phán định giai vị của Tịnh Danh. Giáo môn của Duyên giác Trung thừa lấy Tập đế làm pháp quán đầu tiên để quán mười hai nhân duyên, phát chân Vô lậu, đoạn trừ kết hoặc trong ba cõi, dần dần đoạn trừ tậïp khí đầy đủ ba minh và tám giải thoát, tuy có được chút ít từ bi, nhưng chẳng thể độ chúng sinh, cũng ở một đời mà nhập Niết-bàn. Cho nên luận Trí Độ ghi: “Như con nai giữa đám người thợ săn, kinh hãi một mình bỏ chạy, tuy có nhìn lại bầy đàn nhưng vì quá kinh hãi nên không chờ đợi”. Nay cũng không căn cứ theo đây để phán định giai vị của ngài Tịnh Danh. Bậc Bồ-tát Đại thừa có tâm đại bi, thệ nguyện rộng lớn, chẳng bỏ chúng sinh, làm đại giáo môn của chúng sinh tâm, dùng Đạo để làm môn tu đầu tiên để hành lục độ, giáo hóa tất cả chúng sinh đồng ra khỏi ba cõi, thành tựu quả Phật, việc lợi ích chúng sinh viên mãn thì mới vào Niết-bàn. Cho nên luận Đại Trí ghi: “Như loài Đại hương tượng ở giữa đám thợ săn, tuy bị đao tên nhưng vẫn cứu giúp bầy đàn cùng vượt ra khỏi.” Đây là bảo hoài của bậc Đại só, cho nên cần phải căn cứ theo đây để phán định giai vị của ngài Tịnh Danh. Hai, căn cứ vào Tam Tạng giáo để nói về giai vị Bồ-tát: gồm bảy ý: Một là phát tâm Bồ-đề; hai, hành đạo Bồ-tát; ba, gieo trồng ng- hiệp ba mươi hai tướng; bốn, thành tựu sáu độ; năm; Nhất sinh bổ xứ; sáu, sinh vào trời Đâu-suất-đà; bảy, hiện tám tướng thành đạo. Một, phát tâm Bồ-đề: như Bồ-tát Thích-ca Mâu-ni vào thời quá khứ là một người thợ gốm, Bồ-tát gặp Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thời quá khứ liền cúng dường Đức Phật và phát tâm Bồ-đề, nguyện đến thời vị lai, khi thành Phật cũng có hiệu là Thích-ca, bây giờ Đức Phật liền hứa khả lời nguyện ấy.” Hỏi: Vì sao gọi là phát tâm Bồ-đề? Đáp: Duyên với bốn đế sinh diệt mà khởi bốn hoằng nguyện Từ bi tức là phát tâm Bồ-đề. Hai, hành Bồ-tát hạnh: Tức ba a-tăng-kỳ kiếp tu hành sáu độ. Từ Đức Thích-ca Mâu-ni quá khứ đến Kế-na Thi-khí Phật là một a-tăng-kỳ kiếp, vào a-tăng-kỳ này mới lìa thân nữa, chưa biết được mình sẽ làm Phật hay chẳng làm Phật. Nay cho rằng dùng năm đình tâm quán và Biệt tướng tổng tướng của bốn Niệm xứ, quán tâm tu hành sáu Ba-la-mật. Bấy giờ chưa phát noãn giải mà có từ bi thệ nguyện, ở yên nơi sinh tử, tâm không khiếp nhược, nên phá được nghiệp người nữ, thường thọ thân nam. Vì lúc ấy chưa phát khởi Noãn giải, giai vị còn ở ngoại phàm, cho nên chưa tự biết mình sẽ làm Phật. Hai từ Đức Phật Kế-na Thi-khí đến Đức Phật Nhiên Đăng là a- tăng-kỳ kiếp thứ hai, bây giờ Bồ-tát cúng dường Đức Phật Nhiên Đăng bảy đóa hoa sen, trải y da nai, xỏa tóc trên bùn, lúc ấy Đức Phật Nhiên Đăng liền thọ ký rằng: “Đời sau ngươi sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca.” Bấy giờ Bồ-tát tự biết mình sẽ làm Phật, mà chưa tự nói ta sẽ làm Phật. Nay nói rằng đã được trí tuệ pháp Noãn, tu sáu Ba-la-mật. Kế đến từ Đức Phật Nhiên Đăng đến Đức Phật Tỳ-bà-thi là a-tăng-kỳ kiếp thứ ba, bấy giờ nội tâm của Bồ-tát rõ biết mình sẽ làm Phật, miệng nói ra mà chẳng sợ hãi: “Ta sẽ làm Phật ở đời vị lai.” Nay cho rằng đã được trí tuệ của pháp Đảnh, tu sáu Ba-la-mật. Ba, nói về việc trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp, gieo trồng nghiệp ba mươi hai tướng: Đây là vào giai vị Hạ nhẫn, dùng trí nhẫn này mà tu tập sáu độ thành tựu một trăm phước đức, dùng một trăm phước đức để thành tựu một tướng, như thế tu một trăm kiếp thành tựu nghiệp nhân của ba mươi hai tướng. Bốn viên mãn sáu Ba-la-mật: Bồ-tát bố thí tất cả cho đến chẳng tiếc thân mạng, như vua Thi-tỳ bố thí thân mình cho loài chim bồ câu mà tâm chẳng hối tiếc, đó là viên mãn Đàn ba-la-mật; Thi-ba-la-mật mãn tức trì giới chẳng tiếc thân mạng, như vua Tu-ma-đề tinh tấn trì giới, luôn y theo lời chân thật, đến nơi vua Lộc Túc mà chịu chết, đó là viên mãn Thi-la; Bồ-tát nhẫn nhục chẳng tiếc thân mạng, như Tỳ- kheo Sằn-đề bị vua Ca-lợi cắt đoạn thân thể mà tâm lại sinh lòng từ nhẫn, phát thệ nguyện, thân liền trở lại như cũ, đó là viên mãn Sằn-đề ba-la-mật. Tinh tấn chẳng tiếc thân mạng, như Thái tử Đại Thí, vì dân chúng mà vào biển tìm châu như ý, thần biển nhân Thái tử ngủ, trộm lấy châu đem trở về biển, Thái tử phát thệ tháo hết nước biển tìm châu cho chúng sinh, khốn khổ, mất thân mà tâm chẳng lui sụt, đó là viên mãn Tinh tấn ba-la-mật; Bồ-tát đầy đủ các thiền định, ra vào tự tại đối với các thiền định của ngoại đạo, như Tiên nhân Thượng-xà-lê khi tọa thiền không còn hơi thở ra vào, chim đến sinh trứng nở con trên búi tóc, nhưng vì lòng Từ bi mà không làm động, cho đến khi chim con bay đi, đó là viên mãn Thiền định ba-la-mật; Bồ-tát dùng đại tâm phân biệt, như Bà-la-môn Cù-tần là một Đại thần, đã phân đất đai ở cõi Diêm- phù làm bảy phần, bao nhiêu thành lớn thành nhỏ, xóm làng cũng phân làm bảy phần, Bát-nhã Ba-la-mật cũng như thế, đó là Bồ-tát tu tập viên mãn sáu Ba-la-mật. Nay cho rằng do trí tuệ hạ nhẫn hay điều phục được các căn mà đầy đủ sáu độ. Năm, trụ ở giai vị Nhất sinh bổ xứ: Tức Bồ-tát Thích-ca sinh làm vị đệ tử bổ xứ của Đức Phật Ca-diếp, thanh tịnh giữ gìn giới cấm, tu tập các công đức, được Đức Phật Ca-diếp thọ ký thành Phật kế tiếp. Đến đây còn ở giai vị Trung nhẫn. Sáu, sinh vào cõi trời Đâu-suất. Tức xả bỏ báo thân ở Diêm-phù, sinh lên cõi Đâu-suất làm thầy chư Thiên, ở nơi đây tu tập tám Thắng xứ. Đến đây cũng còn ở giai vị Trung nhẫn. Hỏi: Vì sao Bồ-tát lúc mới phát tâm chỉ chế phục các kết sử mà không đoạn? Đáp: Nếu đoạn trừ kết sử thì chẳng thể thọ sinh giáo hóa hữu tình. Bồ-tát quán Vô thường chế phục kết sử, khiến các phiền não tiêu trừ, lại dùng tâm thanh tịnh tu sáu Độ, làm cho các công đức tăng trưởng. Bảy, hạ sinh thành đạo: Tức là tám tướng thành đạo Bồ-đề mà giáo Tam tạng đã nói: Một là từ cõi Đâu-suất hạ sinh; hai, gá thai; ba, sinh ra; bốn, xuất gia; năm, hàng ma; sáu, thành đạo; bảy, chuyển pháp luân; tám, nhập Niết-bàn. Hỏi: Nghóa Bồ-tát mà hữu môn A-tỳ-đàm của Tam Tạng giáo nói là Phật thuyết hay các đệ tử Thanh văn thuyết sau khi Phật diệt độ? Đáp: Cũng có lúc Phật thuyết, nhưng phần nhiều là các A-la-hán tạo Tỳ-bà-sa thuyết. Hỏi: Nếu là Phật thuyết, thì đáng tin, nếu là A-la-hán thuyết thì làm sao có thể tin? Đáp: Các A-la-hán đã là Thánh nhân tham cứu ý của Tam Tạng giáo mà nói về nghóa Bồ-tát thì đâu được cho là sai trái! Hỏi: Thế thì vì sao luận Trí Độ, trước sau đều một bề bác phá? Đáp: Vì ngài Long Thọ muốn trình bày nghóa Bồ-tát của Ma-ha- diễn, dùng Đại phá Tiểu, nên đều phải phá bỏ tất cả. Hỏi: Ngài Long Thọ chê rằng: “Vị đệ tử Ca-chiên-diên này có thể lầm lẫn đối với kinh Tiểu thừa, huống là nghóa Bồ-tát! Đáp: Ngài Xá-lợi-phất! Khi Đức Phật còn tại thế mà phân biệt pháp tướng còn có chỗ sai huống gì là các A-la-hán sau thời Đức Phật diệt độ. Tuy gần gũi một bên, mà còn sai huống gì là phàm phu đời nay. Ba, căn cứ theo Tam Tạng giáo nói giai vị để giải thích nghóa Tịnh Vô cấu xưng: Đây chính là giai vị Bổ xứ của Trung nhẫn. Sáu độ là ng- hóa của Tịnh. Vì sao? Vì trong ba loại thuốc không có ba loại bệnh, sáu độ là Đạo đế là nghóa của Tịnh, cho nên kinh Pháp Hoa ghi: “Thấy các Phật tử tu các hạnh cầu tuệ vô thượng, nên vì họ mà thuyết Đạo tịnh.” Đạo só Duy-ma tu tập hạnh sáu độ thành tựu tức là Tịnh, không còn sáu tệ cấu, nên gọi là Vô cấu. Vì Tương tự giải, bên trong thì xứng hợp với lý Bốn đế sinh diệt, bên ngoài thì hợp với căn duyên, trợ giúp Thích- ca Như Lai hiển thị giáo Tam thừa, nên gọi là Vô cấu xưng. Vì thế nơi phẩm phương tiện nói việc hiện bệnh, vì các quốc vương, trưởng giả mà thuyết các pháp vô thường, Khổ, không, Vô ngã, bất tịnh, quở trách đại chúng, khuyên cầu Phật đạo, ý nghóa hiển nơi đây. Hỏi: Ngài Duy-ma bẻ gãy luận nghị của Thanh văn, quở trách các Bồ-tát, đó là hạnh vị Bất tư nghị, vì sao còn dùng giai vị Bồ-tát nói trong kinh Thanh Văn để so sánh? Đáp: Bồ-tát trụ nơi giải thoát bất tư nghị có thể thị hiện các loại, há chẳng thể hiện thân Bồ-tát nói trong kinh Thanh Văn để trợ giúp Đức Thích-ca giáo hóa ư? Hỏi: Vì sao giáo hóa Quốc vương và Trưởng giả lại hiện thân Bồ- tát Tam Tạng giáo để thuyết pháp? Còn quở trách Thanh văn và Bồ-tát lại hiện ngôn giáo Ma-ha-diễn bất tư nghị? Đáp: Hàng phàm tục thì kết nghiệp ba cõi chưa trừ, nếu nói bốn đế sinh diệt, đây chính là đối trị; La-hán và Bồ-tát thì nhân kết nghiệp trong ba cõi đã tận trừ, nhưng còn mê mờ lý Tam đế chẳng thể nghó bàn, vì thế nói ba loại Bốn đế để chiết phục Thanh văn, nói bốn thật đế, vô tác để quở trách Bồ-tát. Căn cứ theo Thông giáo luận về giai vị để giải thích giai vị của ngài Tịnh Danh: Giáo này đã nói về lý nhân duyên tức không; ba thừa đồng được khế lý chứng chân ắt phải có sâu cạn, nên cần phải phán định giai vị. Gồm có ba ý: Một là lược căn cứ Thông giáo để khai ba thừa; hai, lược nói về giai vị Bồ-tát Thông giáo; ba, giải thích nghóa Tịnh Vô cấu xưng. Thứ nhất, căn cứ theo Thông giáo để khai ba thừa: Hàng Tam thừa thọ học Thông giáo thấy Đệ nhất nghóa. Đệ nhất nghóa tức lý chân đế vô phân biệt mà phân biệt thành ba thừa là vì Thanh văn từ âm thanh mà giải ngộ, từ Tổng tướng thể hội giả mà vào không, sức trí tuệ yếu kém, chỉ có thể đoạn trừ chánh sử. Duyên giác có phước đức và lợi căn, sinh vào thời không gặp Phật xuất thế, tự nhiên Thể hội giả phát chân là khác biệt. Lại giải thích rằng “Hàng Duyên giác lợi căn có thể từ một phần nhỏ Biệt tướng mà thể hội được giả vào không, phát chân vô lậu đoạn trừ kết hoặc trong ba cõi, dần dần trừ diệt tập khí. Bồ-tát tu tổng tướng biệt tướng, trí tuệ thể hội nhân duyên tức không, phát khởi lòng đại Bi, thệ nguyện tu các pháp môn, thấy Đệ nhất nghóa, đoạn trừ phiền não trong ba cõi, dùng thệ nguyện phụ trợ tập khí tàn dư để được sinh vào ba cõi, du hý thần thông, thành tựu cho chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật. Cho nên Trung luận ghi: “Chư Phật dùng vị cam lộ giáo hóa chúng sinh.” Thật tướng các pháp là vị Chân cam lồ. Nếu được thật tướng các pháp, diệt trừ phiền não gọi là Thanh văn thừa, nếu sinh đại bi phát tâm Vô thượng thì gọi là Đại thừa. Nếu sau khi Phật diệt độ, gặp thời không có Phật, nhân nơi xa lìa mà sinh trí tuệ thì gọi là Bích-chi- Phật thừa. Nói về giai vị của ba thừa thuộc Thông giáo: gồm hai ý: Một là nói về ba thừa cộng Thập địa; hai, phân biệt về tên thì khác vị thì đồng. Một, nói về ba thừa đồng tu mười địa, lại gồm hai ý: Một là nêu tên; hai, giải thích. Nêu tên: Một là Càn tuệ địa; hai, Tánh địa; ba, Bát nhân địa; bốn, Kiến địa; năm, Bạc địa; sáu, Ly dục địa; bảy, Dó biện địa; tám, Bích-chi-Phật địa; chín, Bồ-tát địa; mười, Phật địa. Kinh Đại Phẩm ghi: “Bồ-tát từ Càn tuệ địa đầu tiên cho đến Bồ-tát địa, đều tu hành đều học tập mà chẳng thủ chứng, Phật địa cũng tu học, cũng chứng ngộ.” Cho nên nói là vị chung của ba thừa. Lược giải thích: Càn tuệ địa, giai vị sơ phát tâm của ba thừa đều gọi là Càn tuệ địa. Đây là giai vị Tam hiền tức; Ngũ đình tâm, Biệt tướng niệm xứ và Tổng tướng niệm xứ; cả ba gọi chung là ngoại phàm, tức Càn tuệ địa. Hỏi: Nếu thế có khác gì với Tam hiền mà Tạng giáo đã nói ở trước? Đáp: Nói chung thì đồng, như ba quán đã phân biệt xảo độ và chuyết độ ở trước thì đâu được nói là khác! Hỏi: Tam thừa đồng quán Đệ nhất nghóa đế lẽ ra cũng đồng phá tám đảo, đồng thấy Phật tánh, vì sao nói Thông giáo nhập nhị Niết- bàn? Đáp: Phá tám đảo là lời nói chung, nếu phân biệt thì gồm có bốn loại khác nhau: Một là phá tám đảo chẳng kết thành khô và tươi, tức chưa thể phân định Thông, Biệt, Viên; hai, phá tám đảo kết thành bốn khô, phần nhiều thành Thông giáo; ba, phá tám đảo kết thành bốn tươi, quyết định thành Biệt giáo; bốn, phá tám đảo kết thành khô và tươi, tức thành Viên giáo. Nay nói phá tám đảo, là dùng nghóa ngài Tịnh Danh quở trách ngài Ca-chiên-diên, phá năm nghóa của Tam tạng, thuyết năm nghóa của Ma-ha-diễn, tức kết thành bốn khô, nên tâm các Tỳ- kheo kia được giải thoát, tất cả đều là ý của Thông giáo. Tánh địa, nếu nhân nơi Tổng tướng niệm xứ, đầu tiên phát khởi năm ấm Thiện hữu lậu thì gọi là Noãn pháp, tăng tiến vào Sơ, trung, hậu tâm là vào Đảnh pháp, nhẫn pháp và thế đệ nhất pháp, đều gọi là Tánh địa thuộc nội phàm, chế phục Kiến hoặc của ba cõi. Bát nhân địa, tức là hai hạng Tín và Pháp của ba thừa khéo quán mà phát chân thật nơi vô gián Tam-muội, là giai vị Bát nhẫn trong mười lăm tâm. Kiến địa, tức ba thừa đồng thấy lý Bốn đế vô sinh Đệ nhất nghóa, đồng đoạn Kiến hoặc, ba kết và tám mươi tám sử. Bạc địa, thể hội được ái giả tức chân liền phát sinh sáu phẩm vô ngại, đoạn sáu phẩm của Dục giới, chứng đắc sáu giải thoát; phiền não ở cõi Dục cạn mỏng. Ly dục địa, hàng Tam thừa thể hội ái giả tức chân, đoạn tận năm phần hạ kết sử của cõi Dục, lìa phiền não ở cõi Dục. Dó biện địa, người Tam thừa thể hội ái của cõi sắc Vô sắc tức chân, phát chân vô lậu, đoạn trừ bảy mươi hai phẩm hoặc của năm phần thượng kết sử, đoạn rốt ráo các hoặc của ba cõi, nên gọi là Dó biện địa. Bích-chi-Phật, hàng Duyên giác và Bồ-tát phát khởi chân vô lậu, sức công đức rất lớn, nên có thể dần dần đoạn trừ tập Khí. Bồ-tát địa, từ không vào giả, quán hạnh đã thuần thục, đạo và quán đồng hành, quán sâu Nhị đế, tiến đến đoạn trừ tập Khí và sắc tâm vô tri, được pháp nhẫn đạo chủng trí, du hý thần thông, làm thanh tịnh cõi Phật, học tất cả các Phật pháp như mười lực Phật, bốn Vô sở úy, đại Từ, đại Bi, sắp sửa diệt tận tất cả tập khí. Phật địa, sức công đức to lớn giúp đỡ cho trí tuệ, đạt đến một niệm tuệ tương ưng, chiếu soi cùng tận chân tục, tất cả tập Khí của ba cõi đều trừ sạch. Nên luận Trí Độ ghi: “Sức trí tuệ của Thanh văn yếu kém giống như lửa nhỏ đốt cây, tuy cây đã cháy nhưng vẫn còn than; sức trí tuệ của Duyên giác mạnh hơn, như lửa lớn đốt cây, cây cháy, than cũng hết chỉ còn lại tro. Sắc trí tuệ của chư Phật mạnh như lửa của kiếp thiêu, đốt cháy tất cả, than tro chẳng còn, cũng như thí dụ ba con thú là thỏ, ngựa, voi qua sông.” Hỏi: Bồ-tát địa và Phật địa, tên khác với Nhị thừa, vì sao lại nói là chung? Đáp: Tên tuy có khác nhưng đồng là bậc Ứng cúng vô học, được hai Niết-bàn đồng trở về thân đoạn trí diệt, chứng quả là một, danh ng- hóa cũng chẳng khác, thế thì danh nghóa rốt ráo đều đồng nhau. Phân biệt tên khác, vị đồng: gồm hai ý: Một là y cứ vào Bồ-tát Tam thừa cộng Thập địa đã nói ở trước để lập riêng danh từ Nhẫn; hai, dùng danh biệt nghóa thông của Biệt giáo. Một, căn cứ theo ba thừa cộng mười địa vì Bồ-tát mà lập riêng tên Nhẫn: Luận Đại Trí ghi: “Càn tuệ địa, đối với pháp Bồ-tát gọi là Phục nhẫn; tánh địa đối với pháp Bồ-tát gọi là Thuận nhẫn; Bát nhân địa đối với pháp Bồ-tát gọi là Vô sinh pháp danh; Kiến địa đối với Bồ-tát gọi là Vô sinh pháp quả; Bạc địa đối với pháp Bồ-tát gọi là Ly dục thanh tịnh; Ly dục địa đối với pháp Bồ-tát gọi là Du hý thần thông. Dó biện địa đối với kinh Thanh Văn gọi là Phật địa; Bích-chi-Phật địa cho đến Phật địa thì như trước đã phân biệt. Hỏi: Vì sao trong pháp Bồ-tát lại lập riêng các tên như phục nhẫn…? Đáp: Vì lý quán tuy đồng mà phương tiện tu hành, hóa tha cầu quả Phật khác nhau, nên trong pháp Bồ-tát lập các tên riêng như phục nhẫn… Phân biệt về tướng đã nói đủ ở đại bản của Tứ giáo. Hai, Dùng danh biệt nghóa thông của Biệt giáo: Tức ba thừa đồng quán lý Đệ nhất nghóa đế, Bồ-tát dùng tên Thập tín, ba mươi tâm, và Thập địa để luận về giai vị. Càn tuệ địa phục nhẫn lập tên Thập tín; Tánh địa nhu thuận nhẫn lập các tên Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng; Bát nhân địa, Kiến địa được Vô sinh nhẫn, lập tên Hoan hỷ địa. Nên kinh Đại Phẩm ghi: “Tu-đà-hàm trí đoạn là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn”; Bạc địa hướng quả, hướng tức ly cấu địa, quả tức Minh địa, nên kinh Đại Phẩm ghi: “Tư-đà-hoàn trí đoạn là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn”; A-na-hàm Địa hướng quả; hướng tức là Diêm địa, quả tức Nan thắng địa, nên kinh Đại Phẩm ghi: “A-na-hàm trí đoạn là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn.” A-la-hán địa hướng quả, hướng là Hiện tiền địa, quả là Viển hành địa, nên kinh Đại Phẩm nói: “A-la-hán trí đoạn là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn.” Bích-chi-Phật địa tức Bồ-tát Bất động địa thứ tám, dần dần dứt trừ tập khí, nên kinh Đại Phẩm ghi: “Bích-chi-Phật trí đoạn là Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn”; Bồ-tát địa tức Thiện tuệ địa thứ chín, Pháp vân địa thứ mười, biết như Phật; Phật địa thì như trước đã nói, khi ngồi đạo tràng, được một niệm tuệ tương ưng đoạn trừ tất cả tập Khí, đó là tập Khí phiền não chướng, pháp chướng; khi hóa độ những chúng sinh có duyên đã xong liền vào vô dư Niết-bàn, như củi hết lửa tắt. Về tám tướng thành đạo thì như trước đã nói, thế thì dùng tên của Biệt giáo để luận về giai vị, thì tên khác mà nghóa lại đồng, còn thuộc về Thông giáo nói về giai vị Bồ-tát. Hỏi: Từ Sơ địa đến Thất địa phối hợp với bốn quả là xuất xứ từ kinh nào? Đáp: Các kinh luận chẳng phải không phối hợp, nhưng có cao thấp khác nhau. Xưa nay các Pháp sư phối hợp cũng rất khác nhau. Vì sao? Hoặc cho rằng Kiến địa chỉ phối với Sơ địa, như ở đây đã sử dụng, hoặc cho cả ba địa phối với Kiến địa kinh Nhân Vương dùng bốn địa phối với kiến địa, như thế thật khó có thể định được. Nhưng Kiến địa của Thông giáo vốn là Vô gián đoạn, chẳng vượt ra ngoài quán chứng Tu-đà-hoàn, há có thể từ Sơ địa đoạn Kiến cho đến Tam địa hoặc Tứ địa ư? Như Biệt giáo nói về đoạn hoặc chẳng như Nhị thừa, như thế mà nói về nghóa thì hoặc giả cũng sẽ có. Hoặc cho rằng địa thứ sáu đoạn kết đồng với A-la-hán, hoặc nói địa thứ bảy gọi là A-la-hán những lời này khó mà ấn định. Hai quả trước sau, kinh luận nói về nghóa đã chẳng định, hai quả ở giữa thì theo ý có thể biết, đã chẳng thể y cứ được. Nay dùng nghóa để suy, lập cách phối hợp các vị này, tuy được ít thuận tiện, nhưng rốt cuộc chẳng thể chấp trước. Ba, căn cứ theo Thông giáo nói về vị để giải thích nghóa Tịnh Vô cấu xưng: giai vị của Đại só là Bổ xứ; lý tánh chân đế tự sáng tỏ gọi là Tịnh. Chánh hoặc của hai chướng ở ba cõi đã tận trừ, tập khí cạn mỏng, nên gọi là Vô cấu; về trí tuệ, bên trong thì tương ưng với chân đế, bên ngoài thì xứng hợp với căn tánh của ba thừa, thần thông thuyết pháp, nên gọi là Xưng. Thế thì lược biện theo Thông giáo, Đại só có tên là Tịnh Vô cấu xưng. Sở dó cần thị hiện hình Bồ-tát này, là vì dùng thân và tiếng này để gá bệnh, vì quốc vương, trưởng giả nói về pháp như mộng huyễn, khuyên bảo cầu Bồ-đề, phá Tam thừa của Tam Tạng giáo cố chấp sai lầm về chuyết độ. Như chú Duy-ma-cật kinh, ngài La- thập, Đạo Sinh, Tăng Triệu đều dùng ý này, còn các đạo Pháp sư đời Lương, Trần giảng kinh văn này, phán định giai vị Bồ-tát, lập ý có chút ít khác nhau nhưng nay nhìn lại thấy đều là dùng ý của Thông giáo để giải thích kinh này. Căn cứ theo Biệt giáo nói về vị để giải thích nghóa Vô cấu xưng: Giáo này nói chung về lý giả danh Như Lai tạng Phật tánh. Bồ-tát thọ học giáo này tu hành được chứng ngộ, vì từ cạn đến sâu, nên phải nói về giai vị. Việc vào đạo của Biệt giáo này cũng có bốn môn. Nay căn cứ theo môn không hữu để nói về hành vị. Như kinh Đại Niết-bàn ghi: “Đệ nhất nghóa không gọi là Phật tánh, người trí thấy được không và chẳng không, Thanh văn, Bích-chi-Phật chỉ thấy không, chẳng thấy được chẳng không. Chẳng không tức Phật tánh.” Ở đây có ba ý khác nhau: Một là nói về kinh luận bàn về Biệt giáo bất đồng; hai, lược nói về giai vị của Biệt giáo; ba, căn cứ theo Biệt giáo để giải thích nghóa Tịnh Vô cấu xưng. Một Kinh luận nói về giai vị Bồ-tát Biệt giáo bất đồng: Biệt giáo nói về lý nhân duyên giả danh hằng sa Phật pháp, chân như Phật tánh. Bồ-tát tu học giáo này quán lý ba đế, trải qua nhiều kiếp tu hành, đoạn hằng sa vô tri, biệt Kiến tư hoặc, muốn thấy Phật tánh, cầu Niết- bàn bốn đức thường trụ. Nay nói giai vị của Biệt giáo khác nhau, gồm ba ý: Một là, các kinh nói số giai vị khác nhau; hai, Đoạn, phục cao thấp khác nhau; ba, đối pháp môn bất đồng. Một, các kinh nói số giai vị khác nhau. Kinh Hoa Nghiêm nêu bốn mươi mốt giai vị là ba mươi tâm, mười Địa và Phật địa; kinh Anh Lạc nêu năm mươi hai giai vị; kinh Nhân Vương năm mươi mốt giai vị, bản dịch mới kinh Kim Quang Minh Thắng Thiên Vương Bát-nhã và kinh Đại Phẩm chỉ nêu Thập địa và Phật địa mà chẳng nêu ba mươi tâm; kinh Đại Niết-bàn nói về nghóa năm hạnh mười công đức, suy ra lập ba mươi tâm và mười Địa. Các luận nói về giai vị, nhiều ít cũng có khác nhau, tất cả đều y cứ vào kinh nên có như thế. Hai, nói về phục đoạn cao thấp khác nhau: ba mươi tâm đoạn kết hoặc trong ba cõi có cao thấp khác nhau, mười địa đoạn kiến tư hoặc ở ngoài ba cõi đối với giai vị có khác, tất cả đều nói đủ ở Đại bản của Tứ giáo; ba, nói về pháp môn khác nhau, như kinh Hoa Nghiêm dùng mười Ba-la-mật phối với mười hạnh, kinh Kim Quang Minh bản tân dịch dùng mười Ba-la-mật phối với mười Địa. Như thế các kinh căn cứ theo vị hợp với các pháp môn có nhiều chỗ khác nhau. Hỏi: Vì sao Biệt giáo nói về giai vị, các kinh nêu số lượng giai vị và phối với các pháp môn đều khác nhau? Đáp: Biệt giáo y cứ vào ngoài ba cõi mà luận về giai vị Thập địa thực hành đoạn phục, đối với các pháp môn, Tất-đàn phương tiện đều tùy cơ tiếp dẫn, vì thế phần nhiều chẳng quyết định. * Hai lược nói về giai vị Bồ-tát Biệt giáo: nay căn cứ theo kinh Anh Lạc mà nêu ra bảy loại giai vị: Một là Thập tín; hai, Thập trụ; ba, Thập hạnh; bốn, Thập hồi hướng; năm, Thập địa; sáu, Đẳng giác địa; bảy, Diệu giác địa. Thập tín, về ý nghóa đã giải thích đủ ở Đại bản. Nay nói Bồ-tát Biệt giáo tin nhân duyên, Phật tánh, thường trụ Tam bảo, biết Bốn đế Vô lượng và Bốn đế vô tác, khởi từ bi, lập bốn nguyện rộng lớn; Thiên ma, ngoại đạo và Nhị thừa chẳng thể ngăn trở, nên gọi là Tín tâm. Nếu đối chiếu với năm hạnh nói trong kinh Niết-bàn thì đó là giới Thánh hạnh, Định thánh hạnh, tu sinh diệt Bốn đế phát tuệ Thánh hạnh, chế phục Kiến tư hoặc ở ba cõi. Đó là giai vị Thập tín tâm. Hỏi: Bồ-tát Biệt giáo đã duyên với Bốn đế Vô lượng Vô tác mà phát tâm Bồ-đề, vì sao phải tu tập pháp quán Bốn đế sinh diệt? Đáp: Bồ-tát Biệt giáo, khi Sơ phát tâm, tuy đã tin lý Bốn đế vô lượng, vô tác, nhưng phiền não chướng của ba cõi rất sâu nặng, ắt cần phải đoạn trừ hoặc chướng này trước, nên đầu tiên tu sinh diệt Bốn đế để điều tâm. Thập trụ, tức vị Thập giải tập chủng tánh. Nhập lý Bát-nhã gọi là trụ; nhập lý tức là vào thẳng thiên Chân tựa như vào lý viên Chân. Nếu nhìn từ kinh Niết-bàn, thì đó chính là tu pháp quán Bốn đế vô sinh. Nay nói giai vị Thập trụ này đều là tu pháp quán Thể giả vào không phát sinh tuệ thiên chân, đoạn kiến tư trong ba cõi được tuệ nhãn Nhất thiết trí, phát sinh kiến giải tương tự Trung đạo, đó là giai vị Noãn pháp của Biệt giáo. Thập hạnh, tức hàng Tánh chủng tánh. Trước nói Thập trụ đã nhập lý, nay từ lý khởi hạnh, tu học mười Ba-la-mật, nên gọi là Thập hạnh. Nếu nhìn từ kinh Niết-bàn thì đó là tu pháp quán Vô lượng Bốn đế. Nay nói Thập hạnh tu theo pháp quán từ không vào giả, đoạn hằng sa vô tri, được pháp nhẫn đạo chủng trí, Chánh sử của ba cõi tận trừ, Kiến giải tương tựa Trung đạo dần dần sáng tỏ, đó là vị Đảnh pháp của Biệt giáo. Thập hồi hướng, tức hàng Đạo chủng tánh. Vì tâm hạnh giải hợp với Hồi nhân hướng quả, thuận nhập pháp giới, nên gọi là hồi hướng. Nếu nhìn từ kinh Đại Niết-bàn, tức là tu pháp quán Bốn đế vô tác. Nay nói Bồ-tát này tu Chánh quán Trung đạo. Kiến giải tương tự Trung đạo cần sáng tỏ, chế phục Vô minh, được tương tự Phật nhãn Nhất thiết chủng trí, đó là vị nhẫn pháp của Biệt giáo. Hỏi: Đã nói về giai vị của Biệt giáo, đâu cần phải phối với Noãn, đảnh, nhẫn? Đáp: Thập địa của Biệt giáo đã phối với bốn quả, thì ba mươi tâm sao lại chẳng phối với Noãn, Đảnh, Nhẫn? Hỏi: Đã là Bồ-tát Biệt giáo, thì sao còn tu pháp quán Vô tác Bốn đế? Đáp: Nghóa này giao kết nhau quan hệ sâu xa chẳng dễ biết, đã nói đầy đủ ở Đại bản, đâu thể tức thời quyết định được? Thập địa, tức Thánh chủng tánh; vừa vào Sơ địa liền phát chân, thấy rõ phát tánh bình đẳng, tự thể của Pháp giới, an trụ và giữ gìn mà phát sinh ra công đức của chư Phật, kham gánh vác tất cả chúng sinh, cho nên gọi là Địa. Nếu nhìn từ kinh Niết-bàn, thì giai vị này phần chứng lý Bốn đế vô tác, đạt được hai mươi lăm Tam-muội, gọi là chư Tam-muội Vương, đầy đủ năm hạnh, thứ tự thành tựu mười công đức, vào mười địa, e rằng ý nghóa phần nhiều tại nơi đây. Nay nói Bồ-tát Thập địa, như vừa vào Sơ địa liền chứng chân Trung đạo Đệ nhất nghóa đế, gồm chiếu Nhị đế, tâm tâm vắng lặng, tự nhiên lưu nhập biển Tát- bà-nhã, đoạn trừ vô minh trụ địa, phần chứng Phật nhãn chủng trí, đạt được hai thân chân, ứng của Như Lai, giáo hóa khắp mười phương. Đầu tiên từ Sơ địa cho đến địa thứ mười đều đoạn vô minh, nhưng căn cứ theo vị thì có thể phân làm ba đạo: Một là Sơ địa là Kiến đạo; hai, từ địa thứ hai đến địa thứ sáu là Tu đạo; ba, từ địa thứ bảy trở lên là Vô học đạo. Các Sư địa luận cho rằng từ địa thứ hai đến địa thứ bảy là Tu đạo, địa thứ tám trở lên gọi là Vô học đạo. Bồ-tát Sơ địa đầy đủ năm hạnh, e rằng đó là công đức của Sơ địa, còn công đức của chín địa kia thì có thể đối với chín địa mà lập. Nói phá vô minh biệt kiến hoặc, như kinh Đại Niết-bàn nói: “Từ đây trở về trước đều gọi là người tà kiến”; thế thì hàng Tam thừa của Tạng, Thông giáo đều chưa thấy lý này, nên đều gọi là người tà kiến. Như Đại só quở trách Tu Bồ-đề “Lục sư là thầy của ông, Thiên ma, Ngoại đạo chung cho một tay làm người bạn trần lao”, ý tại nơi đây, cho đến Thập tín, ba mươi tâm của Biệt giáo tuy phục các hoặc này, nhưng chưa thể đoạn dứt, còn Vô minh biệt kiến, ý chê trách các Bồ-tát chính là tại nơi đây. Từ địa thứ hai đến địa thứ sáu là Tu đạo, đoạn Biệt hoặc là ái trong ba cõi, như luận Đại Trí ghi: “Ngài Ca-diếp nghe âm thanh của tiếng đàn Chân-ca-la, tâm không thể an định. Ngài Ca-diếp nói: “Năm dục trong ba cõi ta đã đoạn dứt, còn đây là năm dục do công đức tịnh diệu của Bồ-tát tạo ra cho nên đối với các món này ta không thể an định được.” Ái của cõi Sắc và Vô sắc cũng ví như thế. Trong kinh này, Đại só quở trách Tu-bồ-đề rằng “Đồng ở nơi phiền não, chẳng đến bờ kia, vào nơi tám nạn chẳng thể không có nạn”, ý nghóa tại nơi đây. Cho nên từ địa thứ hai đến địa thứ sáu gọi chung là Tu đạo, đoạn biệt hoặc này. Nay theo nghóa mà suy thì Ly cấu địa thứ hai tức dần dần đoạn trừ Dục ái của Biệt giáo gọi là Tư-đà-hàm hướng, Minh địa thứ ba là Tư-đà-hàm hướng, Minh địa thứ ba là Tư-đà-hàm quả của Biệt giáo, Viên địa thứ tư là A-na-hàm hướng của Biệt giáo. Nan thắng địa thứ năm là A-na-hàm quả của Biệt giáo, đã đoạn trừ Biệt ái ở cõi Dục. Hiện tiền địa thứ sáu tức A-la-hán hướng của Biệt giáo, đoạn Biệt ái ở cõi Sắc và Vô sắc. Viễn hành địa thứ bảy tức A-la-hán quả địa của Biệt giáo, đoạn tận Biệt ái của cõi Sắc và Vô sắc, cho nên từ đây trở đi gọi là Vô học đạo. Hỏi: Cách phối hợp với bốn quả này xuất xứ từ kinh nào? Đáp: Biệt giáo nói về đoạn phục, phối hợp với bốn quả, thì có nhiều kinh luận nói khác nhau. Các Pháp sư Đại thừa sử dụng cũng chẳng giống. Các Sư Địa luận thông về giáo, phán định giai vị rằng: Sơ địa là đoạn kiến, địa thứ hai là đoạn ái ở cõi Dục, địa thứ ba đoạn ái của cõi Sắc, địa thứ tư ái của cõi Vô sắc. Các sư Địa luận thông về tông lại phán định về vị rằng: địa thứ ba đoạn kiến gọi là Tu-đà-hoàn, từ địa thứ tư đến địa thứ sáu, gọi là Tư-đà-hàm là y Pháp sư thứ hai, từ địa thứ bảy đến địa thứ chín là A-na-hàm là y Pháp sư thứ ba, cho rằng từ địa thứ mười đến Đẳng giác là A-la-hán là y Pháp sư thứ tư. Lại, có người nói rằng địa thứ ba đoạn kiến, địa thứ tư gọi là Tư-đà-hàm, địa thứ năm là A-na-hàm, địa thứ sáu là A-la-hán. Có người y cứ vào kinh Nhân Vương nói địa thứ tư là đoạn kiến, địa thứ năm là Tư-đà-hàm, địa thứ sáu là A-na-hàm, địa thứ bảy là A-la-hán. Có nhiều thuyết khác nhau như thế khó có thể y cứ nhất định. Nay theo nghóa mà suy xét, tạo cách phối hợp với bốn quả ở trên, xem tựa có thuận tiện, nhưng không có văn minh chứng. Ý Phật thật khó biết, chẳng nên chấp giữ sai lầm. Hỏi: Vì sao giải thích là không nhất định? Đáp: Như trước đã nói, bất động địa thứ tám là Bích-chi-Phật địa của Biệt giáo, các Sư Địa luận nói rằng “Từ đây nói về Vô học đạo, chưa biết xuất xứ từ kinh luận nào?” không chỉ địa thứ tám được Vô sinh nhẫn, mà còn đạt được Tịch mà thường dụng, dụng mà vô tướng, vô công dụng tâm, tự nhiên đoạn trừ vô minh hoặc và Sắc tập của pháp giới. Thiên tuệ địa thứ chín, vô minh đã mỏng dần tâm đoạn tập Khí đã dứt, tuệ càng sáng tỏ, khéo vào nơi thật tướng. Pháp Vân địa thứ mười, có từ bi và trí tuệ như vầng mây lớn, tâm Từ bi bao phủ tất cả, rưới cơn mưa pháp, vầng mây tuệ hay giữ gìn cơn mưa pháp mà chư Phật mười phương đã tuyên thuyết và hay đoạn trừ mười phẩm vô minh. Đẳng giác địa: Tức trí biên tế đã mãn mà nhập vào Trùng huyền môn. Nếu đối với Pháp vân địa thì gọi đây là Phật, nếu đối với Diệu giác thì gọi giai vị này là Kim cang tâm Bồ-tát, cũng gọi là Vô cấu địa Bồ-tát, ba ma đã tận trừ, chỉ còn một phẩm ma tử nơi đoạn vô minh tập. Hỏi: Vì sao Thông giáo chẳng luận đến Đẳng giác Phật? Đáp: Tập khí ở ba cõi dễ trừ sinh, nên chẳng cần ngoài pháp Vân địa lại lập Đẳng giác Hỏi: Kinh luận Biệt giáo vì sao có nơi nói sau Pháp vân địa lại có Kim cang Đẳng giác? Có nơi chỉ nói hạnh Thập địa hoàn mãn thì liền đạt quả Phật, các sư ở hai vùng Nam Bắc tranh luận nhau về điều này? Đáp: Lập thêm Đẳng giác chưa hẳn là ngăn ngại, vì sao? Như kinh Hoa Nghiêm nói công đức trí tuệ của Pháp Vân địa, nếu so với Phật thì như đất trên móng tay với tất cả đại địa. Nếu thế, tuy nói một phẩm vô minh mà thật chẳng thể nói là phẩm, vì sao biết được? Vì bậc Bồ-tát tâm sau cùng thì vô công dụng đạo mà nhanh chóng như gió, trong một ngày có thể phá vô lượng phẩm vô minh hoặc chướng, huống hồ kinh Anh Lạc nói Bồ-tát Đẳng giác nhập Trùng Huyền môn từ trăm ngàn ức kiếp, mà trở lại tu tập việc phàm phu. Vì thế ngoài Pháp vân địa mà lại lập Kim Cang tâm Đẳng giác Phật, theo lý chẳng có gì sai phạm. Nếu biết một phẩm có vô lượng phẩm vô minh, dùng trí vô ngại của Pháp vân địa trừ tận thì đâu cần lập ra Đẳng giác. Diệu giác địa, sau Kim cang tâm, rỗng rang, thấu suốt tận nguồn của diệu trí, vô minh tập khí vónh viễn tận trừ gọi đó là giải thoát, lặng lẽ không còn phiền lụy, đạt được tịch mà thường chiếu, nên gọi là Diệu giác địa. Phật quả thường trụ đầy đủ tất cả Phật pháp, gọi là quả Bồ-đề, bốn đức Niết-bàn gọi là quả quả. Hỏi: Dùng Kim Cang trí đoạn vô minh hay dùng Diệu giác đoạn vô minh? Đáp: Kinh Niết-bàn ghi: “Có sở đoạn gọi là Hữu thượng só, không có sở đoạn gọi là Vô thượng só.” Hỏi: Vì sao kinh Thắng Man ghi: “Sức của Vô minh trụ địa rất mạnh, trí Bồ-đề của Phật mới đoạn được?” Đáp: Nếu dùng Biệt tiếp Thông thì Thập địa, Đẳng giác tức là trí Bồ-đề của Phật, vì sao? Kinh Niết-bàn ghi: “Bồ-tát trụ thứ chín gọi là Văn kiến, Bồ-tát Thập trụ gọi là nhãn kiến, tuy thấy Phật tánh, nhưng chẳng rõ ràng, vì đạo vô ngại và hoặc cùng trụ nên chẳng thể rõ ràng, còn chư Phật Như Lai thì thấu suốt thấy được rõ ràng, vì chân giải thoát vắng lặng vượt ngoài trần lụy. Nếu Biệt giáo nói về nghóa, thì sơ Hoan hỷ địa đã dùng trí Bồ-đề Phật đoạn phẩm vô minh đầu tiên, cho đến tâm sau cùng của Đẳng giác mới đoạn hoàn toàn. Còn như Viên giáo nói về nghóa, thì từ mới phát tâm đã trụ nơi trí Bồ-đề Phật đoạn phẩm vô minh đầu tiên, cho đến tâm sau cùng của Đẳng giác mới hoàn toàn đoạn tận. * Ba, căn cứ theo giai vị Biệt giáo để giải thích từ Tịnh Vô cấu xưng: Ngài Duy-ma đã là vị Đạo só Nhất sinh bổ xứ, tức là pháp thân Đại só trụ ở Kim cang tâm Đẳng giác là Bồ-tát Vô cấu. Vì lý Phật tánh hiển bày nên gọi là Tịnh, Chánh tập khí của Biệt hoặc đã tận trừ, Tập khí tàn dư của vô minh như làn khói mỏng, tuy có mà như không, nên gọi là Vô cấu. Trí Biên tế đã mãn, bên trong hợp với lý sâu xa, bên ngoài hoạt dụng vô cùng, đạt được sự bình đẳng nơi pháp giới, ứng duyên hành hóa, nên gọi là Xưng. Cho nên gọi là Tịnh Vô cấu xưng. Như thế, đâu đồng với nghóa Tịnh Vô cấu xưng mà Tạng giáo, Thông giáo đã luận. Sở dó giáo tích hiện đồng giai vị Bổ xứ là vì để quở trách Tam thừa Tạng giáo, Thông giáo mà nhiếp thọ Bồ-tát Đại thừa Biệt giáo. <卷>QUYỂN 4 Căn cứ theo Viên giáo nói về vị để giải thích nghóa Tịnh Vô cấu xưng: Giáo này nói về lý nhân duyên tức Nhất thật đế, Bất tư nghị giải thoát, hư không Phật tánh, Đại Bát Niết-bàn chư Phật pháp giới. Bồ-tát lãnh thọ giáo pháp này, thì lý tuy chẳng sâu chẳng cạn, mà chứng đắc giai vị chẳng phải không có sâu cạn. Nay nói về việc nhập đạo của giáo này cũng gồm bốn môn nhưng các kinh Đại thừa phần nhiều dùng môn chẳng không chẳng có. Đến như kinh này, các vị Bồ-tát mỗi mỗi nói pháp môn bất nhị, nhìn chung tuy đồng nhưng xét kỹ, chẳng phải không có bốn môn khác nhau, mà phần nhiều lại dùng môn chẳng không chẳng có mà vào giải thoát bất tư nghị. Nghóa này về sau sẽ rõ biết. Căn cứ theo đây, lược nêu ba ý: Một là phân biệt hai giáo Biệt Viên nói về vị khác nhau; hai, chính thức nói về giáo này luận giai vị; ba, căn cứ theo giai vị Viên giáo để giải thích nghóa Tịnh Vô cấu xưng. Một, Phân biệt hai giáo nói về giai vị khác nhau: Viên giáo đã nói lý Viên đốn, nay lược nói về tám nghóa của Viên, khác với tám ng- hóa của Biệt, như trước đã nói. Nay chỉ căn cứ theo việc đoạn vô minh mà phán định giai vị cao thấp khác nhau. Như Biệt giáo nói ba mươi tâm đoạn kết hoặc ba cõi, tức đã chế phục vô minh của ngoài ba cõi, đến tâm sau cùng của Hồi hướng vị tức phát chân trí, thấy được lý Phật tánh Trung đạo, đoạn một phẩm vô minh gọi là vào Sơ địa, cho đến đoạn mười phẩm vô minh gọi là Thập địa, tâm sau cùng của vị Đẳng giác mới đoạn hoàn toàn vô minh vào Diệu giác vị, vắng lặng vượt ngoài trần lụy, như trước đã nói. Còn như Viên giáo giải thích, thì từ giả danh phát tâm đầu tiên tức đã được nhất tâm ba quán, tu tâm tùy hỷ, bước vào giai vị Thập tín đoạn dứt hoặc trong ba cõi, tức chế phục vô minh ngoài ba cõi. Đến Sơ tâm của Thập trụ lại phát sinh trí tuệ viên chân, đoạn phẩm vô minh đầu tiên, từ đây đến hết bốn mươi hai tâm đều đoạn vô minh, đến tâm sau cùng của Đẳng giác mới hết, đến Diệu giác cực địa thì rỗng lặng, vượt ngoài trần lụy, gọi đó là Bồ-đề rốt ráo, đại Niết-bàn vô lượng. Thế thì phán định giai vị cao thấp khác nhau, cho nên có việc giải thích về vị bất đồng của hai giáo Biệt Viên. Hai, nói về giai vị của Viên giáo: Cũng gồm có bảy bậc năm mươi hai giai vị bất đồng, đó là: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập Hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác; nhưng sự giải thích thì khác nhau. Có Sư cho rằng Viên giáo là Đốn ngộ, đã ngộ tức là Phật, không có phân biệt giai vị khác nhau, nói giai vị Thập địa là nói cho hàng độn căn. Như kinh Tư Ích nói: “Tu học như thế, chẳng từ một địa đến một địa”; lại có Sư cho rằng Viên giáo là giáo Đốn ngộ, tâm đầu tiên vừa ngộ tức đạt đến cứu cánh viên mãn, mà nói có bốn mươi hai vị, chỉ là vì phương tiện giáo mà lập tên có sâu cạn. Nên kinh Lăng-già nói: “Sơ địa tức Nhị địa, Nhị địa tức Tam địa; chân như vắng lặng nào có vị thứ?” Có Sư lại cho rằng Viên giáo đốn ngộ đến Thập trụ tức Thập địa, mà nay nói có Thập hạnh, Thập Hồi hướng, Thập địa đó là trùng thuyết, ý cho rằng các cách giải thích trên đều là thiên chấp. Nhưng pháp giới bình đẳng, còn chẳng luận là ngộ hay chẳng ngộ, thì có gì là sâu hay cạn? Chẳng ngộ mà luận ngộ tức chẳng cạn chẳng sâu mà luận có cạn sâu. Nay các kinh luận Đại thừa nói về lý rốt ráo không đâu bằng các kinh Hoa Nghiêm, Đại Tập, Đại Phẩm, Pháp Hoa, Niết-bàn, các kinh này nói về pháp giới bình đẳng, không có nói năng nhưng nếu hành đến chung cuộc giai vị Bồ-tát thì tự sáng tỏ. Vì thế nay lại căn cứ theo bảy vị để nói về giai vị Bồ-tát Viên giáo. Thập tín, nếu là hàng đốn ngộ lợi căn có gốc thiện sâu dày, thì vừa nghe nói tất cả chúng sinh tức đại Niết-bàn chẳng cần phải Niết- bàn nữa, tất cả chúng sinh đều là tướng Bồ-đề, thì liền phát đại Từ đại Bi duyên với Bốn đế vô tác, khởi bốn thệ nguyện rộng lớn, đó gọi là phát tâm Bồ-đề của Viên giáo. Tín tâm tức là tin tất cả chúng sinh đều là chân tánh giải thoát, đầy đủ nhất thể Tam bảo, nhất tâm ba quán. Khi quán lý Nhị đế, Tam đế thì thông đạt vô ngại, thành tựu tâm tùy hỷ, nhân của ngũ phẩm đệ tử vị, nếu được Tam-muội và Đà-la-ni thì sáu căn thanh tịnh, liền vào giai vị Thập tín. Nếu thành tựu Thập tín tức thấy lý chân đế, đoạn trừ kiến tư hoặc của ba cõi, cũng thấy được lý tục đế, phân biệt được pháp mười pháp giới, tâm không lầm lẫn, phát sinh hiểu biết tương tự Trung đạo, chế phục vô minh ngoài ba cõi. Cho nên kinh Nhân Vương ghi: “Bồ-tát thập thiện phát đại tâm, vónh viễn lìa biển Khổ ba cõi.” Kinh Pháp Hoa nói về ý căn thanh tịnh rằng “Tuy chưa được trí tuệ vô lậu của Bồ-tát, mà ý căn đã thanh tịnh như thế.” Thập trụ gồm hai ý: Lược giải thích Sơ phát tâm trụ, so sánh để giải thích chín trụ. Một, giải thích giai vị Sơ phát tâm trụ: Phát tâm trụ, vì phát ba tâm, nên gọi là phát tâm, ba đức Niết-bàn gọi là trụ. Thế nào là phát ba tâm? Đó là phát duyên nhân thiện tâm, phát liễu nhân tuệ tâm và phát chánh nhân lý tâm. Phát thiện tâm duyên nhân: tất cả chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay, những thiện căn có được như cúi đầu, chắp tay, phút chốc rải hoa, phát tâm Bồ-đề, từ bi thệ nguyện, bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định; trí tuệ đồng thời khai phát, trong một tâm đầy đủ vạn hạnh Ba-la-mật. Phát tuệ tâm liễu nhân: Chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay, nghe các kinh điển Đại thừa, cho dù chỉ một câu, liền tin nhận, đọc tụng, giải nói, biên chép, quán xét tu tập, những trí tuệ có được, nhất thời khai phát, thành tựu chân vô lậu, phát lý tâm chánh nhân: : tất cả chúng sinh từ vô thỉ kiếp đến nay, chân tâm Phật tánh hằng bị vô minh che lấp, nhưng nhờ hai nhân là duyên và liễu phá trừ vô minh tối tâm, mà được hoát nhiên hiển lộ. Ba tâm này khai phát nên gọi là phát tâm. Trụ tức là trụ nơi ba đức Niết-bàn: Pháp thân, Bát-nhã, giải thoát. Ba đức này chẳng dọc chẳng ngang, như chữ y thế gian, gọi đó là Bí mật tạng. Phát tâm chân thật là pháp thân, phát tâm liễu nhân là Bát-nhã, phát tâm duyên nhân tức giải thoát. Nếu phát ba tâm này đồng như chữ nhất thế gian thì hành nhân giả danh chẳng trụ nơi pháp mà trụ nơi ba tâm này, tức trụ nơi tạng Bí mật, ba đức Niết-bàn, cho nên gọi là Sơ phát tâm trụ. Nếu trụ nơi ba đức tức là trụ nơi giải thoát Bất tư nghị, trụ nơi Đại thừa, tức chẳng trụ pháp mà trụ nơi Bát-nhã, trụ nơi Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội tu trì nơi tâm giống như hư không, tức trụ nơi pháp tánh, tức trụ nơi thật tướng, tức trụ Như như, tức trụ nơi Như Lai tạng, tức trụ Trung đạo Đệ nhất nghóa đế, tức trụ nơi pháp giới, tức trụ nơi Tất cánh không, trụ nơi đại Từ đại Bi, mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng, tức nơi bốn Vô ngại trí, Thần thông, bốn Nhiếp, các Ba-la-mật, tức cả Tam-muội Đà-la-ni môn. Tóm lại tức trụ nơi hai thân chân ứng và tất cả Phật pháp. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Khi Sơ phát tâm, liền thành chánh giác liễu đạt tánh chân thật của tất cả pháp, đối với pháp đã được nghe thì chẳng từ người khác mà ngộ. Đó là Bồ-tát thành tựu mười loại trí lực, rốt ráo lìa vọng, không nhiễm ô, như hư không, duyên pháp thân thanh tịnh, lắng trong, ứng khắp tất cả, nên biết đó tức là phát chân vô lậu đoạn phẩm vô minh đầu tiên. Đó tức là điều mà kinh này nói vào pháp môn bất nhị, được Vô sinh nhẫn. So sánh giải thích chín trụ kia, như Sơ trụ này được ba quán hiện tiền, vô công dụng tâm mà niệm niệm đều đoạn vô lượng, phẩm vô minh trong pháp giới, chẳng thể tính kể được, nhưng tổng quát phần lớn có thể lược nêu ra mười phẩm trí đoạn, tức là mười trụ. Nên kinh Nhân Vương ghi: “Nhập lý Bát-nhã gọi là Trụ”, tức mười phen tiến phát chân minh vô lậu, đồng nhập lý Phật tánh trung đạo Đệ nhất nghóa đế. Vì chẳng trụ pháp từ cạn đến sâu mà trụ nơi lý Tam đức Niết-bàn của Phật, tức mười phẩm trí tuệ trụ nơi tất cả Phật pháp. Vì thế gọi đó là mười trụ. Thập hạnh, tức nơi chân tâm của thập trụ này, một tâm đầy đủ tất cả hạnh, niệm niệm tự nhiên tăng tiến nhập vào biển Pháp giới bình đẳng, phát mười phẩm Vô minh, chứng mười phẩm trí đoạn, tất cả các hạnh, các Ba-la-mật tự nhiên tăng trưởng, xuất sinh công đức tự hành hóa tha, bình đẳng với hư không pháp giới, nên gọi là mười hạnh. Thập Hồi hướng, nhất tâm chân thật sáng tỏ, niệm niệm khai phát hạnh giải, tâm tâm vắng lặng, tư nhiên xoay trở về nhập vào biển Bình đẳng pháp giới Tát-bà-nhã, lại tiến đến phá mười phẩm vô minh, chứng mười phẩm trí đoạn, nên gọi là Thập Hồi hướng. Thập địa, vô lậu chân thật sáng tỏ, nhập vào vô công dụng đạo, giống như đất hay sinh ra tất cả Phật pháp, gánh vác tất cả chúng sinh trong pháp giới, đồng nhập vào cõi Phật ba đời, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Lại tiến đến phá mười phẩm vô minh chứng mười phẩm trí đoạn, căn cứ vào đó để nói về Thập địa. Đẳng giác địa, đoạn tận cùng nguồn vô minh mà nhập vào trùng huyền môn, trí biên tế đã mãn, rốt ráo thanh tịnh, đến đỉnh núi Trung đạo, xa lìa cha mẹ vô minh, đây còn là Kim cang hậu tâm vô ngại, gọi là có Sở đoạn, là Hữu thượng só. Diệu giác địa, tức Phật trí vô thượng rốt ráo giải thoát, cho nên nói là Vô sở đoạn, là Vô thượng só. Đây là cứu cánh hậu tâm, đạt được ba đức đại Niết-bàn chẳng dọc chẳng ngang. đại Niết-bàn gọi là pháp giới của chư Phật, dọc thì sâu ngang thì rộng, hay dùng hai mươi lăm Tam-muội giáo hóa khắp chúng sinh, ẩn hiện mười phen, lợi ích hữu tình rộng lớn và cùng tận. Ví như cây lớn rễ sâu, thì cành lá tốt tươi trải rộng, nếu trí tuệ thật tướng đạt cùng nguồn tận tánh, thì công năng giáo hóa đầy khắp pháp giới, đại dụng vô cùng rốt ráo viên mãn. Cho nên luận Đại Trí ghi: “Đường lớn Trí Độ, Phật từ đó mà đến; biển sâu Trí độ, Phật thấu suốt tận cùng.” Kinh Đại Phẩm ghi: “Vượt qua chữ “Trà” thì không còn Tự môn để có thể nói”. Kinh Niết-bàn ghi: “Bất sinh bất sinh bất khả thuyết.” Nếu luận như thế mà nói về giai vị thì từ ba mươi tâm cho đến các địa đều là các giai vị chân như tịch diệt, bình đẳng pháp giới bất khả tư nghị không có thứ vị. Hỏi: Giai vị Viên giáo này xuất xứ từ kinh nào? Đáp: Kinh Đại Niết-bàn nói về Nguyệt Ái Tam-muội rằng “Từ ngày mồng một đến ngày mười lăm, ánh sáng trăng dần dần sáng tỏ, từ ngày mười sáu đến ngày ba mươi, ánh sáng trăng dần dần mờ tối”, ánh trăng dần dần sáng tỏ dụ cho ánh sáng Ma-ha Bát-nhã của mười lăm trí đức; ánh trăng dần dần mờ tối dụ cho sự giải thoát không còn phiền lụy của mười lăm đoạn đức giảm tận. Mười lăm loại trí, đoạn tức gồm ba mươi tâm là ba trí đoạn, mười Địa gọi là mười trí đoạn, Đẳng giác là một trí đoạn và Diệu giác là một trí đoạn. Cho nên lấy mặt trăng từ ngày mồng một đến ngày mười lăm làm dụ. Thể của mặt trăng dụ cho pháp thân, pháp thân chỉ là một, ánh sáng dần sáng dụ cho trí đức Bát-nhã chẳng sinh mà sinh; ánh sáng dần mờ tối dụ cho Đoạn đức giải thoát chẳng giảm mà giảm. Cho nên kinh Niết-bàn nói đầu tiên đặt các người con nơi tạng bí mật ba đức Niết-bàn sau đó ta cũng nên ở nơi tạng bí mật này mà Bát-niết-bàn: Niết-bàn cuối cùng rốt ráo này gọi là Bất sinh bất sinh, là Bát-nhã rốt ráo chẳng sinh chẳng diệt, không còn hoặc nào để đoạn trừ. Lại kinh Pháp Hoa nói về khai, thị, ngộ, nhập Đại sư Nam Nhạc giải thích rằng đó là bốn mươi tâm của Viên giáo.” Kinh Bát-nhã nói bốn mươi hai tự môn, tự môn A ở đầu tiên cũng gồm đủ bốn mươi hai tự môn, tự môn Trà ở sau cùng cũng gom nhiếp bốn mươi hai tự môn. Đại sư Nam Nhạc giải thích đó là tên khác của bốn mươi hai địa của Viên giáo. Kinh Nhân Vương nói với Tam hiền, mười Thánh hành nhẫn, chỉ có Phật mới đạt đến tận nguồn, tức là nói về tướng của giai vị Viên thông. Kinh Anh Lạc nói: “Bồ-tát Tam hiền tự nhiên lưu nhập vào biển Tát-bà-nhã”, tức là nghóa này. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Từ Sơ địa đã đầy đủ công đức của tất cả các địa”, luận Đại Trí Độ ghi: “Bồ-tát từ Sơ phát tâm quán Niết-bàn mà tu đạo cho đến tọa Đạo tràng.” Các kinh luận nói như thế há chẳng đủ ư? Dẫn chứng và giải thích đầy đủ ở Đại bản của Tứ giáo. * Ba, căn cứ vào giai vị của Viên giáo để giải thích nghóa Tịnh Vô cấu xưng: Đại só Duy-ma là bậc Pháp thân Bổ xứ tức là trụ nơi giai vị Đẳng giác Kim cang Tâm vô cấu, trí tuệ sắp viên mãn như trăng đêm mười bốn, vô minh sắp diệt như trăng trong đêm hai mươi chín. Cho nên luận Trí Độ ghi: “Ngài Văn-thù, Phổ Hiền cũng có mười lực, bốn vô úy, nhưng nhu trăng đêm mười bốn”; vì lý pháp tánh hiển lộ nên gọi là Tịnh, hoặc cấu vô minh đã tận trừ nên gọi là Vô cấu, trí tuệ Đẳng giác xứng hợp với lý, tròn sáng xứng cơ mà chiếu soi, nên gọi là Tịnh Vô cấu xưng. Thế thì giai vị gần với Diệu giác. Như luận về Viên ứng thì cho đến hiện thân mười pháp giới, tám tướng thành đạo ở cõi Phật khắp mười phương, vì ở cõi này cần được thấy hình Bổ xứ, nên làm vị Bồ-tát Bổ xứ ở cõi Phật Vô Động mà đến, đến cõi nhẫn quở trách Bồ-tát, tất cả đều nói là chẳng kham nhận đến thăm bệnh đó chính là dùng Viên để phá Thiên. Lại bàn về vào pháp môn bất nhị mà chỉ mình cư só lại im lặng, đó là biểu thị pháp môn nội chứng của Viên giáo chẳng thể diễn nói chỉ bày. Căn cứ theo thí dụ năm vị để hiển thị giai vị của bốn giáo: Kinh Niết-bàn nói thí dụ về năm vị khác nhau, để thành bốn giáo luận vị khác nhau. Kinh nói: “Phàm phu như sữa, Tu-đà-hoàn như lạc, Tư-đà- hàm như sinh tô, A-na-hàm như thục tô, A-la-hán Bích-chi-Phật như đề hồ”, thí dụ này nói về ý e rằng hiển thị giáo Tam tạng nói về vị. Kinh lại nói: “Phàm phu như sữa, Thanh văn như lạc, Bích-chi-Phật như sinh tô, Bồ-tát như Thục tô, Phật như đề hồ”, thí dụ này về ý nghóa e rằng hiển thị Thông giáo nói về vị. Kinh lại nói: “Phàm phu như máu sữa lẫn lộn; A-la-hán như sữa tốt, Bích-chi-Phật như lạc, Bồ-tát như sinh thục tô, Phật như đề hồ”, ý của dụ này e rằng hiển thị Biệt giáo nói về vị. Kinh lại nói: “Trên núi tuyết có một loại cỏ tên là Nhẫn nhục, bò ăn vào, liền được vị Đề hồ”, cỏ Nhẫn nhục là dụ cho tám Thánh đạo, sữa dụ mười hai thể loại kinh, tùy theo người tu tám Thánh đạo mà được thấy Phật tánh, trụ đại Niết-bàn. Dụ này nói rằng Bồ-tát Viên giáo từ Sơ phát tâm đã khai mở Tri kiến Phật, trụ nơi đại Niết-bàn. Kinh Đại Niết-bàn lập bốn dụ này để dụ cho bốn giáo nói về vị, nghóa ý thật rõ ràng. Nếu chẳng tin bốn giáo nói về vị khác nhau, thì làm sao có thể giải thích bốn dụ về năm vị này? Nay dùng bốn giáo nói về vị ở trên mà hợp thành bốn dụ này, nhìn chung thì tựa như rõ ràng trước mắt, nhưng chỉ vì ý Thánh ẩn kín khó biết, thì đâu được sinh định chấp? Vả lại kinh Niết-bàn ghi: “Thí như có người hòa độc vào sữa, cho đến đề hồ cũng có thể giết người”, thí dụ này có hai dụng, nếu căn cứ theo sáu vị giải thích nghóa của kinh giáo, thì nơi nơi đều thấy Phật tánh, vào Niết-bàn, đây là giáo môn bất định, sẽ giải thích ở sau; nếu y cứ theo vị nói về nghóa sát nhân thì năm vị của bốn giáo có căn duyên bất định, tùy căn cơ Đại thừa mà phát khởi, đều lấy sự diệt độ của Như Lai mà diệt độ, cho nên đồng với nghóa sát nhân. * Luận về quyền thật: gồm ba ý: Lược nói về quyền thật So sánh vị Hưng phế. Một, lược nói về quyền thật: Quyền tức là tạm sử dụng, thật là vónh viễn lập ra. Phương tiện Ba-la-mật là tùy thuận hữu tình, có lợi ích gần nên gọi là quyền, Trí ba-la-mật thì hợp với lý rốt ráo nên gọi là Thật. Thế thì ba giáo tạm thời ứng thuận chúng sinh nên gọi là Quyền; Viên giáo rốt ráo lợi ích chúng sinh nên gọi là thật. Phân biệt Quyền thật gồm có bốn nghóa: Một là tất cả chẳng thật chẳng quyền; hai, tất cả đều là quyền; ba, tất cả đều là thật; bốn, tất cả đều có quyền có thật. Tất cả chẳng có quyền chẳng có thật: Nếu luận về bốn bất khả thuyết không thể thuyết thì không có bốn giáo để có thể phân biệt. Như không có ba giáo tức không có quyền, không có Viên giáo tức không có thật. Thế thì tất cả Phật pháp đều chẳng có quyền chẳng có thật. Tất cả đều là quyền: Như luận bốn bất khả thuyết vì có nhân duyên mà được thuyết, thì bốn giáo đều là phương tiện quyền xảo dùng để giáo hóa chúng sinh, nên Đức Phật nói: “Khi ta ngồi nơi đạo tràng, thật chẳng được một pháp, chỉ như nắm tay không dối gạt trẻ thơ, để độ tất cả.” Tất cả đều thật: Không thuyết mà thuyết, thì thuyết ắt là lợi ích ứng cơ duyên, nhưng nghóa thú đều thật, vì thế bốn giáo đều gọi là thật. Luận Trí Độ ghi: “Có thế giới, đối trị, vị nhân cho nên Thật, có Đệ nhất nghóa cho nên thật”, đây là nói nghóa thật chẳng hư đối. Tất cả có thật có quyền: Luận cùng tột thì Phật pháp chẳng quyền chẳng thật mà hay quyền hay thật, bốn bất khả thuyết thì không có quyền thật để có thể phân, cho nên chẳng quyền chẳng thật, chẳng thuyết mà thuyết thì ba giáo tức là quyền, Viên giáo tức thật, nhưng một nhà nói về quyền thật, gồm có ba nghóa: Hóa tha quyền thật, Tự hành hóa tha quyền thật, và tự hành quyền thật. Nếu là hóa tha quyền thật thì ba giáo trước không chỉ là quyền, mà trong quyền này mỗi mỗi cùng nói đến quyền thật. Nếu nói tự hành hóa tha quyền thật thì ba giáo trước đều là quyền, pháp mà Viên giáo nói đều là thật. Nếu luận về tự hành quyền thật, tức căn cứ theo Viên giáo mà luận, trong đó chiếu trung đạo là thật, gồm chiếu Nhị đế là quyền. So sánh vị: gồm ba ý: Một là căn cứ theo giai vị Tam Tạng giáo mà so sánh với ba giáo sau; hai, căn cứ theo giai vị Thông giáo so sánh với hai giáo sau; ba, căn cứ theo giai vị của Biệt giáo so sánh với Viên giáo. Căn cứ theo vị của tam tạng so sánh với ba giáo sau: gồm ba: Một là căn cứ vào giai vị của Tạng giáo (Tam Tạng giáo) so sánh với Thông giáo; hai, căn cứ theo giai vị của Tạng giáo so sánh với Biệt giáo; ba, căn cứ theo giai vị của Tạng giáo so sánh với Viên giáo. Căn cứ theo giai vị của Tạng giáo so sánh với Thông giáo: Nếu luận về Thanh văn Duyên giác và Thông giáo nói về Nhị thừa thì không khác nhau. Nhưng căn cứ theo Đại thừa nói về giai vị, thì có sự khác biệt rất lớn. Vì sao? Vì Tam Tạng giáo cho rằng trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp tu hành cho đến Bổ xứ tức là vị Tịnh vô cấu, chỉ đồng với nhu thuận nhẫn, Tánh địa nhẫn, pháp trung nhẫn của Thông giáo; nếu là giai vị Phật của Tam tạng thì chỉ đồng với Phật địa của Thông giáo. Vì đồng nhau về chánh sử đã tận. Luận thêm về giai vị Phật của Tam Tạng giáo thuộc về Tích pháp trí là chuyết độ, còn giai vị Phật của Thông giáo thuộc về Thể pháp trí là Xảo độ. Như luận Trí độ ghi: “A-la-hán địa, trong pháp Thanh văn gọi đó là Phật, đều chứng đắc hai loại Niết-bàn”. Nay cho rằng đoạn trừ hết chánh sử là đồng với Dó biện địa. Nếu căn cứ theo nghóa Nhị đế đã lìa, tập khí đã tận thì La-hán há lại đồng với Phật được ư? Dùng giai vị của Tam Tạng giáo để so sánh với giai vị của Biệt giáo: Tam Tạng giáo nói giai vị Nhất sinh bổ xứ Tịnh vô cấu nếu so sánh với Biệt giáo thì chỉ đồng với nguyện tâm giai vị thứ mười của Thiết luân Thập tín, còn Phật địa chỉ đồng với Sơ địa của Biệt giáo, đây là ý chánh, nếu luận thêm thì so sánh với Thông giáo có thể tự biết. Căn cứ theo vị của Tạng giáo để so sánh với giai vị của Viên giáo: Giai vị Bổ xứ Tịnh Vô cấu xưng của Tam Tạng giáo chỉ đồng với phẩm thứ năm trong năm phẩm Đệ Tử vi của Viên giáo, còn Phật địa thì đồng với Sơ phát tâm trụ trong Thập trụ, nghóa chánh thì như thế, nếu phụ luận thêm thì lại có hơn kém. Như giai vị Phật của Tam Tạng giáo thì chánh sử đã đoạn trừ, đây là điểm đồng nhau, nhưng chẳng nói thấy Phật tánh đoạn vô minh, đó là điểm kém sút. Như kinh Hoa Nghiêm tán thán Bồ-tát Sơ phát tâm trụ rằng “Vừa phát tâm đã vượt hơn Mâu-ni.” Dùng giai vị Thông giáo để so sánh với giai vị của hai giáo sau: gồm hai: Một là so sánh với Biệt giáo; hai, so sánh với Viên giáo. Một, so sánh với giai vị Biệt giáo: Thông giáo nói giai vị Bổ xứ Tịnh vô cấu, nếu so sánh thì chỉ đồng với Thập hạnh của Biệt giáo, còn quả Phật của Thông giáo chỉ đồng với sơ Hoan hỷ địa trong Thập địa, nghóa chánh thì như thế, nếu luận thêm thì có chỗ kém, tức không nói đến trí tương tựa trung đạo chế phục vô minh. Hai, theo giai vị của Thông giáo để so sánh với Viên giáo: Giai vị Bổ xứ Tịnh vô cấu mà Thông giáo nói, chỉ đồng với nguyện tâm thứ mười trong giai vị Thiết luân Thập tín, còn Phật quả chỉ đồng với Sơ phát tâm trụ. Đó là so sánh tổng quát, nếu chánh thức luận hơn kém thì Sơ phát tâm trụ tức mới phát tâm đã hiển thị pháp thân trung đạo đoạn một phẩm vô minh, đó là hơn. Dùng giai vị Biệt giáo so sánh với Viên giáo: giai vị Pháp thân Pháp vân Nhất sinh bổ xứ Tịnh Vô cấu xưng mà Biệt giáo nói Đảnh trụ thứ mười trong thập trụ của Viên giáo, còn Phật địa đoạn mười một phẩm vô minh chỉ đồng với Sơ Hoan hỷ hạnh trong Thập hạnh của Viên giáo. Nếu căn cứ theo kinh Nhân Vương chia mười địa thành ba mươi sinh thì vị Vô cấu đồng với giai vị pháp giới Vô lượng hồi hướng, còn Phật địa thì đồng với sơ Hoan hỷ địa. Thế thì Nhất sinh bổ xứ của Biệt giáo như so sánh với giai vị của Viên giáo nếu y theo nghóa giải thích trước thì còn ba mươi mốt phẩm vô minh, nếu y theo kinh Nhân Vương dẫn chứng sau thì còn mười một phẩm vô minh. Thế thì pháp thân Bổ xứ của Biệt Viên tuy là chung nhưng căn cứ theo vị thì nghóa Vô cấu xưng lại khác nhau xa, như thế há có thể gom làm một để giải thích danh từ Duy-ma-cật được ư? Hỏi: Xét chỗ chí đạo chỉ là một, nhưng so sánh về Phật quả, Bổ xứ mà ba giáo phương tiện trước đã nói, thì cách biệt nhau rất xa, ý này thật khó hiểu? Đáp: Dùng hai nghóa để giải thích: Một là có giáo có người; hai, có giáo không người. Nếu là ba giáo phương tiện nói trong nhân thọ nhận giáo pháp, tức đồng thời có giáo có người; như Phật quả, Bổ xứ và các Bồ-tát giai vị cao hay thuyết ba giáo, thì đây là có giáo không người. Vì sao? Vì người thọ nhận ba giáo, nhân giáo mà mỗi mỗi đều đạt được lợi ích, nên có giáo có người. Bậc giáo chủ năng thuyết, thị hiện làm Phật của ba giáo, các Bồ-tát thì khiến chúng sinh thích quả mà tu nhân, nhân hạnh đã thành tựu thì không còn Hóa chủ, như thế duyên cảm thì ứng, duyên hết thì dừng, như nắm tay không dối gạt trẻ thơ, dẫn về đến nhà, mới nói trong tay chẳng có vật gì. Hóa chủ của ba giáo cũng như thế. Nếu là có giáo có người của Viên giáo thì trong nhân thọ nhận giáo pháp cho đến Pháp vân đều có giáo có người, đoạn bốn mươi mốt phẩm vô minh, được pháp thân Bổ xứ, đó là thật chẳng phải hư đốn. Pháp thân Diệu giác thuyết mà không thuyết, tức là có giáo có người trên quả. Có giáo không người gọi là quyền, có giáo có người gọi là thật. Hỏi: Thế thì bốn giáo nói về quả có thể phân quyền thật được. Nhưng nhân địa của bốn giáo đều có giáo có người, đâu được phân quyền thật? Đáp: Nay nói người của ba giáo là người quyền, người thọ nhận Viên giáo thì người và giáo đều thật, nên bốn giáo nói về nhân phần quyền thật. Hỏi: Nhân của ba giáo đã lập người quyền, quả của ba giáo, vì sao chẳng được nói là người quyền? Đáp: Người tu hành của ba giáo có thể thành người tu Viên giáo, không có việc Phật của ba giáo tu nhân mà làm Phật của Viên giáo, nên chẳng thể so sánh được. Ba, nói về hưng phế: gồm hai ý: Một là quyền giáo có hưng có phế; hai, Thật giáo có hưng mà không có phế. Nói về quyền giáo có hưng có phế: gồm ba ý: Một là Tam Tạng giáo, khi cơ duyên khởi thì hưng, khi cơ duyên hết thì phế: Cơ nghóa là khai phát, tức duyên đời trước có một ít ưa thích có thể khởi, ít thiện có thể sinh, một ít ác có thể trừ, kiến giải thiện chân có thể khai phát, nên cần dùng bốn Tất-đàn. Trong kinh Thanh Văn-thuyết giáo bốn đế nhân duyên sinh diệt, mười hai nhân duyên, sáu độ, mở đạo ba thừa, người nghe thì hợp cơ, phát khởi tâm ưa muốn mà sinh thiện diệt ác. Nếu là Nhị thừa thì phát chân vô lậu, chứng Niết-bàn hữu dư, nếu là Bồ-tát thì dùng sáu độ điều phục tâm, được phục nhẫn, nhu thuận nhẫn. Cho nên kinh Pháp Hoa ghi: “Hàng trí nhỏ thích pháp nhỏ, chẳng tự tin mình làm Phật, cho nên dùng phương tiện, phân biệt nói các quả vị, là vì hạng cơ duyên này”. Tuy không có các nghóa Tam tạng chế phục kết sử, đạt vị Bồ-tát Bổ xứ Tịnh Vô cấu xưng, đoạn ba mươi bốn tâm đạt Phật quả, trụ hữu dư Niết-bàn, nhưng vì muốn dùng bốn Tất-đàn để phát khởi giáo này, nên thị hiện hình tướng âm thanh của giáo này để ứng cơ độ sinh. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Trưởng giả cỡi bỏ anh lạc, đắp y thô xấu, may vật đựng phân, dánh vẻ sợ sệt nói với các người giúp việc rằng …” Đó là nghóa hưng khởi Tam Tạng giáo. Phế tức sự ham muốn ít đã hết, thiện nhỏ đã thành, việc ác đã trừ, chân kiến giải đã phát, thế thì bốn duyên đã dứt, thì giáo Tam tạng được thuyết và người thuyết đều phế bỏ. Hai, nói về Thông giáo hưng phế: Hưng thì cơ hưng khởi, phế thì cơ phế bỏ; cơ hưng thì giáo hưng, giáo hưng tức sự ưa thích vô sinh Bốn đế phát khởi, pháp thiện thể giả vào không đã sinh, kiến tư mê lý đã đoạn, Kiến giải tức chân đã phát, nên cần phải dùng bốn Tất-đàn để thuyết Bốn đế vô sinh, hàng ba thừa của Thông giáo nghe được thì tâm ưa thích khởi, sinh thiện đoạn ác, ba thừa đồng phát tuệ Vô lậu tức Chân Đệ nhất nghóa, Nhị thừa nghe được thì trụ nơi Niết-bàn hữu dư, Bồ-tát nghe được thì chẳng trệ nơi không, phát tâm Từ bi vào giả để độ sinh, thệ nguyện cầu Phật quả; vì ứng hợp với cơ duyên này; tuy không có Thông giáo đoạn hoặc trừ tập khí, đạt giai vị Bồ-tát Bổ xứ thượng địa, Tịnh Vô cấu xưng, một niệm tương ưng đoạn tập khí đạt Phật quả trụ ở hữu dư Niết-bàn, nhưng vì khởi giáo để ứng hợp với căn duyên ba thừa này mà thị hiện hình mạo và âm thanh của giáo này, dùng bốn Tất-đàn ứng ba duyên tiếp vật, nên gọi là hưng. Phế, tức bốn cơ đã hết, duyên đã lìa thì phế bỏ, Thông giáo được thuyết và người thuyết đều phế. Thứ ba, Biệt giáo hưng phế: Hưng thì cơ hưng giáo hưng, tâm ưa thích vô lượng Bốn đế vừa khởi thiện căn từ không vào giả, phát sinh vô lượng hằng sa phiền não, kiến, tư biệt hoặc đoạn trừ, chân kiến giải Trung đạo Đệ nhất nghóa để khai phát. Nên dùng bốn Tất-đàn thuyết Bốn đế vô lượng, ứng với Bồ-tát Biệt giáo. Người nghe, tâm ưa thích khởi, pháp thiện ngoài ba cõi sinh, pháp ác ngoài ba cõi được đoạn trừ, hiển phát trung đạo tương tự vô lậu và chân vô lậu, cầu Phật quả, đại Niết-bàn thường trụ; vì ứng phó cơ duyên này, tuy không có Biệt giáo đoạn mười phẩm vô minh, đạt giai vị Bồ-tát pháp thân Bổ xứ, đoạn mười một phẩm vô minh đạt Phật quả rốt ráo, nhưng thị hiện thân hình và âm thanh của giáo này, dùng bốn Tất-đàn tùy thuận cơ duyên chúng sinh thuyết Tứ thánh đế vô lượng, nên gọi là Biệt giáo hưng khởi. Phế tức bốn cơ đã dứt, duyên đã lìa thì phế bỏ, Biệt giáo được nói và Bồ-tát Bổ xứ thượng địa, Phật quả thuyết Biệt giáo đều phế bỏ. Nói về Thật giáo có hưng mà không có phế: Tức nói Viên giáo có hưng mà không có phế. Như các kinh Hoa Nghiêm, Phương đẳng, Pháp Hoa, Niết-bàn nói Viên giáo ứng phó cơ duyên Viên đốn, khiến cho ưa thích sinh thiện đoạn ác, thấy Trung đạo Đệ nhất nghóa đế. Thế thì từ Sơ phát tâm đến Vô cấu địa, thường ứng bốn căn duyên thuyết giáo này đến Đẳng giác Phật, nên gọi là hưng. Vì thế ba mươi hai vị Bồ-tát và ngài Văn-thù-sư-lợi đều nói vào pháp môn Bất nhị, tức là ý nghóa hưng giáo này. Nếu lên Diệu giác thì không thấy mà tự ngộ, không có pháp để ưa thích, không có thiện để sinh, không có ác để đoạn, không có lý sâu xa để thấu đạt, tướng ngôn từ vắng lặng, vốn tự chẳng có hưng khởi, nên chẳng phế bỏ. Không phế cũng được luận là phế, là vì cơ duyên bốn Tất-đàn đã hết thì giáo cũng tận, nên gọi là phế. Kinh Đại phẩm nói: “Vượt qua chữ Trà, thì không còn văn tự để thuyết.” Kinh Niết-bàn ghi: “Bất sinh, bất sinh bất khả thuyết”; cho nên Tịnh Danh im lặng không nói, chẳng dùng lời mà nói lý không lời, ngài Văn-thù tán thán sự biểu hiện bặt lời. Thế thì nơi nhân thì có người có giáo, đến quả thì phế giáo giữ người, ba đức Niết-bàn lắng trong, thanh tịnh, há đồng với Bồ-tát Bổ xứ, Phật quả Bồ-đề có giáo không người của ba giáo trước ư? Giáo đã phế thì người cũng tùy theo đó mà phế, ý nghóa về quyền thật hiển rõ tại nơi đây. Căn cứ theo quán tâm để nói về bốn giáo: Thứ ba quán khởi bốn giáo như đã giải thích ở trước, nay chỉ luận nơi tâm hành mà biết tất cả các giáo môn đều từ quán hạnh của Sơ tâm mà khởi, bốn giáo đã gom nhiếp tất cả các kinh luận. Nếu một niệm quán tâm rõ ràng, hay phân biệt được. Một niệm tâm do vô minh nhân duyên sinh ra đầy đủ bốn pháp, thì đại ý của tất cả kinh giáo đều căn cứ theo quán tâm mà thông đạt. Y theo đây có thể phân làm bốn ý: Căn cứ theo quán tâm để nói về tướng của Tam Tạng giáo. Căn cứ theo quán tâm để nói về tướng của Thông giáo. Căn cứ theo quán tâm để nói về tướng của Biệt giáo. Căn cứ theo quán tâm để nói về tướng của Viên giáo. Căn cứ theo quán tâm để nói về tướng của Tam Tạng giáo: Tức là quán một niệm tâm do nhân duyên sinh ra là sinh diệt mà phân tích giả để vào không, căn cứ theo quán môn này mà phát khởi Tam Tạng giáo. Nếu quán Bốn đế sinh diệt mà vào đạo tức là tạng Tu-đa-la, cho nên Tăng nhất A-hàm ghi: “Đức Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: Tất cả pháp chỉ là một pháp, thế nào là một pháp? Tâm là một pháp, lìa tâm thì không có tất cả pháp.” Luận Trí Độ ghi: “Từ kinh Sơ Chuyển Pháp Luân đến Đại Niết-bàn là kết tập tạng Tu-đa-la”, đây là căn cứ theo tâm sinh diệt để nói về bốn Thánh đế, đó là nghóa của pháp quy, pháp bản. Quán tâm phát xuất tất cả tạng Tỳ-ni, khi Đức Phật chế giới, ngài hỏi các Tỳ-kheo rằng: “Tâm ông thế nào để tạo tác? Nếu có tâm tạo tác tức là phạm giới, vì có phạm nên có giữ, nếu không tâm mà tạo tác tức không là phạm, nghóa phạm chẳng thành, nên chẳng nói đến giữ gìn.” Cho nên tâm nặng thì phát giới, không tâm thì không phát giới. Nói từ tâm lưu xuất A-tỳ-đàm tạng, bốn quyển lược thuyết gọi là Tỳ-đàm tâm, Đạt-ma-ba-la thì xử trung mà thuyết nên gọi là Tạp tâm, như thế đều căn cứ theo tâm mà luận về Tỳ-đàm. Vô tỷ pháp, tức phân biệt tâm và tâm sở pháp, tất cả pháp chẳng thể so sánh tỷ dụ. Căn cứ theo quán tâm để nói về Thông giáo: Quán tâm nhân duyên sinh ra tất cả pháp, tâm không thì tất cả pháp không, đó là Thể giả mà vào không, tất cả những hành vị, nhân quả mà Thông giáo nói đều từ đây sinh khởi. Căn cứ theo quán tâm để nói về Biệt giáo: Quán tâm nhân duyên sinh tức giả danh đầy đủ hằng sa công Đức Phật pháp, y cứ vào thức A-lê-da vô minh mà phân biệt vô lượng Thánh đế. Tất cả hành vị, nhân quả mà Biệt giáo đã nói đều phát khởi từ đây. Căn cứ theo quán tâm để nói về Viên giáo: Quán tâm nhân duyên sinh đầy đủ tất cả lý pháp Thập pháp giới, Trung đạo Nhị đế bất tư nghị chẳng dọc, chẳng ngang không tích tụ. Tất cả pháp hành vị, nhân quả mà Viên giáo đã nói đều phát khởi từ nơi đây, như hạt châu trên đảnh của luân vương. Thế thì bốn giáo đều từ một niệm tâm vô minh sinh khởi. Trên đến đây đã vài lần dẫn chứng nghóa “Đập nát vi trần xuất hiện tam thiên đại thiên thế giới quyển kinh”, ý ở tại nơi đây. Dùng bốn giáo để giải thích kinh luận: Đức Phật dùng bốn giáo để thành lập tất cả các kinh đốn tiệm, vậy các luận dùng để giải thích kinh há lại vượt qua bốn giáo ư? Gồm hai ý là đối với kinh và đối với luận. Đối với kinh: Như kinh Hoa Nghiêm chỉ dùng hai giáo để thành lập, là Biệt giáo và Viên giáo. Vì sao? Về Biệt giáo thì các Bồ-tát nói trải qua nhiều kiếp tu hành bốn mươi hai tâm, đoạn trừ kết sử, tất cả hành vị đều sai biệt. Còn Viên giáo thì nói trong một tâm đầy đủ tất cả hạnh, từ Sơ địa đã đầy đủ công đức của các Địa. Kế đến nói Tiệm giáo: Đầu tiên kinh Thanh văn chỉ nói giáo Tam tạng; còn Đại thừa Phương đẳng và kinh này thì nói đủ bốn giáo; Ma-ha Bát-nhã nói ba giáo trừ Tam Tạng giáo, kinh Pháp Hoa nói khai quyền hiển thật, bỏ phương tiện chỉ nói một Viên giáo. Kinh Niết-bàn nói đủ bốn giáo, thành lập nghóa năm vị. Hỏi: Đại thừa Phương đẳng cũng đầy đủ bốn giáo vì sao chẳng thành lập nghóa năm vị? Đáp: Vì chẳng nói Thanh văn làm Phật nên nghóa năm vị chẳng thành, chỉ căn cứ theo bất định mà luận bốn giáo. Vậy tất cả những kinh giáo mà Đức Thích-ca xuất thế tuyên thuyết không ra ngoài bốn giáo này, bốn giáo thâu nhiếp hết thảy các kinh. Đối với luận: luận có hai loại: Một là, luận giải thích chung các kinh; hai, luận giải thích riêng kinh. Nói về luận giải thích chung các kinh: gồm hai ý: Một là, giải thích chung kinh Tiểu thừa; hai, giải thích chung kinh Đại thừa. Một, giải thích chung kinh Tiểu thừa: như các luận Tỳ-đàm, Thành Thật, Côn Lặc… đều là các bộ luận giải thích chung các kinh Tiểu thừa. Nên luận Thành Thật ghi: “Ta hôm nay chủ yếu là muốn luận về thật nghóa trong Tam tạng.” Hai, nói về luận giải thích chung các kinh Đại thừa như các bộ luận Địa Trì, Nhiếp Đại thừa, Duy Thức, Trung Luận, Thập Nhị Môn… đều là các bộ luận giải thích chung về bốn giáo Thông, Biệt, Viên, và Tạng mà các kinh Đại thừa đã nói. Luận giải thích riêng các bộ kinh: gồm hai ý: Một là giải thích riêng kinh Tiểu thừa; hai, giải thích riêng kinh Đại thừa. Một, giải thích riêng kinh Tiểu thừa: Như luận Câu-xá giải thích riêng về Tu-đa-la; luận Minh Liễu giải thích riêng về Tỳ-ni; luận Tỳ-bà-sa, các A-tỳ-đàm Tâm giải thích về việc Phật tại thế thuyết Tỳ-đàm. Hai, giải thích riêng kinh Đại thừa: như luận Thập địa giải thích riêng về hai giáo Biệt Viên trong kinh Hoa Nghiêm, luận Đại Trí Độ giải thích ba giáo Thông Biệt Viên trong kinh Ma-ha Bát-nhã. Lẽ ra cũng có các bộ luận giải thích riêng kinh Đại Tập Phương đẳng và kinh Duy ma, nhưng chưa đến được cõi này; luận Kim Cang Bát-nhã giải thích riêng kinh Kim Cang Bát- nhã, luận Pháp Hoa giải thích riêng về một Viên giáo trong kinh Pháp Hoa, luận Niết-bàn giải thích riêng về bốn giáo năm vị trong kinh Niết- bàn, tính kể ở đây chẳng thể hết. Các luận giải thích kinh như thế, tức giải thích rõ ràng các kinh nói về quán tâm. Thế thì chuyên tu quán tâm sẽ thông suốt được các kinh luận. Nếu kinh luận chẳng từ tâm lưu xuất thì người tu quán hạnh đã chẳng nghe chẳng đọc, thế thì nội tâm làm sao thông đạt? Nói: “phàm có ngôn thuyết thì tương ưng với kinh luận” ý tại nơi đây. Dùng bốn giáo để giải thích văn kinh này: gồm ba ý: Một là, giải thích bốn phẩm nói bên ngoài trượng thất; hai, giải thích sáu phẩm nói bên trong trượng thất; ba, giải thích bốn phẩm nói khi ra khỏi trượng thất. Giải thích bốn phẩm nói bên ngoài trượng thất: Tứ giáo nói về nhân quả chẳng đồng, nên Đức Thích-ca hiện cõi Phật có khác, cũng như chỗ thấy của ngài Thân tử và Phạm vương Loa Kế chẳng đồng. Chư Thiên đồng có một loại bát báu đựng cơm, nhưng tùy quả báo mà màu cơm có khác. Chính vì người thọ nhận bốn giáo khác nhau, nên thấy cõi Phật có khác. Giải thích phẩm Phương tiện chính là dùng Tam tạng và Thông giáo. Vì sao? Vì nói về nhân duyên sinh diệt vô thường, tích pháp nhập không, lại nói về ý như mộng như huyễn, Thể giả nhập không. Thế thì trong nhân dùng chuyết độ và xảo độ để phá tâm ái kiến trong ba cõi, khuyên tu pháp thân của hai giáo. Phẩm Đệ tử thì dùng Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo để quở trách mười Đại đệ tử và năm trăm La-hán. Dùng Thông giáo để quở trách: như quở trách Ca-chiên-diên thuyết năm nghóa chuyết độ của Tam Tạng giáo, dùng Biệt giáo để quở trách, như quở trách Phú-lâu-na đặt thức ăn dở vào bát báu, dùng Viên giáo để quở trách, như quở trách Thân tử và Thiện Cát rằng: “Chẳng khởi diệt định mà hiện oai nghi, chẳng đoạn si ái mà khởi minh thoát”, “Cũng chẳng trói buộc, chẳng giải thoát”, đều là dùng ý của Viên giáo để quở trách. Bốn giáo giải thích phẩm Bồ-tát, chính là dùng Viên giáo để quở trách bốn vị Đại Bồ- tát, dùng ba giáo là Tạng, Thông, Biệt để tự hành và hóa tha hạn hẹp trái với đạo viên đốn Bất tư nghị. Dùng bốn giáo để giải thích kinh văn của sáu phẩm nói trong thất: Đại só không có bệnh ba giáo mà dùng phương tiện hiện đồng ba bệnh. Căn cứ vào đây để luận về phẩm Vấn tật. Phẩm Bất tư nghị chính là nói về việc trụ nơi quả Viên giáo bất tư nghị mà thị hiện bốn giáo. Phẩm quán chúng sinh là luận từ giả vào không, bất khả đắc không của hai giáo Thông và Viên bất tư nghị. Phẩm Phật đạo luận về từ không vào giả tức hành Phi đạo tức thông đạt Phật đạo của hai giáo Biệt, Viên bất tư nghị. Phẩm Bất Nhị Pháp Môn, là nói về chánh quán trung đạo vào pháp môn bất nhị của Viên giáo bất tư nghị. Phẩm Hương Tích là nói về song chiếu Nhị đế, pháp giới viên dung mà Viên giáo bất tư nghị đã nói. Dùng bốn giáo để giải thích bốn phẩm nói khi rời khỏi thất: phẩm Bồ-tát Hạnh khiến các Bồ-tát nên thực hành cả bốn giáo, dùng bốn giáo hóa độ chúng sinh. Bốn giáo giải thích phẩm Thấy Phật A súc: Nếu nương vào bốn giáo tu hành, phát tâm Bồ-đề mới được sinh vào cõi Phật A-súc; cũng nhân nơi nghóa này, nếu hành hạnh Phật quốc của Đức Vô Lượng Như Lai, thì khi thành Phật thế có cõi Phật giống như cõi Diệu hỷ. Bốn giáo giải thích phẩm Pháp Cúng Dường và phẩm Chúc Lụy: Phó chúc cho Thiên đế và ngài Di-lặc lưu truyền kinh này sau khi Như Lai diệt độ, tức dùng bốn giáo làm lợi ích cho các đệ tử đời sau, khiến cho chẳng đoạn tuyệt. <詞>4. LUẬN VỀ BẢN TÍCH : Đã dùng bốn giáo phân biệt nghóa Tịnh Vô cấu xưng, nghóa tuy chẳng đồng, mà chánh thức là dùng Viên giáo để giải thích. Phàm bậc Thánh ứng hóa, chẳng phải không có bản tích khác nhau, hoặc hiện pháp thân Kim túc, hoặc hiện hình Bổ xứ, kinh nói rằng tùy duyên mà hiện, cao thấp khó lường. Vì thế nay cần luận đến bản tích. Nói về ng- hóa này, trước lược nêu bảy lớp: Giải thích danh. Nói về bản tích. Luận về cao thấp của bản tích. Căn cứ vào giáo để phân biệt bản tích. Chánh thức nói về bản tích của ngài Duy-ma. Căn cứ quán tâm để phân biệt bản tích. Dùng bản tích giải thích văn kinh này. Giải thích danh từ Bản và Tích: Nếu nói chung thì từ bản tích có khắp ở bốn giáo, nhưng nay chánh là luận bản tích Bất tư nghị, là căn cứ theo Viên giáo mà luận. Nói bản tích, bản tức là lý sở y, tích là sự năng y, sự lý hợp chung nên gọi là bản tích. Ví như người nương vào trụ xứ thì có tung tích đến đi, vậy trụ xứ là sở y, người có dấu tích qua lại là năng y. Do nơi trụ xứ mà có tung tích, tìm tung tích thì biết trụ xứ. Nay trụ xứ dụ cho lý bản sở y, người nương vào đó có dấu tích qua lại dụ cho sự tích năng y. Thế thì do lý bản sở y mà có sự tích năng y; tìm sự tích năng y thì được lý bản sở y. bản tích tuy khác nhưng Bất tư nghị chỉ là một. Nói về nghóa bản tích Bất tư nghị: gồm năm ý: Căn cứ lý sự để nói về bản tích. Căn cứ theo lý giáo để nói về bản tích. Căn cứ lý hạnh để nói về bản tích. Căn cứ thể dụng để nói về bản tích. Căn cứ quyền thật để nói về bản tích. Căn cứ lý sự để nói về bản tích: Kinh này nói rằng “Từ gốc vô trụ lập tất cả pháp” nay nói lý sự Bất tư nghị là bản tích, lý tức lý chân đế bất tư nghị, là Bản; sự tức sự tục đế bất tư nghị là Tích. Do nơi lý bản chân đế bất tư nghị, nên có sự tích tục đế bất tư nghị. Tìm nơi sự tục đế bất tư nghị mà được lý bản chân đế bất tư nghị. Thế thì bản tích tuy khác mà bất tư nghị chỉ là một. Căn cứ lý giáo để nói về bản tích: Kinh này nói rằng “Ba lần chuyển Pháp luân nơi đại thiên, luận ấy xưa nay thường thanh tịnh”. Nay nói lý bản Bất tư nghị, tức gọi chung lý sự Nhị đế Bất tư nghị là lý, lý tức bản; giáo tích Bất tư nghị, tức giáo tích Nhị đế năng thuyên bất tư nghị được bậc Đại thánh dùng tám âm diễn bày. Lý Nhị đế Bất tư nghị sở thuyên là lý bản, giáo năng thuyên là sự tích. Thế thì do lý bản nên có giáo tích, tìm giáo tích thì được lý bản. bản tích tuy khác mà Bất tư nghị chỉ là một. Căn cứ lý hạnh để nói về bản tích: Như kinh Pháp Hoa ghi: “Các pháp từ xưa nay, tướng thường tự vắng lặng, Phật tử hành đạo rồi, vị lai sẽ làm Phật”; nay nói về lý bản Bất tư nghị tức là lý giáo. Nên kinh này nói: “Không lìa văn tự mà nói tướng giải thoát, vì tánh của văn tự tức giải thoát.” Bất tư nghị hạnh tích tức sự tích của quán hạnh Bất tư nghị. Do lý bản của lý giáo bất tư nghị mà đuợc tu sự tích quán hạnh Bất tư nghị, tu sự tích quán hạnh Bất tư nghị mà khế hợp với lý bản Bất tư nghị. Cho nên bản tích tuy khác mà Bất tư nghị chỉ là một. Căn cứ thể dụng để nói về bản tích: Pháp thân là Thể, Ứng thân là Dụng, cho nên kinh Kim Quang Minh nói: “Chân pháp thân của Phật như hư không, nhưng vì ứng theo chúng sinh mà hiện hình, giống như bóng trăng dưới nước. Chính là từ bản thể mặt trăng thật nơi hư không mà có ảnh dụng tất cả bóng trăng dưới nước. Nay nói lý hạnh hợp làm lý bản pháp thân Bất tư nghị, do pháp thân này mà hiện Tích dụng Bất tư nghị, do nơi dụng Ứng hóa này mà hiển được pháp thân. Ngài Tăng Triệu nói: “Không có Bản thì chẳng biết lấy gì để thùy tích, không có tích thì chẳng biết lấy gì để hiện bản, bản tích tuy khác mà Bất tư nghị chỉ là một”, tức là nghóa này. Căn cứ theo quyền thật để nói về bản tích: Thật thì đồng giai vị, chứng đắc hai thân Chân ứng, quyền thì quyền hóa phương tiện, hiện hai thân chân,ửng, hoặc như có cao thấp thì đó là sự, tùy thuận chúng sinh nên gọi là sự tích. Nên kinh này ghi: “Tuy lại thị hiện thành đạo chuyển pháp luân nhưng chẳng xả bỏ hạnh Bồ-tát.” Nay nói nếu chẳng do vị bất tư nghị chứng hai thân chân ứng thì bản lý thật đâu có thể thị hiện hai tích chân ứng cao thấp? Nếu chẳng thị hiện sự tích chân ứng thì đâu thể khiến chúng sinh đồng như ta nhập vào vị, chứng đắc hai thân chân ứng. Thế thì bản tích tuy khác mà bất tư nghị chỉ là một. Luận về cao thấp của bản tích: Nay chính là căn cứ theo Viên giáo để luận. Nếu dùng lý sự để nói về bản tích tức là lý tức; nếu căn cứ lý giáo để nói về bản tích tức là Danh tự tức; nếu căn cứ lý hạnh để nói về bản tích tức là quán hạnh tức, Tương tự tức; nay lại căn cứ thể dụng, quyền thật để nói về bản tích, nên có bốn câu để phân biệt, đó là: Một là, bản tích đều thấp; hai, bản thấp tích cao; ba, bản cao tích thấp; bốn, bản tích đều cao. Nay nói bốn nghóa này lại có bốn loại: Một là, về Thập tín, chẳng được dùng bốn câu này để nói về cao thấp; hai, về Thập trụ thì sơ phát tâm trụ có đủ hai câu; ba, từ trụ địa thứ hai cho đến vị bốn mươi mốt là Đẳng giác địa đều có đủ bốn câu; bốn, Diệu giác địa chỉ dùng hai câu phân biệt. Nói về Thập tín chẳng dùng bốn câu: Vì Thập tín chỉ mới được tương tự giải, chưa phát chân vô lậu, hiển bày hai thân chân ứng, nên chẳng được dùng bốn câu để phán định cao thấp. Sơ tâm của sơ phát tâm trụ của Thập trụ chỉ được dùng hai câu phân biệt: Sơ trụ chỉ có hai câu là bản tích đều thấp, Bản thấp tích cao. Vì sao? Vì Sơ trụ là vị đầu tiên được hai thân Chân ứng, vì Bản pháp thân, trước đó chưa có pháp thân thấp, cho nên vị bằng nhau mà không được nói pháp thân có cao. Như mặt trăng ngày mồng một của mười lăm ngày trăng, trước đó chưa có mặt trăng nào để nói là hơn, cũng như vị Khổ nhẫn chân khai phát trong pháp Thanh văn, trước đó không có pháp chân nào hơn. Tích thấp, hiện tích ở chín cõi lại hiện ứng sở Sơ trụ, vì tích mới được nên thấp nhất, trước đó không có Ưng nào là cao. Nói Bản thấp tích cao, hay tích hiện hình tượng và âm thanh ở cõi cao, mà chẳng được nói bản cao tích thấp là vì trước đó không có bản nào cao cũng không được nói bản tích đều cao là vì trước đó không có chân ứng nào cao hơn. Từ Trị địa trụ đến Đẳng giác gồm bốn mươi mốt giai vị đều được dùng bốn câu phân biệt: Theo nghóa mà suy có thể tự biết. Cửu địa Diệu giác chỉ dùng hai câu phân biệt: Một là, bản tích đều cao, tức chân ứng cùng tột, không gì cho hơn được nữa; hai, bản cao tích thấp, bản cao tức chân thân cùng tột tối thượng, không gì cao hơn; Tích thấp tức ứng hình tượng đồng với bốn mươi mốt địa dưới, lại cũng thị hiện thân hình và âm thanh đồng với chín cõi, nhưng chẳng được nói Bản thấp tích cao, vì đó là bản pháp thân Diệu giác, lại không có pháp thấp Thắng địa gọi là thấp hơn, cũng không thể nói bản tích đều thấp là vì, không có hai thân chân ứng của Địa trên là cao hơn. Giống như ánh trăng rằm thật tròn đầy trong sáng, quá ngày này thì không có ánh trăng nào hơn. Hỏi: Nếu thứ bậc bản tích của bốn mươi hai vị như thế, vì sao được gọi là “Bất tư nghị là một”? Đáp: Vì đều là hai thân chân ứng Bất tư nghị chẳng chân chẳng ứng, là thứ bậc Bất tư nghị chẳng phải thứ bậc. Căn cứ theo giáo để phân biệt bản tích: gồm bốn ý: Một là căn cứ Viên giáo để phân biệt bản tích; hai, căn cứ Biệt giáo để phân biệt bản tích; ba, căn cứ Thông giáo để phân biệt bản tích; bốn, căn cứ Tạng giáo để phân biệt bản tích. Căn cứ Viên giáo để phân biệt bản tích: Như phần giải thích danh, luận năm nghóa của bản tích và luận bốn câu phân biệt cao thấp đã nói ở trước. Căn cứ Biệt giáo: cũng được dùng bốn loại bản tích; so sánh với Viên giáo cũng có thể biết, nhưng không được dùng hoàn toàn như thế, vì ba mươi tâm trước mười địa chưa được pháp thân nên không có bản tích. Chỉ từ Sơ địa dùng hai câu luận bản tích so sánh với Sơ trụ của Viên giáo đã nói ở trước có thể tự biết. Từ địa thứ hai đến Đẳng giác đều dùng đủ bốn câu để phân biệt, dùng nghóa mà suy cũng có thể biết. Cực địa Diệu giác cũng chỉ dùng hai câu, so sánh với Diệu giác của Viên giáo để biết. Đó đều là có giáo có người, đều là quyền tích của Viên giáo. Căn cứ Thông giáo luận bản tích: Thông giáo có bốn loại bản tích, nhưng chẳng luận đến Trung đạo Phật tánh, hai thân chân ứng, thì đâu có bản tích để có thể phân biệt, chỉ lại căn cứ theo nghóa Thông giáo để giải thích. Thấy thiên chân, đầy đủ năm phần pháp thân là Bản, thần thông biến hóa là Tích. Nếu vào vô dư Niết-bàn thân trí đều diệt thì tích và bản đều không có. Các Bồ-tát từ địa thứ bảy trở xuống của Thông giáo đều thuộc phương tiện đạo, địa thứ tám trở lên Đạo quán đều tu, thì đâu chẳng biết lý Phật tánh Trung đạo, nhưng vì y cứ theo sự giới hạn của giáo môn, nên không nói đến Chân ứng. Ở đây e rằng phần nhiều thuộc về có giáo không người, đều là quyền tích của Viên giáo. Nếu dùng Biệt tiếp Thông để nói về Phật tánh, thường trụ Niết-bàn thì bốn câu bản tích của hai thân chân ứng có thể so sánh với sự phân biệt giải thích ở trước để biết. Căn cứ Tam Tạng giáo để luận bản tích: Ở đây cũng dùng bốn loại bản tích, nhưng theo ý cũng không được nói đến bản tích của Chân và Ứng. Giống như người sinh tử, khi đến quả địa tâm thứ ba mươi bốn, đoạn kết sử được thành Phật cũng dùng năm phần pháp thân làm Bản, thần thông biến hóa làm tích. Nếu nhập vô dư Niết-bàn, thì bản tích đều diệt. Nay lại y cứ theo nhân của giáo Tam tạng mà nói về bản tích, như ba a-tăng-kỳ kiếp thuần thục chế phục các hoặc trụ ở giai vị Noãn, Đảnh, Nhẫn, lấy đó làm Bản, được thần thông biến hóa làm lợi ích sáu đường như trời người… là tích, các giai vị dưới thì đâu có việc này. Cũng e rằng có giáo không người thì đều là quyền tích của Viên giáo. Hỏi: Tất cả Thánh phàm đều được nói về bản tích chăng? Đáp: Nghóa của bản tích chính là phải căn cứ theo Chân ứng, các giáo khác đã chẳng nói đến việc phá vô minh, còn không có nghóa này, hà huống gì là phàm phu? Nhưng luận chung thì ba mươi tâm của Biệt giáo và Bồ-tát Thông giáo đã được nói đến bản tích, thì Nhị thừa cũng được nói đến bản tích; Bồ-tát Tạng giáo chỉ mới chế phục mà chưa đoạn hoặc còn được luận đến bản tích. Vì thế trên từ pháp Khổ nhẫn Thế đệ nhất trở xuống, dưới từ A-tỳ trở lên, hai cõi trên dưới chỉ được dùng hai câu bản tích, thiếu hai câu, trong đó nêu bốn câu luận về bản tích, theo nghóa mà suy có thể biết được. Chánh thức luận về bản tích của ngài Tịnh Danh: Xưa nói bản là Kim Túc Như Lai, Tích là làm Bồ-tát Bổ xứ của Phật Vô Động trụ ở cõi Diệu hỷ. Hoặc cho rằng Bản là địa thứ tám, Tích là hiện làm Trưởng giả sống ở Tỳ-da. Nếu chấp ý này mà nhất định phán lập bản tích thì Kim Túc là Phật ở giai vị nào? Bổ xứ ở cõi Diệu hỷ là giai vị nào? Nếu Bổ xứ thật là Kim Túc Diệu giác thì Tích là Bổ xứ ở cõi Diệu hỷ. Đây là bản cao tích thấp. Nếu bản là Kim Túc của Sơ trụ hiện làm Bổ xứ Thập địa, thì đây là bản thấp tích cao. Nếu là pháp thân Kim Túc vị Diệu giác lại ứng làm Kim Túc Diệu giác, thì đó là bản tích đều cao. Nếu là Kim Túc của Sơ trụ, ứng hiện làm Bổ xứ của Tam Tạng giáo, thì đó là bản tích đều thấp. Vậy đâu có thể nhất định phán giai vị là hơn hay kém, cao hay thấp được? Bậc Đại thánh ứng hóa thật vô cùng, thì phàm phu đâu thể dò được mà định là sâu hay cạn? Phàm phu còn chẳng tự biết hạnh nghiệp quả báo của mình, huống gì biết được bản tích? Cũng như không có mắt mà chỉ cho mặt trăng rồi định là vuông tròn. Nay chỉ cần phải tin bản tích tuy khác, mà Bất tư nghị chỉ là một. Nhưng Bồ-tát Văn-thù là vị thị giả hầu bên trái Đức Thích-ca, có hành vị cao nhất ở cõi này, mà còn suy công đức để tán thán, thì về giáo tích ắt chẳng nên luận ở địa thứ tám. Căn cứ theo quán tâm để luận về bản tích: Như người học Trung đạo viên quán, quán nguồn tâm, khi Đạo và quán đã thuần thục thì trong Tích cũng hiện mà không chướng ngại, đạt được viên thuyết, viên hạnh, sự lý tương ưng. Đó là bản tích đều cao. Nếu trong tâm học Viên giáo mà thị hiện thiên tà thì đó là Bản cao tích thấp; nếu trong tâm thật chẳng học Viên quán mà lại hiện tướng Vô ngại, thì đó là Bản thấp tích cao. Nếu bản tâm chỉ du nhập không mà tích hiện tướng phá giả, thì đó là bản tích đều thấp. Tức là dùng nghóa này và căn cứ vào Phật pháp, học vấn, tọa thiền, tâm hành cao thấp của hàng giả, tự hành hóa tha, được mất v.v… mà lập bốn câu phân biệt: Một là, bản tích đều cao là người thật tu; hai, Bản cao tích thấp là người mật tu; ba, Bản thấp tích cao là người cống cao, trừ những người vì Phật pháp làm lợi ích chúng sinh; bốn, bản tích đều thấp cũng là người thật tu. Giải thích kinh: bản tích của ngài Tịnh danh đã Bất tư nghị, nên có thể dùng lời của Viên trí để phá đạo thiên không, dùng biện tài vô phương để khuất phục tâm hạn lượng, đó đều là hiển thị Sự bản tích. Nay nói về việc dùng bản tích để giải thích kinh này, thì gồm ba ý: Một là giải thích việc ở bên ngoài thất; hai, giải thích việc bên trong thất; ba, giải thích việc rời khỏi thất. Giải thích việc bên ngoài thất: Bên ngoài thất hiện thân Trưởng giả, nhờ vào bốn giáo để hiển thị bản tích, hoặc dùng bản tích của Ta- ïng, Thông để nhập không mà khai hóa các vị vua và Trưởng giả; hoặc dùng bản tích của Thông, Biệt, Viên để bẻ gãy luận nghị của mười đệ tử lớn và năm trăm La-hán; hoặc chỉ dùng Viên giáo để hiển bản mà quở trách các Bồ-tát thọ học ba giáo kia. Giải thích việc bên trong trượng thất: Trong trượng thất cư só dựa vào bệnh để phát khởi giáo, thị hiện bệnh hạnh đồng như bệnh thật của tất cả chúng sinh. Bệnh của chúng sinh tuy có rất nhiều loại, nhưng ý chánh không ra ngoài bốn loại. Nay dùng bốn loại Tích bệnh hạnh đồng với bốn loại bệnh thật, tức hiện tích của bệnh hạnh là phẩm Vấn Tật; năm phẩm kế sau đều từ phẩm này khai triển ra. Nếu hiểu được phẩm Vấn Tật thì năm phẩm sau đều có thể tự hiểu. Giải thích việc rời khỏi trượng thất: Dùng bàn tay đưa đại chúng đến Am-la là thị hiện tướng lành bệnh, vì nhân bốn loại bệnh của chúng sinh đã diệt, nên căn bệnh quyền tích của ngài Tịnh danh cũng lành. Thế thì kinh này từ đầu đến cuối đều dùng nghóa bản tích để giải thích, huyền nghóa và ý văn, có thể tự thấy được. Giải thích về giáo được thuyết: Ngài Tịnh Danh là người thuyết, pháp giải thoát chẳng thể nghó bàn là giáo được thuyết, nên nói là sở thuyết. Có người nói ngài Tịnh Danh thuyết pháp của Phật mà chẳng phải thuyết pháp của mình, nếu thuyết pháp của mình thì đối kháng đạo pháp với Phật. Nay giải thích rằng, ngài Tịnh Danh chỉ thuyết về pháp tánh tịnh, vô cấu tịnh và phương tiện tịnh mà tự thân đã chứng đắc. Pháp này tuy chẳng thể thuyết, nhưng đã dùng bốn Tất-đàn ứng duyên mà thuyết; Đức Phật đối với pháp chẳng thể nêu bày cũng dùng bốn Tất-đàn ứng duyên mà thuyết pháp ba tịnh này, ngài Tịnh Danh tùy thuận theo Phật chuyển pháp luân cùng nói pháp ba tịnh này. Ngài Tịnh Danh thuyết pháp ba tịnh tức là thuyết pháp ba tịnh của Phật. Cho nên kinh này nói: “Quán thật tướng của thân, quán Phật cũng như thế.” Lại ngài Tịnh Danh thuyết pháp của mình, chẳng phải chỉ thuyết pháp của Phật, mà còn thuyết các pháp của tất cả chúng sinh. Nên văn sau ghi: “Chúng sinh, Hiền thánh, Di-lặc, tất cả pháp chỉ là một như, không có hai như.” Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Tâm Phật, chúng sinh không sai biệt.” Nay chỉ thuyết pháp của ngài Tịnh Danh, ví như năm trăm Tỳ-kheo mỗi mỗi đều thuyết nhân của thân, như thiện tài vào pháp giới gặp Thiện tri thức, mỗi mỗi đều nói pháp môn chẳng đắc một mình, trong kinh Hoa Nghiêm ngài Tịnh Danh nói pháp môn của mình tức là thuyết pháp của Phật, tức thuyết pháp của chúng sinh. Hỏi: Ngài Tịnh Danh thuyết pháp của mình, sao được gọi là kinh? Đáp: Như luận Đại Trí ghi: “Như Đệ tử Phật, Hóa nhân, chư Thiên, Tiên nhân thuyết pháp mà được Phật ấn chứng, đều được gọi là kinh. Kinh này Đức Phật khai thị cho bản tích, luận về nhân quả cõi Phật, bảo các đệ tử thuật lại những lời quở trách của Đại só khi xưa, Phật im lặng ấn khả. Vả lại vào trượng thất luận đạo, bàn tay đưa đại chúng trở về Am-la, đều được Phật ấn chứng cho nên được gọi là kinh.  DUY-MA HUYỀN SỚ <卷>QUYỂN 5 GIẢI TH1ICH TÊN CHUNG: 1.Giải thích chữ kinh. Nếu căn cứ theo tiếng Phạm, trước lời Phật dạy thông thường có ghi từ Tu-đa-la, hoặc Tu-đơn-la, hoặc Tu-đố-lộ, giống như phương ngôn Sở, Hạ ở cõi này. Tu-đa-la đã là từ nước ngoài, nên xưa nay các Sư giải thích khác nhau, hoặc nói là không nên phiên dịch, hoặc cho là có phiên dịch. Nay giải nghóa lược nêu lên năm ý: Không phiên dịch Có phiên dịch Dung hòa có phiên và không phiên Theo các pháp để giải thích Căn cứ quán tâm. Không nên phiên dịch: Tiếng Phạm có những từ bao hàm rất nhiều nghóa, như từ Tu-đa- la bao hàm năm nghóa, thì đâu thể dùng chữ kinh để phiên dịch. Nên Pháp sư Khai Thiện nói: “Kinh chẳng phải là từ dịch chánh, nhưng dùng từ kinh để thay thế cho Tu-đa-la, như ở phương này lời dạy của Chu, Khổng gọi là kinh, thì Thánh giáo của Ấn Độ, cõi này cũng nên dùng chữ kinh để thay thế.” Nói Tu-đa-la gồm năm nghóa là pháp bản, vi phát, dũng tuyền, thằng mặc, kết man (kết vòng hoa). Tu-đa-la có nghóa là Pháp bản: Bậc Đại Thánh biết tất cả pháp đều chẳng thể thuyết, nhưng dùng bốn Tất-đàn nhân duyên mà có ngôn giáo. Nếu dùng thế giới Tất-đàn thuyết tức là nhất thiết luận bản. Nếu dùng vị nhân và đối trị Tất-đàn để thuyết tức là hạnh bản, nếu dùng Đệ nhất nghóa Tất-đàn thuyết tức là lý bản, nên Tu-đa-la bao hàm nghóa Pháp bản. Tu-đa-la hàm nghóa vi phát: Đấng Pháp vương dùng bốn Tất- đàn để khởi giáo, với ngôn từ kì diệu khéo léo, các pháp từ nhỏ nhiệm đến rõ ràng, không gì chẳng được trình bày. Thế thì văn nghóa dần dần hiển lộ, khai phát hàng sơ tâm; sơ thiện, trung thiện, và hậu thiện đều tròn đủ. Nên Tu-đa-la hàm nghóa vi phát. Tu-đa-la hàm nghóa Dũng tuyền: Ở đây từ thí dụ để giải nghóa, như dòng suối phun trào, chảy mãi không khô cạn, Đức Phật dùng bốn Tất-đàn thuyết pháp, văn nghóa không cùng tận, dòng nước pháp chẳng bao giờ dứt, nhuần thấm mầm chồi, ba loại cỏ, hai loại cây sinh ra từ mặt đất đều được tăng trưởng, nên Tu-đa-la hàm nghóa Dũng tuyền. Tu-đa-la hàm nghóa Thằng mặc: Cũng dùng dụ để giải thích nghóa, như pháp tắc thế gian hay khiến người bỏ tà về chánh, Đức Phật dùng bốn Tất-đàn để thuyết pháp, dẹp bỏ ái luận, Kiến luận tà vạy, khai phát chân kiến chánh đạo vô lậu, nên Tu-đa-la hàm nghóa Thằng mặc (phép tắc). Tu-đa-la hàm nghóa Kết man (kết vòng hoa): Ở đây cũng dùng dụ để hiển thị ý nghóa: kết man tức là dùng chỉ xâu giữ các bông hoa, khiến hoa không thể rơi lạc. Đức Đại Giác Thế Tôn dùng bốn Tất-đàn thuyết pháp, trình bày tướng của các pháp, ứng duyên đều không mất sót. Vả lại kết vòng hoa là để trang sức trên đầu, ngôn giáo của Như Lai dùng để trang nghiêm hành giả, tất cả đều kính yêu. Cho nên Tu-đa-la hàm nghóa kết man. Ở cõi này không có từ nào bao hàm năm nghóa trên, nên dùng chữ kinh để thay thế. Hỏi: Tu-đa-la hàm năm nghóa, đồng dùng Tất-đàn để giải thích thì năm nghóa có gì sai biệt? Đáp: Đại ý của Tất-đàn tuy đồng, nhưng năm nghóa khác nhau, chưa từng lẫn lộn. Có phiên dịch: Có Sư cho rằng, khi xưa Phật pháp mới đến xứ này, Phạm Hán chưa thông thạo nên các Sư ở vùng Hà Tây mới nói là không nên phiên dịch, đến nay kinh luận đến đã nhiều, việc phiên dịch Phạm Hán đã thông, nên cần phải phiên từ Tu-đa-la. Nhưng mỗi Sư đều có sự truyền nghe khác nhau, nên nói là có phiên cũng thành nhiều thuyết, nay lược nêu lên năm thuyết có phiên: Một là, có Sư phiên là pháp bản; hai, có Sư phiên là Khế; ba, có Sư phiên là Diên; bốn, có Sư phiên là Thiện ngữ giáo; năm, có Sư phiên là kinh. Các Sư phiên Tu-đa-la là Pháp bản: Pháp bản có ba là luận bản, hạnh bản và nghóa bản. Đức Phật dùng bốn Tất-đàn thuyết pháp được ba bản này, như trước đã giải thích. Các Sư phiên Tu-đa-la là Khế: Khế nghóa là Khế hội. Đức Thế Tôn hiểu như pháp tướng, thuyết như pháp tướng. Nếu dùng thế giới Tất-đàn thuyết pháp tức Khế trình, nếu dùng vị nhân và đối trị Tất- đàn để thuyết pháp tức Khế hạnh, nếu dùng Đệ nhất nghóa Tất-đàn để thuyết pháp tức Khế lý. Các Sư phiên Tu-đa-la là Diên: Ở đây dùng dụ để hiển nghóa, tức đồng với nghóa kết man ở trước. Nói Diên tức lấy việc khâu, kết thành làm công năng. Tức dùng Tất-đàn thuyết pháp để thành tựu ba nghóa của hành nhân ba thừa. Các Sư phiên Tu-đa-la là Thiện ngữ giáo: Bậc Đại thánh Từ bi, tâm thuận lý mà thuyết pháp, nên gọi là Thiện ngữ, lại dùng Tất-đàn ứng duyên giáo hóa chúng sinh, thuận theo tình mà thành tựu việc nhập lý của người tu hành, nên gọi là Thiện ngữ giáo. Các Sư dùng chữ kinh làm chánh phiên: Vì sao? Vì giáo Bậc Thánh tối thượng ở Ấn Độ thuyết thì gọi là Tu-đa-la, còn lời của bậc Thánh cõi này nói gọi là kinh, lấy đây mà so sánh thì nên lấy chữ kinh làm chánh phiên. Nói kinh, nghóa là xuyên qua, xuyên qua tâm khẩu của bậc Thánh nên gọi là kinh. Tất-đàn lập giáo xuyên qua tâm khẩu của Như Lai nên gọi là kinh. Lại nói: “Thánh trước, Thánh sau, chẳng ai không xuyên qua giáo mà Tất-đàn đã nói để thành chánh đạo. Lại nói: “Kinh tức huấn pháp, huấn thường, pháp tức đáng làm quỹ tắc, thường thì không thể biến cải. Tất-đàn lập giáo, giáo này hay thành tựu ba lợi ích, nhất định đáng làm phép tắc, nên gọi là huấn pháp. Tất-đàn lập giáo, thì tất cả Trời, Ma, Phạm, các Sa-môn, Bà-la-môn cho đến các loại chúng sinh khác không thể biến cải. Hỏi: Có phiên dịch đã có năm thuyết khác nhau, sao lại so sánh dùng ba nghóa để giải thích? Đáp: Thuật kia để hiển đây, nghóa kia đã giải thích được ý này, thì có lỗi gì? Dung hòa có phiên và không phiên: Người có phiên hỏi người chủ trương không phiên rằng “Vì sao nói Ấn Độ có từ ngữ hàm nhiều nghóa mà nước này không có từ hàm nhiều nghóa; như từ “Kinh” này, Pháp Hoa nói sáu căn thanh tịnh, đâu biết hết lý sáu trần mười pháp giới? Đáp: Đây là thọ trì Pháp Hoa, sáu ngàn công đức trang nghiêm sáu căn thanh tịnh của hành nhân, hiển pháp dụng tương tự tạng thức, thì sáu trần và tất cả pháp đều là kinh. Hỏi: Tất cả pháp, đâu có thể nói hễ trình bày lý thì đều nói là kinh? Đáp: Việc này dễ giải thích, như thế gian hiện thấy chỉ là một điểm màu đen, tạo thành chữ, diễn thuyết tất cả pháp không đâu chẳng khắp, thì hương vị xúc… đâu thể khác được. Nên kinh này nói: “Nếu đối với thức ăn bình đẳng thì các pháp cũng bình đẳng, các pháp bình đẳng thì đối với thức ăn cũng bình đẳng. Cho nên có thể dùng một bữa ăn mà ban phát cho tất cả. Kinh Đại Phẩm ghi: “Vì các pháp bình đẳng nên Bát-nhã Ba-la-mật bình đẳng”, lại nói: “Tất cả pháp thú hướng sắc cho đến ý pháp cũng thú hướng, nhưng sắc còn chẳng thật, làm sao lại có thú hướng, hay chẳng thú hướng”, như thế khắp tất cả pháp, so sánh cũng có thể tự biết. Theo các pháp để giải thích. (Bản hán thiếu phần này) Căn cứ theo quán tâm để nói về chữ kinh: gồm bốn ý: So sánh với nghóa không phiên dịch, căn cứ theo quán tâm để giải thích kinh. So sánh với có phiên, căn cứ theo quán tâm để giải thích kinh. So sánh với việc hòa thông có phiên và không có phiên, căn cứ theo quán tâm để giải thích kinh. So sánh với nghóa các pháp, căn cứ theo quán tâm để giải thích kinh. So sánh với không phiên dịch mà căn cứ theo quán tâm để giải thích từ kinh: Đâu chỉ có từ Tu-đa-la không phiên dịch vì hàm năm ng- hóa, mà tâm của chúng sinh bao hàm tất cả pháp cũng chẳng thể luận nói được. Vì sao? Vì nếu lìa tất cả tâm số, thì nói cái gì là tâm? Nay nói quán tâm bao hàm năm nghóa: Một là tâm bao hàm nghóa pháp bản; kinh Đề Vị ghi: “Tâm là gốc của vạn pháp, là nguồn của chúng linh, ra vào chẳng loạn, đến đi không gián đoạn, thống trị nơi một thân để lập gốc đạo”; trong đó gốc (bản) của ngôn thuyết tức là giáo bản; gốc của vạn hạnh tức là hạnh bản; lập đạo căn tức là lý bản. Quán tâm hàm nghóa vi phát: Pháp vi tế không pháp nào bằng sát-na, nhân sát-na tương tục mà thành tất cả pháp. Nếu quán tâm này, phát sinh công đức trí tuệ, cũng là từ vi tế đến rõ ràng. Quán tâm hàm nghóa Dũng tuyền: Nhân quán tâm mà phát sinh công đức trí tuệ, như suối phun trào vô tận. Nên kinh Nhân Vương ghi: “Hay quán nguồn tâm thì được Vô lượng phước báu.” Quán tâm hàm nghóa kết man: Tâm vương xuyên tất cả pháp tâm số, như chỉ xâu hoa thành vòng, hoa không rơi rớt. Quán tâm xuyên suốt tất cả pháp cũng như thế. Như phát sinh định tuệ thì lại dùng đó trang nghiêm tâm. Quán tâm hàm nghóa Thằng mặc: Quán tâm cắt đức ái kiến tà vạy, thành tựu tám chánh đạo. So sánh có phiên dịch để nói về quán tâm: Nếu dùng pháp để tâm y cứ thì có thể luận nói, nhưng cần phải đối chiếu với năm nghóa phiên dịch Tu-đa-la đã nói ở trước. Quán tâm tức Pháp bản: Như kinh Đề Vị giải thích đã dẫn dụng ở trước. Quán tâm tức là Khế: Vì quán tâm hợp với lý nên gọi là Khế. Quán tâm tức là Diên: Quán tâm có thể thành tựu tất cả đạo pháp, như may thành y. Quán tâm tức là Thiện ngữ: Như chữ phương giải thích một nghóa hoặc hai nghóa hoặc nhiều nghóa giải thích. Đó tức là bao hàm nhiều nghóa. Đến chính như chữ kinh, muốn lập cách giải thích bao hàm năm nghóa, thì ý đó rõ ràng. Cho nên biết nghóa không phiên dịch chẳng đúng. Lại người chủ trương không phiên hỏi người chủ trương có phiên rằng “Nếu nói khi xưa ngôn từ của hai nước chưa thông thạo thì chưa phiên, còn nay thì ngôn ngữ hai nước đã thông, nhất định có phiên, như vậy từ Tu-đa-la chỉ là một từ của Ấn Độ, vì sao nay từ được phiên chẳng đồng, năm từ mỗi mỗi khác nhau, nếu một từ là đúng bốn từ kia là sai, vậy từ nào đúng từ nào sai? Nếu năm từ đều đúng, thì kia chỉ một đây lại có năm, một chẳng thể là năm; năm chẳng thể là một, điều này là trở ngại lớn. Nếu năm từ đều sai, nhất định biết là không thể phiên. Dẫu có nêu lên cách phiên dịch khác thì đều chẳng dùng. Nay cho rằng nếu chẳng đạt được chánh ý Phật pháp thì có phiên hay không phiên đều thuộc thiên chấp, đạt được ý thì có phiên hay không phiên đều có thể tùy thuận. Vì sao? Nếu biết Tất-đàn khởi giáo là một, có phiên hay không phiên đều đủ ba nghóa, bao hàm tất cả Phật pháp, thì tranh chấp liền dứt, nghóa chân chánh viên thông đâu có lỗi gì ở đây? Cho nên kinh ghi: “Y cứ theo ý nghóa, chẳng nên y cứ vào ngôn từ.” Tuy thế, nay giải thích nên dùng chữ “Kinh” thì cũng không ngăn ngại, lại hai bên có phiên hay không phiên may mắn được thỏa mãn. Vì sao? Vì người chủ trương không phiên cũng dùng chữ kinh làm tiêu đề, người chủ trương có phiên cũng dùng chữ kinh làm tiêu đề mà chẳng dùng các từ ngữ Pháp bản, Khế, Diên, Thiện ngữ giáo đặt ở đầu các ngôn giáo. Nếu dùng chữ kinh, đối hai nhà có phiên hay không phiên đều hợp. Tức dung hòa nghóa tranh chấp của hai nhà. Như các bản của giải thích Niết- bàn hoặc nói có phiên hay không phiên, giải Bát-nhã hoặc nói có phiên không phiên, nếu giải thích sâu xa ý này thì không trệ ngại. Căn cứ các pháp mà giải thích kinh: Có Sư cho rằng có ba loại kinh là: Thanh kinh, Sắc kinh và Pháp kinh. Thanh kinh: Âm thanh của Đức Đại Giác Thế Tôn có thể trình bày về lý, người nghe âm thanh này mà ngộ được lý, nên âm thanh tức là kinh. Nên Đại Phẩm nói: “Như từ nơi Thiện tri thức mà nghe Bát-nhã.” Sắc kinh “Chữ màu đen là kinh, màu đen là văn tự hay trình bày lý thú, thấy sắc đạt được lý, sắc tức là kinh, nên Đại Phẩm ghi: “Như từ quyển kinh mà nghe Bát-nhã.” Pháp là kinh, pháp là pháp trần, tâm và pháp hợp, trong tâm tư duy tu tập nơi pháp, nhân pháp mà đạt được lý, pháp tức là kinh. Kinh ghi: “Người tu pháp ta chứng đắc mới tự biết tâm không thật, hãy tu hành đâu cần phải hỏi.” Hỏi: Sáu trần, vì sao chỉ nói ba trần là kinh còn ba trần hương, vị, xúc chẳng phải là kinh? Đáp: Ở cõi này có ba căn chậm lụt nên không có lý hương, vị, xúc chứng đắc, cho nên ba trần tương ứng không gọi là kinh. Nếu như ở cõi Phật phương khác thì hoặc dùng hương làm Phật sự, hoặc dùng vị làm Phật sự, hoặc dùng xúc làm Phật sự, thì ba trần này đều gọi là kinh, như kinh này nêu ra các Phật sự khác nhau ở các cõi Phật phương khác. Như thế tất cả pháp trình bày lý thì tất cả đều là kinh. Hỏi: Nếu nói ở cõi này con người có ba căn chậm lụt nên ba trần không được gọi là giáo, vì sao kinh nói giác quán là pháp ngôn ngữ? Đáp: Quán tâm là giác quán thuận lý, tức Thiện ngữ có thể chuyển phiền não bị quán, nên gọi là giáo. Cho nên kinh này nói: “Trần lao là đệ tử, tùy ý mà sai khiến.” Nói về quán tâm tức là kinh: Do trải qua quán tâm mà thành Thánh, nên kinh Bát Chu ghi: “Chư Phật, đều từ tâm mà được giải thoát, tâm tức vô cấu gọi là thanh tịnh, năm đường trong sạch chẳng thọ sắc trần.” Có người giải thích điều này là “thành đạo lớn.” So sánh với việc dung thông có phiên không phiên mà căn cứ theo quán tâm để giải thích kinh: Khi quán tâm như thế tức biết tâm này chẳng thể đặt tên, chẳng thể không đặt tên, cũng chẳng thể đặt tên, cũng có thể đặt tên, giống như có phiên mà không phiên; nếu có thể thông đạt, không trệ ngại thì khi quán tâm phá tất cả pháp, không còn chấp trước, xa lìa các hý luận, vô ngại tự tại. Căn cứ theo quán tâm, qua các pháp đều là kinh: Tất cả pháp đều từ tâm sinh khởi; nếu tâm là kinh tức các pháp cũng đều là kinh. nên kinh Hoa Nghiêm ghi: “Muốn biết tâm Như Lai, chỉ cần quán tâm chúng sinh, ví như trong một vi trần có ba ngàn Đại thiên thế giới quyển kinh, không ai biết được, có người phá nát vi trần này, tức thấy được ba ngàn thế giới quyển kinh. Nếu phá một niệm tâm vô minh của chúng sinh, thì các kinh mà chư Phật đã nói đều hiện bày.” Nếu hành nhân có thể duy quán tâm tìm đọc Tâm kinh tức thấy Phật tánh, trụ đại Niết- bàn, thông suốt các kinh đốn, tiệm, bí mật, bất định. Vì sao? Vì quán tâm sinh diệt, thấy tất cả Tam Tạng giáo, ngang dọc rõ ràng, quán tâm giả danh thấy tất cả kinh Biệt giáo ngang dọc rõ ràng, quán tâm Trung đạo thấy tất cả Viên giáo ngang dọc rõ ràng. Bốn giáo luận về kinh như trước đã phân biệt. (Một tên khác là bất tư nghị Giải thoát) 2.Giải thích tên kinh: Tức giải thích từ bất khả tư nghị giải tho- át”. Đây là y cứ theo pháp để lập danh. Nay lược nêu bảy ý để giải thích: Giải thích từ “Bất tư nghị giải thoát” Luận về tướng Bất tư nghị giải thoát. Giải thích riêng về Bất khả tư nghị giải thoát. So sánh để giải thích ba pháp. Căn cứ theo giáo để phân biệt. Căn cứ quán tâm để nói về Bất tư nghị giải thoát. Dùng nhân pháp để giải thích kinh. Giải thích từ “Bất tư nghị giải thoát”: gồm ba ý: Nêu các thuyết bất đồng xưa nay. Bàn về sự giải thích của các nhà Chính thức nói về sự giải thích của Sư. Nói về các Sư xưa nay giải thích “Bất tư nghị giải thoát” không khác: Có rất nhiều nhà giải thích, nay chỉ lược nêu lên bảy nhà khác nhau: Ngài La-thập nói “Bất tư nghị giải thoát” là tên của thần thông Tam-muội. Ngài Đạo Sinh nói “Bất tư nghị giải thoát” là diệu dụng khó lường. Ngài Tăng Triệu nói “Bất tư nghị giải thoát” là: cảnh giới sâu xa vi diệu khó lường, vượt ngoài cảnh giới Nhị thừa là Bất tư nghị, trần lụy chẳng thể trói buộc là giải thoát. Các thuyết xưa của các Sư ở quan nội giải thích “Bất tư nghị giải thoát” rằng: địa thứ sáu đoạn kết sử đồng với công đức của A-la- hán, địa thứ bảy dần dần đoạn trừ tập khí, địa thứ tám tập khí đã hết, đạo và quán song tu gọi đó là Bất tư nghị. Chánh tập khí đã tận gọi là giải thoát. Còn các Sư ở phương Nam cận đại giải thích “Bất tư nghị giải thoát” , so sánh với cách giải thích trên tuy có vài điểm khác nhau, nhưng phần lớn thì đồng, nên nay chẳng luận. Các Sư Địa Luận giải thích giải thoát Bất tư nghị rằng pháp duyên tu của Thông giáo dùng thức trí thứ bảy chiếu soi chân lý Phật tánh, đoạn trừ kiến tư hoặc ở ba cõi và vô minh ngoài ba cõi, phát chân giải thoát, đoạn kết sử, thì thức viên trí thứ bảy lặng trong vượt ngoài trần lụy, đó gọi là giải thoát. Đó là Bất chân tông giải thích giải thoát, chẳng phải là giải thoát Bất tư nghị. Như chân tông thì pháp dùng thức thứ tám chân tu thể hiển bày, lìa hai chướng, dung thông, chẳng được, chẳng lụy gọi đó là Bất tư nghị giải thoát . Tam tạng Pháp sư Chân Đế giải thích Bất tư nghị giải thoát rằng: giải thoát có hai: Một là, Bất tương ly giải thoát; hai, Tương ly giải thoát. Nếu Bất tương ly giải thoát thì lý vốn có của pháp như như chưa lìa hoặc. Tương ly giải thoát, thì được pháp như như, trí đoạn tâm chướng đã xa lìa các hoặc; tương ly giải thoát này tức là giải thoát Bất tư nghị. Các Sư Tam Luận nói rằng: Như kia nói trói buộc giải thoát thì trói buộc là tự trói buộc, giải thoát là tự giải thoát, đó là Tự tánh trói buộc giải thoát, chẳng phải là giả trói buộc giải thoát, chẳng phải là trói buộc giải thoát của chẳng trói buộc chẳng giải thoát, đây chẳng phải là Bất tư nghị giải thoát . Nay nói buộc chẳng phải là tự buộc, do nơi thoát mà nói có buộc, thoát chẳng phải là tự thoát, do có buộc mà nói thoát. Do thoát buộc tức là giả buộc, do buộc nói thoát tức là giả thoát, giả buộc thì chẳng phải buộc, giả thoát thì chẳng phải thoát, tức chẳng buộc chẳng thoát, rốt ráo thanh tịnh, mà lại gọi là buộc thoát tức là buộc thoát giả danh Bất tư nghị. Nhưng lời giả danh phương tiện kia chuyển biến nhiều lối, há có thể nói là nhất định ư? Điều này đã lược nêu ở chương đầu. Bàn về sự giải thích của các nhà: Như ngài La-thập cho Thần thông Tam-muội là Bất tư nghị giải thoát , thì đó chỉ là hành dụng y cứ vào hạnh Thiền định của Thông giáo. Ngài Đạo Sinh cho dụng không lường là Bất tư nghị giải thoát thì đó cũng là Thần dụng không lường của Thông giáo. Ngài Tăng Triệu nói sâu xa vi diệu khó lường vượt ngoài cảnh giới của Nhị thừa, thì đó chỉ là tuệ hạnh của Thông giáo, chứng lý đoạn trừ kết sử, giai vị trên Nhị thừa: Các cựu giải ở quan nội giải thích Bất tư nghị giải thoát là địa thứ tám tập khí đã tận trừ, đạo quán song tu là Bất tư nghị giải thoát, đó cũng chỉ là tuệ hạnh tu hành các hạnh của Thông giáo. Các Sư Địa luận nói pháp chân tu dùng thức thứ tám tu tập hiển thể, đoạn hai chướng để nói về Bất tư nghị giải thoát, đó chính là nghóa của Biệt giáo. Nếu y cứ theo tướng địa của Địa luận nói về nghóa, tức là Biệt giáo nói về Bất tư nghị giải thoát, nếu y cứ vào nghóa của Thật địa, tức là Viên giáo nói về Bất tư nghị giải thoát. Ý của Tam tạng Chân Đế đồng với ý của Biệt giáo của Địa luận. Các Sư Tam luận giải thích giải thoát, tuy có dùng lời giả danh hư huyền, nhưng chẳng biết được chỗ quy thú của Tông chỉ. Nếu như từ nơi “Tha” nghiêm xét lạc vào tha tánh thì chưa có thể biết được điều nói trong phẩm quán pháp của Trung luận là ý của Thông giáo, phẩm Bốn đế có ý của Thông, Biệt, Viên giáo, hai phẩm sau có ý của Tam Tạng giáo. Nếu căn cứ theo đây để giải thích nghóa tức có được bốn nghóa giải thoát cho bốn giáo. Nhưng ngài Thiên Thân phần nhiều chỉ giải thích Biệt Viên giáo, ngài Long Thọ phần nhiều chỉ nói đến Thông giáo Viên giáo. Giải thích khác nhau về giải thoát của hai nhà, theo nghóa suy có thể tự biết. Chánh thức luận đến cách giải thích từ Bất tư nghị giải thoát của Sớ chủ: gồm ba ý: Giải thích tổng quát danh Bất tư nghị giải thoát Giải thích riêng danh Bất tư nghị giải thoát Liệu giản (phân biệt). Giải thích tổng quát: Đối với Tư nghị giải thoát mà nói về Bất tư nghị giải thoát, nếu hiểu được lý tư nghị mà lìa duyên phược thì gọi là Tư nghị giải thoát, nếu hiểu được lý Bất tư nghị mà xa lìa được duyên phược (trói buộc), thì gọi là Bất tư nghị giải thoát. Tư nghị giải thoát tức là sự giải thoát xa lìa văn tự, nên Thân tử trả lời Thiên nữ “Ta nghe nói giải thoát không có ngôn thuyết.” Còn như Bất tư nghị giải thoát là sự giải thoát chẳng lìa văn tự, cho nên Thiên nữ đáp: “Không xa lìa văn tự mà nói tướng giải thoát, vì tánh của văn tự là xa lìa, tức là giải thoát.” Giải thích riêng từ Bất tư nghị giải thoát: Tức là giải thoát chẳng lìa văn tự, nên Thiên nữ nói: “Tướng giải thoát chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa, vì thế tánh của văn tự là xa lìa, tức giải thoát. Giải thoát tức các pháp “Nay cho rằng chẳng từ tự thoát mà khởi, nên chẳng y cứ vào tự tánh để lập danh; giải thoát chẳng từ tha thoát mà khởi nên chẳng y cứ vào tha tánh đã lập danh, giải thoát chẳng từ tự tha cộng mà khởi, nên chẳng y cứ theo cộng tánh mà lập danh, giải thoát chẳng phải lìa tự tha, không nhân duyên mà khởi, nên chẳng y cứ vào tánh không nhân duyên để lập danh; từ nhân duyên khởi lập tên giải thoát còn chẳng được, hà huống là không có nhân duyên khởi mà lập danh? Giải thoát chẳng phải từ bốn bên mà khởi, nên chẳng nương vào nghóa bốn tánh mà lập danh giải thoát, như vậy tướng giải thoát chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa, tướng của danh tự cũng chẳng ở trong chẳng ở ngoài chẳng ở khoảng giữa, tướng của danh tự vốn xa lìa tức là giải thoát, giải thoát tức các pháp. Cho nên biết phược (trói buộc) cũng như thế. Thế thì danh tự phược thoát chẳng phải phược chẳng phải thoát mà có danh từ phược thoát thì đó là phược thoát Bất tư nghị. Bất tư nghị phược tức Bất tư nghị giải thoát. Cho nên kinh ghi: “Tánh của dâm nộ si tức là giải thoát, trụ nơi giải thoát Bất tư nghị này, thì có thể thị hiện các loại.” Nếu là giải thoát lìa văn tự, tức là đoạn phiền não vào Niết-bàn. Nếu là giải thoát chẳng lìa văn tự, tức chẳng đoạn phiền não mà vào Niết-bàn, gọi đó là giải thoát Bất tư nghị. Liệu giản: Hỏi: Nếu chẳng lìa văn tự mà nói giải thoát , vì sao ngài Tịnh Danh im lặng? Đáp: Đây là muốn ấn chứng nghóa Thánh thuyết pháp tức Thánh im lặng của các Bồ-tát. Hỏi: Thông giáo cũng chẳng nương theo bốn câu lập danh, có được gọi là giải thoát Bất tư nghị chăng? Đáp: Thông giáo chỉ phá bốn câu của Tạng giáo, chẳng phá bốn câu của Biệt giáo, nên chẳng phải Bất tư nghị. Viên giáo phá bốn câu của Biệt giáo, như trên đã nói chân tu, duyên tu đọa vào tự tha tánh. Hỏi: Nếu thế kinh này chỉ bác phá ngài Thân tử, thì chẳng phải là giải thoát Bất tư nghị ư? Đáp: Chẳng phải! Ngài Thân tử dùng hết thần lực mà chẳng thể làm hoa rơi, Thiên nữ trách rằng “Kết sử tập khí chưa trừ thì hoa dính thân.” Đây là phá Biệt hoặc để hiển Bất tư nghị giải thoát, nên chẳng phải là Thông giáo. Hỏi: Vì sao nói: “Chẳng đoạn phiền não mà vào Niết-bàn mới là giải thoát Bất tư nghị?” Đáp: Núi Tu-di nhét vào hạt cải, nhỏ chẳng làm chướng ngại lớn, lớn chẳng làm ngại nhỏ, nên gọi là Bất tư nghị. Nay có phiền não, kết hoặc mà chẳng chướng trí tuệ Niết-bàn, trí tuệ Niết-bàn chẳng ngại phiền não kết hoặc, nên gọi là Bất tư nghị. Còn không có kết hoặc mà vào Niết-bàn gọi là Bất tư nghị, thì nay hỏi lại rằng “Không có tướng nhỏ của hạt cải, có tướng lớn của núi Tu-di, cũng được luận là Bất tư nghị ư? Hỏi: Nếu chẳng đoạn mà vào gọi là Bất tư nghị, vậy Thông giáo cũng nói chẳng đoạn mà vào Niết-bàn, vì sao chẳng phải là Bất tư nghị giải thoát? Đáp: Thông giáo cho chẳng thấy tướng của hoặc là chẳng đoạn, mà thật đã đoạn, như khi sáng thì không tối, chẳng đồng như việc có tướng nhỏ của hạt cải chẳng ngại tướng lớn của núi Tu-di. *. Luận về tướng Bất tư nghị giải thoát: Lại y cứ vào Tư nghị giải thoát để biện luận về tướng của Bất tư nghị giải thoát. Nếu là Tư nghị giải thoát, đó là sự giải thoát của hai loại Niết-bàn thân diệt trí đoạn, mà hàng Tam thừa của Tạng giáo và Thông giáo chứng đắc. Nếu là Bất tư nghị giải thoát thì đó là đại Niết- bàn thường tịnh mà chư Phật và các Bồ-tát Biệt giáo Viên giáo chứng đắc. Nay lược nêu bảy ý để phân biệt tướng bất đồng của hai loại giải thoát này: Theo lý phân biệt. Theo trí để phân biệt. Theo đoạn và chẳng đoạn để phân biệt. Theo giới nội, giới ngoại để phân biệt. Theo có Thể, không Thể để phân biệt. Theo có dụng, không dụng để phân biệt. Theo cộng tư nghị, bất cộng tư nghị để phân biệt. 1. Căn cứ theo lý để phân biệt: Nếu thấy được lý tư nghị mà giải thoát tức Tư nghị giải thoát, nếu thấy lý bất tư nghị mà được giải thoát là Bất tư nghị giải thoát. Hỏi: Lý thì không hai, sao lại phân biệt tư nghị và bất tư nghị? Đáp: Như lý Chân đế là lý tư nghị, lý trung đạo Phật tánh là lý bất tư nghị. Cho nên kinh này nói: “Như bịnh của ta chẳng phải thật chẳng phải giả, bệnh của chúng sinh cũng chẳng phải thật chẳng phải giả.” Cho nên biết lý trung đạo khác với Chân đế, Chân đế là lý tư nghị, chẳng phải là Như Lai tạng; lý Trung đạo gọi là Bất tư nghị, tức Như Lai tạng. Không có chỗ tích tụ mới gọi là Tạng, nên nói là lý Bất tư nghị. Căn cứ theo trí để phân biệt: Nếu giải thoát đạt được từ trí sinh diệt thì gọi là tư nghị giải thoát; nếu sự giải thoát đạt được từ trí vô sinh diệt thì gọi là Bất tư nghị giải thoát. Hỏi: Làm sao phân biệt trí sinh diệt và trí vô sinh diệt? Đáp: Chân trí đạt được do quán lý Chân đế, tức là trí sinh diệt, nên kinh này, ngài Tịnh Danh quở trách ngài Ca-chiên-diên rằng “Không nên dùng tâm sinh diệt mà nói thật tướng của các pháp.” Còn chân trí đạt được do thấy được lý Trung đạo, thì gọi là Trí vô sinh diệt. Cho nên kinh Đại Niết-bàn ghi: “Nơi mà chư Phật y cứ, đó là pháp, vì pháp thường nên chư Phật cũng thường”; chư Phật cũng thường tức là Thường trí tịch chiếu vô sinh. Căn cứ vào đoạn và chẳng đoạn để phân biệt: Nếu đoạn phiền não được giải thoát, tức là giải thoát tư nghị, nên kinh này nói: “Đức Phật thuyết đoạn dâm, nộ, si là giải thoát cho những kẻ tăng thượng mạn nghe”; nếu chẳng đoạn phiền não mà được giải thoát tức là giải thoát Bất tư nghị, nên kinh này nói: “Chẳng đoạn si ái mà khởi minh thoát, dùng tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, cũng chẳng buộc chẳng thoát.” Hỏi: Chẳng đoạn phiền não kết nghiệp, làm sao được giải thoát? Đáp: Ví như người chưa được thần thông bị nhốt nơi lao ngục thì cần phải khoét vách đào tường mới có thể ra được, nếu là người đã được thần thông mà bị nhốt nơi lao ngục, tuy chẳng cần khoét vách đào tường, mà vẫn ra vào không ngăn ngại. Hỏi: Nếu chẳng đoạn phiền não, được giải thoát gọi là giải thoát Bất tư nghị, thì Bồ-tát Biệt giáo đoạn phiền não được giải thoát, lại bị xem là giải thoát tư nghị ư? Đáp: Đây là giáo đạo, chẳng phải là chứng đạo. Nếu Bồ-tát Biệt giáo chứng đắc giải thoát Bất tư nghị thì cũng chẳng đoạn. Căn cứ theo giới nội giới ngoại để phân biệt: Nếu là giải thoát tư nghị thì chỉ thoát khỏi sự trói buộc của giới nội, còn giải thoát Bất tư nghị thì thoát cả các hoặc trói buộc của giới nội và giới ngoại. Hỏi: Thế nào gọi là thoát khỏi sự trói buộc của giới nội, chẳng thoát khỏi sự trói buộc của giới ngoại? Đáp: Kinh này nói: “Pháp gọi là vô nhiễm, nếu nhiễm nơi pháp cho đến nhiễm Niết-bàn thì chẳng phải là cầu pháp.” Kinh Pháp Hoa ghi: “Chỉ lìa hư vọng mà gọi là giải thoát, kì thật chưa đạt được Nhất thiết giải thoát”, “chỉ lìa hư vọng” tức chỉ lìa kiến tư hoặc thuộc phần đoạn sinh tử của giới nội; kỳ thật chưa đạt Nhất thiết giải thoát, tức là các hoặc kiến, tư, vô minh thuộc biến dịch sinh tử của giới ngoại. Nghóa này cũng như phần phân biệt về Biệt giáo ở trước. Căn cứ theo có thể, không thể để phân biệt: Nếu là giải thoát tư nghị thì có thể của sắc tâm, nếu là giải thoát Bất tư nghị thì không thể của sắc tâm. Hỏi: Vì sao giải thoát tư nghị không có sắc tâm, còn Bất tư nghị thì có sắc tâm? Đáp: Là giải thoát tư nghị thì diệt sắc mà chấp giữ không; vậy hữu dư giải thoát thì nhân của sắc tâm diệt; vô dư giải thoát thì quả của sắc tâm diệt, nay đã y cứ không sắc, không tâm để nói về giải thoát, cho nên không có thể. Như thế Bất tư nghị giải thoát thì quán sắc tâm tức sắc tâm pháp tánh, sắc tâm pháp tánh không do nhân sinh nên không có quả diệt. Thấy sắc tâm chẳng sinh chẳng diệt mà được giải thoát nên có thể diệu, sắc diệu, tâm chân thiện. Kinh Niết-bàn ghi: “Giải thoát có hai loại là sắc và phi sắc. Phi sắc tức là Thanh văn, Duyên giác, sắc tức là giải thoát mà chư Phật Như Lai chứng đắc.” Lại ghi: “Diệu sắc lặng trong thường an trụ, chẳng bị sinh, lão, bệnh, tử biến đổi.” Lại ghi: “Sắc tức giải thoát Niết-bàn, thọ, tưởng, hành, thức là giải thoát Niết-bàn”, đây là kinh Nhân Vương nói về pháp tánh sắc, thọ, tưởng, hành, thức là giải thoát. Nếu không có sắc thì như người chết, đâu thể luận là giải thoát. Căn cứ theo có dụng và không có dụng để phân biệt. Nếu là Tư nghị giải thoát thì không có đại dụng vô cùng, nếu là Bất tư nghị giải thoát thì có đại dụng vô cùng. Hỏi: Vì sao như thế? Đáp: Nếu là Hữu dư giải thoát tư nghị thì chứng chân, nhập định Diệt thọ tưởng, tựa như chấp trong thân chứng tưởng thọ diệt của pháp Niết-bàn, giống như người chết, không có khả năng hoạt dụng. Nếu là vào vô dư giải thoát, thân diệt trí đoạn thì giống như hư không, không còn tạo tác gì; nếu hai thân là Sinh thân và pháp thân trụ nơi Bất tư nghị giải thoát, thì có thể thị hiện các thân hình, như phẩm Bất tư nghị kinh này nói. Cho nên ngài Tịnh Danh quở trách ngài Thân Tử rằng “Chẳng khởi diệt định mà hiện các oai nghi là yên tọa.” Căn cứ theo Cộng và Bất cộng bất tư nghị mà phân biệt hai tướng giải thoát: Nếu là Cộng Bất tư nghị là Tư nghị giải thoát, nếu là Bất cộng Bất tư nghị là Bất tư nghị giải thoát. Hỏi: Thế nào là Cộng bất tư nghị? Đáp: Có các Sư cho rằng: địa thứ tám và đạo và quán song tu, hàng Nhị thừa và các Bồ-tát ở các địa dưới chẳng thể suy lường được cảnh giới ấy, nên gọi là Bất tư nghị. Vì sao? Nếu các Địa dưới chẳng thể suy lường được cảnh giới của địa thứ tám, thì địa thứ tám chẳng thể suy lường được địa thứ chín; vậy địa thứ tám thành ra Tư nghị, địa thứ chín là Bất tư nghị. Như thế cho đến địa thứ mười chẳng thể suy lường được Phật địa thì Phật địa là Bất tư nghị, địa thứ mười là tư nghị Phật địa hay tư duy Phật địa lại thành tư nghị. Nếu vậy, thì thế nào là Bất tư nghị giải thoát đây? Lại như kinh nói: “Đức Phật nhập Tam-muội, ngài Thân Tử chẳng thể biết được, ngài Thân Tử nhập Tam-muội thì ngài Mục Liên chẳng thể biết, ngài Mục Liên nhập định thì các La-hán khác chẳng thể biết, các La-hán nhập định thì hàng Hữu học chẳng thể biết, hàng Hữu học nhập định thì hàng Tứ thiện căn chẳng biết, hàng Tứ thiện căn nhập định thì tất cả ngoại đạo chẳng biết cho đến các pháp thuật huyễn hóa của ngoại đạo thì người thế gian đều chẳng thể biết. Như thế đều gọi là Bất tư nghị. “Nếu luận về tư nghị thì đến Phật cũng còn là tư nghị, nếu nói bất tư nghị thì cho đến như ong vàng làm mật, nhền nhện giăng tơ đều bất tư nghị”, đó là cộng Bất tư nghị, đều là sự giải thoát có tâm số pháp, cũng đều là tư nghị giải thoát, thế thì có thể dùng nghóa này để so sánh với tướng Bất tư nghị giải thoát ư? Hỏi: Nếu vậy, thế nào là Bất tư nghị giải thoát? Đáp: Pháp tánh Bất tư nghị giống như hư không, không nghó không suy, lặng lẽ thường trụ, vào tất cả pháp thì đều thông đạt, hiển hiện. Đó là Bất cộng Bất tư nghị, chẳng chung với các phàm phu và hàng Tam thừa của Thông giáo và Tạng giáo. Nên kinh Niết-bàn ghi: “Lắng trong, thanh tịnh tức chân giải thoát.” Kinh Pháp Hoa ghi: “Pháp này chẳng thể dùng suy nghó phân biệt để hiểu.” Kinh Ban Châu Tam-muội ghi: “Có tâm chẳng biết tâm, tâm chẳng thấy tâm, tâm khởi tưởng tức là si, không khởi tưởng tức Niết-bàn.” Luận Đại Trí Độ ghi: “Nếu khởi ý tưởng phân biệt tức là lưới ma, chẳng động chẳng phân biệt tức là pháp ấn.” Kinh này ghi: “Nếu phân biệt Phật pháp thì gọi là chẳng như pháp.” Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Rốt ráo lìa hư vọng, không nhiễm như hư không.” Cho nên biết, tất cả suy lường, phân biệt nhớ nghó rốt ráo chẳng khởi, gọi là Bất tư nghị. Nên kinh Niết-bàn ghi: “Đợi khi nước lắng trong thì hạt châu tự hiện” tức lý Phật tánh Bất tư nghị hiển lộ, lý Phật tánh Bất tư nghị hiển lộ tức là giải thoát Bất tư nghị. Hỏi: Cộng Bất tư nghị, tức là Địa dưới tư duy chẳng thể biết các Địa trên, thì Địa trên gọi là Bất tư nghị, còn Địa trên tư duy biết Địa dưới, thì Địa dưới có gọi là Tư nghị chăng? Đáp: Tuy Địa dưới tư duy chẳng biết Địa trên, Địa trên tư duy biết được Địa dưới, nhưng đều là tư lương tri chứ chẳng phải bất tư lương tri, nên thuộc về Tư nghị. Nay Bất cộng bất tư nghị thì Địa dưới chẳng thể dùng tư duy để suy biết Địa trên, Địa trên cũng không thể dùng tư duy để suy biết Địa dưới. Địa dưới dùng chẳng tư duy để suy biết Địa trên mà chẳng thể biết được Địa trên, trí chẳng tư duy của các Địa trên tự tại biết được Địa dưới. Địa dưới chẳng tư duy nên còn chẳng thể biết được trí tư nghị của Địa trên, huống gì trí Bất tư nghị năng trí, trí chẳng tư duy của Địa trên tự tại biết được trí Bất tư nghị của Địa dưới, hà huống gì trí tư nghị? Cho nên biết Địa trên, Địa dưới tuy có biết và chẳng biết nhưng đều là Bất tư nghị. Hỏi: Chẳng tư duy làm sao biết có phân biệt? Đáp: Tịch chiếu của bốn mươi hai địa tuy đồng, nhưng sự tận trừ các phẩm vô minh lại khác nhau; cho nên Địa dưới chưa tận trừ một phẩm vô minh thì chưa thể biết được Địa trên, Địa trên tận trừ được một phẩm vô minh thì biết được Địa dưới; từ Nhị thừa cho đến phàm phu đều có lý Bất tư nghị này, nhưng bị hoặc chướng suy nghó phân biệt che lấp; vì chưa phá được ý tưởng phân biệt vô minh, nên chẳng thể chẳng tư duy mà biết. Chư Phật Bồ-tát đã phá dẹp ý tưởng phân biệt vô minh, nên chẳng tư duy mà biết. Ví như mặt trăng mới mọc, chẳng tự suy nghó là ta chiếu thế giới và chúng sinh, mà chúng sinh và thế giới tự nhiên có ánh sáng, cho đến khi mặt trăng ngày rằm tròn sáng, cũng chẳng nghó rằng ta chiếu soi mà vạn vật kia vẫn được sáng. Viên giáo luận về Phật, Bồ-tát cũng như thế, há đồng với ánh sáng đom đóm ư? Hỏi: Nếu cho Phật tánh Bất tư nghị hiển hiện lắng trong, không tư duy, không nghó nhớ là Bất cộng Bất tư nghị, thì có khác gì với các Sư Địa luận nói rằng thức thứ tám lặng trong, chân tu hiển thể? Đáp: Các Sư Địa luận nói rằng thức thứ sáu là phân biệt thức, thức thứ bảy là trí chướng ba lãng thức, thức thứ tám là chân thường thức. Tri thức là duyên tu, nếu thức thứ tám hiển thì thức thứ bảy diệt, vậy thức thứ tám là Chân tu, tự tại dung thông thường tịch, nhưng luận Nhiếp Đại thừa ghi: “Thức thứ bảy là tâm chấp kiến, thức thứ tám là thức vô ký vô diệt”, há được nói là Chân tu ư? Và lại nay nói thức thứ sáu là Bất tư nghị giải thoát, thì há có thể nói thức thứ sáu, thức thứ bảy diệt rồi hiển thức thứ tám Chân tu là Bất tư nghị giải thoát được ư? Vì sao? Kinh Ương Quật ghi: “Nhãn căn của kia so với Như Lai vẫn thường đầy đủ, không tăng giảm, thấy trong suốt rõ ràng, cho đến ý căn cũng như thế.” Kinh Pháp Hoa nói sáu căn do cha mẹ sinh ra thường tịnh, tự lặng trong chiếu soi mười phương cõi nước, thì há có việc thức thứ sáu diệt rồi mới có duyên tu Chân tu ư? Cho nên kinh ghi: “Chư Phật biết tất cả chúng sinh rốt ráo tịch diệt tức là đại Niết-bàn, chẳng cần phải diệt nữa.” Tất cả chúng sinh chẳng cần diệt nữa tức là thức thứ sáu chẳng thể diệt. Kinh này ghi: “Giải thoát tức các pháp”, vậy đâu chẳng phải là các pháp sáu thức, mười tám giới? Thế thì đâu thể chỉ y cứ theo thức thứ tám để nói về Bất tư nghị giải thoát? Vả lại nếu luận về bốn bất khả thuyết, thì không chỉ thức thứ tám bất sinh bất khả thuyết mà thức thứ bảy bất sinh sinh bất khả thuyết và thức thứ sáu sinh bất sinh sinh sinh cũng bất khả thuyết. Nếu như luận về nghóa vì có nhân duyên nên cũng có thể thuyết, thì bốn Tất-đàn có nhân duyên nên cũng có thể thuyết. Nhưng Nam Đạo, Bắc Đạo lại thiên chấp Chân tu duyên tu khác nhau, thì đâu chẳng rơi vào Kiến chấp tự tha ư? Nếu biết Như Lai thường chẳng thuyết pháp, thì đâu có Chân tu, duyên tu thành Phật để nói mà khởi tranh luận? Nhưng các kinh luận có lời này là chỉ vì bậc Thánh ứng cơ mà thuyết, chứ đâu có việc pháp thân Đại só chẳng dùng bốn Tất-đàn ứng duyên tiếp độ chúng sinh, ngài Long Thọ và ngài Thiên Thân mỗi mỗi đều có thuyết khác? Tất cả đều do những người hoằng pháp đời sau đánh mất bản ý, chấp văn tự thiên lệch mà thôi! Nếu đạt được ý này, thì chẳng cần phải hỏi: “là có gì khác với các Sư địa luận?” Hỏi: Nếu cho tâm dứt bặt suy lường là Bất cộng Bất tư nghị, thì như ý căn thanh tịnh trong kinh Pháp Hoa đâu được nói là: “Tư duy vô lượng nghóa, thuyết pháp cũng vô lượng”, trước sau chẳng lầm lẫn, vì thọ trì kinh Pháp Hoa? Đáp: Nếu Bất tư nghị giải thoát lìa tư nghị thì rốt cuộc chẳng phải là Bất tư nghị, như vào vô dư Niết-bàn không có tư duy, tức chẳng lìa Bất tư nghị mà có Bất tư nghị. Cho nên kinh này nói: “Phân biệt rõ ràng tướng các pháp, mà chẳng xao động Đệ nhất nghóa”, vì được tự tại đối với các pháp, cho nên con đảnh lễ đấng Pháp vương này.” Tự tại đối với các pháp tức là đối với pháp phân biệt tư nghị của thức thứ sáu được tự tại, gọi đó là Bất tư nghị giải thoát. Giải thích về nghóa Bất tư nghị giải thoát: Trên đã luận tổng quát về tướng Bất tư nghị giải thoát, nhưng nghóa tổng quát quá bao hàm, ý thú thật khó biết, nên đến đây lại luận đến ba loại giải thoát, tức giải thích tướng riêng. Căn cứ theo đó có thể phân làm hai ý: Lược phân biệt tướng của ba loại giải thoát. Căn cứ mười hai nhân duyên để phân biệt ba loại tư nghị, bất tư nghị giải thoát. Phân biệt tướng của ba loại giải thoát: Ba giải thoát là: Chân tánh giải thoát Thật tuệ giải thoát Phương tiện giải thoát. 1- Chân tánh giải thoát: Kinh này nói rằng: “Tánh của dâm, nộ, si tức giải thoát”, nay nói tánh của dâm, nộ, si tức là tự tánh thanh tịnh tâm không bị phiền não nhiễm ô nói trong kinh Thắng Man, nếu phiền não chẳng thể nhiễm ô, thì sinh tử chẳng thể trói buộc. Tánh tự chẳng bị phiền lụy nên gọi là giải thoát. Nên kinh này ghi: “Như Ưu-ba-ly! Khi tâm tướng được giải thoát, có bị cấu nhiễm chăng? Tâm tướng của chúng sinh không cấu nhiễm cũng như thế”, đó gọi là Chân tánh giải thoát Bất tư nghị. Thật tuệ giải thoát: Kinh này nói rằng “Có phương tiện tuệ giải”, tức là Thật tuệ giải thoát. Vì sao? Vì kinh Thắng Man nói tự tánh thanh tịnh tâm chẳng bị phiền não làm nhiễm ô, chẳng nhiễm mà nhiễm, khó có thể thông đạt. Vì còn nhiễm nên có ngũ trụ phiền não, bị hai loại sinh tử của giới nội và giới ngoại trói buộc. Nếu hay dùng phương tiện khéo léo thật tuệ, chẳng đoạn si ái mà khởi minh thoát, minh và vô minh bình đẳng, chẳng buộc chẳng thoát, thì đó là Thật tuệ giải thoát Bất tư nghị. Phương tiện giải thoát: Kinh này nói: “Có tuệ phương tiện thì giải thoát”, tức nói phương tiện giải thoát. Nếu dùng Thật tuệ phân biệt thì thực hành phi đạo mà thông đạt Phật đạo, trụ nơi giải thoát Bất tư nghị, biến hiện các hình tướng, có đại dụng vô cùng, chúng sinh chẳng thể suy lường được, tùy thuận lợi ích hữu tình mà chẳng nhiễm trần lụy. Tự mình đã chẳng bị trói buộc, lại hay mở trói cho người, nên gọi là phương tiện giải thoát Bất tư nghị. Căn cứ theo mười hai nhân duyên để phân biệt sự khác nhau của ba loại tư nghị, bất tư nghị giải thoát: Tức là căn tứ theo ba đạo của mười hai nhân duyên để phân biệt: Một là ba chi của quá khứ và hiện tại là phiền não đạo; hai, hai chi của quá khứ và hiện tại là nghiệp đạo; ba, bảy chi của hiện tại và vị lai là Khổ đạo. Nay căn cứ vào ba đạo của mười hai nhân duyên để luận về ba giải thoát và phân biệt tư nghị, Bất tư nghị khác nhau. Như Thông giáo tuy có nói Khổ đạo tức Chân tánh, nhưng lại thuộc về lý thiên chân pháp tánh, thuyết phiền não tức không, không chẳng phải là thật tuệ. Tuy nói nghiệp đạo tức không, nhưng “Không” chẳng phải là phương tiện, nên chẳng phải ba loại giải thoát Bất tư nghị. Như Biệt giáo nói Khổ đạo chẳng tức Chân tánh đại Niết- bàn, nhưng có lý Chân tánh Niết-bàn. Nếu Khổ đạo sinh tử diệt thì mới hiển Chân tánh, được thường trụ Niết-bàn; nói đạo phiền não chẳng tức thật tuệ, đoạn tận phiền não thì thật tuệ mới viên mãn, nói nghiệp đạo chẳng tức phương tiện, đoạn nghiệp thì mới phát khởi phương tiện độ sinh. Thế thì ba đạo của mười hai nhân duyên diệt, mới được ba loại giải thoát. Tuy luận đến ba loại giải thoát chân thường, nhưng còn có tướng tư nghị. Như Viên giáo nói Khổ đạo tức Chân tánh giải thoát Bất tư nghị, nên kinh ghi: “Tất cả chúng sinh tức đại Niết-bàn, chẳng cần phải diệt nữa”; nói phiền não tức thật tuệ giải thoát, thì như chẳng vào biển lớn thì chẳng lấy được bảo châu vô giá, cũng như thế, chẳng vào biển lớn phiền não thì chẳng được hạt châu Nhất thiết trí tâm, nói nghiệp đạo tức phương tiện giải thoát, nên kinh này nói: “Dùng tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, cũng chẳng buộc chẳng thoát”, hay khởi nghiệp tự tại, thị hiện vào khắp các cõi, không duyên, không niệm, mà lại có ba nghiệp ở mười pháp giới lợi ích chúng sinh, thì cũng như nam châm hút sắt”, cho nên kinh này lại nói: “Thực hành phi đạo tức thông đạt Phật đạo”, phi đạo tức ba đạo của mười hai nhân duyên; thông đạt Phật đạo tức ba loại giải thoát Bất tư nghị. Ba loại phi đạo chẳng ngại ba loại Phật đạo giải thoát, ba loại Phật đạo giải thoát chẳng ngại ba phi đạo của mười hai nhân duyên, như núi Tu-di nhét vào hạt cải không ngăn ngại nhau, đó là ba tướng Bất tư nghị giải thoát, ba tướng giải tho- át này chẳng dọc chẳng ngang, như chữ nhất thế gian, gọi đó là Bí mật tạng, cũng gọi là Bất tư nghị đại giải thoát. *. So sánh giải thích ba pháp: Ba giải thoát này là tên khác của các loại ba pháp môn trong Phật pháp. Ba pháp môn có rất nhiều loại, nay lược giải thích mười loại ba pháp: Ba đạo, ba thức, ba loại Phật tánh, ba loại Bát-nhã, ba loại Bồ-đề, ba loại Đại thừa, ba loại pháp thân, ba loại Niết-bàn, nhất thể Tam bảo, ba đức Niết-bàn. 1) So sánh giải thích ba đạo: Đây tức là ba đạo của mười hai nhân duyên. Chân tánh giải thoát tức khổ đạo, thật tuệ giải thoát tức phiền não đạo, phương tiện giải thoát tức là nghiệp đạo. Chân tánh giải thoát tức khổ đạo: Bồ-tát Văn-thù nói về Như Lai chủng rằng: “Thân là hạt giống, sáu nhập là hạt giống”, đó là hạt giống chánh nhân, hạt giống tức là Tánh, Tánh tức là chân tánh giải thoát. Phật tuệ giải thoát tức phiền não đạo: Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Tham dục là hạt giống, sân si là hạt giống”, đó là hạt giống liễu nhân. Kinh này nói rằng: “Nếu biết tánh của vô minh tức là minh”, minh tức thật tuệ giải thoát. Phương tiện giải thoát tức nghiệp đạo: Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: “Mười bất thiện đạo là hạt giống”, đây là hạt giống duyên nhân, là hạt giống của phương tiện giải thoát, hạt giống tức là tánh, nên kinh Niết- bàn ghi: “Mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh”, tức là ba đạo của mười hai nhân duyên, ba đạo tức ba loại Phật tánh. 2.So sánh giải thích ba thức: Ba-đà-na thức tức thức thứ sáu. A-đà-na thức tức thức thứ bảy. A-lê-da thức tức thức thứ tám. Chân tánh giải thoát tức là thức A-lê-da, thật tuệ giải thoát tức thức thứ bảy, phương tiện giải thoát tức thức thứ sáu. Hỏi: Luận Nhiếp Đại thừa nói thức A-lê-da là vô ký, căn bản của sinh tử, nào có quan hệ gì đến chân tánh giải thoát? Đáp: Nếu thế, há các Sư Địa luận y cứ kinh Lăng-già lại quá trái nghịch nhau sao? Nay nghiên cứu chỗ chấp của hai nhà thì biết đều có chỗ được mất. Nếu nói thức A-lê-da chẳng phải là bản tánh thanh tịnh, vì sao luận Nhiếp Đại thừa lại nói: “Như đại địa tức gồm vàng và đất, thức A-lê-da cũng như thế, nếu nhiễm thì đồng với đất thanh tịnh đồng với vàng.” Cho nên biết nghóa này gồm thông cả hai bên, sao hai nhà lại thiên chấp. Nay, nói thức A-lê-da tức Chân tánh giải thoát như vàng, thì sinh tử căn bản như đất. Hỏi: Các Sư Nhiếp Đại thừa nói thức thứ bảy là tâm chấp kiến, vì sao lại nói là Thật tuệ giải thoát? Đáp: Chuyển mê thành ngộ, nếu lìa mê chấp, thì từ nơi đâu để ngộ được thật tuệ? Cho nên biết thức thứ bảy chẳng mê chẳng ngộ mà được nói là mê ngộ. Vì ngộ nên gọi là Thật tuệ giải thoát. Hỏi: Thức thứ sáu là ý tưởng điên đảo phân biệt, cần phải đoạn trừ, vì sao gọi là phương tiện giải thoát? Đáp: Thức thứ sáu chẳng thiện chẳng ác mà hay tùy duyên khởi thiện ác. Nếu Bồ-tát biết được thức thứ sáu chẳng thiện chẳng ác mà khởi thiện ác, đồng sự để giáo hóa chúng sinh, tùy thuận hòa cùng trần tục thì đó là phương tiện giải thoát. So sánh giải thích ba loại Phật tánh: Một là chánh nhân Phật tánh; hai, liễu nhân Phật tánh; ba, duyên nhân Phật tánh. Kinh Đại Niết-bàn ghi: “Nói Phật tánh, tức cũng là một cũng chẳng phải một, chẳng phải một chẳng phải chẳng phải một.” Là một tức chánh nhân là chân chánh giải thoát, chẳng phải một tức duyên nhân Phật tánh, là phương tiện giải thoát, chẳng phải một chẳng phải chẳng phải một là liễu nhân Phật tánh, là Thật tuệ giải thoát. So sánh giải thích với ba loại Bát-nhã: là Thật tướng Bát-nhã, quán chiếu Bát-nhã và phương tiện Bát-nhã. Chân tánh giải thoát tức Thật tướng, Bát-nhã, Thật tuệ giải thoát tức quán chiếu Bát-nhã, phương tiện giải thoát tức phương tiện Bát-nhã. Theo nghóa mà suy có thể tự biết. So sánh giải thích với ba loại Bồ-đề: Một là Thật tướng Bồ-đề, kinh nói: “Phật biết tất cả chúng sinh tức là tướng Bồ-đề”; hai, Thật trí Bồ-đề; ba là phương tiện Bồ-đề. Chân tánh giải thoát tức Thật tướng Bồ-đề, thật tuệ giải thoát tức thật trí Bồ-đề, phương tiện giải thoát tức phương tiện Bồ-đề. Theo nghóa mà suy có thể tự biết. 6) So sánh phân biệt giải thích ba loại Đại thừa là Tánh thừa, Đắc thừa, và Tùy thừa. Tánh thừa: như kinh Niết-bàn ghi: “Tất cả chúng sinh tức Đại thừa.” Đắc thừa: tức trí tuệ hay đạt được lý chuyên chở nên gọi là Đắc thừa. Tùy thừa: Tức Đại phương tiện tùy thuận nơi trí tuệ. Chân tánh giải thoát tức Tánh thừa, thật tuệ giải thoát tức Đắc thừa, phương tiện giải thoát tức Tùy thừa. So sánh giải thích ba loại pháp thân là Pháp thân Phật, Báo thân Phật và Ứng thân Phật. Chân tánh giải thoát tức pháp thân, là tánh tịnh pháp thân Tỳ-lô-giá-na Phật, thật tuệ giải thoát tức báo thân, là Tịnh mãn pháp thân Lô-xá-na Phật, phương tiện giải thoát tức ứng thân, là ứng hóa pháp thân Thích-ca Mâu-ni Phật. Theo ý nghóa suy tìm có thể tự biết. So sánh giải thích ba loại Niết-bàn là Tánh tịnh Niết-bàn, Viên tịnh Niết-bàn và phương tiện tịnh Niết-bàn. Danh từ Viên tịnh chưa thấy ghi trong văn kinh. Có Sư Địa luận cho rằng “Phương tiện tịnh Niết- bàn phát xuất kinh văn, theo nghóa mà lập ứng hóa Niết-bàn, tất cả ba loại Niết-bàn. Như theo nghóa là đúng hay lấy Viên tịnh là đúng. Nếu lấy phương tiện thì phương tiện tịnh là đúng. Nay nói Chân tánh giải thoát tức tánh tịnh Niết-bàn, Thật tuệ giải thoát tức Viên tịnh Niết-bàn, phương tiện giải thoát tức phương tiện tịnh Niết-bàn. Hỏi: Đã dùng ba loại giải thoát so sánh giải thích ba loại Bát-nhã, vì sao lại còn dùng ba giải thoát so sánh giải thích ba loại Niết-bàn? Bát-nhã là tên của nhân, Niết-bàn là từ gọi quả. Thế thì phạm lỗi nhân quả lẫn lộn ư? Đáp: Những kinh luận nói về nghóa riêng biệt, có lúc lập nghóa này, còn các Giáo viên thông liễu nghóa như Bát-nhã Niết-bàn đều nói chung nhân quả, nên luận Trí Độ ghi: “Nếu như pháp mà quán Phật, Bát-nhã và Niết-bàn, thì cả ba chỉ là một tướng, không sai biệt.” Vả lại ba đức Niết-bàn chẳng dọc chẳng ngang, thì đâu được cho rằng Bát-nhã không thể đến quả ư? So sánh giải thích Nhất thể Tam bảo: Chân tánh giải thoát tức pháp bảo, Thật tuệ giải thoát tức Phật bảo. Kinh Niết-bàn ghi: “Nơi mà chư Phật y cứ, đó là pháp, vì pháp thường nên chư Phật cũng thường.” Phương tiện giải thoát tức Tăng bảo. Trong thân thì hòa bên ngoài thì đồng, hòa hợp với mười pháp giới và tất cả chúng sinh, lại làm cho tất cả vào được biển đại hòa hợp; đầy đủ ba hòa hợp này, nên gọi là chân tăng. So sánh giải thích ba đức Niết-bàn là pháp thân, Bát-nhã và giải thoát. Chân tánh giải thoát tức pháp thân, thật tuệ giải thoát tức ma-ha Bát-nhã, phương tiện giải thoát tức giải thoát. Kinh Niết-bàn ghi: “Chư Phật Bồ-tát tùy thuận nơi chúng sinh được điều phục mà gọi là giải thoát.” Nếu đoạn phiền não lìa sinh tử gọi là giải thoát thì đâu khác gì Nhị thừa, nay nói giải thoát của Đại thừa, là sinh vào năm đường, thị hiện các thân hình, tự mình đã không bị trói buộc mà còn cởi trói buộc cho người. Ba đức này chẳng dọc chẳng ngang, như ba con mắt trên mặt của trời Ma-hê-thủ-la, đó gọi là Bí mật tạng thành đại Niết-bàn. Ba loại giải thoát, ba đạo, ba thức, ba Phật tánh, ba Bát-nhã, ba Bồ-đề, ba Đại thừa, ba thân Phật, ba Niết-bàn, ba bảo cũng như thế, đều chẳng ngang chẳng dọc như chữ nhất thế gian, gọi đó là Bí mật tạng, là Đại giải thoát, tức là Bách cú giải thoát đại Niết-bàn, cũng tức là Nhất thiết giải thoát nói trong kinh Pháp Hoa. Căn cứ theo giáo để phân biệt Tư nghị và Bất tư nghị: Hỏi: Giai vị của Tam Tạng giáo có được Bất tư nghị chăng? Đáp: Giáo, chứng của Tam thừa thuộc Tam Tạng giáo đều không phải là Bất tư nghị. Hỏi: Giai vị của Thông giáo có Bất tư nghị chăng? Đáp: Nếu nói về nhân thông quả thông thì giáo chứng của Tam thừa Thông giáo đều chẳng phải là Bất tư nghị. Nếu dùng Biệt tiếp Thông thì giáo là tư nghị, chứng là Bất tư nghị; nếu dùng Viên tiếp Thông thì giáo và chứng đều Bất tư nghị. Hỏi: Vị của Biệt giáo có Bất tư nghị chăng? Đáp: Giáo của Biệt giáo là tư nghị, chứng của Biệt giáo vừa Tư nghị và Bất tư nghị. Chân chứng ba mươi tâm là tư nghị, tựa chứng là tương tự Bất tư nghị, từ các Địa trở lên, chứng đạo thì đều là Bất tư nghị. Nếu dùng Viên tiếp Thông thì giáo chứng đều Bất tư nghị. Hỏi: Căn cơ Biệt giáo, nếu thọ học giáo tư nghị, thì đâu thể chứng lý Bất tư nghị? Đáp: Như chuyết độ trong Tam Tạng giáo, nói thấy có đắc đạo phát chân trí ngộ Đệ nhất nghóa đế, tức Đệ nhất nghóa đế của Thông giáo. Hỏi: Viên giáo nói về vị có được Bất tư nghị chăng? Đáp : Giáo, chứng các Viên giáo đều Bất tư nghị. Vì sao? Vì Tu- đa-la viên mãn nói về lý bất tư nghị, tức bất tư nghị. Người chưa thọ giáo tu tập là lý tức bất tư nghị, vừa nghe Viên giáo Bất tư nghị liền tín sâu thọ nhận là danh tự tức bất tư nghị. Tùy hỷ tu ngũ phẩm đệ tử là quán hành tức bất tư nghị, được sáu căn thanh tịnh là tương tự tức bất tư nghị vào sơ trụ phát chân, cho đến Đẳng giác là phần chứng chân thật tức bất tư nghị giải thoát. Diệu giác cực địa là Cứu cánh tức bất tư nghị giải thoát. Như kinh Pháp Hoa nói về khai quyền hiển thật, thì giáo chứng của ba giáo trước đều là Bất tư nghị. Căn cứ vào quán tâm để nói về Bất tư nghị giải thoát: Nếu biết tánh của dâm, nộ, si là giải thoát, tức khéo dùng quán tâm, chẳng đoạn chẳng tùy, quán tâm rốt ráo được thanh tịnh, đó là nghóa Bất tư nghị giải thoát. Cho nên kinh ghi: “Cần sự giải thoát của chư Phật, nên tìm cầu nơi tâm hành của chúng sinh”, nếu cầu như thế tức có khí phần của ba loại giải thoát. Giống như tất cả ba pháp đều nơi một niệm quán tâm. Hợp nhân pháp để giải thích kinh: Người (nhân) là Tỳ-ma-la-cật tức ba nghóa Tịnh Vô cấu xưng đã nói ở trước; pháp tức ba pháp chân tánh, thật tuệ và phương tiện. Nếu người lìa pháp thì chẳng phải là người hay hoằng pháp nếu pháp lìa người thì chẳng phải là pháp được hoằng truyền. Nay người pháp thành tựu cho nhau, người là người hoằng pháp, pháp là pháp được hoằng. Căn cứ theo người để nói về tịnh tức là chân tánh; căn cứ theo người để nói về Vô cấu tức là nghóa thật tuệ không hoặc nhiễm; căn cứ theo người để nói về Xưng tức phương tiện hợp căn duyên. Nếu nhân và pháp hợp tức trụ nơi Bất tư nghị giải thoát, thị hiện các thân hình, hay giúp Phật hoằng dương ba pháp giải thoát, trong đó phương tiện giải thoát giáo hóa phàm phu, thật tuệ giải thoát giáo hóa chiết phục Thanh văn, chân tánh giải thoát chê trách Bồ-tát. Một phẩm Vấn Tật trong trượng thất nói về cõi Phật đều không là hiển quả Bất tư nghị giải thoát, hiện nơi bệnh quyền giả, gá bệnh hưng khởi giáo. Vì hàng Bồ-tát sinh thật bệnh mà lập ba quán khéo phá ba căn bệnh thật. Phẩm Bất tư nghị giải thoát lặp lại quả, các phẩm quán chúng sinh, Phật đạo, nhập Bất nhị pháp môn, Hương tích, đều xác nhận lại về nhân của ba quán; luận quả thuyết nhân, nhân quả tuy khác, nhưng đều nói về giáo Bất tư nghị giải thoát. Thời gian giáo hóa đã xong, nên dùng bàn tay đưa đại chúng trở về trụ xứ của Phật, biểu thị những chúng sinh được giáo hóa đã đoạn trừ duyên phược, sẽ sinh Tịnh Độ, thành tựu hạnh thanh tịnh cõi Phật. Lại còn muốn làm lợi ích chúng sinh đời vị lai, nên khuyên bảo cúng dường pháp này, và phó chúc lưu thông. Tất cả đều xiển dương Đạo lớn ba giải thoát Bất tư nghị. <篇> <卷>QUYỂN 6 Đoạn 2: LUẬN VỀ THỂ: Ở trên là một đoạn lớn của huyền nghóa, lập năm lớp. Đoạn lớn một giải thích danh đã xong, từ đây là đoạn lớn hai nói về ý chánh của kinh này, cũng như nước phải có vua, thì giáo ắt phải có chủ. Y cứ vào đó nên dùng bảy ý để giải thích: Luận về thể. Phân biệt ngụy để hiển chân. Vào môn thật tướng. Một pháp khác môn. Là thể các kinh. Căn cứ quán tâm. Giải thích chung kinh này. <詞>LUẬN VỀ THỂ CỦA KINH: Kinh này dùng chân tánh giải thoát Bất tư nghị làm thể. Nghóa của Chân tánh giải thoát như đã luận ở trước. Phần này được chia làm hai ý: Một là, chánh thức luận về thể của kinh; hai, nên biết thể của kinh. Chánh thức luận về Chân tánh Bất tư nghị là thể của kinh: Như có người cho rằng kinh này dùng quyền thật làm thể, thể tức là tông. Ở đây lại dùng chân tánh giải thoát Bất tư nghị làm thể, cũng như bầu trời không có hai mặt trời, nước không có hai vua. Nếu dùng quyền thật làm thể, quyền thật là hai pháp, thế thì một giáo có hai thể. Nay chỉ dùng chân tánh giải thoát Bất tư nghị làm thể, chân tánh tức lý nhất thật, nếu dùng lý nhất thật làm thể, không phạm vào lỗi có hai thể. Chân tánh giải thoát, như kinh này nói: “Tánh của dâm, nộ, si tức giải thoát”; nay nói tánh của dâm, nộ, si tức chân tánh, chân tánh tức tên khác của thật tướng Nhất thật đế. Kinh Đại Niết-bàn nói Nhất thật đế tức Chân pháp. Nếu pháp chẳng chân thì chẳng gọi là Thật đế. Hỏi: Trên nói chân đế tức là lý giải thoát tư nghị, vì sao ở đây lại nói tánh Chân đế tức lý giải thoát Bất tư nghị? Đáp: Trên nói về chân của thiên chân, ở đây y cứ theo kinh Đại Niết-bàn để nói về Thật đế. Thật đế tức là Viên chân Bất tư nghị. Pháp tánh Viên chân tức Chân tánh giải thoát, chân tánh giải thoát thì không có tám đảo, không có tám đảo tức chân tánh giải thoát. Chân tánh giải thoát không hư vọng, không hư vọng tức chân giải thoát. Chân tánh giải thoát tức Đại thừa, Đại thừa tức chân tánh giải thoát; chân tánh giải thoát chẳng có tám ma, chẳng có tám ma tức chân tánh giải thoát; chân tánh giải thoát tức chỉ một đường thanh tịnh, một đường thanh tịnh tức chân tánh giải thoát, chân tánh giải thoát tức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh; Thường, Lạc, Ngã, Tịnh tức chân tánh giải thoát Bất tư nghị, chân tánh giải thoát Bất tư nghị tức là thể chánh của kinh này. Như thế, chân tánh há lại đồng với thiên chân được sao? Nên biết thể của kinh: Nếu học kinh mà không biết yếu chỉ thì cũng giống như Điều-đạt, tuy có đọc sáu vạn pháp tạng, cũng không tránh khỏi hiện đời rơi vào địa ngục lớn. Còn như Bàn-đặc chỉ tụng một câu kệ mà thành A-la-hán: Như Luận Đại Trí Độ nói kinh Thanh văn có ba pháp ấn là vô thường, vô ngã, tịch tónh Niết-bàn. Kinh Tiểu thừa có ấn này tức là kinh liễu nghóa của Tiểu thừa. Người tu hành tu học giáo này có thể đắc đạo. Nếu không có ba pháp ấn là kinh chẳng liễu nghóa, người nghe vị tất ra khỏi sinh tử. Còn tất cả kinh Đại thừa chỉ có một pháp ấn đó là Thật tướng ấn. Nếu kinh Đại thừa có Thật tướng ấn tức là kinh Đại thừa liễu nghóa, người nghe sẽ đạt được đạo Bồ-tát, nếu không có Thật tướng ấn tức chẳng phải kinh liễu nghóa, người nghe sẽ rơi vào nhị biên, không đạt được vô sinh nhẫn. Vả lại nếu không có Thật tướng ấn, cho dù nói đủ các hạnh nguyện, cũng thuộc ma thuyết. Vì sao? Vì ma vương cũng có thể nói các hạnh nguyện, nhưng chẳng thể nói thật tướng các pháp. Cho nên luận Đại Trí Độ ghi: “Ngoài thật tướng các pháp ra, còn tất cả đều là việc ma”, thật tướng các pháp tức là tên khác của chân tánh giải thoát. Hỏi: Vì sao kinh Thanh văn lại dùng ba pháp ấn, kinh Ma-ha-diễn dùng một Thật tướng ấn? Đáp: Hàng Thanh văn căn tánh chậm lụt, tâm chấp trước sâu nặng, cần phải nói ba pháp ấn để họ nhàm chán sinh tử khổ mà ưa thích Niết-bàn an lạc. Hàng Bồ-tát đại Bi, căn tánh lanh lợi, dễ ngộ sinh tử tức Niết-bàn, lại chẳng bỏ sinh tử, chẳng chứng Niết-bàn, mà vào pháo môn bất nhị, nên Phật chỉ nói Thật tướng ấn của các pháp. Hỏi: Nếu nói nước không có hai vua, kinh Đại thừa chỉ dùng một pháp thể, còn kinh Thanh Văn lấy ba làm thể, há chẳng có lỗi ba chủ ư? Đáp: Như vua giỏi chẳng cần phụ tướng, vua kém thì cần phải có phụ tướng để giúp cùng nhau trị nước, nơi kinh Thanh văn, lý pháp tướng rất yếu, nên cần phải có ba ấn để trị, phá ái thì quán vô thường, phá kiến thì quán vô ngã, nếu vào vị khổ nhẫn, chân thật sáng tỏ, thì đều được tịch diệt. <詞>PHÂN BIỆT NGỤY ĐỂ HIỂN CHÂN: Gồm ba ý: Một là, chánh thức phân biệt ngụy hiển chân; hai, căn cứ vào cộng và bất cộng giáo để phân biệt đồng dị; ba, căn cứ theo Đế để nói về lấy bỏ. Một, chánh thức phân biệt ngụy hiển chân: Thật lý sâu xa vi diệu, khó có thể phân biệt chân ngụy, nhưng giáo hạnh mà phàm phu tu tập, mỗi mỗi chẳng thể không đạt chân thật. Cho nên những người tu học phải tự dùng trí lực của mình dể nghiệm xét chân ngụy. Theo đó mà phân làm hai ý để giải thích: Một là phân biệt chẳng phải thật tướng; hai, chánh thức hiển thật tướng. Phân biệt chẳng phải thật tướng: gồm ba ý: Một là, điều mà sách thế tục nói chẳng phải là thật tướng; hai, điều mà kinh sách ngoại đạo nói chẳng phải là thật tướng; ba, pháp mà kinh giáo Thanh văn nói chẳng phải là thật tướng. Điều mà kinh sách thế gian nói chẳng phải là thật tướng. Những điều mà kinh sách thế gian nói chỉ là các phép tắc trị nước an dân, thưởng thiện phạt ác, tức là đạo nhân, nghóa, lễ, trí, thành tín, hiếu kính, dưỡng sinh dưỡng tánh mà thôi, thuộc về Ái luận, cho đến các bộ Thiện luận của Thích Đề-hoàn Nhân, Xuất dục luận của Phạm Thiên vương, Thần tiên luận của Tiên ngũ thông, đều là hý luận về Ái. Hý luận phá hoại tuệ nhãn khiến chẳng thấy được chân thật, nên đều chẳng phải là thật tướng. Pháp mà các kinh sách của ngoại đạo nói chẳng phải là thật tướng: Ngoại đạo phần nhiều khởi thân Kiến, biên Kiến và tà Kiến, hoặc chấp thần và thế gian là thường là sự thật còn tất cả là vọng ngữ, hoặc chấp Thần và thế gian chẳng thường chẳng vô thường là sự thật, còn tất cả đều là vọng ngữ, như thế rơi vào mười bốn nạn, sinh sáu mươi hai kiến. Tuy mỗi mỗi đều cho là thật nhưng chẳng phải là thật tướng, vì mỗi mỗi đều nhân Kiến chấp, khởi phiền não, tạo tác các hành nghiệp lưu chuyển nơi sinh tử. Vì thế các ngôn giáo của họ đều thuộc kiến hý luận. Hý luận phá tuệ nhãn, làm cho chẳng thấøy được chân thật, nên chẳng phải là thật tướng các pháp. Pháp mà kinh giáo Thanh văn nói chẳng phải là thật tướng: Kinh Thanh văn phần nhiều nói về vô thường, vô ngã, phá hoại các pháp, nói Niết-bàn diệt khổ. Hơn nữa hàng Thanh văn chán sợ sinh tử mà quán vô thường, đoạn kết sử, ngay nơi thân này muốn vào Niết-bàn, không cầu thật tướng các pháp, cho nên chẳng nói đến thật tướng. Hiển thị tướng chân thật. Những pháp mà giáo Ma-ha-diễn nói là vì hàng Bồ-tát lợi căn mà thuyết như pháp tướng, phần nhiều hiển thị Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Bồ-tát đại bi, vì chúng sinh mà cầu đạo vô thượng, quán sâu xa các pháp chẳng tính kiếp số dài lâu, chẳng rơi vào nhị biên, nhất tâm hằng vắng lặng, như nước lắng trong, hạt châu tự hiện, đạt được thật tướng các pháp, nên pháp Ma-ha-diễn nói có chân thật tướng của các pháp, chân thật tướng các pháp tức chân tánh giải thoát Bất tư nghị đó là thể của kinh này. Hai, Căn cứ vào cộng giáo, bất cộng giáo để phân biệt đồng dị: gồm hai ý: Một là, căn cứ cộng Nhị thừa thuyết Bát-nhã để nói về pháp tánh thật tướng có đồng có dị; hai, căn cứ bất cộng Nhị thừa thuyết Bát- nhã để nói pháp tánh thật tướng chỉ khác mà chẳng đồng. Căn cứ cộng Bát-nhã để nói pháp tánh thật tướng là thể của kinh Đại thừa có đồng có dị: gồm ba ý: Một là, căn cứ Thông giáo; hai, căn cứ Biệt giáo; ba, căn cứ Viên giáo. Căn cứ Thông giáo để nói về đồng dị: Nói đồng tức đồng vào pháp tánh thiên chân; nói dị tức là tuy ba thừa đồng vào pháp tánh mà lại có sâu cạn khác nhau tức chỉ đoạn chánh sử hay dứt trừ hết các hoặc và tập khí, như đã phân biệt nơi phần Thông giáo ở trước. Hàng Thanh văn vào cạn chỉ đoạn chánh sử, hàng Duyên giác vào hơi sâu, dần đoạn trừ tập khí. Bồ-tát đạt đến cùng nguồn pháp tánh, tập khí trừ sạch. Ví như ba con thú qua sông, dòng sông chỉ là một chân của mỗi loại thỏ ngựa voi có dài ngắn khác nhau, nên lội nước lại có sâu cạn sai biệt. Dòng sông là một mà sâu cạn có khác. Căn cứ vào cộng thuyết Bát-nhã Biệt giáo nói về không, chẳng không mà luận về pháp tánh có đồng dị: Kinh Niết-bàn ghi: “Đệ nhất nghóa không gọi là trí tuệ”, Trí tức thấy không và chẳng không, Thanh văn và Bích-chi-Phật chỉ thấy không mà chẳng thấy chẳng không. Thanh văn Bồ-tát đồng thấy không, thì đồng một tên lý pháp tánh, nhưng Bồ- tát lại thấy chẳng không, chẳng không tức là tánh của trí tuệ, gọi đó là thấy Phật tánh, nên có khác (dị). Ví như ba thú qua sông, hai con thỏ và ngựa lội trên mặt nước mà qua chỉ biết được nước mềm, còn như voi vừa bơi trên nước vừa đạp đến đáy, bơi trên nước thì biết nước mềm, đạp tận đáy, chạm đất thì biết chẳng mềm. Hỏi: Chẳng không là đương có, nên gọi là thấy chẳng không, hay là không có không mà nói là thấy chẳng không? Đáp: Gồm hai ý: Một là, có nên nói chẳng không, tức có tánh trí tuệ nên chẳng phải không; hai, không nên nói chẳng không, tức lý chân đế pháp tánh là không, không này rốt ráo bất khả đắc, cho nên nói chẳng không. Nói chẳng không, tức chẳng phải không của lý chân đế pháp tánh, nên luận Đại Trí ghi: “Không có hai loại là Đản không và Bất khả đắc không”, hàng Thanh văn chỉ đạt được Đản không, trí tuệ như ánh sáng đom đóm, Bồ-tát thì đạt được Đản không và Bất khả đắc không, trí tuệ như mặt trời. Hàng Nhị thừa đồng được Đản không nên nói là đồng, chỉ có Bồ-tát được bất khả đắc không nên nói là Dị. Ví như đào đất, qua lớp đất đến lớp bùn, hết lớp bùn đến nước. Căn cứ theo cộng thuyết Bát-nhã, nói về pháp tánh thật tướng, bất tư nghị có đồng dị: Hàng Thanh văn vào pháp tánh chỉ thấy pháp tánh như hư không, không có một vật, Bồ-tát và chư Phật vào pháp tánh thật tướng cũng thấy pháp tánh như hư không, nhưng ở nơi pháp tánh như hư không ấy, mà khai mở tri kiến Phật, chiếu soi đầy đủ tất cả pháp nơi pháp giới, vì đồng vào pháp tánh như hư không, không vật, nên gọi là đồng, riêng Bồ-tát và chư Phật hay ở nơi pháp tánh như hư không mà chiếu soi khắp pháp giới, đó là pháp tánh Bất tư nghị nên gọi là Dị. Cho nên ngài Thân tử lãnh hội được mà than rằng: “Đồng ở trong một pháp mà chẳng đạt được việc này,than ôi!Thật đáng tự trách! Làm sao mà tự khi mình đến thế!” Vậy lược nói Cộng Bát-nhã cũng thuyết chung cho hàng Nhị thừa, mà lợi độn của các căn cơ thượng, trung, hạ khác nhau. Cho nên cùng trong một pháp tánh mà Thông, Biệt, Viên lại khác nhau. Ví như trong đá có chất vàng, có người đập đá lấy được vàng mà chẳng thể tạo các vật trang sức như vàng, xuyến, trâm, thoa… lại có người được vàng, thì tạo ra các món trang sức như trên, nhưng chẳng thể luyện vàng thành Đan, uống vào sẽ thành Tiên được ngũ thông vô ngại. Vàng chỉ là một, mà người được vàng có ba loại khác nhau. Căn cứ Bất cộng thuyết Bát-nhã, nói pháp tánh thật tướng là thể của kinh Đại thừa chỉ hoàn toàn khác (Dị). Tức là hàng Nhị thừa thấy thiên chân nên chẳng được nói là Đồng, gồm hai ý là căn cứ theo Biệt giáo và căn cứ theo Viên giáo. Căn cứ theo Bất cộng Bát-nhã Biệt giáo để nói về pháp tánh pháp tướng: Đoạn trừ hai chướng, xa lìa hai bên sinh tử, Niết-bàn, dùng riêng lý bất không, lý Như Lai tạng tự tánh thanh tịnh tâm làm pháp tánh thật tướng. Thế thì hàng Thanh văn ở trong hội như điếc như câm. Ví như lọc quặng được vàng ròng khác với pha lê, vàng ròng bền chắc chẳng thể phá hoại, tùy ý mà tạo thành các vật, pha lê dễ vỡ, chẳng thể chế tạo thành các vật dụng. Căn cứ Bất cộng Bát-nhã Viên giáo để nói pháp tánh pháp tướng là thể kinh Đại thừa: Tất cả các pháp đều là Như Lai tạng Phật tánh Niết-bàn, thế thì Nhị thừa tại hội tòa như câm như điếc, ví như hạt châu như ý chẳng phải là hạt châu pha lê, thì đâu có thể nói là đồng. Ba, căn cứ theo Đế để phân biệt: Tức nói về lý pháp tánh thật tướng chẳng ra ngoài Đế, cho nên căn cứ vào Đế để phân biệt. Nhưng Đế có ba loại là Tam đế, Nhị đế và Nhất đế. Căn cứ Tam đế để phân biệt pháp tánh thật tướng là thể của kinh này: gồm hai ý là lược nêu ba đế và nói về lấy bỏ. Lược nói về ba đế: Ba đế là Tục đế, Chân đế và Trung đạo Đệ nhất nghóa đế. Nghóa của Tam đế như trong phần nói về bốn giáo đã phân biệt. Nói về lấy bỏ: Tục đế chỉ là lý mà hàng phàm phu nhận biết, nên chẳng phải là thể của kinh; Chân đế là lý mà hàng Nhị thừa thấy được nên cũng chẳng phải là thể của kinh. Trung đạo Đệ nhất nghóa tức pháp tánh thật tướng, là thể chánh của kinh này. Căn cứ Nhị đế để phân biệt pháp tánh thật tướng là thể của kinh này: gồm hai ý: Một, lược nói tướng của Nhị đế; hai, nói về lấy bỏ. Nói về tướng của hai đế: Hai đế có hai loại là hai đế lý ngoại và hai đế lý nội. Hai đế lý ngoại là hai đế chẳng y cứ vào Phật tánh để luận, tức còn ở ngoài cửa, tá túc nơi thảo am, nay nói hai đế ngoài lý lại có ba loại là Tùy tình, tình trí và Tùy trí. Hai đế tùy Tình, như các luận Sư soạn nghóa hai đế, xưa nay có mười nhà nói về nghóa hai đế khác nhau, vả lại xét trong kinh luận, thì nói tướng hai đế cũng khác nhau. Nhưng hai đế đã có lý chắc thật, thì đâu thể nói có các thuyết khác nhau? Nếu một nhà đúng thì các nhà khác đều sai, vậy thuyết nào được định là đúng. Nay nêu ba loại hai đế để giải thích chung về hai đế mà các nhà đã nói. Nếu có văn dẫn chứng đều có thể dùng các thuyết khác nhau của kinh luận, mà không ngăn ngại. Cho nên nói: “Chư Phật thường nương vào Nhị đế để thuyết pháp”. Nhưng lý hai đế chẳng được khác nhau, mà các Sư và các kinh luận giải thích khác nhau, đó là hai đế Tùy tình. Tức là tùy căn cứ hữu tình mà bốn Tất-đàn thế giới, vị nhân, đối trị, Đệ nhất nghóa đã biện luận. Chúng sinh có căn tánh khác nhau thì hai đế mà Phật đã nói đâu chỉ giới hạn khác nhau ở mười nhà, mà phải có vô lượng khác nhau. Cho nên kinh Niết-bàn ghi: “Phân biệt hai đế có vô lượng tướng.” Đối với kinh ấy Ta chẳng thuyết như thế sao? Mà các Sư đời sau mỗi mỗi lại lập một loại Nhị đế mà chẳng chấp nhận các thuyết của các Sư khác, thế chẳng phải là sai trái lắm ư? Hai đế này tùy tình trí: Như trên đã nói có các loại hai đế, tùy thuận cách hữu tình dùng Thế giới, vị nhân, và đối trị nghe thuyết mà chưa ngộ, thì đều bị trói buộc nơi Thế đế; nếu các Nhị đế khác được nói cho người hướng vào đạo, vừa nghe liền ngộ, phát chân tuệ nhãn, thấy Đệ nhất nghóa, tức là chân đế tùy trí. Thế thì tình và trí luận chung, có hai đế khác nhau. Cho nên kinh Niết-bàn nói: “Như Sở kiến của tâm người thế gian là Thế đế, Sơ kiến của tâm hàng xuất thế gọi là Đệ nhất nghóa đế.” Hai đế tùy trí: Tức lý Nhị đế mà pháp nhân tuệ nhãn của hàng Thánh nhân Nhị thừa phát chân vô lậu thấy được; nếu vì hàng phàm phu mà thuyết, thì cũng như chỉ màu trắng cho người mù. Cho nên kinh Diệu Thắng Định ghi: “Ngài Văn-thù và Đức Thích-ca khi còn ở nơi nhân địa đã tranh cải nhau về nghóa Nhị đế, nên đọa vào ba đường ác, khi nghe Đức Phật Ca-diếp nói Nhị đế liền hiển hai đế Tùy trí, không dùng tình thức mà cầu”, nếu theo tình mà cầu tìm tranh chấp thì đồng với Thích- ca, Văn-thù nơi nhân địa phạm lỗi chấp hai đế tùy tình. Hỏi: Hai đế được định là lý hay định là giáo? Đáp: Có Sư cho rằng đều là lý, có Sư cho rằng đều là giáo; có Sư cho rằng Tục đế là giáo, Chân đế là lý, nên kinh ghi: “Đều dùng danh tự Thế đế nên nói chẳng phải Đệ nhất nghóa đế. Nay xét nghóa của ba Sư này thì đều có chỗ đúng và sai. Theo bốn câu phân biệt, nếu y cứ hai đế tùy tình thì hai đế đều là giáo, vậy hai đế đâu có thể thuyết được, cho nên có các loại hai đế. Các Sư và trong kinh đều nói khác nhau. Nếu căn cứ theo hai đế tùy tình trí thì Tục đế là giáo, chân đế là lý, Tục đế có thể thuyết, chân đế chẳng thể thuyết. Nếu y cứ theo hai đế Tùy trí thì hai đế đều là lý, hai đế chẳng thể thuyết; thế thì pháp mà Đức Ca-diếp Như Lai chứng đắc còn chẳng phải là pháp mà Văn-thù, Thích-ca nơi nhân địa biết được, hà huống gì phàm phu đời sau có thể biết được ư? Nay lược nêu ba loại hai đế này, tuy lời chẳng nhiều mà ý không đâu chẳng bao quát. Những bậc nghóa học và tu thiền trong Phật pháp, nếu chẳng tin điều này thì tâm nghi và sự tranh luận đâu thể dứt? Hai đế lý nội: Tức hai đế được y cứ vào Trung đạo Phật tánh để thuyết minh. Gồm ba loại: Một là Trung đạo hợp với Chân đế nói về hai đế; hai, Chân đế hợp với Tục đế nói về hai đế; ba, Hai đế Bất tư nghị. Ba loại hai đế này, mỗi mỗi cũng có đủ ba loại là Tùy tình, Tình trí, và Tùy trí. Một, hai đế do Trung đạo Phật tánh và Chân hợp thuyết minh: giống như hai đế của Thông giáo, không chỉ chung cho Nhị thừa mà còn chung cho Biệt và Viên. Nói Trung đạo hợp chân là Đệ nhất nghóa đế, như kinh Niết-bàn ghi: “Nói Phật tánh tức Đệ nhất nghóa không, Đệ nhất nghóa không, gọi là trí tuệ; trí tức thấy được không và chẳng không, chẳng không tức là Trung đạo; không tức là chân đế”. Cho nên biết Trung đạo Phật tánh hợp với Chân đế là Đệ nhất nghóa đế. Cũng có ba loại Nhị đế, so sánh với đoạn trước có thể tự biết. Hai, Hai đế do Chân đế hợp với Tục đế để thuyết minh: Nếu chỉ lấy Trung đạo làm Chân đế để nói về Chân đế này tức là hai đế của Biệt giáo. Nay nói Chân đế hợp Tục đế là Thế đế. Kinh Đại Niết-bàn ghi: “Ta và Di-lặc đều nói về Tục đế mà năm trăm Thanh văn đều cho là nói Đệ nhất nghóa đế”, đây là Nhị đế của Biệt giáo. Cũng có ba loại đế, so sánh với trước có thể biết. Ba, hai đế Bất tư nghị lý nội: trước đã nói hai loại đế của lý nội, chẳng hai mà hai là hai đế của Viên giáo Bất tư nghị, cũng có ba loại hai đế, so sánh với trước có thể biết. Nói về lấy bỏ: Hai đế lý ngoại thì không chỉ Thế đế chẳng phải là Thể của kinh này, mà Chân đế cũng chẳng phải. Hai đế lý nội, thì ba loại Thế đế chẳng phải Thể của kinh này, còn ba loại Chân đế tức là pháp tánh thật tướng, là Thể của kinh này. Hỏi: Chỉ nên lấy một Chân đế Bất tư nghị của Viên giáo làm Thể, đâu được lấy Chân đế lý nội của Biệt, Thông làm Thể? Đáp: Nếu là chánh trực xả phương tiện của Pháp Hoa thì chỉ dùng một Chân đế của Viên giáo làm Thể, còn kinh này gồm hai loại phương tiện Biệt Thông, nêu ba loại Chân đế lý nội được dùng làm Thể của kinh này, nhưng có chánh và phụ, trong đó Chân đế Bất tư nghị là chánh. Căn cứ theo Nhất thật đế để nói về Thể của kinh này. Nghóa của Nhất thật đế như trước đã nói, nhưng Nhất thật đế là lý thật tướng của chân tánh giải thoát Bất tư nghị, là Thể của kinh này. Như phần dẫn kinh Niết-bàn giải thích ở lớp thứ nhất. <詞>NÓI VỀ BỐN MÔN NHẬP THỂ: Xét về Thể của chân tánh giải thoát thì thật là sâu xa vi diệu, tất cả thế gian chẳng thể khế hợp. Nhưng vì bậc Đại thánh thấu suốt được cửa thông lý, nên ở nơi lý không lời mà ứng duyên lập giáo, lấy giáo làm cửa (môn). Vì thế chúng sinh vâng thọ giáo này nhờ nơi môn mà Khế hội với lý. Cho nên kinh Pháp Hoa ghi: “Dùng giáo môn của Phật để ra khỏi ba cõi”, lại nói: “Môn trí tuệ kia, khó hiểu khó vào”. Kinh này nói các Bồ-tát, mỗi mỗi đều nói vào pháp môn Bất nhị, tức là ý này. Nay lược nêu ba ý để giải thích: Lược nói về tướng của bốn môn Chánh thức nói về bốn môn nhập thể Nói về bốn Tất-đàn khởi giáo bốn môn. Luận về tướng của bốn môn: Môn nghóa là “dẫn thông”. Pháp bốn câu chánh mà Phật giáo trình bày hay dẫn thông hành nhân đến Thể của chân tánh giải thoát, nên gọi là môn. Nếu ngoại đạo dùng tà nhân duyên, không nhân duyên mà nói bốn câu, do bốn câu này mà mỗi mỗi thấy lý của bốn loại tà pháp này, rồi sinh mười bốn mạn, sáu mươi hai kiến, khởi các kết nghiệp trần luân nơi sinh tử, thì đó là bốn môn tà đạo, nay chẳng luận đến. Còn như bốn môn của Phật pháp tức là pháp bốn câu chánh nhân duyên, hay dẫn thông hành giả đồng vào Đệ nhất nghóa Niết-bàn. Cho nên luận Đại Trí Độ ghi: “Bốn môn vào nơi mát mẻ.” Lại “Bát-nhã thí như lửa cháy lớn, bốn phía chẳng thể chấp thủ.” Lại nói: “Bát-nhã Ba-la-mật có bốn tướng, tức nghóa bốn môn.” Tìm xét Phật pháp đã có bốn giáo khác nhau, nay y cứ theo giáo để luận về môn, mỗi mỗi cũng có bốn ý: Một là bốn môn của Tam tạng; hai, bốn môn của Thông giáo; ba, bốn môn của Biệt giáo; bốn, bốn môn của Viên giáo. Bốn môn của Tam Tạng giáo: Đó là hữu môn, không môn, hữu không môn và phi hữu phi không môn. Nói về hữu môn: Tức là hữu của chánh nhân duyên sinh diệt. Nếu thọ học giáo này, có thể phá trừ mười sáu tri kiến, thấy tất cả các pháp hữu vi ấm giới nhập đều vô thường, Khổ, không, vô ngã, đạt được Thế Đệ nhất pháp, phát chân vô lậu. Nhân hữu thấy chân hữu tức là môn Đệ nhất nghóa đế. Cho nên kinh Đại tập nói: “Lý rất sâu xa, chẳng thể nói, Đệ nhất thật nghóa không có âm Thanh văn tự, Tỳ-kheo trần như đạt được tri kiến chân thật nơi các pháp”, đó chính là nghóa mà luận A-tỳ-đàm đã nói. Luận về không môn: Tức là Tam Tạng giáo nói nghóa phân tích pháp chánh nhân duyên thật giả để nhập không. Người tu tập giáo này phá được các hoặc thật giả, thấy thật giả không, phát chân vô lậu. Nhân nơi không mà thấy chân không, tức là Đệ nhất nghóa môn. Cho nên tu Bồ-đề ở nơi thạch thất quán sinh diệt vô thường mà nhập không, nhân nơi không mà đắc đạo, gọi là thấy pháp thân Phật, ngờ rằng đây là nghóa của luận Thành Thật. Luận về hữu không môn: Tức là nghóa hữu không của nhân duyên sinh diệt mà Tam Tạng giáo đã nói. Người tu học giáo này phá trừ các hoặc thiên chấp có không, thấy được nhân duyên hữu không, phát chân vô lậu. Nhân nơi hữu không mà thấy được chân hữu không, tức Đệ nhất nghóa môn. Đây là nhân nhập đạo của ngài Ca-chiên-diên, nên tạo luận Côn-lặc trình bày môn này. Nói về phi hữu phi không: Tức là lý chánh nhân duyên sinh diệt phi hữu phi không mà Tam Tạng giáo đã nói. Người tu học giáo này sẽ phá được tà chấp hai bên có không, thấy nhân duyên chẳng có chẳng không, phát chân vô lậu. Nhân nơi phi hữu phi vô mà thấy được chân phi hữu phi vô, tức Đệ nhất nghóa môn. Ác khẩu Xa-mặc nhân đây mà nhập đạo, ở đây chưa thấy luận ghi chép. Có người cho rằng A-tỳ-đàm của Độc tử bộ trình bày ý này. Luận kia nói rằng ngã ở nơi bất khả thuyết Tạng thứ năm, ngã chẳng thuộc ba đời, tức pháp phi hữu phi vô, tức phi không. Nghóa này chưa thể sử dụng được. Bốn môn của Thông giáo: Như Luận Đại Trí Độ nói bốn môn là: Tất cả thật, tất cả chẳng thật, tất cả cũng thật cũng chẳng thật, tất cả chẳng thật chẳng phải chẳng thật. Đức Phật đối với bốn câu này đã nói rộng về Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Trung luận nói bốn câu này đều là nói Thật tướng các pháp, tức bốn câu Thể giả nhập không của pháp chánh nhân duyên như mộng, huyễn, tiếng vang, như hóa, bóng trăng trong nước, ảnh trong gương mà Thông giáo đã nói. Nếu hàng Tam thừa tu tập giáo pháp này, tùy theo căn duyên khác nhau, mỗi mỗi đối với một câu mà vào Đệ nhất nghóa. Nên bốn câu đều gọi là môn. Nghóa này cũng như Thanh Mục chú giải rằng “Thật tướng các pháp có ba loại, cho nên biết bốn môn này tức là bốn môn và ba thừa đồng vào để thấy Đệ nhất nghóa đế. Nói về bốn môn của Biệt giáo: Nếu dùng Trung luận… mà luận về bốn môn, tức là bốn môn của Biệt giáo, dùng luận Đại Trí Độ luận bốn câu cũng được. Nghóa bốn môn của Biệt giáo xuất phát từ kinh Đại Niết-bàn, nhưng phần nhiều nói rải rác. Như thí dụ nhờ sữa để nói bốn câu là bốn môn của Biệt giáo. Nếu nói Phật tánh như trong sữa có chất lạc, trong đá có chất vàng hạt châu trên trán lực só, thì đó là Hữu môn. Nếu nói trong đá không có vàng, trong sữa không có chất lạc, Phật tánh chúng sinh, giống như hư không; Đại Niết-bàn không, thành Ca-tỳ-la không, tức là nói về không môn, kinh Niết-bàn ghi: “Phật tánh cũng có cũng không, vì sao nói là có? Tất cả chúng sinh đều có, vì sao nói là không?” Vì từ phương tiện khéo léo mà được thấy. Ví như trong sữa cũng có chất lạc, cũng không có chất lạc tức là môn cũng có cũng không. Như nói Phật tánh tức là Trung đạo, thì bách phi đều đoạn trừ. Cho nên kinh lập dụ rằng trong sữa không có chất lạc, không phải không có chất lạc, đó là môn chẳng có chẳng không. Hàng Bồ-tát Biệt giáo riêng tu bốn môn này thì thấy được Phật tánh, trụ đại Niết-bàn. Cho nên lập thuyết về bốn câu này tức là bốn môn của Biệt giáo. Nay chỉ căn cứ theo văn trong kinh Niết-bàn để phân biệt tướng của bốn môn Biệt giáo. Nhưng kinh văn này hoặc có thể cho rằng nói về bốn môn của Viên giáo, đến phần nói về bốn môn của Viên giáo ở sau sẽ phân biệt đồng dị. Hỏi: Nếu là bốn môn của Biệt giáo, vì sao các kinh Ma-ha-diễn được nói từ trước không có nói đến môn của Biệt giáo? Đáp: Kinh Đại Niết-bàn là bộ kinh giải thích những kinh giáo nói từ trước, những kinh giáo này đâu không có bốn môn của Biệt giáo, nhưng nêu đủ văn kinh thì quá dài dòng. Nói về bốn môn của Viên giáo: Bốn môn này nói về nhập Phật tánh Đệ nhất nghóa so với bốn môn của Biệt giáo vào Đệ nhất nghóa đế, thấy Phật tánh được Niết-bàn thường trụ thì đại khái danh nghóa đều đồng, nhưng xét kỹ và ý thú thì có khác. Hỏi: Vì sao biết là khác? Đáp: Phân biệt khác nhau có rất nhiều thuyết, nay chỉ căn cứ theo bảy nghóa của Viên giáo mà phân biệt, tức biết được bốn môn của Biệt giáo khác với bốn môn của Viên giáo. Bảy nghóa là một, nếu nói tất cả pháp tức chân tánh thật tướng, Phật tánh Niết-bàn, chẳng cần phải diệt nữa để nói về bốn môn thì đó là bốn môn của Viên giáo; hai, nếu nói Sơ tâm tức khai mở Phật tri kiến, chiếu tròn khắp để luận bốn môn, thì đó là bốn môn của Viên giáo; ba, nếu nói về Bất tư nghị chẳng đoạn phiền não mà vào Niết-bàn để luận bốn môn, đó là bốn môn của Viên giáo; bốn, nếu nói về viên hạnh mà luận bốn môn, là bốn môn của Viên giáo; năm, nếu nói về viên vị mà luận bốn môn, là bốn môn của Viên giáo; sáu, nếu nói về Thể viên mà luận bốn môn, là bốn môn của Viên giáo; bảy, nếu nói về viên dụng mà luận bốn môn, là bốn môn của Viên giáo. Chánh thức nói về bốn môn nhập thể: Như bốn môn của ngoại đạo thì tâm hành ngoài lý, các điên đảo tưởng tương ưng với điên đảo tướng, không thể vào Thể của chân tánh. Vì sao? Theo môn khác nên thấy lý cũng khác, vì thế mỗi mỗi đều cho rằng được một đạo cứu cánh mà phát khởi tranh luận. Nay nói bốn môn của Phật đều được vào một Thể, chỉ có hai loại khác nhau: Một là hai loại bốn môn của Tam Tạng giáo và Thông giáo đồng vào lý thiên chân; hai, hai loại bốn môn của Biệt và Viên đồng vào lý Viên chân. Bốn môn của Tạng giáo và Thông giáo đồng với lý thiên chân: Mỗi loại đều nhân nơi bốn môn mà đồng thấy Đệ nhất nghóa, được hai loại Niết-bàn, đó là điểm đồng nhau. Lý tuy là một mà môn khác nhau, tức đã có hai độ chuyết và xảo khác nhau, nên lại có sự sai biệt về năng thông của hai loại bốn môn; vì chân lý không hai; cho nên Sở thông đến Thể chỉ là một. Ví như thành của các Châu mở bốn cửa, mà chỉ một sứ quân, người từ bốn cửa mà vào, thì cửa (môn) tuy khác mà chỉ thấy một sứ quân. Vậy bốn môn của Tam tạng như từ bốn cửa thành phụ của châu mà vào, bốn môn của Thông giáo như từ bốn cửa thành chánh mà vào. Chánh, phụ (thiên) để vào tuy khác mà thấy Thiên chân Đệ nhất nghóa đế, chứng đắc hai loại Niết-bàn chỉ là một. Bốn môn của Biệt giáo và Viên giáo nhập vào Thể của thật tướng chân tánh: Mỗi loại đều nhân nơi bốn môn mà vào, đều thấy thật tướng Phật tánh, được Niết-bàn thường trụ chỉ là một. Lý tuy đồng mà môn có khác, tức giáo môn đã có phân biệt Thiên Viên khác nhau, nên có sự khác nhau về năng thông của hai loại bốn môn, nhưng chân lý Phật tánh bất nhị, nên Sở thông đến Thể chân tánh chỉ là một. Ví như kinh thành có bốn cửa, cửa tuy khác, mà Thiên tử được thấy chỉ là một. Bốn môn của Biệt giáo như từ bốn cửa phụ của kinh thành mà vào, bốn môn của Viên giáo như từ bốn cửa chánh mà vào. Chánh phụ để vào tuy khác nhau mà Thể thật tướng chân tánh giải thoát chứng đắc chỉ là một. Dùng bốn Tất-đàn khởi giáo bốn môn: Như bốn môn của ngoại đạo đều chẳng thấy căn duyên, chấp thủ tâm tướng mà lập định thuyết, như các thầy thuốc xưa thường dùng thuốc sửa để trị tất cả các bệnh, chẳng y cứ theo bốn Tất-đàn mà lập ra bốn môn. Nay bốn môn của Phật giáo đều nhân nơi bốn Tất-đàn mà lập: Một là Tất-đàn khởi bốn môn của Tạng giáo; hai, Tất-đàn khởi bốn môn của Thông giáo; ba, Tất-đàn khởi bốn môn của Biệt giáo; bốn, Tất-đàn khởi bốn môn của Viên giáo. Tất-đàn khởi bốn môn của Tạng giáo:Tức sinh sinh bất khả thuyết có bốn Tất-đàn nhân duyên có thể thuyết. Dùng bốn Tất-đàn khởi Hữu môn: Nếu tâm chúng sinh thích pháp Hữu, tức dùng thế giới Tất-đàn thuyết Hữu môn của Tỳ-đàm, nếu cầu nghe sinh thiện tức dùng các các vị nhân Tất-đàn để thuyết Hữu môn; nếu chấp không nhân duyên, tà nhân duyên hoặc chấp không thủ trước mà khởi các kết nghiệp thì dùng Đối trị Tất-đàn để thuyết Hữu môn; nếu vừa nghe liền ngộ Đệ nhất nghóa, thì dùng Đệ nhất nghóa Tất-đàn mà thuyết Hữu môn. Như năm người là Câu-lân… nghe thuyết bốn đế, tức thấy được Đệ nhất nghóa đế, chứng quả Tu-đà-hoàn. Nếu chẳng dùng bốn Tất-đàn nhân duyên mà thuyết, tức thuyết pháp mà không hợp căn cơ, là chúng sinh oán, cùng với Thiên ma, ngoại đạo chung tay làm người trần lao. Kinh Niết-bàn ghi: “Thuyết pháp, tức là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải là cảnh giới mà hàng Thanh văn, Duyên giác biết được.” Dùng bốn Tất-đàn khởi không môn: So sánh với Hữu môn ở trên, thì nghóa Tất-đàn khởi không môn sẽ hiển bày. Nhưng các Sư Thành thật luận nói: “Hữu môn của Tỳ-đàm chỉ dùng để điều tâm, chẳng thể đạt đến đắc đạo. Còn Thành thật nói Thấy không mới là đắc đạo”; Các luận Sư phái Số luận nói: “Ta dùng nghóa của Tiểu thừa nói thấy Hữu mà đắc đạo, ông dùng nghóa của Đại thừa, nên nói thấy không mà đắc đạo.” Nay cho rằng cả hai đều chẳng phải là ý của Tam Tạng giáo. Kinh Đại Tập ghi: “Người chấp Thường kiến nói dị niệm đoạn, kẻ chấp đoạn kiến nói nhất niệm đoạn, hai kiến tuy khác mà đắc đạo chỉ là một.” Luận Đại Trí Độ ghi: “Trong kinh Thanh Văn, nơi nơi đều nói về nghóa pháp không” thì đâu được nói theo nghóa của Đại thừa là Thấy không mà đắc đạo. Nay y cứ theo bốn Tất-đàn để lập các nghóa thành và hoại. Bốn nghóa của số luận là thành, thì bốn nghóa của thành thật luận là hoại. Bốn nghóa của thành luận là thành, thì bốn nghóa của số luận là hoại, thành hoại đối kháng. Thế nào gọi là Thành luận là thành, Số luận là hoại? Nếu giải thích theo hai độ xảo và chuyết của Tạng giáo thì nghóa không môn của Thành luận là thành, nghóa Hữu môn của Số luận là hoại. Dùng bốn Tất-đàn khởi môn Hữu vô: So sánh với ý dùng bốn Tất- đàn khởi Hữu môn ở trên, thì hiểu được môn Hữu không. Cho nên được luận Côn lặc giải thích. - Dùng bốn Tất-đàn khởi môn phi hữu phi không: có thể so sánh với ý dùng bốn Tất-đàn khởi Hữu môn ở trên mà biết. Dùng bốn Tất-đàn khởi bốn môn của Thông giáo, khởi bốn môn của Biệt giáo, khởi bốn môn của Viên giáo đều có thể so sánh với Tam Tạng giáo để biết được. Tất cả được giải thích đầy đủ ở đại bản của Tứ giáo. <詞>MỘT PHÁP MÀ TÊN KHÁC : Trong các kinh nói nhiều tên khác nhau hoặc là nói chân tánh thật tướng, hoặc nói nhất thật đế, hoặc nói tự tánh thanh tịnh tâm, hoặc nói Như Lai tạng hoặc nói Như như, hoặc nói Thật tế, hoặc nói Thật tướng, Bát-nhã, hoặc nói Nhất thừa, hoặc nói Thủ-lăng-nghiêm, hoặc nói pháp tánh, hoặc nói pháp thân, hoặc nói Trung đạo, hoặc nói Tất cánh không, hoặc nói chánh nhân Phật tánh tánh tịnh Niết-bàn. Các tên như thế đều là tên khác của Thật tướng. Cho nên luận Trí Độ ghi: “Bát-nhã chỉ là một pháp mà Đức Phật nói rất nhiều tên, vì các loại chúng sinh mà lập tên khác nhau này.” Kinh Đại Niết-bàn nói: “Như Thiên đế thích có một ngàn tên gọi, giải thoát cũng như thế, có rất nhiều tên gọi”. Lại nói: “Phật tánh có năm tên gọi, đều là vì ứng cơ lợi vật mà lập.” Nhưng pháp thể chỉ là một, chưa từng có khác. Như Đế thích có một ngàn tên gọi, tên gọi tuy khác nhưng rốt cuộc chỉ là gọi Thiên chủ, thì đâu thể vì nghe các tên gọi khác mà nói chẳng phải là lý thật tướng ư? Như người cúng dường cho Đế Thích mà hủy phạm Kiều-thi-ca, cúng dường Kiều-thi-ca mà hủy phạm Đế Thích, cúng dường như thế chưa hẳn là được phước, người hoằng pháp thời mạt pháp cũng như thế, hoặc giả tin A-lê-da tự tánh thanh tịnh tâm mà hủy bỏ Tất cánh không, hoặc nói Tất cánh không chẳng có A-lê-da thức tự tánh thanh tịnh tâm; hoặc nói Bát-nhã luận thật tướng, Pháp Hoa luận nhất thừa đều chẳng phải là Phật tánh, cầu phước như thế, bằng như chuốc họa? Nếu biết tên gọi là khác mà thể là một thì tùy hỷ theo, khéo thông khắp pháp giới, đâu có gì mà phải tranh luận? <詞>THỂ CỦA CÁC KINH : Các kinh Ma-ha-diễn đều dùng thật tướng chân tánh giải thoát Bất tư nghị làm thể. Hỏi: Các kinh, hoặc có kinh không nói đến danh từ thật tướng chân tánh, thì đâu được dùng đó làm Thể của các kinh? Đáp: Như trước đã luận, một pháp mà nhiều tên gọi, có kinh tuy chẳng nói đến danh từ thật tướng, nhưng có nói đến Trung đạo, pháp giới, Như Lai tạng, chánh nhân Phật tánh, Niết-bàn bản hữu, tất cả đều là tên khác của thật tướng nên lấy đó làm Thể của các kinh. <詞>CĂN CỨ THEO QUÁN TÂM: Như hành nhân Tiểu thừa trì giới, tu thiền phát khởi tất cả pháp môn như Thắng giải, Bội xả… nếu không được các ấn vô thường, vô ngã, tịch tónh ấn nhập vào pháp quán này, thì đều thành tà đảo, không thể ngộ được lý, thành tựu vô lậu. Pháp quán của Đại thừa cũng như thế, nếu không được ấn pháp tánh thật tướng ấn chứng, thì phần nhiều thành ma nghiệp, rơi vào nhị biên, đâu thể vào pháp môn bất nhị, trụ nơi giải thoát Bất tư nghị. Hỏi: Hàng phàm phu Sơ tâm đâu thể nói là Tức tu? Đáp: Ví như người chuyên ý bắn cung đến đích, đến khi buông dây cung thì tên đã phóng ra xa hằng trượng, từ lúc phát tên đến tên bay xa, đâu thể tác ý nhắm đích được nữa. Tâm học chánh quán cũng như thế. <詞>GIẢI THÍCH VĂN KINH NÀY: Kinh này, mỗi một phẩm đều có nói đến các tên khác nhau của Chân tánh giải thoát, đối với người đạo cơ đã thuần thục thì khi nghe sẽ đắc đạo. Đoạn 3: Đoạn lớn thứ ba nói về nghóa lấy nhân quả cõi Phật làm Tông; Tông tức là giềng mối của một giáo, như nơi có vua ắt có Đại thần cùng giúp đỡ cai trị. Kinh đã lập Thể, ắt cần phải nói đến Tông, để thành tựu giáo. Nay nói nghóa này lược nêu năm lớp: Phân biệt Tông và Thể khác nhau. Dùng nhân quả để luận về Tông. Luận về nhân quả để thành nghóa Phật quốc. Căn cứ quán tâm. Giải thích văn kinh này. 1.Phân biệt Tông và Thể khác nhau: gồm hai ý: Một là hạch xét Tông thể chẳng khác; hai, chánh thức luận về Tông Thể khác nhau. Hạch xét về việc cho Tông thể chẳng khác: Có Sư cho rằng kinh này lấy quyền thật làm Tông, Tông tức là Thể. Nay hỏi nếu Tông Thể là một, Thể là chủ của kinh này, thế thì kinh này chỉ có pháp “nhị” mà không có lý “bất nhị”, vậy không có chư pháp thật tướng ấn, nếu không có chư pháp thật tướng ấn thì giáo không có chủ, vì sao các kinh lại nói kinh này là vua của các kinh? Hơn nữa, nếu lấy hai pháp quyền thật làm Thể, thì phải lấy hai pháp làm ấn, việc này cũng như trước đã giải thích. Ví như trong một nước chỉ có một vua, chẳng nên lập hai chủ, nếu một kinh giáo mà có hai thể như một nước có hai vua. Nói về Tông khác thể: Xét trong kinh luận không có văn phân biệt Tông và Thể, mà việc này xuất phát từ tánh của các Pháp sư hoằng pháp, chỉ vì các vị này lập nghóa, dùng phương tiện khéo léo muốn khai phát kinh giáo, khiến cho người học thấy được ý nghóa, nên như thế. Chân tánh chẳng nhân chẳng quả là Thể, nhân quả là Tông, y cứ theo nhân quả để hiển thị chẳng nhân chẳng quả. Nếu nêu nhân thì gồm thâu vạn hạnh, nêu quả thì gom nhiếp vạn đức. Cho nên lấy nhân quả làm Tông, như thế cứ nâng mép thì mắc lưới động. Hơn nữa vua là chủ chỉ có một, còn Thần là bầy tôi có hai, hai thần cùng phụ tá một vua để cai trị thiên hạ. Nay chẳng nhân chẳng quả là một, nhân quả thì nhiều, hiển thành một giáo mà lợi ích cần phải có duyên, nên phân Tông thể khác biệt, mà lấy nhân quả cõi Phật làm Tông. Chánh thức nói về nhân quả để luận về Tông của kinh này: lấy nhân quả cõi Phật làm Tông, nên nay dùng từ Phật quốc làm tên, gồm hai ý: Một là nói nhân quả là Tông; hai, liệu giản. Nhân quả là Tông: Lấy chẳng nhân chẳng quả làm thể chung củc các kinh, nên nhân quả cũng là Tông, chung của các kinh. Tông thì chẳng định, hoặc chỉ lấy nhân làm Tông, hoặc chỉ lấy quả làm Tông, hoặc cả nhân quả làm Tông. Như kinh Niết-bàn nói quả Niết-bàn thường trụ có bốn đức, lại trong Văn kinh cũng chẳng phải không nói đến nhân quả là năm hạnh mười công đức, trong đó quả là chánh, nhân là phụ, mà lấy quả làm Tông. Như kinh Đại Phẩm nói về nhân Bát-nhã Trí chiếu, nhưng trong văn cũng chẳng phải không nói đến quả Chủng trí Niết-bàn, nhưng nhân là chánh quả là phụ và lấy nhân làm Tông. Như kinh Pháp Hoa nói về nhân quả Nhất thừa, mượn Liên Hoa (hoa sen) làm tên, thế thì kinh ấy lấy nhân quả làm Tông. Kinh này lấy người và pháp làm tên, người hay thực hành pháp, tức là hành nhân ở nhân địa; pháp tên là Bất tư nghị giải thoát, giải tho- át là quả đoạn đức. Nhìn về quả mà tu nhân cho nên lấy nhân quả Phật quốc làm Tông. Liệu giản: Hỏi: Nếu nói chẳng nhân chẳng quả mà là nhân là quả, thì nay như kinh Niết-bàn vì sao chỉ nói quả mà không nói nhân. Kinh Đại Phẩm chỉ nói nhân mà không nói quả, còn kinh này đã lấy danh từ giải thoát, vì sao chỉ nói quả. Đáp: Nếu luận chung thì chẳng có nghóa này, nhưng nghóa thì có chánh và phụ. Kinh Đại Niết-bàn thì quả chánh nhân phụ; kinh Đại Phẩm thì nhân chánh quả phụ, nay kinh này đồng nêu nhân quả Phật quốc, cho nên lấy nhân quả Phật quốc làm Tông, vì sao? Như Trưởng giả khi hiến lọng báu bạch rằng: “Nguyện được nghe cõi Phật thanh tịnh”, tức là hỏi về quả, “nguyện xin Đức Thế Tôn chỉ dạy về hạnh tịnh độ của các Bồ-tát”, là hỏi về nhân. Đức Phật đáp rằng: “Trực tâm là tịnh độ của Bồ-tát”, là đáp về nhân; “những chúng sinh xiểm khúc sinh sang nước ấy”, là đáp về quả. Luận về Tông thì đầu tiên lập hai câu hỏi về nhân quả; đáp cũng đáp đủ về nhân quả. Hơn nữa, ngài Tịnh Danh phụ giúp Đức Phật hoằng truyền giáo nhân quả, trong đó, khi ở bên ngoài trượng thất thì khuyên vua và trưởng giả nên nhàm chán thân này, tức là hoằng nhân, bảo nên ưa thích pháp thân, là hoằng quả, cho đến quở trách các đệ tử và Bồ-tát, nơi nơi đều có văn nói về nhân quả. Như bên trong trượng thất nói mười phương cõi Phật đều không, tức là nói về quả; nói các Bồ-tát có bệnh nên dùng ba quán để điều phục tâm tức là nói về nhân. Phẩm Bất tư nghị là quả, phẩm quán chúng sinh, phẩm Phật đạo, phẩm Bất Nhị Pháp Môn, phẩm Hương tích là nhân. Đến khi ra khỏi trượng thất thì dùng bàn tay đưa đại chúng đến vườn Am la, tức là biểu thị ý nghóa hồi nhân hướng quả. Đức Như Lai thuật lại để thành tựu cho Tông, đều luận đủ về hạnh Bồ-tát đó là thuật về nhân; nói các cõi Phật lấy âm thanh làm Phật sự, lấy sự tịch diệt làm Phật sự… là thuật về quả. Như thế nghiệm biết một giáo này trước sau đều nói về nhân quả để thành tựu nghóa Phật quốc. Cho nên đều được dùng làm Tông. Chính thức nói về nhân quả thành nghóa Phật quốc: gồm ba ý: Lược nói về tướng nhân quả Phân biệt chung riêng Chính thức nói về thành tựu cõi Phật. Lược nói về tướng nhân quả: Nhân là pháp tu hành, hành vốn y cứ nơi lý, thế thì lý tức chẳng nhân chẳng quả, hành thức nhân quả. Nếu lìa chẳng nhân chẳng quả mà luận về nhân quả thì đó là tà nhân quả; nay căn cứ theo lý này mà luận về nhân quả thì đó là chánh nhân quả. Kinh nói rằng “Khi ẩn thì gọi là Như Lai tạng, khi hiện gọi là pháp thân.” Bồ-tát tu hành hiển bày lý ẩn tàng này, nhưng công dụng chưa viên mãn cho nên gọi là nhân, nếy lý ẩn tạng này đã hiển bày tròn đủ đạt đến rốt ráo giải thoát, thì đó tức là quả. Cho nên kinh Đại Niết-bàn ghi: “là nhân chẳng phải quả như Phật tánh; là quả chẳng phải nhân như đại Niết-bàn, chẳng phải nhân chẳng phải quả gọi là Phật tánh, chẳng phải nhân chẳng phải quả gọi là đại Niết-bàn.” Phân biệt chung riêng: gồm hai ý: Phân biệt riêng về nhân quả Bất tư nghị. Phân biệt chung về nhân quả. Phân biệt riêng: Hỏi: Cả hai đều nói chẳng phải nhân chẳng phải quả, vì sao Phật tánh chỉ nói nhân mà chẳng nói quả, Niết-bàn chỉ là quả chẳng phải là nhân? Đáp: Đây là nói về nghóa riêng của Biệt giáo mà phân biệt nhân quả, còn theo nghóa chung của Viên giáo thì đều được. Nói Phật tánh là quả, như kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật tánh tức Phật, tất cả chúng sinh là Phật chưa thành, vì sao nói chúng sinh mà có Phật tánh.” Nói Niết- bàn là nhân, như kinh nói: “Đại bát Niết-bàn vốn tự có chẳng phải đến nay mới có.” Lại nói: “Phật tánh cũng là nhân, cũng là nhân nhân, cũng là quả cũng là quả quả, như hai nhân duyên, vô minh duyên hành, hành duyên thức cũng là nhân, cũng là nhân nhân, cũng là quả cũng là quả quả.” Như Sơ trụ so với nhị trụ thì Sơ trụ là nhân; nếu so với tam trụ thì sơ trụ là nhân nhân, Tam trụ so với nhị trụ thì Tam trụ là quả, so với Sơ trụ là quả quả, cho đến Kim Cang đối với Niết-bàn là nhân nhân, đại Niết-bàn đối với Kim Cang là quả quả. Thế thì Vô thượng Bồ-đề chỉ là nhân, vô thượng Niết-bàn chỉ là quả. Cho nên nay nói nhân quả giải thoát Bất tư nghị cũng như thế. Phân biệt chung: Nhân quả thế gian tức là pháp Khổ tập, nhân quả xuất thế là đạo diệt. Tất cả nhân quả không ra ngoài bốn đế, nhưng Đại Tiểu thừa giải thích ý nghóa có khác nhau, cho nên có hai loại bốn đế riêng biệt. Tiểu thừa nói bốn Thánh đế Hữu tác. Đại thừa nói bốn Thánh đế vô tác, trong đó lại lập thêm hai loại bốn đế nữa là thánh đế vô sinh và bốn đế vô lượng, tất cả đều nói về nghóa nhân quả, đều xuất xứ từ kinh Niết- bàn có giải thích đầy đủ với Pháp Hoa Sớ. 3- Nói về nhân quả thành nghóa cõi Phật là Tông của kinh này: căn cứ vào bốn loại nhân quả này để nói về nhân quả cõi Phật mà luận về Tông này. Nếu là Hữu tác tập và vô sinh tập gom tập thiện ác, năm trược nặng nhẹ, căn cứ theo các căn lợi độn mà đồng cảm quả báo thác sinh vào cõi tịnh uế phàm thánh đồng cư, thì đó là Khổ đế. Nếu là hai loại diệt đạo sinh diệt và vô sinh đồng cảm thác sinh vào phương tiện Hữu dư độ, thì đó là Khổ đế của cõi kia. Đạo và diệt này tức là từ Khổ tập vô tác và Đạo diệt vô lượng vô tác mà phân thành, tức được sinh vào cõi tịnh Thật báo vô ngại. Nếu trí vô tác viên mãn thì tập vô tác dứt, vậy trí báo vô sinh thầm hợp với nguồn tâm. Kinh này nói rằng “Tâm tịnh tức cõi Phật tịnh.” Kinh Nhân Vương nói: “Chỉ có Phật mới cư ở Tịnh độ.” Cho nên biết nhân quả của bốn loại bốn đế tức là Chánh báo, vì có Chánh báo cho nên nói cõi nước y báo. Hỏi: Vô tác tập và vô sinh tập đều có tịnh và bất tịnh, còn vô lượng và vô tác thì sao? Đáp: Nhân quả của vô lượng vô tác cũng có tịnh và bất tịnh, hàng Tam thừa đồng đoạn tận hai phược là tử và quả đều thọ thân pháp tánh, sinh vào cõi Biến dịch. Hàng Nhị thừa của Tam Tạng giáo và Bồ-tát của Thông Biệt Viên giáo năm hạng Thánh này về công đức có hơn kém lợi độn bất đồng, nên cũng cần phải luận theo chiều ngang về sự sai biệt tịnh uế. Nếu nơi nước Liên Hoa của Biệt giáo, hàng Bồ-tát không phải là người sinh tử thì cõi nước ấy cũng có được. Nếu luận theo chiều dọc về tịnh bất tịnh, thì các Bồ-tát ở các Địa chưa đạt đến tận cùng nguồn của tánh tịnh nên còn có phần hoặc, vì thế Tâm hiền, Thập Thánh còn trụ nơi quả báo, chỉ có Phật mới cư ở Tịnh độ. Cho nên biết lời nói nhân quả chung từ phàm đến Thánh, không phải là ý chánh. Nhưng nói nhân quả cõi Phật là Tông của kinh này, thì vào văn kinh sẽ lược giải thích. Căn cứ theo quán tâm: Văn kinh ghi: “Tùy tâm tịnh tức cõi Phật tịnh”, quán tâm tánh tịnh giống như hư không tức là cảnh tánh tịnh, cảnh tức cõi nước. Quán trí giác ngộ tâm này gọi là Phật. Mới quán gọi là nhân, quán thành là quả. Nếu luận theo Tự độ, tức là tâm vương vô nhiễm, nếu luận theo Hóa tha thì tâm số giải thoát, vì trí tuệ số là Đại thần bài trừ các hoặc của các Tâm số để trở về nguồn tâm, cõi tịnh, cho nên nói: “Tâm tịnh tức cõi Phật tịnh.” Giải thích Văn kinh: Như Đức Phật nói cho Bảo tích nghe về nhân quả cõi Phật, tức là Tông của kinh này, văn sau tuy không tự nói ra, nhưng ngài Tịnh Danh đã là Viên đại tướng của đấng Pháp vương hỗ trợ Phật xiển dương chánh giáo nhân quả, giúp đỡ Phật nói nhân quả cõi Phật, đoạn trừ duyên phược của chúng sinh, khiến sinh vào cõi Phật, thành tựu hạnh thanh tịnh cõi Phật của Bồ-tát. Cho nên các phẩm nói bên ngoài thất, đều có nói về nhân quả, các phẩm nói bên trong thất cũng nói về nhân quả, các phẩm ra khỏi thất cũng nói đến nhân quả, tất cả đều trợ giúp để thành tựu giáo cõi Phật, chép tại kinh này. Đoạn 4: Nói về quyền thật thiện xảo làm Dụng; Thể Tông Bất tư nghị đã thành lập, thì giáo này ắt là có công năng. Công năng tức quyền thật có công năng làm lợi ích. Cũng gồm năm ý: Phân biệt Dụng của quyền và thật. Nói về quyền thật của các giáo khác nhau. Giải thích nghóa quyền thật. Chiết phục và nhiếp thọ. Căn cứ quán tâm. Phân biệt dụng quyền thật: Có người chỉ lấy quyền xảo khó lường làm dụng, Dụng này chỉ thuộc về thiên. Nay nói quyền thật đều được gọi là dụng, vì sao? Nếu nói về đạo Vô ngôn, thì quyền thật đều chẳng thể nói, nhưng vì có nhân duyên nên đều có thể thuyết. Nếu thuyết quyền có ích lợi thì quyền là Dụng, nếu thuyết thật mà làm cho chúng sinh được ngộ, thì thật tức là Dụng, cho nên đều được gọi là Dụng của kinh này. Hỏi: Nếu đã là Thể, thì từ Thể khởi Dụng, chỉ được nói quyền là dụng, đâu được nói Thật cũng là Dụng? Nếu nói Thật là Dụng thì sẽ không có sự sai biệt, Thể dụng cũng không có sự sai biệt Tông và Thể? Đáp: Quyền thật có nhiều loại, nếu y cứ theo Tự hành và hóa tha để nói về quyền thật, thì quyền thật nói từ trước đến đây đều là Dụng, chẳng phải là Thể. Nay kinh này, ý chánh là căn cứ vào hóa tha để nói quyền thật, nên quyền đều thật là Dụng. Quyền thật của các giáo khác nhau: Kinh Hoa Nghiêm có hai giáo: Một là Biệt giáo là quyền; hai, Viên giáo là Thật; Tam Tạng giáo chỉ một bề nói về quyền là hóa thành để dẫn tiếp. Kinh Phương đẳng đầy đủ bốn giáo, trong đó có ba quyền một thật. Bát-nhã phế Tạng giáo, chỉ có ba giáo, là hai quyền và một thật. Kinh Pháp Hoa dẹp bỏ hết giáo phương tiện, chỉ có một thật. Kinh Niết-bàn đầy đủ bốn giáo, trong đó tại nhân thì nói ba quyền một thật, nói quả thì chỉ nói một thật. Hỏi: Niết-bàn có gì khác với Phương đẳng? Đáp: Kinh Phương đẳng thì hai giáo vào thật, hai giáo không vào được thật, còn kinh Niết-bàn thì bốn giáo đều vào Thật, đã phân biệt đủ tại bộ Pháp Hoa Huyền Nghóa. Đó là điểm khác biệt lớn. Nay kinh này thuộc về giáo Phương đẳng, nên về nhân thì có ba quyền, về quả thì chỉ một thật; hai giáo vào thật, hai giáo chẳng vào thật, đã phân biệt giải thích đủ nơi Pháp Hoa Huyền Nghóa. Giải thích nghóa quyền thật: gồm ba ý: Một là Hóa tha quyền thật; hai, Tự hành hóa tha quyền thật; ba, Tự hành quyền thật. Hóa tha quyền thật: Lý Tam đế mà chư Phật và Bồ-tát chứng đắc chẳng thể chỉ bày, diễn nói cho phàm phu; những lời nói tùy thuận ý người khác đều là quyền, nay căn cứ theo quyền mà nói về thật, thì có ngàn vạn loại hai trí và bốn Tất-đàn ứng duyên khác nhau; các nhà chẳng biết rõ được ý của hai trí này cho nên theo chấp thủ hai trí mà kinh luận đã nói, để khởi tranh chấp. Tự hành hóa tha quyền thật: Như chư Phật Bồ-tát tùy thuận ý người thuyết là quyền trí, tùy ý mình mà luận là Thật trí. Tự hành quyền thật: Dùng lý Tam đế Nhị đế mà chư Phật Bồ- tát tự tu chứng đắc để luận về quyền thật, lại dùng ba loại Nhị đế mà một nhà đã nói để đối chiếu rõ ràng, theo nghóa mà suy có thể hiểu. Nay kinh này luận đủ ba loại hai trí, tức vì các quốc vương, Trưởng giả, các Thanh văn mà dùng hai trí hóa tha; vì Bồ-tát mà dùng hai trí tự hành và hóa tha, im lặng không nói là hai trí tự hành. Chiết phục và nhiếp thọ, gồm hai ý: Lược nói về chiết phục nhiếp thọ. Chánh thức đối kinh này để giải thích. Lược nói: Như kinh Thắng Man ghi: “Người đáng dùng chiết phục, thì chiết phục, người đáng được nhiếp thọ thì nhiếp thọ, vì có chiết phục và nhiếp thọ, nên chánh pháp tồn tại lâu dài.” Nay ngài Tịnh Danh muốn cho giáo pháp Bất tư nghì được trụ lâu, nên dùng phương tiện chiết phục, dùng thật trí để nhiếp thọ. Như giới tự ghi: “Lão, tử đến gần, Phật pháp sắp diệt”; Phật pháp trạm nhiên đâu từng có diệt, nếu ma đốt cháy các kinh luận, thì vẫn còn hai mươi ức Bồ-tát thọ trì, nên biết chẳng diệt, nay nói diệt là căn cứ theo thọ mạng của con người tận, mà nói diệt, như phàm phu chưa được tuệ mạng vô lậu, chưa kiên trì cấm giới, đến lúc thân gặp vô thường, thì giới cũng hết, nên nói Phật pháp muốn diệt. Năm phần pháp thân là giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến đều nương vào sắc thân mà sinh khởi, sắc thân đã chết thì năm phần thân cũng diệt, tức Phật pháp nơi thân diệt. Nếu siêng năng tu tập, phát chân vô lậu đạt được đạo cộng giới, một khi đã thọ thì được bất thoái thường hằng vắng lặng, tức đầy đủ năm phần pháp thân. Giả sử như có bảy lần lên xuống trời người, sinh vào cõi nước tạp ác, nhưng không chỉ không mất quả Tu-đà-hoàn, mà người này còn đắc quả A-la-hán. Thế thì thân năm ấm tuy diệt mà Phật pháp chẳng diệt, năm phần pháp thân không bị hoại diệt, tức Phật pháp tồn tại lâu dài. Nếu theo nghóa của Đại thừa, tuy đã chứng A-la-hán, được tận vô sinh trí, cho đến Bích-chi-Phật dùng mười loại quán mà quán mười hai nhân duyên để dứt trừ tập khí, cũng trở về thân diệt trí đoạn, giống như một trăm hai mươi người không kham lãnh sự phó chúc, đánh mất vật báu. Như có thể khai tri kiến Phật, đạt được hai mươi lăm Tam-muội có Đại dụng vô cùng, trụ trì nơi Phật pháp, bảo vệ vật báu, vật báu tức là của báu chân thật trăm cân vàng, một trăm câu giải thoát, như người tráng niên ở tuổi hai mươi lăm, lãnh nhận sự phó chúc, người này có thể vừa chiết phục vừa nhiếp thọ để khiến Phật pháp trụ lâu dài. Đối kinh này để giải thích: Nay ngài Tịnh Danh muốn làm cho chánh pháp của Đức Thích- ca trụ lâu dài, nên khi ở bên ngoài trượng thất thì quở trách, bên trong trượng thất thì nhiếp thọ. Nói chung thì nơi nơi đều có thể quở trách hay nhiếp thọ. Như người bị quở trách thì tạm thời trưởng dưỡng được bản tâm, hoặc có lúc dùng quyền trí để quở trách, dùng thật trí để nhiếp thọ. Như quở trách quốc vương, trưởng giả tức là dùng quyền quở trách, nói nên thích thân Phật là dùng thật nhiếp thọ. Như quở trách ngài Tu Bồ- đề “Nếu đối với thức ăn bình đẳng thì đối với các pháp cũng bình đẳng, vào tám tà mà được tám chánh”, đó là dùng thật trí quở trách dùng quyền trí nhiếp thọ. Còn như Đức Phật nói về người huyễn, lấy việc này để quở trách rằng “có sợ chăng?”, đây là dùng quyền để nhiếp thọ. Việc quở trách A-nan cũng thế. Còn như quở trách ngài Di-lặc… đều là dùng thật trí để quở trách, dùng thật trí để nhiếp thọ. Như quở trách ngài Ca-chiên-diên thì đều dùng quyền để quở trách và nhiếp thọ. Các nghóa khác nói ở bên trong trượng thất cũng như thế, cho nên biết, ngài Tịnh Danh dùng chiết phục và nhiếp thọ để thành lập giáo này. Căn cứ theo quán tâm để nói về quyền thật: Khi quán Trung đạo, thì dùng hai quán làm phương tiện để vào Trung đạo, tức dùng quyền chiết phục và dùng thật trí nhiếp thọ. Nếu quán Trung đạo mà khởi quán của Nhị thừa, tức dùng thật trí chiết phục, quyền trí nhiếp thọ. Nếu quán Nhị đế lại phát khởi nhị quán, tức dùng quyền chiết phục và nhiếp thọ. Nếu quán Trung đạo lại phát Trung đạo, thì dùng thật trí chiết phục và nhiếp thọ. Lại nếu theo bốn tùy mà dụng tâm, thì như ba mươi sáu chuyển trong Đại chỉ quán đã giải thích, tức quán tâm mà chiết phục và nhiếp thọ để chánh pháp được trụ lâu. Đoạn 5: PHÁN GIÁO TƯỚNG . Bốn đoạn lớn ở trước đã giải thích bốn lớp, thì ý của kinh này đã hiển rõ, nhưng kinh này và các kinh khác có những điểm đồng dị, nên cần phải phân biệt. Từ trước nói về bốn giáo, nơi nơi đều có phân Biệt giáo tướng mà luận về điểm đồng dị với các kinh khác, đại ý cũng đã tạm hiển bày, nhưng e rằng về giáo tướng rải rác khắp trong văn, người học hoặc có thể chưa nắm bắt được, nên bây giờ cần phải giải thích về tướng đồng dị của kinh này. Căn cứ vào đó thể quán thành bốn ý: Đại ý của giáo tướng Lược nêu các thuyết phán giáo khác nhau của các Sư. Xét kỹ về lấy và bỏ Chánh thức phán định giáo tướng của kinh. Nói về Đại ý của giáo tướng: Các kinh đồng nói Thể, Tông, Dụng, nhưng vì ứng duyên làm lợi ích chúng sinh mà có khác nhau, là do những chúng sinh lãnh thọ giáo pháp có căn duyên bất đồng thời gian, nơi chốn cũng khác. Vì thế bậc Đại thánh lập giáo có danh tự bất đồng, ngôn ngữ cũng khác, cho nên có đốn tiệm ứng cơ. Đến như giáo Hoa Nghiêm nói về hành vị của Bồ- tát, giáo Tam tạng chỉ nói về Tiểu thừa, Phương đẳng thì phá Tiểu hiển Đại, Bát-nhã thì trừ sạch tình chấp Đại, Tiểu mà dung thông, Pháp Hoa thì gồm thân trước sau, khai quyền hiển thật, Niết-bàn thì giải thích các kinh đồng trở về nghóa Phật tánh thường trụ. Nay kinh này thì dùng bác phá xiển dương, khen ngợi chê bai, ứng cơ thuyết giải thoát Bất tư nghị, tức thuộc về giáo Phương đẳng. Lược nêu các thuyết phán giáo khác nhau: Như theo nghóa ba thời phán giáo của Pháp sư Ngập là Hữu tướng pháp luân, vô tướng pháp luân và thường trụ pháp luân, kinh này thuộc về thời thứ hai là vô tướng đắc đạo, chưa nói về Phật tánh và thường trụ Niết-bàn. Như theo phán giáo của Khai Thiên Quang Trạch là Đốn, Tiệm và Thiên phương Bất định, trong đó Tiệm giáo được phân thành năm thời, kinh này thuộc về thời thứ ba, là giáo chiết phục Thanh văn, khen ngợi Bồ-tát, chưa nói Hội tam quy nhất, Phật tánh, thường trụ Niết-bàn. Nếu theo phán giáo bốn thời của Trang Nghiêm, thì kinh này còn thuộc về thời Bát-nhã, vô tướng đắc đạo, cũng chưa nói Hội tam quy nhất, Phật tánh, thường trụ. Nếu theo phán giáo bốn Tông của Địa luận thì kinh này thuộc về giáo Duyên khởi phản xuất của Đại thừa chân tông, nếu theo Bán mãn của lưu chi thì kinh này thuộc giáo chữ mãn, chẳng khác Hoa Nghiêm và Niết-bàn. Xưa nay có nhiều thuyết nói về danh nghóa và phán giáo khác nhau, như trong pháp Hoa Huyền Nghóa đã nêu riêng, đầy đủ. Xét kỹ về lấy bỏ: Nếu nói kinh này thuộc về thời thứ hai, hoặc thời thứ ba, chưa nói đến Phật tánh thường trụ, thì kinh này nói về chân tánh Bất tư nghị, chân tánh há chẳng phải là Phật tánh sao? Nếu nói chẳng luận đến thường trụ thì kinh này nói: “Thân Như Lai tức là Thể Kim cang, các ác vónh viễn diệt, các thiện đều tụ hội, thì có bệnh gì?”, đó chẳng phải là thường trụ ư? Nếu nói kinh này thuộc về giáo Chân tông, vượt trên Pháp Hoa, vậy vì sao các Thanh văn trong kinh này chẳng thấy được Phật tánh đồng Pháp Hoa, Niết-bàn? Nếu cho kinh này thuộc giáo chữ Mãn nói về Phật tánh thường trụ, vì sao Niết-bàn phán định là sinh tô, sinh tô tức chẳng phải là Đề hồ. Vậy kinh này đâu được đồng chữ Mãn như Niết-bàn? Dẫn dụng các kinh luận để xét rõ về các thuyết, đã nêu đầy đủ trong Pháp Hoa Huyền Nghóa này. Chánh thức phán giáo tướng của kinh này: Kinh giáo của Như Lai đầy khắp cả Tam thiên, nhưng ý chánh không ra ngoài bốn loại là: Đốn, Tiệm, Bất định và Bí mật. Đốn giáo: Tức kinh Hoa Nghiêm. Ví như mặt trời mới mọc, đầu tiên chiếu trên núi cao, như kinh Niết-bàn ghi: “Trên Tuyết Sơn có một loại cỏ tên là Nhẫn nhục, bò ăn vào sẽ được vị đề hồ”, tức là nghóa này. Tuy có nói Đốn giáo, nhưng vì giáo hóa Bồ-tát, cho nên chẳng phải không gồm mở Biệt giáo phương tiện, nên kinh Vô lượng nghóa ghi: “Ma-ha Bát-nhã, Hoa Nghiêm Hải Không, nói về Bồ-tát tu hành trải qua nhiều kiếp, mà chưa nói đến kinh Vô lượng Nghóa sâu xa này”, chẳng đồng như Pháp Hoa nói ba thừa đồng được khai tri kiến Phật, phát bản hiển tích, thành đạo đến nay đã từ rất lâu xa. Như thế thì chẳng đồng với thuyết của các Sư. Tiệm giáo: Tức năm vị nương nhau mà sinh. Môn Tam tạng đầu tiên nói về tu tập giới định dụ như sữa có từ bò, giáo Tam tạng nói về vô sinh diệt Bốn đế dụ như từ sữa sinh ra lạc. Đại thừa Phương đẳng, đầu tiên nói về sinh Bốn đế, dùng vô lượng và vô tác Bốn đế để phá bác Tiểu thừa, quở trách Thanh văn thích pháp nhỏ, dụ như từ lạc cho ra sinh tô. Ma-ha Bát-nhã cũng nói Vô sinh Bốn đế nhưng lại nói rõ về vô lượng Bốn đế, tuyên thuyết Bồ-tát trải qua nhiều kiếp tu hành, cũng gồm nói cả vô tác Bốn đế, dung hội Tiểu thừa đều là Ma-ha-diễn, kh- iến hàng Thanh văn chuyển giáo, dụ như từ sinh tô cho ra thục tô. Thời Pháp Hoa thuyết nhất thật vô tác Bốn đế, khai mở tri kiến Phật cho hàng Thanh văn, thọ ký được thành đạo lớn, giống như mùa thu thì thâu hoạch, sang đông thì cất giữ, không còn việc gì phải làm nữa, dụ như từ thục tô mà được đề hồ. Hơn nữa kinh Niết-bàn lại vì hàng Tỳ-kheo mà nói ba loại Phật tánh, nhất thật vô tác Bốn đế, vì hàng Thanh văn khai mở tuệ nhãn, thấy Phật tánh, an trí các con nơi tạng bí mật, cũng là từ thục tô sinh đề hồ. Kinh Vô Lượng Nghóa nói rõ là Đại phẩm trước thời Pháp Hoa. Luận Đại Trí Độ ghi: “Ma-ha Bát-nhã là sau thời Pháp Hoa.” Như thế nói về nghóa của năm vị, nói chung thì tựa như đồng với nghóa thường thấy, nhưng nếu so sánh kỷ, đồng thời luận theo thứ tự để giải thích nghóa thì chẳng liên quan. Bất định giáo: Chẳng giống như thuyết Bất định Thiên Phương của các thuyết xưa. Nay chỉ đối với hàng lợi căn bất đồng trong năm vị giáo để dẫn dắt, chỉ dạy đồng thấy Phật tánh, nên có nghóa chữ Mãn. Kinh Niết-bàn ghi: “Như có người hòa thuốc độc vào sữa cho đến đề hồ cũng có thể giết chết người.” Vì thế ba nhà là Lương Võ Đế, Lưu-chi và Nhiếp Sơn cho kinh này và Đại phẩm thuộc về giáo chữ Mãn, trình bày Phật tánh, luận thường trụ, ý tại nơi đây. Bí mật giáo: Luận Đại Trí Độ ghi: “Khi Phật mới thành đạo, ngài chuyển pháp luân bốn đế tại vườn Nai”, trong giáo hiển lộ thì nói năm vị Tỳ-kheo thấy đế lý được quả Tu-đà-hoàn, tám vạn người được pháp nhãn tịnh. Trong giáo Bí mật thì nói có vô lượng Bồ-tát nghe thuyết Đại thừa được Vô sinh nhẫn. Hơn nữa từ lúc mới thành đạo đến đêm vào Niết-bàn, Đức Phật thường nói Bát-nhã, hoặc có thể cho là nghóa này. Kinh này nói: “Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sinh tùy loại đều hiểu được”, đó cũng là tướng của giáo bí mật, vì chúng đương thời chẳng thấy nghe tức thuộc giáo bí mật. Hỏi: Nếu thế thì không có Biến phương Bất định thuyết ư? Đáp: Thứ tự năm vị còn được nói là Bất định, thì Biến phương dẫu cho có dị thuyết đi nữa, thì đó đâu cần phải luận. Bà-la-môn đem kệ đến đây để nêu ra bốn loại luận là Ngưu vương luận, Hà mô đào luận, Sư tử luận và Điểu nhãn luận. Nay mượn bốn loại luận này để phối hợp bốn giáo trên, trong đó ngưu vương luận hợp với Đốn giáo, Hà mô đào luận hợp với Tiệm giáo, Sư tử luận hợp với bất định giáo, Điểu nhãn lu- ận hợp với bí mật giáo. Nay phán định kinh này chẳng phải là đốn giáo cho đến chẳng thuộc vị sinh tô trong năm vị giáo của Tiệm giáo. Nếu y cứ theo Bất định giáo tức là hòa độc vào sinh tô mà sát nhân, hàng Bồ- tát lợi căn tu tập giáo này được vào pháp môn bất nhị, thấy Phật tánh, trụ nơi bất tư nghị giải thoát Niết-bàn, đó là giáo chữ Mãn. Còn nói theo bí mật giáo thì chẳng thể biết được. Chủ ý của kinh này chẳng nói về giáo tướng, vì thế chẳng cần phải luận dài dòng tỉ mỉ, vả lại nghóa giáo tướng liên quan đến rất nhiều ý khác, rất khó giải thích trình bày rõ, chỉ ở bộ Pháp Hoa Huyền Nghóa luận về bốn giáo mới được đầy đủ, mà tạm hiển bày được đại ý. Phật pháp chẳng nghó bàn Giáo tướng thật khó biết Nhị thừa và Bồ-tát Còn chẳng thể lường được Hà huống là phàm phu Mà muốn định việc này Như người mù bẩm sinh Phân biệt hình mặt trời Muốn xét cõi hư không Tất cả các sắc pháp Mà nói đã liễu đạt Thật chẳng có việc này Vì thế người thuyết pháp Nên sinh tâm hổ thẹn Tự trách mình tối tăm Xa lìa các hý luận Và tranh cạnh hơn thua.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 137