<經 id="n1772">QUÁN DI LẶC BỒ TÁT THƯỢNG SANH ĐÂU SUẤT THIÊN KINH TÁN HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN QUÁN DI-LẶC BỒ-TÁT THƯỢNG SINH ĐÂU-SUẤT THIÊN KINH TÁN Đại sư Khuy Cơ, chùa Đại Từ Ân, soạn vào đời Đường. <詞>TỰA Phàm bản tánh u vi bặt dấu tích mà bao hàm vạn pháp, giác thể diệu huyền lìa thấy nghe mà dung thông muôn vật. Vì thế hàng Bồ-tát trụ Pháp vân địa , trí như mây, thấy Pháp thân như nhìn mặt trăng qua lớp sa mỏng, nên vẫn còn mê chân, hàng Thanh văn lợi căn, tuệ như đao, liễu chân tánh, như một đao không thể đoạn cả rừng trúc, nên vẫn chưa thấu đạt. Cho nên, chí đạo viên mãn thì tự thọ dụng thân hiển bày, mé chân sáng tỏ thì chân thức (Pháp thân) thanh tịnh, sau đó vì dẫn dắt hàng Bồ-tát Thập địa mà hiển Báo thân nơi Tịnh độ, giáo hóa hàng Tam thừa nên thị hiện Hóa thân về cấu thành. Giống thư hồng chung, bên trong rỗng, nhờ vào người dùng vật đánh mới phát âm thanh; trời trong trăng sáng, nhờ cảnh vật lắng yên mà hiện ra hình ảnh. Cho nên có kế thừa hưng thạnh báo Phật mà thọ quán đảnh nơi Bảo đài, tiếp nối xiển dương hóa Phật thì trước thượng sinh lên Đâu-suất giúp đỡ hàng căn cơ thuần thục mà thăng tòa thuyết pháp, thương xót loài hữu tình si ám mà giáng hạ Diêm-phù. Đó là hành nghi to lớn mà chư Phật ba đời nhận lãnh, là quy tắc diệu kỳ của Bồ-tát nhất sinh. Nay kinh này, là trận mưa lớn nhuần thấm quần sinh, là bến bờ chung dẫn dắt muôn loài, là thuyền lớn cứu vớt người chìm đắm, là xe trâu để dụ dẫn con trẻ trong nhà lửa. Tuy rằng đạt được tánh tướng u vi mà liễu ngộ được nhân quả sâu mầu, thì thật phải nương vào kinh khác, nhưng muốn tế độ chúng sinh trầm luân thời mạt pháp thì chỉ ở nơi kinh này. Vì thế phóng ánh sáng vàng chiếu soi, biểu thị cho việc phá tăm tối cho chúng sinh, hương hoa lan tỏa phía trước, biểu thị cho thật quả ở mai sau. Do đó mà hàng Bồ-tát như ngài Diệu Cát Tường…, hàng Thanh văn như ngài Xá-lợi-phất… đều tụ họp đến vô số tuy để vâng lãnh lời giáo huấn của một thời, thật ra đó là bến bờ của muôn kiếp. Phàm cung trời là cảnh Thánh dùng nhân vô hạn để trang nghiêm, thì vườn uyển đất thần hợp với Đức vô cùng lan tỏa, chẳng phải là chỗ mà tâm có thể duyên đến, thì lời lẽ đâu có thể cùng tận tán dương, chỉ giáo tạng mới tự tỏ bày đầy đủ. Lời xưng tụng trước khi thích đề của bài tựa đến đây đã hết. Tán: Kinh Quán Di-lặc Thượng Sinh Đâu-suất Thiên. Sáu việc gồm tu Hai nhân chứa đủ Tâm cần cảnh diệu Quán hạnh hướng về. Di-lặc Phạm âm Hoa dịch Từ thị Lòng mẹ Từ bi Đến loài trùng kiến. Tâm con hướng đến Mọi kẻ trầm luân Xưa nguyện nay thành Dùng làm danh hiệu. Thượng quả tròn đầy Thùy tích làm nhân. Đã đạt Phật danh Giả xưng Bồ-tát. Thượng sinh tức là sinh lên cõi trời Đâu-suất. Đâu-suất, Hán dịch là Tri túc, Tự tại, Quang khiết (biết đủ, tự tại và sáng trong) vị Bồ-tát này là vị Nhất sinh bổ xứ, đoan tọa ở cung trời Đâu-suất, hành hạnh lợi tha, khiến cho chúng sinh trụ tâm quán tưởng tu hành mà được sinh về cõi ấy. Kinh tức là giữ gìn, xuyên suốt thường trụ, phép tắc. Chúng sinh nương vào giáo nên vónh viễn xa lìa phiền não, nghóa lý nhờ văn, nên mãi mãi thường tồn chẳng mất. Đó là phép tắc thường nhiên của bậc Thánh, là quy củ quý giá của Đế vương. QUÁN DI LẶC BỒ TÁT THƯỢNG SANH ĐÂU SUẤT THIÊN KINH TÁN <卷>QUYỂN THƯỢNG Trước khi giải thích phần văn kinh ta hãy lược nêu năm môn phân biệt. Phật thành quyền thật. Từ thiï sở nhân. Thời phần khác nhau. Vãng sinh nan dị. Vấn đáp liệu giản. <詞>PHẬT THÀNH QUYỀN THẬT : Quyền nghóa là tùy nghi tiếp vật, Thật tức thấu lý ngộ chân. Thân Phật đều có hai nghóa này. Kinh Pháp Hoa khi nói về Bất định tánh có ghi rằng: “Chỉ một việc này là thật, nếu có hai thì chẳng chân” hiểu rõ Nhất thừa là thật, Nhị thừa là quyền, tức là bán giáo và mãn giáo trong kinh Niết-bàn. Kinh Thắng-man luận về nghóa quyết định có ghi: “Đức Như Lai tùy thuận theo ý muốn của chúng sinh nên phương tiện thuyết chỉ có nhất thừa, không có hai thừa”, đó tức hiển bày Nhất thừa là quyền, bốn thừa là thật, nghóa là hạnh Đại thừa, Độc giác, Thanh văn và những chúng sinh không có văn tuệ ngoài Tam thừa, đều dùng thiện căn của nhân thiên mà thành tựu. Giáo đã như thế, thì thân Phật cũng như thế. Cho nên kinh Kim Cang ghi: “Muốn dùng sắc để thấy ta, dùng âm thanh để cầu ta, người ấy thực hành tà đạo, chẳng thể thấy được Như Lai.” Diệu thể của Như Lai là thể Pháp thân của Đấng Đạo Sư, không thể thấy được, tình thức kia không thể nhận biết được, luận giải thích rằng: “Ứng thân và hóa thân chẳng phải là Phật chân thật , đó cũng chẳng phải là người thuyết pháp. Thuyết pháp chẳng chấp thủ nhị biên, không thuyết và lìa tướng nói năng, vì Pháp thân là thật, hai thân kia là quyền.” Trong kinh Pháp Hoa dùng việc cầm đồ vật dơ xấu mà đắp y bẩn dụ cho thân quyền giả. Hiện thọ mạng vô biên để dụ cho thân chân thật. Ở đây đã cho Thọ dụng thân là thật. Hóa thân là quyền. Nhưng trong ba thân lại gồm hai loại bốn câu: 1- Bốn câu thứ nhất: Báo thân chẳng phải Hóa thân, tức là Thọ dụng thân. Hóa thân chẳng phải Báo thân tức là thân thị hiện tám tướng thành đạo. Cũng Báo thân cũng Hóa thân: Tức Tha thọ dụng thân. Vì hưởng nhiều pháp lạc nên nói là thọ dụng, vì tùy cơ hiển thị nên gọi là biến hóa. Chẳng phải Báo thân và Hóa thân, tức Pháp thân Phật. 2. Bốn câu thứ hai: Báo thân chẳng phải Hóa thân: Tức là tự thọ dụng thân. Hóa thân mà chẳng phải Báo thân: Tức là thân tùy thuận chúng sinh trong sáu đường, như thân Trưởng giả, cư só, khỉ, vượn, lừa, ngựa… Cũng là Báo thân cũng là Hóa thân: Tức là Tha thọ dụng thân và thân tám tướng thành đạo. Thân biến hóa nói ở trước cũng thuộc câu này. Chẳng phải Báo cũng chẳng phải Hóa: Tức là Pháp thân Phật. Tuy bốn câu nói về thân Phật khác nhau nhưng không ngoài hai đức quyền và thật, gồm hai loại: Pháp thân là thật, hai thân kia là quyền: thật tức là thể chân thật của các pháp, quyền tức là sự tướng giả hiện, luận Bát-nhã ghi: “Ứng Hóa chẳng phải là Phật chân thật.” Pháp thân và Tự thọ dụng thân, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết; là thân căn bản, lìa các tướng sai biệt, công đức trí tuệ thật vô biên, không thể dùng hình sắc để biết, không có tướng giới hạn và khởi diệt, đầy đủ đức chân thật. Do tu chứng mà thành tựu, chẳng phải ứng vật hiện hình cho nên gọi đó là thật, còn Tha thọ dụng thân và thân thị hiện tám tướng, là thân tùy theo các loài chúng sinh mà hiện ra, có thể khiến cho họ thấy biết được, đó là thân chi mạt, có các tướng sai biệt, công đức trí tuệ không được vô biên, có thể dùng sắc tâm hình lượng mà biết được, lại có tướng giới hạn và khởi diệt, và có công đức của tướng trạng này. Vì thân do lợi tha mà hiển hiện, ứng vật hiện hình cho nên gọi là quyền. Luận Phật Địa ghi: “Thân Phật có hai, đó là thân chân thật và sinh thân.” Nhưng thân chân thật này trụ tại quốc độ của mình mà biến hiện cùng khắp pháp giới không thể ở một phương mà tìm cầu được; Pháp thân là vốn có, đồng với chư Phật, bởi do mê vọng che lấp mà có phiền não, bất giác, vì còn tại triền cho nên gọi là Như Lai tạng. Nếu được thân cận thiện tri thức, đoạn vọng hoặc sinh tử, được xuất triền nên gọi là Pháp thân, là chỗ nương của tất cả công đức. Kinh Thắng- man cho rằng tại triền gọi là Như Lai tạng, xuất triền gọi là Pháp thân. Căn cứ theo vị nhân quả được gọi riêng, cho nên chỉ có thể nói chứng, mà không có thể thành. Sơ địa về sau là phần chứng, chỉ có Phật quả là viên chứng, Tự thọ dụng thân do tu mới chứng, vì loài hữu tình phân biệt sự và thể khác nhau. Từ phàm phu vị chỉ có chủng tử vô thỉ vô lậu, do gần gủi thiện hữu, được nghe chánh pháp, chủng tử dần dần tăng trưởng, thành gốc của Báo thân, cũng gọi là Như Lai tạng, kinh Lăng-già ghi: “Thức A-lê-da gọi là Không Như Lai tạng, vì huân tập đầy đủ các pháp vô lậu, cho nên gọi là Bất không Như Lai tạng.” Trước gọi là Pháp thân tạng, sau gọi là Báo thân tạng, phát tâm tu hành như U Tán đã nói, trướcThập địa, chỉ tu tập khiến chủng tử vô lậu dần dần tăng trưởng, do thế lực này mà các nghiệp thiện hữu lậu sinh khởi, đương lai sẽ cảm được Báo thân tướng hảo viên mãn, sinh vào quốc độ biến hóa có tám tướng, đến khi đạt được Sơ địa trở lên, nhờ các chủng tử hữu lậu thiện giúp sức mà đạt được giai vị Thập vương, đời đời thường được ba mươi hai tướng trượng phu, tám mươi vẽ đẹp, nhưng cũng chưa được vô lậu, và cũng chưa tròn sáng liễu ngộ, chỉ có thức thứ sáu và thức thứ bảy vô lậu, sinh vào quốc độ Tha thọ dụng tùy loại hóa sinh; như kinh Phạm Võng nói rằng: “Vị thì có Tiểu, Đại, sau Kim Cang Đạo thì các chủng tử hữu lậu đều bị diệt tận, năm uẩn vô lậu đều viên mãn, xả sắc vô thường mà đạt được sắc thường trụ, thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế” Đạt được ba mươi hai tướng trượng phu, tám mươi vẽ đẹp vô lậu, đến tận đời vị lai vẫn mãi mãi như thế. Nhưng thân biến dịch của Bồ-tát có hai loại, hoặc là Sơ địa đã chịu biến dịch, như nhập diệt tận định trừ phiền não, hoặc là cuối cùng đến Địa thứ bảy mãn tâm mới chịu biến dịch, như nhập diệt tận định không trừ hoặc. Thân biến dịch này khi đã được, thì không lìa giác, thế lực này hết thì trở về nhập định, nối tiếp cho đến giai vị Kim Cang chuyển mới dứt. Do đó từ Địa thứ bảy mãn tâm này, Bồ-tát mạng chung vãng sinh đến cõi trời Quãng quả trong cõi trời đệ tứ thiền, vượt qua cõi trời Ngũ tịnh cư, cho nên nhờ sự giúp đỡ ở cõi dưới này mà cảm được nghiệp hiện thân, cho đến Địa thứ mười cũng vẫn luôn luôn có sức giúp đỡ ấy, vào vị Kim Cang tâm, mới sinh về cõi Tịnh độ thượng diệu ở cõi trời Sắc cứu cánh. Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Có cõi trời Diệu tịnh thù thắng hơn ba cõi, Bồ-tát Địa thứ mười sẽ sinh vào cõi này.” Sinh tức là khởi, vãng tức là trụ vậy. Luận Thập Địa ghi: “Hiện báo được lợi ích thì đạt được quả vị Phật. Hậu báo được lợi ích sinh vào cõi trí là trời Ma-hê-thủ-la.” Cho nên luận Du-già quyển bốn, kinh Giải Tham Mật, luận Đối pháp đều nói như thế. Vượt trên cõi trời Sắc cứu cánh thì có cõi Tịnh diệu, Bồ-tát Địa thứ mười vừa sinh về cõi này, thì liền có mười tướng hiển hiện, Bồ-tát ngồi trong Đại bảo hoa vương mà thành chánh giác. Ở giai vị Kim Cang tâm thân Bồ-tát còn có hạn lượng, còn là nhân vị, chủng tử hữu lậu vẫn còn, đến vị giải thoát đạo, thì thân mới được vô biên gọi là quả vị chủng tử vô lậu đã đầy đủ. Đây là các pháp tu tập sinh quả thân vô lậu, thân lượng và trí cảnh đều Như, sự lý tương ưng không có phần lượng chẳng thể tìm cầu, cho nên gọi là thật. Hai thân quyền hiện kia đều có sai biệt, tùy nghi hiển thị, có xứ sở để tìm cầu. Như Tha thọ dụng thân là vì hàng Sơ địa Bồ-tát mà thị hiện, do Bồ-tát này ngộ được một trăm môn, thấy được một trăm vị Phật, mỗi một vị Phật cai quản tam thiên đại thiên thế giới. Lý này tức là lý bách ức hóa thân, vì một vị Phật hóa đều giống nhau, cho nên gọi là một Phật. Tuy thấy một trăm Phật, nhưng gồm chung chỉ một thọ dụng. Thọ dụng Phật này ngồi trên hoa một trăm cánh, mỗi cánh hoa là một là một cõi Phật của trăm ức hóa thân, một cõi Phật mà hàng Bồ-tát trước Thập địa thấy được là do Phật kia hiện thân hợp với cõi ấy. Nhưng cũng gồm hai loại, một là thân hiện cho một tứ thiên hạ, hai là thân Phật chung cho cõi tam thiên. Các hàng Bồ-tát trước Thập địa có giai vị khác nhau, còn Tha thọ dụng thân mà hàng Sơ địa thấy được xứng hợp với hoa trăm cánh kia chẳng lớn, chẳng nhỏ. Bồ-tát Sơ địa thân cận Đức Phật thì thân lớn nhỏ đều tương xứng với Phật, hàng Bồ- tát trước Thập địa, tùy theo quốc độ mình sinh về, mà thân lớn hoặc nhỏ đều bằng nửa thân Phật. Sơ địa trở về sau đã chứng chân như, hiện đời công đức vô lậu dần dần thù thắng, tướng tốt dần hiện rõ, cho nên thân cảm được lớn nhỏ đều tương xứng với thân Phật. Thân phần đoạn biến dịch, thô tế khác nhau, nhưng nhờ công đức trợ giúp, cho nên thân ắt lớn. Ở giai vị Thập vương là vua của châu này, tùy loại hóa sinh, hoặc là thọ hay chẳng thọ, thân cũng tùy theo đó mà có khác. Chánh trí chứng chân như. Hậu trí thấy được Phật, như trong Thập bách môn đã nói rõ. Như đến Địa thứ hai thì đạt được ngàn pháp môn, thấy Thọ dụng thân ngồi trên hoa sen ngàn cánh, trên mỗi cánh có một trăm ức hóa Phật, chỗ Phật ngồi lớn nhỏ đều tương xứng, các Bồ-tát thân cận thân lượng cũng như thế, lớn nhỏ giống như thân lượng của hóa đệ tử hầu cận Phật. Cho nên kinh Phạm Võng ghi: “Ta nay là Phật Lô-xá-na ngồi trên tòa hoa sen, một hoa có một trăm ức quốc độ, mỗi quốc độ có một Thích-ca, đồng thời thành Phật dưới cội Bồ-đề, cũng như Đức Phật A-di đà mắt như nước bốn biển lớn, tướng bạch hào giữa hai chặng mày như năm núi Tu-di.” Kinh Pháp Hoa ghi: “Khi chúng sinh gặp kiếp tận có lửa dữ thiêu đốt thì ta ở quốc độ kia vẫn luôn an ổn, người trời đầy đủ, thường thuyết kinh Pháp Hoa tại Linh thứu và các trụ xứ khác.” Đó đều là Tha thọ dụng thân, tùy thuận các Bồ-tát lớn nhỏ mà phương tiện hiện thân lớn nhỏ chẳng đồng, cõi nước hiện ra cũng như thế, không chỉ có sắc tướng ở Tịnh độ mới khác. Quốc độ mà thân cảm đến hoặc là ở Tây phương hoặc là cõi này. Như thân mà Bồ-tát Diệu Cát Tường thấy là Tha thọ dụng thân, ngài Xá-lợi-phất thấy là Hóa thân. Cho nên trên hội Hoa Nghiêm, ngài Xá-lợi-phất như mù như điếc không thấy không nghe, khi ngài Văn-thù dẫn ra khỏi hội rồi mới thấy biết, và thân được nhìn thấy sau đó là quyền thân, còn sở chứng của chánh tri là thật thân. Nếu Bồ-tát Địa thứ mười khi sắp thành Phật ắt sẽ sinh vào quốc độ Diệu tịnh ở Đại tự tại thiên thuộc cõi trời Sắc cứu cánh, ngồi trên tòa Đại bảo vương hoa mà thành chánh giác. Tòa Đại bảo vương hoa này rộng lớn bằng mười a-tăng-kỳ một trăm tam thiên đại thiên thế giới, Bồ-tát Thập địa kiết già trong đó, thân lượng lớn nhỏ đều tương xứng, hà huống chi Tha thọ dụng thân được thấy ở đây? Thân của Đức Phật kia vô lượng, vô biên, thì quôc độ kia ắt là ở cõi trời sắc Cứu cánh, như văn trong kinh luận được dẫn ở trước. Nhưng các quôc độ này không có hàng Nhị thừa, nữ nhân, hoàng môn hoặc ác thú sinh uế, nếu có thì cũng là do Phật và Bồ-tát hóa hiện ra. Cho nên kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Hàng nữ nhân và Nhị thừa căn khuyết đều không sinh về. Luận Phật Địa ghi: “Dẫu có các loại chim anh vũ… . trang nghiêm đạo tràng thì đó cũng là do Phật và Bồ-tát hóa ra để cho các Bồ-tát ở phương khác đến tâm sinh hoan hỷ. Kinh Cổ Âm Vương ghi: “Cha của Đức Phật A-di-đà tên là Nguyệt Thượng, mẹ tên là Thù thắng Diệu Nhan, con tên là Nguyệt Minh, Đệ tử thị giả tên là Vô Cấu Xưng, ma vương tên là Vô Thắng, Điều Đạt tên là Tịch. Đã không có nữ nhân cho nên người mẹ chẳng phải là người nữ thật, mà do Phật biến hóa ra, như chim mạng mạng… Cho nên báo độ này cũng không trái nghịch nhau. Có người giải thích rằng: Người nữ thật này là hóa thân; Phật A-di-đà có báo Phật độ, như Loa-kế đã thấy, khi kiếp tận vẫn còn thuyết pháp tại Linh sơn, đó là báo Phật độ. Nhưng kinh Hoa Nghiêm ghi: “Trong bụng Ma-gia phu nhân, nhập Tam-muội thấy bụng bao hàm chư Bồ-tát ở vô lượng thế giới đến nghe pháp.” Cho nên biết báo Phật cũng có hóa phụ mẫu, giải thích như thế cũng chưa được đầy đủ như kinh Quán Thế Âm Thọ Ký ghi: “Thọ mạng của Đức Phật A-di-đà vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp cũng sẽ có lúc chung cuộc, sau khi diệt độ thì Bồ-tát Quán Thế Âm, khi minh tướng xuất hiện thành Đẳng chánh giác dưới cội Bồ-đề bảy báu, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Phật, cõi nước tên là Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm, thù thắng hơn cõi nước Phật Di-đà trăm ngàn vạn ức, không gì sánh kịp. Sau khi Đức Phật này diệt độ, thì Bồ-tát Đại Thế Chí sẽ thành Phật hiệu là Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương. Bất luận là trước ở phương nào, sau cũng đều đến bổ xứ, không đồng với hóa Phật. Nhưng ở bổ xứ mà không mất hóa xứ, vì muốn khiến cho tâm vui thích cho nên trước phải có trụ xứ. Tha thọ dụng thân kia, dùng đài hoa làm tòa đạo tràng; hạ sinh có cha mẹ, thượng sinh thì không có cha mẹ, vả lại hóa thân là vì hàng Bồ-tát trước Thập địa và Nhị thừa mà thị hiện, hoặc tịnh hoạëc bất tịnh, hoặc lớn hoặc nhỏ, tùy thuận chúng sinh. Khi sắp thành Phật, đầu tiên sinh lên cõi trời Tri túc, vì tương xứng với cơ nghi của chư Thiên ở cõi trời này, tâm chán khổ sâu nặng, sợ sinh thú, sinh tử đã biết đủ. Đã không trụ ở cõi trời khác ắt ở cõi trời này, như Đức Thích-ca và Di-lặc đều ở cõi trời Tri túc. Kinh Bồ-tát Xử Thai ghi: “Đầy đủ năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm thì hạ sinh” tức căn cơ thành thục mới sinh xuống Diêm-phù-đề mà thành Phật. Chư Phật ba thời thành đạo đều có các sự việc như cội Bồ-đề, tòa Kim cang ngồi đạo tràng hàng phục ác ma… Việc hàng phục ác ma chẳng giống nhau, Lý Thú sớ rằng: “Kim Cang Thánh đạo đã trừ hai chướng. Trong giải thoát đạo đầy đủ đạo vô lậu, đã hợp chân, khế đức, chứng giác, lợi sinh nên gọi là thành Phật.” Nay kinh Hạ Sinh nói về việc thành Phật chẳng phải Pháp thân Phật mà chỉ là chứng lý, cũng chẳng có các nghóa thượng sinh hạ sinh thành Phật… cũng chẳng phải là tự thọ dụng thân, vì Phật ấy không có các tướng trụ ở cõi trời, thành Phật, thuyết pháp lợi sinh khiến cho chúng sinh được thấy Tha thọ dụng thân không ở Thiên cung, không trụ ở nước Ma-kiệt-đà, vì khiến cho hàng Bồ-tát trước Thập địa thấy được, cho nên Hóa thân này thượng sinh thành Phật, tuy nêu hóa thân nhưng hiển bày các thân khác. Tự thọ dụng thân viên thành Phật đạo, chân như diệu lý chứng đắc viên mãn, hoặc chướng tận trừ, quả tự lợi đã hiện, thì nguyện xưa cần nên làm, ngay hội này hóa sinh, quyền hiện Tha thọ dụng thân Phật, ứng theo cơ nghi của hàng Thập địa mà hiển hiện Phật thân, lại tùy theo Bồ-tát trước Thập địa mà biến hóa. Tuy nơi này thuộc về hóa thân, mà hiện thân Phật khác, đó là do người thấy căn cơ khác nhau, nên thân hiển hiện cũng khác nhau, chớ chẳng phải thật thân Phật có thể sai khác. Như mặt trăng ra khỏi mây, với bầu trời trong xanh, thì trăng hiện trong nước, trăng trong nước vẫn tròn sáng, mặc kệ cho các vật có muôn ngàn sai biệt, mặt trăng vốn chỉ có một, đâu thể vì có muôn ngàn bóng trăng sai biệt mà cho rằng mặt trăng thật có thể khác nhau, hai thể chân và giả (quyền) nghóa lý ắt như thế. Chân tức là nguồn gốc của lý, quyền tức là tùy vật hiển bày, cho nên biết thượng sinh thành Phật đầy đủ thật thể là ảnh hóa, đó là muốn khiến cho loại chúng sinh được độ tha và để tu hành. Bát kinh ghi: “Bồ-tát Di-lặc nói với ngài Văn-thù rằng: Nếu thân sau của ta thành Phật, thì cũng như hằng hà sa, Văn-thù-sư-lợi không biết các việc nhấc chân hạ chân của ta.” Kinh Ương-quật-ma-la ghi: Ở phương Bắc có một nước tên là Thường hỷ, Đức Phật hiệu là Hoan Hỷ Tạng Ma-ni Bảo Tích, Văn-thù- sư-lợi tức là Đức Phật kia.” Văn-thù đã là Phật mà không biết Di-lặc, cho nên biết đó là hóa thân. Thân hiện tám tướng thành đạo ghi trong luận Nhiếp Đại Thừa là hóa thân. Cho nên biết Phật thượng sinh, nhất định chẳng phải là chân Phật. Bồ-tát có ba thân, đó là nhất sinh sở hệ, thân sau cùng và thân ngồi đạo tràng. Thượng sinh Bồ-tát tức là nhất sinh sở hệ, hạ sinh tức thuộc hai thân sau. Thành Phật do nhân, cho nên ba thân đều diệt, chỉ có hóa Phật, còn tất cả không thấy. Nhưng theo lý suy luận thì cũng có, như Bồ-tát Địa thứ bảy, có thân chịu biến dịch, gọi là nhất sinh sở hệ, Bồ-tát Địa thứ tám trở lên là thân sau cùng, không có tướng phần đoạn sinh tử, vãng sinh về cung trời Đại tự tại ngồi trên tòa sen thì gọi là thân ngồi đạo tràng đây gọi là thành. Tự thọ dụng thân cũng có ba thân Bồ-tát. Tha thọ dụng thân, lý cũng như thế, như thân Bồ-tát Quán Âm là thân sau cùng, ngồi đạo tràng nhất sinh sở hệ, chưa thành chánh giác, lý tất nhiên như thế. Có thuyết cho rằng: Bồ-tát Di- lặc là nhất sinh, tức trụ tại nhân gian gọi là nhất sinh, nhất đại sinh, như thất sinh,… nếu căn cứ theo thật, nhân thiên hợp lại có bốn sinh, nếu cho rằng cõi trời chỉ có hai, thì nhân gian có hai sinh thân. Luận Đại Trí Độ ghi có ba sinh thân, tức là trừ thân thành Phật ở cõi người, cho nên có ba, nhưng các Bồ-tát có năm loại sinh thân đó là: Thân trừ tai, tức do nguyện tự tại làm các loài cá… để cứu giúp những kẻ đói khát, làm bậc Đại y vương cứu bệnh tật, làm người biện luận khéo léo để hòa giải những cuộc tranh đấu, làm đại quốc vương dứt khổ như pháp làm một đại Thiên thần, đoạn dứt tà kiến cho chúng sinh, làm nước làm lửa, làm thuyền bè, xe cộ… để dứt trừ những tai họa. Thân tùy loại, vì sức nguyện tự tại nên sinh vào trong các loại ác như bàng sinh… họ làm việc ác mà mình chẳng làm. Họ chẳng hành thiện, mà mình làm, như vào quán rượu mà vẫn giữ vững ý chí, vào nhà dâm chỉ lỗi của tham dục, nói chánh pháp khiến cho họ xa lìa tội lỗi. Thân Đại thế, sinh vào dòng họ tôn quý, giàu sang, hình sắc, thọ mạng đều thù thắng, có thể dứt trừ các lỗi khinh mạn… cho chúng sinh. Thân tăng thượng chứng quả Thập vương tự tại hóa đạo, tùy nơi lúc và căn cơ mà chỉ ra thân tối thắng đời này tư lương đã viên mãn, như Đức Thích-ca sinh vào nhà vị Đại quốc vương dòng Sát-đế-lợi, có thể hiện thân đẳng giác thực hành các Phật sự. Nay Bồ-tát Di-lặc trụ ở cõi trời Đâu-suất đầy đủ bốn thân, hoặc hai, hoặc ba, nếu hạ sinh Diêm-phù-đề tức thuộc về thân thứ năm. Đây tức môn thứ nhất Phật thành quyền thật. <詞>TỪ TÁNH SỞ NHÂN : Tiếng Phạm Mai-đát-lị-da, Hán dịch là Từ, xưa phiên âm là Di- đế-nghi, hoặc Di-lặc đều là lầm lẫn, kinh Hiền Ngu quyển mười sáu ghi: “Sinh trong nhà của phụ tướng ở thôn Kiếp-ba-lợi, nước Ba-la-nại.” Kinh Thượng Sinh ghi: “Bồ-tát sinh vào nhà thuộc dòng Bà-la-môn Ba- bà-lợi ở thôn Kiếp-ba-lợi, lúc mới sinh đã có ba mươi hai tướng trượng phu và tám mươi vẻ đẹp, thân màu vàng tía, dung nghi đónh đạt, quan phụ tướng vui mừng, mời thầy tướng đến xem, xem xong liền khen ngợi. Nhân khi đặt tên mới hỏi phụ tướng, lúc mới sinh đã có những điềm gì? Phụ tướng nói rằng: “phu nhân tánh vốn không nhu hòa, nhưng từ khi mang thai đến nay, tâm từ sinh khởi, thường thương xót những người khổ nạn, thầy tướng đoán biết đây là tánh của đứa trẻ, nhân đó đặt tên là Mai-đát-lị-da. Nếu âm dịch đúng phải là Mai-đát-lị-duệ-ni, Mai-đát- lị-ni âm chỉ cho người nữ, mẹ tánh từ bi cho nên gọi là Từ thị. Được cha mẹ thương yêu quý trọng, tiếng tăm vang khắp nơi. Vua Phạm-ma-đạt nghe được, tâm sinh lo lắng buồn bực sợ rằng đứa bé lớn lên sẽ đoạt ngôi, nên nhân khi chưa trưởng thành mà lập mưu giết hại. Có người biết được ngầm báo cho quan phụ tướng và phu nhân, hai người bèn bí mật dẫn con lánh nạn, cho đến học tập với người cậu tên là Ba-la-lợi lúc ấy đang hướng dẫn năm trăm đồ chúng học đạo ở phương khác. Cậu cháu thầy trò thông minh xuất chúng, trải qua mấy năm đã lầu thông kinh điển, sau nghe tin Đức Phật xuất thế, người cậu liền bảo Di-lặc và mười lăm người khác, đến trụ xứ của Phật, hỏi bốn câu là hình tướng, tuổi tác, đệ tử và chủng tánh. Đức Phật trả lời đầy đủ, Di-lặc rất vui mừng nhân đó Đức Phật lại thuyết pháp hóa độ, mười lăm người kia đắc pháp nhãn tịnh, đều đứng dậy cầu xin Phật cho phép xuất gia. Đức Phật liền nói: “Thiện lai” thì râu tóc của họ liền rụng hết, thân đã đắp y, hiện tướng Tỳ-kheo, Đức Phật lại phương tiện thuyết pháp, khiến họ đều được chứng quả, chỉ có Từ thị không được dự vào. Sau đó Từ thị theo Phật du hóa đến nước Ca-duy-la-vệ, lúc bấy giờ, di mẫu của Đức Phật là Đại Ái Đạo đã tự tay dệt một tấm ca-sa bằng sợi tơ vàng, muốn dâng cúng Thế Tôn. Thế Tôn không thọ nhận và bảo cúng dường chư tăng, bà vâng lời đến trong tăng lần lượt dâng cúng nhưng không ai dám nhận, khi đến Di-lặc thì Di-lặc liền nhận lãnh, đắp vào theo Phật du hóa. Di-lặc có thân màu vàng tía, đắp y màu vàng ròng trong ngoài tương xứng, ôm bát khất thực, vừa đến xóm làng thì dân chúng tranh nhau đến xem không chán, tuy đều cung kính ngợi khen, nhưng không ai dâng vật thực. Lúc bấy giờ, có một người thợ xâu ngọc cúng dường ngài, vợ của người này đến thấy thế nổi giận mắng rằng: “Đã mất món lợi của xâu ngọc!” Từ thị được ngọc trở về trụ xứ thưa hỏi đại chúng. Đức Phật liền nói phước lợi sinh ra do việc cúng dường ở đời trước và Đức Phật nhân ngài A-na-luật nói xong việc quá khứ, Ngài liền nói đến việc ở vị lai Từ thị sẽ thành chánh giác, vẫn lấy hiệu là Từ thị. Ngài A- nan thưa hỏi Đức Phật về nguyên nhân có tên là Từ thị, Đức Phật đáp rằng: “Vào thời quá khứ ở cõi Thiệm bộ châu này có một vị đại quốc vương tên là Đạt-ma-lưu-chi, Hán dịch là Pháp ái, lại có Đức Phật hiệu là Phất-sa xuất thế, lúc ấy có Tỳ-kheo nhập Từ Tam-muội, thân tướng an tịnh, phóng hào quang sáng chói, vua thấy thế hỏi Đức Phật rằng: “Vị tăng ấy nhập định gì mà được như thế?”Đức Phật đáp: “Nhập Từ định”, vua liền sinh tâm hoan hỉ bội phần và nói rằng: “Từ định này sâu mầu bền vững như thế, ta nên tu tập, đời đời không nên để đoạn dứt.” Vua Pháp Ái khi xưa nay là Từ thị, từ lúc sơ phát tâm đã có hiệu là Từ thị, lâu ngày tu tập đã thành tánh cho nên khi chứng đắc quả Phật cũng vẫn có hiệu như thế. Kinh Nhất Thiết Trí Quang Minh Tiên Nhân Từ Tâm ghi: “Phật ở tại tịch diệt đạo tràng, tịnh xá Tự tại thiên, thôn Di-ca nữ nước Ma-già-đề đang cùng với một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ- kheo kinh hành trong rừng, thì Bồ-tát Di-lặc thân sắc vàng, tướng hảo, phóng ánh sáng trắng bạc và vàng ròng xen lẫn, trang nghiêm như núi bạc hiện đến trước Phật, phạm chí Kết Phát cùng với năm trăm người từ xa thấy thế, bèn quỳ gối chắp tay hỏi Đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Hào quang của Di-lặc cũng bằng với Đức Phật, là do quá khứ phát tâm với Đức Phật nào?” Đức Phật đáp: “Này Phạm chí! Vào thời quá khứ vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp có thế giới tên là Thắng-hoa-phu, Đức Phật tên Di-lặc, thường dùng pháp Tứ vô lượng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả để giáo hóa chúng sinh, Đức Phật ấy thuyết kinh Từ Tam-muội Quang Đại Bi Hải Vân, nếu người nào nghe được kinh này sẽ diệt được tội lỗi trong một trăm ức kiếp nhất định thành Phật. Lúc bấy giờ, có một vị Bà-la- môn tên là Nhất Thiết Trí Quang Minh, thông minh đa trí, thông thạo sáu mươi bốn kỷ nghệ thế gian, nghe kinh này liền dùng tất cả ngôn từ lý lẽ để vấn nạn, nhưng không thể khất phục được, do đó phát tâm kính tin và nguyện rằng: “Nguyện tu trì kinh này, ắt được thành Phật hiệu là Di-lặc”, từ đó bỏ nhà vào hang núi tu tập phạm hạnh, trải qua tám ngàn năm khất thực tụng kinh, lúc bấy giờ, những ngôi sao dữ xuất hiện biểu thị điềm vua dâm loạn, sao chổi quét ngang bầu trời, mưa không dứt, nước dâng tràn, trong bảy ngày vị Tiên nhân này không thể khất thực được, khi ấy trong rừng có bầy thỏ trắng năm trăm con, mẹ con thỏ chúa thấy vị tiên nhân không có thức ăn, liền nghó rằng: “tiên nhân vì pháp nên đã nhiều ngày nhịn ăn, vậy núi pháp sắp đổ, biển pháp sắp cạn, ta nay vì pháp chẳng nên tiếc thân mạng, suy nghó xong, thỏ nói với bầy thỏ rằng: “Các hành vô thường, chúng sinh mến tiếc thân mạng, chưa từng vì pháp mà xả bỏ, nay ta muốn vì tất cả các loài mà làm cây cầu lớn, cúng dường Pháp sư, để cho pháp được trụ lâu dài, rồi nói kệ rằng: Nếu có loài chúng sinh. Nghe được danh hiệu Phật. Vónh viễn lìa ác đạo. Tám chỗ nạn chẳng vào. Nếu nghe pháp hành trì. Sinh ra thường gặp Phật. Tin pháp chẳng nghi ngờ. Quy y Hiền Thánh tăng. Tùy thuận các giới hạnh. Như thế chóng thành Phật. Ắt đến đại Niết-bàn. Được an lạc vô thượng. Nói kệ xong liền bảo bầy thỏ rằng: “Ta nay muốn dùng thân cúng dường pháp, các ngươi nên vui mừng. Chúng ta từ nhiều kiếp lâu xa đến nay bị ba độc bức bách, khiến phải làm các thân chim thú, chịu sinh tử hư dối, nay ta muốn vì pháp xả bỏ thân hình này.” Lúc bấy giờ, các thần cây gom góp các loài gỗ thơm, đốt lên, mẹ con thỏ chúa nhiễu quanh vị tiên bảy vòng và bạch rằng: “Thưa Đại sư! Tôi nay vì pháp cúng dường tôn giả.” Vị Tiên nói rằng: “Ngươi là loài súc sinh mà có tâm này, thật khó phân biện.” Thỏ chúa đáp: “Tôi nay cúng dường thân này là muốn cho pháp được trụ lâu dài ở thế gian, làm lợi ích cho chúng sinh.” Nói xong bèn bảo thỏ con rằng: “Con hãy tùy ý tìm cầu cỏ nước để sống, nên trụ tâm tư duy, chánh niệm Tam bảo.” Thỏ con liền quỳ thưa rằng: “Nếu mẹ vì pháp cúng dường Tam bảo thì con cũng tùy hỷ nguyện làm theo.” Nói xong liền nhảy vào lửa, thỏ chúa cũng nhảy theo. Khi Bồ-tát xả thân như thế, thì mặt đất chấn động, trời mưa hoa cúng dường. Sau khi thịt chín, các thần bạch vị tiên rằng: “Mẹ con thỏ chúa vì pháp cúng dường đã nhảy vào lửa, bây giờ thịt đã chín, xin tôn giả thọ dụng,” Vị tiên nghe nói thế, buồn thương khôn xiết, bèn viết bản kinh mà mình đã tụng vào các lá cây và nói kệ rằng: Thà đốt thân hoặc làm mù mắt. Nguyện không giết hại mạng chúng sinh. Chư Phật đã thuyết Từ Bi kinh. Trong ấy dạy người nên từ niệm. Thà chẻ đầu, xương lấy tủy não. Nguyện không ăn thịt các hữu tình. Chư Phật bảo rằng người ăn thịt. Không thể viên mãn hạnh Từ bi. Lại thêm yểu mạng cùng nhiều bệnh. Vị tiên phát nguyện: “Từ nay về sau, đời đời kiếp kiếp, ta nguyện không còn khởi ý tưởng sát sinh, không bao giờ ăn thịt, nhập Từ tâm Tam-muội, cho đến khi thành Phật sẽ chế giới không ăn thịt.” Nói xong cũng bước vào lửa thiêu thân, đồng thời mệnh chung với mẹ con thỏ chúa. Bấy giờ mặt đất phát khởi sáu loại chấn động, nhờ sức của thiên thần rừng cây phóng ánh sáng vàng rực rỡ chiếu soi khắp cả một ngàn cõi nước khiến chúng sinh thấy được, theo ánh sáng tìm đến, thấy vị Tiên và mẹ con thỏ chúa đã chết trong lửa, bèn thỉnh kinh Phật và bài kệ về trình lên vua, vua ban lệnh tuyên thuyết khắp nơi, người nghe đều phát tâm Bồ-đề. Đức Phật bảo Phạm chí rằng: Thỏ chúa khi xưa nay chính là Ta, thỏ con là La-hầu-la, vị Tiên tụng kinh là Di-lặc, năm trăm con thỏ nay là Đại Ca-diếp với năm trăm quyến thuộc, thần núi thần cây nay là Xá-lợi-Phật, Mục-kiền-liên hai trăm năm mươi người, một ngàn vị quốc vương nay là một ngàn vị Bồ-tát như Bạt-đa-ba-la… Chúng sanh ở nước đó được nghe pháp khi xưa, là những người đắc đạo vào hiền kiếp Phật.” Do đó mà khi còn là Bồ-tát cho đến khi thành Phật vẫn có hiệu là Di-lặc, kinh được Đức Phật ấy thuyết cũng được gọi là Từ Tam-muội Quang Đại Bi Hải Vân, đó là thuyết vào thời kỳ đầu tiên. Còn kinh Hiền Ngu nói trời Phật Phất-sa là nói theo thời cận đại. Vì muốn hiển bày nghóa đời đời tu tập hạnh từ nên có việc thầy tướng đăït tên, xa gần hợp tánh, kim cổ gọi chung, cho nên gọi là Di-lặc. Nếu căn cứ theo đây thì họ Từ, Phạm là Mai-đát-lợi-duệ-na, Mai-đát-lợi-na là tiếng chỉ người nam, vì tự tánh tu hành từ tâm nên gọi là nam. Dòng họ Bà-la-môn có nhiều loại, Từ là họ của vua cha, họ mẹ họ cha đều là Từ cho nên gọi là Từ thị. Có thuyết cho rằng Từ thị vốn có họ là Phả- la-đọa, tự là A-thị-đa. Tự vốn không sai, nhưng họ thành trái người, vì Di-lặc là do mẹ và tự tánh đều thực hành từ ái, do đó mà đặt tên hiệu. Tánh của tâm hạnh cũng là chủng tánh, như Thích-ca là (tánh), Mâu-ni là hiệu, Nhất thiết nghóa thành là tên, Kiều-đáp-ma là vua. Nguyên do đặt tên của bậc Thánh như thế, nên gọi là Từ Tánh sở nhân thứ hai. <詞>THỜI PHẬN KHÁC NHAU. Kiếp có rất nhiều loại, như kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Bồ-tát ghi: “Lúc bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo đại chúng rằng: Ta từng xuất gia tu đạo vào thời mạt pháp của Đức Phật Diệu Quang ở đời quá khứ, nghe danh hiệu của năm mươi ba Đức Phật liền sinh tâm hoan hỷ, lại dạy cho người khác, người khác nghe rồi lại dạy cho nhiều người khác nữa cứ thế cho đến ba ngàn người, dị khẩu đồng âm xưng niệm danh hiệu của Đức Phật, nhất tâm kính lễ liền vượt qua được tội lỗi sinh tử trong vô lượng ức kiếp. Một ngàn người đầu tiên thành Phật ở quá khứ trang nghiêm kiếp, vị đầu tiên là Phật Hoa Quang và vị cuối cùng là Phật Tỳ-xá-Phật. Tỳ-xá tức là Phật Tỳ-xá-phù thứ ba trong bảy vị Phật. Một ngàn người thứ hai thành Phật vào thời hiền kiếp, vị thứ nhất tên là Câu-lưu-tôn, vị cuối cùng là Phật Lâu-chí. Một ngàn người thành Phật vào thời vị lai tinh tú kiếp, vị đầu tiên là Nhật Quang và vị cuối cùng tên là Tu-di Tướng. Kinh Hiền Kiếp cũng ghi: “Vào thời quá khứ trang nghiêm kiếp có một ngàn vị Phật xuất thế.” Văn đều giống như thế. Ba ngàn vị Phật lại có từng nhóm riêng, cùng tu một thắng hạnh, đồng thời đắc quả. Kinh Vô Cấu Xưng ghi: “Luân vương ở quá khứ tên là Bảo Cái, nay là Bảo Diệm Như Lai, một ngàn người con của Luân vương, tức là một ngàn vị Phật ở hiền kiếp, trong đó Nguyệt Cái vương tử nay là Đức Thích-ca.” Kinh Ngũ Trược ghi: “Nay kiếp trụ thứ chín ở hiền kiếp đã có bốn vị Phật xuất thế, khi tuổi thọ con người đến bốn vạn năm thì Đức Phật Ca-nặc-ca Thôn-đà xuất hiện, khi tuổi thọ con người còn ba vạn tuổi thì có Đức Phật Ca-nặc-ca Mâu-ni xuất thế, khi con người còn hai vạn tuổi thì có Phật Ca-diếp-ba xuất thế.” Kinh Hiền Kiếp ghi: “Khi tuổi thọ con người giảm còn một ngàn hai trăm năm thì Đức Phật Thích-ca mới sinh về cõi trời Đâu-suất (Đổ Sử), đến khi tuổi thọ còn một trăm năm, thì mới hạ sinh nhân gian thành Phật. Bốn ngàn tuổi ở cõi trời Đâu-suất, bằng năm mươi sáu ức, bảy ngàn vạn năm ở cõi Diêm-phù-đề, chánh pháp trụ thế năm trăm năm, tượng pháp một ngàn năm.” Không kể mạt pháp nhưng lại ghi rằng: Qua một ngàn năm trăm năm sau khi pháp của Phật Thích-ca diệt tận, thì có bậc Độc Giác hành hóa.” Điều này không giống với các kinh khác. Về việc tuổi thọ con người rút ngắn, thì thời chánh pháp tuổi thọ không giảm, đến thời tượng và mạt thì tuổi thọ dần dần chuyển giảm, đến khi còn ba mươi hai tuổi thì thế giới lần lượt xảy ra các nạn đói kém, bệnh tật, đao binh, khiến cho con người bị diệt tận, mặt đất hoang vu, lúc bấy giờ, có Tiên nhân ra đời, dạy dỗ khuyên răn con người làm điều thiện, khiến cho tuổi thọ con gấp đôi tuổi cha, dần dần tăng đến tám vạn bốn ngàn năm. Trong khoảng từ sáu vạn tăng đến tám vạn, đều có Chuyển luân thánh vương lần lượt xuất thế. Khi tuổi thọ con người tăng đến tám vạn năm vào thời Chuyển luân thánh vương Nhương Khử, thì Đức Phật Di-lặc mới xuất thế. Nhưng Luận Thích lại ghi: “Thời kiếp giảm thì Phật xuất thế, vào thời kiếp tăng thì Chuyển luân vương xuất thế. Từ đó suy luận mà biết rằng vào lúc tuổi thọ con người đến cùng tột là tám vạn bốn ngàn năm. Đúng là lúc bắt đầu giảm thì Đức Phật Di-lặc xuất thế, vì lúc bấy giờ, con người phần nhiều chán ghét sinh tử, khi con người tuổi thọ chỉ còn một trăm năm, thì Đức Di-lặc sinh về cõi trời Đâu-suất, đến lúc tuổi họ dân gian tăng đến tám vạn bốn ngàn năm, thì Di-lặc mới hạ sinh thành Phật, tính ra ở nhân gian là năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm. Như thế biết rằng kiếp giảm thì dài, kiếp tăng thì ngắn. Hào quang của Đức Từ thị chiếu xa bốn mươi dặm. Kinh Phạm Chí ghi: “Đức Di-lặc, cha là Phạm Thủ, mẹ là Phạm Kinh, con tên Đức Lực, thị giả là Hải Thị, đệ tử trí tuệ là Tuệ Quang, đệ tử thần túc là Hiền Tinh Tấn, chánh pháp trụ thế tám vạn năm, Đức Phật nhập diệt trà-tỳ, thâu xá-lợi tôn trí trong một ngôi đại tháp.” Kinh Hiền kiếp ghi: “Từ Đức Phật Ca-nặc-ca Thôn-đà đến Đức Phật thứ chín trăm chín mươi chín đều xuất thế trong một đại kiếp, sau khi riêng Đức Phật thứ một ngàn là Lâu Chí xuất hiện trong một kiếp thì trong hai mươi kiếp tiếp theo không có Phật, sau đó có một Đức Phật hiệu là Tịnh Quang Bổ Vương xuất thế, thọ mười tiểu kiếp, đó là Phật Nhật Quang thứ nhất trong kiếp Tinh tú, do phiên danh khác nhau, thật ra chỉ là một vị Phật. Sau đó kéo dài ba trăm kiếp không có Phật xuất thế, kinh Lâu Thán ghi rằng: “Phật Lâu-chí một mình xuất hiện trong một kiếp.” Về nguyên do như kinh đã nói. Kinh Kim Cang Lực Só ghi: “Xưa có một ngàn người con của Luân vương phát tâm thù thắng cầu làm Phật, người cha biết được muốn thử xem ai sẽ là người thành Phật trước, bèn dùng nước hương tẩy sạch các thẻ, rồi bảo các vương tử tự bắt lấy, người bắt được thẻ thứ nhất tức là người thành Phật đầu tiên, người bắt được thẻ sau cùng là người thành Phật sau cùng. Người thành Phật sau cùng bị người khác chê cười rằng: “Chúng ta thành Phật đã giáo hóa độ hết chúng sinh rồi, vậy ngươi sẽ độ cõi nào?” Người này buồn bã, khóc lóc, nhưng lại suy nghó rằng: “Thế giới vô biên chúng sinh vô số, các anh độ làm sao hết được! Nay tôi nguyện rằng, nếu khi thành Phật sẽ độ chúng sinh có thọ mạng bằng thọ mạng của tất cả các anh.” Vừa nguyện xong mặt đất chấn động, chư Phật liền thọ ký. Do nhân duyên này cho nên về sau Đức Phật thứ một ngàn xuất hiện trong suốt một kiếp vì khóc lóc nên gọi là Phật Đề-khấp. Như thế hợp với lời giải thích trên.” “Phạm, Lư, Hữu, Hán dịch là Phụ ái, vì người con nhỏ luôn được cha thương xót, nên có tên như thế. Lúc bấy giờ, các người anh bèn phát nguyện làm Kim cang thần để hộ trì người em này.” Nếu căn cứ theo thuyết của Tiểu thừa thì Bồ-tát đã trải qua một trăm kiếp tu hành nghiệp tướng tốt. Đức Thích-ca mua năm cành hoa cúng dường Đức Phật Định Quang, tức là Đức Phật Nhiên Đăng, liền được thọ ký rằng: “Ông ở đời vị lai sẽ làm Phật. Vả lại Đức Thích- ca và Di-lặc cùng phụng sự Đức Phật Phất-sa nhập Hỏa quang Tam- muội, phóng ánh sáng rực rỡ, Đức Thích-ca thấy thế liền tán thán, cho nên vuợt qua chín kiếp mà thành Phật trước Đức Di-lặc. Cho nên kinh thường nói: “Di-lặc tự nghó rằng ta thà ở tại cõi trời Đâu-suất một ngàn a-tăng-kỳ kiếp thuyết pháp độ người, chứ chẳng thể như khi xưa xả thân ít phần.” Vì muốn lưu lại cho nên thành Phật sau. Nhưng Đức Thích-ca, trong chín mươi mốt kiếp của một trăm kiếp tu hành tướng tốt, thì kiếp thứ nhất gặp Đức Phật Tỳ-bát-thi, kiếp thứ ba mươi gặp Đức Phật Thi Khí, Phật Tỳ-thấp-bà, kiếp chín mươi mốt gặp một ngàn vị Phật của hiền kiếp. Có thuyết cho rằng trong năm kiếp đầu tiên của kiếp trụ không có Phật xuất thế, đến kiếp thứ sáu có Đức Phật Câu-lưu-tôn, kiếp thứ bảy có Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, kiếp thứ tám có Đức Phật Ca-diếp, kiếp thứ chín có Đức Phật Thích-ca, kiếp thứ mười có Đức Phật Di-lặc.” Có thuyết lại cho rằng: “Bốn vị Phật đều đã xuất hiện ở kiếp thứ chín, cộng với ba vị trước thành bảy vị, còn Đức Di-lặc là vị Phật thứ năm trong hiền kiếp.” <詞>VÃNG SINH NAN DỊ. Luận Tịnh độ của ngài Thiên Thân và luận vãng sinh của ngài Vô Trước, Ấn Độ đều nói rằng ở Báo Độ không có hàng Nhị thừa, căn khuyết và người nữ sinh về. Kinh A-di-đà ghi: “chẳng thể tạo một ít nhân duyên thiện căn mà được sinh về cõi ấy”; và “trong đó là các Bồ-tát A-duệ-bạt-trí.” Quán Kinh ghi: “Thượng phẩm, thượng sinh liền được Vô sinh pháp nhẫn, trong giây phút biểu hiện khắp mười phương pháp giới, phụng sự chư Phật và được thọ ký. Thượng phẩm trung sinh, trải qua bảy ngày thì được bất thoái chuyển, một tiểu kiếp sau chứng đắc Vô sinh nhẫn. Thượng phẩm, hạ sinh, hai mươi mốt ngày hoa sen mới nở, nghe được pháp âm trải qua ba tiểu kiếp chứng được Cực hỷ địa. Trung phẩm, thượng sinh, liền được A-la-hán. Trung phẩm trung sinh, bảy ngày hoa nở, chứng đắc Tu-đà-hoàn, trải qua nửa kiếp, thành A-la- hán. Trung phẩm hạ sinh, bảy ngày hoa nở, được hai vị Bồ-tát thuyết pháp trải qua một tiểu kiếp thành A-la-hán. Hạ phẩm thượng sinh, bốn mươi chín ngày hoa nở, trải qua mười tiểu kiếp tu hành đầy đủ một trăm pháp minh môn, chứng đắc Sơ địa. Hạ phẩm trung sinh, sáu kiếp hoa mới nở, nghe hai vị Bồ-tát thuyết pháp liền phát tâm vô thượng đạo. Hạ phẩm hạ sinh, mười hai đại kiếp hoa mới nở nghe thuyết pháp mới phát đạo tâm.” Đầy đủ một trăm pháp minh môn mới chứng đắc Sơ địa, há A-la-hán lại hơn Sơ địa sao? Trung phẩm chứng A-la-hán, Hạ phẩm mới phát tâm, há đi đường vòng lại hơn thẳng tắt sao? Lại nói Tu-đà- hoàn… há do nhất thời tu mà chứng quả sao? Các thuyết đều nói về chứng quả A-la-hán rằng: Nếu từ hàng luyện căn thì phải trải qua sáu mươi kiếp mới thành tựu, há do một chút ít thiện căn mà siêu việt sinh tử, thành bậc lợi căn A-la-hán sao? Lại nói rằng: “Thành tựu các pháp quán thì được vãng sinh Tây phương, thì há vừa phát tâm là đã thành tựu quán được sao? Nếu chỉ do một ít thiện căn mà đắc quả, thì đồng với thuyết giả bộ chủ trương do phước mà được Thánh quả, nhưng đạo chẳng thể tu, đạo chẳng thể trưỡng dưỡng, tư lương vị, gia hành vị quán, vô tướng… chỉ là tạm lập bày. Kinh Vô Cấu Xưng ghi: “Nếu Bồ-tát thực hành đầy đủ, không thiếu sót tám pháp mới được sinh Tây phương Tịnh độ. Tám pháp là: Luôn làm những việc thiện, lợi ích cho chúng sinh, mà không mong cầu phước báo thiện căn. Thay thế chúng sinh chịu khổ, hồi hướng thiện căn của mình cho họ. Đối với tất cả hữu tình bằng tâm bình đẳng, không trở ngại. báng. Trừ bỏ tâm kiêu mạn, kính trọng chúng sinh như Phật. Tin hiểu, khi chưa nghe kinh điển thì không nên nghi hoặc, phỉ Không nên sinh tâm tật đố, khi người khác được lợi dưỡng, không nên kiêu mạn khi mình có lợi dưỡng. Luôn điều phục tự tâm thường xét lỗi mình, không chê lỗi người. Không phóng dật, thường hành các thiện pháp, tinh tấn tu tập pháp Thất giác chi. Há người sinh tịnh độ có đầy đủ tám pháp này? Đối pháp quyển hai mươi ghi: “Biệt thời ý thú, nghóa là ý tại thời gian khác ví như nguyện sinh Tịnh độ thì đều sẽ được vãng sinh. Luận Nhiếp Đại Thừa ghi: “Ví như có một đồng tiền mà sinh lợi được ngàn đồng.” Nghóa là sẽ được ở một thời gian khác, chớ chẳng phải do phát nguyện liền được vãng sinh, cho nên nói rằng đối trị bí mật tức là: Đối trị tâm khinh khi Phật. Đối trị tâm khinh khi pháp, cho nên kinh nói rằng: “Lúc bấy giờ, ta đã có tên là Thắng Quán Như Lai, giống như Pháp thân kia, bình đẳng không sai biệt. Kinh Pháp Hoa ghi: “Từ khi ta thành Phật đạo đến nay đã trải qua vô lượng vô số kiếp cũng đều như thế!” Đối trị giãi đãi, cho nên kinh ghi: nếu có nguyện sinh thế giới cực lạc thì đều được vãng sinh. Đối trị với tâm nghó rằng có một ít thiện căn đã vui mừng cho là đủ, nên có lúc hoặc tán thán, hoặc khinh chê, để cho họ vui vẻ tinh tấn dõng mảnh tu tập. Đối với người tham lam, nên tán thán Tịnh độ có nhiều báu vật trang nghiêm. Đối với tâm kiêu mạn, nên xưng tán chư Phật thù thắng. Vì trừ diệt hối não chướng để tu tập thiện pháp, cho nên nói rằng các chúng sinh này tuy khinh báng, hủy nhục Phật, Bồ-tát nhưng cũng được sinh thiện. Vì trừ bỏ bất định tánh nên đối với các hàng Thanh văn hạ liệt mà nói là đại Thanh văn sẽ được thành Phật. Chỉ có một thừa không có hai thừa, nói tướng lông trắng của Đức Phật như năm núi Tu-di, hàng phàm phu hoặc Bồ-tát trước Thập địa há có thể thấy được tướng này sao? Thân lớn nhỏ thì hàng Bồ-tát sơ địa liền thấy được, phàm có thấy được đều là siêu việt. Về công đức niệm Phật Di Đà và Di-lặc không khác nhau, nhưng quốc độ và thân Phật cũng có hơn kém, vì Phật Di-lặc giáo hóa ở cõi ác trược, nên lòng từ bi sâu nặng, Đức Di-đà giáo hóa ở Tịnh độ, nên tâm Từ bi nhẹ hơn. Vả lại Tịnh độ nhiều vui thú nên nhiều người thích sinh về, tâm chán ghét không sâu, ít nghó đến phuớc, không kỳ đặc. Cõi ác trược nhiều khổ, ít người muốn sinh về, tâm nhàm chán sâu nặng, nên nghó về phuớc nhiều, rất kỳ đặc. Vì thế biết Phật gắng sức xưng niệm cũng được vãng sinh. Thánh giáo không giống nhau cho nên cũng đừng sinh tâm nghi hoặc. Cung trời Tri túc ở tại cõi này, nên nội đạo ngoại đạo, Đại thừa Tiểu thừa đều tin nhận, nếu đã là Hóa thân thì nhất định được vãng sinh. Do kinh văn này mà bốn chúng tu hành sáu pháp, tám bộ nghe tên vui mừng, những người tạo ác nghiệp thì sám hối, quy y Tam bảo tu tập mười điều thiện, hồi hướng nguyện cho tất cả đều được sinh về cõi kia. Kinh Bồ-tát Xử Thai hai ghi: “Hội thuyết pháp thứ nhất độ chín mươi sáu ức người thọ năm giới, hội thứ hai độ chín mươi bốn ức người thọ tam quy, hội cuối cùng độ chín mươi hai ức người xưng danh hiệu Phật.” Như thế biết rằng có một chút ít thiện căn hồi hướng cũng đều được vãng sinh cõi kia mà thành Phật. Trong kinh cũng có nói đến mười một hành nghiệp để sinh vào Đâu-suất, đó là: Đọc tụng phân biệt hiểu rõ Tu-đa-la, Tỳ-ni và A-tỳ-đàm, diễn thuyết cho người khác nghe cùng tán thán ý nghóa mà không sinh tâm tật đố, dạy họ thọ trì tu hành các công đức này mà sinh về cõi nước của ta. Cho đến hành nghiệp thứ mười một là: Nếu có những người bị những khổ não do ân ái chia lìa, bạn bè tranh tụng, thì nên dùng phương tiện khiến cho họ được hòa giải. Nên tu công đức này để sinh về cõi nước của ta. Vì thế nên biết, không chỉ tu Thắng nghiệp mới được sinh vậy, các giáo cũng đồng như thế, không nói khác, hoặc có người giải thích rằng: “Vãng sinh về Tây phương thì nhất định không còn thoái chuyển, còn sinh về Đâu-suất thì còn thoái chuyển, cho nên không nguyện sinh về. Chiếu theo lý thì chẳng phải như thế, kinh này nói rằng: “Nếu có người kính lễ Di-lặc Như Lai, nghe hoặc xưng niệm danh hiệu, liền thấy hào quang của ngài, cho đến được nghe ý nghóa của một câu Phật pháp do ngài tuyên thuyết, rồi quy y thì được sinh về cõi nước kia, nhất định không còn thoái chuyển đạo Vô thượng Chánh giác, vô lượng kiếp tạo tội đều được tiêu diệt, vô lượng thiện pháp dần dần tăng trưởng.” Cho nên thấy Đức Phật Di-lặc thì được sinh về cõi kia, tuy có các thiên nữ hầu hạ, hoặc đó là do Phật, Bồ-tát hóa hiện ra, hoặc là các thiên nữ thật, nhưng do đã nghe thuyết pháp bất thoái cho nên nhàm chán tham dục nhiều tội lỗi ắt không thoái chuyển, lại nhờ Phật lực gia bị cho nên đã sinh tâm quyết định, thế thì đâu còn có thể do dục mà thoái chuyển sao? Giác vị đã đến bậc Bất thoái thì ở nơi nào cũng không thoái chuyển, chưa đến bậc bất thoái thì ở nơi nào cũng thoái chuyển, vả lại bậc Thượng thánh thượng hiền đều tu hạnh nghiệp này, như Tây Vực ký có nói đến các vị Bồ-tát Vô Truớc, Thiên Thân, Sư Tử Giác; Cao Tăng truyện thì nêu các vị như Di Thiên Thích, Đạo An, Lô Sơn Tuệ Viễn, Tuệ Trì… Gần đây thì có Tam tạng Hòa thượng, Văn Bị, Pháp sư Thần Thái đời Đường… đều tu hành nghiệp này và đều có cảm ứng thượng sinh Đâu-suất, hoặc hiện tướng khi còn tại thế, hoặc hiện tướng khi sắp mạng chung, hoặc hiện tướng sau khi sinh về Đâu-suất, những việc này mọi người đều biết rõ, như trong phân biệt truyện đã ghi đầy đủ. Tây phương thù thắng mọi người đều thích sinh về, cõi này là uế độ ai muốn cầu sinh. Nhưng kinh luận đã chứng minh rằng hai cảnh đó bậc Hiền Thánh đều tu, nếu như chán khổ cầu vui thì chẳng phải là bậc thượng só. Kinh Vô Lượng Thọ quyển hạ có ghi: “Ở cõi Diêm-phù-đề giữ gìn trai giới một ngày một đêm, còn hơn ở Phật độ một trăm năm tu thiện, vì cõi Phật này không có điều ác.” Kinh Duy-ma ghi: “Ở cõi Diêm-phù-đề mà tu tập chánh đạo một ngày một đêm, thì còn hơn ở Phật độ tu một trăm ngàn kiếp. Bởi vì ở cõi này có mười việc thù thắng như bố thí để nhiếp phục bần cùng,… tâm chán khổ sâu nặng tức liền có khổ để phá trừ, còn Tịnh độ phương Tây không có những việc này. Ở uế độ tu hành thanh tịnh chính là việc lợi tha của bậc Thánh. Ở tịnh cảnh nghiêm giữ tịnh nhân, thì chẳng phải là cứu mê của bậc Thượng só, phải nguyện làm ngọn đèn sáng ở thế giới tối tăm, nguyện vì chúng sinh mà kiến mà dựng lập chánh pháp. Nhưng nếu hành nghiệp còn thiếu khuyết, nguyện sinh Tây phương, rủi ro chẳng sinh được, e rằng tự lầm lẫn, cho nên cần phải dùng hạnh nguyện của chính mình mà tu tập nghiệp này. <詞>VẤN ĐÁP LIỆU GIẢN: Căn cứ vào kinh Thượng Sinh, đoạn văn sau Ưu-ba-ly hỏi rằng: “A-dật-đa là thân phàm phu, chưa đoạn trừ các lậu, tuy đã xuất gia nhưng không tu thiền định, không đoạn phiền não”, thì biết rằng đây là kinh Tiểu Thừa, Đại Thừa Bồ-tát không có nghóa này. Nay cũng căn cứ theo kinh Thượng Sinh, thì đầu tiên nêu các vị Bồ-tát như Bạt-đà-bà-la, Văn-thù-sư-lợi… Sau thì trình bày hóa Phật thuyết Đà-la-ni. Phật dùng một loại âm thanh tuyên nói trăm ngàn môn Đà-la-ni. Kinh lại nói trong ánh sáng của thân có Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội, đồng thời còn ghi rằng: “Khiến cho năm trăm ức Thiên tử không còn thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Như thế đủ biết đây là kinh Đại Thừa, kinh Tiểu Thừa không có việc này. Do những đoạn văn trên cho nên cổ đức, hoặc cho rằng kinh này thuộc Tiểu thừa xuất xứ từ kinh A- hàm, vì Phật Từ thị còn là thân phàm phu, hoặc cho rằng kinh này thuộc Đại thừa, đầu tiên có nêu ra chúng Bồ-tát, và chẳng phải trích từ kinh A-hàm. Có thuyết lại cho rằng: “Theo luận Đại Trí Độ ghi: Kinh Tiểu thừa thì phần đầu chỉ nêu lên hàng Thanh văn, còn kinh Đại Thừa thì nêu rõ hai chúng Thanh văn và Bồ-tát cho nên biết rằng đây là kinh Đại Thừa, kinh Hạ Sinh tuy có tiết lược nhưng cũng thuộc về Đại thừa. Kinh Thành Phật (Đại Bản) có nói đến ba hội thuyết pháp, đều có Thanh văn, Duyên giác phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho nên kinh đây cũng là kinh Đại thừa. Ưu-ba-ly chứng đắc quả vị Tiểu thừa, kiến giải còn hạn cuộc, dùng sự hiểu biết của mình để nêu lên câu hỏi này mà đâu có thể biết được giai vị của ngài Từ thị, cho nên biết đây nhất định là kinh Đại thừa, như kinh Kim Cang Bát-nhã, tuy phần đầu chỉ nêu chúng Thanh văn, nhưng đâu phải là kinh Đại thừa? Kinh Thượng Sinh này, kinh Di-lặc Thọ Quyết và kinh Nhất Thiết Trí Quang đều do An Dương Hầu dịch vào đời Tấn. Trong kinh Hạ Sinh (bản lớn) có ghi: “Tôi nghe như thế này” đó là bản do Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tấn. Kinh Hạ Sinh bản nhỏ ghi: “Đại trí Xá-lợi-phất”, mà không có “Tôi nghe như thế này”, đây là bản dịch của ngài La-thập đời Tấn. Các Sư giải thích rằng: “Bản nhỏ là tính từ kinh A-hàm, bản lớn là thuyết riêng ở một pháp hội”, hoặc giảng rằng: “Do người phiên dịch khác nhau, thật ra chỉ một bản Phạm.” Nay Đại sư giảng rằng: bản lớn có ba phần không có trong bản đã kết tập, bản nhỏ không có phần tựa là tiết lượt phần kệ tụng, tức thuộc Bồ-tát tạng trong hai tạng mà chẳng thuộc Thanh văn tạng. Hỏi: Đức Di-lặc và Đức Thích-ca, vị nào phát tâm trước mà nay có việc thành Phật trước sau như thế? Đáp: Kinh Phật Tạng ghi: “Đức Di-lặc phát tâm trước Đức Thích- ca bốn mươi kiếp” kinh Phật Bản Hạnh quyển một ghi: Xưa Di-lặc phát tâm ở nơi Đức Phật Thiện Tư trước ta bốn mươi kiếp, sau đó ta mới phát tâm Vô thượng đạo. Có Đức Phật hiệu là Thị Hối Tràng Như Lai, lúc ấy ta tên là Hãn Cung làm Chuyển luân vương ở một quốc độ kia, trước Đức Phật này mà phát tâm.” Trong các kinh ấy đều nói Đức Thích-ca phát tâm sau. Nhân Đức Di-lặc phát tâm thành Phật Di-lặc, nhân Đức Thích-ca phát tâm thành Phật Thích-ca, cho nên chẳng phải Thích-ca phát tâm đầu tiên, nhưng vì xả thân khổ hạnh tu tập khác nhau, cho nên Di-lặc thành sau Thích-ca. Hỏi: Kinh Hiền Kiếp có luận về việc vượt kiếp, phẩm Phát Tâm Cúng Dường, kinh Phật Bản Hạnh ba ghi: “Khi xưa có Đức Phật Di-lặc ra đời tên là Phất-sa, Đức Phật này nhập định trong hang Tạp bảo, ta thấy được tâm sinh hoan hỷ, chắp tay kiểng chân hướng về Đức Phật tán thán bảy ngày bảy đêm. Đức Phật nói rằng: “Người này chín mươi bốn kiếp sau sẽ thành Phật thấy được chân lý.” Phật lại nói: “Người này chín mươi ba kiếp sau sẽ thành Phật.” Đức Phật Tỳ-bà-thi nói: “Người này chín mươi mốt kiếp sau sẽ thành Phật.” Luận Phật Địa cũng ghi: “Đức Thích-ca vuợt chín kiếp là do kiểng chân tán thán Đức Phật Phất- sa” siêu chín kiếp tức là vượt qua chín kiếp trong một trăm kiếp tu hành tướng hảo, cho nên các kinh thường nói ở quá khứ chín mươi mốt kiếp có Đức Phật Tỳ-bà-thi ra đời, mà không nói một trăm kiếp, và kiếp đầu tiên của kiếp thứ chín mươi mốt có Phật Tỳ-bà-thi, phần nhiều đều căn cứ theo thuyết này. Kinh Niết-bàn ghi rằng: “Bồ-tát Tuyết Sơn vì nghe nửa bài tụng mà xả thân, cho nên vượt mười hai kiếp.” Kinh Kim Quang Minh ghi: “Vương tử Tát-đỏa thí thân cho cọp đói nên vượt mười một kiếp.” Tiên Ma-nạp xỏa tóc trên bùn cho Đức Phật đi qua, nên vượt tám kiếp. Kinh Bồ-tát Địa ghi: “Bồ-tát tu hành vượt qua kiếp nước lửa và nhật nguyệt, không vượt a-tăng-kỳ. Vậy các kinh này nói siêu là siêu vào lúc nào? Đáp: Tuy không có chánh văn ghi việc này nhưng căn cứ theo lý mà suy luận thì thuyết kiểng chân tán thán là vượt chín kiếp trong một trăm kiếp, còn các thuyết khác là vượt trong a-tăng-kỳ kiếp, nếu chẳng như thế thì ở giai vị nào có thể là siêu việt các kiếp! Hỏi: Kinh Chư Thiên Thắng Sở ghi: “Có vô biên Bồ-tát nhất sinh”, vì sao lại sinh về cõi trời Tri túc? Đáp: Vì đã biết đủ dục lạc, dể sinh tâm nhàm chán nên Bồ-tát Trụ cõi này dễ giáo hóa. Các cõi trời trên thì vui thú nhiều; ác thú thì khổ sở nặng đã không có Phật hiện, tất cả các nơi khác đều không bằng cõi Tri túc, ba đời chư Phật đều trụ ở đây. Phẩm Vãng Sinh trong luận Đại Trí Độ ghi: “Thiên chúng ở cõi trời Đâu-suất thì lợi căn, kết sử nhẹ, Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ thường trụ ở cõi này, còn ba cõi dưới kết sử sâu nặng, tâm thường loạn động, hai cõi trời trên kết sử dày và độn căn, vì thế đều không trụ, không nói từ nơi khác đến là sợ rằng tâm sinh nghi báng. Vả lại vì hóa sinh, cho nên không trụ ở nhân gian để thân sau thành Phật, chẳng ứng hợp cơ nghi để tâm ham thích không sâu. Hỏi: Quả báo Thập Vương là chỉ cõi trời Đệ tứ thiền, vì sao Nhất sinh bổ xứ lại ở cõi Tri túc? Bồ-tát Địa thứ năm trụ ở cõi trời nào? Đáp: Căn cứ theo lý tu nhân được quả thì đúng ra phải trụ ở cõi Tứ thiền, như để thích hợp với việc hóa độ cho nên xả ly mà cư tại Tri túc Bồ-tát Địa thứ năm đạt quả vị thì trụ ở cõi trời Tri túc. Tu hành không nhất định phải ở riêng một phương nào, hà tất phải ở Đâu-suất. Bồ-tát nhất sinh trụ ở đây thì Bồ-tát Địa thứ năm du hóa, cũng đâu có gì trái ngược? Như nói Bồ-tát nên lãnh thọ mười giai vị, nhưng chẳng phải tất cả các Bồ-tát đều nhất định phải nhận, vì có vị phải xả bỏ để tu hành tùy thuận lợi ích chúng sinh. Hỏi: Vì sao vào kiếp giảm khi tuổi thọ con người còn một trăm kiếp thì Đức Thích-ca xuất thế, còn Đức Di-lặc thì xuất thế vào kiếp tăng? Đáp: Vì Đức Thích-ca nguyện tu hành khổ hạnh giáo hóa chúng sinh ở đời kiếp trược, khác với Di-lặc thì nguyện giáo hóa vào thời kỳ hưng thịnh, vì thế không nói đến việc vượt qua các kiếp. Vả lại vào thời Đức Thích-ca, chúng sinh gặp khổ thì phát tâm, được sung sướng thì thoái thất, thời ngài Di-lặc thì chúng sinh gặp vui thì phát tâm, gặp khổ thì thoái thất, như nghe câu-chi mà tai thích tiếng nhạc hay, đầy đủ diệu lạc và lạc. Vì thế thấy không giống nhau. Vào thời ác trược xuất hiện thì tâm nhàm chán sâu nặng, thời phước lạc xuất hiện thì tâm vui thích nhiều. Hỏi: Vì sao Đức Thích-ca thì sinh vào dòng Sát-đế-lợi, còn Đức Di-lặc lại sinh vào dòng Bà-la-môn? Đáp: Vì Đức Thích-ca xuất thế vào đời ác trược, chúng sinh ham thích giàu sang. Di-lặc xuất thế vào thời hưng thịnh, chúng sinh thích hạnh thanh tịnh. Do đó mà hai vị Phật sinh vào hai chủng tánh khác nhau. Hỏi: Kinh A-hàm ghi: “Vào thời Đức Phật Tỳ-bà-thi xuất thế con người thọ tám vạn tuổi, vào thời Phật Thi Khí thì con người thọ bảy vạn tuổi, thời Phật Tỳ-xá-phù thì con người họ sáu vạn tuổi, Phật Câu-lưu- tôn thì con người thọ bốn vạn tuổi, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni thì con người thọ ba vạn tuổi, Phật Ca-diếp thì con người thọ hai vạn tuổi, thời Phật Thích-ca thì con người chỉ thọ một trăm năm, thời Phật Di-lặc xuất thế thì tuổi thọ con người lên đến tám vạn năm. Như vậy ba vị Phật trước đồng xuất hiện vào trụ kiếp sao? Đáp: Kinh Ngũ Trược ghi: Bốn vị Phật trước ở hiền kiếp đồng xuất hiện vào trụ kiếp thứ chín. Hoặc cho rằng trong kiếp trụ thì năm kiếp đầu không có Phật.” Kinh A-hàm chỉ nói về tuổi thọ dài ngắn của con người khi Phật xuất thế, mà không luận đến đồng trụ kiếp nên cũng không trái ngược. <詞>Giải thích Chánh văn: Chính tôi được nghe như thế này: Tán: Nay kinh này gồm ba phần: Từ chính tôi được nghe như thế này… chắp tay đứng trước Phật là phần nhân khởi. Lúc bấy giờ, Ưu-ba-ly… như quán khác gọi là tà quán, là phần phát thỉnh quảng thuyết. Bấy giờ Tôn giả A-nan… lễ Phật mà lui ra, là phần văn danh hỷ hành phần. Thần quang chiếu rọi, đánh thức những kẻ có duyên. Tướng lưỡi rộng dài, thuyết nghóa Tổng trì phương quảng. Ngài Từ thị lúc bấy giờ, đã biết được, nên ở trước Phật cầu xin thọ ký, Đức Thích-ca vì sự lợi ích ở tương lai nên nhân đây mà chấp thuận do đó gọi là phần nhân khởi của kinh. Ưu-ba-ly thấy sự thọ ký hi hữu này, lại nhớ đến lời Phật khi xưa nên thưa hỏi, Thế Tôn giải thích đầy đủ, cho nên gọi là phần phát thỉnh quảng thuyết. Việc trình bày đã xong, đại chúng đạt được lợi ích, muốn lưu truyền đến đời sau, ngài A-nan thưa hỏi tên kinh, người nghe pháp ôm lòng vui thích theo lời dạy mà tu hành, cho nên gọi là phần văn danh hỷ hành. PHẦN NHÂN KHỞI : gồm hai Thuyết kinh thông sở nhân (sở nhân chung của các kinh). “Chính tôi được nghe như thế này… là câu mở đầu chung cho các kinh. Thuyết kinh biệt sở duyên (sở duyên riêng cho kinh này): “Lúc bấy giờ, Thế Tôn hiện tướng lưỡi rộng dài…” là duyên của kinh này. Hoặc nói rằng phần Thông sở nhân là chứng tín tự, tức là sự thật chứng phá nghi sanh tín mà sau tên là phát khởi tự, tức là phần hiển bày nguyên do phát khởi kinh này. Nay tùy theo nghóa mà mỗi giải thích thêm các tên khác nhau, nếu chẳng như thế thì phần chứng và phần phát tín khởi đâu thể thông suốt được. Nếu căn cứ theo thuyết của các sư từ xưa, thì phần tựa có sáu nghóa nhưng nay căn cứ theo luận Phật Địa nên chỉ luận phần tựa chung có năm nghóa: Vì muốn khiến cho chúng sinh phát khởi lòng tin cho nên hiển bày chung những điều chính mình đã nghe thấy. Cho nên nói: “Đúng thật như thế! Chính tôi được nghe.” Người thuyết người nghe cùng lúc hội ngộ, thời gian không sai khác, cho nên gọi là: “Một thời kia.” Pháp ắt phải có chủ, muốn nêu lên bậc Chủ tôn của pháp môn lợi ích và thù thắng, cho nên xưng tôn là Phật. Nói ra phải có nơi chốn, cho nên nói là “Ở tại vườn Kỳ thọ Cấp cô độc thành Xá-vệ”, là trụ xứ của Hóa thân, chẳng phải là quốc độ của Báo thân. Căn cơ được giáo hóa phóng quang triệu tập hàng căn cơ thích hợp đến nghe pháp. Vì thế A-nan thưa hỏi bốn việc, Đức Phật dạy đặt làm tựa chung, do Đức Phật muốn dứt trừ các mối nghi, nên A-nan xếp làm tựa riêng; đó đều là vâng theo Phật dạy, đồng thời làm lợi ích cho Phật pháp. Xem giáo giải thích văn đâu cần theo một tiêu chuẩn. Luận Phật Địa ghi: “Từ như thị (như thế) tùy theo bốn nghóa mà chuyển biến nương theo thí dụ như: Có người nói rằng: “Gìàu sang như thế cũng như Tỳ-sa-môn; pháp được nghe, được truyền thọ như thế, giống như lời Phật dạy, nhất định không khác, nhất định là nhân của phương tiện lợi ích. Hoặc nay nói “Như thị”, theo văn nghóa tức là như lúc xưa ta đã từng nghe. Nương theo giáo hối như: Có thuyết nói rằng: ông nên đọc tụng kinh điển như thế. Ở đây, lời như thị (như thế), xa xưa là lời dạy dỗ của Đức Phật, gần là lời dạy dỗ của người truyền pháp. Hoặc bảo với đại chúng rằng: Như thế các ông đang nghe những lời mà ta đã nghe khi xưa. Nương theo hỏi đáp như: Nếu có người hỏi “Như lời hôm nay ông nói có phải khi xưa nhất định đã được nghe chăng”, Thì đáp rằng: “Đúng như thế! Tôi đã từng nghe.” Theo Hứa Khả như: Có người nói: Ta suy nghó như thế, thực hành như thế, giảng thuyết như thế là vì các ông, nghóa là khi kiết tập, các vị Bồ-tát cũng nói rằng “Như lời ông đã nghe, nay nên nói như thế” Vị Bồ-tát truyền pháp liền hứa khả (chấp nhận, đồng ý) nói: “Sẽ nói như thế như lời tôi đã nghe.” Hoặc tin tưởng rằng nói việc này đúng như thế, nghóa là pháp như thế, tôi xưa đã nghe; việc này như thế giống với lời đang nói đây, không có gì sai khác. Do bốn nghóa này cho nên phần mở đầu kinh đặt bốn chữ: “Như thị ngã văn.” Ngài Chân Đế nói rằng: “Trong bộ luật Vi Tế ghi: “Khi A-nan thăng tòa kiết tập pháp tạng, thì thân hình đồng như chư Phật. Đầy đủ ba mươi hai tuớng tốt, khi hạ tòa thì trở về thân hình của chính mình. Xét các truyện về kiết tập pháp tạng cũng nói như thế.” Chúng sinh có ba điều nghi, đó là: Nghi rằng Phật vì lòng đại Bi, từ Niết-bàn hiện khởi mà thuyết diệu pháp. Nghi rằng có một Đức Phật từ phương khác đến phương này thuyết pháp. Nghi rằng ngài A-nan chuyển thân thành Phật vì đại chúng thuyết pháp. Vì thế kinh ghi: “Chính tôi được nghe như thế này” tức ngoài ba điều nghi trên khiến cho người nghe, đầu tiên sinh lòng tin, sau đó dứt trừ ba mối nghi. Chú Pháp Hoa ghi: “Như thị tức là điềm lành để cảm ứng. Như là thuận theo căn cơ mà lập tên, Thị là dùng “Chẳng lỗi” mà đặt chúng sinh lấy “chẳng lỗi làm cảm, Như Lai dùng thuận căn cơ để ứng. Người truyền kinh dùng ngôn giáo, từ nghóa cảm ứng mà lập là “như thị.” Chú Vô Lượng Thọ kinh ghi: “Thánh nhân thuyết pháp để hiển nghóa Như, chỉ có Như là (thật) Thị cho nên gọi Như thị. Dao Công nói: “Vì lìa năm việc khinh báng cho nên gọi là Như thị” năm việc là: Như thế, kinh này lìa tăng ích báng là chấp có. Như thế, kinh này lìa tổn giảm báng là chấp không. Như thế, kinh này lìa tương vi báng là chấp cũng có cũng không. Như thế, kinh này lìa ngu si báng là chấp chẳng có chẳng không. Như thế, kinh này lìa hý luận báng là chấp chẳng phải chẳng có, chẳng phải chẳng không.” Ngài Quang Trạch nói: “Như Thị là tiền đề của toàn bộ kinh đã được nghe và sắp truyền lại, nghóa của một bộ kinh như thế chính ta đã được nghe từ kim khẩu Đức Phật, tức là “Ta nghe.” Gọi như thế để làm quy tắc. Lương Võ Đế ghi: “Như Thị tức là như tư (như vậy), vì đó là những điều Phật thuyết cho nên nói là như thị” Trường Nhó Tam Tạng ghi: “Như thị có ba nghóa: Luận theo Phật: Ba đời chư Phật cùng thuyết giống nhau nên gọi là Như vì đồng thuyết cho nên gọi là Thị. Do đây có thể tin được. Luận theo Pháp: thật tướng các pháp xưa nay không khác cho nên gọi là như. Như như mà thuyết cho nên gọi là Thị. Đã xứng lý lời nói lại chẳng thêm bớt nhất định có thể tin được, cho nên gọi là như thị. Luận theo Tăng: Từ lời của ngài A-nan mà suy biết về bản giáo của Đức Phật. Vì sự truyền tụng không khác, nên gọi là như, mong cầu xa lìa tội lỗi cho nên gọi là thị. Vả lại Như thị là lời tin thuận. Luận Trí Độ ghi: “Như thị ngã văn là sinh tín tâm, tín thọ phụng hành là sinh trí tuệ, tín là năng nhập, trí là năng độ, tín là nền tảng đầu tiên để nhập pháp tín là thuật vi diệu để đạt đến cứu cánh. có tín thì thuận với lý được hiển bày, thuận thì đạo thầy trò thành tựu, nhờ tín cho nên có thể thuận theo pháp được nói ra, do thuận nên thầy trò, người thuyết người nghe được thành lập. Tín gồm mười nghóa: Theo kinh Nhân Vương: “Tín là nhân đầu tiên vào thánh đạo, là nền tảng để chứng đế lý.” Cho nên bốn mươi tâm thì tín xếp hàng đầu. Sắp vào Thánh vị thì có tín căn, tín lực. Vì có tín căn nên bảy Giác chi sinh khởi, vì có tín lực nên bốn ma không thể khuất phục. Do đó mà làm phần đầu của kinh để chúng sinh phát lòng tin. Căn cứ theo luận Đại Tỳ-bà-sa, thì tín là cánh tay khéo để hưởng thọ pháp vị, người học luật pháp cũng như loài rồng hoặc voi lớn dùng tín làm tay, lấy xả làm thân, lấy niệm làm cổ, lấy tuệ làm đầu, hai vai gánh vác thiện pháp. Loài voi ăn uống dùng vòi làm tay, cho nên người học Phật pháp đầu tiên phải có tín tâm. Người học, như việc buôn bán lớn, phải mưu toan đạt được pháp bảo, cho nên đầu tiên sinh tín tâm sâu thì sẽ được thánh tài. Luận Hiển Dương ghi: “Thất thánh tài là tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm và quý. Luận Du-già ghi: Vào tất cả pháp thì dục là căn bản, vì khởi hy vọng, cho nên tác ý sinh ra tâm niệm luôn luôn cảnh giác, khi xúc khởi thì đối cảnh, sở thọ dẫn nạp vào tâm. Định làm tâm tăng thượng tịch tónh, tuệ làm tối thắng để phân biệt thiện ác, giải thoát là vónh viễn dứt trừ trói buộc xuất ly là mé cuối của đường giác, đã viên mãn, tín là sở y của dục, cho nên đầu tiên phải phát khởi.” Luận Thành Duy Thức ghi: “Tín như hạt châu thủy tinh, có thể làm nước trong sạch, có thể trừ sự ô trược, tự tánh của bất tín, Khổng Tử nói: “Bệnh lương thực và tín, thì tín không thể bỏ được.” Xuân Thu cũng cho rằng: “Nếu như có lòng tin chắc chắn thì một sợi lông cũng có thể tiến cúng quỷ thần, một cọng cỏ cũng có thể dâng lên vương công.” Luận Câu-xá ghi: Cứu giúp chúng sinh ra khỏi vũng bùn sinh tử, chánh pháp là tay Phật, tức là chánh tông, tín là hai tay của chúng sinh hai tay này tiếp giúp nhau ra khỏi bùn lầy. Các luận ghi: Tín vượt khỏi ác đạo, xa lìa các nhân bần tiện, cho nên vào bậc Thánh rồi lòng tin chẳng mất, vì thế đầu tiên phải phát khởi tín tâm, ba nghóa sau đều căn cứ theo kinh. Đi thuyền trên biển mênh mông phải nhờ vào hai tay chèo chống, vượt sóng sinh tử phải nhờ tín để phát tuệ. Muốn nhặt lấy tài bảo phải nhờ hai tay, nghe pháp bảo phải nhờ tín làm phương tiện. Đi ở nơi hoang sơn phải nhờ hai tay, để giữ giáp trụ vũ khí, chống lại quân địch, muốn ra khỏi dòng sinh tử phải có tín để phát sinh tuệ giải mà đoạn trừ phiền não. Do những nghóa trên mà đầu các kinh ghi bốn chữ “Như thị ngã văn” (Đúng thật như thế chính tôi được nghe) để xác lập chánh tín cho chúng sinh. Trên đã nêu lên hai mươi sáu nghóa của Như thị, bây giờ luận đến từ “Ngã văn (tôi nghe).” Đây là từ mà vị Bồ-tát truyền tụng tự xưng, có nghóa là pháp như thế chính ta đã được nghe từ Đức Thích Tôn, nên gọi là tôi nghe. Ngã tức là sự hòa hợp giả của các Uẩn thuộc thế tục đế. Ngã gồm ba nghóa: Ngã do vọng chấp: Tức là ngã do ngoại đạo… chấp trước. Ngã tạm lập bày: Tức ngã trong thường lạc, ngã, tịnh, vì trừ bốn đảo của Thanh văn Nhị thừa nên tạm lập. Ngã thuộc thế tục lưu bố: Ngã do thế gian lưu truyền và chư Thiên chấp trước. Nay người truyền kinh tùy thuận thế tục tự xưng là ngã, chẳng giống hai nghóa trước. Đây là đại ngã của vô ngã. Hỏi: Chư Phật thuyết pháp vốn để trừ ngã chấp vì sao không gọi là “Vô ngã văn” mà nói là ngã văn? Đáp: Vì bốn lý do trên nên chỉ gọi ngã văn. Vì ngôn ngữ biến đổi, nếu nói vô ngã thì ai biết điều này? Thuận theo thế gian. Ngăn trừ sự sợ hãi về vô ngã (không có ngã) nói vô ngã thì ai tu học. Còn có các sự nghiệp tự tha, nhiễm tịnh, nhân quả… Hỏi: Nếu như thế vì sao không xưng tên mà gọi là tôi (ngã)? Đáp: Vì ba lý do sau: Cũng không trái với thế tục, phương ngôn Tây Vực lời tự xưng phần nhiều đều gọi là ngã, tông tuy hiển chân, nhưng thuyết chẳng trái tục, lý tuy bày diệu nhưng lời thuận thế gian, vì muốn hiển thị chân đế chẳng lìa tục đế vậy. Ngã nghóa là chủ tế tự tại. A-nan nghe nhiều nhớ kỹ, những điều nghe được kiết tập dần, ba tuệ gồm tu, văn và nghóa giữ gìn đầy đủ, đối với tam tạng thì gom giữ một cách tự tại. Nếu nêu tên, thì tuy thuận với chánh lý, nhưng lại không có nghóa tự tại đối với các pháp. Do đó mà xưng ngã, mà không xưng A-nan. Ngã nghóa là thân (chính mình), thế gian thường nói tôi thấy, tôi nghe để minh chứng cho những gì tự mình đã thấy biết. Nếu như nói A- nan nghe thì hoặc chẳng phải chính được nghe, mà tự người khác truyền lại. Nay hiển bày điều chính mình đã được nghe từ Đức Thế Tôn, có thể nói chẳng phải do truyền lại, để phá lưới nghi cho người, nên chẳng xưng tên mà gọi là tôi nghe (ngã văn). Nghe (văn) tức là từ nhó căn phát thức mà nghe nhận những lời người khác nói. Nay không gọi nhó căn chỉ căn cứ theo ngã để gọi, cho nên xưng là ngã văn. Tuy căn cứ theo Đại thừa, thì khi căn, thức, tâm sở và cảnh hòa hợp mới gọi là văn, nhưng căn có năm nghóa, thù thắng hơn thức cho nên gọi là văn, nếu chỉ nghe âm thanh thì có thể chỉ nơi nhó căn mà thôi, nhưng đã duyên với danh nghóa, thì đã vào trong ý rồi, cho nên luận Du-già ghi: “Nghe (văn) thuộc tỷ lượng, nhó căn gọi là nghe (văn), nghóa là chính mình được nghe âm thanh với ý làm cửa nhập mới gọi là nghe (văn), do nơi nghe mà thành, gọi chung là văn. Nếu duyên với danh nghóa mà gọi, thì nghe đã ở nơi ý, cho nên hợp danh và văn, không luận ý và nhó căn, mà gọi chung là ngã văên. Vì nhó căn là cửa, huân tập tất cả, do nghe mà thành, mới gọi chung là văn, cho nên gọi là ngã văn.” Ngài A-nan, lúc bấy giờ, tuy cũng có thấy, hay, biết (kiến, giác, tri), Phật thuyết pháp, nhưng chỉ xưng là ngã văn, là vì muốn hiển bày ý nghóa rằng, nếu muốn thật chứng chân lý sâu xa, trước nhất cần phải có nghe (văn). Ở cõi này dùng âm thanh làm Phật sự, muốn cầu chứng Bồ-đề, cần phải lấy nghe làm trọng. Do đó, đầu kinh không nói đến kiến, giác, tri, mà chỉ nói ngã văn. Thật ra, lúc bấy giờ, cũng thấy Phật thuyết pháp và các quốc độ khác cũng dùng ánh sáng làm Phật sự, nên cũng có thể gọi là ngã kiến… Ngài Long Quân nói: “Phật chỉ có ba pháp là đại định, đại Bi và đại trí từ lâu đã xa lìa hý luận, chẳng từng thuyết pháp, do duyên lực bản nguyện từ bi của Phật mà trên tâm thức của chúng sinh hiển hiện văn nghóa. Tướng văn nghóa này tuy chính từ sức thiện căn sinh khởi, nhưng cưỡng gọi là Phật thuyết, do sức của nhó căn mà ý biến hiện nên gọi ngã văn. Ngài Vô Tánh nói: “Trường hàng và kệ tụng tụ tập hiễn hiện nơi thức và cho đó là thể tánh.” Nếu như thế, vì sao Bồ-tát lại có thể tuyên thuyết? Vì tăng thượng duyên, cho nên diễn thuyết như thế. Thí như do sức tăng thượng của chư thiên… khiến cho trong mộng được luận chú. Vì thế Đức Phật cũng nói rằng: “Từ khi mới thành đạo, cho đến cuối cùng là vào Niết-bàn, ta chưa từng nói một lời, các ông cũng chẳng từng nghe.” Thân Quang nói: “Phật lìa các phân biệt gọi là vô hý luận ư? Nghe tức do duyên lực thiện căn bản nguyện của Như Lai, mà nơi thức của chúng sinh văn nghóa hiển hiện, tướng văn nghóa này là do thiện căn lợi tha của Phật sinh khởi, cho nên gọi là ngã văn. Ngài Thế Thân nói “vì các thức tương tục khác sai biệt, khiến cho các thức tương tục khác sai biệt sinh khởi, đây kia làm duyên tăng thượng cho nhau”, do đó mà kinh này nói rằng: Pháp mà ta đã nói như lá nắm trong bàn tay, còn những pháp mà ta chưa nói như lá trong rừng”, ở đây hai cách giải thích là tùy theo hai đoạn văn nương nhau mà giải thích cho nên biết rằng “Tôi nghe như thế này” về ý nghóa đã tránh được lỗi tăng giãm và sai lạc (dị). Tức là pháp như thế chính ta đã được nghe từ Đức Phật thuyết, chẳng phải do người khác truyền lại. Nghe (văn) tức là có khả năng kham nhận những điều đã được nghe, mà xa lìa những lỗi thêm bớt và sai lạc, không giống như những kẻ ngu, không có khả năng kham nhận những điều đã nghe, hoặc có chỗ phân biệt, không thể tránh được lỗi thêm bớt và sai lạc (thay đổi). Khi kiết tập pháp tạng người truyền đọc lời Phật dạy phải theo lời dạy của Như Lai, đầu tiên nói lời này, khiến cho đại chúng càng kính tin nhận, nói rằng: Pháp như thế chính tôi đã được nghe từ kim khẩu của Đức Thế Tôn, văn nghóa này nhất định không có chỗ thêm bớt, vì thế người nghe nên chánh tâm, nghe rồi nên như lý tư duy, tinh cần tu tập. Chánh văn: Nhất thời (một thời kia): Tán rằng: b) Thời gian thuyết giáo: Đấng Pháp vương giáo hóa, thì các loại căn cơ đều vân tập đến, thời gian mà việc thuyết và nghe đã xong gọi là nhất thời. Đây là căn cứ theo sự thuyết giảng và lắng nghe tương tục không gián đoạn trong từng sát-na đã chung cuộc mà giả lập danh. Có hai cách giải thích: Luận theo đạo lý: hai bên nói và nghe tuy chỉ hiện ở ngũ uẩn, nhưng chư hành sinh diệt trong từng sát-na cho nên pháp hiện tại mang ý nghóa thù đáp, phát trước dẫn phát pháp sau; tức là dùng sở thù giả danh là quá khứ; sở dẫn giả danh là vị lai, cả hai đều từ nơi hiện tại mà giả lập. Như thế các pháp ngũ uẩn của người thuyết và người nghe đều sanh diệt trong từng sát-na, trước sau nối tiếp tương sinh tương diệt. Vịệc xong từ ba thời giả lập mà hợp thành nhất thời, chẳng phải một niệm sinh diệt mà gọi là nhất thời. Trên thức tâm của người nói và người nghe biến hiện thành tướng trạng của ba thời. Thật ra, chỉ là hiện tại, tùy phần hạn của tâm mà có thời gian dài ngắn, việc đã xong nên gọi chung là nhất thời. Như thấy việc trong mộng, cho rằng có sinh nhiều giác vị, nhưng chỉ có tâm còn tất cả đều không thật thể, tâm biến hiện thành ba thời của người nghe cũng như thế, chỉ có ý duyên với bất tương ứng hành thuộc về hành uẩn, pháp xứ và pháp giới, trong đó không xát định phải căn cứ theo sát-na, theo sự tương tục cũng không nhất định phải căn cứ theo bốn thời, tám thời, mười hai thời, cũng không căn cứ theo khoảng thời gian từ khi thành đạo cho đến khi nhập diệt mà lập nhất thời, chỉ vì căn cơ của người nghe cảm được Phật nên gọi là văn, người thuyết từ bi ứng cơ nên gọi là diễn thuyết; việc nghe đã hoàn thành nên gọi là nhất thời. Do người năng thuyết đắc Đà-la-ni nên nói nghóa của một chữ thì tất cả đều rõ ràng hoặc do người nghe được nhó ý thanh tịnh, nên nghe nghóa của một chữ thì tất cả đều hiểu được hoặc nói thì thời gian ngắn, nghe thì thời gian dài, hoặc nói thì thời gian dài, nghe thì thời gian ngắn. Vì thế thời gian chẳng phải nhất định, nói một niệm gồm nhiều kiếp. Do căn cơ của chúng sinh trong một hội có lợi độn khác nhau nên Như Lai dùng thần lực, có lúc kéo dài một niệm thành một kiếp, hoặc có lúc rút ngắn một kiếp thành một niệm, không nhất định cho nên chỉ căn cứ theo việc thuyết và nghe hoàn tất mà định là nhất thời, chẳng có một nghóa nào khác. Hỏi: Vì sao chẳng nói riêng bốn thời sáu thời? Đáp: Thời gian ngày đêm các phương đều không nhạát định, kinh thì định cho các phương đều lưu thông được nên không nói riêng. Hỏi: Vì sao chẳng nói riêng những khoảng thời gian sau khi thành đạo? Đáp: Tuy tùy theo tướng giáo hóa cũng có thể nói được, nhưng do thân Phật mà phàm Thánh thấy được có khác, giáo pháp mà báo Phật, hóa Phật tuyên thuyết có sâu cạn, việc thành đạo có xa gần, mỗi mỗi đều khác nhau, mà kinh muốn cho phàm Thánh đồng tu cho nên không nói nhất định. Hỏi: Xứ thì có tịnh và uế, tùy cơ mà nói có nơi chốn nhất định. Thời gian cũng có phàm Thánh khác nhau, vì sao không nói nhất định? Đáp: Nói đến nơi chốn thì nêu lên tịnh uế, uế nhất định có thể biết, còn nói thời dài ngắn của phàm Thánh thì không có tiêu chuẩn nhất định, vì căn cơ trong một hội có lợi có độn, thì thời gian dài ngắn làm sao mà định, cho nên xứ sở thì nói có nhất định mà thời gian thì nói chung. Chánh văn: Phật Tán rằng: Giáo chủ: Âm Phạm là Phật-đà, gọi tắt là Phật, nghóa là Bậc Thánh Chủ có trí tuệ. Hán dịch là Giác giả. Vì giác ngộ cho mình và giác ngộ cho người, giác và hạnh đầy đủ cho nên gọi là Phật. Lại vì chẳng đồng với phàm phu, Nhị thừa và Bồ-tát nên gọi là Phật, luận Phật Địa ghi: “Đầy đủ Nhất thiết trí, có thể tự giác ngộ và khai ngộ cho tất cả loài hữu tình, như tỉnh mộng, như hoa sen nở, nên gọi là Phật.” Người xưa gọi bằng các tên khác nhau như vô minh vốn thắng giác, pháp tướng lý trung giác, không trí hữu trí, lý trí, sự trí, chân trí, tục trí, như sở hữu trí, tận hữu trí. Nếu căn cứ theo bản Phạm thì âm là Bạc- già-phạm, tức danh hiệu tiêu biểu cho tất cả công đức trong mười hiệu, vì thế ngoại đạo cũng tôn xưng thầy của mình là Bạc-già-phạm. Ở đây chủ ý phiên dịch vẫn giữ âm Phạm lược vì muốn tùy quốc độ, sinh khởi thiện tâm cho nên gọi là Phật. Hỏi: Trong ba thân thuộc về thân nào? Đáp: Căn cứ theo sự giáo hóa chúng sinh thì thân Phật này là hóa thân Văn-thù trong hội này cũng như báo Phật. Ứng thân và Hóa thân chẳng chân thật, cũng chẳng phải là người thuyết pháp. Suy công đức quy về bản thể tức là Pháp thân Phật, do căn cơ bất đồng, mỗi nơi thấy khác nhau, cho nên không có chuẩn mực nhất định. Bậc Chủ Tôn thuyết Di-lặc với tám tướng thành đạo cho nên thuộc hóa Phật, lý thông với báo thân, Pháp thân nghóa cũng không trái ngược. Nay hiểu lời dạy của Đấng Chủ Tôn, tùy thuận pháp tối thắng, đầu tiên nêu lên một đấng Thắng chủ, để khiến cho chúng hội sinh hoan hỷ. Chánh văn: Tại vườn của ông Cấp Cô Độc với các hàng cây của Thái tử Kỳ Đà ở nước Xá-vệ. Tán rằng: Nơi thuyết pháp: Âm Phạm Thất-la Phiệt-thất-để, nói Xá-vệ là giản lược sai, vốn là đô thành nước Kiều-tát-la thuộc vùng trung Ấn Độ, vì để phân biệt phân biệt với nam Kiều-tát-la, cho nên dùng tên đô thành đặt tên cho nước. Pháp sư Chân Đế ghi: “Xưa có hai anh em, một tên là Xá-bà, một tên là Bà-đề. Cho nên kinh Kim Cang Bát-nhã mà pháp sư phiên dịch có ghi: “Xưa có hai anh em ở tại thành Xá-bà- đề tu tập tiên đạo đã đắc quả, cho nên thành có tên Xá-bà-đề.” Nhưng theo sự giải thích hiện nay phải gọi là thành Phong đức, vì đầy đủ tài vật, cảnh trí tốt tươi, nhiều người học rộng nhiều người tu tập giải tho- át, vì quốc gia có đầy đủ bốn đức như trên nên lấy đó làm tên. Kỳ thọ tức là rừng Thệ-đa, nói Kỳ thọ là sai. Thệ-đa, Hán dịch là Thắng, tên một vị Thái tử, khi Thái tử mới sinh, có nước bên cạnh vì oán thù đem quân xâm lấn, nước của thái tử đánh thắng trận nên nhân đó đặt tên là Thắng: Cấp Cô Độc tức trưởng giả Tô-đạt-đa, Hán dịch là Thiện Thí, nghóa là có lòng nhân từ mà sáng suốt, tích chứa mà hay phân phát, thường cứu vớt những người nghèo khổ già cả, cô bần, đau yếu, nên người thời bấy giờ tán thán đức này của ông mà gọi là Cấp Cô Độc, vua Bát-thích-dương-san-đặc-đặc, xưa âm là Ba-tư-nặc, Hán dịch là Thắng Quân. Cấp Cô Độc là vị đại thần của vua này. Khi Đức Phật chưa du hóa đến Xá-vệ. Còn ở tại Ma-yết-đà, trưởng giả Cấp Cô Độc đến thành Vương xá để hỏi vợ cho con; lúc bấy giờ, có một vị trưởng giả thiết trai thỉnh Phật. Kính cẩn bày biện vật cúng dường Cấp Cô Độc bèn hỏi nguyên do, vị trưởng giả kia bày tỏ sự việc thỉnh Phật, nghe nói về công đức của Phật xong Thiện Thí sinh tâm hoan hỷ, lúc ấy Đức Phật đang ngự tại núi Linh thứu cách xa vài mươi dặm, phóng ánh sáng đếnThiện Thí, Thiện Thí theo đó thấy được Phật, bi cảm xen lẫn vui mừng như con gặp cha, tìm đến chỗ Phật, trên đường đi gặp đền thờ Trời, Thiện Thí vào lễ bái thì ánh sáng tự nhiên tắt. Thiện Thí bèn sám hối, ánh sáng của Phật lại chiếu soi như củ. Sắp sáng thì đến được chỗ Phật, ông thỉnh Phật đến quốc gia của mình để giáo hóa những người có duyên, không thể chỉ ở mãi quốc độ này. Đức Phật chấp nhận, sai Xá-lợi-phất đến trước xem xét, Phật nói: “Người tu hành nên ở nơi vắng lặng.” Thành Phong đức là nơi đông đúc trong thành nhỏ hẹp, chỉ có một khu vườn của Thái tử Thệ-đa ở phía Nam, cách thành năm, sáu dặm; chu vi vườn mỗi cạnh mười dặm, trong đó đất đai sạch sẽ, cao ráo, cây cối vườn rừng tươi tốt, suối nước trong xanh, có thể xây dựng Già-lam. Thiện Thí xin mua lại, thái tử không bán, nhưng nói đùa rằng: “Nếu ngài có thể lát vàng dày năm phân che kín khu vườn thì tôi sẽ bán. Thiện Thí liền chấp nhận, nhưng thái tử lại cho rằng nói đùa, nhân đó mà không bán. Thiện Thí xin tìm người để phân xử. Bấy giờ, trời Tịnh cư sợ có người ngăn chặn không chấp nhận, nên hóa làm người đến phân xử cho Thiện Thí được mua, Thiện Thí liền cho người đem vàng đến lát, lúc ấy còn năm trăm bước chưa xong mà vàng trong một kho đã hết, Thiện Thí đang suy nghó không biết nên lấy vàng ở kho nào, Thái tử nghó rằng Thiện Thí tiếc vàng, liền xin lấy lại đất trả vàng, Thiện Thí liền thuật nguyên do, chẳng phải sinh tâm hối tiếc. Thái tử biết được tín tâm cao vời của Thiện Thí, nên cũng phát tâm thù thắng rằng: “Cái mà con người quý trọng nhất là vàng bạc châu báu, mà ông ấy đem tất cả vàng trong kho để mua đất xây dựng Tăng phường, ta cũng đâu có thiếu thốn gì, mà không tạo lập?.” Do đó mới nói với Thiện Thí xin lấy lại đất đã lát vàng, Thiện Thí không chịu, thái tử bèn đề nghị: “Chấp nhận đất thì trải vàng để lấy, nhưng cây thì chưa bàn đến, vì thế đất là của ngài, còn cây rừng là của tôi, chúng ta cùng hỗ trợ nhau để thành tựu mà dâng cúng.” Sau đó Đức Phật du hóa đến đây, bảo A-nan rằng: “Đất vườn thì Thiện Thí đã mua, còn rừng cây thì Thệ-đa dâng cúng, hai người đồng lòng cùng tạo công đức này, vậy từ nay về sau, nơi này được gọi là Thệ-đa lâm Cấp cô độc viên.” Hóa thân trụ tại nơi đây, còn hiển bày báo Phật thì có Tịnh độ, vào thời kiếp tận lửa thiêu tất cả mà quốc độ của ta vẫn thường an ổn. Kiết tập vẫn không thể trình bày đầy đủ hai thân, Phật cùng hiển mà hai quốc độ Tịnh và uế tùy thuận chỉ nêu một, nghóa ấn định có ba, sự thì có hai, lý cũng có ba, vì ba thân có trụ xứ khác nhau, như Lý Thú sớ đã ghi. Chánh văn: Bấy giờ, vào lúc đầu hôm, toàn thân Đức Thế Tôn phóng ánh sáng màu vàng ròng, chiếu soi chung quanh vườn Kỳ-đà bảy vòng, và phóng ánh sáng này đến nhà của Tu-đạt. Tán: Căn cơ được giáo hóa: có hai phần: Phóng ánh sáng để tập chúng. Thấy ánh sáng đại chúng vân tập. Hỏi: Vì sao kinh này có nói đến phóng ánh sáng để tập chúng, còn các kinh khác không có? Đáp: Việc Bồ-tát Di-lặc sinh lên cõi trời, có nhân rất sâu mầu, quả rất cao xa, nếu không cảnh báo triệu tập những người có duyên, thì những người này không làm sao có thể thấy nghe được. Vả lại đêm tối vô minh khó sinh giác chiếu, nếu không cảnh tỉnh, thì chúng sinh khó tự ngộ. Cho nên có việc phóng ánh sáng triệu tập, không giống với các kinh khác. Trong phần này gồm ba: Phóng ánh sáng. Mưa hoa. Hóa Phật thuyết pháp. Đoạn này thuộc về phần thứ nhất, lại gồm có sáu. Luận về đấng Hóa chủ là Thế Tôn. Luận về thời gian là lúc đầu hôm. Luận về xứ là toàn thân. Luận về thần biến là phóng ánh sáng. Luận về tướng trạng là màu vàng ròng. Luận về cảnh giáo hóa, ánh sáng nhiễu quanh vườn Kỳ-đà và chiếu đến nhà Tu-đạt, còn trong kinh Vô Cấu Xưng, Đức Phật bảo A- nan-đà “Tóm lại, Đức Phật hiển thị những oai nghi đi đứng nằm ngồi, thọ dụng hành sự, đều là muốn khiến cho loài hữu tình được hóa độ, điều phục tâm tánh, vì thế tất đều gọi là Phật sự.” Kinh Niết-bàn ghi: “Phật nhập Niết-bàn vào ngày mười lăm tháng hai…” Phật, đều là lời tự thuyết, mỗi mỗi đều có chỗ biểu thị, cho nên văn kinh này cùng có biểu thị như thế. Thời gian phóng quang: Kinh Niết-bàn, phóng quang vào lúc sáng sớm, kinh Pháp Hoa Đức Phật phóng quang vào ban ngày, kinh Bát-nhã Đức Phật phóng quang vào giữa trưa, kinh này Đức Phật phóng quang vào đầu hôm, mỗi mỗi đều có chỗ biểu thị. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni xuất hiện ở đời ngũ trược, lúc bấy giờ, loài hữu tình phiền não sâu nặng, những người chưa được độ lại nhiều ngu si, vì thế phóng ánh sáng vào thời gian này là muốn biểu thị sắp nói một bộ kinh sâu xa, khiến cho những chúng sinh chưa được độ ở hội Đức Thích-ca, thấy Đức Di-lặc, đạt được ánh sáng Thánh trí mà phá tan màn vô minh. Toàn thân phóng ánh sáng: Trong kinh Niết-bàn, thì Đức Phật phóng ánh sáng từ miệng, kinh Pháp Hoa, Đức Phật phóng ánh sáng từ tướng lông trắng. Kinh Bát-nhã thì lần lượt toàn thân phóng ánh sáng. Nay kinh này đồng thời toàn thân phóng quang, là hiển thị lòng từ bi cứu độ tất cả, biểu thị những người tu hành đều được độ thoát, hiển thị bi trí chiếu khắp mười phương pháp giới. Phóng quang là vì muốn dẫn dắt người mê, phá màn tăm tối cho các chúng sinh. Chiếu soi kẻ ngu si khiến cho họ khai mở mắt trí tuệ. Màu vàng ròng, trong kinh Pháp Hoa Đức Phật phóng ánh sáng trắng, kinh Niết-bàn Đức Phật phóng loại ánh sáng bốn màu, kinh này Đức Phật phóng ánh sáng vàng, là biểu thị sự trân quý bảo trọng, đó là báu vật đệ nhất để cứu giúp chúng sinh thời mạt pháp. Cho nên phóng ánh sáng chiếu soi quanh vườn Kỳ-đà cảnh giác chúng xuất gia, chiếu nhà Tu-đạt, là cảnh giác chúng tục gia, vì đó là đại thí chủ. Muốn hiển thị việc nghe kinh mà phóng quang báo hiệu tập hợp hai chúng, hai chúng nghe kinh ở thời vị lai được Đức Phật Di-lặc cứu độ. Bảy vòng, là biểu thị chúng xuất gia ở đời hiện tại và vị lai phá bảy món tùy miên, trừ bảy ác nghiệp của thân và khẩu, giữ gìn bảy tụ giới vượt bảy lần sinh mà được bảy giác phần. Pháp phải như thế. Chánh văn: Ánh sáng màu vàng ròng giống như vầng mây rực rỡ, khắp cả nước Xá-vệ, nơi nơi đều có mưa hoa sen màu vàng. Tán rằng: Mưa hoa: có ba: Hình tướng của ánh sáng. Nơi có ánh sáng. Mưa hoa sen màu vàng. Ánh sáng như vầng mây rực rỡ, là biểu thị Pháp thân cùng khắp pháp giới, mà hóa thân tùy cơ ứng hiện giống như vầng mây rực rỡ, che mát bốn loài chúng sinh. Thuyết pháp như mưa, lòng từ bi như mây. Khắp nước Xá-vệ, Đức Thích-ca Mâu-ni, nhận lời thưa thỉnh của Tu-đạt, thọ ký cho Di-lặc. Nhân dân ở nước này nhiều người có duyên. Xá-vệ là phong đức biểu thị cho việc Đức Di-lặc đầy đủ cả tài bảo thế gian và xuất thế gian. Mưa hoa sen, hoa có năm đức: Ngăn lấp điều ác, dụ cho việc tiêu diệt các tội. Thường sinh quả, dụ cho việc nghe kinh này thấy được Đức Phật Di-lặc mà đạt được Thánh đạo. Mùi hương lan xa, dụ cho việc tu tập kinh này thấy được Phật, tiếng thơm lan khắp nơi. Có thể ra khỏi nước mà vẫn tươi tốt, dụ cho việc nghe kinh này rồi thì ra khỏi biển lớn sinh tử. Nở tròn đầy dụ cho việc từ nay về sau, Phật diễn bày diệu ng- hóa. Chánh văn: Trong ánh sáng đó có vô lượng trăm ngàn hóa Phật cùng nói lời này: Tán: Hóa Phật thuyết pháp: có bốn: Hóa Phật. Đều tuyên thuyết. Hiển nhân. Luận quả. Đoạn này gồm phần một và hai. Hóa Phật dụ cho Di-lặc thượng sinh là thùy tích mà chẳng phải là chân Phật, vì chư Phật có sức thần biến khó nghó bàn. Đều tuyên thuyết, dụ cho năm trăm ức Đức Thích-ca đồng thọ ký cho Di-lặc. Chánh văn: Nay trong chúng hội đây có một ngàn Bồ-tát, vị sẽ thành Phật đầu tiên tên là Câu-lưu-tôn, vị thành Phật sau cùng tên là Lâu-chí. Tán: Đoạn này thuộc hai phần ba và bốn. Nói một ngàn vị Bồ-tát, là muốn hiển thị một ngàn vị chưa thành Phật ở hiền kiếp, như Di-lặc… hiện đang ở nơi nhân vị. Vị thành Phật đầu tiên hiệu là Câu-lưu-tôn, vị thành Phật cuối cùng hiệu là Lâu-chí, muốn hiển thị rằng nếu nơi đây có duyên thì nhất định rằng vị lai sẽ thành Phật, khiến cho chúng sinh đều khởi tâm mong cầu được thân cận, như trong kinh THIÊN PHẬT NHÂN DUYÊN đã nói rõ. Chánh văn: Nói lời này xong, Tôn giả Kiều-trần-như liền xuất thiền cùng với hai trăm năm mươi quyến thuộc. Tán: Đại chúng vân tập: Gồm ba Bốn chúng vân tập. Hai chúng vân tập. Tám bộ vân tập. - Bốn chúng vân tập gồm có bốn: Chúng Tỳ-kheo Chúng Tỳ-kheo ni Chúng cận sự nam Chúng cận sự nữ. Chúng Tỳ-kheo gồm có bốn phần: Bậc Tôn túc túc kỳ cựu. Chúng thiểu dục tri túc Chúng thần thông ngoại hóa. Chúng trí tuệ nội đức. Đoạn này thuộc phần nói về: Bậc Tôn túc kỳ cựu: Âm Phạm là A-nhã-đa tức là giải, Kiều-trần- na là một họ của chủng tánh Bà-la-môn, Kiều-trần-như là sai lầm. Sau khi thái tử Phạm-tát Phược-át-thích-tha Tất-đà (Hán dịch là Nhất Thiết Nghóa Thành, xưa dịch âm Tất-đạt-đa là lầm) vượt thành, ngài liền vào núi rừng hang động ẩn cư tu hành cầu đạo, vua cha là Tịnh Phạn bảo ba người trong gia tộc là A-thấp-bà. Hán dịch là Mã Thắng, Bạt-đề và Ma-nam-câu-lợi cùng với hai người cậu là Kiều-trần-na và Thập lực Ca-diếp rằng: “Con của ta xuất gia tu học, chỉ một thân ở nơi núi rừng hoang vắng, cho nên nay ta sắc cho các ông hãy đến chỗ của thái tử đang sống, bên trong thì với tình chú bác cậu, ngoài thì nghóa vua tôi, phàm có động tịnh gì thì nên biết mà tùy thuận giúp đỡ.” Năm người vâng mệnh cùng nhau hộ vệ Thái tử, nhân đó mà cũng cần cầu xuất gia. Năm người thường nói rằng: “Phàm tu đạo thì khổ hạnh chứng quả hay lạc hạnh chứng quả.” Hai người cậu nói rằng: “Lạc hạnh là đạo”, ba người gia tộc thì nói: “Cần khổ tu hành là đạo. ” Hai nhóm này tranh cải nhau mà không thể chứng minh được. Thái tử tư duy lý này, và thực hành theo ngoại đạo khổ hạnh, một ngày chỉ ăn mè và lúa mạch để nuôi thân, hai người cậu thấy thế bèn nói: “Việc Thái tử thực hành chẳng phải chân thật, mất chánh đạo. Đạo chỉ do lạc thú mới chứng ngộ, nay Ngài cầu khổ như thế chẳng phải là con đường của chúng tôi”, sau đó hai người này bỏ đi nơi khác, tự tư duy về phương pháp chứng quả. Thái tử khổ hạnh sáu năm mà chưa chứng được Bồ-đề, ngài muốn chứng nghiệm rằng khổ hạnh chẳng phải chân thật pháp, nên thọ nhận bát sữa cúng dường, sau đó thì chứng quả. Ba người trong gia tộc nói rằng: “Công quả chưa thành tựu mà nay đã thoái chí sao? Sáu năm khổ hạnh bổng chốc trở thành uổng phí”, bèn cùng nhau bỏ đi, tìm đến hai người kia, vừa gặp đã cùng ngồi lại bàn luận rằng: “Xưa Thái tử rời hoàng cung đến nơi hoang cốc bỏ y phục quý giá mà mặc áo da nai, tinh cần, khổ hạnh, quyết tâm cầu pháp Vô thượng, nay đã thọ nhận một bát sữa từ người con gái chăn bò, làm mất đạo, tồn hoại ý chí, không còn khả năng thành tựu.” Hai người thân cận nói rằng: “Sao ngài biết quá muộn thế!” Người này điên đảo, ở nơi hoang sơn thọ nhận Tôn vị, mà không thể lắng tâm ẩn tích nơi núi rừng, lìa bỏ ngôi báu ngôi báu Luân vương để làm con người bình thường, hạ tiện, sao lại có thể nghó như thế?” càng nói càng thêm thống khổ. Lúc bấy giờ, thái tử tắm ở sông Ni-liên- thuyền, thiền định dưới cây Bồ-đề mà thành chánh giác, hiệu là Thiên Nhân Sư. Ngài suy nghó rằng, nên độ ông Uất-đầu-lam-phất, vì người này đã chứng định phi tưởng có thể kham nhận diệu pháp. Nhưng chư Thiên báo rằng ông đã mệnh chung cách đây bảy ngày. Như Lai than tiếc rằng: “Vì sao chẳng đợi gặp lại” ngài lại quán xét tiếp, biết rằng có ông A-lam Ca-lam đã chứng được vô sở hữu xứ, có thể trao cho diệu lý, chư Thiên lại thưa: “người này đã mệnh chung cách đây năm ngày” Như Lai than tiếc, người này phước mỏng, rồi lại quán xét kỹ càng, tự hỏi ai có thể thọ nhận giáo pháp này? Chỉ có năm người ở rừng Thi lộc, có thể giáo hóa đầu tiên được. Đức Phật từ cội Bồ-đề, dẫn bước hướng vào vườn Lộc dã, oai nghi điềm tịnh, thần quang phát lộ tướng bạch hào như màu sắc của ngọc, toàn thân rực rỡ màu vàng ròng, an tường tiến bước đến chổ của năm người. Bấy giờ, năm người này từ xa đã thấy Phật, đồng nhau hẹn rằng: “Nhất thiết nghóa thành đã đến, bao nhiêu năm tháng lâu xa nay, cũng chưa chứng quả, tâm thường thay đổi, cho nên nay tìm đến chúng ta nên im lặng chẳng cần phải đứng dậy đón tiếp.” Như Lai dần dần đến gần, sức oai thần của ngài nhiếp phục khiến cho năm người không thể cưỡng lại, phải đứng lên thi lễ nghênh tiếp, thuận theo Như Lai. Ngài ở đây dần dần, chỉ bày diệu lý vì họ mà hiển thị tướng trạng, khuyến hóa tu tập, đạt được chứng ngộ. Ba lần chuyển pháp luân, Đức Phật hỏi: “Hiểu chăng”? Lần đầu tiên Kiều-trần-na đáp: “Hiểu.” Liền đó Địa thần, chư Thiên truyền rao đến trời Tịnh cư rằng: “Kiều-trần-na là người đầu tiên đã liễu ngộ như thế”, cho đến âm thanh này vang cùng khắp cõi đại thiên. Do đó mà có tên là Giải. Nay Kiều-trần-na cùng với đệ tử là những bậc Đại đức kỳ cựu thấy ánh sáng chiếu soi, trời mưa hoa, nghe lời tuyên thuyết liền xuất thiền cùng bảo nhau đến trụ xứ của Thế Tôn. Các bản kinh dịch ghi: “Tôn giả là Liễu Bản Tế, hoặc Giải Vô Trí” đều đúng với nghóa của từ A-nhã-đa, nhưng chưa thật đúng là tên gọi và chẳng biết họ Kiều-trần-na. Chánh văn: Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, cùng với hai trăm năm mươi quyến thuộc. Tán: Bậc Thiểu dục tri túc: “Ma-ha là đại; Ca-diếp ba, Hán dịch là Ẩm Quang, vì gọi tắt nên viết là Ca-diếp. Ngài thuộc dòng Bà-la-môn chủng tộc của Tiên nhân Ẩm Quang. Xưa có một vị Bà-la-môn tu hành đạt được quả tiên, toàn thân sắc vàng, sáng chói hơn cả mặt trời, mặt trăng Tôn giả thuộc dòng dõi này nên lấy họ làm tên. Vả lại thân của Ca-diếp cũng sáng hơn cả mặt trời mặt trăng, cho nên lấy đó đặt tên. Phó Pháp Tạng ghi: “Vào thời quá khứ cách nay chín mươi mốt kiếp, Đức Phật Tỳ-bà-thi nhập diệt, bốn chúng đệ tử xây tháp bảy báu tôn thờ, bên trong tháp có tượng Đức Phật, vì lâu ngày mặt của tượng có vài nơi bị hư hoại, bấy giờ có một người nữ bần cùng, hành khất các nơi được một đồng vàng, đến nhờ Ca-diếp, lúc ấy là một người thợ vàng, để tu sữa. Ca-diếp nghe việc phước đức như thế vui vẻ nhận lời sữa sang tu tạo mặt tôn tượng. Nhân đó hai người cùng phát nguyện rằng: “Nguyện hai chúng tôi đời đời kết thành vợ chồng, thân thường có màu vàng ròng, luôn luôn được đầy đủ sung sướng, tu hành phạm hạnh.” Vì thế mà từ lúc ấy đến nay trải qua chín mươi mốt kiếp thân vẫn có màu như thế, sinh vào cõi trời hay người cũng đều được vui thú an lạc, cuối cùng thác sinh vào cõi Phạm thiên thứ bảy. Lúc bấy giờ, ở nước Ma- kiệt đã có một vị Bà-la-môn tên là Ni-câu-luật-đà, vì quá khứ tu phước, nên đời này thông minh, đa trí giàu có vô lượng; vàng bạc, châu báu, bò dê, ruộng vườn, nhà cửa nô tỳ, xe cộ nhiều hơn Bình Sa Vương gấp ngàn lần. Bình Sa Vương có một ngàn cái cày bằng vàng, vị Bà-la-môn này sợ rằng bằng vua thì có tội nên chỉ làm chín trăm chín mươi chín cái, nhà lại có rất nhiều thảm len dạ, cái kém nhất giá trị cũng hơn trăm ngàn lượng vàng, lại có sáu mươi thùng đựng lúa bằng vàng, mỗi thùng chứa ba trăm bốn mươi hộc, vị Bà-la-môn này giàu có vô lượng nhưng chưa có con nối dõi, nên vợ chồng thường đến một cây thần cạnh nhà để lễ bái cầu xin, trải qua nhiều năm mà vẫn không được toại nguyện, nên giận dữ nói rằng: “Bắt đầu từ hôm nay đến bảy ngày sau, ta tận tâm phụng sự lễ cúng, nếu không ứng nghiệm ta sẽ chặt đốt hết.” Thọ thần nghe thế buồn bã lo sợ báo với Tứ thiên vương, Tứ thiên vương tâu với Đế Thích, Đế Thích xem xét trong cõi Diêm-phù-đề không có ai có thể làm con vị Bà-la-môn này được, nên đến Phạm vương thuật lại sự việc trên. Phạm vương liền dùng thiên nhãn xem xét khắp nơi, thấy một vị Phạm Vương sắp mệnh chung, liền đến khuyên bảo nên sinh vào nhà kia, vị này theo lời thác sinh vào nhà vị Bà-la-môn. Trải qua mười tháng, sinh ra một đứa bé trai, dung mạo đoan chánh, thân màu vàng ròng, ánh sáng rực rỡ chiếu xa bốn mươi dặm, thầy tướng đến xem và nói rằng: “Đứa bé này đời trước đã tạo nhiều phước duyên, đời này ắt sẽ xuất gia.” Cha mẹ nghe thế sinh lòng buồn bã, cùng nhau toan tính, tìm phương kế để cho con mình không có ý niệm kia. Vợ chồng Bà-la- môn suy nghó kỹ biết rằng chỉ có sắc đẹp mới làm cho người thế gian đắm trước do đó cưới một người con gái đẹp, đoan chánh, để đoạn dứt ý niệm xuất gia của con mình.” Khi Ca-diếp mười lăm tuổi, cha mẹ bảo cưới vợ, Ca-diếp nói rằng: “Tâm con thanh tịnh không cần vợ.” Cha mẹ không chịu, biết khó tránh được, nên Ca-diếp tạm lập kế nói với cha rằng: “Nếu cưới một người nữ có thân màu vàng tía, đoan chánh hơn người, thì con sẽ đồng ý.” Cha mẹ liền triệu tập, bảo tất cả Bà-la-môn đi khắp nơi để tìm cầu, các Bà-la-môn liền đúc tượng môt người con gái bằng vàng ròng, đoan chánh kỳ đặc, mang đến các thôn làng và thông báo rằng: “Nếu người nữ nào thấy tượng nữ thần vàng này mà lễ bái, thì sau khi lấy chồng dung nhan đẹp đẽ, thân màu vàng ròng, đoan chánh hơn người.” Các người con gái nghe thế liền thực hành theo, chỉ có một người con gái dung nhan tuyệt mỹ, đoan chánh, thân màu vàng, tâm ý thanh khiết không chịu ra lễ bái, đó là cô gái cúng dường một đồng tiền vàng khi xưa. Nhờ thắng duyên ấy mà thân được đẹp lạ như thế, nhưng vì các cô gái khác ép buộc nên cùng nhau đến diện kiến tượng nữ thần vàng. Khi nàng vừa đến thì ánh sáng trên thân phát ra hơn cả ánh sáng trên tượng thần vàng. Các Bà-la-môn thấy được liền xin cưới cho Ca- diếp, khi đưa về đến nhà, vợ chồng đối diện cả hai đều thanh khiết, giống nhau không khác, cùng giao kết rằng mỗi người một phòng, cha mẹ biết được, dẹp bỏ một phòng, khiến họ phải ở chung phòng, lại chỉ đặt một chiếc giường. Ca-diếp thấy thế liền bảo rằng: “Khi ta ngũ thì nàng kinh hành, khi nàng ngũ thì ta kinh hành. Một lần, người vợ đang ngũ, tay buông thỏng xuống giường, một con rắn độc bò vào phòng, Ca-diếp sợ rắn làm vợ bị thương, nên dùng áo phủ tay rồi mới đặt lên giường, người vợ giật mình tỉnh giấc trách rằng: “Chúng ta đã lập thệ, nhất định không gần gũi nhau, vì sao hôm nay lại cầm tay ta.” Ca-diếp đáp rằng: “Có một con rắn độc đang bò vào phòng, sợ làm thương tổn tay nàng trở ngại việc tu đạo, cho nên ta làm thế, thật ra không có tâm ý nhiễm ô.” Nói xong chỉ cho người vợ thấy con rắn trong phòng, lúc bấy giờ, vợ mới biết được sự việc. Vợ chồng tiết tháo, chán ghét thế gian, nên cùng nhau trình bày lên cha mẹ, cầu xin xuất gia, cha mẹ thấy thế đành phải chấp nhận. Vợ chồng bèn xuất gia, đến trước Phật, Đức Phật tuyên thuyết pháp yếu, Ca-diếp tức thời chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba minh, sáu thần thông, tám giải thoát, sau đó thì người vợ cũng đắc A-la-hán. Lúc tại thế ngài Ca-diếp thường cùng Đức Phật phân tòa thuyết pháp, Đức Phật sắp diệt độ, thì lại phó pháp tạng lại cho ngài. Về sau, ngài Ca-diếp kiết tập Tam tạng, rồi đến núi Kê túc nhập định, toàn thân chẳng tan hoại, khi Đức Phật Di-lặc xuất thế, Ca-diếp nhập định, rời núi đến chúng hội, thị hiện mười tám thần biến, độ vô số chúng sinh, sau đó diệt độ, vào vị lai thành Phật hiệu là Quang Minh, như trong kinh Pháp Hoa, Phật đã thọ ký. Chánh văn: Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cùng hai trăm năm mươi quyến thuộc. Chúng thần thông ngoại hóa: Âm Phạm là Ma-ha Một-đặc-già-la. Hán dịch là Thái phục thị (người hái đậu). Nay lầm gọi là Đại Mục-kiền-liên, vị A-la-hán này thuộc dòng dõi Bà-la-môn, vào thời xa xưa có một vị Tiên sống ở núi rừng u tịch thường hái đậu để ăn, do đó mà có tên là Đại Thái Thục Thị. Lúc nhỏ Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất là hai người bạn thân thiết. Xá-lợi-phất do thông minh tài trí mà nổi tiếng, còn Mục-kiền-liên thì suy xét tinh tế mà rạng danh, cả hai tài trí ngang nhau, oai nghi gồm đủ, lập thệ trước sau như một, đi ở có nhau, bỏ tục mà khổ cầu xuất gia nên thờ Sam-xa-da làm thầy. Sau Xá-lợi-phất gặp được vị A-la-hán tên là Mã Thắng, nghe được giáo pháp, biết đó là Thánh đạo nên trở về thuật lại với Tôn giả những lời đã nghe, tôn giả nghe xong, ngộ được Phật pháp, chứng sơ quả, liền cùng với một trăm đồ đệ hoặc có thuyết cho là hai trăm năm mươi, đến chỗ Phật, Đức Thế Tôn từ xa đã trông thấy nói rằng: “Người đang đến kia, sẽ là vị Thần túc đệ nhất của ta.” Vừa đến trước Phật, Tôn giả cầu xin nhập chúng hội, Thế Tôn nói: “Thiện lai! Bí-sô, tịnh tu phạm hạnh, sẽ xa lìa sự khổ đau.” Nghe lời này xong, râu tóc tự rụng, y phục thế gian biến thành ca-sa, được giới phẩm thanh tịnh, oai nghi đầy đủ, nhu hòa điều thuận, trải qua bảy ngày sau thì chứng quả A-la-hán, có đại thần thông. Một hôm, Đức Phật đang trụ tại hồ Nhiệt não, trời người đều đã vân tập đến đầy đủ, chỉ có Xá-lợi-phất không có trong chúng hội, Đức Phật bảo ngài Một-đặc-già-la đến chỗ ở triệu tập ngài Xá-lợi-phất. Một-đặc-già-la vâng lời Phật. Bấy giờ, Xá-lợi-phất đang vá pháp y, Một-đặc-già-la nói rằng: “Thế Tôn đang trụ tại ao Nhiệt não, sai tôi đến mời ngài.” Xá-lợi-phất nói: “Hãy đợi tôi vá xong, chúng ta cùng đi.” Một-đặc-già-la nói: “Nếu ngài không chịu đi thì tôi vận thần lực chuyển cả gian phòng này đến đại hội đấy.” Ngài Xá-lợi-phất liền cởi sợi đai đặt lên đất và nói: “Nếu nhấc được sợi dây đai này, thì thân của tôi ắt sẽ động. Một-đặc-già-la vận sức đại thần thông, mặt đất chấn động nhưng sợi đai vẫn không động. Do đó dùng thần túc thông về đến chỗ Phật, thì lại thấy Xá-lợi-phất đã ở trong hội tòa. Một-đặc-già-la gượng nói rằng: “Nay mới biết sức thần thông không bằng sức trí tuệ.” Bây giờ, nêu lên đệ tử của ngài Mục-kiền-liên là hai trăm năm mươi người. Chánh văn: Xá-lợi-phất và hai trăm năm mươi quyến thuộc. Tán: Trí tuệ nội đức chúng: Âm Phạm, Thiết-lợi Phất-đát-la Hán dịch là Xuân Oanh cũng gọi là Thu Điểu, Phất-đát-la Hán dịch là Tử, nay lầm gọi là Xá-lợi-phất. Khi chưa mang thai ngài, người mẹ nói năng chậm chạp, thường bị thua mỗi khi tranh luận với em là Ma-ha Câu-hi-la. Nhưng từ khi mang thai ngài trở về sau thì luận biện nhanh nhẹn khó có người đáp trả và luôn luôn thắng luận. Vì mẹ có biện tài nên hiệu là Xuân Oanh, nay gọi là Bách Thiệt Điểu (chim trăm lưỡi), vì do bà sinh ra nên gọi là Tử (con) cũng gọi là Thu Tử. Tôn giả thuộc dòng Bà-la-môn, cha có tài cao, biết rộng, suy nghó sâu sắc kỹ lưỡng, nghiên cứu tất cả những sách vở. Một hôm phu nhân nằm mộng, sáng dậy thuật lại với chồng rằng: “Đêm qua cảm mộng thấy một vị thần mang giáp trụ tay cầm chày Kim cang, đập phá cái ngọn núi, rồi lui về đứng dưới một ngọn núi khác, không biết đó là điềm gì?” Người chồng nói: “Điềm mộng này rất tốt, nàng sẽ sinh con trai, về sau có sức học quán thế, nạn phá các luật sư, dẹp các học thuyết của họ, chỉ không bằng một người, mà làm đệ tử người ấy.” Quả thật, người vợ có thai, bỗng nhiên thông minh, luận đàm cao tột, sắc bén, lời nói trôi chảy, không bị trệ ngại. Khi tôn giả lên tám tuổi, đã vang danh bốn phương; nhưng tánh tình thuần hậu chất phát, tâm hạnh Từ bi, muốn tận trừ phiền não, thành tựu trí tuệ. Thuở nhỏ là bạn thân với Một-đặc-già- la, cả hai cùng chán ghét thế gian, nhưng chưa có chỗ nương, cho nên theo ngoại đạo Sam-xà-da tu tập, nhưng thường cùng nhau bàn rằng: “Đây chưa phải là lý cứu cánh, chưa thể tận trừ được khổ đau, mỗi người nên đi tìm một con đường chân chánh, nếu ai nếm được vị cam lồ trước thì ắt phải báo cho người kia đồng nếm.” Bấy giờ A-la-hán Mã Thắng ôm bát vào thành khất thực, Xá-lợi-phất thấy oai nghi vị này đỉnh đạt nhàn nhã, bèn hỏi rằng: “Thầy của ngài là ai.” Mã Thắng đáp: “Thái tử họ Thích, chán ghét thế tục, xuất gia tu hành, đạt thành chánh giác, đó là thầy ta. Xá-lợi-phất nói: “Thầy của ngài nói pháp gì, có thể cho nghe được chăng?” Mã Thắng đáp: “Tôi mới thọ học nên chưa đạt được yếu nghóa sâu xa.” Xá-lợi-phất đáp: “Xin ngài nói những điều đã nghe được.” Mã Thắng liền tùy cơ nghi diễn thuyết, Xá-lợi-phất nghe xong chứng sơ quả cùng với một trăm người, có thuyết nói hai trăm năm mươi đồ chúng đến trụ xứ của Phật. Từ xa Phật đã thấy nói với đệ tử rằng: “Người đang đến kia sẽ là vị đệ tử có trí tuệ đệ nhất của ta.” Xá-lợi-phất đến trước Phật đảnh lễ, nguyện xin được theo Phật pháp. Thế Tôn liền nói: “Thiện Lai! Bí-sô” Xá-lợi-phất nghe xong, râu tóc tự rụng, đầy đủ giới phẩm; hơn nửa tháng sau, nhân Phật thuyết pháp cho phạm chí Trường Trảo, Xá-lợi-phất nghe được lời luận bàn mà cảm ngộ, chúng đắc quả vị A-la-hán. Sau A-nan vâng lời Phật, tuyên cáo thời gian nhập diệt, đại chúng luận bàn nhau, mọi người đều bi luyến, Xá-lợi-phất lại buồn khổ vô cùng, không nở thấy Phật nhập diệt, nên xin cho mình được nhập diệt trước, Đức Phật bảo: “Nên biết đã đúng thời.” Xá-lợi-phất bèn cáo từ hàng đệ tử trở về quê, vị Sa-di thị giả thông báo khắp các thành ấp, vua Vị Sinh Oán và người trong nước đều vội vã vân tập đến nhà của Xá-lợi-phất, ở đây nghe được tôn giả thuyết pháp. Sau khi mọi người ra về, vào lúc quá nửa đêm tôn giả Xá-lợi-phất nhiếp tâm nhập Diệt tận định, rồi xuất định mà vào Niết-bàn. Chánh văn: Ma-ha Ba-xà-ba-đề Tỳ-kheo-ni cùng với một ngàn Tỳ-kheo-ni quyến thuộc. Tán: Chúng Bí-sô-ni: Âm Phạm Ma-ha Bát-thích-xà Bát-để. Ma-ha là Đại, Bát-thích- xà là sinh, Bát-để là chủ, tức là Đại Sinh Chủ, xưa âm là Ba-xà-ba-đế dịch là Đại ái đạo là lầm lẫn. Mẹ của Đức Phật là phu nhân Ma-ha Ma- da, Hán dịch là Đại thuật, mất sớm; Sinh Chủ là mẹ kế, cho nên gọi là Di Mẫu là người nuôi nấng Thế Tôn, để sau đó ngài thành chánh giác. Phật giáo hóa những bậc Thánh tam thừa nên gọi là Đại Sinh hoặc cho rằng Đại nghóa là chúng, tất cả chúng sinh đều là con Phật, mà dì là mẹ Phật, nên được gia tặng là Đại sinh chủ, về việc Đức Phật cho phép bà xuất gia như luật đã ghi rõ. Phạm, Bí-sô, gồm năm nghóa là bố ma, khất só, thanh tịnh trì giới, tịnh mạng, phá ác; ni biểu thị người nữ, người nữ có đủ năm đức như trên thì gọi là Bí-sô-ni. Nay nói Tỳ-kheo-ni là lầm. Di mẫu cùng với một ngàn Tỳ-kheo quyến thuộc thấy thần quang của Phật mà đến. Chánh văn: Trưởng giả Tu-đạt cùng với quyến thuộc ba ngàn Ưu- bà-tắc. Tán: Chúng cận sự nam: Phạm Ô-bà-tố-ca; ô-bà Hán dịch là cận, Ca là sự, Tố biểu thị cho người nam. Trong số người nam, mà gọi như thế tức là cận sự nam. Xưa âm là Y-bổ-tắc, Ưu-bà-tắc dịch là thanh tín nam đều là lầm lẫn. Những người này giới đức đều đầy đủ, có thể kham nhận việc thân cận phụng sự vị Bí-sô đại A-la-hán. Cho nên bậc kỳ lão Thiện Thí được tôn xưng là Trưởng giả, tất cả cũng đều thấy linh quang của Phật chiếu soi mà vân tập. Chánh văn: Tỳ-xá-khư mẫu và hai ngàn quyến thuộc Ưu-bà-di. Tán: Chúng cận sự nữ: Tiếng Phạm là Tỳ-xá-khư, Hán dịch là Hắc lộc, vì đã có con nên gọi là Tỳ-xá khư mẫu. Ô-ba-tư-ca, Hán dịch là cận sự nữ, Tư biểu thị cho người nữ. Những vị này hành nghiệp trong sạch, đều có thể thân cận với các Bí-sô-ni đại A-la-hán-ni, như trong kinh Lộc Tử Nhân Duyên đã nói rõ. Chánh văn: Lại có các Bồ-tát tên là Bạt-đà-bà-la cùng với mười sáu vị Bồ-tát quyến thuộc đến dự. Tán: Hai chúng vân tập: Âm Phạm là Bồ-đề Tát-đỏa, gọi tắt là Bồ-tát, Bồ-đề nghóa là Giác tức là quả do trí cầu chứng ngộ, Tát-đỏa nghóa là hữu tình, tức chúng sinh được lòng Bi cứu độ. Nương vào lời hoằng thệ cho nên gọi là Bồ-tát hoặc loài hữu tình cầu Tam-miệu Tam-bồ-đề cùng gọi là Bồ- tát. Hoặc Tát-đỏa nghóa là mạnh mẽ, không ngại thời gian hay quốc độ, luôn luôn cầu đại Bồ-đề có ý chí năng lực lớn nên gọi là Bồ-tát, Bồ-đề cũng gọi là Bát-nhã, Tát-đỏa là phương tiện, hai pháp này đều lợi lạc cho tất cả hữu tình cho nên gọi là Bồ-tát. Ma-ha là Đại, Tát-đỏa như đã giải thích. Nay vị Bồ-tát này ở giai vị Thập địa, để phân biệt với tiểu cho nên nói là Đại Tát-đỏa. Phạm Bạt-đà-bà-la; Bạt-đà nghóa là Hiền, Bà-la tức là Hộ, là Bồ-tát Hiền Hộ, vì là bậc đại hiền đại đức, luôn luôn giúp đở chúng sinh, hoằng dương Phật pháp nên gọi là Hiền Hộ vị Bồ- tát này cùng với mười sáu vị Bồ-tát đệ tử đều đến dự. Chánh văn: Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi cùng với năm trăm Bồ- tát quyến thuộc đến dự. Tán: Âm Phạm là Mạn-thù-thất-lợi, Hán dịch là Diệu Cát Tường. Âm Văn-thù-sư-lợi là sai lầm. Kinh Ương-quật-ma-la ghi: “Ở thế giới Thường hỷ của Đức Phật Hoan Hỷ Tạng Ma-ni Bảo Tích tại phương Bắc có vị Bồ-tát đối với những chúng sinh nghe tên mình mà tạo các sự nghiệp kính lễ quy mạng, thì đều có thể vì họ mà tạo sự cát tường.” Pháp vương tử, tức là người đã thành Chánh giác từ lâu, nhưng ứng tích nơi nhân vị, làm một vị thái tử kế thừa quán đảnh Phật. Do đó mà chỉ nêu lên danh từ Pháp vương tử, cùng với năm trăm vị Bồ-tát quyến thuộc đến dự, hai nhân duyên này kinh đã nói rõ, trước là chúng đại trí, ở đây là chúng đại Bi, trước là Thánh chúng, hiện nay ở đây là Thánh chúng quá khứ; trước là chúng Thập địa, ở đây là chúng kế thừa Phật vị, vì thế nên gọi là hai chúng. Luận Pháp Hoa ghi: “Bạt-đà-bà-la và mười sáu người oai nghi không định đầy đủ hành nghiệp, cho nên ở đây nêu riêng, vì sao trước nêu Thanh văn sau luận Bồ-tát hình tướng Thanh văn giống như Phật, đầy đủ oai nghi của người xuất gia, thường thân cận Phật, khiến cho các Bồ-tát sinh lòng cung kính mà bỏ tâm kiêu mạn. Chánh văn: Cùng tất cả đại chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát- bà… thấy ánh sáng của Phật đều đến dự hội. Tán: Tám chúng vân tập: Tám bộ tức là Trời, Rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, xưa dịch âm là Càn-thát-bà; A-tố-lạc xưa âm là A-tu-la, Yết-lộ-trà, xưa âm là Ca-lâu-la, Khẩn-nại-lộ, xưa âm là Khẩn-na-la, Mạc-hô-lộ-già, xưa âm là Ma-hầu-la-già. Dược-xoa, Hán dịch là Dũng kiện hoặc là Bạo ác, thường bay trên hư không, ăn thịt các loài chúng sinh khác, cũng gồm cả loại Địa hành La-sát-bà, La-sát-bà Hán dịch là Khả úy. Kiền-đạt-phược, Hán dịch là Tầm Hương, hành thuộc về loại nhạc thần, ở phía đây gọi các người chuyên trổi những loại âm nhạc là Kiền- đạt-phược. Họ không có nghề nghiệp sinh sống, mỗi khi ngửi được mùi hương của thức ăn liền tìm đến trổi nhạc cầu xin. A-tố-lạc Hán dịch phi thiên, là tên khác của Đề-bà, vì làm nhiều việc dối gạt chẳng phải hạnh trời nên gọi là phi thiên. Yết-lộ-trà, Hán dịch là Diệu sí điểu, là một loại chim có đôi cánh rực rỡ nhiều màu, đặc biệt nhất lớn nhất trong loài chim, xưa âm là Kim sí điểu, tất cả loài chim đều bị loại này nhiếp phục. Khẩn-nại-lạc, Hán dịch là Ca thần. Mạc-hô-lạc-già, Hán dịch là Đại phúc điền phụ, các loại như mãng xà, ểnh ương đều thuộc loại này. Trên đây là nêu lên những đặc biệt, đứng đầu trong đó, mỗi loại còn có vô lượng hình loại khác nhau tất cả đều thấy ánh sáng của Phật mà đến tụ hội. Do bi trí của Phật dẫn hóa, cho nên tất cả loài hàm linh đều tụ họp, mong được pháp vũ để nhuần thấm mầm thiện, cầu được thuốc trí mà trừ các khổ, như trở về với cha hiền, như đến với bậc y vương. Bởi do lòng từ bi bình đẳng cho nên tất cả hữu tình vô tình đều được thấm nhuần lợi ích. Chánh văn: Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng muôn ngàn tia ánh sáng. Tán: Sở duyên riêng của kinh này: gồm có năm: Hiện tướng lưỡi và phóng ánh sáng. Có nhiều hóa Phật. Hóa Phật thuyết pháp. Đức Thích-ca tự trần thuật. Ngài Di-lặc lãnh ngộ. * Hiện tướng lưỡi rộng dài và phóng ánh sáng: Sắp nói một bộ kinh sâu xa, đầu tiên hiện tướng lưỡi rộng dài, là để chứng minh việc thọ ký cho Di-lặc ở đời vị lai cứu độ những chúng sinh có duyên là không vọng ngữ. Tướng lưỡi rộng dài là một trong ba mươi hai tướng, phàm lúc bình thường chỉ có thể che phủ cả mặt, đến chân tóc, nếu hiện thần thông thì che kín cả hoặc là đại thiên giới hoặc vô lượng. Luận Trí Độ ghi: “Phật và A-nan trên đường đi từ thành Xá-vệ đến thành Bà-la-môn, chủ thành này sùng tín ngoại đạo, nghe tin Đức Phật sắp đến, liền ra một sắc lệnh quy định rằng, nếu ai cúng dường vật thực cho Đức Phật hoặc cùng Phật nói chuyện sẽ bị phạt năm trăm đồng tiền vàng. Do đó khi Đức Phật và A-nan vào thành khất thực mọi nhà đều đóng cửa, cả hai phải ôm bát không trở về trụ xứ. Bỗng thấy một người tớ già, mang một bình sành củ đầy nước cơm hôi, mở cửa, bước ra khỏi nhà để đổ, Bà thấy Đức Phật đẹp đẻ đoan chánh, ôm bát không đi đến, tâm muốn cúng dường. Đức Phật biết được, nên ngài mở bát, xin phần nước cơm định đổ bỏ ấy. Bà lão với tâm thanh tịnh cúng dường Đức Phật. Đức Phật thọ nhận xong nói với A-nan rằng: “Người tớ già này, do việc làm hôm nay mà trong mười lăm kiếp được sinh vào cõi trời và cõi người, hưởng được nhiều phước lạc, chẳng đọa vào đường ác, về sau chuyển làm thân nam, xuất gia tu đạo, thành một vị Bích-chi-Phật. Lúc bấy giờ, có một người Bà-la-môn đứng gần Phật, nghe Đức Phật nói lời này, liền nói rằng: “Ngài là thái tử, con vua Tịnh Phạn, tại sao vì miếng ăn mà có những lời hư dối thế?” Đức Phật triễn lưỡi che trùm cả mặt, đến điểm chân tóc, rồi nói rằng: “Ông đã thấy người nào có lưỡi dài rộng như thế mà nói dối chưa?” Bà-la-môn đáp: “Như có lưỡi chạm đến mũi đã không phải là người nói dối, huống gì lưỡi che trùm cả mặt như thế?” Do đó vị này sinh lòng tin, bạch Phật rằng: “Nay con không hiểu vì sao bố thí ít mà được báo nhiều như thế?” Đức Phật đáp rằng: “Ông đã từng thấy việc nào hi hữu chưa?.Bà-la- môn đáp: “Con đã đi nhiều, thấy cây Ni-câu-đà có bóng mát che phủ được năm trăm cổ xe.” Phật hỏi: “Hạt giống của cây này lớn nhỏ thế nào?” Bà-la-môn đáp: “Chỉ bằng một phần ba hạt cải.” Phật lại nói: “Ai tin được ông.” Bà-la-môn vội đáp: “Thật vậy, thưa Thế Tôn! Chính mắt con trông thấy, không chút hư dối.” Đức Phật liền nói: “Ta thấy lão bà này tâm thanh tịnh, cúng dường Phật được quả báo to lớn, thì cũng như cây kia, hạt giống nhỏ mà cũng có thân to lớn như thế.” Bà-la-môn bỗng nhiên tâm ý khai tỏ, sám hối trước Phật, Phật liền thuyết pháp, vị Bà-la-môn nghe pháp xong chứng quả Tu-đà-hoàn, giang hai tay nói lớn lên rằng “Hỡi mọi người! Cửa cam lộ đã mở, vì sao lại không ra mau?” Nhân dân trong thành nghe lời này, vội đến vua nộp phạt năm trăm đồng rồi cúng dường Đức Phật, chế lệnh bị phá bỏ, vua và quần thần cùng quy y Phật, Đức Phật thuyết pháp cho họ nghe, tất cả đều đạt được đạo quả.” Vì thế nay xuất tướng lưỡi hiển bày việc thọ ký chúng sanh tu hành nguyện sinh về cõi kia thì nhất định sẽ được toại ý, đó là lời chân thật không hư dối. Luận Bát-nhã ghi: “Chẳng vọng ngữ, tức là đối với việc thọ ký không hư dối.” Phóng một ngàn ánh sáng là biểu thị một ngàn thế giới, mỗi mỗi đều có Hóa Phật, phá những ngu si tăm tối cho chúng sinh. Chánh văn: Trong mỗi một tia sáng có một ngàn màu sắc, mỗi một màu sắc lại có vô lượng Đức Phật. Tán: Có nhiều hóa Phật: Mỗi một tia sáng có một ngàn màu sắc là biểu thị trung thiên giới, mỗi mỗi đều có một ngàn hóa Phật, trong mỗi một màu có vô lượng hóa Phật, là biểu thị một đại thiên giới, vị lai sẽ có một trăm ức Di-lặc đồng thời hiện sinh. Chánh văn: Các hóa Phật này dị khẩu đồng âm tuyên thuyết các Đà-la-ni sâu xa không thể nghó bàn của các Đại Bồ-tát thanh tịnh. Tán: Hóa Phật thuyết pháp: gồm hai phần là Tổng và Biệt. Đoạn này thuộc về Tổng. Tổng: Thân khác cho nên dị khẩu, lời nói giống nhau nên gọi là đồng âm. Các Đại Bồ-tát thanh tịnh, tức là Bồ-tát Địa thứ mười, nhân hạnh đã đầy đủ hoặc chướng còn nhưng rất vi tế, nên gọi là thanh tịnh, hoặc cho rằng từ Địa thứ tám trở lên, tất cả phiền não không còn hiện hành cho nên gọi là thanh tịnh; hoặc cho rằng Bồ-tát Sơ địa trở lên chứng lý tánh tịnh, có thể hàng phục các hoặc, khiến cho tất cả phiền não không còn hiện hành cho nên gọi là thanh tịnh. Ba ý trên, thì ý đầu tiên thuộc về nhậm vận tương tục đắc, ý thứ ba thuộc về phần chứng, tất cả đều không trái nhau. Sâu xa tức là vi diệu, chẳng thể nghó bàn tức là lìa tâm phân biệt, dứt bặt ngôn ngữ. Phạm âm Đà-la-ni, Hán dịch là Tổng trì, tức là niệm, tuệ bao hàm các đức và lấy đó làm thể tánh, rõ biết phân biệt, ghi nhớ chẳng quên, có thể dùng sơ lược bao hàm đầy đủ, ít dung chứa nhiều, cho nên gọi là Tổng trì. Pháp tức là giáo, tức là thuyết pháp ấy. Chánh văn: Đó là Đà-la-ni A-nan-đà-mục-khư, Đà-la-ni không tuệ, Đà-la-ni Vô môn, Đà-la-ni Đại giải thoát vô tướng. Tán: Từ đoạn này về sau là nêu riêng từng Đà-la-ni. Biệt: Nêu lên bốn môn khác nhau, đó là hỉ hữu, giải không, đối với nhân có tánh vô ngại, đối với quả thì được đại giải thoát; giải thoát tức vô tướng, hoặc cho thứ ba là bốn vô ngại giải, biện tài giáo hóa chúng sinh, và thứ tư là phước tuệ nội đức giải thoát. Hoặc cho rằng Địa thứ tám, nhậm vận được hai môn trước. Địa thứ chín được môn thứ ba, Địa thứ mười được môn thứ tư. Hoặc cho rằng có bốn môn Tổng trì là: Pháp, nghóa, chứng đắc Bồ-tát Vô sinh pháp nhẫn, minh chú, theo thứ tự phối hợp, giáo pháp là Hữu, nghóa sở thuyên là không, Vô sinh pháp nhẫn là tánh vô ngại, được pháp nhẫn này thì vô ngại đối với các pháp, cho nên minh chú gọi là đại giải thoát vô tướng, vì có thể xa lìa chướng ngại, trói buộc và chẳng thể phân biệt nên gọi là vô tướng, như U tán đã được giải thích. Chánh văn: Lúc bấy giờ, Thế Tôn dùng một âm thanh tuyên thuyết một trăm ức môn Đà-la-ni. Tán: Đức Thích-ca tự trình bày: Vì muốn hiển bày việc thọ ký không hư dối, cho nên nay có hóa Phật đồng tuyên thuyết, như khi nói kinh Pháp Hoa, Đức Thích-ca Mâu- ni đã tự trình bày, nhưng còn ngại người khác không tin nghi hoặc cho nên có tháp Đa bảo từ đất nổi lên chứng minh mới sáng tỏ,. Nay cũng như thế, chẳng phải chỉ có ta nói, mà hóa Phật cũng đồng tuyên thuyết. Vì muốn cho Di-lặc giải ngộ sâu xa nên Đức Phật dùng pháp nghóa để diễn bày giáo lý, tức là dùng một âm thanh để nói một trăm ức; đó là dùng sơ lược bao hàm đầy đủ nên gọi là Tổng trì. Chánh văn: Nói Đà-la-ni xong, bấy giờ trong chúng hội có một vị Bồ-tát tên là Di-lặc, nghe những điều được Đức Phật tuyên thuyết, tức thời chứng được một trăm ức môn Đà-la-ni. Tán: Bồ-tát Di-lặc lãnh ngộ: gồm hai phần: Nói về việc lãnh ngộ. Nói về việc xin thọ ký. Đoạn này thuộc về phần nhất: Lãnh ngộ: Nhân hạnh đã đầy đủ từ lâu, mà quả nay mới thị hiện chứng. Nhờ vào một ít tu tập mà thành tựu to lớn; ĐứcThích-ca vừa dùng một âm thanh tuyên thuyết mà trăm ức Di-lặc lãnh thọ, với vạn lần giải ngộ, do đó mà tức thời được trăm vạn ức Đà-la-ni. Chánh văn: Liền từ chỗ ngồi đứng dậy chỉnh trang y phục, chắp tay đứng trước Phật. Tán: Xin thọ ký: Đã chứng ngộ liền từ chỗ ngồi đứng dậy chỉnh trang y phục, tức hiển bày oai nghi thành kính, thực hiện phép tắc xin thọ ký. Từ chỗ ngồi đứng dậy biểu thị từ nơi sinh tử mà phát khởi chứng ngộ; y phục, biểu thị cho bốn oai nghi đầy đủ, bảy chi không thiếu, giới đức viên mãn; chắp tay biểu thị tâm cảnh hợp, lý và thần hội không trí hữu trí chiếu rõ chân tục, trí đức tròn đầy đứng trước Phật, biểu thị kết sử đã tận dứt. Đoạn đức gồm đủ, hoặc cho rằng trụ mà chẳng động, biểu thị tâm Tam-muội không lay động, định đức thành tựu, hoặc biểu thị tướng trạng sắp vảng sinh, cho nên đứng dậy. Tóm lại ý này muốn hiển bày việc đã khỏi sinh tử, tam học thành tựu đã lâu, chỉ mong cầu thị ký vị lai thành chánh giác. Nhưng oai nghi và quy tắc này chỉ hiển nơi thân nghiệp, chẳng phải hư dối lập ra, cho nên mỗi mỗi đều có ý biểu thị, oai nghi đi đứng đều là pháp luân.  <卷>QUYỂN HẠ Chánh văn: Lúc bấy giờ, Ưu-ba-ly cũng từ tòa ngồi đứng dậy, đảnh lễ và bạch Phật rằng: Tán: <詞>PHÁP THỈNH QUẢNG THUYẾT PHẦN: Việc thọ ký cho Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ đâu thể xem nhẹ; thị hiện tướng nơi ngoại viện Đâu-suất để khuyên vãng sinh, nhân có nghiêm thì quả mới trọng. Nếu không có hỏi mà thuyết, thì tướng của bổ xứ chẳng tôn quý, nếu không thỉnh mà tự luận đàm, thì tâm ham thích vị lai sinh chẳng nặng. Cho nên phóng quang tập chúng triệu đến những người có duyên. Như thỉnh thuyết kinh khiến cho sự nghiệp thêm quan trọng: Gồm hai phần: Luận về ngoại quả. Luận về nội quả. 1.Ngoại quả: Gồm ba: Ưu-ba-ly thưa thỉnh, Thế Tôn giải thích, khuyên vãng sinh về cõi kia (Từ câu Đức Thế Tôn bảo Ưu-ba-ly… .) Ưu-ba-ly thưa thỉnh: gồm hai: Phép tắc thưa thỉnh, lời thỉnh. Phép tắc thưa thỉnh: Phạm âm Ưu-bà-ly, Hán dịch là cận chấp, khi Phật còn là Thái tử, thì Ưu-ba-ly là cận thần, thân cận thái tử, là quan chấp sự. Người xưa cho rằng ngài là gia nhân của Phật, điều này chẳng đúng. Nay nói Ưu-ba-ly là sai. Cũng từ tòa ngồi đứng dậy, tức nhân thấy ngài Di-lặc đứng lên, Ưu-ba-ly liền thưa thỉnh, rất xứng hợp vậy; cũng biểu thị cho việc nghe ngài Di-lặc sẽ chứng Bồ-đề. Từ tòa ngồi đứng dậy đảnh lễ Đức Phật; rập đầu tôn kính của mình mà đảnh lễ dưới chân thấp kém của Phật, để bày tỏ nhất tâm đảnh lễ, thành kính vô cùng, tâm kiêu mạn đã dứt trừ, hiển thị nhân hạnh tôn quý thành Phật và Diệu nghiệp của Vô kiến đảnh tướng. Chánh văn: Khi xưa Thế Tôn đã nói trong Tỳ-ni và các bộ kinh tạng rằng Di-lặc (A-dật-đa) sẽ kế tục thành Phật ở vị lai. Tán: Lời thưa thỉnh: gồm hai phần là: Theo xưa hỏi nay, nêu việc hôm nay, hỏi việc ngày sau. Theo xưa hỏi nay: Trước nói Thế Tôn là lời Ưu-ba-ly bạch Phật ở đây nói Thế Tôn là luận về xưa kia Phật nói về Bồ-tát Di-lặc. Thế Xuất Thế Tôn gọi tắc là Thế Tôn, là hiệu thứ mười tức Bạc-già-phạm. Tỳ- nại-da, Hán dịch là Điều phục tức là điều hòa chế ngự các nghiệp thân, khẩu, ý hoặc chiết phục diệt trừ các phiền não, tức Quảng luật. Xưa gọi là Tỳ-ni hoặc Tỳ-nê là sai lầm. Cận Chấp rất thông về luật tạng, nhưng cũng am tường các kinh, việc thọ ký phần nhiều ghi trong luật, nhân đó mà có lời thưa hỏi. A-dật-đa, Hán dịch là Vô năng Thắng Di-lặc là tên, A-dật-đa là Tự. Xưa Đức Phật ở tại Kỳ sơn nói rằng: “Kế tục sau ta, ở vị lai có vị thành Phật tên là Di-lặc, bấy giờ trong chúng hội có Bồ-tát tên là Từ Thị, từ tòa ngồi đứng dậy bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nguyện ở đời vị lai thành Đức Phật Di-lặc kia.” Phật nói: Tốt lắm! Vì thế nay theo việc xưa mà dẫn phát lời hỏi sau. Chánh văn: A-dật-đa này còn là thân phàm phu chưa đoạn trừ các lậu, người này sau khi mệnh chung, sẽ sinh về cõi nào? Tán: Theo nay mà hỏi việc ngày sau: gồm là dẫn chứng việc hôm nay để hỏi vị lai, vãng sinh về uế độ hay Tịnh độ. Nói vãng sinh: Ưu-ba-ly là hàng căn khí kém, kiến giải hạn cuộc ở giáo Tiểu thừa, dùng sự hiểu biết của mình để suy lường bậc Thánh Tiểu thừa cho rằng Bồ-tát tu hành ba a-tăng-kỳ kiếp vẫn còn là phàm phu, chỉ có chỗ ngồi dưới cội Bồ-đề đoạn trừ ba mươi bốn tâm mới thành chánh giác. Vì cho rằng Dục, nhuế, hại, khi giác cũng chưa tận trừ nên nói phàm phu chưa đoạn các lậu. Lậu có ba loại như Pháp Hoa Tán đã nói. Sinh về cõi nào? Nghóa là trong ba cõi sinh về cõi nào, trong năm đường sinh về đường nào, trong bốn loài sinh vào loài nào, trong chín hữu sinh về hữu nào? Theo nhân mà nghiệm biết quả, chưa trừ được tâm nghi, chỉ cầu mong đấng Pháp vương chỉ bày cho cõi vãng sinh. Chánh văn: Người này, nay tuy đã xuất gia, nhưng chẳng tu thiền định, chưa đoạn phiền não, mà Phật thọ ký vị lai chắc chắn sẽ thành Phật, vậy người này sau khi mệnh chung sinh về quốc độ nào? Uế độ hay Tịnh độ: Từ khi đắp ca-sa, rụng râu tóc. Trở thành tướng mạo của người xuất gia, thường hiện oai nghi chẳng tu thiền định, nhận ca-sa kim sắc của Di mẫu, dục tham chưa trừ, thấy hào quang mà chẳng biết, còn có chỗ chẳng hay, Phật lại thọ ký cho viên mãn, lý sâu xa khó lường, vậy mệnh chung sinh về Tịnh độ hay uế độ, nhưng vì Bồ-tát chẳng khởi diệt tận định mà hiện oai nghi, sắp kế vị Pháp vương bèn nhận ca-sa của Phật chuyển nhượng; suy biết tướng ánh sáng mà thị hiện hỏi về hào quang. Ưu-ba-li chẳng biết những điều này liền cho rằng không tu định, tình tưởng còn thô, thấy tướng nên nghi ngờ thường có hoặc. Thiền định có chín, phiền não có mười, như những chỗ khác đã nói. Nhưng trước khi thành Phật, ắt phải trụ cõi trời Đâu-suất làm vị Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, đại tiểu đồng nhau. Ưu-ba-ly dùng tâm nhỏ hẹp mà suy lường Thánh vị, rõ ràng chẳng biết nên có lời thưa hỏi. Chánh văn: Đức Phật bảo Ưu-ba-ly rằng: Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và suy xét kỹ! Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, trong chúng hội hôm nay sẽ nói về việc nghiệm biết Di-lặc Bồ-tát Ma-ha-tát A-nậu-đa-la Tam-niệu Tam-bồ-đề. Tán: - Đức Phật giải đáp: Gồm có hai là bảo lắng nghe để Thế Tôn tuyên thuyết và theo lời hỏi mà giải thích. Lắng nghe để tuyên thuyết: Đế tức lắng lặng, nghe âm thanh để xét rõ nghóa lý, quan trọng là ở điểm suy xét kỹ. Như Lai sợ không nghe rõ nên lặp lại: “Đế thính, ý niệm suy xét đến chỗ vi diệu cùng tột gọi là: “Thiện tư niệm.” Như Lai là hiệu thứ nhất, kinh Niết-bàn ghi: “Như ở quá khứ, Phật tu tập các diệu hạnh ba mươi bảy phẩm, mười một không… mà đến Niết-bàn, cho nên gọi Như Lai. Ứng Cúng tức là hiệu thứ hai, ứng vì đã vónh viễn trừ diệt giặc phiền não; ứng vì đã không còn phải chịu phần đoạn sinh tử, đáng được thế gian cúng dường; Chánh Biến Tri là hiệu thứ ba, vì Chánh Tri Biến Tri cho nên gọi là Chánh Biến Tri, chẳng phải tà tiểu tri, mà là Chánh tri mãn tri đầy đủ hai trí tri là không và hữu. Trên đã nói về ba hiệu của Như Lai, thứ tự phối hợp với ba đức là đoạn đức, ân đức và trí đức. A-nậu A là vô, nậu-đa-la là thượng, Tam là Chánh, miệu là Đẳng, Tam là Chánh, Bồ-đề là giác. Các pháp không pháp nào hơn pháp này nên gọi là Vô thượng. Lý sự đều thấu suốt nên gọi là Chánh đẳng, lìa vọng chân mà chiếu soi, cho nên gọi là chánh giác. Hoặc cho rằng viên mãn trí đoạn là Vô thượng giác, phân biệt tà trí của chúng sinh nên gọi là Chánh giác phân biệt với trí phần đoạn của Tiểu thừa nên gọi là đẳng giác, phân biệt với khuyết trí của Bồ-tát nên gọi là Chánh giác. Một chữ giác quán thông cả văn trên. Di-lặc sắp viên chứng nên ở đây nêu lên toàn danh. Ký tức biết, nghiệm Phật tự xưng ba đức, nay vì các ông mà nghiệm biết phân biệt việc Bồ-tát Từ Thị vị lai sẽ thành Phật. Chánh văn: Người này sau mười hai năm sẽ mệnh chung và được sinh về cõi trời Đâu-suất. Tán: Theo lời hỏi mà giải đáp: gồm hai: nơi sinh Tịnh độ và uế độ. Nơi sinh: Nói mười hai năm sau, biểu thị cho việc thọ ký, đã cầu vượt mười hai duyên sinh tử, cho nên được lên cõi trời Đâu-suất làm Bồ-tát Bổ xứ. Chánh văn: Bấy giờ, ở cõi trời Đâu-suất có năm trăm ừc Thiên tử, mỗi một vị Thiên tử đều tu tập Đàn ba-la-mật sâu dày, dùng phước trời tạo dựng cung điện cúng dường Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ. Tán: + Tịnh độ hay uế độ: Có hai: Đáp tịnh, uế, kết sở nhân tán thán cõi thù thắng (Từ Phật bảo Ưu-ba-ly rằng: “Cõi trời Đâu-suất này là quả báo của tu thập thiện…) Tịnh uế: có ba. Năm trăm ức Thiên tử tạo cung điện báu bên ngoài. Một vị thần lớn tạo nội viện pháp đường. Năm vị thần lớn trang nghiêm hai cung điện này. Phàm quả báo từ phước lực của chư thiên, thì tự nhiên hiện ra, huống gì cung điện của bổ xứ sao lại do người khác làm? Đó là vì muốn hiển thị phước báo khác với chư Thiên, quả do kẻ khác tạo ra, là biểu thị chư Thiên cung kính, phát nguyện trang nghiêm nhân hạnh. Vả lại tư cụ của chư Thiên do sức nghiệp sinh ra, còn cung điện của tri túc do thắng hạnh mà hiển hiện, bên ngoài thì luận là người khác tạo, bên trong thì hiển thị đức tu nhân, giống như thượng uyển của Nhân vương, như Hỉ viên của Đế Thích. Chẳng nói phước báo tự nhiên, chỉ nêu quả người khác tạo, đó đều là sự việc được tạo ra lúc Bồ-tát chưa sinh về, mà dự tri muốn vãng sinh, cần phát nguyện tạo dựng trước. Trong phần thứ nhất là: Năm trăm Thiên tử tạo ngoại cung điện: có ba đó là: Chư Thiên trồng nhân phát nguyện. Quả phát nguyện của chư Thiên (Lúc bấy giờ, các Thiên tử phát nguyện rồi… .) Long vương giữ gìn (Long vương vây quanh tường thành này…) Chư Thiên trồng nhân phát nguyện: có ba. Trồng nhân Phát nguyện (con nay…) Hạnh nguyện đều giống nhau (như thế các Thiên tử…) Trồng nhân: có hai: Sở nhân. Trồng nhân. Đoạn này thuộc về phần luận sở nhân. Sở nhân: Sở nhân của tu tập hạnh nguyện, thứ nhất là tu tập bố thí độ, là diệu hạnh của sơ phát tâm, thứ hai là cúng dường các Bồ-tát, vì Bồ-tát hết một báo thân này nhất định sẽ thành Phật, phước điền rộng lớn, cho nên cần phải trồng nhân, nhân chính là bố thí độ, duyên tức là nguyện trợ giúp và những năng lực phụ, do phước lực của trời sinh ra. Vì thế nhờ sức của hai nhân duyên và phước trời trợ giúp mà biến thành cung điện, là quả cung điện của nhân duyên. Cầu mong trên mảnh ruộng tốt, nhờ phước và duyên của chư Thiên mà biến thành cung điện. Năm trăm ức, tức là năm căn tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ làm thắng nhân duyên nên trong thì chứng pháp uyển lạc, ngoài thì cảm được năm trăm ức Thiên tử tạo cung điện, tu tập các vạn hạnh khác cũng nhờ năm căn này, cho nên dùng năm trăm ức làm số lượng, hoặc cho rằng Bồ-tát hóa ra để dự định trang nghiêm, căn cứ sự nghiêm sức trong báo độ, thì hơn cả những vật do thiện căn thế gian hiện khởi. Năm căn được nói ở đây tức là nhân. Chánh văn: Mỗi mỗi đều lấy mũ ma-ni màu chiên-đàn xuống, quỳ dài chắp tay, phát nguyện rằng Trồng nhân: Chiên-đàn tức là đàn hương, màu hồng; Ma-ni là hạt châu như ý, tức là vật mà chư Thiên trang sức có màu hồng của đàn hương, thần châu như ý là hạt châu gắn ở mũ trên đầu của chư Thiên. Thí, biểu thị cho quả mong cầu ở vị lai được thành tựu, chủng trí tròn sáng, tất cả đều như ý. Cởi bỏ ma-ni và mũ báu, biểu thị sự tôn kính, thọ ký làm Phật là việc tối thắng; chư Thiên đều làm như thế cho nên nói là mỗi mỗi, quỳ dài tức là hai đầu gối đều chấm đất, thân ngay thẳng, tướng cung kính toàn vẹn, biểu thị việc tu tập định tuệ không gián đoạn. Chắp tay, tức là chí thành cung kính, biểu thị tâm cảnh tương ưng, trí chứng hợp với lý thể. Trên nói về tu hành là nhân của thân nghiệp, dưới luận phát nguyện, là nhân của ngữ nghiệp, phát khởi cả hai là nhân của ý nghiệp, cả ba đều đầy đủ. Chánh văn: Hôm nay con dâng bảo châu giá trị vô lượng và mũ trời cúng dường bậc Đại tâm chúng sinh. Tán: Phát nguyện: Đây là nhân của nguyện Bồ-tát Từ Thị; dùng bi trí để cứu vớt chúng sinh, cho nên trụ ở bờ kia mà có tâm Từ bi rộng lớn, trụ ở nhân vị mà có hiệu là chúng sinh. Ma-ha-tát-đỏa, Hán dịch là Đại hữu tình, vì có nghóa như thế nên gọi là đại tâm chúng sinh. Chánh văn: Người này không lâu sẽ thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nếu con ở nơi Đức Phật kia vì trang nghiêm quốc độ, được thọ ký, thì hãy khiến cho như ý châu và mũ báu biến thành vật cúng. Tán: Đây là lời phát nguyện. Người này tức là chỉ cho Từ Thị, đang ở nhân gian chưa sinh về cõi Trời. Vì dự phát nguyện này, cho nên nói rằng người này ở đời vị lai sẽ thành chánh giác, nếu tôi ở quốc độ kia, khi Phật thành chánh giác, có thể vì trang nghiêm cõi nước thù thắng mà được tham dự vào hội tòa mà thuyết pháp, được thọ ký, thì nay hảy khiến những bảo châu và mủ báu của tôi biến thành vật cúng. Vật cúng tức là bốn món cúng dường (thuốc men, y phục, thực phẩm và nơi ở) biến Bảo quan thành vật cúng, hiển bày ý nghóa chuyển phàm thành Thánh. Ở đây chỉ nói bảo quan, là lược không nói bảo châu, vì lời nguyện vẫn như thế. Hoặc cho rằng bảo tức là châu Như ý, quan tức là mũ báu của trời, gọi chung là bảo quan. Nếu chẳng phải như thế, thì tại sao khi thực hiện nhân thì châu và mũ đều thỉ xả, còn lời phát nguyện chỉ nêu mũ báu? Cho nên theo lời giải thích sau thì hợp với chánh lý hơn. Chánh văn: Như thế, các Thiên tử, mỗi mỗi đều quỳ dài phát thệ nguyện rộng lớn cũng giống nhau. Tán: Hạnh nguyện giống nhau: Tuy đã nói chung là chư Thiên, nhưng các nhà kết tập sợ rằng chúng sinh nghi hoặc mà cho rằng nguyện của chư Thiên chỉ có một người phát, do đó nay hiển bày hạnh thì bao gồm tất cả, nguyện thì đều giống nhau, ba nghiệp tu nhân, cũng đồng đẳng. Chánh văn: Khi các Thiên tử vừa phát nguyện xong, các châu như ý và mũ trời hóa thành năm trăm vạn ức cung điện báu. Tán: Quả sở nguyện của chư Thiên: gồm có hai: là mười món trang nghiêm và lặp lại những món trang nghiêm đã nói. Mười loại trang nghiêm: đó là cung điện, hàng rào, châu báu, hào quang, hoa, cây cối, màu sắc, vàng, Thiên nữ và âm nhạc. Đoạn này thuộc về loại thứ nhất là Cung điện: Đã có Bồ-tát Thập địa vây quanh, lại có phàm phu tu thập thiện vãng sinh, lại có cảnh giới hiển hiện từ mười lực tăng thượng của Bồ-tát. Cung điện có mười lớp, cho nên phần sau kinh ghi: “Phước lực của Bồ-tát, quả báo của thập thiện.” Cung điện nghóa là pháp uyển. Sơ địa đạt chân trí chứng không tịch, kim cang tâm và Sơ địa đều lập được cho nên bên trong tu năm căn, mà cảm được cung điện… ., vì thế tất cả đều nói là năm trăm. Chánh văn: Mỗi một cung điện báu có bảy lớp tường rào, mỗi một lớp tường đều do bảy báu tạo thành. Tán: Tường và châu báu: Bồ-tát nhị địa trì giới, sinh trưởng pháp lành, giữ gìn sáu căn, cho nên cảm được tường rào vây quanh. Bồ-tát tam địa chứng được văn, tư, tu, trí tuệ hiểu rõ giáo lý, hành quả của Đại thừa, phát ra ánh sáng trí tuệ, cho nên cảm được châu báu tạo thành; mỗi mỗi đều có bảy, nghóa là Bồ-tát nhị địa trì giới, đầy đủ bảy chi, Bồ-tát tam địa chiếu rõ giáo lý, hành quả của tam thừa cũng có bảy. Ngoài ra còn có bảy loại nhẫn nhục quán là An thọ khổ nhẫn, đế sát pháp nhẫn, năm loại còn lại đều là nại, oán và hại nhẫn. Tức là thân thiện tưởng, chuẩn pháp tưởng, vô thường tưởng, hữu khổ tưởng và Nhiếp thọ tưởng, như u tán quyển thượng đã ghi rõ. Chánh văn: Mỗi một vật báu phát ra năm trăm ức tia sáng, mỗi một tia sáng lại có năm trăm ức hoa sen. Tán: Đoạn này gồm hai loại trang nghiêm. Ánh sáng và hoa: Bồ-tát tứ địa tu chứng bảy pháp Bồ-đề phần, lửa trí tuệ tăng mạnh, trăm hạnh trợ giúp mà cảm được một trăm ức tia sáng. Bồ-tát Ngũ địa quán tứ đế, ra khỏi bùn sinh tử, hoa trí nở tràn đầy, bên trong đạt được năm minh, bên ngoài cảm được năm trăm ức hoa sen. Chánh văn: Mỗi một hoa sen hóa thành năm trăm ức hàng cây bảy báu, mỗi một lá cây có năm trăm ức màu sắc quý giá. Tán: có hai loại trang nghiêm. Cây cối và màu sắc Bồ-tát lục địa qúan mười hai nhân duyên, chán ghét cây sinh tử khổ mà cảm được cây bảy báu, gió tư tuệ lay động cây cối mà quán duyên khởi. Cây bảy báu, là do bảy mươi bảy trí quán dẫn sinh. Cho nên Bồ-tát thất địa chỉ thực tu chân vô tướng quán, chứng pháp tánh sắc mà cảm được diệu sắc. Chánh văn: Trong mỗi một màu báu lại có năm trăm ức ánh sáng vàng Diêm-phù-đàn, trong mỗi một ánh sáng vàng Diêm-phù-đàn, lại có năm trăm ức Thiên bảo nữ. Tán: có hai loại: Sắc vàng và Thiên nữ: Bồ-tát Bát địa thì hình tướng và quốc độ đều được tùy thuận tự tại, cho nên có thể hiện khởi ánh sáng vàng Diêm-phù-đàn. Đây là loại vàng tối thắng, vì vàng này ở trong dòng sông chảy qua rừng cây Diêm-phù ánh sáng màu sắc che mờ tất cả các loại ánh sáng khác, cho nên chỉ nêu lên một loại vàng này. Bồ-tát Địa thứ chín thành thục bốn vô ngại giải, giáo hóa làm lợi ích chúng sinh, sinh khởi thiện căn, cho nên cảm được Bảo nữ. Chánh văn: Mỗi một Thiên nữ đều đứng dưới cây báu, cầm trăm ức báu vật và vô số anh lạc, tất cả đều phát ra âm nhạc vi diệu. Tán: Những Thiên nữ đều cầm các báu vật và anh lạc, những vật này phát ra âm nhạc vi diệu. Đà-la-ni môn và Tam-ma-địa, Bồ-tát Thập địa đã chứng đắc, nên được sức thần thông vô ngại, vì thế mà cảm được châu báu anh lạc quý giá trang nghiêm, và hàng Bồ-tát này thuyết pháp như mây như mưa, nên cảm được âm nhạc phát khởi. Mười món trang nghiêm kể trên đều là do bên trong đầy đủ các đức nên bên ngoài chiêu cảm diệu quả. Thập thiện nghiệp đạo, hay thập lực trí… đều tùy thuận mà giải thích phối hợp. Chánh văn: Bấy giờ, trong các âm nhạc lại diễn thuyết hạnh bất thoái chuyển địa pháp luân. Tán: Lặp lại các loại trang nghiêm đã nêu có bốn: Âm nhạc thuyết pháp thứ mười. Thứ sáu, bảy châu báu và hàng cây, thứ tư ánh sáng phá tối tăm, thứ hai tường rào cao dày. Đoạn này thuộc về phần một. Âm nhạc thuyết pháp: Bất thoái gồm có năm: Người chưa tin thì sinh lòng tin bất thoái. Người chưa được Định thì đạt được định, ở giai vị bất thoái. Người chưa chứng đắc thì chứng đắc bất thoái. Người chưa tu tập thì tu tập được hạnh bất thoái. Người đã đoạn thì không còn sinh phiền não, được đoạn bất thoái. Đây là hạnh bất thoái địa pháp luân chung cho hàng tam thừa. Pháp luân là năng thuyên, hạnh là sở thuyên, chánh pháp luân, chỉ là hạnh sở thuyên, chuyên phá diệt và di chuyển cùng khắp, cho nên ha- ïnh tức pháp luân. Nay luận về hạnh pháp luân, cho nên biết giáo gọi là pháp luân tức nói năm giai vị tu hành kia; vì thính chúng có đầy đủ tam thừa, cho nên có năm pháp luân, đó là tự tánh, quyến thuộc, nhân, cảnh và quả, như trong chương sớ đã nói. Nay luận đến hạnh, tức là gom nhiếp ba pháp luân đầu tiên. Hoặc gom nhiếp tất cả. Chánh văn: Loại cây kia, sinh ra quả, có sắc như pha lê, tất cả màu sắc khác dung nhập vào màu pha lê. Tán: Châu báu và hàng cây: Màu của pha lê là màu đỏ, là màu căn bản, tất cả các màu sắc khác đều bị màu này hàm nhiếp mà dung nhập vào đó hiển thị cho việc những chúng sinh được giáo hóa đạt cứu cánh vị, thì đồng quy về nhất thừa. Chánh văn: Những vầng ánh sáng này đều uyển chuyển, xoay tròn theo chiều bên phải, lưu xuất ra những âm thanh vi diệu, diễn nói pháp đại Từ đại Bi. Tán: Ánh sáng phá tối tăm: Uyển chuyển, xoay tròn theo chiều bên phải là biểu thị cho việc Bồ-tát thực hành tất cả hạnh đều không lìa ánh sáng trí tuệ, và các pháp đại Từ đại Bi cứu khổ ban vui do trí tuệ dẫn dắt. Đại từ dùng không sân hận làm tánh, đại Bi dùng không sân không si làm tánh. Từ bi mỗi mỗi đều có ba duyên: Hữu tình duyên duyên với giả hửu tình, pháp duyên chỉ thấy có pháp mà không thấy có hữu tình. Vô duyên, không có pháp tướng chỉ có chân lý. Hoặc hữu tình duyên, duyên với hữu tình mà khởi. Pháp duyên duyên với mười hai phần giáo mà khởi. Vô duyên duyên chân như mà khởi, vì không có sở duyên. Đức Di-lặc là đấng Từ tôn dẫn dắt muôn loài cho nên diễn nói pháp Từ bi. Chánh văn: Mỗi một tường thành cao sáu mươi hai do-tuần dày mười bốn do-tuần. Tán: Tường thành: Tường thành vây quanh, cao sáu mươi hai do-tuần biểu thị cho việc những người sinh về cõi này đã phá sáu mươi hai kiểu chấp. Dày mười bốn do-tuần, ngăn chận và phá diệt mười bốn việc chẳng thể ghi nhớ. Trong bốn ý này, hai ý đầu thực hành thì đều quy về nhất thừa; nhưng phát tâm, chứng quả thì có sai biệt; ý thứ ba là diệt trừ tham sân si, cứu giúp hữu tình; ý cuối cùng là vónh viễn đoạn trừ tà kiến của ngoại đạo. Chánh văn: Năm trăm ức Long vương vây quang tường thành này. Tán: Trong phần tạo ngoại cung điện, đây là phần thứ ba. Long vương giữ gìn: Gồm có ba: giữ gìn, mưa hàng cây báu. Hàng cây thuyết pháp. Đoạn chánh văn này thuộc phần thứ nhất. Giữ gìn: Đấng Pháp vương giáo hóa thì thiên thần giữ gìn; sợ bên ngoài xâm hại, cho nên các Long vương thủ hộ. Năm trăm ức, biểu thị cho nội tâm đầy đủ năm lực, bốn ma không thể xâm hại khuất phục; bên ngoài có long vương giữ gìn thì hàng phi nhân không thể bức hại, bên trong giữ năm giới thì các pháp ác không thể xâm hủy. Bên ngoài cảm được Long vương vây quanh thì các tai họa tự tiêu diệt. Chánh văn: Mỗi một Long vương đều làm mưa xuống năm trăm ức hàng cây bảy báu để trồng trên tường thành. Tán: Mưa cây báu: Nhờ có năm lực mà sinh khởi bảy Thánh tài, cảm được Long vương mưa cây báu. Bảy thánh tài là tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm, quý. Chánh văn: Tự nhiên có gió thổi, lay động các hàng cây. Các cây chạm nhau phát ra tiếng diễn thuyết các Ba-la-mật, và khổ, không, vô thường, vô ngã. Tán: Hàng cây thuyết pháp: Gió dụ cho đại Bi, tùy ý thổi, lay động cây trí chân tục, xúc chạm nhau mà phát ra các lời thuyết pháp như thế! Tất cả các pháp hữu lậu bức bách tự tánh đều là do khổ chấp; pháp thể đều vô danh, là không. Các pháp hữu vi sinh khởi vô cùng, luôn luôn dời đổi sinh diệt, thật không có tự thể chung, không có một thật ngã thường trụ. Do đó có thể khiến cho người tu hành vượt sang bờ bên kia gọi là Ba-la-mật. Chánh văn: Lúc bấy giờ, trong cung điện có một vị thần tên là Lao-độ-bạt-đề, từ tòa ngồi đứng dậy, đảnh lễ mười phương chư Phật và phát thệ nguyện rộng lớn rằng. Tán: Trong phần luận về ngoại quả, phần thứ hai là luận về: Một đại thần tạo pháp đường: tức là nội viện của Đức Từ Thị, vì dùng pháp đuờng làm chính cho nên gọi là tạo pháp đường. Thật ra, tạo nội viện phần sau mới luận đầy đủ. Ở đây được chia làm ba phần. Phát nguyện thành tựu quả sở nguyện. Chư Thiên thấy sự việc thù thắng liền phát nguyện vãng sinh (Lúc bấy giờ, mười phương vô lượng chư Thiên… .) Phát nguyện: gồm hai là: Nghi quỹ. Chính thức phát nguyện. Đoạn này thuộc phần thứ nhất: Nghi quỹ: nương vào oai lực mà kính lễ khắp mười phương là muốn bày tỏ thệ nguyện rộng lớn. Tuy biết phàm Thánh đồng cảm thì nội viện mới thành, nhưng lực của Bồ-tát tăng phần nhiều do Thánh hiện. Một vị đại thần là biểu thị cho trí vô lậu sinh khởi quốc độ vi diệu. Kinh Phật Địa ghi: “Còn hơn cả những cảnh do thiện căn xuất thế gian hiển hiện, như lực dụng của hạt châu như ý.” Cho nên đó cũng là do phàm phu phát tâm Bồ-đề và trí gia hạnh chiêu cảm nên. Chánh văn: Nếu phước đức của con đủ để tạo Thiện pháp đường cho ngài Di-lặc, thì hãy khiến cho trên trán con, tự nhiên xuất hiện hạt châu. Tán: Chính thức phát nguyện: Nơi tuyên thuyết diệu nghóa, gọi là Thiện pháp đường, biểu thị sự cung kính tôn trọng, nên có hạt châu hiện trên trán. Phần nội cung điện được trình bày ở phần sau, còn ở đây, vì pháp đường là tối thắng cho nên nêu lên trước. Chánh văn: Lời phát nguyện vừa xong. Trên trán tự nhiên xuất hiện một trăm ức hạt châu quý báu, đầy đủ tất cả các màu sắc của lưu ly, pha lê… như viên ngọc Ma-ni màu xanh tía trong ngoài đều trong suốt. Tán: Nguyện xong, quả sở nguyện thành tựu: gồm năm: đó là tạo cung điện. Tạo vườn (bấy giờ trong quốc độ…) làm tòa (cũng có tòa sư tử bằng bảy báu…) tạo trụ (bốn góc cung điện có bốn trụ báu…) màu sắc Thiên cung Thiên nữ đều giống nhau (như thế thiên cung có một trăm vạn ức vô lượng bảo sắc…) Trong phần tạo cung điện lại có tám, đó là: Chánh thức tạo cung điện. Làm lan can. Thiên tử, Thiên nữ. Tay có hoa. Ánh sáng. Nhạc khí. Ca múa. Thuyết pháp. Chính thức tạo cung điện: Có hai, đó là: Châu hiện, tạo cung điện. Đoạn chánh văn này thuộc phần đầu. Hạt châu xuất hiện: màu của lưu ly là màu xanh biếc, màu pha lê là màu đỏ, tất cả màu sắc đều gồm đủ, màu sắc của hạt châu trên trán, chỉ nêu lên hai màu lưu ly và pha lê làm chính, thì tất cả các màu khác tự nhiên cũng đều có đủ cả. Hoặc cho rằng màu của hai vật báu này gồm đủ tất cả các màu sắc khác. Tử tức màu tía; cám, thuyết văn ghi: “Tơ xanh đậm, liễu đỏ thắm, cả hai xen lẫn thành cám (xanh có pha đỏ).” Ở đây màu cám có hơi khác, đó là xanh xen lẫn màu tía, như hạt châu như ý trong suốt. Chánh văn: Hạt châu Ma-ni này xoay tròn trên hư không theo chiều bên phải, hóa ra bốn mươi chín lớp Bảo cung vi diệu. Tán: Chính thức tạo cung điện: Bốn mươi chín lớp, biểu thị trì giới kiên cố, thì cảm cung điện dày kín nhiều lớp. Chánh văn: Mỗi một lớp lan can do vạn ức phạm Ma-ni báu tạo thành, giữa các lan can tự nhiên hóa sinh ra vô lượng ức vạn hoa sen bảy báu, trên mỗi một hoa sen lại có vô lượng ức tia sáng, trong mỗi tia sáng lại có các loại nhạc khí, những nhạc khí của cõi trời không cần đánh dụng mà tự kêu, khiến cho các thiên nữ tự nhiên cầm lấy nhạc khí, đua nhau ca múa, những âm thanh ca vịnh này lại diễn thuyết các thập thiện và bốn hoằng thệ nguyện chư Thiên nghe xong đều phát tâm Vô thượng đạo. Tán: Đoạn này gồm bảy ý còn lại là làm lan can. Hóa sinh Thiên nữ, Thiên tử. Tay cầm hoa sen. Có vô lượng tia sáng. Trong tia sáng có nhạc khí, nhạc khí không cần đánh gỏ mà tự nhiên kêu. Âm nhạc đã khởi, Thiên nữ ca múa. Ca vũ chẳng phải tạo nên sự vui chơi sinh tử mà chính là diễn nói pháp Thập thiện và bốn hoằng thệ. Bốn hoằng thệ nguyện là chưa xa lìa khổ thì nguyện xa lìa. Chưa được an lạc thì nguyện an lạc. Chưa phát tâm Bồ-đề đoạn ác tu thiện, thì nguyện sớm phát tâm, đoạn ác tu thiện. Chưa thành Phật thì nguyện sớm được thành Phật, cũng là biết khổ đoạn tập, chứng diệt và tu đạo. Chư Thiên nghe xong đều phát đại tâm, đó cũng là do tám Thánh đạo, tám giải thoát lạc trong thánh hạnh hiện khởi. Phàm trì tám giới là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, không xông ướp hương hoa, không mang tràng hoa vào thân và không ca múa hát xướng; không nằm giường cao rộng, không ăn phi thời, nếu được như thế thì theo thứ tự cảm được các cảnh trên. Các hạnh của Thánh và phàm tự giúp chánh trí mà thành tựu, như tuệ là điều kiện đầu tiên đặt ra để trang nghiêm, trong đó mới được như thế, nếu không thì làm sao có những cảnh giới thù thắng ấy? Chánh văn: Bấy giờ bên trong các tường thành có các ao nước lưu ly tám sắc, mỗi một ao do năm trăm ức bảo châu hợp thành, trong mỗi ao lại có nước tám công đức đầy đủ tám màu, trên mặt nước lại vọt lên các tia nước cầu vòng muôn ngàn hoa báu tuôn trào, trên mỗi hoa lại có hai mươi bốn Thiên nữ, thân sắc vi diệu như thân tướng trang nghiêm của các Bồ-tát trên tay của các Thiên nữ tự nhiên lại hóa ra năm trăm ức vật báu, trong mỗi vật báu tự nhiên có đầy cam lồ của chư Thiên, trên vai trái đeo vô lượng anh lạc, trên vai phải lại mang vô lượng nhạc khí, như mây lành trụ giữa hư không, từ nước tám công đức mà hiện ra, tất cả đều tán thán sáu Ba-la-mật của Bồ-tát. Tán: Đại thần tạo vườn: gồm hai; đó là: bảy thứ trang nghiêm. Vãng sinh về nơi ấy ắt được như thế. Bảy thứ trang nghiêm. Ao tám màu là xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, xanh biếc và xanh lục. Bảo châu hợp thành. Nước tám vị, tức là nước có đầy đủ tám màu đã nói, là nước tám công đức có vị khiến người sinh ưa thích, gồm tám tánh chất, trong sạch, nhẹ, mát, điều nhu, thơm, ngon ngọt khi uống không làm tổn hại cổ họng, uống vào không đau bụng. Tia nước vọt thành, cầu vồng, ngoài cửa thành hiện hoa sen. Nước tám màu sắc từ hoa lại tuôn ra, màu sắc của nước phản chiếu ánh hiện lẫn nhau, như dòng suối hoa báu. Trên hoa có hai mươi bốn Thiên nữ, tức là trì bảy chi giới, phòng giữ điều ác trong ba đời, xa lìa ba tâm thọ cho nên chiêu cảm quả có hai mươi bốn. Tay cầm vật báu chứa đầy cam lồ, biểu thị được pháp vị. Vai trái các Thiên nữ mang anh lạc, vai phải mang nhạc khí, từ nước tám công đức xuất hiện như mây lành trên hư không, miệng tán thán sáu độ Ba-la-mật của Bồ-tát, trì bảy chi giới là ba thân, ngữ bốn, và tu bảy Thánh tài cùng với bảy giác chi, thì trừ được sự chiêu cảm của bảy Tùy miên. Các Thiên nữ này, hoặc chẳng phải là người nữ thật, mà là những hình tướng do Phật và Bồ-tát hóa ra để trang nghiêm đạo tràng, hoặc những người nữ này là do trước kia trì giới thanh tịnh tinh tấn tu hành, không phạm giới, mà cảm hiện ra, không thể dùng tâm phàm phu suy lường được. Chánh văn: Nếu có người vãng sinh lên cõi trời Đâu-suất thì tự nhiên sẽ được các Thiên nữ tiếp đãi. Tán: Vãng sinh ắt sẽ được quả báo thù thắng như thế. Chánh văn: Cũng có tòa sư tử lớn bằng thất bảo, cao bốn do-tuần, được vàng Diêm-phù-đàn và vô lượng các châu báu trang nghiêm. Tán: Tạo tòa: Có mười, đoạn văn kinh này có hai, đó là: Tòa cao rộng như pháp giới tanh tịnh, bao hàm bốn đức, tòa của hóa thân cao bốn do-tuần. Được vàng và châu báu trang nghiêm là do trí hành của ba nghiệp trang nghiêm, bảy báu có ba thuyết khác nhau, kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Kim ngân, lưu ly, pha lê, san hô, mã não, xa cừ.” Kinh Hằng Thủy ghi là: “Kim ngân, san hô, chân châu, xà cừ, minh nguyệt châu, ma-ni châu.” Luận Phật Địa thì ghi: “Kim ngân, phệ-lưu-ly, phả-chi-ca, mâu- sa-lạc-yết-bà (tương đương xa cừ), át-thấp-ma-dương-bà (mã não), xích chân châu.” Tuy còn có các loại như đế thanh, đại thanh, thạch tạng, xử tạng, nhưng thường chẳng được xem trọng nên không ghi vào. Ba thuyết nói trên là tùy thuận sự ưa thích, quý trọng của mỗi nơi mà có sai biệt, không thể giải thích lý do bất đồng này được. Chánh văn: Bốn góc của tòa Sư tử có hoa sen, mỗi một hoa sen do một trăm báu tạo thành, mỗi một vật báu lại phát ra một trăm tia sáng, các tia sáng vi diệu hóa thành năm trăm ức loại hoa báu, dùng để trang nghiêm màn báu. Tán Đoạn này gồm có bốn: Sinh bốn hoa: Trong tâm có đủ bốn vô lượng là Từ, Bi, Hỷ, Xả nên bên ngoài cảm bốn hoa. Một trăm loại hoa báu vật trang nghiêm, tức là thập thiện nghiệp đạo, tự tu tập, dạy người khác tán thán vui mừng, ít phần, nhiều phần, toàn phần, một thời nhiều thời và tất cả thời, đều vui vẻ tu hành. Cho nên mỗi một hạnh có mười tên thành ra một trăm hạnh; trong tu một trăm hạnh, ngoài cảm một trăm báu, vì thế trước sau đều nói số một trăm. Phóng ánh sáng: Trí tuệ phá tối tăm. Các loài hoa trang nghiêm: các hạnh trợ giúp. Chánh văn: Bấy giờ một trăm ngàn Phạm vương ở mười phương, đều cầm vật báu vi diệu của Phạm thiên, làm linh báu treo lên màn báu, và cá tiểu phạm vương lại cầm vật báu của thiên chúng làm thành màn lưới phủ trên màn báu, lại có trăm ngàn, vô số Thiên tử, Thiên nữ quyến thuộc trãi hoa báu lên tòa, các hoa này tự nhiên hóa hiện ra năm trăm ức bảo nữ, tay cầm phất trần trắng đứng hầu bên trong màn báu. Tán: Bên trong tu bốn biện, bên ngoài cảm được đại Phạm thiên treo linh báu, người trời đều kính trọng. Bên trong tu tổng trì, bên ngoài cảm được các tiểu Phạm thiên tạo màn lưới. Thiên tử, Thiên nữ cầm hoa trải tòa. Bảo nử cầm phất trần trắng đứng hầu bên trong màn trướng, tất cả đều do phàm phu tu thập thiện, xa lìa thập ác, và do Bồ-tát giữ mười vô tận giới mà chiêu cảm thành. Chánh văn: Giữ bốn góc cung điện có bốn trụ báu, mỗi một trụ báu có một trăm ngàn lầu gác, được Phạm ma-ni châu trang sức, bên trong lầu gác lại có trăm ngàn Thiên nữ dung mạo kỳ diệu không gì sánh bằng, tay cầm nhạc khí, âm thanh từ các nhạc khí này phát ra, diễn thuyết các pháp, khổ, không, vô thường, vô ngã và các Ba-la-mật. Tán: Tạo trụ: gồm có bốn: Cung có bốn góc, mỗi góc có một cây trụ. Mỗi trụ đều có lầu gác, được Bảo châu trang nghiêm. Phạm ma- ni tức là Tịnh ma-ni hoặc cho rằng đó là châu như ý của trời Đại phạm vương. Các trụ này được các Phạm ma-ni khảm thành các hoa văn. Trong lầu gác có Thiên nữ cầm nhạc khí. Âm thanh phát ra từ nhạc khí diễn thuyết pháp yếu. Đó là do bên trong tu tứ niệm trụ, tâm bất động, cho nên bên ngoài cảm được bốn trụ có các vật báu trang nghiêm. Chánh văn: Các cung trời này đều có một trăm ức vạn vô lượng màu sắc quý báu, và mỗi một Thiên nữ cùng đồng màu sắc như thế. Tán: Thiên cung và Thiên nữ: đều có Bảo sắc giống nhau. Đó là muốn hiển bày các tướng trang nghiêm ở nội viện, khiến cho các loại hữu tình đồng nhập vào trí tuệ Phật. Chánh văn: Lúc bấy giờ, vô lượng chư Thiên ở mười phương mệnh chung, đều nguyện sinh về cung trời Đâu-suất. Tán: Chư Thiên thấy các việc thù thắng liền phát nguyện vãng sinh có những vị khi Bồ-tát Từ Thị Di-lặc sinh về rồi mới phát nguyện, cũng có người, Bồ-tát Di-lặc chưa sinh về thì đã phát nguyện.] Chánh văn: [Lúc bấy giờ, ở cõi trời Đâu-suất có năm vị thần lớn.] Hiển. Tán: Năm vị Thần lớn trang nghiêm hai cung điện: có hai là Tiêu và Tiêu: Do hàng Bồ-tát, bên trong tu năm uẩn diệu dụng vô cùng, nên bên ngoài cảm được năm sức oai thần không gì sánh được. Năm uẩn là giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, duyên với tuệ hữu vi, giải thoát uẩn tức giải thoát số, giải thoát tri kiến uẩn duyên tuệ vô vi. Chánh văn: Vị thần thứ nhất tên là Bảo Tràng Thân, làm mưa báu rãi đầy khắp cung điện tường vách, mỗi một bảo châu hóa thành vô lượng nhạc khí treo trong hư không, những nhạc khí này không gõ mà tự phát ra vô lượng âm thanh làm chúng sinh vui thích. Tán: Hiển: Bên trong giữ giới được cao tốt như tràng báu hiển lộ trên cao. Giới có bảy chi, cho nên mưa có bảy báu. Do trì giới cho nên mỗi mỗi đều xứng hợp với tâm người, mà cảm được âm nhạc thích ý chúng sinh. Chánh văn: Vị Thần thứ hai tên là Hoa Đức, thần làm mưa các hoa báu, hoa kết thành bảo cái che phủ cung điện, mỗi một hoa cái có một trăm ngàn tràng phan dẫn đường. Tán: Bên trong tu định uẩn cho nên bên ngoài cảm được vị thần Hoa Đức. Nước định lắng trong sinh xuất diệu hoa, khởi bốn vô lượng tâm che chở bốn loài chúng sinh, cho nên mưa xuống các loại hoa hóa thành hoa cái (Bảo cái bằng hoa). Tức là vô lượng các lượng các hạnh trợ giúp thiền định, mà cảm được một trăm ngàn tràng phan dẫn đường. Chánh văn: Vị thần thứ ba tên là Hương Âm, từ các lỗ chân lông ở toàn thân tuôn ra hương hải thử ngạn Chiên-đàn vi diệu, như vầng mây trăm màu báu, nhiễu các cung điện bảy vòng. Tán: Bên trong đầy đủ tuệ uẩn, thuyết pháp lợi sinh, phá tan vô minh dơ xấu, nên bên ngoài cảm được vị thần Hương Âm. Trí tuệ rất quý trọng như hương hải thử ngạn. Sáu thù hương này giá trị bằng cõi Ta-bà. Nhiễu cung điện bảy vòng là diệt trừ bảy lậu hoặc. Bảy lậu, tức là kiến lậu niệm lậu, ái lậu, tư duy lậu, căn lậu ác lậu và thân cận lậu. Chánh văn: Vị thần thứ tư tên là Hỷ Lạc làm mưa xuống các châu như ý, mỗi một hạt châu như ý tự nhiên dính trên tràng phan, diễn thuyết vô lượng quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo tăng và thuyết năm giới cùng với vô lượng thiện pháp và các Ba-la-mật, làm lợi ích, tán thán khuyên răn giúp đỡ những người cầu âm thanh Bồ-đề. Tán: Bên trong đạt được giải thoát uẩn, bên ngoài cảm được vị thần Hỷ Lạc, xa lìa tà kiến, sầu khổ, đạt được niềm vui thắng giải. Tâm đã quyết định, thì tu hành thành tựu, cho nên có mưa châu như ý. Tâm thường quyết định trụ ở chân như, cho nên bên ngoài cảm được thần châu dính trên tràng phan; đã thuyết tam quy, lại còn thuyết năm giới và các thiện pháp. Nhiêu ích tức là lợi lạc; khuyến tức khuyến tấn; trợ tức giúp đỡ cứu khổ, âm tức âm thanh; giả tức hành giả, ý này là muốn hiển thị rằng thần châu diễn thuyết tam quy và năm giới để lợi lạc, khuyến tấn những hành giả phát tâm cầu âm thanh Đại Bồ-đề. Chánh văn: Vị thần thứ năm tên là Chánh Âm Thanh, từ lỗ chân lông trên toàn thân vị này phun ra các dòng nước, trên mỗi dòng nước lại có năm trăm ức hoa, trên mổi hoa có hai mươi lăm ngọc nữ, các lỗ chân lông trên toàn thân của ngọc nữ lại phát ra các loại âm thanh vi diệu hơn cả âm nhạc của vợ thiên ma. Tán: Bên trong giải thoát tri kiến uẩn, bên ngoài cảm được vị thần Chánh Âm Thanh, trí thuận chánh lý, như chánh âm thanh. Phun ra các dòng nước tức là trí tuệ nhuần thấm mầm chánh giác, lại có năm trăm ức hoa để trang nghiêm đức. Hai mươi lăm ngọc nữ biểu thị cho việc làm lợi ích sinh ra các thiện căn của hai mươi lăm hữu. Các ngọc nữ phát ra âm thanh tức là các chúng sinh trong hai mươi lăm hữu đều quy y và nhớ nghó, vì âm thanh xuất thế gian rất vi diệu để sinh vui thích nên thù thắng hơn âm nhạc vợ Thiên ma. Hoặc cho rằng năm vị thần này là do công phu tu trì năm giới mà chiêu cảm được, cũng là cảnh chiêu cảm của năm thần thông, là thần túc thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thiên nhó thông và thiên nhãn thông. Chánh văn: Đức Phật bảo Ưu-ba-ly rằng: “Cõi trời Đâu-suất đã này là cõi phước đức thắng diệu của người tu thập thiện sinh về.” Tán: Quy kết sở nhân tán thán cảnh thù thắng. Gồm có hai là quy kết sở nhân, tán thán. Đoạn này thuộc phần một là: Kết sở nhân: Mười nghiệp bất thiện, chiêu cảm bốn quả, đó là quả dị thục, quả đẳng lưu, quả tăng thượng và quả só dụng. Mười nghiệp thiện chiêu cảm năm quả, đó là bốn quả trên và thêm vào quả ly hệ. Nghiệp vô lậu chiêu cảm bốn quả, tức năm quả trên trừ quả dị thục. Nghiệp hữu lậu chiêu cảm bốn quả, tức năm quả trên trừ quả ly hệ. Hai loại đắp đổi lẫn nhau, cho nên chỉ có năm quả. Túi đoạn sau luận về trong thân tức là quả dị thục. Lại cho rằng trong một thời gian mà thành tựu được năm trăm ức Thiên tử đạt giác vị bất thoái tức là quả ly hệ, còn các tướng trường thọ… là quả đẳng lưu, các quả bên ngoài này thì gồm hai loại là quả tăng thượng và quả só dụng. Như Luận Du-già quyển năm mươi chín, sáu mươi và luận Đối pháp quyển tám có nói rõ quả tướng của Thập ác nghiệp đạo; nguợc lại là quả của Thập thiện nghiệp đạo, ở đây chỉ nói chung quả của Thập thiện mà không nêu riêng. Nhưng tất cả các thiện đều gồm vào mười thiện này. Nghiệp đạo là căn cứ theo trong, còn mười thiện là chỉ cho khinh. Cho nên nay căn cứ theo chung mà gom nhiếp tất cả. Tùy theo nghóa mà có sự hiểu biết chính đáng. Chánh văn: Nếu ta trụ thế trong một tiểu kiếp cũng không nói hết báo ứng của Bồ-tát Bổ xứ và quả của thập thiện. Nay ta chỉ lược nói cho các ông biết mà thôi. Tán: Tán thán: Sự thù thắng một tiểu kiếp tức là kiếp bằng số ngày, tháng, năm. Ba kiếp tu nhân thì quả ắt phải vô lượng, huống gì cảnh giới do Phật thị hiện khó nghó bàn, phàm tu thiện nhân ắt quả cũng rộng lớn, cho nên một tiểu kiếp nói cũng khó mà hết. Tức là nhân Phàm Thánh chiêu cảm hai quả ngoại cung nội viện bàn rộng thì vô biên. Chánh văn: Đức Phật bảo Ưu-ba-ly rằng: “Nếu có Tỳ-kheo và tất cả đại chúng không chán ghét sinh tử, thích sinh về cõi trời, có tâm ái kính Vô thượng Bồ-đề, muốn làm đệ tử của Đức Di-lặc, thì nên quán xét như thế. Tán: Khuyên sinh về cõi Đâu-suất: Gồm có ba: Nếu những hạng người được sinh về, chỉ dạy hạnh tu để được vãng sinh. Tổng kết thành chánh quán. Đoạn này thuộc phần một: Những người được sinh về gồm có ba: Bồ-tát tu hành không chán ghét sinh tử, chịu khổ sinh tử để làm lợi lạc chúng sinh, cho nên thích sinh về cõi trời, vì muốn thoát khỏi sở y mà tu diệu hạnh, đối với tất cả chúng sinh đều xem tôn quý cho nên mình ở thân phận kém, tự thân tu hành chưa viên mãn. Nên thích sinh về Đâu-suất, diện kiến Phật Di-lặc. Không giống như Nhị thừa chán sinh tử khổ, sợ cảnh trời buông lung, nên chẳng thích sinh về. Người có tâm mến thích đạo Vô thượng Bồ-đề. Thích tu thắng hạnh cầu đạo Bồ-đề thì nghe hiểu được đại pháp của Đức Di-lặc diễn thuyết, nếu người không thích Đại thừa, mong cầu tiểu quả thì tùy thuận cảnh giới thọ sinh mà vui với Niết-bàn. Muốn làm đệ tử của Đức Phật Di-lặc: Nguyện ở đời ác thì làm việc thiẹän, nếu có hữu tình nào khổ đau mong cầu cứu giúp thì không nguyện ở Tịnh độ làm đệ tử các Đức Phật khác, nếu có hữu tình không khổ để tế độ thì dạy họ rằng không có khổ để nhàm chán, vì tâm vui thích không sâu nặng. Lại vào thời mạt pháp của Đức Thích-ca. Những người giữ giới, phạm giới, có giới, không giới Đức Thích-ca đều phó chúc cho Di-lặc độ họ, vì giải hành còn kém, khó sinh về Tịnh độ, nên làm đệ tử Đức Di-lặc. Trên đã nêu nên quán Thiên cung như thế, vậy quán như thế nào? Chánh văn: Nếu quán như thế này, nên giữ năm giới, tám trai giới, cụ túc giới thân tâm đều tinh tấn, chẳng cầu đoạn kết sử tu tập mười thiện, mỗi mỗi đều nên tư duy những sự vui thú ở cõi trời Đâu-suất. Tán: Chỉ dạy tu hành để được vãng sinh; gồm có năm nhân phải tu tập: Giữ năm giới. Giữ tám trai giới. Giữ giới cụ túc, những giới mà năm chúng xuất gia phải thọ nhận đầy đủ, đều gọi là cụ giới. Thân tâm tinh tấn, chẳng cầu đoạn kết sử. Tinh tức là tinh thuần không xen lẫn điều xấu, tấn tức thăng tiến không giải đải lui sụt. Chẳng cầu đoạn kiết, nghóa là chẳng phải tinh tấn tu sáu hạnh đoạn kết sử, vì đoạn kết sử thì sinh về hai cõi trời trên cõi Đâu-suất Tu pháp Thập thiện. Nay luận theo hành phàm phu tán tâm, tu năm nhân hạnh thô thì cảm ngoại cung nội viện, nghiệp quả tăng thượng chưa phải phân biệt lớn nhỏ. Giải thích nghiệp nhân vãng sinh, trong phần khuyến tấn sinh về mới chỉ dạy đầy đủ. Tuy tu các nhân trên, nhưng mỗi mỗi cần phải tư duy diệu lạc của trời kia mà hồi hướng nguyện sinh, cho nên hạnh trước chẳng phải quán, mà quán là đầu tiên, vì thế tư duy tức là quán. Chánh văn: Quán như thế gọi là chánh quán, quán pháp quán khác thì gọi là tà quán. Tán: Kết thành chánh quán: tức là tư duy rằng cách xa thời Phật thì nhiều phiền não, hạnh chưa đủ, được Phật phó chúc, thích được Phật đương lai cứu độ qua khỏi bến bờ của thời mạt pháp, thật đó là chánh quán; còn nghiệp nhẹ, thức tâm yếu, trí lượng nhỏ hẹp mà thích cầu sinh về Báo độ, vượt quá sự mong cầu, không xứng với bệnh và hành, cho nên đó là tà quán. Chánh văn: Lúc bấy giờ, Ưu-ba-ly, từ tòa ngồi đứng dậy, chỉnh trang y phục, cúi đầu đảnh lễ, mà bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Cõi trời Đâu-suất đã có việc vui thú kỳ diệu như thế.” Tán: 2. Luận về nội quả: gồm có ba: Khải thỉnh. Rộng đáp. Khuyên sinh về, sau khi Phật diệt độ. Khải thỉnh: có ba: Oai nghi thỉnh. Tán thán. Chánh thỉnh. Đoạn này gồm phần một và hai. Oai nghi thỉnh: Từ lúc bấy giờ,… đảnh lễ”. Tán thán: Từ bạch Phật… như thế. Chánh văn: Vị đại só này khi nào thì từ Diêm-phù-đề mệnh chung và sinh về cõi trời kia? Tán: Chánh thỉnh: Gồm hai ý, đó là hỏi bao giờ mệnh chung ở cõi này và hỏi sinh về cõi trời kia. Chánh văn: Đức Phật bảo Ưu-ba-ly rằng: “Vào ngày mười lăm tháng hai mười hai năm sau, vị Bồ-tát này ngồi kết già nhập diệt tận định tại nơi ngài sinh ra đó là nhà vị Bà-la-môn Ba-bà-lợi ở thôn Kiếp-ba-lợi, nước Ba-la-nại. Tán: Đức Phật đáp rộng: có bốn Mệnh chung ở cõi này. Sinh về cõi kia (Lúc bấy giờ, ở cõi Đâu-suất-đà…) Theo lời hỏi, cho nên luận về thời gian hạ sinh, thọ mạng ở cõi trời kia (thọ mạng ở Diêm-phù-đề…) Tổng kết (Phật Bảo Ưu-ba-ly…) Mệnh chung ở cõi này: Gồm có bảy. Đoạn chánh văn này có ba. Ngày tháng năm mệnh chung: Sau mười hai năm biểu thị cho việc nghe thọ ký liền vượt thoát mười hai duyên khởi sinh tử. Tháng hai, kinh Niết-bàn ba mươi ghi: “Tháng hai gọi là tháng xuân dương, tháng này vạn vật sinh trưởng gieo trồng thì cây cối đâm chồi nẩy lộc, ra hoa kết trái, tươi tốt sum suê, sông hồ đầy nước, rừng núi xanh um, trăm thú đầy sức sống, lúc bấy giờ, chúng sinh dễ sinh khởi ý tưởng về thường hằng; vì muốn phá tướng chấp này mà nói tất cả pháp đều là vô thường, chỉ có Như Lai là thường trụ không biến diệt. Trong sáu thời, thì mạnh đông, muôn vật khô héo, chúng sinh không ưa thích, xuân dương ôn hòa, mọi người đều tham ái, vì muốn phá an lạc của chúng sinh thế gian, cho nên thuyết Thường, Lạc, Ngã, Tịnh cũng như thế.” Nói tháng hai tức dụ cho hai loại Pháp thân là tự tánh thân và trí Pháp thân. Mùa Đông chúng sinh không ưa thích là dụ cho người trí không muốn Như Lai vô thường, vào Niết-bàn. Tháng hai mọi người ưa thích là dụ cho người trí muốn Như Lai trụ nơi Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Gieo trồng dụ cho việc nghe pháp sinh hoan hỷ, phát tâm Bồ-đề gieo trồng thiện căn. Sông hồ dụ cho các Đại Bồ-tát ở mười phương đều vân tập đến chỗ Phật, để thọ nhận pháp đại Niết-bàn của Như Lai. Trăm thú đầy sức sống dụ cho đệ tử Phật sinh trưởng thiện căn; hoa dụ bảy giác chi, quả dụ cho bốn quả. Vì các nghóa trên cho nên tháng hai Đức Phật Niết-bàn. Phẩm Sư Tử Hống ghi: “Sơ sinh, xuất gia, thành đạo chuyển diệu pháp luân đều vào mồng tám, vì sao Niết-bàn vào ngày mười lăm. Này thiện nam! Ngày mười lăm thì mặt trăng tròn đầy, chư Phật cũng thế, nhập Niết-bàn viên mãn, cho nên lấy ngày mười lăm nhập Niết-bàn, ngày mười lăm khi mặt trăng tròn đầy thì có mười một việc như sau: Phá tối tăm, khiến biết được đạo và phi đạo, khiến biết tà chánh, trừ nóng bức được mát mẻ, phá trừ tâm nhỏ nhen và cống cao, có thể phá trừ tất cả ý tưởng trộm cắp, phá trừ sợ hãi ác thú của chúng sinh, làm cho hoa Ưu-bát-la nở, hoa sen khép, khai phát tâm tiến bước cho người tu hành, khiến cho chúng sinh ham thích thọ năm dục, đạt được khoái lạc. Như Lai nhập Niết-bàn vào ngày mặt trăng tròn đầy cũng như thế, có mười một việc: Phá trừ vô minh tối tăm, diễn thuyết chánh đạo tà đạo, chỉ rõ sinh tử nguy hiểm bất an, Niết-bàn bình ổn an lạc, khiến chúng sinh xa lìa sự thiêu đốt của tham sân si, diệt tắt ánh sáng của ngoại đạo, phá diệt giặc phiền não trói buộc, trừ tâm sợ năm cái, khai mở thiện căn cho chúng sinh tiến tu hướng đến Niết-bàn, khiến chúng sinh ưa thích tu tập đạo giải thoát. Vì thế ý nghóa Đức Di-lặc nhập Niết-bàn vào ngày mười lăm đã đồng, thì khi nhập Niết-bàn cũng không khác Phật. Nơi mệnh chung: Mệnh chung tại nơi đã sinh ra, cha Bồ-tát tên Ba-bà-lợi. Đức Thích-ca sinh ở nước Ca-duy-la-vệ, nhập diệt ở Câu- thi-na, biểu thị cho duyên giáo hóa ở phương này đã hết đến giáo hóa ở phương khác. Kinh Xử Thai hai ghi: “Sắc thân của ta hôm nay đã diệt, chẳng sinh lại cõi Diêm-phù-đề này, nơi mười phương ba mươi hai cõi bao trùm các Phật sát, ở trong đó mà hành các Phật sự. Duyên nơi này đã tận. Nhưng nơi kia chẳng tận.” Đức Từ Thị nhập diệt tại nơi đã sinh ra, tức duyên ở đây chưa tận, biểu thị cho việc sau khi diệt ở đây, còn sinh lại kia để thực hành lợi tha. Hình tướng lúc nhập diệt là ngồi kiết già, như nhập diệt tận định Đức Thích-ca thì nằm nghiêng hông phải phía dưới, đầu xoay về hướng Bắc, tay phải làm gối mà nhập Niết-bàn. Trong bốn oai nghi nằm là cuối cùng, biểu thị việc Đức Thích-ca hóa duyên đã hết, vì muốn nằm thì trước phải ngồi, hiển thị việc Đức Di-lặc lợi lạc chúng sinh chưa xong, vị lai đắc quả thì Phật sự mới hoàn tất, hai vị ý nghóa nhập diệt bất đồng tức là biểu thị đã chung cực và chưa chung cực khác biệt. Như nhập diệt tận định, tựa nhập Niết-bàn, thật ra chưa viên mãn, còn phải thượng sinh. Chánh văn: Thân sắc vàng tía phát ánh sáng rực rỡ kỳ diệu, như ánh sáng của một trăm, ngàn mặt trời chiếu vào cõi Đâu-suất-đà. Tán: Tướng sinh cuối cùng: Thân màu vàng tức biểu thị việc lợi ích chúng sinh đời vị lai là đầu. Như trăm ngàn mặt trời có thể phá tâm tưởng ngu si, tham ái của chúng sinh. Chánh văn: Xá-lợi thân như tượng vàng, không lay động. Tán: Thân Xá-lợi: Xá-lợi tức lúa gạo, Đà đô tức là thân, thân của Phật khi thiêu xong thì còn lại những hạt lớn nhỏ như lúa cho nên lấy đó làm tên. Xá-lợi của Đức Phật Thích-ca thì chia thành nhiều hạt nhỏ, biểu thị cho việc phân thân ở mười phương, nơi nơi đều được giáo hóa, lợi ích, còn Di-lặc thì xá-lợi toàn thân, biểu thị cho việc giáo hóa chỉ ở cõi trời Đâu-suất, chẳng lay động, biểu thị Pháp thân Phật vốn không sinh diệt lay động. Chánh văn: Trong hào quang quanh thân hiện rõ tự nghóa của Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội Bát-nhã ba-la-mật. Tán: Hào quang linh dị: Phạm, Tam-ma-địa. Hán dịch là Đẳng trì, nói Tam-muội là lầm chữ và nghóa của Diệu Định Diệu Tuệ trong Đại thừa hiện ra rực rỡ tức hiển thị trong hào quang này có chữ và nghóa của Định, tuệ rực rỡ trước mắt; rõ ràng, thấy chữ mà hiểu được nghóa, cho nên nghóa tương xứng hiện ra, nếu không như thế, vì sao trong hào quang có thể hiện nghóa; tuy đã nhập diệt thiền định nhưng trí tuệ cũng do đó mà hiển. Chánh văn: Lúc bấy giờ, chư Thiên, tức thời dựng các diệu bảo tháp cúng dường xá-lợi. Tán: Chư Thiên cúng dường: Tuy đã nhập diệt nhưng Xá-lợi toàn thân vẫn còn. Chánh văn: Lúc bấy giờ, bỗng nhiên hóa sinh nơi tòa Sư tử, trong điện Ma-ni trên đài bảy báu ở cõi trời Đâu-suất. Tán: Sinh về cõi kia: có sáu đoạn: Nơi sinh. Tướng sinh. Thân lượng trang nghiêm. Dị Thánh thần biến. Tướng tốt quang minh. Thuyết pháp lợi ích. Đoạn chánh văn này thuộc: Nơi sinh: Đài thất bảo, tức là bảy thánh tài trang nghiêm, tức pháp đường tòa sư tử, tức là vị trí của pháp vương trong đài bảy báu đạt được sức vô úy cùng tột, hóa sinh là loại sinh tốt nhất trong bốn loại sinh các vị trời khác đều từ đầu gối của cha mà sinh ra, còn Đức Di-lặc thì hóa sinh ở tòa sư tử, phàm Thánh khác nhau. Hiển thị Bồ-tát đã lìa dục sinh. Chánh văn: Ngồi kiết già trên hoa sen, thân có màu vàng Diêm- phù-đàn. Tán: Tướng sinh: Trên hoa sen, trên tòa sư tử lại có hoa sen, tất cả tòa Phật ở Tịnh độ đều là tòa sen, biểu thị ra khỏi vũng bùn sinh tử, lìa hẳn dòng nước đục Nhị thừa. Ngồi kiết già, như thế rồng cuộn tức là bàn chân trái đè lên đùi phải ngồi theo thế hàng phục, bàn chân phải đè lên đùi trái theo thế kiết tường, khi sắp thuyết pháp hiển thị tướng ngồi kiết tường. Thân sắc như vàng rồng, biểu thị sự quý báu đáng tôn trọng. Chánh văn: Cao mười sáu do-tuần, đầy đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, tám mươi vẻ đẹp, trên đảnh có nhục kế màu tía xanh lưu ly, và có Thích-ca Tỳ-lăng-già Ma-ni và trăm ngàn vạn ức ngọc báu chân-thúc-ca trang sức trên mũ báu (Thiên quan). Tán: Thân lượng trang nghiêm: cao mười sáu do-tuần, biểu thị đức cao vô lượng vượt khỏi sáu đường, trên cả mười Địa, trong nghóa tướng tốt ở phần sau sẽ luận đến. Thọ lượng tùy theo chư Thiên mà thị hiện đồng thế tục, thân lượng hơn chư Thiên vì thật đức cao tuyệt. Tóc trên nhục kế có màu xanh tía lưu ly; Thích-ca Tỳ Lăng-già ma-ni, nghóa là có thể hiện các loại như ngọc Như ý và chân-thúc-ca để trang sức mũ trời. Chân-thúc-ca là loại báu vật hình giống như ngọc Diên khuê, sắc như Lưu ly đỏ. Chánh văn: Mũ báu trời ấy có trăm vạn ức màu sắc, trong mỗi một màu có vô lượng trăm ngàn hóa Phật với hóa Bồ-tát làm thị giả lại có các Đại Bồ-tát ở cõi khác hiện mười tám thần biến, tùy ý tự tại trụ nơi mũ báu. Tán: Dị Thánh thần biến: Muốn hiển việc lấy tâm làm đầu thường cùng chư Phật và Bồ-tát mười phương làm bạn lữ. Mười tám thần biến là chấn động, ánh sáng rực rỡ, lưu bố, thị hiện, chuyển biến, vãng lai, co, duỗi, các ảnh tượng nhập vào thân, đồng loại đều đến, ẩn, hiện, tự tại làm việc chế phục thần thông của kẻ khác, ban cho chúng sinh biện tài, ban cho chúng sinh sự nhớ nghó, ban cho chúng sinh sự an lạc, toàn thân phóng ánh sáng rực rỡ, như luận Du-già ba mươi bảy đã nói. Chánh văn: Từ tướng lông trắng giữa hai chặng mày của ngài Di-lặc phóng ra những luồng ánh sáng có màu sắc của trăm báu, trong mỗi một tướng của ba mươi hai tướng phát ra năm trăm ức màu sắc báu, trong mỗi vẻ đẹp cũng có năm trăm ức màu sắc báu, mỗi một tướng tốt và vẻ đẹp lại lưu xuất ra tám mươi ngàn vầng mây sáng rực rỡ. Tán: Tướng hảo quang minh: Tướng lông trắng là tướng thứ ba mươi mốt trong ba mươi hai tướng. Tướng này của chư Phật đều ở khoảng giữa của hai chặn mày, rất đoan nghiêm. Mặt là tôn quý, gian là ngay chính giữa biểu thị cho việc Phật luôn luôn quý trọng trung đạo. Tướng bạch hào, mỗi khi phóng ra thì dài vô lượng, khi thâu lại thì như vầng trăng thu, trắng như ngọc đòn sáng, chiếu soi các cảnh; trắng là màu gốc, biểu thị cho tâm; tùy thời mà co duỗi, biểu thị tùy duyên. Phóng ra những luồng ánh sáng, biểu thị cho tướng tối thắng nhất trong các tướng của bậc Thánh tam thừa. Vì thế nói các bậc Thánh hạ địa không có, cho nên chỉ nêu lên tướng này ba mươi hai tướng, kinh Đại Bát-nhã ba trăm tám mươi mốt ghi: “Đức Phật bảo rằng: Này Thiện Hiện! Thế nào là ba mươi hai tướng của Như Lai? Tướng thứ nhất: Này Thiện Hiện! Bàn chân Thế Tôn bằng, đầy đặn là tướng an trụ vững chắc, giống như đáy hộp, mặt đất tuy có cao thấp, nhưng bàn chân của Thế Tôn bước đi luôn luôn tiếp xúc đầy đủ. Tướng thứ hai: Bàn chân Thế Tôn, các đường vân tạo hình bánh xe ngàn nan hoa, với đầy đủ các tướng của hình trục. Tướng thứ ba: Tay chân Thế Tôn đều mềm mại như Đâu-la-miên, hơn tất cả mọi loài. Tướng thứ tư: Giữa các ngón tay ngón chân Thế Tôn đều giống như bàn chân của loài nhạn chúa, đều có các màng mỏng nối liền, màu vàng ròng, các đường vân giao nhau như một bức họa đẹp. Tướng thứ năm: Các ngón tay ngón chân thon dài, trông rất dễ mến. Tướng thứ sáu: Gót chân đầy đặn cân xứng với lưng bàn chân, hơn các loài hữu tình. Tướng thư bảy: Lưng bàn chân nhô cao, cũng đầy đặn, mịn màng rất đẹp tương xứng với gót chân. Tướng thứ tám: Hai đùi tròn, lần lượt thon dần, giống như đùi của Lộc vương Ế-ni-da tiên. Tướng thứ chín: hai tay tròn, thẳng và dài chấm gối, giống như vòi của voi chúa. Tướng thứ mười: Âm tướng của Thế Tôn ẩn kín như rồng, ngựa, voi chúa. Tướng thứ mười một: Mỗi lỗ chân lông đều có một sợi lông, tất cả đều mềm mại màu tía xanh và xoay tròn về bên phải. Tướng thứ mười hai: lông tóc đều rất đẹp, màu tía xanh, xoay theo chiều bên phải, trang nghiêm trên lớp da màu vàng ròng. Tướng thứ mười ba: Da mỏng, mịn, trơn láng, nước và bụi dơ không thể dính được. Tướng thứ mười bốn: Da dẻ màu vàng ròng, phát ánh sáng thanh tịnh, giống như đài vàng được báu vật trang nghiêm, người thấy đều sinh tâm ưa thích. Tướng thứ mười lăm: Hai bàn chân, hai bàn tay, đỉnh đầu và hai vai đều đầy đặn. Tướng thứ mười sáu: Vai và cổ đều tròn đầy rất đẹp lạ. Tướng thứ mười bảy: Hai nách đầy đặn. Tướng thứ mười tám: Dung nghi đỉnh đạc. Tướng thứ mười chín: Thân tướng đoan nghiêm. Tướng thứ hai mươi: Hình dáng cao, ngang cân đối, tròn đầy không khuyết thiếu như nặc cù đà. Tướng thứ hai mươi mốt: Ngực và nửa phần trên của thân nở nang, oai vệ như sư tử chúa. Tướng thứ hai mươi hai: Hào quang ở đầu lúc bình thường phóng xa hầm (tám thước). Tướng thứ hai mươi ba: bốn mươi cái răng của Thế Tôn rất đều nhau, trong sạch, khít gốc sâu và trắng như ngọc. Tướng thứ hai mươi bốn: bốn răng cửa rất trắng và sắc. Tướng thứ hai mươi lăm: Trong miệng Thế Tôn thường tiết ra mùi vị thượng diệu, thực khí quản thẳng, vì thế có thể dẫn vị đến khắp các mạch chi tiết trong toàn thân, những vị thượng diệu này không bị những bệnh nóng lạnh gió làm cho tạp loạn, do không tạp loạn nên mạch lìa xa được các tướng không tốt như phù, trầm, diêm (kéo dài), súc (ngắn), tổn hoại và đứt quảng; khi nuốt thì nước miếng lưu thông, cho nên thân tâm thư thái thường được thượng vị. Tướng thứ hai mươi sáu: Lưỡi dài có thể che kín cả mặt, trùm đến tai và trán. Tướng thứ hai mươi bảy: Âm vận hòa nhã, các loài đều nghe được, âm thanh; nếu Thế Tôn phát lớn thì chấn động như tiếng trống trời, khi nói ôn hòa thì như tiếng chim Ca-lăng-tần-già. Tướng thứ hai mươi tám: Hai mắt như mắt của trâu chúa. Hai màu cám, thanh tề chỉnh không xen lộn. Tướng thứ hai mươi chín: Trong hai mắt thì màu xanh tía và màu trắng đẹp được một vòng màu hồng phân cách rất rõ ràng, đẹp lạ (lòng đen, lòng trắng phân minh) Tướng thứ ba mươi: Mặt như trăng rằm, hai hàng lông mày sáng đẹp, cong như cây cung của trời Đế Thích. Tướng thứ ba mươi mốt: Giữa hai chân mày có lông trắng xoáy tròn theo chiều bên phải, mịn như Đâu-la-miên, trắng hơn ngọc. Tướng thứ ba mươi hai: Đảnh đầu có Ô-sắt-ni-sa nhô cao, tròn đầy, giống như Thiên cái. Này Thiện Hiện! Đó là ba mươi hai tướng của bậc Đại só, Thiện Hiện lại bạch rằng: “Thế nào là tám mươi vẻ đẹp của Như Lai Chánh Đẳng Giác?” Thế Tôn đáp: “Này Thiện Hiện! Móng tay Như Lai thon mỏng, sáng bóng sạch, tươi nhuận, màu sắc hồng như hoa, đó là tướng thứ nhất. Các ngón tay ngón chân đều thon, dài, thẳng, và mềm mại, các đốt xương không lọâ ra, đây là tướng thứ hai. Tay chân Thế Tôn đều cân xứng nhau, khi khép lại giữa các ngón đều không có khe hở, là tướng thứ ba. Tay chân tròn đầy như ý, màu sắc tươi nhuận, như hoa sen là tướng thứ tư. Gân, mạch chắc chắn, ẩn sâu dưới da là tướng thứ năm. Hai mắt cá chân không lộ ra ngoài là tướng thứ sáu. Đi thẳng về phía trước, an tường như voi chúa, là tướng thứ bảy. Khi đi, oai dung tề chỉnh, hùng dũng như sư tử chúa là tướng thứ tám. Bước đi đều đặn, khoan thai như ngưu vương là tướng thứ chín. Bước đi và dừng trụ thật nhẹ nhàng uyển chuyển như ngỗng chúa là tướng thứ mười. Khi quay nhìn phía sau, thì toàn thân đều xoay theo chiều bên phải, như loài long tượng vương là tướng thứ mười một. Các ngón tay, ngón chân đều tròn đầy, đẹp đẽ, rất khéo sắp xếp, là tướng thứ mười hai. Các đốt xương giao kết nhau không có khe hở như rồng cuộn, là tướng thứ mười ba. Đầu gối tròn đầy, đẹp, khéo sắp xếp, chắc chắn là tướng thứ mười bốn. Chỗ ẩn kín, có đường vân rất đẹp, đầy đủ oai thế và thanh tịnh, là tướng thứ mười lăm. Thân hình tươi nhuận, mềm mại, bóng sạch, bụi nhơ không thể bám được, là tướng thứ mười sáu. Dung nghi nghiêm chỉnh, thường không bao giờ sợ sệt, yếu đuôái, là tướng thứ mười bảy. Thân thể tráng kiện, đầy sinh lực, khéo kết cấu nhau, là tướng thứ mười tám. Thân thể an định, vững chắc, chưa từng dao động, viên mãn, bất hoại, là tướng thứ mười chín. Thân tướng tròn đầy, đoan nghiêm, sáng sạch, không có khuyết điểm, giống như tiên vương là tướng thứ hai mươi. Thân thể có hào quang, khi đi đứng, thường tự chiếu sáng, là tướng thứ hai mươi mốt. Bụng vững rắn, không mềm nhão, có đầy đủ các tướng trang ng- hiêm, là tướng thứ hai mươi hai. Rún sâu có xoáy về phía phải, tròn đẹp sạch sẽ, là tướng thứ hai mươi ba. Cuốn rún dầy, không lồi không lõm, tròn trịa rất đẹp, là tướng thứ hai mươi bốn. Da dẻ mịn, không có ghẻ lác, là tướng thứ hai mươi lăm. Bàn tay đầy đặn, mềm mại, bàn chân bằng thẳng, là tướng thứ hai mươi sáu. Chỉ tay sâu rõ ràng, dài và thẳng không gãy đoạn, là tướng thứ hai mươi bảy. Môi đỏ thắm, mềm và bóng như trái tần bà, trên dưới cân xứng, là tướng thứ hai mươi tám. Miệng không lớn, không nhỏ, không rộng không hẹp, rất đoan nghiêm, như ý là tướng thứ hai mươi chín. Lưỡi mỏng, mềm mại, dài rộng, màu sắc hồng tươi nhuận, là tướng thứ ba mươi. Âm thanh oai chấn vang xa, như tiếng rống rõ ràng, trong sáng của tượng vương, là tướng thứ ba mươi mốt. Âm vận rất hay, như tiếng vang nơi hang sâu, là tướng thứ ba mươi hai. Mũi cao thẳng, lỗ mũi rất kín, là tướng thứ ba mươi ba. Răng đều đặn và trắng bóng, là tướng thứ ba mươi bốn. Răng cửa tròn, trắng và sắc, là tướng thứ ba mươi lăm. Màu mắt đen trắng rõ ràng, là tướng thứ ba mươi sáu. Mắt dài rộng, như cánh hoa sen xanh, là tướng thứ ba mươi bảy. Lông mi trên dưới bằng nhau, dày kín và không trắng (?), là tướng thứ ba mươi tám. Hai chặn mày dài, cong không gãy và nhuyễn mịn, là tướng thứ ba mươi chín. Hai mày kỳ tú đều đặn, màu như lưu ly là tướng thứ bốn mươi. Hai mày mọc cách xa mắt, thanh tú, cong như trăng lưỡi liềm, là tướng thứ bốn mươi mốt. Hai tai dày rộng, trái tai dài thòng xuống phía dưới, là tướng thứ bốn mươi hai. Hai tai rất đẹp cân đối, không bị những khuyết tật là tướng thứ bốn mươi ba. Dung nghi của Thế Tôn, khiến cho người thấy không còn bị tổn hoại, nhiễm ô, sinh lòng ái kính là tướng thứ bốn mươi bốn. Trán rộng, bằng phẳng như ý, rất đẹp lạ, là tướng thứ bốn mươi lăm. Thân hình trên dưới viên mãn cân xứng, như sư tử chúa, oai ng- hiêm không ai sánh bằng, là tướng thứ bốn mươi sáu. Tóc dài, dày, xanh tía và không bạc, là tướng thứ bốn mươi bảy. Tóc sạch thơm, nhỏ, mịn, mềm mại và đều xoay về bên phải, là tướng thứ bốn mươi tám. Tóc không rối, luôn ngay thẳng, là tướng thứ bốn mươi chín. Tóc bền chắc, không đứt rụng, là tuớng thứ năm mươi. Tóc sạch sẽ, trơn bóng, bụi không bám được, là tướng thứ năm mươi mốt. Thân thể rắn chắc, viên mãn như thân của na la diên, là tướng thứ năm mươi hai. Thân hình cao lớn, đoan chính là tướng thứ năm mươi ba. Cửu khiếu tròn đẹp và thanh tịnh là tướng thứ năm mươi bốn. Thân thể và sức lực không ai sánh bằng là tướng thứ năm mươi lăm. Thân tướng của Thế Tôn thù thắng, mọi người đều thích chiêm ngưỡng không bao giờ chán, là tướng thứ năm mươi sáu. Mặt đẹp trong sáng thanh tịnh như trăng tròn mùa thu là tướng thứ năm mươi bảy. Dung nghi thư thái, tướng mạo thanh khiết, thường mỉn cười trước khi nói, chỉ thuận theo mà không trái nghịch, là tướng thứ năm mươi tám. Diện mạo tươi sáng, vui hòa, không có những lỗi như nhăn nhó, kém vui, hoặc tái xanh hay đỏ là tướng thứ năm mươi chín. Thân thể luôn sạch sẽ, không bao giờ có cáu ghét, mùi hôi, là tướng thứ sáu mươi. Lỗ chân lông thường phát ra mùi hương vi diệu, là tướng thứ sáu mươi mốt. Miệng thường tỏa hương thơm thanh khiết, là tướng thứ sáu mươi hai. Đầu tròn đẹp giống như Vị-đạt-na và Thiên cái, viên mãn là tướng thứ sáu mươi ba. Lông trên thân màu xanh tía, sáng đẹp như lông khổng tước vương, là tướng thứ sáu mươi bốn. Pháp âm tùy chúng mà có lớn nhỏ, không tăng không giảm, đúng lý mà không sai, là tướng thứ sáu mươi lăm. Đảnh tướng không ai thấy được là tướng thứ sáu mươi sáu. Ngón tay ngón chân, các lằn chỉ đều rõ ràng xinh đẹp là tướng thứ sáu mươi bảy. Khi đi thì bàn chân dỡ cách mặt đất bốn ngón tay và có in các đường vân trên dấu chân, là tướng thứ sáu mươi tám. Thế Tôn tự giữ gìn, không cần người khác bảo vệ, thân không lắc lư, cũng không nghiêng lệch là tướng thứ sáu mươi chín. Oai đức bao trùm muôn vật, những kẻ ác tâm thấy thì sinh vui mừng, người sợ hãi thấy thì được an ổn, là tướng thứ bảy mươi. Âm thanh không cao không thấp, tùy thuận tâm ý chúng sinh mà vui vẻ luận nói, là tướng thứ bảy mươi mốt. Có thể tùy thuận ngôn ngữ âm thanh của hữu tình mà thuyết pháp là tướng thứ bảy mươi hai. Một âm thanh diễn thuyết chánh pháp, tùy loại chúng sinh, tất cả đều tin hiểu, là tướng thứ bảy mươi ba. Thuyết pháp đều theo thứ tự và có nhân duyên, là tướng thứ bảy mươi bốn. Thế Tôn bình đẳng xem xét các loại hữu tình, khen điều thiện, chê điều ác mà tâm không sinh yêu ghét là tướng thứ bảy mươi lăm. Trước khi làm việc gì thì trước đều quan sát kỹ, theo đúng phép tắc khiến cho việc làm được khéo léo thanh tịnh, là tướng thứ bảy mươi sáu. Tướng tốt và đẹp đẽ của Thế Tôn, loài hữu tình không thể thấy hết là tướng thứ bảy mươi bảy. Xương đầu viên mãn, bền chắc là tướng thứ bảy mươi tám. Thường trẻ không già, là tướng thứ bảy mươi chín. Tay, chân, ngực đều có đức tướng cát trường hỷ, xoay theo chiều bên phải (chữ vạn) là tướng thứ tám mươi. Thiện Hiện! Đó là tám mươi vẻ đẹp phụ. Này Thiện Hiện! Như Lai Chánh Đẳng Giác thành tựu các tướng như thế, cho nên ánh sáng của toàn thân, tùy thuận chiếu soi cùng khắp tam thiên, đại thiên thế giới nếu khi có tác ý thì chiếu thấu suốt vô lượng, vô biên thế giới. Nhưng vì thương xót loài hữu tình, cho nên thu nhiếp lại, chỉ còn phát ra chung quanh một tầm mà thôi. Nếu Như Lai phóng ánh sáng toàn thân thì các ánh sáng của mặt trời, mặt trăng…, không thể hiện được, các loài hữu tình không biết được ngày đêm, nữa tháng, một tháng, mùa, năm, các công việc sẽ không thành tựu, âm thanh của Phật nhậm vận vang khắp tam thiên đại thiên thế giới. Khi tác ý thì cùng tận vô lượng, vô số, vô biên thế giới đều nghe biết, nhưng vì muốn làm lợi ích cho loài hữu tình, cho nên tùy theo chúng hội mà không giảm không tăng. Này Thiện Hiện! Công đức lợi ích thù thắng như thế, ta đã thành tựu được từ khi còn là Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật đa, cho nên hôm nay được tướng hảo trang nghiêm viên mãn, khiến cho tất cả hữu tình thấy được, đều hoan hỷ đạt được lợi ích thù thắng, an lạc như thế. Này Thiện Hiện! Khi Bồ-tát Ma-ha-tát đạt được sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì có thể dùng tài bảo và Pháp bảo bố thí nhiếp phục các loài hữu tình, đó là pháp kỳ lạ hy hữu. Ba mươi hai tướng là do thực hành năm việc: Phát tâm, lâu dài, không gián đoạn, cầu khổ tinh tấn, chuyên nhất không tạp mà cảm nên, như luận Du-già ba mươi bảy đã nói; cho nên mỗi một tướng có năm trăm ức tia sáng; tám mươi vẻ đẹp phụ là do hành tám mươi bốn ngàn hạnh, ngăn chặn tám mươi bốn ngàn gốc bệnh mà chiêu cảm, cho nên mỗi một vẻ đẹp phụ phóng ra tám mươi bốn ngàn vầng mây ánh sáng. Mây biểu thị nghóa xuất sinh che phủ, ba trăm năm mươi pháp đều hành sáu độ, tổng cộng là hai ngàn một trăm pháp, trừ tham sân si và đẳng phần, do đó lại thành tám ngàn bốn trăm hạnh, mỗi mỗi lại trừ đi những lỗi do bốn đại, sáu trần sinh ra,cho nên tổng hợp thành tám vạn bốn ngàn pháp. Chánh văn: Cùng với các vị trời mỗi mỗi đều ngồi trên tòa sen, ngày đêm sáu thời, thường thuyết hạnh bất thoái chuyển địa pháp luân. Tán: Thuyết pháp lợi ích: gồm có ba, đó là trình bày sở thuyết, luận về lợi ích, hiển bày thường nghiệp. Đoạn này thuộc về phần một. Trình bày sở thuyết: mỗi mỗi đều ngồi trên tòa sen, biểu thị cho việc các Bồ-tát đều đã ra khỏi vũng bùn sinh tử. Ngày đêm sáu thời tức ngày ba thời, đêm ba thời biểu thị việc Phật ở trong sáu thời luôn hiện sáu thần thông, luôn thuyết hạnh sáu độ, cứu chúng sinh trong sáu đường, phá sáu tùy miên, vượt sáu trần. Chánh văn: Trong mỗi một thời thành tựu cho năm trăm ức Thiên tử, khiến cho họ bất thoái chuyển nơi đạo A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam- bồ-đề. Tán: Lợi ích: Thành tựu năm trăm ức thiên tử, nghóa là khiến phát sinh năm căn, đầy đủ năm lực, viên mãn năm nhãn và vượt năm đường. Chánh văn: Như thế ở cõi trời Đâu-suất-đà, ngày đêm sáu thời thường thuyết pháp luân bất thoái chuyển độ các Thiên tử. Tán: Thường nghiệp của Phật: Nơi kia thường sáng tỏ, không có tối tăm. Khi cảm thấy buồn ngủ thì gọi là đêm. Phật thì không như thế, nên thường độ các Thiên tử. Chánh văn: Trải qua năm mươi sáu ức vạn năm ở Diêm-phù-đề, lúc bấy giờ, Di-lặc hạ sinh xuống cõi này, như kinh Di-lặc Hạ Sinh đã nói. Tán: Thời gian hạ sinh: Tức là thọ mạng ở cõi trời kia. Âm Phạm Thiệm bộ là tên một loài cây, nói Diêm-phù-đề là lầm lẫn. Châu này dùng tên của một loại cây làm tên gọi, nguyên nhân thành lập bốn châu, như những nơi khác đã nói. Ở nơi đây bốn trăm năm thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Đâu-suất, và có ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm. Chư thiên ở cõi trời Đâu-suất thọ bốn ngàn năm, Từ thị cũng phải hết số năm này mới hạ sinh, không yểu mạng, cho nên kinh này nói trải qua năm mươi sáu ức vạn năm ở cõi Diêm-phù-đề. Theo cách tính của luận Du-già quyển bốn, kinh Lập Thế, Tỳ-bà-sa… . thì ở Diêm-phù-đề bốn trăm năm là một ngày đêm ở Đâu-suất, bốn ngàn năm là mười ngày, bốn mươi ngàn năm là một trăm ngày, vậy một năm ở cõi trời kia thì ở Diêm-phù-đề một trăm bốn mươi bốn ngàn năm, mười năm thì bằng một trăm bốn mươi bốn vạn năm, một năm thì bằng một trăm bốn mươi bốn ức năm, một ngàn năm thì bằng một ngàn bốn trăm bốn mươi ức năm, bốn ngàn năm thì bằng năm ngàn bảy trăm sáu mươi ức năm, như thế thì không giống với kinh văn. Nay theo lý mà suy luận, thì đầu tiên lấy bốn trăm năm ở nhân gian là một ngày đêm ở Đâu-suất, lại nếu lấy một trăm làm một thì tính ra sẽ tương đương. Vì một thành một trăm, cho nên nhân gian bốn mươi năm thì Đâu-suất mười ngày, bốn trăm năm thì bằng một trăm ngày, một ngàn bốn trăm bốn mươi năm thì bằng một năm, mười bốn ngàn bốn trăm năm thì bằng mười năm, một trăm bốn mươi bốn ngàn năm thì bằng một trăm năm, một ngàn bốn trăm bốn mươi ngàn năm thì bằng một ngàn năm. Vậy Đâu-suất bốn ngàn năm thì Diêm-phù-đề là năm ngàn bảy trăm sáu mươi ngàn năm. Cõi Tây phương có ba loại số ức, đó là mười vạn thành ức, một trăm vạn thành ức và một ngàn vạn thành ức. Dùng lý để loại suy, thì lấy một ngàn vạn làm ức để tính toán thì tương đương. Vì thế trong kinh trên chữ ức nên thêm số bảy, trước chữ sáu nên đặt chữ vạn, chỉ e rằng tụng Phạm bản có sai sót, cho nên dịch thành lầm lẫn. Nếu chẳng như thế thì thiếu một trăm năm mươi ngàn năm, lý nhất định phải như thế, người trí nên biết rõ. Nhưng số năm này có bốn bản văn nói khác nhau. Kinh Hiền Kiếp Định ý ghi là: “Di-lặc trải qua năm ức bảy mươi sáu vạn năm sau sẽ hạ sinh thành Phật.” Nói năm ức tức năm mươi ức, vì trước dùng một ngàn vạn làm một ức nên thành năm mươi ức, ở đây dùng một vạn vạn làm ức cho nên nói năm ức, bảy mươi vạn tức là bảy ức vì mười vạn là một ức, sáu vạn thì giống nhau, không cần phải giải thích, chỉ một kinh này tuy đã có vấn đề tăng giảm bất đồng nhưng lại đồng với luận, còn tất cả bản kia đều khác nhau, như kinh Nê hoàn hai quyển ghi: “Một ức bốn ngàn năm” hoàn toàn khác xa, kinh này và kinh Nhất Thiết Trí Quang Minh Tiên Nhân Từ Tâm đều nói là năm mươi sáu ức vạn năm, như trên đã đính chính. Kinh Bồ-tát Xử Thai và kinh Hiền Ngu đều nói rằng: “Năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm.” Số sáu nên ghi là bảy, bảy nên ghi là sáu, ngàn vạn, nếu lấy một trăm vạn mà tính là một ức thì sáu ngàn vạn tức thành sáu mươi ức, nghóa cũng không trái nhau. Như thế mà suy tìm, thì tuy trái với số xưa, nhưng theo văn nghiên cứu lý thì cũng không lầm lẫn. Bồ-tát trụ tại cõi trời, thọ lượng chưa từng yểu mệnh mà sinh xuống nhân gian, kinh Đại Thành Phật ghi rằng: “Khi con người thọ đến sáu vạn năm thì thọ mạng của Di-lặc ở cõi trời tận, bây giờ tuổi thọ của nhân gian còn dài, nên ứng thời nghi mà hiện; khác với Đức Thích-ca, khi thọ mạng ở Đâu-suất tận, bấy giờ nhân gian tuổi thọ ngắn ngủi, chúng sinh nhàm chán, cho nên hóa duyên hết.” Kinh Xử Thai ghi: “Đức Di-lặc hạ sinh khi nhân gian thọ tám mươi bốn ngàn tuổi.” Nếu căn cứ theo đây, thì không thể hợp; như kinh Hạ Sinh luận về việc hạ sinh làm Phật, lúc bấy giờ, việc lợi lạc của chư Thiên đã hết căn cơ con người đã thành thục cho nên mới hạ sinh. Chánh văn: Phật bảo Ưu-ba-ly rằng: “Đó là nhân duyên vị Bồ- tát tên là Di-lặc, mệnh chung ở cõi Diêm-phù-đề, sinh về cõi trời Đâu- suất. Tán: Tổng kết: Nhân duyên tức là nguyên do của các tướng trạng, vì lợi ích cho nên cuối cùng nói việc thượng sinh. Vì đều có nguyên do nên gọi nhân duyên. Chánh văn: Sau khi Phật diệt độ, trong hàng đệ tử của ta, nếu có người tinh cần tu các công đức, đầy đủ oai nghi, quét tháp, đắp đường, dùng các loại danh hương cúng dường, hành các Tam-muội, thâm nhập chánh thọ đọc tụng kinh điển. Tán: Khuyên sinh về sau khi Phật diệt độ: gồm có ba. Khuyến thực hành hạnh sinh về. Đại chúng phát nguyện mong cầu. Tổng kết lập chánh quán. - Khuyến sinh về cõi kia: gồm có năm. Đệ tử tu sáu pháp để vãng sinh. Bát bộ nghe danh hiệu, ưa thích vãng sinh. Hai chúng phạm giới, sám hối thanh tịnh được vãng sinh. Quy y không lui sụt, sẽ được độ thoát. Bốn chúng đệ tử phát nguyện vãng sinh tu mười thiện, niệm danh hiệu, cung kính, thì diệt được bao nhiêu tội lỗi? Tuy có năm đoạn, nhưng tổng quát làm ba, đó là: Ba đoạn đầu tiên, luận về ba phẩm vãng sinh, đoạn kế tiếp luận về quy y, tổng khuyên quy y vãng sinh đạt được lợi ích. Đoạn cuối cùng nói vẹà những người quy y vãng sinh diệt được bao nhiêu tội lỗi. Ba đoạn đầu tiên: gồm có ba là hạnh Vãng sinh thượng phẩm, hạnh Vãng sinh trung phẩm, hạnh Vãng sinh hạ phẩm. Hạnh vãng sinh thượng phẩm: gồm có sáu: Nêu sáu pháp. Chỉ dạy hồi hướng phát nguyện. Luận về chánh vãng sinh. Chư Thiên tán thán. Sinh cõi kia được lợi ích. Tổng kết. Chánh văn này thuộc phần một. Nêu sáu pháp: Đó là: Tinh cần tu phước, cung kính báo ân, trong mảnh ruộng từ bi tạo các sự nghiệp. Đầy đủ oai nghi, giữ gìn giới cấm, hành sự nên giữ đúng khuôn phép. viên. Quét tháp, đắp đường, trang nghiêm đạo tràng, tu sữa chùa Cúng dường hương hoa, ban cấp bốn sự. Phàm phu thực hành các Tam-muội, văn, tư, tu. Thánh nhân thì nhập chánh thọ, tùy thiền định chứng đắc hoặc là Tam-muội của phàm phu mà chẳng phải là lục hạnh định, vì đạt được lục hạnh định ắt sinh lên hai cõi trời trên, cho nên trụ sâu trong văn tư cũng gọi là Tam-muội. Tụng đọc kinh điển, diễn thuyết, tu tập mười hành pháp. Vả lại nêu lên những hạnh thù thắng và dễ hành, thì chỉ có sáu việc trên là thượng thủ. Trong đó mỗi một việc đều bao trùm tất cả các việc khác. Nếu tu năm hoặc sáu việc thì được Thượng thượng phẩm vãng sinh, nếu tu ba hoặc bốn việc thì được Thượng trung vãng sinh, nếu tu một việc thì được Thượng hạ phẩm vãng sinh. Chánh văn: Những người này cần phải chí tâm tu tập, tuy chưa đoạn hoặc nhưng cũng như người đã được sáu thông. Tán: Dạy hồi hướng phát nguyện: văn có ba ý, đó là: Tán thán nghiệp thù thắng: Tuy phàm phu chưa đoạn hoặc, khác bậc Thánh, nhưng nếu tu sáu việc này, thì thần dụng rộng lớn, nhất định được vãng sinh, giống như bậc Thánh đạt sáu thông không khác. Chánh văn: Nên chí tâm nhớ nghó hình tượng và xưng niệm danh hiệu Phật Di-lặc. Tán: Xưng niệm: Tuy tu hành, nhưng vẫn phải chánh niệm, tâm tưởng hình Phật, miệng xưng niệm danh hiệu Phật. Chánh văn: Các người như thế, nếu trong một niệm thọ tám giới trai, tu các tịnh nghiệp, phát hoằng thệ nguyện. Tán: Phát nguyện: Như trên đã nói những người hành sáu việc rất ít, nhưng có thể trong một niệm chí tâm không phạm, giữ tám giới trai, tùy thuận tu tịnh nghiệp, phát nguyện giúp sức hồi hướng, thì nhất định được vãng sinh. Nói một niệm, tức chẳng phải ở những thời gian khác thì phạm. Chỉ một niệm trì giới, vi đầu tiên chỉ phát nguyện một niệm trì giới mà như thế, hà huống là phát nguyện lâu dài hơn? Chánh văn: Sau khi mệnh chung, nhanh chóng ví như một tráng só co duỗi tay, liền sinh về cõi trời Đâu-suất, ngồi kiết già trên tòa hoa sen. Tán: Chánh vãng sinh, có hai: Thời gian vãng sinh: Giống như thời gian tráng só co duỗi tay, biểu thị ý nghóa nhất định trong chớp mắt sẽ vãng sinh. Nơi sinh: Ngồi kiết già trên hoa sen, biểu thị ý nghóa ra khỏi sinh tử, đoạn trừ phiền não, tức đã sinh về cõi trời kia, và trụ ở phạm hạnh cho nên nói là kiết già trên tòa sen. Chánh văn: Trăm ngàn Thiên tử trỗi các loại kỷ nhạc và cầm hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la mà tung lên trên thân người ấy. Tán: Chư Thiên tán thán có ba. Tung hoa: hoa Ma-ha mạn-đà-la, Hán dịch là Thích ý hoa. Chánh văn: Và tán thán rằng: Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Khi ông ở Diêm-phù-đề đã tu tập đầy đủ các phước thiện nên được sinh về cõi này. Tán: Tán thán: Vì khen tặng một việc rất tốt đẹp nên lập lại “lành thay.” Do tu tập nhân rộng lớn cho nên đạt được quả thù thắng. Chánh văn: Cõi này tên là Đâu-suất-đà. Thiên chủ hiện nay là Đức Di-lặc, ông nên quy y ngài. Tán: Khuyên quy y: Quốc độ tên là Tri túc, do đó không đắm sinh tử. Thiện chủ hiệu là Từ Tôn, cho nên thường rủ lòng thương xót những kẻ bị khổ nạn. Chánh văn: Nghe xong liền lễ bái, lễ xong lại chuyên tâm quán sát tướng ánh sáng của lông trắng giữa hai chặn mày. Liền được diệt tội sinh tử trong chín mươi ức kiếp. Tán: Vãng sinh được lợi ích: có hai: Diệt tội: kiếp tội vô gián: Một tăng một giảm, còn những kiếp tội khác dùng năm mà tính (vì chưa bằng kiếp). Chúng sinh thời mạt pháp, phần nhiều thực hành những pháp thô lậu mà còn vượt qua các đường ác, cầu sinh Tịnh độ, vận mạng chưa hết mà được sinh vào thượng phẩm, huống hồ linh cảnh chỉ tại hào quang, chuyên tâm quan sát mà chẳng vượt thoát sinh tử sao? Chánh văn: Lúc bấy giờ, Bồ-tát tùy thuận căn duyên khi xưa của người ấy mà thuyết diệu pháp, khiến cho họ được bất thoái chuyển nơi đạo Vô thượng. Tán: Đạt tùy thuận thuyết nhân duyên đời trước, khiến người ấy nhớ lại hành nghiệp trước kia, mà biết rỏ quả, tự thành tựu bất thoái chuyển. Xưa nói bất thoái, tức là kiên cố, tùy theo vị thứ mà thành tựu phát tâm. Chánh văn: Các chúng sinh như thế, nếu thanh tịnh các nghiệp, hành sáu pháp thì không nghi ngờ gì, nhất định sẽ sinh vào cõi Đâu-suất, gặp Di-lặc. Tán: Tổng kết: Gồm có bốn: Được sinh: Ba nghiệp thanh tịnh, sáu việc đồng tu, sau sinh về Đâu-suất, việc này đâu còn nghi ngờ gì, tức là tùy thuận tu tập sáu pháp, được ít thanh tịnh ba nghiệp, tâm mong cầu được bất thoái, sau nhất định sẽ sinh về cõi kia. Chánh văn: Rồi cũng theo ngài Di-lặc hạ sinh xuống Diêm-phù-đề nghe pháp ở hội thứ nhất. Tán: Tùy hạ sinh: Đạo cha con còn có sự cảm ứng tự nhiên, như hổ gầm thì sinh gió, huống hồ gì việc này thì đâu có nghi hoặc gì. Sáu pháp đã tu ba nghiệp đã thanh tịnh, thượng phẩm vãng sinh theo hội thứ nhất mà nghe pháp. Chánh văn: Vào đời vị lai, gặp tất cả chư Phật ở thời hiền kiếp. Tán: Gặp chư Phật ở hiền kiếp: Thiện nghiệp đã đầy đủ thì chánh kiến luôn luôn hiện sinh; đã đầy đủ tư lương phước trí thì ắt gặp một ngàn Phật ở hiền kiếp. Chánh văn: Và cũng gặp được chư Phật Thế Tôn ở vị lai tinh tú kiếp, ở trước chư Phật mà nhận lãnh lời thọ ký Bồ-đề. Tán: Gặp chư Phật ở tinh tú kiếp theo thuyết của Tiểu thừa, thì kiếp thứ nhất gặp bảy mươi lăm ngàn vị Phật, kiếp thứ hai gặp bảy mươi sáu ngàn, kiếp thứ ba gặp bảy mươi bảy ngàn Đức Phật. Căn cứ theo kinh Niết-bàn sáu thì hành bốn y: Một là trước mười Địa gặp năm hằng hà sa Phật; hai là sáu Địa trước gặp sáu hằng hà sa Phật; ba là Địa thứ bảy, tám, chín gặp bảy hằng hà sa Phật; bốn là Địa thứ mười gặp tám hằng hà sa Phật. Bồ-tát Sơ địa gặp một trăm trăm ức Đức Phật. Bồ-tát Địa thứ hai gặp ngàn trăm ức cho đến Bồ-tát Địa thứ mười gặp vô lượng, vô biên Đức Phật. Cho nên người được sinh về cõi trời kia, do được thấy Phật Di-lặc mà gặp được một ngàn vị Phật ở tinh tú kiếp, việc này đâu còn nghi ngờ gì. Thọ ký Bồ-đề, câu này ý thông câu trên tức chư Phật Hiền kiếp cũng thọ ký. Thọ ký có sáu, như kinh Bồ-tát Địa đã ghi. Chánh văn: Phật bảo Ưu-ba-ly rằng: “Sau khi Phật diệt độ, trong đại chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng Dạ- xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-na, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nếu có người nghe được danh hiệu của Đại Bồ-tát Di-lặc, sinh tâm hoan hỷ cung kính lễ bái, người này sau khi mệnh chung trong khoảng khảy móng tay sẽ vãng sinh về cõi Đâu-suất, như đã nói trước. Tán: Hành hạnh Trung phẩm vãng sinh (tức là Bát bộ nghe danh ưa thích vãng sinh). Gồm có hai, đó là cung kính hoan hỷ phát nguyện vãng sinh không nguyện vãng sinh, nghe danh hiệu cũng được lợi ích. Đoạn chánh văn này thuộc phần một: Cung kính hoan hỷ: Bốn chúng và tám bộ, đầu tiên là hàng không phạm giới, không tạo việc ác, nếu người phạm khinh tội, nghe danh hiệu rồi thì tâm sinh hoan hỷ, miệng nói lời cung kính, thân lễ bái; do tu nhân có hơn kém mà quả khác nhau, nhưng đều được chư Thiên tán ngưỡng, tội lỗi tiêu trừ, đạt được bất thoái chuyển, gặp được Phật, không khác gì những người đã nói ở trước. Đầy đủ ba nghiệp thanh tịnh thì Trung thượng phẩm sinh, chỉ hai nghiệp thì Trung trung phẩm sinh, nếu chỉ một nghiệp thanh tịnh thì Trung hạ phẩm sinh. Chánh văn: Chỉ nghe danh hiệu Di-lặc, thì khi mạng chung cũng không bị nơi vào nơi tối tăm, biên địa tà kiến và các ác, luật nghi. Tán: Không nguyện vãng sinh nghe danh hiệu cũng được lợi ích: có hai là không ác và có thiện. Không có ác: Gồm bốn. Chẳng đọa nơi tối tăm: Nếu xứ tối tăm mà gọi là tối tăm thì đó là địa ngục và chỗ trung gian của hai cõi, nếu quả xứ tối tăm thì đó là ba ác thú và chổ trung gian của hai cõi, là nơi không có Phật pháp. Không đọa biên địa: Từ “không đọa” thông luôn cả ba câu sau. Nếu biên địa gọi là biên thì đó là chỗ biên thùy xa vùng đất lành. Nếu hành biên địa mà gọi là biên địa, thì đó gồm cả xứ biên và Miệt-lệ-xa- đạt-nhứ (hành ác)… Ý trước là chẳng đọa ba đường, ý sau là chẳng đọa tám nạn. Chẳng đọa tà kiến: nếu chỉ riêng tà kiến thì chỉ đoạn thiện căn, như bất chánh gọi là tà kiến, ác kiến. Chẳng đọa các ác luật nghi: Ác tức chẳng thiện, luật tức là phép tắc, nghi tức là cách thức, tức Bất luật nghi. Đối pháp thứ tám, nêu lên mười bốn hoặc mười lăm loại Bất luật nghi đó là giết dê, nuôi gà, nuôi heo, bắt chim, bắt cá, săn nai, bẩy thỏ, trộm cướp, làm nem, giết trâu bò, bắt voi, lập đàn, chú rồng, giữ ngục, dèm xiểm thích làm tổn hại người. Kinh Niết-bàn nêu lên mười sáu loại đó là nuôi dê, nuôi heo, nu- ôi bò, gà để làm lợi, lớn mập liền bán đó là bốn loại, vì ham lợi nên mua các loại vật này về làm thịt, là bốn loại nữa cùng với bắt cá, bẩy chim, săn bắn, trộm cắp, làm nem, lưỡng thiệt, cai ngục, chú rồng là tám loại, tổng cộng thành mưòi sáu. Luận Du-già quyển chín chỉ nêu mười hai loại, thêm một đối pháp mà thiếu ba của đối pháp, luận tạp tâm nêu lên mười hai loại là mổ dê, nuôi heo, nuôi gà, bẩy chim, bắt cá, đi săn, làm giặc, làm nem, giữ ngục, chú rồng, bán thịt, cai ngục. Bốn bản văn đều khác nhau, kinh Niết-bàn gồm ba loại bắt nai, bẩy thỏ, bắt voi vào loài đi săn, đối pháp căn cứ nhiều loài mà kể ba. Niết-bàn gom chung các loài bắt và săn bắn. Đối pháp nêu loại “Thích tổn hoại kẻ khác”, Niết-bàn thì không ghi. Vì đối pháp nêu rộng hơn, tám loài đầu Niết- bàn phân chia khác nhau từ bốn loài. Đối pháp nêu bốn loài này đã đầy đủ các loài sinh vật. Cho nên đối pháp nêu dèm xiểm tức là tên khác của lưỡng thiệt, vì thế Tạp Tâm Luận Tiểu thừa cho là tội trọng, tức phi luật nghi, còn những loại khác là nhẹ. Ác luật nghi này gom nhiếp tất cả những phạm giới và ác hạnh. Như thế tà kiến, ác luật nghi thì nơi có Phật không Phật, ở trung thổ hay biên địa đều có, nếu nghe được danh hiệu Đức Phật Di-lặc thì nhất định không bị đọa. Tam nghiệp đều quy y, tâm hoan hỷ, bốn đẳng, nguyện xưa càng thêm oai lực. Chánh văn: Luôn sinh chánh kiến, quyến thuộc được thành tựu, không hủy báng Tam bảo. Tán: Sinh thiện: Có ba là luôn sinh chánh kiến đối lại với tà kiến đã nêu. Quyến thuộc thành tựu đối lại với không làm các ác luật nghi. Ác luật luật nghi tức là ác quyến thuộc. Chẳng hủy báng Tam bảo, đối lại với chẳng đọa vào chỗ tối tăm đã nói, chẳng sinh biên địa, luôn gặp Tam bảo, luôn khởi lòng tin; cho nên không chỉ ở trong phẩm không có bốn ác, có ba thiện mà thượng hạ phẩm sinh tùy ứng cũng có ba thiện như thế. Muốn nói về nghe danh mà tám Bộ thay dị hình, bốn loại được thân đẹp, nên chỉ ở Trung phẩm sinh bàn luận. Chánh văn: Phật dạy Ưu-bà-ly rằng: Nếu có thiện nam, thiện nữ nào phạm giới cấm tạo các ác nghiệp, mà nghe danh hiệu của bậc đại Bi Bồ-tát này, rồi toàn thân hành lễ, chí thành sám hối thì ác nghiệp sẽ được thanh tịnh. Tán: Hành hạ phẩm sinh (phạm giới sám hối thanh tịnh được vãng sinh) gồm có ba đó là sám hối tội diệt, tu hành vãng sinh, thấy Phật được bất thoái chuyển, vị lai gặp Phật. Sám hối tội diệt tu hành vãng sinh có ba: Tội diệt có hai ý: Trước thọ giới cấm sau lại phạm giới. Trước không thọ giới cấm, tạo ác nghiệp. Hai loại người này nghe danh hiệu Đức Di-lặc, rồi lễ bái hai tay, hai chân và đầu sát đất, chí thành sám hối thì tội chóng thanh tịnh. Chánh văn: Chúng sinh ở thời vị lai nghe danh hiệu của bậc Đại bi Bồ-tát này, rồi tạo lập hình tượng, cúng dường hương hoa, y phục, bảo cái, tràng phan, lễ bái, tụng niệm nhớ nghó. Tán: Tu hành dẫn cho không tạo tội, không sám hối và nguyện sinh, nhưng tu mười hạnh, nhất định cũng được vãng sinh về cõi trời kia. Mười hạnh là nghe danh, tạo hình tượng, cúng dường hương hoa, y phục, bảo cái, tràng phan, lễ bái, tââm chuyên nhớ nghó, miệng chuyên đọc tụng. Chánh văn: Người này khi sắp mệnh chung, Bồ-tát Di-lặc sẽ từ nơi tướng lông trắng giữa hai chặn mày mà phóng ánh sáng, cùng với các Thiên tử rải hoa Mạn-đà-la đến nghênh tiếp, trong khoảng khắc người này sẽ được vãng sinh. Tán: Vãng sinh: Nếu phạm giới tạo tội, sám hối được thanh tịnh, nghe danh hiệu tu hành, thì khi sắp mệnh chung, Bồ-tát phóng hào quang vi diệu từ lông tắng chiếu soi để tiêu diệt tội hắc ám, mưa hoa lạ có màu sắc rực rỡ để trưởng dưỡng giống đạo; Phật và chư Thiên đến nghinh tiếp là biểu thị cho lòng từ sâu xa, trong khoảng khắc vãng sinh, biểu thị cho nghiệp thù thắng. Trong đoạn này có ba ý: Sám hối tạo tượng, cúng dường lễ bái và chuyên nhớ nghó thì được hạ phẩm thượng sinh. Sám hối tạo tượng, cúng dường lễ bái mà không chuyên tâm nhớ nghó thì được hạ phẩm trung sinh. Chỉ sám hối tạo tượng cúng dường mà không hằng lễ bái và nhớ nghó thì chỉ được hạ phẩm hạ sinh. Tuy đã sám hối, tội được tiêu trừ, nhưng không tạo hình tuợng cúng dường lễ bái hoặc chỉ chuyên tâm nhớ nghó, hoặc chỉ một lần xưng niệm danh hiệu thì cũng được hạ hạ phẩm sinh. Dẫu cho không được sinh vào trong ba hội thuyết pháp, nhưng cũng được độ thoát. Chánh văn: Gặp được Bồ-tát Di-lặc liền cúi đầu đảnh lễ, trong khoảng khắc được nghe pháp yếu, mà đạt tâm bất thoái chuyển nơi đạo Vô thượng. Tán: Thấy Phật được bất thoái, thiện căn đã thành thục từ lâu vừa thấy đảnh lễ, lòng Từ bi tự khởi, liền được nghe pháp, trừ diệt tâm bất tín, mau chóng được bất thoái chuyển. Chánh văn: Ở đời vị lai gặp được hằng hà sa chư Phật Như Lai. Tán: Vị lai gặp được Phật: Trên đây đã nói về chín phẩm vãng sinh, cùng với nội chúng, tự thân thấy được Phật, chóng nghe pháp. Nếu sinh vào ngoại chúng, thì tuy sinh ở phẩm thứ chín, nhưng tùy thuận mai sau cũng thành tựu được tâm bất thoái, vì Phật hiệu là Đấng Từ Tôn, khéo tự trưởng dưỡng. Chánh văn: Phật bảo Ưu-ba-ly rằng: “Lóng nghe! Lóng nghe! Di- lặc Bồ-tát ở thời vị lai sẽ làm chỗ nương vững chắc cho chúng sinh, nếu có người quy y, thì khi Đức Di-lặc thành Đa-đà A-già-độ A-la Tam-miệu Tam-Phật-đà, người này thấy được ánh sáng của Phật mà liền được thọ ký. Tán: Tổng luận về quy y; được bất thoái, sẽ độ thoát: có ba: Quy y: Ta diệt độ, thì chúng sinh sẽ không gặp chân báo Phật, cho nên các đệ tử thời mật pháp đều ủy thác cho Từ Tôn cứu độ, nếu không thấy sẽ mất đi sự lợi ích, cho nên gọi là làm chỗ nương tựa vững chắc. Người quy y được bất thoái. Bồ-tát Di-lặc thành Phật, thấy hào quang được thọ ký. Di-lặc thành bậc Thánh, thì trí tuệ sáng tỏa chiếu soi, hàng phàm phu do đó thấy được màu vàng ròng rực rỡ. A-đà A-già-độ tức Như Lai, A-la-ha tức Ứng, Tam-miệu Tam-Phật-đà tức Chánh biến tri. Chánh văn: Phật bảo Ưu-ba-ly: Sau khi Phật diệt độ, bốn chúng đệ tử và Thiên, Long, Quỷ thần nếu có ai muốn sinh về cõi trời Đâu-suất- đà thì nên quán xét, chuyên niệm, tư duy. Tán: Bốn chúng đệ tử:… . phát nguyện vãng sinh, tu mười thiện, thực hành niệm danh hiệu, cung kính… tội diệt bao nhiêu: gồm có hai phần: Thích sinh về, nghiệp đã đầy đủ được sinh. Không thích sinh về, hành nghiệp chưa đầy đủ. Thích sinh… .có bốn: Niệm danh. Khuyến hành. Giáo nguyện. Diệt tội. Đoạn chánh văn này thuộc phần một. Khuyên niệm danh hiệu Di-lặc. Chánh văn: Nhớ nghó cõi trời Đâu-suất-đà, giữ giới cấm của Phật, từ một ngày đến bảy ngày tư duy về mười thiện, thực hành mười thiện đạo nghiệp. Tán: Khuyến hành: Chỉ luận trì giới, chẳng nói đến các việc khác. Nếu lên số thời gian ngắn nhất là một ngày cho đến bảy ngày, cũng được vãng sinh, huống gì nhiều năm nhiều đời tu hành. Vì tất cả thiện quy vào mười thiện, cho nên nói là tư duy. Hành thì căn cứ theo chỗ trọng cho nên gọi là mười thiện đạo. Chánh văn: Dùng công đức này hồi hướng nguyện sinh đến trước Phật Di-lặc, nên quán như thế. Tán: Giáo nguyện: Có hành mà không nguyện, thì tâm hành đơn độc, chưa hẳn được sinh đến chỗ của Đức Từ Thị. Có nguyện mà không hành thì chỉ là nguyện suông. Trước không nhân thì sau chẳng có quả, vì thế chỉ dạy nguyện hành phù hợp. Chánh văn: Đã quán như thế, nếu thấy một vị trời ngồi trên tòa sen trong một niệm liền xưng danh hiệu Bồ-tát Di-lặc, người này sẽ diệt trừ được tội lỗi sinh tử trong một ngàn hai trăm kiếp. Tán: Diệt tộc: có ba: Gặp duyên trưởng niệm, nghe danh khởi tâm cung kính, chí thành lễ bái. Đoạn chánh văn này thuộc phần một. Gặp duyên: Có hai là hữu tình và các pháp. Thấy một vị trời là tùy gặp một duuyên hữu tình nào thì liền nghó nhớ đến Đức Di-lặc, nếu họ có khổ thì nghó việc cứu giúp, họ không vui thì nghó đến việc ban vui họ có, ác thì nghó đến việc dứt trừ, thiện thì nghó đến việc nhiếp thọ, thù thắng thì vui vẻ mong cầu, kém thì nhàm chán xa lìa gặp bạn hiền thì tôn sùng, gặp bạn ác thì cự tuyệt, thấy hoa sen, biểu thị cho việc tùy thấy một pháp nào liền nghó nhớ đến ngài Di-lặc, thấy phép thiện thì nghó đến việc cúng dường, pháp ác thì nghó đến không gặp, pháp nhiễm thì vui vẻ đoạn trừ, pháp tịnh thì vui vẻ tu tập. Ở đây nêu lên hữu tình và pháp mà nhớ nghó đến ngài Di-lặc, là để biểu thị ý nghóa hiển bày tổng quát về nghiệp thượng sinh Đâu-suất; ba phẩm tu gặp duyên quán niệm, tất cả thời đều niệm không gián đoạn không thôi nghỉ. Nếu trong một niệm xưng danh thì sẽ diệt trừ tội trong một ngàn hai trăm kiếp sinh tử, đó là do nguyện truớc kia của ngài Di-lặc (hành giả chuyên niệm thì tội sẽ được diệt trừ) mà có được như thế. Nguyện của Đức Phật A-di- đà thì diệt tội trong tám mươi kiếp. Sức nguyện ở kiếp lâu xa của Đức Di-lặc không đồng, lòng từ bi có sâu cạn nên cảnh vui khổ có khác, tâm ham thích nhiều ít thì tội diệt có sai khác, như trước đã so sánh. Chánh văn: Chỉ nghe danh hiệu Đức Di-lặc, liền chắp tay cung kính người này sẽ trừ được tội sinh tử trong năm mươi kiếp. Tán: Nghe danh khởi tâm cung kính, trước đã nói nếu gặp duyên, trong một niệm nhớ nghó sẽ diệt được tôïi lỗi trong một ngàn hai trăm kiếp, còn ở đây chỉ nghe danh hiệu cung kính chắp tay sẽ diệt được tội trong năm mươi kiếp vì chỉ phát thân nghiệp, đầu không sát đất đảnh lễ, tức là tâm quy kính không sâu nặng. Chánh văn: Nếu có người kính lễ Đức Di-lặc, thì sẽ diệt trừ tội lỗi trong một trăm ức kiếp sinh tử. Tán: Đầu thành lễ bái: Đầu mặt sát đất đảnh lễ ngày đêm không gián đoạn, thì sẽ diệt trừ tội sinh tử trong một trăm ức kiếp, thân tâm đều quy kính, đồng thời lại sâu nặng, ở đây điều quan trọng nhất là thấy được tướng bạch hào, thứ hai là, trong một niệm, thứ ba là, nghe danh hiệu chắp tay, thứ tư là, kính trọng khác nhau. Hỏi: Vì sao thấy tướng bạch hào chẳng bằng ở xa nghó nhớ? Đáp: Thấy thân tướng Phật, diệt được rất nhiều tội, bởi vì ở xa nghó nhớ thì hạnh khó sinh, thấy tướng quy y thì tâm sùng kính dễ khởi. Phép giáo hóa, thì đầu tiên khuyến dạy việc khó tu, sau khuyên thực hành hạnh dễ tập. Vả lại nhân gian nhiều khổ nên tâm ham thích sâu nặng, cõi trời nhiều vui cho nên tâm nhàm chán rất nhẹ, ở xa nhớ nghó thì trong một niệm là thời gian lâu dài, cho nên thuộc về ý niệm, còn thấy ánh sáng của Phật là thời gian ngắn tạm, nên thuộc về mắt thấy. Ở xa nghó nhớ thì diệt được nhiều tội, thấy tướng ánh sáng thì diệt tội ít, nghe danh hiệu quy y nhớ nghó thì diệt nhiều tôïi., tiểu kinh đã có văn nói rõ. Hỏi: Tạo hình tượng cúng dường thì được bao nhiêu công đức? Đáp: Công đức rất nhiều, vì thực hiện không gián đoạn thì sức nhớ nghó càng sâu. Trong đây chỉ nêu ít nghó nhớ, ít lễ kính, tạm thời nghe danh, nếu luôn luôn thấy nghe, luôn luôn kính lễ, mãi mãi cúng dường thì công đức lại càng thêm to lớn. Ba phẩm tu hành ở trước chỉ nói về phước báu được sinh, chưa luận đến tướng tội bị diệt, trong đoạn thứ hai luận về quy y đạt được lợi ích bất thoái. Nay luận thứ ba mới luận về việc diệt tội, tức là tổng luận bàn về chỗ nương vững chắc, khiến chúng sinh sinh tâm hoan hỷ, quy kính tôn sùng mà được lợi ích tội diệt. Chánh văn: Dẫu không được sinh về cõi trời Đâu-suất, thì ở đời vị lai cũng gặp được Phật Di-lặc dưới cội Bồ-đề, trên hội Long hoa, mà phát tâm Vô thượng đạo. Tán: Không thích sinh về vì nghiệp lực chưa đủ, thì ba hội Long hoa cũng sẽ phát đạo tâm. Hạng người trước thích sinh về, hành nghiệp ba phẩm sinh đã đầy đủ thì nơi ba hội Long hoa sẽ đắc đạo, còn ở đây chỉ mới phát tâm, nên có sai biệt như thế. Kinh Bồ-tát Xử Thai hai ghi: “Ông sinh vào quốc độ có nhiều vui thú, không như quốc độ nhiều đau khổ của ta sinh về, ông thuyết pháp rất dễ, ta thuyết rất khó, hội đầu tiên thuyết pháp có chín mươi sáu vạn là người thọ năm giới của ta, hội thứ hai thuyết pháp có chín mươi bốn vạn là người thọ Tam quy, hội thứ ba thuyết pháp có chín mươi hai vạn là người xưng Nam-mô Phật. Thực tế nếu Thượng phẩm sinh thì tu sáu pháp, kinh ấy chỉ nói thọ năm giới, là được độ ở hội thứ nhất, tức chỉ nêu lên việc hành giả tu một pháp trong sáu pháp, thuộc oai nghi không thiếu vì chỉ có một việc được Thượng hạ phẩm sinh. Thọ trì tam quy là được độ ở hội thứ hai; trong ba phẩm trung, thì thuộc về hạnh của Trung thượng phẩm sinh, vì đầy đủ ba nghiệp, chỉ xưng Nam-mô Phật là được độ ở hội thứ ba, trong ba phẩm hạ, thuộc về hạnh của Hạ hạ phẩm sinh, vì chỉ có miệng niệm mà thôi. Kinh trên chỉ nêu lên ba bậc của ba phẩm sinh vì đó là những pháp sở tu thô và thông tục mà thôi, chứ không hiển bày tất cả, cho nên không trái nghịch. Chánh văn: Nói những lời này xong, vô lượng Đại chúng từ tòa ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Đức Phật và lễ chân Bồ-tát Di-lặc, nhiễu Phật và nhiều Bồ-tát trăm ngàn vòng. Chánh văn: Đại chúng phát nguyện mong cầu gồm có hai: Đại chúng phát nguyện mong cầu. Phật thọ ký được sinh. Phát nguyện gồm hai: Luận oai nghi, phát nguyện. Đoạn này thuộc về phần đầu: Luận về oai nghi: Từ tòa ngồi đứng dậy biểu thị chúng sinh ở cõi kia từ sinh tử mà phát khởi, lễ chân Phật và Bồ-tát, biểu thị xả bỏ phiền não, nhiễu Phật và Bồ-tát một trăm ngàn vòng, hiển thị ý nghóa một trăm ngàn đời chẳng lìa chánh đạo. Chánh văn: Những người chưa đắc đạo mỗi mỗi đều nguyện rằng: “Chúng con là hàng trời người cùng tám bộ chúng, hôm nay ở trước Phật mà chân thật phát thệ nguyện: Nếu ở đời vị lai gặp được Đức Di-lặc, liền xả thân này mà sinh về cõi trời Đâu-suất-đà. Tán: Phát nguyện: Hàng chưa đắc đạo, là chỉ hàng phàm phu, còn bậc Thánh thì tùy nguyện. Như các bậc Thánh Bất hoàn, Vô học… dùng sức thần thông có thể đến được, vì muốn khuyến tán chúng sinh đời vị lai cho nên chỉ nêu phàm phu, mà không luận đến Thánh vãng sinh. Vị lai gặp ba hội thuyết pháp mà được độ. Xả thân này rồi mới nguyện sinh. Chánh văn: Thế Tôn thọ ký rằng: Các ông và chúng sinh ở đời vị lai người tu phước trì giới thì sẽ được vãng sinh đến trước Bồ-tát Di-lặc, được Bồ-tát Di-lặc nhiếp thọ. Tán: Phật thọ ký được vãng sinh: Các ông và chúng sinh đời vị lai, hành giả hạ phẩm sinh cho đến một niệm xưng danh hiệu Di-lặc đều được vãng sinh, hà huống tu phước trì giới, thượng phẩm chẳng được sinh sao? Tam thừa, ngũ thừa đều được độ thoát. Chánh văn: Phật dạy Ưu-ba-ly rằng: “Quán như thế gọi là chánh quán nếu quán khác gọi là tà quán. Tán: Tổng kết lập chánh quán: Vì muốn cứu độ chúng sinh đời vị lai cho nên ân cần khuyến tấn vãng sinh. Chánh văn: Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan từ tòa ngồi đứng dậy vòng tay quỳ dài mà bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Lành thay! Thế Tôn đã nói công đức của Bồ-tát Di-lặc và cũng đã thọ ký cho chúng sinh tu phước đời vị lai được quả báo vãng sinh, cho nên con hôm nay được tùy thuận vui mừng.” Tán: VĂN DANH HỶ HÀNH PHẦN gồm có bốn: Hỏi. Đáp. Chúng hiện tiền được lợi ích. Vui vẻ trở về và lưu thông kinh . Hỏi: Có hai: Tán thán tùy hỷ, chính thức nêu câu hỏi. Đoạn này thuộc về phần một. a. Tán thán tùy hỷ: Tán thán công đức và nghiệp quả của Thánh và phàm, cho nên trước luận bàn là nêu chung cho hai loại chiêu cảm. Chánh văn: Kính vâng Thế Tôn! Pháp yếu này phải thọ trì thế nào và kinh này nên đặt tên là gì? Tán: b) Chính thức nêu câu hỏi: Duy nhiên là lời kính vâng. Yếu chỉ vi diệu của kinh này phải thọ trì như thế nào và nghi quỹ thực hành gọi là gì? Chánh văn: Đức Phật bảo A-nan rằng: “Ông phải nhớ lời Phật dạy cẩn thận chớ để quên sót, hầu mở ra con đường sinh về cõi trời, chỉ bày tướng Bồ-đề cho tất cả chúng sinh đời vị lai, chớ để đoạn dứt giống Phật. Tán: Đáp: có hai: Thọ trì: Ta nay diệt độ, chúng sinh đời vị lai không có chỗ gá nương, nên khuyên giữ gìn, ban lệnh không được quên mất, để làm cho chúng sinh vị lai, gần thì được pháp lạc của trời, lìa trầm luân của bốn nẻo, xa thì chỉ bày diệu tướng Bồ-đề ra khỏi ba cõi mà được siêu thoát. Kinh còn thì có người trồng thiện căn, pháp diệt thì đoạn Phật chủng. Phật tức là giác ngộ viên mãn, chủng gọi là nhân tuệ, học cho nên tuệ sinh, chẳng học thì chủng đoạn trừ. Chánh văn: Kinh này tên là Di-lặc Bồ-tát Bát-niết-bàn, cũng có tên là Quán Di-lặc Bồ-tát Thượng Sinh Đâu-suất-đà Thiên Khuyến Phát Bồ-đề Tâm, các ông nên thọ trì như thế. Tán: Phần chánh trả lời: Vì nói về việc Bồ-tát Di-lặc Niết-bàn cho nên lấy đó đặt tên. Hiển thị tướng sinh về cõi ấy khiến chúng sinh chiêm ngưỡng, khuyến phát đạo tâm, lưu truyền mãi mãi, đó tức theo văn giải thích nghóa. Thọ trì như thế! Thọ tức tâm lãnh nạp, trì tức giữ gìn ghi nhớ không quên. Chánh văn: Phật nói lời này xong mười vạn Bồ-tát từ phương khác đến dự đã chứng đắc Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội. Tán: Chúng hiện tiền được lợi ích, có hai: Thánh được lợi ích. Phàm được lợi ích. Đoạn này thuộc phần đầu: Thánh ở phương khác chứng đắc Tam-muội. Chánh văn: Tám vạn ức vị trời phát tâm Bồ-đề đều phát nguyện theo Đức Di-lặc hạ sinh. Tán: Phàm được lợi ích: Không chỉ lúc ấy phát tâm, mà còn nguyện đến đời vị lai theo Di-lặc hạ sinh. Chánh văn: Phật nói lời này xong thì bốn chúng đệ tử cùng tám bộ, trời, rồng, đều rất vui mừng, đảnh lễ Phật rồi lui ra. Tán: Vui vẻ trở về và lưu thông: Được việc chưa từng có cho nên vui mừng như thế!. Việc đã xong y theo lời dạy lui về để lưu truyền. Ác quả ác nhân sinh vào chỗ tận cùng của thế tục, trước Phật sau Phật trưởng dưỡng trong cõi loạn động bất an. Thích sinh Tịnh độ mà diệu hạnh chẳng thành, như muốn cầu mong thiên cung mà e sợ rằng thắng nhân không kết quả Tịnh độ. Tuy không ô nhiễm, nhưng Thánh giáo tự có sai biệt, thiên cung tuy có dục lạc, nhưng đạo lý nhất định chẳng nghi, chán trần cảnh thì gặp cảnh nhiễm mà chẳng nhiễm; đắm dục lạc thì gặp việc chẳng nhiễm mà thành nhiễm, thì giới nghiệp chẳng tròn, phước tuệ cạn nông; Phật đã ứng căn cơ chúng sinh mà hiện uế độ, phàm cũng hợp cảnh Thánh mà thích sinh về. Các bậc thượng thánh thượng hiền đều tu tập hạnh nghiệp này thì hạ phàm hạ vị đâu lý nào lại vượt qua? Cho nên, những người đồng hành thì nên chuyên tâm tu tập, tất cả đều trình bày nghiên cứu đầy đủ mong rằng có được nhân thượng sinh. Còn tất cả những dấu vết khác thì như trong phần biệt truyện đã ghi. Tống Cao Tăng Truyện bốn ghi: “Về sau tự đến núi Ngũ đài, vừa lên Thái hành đến Tây hà, thì trời tối liền tá túc tại một ngôi chùa cổ, đêm ấy mộng thấy mình đang ở dưới gộp đá lưng chừng núi, nghe vô lượng tiếng kêu thống khổ, trong khoảng mờ mịt nghe thật bất nhẫn, bèn chạy lên đỉnh, thì thấy toàn là màu lưu ly chiếu rõ tất cả cõi nước, ngửa nhìn lên một tòa thành, trong đó có tiếng bảo rằng: Dừng lạí! Dừng lại! Cơ công chưa được đến đó. Bỗng chốc từ trong thành, bước ra hai đồng tử nói rằng: “Ngài thấy những chúng sinh đang kêu la thống khổ ở dưới núi chăng?” Đáp: “Tôi chỉ nghe mà chưa thấy hình.” Đồng tử bèn trao cho thanh kiếm mà nói: “Mổ bụng ra sẽ thấy.” Ngài Khuy Cơ bèn mổ bụng. Tự nhiên trong đó có hai đường ánh sáng chiếu xuống chân núi, thấy vô số tội nhân chịu vô lượng thống khổ. Bấy giờ, đồng tử vào thành mang ra hai trục giấy và bút giao cho Khuy Cơ và đi mất. Đến sáng thức dậy vẫn còn kinh sợ không thôi, đêm sau trong chùa có ánh sáng phát ra, rất lâu mà chưa tắt, liền đi tìm thì biết ánh sáng phát ra từ hai cuộn giấy. Mở ra xem thì đó là kinh Di-lặc Thượng Sinh, bèn nhớ lại giấc mộng đêm trước, ắt là Bồ-tát Từ thị bảo ta tạo sớ để truyền bá yếu lý kinh, do đó mở bút ra, bỗng nhiên đầu bút có mười bốn viên xá-lợi rơi ra lớn như hạt đào màu hồng rất đẹp, kế đó lại tiếp tục rơi xuống những viên khác giống như những hạt lúa cao lương màu vàng… Nương theo sớ hiểu nghóa. Giảng nói lý kinh này. Vui thích hành pháp thí. Nguyện sinh về Đâu-suất. Từ Tôn, được giáo giới. Hiển vô tướng Pháp thân.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 136