<經 id="n1767">ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH SỚ (QUYỂN 1 ~ 3 3) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ Đời Tùy, Pháp sư Chương An Quán Đảnh soạn. Đời Đường Sa-môn Trạm Nhiên, tông Thiên Thai hiệu đính. <卷>QUYỂN 1 BÀI TỰA KINH NIẾT-BÀN BẢN NAM Đời Nguyên,Viện Sùng Thánh Sa-môn Sư Chánh thuộc tông Thiên Thai soạn thuật. Đức Phật của chúng ta là bậc Đại Thánh trong hội Song lâm cuối cùng giảng nói kinh này cho các Tỳ-kheo đời mạt pháp và các chúng sinh trên khắp mặt đất rõ tâm thấy tánh, đầy đủ giới luật, mở rộng tông Thường, Ma-ha Chỉ Quán nương theo đó mà phò luật bàn Thường. Dụ cho chuộc mạng bằng châu báu, nên kinh nói: Nếu kinh này còn thì Phật pháp còn, nếu kinh này diệt thì Phật pháp diệt, mạng mạch của Phật pháp còn mất đều lệ thuộc vào đó. Bắt đầu từ việc Thư Cừ Mông Tốn thỉnh Pháp sư Đàm-vô-sấm và Pháp sư Mãnh hai lần phiên dịch, gồm mười ba quyển, thành bốn mươi pho, lưu hành về phương Bắc. Đến đời Tống Văn Đế ban sắc cho hai sư Nghiêm và Quán, đồng cảm tạ Khang Lạc, lại cùng nhau trị định, chia thành hai mươi lăm phẩm, rút ngắn thành ba mươi sáu pho, lưu hành về Giang Nam. Trong thời gian đó, người nói, nghe, lãnh ngộ rất đông, các tác phẩm được soạn ra cũng nhiều, như Tăng truyện có ghi. Cách Thánh càng xa, thần căn chuyển hành trì độn. Tổ của tôi là Tôn giả Chương An dựa theo Tông chỉ của Long Thọ và dùng nghóa môn Thiên Thai soạn sớ chia kinh rất phù hợp với ý Phật, ngài Kinh Khê san bổ, đạo pháp thêm sáng. Sau khi ngài Từ Vân ở Tứ Minh giảng Cô Sơn Tác Ký thì thưa thớt ít người nghe. Vì sao? Vì văn kinh mênh mông, nghóa sớ sâu kín, thêm vào đó khoa chưa nhập kinh, khó bề tìm kiếm. Ngài Sư Chánh khắc chí sách này có lúc hoàn thành. Vào năm Nhâm thân đời Tống, Pháp sư Ngụ Cổ Nguyên làm Thượng thủ dưới trướng ngài Vónh Thanh Luân, bèn mô phỏng theo thể lệ của kinh Pháp Hoa và Quang Minh dùng khoa cú của sớ phân nêu trong kinh. Những gì sớ không nhắc lại là đều khó quyết định, cùng các bạn phân tích qua lại. Phương trượng chủ quyết định thì phải quy về đây. Mỗi đêm nhóm họp dưới mái Mạo Phong, chuyền nhau nghe đọc kinh khoa sớ ký. Việc dự định nhóm họp này là do Đại Từ Hoài Tổng, Báo Từ Đại Thành, Đại Vân Cư Giản, Thọ Tinh Văn Thắng, Long Hoa Thanh Chính, Viên Hoa Hoài Thản, Thiên Trúc Pháp Hàng. Bắt đầu từ tháng tám mùa Thu này và kết thúc vào cuối mùa Xuân năm sau, Vô Cực Đông Đường đáng độ, được hiệu đính lại. Tăng Lục Đạo An ở Bạch Vân Cổ Sơn xem xét lưu thông, nguyện cùng người sau thọ trì đọc tụng, đúng như lời dạy tu hành. Trên không cô phụ Phật Tổ, dưới không quên bỏ tánh linh của mình. Chúc thọ một người mà công đức thấm nhuần chín cõi. Soạn lời tựa vào ngày Thánh chế, năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Chí Nguyên. --------------------------------- <詞>PHẨM 1: TỰA (PHẦN ĐẦU) Từ xưa đã chủ trương việc y văn giải thích ý nghóa, còn chia chương đoạn bắt đầu phát khởi từ Tiểu Sơn Dao, Quan Nội Phùng v.v… Do đây thành phép tắc. Nên văn cú của kinh này kéo dài ra, rút ngắn lại chẳng phải một mà có đến hai, ba, bốn, năm, bảy, tám loại. Như Lương Vũ Đế chỉ lập trung tiền, trung hậu; Khai Thiện chỉ lập phần Tựa và Chánh tông; Quang Trạch lại thêm phần Lưu thông; Linh Vị thì hỏi có duyên khởi, đáp thì có dư thế; Hà Tây lập ra năm môn; Bà-tẩu nêu bảy phần; Hưng Hoàng lập tám môn. Tuy mỗi môn đều có điểm đặc sắc riêng mà đều cho kinh ngăn che, luận khai mở, như “mục nữ thêm nước” là ngăn che, “làm cạn chỗ sâu, chia bớt gánh nặng” là khai mở. Nay kinh này được chia làm năm môn, qua bảy phần giải thích: 1.- Nêu chương. 2.- Chỉ chỗ. 3.- Giải thích tên gọi. 4.- Sinh khởi. 5.- Chung riêng. 6.- Dẫn chứng. 7.- Giải thích khác. 1/ Nêu chương: gồm có năm: Triệu thỉnh chúng Niết-bàn. Khai diễn thiết lập Niết-bàn. Thị hiện hạnh Niết-bàn. Hỏi đáp nghóa Niết-bàn. Chiết phục nhiếp thọ dụng Niết-bàn v.v… 2/ Chỉ chỗ văn: Đầu tiên từ “như thị” cho đến “máu chảy ướt đất” là triệu thỉnh, từ phẩm Thuần-đà đến phẩm Đại Chúng Vấn là thiết lập; từ phẩm Hiện Bệnh đến phẩm Đức Vương là hạnh; toàn phẩm Sư tử là nói nghóa; từ phẩm Ca-diếp đến hết kinh là dụng. 3/ Giải thích tên gọi: Đạo chẳng thể một mình vận hành phải có đủ thời, xứ và bạn. Nay thời Niết-bàn đã đến nên ở miệng phát ra ánh sáng, tùy loại phát ra âm thanh làm tỉnh ngộ, giúp tất cả đều cảm được mà nhóm họp đến rừng Câu-thi-na này. Do duyên dẫn đến gọi là Triệu, mời gọi đến là Thỉnh. Đại chúng thì có Quyền và Thật, Quyền thì triệu, Thật thì thỉnh, năm mươi hai chúng ở mười phương đều nhóm họp đến là vì việc hiển phát Đại Bát-Niết-bàn. Cho nên gọi là triệu thỉnh chúng Niết-bàn. Từ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, Đức Phật đã nhóm họp tạng đại Niết- bàn khó được này, vốn không có gì bí mật sẻn tiếc, nhưng do người không thể lãnh thọ hết, cho nên đầu tiên bôi thuốc độc, sau đó tẩy rửa; trước thì đồng, sau thì khác, mà đợi tìm thời cơ. Như do Thuần-đà hiến cúng mà thiết lập sắc, lực thường; nhân Tỳ-kheo thỉnh trụ mà bài bác hư dối nói chân thật, hết lòng khuyên hỏi, Ca-diếp lãnh thọ chỉ thú, tùy câu hỏi mà thí cho, khiến tất cả không còn ngăn trệ, vì mưa pháp tràn đầy khắp thành Câu-thi này, nên gọi là khai giảng thiết lập Niết-bàn. Nhưng tạng Bí mật sâu lắng, nếu chẳng thực hành thì chẳng thể đến, nên Đức Phật dùng phương tiện khéo léo thị hiện giúp chúng sinh tu tập, trước đạt được ba đức bí tạng, cho nên Đức Thế Tôn nằm ng- hiêng hông bên phải im lặng không nói, không chỉ bày, thị hiện hạnh bệnh, đến khi ngài Ca-diếp thưa hỏi thì ngồi kiết già, nói ba chỉ cho một, Bồ-tát vâng thực hành năm hạnh, mười đức, cho nên gọi là thị hiện hạnh Niết-bàn. Nhưng vì nghóa Niết-bàn rộng lớn vô tận, muốn nêu lên một thì bao gồm nhiều, như nói mặn mà luận về biển. Cho nên liên tục sáu lần chỉ hỏi về Phật tánh, Đức Phật trả lời đầy đủ từng vấn đề một, nhưng thể của Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải ác, thiện ác đều dụng, cùng khắp không bến bờ. Vả lại, dùng rộng lớn bao gồm sơ lược, dùng sơ lược để thâu gồm rộng lớn. Nếu dùng thiện thì La-vân được nhiếp thọ, dùng ác thì Thiện Tịnh bị thâu phục. Hai người đã như thế thì những người khác đều có thể y theo đó mà biết. Vả lại, thể chẳng phải tà chánh mà tà chánh song dụng, như dùng chánh thì đầu tiên nhiếp thọ năm anh em Trần như, dùng tà thì cuối cùng thâu phục tà đồ và mười ngoại đạo. Đầu tiên và cuối cùng đã như thế thì khoảng giữa cũng như thế, nên gọi là dụng Niết-bàn. 4/ Sinh khởi: Do có chúng nên mới có thí pháp, do thí nên lập ra hạnh, do hạnh mà thấy nghóa, chứng nghóa thì có dụng, cũng có thể nói dụng do nghóa, nghóa do hạnh, hạnh do thí, thí do có chúng nhóm họp, nghịch thuận làm nguyên do cho nhau, nên thành ra thứ lớp. Chẳng có bắt đầu mà bắt đầu, nên có triệu thỉnh, chẳng chung cuộc mà chung cuộc, nên có đại dụng. Ác hết thì tà tiêu, thiện dứt thì chánh cũng bặt. Việc chiết phục, nhiếp thọ đã xong thì rốt ráo vắng lặng, nhập vào Niết-bàn. 5/ Chung riêng: Đầu tiên, khoảng giữa và sau cùng, tất cả đều vì đối với chúng mà giảng nói, nếu không có chúng thì chỉ là nói suông mà không có ai lãnh thọ, nên nói chung là tất cả chúng, còn nói riêng là các chúng nhóm họp đầu tiên, nên gọi là triệu thỉnh. Nói chung thì một lời một việc đều thí cho tất cả chúng sinh, nói riêng là đối với người thưa hỏi, do người cầu mà ban cho, câu văn đã nhiều thì sự việc ấy cũng rõ, nên gọi là giảng nói thí Niết-bàn. Nói chung thì việc dạy dỗ chúng sinh đều có khuôn phép đều gọi chung là hạnh, nhưng nói riêng là năm hạnh mười đức; văn rõ thì việc hiển, nên gọi là hạnh Niết-bàn. Kinh này trước sau đều nói về Phật tánh, Phật tánh là chung thì không nơi nào chẳng luận, còn riêng thì một phen hỏi đáp chỉ nói về Phật tánh, văn nhiều thì sự hiển, nên gọi là nghóa Niết-bàn. Nói chung thì cả một bộ đều dẫn dắt, làm lợi ích chúng sinh, như cỏ thuốc trên mặt đất này dùng chung cho tất cả chúng sinh, pháp ta cũng như thế, nên gọi là Chung. Nếu nói riêng thì chỉ gồm thâu tà ác, văn nhiều thì ý hiển, nên nói riêng về Dụng. 6/ Dẫn chứng: Đầu tiên là dẫn nhiều văn, kế đó là dẫn một nơi. Dẫn nhiều văn: Như phát ra âm thanh, phát ra ánh sáng thông cáo cùng khắp, khiến mọi người mau đến chỗ ở của Phật, vì câu hỏi cuối cùng, há chẳng phải là triệu đến ư? Phẩm Sư Tử Hống ghi: “Phát ra tiếng rống sư tử, triệu thỉnh các Đại Bồ-tát trong mười phương đến rừng Sa-la.” Phẩm Thuần-đà ghi: “Nay ta ban cho ngươi thường mệnh, sắc, lực.” Phẩm Đức Vương ghi: “Nay ông muốn đến tận biển Đại Niết- bàn, gặp ta có nhiều năng lực ban cho tuệ thí.” Phẩm Thánh Hạnh ghi: “Bồ-tát đối với Đại Niết-bàn, phải chuyên tâm tu tập năm hạnh.” Lại ghi: “Tu Đại Niết-bàn được mười công đức.” Trong phẩm Sư Tử Hống thì dùng sáu câu hỏi về Phật tánh như: “Vì sao gọi là Phật tánh?” Như Lai trả lời đầy đủ, Phật tánh là nghóa của Đại Niết-bàn. Phẩm Ca-diếp ghi: “Tâm từ đi khắp thế gian, thế gian chẳng ngoài thiện ác, tà chánh.” Chuyển mười tiên ngoại đạo, nhiếp một kẻ ác, tức là dụng Niết-bàn. Dẫn văn một nơi, phẩm Sư Tử Hống ghi: “Phật tánh cũng gọi là Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, cũng gọi là Tam-muội Sư tử hống, cũng gọi là Phật tánh”, nhưng Phật tánh chẳng phải một, vì sao lại nói có năm? Vì dùng năm tên gọi, khiến cho hiểu chẳng phải năm. Chúng được triệu thỉnh đều là đồng hạnh tri thức của Như Lai. Nếu từ gốc đức thì đều trụ nơi Lăng-nghiêm, nếu từ thị hiện thì đó là năm mươi hai chúng, cho nên dùng tên gọi Thủ-lăng-nghiêm để chứng minh cho chúng được triệu thỉnh. Nay nói thêm rằng năm mươi hai chúng tức là gồm ba chúng như Tỳ-kheo v.v… một chúng Bồ-tát là một, từ hai hằng hà sa đến ngàn ức hằng hà sa, Tăng số chúng có hai mươi mốt, chúng đồng số có tám, vô số chúng là một, chúng trung gian có bốn: Chư thiên sáu tầng trời cõi Dục, Phạm thiên, Tu-la, Trời Ma, trời Đại tự tại, Tứ phương có bốn; hợp chung có năm mươi hai. Đức Vô Thượng Điều Ngự dùng Nhất thiết chủng trí, chiếu soi cùng khắp các cơ và lý không mảy may khác nhau, khai mở chân thường, hiển bày thật tánh, khai mở Giác tạng để ban phát cho chúng hội đương thời. Nếu từ trí Phật thì gọi là Bát-nhã, nếu từ việc lập giác thì gọi là Niết-bàn thí, Nên biết tên gọi Bát-nhã vì sao dùng để chứng minh cho Niết-bàn thí? Đó gọi là năm mươi mốt hạnh chân chánh nhu hòa chất trực, chẳng thể nghiêng động, mà có khả năng đập nát phiền não kết hoặc; nếu từ việc tu tập thì gọi là Hạnh, nếu từ thí dụ thì dụ như Kim cương, nên biết Tam-muội Kim cương có thể dùng để chứng minh cho hạnh Niết-bàn. Nghóa tức là chỉ thú của danh, cho nên ẩn dưới danh từ Niết-bàn đã có chỉ thú của Phật tánh, Phật tánh là nghóa Niết-bàn. Nghóa này tự tại, quyết định, không sợ sệt. Nếu từ chủ thể thí dụ thì dụ như sư tử hống, nếu từ đối tượng để thí dụ tức là nghóa Phật tánh. Nên biết tên gọi Sư tử hống có thể chứng minh cho nghóa Niết-bàn. Thể Dụng tức là nhau thì trong tất cả pháp đều có tánh an lạc đều là Phật tánh; Tức thể mà Dụng thì năng du hóa thế gian, nhiếp ác nhiếp tà đều trở về chân thiện. Nên biết tên gọi Phật tánh có thể chứng minh cho dụng của Niết-bàn. Nay đã y theo kinh chia chương, văn nghóa có nơi y cứ, chứ chẳng phải phân biệt suông. 7/ Nêu giải thích khác: Lương Vũ Đế lập Trung tiền, Trung hậu là y cứ theo thời gian để chia văn kinh. Nếu thế theo sáng sớm và buổi chiều thì có thể được, còn hoàng hôn và nửa đêm thì lại xếp vào văn nào. Kinh Cư Só Thỉnh Tăng ghi: “Nói pháp này trải qua một vòng, đó là Trung tiền, Trung hậu của năm nào?” Nay tùy theo pháp mà chia chương thì chẳng có lỗi này. Khai Thiện lập hai phần là Tựa và Chánh.Tựa là triệu thỉnh, Chánh là bốn chương. Quang Trạch có cả phần Lưu thông, nhưng ít chia chương. Linh Vị lập hai phần là: Về hỏi có duyên khởi, về đáp có dư thế, vậy chỗ nào cũng đều có hỏi đáp, vậy chỗ nào cũng có dư thế. Như Hà Tây dùng hai quyển đầu làm môn Hữu duyên dẫn dắt xưa nay, thì được thật mà mất quyền, còn ở đây lập ra môn Triệu thỉnh là bao gồm quyền thật. Lấy quyển thứ ba đến phẩm Đại Chúng Vấn làm môn Rộng lược, đó là chỉ y cứ theo văn từ nhiều ít, ở đây lập môn Khai diễn Niết-bàn thí thì gồm cả lược và rộng, dùng năm hạnh làm môn Niết-bàn hạnh, mười công đức làm môn Công đức Bồ-tát, hạnh và công đức đều ở trong nhân, nên ở đây hợp thành chương hạnh thì văn không dài dòng. Từ phẩm Sư Tử đến hết kinh lấy làm môn Phật tánh Trung đạo chẳng thể nghó bàn, thế thì lẫn lộn khó hiểu, nay chia ra nghóa và dụng thì dễ hiểu văn ý hơn. Các sư Địa Luận lấy quyển thứ nhất làm phần Thần thông phản thị, thì được quyền mà mất thật, ở đây lập triệu thỉnh thì không bị ng- hiêng lệch; kia lấy quyển thứ hai làm phần Chủng tánh phá nghi dứt chấp, từ quyển thứ ba Đến phẩm Đại Chúng Vấn là phần Chánh pháp thật nghóa, ở đây lập chương Niết-bàn thí là gồm đủ hai phần trên. Kia lấy năm hạnh mười công đức làm phần Phương tiện tu thành, lấy phẩm Sư Tử Hống làm phần Bất phóng dật chứng nhập; nhưng phần tu thành ở trước đã là chứng nhập, chứng lại nhập chứng, chẳng phải là phiền phức trùng lặp sao? Ở đây hợp thành chương Nghóa. Kia lấy phẩm Ca-diếp làm phần Từ bi trụ trì, phẩm Kiều-trần-như làm phần Hiển tướng; ở đây lấy các việc dứt ác hướng thiện, hiển tà về chánh, hợp thành chương Dụng. Như Hưng Hoàng thì đầu tiên trích dẫn môn Kim tích hữu duyên là dùng ý của ngài Pháp Lãng; thứ hai là môn Phá nghi trừ chấp là dùng ý của các sư Địa Luận, thứ ba là Lược quảng môn, thứ tứ là môn Hạnh, thứ năm là môn Vị, môn thứ sáu là môn Hành Trung đạo đều dùng ý của Pháp Lãng; môn Phương tiện dụng, môn Tà chánh không hai thì có khai hợp, khác với thuyết của Hà Tây, nhưng danh nghóa chẳng khác. Giải thích riêng: Chương Triệu Thỉnh là do các nhà chú giải kinh lập ra, xưa gọi là Tựa chung, Tựa riêng. Vì ba đời đều nói đồng nhau nên gọi là Tựa chung, vì căn cơ chủng loại của giáo môn khác nhau, nên gọi là Tựa riêng. Vả lại, đối với các giáo Đại, Tiểu, Biệt, Viên mà Đức Phật đã nói ra trong một đời giáo hóa đều có đặt “Như thị”, nên gọi là Chung, nhân duyên của mỗi kinh đều khác nhau, nên gọi là Riêng. Lại các kinh, đầu tiên đều có hai chữ “Như thị”, tức đồng là từ ngữ “khuyến tin”. Trong phần Tựa chung có năm hoặc sáu việc, tùy theo chủ và xứ chia hay hợp: Như thị là lý được truyền; tôi nghe là người truyền; một thời là năng truyền và sở truyền, là thời hợp cơ hợp lý; Phật là chủ được tôn thờ; Trụ là nơi được nghe; chúng tức là bạn trực tiếp thọ nhận, tất cả xoay vần chứng minh khuyến tin lẫn nhau, chẳng phải luống dối, muốn cho mai sau thuận theo mà chẳng nghi ngờ. Hơn nữa, các kinh Đại Tiểu thừa, đầu kinh đều có lời khuyên tin, tin Đại thừa, tin Tiểu thừa, thì Đại Tiểu khác nhau. Nếu chẳng khác thì không có Tiểu, Đại, Biệt, Viên khác nhau. Nếu có khác nhau thì làm sao phân biệt được? Nay lược giải thích, nếu nói năng truyền và sở truyền tương tựa nhau là Như, năng truyền và sở truyền chẳng trái là Thị, thì đó là tin theo ý của Tam Tạng giáo, nếu nói giải hợp với chân là Như, thân tàn trí diệt là Thị, thì đó là tin theo ý của Thông giáo. Nếu nói xứng cơ là Như, sự nghịch lý thuận là Thị, thì đó là tin theo ý của Biệt giáo; nếu nói cõi ma tức cõi Phật là Như, một sắc một hương đều Trung đạo là Thị, thì đây là Tin theo ý của Viên giáo. Như thị đã thế thì tôi nghe v.v… là so sánh cũng rất dễ hiểu. Cho nên ngài Long Thọ nói nếu tin thì nói việc ấy như thị, nếu chẳng tin thì nói việc ấy chẳng như thị. Ba nghóa tin đầu là tin của Phương tiện quyền như thị, một tín sau là tín của Viên dung nhất thật như thị. Tựa chung riêng này các Sư đều sử dụng, thế gian thường được nghe, chẳng cần phải nói nhiều, đã giải thích đầy đủ trong Pháp Hoa Sớ. Ở đây chỉ y cứ theo một nghóa giáo, vì các nghóa kia đều y cứ vào đó. Nay nói năm câu của Tựa chung, cũng có thể nói là Tựa đối với năm chương. Trong đó, “Như thị” là tựa thỉnh, “tôi nghe” là tựa thí, “một thời” là tựa hạnh, “trụ xứ” là tựa nghóa, “cùng nghe” là tựa dụng. Như thị là tựa Niết-bàn chúng, chẳng khác là Như, không trái là Thị, nếu chẳng được Như thị hoặc khác thì nhất định là khác, trái thì nhất định là trái. Người đạt được ý này, biết khác chẳng phải khác, trái chẳng phải trái. Đầu tiên từ loài trùng kiến trở lên đều là khác loài khác hình, quả báo rối rắm, cho đến chư Thiên, Phạm thế, lọng báu che khắp tam thiên lớn nhỏ, tinh thô khuynh đoạt lẫn nhau, nếu dùng mắt trâu dê mà nhìn thì đều thấy trái nhau, đâu được “như thị” ư? Người đạt được Như thị biết Pháp thân Đại só, trong Thủ-lăng-nghiêm, thị hiện các thân hình, biết khác chẳng phải khác, vì thế gọi là Như, biết trái chẳng phải trái nên nói là Thị, nên biết “Như thị” là tựa triệu thỉnh chúng. “Tôi nghe” là tựa thí Niết-bàn: Ta xưa chẳng nghe mà nay lại được nghe, thấy tám hộc lương thực ban phát khắp cả đại chúng, nghe về quả báo của hai thời bố thí bình đẳng không khác nhau, chữ mới, bốn đức Niết-bàn, Phật tánh bí mật. Tất cả các pháp vị chưa được nghe thì được nghe, cho nên biết “tôi nghe” là tựa Niết-bàn thí. “Một thời” là tựa hạnh Niết-bàn: Hạnh “một thời” chẳng phải hạnh có thứ lớp, chứng “một thời” chẳng phải là chứng có trước sau. Văn kinh ghi: “Lại có một hạnh là hạnh Như Lai, chẳng phải là hạnh thứ đệ”, trong một niệm đều đầy đủ, hiện thân trong năm đường, cùng lúc chứng đắc, nên biết “một thời” là tựa hạnh Niết-bàn. “Chổ ở” (trụ xứ) là tựa nghóa Niết-bàn: Xứ là nơi thân trở về nghỉ ngơi, nói lên Phật tánh là chỗ rốt ráo của tông, xua tà dẫn ác hướng về Câu-thi-la, chẳng khô chẳng tươi mà ở khoảng giữa vắng lặng, tự tha đến chỗ cùng tột thì đều dứt bặt. Cho nên biết “nơi chốn” là tựa nghóa Niết-bàn. “Cùng nghe” là tựa dụng Niết-bàn: Các thần núi, rừng, sông, biển; các loại bò dê, sâu bọ, rắn rết đều là chúng cùng nghe; tức cùng dạy dỗ ba người con, cùng làm ba thứ ruộng, thiện ác đều gồm thâu, tà chánh đều hóa độ, cho nên biết chúng “cùng nghe” là tựa dụng Niết-bàn. Đã phối hợp riêng năm tựa và năm chương, bây giờ lại nói một tựa có tựa của năm chương. Nói về chúng thì chẳng ngoài tám Phật, tám Phật và Phật hiện tại chẳng khác là Như, chẳng trái với Phật là Thị, hai thời thí không khác nhau nên gọi là Như, đồng vào bí mật nên gọi là Thị; là hạnh của Như Lai nên gọi là Như, một hạnh gồm thâu tất cả ha- ïnh gọi là Thị; cùng một Phật tánh là Như, nghóa và thể chẳng hai là Thị. Tà ác chẳng hai là Như, không lỗi là Thị. Cho nên biết Như thị là tựa chung cho cả năm chương. Tôi nghe cũng như thế, xưa nghe bốn chúng chẳng phải là tám Phật, nay nghe tám Phật tức bốn chúng, xưa con nghe nói trước sau có hơn kém, năm quả đổi dời, nay con nghe được hai thời bố thí bình đẳng không khác nhau đều là Thường, Lạc. Xưa được nghe sông suối quanh co, chẳng chảy thẳng ra biển, nay được nghe sông Câu- da-ni (sông Kim sa) như sợi dây thẳng tắp đổ ra biển, xưa nghe nói mắt thịt còn chẳng thấy không, huống chi thấy tánh, nay nghe nói người tu học Đại thừa tuy có mắt thịt mà gọi là mắt Phật, mắt Phật thấy tánh rõ ràng thấu suốt. Xưa nghe thiện ác như sông Vị trong, như sông Kinh đục, tà chánh khác đường, nay nghe nói cá Để-nhó và thần rùa đều cùng ở dưới nước. Đó là “tôi nghe” là tựa chung của năm chương. “Một thời”, tức “một thời” phát ra ánh sáng, phát ra âm thanh triệu thỉnh, “một thời” nhóm họp đến rừng Ta-la, “một thời” hiển tạng bí mật của Như Lai, “một thời” nghe thí Niết-bàn thường, “một thời” nghe cung kính vâng làm, “một thời” an trụ trong tạng bí mật, nhập vào nghóa Niết-bàn, “một thời” đã nghe hai chữ Thường Trụ, khai phát cha mẹ thân thích bảy đời và các chúng sinh oán thân, thiện ác. Cho nên “một thời” là tựa chung của cả năm chương. “Nơi chốn”, phát ra ánh sáng và phát ra âm thanh đồng triệu thỉnh đến chỗ Phật, Đức Phật dùng nơi chốn của Phật để ban phát cho chúng hội đương thời; từ nơi chốn của Phật mà khởi hạnh Niết-bàn, thấy nơi chốn của Phật chính là thấy nghóa, vì nơi chốn của Phật dẫn dắt kẻ tà ác, cho nên “nơi chốn” là tựa chung của năm chương. Đồng thấy nghe âm thanh và ánh sáng thường trụ, là Như, chứ chẳng nghe các phương tiện khác, cho nên đồng nghe sự hỏi đáp cuối cùng; về thường mệnh, sắc, lực, an ổn, vô ngại biện; cùng nghe hạnh trực nhập như sông Câu-da, cùng nghe nghóa bí tạng như biển Tây, “cùng nghe” tà ác có dụng của Phật tánh. Vì thế chúng cùng nghe là tựa chung của năm chương. Năm tựa, mỗi tựa đối với ba điểm thì “Như thị” là tựa chung của ba điểm, chẳng dọc chẳng ngang, chẳng chung chẳng riêng, nên gọi là Như thị; “Tôi nghe” là tựa Bát-nhã; “Một thời” là tựa Giải thoát; “Nơi chốn” là tựa pháp thân; Cùng nghe là tựa ba điểm chẳng luống dối. Năm tựa là tựa của bốn đức, trong đó “Như thị” là tựa chung của bốn đức, “tôi nghe” là tựa Lạc, “một thời” là tựa Tịnh, “nơi chốn” là tựa Thường, “cùng nghe” là tựa Ngã, dùng năm tựa để nêu lên nghóa chính của tựa kinh. Tất cả đều y cứ vào đây, chẳng cần phải nói nhiều, các nghóa khác tự suy nghó cũng dễ hiểu. Ngã văn (Tôi nghe): Có ba loại “Tôi nghe”: Tôi tôi tôi, không tôi không tôi tôi, chẳng phải tôi chẳng phải không có tôi; nghe nghe nghe, chẳng nghe chẳng nghe nghe, chẳng nghe chẳng phải chẳng nghe (Ngã ngã ngã, vô ngã vô ngã ngã, phi ngã phi vô ngã, văn văn văn, bất văn bất văn văn, bất văn phi bất văn), là nghóa phương tiện đã được nghe từ xưa, còn viên nói về “Tôi nghe” là chẳng phải tôi chẳng phải không tôi, chẳng nghe, chẳng phải chẳng nghe, là ý chánh của kinh này. Nhất thời (một thời): Cho một (nhất) là số, là nghóa của thế gian, Không là một là nghóa của Nhị thừa, chân tục hợp thành một là nghóa của Bồ-tát; một tức tất cả, tất cả tức một, chẳng phải một chẳng phải tất cả mà một và tất cả chính là ý “một thời” của kinh này. “Phật” gồm có ba thân bốn nghóa, nghóa sau cùng là ý kinh này, y cứ theo trước cũng có thể biết. “Trụ xứ” (Nơi chốn): Âm Phạm gọi đủ là Câu-thi-na-kiệt, Hán không dịch, hoặc dịch là Giác thành, vì có ba góc. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Phía Nam Giác thành,” tức là chỉ cho thành này, hoặc gọi là thành Thoa thảo hay thành Mao, vì ngôi thành này lợp bằng tranh nên gọi như thế. Hoặc gọi là thành Tiên nhân, vì khi xưa có một vị tiên Trường Thọ ở đây, vì tôn kính vị tiên này nên dùng tên tiên đặt tên trụ xứ, cũng đặt tên cho một nước, nên gọi là nước Câu-thi. Lực só sinh địa, tức là hàng lực só trong nhân gian có sức mạnh địch lại muôn người, nhóm họp khoảng ba mươi vạn người cùng sống tại một nơi, không lập ra vua quan, mà cùng nhau tự sống theo luật pháp, cũng không bao giờ có bạo loạn, tức là kẻ só, nên gọi là sinh địa. “A-di-la-bạt-đề” tức là sông Kim sa, rộng hai mươi trượng, nằm ở phía Nam của thành này, hoặc có nơi cho là rộng bốn mươi trượng. “Ta-la song thọ”, Hán dịch Ta-la là kiên cố, mỗi phía hai cây, bốn phía tám cây, đều cao năm trượng, bốn cây khô, bốn cây xanh tốt; phía dưới thì rễ liền nhau, phía trên thì cành lá hợp nhau, hợp nhau tựa như liền nhau, khô tươi tựa như giao nhau; cành lá sum suê, hoa lớn như bánh xe, quả lớn như chiếc bình, ngọt như mật, có đủ sắc, hương, vị; nhân đó lấy tên tám cây này đặt tên cho rừng là rừng Kiên Cố. Chỉ một ngôi thành này mà thấy khác nhau, nếu thấy đất đá thì đó là trụ xứ của người, thuộc về nghóa thế gian, nếu thấy vô thường, khổ, không, hưng phế, thì đó là nghóa trụ xứ của Nhị thừa; nếu thấy là nơi phát tâm Bồ-đề, là nơi gặp Phật ở quá khứ, là nơi nguyện, nơi tu thiền định, v.v… thì đó là trụ xứ của Bồ-tát; nếu thấy bốn đức tròn đầy, rốt ráo đầy đủ, từ bi xót thương thì chỉ cho người, Mao thành biểu thị cho Thường, lực só biểu thị cho Ngã, sông Kim sa biểu thị cho Tịnh, giữa hai cây Sa-la biểu thị cho Lạc. Lại mỗi việc đều biểu thị cho bốn đức như ngôi thành chẳng hư hoại biểu thị cho Thường, dồi dào biểu thị cho Lạc, ngăn địch biểu thị cho Ngã, không có các mạn biểu thị cho Tịnh; lực só không có thần biểu thị cho Thường, tâm an biểu thị cho Lạc, mạnh khỏe biểu thị cho Ngã; dung mạo vui hòa biểu thị cho Tịnh. Sông thường chảy biểu thị cho Thường, cát vàng biểu thị cho Tịnh, trong mát biểu thị cho Lạc, phước lành biểu thị cho Ngã: Cây Ta-la như văn sau ghi: “Hai cây phía Đông biểu thị cho Thường, hai cây phía Nam biểu thị cho Lạc, hai cây phía Tây biểu thị cho Ngã, hai cây phía Bắc biểu thị cho Tịnh”. Lại hai cây tươi tốt biểu thị cho Thường, bóng mát biểu thị cho Ngã, hoa biểu thị cho Tịnh, quả biểu thị cho Lạc. Nếu biết được bốn đức chung riêng này thì đó là trụ xứ của chư Phật. Nếu cho rằng chúng cùng nghe là người sinh tử, thì đó là chỗ thấy của phàm phu, thấy là bậc Thánh thì đó là chỗ thấy của Nhị thừa, thấy là Bồ-tát Sơ địa trở lên thì đó là chỗ thấy của Bồ-tát, thấy là tám Phật trong chín Phật thì đó là chỗ thấy của chư Phật. Nếu đạt được ý này, thì các câu sau hãy y cứ theo đây mà giải thích. Về chúng cùng nghe được chia thành hai: Chúng nhóm họp và chúng oai nghi. 1/ Chúng nhóm họp: Nay luận thêm rằng:- Nếu y cứ theo một nhà thì phải lấy năm mươi hai chúng làm chúng cùng nghe. Cho nên cùng nghe bao gồm năm mươi hai. Nay nêu Tỳ-kheo đầu tiên nên nói là cùng nghe. Cùng nghe có năm là dữ, thán, loại, chúng và số. Nay văn ít các nghóa hợp nhau mà có. Nói dữ tức là cùng. Thích Luận dùng bảy điều nhất để giải thích “cùng” là nhất xứ, nhất thời, nhất giới, nhất tâm, nhất kiến, nhất đạo và nhất giải thoát. Các Tỳ-kheo có chung bảy điểm này với Phật, cho nên nói “đồng với Phật”. Nếu theo ý của Tam Tạng giáo thì Phật với thân trượng sáu cùng với các Tỳ-kheo trụ tại xứ Câu-thi, vào thời Niết-bàn, đồng một giới luật nghi, đồng một tâm thiền định, đồng cái thấy vô lậu, đồng một đạo Niết-bàn, đồng là Giải thoát hữu dư. Cả bảy thứ đều đồng với Phật, cho nên nói là cùng. Nếu theo nghóa của Thông giáo thì có năm đồng và hai biệt. Vì sao? Vì trí tuệ thể hội các pháp, ngay nơi sắc thấy không chẳng phải sắc diệt rồi mới không, cái thấy này chẳng đồng với đạo Ma-ha-diễn, chẳng đồng với Tam Tạng giáo, vì đạo chẳng đồng, nên biết đó là hai khác. Nếu theo nghóa của Biệt giáo, thì Đức Phật với thân đặc thù tôn kính đối với hai điểm như thời, xứ v.v…, thì hai hạng Tỳ-kheo trước chẳng thể thấy, như đốt đuốc cho người mù, đâu có ích lợi gì, vì họ mắt mù. Đối với giới, tâm, kiến, đạo, giải thoát thì hai hạng Tỳ-kheo trước chẳng thể nghe, như tấu nhạc cho người điếc, đâu có ích gì, vì tai họ điếc. Đức Phật này chẳng chung với hai hạng Tỳ-kheo ở trước; Tỳ-kheo trong đây còn chẳng cùng chung với hai Đức Phật trước huống chi là hai Tỳ-kheo kia. Nếu theo nghóa của Viên giáo thì bảy điều Nhất của Phật đều là cảnh giới Phật, chỉ đồng với Bồ-tát Viên giáo trụ trong Thủ-lăng-nghiêm, thị hiện tướng Tỳ-kheo, đã chẳng chung với ba Phật trước, huống chi là đồng với ba hạng Tỳ-kheo kia. Nay nói “chung” tức đều là đại quyền và khai hiển đã xong. Đại tức là lời khen đức. Thích Luận ghi: “Ma-ha, Hán dịch là Đại, đa, thắng”. Vì được Thiên vương và các bậc Đại nhân cung kính nên nói là Đại, làu thông bốn Phệ-đà và Tam Tạng nên nói là Đa, vượt hơn chín mươi lăm loại ngoại đạo nên gọi là Thắng, đây là giải thích theo Tam Tạng giáo. Được bậc Hiền thánh kính ngưỡng nên gọi là Đại, thông đạt các pháp môn Tích và Thể nên gọi là Đa, vượt hơn hai loại giải thoát tâm và tuệ nên gọi là Thắng, đây là giải thích theo Thông giáo. Được bậc Hữu học và Vô học cung kính nên nói là Đại, thông đạt các pháp môn Đại Tiểu nên nói là Đa, vượt hơn Thanh văn, Bích-chi-Phật nên gọi là Thắng, đây là giải thích theo Biệt giáo. Được hàng Thất phương tiện cung kính, nên nói là Đại, thông đạt các pháp môn Quyền, Thật nên gọi là Đa, là bậc Thượng thủ trong chúng Tất định nên gọi là Thắng, đây là giải thích theo Viên giáo. Đại quyền và khai hiển như trước đã nói. Tỳ-kheo tức là khí loại, gồm có ba nghóa nên gọi là Tỳ-kheo: Khất só: Tức chẳng thực hành ngưỡng khẩu thực, hạ khẩu thực, phương khẩu thực, duy khẩu thực, mà theo thứ lớp khất thực, thực hành thanh tịnh để nuôi mạng sống. Phá ác: tức thực hành bảy chi giới cấm và thiền định để khóa chặt tâm khỉ vượn, làm cho lang sói vô thường sợ hãi, chế phục mọi phiền não. Bố ma: Tức tu ba pháp này thì Thiên ma buồn khổ, lo lắng họ sẽ được ra khỏi cảnh ma, lại sợ độ người khác. Đó là nghóa của Tam Tạng giáo. Nếu thể đạt các pháp, chẳng thực hành ngưỡng, hạ, phương, duy khẩu thực để nuôi lớn tuệ mạng; đó là nghóa Khất só. Biết ác chẳng phải ác, cũng chẳng có người biết, đó là nghóa Phá ác; chẳng được làm cho sợ hãi, vui mừng, chẳng kinh sợ vui mừng gọi là Bố ma. Đó là giải thích nghóa Tỳ-kheo theo Thông giáo. Tu tập từ cạn đến sâu, theo thứ lớp trải qua ba Đế, cầu pháp hỷ Trung đạo gọi là Khất thực; theo thứ lớp phá năm trụ gọi là Phá ác; vì phiền não đã bố thì nghiệp bố, nghiệp đã bị bố thì ấm bố, ấm đã bị bố thì thiên ma bố, đó là nghóa Bố ma. Đây là giải thích nghóa Tỳ-kheo theo Biệt giáo. Trong tất cả pháp đều có tánh an lạc, gọi là cháo sữa chân thật, dùng đó để nuôi lớn; là nghóa khất thực trong tánh an lạc thuần là Phật pháp, không có ác để phá nên gọi là Phá ác; ma cũng Như, Phật cũng Như, gọi là Bố ma: Đó là giải thích nghóa Tỳ-kheo theo Viên giáo. Y cứ theo các kinh đều có chữ “Chúng”, bốn người trở lên sống hòa hợp gọi là Chúng. Thích Luận có nêu bốn hạng Tăng: Phá giới, Á dương, Hữu tu và Chân thật. Hai hạng sau hợp với Bách Nhất yết-ma, còn hai hạng trước thì chẳng thể chấp nhận. Noãn v.v… là Hữu tu, (có khổ thẹn) bốn quả là chân thật, đây là nghóa Chúng của Tam Tạng giáo. Càn tuệ tánh địa là hữu tu, địa thứ tám trở lên là Chân thật, là nghóa Chúng của Thông giáo. Ba mươi tâm là Hữu tu, mười địa là Chân thật, là nghóa Chúng của Biệt giáo. Thập tín là Hữu tu, bốn mươi mốt địa là Chân thật, tức nghóa Chúng của Viên giáo. Còn hai hạng Tỳ-kheo kia, các giáo đều nói về ác đồng nhau, không khác nên chẳng nói riêng. Hữu tu và chân thật lại có bốn nghóa: Phát khởi, ảnh hưởng, đương cơ và kết duyên; hợp lại để làm rõ nên nói là Chúng. Số tám mươi ức trăm ngàn, đó là chỉ số người, hoặc số nhân pháp không, hoặc số pháp môn, hoặc số thật tướng, v.v… 2/ Nói về trước sau vây quanh, tức oai nghi. Hoặc dùng ba nghiệp cung kính phát động, hoặc dùng bốn môn nhập Không phát động, hoặc dùng bốn môn nhập gIả phát động, hoặc dùng bốn môn nhập Trung đạo phát động. Từ câu “ngày rằm tháng hai…” trở xuống là Tựa riêng thứ hai, tức là văn triệu thỉnh, có ba phần: Nói về năng triệu, sở triệu và kết triệu. Năng triệu lại có ba ý: Dùng âm thanh triệu thỉnh, dùng ánh sáng triệu thỉnh và chấn động triệu thỉnh. Trong phần âm thanh triệu thỉnh lại có sáu ý: Thời gian phát âm thanh biểu thị cho pháp; thời gian phát âm thanh ứng hợp với căn cơ; bản mạt của âm thanh; ngang dọc của âm thanh; âm thanh có cảm ứng; trong âm thanh có khen ngợi và thông cáo. Từ câu “ngày rằm tháng hai v.v…” trở xuống là nói về thời gian phát ra âm thanh biểu thị cho pháp. Tháng hai là khoảng thời gian giữa mùa xuân, biểu thị cho Trung đạo. Ngày rằm là thời gian mặt trăng tròn đầy, biểu thị cho Viên thường, cho nên lấy ngày trăng tròn tháng hai biểu thị cho pháp Trung đạo tròn sáng. Từ câu “sắp Niết-bàn v.v…” trở xuống là nói về thời gian phát âm thanh xứng cơ. Đạo cơ bấy giờ đã thuần thục, đúng thời chẳng sớm chẳng trễ, đến dự hội, cho nên văn kinh sau ghi: “Các vị Tiên ở Hương sơn, các lực só ở Câu-thi, Thuần-đà, Tu-bạt, gốc lành đã thuần thục, nên tuyên bố Niết-bàn, khiến đều được vào tạng bí mật”. Kinh Pháp Hoa ghi: “Nếu có người đáng dùng diệt độ để độ thoát, thì thị hiện diệt độ để độ thoát cho họ”, chính là nghóa này. Từ câu “Đức Phật v.v…” trở xuống là nói về gốc ngọn của âm thanh. Thần lực là gốc, âm thanh là ngọn, từ gốc (bản) phát khởi ra tích, khiến cho tất cả ngộ được chẳng gốc chẳng ngọn. Vả lại Không tuệ là gốc, Chủng trí là gốc, Thật tướng là gốc. Từ câu “âm thanh ấy v.v…” trở xuống là nói về sự ngang dọc của âm thanh. Vang khắp là lan theo chiều ngang, thấu đến Hữu đảnh là chiều dọc. Có người giải thích Hữu đảnh chỉ là cho trời Phạm thế, tức trời Ni- trá, không có sắc, không có thân, chẳng thể nghe âm thanh, nên chẳng phải Hữu đảnh. Có người lại dẫn kinh Nhân Vương rằng: “Năng lực của định Vô sắc có thể biến hóa ra mây hương hoa, v.v… để cúng dường Phật,” vì sao chẳng thể biến hóa thành thân, nghóa này cũng chẳng thể vặn hỏi. Nay lập ba phen ngang dọc: 1/ Ngang thì phủ cả sáu đường, dọc thì thấu ba cõi; 2/ Ngang thì trùm cả bốn loài sinh, dọc thì suốt cả Ba thừa; 3/ Ngang thì gồm cả mười cõi, dọc thì cho đến Đẳng giác. Vậy nên biết không chỉ trời Ni-trá là Hữu đảnh. Nếu lấy đảnh của ba cõi tức là cõi Phi Tưởng. Hơn nữa, đảnh của ba hữu tức Vô học, lại có một đảnh là Diệu giác. Hai đảnh được triệu, một đảnh được thỉnh. Ý này rất rộng, đâu thể dùng Phạm thế để so sánh. Từ câu “tùy theo v.v…” trở xuống là nói về sự cảm ứng của âm thanh. Tùy loại thì cảm chẳng phải một, bảo khắp thì ứng chẳng phải là hai. Vì dùng âm thanh chẳng hai mà ứng chỗ cảm chẳng phải một, thật là chẳng thể suy nghó, bàn luận. Từ “ngày hôm nay v.v…” trở xuống là nói về khen ngợi và thông cáo trong âm thanh. Gồm có hai là khen ngợi và thông cáo. Khen ngợi khiến mọi người tôn kính, thông cáo làm cho mọi người buồn thương quyến luyến. Phần khen ngợi lại có hai ý: Khen ngợi hai đức và tổng kết hai đức. Đầu tiên là khen ngợi nội đức, kế đến là khen ngợi ngoại đức. Sau đây là văn thứ nhất. Nội đức vô lượng mà chỉ khen ngợi ba hiệu là vì muốn nói về ba việc: 1/ Khen ngợi Như Lai, tức thành tín chư Phật, khiến sinh tâm tôn trọng, kính mến, là bậc cha lành của thế gian. 2/ Ứng cúng là ruộng phước tối thượng, khiến sinh nghiệp lành, đứng đầu thế gian. 3/ Chánh biến tri, tức năng phá trừ nghi trệ, phát sinh trí hiểu biết, là thầy của thế gian. Cho nên văn kinh ở sau ghi: “Từ nay chúng ta không có người đứng đầu, không còn người thân thích, không còn nơi tôn kính”. Nói về ngoại đức. Ngoại đức có vô lượng nhưng chỉ nêu bốn đẳng, là muốn nói bản phụ sư, quân; bản thời thệ nguyện đều đủ bốn đẳng; ở đây sẽ lấy việc lợi ích cứu khổ ban vui làm chính yếu. Thương là đại Từ, xót là đại Bi, che chở là đại Hỷ, bình đẳng là đại Xả. Tổng kết về khen ngợi. Gồm hai ý: Đầu tiên nói làm nơi nương tựa là kết luận ba hiệu, kế là nói làm ngôi nhà cho thế gian là kết luận bốn đẳng. Từ câu “Đấng Đại Giác v.v…” trở xuống là thông cáo. Cáo tức là bảo, đầu tiên là bảo khiến dứt nghi, kế đến là bảo nên hỏi. Đấng Đại Giác Biến Tri năng đoạn nghi ở trước, bốn Đẳng từ bi, ắt cho phép hỏi sau, hỏi sau thì dạy dỗ giảng nói đạt được Niết-bàn thí, dứt nghi trừ ngụy được chân, chữ Ý mới hiển bày. Dùng âm thanh báo khắp là tựa lập giáo, ý này đã rõ. Trước chỉ khen ngợi ba hiệu, nay chỉ bảo là Đại giác, Đại giác chính là Biến tri, tức nói thầy là chủ là cha, chẳng cần phải nói nhiều. Vả lại, Như Lai là hiệu đầu tiên, Đại giác là hiệu sau cùng, khen trước bảo sau, đắp đổi nhau chỉ nêu một bên mà ý thì đủ khắp. Nếu y cứ theo trước mà phân biệt thì mỗi đoạn nói về bốn nghóa đã đạt được, ý tự hiển bày, nên chẳng cần nói lại nữa. Kế đến từ câu “lúc bấy giờ v.v…” là nói về dùng ánh sáng triệu thỉnh. Có bốn ý: Thời gian phát ra ánh sáng; nơi phát ra ánh sáng; ánh sáng chiếu soi và ánh sáng làm lợi ích. Sau đây là văn đầu tiên. Sáng tối giao nhau là lúc bình minh, biểu thị cho trí sáng sinh ra, các hoặc tối tăm tiêu diệt, là năng lực của Niết-bàn. Vì duyên này thích hợp nên chọn lúc bình minh mà phát ánh sáng. Kế đến là nơi phát ra ánh sáng. Diện môn tức là miệng, miệng chẳng có sáu màu mà sáu màu ở miệng, đó là nói lên Phật tánh chẳng phải sáu pháp, chẳng lìa sáu pháp. Lại xanh, vàng, trắng, đỏ là màu sắc cố định, nói lên tùy tự ý; pha lê, mã não chẳng phải màu sắc cố định, tùy theo vật mà thay đổi, nói lên tùy tha ý. Vả lại, biển Đại Niết-bàn là nơi cư ngụ của các loài chúng sinh có thân lớn, như các loài rùa, cá, các loại châu báu; phát ra các thứ ánh sáng, chính là nói lên cho ý này. Hơn nữa vì cứu vớt sáu đường, thanh tịnh sáu căn, nên phát ra ánh sáng có sáu màu. Từ “ánh sáng chiếu khắp v.v…” trở xuống là nói về chỗ chiếu soi. Chiếu tam thiên Đại thiên cho đến mười phương là chiếu theo chiều ngang, nếu so sánh với âm thanh thì lẽ ra cũng phải có chiếu theo chiều dọc, nhưng chẳng chiếu là vì cao rộng đồng hiện. Từ câu “trong đó v.v…” trở xuống là nói về lợi ích của ánh sáng. Có người ở đây cho là chúng mới đến; đã có từ “trong đó” thì đâu cần nói là mới. Lại nói ba nghiệp v.v… thì có thể biết. Nay văn này gồm có hai: 1/ Dứt trừ ba chướng: Chúng sinh nơi sáu đường là báo chướng, tội cấu là nghiệp chướng, phiền não chướng thì như trong văn. 2/ Từ câu “những chúng sinh này v.v…” trở xuống là nói về ba nghiệp quyến luyến sinh ra điều thiện, theo văn có thể dễ thấy. Chướng trừ thì thiện sinh, mau được thấy Phật. Chỉ nơi phần Tựa dùng ánh sáng triệu thỉnh, thì ý nghóa hạnh Niết-bàn đã hiểu rõ. Từ câu “bấy giờ mặt đất v.v…” trở xuống là nói về việc mặt đất rung chuyển triệu thỉnh. Đất rung chuyển thì nước rung chuyển, đất nước nương nhau, nên đều rung chuyển, biểu thị cho vô minh và ái kiến nương nhau; có duyên si ái cho nên dùng đất rung chuyển để biểu thị. Lại nói chấn tức là khởi rung động mạnh thuộc về hình, chấn động từ tiếng rống để giật tỉnh là thuộc về âm thanh chấn động. Nói rộng ra thì có sáu loại, mười tám loại chấn động v.v… Nhưng âm thanh hay ánh sáng chấn động thì hoặc trước, hoặc sau, hoặc đồng thời, do cảm thấy khác nhau, đâu thể chấp nhất định được. Từ câu “lúc ấy các chúng sinh v.v…” trở xuống là nói về người được triệu thỉnh, theo văn gồm có hai, đầu tiên là nói chung về người được triệu thỉnh, tức chúng sinh lúc bấy giờ. Kế đến từ câu “bấy giờ có v.v…” trở xuống là nói riêng về người được triệu thỉnh, tức là tùy loại mà nêu riêng. Triệu thỉnh chung gồm có bốn: Nén đau khổ, khuyến thỉnh, giải thích sự khuyến thỉnh và giải thích về sự đau khổ. Sau đây là văn thứ nhất. Nghe nói bậc Thầy giỏi, đấng cha lành nhập diệt, làm sao chẳng khổ được. Nhưng khổ thì chìm đắm trong biển sầu bi, không có lợi ích gì cho mình và người, nên nói phải nén bớt lại. Thứ hai, từ câu “nên cùng v.v…” là khuyến thỉnh. Nếu nén đau khổ mà yên trụ trong đó thì cũng vô ích, cần phải cầu xin, cho nên mới nói “nên đến trụ xứ của Phật”. Nói một kiếp hay chưa đến một kiếp, nếu xin một đại kiếp thì ngại gặp Phật sau, nên chỉ xin một Tiểu kiếp. Con người từ tuổi thọ tám mươi bốn ngàn tuổi, dần dần giảm xuống chỉ còn mười tuổi là một Tiểu kiếp. 3/ Từ câu “cùng chắp tay v.v…” trở xuống là văn giải thích vì sao khuyến thỉnh, có ba ý: Phát khởi; chánh giải thích; và kết luận. Chắp tay chỉ là đầu mối phát khởi cầu xin sự xót thương. Kế là: Từ câu “lại nói lời rằng v.v…” trở xuống là giải thích ý khuyến thỉnh. Phàm Như Lai tức là cưỡi trên Như mà đến thì thế gian sẽ có Phật, nếu Như Lai đi thì thế gian sẽ không có Phật, nên nói thế gian trống vắng, muốn cầu cha lành Như Lai. Phật là Bậc Ứng Cúng, nếu cúng dường Ngài thì được phước vô cùng, nếu không có Bậc Ứng Cúng thì nghiệp lành sẽ khô cạn, nên nói chúng sinh hết phước, muốn thỉnh cầu Bậc Ứng Cúng Chủ. Trí biến tri ngăn che điều ác, mở bày điều lành, nếu không có Biến tri, thì không có người dẫn dắt chỉ dạy, nên nói là pháp bất thiện thêm lớn, muốn thỉnh cầu Chánh Biến Tri Sư. Ý của việc thỉnh cầu như thế, nên liền đến chỗ Phật, chẳng nên chậm trễ. Thứ ba, là kết luận việc cầu thỉnh, tức là “liền đến chỗ Phật”. Thứ tư, từ câu “nói như thế v.v…” trở xuống là giải thích về khổ. Tâm từ bi trùm khắp thế gian, gặp người khổ thì cứu giúp, gặp người nghèo thì ban vui. Nay đấng Từ Bi đã lìa bỏ thế gian, thì nghèo khổ trói buộc. Hai lần nói “trống vắng” không ai cứu, không ai giúp, không còn ai để tôn thờ là giải thích về nỗi khổ không có chủ. Nói ng- hèo cùng cô độc, một mai xa lìa đấng Thế Tôn vô thượng, là giải thích nỗi khổ không có thân thích. Nói dẫn có điều nghi, sẽ biết hỏi ai? Là giải thích nỗi khổ không có thầy. Cứ như thế lần lượt giải thích thành nghóa sầu khổ. Kế đến từ câu “lúc bấy giờ, có vô lượng v.v…” trở xuống là nói về triệu thỉnh riêng. Theo văn có hai ý: Triệu thỉnh người ở cõi này; triệu thỉnh người ở cõi khác. Thỉnh người ở cõi này gồm ba ý: Triệu thỉnh chúng ở cõi Diêm-phù; triệu thỉnh chúng ở cõi trung gian; triệu thỉnh chúng ở cõi trên. Thỉnh chúng cõi Diêm-phù lại có ba là triệu thỉnh chúng Thanh văn, chúng Bồ-tát và các chúng khác. Thích luận nói Bồ- tát thực hành Trung đạo nên y cứ ở khoảng giữa của đầu và cuối, như Pháp Hoa Sớ có nói đầy đủ, có sự thì có biểu thị. Có người phần trước chia làm hai ý là tăng số liệt và giảm số liệt, ở ý thứ nhất lại chia làm hai chúng là đạo và tục. Ở đây thì y theo ý trước. Đầu tiên là chúng Thanh văn, lại có hai là tăng và ni. Tăng lại được chia làm hai là chúng ở bên Phật và chúng từ nơi khác đến. Hỏi: Gần bên Phật đâu cần phải triệu thỉnh? Đáp: Tuy chẳng triệu thỉnh đến, nhưng sợ sau hỏi, hơn nữa theo số nhiều, cho nên cũng nói là triệu thỉnh. Chúng gần Phật có ba ý: Sở triệu, phụng triệu và thuận triệu. Đầu tiên là nói “bấy giờ, có vô lượng”, trên đã có số nhất định mà ở đây nói vô lượng là vì ở trên nêu lên các vị đứng đầu, còn ở đây là gọi chung quyến thuộc nên nói là vô lượng. Nói đại đệ tử tức như em như con, lấy kính nhường hai bên đều đầy đủ mà gọi một người. Nói Tôn giả tức những người tu phạm hạnh kính trọng lẫn nhau, gọi là Tôn giả. Như kinh A-hàm nói: “Các Tỳ-kheo từ nay gọi bậc lớn là Đại đức, người nhỏ là Trưởng lão, vì khen ngợi đức nghiệp nên tôn xưng là Trưởng lão”. Ca-chiên-diên, Hán dịch là Phiến Thằng. Bạc-câu-la dịch là Thiện Dung. Ưu-ba-nan-đà dịch là Đại Hỷ, hoặc là Trùng hỷ, ngài có thân tướng khôi ngô nên cha mẹ đặt tên là Đại Hỷ, nếu tại gia ngài sẽ làm Luân vương, rồi xả thân làm Ma vương, Đức Phật biết trước việc này, nên hiện mười tám thứ thần biến mà bảo rằng: “Ông nên xuất gia, sẽ được như thế”, cha mẹ ngài nghe được liền chứng được ba Minh, sáu Thông, nên đặt tên là Trùng Hỷ. Kế là thấy ánh sáng Phật tức nói về phụng triệu. Lẽ ra phải nói thấy ánh sáng và thấy mặt đất rung chuyển. Ở đây lược nêu một việc mà gồm cả hai điều. Thứ ba, thân rung động là thuận triệu. Ở trên nói thấy ánh sáng thì ba chướng tiêu trừ, phát sinh ba điều lành, nay lược bỏ không nêu ba chướng, chỉ nói các điều lành, như văn đã ghi. Hỏi: Bậc La-hán thì tâm buồn khổ đã dứt, vì sao lại đến như thế? Đáp: Đó là tập khí còn sót lại, chẳng phải là chánh sử. Vả lại, làm phép tắc khiến chúng sinh kính mến. Lại hoặc riêng chưa dứt, chứ chẳng phải hoặc chung. Nói ưu bi tức là pháp giới Phật gồm thâu tất cả pháp, cho nên văn sau nói có lo lắng hay không có lo lắng cũng đều là cảnh giới Như Lai. Nếu y cứ theo bốn giáo để phân biệt thì chẳng cần nói nhiều. Kế đến từ câu “lúc bấy giờ, có tám mươi trăm ngàn v.v…” là nói về việc triệu thỉnh chúng từ bên ngoài, có hai ý là sở triệu và phụng triệu. Sở triệu có bốn là số, loại, thán và kết. Thứ nhất là nói về số rất dễ hiểu. Kế là nói Tỳ-kheo là nêu chủng loại, như trước đã giải thích. Thứ ba, từ câu “đều là bậc A-la-hán v.v…” trở xuống là trước tán thán đức tự hành. La-hán là giai vị Vô học, tâm được tự tại là bậc Câu Giải thoát, đây là khen ngợi đức bất sinh. Việc làm đã xong là khen ngợi trí Vô học và đức Ứng cúng. Lìa bỏ phiền não, điều phục các căn, căn tức là giặc, kinh Di Giáo nói “năm căn này là giặc”; đây là khen ngợi đức giết giặc. Kế đến, từ câu “như Đại long vương v.v…” trở xuống là khen ngợi đức hóa độ người. Đã nói có oai đức lớn thì chẳng cần tự ra oai, biết là lợi ích chúng sinh, được người tôn kính. Voi là loài có sức mạnh nhất trên đất liền, dụ cho tuệ; rồng là loài có sức mạnh nhất ở dưới nước, dụ cho định. Hoặc chỉ nói voi là rồng voi, như voi báu Bà-la của trời Đế Thích, đi trong hư không, nháy mắt đã vượt qua muôn dặm, hóa thân có ba mươi hai cái ngà, mỗi ngà có bảy cái ao, mỗi ao có bảy hoa sen, mỗi hoa sen có bảy ngọc nữ, mỗi ngọc nữ đều tấu nhạc làm vui cõi trời Tam thập tam. Nếu lấy rồng voi, làm dụ thì chỉ thuận với đức hóa độ người. Chiên-đàn dụ cho giới làm lợi ích chúng sinh; sư tử dụ cho tuệ làm lợi ích chúng sinh. Dùng hai pháp này khéo léo thành tựu cho người, lại được các chúng thanh tịnh vây quanh. Thứ tư, từ câu “vô lượng công đức như thế v.v…” trở xuống là kết luận. Đã nói vô lượng, thì biết là kết luận hai đức tự tha. Nói đệ tử chân thật của Phật thì Tích là Phật tử Tiểu thừa chân thật, Bản là Phật tử Đại thừa chân thật. Dùng Phật tử Đại thừa chân thật để kết luận công đức tự tha. Kế đến là nói về phụng triệu, gồm có ba là phát ra ánh sáng, phát ra âm thanh và chấn động. Đầu tiên phát ra ánh sáng triệu thỉnh, có hai ý: từ câu “sáng sớm khi mặt trời vừa mọc v.v…” trở xuống là vây quanh triệu thỉnh. Sáng sớm là mới sáng, đánh răng nói lên việc làm đầu tiên trong ngày, là nói lên việc phát động hiển bày thắng hạnh, đầu tiên thấy ánh sáng Phật; kế đến từ câu “đồng nói với nhau v.v…” trở xuống là thuận vây quanh triệu thỉnh. So với trước cũng không có văn nói dứt ba chướng chỉ có văn nói về ba nghiệp lành. Đồng nói với nhau là khẩu nghiệp lành, toàn thân nổi gai ốc là thân nghiệp lành, sinh đau khổ vô cùng là ý nghiệp lành. Ba-la-xa là tên một loại cây, lá màu xanh, hoa có ba màu, khi mặt trời chưa soi đến thì có mầu đen, mặt trời chiếu đến thì hoa biến thành màu đỏ, các gân đỏ đều hiện; khi mặt trời lặn thì hoa biến thành màu vàng, nói lên việc chưa phụng triệu, tức nghiệp chẳng sinh như mầu đen, đã phụng triệu đau buồn như màu đỏ, không có Phật như màu vàng. Từ câu “muốn lợi ích v.v…” trở xuống là phân biệt ý thuận triệu thỉnh. Lợi ích chúng sinh thì phân biệt chẳng phải hạnh tự lợi, thành tựu Đại thừa phân biệt chẳng phải Tiểu thừa, hạnh bậc nhất không phân biệt, chẳng phải cạn cợt. Đó mới hợp với văn nói về đệ tử chân thật của Phật. Kế đến, từ câu “hiển phát Như Lai v.v…” trở xuống là phụng âm thanh triệu thỉnh. Cũng có hai phần: Phát ra âm thanh lớn bảo khắp, nên hỏi lần cuối cùng. Nay vâng phụng lệnh triệu thỉnh này, để nói lên pháp giáo bí mật phương tiện của Như Lai, mở thường tông, hỏi về chỗ rốt ráo, khiến hưng khởi giáo sau cùng; từ câu “vì chẳng cắt đứt v.v…” trở xuống là nói về thuận âm thanh triệu thỉnh. Nếu thuận theo thanh giáo của Phật thì nói pháp chẳng dứt. Thứ ba, từ câu “vì các chúng sinh v.v…” trở xuống, là nói về vâng theo địa động triệu thỉnh, cũng có hai ý: 1/ Núi biển rung chuyển là lật đổ tà kiến, thấy được Phật tánh. Nay vâng theo sự triệu thỉnh này. Kế đến vì nhân duyên điều phục, mau đến chỗ Phật trụ, tức là vâng theo sự chấn động triệu thỉnh. Triệu và được triệu cùng nhau lãnh ngộ. Đây chính là trí hay biết trí. Thứ hai, nêu chúng ni. Có hai ý: Là nêu chúng và phát tích. Nêu chúng lại có hai là sở phụng và sở triệu. Sở triệu có bốn là danh, số, vị, thán. Trong phần nêu lên thì nêu ba vị Thượng thủ. Câu-đà-la chưa thấy lịch. Ni, di, nữ, là từ gọi chung người nữ ở hai phương. Nếu nói riêng thì tại tục gia gọi là nữ, thọ năm giới gọi là Di, xuất gia gọi là Ni. Nhưng trong luật cũng gọi là “a-di”, “a-di” lấy pháp làm người thân. Như thế có thể biết được giai vị của họ. Trong phần khen ngợi ở trước, khen ngợi tự hành, như trên đã nói; kế đến từ câu “như loài rồng lớn v.v…” trở xuống là khen ngợi đức hóa tha, cũng như trên đã giải thích. Kế đến, từ câu “cũng vào lúc sáng sớm v.v…” là nói về phụng thuận ba thứ triệu thỉnh, như trên đã giải thích. Từ câu “trong chúng Tỳ-kheo-ni” v.v… trở xuống là phần phát tích. Có hai ý: Nói về Tích và bản; giải thích để thành tựu. Đầu tiên là nói các Tỳ-kheo ni là nêu Tích, kế đến đều là Bồ-tát là nói bản. Trước nêu vị chung nên nói “đều là”, kế đến từ câu “giai vị v.v…” trở xuống là nói riêng về giai vị cao. Nêu Bồ-tát chỉ là nói chung mà chưa phân biệt cao thấp. Vì thế giải thích Bản thì cao, Tích thì rộng. Đầu tiên nói là rồng trong loài người, mới chỉ là trong thế gian, như rồng thì chẳng có gì lạ, mà chính là rồng trong các bậc Hiền thánh. Kế là nói giai vị Thập địa là giải thích Bản cao; thị hiện làm thân nữ là nói về Tích rộng. Vì sao nói Tích rộng? Vì tu bốn Tâm vô lượng. Vì sao nói Bản cao? Vì đạt được định tự tại. Làm Phật còn được, huống chi các hình tượng trong chín cõi kia mà chẳng làm được ư? Có người chia đoạn này ra làm hai đôi là Bản tích và Nhân quả, nhưng nhân quả thật khó thấy. Kế là nói về chúng Bồ-tát. Cũng gồm hai ý như trên. Đầu tiên là sở triệu, lại có sáu ý: Số, loại, vị, danh, khen ngợi và kết luận. Thứ nhất, văn ghi “một hằng hà sa” tức là nêu số lượng. Các kinh phần lớn dùng hằng hà sa làm số lượng là có bốn ng- hóa: 1. Vì nhiều người biết đến; 2. Xuống tắm dưới sông Hằng thì được phước; 3. Lớn nhất trong tám con sông; 4. Là nơi Đức Phật đản sinh, là quê hương của bậc Thánh, cho nên được dùng đến, đó chính là ý của bốn Tất-đàn. Bồ-tát, Hán dịch là Đạo tâm, Đại đạo tâm. Thích Luận giải thích mười nghóa của Bồ-tát: Giáo hóa tất cả chúng sinh. Cúng dường tất cả chư Phật. Làm thanh tịnh tất cả cõi Phật. Giữ gìn tất cả Phật pháp. Làm cho không dứt tất cả hạt giống Phật. Phân biệt rõ tất cả cõi Phật. Biết rõ tất cả chúng đệ tử của Phật. Phân biệt rõ tâm tất cả chúng sinh. Biết dứt tất cả phiền não cho chúng sinh. Biết rõ căn cơ của tất cả chúng sinh. Mười môn này đứng đầu, còn có vô lượng a-tăng-kỳ các môn khác. Vì thế gọi là Bồ-tát ma-ha-tát, trong kinh Đại Phẩm, Đức Phật cũng tự nói mười nghóa của Ma-ha-tát, đó là: Đại trang nghiêm trong vô lượng sinh tử. Xả bỏ tất cả những gì mình có. Có tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Dùng Ba thừa mà độ thoát tất cả. Độ tất cả, độ tất cả rồi liền quên công đức cứu độ kia. Biết rõ tất cả pháp mà chẳng sinh tướng các pháp. Chỉ dùng tâm Nhất thiết trí thực hành sáu độ. Nên học trí tuệ, rõ biết tất cả pháp. Rõ biết các pháp là Nhất tướng. Rõ biết vô lượng tướng. Mười môn này đứng đầu nên gọi là Ma-ha-tát, ngài Long Thọ giải thích mười nghóa này như sau: Đại trang nghiêm tức chẳng tính ngày tháng năm, trong vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp sinh tử, làm lợi ích, độ thoát tất cả chúng sinh. Xả bỏ tất cả những gì mình có, tức xả bỏ tất cả sang hèn ở trong ngoài mà không hối tiếc. Bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, tức đối với yêu ghét, thân sơ, oán thân đều bình đẳng. Dùng ba Thừa độ thoát, tức thuận theo khả năng chịu đựng của mỗi người mà giúp cho đều đến được Niết-bàn. Quên công đức tức chẳng sinh tâm kia đây, cũng chẳng thấy người độ và người được độ. Biết chẳng sinh, là biết tất cả pháp chẳng sinh. Thực hành sáu Độ là dùng tâm thanh tịnh, không tạp nhiễm để thực hành sáu Độ, hồi hướng Nhất thiết trí. Rõ biết tất cả pháp, là tất cả việc làm của thế gian đều biết rõ. Môn nhất tướng là rốt ráo không, tướng Niết-bàn xa lìa ý tưởng phân biệt. Vô lượng môn là các tăng số pháp môn một, hai, ba, bốn v.v… mười môn này là đầu, nhưng còn vô lượng môn khác, vì thế gọi là Ma- ha-tát. Trong đó phải nói về bốn hàng Bồ-tát, như trong văn Biệt ký, phần nhiều khen ngợi về đức của các Bồ-tát Viên giáo.  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 2 <詞>PHẨM 1: TỰA (PHẦN CUỐI) về vị. Thứ ba, từ câu “là rồng trong loài người v.v…” trở xuống là nói Rồng trong loài người là nêu ra địa vị phương tiện, đạt địa vị Thập địa là trụ ngôi vị chân thật, an trụ bất động là bản tế thường vắng lặng; phương tiện hiện thân tức là đến khắp các địa dưới và pháp giới để giáo hóa làm lợi ích. Thứ tư, từ câu “Tên các vị v.v…” trở xuống là nêu tên. Một hằng sa chúng, nhưng chỉ nêu hai vị. Hải Đức tức là Bồ-tát Hải Tuệ nói trong kinh Đại Tập; cũng như văn sau nói tám thứ không nghó bàn của biển Đại Niết-bàn, từ đó mà đặt tên là Hải Đức v.v… Vô Tận Ý, trong kinh Đại Tập nói vị Bồ-tát này tự nói về tên mình, nêu lên tám mươi pháp môn để giải thích về Vô Tận Ý. Thứ năm, từ câu “Tâm các vị v.v…” trở xuống là văn khen ngợi đức, gồm có ba: Trước chỉ khen trên cầu Phật đạo. Y cứ bốn hoằng thệ, gồm dưới hóa chúng sinh. Kết luận việc trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh. Đầu tiên nói kính trọng, tức y theo lý mà luận, như văn sau ghi: “Thầy của chư Phật chính là Pháp.” Kinh Đại Phẩm nói lúc Đức Phật mới thành đạo, Ngài quán sát rằng ai có thể kính trọng Thật tướng Bát- nhã, thì ta sẽ kính trọng người đó, chính là nghóa này. Nói an trụ, ở đây là y cứ theo chứng mà luận, như văn sau ghi: “Tất cả chúng sinh cho đến chư Phật đều an trụ trong tạng bí mật”, tức là nghóa này; hiểu sâu xa, là y cứ theo trí mà luận, như văn sau ghi: “Làm phát sinh trí tuệ sâu rộng của Bồ-tát, như rương lớn thì nắp lớn, giếng sâu thì dây gàu dài”, tức là nghóa này. Ưa thích tức y cứ theo sự hạnh mà luận, như văn sau ghi: “Tám chữ ở núi Tuyết chẳng lấy làm khó, ngày cắt ba lạng thịt trên thân không hề than khổ”, tức là nghóa này. Nói giữ gìn tức là nói theo giáo, như văn sau ghi: “Vua Tiên Dự thực hành tru lục, Giác đức phá trận”, chính là nghóa này. Tâm trên cầu Phật đạo của các Bồ-tát đến đây như biển, lược nêu năm nghóa để hiển bày tướng trạng mà thôi. Kế đến từ câu “khéo hay thuận theo v.v…” trở xuống là khen ngợi đức dưới hóa chúng sinh, đầu tiên là khen ngợi chung bốn thệ nguyện rộng lớn, kế đến là khen ngợi riêng. Bồ-tát đã được ngôi vị Thập địa, an trụ chẳng động, chẳng chứng Niết-bàn, lẽ nào lại vào sinh tử. Nhưng vì nhớ đến bản nguyện đã lập nên thuận theo thế gian, dùng tâm đại bi thuận theo khởi hai thệ nguyện rộng lớn, dùng tâm đại từ thuận theo khởi hai thệ nguyện rộng lớn. Đây là ý khen ngợi chung. Kế đến, từ câu “phát thệ nguyện v.v…” trở xuống là khen ngợi riêng. Chưa được độ, sẽ độ là khen ngợi riêng lời thệ nguyện đầu tiên. Nói “đã trì giới ở quá khứ”, giới là đối trị của tội cấu, vì đối trị cho nên thoát khỏi tội cấu trói buộc. Nói “chỉ dạy cho những người chưa biết” là khen ngợi riêng lời nguyện thứ hai. Tiếp nối hạt giống Phật tức là pháp môn vô lượng, là khen ngợi lời nguyện thứ ba. Nếu nói khắc tượng gỗ chiên-đàn, đúc tượng báu, biên chép Tu-đa-la, cạo tóc, nhuộm y, đó chỉ là tướng trong sự theo Tam bảo chẳng dứt. Nếu phát tâm Bồ-đề thì gọi là Phật bảo; thể ngộ đạo Đại thừa gọi là Pháp bảo; sự lý dung hòa gọi là Tăng bảo. Đây là lý tánh Tam bảo chẳng dứt. Kinh Tiểu Bát-nhã ghi: Quyển kinh ở chỗ nào thì chỗ đó có Phật và Tăng bảo. Văn kinh sau ghi “Nếu biết Thường trụ, nên biết nhà này có Phật”. Từ đây mà suy thì Tam bảo chẳng dứt, tức vô lượng pháp môn. Từ câu “Xoay bánh xe pháp ở đời vị lai” tức thệ nguyện thành tựu Phật đạo vô thượng, đây là khen riêng lời thệ nguyện thứ tư. Thứ ba, từ câu “Dùng đại trang nghiêm v.v…” trở xuống là tổng kết bốn thệ nguyện rộng lớn. Đây cũng là gồm kết luận trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh, nên nói đại trang nghiêm. Nếu kết luận riêng bốn thệ nguyện rộng lớn thì nói vị lai thành Phật dùng tướng tốt trang nghiêm thân, dùng mười lực, bốn vô úy để trang nghiêm tâm là đại trang nghiêm. Kinh Đại Phẩm thường dùng sáu Độ, ba mươi bảy phẩm để trang nghiêm. Trong kinh Tiểu Bát-nhã thì dùng “không” trang nghiêm mà trang nghiêm. Còn kinh này văn sau nói dùng phước đức của sáu Độ, trí tuệ của mười Địa làm hai trang nghiêm. Thứ sáu, từ câu “thành tựu v.v…” trở xuống là kết luận, trước là nói chung, sau nói riêng. Đầu tiên là kết luận chung trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh, là phước đức trí tuệ, kế đó là nói “bình đẳng quán chúng sinh xem như con một, v.v…” tức là kết luận riêng về bốn thệ nguyện rộng lớn là dưới hóa độ chúng sinh. Kế đến, từ câu “cũng vào lúc sáng sớm v.v…” trở xuống là nói về vâng phụng ánh sáng triệu thỉnh. Từ câu “khắp mình nổi gai ốc, v.v…” trở xuống là nói thuận theo ánh sáng triệu thỉnh. Chỉ nêu thân và ý, lược bỏ không nêu khẩu nghiệp lành và ba chướng. Từ câu “hiển phát v.v…” trở xuống là nói về việc vâng phụng và thuận theo đất rung chuyển triệu thỉnh. Như đã giải thích ở trên. Thứ ba, từ câu “hai hằng hà sa v.v…” trở xuống là nêu các chúng khác, có ba: Hai mươi mốt chúng tăng số; tám chúng đồng số; một chúng vô số. Đầu tiên từ câu “hai hằng hà sa v.v…” trở xuống là nói chúng tăng số, có ba: Thứ nhất là sở triệu, cũng có năm ý là: Số, loại, danh, khen ngợi và kết luận. Đầu tiên nói hai hằng hà sa là số. Vì chẳng phải số lượng mà thế gian biết được, nên dùng hằng hà sa để làm dụ. Từ câu “Ưu-bà-tắc v.v…” trở xuống là nói về loại. Luận Xá-lợi-phất Tỳ-đàm nói, người nam người nữ lìa dục; luận Chánh Pháp Hoa gọi đó là Thanh tín só nữ; kinh Đại Ai gọi đó là Huân só, Huân nữ, hoặc gọi là Thiện túc nam nữ. Tuy có nhiều tên gọi nhưng đều chỉ chung cho hai chúng tại gia. Nếu nói riêng thì thân tuy là thế tục, nhưng chưa lập gia đình, thường theo hầu Như Lai, đây là hai chúng lìa dục. Nếu đã kết hôn, nay thọ trì năm giới, dứt hẳn pháp thế tục, có công đối với Phật pháp nên gọi là Huân só. Nếu không thiếu pháp thế tục, thọ trì năm giới, lại giữ tám trai giới thì gọi là Thiện túc nam nữ. Nếu chỉ thọ ba quy y thì gọi là vô phần Ưu-bà-tắc, nếu lãnh thọ một hoặc hai giới thì gọi là Thiểu phần, nếu thọ ba hoặc bốn giới thì gọi là Đa phần, nếu thọ đủ năm giới thì gọi là Mãn phần; kinh gọi Cụ túc tức Mãn phần. Lại thọ trì năm giới chỉ cầu quả báo trời người thì gọi là Vô phần. Nếu sợ khổ sinh tử mà chí cầu Niết-bàn thì gọi là Thiểu phần, nếu vì chúng sinh gọi là Đa phần, nếu biết giới là pháp giới gồm thâu tất cả, chỉ vì Phật đạo, thì gọi là Mãn phần. Nói đầy đủ oai nghi tức có oai nghi luôn thường đi chung với lễ, thường đi chung với giới, thường đi chung với vô thường, thường đi chung với từ bi, thường đi chung với thật tướng, thường ở trong định Thủ-lăng-nghiêm, năng thị hiện các loại thân hình, thị hiện khắp mười cõi, giở chân đặt chân đều là Phật pháp. Nhà dân quán rượu đều là chánh đạo, trụ trong oai nghi Phật, đó mới gọi là đầy đủ. Nên biết năm giới và oai nghi lại có Bản và Tích; năng ở nơi bản bất động mà hiện tích cùng khắp, gọi là đầy đủ giới và oai nghi. Hỏi: Nghóa của Ưu-bà-tắc như thế, còn Thanh văn, Bồ-tát và Phật thì thế nào? Đáp: Theo nghóa lý thì tất nhiên là có, nhưng chưa thấy danh giáo. Hoặc có người chẳng tin, nay thử nói xem. Hàng bốn thiện căn là Vô phần, Sơ quả Thanh văn là Thiểu phần, quả thứ hai, thứ ba là Đa phần; hàng Vô học là Mãn phần. Lại bốn phần này nếu đối với Đại thừa, đều gọi là Vô phần; còn đã dứt trần sa hoặc gọi là Thiểu phần, nếu dứt một, hai phẩm vô minh gọi là Đa phần; nếu dứt hết vô minh gọi là Mãn phần. Nên kinh Pháp Hoa ghi: “Như chúng con ngày hôm nay mới thật là Thanh văn, dùng âm thanh Phật đạo, khiến cho tất cả đều được nghe”, đó là Đa phần Thanh văn. Còn Tuệ tánh địa gọi là Vô phần Bồ-tát. Nếu Sơ địa đến Lục địa dứt hoặc đồng với A-la-hán, thì gọi là Thiểu phần; Thất địa tu phương tiện đạo gọi là Đa phần; Bát địa, thì đạo và quán song tu là Mãn phần. Lại ba mươi tâm là vô phần; Sơ địa và Nhị địa là Thiểu phần, Tam địa đến Cửu địa là Đa phần; Thập địa là Mãn phần. Lại Thập tín là Vô phần; Thập trụ là Thiểu phần, Thập Hạnh Thập hồi hướng là Đa phần, Thập Địa là Mãn phần. Lại Thập địa của Thông giáo, ba mươi tâm của Biệt giáo là Vô phần; Thập Địa của Biệt giáo và Thập trụ của Viên giáo là Thiểu phần; Thập hạnh, Thập Hồi Hướng của Viên giáo là Đa phần; Thập Địa của Viên giáo là Mãn phần. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh mà không thấy, không tác dụng được gọi là Vô phần Phật. Sơ trụ; Sơ địa có thể làm Phật ở trăm cõi nước tức là Thiểu phần Phật; Nhị trụ, Nhị địa trở lên là Đa phần Phật; Diệu giác là Mãn phần Phật. Từ nghóa này mà biết trong mỗi pháp môn đều có quyền thật, bản tích, tức là nghóa này. Hỏi: Còn về nghóa sâu bọ, rắn rết thì thế nào? Đáp: Một pháp lành có bốn phần, một pháp ác cũng giống như thế, nhưng chưa thấy danh giáo, nên gác qua chẳng nói. Vả lại, nếu nói theo quyền thì việc làm của tiểu Bồ-tát là Vô phần rắn rết; việc làm của Sơ địa, Sơ trụ là Thiểu phần; cho đến việc làm của Thập trụ Thập địa là Đa phần, việc làm của Như Lai là Mãn phần, cho nên có đủ chúng quyền thật; thật thì triệu, quyền thì thỉnh, nên gọi là Triệu thỉnh. Từ câu “đó là v.v…” trở xuống là nêu tên, chỉ nêu hai vị, Vô Cấu Xưng Vương hoặc gọi là Duy-ma-la-cật, là người đã quở trách tám ngàn Bồ-tát, năm trăm La-hán; Thiện Đức là vị đã lập đại hội bố thí ở nhà của cha mẹ. Hai vị này thường là bậc Thượng thủ. Từ câu “thích quán xét v.v…” trở xuống là ý thứ tư, khen ngợi đức. Đầu tiên là khen ngợi, sau là kết luận. Trong phần khen ngợi thì có khen ngợi trên cầu và khen ngợi dưới hóa. Từ đoạn “mười ba đối trị môn v.v…” trở xuống là khen ngợi trên cầu. Xưa nói lấy khổ làm thuốc để trị bệnh lạc, thường, vô thường cũng như thế. Nay nói đó là giáo lúc đầu chứ chẳng phải là ý kinh này. Xưa lại nói các môn đã trị này là sáu hành quán, nên dẫn văn sau: “Vô thường là sinh tử, thường là đại Niết-bàn; vô ngã là Thanh văn, Duyên giác; ngã là Pháp thân Như Lai; khổ là tất cả ngoại đạo; lạc là đại Niết- bàn; bất tịnh là các pháp hữu vi; tịnh là chánh pháp của chư Phật, Bồ- tát”, để phân biệt, nhưng sáu quán hạnh này từ trước đến đây chưa nói, đến quyển hai mới trình bày. Vả lại trong phẩm Điểu Dụ mới nói về “song du” (đồng hành), vì thế chẳng nên dùng đó để khen ngợi đức của Ưu-bà-tắc. Đây là các nhà giải thích kinh dùng ý sau mà khen ngợi việc trước, như Hưng Hoàng, v.v… Các vị Tỳ-kheo lúc mới đến chưa phải là bậc La-hán, mà các nhà giảng kinh lại dùng đức của bậc Vô học mai sau mới ngộ mà khen ngợi ở đây. Tỳ-kheo còn chẳng được như thế, thì chúng thế tục đâu được như thế ư? Nên biết đó là những vị đồng hạnh với Phật, đã thông đạt pháp quán này từ lâu, cho nên mới khen ngợi. Nay xin phân biệt: Một, là thuốc bệnh nương nhau làm chủ, có thể là đối trị, sáu hạnh đồng hành song du há có thể là đối trị ư? Giải thích rằng: Thuốc bệnh làm chủ lẫn nhau, bệnh đã hết mà còn giữ thuốc là thiên đối trị. Sáu hạnh và (sự đồng hành) song du đắp đổi nhau là thuốc bệnh, bệnh hết thuốc bỏ là đối trị viên mãn. Nếu thế thì người đồng hạnh Phật đã thông đạt sáu quán từ lâu, được khen ngợi thì chẳng nghi ngờ gì, còn các thật hạnh khác thì sao? Từ quyền dẫn đến thật thì cũng có ý như thế, như văn sau ghi: “Người thọ nhận giáo pháp trước kia thì dùng thuốc vô thường trị bệnh thường, bệnh thường đã dứt lại chấp vô thường”, nghe thuốc thường trụ phá bệnh vô thường là giáo hôm nay sử dụng; như văn sau nói dùng ba tu hơn phá ba tu kém, tức là nghóa này. Hai, là vốn chẳng thọ nhận giáo pháp trước kia, mà tu tập thứ lớp pháp đại Niết-bàn, trước tu Vô thường đối trị Thường, kế đó tu Thường đối trị Vô thường, phá hai mươi lăm hữu được hai mươi lăm Tam-muội, trụ trong đại Niết-bàn, đó là hiển bày đại Niết-bàn dần dần chuyển thành sâu; cho nên đầy đủ hai thứ đối trị. Vì sao lại suy ra có một là giáo trước kia, một là giáo hiện nay? Ba là lại có một hạnh là hạnh Như Lai, đầy đủ Thường, Vô thường, vừa thường vừa vô thường, chẳng thường chẳng vô thường; viên tu sáu quán, gồm đối trị thường và vô thường, lại bệnh thuốc tương quan, bệnh hết thì thuốc cũng bỏ, bệnh và trị đều lìa, như thế gọi là môn đối trị. Nếu nói một hạnh là tất cả hạnh, như phẩm Thánh Hạnh đã nói, nếu nói theo sự đồng hành (song du) thì như phẩm Điểu dụ đã nói. Ưu-bà-tắc đầy đủ các đức hạnh này, nhưng hai ý trước cạn, một ý sau là sâu xa. Như văn sau ghi: “Quán sát sâu xa các môn đối trị”, là khen ngợi ý thứ ba. Năm mươi hai chúng có căn tánh khác nhau, nhưng chẳng ngoài ba loại; quyền tức là đồng thật dẫn đến Niết-bàn, được vào Niết-bàn thì một loại còn không có, huống chi có ba. Thế thì nghóa của môn đối trị chân thật cũng hiển phát ý nghóa giáo pháp phương tiện bí mật của Như Lai. Trong văn chính là khen ngợi quyền dẫn đến thật. Nếu không có thật hạnh thì quyền đâu có gì để dẫn, nếu không có quyền thì thật chẳng có chỗ để làm khuôn phép. Đã khen ngợi quyền, cũng phụ khen ngợi thật, thế thì đâu thể phán định ở giáo trước, giáo sau. Nếu xét qua các câu để phân biệt thì nên nói dính mắc tục là khổ, đắm nơi chân là lạc; đắm nơi chân là khổ, phân biệt là Lạc, Thường, Ngã, Tịnh cũng giống như thế. Vả lại, đắm nơi không là khổ, đại Niết-bàn là lạc; đắm nơi Không là lạc, đại Niết-bàn là khổ; cho đến tăng thượng chẳng tăng thượng cũng giống như thế. Hỏi: Hằng và Thường có gì khác nhau? Đáp: Chẳng thuận theo nhân duyên là Thường, trước sau chẳng khác là Hằng, cả hai đều thuộc bệnh hai bên. Cả hai đồng làm thuốc, bệnh, gọi đó là môn thông vào Trung đạo, chẳng phải thuốc chẳng phải bệnh, lìa hai bên lìa chính giữa. Nói “thích nghe” tức là ý kính trọng Đại thừa nói ở trước, như biển chứa trăm sông, như hư không dung chứa sắc. Nói cho người nghe, tức trí biết ở nơi thuyết, trí khéo léo hiểu sâu xa, cũng gồm cả dưới hóa độ chúng sinh. Ở đây đồng lấy lý làm ý Đại thừa, kính ngưỡng Đại thừa tức là ý an trụ nói ở trên; làm đầy đủ cho những người kính ngưỡng, tức gồm cả ý dưới hóa độ chúng sinh. Khéo léo gìn giữ tức ý sâu xa đã nói ở trước; ưa thích tức như trên y cứ theo Sự; bảo vệ giữ gìn tức như trên y cứ theo Giáo. Khen ngợi chung bốn thệ nguyện rộng lớn, như trên đã nói đủ. Từ câu “dùng đại trang nghiêm v.v…” trở xuống là văn kết luận việc khen ngợi, như trên đã nói. Từ câu “thảy đều v.v…” trở xuống là đoạn thứ năm, kết luận, như văn kinh đã ghi. Từ câu “cũng vào lúc v.v…” trở xuống là vâng phụng ánh sáng triệu thỉnh. Chỉ nói về thời gian vâng phụng sự triệu thỉnh, tức là ba triệu thấy, nghe và biết. Từ câu “vì muốn trà-tỳ v.v…” trở xuống là nói về thuận triệu thỉnh. Vì sao văn trên nói là hiển phát giáo bí mật, còn ở đây lại nói trà- tỳ, như thế thì làm sao dung hội lời hiển phát nói thẳng cho chúng xuất gia ở trên. Đây là nói về nghóa do Sự mà hiển Lý, nhờ nơi tài vật mà thông suốt được pháp cho chúng tại gia. Trà-tỳ tức là hỏa thiêu. Sắp đặt gỗ thơm tức là nhờ vào việc thiêu để hiển bày lý chẳng thiêu, nhờ vào diệt để nói về chẳng diệt, và nói lên chẳng diệt chẳng phải chẳng diệt. Sắp đặt thức ăn cúng dường là nhờ vào ăn để nói chẳng phải ăn, nói lên chẳng phải ăn chẳng phải không ăn, cho nên phương tiện được mở, giáo bí mật được hiển bày. Đó là vâng phụng âm thanh triệu thỉnh. Nói gỗ thơm có trang nghiêm đủ các thứ báu là do diệt mà nói chẳng diệt, hiển thị chẳng diệt chẳng phải chẳng diệt, đầy đủ các pháp mầu. Món ăn có ba đức, sáu vị, lọng báu, tòa báu, đều được trang nghiêm đẹp đẽ, là nói lên trong lý từ bi cứu độ tất cả chúng sinh cũng có đủ các pháp môn. Từ câu “các Ưu-bà-tắc v.v…” trở xuống là nói về thuận đất chấn động triệu thỉnh. Ở trên nói làm nhân duyên điều phục chúng sinh, ở đây lại nói gồm thâu chúng sinh khiến họ được điều phục, thì ý nghóa cũng giống. Từ câu “Các Ưu-bà-tắc này đều đã v.v…” trở xuống là nói về thuận theo ánh sáng triệu thỉnh. Nên trừ ba chướng; ở đây chỉ nói sinh ba nghiệp lành đều như văn đã ghi. Từ câu “mỗi người đều mang vật cúng dường v.v…” trở xuống là nói về việc hiến cúng, cũng là văn nói về thuận triệu thỉnh. Từ câu “Ba hằng hà sa chúng v.v…” trở xuống gồm có ba đoạn. Trong đó về người được triệu thỉnh có bốn ý là: Số lượng, chủng loại, danh hiệu, và khen ngợi. Đầu tiên nói ba hằng hà sa là nêu số lượng. Từ câu “các Ưu-bà-di v.v…” trở xuống là nói về chủng loại, như đã giải thích ở trên. Thứ ba, từ câu “thọ đức v.v…” trở xuống là nêu tên ba vị. Lấy thọ mệnh làm đức, tức là thường, v.v… Có người cho rằng Đức Man là Thắng-Man, nhưng Thắng-Man là vợ vua, chẳng nên dùng so sánh ở đây. Xá-khư là người mẹ sinh ba mươi hai trứng. Từ câu “đều có khả năng chịu đựng v.v…” trở xuống là khen ngợi đức. Văn khen ngợi gồm có hai phần: một, là sơ lược khen ngợi sự trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh; hai, là khen rộng về việc trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh. Đầu tiên nói có khả năng hộ trì là khen đức trên cầu Phật đạo. Hộ tức là hộ trì giáo chánh pháp, như thủ hộ Đại thừa nói trên. Trì tức giữ gìn sự lý chánh pháp, như kính trọng cho đến ưa thích Đại thừa nói trên. Nói vì độ trăm ngàn tức là nói nguyên do của thệ nguyện; hiện thân nữ tức là việc làm của thệ nguyện, cho nên nói đây là đoạn văn khen ngợi sơ lược. Kế đến, từ câu “chê trách gia pháp v.v…” trở xuống là khen ngợi rộng về đức trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh, lại nói rộng thêm ý hộ trì. Trong phần khen ngợi rộng có ba ý: Một, là khen ngợi trên cầu Phật đạo; hai, là khen ngợi dưới hóa chúng sinh; ba, là kết luận chung hai đức. Văn khen ngợi trên cầu có hai ý: Một là nói về sự quán, hai là tổng kết thành tựu công đức. Văn sự quán có hai: Một, là nêu cảnh sự; hai, là nêu năm môn. Đầu tiên quở trách gia pháp, tức là quán cảnh nếu chỉ dùng đức và hạnh của người phụ nữ như quét dọn, v.v… làm gia pháp thì quá cục hạn. Nếu lấy ba cõi luân hồi làm gia pháp thì quá xa vời. Nay chỉ dùng năm ấm làm gia pháp. Các quả báo hạn cuộc, nhỏ hẹp trói buộc mà phàm phu lại cố nuôi dưỡng, còn bậc Hiền thánh thì xả bỏ, cho nên nói là chê trách. Kế đến từ câu “tự quán thân này v.v…” trở xuống: Đầu tiên là quán khổ, bốn đại tàn hại lẫn nhau, các loài trùng độc cắn rút thân thể. Bốn đại tàn hại lẫn nhau là nói thân là nơi nhóm họp các khổ. Nói thân này dơ uế, tức là quán bất tịnh, là năm thứ bất tịnh. Nói bị lao ngục tham dục trói buộc, tức cho rằng có lớp da mỏng phủ lên trên gọi đó là tịnh; trói buộc mãi mãi cho nên gọi là lao ngục trói buộc. Nói chó chết tức rốt ráo bất tịnh, nói chín nơi bài tiết tức tự tướng bất tịnh; từ câu “như thành trì v.v…” trở xuống là không quán. Bùn, gỗ, đất, đá do giả duyên lập thành, ác quỷ ba độc sống ở trong đó. Bên ngoài thì luống dối, bên trong thì tà vạy, vì thế gọi là Không. Nói thân này chẳng bền chắc là quán vô ngã; thân này vô thường là quán vô thường; hai quán thô tế như văn đã ghi. Kế đến, từ câu “đâu thể dùng dấu chân trâu v.v…” trở xuống là kết luận công đức, kết luận sự quán, có bảy ý: Thứ nhất, nêu thí dụ kết luận sự quán, tức quán biết thân này khổ não, hoạn lụy rất nhiều. Thứ hai nêu ba Tam-muội để kết luận sự quán, là đạo lý sâu xa mầu nhiệm. Nhân duyên, là sự quán, tức trong ngoài suy cầu kiểm nghiệm chẳng thật có, cho nên là không. Không tức là chẳng có tướng các ấm, cũng chẳng có tướng không. Vì không tướng nên chẳng tạo tác. Thích Luận ghi: “Nhị thừa duyên với chân, quán ba Tam-muội, Bồ-tát duyên với Thật tướng quán ba Tam-muội v.v…” Thứ ba, là nêu Đại thừa kết luận sự quán hợp với khế kinh. Thứ tư, là nêu năng thuyết để kết luận việc trên cầu Phật đạo mà chẳng bỏ việc dưới hóa độ chúng sinh. Sự quán tức là pháp chỉ dạy người. Thứ năm, từ câu “hộ trì v.v…” trở xuống là nêu hộ trì để kết luận Sự quán tức Lý quán, chẳng động bản địa. Thứ sáu, từ câu “xem thường thân nữ v.v…” trở xuống là nêu lời chê trách Sự tích, tức dùng Bản của Bồ-tát để kết luận Sự quán là việc làm của nguyện lực. Thứ bảy, là kết luận sự quán tức chánh quán, phá hoại được sinh tử. Theo văn rất dễ hiểu, các ý này cũng là môn đối trị nói ở chương Ưu-bà-tắc. Tánh người nam ngay thẳng, nên chỉ nói đối trị, tánh người nữ ái nhiễm, nên nói đủ năm môn. Năm môn đều duyên thật tướng, ngay nơi sự mà lý là diệu trong chương Bồ-tát, còn ưa thích Đại thừa, thủ hộ Đại thừa thì như trên đã giải thích. Nói tuy hiện thân nữ mà thật là Bồ-tát, tức là ý nghóa an trụ Đại thừa nói trên. Kế đến, từ câu “khéo hay thuận theo v.v…” trở xuống là khen ngợi đức dưới hóa độ chúng sinh, như trên đã giải thích. Từ câu dùng đại trang nghiêm v.v… trở xuống là gồm kết luận việc trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh, cũng giải thích như trên. Câu “cũng vào lúc sáng sớm”, là nói về vâng triệu thỉnh. Từ câu “mọi người bảo nhau rằng v.v…” trở xuống, là nói về thu- ận triệu thỉnh. Nói “nên đến”, tức là nên thuận theo ba sự triệu thỉnh, hiến cúng và phép tắc cung kính. Từ đoạn “bốn hằng hà sa chúng v.v…” trở xuống có hai ý: một, nói về người được triệu thỉnh, có bốn ý là: số lượng, chủng loại, khen ngợi và tên gọi. Đầu tiên nói bốn hằng hà sa chúng là nêu số lượng. Kế đến nói “Tỳ-xá-ly v.v…” là nêu chủng loại. Tỳ-xá-ly, Hán dịch là Hảo đạo; ngài Tăng Triệu dịch là Quảng nghiêm, ngài La-thập dịch là Quảng bác, đều y cứ theo sự phồn hoa của nước ấy mà đặt tên. Ly-xa còn gọi là Lê-xương, Di-ly đều do phiên âm khác nhau mà thôi, dịch ý là Biên địa chủ hoặc Truyền Tập Quốc Chánh. Ngài Quán Đảnh nói rằng nước ấy có năm trăm vị Trưởng giả thay nhau làm vua, nên gọi là Truyền tập quốc chánh. Khi thôi làm Quốc chánh thì ra bên ngoài làm Biên địa chủ v.v… Nói quyến thuộc của vua tức các Ly-xa này đều từng là vua, có thân thích với hoàng tộc, thuộc về chủng tánh vua chúa. Từ câu “vì cầu pháp v.v…” trở xuống là khen ngợi đức, có hai ý: Khen ngợi và kết luận. Khen ngợi có hai: 1/ Vì cầu pháp, chỉ có câu nói về trên cầu. 2/ Nêu ba cặp nói về việc dưới hóa độ chúng sinh. Cặp thứ nhất là nói về giới thí. Hai là nói về chiết phục nhiếp thọ. Ba, là nghe và nói như văn. Văn tương tợ nói về việc dưới hóa độ chúng sinh, nhưng lại gồm cả sự trên cầu Phật đạo. Kế đến, từ câu “đều thành tựu v.v…” trở xuống là kết luận, như văn kinh đã ghi. Nêu tên gọi: Như văn kinh đã ghi. Từ câu “họ bảo nhau rằng v.v…” trở xuống, là nói về thuận triệu thỉnh. Nếu không vâng phụng triệu thỉnh thì đâu có thuận theo, nêu lên thuận, thì biết là đã có phụng và thuận triệu thỉnh, nhưng chỉ nói thuận đất chấn động triệu thỉnh thì các ý khác cũng rất dễ hiểu. Kế đến là nói về hiến cúng. Phép tắc cung kính như văn đã ghi: Nói bảy cây Đa-la, tức là nói tánh khí vua cao ngạo, chẳng chịu ở dưới các loài, nhờ thần lực của Phật giúp đỡ nên bay lên cao bảy cây Đa-la. Có chỗ cho rằng tùy nghi như thế. Kế đến, là từ câu “năm hằng hà sa đại thần v.v…” trở xuống, có hai ý: 1/ Người được triệu thỉnh; 2/ Thuận theo triệu thỉnh. Ngườøi được triệu thỉnh, có bốn ý: Số lượng, chủng loại, khen ngợi, danh hiệu. Số lượng và chủng loại thì như văn đã ghi. Trong phần khen ngợi, có trên cầu Phật đạo và dưới hóa độ chúng sinh. Như văn đã ghi. Từ câu “sắm sửa phẩm vật cúng dường v.v…” trở xuống là nói về thuận triệu thỉnh. Sắm sửa phẩm vật cúng dường, do món ăn mà khai mở pháp thường, là thuận theo âm thanh triệu thỉnh. Đến rừng Ta-la là thuận đất chấn động triệu thỉnh. Tâm vô cùng buồn khổ là thuận theo ánh sáng triệu thỉnh. Kế là nêu thành Tỳ-xá-ly. Đã nói nhiều hơn sáu lần, lẽ ra nên nói là sáu hằng hà sa, nhưng số lượng của vua có thể tính, chỉ trừ một người là A-xà, còn những người khác không tính hằng hà sa cho nên không nói về số lượng. Theo văn có ba ý: Một là, người được triệu thỉnh; hai, là vâng triệu thỉnh; ba, là thuận theo triệu thỉnh. Ý thứ nhất có hai là chủng loại và tên gọi. Trong các chủng loại, trừ vua Xà-thế là vì vị vua này được nói ở văn sau. Nêu tên gọi thì như văn đã ghi. Từ câu “Dẫn theo bốn thứ binh v.v…” trở xuống là phần thuận theo triệu thỉnh. Từ câu “các vị vua này v.v…” trở xuống là phần khen đức. Khen ngợi đầy đủ cả đức trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh, mà chẳng theo thứ lớp là vì để hiển bày nghóa không nhất định. Kế đến từ câu “cũng vào lúc sáng sớm v.v…” trở xuống là nói về triệu thỉnh. Nói “mang các món ăn ngon v.v…” là văn thuận theo triệu thỉnh. Kế đến nói bảy hằng hà sa phu nhân, trên là nêu các phu nhân của vua đương đời, ở đây là nêu các phu nhân, phi tần của tiên vương. Văn có hai là người được triệu thỉnh và thuận theo triệu thỉnh. Đoạn thứ nhất được triệu thỉnh có bốn: Số lượng, chủng loại, nêu tên và khen ngợi. Về chủng loại thì phân biệt với các vua ở thế gian. Lại nêu lên Bản gồm ba Tam-muội, Tích là thân nữ, đó đều là chủng loại thuộc về quyền hóa. Về tên gọi thì như văn kinh đã nêu. Khen ngợi đức trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh, như văn đã ghi: “Mỗi người đều nói với nhau” là thuận theo triệu thỉnh, như văn đã ghi. Kế đến là nói tám hằng hà sa Thiên nữ. Theo văn gồm có ba: Đầu tiên là nói chúng được triệu thỉnh, có bốn ý: Số lượng, chủng loại, nêu tên và khen ngợi. 1.Về số lượng thì như văn kinh đã ghi. 2. Nói Thiên nữ là nêu chủng loại. 3. Nêu tên, như văn đã ghi. 4. Từ câu “nói rằng v.v…” trở xuống là khen đức, có ba ý: Khen ngợi quả báo được cái thấy của mắt trời. Từ câu “các thiên nữ này v. v…” trở xuống là khen ngợi trên cầu Phật đạo. Từ câu “khéo năng thuận theo v.v…” trở xuống là khen ngợi dưới hóa chúng sinh, ý thứ nhất như văn kinh ghi. Kế đến, trong phần khen ngợi trên cầu Phật đạo thì nói “muốn nghe Đại thừa” là hiểu sâu xa Đại thừa; nói “oai nghi đầy đủ” là an trụ Đại thừa, những ý khác thì như văn kinh đã ghi. Là từ câu “khéo năng thuận theo v.v…” trở xuống là khen ngợi dưới hóa, như trước đã giải thích. “Cũng vào lúc sáng sớm” là nói về vâng triệu thỉnh. Kế đến, đoạn nói “chín hằng hà sa chúng Long vương, có ba ý: Thứ nhất là nói về chúng được triệu thỉnh, có ba: Là số lượng, chủng loại và tên gọi. Vâng triệu như văn đã ghi. Từ câu “sắm sửa các phẩm vật v.v…” trở xuống là nói về thuận theo triệu thỉnh. Như văn kinh đã ghi. Kế là nói “mười hằng hà sa chúng quỷ thần vương”, văn có hai: Thứ nhất là nói về chúng được triệu thỉnh, có ba ý là số lượng, chủng loại và tên gọi. Ở đây là nêu tên chung, còn tên nêu ở văn sau chính là bốn vị Thiên vương. Từ câu “này các Nhân giả, hãy mau đến v.v…” trở xuống là thuận theo triệu thỉnh. Về phẩm vật cúng dường thì như văn đã ghi. Kế là từ hai mươi hằng hà sa các loài chim đầu đàn tăng số đến một ngàn ức hằng hà sa quỷ thần, cho đến Bạch Thấp vương, chỉ lược nêu số lượng, chủng loại và tên gọi mà thôi. Các vị vua này đã xa lìa tâm ác, không còn ăn thịt mọi người, đối với kẻ oán ghét mà sinh tâm Từ bi. Dung mạo các vị vua này rất xấu, nhưng nhờ thần lực Phật mà đều được xinh đẹp. Trong các chủng loại kể trên hoặc có khen ngợi đức độ đều rất dễ hiểu. Đây là hai mươi mốt chúng trong tăng số thứ nhấtt. Văn sau lại có ghi mười vạn ức hằng hà sa các thiên tử, Phong thần, Vũ thần. Ba chúng này có số lượng đồng nhau. Từ hai mươi hằng hà sa Tượng vương cho đến hai mươi hằng hà sa vị Tiên, gồm năm chúng đều có số lượng bằng nhau. Năm chúng đồng số lượng đã kể xong, tất cả loài ong chúa ở cõi Diêm-phù-đề là chúng vô số. Thứ hai là nêu chúng trung gian. Khoảng giữa Diêm-phù-đề và vô lượng thế giới gọi là Trung gian, có hai ý: Một là, kết đoạn trước, nêu đoạn sau; hai là, gồm buồn thương, xa thì triệu thỉnh. Kết đoạn trước tức là tổng kết ba mươi bốn chúng nêu ở trước. Phân biệt hai chúng thì có sự có hiển. Sự tức là ngài Ca-diếp nhập định diệt tận, vì ở trong định cho nên chẳng đến được; còn ngài A-nan bị ma trói buộc cho nên cũng chẳng đến. Hiển, nghóa là ngài Ca-diếp vì hiển bày việc chẳng bỏ giới nhỏ, ngài Ca-diếp là Trưởng tử mới giữ gìn được Phật pháp. Khi Phật sắp nhập diệt thì nên bỏ các giới nhỏ, bèn bảo A- nan: “Sau khi ta diệt độ, những giới nhỏ nhặt, nếu giới nào giữ được thì giữ, nếu giới nào không cần giữ thì được phép bỏ” . Về sau ngài Ca-diếp hỏi thế nào là giới nhỏ nhặt, thì A-nan lại không biết, ngài Ca- diếp quở A-nan rằng: “Ngài ở gần Phật, nhận lãnh Thánh chỉ của Phật, mà nay nói không biết, vậy nay làm sao biết giới nào nên bỏ, giới nào không nên bỏ? Vả lại sợ bị ngoại đạo chê bai là các giới do thầy đặt ra, sau khi thầy diệt độ thì bỏ, vì thế chẳng nên xả bỏ. Nếu ngài Ca-diếp đến thì đâu thể chấp chánh việc này. Ngài A-nan vì muốn nêu lên sự khen ngợi, phó chúc, năng lực thần chú của Phật lúc cuối cùng. Nếu ngài A-nan đến thì chẳng thể hỏi được, cũng chẳng khen ngợi, cũng chẳng khiến cho ngài Văn-thù mang thần chú để giải nạn. Ý nghóa hai chúng không đến là như thế. Hỏi: Đức Phật bảo bỏ các giới nhỏ nhặt mà ngài Ca-diếp chẳng vâng theo, thì thầy trò trái nhau, vì sao như thế? Đáp: Không đúng, Đức Phật vì hàng lợi căn, thuận theo lợi ích của họ mà nói, còn ngài Ca-diếp là hàng độn căn, thì lại bảo phải giữ như cũ, cho nên chẳng có chống trái. Kế đến là nêu đoạn sau, gồm có ba: một, là nói về trời, người; hai, là nói về sơn thần; ba, là nói về thần sông biển. Tức là trời, người ở trên và dưới bốn thiên hạ, kinh nói trung gian, trung gian thì nơi nào chẳng thâu, tuy văn chẳng nói ba thiên hạ và trăm ức thiên hạ, nhưng theo nghóa mà suy cũng rất dễ hiểu. Vì sao ở thế giới xa khác còn đến được, mà Đông phất, Tây cù thì chẳng đến được? Mười phương còn đến được, vì sao trăm ức Tứ thiên chẳng đến được? Nếu theo lời văn của trung gian, thì rất nhiều chúng, chỉ có thể dùng ý xét biết, chẳng thể chép ra văn, v.v… Kế là các thần núi trở xuống v.v… ở đây cho rằng hình núi hình thần chưa hẳn như thế, như thần cây hiện hình người bán thân mà chẳng có hình cây cối; thần núi không hẳn phải là hình quả núi, mà là vị thần nương gá vào núi mà thôi. Trước nêu các núi, kế là nói về tướng, sau nói đến chỗ Phật. Thần biển cũng như thế. Như văn, Hi liên, tương truyền chỉ Bạt Đề là Hy-liên. Ở đây nói chẳng đúng, vì sông Bạt-đề lớn, sông Hy-Liên nhỏ, có người cho rằng sông rộng bốn trượng, tám trượng ở phía Bắc thành, còn sông Bạt-đề ở phía Nam thành, hai sông cách nhau một trăm dặm. Đức Phật trụ ở giữa mà Niết-bàn, rải hoa có thể đến được. Hy-Liên chưa được phiên dịch. Kế đến, từ câu “rừng cây biến thành mầu trắng v.v…” trở xuống là nói gần thì buồn thương, xa thì triệu thỉnh. Đã lập họp tức là thương, chưa tập hợp thì triệu thỉnh. Lại chia làm hai: Thứ nhất gần thì thương có ba tướng ba tướng. Ta-la, như trước đã giải thích. Khu rừng này rất xanh tốt, bỗng nhiên biến thành màu trắng như lông hạc trắng. Trong rừng có loài hạc trắng, lúc rừng biến thành màu trắng thì không thể phân biệt được hạc. Đây là nói lên nếu tươi là nhất định thì chẳng thể bỗng nhiên thay đổi. Nếu nhất định là khô thì chẳng thể như hạc trắng. Khô đã như hạc thì khô chẳng phải khô; tươi bỗng nhiên thay đổi thì tươi chẳng phải tươi. Chẳng khô, chẳng tươi mà ở khoảng giữa vào Niết-bàn, tức là nói lên chẳng sinh, chẳng diệt mà hiện sinh diệt. Rừng Ta-la chỉ là một loại biến đổi, tùy cơ hiểu khác nhau. Hàng thượng căn thì đạt được Bản, hàng hạ căn thì buồn thương ở Tích, hàng trung căn thì ở khoảng giữa đạt và buồn. Phẩm Hiện Bệnh chép: “Hàng phàm phu thấp kém thấy thì cho là chắc chắn Niết-bàn, chỉ có các Bồ-tát như ngài Văn-thù-sư- lợi, v.v… thì biết Như Lai thường trụ bất biến”, tức là nghóa này. Kế đến, nói nhà cửa lâu đài trên hư không được trang hoàng đẹp đẽ. Đây là nói lên thân tướng Phật là bậc nhất trong trời, người. Nay thân duyên đã cùng tận, trí tuệ vô thượng không còn ngự trị, bậc hạ só phải buồn thương. Nhà là nương dưới đất, mà nay lại ở trên hư không, thì hư không có nhà, lại được điêu khắc, chạm trổ rõ ràng, chẳng lay động, chẳng rơi rớt, có các thứ mầu nhiệm trang nghiêm, đó là nói lên hư không có cất giữ đầy đủ không thiếu, là điều mà hàng trung căn ưa chuộng. Vả lại, nhà cửa đẹp đẽ trang nghiêm, lợi ích, nên gọi là có. Ở trên hư không cao xa, chẳng có người thọ dụng, gọi là Không. Nếu việc Có, Không này chẳng còn, gồm thâu Không và có này trở về chẳng không chẳng có, đó là chỗ thông đạt của bậc Đại só. Kẻ hạ căn thì buồn, bậc thượng căn thì thông đạt, còn người trung căn thì ở khoảng giữa của buồn và thông đạt, giữa đầu và cuối. Dưới các tòa nhà có suối nước, ao tắm. Đây là nói lên thân miệng của Phật, vì ứng phó chúng sinh mà lưu xuất ra các ngôn giáo, giống như ao tắm có hai công năng là rửa sạch cấu uế và xua tan nóng bức, nói lên lời Phật dạy có công năng dứt sạch khách trần bên ngoài, vô minh bên trong. Có hoa sen là nói lên tôn kính lời Phật dạy, tức là tu nhân. Nhân đó mà dạo khắp thế giới, cho nên lấy hai nơi làm dụ. Hóa duyên sắp hết như nhà làm trên cao, nêu ngôn giáo ban bố thấm nhuần, như suối trong chảy vào ao tắm. Nói về bản thể của nó, thì chẳng đi chẳng lưu giữ. Nói về lợi ích thì nên nói có đi và lưu giữ. Văn kinh ghi: “Đều thấy tướng Niết-bàn của Như Lai”, nếu xem qua chỉ có chỗ thấy của kẻ hạ căn, nếu nói đủ thì lại có ý thượng căn thông đạt, hạ căn buồn khổ như trước đã nói. Tuy ba tướng này trước sau khác nhau, nhưng ý thì đồng với trước. Trước dùng âm thanh lớn khuyên hỏi, hỏi thì giáo bí mật hiển bày, như ở đây nói dưới tòa nhà có dòng suối trong mát chảy khắp làm lợi ích cho nhiều người. Trước nói từ miệng phát ra ánh sáng năm màu chiếu soi, dứt trừ ba chướng, sinh ba điều lành, khiến người lập hạnh để thăng tiến, như nay nói nhà cao bỗng hiện trên hư không trang hoàng đẹp đẽ. Trước nói nước và đất rung chuyển, biểu thị cho phá tà đảo thấy tánh thường. Nay nói rừng cây biến thành màu trắng, như lông hạc trắng khiến chẳng ngại nơi khô tươi mà trở về Trung đạo, thể hội được chỗ cùng tột. Nhưng chúng sinh chẳng ngộ được thì lại hiển bày các tướng vỗ tay, gần thì buồn thương, xa thì triệu thỉnh, tướng tuy khác nhau mà ý nghóa thì đồng như trước, chỉ là một lần nữa làm cho chúng sinh được khai ngộ mà thôi. Từ câu “bốn vị Thiên vương v.v…” trở xuống là nói triệu thỉnh chúng ở xa. Nếu chia đoạn từ văn trước thì đây là đoạn ba, triệu thỉnh chúng thượng giới gồm có năm chương. Đầu tiên là thỉnh các vị trời cõi Dục, trước thỉnh bốn vị Thiên vương. Đây là nêu chủng loại. “Mỗi người đều bảo nhau” là vâng triệu thỉnh. Do nghe âm thanh và thấy ánh sáng nên dùng mắt trời quán xét thấy người cúng dường. Tự sắm sửa phẩm vật đến trụ xứ của Phật cúng dường, là nói về thuận theo triệu thỉnh. Nói về trời Đế Thích, chỉ có hai phần là chúng triệu thỉnh và thuận triệu. Nói cho đến các vị trời ở tầng trời thứ sáu tức là lược bỏ không nêu ba tầng trời ở giữa. Nói trên đến trời Hữu đảnh tức là Sắc đảnh, lại nêu thêm Phạm thiên, như văn đã phân biệt ba đảnh, v.v… trước nói về thần lực của Phật thì nên hiểu chung cho ba đảnh, ở đây nói về vật cúng thì chỉ nói về Sắc đảnh. Kế đến là nêu vua Tu-la. Thân chánh báo Xá-chi-phụ kém hơn cõi trời, vì sao lại nói là ánh sáng của thân rực rỡ hơn, vì đó đều là ánh sáng của bậc Đại Bồ-tát nên nói là rực rỡ. Kế đến là nói về Ma chúng. Ma; Hán dịch là Sát giả. Ba-tuần gọi là ác trong ác, trụ ở tầng trời thứ sáu, là đứng đầu cõi Dục. Theo văn có ba: Thứ nhất, nêu loại và số. Thứ hai là khai ân xá trở xuống. Thứ ba, là sắm sửa phẩm vật cúng dường. Hiến cúng có hai là hiến thần chú và hiến phẩm vật. Đức Phật chỉ nhận câu thần chú mà chẳng nhận vật cúng dường. Hỏi: Ma đã xấu ác thì đâu thể có thần chú thiện được? Đáp: Thần chú này của Đức Phật quá khứ, tình cờ Ma vương có được. Như người dân trong nước tình cờ bắt gặp được vật báu đem về dâng lên vua. Có người giải thích rằng: “Một, thần chú là tên quỷ thần, nghe tên thì chẳng được làm hại. Như người ăn trộm rình rập tài vật của người, người chủ biết tên, hô hoán tên này lên, thì kẻ ăn trộm chẳng dám hành động. Hai, chú là tên của các vua quỷ thần, nếu gọi tên người chủ thì chủ sẽ bảo thuộc hạ chẳng được làm hại. Ba, chú như sấm sét, quỷ thần sợ uy lực nên không dám hại. Bốn, chú là lời bí mật, như hiệu lệnh trong quân, tương ứng thì tha, không tương ứng thì trị. Quỷ thần cũng giống như thế, thuận thần chú thì che chở, không thuận thần chú thì phá. Năm, chú là sắc chỉ của Phật, chẳng ai dám chống trái. Có người vặn hỏi rằng: “Chú là chú minh, là chú đại minh, là chú vô đẳng đẳng, nếu là tên của quỷ thần, thì làm sao khiến cho người giác ngộ được đạo quả. Ở đây giải thích chẳng đúng như thế. Nếu một bề giải thích theo sự thì chẳng khế hợp với đạo, nên lập ra pháp môn để giải thích, như thế các phiền não là tên của quỷ, vô minh là tên của quỷ vương; thiện phá được ác, giống như sấm sét, ngay nơi sự mà thật là mật ngữ. Đệ nhất nghóa đế là sắc chỉ của Phật, y cứ theo pháp môn này sẽ được đắc đạo. Hơn nữa, đây là ý bốn Tất-đàn chung và riêng, trong đó bốn ý trước là riêng, một ý sau là chung, y theo cách giải này thì chẳng ngại. Kế đến, trời Đại Tự Tại tức là trời Ma-hê-thủ-la trụ trên đỉnh cõi Sắc, là người đứng đầu thế giới đại thiên. Bồ-tát Thập địa cũng hiện tích nơi đây. Như kinh Pháp Hoa nói “Thế giới chủ Phạm vương”, ý này thế nào? Như nói người đứng đầu thế giới Ta-bà thì chính là chỉ cho Thủ- la. Nếu nói Thi-khí Đại phạm v.v… Tức là chỉ cho Nhị thiền gồm thâu Phạm vương của Tam thiền và Tứ thiền. Nếu nói là thế giới chủ, thì thật ra chỉ có quản lãnh một Tiểu thiên giới mà thôi; các nhà kết tập kinh muốn khen nên nói là thế giới chủ. Nay xin nói thêm rằng: “Đây là trung tâm của thế giới đại thiên nên được gọi là người đứng đầu thế giới đại thiên, nếu nói thấp hơn thì chẳng đúng”. Y theo văn có hai: 1/ Cùng với quyến thuộc là chúng được triệu thỉnh. 2/ Nói về hiến cúng là thuận theo triệu thỉnh. Đức Phật biết thời, nên im lặng không thọ nhận, chẳng thỏa mãn được ước nguyện, các trời Tự tại và các vị trời vô cùng buồn khổ ngồi về một phía. Kế đến từ câu “bấy giờ, ở phương Đông v.v…” trở xuống, là triệu thỉnh chúng ở phương khác. Có chỗ cho rằng âm thanh và ánh sáng không đến đó được, Đức Phật cõi ấy tự bảo các chúng đến cõi này. Nếu y theo văn trước nói ánh sáng chiếu khắp thế giới Tam thiên, cho đến mười phương cũng giống như thế, thì đâu chẳng phải là do ánh sáng triệu thỉnh mà lại nói là Đức Phật cõi ấy sai bảo. Theo văn thì có đủ ba ý triệu thỉnh: 1/ Dùng cơm thơm dâng hiến Phật là ánh sáng triệu thỉnh; 2/ Đến cõi kia lễ kính là chấn động triệu thỉnh; 3/ Cầu xin giải nghi là âm thanh triệu thỉnh. Y theo văn có hai đoạn: 1/ Nói về một phương; 2/ Nêu ba phương. Phương Đông có ba cặp: 1/ Đức Phật cõi kia nói về Đức Phật cõi này, chúng cõi này thấy chúng ở cõi kia; 2/ Đại chúng cõi này dùng không nghó bàn chẳng thấy mà thấy để thấy được Bồ-tát Vô Biên Thân cõi kia, Bồ-tát Vô Biên Thân dùng không nghó bàn chẳng đến mà đến để đến cõi này; 3/ Dùng vật cúng của Đức Phật kia cúng dường Đức Phật cõi này, Đức Phật cõi này không thọ nhận vật cúng của Đức Phật cõi kia. Ba hình ảnh ấy là ba điềm lành ở đầu kinh. Trong đó, Đức Phật cõi kia nói về Đức Phật cõi này, đại chúng cõi này thấy đại chúng ở cõi kia là điềm lành phát ra âm thanh. Đại chúng cõi này thấy đại chúng ở cõi kia, đại chúng ở cõi kia thấy đại chúng ở cõi này là điềm lành mặt đất rung chuyển. Đức Phật cõi kia cúng dường Đức Phật cõi này, Đức Phật cõi này, không thọ nhận, tức là điềm lành phát ra ánh sáng. Trong cặp đầu trước tiên là Đức Phật cõi kia nói về Đức Phật cõi này, văn kinh có bốn ý: 1.Nói về gần xa, 2. Đức Phật cõi kia nói về Đức Phật cõi này. 3.Đi đến; 4. Hiện điềm lành như trong văn kinh. Thứ đến. Đại chúng cõi này thấy đại chúng cõi kia cũng có bốn: 1. Sợ hãi; 2.An ổn; 3. Thấy đại chúng cõi kia; 4. Than khổ. Đại chúng thấy Phật lẽ ra sinh vui mừng, vì sao lại than khổ? Vì nghe Đức Phật cõi kia nói Đức Phật cõi này sắp nhập Niết-bàn. Đây là điềm lành phát âm thanh nêu ở trước. Biết mặt đất rung chuyển, run sợ kinh hãi là điềm đất rung chuyển nêu ở trước. Thấy như ánh sáng của gương là điềm lành phát ra ánh sáng đã nêu ở trước. Nghe thấy như thế rồi, Đức Phật cõi kia vì cõi này mà làm ra tướng Niết-bàn. Vì thế than lời khổ. Hỏi: Đại chúng ở cõi này đều là người đồng hạnh với Phật, vì sao lại kinh sợ? Đáp: Nay nói về thật, nên ý chẳng ở nơi quyền. Vả lại, ngôi vị Thập địa có thượng hạ phẩm. Việc Bồ-tát thượng phẩm làm, hạ phẩm chẳng biết. Việc do Phật lực tạo ra, nếu Phật mượn năng lực thần thông thì hàng côn trùng đều biết, nếu không mượn thần lực thì không thể biết. Cho nên chẳng thể biết được Bồ-tát Vô Biên Thân nương vào thần lực của Phật mà hiện điềm lành này. Thủ-la kinh sợ thì có gì phải nghi. Kế đến là cặp thứ hai, từ câu “đại chúng thấy mỗi lỗ chân lông của Bồ-tát Vô Biên Thân” trở xuống v.v… là nói về vị Bồ-tát này hiển bày không nghó bàn chẳng thấy mà thấy. Nói một lỗ chân lông tức là thấy nhỏ, mà dung chứa bảy mươi tám ngàn ngôi thành có các vật trang nghiêm đẹp đẽ tức là thấy lớn. Nhưng thân lượng đồng như hư không, hư không chẳng có lớn nhỏ, đâu thể nói hết, mà lại chẳng ngại từ kia đến đây. Lớn nhỏ dung nạp nhau, lỗ chân lông chẳng rộng ra, ngôi thành chẳng tóp nhỏ lại. Lại nghe âm thanh vui vẻ thọ hưởng an vui, lại nghe nói: “Khổ thay, khổ thay”. Lại nghe âm thanh Đại thừa. Đó là nói chẳng khổ chẳng vui, không chướng ngại nhau. Cho nên Bồ-tát hiện các tướng này, là để nói lên hôm nay Đức Phật nhập Niết-bàn, là việc không nghó bàn. Kế đó, từ câu “bấy giờ, Bồ-tát Vô Biên Thân và vô lượng Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói các Bồ-tát cõi kia hiện không nghó bàn chẳng đến mà đến. Cặp thứ ba, đầu tiên là nói về cúng dường Phật; chẳng thọ nhận, như văn kinh ghi; nói về ba phương khác; đều như văn kinh đã ghi. Hỏi: Thân đã vô biên, thì cõi kia, cõi này đều ở trên đầu sợi lông, mà lại nói từ cõi kia đến cõi kia, thế thì từ biên kia đến biên này; trong đó đại chúng thấy từ cõi kia đến, tức là ở biên này thấy biên kia, sao lại nói là vô biên? Xưa giải thích rằng có ít phần vô biên nên có đến đi. Ở đây chẳng phải như thế. Đã nói rộng lớn như hư không, hư không đâu có ít phần nhiều phần ư? Đã nói ít phần tức là chẳng đồng với hư không. Nay nói sắc không nghó bàn của Bồ-tát tức biên và vô biên, vô biên tức biên, chẳng phải biên chẳng phải vô biên. Biên tức vô biên, rộng lớn như hư không. Vô biên tức biên thì từ kia đến đây, đây thấy kia đến. Tuy biên vô biên, chẳng phải biên chẳng phải vô biên mà năng hiện ra biên vô biên, nên gọi là không nghó bàn. Nếu có nhất định thì chẳng phải không nghó bàn. Như thân Phật Thích-ca chỉ cao một trượng sáu mà Phạm thiên ở trên cõi Sắc chẳng thấy được đảnh tướng, chẳng thấy chẳng phải không thấy, mà thấy và chẳng thấy. Thí như đặt gương bên thân, thân hiện bóng trong gương, ở trong mà chẳng phải ở trong, chẳng ở trong mà ở trong. Như mặt trời chẳng bay xuống ao nước, ao nước chẳng bay lên trời mà bóng mặt trời hiện trên mặt nước. Sắc vô ngại còn khó nghó bàn, huống chi dùng tình chấp mà suy biết không nghó bàn được ư? Kế đến từ câu “Ta-la-song-thọ v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, kết luận triệu thỉnh, có hai ý: 1/ Kết luận chúng nhóm họp; 2/ Kết luận các tướng tốt đã hiện. Hiện điềm lành là để nhóm chúng, chúng đã nhóm rồi, thì điềm lành cũng phải biến mất, cho nên phải kết luận cả hai. Đầu tiên kết luận về nhóm chúng, có ba ý: 1/ Nói về nơi chốn không nghó bàn; 2/ Người không thể nghó bàn; 3/ Lặp lại về nơi chốn không thể nghó bàn. Thứ nhất, ba mươi hai do-tuần dung chứa năm mươi hai chúng với cờ phướn lọng báu mà người không bị chướng ngại, vật cúng không bị tổn hại. Lại hạt bụi hoặc đầu mũi kim dung nạp Bồ-tát Vô Biên Thân và biết bao quyến thuộc với vô số vật cúng, mà người chẳng chướng ngại, vật cúng chẳng hư hoại. Đó là nơi chốn không nghó bàn. Kế đến là nói về người, có ba ý: 1/ từ câu “Mười phương như bụi cát v.v…” trở xuống là kết luận chúng cõi khác nhóm họp trên đầu mũi kim, và Diêm-phù là kết luận chúng cõi này nhóm họp tại Ta-la song thọ. Đây là nói về người không nghó bàn. 2.Phân biệt nên nhóm họp mà chẳng nhóm họp, chẳng nên nhóm họp mà nhóm họp. Đáng nhóm họp đến là hai chúng Ca-diếp và A-nan, chẳng nên đến là ba chúng rắn độc, ác nhân và ác quỷ. Nhưng ở đây nói đến hay chẳng đến đều không nghó bàn. 3. Nói về lợi ích của chúng nhóm họp đến. Các chúng đến hay không đến đều khởi tâm từ, đến hay chẳng đến đều bình đẳng đối xử trang nghiêm thanh tịnh. Thần La-na-bà là thuộc chúng đã nhóm họp đến, chúng sinh trong cõi tam thiên đại thiên là chúng chẳng được đến. Lại phân biệt từ bi và chẳng từ bi bi; chẳng từ bi là nhất-xiển-đề, vì chẳng sinh tâm từ. Nhưng từ và chẳng từ đều không nghó bàn. Từ câu “lúc bấy giờ cõi tam thiên nhờ thần lực Phật v.v…” trở xuống là lặp lại nơi chốn không nghó bàn. Tam thiên là cõi của các chúng nhóm họp, thế giới mười phương là cõi của các chúng chẳng nhóm họp, tất cả đều trang nghiêm thanh tịnh như cõi Cực lạc, nên nói mười phương cũng giống như thế. Vì chúng nhóm họp đến, nên đạt đến lợi ích này. Cõi chẳng có chúng nhóm họp, chúng chẳng nhóm họp chẳng phát tâm còn không nghó bàn, huống chi Như Lai thị hiện sinh diệt, đâu thể nghó bàn được. Kết luận chúng nhóm họp đã xong. Kế đến, từ câu “từ miệng của Như Lai v.v…” trở xuống là kết luận hiện tướng lành. Từ trên đến đây đã kể chín điềm lành, gom về ba ý nhưng chỉ thâu về một. Vì sao? Vì âm thanh, ánh sáng và gió đều từ miệng phát ra, nếu thâu được ánh sáng vào miệng thì âm thanh và gió cũng giống như thế. Thâu âm thanh là dứt giáo, có nghi thì hỏi ai, đây là nói lên việc thầy đã ra đi; thâu ánh sáng là bặt chiếu soi, thì ba chướng ngăn che đạo pháp, ba nghiệp lành chẳng sinh, đây là nói lên chủ đã ra đi; thâu gió là dứt thần biến, thì biết lấy gì mà chuyển điên đảo; đây là nói lên người thân đã ra đi. Đại chúng thấy một việc mà hiểu được ba ý: Thấy thâu âm thanh vào miệng thì biết sắp mất bậc thầy, nên than khóc, nói chẳng nhận trời, người cúng dường. Đây là lỗi của khóc. Do sầu thương, không có pháp thực. Thấy thâu ánh sáng vào miệng, biết sắp mất chủ, cho nên khóc nói mặt trời Thánh tuệ từ nay tắt hẳn, ba chướng ai dứt, ba thiện ai phát khởi. Thấy thâu gió vào miệng, tức biết sắp mất người thân, vì thế than khóc nói thuyền pháp chìm đắm, ai phá vô minh bờ này để sang đến bờ Niết-bàn bên kia. Ba lần khóc là khóc thầy, khóc chủ và khóc người thân. Than thở là ý cảm động, kêu gào than khóc là miệng xót thương, tay chân run rẩy là thân khổ, ba nghiệp buồn tiếc đến như thế.  <卷>QUYỂN 3 <詞>PHẨM 2: THUẦN-ĐÀ (PHẦN ĐẦU) Phẩm này được chia thành ba phần để giải thích: Nói về sơ mật. Nói về đức hạnh. Giải thích tên gọi. 1/ Nói về sơ mật: Theo bản tiếng Phạm thì còn thuộc về phẩm Thọ Mạng, nói về nghóa khai phá xưa nay, thường vô thường. Cho nên đối với nghóa thì sâu kín, đối với văn thì sơ lược. Tạ Linh Vận y cứ theo người, theo việc mà đề là phẩm Thuần-đà thì đối văn đã sâu kín, đối với nghóa lại sơ lược. Nay nói về chương Niết-bàn thí, đối với hai văn Phạm Hán đều không bị lỗi lầm, tùy người ở trước mà bố thí mạng thường, thuận việc sau mà bố thí thường tu, v.v… 2/ Nói về đức hạnh: Thuần-đà thuộc về số chúng, hai hằng hà sa vì sao lập riêng một phẩm? Lược nêu mười điểm để giải thích: 1/ Chúng đương thời cúng dường trước, sau mới thỉnh, còn Thuần-đà trước thưa thỉnh, sau mới cúng dường; 2/ Đại chúng ba lần thỉnh mà Thế Tôn vẫn im lặng không nhận, Thuần-đà một lần thỉnh mà Như Lai đã thọ nhận; 3/ Do đó mà thọ của đại chúng hội; 4/ Do nơi thọ thực mà khai pháp thường; 5/ Tự thỉnh an trụ; 6/ Đại chúng thỉnh; 7/ Miệng vàng khen ngợi; 8/ Đại chúng khen ngợi; 9/ Đại chúng hỏi đáp; 1 0/ Thệ nguyện vào thời quá khứ. Vì thế đại chúng chẳng phải một mà chẳng lập phẩm. Hỏi: Mười điều của Thuần-đà hơn cả đại chúng, vì sao chẳng cúng trước mà lại dâng cúng dường sau cùng? Đáp: Cúng dường sau là nhường cho đức của người khác. Xưa nói năm điều kính nhường là nghèo nhường giàu, phàm nhường Thánh, thô nhường diệu, ít nhường nhiều, gần nhường xa. Nay y cứ theo văn nêu mười nhường: 1/ Tục nhường đạo: Tức nhượng chúng Tăng ni; 2/ Phàm nhường Thánh: Là bậc Học và Vô học; 3/ Cạn nhường sâu là các Bồ- tát; 4/ Hèn nhường sang là vua chúa, đại thần; 5/ Hiển nhường minh tức trời rồng quỷ thần; 6/ Ít và thô nhường nhiều và diệu là các trời người; 7/ Tài vật nhường pháp tức ma chúng; 8/ Đồng loại nhường dị loại tức sư tử, chim, trùng, v.v…; 9/ Gần nhường xa là các Bồ-tát ở mười phương; 1 0/ Vì ở bên thành mà nhường người ẩn lánh là Tiên nhẫn nhục. Năm điều nhượng chẳng gồm thâu văn, còn mười ý thì bao gồm tất cả. Hỏi: Vì sao? Xưa im lặng nay cũng im lặng, mà có thọ và chẳng thọ khác nhau? Đáp: Ý Phật khó biết. Nay y theo chung riêng mà giải thích. Hai sự im lặng xưa và nay đều là bốn Tất-đàn, Thế giới và Vị nhân im lặng có thọ và chẳng thọ, Đức Phật thuận theo thế giới, cho nên có hai sự im lặng thọ và chẳng thọ khác nhau, hoặc nên im lặng mà thọ nhận, nên im lặng mà không thọ nhận. Hai, đều vì sinh ra điều lành, vì muốn phát sinh cội lành cho người, nên có hai sự im lặng, phá ác đạt đạo cũng như thế. Bậc Thánh không bao giờ nói suông, phàm phu chẳng thể biết được. Giải thích riêng, chúng đương thời chẳng có chỗ nương tựa, duyên kém thì chẳng thể cảm, nên khiến truy tìm duyên khi xưa, đó gọi là thế giới im lặng chẳng thọ nhận. Nếu đầu tiên mà nói ngay chẳng thọ nhận thì các chúng cúng dường sau không phát tâm, nhưng chúng cúng dường đều đã nhóm họp, cần phải thọ nhận bình đẳng, đó gọi là Vị nhân im lặng chẳng thọ. Im lặng chẳng thọ tức chê trách kia chẳng thể do thọ thực để nói về chẳng thọ thực, trừ vô thường hiển thường, không có năng lực mạnh mẽ đối trị; đó gọi là Đối trị im lặng chẳng thọ. Nếu là thân thọ thực thì có thể im lặng thọ thực, còn pháp thân thường thì chẳng thực chẳng thọ, đó là Đệ nhất nghóa im lặng chẳng thọ. Im lặng chẳng thọ là cảnh giới Phật, nghóa chẳng thể cùng tận, chỉ lược nói bốn nghóa mà thôi. 3/ Giải thích tên gọi: Thuần-đà là tên người. Quyển sáu ghi: “Họ Hoa, tên Tử”, Thuần tử và Thuần-đà hai văn nêu ra lẫn nhau. Bản xưa ghi: “Vốn tên là Thu- ần-đà, sau đại chúng tôn xưng đức hiệu làm Diệu Nghóa. Nay nói chẳng phải như thế, Thuần-đà là âm Phạm, Diệu nghóa là tiếng Trung Quốc, trước lập hiệu là dự báo cho việc sau cùng, vì thế đại chúng khen ngợi, chẳng nên phân chia danh và đức khác nhau. Giống như Thiện Cát và Không Sinh. Nhưng Diệu nghóa sâu xa rộng lớn, chẳng thể nói hết, nay lược nêu mười nghóa là: Nghóa diệu, giải diệu, đàn diệu, vị diệu, đức diệu, cảm diệu, thông diệu, thuyết diệu, điền diệu, ích diệu. Nghóa diệu tức ba điểm bốn đức, chẳng dọc chẳng ngang, chẳng chung chẳng riêng, Phật và chúng sinh đều an trụ trong tạng bí mật. Văn ghi: “Cảnh giới Phật không thể nghóa bàn, đối với tất cả pháp đều có tánh an vui.” Giải diệu, tức hiểu thấu đại Niết-bàn, trí tuệ nhiệm mầu, chiếu soi đến cùng tận lý tánh, động thì hợp với cơ nghi, phát tâm rốt ráo, bình đẳng không khác nhau. Văn kinh ghi: “Thuần-đà gọi là giải diệu nghóa, tuy làm thân người, nhưng tâm là tâm Phật.” Đàn diệu, tức tám hộc bốn đấu mà đầy đủ tất cả đại chúng. Văn kinh ghi: “Khiến ông đầy đủ Đàn Ba-la-mật.” Vi diệu, tức tuy là cư só mà bao trùm cả hàng Vô học, làm người thợ thấp hèn mà Thích, Phạm đều quy kính, như ánh sáng của trăng rằm che mờ các vì sao, là vì vương tử của chúng Ưu-bà-tắc. Văn kinh ghi: “Như còn nhỏ xuất gia mà nhập vào số Đại tăng.” Đức diệu, như mười điều khác nhau, mười việc phải nhường đã nói ở trước, được Phật và đại chúng khen ngợi. Văn kinh ghi: “Nam-mô Thuần-đà, Nam-mô Thuần-đà!” Được chúng tôi kính mến. Cảm diệu, như Đức Phật phương Đông dẫu hiện thần thông rộng lớn, trời người vội vã mang cơm thơm cúng dường mà chẳng thọ, chín phương kia cũng giống như thế, huống chi trời người. Thế mà Thuần-đà chỉ một lần thỉnh thì Đức Phật xót thương nạp thọ. Cho nên biết phẩm vật diệu mà chẳng diệu, món ăn thô mà chẳng thô, chẳng diệu chẳng thô. Văn kinh đã ghi: “Vì tất cả chúng hội, xót thương thọ nhận lần cúng dường sau cùng của Thuần-đà”. Thần thông diệu, đầu tiên là sắm sửa vật cúng, mặt đất khởi sáu thứ rung chuyển, khi chính thức dâng cúng thì nói một trăm ba mươi mốt câu kệ, như kinh đã ghi. Thuyết diệu, tức khéo nêu năm câu hỏi, khéo đáp năm hữu vi, như kinh đã ghi. Điền diệu, tức là sau cùng nhập diệt, là thửa ruộng tốt. Kinh ghi: “Ông vì chúng sinh mà làm ruộng phước tốt.” Ích diệu, do nhận Thuần-đà cúng dường mà nhận của đại chúng hội, tài thí làm lợi ích tất cả. Do thọ thực mà khai mở pháp thường, tức pháp thí làm lợi ích tất cả, như kinh đã nói. Đại só Thuần-đà đầy đủ mười diệu và vô lượng các diệu khác, nên đặt tên là phẩm Thuần-đà. Nếu y cứ theo tên kinh thì nên gọi là Thập đại, nếu theo tên người thì gọi là Thập diệu, Diệu và Đại hơi khác nhau. Từ đây đến hết phần chúng hỏi là Niết bàn thí, văn kinh phân làm ba. Phẩm này năm quả thường trụ đặt định cho chúng tạp loại ở cõi này. Phẩm Ai Thán trình bày ba pháp tu cao quý đặt định cho chúng Thanh văn ở cõi này. Phẩm Trường thọ trở đi là tùy theo điều được hỏi mà trình bày để đặt định cho chúng Bồ-tát ở cõi này v.v… Hỏi: Có văn kinh nào nói về sự đặt định, do chúng phương khác chăng? Đáp: Từ Phẩm Hiện Bệnh trở đi là nói rõ năm hạnh mười đức; phẩm Sư Tử Hống, Vấn Tánh và Ca-Diếp, Kiều-trần-như đều đặt định cho các Bồ-tát ở phương khác. Nhưng Đức Phật bình đẳng nói pháp, như mưa nhuần thấm tất cả, đâu để cho phân cách; nhưng từ xưa chia văn là để hiển bày chỗ khởi đầu và kết luận, trong chỗ không khác nhau mà nói khác nhau. Hỏi: Nếu thế thì từ đầu đến cuối chỉ là một chương Niết-bàn thí, không có chương khác ư? Đáp: Ở trước nói ý chung, nên được giải thích như thế. Phẩm này có bốn phần: 1/ Nhân cúng dường thức ăn mà nói về chẳng thọ thực, chẳng thọ thực tức là dùng Thường phá Vô thường, mở bày nghóa chẳng phải thường chẳng phải vô thường. 2/ Do thỉnh trụ mà dùng chẳng trụ phá trụ, mở bày nghóa chẳng trụ chẳng phải không trụ. 3/ Do luận nghóa mà dẹp bỏ hữu vi vô vi, khai mở nghóa chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi. 4/ Do thôi thúc cúng dường mà nói vì diệt cần thọ thực, không diệt chẳng thọ thực để mở ra nghóa chẳng diệt chẳng phải không diệt. Bốn đoạn này có thể tìm thấy trong văn kinh. Nói sinh khởi, tức là đại chúng được triệu thỉnh đến với mục đích mở bày chỗ bí mật, cho nên do thọ thực mà nói về thường, thì nên trụ; do thường mà thỉnh trụ, thì trụ chẳng phải tròn đầy rốt ráo. Vì thế ngăn trụ, mà dùng vô trụ phá trụ, trụ và vô trụ đều trở thành nghóa được mất, nên hữu vi vô vi đều phải bỏ. Nếu bỏ chẳng đúng mà tìm đúng, thì phải cũng thành chẳng phải, nên tức chẳng phải mà phải. Vì thế, văn kinh ghi: “Phương tiện Niết-bàn tức phải mà chẳng phải”, cho nên thôi thúc nay cúng dường là đúng lúc; lần thứ hai, thứ ba cũng giống như thế. Đúng, chẳng đúng đều chẳng phải, vắng lặng là an vui, sự cùng lý tận. Cho nên cúi đầu, nuốt lệ mà sắm sửa vật cúng. Nói về chung riêng, tuy có chia làm bốn đoạn nhưng chẳng phải một bề. Vì sao? Vì tròn đầy nhiệm mầu, chẳng thể nói hết được ý ng- hóa, tùy âm thanh của mỗi loài mà mỗi loài đều hiểu khác nhau, chẳng thể hiểu giới hạn pháp nơi viên đốn. Nay dùng ba ý để so sánh: 1/ Nêu riêng Thường phá Vô thường. Văn ghi: “Nay ta ban cho ông thường mệnh, sắc, lực, an ổn, vô ngại biện”. Lại nói riêng về Ngã, vì có Ngã nên mới nói ngã trụ, ngã quán. Nếu không có Ngã thì ai trụ, ai quán. Văn kinh ghi: “Nay ông nên quán”. Nói riêng về Tịnh, hữu vi thì bất tịnh, vô vi là Tịnh. Văn kinh ghi: “Khéo che lấp tướng hữu vi của Như Lai.” Nói riêng về Lạc, Lạc tức Niết-bàn, tất cả chư Phật đều đến nơi này. Văn kinh ghi: “Sinh đã chẳng trụ, vắng lặng là vui.” Nếu một bề theo ý riêng thì thành đối trị, mất yếu chỉ Viên giáo, nghóa này rất dễ hiểu. Về nói chung, nay nói Thường, chẳng nói Thường khác với ngã, mà Thường tức là Ngã, cũng tức là Tịnh, Lạc. Ngã tức là Thường, tức là Tịnh, tức là Lạc; Tịnh và Lạc cũng giống như thế. Văn kinh ghi: “Pháp Thường này là pháp giới của chư Phật”. Nếu chỉ là thường thì thường đã thiếu, không đủ bốn đức, thế thì đâu được gọi là Pháp giới ấn? Cả ba rõ ràng, chẳng chung chẳng riêng, rốt ráo thanh tịnh. Vì sao? Nếu chỉ là thường phá vô thường, thì đó là pháp đối đãi, là điều mà kinh luận dứt bỏ. Thích Luận chép: “Vô thường là pháp đối trị, chẳng phải Đệ nhất nghóa, dùng thường đối trị vô thường cũng giống như thế”. Trung Luận ghi: “Nếu pháp do đối đãi mà thành thì pháp ấy lại thành pháp đối đãi”. Nay nói thường tức chẳng phải thường chẳng phải vô thường, nên chẳng có chung và riêng. Nếu là chung thì chung do đối với riêng, riêng đã chẳng phải thì chung há là phải ư? Nên biết thường chẳng phải chung, chẳng phải riêng. Văn kinh ghi: “Quả báo của hai lần bố thí đều bình đẳng không khác nhau”; không chung không riêng gọi là bình đẳng. Ngã cũng giống như thế, chẳng phải ngã chẳng phải vô ngã. Văn kinh ghi: “Nay ông nên quán cảnh giới của Phật.” Cảnh giới Phật tức không phải ngã không phải vô ngã. Tịnh cũng giống như thế, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Văn kinh ghi: “Hữu vi vô vi đều xa lìa”, bỏ hữu bỏ vô, tức chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Lạc cũng giống như thế, chẳng phải lạc chẳng phải không lạc, gọi là tịch diệt lạc. Văn kinh ghi: “Chẳng nên suy nghó tuổi thọ dài ngắn”, không dài không ngắn tức chẳng phải lạc chẳng phải không lạc. Ba ý như thế cũng chẳng thể nhất định là ba, chẳng ngang chẳng dọc, chẳng chung chẳng riêng, tức chung mà riêng, tức chẳng chung riêng, chẳng phải một, hai, ba mà là một, hai, ba. Nên biết viên diệu là hiểu được Thường. Vả lại, bốn đoạn văn này đồng thành tựu cho ý trước phát khởi ý sau. Thành tựu ý trước, tức trước phát ra âm thanh lớn thông báo khắp tất cả nên hỏi lần cuối cùng. Vì muốn hiển bày giáo bí mật phương tiện, nay lại thật vì khai phát giáo nghóa đồng chẳng phải (song phi). Ở trước nói từ miệng phát ra ánh sáng, dứt chướng sinh thiện tất cả đều muốn thành tựu hạnh Đệ nhất nghóa không. Nay thật muốn khuyên quán cảnh giới của chư Phật. Ở trước nói đất rung chuyển, phá đổ tám đảo, đều trở về chỗ Phật. Nay thật muốn chỉ rõ hữu vi vô vi nên dứt bỏ, muốn cầu chánh pháp nên tu học như thế. Tu học như thế rồi thì vắng lặng là vui, đồng với chỗ đến của Như Lai. Nên Niết-bàn thí thành tựu các nghóa triệu thỉnh nói ở trước, phát khởi ý sau, chỉ dạy quán cảnh giới Phật tức là đức Bát-nhã, muốn cầu chánh pháp nên học như thế, hãy dứt bỏ hữu vi vô vi, tức là đức Giải Thoát; vắng lặng là an vui, là nơi Phật đạt đến, tức là đức Pháp thân. Chia văn như thế tức là hiển rõ nghóa “Phật nói trước, giữa và sau đều tốt đẹp”, không luống uổng việc phân chia chương đoạn. Văn nói về việc hiến cúng gồm bốn đoạn: Thỉnh, thọ, hỏi, đáp. Văn thỉnh có hai: 1/ Các nhà kết tập kinh nói về đức; 2/ Phát lời trần thỉnh. Nói về đức lại có hai là nói về đức và oai nghi cung kính. Trước nói về đức kính nhường, sau là nói về đức làm việc. Trong phần nói về đức kính nhường gồm mười ý. Ưu-bà-tắc thì như trước đã giải thích, trong ý này gồm có ba điều nhường là tục nhường đạo, phàm nhượng Thánh và cạn nhượng sâu. Thành Câu-thi, như đã giải thích ở trước, ở đây là có hai nhường là gần nhường xa, bên thành nhường ẩn lánh. Con của người thợ, gồm hai nghóa, nếu là con của người thợ tầm thường thì thấp hèn, chưa biết thuộc nghóa nào? Nhưng đã chỉ rõ hèn nhượng sang, thô nhường diệu. Nói mười lăm người đồng bạn, có bản ghi năm mươi; bản hai quyển ghi năm trăm người. Nói mười lăm là y cứ theo người đứng đầu, nói năm mươi là theo người gần gũi, nói năm trăm là y cứ theo đồ chúng. Hoặc một câu này gồm ý đồng loại nhượng dị loại, hiển bày nhường ẩn mật, ít nhường nhiều. Nay nói về ý nghóa thì người này chính thức thỉnh Phật thọ nhận cúng dường, tức là dùng tài nhường pháp. Y cứ theo văn để chứng minh cho nghóa, thì nghóa tự đầy đủ. Kế là từ câu “vì khiến thế gian được quả lành” là nói về đức làm việc. Quả lành có nhiều nghóa, nhưng chỉ nêu bốn quả sau: vừa ý, vô lậu, tùy phần và rốt ráo. Quả Vừa ý, thì Hiền Thánh chê trách, văn kinh ghi: “Nay ta ở nơi đây chẳng cầu thân trời, người”. Quả Vô lậu tức là quả nguội thân bặt trí của Nhị thừa mà các nhà kết tập kinh khen ngợi, chẳng phải là quả tự điều tự phục. Quả tùy phần tức là quả báo của ba Hiền, mười Thánh, trụ phần quả báo chứ chẳng phải cùng cực; như văn kinh ghi: “Hôm nay con cúng dường vật thực, nguyện được quả báo vô thượng”, nên chẳng phải phần quả, nói “vì muốn làm cho chúng sinh được Phật bồ-đề” là nói quả Rốt ráo. Kế đến từ câu “bỏ oai nghi của thân v.v…” trở xuống là nói về oai nghi cung kính khác nhau. Oai nghi có nhiều phép khác nhau như Tục oai nghi, Đạo oai nghi, pháp môn oai nghi, Phật oai nghi. Như khi vua Ba-tư-nặc đối trước Đức Phật, bỏ năm oai nghi là mũ, kiếm, ngọc bội, giày, xe cộ; những người khác tuy không có năm vật này, nhưng cũng cởi bỏ khăn bịt đầu, đai, đi bộ đến v.v…, tất cả đều là oai nghi thế tục. Đạo oai nghi tức các phép tắc, quy cũ như bày vai phải, đắp ba y, đội mũ trời, đắp y trời v.v… Pháp môn oai nghi, tức các pháp môn Sinh nhẫn, Pháp nhẫn. Phật oai nghi là các Pháp tướng Đại nhân, vẻ đẹp phụ, mười Lực, bốn Vô úy, mười sáu pháp Bất cộng… Hoặc có thể xả bỏ y phục thế tục, đắp mặc y phục của đạo, hoặc xả y phục sự mà nhận y phục pháp môn; hoặc ngay y phục thế tục là mười Lực, bốn Vô úy, v.v… Nói “vén y bày vai phải” thì có Tục kiên, Đạo kiên, Quyền kiên, Thật kiên. Tục kiên, như trong Tả truyện nói bày vai tạ tội. Đạo kiên, như đệ tử phục dịch thầy thì phải bày vai phải, phủ vai trái để dễ làm việc. Quyền kiên, tức quyền hóa để dễ hành đạo, cho nên bày quyền che thật. Cách giải thích này để đối với kinh khác, chẳng phải ý của giáo này. Nay nói mở thật che quyền tức là che quyền vô thường mà lộ bày thật đồng chẳng phải (song phi), chính là khế hợp căn cơ, lợi ích vạn vật, thuận tiện dễ được, nên nói “vén y bày vai phải”. Gối phải chạm đất, mặt trời di chuyển theo chiều bên phải là thuận theo thế gian, dùng gối chân phải chạm đất tức Thế giới Tất-đàn; mặt trời là thuần dương, biểu thị cho trí dẫn dắt hạnh, đây là Vị nhân tất-đàn; kinh Văn-thù ghi: “Bên phải là chánh đạo, bên trái là tà đạo”, dùng chánh dẹp tà, đây là Đối trị Tất-đàn. Đầu gối biểu thị cho hạnh, đất biểu thị cho lý, vì hạnh khế hợp với lý, nên nói đầu gối chạm đất, tức là Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Ý này có thể dùng chung để giải thích các kinh khác. Nếu y cứ theo kinh này thì đầu gối biểu thị cho hạnh thường, đất là lý thường dùng hạnh đạt đến lý, nên gọi là gối phải chấm đất, đây là Đệ nhất nghóa. Chẳng giải thích chắp tay. Giải thích thêm rằng: Nếu giải thích theo Sự thì rất dễ hiểu, như người thế gian chắp tay nói lên sự cung kính. Nếu nói theo pháp được biểu thị thì có hai biểu thị, là hai lý quyền thật. Các giáo, các vị đều có hai lý này. Nay kinh này hợp, không ngoài Lý quyền thật. Nói buồn thương, buồn tức là buồn cho người, cảm là cảm Phật. Hạnh của người khác nhau, thì bi chẳng phải một. Không nhận các vật cúng thì phước đức chẳng sinh, nên sinh ra buồn, chẳng nhận vật cúng thì chẳng thể do cúng dường mà khai mở giáo Thường, cho nên buồn. Thường đã chẳng mở ra, đồng chẳng phải (song phi) chẳng hiển bày nên buồn. Nếu Đức Phật thọ nhận vật cúng dường, Đàn ba-la-mật cuối cùng thành tựu thì các nguyện của mình và đồng bạn được tròn đầy, vì thế dùng bi (buồn) để trợ giúp đại chúng, dùng cảm để cầu thỉnh Phật, không giải thích “lễ chân Phật”. Giải thích thêm rằng: “Chạm đầu mình vào chân Phật, nên quả của các giáo đều trở về nhân của Viên”. Kế đến từ câu “bạch Phật rằng v.v…” trở xuống là nói về trần thỉnh, văn có ba: 1/ Nêu thỉnh; 2/ Chánh thỉnh; 3/ Kết thỉnh. Nêu thỉnh lại có hai: 1/ Nêu thuyền Tam bảo; 2/ Nêu tự tha cầu được độ. Đầu tiên là nêu Thế Tôn và Tỳ-kheo tăng, tức là hai ngôi báu; Phật và Tỳ-kheo đã đầy đủ trí và đoạn tức là pháp bảo. Xót thương tức là pháp môn Từ bi, chỉ một chữ này tức là Pháp bảo. Tam bảo như thế tức là chúng vô cúng làm ruộng phước cho chúng hữu cúng. Nếu chẳng có chúng vô cúng thì vật cúng không có nơi để cúng. Nếu cúng mà chẳng có người thọ nhận, thì cúng chẳng biết đâu mà cúng, cho nên cần phải thỉnh. Nói “của chúng con” tức là của những người đồng nghiệp. Nói “lần cuối cùng”, tức là từ đầu tiên cho đến chung cuộc, khi Như Lai ra đời là làm lợi ích lần đầu tiên, hôm nay nhập vào Niết-bàn là làm lợi ích lần cuối cùng cho chúng sinh. Như Lai không còn lần nào để thọ nhận nữa, chúng con cũng không còn lúc nào để cúng dường nữa, cho nên nói là cuối cùng. Nói “vì độ vô lượng” là nêu đại chúng. Như thế người và ta đều muốn nương vào chiếc thuyền, thỉnh cầu được độ thoát. Từ câu “Thế Tôn v.v…” trở xuống là phần chánh thỉnh, có ba ý: Là pháp, dụ và hợp. Pháp thuyết có hai: 1/ Vì mất cho nên thỉnh; 2/ Vì mong cầu nên thỉnh. Vì mất lại có hai ý: 1/ Nêu lên điều mất; 2/ Giải thích điều mất. Một, là nói về điều mất. Tức mất ba ngôi báu. Nói không có chủ tức là mất Phật, không có người thân tức là mất Pháp, không ai cứu tức là mất Tăng. Từ câu “không có gì để hộ trì v.v…” trở xuống là giải thích điều mất. Không còn chúa thì tôi trung không còn ai để che chở, không còn người thân thì con hiếu không nơi nương tựa, không còn thầy thì học trò không có nơi hướng đến. Đã chẳng có chúa để phò giúp thì không còn vinh hoa không còn lợi lộc, nên nói là nghèo. Không còn người thân để nương tựa, tức người thân đi chẳng về thì không còn sinh trưởng, không còn bóng mát che chở nên nói là nghèo cùng. Không có thầy để quy hướng, tức là thầy chẳng chỉ dẫn đường lối thì không có sự dạy bảo, không có sự thành tựu, nên nói là khốn khổ. Giải thích điều mất, ý nghóa đã rõ. Kế đến, từ câu “muốn từ Như Lai v.v…” trở xuống là nói về sở cầu cho nên thỉnh. Theo văn có hai ý: 1/ Nói về điều mong cầu; 2/ Giải thích điều mong cầu. Cầu Phật, nhất thể mà được ba lợi ích. Phật là ruộng tốt tức từ trên mà cầu lộc, nên nói cầu “món ăn ở tương lai”, vì Phật làm cho pháp thân tuệ mạng lớn lên, tức là từ người thân cầu sinh, Phật có khả năng chỉ dạy, khiến được chánh đạo, tức là từ thầy cầu thành tựu. Nếu từ Như Lai thì gồm đủ ba nghóa nêu trên. Kế đến, từ câu “nguyện xin v.v…” trở xuống là giải thích điều mong cầu. Kế đến, từ câu “Bạch Đức Thế Tôn, như Sát-lợi v.v…” trở xuống là dụ thuyết, có hai: 1/ Dụ cho nghèo cùng, tức là dụ cho việc đã mất, không chủ, không còn người thân mà cầu thỉnh nói trên. Vì không chủ nên nghèo, không người thân nên cùng. 2/ Dụ dùng sức làm ruộng, dụ cho điều cầu thỉnh, tức cầu món ăn tương lai mà thỉnh nêu trên. Trong dụ nghèo cùng nêu lên bốn chủng tánh xưa gọi là bốn tộc tánh. Nghóa này chẳng đúng. Vì hiện thấy bốn tộc họ này đều được vinh hiển một phương, chưa bị suy tàn. Nay nói bốn tộc tánh này có cao thấp khác nhau, nên biết nghóa ấy chẳng đúng. Nay nói bốn chủng tánh. 1/ Sát-lợi: Hán dịch là Điền chủ, tức là các vị vua chúa yêu dân trị nước. 2/ Bà-la-môn: Hán dịch là Tịnh hạnh, là những người học rộng, thông đạt. 3/ Tỳ-xá: Chưa thấy dịch, có lẽ là những người bình dân như làm ruộng, buôn bán. 4/ Thủ-đà-la: Cũng chưa thấy dịch, có lẽ là người làm các nghề thấp hèn như hốt phân, khiêng thây chết … Xưa dụ bốn chủng tánh này với bốn loài sinh, dụ cho sáu đường. Nghóa này chẳng đúng. Nếu dụ cho bốn loài sáu đường thì quá cạn thấp. Không gồm thâu hết ý nghóa, nay dụ cho căn tánh của chín pháp giới; gom chín thành bốn loại: Căn tánh của Bồ-tát phương tiện đã có khả năng giáo hóa người, gồm chung muôn loài, nên muốn cho dòng Sát- đế-lợi; hàng Thanh văn, Duyên giác đồng được Niết-bàn. Thanh tịnh vô lậu dụ cho Bà-la-môn; hai cõi trời, người là đường lành, dụ cho Tỳ-xá; bốn đường ác là địa ngục, ngạ quỷ v.v… dụ cho Thủ-đà-la. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều đồng một Phật tánh, vị ấy chân chánh, Nhất thể Tam bảo, bình đẳng không khác nhau, nhưng bị phiền não che lấp, trôi lăn trong sáu đường, làm các thân hình, nên các cõi phân cách, vị lẫn lộn, hoặc ngọt hoặc mặn, hoặc đắng hoặc lạt; không có chủ, không người thân, mất nhà, mất nước, Nhất thể Tam bảo ẩn kín không hiển bày được. Bên ngoài thì xa lìa Tam bảo, đánh mất pháp lành nên nói “ng- hèo cùng”. Thiện ác cách nhau nên nói “đi xa đến”. Chẳng phải “cội nguồn của mình nên nói là nước khác”. Phẩm Tánh ghi: “Tất cả chúng sinh dù có Phật tánh, nhưng đều chẳng thấy được, là do bị ba độc che lấp, nên đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hay sinh vào nhà Sát-lợi v.v…” tức là nghóa này. Nếu dụ quán khai thì bốn chủng tánh như Sát-lợi v.v… dụ cho căn tánh của bốn hạng người, là hợp nghóa. Như xét theo lời trong phần Hợp Dụ ghi: “Như người có bốn tánh nghèo đó là thân con”, có thể dụ cho một người có đủ bốn căn tánh, thì nghóa thích hợp. Mà văn lại ghi: “Cứu vớt vô lượng khổ não cho chúng sinh,” thì dường như y cứ theo nhiều người để lập dụ. Nhưng lập dụ đã có hai văn, chẳng thể cứ một bề, nếu đạt được ý này thì biết một người đã như thế, nhiều người cũng như thế, cho nên một người có hai dụng không ngại nhau. Nhưng tông chỉ kinh này nói về thường, luận về tánh, xét theo phần pháp thuyết ở trên thì mất ba tánh, ba tánh chẳng hiển bày thì nghóa thuyết lại không có. Chánh tánh chẳng hiển bày nên nói không có người thân. Duyên tánh chẳng hiển bày nên nói không có chủ. Liễu tánh chẳng hiển bày nên nói không cầu. Nêu chung ba điều mất, để làm đầu mối thỉnh cầu. Trong phần nói về điều cầu thỉnh trong pháp thuyết có nói: “Chỉ từ Như Lai cầu xin món ăn tương lai”, tức chỉ từ chủ mà cầu lộc, đó là cầu duyên nhân. Duyên tánh giúp cho liễu tánh, liễu tánh giúp hiển bày chánh tánh. Đây là nêu một việc để thỉnh cầu. Trong phần nói về điều mất của dụ thuyết có nêu nghóa thỉnh riêng ba tánh, tức nói chúng sinh đều có tánh chánh nhân, nhất thể Tam bảo, bình đẳng không khác nhau, nhưng bị hoặc nghiệp che lấp, làm các thân hình, có bốn chủng tánh khác nhau, đây là nêu khác để cầu chẳng khác, riêng thỉnh Như Lai hiển bày chánh tánh. “Vì nghèo cùng nên phải đi xa, đến nước khác”, không có chủ là nghèo, không có thân thích là cùng, không thầy là khốn khó. Đây là nêu nghèo cầu giáo, thỉnh riêng Như Lai hiển bày tánh duyên nhân. Ra sức làm ruộng cho đến dứt sạch cỏ và vật dơ, là nói đầu tiên từ trời, người cho đến Bồ-tát, chỉ dứt phiền não, chỉ được ít phần, còn gốc lành vô thượng chưa đâm chồi, chỉ mong cầu trời mưa, trời rưới một trận mưa thì liền đâm chồi, đây là thỉnh riêng Như Lai hiển bày tánh liễu nhân. Nhưng ba Phật tánh chẳng chung chẳng riêng, chỉ thuận theo căn duyên mà có hai lần thỉnh cầu chung riêng. Còn các văn khác như kinh đã nói. Đoạn Như Lai thọ nhận ở sau có hai ý: Như nói “nay ta sẽ dứt trừ sự nghèo cùng cho ông”, là hứa chịu làm người đứng đầu, hiển bày tánh duyên nhân. Nói “ban mưa pháp vô thượng” là hứa chịu làm thầy, hiển bày tánh liễu nhân; nói “mưa xuống ruộng thân ông, làm cho nẩy chồi pháp”, là hứa chịu làm người thân, hiển bày tánh chánh nhân. Đây là hứa riêng ba nhân Phật tánh. Từ câu “Vì sao? Này Thuần-đà! Thí thực có hai quả báo không khác nhau, vì sao không khác nhau? Vì nếu nhận làm chủ tức đã làm người thân, làm thầy, nếu đã làm thầy, làm người thân tức là làm chủ. Ba việc này là một bình đẳng không khác nhau. Nếu hiển bày duyên nhân, tức hiển bày liễu nhân; liễu nhân chánh nhân đã hiển bày tức là hiển bày duyên nhân. Ba tánh này hiển bày một cách bình đẳng không khác nhau. Đây là hứa chung ba nhân Phật tánh. Có người nói rằng: Ở đó chưa nói về Phật tánh, làm sao có cách giải thích này? Đáp: Kinh nói Phật tánh, đó là chánh tông. Nếu đầu tiên chẳng khai mở, thì sau lấy gì để nương theo. Bởi thế đầu tiên thỉnh cầu một thể Phật làm chủ, làm người thân, làm thầy. Thân nhất thể ban cho thường mệnh, sắc lực. Chủ nhất thể ban cho thường an, sư nhất thể sư ban cho thường vô ngại biện; khiến cho Nhất thể Tam bảo, ba Phật tánh trong tự thân hiển bày, tự tha trong ngoài đều bình đẳng không khác nhau. Bậc thượng căn lợi trí đã đồng với Thuần-đà, còn người chưa hiểu thì đến phẩm Ai Thán mở tạng bí mật, an trí các người con, sẽ thâm nhập vào đó. Phẩm Trường Thọ, phẩm Kim Cương thứ lớp theo nhau, cho đến phẩm Ca-diếp, Sư Tử Hống v.v… hiển bày Phật tánh. Nếu đầu tiên khai tông mà chẳng nói về Phật tánh thì khai nghóa gì? Lấy nghóa gì làm tông? Sợ rằng theo văn giải thích sẽ rời rạc lẫn lộn. Cho nên ngầm nêu ra ý này. Kế đến, từ câu “ra sức làm ruộng v.v…” là lập dụ cho điều mong cầu nói trên. Dụ này lược nêu các pháp lành trời, người, Nhị thừa phương tiện, Bồ-tát, đều là ít phần duyên nhân, cho nên nêu lên để cầu thỉnh. Nói “ra sức” tức là nói nhàm chán đường ác và cảnh nghèo cùng, ưa thích pháp lành trời người; nên nói “ra sức làm ruộng”. Câu “khéo điều phục trâu cày”, có hai ý: 1/ Nếu trâu dụ cho thân lành thí dụ này còn thuộc trời người; 2/ Nếu điều phục trâu dụ cho bảy nghiệp của thân và miệng, thì dụ này thuộc về giới; ruộng tốt dụ cho định, bằng phẳng dụ cho tuệ; cắt cỏ hoang dụ cho dứt phiền não. Ở đây cũng có hai ý: 1/ Nếu trừ bốn trụ là dụ cho pháp lành của Nhị thừa, nếu dứt trần sa là dụ cho Bồ-tát của ba giáo Thông, Biệt, Viên. “Chỉ cầu mưa pháp v.v…” là chánh thức cầu liễu nhân; chỉ mong cầu Như Lai là cầu chủ, cầu người thân; cầu mưa pháp là cầu thầy. Nếu có đủ ba điều mong cầu thì như nghèo được chủ, cùng được người thân, như kẻ mới học được thầy. Cho nên Phật tánh hiển bày, yếu chỉ của việc mong cầu là ở đây. Đức Phật tùy theo điều mong cầu, đáp ứng theo lời thỉnh mà ban cho. Ban thường mệnh, sắc, lực là chấp nhận làm người thân, hiển bày chánh tánh; ban cho thường an là chấp nhận làm chủ, hiển bày duyên tánh; ban cho thường vô ngại biện là chấp nhận làm thầy, hiển bày liễu tánh. Trước sau chẳng trái nhau, mới biết được chỉ thú của văn. Thứ 3, từ câu “nói điều phục trâu v.v…” trở xuống là hợp dụ. Trước hợp với nghóa “ra sức làm ruộng”, sau hợp với nghóa “nghèo cùng”. Văn chẳng theo thứ lớp, vì nói nghèo và làm việc chẳng cần phải nhất định trước sau. Chỉ vì nghèo nên làm việc, phải làm việc vì nghèo. Đầu tiên từ trời, người cho đến Bồ-tát của ba giáo đều là nghèo, tuy có khác nhau một ít, nhưng đều nghèo tài bảo vô thượng của Như Lai. Chẳng theo thứ lớp hợp thuyết là do ý này. Kế là hợp với nghóa ra sức làm ruộng, có hai ý: 1/ Hợp với các pháp; 2/ Hợp với nhất thể. Trong phần hợp với các pháp thì không hợp với trời người, là do văn kinh lược bỏ không nêu. Bảy chi nghiệp của thân, miệng là dùng giới để giữ gìn, ngăn ngừa, hợp với điều phục trâu. Định trợ giúp cho tuệ nên hợp với ruộng tốt, tuệ không còn khác nhau nên hợp với bằng phẳng; trừ bốn trụ hoặc hợp với trừ dơ uế, trừ hoặc trần sa là dụ cho trừ sỏi đá, đất bạc màu. Kế đến, từ câu “Bạch Đức Thế Tôn! Nay thân con đã có trâu điều phục, ruộng tốt, dẹp bỏ các vật dơ bẩn, chỉ cầu mưa pháp cam lộ của Như Lai. Thân đã có giới nên hợp với trâu đã điều phục, định hợp với ruộng tốt, tuệ hợp với trừ uế. Tuy có đủ duyên lành, nhưng chưa thể hiển bày chánh tánh. Từ câu “chỉ mong v.v…” trở xuống, là hợp cầu ngôn giáo liễu nhân, từ câu “nghèo bốn tánh v.v…” trở xuống là hợp với nghóa nghèo cùng ở trên. Ở trên y cứ theo bốn tánh, nay y cứ theo một thể, đã giải thích ở trước. Từ câu “cứu vớt v.v…” trở xuống là hợp với ý bốn tánh riêng biệt nêu trên. Thứ ba, từ câu “vật cúng của chúng con v.v…” trở xuống là song kết, gồm có ba: 1/ Kết luận sự thỉnh cầu trong phần pháp dụ ở trên. Phần Pháp Thuyết có nói “Thọ nhận phẩm vật ít ỏi này của chúng con, rồi vào Niết-bàn”; dường như chỉ thỉnh Phật, nay kết luận dụ thuyết lại nói “mong đầy đủ cho Như Lai và đại chúng”; kết luận thì không chỉ riêng cho Phật mà còn đầy đủ cho năm mươi hai chúng. Vả lại, đó là để nói lên việc có thể dùng một bữa ăn mà ban phát khắp cho đại chúng. Chúng thì nhiều mà cúng đầy đủ, vật cúng ít mà khắp đủ cho nhiều chúng. Tức là dùng vật cúng không nghó bàn cúng dường chúng không nghó bàn. 2/ Từ câu “chúng con hôm nay không có chủ v.v…” trở xuống, là kết luận điều mất trong phần pháp và dụ thuyết nói trên. 3/ Như “La-hầu-la’ là kết luận nghóa cầu mất trong phần pháp dụ ở trên. Phật là kim luân tức là chủ của La-hầu-la, và là người thân, là thầy. Con và tất cả chúng sinh cũng giống như thế, ba việc như một, cùng được như La-hầu-la. Từ câu “bấy giờ Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là phần thứ hai, là thọ nhận cúng dường. Văn có ba: 1/ Hứa thọ nhận vật cúng; 2/ Chánh thức thọ cúng; 3/ Giải thích cúng dường. Phần hứa nhận lại có hai: 1/ Nói về hứa nhận; 2/ Đức Phật tự hứa nhận. Đầu tiên các nhà kết tập kinh nêu ba hiệu, Phật đã chấp nhận lời thỉnh cầu của Thuần-đà, cho nên nêu ba hiệu để đối nhận. Nói Thế Tôn hứa là chủ, nêu Chủng Trí tức hứa làm thầy, nêu Điều Ngự tức hứa là người thân. Đã hứa làm chủ tức là dứt nghèo, đã hứa làm người thân tức là dứt sự cùng, đã hứa làm thầy tức là diệt khốn khó. Ba điều mất trở lại được, ba điều mong cầu lại thành tựu. Thế Tôn là bậc được tất cả các loài kính ngưỡng, như ở thế gian con hiếu kính thờ cha mẹ như Bà-la- môn thờ lửa, như các vị trời thờ phụng Đế Thích. Phụng thờ cha là nghóa thân, phụng thờ lửa là nghóa thầy, phụng sự Đế-thích là nghóa chủ. Vả lại, nói Thế Tôn như mặt trời Phật mà các vì sao Hữu học Vô học kính ngưỡng, như núi báu Tu-di Phật được bốn biển Bồ-tát vây quanh, như các dụ rừng chiên-đàn, sư tử, v.v… dụ cho giới định tuệ, được thế gian kính ngưỡng, nên gọi là Thế Tôn. Nói trí Nhất thiết chủng trí, hoặc dùng sắc thân tướng tốt đối với tất cả, tất cả đều hiểu nên gọi là trí Nhất thiết chủng trí. Vì sao? Vì chúng sinh thế gian thờ tám mươi vị thần, mỗi vị thần là một vẻ đẹp, tùy theo chỗ thấy của họ mà thấy được vị thần mình thờ phụng, trên một thân Như Lai có đủ khắp tất cả, khiến họ hiểu được, nên gọi là trí nhất thiết chủng. Vả lại, chẳng lấy sắc thân làm Phật mà lấy trí Nhất thiết chủng làm Phật, Nhất thiết chủng trí nương vào sắc thân này mà thấy tướng trang nghiêm, nên biết vì đầy đủ trí tuệ nên gọi là trí Nhất thiết chủng. Điều ngự hợp với cơ duyên, hễ sinh, liền diệt ứng với thọ bất thọ, đều vì điều phục chế ngự tất cả chúng sinh. Các kinh khác ghi là Điều Ngự và Trượng Phu thành hai hiệu, kinh này hợp thành một hiệu. Văn ghi: “Tự đã là trượng phu, lại còn điều phục Trượng phu.” Nói “lành thay! Lành thay!” ấn chứng cho hai lần thỉnh ở Pháp và Dụ. Từ câu “nay ta dứt trừ v.v…” trở xuống là nói về việc Đức Phật tự nói lời chấp nhận. Dứt nghèo là nhận làm chính, mưa pháp là nhận làm thầy, khiến sinh mầm pháp là nhận làm người thân. Từ câu “nay ông muốn v.v…” trở xuống là chánh thức thọ nhận. Nói “hôm nay muốn cầu thường mạng, sắc lực” là lặp lại lời cầu được cha, “cầu an vui” là thuật lại lời cầu được chủ; “cầu biện tài vô ngại” là nói lại lời cầu được thầy. Nói “nay ta sẽ ban cho ông”, tức là chấp nhận ba việc nêu trên. Xưa nói thể chánh của kinh Niết-bàn là dùng Thường đối trị Vô thường, cho nên lời tựa về năm thời ghi: “Bát- nhã tuy nói về Phật Tôn-đặc mà lại thành nghóa vô sinh, Lăng-nghiêm tuy nói bảy trăm tăng-kỳ nhưng đâu bằng Vô Lượng Thọ của Pháp Hoa. Vô lượng thọ của Pháp Hoa còn vô thường, đến giáo Niết-bàn thì mới nói về thường, lạc. Xa thì bác bỏ vườn Nai, gần thì phá Pháp Hoa, đồng trở về Niết-bàn viên thường, là thuyết cùng nguồn tận tánh. Người nói như thế chỉ là trích một câu đối duyên của các kinh mà lập nghóa Vô thường, chỉ lấy một nghóa Thường phá bệnh của Niết-bàn làm thể chánh, cả hai đường đều chẳng đúng. Vì sao? Vì Bát-nhã là mẹ sinh ra chư Phật, Niết-bàn là thầy dạy bảo chư Phật, kinh Lăng-nghiêm nói ba thân Phật, Niết-bàn nói ba điểm, Pháp Hoa nói Nhất thừa, Niết-bàn nói Phật tánh. Nhất thừa tức là Phật tánh, tất cả chúng sinh đều là Nhất thừa. Như thế sao lại dùng Nhất thừa phá Nhất thừa, pháp thân sao lại phá pháp Phật, thầy Phật sao lại phá mẹ Phật. Cho nên biết nếu mê phương tiện, lầm các bộ giáo, cùng lập đúng sai, thì mất đi chỉ thú chân chánh, nên ở đây chẳng sử dụng. Sư Địa luận tuy chẳng chấp năm thời, nhưng dùng đương hiện thường phá nghóa vô thường, cho nên ý nghóa cũng tương tựa, đồng như thuyết xưa. Hưng Hoàng giải thích rằng: “Thường và Vô thường, tức thuốc bệnh đối trị nhau, Vô thường trị Thường. Nếu biết Vô thường là phương tiện trị Thường, thì bệnh hết, thuốc cũng nên bỏ. Nếu chẳng biết mà chấp giữ thuốc, thì thành bệnh, bệnh tức là đoạn kiến. Cho nên nói “vua hôm nay bị bệnh nặng”. Thường trị Vô thường cũng là phương tiện, bệnh lành thì thuốc cũng bỏ. Nếu chẳng biết lại chấp giữ thì thành chấp thường. Biết cả hai chỉ là phương tiện để dứt, dứt đoạn thường thì chẳng rơi vào đoạn thường. Cho nên biết nếu thấy pháp sinh thì dứt chấp đoạn, nếu thấy pháp diệt tức là diệt chấp Thường. Nếu chẳng biết thì lại rơi vào hai kiến. Nay nói cách giải thích ở đây chẳng đồng như thuyết xưa; nếu đạt được ý này thì không có chỗ để phân cách; nếu theo lời mà sinh ra tưởng, thì đều đồng với bệnh trước. Vì sao? Vì bác bỏ Thường và Vô thường mà nói cả hai là phương tiện cho nhau, lại chẳng phải thường chẳng Vô thường làm chánh thể, thì như tránh không tìm không, cách không càng xa hơn. Vì sao? Vì Đức Phật nói “quả báo của hai lần thí đều bình đẳng, không khác nhau”; nếu xưa nói năm quả Vô thường, nay nói Thường, thì đó là khác nhau, nếu Thường, Vô thường đều chẳng phải thường chẳng phải vô thường, mới được gọi là bình đẳng không khác nhau. Cũng gọi là hiển phát giáo bí mật phương tiện. Nếu đạt được ý này thì Bát-nhã và Lăng-nghiêm đều là bí mật. Nhưng nghó Thường ở đây là chỗ cốt yếu của giáo này, là trọng tâm của các kinh, là ngôi nhà của các Thánh, là pháp giới chẳng thể nghó bàn của chư Phật, là trí tuệ chẳng thể nói hết của Như Lai. Như ngưng nhiên thường, như đương hiện thường, như phá bệnh thường, đâu hợp với viên lý? Nay thử nói xem. chư Phật ra đời là vì việc nhân duyên lớn. Việc Nhân duyên lớn là Thường trụ. Pháp Thường bao gồm dung nhiếp tất cả nên nói là Đại, thường kiến lập các pháp nên nói là Sự; hằng cơ, hằng cảm nên gọi là Nhân duyên. Thường không khác nhau mà khác nhau nói là thường. Văn kinh ở sau ghi: “Nơi chư Phật y cứ là pháp, pháp Thường nên chư Phật cũng Thường.” chư Phật ba đời đều nương sự thường này, thường không có sư đệ mà sư đệ đều thường.” Phân biệt như thế gọi là thế giới Thường. Các văn như: “Nay ta dứt trừ nghèo cùng cho ông, tuôn mưa pháp lên ruộng thân của ông, làm cho mầm pháp sinh khởi”, hoặc câu “Nay ông muốn cầu thọ mạng, sắc, lực, an ổn, vô ngại biện ở ta, ta sẽ ban cho ông thường mệnh, sắc, lực, an ổn, vô ngại biện”, hoặc là nói: “Nay ta thương xót ông và tất cả, vì thế đêm nay ta sẽ nhập Niết-bàn, nếu trời người cúng dường hôm nay, cúng dường cho ta lần cuối cùng, thì sẽ được quả báo bất động”; tất cả đều nói pháp thường phát sinh thiện thường, đó gọi là Vị nhân thường. Nói: “Nếu muốn lìa bỏ bốn điên đảo thì nên biết Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Ngã là nghóa Phật, Thường là nghóa pháp thân, Lạc là nghóa Niết-bàn, Tịnh là nghóa chánh pháp.” Dùng bốn pháp này để phá bốn điên đảo. Kinh lại ghi: “Trước tu tập tướng mạo bốn pháp đều là điên đảo”; muốn được tu tập chân thật các tưởng, như người trí kia khéo tu Ngã tưởng, Thường tưởng, Lạc tưởng, Tịnh tưởng; Như người thầy thuốc giỏi, trước dùng vị mặn, đắng trị gốc bệnh, gốc bệnh đã dứt, nhưng còn lo ngại mặn, đắng nên sau đó dùng sữa thanh tịnh để trị mặn, đắng. Đức Phật cũng giống như thế, trước dùng Vô thường trị bệnh Thường, bệnh Thường đã dứt thì lại còn bệnh Vô thường. Nay dùng Chân thường phá bệnh vô thường xưa. Nên nói: “Ta làm bậc Y vương, muốn chế phục ngoại đạo, vì thế mới nói vô ngã vô nhân”, do nhân duyên này mà nói có ngã. Về Thường phá Vô thường cũng giống như thế. Lại hai cây ở phương Đông là nói Thường phá Vô thường. Dụ hai chim cùng bay là nói Như Lai không hai mà có hai dụng. Các văn như thế là nói về dùng pháp Thường phá Vô thường. Thích Luận cũng nói Thường và Vô thường đều là pháp Đối trị, chẳng phải là Đệ nhất nghóa, đó gọi là đối trị Thường. Đệ nhất nghóa thì chẳng phải Thường, chẳng phải Vô thường. Nay kinh này cũng nói quả báo của hai lần bố thí bình đẳng không khác nhau. Nếu dùng Thường phá Vô thường, thì Vô thường khác Thường, vậy thành khác nhau, chẳng phải Đệ nhất nghóa. Đệ nhất nghóa, tức chẳng phải thường chẳng phải vô thường, cho nên chẳng khác nhau. Nếu dụ hai chim cùng bay là nói về hai dụng, hai chim đều dừng là song tịch thì ngay nơi dụng là tịch, vắng lặng là an vui, là đại Niết-bàn. Những văn như thế đều nói về Đệ nhất nghóa thường. Nên biết thường này là bốn Tất-đàn vô ngại, tức là thường cũng phân cách việc nhân duyên lớn, thường cũng là diệu lý rốt ráo vắng lặng, thường cũng sinh ra kiến lập các pháp, thường cũng đối trị, phá các hoặc điên đảo. Tự tại như thế, vì sao chỉ y cứ theo thuốc bệnh đối trị để nói, mất đi yếu chỉ viên thường, trái với kinh luận. Vả lại, Đại Niết-bàn vốn tự có, chẳng phải đến nay mới có. Hơn nữa hai mươi lăm hữu đều có ngã, ngã tức là nghóa Phật tánh, Phật tánh tức là Thường. Phật tánh mạnh mẽ không thể hủy hoại. Luận nhiều văn nghóa là nói về hiện Thường. Lại nói: “Người có tâm, đều sẽ thành Phật, vị lai sẽ được Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”. Các văn như thế là nói về đương Thường. Lại nói: “Ba đời đều có pháp, thì không có việc này. Đã không có ba đời, vì sao lại có hiện Thường, đương Thường”. Kinh Tịnh Danh ghi: “Chỉ dùng văn tự thế tục mà nói có ba đời, chứ chẳng phải Bồ-đề có quá khứ, vị lai, hiện tại”. Nếu cố chấp “đương” và “hiện”, vẫn y cứ vào ba đời, chẳng hiểu được ý ta, đâu thể hiểu được lời kệ”. Thường này hiển phát được giáo pháp phương tiện bí mật của Như Lai. Xưa, che lấp thường, nay khai mở nói về thường không có khác, nhưng Thường hôm nay khác với Vô thường khi xưa, vô Thường xưa tức là thường hôm nay. Nói “hôm nay ta sẽ dứt trừ nghèo cùng cho ông”. Nếu trừ bốn đường nghèo cùng, tức là trừ các điều ác Vô thường mà hiển bày Thường. Văn kinh sau có ghi: “Sám hối bốn giới trọng, trừ tâm hủy báng pháp, dứt trừ năm tội nghịch, diệt Nhất-xiển-đề”, tức là nghóa này. Nếu dứt nghèo cùng Trời người tức là dứt các điều lành Vô thường mà hiển bày ra Thường; văn kinh ghi: “Hôm nay, ở đây con chẳng cầu thân trời người, dẫu có được thì tâm cũng chẳng ưa thích”. Lại nói: “Do diệt sắc này mà được sắc Thường”, tức là nghóa này. Nếu dứt nghèo cùng Nhị thừa, tức trừ vô lậu vô thường mà hiển bày Thường; như kinh ghi: “Vì hàng Thanh văn mà khai phát tuệ nhãn”, tức là nghóa này. Nếu dứt phương tiện nghèo cùng của Bồ-tát tức dứt trừ sáu Độ vô thường của Thông, Biệt mà hiển bày Thường. Văn kinh ghi: “Khiến cho các Bồ-tát thấy rõ được Phật tánh”, lại nói: “Từ đây về trước, chúng ta đều là người tà kiến”. Tóm lại, dứt bỏ hữu sư thì có vô sư, dứt các kinh chẳng liễu nghóa, thấy đều là liễu nghóa. Đó gọi là hiển bày giáo bí mật phương tiện của Như Lai, đều được đặt trong Tạng bí mật ba điểm, bốn đức. Hơn nữa, Thường này tức là Phật tánh, Phật tánh tức Thường. Đã khai mở Thường, tức là khai mở Phật tánh. Đã vì các ông làm người thân mà hiển bày chánh nhân, làm chủ hiển bày duyên nhân, làm thầy hiển bày liễu nhân. Dứt trừ nghèo cùng mở tánh cảnh giới. Nói: “Đều sẽ được quả báo bất động”, tức là mở bày tánh quả. Nếu y cứ theo nghóa này thì người nào, giáo nào, hạnh nào, vị nào, dụng nào mà chẳng phải là Thường. Pháp nào chẳng phải là phi Thường phi vô thường. Há lại có các tánh Ba thừa, thiện ác khác nhau. Rốt ráo đều là đại Bát-niết-bàn không nghó bàn, đường ngôn ngữ dứt, cảnh tâm hành bặt; dọc thì sâu, ngang thì rộng, không bờ không đáy, năng lập ra nghóa đại, đầy khắp pháp giới, chẳng thể cùng tận. Đâu được ấn định là lắng trong, phá bệnh đương thường và hiện thường. Nghóa thường như thế giống như hư không, lược đối với bốn nhà mà nêu lên đại ý. Kế đến tên của năm quả trong phần chánh thức thọ nhận, văn không giải thích. Nay luận thêm rằng: Năm quả này gồm thân muôn đức của nhân quả, nên trước giải thích tên, kế đến đối luận với pháp. Năm pháp đã thường cho nên đầu tiên nói về Thường. Vận động giữ gìn gọi là mạng; thường mạng tức vô thỉ vô chung, không bao giờ đoạn dứt. Vì chẳng phải sắc là sắc, nên hôm nay thân ta là Pháp thân. Tác dụng là lực, cùng khắp tất cả mọi nơi, dụng vô cùng vô tận. Bất động là an, tuy đầy đủ lực dụng, nhưng vững chắc bất động. Đối với các thứ căn cơ đều có biện tài vô ngại, dùng vô duyên từ bi ban khắp tất cả. Kế là đối luận với pháp. Đây là ba mật, trong đó mạng tức là ý mật, sắc lực và an ổn là thân mật, vô ngại biện tức khẩu mật; cũng gọi là bốn đức, trong đó ý là Thường đức; thân là Lạc đức, Ngã đức; miệng là Tịnh đức. Nếu đạt được ý này thì biết tất cả các pháp đều là năm quả. Phật có đủ năm quả này để ban cho người, năm quả đều là thường, nên ban phát cũng vô tận. Nói vô tận tức năm quả.  <卷>QUYỂN 4 <詞>PHẨM 2: THUẦN-ĐÀ (PHẦN GIỮA) Từ câu “vì sao? v.v…” trở xuống là giải thích về thí. Giải thích phần đầu và phần sau thì khoảng giữa có thể hiểu được. Ý này chẳng phải ở giáo sau khai nghóa thường, mà đầu tiên cũng đã như thế. Đã nêu các giáo thì sẽ so sánh biết được hành vị chứng nhập cũng như thế. Ấn pháp Thường ấn chứng tất cả, không gì chẳng Thường. Trước, sau cúng dường là Hạnh thường. Trước, sau pháp thí là Giáo thường. Hai thí trước sau ắt có người là Nhân thường; quả báo trước, sau là Chứng thường, chứng thì có vị là Vị thường; bình đẳng không khác nhau tức là Pháp thường. Lại nói: “Bình đẳng không khác nhau”, nếu theo văn kinh trả lời thì có nhiều nghóa, hoặc trước sau đều thọ, đều thật, đều chẳng thật, hoặc trước sau đều được năm quả; hoặc trước sau đều thấy Phật tánh đều dứt phiền não, đều năng nói pháp. Nếu theo kinh Lăng-nghiêm thì trước sau đều như không. Nếu y cứ theo Thích Luận thì trước sau đều là thật tướng các pháp. Nếu theo ý kinh này thì trước sau đều là thường. Thường tức là Thường của chẳng Thường, chẳng Vô thường. Nếu đạt được ý chẳng thường chẳng Vô thường, thì đối với tất cả pháp, Giáo, Hạnh, Vị, Nhân đều bình đẳng, không khác nhau. Hỏi: Tất cả chúng sinh thường là Hiện thường hay Đương thường? Đáp: Như trên đã nói ba đời đều Thường. Hỏi: Nếu Hiện thường thì có phải chúng sinh tức là Phật hay không? Đáp: Như con trong thai, đâu chẳng đồng với họ của cha. Nếu đồng họ với cha, thì đâu ngại gì già trẻ. Gồm có sáu tức: 1/ Tất cả chúng sinh là Lý tức Thường; 2/ Nghe đại Niết-bàn, thấu hiểu được Phật tánh là Danh tự tức Thường; 3/ Biết tánh khởi tu là Quán hạnh tức Thường; 4/ Như ban đêm thấy gốc cây là Tương tự tức Thường; 5/ Dao vàng mổ mắt, ba quán rõ ràng là Phần chân tức thường; 6/ Đến Đại giác vô thượng là Cứu cánh tức Thường. Các Thường như thế thì ấn định là thường gì. A-nậu-bồ-đề, thì phiên dịch tên, giải thích nghóa như chúng ta thường thấy. Nói “thọ nhận cúng dường lần cuối cùng” tức là việc làm trong một đời đã xong, lợi ích của pháp đã đầy đủ, ông nghe thấy hôm nay, nên theo đó mà thực hành bố thí, thì Đàn ba-la-mật đầy đủ. Thuần-đà vặn hỏi, gồm hai ý: 1/ Bác bỏ chung chẳng đúng. 2/ Vặn hỏi riêng. Trị Thánh nêu bốn ý, Khai Thiện nêu năm ý, tên gọi khác nhau. Ở đây nói năm ý: 1/ Có trí đoạn và không có trí đoạn. 2/ Có Thánh hiệu, không Thánh hiệu. 3/ Đầy đủ bốn thân năm thân. 4/ Đầy đủ các Độ và nhãn, chưa đầy đủ các Độ và nhãn. 5/ Được năm quả, không được năm quả. Câu vặn hỏi thứ nhất có nói đủ mình và người, bốn câu sau chỉ nói về mình. Những câu vặn hỏi này vốn nói về người thọ, còn tạo phước cho người thì đã nêu ở trước, đến đây sợ văn dài dòng, nên lược bỏ chẳng nêu. Nhưng năm câu vặn hỏi này thật trúc trắc khó hiểu. Vì sao? Vì chí lý vắng lặng, chẳng đại chẳng tiểu, nếu hiện Tích giáo hóa thì duyên có lợi và độn, Ứng có hơn và kém. Tiểu duyên thấy thì đầu cuối đều kém, đại duyên thấy thì trước sau đều hơn. Nếu đầu tiên nơi cội cây nhận bát sữa từ mục nữ, thọ xong thì mười phương đều đầy đủ. Đây là chỗ thấy kém, hạn hẹp của hàng Tiểu duyên. Như đầu tiên ngồi trên đài sen, các Bồ-tát quyến thuộc đều ngồi trên các cánh sen, chư Phật mười phương đều phát ra ánh sáng từ giữa hai đầu chân mày, nhập vào đỉnh của đài hoa; quyến thuộc của chư Phật cũng phát ra ánh sáng từ giữa hai đầu chân mày, rồi vào đỉnh cánh hoa. Bồ-tát ở đài hoa nhập Tam-muội, thọ chức thành báo Phật; Bồ-tát ở cánh hoa thành ứng Phật. Đây là chỗ thấy cao quý của người có duyên lớn. Nên biết mục nữ và chư Phật khác nhau, sữa và ánh sáng cũng khác hẳn nhau. Đây là hai Phật Đại Tiểu thọ thí lần đầu tiên. Nếu thấy Phật tự khất thực đến nhà Thuần-đà, thọ món canh nấm chiên-đàn, nửa đêm nhập diệt, đồng đến Song lâm, trà-tỳ thân Phật, thì đó là chỗ thấy hạn hẹp của hàng Tiểu duyên. Nếu thấy Thuần-đà buồn thương, chỉ cúng tám hộc bốn đấu, trở thành cúng dường không nghó bàn, đầy đủ cho tất cả đại chúng, thấy các Đức Phật mười phương đều sai các đại đệ tử mang đầy cơm thơm, đến dâng cúng Phật sắp Niết-bàn, thì đó là chỗ thấy cao quý của người có duyên lớn. Nên biết khất thực và được người đến dâng cúng khác nhau, cơm thơm và canh nấm hẳn là khác nhau. Đó là tướng trạng của hai Phật đại tiểu thọ thí lần cuối cùng. Như thế, nếu so sánh với trí đoạn cho đến năm quả, thì mỗi mỗi cũng khác nhau. Thuần-đà trúc trắc đem đại duyên ở sau và tiểu duyên lúc đầu để tạo thành các câu vặn hỏi khác nhau. Đức Phật đã dùng chỗ thấy khác nhau giữa đầu tiên và sau cùng của hàng đại duyên để trả lời, thì trong đục rõ ràng, trước sau không hai, nay lại dẫn kinh để phân biệt. Trong kinh Thắng Thiên Vương, lúc đầu tiên Đức Phật ngồi dưới cội cây, có bốn tướng, hoặc là thấy ngồi trên tòa cỏ cát tường, hoặc trên thiên y, hoặc thấy ngồi trên tòa bảy báu, hoặc trên hư không. Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói Đức Phật nhập Niết-bàn cũng có bốn tướng, hoặc thấy nơi rừng cây đất đá ở Câu-thi, hoặc thấy đó là bảy báu trang nghiêm, hoặc thấy đó là chỗ đi của chư Phật Bồ-tát ba đời, hoặc thấy đó là cảnh giới chân như thật tướng thuần là Phật. Trước sau đã hiện bốn tướng khác nhau, như thế so sánh với trí đoạn cho đến năm quả, thì biết mỗi thứ cũng khác nhau. Nay đối với giáo chủ mà nói lược. Như Phật của Tam Tạng giáo, đầu tiên thọ cháo sữa, chưa có trí đoạn, chẳng thể giáo hóa người được trí đoạn; pháp phàm chưa lìa thì chẳng có hiệu Thánh. Thân thể khổ ha- ïnh gầy yếu, cần phải tạp thực, trí vô lậu chưa phát, bên trong còn phiền não; quả phược vẫn còn, là thân hậu biên, sẽ trở về diệt tận. Đó là thân Vô thường, tuy có thực hành Bố thí, nhưng chưa được lý Ba-la-mật. Đàn độ chưa đầy đủ, cho đến Bát-nhã cũng giống như thế, đó là thân do cha mẹ sinh ra, chỉ có mắt thịt, chưa có Thiên nhãn thông và Thiên nhãn minh, nên chưa có bốn thứ mắt. Nếu đã thọ thực rồi thì mình đã được năm lợi ích lại làm cho người được năm lợi ích này. Xét lời của Thu- ần-đà, thì Thuần-đà đã chỉ dẫn Phật của Tam Tạng giáo lúc mới thành đạo để vặn hỏi. Nếu Phật của Thông giáo thì khi tu đạo Bồ-tát đã dứt trừ chánh sử, vô lậu đã hiện tiền, mình đã được trí đoạn, cũng dạy cho người được, đã bỏ pháp phàm, vào Thánh vị, thệ nguyện nhờ tập khí trợ giúp mà ngồi đạo tràng, thị hiện thân có thọ thực, mà không còn bốn trụ, chỉ có tập khí. Đó gọi là thân Vô thường, thân hậu biên, chẳng phải là thân Vô thường, thân hậu biên còn chánh sử, đã bặt ba luân; Đàn Ba- la-mật cho đến Bát-nhã đã đầy đủ, đã được bốn thứ mắt mà chưa được mắt Phật. Thị hiện thọ sủy thực, để tạo phước lợi cho người, làm cho người được năm quả. Thuần-đà vặn hỏi chưa đạt đến nghóa này. Nếu là Phật của Biệt giáo, Viên giáo, thì lúc mới thọ nhận vật cúng như Phật đã nói: “Từ khi ta thành Phật đến nay đã vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, đã có đủ trí đoạn, sẽ làm cho người được trí đoạn; cho đến chẳng ăn, chẳng tiêu, không có năm sự quả, mà thị hiện mới thành đạo, mới thọ nhận, sau cùng diệt độ, sau cùng thọ nhận.” Đâu thể dùng cái thấy thấp kém ở đầu mà vặn hỏi chỗ thấy cao siêu lúc sau cùng ư? Hai quả đầu và cuối cùng không khác nhau, ý nghóa đã hiển rõ. Thứ tư, Đức Phật đáp, gồm hai ý: 1/ Chánh thức trả lời năm câu hỏi; 2/ Thọ nhận vật cúng của cả chúng hội. Đầu tiên là đáp câu hỏi thứ ba về bốn thân, năm thân. Về thân có lập ly và hợp nên có bốn loại năm loại. Thường là chủ của giáo này, nên phải trả lời trước. Nhưng Thuần-đà trước nêu Phật của Tam Tạng giáo lúc khởi đầu để vặn hỏi. Phật thuộc Tam Tạng giáo sáu năm khổ hạnh, khí lực suy giảm khô cạn, phải dùng cháo sữa để nuôi dưỡng, khiến thân lực sung mãn, thì đó là thân ăn uống, thân ăn uống thì từ nghiệp duyên mà sinh, nên đó là thân phiền não. Nhưng ba mươi bốn tâm đã dứt, tử phược đã hết, chỉ còn quả phược, nên đó là thân hậu biên, vì rốt cuộc sẽ nhập diệt, nên đó là thân Vô thường. Vì thế mà nêu lên để vặn hỏi Phật. Nay dùng năm thân phá bốn thân, chính là nói hậu biên đồng với Vô thường, nên hợp chung là thân Vô thường. Ông nêu bốn thân là chỗ thấy của người có duyên nhỏ, chỗ thấy của người có duyên lớn thì không có bốn thân này. Vì sao? Vì ánh sáng tức trí tuệ, trí tuệ tức là thường trụ, thân thường trụ thì chẳng phải thân ăn uống. Vả lại, ánh sáng tức là trí tuệ, ánh sáng trí tuệ phá phiền não tối tăm, thì chẳng phải thân phiền não. Nếu đầu tiên đã dứt phiền não, còn có quả phược thân hậu biên. Nay chẳng phải là mới dứt nên chẳng phải là thân hậu biên. Bốn đại quả phược có thể là Vô thường, còn trí tuệ thường trụ thì như Kim cương cho nên chẳng phải Vô thường. Chỗ thấy của người có duyên lớn chỉ có ba, mà không phải là bốn, huống chi Như Lai đã từ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp không có bốn thân này. Đại Tiểu đều chẳng phải; bốn hay ba thân đều dứtø, tức chẳng ăn, chẳng phải chẳng ăn, chẳng thường chẳng phải Vô thường, chẳng phiền não chẳng phải không phiền não; chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp, chẳng phải biên chẳng phải vô biên, chẳng phải Kim cương chẳng phải không phải Kim cương, hay ứng hợp các duyên mà tạo bốn thân ba thân, nhưng đối với Như Lai chẳng có bốn chẳng có ba. Sâu xa lại càng sâu xa, vì thế ý nghóa hai quả báo của hai lần cúng dường không khác nhau đã rõ. Kế đến, từ câu “này người thiện nam, người chưa thấy Phật tánh v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ nhất có trí đoạn hay không có trí đoạn. Thuần-đà nêu Đức Phật của Tam Tạng giáo khi còn tu hạnh Bồ- tát, đã cưới vợ, sinh con, bỏ nước, bỏ vương vị, ngồi trên tòa cỏ dưới cội Bồ-đề, rời tòa tắm gội, thọ thực; lúc ấy chưa dứt mảy may phiền não, chưa thể giáo hóa chúng sinh. Thuần-đà đã y cứ theo đây mà vặn hỏi. Đức Phật lại y cứ theo chỗ thấy của người có duyên lớn, mà đáp phá hai duyên thành Phật của Tạng và Thông. Vì sao? Vì chỗ thấy của hai duyên không chỉ đối với Tam Tạng giáo, khi chưa thọ thực chẳng thấy được Phật tánh, khi thọ thực rồi thành Phật cũng chẳng thấy; Phật Thông giáo cũng giống như thế. Nên biết chưa thấy Phật tánh thì phá cả hai giáo. Nếu Bồ-tát ở đài hoa khi thọ Phật chức, nhập định Kim cương, chứng vị Phật, được Tam-bồ-đề, thấy suốt được Phật tánh, đạt được thân thường, Pháp thân, thân Kim cương thì gọi là trí mà không có bốn loại thân; tức là đoạn, cũng khiến cho người khác đầy đủ trí đoạn. Vả lại, nhập Tam-muội Kim cương, tức là thành thân Kim cương phá thân Vô thường, đó là một phen trí đoạn, được Tam-bồ-đề tức Pháp thân phá thân phiền não, là một phen trí đoạn, rốt ráo thấy tánh tức là thân Thường phá thân ăn uống, lại là một phen trí đoạn, cũng có thể khiến cho người đầy đủ trí đoạn. Vì thế quả báo của hai lần cúng dường không khác nhau. Trí đoạn chẳng khác nhau nên có thể gọi là thời khác nhau. Thứ ba, từ câu “lúc bấy giờ, Bồ-tát phá hoại bốn ma v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ hai có tôn hiệu, không có tôn hiệu. Thuần-đà y cứ vào ngày Bồ-tát thuộc Tạng giáo còn tại gia, có tướng Luân vương là trời trong loài người, từ khi xuất gia đến khi thọ thực, chưa đắc đạo, còn là Liệt sinh thiên (sinh vào cõi trời thấp kém), đâu thể được tôn hiệu. Cũng chẳng phải sinh lên cõi trời trong loài trời, cho đến không được sinh lên cõi trời trong các tầng trời thanh tịnh, nên nói vẫn là chúng sinh. Đức Phật nay chẳng dùng Tam Tạng giáo để trả lời, mà là dùng chỗ thấy của người có duyên lớn, là Bồ-tát ngự trên đài hoa để phá bốn ma, cho nên Thích Luận ghi: “Được đạo Bồ-tát, phá ma phiền não, được thân pháp tánh phá ma chết, năm ấm, được Tam- muội Bất động phá ma Thiên tử”. Kinh này cũng giống như thế, nói nhập định Kim cương, thành thân Kim cương phá ma Thiên tử, liền sinh lên cõi trời, được Tam bồ-đề, tức Pháp thân phá ma phiền não, ma ấm, được thấy Phật tánh, tức là thân thường phá ma chết. Công đức như thế há chẳng phải sinh lên cõi trời, cõi trời thanh tịnh, là trời trong trời ư? Nay nhập Niết-bàn cũng phá ma bốn đảo là Vô thường v.v…; không có bốn đảo tức phá ma phiền não; không có ma phiền não, ma ấm, chết ma chết, thì không có ma trời. Mới thành đạo, sau diệt độ đều phá bốn ma, đều chẳng phải chúng sinh, đều có tôn hiệu là Thiên trung thiên v.v… không khác nhau. Từ câu “bấy giờ, Bồ-tát v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ tư về sáu Độ, năm mắt. Thuần-đà y cứ vào Phật Tam Tạng giáo nên chỉ thấy bỏ nước và ngôi vua, chẳng thấy nói pháp, chỉ thấy xả bỏ tài vật, chẳng thấy lý Đàn độ, nên nói là chưa đủ Đàn ba-la-mật cho đến Bát- nhã, chỉ thấy chướng bên trong, nên nói chỉ có mắt thịt, không có mắt Phật cho đến mắt tuệ. Nay Đức Phật y cứ vào chỗ thấy biết của người có duyên lớn trên đài hoa, tuy chẳng nói pháp, nhưng trước đã thông đạt tài pháp, Sự lý Đàn Ba-la-mật cho đến Bát-nhã đều đầy đủ, vượt hơn cả chỗ thấy biết của Trời, Người, Nhị thừa và Bồ-tát. Vả lại, nay Đức Phật chỉ nói về pháp thí, thì các Độ khác và năm mắt, y cứ theo đây cũng sẽ biết được, nên lược bỏ không đáp. Trước đã thông đạt, nay lại vì chúng sinh mà hiển bày rộng sự thông đạt ấy, nên hai thí dụ đều không khác nhau. Từ câu “Này Thiện nam! Thân Như Lai v.v…” trở xuống là trả lời câu thứ năm, về có năm quả, không có năm quả. Thuần-đà y cứ theo năm công đức của thí thực trong Tam Tạng giáo là mạng, sắc, lực, an và biện để nói thí chủ sẽ được năm quả báo. Nay nghe Đức Phật nói: “Ta thật chẳng thọ thực, thí chủ cũng không có năm sự quả”. Phật đã dùng Bản địa và Sơ thành để trả lời: “Ta từ vô lượng kiếp đến nay đã chẳng thọ, chẳng thực, rốt ráo thanh tịnh”, người có duyên nhỏ lúc đầu thấy miệng có dùng cháo sữa, người có duyên lớn lúc đầu thấy đảnh thọ phát ra ánh sáng. Nhưng đối với Pháp thân chẳng thật, chẳng phải chẳng thật. Người có duyên nhỏ về sau thấy có thọ canh nấm, người có duyên lớn thấy thọ nhận khắp chúng hội. Nhưng đối với Như Lai thật không có khất thực, không có thọ nhận. Vì thế, hai lần thí đầu và cuối có đồng quả báo không khác nhau. Kế là, nói Như Lai thọ nhận phẩm vật của đại chúng, từ câu “hôm nay ta v.v…” trở xuống là nói nhận đại chúng cúng dường. Kế đến là thỉnh Phật trụ lại thế gian. Văn có bốn phần là nhân thỉnh, đằng thỉnh, già thỉnh và trùng thỉnh. Trước nói về sinh khởi bốn ý; chúng đều hiến cúng thỉnh Phật an trụ thế gian, vật cúng đã chẳng thọ, thỉnh trụ lại chưa trình bày, Đức Phật do Thuần-đà mà nhận vật của đại chúng cúng dường, đại chúng do Thuần-đà lại thỉnh Phật trụ thế, Thu- ần-đà vâng theo, làm vui tâm đại chúng, Đức Phật thọ nhận đại chúng cúng dường, mở rộng pháp thường. Pháp thường thì chẳng trụ, cho nên chẳng nên thỉnh trụ. Pháp thường sâu xa, đại chúng chưa đạt đến, vì tâm chúng quá thiết tha, ân cần nên lại thỉnh Phật an trụ. Hưng Hoàng giải thích rằng: “Đại chúng cùng nghe tiếng nói rằng không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ, lại nghe trả lời rằng Pháp thân là thân thường hằng, tức là đầu tiên nghe nói diệt, cho rằng như đèn tắt, nghe nói thường thì cho là thường trụ thế. Như Lai tức không đi không trụ, không phải như kia thấy trụ thấy diệt. Diệt tức là trụ, trụ là diệt, chẳng khởi vắng lặng mà hiện thân ở các hội khác. Tướng diệt rõ ràng mà thường nơi tướng trụ, chẳng diệt mà thường diệt, như thế Như Lai diệt hay trụ đâu có ích lợi gì cho chúng sinh”. Nay giải thích rằng Phật không có diệt hay trụ, vì duyên khác nhau, nên lược chia bốn ý: 1/ Hoặc có người thấy Phật diệt liền sinh tâm vui mừng mà nói rằng vô lượng chúng sinh ở trước hoặc sau Phật ra đời, còn nay ta may mắn thấy được sự ra đời và nhập diệt của Ngài, nên tự an ủi là được, đây là Thế giới nhân duyên thấy diệt; 2/ Có người khóc than sầu não, bứt tóc đấm ngực, ba nghiệp đều hiện khởi sự tiếc thương, thì đó là Vị nhân nhân duyên thấy diệt; 3/ Có người thấy diệt liền phá được vô lượng ác, cho rằng Như Lai còn diệt độ vì sao ta lại còn chấp trước, đó là Đối trị nhân duyên thấy diệt; 4/ Có người thấy diệt liền vào tạng bí mật, đến chỗ Phật đã đến, đã rõ ràng thấy tánh, đồng với Pháp vương Tử, đó là Đệ nhất nghóa nhân duyên thấy diệt. Hoặc có thể một người có đủ bốn việc, hoặc ba việc, hoặc hai việc như trên, hoặc bốn người mỗi người đều được một việc, có nhiều loại khác nhau, nhưng đối với Như Lai thì không có diệt hay trụ. Hãy nêu việc của Thuần-đà, hoặc có lúc buồn khổ, có lúc vui mừng, hoặc nói “Như Lai chẳng vào Niết-bàn, con chẳng thể ôm lòng sầu khổ”, hoặc có lúc tự nói: “Hôm nay, con và Pháp vương Tử Văn-thù-sư-lợi v.v…, nếu đại chúng không có duyên thì Thuần-đà đâu có duyên, nên biết nếu Thuần- đà chẳng như thế thì hẳn là Thuần-đà có duyên”. Đối với một câu diệt độ mà có bốn duyên khác nhau, thì ba câu khác là trụ, vừa diệt vừa trụ, chẳng diệt chẳng trụ y cứ theo đó rất dễ hiểu. Trong văn nhân thỉnh có ba đoạn là vui mừng khen ngợi và thỉnh. Lúc đầu, Đức Phật không thọ nhận, nên buồn khổ, nay nghe Đức Phật thọ nhận tất cả, nên đều vui mừng, vui mừng là do Thuần-đà, cho nên khen ngợi, muốn toại nguyện tâm mình, vì thế mới tiến thỉnh. Văn trong phần vui mừng có hai là phần văn xuôi và kệ tụng. Phần văn xuôi lại có hai là sơ lược và đầy đủ. Lược nêu bốn ý khen ngợi, đó là danh, lợi, đức, nguyện. Danh là tiếng tăm, tức trước lập Diệu nghóa, sau đó nêu tên, lại dùng sau mà xét tên trước thì biết chẳng phải luống suông, nên đồng lên tiếng khen rằng: “Ít có thay Thuần-đà”. Nói nghóa Đại tức là rộng lớn không bến bờ, nói nghóa diệu tức là sâu thẳm không đáy. Lại Thường, Vô thường là nghóa sâu xa; một thường tất cả đều thường, tức là nghóa Đại, chẳng thường chẳng Vô thường tức là nghóa Diệu, như trước đã nói. Kế đến, từ câu “Hôm nay, ông v.v…” trở xuống là nói về Lợi. Tức nơi đất phước tốt lành, tất cả đồng nhóm họp, mười phương đều nhóm họp, cờ phướn treo cao đến Phạm thế, lọng báu che phủ cả Tam thiên, nhưng Như Lai vẫn im lặng, không mảy may nạp thọ. Thuần-đà cầu xin sau cùng, Đức Phật thọ nhận tất cả vật đã dâng cúng ở trước. Thanh danh như thế thật trùm khắp thế gian, chẳng ai sánh bằng. Cho nên đại chúng khen rằng: “Ông ở hiện đời đã được danh lợi lớn”. Nói về Đức, một chữ Đức này tức là chữ đức đứng sau mười điều nhường và đứng trước năm quả. Một người chỉ dùng tám hộc phẩm vật ít ỏi mà đầy đủ cả Đàn độ, đó tức là Đức. Nói về Nguyện là ba chữ như nguyện v.v… đầy đủ, trong đó bốn chữ đầy đủ chung cho cả bốn việc ở trên là Danh, Lợi, Đức. Và đối với Phật quá khứ lập thệ, đối với Phật hiện tại nguyện đã xong, cho nên nói là Nguyện đầy đủ. Từ câu “Lạ thay! Thuần-đà, v.v…” trở xuống là rộng khen ngợi. Từ sau hướng về trước để khen ngợi bốn đức. Đầu tiên lại nêu sáu điều khó để rộng khen nguyện thứ tư viên mãn. Khi một vị trời sắp qua đời thì có năm tướng suy hiện ra, các vị trời khác chúc nguyện rằng: “Nguyện được sinh về cõi lành, nguyện được lợi ích tốt đẹp”, được lợi ích sống nơi cõi người là do trì giới. Văn sau nói: “Đất ở mười phương cõi nước rất nhiều, đất dính trong móng tay thì rất ít, bỏ thân trời, người làm thân trong ba đường ác thì nhiều, bỏ thân ở cõi trời, cõi người được thân trời, người thì rất ít cũng giống như thế; bỏ thân cõi trời được thân cõi trời, các vị trời chẳng vui mừng; bỏ thân cõi trời được thân người là điều mong muốn của các vị trời. Như hai người ở hai bên núi Tu-di, một người cầm một cây kim, người kia muốn nhờ gió để phóng sợi chỉ xuyên qua lỗ kim, việc này rất khó. Nếu sinh trong loài người mà trì giới được thì cũng khó như thế. Dưới đáy biển có một con rùa mù, một ngàn năm mới nổi lên một lần, gặp bộng cây nổi mà chui vào trong đó, việc này cũng rất khó. Nếu ở trong cõi người gặp thời có Phật thì càng khó hơn việc này. Đặt cây kim trên mặt đất, đứng từ cung trời Phạm thiên thả một hạt cải cho găm vào đầu kim, việc ấy thật là khó; gặp Phật sinh tín tâm lại càng khó hơn, sinh tín nghe pháp còn khó hơn nữa. Thỉnh Phật thọ nhận lần cúng dường cuối cùng lại càng khó hơn. Sáu việc này đối với người khác thì khó, nhưng đối với Thuần-đà thì dễ, nên đại chúng khen rằng: “Lạ thay Thuần-đà! Ông đã được lợi ích vô thượng khó được, như hoa Ưu-đàm”. Hoa biểu thị cho Luân vương. Nếu cúng dường Phật lần cuối cùng, đạt được năm quả thì sẽ được làm Pháp vương. Đại chúng đã thọ ký cho Thuần-đà. Phần khen ngợi rộng về nguyện mãn đã xong. Kế đó, từ câu “Nam-mô v.v…” trở xuống là khen ngợi rộng về đức. Nam-mô hoặc dịch là Cứu ngã, hoặc dịch là Quy mạng, là quỳ gối, nghóa là quỳ hai gối. Có đủ đức của mười nhường, năm quả và Đàn độ nên được khen ngợi. Nam-mô có ba nghóa: 1/ Miệng niệm là khẩu nghiệp; 2/ Quỳ gối là thân nghiệp; 3/ Quy mạng là ý nghiệp. Từ câu “giống như trăng thu v.v…” trở xuống là khen ngợi lợi ích. Thu là mùa âm, trăng là tinh của âm, đến thời thì rất thạnh, ánh sáng phát ra che lấp các vì sao, trăng thu vằng vặc sáng rỡ cả bầu trời, chiếu soi khắp mặt đất, tất cả đều nhìn thấy. Thuần-đà cũng giống như thế, đã có lợi ích mầu nhiệm và thời gian tốt đẹp hội hợp, lập bày diệu nghóa, hơn hết trong chúng, đối với Phật khai mở nghóa Thường, mong được Phật thọ nhận tất cả vật cúng của chúng hội. Nên được tất cả đại chúng dùng ba nghiệp quy mệnh. Từ câu “Nam-mô Thuần-đà, tâm như tâm Phật v.v…” trở xuống là khen ngợi danh hiệu. Ở trên nói là giải nghóa diệu, tức Danh và Pháp hợp, nói “tâm như tâm Phật” là Danh và Phật hợp, nói “thật là Phật tử” là Danh và Tăng hợp. Hợp với Tam bảo, tức nói lên thân ấy là nhất thể Tam bảo, cũng là năm quả, ba điểm, bốn đức, năm Phật tánh v.v… là tất cả pháp giới, như trước đã nói. Khen ngợi Thuần-đà là chủ, tức tâm như tâm Phật; khen ngợi là thầy gọi là giải nghóa diệu, khen ngợi là người gọi là có thân như La-hầu-la. Kế đến là phần Kệ Tụng khen ngợi, có hai phần: 1/ Một câu kệ tụng khen ngợi; 2/ Ba câu kệ thỉnh. Đầu tiên là văn ghi là “ông” tức chỉ cho Thuần-đà, đây là khen ngợi danh hiệu nêu trên. Sinh trong loài người tức là một trong sáu nạn, là khen ngợi về nguyện đầy đủ. Nói vượt hơn tầng trời thứ sáu là bằng Phạm thiên vương. Thỉnh Phật mở pháp thường là khen ngợi đức. Nói “ta và tất cả chúng” là khen ngợi thanh danh. Ở trên ghi: “Đồng cất tiếng khen rằng ta và tất cả”, tựa như có người làm chủ xướng. Nếu xét theo văn sau thì dường như ngài Văn-thù làm chủ thỉnh cầu. thỉnh. Kế đến, là kệ thỉnh, có hai: 1/ Gồm tám câu là nói vì chúng mà Đây là nói vì tất cả chúng, kế đến bốn câu là yêu cầu thỉnh. Dùng mạng mà yêu cầu, tức là nếu Phật chẳng trụ thế gian, thì chẳng thọ nhận được cam lộ, Pháp thân tuệ mạng chẳng thể giữ vẹn. Kế đến là phần nêu lời thỉnh cầu, Văn có hai: 1/ Phần văn xuôi là lời các nhà kết tập kinh tự nêu; 2/ Kệ tụng là lời thỉnh của Thuần-đà. Phần văn xuôi. Đã chết là nói lược, lẽ ra phải nói là chết chủ, cha mẹ và thầy. Trước kia vâng theo âm thanh và ánh sáng, đại chúng nhóm họp, buồn khổ khóc than, máu đổ thấm đất, nên nay nói là đã chết. Mong được ban cho thường mệnh, sắc, lực, an, vô ngại biện, trùm khắp pháp giới, hứa nhận làm chủ, cha mẹ, thầy, nên nay nói bỗng nhiên sống lại. Đại chúng vui mừng trước, Thuần-đà vui vẻ sau là một điều kính nhường. Phần kệ, gồm bảy mươi bốn câu được chia thành hai: 1/ Gồm bốn mươi sáu câu là nêu lời chúng khen ngợi; 2/ Gồm hai mươi tám câu, nêu lời chúng thỉnh cầu. Văn đầu tiên lược nêu ba điều khen ngợi: 1/ Gồm chín hàng nêu lời khen ngợi về nguyện lành, trong đó trước nêu sáu điều khó, sau từ câu “giống như v.v…” trở xuống gồm mười câu là nêu thí dụ để kết luận. Đầu tiên nói “đạt tự lợi” là khen ngợi được thiện lợi là khó, được thân người ở cõi lành là khó. Nói “dứt trừ” là nêu những việc xa lìa khi đạt được thiện lợi. Nói “kho vàng báu” là nói gặp Phật ra đời là khó. Nói “chẳng sợ v.v…” tức là nói về “chỗ xa lìa”. Hoa Ưu-đàm là khen ngợi sinh tín tâm là khó. Như hạt cải ghim vào đầu mũi kim là nói được cúng Phật lần cuối cùng là khó. Từ câu “Phật chẳng nhiễm pháp thế gian v.v…” trở xuống là nói nghe được pháp là khó. Từ câu “nay con dâng phẩm vật v.v…” trở xuống là khen ngợi đức. Nhân nơi cúng mà phát nguyện, nguyện được quả Vô thượng, chẳng nguyện được thân các Hữu. Kế là lập dụ để kết luận, trong đó từ câu “như hoa Y-lan tỏa mùi thơm chiên-đàn v.v…” trở xuống là nói việc cúng vật nhỏ bé mà đầy đủ cho đại chúng; do thọ thực mà nói lên chẳng thọ thực, chẳng thọ thực chẳng phải chẳng thọ thực. Mùi đạo, gió đức đã khai phát, tất cả đều chẳng phải thường, chẳng phải không Vô thường. Từ câu “nay con được hiện báo v.v…” trở xuống là khen ngợi lợi ích như văn đã ghi. Từ câu “tất cả các thế gian v.v…” trở xuống là chánh thức nêu lời chúng thỉnh, có ba: 1/ Gồm tám câu nói về buồn khổ; 2/ Gồm mười hai câu nói về lợi ích thỉnh trụ; 3/ Gồm tám câu là kết luận hai ý trên. Văn ghi: “Thế gian không Điều ngự” tức là không có chủ, cha mẹ và thầy, nên sinh ra khổ não. Kế đó, từ câu “Như Lai ở trước chúng Tăng” về sau là nói chung về lợi ích của Tam bảo; nói như núi Tu-di là nói riêng về lợi ích của thầy. Núi ánh sắc nước, nước đồng màu núi. Thầy nói pháp, như pháp hành trì, đó là lợi ích của thầy. Hai câu “trí Phật khéo dứt v.v…” là nói lợi ích của Trí độ. Như mây che mát mẻ, là nói lợi ích của phương tiện khéo léo. Hai ý này nói về lợi ích của người thân. Từ câu “Như Lai khéo dứt trừ” v.v… trở xuống là nói lợi ích của chủ. Giặc cướp phiền não nhiễu loạn người tu hành; mặt trời Phật chiếu soi sự nhiễu loạn, đưa về chân chánh, nên nói đó là lợi ích của chủ. Kết luận. Nếu mất ba lợi ích ở trên thì buồn khổ xúc động là kết luận ý khổ não ở trên. Nếu được ba lợi ích thì tín tâm thêm lớn là kết luận ý thỉnh trụ ở trên. Từ câu “Đức Phật bảo Thuần-đà v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba ngăn chặn sự thỉnh cầu. Cũng gồm văn xuôi và kệ tụng. Văn xuôi có hai: 1/ Khen ngợi các điều khó; 2/ Dùng điều khó để ngăn chặn sự thỉnh cầu. Sau đây là đoạn một. Sáu điều khó được này xoay vần nương nhau, trong đó có ba điều khó vào thời không có Phật, ba nạn vào thời có Phật. Nay chỉ nói ba điều khó vào thời Phật ra đời, những điều khó khác cũng dễ hiểu. Kế là, dùng các việc khó được để ngăn chặn sự thỉnh cầu, gồm có ba: 1/ Dùng việc khó để ngăn chặn; 2/ Dùng cảnh giới Phật để ngăn chặn; 3/ Dùng hai dụng để ngăn chặn. 1/ Dùng các điều khó để ngăn chặn. Ông nêu lời khen ngợi của bốn chúng, tự vui với sáu điều khó. Sáu điều khó và bốn chúng khen ngợi là do ta Niết-bàn, ban cho ông các công đức như thường mạng v.v… cho đến ban cho tất cả. Nếu ta trụ lâu ở thế gian thì sẽ không có lần cúng dường cuối cùng, chẳng thỏa mãn thệ nguyện, bốn chúng không khen ngợi, danh cũng luống dối, mất đi tự lợi, lại chướng ngại cho người. Vậy sao đã có sự vui thích được cúng dường lần cuối, mà còn thỉnh an trụ lâu dài. Nếu trụ lâu thì không có hậu cúng, nếu có hậu cúng thì không có trụ lâu. Ông đã tự mâu thuẫn, cho nên Đức Phật nói “chẳng nên” là ý này. 2/ Từ câu “nay ông v.v…” trở xuống là nêu cảnh giới Phật để ngăn lời thỉnh. Cảnh giới Phật chỉ có Phật mới biết, các địa dưới chẳng thể biết được, là cảnh mà đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành bặt. Cực còn thì mất, cực mất thì còn, chẳng còn chẳng mất tức là trụ mà chẳng trụ, chẳng trụ tức trụ, chẳng trụ chẳng phải không trụ. Cảnh giới như thế, nếu nói về nói thì ngậm miệng, nắm giữ nó thì lại mất, dứt bặt suy lường, cho nên mới ngăn rằng “chẳng nên”. Hỏi: Thuần-đà ở giai vị Thập trụ, đâu thể ngăn chặn đồng như phàm phu chẳng biết gì? Đáp: Biết có sáu thứ v.v… cũng như vì nơi thấp mà ức chế nơi cao, cao còn chẳng có, thì thấp tự dứt, chẳng thể so sánh. 3/ Từ câu “đều là Vô thường v.v…” trở xuống, là nêu hai dụng để ngăn lời thỉnh. Nhưng cảnh Phật huyền diệu và dụng cao quý của Phật, ông chẳng biết. Thường và Vô thường như hai con chim cùng bay, đi hay ở đều thích hợp, tùy cơ ẩn hiện. Hoặc có lúc dùng Trụ, hoặc có lúc dùng chẳng trụ. Vì chẳng trụ tức trụ, cũng là chẳng phải trụ chẳng phải không trụ. Xưa dùng Vô thường thí được năm quả, thì tất cả các hạnh đều Vô thường. Nếu chắc chắn là Vô thường, thì nay đâu được chỉ dạy Thường thí được năm quả, khắp tất cả pháp đều mở bày nghóa Thường. Nên biết chẳng phải thường, chẳng phải Vô thường mà là Thường, là Vô thường. Lại xưa dùng Vô thường nói về năm quán môn, là cảnh giới của người, nay dạy dùng thường để nói về năm quán môn tức là cảnh giới của mình. Thế thì đâu thể định là tự hay tha mà nói tự tha như thế. Nên biết, đó đều là dụng cao siêu của Phật. Nếu dụng đã Thường thì đâu cần nhọc thỉnh; nếu dụng là Vô thường, cũng chẳng cần thỉnh. Nên nêu hai dụng mà ngăn chặn nói là “chẳng nên”. Kế đến bốn mươi sáu câu, chia làm hai: 1/ Gồm bốn mươi hai câu nói về dụng Vô thường; 2/ Gồm bốn câu nói về dụng thường. Đoạn đầu lại chia làm hai: 1/ Ba mươi sáu câu nói chung về các hành Vô thường; 2/ Gồm sáu câu nói về dụng Vô thường. [Đầu tiên lại chia làm năm: Gồm mười bốn câu nói về quán Vô thường. Bốn câu nói về quán khổ. Bốn câu nói về quán không. Tám câu nói về quán vô ngã. Sáu câu nói về quán bất tịnh. Hỏi: Các vị trời là do hóa sinh, lại là bất tịnh ư? Đáp: Tuy không hôi hám, nhưng bậc Hiền Thánh nhàm chán, nên cũng nói là bất tịnh. Kế đến, từ câu “các dục v.v…” trở xuống là nói về dụng Vô thường. Kinh Thụy Ứng ghi: “Dạo chơi bốn cửa thành, khởi tâm nhàm chán, nên chẳng tham đắm. Lìa dục suy nghó, tức sáu năm khổ hạnh, chứng pháp chân thật, liền đạt được ba mươi bốn tâm, phát sinh tuệ vô lậu. Hôm nay sẽ Niết-bàn tức là lần cuối cùng, không còn gì nữa. Kế đến, bốn câu, từ câu “ta vượt đến bờ kia v.v…” trở xuống là nói về dụng thường. Nói vượt, tức là vượt đến bờ kia của kia đây, cũng vượt đến bờ kia của chẳng phải kia chẳng phải đây, được tự tại đối với kia đây. Cho nên, không chỉ ta thoát khỏi tất cả khổ, mà còn vượt ra tất cả lạc, và không khổ không lạc vì thế gọi là Đại lạc. Ngã và Tịnh cũng giống như thế. Có người phán định rằng ba mươi tám câu trước là nói về Phật đồng với hạnh Thường, Vô thường, cũng là nghóa chân chẳng chân. Tám câu sau là nói về các hành đồng với nghóa “Vô thường mà Thường, chẳng chân mà chân” của Như Lai. Thường và Vô thường này đã hiển bày được pháp chân thật chẳng Thường chẳng Vô thường. Nay cho rằng, nếu như thế thì Thường và Vô thường là hai phương tiện, nhờ hai phương tiện mà hiển bày được chân thật, cũng như kinh Anh Lạc dùng hai quán phương tiện mà vào Trung đạo Đệ nhất nghóa đế. Đó chính là ý sâu cạn của ba Đế. Cảnh giới của Bồ-tát làm sao đồng với cảnh giới Phật? Văn kinh lại có nói rằng: “Nên quán cảnh giới Phật”, cảnh giới Phật tức ba Đế là một Đế, một Đế tức là ba Đế, chẳng phải một Đế, chẳng phải ba Đế mà lại là ba Đế, một Đế. Một không tất cả không, thì ba Đế đều không; một giả tất cả giả thì ba Đế đều giả; một trung tất cả trung thì ba Đế đều trung. Trung là tục chân, tục chân tức là trung, không hai không khác. Như thế mới gọi là cảnh giới chư Phật. Vì thế dùng cảnh giới Phật để ngăn lời cầu thỉnh. Như một không tất cả không, thì sao lại phải thỉnh trụ thế? Cho đến một trung tất cả trung, thì sao lại phải thỉnh trụ thế. Ý nghóa ngăn chặn lời thỉnh là ở đây, vì sao lại phải dùng cảnh giới Bồ-tát để giải thích cảnh giới Phật. Nếu chỉ y theo văn thì khó thấy nghóa này, nay lại y cứ theo kệ tụng để giải thích. Ba mươi tám câu trước là nói một không tất cả không. Một bài kệ lìa dục (bốn câu) là nói một giả tất cả giả, một bài kệ “ta vượt đến bờ kia v.v…” là nói một trung tất cả trung. Trong phần kệ nêu rộng và giải thích ý nghóa cảnh giới Phật trong phần văn xuôi. Hãy dừng ý này ở đây, sau sẽ giải thích thêm. Tiếp là thỉnh lại, hoặc nói chẳng phải thỉnh lại, vì Phật chẳng trả lời lần nữa. Cho nên phải nói hai mặt, nếu so với trước thì gọi là thỉnh lại, nếu sánh với ở sau thì gọi là khởi đầu mối tranh luận. Trong đó có ba ý: 1/ Lãnh ý chỉ; 2/ Khiêm nhường cảm tạ; 3/ Chánh thỉnh. Nhận lãnh ý chỉ, từ việc dùng các điều khó để ngăn chặn lời thỉnh phát sinh, vì sáu điều khó do Phật nói, thật đúng như lời Phật dạy. Khiêm nhường và cảm tạ từ cảnh giới Phật phát sinh. Cảnh giới chư Phật rộng lớn không bến bờ, sâu không đáy, loài muỗi mòng đâu thể biết được? Đó là nói lên phần Tri chứ chẳng phải Cứu cánh tri. Tri tức là khiêm nhường; cảm tạ tức là từ nơi dụng sinh, mong được Đức Phật thọ cúng để thành tựu Đàn độ lần cuối cùng, lậu hoặc xan tham bỏ dứt v.v… là do Bồ-tát Văn-thù mong Đức Phật thọ, cúng để thành tựu Trí độ. Vì đều là bậc Đại Bồ-tát, cho nên nêu loài rồng voi để dụ cho trí đoạn. Vả lại nêu người tuổi nhỏ để dụ cho mình, lấy việc mới thọ giới để dụ cho việc mới thành tựu. Lìa nơi sâu xa mà vượt lên trụ trên cao, là nhờ ân đức của Phật Bồ-tát, nên phải tạ ân, tức là cảm tạ dụng Vô thường của Phật. Chánh thỉnh dụng thường trụ, làm sinh khởi pháp lành cho chúng sinh. Đại chúng hết lòng thưa thỉnh, mà Như Lai chưa hứa nhận, cho nên lại cầu thỉnh. Có ba thứ là pháp, dụ và hợp. Pháp thuyết như văn kinh. Nói người đói khát, gồm có hai cách giải: 1/ Đại chúng kính mến dù chịu đói khát cầu xin Như Lai trụ thế, tâm cũng không bao giờ thay đổi. Đó là lập dụ vì chúng sinh; 2/ Vì Phật lập dụ, Đức Phật suy nghó đến các loại chúng sinh, cũng như kẻ đói khát, nguyện xin Phật trụ thế, cũng không thay đổi. Cho nên hợp dụ rằng: Nguyện xin Đức Thế Tôn cũng giống như thế”, nên biết vì Phật mà lập dụ. Lời Thánh sâu kín khéo léo, không thể chấp nghiêng về một bên. Tiếp là phụ luận, thế nào là phụ luận? Trước giải thích tên gọi, kế là y theo văn để giải thích tên gọi. Lại chia làm ba: 1/ Giải thích tên gọi; 2/ Nêu ý; 3/ Phân biệt. Giải thích tên gọi: Nói phụ luận, vì trước nói hiến cúng là chánh, nói hữu vi vô vi là phụ. Lại chúng đương thời là người phụ, vì chúng đương thời chưa hiểu là phụ, nên phải nói rõ. Vả lại, trong hai người thì thật tuệ là chánh, phương tiện là phụ, phát khởi câu hỏi đáp này, đó là quyền xảo, nên gọi là phụ luận. Lại cảnh giới Như Lai là chánh, hai dụng là phụ. Nay đều được gọi là nói về sở luận, cho nên đối với hai dụng gọi là phụ luận. Đây là dùng ý bốn Tất-đàn để luận nghị. Nêu ý nghóa: Vì sao phải phụ luận? Do hiến cúng mà Đức Phật dùng pháp Thường phá Vô thường. Nói “hai lần thí đều bình đẳng không khác nhau”, thì người căn tánh lanh lợi hiểu được chẳng phải Thường chẳng phải Vô thường, còn người mê thì sinh kiến chấp có hơn kém, chê Vô thường mà ưa thích thường. Như Lai lại do việc thỉnh trụ mà dùng chẳng trụ phá trụ. Lại nói “cảnh giới Phật không thể nghó bàn” thì người căn tánh lanh lợi liền hiểu chẳng trụ chẳng phải không trụ, còn người mê thì cho rằng chẳng trụ cao quý hơn trụ, lầm lẫn tự mê không thể hiểu được. Vì thế, ngài Văn-thù dùng Vô thường và chẳng trụ quở trách việc thỉnh trụ. Thuần-đà lại dùng thường trụ vặn hỏi Vô thường chẳng trụ, đối kháng qua lại để hiển bày điều phi lý. Cho nên nói “hữu vi vô vi đều bỏ”. Đó là thầm chỉ Như Lai sẽ nói rõ ở văn sau. Nêu đúng để hiểu sai, rõ ràng rất dễ hiểu. Vì nghóa này cho nên phải phụ luận. Vả lại, ở trên Thuần-đà nói đồng với Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi v.v… thì chúng bấy giờ nghi ngờ cho rằng ngài Văn-thù là cổ Phật, hạnh đã cao xa, giải ngộ đã sâu sắc, khéo hỏi khéo đáp, còn Thuần-đà là người mới phát tâm, vị còn thấp, giải còn cạn cợt, trên tay đã thấy hỏi mà chưa nghe đáp, vì sao gọi là bằng được, cho nên phải phụ luận. Ngài Văn-thù giải ngộ sâu xa mà thua, Thuần-đà giải ngộ cạn hẹp mà thắng. Cạn hẹp là thắng hay chẳng thắng, sâu kín là thua hay chẳng thua. Chẳng phải thắng mới hiển được nghóa bằng nhau. Y cứ vào sự lý này thì rõ được ý nghóa của việc phụ luận. Sơ lược như thế rất dễ thấy, chẳng cần phải luận nhiều để phân biệt chọn lựa. Hỏi: Ngài Văn-thù nói về Tam-muội không là chánh pháp, lẽ ra là vô vi; Thuần-đà đối với hữu mà nói về vô, vô đối với hữu, lẽ ra là hữu, vậy vì sao lại nói ngài Văn-thù chấp hữu, Thuần-đà chấp không? Đáp: Ngài Văn-thù phò trợ Không của giáo xưa, so với Đại thừa là hữu, Thuần-đà phò trợ giáo nay, đối với Hữu mà nói vô, Hữu diệt chẳng có Vô, lại được gọi là Vô. Hỏi: Thuần-đà lại mới đầy đủ Đàn độ, thì hạnh cạn mỏng, chẳng nên nói là hơn; ngài Văn-thù là cổ Phật thì giải đã sâu xa, chẳng nên nói là thua. Đáp rằng: Vì thích hợp với cơ nghi của chúng sinh mà hai vị đắp đổi nhau làm chùy làm châm, chứ chẳng nhất định có thắng thua. Chẳng bại mà bại nhưng chẳng tổn giảm chỗ sâu xa, chẳng thắng mà thắng nhưng chẳng thêm chỗ cạn hẹp. Vả lại, nếu Văn-thù cùng bỏ thì thắng thua đều bỏ, nếu Văn-thù chấp xưa, theo xưa là đúng, thì so với nay là sai. Thuần-đà chấp giáo hôm nay, theo nay là đúng, so với xưa là sai. Nếu lập ra bốn câu, mỗi câu chấp hai dụng hiển thể thì đều đúng, mỗi câu chấp hai dụng tổn thương đến thể thì đều sai. Mỗi câu đều nói về thể dụng, thì mỗi câu có một đúng một sai. Ngay nơi thể là dụng thì đều chẳng đúng chẳng sai. Toàn văn có hai: 1/ Phụ luận; 2/ Nói về tông. Trong phần phụ luận lại có ba: 1/ Ngài Văn-thù quở trách khuyến hóa; 2/ Thuần-đà quở trách khuyến hóa; 3/ Ngài Văn-thù khen ngợi. Thứ nhất, lại có hai ý: 1/ Quở trách; 2/ Khuyến hóa. Sau đây là văn Khuyến hóa. Nêu lại lời cầu thỉnh, ông chẳng nên nói thế v.v… là quở trách, “ông nên quán và học như thế” là lời khuyên bảo. Kế đến nói về Thuần-đà bác bỏ và khuyên học. Có hai ý: 1/ Bác bỏ cả hai ý là thuyết và quán; 2/ Khuyên hai ý là thuyết và quán. Một, bác bỏ cả hai ý, lại có hai đoạn: 1/ Bác bỏ thuyết và quán sai; 2/ Kết luận thuyết và quán sai. Về thuyết và quán sai lại có hai ý: 1/ Bác bỏ thuyết; 2/ Bác bỏ quán. Bác bỏ thuyết có ba ý: 1/ Chẳng nên nêu hiệu thắng đồng với hiệu kém; 2/ Chẳng nên nói pháp kém đồng với pháp cao quý; 3/ Kết luận là sai và hủy nhục thứ nhất. Như Lai là hiệu cùng tột của chư Phật, xưa nay chẳng khác nên nói là Như Lai, đâu thể dùng hiệu rất tôn quý mà sánh đồng với các hành? Các hành là tên của sinh tử thấp kém, là phiền não của chúng sinh tầm thường thô lậu. Nếu so sánh Như Lai đồng với các hành, tức là phá thường trụ thành biến diệt, đặt Niết-bàn làm sinh tử, đâu thể như thế được. Kế đến, từ câu “thí như bọt nước v.v…” trở xuống, là nêu ba thấy, một nghe để nói chẳng nên dùng pháp kém so đồng với pháp cao quý. Pháp cao quý tức bốn đức, pháp kém thấp tức bốn đảo. Bọt nước dụ cho Vô thường, bánh xe dụ cho khổ. “Tôi nghe nói tuổi thọ của các vị trời rất dài”, vị trời có tuổi thọ rất dài là vị trời ở cõi trời Phi tưởng, Phi phi tưởng không có hình sắc để thấy, vì vậy nói là “tôi nghe”. Cho nên dài đối với ngắn, ngắn tức là thọ thai, đây là nói về bất tịnh. Hỏi: Vô sắc vì sao lại bất tịnh? Đáp: Tuy chẳng phải sắc bất thiện, nhưng bậc Hiền thánh nhàm chán, nên cũng gọi là bất tịnh. Như chủ một ngôi làng mất thế lực là dụ cho vô ngã. Cho nên biết, chẳng được nói bốn đảo đồng với bốn đức. Tiếp đến từ câu “Đức Thế Tôn cũng giống như thế v.v…” trở xuống là nói về mất và hủy nhục. Nếu so hơn đồng với kém thì mất đi tôn hiệu Thiên Trung Thiên, cũng mất đi thắng pháp bốn đức. Nếu nêu kém đồng với hơn thì hủy nhục danh hiệu cao quý của Phật Thế Tôn, cũng hủy nhục các thắng pháp như Thường v.v… Từ câu “vì thế v.v…” trở xuống là bác bỏ quán. Cũng có ba: 1/ Chẳng nên quán danh hiệu cao quý đồng với danh hiệu kém. Tức văn kinh ghi: “Chớ nên quán Như Lai đồng với các hành.” 2/ Chẳng nên quán pháp cao quý đồng với pháp thấp kém. Văn kinh ghi: “Vì biết mà nói hay không biết mà nói”, tức là nếu biết Như Lai chẳng phải là các hành mà gượng nói là đồng tức là mê hoặc pháp trên, lẫn lộn pháp dưới. 3/ Nói về mất và hủy nhục. Nếu Như Lai đồng với các hành thì chẳng được gọi là Thiên Trung Thiên, thế thì mất tên gọi tôn quý cao siêu, và pháp tôn quý, cao siêu. Nếu khiến cho các hành pháp đồng với Như Lai thì đó là hủy nhục danh hiệu và pháp tôn quý cao siêu, v.v… Kế là từ câu “thí như vị vua v.v…” trở xuống là lập hai dụ để kết luận quán và thuyết sai lầm. Dụ thứ nhất là kết luận quán sai lầm; dụ thứ hai là kết luận thuyết sai lầm. Văn thứ nhất có hai phần là dụ và hợp. Trong dụ thứ nhất nói vua là dụ cho chúng sinh, lực só dụ cho Phật. Lực só vì vua lập công, Phật vì chúng sinh mà giáo hóa. Vua thấy lực só có nhiều tài năng nên ban thưởng tước cao lộc hậu. Chúng sinh nhận được ân sâu của Phật nên bày ra bốn thứ cúng dường cần dùng, lực só dùng tài nghệ chế phục, chứ chẳng dùng uy lực; Như Lai chỉ dùng thần thông trí tuệ giáo hóa, chứ chẳng dùng sức mạnh Na-la-diên. Phật có đầy đủ các công đức, vì sao hôm nay ngài lại suy đoán phân biệt, quán Như Lai đồng với các hành. Đây há chẳng phải là kết luận về quán sai lầm hay sao? Kế là dụ tuổi thọ ngắn ngủi để kết thúc luận thuyết sai lầm, cũng có hai là dụ và hợp. Trong dụ này, cha mẹ dụ cho chúng sinh, người con dụ cho Phật, thầy tướng dụ cho ngài Văn-thù, chúng sinh cảm đến Phật thí như cha mẹ, Phật tùy cơ mà ứng thí như sinh con. Phật chân thật trường thọ mà ngài Văn-thù nói đoản thọ, há chẳng phải là quở trách lỗi của thuyết ư? Xét văn này sẽ rõ. Kế đó từ câu “Thí như cô gái nghèo v.v…” trở xuống là khuyên thuyết và quán. Xưa nói rằng cô gái nghèo dụ cho sinh giải, trượng phu dụ cho hộ pháp. Khai Thiện nói rằng: Cô gái nghèo dụ cho sinh giải, trượng phu dụ cho xả mê. Trị Thành cho rằng cô gái nghèo dụ cho hộ giải, trượng phu dụ cho hổ thẹn. Chiêu-đề cho rằng cô gái nghèo dụ cho thuyết Phật là vô vi, trượng phu dụ cho sự ngăn che tướng hữu vi của Phật. Nay nói cô gái nghèo dụ cho Từ, sinh con dụ cho Thuyết, trượng phu dụ cho Cương, đi xa dụ cho Quán, văn dụ đã hiện rõ. Vả lại, gồm thâu từ trên đến đây chẳng phải là nói suông, chỉ vì đối với Thánh mà dạy phàm, nhờ vào bậc trên mà khuyên bảo kẻ dưới, chứ chẳng phải là bác bỏ lời khuyên bảo của ngài Văn-thù. Hơn nữa, khuyên hàng Bát địa cũng vô ích, vì bậc Thánh rốt ráo chẳng cần phải khuyên, vì chẳng phải trên chẳng phải dưới. Từ giai vị Sơ phát tâm trở lên, chưa viên mãn trở xuống, thì cần phải quở trách và khuyên bảo. Văn dụ đã hiển bày rõ. Đầu tiên về dụ khuyên thuyết có khai và hợp. Khai thì có sáu, “từ” là từ “Lý từ” cho đến “Cứu cánh từ”. Đoạn “cô gái nghèo v.v… lại thêm khổ bệnh” là dụ cho Lý từ. Nghèo dụ cho vô trí, bệnh là vô đoạn, không có nhà cửa dụ cho không có năm quả thường trụ, không có người cứu giúp dụ cho không có chủ, không có người thân. Cô gái tuy nghèo bệnh, vẫn có nghóa sinh con, lý không có trí đoạn mà vẫn có nghóa giải thích. Văn sau ghi: “Từ là gốc của tất cả pháp”. Câu “bị đói khát ép ngặt phải đi khắp nơi khất thực”, là dụ cho danh tự từ. Không có trí là đói, không có định là khát, bị si tán ép ngặt muốn cầu trí tuệ thanh tịnh thì tơ trắng dễ nhuộm, biết sơ lược về danh số, hiểu một ít về nơi chốn, đó là Danh tự từ. “Dừng nghỉ ở khách xá” là dụ cho Hành từ. Quán năm ấm như khách trọ chiều hợp sáng tan; quán sáu nhập như người tham tìm vật trong ngôi làng hoang vắng, quán sáu trần như giặc ác ngu si, chẳng biết tránh lửa đốt, thương xót tất cả bọn họ, há chẳng phải là quán Hành từ ư? Cùng với từ này hợp, nên gọi chung là giải thích, giải thích chưa hiển bày như người nữ tuy có khả năng sinh, nhưng đứa con chưa sinh ra, có thể dụ như mang thai. “Nương náu mà sinh một đứa con” là nói về Tương tự tức từ. Đoạn trên nói quán ngôi nhà năm ấm sinh ra sự hiểu biết thanh tịnh, dụ như nương gá để sinh con. Đoạn này nói về tâm Từ đã rõ (từ thuyết), dụ như đứa trẻ đã sinh ra. Nói chung cho phần từ thuyết ở trước đều có chướng nạn, khi đến Tương tự thì từ đều đã chế phục, lại có mạnh và yếu, cho nên ở vị này nói các chướng nạn thông đến phần từ thuyết ở trước. Chủ của ngôi khách xá xua đuổi là dụ cho báo chướng, làm chướng ngại nghóa tuệ giải, cho nên nói là đuổi đi. Từ và giải đồng nghóa dụ như bế con, đến thành Niết-bàn dụ cho đến nước khác. Sau Danh tự từ và trước Chân từ, khoảng giữa hai từ này dụ cho nửa đường. Gặp mưa gió lớn dụ cho nghiệp chướng bên trong, chí rận cắn hút dụ cho nghiệp chướng bên ngoài, lội qua sông Hằng dụ cho phiền não chướng, bồng đứa bé lội qua sông dụ cho nghóa dầu ở trong ba chướng mà không bỏ chánh thuyết, tức là thuyết ấm, giới, nhập chẳng phải thường chẳng phải Vô thường, nói các nghiệp ác chẳng buộc chẳng tho- át, nói các phiền não chẳng sáng chẳng tối. Từ Tương tự từ đến Tương tự giải, chướng mà chẳng thể chướng cho nên nói là lội qua sông. Nước chảy xiết dụ cho năng lực của ba chướng rất mạnh xâm đoạt Từ thuyết. Thể của Từ thuyết mầu nhiệm chẳng bị ba chướng khuất phục, cho nên nói chẳng buông bỏ. Nói mẹ con đều chết đuối là dụ cho từ và giải quán đều từ nơi tương tự chuyển nhập. Phần chân, cho nên nói rằng đều chết đuối. Kinh ghi “do công đức của tâm từ này mà cô gái ấy sinh lên cõi Phạm thiên”. Thiên là dụ chỉ chung cho quán Phần chân từ và Cứu cánh từ. Văn sau là hợp và dụ, nghóa ấy tự hiển bày. Từ câu “Thưa ngài Văn-thù v.v…” trở xuống là phần hợp dụ. Trước hợp chung bốn từ, sau hợp chung hai từ. Nói chung thì từ phần nói về Lý từ ở trước đến đây thì không nên giải thích nghiêng về một bên, kiến giải nghiêng về một bên, nói nghiêng về một bên. Văn thứ nhất có ba ý: 1/ Chân chánh bảo vệ chẳng được nói nghiêng về một bên. 2/ Dẫn lỗi chẳng được nói nghiêng về một bên. 3/ Vì trái lý nên chẳng được nói nghiêng về một bên. Nói nghiêng về một bên chẳng phải chân chánh hộ trì, chân chánh hộ trì chẳng phải thiên thuyết. Thiên thuyết chẳng có mắt tuệ, mắt tuệ thì chẳng thiên thuyết. Thiên thuyết thì trái chánh lý, chánh lý đâu có thiên thuyết. Ba văn đều có chỗ phá bỏ. Từ câu “nếu người có chánh kiến v.v…” trở xuống là hợp hai từ ở sau, hợp với Viên thuyết ở trước không cho Thiên thuyết, hợp với khai Thiên thuyết ở sau, chẳng cho Viên thuyết. Nếu nói chung thì trước sau đều có thiên viên hiển bày lẫn nhau, tức trước chưa dùng cơ lý nên chỉ cho nói Viên mà ngăn Thiên, nên văn kinh ghi: “Tự trách mình ngu si.” Sau thấy cơ lý, nên cho lập Thiên thuyết, huống chi là Viên. Cho nên văn kinh ghi: “Người có chánh kiến” tức là Viên kiến. Nếu thấy hữu vô thì chẳng gọi là Vô vi. Không có hữu vô, mới gọi là Viên. Văn có bốn đoạn: 1/ Khai thiên thuyết; 2/ Giải thích thấy cơ; 3/ Nêu dụ hợp với chết; 4/ Hợp với chứng. Thứ nhất là Khai thiên thuyết, như văn kinh. Hai, Giải thích thấy cơ. Hay vì chúng sinh là thấy cơ Thế giới (Thế giới tất-đàn), sinh pháp lành là thấy cơ Vi nhân (Vi nhân tất-đàn), cũng là cơ Đệ nhất nghóa (Đệ nhất nghóa tất-đàn), sinh tâm thương xót là thấy cơ Đối trị (Đối trị tất-đàn). Thứ ba, thứ tư như văn kinh đã nêu. Kế là, từ câu “như người đi xa v.v…” trở xuống là khuyên quán. Có dụ và hợp. Trong phần dụ lại có hai: 1/ Chánh khuyên; 2/ Trùng khuyên. Văn thứ nhất, bản sáu quyển gọi là dụ Trượng phu. Ở đây mở ra sáu nghóa quán, tức là từ Lý quán cho đến Cứu cánh quán. Đi xa dụ cho Lý quán, cách giai vị cuối cùng rất xa nên gọi là xa; lý vắng lặng mà chiếu soi nên gọi là đi, giữa đường dụ cho Danh tự quán. Khoảng giữa của đầu và cuối gọi là Trung. Mệt mỏi tức dụ cho phiền não mệt nhọc, sinh tử trói buộc, khiêm nhường thưa hỏi. Nghỉ tạm tại ngôi nhà kia dụ cho Quán hạnh tức, ba cõi huyễn cư, giống như tạm nghỉ; năm dục chẳng phải mình, chỉ vì người mà tạm nương gá ấm nhập như ngôi nhà, bị vô minh che lấp dụ như nằm; mê mờ chẳng tỉnh dụ cho ngủ; bỗng nhiên lửa cháy, lửa là Vô thường, đến không có đường tắt, nên nói là phát khởi, phát khởi Vô thường tức là báo chướng. Trên đã nói đầy đủ về ba chướng, ở đây chỉ nêu một. Liền tỉnh giấc dụ cho tương tự quán, xưa chưa được mà nay được, gọi là giật mình; Tương tự giải gần với chân gọi là tỉnh thức. Nói nhất định phải chết là biết tướng hoặc bị loại trừ, hoặc tuy mạnh nhưng không lâu sẽ bị dứt trừ, như ra biển được bình an, cho nên nói “chắc chắn sẽ chết”. Tuy biết chắc chắn phải chết mà vẫn chưa chết, tức là chưa được nhập vào Thánh vị là do bạch pháp, cho nên hổ thẹn. Y phục quấn thân, y phục dụ cho quán, thân dụ cho cảnh. Nếu Thiên quán, thì chiếu cảnh chẳng khắp, như thế thật đáng hổ thẹn. Viên quán thì chiếu khắp các cảnh, cho nên không hổ thẹn. Vì thế nói là quấn thân liền chết đi; có người cho rằng bị vặn hỏi mà khuất phục là chết, nhưng bị vặn hỏi chết thì người chết phải vô lượng kiếp sinh lên cõi Phạm thiên, nhưng đã chẳng thể sinh, thì biết nghóa ấy chẳng đúng. Nay nói chết, là tương tự quán dần dần chuyển dứt. Sinh lên cõi trời Đao-lợi dụ cho phần chân quán phát khởi dụ này, sẽ thành hai nghóa, nếu y theo ba mươi hai vị quan tức là nghóa phần chân, nếu y theo một chủ là nghóa rốt ráo. Nhưng nói Luân vương và Phạm vương là thuộc Cứu cánh quán. Nói chẳng đọa vào ba đường v.v… là dụ cho chỗ xa lìa. Từ câu “người thiện nam v.v…” là lại khuyên chớ nên quán. Từ câu “Thưa ngài Văn-thù! Như Lai chân thật v.v…” trở xuống là hợp dụ. Chỉ hợp với câu trên “liền qua đời” tức là từ phần chứng quán trở đi. Từ câu “nếu quán Như Lai được như thế v.v…” trở xuống là hợp với trời Đao-lợi ở trên. Có người dùng ba mươi hai tướng của văn này hợp với chủ chứ chẳng phải hợp với quan. Nếu thế thì tám mươi kiếp hợp với tám mươi vẻ đẹp phụ, Luân vương vô địch hợp với mười tám pháp bất cộng. Nay nói tám mươi vẻ đẹp phụ cũng chẳng chung với pháp khác, cho nên chỉ hợp với rốt ráo.  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 5 <詞>PHẨM 2: THUẦN-ĐÀ (PHẦN CUỐI) Từ câu “ngài Văn-thù khen rằng v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về ngài Văn-thù khen ngợi, có bốn ý: 1.Lãnh thọ lời của Thuần-đà; Khen ngôn hạnh tương ưng; 3.Khen hợp với Phật chỉ; 4.Nhận lời khuyên. Vả lại, khuyên lãnh thọ hai lời khuyên trước và hai lần chê trách. Ý một như văn đã ghi. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là nói về ngôn hạnh tương ưng. Nói nhân duyên sống lâu tức là chánh kiến, chánh trí, chánh hộ, chánh thuyết, là nhân duyên thường trụ. Đây là lãnh thọ ý Tương tự giải trong phần Hợp dụ ở trước, nên nói là nhân duyên. Nói “khéo biết Như Lai là pháp Thường trụ” đây là lãnh thọ ý phần chân giải ở trước. Nói “khéo che lấp tướng hữu vi của Như Lai” là lãnh thọ ý tựa giải trong phần hợp dụ ở sau. Nói “thường an vui” là lãnh thọ ý phần chân giải trong hợp dụ ở sau. Nếu lãnh thọ hai giải chân và tự, tức là gồm lãnh thọ ý sáu vị. Nhưng ngài Văn-thù chỉ dùng một lời mà có quở trách khuyên bảo, còn Thuần-đà thì dùng bao nhiêu lời như thế để quở trách khuyên bảo. Ngài Văn-thù lại chẳng bác bỏ mà lại khen ngợi, đó là do Thuần-đà nói hợp với giáo, hợp với cơ. Bậc Thánh chỉ nói về pháp mình được, chứ chẳng nói pháp của người. Cho nên biết Thuần-đà thuộc giai vị Phần chứng, vì thế ngài Văn-thù dùng phần chứng để khen ngợi ngôn hạnh của Thuần-đà, tức là phát khởi Tích năm giới, hiển Bản phần chân của Thuần-đà. Nay nói thêm rằng: “Nên biết mười nhường là nói theo Tích. Lại dùng Tiểu lúc đầu mà vặn hỏi Đại sau cùng, cũng là vì ngại rằng chúng hội đương thời và đời vị lai chấp Tiểu lúc đầu vặn hỏi Đại sau cùng, làm trở ngại Đại sau cùng là dùng để phá Tiểu lúc đầu. Nói chúng đương thời tức là chúng mới. Vì sao? Vì giáo môn trong một đời là nhằm phá bỏ, đào thải để hội về chút điều lành, đâu thể chấp Như Lai chắc chắn là nhập Niết-bàn đồng với Tiểu thừa lúc đầu tiên ư? Chánh là vì hàng độn căn Tiểu thừa ở đời sau chấp Tiểu, cho nên kinh Pháp Hoa ghi: “Trừ sau khi Phật diệt độ”, nếu chẳng như thế thì đâu có việc Trời, Người, Bồ-tát, Thanh văn dâng cúng phẩm vật thượng diệu, cờ phướn, lọng báu đẹp lạ, đều im lặng chẳng thọ nhận, lại thọ nhận phẩm vật tầm thường ít ỏi của một người thợ trong thành, rồi nhân việc này mà lãnh thọ vật cúng của tất cả chúng hội; lại khéo vặn hỏi Phật, được Phật khen ngợi, luận nghị với ngài Văn-thù. Cho nên biết Thuần-đà chẳng phải người như thế. Từ câu “sau này Như Lai v.v…” trở xuống là khen ngợi ngầm hợp ý chỉ của Phật. Tức chỉ cho các phẩm Ai thán, v.v… sẽ nói rộng. Từ câu “ta và ông v.v…” trở xuống là nói về thọ nhận lời khuyên. Ông khuyên ta che đậy hữu vi, ta cũng khuyên ông che đậy vô vi. Tuy suốt ngày nói Hữu mà chẳng thể biết hết được dụng của Hữu, suốt ngày nói Vô mà chẳng thể đến được chỗ cùng cực của Vô. Lời nói chẳng thể đến được, dứt bặt mà xa lìa. Nói xa lìa tức chỉ cho rộng mà lìa bỏ sơ lược, tức là Thế giới xa lìa, chánh thể của Niết-bàn chẳng phải thể chẳng phải dụng, chẳng phải hữu vi, vô vi. Đã chẳng phải chánh thể thì có thể xa lìa, đó là Đệ nhất nghóa xa lìa. Ông khuyên ta che đậy Hữu, ta khuyên ông che đậy Vô, đúng sai đều có, chẳng biết đâu là chánh, đó là Đối trị xa lìa. Hữu vi vô vi là phụ luận. Nay chính là dùng hiến cúng làm tông, lìa bỏ phụ luận mà giữ tông, cho nên nói hãy xa lìa. Đây là vị nhân xa lìa. Kế là từ câu “ông hãy mau cúng dường Đức Thế Tôn cho đúng lúc. Cúng dường như thế là bậc nhất trong các pháp cúng dường”. Như lúc mới đi, lúc mới đến, lúc bệnh, lúc vật mới thành thục, nay cúng dường lần cuối là thời gian mới đi. Tiếp là khuyên nên mau chóng. Như phép tắc của Phật xưa thì quá giờ ngọ không được thọ thực. Nay đã gần đến thời gian này. Khuyên hãy cúng Phật và Tăng. Chính là lần cúng dường cuối cùng, khi Phật Niết-bàn. Từ câu “Thuần-đà v.v…” trở xuống là chê trách, có ba: 1.Chẳng biết thời; 2. Chẳng biết nhanh; 3. Chẳng biết Phật. Bảo đúng thời: Ngài bảo tôi cúng dường đúng thời, thì đối với Phật có thể là đúng thời, còn tất cả đại chúng đều chẳng Niết-bàn, nên đó là phi thời, phi thời mà đòi hỏi cúng dường, theo lý là thuộc về tham. Chẳng biết nhanh: Sáu năm Đức Phật tu khổ hạnh, ngày chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo, huống chi hôm nay chỉ trong giây lát mà bảo nhanh. Chẳng biết Phật. Ngài cho rằng Như Lai cần ăn uống hay sao? Ngài Văn-thù đồng với sự thấy biết của người khác, cho rằng cần phải ăn uống. Thuần-đà đã biết ăn tức là chẳng ăn, nên chê trách ngài Văn- thù rơi vào ba điều chẳng biết. Kế đến từ câu “Phật bảo v.v…” trở xuống là nói về Phật ấn khả khen ngợi để thành tựu ý trước phát khởi ý sau. Ấn chứng cho lời chê trách, tức thành tựu cho ý trước, khen ngợi đạo trí là phát khởi văn sau. Từ câu “ngài Văn-thù bảo Thuần-đà v.v…” trở xuống là nói về vui vẻ hứa khả, có năm ý: 1/ Vui vẻ chấp nhận; 2/ Phá vui vẻ chấp nhận; 3/ Đồng vui vẻ chấp nhận; 4/ Hiểu vui vẻ chấp nhận; 5/ Dứt vui vẻ chấp nhận. Bấy giờ, đại chúng cho rằng Thuần-đà hạnh còn cạn cợt, cho nên Đức Phật ấn khả lời nói của ông ấy để phá tình chấp đương thời. Ngài Văn-thù do sự nghiêng lệch này mà chúc mừng rằng: Ông nói vô vi, được Phật vui lòng chấp nhận”. Thuần-đà dùng viên mãn phá thiên lệch. Chẳng phải chỉ vui vẻ chấp nhận tôi, mà còn vui lòng đối với tất cả. Đầu tiên là ấn định. Ngài Văn-thù lập hai phen, đồng thời trước quyết định. Nếu nhất định vui lòng chấp nhận tất cả chúng sinh, thì ta nói hữu vi cũng nên vui vẻ chấp nhận. Nếu chẳng vui lòng chấp nhận ta thì cái vui viên mãn bị phá, tất cả nghóa chẳng thành, lại thành cái vui thiên lệch, thế thì thành ra Phật có yêu ghét ư? Đó là lập chế phục. Ngài Thuần-đà biết đó là chế phục, nên lập ra hai phen giải thích: Không có vui lòng chấp nhận nghiêng lệch nhiễm ô; Có vui lòng chấp nhận thanh tịnh cùng khắp. Không nghiêng lệch, có ba: Bác bỏ, không vui vẻ chấp nhận nghiêng lệch. Giải thích ý không nghiêng lệch. Nêu dụ để hiển bày, như văn ghi. Từ câu “bình đẳng đối với tất cả v.v…” trở xuống là nói về vui lòng chấp nhận thanh tịnh đối với tất cả. Tức là cảnh giới Như Lai, chúng ta chẳng thể biết được. Từ “quốc vương v.v…” trở xuống là nói về dứt bặt cả vui lòng chấp nhận. Chẳng nên nói nghiêng lệch suy lường khắp cả. Văn trên ngài Văn-thù nói hữu vi vô vi đều xa lìa, tức là bặt lời, chẳng thể nói là vui lòng, nay nói có vui lòng, không vui lòng đều là cảnh giới Phật, chẳng thể suy lường, tức là bặt suy nghó về vui lòng chấp nhận. Đầu tiên là dụ cho phần trí chẳng bằng rốt ráo. Vua cưỡi xe bốn ngựa là dụ cho trí rốt ráo, các quan cưỡi xe lừa dụ cho phần chân trí, sau dụ cho phần đoạn chẳng bằng rốt ráo. Rùa, rồng ở nước dụ cho vô minh, còn thực hành hạnh Bồ-tát, cho nên chẳng thấy rõ ràng. Chim cánh vàng bay trên cao dụ cho vô minh đã hết, Phật chẳng thực hành nên thấy được rõ ràng. Khai Thiện cho rằng dụ trước là nói giai vị thấp chẳng biết giai vị cao; dụ sau là giai vị cao rõ biết giai vị thấp. Trị Thành cho rằng cả hai dụ đều nói giai vị thấp chẳng thể biết giai vị cao, đầu tiên chẳng biết thượng trí, sau chẳng biết thượng cảnh. Linh Vị cho rằng dụ đầu tiên là nói chẳng biết Pháp thân, dụ sau nói chẳng biết Ứng thân. Từ câu “Văn-thù v.v…” trở xuống là khen ngợi phát dương. Khen ngợi lời nói của Thuần-đà nên nói là “đúng thế, đúng thế”. Vì ông đã rõ biết được cảnh giới Phật không thể suy lường, nên khen tặng. Phát tức dẹp bỏ nghóa nghiêng về một bên của ta. Vì ông thử, ta thử thì chẳng phải thật, cho nên nói hữu vi chẳng phải hữu vi; ông suy chưa rõ, cho nên nói vô vi chẳng phải vô vi. Trước ngài Văn-thù nói “hãy xa lìa” tức đường ngôn ngữ dứt, nay Thuần-đà nói “là cảnh giới Phật, ta chẳng thể biết” tức cảnh tâm hành bặt. Xét hỏi đến chỗ nhỏ nhiệm thì bặt lời, nghiên cứu đến chỗ tột cùng thì suy nghó dứt, cho nên thuyết và quán đều dứt bặt. Từ câu “lúc bấy giờ, từ miệng v.v…” trở xuống là phần thứ tư thúc giục cúng, Văn có bốn: 1. Thúc giục dâng cúng; 2. Thỉnh trụ; 3.Lãnh giải; 4. Bày biện vật cúng. 1. Thúc giục dâng cúng: Từ trên đến đây, các điềm lành đều có hiển bày, cho nên biết ánh sáng này chính là để thúc giục cúng dường. Trước đây, ngài Văn-thù khuyên Thuần-đà nên đúng thời cúng dường thì bị vặn hỏi quở trách, nay Đức Phật đích thân thúc giục, thì chẳng dám từ chối như trước. Văn có hai ý: Phát ra ánh sáng thúc giục; Phát ra âm thanh thúc giục. [ 1. Phát ra ánh sáng thúc giục có hai: a) Thúc giục; b) Im lặng. [a) Đầu tiên thúc giục lại có ba ý: 1. Phát ra ánh sáng; 2. Hiểu ánh sáng; 3.Thuận theo ánh sáng. Chiếu trên thân ngài Văn-thù, tức là trên Đức Phật đã ấn chứng lời nói của Thuần-đà hợp với giáo hợp cơ, nay phát ra ánh sáng chiếu trên thân ngài Văn-thù cũng là để nâng đỡ người trên, giáo hóa kẻ dưới. Hai người luận biện đều do thần lực Phật. Kế đến, nói “tức biết việc này” là hiểu được duyên do. Có một vài người cho rằng thấy sắc biết tâm, ngài Văn-thù thấy ánh sáng thì hiểu được ý Phật. Thứ ba là thuận theo ánh sáng, thôi thúc cúng dường. b) Buồn rầu im lặng, vì thúc giục cúng dường nên buồn rầu, chưa chịu im lặng. 2. Phát ra âm thanh thúc giục, cũng có hai ý: a) ba lần thúc giục. Buồn bã khóc than. Thỉnh trụ: Từ câu “Lại bạch đại chúng rằng v.v…” trở xuống là phần thỉnh trụ, theo văn gồm có hai ý: a) Bảo chúng cùng thỉnh; b) Trùng thỉnh. [a) Bảo chúng cùng thỉnh có hai: 1/ Bảo chúng cùng thỉnh; 2/ Phật đáp. Thứ nhất, như văn kinh đã ghi. Kế là, thứ hai Phật đáp, có hai: 1/ Phật ngăn sự khóc than; 2/ Thuyết năm môn quán. Về quán có hai ý: 1/ Quán; 2/ Kết luận. Sáu dụ đầu tiên là nói về không, ba dụ kế tiếp là vô thường, ba dụ kế là bất tịnh, hai dụ kế là vô ngã. Thứ ba là kết luận. Vì sao lại nói năm môn? Vì ông thỉnh ta trụ thế, vốn là vì khai đạo, nếu thường quán năm môn này thì chẳng khác gì ta trụ thế. Nếu chẳng quán được, ta trụ thế có ích lợi gì? Kinh Di Giáo nói nếu giữ gìn giới cấm, thì chẳng khác gì Phật trụ thế”, chính là nghóa này. Trùng thỉnh: cũng có hai là hỏi và đáp. Về thỉnh như văn kinh ghi. Trùng đáp, có hai: 1/ Đáp; 2/ Giải thích. Thứ nhất như văn đã ghi. Ông cho rằng trụ ở thế gian là thương xót, ta cho rằng nhập Niết-bàn là thương xót v.v… Trong phần giải thích có hai là văn xuôi và kệ tụng. Phần văn xuôi như văn đã ghi. Văn kệ và hai bài kệ ở sau đồng một ý. Trong phần kệ nói ở sau, có hai: 1/ Kệ, 2/ Văn xuôi. Lãnh giải: Từ câu “bấy giờ Thuần-đà v.v…” trở xuống là nói về lãnh giải. Văn gồm có hai: a) Lãnh giải; b) Thuật lại để thành tựu Lãnh giải: Tuy biết chẳng diệt mà chẳng thể chẳng buồn, chẳng thể chẳng cầu thỉnh, tuy biết Như Lai diệt mà chẳng diệt, nên chẳng thể chẳng mừng, chẳng thể chẳng vui. Thuật lại để thành tựu, văn có hai ý: 1/ Thuật lại việc chẳng thể chẳng vui; 2/ Dứt tâm chẳng thể chẳng buồn, Đầu tiên là việc vui: Ông đã biết được Như Lai phương tiện, cũng phải biết Như Lai chân thật, cho nên nêu hai chim để dụ cho quyền thật không thể lìa nhau. Mùa xuân dụ cho cơ nghi hội đủ; ao Vô phiền nhiệt dụ cho Niết-bàn tự tại vô úy. chư Phật cùng dùng hai pháp hợp duyên vô ngại tự tại, không ngăn ngại. Ông có thể hiểu được như thế, lành thay! Lành thay! Kế là, từ câu “Thuần-đà, ông chẳng nên v.v…” trở xuống là nêu bốn nghóa để ngăn chặn tâm chẳng thể chẳng buồn: Một là, nêu cảnh giới của Như Lai chẳng thể nghó bàn. Hay dở, tốt xấu đều như huyễn hóa, huyễn trường, huyễn đoản, chẳng trường chẳng đoản, đâu có gì đáng buồn khổ. Hai là biết Như Lai phương tiện. Đối với hay dở, tốt xấu mà Như Lai không đắm nhiễm thì đâu có gì phải buồn khổ? Ba là biết Như Lai Niết-bàn: Thành tựu nhân Đàn độ cho ông, được quả bất động, nhân quả đầy đủ, có gì đáng buồn khổ. Bốn ta là ruộng tốt, thành tựu nhân quả cho ông. Ông đạt được nhân quả tức tự đã là ruộng tốt, lại có thể làm cho người khác có đủ nhân quả. Tự lợi lợi tha đầy đủ, đâu có gì buồn khổ. Theo văn rất dễ hiểu. Bày biện vật cúng: Từ “bấy giờ Thuần-đà v.v…” trở xuống là bày biện vật cúng, có hai ý: a) Tự khiêm nhường; b) Bày biện vật cúng. Văn đầu tiên nói Niết-bàn và chẳng Niết-bàn, là nghóa trong dụ hai chim cùng bay. Tức là cảnh giới của Như Lai thì các giai vị dưới chẳng thể biết. Kế đến, trong phần bày biện vật cúng, nói “cùng ngài Văn-thù”, câu này có hai ý: 1/ Cho rằng ngài Văn-thù rõ biết lần cúng dường cuối cùng nên cùng với pháp lữ bày biện; 2/ Bản sáu quyển cho rằng đốt hương, rải hoa, hết lòng cúng dường Phật và ngài Văn-thù, mà chẳng nói là đồng. -------------------------------- <詞>PHẨM 3: AI THÁN (PHẦN ĐẦU) Nỗi khổ chất chứa trong lòng gọi là Ai, buồn cảm nói thành lời gọi là Thán. Lược theo việc lập danh nên gọi là phẩm Ai Thán. Nếu nói rộng thì bên trong mất đạo pháp là Ai, bên ngoài mất bóng từ che chở là Thán. Văn kinh ghi: “Mất bóng mát và pháp vị, như trâu nghé mất mẹ”, đó là Thế giới Tất-đàn. Đã sinh thiện mà bị lầm cho nên Ai; chưa sinh thiện mà bị che lấp, cho nên Thán: Văn Kinh ghi: “Nuôi nấng các con mà giao cho Chiên-đà-la, già trẻ bệnh khổ mà đi trên con đường nguy hiểm”, đó là sinh thiện. Vả lại việc ác hiện đời chưa dứt cho nên Ai, ác ma say sắp khởi cho nên Thán. Văn kinh ghi: “Như người bị bệnh nặng ăn những món không ăn được”, đó là đối trị. Vả lại, lẽ ra đạt được bí mật mà không đạt được nên Ai; lẽ ra chẳng mất bí mật mà lại mất cho nên Thán; Văn kinh ghi: “Chỉ dùng pháp bí mật dạy cho một mình ngài Văn-thù, bỏ rơi chúng con”, đây là Đệ nhất nghóa. Nhưng bốn căn duyên cảm đến Phật, thì Phật xuất hiện thế gian, nếu bốn cơ hết thì Phật tuyên bố nhập diệt. Cho nên y cứ vào bốn Tất- đàn để giải thích phẩm Ai Thán: Trong bản Phạm thì văn này còn thuộc phẩm Trường Thọ, Tạ Linh Vận chia làm hai, lược nêu mười điểm khác nhau: 1/Phẩm trước y cứ theo người, phẩm sau y cứ theo việc; 2/ Phẩm trước đối với Tục, phẩm này đối với Đạo; 3/ Phẩm trước nói về cúng, phẩm này không có cúng; 4/ Phẩm trước song thỉnh; 5/ Phẩm trước y cứ theo người, phẩm này y cứ theo mình; 6/ Phẩm trước nói lược Phật tánh thường trụ; phẩm này nói đủ ba điểm, bốn đức; 7/ Phẩm trước nói về giáo hôm nay, phẩm này nói đủ hai giáo xưa nay; 8/ Phẩm trước đối với hai căn cơ; phẩm này chỉ đối với Phật mà nói; 9/ Phẩm trước khởi chấp sinh nghi; phẩm này phá chấp dứt nghi; 1 0/ Phẩm trước nghe pháp ức chế bi thương, phẩm này thấy đất rung chuyển mà buồn thương. Nhưng lo nghó này lại có chung và riêng. Nay nêu một bên để phân biệt điểm khác nhau. Hưng Hoàng giải thích phẩm này có bảy là ba lần thỉnh, ba lần đáp và kết hợp. Đầu tiên, phát khởi rằng: “Đức Phật nhập vào Niết-bàn chúng sinh cô độc, cho nên cầu thỉnh trụ thế”. Đức Phật đối rằng: “Ông vốn vì hiến cúng và nghe pháp. Nay ta đã thọ nhận, phát sinh phước đức cho ông; nói pháp chữ Y, phát khởi trí tuệ cho ông. Nếu chẳng thọ học thì trụ lại thế gian, có lợi ích gì?” Kế là cầu thỉnh, Như Lai khi xưa dạy vô thường, năm mươi năm mới được thành tựu. Nay nói chữ Y mới, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, nên phải trụ lâu để dạy bảo. Nếu nhập Niết-bàn, chẳng bằng trở lại tu theo pháp xưa? Nêu dấu vết của voi, mùa thu cày cấy, sợ chỉ dạy mà chẳng thọ nhận, Đức Phật đối luận: “Chẳng phải hoàn toàn không chỉ dạy, cuối cùng cũng giúp ông hiểu được chữ Y mới. Cho nên kinh ghi: “An trí các con vào tạng bí mật, ta cũng trụ trong đó, gọi là nhập Niết-bàn”. Trước dùng tâm buồn khổ mà thỉnh cầu, nhưng Phật đã chẳng hứa sẽ trụ lại thế gian, cần phải thay lời chê trách, dùng thân mạng để yêu sách thỉnh cầu trụ thế. Như Lai nếu đã đầy đủ Thường, Lạc, Nga,õ Tịnh, đã xa lìa bốn điên đảo, thì được tự tại trụ nữa, đã xa lìa bốn điên đảo, lời nói thường lạc hóa thành nói suông. Nếu Thế Tôn chẳng trụ thế, thì chúng ta chưa dứt trừ vô minh nên chẳng thể trụ lâu ở thế gian, cũng nên cùng với Như Lai nhập vào Niết-bàn. Đức Phật liền đáp lại rằng: Việc trụ hay diệt của ta như hai con chim cùng bay, hằng trụ như thế, đâu cần phải thỉnh trụ. Trụ mà hằng diệt, thì cũng đâu cầu thỉnh. Ông chẳng hiểu ý nghóa này, thì đâu được đồng với ta mà nhập Niết-bàn. Ba lần thỉnh mà chẳng đồng ý, tình không chỗ đáp ứng mà sinh nghi, nếu vô thường chẳng phải giáo xưa, nay chẳng nên nói thường lạc; nếu đúng là giáo xưa, vì sao chẳng nói sớm? Thế thì Như Lai phạm lỗi căn cơ khác nhau. Phật liền biết mà giải thích rằng: Xưa nói vô thường là phá bệnh thường của ông, nay ông lại chấp vô thường, lại là bệnh, nên ta nói là thường. Bệnh của ông có trước sau, nên giáo có hưng phế. Ông gượng cho là lập giáo có sớm muộn xa gần, Như Lai lại muốn thuận theo, như thế đâu phải Như Lai sai lầm căn cơ? Thật ra sớm muộn là do ông! Lại đổ lỗi cho Như Lai? Sinh khởi các nghóa như thế rất dễ nhận thấy. Lại ba lần thỉnh ở trước, ba lần Như Lai trả lời ở sau, một đoạn ở giữa, mỗi chỗ đều có quan hệ nhau. Đó là bảy ý huyền đàm của Hưng Hoàng. Nếu muốn y theo văn giải thích thì sinh ra trái nghịch. Nay nói rằng phẩm này đối với các Tỳ-kheo mà nói về pháp chữ Y mới tu ba pháp cao quý, theo văn có thể chia làm bốn đoạn: Đại chúng thỉnh. Như Lai đáp Tỳ-kheo nghi chấp. Phật phá trừ các nghi. Đại chúng thỉnh, có hai phần: 1, Duyên thỉnh; 2, Chánh thỉnh. Duyên tức là đất rung chuyển, biết Như Lai sẽ Niết-bàn, cho nên buồn khổ thỉnh trụ lâu ở thế gian. Hỏi: Ai làm đất rung chuyển để tạo duyên? Đáp: Pháp chẳng ở nhân, cũng chẳng ở duyên, cũng chẳng lìa nhân duyên. Đã tự nhân duyên thì đâu có người làm ra, tuy không có người làm ra, nhưng cũng do Phật dùng thần thông làm rung chuyển mặt đất, khiến cho người rầu buồn kính mến, đặt những người có duyên vào trong Giải thoát; cũng là do trí lực của Phật nói pháp, vui mừng đặt người có duyên vào Bát-nhã; cũng do thể lực của Phật chẳng buồn chẳng vui, đặt người có duyên vào Pháp thân. Cũng là trí lực của Thu- ần-đà và Bồ-tát Văn-thù khiến cho chúng sinh khai ngộ, nhập vào Bát- nhã; cũng là năng lực thần thông của hai người làm cho khi diệt độ mặt đất rung chuyển, khiến cho chúng sinh kính tiếc nhập vào Giải thoát; cũng là năng lực Đệ nhất nghóa của hai người khiến chúng sinh chẳng buồn chẳng vui, nhập vào pháp thân. Cũng là đại chúng chiêu cảm năng lực đối trị; nghe pháp vui mừng chiêu cảm năng lực Vị nhân, đất rung chuyển buồn khổ cảm Đệ nhất nghóa; chẳng buồn chẳng vui dẫn đến đất rung chuyển; Nghóa của duyên có vô lượng, như kinh Tịnh Danh ghi: “Hoặc sinh ra sợ hãi, hoặc vui mừng, hoặc xa lìa, hoặc dứt nghi; đó là thần lực pháp bất cộng” y cứ theo đất rung chuyển lại chia làm bốn ý: Thời gian, nơi chốn, tướng trạng, lý do. Thứ nhất nói về thời gian. Đức Phật dùng bốn việc để ngăn sự buồn khổ ở thành Hoa Thị: Thuần-đà thì nín lặng hơi cố tỉnh, cúi đầu nuốt lệ. Đại chúng nghe pháp thì tâm buồn thương tạm dứt. Bây giờ, hai vị đã đi, pháp âm đã bặt, lại muốn tăng thêm pháp lành buồn thương, nên sau khi đi chưa lâu, làm cho mặt đất rung chuyển. Nói về nơi chốn, mặt đất là nói về nơi chốn theo chiều ngang, Phạm thiên là nói nơi chốn theo chiều dọc. Hoặc cho Sơ thiền là Phạm thế, hoặc chỉ chung cho bốn Thiền đều là Phạm thế. Tuy chẳng phải đất liền, nhưng lại có cung điện báu nên cũng đều rung chuyển, tức là việc này. Hỏi: Ở trên nói âm thanh và ánh sáng thấu đến cõi Phi tưởng là cõi Hữu đảnh. Nay nói đất rung chuyển đâu chỉ đến Phạm Cung? Đáp: Ở trên nói Hữu đảnh, thì văn kinh nói Hữu đảnh rất rộng để giải thích xa hơn; ở đây nói Phạm thế, thì đồng với văn mà thôi. Nếu y cứ theo văn sau thì khi rung chuyển có thể làm cho người động tâm. Nói khắp mặt đất rung chuyển thì bốn tâm ở cõi Vô sắc cũng bị động, tức là việc này. Nói về tướng trạng, có ba ý: 1/ Tướng động lớn nhỏ; 2/ Tướng sáu thứ rung chuyển; 3/ Tướng của ba mươi tám thứ rung chuyển. Ba tướng này đều lấy hình và thanh làm gốc, hình thì có động, giật và khởi; thanh thì có chấn, giác và rống. Nếu chỉ có hình hoặc thanh thì gọi là Tiểu động; nếu hình thanh đồng thời động thì gọi là Đại động. Hình thanh mỗi thứ đều có ba, tất cả thành sáu; trong mỗi thứ lại có ba thứ khác là động, biến động và đẳng biến động; như thế thành mười tám động. Nếu phân biệt cõi Diêm-phù-đề, một Tứ thiên hạ, Tiểu thiên giới, Trung thiên giới, Đại thiên giới, mười phương, mỗi loại thứ lớp kế nhau để so sánh thì có Tiểu động, Đại động và Đại đại động. Có người cho rằng kinh này nói sáu động, kinh Hoa Nghiêm nói mười tám động, nghóa này đúng như thế? Đó là đặc biệt lược nêu một loại động trong hình, trong âm thanh trong một loại chấn mà thôi. Vả lại, văn kinh có ghi: “Đại động” và “khiến tâm chúng sinh động”; nên biết như thế, thì ý nghóa gồm cả mười tám thứ rung chuyển, khác với nhân tình. Nói về nguyên do, y cứ theo đây cũng có Tiểu do, Đại do, Đại đại do. Nếu Luân vương sinh hoặc chết, cõi nước có chủ, mất chủ thì vui hoặc buồn mà rung chuyển, đó gọi là Tiểu động. Như vui hoặc buồn do Bích-chi, La-hán ra đời, hoặc nhập diệt khiến cõi nước có bậc Ứng Cúng hoặc không có bậc Ứng cúng mà đất rung chuyển, gọi là Đại động. Như thần đất, thần núi và các trời rồng v.v… vui hoặc buồn do Phật ra đời hay nhập diệt khiến được hay mất Đấng Ứng Cúng mà rung chuyển, đó gọi là Đại đại động. Nay kinh này nói về tám tướng của Như Lai, chỉ thiếu lên cõi trời và hàng ma, vì văn lược bỏ không ghi. Trong tám tướng thì tướng Như Lai nhập diệt, mặt đất rung chuyển là nói riêng về lý do. Nếu nói chung như trước đã giải thích, Thuần-đà và đại chúng đều là nhân duyên của rung chuyển. Xưa đã phân biệt từ ngữ mặt đất rung chuyển là lời của các nhà kết tập kinh, hoặc nói là Phật thuyết. Các sư Trung Quán cho rằng chẳng phải như thế vì đương thời nghe nói như thế, há là của nhà kết tập kinh? Văn lại không có lời Phật bảo, làm sao biết là của Phật nói? Thế thì đúng là đất có rung chuyển nên mới có lời này. Kế đến, từ câu: “Bấy giờ, các Trời Rồng v.v…” trở xuống là phần chánh thỉnh. Văn có ba ý: 1/ Gồm phần văn xuôi và bốn mươi sáu câu kệ là phần ai “buồn khổ” cầu thỉnh; 2/ Hai hàng kế là phần cầu thỉnh; 3/ Gồm văn xuôi và năm dụ là cơ thỉnh. Thứ nhất, văn xuôi là lời thuật. Lấy việc toàn thân nổi gai óc, khóc than buồn khổ để làm tướng thỉnh cầu. Kế là mười một hàng rưỡi kệ, được chia làm ba: 1/ Gồm hai hàng một câu lược thỉnh; 2/ Bảy hàng một câu thỉnh suông; 3/ Hai hàng là kết thỉnh. Đầu tiên nói Điều Ngự Sư, vị tiên và trâu mẹ, tức là lược nêu ba việc, để làm đầu mối Ai Thỉnh, theo văn rất dễ hiểu. Kế đến, từ câu: “giống như người bệnh nặng v.v…” trở xuống là dụ mất thầy. Từ câu: “Như nước không có chúa v.v…” trở xuống là dụ cho mất chủ. Từ câu: “Thí như con Trưởng giả v.v…” trở xuống là dụ cho mất cha mẹ. Vừa mất cả cha mẹ. Từ câu: “Như Lai nhập vào Niết-bàn v.v…” trở xuống, có tám câu, là kết luận Ai thỉnh. Văn trên đầu tiên nói trâu nghé mất mẹ, nay kết luận lại nói: “Chúng con và chúng sinh, đều không ai cứu giúp”, chữ giúp là kết luận không còn chủ, chữ cứu là kết luận không còn thầy. Kế đến từ câu: “Như mặt trời mới mọc v.v…” trở xuống, có tám câu là nêu hai dụ mặt trời và núi để cầu thỉnh. Chỉ khen ngợi Phật mà đầy đủ ba lợi ích. Mặt trời có ba nghóa: 1. Ở trên cao, tròn đầy và sáng tỏ dụ cho sự lợi ích về chủ; 2. Có công năng giúp muôn vật sinh ra và lớn lên, dụ cho sự lợi ích về người thân; 3.Chiếu soi xua tan tối tăm, dụ cho sự lợi ích về thầy. Văn dụ nói về chiếu soi, văn hợp nói về dứt tối, tức nói về nghóa thầy là chính, phụ thêm hai khả năng kia, núi cũng có ba nghóa: 1/ Vòi vọi đứng giữa biển khơi, dụ cho lợi ích về chủ; 2/ Sâu đến tận đáy biển dụ cho lợi ích về người thân; 3/ Sắc nước cùng mầu núi dụ cho lợi ích về thầy. Đức của thầy như núi sừng sững giữa các biển hay phát ra tuệ mầu, chiếu soi hàng si mê tăm tối; ở đây lời tuy sơ lược nhưng ý thì chứa đựng. Xưa giải thích câu: “Mặt trời lại tự chiếu”, có nhiều ý, tranh luận khác nhau. Trang nghiêm ở Khai Thiện cho rằng Phật có trí tự chiếu; Quang Trạch cho rằng quả Phật không có trí tự phản chiếu. Các sư Trung quán vặn hỏi Quang Trạch rằng: “Phật không có trí phản chiếu, thì lẽ ra không tự biết thành Phật và chẳng thành Phật?” Quang Trạch giải thích rằng: Phật tuy không có trí nhưng biết làm và chẳng làm; nếu khi muốn biết thì nhờ vào trí của chư Phật, vì Phật đồng nhau. Nay lại hỏi rằng: “Phật đã đồng, thì chư Phật đều không có trí, vậy đâu thể nhờ được? Lại nếu chỉ có thể biết người mà không có trí tự biết, thì lẽ ra chỉ là giác tha mà không được gọi là Tự giác. Đó là một trong bốn lỗi của Quang Trạch. Bốn lỗi là: Cho chân ở ngoài trục, trục ở ngoài chân; cho đất vốn bất tịnh, giả thành tịnh, như rải phân bò lên làm cho đất thanh tịnh; cho rằng đến giai vị Diệu giác không có trí phản chiếu tức người chỉ thấy ngón chân mà không biết gì khác; cho rằng trí của Như Lai là bạch tịnh vô ký. Kế là hỏi Trang nghiêm ở Khai Thiện rằng: “Ông cho rằng trí phản chiếu để chiếu Nhất thiết chủng trí, thì dùng trí nào để chiếu Trí phản chiếu? Cho nên thật vô cùng”. Các sư Trung quán tự nói rằng: “Phật không có riêng trí phản chiếu, mà chỉ là trí tự hữu trí, năng phản chiếu. Nói như thế thì phá cả hai nhà. Nay nói Phật có một trí mà ba trí, ba trí mà một trí, chẳng phải ba trí, chẳng phải một trí, mà ba trí một trí. Một là đại chủng trí phá tối tăm bên ngoài; hai là trí nhất thiết năng phản chiếu; ba là Nhất thiết chủng trí, chẳng trong chẳng ngoài, chẳng tự chẳng tha, ngay nơi một mà ba, để vặn hỏi Quang Trạch; ngay nơi ba mà một để vặn hỏi Khai Thiện; ba và một khó nghó bàn có thể nạn phá các sư Trung quán. Hai bài kệ trên cũng gọi là phần cầu thỉnh. Như Lai ở tại thế gian làm lợi ích như thế, cầu mong Đức Phật lưu lại thế gian phát ra ánh sáng chiếu soi, làm lợi ích cho chúng con, cho nên nói là cầu thỉnh. Từ đoạn văn xuôi về sau là phần thứ ba nói về căn cơ cầu thỉnh. Trình bày lại sự giải thích của các Sớ xưa; có năm dụ: 1/ Dụ có trước không có sau; 2/ Dụ sợ hãi; 3/ Dụ trái với bản thệ; 4/ Dụ bất bình đẳng; 5/ Dụ không từ bi. Dụ thứ nhất có ba phần là khai, hợp và kết. Vua dụ cho Phật, các Vương tử dụ cho bốn chúng. Nói học nghề văn võ tức đầu tiên từ vườn Nai cho đến cuối cùng là Pháp Hoa, các kinh được nói ra, có những chướng ngại rất lớn. Nay thì không phải như thế, vì kết hợp với pháp nhị thừa thì sẽ thấy được. Nói đoạn chánh tức chánh kiến; nhớ nghó yêu thương dụ cho thiền định; nghề nghiệp dụ cho thần thông; Chiên-đà-la dụ cho vô minh, tập khí. Đầu tiên là dạy cho Ba học, dường như có bắt đầu (hữu thủy); chẳng hết các hoặc còn dư nên nói là vô chung. Về dụ sợ hãi, cũng gồm ba ý. Xưa nói các luận dụ cho thông đạt các kinh. Nay giải thích chẳng phải như thế, dụ này là phá bốn ma; nhưng chẳng trụ thế gian là vì sợ ma chết. Dụ cho trái với thệ nguyện, thì không có phần kết thỉnh. Người dụ cho Phật, nghề nghiệp dụ cho thệ nguyện xưa độ hết chúng sinh, việc quan là dụ cho Khởi ứng thân, vào tù dụ cho vào sinh tử; người hỏi, xưa dụ cho chư Phật mười phương, hoặc dụ cho thật trí hỏi quyền trí; hoặc cho rằng giả lập câu hỏi này. Nay dùng cơ dụ cho người bên cạnh, cơ hết thì xong việc, xong việc như ra khỏi ngục tù, cho nên nói là an vui. Nhà Hạ gọi nhà tù là Đài, nhà Ân gọi là Đủ lý, nhà Chu gọi là linh ngữ; Bạch Hổ Thông nói linh là khiến, làm cho; Cử tức là nêu lên; tức khiến cho ngươì nghó đến lỗi lầm mà nêu lên tội trạng, v.v… Phương thuốc tức mười hai thể loại kinh, phương thuốc bí truyền tức là giáo bí mật; ngài Văn-thù dụ cho các Bồ-tát, chẳng dạy cho người ngoài là dụ Nhị thừa. Dụ cho không từ bi, có ba, theo văn rất dễ hiểu. Xưa giải thích cơ thỉnh, chỉ là thỉnh đối với thầy mà không có hai nghóa chủ và người thân. Nay thử giải thích, thí dụ thứ nhất chê trách (cơ) người thân của pháp; hai là dụ kế tiếp chê trách chủ của pháp; hai là dụ sau cũng chê trách thầy của pháp. Nói về dụ thứ nhất chê trách người thân của pháp, hễ nói về thân là lấy niệm từ làm gốc, lúc mới sinh thì dạy bảo tựa như cha mẹ nghiêm từ, sau giao phó cho Chiên-đà- la thì liền trái với cốt nhục, pháp gần gũi cũng giống như thế, từ miệng Phật sinh tức là dưỡng dục, được phần Phật pháp tức là xinh đẹp, người học dụ cho tư duy, hàng Vô học dụ cho tập khí. Theo ý của Đại thừa thì có vô minh, đó đều là vô minh độc, làm hại pháp thân; lìa bỏ con mà đi tức là giao phó cho Chiên-đà-la. Kế là nói về hai dụ kế tiếp, chê trách vị Pháp chủ, nói đến Chủ là dùng oai lực chế phục kẻ địch, dùng ân đức là dạy nuôi người dân. Dụ trước uy vũ chưa lớn, dụ sau ân huệ chưa đủ. Thông đạt các luận như đối trước kẻ địch mà sợ hãi. Nay sợ luận này giống như bị địch khinh khi. Đấng Pháp Vương cũng giống như thế, dứt sự sợ hãi cho chúng sinh. Chúng sinh chưa tránh khỏi, nên Phật có sự sợ hãi. Người mới học nghề dụ cho người dân có kế sinh nhai, bắt vào ngục dụ cho dân không nương nhờ vào đâu mà sinh sống; bỏ phế sự nghiệp dụ cho không có trí tuệ, đóng ngục dụ cho không có ân. Đấng Pháp Vương cũng giống như thế, đầu tiên là chỉ dạy cho người Học, Vô học tu tập nghiệp đạo phẩm, nhưng còn trong lao ngục suy nghó, tập khí, vô minh; trăm họ có tội là do một mình ta; chúng sinh còn nhân khổ não, vì sao Như Lai muốn được an vui? Kế là nói hai dụ để chê bai Pháp sư, thầy thì phải có đức dạy bảo. Dụ trước là chê trách thầy, bên trong tham tiếc phương thuốc quí, dụ sau chê trách thầy bên ngoài không chỉ cho con đường an lành. Xét các dụ đều có ý sâu xa, mà ngay dụ này cốt yếu là nói về việc so sánh với ngài Văn-thù được chỉ dạy riêng, mà mình thì hổ thẹn đi trong đường hiểm. Đó há chẳng phải là chê trách thầy ư? Tiếp đáp lời thỉnh cầu, đầu tiên là đáp lời bi ai thỉnh cầu, gồm có phần văn xuôi và kệ tụng. Thứ nhất là phần văn xuôi. Đầu tiên là ngăn sự bi thương bên ngoài, khuyên tu quán tâm bên trong. Phàm phu thì có tám gió được mất, vui buồn; Đạo và tục trái nhau, lên xuống khác nhau. Vì sao? Vì mất chẳng thể dùng sầu não mà thu hoạch. Văn sau nói: “Nếu thường sầu não thì sầu tăng trưởng, nào có ích lợi gì? Chẳng bằng siêng năng ngăn chận hai thứ ác, làm sinh khởi hai điều lành; ác là gốc của buồn vui, thiện thì không có buồn vui, chỉ nên thanh tịnh”. Cho nên siêng năng tinh tấn, ngăn dứt khổ não. Vắng lặng vô vi gọi là chánh niệm. Chánh niệm là gì? Tức là vô niệm. Nếu vô niệm thì ai là người thân, là chủ, là thầy; ai là tôi, là con, là trò; ai đi, ai trụ; ai độ, ai chẳng độ; ai là người sầu, sầu vì điều gì? Vắng lặng không hiện điềm gì; do đó trời, người đạt được đường chánh; ngừng dứt chẳng khóc than. Vả lại, dùng dụ để hiển bày rõ Phật là duyên sinh ra điều lành, được điều lành như được con yêu, mất điều lành như con chết. Nay nghe Cận Tuệ chẳng lo mất điều lành, cho nên nói chôn cất đã xong, v.v… Kế đến là phần kệ tụng, có hai: 1/ Gồm bốn câu nói về ngăn buồn khổ; 2/ Gồm bốn câu khuyên quán; nhưng cả hai lại có ý nghóa đắp đổi nhau, chẳng nên suy nghó một bề. Đầu tiên là nói khai ý tức là mở ý tinh tấn, còn chẳng lo buồn huống chi là khai mở định tuệ. Vả lại, nói khai tức khai ý thật tướng. Sinh tử Niết-bàn, hai bên đều vắng lặng. Kệ ghi: “Vì thế nên im lặng”. Lại nói khai mở tức rõ biết hai dụng đều là phương tiện, cho nên nói pháp của chư Phật như thế. Ưa thích chẳng buông lung là khuyên chánh niệm tuệ, giữ tâm là khuyên học định, xa lìa là khuyên tinh tấn; tự vui là kết luận chớ nên buồn khổ ở trước; thọ an vui tức là giữ niệm tuệ này, ông nên chánh niệm tu tâm, chẳng nên như phàm phu, than khóc có ích gì. Nhưng các Tỳ-kheo đều được quả vị cao, đâu đồng với phàm phu; đây chỉ là đối với Thánh mà quở trách phàm, là chánh đáp phần bi ai cầu thỉnh. Từ câu: “Tỳ-kheo trở xuống v.v…” là đáp lại lời cầu thỉnh và khen thỉnh. Các thầy tôn xưng Phật như mặt trời, như núi, có các lợi ích chiếu soi, gìn giữ, v.v… Pháp thân thường trụ chẳng mọc chẳng lặn, thuận theo căn cơ mà có hai dụng, lúc ẩn lúc hiện. Mặt trời tuy chiếu khắp thế gian, nhưng chỉ có người mắt sáng mới nhìn thấy. Núi tuy chót vót giữa biển khơi, nhưng chỉ có người đi biển mới nhìn thấy được. Các thầy đồng với kẻ đui mù, không ra biển lớn, thì có ích gì? Nếu nói là có ích thì nay ta khuyên các thầy hỏi, nếu chẳng hỏi được, thì ta sẽ khai mở đầu mối cho các thầy, nếu như hỏi được thì ta sẽ nói pháp cam lộ, rồi mới nhập Niết-bàn. Đã chẳng thể hỏi thì cầu trụ thế có lợi ích gì? Đây là Đức Thế Tôn chê Thuần-đà chẳng đạt, để ngăn lời cầu thỉnh, và hiểu cả Đức của Bồ-tát. Chánh đáp lời khen thỉnh và cầu thỉnh, xưa giải thích có mười lăm cặp, đều y cứ theo giáo đầu tiên, lập nghóa thuốc và bệnh. Trong đó nghóa Không dụ cho thuốc, nghóa chẳng không dụ cho bệnh, cho đến hai và chẳng hai cũng đều như thế. Có người chỉ y cứ theo giáo hôm nay cho rằng nghóa Không là sinh tử, nghóa Chẳng không là Niết-bàn, cho đến hai và chẳng hai cũng như thế. Nếu có hỏi thì giảng nói pháp môn cam lộ, có ích cho các thầy, nếu chẳng hỏi, thì thỉnh trụ có ích gì? Hưng Hoàng nói văn sau có đủ các ý này. Văn sau chính là y cứ theo ý trước sau, trong đó nghóa không là giáo xưa, nghóa chẳng không là giáo nay, cho đến hai và chẳng hai cũng giống như thế. Nay nói nghóa này rất rộng, gồm cả việc khai mở lời thỉnh cầu của đại chúng, cho nên văn ghi: “Trong các pháp như thế, ta sẽ thuận theo dứt ghi”. Các kinh giải thích không có lỗi, nhưng nay lại y cứ vào ba thứ là không bất không, chẳng không chẳng bất không, cho đến hai chẳng phải hai, chẳng hai chẳng phải không hai cũng giống như thế. Lại y cứ theo bốn loại là: Không Bất không, vừa Không vừa Bất không, chẳng phải Không chẳng phải Bất không, cho đến hai và chẳng hai cũng như thế. Giáo xưa, giáo nay đều dùng ba loại, bốn loại này để phân biệt rộng tức là ba môn, bốn môn của giáo xưa và giáo nay. Từ câu: “Này các Tỳ-kheo, chư Phật ra đời rất khó, v.v…” trở xuống là đáp lời cơ thỉnh. Hưng Hoàng cho rằng đây là tám bậc, là lời giải thích của các Sư kia: 1/ Khen năm điều khó; 2/ Khen ngợi lìa tám nạn; 3/ Nêu nhân xưa của Phật và nêu quả Phật ngày nay; 4/ Đoạt nói quả ấy chẳng thật; 5/ Đoạt nói nhân ấy chẳng thật; 6/ Hiển bày chân pháp tánh và khuyên tu tập; 7/ Khuyên xả bỏ xưa và nương vào nay; 8/ Chánh thức chỉ bày chữ Y mới. Đầu tiên là khen ngợi, có hai: 1/ Khen ngợi; 2/ Chỉ bày. Trước đoạt sau ban cho, tạo thành thứ lớp. Đầu tiên là nói năm điều khó này, đối với người khác thì là khó, nhưng đối với các thầy là dễ. Tám nạn thì thật khó xa lìa, mà xa lìa được, cho nên khen ngợi. Đã khen ngợi xa lìa các nạn; được quả A-la-hán, tức là đối với đầu tiên; vừa khiến cho các thầy được vào tạng Bí mật là đối với sau cùng, vì sao lại nói là có trước, không có sau? Lại nói “để luống uổng”, tức đối với Tiểu là đúng, đối với Đại là sai, cho nên nói “luống uổng”. Lại nêu nhân xưa thành quả ngày nay, chính là đáp lời cầu thỉnh, tức nói Như Lai từ nhiều kiếp lâu xa, đã bỏ đầu, mắt, tủy, não để cầu đại Niết-bàn, chỉ vì lợi ích chúng sinh, đâu thể sợ hãi ư? Vì thế bác bỏ quả ấy rằng: “Quả của các thầy nói thật luống dối, chẳng phải Pháp bảo chân chánh; không có giới, định, tuệ; chẳng thể trang nghiêm thành báu chánh pháp”. Người giữ thành báu, chứng Niết-bàn là viên, tổng, bao gồm, cho nên chẳng thể phiên dịch. Hưng Hoàng cho rằng: “Niết-bàn chẳng chung, chẳng riêng mà tên gọi bao gồm chung riêng”. Dùng nghóa này mà đáp nghóa chẳng đạt bản thệ. Vì thế bác bỏ nhân kia rằng: “Phát tâm Bồ-đề, gọi là Xuất gia. Thầy chẳng phát tâm Bồ-đề, chẳng gọi là Xuất gia. Ca-sa chỉ là y nhuộm mà thôi, ông chẳng nhuộm chánh pháp, nên chẳng phải Y Đại thừa. Tuy ông có cạo tóc mà chẳng phải vì chánh pháp, dứt các kết sử. Vì thế khuyên bảo, chỉ dạy pháp tánh chân thật. Tiểu thừa xưa là hữu giả, Đại thừa nay là chân thật. Xưa lấy vô vi làm pháp tánh, nay lấy diệu hữu làm pháp tánh, pháp tánh không hề là hữu, không hề là vô, vì nhân duyên cho nên nói hữu nói vô. Biết xưa vô vi là pháp tánh, như Ca-diếp nói: “Thân là thân pháp tánh, vì sao còn thân, nếu còn thân thì chẳng phải pháp tánh”. Nên biết khi xưa lấy Vô vi làm pháp tánh, thì Như Lai liền phá bỏ. Diệt chẳng phải pháp tánh, pháp tánh chẳng phải là pháp diệt, lấy đây mà trả lời nghóa bất bình đẳng. Các thầy chấp lấy diệt độ mà bác bỏ, cho ta không bình đẳng, vì thế bỏ xưa theo nay, đây là chánh thức giải thích. Nghi rằng: “Khiến cho con bỏ xưa theo nay”, xưa sao chẳng nói?” Đức Phật giải thích rằng: “Thí như mặt đất, pháp ta cũng như thế, trị bệnh cho chúng sinh, đầu tiên là nói vô thường để trị bệnh cho các thầy, nay nói Thường cũng để trị bệnh cho các thầy”. Trước sau đều vì trị bệnh. Cho nên nói chữ Y mới là vì đã khuyên bỏ xưa theo nay, nên phải cần chữ Y bí mật, khiến các thầy trụ nơi đó, chẳng phải bỏ các thầy, không chỉ con đường bằng phẳng, chẳng phải không có từ tâm, trước sau trả lời năm câu cơ thỉnh. Ở đây cho rằng không đúng, được năm điều khó, lìa tám nạn chỉ một ý, đâu thể chia làm hai? Chỉ y cứ theo lời bác bỏ mà đáp năm câu cơ thỉnh, văn nghóa đầy đủ, đâu nhọc dùng tám giai đoạn để cùng đáp, vì thế chẳng cần. Y cứ theo văn để chia làm ba: 1/ Khen ngợi ban cho; 2/ Bác bỏ thâu đạt; 3/ Khuyến khích khen ngợi. Hễ muốn đoạt thì trước phải cho. Cơ thỉnh đã quá thiết tha thì nay bác bỏ, thâu đoạt cũng phải sâu nặng, đã bác bỏ đó là luống dối, thì cần chỉ bày chân thật, như thế cho, đoạt, chê, khen tự thành thứ lớp. Trong ba ý trên thì gồm ba cặp: 1/ Khen ngợi ban cho, tức được và lìa, cho nên khen ngợi; 2/ Bác bỏ và thâu đạt, tức chẳng được chẳng lìa, chẳng được chân thật, chẳng lìa luống dối, nên cần phải bác bỏ; 3/ Khuyên bảo cố gắng, tức nên lìa nên được giáo xưa, phải lìa chữ Y mới được, vì thế cần phải khuyên. Từ câu: “Đức Phật ra đời là khó v.v…” trở xuống là phần khen ngợi ban cho, được và lìa. Lại gồm ba là giải thích, dụ, kết luận. Đầu tiên văn kinh nêu lên năm điều khó, đoạn này so với đoạn trên, có việc có việc không. Đoạn trên vì người thế tục chẳng khen ngợi cắt ái xuất gia, chẳng khen ngợi A-la-hán khó được. Ở đây vì người xuất gia, chẳng khen ngợi được cúng dường lần sau cũng là khó, chẳng khen ngợi nghe pháp là khó, còn các điều khác đều giống nhau. Lìa tám nạn là được thân người, lìa ba đường; được gặp Phật, không sinh trước sau Phật, lìa trời Trường Thọ, Uất-đơn-việt, biên địa, được xuất gia các căn không thiếu; được quả A-la-hán, lìa Thế trí biện thông. Kế đến, nêu cát vàng và hoa Ưu-đàm-bát để dụ. Từ câu: “Xa lìa v.v…” trở xuống là kết luận. Kế đến, từ câu: “Các ngươi gặp ta v.v…” trở xuống là bác bỏ thâu đoạt, chẳng thể chẳng lìa. Nay điểm qua ý này để trả lời năm câu cơ thỉnh. Nói “Các thầy gặp ta, đầu tiên ta bảo các thầy nêu được năm điều khó, lìa tám nạn là ta khéo dạy lúc đầu, nay ta lại dạy bảo các thầy chẳng nên để luống uổng, là ta khéo chỉ dạy lúc sau cùng; vậy đâu thể cho là ta có trước mà không có sau? Như dùng ý để giải thích các câu văn trên, như: “Sinh dưỡng các người con, hình dáng xinh đẹp”, là Phật đầu tiên có dạy, “giao phó cho Chiên-đà-la” là cuối cùng Phật không chỉ dạy. Nếu lấy theo ý Phật thì chẳng nên nhận người thân là Phật, vì sao? Vì chẳng biết Phật không phải Vương tử; chẳng biết thành báu hình dáng chẳng đẹp đẽ, vô minh che lấp tức Chiên-đà-la, đâu cần tráo phó? Đó là vô thỉ vô chung, chuyển lỗi trở về các Tỳ-kheo. Từ câu: “Khi xưa ta v.v…” trở xuống là đáp nghóa trái với bản thệ. Khổ hạnh khó làm chẳng phải chỉ một đường; Ta xem điều ấy như vị ngọt thơm, lập ra phương tiện vô thượng, môn ấy chẳng phải Tiểu, mà ta không hề tham tiếc. Chỉ vì các thầy buông lung, chẳng tin nhận, chẳng hành trì, đối với pháp Đại thừa chẳng chịu tu học, chứ chẳng phải ta không ban ân huệ. Thân mạng, ai lại không xem trọng, nhưng ta lại xem nhẹ sinh, xem nhẹ tử, trải qua vô lượng kiếp xương chất cao như núi, tủy não đầy biển đầy sông, huống chi là vợ con, quốc thành, xả bỏ vô số. Ân đức to lớn như thế, chỉ vì các thầy buông lung, không biết hổ thẹn, ở mãi trong lao ngục, không được ra khỏi, chứ chẳng phải ta không ban ân đức. Đây là do lỗi không biết hổ thẹn, không thọ học để chuyển lỗi về các Tỳ-kheo. Từ câu: “Tỳ-kheo các thầy làm thế nào trang nghiêm v.v…” trở xuống là thứ hai nói về nghóa sợ hãi. Thành báu chánh pháp của ta có đầy đủ công đức, trong đó giới là tường thành cao vót, nguy hiểm, các ma và giặp cướp không thể dòm ngó được; Định là các hào nước sâu rộng không bờ không đáy, có sóng lớn nguy hiểm, năm trần, sáu giặc đều bị chìm đắm. Tuệ là đài quan sát, chiếu soi từng vật nhỏ, thông đạt tất cả xưa nay, rõ ràng đầy đủ. Ngôi thành của ta như thế, thật là uy vũ, có gì phải sợ? Chỉ vì các thầy không có thành, không có ngăn ngừa, mà có sợ có hãi; cho nên trả sự sợ hãi về các Tỳ-kheo. Từ câu: “Nay các thầy gặp v.v…” trở xuống là trả lời cơ thỉnh bất bình đẳng. Trong ngoài ngôi thành chánh pháp đều được trang nghiêm bằng các thứ ngọc báu, huy hoàng rực rỡ, chẳng những không cùng mà còn không ngăn ngại. Những người thương buôn nhặt lên thì cho là đá sỏi, đó là do người lấy có tâm hạn hẹp, chứ chẳng phải ngôi thành không bình đẳng. Đây là dùng lỗi nghiêng chấp trả về cho các Tỳ-kheo. Từ câu: “Tỳ-kheo các thầy v.v…” trở xuống là trả lời câu cơ thỉnh thứ năm, nói không có Từ bi không chỉ cho con đường bằng phẳng. Tâm các thầy thấp kém đã tự cho là đủ nên chẳng nhàm chán đường nhỏ; chẳng tham cầu Đại thừa, tức chẳng thích đường bằng phẳng; đắp ca-sa là chẳng nhàm chán xóm nghèo; chẳng cầu pháp thực là chẳng thích vị thượng diệu; cạo bỏ râu tóc là chẳng nhàm chán trí nhỏ. Chẳng vì chánh pháp tức chẳng thích ánh sáng Đại thừa. Các thầy chẳng nhàm chán, thì tâm Bi chẳng thể cứu giúp; các thầy chẳng ưa thích thì tâm từ chẳng thể ban cho. Quẩn quanh trong đường hiểm, quay lưng lại với con đường bằng phẳng. Đây là dùng lỗi không ưa thích nhàm chán để chuyển lỗi về cho các Tỳ-kheo. Đã đối trả trước năm câu cơ thỉnh bây giờ đến y văn giải thích. Từ câu: “Các thầy gặp ta v.v…” trở xuống là ý thứ hai nói về một cặp chẳng được chẳng lìa. Văn có hai đoạn: 1/ Nói sơ lược; 2/ Giải thích rộng. “Các thầy gặp ta” là nói lược về điều chẳng được, “chẳng nên để luống uổng” là lược nói chẳng xa lìa Ngã (Ta) tức là chân Phật, Phật này cũng là Thường, là Lạc, là Ngã, là Tịnh; là thân Kim cương, chẳng phải thân hậu biên, chẳng phải thân tạp thực. Chân Phật này các thầy chẳng thể biết được, chỉ biết ứng hóa, ứng hóa chẳng phải chân, chẳng phải người nói pháp. Kinh Tịnh Danh ghi: “Thầy chẳng gặp Phật, chẳng nghe pháp, chẳng dự vào hàng tăng, đồng như sáu vị giáo chủ ngoại đạo”. Đây là nói chẳng biết chân Phật, tức là chê trách chẳng được; “chẳng nên để luống uổng” tức là đoạt, nói kia chẳng lìa. Thế nào là chẳng lìa? Tức tuy là tám nạn mà chẳng được không nạn, tuy được bốn quả mà chẳng được chân quả. Quả đã chẳng chân, thì nạn cũng chẳng lìa, cho nên nói là luống uổng, tức là đoạt nói, kia chẳng được. Kế đến, từ câu: “Ta đã từ lâu xa v.v…” trở xuống là giải thích rộng về chẳng được; có hai ý: 1/ Chê trách chẳng được Tam bảo chân thật; 2/ Chỉ bày rõ về Tam bảo chân thật. Văn chê trách lại có ba: 1/ Giải thích rộng về chân Phật; 2/ Giải thích rộng về chân Pháp; 3/ Giải thích rộng về chân Tăng. Giải thích rộng về ba nghóa này để nêu rõ việc chẳng được. Đầu tiên giải thích chân Phật, có hai: Đầu tiên là nêu phương tiện trước khi đạt đạo, cho nên nói: “Ta đã từ lâu xa về trước”; kế là nêu phương tiện sau khi chứng đạo, cho nên nói: “Nay được vô thượng”. So sánh sau với trước thì đều là vô thượng. Phương tiện vô thượng, nếu đối với trước khi chứng đạo thì đó là viên nhân, nên văn sau ghi: “Lại có một hạnh là hạnh Như Lai”; nếu đối với sau khi chứng đạo thì đó là viên dụng; nên văn sau ghi: “Hai con chim cùng bay”. Nêu phương tiện vô thượng trước và sau khi chứng đạo, để giải thích thành nghóa Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của chân Phật, nhưng các thầy chẳng thể biết, các thầy chỉ biết đó là thân tâm trí diệt nhập vào Niết-bàn, cho nên không có viên dụng sau khi chứng đạo. Tuy cũng có nhân trước khi chứng đạo, nhưng chẳng phải Viên nhân. Đây là chê trách các Tỳ-kheo chẳng biết chân Phật. Từ câu: “Này các Tỳ-kheo! Thế nào là trang nghiêm v.v…” trở xuống, là giải thích rộng chẳng thấy Chân Pháp. Chân pháp tức Diệu sắc chân thiện sinh ra diệu thiện, cam lộ tròn đầy, đầy đủ không thiếu, cũng gọi là đề hồ; tất cả các pháp đều ở trong đó; tất cả công đức của ba học ngang dọc, cao rộng đầy khắp trong đó, cũng giống như tường thành, hào rộng, tháp canh, đó gọi là chân Pháp. Các thầy quán “không” để dứt các hoặc, hoặc hết thì quán cũng mất, lấy thân trí làm Niết-bàn hữu dư; nếu vào vô dư tức trí chân thật dứt, đồng với hư không, mãi mãi vắng lặng, đó gọi là nghèo pháp lạc. Nhiếp luận gọi đó là người thấp kém, Pháp Hoa gọi đó là việc hèn kém, kinh này gọi là đá sỏi luống dối. Đó là chê trách chẳng được chân Pháp. Từ câu: “Tỳ-kheo các thầy v.v…” trở xuống là chê trách chẳng phải Tăng chân chánh; có hai: Đầu tiên là chê trách chung là dùng tâm kém cỏi, chẳng kính mến mà cầu pháp Đại thừa. Kế đó chỉ riêng y cứ theo công đức của nhân quả để chê trách. Vốn lấy công đức nhân quả gọi là Tăng. Nhân quả của các thầy chẳng phải chân Tăng thì tuy đắp ca-sa mà chưa phá bỏ năm trụ ác, chẳng làm cho ma trong và ngoài sợ hãi; tuy hành khất thực trải qua nhiều nơi, mà chẳng phải Khất só Ứng cúng; tuy cạo bỏ râu tóc nhưng chẳng phải Sát tặc, Bất sinh. Thế thì chẳng phải chân Tăng . Ở trên nêu chân Phật chân Pháp để bác bỏ ngụy Phật ngụy Pháp. Nay bác bỏ ngụy Tăng cũng chẳng ngoài tướng của chân tăng. Trước sau đắp đổi nhau hiển bày ý nghóa. Đó cũng là nêu chân chánh thì biết giả dối, ngay nơi giả dối tức biết chân chánh. Từ câu: “Tỳ-kheo các thầy! Nay ta chân thật v.v…” trở xuống là chỉ rõ chân Tam bảo. Y theo văn có hai: 1/ Nêu lên, tức là câu: “Nay ta chân thật”. Chân chánh đối đãi với giả dối khi xưa, sự thật đối đãi với hư vọng khi xưa. Tiếp đến là chánh thức chỉ bày. Nói Ngã (ta) là Phật bảo, đại chúng là Tăng bảo, pháp tánh Như Lai là Pháp bảo. Trong Pháp bảo lại có ba điểm: Như Lai là Bát-nhã; pháp tánh là Pháp thân, chẳng điên đảo là Giải thoát. Ba điểm này gọi là kho tàng chứa tất cả pháp. Phật và Tăng cũng giống như thế. Từ câu: “Vì thế các thầy v.v…” trở xuống là nói nên lìa nên được. Gồm có hai: Một là khuyên lìa bỏ luống dối; hai là khuyên tu chân thật. Phàm thể luống dối chính là do vô minh; vô minh chưa dứt chẳng thể tránh khỏi sự luống dối, cho nên khuyên lìa bỏ vô minh. Từ câu: “Này các Tỳ-kheo! Thí như v.v…” trở xuống là khuyên tu chân thật; gồm bốn ý: 1/ Dụ thuyết tạng bí mật; 2/ Pháp thuyết tạng bí mật; 3/ Giải thích tạng bí mật; 4/ Kết luận tạng bí mật; Dụ thuyết tạng bí mật: Phần dụ thuyết lại có ba: a) Dụ đại địa; b) Dụ cỏ thuốc ở các núi; Dụ vì chúng sinh thọ dụng. Nói mặt đất, mặt đất chẳng những có công năng chuyên chở tất cả; mà còn chẳng sinh mà sinh là sinh cây thuốc; cũng không sử dụng mà sử dụng, vì sự sử dụng của chúng sinh. Vậy cây thuốc được sinh chẳng lìa mặt đất năng sinh, tức được sinh là vì chúng sinh sử dụng. Chúng sinh tuy được lấy dùng, nhưng cũng chính do nghiệp của họ chiêu cảm nên mặt đất, phước đức chiêu cảm cây thuốc. Cả ba xoay vần nương nhau, chẳng thể xa lìa. Chủng loại chẳng phải một, một đầy đủ ba, có thể dụ cho Bí; ba tức là một, có thể dụ cho Mật; đầy đủ tất cả có thể dụ cho Tạng. Cho nên nêu việc này dụ cho tạng Bí mật. Pháp thuyết tạng bí mật: Pháp thân như mặt đất, mặt đất như Pháp thân, nên nói “Cũng như thế”. Nêu ba thứ Pháp thân hợp với ba nghóa của mặt đất. Ở đây nói “Sinh ra pháp vị cam lộ mầu nhiệm”, là nêu ba Bát-nhã hợp với ba nghóa của cây thuốc trên các núi. “Vì chúng sinh sử dụng” là nêu ba Giải thoát để hợp với ba nghóa của dụng. “Nay ta sẽ khiến cho các chúng sinh vào trong tạng bí mật”, tức là siêu hợp với dụng; “bốn bộ chúng nhập tạng Bí mật”, tức là siêu hợp cỏ thuốc. “Ta cũng vào trong đó” là siêu hợp với mặt đất. Nếu khổ bệnh đã hết thì công dụng của thuốc và mặt đất cũng dứt. An trụ nơi vắng lặng, chúng sinh được lợi ích, công đức Bát-nhã bặt thì dụng củư1pháp thân cũng dứt, đồng trở về Tạng Bí mật vắng lặng. “Tất cả chúng sinh”: Là chỉ cho người mới phát tâm sắp bước lên địa vị Sơ trụ; bốn chúng là hàng trung tâm ấy có bốn mươi giai vị; Phật là bậc Hậu tâm ấy đã qua giai vị Diệu giác. Đồng vào Tạng bí mật tức đồng thấy Phật tánh. Hỏi: Chúng sinh vào bí tạng có đồng với chư Phật hay không? Đáp: Có sáu vị phân biệt v.v… <卷>QUYỂN 6 <詞>PHẨM 3: AI THÁN (PHẦN CUỐI) Lại nữa, theo văn trên thì mặt đất dụ cho Phật bảo, cỏ thuốc trên núi cao dụ cho Pháp bảo, để chúng sinh sử dụng là dụ cho Tăng bảo. Kế là hợp văn. Nói: “Pháp ta cũng như thế” là Phật; “sinh ra cam lộ” là pháp; “vì chúng sinh” là Tăng. - Giải thích tạng bí mật: Từ câu: “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là giải thích khác, kế đó y văn giải thích. Các sư Địa luận cho rằng thức A-lại-da còn ở trong vọng hoặc gọi là tạng Bí mật. Các sư Thành Thật cho rằng quả Phật đương lai ở bên ngoài chúng sinh, tất cả chúng sinh đều được quả Phật; lý này thuộc về người, cũng là ở bên trong; tức thời chưa có thì cũng có ở bên ngoài, vì ở ngoài cho nên chẳng phải ở trong, vì ở trong nên chẳng phải ở ngoài, đó là tạng Bí mật. Về Niết-bàn bản hữu, luận rằng trong thân chúng sinh có Phật cũng chẳng phải thân mật có ở bên ngoài, chẳng phải trong thân, chẳng phải ngoài thân mà có, đều chẳng phải là mật; mà chúng sinh tức Phật mới gọi là Mật. Luận này phá hai thuyết ở trước. Như giáo xưa thuyết thì ấn tức là bí mật, ngăn che gọi nghóa là Tạng, vô thường ngăn che thường, hữu tướng ngăn che vô tướng, chẳng hiểu che lấp hiểu, khiến thường v.v… ẩn, danh là Bí mật tạng. Như người thân hình tàn phế, như ngoại đạo luận, v.v… các loại thí dụ mà văn sau sẽ giải thích rộng, đó là tạng Bí mật của giáo khi xưa. Nay kinh này khai mở, giống như mặt trăng vằng vặc trong sáng trên hư không, chẳng như giáo xưa. Nhưng vì chánh pháp mầu nhiệm chẳng thể nghó bàn, bặt danh lìa tướng, chúng sinh chẳng thể hiểu được, nên gọi là Bí mật. Pháp giới bao trùm, gom giữ tất cả pháp, chẳng thể sử dụng hết, nên gọi là Tạng. Văn sau ghi: “Chẳng dọc chẳng ngang, chẳng chung chẳng riêng là nghóa của Bí mật. Ba nghóa này đầy đủ không thiếu là nghóa của Tạng. Văn nghóa thật rõ ràng, đâu như các lời giải thích khác. Nên nói Niết-bàn để phá các Sư, nêu kinh Niết-bàn để phá giáo phương tiện; Gió lớn thổi cuốn mây mù, thì bầu trời lồng lộng trên cao. Nay giải thích Bí tạng. Văn có ba: 1) Dụ ba điểm; 2) Dụ ba mắt; 3) Hợp với ba đức. Ba văn này luận chung là từ sự nhập lý, ba điểm là Văn tự, đó là y cứ theo ngôn giáo. Ba mắt là thiên nhãn. Đây là y cứ theo hạnh tu; ba đức là thầy của Phật, tức y cứ theo lý. Lại ấn của Phật ấn chứng giáo hạnh. Hễ có ngôn thuyết tương ưng với đó thì gọi là giáo Bí mật, tu tập tương ưng với ấn Phật thì gọi là hạnh Bí mật, chứng đắc tương ưng thì gọi là lý Bí mật. Cho nên y cứ vào ba loại để giải thích Lý, Giáo, Hạnh. 1/ Dụ ba điểm: Trong ba điểm của chữ Y có nói: “Thế nào là chữ Y mới?” Ở Ấn- Độ có chia ra chữ Y mới và chữ Y cũ. Chữ Y cũ thì ngang dọc lìa nhau. Mượn đây để so sánh, trong đó ngang giống như bốn chấm Hỏa, dọc giống như chấm thủy, mỗi chấm không nối liền nhau. Chẳng phải ngang thì chẳng giống chấm hỏa, chẳng phải dọc thì chẳng giống chấm thủy, phải như tướng trạng của chữ Thổ chữ Thảo trở xuống rất nhỏ nhiệm. Ở nước này vạch nhỏ nối liền nhau, đó là tướng của chữ Y mới. Chữ Y cũ dụ cho ba đức của giáo xưa, Pháp thân vốn có, Bát-nhã tu thành, vào vô dư rồi mới là Giải thoát, không còn thân trí; như ba chấm thủy theo chiều dọc mà lìa nhau; nếu y cứ theo thân và trí để phân biệt thì được hữu dư Giải thoát; một thời được ba pháp; mỗi pháp khác nhau như các chấm hỏa nằm ngang, không quan hệ nhau. Còn chữ Y mới là dụ cho ba đức của giáo nay, Pháp thân tức là chiếu, cũng là tự tại, tên là một mà ba, ba mà thể không khác nhau; cho nên chẳng phải ngang, chẳng phải trước, chẳng phải sau, nên chẳng phải dọc. Một tức ba như điểm lớn, ba tức một như vạch nhỏ; ngay nơi ba là một; ngay nơi một là ba; chẳng thể dùng một, ba để nói năng; chẳng thể dùng ba, một để suy nghó, nên gọi là không thể nghó bàn, không thể nghó bàn là chẳng phải ba chẳng phải một, đó gọi là tạng bí mật, như chữ Y thế gian. Câu này là căn bản của kinh, vì hiển bày nghóa ấy, nên mở rộng sự hỏi đáp, lập thành hai mươi lăm phẩm, mênh mông vô tận. Nếu không đạt được ý này, thì mê lầm căn bản, lấy gì làm chỗ trở về. 2/ Y cứ theo ba mắt để giải thích. Ma-hê-thủ-la trụ trên đỉnh cõi Sắc, thống lãnh cõi Đại thiên. Một mặt có ba mắt, ba mắt trên một mặt, chẳng thể nói riêng là một là ba, ngang, dọc, chung, riêng; làm trang nghiêm dung mạo của Ma-hê, đứng đầu thế giới, chiếu suốt cả Tam thiên. Nếu chẳng ngang dọc thì thành tựu việc trang nghiêm, chủ thế giới, chiếu suốt Tam thiên. Ba đức cũng như thế, nếu là ngang dọc, chung riêng thì chẳng thành bí mật. Chẳng ngang chẳng dọc thì bí mật mới thành. 3/ Y cứ theo ba đức để giải thích Tạng bí mật: Quả địa có rất nhiều đức, nhưng chỉ nêu ba đức là vì nói lược gồm rộng; thân của Pháp thân chẳng phải sắc chẳng phải vô sắc. Vì chẳng phải sắc, nên chẳng thể thấy theo hình tướng; vì chẳng phải Vô sắc nên chẳng thể dùng tâm suy lường để biết. Dù chẳng phải sắc nhưng hiện sắc khắp mười phương, lớn nhỏ dung nhập, chẳng rộng chẳng hẹp. Vì chẳng phải không phải sắc, nên cũng có thể tìm cầu; làm phát khởi trí tuệ sâu rộng của chúng sinh. Nên biết: “Sắc của Như Lai vô tận”. Đó là đức Pháp thân. Bát-nhã chẳng phải sự hiểu biết, chẳng phải văn tự. Vì chẳng phải sự hiểu biết, nên chẳng thể suy nghó, phân biệt; vì chẳng phải văn tự, nên chẳng thể nói năng, viết chép. Lại cũng chẳng phải chẳng hiểu biết, chẳng phải chẳng có văn tự. Vì chẳng phải chẳng hiểu biết, nên chẳng đồng với nguội thân bặt trí; vì chẳng phải không có văn tự, nên chẳng đồng với nghiêng về không. Tuy chẳng hiểu biết, nhưng không đâu chẳng thiếu, ba đế cùng khắp là cảnh giới Phật, phàm thánh đều rõ ràng. Tuy chẳng phải văn tự mà đầy đủ Bán, Mãn, thấu suốt các văn tự thế gian, xuất thế gian, thượng thượng xuất thế gian, lưu trú khắp thế giới như sông dài biển rộng, không thể cùng tận. Kinh Tịnh Danh ghi: “Chỉ dùng một âm giảng nói pháp, chúng sinh tùy loại đều hiểu được, đều cho rằng Đức Thế Tôn dùng tiếng mình, đó là thần lực pháp Bất cộng”, tức là đức Bát-nhã. Giải thoát, tức chẳng động chẳng tịnh, chẳng buộc chẳng thoát. Vì chẳng buộc nên năm trụ chẳng trói được, vì chẳng thoát, nên mười trí chẳng thể làm rỗng không. Chẳng thoát mà thoát, hai bên chẳng thể gò bó; như thuyết trong một trăm câu Giải thoát. Chẳng buộc mà buộc, tức là bị những kẻ ngu si, tà chấp, Nhất-xiển-đề, ngoại đạo trói buộc. Nên hiện ra hạnh bệnh, hạnh trẻ thơ, trụ nơi Thủ-lăng-nghiêm, thị hiện thiện ác, tùy nơi chúng sinh được điều phục, dù có thô lậu nhưng cũng đều lập bày để độ thoát; như thầy thuốc trị bệnh, như hoa sen trong nước, không nhiễm đắm. Đó là đức Giải thoát. Thân nghiệp của Phật không thể nghó bàn tức Pháp thân, khẩu nghiệp của Phật không thể nghó bàn tức Bát-nhã, ý nghiệp của Phật không thể nghó bàn tức Giải thoát. Cho nên biết ba đức gồm thâu tất cả đức. Kinh Đại Phẩm nói sắc tịnh là Bát-nhã tịnh; thọ, tưởng, hành, thức tịnh là Bát-nhã tịnh. Kinh Pháp Hoa ghi là Như Lai trang nghiêm, lại nói là sáu căn thanh tịnh. Các kinh đều nói khác nhau, nhưng đều được ba đức gồm thâu, bao gồm chung, riêng, gom chung sự lý. Dùng sơ lược gồm thâu rộng nhiều, nhưng chẳng vượt ngoài ba đức. Nếu chỉ chấp nghiêng về ngang, dọc, chung, riêng, một khác thì đều chẳng phải tạng bí mật. Văn kinh ghi: “Pháp thân cũng chẳng phải, Bát-nhã cũng chẳng phải, Giải thoát cũng chẳng phải; chẳng dọc, chẳng ngang, chẳng chung, chẳng riêng, ba và một tức nhau, một trong vô lượng, vô lượng trong một, chẳng phải một chẳng phải vô lượng, đó gọi là tạng Bí mật. Kết luận tạng bí mật: Từ câu: “Nay ta an trụ v.v…” trở xuống là ý thứ tư, kết luận về tạng Bí mật. An trụ trong ba pháp tức là kết luận ba đức. Nhập Đại Niết-bàn là kết luận Tạng bí mật; như chữ Y thế gian là kết luận ba điểm. Văn lược qua không nói về ba mắt. Nhưng Phật thường an trụ trong ba pháp, mà nói rằng: “Nay ta v.v…” là thuận theo cơ duyên, cho nên nói: “Vì chúng sinh, nên gọi là nhập vào Niết-bàn”, tức là ý này. Từ câu: “Bấy giờ, các Tỳ-kheo v.v…” trở xuống là chương nói về nghi chấp. Văn có ba ý: 1/ Chấp; 2/ Thỉnh; 3/ Nghi. Trước Đức Phật đã bác bỏ và thâu đoạt, đoạt là chỗ chứng ngộ, chưa thể xả bỏ ngay, vì thế nên còn chấp. Phật nói chữ Y mới, vừa nghe chưa thể hiểu được, nếu muốn học thì phải thưa thỉnh; hai giáo xưa nay đều do Đức Phật nói vì sao một là giả dối một là chân thật, vì thế có nghi. Văn nói về chấp có hai: a) Các Tỳ-kheo buồn khổ; b) Chiùnh thức nói về điều chấp. Sau đây là văn thứ nhất. Nghe Đức Phật an trụ trong ba pháp gọi là nhập vào Niết-bàn, rõ biết nghóa an trụ không thể nghó bàn, mà sinh ra kiến giải bỏ đây trụ kia, cho nên buồn khổ. Kế đến, từ câu: “Thế Tôn! Ngài đã khéo nói về v.v…” trở xuống là điều chấp. Có người cho rằng thuật lại pháp đã nghe ở trên, nhưng ở trên chưa từng nói, chỉ là chấp giáo xưa. Văn chấp lại có hai: 1) Chấp; Khen ngợi. Trong phần thứ nhất lại có ba: Theo giáo chấp lý; Theo hạnh chấp lý; Chánh chấp lý. Nói “Hãy khéo nói” là vì chấp giáo xưa là hay đúng, cho nên nói là khéo; tức giáo ấy đúng, thật có thể giảng nói nghóa lý. Dụ như dấu chân voi, tức chấp hạnh xưa, là hạnh cao nhất trong đường hướng đến, cho nên lấy dấu chân lớn dễ trụ. Hạnh có trí và đoạn. Tưởng là môn đầu tiên của trí, cho nên gọi là đầu tiên của các môn. Từ câu: “Tinh tấn v.v…” trở xuống là chấp đoạn, dứt tư, nên biết cũng dứt tà kiến; vì thế nói sau mà chẳng nói trước. Nói: “Cho đến vô thường tưởng”, tức hoặc đã dứt thì trí cũng bặt. Từ câu: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu lìa vô thường v.v.…” trở xuống, là nói về chấp lý. Trong lý này chính là nói chẳng lìa chẳng phải chẳng lìa; nếu lìa vô thường thì lẽ ra chẳng nhập Niết-bàn, nếu chẳng lìa vô thường thì còn có các hoặc. Vì chẳng lìa chẳng phải chẳng lìa, nên có thể dứt các hoặc; thầm hợp với lý, hội ngộ với chân, há có hơn pháp này sao, mà bác bỏ cho là ngụy tạo? Có người giải thích lìa thì giáo xưa chẳng đúng, nếu chẳng lìa thì giáo xưa là đúng. Ý này xét theo văn thật khó lường được. Từ câu: “Bạch Đức Thế Tôn! Thí như v.v…” trở xuống là khen ngợi. Tự khen ngợi ba điều chấp ở trên. Mùa thu cày xới đúng pháp thì có hai điều lợi: 1/ Cỏ chẳng thể mọc; 2/ Đất màu mỡ, đây là khen ngợi giáo. Cỏ chết là khen ngợi đoạn; màu mỡ là khen ngợi hạnh; vô thường là khen ngợi lý. Văn nói về Thỉnh: Từ câu: “Bạch Đức Thế Tôn! Như vị Đế vương v.v…” trở xuống là thưa hỏi về giáo chữ Y mới được nghe ở trước. Vì ưa thích tu học, nếu Như Lai diệt độ thì sẽ thọ giáo với ai? Do đó mà thưa hỏi. Trong phần cơ thỉnh ở trên, phần nhiều lập dụ người thân, Đức Phật chê trách, chẳng cho là chân thật. Nay chẳng dám lập dụ người thân, chỉ lập dụ chủ và thầy, đó chính là chỉ dạy chung, ý nghóa rất rộng. Gồm có năm dụ: Đầu tiên là Dụ thỉnh chủ; bốn dụ sau là thưa hỏi thầy. Xem văn hợp dụ thì đó là thưa hỏi học tập chữ Y mới. Vì sao? Vì vị A-la-hán đã phá bốn trụ, nhưng vô tri vô minh chưa dứt; đã nêu hoặc riêng, biết là thưa thỉnh giáo chữ Y mới. Đầu tiên nói về ân xá, tức chung cho hàng Thanh văn chưa dứt hai hoặc thưa hỏi. Kế là dụ về Chú sư, cũng chỉ chung cho các Thanh văn chưa dứt vô minh thưa hỏi; dụ hương tượng là nói riêng về hàng Hữu học chưa dứt tư hoặc thưa hỏi; dụ bệnh sốt rét là nói riêng về hàng Vô học chưa dứt một bên thưa hỏi; dụ người say là nói chung tất cả phàm Thánh thưa hỏi. Hai dụ trước như văn đã ghi. Thứ ba là dụ hương tượng, trước là dụ, sau là hợp. Trong phần hợp có nói năm, mười, bảy phiền não. Ở đây giải thích có ba loại: Nói năm tức là năm cái, mười là mười truyền, bảy là bảy lậu. Các sư Sớ luận nói bốn độn sử ở cõi Dục là tham, sân, si, mạn, đều mê năm hạnh, năm hạnh là Kiến đế có bốn, Tư duy có một, năm hạnh trên mỗi hạnh lại có bốn, thành hai mươi hạnh; hai cõi trên mỗi cõi dứt một sân; thì năm hạnh của cõi dưới mỗi cõi lại còn ba, thành mười lăm, hai cõi thành ba mươi, cộng với cõi Dục có hai mươi thành năm mươi và bảy sử chung cho các tâm, tức bảy lậu là căn bản. Các sư luận Thành Thật cho rằng: Kiến đế có mười sử đều mê bốn Đế, thành bốn mươi, Tư duy có bốn sử mê bốn Đế thành mười sáu, hợp với Kiến đế là năm mươi sáu, cộng với vô minh thành năm mươi bảy. Hưng Hoàng cho rằng năm môn quán, mỗi môn có ba điên đảo, là tưởng, kiến và tâm, tổng cộng là mười lăm, nhân với ba cõi thành bốn mươi lăm; bốn đế mỗi đế có ba điên đảo, là mười hai điên đảo, cộng với bốn mươi lăm thành năm mươi bảy. Trong dụ người say thực hành ba nghiệp ác, bị quả báo là hợp với uống thuốc và mửa ra các hoặc, v.v… Văn nói về Nghi: Từ câu: “Bạch Đức Thế Tôn! Thí như cây chuối v.v…” trở xuống là Nghi giáo. Nếu giáo xưa chẳng đúng thì Phật chẳng nên nói; nếu giáo xưa là đúng thì chẳng nên phá bỏ. Nếu giáo nay là đúng thì sao chẳng nói sớm; giáo nay nếu chẳng đúng vì sao khen ngợi là thật; vì thế mà sinh nghi. Văn có ba: 1) Nói về vô ngã; 2) Dẫn chứng; 3) Nói về dụng. Nói cây chuối là y cứ theo hành ấm, nói nước cặn dơ là y cứ theo sắc ấm, hoa Thất diệp là y cứ theo ba ấm. Dẫn lời Phật nói: “Tất cả pháp không có ngã, ngã sở”. Từ câu: “Như dấu chân chim trong v.v…” trở xuống là nói về dụng vô ngã. Giáo xưa năng dứt Kiến, Tư hoặc. Sở dó nói vô ngã là vì giáo xưa của Phật nói về vô ngã, dùng ngã tu vô ngã. Nếu có ngã thì thật không có việc ấy. Vì sao nay nói có ngã, cho nên nêu vô ngã làm đầu mối nghi giáo. Từ câu: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen các Tỳ-kheo v.v…” trở xuống là phá chấp trừ nghi, văn có hai: 1/ Khen ngợi vô ngã; 2/ Phá chấp. Văn thứ nhất, trên có ba ý, vì sao chỉ khen Vô ngã? Vì Vô ngã là gốc của các nghi chấp v.v… Vì sao lại khen người hỏi? Vì đó là pháp giải đáp của thế gian như thế! Đầu tiên dùng Vô ngã phá tà, lại có thể sử dụng để sinh ra điều lành. Vả lại, muốn đoạt thì trước phải ban cho. Chấp đắm pháp thấp kém mà cảm được pháp cao siêu, đó là lý bốn Tất-đàn. Kế đến nói về phá, có ba ý: 1/ Phá lý nghiêng về một bên, văn sau ghi: “Ba pháp tu này không có thật nghóa”, tức là phá bỏ. Hai, là phá hạnh nghiêng về một bên, văn sau ghi: “Các hạnh tu tập đầu tiên, đều là điên đảo”. Ba là phá giáo nghiêng về một bên văn sau ghi: “Sữa được đoạn ở trước, lời này chẳng thật”. Ba ý này mỗi ý có hai là nêu chấp và đáp phá. Đầu tiên là phá lý nghiêng về một bên. Trước nêu lên, kế đó là đáp phá. Trước nêu ra, gồm có ba: 1/ Tiếp lời Phật khen ngợi mà nêu lời chấp; 2/ Lập dụ; 3/ Từ câu: “Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là kết luận. Say có hai lỗi là điên đảo mê loạn và trái với pháp lành. Kết luận khen ngợi, gồm có hai: 1/ Kết luận lỗi của say và chẳng tu. 2/ Khen ngợi không lời và tu điều lành. Kế đến là Phật phá, tức là dùng lời đáp để phá. Có hai ý: 1/ Phá ở ý không điên đảo là điên đảo, xoay người say trở về; 2/ Phá khéo tu thành chẳng khéo tu, xoay sự chẳng khéo tu trở về. Phá điên đảo, có bốn ý: 1/ Khuyên nghe nhắc lại; 2/ Nói về việc điên đảo của các Tỳ- kheo; 3/ Nêu việc không điên đảo; 4/ Kết luận sai lầm để trở về. Trong phần khuyên nghe nói nhắc lại là nêu lại sở chấp của các Tỳ-kheo; “chỉ biết văn tự, chẳng biết ý nghóa”, thì Văn là ngôn ngữ, nghóa là lý thú. Ngay nơi người say cũng nghe được lời nói, mà chẳng hiểu được ý nghóa lời nói; cũng nói được mà không có thật nghóa. Các thầy cũng giống như thế! Nghe nói kia trôi lăn hay chẳng trôi lăn, tự cho là khéo tu, thật ra chẳng phải khéo tu. Trong ý nói về điên đảo có nêu ra mặt trời, mặt trăng là để phá dụ điên đảo. Nói chúng sinh, có người cho rằng: “Mượn Tỳ-kheo để chỉ cho chúng sinh”, ở đây nói chẳng phải như thế, đã nói chuyển cái say trở về thì biết Tỳ-kheo là chúng sinh. Nói Ngã chấp vô ngã là phá điên đảo, cũng là phá chấp cho rằng vô thường, vô ngã là đúng. Các thầy cho rằng vô thường, vô ngã là đúng, đúng này chẳng phải thật, chẳng phải vô ngã mà gượng chấp là vô ngã. Như người say kia, vật không xoay chuyển mà nghó rằng có xoay chuyển. Từ câu: “Ngã tức là v.v…” trở xuống là nêu chẳng điên đảo, là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Điều các thầy cho là đúng thì chẳng đúng, tức bác bỏ điều đúng của họ. Phật nghóa là Giác, vì được tự tại nên gọi là Ngã; Thường là Pháp thân vì Pháp thân chẳng từ duyên sinh, cho nên nói Thường. Lạc tức Niết-bàn, vì Niết-bàn không có thọ, nên gọi là Đại Lạc. Tịnh tức là pháp, vì pháp vô nhiễm. Điều mà các thầy cho là sai thì nay là đúng. Các thầy chẳng biết nghóa này là do say. Từ câu: “Tỳ-kheo các thầy v.v…” trở xuống là chuyển cái say trở về v.v… Tỳ-kheo cho rằng thường là điên đảo, vô thường chẳng điên đảo, Phật lại nói vô thường là điên đảo, thường chẳng phải điên đảo. Như mặt trời, mặt trăng vốn chẳng xoay chuyển, người say thấy cứ xoay chuyển. Trời, Trăng đâu có say mà là lỗi của người say. Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, thật chẳng vô thường mà gượng chấp là vô thường, đó là lỗi của người điên đảo. Kế đến, từ câu: “Nếu các thầy nói v.v…” trở xuống, là phá cho rằng khéo tu, thật ra chẳng khéo tu. Có bốn ý: 1/ Nêu hai pháp tu; 2/ Gồm nói về tám điên đảo; 3/ Chuyển lỗi về các Tỳ-kheo; 4/ Chỉ nêu pháp tu cao quý. Đầu tiên là nói: “Nếu các thầy nói v.v…” là nêu pháp khéo tu của các Tỳ-kheo. Nói “không có thật nghóa” là bác bỏ khéo tu mà cho là chẳng khéo tu, như lời nói của người say không chân thật. Hai pháp đối đãi nhau, ý nghóa có rộng và lược, hoặc có mười môn, tám đảo, sáu hạnh khác nhau, nay chỉ lược đối với ba pháp mà thôi. Kế là, từ câu: “Khổ mà chấp là lạc v.v…” trở xuống là gồm nói tám điên đảo. Các thầy tu tám điên đảo như thế, vì sao tự cho là khéo tu, văn kinh ghi: “Người này chẳng biết thật tu các pháp.” Từ câu: “Các thầy đối với v.v…” trở xuống là gồm chuyển tám đảo trở về. Văn gồm chuyển tám đảo trở về các Tỳ-kheo. Văn có hai: 1/ Chuyển bốn điên đảo Thường, Lạc v.v… về các Tỳ-kheo; 2/ Chuyển bốn điên đảo Vô thường, Vô ngã v.v… về các Tỳ-kheo. Văn thứ nhất lại có hai ý: 1/ Chánh thức chuyển các điên đảo; 2/ Ba phen phân biệt. Thứ nhất, như Văn ghi. Kế là ba phen thế, xuất thế, đảo chẳng đảo, có chẳng có. Đầu tiên là nói về thế xuất thế. Phàm lý cùng tột thì như hư không, chẳng phải thế gian xuất thế gian. Người mê hoặc thành điên đảo gọi là thế gian; người ngộ được thì thành tựu các đức gọi là xuất thế gian. Vô minh che lấp các thầy nên chỉ là điên đảo mà chẳng phải đức. Như có người hỏi rằng: Nếu là điên đảo, vì sao gọi là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh? Kế là, từ câu: “Pháp thế gian v.v…” trở xuống là nói về có và không có. Cho nên đối với thế gian phân biệt chữ và nghóa. Nghóa thì như văn sau nói: “Chỉ có tên”, vì thế chẳng phải đức mà không có nghóa ấy. Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là nói có đảo và không có đảo. Cho nên chỉ có bốn điên đảo, ba điên đảo, để hiểu rõ thế gian không có nghóa. Xưa nói: “Ba điên đảo, thì tâm không có điên đảo mà thức tâm là điên đảo”. Lại nói, thức tâm không điên đảo, ba điên đảo là: tưởng đảo thuộc về tưởng, tâm đảo thuộc về thọ, kiến đảo thuộc về hành. Vả lại, có chung và có riêng. Ba điên đảo chung ở bốn tâm, nếu phân biệt thì thức tâm có tâm đảo, tưởng và thọ có tưởng đảo, hành tâm thì có kiến đảo. Vả lại, hễ có tâm duyên cảnh tức là tâm điên đảo chung, tưởng tượng tức là tưởng điên đảo chung, năng phân biệt là kiến đảo. Vả lại, sơ tâm khởi vọng chấp đắm tức là tâm điên đảo, tâm duyên thành tưởng là tưởng điên đảo; tưởng thành chấp chặt là Kiến điên đảo. Kiến điên đảo ở phàm phu; tâm điên đảo tưởng điên đảo thì thuộc về Hữu học, còn Vô học thì không có điên đảo. Nay cho rằng vì sao lại trả điên đảo về cho các Tỳ-kheo, vì các Tỳ-kheo này cho rằng vọng tâm thì diệt hết, tâm thật thì chẳng hết, mà thành ba điên đảo là tâm vô lậu, không tưởng và kiến chấp thiên lệch. Mỗi điên đảo gồm có bốn điên đảo, thành mười hai điên đảo, cho nên kết lỗi về các Tỳ-kheo. Hỏi: “Thế gian cũng có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, xuất thế gian cũng giống như thế” thì lẽ ra nên nói: “Thế gian có vô thường, vô ngã, thì xuất thế gian cũng giống như thế!” Đáp: Dụ vô thường, vô ngã của Nhị thừa tức là thế gian, vô thường vô ngã là phương tiện vô thượng của Phật, tức là xuất thế gian. Hỏi thì có danh mà không có nghóa, v.v… thế gian, xuất thế gian, điên đảo và đức, chẳng điên đảo và đức, tu cao quý và tu thấp kém, đều ứng hợp với bốn câu phân biệt. Lại thế gian chỉ là đảo, không có đức. Xuất thế gian chỉ là đức, không có đảo; ngay nơi đảo mà chẳng đảo là đức của thế gian điên đảo; khởi dụng phương tiện là đức xuất thế gian, lệ với tất cả các nghóa khác cũng đều như thế. Xưa nói rằng: Vô thường vô ngã là pháp tu thấp kém, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là pháp tu cao quý. Lại nói: Đơn tu tức là kém, song tu là hơn. Lại chẳng phải Thiên viên tu là hơn. Nay hỏi các pháp tu này phối hợp với căn cơ nào? Đơn thắng tu thuộc về người thứ lớp, song thắng tu thuộc về người Bất định; chẳng Thiên chẳng Viên tu thuộc về người đốn tu, v.v… Từ câu: “thế nào là nghóa, v.v…” trở xuống là chỉ nói về pháp tu cao quý, theo văn có hai: 1/ Đối với kém mà nói hơn; 2/ Khuyên tu pháp cao quý. Nếu nói chung về tu kém, thì có rất nhiều lỗi, nhưng chỉ phá những lỗi nặng nhất mà thôi. Sinh tử có trói buộc nên Vô ngã; Thanh văn có nơi hướng đến, nên vô thường; ngoại đạo dùng khổ dứt khổ, nên khổ; pháp hữu vi nhiễm ô nên bất tịnh v.v… Chỉ nêu hơn phá kém như kinh đã ghi. Nay nêu ý cho rằng: Văn đầu tiên nói: “Ngã tức Như Lai” là chỉ nêu Tam bảo mà gồm chung tất cả pháp. Nói: “Thường là Pháp thân” là nêu ba điểm để gồm thâu tất cả pháp; nói: “Lạc tức Niết-bàn” là nêu bốn đức gồm thâu tất cả pháp; nói: “Tịnh tức vô vi” là nêu pháp giới gồm thâu tất cả pháp. Nhưng các nghóa này chẳng dọc, chẳng ngang, chẳng một, chẳng khác, chẳng thể nghó bàn. Cho nên nói là “nghóa”, gọi là “cao quý”. Kế là, từ câu: “Nếu muốn v.v…” trở xuống, là khuyên tu, như văn kinh ghi. Kế la từ câu: “Bấy giờ, các Tỳ-kheo v.v…” trở xuống là phá hạnh nghiêng về một bên, cũng gọi là đáp lời thỉnh. Văn có hai: 1/ Nêu lời thỉnh; 2/ Đáp lời thỉnh. Đầu tiên lại có ba ý: 1/ Lãnh thọ ý chỉ khen ngợi Phật; 2/ Nhân khen ngợi mà thưa hỏi; 3/ Dùng thân mạng để yêu sách, kết thỉnh. Tất cả như văn kinh đã ghi. Từ câu: “Bấy giờ, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo v.v…” trở xuống là phần đáp lời hỏi. Văn có hai ý: 1/ Quở trách chẳng nên; 2/ Chánh thức đáp. Đầu tiên là quở trách, Như Lai diệt độ hay an trụ đều chẳng phải cảnh giới của các thầy. Các thầy đã chẳng phải là sự diệt để có thể an trụ của Như Lai thì làm sao có thể thuận diệt theo được? Kế là, phần chánh đáp, có hai: 1, Y cứ theo người mà đáp; 2, Y cứ theo pháp mà đáp. Lúc trước các thầy thỉnh trụ, chính là muốn học pháp, nay lưu lại người và pháp, đối với việc tu học đã đầy đủ rồi, lại cần gì phải thưa hỏi nữa. Đoạn thứ nhất lại có ba: 1/ Phó chúc cho người; 2/ Khen ngợi người đồng Như Lai; 3/ Giải thích khen ngợi. Ý thứ nhất và thứ hai như kinh đã ghi. Ýù trong phần giải thích là vua giao phó lại cho vị Đại thần. Tuần tức là đi. Đức Phật muốn cho truyền bá đến phương khác, nên giao phó lại cho ngài Ca-diếp. Từ câu: “Các thầy nên biết v.v…” trở xuống là y cứ vào pháp để đáp lời hỏi, có hai ý: 1/ Đáp lời hỏi; 2/ Phá hạnh nghiêng lệch. Trong ý thứ nhất lại có pháp, dụ và hợp. Trong dụ, từ câu: “Như mùa xuân v.v…” trở xuống là dụ cho hạnh nghiêng lệch. Xưa nói là Văn, Tư, Tu tuệ, xét văn thì chẳng hợp. Nay y cứ theo Hà Tây Đạo Lãng chia làm hai: 1/ Khởi hoặc mất lý; 2/ Tu học cầu lý. Một câu đầu là nói về khởi hoặc. “Mùa xuân”, thì muôn vật mới sinh trưởng dụ cho đầu tiên hoặc khởi. Vả lại nhân hoặc mà sinh hiểu, nên nói là mùa xuân. Hai câu kế: “Có những người v.v…” trở xuống là nói về nơi mất hạt châu. Xưa nói ao lớn là giáo vô thường, Đạo Lãng nói là biển sinh tử. Chữ Dục (tắm), có nơi viết là chiểu (cái ao) nhưng phần nhiều viết là Dục. Ba câu, từ: “Bơi thuyền dạo chơi, v.v…” trở xuống là nói về nhân duyên mất hạt châu. Xưa nói Văn tuệ kiến giải cạn hẹp nên gọi là dạo chơi. Hà Tây nói tâm sân hận ngã mạn dụ cho bơi thuyền, năm dục lạc như dạo chơi; mất châu báu lưu ly dụ cho mất Phật tánh. Xưa nói mất lý, hoặc mất kiến giải là “chìm sâu vào nước”. Đây chỉ là chìm mất chứ không phải mất hẳn. Xưa nói Viên lý ẩn nơi giáo Vô thường, nên nói là chìm sâu trong nước. Lại lý Phật tánh bị sân nhuế, ngã mạn, sinh tử nhận chìm, không thể hiển hiện được. Kế là từ câu: “Bấy giờ, các người v.v…” trở xuống tức là tu tập giải ngộ cầu được lý, có hai ý: 1/ Y cứ vào giải xưa mà thiên tu tức là ngụy tu; 2/ Nói y cứ giáo nay mà Viên tu tức tu tập thù thắng. Xưa nói: “tranh nhau nhặt lấy” là Thiên tu quán vô thường, khổ, mà tập học. Ngói đá tức làm thương tổn dụ cho khổ, cỏ cây giả dối dụ cho Vô ngã, cát đá dưới đáy ao phân tán dụ cho Vô thường; “mỗi người đều cho là đã được lý”. Từ câu: “Vui mừng đem lên v.v…” trở xuống là dụ cho Viên tu giáo hôm nay. Xưa cũng nói là ba tuệ, nay cho rằng ý chẳng phải như thế, còn gọi là giai đoạn cuối của Thiên tu, vì nói về lý chưa được cùng tận. Cho nên Văn ghi: “Biết chẳng phải thật”; xét qua có bốn ý: 1/ Biết giáo xưa chẳng chân; 2/ Do năng lực của Phật tánh, nên chúng sinh ngộ được; 3/ Nói về tin hiểu; 4/ Nói về tuệ kiến tức là được lý. Văn đầu tiên tức nói giáo nay đã khởi thì mới biết được giáo xưa chẳng chân. Hai nhà giải thích xưa cho rằng từ “vui mừng” là thuộc về câu trước, “nhặt đem lên” là thuộc về câu sau. Trang nghiêm cho rằng: Từ “Vui mừng nhặt lấy” là thuộc về câu trước; “đem lên” là câu sau, ở đây nói chỉ là một câu mà thôi. Kế là: “Bấy giờ, hạt châu quý v.v…” trở xuống là nói do năng lực Phật tánh mà rõ được chân tu. Đó là do nghe được giáo hôm nay nói về Phật tánh, nhờ vào năng lực Phật tánh khiến chúng sinh chứng ngộ. Nói “Còn ở trong nước”, tức là Phật tánh chẳng ở đâu xa, chỉ ở trong thân năm ấm sinh tử. “Nước lắng trong” là dụ cho việc nhờ vào năng lực Phật tánh mà chúng sinh ngộ. Từ câu: “Bấy giờ mọi người” v.v… trở xuống là nói về tin hiểu, dụ cho việc đã thấy biết mà chưa nắm bắt được. Nói “như mặt trăng” là dụ cho Viên lý Trung đạo, rốt ráo không thiếu sót. Từ câu: “Bấy giờ, v.v…” trở xuống là nói về Tuệ kiến. Nói “Bình thản” là dụ cho việc ở trong sinh tử như ở trong Niết-bàn. Kế là, từ câu: “Tỳ-kheo các thầy chẳng nên, v.v…” trở xuống là phần hợp dụ, lại có bốn ý: 1/ Hợp với Thiên tu; 2/ Hợp với Viên tu; 3/ Từ câu: “Nên biết v.v…” trở xuống là hợp với Thiên tu; 4/ Từ câu: “Muốn được hạt châu thật, v.v…” trở xuống là hợp lại với Viên tu. Đoạn kinh này là chỗ đáng để tâm, nên phải dẫn các lời giải thích xưa, xin người đọc chớ ngại dài dòng. Nay giải thích chương này: Các Tỳ-kheo tuy đã nghe nói giáo chữ Y mới, nhưng chưa dứt được chấp xưa, cho rằng Phật vô thường, vì vậy nên vẫn thỉnh trụ thế. Tuy tin pháp thường mà chưa tin Phật thường; miệng tuy xin nghe giáo mới mà tâm còn giữ giáo xưa. Nên Phật chê trách họ vẫn cứ chấp giáo xưa, nên ngài nói: “Các thầy chẳng nên nói như thế!” Đức Phật đáp lại lời cầu thỉnh giáo mới, cho nên nói: “Chánh pháp của ta, hôm nay phó chúc cho Ca-diếp.” Duyên trụ thế của Như Lai đã hết, cho nên diệt độ; căn cơ giáo hóa của Ca- diếp đã hưng khởi, nên được trao phó. Trong thì đồng với đức của Phật, ngoài thì nhận làm Đại thần, nắm giữ giáo chánh pháp; viết chữ Y mới tròn đầy, làm nơi nương tựa. Đáp lời cầu thỉnh, trong đó vì người học chữ Y mới, cho nên nói phó pháp cho Ca-diếp. Văn sau vì hàng chẳng học chữ Y mới, nên nói: Ca-diếp vô thường, chẳng thể kham nhận sự phó chúc, mỗi pháp đều nói theo nhân duyên. Dùng pháp trả lời sự thưa hỏi, có hai: 1/ Dùng pháp thuyết phá; 2/ Lập dụ thuyết phá. Pháp thuyết: Các thầy muốn học chữ Y mới phải bỏ mê sinh tín, nếu còn vọng chấp thì chẳng hiểu được chân pháp. Cho nên nói: “Vô thường tưởng và khổ tưởng mà các thầy tu tập trước kia, chẳng chân thật” Trong dụ thuyết, lại có hai dụ và hợp. Thứ nhất là nêu dụ, từ câu: “như vào mùa xuân, v.v…” trở xuống, tức là nêu dụ vì buông lung mà đánh mất vật báu. Kế là lập dụ cầu được và chẳng được, cũng gọi là dụ có phương tiện, dụ không có phương tiện. Mùa xuân là thời gian mà muôn vật đều đổi mới, ưa thích, dụ cho năm trần sáu dục là cảnh làm cho người đắm say. “Mọi người” là dụ chỉ chung cho những kẻ buông lung. “Xuống ao lớn tắm rửa”, ao lớn dụ cho sông sinh tử, tắm dụ cho sân nhuế, ngã mạn, yêu, ghét. Bơi thuyền dụ cho cỡi trên các nghiệp. Dạo chơi là dụ cho tham đắm quả đáng yêu. Đánh rơi hạt châu lưu ly là dụ cho không có giải ngộ, do đó mà buông lung; Tuệ giải bị che mờ, nên gọi là “đánh rơi mất”. Cho nên chương này phá hạnh mất làm chánh, chẳng phải nói trước có giải mà sau bị mất. Vì chấp đắm dục lạc mà che mờ tuệ giải nên nói là đánh mất; “chìm sâu đáy nước” là dụ cho bị sinh tử che lấp. Từ câu: “Bấy giờ, mọi người, v.v…” trở xuống là nói về dụ không có phương tiện thì cầu giải chẳng được. “Mọi người” là chỉ chung cho các chúng sinh mê lầm, lập riêng cho họ ba trụ. “Cùng nhau lặn xuống hồ”, là đồng tin giáo nghóa đầu tiên, giống như lặn xuống hồ; “Tìm hạt châu này”, là dụ cho việc lập ba pháp tu kém; “Tranh nhau nhặt ngói, đá” là dụ cho chứng ba pháp tu đó là chân thật. “Tự cho đã được” tức nói đã được diệt độ. “Vui mừng đem lên” là dụ cho ý khen ngợi dấu chân voi. Thứ nhất là khéo tu nội chấp Vô ngã. Bên trong vẫn còn chấp trước, nên nói là vui mừng, hướng về Phật khen ngợi nên nói là “đem lên”; cũng là dụ cho ý chấp chặt sinh nghi. Từ câu: “Mới biết chẳng thật” v.v… trở xuống là dụ cho nghóa có phương tiện cầu giải thì được. Dụ cho việc nghe giáo hôm nay phá lý hạnh của giáo xưa, chẳng phải thật, mới biết khổ, vô thường là giả dối đồng như đá gạch. Cho nên nói: “Mới biết chẳng chân thật”. Tất cả từ trên đến đây gồm sáu ý cùng giải thích văn “cầu được giải”. Phàm hạt châu quý, thì châu là vốn có, chẳng phải đến hôm nay mới có, nhưng chúng sinh tham đắm dục lạc, chìm sâu dưới đáy nước; vọng quán xét tìm cầu, rốt cuộc chẳng thể được, đó là lý tức châu báu; vì nghe giáo hôm nay, biết việc trước chẳng thật, biết chữ nghóa mới từ bộ kinh này, đó là danh tự tức châu báu. Nương vào giáo quán lý, lý là sở thuyên, nên nói còn ở dưới đáy nước. Năng thuyên như sở thuyên, sở thuyên như năng thuyên, nên nói là nhờ năng lực hạt châu nên nước lắng trong. Bấy giờ, mọi người mới thấy hạt châu báu, vẫn còn ở dưới đáy nước, giống như ngửa nhìn mặt trăng trên hư không là tương tự tức châu báu. Ngửa nhìn mặt trăng phảng phất như hạt châu là tự giải đã gần với chân, nên nói là thấy; thế thì vị tương tự đã nói: Hư không dụ cho tương tự thường, trăng tròn dụ cho Tương tự lạc, ánh sáng trăng dụ cho Tương tự tịnh, chẳng trên chẳng dưới, so sánh trên với dưới tự tại vô ngại là tương tự ngã v.v… Lúc ấy, có người trí là dụ cho phần chứng tức châu báu; dùng một đặt cho người; người đạt được môn, nên gọi là một người. Năng lực phương tiện dụ cho Viên tu trước chứng đạo. Bình thản, tức an ổn trong sinh tử, lập tuệ giải Niết-bàn, chánh quán nhiệm mầu, xét nét tường tận, chẳng mê mờ nước giáo, chẳng xao động sóng tâm, tương ưng với lý, là phần chứng châu báu. Đây là y cứ vào sáu vị để hiển bày nghóa người có phương tiện thắng tu, còn cầu được châu báu thì y cứ theo hạnh thì ý nghóa thuận tiện hơn. Từ câu: “Tỳ-kheo các thầy v.v…” trở xuống là sự hợp nhất của hai dụ được và mất, có hai ý gom vào hai phen hợp, phen thứ nhất hợp với được mất của ba tu, phen thứ hai hợp với được mất của bốn tu. Như ứng dụng ý này vào khắp các pháp, đều có hai pháp tu là hơn và kém. Cho nên văn kinh ghi: “Mọi nơi mọi lúc nên tu tập Ngã tướng, Thường, Lạc, Tịnh tưởng”. Đâu chỉ kinh này, đâu chỉ một cảnh, nơi nào cũng đều thành quán, hãy suy xét điều này. Từ câu: “Bấy giờ, các Tỳ-kheo v.v…” trở xuống là chương phá nghi về giáo. Văn có hai: 1/ Nêu lên; 2/ Phá. Đầu tiên là nêu đủ Giáo, Hạnh, Dụng và Lý khi xưa. “Như Phật nói khi xưa”, là Giáo; mà “tu học” là Hạnh; “xa lìa ngã mạn” là Dụng; “Nhập Niết-bàn” là Lý. Hạnh là Lý đã phá xong, lời nói đã thành, ý chính ở giáo, vậy giáo xưa là đúng thì nay chẳng nên bác bỏ, nếu giáo nay là đúng, vì sao chẳng nói sớm hơn? Kế là phá, có hai ý: 1/ Khen ngợi lời hỏi. Kế là lời đáp, có hai: 1/ Dụ; 2/ Hợp. Trong dụ có bốn: 1/ Dụ bệnh bốn điên đảo; 2/ Dụ cho thuốc ba tu; 3/ Dụ cho bệnh ba tu; 4/ Dụ cho thuốc bốn đức. Dụ thứ nhất lại có sáu ý: 1/ Một là nói về người bệnh, tức chỉ cho vua. Bên trong mê lầm thường tịnh, bên ngoài hiện oai của Ngã, tham dục dẫn đến chấp đắm lạc, đó gọi là bệnh. Hai là, dùng cái thấy điên đảo, tức là ngoại đạo. Ba, là tin nhận tà đảo. Ban bổng lộc nhiều thì tin tà thuật. Bốn là chỉ dùng toàn là thuốc sữa tức là thuốc tà đảo. Màu trắng là thường, vị ngọt là lạc, chất béo là ngã, nói thuốc là tịnh, đây là thuốc tà. bệnh. Năm, là câu “cũng lại chẳng biết”, dụ cho Tự kỷ là tà. Sáu là từ câu: “Vị vua này” v.v… trở xuống là nói về chẳng tự biết Vua chẳng phân biệt tức người bệnh chẳng biết, đây là bệnh điên đảo. Đã lược giải thích xong, sau đây lại y văn giải thích. Vua lấy thủ lãnh làm nghóa; người được giáo hóa cũng có đồ chúng, dụ như vua, vô minh dụ cho mê lầm, tham đắm dục lạc là ngu độn, có thế trí tức trí nhỏ hẹp, thầy thuốc dụ cho ngoại đạo, thật chẳng thể trị bệnh cho người, nhưng cũng muốn được chúng sinh mời thỉnh. Truyện Xuân Thu ghi: “Tâm chẳng thấy rõ được nghóa của đức thì gọi là ngoan, miệng chẳng nói lời trung tín là hiêu”. Ngoại đạo cũng giống như thế, bên trong không có chân giải, bên ngoài không có lời khéo léo. Bổng lộc tức là chúng sinh được giáo hóa cúng dường ngoại đạo. Nói “chỉ dùng thuốc sữa” ý nói là thuốc thì ít mà bệnh thì nhiều. “Chẳng biết thuốc và bệnh, lại chẳng biết nguồn gốc của bệnh phát khởi” tức là ba độc tám đảo của chúng sinh đều do chấp tướng, chấp tướng là do duyên vô minh, nhưng họ chẳng biết bệnh. Tuy biết thuốc sữa mà thật chẳng biết thuốc. Phật giả thuyết mà ta lại gượng chấp là tức là lìa, rồi nói là xanh, vàng, trắng, đen, v.v… Các bệnh gió, lạnh, nóng tức là dùng thuốc chẳng đúng bệnh. Gió dụ cho sân, lạnh dụ cho si, nóng dụ cho ái. Điều mà vị Vua này chẳng biết, chẳng những không biết thuốc mà còn chẳng biết bệnh. Từ câu: “lại có một thầy thuốc giỏi, v.v…” trở xuống là dụ cho thuốc ba tu. Có ba ý: 1/ Nói về thầy thuốc; 2/ Nhân duyên trị bệnh; 3/ Chính thức trị bệnh. Từ câu: “Thầy thuốc của, v.v…” trở xuống là nói về duyên trị bệnh, có hai: 1/ Nói về đồng; 2/ Nói về khác. Về đồng lại gồm có ba: 1/ Đồng sinh nghiệp; 2/ Đồng học nghiệp; 3/ Đồng duyên giáo hóa. Thứ nhất là đồng sinh nghiệp. Tức nói Như Lai gá sinh vào cung vua, cưới vợ sinh con, mà chúng sinh chẳng biết học hỏi, lại ngã mạn cống cao. Kế là, đồng học nghiệp. Cưỡi xe dê đến thầy học tập, thí võ ở vườn sau, cưỡi ngựa vượt thành, cởi bỏ mũ báu, đến A-la-la, sáu năm khổ hạnh, v.v… Bốn mươi tám năm: Kinh A hàm nói: “Theo ngoại đạo tu học, trước phải làm người hầu hạ bốn mươi tám năm, sau đó mới dạy phép tắc”. Pháp Sư Tăng Tông nói rằng: “Hễ Phật ra đời là năm mươi năm, từ Pháp Hoa đến Niết-bàn mới nói về nghóa bản địa lâu xa, ba thời giáo trước chỉ nói thân này thành Phật, không có thân bản địa nào khác. Nhưng vì kính thầy, cho nên tự nói suốt đời còn là đệ tử của ngoại đạo, nên nói bốn mươi tám năm; chỉ còn lại hai năm từ thời Pháp Hoa đến Niết-bàn, thì có thân bản địa riêng, nên chẳng phải đệ tử”. Cách giải thích này quá sai lầm. Khai Thiện nói: Bốn mươi năm tức bốn Thiền, tám năm tức tám Định. Kinh Niết-bàn bản sáu quyển nói bốn mươi tám năm. Trị Thành nói: Trong tám thiền mỗi thiền có sáu hạnh, tức xa lìa khổ, thô, chướng của cõi dưới mà duyên theo thắng, diệu, xuất của cõi trên, hợp thành bốn mươi tám. Theo Thiên Thai Chỉ Quán thì lấy bốn kiến làm gốc, mỗi kiến có ba giả, mỗi giả có bốn câu, tức mỗi kiến có mười hai câu, bốn kiến thành bốn mươi tám câu, tức bốn mươi tám năm dụ cho bốn mươi tám năm tà pháp. Thứ ba, “Cùng vào ra mắt Vua” là nói đồng một duyên giáo hóa. Nhưng ngoại đạo thật không có trí quán xét căn cơ, chỉ là tà giáo hóa, vì thế nêu lên trước mà nói là đồng. Kế là từ câu: “Bấy giờ thầy thuốc giỏi, v.v…” trở xuống là nói về khác nhau; có hai ý: 1/ Hơi khác; 2/ Hoàn toàn khác nhau. Đầu tiên Văn ghi: “Y phương”, nghóa là như Đề-vị nói năm giới, vì Văn Lân trao ba quy y, nói kỹ nghệ tức là thần thông, như trong Kinh Thụy Ứng nói. Trị quốc, chữa bệnh tức chỉ ba quy y, phá tà nhập chánh thí như trị quốc. Năm giới đối trị năm ác thí như trị bệnh. Vả lại, quy y và giới đều là pháp phá tà trị ác. “Bấy giờ, vua nghe xong” liền trở về chánh, “đuổi ra khỏi nước” tức bỏ tà theo đúng. Từ câu: “Bấy giờ thầy thuốc giỏi, v.v…” trở xuống là nói hoàn toàn khác nhau, có hai ý: 1/ Quán căn cơ hoàn toàn khác nhau; 2/ Lập giáo hoàn toàn khác nhau. Trong phần quán căn cơ thì có hỏi có đáp, nhưng thật ra chẳng hiển rõ sự đối đáp của hai người. Đầu tiên là xin một ước nguyện chỉ là quán căn cơ đầu tiên, kế đó Vua liền đáp, tức là căn duyên đã thầm hợp. Nói cánh tay phải và các phần của thân; tay phải vận động thuận tiện dụ cho vô thường, khổ của giáo xưa, còn các phần khác của thân dụ cho cơ và giáo sau đều là thuận theo, tức đã có ý nghóa của đại cơ. Lại giải thích tay phải dụ cho ngã kiến, các phần khác dụ cho các hoặc. Cách giải thích này chỉ đúng với giáo đầu tiên. Vị thầy thuốc giỏi nói rằng: Tôi chẳng dám mong cầu nhiều, là quán lại các căn cơ, nhưng chỉ cần một căn cơ của giáo lúc đầu. Nói làm thương tổn nhiều người, tức là từ ngã kiến sinh hoặc, có hại rất lớn. Nếu nghe chánh giáo mà còn chấp Ngã, thì sẽ dứt mất cội lành. Nói chết ngang trái là dùng để dứt trừ hoặc, đó gọi là qua đời, còn hoặc chướng ngại giải gọi là chết ngang trái. Từ câu: “Bấy giờ, vua đáp v.v…” trở xuống là nói chúng sinh được hóa độ, lại truyền nhau điều chưa được nghe, thì hàng căn cơ thượng, trung, hạ đều được ngộ. Từ câu: “Bấy giờ, vị thầy thuốc giỏi v.v…” trở xuống là chánh thức lập giáo. Ở đây nêu lên năm vị tức là năm quán môn, cay dụ cho bất tịnh, đắng dụ cho vô ngã; mặn dụ cho Vô thường, ngọt dụ cho không, lạt dụ cho khổ. Từ câu: “Sau đó không lâu v.v…” trở xuống là chính thức trị bệnh. Chúng sinh lại khởi bệnh vô thường; trước phá tà thường nên nói giáo nghóa vô thường, chúng sinh chẳng biết, lại khởi chấp nhất định tất cả đều vô thường, cho nên thành bệnh. Thí như có người si mê cho nai là ngựa, người hiểu biết nói rằng đó là nai chứ chẳng phải ngựa. Tuy biết nai chẳng phải ngựa mà lại chấp “không” là ngựa, nơi nào lại có “không” là ngựa? Cho nên không có ngựa là bệnh. Khởi điên đảo vô thường, lại có nhiều thứ: 1/ Cho quả Phật là vô thường, bệnh này dễ thấy; 2/ Cho sinh tử là vô thường, bệnh này khó thấy, vì sao? Vì sinh tử là Phật tánh chân thường, đã cho là vô thường há chẳng phải bệnh ư? Văn kinh ghi: “Vua lại bị bệnh” tức là chúng sinh bệnh. Văn có hai: 1/ Chánh thức khởi bệnh; 2/ Căn duyên hợp với Phật. Đầu tiên là như văn kinh ghi. “Liền bảo thầy thuốc này rằng, v.v…” trở xuống là căn duyên hợp với Phật, như sai người đến nói với thầy thuốc. Bản xưa ghi: “Nay ta bị bệnh nặng sắp chết”. Thứ tư, từ câu: “Thầy thuốc xem bệnh cho vua v.v…” trở xuống là nói về thuốc chân thường có bốn đức ngày nay. Văn có bốn: 1/ Giảng nói; 2/ Chúng sinh chẳng thọ nhận; 3/ Như Lai nói lại; 4/ Chúng sinh mới tin nhận. Văn thứ nhất lại có bốn ý: 1/ Chánh thức nói; 2/ Bỏ quyền; 3/ Bày thật; 4/ Thuốc bệnh trị lẫn nhau. Đầu tiên là Như Lai chánh thức nói về thường. Kế là, từ câu: “Trước kia tôi nói, v.v…” trở xuống là bỏ quyền. Bản xưa ghi: “Nói bỏ thuốc sữa là nói dối nghiêm trọng”, nay kinh này đã được hiệu đính thì chỉ nói: “Chẳng phải lời chân thật”, tức nói giáo xưa chỉ vì quyền nghi mà nói, chứ chẳng phải rốt ráo. Từ câu: “Nếu uống vào v.v…” trở xuống là hiển bày thật. Tức chỉ dạy giáo thường, lạc v.v… ngày nay. Từ câu: “Hôm nay vua bị nóng bức v.v…” trở xuống là nói thuốc bệnh trị nhau. Vô thường dụ như lửa, có thể đốt cháy thế gian, nên nói là nóng bức. Nay thuốc viên thường giống như sữa, trị được bệnh nóng. Từ câu: “Bây giờ, vua bảo thầy thuốc, v.v…” trở xuống là nói chúng sinh chẳng chịu nhận. Tức các Tỳ-kheo nghi chấp ở trước chẳng chịu tin nhận lời nói thường trụ. Văn có bốn là hai ý kinh sợ và hai ý chê trách, tức châm biếm Như Lai khen ngợi ngoại đạo. Từ câu: “Trước kia thầy nói v.v…” trở xuống là nêu hai ý chê trách. “Trước thầy nói là độc vì sao nay lại bảo dùng?” Tức là dùng giáo xưa để chê giáo nay; nay đã bảo dùng sao trước kia lại nói là độc? Tức là dùng giáo này để chê giáo xưa. Xoay vần hai lời này thì thành hai ý chê trách. Nói: “Muốn lừa dối ta ư?” Là hoàn thành ý trên. Thứ tư, là từ câu: “Như lời thầy nói v.v…” trở xuống là khen ngợi ngoại đạo, như trong văn. Thứ ba, từ câu: “Bây giờ vị thầy thuốc giỏi v.v…” trở xuống là Như Lai nói lại. Tức phá chấp giải nghi. Văn có bốn ý: 1/ Ngăn chặn lời nói của Vua; 2/ Chánh thức giải nghi; 3/ Hỏi lại; 4/ Đáp. Đây là văn thứ nhất, tức ngăn chặn lời nói của vua. Từ câu: “Như sâu ăn lá cây, v.v…” trở xuống là chánh thức giải thích, có hai ý là dụ và hợp. Trong đó, Thể chung là dụ, nay lại vì dụ lập để nói về Ngã mà ngoại đạo gượng chấp, tình cờ đồng với ngã của ta ở đây, nhưng chẳng thể hiểu nghóa, như sâu ăn lá cây. Kế là từ câu: Đại vương nên biết v.v…” trở xuống, là hợp dụ, như văn kinh. Từ câu: “Bấy giờ vua hỏi, v.v…” trở xuống là hỏi lại. Từ câu: “Thầy thuốc đáp, v.v…” trở xuống là trả lời. Văn có hai: 1/ Nêu lên hai môn; 2/ Giải thích hai môn. Nêu hai chương môn. Một, là môn thuốc độc tà thường; hai là môn cam lộ chân thường. Kế là, từ câu: “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích hai môn, có hai: 1/ Giải thích rộng về cam lộ; 2/ Lược giải thích thuốc độc. Sở dó như thế là vì đã giải thích rộng về cam lộ, thì trái lại với cam lộ là thuốc độc, đâu cần nói nhiều. Giải thích cam lộ có ba ý là nêu lên, giải thích và kết luận. Đầu tiên là nêu lên, rất dễ hiểu. Xưa giải thích bảy việc: Việc thứ nhất. Vốn nói sữa mà lại nói là bò, vì muốn nói sữa từ bò sinh ra, dụ cho giáo do Đức Phật nói. Ở đây nói bò tức là bò nghé, bấy giờ chẳng cho ăn bã rượu v.v… Về sau trở thành bò lớn, thì cho sữa rất tốt, dụ cho lúc còn làm Bồ-tát chẳng khởi đoạn thường, quả thường chứng được. Các Pháp sư nói bã rượu khiến người mê say, dụ cho ái của năm dục; cỏ trơn, trơn là sắc bén dụ cho lợi sử; trấu cám thì thô nhám dụ cho độn sử. Hưng Hoàng nói rượu là vị chân thật, dụ cho gượng nói cầu chân, thì không được vị chân thật. Lại nói rượu trong nổi bên trên, cặn bã lắng phía dưới, dụ cho đoạn thường, cao thấp. Cỏ trơn láng dụ cho dục tham, trấu cám dụ cho sân nhuế. Từ câu: “Bò nghé điều phục, v.v…” trở xuống là việc thứ hai, nói về có quyến thuộc tốt. Nơi chăn thả là việc thứ ba, là nói về cảnh giới hình thành chẳng cao chẳng thấp. Hoặc giải thích tâm ngã mạn là cao, tâm ái là thấp; hoặc cho rằng Nhị thừa là cao, phàm phu dụ cho thấp. Uống nước trong sạch, v.v… trở xuống là việc thứ tư, nói chỉ có nước trong sạch Bát-nhã. Không đùa giỡn chạy nhảy, không chung bầy với bò đực, là việc thứ năm, ngoài dụ bò đực là loài bò không thể cho sữa, trong hợp với tri thức xấu ác là người đoạn thường, không thể nào lãnh thọ được giáo pháp Trung đạo viên thường, đó là loại bò đực. Ăn uống điều hòa là việc thứ sáu, xưa nói nước thiền định dụ cho uống, tư lương trí tuệ dụ như ăn, tức là nói định tuệ đều thích hợp. Lại nói dùng tuệ phương tiện tự nuôi lớn, chẳng để mất, nên nói là điều hòa. Đi đứng đúng pháp đúng nơi, là việc thứ bảy. Xưa nói tinh tấn siêng năng là đi, lấy bỏ thích hợp gọi là đứng. Lại nói thường trụ trong Trung đạo bình chánh, nên nói đi đứng đúng pháp. Kế là từ câu: “Trừ loài sữa này, v.v…” trở xuống là giải thích môn thuốc độc. Nay cho rằng nghóa trên chẳng đúng, vì sao? Vì đã nêu cam lộ phá sữa độc, thì lẽ ra phải nói nghóa Thường phá Vô thường, đâu cần dùng hai sử lợi và độn để giải thích? Lại dùng cỏ trơn, trấu cám để khoe mình mà chê người; lại cao nguyên và vùng thấp đâu khác gì Thanh văn dứt hoặc kiến tư, đâu khác gì với Vô ngã và Ngã sở của Nhị thừa? Đều là vô thường, như thế làm sao phá bệnh. Nay chẳng dùng nghóa ấy mà giải thích bảy việc như sau: Bò dụ cho Giáo chủ là dụ cho Pháp thân, thường thân, thân Lô- xá-na tôn-đặc, khác với thân vô thường một trượng sáu. Sữa dụ cho giáo thường, sữa này cũng gọi là Đề hồ. Văn sau nói: “Bò này ăn cỏ nhẫn nhục, cho ra đề hồ, tức là nghóa này. Bã rượu, rượu trong dụ cho định vô vi, cặn dụ cho định hữu vi. Phật chẳng đắm nhiễm Tam-muội của chân đế như chẳng uống rượu trong, chẳng chấp trước Tam-muội tục đế nên nói chẳng ăn bã rượu. Cỏ trơn trấu cám, trí Nê-hoàn dễ được như cỏ trơn, trí phân biệt khó sinh như trấu nhám. Trí Phật chẳng phải Nhất thiết trí, chẳng phải Đạo chủng trí. Bò nghé điều phục thì được lý Trung đạo, nhu hòa, thuần thiện. Chẳng ở cao nguyên, chẳng ở nơi thấp, tức chẳng chứng Niết-bàn, chẳng sống trong sinh tử. Uống nước trong sạch thì chẳng phải bùn lầy năm dục, chẳng phải cặn đục vô minh, xa lìa hai bên này tức là nước trong sạch Phật tánh; chẳng theo không chân; chẳng đến tục giả. Chẳng cùng bầy với bò đực, bò đực chẳng cho sữa, dụ cho không có từ bi để nói Phật có từ bi bất cộng. Ăn uống điều hòa, vào không thì đói, ra giả thì no, Trung đạo thì chẳng vào, tức chẳng đói chẳng no. Đi đứng đúng phép, đúng nơi, tức trụ trong tạng bí mật là đứng đúng nơi, hai chim cùng bay là đi đúng phép. Giải thích như thế là phù hợp với kinh, với nghóa. Thường phá vô thường, văn lý đều hợp, đâu thể đồng với cách giải thích khác? Từ câu: “Bấy giờ Đại vương v.v…” trở xuống là nói chúng sinh được giáo hóa, có bốn ý: 1/ Thọ nhận giáo hóa là truyền bá; 2/ Những người khác chẳng tin nhận; 3/ Nói lại; 4/ Mới tin nhận. Văn kinh, đầu tiên là nói tự mình tin nhận, sau là truyền cho mọi người, tức là người thượng căn đã được tuệ giải thì truyền trao hóa độ hàng trung căn hạ căn, khiến cho đều được ngộ. Kế là, từ câu: “Người trong nước nghe, v.v…” trở xuống là nói hàng trung hạ chẳng tin nhận. Từ câu: “Vua nói, v.v…” trở xuống là một lần nữa truyền trao hóa độ. Từ câu: “Bấy giờ vua, v.v…” trở xuống là nói hàng thượng, trung, hạ căn đồng thời lãnh ngộ. Kế là từ câu: “Tỳ-kheo các thầy v.v…” trở xuống là hợp dụ hai thuốc hai bệnh vốn có nói ở trên. Trong phần hợp thuyết này chỉ hợp với hai thứ thuốc, chẳng hợp hai thứ bệnh. Vì sao? Vì vốn nghi kinh giáo có thuyết và không thuyết. Tức nếu giáo xưa chẳng đúng thì chẳng cần nói; nếu giáo nay đúng thì sao chẳng nói sớm hơn? Nay dùng ý này để dứt nghi. Vì tà thường nên chẳng được nói sớm, nay dùng Thường phá bệnh tà thường, cho nên chỉ được nói xưa không vô thường nay hợp thẳng, khiến hiểu được giáo môn, cho nên chẳng nói bệnh. Văn Kinh, đầu tiên là hợp với thuốc vô thường, sau là hợp với thuốc chân thường. Trong ví dụ trên, trước nói về đầu tiên thì đồng, sau nói về cuối cùng khác nhau. Nay cũng hợp đầy đủ hai ý, cho nên trước hợp với đồng. Ở đây nói Như Lai là Đại y vương, là hợp với thầy thuốc giỏi ở trước, hiểu rõ tám thuật. Xuất hiện ở thế gian là hợp với từ phương xa mà đến. Kế là, từ câu: “Hàng phục tất cả, v.v…” trở xuống là hợp với sự khác nhau. Đầu tiên là hợp với dần dần khác nhau, tức là hợp với các lời: “Cùng vào ra mắt vua, nói các phương thuốc, các nghề nghiệp trị nước, chữa bệnh v.v…” ở đoạn trên. Kế là, từ câu: “Muốn hàng phục ngoại đạo” v.v… trở xuống là hợp với đốn khác nhau, tức là ý của giáo này. Vô ngã, vô thường hợp với các vị thuốc cay, đắng, mặn, ngọt, lạt hòa hợp với nhau. Kế là, từ câu: “Các Tỳ-kheo nên biết, v.v…” trở xuống là hợp với ý của giáo này, tức kết luận lỗi của ngoại đạo nêu ở trước. Kết luận giáo nay là đúng. Vì điều phục chúng sinh, vì đúng thời cho nên phải nói Vô ngã. Một câu “Vô ngã như thế”, gồm có hai cách giải thích: 1/ Lời này thuộc về ý sau; 2/ Lời này còn thuộc về ý trước, vì là giáo chân thường nên hợp với giáo sau. Văn có ba: Một là, chánh thuyết. Hai là, phân biệt lỗi của ngoại đạo. Ba là, nói sự chân thật của Như Lai.  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 7 PHẨM TRƯỜNG THỌ (PHẦN ĐẦU) Ba phẩm trên do ngài Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán đặt tên, phẩm này giữ lại tên của bản cũ; chỉ đổi chữ Mạng thành chữ Trường, chuyển chữ Thọ ra phía sau. Từ ngữ của Thiên Trúc thì trái ngược, nhưng chẳng chuyển được. Người dịch có thay đổi chút ít mà ý chẳng khác. E rằng đây là y cứ theo câu: “Như Lai tức là trường thọ”, hoặc y cứ theo kệ tụng: “Vì sao được trường thọ (sống lâu) ?” Trường tức là thường, vì sao chẳng dùng thường làm tên? Chính là muốn nói từ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh mà được Trường thọ. Từ sở đắc mà đặt tên. Nay giải thích Trường thọ có bốn ý: Đồng chư Phật: Tất cả pháp thân, trí tuệ, thọ mạng đều đồng với chư Phật, nên gọi là Trường thọ. Vì chúng sinh thích trường ghét đoản, mà dẫn lập gốc lành. Phá bỏ cách tu thiên chấp vô thường hạn hẹp, chỉ bày Thường của pháp tu viên mãn tối thắng. Trường đoản (dài ngắn) hình thành nhau, là pháp môn đối trị; ở đây hợp với trường của chẳng phải trường đoản, cho nên nói là Trường thọ. Đây là phần tùy chúng Bồ-tát thưa hỏi là phần Niết-bàn bố thí ở đoạn thứ ba. Trong phần hỏi đáp của mười bốn phẩm, thì ý nghóa Trường thọ đứng đầu. Từ phẩm này trở đi, các phẩm khác đều tùy nghóa mà lập các tên gọi khác. Văn có hai là: Khuyên hỏi và chánh thức hỏi. Đầu tiên khuyên các Tỳ-kheo, kế là khuyên đại chúng. Khuyên các Tỳ-kheo có ba ý; vì phép tắc đều nói ba lần, để nói lên ý Phật tha thiết; cho nên đầu tiên khuyên dứt nghi, kế đó khuyên thọ ký, sau là khuyên lợi ích chúng sinh. Ở trên điều nghi đã dứt, nên lần đầu tiên khuyên thì im lặng; chẳng nhận sự phó chúc, kế là khuyên người lại từ chối; đã không có năng lực giáo hóa nên sau cùng khuyên thì chuyển đổi. Vì sao chỉ khuyên hỏi về giới luật? Hà Tây cho rằng Phật pháp có hai là Kinh và Luật, trên đã hỏi về Kinh rồi, thì nay khuyên hỏi về Luật. Nghóa này chẳng đúng vì kinh thì sâu xa, Luật thì cạn mỏng, đã có thể hỏi kinh, há chẳng hỏi Luật mà phải đợi khuyên bảo? Các sư Trung Quán nói rằng Luật là gốc của Thanh văn; là tông của kinh này, như chẳng sát sinh là nhân để được quả sống lâu vì thế chỉ khuyên hỏi về Luật. Nghóa này cũng chẳng đúng. Nay xét theo Kinh nói: “Đối với các giới luật”, cho nên luật nghi, định, đạo đều gọi là giới. Các lời nói chẳng phải một, đâu chỉ đề cập đến luật nghi? Vả lại, nếu theo văn sau mà nghiệm văn trước thì biết chẳng những khuyên hỏi về luật. Vì không là tuệ, tịch là định. Nên biết Thế Tôn khuyên các Tỳ-kheo hỏi về giới, định, tuệ. Có người giải thích theo hai Đế, cũng chẳng đúng, vì văn hai Đế quá ẩn, văn ba Đế thì rõ ràng. Vì sao? Vì giới định tuệ là thềm thang để vào chân, tức khuyên hỏi về Chân; nói bản tánh vắng lặng tức khuyên hỏi về Trung; Thông đạt rõ ràng tức chiếu cả hai đế, là khuyên hỏi về Tục. Lại văn kinh ghi: “Chớ nên cho Như Lai chỉ tu vắng lặng”, tức là nói Như Lai chẳng những tu chân tục, là khuyên hỏi về đệ nhất nghóa đế chẳng chân chẳng tục. Tiếp là khuyên lại lần nữa, gồm có khuyên và từ chối. Đến đây khuyên hỏi về giới luật, chỉ lược bảo, còn nói đủ thì như văn trên; lại theo ý văn dưới thì Đức Phật muốn phó chúc, cho nên lấy giới luật làm đầu mối khuyên bảo. Kế là từ chối, đối với giới luật đã không thể hỏi, tức là từ chối chẳng kham nhận. Văn có pháp, dụ và hợp. Pháp thuyết lại có ba: 1/ Chánh thức từ chối; 2/ Giải thích; 3/ Kết luận. Từ chối, vì không có trí tuệ mà từ chối, chẳng thể hỏi han đối với ba hiệu, như Văn đã ghi. Kế là giải thích sự từ chối, giải thích ba hiệu đều chẳng thể nghó bàn. Cảnh giới Như Lai là pháp sâu xa, đồng chư Phật nên có hiệu là Như Lai. Nói: “Chúng con chẳng thể hỏi” là từ chối bản tánh vắng lặng nói trên. Nói: “Tất cả thiền định chẳng thể nghó bàn” tức đạt đến cùng tận rốt ráo sâu xa mầu nhiệm; có thể làm ruộng phước cho tất cả nên gọi là Ứng cúng. “Con chẳng thể hỏi” là từ chối sự thông đạt rõ ràng nói trên; giảng nói giáo hóa chẳng thể nghó bàn”, tức đạt đến cùng tận bờ mé ngôn thuyết, dẫn dắt chúng sinh thế nào là đạo thế nào là phi đạo, nên gọi là Chánh Biến Tri. “Chúng con chẳng thể hỏi”, tức từ chối lời nói về giới luật ở trên. Vả lại, giải thích từ chối chẳng thể hỏi về chân; nói “giảng nói giáo hóa”, tức chẳng thể hỏi về tục. Tiếp đến là kết luận. Nói “không trí tuệ”, tức không có ba trí. Kế là nói về dụ, có bốn: 1/ Thanh văn chẳng kham nhận sự gửi gắm; 2/ Như Lai chẳng nên gửi gắm; 3/ Thanh văn gượng thọ nhận sự gửi gắm; 4/ Như Lai mất vật đã gửi gắm. Nói về chẳng kham nhận. Nói người già tức là nói số năm quả báo ở cõi Diêm-phù-đề sắp hết, dụ cho Thanh văn. Mười hai duyên quán, mỗi chi của mười hai chi từ quá khứ đến hiện tại, nên nói một trăm hai mươi. Quá khứ hiện tại đã diệt nên già chết diệt, vô minh diệt cho đến già chết diệt, sắp vào Niết- bàn. Thân thể gầy ốm, bệnh hoạn kéo dài, chánh sử tuy diệt hết mà tập khí vẫn còn. Hơn nữa Vô minh biệt hoặc chưa bị xâm tổn mảy may, nên nói là bệnh hoạn kéo dài. Nói “nằm mãi trên giường” tức chìm không trệ lặng, mất cả thần thông du hý. Nói “chẳng thể đi đứng”, trong đó “chẳng thể vào Hữu” tức là nói “chẳng thể đứng dậy”; chẳng thể nào nối tiếp giòng giống Tam bảo là nói “chẳng thể đi”. “Khí lực suy yếu” là nói không có mệnh, thường trụ như không có khí, không có mười lực mạnh mẽ, như không có lực; thiếu chân thật, cho nên nói suy, chẳng phải thắng tu nên nói là yếu. Mạng sống chẳng còn bao lâu dụ cho sắp vào cảnh thân diệt trí đoạn. Kế là, từ câu: “Có một nhà giàu có v.v…” trở xuống là dụ cho việc Như Lai chẳng nên phó chúc (gửi gắm). Trí và đoạn đã viên mãn nên nói là giàu có. “Vì duyên sự muốn đi” việc giáo hóa cần cầu nên nói là duyên sự; từ Như mà ứng nên nói là muốn đi. Trăm cân vàng tức trăm câu Giải thoát, Hán thư nói một muôn là một cân vàng, đã có một trăm cân vàng tức có một trăm muôn. Một câu Giải thoát đã có một muôn Giải thoát làm quyến thuộc, một trăm câu Giải thoát thì có một trăm muôn Giải thoát làm quyến thuộc. Nói “Hoặc trải qua mười năm, hai mươi năm” có ba cách giải thích: 1/ Nói là mười kiếp, hai mươi kiếp; 2/ Trong cõi người có mười, cõi trời có hai mươi; 3/ Chánh pháp là mười, tượng pháp là hai mươi. Nghóa này chẳng đúng, vì nếu như thế, đến mai sau trở về thì thế nào? Nay nói hoặc chung là mười, hoặc riêng là hai mươi, tùy duyên dứt trừ hoặc chung, hoặc riêng cho chúng sinh, gọi là giao phó việc nhà. Nhận sự gửi gắm, tức là dứt các hoặc chung riêng, cảm tạ trở về. Nói “Khi trở về thì trao lại cho ta” xưa có hai cách giải thích: Một là Chỉ cho Đức Thích-ca ứng hóa ở các cõi khác đã hết, mà cảm đến cõi này đã phát khởi; mai sau trở về còn thấy được pháp báu của ta khi xưa. Hai, là Ngài Di-lặc hạ sinh còn thấy được Pháp báu của Đức Thích-ca. Vì pháp thân chẳng khác nên nói: “Trao lại cho ta”. Nay giải thích rằng hoặc chung riêng đã dứt hết tức là nói: “Khi trở về thì trao lại cho ta”, nghóa này tạm đúng. Từ câu: “Người già bệnh, v.v…” là nói hàng Thanh văn dối thọ nhận. Nói “không có người thừa kế”, xưa có hai cách giải thích: 1/ Tức không có con trai tâm lành và con gái tâm từ bi; 2/ Không có quyến thuộc để thọ nhận sự giáo hóa nối nhau đến mai sau. Nay giải thích đó là không có tín tâm thường trụ. Bệnh nặng rồi chết dụ cho thân diệt trí dứt. Tư, “người tài chủ này trở về, v.v…” là nói Như Lai đã bị mất vật gửi gắm, tức pháp báu đã mất. Nói người ngu si, có hai cách giải thích: 1/ Nói người được gửi là ngu si, vì chẳng biết định liệu sức mình, vọng nhận vật của người gửi; 2/ Nói người gửi là người ngu si. Theo lời này, ví như gửi cho Thanh văn thì đó là người si, nếu chẳng gửi thì đó chẳng phải là người ngu si. Kế đến, từ câu: “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là hợp dụ, nhưng chỉ hợp với vọng nhận làm mất, chứ không hợp với hai ý trước. Hợp với hai ý sau, đầu tiên là hợp với ý thứ ba. Kế đến, từ câu: “Hôm nay con v.v…” trở xuống là hợp với ý thứ tư. Từ câu: “Đức Phật bảo v.v…” trở xuống là phần thứ ba, khuyên lợi ích chúng sinh; gồm có ba: 1/ Khuyên; 2/ Suy ra công đức; 3/ Khen ngợi. Thứ nhất là như văn ghi. Thứ hai là phần suy ra công đức. Có hai ý: 1/ Dụ; 2/ Hợp. Dụ lại có bốn: 1/ Dụ khen ngợi Bồ-tát. Hai mươi lăm là dụ cho hai mươi lăm Tam-muội; mạnh khỏe, xinh đẹp là dụ cho các Tam-muội đứng đầu; có nhiều tài bảo tức là nói tất cả Tam-muội đều nhập vào đó; nói cha mẹ trong đó có ba Đế tức nhất Đế là mẹ, nhất Đế tức ba Đế là cha; pháp hỷ là vợ, tâm lành là con, đạo phẩm là quyến thuộc, tôn thân là chư Phật mười phương. 2/ Từ câu: “Bấy giờ, có người v.v…” trở xuống là dụ cho việc đáng phó chúc, giống như giải thích ở trên. 3/ Từ câu: “Người trai tráng v.v…” trở xuống là dụ cho việc nhận lời gửi gắm. 4/ Từ câu: “Người này bị bệnh v.v…” trở xuống là dụ cho chẳng mất chánh pháp. Thứ ba từ câu: “Thế Tôn, v.v…” trở xuống là hợp với dụ chẳng nên phó chúc. Kế là hợp với ý nên gửi. Từ câu: “Bấy giờ, Đức Phật khen, v.v…” trở xuống là lời khen ngợi. Tâm vô lậu, tâm A-la-hán tức là quên lời mà suy ra công đức. Hai là duyên tức Thanh văn chẳng có khả năng, Bồ-tát có khả năng; hoặc khéo có khả năng hỏi đáp; hoặc pháp bảo trụ lâu dài, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, đều xuất phát từ văn trên. Từ câu: “Lúc bấy giờ, Đức Phật v.v…” trở xuống là phần thứ hai khuyên chung đại chúng nên thưa hỏi. Đức Phật đã có tâm bình đẳng rộng khắp, nếu được người hỏi thì có lợi ích rộng khắp. Vả lại, đối với khuyên riêng mà lập khuyên khắp. Trước khuyên riêng, sau là khuyên khắp, để nói riêng hay khắp đều bất định, nói lên chẳng riêng chẳng khắp. Hỏi: Tỳ-kheo thiếu đức nên hết lòng ba phen khuyên thưa hỏi, Bồ-tát thì không phải như thế, vì sao lại khuyên hai, ba lần? Đáp: Phật như sư tử giết voi và thỏ, đều ra sức chứ rốt cuộc không có hơn kém, cho nên đều khuyên bảo ba lần. Hỏi: Nếu thế, Bồ-tát cũng không có nghi, sao lại có lời từ chối? Đáp: Tỳ-kheo đều không có, Bồ-tát đều có. Vì có hỏi nên biết có nghi. Vì thế, Bồ-tát có thể nhận sự phó chúc; vì có từ tâm, nên có thể làm lợi ích chúng sinh. Vả lại đồng nói là không, nhưng ý thì khác, tức Bồ-tát giải ngộ đã lâu, nếu không còn nghi thì tự khiêm nhường thoái lui, khen ngợi Phật, Bồ-tát tức là suy ra công đức. Hỏi: Vì sao nói theo mệnh thì chẳng thể tính lường, còn nói theo luận biện thì chẳng thể tận, hoặc giới, hoặc quy mà khuyên hỏi. Đáp: Có quan hệ rất nhiều, lược nêu bốn ý: 1/ Như Lai là một đại thí chủ rất giàu có, tùy người cầu xin mà ban cho đầy đủ, nếu hỏi về mệnh, thì khai mở các nghóa Sống lâu, Thân kim cương, Mật thân. Như hỏi về luận biện là khai mở các nghóa Bát- nhã, Bốn tướng, Khẩu mật; như hỏi về quy về và giữ giới tức khai mở Thiện nghiệp; Thủ-lăng-nghiêm có thể kiến lập nghóa lớn trăm câu và các nghóa giải thoát, mật ý v.v… cho đến khai mở các nghóa Tà chánh, Bốn đảo, Bốn Đế, Như Lai tánh, Văn tự, Nguyệt dụ, Điểu dụ. Niết-bàn thí được hiển bày: 2/ Như Lai là một vị đại thí chủ có vô lượng phương tiện, nếu hỏi về mệnh là khai mở Thiên hạnh, nếu hỏi về biện tài là khai mở Phạm hạnh, nếu hỏi về quy giới là mở Thánh hạnh, hạnh Anh nhi; nói về sự ngăn ngừa của quy giới là khai mở Bệnh hạnh. Nếu năm hạnh được lập, thì mười đức tự hiển bày, hạnh Niết-bàn tự rõ; 3/ Như Lai là thí chủ có thành báu chánh pháp trang nghiêm vô lượng. Như Lai có thể hỏi mà không có chỗ để hỏi, có thể đáp mà không có người năng hỏi. Trăm ngàn châu báu, tìm chỗ gửi gắm, mong được người năng hỏi. Nếu hỏi mệnh tức là thường trang nghiêm, hỏi biện tài là thích trang nghiêm, hỏi giới là thanh tịnh trang nghiêm, hỏi ba quy y là Ngã trang nghiêm. Hỏi được đáp được đủ hai trang nghiêm, thì nghóa Niết-bàn ở song thọ được hiển. 4/ Như Lai là thí chủ có vô lượng từ bi, xót thương nhớ nghó đến những kẻ tà ác, nếu hỏi về quy đức dùng thường biện tài để nhiếp tà, nếu hỏi về giới, tức dùng thường mệnh để nhiếp ác, dụng của Niết-bàn được hiển bày. Vì các nghóa này cho nên nêu lên ba việc để làm đầu mối thưa hỏi. Hỏi: Đầu mối thưa hỏi thông suốt về sau, hay thông đến ý trước? Đáp: Hỏi về mệnh tức là thường tu, hỏi về biện tài là lạc tu, hỏi về ba quy y tức Ngã tu; hỏi về mệnh tức là đức thường của Pháp thân. Hỏi về biện tài tức là lạc, thuộc đức Bát-nhã; hỏi về quy giới tức là tịnh Ngã thuộc đức Giải thoát, lại hỏi về mệnh tức là thường mệnh, thường sắc, thường lực; hỏi về biện tài là thường ngữ; hỏi về quy giới tức là Thường an. Văn kinh ghi: “Nếu hỏi được như thế, thì sẽ lợi ích cho tất cả chúng sinh”, tức chung cả trước sau. Đầu mối thưa hỏi rộng lớn bao trùm như thế. Đoạn chánh hỏi thứ hai có bốn ý: 1/ Muốn hỏi; 2/ Cho hỏi; 3/ Khiêm hỏi; 4/ Chánh thức hỏi. Thứ nhất là muốn hỏi, lại có hai ý: 1/ Người kiết tập kinh tự thuật; 2/ Tự xin phép hỏi; lại trong đoạn tự thuật có bốn phần: 1/ Nói về bản vị; 2/ Nói về Tích và Tông; 3/ Nói về cảm; 4/ Nói về oai nghi. Thứ nhất nói về bản vị. Vị có chung và có riêng, Bồ-tát là vị chung, Đồng tử là vị riêng. Luận ghi: “Mới mười hai tuổi mà có thể hỏi”, có bốn ý: 1/ Chánh pháp chẳng phải sắc, nên chẳng thể cho là người còn nhỏ mà bỏ pháp, vì trọng pháp nên trọng người; 2/ Phát sinh pháp lành cho các Tỳ-kheo: đối với đạo Bồ-tát có lòng tin tưởng vững chắc; 3/ Chiết phục người có tâm cống cao; 4/ Nói Phật lực rộng lớn. Nếu y cứ theo Thập trụ, thì thuộc Cửu trụ. Nếu so sánh với Đồng tử Văn-thù, tức là Thập địa đảnh, Thánh vị thật khó biết. Hãy dùng Thập địa mà giải thích Đồng tử. Thứ hai nói về Tích và Tông. Nói Bà-la-môn, tức thùy tích gá vào dòng họ tôn quý; nói Đại Ca- diếp là thác sinh vào nhà quý tộc, đây là dòng họ đứng đầu. Thứ ba, “nhờ oai thần của Phật”: tức là cảm. Làm Thượng thủ của chúng quyết định, cảm thần lực của Phật che chở mà làm chủ thưa thỉnh hỏi đáp, khiến năm mươi hai chúng đồng uống được cam lộ. Chẳng phải bậc đại căn khí này thì ai kham nhận được? Thứ tư, từ câu: “đứng dậy khỏi chỗ ngồi v.v…” trở xuống là nói về oai nghi. Từ câu: “Bạch Phật v.v…” trở xuống là phát khởi thưa hỏi. Tuy Đức Phật đã khuyên chung, nhưng có cho phép hỏi hay chưa, vì thế phải xin phép hỏi. Kế là từ câu: “Đức Phật bảo v.v…” trở xuống là Phật cho phép. Từ câu: “Bấy giờ, Ca-diếp v.v…” trở xuống là phẩm khiêm nhường thưa hỏi. Văn có ba cặp: 1/ Đại tiểu; 2/ Cao rộng; 3/ Nhờ giúp. Thứ nhất như văn ghi. Nói Như Lai xót thương tức Đại từ bi, là đại trong đại; nói con như loài muỗi mòng là Tiểu trí, Tiểu trong tiểu. Dùng Tiểu mà hỏi Đại, đâu thể tương xứng được ư? Cặp kế tiếp. Đức của Phật cao vòi vọi, tức là nói uy lực của Phật rất cao; sư tử khó điều phục tức là nói chúng đông nhiều; thân Như Lai giống Kim cương là nói sắc thân Phật rộng lớn, trí tuệ cũng rộng lớn; biển trí vây quanh thì trí của chúng hội cũng lớn. Phật và Đại chúng rộng lớn như thế, con như muỗi mòng, thì đâu thể hỏi được. Cặp thứ ba. Nếu nói về lớn nhỏ, thì chẳng nói cũng đủ cách bặt. Nay lại nhờ vào oai thần của Phật giúp sức cho trí tuệ, nhờ gốc lành của đại chúng thêm vào biện tài của con, nên mới thưa hỏi được. Từ câu “liền ở trước Phật v.v…” trở xuống là phần chánh thức hỏi. Xưa nói có ba thứ khác nhau: 1/ Phần kệ; 2/ Số câu hỏi; 3/ Lý do khởi hỏi. Nói về phần kệ khác nhau: Hà Tây nói bảy mươi sáu câu đầu là hỏi, mười sáu câu sau là xin đáp; có Sư cho rằng tám mươi bốn câu đầu là hỏi, tám câu sau là tự khiêm, có Sư lại cho rằng từ đầu đến cuối đều là lời hỏi; có sư cho rằng hỏi và xin đáp đều có. Mười sáu câu sau cũng là lời hỏi, mà đó chính là dư lực về sự thưa hỏi khéo léo của ngài Ca- diếp, là nhân sinh khởi các phẩm. Lại cũng có thể là lời hỏi về hạnh sâu xa, hỏi về năm hạnh mười đức, tánh an vui, là hỏi về Sư tử hống, Ca-diếp, v.v… Thứ hai là số câu hỏi khác nhau, Lương Võ Đế nói có ba mươi hai câu hỏi; Hà Tây nói ba mươi bốn câu hỏi, Linh Vị Lượng, Trị Thành Tố, Trang Nghiêm Mân đều y theo thuyết trên, Trung Tự An nói ba mươi lăm câu hỏi, Khai Thiện nói ba mươi sáu câu hỏi, Quang Trạch nói ba mươi bảy câu hỏi. Nhân sinh khởi khác nhau; Khai Thiện nói mỗi câu hỏi đều từ phẩm Thuần-đà và Ai Thán phát sinh. Thái Xương Tông cho rằng tất cả đều ngay đó thưa hỏi, chứ chẳng phải sinh ra từ văn trước. Linh Căn Linh Chánh có người cho rằng từ văn trước sinh, có người cho rằng chẳng từ văn trước sinh, đâu thể nhất định một bên, Từ văn trước sinh thì kinh ghi: “Làm sao được sống lâu”; từ phẩm Thuần-đà sinh, thì kinh ghi: “Như Lai tức Trường thọ”; hỏi về thân Kim cương tức là từ pháp thân, thân thường, thân Kim cương sinh ra; “xin Phật chỉ bày pháp bí mật mầu nhiệm”, từ phẩm Ai Thán, tạng Bí mật mà sinh; làm sao rộng lớn được”, từ Ca-diếp làm nơi nương tựa cho đại chúng sinh. Nếu có quan thuộc từ văn trước sinh, nếu không có quan thuộc thì chẳng phải từ trước phát sinh. Hưng Hoàng cho rằng các câu hỏi này chẳng nên nói từ phẩm, mà nói chung về giáo một đời của Đức Thích-ca Như Lai, tức đầu tiên hạ sinh nơi cung vua, đến cuối cùng là Ta-la song thọ. Vì sao? Vì văn kinh ghi: “Trong biển lớn sinh tử, làm sao làm bậc thầy lái thuyền?” Tức là hỏi về đầu tiên, là việc mới thành đạo; lại hỏi: “Làm sao bỏ sinh tử như rắn thay da?” Đây là hỏi về cuối cùng, là việc sau cùng Niết-bàn; khoảng thời gian ở giữa, pháp môn giáo hóa chẳng phải một mà còn hiển phát giáo bí mật phương tiện của Như Lai, các thứ thị hiện, hễ đến liền đi; ý này rất rộng lớn bao la, đạo đại giác đại minh trùm khắp xưa nay. Nay xét chín mươi hai câu kệ, thì bảy mươi sáu câu trước tuy là lời hỏi, mà trong hỏi lại có thỉnh cầu: “Cúi mong Đại tiên chỉ dạy”. Mười sáu câu kệ sau tuy là lời thỉnh cầu, nhưng trong đó lại có lời hỏi về tánh an vui, các hạnh v.v… Tất cả đều có khai hợp khác nhau. Như bốn câu kệ đầu tiên hợp thành hai câu hỏi, nếu chia ra thì thành bốn câu. Nói một câu kệ: “làm sao biết ma trời?” Nếu hợp thì một câu hỏi, nếu khai thì thành hai câu. Nếu tính thẳng theo từ “Làm sao” thì có ba mươi hai câu, nếu tính số kệ hợp thì cũng chỉ có ba mươi hai câu hỏi; nếu tính số kệ khai thì có ba mươi bốn câu hỏi; Nếu tính ba lời hỏi trong số bài kệ thỉnh mà cộng với các kệ hợp thì lại có ba mươi lăm câu hỏi; nếu tính ba bài kệ trong lời thỉnh, cộng với các lời “làm sao” thì cùng có ba mươi lăm câu hỏi. Nếu tính ba bài kệ trong lời thỉnh cộng với số kệ khai thì có ba mươi bảy câu hỏi. Mỗi câu có lấy bỏ khác nhau, dài ngắn khác nhau, ý nghóa là ở đây. Số thêm bớt là do người, chẳng cần phải nhọc tranh luận. Nay y cứ theo Hà Tây tính theo số bài kệ khai, chẳng tính theo số bài kệ hợp, thì có ba mươi bốn câu hỏi, đáp đầy đủ trong phẩm Đại Chúng Vấn. Nói về lý do khởi câu hỏi có xa gần: Nếu cho rằng các câu hỏi do văn các phẩm trước sinh khởi, thì hàng Thanh văn không hề nghe nói về Thường, khi mới nghe sẽ sinh nghi. Còn Bồ-tát đã được nghe từ lâu, vì sao lại sinh nghi? Vả lại, hàng Thanh văn nghe nói thì đã dứt được nghi chấp, còn Bồ-tát là người lợi căn vì sao chưa hiểu? Giải thích rằng: Vì duyên cho nên có nghi. Nếu thế thì các câu hỏi chẳng do văn trên. Lại nói Bồ-tát đã biết Phật ứng thuyết pháp này, nương theo thần lực của Phật, dự làm người thưa hỏi, thì Phật lực không đâu chẳng đến, vì sao chẳng đến gần hai phẩm? Lại nói là hỏi về một đời giáo hóa trước sau của Phật, thì đã khác với kinh, hoàn toàn chẳng tương ưng. Kinh hỏi về nhân sống lâu thì kinh cũng trả lời rằng: Khi xưa Phật dốc lòng nghe pháp, trì giới không sát sinh, đó là nhân sống lâu, nay lại y cứ theo một đời giáo hóa, từ cung vua đến nay, thì Phật nghe pháp nơi nào, thọ giới từ ai, thọ giới gì? Nếu không có các việc ấy thì nói một đời giáo hóa, chẳng thể thành lời luận bàn rốt ráo của Sư kia. Nay cho rằng chẳng hội với văn, cho nên chẳng phải là lời rốt ráo. Lại thử nêu ra ý nghóa ấy xem: Kinh nói: “Làm sao được sống lâu?” Đây là hỏi về nhân gốc của quả Thường. Phật đáp: “Nếu nghiệp là nhân của Bồ-đề”, thì dốc lòng nghe nhận, nghe rồi giảng nói cho người khác nghe, Ta tu nghiệp này mà được Tam-bồ-đề”. Nay vì người nói rộng nghóa này. Nhân như thế thì bao trùm chứ chẳng phải một đời. Như trong kinh Pháp Hoa nói số kiếp như bụi nhỏ còn chẳng thể biết. Nay chính là hỏi về nhân lâu xa ấy. Nếu xưa là thường, thì thường chẳng thể tu, nhưng chưa biết nhân của quả thường sống lâu như thế nào? Nếu hỏi nghóa này thì nhậm vận hiển được nhân thường chẳng thường chẳng vô thường, dẫn đến được quả thường chẳng thường chẳng vô thường, muôn đức của quả đều là nhân đồng chẳng phải dẫn đến quả đồng chẳng phải. Tùy nghóa có vô biên, nhưng tóm lại chỉ là hỏi về các pháp môn nhân quả, hành vị, thệ nguyện, công đức, trí tuệ, đạo phẩm, sáu Độ v.v… của bản sơ ở quá khứ. Nếu hỏi: “Vì sao kinh này, rốt ráo đến bờ kia?” Đây là hỏi đầu và cuối của một đời giáo hóa và hiện tại tùy duyên lập bày các giáo. Vì sao? Vì nếu không có đầu tiên thì không có cuối cùng. Nay đã hỏi về sau cùng, lại nhậm vận hỏi về đầu tiên, đã hỏi về đầu tiên và cuối cùng thì khoảng giữa tự biết. Nếu biết một đời giáo hóa, từ trước đến sau đều đối với vô lượng cơ duyên mà lập ngôn giáo, chẳng thể nói cùng tận. Tuy chẳng thể nói hết, nhưng tóm lại chỉ là hỏi về vô lượng pháp môn tùy tự, tùy tha, tùy tự tha ở hiện đời. Nếu hỏi: “Làm sao được rộng lớn, làm nơi chúng y chỉ?”, là hỏi về phương tiện được lập bày ở đời sau, về tông chỉ dẫn dắt chúng sinh, quốc sư, đạo só, nho gia, trụ trong Thủ-lăng-nghiêm, hiện các thứ thân hình; tuy có vô lượng vô biên mà tóm lại chỉ là hỏi về các pháp môn quyền thật, phương tiện khéo léo, dẫn dắt, gánh vác, độ thoát chúng sinh ở đời vị lai. Đó là lược nêu ba câu để hiển bày ý câu hỏi này chẳng ngoài ba cõi. Cho nên Văn kinh ghi: “Cảnh giới chư Phật sâu xa như thế, đầy đủ lợi mình lợi người, vô lượng pháp môn đâu ngoài ba cõi?” Nếu tìm về xa xưa thì vời vợi chẳng cùng; nếu tìm hiện tại thì mênh mông chẳng thấy bờ mé, nếu tìm đến vị lai thì xa xôi chẳng tận. Vì thế nên bao gồm xưa nay. Đạo đại minh đại giác có thể gọi là cảnh giới của chư Phật, đâu chỉ là nhân gần của hai phẩm, lại cũng chẳng phải là xa do một đời giáo hóa. Nay nói ý thưa hỏi rộng lớn như thế, còn sợ chưa hiểu được văn nói về cảnh giới chư Phật, huống chi các Sư nói, đâu hợp với ý chỉ của Phật. Hưng Hoàng châm biếm người rằng: “Chẳng biết sừng thỏ có hay không mà lại vọng tranh cãi nhau là dài, là ngắn, chẳng biết nghóa các lời mà tranh nhau về số lượng nhiều ít, đâu có ích gì?” Nay y cứ theo ý của Hà Tây gồm hai mươi ba bài hệ, chia làm hai: 1/ Mười chín bài kệ đầu là chính thức nêu ba mươi bốn câu hỏi; 2/ Bốn bài kệ sau là xin đáp. Thứ nhất, bốn câu kệ đầu là hỏi về nhân quả của Phật, Phật tu nhân được quả; chẳng thể nói là hiện tại, vị lai, gượng có thể chỉ là quá khứ! Bốn câu kế, từ câu: “Vì đối với nơi kinh này v.v…” trở xuống là hỏi về giáo hôm nay. Giáo hôm nay vì hợp cơ mà nói, chẳng thể nói là quá khứ, vị lai nên gượng nói là hiện tại. Từ câu: “Làm sao được rộng lớn v.v…” trở xuống gồm sáu mươi tám câu, tùy nghóa chung cả ba đời, mà trên đã nói thuộc hai đời rồi, nên ở đây gượng có thể nói là vị lai. Vì sao nói là gượng? Vì Đại Niết-bàn chẳng thuộc ba đời, chẳng nên cho Bồ-đề có quá khứ, vị lai, hiện tại. Đó đều là dùng văn tự thế gian mà gượng nói. Kế là mười sáu câu xin đáp ba ý trước. Đầu tiên là bốn câu nguyện xin vì các Bồ-tát mà nói các hạnh mầu nhiệm. Trước hỏi về quả sống lâu, quả phải có nhân, nhân tức là hạnh. Cho nên biết bốn câu kệ này xin đáp pháp môn ở quá khứ. Kế là bốn câu, xin đáp về hiện tại. Trước hỏi: “Làm sao mở bí mật?”, ở đây xin đáp tánh an vui xưa nay chưa khởi; cho nên biết xin đáp về hiện tại. Kế đến, tám câu kệ sau cùng xin đáp về vị lai. Trên hỏi về chỗ y chỉ rộng lớn, ở đây xin đáp về pháp môn vị lai, tự có thể rõ bày. Đã nêu về số câu hỏi và văn kết luận xin đáp đã xong, kế đến là nêu chỗ văn trả lời. Hỏi: “Làm sao được sống lâu?”, gồm có bốn câu hỏi sẽ trả lời ở văn sau của phẩm này, và phẩm Kim Cương Thân. Câu: “Vì sao hỏi kinh này, rốt ráo đến bờ kia?” Là trả lời ở phẩm Danh Tự Công Đức. [Câu “Xin Phật mở bí mật”, là đáp trong phẩm Tứ Tướng. Câu: “Làm sao được rộng lớn, làm y chỉ cho chúng?”; câu: “Thật chẳng phải La-hán v.v…” là trả lời ở phẩm Tứ Y. Câu: “làm sao biết ma trời”, gồm có hai câu hỏi được trả lời trong phẩm Tà Chánh. Câu: “Làm sao các Điều ngự, vui mừng nói chân đế?”, là đáp ở phần Tứ Đế. [Câu: “Giảng nói bốn điên đảo” là đáp trong phẩm Tứ Đảo. Câu: “Làm sao tạo nghiệp lành?”, “thấy được tánh khó thấy”, đều được trả lời ở phẩm Như Lai Tánh. Câu: “Làm sao hiểu rõ Mãn tự”, là đáp trong phẩm Văn Tự. Câu: “Làm sao cùng chung hạnh Thánh” là đáp ở phẩm Điểu Dụ. Câu: “Làm sao như Nhật Nguyệt, Thái bạch và Tuế tinh” là đáp ở phẩm Nguyệt Dụ. (Đã hết mười lăm câu hỏi). Câu: “Vì sao chưa phát tâm”, trở xuống có mười hai câu hỏi đều trả lời ở phẩm Bồ-tát. Câu: “Vì sao chưa phát tâm?” Đáp là: “Mộng thấy La-sát ép ngặt, khiến cho phát tâm?”. Câu: “Làm sao ở trước đại chúng, mà được không sợ hãi?”, thì dùng mười hai bài kệ để đáp. Câu: “Làm sao ở đời trược?”, là dùng dụ bốn hoa để đáp. Câu: “Làm sao sống phiền não”, “như thầy thuốc chữa bệnh”, v.v… là dùng mười bốn dụ để trả lời. Câu: “Trong biển lớn sinh tử, làm sao lái thuyền giỏi?”, là dùng bốn dụ về Phong Vương để đáp. Câu: “Làm sao xả sinh tử, như rắn thay da cũ?”, là dùng hai dụ thợ vàng để đáp. (Rồng có thể thoát cốt, nên có thể dụ cho Niết-bàn). Câu “Làm sao quán Tam bảo” được trả lời bằng việc cây Am-la Diêm-phù. Câu: “Nếu Ba thừa vô tánh” được trả lời bằng bài kệ ngài Văn-thù dùng bài kệ về bản vô để đáp. Câu: “Vì sao các Bồ-tát, được chúng bất hoại”, nêu nhân duyên hộ pháp để trả lời. Câu: “Làm sao vì người mù, mà làm người dẫn đường” là dùng ý “miệng người chẳng biết được sáu vị” để đáp. [Câu: “Làm sao hiện nhiều đầu”, là trả lời bằng câu: “Vì chúng sinh làm cha mẹ”. Câu: “Sao là người nói pháp, thêm lớn như trăng mọc?” Là trả lời bằng câu: “Như người có con mới sinh được sáu tháng”. Câu: “Làm sao lại thị hiện, rốt ráo nhập Niết-bàn”, là gồm có bảy câu hỏi được trả lời trong phẩm Đại Chúng Vấn. Trong đó, câu: “Làm sao lại thị hiện, rốt ráo nhập Niết-bàn” là đáp bằng các việc phát ra ánh sáng và cúng dường. Câu: “làm sao làm người dũng, thị hiện người, trời, ma”, là đáp bằng các câu: “Nếu có Tỳ-kheo dùng thệ nguyện của Như Lai, mà phát thệ nguyện rằng, đối với thế gian tối thắng chẳng thể quán thường là Chiên-đà-la”. Câu: “Làm sao biết pháp tánh, mà thọ nhận pháp lạc?” Được trả lời bằng tám mươi bốn câu kệ. Câu: “Làm sao các Bồ-tát, dứt hết tất cả bệnh?” Được trả lời bằng việc ba người bệnh. [Câu: “Làm sao vì chúng sinh, giảng nói pháp bí mật”, được trả lời bằng các câu kệ giải thích rộng về hữu dư và vô dư. Câu: “Làm sao nói rốt ráo, và nói không rốt ráo?” Được đáp bằng các câu: “Thế nào gọi là nghóa vô dư? Thế nào là Nhất thiết nghóa? Chỉ trừ các pháp lành, trợ đạo Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, còn tất cả xa lìa các bệnh ở trên. Trên là dùng câu ba người bệnh được diệt tội; sao nói gồm đạo Vô thượng, cũng được đáp bằng câu này. Như có người bệnh, nếu gặp hay chẳng gặp đều được khỏi, đây là rất gần với Phật; nếu gặp liền hết bệnh, nếu chẳng gặp thì chẳng hết là hơi gần Phật; nếu gặp hay chẳng gặp đều chẳng hết, đây là cách xa Phật. Lại nói dùng câu: “Đại chúng phát tâm, Như Lai thọ ký”, để đáp câu hỏi này. Nay dẫn mười điểm để chứng minh cho việc đáp lời hỏi đã hết: 1/ Trong kệ khởi phát lời hỏi theo thứ lớp mà có, trong phần văn xuôi cũng theo thứ lớp mà đáp, nên biết hỏi đáp đã hết. 2/ Trong phần kệ khi đặt các câu hỏi xong, lại tự khiêm nói rằng: “Tánh an vui, sâu xa mầu nhiệm, chúng con chẳng thể biết được, cầu xin Như Lai vì các Bồ-tát mà giảng nói”; như từ ý này thì biết hỏi đáp đã hết. 3/ Nếu lời đáp chẳng hết thì chẳng nên cảm tạ ân đức; khi đáp đã hết thì chúng được lợi ích, đảnh lễ, đốt hương, rải hoa cúng dường, cho nên biết hỏi đáp đã hết. 4/ Từ trên đến đây là nhóm họp đại chúng hết lòng khuyên bảo hỏi đáp; nếu chưa xong, thì đâu được nằm để Niết-bàn, đã nằm nghiêng bên hông phải, im lặng chẳng nói, tức là biết hỏi đáp đã hết. 5/ Nằm mà phó chúc cho ngài Văn-thù; Đại chúng lại thỉnh, đã thọ lãnh, rồi ngồi kiết già, sắc mặt vui hòa mà nói về năm hạnh, cho nên biết hỏi đáp đã hết. 6/ Đã đến gần Đức Vương làm chúng đối cáo; khách chủ đã khác, nên biết hỏi đáp đã hết. 7/ Sư tử đã hỏi, người hỏi đã khác, nên biết hỏi đáp đã hết. 8/ Văn kinh ghi: “Khi Như Lai mời khai kinh Niết-bàn thì có nói về ba hạng người, nói ba hạng người là việc cuối cùng của các lời đáp, thật chẳng phải đầu tiên của lúc mới nói kinh, nay nói lúc mới khai, chính là mới khai của lần nói sau, chẳng phải mới khai của lúc mới nói kinh; đã có nói trước và nói sau khác nhau, nên biết hỏi đáp đã hết. 9/ Trước hỏi nhiều thì số quyển đáp ít, sau số câu hỏi ít thì số quyển trả lời chẳng thể nhiều, nên biết lời đáp đã hết. 1 0/ Hà Tây xem bản Phạm mà miệng đọc lời dịch, Đàm-vô-sấm tha thiết chỉ bảo, tự nói bảy mươi sáu câu kệ, mười sáu câu kệ sau cũng chẳng phải là lời hỏi. Nếu không tin người này thì tin được ai? Từ câu: “Lúc bấy giờ, Đức Phật khen, v.v…” trở xuống là phần thứ ba Đức Phật đáp, có hai ý: 1/ Khen lời hỏi; 2/ Đáp lời hỏi. Phần khen lời hỏi lại có hai: 1/ Khen; 2/ Tự khiêm, lại trong phần khen có hai ý: 1/ Khen chung; 2/ Khen riêng để đáp lại hai lời thỉnh riêng và chung ở trên; ba mươi bốn câu hỏi là phần thưa hỏi riêng các pháp, sau đó là phẩm hỏi chung. Đầu tiên là đáp lại phần hỏi chung, nên nói “lành thay! lành thay!” Sở dó có lời khen này, là vì sự hỏi đáp qua lại ở thế gian phải có lời khen nhau. Đức Phật chẳng trái với thế pháp, nên trước khen ngợi; người chỉ thấy tuổi nhỏ, chẳng mong rằng có trí sâu, nay nghe hỏi nghóa sâu mầu, mới biết trí chẳng cạn hẹp. Vả lại thấy Phật khen ngợi, thì đều phát tâm cho là đặc biệt. Vì thế cần phải khen ngợi. Các chúng ở cõi khác đến, thấy các Bồ-tát nhỏ mà hỏi các việc mầu nhiệm lớn lao, thì sẽ sinh tâm kính phục, cho nên phải khen ngợi. Vả lại, mỗi câu hỏi đều hợp với lý, nên cần phải khen ngợi, tất cả đều có chỗ đặt định. Kế là khen riêng, tức khen riêng câu hỏi về ba đời. Đầu tiên là khen hỏi về pháp môn quá khứ. Gồm có ba nghóa: 1/ Nêu quả khen nhân, nói thầy chưa được chẳng phải là hoàn toàn không được, tức là phần chứng trong nhân, chẳng phải là quả địa rốt ráo, vì thế chưa được. 2/ Là nêu tạng sâu xa bí mật để khen lời hỏi; tức thầy hỏi về sống lâu, Phật lấy nhất thiết chủng trí làm mệnh; mệnh trí này là quả địa chứng đắc, nên nói là ta đã được; đã được, chẳng phải là mới được. Vì đã viên mãn, chỉ có Phật và Phật mới đạt đến cùng tận, nên nói là Tạng sâu xa bí mật mà thầy có thể hỏi được, vì thế khen ngợi pháp mà thầy đã hỏi. 3/ Là khen được che chở, ở trên thưa hỏi rằng: “Nương thần lực Phật”, nay vì che chở mà khen ngợi, nên nói bằng nhau không khác. Trên hỏi: “Vì sao đối với kinh này, rốt ráo đến bờ kia?” Đức Phật nêu ba nghóa để khen ngợi: 1/ Nêu việc đầu tiên để thành tựu cho sau cùng, khen ngợi Ca-diếp khéo hỏi, bao gồm cả đầu cuối của một đời giáo hóa, nên nói: “Lúc ta ngồi nơi đạo tràng, mới thành Chánh giác.” Hai, là khen một người mà công bằng đại chúng, nên nói: “Các Bồ-tát cũng có hỏi ta về nghóa sâu xa”. Ba, là khen các Ca-diếp hiện được đại chúng giúp đỡ. Ở trên thưa hỏi rằng: “Nhờ năng lực gốc lành của chúng”, nay nói công đức của câu nghóa chẳng khác, là khen lời hỏi về pháp môn hiện tại. Từ câu: “Hỏi như thế, v.v…” trở xuống là khen ngợi hỏi về pháp môn vị lai. Ở trên đã hỏi:Làm sao được rộng lớn, làm chỗ nương cho chúng sinh?” Đây là nói về lợi ích, rất dễ hiểu v.v… Xưa giải thích câu: “Khi ngồi tại Đạo tràng”, cũng có người hỏi rằng có chỗ cho đó là câu hỏi trong kinh Hoa Nghiêm, kinh dịch chưa hết, văn đó chưa đến nước này; hoặc cho là giáo Thiên phương bất định, văn cũng chưa đến nước này; hoặc cho là thuộc về giáo Bí mật, chẳng phải giáo hiển bày, tất cả các nghóa này đều chẳng đúng. Nay nói đạo tràng chính là nói ngồi lúc đầu tiên viên mãn, chứ chẳng phải là đạo tràng phương tiện. Quyển thứ hai ghi: “Ta đã thành Phật từ vô lượng kiếp lâu xa”. Như kinh Pháp Hoa nói: “Từ khi ta thành Phật đến nay thật là lâu xa”. “Xưa các Bồ-tát có hỏi nghóa này, như nay không khác”, chính là đối với lời hỏi ở quá khứ, chẳng phải là khởi đầu của một đời giáo hóa. Chẳng nên y cứ vào đạo tràng tịch diệt và Thiên phương hay bí mật. Từ câu: “Bấy giờ Ca-diếp, v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về tự khiêm. Trước Phật khen Ca-diếp ở trên thì đồng với Như Lai, dưới thì đồng với Bồ-tát, nên tự khiêm cũng có hai ý: 1/ Khiêm nhường cho rằng điều mình hỏi, ngang dọc chẳng bằng ai; 2/ Nguyện nghe pháp lãnh thọ, tăng thêm tu trì. Văn thứ nhất: Chẳng thể bay qua biển lớn, tức nói theo chiều ngang chẳng bằng ai; “chẳng thể vòng khắp hư không” là nói theo chiều dọc chẳng bằng ai. Văn nói: “Cung kính vâng lãnh” tức cao sâu, “ra sức giữ gìn” tức là rộng lớn. Vì sao biết được? Vì kế là giải thích: “Nguyện cho con được trí tuệ sâu xa.” Từ câu: “Phật bảo Ca-diếp, v.v…” trở xuống là phần thứ hai chánh pháp, được chia thành hai: 1/ Theo thứ lớp đáp ba mươi bốn câu hỏi; 2/ Đại chúng cúng dường. Thứ nhất là đáp: Đầu tiên, hết phẩm này là trả lời về sống lâu. Lại được chia thành hai: 1/ Nếu có nhân quả thì rơi vào nghóa Thường, nếu không có nhân quả thì rơi vào nghóa Đoạn, nếu mở bí mật của nhân quả, nếu nói nhân quả, thì đây là thù thắng chút ít; nếu vì hiển Niết-bàn mà nói cả nhân quả thì lời này mới rất thù thắng. Vì Niết-bàn không phải nhân quả, vì phương tiện mà nói nhân quả. Ung dung xem xét, hiển bày chánh pháp nên gọi là nhân quả. Nay nói nếu nhân tự là nhân, quả tự là quả thì rơi vào tự tánh; 2/ Nếu nói do nhân mà có quả, do quả mà có nhân thì rơi vào tha tánh; nhân quả do nhân duyên mà có nhân, nhân quả do nhân duyên mà có quả thì rơi vào cộng tánh. Vì chẳng phải nhân chẳng phải quả nên có nhân quả thì rơi vào vô nhân tánh. Tất cả đều rơi vào đoạn thường. Chỉ dùng bốn tất-đàn để nói nhân quả, hiển bày phi nhân quả. Cho nên nói là nhân quả. Văn trước chẳng phải không nói quả, văn sau chẳng phải không nói nhân. Từ nhiều, từ chánh mà chia làm hai môn. Đầu tiên trả lời về nhân, có ba ý” 1/ Khuyên nghe; 2/ Chánh đáp; 3/ Luận nghóa. Đầu tiên là khuyên nghe. Sắp nói thuốc mầu cam lộ sống lâu, nếu bịt tai chẳng nghe thì tư tu đều mất, nên cần phải khuyên bảo tất cả. Thích Luận nói: “Chuyên chú nghe pháp, như người khát nước, nhất tâm vào ngữ nghóa”. Từ câu: “Nghiệp sống lâu mà Như Lai, v.v…” trở xuống là chánh đáp. Văn có năm cặp: 1/ nêu người quả và người nhân, để chỉ ra nghiệp; 2/ Nêu pháp quả và pháp nhân để khuyến nghiệp; 3/ Nói tự hành và hóa tha để chứng nghiệp; 4/ Khai dụ và hợp, dụ để so sánh với nghiệp; 5/ Nêu quả báo và hoa báo để kết luận về nghiệp. Đầu tiên là nói về người, người chứng quả tức Như Lai, người ở nhân tức Bồ-tát. Nếu không có nghiệp này thì không gọi là Bồ-tát, Phật không có nghiệp này thì không gọi là Như Lai. Nghiệp này thành nhân thì nhân gọi là Bồ-tát, nghiệp này thành quả, thì quả gọi là Như Lai. Nếu nghiệp chắc chắn là nhân thì chẳng được làm quả nếu nghiệp chắc chắn là quả thì chẳng được làm nhân. Nếu biết nghiệp này chẳng phải nhân chẳng phải quả, có khả năng làm nhân, làm quả thì dù có khả năng làm nhân quả, mà nhân quả đều không thật có, đường ngôn ngữ dứt, cảnh tâm hành bặt; là cảnh giống như không thể nghó bàn, các Bồ- tát tinh tấn (Tạng, Thông) chẳng thể biết được, huống chi là hàng phàm tình tâm trí tối tăm mà mong suy lường được ư? Tôi chẳng dùng ý mình để lập, mà chỉ nói lại điều nghe được mà thôi. Quả pháp đức Bồ-đề, nhân pháp tức ba tuệ, nghe là Văn tuệ, nhận là Tư tuệ, chuyên nói lại cho người nghe là Tu tuệ. Nếu Bồ-đề không có nghiệp này thì chẳng thành quả, ba tuệ không có nghiệp này thì chẳng thành nhân. Cao tột chẳng có đỉnh, rộng lớn chẳng có bờ, đạt được nhiều thành tựu. Tưởng ấy như thế nào? Nếu nghiệp phá được nghiệp thì đó là phá nghiệp, từ nghiệp mà trụ lập tất cả pháp gọi là Lập ng- hiệp. Chẳng phá chẳng lập mà năng phá năng lập, mới là chánh nghiệp. Chánh nghiệp này chẳng thể nói ba, chẳng thể nói một. Nói là một thì mất dụng, nói là ba thì tổn thương đến Thể. Ngay nơi Thể mà Dụng, tức Dụng mà Thể. Tức Thể mà Dụng, cho nên nói “nghiệp này năng làm nhân cho Bồ-đề”, đạt đến quả Bồ-đề tức Thể Dụng trước chứng đạo; “lại thường giảng nói cho người nghe”, tức Thể Dụng sau chứng đạo. Ngay nơi Dụng là Thể, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải tự, chẳng phải tha. Cho nên văn ở trên ghi: “Do năng lực của hạt châu khiến nước trong lắng”, đó há chẳng phải ngay nơi Thể là Dụng ư? Văn sau ghi: “Đại từ, đại bi gọi là Phật tánh”, há chẳng phải ngay nơi Dụng là Thể ư? Thứ ba, từ câu: Này người thiện nam! v.v…” trở xuống là nói tự hành hóa tha để chứng thật cho nghiệp. “Ta tu tập nghiệp này nên được Bồ-đề”, tức là Thể Dụng trước chứng đạo, nay nói cho người nghe pháp là Thể Dụng sau chứng đạo. Nhưng quả của ta đã thành từ lâu xa, là nghiệp trước khi chứng đạo, chẳng phải đến nay mới có, cho nên biết, đó là nói về pháp môn quá khứ, là trả lời câu hỏi thứ nhất. Thứ tư, là lập dụ, gồm có dụ và hợp. Thí như Vương tử là dụ như trước chứng đạo. Vương tử dụ cho chúng sinh; phạm tội dụ cho khởi nhân ác, hạ ngục dụ cho chịu quả ác; thương xót dụ cho thiên tánh liên quan nhau; nhớ nghó dụ cho nhổ trừ nhân khổ; đích thân ngự đến ngục thất dụ cho nhổ sạch quả khổ. Vương tử thuộc giòng Sát-lợi, phạm tội bị hạ ngục, thì mọi người cũng thế, đồng một Phật tánh, bị tội nghiệp trói buộc, trôi lăn trong sinh tử, cũng có Phật tánh, cũng không có Phật tánh, như Vương tử là người tù, người tù là Vương tử. Vì nghóa này, cho nên có Từ ban vui, Bi nhổ gốc khổ. Từ câu: “Bồ-tát cũng giống như thế v.v…” trở xuống là hợp dụ. Nêu lên ba pháp để hợp với dụ: 1/ Nêu con một để hợp với Đồng thể đại Bi, so sánh với ngay nơi thể là dụng; 2/ Nêu bốn tâm vô lượng là nhổ nhân khổ, là ban nhân lành, là nhổ quả khổ, là ban quả vui; đại Hỷ là vui mừng, đại Xả là bình đẳng dụ cho ý nghóa Dụng chẳng lìa Thể, ngay nơi Dụng là Thể; 3/ Nêu bốn thệ nguyện rộng lớn, nếu y cứ theo bốn Đế thì Khổ đế không chỉ chung cho bốn đường, Tập đế không chỉ chung cho mười điều ác, Đạo đế không chỉ là khuyến thiện, Diệt đế không chỉ là thân diệt trí đoạn. Cảnh của hoằng thệ bao gồm cùng khắp, cho nên dùng ba pháp để hợp dụ mà so sánh với nghiệp. Thứ năm, là nêu hai báo để kết luận. Bậc Thánh lấy tuệ làm mạng, trí tuệ tự tại, nên tuổi thọ dài lâu, tức là dụ cho quả báo; sinh về cõi trời hưởng thọ an vui là dụ cho hoa báo, v.v… Từ câu: “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần luận nghóa, có bốn phen hỏi đáp: 1/ Trước hỏi sau đáp. Hỏi có ba ý: 1/ Thuật lại điều chưa hiểu; 2/ Cho rằng chẳng nên; 3/ Chánh thức hỏi. Thứ nhất nói chưa hiểu. Lãnh nhận nghiệp sống lâu chẳng có nhân, chẳng có quả, chẳng có tự chẳng có tha, nên nói là sâu xa, kín đáo. Kế đến cho rằng chẳng nên. Cảnh giới con một là đồng thể đại từ, thể đã không có yêu ghét, vì sao nói là tưởng như con một, nếu đồng như nghó đến con một, thì ái khởi, ái đã khởi thì sao nói là đồng thể? Đồng thể làm sao nói là khởi ái? Vì thế nói là “chẳng nên”. Thứ ba, là vặn hỏi. Những người phá giới, gây ra năm tội nghịch cần phải trị phạt, trái với từ bi, làm sao xem là bình đẳng được? Bình đẳng thì không trị phạt, vì sao nói là trị, trị thì trái với từ, thể của từ và trị trái nhau, cả hai xoay vần chướng ngại nhau, ý vặn hỏi từ đây sinh ra. Đức Phật dùng một lời mà đáp cả ba ý. Nói “Ta xem chúng sinh đồng như La-hầu-la” tức là đồng thể từ, tâm từ này thanh tịnh, nhiệm mầu bậc nhất; đó chẳng phải là từ ái nhiễm. Tâm từ này sâu xa kín đáo, chẳng những khó hiểu mà còn khó nói, ngay nơi thể là dụng, chẳng trở ngại, bình đẳng xem như La-hầu-la. Đã ngay nơi thể là dụng thì Từ cũng giống như thế, một lời mà đáp cả ba việc, ý nghóa ở tại đây. Nhưng ngài Ca-diếp hỏi Bồ-tát tu tâm Từ, là hỏi việc trước chứng đạo; Đức Phật dùng quả từ sau khi chứng đạo để đáp rằng: “Ta xem chúng sinh đồng như con một, là nêu việc sau để trả lời việc trước, nhưng trước sau chẳng khác.” Kế là, từ câu: “Ca-diếp lại bạch, v.v…” trở xuống là lần hỏi đáp thứ hai. Trước là hỏi, sau là đáp. Trong phần hỏi lại nêu việc xưa để hỏi về nghóa nay. Lực só không có tâm Từ, đập nát đồng tử lén nghe thuyết giới, đồng tử bị dứt mạng căn, tức là việc khi xưa. Nếu nói thừa lực của Phật, tức là Như Lai sai khiến giết hại, tổn thương tâm Từ, trái với ý nghóa thương con một, tức là hỏi vặn nghóa hôm nay. Kế là Phật đáp, nói về tâm từ ba đời, có ba ý: 1/ Nói về đồng tử, là việc xưa, nếu trả lời việc này, tức là định tâm Từ quá khứ. 2/ Đồng tử và Kim cương đều là người huyễn hóa. Dùng chày như huyễn giết hại mạng huyễn, há là thật ư? 3/ Lập quyền để trừng trị ác, chính là dùng đại Bi nhổ trừ nhân khổ, chánh là dùng đại Từ ban cho quả vui. Rất từ bi, rất khéo léo, chẳng phải là ý nghóa con một, thì là gì? 4/ Có người giải thích vì giúp cho thấy cơ mà còn hại năm trăm vị Bà-la-môn, còn thật có việc hại. Nếu dùng ý này mà giải thích thì không có việc tổn hại. Kế đến, từ câu: “Ca-diếp v.v…” trở xuống là nói về tâm từ hiện tại. Vốn chỉ cho hạnh từ của ba nghiệp, văn có ba ý: Tâm Như Lai đối với tất cả chúng sinh xem như con một, dù đó là kẻ hủy báng chánh pháp, Nhất-xiển-đề, tà kiến, hủy giới, đều xem như con một, huống chi người khác? Tâm thường bình đẳng tức là ý từ. Từ câu: “Thí như Quốc vương v.v…” trở xuống là nói về khẩu từ. Có ba: 1/ Nói về quốc pháp; 2/ Nói về Phật pháp; 3/ Kết luận trị tội. Đầu tiên nêu hình phạt nghiêm khắc của một nước, lấy sự bạo ác làm gốc. Hai là nêu giềng mối chánh pháp của Phật lấy Từ làm Tông. Nêu điều sai để hiển bày điều đúng. Trong lấy Từ làm Tông, nêu điều sai để hiển bày điều đúng. Trong Phật pháp có ba: Nếu đuổi hẳn ra khỏi chúng, nếu bốn Yết-ma thì chẳng đuổi ra khỏi chúng, chỉ không được làm chủ Yết-ma, mười bốn tri sự. Nay gọi chung là Yết-ma, nhưng trong đó khinh trọng. Đầu tiên là nói Yết-ma khu khiển, tức trong luật gọi là Yết-ma khu xuất, xưa có hai Tỳ-kheo là Mã Sư và Mãn Túc ở trong một xóm nọ làm ô uế nhà người, phạm hạnh xấu ác, Đức Phật bảo làm pháp Yết-ma đuổi hai vị Tỳ-kheo này ra khỏi xóm ấy. Yết-ma quở trách, tức luật nói Yết-ma khổ thiết. Có hai Tỳ-kheo là Bàn-đồ và Lô-xá ưa thích tranh cãi, luôn cấu kết thành hai bên để tranh cãi với người, khi vào đến thành, dùng lời lẽ tố cáo, buộc mở dây y lẫn nhau, nhiều lần như thế, Đức Phật biết được bảo làm yết-ma khổ thiết, khiến khổ não ép ngặt. Yết-ma trí, tức là Yết-ma y chỉ, xưa có Tỳ-kheo Trí Việt bị người xem thường, mấy lần phạm tội, mấy lần não loạn chúng tăng, Đức Phật biết được bảo làm Yết- ma y chỉ, khiến y chỉ một vị ngay thẳng có đức độ, quản thúc dạy dỗ để khỏi phạm nữa. Yết-ma cử tội, tức luật gọi là Yết- ma Hạ Ý; Tỳ-kheo Uất-đa-la thường được cư só Chất-đa là tự chủ chùa Am-la cúng dường thức ăn ngon. Sau Cư só gặp ngài Ưu-bà-tư-na, bèn thỉnh về nhà cúng dường mà không báo cho Tự chủ biết, Uất-đa-la giận dữ nói rằng: “Thức ăn thức uống tuy ngon, nhưng không có bánh mè hoan hỷ”. Vì vị cư só này khi còn niên thiếu, nhà nghèo thường làm ng- hề này, vì thế Uất-đa-la mới châm biếm. Cư só do đó cũng lập dụ rằng: “Như gà và chim cùng sinh một con, thì con ấp hoặc kêu tiếng gà, hoặc kêu tiếng chim. Nếu Ngài hoặc nói lời lành, hoặc nói lời ác”. Vì cư só biết cha mẹ của Tỳ-kheo này là người của hai nước khác nhau, nên mới dùng dụ đó để châm biếm. Đức Phật biết được, bảo làm pháp Yết-ma hạ ý, tức bảo một vị trong Tăng dẫn Tỳ-kheo này đến nhà cư só hạ mình sám hối. Yết-ma Bất khả kiến, tức là nói về ba tẩn trong tám Yết-ma, ba tẩn: Bất kiến tẩn, bất sám tẩn và ác tà bất trừ tẩn. Trong kinh này không nêu tên gọi Bất sám, mà nêu Diệt tẩn, đó chỉ là một việc, mà kinh giáo nêu khác nhau. Nay nói Bất khả kiến tức Bất kiến tẩn, xưa có Tỳ-kheo Xa-nặc nhiều lần phạm tội, các Tỳ-kheo khác khuyên sám hối, Xa-nặc nói rằng: “Tôi chẳng thấy tội”, Đức Phật liền bảo làm Yết- ma Bất kiến tẩn. Yết-ma Bất sám, lại Xa-nặc mấy lần phạm tội, các Tỳ-kheo khác khuyên, liền đáp rằng: “Tuy tôi đã thấy tội, nhưng không thể sám hối”, Đức Phật bảo làm Yết-ma Bất sám. Diệt là Yết-ma diệt tẩn, Vị xả ác kiến tức là trừ tẩn; nhân duyên sinh khởi việc này là do Lợi-tra nói: “Dục chẳng chướng ngại đạo pháp”, ba lần khuyên ngăn mà chẳng chịu bỏ, nên Phật bảo làm Yết-ma ác tà bất trừ tẩn. Từ câu: Này người thiện nam! Như Lai, v.v…” trở xuống là kết luận trị tội. Khiến cho họ không gây ra nhân ác, không có quả ác, tức là Đại từ ban cho sự Vô úy. Từ: “Này người thiện nam! Nay thầy nên biết, v.v…” trở xuống là nói về thân hành từ. Xưa nói chiếu cõi người là một, chiếu cõi trời là hai, chiếu năm đường là năm, lại nói Thường quang là một, phi thường quang là hai, ở miệng là ba, giữa hai đầu chân mày là bốn, toàn thân là năm. Từ câu: Này người thiện nam! Thầy chưa thấy pháp, v.v…” trở xuống là nói hành từ ở đời vị lai. Nhưng nói Tỳ-kheo trị Phật tức là Tỳ- kheo Hộ pháp. Toàn văn có bốn: 1/ Nêu đời vị lai; 2/ Nói về trì giới và hủy giới; 3/ Lập dụ; 4/ Kết. Văn thứ hai và ba rất dễ hiểu. Trong dụ có nói bạo ác là dụ cho người phá giới, bị bệnh nặng là tội đã lộ, vua nước láng giềng đem binh là dụ cho người trì giới trị phạt, vua bệnh không còn thể lực là dụ cho người phá giới đã dứt điều ác; sợ hãi tu điều lành là nói về lợi ích. Trong dụ nói về ba loại, ba loại này có gì khác nhau? Đầu tiên có mỗi trụ riêng biệt, mỗi học hạnh phi pháp, nên dùng người trẻ tuổi tóc bạc để làm dụ. Vả lại, giải dứt bốn trụ hoặc, trị nhau như vua láng giềng; dứt hoặc trần sa hoặc, trừ cấu uế trên thân thể như dẹp trừ cây độc. Dứt vô minh ác hoặc đồng thể như nhổ bỏ tóc bạc. Từ câu: “Thiện Tỳ-kheo v.v…” trở xuống là kết luận. Đây là phân biệt chân ngụy. Không trị phạt người phá hủy giới cấm, loạn Phật pháp, là giặc trong Phật pháp, không có lòng từ, dối trá làm người thân, là giặc của người ấy. Nếu trị phạt tức là hàng Thanh văn hộ pháp, là đệ tử của ta. Vì dứt ác cho họ tức là người thân của họ. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ ba. Trước hỏi sau đáp. Trong phần hỏi có hai ý: 1/ Ca-diếp bác bỏ ý chỉ của Phật; 2/ Nêu sự việc để vặn hỏi. Đoạn thứ nhất. Trước nói người có thể quở trách mới chính là đệ tử ta; người chẳng thể xua đuổi là kẻ giặc trong Phật pháp; đây là nêu một đúng một sai; tức là nếu có yêu ghét lấy bỏ thì chẳng phải là tâm bình đẳng, xem chúng sinh như con một. Lên xuống khác nhau cho nên cung kính bác bỏ. Như một người thoa hương, một người dùng đao chém mà đối xử bình đẳng, không sinh tâm yêu ghét, thế thì một giữ một phạm thì cũng chẳng có thưởng phạt. Đã có khen thưởng người giữ gìn, thì có trách phạt người phạm, lẽ ra phải trị người chém, thưởng người thoa. Chém thoa đã bình đẳng, thì giữ và phạm lẽ ra cũng bình đẳng. Nếu có kẻ phạm giới cấm, thì lời này có lỗi. Nếu chẳng trị kẻ dùng dao chém thì lời kia luống dối. Dùng hai đường tiến lùi để kết luận câu vặn hỏi. Kế đến là Phật đáp, có ba là khai dụ, hợp dụ và so sánh để hiển bày. Khai dụ có bốn: 1/ Sinh các con; 2/ Phó chúc cho nghiêm sư; 3/ Dặn dò dạy dỗ; 4/ Được phước không có tội. Vua quan là dụ cho Phật, Bồ-tát; sinh dưỡng các người con là dụ cho sinh tín, sinh tín khác nhau, nên mới nói “các người”; dung mạo xinh đẹp là dụ cho giới ngăn ngừa sắc; thông minh dụ cho định tuệ phòng hộ thân. Nói hai, ba, bốn có người cho rằng một, hai là hai chúng xuất gia; nói ba, bốn là hai chúng tại gia. Nghóa này chẳng đúng. Xưa nói hai Tiểu, Đại; ba là ba căn; bốn là bốn bộ; nghóa này cũng chẳng đúng; lại nói một là Nhất thừa; hai là Tiểu thừa. Nếu thế, một con nhiều con chỗ nào cũng chấp đắm, vì nơi nơi đều có, cho nên thành quá loạn. Nay nói lấy tín tâm làm con, vì sinh tín khác nhau, nên lược nêu bốn loại là Tạng, Thông, Biệt, Viên; mỗi giáo đều có ba học, tất cả đều được nói là xinh đẹp thông minh. Y cứ theo văn hợp ở dưới, lấy người phá hoại chánh pháp làm con, thì chẳng trái nhau. Ba thứ tín nghiêng về một bên thì phá hoại pháp tánh, tức là lấy bi làm con; nếu y cứ theo chánh tín thì lấy Từ làm con. Kế là giao phó cho nghiêm sư. Xưa nói bốn ý là Sư y cứ theo văn hợp ở sau, lấy nhà vua và bốn bộ chúng làm Sư. Đây là những người nắm giữ chánh pháp, người nắm giữ chánh pháp thì lấy pháp làm thầy. Văn sau nói: “Thầy chư Phật chính là Pháp”. Pháp có nghiêm và chẳng nghiêm, chẳng nghiêm có ba thứ, nghiêm tức là Viên pháp. Từ câu: “Mà nói rằng v.v…” trở xuống là dặn dò nghiêm khắc chỉ dạy. Nói: “Có thể dạy dỗ” tức là chỉ dạy từ Thiên nhập Viên. Nói oai nghi lễ tiết là dụ cho giới Viên giáo; nghề nghiệp dụ cho Định Viên giáo, thư số dụ cho Tuệ Viên giáo. Học Viên giáo mau thành tựu thì chẳng cần khổ trị, nếu chẳng mau thành tựu thì phải khổ trị. Gậy dụ cho trí, do gậy nên ba người con chết, do trí nên Thiên bị phá. Thiên bị phá cho nên ba đứa con chết, Viên được lập nên con một thành tựu. Nói phá thiên, chẳng phải chỉ trị hủy phạm, mà sự giữ gìn hay hủy phạm của Tạng, Thông, Biệt, cũng đều khổ trị. Vì sao? Vì đối với ba Tạng giáo là giữ gìn mà đối với Viên giáo là phạm; Thông, Biệt cũng giống như thế. Cho nên tuy nói chết ba đứa con, ta rốt cuộc cũng chẳng tiếc. Đứa con Viên giáo tin thường, nên chẳng bị chết, chỉ vì chưa đạt đến giai vị rốt ráo, nên phải chịu khổ trị. Xưa cho bốn bộ là bốn người con, gậy giết bộ nào? Bộ nào không chết, nghóa hợp chẳng thành, chẳng đúng với Văn kinh, nên nay chẳng dùng. Kế là trong phần hợp dụ thì Như Lai hợp với vua, quan; xem người hủy pháp hợp với các người con; vua và bốn bộ chúng hợp với thầy dạy, ba phẩm pháp hợp với lễ tiết v.v…; cần phải khổ trị hợp với dùng gậy đánh chết; nói “không có tội” là hợp với nghóa “chỉ có phước mà không có tội”, v.v… Từ câu: Này người thiện nam v.v…” trở xuống, là so sánh để hiểu rõ. Vua và thầy chỉ nghó đến con mình, còn chẳng phải con thì chẳng nghó nhớ, chỉ thành tựu cho con mà không thành tựu cho người khác, nghó nhớ nghiêng về một bên, khổ trị nghiêng về một bên mà còn không có tội, huống chi Như Lai tâm từ bình đẳng, thành tựu bình đẳng. Vua và thầy nghó nhớ riêng, chỉ dạy riêng mà còn được phước vô lượng, huống chi là Như Lai bình đẳng nghó nhớ, bình đẳng chỉ dạy mà chẳng đạt được phước ư? Vì thế nêu công đức của ba thời, trong đó khéo tu là hiện đời, sống lâu là vị lai, biết đời trước là quá khứ. <篇> <卷>QUYỂN 8 <詞>PHẨM 4: TRƯỜNG THỌ (PHẦN CUỐI) Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật, v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ tư. Trước hỏi, sau đáp. Hỏi có ba ý: 1/ Bác bỏ lời Phật chỉ dạy; 2/ Lập dụ để giải thích ý bác bỏ; 3/ Hợp dụ kết luận nêu lỗi. Ý thứ nhất. Trên nói tu tâm bình đẳng được phước ba đời, Ca-diếp cho rằng nghóa này chẳng đúng. Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là ý thứ hai lập dụ, có ba: Như người biết pháp chỉ có lời nói. Từ câu: “Về nhà v.v…” trở xuống là nói không có hạnh hiếu thuận. Câu: “Người biết pháp này, v.v…” là kết luận về ngôn hạnh trái nhau. Ý thứ ba/ Hợp dụ, kết luận lỗi, có ba. Nói tu tập tâm bình đẳng là hợp với biết pháp nói ở trên. Từ câu: “Nay Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là hợp với ý không có hạnh ở trên. Từ câu: “Như Lai v.v…” trở xuống là hợp với ngôn hạnh trái nhau nói ở trên. Nếu nói thực hành tâm Từ sẽ được sống lâu, vậy đoản thọ thì do tâm ác. Đây là kết luận ý hạnh trái nhau. Chẳng sát sinh thì tuổi thọ dài lâu, nhưng nay lại có tuổi thọ ngắn ngủi, giết bao nhiêu chúng sinh? Đây là kết luận thân hạnh trái nhau. Về miệng và hạnh trái nhau, như trên đã nói. Hưng Hoàng nói lại lời giải thích của người khác rằng: “Ca-diếp thường chấp Tích để vặn hỏi, Đức Phật thường dùng Bản để đáp”; rồi phá như sau: “Như thế thì hỏi đáp không bao giờ liên quan nhau ư? Nếu chỉ y cứ vào thân trượng sáu, người nghi không đạt thì nói là Vô thường; người hiểu đạt thì biết đó là Thường. Nếu Thường mà khác, là chẳng phải Thường”. Cách giải thích này chưa được rõ. Thường có nhiều ng- hóa: Phật dùng Thường để đáp? Lại vô thường cũng có rất nhiều nghóa, Ca-diếp chấp vô thường nào? Kế là Phật đáp, có hai ý: a) Chê trách Ca-diếp dùng lời thô; b) Nói về thường thọ bậc nhất. Nói lời thô, tức là thầy dùng quả mà suy ra nhân, mới nói rằng Như Lai có tâm oán, và giết hại chúng sinh. Sao thầy chẳng dùng nhân để suy ra quả, mà nói tuổi thọ Như Lai dài lâu, sẽ không có nhân ác; mà cho rằng có, nên gọi là lời thô. Nói “là bậc nhất trong các pháp thường” tức là đối với thường nào mà nói là bậc nhất? Vì có loại thế gian nối nhau chẳng dứt gọi là Thường; lại có ba vô vi thường; trong đó, do dứt phiền não mà được thường của Như Lai. Thường của Như Lai tức hiện hữu, nên nói là Đệ nhất. Đây là nghóa của Tam tạng giáo. Vả lại, thường của Chân đế là đối với sinh tử luống dối mà lập, nghóa là chân thường này đã không có sinh tử, cũng không có chân, cũng không có chiếu ứng. Thường của Như Lai vốn tự có. Không có đối đãi, thường thật chiếu soi, nên gọi là Đệ nhất. Đây là nghóa của Thông giáo. Lại nói Thường này lưu xuất Thường và Vô thường, tức Phi thường phi vô thường, là chỉ Chân thường mà thôi; đây là nghóa của Biệt giáo. Thường của Như Lai ngay nơi biên là Trung, đầy đủ ba điểm, chẳng dọc chẳng ngang, vì thế nghóa Thường này là bậc nhất, đây là nghóa của Viên giáo. Từ câu: “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống, là nghóa thứ hai, Phật đáp về quả sống lâu. Có hai đoạn: 1/ Nói về Phật bảo là thường; 2/ Nói về Tam bảo là thường. Phật bảo là thường lại có hai ý: Lược hỏi đáp; b) Luận nghóa. Đầu tiên là hỏi, như văn kinh. Kế là Phật đáp, có bốn dụ: 1/ Dụ nói về các thọ nhập thường thọ; thường thọ là bậc nhất; 2/ Thường thọ lưu xuất ra các thọ, thường thọ là bậc nhất; 3/ Dụ thường thọ chẳng phải thường chẳng phải vô thường, nên thường thọ là bậc nhất; 4.Dụ cho thường thọ năng xuất năng nhập, nên thường thọ là bậc nhất, cũng là nói sông thọ mạng sinh tử chảy vào sông Niết-bàn; sông Niết-bàn lưu xuất ra sông sinh tử, chẳng phải sinh tử, chẳng phải Niết-bàn, mà năng sinh tử, năng Niết-bàn. Sau đây là dụ thứ nhất. Xưa giải thích tám con sông dụ cho bốn loài sinh, mỗi loài đều có nhân quả. Vả lại bốn loài sinh là bốn, trời, người, mặt đất, trời người hư không, tổng cộng là tám. Nay cho rằng trong loài người, trong cõi trời, nơi mặt đất và trong hư không đều có tuổi thọ Sinh ấm và Trung ấm, đó là tám con sông. Nếu luận theo xuất nhập thì tất cả tuổi thọ dài ngắn của Sinh ấm, trung ấm đều sẽ thành tuổi thọ của quả Phật, như tám sông lớn sẽ đổ vào biển cả; tất cả các tuổi thọ đều quy về thường mạng, đó là nghóa nhập. Dụ thứ hai nói nghóa xuất. Sông đại Niết-bàn thường mệnh là gốc lưu xuất ra tuổi thọ dài ngắn của các loài người, trời, trên mặt đất, trong hư không; như hồ A-nậu chảy ra bốn con sông lớn. Kinh Đại Phẩm ghi: “Từ Bát-nhã xuất sinh ra Sát-lợi, Bà-la-môn v.v…”, kinh Tịnh Danh nói: “Từ gốc vô trụ mà lập tất cả pháp”. Đó là nghóa xuất. Dụ thứ ba, chẳng phải xuất nhập. Nếu nhất định chấp là xuất nhập, thì làm sao xuất nhập được; nên chẳng phải là xuất nhập, nên nêu lời khen ngợi hư không. Dụ thứ tư: Năng xuất nhập là nêu lời khen ngợi đề hồ. Phần luận nghóa. Văn có ba: 1/ Nhiếp chung câu hỏi; 2/ Hỏi về tánh thế gian; 3/ Hỏi về pháp tánh. 1.Nói về nhiếp tông, đầu tiên là lời hỏi, như văn kinh ghi. Kế là đáp, có bốn: 1/ Chẳng phải; 2/ So sánh; 3/ Kết luận; 4/ Khuyên, rất dễ hiểu. Y cứ theo tánh thế gian để hỏi. Có hai: Một là xướng hai môn thế gian và xuất thế gian. Hai là vặn hỏi. Có hai ý: Vặn hỏi về hai giáo không khác nhau và vặn hỏi về hai lý chẳng khác. Kế là Phật đáp, đều là trả lời về khác nhau. Đầu tiên là đáp về giáo. Trước Phật nói về giáo thường, ngoại đạo trộm giáo thường. Trộm và chẳng trộm khác nhau, sao nói chẳng khác. Đáp các ý này có bốn: 1/ Phật bị trộm; 2/ Phật nhận trở về; 3/ Kết luận nêu chánh giác; 4/ Khuyên tu. Thứ nhất lại có khai và hợp. Nói Trưởng giả là dụ cho Phật; đàn bò dụ cho thuyết giáo; các mầu sắc dụ cho căn cơ khác nhau; nói cùng một bầy đàn là nói lý bình đẳng, giao cho người chăn thả là dụ cho người truyền kinh, cho ăn cỏ uống nước tức là tùy cơ giáo hóa làm lợi ích, chỉ vì đề hồ là dụ cho cầu thường trụ, chẳng mong được sữa lạc tức chẳng cầu Nhị thừa và trời, người vô thường, vắt sữa tự uống là dụ cho người truyền kinh được lợi ích; Trưởng giả qua đời là Phật diệt độ, giặc cướp đàn bò là dụ cho giáo của Phật bị trộm; không có phụ nữ là nói không có tầm từ; tự vắt sữa uống là dụ cho lợi ích đạt được. Từ câu: “bảo nhau” trở xuống là dụ cho việc kính mến lý sâu xa. Nói: “Chúng ta không có vật chứa”, tức chẳng đúng căn tánh. Nói: “Dẫu có được sữa, cũng không có nơi chứa” tức dẫu có giữ giới cũng chẳng phải là gốc thường trụ. Nói: “Chỉ có túi da”, tức cảm báo cõi trời, cõi người, dẫu có trì giới thì cũng thành nghiệp của các Hữu. Chẳng biết cách làm là không có phương tiện định tuệ. Lạc dụ cho pháp lành trời, người; lạc đầu tiên dụ cho tương tự đạo, đề hồ sau cùng dụ cho chân đạo; đổ thêm nước là dụ cho việc khởi tri kiến ngã nhân. Nói tất cả đều mất là dụ cho khởi kiến thì rơi vào đường ác, pháp lành, trời, người đều mất. Từ câu: “Phàm phu cũng thế, v.v…” trở đi là phần hợp, văn có hai là lược nêu và giải thích rộng. Pháp lành của phàm phu là trộm pháp thừa của Phật. Nói Thừa tức là thời Tượng pháp và Mạt pháp, trộm cắp sinh khởi, còn vào thời chánh pháp thì chẳng sinh khởi được. Sau khi nhập Niết-bàn là hợp với việc Trưởng giả qua đời; nói tuy được là hợp với việc chẳng biết làm cách nào; vì Giải thoát là hợp với thêm nước vào sữa; có ít phạm hạnh là hợp với việc vắt sữa tự uống; thật chẳng biết do tu ít phạm hạnh mà được sinh Phạm thiên là hợp với việc không có phụ nữ. Tuy tu hành sinh lên cõi trời mà thật chẳng biết nhờ vào Phật pháp. Từ câu: “Vì thế, sau khi, v.v…” trở xuống là nói về nay Phật nhận trở về. Văn có ba là pháp, dụ và hợp. Pháp như văn đã ghi. Nói Luân vương là dụ cho Phật hôm nay. Quân cướp tan rã tức là xua đuổi ngoại đạo khắp sáu ngôi thành lớn. Đàn bò không tổn hại là nhận đầy đủ Thường, Lạc, v.v… trở về. Giao cho người chăn tức phó chúc cho người mở mang truyền bá. Liền được đề hồ, tức tự tha đều khế hợp pháp tánh thường trụ. Từ câu: “Pháp Luân vương, v.v…” trở xuống là hợp với Phật hôm nay ra đời. Nói phàm phu không thể là hợp với việc xua đuổi ngoại đạo; từ câu: “Các Bồ-tát, v.v…” trở xuống là hợp với người chăn dắt. Từ câu: “Này người Thiện nam v.v…” là kết luận nêu chánh pháp. Nói chẳng phải, v.v… rất dễ hiểu. Từ câu: “Ca-diếp nên biết v.v…” trở xuống là phần khuyên tu, gồm có hai: Khuyên tu; Phân biệt tu. Ý khuyên tu lại có hai: Khuyên ngài Ca-diếp; và khuyên chung. Phân biệt tu: Là chọn lọc điều xưa mà trình bày điều nay. Nếu có người tu hai chữ làm tướng diệt, tức là pháp tánh thân diệt trí đoạn của giáo xưa; nếu tu hai chữ Thường Trụ, tức là pháp tánh của giáo nay. Hỏi đáp về pháp tánh. Hỏi có bốn ý: 1/ Nêu câu hỏi, xin đáp; 2/ Nêu việc xưa để vặn hỏi việc hôm nay; 3/ Dùng việc hôm nay để vặn hỏi việc khi xưa; 4/ Kết luận. Ý thứ nhất rất dễ hiểu. Ý thứ hai. Xưa dạy thân trí đều xả, nay hỏi pháp tánh tức là xả thân mà chẳng nói xả trí. Các Sư Số Luận cho rằng trí có hai thứ là trí Hữu lậu diệt tức là Niết-bàn; trí Vô lậu diệt tức là phi số duyên, chẳng chấp là Niết-bàn. Đã có phải và chẳng phải, nên chẳng nói xả trí. Luận sư nói rằng hai trí diệt đều là Niết-bàn mà có hai nghóa: Nếu nói đạo năng dẫn đến diệt, thì bên này chẳng phải là Niết-bàn, nếu nói là quả cùng tận, thì bên này là Niết-bàn, đã có phải và chẳng phải, nên chẳng nói xả trí. Quán Sử cho rằng chẳng phải như thế, đó là do văn kinh lược bớt. Nói “Vô sở hữu” là lời vặn hỏi, cho nên dùng pháp tánh để vặn hỏi về thân Thường trụ. Từ câu: “Nếu thân là có v.v…” trở xuống là ý thứ ba dùng việc hôm nay để vặn hỏi việc khi xưa. “Nếu thân là có”, tức là dùng thân để vặn hỏi về pháp tánh. Pháp tánh thì không, thân thì có, có không ngại nhau, dùng đó để vặn hỏi. Câu: “Thân có pháp tánh, v.v…” trở xuống là ý thứ tư kết luận điều chẳng hiểu. Phật đáp, có hai: 1, Bác bỏ; 2, Lập dụ. Bác bỏ: Ta không hề nói diệt thân, diệt trí gọi là pháp tánh. Đó là xưa nói, còn nay thì chẳng phải như thế, cho nên bác bỏ. Lập dụ dụ, có hai: Dụ; và Hợp. Trong Dụ lại có hai: 1/ Chánh dụ; 2/ Lập dụ để bác bỏ. Đầu tiên là nói trời Vô tưởng, các sư Số Luận nói: “Về Vô tưởng, niệm đầu tiên còn có tâm khởi, từ đó sinh ra ái kết mà thành Vô tưởng lạc. Dẫu cho tâm diệt thì lại có Phi sắc Phi tâm thay thế vào chỗ có tâm”. Các Luận sư nói: “Tâm chẳng thể diệt mà nói Vô tưởng, là vì lúc bấy giờ tâm rất sâu kín như trùng trong thân vi trùng, như cá trong băng, dường như không có tâm sâu kín. Còn nói không có sắc tưởng, tức không duyên với sắc thể. Kế đến, từ câu: “Chẳng nên hỏi, v.v…” trở xuống là thí dụ để bác bỏ. Ở đây nói về năm ấm, nói làm sao trụ tức là sắc ấm, vui vẻ thọ lạc tức thọ ấm, làm sao hành tưởng là hai ấm kế tiếp, thấy nghe là thức ấm. Có người giải thích rằng chỉ nói bốn ấm, sau nói nếu là thực hành trong tâm tưởng thì chẳng nên nói riêng là hành ấm. Kế đến, từ: Này người thiện nam v.v…” trở xuống là hợp dụ. Có hai: 1/ Chánh hợp dụ; 2/ Hợp với dụ bác bỏ. Đầu tiên là hợp với trời Vô tưởng thành tựu sắc ấm mà không có sắc tưởng. Pháp tánh của Như Lai thành tựu vắng lặng, bất luận là diệt hay chẳng diệt. Kế là, từ câu: “nay thầy chẳng nên, v.v…” trở xuống là hợp với lời quở trách. Từ câu: Này người thiện nam v.v…” trở xuống là phần hai, nói chung về Tam bảo nhất thể là quy y thường. Văn kinh có hai ý: 1/ Nói về Tam bảo là thường; 2/ Luận nghóa. Thứ nhất lại có ba ý: 1.Khuyên tu thường; 2. Nói về được mất; 3. Chánh thức nói về quy y. Đầu tiên khuyên quán tưởng là thường, sau nói không có tưởng vô thường. Kế là, từ câu: “Nếu đối với ba pháp, v.v…” trở xuống là nói về được mất. Nêu điều mất để răn, nêu điều được để khuyên. Như khi xưa bốn thời đều chẳng được, nói ba pháp quán tưởng dị, mà chẳng đắc giới, vì sao? Vì đó là Biệt thể quy y. Cho nên Khai Thiện ghi: “Trước đã đắc đạo đắc giới. Nếu chẳng đắc, thì khi giáo hôm nay khởi, vì sao chẳng thọ? Đã chẳng thọ nên biết là đã đắc. Nếu thấy hôm nay giáo nhất thể khởi mà còn chấp Biệt khi xưa, chẳng nương vào Viên hôm nay, tức chẳng tin, nên nói không có giới. Văn nói: “Nếu có thể đối với không nghó bàn này” là lời khuyên. Thứ ba, từ: này người “Thiện nam v.v…” trở xuống là chánh thức nói về quy y. Văn có ba là khai, dụ và hợp và nêu điều sai khác đều đúng. Từ: “Ca-diếp, v.v…” trở xuống là phần luận nghóa, có hai: 1/ Hỏi đáp; 2/ Lãnh hội khen ngợi. Đều có thể tự hiểu, v.v… Hưng Hoàng cho rằng Cây dụ cho thường trụ, ảnh dụ cho Như Lai, làm chỗ quy y cho chúng sinh. Ngài Ca-diếp vặn hỏi cây trong chỗ tối không có bóng, là dụ cho Như Lai sau khi diệt độ không còn làm chỗ quy y cho chúng sinh. Đức Phật đáp trong chỗ tối cây vẫn có bóng, nhưng mắt thịt không thấy được, là dụ cho nghóa Như Lai vẫn thường làm chỗ nương, mà người phước mỏng không thấy, nên nói rằng không có chỗ nương. -------------------------------------- <詞>PHẨM 5: KIM CƯƠNG THÂN Kim cương là vật năng dụ, thân là pháp được dụ. Kim cương có bốn nghóa: 1/ Là loại vàng tía, làm nền móng của thế giới; 2/ Thể của nó rất bền chắc không gì phá hoại được; 3/ Dụng của nó rất cứng chắc, sắc bén không gì hơn; 4/ Màu sắc chẳng nhất định, chói sáng, khó nhìn. Vàng tía dụ cho Pháp thân chí cực, gồm thâu tất cả pháp, Thể bền chắc dụ cho thường trụ bất động, lìa trăm lỗi, bặt bốn câu; sắc bén dụ cho vắng lặng chiếu soi, đại giác đại minh; chẳng nhất định thí dụ cho năng lực vô ngại tự tại, biến hiện cùng khắp tất cả mọi nơi. Nhưng Pháp thân đầy đủ vô lượng công đức, ở đây chính là muốn nói về nghóa lìa trăm lỗi, bặt bốn câu, bền chắc thường trụ, để đáp lời hỏi về thân Kim cương ở phẩm trên. Nếu nói theo vật dụ thì gọi là phẩm Kim cương thân, nếu y cứ theo pháp được dụ thì gọi là phẩm Pháp thân. Đây là dùng pháp và dụ để đặt tên, nên gọi là phẩm Kim Cương Thân. Vả lại, ở trên tuy nêu ba mươi bốn câu hỏi, nhưng chỉ gồm vào một ý, tức là sống lâu. Trong đó, thân Kim cương là năng lực bền chắc chẳng thể hủy hoại, đó là Pháp thân, Thường thân, chẳng phải thân tạp thực. Viên và Thông chẳng cách biệt, nếu biết được sống lâu sẽ biết được thân Kim cương, cho đến thông đạt được tất cả các câu hỏi. Nếu chúng sinh hiểu được sống lâu, thì cũng hiểu được thân Kim cương, cho đến các câu; vì người chẳng hiểu, nên lại phải phân biệt giải thích. Nếu dùng chung mà đặt tên, thì chẳng phải không có nghóa riêng; nếu dùng biệt mà đặt tên, thì chẳng phải không có nghóa thông. Chung chẳng được đặt tên, thì chung chẳng phải chung; riêng chẳng được đặt tên, thì riêng chẳng phải riêng; chẳng phải chung chẳng phải riêng mà là chung là riêng. Nay từ ý biệt mà nói về thân Kim cương, trả lời câu hỏi thứ hai. Có người giải thích rằng sống lâu là pháp, pháp này tùy thuộc vào người; Kim cương là người, người này có tuổi thọ, sức bền chắc là Dụng. Đây là dùng người, pháp, thể, dụng khác nhau để phán xét về chung riêng. Nay nói tất cả muốn phân biệt, vì sao không theo văn kinh. Văn trước ghi: “Nay ta ban cho các thầy thường mệnh, sắc, lực, an, vô ngại biện.” Trước đã nói lược, ở đây giải thích rộng thêm. Nói sống lâu tức là thường mệnh, thân Kim cương tức là thường sắc, bền chắc tức thường lực, danh tự công đức tức thường an, nói bốn tướng tức thường vô ngại biện. Về sau trả lời các câu hỏi cũng chẳng lìa năm quả thường trụ này. Nói năm quả, cho nên gọi là riêng, nói thường trụ nên gọi là chung. Như chung, riêng, tụ, tán mà chẳng phải chung, riêng, tụ, tán, tự tại vô ngại. Nói về một ý chung riêng mà bao gồm tất cả nghóa lý, suy ra tự biết, chẳng cần phải nói nhiều. Lại có người cho rằng sống lâu, chết yểu, có thể hoại không thể hoại, thường hay vô thường, thì mỗi thứ tự có hai bên, chẳng quan hệ nhau; tức chẳng trường chẳng đoản, chẳng hoại chẳng phải chẳng hoại, chẳng thường chẳng phải vô thường đều ở ngoài hai bên. Đó là ngang dọc, chung riêng, là một nghóa khác, chứ chẳng phải là ý chính của kinh này. Ở đây giải thích chẳng phải như thế mà cho rằng ngay nơi trường, là đoản, nên nhập diệt rừng cây khô; ngay nơi đoản là trường, nên nhập diệt nơi rừng cây tươi. Hai cây ở phương Đông nói lên nghóa phá vô thường mà nói thường, tức chẳng trường chẳng đoản. Giữa hai cây là nói lên chẳng tươi chẳng khô; Trung đạo pháp tánh Đệ nhất nghóa đế, một trung tất cả trung; tươi tức là một chân tất cả chân, khô tức một tục tất cả tục. Ba Đế tức một Đế, một Đế tức ba Đế, khác nhau mà không khác nhau, không khác nhau mà khác nhau, mà khác nhau mà không khác nhau. Cảnh giới chư Phật đầy đủ như thế, chẳng thể nghó bàn, chẳng thể phá hoại, nên gọi là phẩm Kim Cương Thân. Y cứ vào văn có hai: 1/ Nói về quả Pháp thân; 2/ Nói về nhân Pháp thân. Trong phần hỏi ở trên gồm có hai ý, nay đáp thành hai chương. Đầu tiên là nói về quả Pháp thân; lại có hai: a/ Nói về Pháp thân; b Luận nghóa. Lược nêu năm thân để nói về nghóa Pháp thân. Xưa nói Pháp thân, Thường thân là ngay nơi thể mà đặt tên; nói thân bất hoại, thân chẳng phải do tạp thực là từ lìa lỗi mà đặt tên, nói thân Kim cương là từ dụ đặt tên. Lại nói bốn thân tương quan lẫn nhau mà thành. Thường thân, cho nên chẳng hoại; vì chẳng hoại, nên đó là Thường thân; vì chẳng tạp thực, cho nên dùng Kim cương để dụ. Nay nói bốn câu đều là đương thể, đều là lìa lỗi, đều là pháp, đều là dụ, cũng thành tựu cho nhau. Vì sao? Vì Kim cương có bốn năng lực để hiển bày Pháp thân, Pháp thân có bốn đức để thành ý của dụ. Kim cương lập thế giới là dụ cho Pháp thân, Thể cứng chắc dụ cho thường thân, sắc bén dụ cho thân bất hoại, bất định dụ cho thân chẳng do tạp thực. Kinh chính là ý này để đặt tên phẩm, đâu có cách giải thích ư? Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật, v.v…” trở xuống là ý thứ hai, luận nghóa, có ba là: hỏi, đáp và lãnh ngộ. Thứ nhất là hỏi, đầu tiên hỏi kế đến là giải thích. Sau đây là văn hỏi: Nêu những điều thấy biết để vặn hỏi về những điều không thấy. Đã nhập diệt, là thân vô thường; bị khổ bệnh làm hại, là thân hư hoại; đã bị nát thành xá-lợi, là thân bụi đất; thọ Thuần-đà cúng dường, là thân tạp thực. Đã chẳng thấy bốn thân, cũng chẳng thấy thân Kim cương. Kế đến, từ câu: “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích thân vô thường đầu tiên, các thân sau so sánh cũng có thể tự hiểu. Từ: “Phật bảo v.v…” trở xuống là lời đáp. Có ba ý: 1/ Bác bỏ lời hỏi; 2/ Chánh đáp; 3/ Kết luận khuyên tu. Ý một như văn kinh ghi. Trong phần chánh đáp có đủ một trăm điều chẳng phải, nhưng một trăm điều chẳng phải này, nếu tính theo số đơn thì có một trăm sáu mươi câu, nếu tính theo số phức thì có một trăm câu. Đã nói một trăm điều chẳng phải theo lý thì nên nói là phức số, nhưng trong một trăm điều chẳng phải này, hoặc có câu đồng chẳng phải đều xã bỏ, hoặc một còn một mất; tuy chẳng phải thường trụ, nhưng chẳng phải cả niệm và niệm diệt, đó là ý đồng chẳng phải; nếu Như Lai nói “chẳng phải thân là thân”, tức là một còn một mất. Nhưng tương truyền xưa nay chẳng giải hết một trăm điều chẳng phải chỉ giải thích một câu “chẳng phải thân là thân”. Nay nêu bảy nhà: Một cho rằng chẳng phải thân, tức chẳng phải thân thọ thực; là thân, tức Pháp thân; hai, cho chẳng phải thân, tức chẳng phải thân thọ sinh, là thân tức Pháp thân. Ba, cho chẳng phải thân tức chẳng phải thân trước định Kim cương dụ, là thân tức thân sau định Kim cương dụ. Ba nhà này đều cho Tục là chẳng đúng, Chân là đúng. Bốn, cho chẳng phải thân là Pháp thân ngầm hợp với Như, thân này ứng hiện mười phương; năm, cho chẳng phải thân là Chân đế, thân này tức Tục đế. Hai nhà này cho Chân là sai, cho Tục là đúng. Sáu, cho chẳng phải thân tức chẳng phải chân thân, là thân tức thân có tướng tốt. Một nhà này mơ hồ, chẳng biết thân nào là sai, thân nào là đúng, tuy mơ hồ nhưng rốt cuộc lại có sai và đúng. Bảy, Hưng Hoàng cho rằng Pháp thân chẳng phải là đúng là sai, đúng chẳng phải đúng, sai chẳng phải sai, bặt một trăm sai, dứt một trăm đúng, không có đúng, không có sai mà năng đúng năng sai. Cho nên nói thân này chẳng phải thân. Quán Sư nói rằng: “Là thân, chẳng phải thân đều do nhân duyên mà thành tựu cho nhau, Pháp thân chẳng phải thân, nhưng không ngại là thân. Suốt ngày là thân mà lại chẳng phải thân, suốt ngày là chẳng phải thân mà lại là thân. Văn lại ghi: “Là không, là lìa không, tuy chẳng thường trụ mà chẳng phải niệm và niệm diệt”. Hai nhà này một ý: Nay chưa rõ biết chỉ thú của các nhà, chỉ chép ra đây mà thôi. Đại sư Thiên Thai nói ba loại bốn câu là đơn, phức và cụ túc. Bốn câu đơn: tức là đúng sai, vừa đúng vừa sai, chẳng đúng chẳng sai. Bốn câu phức: là đúng là sai, chẳng phải đúng chẳng phải sai, cũng là đúng sai, cũng chẳng phải là đúng sai, chẳng phải là đúng sai, chẳng phải chẳng đúng sai. Là đúng chẳng phải đúng đúng, vừa đúng vừa chẳng phải đúng đúng; chẳng phải đúng sai chẳng phải đúng đúng. Bốn câu trước y cứ theo sai, bốn câu sau y cứ theo đúng. Cũng là nói trước là đơn, sau là phức. Nói cụ túc, là đúng đúng, là đúng chẳng phải là đúng đúng, là đúng đúng cũng là đúng đúng cũng chẳng là đúng đúng, là đúng chẳng phải đúng đúng, chẳng phải chẳng phải là đúng đúng, đây là câu hữu cụ túc. Chẳng phải đúng chẳng phải chẳng phải đúng, chẳng phải vừa đúng cũng chẳng phải đúng, chẳng phải đúng đúng chẳng phải không đúng, chẳng phải đúng đúng chẳng phải chẳng phải đúng đúng, chẳng phải vừa đúng đúng cũng chẳng phải đúng đúng, chẳng phải chẳng phải đúng đúng, chẳng phải chẳng phải chẳng đúng đúng. Đây là câu vô cụ túc, các câu cụ túc khác so sánh cũng có thể tự hiểu, chẳng cần phải nói. Nhưng y cứ theo ba loại bốn câu trong Ma-ha Chỉ Quán của Đại sư Thiên Thai thì dễ thấy được. Luận thêm rằng: Đã nói chỉ y cứ theo văn chỉ quán thì dễ thấy, nay so sánh với văn ấy xem. Sai và đúng mỗi trường hợp có ba thứ bốn câu: Trước y cứ theo đúng, đúng chẳng phải đúng, vừa đúng vừa chẳng đúng, chẳng phải đúng chẳng phải chẳng phải đúng, đó là câu đơn. Thị thị, thị bất thị; bất thị thị, bất thị bất thị; vừa thị vừa bất thị thị, vừa thị vừa bất thị bất thị; phi thị thị bất thị thị, phi thị phi bất thị bất thị. Đó là câu phức. Thị thị là bất thị, thị vừa thị vừa bất thị, Thị thị là phi bất thị, bất thị là bất thị bất thị, bất thị vừa thị vừa bất thị; bất thị chẳng thị chẳng bất thị, vừa thị vừa bất thị thị, vừa thị vừa bất thị bất thị, vừa thị vừa bất thị vừa thị vừa bất thị, vừa thị vừa bất thị, phi thị phi bất thị, phi thị phi bất thị thị, phi thị phi bất thị bất thị, phi thị phi bất thị vừa thị vừa bất thị, phi thị phi bất thị phi thị phi bất thị. Các câu về phi: cũng có ba thứ bốn câu: phi, bất phi, vừa phi vừa bất phi, chẳng phi chẳng bất phi, đó là câu đơn. Chẳng phải phi chẳng phải bất phi, chẳng phải phi phi chẳng phi chẳng phi, cũng phi cũng chẳng phải phi phi, cũng phi cũng bất phi bất phi, phi phi phi bất phi phi, phi phi phi bất phi bất phi, đây là câu phức, phi phi, phi bất phi, phi vừa phi vừa bất phi, phi phi chẳng phải phi bất phi, bất phi chẳng phải bất phi bất phi, bất phi vừa phi vừa bất phi, bất phi phi chẳng phải phi bất phi, vừa phi vừa bất phi phi, vừa phi vừa bất phi bất phi, vừa phi vừa chẳng phi vừa phi vừa bất phi, vừa phi vừa bất phi phi chẳng phải phi bất phi, phi phi chẳng phải bất phi phi, phi phi chẳng phải bất phi bất phi, phi phi chẳng phải bất phi, vừa phi vừa bất phi, phi phi chẳng phải bất phi, phi phi chẳng phải chẳng bất phi. Trên là vẫn giữ nguyên sự giải thích của Đại sư Chương An trước kia mà chẳng dám thay đổi. Tuy đúng và sai mỗi mỗi có các câu riêng, nhưng đều nói chẳng đúng tức là sai, chẳng sai tức là đúng mà thành ba loại bốn câu, cho nên có đối đãi nhau. Nếu so sánh ba loại bốn câu này với “sai” của các sự giải thích ở trước, thì bốn câu nào là sai, bốn câu nào là chẳng sai? Các loại bốn câu này sai, các Sư kia chỉ nêu ra kiến giải bốn câu, mà chưa nêu ra chỗ thấy bặt ngôn ngữ, như thế mà kết là Pháp thân ư? Nay nói chẳng phải thân, tức chẳng phải thân tạp thực, chẳng phải thân cát bụi mà các kiến đã chấp, cho nên nói chẳng phải thân. Ngay nơi sai là đúng, là Pháp thân, thường thân, Kim cương thân; nhưng thân Phật chẳng đúng chẳng sai, mà hay vì chúng sinh hiện chẳng phải thân, là thân. Lại giải thích “trừ nhất pháp tướng” tức chẳng hai, thân Như Lai thật là song phi mà nói Pháp thân là vì duyên, nên nói “trừ nhất pháp tướng”. Kinh Đại phẩm nói: “Trừ tâm Nhất thiết trí”. Xưa nay, chẳng những không giải thích một điều chẳng phải, mà còn không nêu ra ý nghóa, vì sao nêu một trăm để làm phi, đó là y cứ vào đâu? Nay thử nói xem! Thân Như Lai lìa một điều chẳng phải, như văn sau ghi: “Đầy đủ một trăm phước thành một tướng, như thế xoay vần tạo thành ba mươi hai tướng”. Nói một trăm phước, tức là giữ giới chẳng sát sinh có năm tâm là hạ, trung, thượng, thượng thượng, thượng trung thượng, cho đến chánh kiến cũng giống như thế. Năm mươi tâm này gọi là Sơ phát tâm quyết định thành tựu. Năm mươi tâm này gọi là một trăm phước. Như thế một trăm phước thành một tướng. Lại nói một pháp lành có đủ mười điều lành là một trăm phước. Thích Luận nói: “Người trong cả Đại thiên mất nhãn mất mạng, nếu có người cứu được nhãn và mạng ấy, thì được một phước, như thế một trăm lần gọi là một trăm phước đức”. Đối với một trăm phước mà nói về một trăm điều ác, thì trăm điều ác là “sai”. Từ một trăm ác mà vời lấy thân tạp thực, thân cát bụi, thân vô thường trong bốn đường, đó là “chẳng phải thân”. Từ một trăm phước mà cảm được thân Như Lai đầy đủ các tướng quý và đẹp, đó là Pháp thân, thường thân, thân Kim cương. Được ba vô vi gọi là thường thân, tám mươi ức ma chẳng thể phá hoại nên gọi là thân Kim cương, nên gọi “là Thân”. Đây là thân Phật theo Tam tạng giáo lìa một trăm điều chẳng phải. Vả lại, thân thanh tịnh đầy đủ ba mươi hai tướng do một trăm phước chiêu cảm đều là hữu vi, quả báo hữu vi thì các Hiền thánh nhàm chán. Thích Luận ghi: “Vật độc chẳng nên chứa thức ăn; nếu chứa thức ăn vào sẽ chết người”. Có tâm hành thì tu hành chẳng đạt đến đạo; cho nên biết chánh ý vặn hỏi của Ca-diếp là ở đây, “Nay con chỉ thấy thân tạp thực, vô thường, cát bụi”. Cho nên một trăm phước là “sai”, tánh của phước là không, cho nên “đúng”. Vì thế nói: “Hễ cái gì có tướng thì đều là luống dối, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức là thấy Như Lai”. Đó là lấy pháp không làm thân, không mà bất đắc không là thân Kim cương. Đó là thân Phật Thông giáo lìa một điều chẳng phải. Lại trong “không” chẳng có pháp, chẳng phải, chẳng quấy, cũng chẳng có thân, thì đâu thể lấy không làm “đúng”, nếu chẳng phải “đúng”, thì là “sai”. Nhị thừa được không, vì sao chẳng được gọi là “đúng”? Nhị thừa chẳng thể hiện, chỉ vì đó là nghiêng về không; phi thời thủ chứng, nên gọi là thân tạp thực. Không này phá hoại được, tức là thân vô thường, không này cần phải bỏ, tức là thân cát bụi. Cho nên không tức “chẳng phải thân”. chư Phật chứng đắc “không” mà hiện thân, vì đó là Trung đạo không. Trung đạo là Pháp thân, Thường thân, thân Kim cương. Đó là thân Phật theo Biệt giáo lìa một trăm điều chẳng phải. Vả lại, bặt dứt một trăm điều ác, vào một trăm phước, lìa một trăm phước vào một trăm không, bỏ một trăm Không vào một trăm Trung, theo thứ lớp từ cạn đến sâu, ngang dọc, chung riêng đều bặt dứt. Theo thứ lớp thủ chứng là thân tạp thực, trước sau hơn kém là thân vô thường, ngăn ngại khác nhau là thân cát bụi, cho nên phân biệt bác bỏ. Thân Phật tròn đầy, mầu nhiệm, không có bất cứ một chướng ngại gì. Vô lượng trong một, một trong vô lượng, chẳng phải một chẳng phải vô lượng, chẳng phải một chẳng phải khác, đầy đủ không thiếu, gọi là đại Niết-bàn. Ác tức Trung đạo, không hai không khác, tất cả các pháp đều là tánh an vui. Trăm ác còn Trung, huống chi một trăm phước không, mà chẳng “Tức Trung” ư? Pháp “Tức Trung” là Pháp thân, Thường thân, thân Kim cương, đó mới được gọi là “đúng”, là thân Phật theo Viên giáo lìa một điều chẳng phải. Lìa một điều chẳng phải trước gọi là thân Phật, thì đó là ý của các kinh khác. “Tức chẳng phải” của giáo thứ tư là ý chính của kinh này. Xưa nay các Sư không phân biệt, nên tuy có nêu một điều chẳng phải mà chẳng biết nghóa nào là “sai”? Nói Pháp thân mà chưa biết thân nào là “đúng”. Đó là giải thích đại ý, có thể thấy được cảnh giới chư Phật mầu nhiệm khó lường, nghiên tầm lại càng khó hơn. Lại có người giải thích rằng một câu nói về trời, người đầu tiên có đầy đủ công đức của chín mươi chín câu, một câu nói về Niết-bàn. Sau cùng cũng đầy đủ công đức của chín mươi chín câu trước; các câu ở giữa cũng giống như thế. Vì sao? Vì một câu đã là Pháp thân, thì đầy đủ các công đức. Y cứ theo văn kinh thì có ba phen: ba câu trước là một phen, nói về chẳng phải thân trời người, dường như phi tục nhập chân. Ý vào chân, ngay nơi tục là chân đều chẳng đúng, cả hai đều xả bỏ, như phóng Kim cương đến tận mé Kim cương luân là dừng! Kế đó tám mươi câu là một phen nói về chẳng phải thân, là thân, dường như phi chân xuất tục. Như Lai độ thoát tất cả chúng sinh, mà không có độ thoát; làm cho chúng sinh hiểu biết, vì không có ai làm cho được hiểu biết, làm cho chúng sinh giác ngộ, vì không có ai giác ngộ cho họ; hay chư Phật nói pháp, vì không hai; chẳng thể suy lường, vì không gì sánh bằng; bình đẳng như hư không, không có hình mạo đồng với tánh vô sinh, chẳng đoạn chẳng thuờng, thường thực hành nhất thường, chúng sinh thấy là ba, chẳng lui sụt, chẳng dời chuyển, dứt tất cả kết sử chẳng run sợ, chẳng xúc chạm, chẳng phải tánh mà trụ trong tánh, chẳng hợp chẳng tan, chẳng dài chẳng ngắn, chẳng tròn chẳng vuông, chẳng phải ấm nhập giới, mà là ấm nhập giới, chẳng thêm chẳng bớt, chẳng hơn chẳng thua; thân Như Lai thành tựu vô lượng công đức như thế. Ý xuất tục, tức không tức trung, một xuất thì tất cả xuất, tùy theo người được độ, đều sẽ thấy nghe. Mười bảy câu sau là một phen nói không ai biết, không ai chẳng biết, dường như đồng chẳng phải hai bên. Tức biên nhập trung có bên nhập vào trung tâm một sắc một hương đều là Trung đạo. Tuy phân biệt như thế, nhưng chẳng nên chấp một bề, nếu chấp một bề, thì chẳng thành mầu nhiệm. Mầu nhiệm thì tức nhập (vào) tức xuất (ra) tức trung (ở trung tâm). Lại tức xuất tức nhập tức trung, tức trung tức nhập tức xuất, chẳng phải là một, hai, ba hay là một, hai, ba. Từ: “Như Lai v.v…” trở xuống là kết luận khuyên tu, có hai ý: 1/ Kết luận, như thế mới gọi là Pháp thân mầu nhiệm đầy đủ các công đức, bốn thân khác cũng kết như thế. Như nói Thanh văn, Duyên giác biết được là kết thành thân thường; Nhị thừa biết Vô thường chẳng thể biết Thường. Nói: “Chẳng nuôi lớn” là kết thành thân chẳng do tạp thực; chân thân chẳng đồng như vật dễ hư hoại là kết thành thân chẳng hoại. Kết thành thân Kim cương thì như văn đã ghi: “Thị hiện khổ bệnh, vì điều phục chúng sinh”, tức thị hiện thân hư hoại. Nếu theo văn này thì cũng nên nói thị hiện thân ngựa, nai chẳng phải Pháp thân; lại cũng nên thị hiện các thân vô thường sáng sinh chiều diệt; lại cũng nên nói thị hiện thân tạp thực làm thợ săn, ăn thịt các loài thú, v.v… lại cũng nên thị hiện các thân chẳng phải Kim cương như cây chuối, bọt nước, v.v… nói về năm câu Pháp thân, tức nhập vào cái chẳng phải thân. Lại thị hiện ở thân phi pháp, tức là ý xuất ra thân này. Tức nhập tức xuất, tức xuất tức nhập, tức là công đức mầu nhiệm. Chẳng nhập chẳng xuất là ý nghóa chẳng thể giảng nói. Y cứ vào nghóa nhập năm thân, thì thân đầy đủ một trăm câu, tức năm trăm câu; y vào nghóa xuất năm thân, mỗi thân đều có một trăm câu, tức năm trăm câu, tổng cộng có một ngàn câu. Lại tức nhập tức xuất, tức xuất tức nhập là hai ngàn câu; phi tức nhập chẳng phải tức xuất, chẳng phải tức xuất chẳng phải tức nhập là hai ngàn câu, tổng cộng gồm năm ngàn câu. Văn kinh ghi: “Vô lượng công đức mầu nhiệm như thế”, đâu chỉ có năm ngàn câu ư? Đó là y cứ theo văn kinh này mà lập năm ngàn câu! Kế đến, từ: “Ngày hôm nay thầy, v.v…” trở xuống, là khuyên tu. Khuyên tự hành hóa tha, như văn ghi. Từ: “Bạch Phật, v.v…” là lãnh ngộ. Nhận lãnh hai lời khuyên ở trên. Từ câu: “Dạ vâng, v.v…” trở xuống là phần thứ hai đáp về nhân Pháp thân. Nhân có năng lực dẫn đến đắc quả, khả năng này gọi là lực, tức là đáp câu hỏi “Được năng lực đại kiên cố.” Trước ngài Ca-diếp nghi là vô thường chóng hư hoại, nay nghe Phật nói một điều chẳng phải, chẳng phải các thân tạp thực, cát bụi, v.v… sau đó mới hiển bày Thường thân thường còn chẳng hoại, Ca-diếp ngộ giải được, rất vui mừng, nhưng chưa biết nhân thành tựu Pháp thân này, nên lại nêu thắc mắc. Nói thân Kim cương là nêu ý trước, nói “Do nhân gì?” là khởi ý sau. Đức Phật đáp, có ba ý: 1/ Chánh đáp; 2/ Lãnh hội; 3/ Khuyên tu. Thứ nhất lại có nói lược và nói rộng. Nói sơ lược có hai ý: 1/ Nói về hộ pháp; 2/ Dẫn chứng. Văn thứ nhất: Hộ pháp chẳng thể bị hủy hoại, nên hôm nay được thân thường trụ chẳng hoại. Đây là dùng nhân Tương tự mà trả lời. Kế là từ câu: “Ta nhờ nhân, v.v…” trở xuống là lược dẫn chứng. Từ câu: “Này người Thiện nam v.v…” trở xuống là trả lời rộng; có hai: 1/ Nói rộng về hộ pháp; 2/ Dẫn chứng đầy đủ. Đầu tiên lại có hai: 1/ Xuất gia; 2/ Tại gia. Tại gia hộ pháp, chỉ giữ lấy việc làm nơi bản tâm, bỏ sự theo lý, giúp đỡ mở rộng Đại giáo. Cho nên nói hộ trì chánh pháp. Vì chẳng câu nệ tiểu tiết, nên nói chẳng tu tập oai nghi, hộ pháp có bốn cầu: 1/ Xuất gia, tại gia đều chẳng thể hộ trì, tức là hàng Tỳ-kheo không có danh và hạnh, và người thế tục không có thế lực; 2/ Xuất gia, tại gia riêng chẳng thể hộ trì, lại có hai loại, mỗi loại đều chẳng có khả năng; 3/ Xuất gia, tại gia riêng có thể hộ trì như Phật và Tiên dự; 4/ Xuất gia, tại gia đều có khả năng hộ trì như kinh này. Xưa đúng thì nay sai, nay sai thì xưa đúng; nay và xưa đều sai, nay và xưa đều đúng. Khi xưa thời bình, pháp lại hưng thịnh, chỉ nên giữ giới, chẳng nên cầm đao gậy; ngày nay gặp thời thế nhiều hiểm nạn, pháp lại suy đồi, thì nên cầm đao gậy, chẳng nên giữ giới. Nay và xưa đều là thời hiểm nạn đều cần phải cầm gậy; nay xưa đều thái bình thì nên giữ giới. Giữ hay bỏ đều tùy nghi, chẳng nên chấp một bề. Kế là, từ câu: “Ca-diếp bạch Phật, v.v…” trở xuống là nói xuất gia hộ pháp; gồm có hai là hỏi và đáp. Trong phần hỏi lấy việc bỏ lý giữ sự để vặn hỏi. Trong lời đáp bỏ sự giữ lý, như văn đã ghi. Từ câu: Này người thiện nam! v.v…” trở xuống là dẫn chứng rộng các văn. Có bốn ý: 1/ Bản duyên hộ pháp; 2/ Từ câu: “Lúc bấy giờ, v.v…” trở xuống là nói về hạng hộ pháp; 3/ Từ câu: “Liền qua đời, v.v…” trở xuống là nói về quả báo của việc hộ pháp; 4/ Từ câu: “Bấy giờ v.v…” trở xuống là kết hợp. Hai văn trước như kinh đã ghi. Nói về A-súc, kinh Đạo Hạnh dịch là Vô Nộ, kinh Phóng Quang dịch là Diệu Lạc. Vô Nộ và Diệu lạc hai hiệu này chứng minh thành tựu cho nhau. Kinh Tịnh Danh nói là Vô Động. Tiền sinh của vua là Tỳ-kheo thứ nhất, hậu sinh của vua là Tỳ-kheo thứ hai. Lại y cứ theo bốn y thì vua là Sơ y, Tỳ-kheo thứ nhất là y thứ hai. Nói Thanh văn, nhưng chẳng phải Tiểu thừa mà chính là Đại thừa Thanh văn. Ở đây nêu hai hạng người, nhưng định người vào làm chứng, hoặc lấy cả hai làm chứng minh. Ý thứ tư như văn kinh. Kế là câu: “Ca-diếp bạch Phật, v.v…” trở xuống là nói về lãnh ngộ. Ta dùng sự hiểu biết thường hằng để hiểu thân thường của Phật, thì rõ ràng chẳng mất khắc chạm trên đá. Từ câu: “Vì nhân duyên này, v.v…” trở xuống là phần khuyến tu. Có hai ý: 1/ Nêu chung nhân quả để khuyên bốn chúng. 2/ Khuyên riêng hàng tại gia, cho phép cầm đao gậy. Văn có hai: 1/ Khuyên, chia làm bốn: 1/ Hỏi; 2/ Đáp; 3/ Lãnh thọ; 4/ Thuật. Hỏi, có hai ý: 1/ Hỏi có thầy hay không có thầy; 2/ Hỏi về trì hay phạm giới. Một là hỏi Tỳ- kheo có người cầm dao gậy hộ trì, là có đức của thầy hay không có đức của thầy. Theo lời Phật đáp lại có hai: 1/ Chánh đáp; 2/ Kết luận khen ngợi. Trong phần chánh đáp có hai ý: 1/ Đáp có hay không có giới; 2/ Đáp có thầy hay không. Chánh đáp: Văn thứ nhất lại có hai ý. Người không có giới luật này theo người hộ pháp mà làm người hộ pháp, thì chẳng phải người không có giới. Kế là hỏi về việc đã tự giữ giới thì làm sao giáo hóa người. Phật đáp cho phép người hộ pháp, như văn kinh ghi. Từ câu: “Người hộ pháp v.v…” trở xuống là lời đáp thứ hai về có thầy hay không, trước nói lược, sau giải thích rộng. Trong phần nói lược có ba ý: 1/ Trì kinh; 2/ Trì luật; 3/ Phá dẹp kẻ phá giới. Có đủ ba đức này, mới đáng gọi là thầy. Chánh kiến là sự giải ngộ bên trong, giải ngộ kinh luật, gặp duyên hóa đạo phá dẹp kẻ ác gọi là dụng bên ngoài. Từ: “Này Ca-diếp! Nếu có Tỳ-kheo, v.v…” trở xuống là trả lời rộng ba ý trước, nhưng không theo thứ lớp. Đầu tiên là đáp rộng về phá dẹp. Thứ hai, nêu chung ba chúng nói về thầy trò phá hoại chúng. Thứ ba, là nói về chúng thanh tịnh để phá hoại hai chúng trước. Từ: “Người giỏi giữ giới, v.v…” trở xuống là nói trì luật thì sẽ phá dẹp được hai chúng trước. Trong luật có nói sáu thứ năm pháp: 1/ Hàng hữu học, hàng vô học, ở đây là nói về năm pháp thần giải, được lìa y chỉ, có khả năng làm thầy. Trong đó bốn việc so với luật thì hỏi đáp có hơi khác nhau, còn một việc thì khác với luật. Luật gọi là Tụng Mộc-xoa, ở đây gọi là tùy thời giáo hóa. Năm pháp Thần giải là: 1/ Điều phục chúng sinh; 2/ Biết giới khinh; 3/ Biết giới trọng; 4/ Là luật thì chứng biết; 5/ Chẳng phải luật thì không chứng biết. Vì sao? Vì khi điều phục chúng sinh, không được chọn lựa thời tiết, nơi chốn, lại không được một bề điều phục. Khi chưa quán xét căn cơ. Biết giới trọng có thể tự hiểu. Biết giới khinh, tức mười ba hữu dư, chín việc trước vừa phạm là thành tội, không cần can ngăn; bốn tội sau có can ngăn, hai lần can ngăn mà không nghe, thì cũng chưa đủ phương tiện kết tội; đến ba lần can ngăn mà không bỏ mới kết thành chánh tội. Chẳng phải luật nghi thì chẳng chứng, tức biết người kia phạm luật, nên chẳng chứng trí cho; thí như có người nói Phật vào trong hàng phàm phu thọ hưởng năm dục, mà tự quên mình là bậc Thánh. Sau gặp Thiện tri thức nói rằng: “Thầy là bậc Thánh, sao làm việc này?” “Mới tự biết mình là bậc Thánh. Lại Phật vào địa ngục thay chúng sinh chịu khổ, thật có bị sự đau khổ do cắt thịt chẻ xương, v.v… Những lời như thế, thầy chẳng nên chứng biết cho. Vì bậc Thánh đâu có như thế? Lại nói: “Di-lặc ứng hóa đến năm trăm thân, ta là một trong các thân đó”, những lời này đều chẳng nên chứng biết. Khéo biết một chữ, tức là chữ Luật. Phải y cứ theo chữ Luật để giải thích năm tên gọi, như chỉ Quán đã nói, v.v… Từ câu: “Khéo trì Khế kinh, v.v…” trở xuống là nói rộng về trì kinh. Nói cũng như thế, tức so sánh với luật có năm việc: 1/ Tùy thời giáo hóa; 2/ Biết hữu dư; 3/ Biết vô dư; 4/ Chẳng phải kinh thì chẳng chứng; 5/ Là kinh thì nên chứng. - Kết luận khen ngợi: Câu: “Phật pháp vô lượng” là kết luận khen ngợi. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần lãnh ngộ. Từ câu: “Phật khen ngợi, v.v…” trở xuống là nói lại để chứng minh thành tựu. Năm pháp của hàng Hữu học là Tín, Giới, Định, Tuệ và Học rộng, từ năm vị dừng tâm cho đến A-na-hàm. Năm pháp của hàng Vô học, tức là năm phần Pháp thân, đồng với quả thứ tư. Năm pháp thần giải như trước đã nói. Năm pháp chứa nuôi đệ tử là: 1/ Đủ mười hạ. Vì đủ mười hạ là bậc Trưởng túc, có khả năng nuôi đệ tử; 2/ Nghiêm trì giới luật, không trái phạm mảy may; hôm nay chẳng phạm thiên thứ nhất thì gọi là chẳng phạm; các thiên sau có thể cho sám hối; 3/ Học rộng: Đại Tiểu thừa, nội ngoại điển đều tinh thông, nếu chẳng đủ Tam tạng, thì phải thông một tạng, nếu không có gì, thì chẳng được nuôi đệ tử. 4/ Có khả năng dứt trừ được các nghi ngờ hối hận cho đệ tử; nếu có đệ tử xả giới hoàn tục, thì nên nói cho nghe về sự khổ đau ép ngặt; 5/ Có khả năng dứt trừ những tà ác của đệ tử; đệ tử đã không có y phục, ẩm thực, thế lực, liền muốn bỏ đạo, thì phải dứt trừ niệm tà ác này cho họ ngay, Hai thứ năm pháp kia thì không nói. ------------------------------------ <詞>PHẨM 6: DANH TỰ CÔNG ĐỨC Danh tự thế gian thì có khác có đồng, nói đồng thì đó là tên gọi về mặt Thể, nói khác thì đó là dùng danh để gọi Thể. Tự là dùng để khen ngợi đức. Phật pháp cũng giống như thế, thuận theo thế gian mà gượng chia ra đồng khác. Như lấy đại Niết-bàn làm danh, còn tất cả các lời khen ngợi khác như không thể nghó bàn, cảnh giới chư Phật, chánh pháp môn, v.v… đều là Tự. Nhưng Danh và Tự này đều có công đức. Ở đây đầu tiên là phân biệt công đức của Danh. Văn kinh nêu bảy thiện bảy dụ để giải thích danh của kinh này; đó là: Ngữ thiện, Nghóa thiện, Văn thiện, tinh thuần đầy đủ là Độc nhất thiện, thanh tịnh là Hạnh thiện, phạm hạnh là Từ thiện, Kim cương bảo tạng là Bị cụ thiện. Dung thành y cứ vào Thượng, Trung, Hạ mà lập ra mười thiện, Khai Thiện hợp thành tám thiện. Nay y cứ vào bảy thiện lành, nên chẳng cần kể hai thuyết kia. Dụ thứ nhất nói về Đại là nghóa rộng, đó là tám con sông đều đổ về biển; là nghóa sâu: là nói một phương thuốc sâu xa bí mật; là nghóa cực: là nói sự mong cầu dứt hẳn; là Đệ nhất nghóa tức nói dấu chân voi là bậc nhất; là nghóa thắng tức là nói mùa thu cày cấy là tốt nhất; là nghóa tịch, tức là nói khéo trị loạn tâm; là nghóa cụ túc, tức nói tám vị đầy đủ. Mỗi nghóa đều gọi đó là Đại Bát-niết-bàn. Đây là công đức của Danh. Kế là khen ngợi công đức của Tự: Công đức có ba: 1/ Thầy của chư Phật, văn kinh ghi: “Là pháp tu tập của vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn”. 2/ Môn của các Bồ-tát, văn kinh ghi: “Bồ-tát tu tập Đại Niết-bàn này, đạt được chánh pháp môn, có thể làm lương y. 3/ Lấp bốn đường ác cho chúng sinh, văn kinh ghi: “Chúng sinh nghe danh hiệu kinh này mà đọa vào bốn đường, thì không bao giờ có việc ấy”. Nhưng công đức của Niết-bàn thật vô lượng vô biên, chẳng thể nghó bàn, chỉ lược nêu ba điều mà thôi. Giải thích công đức của Tự, kinh Niết-bàn bản sáu quyển ghi là phẩm Thọ Trì, đây là từ người năng trì mà đặt tên, kinh này theo pháp được trì mà đặt tên, mỗi bản cho nêu một bên. Phẩm này trong lời đáp câu hỏi: “Vì sao đối với kinh này, rốt ráo đến bờ kia?” Trong văn nói chư Phật tu tập đã đến bờ kia, Bồ-tát được nghe thì đến giữa dòng, chúng sinh nghe tên thì bắt đầu đi ở bờ này. Nhưng sông Niết-bàn chẳng có bờ này, bờ kia hay giữa dòng mà hiện bờ này, bờ kia và giữa dòng. Theo văn có thể chia làm bốn đoạn: 1/ Khuyên trì; 2/ Hỏi; 3/ Đáp; 4/ Lãnh ngộ, Khuyên, lại có hai: 1/ Khuyên trì, 2/ Thọ trì. Thọ trì công đức chẳng rơi vào bốn đường. Xưa nói rằng: “Nghe kinh, tu hành, đạt đến Thánh địa thì chẳng đọa”, Vì tạo duyên xa, khởi ác thì đọa, nhưng nhờ duyên này nên sau có thể phản tỉnh hối tâm”. Lại nói khi nghe kinh này thì lý giải và văn tuệ tương ưng, theo lý thì chẳng đọa. Hưng Hoàng nói: “Nghe tên kinh”, vì văn sau ghi: “Vì danh tức vô danh cho nên nghe tức chẳng nghe”, vì vậy mà biết đây là nói nghe tên, thì chánh giải vô sinh còn vượt ngoài trời người, huống chi là bốn đường? Nên biết công đức vượt được giòng Hữu, là cảnh giới Phật, Nhị thừa chẳng biết được”. Nay chẳng giải thích như thế. Vì nghe kinh thì danh giải ngộ, công đức của sự giải ngộ tự sinh, đâu liên quan gì đến công đức nghe kinh, đó chẳng nói gì đến tương ưng. Vì chỉ giữ năm giới, năm giới chỉ có một ít điều lành mà còn chẳng đọa vào đường ác, huống chi là tu hành. Đại Niết-bàn là tên gọi sâu rộng, cao siêu bậc nhất, vắng lặng đầy đủ, tin điều này là thọ, chẳng để quên sót là trì, nghe tên được như thế, thì chẳng đọa vào đường ác, chẳng đợi hiểu sâu. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần hỏi, có hai ý: a/ Hỏi về công đức của tên gọi. b/ Hỏi về vâng giữ công đức. Trước nghe khuyên trì, cho đến nghe danh, nhưng vẫn chưa hiểu, cho nên mới hỏi lại. Phật đáp hai câu hỏi ở trên, cũng có hai chương. Trước trả lời về danh, lại có ba: 1/ Định danh; 2/ Nói về bảy thiện; 3./ Nêu bảy dụ. Văn thứ nhất rất dễ hiểu. Văn thứ ba nêu bảy thiện. Xưa giải thích rằng ba phần Tựa, Chánh và Lưu thông tức đầu, giữa và sau đều thiện. Chiêu-đề nói muôn đức là sơ thiện; quả và thiện khác nhau, thuyết này chẳng nên dùng. Kinh y cứ theo hành thí làm sơ thiện, giữ giới làm trung thiện, được quả báo làm hậu thiện, v.v… Văn thứ ba, là nói về bảy dụ. Có người giải thích chỉ có sáu dụ, lược giảng thí dụ lớn sau cùng giải thích về Đại Bát-niết-bàn. Nay hãy xét văn kinh, thì dụ đầu tiên giải thích về Đại, sáu dụ sau giải thích Bát-niết-bàn. Nhưng nói chung là giải thích tên gọi mà chẳng phân biệt. Hỏi: Trong đây dùng Thường, vì chẳng khác nhau phải không? Đáp: Xem qua thì tên khác mà ý thì đồng. Vì chẳng phải Thường chẳng phải Vô thường, nên gọi là Thường; vì chẳng Tiểu chẳng Đại, nên nói là Đại, vì thế lấy sự tương quan nhau mà giải thích. Nói “hàng phục các kiết” tức ma phiền não; ma tánh tức ma trời, buông bỏ thân mạng tức ma ấm và ma chết. Còn năm dụ khác rất dễ hiểu. Một dụ sau cùng nói tám vị là dụ cho bốn đức. Khai thường mà có ra Hằng, vì chẳng phải duyên sinh nên là thường, chẳng vì duyên mà diệt nên gọi là Hằng. Khai lạc ra ngoài an, vì bên ngoài không thể phá hoại là an, bên trong không có thọ dụng điều gì là lạc; vô cấu và mát mẻ đều thuộc về Tịnh, chẳng già chẳng chết đều thuộc về Ngã. Hỏi: “Vì sao tám vị của bơ có người dùng làm nước tám công đức? Đáp: Ở đây chẳng phải như thế, nước và sữa có thể khác nhau, chẳng quan hệ, v.v… nhuyễn mịn thuộc về xúc, chẳng hôi thuộc về hương, khi uống vào thì chẳng có vị đắng, mà điều hòa vui sướng, đó là công năng, sao đều cho là vị? Có người chỉ nói sáu vị? Đáp: Ở đây cũng chẳng phải vì đắng, cay, mặn, lạt, ngọt, vừa, không bao giờ đối nhau, nghóa ý chẳng hợp, số lượng lại chẳng đủ. Nay cho rằng khi còn là sữa và lạc thì vị loãng, lại không có đủ các vị, khi thành đề hồ thì lại quá đặc, vị đã thuần nhất, chỉ một chất bơ ở khoảng giữa mới gồm đủ các vị, mới làm dụ được. Bơ thì có sinh vị, thục vị, hai vị lạc và tương, sữa là vị gốc, tất cả là năm vị, thêm ngọt, lạt, và béo thành tám vị. Thứ hai, từ: Này người thiện nam v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi vâng giữ. Trên trả lời về sinh thì rộng, nay đáp vâng giữ vì sao lại sơ lược? Vì đã thông đạt danh tự rồi, thị thọ trì công đức cũng chẳng phải ít, cho nên chẳng nói nhiều. 4) Lãnh ngộ: Từ “Bạch Phật, v.v…” trở xuống là lãnh hiểu. Thứ nhất là lãnh, đầu tiên là lãnh nhận danh hiệu, sau là lãnh nhận thọ trì.  <卷>QUYỂN 9 <詞>PHẨM 7: BỐN TƯỚNG (PHẦN ĐẦU) Bốn là số lượng, Tướng thì như kinh dùng bốn tướng để chỉ bày phân biệt. Đại Bát-Niết-bàn, rõ ràng nhìn thấy được là lập danh. Các câu hỏi đáp ở trước đều bao gồm ba đức, nhưng ý nghóa chỉ sơ lược, chưa hiển bày; đến phẩm này Đức Phật trả lời câu hỏi: “Xin Phật mở bí mật để giải thích Pháp thân, nói về một trăm câu để giải thích Giải thoát. Nay giải thích Bát-nhã từ đây mà đặt tên, nên gọi là Bốn tướng. Hỏi: Xin Phật mở bí mật, lại nói là giảng nói bí mật, vậy khai mở, giảng nói cái gì? Xưa nói rằng: “Khi xưa nói Pháp thân và Bát-nhã mà chưa nói Giải thoát, nay khai mở bí mật, vậy khai mở cái gì? Nay khai mở Niết-bàn đầy đủ ba đức”. Đó chỉ là mới giải thích về khai mở mà chưa nói về giảng nói. Khai Thiện nói: “Bốn tướng là đáp về khai mở bí mật, Hiện Bệnh là đáp về thuyết bí mật”. Đây chỉ là nêu hai văn, mà chưa định chỗ khác nhau. Hưng Hoàng nói: “Nói theo chiều dọc là khai, nói theo chiều ngang là thuyết. Xưa dùng vô thường che lấp thường, nay dùng thường che lấp vô thường, cả hai che lấp nhau; xưa và nay che lấp nhau, thì Ca-diếp thỉnh khai, Phật nói hai thuyết xưa và nay là hai dụng phương tiện của Niết-bàn, đồng hiển bày chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Lại, xưa nói ba điểm vô thường, nay khai thường; giáo xưa nói thẳng vào tự độ và độ tha là bốn tướng, nay khai thành Bát-nhã; xưa nói thân này cưới vợ sinh con, nay khai thành Pháp thân; xưa nói hữu vi Giải thoát, tức là ý địa năng duyên trong trí, nay khai thành Giải thoát. Ba đức đều thường, đều là phương tiện của Niết-bàn. Đây là y cứ theo chiều dọc để nói về việc khai tướng bí mật mầu nhiệm. Nếu y cứ theo chiều ngang, xưa muốn nói thường mà chẳng được nói, là vì tà thường, nay mới nói thường có đủ hai dụng. Văn sau ghi: “Xưa nói hữu dư, như sông chảy quanh co, nay nói vô dư, sông chẳng chảy quanh co. Xưa nay thành tựu cho nhau, cùng hiển bày một đạo. Đây là y cứ theo chiều ngang mà nói về tướng bí mật mầu nhiệm”. Nghóa này chẳng đúng, vì thường, vô thường, vừa thường vừa vô thường, chẳng thường chẳng vô thường, bốn câu này đều che lấp chánh lý. Cho nên, Thích Luận ghi: “Bát-nhã ba-la-mật, bốn bên chẳng thể chấp, lửa Tà kiến thiêu đốt”. Vả lại bốn câu đều là pháp môn phương tiện, thí như mật ngữ của vua, vị đại thần thông minh mới hiểu được. Bốn câu này cũng đều là chánh lý, cho nên nói: “Tất cả các pháp đều có tánh an vui”. Nếu thế, tất cả đều bị che phủ, đâu chỉ nói thường và vô thường che lấp lẫn nhau, mà không nói về hai pháp khác? Nếu nói về phương tiện thì đâu chỉ nói thường và vô thường chỉ là hai dụng, còn hai câu khác chẳng phải phương tiện? Nếu nói theo khai mật thì lẽ nào chỉ riêng nói khai mở điều chẳng phải thường chẳng phải vô thường mà chẳng khai mở ba câu kia? Ở nơi xa xôi hẻo lánh tự hoại, trong đó chắc chắn có thể suy nghó mà biết được. Nay nói bốn câu che lấp lẫn nhau là chung cho bí mật; bốn câu đối trị lẫn nhau là chung cho phương tiện; bốn câu tức lý đều được khai mở bí mật, đều gọi là Niết-bàn, ngộ giải như thế gọi là khai mở bí mật. Lại dùng bốn câu để phân biệt lại, mà tự có khai chẳng có thuyết, có thuyết chẳng có khai, vừa khai vừa thuyết, chẳng có khai chẳng có thuyết. Nếu theo tự hành là Khai, nếu theo hóa tha là Thuyết; Tự tha đều nói là vừa khai vừa thuyết; chẳng Tự chẳng tha thì chẳng có khai chẳng có thuyết. Bốn câu hôm nay bao gồm phàm Thánh, chẳng riêng cho Phật. Lại mỗi câu đều có khai và thuyết; trong đó Tự hành giảng lý là Khai, tự thuyết sự chứng ngộ của mình là Thuyết. Trong thuyết lại có hai, phân biệt pháp thường là khai bí mật; giảng nói tất cả gọi là Thuyết; Hưng Hoàng chỉ có một câu này. Tự hành hóa tha lại có hai: khiến người đồng được quả sở đắc như mình là Khai, trao pháp của mình cho người gọi là Thuyết; chẳng tự chẳng tha cũng có hai, đến được nơi chẳng đến là Khai, thường không giảng nói là Thuyết. Phân biệt khai mở, thuyết bí mật như thế mà tướng khác nhau cũng không khác nhau. Xưa nói phẩm này chỉ nói về Ba mật, chẳng nói về Ba đức. Cũng có người nói phẩm này nói về Ba đức, chẳng nói về Ba mật. Lại có người nói chỉ nói về Ba mật tức khai Ba đức. Khai khẩu mật tức Bát-nhã, khai thân mật tức Pháp thân, khai ý mật là Giải thoát. Nhà thứ ba y cứ theo nghóa khác nhau mà chia làm ba chương. Nay dùng ba chương này để giải thích văn. Nhưng nói ba mật cũng có trong nhau, mà từ số nhiều để sắp đặt thành ba mật. Y cứ theo bốn tướng để khai Bát-nhã: 1/ Phá Thiên; 2/ Hiển Viên. Vì sao xưa nói Bát-nhã vô tướng lìa tướng, nay nói Bát-nhã tức tướng vô tướng? Chỉ vì Bát-nhã là bốn tướng, bốn tướng là Bát-nhã, tức tướng vô tướng mà chẳng cầu vô tướng. Niết-bàn vắng lặng còn không phải Niết-bàn, mà đầy đủ bốn tướng. Tuy khai làm bốn tướng, mà bốn tướng, tức nhất tướng là Đại Niết-bàn. Từ Niết-bàn khai ra bốn tướng tức Tục đế. Bốn tướng, tức nhất tướng, là Chân đế. Một tướng tức bốn tướng, nên chẳng phải một, bốn tướng tức nhất tướng, nên chẳng phải bốn. Chẳng phải một, chẳng phải bốn gọi là Đại Niết-bàn, chẳng chung chẳng riêng, chẳng ngang chẳng dọc mới hiển bày được ý viên. Nếu y cứ theo thân trong mười cõi để khai mở Pháp thân, thì cũng phá Thiên hiển Viên. Xưa nói Pháp thân vô ngã, ví như Bát-nhã, v.v… Y cứ theo một trăm câu để khai mở Giải thoát, tức cũng phá Thiên hiển Viên. Xưa lìa một điều chẳng phải, bặt bốn câu là Giải thoát, nay nói Giải thoát tức là một trăm câu, một trăm câu tức Giải thoát, Giải thoát tức (chẳng phải) phi tức Giải thoát, ví như trước giải thích, v.v… Y cứ theo khẩu mật, thì có hai ý: 1/ Chiùnh thức nói khẩu mật; 2/ Nói cả hai mật thân và ý. Đầu tiên là nói khẩu mật, văn có hai: 1/ Nói về bốn tướng; 2/ Phân biệt Niết-bàn. Trong đoạn một lại có hai: 1/ Nói một tướng tức bốn tướng; 2/ Nói bốn tướng tức một tướng. Đầu tiên lại có ba: Một là nêu chung. Hai là liệt kê. Thứ ba là giải thích, có bốn, nhưng Tự chánh và khéo hiểu là tự hành; chánh tha và hỏi đáp là hóa tha. Trong tự hành có ý hóa tha; theo số nhiều thì thuộc Tự hành, hóa tha cũng như thế. Trong khẩu mật, có cả thân mật và ý mật mà phần nhiều thuộc về khẩu; thân và ý cũng như thế. Nêu Đại Niết- bàn là một, mà chỉ bày phân biệt có bốn. Y cứ theo Tự Chánh, văn có hai: 1/ Nói về Tự Chánh của Phật; 2/ Dụ cho Tự chánh của Tỳ-kheo. Đầu tiên là nói “Nếu Phật Như Lai”, tức là người chánh; “thấy” là trí chánh; “các nhân duyên” tức chính duyên ở cảnh; “mà có sở thuyết” tức là chánh giáo. Trong phần nói về người chánh có nêu lên hai hiệu, trong đó nêu Phật là Chánh giác; Như Lai và Phật, ý nghóa chẳng khác. Nghóa Tự Chánh của hai hiệu này hợp thuyết, nên nói “nếu Phật Như Lai”. Nói “thấy” tức dụng, là mắt Phật chiếu cảnh nhân duyên. Thật tướng chẳng phải nhân nên chẳng phải Tự; cũng chẳng phải ở duyên cho nên chẳng phải Tha, chẳng cộng, chẳng phải không nhân, biết rõ thật tướng gọi đó là “thấy”. Vì thấy “chánh” nên sở thuyết cũng chánh. Kế là dụ Tỳ-kheo. Cảnh Phật khó hiểu, nêu cạn so sánh với sâu để cho dễ hiểu. Lại có ba: 1/ Thấy lửa; 2/ Thệ nguyện; 3/ Kết luận. Thấy đống lửa, lửa từ duyên sinh, xét đống lửa này thì lửa là tự sinh, hay từ củi sinh, hay từ củi lửa sinh, hay lìa củi và lửa mà sinh? Nếu khi lửa diệt thì lửa đến phương Đông, hay đến Nam, Tây, Bắc? Sinh đã không có nơi, thì diệt cũng chẳng có chỗ đến. Nhân duyên của đống lửa này, chẳng thể chấp lấy bốn câu, nếu chấp sẽ bị lửa tà kiến đốt cháy, quán thân cũng giống như thế; chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải vừa có vừa không, chẳng phải chẳng có chẳng không, đều chẳng thể gọi là chánh kiến. Kế đến, từ câu: “Nói rằng, v.v…” trở xuống là vì thấy nên lập thệ: Thà rằng tôi ôm đống lửa cháy rực, chứ chẳng bao giờ dám khởi tà kiến. Như có, không, cho đến chẳng có chẳng không, cũng chẳng khởi tà thuyết đối với Phật, Pháp, Tăng và mười hai thể loại kinh. Thà ôm đống lửa lớn đốt thân: tức là thề chẳng khởi tà kiến. Dao bén cắt lưỡi: Tức là thề chẳng khởi tà thuyết. Nếu nghe người nói cũng chẳng tin nhận là nói chánh kiến của mình chẳng bị làm nghiêng động. Đối với người này sinh tâm thương xót, là nói thệ nguyện của mình chẳng bị tà hạnh làm dứt mất. Tỳ-kheo chánh kiến cho đến chánh thuyết mà còn như thế, huống chi là Như Lai. Từ câu: “Nên thọ trì, v.v…” trở xuống là kết luận. Như quán đống lửa, phá định chấp thân kiến, để kết thành Tự chánh. Xưa có người hỏi rằng: Thầy khai mở Niết-bàn ra thành bốn tướng, mà Tự chánh và Chánh tha là hai tướng, thì cũng nên khai nhất bảo thành Tam bảo, tự giác và giác tha khai thành hai Bảo; Bảo chẳng thể khai thành hai, thì Tự chánh và Chánh tha đâu được nói hai tướng ư? Đáp: Giáo môn thì khác nhau, đâu thể nói hết, chỉ vì duyên mà có các thuyết khác nhau. Nay nếu nói đến thì Tự giác và Giác tha đồng y cứ vào trí Phật, chỉ là một bảo, còn Tự chánh và Chánh tha thì y cứ vào tướng Tự tha; tướng tha chẳng phải Tự, chẳng được nói một. Trí tự giác giác tha tuy là trí Phật, nhưng chẳng được nói là hai, v.v… Y cứ theo văn Chánh tha thì có bốn đoạn: 1/ Dùng hoan hỉ Chánh tha; 2/ Dùng Vô ngã Chánh tha; 3/ Dùng thường lạc Chánh tha; 4/ Dùng Đệ nhất nghóa Chánh tha. Đoạn một, biết mà cố hỏi khiến cho thầy vui mừng, há chẳng phải là thế giới ư? Dùng vô ngã, vô thường điều phục Hiền thánh, khiến phát sinh gốc lành, há chẳng phải vị nhân ư? Dùng thường lạc xuất thế gian, há chẳng phải đối trị ư? Nếu muốn đi xa, thì tài bảo giao phó cho người tốt, đó là Đệ nhất nghóa. Theo văn để hội nghóa, thì lý thật rõ ràng. Nuôi trẻ mới sinh, chỉ nên dùng chất bơ, nếu dùng thức ăn mềm hoặc cứng đều chẳng được; Chánh tha cũng giống như thế, đầu tiên phải từ từ sửa đổi những lỗi nhỏ nhặt. Người nữ sinh con dụ cho nghe pháp tự nuôi lớn, mớm chất bơ dụ cho việc khen ngợi, vui mừng, quá nhiều thì thành bệnh. Cho nên nói: “Cho mớm nhiều chất bơ, có yểu thọ chăng?” Bơ còn chẳng cho dùng nhiều, huống chi là các thức ăn mềm hay cứng. Quá vui mừng thì chướng ngại cho đạo, huống chi sinh điều lành và đối trị. Nói “Cần phải liều lượng mà cho dùng chất bơ là dụ cho Thế giới Tất-đàn. Cho nên văn kinh ghi: “Như Lai thật nói khiến cho người vui mừng”. Vả lại nói người nữ tâm nghi rằng cho dùng chất bơ quá nhiều, tức nghe mình chẳng được nghe pháp, Đức Phật giải thích khiến cho được chuyên tâm, đó là tướng Chánh tha. Vả lại, trẻ mới sinh dần dần lớn, thì giảm sữa mà cho dùng thức ăn, đó là dụ cho việc khuyên tiến tu, sinh ra công đức, tức là Vị nhân Tất-đàn. Văn kinh ghi: “Cũng nói Vô thường, Khổ không, Vô ngã”. Đến khi đứa trẻ đã lớn, bây giờ cho dùng những thức ăn cứng còn tiêu, huống chi là sữa, dụ cho công đức đã lớn, có thể chịu đựng được sự quở trách bác bỏ, đó là Đối trị Tất-đàn. Đến khi đứa trẻ lớn lên thành người, có thể trao cho gia nghiệp, chỉ cho vật báu, đây là dụ cho sinh thiện phá ác đã xong, lại trở về tông yếu, hội nhập chỗ rốt ráo Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Cho nên văn kinh ghi: “Nên giao phó kho báu cho người tốt”. Suy xét văn kinh này, cần phải lập bốn Tất-đàn. Văn dùng vui mừng để chánh tha gồm năm đoạn: 1/ Người nữ im lặng. 2/ Như Lai cố hỏi. 3/ Người nữ khen ngợi Đức Phật. 4/ Cầu chỉ dạy pháp nhiều ít. 5/ Kết luận khiến vui mừng. Xưa có bốn cách giải thích: 1/ Cho là khi đang nói pháp, người nữ đến; 2/ Cho rằng chẳng phải như thế, bấy giờ Phật đã tám mươi tuổi, gọi người nữ là chị, há lại có bà lão mà lại sinh con ư? Đây là dẫn việc xưa mà thôi; 3/ Cho rằng Đức Phật giáo hóa đồng tử ở trước; 4/ Chẳng phải là người nữ, chỉ là giả lập, ngụ ngôn mà thôi. Từ câu: “Thế Tôn, v. v…” trở xuống là dùng sinh thiện để Chánh tha. Xưa dùng lời này để hợp với dụ ở trên. Lại nói người nữ gọi Phật là Thế Tôn, hoặc Phật tự xưng là Thế Tôn, nay dùng đoạn văn này để ấn thành cho ý trước, phát khởi văn sau, nói “tiêu hay chẳng tiêu” là chứng thành cho ý trước; nói Vô thường, v.v… là phát khởi văn sau. Đoạn này lại có ba: 1/ Chứng thành sự vui mừng ở trước. 2/ Từ câu: “Cũng nói, v.v…” trở xuống là sinh thiện. 3/ Từ câu: “Nếu Phật Thế Tôn v.v…” trở xuống là phân biệt với người chẳng phân biệt đối trị… Từ câu: “Phật lại bảo người nữ, v.v…” trở xuống là dùng đối trị để chánh tha. Văn có hai: Nêu chẳng có khả năng nhận lãnh và nói về đối trị. Dùng ba vị xuất thế đối phá ba vị thế gian. Nhưng ba vị mặn, chua, đắng là vị báo của phàm phu; vô thường, khổ, vô ngã là đạo vị của Hiền thánh; cả hai gọi chung gọi là thế gian tam-muội. Ngọt, cay, lạt cũng là vị báo của phàm phu; thường lạc, ngã là Đạo vị xuất thế, cả hai hợp lại gọi chung là Xuất thế Tam-muội. Đây là có ý riêng, v.v… Từ câu: “lại bảo người nữ, v.v…” trở xuống là dùng Đệ nhất nghóa để chánh tha. Văn chia làm hai: 1/ Tất-đàn dụ cho đứa con ác; chẳng trao cho kho báu; 2/ Đệ nhất nghóa dụ cho đứa con hiền, trao cho kho báu. Chẳng trao phó cho Thanh văn, nên chẳng dùng chân đế làm Đệ nhất nghóa. Lại lấy Thanh văn làm sinh thiện, là chẳng phải chỉ cho Đại thừa. Đây là Đại Tiểu cùng chung làm bốn Tất đàn. Nói “nên biết nhà này có Phật”, Phật là nghóa thường, là nghóa giác. Giác là nghóa biết rõ, người này hiểu được thường, nên nhà ấy có Phật. Tiếp là nói hay tùy hỏi mà đáp. Văn có hai: 1/ Chánh thức giải thích về hỏi đáp; 2/ Nói về không ăn thịt. Đầu tiên Phật nêu câu hỏi vô phương (tức câu hỏi vượt qua phép tắc), nên dùng lời đáp vô phương. Chỉ y cứ vào pháp thí làm đầu, những việc khác lệ theo đây. Nếu chẳng hành thí mà được gọi là thí, thì không giữ giới lẽ ra cũng được gọi là Thi-la, cho đến Vô trí được gọi là Bát- nhã. Lời đáp có năm câu ví dụ, có hai cách giải thích: 1/ Đầu tiên chẳng biết kia chẳng ăn các thịt, nên thí cho cá thịt, vì người kia chẳng thọ nhận, nên ta chẳng hao tổn mà thành đại thí chủ. 2/ Cho rằng, trước đã biết người chẳng ăn các thứ thịt, vì muốn nói lên cho người biết đức ấy, nên thí cá thịt, người ấy chẳng nhận, ta không hao tổn, mà người kia lại nổi tiếng. Vả lại, thấy làm phước thì tùy hỷ mà không ngăn chặn, cũng gọi là đại thí. Lại thấy người khổ, dùng phương tiện cứu giúp, đã không hao tổn mảy may mà được gọi là đại thí. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật, v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, chế giới cấm dùng cá thịt. Gồm sáu lần hỏi đáp: Nêu không được ăn thịt. Có Sư nêu mười nghóa để giải thích việc không nên ăn thịt: 1/ Đều có Phật tánh, cuối cùng rồi sẽ thành Phật; 2/ Chư Phật Bồ-tát biến hóa vô cùng; 3/ Quyến thuộc luân hồi; 4/ Đồng là bốn đại, năm ấm; 5/ Tịnh huyết bất tịnh; 6/ Mình chẳng có khả năng, mà lại muốn ăn thịt kẻ khác; 7/ Vốn tự không oán cừu, mà lại làm hại một cách ngang trái; 8/ Trái ngược với sự hóa đạo của Bồ-tát; 9/ Ăn ít mà tội nhiều; đã chẳng dứt việc ăn thịt mà còn mong có phần ở mười phương. 1 0/ Oán đối thật vô cùng, nếu giết một mạng thì đền năm trăm mạng. Cho nên chẳng được ăn thịt. Nói như ăn thịt con, vì cha con đồng một thể từ thiên nhiên, rơi lệ mà nuốt, chứ chẳng tham đắm mùi vị. 1/ Có một sự tích: Xưa có một vị vua trên đường đi, vì đói khát đã ăn thịt con, để vượt qua đoạn đường nguy hiểm; 2/ Người con cắt thịt mình dâng cho cha mẹ; 3/ Nêu dụ như ăn thịt con; 4/ Chẳng những chỉ ăn thịt mới tưởng như ăn thịt con, mà hễ khi thọ nhận rau, quả, v.v… đều là một phần mạng sống của chúng sinh, nên tưởng như ăn thịt con. Nói dứt hạt giống đại Từ, có ba cách giải thích: 1/ Phật là Đại từ; 2/ Sơ địa là đại Từ; 3/ Hàng Tánh địa là đại Từ. Đại Từ thì phải nhờ vào Tiểu Từ làm hạt giống: Nếu ăn thịt, thì không còn tiểu từ; nên nói dứt hạt giống, lại nói: Chúng sinh là hạt giống đại từ, chắc chắn sẽ thành Phật; kinh Hoa Nghiêm nói các chúng sinh là con Phật, ăn thịt là làm dứt mất hạt giống Phật. Nói ba thứ tịnh nhục tức chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng nghi. Có hai cách giải thích: 1/ Chẳng thấy vì ta mà giết, chẳng nghe chẳng nghi cũng giống như thế. 2/ Nếu chẳng thấy, chẳng nghe nhưng lại nghi, thì việc giết này bất luận là vì ta hay không, nếu chẳng nghi thì nên nói là vì ta, liền thành bất tịnh. Nói về mười thứ bất tịnh nhục. Trong phẩm Phạm Hạnh nói: “Người, rắn, voi, ngựa, heo, chó, gà, chồn, sư tử, khỉ, trong đó khỉ giống người, rắn giống rồng voi, ngựa là con vật cứu nước, heo, chó, chồn là các vật thấp hèn, sư tử đứng đầu các loài thú, người là đồng loại của mình. Chín thứ thanh tịnh là: tức ba loại thấy, nghe, nghi, mỗi loại có tiền phương tiện, hậu phương tiện và căn bản thành chín. Nói về món ăn ngon: Nếu thuận theo lời của người, thì nói là món ăn ngon, nếu theo ý mình thì chẳng nên nói là ngon. Nói năm vị sữa bò, cho đến các vật chứa bằng vàng bạc đều chẳng nên dùng. Phật đáp có tám: Quở trách chẳng đồng với Ni-kiền Tử. Ni-kiền là ngoại đạo lõa hình, tự nhịn đói, một thái quá một bất cập. Ở đây nên dung hòa. Như nói các vật báu đều làm cho khởi tâm tham, nên chẳng cho cất chứa. Như năm vị chẳng phải phần chánh của thân, nên cho thọ dụng; chẳng phải như Ni-kiền tử một bề chế định? Nên biết, Như Lai khai mở ba, ngăn che mười. Đâu thể đồng như ngoại đạo kia? Cho rằng chúng sinh chẳng thể dứt bỏ ngay, trước là dứt bỏ ba thứ tướng, ba thứ ngoài; kế đến là dứt mười loại, kế đến dứt mười thứ ngoài; dứt tưởng tham, nên dứt tất cả. Cấm ngay các đệ tử không được ăn tất cả các thứ thịt. Trong giới Bồ-tát, từ lâu đã chế định các tội khinh cấu; vì độ chúng sinh, tuy hiện có ăn thịt mà thật chẳng ăn. Nói về việc ăn thịt thì gây oán thù mãi mãi. Hóa đạo chẳng thể thực hành, cách bặt với chúng sinh. Nói về việc chấp Tiểu thừa ăn thịt, hủy báng Đại thừa dứt ngay, tranh luận sai lầm. Nói ăn thịt sinh ra nhiều việc ác. Trừ năm đói kém và bát bị ô uế. Kết chế, như văn kinh đã ghi. Từ câu: “Làm thế nào hiểu rõ được nghóa nhân duyên, v.v…” trở xuống là tướng thứ tư. Nếu nói chung thì định các kinh điển đều là giáo nhân duyên giả danh. Nếu nói riêng thì sự tướng của ba Tạng giáo là giáo nhân duyên. Nay văn này chỉ nói riêng về giới luật, vì muốn chế giới, trước phải có duyên khởi, kế đó nói về giới thể, sau cùng mới nêu giới tướng. Cho nên gọi là nhân duyên. Hai tạng kinh luận thì ít nói đến, chẳng nhiều như ở đây, nên chẳng nói riêng. Văn có hai phen hỏi đáp: 1/ Giả lập nhân để hỏi, một là hỏi vì sao chẳng nói ngay, 2/ Hỏi về đọa, 3/ Hỏi về luật, 4/ Hỏi về mộc-xoa. Câu hỏi thứ nhất là hỏi chung, ba câu sau là hỏi riêng. Vì sao Như Lai chẳng nói sớm cho các đệ tử nghe năm thiên bảy tụ, để họ tu hành, mà đợi đến khi phạm mới đặt ra? Vua Ba-tư-nặc, Hán dịch là Hòa Duyệt, vua rất nhân từ; nếu khi chẳng say thì thường giữ niệm ái, khi uống rượu thì lẽ ra tội chết lại cho sống v.v… Phật ngự ở nước này, muốn chế giới không trộm cắp, bèn hỏi vua theo phép nước thì trộm bao nhiêu thì bị tội nặng? Vua trả lời là năm quan, Phật liền y cứ theo phép nước. Đức Phật có việc chế giới, phần nhiều hỏi vị vua này, cho nên nay nêu lên vua này, ý nghóa là như thế. Nghóa sâu mầu, tức là vì sao chẳng nói sớm về các thiên tụ giới luật? Giới là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Đại thừa nên nói sâu mầu. Câu hỏi thứ hai là câu hỏi về giới và Tỳ-ni tụng, vì nghóa có bao gồm. Mộc-xoa gọi là Giải thoát. Tỳ-ni là diệt, diệt bao gồm cả Giải thoát. Hỏi Mộc-xoa gồm cả Tỳ-ni. Luật có hai nghóa: Nói về lý khinh trọng; 2. Già chế. Nay y theo nghóa già chế (ngăn cấm) gồm thêm nghóa giới. Giới là ngăn dứt, luật là gồm thâu. Biên chép thành văn gọi là Luật, miệng thầm đọc gọi là Tụng, một thể mà hai tên gọi. Tiếp là Phật đáp bốn câu hỏi, lại đáp thêm về Mộc-xoa. Xưa cho đây là năm câu hỏi, v.v… Theo lời đáp thì chẳng có thứ lớp. Đầu tiên đáp về Mộc-xoa, kế là đáp về nghóa đọa, thứ ba là đáp lại về nghóa Mộc-xoa, thứ tư là đáp về luật, thứ năm là đáp câu hỏi chung. Đầu tiên trả lời Mộc-xoa. Tri túc, tịnh mạng là nghóa của Mộc- xoa. Kế là trả lời nghóa đọa. Đọa có khinh và trọng. Nếu phạm năm thiên thì đọa bốn đường ác, nghóa đọa này là chung. Lại nghóa đọa chỉ riêng cho phạm tội trọng v.v… Đọa còn có nghóa là nuôi lớn thì chỉ ở phạm tội khinh. Khinh đọa thì ở hai đường, trọng đọa thì ở địa ngục. Từ câu: “Ba-la-đề, v.v…” trở xuống là đáp lại về Mộc-xoa. Từ câu: “Luật, v.v…” là trả lời về Luật. Một câu nói đầu mới thuận vào ba tạng, vào giới oai nghi tức Tỳ- ni tạng, vào kinh sâu xa tức Tu-đa-la tạng, nghóa hay là Tỳ-đàm tạng. Thập tụng chỉ nêu chín mươi, Di-sa-tắc nêu chín mươi hai, trong đó một là có giới ni chẳng bệnh chẳng được đến nói pháp, hai là lấy vật của tăng về mình. Ở đây nói chín mươi mốt là vì giáo môn có rộng và lược. Từ câu: “Hoặc có người, v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi chung: “Vì sao không nói ngay.” Sở dó chẳng chế ngay năm thiên là sợ người đồng phá, nên chế ngay năm thiên e rằng người chẳng giữ hết được. Vì thế chế định dần dần từ khinh đến trọng. Nói đầy đủ tức đầy đủ tất cả điều ác. Tận tất cả tướng tức tất cả điều lành. Nói không có nhân duyên, thì không có nhân duyên Phật pháp, cũng có nghóa là bác bỏ nhân duyên. Từ câu: “Bấy giờ, có người thiện nam v.v…” trở xuống là phen thứ hai, giả lập hỏi Như Lai vì sao không nói trước. Văn có hai: Trước hỏi vì sao chẳng nói trước? Kế là hỏi: “Muốn rơi vào”, như văn kinh đã nói rất dễ hiểu. Đức Phật đáp: Có hai. Trước là đáp câu hỏi về rơi vào. Sau là đáp ý vì sao chẳng nói trước, văn có dụ và hợp. Trong dụ có dụ Luân vương. Dụ có ba ý: Đầu tiên nói mười điều lành dụ cho đốn giáo. Kế nói người làm ác dần dần dứt trừ, dụ cho Tiệm giáo. Thứ ba, hành pháp của Thánh vương, tức là bỏ ngôi vị, xuất gia dụ cho hội Tiệm trở về Đốn. Văn hợp cũng như thế, có hai ý: 1/ Chánh hợp, 2/ Nêu bánh xe báu để nói về ý khai hợp. 1.“Tuy có nói” là hợp với ý Đốn giáo. “Phải do Tỳ-kheo” là hợp với ý Tiệm giáo. Nói “Thấy Pháp thân Như Lai” là hợp hội ý đốn giáo. Nêu bánh xe báu để dụ cho Tam bảo không thể nghó bàn, hiển thị đốn tiệm khai hợp của Như Lai. Dù trước có nói hay chẳng nói, thì chúng sinh đều chẳng thể suy lường được, nên gọi là không thể nghó bàn. Từ câu: “lại nữa, Tự chánh, v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về bốn tướng nhất tướng. Trước phân biệt hiển bày Đại Niết-bàn, nên nói một tướng bốn tướng. Nếu nhất định là một là bốn thì đâu được là một là bốn. Cho nên biết chẳng phải một chẳng phải bốn, mới được nói là một, là bốn. Có người dùng Nhị thể Nhất thể Tam bảo thuộc về Tiểu thừa, chẳng thể thuộc về dụ ở đây. Một bốn, bốn một, đều là ý Đại thừa. Nhất thể Tam bảo, Tam bảo nhất thể thì sẽ so sánh được, như văn trên gọi chung là Niết-bàn, gọi riêng là ba đức v.v… Đoạn văn này có hai ý: 1/ Chánh thức nói về bốn và một; 2/ Hỏi lại giải thích nghi. Thứ nhất là nói về bốn tướng tức một tướng. Chứng gọi là Tự Chánh. Thường phá vô thường là Chánh tha. Nhân hỏi mà đáp đầy đủ gọi là tùy hỏi đáp. Phân biệt ba điểm là nhân duyên. Tên gọi khác mà thể đồng; chẳng phải là pháp khác, nên nói là một tướng. Văn trên dùng Pháp thân làm riêng, tạng Bí mật làm chung. Vì thế khác nhau. Nhưng hiển thì gọi là Pháp thân, ẩn thì gọi là Tạng; hoặc có lúc là chung, có lúc là riêng, Giải thoát và Bát-nhã đã bình đẳng không khác nhau, ví dụ cũng như thế. Kế là hỏi ngược lại, trong đó có nghi và chất vấn, có đáp và giải thích, y theo văn rất dễ hiểu. Hỏi: Bốn tướng tức một tướng có phải là bốn tất-đàn hay chăng? Đáp: Theo nghóa thì gồm thông, xem văn cũng có thể so sánh lập bốn tất-đàn. Trong đó, Đại Bát-niết-bàn là Đệ nhất nghóa, vì Thanh văn mà nói, thường là đối trị, nhân nơi hỏi mà đáp rõ là Vị nhân, ba điểm thành thế giới v.v… Từ câu: “Phật bảo Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai phân biệt. Nếu Niết-bàn tức bốn tướng bằng nhau không khác nhau, vì sao lại phân biệt Niết-bàn mà chẳng phân biệt bốn tướng. Tên bốn tướng thì khác với xưa, tên Niết-bàn thì đồng với trước. Xưa dứt duyên trói buộc, chẳng y, chẳng chánh gọi là Niết-bàn, cho nên dứt phiền não rồi thì có pháp thường trụ. Xưa, Niết-bàn diệt các Hữu, nay Niết-bàn có Diệu hữu; xưa Niết-bàn không có y báo chánh báo, nay Niết-bàn có pháp làm thầy. Xưa Niết-bàn không có chánh báo, nay Niết-bàn có Như Lai. Nếu chẳng phân biệt thì không thể biết được sự khác nhau. Văn kinh có bốn ý: 1/ Phật phân biệt; 2/ Ca-diếp luận nghóa; 3/ Lãnh giải; 4/ Thuật lại để chứng thành. Thứ nhất, là Phật phân biệt lại có hai, đầu tiên giả lập năm câu hỏi: Nói về dứt hoặc. Nói về diệt các hữu. Nói về diệt y. Nói về diệt chánh. Diệt chung các hữu, đều dẫn giáo xưa y cứ theo ý Phật, theo văn rất dễ hiểu. Kế là từ câu: “Này Ca-diếp, v.v…” trở xuống là lời Phật đáp, có ba: 1/ Quở trách; 2/ Trả lời; 3/ Kết luận nêu khác nhau. Thứ nhất là quở trách, có chung và riêng. Quở trách chung là Tà. Dùng Thiên để vặn hỏi về Viên, nên nói là Tà. Kế là từ câu: “Thầy chẳng nên, v.v…” trở xuống là quở trách Ca- diếp. Nói chẳng nên tức chẳng nên cho danh đồng nhau mà lẫn lộn đó là Vô thường. Nên nói chẳng nên sinh khởi ý tưởng. Kế là lời đáp, có ba: 1/ Đáp diệt hoặc và đáp diệt y. Văn kinh ghi: Diệt phiền não giả, giả tức là chủ, đã không còn người chủ của phiền não thì y báo không có chỗ lệ thuộc, nên chẳng gọi là Vật. Nếu y cứ theo nghóa xưa, thì lấy không vật làm Niết-bàn. Nếu theo nghóa nay thì chỉ cho chỗ xa lìa. Rốt ráo thanh tịnh, vắng lặng là lạc, vô thường là ngã, thường thì như văn đã ghi. Niết-bàn hôm nay là chỗ xa lìa, chỗ đạt được nên khác với giáo xưa. Kế là từ câu: “Diệt hết các hữu, v.v…” trở xuống là trả lời hai câu hỏi diệt hữu, diệt chánh. Tướng tức là Hữu, chỉ cho cả chánh báo. Nếu y cứ theo nghóa xưa, thì quả diệt của diệt hữu là Niết-bàn. Nếu y cứ theo nghóa nay thì chỉ cho chỗ xa lìa. “Không còn gì” tức là Lạc, trong sạch là Tịnh, thường trụ là thường, bất thoái là ngã, v.v… Thứ ba, từ câu: “Nói năng các đóm lửa” v.v… trở xuống là đáp câu hỏi chung thứ năm. Các đóm lửa tức phiền não, diệt tức Niết-bàn hữu dư, văng ra liền tắt không trụ trong năm đường tức Niết-bàn vô dư. Nếu y cứ theo giáo xưa thì gọi là Niết-bàn. Nếu y cứ theo nghóa nay thì chỉ cho chỗ xa lìa; “đều là thường trụ, không thay đổi” tức nói đến về sở đắc, khác với xưa. Từ câu: “Lại nữa, này Ca-diếp, v.v…” trở xuống là kết thành sự khác nhau. Xưa đối với Niết-bàn không có người chánh báo, nay trong Niết- bàn có chư Phật. Xưa Niết-bàn không có y báo, nay Niết-bàn có Diệu hữu. Nói cung kính tức Niết-bàn của giáo xưa dứt phiền não, không còn pháp hữu; nay trong Niết-bàn có pháp thường trụ. Nói “Vì pháp thường nên chư Phật cũng thường”, đây là nói tắt, nếu nói đủ thì là: “Vì pháp Lạc, Ngã, Tịnh, Thường cho nên chư Phật cũng giống như thế”. Kế là từ câu: “Ca-diếp lại bạch Phật, v.v…” trở xuống là luận ng- hóa. Gồm hai phen hỏi đáp. Phen thứ nhất, trước hỏi sau đáp. Trong lời hỏi có hai, dường như lập ba câu hỏi, dường như y cứ theo nghiệp hữu phiền não. Đầu tiên nói: “Lửa phiền não tắt, Như Lai cũng diệt”, nghóa là do phiền não, nên có người, phiền não đã diệt, thì đâu thể còn người? Mà nói là Như Lai thường còn không thay đổi. Kế là ý nói “Mạt sắt đỏ tắt, không biết được nó sẽ đi về đâu”, đó là do nghiệp vận chuyển, nếu nghiệp diệt thì chẳng thể có được chỗ đến; vì sao lại nói là thường, lạc, ngã, tịnh? Văn sau nói: “Mạt sắt nóng đỏ, tắt rồi thì không thể đỏ lại”, vì có hoặc nghiệp nên được “hữu”, ng- hiệp phiền não hữu đã diệt, thì đâu thể diệt hữu được? Phật đáp. Nói sắt là dụ cho phàm phu, Như Lai chẳng phải như thế. Nay nói phàm phu gồm có hai nghóa: 1/ Ngoại đạo và hàng Thế trí đã dứt hoặc rồi, hoặc lại sinh, là phàm phu; 2/ Hàng Nhị thừa dứt hoặc chung rồi thì lại sinh hoặc riêng, nên cũng gọi là phàm phu vô thường. Như Lai chẳng phải như thế, chẳng đồng với hai bên, nên nói là Thường. Từ câu: “Ca-diếp! v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai, câu hỏi này lại gồm thâu hai ý trên. Trước hỏi, sau đáp. Thứ nhất là hỏi. Phàm phu diệt hoặc rồi, thì hoặc lại sinh, cho nên vô thường, Như Lai đã diệt hoặc thì lẽ ra cũng là sinh, cũng là vô thường. Kế là Phật đáp, có hai: 1/ Quở trách điều sai; 2/ Chuyển dụ. Thứ nhất quở trách, bảo chẳng nên. Vì sao? Vì Phật chẳng phải hai thứ phàm phu nêu trên, ngài đã dứt trừ hoặc chung riêng từ lâu, vì thế bảo: “Chẳng nên”. Kế là chuyển dụ để đáp. Thể của phàm phu nóng như sắt khó chảy, trí Phật hừng hực như lửa cháy gỗ, gỗ cháy hết còn lại tro, diệt phiền não rồi thì còn Niết- bàn. Như áo rách, chặt đầu, bình vỡ, vật hư nát trước, rồi mới có tên. Phiền não dứt rồi thì đạt được Niết-bàn, chẳng đồng với câu hỏi của các thầy. Từ câu: “Ca-diếp, v.v…” là lãnh giải. Tiếp là thuật lại để chứng minh thành tựu. Cung ở phía sau là cảnh giáo hóa thống trị dụ cho Diêm-phù-đề, Vườn ở phía sau là nơi thưởng ngoạn, dụ cho Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Từ câu: “Ca-diếp lại hỏi, v.v…” trở xuống là phần thứ hai, khai rộng về thân mật. Sáu đường hình thể khác nhau, nói đều là chỗ làm của bậc Thánh, những người khác chẳng như thế. Nay mở bày bí mật của Pháp thân. Trước khai mở Bát-nhã thành bốn tướng, hợp bốn tướng thành Niết-bàn. Niết-bàn là Pháp thân Giải thoát. Đây là dùng một vòng khai mở khẩu mật rồi, nay lại khai mở Pháp thân thành các thân, hợp với các thân thành Niết-bàn. Bát-nhã và Giải thoát. Có người cho rằng một vật che lấp một vật khai mở đều hiển bày, không hề tương quan nhau, chẳng lẽ lý tất nhiên như thế ư? Chỉ là che lấp nơi khai mở, khai mở nơi bị ngăn che. Các Sư luận Thành Thật cho rằng đây là quyền xảo đối với các phàm phu chưa hiểu. Nay nói nếu điều này chẳng hiểu, thì các điều khác làm sao hiểu được? Các Sư Địa Luận cho rằng đó là dụng của pháp giới, nay nói rằng lìa thể mà có dụng ư? Có người nói lớn nhỏ dung chưa nhau là thuật của bậc Thánh, nay nói rằng có một thuật nào chẳng phải là nhân duyên, nhân duyên tức không, tức giả, tức trung, chỉ ứng với người được độ mới thấy được, há chẳng phải là nhân duyên ư? Nhân duyên diệu tuệ có thể dùng một hạt bụi dung nạp vô lượng, dùng vô lượng dung chứa một hạt bụi. Dài ngắn, quá khứ, hiện tại, dẫn kia đến đây, ném đây đến kia, đều tự tại vô ngại. Trang Chu đạt thể hóa thành bươm bướm, lại biết trong mộng đã đi đến chân trời nơi mờ mịt còn như thế, huống chi là bậc chí đức ư? Theo văn là khai mở thân mật và luận nghóa. Đầu tiên là khai mật, gồm có hỏi và đáp. Trong phần hỏi lại có bốn: 1/ Lãnh chỉ; 2/ Chánh thức hỏi; 3/ Kết vặn hỏi; 4/ Thỉnh đáp. Thứ nhất như văn kinh. Kế là thưa hỏi. Da-du, Hán dịch là Văn, La-hầu dịch là Cung sinh, v.v… Thư ba và thứ tư như văn kinh. Lời đáp, có ba: 1/ Bác bỏ chung; 2/ Khuyên lắng nghe; 3/ Chánh đáp. Phần đầu như văn kinh ghi. Từ câu: “Niết-bàn” trở xuống là khuyên nghe. Từ câu: “Nếu có Bồ-tát v.v…” trở xuống là phần chánh đáp, có hai: 1. Nêu chung các Bồ-tát trụ Đại Niết-bàn, có tám lần “lại có”; 2/ Nêu riêng đức Thích-ca. Phần một được chia làm hai: 1/ Bảy lần “lại có” trước là chánh giải thích; 2/ Một lần “lại có” sau là tổng kết. Trong đoạn đầu, xưa giải thích Bồ-tát trụ Đại Niết-bàn, có ba: 1/ Phật ứng làm Bồ-tát, thị hiện làm người thân; vì năng trụ quả, nên gọi là trụ Đại Niết-bàn; 2/ Cho rằng chẳng phải như thế, nếu là Phật thì nói Phật trụ Niết-bàn, vì sao phải nói Bồ-tát trụ Đại Niết-bàn? Trụ có hai là Tín trụ và Chân tu. Đã là người nhân thì chỉ là Tín trụ. Có người vặn hỏi hai cách giải thích này rằng: “Nếu là Phật ứng làm Bồ-tát, thì đây là Phật trụ Đại Niết-bàn, chẳng liên quan gì đến Bồ-tát; còn nếu là Tín trụ thì đâu thể làm các việc lớn như thế? Thế lực của Niết-bàn xa lìa nhân quả, tuy chẳng phải nhân quả mà năng làm nhân quả. Nếu dùng người thân để đối với Niết-bàn, thì cho Niết-bàn là nhân, vì có người còn ở nhân trụ nơi đó. Nếu dùng người đã chứng quả đối với Niết-bàn, thì cho Niết-bàn là quả, vì có người đã chứng quả trụ nơi đó. Ví như chánh tánh chẳng phải nhân chẳng phải quả, mà năng là nhân là quả, v.v… Nay nói rằng Bồ-tát Viên giáo từ lúc mới phát tâm thường quán Niết-bàn hành đạo. Nên văn trên ghi: “Tất cả chúng sinh đều an trụ trong tạng bí mật”, vậy vì sao Bồ-tát Viên giáo chẳng trụ trong Đại Niết-bàn? Cho nên nói Bồ-tát là vì nêu nhân để hiển bày quả. Nhân còn như thế, huống chi là quả, nghóa này tự nhiên thành tựu. Vì sao lại nói là Phật ứng làm Bồ-tát? Vì sao lại nói Bồ-tát chẳng thể biểu hiện các việc như thế? Văn sau ghi: “Bồ-tát trụ trong Đại Niết-bàn tu tập các hạnh”, vậy sao chẳng thể trụ trong Đại Niết-bàn hiện các thứ thần biến? Vì thế chẳng dùng các cách giải thích trên. Bảy lần “lại có” này là từ ít đền nhiều, đầu tiên nêu một núi Tu-di nhét vào hạt cải cho đến mười phương nhét vào trong một hạt bụi, dần dần chuyển so sánh càng rộng lớn hơn, nhiệm mầu chẳng thể nghó bàn. Kế là tổng kết, rất dễ hiểu. Từ câu: Này người thiện nam! Ta từ lâu đã trụ, v.v…” trở xuống là nêu riêng về đức Thích-ca. Văn có ba: 1/ Nói lược về pháp hóa đạo; 2/ Nói rộng về xứ phương tiện; 3/ Tổng kết. Thứ nhất, như văn kinh. Thứ hai, từ câu: “Ở cõi Tam thiên, v.v…” trở xuống là nói rộng về cả phương tiện. Lại có ba: 1/ Nói chung về việc thí hóa ở cõi Tam thiên; 2/ Nói riêng về thí hóa ở Diêm-phù-đề; 3/ Tổng kết các phương tiện. Riêng y cứ theo Diêm-phù-đề, văn lại có bốn: 1/ Nói về ứng hiện ở đời này; 2/ Nói về ứng hiện ở các đời khác; 3/ Nói lại về đời này; 4/ Lặp lại về các đời khác. Trong đoạn đầu nói về ứng hiện ở đời này. Nói Ma-da, kinh Hiền Kiếp dịch là Cực Diệu, kinh Thụy Ứng dịch là Nhật Diệu, lại dịch là Đại Trí Mẫu. Hướng về mười phương, mỗi phương đều đi bảy bước, về việc này Hà Tây cho rằng loài voi đầu đàn lúc mới sinh thì đi bảy bước, Như Lai thị hiện đồng hạnh với tượng vương. Trị Thành cho rằng thị hiện vượt ngoài sáu đường, nên đi bảy bước. Kinh Đại Thiện Quyền nói: “Mỗi phương đều đi bảy bước và ứng với bảy Giác phần, giác và chưa giác. Đi về phía Nam là nói làm ruộng phước vô thượng, Hà Tây giải rằng: “Ấn Độ vốn lấy phương Nam làm bên phải, bên phải là thuận tay, để dụ cho Phật pháp dùng tịnh giới làm chính yếu, nên gọi là ruộng phước vô thượng”. Khai Thiện nói: “Phương Nam thuộc về dương, sinh ra vạn vật, nên nói là ruộng phước”. Hà Tây nói: “Phương Tây là phía sau, nên nói là sinh đã hết, là thân cuối cùng”. Khai Thiện cho rằng: “Tây là phương của mùa Thu, nghóa là nói về đất chết”. Về phương Bắc, Hà Tây nói: “Tiếng Phạm vốn là Thắng, nên nói “đã vượt sinh tử”. Phương Đông đứng đầu trong các phương, bao gồm nghóa nuôi lớn. Từ câu: “Ở cõi Diêm-phù-đề v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói về các đời khác. Nếu y cứ theo một phương thị hiện xuất gia, tức ngay đời này thành Phật, nay nói bốn quả tức là nói về đời khác. Vả lại, do chúng sinh cảm thấy khác nhau, nếu nói đời này thì cũng được. Như hàng Nhị thừa đều nói Như Lai là A-la-hán. Thích Luận nói: “Trong pháp Thanh văn, thì quả A-la-hán gọi là quả Phật.” Thâu-đầu-đàn, Duyệt-đầu-đàn, Hán dịch là Bạch Tịnh, cũng dịch là Tịnh Phạn, v.v…; Cù-đàm, Thiện Kiến Tỳ-bà-sa dịch là Diệt Ác, A- hàm dịch là Thuần Thục. Từ câu: “Thị hiện v.v…” trở xuống là phần thứ tư, nói lại về việc ứng hiện ở các đời khác. Từ câu: “Ca-diếp lại bạch, v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói về nghóa, gồm có hỏi và đáp. Trong đây luận nghóa lại nêu lên dụ đèn tắt ở trên. Diệt thì không bao giờ sinh, đâu được nói Lăng-nghiêm thị hiện vô cùng! Đó là dùng ý trước để vặn hỏi ý sau. Văn đáp có ba, thứ nhất là quở trách lời hỏi. Thứ hai là nêu dụ để đáp. Thứ ba, là trách ngược lại. Ca-diếp vâng đáp, nhân đó mà vặn hỏi. Đức Phật đáp; gồm bốn ý: 1/ Trách lời hỏi; 2/ Định Tông chỉ; 3/ Hợp dụ; 4/ Phân biệt. Thứ nhất và thứ hai như văn kinh ghi. Thứ ba, hợp với dụ đèn tắt, nói Niết-bàn của A-la-hán diệt hẳn chẳng sinh, Niết-bàn của Như Lai thì diệt mà chẳng diệt, vô sinh mà sinh. Từ câu: “Nếu thọ thân v.v…” trở xuống là thứ tư, phân biệt. Nói Na-hàm chẳng thọ sinh, là chẳng thọ sinh vào cõi Dục. Na-hàm Đại thừa thì chẳng thọ sinh vào hai bên. ----------------------------------- <詞>PHẨM 7: TỨ TƯỚNG (PHẦN CUỐI) Từ đầu quyển này là phần thứ ba khai mở ý mật để nói về đức Giải thoát. Toàn văn gồm có hai: 1/ Nói về khai mật; 2/ Nói về Giải thoát. Có người nói là khai mở ý mật, Hưng Hoàng nói là khai mở thân mật. Cả hai nói chưa hết ý. Nay nói khai chung ba mật của ba nghiệp. Văn ghi: “Lời Như Lai khai phát hiển bày”, há chẳng phải là khai mở khẩu mật ư? Văn kinh ghi: “Tâm Như Lai không bỏn sẻn”, đó chẳng phải là khai mở ý mật hay sao? Văn kinh ghi: “Pháp thân Như Lai đầy đủ không thiếu sót”, há chẳng phải là khai mở thân mật hay sao? Nơi Kinh có văn chung, không thể nói nghiêng về bên nào. Vì sao? Vì Đức Phật thị hiện thành tướng phàm phu, nói pháp Bán tự, thuận theo cơ nghi, dùng ba nghiệp phương tiện ngăn hiểu được, bèn cho đó là ẩn tàng, nay khai phương tiện là chân thật. Người trí rõ biết chẳng có gì ẩn tàng. Đó là y cứ theo ba nghiệp khai mật. Lại y cứ theo bốn câu khai mật, đó là: người khai mật của Phật, Phật khai mật của người, Phật khai mật của Phật, người khai mật cho người. Người khai mật của Phật: Đầu phẩm ngài Ca-diếp nói: “Phật pháp chẳng như thế, tất cả đều giúp cho chúng sinh được sự hiểu biết”; tri là khai ý mật, kiến là khai mở thân mật khẩu mật v.v… Phật khai mật cho người: Chỉ bày cho chúng sinh các kho báu giác ngộ, chỉ bày hạt châu trên trán, đặt trong tạng bí mật. Đó là khai mật cho người. Phật khai Phật mật: Từ khi ta đắc đạo thường nói Bát-nhã, Pháp thân, Giải thoát. Nay thân của ta và các sắc tượng tức là Pháp thân. Nếu con khôn lớn đã có năng lực chịu đựng, còn Như Lai thì không có tâm bỏn sẻn. Đó là Phật khai nghóa mật của Phật. -Người khai nghóa mật cho người: Như Đức Vương nói: “Ta hiểu một câu, nửa câu, vì hiểu một câu nửa câu, cho nên thấy đôi chút Phật tánh. Như lời Phật dạy, con cũng sẽ được đạo Niết-bàn”. Vả lại, có mười hai câu khai mật, tức là bốn câu, mỗi câu khai mở cả ba nghiệp, tức thành mười hai câu khai mật. Lại không khai không che, không hiển không mật, vì sao? Vì lý Phật tánh không hề có khai mở thì cái gì là ngăn che? Đã không có khai mở và ngăn che thì đâu có hiển và mật. Một câu chẳng được thì chẳng có nhiều câu. Vì chúng sinh nghe mà chẳng hiểu, nên gọi là Mật; người trí hiểu rõ thì không có hiển mật. Vì không có hiển mật nên gọi là Khai. Không khai mà khai như trước đã giải thích. Vấn Thích Luận ghi: “Bát-nhã là hiển bày, Pháp Hoa là bí mật”, xưa giải thích rằng: “Bát-nhã là đạo Đại thừa, nói vô trụ là hiển bày, Pháp Hoa bác bỏ Tiểu là Bí mật. Bí mật thì chẳng liễu, hiển bày thì liễu. Nghóa này chẳng đúng, vì pháp tánh chẳng hiển chẳng mật, do duyên mà có hiển mật. Các kinh đều nói như thế, đâu chỉ có thể dùng ý riêng của ngài Long Thọ để giải thích, làm mất ý các kinh ư? Kinh này cũng dùng Vô thường phá Thường, đâu chẳng phải là liễu ư? Cho nên ở trước khai mật, ở đây nói về Giải thoát, hai nghóa tương quan nhau. Vì sao? Nếu chắc chắn là có khai mở, có che lấp thì bị khai mở che lấp làm cục hạn, chẳng thể được Giải thoát. Chẳng khai mở, chẳng che lấp, mà khai mở mà che lấp, khai mở che lấp đều tự tại, mới gọi là Giải thoát. Cho nên hai văn này đều thuộc về đức Giải thoát. Văn khai có hai: 1/ Khai mật; 2/ Luận nghóa. Khai mật lại có ba ý: “ 1/ Hỏi; 2/ Đáp; 3/ Lãnh giải. Về hỏi lại có ba câu: 1/ Chẳng phải mật tạng là nói không; 2/ Là mật ngữ là nói có; 3/ Kết luận. Tạng tức là lý. Lý không có khai mở hay che lấp, vì sao nói là mật, nên gọi là không. Kế đến, từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là nói vì có lời cho nên có. Lời tức là giáo, giáo vốn do duyên, duyên thì có khai mở và che lấp, nên có mật ngữ, ví như có thân mật, ý mật. Văn nói về mật ngữ có pháp, dụ và hợp. Thứ nhất là pháp, như văn kinh ghi. Trong dụ nói về nhà ảo thuật và người máy, lẽ ra là hai việc. Ảo thuật có hai: Một là năng lực ảo thuật kém, chẳng cho người thấy; Hai là sợ người bắt chước theo, nên chẳng cho thấy. Người máy cũng như thế. Hai việc đã đồng, nên cùng chung một dụ. Hợp dụ để kết luận, như văn kinh đã ghi. Thứ hai, là Phật đáp, có hai: 1/ Khen lời hỏi để đáp câu không có tạng bí mật. Kế là nêu chín ví dụ để trả lời câu hỏi “chỉ có mật ngữ”. Nhưng trong các dụ, hoặc thuận hoặc nghịch. Mùa thu dụ cho thuận; gom chứa vàng bạc là dụ cho nghịch, y theo văn rất dễ hiểu. Trong chín dụ được chia làm ba: 1/ Bảy dụ đầu là bác bỏ ba nghiệp mật; 2/ Trưởng giả dạy con là giải thích nhân duyên khai mật; 3/ Dụ Long vương là nói về nhân duyên không có khai mật. Thí dụ thứ nhất. Mùa Thu là mùa âm, trăng là tinh của âm, tinh của âm gặp mùa Thu thì càng rực sáng. Trăng dụ cho Phật có khả năng ứng hiện; Thu dụ cho cơ năng cảm. Cảm và ứng hợp nhau, thì chỉ có khai mở, mà không có mật. Dụ thứ tư nói: “Tuy nợ pháp xuất thế”, Hà Tây giải thích rằng: “Bản thệ của Phật là độ tất cả chúng sinh, chúng sinh chưa cùng tận, mà Phật nhập vào Niết-bàn, nên nói là nợ. Hưng Hoàng nói: “Khi Phật đắc quả là vì chúng sinh, đâu chỉ có hành nhân mà vì chúng sinh thôi ư? Nhưng đắc quả mà chúng sinh chưa cùng tận, nên nói là nợ”. Các nghóa này đều chẳng khác với Hà Tây. Nay có hai cách giải thích: 1, Sơ tâm là tiểu phú, đắc quả là đại phú, năng độ chúng sinh, chúng sinh chẳng chịu độ, giống như người nghèo chẳng chịu gặp chủ nợ xin các vật, thì chủ biết cho ai? Nghóa nói là nợ, thật ra chẳng có nợ. Văn sau nêu dụ Long Vương là hiển cả ý này. 2/ Vả lại, lúc Phật mới phát tâm, nguyện làm cho chúng sinh nhàm chán, xả bỏ các Hữu, đó gọi là chẳng nợ thế pháp, thệ nguyện làm cho chúng sinh tu tập pháp xuất thế, gánh vác việc này, như mặt đất giữ gìn muôn vật, trước sau chẳng đổi, nên nói: “Tuy “phụ” pháp xuất thế”, đây là nói việc gánh vác, chẳng phải là nợ. Kế là nói về dụ Trưởng giả dạy con, có hai ý: 1/ Vì bí mật mà lập dụ; 2/ Vì khai mở mà lập dụ. Thứ nhất lại có khai và hợp. Phần khai lại có bốn: 1/ Muốn dạy pháp Đại thừa; 2/ Vì cơ duyên chẳng có khả năng nhận lãnh, nên lại nói Tiểu thừa; 3/ Chẳng nói Đại; 4/ Kết luận không che dấu. Thứ nhất và thứ hai như văn kinh. Trong phần chẳng nói Đại có chép luận Tỳ-già-la, Hán dịch là Luận Tự bản, Hà Tây cho đây là một bộ luận nói về âm thanh, là bộ sách căn bản của văn tự thế gian, giải thích chung về bốn biện, chê bai thế gian, khen ngợi pháp xuất thế gian, lời lẽ thanh nhã, nghóa lý sâu xa. Tuy là một bộ luận của ngoại giáo, nhưng không có tà pháp. Há chẳng phải là những điều phải làm của bậc Đại só phương tiện ư? Văn hỏi đáp rất dễ hiểu. Thứ tư, là kết luận, như văn kinh ghi. Từ câu: “Đức Phật nói v.v…” trở xuống là hợp dụ thứ nhất. Đầu tiên là khen ngợi, chính là hợp với ý muốn nói Đại thừa. Từ câu: “Vì các Thanh văn, v.v…” trở xuống là hợp với ý Tiểu thừa. Thứ ba, từ câu: “Mà chẳng nói v.v…” trở xuống là hợp với ý chẳng nói Đại thừa. Thứ tư, từ câu: “Như vị Trưởng giả kia, v.v…” trở xuống là hợp với câu không có bí tạng. Kế là từ câu: “Như vị Trưởng giả kia, v.v…” trở xuống là vì khai mật mà lập dụ. Kế là từ câu: “Đó chính là, v.v…” trở xuống là phần hợp, như kinh ghi. Xưa dẫn văn này để chứng minh cho nghóa vô thường là Tiểu, Thường là Đại. Hưng Hoàng vặn hỏi nghóa này rằng: “Đại phẩm cũng nói vô thường, là Tiểu thừa ư?” Giải thích rằng: “Vô thường chung cho Đại và Tiểu, đồng thời nói Bán tự Mãn tự cũng giống như thế.” Nay nói rằng vô thường là giáo Tam tạng, Thường mà vô thường là Thông giáo, Thường là Biệt giáo, tức thường tức vô thường mà chẳng thường chẳng vô thường là Viên giáo. Nên dùng bốn ý đó để phân biệt các kinh, đâu thể theo một bề mà khởi lên tranh luận. 3, từ câu: “Lại nữa, v.v…” trở xuống là lập dụ vì không có nhân duyên mật. Nói chẳng gieo hạt thì không có duyên mật, chẳng nẩy mầm thì không có duyên khai mở, như văn đã ghi. Thứ ba, từ câu: “Ca-diếp lại nói v.v…” trở xuống là phần thọ lãnh, hiểu rõ. Từ câu: “Như lời Phật nói, v.v…” trở xuống là phần luận nghóa. Có hai: 1/ Luận nghóa; 2/ Lãnh giải. Phần luận nghóa lại có hai phen hỏi đáp. Đầu tiên là hỏi, có ba ý: 1/ Lãnh ý chỉ Thường của giáo nay. 2/ Dẫn vô thường của giáo xưa. 3/ Hỏi vì sao? Phật đáp, có hai ý: 1/ Nói về xưa quyền; 2/ Nói về nay thật. Trong phần nói về xưa quyền có nêu vua Ba-tư-nặc, Kinh Ương- quật dịch là Hòa Duyệt, kinh A-hàm dịch là Tổ Mẫu Dưỡng. Kế đến, từ câu: “Nay ta, v.v…” trở xuống là nói về nay thật. Lưỡi rớt, vì thường mà nói vô thường, nên vời lấy tội này. Xưa có Pháp sư Tung ở chùa Bành Thành nói rằng: “Trí Phật lưu động”, khi vị pháp sư này sắp qua đời thì lưỡi nát bấy trong miệng, đến lúc này vẫn chẳng thay đổi tâm chấp! Từ câu: “Ca-diếp lại nói, v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Câu hỏi này là từ ý Như Lai thường còn không thay đổi mà sinh. Lời kệ chỉ có ba câu hỏi mà văn xuôi có bốn câu hỏi. Phật trả lời câu hỏi thứ nhất, có ba ý: nói không chứa nhóm, tức là nêu chứa nhóm để nói chứa nhóm, không chứa nhóm. Nói Tăng cũng giống như thế là nói không chứa nhóm mà chứa nhóm. Bồ-tát thực hành trong vô tác, nên gọi là không chứa nhóm. Kế là, từ câu: “Cũng được gọi là v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ hai. Từ câu: “Cũng khó tìm v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ ba. Câu: “Ta nói người này” là đáp câu hỏi thứ tư. Nay nói Đức Phật đáp câu hỏi thứ tư, là hiển bày rộng về thường trụ. Không chứa nhóm là tịnh, biết đủ là lạc, khó tìm là Ngã, không có chỗ đến là Thường. Lại không chứa nhóm là không còn Tập, biết đủ là không còn khổ, khó tìm là có đạo, không có chỗ đến là có diệt. Vì có diệt nên chẳng có khổ, vì có Đạo nên chẳng còn Tập. Đạo và Diệt đều là nghóa Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, đã rõ ràng. Kế là, từ câu: “Ca-diếp lại nói v.v…” trở xuống là lãnh giải. Từ câu: “Đức Phật bảo Ca-diếp” trở xuống là phần thứ ba, chính thức nói về Giải thoát. Có người dùng đoạn này để chứng thành cho Ca-diếp. Toàn văn có ba: 1/ Nói lược về Giải thoát; 2/ Nói rộng về Giải thoát; 3/ Tổng kết Giải thoát. Trong phần nói lược Giải thoát có hai phần: 1/ Lược nói; 2/ Luận nghóa. Lược nói có ba ý: 1/ Nêu sự rộng lớn; 2/ Nói không có ung nhọt; 3/ nói về nơi chốn Giải thoát. Vì bao trùm tất cả không sót vật gì, không thể tìm cầu được bờ mé, nên gọi là rộng lớn; Dâm nộ si đã trừ hết, hoạn lụy đã dứt hẳn, nên nói là không còn ung nhọt; cảnh trí tương ưng nên nói là nơi chốn. Đó là nói lược ba điểm chẳng lìa nhau, cũng là Thể Dụng thành tựu, cũng là tự tha đầy đủ. Ba ý tuy sơ lược mà nghóa lý lại trùm khắp. Văn rộng lớn có pháp và dụ. “Nói Đại, nghóa là tánh ấy rộng lớn”, đây là thuận theo danh mà giải thích nghóa, chẳng nên cho rằng Đại là đối với Tiểu. Vì sao? Vì văn trên đã dùng nghóa thường để giải thích Đại, ở đây dùng nghóa rộng để giải thích Đại, văn sau lại dùng nghóa không nghó bàn, bặt dứt đối đãi. Trong dụ có hai ý là dọc và ngang. Người tuy có nhiều đức, nhưng quan trọng là tuổi thọ. Tuổi thọ vô lượng tức là ý dọc của dụ, hợp với hạnh bên trong. Hạnh có nhiều đường, nhưng quí nhất là chánh pháp. Cho nên nói là bậc siêu xuất trong loài người. Từ câu: “Như Ta dạy, v.v…” trở xuống là nói một người có tám, có nhiều công năng, tức là ý ngang của dụ, nói về các đức. Đối chiếu dụ này với pháp thì có đủ ngang dọc để giải thích nghóa Đại. Từ câu: “Nói Niết-bàn v.v…” trở xuống là nói không nẩy sinh ung nhọt. Có người dẫn nghóa này để phiên dịch từ Niết-bàn là Vô Lụy, vô lụy là không nẩy ung nhọt. Hưng Hoàng giải thích: “Niết-bàn là từ gọi chung của Ấn Độ, còn Giải thoát, là từ gọi riêng của Trung Quốc. Theo lý, lẽ ra phải dùng từ chung này để phiên dịch từ chung kia; dùng từ riêng này để phiên dịch từ riêng kia. Vì sao lại dùng từ riêng Giải thoát để dịch từ gọi chung của nước kia, mà dịch Niết-bàn là Giải thoát?” Ở đây chẳng dịch từ chung mà dịch theo từ gọi riêng là không ung nhọt, chính là nói chung bao gồm cả riêng, riêng thì có nghóa không ung nhọt. Cho nên dùng riêng giải thích chung, như cách dịch danh từ này, đâu thể lẫn lộn. Pháp thuyết nói về tự không bị bệnh ung nhọt, để dụ nói trị bệnh ung nhọt cho người. Hai ý này đắp đổi nhau hiển bày. Từ câu: “Giải thoát xứ” v.v… trở xuống có hai phần: 1/ Tự Giải thoát; 2/ Điều phục người khác. Nói Xứ (nơi chốn), là dùng Đệ nhất nghóa đế làm nơi chốn, chẳng hiểu được nơi chốn này thì chẳng được Giải thoát. Tự mình đã an trụ ở nơi chốn này lại điều phục người khác. Phổ Hiền Quán ghi: “Xứ được Thường Ba-la-mật thâu nhiếp mà thành”, tức văn này nói rằng: “Đó là nghóa xứ sâu xa chân thật”; nên biết dùng Đệ nhất nghóa đế làm xứ đã hiển bày rõ. Kế đến, từ câu: “Tùy nơi có, v.v…” trở xuống là hóa tha xứ. Chẳng những hiển bày Viên giáo mà còn bác bỏ Tiểu giáo. Pháp thân và Bát-nhã khi xưa, tuy độ được chúng sinh mà không có Giải tho- át, cho nên vừa nhập diệt thì diệt hẳn. Tự chẳng thể ở nơi một nơi chốn để độ người, huống chi nói đến khắp các nơi chốn. Nay Giải thoát, thì tùy các loại chúng sinh được điều phục ở mười cõi, sáu đường, bốn loài sinh đều vào khắp các nơi mà điều phục chúng. Tuy ở địa ngục mà thân tâm chẳng khổ, tuy ở loài súc sinh mà không sợ hãi; tuy ở nơi ngạ quỷ mà thường không đói khát; tuy ở cõi trời cõi người mà không dính mắc việc của trời người; tuy ở tại Nhị thừa mà dùng âm thanh Phật đạo, đại bi giáo hóa tất cả mọi nơi, không có các phiền lụy ung nhọt, đắm nhiễm. Vì nghóa này nên gọi là Giải thoát xứ, chẳng phải chỉ có nơi chốn đang xúc chạm mới không nhiễm, lại có Bát-nhã chiếu sáng pháp thân tự tại, chỉ có Giải thoát xứ, đầy đủ ba điểm. Như thế thì bác bỏ giáo xưa, để hiển bày nghóa hôm nay đã rõ ràng. Thứ hai, từ câu: “Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là phần nói về nghóa. Trên nói ba nghóa, ở đây chỉ nói về hai nghóa. Đầu tiên là nêu hai phen hỏi đáp, nói về nghóa không có ung nhọt. Như văn đã ghi. Sau đó là ba phen hỏi đáp, nói về Giải thoát xứ. Phen thứ nhất như văn kinh ghi. Phen hỏi đáp thứ hai, có hai: 1/ Hỏi hai việc, 2/ Trả lời, có hai, là giải thích hai nghóa và kết luận hai việc. Các Sư xưa giải thích quả Phật thường trụ có sắc thì dẫn lời văn này. Lại có Sư cho rằng quả Phật Vô Sắc mà nói là Sắc, vì đó là diệu tuệ hiển bày, nên gọi là Sắc. Có sư cho rằng vì ứng hiện làm sắc. Có sư lại cho rằng trong ba nhóm thì hai nhóm chẳng phải sắc, một nhóm là sắc. Dùng sắc tự hiển bày dụ cho sự Giải thoát của quả Phật. Hưng Hoàng cho rằng: Nếu nhất định có sắc, có vô sắc thì lẽ ra chẳng có đạt chữ “hoặc”. Nói hoặc tức là vì duyên mà làm sắc hay vô sắc, hoặc là vô sắc tức vô sắc mà sắc. Vì nghóa này nên Nhị thừa chẳng thể hiểu được, chúng sinh là cảnh giới của họ. Nói Thanh văn vô sắc, vì hàng Nhị thừa sợ hãi sắc giống như sợ gông cùm, nên Phật mới nói Vô sắc. Bồ-tát thể hội được sắc tức vô sắc, nên nói sắc mầu nhiệm lặng trong. Nay giải thích đều chẳng phải như thế. Thể của Giải thoát không hề là sắc và vô sắc. Văn sau ghi: Chẳng thể nói sắc mà chẳng phải sắc; chẳng thể nói không mà chẳng không; vì hai duyên này nên nói sắc, vô sắc, chẳng phải sắc cũng là sắc, sắc cũng chẳng phải sắc, chẳng phải sắc chẳng phải chẳng phải sắc, chẳng thể nghó bàn. Phen hỏi đáp thứ ba chính là để hiển rõ ý nghóa này. Đó là cảnh giới của chư Phật, hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết được, chính là ở nghóa này. Từ câu: “Bấy giờ Ca-diếp, v.v…” trở xuống là nói rộng về Giải thoát. Có hỏi và đáp. Lời hỏi có hai ý: Hỏi về hạnh Niết-bàn, là hỏi về nhân và hỏi về nghóa Giải thoát là hỏi về quả. Các sư Trung Quán cho rằng chẳng cần phân biệt nhân và quả, mà chính là hỏi thẳng vào hạnh đức của Giải thoát này; hạnh đức tức là hành. Nay cho rằng chẳng phải như thế, đã xin nói rộng về ba nghóa trên. Hành, nghóa là thực hành giảng nói khiến cho ý nghóa mở rộng thêm. Xin mở rộng ý nghóa rộng lớn ở trên; nói Giải thoát, tức xin mở rộng ý nghóa không có ung nhọt nói trên. Nói ng- hóa, là xin mở rộng về Giải thoát xứ ở trên. Ở trên đã lược nêu ba nghóa, thì ở đây xin giải thích rộng, đâu có cách giải thích nào khác. Kế là trong phần đáp, tương truyền có một trăm câu. Chiêu-Đề cho rằng nếu tính theo chữ “Giải thoát” ở đầu câu thì chỉ có tám mươi bốn câu, nếu hợp các câu lớn nhỏ thì có chín mươi bảy câu. Nếu chia chi tiết thì trên một trăm câu, vì một trăm câu là số tròn, nên nói một trăm câu, ví như nói một trăm Ba-la-mật trong Đại phẩm, nhưng chỉ có chín mươi câu, v.v… Xưa nay chưa thấy ai giải thích một trăm câu này. Chỉ có một quyển Nghóa ký của Chân Đế, nhưng sơ lược chẳng thể hiểu. Xưa trong một lần an cư ở chùa Linh Thạch, Đại sư Thiên Thai đã giải thích một trăm câu Giải thoát này. Trong mỗi câu lại có một trăm câu. Có trăm vạn pháp môn, người học trước đã tự đầy đủ mà không ghi chép, để đến nay thất truyền, thật tiếc thay! Cho người sau chẳng được nghe! Trên đã nêu ba nghóa, lược giải thích về Giải thoát, sau nói một trăm câu giải thích rộng. Trong mỗi câu đều có ngang dọc, thấy có ung nhọt, cho đến giải thích xứ, điều phục chúng sinh. Các câu đều như thế! Vì sao? Vì ba điểm tức nhau, đầy đủ không thiếu, ba nghóa được đầy đủ. Chỉ có thể âm thầm chiếu soi, đâu thể bày tỏ ở ngôn từ. Nếu muốn nói rộng thêm, mà trí lực chẳng đủ, thì hãy cố gắng, chuyên tâm nghiên cứu chẳng lùi mà chia văn giải thích. Đầu tiên từ câu: “Gọi là xa lìa” cho đến câu: “Chẳng sinh một niệm lành”, là giải thích rộng về nghóa Giải thoát xứ. Từ câu: “Thí như đống lúa”, v.v… đến câu: “Thí như vật huyễn hóa” là giải thích rộng về nghóa tánh rộng lớn. Lại từ câu: “Không có thân thể, v.v…” đến câu: “Cứu giúp những người sợ hãi” là nói lại nghóa không ung nhọt ở trên. Từ câu: “Tức là quy xứ, v.v…” đến câu: “Tắm rửa rồi trở về nhà, v.v…” là nói lại nghóa Giải thoát xứ. Từ câu: “Không tạo tác lạc, v.v…” đến câu: “Dứt tất cả tham, tất cả tướng” là nói lại nghóa không ung nhọt. Trong đây đã là văn giải thích rộng, nên giải thích lại không có lỗi. Các Sư Trung Quán chỉ giải thích một câu kép cho rằng Giải thoát chẳng như thế tuy không có bờ này mà có bờ kia, nghóa là kia đây đối đãi nhau. Nếu bác bỏ cả hai thì chẳng có đây kia. Bờ này bờ kia đã lìa, sau đó dùng chẳng đây chẳng kia để kết luận, ví như bặt đối đãi, chẳng lớn chẳng nhỏ để kết luận là Đại; dùng chẳng phải bờ này chẳng phải bờ kia để kết luận là bờ kia. Vả lại, giải thích đối đãi nhau cũng như nói ác thì đọa mà lành thì thăng. Dùng chẳng phải để hiện bày điều phải, thì bờ này là sinh tử, bờ kia là Niết-bàn. Vì muốn chê bai pháp thấp kém mà tôn trọng pháp tối thắng, nên mới nói: “Tuy không có bờ này mà có bờ kia”. Nói Giải thoát là giết chết bốn rắn độc, là lấy bốn độn sử làm bốn rắn độc tức: tham, sân, si, mạn. Cũng chính là nói về bốn thứ, chung cho kiến hoặc, tư hoặc, làm thương tổn Pháp thân tuệ mạng. Hỏi: Dứt hoặc là nhân, Giải thoát là quả, vì sao lại nói Giải thoát là dứt trừ bốn rắn độc? Khai Thiện dẫn kinh cho rằng năng lực của vô minh rất lớn, trí Bồ- đề của Phật mới dứt trừ được. Quả thì có Đẳng giác, Diệu giác. Đẳng giác là Đoạn. Trang Nghiêm dẫn kinh cho rằng: “Thượng só thì đoạn, vô thượng thì chẳng đoạn”. Các sư Trung Quán nói: “Quả dứt chẳng dứt, chẳng phải chẳng dứt, duyên hợp chẳng dứt, như Trang Nghiêm”. Nay nói nếu y cứ theo bốn giáo: Ba tạng giáo dứt quả chẳng dứt nhân; Thông giáo khi ở giai vị tu nhân thì dứt bỏ chánh sử, khi đạt được quả thì dứt bỏ tập khí; Biệt giáo đoạn nhiều phần nhân và một phần quả. Viên giáo thì từ nhân đến quả đều xứng hợp trí Phật, chẳng dứt, chẳng phải chẳng dứt; chẳng dứt mà dứt, dứt tức chẳng dứt, mà dứt tất cả các hữu, tức xa lìa các sinh tử ở ngoài lý; sinh ra các pháp lành vô lậu, đó tức là y cứ theo Niết-bàn trong lý. Cắt đứt các đường tức là đoạn các đường có sớ đắc. Như bốn câu ngã, vô ngã đều dứt mà chẳng dứt ngã kiến, tức chẳng trừ ngã trong lý. Nay nói dứt tất cả Hữu tức là phá giả, nói sinh ra vô lậu là vào không; đoạn dứt các đường là dứt bỏ cả hai bên; nói chẳng dứt ngã kiến tức là vào Trung, gọi là Giải thoát. Nghóa này thông suốt hơn nghóa của các sư, rất dễ thấy. Từ câu: “Ba bước nhảy vọt và ba quy y, v.v…” trở xuống là tổng kết Giải thoát, có hai: 1/ Tổng kết; 2/ Luận nghóa. Phần tổng kết nói ba lần nhảy vọt, tránh được sợ hãi là tổng kết ý không có ung nhọt ở trên; nói ba quy y là tổng kết ý Giải thoát xứ ở trên, nói ngay nơi một mà ba là ngang rộng, nói ngay nơi ba là một là dọc sâu, để tổng kết về nghóa tánh rộng lớn nêu trên. Có người giải thích rằng vì sợ thợ săn cho nên ba lần vọt nhảy, vì sợ ma ngoại đạo nên thọ ba quy y. Lần nhảy thứ nhất là dụ cho quy y Tăng, tránh được thợ săn, nhưng còn gần; lần nhảy thứ hai dụ cho quy y Pháp; lần nhảy thứ ba dụ cho quy y Phật, mới được an ổn. Cho nên văn sau sẽ nói về việc chim bồ câu núp vào bóng ngài Xá-lợi-phất vẫn còn run sợ, chưa được an ổn. Lại y cứ theo thứ lớp Tam bảo, lần nhảy thứ nhất dụ cho quy y Phật, lần nhảy thứ hai dụ cho quy y pháp, lần nhảy thứ ba dụ cho quy y Tăng. Đầy đủ ba bảo mới không còn sợ hãi. Có người cho rằng trước là nói Biệt thể Tam quy, sau mới là Nhất thể Tam quy. Nay cho rằng chẳng phải như thế, trong đây chỉ có Nhất thể Tam quy, do đại chúng thời bấy giờ chưa liễu ngộ, nên ngài Ca-diếp hỏi tiếp được Phật chỉ dạy một lần nữa. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật, v.v…” trở xuống là nêu ba việc đã luận nghóa: 1/ Nói về ba quy; 2/ Hỏi về sự vui vô tác; 3/ Hỏi về chẳng sinh chẳng diệt. Trăm câu đã rộng nhiều, ở đây lược nêu ba câu hỏi. Nói thêm rằng: Sau các câu nói về Giải thoát lập ba câu hỏi này, tin rằng ba câu hỏi này gồm thâu vạn pháp môn. Câu hỏi thứ nhất về ba quy y. Đã nói Giải thoát, Như Lai, Niết-bàn, chỉ là một pháp lẽ ra là một thể một quy, vì sao lại nói ba quy. Đây là nêu ba vặn hỏi một. Phật đáp có bốn ý: 1/ Vì thể diệu cho nên có ba; 2/ Vì phân biệt danh nghóa nên có ba; 3/ Vì dẫn chứng cho nên có ba; 4/ Vì tự tại cho nên có ba. Sau đây là ý thứ nhất. Nếu Giải thoát, Niết-bàn chắc chắn là một thể chẳng được nói ba, thì chẳng phải diệu, chẳng phải là bảo, chẳng đáng nương tựa. Ngay nơi ba là một, ngay nơi một là ba mới thật là diệu bảo, mới đáng nương tựa. Văn kinh ghi: “Vì sợ sinh tử cho nên cầu ba quy y, cho nên biết Niết- bàn là một”. Chính là nghóa này. Ý thứ hai: Giải thoát, Như Lai và Niết-bàn đều là thường, cho nên tên gọi thì đồng mà nghóa thì khác. Từ đồng cho nên nói một, từ khác cho nên nói ba. Danh thì một nghóa thì khác còn được nói ba, thì danh nghóa đều khác đâu chẳng thể nói ba? Ý thứ ba, vì dẫn chứng nên có ba. Đối với giáo xưa trên Biệt thể Tăng còn có Tam bảo, huống chi nay trên Nhất thể Phật mà chẳng đủ ba hay sao? Ý thứ tư, vì tự tại bất định cho nên nói ba. Giáo xưa vì phá tà cho nên nói một là ba, ba chẳng trái một. Nay vì phá Biệt nên nói ba là một. Một chẳng trái ba, ba và một như thế là cảnh giới của Phật, chúng sinh chẳng thể biết được. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là hỏi về niềm vui vô tác, có hai ý: Thứ nhất là lãnh nhận ý chỉ. Thứ hai từ câu: “Vì sao?, v.v…” trở xuống là vặn hỏi. Ý hỏi nếu rốt ráo an vui gọi là Niết-bàn, tức vô sở hữu, vậy ai thọ nhận sự an vui? Đức Phật đáp có ba là Dụ, hợp, kết. Vì mệt bụng cho nên mửa ra, đã mửa ra thì không còn gì, mới được gọi là an vui, niềm vui vô thọ của Phật cũng giống như thế. Từ câu: “Ca-diếp nói, v.v…” trở xuống là hỏi về chẳng sinh diệt. Có bảy lần hỏi đáp. Bốn phen hỏi đáp trước như văn kinh đã ghi. Phen hỏi đáp thứ năm. Vì sao Như Lai lại nói hai thuyết? Câu hỏi này từ đâu phát khởi? Ở trên hoặc dùng hư không dụ cho Pháp thân, hoặc chẳng dùng; hoặc dùng mây sấm dụ cho Pháp thân, hoặc chẳng dùng; hoặc nói một mà ba, hoặc nói ba mà một, chấp lấy đó để vặn hỏi là: “Nói hai thuyết”. Đức Phật dùng hai dụ để trả lời. Hại Phật và hại mẹ tuy chẳng làm hoại thân, nhưng tội nghịch đã thành, đều chẳng thể nói nhất định. Nếu nói thân đã chết nhưng thân chưa chết. Nếu nói không tội thật ra là phạm tội. Như Lai biết đúng thời, nên hoặc có lúc nói thuyết bất định, dùng bốn Tất-đàn đều chẳng luống dối. Thứ ba từ câu “Ca-diếp bạch Phật, v.v… cũng là nói về nhận lãnh hiểu rõ. Thứ tư, từ câu “Đức Phật khen v.v…” trở xuống là thuật lại để thành tựu.  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 10 <詞>PHẨM 8: TỨ Y (BỐN CHỖ NƯƠNG TỰA) Bốn là số lượng, y là nương tựa. Nghóa là tất cả thế gian đều nương vào đó mà được lợi ích. Nói bốn y thì có hai loại: Một, nương vào tự pháp giữ lấy lợi ích, nếu chỉ nương vào pháp, mà chẳng nương người thì chẳng gọi là y. Nếu nương vào người thì gồm được cả pháp. Văn ghi: “Có bốn hạng người ra đời giữ gìn, xây dựng, làm lợi ích, nghóa là mạnh mẽ nên lập ra bốn y” để trả lời câu hỏi “làm sao được rộng lớn, làm chỗ nương tựa cho chúng” ở trước. Hỏi: Rộng lớn tức là pháp, được là thuộc về người, vậy nói thẳng rộng lớn cũng có thể nương tựa, không cần phải có người. Nếu được pháp là người thì phải có pháp? Đáp: Ở trên hỏi về người được pháp, nay phải đáp về người được pháp. Cho nên biết từ người mà đặt tên là bốn y. Vả lại, xưa thì người có lẫn lộn chân ngụy. Nay pháp lẫn lộn đại tiểu, nên nương vào người mà bỏ pháp, khiến nương vào người chân chánh để giữ lấy chánh pháp. Vì thế nương vào bốn hạng người để lập pháp bốn Y. Xưa nương vào pháp bỏ người, thì người không có pháp, pháp chẳng cùng khắp. Như bỏ đây theo kia để tìm kiếm hư không. Nay nói người là người nắm giữ pháp chẳng bỏ đây theo kia, nên từ bốn ha- ïng người mà lập phẩm Tứ Y. Đó là dùng ý bốn Tất-đàn để giải thích phẩm. Hỏi: Như Lai là Bậc chánh nhân, vì sao chẳng tạo lập hình tượng Như Lai? Bốn quả chẳng phải là chánh nhân, thì đâu thể lập hình tượng bốn quả? Đáp: Phật tuy là chánh nhân, nhưng tượng Phật xuất hiện sau khi Phật diệt độ, nên chẳng được tạo tượng Như Lai. Bốn quả tuy chẳng phải chánh nhân, nhưng bốn quả là ruộng phước chân thật, dễ thực hành việc hóa đạo, nên tạo tượng này. Hỏi: Nếu nói các hình tượng khác khó làm. Vì sao kinh Thủ-lăng- nghiêm nói Bồ-tát thị hiện các thứ thân hình giáo hóa chúng sinh? Đáp: Nếu nói chung thì có tạo tác tất cả thân, nếu nói riêng thì chỉ có bốn quả, tự có Như Lai là Như Lai, Như Lai là Tứ y, Tứ y là Như Lai, bốn y là bốn Y, bốn Y là bốn Quả, bốn Quả là bốn Quả, bốn Quả chẳng thể là bốn Y; tuy có các nghóa như thế, nhưng nay chỉ lấy một nghóa là bốn Y để làm hình tượng bốn quả. Hỏi: Như Lai là bốn Y, có thể nói bốn Y là một Y chăng? Đáp: Ở trên đã khai thác tướng thành bốn tướng, hợp bốn tướng thành một tướng. Khai thác có một trăm Giải thoát, hợp thì chỉ có Như Lai Niết-bàn. Nay từ Niết-bàn khai lập bốn y, nếu hợp thì trở lại Phật là bốn y. Hỏi: Vì sao đầu tiên bảo nương vào Pháp, sau lại bảo nương vào Người? Đáp: Khi Đức Phật mới ra đời thì có rất nhiều kẻ tà, nên bảo nương vào chánh pháp, bỏ người tà, về sau không có người tà, chỉ có pháp Tiểu, nên bảo nương vào người chân chánh, mà bỏ pháp Tiểu. Cũng là nói lúc đầu vì người lợi căn, cho nên bảo nương vào pháp, nay phần nhiều là người độn căn nên bảo nương vào Người. Nếu nói một cách rốt ráo thì người pháp đều phải nương tựa. Văn kinh ghi: “Nương vào pháp là pháp tánh, pháp tánh tức Như Lai”. Xưa nói về hành vị của bốn y đều khác nhau. Các sư Địa luận nói trước ba mươi tâm là giai vị đệ tử, ba mươi tâm là giai vị sư, Sơ địa trở lên là y thứ hai, cũng thuộc về giai vị sư. Các sư Thành Thật cho rằng sáu tâm của Thập trụ trở xuống là giai vị đệ tử, Thất trụ trở lên là y thứ nhất thuộc về giai vị sư. Lại nói trước mười hai tâm là vị đệ tử, tâm thứ mười ba là y thứ nhất thuộc về sư. Các sư kia thấy Hoa Nghiêm nói mười ba tâm là chính, là Đạo, là Tôn, là Thắng. Lại mười bảy tâm trở lên là giai vị đệ tử, tâm thứ mười tám trở xuống là y thứ nhất thuộc giai vị sư. Lại nói mười chín tâm trở xuống là giai vị đệ tử, hai mươi tâm trở lên đến đạo chẳng chung tâm là y thứ nhất, thuộc về giai vị sư. Các sư Trung luận cho rằng Thập tín đều chẳng phải là giai vị sư. Từ sơ tâm của Thập trụ đến lục trụ là y thứ nhất thuộc giai vị sư, từ thất trụ đến thất địa là y thứ hai, Bát địa, Cửu địa là y thứ ba. Thập địa là y thứ tư. Nói theo sự khác nhau thì đầu tiên có phiền não không có Niết-bàn, sau cùng có Niết-bàn không có phiền não. Nếu nói theo không sai khác thì đầu và cuối đều có phiền não, đều có Niết-bàn. Nhưng các sư Địa luận trong nghóa Biệt luận nghóa Viên; còn luận Thành Thật ba mươi tâm chẳng dứt biệt hoặc, mà trong đó lại lập y, nên nghóa Biệt, Viên đều chẳng thành tựu. Nay y cứ theo giai vị trước Thập địa chưa dứt Biệt hoặc là Sơ y, thập địa đã dứt biệt hoặc là ba y còn lại, đây là nghóa của Biệt giáo; nếu y cứ theo Thập tín là sơ y, ba mươi tâm và Thập địa đã dứt biệt hoặc là ba y sau, đây là nghóa của Viên giáo. Nghóa Viên lại có chung và riêng. Chung thì bốn mươi tâm thành lập bốn y. Riêng thì Thập tín là y thứ nhất, Sơ trụ đến lục trụ là y thứ hai, trụ thứ bảy đến trụ thứ chín là y thứ ba, thập trụ là y thứ tư. Những nghóa khác cũng giống như thế. Các sư kia nói y thứ nhất có giai vị sư và đệ tử. Nay chẳng phải như thế, bốn y đều là giai vị sư, vì có khả năng làm chỗ nương cho tất cả thế gian; cũng đều là tử vị, vì mở mang truyền bá Phật pháp. Nếu nói riêng thì y thứ nhất là giai vị đệ tử, một y sau chỉ là giai vị sư, hai y giữa có cả giai vị sư và đệ tử… Toàn phẩm này được chia làm tám chương: 1.Nêu danh tướng: 2. Nói về lợi ích: 3. Nói về thời gian xuất hiện: 4. Nói về gieo nhân: 5. Phán tội phước: 6.Khuyên cúng dường; 7. Phân biệt chân ngụy: 8.Hợp xưa nay. Chương thứ nhất lại có ba: một, nêu chương khen ngợi; hai, là nêu số khen ngợi; ba, là bày tướng khen ngợi. Phần nêu chương. Trong Đại Niết-bàn có bốn hạng người, bốn hạng này đều đắc pháp Niết-bàn, nên gọi là người trong Niết-bàn. Nếu đã đắc pháp vì sao nói sơ y có tánh phiền não? Nay nói đắc pháp có rất nhiều loại. Sơ y là tướng tự đắc pháp, ba y sau là phần chân đắc pháp. Chân và tự hợp luận đều ở trong Niết-bàn. Trong đó khen ngợi chung đức tự hành hóa tha của bốn hạng người. Nơi có Phật pháp thì chẳng kh- iến cho duyên khác nhiễu loạn, nên nói là năng hộ. Đối với nơi không có Phật pháp thì hưng khởi, nên gọi là kiến lập. Hai là nơi có và không đều có khả năng trụ trì, nên nói là nhớ nghó. Ba câu này là đức tự hành. Nơi không có Phật pháp thì làm cho chúng sinh được nghe được thấy, nên nói là thương xót. Ở chỗ có Phật pháp thì làm cho thêm hưng thạnh, nên nói là nhiều lợi ích. Ở cả hai nơi có và không đều có khả năng làm nơi nương tựa. Các câu này đều khen ngợi đức hóa tha. Từ câu “những gì là bốn…” Trở xuống là phần nêu số lượng khen ngợi. Có tánh phiền não, nếu y cứ theo Biệt giáo thì đó là giai vị ba mươi tâm, theo Viên giáo thì định là mười tánh. Hai giai vị này đều đã dứt trừ hoặc chung, chẳng được nói là có sự phiền não; vì đã chế phục hoặc riêng, nên sự chẳng khởi nhưng còn tánh. Cho nên nói là có tánh phiền não. Nói hai quả đầu là y thứ hai, nếu theo Biệt giáo thì đó là từ Sơ trụ đến lục trụ, nếu y theo Viên giáo, thì chỉ một đường phán định là từ Sơ trụ đến Lục trụ. Nếu y cứ theo Thông cộng thừa thì định đó là từ Kiến địa đến Bạc địa, chưa lìa dục. Nếu y theo Đại thừa thì đó là Thất địa, cũng chưa lìa nhục thân. Nói quả thứ ba là y thứ ba. Theo Biệt giáo thì xếp đó vào Bát địa và Cửu địa; nếu theo Viên giáo thì định đó là Bát trụ. Theo Tiểu thừa thì định đó là quả Bất hoàn ở cõi dục. Nếu theo Đại thừa thì định đó là Thất địa chẳng trở lại ba cõi. Quả thứ tư thì có thể tự biết. Nếu muốn phân biệt kỹ thì nên y cứ theo Viên giáo để sắp xếp. Từ câu “vì sao, v.v…” trở xuống là phần chỉ bày tướng và khen ngợi. Có hai: một, là nêu tướng của bốn hạng người; hai, là khen ngợi chung các đức. Văn thứ nhất lại có bốn. Thứ nhất là người có thời gian. Lại có ba: Một là tướng phục đạo; hai là tướng tu hành; ba, là tướng của vị. Tướng phục đạo: Phiền não chưa dứt nên gọi là “còn”, ngay nơi sự đã bị chế phục, nhưng thể của hoặc vẫn còn, nên gọi là Tánh. Vì thế gọi là phục đạo. Nói về tướng tu hành. Các hạnh chế phục hoặc, chẳng ngoài Tự và Tha. Tự hành thì chẳng ngoài Giới học và Tuệ học; hóa tha chẳng ngoài sinh thiện và phá ác. Tóm lại thì chẳng ngoài hai trí Quyền Thật. Khéo biết phương tiện là Quyền trí, pháp bí mật là Thật trí, xem văn rất dễ hiểu. Tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân là xuất xứ từ kinh Di Giáo. Đó là: Ít muốn, biết đủ, xa lìa, tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh tuệ, chẳng nói suông. Tức là từ ít muốn là đạo cho đến chẳng nói suông là đạo, nói suông là chẳng phải đạo. Nói về tướng của các vị: Có ba: Một, là dùng phàm để phân biệt Thánh; Hai, là dùng Thánh phân biệt phàm; Ba, là dùng nhân phân biệt quả để định giai vị. Đầu tiên nói là phàm chẳng phải Thánh, tức là Bồ-tát chẳng phải Phật, chẳng phải người thứ tám tức là dùng Cộng địa để giải thích. Người thứ tám là đoạn đạo, sơ y là phục đạo, nên chẳng phải là người thứ tám. Vả lại, nếu từ sau so sánh với trước thì Bát nhân địa là thứ tám, cho nên nói chẳng phải người thứ tám. Y thứ hai về tướng cũng có ba: một, là chứng tướng; hai, là hành tướng; ba, là vị tướng. Trong chứng tướng có nói “nếu được chánh pháp” tức là đoạn đạo chứng; Biệt hoặc đã dứt thì Phật tánh mới hiển bày tương ưng với pháp. Nhờ tu đạo mà đắc nên nói là đắc pháp. Về hành tướng, nói thọ trì chánh pháp tức là từ chân khởi hạnh; ví như hạnh Tiểu thừa tu đạo cũng chẳng ngoài tự hành, hóa tha. Nhưng hạnh chứng đạo thì tâm hạnh thuần là pháp, chẳng có phi pháp. Nên nói là vật bất tịnh, thật chẳng có việc này. Thứ ba từ câu “đó gọi là, v.v…” trở xuống là nói về giai vị thấp nhỏ để thưa hỏi. Các sư xưa nói chưa được định sắc, vô sắc. Nếu thuận theo bốn nhẫn, thì đó là được phục và thuận nhẫn, chưa được Vô sinh vắng lặng. Nay nếu y cứ theo các hạng trước thì như thế. Vì dùng trước để phân biệt sau thì gọi là người thứ hai, dùng sau để phân biệt trước thì chưa được trụ xứ thứ hai và thứ ba. Theo Tiểu thừa thì Phật là bậc nhất, Thân Tử là hạng nhì, A-nan hạng ba. Trong đó vì dùng ý nghóa trước sau đồng nhau để phân biệt, cho nên Phật là bậc nhất, y thứ tư là bậc thứ hai, y thứ ba là bậc thứ ba, người này chưa được trụ xứ thứ hai thứ ba, gọi là Bồ-tát chắc chắn đã được thọ ký ở nhân vị, chắc chắn sẽ được quả. Người này đã dứt trừ vô minh, thấy được Phật tánh, duyên đã thành thục, được tám tướng thành đạo, nên gọi là “đã được thọ ký”. Xưa có ba cách giải thích, đều không thể hiểu. Hà Tây cho rằng người sau là từ người trước mà đặt tên, như thứ tư là từ thứ ba, thứ ba là từ thứ hai, thứ hai là từ thứ nhất, tức gọi là người thứ nhất. Cho nên chưa được trụ xứ thứ hai thứ ba, các sư Trung Quán giải thích rằng: “Hợp Thánh phàm cùng thuộc một, nhưng chỉ là y thứ nhất chưa được trụ xứ thứ hai thứ ba. Y và Tăng nhất tập thì quả thứ nhất, thứ hai, thứ ba là người y thứ hai, sơ quả chưa được y thứ hai, quả thứ hai chưa được y thứ ba. Rõ ràng là hai quả này đều chưa được đồng có công dụng, cho nên thuộc một y”. Cách giải thích này dễ thấy, chẳng giống như các sư kia. Nay giải thích này nếu y cứ theo người y thứ nhất của Viên giáo đã dứt trừ hoặc chung xa lìa hẳn ba cõi, há có việc y thứ hai chưa được trụ xứ cõi sắc, Vô sắc ư? Nếu y cứ theo y thứ nhất là trước thập địa của Biệt giáo cũng đã dứt hoặc chung, sớm xa lìa ba cõi thì chẳng nên dùng Sắc, Vô sắc làm trụ xứ thứ hai thứ ba, cũng chẳng nên dùng Sơ quả làm trụ xứ thứ nhất, Tư-đà-hàm làm trụ xứ thứ hai. Người thứ ba cũng có ba ý: một, là chứng tướng; hai, là hành tướng; ba, là vị tướng. Chứng tướng rất nhiều chỉ lược nêu ba nghiệp thanh tịnh. Từ câu: “Chẳng phỉ báng chánh pháp” v. v… trở xuống là nói khẩu tịnh; từ câu “và bị khách trần v.v…” trở xuống là nói về ý tịnh. Từ câu “Chẳng che giấu xá-lợi v.v…” trở xuống là thân tịnh. Xương thịt che phủ, pháp thân ẩn tàng, nên gọi là Như Lai tạng. Nay pháp thân đã hiển, xá-lợi chẳng ẩn tàng tức là thanh tịnh. Chẳng luận nói ngã tức lặp lại về khẩu tịnh; thọ thân không có trùng là lặp lại thân tịnh; khi chết chẳng sợ hãi là lặp lại ý tịnh. Kế là từ câu: “A-na-hàm v.v…” trở xuống là nói về hành tướng. Gọi là Bất hoàn như trên đã nói, tức là nói ở quyển bốn, chẳng trở lại cõi Dục cho đến ba cõi, tức là vãng hạnh. Hay vào cõi Dục mà chẳng bị hai mươi lăm hữu làm nhiễm ô phạm hạnh. Qua lại đều lợi ích cho chúng sinh cho nên gọi là chu toàn. Thứ ba, từ câu “ngôi là Bồ-tát v.v…” trở xuống là Pháp tướng vị. Tướng của y thứ tư cũng có ba: một, là chứng tướng; hai, là vị tướng; ba, là hành tướng. Tuy chẳng theo thứ lớp như trước, nhưng ba nghóa đồng nhau. Nói dứt phiền não tức giết chết hai tên giặc chung, riêng, là nói về nhân đã mất, xả bỏ gánh nặng, tức chẳng thọ hai thân phần đoạn và biến dịch, là nói về quả tiểu. Lợi mình đã thành là được điều chư Phật đã được; việc làm đã xong tức đã đến Thập Địa, học hạnh đã cùng tận tròn đầy, cũng gọi là Ứng Cúng. Nói: “Trụ ở Thập Địa” tức là sắp xếp giai vị, để nêu lên nơi chốn. Thứ ba từ câu “được trí tự tại v.v…” trở xuống là nói về hành tướng. Được trí tự tại là tự hành tướng; thuận theo sự ưa muốn của chúng sinh tức là hành tướng hóa tha, muốn thành Phật thì liền thành, là kết luận về trí tự tại. Từ câu “đó gọi là, v.v…” trở xuống là phần thứ hai, khen ngợi chung công đức tự hành và hóa tha của bốn hạng người. Từ câu “Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về lợi ích của sự nương tựa, bên ngoài thì phá dẹp tà ma, bên trong thì dứt sạch kết nghiệp. Công thì cùng, dụng thì diệu làm lợi ích thế gian. Theo văn có hai ý: một, là giáo hóa Thanh văn hàng phục; hai, là chẳng hóa Bồ-tát hàng phục. Phen thứ nhất hỏi và đáp. Hỏi có ba câu: một, là nói chẳng phải y; hai, là giải thích chẳng phải y; ba, là kết luận. Nói chẳng phải y, nên văn kinh ghi rằng: Cù-sư-la, Hán dịch là Mỹ Âm. Đức Phật đáp, có hai ý: 1) Cho phép hỏi và quán xét; 2) Chánh thức hàng ma. Phật là duyên bên ngoài, bên trong phải rõ tín và trí. Trí thì chiếu phá tà nghi, tin thì thọ trì chánh pháp. Đối với Phật còn cần tín và trí, huống chi những người khác. Chánh hàng ma có hai: một, là dụ; hai, là hợp. Trong dụ có ba: một, là dụ ma đến, hai, là dụ ma bị hàng phục; ba, là dụ ma thoái lui. Chó trộm dụ cho ma, ngôi nhà dụ cho Phật pháp. Ban đêm vào nhà dụ cho chánh pháp suy vi, đệ tử sinh khởi vô minh là dụ cho ban đêm. Kinh Niết-bàn bản sáu quyển nói là chó giặc. Kế đến từ câu “Nô tỳ v.v…” trở xuống là dụ hàng ma. Trong ba thừa thì Thanh văn là thấp nhất, dụ cho nô tỳ; giết chết là dùng năm sợi dây (ngũ hệ) mà trói buộc, khiến ma ngụy chẳng đi được, ý nghóa cũng như giết chết. Thứ ba từ câu “con chó trộm v.v…” trở xuống là dụ ma lui tan. Từ câu “các thầy v.v…” trở xuống là hàng phục ma Ba-tuần. Về ngũ hệ, có hai cách giải thích: một, năm thây bị trói buộc; hai, trói buộc ở năm chỗ. Năm thây chết dụ cho năm thứ bất tịnh, dùng để quán hàng phục ma ái, năm sự trói buộc dụ cho năm môn quán hàng phục ma kiến. Ma kiến là trộm, ma ái là chó. Từ câu “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, chẳng dạy Bồ-tát hàng ma. Chương này có hỏi và đáp. Trong lời hỏi có hai: một, nói về việc nương vào pháp cũng tự đầy đủ. Thứ hai, nói vào việc đâu cần nương vào người. Phật đáp, có ba ý: Một là cho phép; hai, là chánh đáp; ba, là khen ngợi. Cho phép như văn kinh ghi. Kế đến là chánh pháp, có ba: Một là pháp; hai là dụ; ba là quy kết thành. Pháp thuyết lại có hai: Một là nêu hai chương. Hai là giải thích Đại và Tiểu. Hàng Thanh văn tuy có mắt trời mà lại là mắt thịt, vì chẳng thấu suốt được lý nên bị ma ngăn ngại, vì thế phải chỉ dạy. Bồ-tát tuy là mắt thịt mà lại là mắt Phật, chiếu soi cùng khắp, cõi ma tức cõi Phật. Vì thế không chỉ dạy. Dụ thứ hai có ba: Một, dụ Phật dạy Thanh văn; hai, dụ Phật chẳng dạy Bồ-tát; ba, dụ Bồ-tát chỉ dạy Thanh văn. Thứ nhất lại có khai và hợp. Khai dụ lại có ba, là dạy phương tiện, dạy khởi niệm và dạy phá địch. Đầu tiên dạy phương tiện, nói mạnh mẽ là dụ cho Phật tánh, yếu đuối dụ cho Thanh văn. Hàng Thanh văn thường nương vào Phật. Bốn niệm xứ là cung, năm niệm căn như tên, thần thông như giáo, năm niệm hệ như dây. Kế là từ câu “Lại bảo v.v…” trở xuống là chỉ dạy ba niệm cao quý. Chẳng sợ là dạy về giới, thấy người trời là dạy về định, mạnh mẽ là dạy về tuệ. Từ câu “bấy giờ, có người, v.v…” trở xuống là dạy phá địch, gồm có ba: ma đến, ma bị hàng phục và ma bỏ đi. Ma không có trí tuệ nên nói là không có năng lực mạnh mẽ, biến thành thân tướng tốt đẹp, giả tạo thân tướng mạnh mẽ. Tà định là cung, tà tuệ là đao, nghề nghiệp thế gian là khí giới, vào trận la hét dụ cho năm đế, sáu ấm, mười chín giới, mười ba nhập, v.v… Từ câu “Đối với kẻ này v.v…” trở xuống là chánh thức hàng phục. Từ câu “Những kẻ ấy v.v…” trở xuống là nói ma lui tan. Từ câu “Này người thiện nam…” Trở xuống là hợp dụ. Chỉ hợp với hai ý sau, chẳng hợp với ý thứ nhất. Siêng năng bền chắc là hợp với ý chỉ dạy ba niệm cao quý ở trên. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ hai, chẳng dạy Bồ-tát hàng ma, có ba: một, là chẳng dạy hàng ma; hai, là giải thích chẳng hàng ma; ba, là lập dụ để hiển bày. Nói nghe kinh sâu xa, tức là nghe ma giới tức Phật giới. Vì nghóa này cho nên chẳng dạy hàng phục. Bên trong chuyên chở Đại thừa, bên ngoài nương vào Phật lực, các ma và giặc cướp như đom đóm gặp mặt trời, mất hết ánh sáng trên thân. Đó là giải thích ý nghóa chẳng hàng phục. Lập dụ để hiển bày nghóa, tự rất dễ hiểu. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là dụ cho Bồ-tát dạy Thanh văn. Có dụ và hợp. Dụ có bốn: 1) Ma nhiếp hóa Thanh văn; Thanh văn bị nhiếp hóa; 3) Dùng bốn y để hàng ma; 4) Thanh văn trở về tánh cũ, lại phát tâm. Ma dùng năng lực thần thông, biến hóa giống như rồng dữ, không có tâm từ bi. Ác ma này nhiếp hóa các Thanh văn giống như muốn hại người thì nhìn vào người ấy, là dụ cho thần thông, phun khí độc là dụ cho tà thuyết. Kế đến, từ “vì thế v.v…” trở xuống là hàng Thanh văn chịu sự giáo hóa. Thấy hình là thấy biến hóa, nghe tiếng là nghe sự biện thuyết, chạm thân là bị mê hoặc bởi thuật biến hóa kia, đều chết tức là mất gốc lành. Từ câu “có thần chú thiện v.v…” trở xuống là ý thứ tư, nói về bốn y hàng ma. Người giỏi thần chú tức là pháp lực trung đạo Đại thừa Niết-bàn. Từ “các loài thú, v.v…” trở xuống là nói về Thanh văn trở về tánh cũ và phát tâm. Từ câu “Thanh văn, Duyên giác, v.v…” trở xuống là hợp dụ, hợp đủ bốn dụ. Trước hợp với dụ Thanh văn để nhiếp hóa. Kế là hợp với ma giáo hóa Thanh văn. Từ “Người học Đại thừa v.v…” trở xuống là hợp với dụ bốn y hàng ma. Từ “Thanh văn v.v…” trở xuống là hợp với dụ trở về tánh cũ và phát tâm. Từ “Lại nữa, này người thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ ba kết thành, có ba: Kết luận về Thanh văn có giáo hóa. Kết luận chẳng giáo hóa Bồ-tát, Kết luận cả hai ý. Từ “Đại Niết-bàn, v.v…” trở xuống là phần khen ngợi, khen người và pháp của Bồ-tát. Đầu tiên khen ngợi người và pháp ở hiện tại. Khen ngợi người và pháp ở vị lai. Từ câu: “Bây giờ, Đức Phật bảo v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba nói về thời gian xuất hiện bốn y. Đúng thời là có ích, phi thời là vô ích. Nếu Phật còn tại thế, chánh pháp vẫn hưng thạnh, đức còn hưng thạnh thì đạo đâu cần trợ giúp để mở mang truyền bá. Như sau khi Phật diệt độ, chánh pháp suy tàn, không thầy chẳng thuốc. Vì cần phải cứu chữa, nên mới giả lập bốn y. Văn có ba: Một là, Đức Phật nói thời gian chung; hai là, Ca-diếp hỏi riêng; ba là, Ca-diếp phân biệt. Sau đây là ý thứ nhất, nói về thời gian chung. Thời gian sau khi Đức Phật Niết-bàn là chỉ cho ba thời chánh, tượng, mạt. Đó là nói chung về thời gian. Kế là, từ câu “Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là Ca-diếp hỏi về thời gian riêng. Gồm có hỏi và đáp. Lời hỏi có hai: Một là, sau khi diệt độ bao lâu thì chẳng đúng như pháp. Hai, là thời gian sau khi diệt độ bao lâu thì đúng như pháp mà cứu vớt. hỏi. Kế là từ câu “Phật bảo, v.v…” trở xuống là Phật trả lời hai câu Bốn mươi năm sau, thời kỳ chánh pháp gồm tám mươi năm được chia làm trước và sau, đây là nói bốn mươi năm sau. Về các thời kỳ chánh, tượng, pháp, các kinh nói khác nhau. Có kinh nói chánh và tượng pháp mỗi thời kỳ đều một ngàn năm; có kinh nói mỗi thời kỳ chỉ năm trăm năm; có kinh nói chánh pháp chỉ có năm trăm năm, tượng pháp một ngàn năm; có chỗ nói chánh pháp một trăm năm, hoặc nói tám mươi năm. Do duyên có đậm nhạt mà nói có dài ngắn. Nếu bốn mươi năm trước cách Phật còn gần, người đúng như pháp còn nhiều, bốn mươi năm sau cách Phật hơi xa, nhưng còn có người thấy Phật. Như Thích Luận nói: Ưu-ba-cúc-đa thấy một vị Tỳ-kheo-ni một trăm hai mươi tuổi, bèn hỏi về sắc tướng của Phật, oai nghi của các Tỳ-kheo. Nên biết bốn mươi năm sau còn có người thấy Phật. Sợ rằng thời gian phi pháp khởi lên, nhiều người phỉ báng chánh pháp, cho nên giải thích rằng: Chánh pháp năm trăm năm trừ bốn trăm hai mươi năm, chỉ lấy tám mươi năm mà chia làm trước sau. Bốn mươi năm đầu kinh này lưu thông cùng khắp, bốn mươi năm ẩn mất trong đất. Có thuyết nói rằng chẳng đúng như thế. Sau khi Phật diệt độ một trăm mười sáu năm, vua lập đại hội, các bộ phái khác nhau sinh khởi chấp trước, Ưu-ba-cúc-đa chẳng thể dung hội được. Bấy giờ, Phật pháp đã suy vi dần, đâu đợi đến bốn trăm sáu mươi năm sau mới ẩn vào trong đất. Nên biết Ca-diếp và A-nan giữ gìn chánh pháp bốn mươi năm không khác với lúc Phật còn tại thế, bốn mươi năm sau thì cách Phật đã xa, chánh pháp dần suy vi. Nhưng văn sau, Ca-diếp hỏi Phật cách bốn mươi năm sau chánh pháp ẩn mất vào lòng đất, bao giờ thì xuất hiện trở lại. Phật đáp chánh pháp diệt, còn tám mươi năm, bốn mươi năm đầu còn lại xuất hiện, qua thời gian này thì ẩn mất, tức là đúng với lời này. Đó là việc hưng phế của chánh đạo của bốn trăm hai mươi năm sau. Có một cách giải thích rằng: Ba mươi tuổi Phật thành đạo, nếu nói có người mười tuổi ngộ đạo, đến khi Phật diệt độ thì người ấy sáu mươi tuổi, trước sau đều thấy Phật, có thể dung hội Đại Tiểu. Sau khi Phật diệt độ bốn mươi năm, thì việc giáo hóa giống như thời Phật không khác; sau thời gian này trở đi thì người không thấy Phật; chẳng thể theo đúng chánh lý, sinh chấp đoạn chấp thường, cho nên nói ẩn mất vào lòng đất, nhưng chẳng nói một trăm ba mươi năm là vì nêu tuổi cao các căn không lanh lợi nên không thể giữ gìn chánh pháp, do đó không nói. Hỏi: Người mười tuổi thấy Phật mới thành đạo, vậy Ca-diếp, A- nan sinh vào ngày Phật đắc đạo, đó cũng là chẳng thấy lúc đầu, làm sao giữ gìn được chánh pháp giống như thời Phật còn tại thế? Đáp: Hai vị này thì Ca-diếp là Trưởng tử, A-nan được Tam-muội Phật giác, chẳng nên so sánh với những người khác. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là Phật trả lời người đúng pháp có khả năng cứu giúp. Văn có hai ý là chánh đáp và khen ngợi. Phần chánh đáp lại có hai: một, là khen chê Đại Tiểu; hai, là nói về cứu giúp. Về khen chê thì có dụ và hợp. Dụ có bốn, một là thí dụ về Đại thừa, hai, là thí dụ về Tiểu thừa; ba, là kết luận chê trách; bốn, là kết luận khen ngợi.. Gạo thơm ngon dụ cho thường, mía ngọt dụ cho lạc, đường phèn dụ cho ngã, đề hồ dụ cho tịnh, gạo xấu dụ cho vô thường, v.v… Hợp dụ như văn đã ghi. Từ “Người Thiện nam v.v…” trở xuống là nói về bốn y cứu giúp. Trước dụ sau hợp. Trong dụ lại có ba: một, là nói về Tiểu thừa giáo hóa; hai, là nói về Đại thừa giáo hóa; ba, là nói về Tiểu thừa được sự giáo hóa của Đại thừa. Thứ nhất như văn kinh ghi. Hàng Tiểu thừa mỗi người đều có quyến thuộc, có người thống lãnh, nên nói là như vua. Sự giáo hóa của Tiểu thừa là hạnh nhỏ nghiêng về một bên, thí như núi sâu, vào hầm vô vi, nên nói là nơi hiểm ác. Tuy có mía ngọt nhưng tham tiếc chẳng muốn ăn, sợ hết là dụ cho sự giáo hóa của Tiểu thừa, chuyên thực hành hạnh nhỏ hẹp, ngăn ngại đạo lớn. Tuy có giáo Đại thừa, nhưng dùng tâm hữu vi suy cầu mà thọ trì tụng đọc là dụ cho tham tiếc, có sở đắc là dụ cho sợ lương thực hết. Từ câu “Có vua nước khác, v.v…” trở xuống là bốn y cứu giúp. Dùng đạo pháp thống lãnh cai trị nên gọi là vua; Xe chở, theo sự mà giải thích thì xe chở kinh luận Đại thừa ban cho. Lại nói dùng năng lực thần thông giáo hóa, khiến cho Đại thừa mở mang truyền bá rộng lớn là dụ cho xe chở. Lại dùng trí phương tiện chỉ dạy khiến họ được Giải thoát. Hưng Hoàng nói rằng dùng thân hoằng đạo thí như xe chở. Nay nói dùng hạnh Đại thừa giáo hóa nên nói là xe chở. Kế là, từ câu “Bốn hạng người, v.v…” trở xuống là hợp dụ. Chỉ hợp với hai ý sau, hợp năm lỗi với ý tham tiếc, gom chứa ở trên. Nói vì lợi dưỡng là nhân địa ngục, vì danh dự là nhân ngạ quỷ, vì giải pháp tăng trưởng tâm ngã mạn là A-tu-la, vì y chỉ là nhân súc sinh, vì mua bán là nhân thế trí biện thông, nghiệp của ngoại đạo. Kế là từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là khen ngợi và khuyên bảo. Đầu tiên khen ngợi kinh, sau là khuyên người. Vua vào núi sâu khiến núi sâu được bình an, dụ như kinh này đối với những người có sự thấy biết nhỏ hẹp, khiến cho họ thấy cong là ngay, đất tức Kim cương dụ cho bỏ lý Tiểu thừa, liền có lý Đại thừa. Người tức Kim cương là bỏ Tiểu thừa liền có Đại Bồ-tát. Từ câu, “Ca-diếp bạch rằng, v.v…” trở xuống là phân biệt thời gian, gồm có hỏi và đáp. Ý hỏi là sau khi Phật diệt độ bốn mươi năm kinh sẽ ẩn mất vào lòng đất, là mất hẳn hay lại hưng khởi. Kế là, Phật đáp tám mươi năm còn lại, có thuyết cho rằng thời chánh pháp còn tám mươi năm, thì bốn mươi năm đầu kinh lại hưng khởi, qua bốn mươi năm sau thì kinh lại ẩn mất. Có thuyết cho rằng thời chánh pháp có một ngàn năm trăm năm, còn tám mươi năm, thì bốn mươi năm đầu kinh lại xuất hiện, đến bốn mươi năm sau thì kinh ẩn mất. Từ câu “Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư nói gieo trồng sâu cạn để hiển bày bốn y. Phần nghóa vi diệu của kinh sâu xa, chẳng dễ gì được nghe, huống chi mong được hiển bày phân tích chỗ sâu kín mầu nhiệm. Bốn y như chỉ nam giảng nói nghóa mầu, mở ra thì trùm khắp pháp giới, thâu lại chẳng có mảy may. Chẳng phải điều mà những người hẹp lậu làm được. Theo văn gồm có hai là hỏi và đáp. Phần hỏi lại có ba: 1) Nêu thời kỳ ác; 2) Tìm người tốt; 3) Thỉnh đáp. Thời kỳ ác có bốn câu: Chánh giới chánh giáo đều tiêu diệt, người ác pháp ác hưng thịnh. Bốn câu này hợp với thời có năm trược loạn. Vì sao? Vì khi chánh pháp diệt là kiến trược, chánh giới bị hủy là mạng trược, phi pháp thêm lớn là phiền não trược, không có chúng sinh đúng pháp là chúng sinh trược, thời gian là kiếp trược. Tìm cầu người tốt có sáu câu: Tin gọi là nghe, chẳng quên sót là vâng giữ, xem văn là đọc, đọc thuộc lòng là tụng, truyền văn là biên chép, truyền nghóa là giảng nói, đó là năm bậc Pháp sư. Lại ba nghiệp, trong đó thọ trì thuộc về ý, tụng đọc giảng nói thuộc về miệng, cúng dường biên chép thuộc về thân nghiệp. Nơi cõi đời có năm trược ác, cũng có người ba nghiệp đúng như pháp, tức là xin trả lời về việc này. Lời đáp có ba ý: Một, là khen ngợi câu hỏi; hai, là chánh đáp; ba, là khuyên tu. Thứ nhất như văn ghi. Nói chín con sông, các sư xưa giải thích rằng: Gặp một vị Phật, phát một nguyện là tính một hạt cát. Tuy gặp nhiều Phật mà chẳng phát nguyện thì chẳng tính là một hạt cát. Tuy thấy một Phật, mà phát nhiều nguyện cũng chỉ tính một hạt cát; tuy phát một nguyện mà thấy nhiều Phật, cũng chỉ tính một hạt cát. Cứ tính lường như thế đầy một sông Hằng, gọi là một Hằng hà sa. Sông Hy-liên và sông Hằng là hai sông khác nhau. Sông Hy-liên ở phía Bắc thành Câu-thi, còn gọi là Tiểu-bạt- đề, sông hằng thì đổ vào biển Đông là con sông lớn nhất trong bốn con sông ở Ấn-độ, cho nên khác với sông Hy liên. Nếu y cứ theo hạnh thì Hy-liên chỉ dụ cho nghóa mới nghe kinh, không phỉ báng chánh pháp; một Hằng hà thì thêm phần tin ưa; hai Hằng hà thì thêm đọc tụng, ba Hằng hà thì thêm giảng nói nghóa cạn thấp, bốn Hằng hà thì nói một phần nghóa; năm Hằng hà thì giảng nói thêm tám phần nghóa; sáu Hằng hà thì thêm mười hai phần; bảy Hằng hà thì thêm mười bốn phần; tám Hằng hà thì đầy đủ mười sáu phần nghóa. Bốn Hằng hà là từ hoặc để giải ngộ nên khó, năm Hằng hà là từ giải để ngộ nên dễ; từ sáu Hằng hà trở lên thì vào nơi sâu xa kín đáo là khó, như làm chức Thái úy thì dễ, làm đến Thừa tướng thì khó. Nghóa này còn khó hiểu, nói mười sáu phần, thí như thế gian cho mười sáu lượng là một cân. Tiên Tuệ nói Hy-liên dụ cho giai vị đệ tử, tám con sông Hằng dụ cho giai vị sư. Mỗi mỗi phối hợp với bốn y, v.v… Khai Thiện, Tự Thành cho rằng chín Hằng hà đều là vị sơ y, trong đó Hy-liên đến hai Hằng hà là sơ tâm tập chủng tánh, ba Hằng hà đến năm Hằng hà là trung tâm tánh chủng tánh, sáu Hằng hà đến tám Hằng hà là hậu tâm đạo chủng tánh; cũng quá khó hiểu. Nêu toàn Phật pháp là dụ một cân, thì sơ y người đã cùng, Phật pháp đã hết, vậy đến y thứ ba, y thứ tư thì thế nào? Nếu nói sơ y là một cân, thì đó đã tự là pháp của sơ y, đâu liên quan gì đến Phật pháp. Nay nói Hy-liên đến ba Hằng sa là y thứ nhất; một phần đến tám phần là y thứ hai; mười hai phần, mười bốn phần là y thứ ba; mười sáu phần là y thứ tư. Cho nên đầy đủ văn mà giải thích cũng rõ ràng ý vị. Thứ ba, là từ câu “Nếu có người phát tâm v.v…” trở xuống là khuyên. Trên nói chín Hằng hà gặp Phật dần dần đến chỗ sâu xa, sợ rằng chúng sinh bấy giờ không phát tâm, nên lại khuyên phát tâm, để mai sau giữ gìn được chánh pháp vô thượng. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ năm nói về tội phước của hủy và tin. Ở trên nói từ Hy-liên trở lên chỉ có tin mà thôi. Nay nói từ Hy-liên trở xuống thì có tin và phỉ báng, có tội có phước. Khuyên làm phước ngăn tội. Theo văn gồm có hai: một, là nói về nhân quả tội phước; hai, là khuyên tu phước quy kết về y. Văn thứ nhất lại có bốn: một, là nói về tướng phỉ báng. Phật là bậc thầy của tất cả chúng sinh, nay nhập Niết-bàn, trời người đều buồn bã đau khổ, cho đến các loài trùng độc, người có lòng nhân đều quyến luyến. Chỉ có một kẻ ác nói Như Lai diệt độ thật vui thích, đó là một điều ác. Ít muốn biết đủ, thọ trì giới cấm, đầy đủ oai nghi mới gọi là Tăng; người kia đã xả bỏ tức phạm hai ác. Pháp Đại thừa là thầy của Hiền thánh, chỉ có một kẻ chống trái chẳng tin Tam bảo, tức là tướng phỉ báng. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là nói về tướng tín. Tự hành thì sinh nghiệp lành ở ba cõi, hóa tha thì dứt ác ở hai đời, đồng nêu một bên để hiển bày tướng tin nhận. Từ câu “Nếu có người chẳng tin, v.v…” trở xuống là nói về quả báo của kẻ phỉ báng. Từ câu “hiện đời, v.v…” trở xuống là nói về hiện báo. Từ câu “Sau khi qua đời, v.v….” trở xuống là nói về sinh báo. Từ câu “Đời đời thường sinh, v.v…” trở xuống là nói về hậu báo. Từ câu “Nếu có người, v.v…” trở xuống là thứ tư, nói về quả báo của người có tín tâm. Từ câu “Thân tướng vốn xấu xí, v.v…” trở xuống là nói về chuyển báo chướng. Từ câu “Như có người xuất gia, v.v…” trở xuống là chuyển phiền não chướng. Lập dụ có nhiều loại, nếu lập dụ về giới Đại thừa là dụ cho chân giải của Thập địa; nếu lập dụ theo mười giới, là dụ cho tương tự giải trước Thập địa, như ý nói trong phẩm Thuần-đà. Ở đây lập dụ theo vô giới, đầu tiên là từ phàm phu phát tâm, là giai vị Thập trụ, tuy chưa dứt hoặc, nhưng trong nhân mà nói có quả tức là chuyển phiền não chướng. Ở trên nói người ác là y cứ theo ba báo mà nói theo chiều ngang. Ở đây nói người lành là y cứ theo ba chướng, mà nói theo chiều dọc. Lời văn đan dệt giảng bày lẫn nhau. Từ câu “Hoặc có chúng sinh, v.v…” trở xuống là khuyên tu phước, kết luận các ý. Văn này rất rộng, bất luận là đệ tử hay chẳng phải đệ tử, do thiện hay do ác, chỉ cần phát tâm nghe thì đã gần Bồ-đề. Do tham, do sợ hãi, do lợi dưỡng là từ ba độc mà phát tâm, còn được như thế, huống chi đối với chín Hằng sa gieo trồng các cội lành và bốn y. Tức có thể tin rằng trước sau đều có chiếu soi nhân quả của người phỉ báng chánh pháp. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn thứ sáu khuyên cúng dường. Văn có hai ý: một, là khuyên cúng dường; hai, là luận nghóa. Thứ nhất lại chia làm hai: một, là khuyên cúng dường; hai, là hỏi đáp. Sau đây là văn thứ nhất. Phàm bốn y đem lại lợi ích rất lớn, tạo nhân nơi chín Hằng hà sa sâu dày, rất khó gặp được. Cho nên khuyên cúng dường. Đức Phật trả lời cũng có hai ý là chánh đáp và dẫn kệ. Thứ nhất như văn kinh. Xây dựng chánh pháp là tướng ruộng phước. Hà Tây cho rằng phát giới, thọ trì Đại thừa, giải thích cho người nghe và hộ trì chánh pháp, thì đó là tướng ruộng phước. Nay văn kinh chỉ nói về hộ pháp, tức gồm các việc nên bỏ thân mạng là tướng cúng dường. Đó là dùng nặng để đoạt nhẹ. Kế là phần kệ, đầu tiên là dẫn kệ thờ thầy. Thứ hai là dẫn kệ thờ chủ. Nếu người biết pháp này Hoặc già, hoặc còn trẻ Thì phải nên cúng dường Cung kính và lễ bái Cũng như các vị trời Thờ phụng trời Đế Thích. Thứ hai từ câu “Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là phần luận nghóa. Trước hỏi sau đáp. Hỏi có lãnh chỉ và trình bày điều nghi xin đáp. Kế là trình bày lời nghi, có ba: một, là nêu ba định; hai, là nói ba nạn; ba, là nói ba kết. Từ câu “Những người xuất gia, v.v…” trở xuống là ba nạn. Nếu theo giáo xưa, thì chẳng nên lễ kính. Nếu theo nghóa nay thì nên cúng dường. Hai ý trái nhau nên lập ra câu hỏi. Từ “Như lời Phật nói v.v…” trở xuống là kết luận. Như văn kinh ghi. Hoặc nói ba kết, trong đó lấy câu “Tỳ-kheo giữ giới cũng có phạm” là kết luận câu “Người xuất gia không lễ kính người tại gia”. Từ câu “Đức Phật bảo v.v…” trở xuống là phần đáp. Có hai là lược đáp và giải thích rộng. Phần đáp lược thì văn gọn mà ý rất rộng. Vì sao? Vì ta vì hàng Bồ- tát mà nói kệ ấy, chứ chẳng phải vì hàng Thanh văn, thì trừ cả ba nghi ở ba việc. Phần trả lời rộng văn rất nhiều, mà chỉ nói về giữ lễ đối với kẻ phá giới, mà chẳng nói có tội, cho nên ý nghóa cạn hẹp. Nhưng trả lời một điều này thì hai điều kia có thể y theo đó mà trừ diệt. Thứ hai, là trả lời rộng, văn có ba: một, là nêu thời gian; hai, là lập dụ; ba, là kết luận. Về thời gian, văn có bốn câu: 1.Thời uế trược; Cứu giúp uế trược; 3. Hòa với uế trược; 4. Nói về vô tội. Nói “Như ta đã dạy ở trước” là chỉ cho đoạn văn ở trước, văn trước là Ca-diếp hỏi được Đức Phật ấn chứng thì thành Phật nói. Chánh pháp diệt là kiến trược, phá hủy chánh giới là mạng trược, phi pháp tăng trưởng là phiền não trược, tất cả Hiền thánh ẩn mất chẳng xuất hiện là chúng sinh trược, cất chứa các vật bất tịnh là kiếp trược. Kế là, từ câu “Bốn hạng người này, v.v…” trở xuống là nói về cứu uế trược, tức là người có khả năng cứu thoát sự uế trược. Người này xuất thế dẹp loạn trược, làm hưng thịnh lại chánh pháp, khiến người biết trược và chẳng trược. Thứ ba, thấy các Tỳ-kheo tức là chỉ cho các bọn trược ác, không trị phạt mà còn hòa quang là vì cơ duyên chưa thành thục. Thứ tư, từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là kết luận vô tội. Người phá giới như thế, dù tuổi nhỏ hay tại gia, ta đều phải cung kính cúng dường. Từ câu “Này thiện nam v.v…” là lập dụ, gồm có hai là dụ và hợp. Văn dụ có ba: một, vì thời mà lập dụ; hai, vì đồng mà lập dụ; ba, vì xét tội mà lập dụ. Trong đó có giải thích trì giới và hủy giới, lại chia ra Đại và Tiểu thừa, cho nên phải dùng việc ấy để giải thích văn. Nắm giữ ngôi pháp chỉ dụ như vua, duyên hết lìa thế gian dụ cho vua băng hà, Thái tử dụ cho đệ tử truyền trao hóa độ. Gieo trồng gốc lành đối với chư Phật bằng số cát sông Hy-liên và một sông Hằng thí, vì gốc lành còn cạn mỏng, cho nên nói là còn nhỏ. Đây là dụ cho thời kỳ chánh pháp bị hủy diệt. Chiên-đà-la là hạt giống phá hoại pháp thân tuệ mạng; giàu là dụ cho nghiệp ác thêm lớn; có nhiều quyến thuộc là dụ cho bè đảng phá giới; soán ngôi vua là dụ cho kẻ phá giới thống trị, đây là dụ cho thời kỳ phá giới thêm lớn. Cư só, Bà-la-môn trong nước dụ cho ba hạng người giữ giới. Trong đó, hàng thượng phẩm thì xa lìa, chẳng giống nhau, nên dụ cho việc chẳng muốn gặp vua; hạ phẩm chẳng thể tự xa lìa, nên nói như cây cối. Lại cây cối dụ cho thượng phẩm, như đồng tử chẳng xa lìa mà có khả năng giữ gìn chánh pháp; đây là dụ cho thời kỳ tất cả Hiền thánh ẩn mất không xuất hiện. “Ngăn chặn các con đường” là nói việc ra uy làm phước. Trong đó “ngăn chặn các con đường” là dụ cho Tỳ-kheo ác lập ra cấm chế phép tắc, ngăn chặn con đường trì giới. Bảy ngày nổi trống là thí dụ lập ra phép tắc, mở cửa buông lung. Quán đảnh sư, ở Ấn Độ ngày xưa khi vua lên ngôi, thì sai một vị bà-la-môn bảy đời vinh hiển, cao qúy, dùng bình báu chứa đầy nước bốn biển rưới lên đỉnh đầu vua, vị này gọi là Quốc sư. Bấy giờ muốn trao cho ấn thiên tử mà xưng đế hiệu. Việc này dụ cho trong chúng Tỳ-kheo tội ác, cầu yết-ma sư vấn hòa tăng ba lần xướng: “Việc này nên giữ gìn như thế”. Chia cho nửa nước, nghóa là như Ô-hồi giống như Tăng chánh ở nước này, Đạt-lợi-tra giống như Tăng đô ở nước này, cả hai đồng yết-ma lẫn nhau mà thống lãnh đồ chúng. Nói “không ai đến” là dụ cho việc người giữ giới hổ thẹn khi vào chúng Tỳ- kheo tội ác, chẳng cùng hành sự. Từ câu “mà nói rằng v.v…” trở xuống là ra oai tạo phước, phi pháp càng lừng lẫy. Nói “Nếu chẳng có ai làm Quán đảnh sư” tức là nêu người phá giới làm chủ. Thuốc cam lộ bất tử, tức là nói tiếng tăm lợi dưỡng, các vật an thần đều đồng nhau, là dụ cho thời kỳ phi pháp hưng thịnh. Thứ hai, từ câu “bấy giờ v.v…” trở xuống là dụ cho hòa đồng. Văn có bốn: một, là đồng tử nhận lãnh; hai, là vua vui mừng; ba, là mọi người giận dữ kinh sợ; bốn, là cùng làm việc lâu dài. Bà-la-môn là tịnh hạnh; nói đồng tử là dụ cho nhân vị; nhược quán là hai mươi tuổi, là thời kỳ cường tráng, dụ cho hai trí sáng tỏ; hạnh thanh tịnh dụ cho giới; tóc dài dụ cho Từ; giỏi chú thuật trí tuệ khéo léo, ta xưa là đồng sự. Kế đến vua vui mừng vì việc giáo hóa ác không bị ngưng trệ. Các Bà-la-môn giận dữ, tức là những người trì giới mà không biết cơ duyên sinh hiềm khích. Thứ ba, từ câu “Bấy giờ, đồng tử v.v…” trở xuống là vì xét tội mà lập dụ. Gồm có hai: Một, là trị ác; hai, là lập thiện. Trong văn trị ác lại có bốn: Một, cùng nhau tu định; hai, cùng giữ gìn đại pháp; ba, mở mang truyền bá Đại thừa; bốn, là chính thức tẩn xuất. Một là tu định. Ta xả bỏ phép nhà, là trì giới Đại thừa; đến làm thầy vua tức là làm chúng sinh phá giới; dạy cho vua mật chú tức là muốn làm cho vào Đại thừa, nhưng ý này chưa hiển bày nên nói là sâu kín. Hai, từ “Đồng tử đáp v.v…” trở xuống là nói về cầu pháp. Thuốc bất tử, tức lý Phật tánh thường trụ ẩn nơi kẻ phá giới. Nói chẳng biết tức là điều ác ngăn che lý mầu. Nói “mang đi” là chẳng tiếc chúng phá giới, tùy ý người khai hóa. Ba Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là nhiếp phục Đại thừa để giáo hóa. Mời các đại thần là dụ cho người đến học; các đại thần tâu vua là dụ cho người mê đã được khai ngộ, lại truyền hóa cho người. Vua nói với Đại sư là dụ cho sinh tín tâm, cầu giải ngộ. Bốn, là bấy giờ Đồng tử lại cho các thứ thuốc khác, tức là y luật nghiêm khác trị phạt quở trách. Vua đã uống tức là chịu trị phạt khuất phục; thuốc phát tác làm mê man tức là suy tìm sự lý, phát sinh buồn khổ hối hận, mới tự biết là thây chết trong biển Phật. Trước là đại thần tâu với vua là hàng Thượng căn đã ngộ; vua hỏi xin được thuốc là hàng Trung căn ngộ; mê man là dụ cho hàng hạ căn ngộ. Kế đến, từ câu “Lúc ấy v.v…” là lập người lành. Văn có bốn: một, là lập thiện; hai, là đuổi ác; ba, là không phạm; bốn, là phụ khen ngợi. Nói lập Thái tử con vua trước là dụ cho bản thể Đại thừa trở lại địa vị thống soái. Tòa sư tử của vua chẳng được ngồi, là dụ cho kẻ phá giới chẳng tương ưng với Đệ nhất nghóa không. Trị quốc chăn dân tức kẻ phá giới làm loạn đạo Thường, nhiễu loạn người dân lành. Từ câu “Giải độc, v.v…” trở xuống là nói về pháp thật tướng sám hối. Đuổi ra khỏi nước là phế bỏ giới hạn quy định trì phạm được sự phân biệt quyết định của Tiểu thừa. Thứ ba, thứ tư như văn kinh. Kế là từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là hợp dụ. Chỉ hợp với hai, chẳng hợp với thời kỳ. Thứ nhất là hợp với nghóa hòa đồng. Dùng “năng lực phương tiện” là hợp với câu “Ta xả bỏ phép nhà” ở trên. Cùng với các vị Tăng phá giới chung làm việc, là hợp với câu “làm thầy của vua”. Thích luận nêu lên bốn thứ Tăng, trong Phá giới tăng đồng với Tạp tăng, tức là loại Tăng cất chứa vật bất tịnh; hữu tu tăng tức là Giả danh Tăng. Từ câu “Bấy giờ, Bồ-tát v.v…” trở xuống là hợp với xét trị kẻ phá giới. Tám việc bất tịnh là cất chứa vàng bạc, tôi tớ, trâu dê, kho tàng, mua bán, cày cấy, tự tay làm thức ăn, chẳng thọ nhận mà ăn. Vì tám việc này làm nhiễm ô chánh đạo, mất oai nghi, tổn hoại nhiều nên gọi là Bất tịnh. Từ câu “Bây giờ v.v…” trở xuống là kết thành. Lại có hai: một, là kết luận có tội hay không; hai, là kết luận chỉ vì Bồ-tát, chẳng vì Thanh văn. Từ câu “Tuy có cung kính, v.v…” trở xuống là nói người giữ giới cung kính người phạm giới mà không có tội; thọ nhận bất cứ vật bất tịnh nào cũng không có tội. “Vì sao v.v…?” trở xuống là giải thích nghóa không tội. Từ câu “Vì nhân duyên này, v.v…” trở xuống là nói người giữ giới được người hủy giới cúng dường cũng không có tội như văn ghi. Kế là nói về việc nếu trái với lời này thì có tội, trái với tâm này là có tội. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là kết luận về Bồ-tát. Có hai ý: một, là trước dẫn kệ; hai, là phán định. Từ câu “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn thứ bảy phân biệt. Có ba phần: một, là hỏi đáp; hai, là y cứ theo pháp để phân biệt; ba, là nhận lãnh hiểu rõ. Thứ nhất lại có hỏi đáp. Hỏi có hai ý là có hoãn chăng và còn hay mất. Lẽ ra là một câu, nhưng Phật trả lời hai câu nên biết có hai ý. Từ câu “Đức Phật nói v.v…” trở xuống là lời đáp. Trước đáp mất hay chẳng mất, kế đó đáp hoãn hay không. Thứ nhất lại có pháp dụ. Trong Luật giải thích rằng: “Nếu là người phá giới thì giới sẽ mất”. Các sư số Luận cho rằng giới thể vẫn còn, chỉ giới bị ô nhiễm mà thôi. Văn sau ghi: “Mất hay chẳng mất đều là nói suông, chẳng hiểu được ý Phật”. Nay kinh này nói bốn y hiển bày đồng với phá giới cho nên không mất. Dụ có hai ý: một, là không sửa thì nước chảy ra, sửa thì nước không chảy ra. Phạm mà sám hối thì chẳng có lỗi, không sám hối thì có lỗi. Kế là hợp hai dụ rất dễ hiểu. Kế là từ câu “Đối với thừa, v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ hai. Xưa nói hàng Thanh văn đối với giới thì gấp, đối với thừa thì hoãn. Có người nói Thừa như giềng mép lưới, giới như mắt, được gốc Trung đạo thì giới tự tròn đầy. Nay nói thì chẳng như thế, kinh chỉ nêu Bồ-tát gấp thừa, mà hoãn giới. Nếu nói đủ thì Thanh văn, Bồ-tát mỗi bậc đều có bốn câu, như Biệt ký. Kế là y cứ theo pháp để phân biệt, gồm có ba ý: một, là y cứ theo ruộng phước để phân biệt; hai, là y cứ theo trí để phân biệt; ba, là y cứ theo mắt trời để phân biệt. Thứ nhất, là y cứ theo ruộng phước lại có ba là pháp, dụ và hợp. Hỏi: Phẩm Phạm Hạnh ở sau có khiến bình đẳng bố thí, tại sao trái với ý này? Đáp: có ý nghóa riêng của đoạn ấy. Ở đây nói bốn y nên phân biệt chân ngụy; phạm hạnh nói về tâm từ bình đẳng, nên chẳng phân biệt, ở đây khuyên làm ruộng phước, Phẩm Phạm Hạnh khuyên làm thí chủ, v.v… Thứ hai, từ câu “Như ca-la v.v…” trở xuống là dùng trí để phân biệt. Đầu tiên là dụ, sau là hợp. Kinh Niết-bàn bản sáu quyển ghi là Ca-lưu-trị-mâu, đều không thấy dịch. Chỉ biết được đây là hai thứ quả một độc một lành, dụ cho người giữ giới và phạm giới. Người nữ dụ cho phàm ngu chấp sự; đứa trẻ dụ cho thí chủ vô trí. Hỏi được quả này nơi nào là tìm thấy cội gốc. Cười mà bỏ đi dụ cho việc đã biết luống dối thì xả bỏ. Từ câu “Trong đại chúng, v.v…” trở xuống là hợp dụ. Thọ tám bất tịnh là hợp với ca-la-ca; chẳng thọ tám bất tịnh là hợp với trấn-đầu-ca. Người trì giới và kẻ phá giới cùng trụ là hợp với hai loại cùng trong một khu rừng. Có Ưu-bà-tắc y cứ vào giáo mà hỏi, kế đó là dẫn việc ở Kỳ hoàn làm chứng, kế đó nói chẳng cùng ở chung, v.v… Là hợp với người trí hỏi người nữ. Từ câu” Nếu có người thọ, v.v…” trở xuống là tự khinh hủy người si mê, hợp với chê cười mà bỏ đi. Thứ ba là từ câu “Thí như phố chợ, v.v…” trở xuống là y cứ theo trời, người để phân biệt. Gồm có hai phần là dụ và hợp. Núi Tuyết dụ cho diệu lý Niết-bàn thường trụ. Thuốc là dụ cho hạnh thanh tịnh y cứ vào Niết-bàn lập ra. Người bán thuốc dụ cho kẻ gian xảo làm việc. Vị thuốc khác dụ cho người hủy giới chẳng phân biệt. Người không phân biệt được thuốc dụ cho thí chủ vô trí. Từ câu “Ca-diếp v.v…” trở xuống là hợp. Giả danh tăng hợp với vị thuốc khác; chân thật tăng hợp với thuốc cam lộ: Mắt thịt hợp với người không biết phân biệt; Mắt trời hợp với người khéo phân biệt. Mắt trời không chỉ có thể phân biệt được nhân luống dối, không nên lễ bái cúng dường mà còn thấy được quả chẳng nên lễ bái cúng dường. Thứ ba, từ câu “Ca-diếp bạch rằng, v.v…” trở xuống là phần lãnh giải. Đầu tiên là khen ngợi, kế là vâng lãnh. Từ câu “Như lời Thế Tôn nói v.v…” trở xuống là đoạn thứ tám, hội thông pháp bốn y của giáo xưa và người bốn y của giáo nay. Văn có hỏi và đáp. Trong phần hỏi lại có hai phần nêu y của giáo xưa và xin hội thông. Đầu tiên là nêu y của giáo xưa. Nhưng A-hàm nêu ra thứ lớp của bốn y như sau: Y pháp chẳng y người, y liễu nghóa chẳng y chẳng liễu nghóa, y nghóa chẳng y ngữ, y trí chẳng y thức. Thứ lớp này đối với ngài Ca-diếp nêu ở đây có khác nhau. Lương Vũ Đế cho rằng: “Văn này là nhất định”. Các Pháp sư khác nói: “Kinh này nêu lên các y của giáo xưa nên A-hàm là nhất định; hoặc cho rằng người dịch kinh lầm, hoặc cho rằng đối với giáo xưa tuy là liễu, nhưng đối với giáo này thì chẳng liễu, nêu y liễu nghóa đặt ở sau.” Nay ta lấy giải thích về thứ lớp của A-hàm, người của giáo nghóa xưa là vô thường, nên chẳng thể nương tựa; còn pháp Thường là pháp đáng được nương theo. Pháp có Đại và Tiểu, pháp Đại là liễu nghóa vì thế đáng nương theo. Vì đối với ngôn ngữ dễ sinh chấp trước, nên chẳng đáng được nương theo; thấu suốt được nghóa ẩn trong ngôn ngữ, thể của nghóa không dính mắc, nên cần phải nương theo. Thức thì chấp trước, trí thì Giải thoát, vì thế nên nương theo trí. Từ câu “Bốn pháp như thế v.v…” trở xuống là chánh thỉnh hội thông. Từ câu “Đức Phật bảo rằng, v.v…” trở xuống là lời đáp có hai: Trước là hội thông riêng, sau là hội thông chung. Sở dó hội thông chính là vì nói. Nay y người và xưa y pháp, hai lời trái nhau nên phải hội thông riêng. Văn có bốn: Một, là hội người và pháp, y pháp tức y người; hai, là nói xưa chẳng y người, tức chẳng y vào người không có pháp; ba, nói nay y người là y người có pháp; bốn, nêu người dưới để so sánh với người trên. Đầu tiên là nói y pháp tức y người, người và pháp chẳng khác. Hưng Hoàng nói: Xưa lấy pháp bỏ người, kết cuộc trở lại y trí; nay lấy người bỏ pháp, kết cuộc trở lại y người. Vậy người xưa đã phá, pháp xưa cũng dứt. Người nay đã tồn tại, pháp xưa cũng lấy. Người và pháp của giáo nay không hai. Người xưa tức là Thanh văn, Duyên giác, đâu thể y được. Pháp xưa tức là giáo phương tiện Bán tự, nếu chẳng ngộ được thì cũng nên phá, nếu có người liễu ngộ được thì chẳng trừ pháp này. Kế là, từ câu “Lại có, v.v…” trở xướng là nói xưa chẳng y theo người không có pháp. Từ câu “Như trên đã nói v.v…” trở xuống là nói nay y chỉ người có pháp: Thứ nhất là nói nên y chỉ. Thứ hai, là giải thích nên y chỉ. Thứ ba, là khen ngợi đức. Thứ tư, là giải thích lời khen. Từ câu “Nếu có người v.v…” trở xuống là nêu người dưới so sánh với người trên. Nói hàng ngoại đạo phàm phu biết Phật là thường trụ, lại chẳng bị lợi dưỡng xoay chuyển, còn có thể y chỉ, huống chi bốn hạng người mà chẳng y chỉ hay sao? Kế đến, từ câu “Y pháp v.v…” trở xuống là hội chung bốn y. Có ba: một, là y theo giáo này mà hội; hai, là nêu xưa nay đối đãi để hội; ba, là kết luận. Thứ nhất có hai là hội và kết luận. Đầu tiên là y cứ theo thứ lớp để hội. Văn có bốn đoạn: 1/ Y pháp có ba cặp: một, là gồm nêu; hai, là gồm giải thích; ba, là gồm kết luận. Y pháp tức là pháp diệu hữu, chẳng y hàng Thanh văn tức là gồm nêu. thích. Pháp tánh tức là Như Lai, Thanh văn tức là hữu vi là gồm giải Gồm kết luận rất dễ hiểu. Văn kế gồm có hai: Một là hội y nghóa. Giác liễu tức Bát-nhã, chẳng yếu kém là Pháp thân, đầy đủ là Giải thoát. Giáo xưa nêu đủ Giải thoát thì không có thân trí, thân trí còn thì Giải thoát chẳng đầy đủ, lại chẳng được Tam bảo. 2/ Từ câu “Chẳng y ngữ v.v…” trở xuống gồm có hai đoạn, trước nói về ngữ không có lý, sau nói về ngữ loạn chánh, thứ nhất. Câu “Như lời Phật dạy tham cầu không thỏa mãn” v.v… trở xuống có hai cách giải thích: một, cho rằng đây là Đức Phật dẫn lời trong kinh điển của ngoại đạo; hai, cho rằng Đức Phật tự nói kinh, phàm phu chấp đắm sinh lỗi, chẳng được y theo đó mà tu hành. Từ câu “Lại nói rằng v.v…” trở xuống là làm loạn chánh pháp. 3/ Giải thích y trí chẳng y thức. Nếu biết Pháp thân là thường, tức là chân trí, nếu nói vô thường tức là thức. 4/ Giải thích liễu nghóa. Có ba phần: một, là nêu tông; hai, là đối với các pháp; ba, là nói về tông. Đầu tiên là y cứ theo hai duyên của Đại thừa để so sánh với liễu nghóa và chẳng liễu nghóa. Kế là, từ câu “Lại có Thanh văn v.v…” trở xuống là nói về các pháp. Có năm cặp đối đãi là: một, đại tiểu thường vô thường, đại tiểu nói thật hay chẳng thật, diệt hay chẳng diệt, theo văn rất dễ hiểu. Từ câu “Thanh văn thừa v.v…” trở xuống là phần nói về tông. Đầu tiên là nói về Tiểu thừa, sau nói về Đại thừa; mỗi thừa đều có trước nêu, kế là giải thích về sau là kết luận. Kế là, từ câu “Bốn y như thế v.v…” trở xuống là tổng kết. Từ câu “Vả lại y nghóa v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về xưa nay đối đãi hội thông, để giải thích hai ý trước. Văn cú liên quan với pháp và người chỉ có ba. Toàn đoạn có ba phần: một, là giải thích chung hai y; hai, là giải thích y thứ ba; ba, là giải thích y thứ tư. Thứ nhất là giải thích hai y, lại có ba ý: một, là giải thích y nghóa gồm với y pháp; hai, là giải thích chẳng y nhân; ba, là giải thích chẳng y ngữ. Thứ nhất, chỉ nói về y nghóa, kế đó về sau chẳng nói về ý ngữ, nhưng ngữ thế vẫn làm nhân cho nhau, nên vẫn nói đến chẳng y người. Lại nói về y nghóa tức là y pháp, vì thế không có văn y pháp riêng, nhưng có y nhân. Đây là thứ nhất chỉ nói về y nghóa. Từ câu “Pháp gọi là thường v.v…” trở xuống là giải thích pháp, sau là kết luận hai ý. Từ câu “Nếu có người nói v.v…” trở xuống là giải thích chẳng y người. Từ câu “Nếu có người v.v…” trở xuống là giải thích chẳng y ngữ. Từ câu “Y trí v.v…” trở xuống là thứ hai, giải thích riêng về y thứ ba, y trí chẳng y thức. Cái gọi là thức làm, thức thọ, không có hòa hợp tăng, nhưng chỉ có thức làm nhân, thọ thức của quả chấp trước, đó đều là sinh tử, chẳng phải là Tăng thường trụ nhất thể. Thứ ba, từ câu “Y liễu nghóa v.v…” trở xuống là giải thích riêng về y thứ tư, nói về liễu nghóa và chẳng liễu nghóa. Nếu nói có chín duyên được nhận chứa tám vật bất tịnh, tức là liễu nghóa: Không có đàn-việt cung cấp. Gặp thời đói kém. Xây dựng chánh pháp. Tịnh thí. Có nhiều cách giải khác nhau: Có đủ bốn duyên mới được cất chứa. Hễ được một duyên nào đều được. Trong ba duyên trước mỗi duyên đều được cất chứa, nhưng phải tịnh thí. Một việc tịnh thí đã chẳng thể không có, thế thì hai duyên đầy đủ mới được cất chứa. Nếu nói đúng thời hay không đúng thời, đều cho phép cất chứa thì chẳng liễu nghóa. Ba phần tức là ba tạng. Từ câu “Ta vì v.v…” trở xuống là thứ ba kết luận. Hoặc có lúc mắt thịt và mắt trời đối đãi nhau, thì chướng ngại trong và ngoài; hoặc mắt pháp, mắt tuệ đối đãi nhau thì nói về chiếu chân tục, khác với ở đây dùng mắt thịt và mắt tuệ đối đãi để nói về phàm Thánh khác nhau. <篇> <卷>QUYỂN 11 <詞>PHẨM 9: TÀ CHÁNH Tà là ma, chánh là Thánh. Tà ma có rất nhiều loại như tà ác, tà dục, tà thiên, tà tiệm. Tà ác là hàng xiển-đề phỉ báng chánh pháp, phạm bốn tội trọng, năm tội nghịch, mười điều ác, chiêu cảm quả báo trong bốn đường. Kinh ghi: “Nói cho cất chứa các vật bất tịnh tức là phỉ báng chánh pháp; chấp chín thể loại kinh, cho rằng không có Phương đẳng tức là phỉ báng chánh pháp. Nếu muốn hành dâm thì nên cởi bỏ pháp phục, tức phạm bốn tội trọng, tất cả đều gọi là tà ác”. Tà dục tức chỉ chung cho nhân quả của hai mươi lăm hữu là nhân duyên phiền não, nghiệp, ấm và ma trời. Kinh ghi: “Nương vào ái dục của cha mẹ hòa hợp mà sinh ra, nuôi lớn thân này. Ái là phiền não, thân này là ấm. Dùng thân hữu lậu làm thân vô lậu, tức ma trời. Xưa tu khổ hạnh là nghiệp”, tức là nghóa này. Nói tà thiên tức là vô thường, khổ, không, Niết-bàn nghiêng về một bên của Thanh văn, Duyên giác. Kinh ghi: “Như Lai vô thường thay đổi, giảng nói pháp vô ngã”. Chính là nghóa này. Nói tà tiệm tức là phân biệt khác nhau, xả bỏ hai bên, chỉ cầu Trung đạo, đó cũng là Tam-muội ma, tâm Bồ-đề ma, v.v… Kinh ghi: “Như Lai đối với các tà luận của ngoại đạo không hiểu biết gì, đối với các phương thuốc thế gian cũng không biết. Vì không biết nên gọi là Như Lai. Đối với kẻ dùng đạo giết hại hoặc người dùng hương xoa thân đều chẳng sinh yêu ghét, chỉ hay đối xử bình đẳng. Vì thế gọi là Như Lai”, chính là nghóa này. Nói chánh tức là Thánh, Thánh chánh có nhiều bậc, đó là chấp chánh, thiện chánh, chân chánh, phương chánh. Bốn tà đã xuất phát từ văn kinh, thì trái với tà tức là chánh, nên chẳng cần phải nói thêm. Bốn tà, bốn chánh này tức là bốn Tất-đàn. Tà ác là nặng nhất, là gốc của các tà, tức thế giới Tất-đàn. Tà của tà dục, là vì người trong sạch, thanh cao mà đặt ra tên gọi này, nên đó tức là Vị nhân Tất-đàn. Tà thiên là chỉ cho phá sinh tử mà nhập vào Niết-bàn, tức Đối trị Tất-đàn. Tà tiệm, chỗ đến của tà tiệm là thường trụ, từ môn thứ lớp mà đặt tên tà này, tức là Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Chánh cũng như thế, chấp chánh là ma, là chủ cõi Dục, chấp chánh cõi Dục tức Thế giới tất đàn. Thiện chánh là pháp thiện thế gian, vì thành tựu các pháp thiện nên gọi là Vị nhân Tất-đàn. Chân chánh là pháp xuất thế, dùng để đối phá thế gian mới gọi là Chánh, đó là thứ lớp của Đại thừa, luôn dẫn đến Thật tướng, Thật tướng là Đệ nhất nghóa. Nói chung về tà chánh thì tướng trạng như thế. Nay kinh này nêu ra hai pháp hai hạng người, đó là kinh ma, luật ma, người trì kinh ma, người trì luật ma, đó là bốn ma. Ý này rất rộng bao gồm các tà nói ở trước. Chánh cũng có bốn là kinh Phật, luật Phật, người trì kinh Phật, người trì luật Phật đó là bốn chánh. Bốn chánh này gom hết bốn chánh nói ở trước. Từ các nghóa này đặt tên nên là phẩm Tà Chánh. Phẩm trả lời câu hỏi của ngài Ca-diếp nêu ở phần kệ trước “làm sao biết ma trời làm hoặc loạn đại chúng? Như Lai và ma nói thế nào phân biệt được?”. Nhưng bốn y có đức rất lớn, có khả năng phân biệt tà chánh, tuy hai nghóa giúp nhau thành tựu, nhưng bốn y thì trả lời về rộng lớn, tà chánh thì trả lời về phân biệt. Hai phần tuy có đủ hai ngụy vọng hình và thanh, mà phẩm trước phần nhiều nói về hình loạn, phẩm này phần nhiều nói về thanh loạn. Văn có năm đoạn: 1/ Nói lược về tà chánh. 2/ Nói rộng về tà chánh. 3/ Nói nghóa. 4/ Thọ lãnh, hiểu rõ. 5/ Thuật lại để chứng thành. Trong đoạn một lại có hỏi và đáp. Hỏi thì nêu lại ý ở phẩm bốn Y, trả lời thì nêu tà Tam bảo. Trong đó, ma là tà Phật, pháp được nói ra là tà pháp, người thọ trì là tà tăng. Như trong Bách Luận có nói về Ca-tỳ-la tự cho mình là Phật, có sở thuyết (pháp) và đệ tử (tăng). Vì sự hoặc loạn này mà phải có bốn Y nêu trên. Từ câu “Ca-diếp bạch Phật, v.v…” trở xuống là nói rộng về tà chánh, có hỏi và đáp. Hỏi về Tam bảo tà chánh làm sao phân biệt, như văn có nói. Ở trên hỏi “làm sao biết ma trời, hoặc loạn các đại chúng” là hỏi về hình ảnh loạn. Hỏi “Như Lai nói và Ba-tuần nói, thế nào mà phân biệt được” là hỏi về âm thanh loạn. Nay hỏi về ma và những điều ma nói tức là hai câu hỏi trên. Nói làm theo hạnh ma tức là đồng đảng tùy theo ma mà tạo ra hình ảnh loạn và âm thanh loạn. Trả lời rộng, có hai là trả lời về hình ảnh loạn và trả lời về âm thanh loạn. Nói bảy trăm năm, là vì chánh pháp vốn là một ngàn năm, vì độ người nữ nên bị giảm năm trăm năm. Năm sáu trăm đến bảy trăm là thời kỳ tượng pháp. Kinh Ma-da có nói: “Vào khoảng sáu trăm năm sau Phật Niết-bàn thì ngài Mã Minh ra đời, đến bảy trăm năm thì ngài Long Thọ ra đời. Bấy giờ ma hưng thạnh liền có bốn y”. Ma có thần thông hữu lậu biến hóa thành bốn bộ, bốn quả và sắc thân Phật. Giống như thợ săn tuy đắp y ca-sa mà có tâm giết hại. Ma cũng như thế, bên ngoài hiện hình tướng bậc Thánh, mà trong tâm luôn có mưu đồ bất chánh. Vô lậu thì ở tại tâm, chẳng ở nơi sắc, vì sao nói tạo thân vô lậu, cũng là năm ấm vô lậu, cho nên ma học theo. Từ câu “Khi ma Ba-tuần v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về thanh loạn. Văn có năm đoạn: Loạn thân Phật. Loạn kiết giới. Loạn đức của Phật. Loạn kinh luật. Loạn tội phước. Đầu tiên là nói về loạn thân Phật, lại có bốn: Loạn sinh. Loạn hạnh. Loạn khi vào miếu. Loạn nạp phi. Đầu tiên như văn kinh, nếu nói thật có sinh là ma nói, nếu nói chẳng sinh mà sinh là Phật nói. Nói về hạnh cũng nên nêu như thế, nhưng nay chẳng nêu, là vì chẳng phải hạnh là ma nói, là hạnh tức Phật nói. Vì sao? Vì ma tà ác muốn che đức của Phật, hiển bày lỗi của Phật, nên gọi là loạn hạnh Phật. Vào miếu cưới vợ, như văn kinh có nói. Từ câu “Nếu có kinh luận nói, v.v…” trở xuống là nói về loạn giới. Như văn kinh có nói. Nói sáu mươi bốn năng: Nghóa là Phật có ba mươi hai tướng tốt, ngoại đạo muốn khoe hơn cả Phật nên nói là có sáu mươi bốn năng. Lại Phật có ba mươi hai tướng đều là do nghiệp nhân quá khứ cảm được, ngoại đạo lại tin theo để đối cầu, cho nên đặt ra sáu mươi bốn năng. Từ câu “Nếu có thuyết nói v.v…” trở xuống là làm loạn đức của Phật. Trong đây nói Phật chẳng biết tốt xấu, chẳng phân biệt oán thân, dao hại, hương thoa chẳng ưa chẳng ghét, như có người nói đâm mà mắt chẳng nháy, đây là dùng tâm ngu si làm loạn đức của Phật. Từ câu “nếu có kinh nói v.v…” trở xuống là làm loạn kinh luật, gồm có hai đoạn: Y cứ thường, vô thường để làm loạn kinh luật. Y cứ chung kinh luật để làm loạn, như văn kinh có nói. Từ “Có người nói, v.v…” trở xuống là làm loạn tội phước. Văn có ba phen: Lại nói về chánh. Nói về tà. Nói về chánh. Tỳ-kheo tự biết chẳng phải bậc Thánh đáp vì chẳng phải bậc Thánh thì không phạm tội, là nói về Chánh. Từ câu “lại có kinh luật nói v.v…” trở xuống là nói về tà. Từ câu “Như có chỗ nói, v.v…” trở xuống là lại nói về chánh. Nói “Nếu nói quá một pháp” tức khi nói giới đầu tiên là hỏi “có thanh tịnh không?”, ba lần như thế, nếu tất cả im lặng, tức là thành nói dối. Nói “Tất cả chúng sinh tuy có Phật tánh, nhưng phải trì giới”, nghóa là Phật tánh là chánh nhân, trì giới là duyên nhân. Từ câu “Ca-diếp bạch rằng v.v…” trở xuống là phần thứ ba nói về nghóa. Văn có ba phen: Nói về Phật tánh. Nói về người phạm lỗi. Nói về tỉnh mộng. Phen thứ nhất là trước hỏi sau đáp. Trong phần đáp “Như Lai nói ngã hoặc nói vô ngã đó là Trung đạo”. Trung Luận chép rằng “Đối với thật tướng các pháp thì không có ngã, chẳng phải không có ngã. Ngã, vô ngã đều là giả danh. Nói ngã là giả, nói vô ngã là thật, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã là Trung đạo”. Phần thứ hai, là trước hỏi sau đáp. Trong phần đáp ở trước nói về phạm, kế là nói chẳng phạm, sau lại nói về phạm. Như văn kinh có nói. Phen hỏi đáp thứ ba, trước hỏi sau đáp. Trong mộng thấy hành dâm không có tội, nhưng khi tỉnh dậy phải ăn năn, nếu tỉnh dậy mà vui sướng thì phạm tội. Trong kinh Đại Phẩm ý cũng nói như thế. Ma-ha Lăng-già, Hán dịch là Xích sắc (màu đỏ), trái với văn sau nói “đắp y màu đỏ”, vậy giải thích thế nào? Giải rằng: Văn sau là Phật nói khi chưa chế giới. Lại giải thích rằng: Màu đỏ cũng có nhiều loại: quá đỏ như trái càn-đà thì cấm, đỏ nhạt ở đây chẳng cấm. Từ câu “Ca-diếp bạch rằng v.v…” trở xuống là phần thứ tư thọ lãnh ngộ. Thứ năm, là thuật lại để chứng thành. ---------------------------------- <詞>PHẨM 10: TỨ ĐẾ Phật nói phẩm này để trả lời câu hỏi: “Vì sao các Đức Thế Tôn tâm ưa nói chân đế?” Các sư xưa cho rằng lúc trước Đức Phật thuận theo chúng sinh, chỉ nói hữu lượngTứ đế , trong ba cõi, tâm bậc Thánh chưa được vui mừng. Nay y cứ theo thường trụ mà nói vô lượng Tứ đế, vượt ngoài ba cõi nên tâm Phật vui mừng; cũng gọi là Tứ đế hữu vi vô vi, cũng gọi là Tứ đế hữu tác, vô tác. Nay hỏi hữu lượng chỉ vượt phần đoạn; vô lượng cũng chẳng vượt khỏi biến dịch. Nghóa chẳng vượt khỏi đã đồng nhau thì đều là hữu lượng; lượng và vô lượng là đối với hai duyên Tiểu Đại mà lập, đâu đáng để vui mừng. Lại hữu lượng là hữu vi, thì đâu thể nói ba là hữu vi, một là vô vi. Nếu thế thì nghóa hữu vi chẳng thành. Nếu vô lượng là vô vi thì đâu còn sinh tử biến dịch. Giải rằng: vì chẳng bị tác dụng phần đoạn của thân mạng nên gọi là vô vi, chứ chẳng phải không có ba tướng. Nếu thế thì thật chẳng có vô vi, vô vi chẳng thành thì vô tác cũng hoại. Kinh Thắng Man tuy có danh giáo này, nhưng duyên thì khác nhau; chẳng được dùng Tứ đế vô lượng của kinh kia. Các Sư xưa lại giải thích về năm thời Tứ đế. Cho rằng thời thứ nhất là y cứ theo sự, như khổ là tướng ép ngặt, v.v… Từ thời thứ hai đến thời thứ tư là y cứ theo lý, như năm thọ ấm là không, chẳng có gì là ng- hóa khổ, nghóa tức là lý. Giải thích rằng: Khi nhập quán thì bặt danh dứt tướng, không còn bốn việc này nhưng nhờ vào bốn phương tiện nên nói bốn Đế. Như đến vị Kiến đế nhập chân, không còn tám nhẫn, tám trí, chỉ duyên theo diệt mà thôi. Nói nhẫn và trí là đặt tên theo phương tiện. Vì nghóa này nên bốn thời chẳng nói về Phật tánh, vì vậy tâm Phật không vui mừng. Thời thứ năm lấy trí làm Đế. Văn ghi: Không có khổ mà có chân thật, nên nói Phật tánh, vì thế tâm Phật vui mừng. Nay hỏi, nếu là hữu lượng vô lượng như trước, thì như trước đã vặn hỏi, nếu chẳng phải hữu lượng, vô lượng thì Đế đâu có tên riêng, đã không có tên riêng thì đâu có lý riêng. Sao lại dùng nghóa này để giải thích kinh Niết-bàn ngày nay? Nay nói phẩm này và phẩm Thánh Hạnh có đồng, có khác. Phẩm Thánh Hạnh có nói về bốn loại Tứ đế. Văn này chỉ nói Nhất thật Tứ đế. Tướng trạng của nó như thế nào? Thật tướng của Phật tánh cùng khắp tấc cả mọi nơi, nếu đối với bốn việc mà thấu suốt được thật tướng thì mới gọi là Đế. Nếu chẳng thấu suốt thì chẳng phải là đế. Kinh đã có văn minh chứng, đâu nên nghi ngờ. Nghóa là biết cảnh giới sâu xa, thường trụ bất biến, Pháp thân mầu nhiệm của Như Lai, gọi đó là Đế. Đây là nêu quả Phật làm khởi điểm, nhưng thật ra là chung cho cả địa ngục, súc sinh, ấm giới nhập; tất cả đều thấu suốt Pháp thân thường trụ, chẳng thay đổi là Khổ Thánh đế; đối với bất tịnh mà sinh chân trí, chẳng hoại chánh pháp, tức là Tập Thánh đế; trong đoạn diệt mà biết Như Lai tạng, là Diệt Thánh đế; biết rõ Tam bảo và chánh Giải thoát gọi là Đạo Thánh đế. Đế chẳng phải là bốn, nhưng y cứ theo bốn Đế thấu suốt đế nên gọi là bốn Đế. Như Lai ra đời vốn là nói về nghóa này, nhưng đã ngăn che tướng trạng, nay khai mở. Như xưa thoa thuốc vào vú, nay rửa sạch thuốc. Vì thế tâm vui mừng nói chân đế. Từ nghóa này mà đặt tên nên gọi là phẩm Tứ Đế. Toàn văn có hai đoạn: một nói về Tứ đế; hai, là thọ lãnh hiểu rõ. Thứ nhất, nói về Tứ đế, có bốn chương. Mỗi chương có sáu câu, như theo thứ lớp và không theo thứ lớp khác nhau chương. Thứ nhất, là sáu câu nói về khổ: Nói mê hoặc; nói về quả mê hoặc; nói về giải; nói về quả của giải; kết luận về giải; kết luận mê hoặc. Một tức là bốn, bốn tức là một, gọi là không nghó bàn, thế thì văn này đã rõ. Đầu tiên là nói về hoặc, có hai ý: Nói thẳng vào khổ; vì chẳng giải ngộ cho nên khổ. Văn sau nói khổ có ba thứ: Khổ chẳng phải Đế, chẳng phải thật; khổ là Đế mà chẳng phải thật; chẳng phải khổ chẳng phải Đế là thật. Từ câu “Nên biết v.v…” trở xuống là nói về quả hoặc. Từ câu “Nếu có người v.v…” trở xuống là nói về giải ngộ. Từ câu “Vừa lọt qua tai v.v….” trở xuống là nói về quả của giác ngộ. ngộ. hoặc. ngộ. Từ câu “Nếu biết như thế v.v…” trở xuống là kết luận về giải Từ câu “Nếu chẳng biết v.v…” là kết luận mê hoặc. Kế là chương tập cũng có sáu, thứ lớp như trước. Đầu tiên nói về Cho nên không biết v.v…” trở xuống là nói về quả của hoặc. Từ câu “Nếu có trí v.v…” trở xuống là nói về giải ngộ. Từ câu “Vì nhân duyên v.v…” trở xuống là nói về quả của giải đúng. Lại nhắc lại sự mê hoặc xưa, nêu điều sai để hiển bày điều Từ câu “Nếu biết v.v…” trở xuống là kết luận về giải ngộ. Thứ ba, chương Diệt đế, cũng có sáu, nhưng thứ lớp hơi khác, thứ nhất nói về hoặc. Nói “Tu nhiều về pháp không” thì một là Nhị thừa mê đắm Không, hai là ngoại đạo bác vô. Kế là, nói “Tu diệt khổ” là nói về giải ngộ. Lẽ ra cũng nói là ngược với pháp Thanh văn, nhưng chỉ nói ngoại đạo có hai nghóa: Từ trên đến đây là quở trách Thanh văn. Hàng Thanh văn trái với lý tức là ngoại đạo. Từ câu “Nếu có người tu tập v.v…” trở xuống là nói về quả của hoặc. ngộ. ngộ. Từ câu “nếu có người chẳng v.v…” trở xuống là nói về quả giải Từ câu “Nếu được như thế v.v…” trở xuống là kết luận về giải Chương Đạo đế cũng có sáu, thứ lớp lại như trước, nhưng phần kết luận ở sau hơi khác. Đầu tiên là nói về hoặc. Trước chỗ bị hoặc, sau nói về mê hoặc. Từ câu “vì nhân duyên này v.v…” trở xuống là nói về quả của hoặc. ngộ. ngộ. Từ câu “Nếu có phát tâm lớn v.v…” trở xuống là nói về giải ngộ. Từ câu “Nhờ một niệm này v.v…” trở xuống là nói về quả giải Từ câu “Nếu có người v.v…” trở xuống là kết luận về hoặc. Từ câu “Nếu tu pháp này v.v…” trở xuống là kết luận về giải Thật ra là kế nói về Đạo Diệt, nhưng nói bốn Đế là vì Đạo Diệt là phần cuối cùng của bốn Đế, là Đế thứ tư. Ca-diếp bạch Phật, v.v… trở xuống là nói về nhận lãnh, hiểu rõ. -------------------------------- <詞>PHẨM 11: TỨ ĐẢO (bốn điên đảo) Đảo là hoặc, ở trên nói người say thì mê loạn, thấy trời đất xoay chuyển là so sánh để hiển bày hoặc nghiệp. Như số lượng của Đảo chẳng nhất định, hoặc một, hai, ba, bốn, tám cho đến rất nhiều. Nói một tức chỉ nói vô minh luống dối bao phủ trói buộc. Nói hai tức là kiến đảo, tưởng đảo chấp trước mà dẫn đến thương tổn. Nói ba gồm có si tâm là tâm đảo, cuồng loạn là tưởng đảo và phân biệt là kiến đảo. Nói bốn tức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh luống dối chẳng thật. Nói tám tức là không có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, là ngói đá chẳng phải chân. Nói rất nhiều tức chỉ cho Niết-bàn rốt ráo thanh tịnh, chẳng phải đảo, chẳng phải đế. Trước là Phật ra đời, lập giáo phá các đảo, giáo pháp còn để lại thế gian, đến khi cách xa bậc Thánh thì chúng sinh phần nhiều chấp văn tự mà đánh mất chỉ thú, chẳng biết thuốc phương tiện, thì thuốc trở thành chất độc, liền sinh khởi bốn đảo Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Vì thế, hôm nay Phật ra đời đã ban cho thuốc vô thường, khiến nôn ra hết các thuốc độc kia. Bệnh đã hết mà còn chấp giữ thuốc, đó là mê lầm phương tiện của Phật, khởi chấp vô thường v.v… Phật quán bệnh này nên dùng thường v.v… để chữa trị. Thường v.v… Ở đời mạt pháp là bệnh, phải truyền trao cho Phật sau (Phật Di-lặc) mới chữa trị được. Chung thì lẫn nhau trước sau đều gọi là bốn đảo. Nếu trị bệnh thường v.v… thì như giáo xưa. Nếu trị bệnh vô thường thì như phẩm Ai Thán, phẩm này chỉ nói về bệnh mê hoặc. Nếu biết bệnh là biết thuốc. Lìa đảo thì không có đế, nhưng theo duyên thì nên nói về bốn đảo. Văn nói có tám đảo, còn tên phẩm là bốn đảo, là do các nhà dịch kinh đã lược ghi, y theo hợp thuyết nên có bốn. Nay hợp đề là muốn đối với Tứ đế mà thành tựu cho nhau. Cho nên gần thì nói ba phẩm thành tựu cho nhau, ma nói, Phật nói, nói chung về tà chánh. Tứ đế nói riêng về chánh giải. Tứ đảo nói riêng về tà hoặc. Nếu chỉ biết đế hay đảo, thì như chỉ biết chữ nhân hoặc chữ nhập, chỉ biết người hoặc đào ngột (một loài thú dữ), chẳng thể biết đầy đủ, chẳng thể gọi là chánh thiện thành tựu đầy đủ, chẳng thể tạo ra nghiệp lành. Nếu biết đủ các Tà, Chánh, Đảo, Đế gồm thông thì gọi là chánh thiện, thành tựu đầy đủ, tạo ra nghiệp lành. Nghiệp tức là Như Lai tánh, thứ lớp thành tựu cho nhau, hợp thành bốn Đảo, nghóa này hợp lý. Vì thế gọi là phẩm Tứ Đảo. Văn có hai đoạn, trước nói bốn đảo sau nói thọ lãnh, hiểu rõ. Phần đảo gồm bốn chương, chương thứ nhất có ba: Nêu cảnh khổ. Nêu thể của khổ. Kết luận. Nói quả Phật chẳng phải khổ mà cho là khổ, đây là mê hoặc phải vời lấy quả khổ; bèn cho đó là hiểu, tức là trong khổ sinh ý tưởng là vui (lạc). Nói vô thường thay đổi, nghóa là cho Phật có hành khổ; xả thân vào Niết-bàn cho Phật là hoại khổ. Kia nói Như Lai là thường, tức là Đảo; vô thường tức là Đế. Từ câu “nếu ta nói v.v…” trở xuống là nói về Tâm đảo. Trong vui mà nghó là khổ. Vô thường mà nghó là thường, là đảo thứ hai. Trong cảnh đảo gồm nêu hai tưởng, trong thể chỉ giải thích một tưởng, vì ở trên đã gồm nêu, nên chẳng muốn dài dòng. Nhưng trong văn kinh đầu tiên cũng có nêu ra cảnh đảo, sau đó nói thể đảo và kết luận, rất dễ thấy. Nói chẳng tu tức là tu Bát-nhã không tuệ. Hai điên đảo sau có thể tự thấy trong văn kinh ở sau: Thứ hai, là thọ lãnh, hiểu rõ. Có hai: lãnh giải và nói về mình mê hoặc. Nói riêng nếu bỏ cho là bác không nhân quả thì gọi là tà kiến. Ca-diếp từ lâu đã không còn chấp chung các tâm đảo là tà, nên Ca-diếp còn có tà kiến, v.v… ---------------------------------- <詞>PHẨM 12: NHƯ LAI TÁNH Tên phẩm này không nêu Phật mà nói là Như Lai, là vì muốn đồng với ba đời. Chư Phật ba đời đều lấy Như Lai làm hiệu đầu tiên, vả lại nêu hiệu đầu tiên để hiển bày chín hiệu sau. Như tức chẳng khác, phá các dị chấp. Như Lai tức là Phật, Phật tức là Như Lai. Nên gọi là phẩm Như Lai Tánh Tứ Tất-đàn. Như Lai là hiệu cao quý của cực quả, tánh là tên gốc của chí lý. Chẳng phải cực quả mới gọi là Như Lai mà bản tánh của chúng sinh cũng được gọi là Như lai. Như Lai là định cho quả, tánh là thuộc về nhân. Tuy nhân quả đều nêu, mà ý chính ở nơi nhân, nên nói phẩm Như Lai Tánh. Lại tánh bản tánh của quả ẩn kín, rất khó luận bàn, cho nên nêu chỗ hiển bày để đặt tên cho chỗ ẩn kín, gọi là phẩm Như Lai tánh. Tánh lý chứa đựng, đầy đủ các tánh thiện ác, ba thừa; nêu hơn bỏ kém, nên nói là Như Lai tánh. Như Lai là tên gọi chung, hễ có tánh thì đều là Như Lai ở vị lai. Thep Khai só bốn Y giống như Như Lai. chư Phật mười phương đều gọi là Như Lai. Đối với một vị Phật, thì hóa, ứng, báo và Pháp thân đều gọi là Như Lai. Nhưng văn kinh chính thức nói về Như Lai của Như Lai tạng. Trong hai mươi lăm hữu đều có Ngã, đồng với Ngã nên gọi là Như. Dùng Như chỉ cho người nên gọi là Lai, thường hằng chẳng thể hủy hoại, nên gọi là Tánh, từ đó đặt tên phẩm là Như Lai tánh. Nên biết Như Lai tạng này tức là Phật tánh. Các sư giải thích nghóa tạng rất khác nhau. Các Luận sư cho rằng quả Phật ở tương lai, hiện thời chưa có, nên gọi là tạng. Lại có người nói Phật tánh là tâm thần của chúng sinh, tâm thần tự có năng lực tránh khổ cầu vui. Khai Thiện nói rằng: “Sáu pháp (năm ấm và thần ngã) là Phật tánh”. Tất cả nghóa này đều chẳng đúng. Phẩm này lấy Như Lai làm tự tánh, chứ chẳng lấy tâm thần, chẳng lấy sáu pháp. Vả lại, Như Lai tạng thì ẩn kín, còn tâm thần và sáu pháp đều hiển bày. Như Lai tạng là thường, tâm thần và sáu pháp là thay đổi, vô thường hoàn toàn không tương quan đến tánh Như Lai, nay đều chẳng sử dụng. Các sư Địa Luận cho rằng: “Các hoặc che lấp lý nên gọi là Tạng”. Nghóa này chẳng đúng. Nay nói thêm rằng: “Chẳng phải không nhưng đều chẳng hợp với tên phẩm này”. Các sư Địa Luận cho hoặc và lý khác nhau, nên hoặc làm ngăn che lý. Nay y cứ theo văn kinh nói rằng: “Trong tất cả pháp đều có tánh an vui”, thế thì đâu có hoặc vô tánh ngăn che tánh vô hoặc. Vì chẳng hợp với yếu kinh, nên không sử dụng. Nay nói thêm rằng: “Chẳng những hoặc là tánh tương tức, mà còn gồm thâu tất cả, cho nên Niết-bàn là pháp gì mà không ở trong đó. Tất cả chúng sinh đều là tướng Niết-bàn, tất cả cỏi nước đều là tướng Niết- bàn”. Các Luận sư cho rằng: “Ngay nơi quả là tánh tức ngoài thân, sáu pháp là tánh tức trong thân”. Các sư Địa Luận cho rằng: “Hoặc ngăn che A-lê-da”. Tâm tức bên trong. Hưng Hoàng cho rằng: “Chẳng trong chẳng ngoài”, đây là chỉ y cứ theo chánh tánh. Địa Luận chỉ y cứ theo Bản hữu. Các Luận sư chỉ y cứ theo duyên liễu. Lại y cứ theo đương quả, quả tánh và quả quả tánh, đều bị kinh này quở trách như người mù sờ voi, chẳng hợp với yếu chỉ của kinh. Nay nói bốn câu đều bình đẳng thanh tịnh không tranh cãi, nên gọi là Như, dùng bốn Tất-đàn khéo léo chỉ bày cho chúng sinh, nên gọi là Lai. Thường hằng chẳng thay đổi nên gọi là Tánh, đâu chỉ có một pháp là Tạng tánh ư? Lại có người chấp rằng: “Như Lai tạng chẳng thể chẳng có”. Nghóa này không đúng, Phật tánh chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải vừa có vừa không, chẳng phải chẳng phải có chẳng phải không, thì đâu được cho là có. Tuy chẳng phải bốn câu này, nhưng khi có nhân duyên thì trong một môn nói đủ bốn Tất-đàn. Cho nên nói Như Lai tạng chẳng thể không có. Dùng hữu để tiếp đoạn, dùng hữu để phá thường, dùng hữu để giúp cho ngộ. Khi ngộ Phật tánh thì Phật tánh chẳng thật có, ba môn khác cũng giống như thế”. Vì sao chấp có mà hại ba môn kia? Như có người hỏi về nhân duyên chiếc cầu, sinh ra tranh luận mà có ích gì. Ở đây nói Phật tánh, ý nghóa như thế, nếu có ý này, thì cũng ở trong bản tánh, trung gian và cực quả, vừa ẩn vừa hiển, vừa ở trong vừa ở ngoài, như kho vàng trong nhà, lớn nhỏ thế nào chẳng biết, nên khéo đào lên chỉ rõ cho người, được người kính ngưỡng, tức là nghóa này. Hỏi: Tạng, lý và tánh đồng khác như thế nào? Đáp: Chỉ một nghóa mà thôi. Nếu muốn phân biệt thì lý và hoặc nói chung gọi là Tạng, hoàn toàn chẳng nói đến hoặc thì gọi là Lý, chẳng thể thay đổi thì gọi là Tánh. Có Sư phát khởi năm dụ: Đầu tiên hỏi trong hai mươi lăm hữu có Ngã chăng? Đức Phật đáp bằng cách nêu cô gái nghèo có kho báu, dụ cho có ngã nhưng ẩn kín, không hiển bày. Hỏi: Nếu thế sao chẳng nói sớm? Phật nêu việc thoa thuốc độc để dụ, tức do bệnh Thường chưa hết, nên chẳng được rửa vú. Hai, là bệnh trước và sau do nói theo chúng sinh, ẩn hiển, thoa hay rửa, là nói theo lời dạy của Phật. Hỏi: Như thế chúng sinh đâu có sáu đường lên xuống khác nhau? Phật bèn nêu việc do đấu tranh mà làm mất hạt châu, sinh ra buồn vui khác nhau. Hỏi: Nếu thế thì sao lại đấu tranh? Phật lại nêu vị thuốc cam lồ chân chánh còn ở trên núi cao, chỉ có một ít đức lưu chuyển, mà thành mặn lạt. Lại hỏi: Nếu thế thì chân vị chẳng thay đổi, ai làm tổn thương cho được? Nếu chẳng làm tổn thương được thì không có tội giết hại. Đức Phật lại nêu cuốc, xẻng bén có thể xuyên qua sỏi đá, nhưng chẳng thể làm tổn hại kim cương, như Phật chẳng thể bị làm hại, nếu khởi tâm hại Phật thì phạm tội nghịch. Tánh chẳng thể bị hủy, nếu vọng khởi tâm làm tổn thương các ấm thì phạm tội sát. Nhưng một lời đáp có thể hiểu, vì sao lại nói nhiều lần? Đó là Phật tánh khó chỉ bày, phải bổ vạn búa mới khai mở. Phát khởi năm dụ là sự suy nghó khéo léo của các Sư xưa, cho nên nay giữ lại. Nhưng một phẩm này đáp câu “Làm sao tạo nghiệp lành?” Và câu “thấy được tánh khó thấy”. Hai câu này thành tựu cho nhau, tức chỉ do nghiệp lành mà thấy được tánh. Tánh do nghiệp lành, nghiệp là mở đầu, tánh là kết thúc, từ kết thúc mà đề tên phẩm. Nếu từ người mà giải thích thì nghóa nghiệp lành tức hành nhân giả danh hay gây tạo thiện ác, làm lành tức tu luyện tâm thần đạt đến Chánh giác. Các sư Trung Luận hỏi rằng: “Trong sinh tử có người giả, người này có Phật tánh hay chăng?” Kia đáp: “Chẳng có Phật tánh” tức đồng thời cũng chẳng có ngã, đã chẳng có ngã thì ai tạo nghiệp lành. Vả lại, ông nói giả tức chẳng có tự tại, cả hai trái nghịch nhau. Các sư Địa Luận cho rằng thể của pháp giới có dụng thiện ác, thể dụng đầy đủ trong vọng hoặc. Như đất che phủ vàng không làm hư hoại. Vọng hoặc đã như thế thì dụng hay vô dụng cũng đâu thể tạo nghiệp. Ở đây nói nghóa này như đi qua kho vàng mà không thể thấy, bấy giờ chẳng thể tạo nghiệp lành, khi đã đào lên rồi thì đâu cần tu nghiệp lành. Nhổ sạch cỏ dại là dạy Tiểu thừa tạo tác, chẳng phải là nghiệp lành. Hàng dị nhân dùng phương tiện chỉ kho vàng cho con, mà từ trong nhà đào tìm thấy, đó chính là nghóa hay làm ra nghiệp lành. Nếu nói theo sáu vị, thì vị đầu tiên chẳng thể tạo nghiệp lành, vị sau cùng chẳng cần tạo nghiệp lành, bốn vị ở giữa là các vị tạo nghiệp lành. Nếu y cứ theo bốn câu, thì ẩn tức chẳng thể, hiển thì chẳng cần, vừa ẩn vừa hiện chính là năng tạo tác nghiệp lành. Trả lời về tạo nghiệp lành có hai ý: Phật tánh làm duyên cho nghiệp lành. Phật tánh chánh khởi nghiệp lành. Thứ nhất lại có hai ý nói về nghiệp duyên và luận nghóa. Trong phần nói nghiệp duyên có hỏi và đáp. Hỏi gồm từ bốn điên đảo mà sinh; tất cả thế gian tuy nói có ngã mà chẳng gọi là Phật tánh, còn chân ngã xuất thế gọi là Phật tánh, cho nên mới hỏi. [Trong hai mươi lăm hữu, nếu chắc chắn có ngã, thì có chẳng phải có, nếu chắc chắn là không thì ai tạo nghiệp lành. Cho nên hỏi hai mươi lăm hữu có ngã hay chăng? Đức Phật dùng hai dụ để trả lời. Dụ thứ nhất là nói bản hữu chẳng thấy được, dụ thứ hai là nói chẳng được nói để giải thích nghi ngờ. Trong dụ thứ nhất thì có pháp, dụ và hợp. Pháp thuyết có hai: 1/ Nói về bản hữu; 2/ Nói chẳng thể thấy. Nhưng Phật tánh chẳng phải bản hữu, chẳng phải đương hữu, nhưng vì nhân duyên nên nói như thế. Dụ thứ hai, có bốn đoạn: Dụ bản hữu, dụ chẳng thể thấy; dụ duyên cảm; dụ hiển thuyết. Đoạn thứ nhất có các ý như: Vì thiếu duyên,liễucho nên nói là ng- hèo, có khả năng sinh khởi nên gọi là người nữ, nương vào năm ấm nên nói là Nhà, có chánh Phật tánh nên nói là Vàng, tánh này chứa đựng nên nói là kho, tánh này rộng lớn nên nói là nhiều. Nói: “Mọi người lớn nhỏ trong nhà”, các sư xưa giải thích là: “Bốn quả thaÙnh là Đại, ba cõi phàm phu là Tiểu”. Nghóa này chẳng rõ. Các sư Trung Luận cho rằng: “Chỉ có Bồ-tát là Đại, Thanh văn là Tiểu”. Nghóa này cũng chẳng rõ. Nay nói trời, người là dụ cho Tiểu, Nhị thừa phân tích đạt đến Không là dụ cho Đại. Nhị thừa phân tích đạt đến không là Tiểu, Nhị thừa không thể là Đại, Thanh văn đãn Không là Tiểu, Bồ-tát đãn Không là Đại; Bồ-tát đãn Không là Tiểu, Bồ-tát xuất gia là Đại, đều chẳng thể biết được. Từ câu “bấy giờ, có một người lạ v.v…” trở xuống là nói về duyên cảm. Trong phen hỏi đáp này, trước dùng đạo Tiểu thừa để dẫn dắt nên nói là “nhổ sạch cỏ dại”.vì chẳng hợp cơ duyên nên nói là “chẳng thể làm được”; “nếu chỉ kho vàng cho con tôi” tức là nêu duyên, là năng lực giáo hóa muốn trước vì người, nói “tôi cũng muốn thấy”, là sau mới vì mình. Từ câu “Người này liền v.v…” trở xuống là phần nói rõ. Thứ ba, là hợp dụ có hai, trước là hợp chung, sau là y văn mà hợp. Thứ nhất là hợp rất dễ thấy. Dụ thứ hai cũng có hai là dụ và hợp. Dụ có bốn câu: 1/ Nói về khởi bệnh chấp hữu ngã. 2/ Nói về thuốc vô ngã. 3/ Bệnh tà ngã dứt. 4/ Phát khởi giáo chân ngã. Ý nghóa đồng với phẩm Ai Thán. Nhưng dụ ở phẩm kia thì hiển, dụ này thì ẩn. Có bốn sư xưa giải thích về người nữ và thầy thuốc. Nói người nữ dụ cho Pháp thân, thầy thuốc dụ cho Ứg thân. Nói người nữ dụ cho thật trí. Nói người nữ dụ cho Phật trước, thầy thuốc dụ cho Phật sau. Nói người nữ dụ cho trí Phật, thầy thuốc dụ cho cơ duyên. Văn trên đã nói nghèo dụ cho chúng sinh. Người nữ này đã chẳng nói nghèo dụ cho trí Phật ứng hiện cao siêu, sinh con dụ cho chúng sinh thọ học giáo pháp sinh giải ngộ, sức giải ngộ còn yếu kém nên nói là đứa trẻ, vì chấp tà thường nên nói là bị bệnh. Kế đến từ câu “Người nữ buồn rầu, v.v…” trở xuống là dụ về thuốc vô ngã. Có ba ý: Dùng trí Phật quán cơ. Biết được cơ, lập ra giáo hóa. Dứt tà ngã. Thứ nhất như văn kinh. Quyền trí khởi bi nên gọi là buồn rầu, tìm căn cơ vô ngã nên nói là tìm thầy thuốc. Ba loại thuốc là dụ cho ba tu vô thường. Thứ ba, từ câu “Rồi bảo người nữ v.v…” trở xuống là dứt trừ tà ngã. Ở đây sữa dụ cho chân ngã, chân ngã chưa đúng thời nên nói “Chớ cho nên”, dùng vị đắng thoa lên đầu vú là dụ cho dùng vô ngã ngăn che chân ngã. Như đắng và ngọt, tánh trái nhau, trước đã hòa hợp ba vị thuốc, vì sao trong đó lại có sữa? Ở đây cũng là vị đắng vô ngã, trái nghịch với thường. Thứ ba, từ câu “Đứa bé khát sữa v.v…” trở xuống là dụ cho bệnh tà ngã tiêu trừ. Trước nói về bệnh dứt, kế nói thuốc không cần nữa, duyên chân ngã đã phát khởi, nên nói là khát sữa; ngã và vô ngã trái nhau, cho nên nói là hơi độc. Vô ngã trị tà, tà tiêu rồi thì thuốc cũng bỏ, nên nói là thuốc tiêu. Thứ tư, người mẹ rửa vú là dụ cho giáo chân ngã hưng khởi. Có bốn ý: Nói cho nghe. Trái ý. Nói lại. dụ. Thọ hạnh dễ thấy. Kế đến từ câu “Như Lai cũng như thế, v.v…” trở xuống là hợp Chỉ hợp với hai thứ thuốc, chẳng hợp với hai thứ bệnh, vì vốn chỉ nghi ngã và vô ngã khác nhau. Vì thế nên hợp với thuốc trị, còn bệnh là phụ, nên chẳng hợp. Phẩm Ai Thán cũng như thế. Hỏi: Ẩn kín gọi là Như Lai tạng, ngã là Phật tánh. Vậy tất cả chúng sinh có tánh ngã chăng? Đáp: Tất cả chúng đều có tánh nhưng chưa thành Phật, vì thế có ngã mà chưa thành ngã đức. Vì sao? Vì người thì riêng, pháp thì chung. Pháp chung nên có tánh có ngã, vì người riêng nên chẳng phải Phật, chẳng phải đức. Hỏi: Pháp là pháp của người, giáo xưa đã không có người riêng, vậy pháp là pháp của ai. Đáp: Pháp thuộc về pháp tánh. Từ câu “Ca-diếp bạch rằng v.v…” trở xuống là phần nói về nghóa, có hỏi và đáp. Trong phần hỏi ở trước nói hai mươi lăm hữu có ngã, nay hỏi về nghóa này. Đầu tiên nói chung là vô. Kế là, từ câu “Vì sao, v.v…” trở xuống là lập riêng câu vặn hỏi, hợp thành bốn ý: Gồm có bốn câu y cứ theo quả. Gồm có hai câu y cứ theo nhân. Gồm có bốn câu y cứ theo quả. Gồm có hai câu hỏi về xứ sở. Thứ nhất gồm có hai cặp trước sinh sau diệt, thắng thua khác nhau rất dễ thấy. Thứ hai, y cứ theo nhân mà hỏi, gồm có hai: Nói mười ác là y cứ theo nhân ác. Từ câu “Sau khi uống rượu, v.v…” trở xuống là y cứ theo duyên ác. Thứ ba, lại y cứ theo quả, có bốn câu: Y cứ theo quả khổ. Y cứ theo duyên khổ. Theo sự quên lãng. Theo sự nhớ nghó. Thứ tư, là hỏi về nơi chốn, có hai câu: 1.Hỏi riêng ở nơi nào. Hỏi về cùng khắp nơi thân. Hoặc có thể chỉ lập sáu cặp mười hai câu, hoặc lập mười câu hỏi về hiện dụng và hỏi về nơi chốn. Thứ hai, từ câu “Đức Phật bảo v.v…” trở xuống là lời đáp mười hai câu hỏi. Đầu tiên là nêu hai dụ để trả lời về việc tìm cầu dụng hiện tiền. Kế là lập thí dụ xẻng bén để trả lời về nơi chốn. Nói hiện dụng tức là Ca-diếp hỏi chân ngã nếu là thường thì lẽ ra không sinh diệt? Kiến là nói hơn kém khác nhau để vặn hỏi, ý Đức Phật đáp là có chân ngã, nhưng bị sân si che lấp nên chẳng thể thấy. Vì thế có sau cùng diệt mất, lên xuống khác nhau. Dụ trước thì được mà mất, dụ sau thì mất mà được. Nhưng sự giải ngộ nhiệm màu này phàm phu chưa đạt được, thì đâu thể nói là mất. Đây là lời đạo lý; vì được là chẳng được, nên nói được mà lại mất; được chẳng được riêng, mà được ở chỗ mất, mất chẳng có mất riêng, mà lại mất ở chỗ được. Được mà không có chỗ để được, mất cũng chẳng có gì để mất. Trong hai dụ đầu tiên, dụ thứ nhất có ba ý là dụ, hợp và kết. Dụ lại có bốn: Tánh lý vốn có. Gặp duyên khởi hoặc. Căn duyên được tiếp hóa. Thánh ứng phá hoặc. Nói cung vua là dụ cho chỗ Phật thống lãnh, lực só dụ cho chúng sinh, có năng lực hàng ma, chế phục ngoại đạo, nên nói là lực só. Nói giữa hai đầu chân mày dụ cho Trung đạo. Hạt châu kim cương dụ cho lý, hoặc dụ cho giải, hoặc nói lý và giải viên tịnh, không thể phá hoại như hạt ngọc kim cương. Kế là từ câu “Người này cùng với v.v…” trở xuống là gặp duyên khởi hoặc, mất đi lý sẵn có. Có hai lý: Khởi hoặc. Mất lý. Nói các lực só khác là dụ cho ma trời, ngoại đạo và các tri thức ác. Đấu vật là dụ cho đoạn thường trái với chánh quán, chánh quán phá đoạn đường nên nói đấu vật với nhau. Đầu chạm với nhau là dụ cho dùng thân kiến xúc chạm Trung đạo giải. Kế là từ câu “Hạt châu trên trán v.v…” trở xuống là nói mất chánh lý. báo. Chìm vào thân đoạn thường tà kiến. Thứ ba “Nơi ấy có vết thương” tức là cơ duyên chiêu cảm khổ Hai là kiến làm thương tổn chánh giải, nên nói là vết thương. Xưa nói chiêu cảm quả khổ sinh tử là vết thương. Mời thầy thuốc là các căn cơ thỉnh Phật. Nói: “Bấy giờ, có thầy thuốc giỏi”, tức là Thánh trí rõ biết mất lý thì vời lấy quả khổ. “Liền dừng trụ nơi đó”, tức nói mất mà chẳng mất. Thứ tư, từ câu “Bấy giờ thầy thuốc, v.v…” trở xuống là nói thuyết pháp phá hoặc. Gồm hai ý là dụ thiên thuyết, dụ viên thuyết. Thứ nhất là dụ Thiên thuyết. Vô ngã kiềm chế tà thường, như thầy thuốc đến tìm châu. Lực só kinh ngạc đáp, dụ cho việc thọ học giáo pháp mà quán vô ngã. Từ mê được giải ngộ, nên nói kinh ngạc trả lời “vô lẽ là huyễn hóa” tức là quán vô ngã; ở nơi đâu? Là quán vô thường. Buồn rầu khóc lóc là quán khổ. Đây là thuyết Thiên giáo. Kế là từ câu “Thầy thuốc v.v…” trở xuống là dụ thuyết Viên giáo. Gồm có bốn ý: Nói cho nghe. Chẳng nhận. Nói lại. Liền nhận. Ví dụ nói về Phật tánh, qua một lần thì chẳng chịu nhận. Nói dưới da tức ẩn nơi đoạn thường. Dạng của nó hiện bên ngoài. Các sư xưa nói: “Đương quả thì ở đương lai”. Hưng Hoàng nói: “Trí Phật ngầm chiếu”. Nay nói tánh lý rỗng không, cùng khắp mọi nơi, ảnh nó hiện ra bên ngoài. Kế là đến câu “Bấy giờ, lực só v.v…” trở xuống là nói chúng sinh chẳng nhận. Xưa nói dưới da là dụ cho hiện tại, dưới gân là dụ cho vị lai; nếu nói hiện tại, vì sao chẳng phá hoặc mà ra, nếu ở vị lai lẽ ra chẳng thấy. Hưng Hoàng nói: “Nhẹ dụ cho da, nặng dụ cho gân”. Thứ ba từ câu “Bấy giờ, thầy thuốc v.v…” trở xuống là Như Lai nói lại. Gương dụ cho viên kinh chiếu soi mặt tín tâm. Văn rõ ràng, lý hiển hiện, tín tâm chắc thật sáng tỏ. Thứ tư, từ câu “Lực só thấy v.v…” trở xuống là tin nhận. Kế là, từ câu “Này người thiện nam! v.v…” trở xuống là hợp dụ. Nhưng chỉ hợp ba ý, chẳng hợp với ý thứ nhất. Đầu tiên là hợp, thứ hai là gặp duyên khởi hoặc. Trong dụ có hai, nay chỉ việc khởi hợp với việc đánh vật. Kế là, từ câu “Cho nên rơi vào v.v…” trở xuống là hợp với ý thứ ba là vời lấy khổ báo, cảm ứng đều mất. Đoạn này đáp chung mười câu hỏi. Thứ ba, từ câu “Lực só kia v.v…” Trở xuống là hợp với ý thứ tư là Thánh ứng nói pháp, đầu tiên là hợp với Thiên thuyết. Trước có Phật nói chúng sinh thực hành quán vô ngã, nay chỉ hợp với ý sau. Văn có hai: Đầu tiên thực hành quán tưởng, sau là nói không biết. Trong đoạn này có nhắc lại dụ để chánh hợp. Từ câu “Thí như chẳng phải Thánh v.v…” Về sau là nói tuy quán vô ngã, nhưng chẳng hiểu. Vì sao? Vì phải biết chân ngã, thì mới biết vô ngã. Đã chẳng biết ngã nên ngã chẳng thành. Trước nêu dụ, sau là hợp. Kế là, từ câu “Như Lai nói rằng v.v…” trở xuống là Viên thuyết. Trước nêu dụ, có bốn, nhưng chỉ hợp với hai ý sau. Đầu tiên hợp với ý thứ ba, Như Lai nói lại. Từ câu “Các chúng sinh v.v…” trở xuống là hợp với ý thứ tư là tin nhận. Trước là hợp, sau là dụ y theo chánh ý. Trong hợp, trước nói khi có hoặc thì chẳng tin. Sau là nói khi dứt hoặc thì tin nhận. Thứ ba là kết luận, khen ngợi không nghó bàn. Từ câu “Lại nữa này Thiện nam! v.v…” trở xuống là dụ cho cỏ thuốc ở núi Tuyết. Xưa nói là giúp cho lời đáp câu hỏi trên. Các sư Trung Quán cho rằng đây là dụ cho nghóa mất mà lại được. Gồm có khai dụ và hợp dụ. Khai dụ có bốn: Nói về mất. Nói về được. Nói lại về mất. Nói lại về được. Thứ nhất nói về mất, gồm có hai ý là lý tánh và nói về mất. Văn thứ nhất. Núi Tuyết dụ cho thân chúng sinh. Một vị thuốc: Là dụ cho Trung đạo không hai cho nên gọi là một vị; lý này có dứt trừ được mê hoặc điên đảo cho nên, gọi là thuốc; gọi chung là vị thuốc. Vị rất ngọt, dụ cho giáo lý tương xứng. Tức giáo là thuốc, lý là vị ngọt. Nói: “Ở trong rừng sâu” trở xuống là muốn nói phiền não che phủ, cho nên mất lý, phiền não sâu dầy, mê hoặc điên đảo kết chặt nhau, khiến cho người chẳng thấy. Kế là từ câu “Có người nghe v.v…” trở xuống là ý thứ hai nói về được. Văn có hai: Được chút phần. Được đầy đủ. Thứ nhất nói ngửi mùi, có người cho rằng y kinh mà tin hiểu biết rõ, nên gọi là ngửi mùi. Có người lại cho rằng Bồ-tát Thập trụ sự thấy biết chưa được sáng tỏ, nên nói là ngửi mùi. Từ câu “vào thuở quá khứ v.v…” trở xuống là nói được đầy đủ. Đức Phật trước đã chứng lý này. Làm các ống tre tức là nói giáo, dụ cho liễu nhân của hàng Thập địa. Dùng nhân mà tiếp lấy quả, nên nói là tiếp lấy thuốc. Nói khắp mọi nơi tức là dụ cho việc nhiều đời ở quá khứ tu nhân Thập địa. Nói từ đất chảy ra đổ dồn vào các ống tre, là dụ cho nhân quả tương ứng, liễu nhân chắc chắn đã chân chánh nên nói là chảy ra. Thứ ba, từ câu “Sau khi vua băng hà v.v…” trở xuống là nói lại về mất. Tức là Phật trước Niết-bàn đã lâu, chúng sinh buông lung, kết thành các phiền não, làm mất cả chánh lý. Sáu vị dụ cho sáu đường. Vị sắc thì chân chánh. Sau khi khởi hoặc trôi vào vào sáu đường, hoặc là chua, hoặc là mặn. Vị chân thật của thuốc này vẫn còn giữ lại trên núi cao là dụ cho chánh tâm của thân chúng sinh chẳng khác, nhưng tùy trôi lăn vào sáu đường mà có khác. Nói phàm phu phước mỏng dù khổ công tu tập mà chẳng được, là dụ cho người có tâm chấp trước, dù có khổ công tu tập thiền tuệ, tìm cầu chân lý thì cũng chẳng đạt được. Cũng dụ cho các việc nghiên cứu, tìm cầu mà muốn thấy lý tánh, thì chẳng có liên quan gì. Thứ tư, từ câu “lại có Thánh vương v.v…” trở xuống là nói lại về được. Tức là Phật hiện tại chứng được lý này. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là hợp dụ, nhưng chỉ hợp với hai ý nói về mất, chẳng hợp hai ý nói về được. Thứ nhất là hợp với nghóa có lý mà mất. Trước nói “Ở trong rừng sâu v.v…”, nay hợp với rừng phiền não che phủ. Ở trước, dụ thứ hai nói “Người không thấy”, nay hợp với chúng sinh chẳng thấy. Từ câu “Vì phiền não v.v…” trở xuống là hợp với ý thứ ba, nói lại về mất. Đó là nói hoặc chua, hoặc mặn, chính là trả lời câu hỏi về hơn kém, khác nhau ở trên. Từ câu “Phật tánh mạnh mẽ v.v…” trở xuống là trả lời hai câu sau trong mười hai câu ở trước, là câu hỏi trách tìm, sau là tìm xứ sở trong mười nơi chốn. Trước có hỏi về chung riêng, nay chính thức trả lời câu hỏi chung. Tuy y cứ theo năm ấm mà nói có tánh này, nhưng thân có thể hủy hoại mà tánh chẳng thể hủy hoại. Thân là chỗ ở của tánh, tánh của thân là Phật tánh, thân của tánh chẳng phải Phật tánh. Văn có hai đoạn là chánh thuyết và luận nghóa. Phần chánh thuyết có ba: Nêu ý nghóa chẳng thể hoại. Nói rộng. Tổng kết. Từ câu “Ca-diếp bạch rằng, v.v…” trở xuống là phần nói về nghóa, có hỏi và đáp. Thứ nhất là hỏi. Trước nói Phật tánh mạnh mẽ chẳng hoại, lẽ ra không có tội sát sinh. Kế là Phật đáp, trước nêu pháp, sau lập dụ. Pháp có bốn câu: một nói năm ấm sẽ bị sát hại nên thành việc ác. Nói “trụ trong năm ấm”, là có người cho sáu pháp là Phật tánh, thì chẳng hiểu văn này. Sáu pháp chỉ là năm ấm, đâu có việc năm ấm trụ trong năm ấm, chúng sinh trụ trong chúng sinh. Nếu có tâm thần là Phật tánh, thì tâm là bốn ấm, vậy tâm thần trụ trong tâm thần hay sao? Có người cho đương quả là Phật tánh, vì đương quả thuộc chúng sinh. Như nói trụ trong năm ấm, nếu đương quả là có, lại chẳng phải đương quả. Nếu không có thì thuộc về nơi nào? Các sư Địa luận dùng ý A-lê-da là Phật tánh bị hoặc che lấp để giải thích văn này, đó lại hợp với câu hỏi: “Nếu có Phật tánh thì lúc mới sinh lẽ ra biết ngay” ở trên. Nay y cứ theo văn sau để giải thích, Phật tánh chẳng tức sáu pháp, chẳng lìa sáu pháp. Vì chẳng tức nên chẳng giống các sư kia, vì chẳng lìa nên trụ trong năm ấm. Nếu nói theo thật lý thì Phật tánh đâu có trụ và chẳng trụ. Vì chỉ duyên nên có các thuyết khác, nếu chắc chắn chấp điều ấy, thì trở ngại, văn kinh trước sau rốt ráo thanh tịnh, đâu có nói trong ngoài, đương và hiện, trụ hay chẳng trụ. Nay nói thêm rằng: Lời này đã cùng tột, vả lại đối với năm ấm, nói theo năm ấm thì có tánh này, chẳng phải nói theo cỏ cây. Nay nói thêm rằng: Giảng nói lời này vẫn còn gồm cả phương tiện. Kế là từ câu “Vì nghiệp nhân duyên v.v…” trở xuống là giải thích nghi ngờ. Nghi rằng: Hoặc cho là chỉ có sát sinh mới đọa vào địa ngục, chứ đâu được nói có hai mươi lăm hữu. Nay giải thích rằng do nghiệp duyên khác nhau, nên sinh ra các đường khác nhau. Thứ ba, từ câu “Người chưa phải v.v…” trở xuống là phân biệt với các ngoại đạo. Tự cho đã được Thánh vị, chấp ngã có khác nhau. Thứ tư, từ câu “Ra khỏi tướng ngã thế gian v.v…” trở xuống là nói về tướng ngã. Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là nêu dụ. Trong đó có hai là dụ và hợp. Dụ lại có hai: Vì năm ấm có thể hủy hoại mà lập dụ. Vì Phật tánh chẳng hoại mà lập dụ. Trong dụ nói: “Biết rõ kho tàng giấu kín dưới lòng đất” là dụ cho người giết, xẻng sắc bén dụ cho dụng cụ giết, thường giết các tảng sỏi đá, v.v… Kế đến, từ câu “Đếm kim cương v.v…” trở xuống là vì Phật tánh nên lập dụ, theo văn rất dễ thấy. Trong phần hợp chỉ hợp với ý chẳng hoại. Từ câu “Kinh Phương Đẳng v.v…” trở xuống là chương thứ hai, chiùnh thức nói Phật tánh làm sinh khởi nghiệp lành. Văn có hai: Nói về tạo nghiệp lành. Nói về nghóa. Văn thứ nhất. Có người cho rằng Phật tánh năng khởi, là khởi chánh đạo, tạo tác nghiệp lành. Nay xem thí dụ trước thì Phật tánh chỉ là duyên của nghiệp lành. Lại văn nói dùng giáo pháp Phật tánh, gây ra các nghiệp thiện ác. Nên lập dụ để dụ cho nghóa này. Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần nói về nghóa. Thứ nhất là lời hỏi về cam lộ và thuốc độc, như văn kinh. Kế là Đức Phật đáp, có ba: Nói về hai hạng người ngu và trí. Nói về Nhất thể Tam bảo. Nói về Viên quán Trung đạo. Diệu giải thứ lớp sinh nhau, do trí mà chẳng mê hoặc, giáo biết nhất thể, Tam bảo diệu quán được thành nghiệp lành năng tác. Người ngu trái với điều này nên điều lành chẳng thành. Thứ nhất là y cứ theo ngu trí, có ba ý: một, Đức Phật nêu câu hỏi. Thứ hai, ngài Ca-diếp trả lời. Thứ ba, Đức Phật giải thích, gồm ba mươi câu kệ. Trong đó mười tám câu đầu, nói về ngu trí; kế là mười hai câu sau chỉ nói về trí. Văn thứ nhất có hai dụ, hai hợp. Hai câu đầu nói đều được uống cam lộ mà kẻ chết yểu, người được sống lâu; kế là hai câu nói đồng uống thuốc độc mà kẻ chết người sống. Xưa nay có ba thuyết: Cho rằng đồng học giáo pháp Đại thừa mà có được, có mất. Ví dụ ở sau nói đồng học Tiểu thừa mà có được, có mất. Y cứ theo thầy và trò, thầy nói giáo Đại thừa vô đắc, nếu có đệ tử hiểu là Đại thì sống, chấp Tiểu giáo thì chết. Chỉ là một kinh Đại thừa, đối với người thì được gọi là cam lộ, đối với người mất lý thì gọi là thuốc độc. Tức là nói về người thọ giáo có sống có chết, thành tựu qua lại lẫn nhau. Nay nói về mất, tức đủ cả hai tên cam lộ và thuốc độc. Yêu mến đắm nhiễm thì gọi là cam lộ, thương tổn phá hoại gọi là thuốc độc. Đầy đủ hai nghóa này thì gọi là giáo nghiệp lành. Dưới mỗi đoạn kệ đều có hợp dụ, xem kỹ sẽ thấy. Thí như người bị bệnh hủi uống thuốc độc, bệnh hết rồi uống thuốc giải độc được tỉnh lại. Thí như người tu tập vô thường, khổ, không, dứt hoặc, biết đó chỉ là phương tiện, thì liền xả bỏ mà vào Đại thừa. Từ câu “Thanh văn và Duyên giác” trở xuống là chỉ nói về trí. Đoạn này đều nói theo người, đầu tiên y cứ theo Nhị thừa, kế đó y cứ theo Bồ-tát, sau cùng y cứ theo chúng sinh. Dường như y cứ theo ba Đế mà tạo nghiệp lành. Bồ-tát ngay nơi trung tinh tấn tu nghiệp lành; Nhị thừa ngay nơi không là trung để tu nghiệp lành; chúng sinh ngay nơi giả là trung làm các nghiệp lành. Cho nên nêu ba hạng người, có lẽ ý nghóa như thế. Từ câu “Ca-diếp! Thầy phải v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, nói về Nhất thể Tam bảo. Nhưng giáo xưa nêu sai để rõ đúng, phá tà về chánh để nói về biệt thể Tam bảo. Nghóa này dễ thấy. Trong phẩm Trường Thọ ở trước nói về hộ pháp có nêu lên pháp quy, nương vào chư Phật mà thành Nhất thể Tam bảo, mà chẳng cho quy y tự thể riêng, quy y tự thể riêng thì chẳng đủ quy giới. Nay văn khuyên tu quy thân mình thì sẽ thành Nhất thể Tam bảo. Hiển bày nơi tự thể mà thành nghiệp lành, nên tránh khỏi bị ma trói buộc. Mỗi pháp đều có chỗ y cứ. Văn có ba đoạn: 1. Khuyên. 2.Nói về nghóa. 3. Thọ lãnh, hiểu rõ. Khuyên: Văn thứ nhất nói “Phân biệt rõ” là khuyên phân biệt Nhất thể Tam bảo ở tự thân. Đầu tiên là khuyên, kế là giải thích. Thứ nhất, như văn kinh đã nêu. Kế là, từ câu “Nếu quán xét kỹ” v.v… là giải thích việc khuyên tu. “Được vào bí tạng” là lý sinh thiện, tức nghóa cam lộ. Nói “Người này đã xuất thế” tức là phá ác. Hai nghóa đều có, dùng nghóa này chứng minh cho văn, khác với thể nghóa nói là ba. Nói “Biết ngã” tức Phật bảo, “ngã sở” tức hai bảo Pháp và Tăng. Ba bảo tuy không khác thể, nhưng nói theo nghóa thì có ba. Vả lại, Phật thì giác, Pháp thì bất giác, Tăng thì hòa hợp. Đối với một Phật tánh mà nói có ba nghóa này. Nói về nghóa: Từ câu “Bấy giờ Ca-diếp, v.v…” trở xuống là phần nói về nghóa, gồm có hai phen hỏi đáp: Đều chẳng nhận. Đều quy y, Phật chẳng chấp nhận. Phần hỏi có bốn câu, chia làm bốn đoạn: Sáu câu đầu nói không biết. Tám câu kế hỏi về tự thể riêng của giáo xưa. Mười tám câu kế nói về Nhất thể của giáo nay. Tám câu cuối kết luận về hỏi và xin đáp. Thứ nhất, nói chung không biết. Nói vô thượng là không biết quy y Phật, nói vô úy là không biết quy Tăng. Thế nào là vô ngã? Là không biết quy Pháp. Kế là từ câu “Thế nào là quy Phật” trở xuống là tám câu nói về tự thể riêng. Lại gồm có ba: hai câu kệ thứ nhất hỏi về Phật bảo. “Được an ổn”: như trong phẩm Tứ Tướng đã giải thích. Kế là bốn câu hỏi về pháp. Thứ ba là hai câu hỏi về Tăng. “Được lợi ích vô thượng” như trước nói Ba-xà-ba-đề cúng dường Tăng, đã được công đức Phật pháp, cho nên nói “Được lợi ích vô thượng”. Thứ ba, từ câu “Thế nào thuyết chân thật” v.v… trở xuống có hai mươi câu hỏi về Nhất thể. Văn có bốn đoạn: một, gồm sáu câu là nêu pháp thuyết. Từ câu “nếu vị lai chẳng thành” v.v… trở xuống là nói trong thân mình có ẩn tàng Tam bảo, vị lai sẽ thành thì hãy nên quy y. Nếu chẳng thành thì có quy y được chăng? Chẳng giống như thứ lớp quy y tự thể riêng. “Chẳng dự biết”, không dự biết là y theo tự chiếu, thứ lớp là y cứ theo người. Kế là từ câu “Vì sao chưa có thai” v.v… trở xuống gồm bảy câu là dự thuyết. Có thai là dụ cho sự giải ngộ, mang thai phải mười tháng. Mười tháng dụ cho Thập địa. Nếu đã có giải thì tròn đầy mười Địa sẽ được thành Phật. Nếu không có giải thì cho dù trải qua hằng muôn tháng cũng không thành Phật. Thứ ba, một câu “Nghiệp v.v…” là hợp dụ. Thứ tư, từ câu “Như lời Phật đã nói v.v…” trở xuống gồm bốn câu hỏi về Phật nói không nhất định. Hoặc khiến quy y hiện tại, hoặc bảo quy y vị lai, làm cho người ngu phải chịu khổ luân hồi sinh tử. Từ câu “Ưu-bà-tắc giả danh” trở xuống v.v… gồm có tám câu, kết luận lời hỏi và xin đáp. Bốn câu đầu là nói mình không biết để kết luận xin đáp. Bốn câu sau là nói Phật biết nên xin giải đáp. Từ câu “Ca-diếp thầy nên biết v.v…” trở xuống là Phật trả lời bốn câu hỏi, theo thứ lớp từ sau về trước. Thứ nhất gồm có bốn câu, Như Lai chấp nhận dứt nghi, đáp lại lời thỉnh cầu như văn kinh ghi. Kế là bốn câu trả lời về Nhất thể. Trước nói có thai, tức là hỏi theo liễu nhân. Nay Phật dùng Trung đạo chánh nhân để đáp, để nói Bồ-tát và Phật chẳng khác. Vì thế đâu dễ cho rằng “Không có bào thai thì Thập địa không thể quy y”. Câu “Và các Bồ-tát” xưa có ba cách giải thích: Cho là có chữ “và” nghóa là thầy và các Bồ-tát đều đồng với Đức Phật thứ bảy. Đổi chữ “đối với” thành chữ “và”. Chẳng cần đổi vẫn biết các Bồ-tát đều là Phật. Nếu theo một ngàn vị Phật ở kiếp Hiền thì thuộc vị Phật thứ tư. Nếu tính bảy vị Phật (từ Tỳ-bà-thy Phật quá khứ v.v…) thì thuộc vị Phật thứ bảy. Phật nghóa là Giác, tức Phật tánh năng giác, đồng với nghóa Phật. Thứ ba, là gồm tám câu trả lời về tự thể riêng. Bồ-tát nhập chánh nên phải quy y. Tà lấy Thiên thần làm Phật bảo, theo phép giết lúc hạ đao, nói với con dê rằng: “Đây là Bà-tẩu giết ngươi, mà được sinh lên cõi trời” tức là Pháp bảo. Người giết là Tăng bảo. Phá bỏ ba tà này để trở về ba chánh. Hỏi: Giáo xưa dùng ba chánh phá bỏ ba tà, vì sao chẳng dùng chánh ngã để bỏ ngã tà? Nếu dùng vô ngã phá ngã tà; vì sao chẳng dùng không Tam bảo phá tà Tam bảo? Đáp: Theo phép đối trị thì lược nêu hai thứ: Dùng hữu môn để đối trị, tức là lập chánh để phá tà. Dùng không môn để đối trị tức dùng vô ngã để phá tà ngã. Mỗi pháp đều có phương cách riêng. Tam bảo là cảnh quy y nương tựa, nên dùng hữu môn; tà ngã là tuệ bên trong, nên dùng không môn để phá. Thứ tư, từ câu “Quy y Tam bảo như thế” gồm hai câu, là đáp lời than chẳng biết ở trước. Nay nói biết thì đạt được vô sở úy, chẳng nên nói là không biết. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật rằng v.v…” trở xuống là lần hỏi đáp thứ hai. Trong lời hỏi là đồng muốn quy y. Ba loại Tam bảo đều là do Phật nói, vì sao có lấy và bỏ. Đầu tiên gồm có bốn câu, muốn quy y tự thể riêng Tam bảo của giáo xưa. Tự thể riêng đã phá tà, tức là đường chánh. Tám câu kế là nói muốn quy y Nhất thể chẳng phải tự ẩn mật. Bốn câu sau là nói muốn quy y Nhất thể y tha hiển bày. Đã ra khỏi sinh tử, đã thành Chánh giác, nên nói các hữu không còn (vô sở hữu); lại cũng có thể nói: Các vị có đức có Phật hiện thành vô sở hữu đức không có hai mươi lăm hữu. Từ câu: “Bây giờ, Phật bảo v.v…” trở xuống là Đức Phật trả lời. Phật đáp Phật muốn phân biệt cho Ca-diếp biết chẳng nên quy y sai lầm. Văn có ba: 1/ Tự thể riêng của giáo xưa có y và chẳng y. 2/ Nhất thể khi hiển bày thì có y và chẳng y. 3/ Nhất thể khi ẩn chính là điều cần khuyên, một bề nên quy y. Văn thứ nhất nói về y và chẳng y, có hai: một, là nói nay chẳng cần quy y; hai, là nói xưa thì cần quy y. Thứ nhất lại có hai ý: Tự thể riêng là giáo xưa, là vì duyên nên nay chẳng nên quy y. Quy y của giáo xưa phá tà, thì xưa nên y. Kế là, từ câu: “Vì sao? v.v…” Trở xuống là giải thích nghóa chẳng y. “Trong Phật tánh có hai ngôi báu Pháp và Tăng”, tức không chỉ trong Phật đã thành mà Phật tánh cũng có Pháp và Tăng, trong Phật sẽ thành cũng có hai tánh là Phật và Pháp, Pháp và Phật không hai tức là Tăng bảo. Nơi thân đã đủ ba thì đâu cần quy y tự thể riêng của Tam bảo. Kế đến nói nên y có hai ý: 1, Từ câu “Vì muốn hóa độ, v.v…” trở xuống là nói khi xưa thì nên quy y. Kế là, từ câu “Nếu muốn v.v…” trở xuống là giải thích thêm nghóa nên quy y. Hưng Hoàng nói về bốn giả là Lý duyên, Tựu duyên, Đối duyên và Nhân duyên, xưa là đối với tà mà nói rõ chánh, nên phải y. Nếu y cứ theo bốn Tất-đàn của ngài Long Thọ thì thuộc về đối trị. Kế là từ câu “Bồ-tát nên v.v…” trở xuống là nói Nhất thể khi hiển bày. Có hai ý là có y và chẳng y. Văn nói về chẳng y lại có hai, thứ nhất là nói chẳng y. Văn ghi “Thân ta, nay nên quy y Phật”, tức từ đây quy y Phật trong thân mình, thì đâu cung kính Phật khác”. Kế là từ câu “Vì sao?” là lại giải thích ý nghóa chẳng y. Nhưng ta và Phật khác không khác nhau thì đâu cần quy y Phật khác. Kế là, từ câu “Nếu muốn tôn trọng, v.v…” trở xuống là nói về người quy y lại có nghóa quy y. Vì tôn trọng lẫn nhau nên phải quy y. Văn có hai ý. Nói về người quy y. Giải thích. Pháp thân là bản địa, xá-lợi là Ứng thân. Muốn làm cho chúng sinh khởi lên ý cung kính ngã, tức là muốn chỉ dạy chúng sinh phát khởi nghiệp lành. Từ câu “Cùng khiến cho chúng sinh v.v…” trở xuống là nói về phải một bề quy y Nhất thể Tăng bảo sâu kín mà hôm nay khuyên bảo. Văn có ba đoạn là pháp, dụ, hợp. Trong phần pháp thuyết lại có năm ý là: Một, là phân biệt Nhất thể Tam bảo. Trong đó, lại có ba ý: Đây là ý thứ nhất, nói về tự thân có Phật bảo. Từ câu “Tất cả chúng sinh” tức là nói tự thân có Pháp bảo. Từ câu “lại có chúng sinh” v.v… trở xuống là nói trong thân mình có Tam bảo. Hỏi: Thân có Pháp và Tăng, nếu đúng như thế, vì sao lại có Phật? Đáp: Trong thân có Phật tánh, Phật tánh tức là Pháp thân Phật bảo, có khả năng nói pháp này, tức là Pháp bảo. Người thọ được pháp này tức là Tăng bảo. Người khác còn quy y Tam bảo nơi thân mình, huống chi ta chẳng tự quy y ư? Hỏi: Hợp ba thừa về một thừa, gọi là Nhất thừa. Vậy lẽ ra cũng hợp Tam bảo thành Nhất bảo. Nếu hợp ba thừa về một thừa mà không có ba thừa khác nhau, thì hợp Tam bảo về một cũng không có gì khác nhau. Các sư luận Thành Thật, các sư Số Luận chẳng dám so sánh, còn các sư Trung Quốc thì có sự so sánh này. Hội Tam quy, nhất hợp Tam bảo về Nhất bảo. Về nghóa nói ở trên thì Phật, Pháp, Tăng khác nhau, cũng như hội ba thừa thành một thừa, về nghóa nói thì ba thừa cũng khác nhau. Cho nên kinh Pháp Hoa ghi: “Chân thật là Thanh văn, chân thật là A-la-hán.” Từ câu “Nếu có phân biệt” v.v… trở xuống là đoạn thứ hai, nói vì người mà làm Nhất thể Tam bảo. Nêu thể là Phật, Phật là giác; nêu thể là Pháp, pháp là bất giác; nêu thể là Tăng, giác và Bất giác không trái nhau. Từ câu “Đối với v.v…” trở xuống là ý thứ ba kết luận về tự thể riêng của Tam bảo. Vì những phàm phu đui mù bẩm sinh mà phân biệt như thế. Từ câu “Ta lại vì” v.v… trở xuống là ý thứ tư kết luận về Nhất thể. Vì hàng Nhị thừa chứng đắc quả Thánh, ta sẽ nói trong thân ta có Nhất thể Tam bảo. Từ câu “Các Bồ-tát này v.v…” trở xuống là ý thứ năm, kết luận hai nghóa. Vì chúng sinh ác mà làm Phật sự, là kết luận về tự thân nói đối với Biệt thể. Vì những người trí làm Phật sự cũng kết luận tự thân nói Nhất thể. Thứ hai là phần dụ thuyết, có ba dụ: Thứ nhất, là dụ Đại tướng; hai, là dụ Thái tử; ba, là dụ Đại thần. Cho nên nêu ba thí dụ, là vì dùng Đại tướng dụ cho Liễu nhân, Thái tử dụ cho Chánh nhân, Đại thần dụ cho Duyên nhân. Lại cũng thí dụ cho Tam bảo, trong đó Thái tử dụ cho Pháp bảo, Đại Tướng dụ cho Phật bảo, Đại thần dụ cho Tăng bảo. “Đại tướng suy nghó” có ba ý: Một là lâm trận đối địch, hai là nghó ta bậc nhất, ba là các binh só nương tựa. Các binh só nương tựa nơi ta dụ cho duyên nhân, hàng phục kẻ thù dụ cho liễu nhân, nói bậc nhất dụ cho chánh nhân. Thái tử cũng giống như thế, kế thừa nghiệp bá vương dụ cho chánh nhân, chế phục các Vương tử dụ cho liễu nhân, các Vương tử khác quy y lại dụ cho Duyên nhân. Nói như vua, là Tiểu vương tức trở thành thí dụ thứ nhất, còn vương tử thì thuộc về thí dụ Đại thần. Thứ ba từ câu: “Bồ-tát cũng giống như thế” v.v… trở xuống là hợp dụ, gồm có hai là chánh hợp và kết luận khuyên bảo. Thứ nhất. Nói ba việc và một thể, nghóa là phân biệt nói ba là từ một thể, trên một thể về nghóa nói có ba. Như trong Niết-bàn có ba điểm, nhưng thật ra chẳng khác nhau. Kế là từ câu: “Như Lai v.v… trở xuống là kết luận khuyên bảo. Lại có hai: Một là, khuyên xả bỏ Biệt thể Tam bảo của giáo xưa; hai, khuyên giữ lấy Nhất thể Tam bảo của giáo nay. Trong phần khuyên xả bỏ lại có hai: Một là, nêu Tam bảo của giáo xưa; hai là, khuyên xả bỏ. Trong tự thể riêng của giáo xưa thì nêu đầu dụ cho Phật bảo, đầu là trên hết; tay chân dụ cho Pháp bảo và Tăng bảo. Vì giáo hóa chúng sinh mà thị hiện có các thứ lớp này. Kế là từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là khuyên xả bỏ. Kế là từ câu: “Đối với Đại thừa v.v…” trở xuống là kết luận khuyên giữ lấy Nhất thể trong thân. Như Đại tướng, Đại thần, từ trong thân lập ý quyết định chẳng giữ tự thể riêng và Phật đã thành. - Thọ lãnh, hiểu rõ: Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật” v.v… trở xuống là phần thứ ba nhận lãnh hiểu rõ, văn có bốn đoạn: 1/ Thọ lãnh hiểu rõ; 2/ Phật khuyên giữ gìn; 3/ Khen ngợi; 4/ Phật thuật lại để chứng minh thành tựu. Đoạn thứ nhất lại có ba ý: Phát khởi đầu mối; tự thọ lãnh hiểu rõ; thệ hóa độ chúng sinh. Theo văn rất dễ biết. Từ câu: “Vì nghóa này, v.v…” trở xuống là thứ hai, Đức Phật khuyên giữ gìn. Chỉ khuyên tự hiểu rõ và hóa tha nói ở trước. Tự giải tức là cao thăng tạng bí; hóa tha tức dưới độ kẻ ngu mê. Từ câu: “Ca-diếp lại nói, v.v…” trở xuống là khen ngợi. Khen ngợi Phật tánh tức là Nhất thể khi ẩn, tướng tốt, v.v… là Nhất thể khi hiển bày. Từ câu: “Bấy giờ v.v…” Trở xuống là thứ tư, Đức Phật thuật để chứng minh thành tựu. Từ câu: “Nay ta v.v…” Trở xuống là phần thứ ba, nói về Viên quán Trung đạo. Văn có ba ý: 1/ Đức Phật hứa giảng nói; 2/ Chiùnh thức nói; 3/ Khen ngợi giáo pháp. Nói: “Chứng nhập Như Lai tạng”, chứng nhập là do quán, chẳng quán thì không thể chứng nhập. Từ câu: “Nếu nói ngã trụ” v.v… trở xuống là phần chiùnh thức nói. Văn có hai là lược nêu và giải thích rộng. Phần lược nêu lại có ba ý: một, là nêu Trung đạo; hai, là nói về hoặc trái lý Trung đạo; ba, là nói về pháp quán phá hoặc. Nêu Trung đạo tức là nói chẳng phải có chẳng phải không. Nói ngã trụ tức là nói chẳng có ngã trụ trong thân, tức là pháp Thường không lìa khổ. Thường tức là ngã, thân tức là khổ. Đó là chẳng phải Đạo. Nếu vô ngã là nói chẳng phải vô, nếu chắc chắn là không, thì không có tu nhân để đạt đến quả vị, cũng không có cha mẹ và các pháp lành thế gian. Không này chẳng phải Đạo. Đã dùng có không để hỏi thì chẳng được nói có không, tức chẳng phải có chẳng phải không. Đó gọi là thuyết Trung đạo. Từ câu: “Nếu nói các pháp” v.v… trở xuống là nói về hoặc trái với lý Trung đạo. Văn có hai ý là nói về hoặc và kết luận. Nói về hoặc có sáu câu gom thành ba câu đối đãi. Trong đó ba câu chấp Thường, ba câu chấp Đoạn. Đối với sinh tử mà chấp đắm như thế thì chướng ngại, chẳng thấu đạt được lý, nên gọi là Hoặc. Như Khai Thiện nói rằng: “Sinh tử chỉ một bề là khổ, không có vui”. Quang Trạch nói: “Trong sinh tử có vui chân thật”. Trang Nghiêm nói: “Trong sinh tử có vui luống dối: Vui luống dối, chính là bị hành khổ ép ngặt, cho nên chẳng phải là an vui chân thật”. Nhưng lời của ba vị sư này đều bị kinh quở trách. Trong đó Khai Thiện nói sinh tử là khổ, tức thuộc về đoạn kiến vừa nêu trên. Quang Trạch nói chỉ một bề là vui, tức thuộc về chấp thường vừa nêu. Trang Nghiêm nói vui luống dối, lại bị hành khổ ép ngặt tức thuộc về vừa thường vừa đoạn nói ở đây. Lẽ ra cũng có câu chấp thứ tư nhưng không biết là ai. Kế là từ câu: “Người tu tất cả, v.v…” trở xuống là kết luận. Văn có ba: pháp, dụ và hợp. Trong pháp thuyết nói: “Tu tất cả pháp là thường thì rơi vào chấp đoạn”, có hai ý: Một cho rằng vốn tự chấp thường, người khác lại dùng Đoạn để vặn hỏi nghóa thường, vì không lập được nghóa của mình, cho nên lại chấp Đoạn. Vốn tự chấp Đoạn, người khác lại dùng Thường để vặn hỏi nghóa Đoạn, vì chẳng lập được nghóa của mình, cho nên lại chấp Thường. Hai, là hai chấp làm nhân cho nhau, tức thấy tu tập Đoạn là lỗi lầm, thì tự tu tập Thường, thấy tu tập Thường là sai liền tự tu Đoạn. Từ câu: “Như loài trùng Bộ Khuất” v.v… trở xuống là dụ. Kinh Niết-bàn bản sáu quyển gọi trùng Bộ Khuất là Tích yêu trùng. Chu Dịch ghi: Loại trùng Xích hoạch này, trước phải co lại để mong duỗi thẳng ra. Người đời cho là do rễ dâu biến thành. Chưa hẳn hoàn toàn như thế, rễ dâu biến thành ve, cỏ mục biến thành đom đóm, ở đây cũng giống như thế. Loại trùng này tức là yêu tích. Câu: “Tu thường đoạn v.v…” là hợp dụ. Nói Đoạn là do Thường mà sinh, nói Thường là do Đoạn mà sinh, cho nên có thí dụ này. Từ câu: “Vì nghóa này” v.v… trở xuống là phần thứ ba nói về phép quán phá hoặc. Văn có hai: một, là chính thức nói về quán; hai, là kết luận, giải ngộ. Đầu tiên cũng có ba cặp sáu câu. Đối với vô ngã ở đoạn trên, ở đây lẽ ra phải nói Ngã, nhưng trong kinh lại nói là Thường; có hai cách giải thích: 1/ Cho là viết lầm; 2/ Cho rằng Thường là từ chung, còn ngã v.v… là từ riêng. Muôn đức của quả Phật gọi chung là Thường. Nói các pháp khác tức các pháp ngoài pháp Trung đạo Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, tức chỉ cho Phật, Pháp, Tăng. Chánh Giải thoát và Bí tạng của Như Lai. Nên biết Trung đạo là chân pháp, hai bên là các pháp khác. Từ câu: “Nên biết v.v…” trở xuống là kết luận và giải thích. Có hai là Pháp và Dụ. Trong pháp ở đầu nói “người ngu không nghi”, gồm có hai cách giải thích: 1/ Nghi là bến bờ của giải ngộ người ngu không giải ngộ, cho nên không nghi; 2/ Trung đạo rõ ràng dễ thấy biết, người ngu còn chẳng nghi, huống chi người trí. Y theo văn, dường như lời giải sau đúng hơn. Từ câu: “Như người gầy ốm” v.v… trở xuống là dụ thuyết. Lại dụ về hai ý giải thích ở trước. Nếu y cứ theo hoặc thì người ngu do phân biệt mà sinh các kiến chấp, như uống bơ thì được khỏe mạnh. Nếu y cứ theo sự giải thích ở sau thì bơ là một loại thuốc tốt, người khỏe mạnh uống vào thì vẫn khỏe tốt, người gầy ốm uống vào thì khí lực đầy đủ; dụ cho pháp Trung đạo, người ngu cũng hiểu biết. Bản sáu quyển ghi: “Uống rồi thì mê man”, tức chẳng biết ý mê hoặc. Từ câu: “Pháp hữu vô v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về Trung đạo. Có hai ý: 1/ Y cứ theo pháp hữu vô để hiểu Trung đạo; 2/ Y cứ theo các pháp “không hai” để hiển bày Trung đạo. Đoạn thứ nhất nói: “Hữu vô”, chẳng nên chấp lấy nhất định. Như nói hữu là vô, nói vô là hữu, hữu là hữu của vô, vô là vô của hữu; đối với vô mà nói hữu, hữu chẳng nhất định là hữu; đối với hữu mà nói vô; vô chẳng nhất định là vô; chẳng hữu chẳng vô tức là Trung đạo. Kế là nói về Bất nhị; vô nhị (không có hai) khác với bất nhị (chẳng hai), không có cái chẳng hai khác với hai, hai và chẳng hai đều chẳng nên chấp lấy. Cho nên chẳng phải hai chẳng phải chẳng hai, tức Trung đạo. Văn nói về hữu vô gồm có pháp và dụ. Trong phần pháp thuyết, văn kinh quá ngắn gọn, chỉ có một câu nêu tánh của hữu vô bất định. Nếu như kia nói thì ba vô vi chắc chắn là vô, chẳng thể là hữu, ba tụ chắc chắn là hữu, chẳng thể là vô; ở đây chẳng phải bất định thì chẳng gọi là Trung đạo. Từ câu: “Thí như tánh của bốn đại” v.v… trở xuống là nêu dụ. Trước là dụ, sau là hợp. Dụ thứ nhất là nói hữu vô (có không) định, như Phật tùy duyên. Nếu đối với người chấp hữu thì nói chẳng có pháp hữu, nếu gặp người chấp vô thì nói chẳng có pháp vô. Bốn đại cũng giống như thế, như thầy thuốc giỏi, biết rõ các bệnh. Nếu bệnh khởi thuộc thủy thì dùng thuốc có tánh hỏa để trị; nếu bệnh thuộc về hỏa, thì dùng thuốc có tánh thủy để trị; Địa, phong cũng giống như thế. Nếu thầy thuốc tồi, chẳng biết triệu chứng của bệnh, thì luống dối cho thuốc chẳng đúng bệnh. Kế là từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là hợp dụ. Đầu tiên hợp chung, sau là hợp riêng. Văn thứ nhất rất dễ biết. Kế là, từ câu: “Nếu nói có, v.v…” trở xuống là hợp riêng. Gồm có hai ý: 1/ Nêu hữu, vô để hợp; 2/ Nêu thường, vô thường để so sánh với hợp. Văn thứ nhất có hai ý: 1/ Phá riêng hữu, vô; 2/ Tổng kết để khuyên. Văn thứ nhất có ba câu: 1/ Trí chẳng nhiễm ô, có hai cách giải thích: một, là cho rằng người trí nghe Phật nói có Phật tánh thì chẳng chấp đắm; còn người ngu thì hỏi về nơi hiện thọ dụng, hoặc là nói trong sáu căn, hoặc là nói ở khắp trong thân. 2/ Nếu nghe nói Phật tánh là có thì nên biết ý Phật chẳng chắc chắn ở nơi có, có là biểu thị cho không; câu thứ hai: “Không tức là nói dối”, tức phá không; cũng có hai ý: 1/ Cho rằng đạo lý chẳng phải không, định là không thì trái đạo lý, nên gọi là nói dối; 2/ Cho rằng Phật tánh tuy có, nhưng chưa có dụng hiện tiền, nên nói là không. Thầy là người hiểu biết chẳng nên cho là vọng. Câu thứ ba: “Nếu nói là có”, vì tâm có quá nặng nên lại bác bỏ; nói “chẳng nên im lặng”, tức nếu có Phật tánh, thì nên hiện điềm lành, vì sao lại im lặng? Ý thứ hai cho rằng nếu chắc chắn là có, thì y cứ theo Ngài mà suy nghiệm, vì sao lại im lặng? Kế là từ câu: “Cũng chẳng nên, v.v…” trở xuống là kết luận chẳng cho tranh luận. Nói có nói không, cho đến nói cả bốn câu, cũng đều là nói suông. Từ câu: “Nếu nói khổ, v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai nêu khổ, vô thường v.v… để so sánh hợp. Văn có năm ý: 1/ Y cứ theo khổ; 2/ Y cứ theo vô thường; 3/ Y cứ theo ngã và vô ngã; 4/ Y cứ theo vắng lặng; 5/ Y cứ theo huyễn hóa. Tất cả đều vì giải hoặc mà đối luận. Y theo văn rất dễ hiểu. Kinh ghi: “Tuy có đến đi mà thường trụ bất biến”, nghóa là đến đi mà chẳng đến đi, ngay nơi động mà tịch. Từ câu: “Nếu nói vô minh v.v…” trở xuống là ý thứ hai, y cứ theo chẳng hai chẳng khác để nói về Trung đạo. Gồm có Pháp và Dụ. Pháp thuyết có ba: 1/ Y cứ theo nhân duyên để nói về không hai; 2/ Y cứ theo quán hạnh để nói về không hai; 3/ Tổng kết nói về không hai. Nhân duyên là cảnh, quán là trí chiếu. Tổng kết cảnh và trí này, đầu tiên nêu mười hai nhân duyên để nói về không hai. Gồm có ba ý: Thứ nhất là nêu vô minh. Thứ hai kế là nêu hành và thức. Thứ ba là nêu thiện ác. Các sư xưa nói vô minh là hoặc, minh là giải. Lại nói vô minh, hành là thuộc quá khứ, thức v.v… thuộc hiện tại. Nếu phân biệt ba thời như thế thì chẳng hợp ý kinh. Kinh nói minh và vô minh, hành và thức v.v… Khác nhau là pháp của người ngu, người trí rõ biết tánh của chúng không hai. Từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là ý thứ hai, y cứ theo quán hạnh để nói về không hai. Có ba câu: thứ nhất là nêu khổ. Thứ hai là nêu vô thường. Thứ ba là nêu vô ngã. Từ câu: “Ngã và Vô ngã” v.v… trở xuống là đoạn thứ ba, tổng kết về không hai, gồm có ba: 1/ Kết luận khen ngợi; 2/ Kết luận khuyên tu; 3/ Kết luận và hợp. Thứ nhất gồm hai ý: 1/ Kết luật lời Phật khen ngợi. Sau cùng là kết luận đã nói xong. Kết luận khuyên bảo, gồm có hai: 1/ Khuyên giữ gìn pháp không hai. 2/ Khuyên trì kinh Bất nhị. Từ câu: “Như ta v.v…” trở xuống là kết và hợp. Ngầm chỉ cho Bát-nhã. Xưa nói: “Đây là dẫn ví dụ tim đèn trong phẩm Thâm Áo”; có chỗ cho rằng Đại Phẩm độ chưa hết, kinh này tiếng Phạm hẳn đã có lời văn này. Hoặc cho rằng Đại Phẩm tuy chẳng chính thức nói ra, nhưng nghóa không hai chẳng sai khác, lại nói: Có hai gọi là có sở đắc, không hai gọi là không sở đắc. Vả lại, nói hai là nhãn và thức, thức bên trong phân biệt rõ, nhãn bên ngoài thấy sắc. Đây là hai, nhãn thức không hai, mới là người trí liễu đạt, các pháp cũng giống như thế. Từ câu: “Như từ sữa v.v…” trở xuống là dụ thứ hai để thành nghóa nhân duyên không hai. Như năm vị sinh nhau, chẳng phải tự tánh, tha tánh, tức là thuộc nhân duyên, nhân duyên là Trung đạo, ý nghóa đã rõ ràng. Văn có ba: 1/ Nêu năm vị; 2/ Pháp tự và tha; 3/ Kết luận nghóa nhân duyên. Đầu tiên là nêu năm vị. Năm vị sinh nhau để thành tựu nghóa không hai ở trước. Kế là từ câu: “Tánh của lạc v.v…” trở xuống là phá tự tha. Trước là lập môn, sau là giải thích. Môn thứ nhất nói lạc từ sữa mà sinh, đó là chương môn, kế là so sánh bốn vị. Văn thứ nhất có hai ý: 1. Nói từ sữa sinh lạc tức chương môn này. Từ câu: “Là từ v.v…” trở xuống là môn Thị, Phi. Từ câu: “Nếu từ tha sinh v.v…” trở xuống là ý thứ hai, giải thích hai chương môn. Trước giải thích môn Phi, kế là giải thích môn Thị. Trong môn phi, trước giải thích chẳng từ tha sinh, kế là giải thích chẳng từ tự sinh. Phá tha sinh có thể tự hiểu. Phá tự sinh có nói: “Chẳng nên tương tự nối nhau”, nghóa là đã tự sinh thì chỉ có một pháp, vậy lấy gì để có tương tự nối nhau. Nhưng nay lại thấy sau kế sữa thì có lạc, tô, v.v… Cho nên biết chẳng từ tự sinh. Tự sinh thì năm vị phải sinh đồng thời, nay đã có trước sau nối nhau, đâu phải đồng thời. Từ câu: “Tuy chẳng phải đồng thời” v.v… trở xuống là giải thích môn Thị. Sau khi pháp tự tha, thì nhân duyên giả thuyết nói lạc từ sữa sinh ra, mà chẳng phải tự, chẳng phải tha. Nhưng nói là trước đã có, là vì do nhân duyên nhiều chất ngọt. Nói chẳng tự biến đổi, tức là sữa có vị ngọt, lạc có vị chua. Trong phần nói về nghóa sẽ hỏi về điều này. Từ câu: “Bò này ăn v.v…” trở xuống là ý thứ ba kết luận về nhân duyên. Trước là dụ, sau là hợp. Nói ăn cỏ uống nước là dụ cho việc lãnh thọ kinh giáo. Máu huyết chuyển biến thành sữa dụ cho việc chuyển ác thành thiện. Nói ăn cỏ ngọt là dụ cho việc lãnh thọ giáo pháp Đại thừa; ăn cỏ đắng là dụ cho việc lãnh thọ giáo Tiểu thừa. Núi Tuyết là dụ cho kinh này, cỏ phì nhị là dụ cho Phật tánh. Bò ăn vào dụ cho chúng sinh. Đề hồ là dụ cho quả Phật. Nếu nương vào kinh này mà tu hành thì được quả Phật vô thượng. Không có các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, đen là dụ cho việc nương vào giáo tu tập, thì không có các quả Thanh văn, trời người, chỉ thuần được đề hồ, tức dụ cho quả Niết-bàn. Ở đây rõ ràng hiển bày sáu vị. Từ câu: “Các chúng sinh này v.v…” trở xuống là phần hợp dụ; có hai là hợp và nói về nghóa. Trong phần hợp có hợp với hai và hợp với không hai. Nói vô minh chuyển biến thành minh, kinh khác nói rằng: “Khi minh khởi thì diệt vô minh”. Các sư xưa có ba cách giải thích: Cho rằng đoạn là biến, biến là đoạn, văn thì hai mà nghóa chỉ một. Cho rằng biến là nói theo thể, đoạn là y cứ theo dụng. Trong một tâm thể có hai nghóa thiện, ác. Chỉ trong một tâm của ta, mà biến thiện thành ác, biến ác thành thiện, mà tâm chẳng biến. Nếu y cứ theo tâm dụng, thì phải dứt vô minh mới được minh, chẳng dứt thì chẳng được. Đây là nghóa của Trang nghiêm. Khai Thiện chê Trang Nghiêm là thấp kém, nên y cứ theo việc tu tập duyên nhân và liễu nhân để giải thích. Từ câu: “Ca-diếp v.v…” trở xuống là nói về nghóa. Trước nói trong sữa, trước đã có tánh của lạc. Văn có hai: 1.Thưa hỏi; 2.Trả lời. Trong phần vặn hỏi lại có hai ý: thứ nhất là ấn định. Thứ hai là vặn hỏi, trong đó có hai: 1/ Hỏi nhất định là có; 2/ Hỏi nhất định là không. Hỏi nhất định là có gồm có ba: một là chánh thức thưa hỏi. Trong sữa có lạc tức là đã có, vì sao nói là sinh? Phàm nghóa sinh, phải thì trước không nay có mới gọi là Sinh. Hai là từ câu: “Nếu pháp vốn không v.v…” trở xuống là giải thích câu vặn hỏi. Ba là từ câu: “Nếu nói trong sữa, v.v…” trở xuống là vặn hỏi cả hai. Nếu sữa là nhân của lạc, thì cỏ cũng là nhân của sữa, v.v… Ngược lại, nếu cỏ là nhân của sữa, thì lẽ ra sữa là quả của cỏ; cỏ là nhân của sữa, trong cỏ có sữa, vậy sữa là quả của cỏ; trong sữa lẽ ra cũng có cỏ. Nhân duyên sữa và lạc so sánh nhau như thế. Đây là hỏi cả hai, văn kinh chỉ nêu một bên mà thôi. Từ câu: “Nếu nói trong sữa v.v…” trở xuống là ý thứ hai, vặn hỏi chắc chắn là không. Chỉ nên hỏi về có, chẳng nên hỏi về không, sợ rằng Đức Phật chuyển biến so lường mà nhập không, cho nên ngăn chặn ngược lại mà vặn hỏi về không. Từ câu: “Thiện nam!” v.v… trở xuống là phần thứ hai, Đức Phật trả lời. Văn kinh có ba: 1/ Xét về dụ; 2/ Trùng hợp dụ; 3/ Kết luận ý của dụ. Thứ nhất lại có ba: 1/ Chẳng phải định chấp; 2/ Dùng lý giải; 3/ Kết luận chẳng phải định chấp. Trong phần chẳng phải định chấp lập ba chương môn, sau đó theo thứ lớp giải thích và phá bỏ. 1/ Môn Định hữu; 2/ Môn Định không; 3/ Môn Tha sinh. Giải thích ba môn: Đầu tiên là giải thích môn, chẳng được nhất định chấp có. Nói trong sữa có lạc, vì sao sữa trắng còn lạc thì vàng, sữa ngọt, lạc thì chua. Màu sắc và mùi vị khác nhau, vì sao nói chắc chắn là có. Kế là giải thích trong sữa, không nên chắc chắn là không có vị lạc. Kinh nói hòa chất độc vào sữa, lạc cũng có thể giết người; nghóa là khi trước hòa chất độc vào sữa, sau đó sữa biến thành lạc. Người uống vị lạc này bị chất độc giết người, vậy đâu thể nói trong sữa chắc chắn không có lạc. Từ câu: “Bò này ăn cỏ v.v…” trở xuống là phần thứ hai, dùng lý để giải thích, gồm có hai: Nói sữa từ cỏ sinh lại là nhân duyên giả thuyết. Nói lạc từ sữa sinh cũng là nhân duyên giả thuyết. Hai văn, mỗi văn có hai ý: Hai ý thứ nhất, đầu tiên là nói từ duyên mà có, sau kết luận là nhân duyên. Phước lực của chúng sinh, gồm có ba nghóa: Phước của bò mẹ, khi muốn cho con bú, thì máu biến thành sữa. Phước của bò nghé, khiến bò mẹ có sữa. Phước người chăn dắt, nếu người không có phước, thì không đủ sữa cho bò nghé, huống chi đầy đủ cho người? Từ câu: “Sữa này diệt rồi v.v…” trở xuống là nói lạc từ sữa sinh. Có hai ý: 1/ Nói về do duyên sinh; 2/ Kết luận nói nhân duyên. Làm đông đặc tức dùng đũa khuấy cho đặc, Yên là khói lửa. Có bản viết chữ Lạc, mà bản này viết bộ Dậu và chữ Hòa (Tô), tức chẳng phải dùng vật mà khuấy, cũng chẳng phải tên của loại rượu, nếu tên của loại rượu thì lẽ ra phải viết chữ Dậu và chữ Hiếu, đó là do viết lầm. Từ câu: “Cho nên v.v…” trở xuống là ý thứ ba, kết luận chẳng phải chấp nhất định. Từ câu: “Minh và vô minh v.v…” trở xuống là phần thứ hai, lại hợp dụ. Trong đây khai thành nghóa chuyển, đoạn; như trước đã giải thích. dụ. Từ câu: “Vì nhân duyên này, v.v…” trở xuống là kết luận ý của Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba khen ngợi giáo, khuyên thọ trì. Có hai ý: 1/ Khen ngợi lý tánh Phật; 2/ Khen ngợi giáo. Khen ngợi lý lại có hai, trước nêu cỏ nhẫn nhục, sau là nêu hai dụ. Trước là nêu, sau là hợp dụ. Từ câu: “Các chúng sinh v.v…” trở xuống là hợp hai dụ. Từ câu: “Thí như trong v.v…” trở xuống là khen ngợi giáo. Có hai ý: 1/ Khen ngợi kinh; 2/ Khuyên tin nhận. Văn thứ nhất có dụ và hợp. Hư không dụ cho Pháp thân; nổi sấm là dụ cho việc nói pháp, mây giăng là dụ cho từ bi; ngà voi dụ cho chúng sinh; mắt võng dụ cho Phật tánh. Lại có ba cách giải thích: Có một loại cỏ tên là Tượng nha (ngà voi), khi sấm động thì có mắt võng. Cho rằng đây là ngà voi có mắt võng, kinh ghi: “Bốn loại voi là Ưu-bát-la… Khi nghe trời nổi sấm, thì trên ngà có mắt võng Ưu-bát-la, v.v… Cho rằng chẳng phải trên ngà voi có mắt võng thật, mà các đường vân trên ngà voi nổi lên giống như hoa. Từ câu: “Phật tánh của chúng sinh v.v…” trở xuống là hợp dụ; có ba phen hợp. Có thể tự thấy trong văn kinh sau. Từ câu: “Nếu có thiện nam v.v…” trở xuống là ý thứ hai, kết luận khuyên tin nhận. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” Trở xuống là đoạn lớn thứ hai của phẩm này, trả lời về ý thấy được tánh khó thấy. Văn kinh gồm có bốn lần hỏi đáp; 1.Nói về hạnh sâu xa chứng kiến: 2.Nói về hạnh thấy nghe cạn hẹp: 3. Thấy nghe để thù đáp ý năng thấy. 4. Chứng kiến là thù đáp ý khó thấy. Trong phần chứng kiến lại có hai: Lần thứ nhất rất dễ thấy; lần thứ hai, có hỏi và đáp. Phần đáp có nêu chung mười việc. Đầu tiên dùng một trăm người mù để dụ chung cho tất cả chúng sinh. Trăm là số tròn, giống như ở thế gian có rất nhiều họ mà nói là trăm họ. Cầu thấy tánh, giống như trị bệnh đau mắt, đến chỗ thầy thuốc, tức căn duyên cảm đến Phật, bấy giờ thầy thuốc dụ cho Phật thùy ứng. “Dao vàng v.v… “ có bốn cách giải thích: Dụ cho kinh này, nói một ngón tay, ba ngón tay là dụ cho giáo ba thừa khi xưa; dao vàng dụ cho tuệ phương tiện của Phật, một ngón tay, ba ngón tay dụ cho căn duyên ngộ đạo; lột màng mắt là dụ cho việc dứt bỏ vô minh phiền não. Cho rằng ba ngón tay dụ cho ba tuệ. Cho rằng thời giáo thứ nhất là dụ cho một ngón tay; thời Bát- nhã đến thời Pháp Hoa là dụ cho hai ngón tay, thời Niết-bàn dụ cho ba ngón tay. Dụ cho ba nhẫn là Tín nhẫn, Thuận nhẫn và Vô sinh nhẫn. Giải thích ba nhẫn có hai ý: Thập tín là Tín nhẫn, ba mươi tâm là Thuận nhẫn, Thập địa là Vô Sinh nhẫn. Sơ địa đến Tam địa là Tín nhẫn, Tứ địa đến Lục địa là Thuận nhẫn, Thất địa đến Thập địa là Vô sinh nhẫn. Nay giải thích chẳng phải như thế. Kinh chỉ hợp với Phật tánh, thì đâu thể giải thích cách khác được. Đưa một ngón tay thì trả lời chẳng thấy, là dụ cho việc đã nhập chân đế thì chẳng thấy Phật tánh. Hai ngón tay cũng chẳng thấy, là dụ cho hai đế không, giả cũng chẳng thấy tánh. Ba ngón tay mới thấy chút phần, là dụ cho một đế ba Đế tức Không, Giả, Trung là Phật tánh. Sơ trụ đến Sơ địa có thể thấy chút phần. Từ câu: “Kinh Đại Niết-bàn v.v…” trở xuống là hợp dụ. Trước là chánh hợp, sau là so sánh với Thanh văn. Thứ nhất như văn kinh ghi. Nếu hợp theo văn, thì dao vàng dụ cho giáo Niết-bàn, ba ngón tay dụ cho Phật tánh, tức ba đức, ba Đế. Văn kinh ghi: “Người bị vô ngã làm mê hoặc loạn, thì chẳng liễu ngộ, giáo xưa mê lầm nơi vô ngã, cho nên chẳng thấy tánh. Theo giáo nay, đạt được chân ngã mới thấy Phật tánh. Kế là nêu chín dụ, rất dễ thấy. Từ câu: “Ca-diếp bạch rằng v.v…” trở xuống là phần thứ hai, có hai phen hỏi đáp nói về hạnh thấy nghe cạn thấp. Phen hỏi thứ nhất, có thể tự thấy. Đức Phật đáp, có bốn phần: Dụ, hợp, khuyên và khen chê. Nói trời Phi tưởng phi phi tưởng, là đỉnh của ba hữu bốn không, chẳng có thân mà có thức, chẳng có tưởng mà có tưởng. Việc này khó biết, Phật tánh cũng giống như thế, Nhị thừa chẳng thể rõ biết. Thứ hai là hợp, khuyên và khen chê; theo kinh rất dễ thấy. Từ câu: “Ca-diếp bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Hàng phàm phu chẳng phải Thánh, có tánh chúng sinh đều nói có ngã”. Nói phàm phu chẳng phải Thánh, tức là ngoại đạo. Họ tự xưng là Thánh. Nếu phàm phu đối với lý, tức là Thánh phàm phu. Nội đạo, ngoại đạo đều nói có ngã, và tánh có ngã, hai việc này thế nào? Phật nêu dụ hai người giàu và nghèo, có ba phần là dụ, hợp và kết. Lập dụ có ba: 1.Bồ-tát giáo hóa; 2.Thanh văn giáo hóa; 3.Như Lai giáo hóa. Thứ nhất, Bồ-tát giáo hóa lại có bốn: 1. Thuyết giáo; 2.Thọ giáo; 3. Xả ứng; 4.Khởi hoặc. Bạn thân nhau, tức con đường giáo hóa của năng hóa, sở hóa giao thông nhau. Vương tử rất giàu có tài vật, chân ngã hiển hiện nên nói là giàu. Chúng sinh chấp ngã trong thân, đầy đủ các kiến, cho nên nói là nghèo. Qua lại giao du, là cảm ứng tương quan nhau. Câu: “Bấy giờ v.v…” trở xuống là ý thứ hai, chúng sinh thọ giáo. Thấy đao của Vương tử, chẳng phải chứng kiến, chỉ nghe Bồ-tát nói Phật tánh chân ngã. Đao quý dụ cho Trung đạo Phật tánh chân ngã. Tâm sinh tham đắm là ưa thích pháp này. Từ câu: “Sau đó v.v…” trở xuống là phần thứ ba, nói về Bồ-tát xả ứng hóa. Giữ gìn chân ngã nên nói là “mang đao”; việc cơ cảm rất sâu kinh nên nói “đi đến”, lại giáo hóa ở nơi khác, nên nói là “nước khác”. Từ câu: “Người nghèo này v.v…” trở xuống là ý thứ tư, nói về phàm phu khởi hoặc. Từ câu: “Người bên cạnh v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về Thanh văn giáo hóa. Lẽ ra nên nói đủ bốn quả, văn kinh lược không nêu vị Vương tử thứ ba. Vị vương tử thứ nhất dụ cho Sơ quả, ngầm cho là: “Các vương tử khác” có thể gồm hai, ba”. Các sư xưa cho rằng người bên cạnh là dụ cho căn cơ, căn cơ theo người này, là cảm Sơ quả cho nên nói là thâu. Hưng Hoàng nói: Người bên cạnh là dụ cho năm phương tiện tự giải, vua dụ cho Sơ quả chân giải. Tự chỉ là phục, chân mới dứt phá kiến chấp kia đây. Nói dẫn đến chỗ vua, tức chúng sinh đối với Sơ quả, ý nghóa cũng như vua tôi. Đoạn cắt dụ cho việc phân tích năm uẩn tìm ngã chẳng được. Vì có bẩm thọ pháp này nên nói “vốn từng là bạn thân”. Năng hóa, sở hóa chẳng khác đường, nên nói là “cùng ở một nơi”. “Mắt nhìn thấy” là dụ cho Văn tuệ; tay chạm là dụ cho Tư tuệ; cầm lấy là dụ cho Tu tuệ, đều chẳng được Tư tuệ, Tu tuệ nên nói là: “Chẳng dám chạm tay vào, huống chi là dùng dao ư?”. Sừng dê dụ cho tà kiến, chấp ngã. Vui cười dụ cho sự xót thương, kinh lạ; chưa muốn phá tà chấp này nên nói: “Tùy ý mà đi”; lập Vương tử khác tức là bốn quả thứ hai thí hóa. Vương tử thứ tư dụ cho quả thứ tư. Từ câu: “Sau đó một thời gian v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, nói về Như Lai giáo hóa. Chỉ nói Bồ-tát là Vương tử trước kia, nay đã thành Phật. Một thời gian, là chỉ nói về vô ngã; chẳng nói chân ngã là vì xem văn sau, trong phần hợp có nói về giáo của ngã. Hoa Ưu-bát-la là kế thần Bà-la-môn màu trắng, sừng dê là thần Sát-lợi màu vàng, đống lửa là thần Tỳ-xá màu đỏ, rắn đen là thần Thủ-đà màu đen. Từ câu: “Này thiện nam” trở xuống là hợp với ba dụ. Dụ nói có một thanh đao quý là hợp với câu: “Nói chân tướng của ngã”. Nói rồi liền xả bỏ”. Từ câu: “Thanh văn, Duyên giác” v.v… trở xuống là hợp với bốn quả giáo hóa đã nói trong phần thứ hai ở trên. Từ câu: “Vì dứt trừ v.v…” trở xuống là hợp với ý thứ ba, Như Lai giáo hóa. Có hai: 1.Nói về vô ngã giáo, là hợp với ý trước. Từ câu: Này thiện nam! v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về giáo pháp chân ngã. Trong dụ trước không phải chỉ có nghóa này. Từ câu: “Nếu có phàm phu v.v…” trở xuống là kết luận thành ý nghóa của lời đáp, trong văn kinh rất dễ thấy.  <卷>QUYỂN 12 <詞>PHẨM 13: VĂN TỰ Phẩm này có bốn ý: Thứ lớp: Phẩm Như Lai Tánh ở trên nói về lý trong danh tự, phẩm này nói về danh tự trong lý để trả lời câu hỏi: Làm sao biết Bán tự và nghóa của Mãn tự nêu trên. Phẩm Danh Tự Công Đức ở trước chính là nói về kinh này, chỉ nói về giáo pháp Mãn tự xuất thế vô thượng. Phẩm này nói chung về các giáo, như Bán tự giáo và Mãn tự giáo thế gian, xuất thế gian thượng thượng. Về khai mật: Có người giải thích Vô thường là Bán, Thường là Mãn. Hưng Hoàng bác bỏ rằng: “Như hai mảnh Tra và Lê, là Mãn của Bán”. Kia lại giải thích rằng: “Xưa nói vô thường, chẳng thể gọi là Mãn tự, giáo nay nói cả thường và vô thường, nên gọi là Mãn tự”. Hưng Hoàng lại bác bỏ rằng: “Nếu lấy Thường thêm vào Vô thường, thì một mảnh Lê thêm vào nửa mảnh Tra lẽ ra thành một quả; đây là Mãn đầy đủ”. Hưng Hoàng giải thích thể của Niết-bàn Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; mà thường và vô thường đầy đủ, mới gọi là Mãn. Nay nói Hưng Hoàng quở trách các sư xưa, có lẽ là nghiêng về Bán, hoặc là Mãn đầy đủ, tự nói chẳng phải thường chẳng phải vô thường mà thường và vô thường là Mãn, đây cũng bốn mảnh tra, lê, thị, lật hợp thành một quả. Nay y cứ theo phẩm này, khai tất cả chữ đều là Mãn tự. Kinh ghi: “Như Lai ra đời có khả năng diệt trừ giáo pháp Bán tự, vì thế nay các thầy nên xa lìa giáo pháp Bán tự, mà thuận theo Mãn tự, đối với tất cả pháp không ngăn ngại, không chấp đắm”, vốn đối với Bán tự mà nói Mãn tự, đã không có Bán cũng không có Mãn. Nên biết tự chẳng phải tự, vì không có tự tức là Mãn tự. Văn kinh lại ghi: “Chữ Bán là căn bản của văn chương trong kinh, sách, ký luận; chữ Bán là căn bản của ngôn luận về tất cả pháp lành. Tất cả văn tự trong các Dị luận và chú thuật đều là Phật nói, chẳng phải do ngoại đạo nói”. Nên biết, pháp mà Phật nói đều là chánh pháp của nội đạo. Ở đây lấy chánh pháp làm giáo Mãn tự. Văn kinh lại ghi: “Nếu biết rõ văn tự, thì sẽ khiến cho chúng sinh thanh tịnh khẩu nghiệp. Phật tánh cũng như thế, chẳng nhờ vào văn tự mới thanh tịnh, Phật tánh vốn tự thanh tịnh. Nên biết các tự đều là Phật tánh, Phật tánh chẳng phải tự, chẳng phải chẳng phải tự, mà năng thành tự và chẳng phải tự, nên gọi là Mãn tự. Tuy có ba nghóa nhưng chớ nên có ba cách hiểu. Vì ngay nơi tự không phải tự, không phải tự tức là tự, cũng tức chẳng phải tự, chẳng phải chẳng phải tự, đầy đủ không thiếu sót, chẳng dọc, chẳng ngang mới chính là Mãn tự. Thí như các thứ vàng, bạc, đồng đưa vào lò để chế tạo thành một vật, nhưng tất cả đều chẳng mất; đó cũng gọi là các loại, các loại là một, cũng chẳng phải một, chẳng phải các loại mà là một và các loại. Khai mỗi tự đều là Phật tánh, pháp tánh pháp giới cũng lại như thế, bao gồm tất cả chữ, chẳng phải một tự tất cả tự, mà đầy đủ một tự tất cả tự. Như thế, há phân cách Bán tự mà cho chẳng phải là Mãn tự? Đó là khai mở bí mật mà nói Mãn tự. Từ nghóa này đặt tên nên gọi là phẩm Văn Tự. Văn có ba đoạn: Lược nêu gốc của Tự. Nói rộng về nghóa của Tự. Thọ lãnh hiểu rõ và thuật thành. Văn thứ nhất, đầu tiên là nêu chung các Dị luận và chú thuật đều do Phật nói. Câu này có hai cách giải: Căn bản đều ở trong Phật pháp, như Tam bảo, Tứ đế, bốn đức Niết-bàn đều là danh giáo của Phật pháp. Khi Trưởng giả đi rồi, bọn cướp cướp đoạt đàn bò, tức là nói ngoại đạo trộm giáo của Phật mà đưa vào kinh sách của mình. Đây là Phật phương tiện giảng nói, như kinh Thanh Tịnh Pháp Hạnh ghi: “Ca-diếp là Lão Tử, Nho Đồng là Nhan Hồi, Quang Tịnh là Khổng Tử”. Nếu như cách giải thích trước thì Phật nhận trở về, theo cách giải thích sau thì Phật dùng phương tiện ban cho. Nếu triển khai tất cả văn tự đều là chánh pháp của Phật, thì chẳng nhận cũng chẳng cho. Từ câu: “Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là nói rộng về tự nghóa. Có hai phen hỏi đáp. Đầu tiên là hỏi, như văn kinh sau ghi: Từ câu: “Phật nói v.v…” trở xuống là Như Lai đáp. Có ba: một, là nói về căn bản của văn lý. Từ câu: “Để giữ gìn v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về căn bản của văn tự. Từ câu: Hàng phàm phu v.v…” trở xuống là ý thứ ba, nói về việc tu học Bán tự mà ngộ Mãn tự. Từ câu: Ca-diếp lại bạch v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Lời hỏi, như văn kinh ở sau ghi: Từ câu: “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là Như Lai đáp. Có ba đoạn: 1.Nói chung về các tự; 2.Giải thích riêng về Bán tự và Mãn tự; 3. Kết luận nêu được và mất. Ở đây cũng nói về nghóa không có Tự. Thứ nhất lại có bốn: 1/ Lấy âm theo tự, tức là nói về âm. 2/ Lấy tự theo âm, tức là nói về tự. 3/ Nhân của âm và tự. 4/ Lợi ích của âm và tự. Đầu tiên là nói âm tùy theo tự, có mười bốn âm. Chính mười bốn âm này trở đi, xưa nay có sáu cách giải, gồm hai đường. Bốn cách giải trước là giải theo Thiền; hai cách giải sau là giải theo Phức. Sáu cách là: 1/ Tông sư cho rằng: Sách thiếu hai chữ, thầy chẳng thông hiểu, nên chẳng thấy hai âm, chỉ có mười hai âm. 2/ Chiêu-đề thêm vào hai chữ Tất-đàn. 3/ Lương Vũ Đế thêm vào hai chữ Niết-bàn. Dẫn kinh rằng: “Cái gọi là Tự tức là Niết-bàn”. Khai Thiện cho rằng trong mười hai chữ, chỉ lấy mười chữ, còn hai chữ Am, A là dư thanh, cho nên kinh giải thích âm Pháo nói: “là nghóa rốt ráo trong mười bốn âm”. Lại dùng thêm bốn âm Lỗ, Lưu, Lư, Lâu thành mười bốn âm, đặt bốn âm vào giữa mười hai âm. Đó là A, A, Y, Y, Ưu, Ưu, Lỗ, Lưu, Lư, Lâu, Yên, Ai, Ô, Pháo. Trang Nghiêm giải thích theo Phức, cho rằng mười chữ đầu là sáu âm; hai mươi lăm chữ trong ba mươi bốn chữ, năm chữ thành một âm là có năm âm, chín chữ còn lại trong ba mươi bốn chữ chỉ lấy bốn chữ Da, Ra, Hòa, Xa là một âm, cộng với năm âm trước thành sáu âm, cộng chung thành mười hai âm. Các chữ La, Sa, Ta, Ha, La thành một âm chậm, các chữ Lỗ, Lưu, Lư, Lâu thành một âm nhanh, cộng chung thành mười bốn âm. Trị Thành cho rằng mười hai chữ đầu cứ hai chữ là một âm, thành sáu âm; hai mươi lăm chữ kế, năm chữ là một âm thì có năm âm; chín chữ sau, ba chữ là một âm thì có ba âm. Cộng chung thành mười bốn âm. sau: Các Sư Trung Quán theo thứ lớp bác bỏ có sáu cách giải thích như Nếu nói thiếu hai chữ, tức các ngoại đạo không biết hỏi lại thái tử, thái tử đã tự biết, nay thành Phật nói kinh Niết-bàn, há chẳng thêm hai tự, mà nay còn nói sách chép thiếu. Phá Chiêu-đề: Tất-đàn là tên chung của mười bốn âm chữ Phạm, đâu thể đặt tên chung vào tên riêng. Bác bỏ Lương Vũ Đế, Niết-bàn cũng gọi là Bàn-lợi, Niết-lệ, Bàn- na là sáu chữ, lại nói bát Niết-bàn-na là bốn chữ; vì sao chỉ lấy hai chữ? Phản bác Khai Thiện: Trừ hai chữ Am, A thêm vào bốn chữ Lỗ, Lưu, Lư, Lâu. Nếu bốn chữ ấy là âm, vì sao chẳng xếp theo thứ lớp của âm mà đặt sau các chữ. Phản bác Trang Nghiêm: Văn kinh hiện nói mười bốn âm, âm và chữ khác nhau đâu được xếp lẫn lộn. Nghóa của Trang nghiêm chẳng thành, thì nghóa của Dung Thành cũng mất. Vả lại, Hà Tây cho mười hai chữ đầu là mười hai âm, bốn chữ cuối hợp thành hai âm. Bản kinh xưa nói: “Lỗ, Lưu, Lư, Lâu” tức là bốn chữ thành hai âm, thêm mười hai âm trước thành mười bốn âm. Vả lại, bản Phạm chỉ nói chữ mà không nói âm. Nay mười hai chữ hoặc mười sáu chữ là thuận theo sự sử dụng của thế gian. Lại có cách giải thích rằng: Mười hai chữ đầu là âm, Ca, Khư trở xuống là chữ. Có người cho rằng mười hai chữ đầu có ba việc là tự, ngữ và âm. Do Tự này làm đầu mối cho ngôn luận, sau đó mới đến các chữ khác, nên nói là Tự bản. Đầu tiên nói chữ Bán tức là pháp thế gian, Phật tánh là Mãn tự. Lại chín thể loại kinh là Bán tự. Kinh Đại thừa là Mãn tự, lại nói trong bản tiếng Phạm không có từ Bán, chỉ lấy việc chưa thành tựu là Bán, đã thành tựu là Mãn. Hưng Hoàng chỉ nói các bên Bán cho mau đủ mà không có các nghóa Mãn tự tại. Hà Tây cho rằng mười hai chữ đầu dụ như cơm, hai mươi lăm chữ sau dụ như canh, chín chữ sau gồm thâu tất cả câu, như người giữ cửa, cũng như anh lạc, chín chữ sau cùng vừa là chữ, vừa là âm, hai chữ Lư, Lâu thì người sơ cơ chẳng thể học tập. Từ câu “Hít hơi v.v…” trở xuống là thứ ba, nói về nhân duyên của Tự. Đều có khác nhau, cho nên Ca, Khư v.v… là âm thanh trong cuống lưỡi; Đa Tha là âm thanh trên lưỡi; Tra, Trá là âm thanh ở đầu lưỡi; Ba, Pha là âm thanh giữa hai môi; Già, Xa là âm thanh răng, cho nên nói đều do răng và lưỡi có khác nhau. Từ câu “Nghóa của chữ như thế v.v…” trở xuống là nói về lợi ích của chữ. Trước nêu ý nghóa của chữ, sau nói về Phật tánh chẳng phải như thế. Từ câu “lại bán tự v.v…” trở xuống là phần thứ hai giải thích riêng về bán tự và Mãn tự. Gồm có ba: pháp, dụ và hợp. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, nói về ý nghóa không có tự. Phen hỏi đáp cuối cùng là lãnh giải và thuật thành, như văn kinh có ghi. ------------------------------------- <詞>PHẨM 14: ĐIỂU DỤ Hà Tây cho rằng phẩm Văn Tự, phẩm Điểu Dụ và phẩm Nguyệt Dụ đều nói về Chân và Ứng, nhưng Bán Mãn của văn tự chỉ là thường vô thường của Điểu Dụ, thường vô thường của Diểu Dụ chỉ là ẩn hiển của Nguyệt Dụ. Do văn tự mà hiểu lý, thông đạt thường vô thường, năng ẩn năng hiển. Nay lại theo thứ lớp giải thích thêm. Như Lai thường y cứ theo hai Đế, ba Đế để nói pháp. Cho nên biết văn tự là lời Phật dạy. Tức từ văn tự mà đạt ba Đế, đầy đủ một giáo tất cả giáo. Vì muốn hiển bày đầy đủ Tu-đa-la nên tựa đề là phẩm Văn Tự, kế là phẩm Điểu Dụ, tức y giáo lập hạnh tức là hạnh song lưu, hai hạnh đồng quán. Một hạnh là tất cả hạnh. Văn kinh sau ghi: “Lại một hạnh là hạnh Như Lai”. Sau phẩm Văn Tự là nói về hai chim cùng bay, cho nên thành thứ lớp. Cũng là y giáo sinh trí. Trí đối với giáo thì giáo thành cảnh, do cảnh mà phát trí, do trí mà lập hạnh, giáo chuyển thành cảnh, trí chuyển thành hạnh. Từ đó lập thành thứ lớp. Phẩm này trả lời câu “làm sao cùng chung Thánh hạnh như Ta-la- ca-lân?” Đây là nêu chim để so sánh với hạnh để làm lời đáp. Năng dụ là Ta-la-Ca-lân-đề, sở dụ là song lưu cộng hành. Các sư xưa giải thích khác nhau, hoặc nói Ta-la là song, Ca-lân là chim; nhưng Ta-la dịch là vững chắc, đâu thể nói là song; hoặc dịch Ta-la là một, Lân-đề là một, như thế đây là hai loại, chẳng thể gộp thành đôi. Ca-lân-đề là một cặp, dẫn văn kinh: “Chim có hai loại, mộ là Uyên ương; hai là Lân-đề”. Đây là hai loại chim thành một cặp. Hoặc nói Ta-la dịch là Uyên ương. Trong câu hỏi là hỏi về Ta-la. Trong lời đáp là đáp về Uyên ương. Vì loại thì khác mà nghóa đồng, nên lấy Uyên ương thay cho Ta-la. Hoặc nói Lân-đề không dịch, hoặc dịch là Thiên hạc, lại dẫn văn của bản sáu quyển ghi: “Nhạn, Hạc, Xá-lợi”. Nhưng người Trung Quốc chẳng thông thạo tiếng Phạm, vì thế chỉ tăng thêm tranh luận. Ý chính chỉ là thí dụ so sánh, lấy nghóa trống mái thường có nhau, bay hay đậu đều chẳng xa lìa nhau, để dụ cho vô lượng trong một, một trong vô lượng, chẳng một chẳng vô lượng, mà là một mà là vô lượng. Gọi song lưu mới được gọi là cộng hành. Hỏi: Đây là phàm và phàm cùng hành, hay Thánh và Thánh cùng hành, hay Thánh và phàm cùng hành? Có người giải thích rằng: - Quán sinh tử vô thường mà chẳng biết Niết-bàn là thường; quán Niết-bàn thường mà chẳng biết sinh tử vô thường. Hai cách giải thích trên chưa rõ, giống như chỉ biết vàng mà chẳng biết thau (thau tựa như vàng) chỉ biết thau mà chẳng biết vàng. Nếu biết rõ hai chất này mới gọi là song quán khổ vui. Ngã và vô ngã cũng giống như thế. Thánh cũng thực hành như thế, phàm cũng giống như thế, nên gọi là cùng hành. Ở đây chẳng phải như thế vì trái với dụ. Dụ nói hai chim cùng bay, còn như lời nói một chim ở sinh tử thấp nhất, một chim ở Niết-bàn cao tột, thăng trầm khác nhau, thì ý cùng bay chẳng hiển bày. Dù cho hai chim cùng bay dưới thấp, chẳng cùng bay trên cao, cùng bay trên cao chẳng cùng bay dưới thấp, thì nghóa cùng bay chẳng thành. Các sư lại dẫn Bán, Mãn y cứ một pháp, “cùng bay” y cứ hai pháp. Vậy nếu cho sinh tử là vô thường, quả Phật là thường cùng là Mãn, thì hai vật khác nhau như quả lê quả nại, làm sao gọi là Mãn được. Song du là quán trong sinh tử có thường và vô thường, quán trong quả Phật cũng có thường và vô thường, lấy hai thường của sinh tử và Niết-bàn làm một cặp Mãn; lấy hai vô thường của sinh tử và Niết-bàn làm một cặp Bán, tức hai pháp cùng khởi mới gọi là song du. Ở đây giải thích nghóa này đều chẳng phải như thế, hai Thường đều khởi tức là hai con trống đồng bay, hai vô thường đều khởi tức là hai con mái cùng bay, như thế thì trái với thí dụ, nghóa “cùng bay” chẳng thành. Nay nói “cùng bay” tức sinh tử có cả thường và vô thường, Niết- bàn cũng giống như thế. Dưới thấp, trên cao, cùng bay, cùng nghỉ, ngay nơi sự là lý, ngay nơi lý là sự, nhị đế tức trung, trung tức nhị đế, chẳng phải nhị và trung mà năng nhị và trung. Thế thì nghóa cùng bay thành tựu, trống mái cùng thành. Ý nghóa sự lý đã thành thì danh tự quán hạnh cho đến rốt ráo “cùng bay” đều thành, ngang dọc đầy đủ không giảm ít. Trong đó có đủ phàm và phàm cộng hành, phàm Thánh đồng hành, phi phàm phi thánh cộng hành. Y theo người và pháp để phân biệt cũng thành. Vì nghóa này nên gọi là phẩm điểu dụ. Văn có hai đoạn là chung và riêng. Trong phần nói chung lại có hai: Sơ lược. Nói về nghóa. Trong phần sơ lược, trước là dụ sau là hợp. Trong dụ có nêu hai con chim là dụ cho Thường và Vô thường, nhưng văn hợp thì hợp với ngã và vô ngã, đó là do văn kinh lược bớt. Nay nói thêm rằng: “Vì nghóa hiển bày đồng nhau, nên thay nhau nêu lên, nếu nói đủ thì có sáu việc”. Kế là nói về nghóa, trước là hỏi. Kế là đáp, gồm có pháp và dụ. Nói dụ pháp là khổ, là vui. Các sư xưa giải thích rằng: “Sinh tử khác Niết-bàn, Niết-bàn khác sinh tử, nên nói là khổ vui”. Các sư Trung Quán cho rằng lời trước phần nhiều là bác bỏ các điên đảo, y cứ theo chiều dọc để nói về thường và vô thường. Nay phẩm này tạm thời nói thường và vô thường, tức chỉ trong sinh tử có pháp, khác mà nói là khổ, có pháp khác mà nói là vui (lạc) cho đến ngã, vô ngã cũng giống như thế. Dụ sau nêu năm loại hạt, mỗi hạt khác nhau, để thành tựu cho ý thức. Trong phần dụ riêng ở sau có ghi: “Hoa là Vô thường mà quả lại Thường”, tức chẳng phải thường trụ nơi thường. Nói hoa là chẳng nhất định nên quả vô thường đã định, vì thế nói là Thường. Nhờ đây để hiển bày vô thường thành thường. Từ câu “Các giống loại như thế v.v…” trở xuống là nói riêng về cộng hành. Có hai: 1.Nói riêng. 2. Nói về nghóa. Thứ nhất lại có ba: Y cứ theo sinh tử để nói về vô thường, y theo Niết-bàn để nói về vô ngã, y theo sinh tử và Niết-bàn để nói về khổ và vui. Nhưng hai ý trước là nói theo chiều ngang, một ý sau là nói theo chiều dọc. Theo lý nên luận đủ, nhưng văn kinh hiển bày thay cho nhau. Văn thứ nhất, lại có hai: Chính thức nói về hai hạnh. Kết luận. Trong phần chính luận lại nêu lên năm dụ: dụ thứ nhất có dụ và hợp; trong dụ lại có ba là lập dụ, nói về nghóa và thọ lãnh, hiểu rõ. Nói mầm là dụ cho vô thường trong sinh tử, khi hạt chín là dụ cho Thường trong sinh tử. Kế là nói về nghóa, trước là hỏi sau là đáp. Trong phần đáp nói thường của sinh tử khác với thường của Như Lai. Thứ ba, từ câu “Ca-diếp v.v…” trở xuống là thọ lãnh, tin hiểu, sau là thuật thành theo văn rất dễ thấy. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là hợp dụ. Chưa nghe kinh thì nói đều là vô thường, nghe rồi đều nói là thường, đó há chẳng phải là đủ thường, vô thường trong sinh tử ư? Nói các định trong khế kinh. Tu-đa-la dịch là Khế kinh, thuộc về Định tạng nên nói là các định. Bốn dụ sau đều có hợp. Dụ kế có nói về quặng vàng, ngọc chưa mài giũa gọi là Phác, vàng chưa luyện lọc cũng gọi là Phác. Đây là nói một bên có bộ mộc (?) một bên có bộ ngọc (?) khác nhau. Vàng chưa luyện gọi là quặng, quặng khác tên với vàng v.v… Chiêu-đề đọc là Phác, các Sư Trung Quán đọc là khoáng, nhưng chữ Phác (?) có hai cách đọc. Từ câu “Vì thế tôi nói v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, kết luận một chương. Chánh nên nói là thường và vô thường, mà lại kết luận là vô ngã, nghóa là muốn nêu tất cả cũng đều như thế. Từ câu “Ca-diếp bạch Phật” v.v… trở xuống là phần thứ hai, y cứ vào Niết-bàn để nói về hai hành Vô ngã và Ngã. Không có ưu bi thì không có ngã, có ưu bi thì có ngã. Văn có hai: trước hỏi, sau đáp. Trong lời hỏi lại có chánh hỏi và kết luận câu hỏi. Vừa xem văn thì cho đó là câu hỏi không có đầu mối. Nhưng Đức Phật nói kinh Niết-bàn cũng có vô thường, vô thường là hữu vi, hữu vi là ưu bi. Nay hỏi về ưu bi tức hỏi Niết-bàn có vô thường chăng. Đức Phật đáp, có bốn ý: Giải thích lời hỏi. Khen lý. Giải thích về lý một lần nữa. Lại khen ngợi lý. Văn thứ nhất lại có hai là dụ và hợp. Trong dụ có ba là chiùnh thức lập dụ; lại vì dụ mà lập dụ; lấy dụ hợp dụ. Đầu tiên là nói trời Vô tưởng là lập dụ. Kế là nêu dụ Thần cây để hiển bày ví dụ trời Vô tưởng, tức vì dụ mà lập dụ. Từ câu “Phật pháp v.v…” trở xuống là dụ hợp dụ. Thứ hai, từ câu “trời Vô tưởng v.v…” trở xuống là khen lý sâu xa. Trước dụ, sau hợp. Lại nữa, này thiện nam! Như Lai thật không có ưu bi, nhưng trong không mà nói có. Chúng sinh có khổ mà chưa thoát ra được nên khó thấy Phật có khổ. Đã có khổ thì có ưu bi. Phật đã dứt trừ nhân khổ, được an vui bậc nhất, nên không có ưu bi. Có ưu thì không có Ngã, không có ưu thì có Ngã. Nếu ứng theo chúng sinh thì nói Như Lai có ưu, nhưng theo thật lý thì chẳng có. Nay bỏi rằng đã thị hiện có bi, lẽ ra phải có khổ. Nếu tâm địa của Như Lai chẳng nghó đến chúng sinh, thì lẽ ra chẳng khổ. Hỏi: Như Lai thật không có ưu bi, vì sao thầy nói Như Lai thật có hỷ? Ở đây cũng hỏi lại rằng: Phật không có ưu hỷ (lo buồn, vui mừng), vì sao nhất định nói Như Lai không có ưu? Ta nói Như Lai thật không có ưu hỷ, nói ưu hỷ là lời bất định. Thứ ba, là từ câu “Thí như hư không v.v… trở xuống là giải thích thêm về câu hỏi, có hai dụ. Trước nêu nhà trụ, sau đó nêu nhà ảo thuật. Hai dụ thiện nam, thiện nữ dụ với sau hợp. Dụ thứ nhất có hai: Một, là vì pháp lập dụ. Từ câu “Tâm cũng như thế v.v…” trở xuống là vì dụ lập dụ. Sau lại nêu tuổi thọ của trời Vô tưởng, cũng vì dụ lập dụ. Từ câu “Như Lai ưu bi v.v…” trở xuống là chiùnh thức hợp. Từ câu “Thí như nhà ảo thuật v.v…” trở xuống là dụ, có hai: trước dụ, sau hợp. Thứ tư, Từ câu “Như Lai có ưu v.v…” trở xuống là khen ngợi lại về lý. Có bốn là pháp, dụ, hợp và kết. Sau đây là pháp thuyết. Từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là dụ thuyết. Nếu y cứ theo Tỳ-đàm thì có ba nghóa độ: một, người độ; hai, căn độ; ba, địa độ. Quả vị thấp chẳng biết quả vị cao, quả vị cao biết được quả vị thấp, đó là người độ. Người độn căn chẳng biết hàng Trung căn, hàng trung thượng căn biết được hàng hạ căn, đây là căn độ. Sơ thiền chẳng thể biết nhị, tam, tứ thiền; nhị, tam, tứ thiền biết được sơ thiền, đó là địa độ. Luận Thành Thật chẳng cho như thế, mà nói về nghóa biết lẫn nhau, nói vượn khỉ còn thấy tâm Phật, há lại có việc người độn căn chẳng biết người lợi căn hay sao? Nay cũng có biết một vài phần, cho nên cũng dược nói là biết; vì chưa được đầy đủ cho nên cũng có thể nói là Không. Thứ ba là hợp dụ, thứ tư là kết luận, theo văn rất dễ hiểu. Từ câu: Này thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ ba, y theo sinh tử và Niết-bàn để nói về khổ vui. Tức nói theo chiều dọc. Văn có hai đoạn là giải thích và luận nghóa. Trong đoạn giải thích có ba là dụ, hợp và kết. Sau đây là phần dụ thuyết. Hai con chim dụ cho Pháp thân; chim con dụ cho chúng sinh; giữa mùa hè nước dâng ngập, dụ cho tâm sinh điên đảo; chọn nơi cao ráo dụ cho bệnh vô thường cần có thuốc thường, thường là nơi cao nguyên; bệnh thường tức vô thường là thuốc, vô thường là nôi cao nguyên, tức chẳng phải thường chẳng phải vô thường, thường vô thường đầy đủ, mới là xa lìa các đảo. Nói vì nuôi dưỡng là dụ cho việc giúp cho chúng sinh hiểu được lý thường và vô thường; nói “sau đó mới trở về chốn cũ an ổn vui chơi”, là dụ cho việc Như Lai độ chúng sinh đã xong, sau đó dạo chơi trong vườn hoa Chánh giác. Từ câu “Như Lai ra đời v.v…” trở xuống là phần hợp dụ. Từ câu “Đó gọi là v.v…” trở xuống là ý thứ ba, kết luận thành tựu ý nghóa. Từ câu “Ca-diếp bạch rằng v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, có ba phần hỏi đáp đều là phân biệt sáu hành. Sau đây là phần thứ nhất, trưới hỏi sau đáp. Lời hỏi theo văn rất dễ hiểu. Trong đoạn văn kinh ở trên có bao gồm cả nghóa thường và vô thường, ngã vô ngã. Từ câu “Phật bảo v.v…” trở xuống là Như Lai đáp có bốn: Nêu hai bài kệ tám câu làm lời đáp: Văn xuôi để giải thích. Đoạn đầu lại có hai: bài kệ thứ nhất nói về hai quả là sinh tử và Niết-bàn; bài kệ thứ hai nói về hai nhân duyên sinh tử và Niết-bàn. Hai câu đầu của bài kệ thứ nhất nói về quả Niết-bàn; hai câu sau nói về quả sinh tử. Bài kệ sau cũng giống như thế. Kế là phần văn xuôi, từ câu “Nói nếu buông lung, v.v…” trở xuống là giải thích hai bài kệ trên, y theo văn rất dễ hiểu. Thứ ba, là từ câu “Như người v.v…” trở xuống là nói về bậc thấp chẳng biết được trên cao, để nói về khổ, có hai là dụ và hợp. Nói chẳng thấy dấu chim là muốn nói rõ chim bay trong hư không thì không có vết tích như đi trên đất. Cũng có lông cánh, hơi thở, nơi đang bay cũng có dấu vết, chỉ vì chẳng phải chỗ thấy của người đứng ở dưới mặt đất. Hợp dụ như văn kinh ghi. Từ câu “Siêng năng mạnh mẽ v.v…” trở xuống là nói bậc trên rõ biết người dưới để nói về lạc. Văn có hai: đầu tiên có hai bài kệ giải thiùch ý này. Bài kệ thứ nhất nói về người. Bài kệ sau nói về pháp. Kế là đoạn văn xuôi ngắn, giải thích chung hai bài kệ. Từ câu “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phần hỏi đáp thứ hai. Trước hỏi sau đáp. Trong lời hỏi có hai: một, là nói chẳng phải Phật nói; hai, là vặn hỏi. Nghóa là đã nói rằng không còn ưu không còn hỷ, vì sao lại nói là lên đài trí tuệ? Đức Phật đáp “vì phàm phu có ưu nên nói Như Lai có ưu”, đây chính là nghóa đối trị. Vả lại, vì nhớ nghó đến chúng sinh cho nên ưu. Như ngài Tịnh Danh nói: “Vì chúng sinh nên Bồ-tát bị bệnh”. Phần thứ ba, trước hỏi sau đáp, y theo văn kinh rất dễ hiểu. <詞>PHẨM 15: NGUYỆT DỤ Phẩm Điểu Dụ ở trước nói “cùng bay” là nói theo chiều ngang, tức đồng một thời. Nay phẩm Nguyệt Dụ nói ẩn hiển là nói theo chiều dọc, tức có trước sau. Trước ngang sau dọc, lập thành thứ lớp. Và nói cùng bay “tức tự hành”, lập ẩn hiển hợp thời tức “hóa tha”, lại cũng thành thứ lớp. Hà Tây cho rằng ba phẩm đều nói một ý chân ứng, đó chỉ có một đường. Hỏi đáp đã có ba ý, làm sao nói là một được. Vốn có hai câu hỏi một câu đáp, một hỏi hai đáp, một hỏi một đáp. Hà Tây cho là một câu. Hai câu kia xem văn rất dễ hiểu. Nay nói lời hỏi đã khác, lời đáp cũng khác nhau. Phẩm trước hỏi về cộng hành, lấy chim làm dụ để đáp. Nay đối với ba thứ ánh sáng mà lập ba câu hỏi. Đức Phật lấy mặt trăng làm dụ để đáp. Nhưng trong lời hỏi chẳng những hỏi về mặt trăng mà còn hỏi đủ cả ba loại ánh sáng. Trong đó đối với mặt trăng thì tưởng tròn khuyết, mặt trời thì tưởng dài ngắn, các vì sao thì tưởng lành dữ. Tuy có chút khác nhau mà đồng dụ cho ẩn hiện. Vì trước là trả lời về mặt trăng, nên lấy đó đặt tên phẩm. Nay nói thêm rằng mặt trăng gồm thâu mặt trời và các vì sao nên lấy làm tên phẩm. Vả lại, tên thì khác mà nghóa thì đồng, cho nên dùng nghóa mặt trăng thuận tiện hơn. Lương Vũ Đế cho các học só soạn nghóa Thiên Địa, có ba phần: một, là tuyên dạ; hai, là châu bể; ba, là linh hiển. Nghóa tuyên dạ đã phế bỏ từ lâu, không truyền bá, các học só suy lý chẳng tìm được. Chu Tản tức Chu Công hỏi Bàn Tề, nói về nghóa Thiên địa như sau: “Trời như cái dù tròn, bốn bên thấp mà ở giữa cao”, đây là nghóa trời phủ trùm, đây là nói mặt trời mặt trăng di chuyển theo chiều ngang đồng với Phật pháp. Linh hiển tức là nghóa Hỗn thiên. Hỗn thiên đồ của văn xuôi có ghi: “Mặt trời như con gà vàng, Thiên như con gà trắng. Mặt trời mọc ở phương Đông dần dần lặn ở phương Tây. Lại từ đất xuất hiện rồi lại nhập vào đất, tức mọc ở phương Đông, nhiễu quanh bầu trời rồi chuyển nhập vào đất. Cho nên nói mặt trời mọc ở Phù tang, lặn ở Mông Phạm”. Nói mặt trời, mặt trăng chuyển theo chiều dọc. Kinh Trường A-hàm và kinh Lâu Thán ghi: “Quả báo của nhật, nguyệt, thiên tử đồng với Tứ thiên vương, tuổi thọ là năm trăm năm”. Các sư xưa nói hai trăm năm mươi tuổi. Mặt trời ngang dọc đều năm mươi do-tuần, mặt trăng ngang dọc bốn mươi chín do-tuần; những vì sao nhỏ không dưới ba do-tuần, một trăm hai mươi dặm vuông. Thành của mặt trời do hai chất báu tạo thành, gồm có hai phần hỏa tinh, hai phần kim tinh. Mặt trăng cũng do hai chất báu tạo thành, gồm có hai phần lưu ly tinh, hai phần bạch ngân tinh nhiễu quanh. Núi Tu-di chiếu soi bốn thiên hạ. Kinh Lâu Thán quyển năm ghi: “Vào kiếp sơ chưa có ba thứ ánh sáng này, sau do phước lực của chúng sinh mà cảm được loạn phong. Loạn phong thổi vào hỏa tinh và vàng vòng tạo thành mặt trời, thành quách mà Nhật thiên tử cư ngụ gồm có bảy lớp, chiếu từ đông sang tây dài hai ngàn dặm, Nam Bắc, cao thấp cũng đồng như thế, chu vi chung là tám ngàn dặm. Loạn phong lại thổi gom lưu ly và bạc trắng tạo thành nơi cư ngụ của Nguyệt thiên tử, thành ấy có bảy lớp, từ Đông sang Tây dài một ngàn chín trăm sáu mươi dặm, từ Nam đến Bắc, từ trên xuống dưới cũng giống như thế, chu vi chung là bảy ngàn tám trăm bốn mươi dặm. Loạn phong thổi thủy tinh gom thành nơi cư ngụ của Tinh thiên tử, tất cả đều do gió lớn giữ chặt, giống như mây nổi di chuyển theo chiều bên phải. Ngôi sao lớn nhất có chu vi bảy trăm hai mươi dặm, ngôi sao trung bình chu vi bốn trăm tám mươi dặm, ngôi sao nhỏ nhất chu vi một trăm hai mươi dặm. Mặt trăng do có ba việc mà giảm: một là di chuyển nghiêng lệch; hai là có hình phục thị thần, màu sắc như lưu ly, che trước mặt trăng; ba là do sáu mươi thứ ánh sáng mặt trời chiếu vào cho nên giảm. Lại có ba việc làm cho tăng: một là di chuyển ngay thẳng; hai là trong hai mươi lăm ngày ở tại chánh điện chẳng có thị thần che ở trước; ba là mặt trời có sáu mươi thứ ánh sáng chiếu đến mà mặt trăng chẳng thọ nhận. Phẩm này chính là để trả lời câu: “Làm sao như trời, trăng, thái bạch và tuế tinh”. Đã trả lời đầy đủ ba thứ ánh sáng, mà lấy Nguyệt Dụ là tên, như trước đã giải thích: Một, là nguyệt ở khoảng giữa, nên từ trung mà đặt tên, nguyệt có tròn có khuyết, dụ cho ẩn hiện dễ thấy, văn kinh nói về nguyệt nhiều, nên từ dễ, từ số nhiều để đặt tên phẩm. Xưa nay nói cuối phẩm này từ câu: “Khi mặt trời mọc thì sương móc đều tan biến” đến hết phẩm là thuộc về văn phẩm của Bồ-tát, nhưng do người dịch kinh xếp lầm, đó chỉ là văn khen ngợi lực dụng của kinh. Hưng Hoàng thì không nhất định, hoặc cho là thuộc phẩm trước, hoặc nói là của phẩm sau. Các Sư Trung Quán thì cho là thuộc phẩm trước. Nay văn phẩm được chia làm hai là đáp vấn và kết luận khen ngợi kinh. Đầu tiên là y cứ theo ba thứ ánh sáng để chia làm ba đoạn dùng để trả lời ba câu hỏi: Một, là y cứ theo mặt trăng có sáu ý: mọc lặn, khuyết tròn, lớn nhỏ, thiện ác, dài ngắn, ưa chán. Đầu tiên là nói về mọc lặn. Trước là dụ, sau là hợp như văn kinh ghi. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là nói về tròn khuyết, trước là dụ sau là hợp. Kinh Trường A-hàm ghi: “Từ ngày mười sáu trở đi, ngày đầu tiên một vị hắc y thị thần lên hầu, ngày thứ hai là thị thần lên hầu, cho đến ngày ba mươi thì các thần đều lên hết, cho nên mặt trăng dần dần khuyết”. Từ ngày mồng một trở đi các thần dần dần xuống, đến ngày rằm thì xuống hết, nên mặt trăng dần dần tròn. Hai, là cho rằng nhật thiên tử phát ra sáu mươi thứ ánh sáng, được ánh sáng mặt trăng cho nên khuyết. Nếu Nguyệt thiên tử ở tại chánh điện sau do phát ra ánh sáng đối diện Nhật thiên tử, cho nên mặt trăng tròn. Ba, là cho từ ngày mồng một thì xuất hiện mặt ngân bạc, cho đến ngày mười lăm thì mặt ngân bạc hiện hoàn toàn, mặt lưu ly ẩn, từ ngày mười sáu mặt lưu ly bắt đầu xuất hiện, đến ngày ba mươi thì mặt lưu ly hoàn toàn hiện, mặt ngân bạc hoàn toàn ẩn. Nói do núi Tu-di, nghóa là do năm ngọn gió thổi tự nhiên vận chuyển. Năm ngọn gió gồm: Trì phong, trụ phong, động phong, chuyển phong và hành phong. Thế gian nói sáu tháng là một lần xâm thực. Sách ghi: “Do sự vận hành mà gặp nhau. Sáu tháng là một chu kỳ, âm dương ngăn ngại nhau nên có sự xâm thực này”. Kinh nói là do Tu-la tạo ra. Thứ ba, Từ câu “Lại nữa, thí dụ v.v…” trở xuống là nói về lớn nhỏ. Trước là dụ sau là hợp. Thứ tư, là từ câu “Như La-hầu-la v.v…” trở xuống là nói về thiện ác và chế giới. Văn có ba: Ngăn cấm. Khinh trọng. Như Lai dạy bảo. Tất cả đều có dụ và hợp. Thứ năm, từ câu “Như người thấy mặt trăng, v.v…” trở xuống là nói về dài ngắn, cũng có dụ và hợp. Nói “Các vị trời trong chốc lát thấy nguyệt thực” đây là y cứ theo Tứ thiên vương đồng thấy mặt trăng này, còn trời Đao-lợi thì tự có ánh sáng của thân, chẳng cần mặt trời mặt trăng. Thứ sáu, Từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là nói về ưa và chán. Trước là dụ, sau là hợp. Văn kinh nói “Nếu chúng sinh có tham sân si chẳng được gọi là nhạo kiến” vì chúng sinh này chẳng thích nhìn mặt trăng, hay vì mặt trăng chẳng khiến người thích nhìn? Có hai cách giải thích: một, do ba độc nên chúng sinh chẳng thích nhìn mặt trăng; hai, là cho rằng mặt trăng là bất nhạo kiến, như kẻ trộm thì cho mặt trăng là bất nhạo kiến (chẳng thích nhìn). Từ câu “Thí như mặt trời v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai nêu mặt trời, trước dụ sau hợp. Nói “ba mùa khác nhau”. Một, là vì trong Phật pháp chẳng nói đến mùa thu, nên chỉ nói ba mùa. Thuyết khác cho rằng trong Phật pháp có nói về mùa thu. Như kinh ghi: “Mùa thu cày cấy là tốt nhất”. Lại văn trên nói: “Qua mùa Hạ thì gọi là mùa Thu, mùa Thu thì mưa dầm”. Kinh Kim Quang Minh ghi: “Nói ba vì ba đã gồm thâu đầy đủ bốn mùa”. Trong luật nói ba mùa là để phân biệt với tặc trụ. Nay trong kinh này nói ba mùa chẳng phải để phân biệt tặc trụ, mà vì mùa xuân đồng nhau, nên chẳng phân biệt. Hợp dụ có hai: một, dùng tuổi thọ của Như Lai để hợp; hai, là dùng kinh giáo để hợp. Theo văn kinh rất dễ hiểu. Từ câu “Thí như các vì sao v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, nêu sao để dụ. Văn có ba ý: một, là nêu các vì sao; hai, là nêu bóng tối; ba, là nêu sao Tuế. Mỗi trường hợp đều có dụ và hợp. Hai ý trước theo văn kinh rất dễ hiểu. Nói “nửa tháng không trăng” (hắc nguyệt), kinh Ưu-Bà-tắc ghi: Ngày mười sáu đến ngày ba mươi gọi là hắc nguyệt”. Kinh Niết-bàn bản sáu quyển ghi: Tuế tinh là chi đẩu tịnh. Lương Vũ Đế dịch là ác tướng tinh hoặc nói là tuế âm, hoặc gọi là nhung âm, hình dáng như cây chổi. Người thế gian gọi là điêu, hoặc gọi là ma, nghóa là nó tạo ra sự lo sợ về thay cũ lập mới. Tức là như Bích-chi-Phật ra đời vào thời không có Phật. Từ câu “Thí như mặt trời v.v…” trở xuống là phần thứ hai, kết luận khen ngợi. Văn có ba đoạn: là khen ngợi, khuyên tin và kết luận. Khen ngợi lại có hai: một, là khuyên diệt ác. Kế là khen ngợi nghóa sâu xa. Từ câu “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là khuyên tin, gồm có hai: khuên tin và khuyên học. Kết luận khen ngợi như văn kinh ghi. Nay dùng ba văn kết luận ba dụ về ánh sáng để khen ngợi giáo, hạnh, lý. Kết luận nhật dụ khen ngợi giáo thường trụ, kết luận nguyệt dụ khen ngợi lý thường trụ, kết luận hạnh dụ khen ngợi hạnh thường trụ. ---------------------------------- <詞>PHẨM 16: BỒ-TÁT Về thứ lớp của phẩm này, các phẩm trên đã trả lời mười ba hoặc mười lăm câu hỏi về việc của Phật. Đức Phật đã trả lời xong. Từ phẩm này trở xuống có mười chín câu hỏi về việc của Bồ-tát, Đức Phật cũng đều đã trả lời. Có sư cho rằng phẩm này trả lời từ mười hai đến mười bảy câu hỏi. Nay nói đáp mười hai câu hỏi, nhưng chẳng thể nêu hết tên mười hai câu hỏi. Từ đầu tiên để đặt tên nên nói là Bồ-tát, giải thích nghóa Bồ-tát lược có bốn bậc. Bồ-tát Tam Tạng giáo: Từ khi gặp Phật Thích-ca, cúng dường ba việc thì gọi là sơ tâm; ba a-tăng-kỳ một trăm kiếp tu nhân tướng quý và vẻ đẹp làm Trung tâm; ngồi dưới cội Bồ-đề là Hậu tâm. Bồ-tát Thông giáo. Đầu tiên là tin suông các pháp như huyễn hóa, chưa thấm nhuần được dòng nước lý gọi là Càn tuệ địa; nước lý đã nhuần thấm tinh thần, hàng phục và dứt trừ kiến tư hoặc gọi là Trung tâm; du hý thần thông, làm thanh tịnh cõi nước, tập khí dư thừa như làn khói mờ nhạt, nghiệp chướng cạn mỏng, đó gọi là Hậu tâm. Bồ-tát Biệt giáo: Từ Thập trí đến ba mươi tâm là Sơ tâm, hàng Thập địa là Trung tâm, Bồ-tát Đẳng giác là Hậu tâm. Ba bậc Bồ-tát này nhiếp pháp không cùng tận, hễ thoái lui thì không gồm thâu được tất cả chúng sinh, còn tiến đến thì chẳng nhiếp phục được người có căn tánh Phật. Bồ-tát Viên giáo: Đầu tiên là lý tánh Bồ-tát, đến danh tự, quán hạnh, tương tự, phần chứng và rốt ráo Bồ-tát. Đầu tiên nói lý tánh là chung cho tất cả chúng sinh và cuối cùng là Diệu giác đều gọi là Bồ-tát. Vì thế, Bồ-tát Ca-diếp hỏi: “Vì sao chưa phát tâm mà gọi là Bồ-tát”. Cho nên biết chẳng hỏi vể ba bậc Bồ-tát kia mà chính là hỏi Bồ-tát Viên giáo. Y cứ theo Bồ-tát Viên giáo, nhưng chẳng hỏi về năm vị sau, mà chỉ hỏi về Bồ-tát lý tánh. Cho nên từ ý được hỏi mà lập tên, chính là dùng Bồ-tát lý tánh để nêu phẩm. Còn về lời đáp của Như Lai cũng tức là đáp về lý tánh, tức chưa phát tâm mà gọi là Bồ-tát. Nhưng lý tánh này làm nhân, ánh sáng của giáo Niết-bàn làm duyên, từ hủy báng mà tin thì chuyển thành danh tự. Danh tự tức là Bồ-tát phát tâm, lý tánh tức là chưa phát tâm. Nghóa của lời hỏi và đáp đã rõ ràng trong văn, đâu thể có cách giải thích khác mà hợp với tông chỉ của kinh? Từ đây mà đặt tên, nên gọi là phẩm Bồ-tát. Nhưng Hà Tây nói phẩm này trả lời bốn câu hỏi đồng một ý. Nghóa là người chưa phát tâm do kinh mà phát tâm, được thấy Phật tánh, vì thấy Phật tánh nên đối với chúng sinh không sợ sệt; cho đến vì thấy Phật tánh như thầy thuốc trị các bệnh, chẳng bị bệnh ô nhiễm. Nay ý viên đốn của kinh này, không nơi nào chẳng thông suốt, vì sao chỉ nói trả lời bốn câu hỏi mà thôi, cho đến thấy tánh, hay làm người lái thuyền giỏi, năng thoát khỏi lớp da cũ, như cây thiên ý, v.v… năng lực Phật tánh, không gì chẳng làm được. Toàn thân đều thông mà lại thiếu mi mắt. Nay y cứ theo lời đáp mười hai câu hỏi mà chia thành hai đoạn là tự hành và lợi tha. Trong phần tự hành lại có hai là đáp sinh thiện và đáp diệt ác. Trong phần đáp sinh thiện, trước là nêu dụ khen ngợi kinh để phụ đáp câu hỏi trên, sau đó chính thức đáp câu hỏi. Thứ nhất khen ngợi kinh để phụ đáp. Có hai ý: một, là phụ trả lời; hai, là phân biệt. Hưng Hoàng nói rằng nhờ năng lực của kinh Niết-bàn, mà người chưa phát tâm phải phát tâm, lại ép ngặt khiến phát tâm, như mộng thấy La-sát tức là nghóa này. Nếu thế thì do nhân bên trong, duyên bên ngoài mà khiến phát tâm. Phát tâm mới gọi là Bồ-tát, chứ chẳng phải chưa phát tâm mà gọi là Bồ-tát. Lại luận biện thêm: trước đã nghe kinh, nhưng nửa chừng quên các niệm, nay lại được âm thanh, ánh sáng thâm nhập vào thân, mói chịu phát tâm. Vậy trước khi phát tâm đã là Bồ-đề. Nay chẳng y theo cách giải thích này. Vì sao? Vì trước khi nửa chừng quên, thì đã từng phát tâm, nếu chưa phát tâm thì làm sao gọi là nửa chừng quên mất. Vì sao lại cho là chưa phát tâm mà gọi là Bồ-tát? Ánh sáng Niết-bàn, có hai cách giải thích: một, là Đức Phật phát ra ánh sáng trong thân chiếu vào các lỗ chân lông của chúng sinh, Phật liền Niết- bàn, nên gọi là Niết-bàn quang; hai, là vì giáo pháp Niết-bàn nói về lý rất rõ ràng dụ như ánh sáng, hạng Nhất-xiển-đề bất thiện, ánh sáng chẳng chiếu vào tâm. Bốn tội trọng, năm tội nghịch đầy dãy, cội lành cạn mỏng nên gọi là lỗ chân lông. Ánh sáng dụ cho giáo, lỗ chân lông dụ cho trí. Khế kinh tức Tu-đa-la tạng, cho nên nêu ba tạng để làm chỗ kém mà hiển bày Niết-bàn là cao quý. Vả lại, kinh này đương cơ cao quý hơn các kinh khác. Thứ hai là phân biệt, trước hỏi sau đáp. Trong phần hỏi, trước là thọ lãnh và khen ngợi yếu chỉ. Kế là cung kính bác bỏ, cuối cùng là vặn hỏi. Thứ nhất là lãnh nhận yếu chỉ. Trước là thọ lãnh lời khen sinh thiện, tức phần trước phẩm này. Kế là thọ lãnh lời khen diệt ác, tức là cuối phẩm trước. Kế là cung kính bác bỏ. Sau cùng là vặn hỏi, có ba ý: một, là hỏi về trì phạm bình đẳng; hai, là hỏi về khen thiện trị ác chẳng bình đẳng; ba là hỏi về khó dễ. Đầu tiên, từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là vặn hỏi trì phạm bình đẳng. Nếu ánh sáng nhập vào thân, thì đều sẽ phát tâm, vậy giữ giới phá giới, tu thiện làm ác đâu có gì khác nhau? Từ câu “Vì sao Như Lai v.v…” trở xuống là vặn hỏi về bất bình đẳng. Bốn y xuất thế, chính là muốn để thưởng phạt. Nếu nhờ ánh sáng mà phát tâm thì đâu cần đến thưởng phạt. Thứ ba, là từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là hỏi về khó dễ. Trên nói “một Hy-liên cho đến ba Hằng hà còn chưa hiểu nghóa”, đây là nói về khó. Nay nói vừa qua tai liền dứt được phiền não, tức là nói về dễ. Đã chẳng hiểu nghóa, làm sao dứt được hoặc, dùng nghóa khó này mà hỏi về nghóa dễ. Nay nói Ca-diếp dùng Biệt mà hỏi về Viên. Y cứ theo Biệt để nói về nghóa thì trì phạm, lên xuống, thưởng phạt tự đã khác nhau, làm sao nói là bình đẳng? Nếu nói theo Viên thì tất cả đều là Phật tánh, sao lại chẳng bình đẳng. Theo biệt mà luận thì chứa nhóm điều lành mới hiểu được kinh. Cho nên Đức Phật đáp: “Việc lớn đức lớn”. Tức là ý Viên giáo. Từ câu “Phật bảo v.v…” trở xuống là phần đáp, có hai là chánh đáp và giải thích lời đáp. Phần chánh đáp có hai: một, là nói về lấy bỏ; hai; là nói về chánh đáp. Trong phần lấy bỏ có hai ý: một, là phân biệt, trừ Nhất-xiển-đề. Kế là nói tất cả còn lại đều sẽ phát tâm. Nhưng người phát tâm, chẳng phải là tùy nghi mới gọi là người phước đức lớn nghe được việc lớn. Thứ hai là giải thích lời đáp. Phước lớn, việc lớn là bí tạng, là Như Lai Phật tánh, đây chẳng phải phân biệt với hạng Nhất-xiển-đề, vì hạng Nhất-xiển-đề há chẳng có bí tạng Phật tánh. Muốn nói danh tự Bồ-tát v.v… cho nên phân biệt Nhất-xiển-đề. Lấy chung tất cả các căn cơ khác là muốn nói về Bồ-tát lý tánh. Nếu không có nghóa Biệt, Viên của Thiên Thai thì làm sao giải thích được kinh. Từ câu “Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai chánh đáp câu hỏi, trước hỏi sau đáp. Đầu tiên là hỏi, chính là nêu lại lời thỉnh ở trên, có gần và xa: Xa thì nêu mười hai câu hỏi ở phần kệ trước, gần thì lời nói ở đầu phẩm. Từ câu v.v… trở xuống là phần đáp. Có hai là chánh đáp và phân biệt trừ Nhất-xiển-đề. Chánh đáp lại có hai: một, là nhờ kinh mà có mộng; hai là khen ngợi kinh. Nhờ kinh mà phát sinh điềm mộng, tức là trả lời bốn địa vị Bồ- tát, trừ một vị trước, bỏ một vị sau, chỉ đáp về bốn vị ở giữa. Vì sao? Vì Ca-diếp hỏi về nhân Bồ-đề, chính thức trả lời ý này, nên lược nêu bốn giai vị, trong đó được nghe kinh Niết-bàn là Bồ-tát danh tự, mộng thấy La-sát tỉnh giác phát tâm là nói Bồ-tát quán hạnh, nói đại Bồ-tát là Bồ- tát phần chứng. Giải thích văn như thế, rất dễ hiểu. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là nêu mười dụ, để phân biệt trừ Nhất-xiển-đề. Văn có bốn: Gồm một dụ mà song giản. Một dụ mà giản riêng. Bốn dụ mà song giản Bốn dụ mà giản riêng. Dụ thứ nhất trừ bỏ Nhất-xiển-đề, giữ lấy gốc lành nên gọi là song giản. Hư không dụ cho pháp thân, mây dụ cho ứng thân, mưa chớp dụ cho ứng thân nói pháp. Mặt đất, ruộng thấp, ao hồ dụ cho bốn giai vị Bồ-tát. Cây khô, núi đá, cao nguyên, gò đồi là dụ cho Nhất-xiển-đề chẳng tin nhận Phật pháp. Kế là một dụ, vì chỉ phân biệt Nhất xiển đề nên gọi là giản riêng. Thứ ba, gồm có bốn dụ. Dụ thứ nhất rất dễ hiểu. Trong dụ thứ hai nói hòa Dược vương thọ vào sáu loại như sữa, lạc v.v… Xưa giải thích rằng y theo kinh lập sáu quán hạnh. Nói thuốc bột là dụ cho văn xuôi nói rộng, thuốc viên dụ cho kệ tụng. Thoa lên vết thương là dụ cho văn tuệ, xông ướp là dụ cho tư tuệ, thoa mắt là dụ cho tu tuệ. Thấy dụ cho đọc, ngửi dụ cho tụng, rễ dụ cho nói thuyết, thân dụ cho lý, vỏ dụ cho văn từ, v.v… Khai Thiện nói chỉ có chín dụ, chẳng lấy một dụ kim cương sau cùng. Trong dụ thứ sáu nói về kim cương có nêu sừng dê trắng, Thích luận nói sừng dê núi. Từ câu “v.v…” trở xuống là đoạn hai của toàn phẩm. Nhưng trước trả lời về việc chưa phát tâm, tức là nói về nghóa sinh thiện. Kế là trả lời ba câu hỏi, thuộc về nghóa diệt ác. Sinh thiện diệt ác là con đường quan trọng của Bồ-đề, là nhân gần để đắc quả Phật. Ngài Ca-diếp vì các chúng sinh đời sau mà khai mở tầm nhìn của mắt, cho nên có câu hỏi này. Về diệt ác, có ba câu hỏi, tức là diệt ba chướng. Đầu tiên là đáp câu “Làm sao ở trước đại chúng mà không sợ hãi” là diệt nghiệp chướng; kế là đáp câu “Làm sao ở trong đời trược, chẳng nhiễm như hoa sen” là diệt báo chướng. Thứ ba là đáp câu “Làm sao đối với phiền não chẳng bị nhiễm ô” là diệt phiền não chướng. Nay nêu lên mười hai câu kệ để trả lời câu hỏi thứ nhất. Trong đó tám câu trước nói về sám hối diệt tội chướng; bốn câu kệ sau là nói về hộ pháp diệt tội chướng. Đó là bỏ nghiệp ác, tu công đức, sửa lỗi lầm. Nói chung về sám hối, gồm có mười ý. Nghóa là nghịch thuận mỗi trường hợp có mười ý. Như Biệt Ký đã ghi, trong đó sám hối và hộ pháp là hai. Trong phần sám hối có hai đoạn: một, là bài kệ đầu nêu điều sai; hai, là bài kệ kế hiển bày việc đúng. Đầu tiên là y cứ vào việc ác để nói về sám hối. Trước là nêu kệ hỏi, kế giải thích lời kệ để làm lời đáp. Theo kinh rất dễ hiểu. Nói “Việc này đáng sợ” tức là hủy báng chánh pháp; Ai đáng sợ hãi? Đó là người trí. Vì sao? Vì người phỉ báng chánh pháp, không có tâm lành và phương tiện. Đường nguy hiểm tức là các hành. Thứ hai, từ câu “Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là y cứ theo gốc lành để nói về sám hối, trước cũng nêu kệ hỏi. Ý nghóa bài kệ này thế nào? Kế là giải thích kệ làm lời đáp, có ba phần giải thích kệ. Thứ nhất nói thấy việc làm tức là hiện tại, kiếp sinh tử tức quá khứ, đến nơi chẳng đến tức vị lai. Nói sám hối tất cả nghiệp chướng trong ba đời. Kế là nêu điều lỗi, nói chẳng thấy việc đã làm tức là Nhất-xiển- đề. Từ câu “Nếu có Bồ-tát v.v…” trở xuống là nêu điều đúng. Thứ hai, Từ câu “ác không phải là thọ, v.v…” trở xuống là bài kệ thứ ba nói về hộ pháp diệt nghiệp. Vì năng lực hộ pháp rất lớn, diệt được nghiệp chướng, lại cảm được quả sống lâu và quyến thuộc chẳng chia lìa. Trước là nêu kệ hỏi, sau là đáp giải thích. Giải thích bài kệ này có bốn ý là nêu điều sai, nói điều phải, nêu lại điều sai, khen ngợi kinh. Hà Tây nói: Thời tiết ở Thiên Trúc nóng, sữa ngưng đọng trong thời gian rất ngắn thì thành lạc. Văn kinh muốn nói người ác chẳng thọ quả báo ngay, chẳng như sữa chóng thành lạc. Văn chẳng đặt chữ bất, nên chẳng cần thêm vì chữ bất ở trên là chung cho đoạn sau. Kế là, Từ câu “thí như sứ vua v.v…” trở xuống nói về việc lấy hộ pháp để diệt tội chướng. Trước nêu dụ sau là hợp. Vua dụ cho Phật, sứ giả dụ cho bốn y, giỏi bàn luận dụ, cho trí tuệ bên trong, khéo có phương tiện dụ cho bên ngoài giỏi nói pháp. Bên trong thì có thật trí, bên ngoài thì khéo nói pháp giáo hóa, người như thế có thể hộ pháp, làm lợi ích cho chúng sinh. Vâng mạng tức là truyền ý chỉ của Phật, đến nước khác là nhập vào sinh tử, dù mất mạng cũng không che giấu lời dạy tức khinh thân trọng pháp; bỏ thân để hoằng pháp. Hợp dụ rất dễ hiểu. Thứ ba, Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là nêu lại điều sai, lặp lại bài kệ ở trước. Thứ tư, là từ câu “Vì thế nên biết, v.v…” trở xuống là khen ngợi kinh. Trước khen ngợi diệt ác. Từ câu “Như hoa sen, v.v…” trở xuống là khen ngợi sinh điều thiện. Theo văn kinh rất dễ thấy. “Lại nữa, này người thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn ba của phẩm, trả lời câu “Làm sao trong đời ác, chẳng nhiễm như hoa sen” là một báo chướng. Văn có hai: một, là nêu dụ hoa sen làm chánh đáp; hai, là nêu dụ về gió để trợ đáp. Đây là giải thích báo chướng. Vì sao lại nói hóa sinh nơi bùn lầy, cho nên nói là sinh trong phiền não, ý chánh là ở báo chướng, rất dễ thấy. Từ câu “Thí như thầy thuốc, v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư của phẩm, trả lời câu “Làm sao đối với phiền não chẳng bị phiền não nhiễu loạn?” tức là đáp câu hỏi về phiền não chướng, gồm có mười bốn dụ. Trong đó, mười hai dụ trước là dụ cho giáo được nói, hai dụ sau là dụ cho người nói. Một, dụ thứ nhất là dụ cho giáo xưa, trước là dụ sau là hợp. Dụ cho giáo xưa, nói tám thứ thuốc là dụ cho tám chánh, lại nói năm môn như vô thường, bất tịnh, khổ, vô ngã, vắng lặng cộng với nhân duyên, từ bi, quán bất tịnh là tám môn. A-tát-xà không có phiên dịch, chỉ nói là bệnh không thể trị. Thầy thuốc dụ cho giáo nay, rất dễ hiểu. Thứ ba, như văn kinh ghi ở sau. Dụ thứ tư nói về sinh thiện và diệt ác, gồm có ba: Một, là nêu dụ; hai, là hỏi đáp phân biệt; ba, là nêu dụ. Thứ nhất có dụ và hợp. Xưa giải thích thổ là dụ cho sám hối tội hiện tại, hạ là dụ cho sám hối tội quá khứ. Chung cho sinh thiện và diệt ác là thuốc thoa thân; riêng trì giới diệt ác là thuốc nhỏ mũi; cầu lý là xông ướp; thọ trì văn kinh là thuốc tẩy; thọ trì kệ tụng là thuốc viên; thọ trì văn xuôi là thuốc tán. Hưng Hoàng chia thành tám câu. Bốn câu đầu dụ cho vô thường của giáo xưa. Thổ dụ cho khổ, Hạ dụ cho vô thường, thuốc thoa thân dụ cho vô ngã, thuốc nhỏ mũi dụ cho bất tịnh. Bốn câu sau dụ cho giáo nay. Đức thường dụ cho thuốc xông, đức tịnh dụ cho thuốc rửa, đức lạc dụ cho thuốc viên, đức ngã dụ cho thuốc bột. “Người ngu si chẳng chịu uống, thầy thuốc bèn dắt về nhà”ø, xưa giải thích rằng: Chúng sinh điên đảo, không ưa thích giáo, chẳng thọ nhận, nên nói chẳng chịu dùng. Dắt về nhà là chỉ cho khổ báo trong ba đường là nơi chốn gây ra tội lỗi. Hưng Hoàng cho rằng một lần nói chẳng thọ nhận thì lại nói một lần nữa. Nay giải thích rằng từ bi là ngôi nhà của bậc thánh, khởi từ tâm vì họ giảng nói, nên nói là dắt về nhà. [Nói “người nữ sinh sản”, xưa cho rằng người nữ dụ cho sinh ra điều lành; Xà-lâu, Hán dịch là nhu y; đứa trẻ (nhi) dụ cho thường, y dụ cho phiền não, phiền não khó dứt bỏ nên gọi là xà-lâu chẳng ra. Hưng Hoàng nói người nữ dụ cho Bồ-tát, sinh sản dụ cho chánh quán, y dụ cho hai giáo thường và vô thường. Lá nhau bao bọc đứa bé, như đứa bé ra, lá nhau cũng phải ra, nếu lá nhau chẳng ra thì đó là đại hoạn. Giáo thường và vô thường vốn sinh ra Trung quán, nếu quán giải thành, thì giáo này phải dứt bỏ, nếu chẳng bỏ thì trở thành bệnh. Sau là hợp hai dụ, rất dễ hiểu. Kế là phân biệt. Trước hỏi, sau Đức Phật đáp rất dễ hiểu. Thứ ba, Từ câu “Như đứa trẻ kia v.v…” trở xuống là nêu thêm dụ để giải thích lại ý trước. Chánh quán dần dần thêm lớn dụ như đứa trẻ dần dần khôn lớn. Trước nhờ giáo sinh giải, nên nói là thầy thuốc rất giỏi. Thuốc và bệnh khác nhau nên nói là biết rõ. Khi chưa nghe kinh này, tất cả chúng sinh thường sống trong vô minh, cho nên nói là ta vốn khi còn ở trong thai. Nói ban thuốc cho mẹ ta, mẹ là dụ cho kinh giáo, thuốc dụ cho vô thường và thường đối trị lẫn nhau. Bệnh hết giải sinh nên nói là được an ổn. Tâm mê hoặc đã dứt, lại khen ngợi giáo, nên nói kỳ lạ thay. Mười tháng có hai cách giải, hoặc cho mười sử ngăn che, hoặc nói là thập địa tròn đầy. Nói nhường khô nằm ướt, xưa nói mạn là khô, ái là ướt. Hưng Hoàng cho rằng Nhị thừa là khô, phàm phu là ướt. Dọn dẹp chất bất tịnh, xưa nói là dứt vô minh. Hưng Hoàng nói là dẹp bỏ điên đảo đoạn thường, dung nạp Trung đạo, nên nói là nuôi dưỡng thân ta. Từ câu “Phạm bốn trọng cấm v.v…” trở xuống là hợp dụ, rất dễ hiểu. Từ câu “Thí như thầy thuốc v.v…” trở xuống là dụ thứ năm. Có nhiều cách giải thích khác nhau về đoạn văn này: một, là nói thầy thuốc dụ cho Phật, con của thầy thuốc dụ cho Bồ-tát, thuốc dụ cho kinh giáo; hai, là nói thầy thuốc dụ chung cho các giáo, con thầy thuốc dụ cho giữ giới diệt tội, rắn độc dụ cho phỉ báng chánh pháp, rắn giống rồng, phỉ báng chánh pháp tựa như Nhất-xiển-đề. Rồng dụ cho năm tội nghịch, rít dụ cho bốn trọng cấm; thuốc hay dụ cho lý, thoa trên giày dép dụ cho giáo, chạm thuốc độc dụ cho việc phá tâm phỉ báng pháp. Lại nói giày dép là vật thấp kém dụ cho tâm bất thiện, bất thiện được điều phục thì phá được các ác độc. Từ câu “Thí như có người v.v…” trở xuống là dụ thứ sáu. Người dụ cho Phật, thuốc độc dụ cho giáo nay, thoa lên mặt trống dụ cho giáo xưa. Lại nói người dụ cho kinh này tuy không có tâm muốn nghe, bỗng nhiên được nghe, sẽ dứt được hoặc. Từ câu “Thí như ban đêm v.v…” trở xuống là dụ thứ bảy. Giáo xưa như đêm tối, giáo nay dụ cho trời sáng. Từ câu “Giống như mưa lớn v.v…” trở xuống là dụ thứ tám. Nói tám mươi có ba cách giải: một, là nên nói tám ngàn, như trong phẩm Trì nói tám ngàn vị được thọ ký, vì người dịch kinh lầm lẫn nên chỉ nói tám mươi; hai, là bản Phạm chỉ nói tám mươi người được thọ ký, văn kinh đó chưa truyền đến Trung Quốc nên nói là không; ba, là đây chẳng phải số lượng tất cả mà chỉ tính số lượng các vị Thanh văn tuổi cao, gặp hội Pháp Hoa mới được tin hiểu. Hai cách giải thích sau chẳng nên sử dụng. Vì nếu nhất định lấy tám mươi làm số lượng thì số này quá nhỏ, không bao gồm các vị được thọ ký. Nếu nhất định là các vị tuổi cao, thì cần gì nói có hơn có kém. Vì thế chẳng nên sử dụng. Từ câu “Mùa thu thì thâu hoạch v.v…” trở xuống là dụ thứ chín. Tuy chẳng phải là dụ chính cho giáo, nhưng cũng cần dựa vào giáo mà được thâu giữ. Từ câu “Thí như thầy thuốc, v.v…” trở xuống là dụ thứ mười. Thầy thuốc dụ cho kinh này, Sứ dụ cho người mở mang, đây là chương cú nói về diệt tội sinh phước. Con của người khác, tức xưa là con Phật, vì gây ra bốn trọng cấm, năm tội nghịch, nên thành con của người khác. Bị phi nhân làm hại là dụ cho ngoại đạo dụ dẫn. Nếu người chậm trễ ta sẽ tự đi: là dụ cho người mở mang kinh chẳng hợp duyên giáo hóa, Phật tự hành giáo hoá. Lại nói chậm trễ là dụ cho sai cơ, nếu đạt được lý là dụ cho tự ta đi đến. Từ câu “Thí như người điếc v.v…” trở xuống là dụ thứ mười một. Từ câu “thí như thầy thuốc, v.v…” trở xuống là dụ thứ mười hai. Vua dụ cho chúng sinh phạm tội, người sẽ chết dụ cho người rơi vào đường ác. Vua chẳng tin dụ cho người chẳng thọ giáo này, chẳng thấy trong bụng là chẳng thấy vị lai, thuốc xổ dụ cho sám hối tội xưa, vua chẳng chịu uống dụ cho chúng sinh chẳng chịu sám hối. Dùng chú thuật làm cho chỗ kín nổi ung nhọt là dụ cho năng lực của kinh này làm cho trong mộng thấy đọa vào địa ngục. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống gồm có hai dụ, là phần thứ nhất nói về người thuyết giáo, văn có hai: dụ trước nói chủ của giáo xưa, dụ sau nói chủ của giáo nay. Mười hai dụ ở trên cũng giống như thế, dụ thứ nhất là dụ cho các giáo xưa, mười một dụ còn lại là dụ cho giáo nay. Dụ giáo xưa nói tám thuật, giáo nay nói hơn tám thuật. Văn sau hợp dụ, đều dùng Phật và Bồ-tát để hợp. Cho nên biết dụ cho giáo chủ của xưa và nay. Từ câu “Thí như thuyền lớn v.v…” trở xuống là phần thứ năm của phẩm, trả lời câu “Làm sao trong biển sinh tử, làm người lái thuyền giỏi” ở trước. Trước trả lời trừ chướng, chỉ tự cởi mở trói buộc, nay trả lời thuyền sư là cởi mở trói buộc cho người, trước khi tu nhân là nhờ vào kinh mà đạt được năng lực tự hành; nay là lúc đạt quả nhờ vào kinh mà có năng lực hóa tha. Trước là năng lực Pháp thân thiện tuệ, nay là năng lực Ứng thân ứng hiện. Văn gồm bốn dụ; hai dụ trước là chánh đáp, hai dụ sau là khen ngợi kinh giúp đáp. Đầu tiên nói về thuyền, chưa nói đến thuyền sư, và những người được độ. Thuyền dụ cho Niết-bàn, thuyền sư dụ cho chủ giáo hóa, người được độ tức người được sự giáo hóa. Hai dụ về gió và gió lớn đều khen ngợi kinh này, theo văn rất dễ thấy. Từ câu “Như rắn thay da v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ sáu là ứng hiện. Câu hỏi: Làm sao xả bỏ sinh tử như rắn thay da? Ở đây lại nêu dụ về rắn làm câu trả lời. Có hai dụ: dụ thứ nhất là thí dụ rắn làm chánh đáp, thứ hai dụ thợ vàng là trợ đáp. Rắn dụ cho một phương ứng hiện đến, thợ kim hoàn là dụ cho nơi nơi ứng đến, chốn chốn thị hiện đi. Từ câu “cây Am-la, v.v…” trở xuống là đoạn thứ bảy của phẩm, trả lời câu “làm sao quán Tam bảo, giống như cây Thiện ý”. Nay lại nêu lên loại cây ở nhân gian làm lời đáp. Cây cõi trời, tùy các vị trời muốn thấy hoa quả dài ngắn thì thuận theo ý của họ mà hiện, dụ cho việc Đức Phật ứng hợp cơ duyên, đáng hiện sinh nơi cung vua, đáng thị hiện diệt độ nơi Ta-la, v.v… cây ở cõi người ba mùa khô tươi khác nhau, lấy đó làm dụ thì thuận tiện, nhưng cũng chẳng nên chấp. Văn có năm đoạn: Nói về Phật có ba thân khác nhau. Nói về mật ngữ của Như Lai. Nói về hưng suy. Khuyên lập chí trượng phu. Nói về khởi diệt. Ba đoạn trước nói về Tam bảo, trong đó thân Phật là Phật bảo, mật ngữ là Pháp bảo, hưng suy là Tăng bảo. Nhưng Tam bảo lại có hai: một, nhất thể; hai, biệt thể, đều y cứ theo nhân quả. Phật là người đã chứng quả, Tăng là người còn ở nhân. Trong đó nói: “Tăng có hưng suy” tức là biệt thể. Đầu tiên dụ cho thân Phật có ba phần là dụ, hợp và lãnh giải. Theo văn rất dễ hiểu. Kế là, Từ câu “này người thiện nam, v.v…” trở xuống là nói về Pháp bảo. Văn có bốn là pháp, dụ, hợp và kết. Trang Nghiêm nói rằng: “Mật ngữ là tên chung của Niết-bàn, chẳng thể dịch thành tên riêng. Như bốn phi thường từ Đại thừa mà nêu ra, một vô thường có đủ bốn nghóa, mỗi nghóa đều có ý riêng. Nay nhờ một việc mà nói về mật ngữ, tức Đức Phật chỉ nói một mà đầy đủ bốn nghóa. Như nói câu hữu, tức đủ các câu vô, vừa hữu vừa vô, chẳng phải hữu, chẳng phải vô. Nếu chỉ biết câu hữu thì chẳng gọi là vị quan thông minh. Ở đây hợp với nghóa bốn giáo. Như Phật nói sinh diệt, tức chẳng sinh diệt, tức vừa sinh diệt vừa chẳng sinh diệt, tức chẳng sinh diệt chẳng phải chẳng sinh diệt. Nếu chỉ hiểu sinh diệt của Ba tạng, thì chẳng phải là vị quan thông minh. Lại hợp với bốn môn, từ hữu môn cho đến phi hữu phi vô môn v.v… cũng như thế. Kinh Niết-bàn bản sáu quyển lập dụ khác với ở đây, trong đó nghóa thứ ba là thanh kiếm, nghóa thứ tư là thau dùng để tắm rửa. Thứ ba là hợp dụ, trước hợp với vô thường, sau hợp với Thường. Văn đầu tiên nói đủ bốn Vô thường, hợp với bốn câu. Từ câu “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là hợp với giáo thường. Cũng nói bốn pháp mà chẳng đối đãi với đoạn trước. Đầu tiên nói về bất động, kế đến nói vô tướng, thứ ba nói thường trụ bất biến, thứ tư nói Phật tánh, tuy nói có bốn pháp mà chỉ là một Niết-bàn, như bốn câu mà chỉ là một Tiên-đà-bà. Thứ tư, từ câu “Các Tỳ-kheo v.v…” trở xuống là phần tổng kết, y theo văn kinh rất dễ hiểu. Thứ ba, từ câu “Như cây Ba-la-xa v.v…” trở xuống là nói về tướng suy của hai ngôi báu. Có ba: Nói về kinh không có oai đức, tức Pháp suy; Tỳ-kheo khởi lỗi lầm tức Tăng suy. Chỉ dạy kỹ về mở mang truyền bá kinh, tức là nói về hai ngôi báu. Văn thứ nhất trước là dụ, sau là hợp. Cây thuốc gặp trời mưa mới có công năng chữa bệnh, nếu gặp lúc khô hạn cây thuốc sẽ chết, không cò công năng chữa bệnh. Chánh pháp cũng như thế, nếu có đệ tử tài trí mở mang truyền bá pháp này, phá dẹp các điên đảo; nếu gặp các Tỳ-kheo, tội ác thì chánh pháp sẽ diệt. Thứ hai, là từ câu “Chánh pháp của Như Lai v.…” trở xuống là nói Tỳ-kheo sinh khởi lỗi lầm, tức Tăng suy. Do những người ác ở đời mạt pháp lười biếng, tạo nhiều việc ác khiến cho Tăng suy. Thứ ba, từ câu “Thí như cô gái chăn bò v.v…” trở xuống là chỉ dạy kỹ về mở mang truyền bá kinh. Bảo người tốt hộ trì; do người sinh khởi lỗi lầm làm cho hủy hoại Pháp và Tăng. Trước là dụ, sau là hợp. Về dụ này, các sư xưa giải thích rằng: Vốn chỉ có một đấu sữa, đầu tiên thêm hai phần nước, tức thêm hai phần đấu thành ba đấu, kế là thêm sáu đấu thành chín đấu, kế thêm hai phần nữa là mười tám đấu, thành hai mươi bảy đấu, lại thêm hai phần nữa thành tám hộc một đấu. Có người giải rằng: Chẳng phải như thế, vốn chỉ một đấu, đầu tiên hai phần là thành ba, thêm hai phần thành năm, thêm hai phần thành bảy, thêm hai phần thành chín. Hợp dụ có bảy câu, trước nói bốn lần thêm nước là dụ cho người dịch thêm vào, sau chính là dụ cho người mở mang chánh pháp; người nữ chăn bò dụ cho người mở mang kinh; tánh người nữ tà vạy dụ cho việc người mở mang kinh chẳng thể quên mất tâm vì pháp mà cầu lợi lộc bất chánh, vì thế dụ như người nữ. Lần thứ hai thêm hai phần, lần thứ nhất là lược bỏ các lời sâu xa mầu nhiệm, thứ hai là thêm vào văn từ thế gian. Lần thêm hai phần thứ ba: thứ nhất là chép phần trước ra phía sau, thứ hai đem phía sau đặt ra phía trước. Lầm thêm hai phần thứ tư là đem đoạn trước, đoạn sau đặt vào giữa, đem đoạn giữa đặt phía trước, phía sau. Có người cho rằng lần thứ tư thêm hai phần, một là nói chỗ ngăn che được khai mở, hai là chỗ khai mở thì ngăn che. Từ câu “Bây giờ có nhiều người ác v.v…” trở xuống là hợp với lần thêm thứ ba. Từ câu “Các người ác có đọc tụng v.v…” trở xuống là hợp với lần thêm thứ tư. Dụ thứ năm nói thọ học tức là cầu pháp: nói vì con cưới vợ, đãi khách”. Các sư xưa giải thích rằng: “Con” dụ cho kiến thường giải, “vợ” dụ cho cảnh thường, “khách” dụ cho các tri kiến khác. Lại “con” dụ cho thật trí Trung quán, “vợ” dụ cho thầy trò kế thừa khác nhau. Người thế gian vì muốn đời sau có người nối dòng nên cưới vợ, dụ cho việc muốn sự giáo hóa chẳng dứt, nên thầy truyền trao cho trò. Nói “Cần muốn gấp sữa này” là dụ cho người cầu pháp, mong mau được tri giải. “Đến chợ mua” dụ cho việc đến giảng đường cầu pháp. “Người bán sữa” là dụ thứ sáu nói người mở mang kinh vì mong cầu lợi dưỡng. Dụ thứ bảy ghi: “Người này nói rằng” tức là dụ cho người nghe pháp phân biệt rõ được nghóa sâu cạn. Nói “Ta gấp đãi khách” là dụ cho việc người nghe pháp nói rằng “Vì không nghe gì mà đến nơi này”. “Mua rồi đem về nhà” là dụ cho việc nghe rồi khởi quán, biết tất cả đều không. Nói “Còn hơn ngàn lần” là dụ cho việc tuy không được yếu chỉ sâu xa, nhưng cũng còn là Đại thừa, hơn kinh diển tiểu thừa gấp bội. Thứ hai, từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là hợp đủ với bảy ý trên. Đại sư Thiên Thai giải thích rằng: Cô gái chăn bò dụ cho Phật, sữa nguyên chất dụ cho Pháp Niết-bàn. Đức Phật muốn nói pháp này nhưng pháp chẳng thể nói, muốn nói phải y cứ theo đế, đó là Nhị đế, nên nói là thêm hai phần nước. Còn các cô gái chăn bò khác là dụ cho các Bồ- tát soạn luận giải kinh. Vì kinh khó hiểu nên soạn Ưu-ba-đề-xá để trình bày giáo Nhị đế, đây là lần thứ hai thêm nước. Cô gái gần thành là dụ cho các sư truyền kinh, vì luận khó hiểu nên soạn nghóa sớ để giải thích luận, đây là lần thêm thứ ba. Người nữ trong thành dụ cho người thọ học, vì sớ khó hiểu nên soạn ký để giải thích sớ, là lần thêm nước thứ tư. Văn kinh lấy nghóa Tỳ-kheo đời ác trược sao lược chia thành nhiều phần mà hợp với lần thêm nước thứ nhất, chẳng lấy Như Lai vì duyên nói pháp; duyên thích sao lược là y cứ theo Nhị đế mà phân biệt. Phật hợp với sở duyên đầy đủ; người trí hợp với năng duyên đầy đủ thì cũng trái với kinh. Trong lần hợp thứ hai có nói: “Ẩn giấu lời sâu xa bí mật” là dường như soạn luận giải thích kinh. Từ câu “Lại nữa, này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư khuyên lập chí trượng phu, có hai: Khuyên. Thọ lãnh, hiểu rõ. Phần đầu lại có hai: Khinh chê thân nữ. Xếp vào thân nam. Từ câu “Vì sao? v.v…” trở xuống là sắp xếp. Kinh nêu ra hai câu, nếu nói rộng sẽ thành bốn câu. Từ câu “Như con v.v…” trở xuống là đoạn thứ năm nói về Đại pháp khởi diệt, kế là nói về khởi diệt, thứ nhất gồm có dụ và hợp. Vào đời ác trược thì nhiều người ác, ít người mở mang truyền bá kinh này, như nước tiểu của con ve kia không cứu được khô hạn. Từ câu “Thí như hết mùa Hạ thì sang Thu v.v…” trở xuống là nói chung về khởi diệt. Từ câu “Bấy giờ, Văn-thù v.v…” trở xuống là phần thứ tám, trả lời câu hỏi “Nếu ba Thừa vô tánh”. Văn có hai: Giải thích kệ nghi, đồng thời bác bỏ câu hỏi trên. Ca-diếp nói về nghóa làm chánh đáp. Văn thứ nhất có năm câu: Ngài Văn-thù nêu Thuần-đà có điều nghi. Như Lai đồng ý giải đáp. Ngài Văn-thù nêu ra điều nghi. Như Lai giải thích. Ngài Văn-thù nhận lãnh hiểu rõ. Nhưng đây là trả lời câu hỏi, đâu thể bỗng nhiên nêu tâm nghi. Nghi tự mình còn chẳng quyết định được hay sao mà lại bảo người khác nêu. Hà Tây cho rằng Bồ-tát Văn-thù là bậc Đại só du phương, thường giúp đỡ Đức Thích-ca, là bậc Thượng tọa trong chúng, thường làm chủ khải phát. Vì thế nêu lên nghi ngờ. Bậc Thánh thì không còn ta, người, chỉ vì lợi ích chúng sinh huống chi là hai vị bạn thân, nên nêu nghi đâu có gì hại. Thuần-đà từ đâu mà sinh nghi? Trước lập năm câu hỏi, trong lời Đức Phật đáp rằng: Chưa thấy tánh là Vô thường, thấy tánh là Thường. Như Lai thọ trai xong nhập Tam-muội kim cương, cơm này tiêu rồi thì thấy Phật tánh, được Tam-Bồ-đề. Như thế Thường này tức vốn không nay mới có, có rồi lại thành không, thì thành vô thường, nên biết Như Lai chẳng phải Thường, vì sao lại nói là gồm đáp ngài Ca-diếp hỏi: “Nếu Ba thừa vô tánh, làm sao có ba thừa khác nhau?” Nay nêu bài kệ để nói về khác nhau và không khác nhau, nên được nói là gồm đáp câu hỏi. Lời hỏi của ngài Ca-diếp ngầm hợp với lý. Nếu Ba thừa đồng với tánh Nhất thừa, thì đâu thể nói là ba hạng khác nhau. Nếu nói Ba thừa hoàn toàn chưa có tánh Nhất thừa, thì sao lại nói là có. Nếu nêu kệ đáp thì sai và chẳng sai đều dứt bỏ, đó là ý gồm đáp. Nhưng Thuần-đà và Phật nói về nghóa chưa thấy tánh là Vô thường, thấy tánh là Thường. Bấy giờ, có ba hạng căn cơ giải ngộ, bậc Thượng căn ngộ ở phẩm Ai Thán; hàng Trung căn ngộ ở phẩm Ca-diếp Vấn; người hạ căn chưa được giải ngộ. Nay ngài Văn-thù lại vì những người này mà thưa hỏi. Bài kệ này có bốn lần nêu lên: Nêu ở phẩm này. Nêu ở phẩm Phạm hạnh. Nêu ở phẩm hai mươi lăm. Nêu ở phẩm hai mươi sáu. Đại ý ở bốn phần này đều đồng mà duyên thì khác. Trong phẩm này là giải thích nghóa khác nhau không khác nhau; trong phẩm Phạm Hạnh giải thích Sở đắc và Vô sở đắc; phẩm hai mươi lăm giải thích ng- hóa Trung đạo hữu chẳng nhất định là hữu, vô chẳng nhất định vô, chẳng phải hữu chẳng phải vô. Phẩm hai mươi sáu giải thích nghóa pháp định tánh nói vô tánh. Bốn việc này cũng là ba căn cơ hạ phẩm. Các Luận sư Thành Thật nói rằng: Kim cương tâm chưa phải là Thường. Hậu tâm mới là Thường. Vô thường thì xưa có nay không, thường thì xưa không nay có. Đây chính là giải thích điều nghi của Thuần-đà, chẳng liên quan đến ý bài kệ, vả lại giải thích xưa có là xưa có phiền não, đây là xưa của ngày xưa; nói nay không tức nay không có Bát-nhã, đây là nay của ngày xưa, đều là xưa có nay không của trước vị Kim cương tâm. Nói “Ba thời có pháp chẳng có việc này”, tức là y cứ theo quả Phật thường trụ sau Kim cương tâm, chẳng thuộc ba đời, cho nên nói “chẳng có việc này”. Lại nói hai câu kệ trên chẳng khác với trước, mà nói người ba thừa cùng vào Niết-bàn vô dư, cho nên nói “Ba đời có pháp là chẳng có việc ấy”. Lại giải thích rằng: Xưa có phiền não, nay không có phiền não, chẳng thuộc về ba đời; xưa không có Niết-bàn, nay có Niết-bàn, cũng chẳng thuộc ba đời. Sự giải thích của các sư chẳng thể dứt nghi tâm của Thuần-đà. Đó chỉ là vì xưa các thầy đã vô thường nay cũng vô thường, xưa chưa được thường, nay mới được thường. Xưa không nay có, thì thuộc về ba đời. Mối nghi rõ ràng đâu có liên quan đến ý bài kệ. Các sư Địa luận cho rằng pháp Thường chẳng phải mới được. Xưa nay đầy đủ thể dụng, bị vọng hoặc che lấp, về sau mới hiển. Nếu thế thì trước ẩn sau hiển, cũng có thể nói hiển rồi lại ẩn; cũng có thể nói đã hiển mà chẳng ẩn, thì ẩn cũng có thể chẳng hiển. Tam tạng Pháp sư cho rằng sinh tử có không có bắt đầu nhưng có cuối cùng, Niết-bàn có bắt đầu mà không có cuối cùng. Hôm nay mới được cho nên nói có bắt đầu. Đã một lần được thì xong việc hẳn, nên nói không có cuối cùng. Người giải thích như thế lại đồng với các sư Địa luận. Tiểu thừa cũng có thể nói như thế, hoặc diệt đạo còn xưa không nay có, đều là vô thường. Người lập thuyết này y cứ theo các sư xưa, không tránh được lời vặn hỏi của Thuần-đà. Hưng Hoàng cho rằng ý vặn hỏi của Ca-diếp là nói Ba thừa, mỗi thừa đều được Niết-bàn, vì sao lại đồng một Phật tánh, lẽ ra là cùng đồng một Phật thừa. Đức Phật trả lời Ba thừa chỉ một Phật tánh, xưa ngay nơi một mà ba, nay nói ba là một, đâu thể nói Ba thừa trước kia vô tánh, mà nay mới có tánh, chỉ tùy duyên mà nói có khác. Xưa chưa ngộ thì xưa có nay không. Nay mới ngộ thì xưa không nay có. Thí như Phật Đăng Vương Đa Bảo ở quá khứ, là xưa có nay không; Phật Di-lặc ở vị lai là xưa không nay có, đó cũng là hiện tại đến quá khứ, hiện tại đến vị lai. Đây cũng thuộc ý nửa trên của bài kệ. Đến khi nói về Phật tánh đâu có liên quan gì đến có không và nay xưa, tức là ý nửa sau bài kệ. Lại chê trách các lời giải thích khác rằng: Có ba để lập ba thì thành khác nhau, nếu không khác nhau thì mất đi sự khác nhau. Khai một thành ba thì mất đi một, hợp ba thành một thì mất đi ba. Nay nói chẳng phải như thế mà vì xưa ba còn là một của nay, một của nay là ba của giáo xưa. Khai thành ba thì mất một, hợp thành một thì mất ba, là khác nhau tức không khác nhau, không khác nhau tức khác nhau. Nếu hiểu ý này thì câu “xưa có nay không, ba đời có pháp thì không có viêïc ấy” cũng có thể nói “xưa có nay không, ba đời có pháp thì thật có viêïc ấy”. Vô thường và thường, cảnh trí chẳng phải cảnh trí, nhân quả chẳng phải nhân quả, cũng ví dụ như thế. Vả lại nói “Xưa có chỉ là có, nay không chỉ là không”. Lại nói nửa trên bài kệ là có, nửa dưới bài kệ là không. Câu “Chẳng có việc này” là chẳng phải có chẳng phải không. Xưa không nay có cũng ví như thế. Nhưng Hưng Hoàng dùng Phật tánh đồng nhất là xưa có, mới ngộ là nay không để giải thích. Dùng Phật tánh chẳng nay chẳng xưa để giải thích nửa bài kệ sau, rồi nói đây là nghóa khác nhau, không khác nhau. Đây là chia văn thành hai dòng, nghóa không quan hệ nhau. Nay chẳng nói như thế, chỉ y cứ một câu mà nói khác nhau tức không khác nhau, không khác nhau tức khác nhau, một đế tức ba Đế, nên nói xưa có; Ba đế nói một đế nên nói nay không. Tức là ba, một chẳng phải ba, một. Nên nói “Ba đời có pháp thì không có việc ấy” như thế xoay vần nhau chẳng lìa. Đó mới là khác nhau tức không khác nhau, không khác nhau tức khác nhau. Cho nên dứt hết các câu hỏi cho Ca- diếp, không còn dư thừa. Cũng là dùng thường tức vô thường, vô thường tức là thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường để giải thích mối nghi của Thuần-đà. Mây tạnh, băng tan, trí ngộ cũng như thế. Ngộ một tức ba là xưa có, ngộ ba tức một là nay không, ngộ ba, một chẳng phải ba, một gọi là “không có việc ấy”. Như thế thì lời hỏi nào chẳng dẹp, tâm nghi nào chẳng dứt. Cho nên xưa có thì một có tất cả có, Là Thế giới Tất-đàn; nay không là một không tất cả không là Đối trị Tất- đàn; tất cả vừa có vừa không tức là Vị nhân Tất-đàn. “Ba đời có pháp, thì chẳng có việc ấy” là Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Nay một Tất-đàn tức bốn Tất-đàn, mới dứt được câu hỏi giải thích mối nghi. Nói thêm rằng: Nếu nghi nạn của hai người đều trừ dẹp, đều giải thích, thế thì vật cơ dung hợp, thể hội được xưa có tức hữu cú hữu môn, nay không tức vô cú vô môn; Thanh văn, Duyên giác vừa khác nhau vừa không khác nhau, tức câu vừa hữu vừa vô, môn vừa hữu vừa vô. “Ba đời có pháp, thì không có việc ấy” tức câu phi hữu phi vô, bốn và một tức nhau, đó mới là dứt vặn hỏi giải điều nghi. Các Sư Trung Quán có ba lời giải thích: một, là ba câu trên nêu ra những điều sai, trừ tánh hữu tánh vô, một câu sau kết luận không có việc ấy. Hai, là xưa vốn có tức chẳng có, có này có thể khiến thành vô; xưa vô tức chẳng vô, vô này có thể khiến thành hữu. Hữu này chẳng phải hữu cho nên phi hữu, vô này chẳng vô nên phi vô, phi hữu phi vô nên nói chẳng thuộc ba đời. Ba, là cho rằng hai câu đầu nói không khác nhau mà khác nhau, hai câu sau nói khác nhau mà không khác nhau. Giải thích điều này có hai nghóa: một, là đương thể; hai, là vì duyên. Đương thể tức là pháp thân bản địa cho nên không khác nhau; vì duyên nên có ba thừa khác nhau. Lại giải thích xưa có nay không, tức là chẳng có xưa của nay, xưa này chẳng phải nay, tức là chẳng phải xưa của nay. Xưa không có nay có tức chẳng có nay của xưa, nay này chẳng phải xưa, tức là chẳng phải nay của xưa. Cho nên chẳng thuộc các đời. Đại ý cách giải thích này rất dễ hiểu. Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai chánh thức đáp câu hỏi trên. Có bốn: Nói không khác nhau. Nói có khác nhau. Lãnh thọ cả hai nghóa. Nói lại về có khác nhau. Đầu tiên có hỏi và đáp, lời hỏi như văn kinh ghi. Lời đáp có hai dụ, dụ trước nói về nghe kinh tin hiểu, dụ sau nói chứng biết. Trong dụ trước lại có hai là lập dụ và hợp dụ. Trong lập dụ lại có ba: Đầu tiên dụ về chúng sinh đều có Phật tánh, kế là dụ về đặt nghi ngờ, sau cùng là dụ về giải ngộ. Trưởng giả hoặc dụ cho Phật, hoặc dụ cho chúng sinh, đàn bò dụ cho sáu đường, màu lông khác dụ cho muôn loài chúng sinh khác nhau trong sáu đường. Một người chăn dắt dụ cho người có tín tâm, hoặc nói dụ cho Bồ-tát mở mang kinh điển giáo hóa chúng sinh. Vì việc cúng tế là dụ cho người mở rộng kinh điển báo ân Phật. Vắt hết sữa cho vào một cái thùng là dụ cho việc quán chúng sinh đồng một tánh Trung đạo. Màu trắng dụ cho lý tánh thanh tịnh. Từ câu “Liền kinh ngạc v.v…” trở xuống là dụ về nghi ngờ. Liền sinh kinh ngạc, v.v… trở xuống là trách câu hỏi của ngài Ca- diếp, chúng sinh đã khác, Phật tánh há là một hay sao? Thứ ba, từ câu “Người này nghó rằng v.v…” trở xuống là thí dụ về giải ngộ. Do nghiệp báo của chúng sinh mà sữa chỉ có một màu, cho nên biết được tánh chân nhân của chúng sinh tức là một Trung đạo. Kế là hợp dụ, lại hợp với ba ý trên. Thứ nhất là hợp với ý đồng một Phật tánh. Từ câu “Mà các chúng sinh” v.v… trở xuống là hợp với ý nghóa nghi ngờ. Từ câu “Các chúng sinh này v.v…” trở xuống là hợp với giải ngộ. Kế là từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là dụ về chứng biết. Trước là dụ sau là hợp, y theo văn rất dễ hiểu. Từ câu “Ca-diếp v.v…” là phần thứ hai nói về có khác nhau, có hai phen hỏi đáp. Đầu tiên là hỏi ba thừa đồng một Phật tánh, cho nên đồng với Niết-bàn thường trụ của Như Lai, lẽ ra chẳng phải thân diệt trí đoạn, kh- iến cho cả ba khác nhau. Văn nói: “Chẳng đồng với Niết-bàn của Như Lai”. Có bản ghi: “Chẳng đồng với Niết-bàn của Như Lai mà chẳng Bát-niết-bàn”. Hai câu này đồng nghóa. Vì “bát” tức là đồng chứng thường trụ, chẳng “bát” tức thường trụ bất biến, không hề chứng nhập. Ý Phật đáp là người biếng nhác nên nói ba thừa, thật ra đồng nhất Bát-niết-bàn với Như Lai. “Nếu thế gian không có Phật”, đây là lời giả thiết, chứ thật chẳng phải như thế. Vì vậy thật không có Nhị thừa được Niết-bàn. Phật không ra đời thì có Nhị thừa được hai Niết-bàn, nếu Phật ra đời thì đồng với Như Lai, được một Niết-bàn. Phen hỏi đáp thứ hai, như văn kinh ghi. Từ câu “Ca-diếp nói v.v…” trở xuống là phần thứ ba thọ lãnh, tin hiểu. Từ câu “Ca-diếp nói v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói lại về khác nhau. Có ba ý. Thứ nhất và thứ hai là hỏi đáp, đối với không khác nhau Phật vẫn đáp khác nhau. Thứ ba là từ câu “Ca-diếp lại hỏi v.v…” trở xuống là nêu ý thưa hỏi. Đã nói Phật tánh của Thanh văn cao siêu hơn, vì sao phàm phu được thọ ký thành Phật trước. Ý Phật trả lời là chẳng phải do Phật tánh, nên trước phát nguyện mau thành, thì mau được thọ ký. Từ câu “Lại bạch v.v…” trở xuống là đoạn thứ chín trong phẩm, trả lời câu “Vì sao các Bồ-tát chẳng phá hoại đại chúng?” Là Ca-diếp lặp lại câu hỏi để xin đáp. Đức Phật nói việc hộ pháp để làm lời đáp. Từ câu “Ca-diếp bạch rằng v.v…” trở xuống là đoạn thứ mười của phẩm, trả lời câu “Làm sao làm mắt sáng dẫn đường cho kẻ mù bẩm sinh” ở trên. Trước nêu môi miệng khô cháy, tức là nghóa mù bẩm sinh. Trước là Phật đáp về miệng, mất vị, kế là nói về mù bẩm sinh. Nói miệng mất vị, tức chẳng biết vị Tam bảo thường trụ. Miệng mất vị tức là mù bẩm sinh. Nếu chấp nhất định là có nhưng xem xét tìm kiếm thì tức là vô. Vì mù nên chẳng biết, nói chẳng biết tay chân là chẳng biết Phật tánh trong thân. Từ câu “Lại nữa, Như Lai v.v…” trở xuống là đoạn mười một của phẩm trả lời câu “làm sao hiện nhiều đầu” ở trên. Phật đáp, Như Lai thị hiện các thân hình, tức là nhiều đầu; nói các thứ pháp tức là nhiều lưỡi, v.v… Từ câu “Như người sinh con, v.v…” là đoạn mười hai của phẩm, trả lời câu “Làm sao người nói pháp được tăng trưởng, như câu hỏi trăng mới mọc”. Trước nêu trăng mới mọc để hỏi, nay Đức Phật y cứ theo sinh con, đều có ý tăng trưởng để đáp. Kinh nói mười sáu tháng, có hai cách giải: Hoặc là nói mười lần sáu tháng, tức là năm tuổi, hoặc là một tuổi và bốn tháng. Theo văn rất dễ hiểu.  <卷>QUYỂN 13 <詞>PHẨM 17: NHẤT THIẾT ĐẠI CHÚNG SỞ VẤN Bản sáu quyển gọi là phẩm Tùy Hỷ, bản xưa gọi là phẩm Ưu Bi Thán Tụng. Bản sáu quyển lấy ý từ ngài Ca-diếp thấy Thuần-đà tu thành tựu đạo Bồ-tát, thì mình cũng tùy hỷ, để đặt tên phẩm. Bản xưa lấy ý từ Đức Phật nhận sự cúng dường của Thuần-đà xong liền nhập Niết-bàn, khiến đại chúng lo buồn, than thở mà đặt tên phẩm. Vậy nay lấy ý gì để đặt tên phẩm ở trên? Có hai cách giải thích: Trong văn kinh thấy không có lời đại chúng thưa hỏi nhau, cho nên việc đại chúng hỏi Phật, chỉ có hóa Phật thọ đại chúng cúng dường, đó là cảnh mà đại chúng thưa hỏi. Nay Như Lai thọ nhận cúng dường xong sẽ nhập Niết-bàn, chúng ta về sau sẽ cúng dường ai, đại chúng an ủi hỏi han lẫn nhau. Các Sư Trung Quán cho rằng ngài Ca-diếp phát khởi lời hỏi là vì đại chúng. Phật là người được hỏi; Người hỏi và người được hỏi, ý là ở phẩm này, từ đó mà đặt tên, nên gọi là đại chúng sở vấn. Nay nói rằng văn kinh chẳng có ghi lời hỏi, chỉ y cứ theo lời đáp để hiển bày lời hỏi. Ở trên nói thường trụ bất biến, ở đây thị hiện tướng Niết-bàn, tướng và thuyết trái nhau, đại chúng sẽ hỏi về nghóa này. Đức Phật dùng kệ đáp, rốt ráo thường trụ, chẳng nhập Niết-bàn. Từ đáp mà hiển bày câu hỏi, nên gọi là phẩm Đại Chúng sở Vấn. Toàn văn có hai đoạn lớn: Thứ lớp đáp các câu hỏi. Vui mừng lãnh ngộ. Trong đoạn thứ nhất, Hà Tây nói phẩm này đáp bảy câu hỏi, gồm có bốn chương. Chương thứ nhất đáp câu hỏi thị hiện tướng Niết-bàn và đáp câu hỏi thị hiện trời, người và đường ma. Thứ hai nói kệ xong và đáp câu hỏi về biết pháp tánh. Thứ ba giải thích bài kệ hữu sự. Chính thức trả lời về câu hỏi bí mật, gồm đáp câu hỏi xa lìa bệnh và đạo Vô thượng. Thứ tư là nói “vì sao gọi là nghóa vô dư” và đáp câu hỏi về rốt ráo. Chương thứ nhất có hai: Đại chúng phụng cúng. Như Lai thọ cúng. Trong phần phụng cúng có hai ý: Duyên khởi. Dâng cúng. Duyên khởi lại có năm: Phát ra ánh sáng. Muốn dâng cúng. Trời người ngăn chặn. Lại phát ra ánh sáng. Dâng cúng. Lấy lời này làm lời đáp để thị hiện tướng Niết-bàn, Hà Tây cho rằng thị hiện Niết-bàn có ba loại: Thị hiện bằng lời nói. Thị hiện bằng thần thông. Thị hiện ngay nơi sự. Ngay nơi sự nghóa là thọ thực lần cuối, rồi gỗ thơm, dầu thô; thần thông tức phát ra ánh sáng, hiện các điềm báo trước, lời nói tức là bảo Thuần-đà rằng: “Các thầy muốn ta trụ lâu ở thế gian, thì hãy nhanh chóng hiến dâng cúng dường lần cuối cùng”. Đó là ý trả lời. Từ câu “Bấy giờ trời, người, v.v…” trở xuống là ý thứ hai hiến cúng, có hai: Đại chúng cúng dường. Thuần-đà cúng dường. Thứ nhất lại có hai: một, là đại chúng cúng dường. Thứ hai, là Tỳ- kheo đắp y ôm bát. Thuần-đà dâng cúng, có bốn: một, là sắp bày vật cúng. Thứ hai, là thay đổi cõi nước. Thứ ba, hết lòng cầu thỉnh. Thứ tư, là khen ngợi. Từ câu “Bấy giờ, Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, Như Lai thọ cúng. Có bốn: Một, là nhận đại chúng cúng dường. Thứ hai, là Thuần-đà dâng cúng. Thứ ba, là đại chúng khởi niệm, lớn nhỏ dung chứa lẫn nhau. Thứ tư, đại chúng buồn than. Cho nên đáp cả câu “Chỉ cho trời, người, ma, ngoại đạo”. Hà Tây cho rằng các việc như: Thế giới biến thành trang nghiêm thanh tịnh, vô lượng hóa Phật hiện trong một lỗ chân lông, Thuần-đà dâng ít mà cung cấp cho tất cả đại chúng. Đây là những việc thù thắng ít có, làm cho cả chúng hội đương thời thấy rõ. Cho nên đó là đáp cả câu hỏi “Chỉ cho trời, người và ngoại đạo”. Từ câu “Bấy giờ Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là câu thứ hai, trả lời câu “Biết pháp tánh, thọ pháp lạc”. Văn có hai: trước trả lời về biết pháp tánh, sau trả lời về biết pháp lạc. Thứ nhất có hai, trước dùng nghóa biết pháp tánh, sau là văn xuôi nêu khen chê, được mất. Đầu tiên gồm bốn mươi tám câu kệ, chia làm ba phần: Gồm mười sáu câu, khuyên dứt buồn lo và lắng nghe. Năm mươi hai câu nói về pháp tánh. Gồm mười sáu câu kết luận khuyên tu tập. Thứ nhất gồm mười sáu câu. Kế là năm mươi hai câu, chia làm hai. Trong đó bốn mươi tám câu đầu gồm sáu cặp đối đãi, mỗi cặp gồm tám câu, hiển bày lý pháp tánh; bốn câu sau kết luận ngăn chặn sự buồn khổ, nhưng chính thức chỉ bốn mươi tám câu, mà văn sau ghi năm mươi hai câu là gom luôn phần kệ kết luận. Trong bốn câu đầu của cặp thứ nhất nói về chim cắt, hai loại chim này có thể ở chung một nơi, nếu là quạ và cú mèo, thì chẳng thể ở chung một nơi. Kế là cặp thứ hai rất dễ hiểu. Cặp thứ ba nói hoa thất diệp, là loại hoa rất hôi, còn hoa Bà-sư rất thơm, Ca-lưu là loại cây độc, còn cây Trấn-đầu là cây lành quả ngọt. Ba cặp khác y theo kinh rất dễ hiểu. Trong phần kết luận khuyên tu có nói: “Tam bảo đồng với chân đế”. Khai Thiện giải thích rằng quả Phật thầm hợp với chân, chân đã thường bặt thì quả cũng thường bặt. Trang Nghiêm cho rằng: “Quả Phật ở ngoài chân, chẳng thuộc về chân, đó là thường diệu tuyệt, đồng với chân, cho nên nói đồng với chân đế”. Nghóa của hai Sư giải thích còn thuộc thiên chân. Nói quả vượt ngoài chân, lại nói đồng với chân, đã đồng thì đâu thể vượt ngoài, đã vượt ngoài thì đâu thể là đồng. Nay nói Phật Tăng là người; đế tức Trung đạo, pháp Trung đạo, Pháp tức là người, người tức là pháp, nên nói Tam bảo đồng với kệ chân đế. Sau kệ là phần văn xuôi, nói về khen chê, được mất. Trang Nghiêm cho rằng văn này trả lời câu “Chỉ cho trời, người và đường ma, trong đó Chiên-đà-la là đường ma, A-la-hán dụ cho đường trời người”. Có sư chẳng dùng nghóa này, A-la-hán chẳng phải người, Chiên-đà-la chẳng phải ma. Đây chỉ là kết luận ý được mất ở trước. Nói biết Tam bảo thường đáng thọ nhận cúng dường. Như A-la-hán đó gọi là được. Nếu chẳng biết thường thì làm thương tổn pháp thân, như Chiên-đà-la đó tức là mất. Kế là từ câu “Bấy giờ đại chúng trời, người, v.v…” trở xuống là nói về thọ pháp lạc, nhờ sự việc mà làm lời đáp. Trước nói về thọ pháp lạc, sau là sắp đặt cúng dường. Từ câu “Bấy giờ, Phật bảo, v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, lãnh thọ điềm lành và kết thành, có hai: Bảo Ca-diếp lãnh thọ. Bảo Thuần-đà lãnh thọ. Trong phần Ca-diếp thọ lãnh, văn kinh có ghi “Lại thấy đại chúng nói mười ba bài kệ”. Có thuyết cho rằng Phật và đại chúng mỗi vị đều nói mười ba bài kệ. Văn này là Phật nói, còn kệ do đại chúng nói thì chưa đến. Có thuyết cho rằng lại “thấy đại chúng” là thuộc về câu trên; “nói mười ba bài kệ” là thuộc Phật nói, không phải là đại chúng nói. Trong phần bảo Ca-diếp lãnh giải văn kinh gồm có bốn: Thứ nhất, (bảo mệnh lệnh). Thứ hai, nhận lãnh. Thứ ba, suy công đức về Phật. Thứ tư, suy ra Bồ-tát có thể biết. Kế là bảo Thuần-đà, cũng có bốn: Thứ nhất, bảo. Thứ hai, vâng lãnh. Thứ ba, Phật kết luận. Thứ tư, Ca-diếp tùy hỷ. Từ câu “Bạch Thế Tôn v.v…” trở xuống là chương thứ ba trả lời câu hỏi “Làm sao vì chúng sinh giảng nói nơi bí mật?” ở trên. Lại đáp cả câu hỏi “lìa hẳn tất cả bệnh, gần được đạo Vô thượng.” Nhưng bài kệ Hữu dư là lời ẩn kín, tùy duyên chẳng phải nghóa bình đẳng hiển lý rốt ráo. Nay hiển bày chỗ ẩn kín làm cho bí mật được hiển bày, tức là đáp câu hỏi ở trước. Nhưng văn lại nói ba hạng người gây ra năm tội nghịch, bốn trọng cấm, hủy báng chánh pháp, tội được tiêu diệt, bệnh lành, tức là đáp cả câu “lìa hẳn tất cả bệnh”. Do bệnh lành tội diệt, nên gần đạo Vô thượng. Đáp cả hai câu hỏi, ý ở tại nơi đây. Toàn văn có hai: Lược hỏi đáp. Nêu bảy bài kệ. Đầu tiên là lược hỏi hữu dư, vô dư; kế là lược đáp hữu dư là chẳng liễu tức mật, vô dư là liễu tức hiển. Kế là từ câu “Thuần-đà bạch rằng v.v…” trở xuống là nêu rộng bảy bài kệ; hỏi đáp có bảy chương; bảy chương này có chỗ cho là Thu- ần-đà nêu, có chỗ cho là ngài Văn-thù nêu, hoặc là Đức Thế Tôn tự nói. Chương một là Thuần-đà thưa hỏi, văn có sáu đoạn: 1/ Phân biệt với Nhất-xiển-đề. 2/ Giữ lấy ba hạng người có tội. 3/ Giải thích ý giữ lấy 4/ Giải thích ý phân biệt. 5/ Kết luận kệ. 6/ Duyên khởi. Đầu tiên nêu kệ xin. Giải thích: Vì sao tất cả bố thí đều được khen ngợi, bố thí trì giới đều được khen ngợi, còn bố thí phá giới vì sao được khen ngợi? Trong lời Phật đáp là trừ bỏ Nhất-xiển-đề. Phen hỏi đáp thứ hai, thứ ba, rất dễ thấy. Thứ tư, hỏi thế nào là Xiển-đề. Kế là trong lời Phật đáp, có ba phen. Đầu tiên nói chung bốn bộ đệ tử phỉ báng chánh pháp, không bao giờ sám hối, tuy sai mà cho là đúng thì cũng hướng về con đường Nhất- xiển-đề. Phen thứ hai nêu lên bốn trọng cấm và năm tội nghịch, nếu biết chắc chắn phạm việc nặng như thế, mà tâm không mảy may hổ thẹn sợ hãi, chẳng chịu phát lồ sám hối, thì đối với Phật pháp không bao giờ có tâm giữ gìn kiến lập, lại hủy báng xem thường, nói nhiều lời lỗi lầm, người như thế cũng hướng về con đường Nhất-xiển-đề. Trừ ba hạng người đã nêu trên, còn tất cả các bố thí đều đáng được khen ngợi. Từ câu “Bấy giờ, Thuần-đà v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Giữ lấy ba người tội tức phạm bốn trọng cấm, v.v… có ba ý: 1/ Hỏi đáp lược nêu ba tướng. 2/ Nói rộng về bốn tội trọng. 3/ Nói riêng về nhân duyên phỉ báng. Thứ nhất như văn kinh nói. Kế là trong phần nói rộng, trước là hỏi, kế là trong lời đáp có ba ý: 1/ Nói về pháp diệt ác. 2/ Giải thích pháp diệt ác. 3/ Nói về ác diệt. Thứ nhất, pháp diệt ác. Hà Tây nói có sáu thứ thuốc quý: 1/ Phát tâm Bồ đề. 2/ Hổ thẹn sám hối tội lỗi. 3/ Giữ gìn chánh pháp. 4/ Cung kính người hộ pháp. 5/ Hiểu rõ tướng tội. 6/ Thọ trì, giảng nói kinh điển Đại thừa. Sáu thứ thuốc quý này so với sáu duyên ở đây phần nhiều đồng nhau, chỉ có chút khác nhau: 1/ Mặc pháp phục. 2/ Hỗ thẹn sửa đổi. 3/ Phát tâm hộ pháp. 4/ Cúng dường người hộ pháp. 5/ Tự mình thọ trì đọc tụng. 6/ Giảng nói cho người nghe. Hà Tây nói phát tâm và hiểu rõ tướng tội, cũng có thể hiểu được lời này. Thứ hai, từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích gồm có dụ và hợp. Thứ ba, từ câu “Nếu có người hủy báng v.v…” trở xuống là nói về điều ác bị dứt trừ. Cần phải nói đủ như trước, mà đoạn văn này lược bớt, chỉ nói quy y chánh pháp và nêu điều phải trái. Phạm năm tội nghịch tức là nói năm tội nghịch có thể dứt trừ, cũng nêu điều đúng, điều sai. Ba tội ở đoạn này đều có thể dứt trừ, là trả lời cả câu hỏi “lìa bỏ tất cả bệnh”. Lại tội đã diệt tức là gần đạo Vô thượng. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là ý thứ ba, giải thích ý giữ lấy ba hạng người có tội, gồm có pháp, dụ và hợp. Dụ có bốn: 1/ Chưa sinh giải. 2/ Đã sinh giải. 3/ Nói về hộ pháp. 4/ Được quả báo. Dụ thứ nhất, nói lúc tạo tội phá giới. Người nữ dụ cho Bồ-tát tu hành cạn hẹp, có bao gồm ý nghóa sinh giải; nói như người nữ mang thai là giải chưa phát, còn ẩn kín. Gặp thời loạn lạc là dụ cho chúng phá giới, con đường trì phạm bị cắt đứt, nên nói đến xứ khác. Thứ hai là nói vào miếu thờ trời là dụ cho sinh giải. Miếu thờ trời dụ cho kinh này, y kinh mà sinh giải. Quê hương an ổn sung mãn, tức nghe công đức giữ giới mà được quả báo như thế. Thứ ba, từ câu “Nửa đường v.v…” trở xuống là dụ cho hộ pháp. Tà kiến đoạn thường dụ cho sông Hằng, tà biện cong vạy dụ cho nước sông chảy mạnh, thà mất báo thân chứ không lìa bỏ giải ngộ, nên nói là chẳng thể một mình đến bờ kia. Thứ tư, từ câu “Sau khi qua đời, v.v…” trở xuống là được quả báo sinh lên cõi trời. Từ câu “Phạm bốn trọng cấm v.v…” trở xuống là hợp dụ. Từ câu “Thuần-đà lại nói v.v…” trở xuống là giải thích phân biệt Nhất-xiển-đề. Trước là hỏi, kế là đáp, gồm có pháp, dụ và hợp. Trong pháp thuyết ý nói: bố thí cho người này không được phước. Từ câu “Thí như có v.v…” trở xuống là dụ. Đã đập vỡ hạt mà đem trồng, thì hạt không thể nẩy mầm là dụ cho Nhất-xiển-đề. Nhưng xiển-đề sửa đổi thì chẳng phải là Nhất-xiển-đề. Văn sau nói: Nhất-xiển-đề được thành Phật cũng gọi là phỉ báng Phật; nói Nhất xiển đề không được thành Phật cũng gọi là phỉ báng Phật. Nếu nói Nhất xiển đề sửa đổi thành Phật thì mới chẳng phỉ báng Phật. Hợp dụ như văn kinh có ghi. Thứ năm, từ câu “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là kết luận ý ng- hóa các bài kệ. Trước nói tất cả bố thí đều được khen ngợi, tức là thuyết hữu dư. Ở đây nói có khác nhau tức là thuyết vô dư. Thứ sáu, từ câu “Thuần-đà lại nói v.v…” trở xuống là nói về duyên khởi bài kệ. Từ câu “Lại nữa v.v…” trở xuống là chương hai, Đức Phật nói kệ, có ba: Đức Phật nêu kệ. Văn-thù nêu kệ hỏi lại Phật. Như Lai giải thích. Văn thứ nhất rất dễ thấy. Văn thứ hai trong lời hỏi lại của ngài Văn-thù có nói Phương Đẳng A-hàm, A-hàm dịch là Pháp Quy, tức chỗ nhóm họp về của các pháp. A-hàm chung cho Đại thừa, Tiểu thừa. Tiểu chỉ nói là A-hàm, Đại thì thêm Phương Đẳng. Văn thứ ba, từ câu “Đức Phật bảo v.v…” trở xuống là Đức Phật giải thích. Từ câu “Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi v.v…” trở xuống là chương ba, ngài Văn-thù lại vặn hỏi. Đầu tiên là lời vặn hỏi, kế là Phật dạy, sau là Phật đáp. Nói chín mươi lăm ngoại đạo hướng về đường ác; Thanh văn là chánh, tức là đường lành. Kinh Hoa Nghiêm nói chín mươi sáu thứ đều là tà đạo, hai văn này làm sao hội thông? Giải rằng: Hoa Nghiêm chỉ cho thực hành Nhị thừa, nên chẳng nói là chánh. Cổ Bách luận ghi “Thuận hóa Thanh văn đều là ngoại đạo”. Kế là Đức Phật đáp. Từ câu “Bấy giờ Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là chương thứ tư, Đức Phật nêu kệ, có ba: 1/ Đức Phật nói kệ. 2/ Ngài Văn-thù nói kệ. 3/ Phật ấn chứng, khen ngợi. Từ câu “Bấy giờ ngài Văn-thù v.v…” là chương năm, ngài Văn- thù nói kệ. Lại có hai: Ngài Văn-thù nói kệ. Như Lai ấn chứng. Nói tham ái và vô minh, các sư kia giải thích rằng: Tâm tham là bên trong dụ như mẹ, vô minh là cảnh bên ngoài dụ như cha. Nhưng chỉ là tham ái chẳng lẽ lại đọa vào Vô gián ư? Do tham khởi tà kiến, cho nên đọa lạc, nghóa này chẳng đúng. Tham ái và vô minh đều có trong người. Vô minh là gốc để thọ thân giống như cha, tham là cành lá phiền não giống như mẹ. Vả lại, cha là duyên xa như vô minh, mẹ là duyên gần như tham ái. Từ câu “Bấy giờ, Như Lai v.v…” trở xuống là chương sáu. Như Lai nói kệ có ba: một, là Như Lai nói kệ; hai, ngài Văn-thù vặn hỏi; ba, Như Lai giải thích. Chương bảy, ngài Văn-thù nêu kệ; có hai ý: Một, là ngài Văn-thù nêu kệ, hai là Như Lai giải thích ngược lại. Từ câu “Bấy giờ, Ca-diếp v.v…” trở xuống là chương thứ tư, đáp câu hỏi “Thế nào là hỏi rốt ráo và chẳng rốt ráo?” Ở trên, gồm có hỏi và đáp. Trong phần đáp có nêu đủ ý trên. Vô dư tức là nghóa rốt ráo, vì sao gọi Nhất thiết nghóa chẳng phải là rốt ráo. Phật trả lời hai câu hỏi, nói “chỉ trừ trợ đạo là nghóa vô dư” để đáp câu hỏi về rốt ráo; còn các pháp khác có cả hữu dư và vô dư, là đáp câu “Nhất thiết nghóa chẳng gọi là nghóa rốt ráo”. “Chỉ trừ các pháp trợ đạo là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”, Hà Tây cho rằng: Trợ đạo là nhân, thường lạc là quả; Muôn hạnh là nhân, được muôn đức là quả. Nghóa vô dư này là lời chân thật, nói cho người lợi căn. Vì không pháp nào chẳng gồm thâu nên gọi là Nhất thiết, cũng gọi là Vô dư. Còn các pháp khác đều gọi là hữu dư; trong hữu dư cũng có vô dư. Như nói Tứ đế cho Thanh văn, nói mười hai nhân duyên cho Duyên giác. Vì xứng hợp căn khí mà nhận lấy, nên gọi là Vô dư. Hưng Hoàng cho rằng: Nói trợ đạo là nói chung chứ không phải riêng y cứ theo nhân. Nay lấy thường làm quả, pháp thiện làm nhân. Nhân quả này đều là trợ đạo, làm duyên phá các điên đảo. Chẳng phải nhân chẳng phải quả mới là chánh đạo, mới là nghóa vô dư. Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp, v.v…” trở xuống là đoạn lớn thứ hai của phẩm nói về đại chúng vui mừng thọ lãnh, tin hiểu. Đầu tiên chia làm hai chương: Theo thứ lớp trả lời các câu hỏi. Vui vẻ thọ lãnh, tin hiểu. Nay theo thứ lớp trả lời câu hỏi đã xong, kế là nói đại chúng vui mừng. Văn có hai: 1/ Chính thức thọ lãnh, tin hiểu. 2/ Hiện bệnh kết luận hoàn thành. - Văn thứ nhất lại có hai đoạn: 1/ Ngài Ca-diếp thọ lãnh, tin hiểu. 2/ Đại chúng thọ lãnh, tin hiểu. Đoạn một có hai ý: 1/ Lãnh giải, khen ngợi. 2/ Ca-diếp lại hỏi về công đức. Từ câu “Bấy giờ, các vị trời, v.v.…” trở xuống là đoạn hai, nói đại chúng lãnh giải. Văn có ba ý: 1/ Đại chúng khen ngợi khuyến thỉnh. 2/ Như Lai ngăn tâm lo buồn của đại chúng. 3/ Đại chúng cúng dường phát tâm. Ý đầu lại có bốn bài kệ. Chia làm ba: một, là gồm bốn câu nêu lời thỉnh. Thứ hai, là giải thích lý do. Nêu hai vị xuất gia và một vị tại gia chưa đến thì chẳng nên nhập diệt. Ý thứ hai, là bốn câu kết. Trong phần Như Lai dứt trừ tâm lo buồn làm lời đáp, có mười câu, chia làm hai: Gồm tám câu đáp lời hỏi. Gồm hai câu, ngăn dứt tâm lo buồn. Câu “A-nan bậc học rộng, tự nhiên sẽ hiểu rõ, pháp thường và vô thường”, bản sáu quyển lại ghi “Tự biết thường, vô thường”. Khi Như Lai Niết-bàn thì một chân đen sậm, một chân sáng sạch; sáng sạch biểu thị cho pháp thân thường trụ, đen sậm biểu thị cho thân ứng tích vô thường. Ý thứ ba từ câu “Bấy giờ, đại chúng v.v…” trở xuống , đại chúng cúng dường phát tâm. Lại có ba: 1/ Cúng dường. 2/ Phát tâm. Đạt quả vị. Theo kinh rất dễ hiểu. Từ câu “Bây giờ, Đức Thế Tôn, v,v…” trở xuống là văn thứ hai, Như Lai kết luận hoàn thành, lại có ba ý: 1/ Thọ ký. 2/ Phó chúc. 3/ Hiện bệnh. Xưa nói: Từ phó chúc trở xuống là phẩm Hiện Bệnh. Nay thì chẳng như thế, hiện bệnh là kết thành ý đây không trở ngại trước là ở đây. Nói đau lưng là trích từ luận Đại Trí Độ: Khi xưa, Đức Thế Tôn còn làm một con nai đầu đàn chịu chết để đợi một con thỏ cuối cùng qua sông. Ngày nay, Đức Phật vì đợi Tu-đạt nên nói là đau lưng. ----------------------------------- <詞>PHẨM 18: HIỆN BỆNH. Trang Nghiêm gọi đây là vòng thứ hai, Lương Vũ đế gọi là Trung hậu (sau ngọ), Khai Thiện gọi đây là đáp câu hỏi lìa tất cả bệnh, Hưng Hoàng thì cho cả hai, tức trước tuy đã có đáp rồi nhưng đâu ngại gì lại nói; sau tuy lại nói nhưng đâu ngại gì đáp ở trước. Các Sư Trung Quán hai lần so sánh, so với trước là kết luận để thành tựu câu đáp trước, so với sau thì sinh khởi năm hạnh. Tuy có hai lần so sánh, nhưng so với trước là phụ, so với sau là chánh. Ở đây chẳng phải như thế, từ phẩm này trở đi là nói về hạnh Niết- bàn, thứ ba. Văn có hai: 1/ Nói về tu tập năm hạnh. 2/ Nói về chứng mười đức. - Thứ nhất lại có năm: 1/ Hạnh Bệnh. 2/ Hạnh Thánh. 3/Hạnh Phạm. 4/ Hạnh Trời. 5/ Hạnh Trẻ thơ. Nay nói về hạnh thứ nhất. Từ đây đặt tên nên gọi là phẩm Hiện Bệnh. Nhưng tên phẩm là Hiện Bệnh mà nội dung văn lại nói không bệnh. Nghóa này thế nào? Do cuối phẩm trước khi thọ ký phó chúc xong, Phật liền nói: “Bây giờ ta bị đau, toàn thân đau nhức, như đứa bé và những người thường bị bệnh kia”. Cho nên ghi là phẩm Hiện Bệnh. Do hiện bệnh này mà dẫn đến có ba lần xem xét, ba thỉnh, nói Như Lai không bị bệnh. Toàn phẩm được chia làm bốn: 1/ Nói về xem xét và thỉnh cầu 2/ Hiện tướng không bệnh. 3/ Đại chúng cúng dường. Nói rộng về không bệnh. Đầu tiên có ba lần xem xét, ba lần thỉnh: Thỉnh nói pháp. Thỉnh dứt ác mạn. 3 Thỉnh cả hai việc. Ba lần xem xét: một, là xét về tự hành; hai, là xét về hóa tha; ba, là xét về chứng quả. Giữa hai thứ ba tướng này đều trước là xem xét, kế là thỉnh, hợp thành ba đoạn, chia thành sáu chương. Đầu tiên là xem xét về tự hành: Đức Phật thì muôn hạnh tròn đầy, các khổ đã dứt, chẳng lẽ lại bị bệnh ư? Kế là xem xét về hóa tha: Phật tự độ đã xong, công đức hóa tha đã đầy đủ, dứt trừ được bệnh ba độc cho chúng sinh, há lại bị bệnh ư? Sau là xem xét về chứng quả: Phật địa đã tròn đầy, chủng trí đã hiện tiền, vắng lặng thường trụ, há lại bị bệnh khổ ư? Văn xét về tự hành có hai: 1/ Nói về nhân của vô bệnh. 2/ Nói là có nhân vô bệnh. Chỉ nói bốn phần là vì chung cho kiến hoặc, tư hoặc, còn năm kiến và nghi chỉ riêng ở Kiến đế. Các nhân của bệnh chung riêng, chư Phật chắc chắn không còn. Từ câu “Có hai duyên v.v…” trở xuống là xem xét biết có nhân vô bệnh. Thương xót thuộc về nội tâm, ban phát thuộc về ngoại xả. Trong cầu ngoài cứu vớt, dứt trừ các khổ não, đó là nhân của vô bệnh. Kế là từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là thỉnh nói pháp, có bốn ý: 1/ Thỉnh chỉ dạy các đệ tử. 2/ Thỉnh nói pháp Đại thừa. 3/ Thỉnh dạy pháp không lui sụt, tức là sinh điều lành. 4/ Thỉnh trị kẻ ác, tức là diệt ác. Theo văn rất dễ hiểu, đây cũng là ý bốn Tất-đàn. Kế là từ câu “Các Bồ-tát, v.v…” trở xuống là xem xét về hóa tha. Văn có hai: 1/ Nói về hóa tha trừ ba chướng. 2/ Nói về hóa tha và phát nguyện. Đầu tiên lại nói chia làm ba: một, là nêu ba chướng; hai; là giải thích; ba, là kết luận, thứ nhất như văn kinh ghi. Giải thích có ba: 1/ Giải thích chướng phiền não. Bốn câu phân biệt: lợi mà chẳng sâu, vừa sâu vừa lợi; nếu thường khởi thì chướng hại cho việc tu đạo, là phiền não chướng. Sâu mà chẳng lợi, chẳng sâu chẳng lợi, vì chẳng thường sinh khởi, tuy là phiền não nhưng chẳng gọi là chướng. Nói chung bốn câu thì đều là phiền não chướng, ở đây chỉ phân biệt riêng cho nên nói như thế. Bảy mạn như kinh ghi. Luận Thành Thật có nêu đại mạn thành tám mạn, văn kinh ở đây đã được ghi. Hà Tây lập chín mạn, tức là tiểu trung thượng, đẳng trung đẳng, đơn mạn, mỗi mạn được chia thành hai. Tiểu trung thượng: nghóa là tự cậy mình hiểu biết hơn người, người thì ngu si kém cỏi, luôn tự mạn đối với người kém hơn. Đẳng trung đẳng tức mình bằng người mà tự cho mình hơn người. Mạn mạn tức cho trí tuệ của mình hơn tất cả mọi người, không ai bằng mình; Đại mạn tức đẳng trung thượng và thượng trung đẳng; Bất như mạn ng- hóa là mình kém người rất xa mà cho rằng chỉ kém một chút. Ngã mạn nghóa là quán năm ấm là ngã, chấp là nhân của ngã, tà mạn nghóa là thật không có công đức mà cho là có công đức. Kế là giải thích nghiệp chướng. Quyết định nghiệp của bốn đường làm chướng ngại sơ quả; quyết định nghiệp cõi dục làm chướng ngại quả thứ ba; quyết định nghiệp cõi sắc, Vô Sắc chướng ngại quả thứ tư. Ở đây nói bệnh ác nặng là báo chướng. Vì sao lại giải thích là nghiệp? Xưa có hai cách giải thích: Một, là cho rằng bệnh nặng thật là báo chướng mà giải thích là nghiệp, vì đó là trong quả mà nói nhân; hai, cho rằng năm nghiệp Vô gián giống như bệnh nặng, nên lấy đó làm dụ. Thứ ba, là giải thích báo chướng có nói về người hủy báng chánh pháp và Nhất-xiển-đề có liên quan gì đến báo chướng hay chăng? Có hai cách giải: một, cho rằng sinh vào nhà phỉ báng chánh pháp và Nhất- xiển-đề, há chẳng phải là báo chướng ư?; Hai, cho rằng người ác có hai là nghiệp ác và báo ác, ví như chim sẻ nặng về dâm dục, rắn nặng về sân đều do nghiệp quả của kiếp trước. Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là xin trừ ác mạn. Văn có hai đoạn: một, xin trừ ác mạn của người ngu. Thấy Phật hiện bệnh, khởi ý tưởng cho là sẽ chết, tức khởi niệm ác. Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là xem xét biết Phật đã chứng quả, năng lực của thân đầy đủ mà lại bị bệnh hay sao? Văn có hai: Nói về năng lực của thân Nói về năng lực của trí. Trong phần nói về năng lực của thân vượt hơn tất cả các sức mạnh của các loài để so sánh. Voi Ưu-bát-la màu xanh, voi Phân-đà-lợi mầu đỏ. Có thuyết cho rằng khi loài voi này đi dưới chân có hoa Ưu-bát-la, do đó mà đặt tên. Kinh Đại Noa ghi “Đi trên hoa sen là loài voi trắng”, đây là lời minh chứng. Lại nói khi trời nổi sấm chớp trên ngà loài voi này có nổi các mắt võng hoa Ưu-bát-la nên lấy đó đặt tên. Các loại voi khác cũng giống như thế. Bát-kiền-đề, Hán dịch là kiên cố; Na-la-diên dịch là Kim cương. Từ câu “Nay Như Lai v.v…” trở xuống là phần thứ ba, gồm có thỉnh nói pháp và dứt ác. Sau là phần kệ, có hai mươi tám câu: Mười hai câu đầu là chánh thỉnh; mười hai câu kế là giải thích lời thỉnh; bốn câu cuối là lời thỉnh. Phần chánh thỉnh gồm có: một, bốn câu đầu là thỉnh nói pháp; hai, tám câu thỉnh dứt ác mạn. Ca-diếp là đệ tử Phật, vì sao đồng như ngoại đạo, gọi Phật là Cù- đàm? Giải rằng: Gọi Cù-đàm chẳng nên phân biệt kỹ, như người sân gọi và người vui mừng gọi, cũng đều gọi là Trương vương, huống chi lại nói là Cù-đàm thánh đức, há lại đồng với ngoại đạo có tâm ngã mạn được ư? Kế là giải thích lời thỉnh, gồm có hai: Bốn câu đầu giải thích dứt ác. Kế là gồm tám câu giải thích thỉnh nói pháp. Sau cùng là kết luận, theo văn rất dễ hiểu. Từ câu “Bấy giờ, Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là phần thứ hai, Phật hiện không có tướng bệnh. Văn có ba: 1/ Nói về ánh sáng làm lợi ích. 2/ Hoa sen làm lợi ích. 3/ Hóa Phật làm lợi ích. Ba ý này đều có sự có lý. Về sự tức sắc bệnh thì tiều tụy, sắc khỏe mạnh thì vui hòa. Nay phát ra ánh sáng rực rỡ không có tướng bệnh. Hoa sen là điềm lành chẳng phải tướng bệnh. Hóa Phật là do Như Lai tạo ra, nếu là người bệnh thì chẳng thể làm được, nếu làm được thì chẳng bị bệnh. Nói về lý, ánh sáng từ thân xuất hiện, biểu thị cho Pháp thân, hoa chứa đựng quả, biểu thị cho Giải thoát. Phật là giác tuệ, biểu thị cho Bát-nhã. Đầy đủ ba đức mà lại bệnh ư? Ba chương mỗi chương đều có hai: trước phát ra ánh sáng, sau là lợi ích. Nói đại Bi xông ướp vào tâm, đức của Phật vô lượng, đâu chỉ có đại Bi. Văn trên nói: “chư Phật ba đời đều lấy đại bi làm gốc, từ bi như thế, nay ở đâu?” Nay để đáp lời này nên nói: “Đại bi xông ướp vào tâm”. Trước cũng có phát ra ánh sáng nhưng không nói hơn trăm ngàn mặt trời, chính là vì hiện bệnh, chẳng phải thật bệnh mới có thể phát ra ánh sáng xé rách lưới nghi, dùng đại Bi xông ướp vào thân. Từ câu “Tuệ thí cho chúng sinh v.v…” trở xuống là nói về lợi ích. Kế là, từ câu “Các tia sáng này v.v…” trở xuống là nói về lợi ích. Hoa làm lợi ích khắp cả ba đường. Như thế đã biết rõ hoa biểu thị cho Giải thoát. Tám địa ngục lạnh giá, thì bốn địa ngục trước y cứ theo âm thanh, bốn địa ngục sau y cứ theo màu sắc. Khi người tội mới đến, thấy đầm hoa liền yêu thích mà vào, đây là từ cảnh được thấy mà đặt tên. Hoặc nói mầu sắc của địa ngục như bốn hoa. Từ câu “Mỗi đóa hoa này v.v…” trở xuống là nói hoa Phật làm lợi ích, cũng có hai đoạn như trước. Từ câu “bấy giờ tất cả, v.v…” trở xuống là đoạn ba nói về đại chúng cúng dường khuyến thỉnh. Yù theo khuyến thỉnh, nghóa là lúc trước thấy hiện bệnh nằm, e rằng sẽ Niết-bàn. Bây giờ, thấy ánh sáng biết chưa nhập diệt, nên mới thỉnh nói pháp. Trước là cúng dường sau là thưa hỏi. Nói Kiền-đà, Hà Tây gọi là loài ma quỷ, thường khiến cho vai người bị đau. Ưu-ma-đà là loài quỷ làm cho người say. A-bà-a-la là loài quỷ khiến cho người cuồng loạn. Thứ hai là nói kệ, khuyến thỉnh gồm ba mươi câu. Được chia làm hai: một, gồm có hai mươi tám câu đầu, là phần chính thỉnh; hai, là gồm hai câu và phần văn xuôi và tự sự của nhà dịch kinh. - Văn thứ nhất có ba đoạn: 1/ Bốn câu là khởi thỉnh. 2/ Gồm hai mươi câu, giải thích ý thỉnh cầu. 3/ Gồm bốn câu là kết thỉnh. Đoạn thứ nhất, như văn kinh. Kế là hai mươi câu, chia làm năm: một, gồm bốn câu, nói vì bản thệ nên phải thỉnh. Kế đến vì sợ đọa đường ác cho nên thỉnh. Thứ ba, kẻ phàm phu ngu si chẳng biết cho nên thỉnh. Thứ tư, vì ban thí pháp cam lộ nên thỉnh. Thứ năm, vì trị bệnh cho nên thỉnh. Kết luận lời thỉnh, như văn ghi. Từ câu “Các đại chúng, v.v…” trở xuống là lời tự sự của nhà dịch kinh. Gồm có hai: một, thỉnh rồi thì im lặng. Hai là nơi âm thanh vang đến. Nói đến trời Tịnh cư, trời Tịnh cư là tột đỉnh của cõi Sắc, có hình thể có nhó thức, còn cõi Vô sắc chẳng như thế nên âm thanh chẳng đến. Trong phẩm tựa nói Hữu đảnh, v.v… Thí như thế gian Sinh thiên, Thiên tịnh thiên, lẽ ra nên nói Sinh tịnh cư, Vô lậu tịnh cư, Đệ nhất nghóa tịnh cư, v.v… Từ câu “Bấy giờ, Phật bảo v.v…” trở xuống là phần thứ tư của phẩm nói rộng về vô bệnh, có hai: Nói Như Lai không bị bệnh. Nêu hạnh Bệnh để giải thích. Văn thứ nhất có ba ý: một, là nói vô bệnh; hai, là nêu xưa để chứng cho nay; ba, nói hiện bệnh là phương tiện mật ngữ. Ở đây, đầu tiên là khen ngợi Ca-diếp. Ca-diếp là người đứng đầu về thưa hỏi nên khen ngợi. Khen “Lành thay!” Là khen chung, bốn câu kế là khen riêng, tức khen điều đã đạt được và điều đã xa lìa. Lìa tức xa lìa duyên ác bên ngoài và nhân ác bên trong. Được tức là được nhân lành bên trong và duyên lành bên ngoài. Thứ hai, từ câu “Này thiện nam, v.v…” trở xuống là nói ta từ lâu đã không bị bệnh này. Quá khứ vô lượng là nêu việc xưa để chứng minh cho việc nay. Thứ ba, Từ câu “Như nói Như Lai v.v…” trở xuống là nói về việc hiện bệnh chính là phương tiện mật ngữ. Trong đó, nêu mười hai mật ngữ, mười một việc đầu là nêu loại. Một việc sau là hợp với vô bệnh. Từ câu “Ca-diếp! Thế gian có ba hạng người v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai nêu bị bệnh để đối với vô bệnh, người như thế là bị bệnh, Phật chẳng như thế há lại có bệnh ư? Văn có hai: trước là nói về ba hạng người, sau là nói về năm người bệnh, trong đó có ba người bệnh khác với người bệnh nêu ở trước. Ba người bệnh ở trước chẳng chữa lành được. Nay ba người là chẳng chữa lành, chẳng lành và lành, đều chữa lành. Nói vì lợi dưỡng, vì xúc xiểm, vì dối người mà biên chép, thọ trì kinh này, ý nghóa khác xa với văn trước, đâu thể không thọ không trì, không cho người phá giới đọc tụng. Đây là yếu chỉ cho và đoạt. Đầu tiên nêu ba hạng người không thể chữa trị là khai trừ ba; hàng trị lành và chữa lành cũng tức là chưa nghe; nói đều chữa lành tức chai ra sáu việc như vì sợ hãi, vì lợi dưỡng v.v… Y cứ theo năm Pháp sư hợp với ba mươi loại. Lại chia thành năm người bệnh, hợp thành ba mươi tám loại, v.v… Đã nói gặp duyên thì lành bệnh, không gặp duyên thì chết, tức là bốn quả Thanh văn và Duyên giác. Tất cả các vị này mang bệnh mà tu hành nên gọi là có bị bệnh mà tu hành. Bồ-tát còn ở nhân vị cũng nên lệ theo đây. Như các hạng người này, có thể nói bị bệnh. Phật đã dứt trừ hết các hoặc tức là không còn bệnh. Sơ quả dứt ba kiết là ngã kiến, nghi và giới thủ. Bảy lần sinh vào trời người là nói lược, nếu nói rộng là gồm mười bốn, hai mươi tám lần. Văn ở đây ghi tám muôn kiếp thành Bồ-đề, văn sau ghi tám muôn kiếp mới phát tâm Bồ-đề, cần phải hội thông hai văn đều nói một vị. Quả thứ ba dứt trừ năm hạ phần, tức là phiền não ở cõi Dục gồm tham, sân, ngã kiến, nghi và giới thủ. Đây là năm kết ở hạ phần. Bậc A-la-hán ra đời gặp Phật hoặc không gặp Phật, nên chẳng phải hạnh Độc nhất. Bích-chi-phật chắc chắn ra đời vào thời không có Phật, nên gọi là hạnh Độc nhất. -------------------------------- <詞>PHẨM 19: THÁNH HẠNH (PHẦN 1) Phẩm này nói về bốn môn: thứ tự, thích danh, gốc ngọn và thuyết chẳng thuyết. Thứ tự: Hà Tây cho rằng trước là môn nói rộng lược về quả Niết- bàn, kế là năm hạnh nói về tu nhân Niết-bàn, sau là muời đức nhóm họp công đức khuyên thực hành nhân. Xưa cho rằng: Năm hạnh là nói về nhân, mười đức nói về quả. Khai Thiện cho rằng năm hạnh là nói về năm hạnh hữu, mười đức nói về hạnh không. Ở đây cho rằng chẳng phải ý nghóa như thế. Hà Tây y cứ theo văn “từ quả nói nhân” thuộc về nghóa thừa nhiếp không liên quan. Vì sao? Vì trước nói về quả viên cực, còn năm hạnh thì nói nhân thứ bậc, vuông tròn chẳng đồng loại, nên nghóa chẳng hợp. Còn các sư xưa cho năm hạnh là nhân, lẽ ra chẳng nên nói việc làm của Phật là hạnh Thánh. Nếu nói mười đức là quả thì cũng chẳng nên nói Bồ-tát tu hành kinh đại Niết-bàn được mười công đức. Vả lại, năm hạnh chẳng phải viên nhân, mười đức chẳng phải cực quả nên chẳng thành thứ tự. Khai Thiện nói năm hạnh là hữu cũng chẳng đúng. Hạnh Thánh là khai đạo pháp không. Hạnh Phạm là tu mười một “không”, trụ trong giai vị bình đẳng. Hạnh Trời là lý Đệ nhất nghóa. Hạnh Trẻ thơ thì chẳng đến chẳng đi. Hạnh Bệnh là mật ngữ của Như Lai, như thế đâu chỉ là nghóa của hạnh hữu. Nói mười đức là nghóa “không” thì cũng chẳng đúng. Mười là số lượng của pháp. Xưa chẳng được, chẳng nghe, chẳng biết, nay được nghe biết, đã nghe một câu, nửa câu thì thấy được chút Phật tánh, đâu chỉ một bề y cứ theo hạnh “không”. Ở đây nói thứ tự: nghóa là trước do thọ thực mà nói chẳng thọ thực để giảng rộng về đại bát Niết-bàn thí rồi. Nay nhân nơi bệnh mà nói về chẳng bệnh. Bệnh có ba thứ; một là chẳng thể chữa trị; hai là phải chữa trị mới lành; ba là chẳng cần trị. Chẳng thể chữa trị hay chẳng cần chữa trị đều chẳng cần phương thuật. Dùng cách trị bệnh có hai: một là theo thứ tự; hai là không theo thứ tự. Chữa trị theo phương pháp này thì gọi là tu hành. Vì có tu cho nên có chứng, có chứng nên có mười công đức, có công đức cho nên không bệnh, không bệnh cho nên thể hiển bày, thể hiển bày nên thấy tánh, thấy tánh cho nên cùng khắp pháp giới, thâu nhiếp tà ác, thâu nhiếp tà ác xong thì phó chúc, thiêu thân, phân bố xá-lợi. Nếu theo nghóa này thì khéo thành thứ lớp. Giải thích danh từ: văn kinh ghi: “Thánh là việc làm của chư Phật Bồ-tát, cho nên gọi là hạnh thánh”. Câu này có hai ý: một là việc làm của Bồ-tát tức là hạnh thứ lớp; hai là việc làm của chư Phật tức chẳng phải thứ lớp. Đó là nói “có một hạnh tức hạnh Như Lai”, nay gọi chung là hạnh thánh. Nghóa này chưa rõ cần phải phân biệt giải thích. Vì sao? Vì Thánh là chánh, còn việc làm của Bồ-tát trước cạn sau sâu, chân chẳng biết tục, tục chẳng biết trung. Tức là thiên mà chẳng phải chánh, nhưng gọi chung là hạnh Thánh thì chưa phải là ý riêng. Như nói có một hạnh là hạnh Như Lai, thì một hạnh tức tất cả hạnh, một trí là tất cả trí. Cho nên biết viên hạnh gọi là Thánh, gọi là chánh. Vì thế trong văn kinh nói kinh Đại thừa này gọi là Phật thừa, Phật thừa này là tối thắng tối thượng, bậc căn tánh viên mãn tu hạnh Như Lai ở Phật thừa này. Kinh Pháp Hoa nói: “Phật tử hành đạo rồi, đời sau thành Chánh giác” chính là nghóa này. Văn kinh có hai đoạn là giải thích chung và giải thích riêng. Mọi người phần nhiều theo cách giải thích chung mà không biết cách giải thích riêng. Nay từ ý riêng giải thích nên gọi là hạnh Thánh. Nói hạnh Phạm, Phạm tức là thanh tịnh, vào các hữu, đồng với trần tục, đây là y cứ theo công năng mà giải thích tên nên gọi là hạnh Phạm. Hạnh Trời là y cứ theo đế lý để đặt tên. Hạnh Trẻ thơ là y cứ theo dụ để đặt tên. Hạnh Bệnh là y cứ theo đối trị mà đặt tên. Hạnh Như Lai là y cứ theo người cơ Viên đặt tên. Nếu nói chung về hạnh, thì chẳng trụ gọi là hạnh, nghóa là tự chứng ngộ chẳng dính mắc, lại khiến người cũng chẳng trụ nên gọi là Hạnh. Văn kinh nêu năm hạnh, một hạnh, mà Thánh hạnh là đầu tiên, nay y cứ theo đầu tiên mà đặt tên, nên gọi là hạnh Thánh. Cành gốc: Có người cho rằng hạnh Bệnh là gốc, từ bệnh sinh ra bốn hạnh kia, nghóa này không đúng. Người này thấy văn nói về hạnh Bệnh ở trước mà cho là gốc. Đây chỉ là đọc văn, đâu liên quan gì đến suy nghóa. Vì sao? Vì bệnh đồng với nghiệp ác của người, thuộc về cành lá, sao lại lấy ngọn làm gốc? Văn kinh ghi: “Bồ-tát trụ trong đại Niết- bàn chuyên tu tập năm hạnh, thế thì Niết-bàn là gốc. Nói Niết-bàn tức là hạnh Trời, duyên vào Niết-bàn mà hóa tha thì gọi là hạnh Phạm. Lý Niết-bàn đã hiển bày, nương vào lý tự tiến tu thì gọi là hạnh Trời; nương vào lý mà hóa tha đồng với điều lành gọi là hạnh Trẻ thơ, đồng với ác thì gọi là hạnh Bệnh. Như thế thì chẳng lấy hạnh Trời làm gốc ư, mà lại bỏ theo ngọn? Có Sư cho rằng năm hạnh đồng là hạnh Bệnh, dẫn văn cho rằng: “Năm hạng người này đều bị bệnh mà tu hành, chỉ có Phật mới vô bệnh”, nghóa này chẳng đúng. Năm người bị bệnh tu tập hạnh thánh để trừ bệnh của mình thì đâu thể nói là hạnh Bệnh, chỉ có Phật vô bệnh mới hiện được hạnh Bệnh. Nếu theo thứ lớp năm hạnh, thì hạnh Bệnh ở sau; nếu y cứ theo nghóa một hạnh tức năm hạnh, thì một hạnh Bệnh có năm hạnh Bệnh. Ngài Ca-diếp suy về Phật, vì Phật vô bệnh tức là hạnh thánh, suy quả vô bệnh tức là hạnh Trời; đại bi huân kết vào tâm tức là hạnh Phạm; giống như đứa trẻ kia tức là hạnh Trẻ thơ; và như người thường bị bệnh tức hạnh Bệnh. Một đầy đủ năm gọi là viên hạnh, là hạnh Như Lai, bốn hạnh kia cũng giống như thế. Nếu nói theo chung riêng thì cũng lấy hạnh Trời làm chung, bốn hạnh kia là riêng. Tuy giải thích như thế nhưng chẳng trọn vẹn. Có người cho năm hạnh là nhân, một hạnh là quả, nghóa này chẳng đúng. Đã đều gọi là hạnh thì đâu thể phán định nghiêng về một bên. Có Sư cho rằng năm hạnh là riêng, một hạnh là chung, một chia thành năm, năm gom thành một, gom chia khác nhau, lý tuy như thế, mà hạnh chẳng phải như thế. Cảnh giới chư Phật thì Nhị thừa và Bồ-tát chẳng thể biết được. Trên thì có thể gom hoặc chia cảnh dưới, dưới chẳng thể chia cảnh trên. Phẩm này nêu tên năm hạnh nhưng chỉ nói ba hạnh, không nói hai hạnh còn lại. Vì sao? Vì hạnh Trời là hạnh chung, là gốc của các Thánh, ý này có thể thấy cho nên xa chỉ tạp hoa. Nay nói thêm rằng: “Vì trong Tạp hoa từ đầu đến cuối chưa đầy đủ các nghóa sự lý, hạnh nguyện, nhân quả của Bồ-tát thiên viên, chẳng bằng chỉ cho kinh, khiến nhờ sự chỉ bày mà tìm về xưa, thấy văn rộng ấy chẳng vượt khỏi nhất lý. Sơ trụ trở lên là hạnh của các vị trời nên gọi là hạnh Trời; hạnh tức là trời cho nên gọi là hạnh Trời; vì các vị trời tu hành cho nên gọi là hạnh Trời; nhân nơi trời mà hành tiến tu nên gọi là hạnh Trời; xa chỉ cho trời nên gọi là hạnh Trời. Có chung có riêng, suy nghó sẽ tự biết. Hạnh Bệnh, thì trước đã hiện nói, sau khi chứng đạo tự hiện rõ, cho nên không nói hai hạnh ấy, chỉ nói ba hạnh mà thôi. Nay nói thêm rằng: “Đã chẳng nói hai hạnh thì hoàn thành hiện phẩm chưa có”. Nếu thế thì nên nói kết luận phẩm trước phát khởi phẩm sau. Bệnh và vô bệnh kết luận cho nhau. Trước nói thường là trả lời câu hỏi của ngài Ca-diếp, nói hành nhân quả tức là khởi phẩm sau. Nếu chẳng thế thì chỉ nói bốn hạnh, chẳng nói một hạnh. Văn phẩm được chia làm ba: 1/ Nêu cả năm và một. 2/ Giải thích cả năm và một. 3/ Kết luận về năm hạnh. - Trong phần một trước nêu hạnh thứ lớp. Gồm có bốn: 1/ Nêu người tức là Bồ-tát. 2/ Nêu pháp sở duyên, là đại Niết-bàn. 3/ Nêu tên tức thứ lớp năm hạnh. 4/ Kết khuyến, nghóa là có trị thì lành, không trị thì chẳng lành, vì thế cho nên khuyên. Nêu hạnh chẳng thứ lớp, gồm có ba: một, nêu tên hạnh tức là nói “lại có một hạnh.” Hai, nêu người chẳng theo thứ lớp, tức là Như Lai. Ba vì nhân hạnh của Như Lai, tức là người ở địa vị nhân. Đại thừa là viên nhân, Niết-bàn là viên quả, tức ngay nơi nhân là quả đầy đủ không thiếu, đó là một hạnh tức tất cả hạnh. Vì người này sẽ hết bệnh, cho nên không khuyên. Hỏi: Hai hạnh năm và một đều duyên Niết-bàn, nghóa ấy thế nào? Đáp: Tuy đều duyên Niết-bàn, nhưng lập hạnh có khác. Một là duyên Niết-bàn, nên lấy Niết-bàn làm hạnh, mỗi hạnh đều là Niết-bàn, mà có thiên viên. Người chẳng thấy nghóa này mà vọng nói nhân quả, gom chia, thật là lầm lẫn.  <卷>QUYỂN 14 <詞>PHẨM 19: THÁNH HẠNH (PHẦN 2) Từ câu “Ca-diếp thế nào là Bồ-tát v.v…” trở xuống là phần thứ hai gồm cả giải thích. Văn có ba: Là Thánh hạnh, Phạm hạnh và Anh nhi hạnh (hạnh trẻ thơ). Hạnh Thánh có hai ý: Giải thích cả hạnh thứ lớp và hạnh chẳng thứ lớp. Kế là khen ngợi kinh. Đầu tiên là giải thích năm và một; trước giải thích hạnh Thánh, có ba: Một là giải thích Giới hạnh; hai là giải thích Định hạnh; ba là giải thích Tuệ hạnh. Đầu tiên giải thích Giới hạnh lại gồm có ba: Một là giải thích giới hạnh; hai là giải thích giới quả; ba là giải thích tên các hạnh. Giải thích về giới hạnh thì trước giải thích thứ lớp, sau giải thích chẳng thứ lớp. Giải thích giới hạnh thứ lớp có hai: Một là lập tâm; hai là lập hạnh. Lập tâm có hai: Một là duyên gặp người; hai là duyên gặp pháp. Sau đây là duyên gặp người. Nếu từ Thanh văn nghe là dụ cho việc gặp người nuôi bệnh, gặp Như Lai là dụ cho thầy thuốc, nghe kinh Đại Niết-bàn là gặp thuốc hay, nghe rồi sinh tín là lập tâm ưa thích nhàm chán, cầu đạo Vô thượng tức là Bát-nhã, nói có đại chánh pháp tức là Pháp thân, nói chánh hạnh là Giải thoát. chư Phật là Phật bảo, đạo Vô thượng là Pháp bảo, đại chúng là Tăng bảo. Trong đó, chẳng phải không có pháp duyên, vì từ số nhiều mà đặt tên nên gọi là duyên gặp người, tức kiến lập tâm. Kế là nói về pháp duyên: “Lại có kinh Phương Đẳng” tức là nói từ kinh này mà nghe được ba Đức, ba Bảo v.v… nói ưa thích tìm cầu là sinh khởi tâm ưa thích, nếu xa lìa các yêu thích là khởi tâm nhàm chán. Được pháp làm duyên thì sẽ kiến lập tâm, đó là đối trị. Đã gặp được nhân duyên, ưa thích, nhàm chán rõ ràng, chấn động khiến cho ma sầu não. Từ câu “bấy giờ, Bồ-tát v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về lập hạnh. Có hai ý là thọ giới và giữ giới. Văn nói về thọ giới có hai là cầu thầy và thọ giới, như văn kinh đã ghi. Từ câu “đã xuất gia v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về giữ giới, gồm có pháp và dụ. Dụ có hai là dụ và hợp. Dụ có năm tội: Bốn Trọng cấm, Tăng tàn, Thâu-lan-già, Ba-dật- đề và Cát-la. Văn hợp lại có sáu, tức thiên thứ ba, chia làm hai là ba mươi Xả đọa và chín mươi Đọa để hợp với văn dụ. Hoặc có thể nói xả đọa được chia làm hai là kinh túc sám và đối thú sám. La-sát có hai cách giải thích: Một là dụ cho ác tri thức bên ngoài, hai là dụ cho tâm điên đảo bên trong. Như trong phần thanh tịnh trì giới ghi ở chỉ quán bốn. Từ câu “nếu Bồ-tát có thể, v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về giới chẳng thứ lớp. Gồm bốn: 1/ Đầy đủ cành gốc. 2/ Đầy đủ lý sự. 3/ Đầy đủ khinh trọng. 4/ Đầy đủ thệ nguyện. Nói căn bản tức là tánh trọng; quyến thuộc trước sau tức là phương tiện khởi sau khi đắc đạo; hai điều này thuộc về nhiếp luật nghi giới. Chẳng phải các ác giác tức là phòng hộ ý căn, là Định cộng giới, hai giới này thuộc về Nhiếp thiện pháp giới. Hồi hướng Đại thừa tức nhiếp chúng sinh giới. Tánh trọng làm gốc lưu xuất ra các giới. Kế là từ câu “Này Ca-diếp v.v…” trở xuống là nói lại có hai thứ giới đầy đủ sự lý. Nói cành gốc ở trước đều thuộc về sự, nhiếp phàm phu năng hành, giới chánh pháp thì tương ưng với lý, là giới mà bậc Thánh thọ trì. Thứ ba, từ câu “lại có hai loại v.v…” trở xuống là nói về có đủ giới khinh trọng. Các sự lý nói ở trước đều là Trọng. Từ câu dứt sự chê bai của thế gian về sau là khinh. Bồ-tát giữ gìn đầy đủ bình đẳng không khác nhau với tánh trọng giới. Tiếp tử, xưa gọi là tiếp tức chỉ cho các loại cây lê thị. Các sư Trung Quán âm là “đế”, là tên của Quảng Thành Hầu đời Hán. Lễ ký lại ghi: “Vì kẻ só hái dưa cắt ngang, chỉ bỏ rễ mà thôi”. Ý nói các ông chẳng được cất giữ. Nói hoàng mộc chẫm, có hai cách giải: một, cho rằng đây là chiếc gối gỗ, bên trong rỗng như loại cổ hoàng (trống); hai là đoạn làm gối có các đường vân đẹp giống như hoa vàng. Ba-la-tái, Lương Vũ Đế gọi là song lục, loại này mới có vào thời gần đây. Khiên đạo tức ăn hai lần, bát đạo hạnh thành đều là các trò vui. Thứ tư, từ câu “này người thiện nam v.v…” trở xuống là nói đầy đủ thệ nguyện. Giữ vững tâm là thệ; mong mỏi đạt đến là nguyện. Văn có hai là nguyện cho mình và nguyện cho người. Phần Tự thệ có mười hai câu: trong lời thệ chẳng khởi tâm phá giới. Kế là có sáu thệ nguyện chẳng thọ của tín thí bên ngoài. Thứ ba, có năm thệ nguyện, nói chẳng bị nội căn ngoại trần phá hoại. Từ câu “Bồ-tát hộ trì, v.v…” trở xuống là nguyện cùng với người hộ trì. Văn kinh nêu mười loại giới. Chỉ một pháp hộ trì mà chung cho chín loại kia. Giới thanh tịnh và giới thiện pháp thuộc về pháp nhiếp thiện. Bất khuyết, bất tích nếu thuộc về già cấm là thuộc về luật nghi. Nếu thuộc về ly quá là thuộc về thiện pháp. Năm giới sau, nếu y theo ý vận chuyển rộng lớn thì đều thuộc về nhiếp chúng sinh. Bất thoái tức là và, quán rượu, cung vua không lui sụt giới đã thọ. Tùy thuận nghóa là tương ứng với lý. Rốt ráo tức tất cả đều đầy đủ. Ba-la-mật tức đây kia đều cùng tột. Chỉ giữ tâm giới tức đầy đủ tất cả giới, đó gọi là một giới tất cả giới. Giới là pháp giới, nhiếp tất cả pháp, đó là giới hạnh tròn đầy. Kế đến, từ câu “Bồ-tát tu trì v.v…” trở xuống là nói về giới quả. Nếu nói theo báo nhân chiêu cảm quả báo, tức là gần thì cảm quả báo trời, người. Nếu nói theo tập nhân chiêu cảm tập quả, thì xa cảm pháp nhân thường trụ. Nay chẳng phải gần, chẳng phải xa, mà chỉ lấy Bất động địa làm quả. Xưa có ba cách giải thích: một là cho địa thứ tám làm Bất động địa; hai là cho Sơ địa thành tựu chân giải là Bất động địa; ba là y cứ theo kinh Thập Địa phối hợp Nhị địa và thi-la, ở đây nói bất động tức là Nhị địa. Ở đây cho là chẳng phải. Vì trước đã gồm nói về hạnh thứ lớp như đã phân biệt ở trên, thì nay hợp luận về quả, thì phải y cứ theo chứng đạo. Nếu chứng đạo là đồng xứ, thì đồng xứ tức Sơ địa. Nếu chỉ y cứ theo thứ lớp ba học để nói về quả, thì nhập lý gọi là Trụ, trụ là Bất động. Thập trụ là giới quả. Từ trụ sinh ra công đức gọi là Hạnh, hạnh lấy tự tại làm nghóa, thì Thập hạnh là quả định. Đất bao hàm nghóa năng sinh, chuyên chở muôn vật và vô sở úy, tức là tuệ quả. Đây là ý nghóa hạnh thứ lớp. Nếu y cứ theo viên để nói về quả giới thì chính là Sơ trụ. Ý của văn kinh không đơn thích mà phải hợp luận, đó chính là dùng Sơ địa chứng đạo đồng xứ để nói về giới quả. Như thế rất hợp với nghóa gồm nói về quả ở trên. Đến phần giải thích thì nghóa này sẽ được hiển bày. Văn có bốn là nêu, dụ, giải thích và kết luận. Nêu thì như văn kinh. Nói Bất động nghóa là thường nên bất động, vì lạc nên chẳng đọa, vì ngã nên chẳng thoái, vì tịnh nên chẳng tan. Hỏi: Thích luận nói rằng tám gió chẳng làm lay động, nhưng gió Tùy-lam thổi đến thì tan nát như cỏ mục. Vì sao ở đây nói gió tùy-lam bình thường chẳng thể làm lay động? Đáp: Luận giải thích theo kiếp tận. Thứ ba, từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là giải thích, gồm có ba: một, là y cứ theo ba Đế để giải thích. Sắc, thanh, hương, vị là quả lành trong tục đế. Địa ngục là quả ác trong tục đế. Thanh văn, Bích-chi-Phật là người trong chân đế. Dị kiến, tà phong là pháp trong chân đế; sinh tử, thiện ác, Niết-bàn, nhân pháp đều chẳng thể làm lay động, không đọa lạc, không thoái thất, không tan nát đó là nói lên thường, lạc, ngã, tịnh của giai vị giới quả thuộc trung đạo. Kế là, thứ hai y cứ theo ba chướng để hiển bày ba thân. Ba độc là phiền não chướng. Bốn trọng, hủy báng chánh pháp là nghiệp chướng. Bỏ giới trở về thế tục là báo chướng. Báo chướng diệt thì pháp thân hiển bày. Nghiệp chướng tiêu thì ứng thân hiển lộ. Phiền não chướng dứt thì báo thân hiện tiền. Nếu đạt đến Sơ địa ba thân hiện thì ba chướng diệt. Thứ ba y cứ theo bốn đức. Ma phiền não chẳng làm lay động tức là đức tịnh. Chẳng bị ma ấm làm đọa lạc tức là đức lạc. Chẳng bị ma trời làm lui sụt là đức ngã. Chẳng bị ma chết làm tan hoại là đức thường. Nói Sơ địa này có bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh là giới quả thì hai nghóa đều thích hợp. Thứ tư, từ câu “này người thiện nam v.v…” trở xuống là kết luận về giới Thánh hạnh. Từ câu “Nầy người thiện nam! Thế nào gọi là hạnh Thánh v.v…” trở xuống là phần thứ ba giải thích cả danh từ Thánh hạnh. Văn có ba: nêu lên, giải thích và kết luận. Phần giải thích có ba: một, nêu hai hạng người Thiên và Viên, để hiển bày giải thích cả hai. Thứ hai, nêu riêng hai pháp định, tuệ để thành tựu giới. Thứ ba, nêu chung bảy Thánh tài, bảy Giác pháp để giải thích bậc Thánh. Bậc Thánh thực hành pháp Thánh, pháp Thánh thành tựu cho bậc Thánh nên gọi là hạnh Thánh. Nếu chứng đạo đồng xứ thì nên dùng giai vị sở địa giới, định, tuệ có đủ bảy Thánh tài, bảy giác đạo để giải thích bậc thánh. Thứ ba là kết kuận như văn kinh ghi. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về hạnh định tuệ. Văn có hai phần: Nói về định có thứ bậc. Nói về định tròn đầy. Sau nói về quả, Khai Thiện dùng bốn Niệm xứ quán để giải thích hạnh định, các Sư đều thuận theo. Nghóa này chẳng đúng vì có hai điều sai lầm trái với kinh, hại cho nghóa. Nói trái kinh, văn kinh ghi: “Thực hành pháp quán này thì được bốn niệm xứ, được bốn Niệm xứ rồi trụ trong Kham nhẫn địa”. Nếu nhất định cho Thánh hạnh là bốn Niệm xứ, thì lẽ ra kế là vào giai vị Kham nhẫn. Nếu chưa được Kham nhẫn thì làm sao được bốn Niệm xứ. Nói hại nghóa, nay nói về định mà dùng bốn Niệm xứ là thuộc về tuệ. Sau nói về tuệ hạnh nên dùng tám định, vậy lẽ ra cũng nên nói giới hạnh là định hạnh, điều sai này chẳng nhỏ. Ở đây chia ra mười sáu pháp đại thắng, tám bội xả, chín tưởng, đã chẳng phải là căn bản thì đều có quán tuệ biết được vô thường, vô ngã. Ngã là gốc của các điều ác, nên được đặc biệt nói đến. Các sư thấy lập vô ngã quán thì liền cho là niệm xứ. Văn có hai: Nói pháp môn đặc biệt cao quý. Nói tám bội xả. Đầu tiên được chia thành hai là tu và chứng. Nói tu đức quán xét thân này từ đầu đến chân. Kế là nói về chứng, có hai: Một là nói về tướng chánh chứng; hai là từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói về pháp chứng này và giải đều phát khởi. Đầu tiên là nói ba mươi sáu thứ như tóc, lông, móng, răng v.v… là chứng pháp đặc biệt cao quý này thì khai phát thấy toàn thân từ bên trong, bên ngoài và khoảng giữa mỗi chỗ đều có mười hai thứ, tổng cộng là ba mươi sáu thứ. Não là ở trên, hạch ở dưới chân, nêu chung trên dưới. Hà Tây và Chiêu-đề đều cho là hạt đào, vì trong não có xương nhỏ như hạt đào, hạt mai. Biển Thước chỗ có ba sợi lông ở ngón chân gọi là hạch, vì trong đó có hạch. Từ câu “Bồ-tát chỉ nghó v.v…” trở xuống là nói trong định đặc biệt này cùng phát khởi với giải, chẳng sinh đắm trước. Văn này đã lược, chỉ suy nói vô ngã, nếu nói đủ thì phải nói cả khổ, không, vô thường. Thứ hai, từ câu “trừ bỏ da thịt v.v…” trở xuống là nói về tám bội xả quán. Văn có hai là tu và chứng. Đầu tiên là nói tu, nghóa là quán trừ da thịt là tướng tu. Kế là, từ câu “chỉ quán xương trắng” v.v… trở xuống là nói về tướng chứng. Có hai: một, là nói về tướng chứng. Từ câu “lại nghó rằng v.v…” trở xuống là nói về giải của tướng chứng, không sinh chấp đắm, tức đã dứt trừ tất cả sắc dục lại tăng tấn sự chứng ngộ, từ đoạn này trở xuống lại nói về bốn giới trọng. Nói “lại nghó rằng” là nói duyên nơi chứng mà khởi quán. Đầu tiên là nói trừ ba dục, tức là tướng chứng, tựa như chứng chín tưởng mà chẳng thấy văn nói về tu tập. Đó là tu bội xả mà chứng chín tưởng cũng có nghóa này. Kế là “quán xương màu xanh thấy mặt đất, v.v…” câu này dường như nói về quán thắng xứ, trong đó nói “khi quán xương màu xanh” là nói về tướng tu. Từ câu “khi Bồ-tát quán như thế, v.v…” là nói về tướng tu bội xả; câu “giữa hai đầu chân mày phát ra ánh sáng mầu xanh, vàng, v.v…” là nói về tướng chứng. Câu “thấy rồi tự hỏi, v.v…” là duyên chứng mà khởi nội quán, ngoại quán. Từ câu “nếu bị sỉ nhục” đến câu “ai chịu sự sỉ nhục” là kết luận về nội quán. Từ câu “Nếu ta chẳng nhẫn, v.v…” trở xuống là kết luận về quán tuệ. Vì thế nếu khéo biết ngăn dứt các chướng, nuôi lớn tâm định, chẳng tạo nhân của pháp ác thì không có quả địa ngục. Từ câu “Bấy giờ, Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai nói về quả định. Trong đó nói về người câu Giải thoát, định tuệ sở tu song tu, nên nói: “quán như thế rồi, được bốn niệm xứ”. Niệm xứ năng dứt trừ các kết sử để nhập vị, vị tức giai vị Kham nhẫn. Văn có hai phần là nêu lên và giải thích. Xưa nói về địa thứ năm thì Thiền Ba-la-mật tròn đầy. Nay nói chẳng phải như thế, nếu mỗi y cứ theo biệt viên mà nói riêng về định quả thì như trước đã giải thích, nếu hợp luận thì Sơ địa nhẫn chịu tham dục cho đến đói khát là pháp nhẫn. Chịu đựng muỗi mòng cho đến khổ sở là Sinh nhẫn. Nói thân tâm khổ não là tổng kết. Từ câu “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là nói về hạnh viên định. Có người nói rằng phân biệt loại trừ phá giới lẽ ra là sau phần giới hạnh, nhưng lại nói ở đây. Có ba cách giải thích: một, cho rằng người dịch kinh lầm; hai, là muốn hợp hai địa để không khác thể, trước gọi là Bất động, ở đây nói là Kham nhẫn, thật ra chỉ một địa; ba, cho rằng đến trì giới chưa thể thấy cơ, chẳng thể hành sát sinh, đến định thì thấy cơ có thể làm các việc hủy giới. Nghóa này chẳng đúng. Ở đây, chính là nói về ý nghóa viên định. Hỏi: Văn kinh này nói: “Khi chưa lên Bất động địa thì có được phá giới chăng? Sao lại nói là Viên định? Đáp: nếu chẳng phải là viên giới thì sao được ngay nơi hủy là trì, đã đạt đến trì hủy tự tại thì định cũng như thế, ngay nơi tán là định. Chẳng khởi viên định mà hành sát sinh mới là viên định. Giới có thể hiểu thì ngay nơi giới là định, chẳng cần phải ghi nhiều. Vì thế gọi văn này là hạnh viên định. Hỏi: Trước nói về viên giới rồi mới nói về quả viên giới, nay nói định quả rồi mới nói đến viên định, vì sao? Đáp: Trước sau chẳng nhất định, chỉ cần hiển bày viên định. Văn có ba phần hỏi đáp: 1/ Sơ lược. 2/ Nói rộng. 3/ Ngài Văn-thù thuật. Sự trái, lý thuận thì lẽ ra chẳng chịu quả báo ác. Phật trả lời như văn kinh ghi. Từ câu “Lại có hạnh Thánh v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về hạnh thánh. Văn có hai: Nói về tuệ hạnh. Nói về tuệ quả. Nói về tuệ hạnh có hai: Một, là giải thích tuệ hạnh; hai, là giải thích tên tuệ hạnh. Đầu tiên, là giải thích tên tuệ hạnh lại chia làm hai: một là giải thích tuệ thứ lớp; hai là giải thích viên tuệ. Giải thích tuệ thứ lớp lại có ba: Một, giải thích tuệ tứ đế; giải thích tuệ nhị đế; ba, giải thích tuệ nhất thật. Có người cho rằng đây là nghóa khai hợp, trong rốt ráo không nói là Nhất đế. Kế là từ nhất đế khai thành hai, lại khai hai thành bốn, cũng khai bốn thành mười sáu, cho đến vô lượng. Nếu hợp thì hợp vô lượng thành mười sáu, hợp mười sáu còn bốn, hợp bốn còn hai, hợp hai về một, hợp một về không. Nay nói tuy có hợp tan, khai hợp mà danh nghóa lại khác, đối với duyên đều khác nhau, mà phần lớn lại có liên quan nhau. Nay lược với đối với duyên Tam tạng mà nói tuệ tứ đế; đối với duyên Thông giáo mà nói tuệ Nhị đế; đối với duyên Biệt giáo mà nói tuện nhất thật đế, hoặc lấy trí làm bốn đế; hoặc cho khổ, tập, diệt, đạo đều là cảnh. Đối với cảnh mà nói trí, trí tức là đế. Cảnh năng phát trí, khiến trí vô sở hữu, trí lại năng chiếu cảnh, biết rõ cảnh vốn không. Cảnh trí giúp nhau thành tựu nên nói là Tứ đế. Hưng Hoàng cho rằng: “Nói Thánh đế thì đó là Phật tánh Niết- bàn, chẳng phải cảnh, chẳng phải trí, chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian, nên gọi là Thánh đế. Nếu y cứ theo các Sư, mỗi mỗi chấp một kiến đế giải thích văn thì chẳng đúng, vì nghóa Bốn đế rất rộng đâu thể giải thích theo một bề. Nay văn nêu lên ba loại Tứ đế: Nếu nói khổ, có tướng ép ngặt tức là hữu tác hữu đế; nếu nói: “biết khổ không khổ mà có chân đế, v.v…” thì đó là Vô Sinh tứ đế; từ câu “khổ vô lượng tướng, v.v…” trở xuống là nói về Vô lượng Tứ đế. Ba loại tứ đế này đều là quán cảnh của Bồ-tát. Bồ-tát trụ trong Đại thừa đại bát Niết-bàn tức là tuệ Vô tác tứ đế. Vì năng sở hợp luân nên có bốn loại. Văn đầu tiên có ba lượt giải thích, giải thích rộng và kết luận. Lại chia thành sáu: Nêu lên, giải thích tên, giải thích dụng, giải thích thể, giải thích chế lập, giải thích rộng về thể. Thứ nhất như văn kinh. Kế là giải thích danh, tức dùng ép ngặt để giải thích khổ. Thân là gốc khổ, là nơi các khổ nhóm họp nên gọi là ép ngặt. Tập năng sinh trưởng, đó là nhân năng sinh quả. Diệt là tướng vắng lặng, không còn sinh tử. Đạo gọi là Đại thừa, tức từ nhân vận chuyển đến quả. Nếu cho rằng bốn đế là nghóa của Tam tạng, sao lại nói đạo là tướng Đại thừa? Nếu chỉ đem đối với Tam tạng thì đạo của Bồ-tát Tam tạng giáo là trên hết, nên cũng gọi là Đại thừa. Khổ là hiện tướng nói về dụng. Khổ là quả báo, quả thì hiển hiện. Tập là nhân tướng, nhân tướng ẩn kín nên nói là chuyển tưởng. Các sư Số Luận cho rằng: “Thấy hiển tướng, thấy ẩn kín, từ ẩn kín đến hiển bày tức là chuyển tướng”. Người thế gian nói khổ đều là y cứ theo việc hiện tiền, chẳng cần nói về sự nối nhau, nên gọi là hiện tướng. Tập là nghiệp, lực dụng của nghiệp sẽ phải nối nhau, hai tâm chuyển biến nên gọi là chuyển tướng. Diệt là trừ tướng, trừ cái bị trừ, tức là trừ Khổ, Tập. Đạo là năng trừ. thể. Từ câu “khổ có ba tướng, v.v…” trở xuống là phần thứ tư giải thích Nói Tập là hai mươi lăm hữu, các nhà Số Luận cho rằng: “Nối nhau chẳng dứt gọi là Tập”. Các Luận Sư cho rằng: “Chiêu quả là tập”. Tập này làm nối nhau trong hai mươi lăm hữu, năng chiêu cảm hai mươi lăm hữu, v.v… Từ câu “pháp hữu lậu, v.v…” trở xuống là đoạn năm nói về chế lập. Y theo hai thứ nhân quả của hữu lậu vô lậu mà lập bốn đế này. Kế là từ câu “Ba tướng v.v…” trở xuống là đoạn sáu nói về tướng Tứ đế. Nói mười lực v.v… là Đạo. Trang Nghiêm nói rằng: “Quả địa chẳng phải là Đạo, Đạo mới là nhân, nhưng nói mười lực, tức trong nhân phần tu mười lực, vô úy”. Khai Thiện cho rằng: “Đạo chung cho nhân và quả”. Quả địa lấy Bồ-đề làm đạo, Niết-bàn làm diệt, cả hai không khác thể, mà nghóa thì khác. Từ câu “này người thiện nam! v.v…” trở xuống là thứ hai, nói rộng về bốn đế, gồm có bốn chương. Chương khổ đế có ba: 1/ Lược giải tám khổ. 2/ Giải thích rộng tám khổ. 3/ Hội thông. Thứ nhất nói tám khổ lại gồm tám chương: Mới xuất tức mới gá vào chi thức, chỉ có thân căn, chưa đủ sáu căn, tức mới gá thai. Đến cuối cùng là hết một thời kỳ. Tăng trưởng tức sáu bào tăng trưởng. Xuất thai tức khi sinh ra. Chủng loại sinh tức sau khi ra khỏi thai thì răng, lông, tóc, v.v… các loại phát triển. Diệt hoại có hai giải thích: Một, đến lúc tuổi già thì bệnh tật tăng trưởng, tướng khỏe mạnh diệt hoại; hai, là từ sinh đến lớn gọi là tăng trưởng, từ trưởng đến già là diệt hoại. Bệnh khổ lẽ ra phải nêu đủ bốn đại, nhưng chỉ nói ba đại, là vì địa đại chuyển động chẳng bằng gió và lửa, cho nên lược bỏ. Tạp bệnh và khách bệnh là thuộc về địa đại. Tử gồm có ba câu về phước và mạng, có thuyết cho rằng chỉ mất tài vật nhưng mạng vẫn còn là phước tận; tài vật còn mà mạng chẳng còn là mạng tận, cả hai đều tận thì có thể tự biết. Hà Tây cho rằng: Mạng vốn được một ngàn năm, mà chỉ được có một trăm năm là do phước đã hết nên mạng theo đó mà vong, nên nói là phước tận mạng chẳng tận. Mạng tận chẳng phải phước tận, tức phước nghiệp vốn chưa tận nhưng mạng đã tận nên phước theo đó cũng hết, nên nói là mạng tận phước chẳng tận. Cả hai đều tận thì có thể hiểu. Nay nói thêm rằng: Lại có hai nghóa khác nhau nên có tổn hoại: một là do hai nhân ở quá khứ khác nhau; hai là do phung phí tài vật và sát sinh mà dẫn đến phước và mạng ở hiện tại suy tổn có khác nhau. Buông lung phá giới thì mạng căn chấm dứt, trái lại thì gọi là chẳng buông lung. Trì giới mà xả bỏ mạng căn thì gọi là hoại mạng. Lại có người giải thích rằng đó chẳng phải xả mạng mà chính là tạo tội, gọi là tử thi, không còn gốc lành tuệ mạng. Hàng xiển-đề hủy báng pháp gọi là buông lung; phá bốn trọng cấm gọi là phá giới. Loại thứ năm, sáu, bảy, tám như văn ghi. Tám khổ, bảy khổ đầu có thể tánh riêng, một loại khổ sau là gom chung bảy khổ trước, không có thể tánh riêng. Nay y cứ theo văn kinh thì năm ấm lừng lẫy cũng có tự thể riêng, trong đó năm ấm thiện ác lẫy lừng là thể của khổ, phương tiện ấm thạnh thì chẳng phải thể của khổ, v.v… Kế là từ câu “Này Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai nói rộng về tám khổ, văn tự có tám câu. Đầu tiên nói về khổ sinh, lại có ba ý: Nói sinh là gốc khổ. Nói sinh tử liên quan nhau. Nói sinh có nhiều tội lỗi. Đầu tiên là nói sinh khổ là gốc của bảy khổ kia. Lại phân biệt nêu ra một khổ, thì sáu khổ kia cũng lấy sinh làm gốc. Từ câu “chúng sinh thế gian v.v…” trở xuống là ý thứ hai nói sinh tử liên quan nhau, gồm có pháp và dụ. Trong phần pháp thuyết lại có hai: trước nói phàm phu tham đắm. Kế là nói Bồ-tát nhàm chán. Trong phần dụ có hai gồm dụ và hợp. Trong dụ được chia làm hai: dụ nhàm lìa và dụ tham đắm. Trong nhàm lìa lại có bốn: một, là nói về sinh đáng ưa thích; hai, nói về tử đáng chán ghét; ba, là nói về sinh tử liên quan nhau; bốn, là nói Bồ-tát xả bỏ cả hai. Đầu tiên hỏi đáp có sáu câu, thật ra chẳng có người hỏi đáp, mà chỉ là cảnh sinh và quán trí của Bồ-tát đối chiếu nhau mà giả lập ra chủ khách. Người nữ dụ cho sinh quả mê hoặc phàm phu, khiến sinh ra tham đắm, trí quán của Bồ-tát mới sinh khởi dụ cho việc mới về nhà. Khôi ngô xinh đẹp là điều chúng sinh ưa thích, chuỗi anh lạc dụ cho nơi sinh ra quả nhiều vinh hoa. Chủ nhà dụ cho Bồ-tát xem xét, người nữ dụ cho sinh quả đối với trí. Kế là từ câu “lại thấy ngoài cửa, v.v…” trở xuống là ý thứ hai nói về chết đáng ghét. Hỏi đáp cũng có sáu câu. Tử là sau khi sinh, nên nói ở ngoài cửa. Quả tử dối gạt người nên dụ cho người nữ. Xấu xí là cảnh tử, làm hoại quả nên khiến cho mọi loài chán ghét. Sinh tử trái nhau nên nói là nứt nẻ, khí huyết đã cạn nên gọi là trắng tái. Về việc chủ nhà cầm đao, có hai cách giải thích: Một, Dung Thành cho rằng một bề nhàm chán nên dụ là cầm đao; hai, Chiêu-đề cho rằng trí tuệ là đao, nếu tử chẳng đi thì dùng trí tuệ để dứt. Thứ ba là từ câu “chủ nhà hỏi, v.v…” trở xuống là nói sinh tử liên quan nhau. Sinh ở trước tử nên là chị, tử ở sau sinh nên là em. Chẳng bao giờ lìa nhau nên nói là cùng ở bên nhau. Trở vào hỏi công đức thiên, tức là Bồ-tát xem xét biết sinh và tử luôn luôn đi chung. Từ câu “chủ nhà nói rằng v.v…” trở xuống là ý thứ tư nói về Bồ-tát xả bỏ cả hai. Văn có ba đoạn, thứ nhất nói đều xả bỏ. Thứ hai cả hai đều đi. Xưa cho rằng từ kim cương tâm trở xuống, cho nên nói trở về chỗ mình. Thứ ba, là Bồ-tát vui mừng. Từ câu “khi ấy v.v…” trở xuống là phần thứ hai dụ cho tham đắm. Hỏi đáp bốn câu, đầu tiên nói cả hai cùng đến nhà kẻ phàm phu. Phàm phu thiếu nghiệp lành nên nói là nhà nghèo cùng. Từ câu “người nghèo kia v.v…” trở xuống là câu thứ hai, nói về người nghèo hèn yêu thích. Từ câu “Công đức thiên nói v.v…” trở xuống là câu thứ ba, nói sinh cảnh nghiệm xét tâm phàm. Từ câu “người nghèo đáp v.v…” trở xuống là câu thứ ba, nói về tâm phàm ứng hợp với cảnh. Đã ưa thích sinh, thì phải nhận chịu tử. Từ câu “Ca-diếp! Bồ-tát, v.v…” trở xuống là hợp dụ. Trước hợp với Bồ-tát nhàm chán. Sau là hợp với phàm phu tham đắm. Từ câu “Bà-la-môn v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về tội khổ của sinh, có năm dụ: Thứ nhất là dụ pháp thiện cạn mỏng, có bốn câu. Bà-la-môn tịnh hạnh dụ cho Bồ-tát, đầu tiên muốn tu Bát-nhã, cuối cùng được đạo thanh tịnh. Bà-la-môn tuổi nhỏ giới hạnh còn cạn mỏng. Bị cơn đói ép ngặt là dụ cho ba đường khổ ép ngặt. Quả am-la trong bãi phân là dụ cho trong khổ vô thường có quả báo sinh lên cõi trời. Từ câu “người trí, v.v…” trở xuống là câu thứ hai nói về hạnh sâu xa quở trách. Từ câu “người nhỏ tuổi, v.v…” trở xuống là nói người có hạnh cạn mỏng hổ thẹn. Nói chẳng tham ưa niềm vui cõi trời, chỉ muốn trong tu đạo rồi xả bỏ. Từ câu “người trí nói v.v…” trở xuống là câu thứ tư, Bồ-tát khuyên xả bỏ. Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là hợp dụ, chỉ hợp với hai câu, chẳng hợp với hai câu trước. Từ câu “này Ca-diếp! v.v…” trở xuống là dụ thứ hai. Người bán thức ăn là dụ cho Phật; ngã tư đường dụ cho bốn loại sinh; bát dụ cho kinh giáo; chứa đầy thức ăn dụ cho Phật nói năm giới, mười điều thiện chiêu cảm quả trời, người. Nói đem bán nghóa là dùng pháp này độ sinh; nói từ xa đến là dụ cho từ trong đường ác đến; đói khát thiếu thốn dụ cho quá khổ. Hỏi rằng: “Thật có việc này hay chăng?”. Người bán trả lời dụ cho Phật đáp chỉ có một loại độc là chẳng tránh được vô thường, tức là tử diệt. Lại xem xét rằng nếu đó là pháp vô thường, vì sao Như Lai lại dạy người tu tập, nên hỏi rằng: vì sao lại bán?”. Phật lại trả lời là người có trí tuệ sâu xa thì xả bỏ, phàm phu vừa nghe thì liền nhận lãnh. Hai dụ thứ ba và thứ tư rất dễ thấy. Từ câu “thí như bờ nguy hiểm, v.v…” trở xuống là dụ thứ năm nói về quả sinh tử. Thứ hai là quán già, thứ ba là quán bệnh, hai đoạn này dễ hiểu, nhưng sinh chắc chắn phải ở trước tử, còn bệnh thì không hẳn ở sau già. Nay trước nói già sau nói bệnh, vì lúc còn trẻ mà bị bệnh thì có hy vọng chữa lành, khi bị bệnh thì mau chết, cũng như sắp đổ mà lại đẩy thêm vào, cho nên sắp bệnh ở sau già. Nói thân tâm an ổn, gồm có hai cách giải thích: một, chỉ cho an ổn là bệnh, như cha con Đại Hữu, Tiểu Hữu sau mười năm mới được gặp mặt, ban ngày vừa vui mừng nhau, qua đêm thì chết. Đó là nói an ổn là bệnh. Thứ tư là quán khổ chết, văn có hai: 1/ Quán về chết. 2/ Từ câu “phàm chết v.v…” trở xuống là nói cảm thương tha thiết. Thứ nhất. Thế nào là chết? Nếu hơi thở còn thì sống. Khi hơi thở đã dứt thì chẳng biết khổ, nếu thọ báo ở địa ngục thì đó là thân sau, đâu có liên quan gì đến khổ chết. Việc này thật khó biết. Ví như vặn hỏi về diệt, lúc chưa diệt là diệt hay lúc đã diệt mới gọi là diệt, tiến lùi thật khó nhất định, dường như xưa có nay không, xưa không nay có, v.v… nay chỉ lấy theo nghóa sắp dứt mà chưa dứt để nói là khổ chết. Còn nói một cách rốt ráo thì Bồ-tát cũng chưa hoàn toàn tránh khỏi sự sinh và chết, nhưng nói chỉ trừ Bồ-tát trụ trong Niết-bàn, gồm có ba cách giải thích: 1/ Cho Phật là Bồ-tát. 2/ Cho rằng Bồ-tát Kim Cương Tâm chỉ một lần chuyển liền thành Phật. 3/ Bồ-tát Sơ địa tuy chưa thoát khỏi sinh tử, nhưng chí cầu Niết- bàn chẳng bị sinh tử não loạn. Nay cho rằng cách giải thích thứ nhất nói đó là Phật ứng làm Bồ- tát thì chẳng hợp với ý kinh. Kế là nói Bồ-tát Kim Cương Tâm một lần chuyển, đó chính là tử rồi, vì sao còn nói là trừ. Thứ ba nói Bồ-tát tuy chẳng bị sinh tử làm loạn động mà chẳng tránh khỏi sự chết, vậy làm sao trừ được. Ở đây nói trừ tức là Bồ-tát Viên giáo, đạt được phiền não tức Bồ- đề, sinh tử tức Niết-bàn, chẳng cần phải diệt nữa, sinh tử chẳng phải là sinh tử, cũng chẳng phải là Niết-bàn. Sinh tử còn chẳng phải sinh tử, thì sinh tử đâu thể là sinh tử. Bồ-tát chẳng sinh tử như thế tức là bị Trừ, chẳng bị sinh tử làm hại. Văn ghi: “Như mưa kim cương, phá hoại tất cả” Vậy mưa này có phá được kim cương chăng? Nếu chẳng phá được thì nghóa lợi ích chẳng thành, nếu phá được thì nghóa bền chắc chẳng thành… sự chết làm tổn thương tất cả như mưa kim cương, chỉ có Bồ-tát chẳng bị tổn thương. Kim cương nói ở dụ sau chỉ là kim cương vụn nát, chẳng thể làm tổn thương kim cương tảng, kim cương khối, cho nên Bồ-tát chẳng bị sự chết làm chết được. Nói rắn độc ma-la, Hà Tây nói đây là loại rắn đen, độc của nó chỉ cần chạm vào quần áo cũng có thể làm chết người, người khác chạm vào quần áo này cũng bị chết. Nói sao A-kiệt-đa, sao này xuất hiện vào tháng tám, nếu có người được tinh chú này thì sẽ giải trừ được các chất độc. Kế là, từ câu “nói sự chết, v.v…” trở xuống gồm mười câu, tha thiết cảm thương, rất là đáng buồn, nếu nói xa lìa thì thành hai mươi câu. Nói ở nơi hiểm nạn, tức là nỗi khổ của bệnh đã trở nặng. Nói không tư lương tức nghèo thiếu pháp thiện. Nơi chốn xa cách trở tức con đường ở cõi chết thật vô cùng. Nói không có bạn bè tức hồn phách cô độc, đi đến phương xa mà không ai đi theo. Trong suốt mười hai canh không chút tạm ngừng nghỉ, ngày đêm đi mãi chẳng trước chẳng sau, nên nói là không bờ bến. Như vực sâu muôn nhẫn, nên nói là thăm thẳm. Vì trong đó tối tăm, bên ngoài ánh sáng chẳng chiếu vào được nên không có ánh sáng. Chết là con đường cùng, các nẻo đường đều bít nên nói vào mà không có cửa. Lại nói chết chẳng từ sáu căn mà vào nên nói không có cửa nhưng lại có chỗ đến, nên nói là nơi chốn. Lúc bấy giờ hoảng hốt, nói tuy không có chỗ đau, thầy thuốc đành bó tay, nên nói chẳng thể chữa trị. Hiền thánh chẳng thể chế ngự nên nói đi không có gì ngăn chặn được, đến thì chẳng thể thoát khỏi. Lúc mới chết thấy vẫn còn y nguyên, chẳng thấy có gì tổn hoại nên nói là không phá hoại. Thân thuộc đau buồn nên nói là sầu khổ. Lại chẳng phải cọp, sói, chim thú ăn thịt nên nói chẳng phải sắc xấu xí. Không ai chẳng sợ chết nên nói mọi người đều kinh sợ. Đây là thân hậu ấm cho nên nói là ở bên thân, mà chẳng biết được tốt xấu, nên nói chẳng hay biết. Nếu y cứ theo nghóa này thì mạng đã dứt, thân trung ấm là khổ chết. Thứ năm, quán khổ thương mà chia lìa. Từ duyên lìa mà sinh tức là hoại khổ. Nếu nói về hoại khổ là trong nhân nói quả, tức chỉ cho thọ lạc làm thể, ở đây cũng thế, tức chỉ cho ân ái là khổ chia lìa. Văn kinh nói xả bỏ thân mạng yêu thích nghóa là tuy thân mạng dứt là khổ chết thuộc về đời trước. Nay nói xa lìa thân mạng yêu thích và các y báo như quyến thuộc v.v… là khổ thương yêu mà chia lìa. Thích luận ghi: “xa lìa người khác thì dễ, xa lìa thân thuộc là khó; Xa lìa thân thuộc là dễ, xa lìa cha mẹ thì khó; xa lìa cha mẹ là dễ, xa lìa thân mình là khó; xa lìa thân mình thì dễ, xa lìa tâm mình thì khó”. Đảnh sinh là thấp sinh, luận Thành Thật nói người thế tục đứng bên cạnh các vị trời giống như đứa bé ăn xin ở bên vua, vì sao lại nói hai vị vua giống nhau. Nhưng Đảnh sinh là ứng cho nên được so sánh với các vị trời, nếu là thật báo thì chẳng bằng. Tuổi thọ của vị thiên chủ dài lâu nên chớp mắt chậm; thế chủ tuổi thọ ngắn nên chớp mắt nhanh, nhặt hơn. Kim luân vương rất nặng chẳng thể thăng lên. Nhưng nhờ phước đức mà nặng thành nhẹ. Nói mao và vó, xưa ghi mông vó thì chẳng đúng. Lông ngắn thì chỉ gọi là Mao, dài thì viết là Tiêu. Văn sau nói người nhiều nghề nghiệp gọi là mao só, tức là lấy từ nghóa đức độ rộng lớn. Lưu Hiếu Tiêu gọi là nhậm phưởng là mao kiệt trong nước, tức chữ mao này. Khi xưa, vua Ngụy có hạt châu quý hiếm chiếu sáng mười hai cỗ xe, huống chi là hạt châu của đảnh sinh chẳng chiếu xa mười do-tuần ư? Ở đây nói ổ của bánh xe. Lại kinh nói trong giải áo, tức là nói năng lực công đức chứ không nói về lớn nhỏ. Bảo nữ sinh được một ngàn người con, nên mới gọi là bảo nữ. Pháp Hiển Truyện ghi: “Vương phi sinh một khối thịt như trái dưa, có một ngàn múi, một múi sinh một người con”. Thích luận ghi: “Cù tân là bảo nữ, không thọ thai”. Hai văn trên ghi khác nhau làm sao hội được thông được? Đây là do mỗi thời đại xem trọng sinh con và chẳng sinh con khác nhau. Thứ sáu, là quán khổ ghét mà phải gặp mặt nhau. Đã từ duyên hội hợp mà sinh tức là khổ, cảnh trước mắt ép ngặt tâm, tâm lãnh chịu cảnh ép ngặt sầu não cho nên khổ. Gọi là khổ ghét mà phải gặp mặt nhau. Thứ bảy, là quán khổ mong cầu mà không được. Lại y cứ theo khổ thương yêu mà xa lìa và chán ghét mà phải gặp nhau ở trước, tức đối với ái thì cầu hợp mà lại xa lìa, đối với oán muốn xa lìa mà lại gặp. Cả hai cầu chẳng được tức là khổ mong cầu mà không được. lừng. Thứ tám, tổng kết bảy thứ khổ trước để thành khổ năm ấm lẫy Như trước có giải thích, khổ chắc chắn có tự thể riêng. Từ câu “bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba hội thông khổ đế. Xưa nói trong A-hàm có nói trong ba thọ có lạc thọ, nay nói trong năm ấm đều là khổ, không có nghóa lạc. Xưa nay nói nghóa trái nhau. Khai Thiện chia đoạn này làm bốn lần hỏi đáp, có bốn chương. Các sư Trung Quán chia làm hai, ba phần sau là chương phụ chỉ lập câu hỏi. Nay trước là hỏi, sau là đáp. Phần hỏi có ba: Một là bác bỏ; hai là lập năm câu hỏi; ba là kết luận. Đầu tiên là nói lãnh chỉ và bác bỏ. Từ câu “vì sao v.v…” trở xuống là vặn hỏi. Câu thứ nhất và câu thứ tư là đồng y cứ vào duyên của lạc. Câu thứ hai là y cứ vào thể của lạc. Câu thứ ba và câu thứ năm là đồng y cứ vào nhân của lạc. Thứ nhất, là y cứ vào duyên của lạc. Trong kinh A-hàm, khi xưa Phật bảo Thích-ma-nam rằng: “Nếu sắc chắc chắn là khổ thì chẳng nên tìm sắc. Nếu sắc chắc chắn là vui, thì chẳng nên chán sắc”. Nhưng nay chỉ hỏi về không lạc chẳng nên cầu sắc, nếu tìm mầu xanh, vàng v.v… thì nên biết có lạc, vậy nay vì sao nói hoàn toàn không có lạc. Nay nêu đủ sáu căn đối với sáu trần để làm duyên của lạc. Từ câu “như Phật nói kệ v.v…” trở xuống là câu thứ năm và câu thứ ba, đồng y cứ theo nhân của lạc, mà nghóa khác nhau. Câu trước nêu điều thiện làm nhân của lạc, nhưng chỉ nói điều thiện thế gian. Nay lại nêu pháp thiện xuất thế của Thanh văn và Bồ-tát làm nhân của lạc. Gồm năm bài kệ, chia ra làm bốn: Hai bài đầu nói về điều thiện của Thanh văn làm nhân của lạc. Kế là bài kệ nói về pháp thiện của Bồ-tát, là nhân của lạc. Một bài kệ cuối cùng kết luận về Đại thừa Nói Bồ-tát rốt ráo, tức chẳng đồng với Phật rốt ráo, vì đó là phần rốt ráo. Từ câu “bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là phần thứ ba kết luận ý chẳng đúng. Các kinh chỉ nói về giáo xưa, còn nay Đức Phật nói là chỉ cho giáo nay, nên chỉ có khổ mà không có lạc. Từ câu “Phật bảo Ca-diếp v.v…” trở xuống là chương thứ hai, Như Lai đáp chia làm hai, thứ nhất là khen lời hỏi. Từ câu “này người thiện nam v.v…” trở xuống là phần chánh đáp, có hai ý đáp chung và đáp riêng. Trong phần đáp chung lại chia ra hai là đáp và nói về nghóa. Thứ nhất như văn kinh ghi. Khi xưa thuận theo ý người, cho khổ là lạc. Hôm nay tùy theo ý mình nên nói tất cả đều khổ. Trước ngài Ca-diếp lập năm câu hỏi theo thứ lớp nêu ra. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng một câu trả lời năm câu hỏi, giải thích một cách khéo léo hai thuyết xưa mà chẳng trái nhau. Thật chẳng có lạc mà hàng phàm phu chấp đắm, gượng sinh ý tưởng cho là lạc. Từ câu “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phần nói về nghóa. Lại vặn hỏi Phật giải nghóa cùng khổ. Gồm có hai là trước hỏi, sau nhận lãnh, tin hiểu. Thứ nhất, có ba: một là lầm thưa hỏi; hai, là điên đảo hỏi; ba, là y cứ theo sự để hỏi. Thứ nhất lầm vấn nạn: Ý của Phật thì cho khinh là hạ khổ, cho nên thành nhầm lẫn mà nhận lãnh, tin hiểu. Ca-diếp nêu tám khổ gồm ba phẩm, hạ thì đọa ba đường, trung thì cõi người, thượng là cõi trời. Nếu hạ khổ có vui, thì trong ba đường phải có vui. Từ câu “nếu có người v.v…” trở xuống, kế là vặn hỏi điên đảo. Từ câu “bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là thứ ba, y cứ theo sự để vặn hỏi. Như người chịu phạt đánh một ngàn roi, một roi đầu tiên mà lại nghó là vui hay? Từ câu “Đức Phật bảo v.v…” trở xuống là đáp, có hai: một, là khen lời hỏi; hai, là đáp. Nhưng câu hỏi thứ ba, ý nói phạt một roi thật là nêu trong hạ khổ mà nghó là vui, tức là nếu miễn được nhiều roi kế tiếp, mà cam chịu một roi cũng có thể lấy đó làm vui. Từ câu “từ nghóa này v.v…” trở xuống là đáp. Chỉ đáp câu thứ ba y cứ vào sự mà vặn hỏi. Trước lầm nhận lãnh điên đảo vặn hỏi tự nhiên cách xa. Ta (Đức Phật) thật chẳng nói hạ là khổ nặng, hạ là khổ nhẹ, vì sao thầy (Ca-diếp) lại lầm nhận, nên chẳng đáp hai câu ấy, đồng thời cũng chẳng phải như thế, đối với hạ lạc mà nghó là khổ nên chẳng cần đáp, chỉ đáp câu thứ ba, đáng lẽ chịu một ngàn roi, nhưng chỉ mới chịu một roi đầu tiên, nghe nói được tha thì đó chẳng phải là hạ khổ mà nghó là vui hay sao? Như người phải chịu hình phạt phải chết, nghe nói tha chỉ phạt một trăm roi cũng giống như thế, trong hạ khổ mà nghó là vui. Phần hỏi đáp thứ hai là lãnh giải, trước lãnh thọ sau thuật thành. Có chỗ cho rằng đoạn văn này là một câu hỏi, nói người này chẳng phải vì một roi đầu tiên mà nghó là vui, chỉ vì thoát được nhiều roi mới nghó là vui. Đây là ý lãnh hội, chẳng phải câu hỏi. Nói thật chẳng dối là theo thế gian mà nói. Xưa nói có lạc là tùy tình, nay nói không lạc là đạo lý như thế. Từ câu “này Ca-diếp v.v…” trở xuống là thứ hai, giải thích riêng năm câu hỏi, nhưng chỉ có ba đoạn văn. Thứ nhất là đáp câu hỏi về thể của lạc; thứ hai là đáp câu hỏi về nhân của lạc; thứ ba là đáp câu hỏi về duyên của lạc. Thứ nhất lại có ba: Một là nêu giáo; hai là điểm ba thọ; ba là kết hư thật. Sau là văn thứ nhất, trước nêu hai giáo. Ba thọ giáo là ba khổ giáo, có thể thấy. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là văn thứ hai điểm ba thọ. Giáo xưa cũng có ba thọ, trong đó khổ khổ là khổ thọ, hoại thọ và lạc thọ. Hành khổ là xả thọ. Đây là giáo Tiểu thừa, nghóa lý chưa rốt ráo, chỉ là đơn, chỉ là thuyết của luận Thành Thật. Nay nói cực giáo là chỉ phức. Đầu tiên nói khổ thọ gồm ba khổ, khổ khổ là tâm duyên cảnh khổ, cảnh khổ ép ngặt tâm, kết hợp nêu lên nên nói là khổ khổ. Lạc chẳng trụ lâu dài, chỉ tạm thời hiển hiện, duyên lạc đã dứt tức là hoại khổ. Bị vô thường xâm đoạt là hành khổ. Hai thọ kia mỗi thọ đều có hai khổ, hoặc một khổ, cho nên văn ghi là hai. Nay giải thích chẳng đúng như thế, trước đã chỉ phức sao bây giờ là chỉ đơn (riêng) hoại khổ là lạc thọ. Cho nên biết một thọ có hai khổ. Lạc thọ cũng có hoại khổ và hành khổ. Thể của lạc có thể bị hoại là hoại khổ, lại bị vô thường ép ngặt nên cộng thêm hành khổ. Xả thọ cũng giống như thế, xả phải lìa khổ nên có hoại khổ mà không tránh khỏi vô thường nên có hành khổ. Nhưng hai cảnh này chẳng cần có cảnh ép ngặt nên không có khổ khổ. Từ câu “do nhân duyên này v.v…” trở xuống là kết luận hư thật. Có hai: Một, là kết luận xưa nói là lầm thấy vui. Chẳng phải thật, nhưng vì phàm phu nên nói là có lạc. Bồ-tát chẳng phải như thế, thấy đều là khổ. Văn kinh ghi: “Trong sinh tử thật có vui”. Văn kinh sau lại ghi: “Trong sinh tử thật không có vui”. Đó là thuận theo vọng chấp của thế gian. Tam tạng Chân Đế chấp sinh tử có vui không có vui, đều là sự tranh luận như trước đã nói. Từ câu “Này thiện nam. Trong sinh tử, v.v…” trở xuống là kết luận nay nói thật khổ, rất dễ thấy. Từ câu “Ca-diếp bạch Phật” trở xuống là lời đáp thứ hai trả lời câu hỏi thứ ba, thứ năm y cứ theo câu hỏi về nhân. Có hai: Thứ nhất Ca-diếp lại nêu câu hỏi xin đáp. Có chỗ cho rằng đó là câu hỏi mới. Ở đây cho là chẳng phải, đó chỉ là nêu lại câu hỏi pháp thiện thế gian và xuất thế gian ở bài kệ trên thêm vào các từ ngữ mà thành, chứ chẳng phải câu hỏi khác. Ý Phật đáp rằng: Ta nói pháp thiện chiêu cảm quả vui, xa hơn thì được Bồ-đề an vui, chứ ta chẳng nói trong sinh tử có vui. Đầu tiên là nói căn bản của Bồ-đề tức căn nhân của quả Phật. Lại nói trưởng dưỡng Bồ-đề tức là liễu nhân quả Phật. Xưa nói: từ trước chẳng được chấp sinh nhân, nay cho rằng có nhân duyên, cũng được nói như thế. Từ câu “Này thiện nam thí như thế gian, v.v…” trở xuống là câu đáp thứ ba, trả lời hai câu hỏi về duyên lạc. Có hai là chánh đáp và giải hoặc. Chánh đáp lại có hai: Trước nói về duyên vui, sau nói về duyên khổ. Duyên chẳng nhất định nên không có vui. Sau nêu ra các châu báu đều là nhân khổ, hãy nêu một việc: ví như cất nhiều vật báu lúc đầu thì cho là vui, cho đến khi bị mất thì rất khổ não. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nêu giải hoặc kết, có ba: một, kết luận Bồ-tát biết khổ. Kế là kết luận Nhị thừa chẳng biết, nên tùy tình mà nói. Thứ ba, lại nêu Bồ-tát để kết luận.  <卷>QUYỂN 15 <詞>PHẨM 19: THÁNH HẠNH (PHẦN 3) Đầu quyển nói rộng về Tập Đế, Văn có ba: 1/ Nói về Tập đế. 2/ Hội thông. 3/ Phân biệt. Nói về Tập đế lại có ba là: a) Nêu tên, b) Giải thích thể, c) Nói về đúng sai. Trong phần nêu tên, trước là lập chương môn. Sau là giải thích Tập nhân, có thể sinh Tập quả nên nói là nhân duyên của các ấm. Từ câu “Tập nghóa v.v…” trở xuống là thứ hai giải thích thể. Giáo xưa lấy nghiệp phiền não làm Tập. Trong phiền não có mười kết sử. Nay chỉ nói về phiền não, chẳng nói về gốc của nghiệp vốn là phiền não, phiền não nhuận nghiệp. Trong phiền não chỉ nói về tham ái. Ái là hoặc nhuận nghiệp trói buộc trong các cõi, cho nên phải chịu sinh tử. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Không nghiệp, không phiền não thì Khổ đế không có trụ, vô minh không thể hiện hành, bình đẳng thực hành ở thế gian”. Mười hai nhân duyên chẳng sinh chẳng diệt là bình đẳng mới gọi là Tập đế. Trong đây có bảy phần luận bàn. Thứ nhất, nói về Tập nhân, quả đã khởi tức là trong năm ấm đã hình thành ái. Kinh nói: “Trở lại ái hữu này” tức là ái thân năm ấm. Thứ hai, “Ái có hai loại v.v…” trở xuống là nói về hai loại ái. Thân mình tức là ngã, vật cần dùng tức là ngã sở. Thứ ba, lại nêu hai loại ái là muốn được và đã được. Thứ tư, tức là ái trong ba cõi. Thứ năm, nói ba loại ái. Nghiệp nhân duyên ái lấy báo làm nhân nên vời lấy quả khổ. Như bồ câu, chim sẻ nặng về dục, đều là quả của nghiệp nhân đời trước chiêu cảm thành. Phiền não nhân duyên ái vì Tập nhân cho nên sinh ái, rất dễ hiểu. Kế là khổ nhân duyên ái, vì tho- át khổ lớn mà sinh ái đối với khổ nhỏ. Như sợ khổ chết mà chữa lành bệnh, nhưng phương pháp chữa thật là đau đớn, do đây mà bệnh lành liền sinh tâm ái. Thứ sáu, nêu bốn ái tức là bốn việc. Thứ bảy, nêu năm loại ái và năm ấm. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là thứ ba, nói về đúng sai. Nếu bất thiện ái thì đó là Tập, nếu là thiện ái thí đó chẳng phải Tập. Trong đó lại có ba phần phân biệt dứt trừ. Thứ nhất là dùng Thánh đối với phàm để phân biệt. Kế là nêu Bồ-tát đối Nhị thừa để phân biệt. Thứ ba, là dùng đế và phi đế để phân biệt. Cho nên nói “ái của phàm phu gọi là Tập, chẳng gọi là Đế. Ái của Bồ-tát gọi là Thật đế, chẳng gọi là Tập”. Sở dó ái của Bồ-tát gọi là Thật đế chẳng gọi Tập là y cứ theo trí giải. Phàm phu chẳng như thế nên gọi là Tập. Nếu lấy theo nghóa này thì Tục chẳng gọi là Đế. Nếu so sánh với sự thấu suốt thì được gọi là Đế, nếu tùy theo thế tình thì gọi là Tục. Hội thông: Từ câu “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phần hội thông. Xưa hoặc nghiệp là Tập; nay vì sao chỉ nói là ái là nhân của khổ. Trước là hỏi, sau là đáp. Trong phần hỏi, trước dẫn bốn kinh, kế là nêu câu hỏi. Đầu tiên là dẫn kinh nói sáu xúc, tức sáu thức chấp lấy trần cảnh mà sinh ra sáu xúc đối, đây cũng là tập duyên, do thức tâm này mà dẫn sinh ra quả ở vị lai. Như trụ xứ của bốn thức là năm ấm lẫy lừng. Từ câu “Vì sao? v.v…” trở xuống là chính thức kết thành câu hỏi. Kế là, Đức Phật đáp có hai: trước là khen lời hỏi, sau là đáp. Thứ nhất như văn kinh ghi. Trong phần đáp ý nói giáo xưa giáo nay không trái nhau, cho nên nói: “Ngày hôm nay nói ái là gốc của ấm giới, tức là y cứ theo giáo nay”. Văn có hai: Một, nói ái là căn bản; hai, nói tội khổ của ái. Về căn bản có pháp thuyết và dụ thuyết. Gồm ba dụ: đại vương, áo dơ và đất ẩm, như văn rất dễ hiểu. Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói về tội khổ của ái. Có hai: Một là nêu chương; hai là giải thích rộng. Giải thích cũng có chín chương đều chia ra hợp và dụ. Một chương đầu là vì Nhị thừa mà lập dụ; tám chương sau là vì phàm phu mà lập dụ. Thứ nhất như văn kinh. Nhị thừa chưa dứt trừ tập khí như chưa trả hết nợ. Tám chương sau vì phàm phu mà lập dụ. Y theo văn kinh rất dễ hiểu. Phân biệt: Từ câu “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, phân biệt chọn lọc. Khổ Tập là nhân quả thế gian đã nói xong, đối với khoảng giữa của bốn Đế (sau Khổ Tập, trước Diệt Đạo) mà kết luận khổ tập hữu tác ở trước và phát khởi bốn Đế vô sinh ở sau. Quên trước tức quên sinh tử, quên sau tức quên Niết-bàn, y cứ vào sinh diệt trong văn này mà liệu giản, khiến cho ba phần là thứ hai, thứ ba và thứ tư được hiển bày (ba phần: Là bốn Đế vô sinh, bốn Đế vô lượng và bốn Đế vô tác). Vì sao? Vì nếu thấy có khổ thì có khổ sinh, nếu có khổ sinh thì có khổ diệt. Đã biết khổ tức không có khổ, thì khổ sẽ không sinh, khổ không sinh thì khổ không diệt. Kinh Đại Phẩm ghi: “Ngay nơi sắc là không, chẳng phải sắc diệt rồi mới không. Tánh sắc tự không, trong không thì vô sinh vô diệt”. Kinh Tịnh Danh ghi: “Năm thọ ấm rỗng rang, là không, chẳng có sinh khởi, đó là nghóa khổ”. Nếu như thế thì biết khổ tức không khổ mà có chân đế. Tập từ khổ sinh, đã biết khổ tức không khổ thì đâu có tập, biết tập thì không có tập là chân đế. Khổ tập đã diệt thì gọi là Diệt đế. Diệt vốn chẳng sinh thì nay chẳng diệt, đó biết là diệt tức không diệt mà có Chân đế. Đạo là để biết Khổ Tập, đã không có gì để trị cũng không có phép trị nên Đạo chẳng hai, đó là biết Đạo tức chẳng đạo mà có Chân đế. Lại nhờ vào khoảng giữa của bốn Đế để phân biệt vô sinh, nghóa là nói hai bên vô sinh. Nhân quả thế gian đã chẳng sinh; nhân quả xuất thế gian cũng chẳng sinh thì không có bốn Đế. Đã biết Khổ Tập thế gian thì không có Khổ, Tập, cũng biết Diệt Đạo, xuất thế cũng không có Diệt Đạo, đó là bốn Đế vô sinh, ý này thật vô lượng chỉ nói lược mà thôi. Nếu muốn phân biệt nêu phần thứ ba, tức biết khổ tức không khổ mà có thật, thì y cứ vào thật. Trong đó lại có hai ý là thứ lớp thật và chẳng thứ lớp thật. Thứ lớp thật là bốn Đế vô lượng, chẳng thứ lớp thật là bốn Đế vô tác. Lại y cứ vào đó mà phân biệt bốn Đế. Gồm bốn chương. Chương thứ nhất là phân biệt khổ. Có hai bản nói khác nhau. Bản xưa nói phàm phu, Thanh văn, Duyên giác đều có Khổ đế. Bản mới san định thì trong Tập đế chia phàm phu và Nhị thừa thành hai hạng khác nhau, phàm phu chỉ có khổ, không có đế, Nhị thừa thì có khổ có đế. Ở đây đối với Nhị thừa thì gồm cả cho và đoạt. Xưa nói Khổ là cảnh, Đế là trí. Phàm phu vô trí chỉ có cảnh, vì vậy chỉ có khổ không có đế. Nhị thừa có chút phần trí, nên có khổ và đế, mà không có chân đế. Vì thế chẳng thể quán khổ, biết khổ tức không khổ, nên chẳng chân thật. Về Tập đế thì cũng giống như thế. Hai đế là Đạo và Diệt chẳng nói về phàm phu, vì chỉ có ở Nhị thừa và Bồ-tát. Đạo diệt có chân ngụy khác nhau, vì Nhị thừa chẳng thể quán Diệt đế chẳng phải Đế, nên chẳng phải Chân, còn Bồ-tát thì biết rõ, nên đạt được chân thật. Từ câu “Này thiện nam” trở xuống là nói rộng về Diệt đế, tuy Diệt Đạo nhờ vào trung gian của sinh diệt đế kia để phân biệt, nhưng vì sinh diệt Diệt đạo chưa giải thích, nên lại giải thích, còn ba loại bốn Đế khác như bốn Đế vô sinh… sau sẽ giải thích rộng, kế là giải thích Diệt đế. Văn có ba ý: Thứ nhất, nêu hai chương, kế đến giải thích ba kết. Nêu hai môn quán diệt và Diệt đế. Nếu quán diệt tức là chương đoạn, quán Diệt đế là chương xa lìa. Nhị thừa nguội thân bặt trí diệt chỉ có hai việc đoạn lìa, còn Bồ-tát đầy đủ trí đức, v.v… Từ câu “Cái gọi là đoạn v.v…” trở xuống là giải thích tám chữ đầu về quán diệt đế. Sự dứt hoặc này, không thể lấy đó làm đoạn. Từ câu “Nếu phiền não v.v…” trở xuống là giải thích chương quán Diệt đế, gồm có dụng và thể. Trong dụng gồm có năm câu: bốn câu đầu là bốn đức, có chỗ nói là năm đức, nay nói bốn đức là nói theo dụng. Thứ hai, từ câu “Đối với sắc thanh v.v…” trở xuống là y cứ theo rốt ráo vắng lặng, là nói theo thể. Thứ ba, từ câu “Này thiện nam! Bồ-tát, v.v…” trở xuống là kết luận như văn kinh ghi. Trong phần giải thích có dụ và hợp. Nói nhờ đèn sáng là dụ cho tám Chánh đạo, nhưng đèn sáng chiếu soi vật, vật tuy thường và vô thường khác nhau, nhưng rốt cuộc chỉ một đường mà tùy duyên nên nói khác. Nói Đà-la-phiêu: Hà Tây cho là chân thật đế, Cầu-na là trang nghiêm, anh lạc công đức v.v… Xưa nói là chủ đế, y đế. Phi-đà-na tức là phi chân, phi Cầu-na tức là phi tục. Từ câu “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phần thứ hai hội thông. Khi xưa Phật nói nhiều thuyết khác nhau, nay chỉ nói tám đạo. Vì thế phải hội thông. Văn kinh có hai đoạn là hỏi và đáp. Trong đoạn hỏi có hỏi và bắt bẻ. Hỏi có ba: một, nói chẳng tương ưng; hai, giải thích chẳng tương ưng; ba, kết luận chẳng tương ưng. Đầu tiên như văn kinh. Kế là giải thích. Nêu mười bốn kinh mà phần nhiều là giáo A-hàm, v.v… từ tín tâm cho đến bố thí, nói đều là Đạo nhưng có khác nhau. Kế là từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là bắt bẻ, gồm có ba: Dùng nay bắt bẻ xưa. Dùng xưa chất vấn nay. Kết luận thành lỗi. Văn thứ nhất cho rằng nếu xưa đúng thì nay sai. Thứ hai, cho nay là đúng, vì sao khi xưa chẳng thấy nói đến. Thứ ba kết luận, như văn kinh ghi. Phật đáp có hai phần, trước là khen. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là chánh đáp. Ý trong phần pháp thuyết là theo căn cơ khác nhau, nên nói có khác nhau, hợp tất cả đều là một Đạo đế, cho nên lý đồng. Từ câu “Thí như thầy thuốc, v.v…” trở xuống là dụ thuyết, có sáu dụ: Thầy thuốc, uống nước, thợ bạc (thợ kim hoàn), đốt lửa, một thức, một sắc. Tất cả đều có trước dụ sau hợp. Thứ nhất dụ thầy thuốc, rất dễ hiểu. Hà Tây cho rằng Ni-bà-la là nấu nước cây Ha-lê, Bát-trú-la là nấu nước lá cây này thành thuốc, nên lấy tên cây làm tên nước uống. Nói Ba-ni, đây là một loại nước ở Đông Thiên Trúc. Có kinh ghi là Uất-trì, nay chưa nhất định được, nhưng từ lâu đã truyền ghi là Uất- đặc. Sa-lị-lam là một loại thức uống ở Trung Thiên Trúc. Ba-lợi là một loại thức uống của Thanh Luận sư. Ba-da là nước có hòa thuốc. Thứ ba, dụ thợ kim hoàn. Nói năm loại là Tín hành cho đến Kiến đạo, tức Tín hành và Pháp hành, người trong kiến đế đạo. Tín giải là Kiến đạo cũng gọi là Kiến đắc, là người trong tư duy đạo. Bốn người trong hai đạo mỗi đạo chia làm lợi và độn, vào tư duy lại thành tín giải độn. Pháp hành thì rất dễ hiểu. Xem qua như thế, nếu thường tập thì thành lợi, chẳng tu tập thì độn, qua lại chẳng nhất định. Có vài người cho rằng mười lăm tâm là Kiến đế đạo; mười sáu tâm trở lên là Tư duy đạo. Các Luận gia thì chẳng như thế, cho mười sáu tâm đều là Kiến đế đạo. Các Luận gia chia ra lợi độn trong năm pháp quán dừng tâm. Trong đó nhập kiến đạo không có lợi độn. Thí như nước lặng yên, tùy ý bơi thuyền hoặc nhanh hoặc chậm, khi thuận gió xuôi dòng thì không có lợi độn. Ba văn còn lại rất dễ hiểu. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, tổng kết. Từ câu “Ca-diếp bạch Phật, v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba nói về vô lượng tứ Thánh tuệ. Có ba đoạn: một, nói về vô lượng vô lượng; hai, kết thành bốn vô lượng tuệ; ba, kết thành hai vô lượng. Có người cho rằng văn này hội thông bốn đế. Khai Thiện cho rằng đây là nhiếp pháp tận, chẳng tận. Ở đây cho là chương vô lượng vô lượng tuệ. Thứ nhất như văn kinh hỏi đáp. Trong phần hỏi, trước là nêu việc, xưa nói lá cây trên mặt đất là dụ cho vô lượng vô lượng. Lá trong tay ít là dụ cho hữu tác vô sinh. Nên biết, trước kia người nói thì ít, người chẳng nói thì nhiều. Nhiều như thế, Tứ đế gồm thâu tất cả. Nếu gồm thâu tất cả thì chẳng nên nói là nhiều, nếu chẳng gồm thâu tất cả thì lẽ ra có đế thứ năm. Phật đáp là vừa gồm thâu tất cả vừa chẳng gồm thâu tất cả, đều gọi là bốn Đế. Danh nhiếp thì phân biệt hết tất cả tướng mạo, kia chẳng nói nhiếp thì chẳng tận tất cả. Vì danh đồng mà nghóa thì khác nên có tận và chẳng tận. Nay Đức Phật đáp là dùng danh để gồm thâu từ trước, cho gồm thâuhết tất cả. Từ câu “Ca-diếp lại bạch v.v…” trở xuống là quy kết vô lượng vô lượng làm bốn vô lượng tuệ. Văn kinh gồm có hỏi và đáp. Trong phần đáp có hai, đầu tiên chỉ y cứ để nói về trí, kế đến là giải thích tướng của đế. Đầu tiên như văn kinh ghi. Nếu nói đủ về đế trí thì phải có ba phẩm. Nhưng hạ phàm chẳng cần nói, nên không bàn đến, chỉ nêu bậc trung và bậc thượng. Nếu y cứ vào pháp thì phải nêu bốn loại Tứ đế để sắp xếp trung thượng. Hữu tác và Vô sinh như trước đã nói, còn vô lượng thì nay sẽ nói. Nói vô lượng thì chẳng phải vượt ngoài bốn Đế mà chỉ là nói đến một loại bốn Đế khác. Cho nên văn kinh ghi: “Phân biệt so lường có vô lượng chủng loại”. Nếu nói đến cùng tận thì từ địa ngục cho đến Phật, từ phàm đến Thánh, tất cả năm ấm đều khác nhau. Trong mỗi ấm lại chia ra có vô lượng giới và nhập, Thanh văn, Duyên giác đâu thể biết được vô lượng khổ đế này. Lại từ địa ngục cho đến Phật, hành nghiệp đều khác nhau, mỗi hành nghiệp lại chia ra tính lường có vô lượng loại, Thanh văn, Duyên giác cũng chẳng thể biết được vô lượng Tập đế này. Lại từ địa ngục cho đến Phật nên dùng thân nào, nên nói pháp gì để giúp cho họ tu học. Mỗi pháp của thân phân biệt so lường có vô lượng pháp môn làm quyến thuộc; Thanh văn, Duyên giác cũng chẳng thể biết được đó là vô lượng đạo đế. Lại từ địa ngục cho đến Phật, khi được Giải thoát do nhân duyên khác nhau nên mỗi Giải thoát lại có vô lượng Giải thoát. Phân biệt so lường lại vô lượng như thế thì hàng Thanh văn, Duyên giác cũng chẳng thể biết được vô lượng Diệt đế. Bốn cảnh đã khác thì hữu tác vô sinh, trí của Nhị thừa cũng chẳng thể đạt đến. Tên gọi đồng khác là tướng bốn Đế, như mặt đất chỉ một tên mà có vô lượng, tướng của nó rộng lớn nay sẽ nói lượt. Trong phần chánh thức nói về bốn Đế có bốn chương. Đầu tiên là nói về Khổ đế, trong đó kinh chỉ y cứ theo ấm, nhập, giới và lặp lại về ấm, để nói lược tướng khổ. Đầu tiên là nói về ấm. Kinh nói: “Biết các ấm khổ là người Trung trí, phân biệt được các ấm có vô lượng tướng là người Thượng trí”. Vậy làm sao phân biệt được ấm sáu đường? Ấm nghóa là ngăn che, tức ngăn che pháp lành trời người và pháp lành vô lậu. Ngăn che pháp lành trời người thì đọa vào ba đường. Ngăn che pháp lành vô lậu thì luân hồi trong các cõi. Ấm của Nhị thừa thì ngăn che đức và đẳng, ngăn che bốn đẳng tâm thì không thể giáo hóa chúng sinh, ngăn che bốn đức thì chẳng thể đến đảo châu báu. Ấm của Bồ-tát thì ngăn che sinh tử và Niết-bàn, ngăn che sinh tử thì dùng đại bi nhổ gốc khổ, ngăn che Niết-bàn thì khởi đại Từ ban vui. Ấm của Phật thì ngăn che Sự Lý pháp giới. Ngăn che Sự thì Ứng thân thích ứng khắp các loại căn cơ; ngăn che Lý thì Pháp thân biến hiện khắp tất cả cõi. Vả lại, ấm của sáu đường là khổ, ấm Nhị thừa là lạc, ấm Bồ-tát là song thị, ấm của Phật là song phi. Phân biệt như thế Nhị thừa đâu thể biết được. Biết các ấm khổ gọi là trung trí, phân biệt các ấm có vô lượng tướng là bậc Thượng trí, làm thế nào để phân biệt sáu đường, gọi là nhập môn, cũng gọi là hội nhập. Tức nhãn căn và sắc trần hội nhập hữu vi cho đến ý căn và pháp trần hội nhập hữu vi. Nhập của Nhị thừa là nhập vô thường vô ngã, hội nhập vô vi. Nhập của Bồ-tát tức nhãn căn nhập vào thí và hội nhập Đàn ba-la-mật cho đến ý căn cũng giống như thế. Nhãn căn nhập vào các môn giới, nhẫn, tinh tấn, thiền và tuệ, hội nhập vào các Ba-la-mật, cho đến ý căn cũng giống như thế. Nhập của chư Phật tức là Phật nhãn nhập vào phổ môn, nhập vào Từ, Bi, Hỷ, Xả của pháp giới, pháp giới cảm ứng mà hội nhập biển Nhất thiết trí, cho đến ý căn cũng giống như thế. Trong các kinh nói sáu căn là môn tịch tónh, môn bình đẳng, nghóa này rất nhiều, v.v… Vả lại nhập của sáu đường là nhập môn khổ, nhập của Bồ-tát là nhập vào môn vừa vui vừa khổ, nhập của chư Phật là vào môn chẳng phải vui chẳng phải khổ. Biết phần, tánh của giới gọi là Trung trí, phân biệt các giới có vô lượng tướng gọi là Thượng trí, làm sao phân biệt được? Tánh phần nhãn giới của sáu đường chỉ thấy sắc, chẳng thể nghe được âm thanh. Tánh phần của cõi sắc chỉ đối với nhãn căn chẳng thể đối với nhó căn. Cho đến tánh phần ý giới chỉ có thể biết pháp, chứ chẳng thể thấy nghe. Tánh phần của pháp giới chỉ đối với ý căn, chẳng thể đối với nhãn căn, nhó căn. Giới của Nhị thừa, thì tánh phần của nhãn giới chỉ là vô thường, khổ, không, vô ngã, chẳng được thường lạc cho đến ý giới cũng giống như thế. Giới của Bồ-tát, thì tánh phần của nhãn giới chỉ thấy sắc không, chẳng thể tức không tức giả tức trung, cho đến tánh phần của ý giới chỉ có thể tức không, chẳng thể tức trung tức giả. Giới của Phật thì nhãn là tánh phần của pháp giới pháp tánh, thấy được sắc, nghe được thanh, ngửi được mùi, phân biệt vị, biết xúc chạm, rõ các pháp, tức không tức giả tức trung, không thể nghó bàn, đầy đủ tất cả vô lượng Phật pháp, cho đến ý cũng giống như thế. Vả lại sáu đường lấy khổ làm giới, Nhị thừa lấy vui làm giới, Bồ-tát lấy vừa khổ vừa vui làm giới, Phật lấy chẳng khổ chẳng vui làm giới. Từ câu “Biết sắc là tướng hoại v.v…” trở xuống là nói rộng y cứ theo ấm. Phân biệt các sắc có vô lượng tướng hoại gọi là bậc Thượng trí. Trong đó sắc của sáu đường hoại pháp thiền và định. Sắc của Nhị thừa hoại nhân và quả. Sắc của Bồ-tát phá hoại hữu hoại vô. Sắc của Phật phá hoại các họai trên. Hoại là pháp giới, chẳng hoại chẳng phải chẳng hoại, cũng đều là pháp giới. Lại sắc của sáu đường phá hoại các pháp vui, sắc Nhị thừa phá hoại khổ, sắc của Bồ-tát phá hoại cả hai đúng, sắc của Phật hoại cả hai sai. Biết thọ là tướng giác gọi là người Trung trí, phân biệt thọ có vô lượng tướng gọi là người Thượng trí. Trong đó thọ của sáu đường là thọ thuận, thọ nghịch, thọ chẳng thuận nghịch, nếu nghịch thì khởi sân giác, nếu thuận thì khởi tham giác, nếu chẳng thuận chẳng nghịch thì khởi si giác. Thọ của Nhị thừa thì đối với ba giác, mỗi giác đều khởi năm phần Pháp thân, trong đó giai vị Tu-đà-hoàn mới là giác ngộ vô lậu. Thọ của Bồ-tát là thọ Phật pháp thì biết mười lực, bốn vô úy, các Ba-la-mật. Khi thọ chúng sinh thì giác biết bốn tâm vô lượng Từ, Bi, Hỷ, Xả. Thọ của chư Phật là tự giác giác tha, ngay nơi giác mà bất giác, chẳng giác chẳng phải chẳng giác, tất cả đều là pháp giới. Biết tưởngï là tướng chấp thủ gọi là Trung trí, phân biệt chấp thủ này có vô lượng tướng gọi là người Thượng trí. Chấp lấy của sáu đường là chấp thủ nhân, ngã, chúng sinh, thọ mạng, sắc, hương, vị, xúc. Chấp thủ của Nhị thừa là chấp vô thường, khổ, không, vô ngã, Niết-bàn. Chấp thủ của Bồ-tát tức chẳng chấp hai bên, chỉ giữ lấy Trung đạo. Chấp thủ của Như Lai là chẳng chấp chẳng phải chẳng chấp, tất cả đếu là pháp giới. Biết hành tướng là tạo tác gọi là Trung trí, phân biệt hành có vô lượng tướng mà Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết được, đó là người Thượng trí. Hành của sáu đường tạo tác ra hai mươi lăm hữu. Hành của Nhị thừa tạo ra Niết-bàn. Hành của Bồ-tát tạo các Ba-la-mật. Hành của chư Phật tạo mà chẳng tạo, tức chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, tạo tác đều là pháp giới. Biết thức phân biệt gọi là Trung trí, phân biệt thức có vô lượng tướng biết thì đó là người Thượng trí. Trong đó, phân biệt của sáu đường là chấp chặt đây kia, uống đắng ăn độc. Phân biệt của Nhị thừa là nhàm lìa sinh tử, đắm mê Niết-bàn. Phân biệt của Bồ-tát là hai bên hội nhập Trung đạo. Phân biệt của chư Phật thì chẳng phải biên, chẳng phải trung. Văn y theo Khổ đế đã hết. Thứ hai là biết ái làm nhân duyên sinh ra các ấm là người Trung trí, biết tất cả ái gọi là Thượng trí. Ái của sáu đường là nhân duyên của các ấm thân sau. Ái của Nhị thừa là nhân duyên của năm phần Pháp thân. Ái của Bồ-tát là Vô đẳng đẳng sắc cho đến Vô đẳng đẳng thức. Ái của chư Phật là nhân duyên cõi sắc cho đến thức Giải thoát. Thứ ba, biết phiền não diệt là người Trung trí, biết diệt phiền não cũng chẳng thể tính lường gọi là người Thượng trí. Phàm phu sáu đường cũng có diệt nhưng lại sinh. Diệt của Nhị thừa thì như tro lạnh chẳng còn khởi. Bồ-tát thì tự mình đã diệt lại khiến cho người cũng diệt được phiền não. Diệt của chư Phật thì một diệt tất cả diệt, tức là pháp giới. Thứ tư, biết đạo lìa bỏ phiền não gọi là Trung trí, phân biệt vô lượng vô biên phiền não năng lìa là Thượng trí. Đạo của sáu đường lìa ác của thiện, lìa thiện của ác. Đạo của Nhị thừa lìa vô lậu của lậu. Đạo của Bồ-tát thì lìa trung của hai bên. Đạo của chư Phật thì chẳng lìa chẳng đến. Vì sao? Vì tất cả các pháp là Phật đạo, động thì thấy tu đạo phẩm, bất động thì cũng thấy tu đạo phẩm, vừa động vừa bất động cũng thấy tu đạo phẩm, chẳng phải động thấy, chẳng phải bất động cũng thấy tu đạo phẩm v.v… Đó là phân biệt vô lượng Tứ Thánh đế. Từ câu “Biết thế đế v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, kết luận bốn vô lượng thành hai vô lượng. Văn có hai: Một, là nói về Nhị đế; hai, là nói về tuệ Nhị đế. Thứ nhất nói về Nhị đế. Văn kinh nói biết thế đế là bậc Trung trí, phân biệt thế đế có vô lượng vô biên là người Thượng trí; biết rõ ba Pháp ấn là Trung trí, biết Đệ nhất nghóa vô lượng vô biên chẳng thể so lường là bậc Thượng trí. Người thế gian chỉ nói Đệ nhất nghóa đế, chân đế Niết-bàn chỉ được một, chẳng được hai, huống chi là vô lượng vô biên. Nay văn kinh nói Đệ nhất nghóa đế chẳng thể tính kể, đâu chỉ là một loại. Ở đây nói vô thường Niết-bàn v.v… là chân đế, khác với các nhà Số Luận. Số Luận cho rằng bốn Đế, mười sáu đế đều thấy chân, đắc được quả Thánh, đều là Đệ nhất nghóa. Các Luận gia cho rằng chỉ một vô ngã mà thông cả chân tục, còn tất cả đều là Thế đế, nhưng theo đó đều gọi là chân, vì vô thường mà dứt hết các điên đảo thường lạc, v.v… Khổ tập thì tùy chân, nên theo đó mà gọi là Chân. Kinh Tịnh Danh nói: “Chẳng sinh chẳng diệt là nghóa vô thường, đều là Thật tướng, đều là Đệ nhất nghóa, lại là ba pháp ấn”. Từ câu “Bấy giờ, Văn-thù v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về tuệ Nhị đế. Đầu tiên đưa ra sáu loại Nhị đế xưa giải thích: Hữu không, Hư thật, Thế lưu bố (cũng gọi là tùy sự), Tương tục, Tương đãi và Nhân sinh. Hữu không chỉ cho Đại phẩm, Hư thật và Lưu bố chỉ cho A-tỳ- đàm, Tương tục, Tương đãi và Nhân sinh chỉ cho luận Thành Thật. Vả lại, giải thích ý thì đồng mà tên thì khác như: Phàm thánh, Hư thật, Không hữu, Giả thật, Sự lý, Thân sơ. Xưa giải thích rằng: tục là phù hư, Chân là chân thật, Thế là một đời, Đệ nhất nghóa là không có lỗi, Tục đối đãi với chẳng tục, chẳng tục gọi là Chân, Chân đối đãi với chẳng Chân, chẳng Chân gọi là Tục. Hư thật đối đãi thì danh từ chân tục sinh. Có người hỏi rằng Chân là chân thật thì có thể gọi là Đế, còn Tục là phù hư thì sao gọi là đế được? Đáp rằng: có chân thật và phù hư. Nếu thế thì nghóa đế có hai: Tục thì dùng Phù hư để giải thích đế; Chân thì dùng Thật để giải thích đế. Hưng Hoàng cho rằng Đế không hề có hai, vì duyên nên có hai, tục đối với Phàm là thật, chân đối với Thánh là thật, đều dùng thật để giải thích Đế, chứ chẳng lấy phù hư. Nay hỏi: Chân đối với Thánh là thật, Thánh có trí Chân chiếu thì có thể gọi là Đế. Phàm đối với Tục là thật, phàm không có trí chiếu Tục, thì đâu được gọi là Tục đế. Nếu Phàm không có trí chiếu Tục mà đối với Tục là thật, được gọi là Tục đế, vậy phàm không có trí chiếu chân, đối với Chân cũng là thật, lẽ ra cũng được gọi là Chân đế. Phàm đối với Chân không có trí, chẳng gọi là Chân đế, thì phàm đối với Tục vô trí thì đâu được gọi là Tục đế. Vả lại, thánh đối với Chân là thật gọi là Đế, vì sao Thánh đối với Tục chẳng thật mà chẳng được gọi là Đế? Cho nên bậc Thánh không có quyền trí, nay nói đế lại là xét thật. Kinh Tịnh Danh nói: “Tứ đế là Bồ-đề chẳng luống dối”, tức là xét thật này lại có tùy tình xét thật và tùy trí xét thật. Vì tùy tình trí xét thật nên tùy phàm tùy thánh, theo chân theo tục thì gọi là Đế. Ví như một sắc mà phàm phu cho là hữu, hiền thánh cho là không. Như một mặt trời mà kẻ say người tỉnh thấy chuyển và chẳng chuyển khác nhau. Nghóa một đế hai đế cũng giống như thế. Xưa nói hai đế chỉ là một thể chẳng khác. Long Quang cho rằng đã nói là hai đế, thì lại là một thể ư? Hai đế có hai thể cũng đều thông, trong đó duyên giả pháp là thế thể, lý vô tướng là chân thể. Tuy có hai thể mà có thật tướng tức tục, tuy danh tướng chẳng phải danh tướng, thật không có danh tướng mà chẳng ngại danh tướng. Lại nói hai đế một thể, Không là gốc của lý, nên lấy Chân làm thể, Tục làm dụng. Hoặc nói từ tục mà có chân, tục là thể, chân là dụng. Khai Thiện cho rằng hai đế đều dùng Trung đạo làm thể. Các ng- hóa này chẳng đúng. Nếu có hai thể, thì thế đế chẳng phải là bậc nhất, bậc nhất chẳng phải là thế đế. Cho nên chẳng tương tức, chẳng được có tương tức. Nếu là một thể chỉ là một đế không có hai đế. Nếu hai đế thì lấy Trung đạo làm thể, thì chấp tướng chướng chân, vô tri chướng tục, còn cái gì là chướng trung? Trí hai đế chẳng thể thấy Trung thì đâu được lấy đó làm thể. Nếu hai đế hai thể thì hai thể khác nhau, chẳng nói về tức nhau. Nếu hai đế một thể thì chỉ là một đế, vậy tức nhau với cái gì? Kinh Nhân Vương Bát-nhã nói: “Nhị đế chẳng tức nhau, giống như hai sừng trâu”. Đại Phẩm nói: “Ngay nơi sắc là không”. Kinh Tịnh Danh ghi: “Năm thọ ấm rỗng không, chẳng sinh khởi, đó là nghóa khổ”. Kinh này đều nói hai đế tức nhau. Xưa hợp bốn Đế thành hai đế, có chỗ nói Khổ Tập thế gian là thế đế, Đạo diệt xuất thế là chân đế. Có chỗ nói ba Đế là thế đế, chỉ có diệt đế là chân đế. Hoặc nói bốn Đế là thế đế, tức thế đế là chân đế. Văn kinh ghi: “Biết khổ chẳng phải khổ mà có chân đế, ba Đế kia cũng giống như thế”. Nay nói không chỉ bốn Đế khai hợp khác nhau, mà hai đế khai hợp cũng chẳng phải một, về sau sẽ nói rõ. Đoạn văn này gồm hai phần hỏi đáp. Một gồm có ba: một, là xét định; hai, là từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là định hai đế có trong nhau chăng. Thứ ba, từ câu “Nếu có v.v…” trở xuống là vặn hỏi hai ý. Vặn hỏi rằng: Nếu nói có tức là nhất đế, chân tục tức nhau, nên trong chân có tục, trong tục có chân. Hai đế chẳng khác nhau, nên nói là như một. Nếu nói không tức là luống dối. Thật ra nói có, nói không, nhất định là một, nhất định là khác, đều là luống dối, đều có ra từ kinh mà hiển bày cho nhau. Nếu nhất định có, nhất định không thì thành đoạn thường luống dối. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là Như Lai trả lời. Hai đế tức nhau, chẳng đoạn chẳng thường, chắc chắn chẳng phải luống dối. Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là phần hỏi đáp thứ hai. Ý hỏi là thành một đế ư? Cho nên mới nói là không có hai đế. Như dài ở trong ngắn thì không còn dài, chân tại tục thì mất chân, chỉ thành một đế. Đức Phật đáp có hai ý: Một là, được nói về đại ý. Lý thật Trung đạo chỉ có một thể, dùng phương tiện tùy duyên khéo léo mà nói có hai. Hai là, từ câu “Nếu tùy ngôn thuyết v.v…” trở xuống là phần thứ hai, giải thích rộng, có tám loại: 1/ Thế, xuất thế 2/ Danh, vô danh 3/ Thật. chẳng thật 4/ Định, bất định 5/ Pháp, chẳng phải pháp 6/ Cháy, chẳng phải cháy 7/ Khổ, chẳng phải khổ 8/ Hòa hợp. Cũng có thuyết lập sáu thứ hai Đế. Như nói các đế không hữu, hư thật v. v… đều nói hai lý có hư có thật rõ ràng nên chẳng phải ý kinh. Nay văn kinh nói: “Thuận theo chúng sinh mà nói hai đế”. Như tùy người say mà nói mặt trời xoay chuyển, thì nên dùng ý này để giải thích văn kinh. Có Sư cho rằng bảy loại mỗi loại khác nhau. Nay nói bảy loại hai đế do Đại sư Trí Giả lập ra, danh tuy chẳng đồng, mà nghóa hội về một, đó là: Sinh diệt, vô sinh, thiền tục phức chân, thiền tục thiền trung, phức tục thiền trung, phức tục phức trung, viên hai đế. Nếu theo văn của Pháp Hoa Huyền Nghóa thì danh tướng hơi khác mà ý nghóa đều đồng, người đọc nên biết. Lại trong mỗi loại đều có ba loại là: tùy tình, tùy trí và tùy tình trí, nay muốn dùng bảy loại hai đế này để giải thích văn kinh. Ý nghóa của Phật khó biết, nay nêu lên kiến giải của một Sư mà thôi. Tám loại chẳng đồng tức gồm tám đoạn. Thứ nhất là y cứ theo hai hạng người là thế gian và xuất thế gian để xét định hai đế, mà bao gồm đến bảy loại sau. Mỗi loại hai đế đều có hai ý này. Thế tình nhiều tưởng nên gom vào Thế đế. Đây là y cứ vào tùy tình trí mà xét định hai đế. Kế là từ câu “Năm ấm hòa hợp v.v…” trở xuống là y cứ vào danh, vô danh để xét định. Tổng hợp các ấm thì gọi là sinh, thuộc về thế đế, tức ấm lìa ấm, biết như thật tánh tức chân đế. Đây là y cứ theo tứ đế hữu tác mà lập. Thứ ba, là từ câu “hoặc có pháp v.v…” trở xuống. Kia nói Thế đế có danh, các danh gọi là thể, vật ứng với danh. Chân đế chỉ có danh mà không có thật, nay văn này trái với điều ấy. Thế đế chỉ có danh suông mà không có chân thật, chẳng sinh chẳng diệt, tương xứng với pháp tức là chân đế; chẳng thể ngay nơi sắc mà không, cho nên có danh mà vô thật, năng tức sắc là không nên có thật có danh. Đây là y cứ theo Tứ đế vô sinh mà lập. Thứ tư, nói tuổi thọ chúng sinh như vòng lửa xoay tròn, là y cứ theo đơn tục phức chân để nói về hai đế. Giả danh, huyễn hóa, sóng nắng, vòng lửa quay chỉ có danh mà không có thật, hợp với thế lưu bố tức là thế đế. Chân và trung hợp thành chân đế. Nếu chỉ lấy chân làm Đệ nhất nghóa thì chẳng được nói Khổ, Tập, Diệt, Đạo là Đệ nhất nghóa, đều chỉ cho bốn Đế, tức chân và trung hợp. Đây là nói trong vô lượng Tứ đế, chân và trung đồng là Đệ nhất nghóa đế. Văn trước nói: “Đệ nhất nghóa vô lượng vô biên, chẳng thể so lường”. Thứ năm, Từ câu “Thế pháp có năm v.v…” trở xuống là y cứ thiền tục thiền trung để nói về Nhị đế. Văn trên dùng sóng nắng, vòng lửa, v.v… để dụ cho nhân và ngã của Thế đế. Năm pháp như vòng lửa, vòng lửa dụ cho pháp; pháp dụ đồng nêu đồng là thiền tục. Tâm không điên đảo biết như thật, tức thiền chỉ Trung đạo cho là như thật. Đây là nói về khổ tập của hữu tác và vô sinh là tục, chỉ Nhất thật đế ở sau là chân. Thứ sáu, Từ câu “Này thiện nam! Hoặc đốt hoặc cắt, v.v…” trở xuống là căn cứ theo phức tục thiền trung để nói về hai đế. Hoặc đốt, hoặc chết là nói về trước sau của Thể pháp đầu cuối: hoặc cắt, hoặc hoại là nói về đầu cuối của pháp phân tích. Tức lấy hai trước làm hữu, hai sau làm vô. Hữu vô này hợp làm Tục, tức là phức tục, thiền chỉ cho trung đạo phi hữu phi vô, cho nên không đốt cắt, tức là Đệ nhất nghóa, là nói chân tục của hữu tác vô sinh ở trên đều là tục, chỉ có Nhất thật đế ở sau là chân. Thứ bảy, từ câu “Có tám tướng khổ v.v…” trở xuống là y cứ theo phức tục đơn trung để nói về hai đế. Về phức tục thì như trước đã nói, còn phức trung tức chẳng phải thiền chỉ lý, ngay nơi sự mà lý, pháp giới tròn đầy gồm đủ, gọi là phức trung. Đây là hợp chân và tục của hữu tác vô sinh là tục, chỉ có nhất thật không thể nghó bàn nói ở sau mới là chân đế. Tuy văn kinh chẳng hiển, nhưng theo nghóa suy mà tự thành. Nhưng một phần hỏi đáp này vẫn còn là hai đế phức tục phức trung. Thứ tám, từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống gồm dụ và hợp, nói về hai đế tròn đầy. Chân tục tức nhau đều chẳng thể nghó bàn, thí như cha mẹ hòa hợp sinh con. Một người nhiều tài năng dụ cho viên tục, mười hai nhân duyên hòa hợp, ba đạo tức ba đức, tức Đệ nhất nghóa, dùng để hiển bày cho viên chân. Đó gọi là không thể nghó bàn hai đế, tất cả hai đế đều nhập vào trong đó. Vì phương tiện tùy tục mà nói các loại hai đế có vô lượng vô biên, nhưng chỉ nói bảy loại đâu có gì phải kinh ngạc. Nếu biết được như thế thì gọi là Tuệ Thánh hạnh. Xưa nay đều mê lầm văn nói về hai đế này. Nay lại nghó dùng bảy loại đế của Đại sư Thiên Thai để giải thích ý nghóa tám phần thì hợp với chân, thuận với Thánh tuệ. Từ câu “Văn-thù-sư-lợi v.v…” trở xuống là phần thứ ba nói về Tuệ Thánh hạnh của Nhất thật đế. Nếu văn trước nêu bốn, nêu hai đồng để hiển Nhất thật, sao chẳng từ bốn Đến ba, mà lại vượt qua ba để đến hai? Chẳng phải không có ba Đế, nhưng văn kinh này gom bốn về hai thì ý nghóa thích hợp hơn. Nếu thúc bốn về ba thì ý nghóa có chút bất tiện nên chẳng nói đến ba Đế. Có nhiều cách giải khác nhau, ở đây cho quả Phật thường trụ là nhất, nương vào nhất thật đế, dẫn kinh Thắng Man rằng: “Nhất Khổ diệt đế tức là chân thật”. Các sư Địa Luận cho rằng: “Dứt vọng thì hiển bày thức A-lại-da, tức là chân thật”. Các sư Trung Giả cho rằng: “Dứt đoạn thường, bày Trung đạo là Nhất thật đế”. Hưng Hoàng thì chẳng dùng các nghóa này, vì năng y sở y của quả Phật đâu phải là nhất thật? Vọng hoặc và A-lê-da là một hay là khác? Nếu là một thì đã dứt vọng hoặc cũng dứt cả A-lê-da, nếu là khác thì đối với vọng mà nói thật, đâu có một thật. Đối với biên mà nói trung, thì trung lại thành biên, cũng chẳng phải nhất thật. Nhưng tất cả pháp đều không, rốt ráo thanh tịnh, thật đã vô sở hữu thì không hề có thật và chẳng thật, đế và chẳng đế, tất cả chỉ là duyên phương tiện mà giả lập ngôn giáo. Theo văn kinh thì chính là dùng một đại thanh tịnh làm Nhất thật đế, là pháp chánh chân. Cho nên kinh Hoa Nghiêm ghi: “Pháp tánh xa lìa”. Cho nên hôm nay nói: Nếu nói chẳng phải kia là đây thì chẳng phải là Nhất thật đế. Nếu tùy duyên mà nói khác nhau thì mới đạt được ý mà không phạm lỗi. Văn kinh hiển nhất thật rất rõ ràng. Văn được chia làm hai: một, là nêu tông; hai, là luận nghóa. [Thứ nhất có hỏi và đáp. Trong phần đáp có tám lần nêu “này Thiện nam”, hai lần đầu cộng thành nghóa thứ nhất. Cho nên có bảy nghóa khác nhau. Thứ nhất y cứ theo cảnh. Thứ hai, y cứ vào tâm. Thứ ba, y cứ theo ngôn thuyết. Nói thêm rằng cũng có thể nói y cứ theo ngôn hạnh. Thứ tư là y cứ theo người. Thứ năm là y cứ theo giáo. Thứ sáu, là y cứ theo nhân duyên. Thứ bảy là y cứ theo quả thể. Từ câu “Bồ-tát Văn-thù v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về nghóa, có bảy chương. Đầu tiên là y cứ theo cảnh để nói về nghóa, có hỏi và đáp. Trong câu hỏi trước là lãnh giải và thưa hỏi. Nhìn qua thì dường như hỏi ba pháp: Như Lai, hư không và Phật tánh có khác nhau, nhưng xét theo lời đáp ở sau thì chính là hỏi ba pháp trên và Nhất thật đế có gì khác nhau. Phật đáp có ba ý: 1/ Xướng chươngmôn . 2/ Giải thích. 3/ Kết luận. Thứ nhất là xướng chương môn, lại có hai: Một là xướng bốn Đế của giáo xưa; hai là xướng Nhất thật giáo nay. Hưng Hoàng gọi môn thứ nhất là môn Thật diệt, kế là môn Diệt thật. Theo giáo thì nói là Thật diệt, theo lý thì nói là Diệt Thật, cũng là lấy thật trong giáo Tứ đế làm Thật đế. Vì hư không, Phật tánh đều là lý thật, tức là Đế thật, nên gọi là Đế. Thứ nhất là xướng bốn Đế của giáo xưa. Mỗi đế có ba câu: Khổ là cảnh khổ, Đế là giáo khổ, cũng là trí khổ, Thật là lý Khổ đế vì không hai là thật. Lại nói: Trừ một câu nói khổ, hai câu còn lại cũng được chắc chắn là thật. Lại chỉ dùng thật trừ hai câu kia, chỉ dùng thật là Đế. Từ câu “Như Lai v.v…” trở xuống là chương hai, đề xướng môn Nhất thật. Ba thứ đều là thật. Chẳng phải khổ tức chẳng phải cảnh, chẳng phải đế tức chẳng phải giáo, là thật tức là lý. ba Đế sau cũng như thế. Như Lai, hư không và Phật tánh cũng như thế. Khi hiển là Như Lai, khi ẩn gọi là Phật tánh, hư không thì ẩn hiện chẳng khác. Từ câu “Nói khổ v.v…” trở xuống là phần thứ hai giải thích hai môn, chỉ y cứ theo bốn Đế, nên gồm bốn phần riêng. Trong mỗi đế, trước đều có giải thích Thật đế, Thật đế đây tức là thật trong bốn Đế của giáo xưa, kế là giải thích đế thật, tất cả đều như văn kinh. Từ câu “Có khổ, v.v…” trở xuống là kết luận đúng sai, có hai: Kết kuận ba pháp khác bốn Đế, cho nên Đế là thật. Kết luận ba pháp hữu vi vô lậu, cho nên thật. Nói có khổ tức Khổ đế, nhân khổ tức Tập đế, khổ tận tức Diệt đế, đối trị khổ là Đạo đế. Hỏi: Chẳng hư chẳng thật thì gọi là Thật, vậy chẳng hư chẳng thật thì lẽ ra phải gọi là Đế? Đáp: Đúng như lời vừa hỏi. Hỏi: Nếu hai đế bình đẳng, vì sao Nhị thừa gọi là Đế, Như Lai gọi là Thật? Đáp: Cho và đoạt khác nhau. Nhị thừa biết rõ khổ này, lại biết khổ chẳng phải khổ, nên cho gọi là Đế, nhưng chưa tận cùng lý thật, nên đoạt mất từ thật. Từ câu “Văn-thù bạch Phật v.v…” trở xuống là giải thích môn y cứ theo tâm. Trước hỏi, sau đáp. Ý hỏi rằng: Đế có gồm thâu các điên đảo chăng? Nếu gồm thâu, vì sao nói chẳng điên đảo là thật, nếu chẳng nhiếp thì trái với lời nói ở trước, là gồm thâu hết các pháp, tiến lùi hai đường đều phạm lỗi. Nhưng văn sau nói gồm vào Khổ tập, mà ở đây chỉ nói về Khổ đế, vì chỉ y cứ theo nghóa quả báo từ nhân sinh. Phần hỏi đáp thứ ba giải thích chương y cứ theo ngôn thuyết. Trong đó có hai việc rất dễ thấy. Nói thêm rằng: Xét lời Phật đáp thì đã y theo dứt hoặc, tức là biết đã y cứ theo hạnh. Từ câu “Bồ-tát Văn-thù nói, v.v…” trở xuống là phần thứ tư, y cứ theo người để làm câu hỏi. Điều mà Nhị thừa nói là Thật, không Thật. Đức Phật chẳng quyết định là thật hay chẳng thật, chỉ y cứ theo bên dứt hoặc là thật, mà chẳng phải nghóa thường trụ nên chẳng thật. Từ câu “Văn-thù-sư-lợi, v.v…” trở xuống là phần thứ năm, y cứ theo giáo để vặn hỏi. Lời ma nói có gồm trong Thánh đế chăng? Ý Phật đáp thuộc về bốn Đế, ma nói thuộc về Khổ đế và Tập đế. Hỏi: Hai mươi lăm đế của ngoại đạo thuộc về đế nào? Lại lời nói của ngoại đạo sẽ phá hoại mấy đế trong bốn Đế? Đáp: Ở đây nói chỉ hoại Khổ và Tập, chẳng hoại Đạo và Diệt. Vì sao? Vì ngoại đạo nói: Đầu tiên từ minh sinh giác, sau đó sinh năm đại, năm vi, v.v… sinh giác là nhân hoại Tập đế của Phật. Đại và vi là quả hoại Khổ đế của Phật pháp. Từ câu “Văn-thù-sư-lợi, v.v…” trở xuống là thứ sáu, giải thích môn y cứ theo nhân thể. Ngài Văn-thù lặp lại lời Phật: “Nhất đạo thanh tịnh là Thật đế”. Rồi ngoại đạo cũng nói: “Nhất đạo thanh tịnh là Thật đế”. Ý Phật đáp là ngoại đạo chỉ có Khổ, Tập mà không có Diệt Đạo. Trong chẳng phải diệt mà nghó là diệt tức gượng chấp Phi tưởng là Niết- bàn; chẳng phải đạo mà nghó là đạo, tức vọng chấp các giới gà, giới chó là đạo; chẳng phải quả cho là quả tức là chấp muôn vật là quả của vị trần thế tánh; chẳng phải nhân tưởng nhân, tức vọng chấp thế tánh như cát bụi là nhân của muôn vật. Hỏi: Trước nói chẳng hoại Diệt và Đạo, nay nói chấp phi tưởng, giới gà, giới chó v.v… thì chẳng phải là hoại sao? Đáp: Ở đây là khởi vọng chấp ngang trái, trước nói thì chẳng phải như thế. Kia nói hai mươi lăm đế là nói thẳng vào minh sơ sinh giác v.v… trong sáu đế chỉ nói chủ đế, y đế, đâu có chỗ nào nói chấp Phi tưởng và giới chó, cho nên biết chẳng hoại hai đế Đạo Diệt. Lại hỏi: Ngoại đạo có khổ đế, vì sao trước nói phàm phu có khổ, không có đế? Đáp: Chỉ nói có cảnh khổ là Khổ đế, chứ chẳng phải là trí khổ. Từ câu “Bồ-tát Văn-thù, v.v…” trở xuống là giải thích môn y cứ theo quả thể, gồm có hỏi và đáp. Trong phần hỏi có ba: 1/ Nói ngoại đạo có bốn đức. 2/ Giải thích. 3/ Kết luận. Thứ nhất như văn kinh ghi. Từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích. Có hai mươi bốn lần chấp có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, tức có bốn phần: 1/ Tám lần chấp có Thường. 2/ Năm lần chấp có Lạc. 3/ Ba lần chấp có Tịnh. 4/ Tám lần chấp có ngã. Nói về tám lần chấp Thường: Vì đều có nhân quả nên biết là có Thường. Nêu nhân sát sinh phải chịu quả báo xấu cho nên Thường. Y cứ vào năng chuyên niệm cho nên thường. Nêu sự nhớ nghó y cứ theo sở niệm. Nêu tu tập. Nêu số tính. Y cứ theo đọc tụng. Y cứ theo hình tướng, như văn kinh. Kế là chấp Lạc có năm loại. Thứ nhất y cứ theo nhân quả. Thứ hai y cứ theo tâm có cầu. Thứ ba y cứ theo nhân có lạc. Thứ tư y cứ theo duyên của lạc. Thứ năm y cứ theo ba phẩm. Ba lần chấp có Tịnh: Y cứ theo nhân của tịnh. Y cứ theo duyên của tịnh. Y cứ theo vật chứa tịnh. Tám phần chấp có Ngã: Y cứ theo tạo tác. Y cứ theo tướng mạo. Y cứ theo phân biệt mùi vị. Y cứ theo tạo tác làm việc. Y cứ theo tâm mong cầu được sữa. Y cứ theo tên gọi. Y cứ theo việc ngăn ngại. Y cứ theo bè bạn. Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là phần thứ ba tổng kết nói ngoại đạo lẽ ra có thật đế. Từ câu “Phật nói v.v…” trở xuống là Như Lai đáp. Văn có ba đoạn là sơ lược, giải thích rộng và kết luận. Đầu tiên hai ý là bác bỏ và giải thích. Thứ nhất là bác bỏ, như văn kinh. Kế là, từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích vì sao bác bỏ.  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 16 <詞>PHẨM 19: THÁNH HẠNH (PHẦN 4) Đầu tiên, Như Lai trả lời rộng về các câu hỏi để phá bốn chấp ở trước. Văn có ba phần: Rộng phá chấp Thường. Lược phá chấp Lạc và Tịnh. Rộng phá chấp Ngã là thường. Thường và Ngã là đầu mối các chấp, cho nên rộng phá. Đầu tiên là phá Thường, văn có ba đoạn: Nói lý của ngoại đạo sai trái. Nói lời của ngoại đạo lầm lẫn. Chánh đáp. Thứ nhất lại có ba: nói sai trái, nêu lỗi và kết luận sai lầm. Đầu tiên như văn kinh ghi. Vì sao nói là sai trái, vì gượng chấp có Thường. Thường thì chẳng phải duyên sinh, đã duyên sinh thì vô thường. Nhưng các ngoại đạo lại chấp tự nhiên, chẳng phải từ duyên sinh. Nếu là tự nhiên thì pháp trần đối với ý mà khởi chấp này chẳng phải là duyên sinh hay sao? Cho nên ngoại đạo đều là vô thường. Từ câu “Phật tánh vô sinh, v.v…” trở xuống là nêu lỗi tức nêu đúng đối với sai. Xưa nói vì đó là Phật tánh của quả tương lai nên chẳng sinh diệt. Nếu là duyên sinh tức sinh diệt. Ở đây nói chẳng phải như thế, nêu chánh đối với tà chấp. Kết luận là sai trái: Chính là lý một đạo thanh tịnh. Tánh của Phật tánh là chẳng sinh chẳng diệt đâu chỉ giải thích là đương quả. Vì nghóa này nên kết luận nghóa ấy sai lầm. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai nói về lời của ngoại đạo lầm lẫn. Văn có ba ý: Nói về lời sai lầm. Phá chấp. Nêu đúng để bày sai. Nói lầm lẫn, vì không thấy chân lý Phật tánh, Tam bảo nên điều nói ra sai lầm, chẳng chân thật. Nếu thấy lý này thì lời nói chân thật. Từ câu “Các phàm phu v.v…” trở xuống là ý thứ hai phá chấp. Trong lần tà chấp thứ tám mà ngài Văn-thù nêu ở trước là chấp hình tướng mặt đất, y phục, xe, v.v… đều là Thường, nay phá chấp Thường này. Từ câu “Tất cả hữu vi v.v…” trở xuống là ý thứ ba chỉ ra điều sai. Từ câu “Pháp hữu vi v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, chánh thức đáp, có ba: một, là nói về hai môn sắc và tâm; hai, là nói về tâm vô thường; ba, chỉ nói về sắc vô thường. Xưa nói tất cả pháp hữu vi đều gom vào ba nhóm, dẫn phẩm Phạm Hạnh nói: “pháp sắc, pháp phi sắc, pháp phi sắc phi phi sắc”. Trong đó, cho phi sắc phi phi sắc là nhóm vô tác, lại dẫn phẩm Thánh Hạnh rằng: “Bạch bốn lần Yết-ma, sau đó mới đắc”. Tức đắc vô tác. Nghóa này chẳng đúng. Nói phi sắc phi vô sắc chính là Trung đạo xa lìa hai bên, xa lìa không hữu, chứ đâu phải vô tác; cho là vô tác hữu vi, lỗi này chẳng phải nhỏ. “Bạch bốn lần Yết-ma, sau đó mới đắc” đây là nói về thọ giới, đắc giới, chưa đủ để chứng minh trong đạo vô tác. Vì sao? Vì tác và vô tác đều thuộc về thiện hữu lậu. Các xiển-đề chỉ tin hữu tác, chẳng tin vô tác. Nếu y cứ theo giáo Tiểu thừa thì vô tác hữu lậu, nếu theo ý kinh này thì vô tác vô lậu. Như trước dẫn phẩm Thánh Hạnh: “Thọ giới vô tác làm chứng minh”. Thế nào là vô tác? Kia nói rằng: Nếu chẳng chấp nhận có nghóa vô tác, vì sao văn sau lại nói: “Nói không có vô tác là tranh luận”. Đáp: Các sư Số Luận cho rằng vô tác là sắc; các Luận sư cho rằng vô tác là vô sắc. Chấp mỗi bên như vậy dẫn đến tranh luận. Nay ta lập luận rằng: Hữu tác, vô tác thì rốt cuộc chẳng chấp sắc, huống chi mỗi bên lại chấp riêng. Ta lại nói rằng: Hữu tác hay vô tác, thì rốt cuộc chẳng nên khởi chấp nhất định. Tiểu thừa thì hữu tác, Đại thừa thì vô tác, nhờ đó sẽ không gây tranh luận. Vả lại, văn chỉ nói về sắc và tâm, đâu gượng lập tác và vô tác. Như các sư Số Luận cho tâm là tâm vương, tâm sở thuận theo tâm vương mà khởi. Vả lại, thức là tâm vương, tâm sở là tưởng, v.v… sắc gồm mười một loại là năm căn, năm trần và vô giáo sắc. Các Luận sư cho rằng mười bốn sắc là năm căn, năm trần và bốn đại. Nhưng ở đây chỉ nói về bốn đại, năm sắc. Văn sau lại nói mười một sắc. Vì sao? Vì đắp đổi nhau hiển bày một bên, không chỉ ở một nơi mà thôi. Từ câu “Tâm là vô thường v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai nói về tâm vô thường, có bốn ý: 1/ Nói về vô thường; 2/ Phá chấp Thường; 3/ Lặp lại vô thường; 4/ Lặp lại nghóa phá chấp Thường. Đầu tiên có nêu bốn câu: Phan duyên khác nhau. Sáu thức khác nhau. Sáu trần khác nhau. Tương ưng khác nhau. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ hai phá chấp Thường, có bốn phần: Nói chẳng phải chỉ có thức duyên. Sáu thức lẽ ra chẳng khác. Sở nhân lẽ ra chẳng khác. Danh lẽ ra chẳng khác. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba lặp lại vô thường, có năm phần: Nói về ba Thánh tâm khác nhau: Nói về ba phàm tâm khác nhau; Nói về ba thọ tâm khác nhau; Nói về ba tâm độc khác nhau: Nói về ba loại tâm khác nhau. Đầu tiên như văn kinh ghi. Ba tâm phàm khác nhau. Nói tại gia xa lìa nghóa là thân sống ở tại gia mà tâm xa lìa thế tục. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư lặp lại về ý phá chấp Thường, chính là tám phần phá chấp ở trước. Văn cũng có tám phần tuy không đối đãi nhau, nhưng hoặc phá ý trước, hoặc sinh khởi ý sau mà chẳng phá. Tự nói thêm rằng: Bảy phần trước là phá ý trước, một phần sau là sinh khởi ý sau. Lại có ẩn hiển khác nhau. Ẩn có bốn chẳng phá nhân quả, sát sinh, toán số, hình tướng mà lại thừa sinh ý sau là các câu đã làm, hay làm, sẽ làm, chẳng oán chẳng thân, vật của ta vật của người. Phần thứ tám cuối cùng là tổng kết nói vô thường. Nay nói thêm rằng: Cho nên chỉ có phần thứ nhất phá phần thứ ba chuyên niệm; Phần thứ hai phá phần thứ tư là nhớ nghó; Phần thứ ba phá phần thứ bảy là đọc tụng; Thừa ra phần thứ tư, thứ năm, thứ sáu; Phần thứ bảy phá phần thứ năm tu tập; Phần thứ tám phát sinh ý sau cũng là thừa. Văn kinh mỗi đoạn đều có ẩn hiển, đó đều là tùy nghi, phàm phu chẳng thể so lường được. Từ câu “Nay ta đối với sắc pháp v.v…” trở xuống là đoạn ba, chỉ nói sắc là vô thường. Có hai ý: Một, kết luật ý trước, hai là phát khởi văn sau. Từ câu “Sắc này vô thường v.v…” trở xuống là nói về vô thường, gồm mười câu: Lúc mới sinh khác nhau. Thời gian khác nhau. Giai vị khác nhau. Năng lực khác nhau. Hình dáng khác nhau. Quả báo khác nhau. Tên gọi khác nhau. Hoại và hợp khác nhau. Thứ lớp sinh khác nhau. Thứ lớp diệt khác nhau. Tất cả đều nêu ngoại để đối luận với trung gian, hoặc lược nêu trước sau để đối nhau. Từ câu “Nếu vô thường v.v…” trở xuống là ý thứ hai phá năm phần chấp lạc, ba phần chấp tịnh ở trên. Có hai phần, trước là chánh phá, sau là chỉ ra đã đáp ở trên. Nói vô thường tức khổ là phá chấp lạc. Nếu khổ tức bất tịnh là phá chấp tịnh. Nhân Ca-diếp hỏi ta đã trả lời ở trên. Có ba cách giải thích: Thứ nhất, Khai Thiện cho rằng trong phần nói về Tuệ Thánh Hạnh của bốn Đế ở trên, đầu tiên nói Khổ đế, cho năm ấm đều là khổ, Ca-diếp bèn nêu các câu hỏi nói có duyên của lạc và nhân của lạc, theo đó thì lẽ ra phải có lạc, không phải khổ. Đức Phật sau đó trả lời trong khổ cũng nghó là vui một cách ngang trái. Đó tức là đã trả lời. Thứ hai, Dung Thành cho rằng trong phẩm Như Lai Tánh nói Phật có tánh chân ngã, Ca-diếp liền nêu mười hai câu hỏi để tìm hiện dụng; Đức Phật bèn nêu dụ hạt châu trên trán lực só v.v… để đáp rồi. Thứ ba, các sư phần nhiều y cứ theo phần cuối của phẩm Trường Thọ Ca-diếp hỏi: Thế gian cũng nói Phạm thiên là thường có khác gì với Phật nói? Phật đáp: Là ngoại đạo trộm được lời này, giống như dụ trộm trâu. Cho nên nói đã đáp. Trong lời ghi của Hà Tây tức là đã đáp trong quyển bảy. Các sư Trung Quán cho rằng trong phẩm Tứ Đảo có nói đủ các điên đảo như tịnh, lạc, v.v… Trong đó lại chẳng còn phá suốt tất cả, chỉ lược pháp lạc, tịnh, cho nên nói là đã đáp ở trên. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn ba nói về vô ngã để đáp sáu phần chấp ngã ở trên. Văn có hai phần: Nói chung về vô ngã. Chính thức phá chấp. Kế là giải thích hai chương. Trong phần phá chấp Thường ở trước cũng theo thứ lớp là nêu lên và giải thích. Trước giải thích thì nói rộng, còn ở đây trong chương giải thích thì lược. Trước cũng y cứ theo sắc tâm để phá thường, ở đây phá ngã cũng y cứ theo sắc tâm. Từ câu “Sắc tức chẳng phải ngã v.v…” trở xuống là giải thích môn thứ nhất, trước nói sắc chẳng phải ngã. Vì sao sắc chẳng phải ngã? Vì phá hoại được. Từ câu “Pháp phi sắc v.v…” trở xuống là giải thích chương Phi Sắc. Phi sắc tức tâm, tâm thì không nhất định, vì từ cảnh sinh. Lạc duyên tâm, thì tâm liền có lạc; khổ, chẳng khổ chẳng lạc cũng giống như thế. Đã từ duyên nên vô thường vô ngã. Từ câu “nếu các ngoại đạo v.v…” trở xuống là phần thứ hai chánh phá chấp. Trên có tám phần chấp, ở đây lại có chín phần, cũng không có chính thức đối nhau từng cặp. Nay chỉ tùy cơ khác nhau, chẳng phá câu thứ nhất là tạo tác, câu thứ tư là tác nghiệp, thừa câu thứ nhất là chuyên niệm, câu thứ hai là nhớ nghó, câu thứ bảy là ba pháp. Cho nên câu thứ ba phá câu thứ bảy ở trước, câu thứ tư phá câu thứ tám, câu thứ năm phá câu thứ sáu ở trước, câu thứ sáu phá câu thứ năm ở trước, câu thứ tám phá câu thứ hai, câu thứ chín phá câu thứ ba ở trước. Chẳng theo thứ lớp, chỉ nêu câu nào phá câu nấy chứ không có ý gì khác. Từ câu “Này Thiện nam! Các ngoại đạo này v.v… trở xuống là đoạn thứ ba kết luận quở trách lỗi lầm. Gồm có hai dụ: thứ nhất là dụ đứa bé, thứ hai là dụ cho người mù bẩm sinh. Đứa bé dụ cho hạnh sai lầm, người mù dụ cho giáo sai lầm. Như đứa bé suốt ngày chỉ lo đùa giỡn mà chẳng biết giữ gìn gia nghiệp, ngoại đạo cũng giống như thế, làm những việc vô ích, khổ tâm chẳng thành tựu tịnh hạnh, cho nên nói không có tuệ phương tiện. Như người mù bẩm sinh chỉ nghe được bốn thí dụ mà chẳng biết được màu sắc chân thật của sữa. Ngoại đạo cũng giống như thế, thầm tin Vi-đà đâu biết được thường lạc, cho nên văn kinh ghi: “Mà hỏi người khác, v.v…”. Từ câu “Văn-thù bạch Phật v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về viên tuệ. Xưa nói phá mê chấp bốn Đế, hai Đế, một Đế. Lại nói phá tâm phân biệt ở trước, là nói về rốt ráo thanh tịnh, không có chỗ chấp đắm. Các nghóa này chẳng đúng. Vì trước nêu chương nói thứ lớp năm hạnh, hai hạnh giới, định còn không phá chấp đắm, chứ đâu chỉ tuệ hạnh. Tuệ hạnh bị phá thì giới, định tự phá. Ba hạnh bị phá tức là phá hạnh Thánh, hạnh Thánh bị phá thì năm hạnh cũng phá, nếu năm hạnh phá thì không có chỗ tu tập, không tu tập thì không chứng, không chứng thì phá mười công đức. Nghóa này chẳng đúng, nên biết văn này nói về hạnh viên tuệ. Văn có bốn: Phát khởi. Chánh nói. Lãnh thọ, tin hiểu. Kết chương. Trong phần phát khởi không nói bốn Đế, hai Đế mà chỉ nói nhất thật. Vì sao biết được? Khi xưa trong giáo đầu tiên là thuộc về Tích pháp Tứ đế. Trước đã có nói thì chẳng phải ít có, cũng chẳng phải là vô thượng. Cho nên, theo thứ lớp sau đó phát khởi viên tuệ. Chánh nói có hai: một, là nói về chẳng Niết-bàn chỉ bày viên tuệ; hai là y cứ theo chẳng còn chuyển để chỉ bày viên tuệ. Chẳng Niết-bàn có ba ý: một, là chỉ thẳng; hai, là y cứ theo chẳng chuyển; ba, là Như Lai, hư không theo chiều dọc để chỉ bày. Chỉ thẳng có hai ý: một, là nói vì sao; hai, là chỉ chân lý. Nói Vì sao là có hai ý: một, gởi gắm ngài Văn-thù, than trách là chưa đạt nên nói là vì sao. Hai, là hỏi ngài Văn-thù vì sự chưa đạt này mà làm đầu mối phát khởi, nên nói là Vì sao. Kế là chỉ chân lý, như văn kinh ghi. Thứ hai, Từ câu “Này thiện nam! Nếu chấp có ngã, v.v…” trở xuống là nói chẳng chuyển, trải qua các việc theo chiều ngang để chỉ viên tuệ. Nói chẳng chuyển là trải qua bảy việc: chẳng quả, chẳng nhân, chẳng chuyển, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng tác và chẳng tạo đều là ngay nơi sự mà lý, đều là thường trụ. Từ câu “xoay bánh xe pháp, v.v…” trở xuống là theo chiều dọc kết thành viên tuệ thường trụ. Hoặc cho rằng Như Lai là y cứ theo quả lý, Phật tánh là y cứ theo nhân lý, còn hư không thì chung cho nhân quả. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về chẳng còn xoay bánh xe pháp. Có hai ý: Vì khác nên chẳng còn chuyển. Vì đồng nên chẳng còn chuyển. Thứ nhất đã có hai việc khác thì đâu được nói là còn. Về khác có tám câu: ngôn ngữ khác; chúng khác; căn khác; đức khác; lợi ích khác; chủ thỉnh khác; sở thuyết khác; âm thanh biến khác. Đầu tiên, xoay bánh xe pháp là vì năm vị Tỳ-kheo: Kiều-trần- như, Thập Lực Ca-diếp, Bạt-đề, Át-bệ, Ma-Nam-câu-lợi. Ở đây là nói chung. Từ câu “Lại nữa, hễ có người nói, v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói vì đồng cho nên chẳng còn, có ba phần là pháp, dụ và kết. Thứ nhất trong pháp nói đồng cho nên không còn. Từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là giải thích không còn. Gồm có ba dụ: dụ thứ nhất, nói sinh thiện diệt ác; thứ hai là chỉ diệt ác; thứ ba, là chỉ sinh thiện, các nghóa này đồng nhau cho nên không còn. Từ câu “Vì thế v.v…” trở xuống là ý thứ ba kết luận chẳng còn. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần thứ ba thọ lãnh tin hiểu, phát khởi thùy tích. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần thứ tư, kết luận. Đầu tiên là đối luận với Ca-diếp, khoảng giữa là đối đáp với ngài Văn-thù, nay đến tuệ thánh đã xong, lại đối đáp với ngài Ca-diếp, thật khéo léo từ đầu đến cuối. Từ câu “Ca-diếp v.v…” trở xuống là thứ hai, giải thích tên gọi của hạnh. Hỏi: Vì sao sau giới tuệ đều có giải thích tên của hạnh, còn về định hạnh lại không có? Đáp: Đầu tiên và cuối cùng đã giải thích, khoảng giữa đã lược bỏ, nên không có. Văn kinh này có bốn đoạn. Trước Đức Phật đã tổng hợp, tức là kết luận chung đã xong. Bây giờ, thứ nhất là ngài Ca-diếp hỏi. Thứ hai Như Lai kết luận riêng. Thứ ba, Ca-diếp hỏi. Thứ tư Như Lai khai và kết thứ lớp năm hạnh. Năm hạnh này vốn là năm hạng người bị bệnh hành xứ. Nói pháp môn này hàng Nhị thừa đạt được nghóa hữu tu, tức Thanh văn, Duyên giác nghe như thế rồi sẽ cung kính thực hành theo, nên gọi là Thánh ha- ïnh. Vả lại, có Biệt Bồ-tát căn tánh chuyết độ, theo thứ lớp tu tập, cũng gọi là hạnh Thánh. Nếu là sở hành của chư Phật, Thế Tôn, thì gọi là hạnh Thánh. Đó là kết viên hạnh. Như Lai thực hành pháp này cho nên chẳng lập Đối trị. Gặp hay chẳng gặp đều được lành bệnh. Đó là chánh thức kết luận về người và pháp môn này. Xưa nay chưa thấy ý kết thúc này, nên chẳng lập hai cách giải thích theo Biệt Viên. Nếu hàng Nhị thừa và hàng biệt căn tánh bị bệnh hành xứ nghe Phật nói mà tu tập thì lành bệnh, không tu tập thì không lành, đây là kết hạnh thứ tư. Từ câu “vị Đại Bồ-tát v.v…” trở xuống là thứ hai nói về quả tuệ hạnh. Văn có năm: Nêu tên gọi của đạo. Giải thích nghóa địa. Nói về thể của địa Nói về dụng của địa Kết hạ địa so sánh với Thượng địa. Thứ nhất như văn kinh. Xưa nói đạt được tuệ quả thì được hai địa, tức Vô úy địa, là từ Sơ địa đến Lục địa; từ Thất địa đến Pháp vân địa gọi là Tự Tại Vương địa. Sở dó được quả của hai địa này là Tuệ hạnh dứt phiền não, thông đạo nhanh nhẹn, nhạy bén. Ở đây cho là chẳng phải như thế. Vả lại, hai hạnh giới, định chẳng dứt hoặc, thông đạo chậm, lụt. Vì sao? Xưa cho rằng Bất động và Kham nhẫn đều là Sơ địa, tên khác mà thể đồng, nếu đồng thì quả giới, định sao chẳng phải là Nhị địa thông đến Pháp Vân địa. Nay nói chỉ là một địa tự tại vãng sinh, chính là Dụng Vô úy, chẳng nên chia ra hai địa. Từ câu “Nếu có Bồ-tát, v.v…” trở xuống là giải thích nghóa của địa. Văn kinh này hợp với kinh Thập địa. Địa kinh cho rằng Sơ địa lìa năm thứ sợ hãi. Nay văn kinh này cũng như thế, chỉ tên gọi hơi khác mà nghóa thì đồng. Trong đó nói chẳng sợ tham, sân, si v.v… là thuộc Vô bất hoạt ý, Vô tử úy. Chẳng sợ đường ác v.v…” trở xuống là thuộc vô ác đạo úy. Nói ác có hai loại v.v… trở xuống là thuộc vô ác danh úy. Cũng chẳng còn sợ Sa-môn v.v… trở xuống là thuộc Vô đại chúng oai đức úy. Vô tử úy tức Thường, Vô bất hoạt và Ác đạo úy là Lạc; Vô ác danh úy tức là Tịnh, Vô Đại chúng úy tức là Ngã. Có đủ bốn đức, không có năm việc sợ hãi, nên ở địa này gọi là Vô úy địa. Từ câu “Cũng chẳng còn sợ v.v…” là thứ ba nói về thể của địa, Văn có ba ý: Nêu vị mà thể đã nhập. Từ câu “này người thiện nam, trụ vô úy, v.v…” trở xuống là nêu ra sở chứng của thể. Từ câu “Đó gọi là v.v…” trở xuống là kết luận. Thứ nhất như văn kinh ghi. Kế là nói về sở chứng, ở địa này được hai mươi lăm Tam-muội nên gọi là Tam-muội Vương. Tất cả Tam-muội đều nhập vào trong ấy, tức là Tam-muội Trung đạo Đệ nhất nghóa gom giữ các Tam-muội, như Tam-muội Tục đế, Tam-muội chân đế đều nhiếp thuộc vào đó, nên được gọi là Vương. Nhất đế, Tam đế tức thể của nó. Xưa nói hai mươi lăm Tam-muội dứt trừ được hoặc ba cõi, nên Bồ-tát Lục địa gọi là Vô úy địa đồng với A-la-hán. Nay chẳng theo nghóa này. Nếu Nhị thừa dứt hai mươi lăm Hữu được gọi là Vương thì có thể cho là đồng, đã chẳng được gọi là Vương thì đâu thể nói là đồng. Văn kinh nói hạnh Thánh thì đó là hạnh của chư Phật, chẳng phải cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác, nên đâu thể gọi là đồng. Vả lại, Bồ-tát Lục địa dứt trừ các hoặc trong ba cõi, là Bồ-tát Thông giáo, chẳng phải ý nghóa văn này. Các sư lầm dùng không tương quan gì đến ở đây. Giải thích hai mươi lăm Tam-muội thì như Pháp Hoa Huyền Văn quyển bốn có nói, trong đó giải thích hai mươi lăm, mỗi thứ đều có ý bốn Tất-đàn. Tuy có hai mươi lăm loại, nhưng đều là Vương. Vì giải thích khác nhau, cho nên đặt tên khác nhau, đó là ý thế giới tất đàn, trong hai mươi lăm Tam-muội, các Tam-muội như Nhật quang, Nguyệt quang v.v… là ý Vị nhân Tất-đàn, các Tam-muội như Bất thối, Tâm lạc, v.v… là ý Đối trị Tất-đàn; như các Tam-muội Thường, Lạc v.v… là ý Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Mỗi Tam- muội đều có bốn ý: một, là nói về lỗi lầm của các hữu, như ba hoặc; hai, công đức của bản pháp là Tu ba Đế Tam-muội; ba, là kết luận thành tựu các hạnh, tức thành tựu Tam-muội nhập Sơ địa; bốn, từ bi phá các hữu liền được lên Sơ địa thì sẽ hiện thân khắp mười pháp giới, vào kháp các hữu, giúp người khác cũng phá được các hữu. Người xưa giải thích ý này hoàn toàn không có ý nghiêng về một bên. Từ câu “Này Thiện nam! Bồ-tát nhập các Tam-muội vương như thế, v.v…” trở xuống là phần thứ tư nói về dụng của địa. Có hai ý: một, là nói về lực dụng tự tại; hai, là nói sinh dụng tự tại. Lực dụng tự tại có ba cặp: Thứ nhất là cặp y chánh. Tu-di là y báo, tâm chúng sinh là chánh báo. Thứ hai là một cặp tự tha. Nạp người vào mình, hóa mình thành người. Thứ ba, ít nhiều thành một cặp rất dễ thấy. Kế là nói về sinh dụng, đầu tiên nói chung về sinh các xứ, tức mười giới xứ. Kế là, nơi sinh riêng, tức là mười cõi. Phá núi Tu-di, bao trùm thế giới, tán hợp mười phương mà chẳng nhiễm, ở nơi địa ngục mà không khổ, đó là dụng của địa. Từ câu “Này Thiện nam là kết đoạn năm v.v… trở xuống là so sánh thấp với cao, như văn kinh ghi. Hỏi: Công đức của các Bồ-tát đều bình đẳng, vì sao lại có cao thấp khác nhau? Đáp: Xưa nói bình đẳng trong bình đẳng đều đồng chẳng khác nhau, không bình đẳng trong bình đẳng, cho nên lại có sâu cạn. Hưng Hoàng cho rằng: “Nếu nói theo chiều ngang thì một địa có đủ các công đức; nếu nói theo chiều dọc thì có cao thấp. Ngang dọc cũng giống như thế, đâu có nhất định, dựng lên tức đứng thẳng dọc, v.v… Từ câu “Bấy giờ, trong chúng v.v…” trở xuống là chương hai, khen ngợi kinh. Kinh nói về hạnh Thánh. Nếu y giáo vâng giữ thì đổi phàm thành Thánh, nên đáng được khen ngợi. Văn có bốn ý: Khen ngợi giáo không cấu nhiễm. Như Lai nói lại lời khen ngợi. Ca-diếp tự thệ nguyện. Như Lai nói lại lời thệ nguyện. Khen ngợi giáo có hai: Một, lời của các nhà dịch kinh; hai, là khen ngợi giáo. Đầu tiên các nhà tập kinh thuật về nội đức và oai nghi bên ngoài. Nội đức thì có đại oai đức, tức nói chung thể dụng của Vô úy địa. Oai là đức dụng bên ngoài, đức là nội chứng, nội đức ngoại đức đều đầy đủ, nên nói: “có đại oai đức”. Nói đại thần thông là khen ngợi ngoại dụng. Như Tự tại địa có dụng dời núi lấp biển, được đại tổng trì tức được hai mươi Tam-muội Vương, giữ gìn các Tam-muội. Được vô sở úy thì đầy đủ như Phật đã nói. Các công đức như trên đều đã đầy đủ, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi là nói về oai nghi bên ngoài. Từ câu “Bạch Thế Tôn v.v…” trở xuống là chánh thức khen ngợi giáo. Có hai: Trước là lãnh thọ ý chỉ của Phật, kết luận so sánh bậc dưới với trăm ngàn công đức của bậc cao. Kế là khen ngợi giáo Biệt viên thứ lớp và chẳng thứ lớp nói ở trên. Vì sao cho rằng chư Phật, Thế Tôn chẳng bằng kinh Đại thừa? Vì kinh Đại thừa là mẹ chư Phật, mẹ sinh ra con, cho nên giáo ấy được sáng tỏ tôn sùng. Kinh nói do năng lực của Phương đẳng nên sinh ra chư Phật; nếu y cứ theo đạo chẳng thể tự mở mang truyền bá, thì Phật năng thuyết giáo, vậy Phật hơn giáo. Phật năng hoằng giáo là nói theo hóa tha, giáo sinh ra Phật là nói theo tự hành. Tạng Vương khen ngợi ở trên là y cứ theo tự hành. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là ý thứ hai, Như Lai nói lại lời khen ngợi, có ba câu: một, là thuật lại; hai, là giải thích; ba, là kết luận. Thứ nhất, văn kinh ghi. Kế là giải thích, gồm có phần thuyết pháp, khai dụ và hợp. Khai Thiện cho rằng đó là dụ cho năm thời giáo. Trong đó, Phật hợp với bò, lưu xuất ra mười hai loại kinh là chỉ cho thời giáo đầu tiên; Tu-đa-la chỉ cho Bát-nhã, vì Tu-đa-la là pháp bản, Bát-nhã là hạnh bản, Phương đẳng chỉ cho các kinh Tịnh Danh, Tư Ích vì khen ngợi Bồ-tát. Bát-nhã là Pháp Hoa, vì kinh Pháp Hoa nói về Đại tuệ bình đẳng, Đại tuệ bình đẳng là Bát-nhã. Còn Niết-bàn có thể tự hiểu. Lại nói Bát-nhã đầu tiên nói trong mười hai năm, cuối cùng thì gần với Niết-bàn, tức sau Pháp Hoa, rồi dẫn phẩm Tất Cánh trong Thích luận để chứng thành. Cho nên, Tu-đa-la tức kinh Tịnh Danh, Phương đẳng là Pháp Hoa, Bát- nhã là Bát-nhã. Chiêu-đề cho rằng: Ba thời là trước nói về giáo, hai thời sau là nói về lý; ba giáo là mười hai thể loại kinh tức là tạng Tiểu thừa, Tu-đa-la tức Tạp tạng, Phương đẳng là Bồ-tát tạng. Phật dạy chẳng ngoài ba tạng này. Hai lý tức Bát-nhã là nhân, Niết-bàn là quả, tu hành nhân Bát-nhã thì được quả Niết-bàn. Hưng Hoàng cho rằng: Phật nói pháp gồm mười hai thể loại kinh, học được mười hai loại này là thông suốt được Tu-đa-la, biết các pháp bản tức thông Phương Đẳng, đạt Phương Đẳng thì sinh ra Bát-nhã, Bát- nhã đã sinh thì rõ biết niết-bàn. Các Sư Trung Quán cho rằng: Đầu tiên là từ nhiều nói về ít, từ rộng nói về lược. Đầu tiên khen ngợi mười hai thể loại kinh, mười hai thể loại có cả Đại và Tiểu, đó là chung. Lại khen ngợi riêng Tu-đa-la, lại lấy Tu-đa-la làm chung mà khen ngợi riêng Phương Đẳng, Phương Đẳng chưa phải là ít có, nên lại khen ngợi riêng Bát-nhã, trong Bát-nhã lại khen riêng một câu Phật tánh của Niết-bàn. Như từ bò sinh ra sữa cho đến thành đề hồ, cho nên Niết-bàn là cuối cùng. Các nghóa này chẳng đúng, vì sao? Vì mười hai thể loại kinh có cả Đại và Tiểu, đâu chỉ có Tiểu thừa. Vả lại, nếu cho mười hai thể loại kinh là giáo đầu tiên, mà giáo Tiểu thừa đâu phải là giáo đầu tiên nên chẳng thể sử dụng. Vì sao lại cho Tu-đa-la là Bát-nhã, các kinh khác chẳng có văn xuôi ư? Sao lại lấy Bát-nhã làm Pháp Hoa, danh đã chẳng đúng thì nghóa làm sao hợp? Dù cho Bát-nhã gần với thời Niết-bàn, thì thời giáo thứ tư trái với thứ lớp năm thời. Chiêu-đề cho rằng đó là ba giáo hai lý, nhưng văn này thuật lại lời khen ngợi giáo, vì sao phải dụ cho lý, nếu đúng như lời Chiêu-đề nói thì đó là khen ngợi kinh khác, chứ chẳng khen ngợi giáo này. Còn như lời Hưng Hoàng nói thì đó là theo thứ lớp sinh giải chứ chẳng phải khen ngợi giáo. Bồ-tát Tạng Vương nói: “chư Phật có vô lượng công đức, nhưng chẳng bằng kinh Đại Bát-niết-bàn”. Nếu nói từ giáo sinh giải thì chẳng phải ý khen ngợi của văn này. Như lời các sư Trung Quán là từ rộng đến lược mà cho cuối cùng là cao siêu, nhưng văn kinh ghi: “Đề hồ là trên hết, tất cả vị thuốc đều chứa đựng trong đó”. Nếu nói rộng thì đâu hơn lời này, đã là rộng thì chẳng được khen ngợi. Các sư đều muốn bao gồm, thâu nhiếp mà chẳng biết phân tích, chia chẻ nên lạc mất chánh tông, thí như đến Hàm Đan học tập, hai hạnh đều chẳng đạt được gì. Nay y cứ theo kinh, tức như Tạng Vương nghe Phật nói Biệt giáo theo thứ lớp, Viên giáo chẳng thứ lớp. Giáo thứ lớp thì phát sinh công đức của Bồ-tát Tiệm hạnh, giáo chẳng thứ lớp thì sinh ra công đức của chư Phật. Vui mừng khen ngợi cả hai giáo, Phật lại giúp sức cho niềm vui ấy nên kể lại và khen ngợi. Nếu thứ tự nương nhau sinh khởi đến chỗ tột cùng huyền diệu thì càng thêm được khen ngợi. Bò dụ cho chủ của giáo Niết-bàn, sữa dụ cho Giới Thánh hạnh, lạc dụ cho Định Thánh hạnh, bơ sống là Tuệ Thánh hạnh của bốn Đế, bơ chín dụ cho Tuệ Thánh hạnh của hai Đế, đề hồ dụ cho tuệ Thánh hạnh của Nhất thật đế. Như thứ lớp năm vị thì đề hồ là quý nhất, còn năm hạnh dần dần chuyển đến hạnh sâu xa lìa nhất thật, nên nói tối thắng tối thượng. Đây là nói lại lời khen ngợi Nhất thật giáo kia. Nếu chỉ nói thật tuệ, thì nhất tuệ tức tất cả tuệ là pháp giới, gồm thâu tất cả tuệ, chẳng do thứ lớp. Phật tức là đề hồ nhiệm mầu trên hết, tất cả các vị đều hòa hợp trong đó; Như Lai tức người đề hồ; Nhất thật đế là pháp đề hồ. Người đề hồ nói pháp đề hồ, pháp đề hồ thành tựu cho người đề hồ. Người và pháp là một chẳng hai, trong đó các pháp đều là đề hồ. Thứ lớp và Nhất thật là một không hai; khen ngợi nhất thật của năm hạnh tức khen ngợi năm thật của nhất thật. Giải thích như thế thì hai nghóa là thứ lớp và khen ngợi giáo đều thành. Nếu theo thứ lớp trong một đời giáo hóa, thì từ Phật lưu xuất ra mười hai thể loại kinh là chỉ cho thời Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm là đầu tiên tức mười hai thể loại kinh. Tu-đa-la là một tạng trong ba tạng. Vì chúng sinh chẳng kham nhận Đại thừa, nên phải nói giáo Tiểu thừa. Giáo Phương Đẳng bác bỏ Tiểu chê trách Thiên, xưng dương Đại, khen ngợi Viên giáo Bát-nhã thì ba hạng người đồng được nghe mà chỉ trở về Nhất thật, dẫn Tiểu trở về Đại, tiếp Thiên thành Viên và trụ trong phương tiện, tức chưa chứng được Tiểu quả thì cho phép học chung đạo Ma-ha-diễn. Đại Bát-niết-bàn là giáo cùng tột; tức đã trụ ở Tiểu quả, bác bỏ ba tu mà nói Thường Lạc cao siêu. Nếu thế vì sao chẳng nói Pháp Hoa. Pháp Hoa phá Tiểu quả, diệt Hóa thành, dẫn đến đảo châu báu, đồng với Niết-bàn. Vả lại, vào thời Như Lai Ca-diếp, hai muôn Đức Phật Đăng Minh đều nói Pháp Hoa, cho là giáo cùng tột mà chẳng nói Niết-bàn. Nay đức Thích-ca thùy tích vào đời ác trược, cần lấy tên khác để hiển rõ thường lạc, hai giáo đồng cùng tột, nên chẳng nói Pháp Hoa là ý ở đây. Vả lại, phần trước vì ít người thuần thục nên dùng Pháp Hoa để thành thục cho họ, phần sau chưa thành thục nên dùng Bát-nhã đào thải, nay lại dùng Niết-bàn để thành thục. Thích luận ghi: “Bát-nhã đến sau Pháp Hoa”, tức là nghóa này. Khen ngợi giáo này cũng trái với thứ lớp một đời giáo hóa, giới là đầu của Thánh hạnh, bao gồm rất rộng như văn kinh đã nói, lại đồng ng- hóa với sở chiếu nói trong kinh Hoa Nghiêm. Định là chánh của Thánh hạnh, đồng với nghóa định tạng trong Tu-đa-la. Tuệ Thánh hạnh của Tứ đế dùng ba tu đại Niết-bàn để bác bỏ sự sai lầm của Tiểu vô lậu, hợp với nghóa quở trách của Phương Đẳng. Tuệ thánh hạnh của hai Đế thì chân tục tức nhau, hợp với nghóa ngay nơi sắc là không của Ma-ha-diễn. Tuệ hạnh của Nhất thật đế tức là giáo Niết-bàn. Có thể biết như thế thì thứ tự một đời giáo hóa và một bộ kinh đều thành tựu, ý nghóa không trái nhau. Từ câu “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận khen ngợi. Từ câu “Ca-diếp bạch rằng v.v…” trở xuống là phần thứ ba, Ca- diếp tự nguyện, có ba ý: một, là lãnh thọ; hai, là thương xót người; ba, là tự thệ nguyện. Tự thệ có bốn ý: một, là thệ dùng da, xương của thân chánh báo làm giấy bút để truyền bá và giữ gìn năm hạnh. Thứ hai, là thệ dùng tiền tài y báo làm cho người no đủ, khiến kinh được truyền bá. Thứ ba, là thệ dùng trí lực chiết phục nhiếp thọ. Thứ tư, là thệ đối với người đồng ưa thích thì dùng hết ba nghiệp thờ kính họ. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là thứ tư, Phật nói lại lời thệ, gồm có ba ý: Một, là khen ngợi; hai, là thọ ký; ba, là ấn chứng. Thứ nhất là khen ngợi. Từ câu “Nay ông v.v…” trở xuống là thọ ký, có hai: một, là thọ ký vượt lên tu hành thành đạo quả. Hai, là thọ ký xoay bánh xe pháp. Từ câu “Về quá khứ v.v…” trở xuống là dẫn chứng, có hai đoạn: một, là dẫn xưa; hai, là ấn chứng cho hôm nay. Dẫn việc xưa, có ba: một, là nói về hạnh khi xưa của Bồ-tát; hai, là nói về các vị trời mưu bàn; ba, đến ép ngặt thử thách để trình bày. Nói về hạnh xưa, như văn kinh ghi. Từ câu “Ta tu tập v.v…” trở xuống là các vị trời mưu bàn. Hai bánh xe dụ cho phước và đức. Từ câu “Này Đại tiên v.v…” trở xuống là ép ngặt thử thách, đầu tiên là dụ ba cách thử: đốt, đập và mài. Kế là hợp với ba cách thử: một, là nói nửa bài kệ để thử xem có trí hay không có trí; nếu biết được văn nghóa chưa hết thì là người có trí; nếu chẳng biết thì là kẻ vô trí. Hai, thị hiện thân đáng sợ để thử xem có sợ hay không sợ, nếu tâm vững chắc, chẳng sinh sợ hãi; nếu tâm yếu đuối thì sợ hãi. Ba, là đòi thân mạng để thử có xả bỏ hay không. Nửa bài kệ, chỉ nói về vô thường, mà chưa nói thường, nên nói là nửa bài. Hữu vi có ba tướng, vì sao chẳng nói sinh diệt mà chỉ nói trụ? Có người giải thích rằng vì bài kệ chỉ có bốn câu, quá ngắn cho nên lược bớt. Hỏi: Nếu lược vì sao chẳng lược các chữ khác? Đáp: Việc này cũng có ý nghóa của nó, vì pháp trụ chẳng hiển bày được sự dời đổi còn mất của sinh diệt mà chỉ hiển bày sự đầu cuối và khoảng giữa nên lược bớt. Hỏi: Ba tướng dời đổi đâu thể có trụ, trụ tức là Thường, Thường thì chẳng dời đổi và khác với vô thường. Đáp: Nói đây là trụ của vô thường, nhưng ba tướng tự là vô thường, mà có trụ của vô thường cũng nên có Thường của vô trụ. Kinh nói nghóa “không” mà bài kệ này nói về “Không Thường”, đâu phải là “không”? Các sư xưa giải thích rằng vô thường chẳng phải là “không”, nhưng “Không” này là phương tiện, sau đo mơí được không. Cách giải khác rằng: Vô thường là tên khác của “không”. Kinh Đại Phẩm ghi: “Vô thường tức là tướng động, tướng động tức tướng “không”. Kinh Tịnh Danh ghi: “Bất sinh bất diệt là nghóa vô thường”. Nay cũng vô thường là nghóa bất sinh bất diệt. Nói vắng lặng là an vui. Thể của Niết-bàn chẳng sinh chẳng diệt, mà nay nói tịch diệt là lạc, thì cũng được nói sinh diệt, sinh rồi thì tịch diệt, sinh là an vui hay chăng? Đáp: Người nhậm đạo thì lệ với ở đây, người không nhậm đạo thì không lệ, tướng sinh khởi diệt, trừ tướng chính là lấy nghóa trừ sinh trừ diệt, là vui vắng lặng. Sinh là khởi tướng Niết-bàn vô sinh, cho nên chẳng lệ với ở đây. Vượt qua mười hai kiếp: Các kinh Xuất diệu, Phật Tạng đều nói là vượt chín kiếp. Hoặc có chỗ cho rằng vì nhân duyên khác nhau, nên Phật nói có thêm bớt. Từ câu “Này Thiện nam v.v…” trở xuống là dẫn chứng nay. <篇> ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 17 <詞>PHẨM 20: PHẠM HẠNH (PHẦN 1) Các sư cho rằng bốn tâm Phạm hạnh là thể, ba phẩm là thể của Thánh hạnh, dẫn kinh: “Nói bốn Vô lượng là đường Phạm thiên, gọi là xoay bánh xe pháp. Nói bốn Đế là Đệ nhất nghóa thiên gọi là xoay bánh xe pháp”. Có sư cho rằng tuệ, định, giới là thể của Phạm hạnh, bảy thiện đều biết, biết tức là Tuệ; bốn tâm là mười hai môn thiền, tức là Định; sau nói trì giới được hay mất tức là giới. Nếu thế thì đâu khác gì với Thánh hạnh. Nhưng có khác, vì phạm là hạnh hóa tha, thánh là hạnh tự lợi. Thánh hạnh lấy tuệ làm chính; giới, định giúp thành tựu. Thánh hạnh là pháp tu của bậc Thánh; phạm hạnh là đạo thanh tịnh, đạo chung cho phàm, Thánh. Thánh hạnh thì trước là giới, sau mới là tuệ, phạm hạnh thì trước là tuệ sau là giới, cho nên phàm Thánh khác nhau. Có sư lại cho rằng nhân quả là thể của Phạm hạnh. Phạm nghóa là tịnh, là nhân của Niết-bàn, dẫn đến quả Niết-bàn, vì thế lấy nhân quả là thể của Phạm hạnh. Các nghóa trên đều chẳng đúng. Nếu bốn tâm làm thể thì đó là đạo Phạm thiên chứ chẳng phải Đại Niết-bàn. Nếu ba tâm là thể, thì tuy khác Thánh hạnh nhưng chẳng ngoài Nhị thừa, chẳng phải Đại Niết- bàn. Nếu nhân quả là thể thì còn ở nhân quả đâu được gọi là Tịnh, chẳng phải Đại Niết-bàn. Nếu chẳng phải Đại Niết-bàn thì cái gì là Phạm hạnh? Danh nghóa chẳng thể giữ được, nên đều chẳng sử dụng. Nay nói Phạm tức là Tịnh, Tịnh có ba nghóa: Tịnh tịnh, bất tịnh tịnh, chẳng phải tịnh tịnh chẳng phải bất tịnh tịnh. Thế nào là Tịnh tịnh? Là bảy thiện, bốn tâm vô lượng, ba phẩm, sáu niệm. Các pháp này đều là đạo thanh tịnh của Niết-bàn xuất thế. Nay dùng Phạm hạnh làm thanh tịnh khắp các tịnh. Kinh ghi: Pháp gì là căn cứ của tất cả thiện? Nên nói đó là Từ”. Đó gọi là tịnh tịnh. Thế nào là Bất tịnh tịnh? Ta nói Từ có vô lượng môn, đó là thần thông điều phục voi, điều phục người điên cuồng, trị bệnh mắt, trị bệnh ung nhọt, dùng từ tâm đi trong thế gian, dùng tâm bi vào vạc nước sôi, nhờ năng lực gốc lành của Từ nên không nơi nào chẳng đến, làm cho các bất tịnh trở thành tiïnh. Đó gọi là bất tịnh tịnh. Thế nào gọi là chẳng phải tịnh tịnh chẳng phải bất tịnh tịnh? Đó là Đại Thừa Đại Bát Niết-bàn chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải nhiễm, chẳng phải tịnh, rốt ráo thanh tịnh. Đó là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Như Lai. Văn kinh ghi: “Nếu Từ là pháp có không, là có là không thì đó là Từ của Thanh văn. Nếu Từ là pháp có không, chẳng có chẳng không là Từ của Như Lai”. Từ của Như Lai thì chẳng phải tịnh tịnh chẳng phải bất tịnh tịnh. Ba Từ này ngang dọc đều khác nhau, chẳng diệu chẳng tịnh, ngay nơi một mà ba, ngay nơi ba mà một, chẳng thể nghó bàn, đó mới gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Từ ba mà gọi là phẩm Phạm Hạnh. Toàn phẩm có hai phần: Nói về phạm hạnh. Khen ngợi kinh. Thứ nhất nói về Phạm hạnh, gồm có ba: Nói về bảy thiện. Nói về bốn tâm Nói về giữ giới. Nói về bảy thiện, có hai: 1. Nêu; 2. Giải thích Giải thích có ba là nêu lên, giải thích và kết luận. Nêu tức nêu chương môn, nêu số và kể tên. Trong bảy thiện này, ba pháp trước có cả mình và người, hai pháp kế chỉ có tự hành, hai pháp sau là hóa tha. Nếu nói theo chánh phụ, thì chánh là hóa tha, phụ là tự hành. Trong phần giải thích ở trước nói về bảy thiện của Biệt, kế là nói bảy thiện của Viên. Thứ nhất có bảy chương: một, là giải thích biết pháp; pháp thì chung cho tự và tha, vì biết pháp nên sẽ tự hành và hóa tha. Chương này có ba phần là nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất như văn kinh. Thứ hai là giải thích, gồm nêu lên và giải thích. Phần giải thích có mười hai đoạn, thứ nhất là giải thích Tu-đa-la. Xưa cho rằng từ Tu-đa-la không dịch chỉ dùng năm nghóa giải thích hoặc dịch là Khế kinh, tức dùng từ nước này thay cho từ nước kia, hoặc cho rằng khế kinh là dịch đúng. Khai Thiện cho rằng chỉ có chung, không có riêng. Trang Nghiêm cho rằng nếu riêng tức là kệ tụng và văn xuôi, dẫn luận Thành Thật “Kỳ-dạ tụng Tu-đa-la”. Kỳ-dạ gọi đủ là Lộ-già-kỳ-dạ, dịch là cú, tụng. Khai Thiện cho là Đẳng cú, Trang Nghiêm dịch là Đẳng tụng, Quang Trạch dịch là Trùng tụng là kệ tụng phần văn xuôi. Thọ Ký, tiếng Phạm gọi là Hòa-già-la-na. Luận gọi là kinh giải nghóa. Ở đây dịch là Thọ Ký, tức là thọ ký cho sáu đường và Ba thừa. Già-đà, có chỗ dịch là Bất đẳng cú, hoặc dịch là Bất đẳng tụng, hoặc dịch là Trực kệ, tức Cô khởi kệ. Nói trừ Tu-đa-la tức là trừ phần văn xuôi được tụng riêng. Lại nói trừ các giới luật tức là trừ các bài kệ loại này trong các giới luật, tức là biết trước đó có phần văn xuôi, nếu không có phần văn xuôi tức là kệ Cô khởi. Ưu-đà-na, trong luận gọi là văn xuôi không có phần tụng, trong kinh gọi là Vô vấn tự thuyết nhân duyên, kệ này có ra pháp cú. A-ba-đà-na, luận ghi tức là Thí Dụ kinh. Y-đế-mục-đa-già, luận ghi là Nhất trúc Y-đế-mục-đa-già. Khai Thiện dịch là Như thị ngữ. Trang Nghiêm dịch là Bản sự. Nói “Lời ta nói gọi là giới kinh”: tức là mỗi kinh đều có giới hạn riêng, tức muốn nói mỗi loại đều có ranh giới khác nhau, gọi là Như thị ngữ. Xà-đà-già, luận dịch là Bản sinh, nhưng bản sinh và bản sự không khác nhau, hợp cả hai thành thể loại thứ chín gọi là Bản sinh, thứ tám gọi là Như thị ngữ. Nếu chia riêng thì thể loại thứ tám gọi là Bản sự, thứ chín gọi là Bản sinh. Tỳ-phật-lược, luận ghi là Quảng. Nói kinh này dịch là Phương Quảng. Cũng dịch là Trực Quảng, là tên gọi trong các kinh Tiểu thừa, gọi là Phương quảng là tên gọi trong Đại thừa. A-phù-đà-na dịch là Vị tằng hữu. Ưu-ba-đề-xá dịch là Luận nghị, cũng dịch là Đại giáo, Giải nghóa. Trong Đại thừa không dùng danh từ giải nghóa. Quang Trạch dịch Hòa- già-la-na là Giải nghóa, tức là giải nghóa thọ ký. Từ câu “Nếu Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn ba, tổng kết. Kế là nói biết nghóa. Tức là biết rõ lý nói trong mười hai thể loại kinh. Lời này rất sơ lược, nên phải nói là hiểu rõ các nghóa không, bình đẳng trong mười hai thể loại kinh. Hơn nữa đối với một câu mà hiểu vô lượng nghóa; hiểu nghóa rốt ráo thanh tịnh. Nếu hiểu được ba nghóa như thế, thì nghóa mới tròn đủ. Thứ ba nói về biết thời. Nói trong thời như thế thuận theo bố thí tức là ý hóa tha, còn các câu khác là tự hành. Thứ tư, là giải thích biết đủ và tự biết là thuộc về tự hành. Thứ năm là tự biết mình. Xem kỹ là thiện hay bất thiện, như Tăng Tử nói: “Ta mỗi ngày ba lần tự xét bản thân”. Thứ sáu, Từ câu “Thế nào là biết chúng v.v…” trở xuống, gồm có hai thiện nói về hóa tha. Biết chúng: Nên biết đủ các chúng trong mười pháp giới, văn kinh chỉ lược nêu người và Nhị thừa; trong mỗi chúng đều dùng ba nghiệp để giáo hóa nhưng văn kinh chỉ lược nêu thân và miệng. Hơn nữa, giáo hóa thì phần lớn là thân và miệng, ít dùng đến ý, vì thế lược bỏ không nêu. Thứ bảy, là biết cao thấp. Nên biết đầy đủ sự cao thấp của mười cõi, nhưng văn kinh đã lược bỏ không ghi. Bất tín là Xiển-đề, tức là cõi địa ngục, đây là hạng rất thấp hèn; không bao giờ đến chùa, không tạo phước đức, tức cõi ngạ quỷ; không lễ bái là kiêu mạn, tức đường súc sinh; chẳng nghe pháp, chẳng nhận lãnh sự dạy bảo của pháp, tà vạy hung ác, tức là đường Tu- la; chẳng dốc lòng nghe pháp là tán thiện; chẳng chuyên tâm tức là cõi người; chẳng suy nghó nghóa lý, tuy dốc lòng nghe pháp nhưng chẳng thể suy nghó nghóa lý, là thuộc cõi trời; chẳng thể tu hành, chỉ có văn và tư, không có tu tuệ, tức là Nhị thừa phương tiện đạo cạn mỏng yếu kém, đều thuộc về Ti, chỉ cầu Tiểu thừa, không có chí nguyện rộng lớn; tuy có phát chân nhưng cũng là Ti. Nếu cầu Đại thừa thì mới là tôn quý, theo thứ lớp so sánh cho đến Viên biệt là cõi Phật, Bồ-tát, cứ như thế từng đoạn từng đoạn thay nhau làm cao thấp. Từ câu “Này thiện nam, v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về bảy thiện của Viên giáo, nêu hai dụ là dụ hạt châu như ý là dụ cho sinh điều lành của Viên, dụ cam lộ là dụ cho sự diệt ác của Viên. Một điều lành gồm tất cả điều lành, không điều lành nào không đầy đủ trong đó, một diệt thì tất cả diệt, không điều ác nào chẳng diệt. Vì thế nêu lên hai nhóm. Trước dụ sau hợp, rất dễ thấy. Từ chữ như thế trở xuống là hợp dụ. Nói rằng cao nhất, quý nhất trong hàng trời người, nếu chỉ giải thích theo trời người thế gian thì chưa đầy đủ, mà cần phải nói là cao nhất, quý nhất trong hàng trời người thánh hiền mới hợp với văn kinh ở đây. Từ câu “Đó gọi là v.v…” trở xuống là phần tổng kết. hạnh. Nếu đầy đủ bảy pháp thiện, tức là được một phẩm trong phạm Thứ hai, nói bốn tâm vô lượng. Bốn tâm vô lượng còn gọi là Bốn đẳng tâm. Nói vô lượng là y cứ theo cảnh, nói Tứ đẳng là y cứ theo tâm. Vì sao? Vì cảnh ở trước mắt chẳng phải một, cho nên nói vô lượng, nhưng cảnh tuy nhiều mà tâm chỉ một tướng cho nên gọi là Đẳng. Nhưng nói chung thì cảnh cũng có thể gọi là Đẳng, tâm cũng có thể gọi là Vô lượng. Văn kinh có hai đoạn là nói bốn tâm và nói về quả của tâm. Đoạn thứ nhất có hai phần: một, là nêu thứ lớp bốn tâm; hai, là nói về tròn đủ bốn tâm. Thứ tư gồm có ba đoạn là lược nêu, nói về nghóa và thọ lãnh tin hiểu. Thứ nhất như văn kinh ghi. Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp, v.v…” trở xuống là phần nói về nghóa, trước hỏi sau đáp. Trong phần hỏi có nêu lên năm lời hỏi: một, là hỏi bốn tâm chỉ nên có ba tâm; hai, là hỏi bốn tâm chỉ nên có một tâm; ba, là hỏi lại bốn tâm chỉ nên có ba; bốn, là hỏi bốn tâm chỉ nên có hai tâm; năm, là hỏi lại bốn tâm chỉ nên có một tâm. Nhưng nếu tổng hợp thì sẽ trở thành ba câu: một, là thứ nhất và thứ ba đều gạn hỏi bốn tâm chỉ nên có ba tâm; hai, là thứ hai và thứ năm đều hỏi bốn tâm chỉ nên có một tâm; ba, là hỏi bốn tâm chỉ nên có hai tâm. Nhưng nay y cứ theo văn kinh mà chia thành năm câu. Thứ nhất cho hai tâm không khác, cùng có công năng đối trị sân hận, lẽ ra chỉ tính một tâm. Tâm hỷ có công năng ban vui và tâm xả có công năng diệt si, vậy tính chung chỉ nên nói ba tâm, chẳng nên nói bốn. Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói tất cả đều đồng, có ba ý hỏi về bốn tâm lẽ ra chỉ có một. Đầu tiên là nêu ba duyên, kế là giải thích ba tâm. Ba duyên tuy có sâu cạn nhưng chỉ một nghóa. Y cứ theo cảnh tuy có khác nhưng tâm duyên không khác nhau. Như duyên kẻ nghèo cùng tức là chúng sinh duyên, biết người nghèo cùng này cần có y thực tức là pháp duyên, nếu biết chúng sinh cần dùng vật gì, biết Như Lai thọ hưởng Đệ nhất an lạc thì không còn cần vật gì, đó là vô duyên. Cho nên tâm năng duyên là một chẳng phải bốn. Vì thế chỉ là một. Duyên năm ấm gọi là chúng sinh duyên, vậy năm ấm từ đâu mà sinh? Duyên vào vật cần dùng mà ban cho họ, đó gọi là pháp duyên, nếu duyên Như Lai chẳng cần các vật này tức vô duyên. Muốn nói tâm duyên cảnh cùng khắp cho đến trên duyên với Phật, huống chi là các cảnh khác. Từ câu “Cảnh duyên của từ v.v…” trở xuống là thứ ba, nêu ba duyên để hỏi. Cảnh chúng sinh thì cạn mỏng, pháp thì không sâu xa, vô duyên tức cả hai đều không trụ cho nên rất sâu xa. Đã có ba duyên thì đâu thể nói bốn. Các sư luận Thành Thật cho rằng: “Duyên chúng sinh là “chúng sinh không”, duyên pháp là “pháp không”, duyên Như Lai là “bình đẳng không”. Theo đây thì đánh mất ý văn kinh. Nói duyên chúng sinh là duyên cha mẹ, vơ con, mong ban cho họ sự an vui, có bao giờ nói là “không”? Từ câu “người có hai hạng v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ tư. Hạng kiến hành là lợi căn, hàng ái hành là độn căn. Hàng lợi căn thích sân hận, vì chỉ dạy kẻ độn căn mười lần mà chẳng hiểu nên nổi giận, vì thế phải tu từ bi để xả bỏ tâm sân hận. Còn hàng độn căn khi thấy người lợi căn thì thường sinh tâm ganh ghét. Vì thế chỉ có hai chứ chẳng thể có bốn. Từ câu “vô lượng v.v…” trở xuống là thứ năm, dùng danh từ ly hợp để hỏi. Đã nói vô lượng thì đâu chỉ có bốn, đã có bốn thì chẳng có vô lượng. Nếu là vô lượng thì chỉ có một. Kế là lời Như Lai đáp, có hai: một, là phá định chấp bốn; hai, là đáp lời hỏi về không có bốn. Thứ nhất lại có ba: một, là nói về giáo môn rộng lược chẳng định; hai, là nói về phản thường bất định; ba, nói về đối trị hoặc bất định. Đã bất định thì đâu cần có bốn. Đầu tiên là y cứ mười hai nhân duyên bất định làm lời đáp. Hoặc nói mười một cho đến hai, một nhân duyên, tất cả là tùy cơ làm lợi ích chúng sinh, chẳng thể nhất định. Nói: “Trừ một pháp sinh”. Hà Tây cho rằng: “Ngoại đạo Tát-già Ni-kiền Tử thông minh dùng đồng lát mỏng buộc quanh bụng, đầu đội hỏa quan đến chỗ ở của Phật, tâm ý cao ngạo, không chịu nghe pháp. Cha của ngoại đạo là một vị Phạm chí, mẹ là một Ni-kiền, cả hai đều xuất gia. Vì từ cha mẹ phi pháp sinh, cho nên cho đó là điều xấu hổ, còn tất cả việc khác thì chẳng kiêng sợ. Đức Phật muốn giúp người này, cho nên trừ một chi Sinh, chỉ nói mười một chi. Từ câu “Như Lai Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai nói trái lại thường bất định, hoặc cho rằng Khẩu mật bất định. Phật chân thật đầy đủ thường, lạc, ngã, tịnh mà cũng nói vô thường, bất tịnh. Sinh tử thật là vô thường bất tịnh mà cũng nói thường, lạc, ngã, tịnh. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn ba đối trị các hoặc bất định, tức là Thân mật bất định. Làm vua Chuyển luân ban phát tài vật là Xả, ban cho năm dục lạc là Hỷ, làm tôi tớ là Từ, can ngăn quở trách là Bi. Từ câu “Thể tánh v.v…” trở xuống là thứ hai, đáp về câu hỏi không có bốn tâm, có hai ý là chung và riêng. Ý chung lại gồm có hai: một, nêu hai việc; hai, bác bỏ chung các câu hỏi trước. Nêu hai việc, trước nói về thể khác nhau, sau nói về dụng khác nhau. Nói về được quả báo khác nhau. Tu tâm từ thì sinh lên cõi trời Biến Tịnh, tu tâm bi thì sinh lên cõi trời Không vô biên, tu tâm hỷ được sinh lên cõi Thức vô biên, tu tâm xả được sinh lên cõi Bất dụng, cõi khác nhau nên đối trị hoặc cũng khác. Từ câu “Chủng loại v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về dụng khác nhau. Tham thì lấy vật của người, từ thì ban phát vật cho người. Sân thì làm khổ người, bi thì cứu khổ cho người. Ganh tị thì ghét bỏ điều tốt của người, hỷ thì ban niềm vui cho người. Si thì mãi mãi yêu ghét, xả thì dứt hẳn ghét yêu. Từ câu “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là thứ hai, tổng kết các câu hỏi trước và sau. Chẳng phải một, tức là bác bỏ câu thứ hai và thứ năm, chẳng phải hai là bác bỏ câu thứ tư, chẳng phải ba tức bác bỏ câu thứ nhất và câu thứ ba. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ hai, đáp riêng năm câu hỏi. Gồm có năm chương, đầu tiên là đáp câu hỏi thứ nhất đối trị các hoặc, chỉ có ba không có bốn. Nay nói tuy đồng đối trị sân, nhưng sân có khinh và trọng, cho nên thành bốn. Có sáu lần lại có, như văn kinh đã ghi. Từ câu “vì thế v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ hai, là đồng duyên. Đối trị các hoặc có khác nhau, nên chủng loại có bốn, vậy đâu thể nói đồng có ba duyên, chỉ gom làm một. Từ câu “Lại nữa, vì căn khí v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ ba về sâu cạn, vặn hỏi chỉ có ba. Nay nói tùy theo dụng mà có bốn, đâu thể theo hạnh mà nói có ba, hoặc có căn khí là cảnh. Từ câu “Vì theo hạnh v.v…” trở xuống là trả lời câu thứ tư, y cứ vào người có lợi độn mà hỏi. Muốn nói tuy có hai hạng người, mà có đến bốn hạnh, nên chẳng thể nói là hai hạnh. Từ câu “vì vô lượng, v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ năm hỏi về tên gọi, có hai: đầu tiên là nêu bốn chương, kế là giải thích rộng. Muốn nói là vô lượng còn có bốn câu, thì đâu ngại gì nói có bốn loại vô lượng. Từ câu “Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ ba lãnh giải, như văn kinh có ghi. Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, nói về chẳng thứ lớp tức viên bốn tâm, lại có hai phần: một, là phân biệt với tâm từ của Tiểu thừa; hai, hiển bày tâm từ của Đại thừa. Về Đại Tiểu này, thì Tiểu và chẳng phải Tiểu, chẳng thể lấy phàm phu làm Tiểu, Nhị thừa là Đại, Nhị thừa làm Tiểu, Bồ-tát làm Đại. Vì sao? Vì phàm phu và Nhị thừa đều chẳng trụ Đại Niết-bàn. Cho nên nay dùng tâm từ có thứ lớp làm Tiểu, tâm từ chẳng có thứ lớp làm Đại. Vì cả hai đều trụ Đại Niết-bàn. Lại có người lấy tương tự làm Tiểu, chân thật làm đại, nghóa này chẳng đúng, vì thứ lớp tự, chân đều là Tiểu, cho nên nói phân biệt Tiểu, Đại. Văn có hỏi và đáp. Hỏi: Có Bồ-tát nào trụ trong kinh Đại Thừa Đại Niết-bàn được tâm từ bi, mà chẳng phải là đại từ đại bi hay chăng? Đây chính là hỏi về phạm hạnh có thứ lớp. Kế đến Phật đáp có ba phần: một, nêu là có; hai, giải thích là có; ba, kết luận là có. Thứ nhất như văn kinh. Giải thích có hai: Trước nêu cảnh, sau nói về quán. Cảnh có chín phẩm. Oán, thân, và không oán không thân, mỗi loại có ba phẩm, hoặc cho rằng hạnh không oán không thân chỉ có một phần, nên có bảy phẩm. Vì hạng này đối với ta chẳng thân chẳng oán nên chẳng chia làm ba phẩm. Vừa xem qua thì như thế, nhưng xét kỹ trong hạng này chẳng phải không có ngu trí, sang hèn khác nhau. Cho nên chia làm ba, thành chín cảnh, tức có chín tâm từ. Từ câu “Bồ-tát này v.v…” trở xuống là nói về tu quán. Nếu hoàn toàn chưa tu tập mà muốn ban cho thì đối với ba hạng thân thuộc ban cho ba phẩm vui; ba hạnh oán ghét ban cho ba phẩm khổ; ba hạnh không thân không oán thì không ban cho khổ vui. Như mới tu tâm Từ thì đối với ba hạng người thân yêu sẽ ban cho ba phẩm vui; đối với ba hạng người oán ghét thì oán bậc thượng ban cho vui bậc hạ, oán bậc trung ban cho vui bậc trung, oán bậc hạ ban cho vui bậc thượng. Khi vào bậc tu thứ hai, đối với oán bậc thượng ban cho vui bậc trung, oán bậc trung và hạ thì ban cho vui bậc thượng. Khi vào bậc tu tập thứ ba, đối với ba kẻ oán đều bình đẳng ban cho vui phẩm thượng, nhưng chưa phải là ba niềm vui đối với ngườithân thuộc. Khi vào bậc tu thứ tư thì dùng niềm vui bậc hạ của người không oán không thân mà đồng ban cho ba kẻ oán ghét. Khi vào bậc tu thứ năm, dùng niềm vui bậc trung của người không oán không thân mà đồng ban cho ba kẻ oán ghét. Khi vào bậc tu thứ sáu, dùng cái vui bậc thượng của người không oán không thân mà đồng ban cho ba hạng kẻ oán ghét. Khi vào bậc tu thứ bảy thì dùng niềm vui bậc hạ của ba hạng người thân mà đồng ban cho ba kẻ oán ghét. Khi vào bậc tu thứ tám, dùng cái vui bậc trung của hạng người thân mà đồng ban cho ba kẻ oán ghét. Khi vào bậc tu thứ chín, dùng niềm vui bậc thượng của người thân mà đồng ban cho ba kẻ oán ghét. Đó gọi là đối với kẻ oán bậc thượng mà ban cho niềm vui tăng thượng. Bấy giờ, gọi là thành tựu tâm Từ. Vả lại, nếu y cứ theo hai phẩm vui và chín cảnh lúc mới nhập quán, đối với ba hạng người thân ban cho ba phẩm an vui; Vào quán cảnh thứ hai, đối với hạng người thân bậc trung sẽ ban cho niềm vui bậc thượng, người thân bậc hạ ban cho niềm vui bậc trung. Vào cảnh thứ ba trở xuống đối với người thân bậc hạ, ban cho niềm vui bậc thượng. Vào quán cảnh thứ tư, đối với người không oán không thân bậc hạ sẽ ban cho niềm vui bậc hạ. Vào quán cảnh thứ năm, đối với người không oán không thân bậc hạ sẽ ban cho niềm vui bậc trungï. Vào quán cảnh thứ sáu, đối với người không oán không thân bậc hạ sẽ ban niềm vui cho bậc thượngï. Vào quán cảnh thứ bảy, đối với người oán bậc thượng sẽ ban cho niềm vui bậc hạ. Vào quán cảnh thứ tám, đối với người oán bậc thượng sẽ ban cho niềm vui bậc trung. Vào quán cảnh thứ chín, đối với người oán bậc thượng sẽ ban cho niềm vui bậc thượng. Đó gọi là thành tựu tâm Từ. Nay trong văn kinh chỉ lược nêu bốn phen nhập quán. Phần thứ nhất đối với ba hạng người thân, bình đẳng ban cho niềm vui bậc thượng. Đó là bao gồm ba hạng người thân thành một phần. Chia riêng ba hạng người oán thành một phần. Nếu nói về tu quán thì có chín phẩm tu tập khác nhau, nhưng trong văn kinh chỉ nói về ba phẩm. Từ câu “Đó gọi là v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận là có. Từ “Bạch Thế Tôn v.v…” trở xuống là phần hai, cũng có hai phần là trước hỏi sau đáp. Đáp gồm có ba: một, nói khó thành; hai, là giải thích; ba, là kết kuận. Thứ nhất từ câu “vì sao v.v…” trở xuống là giải thích, trước nêu pháp, kế là nêu dụ thuyết. Nêu bốn dụ như văn kinh đã ghi. Vì các hoặc thì mạnh, từ tâm thì yếu kém, nên chẳng thể gọi là Đại. Đạt được Hoặc và Từ thành tựu mới gọi là đại Từ. Từ câu “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là kết luận. “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ hai, hiển bày đại Từ. Nói về viên bốn tâm là đại Từ, văn có hai đoạn: Nói về đại Từ Nói về hư thật Nói về đại từ có ba ý: Một, là chính thức nói đại từ; hai, là nói về kiêm dụng; ba, là nói về gốc thiện. Nói về đại từ lại có ba là nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất như văn kinh ghi. Trong đoạn giải thích hàm ý ở trên nói đối với kẻ oán bậc thượng thì ban cho niềm vui bậc thượng, nhưng không ban cho Nhất-xiển-đề niềm vui bậc thượng. Còn ở đây thì tâm từ tròn đầy, duyên với Nhất- xiển-đề, chỉ thấy Thật tướng, chẳng thấy lỗi lầm, nên chẳng sinh tâm tức giận. Như thế mới là Đại từ. Thứ ba, là kết luận. Từ câu “Trừ những điều v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về sự kiêm dụng của tâm từ. Nếu như từ chỉ ban vui, bi chỉ cứu khổ thì chẳng phải là kiêm dụng. Nay nói từ cũng có cả dụng cứu khổ, bi cũng có cả dụng ban vui, xả cũng như thế. Từ câu “chỉ có bốn tâm vô lượng, v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về gốc lành gồm có ba ý: một, là nói về gốc của sáu độ; hai, là gốc phát tâm; thứ ba, là gốc tự tướng. Từ câu “Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về hư thật. Khai Thiện cho là Thật quán, cũng có hai là hỏi đáp. Hỏi có ba: một, là bắt bẻ không có; hai, là bắt bẻ dù có; ba, là ngăn chặn. Thứ nhất gồm có pháp và dụ. Đầu tiên là nêu pháp. Tuy muốn cứu khổ mà thật chưa cứu, thì đều là luống dối, tuy muốn ban vui mà thật chẳng được vui, đây là giả nói. Kế là nêu dụ để hiển. Cũng như Tỳ-kheo tu giả quán, quán bát canh thành chất dơ uế, mà chẳng thật dơ uế. Tuy nói ban niềm vui mà thật chẳng được vui. Từ câu “Nếu chẳng luống dối v.v…” trở xuống là ý thứ hai vặn hỏi dù có. Dù thật có ích, vì sao chẳng thấy người được an vui. Nếu thật có ban cho an vui, vì sao hôm nay có vô lượng vô biên chư Phật, Bồ-tát mà chẳng thấy ban an vui cho chúng sinh? Từ câu “Nếu quả thật v.v…” trở xuống là ý thứ ba vặn hỏi ngăn chặn. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là trả lời ba câu hỏi ở trước. Thứ nhất là trả lời câu ngăn chặn, thứ hai là trả lời câu không có, thứ ba là trả lời câu dù có. Lời đáp thứ nhất có hai: trước là khen lời ngăn chặn của Ca-diếp. Kế là chánh đáp, gồm mười sáu câu kệ chia làm ba: một, gồm có bốn câu nói về đại Từ. Thứ hai gồm bốn câu nói về đại bi. Thứ ba gồm tám câu so sánh. Như thật có thể ban cho niềm vui, thì công đức vô lượng. Từ câu “Người tu tâm từ v.v…” trở xuống là đáp câu không có. Có hai ý: một, là nêu chân thật. Cố nêu điều trái giả tưởng của Thanh văn để nói lên Bồ-tát là chân thật. Từ câu “làm sao biết được, v.v…” trở xuống là ý thứ hai nói rộng về thật, gồm có năm: một, thật có chuyển cảnh; hai, thật có đối trị các hoặc; ba: thật có gốc thiện; bốn, thật cùng khắp các pháp; năm, thật chẳng thể nghó bàn. Thứ nhất có ba là nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất như văn kinh ghi. Hàm ý trong đoạn giải thích ở trên, có hai cách giải: Một, cho rằng chuyển được cảnh. Hai, cho rằng có thể làm cho thấy. Nếu chuyển vàng thành đất thì đúng thật là chuyển; nếu khiến chúng sinh thành chẳng phải chúng sinh thì chỉ có thể thấy mà thôi. Có Sư cho rằng kinh đã nói: Năng thành thì vì sao có hai cách giải. Bồ-tát chẳng những có khả năng chuyển vàng thành đất, mà cũng có khả năng chuyển chúng sinh thật thành chẳng phải chúng sinh, chẳng phải chúng sinh tức là cây cỏ, chuyển chẳng phải chúng sinh thành chúng sinh. Nếu nói chúng sinh xưa nay đều là luống dối, chẳng thật có, thì nên biết trong chúng sinh có người chẳng phải chúng sinh. Nếu nói các pháp có tánh an vui thì chẳng phải chúng sinh cũng là chúng sinh, vậy tình và vô tình, hữu tánh vô thường đều y cứ theo đây mà biết. Nay hỏi thêm rằng: Nếu chúng sinh và chẳng phải chúng sinh thật có khả năng chuyển đổi nhau, tình thành vô tình, vô tình thành hữu tình, thì nghóa này thật khó tin. Nếu chẳng thật chuyển thì thần lực của bậc thánh mở ra luống suông. Tóm lại, chư Phật Bồ-tát đã đạt được, y chánh không hai mà hai, hai mà không hai, khiến cho chúng sinh cũng như thế, đó là chuyển biến mãi mãi. Nếu tạm chuyển thì không đâu chẳng có nghóa này, cũng khiến cho người chuyển chẳng tự hay biết, huống chi từ tức Như Lai, Như Lai tức là từ, từ tức Phật tánh, Phật tánh tức các pháp. Kính xin các vị đời sau hãy suy xét, suy xét. Từ câu “Lại nữa, này người thiện nam, v.v…” trở xuống là ý thứ hai nói về thật có công năng đối trị các hoặc, gồm có ba là nêu lên, giải thích và kết luận. Xưa nói bốn đẳng chỉ là công đức của tướng hỷ lạc tạm chế phục sân nhuế, chưa phải là dứt rốt ráo. Bốn đẳng nói ở đây là Bát-nhã, tức là năng đoạn. Từ câu “Lại nữa, này người thiện nam, bốn vô lượng, v.v…” trở xuống là ý thứ ba nói về thật là gốc lành, có hai: một, là nói về việc có khả năng làm gốc lành Đại thừa; hai, là có khả năng làm gốc lành cho Ba thừa. Thứ nhất lại có hai: một, là chung cho tất cả gốc lành; hai, là có khả năng làm gốc cho hạnh bố thí. Đầu tiên như văn kinh rất dễ thấy. Từ câu “Nếu Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói riêng làm gốc cho bố thí, có năm câu: một, là chính thức làm gốc cho thí; hai, vô tướng là được; ba, hữu tướng là mất; bốn, tâm tức nhất tâm; năm, là phát thệ nguyện. Đầu tiên là nói về gốc bố thí, có nêu tám việc, lấy tám việc ấy làm căn bản. Từ câu “Khi bố thí như thế v.v…” trở xuống là thứ hai nói vô tướng là được, gồm ba ý: chung, riêng và kết luận. Nói chung như văn kinh ghi. Nói chẳng thấy nhân quả, tức khi bố thí là nhân, khi được báo là quả, được quả là Thường, chẳng được là Đoạn. Bồ-tát chẳng thực hành bố thí như thế. Thứ ba, từ câu “Tuy chẳng thấy v.v…” trở xuống là kết luận, như văn kinh có ghi. Từ câu “Nếu Bồ-tát thấy, v.v…” trở xuống là ý thứ ba nói hữu tướng tức mất, gồm có pháp, dụ và hợp. Pháp thuyết như kinh có ghi. Trong dụ này, người dụ cho Bồ-tát có hạnh cạn thấp, mũi tên dụ cho bỏn sẻn sinh khởi, quyến thuộc mời thầy thuốc dụ cho vị tri thức khuyên bố thí. Nói: “Hãy đợi đã” là dụ cho chẳng chịu bố thí đúng thời. Nói “Để ta xem” là chấp tướng, phân biệt “Ai bắn tên” là dụ cho việc phân biệt ruộng phước là giữ giới, phạm giới. Nói “Mũi tên làm bằng tre hay bằng gỗ dương liễu” là dụ cho tâm phân biệt vật thí, tức vật nào nên bỏ, vật nào chẳng nên bỏ, “Thuốc độc trên mũi tên” là dụ cho người chấp bố thí mà chẳng biết bố thí. Nói “Thì đã chế” tức đã chẳng biết bố thí mà còn bị bỏn sẻn ngăn che, chặt đức gốc lành. Kế là hợp dụ, như văn kinh ghi. Từ câu “Khi Bồ-tát v.v…” trở xuống là ý thứ tư, nói một tâm tức bốn tâm để nói lên tướng từ tròn đầy. Nói khi hành bố thí đầy đủ bốn đẳng tâm, tức khi bố thí sinh tâm từ và khởi tâm bi. Đang khi bố thí tâm hoan hỷ, sau khi thí thì buông xả. Từ câu “Bồ-tát sống trong tâm từ v.v…” trở xuống là ý thứ năm, phát nguyện lớn, có tám lớp. Thứ nhất nói về thí thực cho đến đèn sáng. Đầu tiên có ba lớp như văn kinh ghi. Nói lìa thân một thước sáu tấc có hai cách giải thích: một, là nếu nói theo lý là xé rách các kiến chấp, dứt mười sáu tri kiến; hai, là nói theo sự là mỗi mặt là bốn tấc, tức là một thước sáu tấc. Trong Thí Hương Hoa thứ năm, nói vô giới tức là giới của vô giới, chẳng phải không thọ giới và thọ không đắc. Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Giới như hư không, giới vô sở úy”. Kinh Đại Tập ghi: “Giới vô sở trụ, thấy có trụ giới thì chẳng đúng”. Nói giới vô tác, chẳng phải vô tác của phi sắc phi tâm, mà đây chính là giới chẳng tạo tác sinh tử, Niết-bàn. Ba giới khác như văn kinh đã ghi. Từ câu “Tất cả Thanh văn v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai làm gốc của Ba thừa, gồm có ba: một, là nói về ba Thừa; hai, là nói tất cả pháp; ba, là tổng kết. Vì chương này dùng từ gồm thâu tất cả, không pháp nào chẳng gồm thâu, nên nghóa Viên Từ lại càng sáng tỏ. Nhưng gốc của thiện tức là lợi tha, mà trong lợi tha thì tâm Từ và Bi là bậc nhất. Thứ nhất nói về ba thừa. Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là thứ hai, nêu riêng tất cả pháp. Bất tịnh và Xuất nhập tức là hai môn cam lộ. Về bày phương tiện, các sư Số Luận nói: Bất tịnh, biệt tướng, tổng giảm, tổng tướng, Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất. Các Luận sư nói: Sắc Khổ, Sắc Tập, Sắc Diệt, Sắc Đạo, Sắc Quả, Sắc Vị, Sắc Xuất. Ba quán xứ là Khổ, Vô Thường, Vô Ngã, đó là danh nghóa của Tiểu thừa. Còn theo Đại thừa thì quán Khổ nghiệp và phiền não của Mười hai nhân duyên là ba quán. Kinh Anh Lạc nói ba quán là Nhị Đế Quán, Bình Đẳng Quán và Trung Đạo Đệ Nhất Nghóa Quán. Vô tránh có ba cách giải: một, là tâm từ thành tựu nên vô tránh; hai, là giải “không” sáng tỏ nên vô tránh; ba, là tùy tâm giác chiếu, không tranh cãi với chúng sinh nên gọi là Vô tránh. Về trí biết bản tế có hai: một, là “không” giải tức bản tế, cho nên A-nhã Kiều-trần-như là liễu bản tế; hai, dùng trí biên tế duyên kéo dài hay rút ngắn đều tự tại là trí bản tế. Từ câu “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là thứ ba tổng kết. Từ câu “người thiện nam có khả năng làm lành, v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói thật cùng khắp tức là các điều lành cũng cùng khắp đối với tất cả pháp thiện mà nói Viên Từ càng hiển rõ. Văn có hai: một, tức là các pháp thiện của Đại thừa, gồm mười lăm câu; hai, các điều lành Tiểu thừa gồm có mười sáu câu. Trên đây gồm mười lăm câu, mỗi câu đều có kết luận là tâm từ Như Lai. Từ câu “Nếu Từ vô thường v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, chỉ nói pháp thiện Tiểu thừa. Mười sáu câu trên, mỗi câu đều được kết luận là tam từ Thanh văn. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là ý thứ năm, nói về thật chẳng thể nghó bàn. Văn có bốn đoạn: Khen ngợi thể của Đại từ. Khen ngợi người hành Từ. Khen ngợi giáo nói về Từ. Nói về người chủ giảng nói Từ. Thứ nhất là khen ngợi thể. Xưa có ba cách giải thích: Một, là cho rằng tâm từ của chúng sinh thì duyên hữu, pháp duyên thì duyên với không, vô duyên thì duyên với chẳng phải có chẳng phải không. Hai, là cho rằng Sơ địa đến Tam địa phần nhiều là tâm không nên không; từ Tứ địa đến Thất địa phần nhiều là tâm hữu nên có; từ Bát địa đến Thập địa thì không hữu đều quán, nên nói chẳng có chẳng không. Ba, là cho rằng đồng y theo quả Phật diệu hữu, cho nên nói có, không có quả sinh tử, nên nói là không, thầm hợp chân nên chẳng phải có chẳng phải không. Nay cho rằng các thuyết trên đều chẳng đúng, đã duyên với năm ấm vì sao lại không. Nếu là không thì lẽ ra nên vào chân, đã chẳng vào chân thì sao lại là không. Vả lại, nếu là không thì đâu khác gì với vô duyên. Hơn nữa từ Sơ địa đến Tam địa đâu chỉ một bề là không, và chẳng phải có không, đâu chỉ đều là Phật địa. Nay văn kinh khen ngợi người thực hành tâm từ. Nhưng hạnh thì đều có song phi, không hẳn chỉ là Phật. Đây chính là ý trong phẩm Phạm Hạnh. Như duyên với tịnh tịnh là vô, nếu duyên với bất tịnh tịnh là hữu, nếu duyên với chẳng tịnh chẳng bất tịnh là chẳng phải có chẳng phải không, chẳng chung chẳng riêng. Lại duyên với ba Đế, trong đó duyên với chân nên không, duyên với tục nên có, duyên với Trung đạo nên chẳng phải có chẳng phải không. Trung Luận ghi: “Pháp do nhân duyên sinh tức không, tức giả, tức Trung đạo.” Hỏi: Bốn câu là hý luận, vì sao dùng để giải thích kinh? Đáp: Nếu chấp bốn câu có định tánh thì đó là hý luận, còn bốn câu giả danh thì chẳng phải hý luận. Từ câu “Bồ-tát sống trong v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai khen ngợi người hành từ. Từ câu “Kinh Đại Niết-bàn v.v…” trở xuống là thứ ba, khen ngợi giáo nói về hạnh từ. Từ câu “chư Phật v.v…” trở xuống là ý thứ tư, khen ngợi chủ giảng nói hạnh từ. Từ câu “Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ ba, đáp câu hỏi thứ hai ở trên. Trước vặn hỏi rằng: “Nếu từ bi là thật thì lẽ ra có lợi ích”. Nên nêu lại lời hỏi để xin Phật trả lời. Lại tiến lùi đều khó. Tức y cứ theo thật tu tâm từ là khó. Nếu Phật thật có tu thì nên ban cho chúng sinh, vì sao chúng sinh chẳng được lợi ích của tâm từ? Nếu từ chẳng làm lợi ích cho chúng sinh thì từ vô dụng. Trong phần đáp có ba: Một, là nói thật có lợi ích; Hai, là dẫn việc để chứng minh; Ba, kết luận, khen ngợi không nghó bàn. Đầu tiên lại có ba: Một, là nêu có ích; Hai, là từ câu “Có các chúng sinh v.v…” trở xuống là giải thích có ích; Ba, là từ câu “Vì nghóa này, v.v…” trở xuống là kết luận lợi ích. Thứ nhất như kinh ghi. Kế là giải thích lợi ích. Nếu là nghiệp nhất định chẳng thể chuyển đổi thì không được lợi ích, nếu là nghiệp bất định thì được lợi ích. Tuy là định nghiệp nếu có tu thiện thì lại thành bất định, như bất định do tám mươi tuổi, không thể chuyển đổi được, trong khoảng thời hạn ấy không chết ngang trái, thì tâm có được lợi ích cho họ. Vì sao nói là định nghiệp? Như mới khởi tâm giết đã khởi tâm độc hại sâu nặng thì khi giết có tâm quyết định. Giết rồi thì vui sướng, tất cả đều khởi tâm tức giận. Đây là nghiệp nhất định, chẳng thể ban cho niềm vui. Nếu là nghiệp bất định thì tâm từ có công năng ban cho niềm vui. Hỏi: Nghiệp tự bất định, lẽ ra tự được niềm vui, vì sao lại cần tâm từ để ban vui cho? Đáp: Tuy nghiệp bất định hoặc chuyển thành định nếu được Từ làm lợi ích thì sẽ chuyển nặng thành nhẹ. Nói: “Thấy sư tử, cọp, sói v.v… tự nhiên sinh sợ hãi” là dụ cho người tu tập hạnh từ, người khác thấy sinh tâm vui mừng. Từ câu “Ta nói, v.v…” trở xuống là phần thứ hai, dẫn việc để chứng minh. Nêu tám việc dụng tâm từ vận thần thông để cứu độ chúng sinh. Trong việc thứ nhất có nói gọi là máu, có ba cách giải thích: Một, cho rằng thời gian trước mười hai năm Phật chưa chế mặc hoại sắc, nên chỉ mặc y mầu đỏ. Hai, là cho rằng năm bộ luật nói khác nhau, trong luật Thập Tụng nói một y có điểm ba mầu xen lẫn; luật Ngũ Phần, Tứ Phần nói ba y thuận theo đắp một y màu thanh, nê, mộc-lan, trong đó mộc-lan là mầu đỏ. Ba, là cho rằng y ba sắc, tức một y dùng ba màu điểm vào, mỗi điểm như hạt châu lớn. Chỉ có đệ tử Phật mới đắp điểm y. Điểm tuy nhỏ, nhưng từ xa trông giống như toàn là mầu đỏ. Kế là nêu năm việc, theo kinh rất dễ thấy. Nói Kiều-tát-la và Xá-vệ, có chỗ cho rằng đó chỉ là một nước mà có hai tên gọi, hoặc cho rằng Kiều-tát-la là một nước phụ thuộc, nước này có giặc nên vua Ba-tư-nặc đem binh đánh dẹp. Từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ ba, kết luận, khen ngợi. Nói về vô lượng tức chẳng thể nghó bàn là khen ngợi chung”. “Việc làm của Bồ-tát chẳng thể nghó bàn” là khen ngợi tâm từ có thứ bậc. Nói: “Việc làm của chư Phật chẳng thể nghó bàn” là khen ngợi tâm từ tròn đầy. Nói: “Kinh Đại Thừa Đại Niết-bàn, v.v…” là khen ngợi giáo đều không thể nghó bàn, đều quy về Nhất Viên giáo là cảnh giới mà đường ngôn ngữ bặt, chỗ tâm hành dứt, chẳng thể nêu bày, chẳng thể tính lường. ------------------------------ <詞>PHẨM 20: PHẠM HẠNH (PHẦN 2) hai ý: Đầu phần hai của phẩm là đoạn hai nói về quả của bốn tâm, có Nói về quả Cực ái địa của ba tâm. Nói về quả “không” bình đẳng địa của tâm Xả. Xưa có hai cách giải: Một, là cho rằng ba tâm chưa thành chỉ chung thành một quả, một tâm đã thành nên có riêng được một quả. Hai, là cho rằng ba tâm đồng là hạnh hữu cho nên cùng một quả, một âm là hạnh không nên có một quả riêng. Các nghóa trên chẳng đúng, nếu ba tâm chưa thành thì làm gì có quả, vả lại bốn tâm đồng duyên với chúng sinh, đồng duyên vào pháp thì đồng là hạnh hữu, đồng duyên vô duyên thì đồng là hạnh vô. Hữu vô đã đồng thì ba và một phải đồng. Nay cũng nên một lần chia hai theo Biệt viên. Về biệt thì ngay nơi lý mà sự, ba tâm từ, bi và hỷ cùng với ái giúp nên một quả; tâm xả giúp không riêng một quả, nếu phán theo Viên, như trên đã nói một âm từ tức là bi, hỷ, xả; viên từ tức khắp tất cả pháp, không pháp nào chẳng gồm thâu, vậy quả có cách biệt ư? Văn lược ghi cũng là để giúp nhau hiển hiện, v.v… Nói về Nhất tử địa, văn chia làm hai: Nói về quả địa Nói về nghóa. Thứ nhất lại có hai xướng môn và giải thích. Một, xưa nói là Tánh địa; hai, cho là từ Bát địa trở lên; ba, cho là Sơ địa. Nay nói chẳng phải như thế. Trước nói hạnh Thánh tức là tự hành, đã cho là Sơ địa. Nay nói hạnh Phạm tức là Hóa tha, Tự hành đã vào Sơ địa thì Hóa tha đâu thể nói là Tánh địa, đâu thể định là vượt xa, nói từ Bát địa trở lên. Các thuyết trên hoặc nói thái quá, hoặc nói bất cập. Đây chính là Sơ địa chứng quả hóa tha. Từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích, đầu tiên nêu ra hai chương. Nói Cực ái nhất tử, nhưng vì Cực ái nên có Nhất tử, vì Nhất tử nên có Cực ái, cả hai chẳng khác mà nay phân biệt khác, là vì Cực ái y cứ theo tâm, Nhất tử y cứ theo cảnh. Tử chẳng phải bên trong ngã, nên nói là cảnh ngoài. Trong phần giải thích gồm có năm dụ, trong đó dụ thứ nhất giải thích Cực ái; bốn dụ sau giải thích Nhất tử, mỗi tên gọi đều có kết luận, chia ra rõ ràng. Thứ nhất như văn kinh ghi. Từ câu “Thí như cha mẹ v.v…” trở xuống là dụ thứ hai, Bồ-tát thấy phàm phu khởi nhân ái thì sinh bi. Từ câu “Như người lúc còn nhỏ, v.v…” trở xuống là dụ thứ ba, dụ riêng cho người học phát tâm, khởi tâm chấp đắm. Nói đất, ngói đá, v.v… là dụ cho năm ấm, văn sau hợp với ba ng- hiệp thân, miệng, ý. Tay trái dụ cho thật trí, tay phải dụ cho quyền trí. Lại bên trái dụ cho định quán, bên phải dụ cho trí cứu giúp, đỡ đầu là cứu giúp điều lỗi của thân, móc kéo ra là cứu lỗi lầm của miệng. Từ câu “Thí như đứa con v.v…” trở xuống là dụ riêng chúng sinh chiêu cảm quả khổ nên nói là đồng đọa vào địa ngục. Từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là dụ thứ năm, dụ chung cho nhân quả cứu giúp. Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói về nghóa, gồm có hai phần hỏi đáp: thứ nhất là nói về nghóa; thứ hai là thọ lãnh tin hiểu. Phần thứ nhất, trước là hỏi sau là đáp. Lời hỏi có hai: một, là trình bày thẳng chỗ không hiểu. Kế là từ câu “Nếu các Bồ-tát v.v…” trở xuống là chính thức nói về nghóa. Hoặc nói có năm câu, hoặc cho là ba câu vặn hỏi: một, là hỏi về việc giết Bà-la-môn. Hai, là hỏi về việc mắng Đề-bà-đạt-đa. Ba, là nêu Tu-bồ-đề làm dụ so sánh. Thứ nhất chia làm ba: một, là vì sao giết; hai, là nên hộ niệm; ba, là vì sao chẳng đọa địa ngục. Từ câu “nếu khiến cho bình đẳng, v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai quở trách Điều-đạt. Thứ ba, nêu Tu-bồ-đề để dùng Tiểu thừa so sánh với Đại thừa. Tiểu thừa còn hộ niệm chúng sinh, tức dùng ý này để so sánh với quả vị Phật tròn đầy còn có sát sinh quở mắng. Nếu đã là Từ tâm vì sao khiến cho chúng sinh thêm lớn phiền não. Từ câu “Nay thầy, v.v…” trở xuống là ý thứ hai, Đức Phật trả lời. Tức trả lời ba câu hỏi trước, nhưng chẳng theo thứ lớp. Đầu tiên là trả lời câu so sánh, kế đó trả lời câu hỏi về sát sinh, sau cùng là trả lời câu hỏi về quở mắng. Vì sao chẳng theo thứ lớp? Chỉ vì câu hỏi gồm thâu trả lời trước, không cần theo thứ lớp, trường hợp này rất nhiều. Nhưng câu hỏi về so sánh rất quan trọng, vì sao? Vì nói thầy không có tâm Từ, chẳng bằng đệ tử, cho nên phải ngăn chặn bác bỏ trước, đồng thời quở trách: Là chẳng nên. Đầu tiên là quở trách chung. Kế là nêu bảy việc, mỗi việc đều phân biệt quở trách Ca-diếp. Nói chủy, mỏ chim nhọn gọi là chủy, vòi của muỗi cũng giống như thế, nên gọi là chủy. Năm việc trên rất dễ hiểu. Đoạn cuối cùng nêu ra nhiều việc, trong đó có nói thà sống chung với rắn độc v.v… là mượn Ca-diếp để răn cấm kẻ ngu si. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi về giết người. Có ba ý, nay đầu tiên nói vì sao phải giết, mà thật chẳng phải giết, nói rộng sáu độ. Văn có ba đoạn: Nêu lại câu hỏi Chánh đáp Kết luận thật chẳng giết Từ câu “Khi trước v.v…” trở xuống là trả lời ý hỏi về hộ niệm, cũng có ba, trước là nêu lại câu hỏi. Kế là, từ câu “Bấy giờ, v.v…” trở xuống là giải thích. Ở trước ngài Ca-diếp hỏi khi chưa được Bất động địa thì có được phá giới hay chăng, Như Lai trả lời được. Ở đây Phật trả lời là khi giết các Bà-la-môn thì đã đạt đến Nhất tử địa. Hai văn này nghóa thế nào? Giải: Một, ở trên người hỏi là hỏi chưa đạt được địa, Phật đáp đã được địa và phá giới. Hai, cho rằng ở trên nói chưa được là chưa được chân, ở đây nói được là được chân. Ba, là xưa giải thích vì thấy cơ mà giết nên không phạm tội. Hà Tây cho rằng: Một, là vì tâm đại bi sợ người bị đọa vào địa ngục. Hai, vì hộ pháp, mà người kia lại phỉ báng pháp, nên phải giết để họ tránh được tội phỉ báng. Ba, là vì diệt tà kiến. Bốn, là phát khởi tín tâm cho họ. Xét các nghóa trên thì cũng giống như có giết thật. Hưng Hoàng cho rằng đây là thị hiện có giết, như việc Đồng tử lén nghe giới ở trước, việc quở trách Điều-đạt sau này. Nay thử hỏi nếu là hóa hiện giết, thì đâu có việc đọa địa ngục suy nghó ba việc, sinh vào cõi cam lộ tuổi thọ mười kiếp. Nếu đều là biến hóa thì việc làm của Như Lai lợi ích cho ai? Nếu chẳng phải hóa hiện thì Đồng tử sau khi chết sinh về đâu? Nên biết cả hai cách giải đều chẳng thể nghiêng chấp. Nếu đạt được ý thì yếu lý ở trong đó. Từ câu “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là kết luận. Từ câu “Nếu có người v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi chẳng đọa, có ba ý: một, là hỏi lại; hai, là Ca-diếp trả lời. Thứ nhất như văn kinh ghi. Từ câu “Đức Phật khen v.v…” trở xuống là ý thứ ba, chánh đáp. Văn có ba đoạn: Khen ngợi Phân biệt nội giáo sát và ngoại đạo sát Hội thông lời hỏi Thứ nhất là khen ngợi thuật lại. Nếu có tâm ác thì cắt cỏ cũng còn có tội, nếu không có tâm ác thì giết người cũng không có tội. Từ câu “Theo pháp v.v…” trở xuống là phân biệt việc sát sinh của ngoại đạo và nội đạo. Thứ nhất là phân biệt ngoại sát. Từ câu “Phật và Bồ-tát v.v…” trở xuống là phân biệt nội sát. Từ câu “Nếu giết v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, hội thông. Nói giết không có tội, văn kinh sau ghi: Bố thí cho Nhất-xiển-đề được phước báo một ngàn lần, bố thí cho con chó đói được phước báo gấp một trăm lần. Ở đây lại ghi là giết Nhất-xiển-đề không có tội, tức muốn nói quan hệ giữa cho và đoạt. Nếu hiện Nhất-xiển-đề không có gốc lành thì giết không có tội, nếu nói là do quá khứ giữ năm giới được làm người, quý hơn súc sinh, cho nên bố thí thì được phước báo gấp một ngàn lần. Từ câu “ở trên thầy nói rằng v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi về mắng chửi, cũng có ba phần là nêu lại câu hỏi, giải thích và kết luận hội thông, thứ nhất như văn kinh ghi. Kế là giải thích, dẫn bảy việc để chứng minh, có hai đoạn: một, là lược thuật chung các ý. Từ câu “Như có lần v.v…” trở xuống là nêu riêng bảy việc. “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận hội thông với câu hỏi. Từ câu “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phần lãnh giải. Đầu tiên là lãnh thọ, sau là thuật thành. Nói bốn vị tức là bốn Đế, xuất là vị xuất khổ, ly là vị ly tập, còn diệt và đạo như văn ghi. Từ câu “Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là nói về quả của tâm xả. Văn có hai đoạn: một, là nói về bình đẳng địa; hai, là nói về tri kiến. Vì sao? Vì tịch mà chiếu, ngay nơi không mà hữu, ngay nơi thật mà quyền. Trên đã nói quả của ba tâm là ngay nơi sự mà lý, sau kết luận là cảnh giới Phật. Ngay nơi sự mà lý đã hiển bày cho nhau với đoạn văn này. Đoạn một lại có ba: một, là nói về quả bình đẳng; hai, là nói về nghóa không; ba, là nói về lợi ích. Thứ nhất là trước hỏi sau đáp. Trong phần đáp có hai: một, là nói lược về quả không môn; hai, là nói rộng về quả không môn. Khen Tu-bồ-đề vì ngài là bậc giải “không” bậc nhất trong hàng Thanh văn. Nêu Tiểu thừa so sánh với Đại thừa để nói về thể của địa. Xưa nêu lên hai cách giải thích: Một, cho là Thất địa, dẫn kinh: “Thất địa vào vắng lặng”. Hai, cho là Bát địa, vì không có “đều quán bình đẳng . Nay cho rằng Sơ địa và Nhất tử địa về lý thì đồng mà công năng thì khác, nên lập tên riêng, đâu thể định là có sâu cạn. Trong các hạnh Thánh thì quả của Giới và Định đều đồng ở Sơ địa. Từ câu “Bồ-tát trụ v.v…” trở xuống là thứ hai, nói rộng về quả của “Không môn”, gồm có pháp, dụ và hợp. Phần pháp thuyết có nói đủ hai “không” là “nhân” không và “pháp không”. Nói chẳng thấy cha mẹ v.v… tức là Nhân không. Nói chẳng thấy ấm, giới, nhập tức pháp không. Còn nói chúng sinh và tuổi thọ là lặp lại sinh không. Kế là từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là nêu sự không để làm dụ. Từ câu “Tất cả các pháp v.v…” trở xuống là hợp. Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói rộng về nghóa không. Văn có hai là trước hỏi sau đáp. Phần trả lời có ba: Một, là nêu mười một không. Hai, là giải thích. Ba, là kết luận. Đại phẩm nói mười tám không, hoặc nói bảy không. Ở đây nói trung bình nên chỉ nêu mười một không. Nhưng kinh Đại Phẩm nói rộng về không, mà sơ lược về Tánh. Kinh này nói rộng về Tánh mà sơ lược về Không. Gom chung hai kinh thì giúp nhau hiển bày trọn vẹn. Từ câu “Đại Bồ-tát v.v…” trở xuống là giải thích mười một không. Xưa có hai thuyết: Một, là Dung Thành cho rằng sáu không trước là Hỗ vô không, tánh không trở xuống, gồm năm không là nhậm lý không, nhậm lý là chân đế không, Hỗ vô là thế đế không. Trang Nghiêm chấp nhận. Hai, là Khai Thiện cho đều là lý không mà bác bỏ Trị Thành, lại chia làm bốn nhóm: Một, là sáu không, đầu tiên là Giả danh không; Hai, là hai không, kế tiếp là Thật pháp không; Ba, là một không, kế tiếp là Bình đẳng không; Bốn, là hai không, sau cùng là Phật quả không, vì tu hành có thứ bậc. Các Sư Trung Quán cho rằng mười một không đều là để phá bệnh, dẫn Thích Luận rằng: “Như thuốc có mười một vị để chữa mười một gốc bệnh. Không mười một hữu được gọi là mười một không, tất cả đều là lý”. Cũng có thể nói tám không trước là phá bệnh, ba không sau là hiển chân. Ở đây nói mười một không, mỗi thứ đều có giới phận khác nhau, đó là thế giới. Vì duyên có mười một, gọi đó là sinh thiện, tức là vị nhân. Trị mười một bệnh tức là đối trị. Nghe mỗi thứ không liền thấy được lý, tức Đệ nhất nghóa. Thông tất cả các phương thuốc để dung hợp chữa trị, đâu thể nhất định chấp một bên nào. Nói thêm rằng các kinh luận nói có khác, nhưng chẳng vượt qua bốn Tất-đàn. Bốn Tất-đàn bao gồm bốn niệm, dung thông hiển mật, đâu thể vượt qua lý này. Mười một không này gồm mười một đoạn. Đầu tiên nói về không thì nói không có pháp bên ngoài, nói về cái bên ngoài không thì nói không có nội pháp, Trị Thành cho đây là Hỗ vô không. Khai Thiện khi nói về cái bên ngoài không thì so sánh giải pháp cũng không. Khi nói về cái bên trong không thì cũng so sánh giải pháp bên ngoài cũng không; khi biết vô vi không thì so sánh biết hữu vi cũng không. Có người bình luận hai cách giải này như sau: Trị Thành được văn mà mất lý; Khai Thiện được lý mà mất văn. Có sư lại cho rằng đối với bên trong mà nói về bên ngoài, bên trong đã không thì bên ngoài cũng không, lời này lại giúp cho cách giải của Khai Thiện. Văn giải thích nội không : “Chẳng có thường, lạc v.v… Tam bảo”. Văn sau lại nói: “Như Lai, pháp và Tăng chẳng ở tại hai không”. Điều này được giải thích trước, nói không tức là không chấp ngang ngoài lý, sau nói chẳng không tức chánh pháp ở trong lý. Nếu nội ngoại “không” giải thích bằng hỗ tương không có thì chẳng thể nào tương ưng, nếu dùng ý đối đãi nhau thì dễ thấy. Đã đối đãi nội ngoại và được xa lìa nội ngoại thì lấy làm hai không. Đã không có nội ngoại, tức không nội ngoại thì hợp thành một không. Hữu vi không cũng như nội ngoại không. Luận về vô vi không mà nói bốn pháp như Phật v.v… chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, tức là nói chánh pháp Trung đạo. Về Vô thỉ không, có thuyết cho rằng vì phá minh sơ của ngoại đạo nên nói là vô thỉ. Có thuyết cho rằng xa thì chấp nguồn gốc, không có khởi đầu, chứ chẳng phải nay mới không, mới phá. Nói ‘không” tức là lý “không”, chẳng có chỗ khởi đầu. Bản này dịch theo bản dịch của đời Tống và đời Minh Bản này ghi: Vô minh vô hữu thỉ. Bản đời Tống ghi: Minh vô vô vô hữu thỉ. Về Tánh “không”, có thuyết cho rằng phá tánh mà nói tánh “không”, có thuyết cho rằng bản tánh đều “không” tức tánh “không”, như người nghèo chẳng có vật gì. Xưa nói: Từ câu: “Nhãn sinh diệt v.v…” trở xuống là y cứ theo pháp không để nói Đệ nhất nghóa. Lại từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là y cứ theo nhân không để nói Đệ nhất nghóa. Khai Thiện cho rằng đâu được dùng Sinh không và Pháp không cạn thấp để giải thích Đại Niết-bàn. Hơn nữa trong các kinh, trước đều nói về sinh không, vì sao ở đây trước nói pháp không. Các Sư Trung Quán cho rằng khi nhãn sinh, không từ đâu đến tức là nghóa chẳng sinh, khi nhãn diệt thì không đi về đâu là nghóa chẳng diệt, đây lại là nghóa hai bất (trong tám bất) của Trung luận. Nếu nhãn là có thì chẳng nên nói xưa không nay có, đã có lại thành không. Suy tìm thật tánh của nó thì chẳng có nhãn, chẳng có chủ. Suy ra tất cả pháp cũng như thế. <篇> ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 18 PHẨM PHẠM: HẠNH (PHẦN 2- Tiếp Theo) Hỏi: “Đệ Nhất nghóa không” đâu thể nói là nghiệp, có báo? Đáp: Đây là nhờ vào có để nói về không, nương vào không để nói về có, chẳng phải có chẳng phải không tức Đệ nhất nghóa. Nói về không không, có ba là khen ngợi, giải thích và kết luận. Khen ngợi: Đây là chỗ mê lầm của phàm phu và Tiểu thừa. Từ câu “Là có là không v.v…” trở xuống là giải thích. Một, cho rằng có và không là hai môn, sau nói là đúng tức lặp lại. Lại nói chẳng phải tức hai câu là ở trên đều không. Hai, cho rằng câu trên nói hai cảnh có không đều không, câu dưới nói hai trí quyền thật đều không, là phải tức quyền trí, là chẳng phải tức thật trí. Nay lập ba câu để hỏi: Một, là cảnh không gọi là không không? Hai, vì dùng không để không nơi trí gọi là không không? Ba, vì dùng không để không đối với pháp năng không là không không? Nếu nói là vì cảnh không, trí không, thì đó còn là thiên lệch, chưa được gọi là viên tròn để không cái Tiểu không thì mới là không của Trung đạo viên chánh. Kinh Đại Phẩm nói: “Tất cả pháp đều là không, không này cũng không”. Có hai sư giải thích khác nhau: Một, là nói tất cả pháp không, không này chưa mầu nhiệm, nay lại dùng Không để nói không cái không này. Hai, là cho rằng chẳng phải như thế, vì trước nói tất cả pháp không đã là mầu nhiệm không rồi, sau nói không cũng là không tức chỉ cho pháp năng không cũng không. Hà Tây đồng với cách giải thích trên. Nên nói: Hoặc cho rằng muôn pháp tuy không mà trí thể chẳng không, vì dùng phá mê hoặc tình chấp. Gọi là “không không” tức là có cũng không, là không cũng không. Câu sau muốn nói rằng: Cảnh chấp đã không thì trí đâu thể có riêng. Tâm chân ngộ, theo lý thì không có sự đồng chiếu soi mà nghóa ngăn trừ rất dễ hiểu. Về hữu lậu không và vô lậu không thì mọi người xem trọng vô lậu không, xem nhẹ hữu lậu không. Hai không này chỉ là một thể, đâu có nặng nhẹ? Muôn pháp đã tịch, trí thể lại không, mới chính là diệu không, chẳng phải cảnh giới Nhị thừa biết được. Có người nói Đại không tức Bát-nhã không, tức vì sắc đại nên Bát-nhã đại. Thích Luận giải thích đại không có lý có sự. Về sự tức là phương đông không, cho đến mười phương không. Về lý tức Niết-bàn Đệ nhất nghóa không. Kinh Đại Phẩm chỉ cho Niết-bàn, kinh Niết-bàn thì chỉ cho Bát-nhã, cả hai hiển bày lẫn nhau. Nay y cứ theo ba Đế để giải mười một không, trong đó nội không là Chân đế không. Ngoại không tức là Tục đế không. Nội ngoại không tức chân tục không. Hữu vi không tức là sinh tử tục không. Vô vi không tức là Niết-bàn chân không. Vô thỉ không: Tướng ba đế chẳng thấy Nguyên Tổ, gọi là Vô thỉ không. Tánh không tức thể tánh của ba đế xưa nay tự không nên gọi là tánh không. Đệ nhất nghóa không: Là chân tức trung, trung tức chân, không không tức một không tất cả không. Đại không: tức ba Đế đều không. Văn sau cũng y cứ theo ba Đế mà khen ngợi. ba Đế tức nhau là nơi mà phàm phu và bậc Thánh Tiểu thừa mê lầm. Nói là có, là không tức đồng chiếu soi hai đế nên nói hai chữ là. Mỗi đế đều gồm đủ chân và trung, cho nên nói không không. Nói là phải, là chẳng phải, tức chỉ chiếu một đế, đầy đủ không giả, vì không nên nói là phải, vì giả nên nói là chẳng phải, tức là đầy đủ Trung đạo, nên nói là không không. Hoặc đồng chiếu soi hoặc đơn độc chiếu soi, hoặc ba, hoặc một, đều chẳng thể nghó bàn, đầy đủ chẳng thiếu, nên phàm phu và bậc Thánh Tiểu thừa chẳng thể biết được. Từ câu “Này thiện nam! Bồ-tát, v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, kết kuận khen ngợi. Từ câu “Nay ta v.v…” trở xuống là nói về lợi ích, có hai ý: một, là nói về môn ngộ nhập. Thứ hai là từ câu “Trụ trong địa này, v.v…” trở xuống là nói về công năng. Ý nói trước xa lìa, sau chứng đắc. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói rộng về tri kiến. Tri kiến xa rộng là do không tịch, cũng tức là vắng lặng mà chiếu soi. Văn có bốn đoạn: Nói về tri kiến Nói về vô sở đắc Hội thông Kết luận khen ngợi. Vì ngay nơi vắng lặng mà chiếu soi, nên nói về tri kiến; chiếu soi mà vắng lặng nên nói vô sở đắc; vì tánh không hai nên hội thông; pháp này nhiệm mầu nên phải khen ngợi. Văn thứ nhất lại có ba: Một, là biết mười ba pháp; hai, là được tám thứ tri kiến; ba, là được bốn trí vô ngại. Nói hành tức là tâm, duyên tức là cảnh, tánh tức là nội, tướng tức là ngoại, thân là nhân, sơ là duyên. Từ câu “Nếu biết v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, nói về tám điều thấy biết: một, là biết phi xứ; hai, là biết thị xứ; ba, là biết cộng hành; bốn, là biết nhân quả; năm, là biết chuyển chướng; sáu, là biết Phật tánh; bảy, là biết hai đế; tám, là biết hai trí. Biết là pháp của ngoại đạo, đó gọi là biết phi xứ. Biết quả báo thiện ác là biết xứ. Biết bốn đức như thường, vô thường, v.v… là biết cộng hành. Cầu Đại thừa là biết nhân, đến bờ kia là biết quả. Thân giới tâm tuệ là biết chướng chuyển. Chẳng biết chẳng thấy là biết chân, vừa thấy vừa biết là biết tục. Tuệ thí v.v… là biết quyền, chẳng thấy vật bố thí v.v… là biết thật. Từ câu “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về bốn trí vô ngại, gồm có hỏi và đáp. Đáp có ba: 1. Nêu môn; 2. Giải thích; 3. Phân biệt. Như văn kinh đã nêu. Giải thích có năm đoạn: 1/ Y cứ theo thế đế để giải thích. 2/ Y cứ theo xuất thế để giải thích. 3/ Y cứ theo không chấp trước để giải thích. 4/ Theo dụ để giải thích. 5/ Theo nhân xưa để giải thích. Như văn kinh ghi. Nói pháp tức biết các pháp và tên gọi các pháp. Nghóa là biết nghóa ẩn trong pháp và tên gọi. Từ là âm giọng thanh nhã, phân biệt rõ ràng. Nhạo thuyết nghóa là linh động biến hóa, vô cùng vô tận. Nói Tùy tự luận là xác định văn tự đó, khéo biết thể của văn tự. Chánh âm luận là đúng theo âm vận, từ ngữ rõ ràng chính xác. Xiển-đà: pháp cú luận cũng gọi là hợp thanh, như hợp thanh của Phạm bái. Hà Tây cho rằng đó chính là hợp thanh ca vịnh ở Trung Quốc, lại cho đó là pháp của ngoại đạo, chưa hẳn hoàn toàn như thế, đây là kệ thanh, nội đạo và ngoại đạo đều sử dụng. Từ câu “Lại nói về pháp vô ngại v.v…” trở xuống là y cứ theo xuất thế để giải thích. Biết thừa tuy có ba mà nghóa trở về một. Y cứ theo không chấp trước để giải thích, gồm có giải thích và luận nghóa. Có Sư cho rằng đây là y theo trừ chấp để giải thích. Nay theo ý vặn hỏi tức y cứ theo chẳng chấp để giải thích. Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là nói về nghóa, trước hỏi sau đáp. Ý của ngài Ca-diếp hỏi là đã biết thì phải có chấp đắm. Phật đáp vì chẳng chấp, cho nên biết. Thứ tư là y cứ theo dụ để giải thích. Đầu tiên là nêu sáu dụ để giải thích pháp vô ngại, sau đó qua phần giải. Nói đất giữ gìn tất cả chúng sinh và chẳng phải chúng sinh, kinh Thắng Man ghi: “Mặt đất giữ gìn bốn gánh nặng là núi, biển, cỏ cây và chúng sinh”. Kinh kia nói rộng, còn kinh này nói lược. Núi giữ chặt đất, đất giữ vững núi, hai bên giữ gìn lẫn nhau. Nói mắt hay giữ gìn ánh sáng có hai cách giải thích: Một, là Ưu- Lâu-ca chấp khi ánh mắt hợp với ý thì thấy được, và lấy đây để dụ. Hai, là cho rằng nhờ vào nghóa bên ngoài, vì mắt có sắc của đại thanh tịnh, nên nhờ ánh sáng bên ngoài mà nhìn thấy được. Từ câu “Này Thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn thứ năm, y cứ theo nhân xưa để giải thích. Từ câu “Thanh văn, Duyên giác v.v…” trở xuống là phần thứ ba, liệu giản, có hai: Thứ nhất là liệu giản, thứ hai là nói về nghóa. Thứ nhất lại có ba: Một nói về Nhị thừa vô, chẳng có bao gồm; hai là giải thích riêng; ba là tổng kết. Đầu tiên như văn kinh, kế là giải thích riêng. Trước giải thích Duyên giác không có. Thứ hai, giải thích Thanh văn không có bốn vô ngại. Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần giải thích nghóa, trước hỏi sau đáp. Lời đáp có ba: một là chánh đáp; hai là khai trừ quyền giáo khi xưa; ba hiển bày thật giáo hôm nay. Như văn kinh. Từ câu “Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói về tri kiến vô sở đắc. Có ba ý: Một, là nói về vô sở đắc. Hai, là dẫn kệ chứng minh. Ba, là vô đắc mà đắc. Thứ nhất lại có ba: Một, là hỏi; hai, là đáp; ba, là lãnh giải. Lời hỏi lại có ba: Một, là nêu văn trước. Văn trước đã cách xa nên nhắc lại. Kế là từ câu “Thấy biết v.v…” trở xuống là chánh thức hỏi. Thứ ba, từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là kết luận lời hỏi. Đức Phật đáp có hai ý: Một, là khen câu hỏi. Kế là chánh đáp, có hai: Một, là chánh đáp; hai, là kết luận về chánh, phân biệt với tà. Phần chánh đáp trên đã nêu mười cặp. Nói đắc và vô đắc đối đãi nhau. Đắc chẳng phải là đắc của vô đắc, còn vô chẳng phải là vô của tích diệt, mà là vô của thể đạt. Mười cặp là: Đắc vô đắc, đảo vô đảo, trí tuệ vô minh, Niết-bàn các hữu, đại thừa Tiểu thừa, Phương Đẳng Ba tạng, chân không sinh tử, thường vô thường, chân không năm kiến, Bồ- đề Nhị thừa. Từ câu “Lời ông hỏi v.v…” trở xuống là kết luận, như văn kinh có ghi. Đại phẩm nói rằng: Các pháp có hai là hữu sở đắc, các pháp không hai là vô sở đắc. Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần ba thọ lãnh tin hiểu. Có hai ý là lãnh giải và có lợi ích. Kế là dẫn kệ chứng minh. Ở trên Như Lai đã nói ở đây chính là Song thọ, vì sao lại chỉ song thọ? Đáp rằng đó chính là theo ngữ pháp, chứ chưa hẳn có nơi khác mà chỉ cho song thọ này. Vì thấy nghe khác nhau, thì đâu có nơi chốn nhất định. Nếu có nơi khác thì chỉ cho đây cũng đâu có ngại gì. Bài kệ này là lần thứ hai giải thích đắc vô đắc. Văn có hai: một, là nêu bài kệ thưa hỏi; hai, là giải thích bài kệ làm lời đáp. Lời đáp có ba: Một, là giải thích riêng; hai, là giải thích chung; ba, là chánh giải thích. Trong phần giải thích, trước là khuyên bảo, sau là chánh đáp. Phần đáp có tám phần, sáu phần trước là chánh thức giải thích; Hai phần sau nói về thật chẳng nói. Mỗi phần, đầu tiên đều phải giải thích nửa bài kệ trên, vả lại đối chiếu với nửa dưới để giải thích nửa trên. Xưa giải thích bài kệ rằng: “Nói xưa có phiền não, không được nói là của hôm nay. Vì sao? Vì hôm nay có Niết-bàn, nếu Trời, Ma, Phạm nói Như Lai có phiền não thì thật chẳng đúng. Đó chính là quả Phật hôm nay không thuộc ba đời”. Nếu giải thích văn này như thế thì có thể tạm được, nhưng chẳng thể dứt trừ được sự vặn hỏi của người khác, chỉ vì không có ngày xưa đều vô thường, sau đó mới là thường. Đó là xưa không nay có mới dứt được nghi. Hưng Hoàng cho rằng: Xưa không nay có đều là tùy duyên. Xưa có phiền não, chẳng có mà nói có. Nay không có Niết-bàn, chẳng phải không mà nói không. Nếu trời, ma, Phạm hiểu được nghóa này mà còn nói Như Lai có phiền não thì thật chẳng đúng. Như thế thì vừa dứt được sự gạn hỏi, vừa giải thích được văn, hai đường đều toàn vẹn. Nay cho rằng đó chỉ cho lời đáp chung, nếu giải thích riêng văn thì chưa được, vả lại ý của bài kệ này là vì hóa độ chúng sinh. Chúng sinh chỉ thấy thiện ác, nên cho rằng xưa có ác, nay có thiện. Còn Nhị thừa thì sự thấy biết về chân tục khác nhau. Bồ-tát thì thấy biết ba Đế khác nhau. Ngài Văn-thù thì thấy biết ba Đế tức nhau. Đó cũng là giải thích theo bốn môn, bốn Tất-đàn, đâu chỉ lập một cách giải thích như các sư ở trên. Nói thêm rằng: Như Lai lập tám lớp giải thích, ý muốn dùng tám lớp này làm khuôn mẫu, nên biết ý nghóa cùng khắp tất cả pháp. Nếu các sư, mỗi vị lập một kiến giải riêng, thì sao Đức Phật lại chẳng lập một cách giải thích. Lại muốn chấp nhận mỗi sư đều đúng. Nếu muốn bác bỏ, dù cho các lời giải thích đâu hợp ý Phật, sơ lược như bốn Tất- đàn của Đại sư Chương An đều đúng thì tám phần đều đúng. Vả lại, giải thích chung thì lấy chung bao trùm riêng mới hợp được ý Phật. Bốn Tất-đàn và bốn môn như trước đã giải thích. Từ câu “Như Lai v.v…” trở xuống là thứ hai, giải thích chung. Tất cả đều có khả năng thành tựu ý trước, nên nói có mà chẳng phải có, nói không mà chẳng phải không. Tất cả đều vì lợi ích không nhất định chỉ thuận theo căn cơ và cõi nước tướng trạng khác nhau nên nói khinh trọng, phạm chẳng phạm khác nhau. Từ câu “Tất cả thế đế v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, tổng kết. Tất cả đều cho sinh tử là Thế đế, Niết-bàn là Đệ nhất nghóa, có lúc Thế đế mà cho là Đệ nhất nghóa; hoặc nói các pháp vắng lặng tức sinh tử mà cho là Đệ nhất nghóa; hoặc nói diệu hữu thường trụ là Đệ nhất nghóa mà mọi người cho là sinh tử. Như Lai nói không là muốn nêu rõ chẳng phải không; nói có là muốn nêu rõ chẳng phải có mà chúng sinh đều khởi thấy biết là có không. Từ câu “Vì thế, v.v…” trở xuống là thứ ba, nói về vô đắc mà đắc. Có ba đoạn: Một, là nêu lên; hai, là hỏi; ba, là trả lời. Thứ nhất như văn kinh ghi. Kế là trong phần hỏi có hai là hỏi và gạn hỏi. Thứ nhất là hỏi, nếu có đắc lẽ ra là vô thường, gồm có pháp, dụ và hợp. “Hễ nói đạo v.v…” trở xuống là thứ hai, vặn hỏi nếu thường thì không có đắc. Thứ ba là Đức Phật đáp, có hai là đáp câu hỏi trước và đáp câu hỏi sau. Văn thứ nhất, trước là nói chung. Đạo có hai loại, đạo thường tuy có đắc mà chẳng phải vô thường. Từ câu “Đạo và Bồ-đề đều gọi là thường, v.v…” trở xuống là chánh đáp. Nay nói đạo nhất định là viên thường, xưa nay thường có, nhưng bị các hoặc che lấp, dứt trừ thì trở lại nghóa xưa. Nói có đắc nhưng đắc mà là thường. Từ câu “Này thiện nam! Đạo tuy không phải sắc tượng, v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi ở sau, có pháp, dụ và hợp. Thứ nhất là pháp thuyết. Từ câu “Như tâm chúng sinh v.v…” trở xuống là phần dụ thuyết. Nhưng thật là thường, người nào tu tập thì được, chẳng tu thì chẳng được. Từ câu “Thấy có hai loại v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba hội thông các văn. Có ba: một, là hội thông; hai, là nói về nghóa; ba, là nói hội thông, tức hội các văn có thể thấy biết. Ở trước đều có tự và chân, tự là tướng mạo, liễu liễu tức chân. Chân lại có hai: một, là Bồ-tát liễu liễu; hai, là Như Lai liễu liễu. Từ đây đến hết quyển là hai chương hội thông, như văn ghi. ---------------------------------- <詞>PHẨM 20: PHẠM HẠNH (PHẦN 3) Đầu quyển là nói về phần thứ hai, là nói về nghóa có hỏi và đáp. Hỏi có hai câu là hỏi về đồng thế gian và hỏi về khác thế gian mà không biết. Đáp có hai là chánh đáp và kết luận. Đáp có ba ý: Một, là nói khác thế gian; hai, là nói đồng với thế gian; ba, là chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian. Là khác tức thế gian chẳng biết mười hai thể loại kinh điển. Hoặc là đồng tức thế gian gượng chấp vi trần v.v… nên sinh khởi vọng chấp thế giới hữu biên là chung, chấp thế giới vô biên là vô chung. Tất cả đều là đoạn thường. Xưa có hai cách giải thích vô thỉ vô chung: một, là nói vô thỉ vô minh hoàn toàn không có đầu cuối; hai, là nói vô thỉ vô minh có đầu có cuối. Không có một khởi đầu nào ở chỗ đầu tiên của vô thỉ này. Cho nên biết có thỉ mà lại chung cuộc ở quả Phật. Hai cách giải này đồng với vọng chấp đoạn thường. Trong mười một không, nói vô thỉ không để phá thỉ chung ở đây. Từ câu “Việc như thế v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba nói chẳng phải thế và xuất thế. Nếu Bồ-tát biết mà phỉ báng nói chẳng biết, tức là phỉ báng người; nói không có Bồ-đề tức là phỉ báng pháp. Kế là như văn kinh ghi. Từ câu “Bấy giờ, Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ tư nói kệ kết luận và khen ngợi. Có người cho rằng hai câu đầu là khen ngợi đại Từ, tám câu cuối cùng là kết luận. Nay cho rằng hai câu đầu thì như trên nói; hai hàng kế là khen ngợi đại Bi; sáu câu kế là khen ngợi đại Hỷ; vui vì xa lìa nên nói chẳng phát; vui vì đạt được nên nói là cam lộ. Từ câu “chúng sinh đã uống v.v…” trở xuống gồm hai câu là khen ngợi đại xả; kế là bốn câu kết luận, như văn kinh có ghi. Từ câu “Nói kệ này rồi v.v…” trở xuống là phần thứ ba nói giới là phạm hạnh. Khai Thiện nói rằng: Trước nói về phạm hạnh sâu xa, còn ở đây nói phạm hạnh cạn mỏng”, nghóa này chẳng đúng, vì giới là gốc, nên mới có thể hóa tha. Theo văn có ba: một, là trì giới; hai, là hộ pháp; ba, là nói sáu niệm. Vì trì giới nên mới hộ pháp, vì hộ pháp nên mới tu niệm. Ba pháp thứ lớp thành tựu cho nhau, vì pháp vốn như thế. Về văn nói trì giới có hai là trì giới và được mất. Văn thứ nhất có hỏi đáp. Hỏi có hai câu là lãnh chỉ và chánh thức hỏi. Vặn hỏi có hai, trước hỏi đồng với thế gian. Nếu thế gian chẳng thấy, chẳng hiểu biết, lẽ ra Bồ-tát chẳng thấy, chẳng hiểu biết. Kế là hỏi về khác với thế gian. Phật trả lời có hai: Một là chia ra hai chương; hai là giải thích hai chương. Từ câu “Ông nói v.v…” trở xuống là giải thích hai chương. Trước nói về chẳng khác, tức giải thích chương đồng. Ông nói có gì khác, nay ta sẽ giảng rõ. Nếu có người nam hay người nữ nghe kinh Niết-bàn này mà kính tin phát tâm Vô thượng Bồ- đề thì gọi là Bồ-tát thế gian. Tất cả người thế gian chẳng thấy, chẳng hiểu biết Bồ-tát này thì cũng đồng với thế gian, chẳng thấy, chẳng hiểu biết. Có đồng có khác, chẳng phải một bề đồng nhau. Như văn có ghi. Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là thứ hai giải thích môn Dị Chương. Có hai ý: Một, là nói vì nghe kinh cho nên được ba pháp; hai, là nói ba pháp giúp nhau. Văn thứ nhất nói có ba pháp lấy giới làm gốc. Từ câu “Vì tu tuệ v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai nói về ba pháp giúp nhau, vì văn kinh đã lược bớt nên chỉ nói có hai. Đầu tiên là nói tuệ giúp cho giới. Thứ hai, nói về giới giúp cho tuệ. Từ câu “Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, nói rộng về được mất. Có hỏi và đáp. Lời đáp có hai: Trước nêu chẳng thanh tịnh trì giới thì chẳng thể giúp nhau, kế đó nói về tịnh giới là đáp câu hỏi. Thứ nhất, đầu tiên nói về bất tịnh, sau nói không giúp nhau. Có bốn thứ bất tịnh: Một, là vì cầu phước hữu lậu như Nan-đà; hai là tánh bất định, hoặc có lúc giữ được, có lúc chẳng giữ được; ba, là chẳng rốt ráo, chẳng thể giữ gìn từ đầu đến cuối; bốn, là chẳng vì chúng sinh không rộng lớn, chỉ hạn cuộc ở tự thân, không gồm lợi tha. Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về tịnh giới, là chánh thức đáp câu hỏi. Có hai đoạn: trước nói về tịnh giới, sau nói về giúp lẫn nhau. Cũng có bốn thứ thanh tịnh, nói giới chẳng phải giới là đối đãi với ý không có đầu cuối ở trước; giới, chẳng phải giới thì chẳng phải năm giới, luật nghi, v.v… mà lấy vô giới, vô giữ làm giới, đây là giới rốt ráo thanh tịnh. Từ câu “Bồ-tát đối với tịnh giới v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về năng lực giúp nhau. Có hai: Một, là ba pháp giúp nhau; hai, là năm pháp giúp đỡ. Trong phần giúp nhau theo thứ lớp xoay vần giải thích các câu ở trước. Có hai phần: Một, là trước nói do giới, giải thích chẳng hối hận, gồm có pháp, dụ và hợp. Có ba dụ. Kế là từ câu “Vì tịnh giới v.v…” trở xuống là giải thích vui mừng. Có hai ý nói về ba tướng và nói về ưa thích. Văn thứ nhất có ba: Đầu tiên nói về trì giới thì vui mừng; thứ hai là nói hủy giới thì lo buồn; thứ ba là nói hai nghóa. Hai văn trước đều có pháp, dụ và hợp. Thứ ba, nói chung là trì và phạm mỗi văn đều có pháp, dụ và hợp. Bò dụ cho kinh giáo, người nữ dụ cho người học giáo, người cầm bình đựng chất lạc dụ cho kẻ phá giới, người cầm bình đựng sữa đặc dụ cho người trì giới. Đến thành bán dụ cho cả hai cầu quả tương lai, dùng nhân mua quả. Vấp chân té ngã là dụ cho qua đời, hai bình đều vỡ dụ cho thân hoại, vui vẻ và lo buồn là dụ cho phá giới và trì giới. Sữa đặc tức là lấy được chất bơ, còn các chất khác thì ít hay chẳng có cũng được. Đây là dụ cho người giữ giới đã tu được vị đạo, chỉ còn tuổi thọ dư thừa, mạng còn cũng tốt, mạng mất cũng chẳng hề gì. Như thế thì chất lạc chưa hoàn toàn lấy được chất bơ, nếu mất chất lạc thì chất bơ đó cũng chẳng còn, dụ cho người phá giới chưa được tu đạo, nếu qua đời thì đạo cũng mất nên lo buồn sợ hãi. Kế là từ câu “Người giữ giới v.v…” trở xuống là hợp dụ. Từ câu “Vì tâm vui mừng v.v…” trở xuống là giải thích sự vui mừng, gồm có hai phần là chánh giải thích và nói về nghóa. Nói về nghóa trước hỏi, sau đáp. Trong phần đáp có bốn lời giải thích, sau dần dần chuyển sâu thành Đại Niết-bàn, tất cả đều từ giới, nhưng trong năm thọ căn thì lạc cạn hỷ sâu. Mỗi thọ đều có chỗ y cứ riêng, ở đây đồng với chi thiền. Thứ hai nói năm pháp giúp đỡ. Nay nói được năm Niết-bàn, tức xa lìa năm ấm. Niết-bàn chẳng phải là năm, mà thoát khỏi sự trói buộc của năm ấm nên gọi là năm Niết-bàn. Từ câu “Nếu đệ tử v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về hộ pháp, hộ pháp tức hộ giới. Hộ giới vững chắc tức trì giới. Trì giới chẳng bền là do không hộ pháp. Văn có hai phần: Quở trách phá giới. Khuyên hộ pháp. Quở trách phá giới lại có ba: một, là quở trách phá giới; hai, là quở trách mong cầu; ba, là quở trách chấp thị xứ phi xứ. Những người cực ác thì không hơn kẻ phá giới, nên chẳng có mảy may công dụng. Như văn kinh ghi: “Thà rằng chẳng thọ, chẳng biết chứ không nên hủy giới mà thọ đọc”. Hỏi: Văn trên nói là người tôi tớ khuyên bảo khiến họ đọc tụng. Văn này lại nói thà rằng chẳng thọ, chẳng trì. Hai văn trái nhau, vì sao? Đáp: Ở đây mỗi văn đều có ý riêng. Trước thì nói dẫn dắt người ở một trăm phương khiến được vào, ở đây là khuyên răn hàng phàm phu lợi căn, giúp cho không hủy phạm giới khác. Đầu tiên là quở trách, chẳng ngoài ba nghiệp, trước quở trách thân, kế là quở trách tâm, sau là quở trách miệng. Văn thứ nhất nói nếu người thọ trì giới cấm có đệ tử cũng học vị thầy này mà tự mình đã chẳng ưa thích chánh, thì lời nói ban ra chẳng nghiêm. Kế là từ câu “Nếu đệ tử v.v…” trở xuống là phần thứ hai quở trách cầu hữu lậu. Nếu cầu ba hữu thì gọi là xem thường, chẳng cầu quả báo gọi là trầm phiên, mong cầu hữu mà tu nhân gọi là vì hữu tạo nghiệp. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là lần quở trách thứ ba. Lìa thị xứ phi xứ, tức xem xét có thể mở mang truyền bá Phật pháp thì nên xa lìa chỗ phi pháp này. Tuy chẳng nói khi không có thỉnh mà lại làm người bạn chẳng thỉnh của chúng sinh, như thế thì mâu thuẫn ư? Giải thích rằng: “Sự thì phải thích ứng thời cơ nên nay phải thỉnh”, chớ diệt pháp mà nói, chẳng trì giới mà nói, chẳng hộ pháp mà nói là diệt Phật pháp mà nói. Hưng thạnh thế pháp mà nói tức là cầu phước hữu lậu, tạo nghiệp mà nói, có nhiều cách giải khác, như nói rằng: Thêm vào thi văn sách của thế gian để khiến cho người chẳng tin là làm hưng thịnh thế pháp, nay cũng nói như thế, trong lời giảng nói làm cho khổ thêm nhiều khổ, gọi là hưng thịnh thế pháp. Từ câu “Nếu muốn thọ trì v.v…” trở xuống là phần thứ hai, khuyên bảo, khen ngợi hộ pháp. Có người nói rằng: Đầu tiên nêu mười trí, kế là khuyên tịnh tâm. Nay cho rằng đầu tiên nêu tự tha. Thọ trì nghóa là tin nên nhận, chẳng quên sót là trì, tức chỉ cho tự hành, miệng giảng nói tức là hóa tha. Đó là tông thể, hạnh giáo, dụng quả của Niết-bàn. Trước nói Phật tánh là tông, sau nói thấy tánh là quả, cả hai đều khiến ba nghiệp thanh tịnh. Kế là từ câu “Này người thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về sáu niệm. Trong kinh Đại Phẩm nói về mười niệm, tám niệm. Tiểu thừa cũng nói sáu niệm, tức sáu lời xứng niệm vào lúc sáng sớm: Một, là nghó hôm nay là ngày tháng năm nào; hai, là nghó đến ngày tháng số năm giới lạp; ba, là nghó đến pháp khất thực; bốn, là nghó đến ba y, nếu dư thì nên thuyết tịnh; năm, là chẳng nghó nên thọ thực riêng với chúng; sáu, nghó bị bệnh thì nên chữa trị, mỗi thứ có ý riêng. Còn sáu niệm nói ở đây là vì người tu hành phạm hạnh sống ở núi rừng có tâm sợ hãi mà lập ra để khiến họ tu tập. Ba niệm trước là niệm tha, ba niệm sau là niệm tự. Trong đó giới thí là nhân tự hành, sinh lên cõi trời là quả của tự hành. Giới là dứt ác, thí là làm lành. Quả sinh lên cõi trời thì có quả gần và quả xa. Văn gồm có hai đoạn: Nêu số và nêu chương. Từ câu “Vì sao? v.v…” trở xuống là giải thích sáu niệm này, gồm sáu chương. Chương nhớ nghó Phật, gồm có hai là nhớ nghó quả Phật và nhớ nghó nhân Phật. Nghó đến nhân là nghó nhớ đến nhân quá khứ, nghó đến quả là nghó đến quả hiện tại. Nghó đến do nhân gì mà đạt được đến quả hôm nay. Nghó đến quả gồm có bốn phần là nêu hai chương và giải thích hai chương. Đầu tiên là lập hai chương và mười hiệu các đức, kế là giải thích hai chương ấy. Giải thích mười hiệu là giải thích nghóa của danh, giải thích các đức là giải nghóa của thể. Thứ nhất, là nêu mười hiệu. Thứ hai từ câu “thường chẳng thay đổi v.v…” trở xuống là chương nêu các đức. Thứ ba, từ câu “Vì biết pháp v.v…” trở xuống là giải thích các đức. Các đức nêu trước đều lược bỏ không nói, chỉ giải thích Đại Pháp sư ở sau mà thôi. Lại dùng bảy điều lành để giải thích, tức biết ngã năng trì giới, năng nói pháp Đại thừa, lại biết Trung đạo nên gọi là Đại Pháp sư. hiệu. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là chương thứ tư giải thích mười Tiếng Phạm là Đa-đà-a-già-độ, xưa dùng một nghóa nương Đạo như thật. Lại thành Chánh giác để giải thích Như Lai. Thích luận dùng bốn nghóa để giải thích, đó là: Như Lai, Như Khứ, Như Giải, Như Thuyết. Tức nương vào chư Phật ba đời học mười hai thể loại kinh, tu tập mười một không mà thành Chánh giác, nên gọi là Như Lai. Xa lìa sinh tử, không bao giờ còn các pháp ác nên gọi là Như Khứ. Như như mà hiểu, Như như mà nói cũng là nói điều mình hiểu, hiểu điều mình nói. Trong đó có ba phần giải thích: Phần đầu và cuối là nói về nghóa Như thuyết, phần giữa là nói về nghóa Như Lai. Nghóa Như Khứ nằm trong hiệu Thiện Thệ. Nghóa Như Giải trong hiệu Thế Gian Giải. Ứng, tiếng Phạm là A-la-ha, gồm ba nghóa là Sát tặc, Bất sinh và Ứng cúng, trong đây chỉ nói Ứng, chẳng nói đến cúng. Có năm phần giải thích, được chia làm hai. Bốn phần trước dùng nghóa Sát tặc để giải thích; một phần sau dùng nghóa Ứng cúng để giải thích. Trước nói sát tặc gồm có cả bất sinh. Vì phá ấm ma nên có bất sinh. Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là hiệu thứ ba gồm chánh giải thích và phản giải thích, thứ nhất như văn kinh. Phạm gọi là Tam-miệu-tam Phật-đà. Đoạn văn có năm phần giải thích. Bốn phần trước là nói Phật khéo biết bốn pháp, vì đều nói là biến. Nói nhân khổ hạnh chắc chắn bị quả khổ tức nói khổ hạnh của ngoại đạo. Một phần sau là bác bỏ Tiểu thừa. Từ câu “Thế nào là Minh Hành Túc v.v…” trở xuống là nói hiệu thứ tư. Phạm ghi là Tỳ-di-già-la-na. Đoạn văn gồm có bốn phần giải thích. Một phần trước là y cứ theo nghóa đối chân để giải thích; ba phần sau là y cứ theo nghóa đầy đủ để giải thích. Tất cả trước nêu thế gian để dụ, sau đó nêu Phật để hợp dụ. Nói minh là chú, Bát-nhã là chú Đại Minh, nhờ chú mà giải ngộ tức Giải thoát. Nói Cát tức Bồ-đề, quả gọi là Niết-bàn, do Bồ-đề mà được Niết-bàn. Ba minh: Bồ-tát minh là nhân, Phật minh là quả. Vô minh minh có ba cách giải: Một, vô minh là hoặc, minh là giải, dùng minh giải để dứt hoặc vô minh nên gọi là vô minh minh. Hai, cảnh rốt ráo không, chẳng phải là minh và vô minh mà lại năng sinh ra minh và vô minh nên nói là vô minh minh. Ba, cho rằng đầu tiên phân biệt Bồ-tát và Phật mà giải thích khác nhau, sau nên vô minh minh giải thích chẳng khác nhau, Phật và Bồ-tát là vô minh minh, vô minh tức là minh. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là hiệu thứ năm. Thiện Thệ, tiếng Phạm là Tu-già-đà, Tu-già-độ. Đoạn văn gồm có ba phần giải thích, phần cuối cùng có pháp, dụ và hợp. Phần thứ nhất nói thiện là cao, tức nói về chỗ cao tột; Thệ là chẳng cao, nghóa là tuy ra khỏi sinh tử mà chẳng xả bỏ. Nói theo tâm Phật thì thiện tri thức là chỉ cho đạo phẩm. Từ câu “Thế nào là Thế Gian Giải v.v…” trở xuống là hiệu thứ sáu. Tiếng Phạm gọi là Lộ-già-bại. Thế gian có ba: Một, là năm ấm; hai, là chúng sinh; ba, là cõi nước. Đoạn này có sáu phần giải thích, tức sáu thế gian: Năm ấm, năm dục, cõi nước, chúng sinh, Phật là thế gian, thế là thế gian. Từ câu “Vì sao gọi là v.v…” trở xuống là hiệu thứ bảy. Tiếng Phạm là Phú-lâu-sa, có năm lần lại nữa, nêu lên nghóa dứt hoặc và chẳng dứt hoặc. Văn ghi: “Thể nhập Đại Niết-bàn chẳng mới chẳng cũ”, trong đó chư Phật đã thành gọi là cũ, chúng sinh sẽ thành gọi là mới. Không cũ không mới tức không có quá khứ, vị lai. Đó là thuận theo lý mà thể đạt. Nếu theo duyên thì nói có cũ có mới, quá khứ vị lai. Từ câu “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là hiệu thứ tám. Tiếng Phạm gọi là Đàm-miệu-ba-la-đề. Trước nói về Trượng Phu, sau nói về Điều Ngự. Nói về Trượng Phu có hai: Trước nói về Năng điều, có hai chương. Năng điều là Như Lai, sở điều là chúng sinh. Sau là giải thích hai chương. Từ câu “Như Lai thật v.v…” trở xuống là giải thích Năng điều. Thật chẳng phải Trượng phu, phương tiện thị hiện năng điều phục Trượng phu. Từ câu “tất cả nam nữ v.v…” trở xuống là giải thích Trượng phu điều phục. Có đủ bốn pháp mới được gọi là Trượng phu, nếu không có bốn pháp thì hành động súc sinh. Đại luận cũng nói: “Nai đầu người, người đầu nai”. Như điều khiển ngựa, tức là dùng bốn cách giải thích việc điều phục chúng sinh lợi độn khác nhau. Nếu gặp con ngựa nhanh nhẹn thì vừa thấy bóng roi liền chạy, còn con ngựa chậm chạp thì phải nặng tay làm đánh thấu xương mới vâng theo. Người lợi căn, vừa nghe nói sinh liền lãnh thọ; người độn căn phải nói đến già chết mới chịu nghe. Như Đại Luận nói về chồn hoang sống trong rừng. Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là hiệu thứ chín. Tiếng Phạm gọi là Xá-đa-đề-bà-ma-nâu-xá-nẫm. Toàn đoạn văn gồm mười hai lần lại nữa: hai lần lại nữa đầu tiên là giải thích Sư; năm lần lại nữa kế tiếp là giải thích Thiên, đồng thời y theo thắng nghóa để giải thích Thiên; bốn lần lại nữa kế tiếp là giải thích Nhân, nói kiêu mạn nhưng chẳng phải kiêu mạn, vì muốn lập chí Trượng phu, che chở giữ gìn Tam bảo, phá trừ tâm mạn; một phần sau cùng giải thích chung Thiên Nhân Sư. Từ câu “Thế nào là Phật v.v…” trở xuống là giải thích hiệu thứ mười. Trước giải thích danh sau khen ngợi đức. Tiếng Phạm gọi là Phật-đà-da, Hán dịch là Giác, Giác Ngộ. Trước nói Duyên giác cũng đồng với ý này. Cho nên âm Giác là đúng, như Bích-chi-phật dịch là Độc giác mà chẳng nói là Độc giáo. Có thuyết cho rằng Tự giác, Giác tha lại là Tha giác. Việc này quá phiền phức. Từ câu “Bà-già-bà” trở xuống là giải thích hiệu thứ mười một; có chỗ cho rằng từ Thế Tôn này kia đây khác nhau. Vì sao? Vì trước nêu chương thì ghi là Thế Tôn, đến khi giải thích thì gọi là Bà-già-bà, nên biết như thế. Nghóa này e chẳng phải. Vì Thế Tôn, tiếng Phạm gọi là Lộ-ca-na-tha. Ngài Long Thọ dịch Bà-già-bà gồm bốn nghóa là phá phiền não, có công đức, khéo phân biệt và có tiếng tăm tốt. Ở đây đầy đủ bốn nghóa: phần thứ nhất là giải thích phá phiền não, phần thứ hai giải thích công đức, phần thứ ba giải thích khéo léo phân biệt; phần thứ tư có tiếng tăm tốt. Đầu tiên giải thích phá phiền não rất dễ hiểu. Kế là từ câu “rất dễ hiểu v.v…” trở xuống là giải thích có công đức. Thứ ba từ câu “Khéo hiểu v.v…” trở xuống là giải thích khéo phân biệt. Thứ tư từ câu “Có tiếng tăm lớn v.v…” trở xuống là giải thích có tiếng tăm tốt. Ba phần khác còn lại là giải thích công đức. Công đức là y cứ theo bên trong; còn Thế Tôn là được thế gian tôn kính tức y cứ bên ngoài. Nay dùng Bà-già-bà thay thế cho Thế Tôn chứ chẳng phải Bà-già-bà là Thế Tôn. Văn gồm hai nghóa: thứ nhất gồm bảy phần giải thích bốn nghóa; thứ hai gồm một phần là khuyến tu. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn thứ hai, nghó nhớ đến nhân Phật, tức muốn nói về được quả là phải tu nhân từ xa lắm. Văn có hai là nêu lên và giải thích. Giải thích, trước nói lấy sáu Độ, bốn Đẳng làm nhân. Sau nói lấy năm mươi nhân là tâm. Tâm vô vi chẳng phải tâm thường trụ mà chính là tâm không làm ra. Không tâm, chẳng có không tâm, cả hai đều xả bỏ, chẳng những chỉ không tâm mà cũng không cả không tâm. Không có tâm vô ký. Quang Trạch cho rằng quả Phật thường trụ có hai vô ký là tri giải vô ký và quả báo vô ký, như thế là trái với kinh này. Vì khi tu nhân chẳng còn có vô ký thì quả Phật làm sao có vô ký. Không tâm cầu báo tức chẳng cầu quả báo. Tâm chẳng trụ tức tâm không chấp đắm, tâm vô thường tức không có chấp nhất định. Tâm nhiều ít tức không hậu đãi người này, bạc đãi người kia. Tâm giới tri là phân biệt các pháp, mỗi pháp đều có giới phần, sinh ra giới tri tâm, tức là cõi sinh diệt. Trụ giới tri tâm tức biết cõi thường trụ bất diệt. Tự tại giới tâm là đối với thường vô thường đều chẳng trụ mà thông đạt tự tại. Sinh giới tức biết tục, trụ giới là biết chân, tự tại là biết trung. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là niệm thứ hai. Các sư xưa cho rằng trước là niệm pháp biệt thể. Từ câu “Chỉ có chánh pháp này v.v…” trở xuống là niệm pháp nhất thể. Ở đây, chẳng phải như thế, văn nói trên hết, nhiệm mầu nhất, “khiến cho chúng sinh được quả hiện tại”, nếu y cứ theo Tạng, Thông thì chỉ đạt quả hiện tại mà chẳng thượng diệu, còn theo biệt thì chỉ được thượng diệu mà chẳng phải là quả hiện tại, phải tu trải qua vô lượng a- tăng-kỳ kiếp mới đạt được. Chỉ có viên mới vừa thượng diệu, vừa được quả hiện tại. Cho nên biết đó là pháp Nhất thể của Viên giáo. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là thứ ba. Các sư xưa cũng cho rằng trước là nói Tăng biệt thể sự hòa; Từ câu “Chẳng thể thấy v.v…” trở xuống là Tăng nhất thể lý hòa. Ở đây chẳng phải như thế. Văn kinh ghi: Thọ pháp chánh trực, Ba giáo chẳng phải trực pháp, chỉ có Tăng Viên giáo mới thọ pháp chánh trực. Kinh ghi: Tuy không có hình sắc mà có khả năng hộ trì. Có chỗ cho rằng đó là giới vô tác. Vốn có ba cách giải thích: một, là Tăng bộ cho rằng không có sắc vô tác nên vốn không có vô tác, vô tác cũng vô sắc, nhưng có tâm để hộ trì; hai, bộ Tát-bà-đa cho rằng vô tác là sắc. Các sư Số Luận theo thuyết này cho nên nói vốn có vô tác mà lại có sắc, vì sắc này chẳng phải chất ngại, mà lại có giả sắc vô biểu, nên có thể hộ trì; ba, là bộ Đàm-vô-đức giải thích được các sư Thành Thật sử dụng, cho rằng vô tác chẳng phải sắc, chẳng phải tâm. Các thuyết trên thuộc về Tiểu thừa, đều tạo ra sự tranh luận về hữu vô mà thôi. Trong Đại thừa không nói về việc này, nên văn trên có ghi: “Pháp hữu lậu có hai loại là sắc và phi sắc, pháp phi sắc là tâm và tâm sở; sắc pháp là đất, nước, lửa, gió”. Như thế thì lúc nào mà có sắc vô tác? Từ câu “Thế nào là niệm thí v.v…” trở xuống là niệm thứ năm. Đó là tu tập nhân lành. Tạp Hoa, kinh Quán Phật Tam-muội Hải nói rằng: “Trong kinh Tạp Hoa, ta đã vì Phổ Hiền, Hiền Thủ, v.v… mà nói”. Trung Quốc không có kinh Tạp Hoa, chỉ có kinh Hoa Nghiêm. Có chỗ cho rằng có một bản kinh Tạp Hoa khác chưa truyền đến nước này. Có một thuyết cho rằng kinh Tạp Hoa mà kinh Quán Phật Tam-muội nói là kinh Hoa Nghiêm. Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là niệm thứ sáu. Có chỗ cho rằng đương quả là Đệ nhất nghóa thiên. Ở đây chẳng đúng, vì niệm chung các vị trời chính là niệm trời, chứ chẳng phải đương quả. Đương quả thiên và Phật quả nói ở trước chẳng khác nhau, đó chính là niệm chung cảnh giới thiên ở thế gian này, nhưng tùy theo nghóa mà đặt tên là Thiên. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn lớn thứ hai, khen ngợi kinh, gồm có hai phần: Một, là từ đây đến hết quyển là khen ngợi kinh năng sinh điều lành; hai, là hai quyển sau là khen ngợi năng diệt ác. Văn sinh ra điều lành có ba: Một, là chánh khen ngợi kinh; hai, là khen ngợi người hoằng kinh; ba, là khen ngợi hưng suy. Ba đoạn này theo thứ lớp đầu tiên do năm hạnh mà hiển bày đạo, kế đó lại có người quên thân để mở mang đạo pháp, vì có người hoằng thì đạo hưng thịnh, không người hoằng thì đạo suy vi. Thứ nhất, chánh thức khen ngợi kinh, có hai ý là Như Lai khen ngợi và Ca-diếp nhận lãnh ý chỉ. Trong phần Đức Phật khen ngợi có nói: “Mười hai thể loại kinh chẳng bằng”, có hai cách giải thích: Một, là mười hai thể loại kinh của Tiểu thừa; hai, là cho rằng mười hai thể loại kinh của Đại thừa cũng chẳng bằng Niết-bàn, Đại thừa Phương Đẳng đương cơ nên cao quý hơn. Vả lại, trong Niết-bàn thì có mười hai thể loại kinh, còn trong mười hai thể loại chưa hẳn đã có Niết-bàn, cho nên cao siêu hơn. Nay nói Viên kinh cao siêu hơn mười hai thể loại kinh. Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là nhận lãnh, tin hiểu. Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là ý thứ hai khen ngợi người mở mang giáo pháp. Văn có ba: Một, là hỏi; hai, là nhận đáp; ba, là nhận lãnh tin hiểu. Thứ nhất là hỏi như kinh có ghi. Thứ hai là đáp. Đức Phật khen ngợi Bồ-tát có mười ba điều chẳng thể nghó bàn: Có khả năng phát tâm. Chịu khổ sinh tử. Chịu khổ địa ngục. Không bao giờ lui sụt. Vượt qua biển sinh tử. Xứng lượng với sinh tử. Có khả năng giảng nói về thường trụ. Sinh tử chẳng làm não loạn được. Ở trong thai mà chẳng loạn. Không tham tiếc pháp. Xa lìa mười điều ác. Quên công dụng. Chẳng thể nghó bàn, xưa giải thích rằng: “Mọi người chẳng thể biết được”. Nghóa này chẳng đúng, vì như việc nhân gian chẳng biết, há có thể lấy đây mà làm hoặc loạn ý Hiền thánh ư? Nay nói ba Đế tương tức, chẳng thể dùng một hai ba để so lường, vì đó là chỗ tâm hành bặt, cũng chẳng thể dùng ba hai một mà hiển bày, vì đường ngôn ngữ dứt. Tuy nêu mười ba, nhưng thật chẳng phải số này mà gọi là chẳng thể nghó bàn. Nói “Không nhờ người giáo hóa mà tự phát tâm”, tức duyên chân mà phát tâm thì rơi vào Thanh văn, đúng ra phải có người giáo hóa. Nếu duyên tục mà phát tâm thì rơi vào phân biệt nên phải có cảnh giáo hóa, đều chẳng được chẳng thể nghó bàn. Nếu duyên Trung đạo, ba Đế tức nhau thì chẳng phải chân tục, chẳng theo người và cảnh, nên nói không nhờ người giáo hóa. Thấy rõ Phật tánh nên gọi là tự phát tâm, chẳng xen lẫn gọi là Tinh, nhập lưu gọi là Tấn. Nói địa ngục là nêu quả sinh tử, nói các kết sử là nêu nhân sinh tử. Nhiều kiếp bị nhân quả này đốt cháy, nay thấu suốt sinh tử tức là Niết-bàn, thấu suốt các kết sử tức là Bồ-đề, chẳng phải hai bên, nên gọi là động tónh như một. Vì chẳng hoại nên gọi là quyết định. Đốt cháy thân, đập nát đầu đều là chánh đạo. Bên trong chẳng bỏ đạo, bên ngoài chẳng cầu cứu, đó là y cứ theo ba Đế phát tâm nói chẳng thể nghó bàn, đồng với ý phát tâm nói trong chỉ quán. Chẳng thể nghó bàn thứ hai. Văn ghi: “Thấy sinh tử có vô lượng tội khổ, hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể nghó bàn, chẳng sinh nhàm chán”. Nghóa là Nhị thừa chỉ biết một ít phần đoạn mà chẳng biết lỗi lầm của biến dịch, còn Bồ-tát thì biết hơn thế, cho nên nói Nhị thừa chẳng bằng. Ngay nơi tục mà chân, trung nên nói chẳng nhàm chán; ngay nơi trung mà chân tục nên nói chẳng xa lìa. Y cứ theo trí ba Đế mà nói về chẳng thể nghó bàn, đồng với ý nghóa an tâm nói trong chỉ quán. Chẳng thể nghó bàn thứ ba là nói chịu khổ ở địa ngục mà vui như Đệ Tam thiền, văn này quá lược, lẽ ra phải nói là: “Chịu khổ trong ba cõi vui như ở trong Niết-bàn”. Đây là y cứ theo các chứng của ba Đế để nói về chẳng thể nghó bàn, đồng với ý nghóa thông bít trong chỉ quán, cũng giống như tâm Đại từ. Chẳng thể nghó bàn thứ tư. Văn ghi: “Như vị Trưởng giả cứu các con”. Trong đó, nhà dụ cho Trung đạo nên nói là quay trở vào; đốt cháy dụ cho tục đế nên nói là lửa cháy; Ra khỏi dụ cho chân nên nói là ra khỏi nhà. Đây là y cứ theo hạnh ba Đế nói về chẳng thể nghó bàn đồng với tâm ý chân chánh đại bi nói trong chỉ quán. Chẳng thể nghó bàn thứ năm, văn ghi: “Thấy các chúng sinh, nhàm chán lỗi sinh tử mà lui sụt thành Nhị thừa. Bồ-tát chẳng như thế, biết sinh tử là thường, nên chẳng thấy các tội khổ, biết Niết-bàn là gần, nên chẳng chấp lấy Tiểu thừa”. Đây là y cứ theo chứng ba Đế nói về chẳng thể nghó bàn, đồng với ý của Đạo Phẩm nói trong Chỉ quán. Chẳng thể nghó bàn thứ sáu nói bậc thánh có thần thông dụ cho trí thể pháp, Tu-la cao lớn dụ cho trí thứ tư. Người không có hai hạng mà vượt qua được là dụ cho trí Viên giáo, chẳng có thần thông, chẳng phải trí thứ tư tức thuộc về viên trí. Đây là y cứ theo giai vị ba Đế để nói về chẳng thể nghó bàn, đồng với ý thứ vị trong Chỉ quán. Chẳng thể nghó bàn thứ bảy, văn kinh nói: Tơ sen treo núi, một niệm mà so lường sinh tử, tức là tính biết vô lượng trong một, một trong vô lượng, chẳng phải một chẳng phải vô lượng”. Đây là y cứ theo pháp ba Đế để nói về chẳng thể nghó bàn, đồng với ý của Cảnh mầu nhiệm trong Chỉ quán. Chẳng thể nghó bàn thứ tám, văn ghi: “Không có thường, lạc, ngã mà nói thường, lạc, ngã”, tức là tùy bệnh mà cho thuốc, giúp cho thể hội được. Đây là y cứ theo giáo ba Đế để nói về chẳng thể nghó bàn đồng với ý nghóa đối trị trong chỉ quán. Đại Bồ-tát tuy bị sinh tử não hại, vì thế gọi là chẳng thể nghó bàn. Chẳng thể nghó bàn thứ chín, văn nói: “Chẳng bị chìm đắm chẳng bị đốt cháy, nghóa là tuy ở trong sinh tử mà chẳng bị sinh tử làm hại”. Chẳng thể nghó bàn thứ mười, văn ghi: “Trụ thai mà chẳng loạn động”. Tức ở trước nói là chết mà chẳng phải diệt, ở đây nói ở trong thai mà chẳng phải sinh, đây là y cứ theo quả Báo ba Đế mà nói về chẳng thể nghó bàn, đồng với ý nghóa an nhẫn trong Chỉ quán. Chẳng thể nghó bàn thứ mười một, văn nói Bồ-đề và tâm đều chẳng thể nói mà lại nói không hề bỏn sẻn. Đây là y cứ theo nói năng và im lặng của ba Đế để nói về chẳng thể nghó bàn, đồng với ý nghóa thông bít của Chỉ quán. Chẳng thể nghó bàn thứ mười hai, văn nói: “Từ thân mà lìa thân v.v…”, Là y cứ theo nghiệp của ba Đế mà nói về chẳng thể nghó bàn, đồng với phá pháp biến trong chỉ quán. Chẳng thể nghó bàn thứ mười ba, kinh nói: Cuối cùng chẳng thể nói ta phá phiền não. Đây là y cứ theo không năng của ba Đế để nói về chẳng thể nghó bàn, đồng với ý nghóa lìa ái của Chỉ quán. Kinh này nói Bồ-tát mới phát tâm chưa nhập vị là chẳng thể nghó bàn, tương ưng với mười quán của Bồ-tát Viên giáo trong Chỉ quán. Vì thế dùng để giải thích. Văn này nói: “Tuệ chẳng phá được, lửa chẳng đốt được”. Văn kia nói: “Thật pháp như thế, vốn là dùng thật tuệ”. Vì là nhất tâm nên chẳng thể phá. Pháp nối nhau tức hai tâm, trước diệt thì sau khởi, nên phá được hoặc lại trừ cả tuệ. Nếu dứt hoặc rồi thì không có chỗ để trừ diệt. Cho nên đối với thật pháp chẳng thể dứt. Nhưng trong đây khen ngợi Bồ-tát mở mang kinh, đâu cần phải giả thật, chỉ suy cầu tuệ không thật có nên nói là tuệ chẳng thể phá, thí như cầu tham si không thật có nên không có tham, si. Lại sinh là diệt rồi sinh, diệt chẳng phải diệt, diệt là sinh rồi diệt nên sinh chẳng phải sinh. Nếu sinh là thường sinh thì lẽ ra chẳng diệt; nếu diệt là thật diệt thì lẽ ra diệt chẳng diệt. Các pháp đều như thế, trong đó khen ngợi tất cả pháp đều vô sở hữu, trí tuệ cũng giống như thế, chẳng tồn tại tướng trạng. Thứ ba, từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần tin hiểu. Như văn kinh có ghi. Từ câu “Bạch Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, khen ngợi hưng suy, có bốn phần hỏi đáp: một, là chánh pháp của Đức Thích Tôn; hai, là pháp của Phật Ca-diếp; ba, là pháp của chư Phật; bốn, là kết luận pháp của Đức Thích Tôn. Thứ nhất là đáp có hai: trước nói tu năm hạnh thì hưng, nhiều người phạm giới thì suy. Từ câu “Ca-diếp lại bạch v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về pháp Phật Ca-diếp, có hỏi và đáp. Hỏi có hai câu, trước là lãnh chỉ, sau là hỏi. Kinh Hiền Kiếp ghi: “Chánh pháp của Phật Ca-diếp trụ thế hai mươi năm”. Nay nói bảy ngày là vì sao? Đáp: Thời gian bảy ngày không khác với thời gian Phật tại thế, sau bảy ngày thì Phật pháp suy đồi chẳng bằng lúc Phật tại thế. Nói hai mươi năm là nêu thời gian trụ thế ngắn gnủi. Từ câu “Ca-diếp Như Lai v.v…” trở xuống là hỏi. Trước là hỏi có hay không. Sau là hỏi hai ý. Đức Phật đáp, có hai ý: Một, là nói chung có diệt mà chẳng diệt; hai, là trả lời. Thứ nhất lại có hai: Một là Đức Phật cho phép; hai là đáp. Nói chỉ có ngài Văn-thù hiểu được, tức nói về bài kệ xưa có nay không, muốn hiển bày diệt mà chẳng diệt, chẳng diệt mà diệt. Đáp chung theo văn rất dễ hiểu. Từ câu “Lúc trước v.v…” trở xuống là đáp. Văn có bốn đoạn: một, là nói Phật xưa có kinh; hai, là Pháp thật chẳng diệt; ba, là Phật nay đối luận; bốn, là Pháp thật chẳng diệt. Thứ nhất từ câu “Thời Phật Ca-diếp v.v…” trở xuống là thứ hai, chẳng cần giảng nói. Từ câu “Chúng sinh đời này v.v…” trở xuống là nói đối với Phật hôm nay. Từ câu “Thà rằng nói v.v…” trở xuống là thứ tư, nói về Pháp bảo chẳng diệt. Từ câu “Nếu Phật v.v…” trở xuống là thứ ba, nói chung về pháp của tất cả chư Phật, có sáu cặp đối luận. Thứ nhất là một cặp hiểu nghóa chẳng hiểu nghóa. Thứ hai, có đàn-việt và không có đàn việt. Thứ ba, vì lợi chẳng vì lợi. Thứ tư, sinh ra tranh luận và chẳng sinh ra tranh luận. Thứ năm, nói lỗi và chẳng lỗi. Thứ sáu, lập các thuyết và chẳng lập các thuyết. Từ câu “Này thiện nam v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, kết luận về pháp của Phật Thích-ca. Văn có ba đoạn: Nói về sắc diệt khởi tranh luận. Phật pháp ở nước Câu-diệm-di diệt. Đại chúng buồn than. Văn đầu tiên như phẩm Ca-diếp có nói Lạc-sa. Hà Tây cho rằng lạc-sa lấy từ cây Ba-la-sa. Cây này sinh ra thuần là trùng, người nước ngoài dùng làm thuốc nhuộm lông thú. Từ câu “Bấy giờ vv….” trở xuống là thứ hai, nói về nguyên nhân Phật pháp diệt. Do sáu trăm Tỳ-kheo tranh luân làm hại nhau dẫn đến diệt tận. Từ câu “Bấy giờ ở Câu-thi, v.v…” trở xuống là đoạn ba, đại chúng buồn than. Lại có ba ý: Một, đại chúng buồn than; hai, là Ca-diếp an ủi; ba, là đại chúng thôi buồn và phát tâm. Nghe diệt độ thì buồn, nghe chẳng diệt độ thì thôi buồn, đã đạt được diệt, chẳng phải chẳng diệt thì liền phát tâm. Cho nên chẳng diệt chẳng phải chẳng diệt mà diệt mà chẳng phải diệt là làm lợi ích lớn. <卷>QUYỂN 19 <詞>PHẨM 20: PHẠM HẠNH (PHẦN 4) Đầu phần bốn là đoạn hai, khen ngợi công năng diệt ác của kinh. Ác tức Nhất-xiển-đề, bốn giới trọng, năm tội nghịch đều bị dứt trừ. Xưa giải thích rằng: “Vua A-xà-thế thật phạm tội nghịch nhờ năng lực của kinh mà diệt được tội”. Thật cũng có ý nghóa này. Nhưng kinh Mật Tích ghi: “Vua A-xà-thế là phương tiện thị hiện pháp diệt tội nghịch. So sánh biết được Điều-đạt phá Tăng chắc chắn chẳng phải thật phá. Cũng như Thiện Tinh thị hiện là Nhất-xiển-đề, thật chẳng phải là Nhất-xiển-đề, Na-đề phạm giới trọng thật chẳng phải phạm. Oai lực của kinh này trừ các tội ác nặng, khiến cho người thật phạm nương tựa, tức là hiển bày phạm hạnh có thể làm cho bất tịnh thành thanh tịnh. Lương Vũ Đế chẳng thấy nghóa này, cho rằng đoạn kinh văn trên chẳng phải thứ lớp của kinh mà thuộc phẩm khác; nếu đạt được ý bất tịnh thành thanh tịnh thì chính là phạm hạnh chứ chẳng phải phẩm khác. Văn có hai: Trước nói khởi ác, sau nói diệt ác. Thứ nhất có ba ý: Một, là nói về nhân ác. Thích chém giết, miệng phạm bốn điều ác, tâm ác đầy dẫy, đó là nhân của mười điều ác. Hai là nói về duyên ác, tức chỉ dùng kẻ ác làm quyến thuộc. Ba là từ câu “Tham đắm v.v…” trở xuống chính thức nói về việc gây ra điều ác. Từ câu “hại rồi v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về diệt ác. Có ba: Một, là diệt nhân ác; hai, là diệt duyên ác; ba, là chánh diệt ác. Thứ nhất có bốn câu: Một là diệt nhân ác Hai, là tin sâu nhân quả. Ba, là người mẹ thoa thuốc. Bốn là tự cảm thương. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là ý thứ hai nói về diệt duyên ác, có hai: một, là người ác làm duyên; hai, là người lành làm duyên. Hỏi: Làm ác có thể dùng người ác làm duyên, nay nói về diệt ác, vì sao lại dùng người ác? Đáp: Người ác khuyên làm ác, nếu chẳng theo lời ác thì diệt được duyên tội. Hỏi: Nếu thế, người lành khuyên làm lành, nếu chẳng nghe theo lời lành mà làm ác, vậy người lành cũng làm duyên ác ư? Đáp: Vừa xem qua thì cũng có ý này. Như kinh Đại Niết-bàn vừa là cam lộ vừa là thuốc độc. Nếu xét kỹ thì chẳng giống. Tâm Phật vốn chẳng vì chúng sinh mà làm duyên phiền não, vì thầy chẳng nhận lời khuyên, thì tự đó là duyên ác. Chẳng nhận lời khuyên làm ác thì tự thầy trở thành duyên lành. Tất cả đều do thầy, đều do tự tâm người làm duyên ác thì y cứ theo sáu vị quan làm sáu chương. Mỗi chương đều có bốn ý riêng: một, vị quan vào triều tâu; hai, là vua đáp; ba, là tâu vua, nói về nơi diệt tội; bốn, là nói lời quy y. Xưa cho rằng vua A-xà-thế là thật, điều này chẳng đúng, có chỗ cho là Ứng, hoặc cho là dụng của pháp giới. Nhưng đó đều là phương tiện khéo léo của bậc thánh. A-xà-thế là khai phương tiện nghịch để nói lên oai lực của kinh có công năng diệt ác. San-xà-da, kinh Tịnh Danh ghi là Dạ, là hai âm nhẹ và nặng. Đây là chữ San thi định thể. A-kỳ-đa là tên, Xí-xá là y cũ rách, Khâm-ba-la là y báu xưa. Chữ tónh có hai âm là Tónh và Tịnh. Phần nhiều dùng âm Tịnh. Về thể của chữ cũng có hai: một là bộ phụ; hai là bộ huyệt, phần nhiều dùng bộ huyệt. Từ câu “Bấy giờ thầy thuốc, v.v…” trở xuống là nói về người lành làm duyên. Có hai người là anh và cha. Thứ nhất có bốn câu: Một, là Kỳ-bà hỏi; hai, là vua đáp; ba, là khuyên đến nơi Phật trụ; bốn, là hổ thẹn chưa chịu đi. Thứ nhất là Kỳ-bà, Hán dịch là Cố Hoạt Đồng Tử. Khi mới sinh ra, tay đã cầm hộp thuốc, tay cầm ống đựng kim. Thuở xưa, ông đã nguyện làm thầy thuốc chữa trị cho mọi người. Từ đức mà đặt hiệu, nên dịch là Cố Hoạt, là con của cô gái Am-la. Thứ hai, là vua dùng kệ đáp có bảy mươi câu và một ít văn xuôi, chia làm ba: Một, gồm bốn mươi sáu câu nói chung về người ngủ yên giấc; hai, là hai mươi bốn câu nói chung về người ngủ chẳng yên giấc; ba, phần văn xuôi nói vua không yên giấc. Văn thứ nhất lại có bốn đoạn: Một, là gồm mười sáu câu nói về Đức Phật ngủ an ổn; hai, là hai mươi hai câu nói về Bồ-tát ngủ được an ổn; ba, là bốn câu kết luận về Đức Phật; bốn, là bốn câu kết luận về Bồ-tát. Trong phần nói về Đức Phật lại chia thành hai đoạn: một, là tám câu đầu nói về lìa sinh tử được Niết-bàn; hai, là tám câu cuối nói về lìa tội ác được Thường trụ. Chỉ có chư Phật mới thật không ngủ, vì không còn phiền não, trụ trong tánh an vui. Theo nghóa mà nói là ngủ nghỉ an ổn. Thứ ba như văn kinh có ghi. Từ câu “chúng sinh thầm hợp với vô minh” v.v… trở xuống là đoạn thứ hai nói về người ngủ chẳng an ổn. Có hai: Một, là mười hai câu đầu thuộc về pháp thuyết; hai, là mười hai câu kế thuộc về dụ thuyết. Nói Thái tử chưa nối ngôi, tức tiên đế chưa băng, ngôi kế thừa chưa được lập, bốn phương chưa thái bình thì ngủ nghỉ chẳng yên, chẳng phải nói Đông cung ngủ nghỉ chẳng yên. Từ câu “Này Kỳ-bà v.v…” trở xuống là đoạn ba, một ít văn xuôi tự nói mình chẳng yên ổn ngủ nghỉ. Có hai: Một là nêu lên; hai là giải thích, phần nêu lên lại có hai ý: Một, là nếu bị bệnh nặng. Thứ hai, là nói không có thầy. Từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích hai việc. Trước là giải thích bệnh nặng, sau là giải thích không có thầy thuốc. Từ câu “Kỳ-bà đáp v.v…” trở xuống là đoạn ba, Kỳ-bà an ủi, khuyên đến chỗ Phật. Văn có hai đoạn: Một, là đáp hai ý nghóa ở trước; hai, là chỉ thuốc hay cho vua. Văn thứ nhất lại có bốn ý: một, vì vua có đức nên phạm tội nhẹ; hai, người không có năm đức nên phạm tội nặng; ba, kết luận không có bốn đức là hạng Nhất-xiển-đề; bốn, kết luận vua có năm đức, nên chẳng phải Nhất-xiển-đề. Đầu tiên có năm đức, trong đó chỉ nói bốn đức, lược bỏ một việc là gần gũi bạn lành. Đã dùng dưới để đối chứng với trên, theo lý thì trên phải có, nhưng Kỳ-bà chính là việc gần gũi bạn lành, nên chẳng nói qua. Nói bốn đức: Một, vua biết hổ thẹn; hai, vua biết sám hối; ba, vua biết phát lộ, phát lộ sám hối về địa thể thì tương tự, nhưng cũng có một vài điều khác nhau; sám là sám trừ, hối là hối lỗi; còn phát lộ tức tỏ bày lỗi lầm đã phạm cho người biết; bốn, là nói vua có tín tâm. Nhưng bốn việc đã có mà chưa tin lời Kỳ-bà. Nếu chắc chắn tin thì tức là bạn lành, vì chưa chắc chắn cho nên chỉ nói bốn đức mà thôi. Từ câu “Nếu có chúng sinh v.v…” trở xuống là thứ hai, nói người kia không có năm đức nên tội nặng. Gây ra tội tức là không có đức phát lồ, che giấu không ăn năn tức là không có đức sám hối. Chậm chạp ngu độn tức là không có đức hổ thẹn, chẳng thấy nhân quả tức là không có đức tín tâm, chẳng thưa hỏi tức là không có đức hiểu biết. Từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là đoạn ba, theo nghóa không có năm đức mà kết luận là Nhất-xiển-đề. Từ câu “vì sao người tội v.v…” trở xuống là y cứ có năm đức kết luận chẳng phải Nhất-xiển-đề. Từ câu “Như vua nói v.v…” trở xuống là phần thứ hai, chỉ bày thuốc cho vua. Văn có hai: Một, là chỉ thầy thuốc; hai, là chỉ thuốc hay. Tất-đạt-đa, Hán dịch là Thành Lợi. Từ câu “Rõ biết các căn v.v…” trở xuống là đoạn hai, chỉ bày thuốc hay. Thuốc tức là thắng pháp, thuốc hay và thầy thuốc rõ ràng là bên nhau, vì sao nói là không có thuốc hay. Văn có hai: Một, là nói về căn cơ. Kế là từ câu “Hiện nay v.v…” trở xuống là nói về thuyết pháp, có hai ý là chung và riêng. Đầu tiên là nói về thuyết pháp chung cho tất cả. Kế là từ câu “Đó là v.v…” trở xuống là nói pháp riêng. Nói riêng có hai: Một, là y cứ theo hai pháp; hai, là y cứ theo ba pháp. Nói có không tức hai đế, nói hữu vi vô vi là phiền não Niết-bàn, nói hữu lậu vô lậu tức bốn Đế, quả phiền não là khổ tập, quả pháp lành tức đạo diệt. Từ câu “Sắc pháp v.v…” trở xuống là nói ba pháp. Sắc, phi sắc, chẳng phải sắc chẳng phải phi sắc, các sư Số Luận Tỳ-đàm cho rằng sắc là mười một sắc, phi sắc là pháp tâm, tâm số; chẳng phải sắc, chẳng phải phi sắc tức là mười bốn pháp bất tương ưng hành. Các Luận sư Thành Thật cho rằng sắc là mười bốn sắc, phi sắc là tâm pháp, phi sắc chẳng phải phi sắc, tức là vô tác. Các Sư Trung Quán cho rằng sắc là sắc pháp, phi sắc là tâm, phi sắc chẳng phải phi sắc, tức Trung đạo Đệ nhất nghóa xa lìa hai bên. Hai bên đều xa lìa này chỉ mới là Tục đế, đâu thể thành Trung đạo? Ở đây cho rằng chẳng đúng. Trước nói hai Đế, còn ở đây nói ba Đế, trong đó sắc tức tục, phi sắc tức chân, phi sắc chẳng phải phi sắc tức Trung đạo Đệ nhất nghóa đế. Tự làm tự chịu rất dễ hiểu. Ở đây nói tự làm tự chịu, văn sau lại nói: Không có ta làm mà người khác chịu quả, hai văn mâu thuẫn nhau, nhưng mỗi văn đều có nghóa để y cứ, nay hãy giải thích: Nói ta làm người khác chịu, có người nói rằng: “Như do mọi người phát tâm mà khiến cho tội của vua trừ diệt”. Lại các công đức mà các Bồ-tát có được đều ban cho chúng sinh, chúng sinh được an vui, đó cũng gọi là tha thọ (người khác được hưởng). Chẳng đúng như thế, tự làm tự chịu là từ giả vào không, chẳng làm chẳng thọ là Trung đạo. Các văn đều như thế. Văn sau nói: “Nếu đến chỗ Phật, nghe được nghóa chẳng làm chẳng thọ thì tội liền tiêu diệt”, nên biết đó là Trung đạo. Từ câu “Đại vương hãy lắng nghe! v.v…” trở xuống là đoạn hai, khuyên đến chỗ Phật. Văn có ba phần: Dẫn rộng mười ba việc khi xưa để khuyên Nói tâm Phật bình đẳng để khuyên So sánh phước đức để khuyên. Theo thứ lớp từ xưa đến nay, xưa làm người ác đều đến gặp Phật thì tội tiêu trừ. Tâm Phật bình đẳng chẳng xem trọng xưa bỏ nay. Đầu tiên là nói mười ba việc, có hai đoạn: một, là chính thức nêu các việc. Thứ hai là từ câu “Nếu Đại vương v.v…” trở xuống là tổng kết ý dẫn chứng. Từ câu “Tâu đại vương v.v…” trở xuống là đoạn hai, tâm Phật bình đẳng không phân cách. Thứ ba là từ câu “Dù cho v.v…” trở xuống là so sánh phước cao quý. Từ câu “Bấy giờ, nhà vua đáp v.v…” trở xuống là đoạn bốn, vì hổ thẹn nên chẳng chịu tin theo. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đoạn hai, nhà vua làm duyên. Văn có bốn đoạn: Trên hư không phát ra tiếng nói Vua hỏi ngược lại Vua cha nói thật A-xà-thế buồn thảm ngất đi Thứ nhất lại có ba ý: Một, là nói Phật pháp sắp diệt nên khuyên bảo. Từ câu “Nay Đại vương v.v…” trở xuống là ý thứ hai, vì tội nặng sẽ vời lấy quả địa ngục cho nên khuyên bảo. Từ câu “Nay tôi biết v.v…” trở xuống là tổng kết hai việc, khuyên hãy đến gấp. Thứ hai là vua hỏi. Thứ ba là tiên vương nói thật. Thứ tư là vua A-xà-thế buồn thảm ngất đi. Hỏi: Nhà vua đã chết, vì sao có tiếng nói? Đáp: Có hai ý: Một, là nhà vua đã đắc đạo, tuy bị giết nhưng chẳng chết, vì thế có thể khuyên; hai, là chẳng phải là nhà vua khi xưa, chính là các Thánh gá mượn làm tiếng của nhà vua. ---------------------------------- <詞>PHẨM 20: PHẠM HẠNH (PHẦN 5) Đầu quyển là phần thứ ba nói về diệt tội. Toàn văn có hai đoạn là trụ thế và diệt tội. Văn thứ nhất lại có hai là trụ thế và nói về nghóa. Luận nghóa: Trước hỏi, sau đáp. Đáp có hai: Một, là chánh đáp; hai, là mật ngữ. Nghóa là đồng ở tại Song lâm thì đều biết Phật chẳng diệt độ, chỉ có vua A-xà-thế cho là diệt nên phải nói cho ông ấy nghe. Từ câu “Như ta v.v…” trở xuống là đoạn hai, mật ngữ của Như Lai. Có ba ý: một, là xướng mật ngữ; hai, là giải thích; ba, là kết luận khen ngợi. Xướng mật ngữ như văn kinh. Giải thích có sáu phần: Một, nói rằng lời này bao gồm nhiều nghóa tức là chung cho tất cả. Hai, nói chẳng là vô vi, có ba cách giải thích: Một, là cho rằng Bát địa trở lên là chúng sinh vô vi; hai, là nói Sơ địa trở lên chân chứng mới là vô vi; ba, cho rằng đã tự nói vô vi tức chẳng phải chúng sinh, nên biết quả Phật mới gọi là chúng sinh vô vi. Ba, lại nói chúng sinh trong lý đều là vô vi. Nhưng chẳng những các sư có các kiến giải khác nhau, mà trong kinh nói cũng khác nhau. Văn kinh nói: “Vì tức là vì tất cả”, lại nói: “Vì người gây ra năm tội ngịch, năm tội nghịch và tất cả”, hai nghóa khác nhau. Bốn, lại nói vì người chưa phát tâm. Sau đó lại ghi: “Người đã phát tâm vào thời Phật Tỳ-bà-thi, phát tâm và chưa phát tâm khác nhau”. Nói “vương tức là người chẳng thấy Phật tánh, đầy dẫy phiền não”. Năm, lại nói “vua A-xà-thế tức chẳng sinh”, chẳng sinh gọi là Niết-bàn, Niết-bàn há chẳng thấy tánh ư? Sáu, có người cho rằng mật ngữ là hiểu biết khác nhau. Ở đây nói mật ngữ của Như Lai, đâu thể nhất định là sâu, cạn, xa, gần được? Từ câu “Mật ngữ v.v…” trở xuống là thứ ba, kết luận khen ngợi chẳng thể nghó bàn. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về diệt độ. Văn có hai: trước là thân, sau là tâm. Cho nên kinh ghi: “trước trị thân bệnh cho vua, sau mới đến tâm”. Vì trước vua nói không có thầy thuốc trị thân tâm. Do đó phát ra ánh sáng trị thân bệnh, nói pháp trị tâm bệnh. Thứ nhất trị thân, văn có hai ý: Một, là phát ra ánh sáng; hai, là nói về ánh sáng. Phát ra ánh sáng như văn kinh có ghi. Từ câu “Vua biết v.v…” trở xuống là phần hỏi đáp thứ hai, nói về ánh sáng. Có năm câu, trong đó gom vào hai: bốn phần đầu nói về ánh sáng; một phần sau là giải thích Tam-muội Nguyệt ái. Trong bốn phần đầu, mỗi phần đều có hỏi và đáp. Ba phần trước như văn kinh có nói. Nói trong bảy người con có một người bệnh, có ba cách giải thích: Một, là dụ chung cho sáu đường, riêng những kẻ có tội là dụ cho một người con bị bệnh; hai, là sáu bậc Bồ-tát của trụ vị cộng với ngoại phàm là bảy, trong đó ngoại phàm là bệnh; ba, là bốn quả Thanh văn, Bích- chi-phật và Bồ-tát là sáu, cộng với ngoại phàm là bảy, một người con bị bệnh là dụ cho ngoại phàm khởi ác. Ở đây nói chẳng đúng, văn ghi: “Trong bảy người con có một người bị bệnh”, chớ đâu nói ngoại phàm bị bệnh. Vả lại nói rằng tất cả chúng sinh là con của ta, như trước đã giải thích, hoặc tiến hay lùi cũng chẳng gồm thâu trọn nghóa. Nay lấy các căn tánh giai vị Thất phương tiện của Viên giáo và bảy người con, trong bảy người này, người nào khởi tâm nghịch ác, thì Như Lai nhớ nghó đến nhiều hơn. Nói sáu trụ có hai cách giải: Một, là sáu địa chân giải; hai, là sáu tâm tự giải. Phần sau giải thích Nguyệt ái, trước nêu Tam-muội mà Như Lai đã nhập, kế là hỏi, kế là giải thích. Đoạn trên mỗi câu đều nêu mặt trăng làm dụ, có sáu câu. Từ câu “Vua bèn nói v.v…” trở xuống là ý thứ hai, diệt tội của tâm. Có hai phần, trước nói về duyên của tội, sau là diệt tội. Thứ nhất có bốn: Một, là tự chưa phát tâm; hai, là nhận lời khuyên mà đến; ba, là Như Lai khen ngợi; bốn, là đến chỗ ở của Phật. Trong phần nói chưa phát tâm lại có hai phần hỏi đáp: Một, là vua chẳng thể phát tâm; hai, là Kỳ-bà khuyên đến chỗ Phật. Phần thứ hai nói về Nhất-xiển-đề, trước hỏi sau đáp. Trong lời đáp, trước nêu dụ, sau là hợp. Dụ có bốn: Một, là Nhất- xiển-đề dứt mất gốc thiện; hai, là căn duyên cảm Phật; ba, là điều thiện chẳng thể sinh; bốn, là vì đó mà nói pháp. Văn thứ nhất lại có hai: Một, là nói về khởi năm độn sử; hai, là nói về khởi năm lợi sử. Thứ nhất lại có hai ý: một, là khởi ác; hai, là mất điều thiện. Khởi ác chia làm hai ý: Một, là nói chung về khởi ác; hai, là nói riêng về năm độn sử. Có hai câu: Đầu tiên là nói về người bệnh, dụ cho Nhất-xiển-đề có trọng ác; thứ hai nói nằm trong mộng là dụ cho tâm vô minh, lên điện một trụ là dụ cho Nhất-xiển-đề cắt đứt gốc thiện của hiện tại và vị lai, chỉ còn một ít gốc thiện ở quá khứ. Báo thân được cảm dụ như ngôi điện chỉ còn một cây trụ sắp ngã đổ. Kế là từ câu “Uống dầu bơ, ăn mỡ v.v…” trở xuống là ý thứ năm nói khởi riêng năm độn sử. Phàm ái sử nhờn dính dụ như dầu bơ, tham dục nhuần thấm dụ như mỡ, ở miệng thì gọi là uống, ở thân thì gọi là xoa, ý nói chung cho thân và miệng. Nằm trên tro, ăn tro dụ cho tâm khởi sân sử, thể của sân mạnh mẽ nhanh chóng nên dụ như tro, độc khởi ở miệng thì ăn tro nóng, ý nói chung thân và miệng. Leo lên cây khô dụ cho khởi mạn, tự cao kh- inh thường người. Vì sao chẳng nói trèo lên cây tươi tốt? Nếu bậc Hiền thánh tự cao thì có thể dụ cho cây tươi tốt. Còn đây là dùng điều ác để tự đề cao nên dụ cho cây khô. Hoặc thấy cùng với khỉ vượn v.v… là dụ cho tâm khởi nghi sử. Nghi sử chẳng nhất định, như khỉ vượn leo trèo, chuyền từ cành này đến cành khác, bỏ một bắt một, dụ cho tâm nghi mà cầu lý thì chấp có chấp không, hoặc nói là ngã vô ngã. Vả lại khỉ vượn giống như người mà thật chẳng phải người, dụ cho tâm tưởng rằng đã được lý mà thật chưa được lý. Trầm mình trong bùn nước v.v… là dụ cho vô minh, nhẹ thì như trầm trong nước, nặng thì như lún trong bùn. Từ câu “Rơi từ v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về mất gốc thiện. Có hai ý: trước mất ba phẩm, sau nói mất ba thừa. Nói té từ lầu là dụ cho việc mất tuệ; lầu là nơi để nhìn ra xa, dụ cho trí tuệ hiển bày soi chiếu khắp nơi, mà nay rơi té thì biết mất phẩm tuệ. Té từ núi cao là dụ cho mất giới, té từ cây khô là dụ cho mất phẩm định. Kế là dụ cho mất ba thừa. Xét ý văn này lẽ ra có bốn thừa kế nhau, nhưng chỉ nói mất ba thừa. Bốn thừa đều có lời văn nói đọa lạc, nhưng văn đã lược bỏ. Từ câu “Thân mặc v.v…” trở xuống là thứ hai, khởi lên lợi sử. Có hai ý là khởi lợi sử và khởi các duyên ác khác. Thân mặc quần áo là dụ ngã kiến khởi, như người chấp ngã có bốn thứ khác nhau: Bà-la-môn chấp là vàng; Sát-lợi chấp là đỏ; Tỳ-xá chấp là xanh; Thủ-đà-la chấp là đen. Vui cười ca múa dụ cho là kiến chấp khởi; đối với không vui mà nghó là vui, đối với không cao quý mà tưởng là cao quý. Quạ, kên kên, chồn là dụ cho tà kiến khởi, bốn loại này đều ăn thịt nên dụ cho tà kiến ăn nuốt gốc thiện. Răng tóc rụng là dụ cho biên kiến, tức hai bên đoạn thường, nay chỉ nói đoạn kiến. Trần truồng, gối đầu trên chó là dụ cho giới thủ, tức giữ giới chó, chó là loài đầu tiên được tin theo, nên nói gối đầu trên chó. Nay nói thêm rằng: Ở đây hoàn toàn là chấp năm ấm, nên nói nằm trong phân dơ”. Từ câu “Lại thấy cùng với v.v…” trở xuống là ý thứ hai, khởi lên lẫn lộn nhiều duyên ác, gặp tri thức xấu ác. Vong là người chết đã dụ cho dứt mất gốc thiện đã hết. Nay cho rằng bốn oai nghi đều vận động thì không có chỗ để sinh ra điều thiện, nên nói là đi, đứng, nằm, ngồi. Điều thiện vừa sinh thì tà niệm vừa khởi, nên nói dắt tay nhau. Dùng tà để tư dưỡng thân tâm nên nói là ăn nuốt. Rắn dụ cho đa sân. Nay nói thêm rằng: Hành xứ của tâm sở thường tương ưng với sân. Nên nói: Đi trên đường đầy rắn. Người nữ búi tóc dụ cho người nặng về ái; y phục lá cây là dụ cho người không biết hổ thẹn; đi trên xe lừa hư là dụ cho pháp ác tự vận hành. Chánh nam có ba cách giải: Một, cho rằng Nam là đất ly, Bắc là đất khảm, bỏ khảm về lìa dụ cho mất điều thiện, khởi ác; Hai, là theo các phương thì Bắc là phương trên dụ cho người đã dứt bỏ gốc thiện, từ trên cao rơi xuống; ba, là thiên tử ngồi quay mặt về phương Nam tự do giết tha, tức người này có tà kiến, chấp không có nhân quả. Tâm này tự do thì thân càng bệnh nặng, dụ cho các điều ác ngày càng nặng thêm. Từ câu “Vì bệnh tăng v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về nhân duyên chiêu cảm Phật. Bệnh tăng dụ cho tâm dứt mất điều thiện càng nặng. Về thân quyến, có ba cách giải: một, là nói giới quá khứ là nghiệp lành, nên cảm được thân này, chỉ nói pháp lành này tồn tại nên dụ như thân quyến; hai, là cho rằng Nhất-xiển-đề dứt mất gốc thiện của hiện tại và quá khứ, nhưng điều thiện ở tương lai mới sinh đều có khả năng làm Phật nên gọi điều thiện chưa sinh là quyến thuộc; ba, là chẳng phải như thế, tự có pháp lành chiêu cảm Phật, tự có pháp ác chiêu cảm Phật. Nhất- xiển-đề chỉ dùng pháp ác cảm ác làm quyến thuộc. Liền sai người mời thầy thuốc, thân hình xấu xí lùn thấp: Nếu cho điều thiện là người đi mời thầy thuốc thì điều thiện này bị điều ác chữa trị, nên nói là lùn thấp. Nếu cho điều ác là người đi mời thì đạo lý ác này tự kém xấu, gốc thiện yếu mỏng nên gọi là khuyết, không có tín nên gọi là lùn thấp. Nói thêm rằng: Tín v.v… Chẳng đủ nên nói các căn chẳng đầy đủ. Đầu tóc đầy bụi tóc dụ cho năm trụ che phủ. Mặc áo quần rách nát là dụ cho không biết hổ thẹn. Ngồi trên xe hư dụ cho việc nhờ vào gốc thiện đời trước cảm vời được thân này, nhưng thiếu kém gốc thiện. Nay nói thêm rằng: Cơ duyên thầm hợp, thầy thuốc mau chóng. Lên xe là dụ cho tâm hy vọng có cảm ứng. Từ câu “Bấy giờ thầy thuốc v.v…” trở xuống là ý thứ ba, quán điều thiện chẳng thể sinh, có hai đoạn: một, là quán sát; hai, là chấp thuận. Thứ nhất lại có hai: Một, là sơ quán căn cơ; hai, là quán sát kỹ một lần nữa. Đầu tiên vừa quán cơ, đã chẳng thấy gốc thiện, Đức Phật vẫn chưa muốn xả bỏ nên quán xét lại. Thứ hai, là từ câu “Lại suy nghó v.v…” trở xuống là quán xét lại. Văn có hai: Một, là quán hiện tại; hai, là quán quá khứ. Quán hiện tại có ba ý: Một, là xem ngày dụ cho người thượng căn; hai, là xem tinh tú dụ cho hàng trung căn; ba, là xem thời dụ cho kẻ hạ căn. Về thời nói ban đêm tức dụ cho hàng Nhất-xiển-đề thấp kém nhất. Tinh tú kém hơn ngày nên dụ cho trung phẩm. Nhất-xiển-đề tuy có ba phẩm nhưng đều đã dứt hết gốc thiện. Ngày mồng bốn dụ cho bốn đảo; ngày mồng sáu dụ cho sáu tệ; ngày mồng tám dụ cho tám tà; ngày mười hai là bác bỏ mười hai nhân duyên, cũng dụ cho mười hai ngã kiến; ngày mười bốn là bác bỏ không có mười bốn đế. Mười bốn Đế xuất xứ từ kinh Hoa Nghiêm. Mười bốn đế là Tướng đế, sai biệt đế, Sự đế, Sinh khởi đế, Tận vô sinh đế, Thuyết nhập đạo đế, Như Lai trí thành tựu đế… Xem sáu vì sao là dụ cho được sáu vị giáo chủ ngoại đạo chỉ dạy. Xem năm thời là dụ cho việc đã dứt mất gốc thiện của năm thừa. Từ câu “Lại suy nghó rằng v.v…” trở xuống là ý thứ hai, quán gốc thiện đời quá khứ. Quán cả hai đời đều không có gốc thiện. Từ câu “Suy nghó rồi v.v…” trở xuống là ý thứ hai, chấp nhận. Văn có ba đoạn: một, là chấp nhận; hai, là chính thức chấp nhận. Thứ nhất có hai câu: một, là chấp nhận; hai, là quán sát lại. Nói cùng đi với người kia, tức vừa chấp nhận thì đường cảm ứng liền giao nhau cho nên gọi là “cùng đi với”. Từ câu “Đi trên đường v.v…” trở xuống là quán sát lại. Văn có hai là quán hiện tại và quán vị lai. Nói hai đứa bé dụ cho đoạn thường, hữu vô. Thấy cầm lửa tự nhiên tắt, tức lửa mà chẳng phát ánh sáng, dụ cho mất tuệ. Chặt cây cối dụ cho mất định. Kéo tấm da dụ cho mất giới phẩm. Nhất-xiển-đề tuy có thọ mà không vâng giữ giống như tấm da khô. Vật rơi trên đường là điều thiện xuất thế đã hết. Tuy có các điều thiện như vợ con, thân thuộc nhưng đó là điều mà bậc Thánh vất bỏ. Thùng không là nói tuy có thân mà chẳng có đạo đáng ưa thích. Sa-môn độc hành là cho pháp xuất thế là độc nhất không có thân thuộc. Thấy cọp sói là thú ăn thịt dụ cho pháp ác ở hiện tại ăn nuốt hết pháp lành. Từ câu “Lại thấy v.v…” trở xuống là quán vị lai. Có hai ý là quán nhân vị lai và quán quả vị lai. Nói đứng phía trước, tức nói thân sau cũng chưa sinh điều thiện. Từ câu “Lại nghe v.v…” trở xuống là quán quả vị lai. Tức quả báo ở ba đường. Tiếng chim thú dụ cho âm thanh chịu khổ. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là chính thức nhận chữa trị. Có hai ý: một, là dụ; hai, là quán xét. Dụ thứ nhất là vào nhà, tức bỏ bản địa mà vào sinh tử, nên nói là “vào nhà người bệnh”. Từ câu “Thấy người bệnh v.v…” trở xuống là quán xét lại, có hai là quán hiện tại và quán quá khứ. Quán hiện tại có bốn: Quán ba độc, quán năm căn, quán mười sử, quán ba nghiệp. Thứ nhất, ba độc là lạnh ngưng kết, dụ cho si, nóng thì đột biến dụ cho tham. Văn lược bỏ không nói sân. Kế nói về xương cốt chi thể đau nhức là dụ cho năm căn. Xương cốt chi thể là thân căn, mắt đỏ là nhãn căn, tai ù là nhó căn, cổ họng là thiệt căn, lược bỏ không nói là tỷ căn. Thứ ba, từ câu “Sắc tướng v.v…” trở xuống là nói quán mười sử. Mầu đen dụ cho vô minh sử, đầu chẳng cất lên nổi là dụ cho mạn sử, muốn khinh mạn tự cao mà chẳng được. Thân khô không có mồ hôi là dụ cho sân sử không được thấm nhuần. Đại tiểu tiện chẳng thông dụ cho hai chấp đoạn thường. Thân phù dụ cho ngã kiến. Lời nói là khẩu nghiệp, toàn thân da nổi xanh vàng là thân ng- hiệp, bụng đầy hơi là ý nghiệp. Từ câu “Thầy thuốc thấy vậy v.v…” trở xuống là đoạn hai, quán lại quá khứ, gồm có hai: một, là quán xét căn duyên. Nói “từ hôm qua đến giờ, há chẳng phải là quá khứ hay sao”? Kế là nói căn duyên đối đãi. Nêu năm câu, một câu đầu mất tâm lành xuất thế, bốn câu sau nói mất tâm lành thế gian: Một, là mất tâm lành kính tin Tam bảo; hai, là mất tâm lành tuệ trí; ba, là mất tâm lành ít ăn và nhường nhịn; bốn, là mất tâm lành bạc ác; năm, là mất tâm lành từ hiếu. Đã nói Tam bảo thì biết là xuất thế, còn bốn câu sau là điều thiện thế gian, như văn kinh có ghi. Nói vốn tánh bạc ác nay thuần thiện, ng- hóa là chỉ có tâm thuần thiện là yêu thương vợ con, còn nói bạc ác tức là tâm lành mạnh mẽ bảo vệ chánh pháp. Từ câu “Thầy thuốc nghe rồi v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói pháp. Văn có ba ý là nói pháp, thân giáo hóa và tuyệt ứng. Nói pháp có hai ý: một, là vừa nghe liền nói; hai, xét cùng tận mà nói pháp lại. Nói ngửi người bệnh là dụ cho vừa xem qua vừa nói pháp. Bảy mùi thơm dụ cho bảy lậu, năm mùi hôi dụ cho năm dục. Từ câu “Liền xúc chạm v.v…” trở xuống là xét đến cùng tận mà nói pháp. Chuyển lại gần nhau, như chạm vào thân thì chỉ thấy ba độc. Từ câu “Lại nói với v.v…” trở xuống là ý thứ hai thôi giáo hóa. Nói bây giờ ta bận việc là đi giáo hóa các nơi khác. Nói sáng mai trở lại là nói hiện tại không có nội tâm, hóa duyên đã hết, vả lại đó là chỉ cho vị lai sâu xa. Nói tùy ý chớ cấm ngăn thì chẳng phải điều Phật chế. Từ câu “Sáng hôm sau v.v…” trở xuống là nói về tuyệt ứng. Người đến rước là dụ cho việc lại cảm đến Phật. Điều thiện chẳng sinh nên nói la “việc của ta chưa xong”. Từ câu “Tâu Đại vương v.v…” trở xuống là hợp dụ. Văn có ba: một, là chánh hợp; hai, là phân biệt Nhất-xiển-đề; ba, là vào ba đường cứu giúp. Phần chánh hợp chỉ lược hợp với đại ý, nếu so sánh với dụ ở trước thì chỉ hợp với hai ý sau, chẳng hợp với hai ý trước. Đầu tiên là hợp với ý thứ tư nói pháp. Sau là hợp với ý thứ ba quán điều thiện chẳng thể sinh. Từ câu “Nhất-xiển-đề v.v…” trở xuống là thứ hai, phân biệt người Nhất-xiển-đề. Nói đời này hoặc đời sau, nếu nói ngay nơi Sự thì ba đời đều không; nếu y cứ theo mà so sánh thì có nghóa sinh điều thiện. Lại có hai ý: đầu tiên là giáo hóa khi tu nhân, sau là cứu độ khi đắc quả. Từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là thứ ba, vào ba đường để cứu giúp chúng sinh. Từ câu “Vua bảo Kỳ-bà v.v…” trở xuống là đoạn ba, nhận lời khuyên mà đến chỗ Như Lai trụ. Từ câu “Bấy giờ, Phật bảo v.v…” trở xuống là đoạn ba, Như Lai khen ngợi. Văn có bốn ý: Một, là vua nghi ngờ. Hai, là Phật vì vua mà quyết định. Ba, là Bồ-tát Trì Nhất Thiết hỏi. Bốn, là Phật đáp. Nghi là nghi trí Phật chẳng biết có diệt được tội hay không, nghi tội mình chẳng biết có diệt được hay không. Từ câu “Nay ta v.v…” trở xuống là Phật quyết định. Dùng trí năng trừ để diệt tội sở trừ. Thứ ba là từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là Bồ-tát Trì Nhất Thiết thưa hỏi. Phật nói tất cả đều không nhất định, vì sao lại vì vua mà nói là nhất định. Từ câu “Phật nói v.v…” trở xuống là Phật đáp. Vua tự cho rằng có thể trừ, chẳng thể trừ. Ta vì người mà trừ, trừ tâm bất định mà làm cho nhất định. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đoạn bốn, nói về trụ xứ Phật. Có bốn: một, là vua đến. Hai, là Thế Tôn thăm hỏi. Như Lai dùng lời hòa diệu yêu thương gọi đến ta, gọi chung thì còn nghi ngờ, đến khi gọi riêng thì tâm vui mừng. Thứ ba, là Ca-diếp thuật lại. Bốn là vua vui mừng cúng dường, như văn kinh. Từ câu “bấy giờ, người ấy bảo, v.v…” trở xuống là đoạn hai chính thức diệt tội. Có hai ý: một, là lược nói pháp; hai, là giảng nói rộng. Văn thứ nhất lại có hai là nói lược và lãnh giải. Nói lược có ba câu: một, là chấp nhận chỉ dạy; hai, là chánh nói; ba, là kết luận. Trong phần chánh nói, đầu tiên nêu hai mươi việc, sau đó giải thích. Trong phần giải thích, đầu tiên là nói không có chân pháp vô lậu, kế là nói không có hữu lậu tự giải. Chân và tự này là một cặp. Kế là đầu tiên nói chung có nhân ác sinh tử, sau nói là đọa vào quả ác ba đường, hợp thành một cặp. Thứ ba, đầu tiên là nói không có trí tuệ phương tiện, trước chứng đạo, sau nói không có năng lực tu định trước chứng đạo thành một cặp. Thứ tư, trước nói bốn điên đảo sinh tử chỉ là khổ, vô thường. Sau nói chẳng thoát tám nạn. Đảo và nạn là một cặp. Thứ năm, oán báo là một cặp. Thứ sáu, đầu tiên là nói chẳng tránh khỏi quả khổ của ba đường. Sau nói chẳng tránh khỏi nhân khổ, hạt giống phược và quả phược là một cặp. Thứ bảy là một cặp vô thỉ vô chung. Thứ tám là cặp không hữu. Thứ chín là một cặp nhân quả. Thứ mười là một cặp ngu si, buông lung. Nay y cứ theo ba Đế để giải thích hai mươi quán: một, là không có vô lậu, không có gốc thiện, đây là nói chân và tự trong chân đế; hai, là, nói sinh tử chưa được điều phục, hầm sâu đáng sợ hãi, đây là nói nhân quả trong tục đế đáng sợ; ba, là hai câu nói về Phật tánh, tức là nói không có năng lực định tuệ trước chứng đạo của Trung đạo; bốn, là nói bốn điên đảo là phiền não đạo, tám nạn khổ đạo, kẻ thù và các hữu là nghiệp đạo… Từ câu “Kẻ phàm phu v.v…” trở xuống là ý thứ ba, kết luận nêu được mất. Có quán hai mươi việc là được, không quán thì mất. Như văn kinh có ghi. Từ câu “Vua bạch rằng v.v…” trở xuống là thọ lãnh, tin hiểu. Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn hai, giảng nói rộng. Lại có ba: Một, là vua khởi chấp; hai, là Phật phá; ba, là vua vâng theo giáo hành trì. Khởi chấp có bốn ý: Một, là chấp tội nặng; hai, là chấp nhà vua; ba, là chấp vô tội; bốn, là chấp nhất định bị đọa. Chấp chặt bốn điều này thì hại cho việc nhập đạo, nên cần phải phá. Từ câu “Phật bảo rằng v.v…” trở xuống là đoạn hai, Phật phá chấp. Gồm có ba ý; là phá riêng, phá chung và kết luận khuyên bảo. Thứ nhất là phá riêng, tức phá bốn chấp nêu trên, nhưng chẳng theo thứ lớp. Đầu tiên là phá chấp thứ tư là chắc chắn sẽ đọa, có ba câu: một, là chánh phá. Sát không có tướng nhất định, như kinh Phổ Hiền Quán ghi: “Tất cả các tội nghiệp đều từ vọng tưởng sinh, ngồi thẳng niệm thật tướng, biết tội như sương móc, mặt trời tuệ chiếu tan”. Nếu đạt được vọng tưởng thì tội nghiệp tiêu diệt. Vì không có nghiệp nên chẳng có đọa. Kế là vua thọ lãnh, tin hiểu. Thứ ba là Như Lai xác định. Từ câu “như lời nhà vua nói v.v…” trở xuống là đoạn hai, chấp nhà vua. Tuy gồm nêu chung câu nhà vua vô tội nhưng trước phá chấp nhà vua. Đầu tiên nói về nhân duyên giả có nên chẳng có nhà vua; kế là nói niệm niệm sinh diệt, nên không thấy có nhà vua. Trong các pháp, suy cầu tìm kiếm pháp được gọi là cha đều chẳng thật có. Nếu theo Thế đế, bẩm tánh con người tôn trọng tình cha con là lẽ tất nhiên. Nếu y cứ theo chân không thì các pháp bình đẳng không khác nhau. Đã không có cha con khác nhau, thì đâu có sắc hay giết và bị giết? Nói sắc có mười thứ tức năm căn, năm trần cho đến lẽ ra phải có bốn đại nhưng văn kinh đã lược bỏ. Đó cũng là gồm thâu năm trần thành bốn đại, bốn đại thành năm căn. Bốn đại thành năm căn tức bốn đại gồm thâu mười sắc. Năm trần thành bốn đại thì mười sắc gồm thâu bốn đại, cho nên chẳng nói rộng. Từ câu “Tuy có thể v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về niệm niệm sinh diệt nên vô tội. Từ câu “Tội nặng v.v…” trở xuống là ý thứ ba, phá định chấp thứ nhất là có tội nặng. Dứt tâm cao thấp, bỏ chấp phân biệt. Từ câu “Vua Tần-bà-sa-la v.v…” trở xuống là thứ tư, phá chấp thứ ba là vô tội. Văn có hai: trước dẫn việc xưa, kế là nên chấp để phá. Từ câu “Này đại vương v.v…” trở xuống là phần thứ hai, phá chung. Văn có ba đoạn: Một, là nêu bốn thứ điên đảo, dứt bỏ định chấp thật có; hai, là từ câu “Như trong cung vua, v.v…” là phá chấp không có tâm từ, không bình đẳng; ba, là từ câu “Như Niết-bàn v.v…” trở xuống là phá sự trệ ngại mất lý. Thứ nhất có hai là pháp và dụ. Tâm tham cuồng mạnh mẽ làm đảo loạn tất cả. Thuốc cuồng làm mê muội như nước lửa xung đột; chú thuật cuồng thì ngang dọc làm điều phi pháp; nghiệp cuồng tức là do nghiệp chế phục khiến mất bản tâm. Vua không có ba loại sau, chỉ có tham cuồng, tham cuồng thì gây ra tội của tham. Kế là dụ, có hai: Trước nói người say, sau nói việc huyễn. Người say gồm có hai, là trước dụ sau hợp. Nêu dụ người say: Nếu lúc trước giận nhau, mượn rượu để mắng chửi người, thì chẳng gọi là say, do đây mà tạo tội thì có tội. Nhưng nếu khi say hoàn toàn không biết gì, hoàn toàn không tự chủ được, như thế nếu tạo tội thì không có tội. Từ câu “Nay nhà vua, v.v…” trở xuống là hợp. Vua cũng như người say. Từ câu “Thí như nhà ảo thuật, v.v…” trở xuống là nêu chín dụ huyễn hóa để phá chấp thật có. Mỗi dụ đều có trước là dụ, sau là hợp. Dụ thứ nhất chính thức nêu huyễn hóa để phá thật có. Từ câu “Như trong cung vua, v.v…” trở xuống là thứ hai, phá chấp không có tâm từ, không bình đẳng. Xem nặng sự chết: Người nào xem nặng sự chết mà xem nhẹ sự sống. Nay chẳng nói cho nên xem nặng sự chết, bất luận là người hay thú đều cho khổ chết là nặng, vì thế tiếc giữ sinh mạng và sợ chết thì người và thú chẳng khác. Nếu y cứ theo kiết giới thì phạm với người thì nặng, phạm với thú thì nhẹ. Đó là y cứ theo nghiệp thiện ác đời quá khứ mà nói riêng, chẳng nên so sánh nhau. Nếu y cứ theo thí thực, thì đây là y cứ theo tâm bố thí đồng duyên thật tướng cho nên bình đẳng, đây cũng là nói riêng. Từ câu “Thí như Niết-bàn v.v…” trở xuống là đoạn ba, phá sự dính mắc hai bên mất lý. Như văn kinh có ghi. Kế là dùng sự giết để hợp dụ. Có ba phen hợp như văn kinh. Từ câu “Đại vương v.v…” trở xuống là kết luận khuyên quán hạnh. Trước khuyên quán vô thường. Kế là từ câu “Nếu giết vô thường v.v…” trở xuống là khuyên quán thường, lạc, v.v… Từ câu “Bấy giờ,…” trở xuống là đoạn ba, vâng hành. Văn có hai: trước nói về quán hạnh, sau nói về phát tâm. Quán hạnh có ba: một, là chính thức quán; hai, là thưa hỏi Phật; ba, là tự vui mừng. Văn đầu tiên nói quán vô thường, lại nói thường là vì sao? Nếu chẳng quán thường thì chẳng biết quán vô thường. Nhờ quán thường và vô thường mà thông đạt được chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Từ câu “Quán rồi v.v…” trở xuống là thứ hai, thưa hỏi Phật. Thứ ba, từ câu “Xưa con có nghe v.v…” trở xuống là nói vua tự vui mừng. Lại có ba: một, là nhờ Phật che mát. Kế từ câu “Như núi Tu-di v.v…” là nói về đồng hiểu như Phật. Thứ ba từ câu “Con thấy v.v…” trở xuống là tự vui. Vô căn tín, tức khi xưa năm căn chưa lập, nay mới được tín, nên nói là vô căn. Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn, nếu con không gặp, v.v…” trở xuống là ý thứ hai nói về phát tâm. Văn có ba: Một, là chỉ nói vua phát tâm; hai, là phu nhân và quyến thuộc phát tâm; ba, là vua lui về. Vua phát tâm có ba ý: một, là vua phát tâm. Hai, là Như Lai ấn chứng. Ba, vua lại phát tâm. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là nói vua và quyến thuộc phát tâm. Văn có ba đoạn: một, là phát tâm; hai, là cúng dường khen ngợi; ba, là Như Lai nói lại để ấn chứng. Thứ nhất, chánh phát tâm có ba ý: một, là người trong nước; hai, là vua và phu nhân; ba, là vua vui mừng. Người trong nước phát tâm khiến tội của vua nhẹ bớt, đó là duyên xa để diệt tội. Vì sao? Vì chúng sinh bệnh nên Bồ-tát bệnh; chúng sinh hết bệnh thì Bồ-tát cũng hết bệnh. Nếu y cứ theo văn này thì phát tâm đối với Phật Tỳ-bà-thi nên chẳng đọa. Nếu y theo kinh A-xà-thế Vương thì đã từng phát tâm Bồ-đề đối với bảy mươi hai ức Đức Phật. Từ câu “Nói lời này xong v.v…” trở xuống là ý thứ hai, cúng dường khen ngợi. Có hai phần: Một, là vài dòng văn xuôi là thân nghiệp cúng dường. Kế là các bài kệ, thuộc về khẩu nghiệp cúng dường. Gồm sáu mươi hai câu, chia làm hai đoạn: một, gồm ba mươi tám câu đầu là khen ngợi; hai, là gồm hai mươi bốn câu sau là lời phát nguyện. Trong ba mươi tám câu đầu lại chia thành ba đoạn nhỏ: một, là gồm ba mươi câu đầu là khen ngợi khẩu mật; hai, là gồm bốn câu, khen ngợi ý mật; ba, là gồm bốn câu khen ngợi thân mật. Khen ngợi khẩu mật lại chia làm ba: một, là gồm mười hai câu đầu khen ngợi thật ngữ; hai, là gồm sáu câu kế tiếp khen ngợi lời hòa dịu; ba, là gồm mười hai câu cuối khen ngợi lời có Đệ nhất nghóa. Thật ngữ đối với lời luống dối, lời nhu hòa đối lại với lời thô cứng, lời thuận nghóa đối lại với lời thêu dệt. Lẽ ra nên có lời hòa hợp đối với lời hai chiều chia rẽ, cho nên không có là do văn đã lược bỏ. Vả lại, thật ngữ thì gồm cả lời hòa hợp. Thứ hai là khen ngợi ý nghiệp, tức là đức đại từ. Thứ ba là khen thân nghiệp, vì chúng sinh mà nói thị hiện. Từ câu “nay con v.v…” trở xuống là phần hai, có hai mươi bốn câu kệ phát nguyện sám hối, tức năm ý sám hối. Thứ nhất có bốn câu nói về hồi hướng. Thứ hai, có bốn câu nói về khuyến thỉnh. Thứ ba, có bốn câu nói về tùy hỷ. Thứ tư, có bốn câu về sám hối. Thứ năm, có tám câu nói về phát nguyện. Thứ nhất là bốn câu đầu nguyện phát sơ tâm. Kế là gồm bốn câu sau, cuối cùng thấy Phật tánh. Từ câu “Bấy giờ, Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn ba, Đức Thế Tôn thuật lại và chấp nhận. Văn có ba đoạn: một, là thuật về hiện đời của vua. vua. Thứ hai, là từ câu “Từ xưa v.v…” trở xuống là nói về quá khứ của Thứ ba, Từ câu “Từ nay về sau v.v…” trở xuống là nói về vị lai của vua, tức là khuyên tu. Trong kinh Thế Vương cho là Phật nói, Văn-thù nói tội nặng của vua như núi Tu-di đều tiêu diệt, chỉ còn một mảy may nhỏ như hạt cải, nên cũng rơi vào địa ngục Tân-trá. Dù ở trong đó nhưng chẳng bị đau khổ, lại được thọ ký thành Phật hiệu là Duy-thủ-đà-duy-sa-da, Hán dịch là Tịnh Kỳ Sở Lãng. Thứ ba, vua trở về kinh. Nói Thiên Hạnh là chỉ xa cho Tạp Hoa. ---------------------------------- <詞>PHẨM 21: ANH NHI HẠNH Đây là lần thứ ba nói về hạnh trẻ thơ, có Sư cho rằng nhờ dụ để đặt tên, lấy quyền trí làm thể, lấy giáo hóa chúng sinh làm dụng. Nay cho rằng Niết-bàn chẳng phải Đại Tiểu. Tiểu tức trẻ thơ, Đại là hạnh Như Lai. Quyền trí làm thể, thường ban cho lá vàng. Đó chẳng thể nói ở hạnh Như Lai. Văn có ba đoạn: Nói về trẻ thơ Giải thích ý nghóa trẻ thơ Kết thành quả trẻ thơ Hai phẩm Thánh hạnh và Phạm hạnh ở trên đều chia ra như thế, ở đây cũng chẳng nên làm khác. Đoạn thứ nhất lại chia ra làm hai: Nói về viên hạnh trẻ thơ Nói về thiên hạnh trẻ thơ Các sư giải thích rằng việc “chẳng thể đứng dậy, chẳng thể nói năng” là bản địa trẻ thơ. Nghóa này chẳng đúng. Ông nói trẻ thơ là hạnh hóa tha, vậy bản địa là giáo hóa ai. Nay nói bản địa chẳng phải Đại chẳng phải Tiểu mà có khả năng khởi hai hạnh giáo hóa Đại Tiểu, lập hai hạnh Anh Nhi Đại Tiểu. Về viên hạnh trẻ thơ. Văn kinh có hai đoạn là dụ và hợp. Dụ có bốn: Một, là chẳng thể đứng dậy; hai, là chẳng thể đứng; ba, là chẳng thể đến đi; bốn, là chẳng thể nói năng. Chẳng đứng dậy được là dụ cho thường, chẳng khởi tướng hai bên, Trung đạo của các pháp; chẳng trụ là dụ cho Tịnh, chẳng chấp sinh tử, Niết-bàn; chẳng đến đi là dụ cho Ngã, tức chẳng phải từ cạn đến sâu, dao động kia đây; chẳng nói năng dụ cho Lạc, tức Niết-bàn vắng lặng chẳng thể nói năng. Viên hạnh trẻ thơ này từ lúc mới phát tâm đã thường quán bốn đức Niết-bàn mà hành đạo, nên nói chẳng thể đứng dậy, đứng vững, đến đi, nói năng, kêu gọi. Trẻ thơ này là hạnh Như Lai. Đức Phật lập hạnh này để dẫn dắùt người thượng căn. Năng hóa, sở hóa đều thực hành bốn đức, đều là hạnh Như Lai. Vì thế gọi hạnh Như Lai là hạnh trẻ thơ. Hai hạnh Thánh và Phạm ở trên, trước đều có giải thích hạnh thứ lớp, sau giải thích hạnh viên mãn. Phẩm này trước giải thích hạnh viên mãn, sau mới nói đến hạnh thứ lớp, đó là trước sau ứng duyên tự tại. Từ câu “Như Lai v.v…” trở xuống là hợp với bốn dụ ở trên. Hợp ba dụ ở trước gồm ba câu, như văn kinh có ghi. Kế là hợp với câu “Chẳng nói năng”, có bốn: Một, là vì rốt ráo, nên chẳng thể nói, cho đến Đại Niết-bàn; hai, là nói thuyết tức không thuyết nên chẳng thể nói năng; ba, là lời bí mật, chúng sinh chẳng hiểu nên chẳng thể nói năng; bốn, là nói về tùy loại khác nhau, tùy âm giọng của người, chứ đối với Như Lai chẳng phải là lời nói, vì chẳng phải là lời nên chẳng thể nói. Rốt ráo là lạc, tức nói vô thường là thường, bí mật chẳng hiển là tịnh, tùy loại là ngã. Trong chẳng thể nói lại có bốn đức thì ba nghóa trước lẽ ra cũng có như thế. Từ câu “Lại trẻ thơ, v.v…” trở xuống là thứ ba, nói về thiên hạnh trẻ thơ. Văn có năm đoạn: một, là Đại tự Anh Nhi; hai, là Vô tri Anh Nhi; ba, là Bất tác Anh nhi; bốn, là Hoàng diệp Anh nhi; năm, là Hân yểm Anh Nhi. Thứ nhất lại có hai là dụ và hợp. Dụ thứ nhất nói chữ cái như chữ bà, hòa, chính là lấy chữ Hòa làm chữ cái. Đó là Anh nhi Bồ-tát sáu Độ. Bồ-tát này trong ba a-tăng-kỳ kiếp gieo trồng nhân tướng tốt, chí cầu thành Phật. Phật này là Phật hữu vi, bán tự, vô thường. Cho nên biết dùng chữ Hòa Anh nhi này mà hợp với văn dụ, thì giải thích rất rõ ràng. Thứ hai, là từ câu “Lại trẻ thơ v.v..” trở xuống là nói trẻ thơ vô tri, gồm có dụ và hợp. Đại Bồ-tát cũng như thế, vì chúng sinh nên chẳng thấy khổ vui, ngày đêm, tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, nên không có các tướng cha mẹ, thân sơ, v.v… Trong dụ có nêu sáu từ, trong đó không khổ vui là chẳng lấy bỏ, không có ngày đêm là không yêu ghét. Xét văn dụ thì dường như tự hành. Trong phần hợp thì hợp với Bồ-tát hóa tha, nên biết đó là hiển bày cho nhau, trước sau đều lấy Như Lai để hợp dụ. Còn hai ý ở giữa thì dùng Bồ-tát để hợp dụ. Đó là tự hiển bày nhau, Phật và Bồ-tát đều thực hành hạnh trẻ thơ. Văn sau nói: “Ca-diếp và chín mươi ba vạn người đều có năm hạnh này v.v…” Vô tri là hạnh trẻ thơ của Bồ-tát Thông giáo, đạt được tướng huyễn hóa, khổ vui bình đẳng, oán thân chẳng hai. Giải như thế văn hợp thật rõ ràng. Từ câu “Trẻ thơ, v.v…” trở xuống là nói trẻ thơ chẳng tạo tác, văn gồm có dụ và hợp. Trong dụ nói: “Chẳng gây tội đại nghịch, chẳng thực hành Tiểu thừa, đây là hạnh trẻ thơ của Bồ-tát Biệt giáo”. Kế là văn hợp thì nói: “Không có năm tội nghịch, không có tâm Nhị thừa v.v… tức chẳng phải sinh tử, chẳng phải Niết-bàn, mà chính là hành hạnh Bồ-tát Trung đạo”. Thứ tư, Từ câu “trẻ thơ, v.v…” trở xuống là Hoàng diệp Anh nhi, tức dùng lá vàng dỗ đứa trẻ khóc. Cha mẹ dùng lá cây thông vàng đưa cho đứa bé, bảo rằng: “Nín đi! Nín đi! Cha mẹ sẽ cho con vàng đây”. Đứa bé tưởng thật liền nín khóc. Lá vàng này thật chẳng phải là vàng. Tất cả trâu gỗ, ngựa gỗ, rối nam gỗ, rối nữ gỗ, đứa bé thấy tưởng là người thật, vật thật liền nín khóc. Vì chẳng phải người nam người nữ v.v… thật mà tưởng là thật nên nói là thẻ thơ. Trong dụ nói cây thông là dụ cho vọng thường, lá vàng dụ cho vọng tịnh, trâu gỗ ngựa gỗ dụ cho vọng lạc, rối nam rối nữ gỗ dụ cho vọng ngã. Kế đó văn hợp tức hợp với Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Trong đó theo nghóa mà suy lẽ ra cũng có nói về bốn điên đảo Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của cõi người nhưng văn đã lược bỏ không ghi. Thứ năm, từ “trẻ thơ, v.v…” trở xuống là nói về trẻ thơ thích chán, nói thẳng vào pháp mà không lập dụ. Văn có hai là lược nêu và giải thích. Khi chán sinh tử thì nói Nhị thừa tức là nêu lên từ câu “Nhưng thật v.v…” trở xuống là giải thích. Văn có hai là lược giải và nói rộng. Đầu tiên là lược nêu, nói biết sinh tử tội khổ là biết khổ tập, thấy Niết-bàn an vui tức là biết diệt đạo. Kế là giải thích rộng, nói có dứt và chẳng dứt là y cứ theo Tập đế, chánh sử thì có dứt mà tập khí thì chẳng thể dứt. Có chân và chẳng chân là y cứ theo Khổ đế; trong sinh tử không có Niết-bàn thì chẳng có chân; lìa sinh tử thì được Niết-bàn tức là có chân. Có tu và không tu là y cứ theo Đạo đế; bốn đảo luống dối là chẳng tu; bốn Niệm xứ v.v… là tu. Có đắc, không đắc là y cứ theo Diệt đế; có lợi sử, độn sử là không đắc. Nhưng ở đây thì trước nói về Đạo, sau nói về Diệt. Vì nếu là người Tiểu thừa độn căn cầu quả tu nhân thì Diệt trước Đạo sau, Trung thừa lợi căn đạo trước diệt sau ở đây cũng không còn. Hỏi: Ở đây chỉ nói năm loại trẻ thơ, vì sao ở trên chỉ nói năm Phạm hạnh, năm Thánh hạnh? Đáp: Hai hạnh ấy nếu xét theo văn thì chẳng có nhưng theo nghóa đế suy thì cũng có. Nói nghóa tức là dùng tâm Đại Niết-bàn tu ba phẩm như Thánh Hạnh của Bồ-tát Biệt giáo. chư Phật nói xong hàng Thanh văn, Duyên giác thọ trì, thì thành hạnh thánh của Nhị thừa. Nhị thừa đã có thể vâng hành, cho nên biết trời người, Thông biệt sáu độ đều có thể tùy phần, tùy thuyết mà vâng hành. Do đó mà biết có năm loại. Trong Phạm hạnh thì chín phẩm tăng tu tức là Phạm hạnh của Bồ-tát Biệt giáo. Từ là căn bản của tất cả pháp lành, tự nhiên có thể gồm thâu được tất cả phạm hạnh, bốn tâm vô lượng của Thanh văn, sáu độ của Bồ-tát Thông giáo trời người. Vì sao biết như thế? Vì hạnh trẻ thơ đồng với điều thiện nhỏ, điều thiện nhỏ chẳng phải một nên kể đủ năm hạnh trẻ thơ thiện. Thánh hạnh chính là tự hành chỉ nói về thứ lớp và chẳng thứ lớp nên chẳng kể các hạnh khác. Phạm hạnh là tịnh hạnh hóa tha, chỉ nêu phạm hạnh thứ lớp và thứ lớp của Phật Bồ-tát, còn sáu độ Bồ-tát Thông giáo tuy có tha hóa nhưng một là có đủ các hoặc, hai là có một nửa hoặc, chẳng phải là phạm hạnh thanh tịnh nên chẳng kể. Nhị thừa và Trời người thì không có hạnh hóa tha nên cũng chẳng kể. Có hoặc không đại khái như thế. Từ câu “này người thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích ý nghóa dụ trẻ thơ. Văn có ba: một là nêu lại ví dụ; hai là hợp dụ; ba là giải thích. Nêu vàng ròng dụ cho vọng tịnh; trâu ngựa dụ cho vọng lạc; phi đạo dụ cho vọng thường; rối nam rối nữ gỗ dụ cho vọng ngã. Thứ hai là hợp dụ. Như Lai cũng như thế, tức chỉ hợp với một câu người. Rối nam, rối nữ gỗ, ba ý kia cũng có thể tự hiểu. Thứ ba, từ câu “Nếu Phật v.v…” trở xuống là giải thích. Đã biết là vọng, vì sao lại dối gạt chúng sinh? Nếu chẳng dùng vọng để dẫn dắt thì sẽ bị rơi vào tà nhân quả, không thể ra khỏi. Nay dùng vọng dẫn dụ để phá tà nhân thì nhân trói buộc tư tưởng chúng sinh bị phá. Đó gọi là phá tướng chúng sinh, tướng chúng sinh bị phá là do vọng dẫn dắt. Hạnh trẻ thơ của trời và người ý nghóa như thế thì các hạnh trẻ thơ khác có thể tự hiểu. Từ câu “nếu đối với chúng sinh v.v…” trở xuống là đoạn ba nói về quả của hạnh trẻ thơ. Nếu đối với chúng sinh mà khởi tưởng chúng sinh thì đó là trẻ thơ, chẳng phải hạnh trẻ thơ. Vì đối với chúng sinh chẳng khởi tưởng là chúng sinh nên mới phá được tướng chúng sinh, đó là hạnh trẻ thơ thành tựu. Hạnh thành thì nín khóc, quả thành thì được Niết-bàn hoàn toàn. Văn nói về quả thật rõ ràng như thế mà xưa nay chẳng thấy là vì sao? Ở trước, hạnh Thánh và phạm hạnh thì nhất định quả gần, tức ở Sơ địa. Ở đây, hạnh trẻ thơ thì nhất định quả rất xa. Xa gần hiển bày cho nhau chớ nên chấp nghiêng về một bên. Hơn nữa Sơ địa cũng có thường, lạc, ngã, tịnh, cũng gọi là Đại Niết-bàn. Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn lớn thứ ba, chỉ kết luận năm hạnh thứ lớp. Văn có ba đoạn ngắn: một là tổng kết; hai là ngài Ca-diếp lãnh hội ý chỉ; ba là Đức Phật thuật lại, như văn kinh có ghi.  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 20 <詞>PHẨM 22: ĐỨC VƯƠNG (PHẦN 1) Dao Lượng cho rằng năm hạnh là lược, mười đức là rộng. Công đức thứ nhất, thứ hai là nói rộng về hạnh, cho đến công đức thứ chín, thứ mười là nói rộng về hạnh bệnh. Thái Xương Tông cho rằng từ công đức thứ nhất đến thứ sáu là nói rộng về ba hạnh trước. Chỉ nói về tương ưng, bốn công đức là nói rộng về hai hạnh sau, hoàn toàn không tương ưng. Quang Trạch cho rằng năm hạnh và mười đức chỉ có một thể mà nghóa khác, đồng là nhân lành, phát khởi từ ngoại phàm, cuối cùng đến Vô học, cảm được tập quả về sau, đó gọi là Hạnh, đáp trả tập nhân ở trước thì gọi là công đức. Cho nên hạnh là nhân, đức là quả. Khai Thiện cho rằng năm hạnh là y cứ theo nghóa cạn, mười đức là y theo nghóa sâu xa. Năm hạnh thì khởi khi nghe kinh mà cùng đạt Sơ địa. Mười đức là khởi từ Sơ địa, cuối cùng tại tâm Kim cương. Cho nên đầu phẩm đã khen ngợi và chẳng chung cho Thanh văn, Duyên giác, người nghe sinh kinh sợ. Công đức thứ sáu lấy tâm Kim cương làm thể. Hà Tây cho rằng năm hạnh là nhân Niết-bàn, chỉ thú sâu xa, e rằng chẳng thể tu tập nên mới nêu mười đức trang nghiêm, khuyến khích người tu học. Ở đây cho rằng tất cả các thuyết đều chẳng đúng. Hai vị trước cho rằng mở rộng và tóm lược đối nhau, nghóa không tương ưng như lời nói của họ. Quang Trạch thì nói tập nhân, tập quả là giai vị Bồ-tát, chẳng quan hệ gì đến Phật thừa. Khai Thiện cho rằng hạnh cạn đức sâu, văn kinh ghi: “Công đức thứ chín, đầu tiên là phát khởi năm việc, tất cả đều thành tựu”. Việc này chẳng nên nói là sâu. Hạnh thánh lấy tâm Đại Niết-bàn tu tập, còn hạnh trẻ thơ nói là được Đại Niết-bàn, điều này đâu thể nói là cạn mỏng. Hà Tây cho là lời khen ngợi khuyến khích, khen ngợi khuyến khích thì chung cho tất cả, chỗ nào chẳng có khuyên, xét các lời văn ấy thì chẳng hợp với kinh. Tất cả đều chẳng sử dụng được. Nay y cứ theo văn kinh thì Bồ-tát nên tu năm hạnh, hạnh tức là tu. Kinh ghi: “Bồ-tát tu tập kinh Đại-Niết-bàn được mười công đức về sự”. Đó há chẳng phải là chứng ư? Ba hạnh Thánh ở trước, mỗi hạnh đều có nói quả của hạnh nhưng văn ít. Sau nói mười công đức đều là nói rõ về tu mà văn thì rộng nhiều, sự thì hiển rõ, cho nên xếp hạnh là tu và lấy đức làm chứng đắc. Toàn phẩm được chia thành ba phần: 1 Phật nói mười công đức. 2 Bồ-tát cao quý thọ lãnh, tin hiểu. 3 Tổng kết. Thứ nhất lại có hai đoạn: 1 Nêu chung số mười. 2 Giải thích riêng. Nêu số lượng có ba ý: Một là hữu đối; hai là nêu số lượng; ba là khen ngợi. Người được chỉ bảo, nói Quang Minh Biến Chiếu tức là nói ngoại hóa rất rộng, Cao Quý Đức Vương tức là nói về nội hạnh rất sâu. Lại Quang Minh là Bát-nhã; Cao Quý là Pháp thân; Đức Vương là Giải thoát. Giải thoát gồm thâu các pháp giống như vua, lý Bát-nhã trùm khắp nên nói Biến chiếu, pháp tánh tôn quý cùng tột nên cao quý. Dùng ba đức đồng đủ để đặt tên cho một người. Từ đức đặt tên, từ người đề phẩm. Nói thẳng mười công đức chứ không kể tên từng công đức một. Trong phẩm giải thích riêng nói nêu tên. Thứ ba, là khen ngợi. Hà Tây cho rằng bản Phạm ghi: “Ít có, kỳ lạ, hàng độn căn tiểu trí khi nghe đến thì kinh sợ” mà người dịch đã lược bớt “ít có, kỳ lạ” chỉ còn lại chín câu. Chỉ là cảnh giới của Phật chẳng chung cho Tiểu thừa, vì đường ngôn ngữ dứt, cảnh tâm hành bặt, chẳng thể nghó bàn. Vì sâu xa không đáy nên kinh; vì rộng lớn không bờ nên sợ; vì trí tuệ Nê-hoàn chẳng ghé vào được nên dễ; vì vô sắc nên chẳng phải tướng; vì vô tâm nên chẳng phải chẳng tướng; vì chẳng quá khứ, vị lai, hiện tại nên chẳng phải thế pháp; không phải tự biên, không phải Trung đạo nên chẳng có tướng mạo; bặt bốn câu, lìa trăm lỗi nên thế gian chẳng có. Từ câu “mười công đức là gì v.v…” là phần thứ hai phân cách giải thích. Trước là nêu lên. Kế đến là chánh thức giải thích. Gồm có mười chương, các sư xưa chia phần này khác nhau. Trị Thành chia làm hai vòng, từ công đức thứ nhất là chẳng nghe mà nghe, từ cạn đến sâu, đến công đức thứ sáu là Kim Cương Tam-muội thành một vòng. Từ công đức thứ bảy lại vừa phát tâm, đến công đức thứ mười tu ba mươi bảy phẩm thấy Phật tánh là một vòng. Khai Thiện lập ra ba vòng: Vòng thứ nhất như Trị Thành đã chia; vòng thứ hai là công đức thứ bảy, thứ tám từ bạn lành sinh tức là duyên ngoài; vòng thứ ba là công đức thứ chín, thứ mười do tín tâm mà được tức là nhân trong. Nếu nay so sánh với Pháp Hoa mà chia làm ba vòng là Pháp, Dụ và Nhân duyên thì đều lặp lại các nghóa trước nên gọi là ba vòng. Nay danh nghóa của công đức ở đây đều hoàn toàn khác trước, đâu đồng với ba hàng nên chỉ vẫn theo văn lập mười chương mà không chia thành các vòng. Thứ nhất có ba: Một, là nêu năm việc; hai, là nói về nghóa; ba, là kết luận. Nêu năm việc lại có ba đoạn: Một, là nêu năm chương; hai, kể tên năm chương; ba, là giải thích riêng. Xưa nói năm việc là ba tuệ. Việc thứ nhất là Văn tuệ, thứ hai là Tư tuệ, ba việc sau là Tu tuệ. Có chỗ cho rằng hai việc đầu thuộc Văn tuệ và tư tuệ; hai việc giữa là công đức của Văn và Tư. Một việc sau là tu tuệ. Hưng Hoàng cho rằng một việc đầu là gốc, bốn việc sau thành tựu cho nhau, tức là do nghe mà được lợi ích, có lợi ích cho nên dứt nghi, dứt nghi rồi thì được chánh trực, vì chánh trực nên biết tạng Bí mật. Nay chẳng cho là như thế, nói ba tuệ chỉ là tự đạo. Còn kinh này rõ ràng nói tu Đại Niết-bàn đạt được mười công đức, chân chứng rõ ràng nhiên như thế còn chẳng dùng được Biệt giáo chân đạo để giải thích, thì làm sao dùng Tiểu thừa nương tựa đạo để giải thích? Cho nên cách biệt với văn kinh quá xa. Hưng Hoàng cho năm pháp làm nhân duyên cho nhau cũng chẳng đúng. Nhập chứng đạo là ở tâm chứ chẳng phải trước sau, chẳng phải khi còn tu hạnh, huống chi khi đã chứng mà còn có thứ lớp ư? Văn kinh nói về chứng đắc mà giải thích về tu, văn kinh nói bất cộng mà dùng cộng giáo để giải thích. Văn nói chẳng nghe mà nghe, mà giải thích là từ người khác nghe. Văn nói không nghó bàn mà nghó bàn giải thích. Văn nói bí mật mà giải thích hiển bày. Văn nói về viên bị mà nghiêng về, khuyết để giải thích, văn nói kinh sợ mà dùng tâm thường để giải thích. Văn nói không khác nhau mà dùng khác nhau để giải thích. Văn nói Trung đạo mà dùng hai bên để giải thích. Nếu y theo văn thì không có mười lỗi, chẳng biết vì sao lại chống trái với kinh Phật. Xin hỏi riêng người hậu học. Nay hãy xem văn nói về năm pháp của công đức thứ nhất: Nói chẳng nghe ma nghe tức là còn xen lẫn chút nhân tướng, nghe rồi được lợi ích v.v… thì hoàn toàn là tên được lập trên quả. Đầu tiên, là phần nhiều đã đặt tên từ quả, thì chín công đức kia dẫn tựa tu nhân thì cũng là hạnh trong chứng. Ngài Chương An lập bao nhiêu lời thì ý nghóa cũng giống như thế. Cho đến xét kỹ văn của chín câu khác cũng đều thuận theo nơi tu nơi chứng. Cho nên biết, hễ giải thích kinh thì phải xét văn để được nghóa và y nghóa để giải văn, nếu chẳng như thế thì chỉ mờ mịt giải văn, sẽ vời lấy sai lầm mà thôi. Thứ ba, là giải thích năm pháp. Văn tự thì có năm đoạn: một, là giải thích chẳng nghe mà nghe. Gồm có ba ý là nêu lên, giải thích và kết luận. Nếu chẳng nghe mà nghe tức là viên chứng diệu ngộ phát sinh Giải thoát nên gọi là nghe, chứ chẳng phải từ người khác mà lãnh thọ. Nếu từ người khác mà nghe tức là nghe nghe, chứ đâu thể nói chẳng nghe mà nghe. Kế là từ câu “Đó là nghóa v.v…” trở xuống là phần giải thích. Tức là giải thích nghe tròn đầy. Một là nghe tất cả đều nghe chẳng thể nói hết. Ở đây chỉ nêu ba loại: Một, là chẳng nghe mà nghe (Đệ nhất nghóa đế); hai, chẳng nghe mà nghe (Tục đế); ba, chẳng nghe mà nghe (Chân đế). ba Đế ba pháp một tâm này, chẳng trước chẳng sau, chẳng cạn chẳng sâu, cho nên nói chẳng chung cho Thanh văn và Bích-Chi-Phật. Hàng Nhị thừa chẳng bao giờ chứng Trung đạo đế nên chẳng cùng chung, chẳng chứng Tục đế nên chẳng cùng chung. Tuy chứng chân nhưng chẳng biết bí mật của chân nên cũng chẳng cùng chung. Vì chẳng cùng chung như thế cho nên kinh sợ, cho đến chẳng phải thế pháp, khen ngợi tức là khen ngợi điều này. Nay y cứ theo loại thứ nhất là Đệ nhất nghóa nghe mà chẳng nghe. Văn có hai là nêu chung và giải thích chung. Đầu tiên là nêu năm nghóa: Một, Phật tánh. Hai, Nhất thế Tam bảo. Ba, Bốn đức. Bốn, Niết-bàn thường trụ. Năm, là Niết-bàn của Như Lai. Kế là giải thích chung. Trong mỗi việc đều có chứa đựng nghóa Trung đạo sâu xa, gồm có hai mươi câu tiêu biểu, còn tất cả cũng giống như thế. Kế là từ câu “lại có điều chẳng nghe v.v…” trở xuống là thứ hai nói Tục đế chẳng phải nghe mà nghe. Nói về các pháp thế tục, căn bản chỉ có ba loại ngoại đạo, mỗi loại đều có kinh sách riêng. Nhưng ở đây chỉ kể Ca-tỳ-la, Ưu-lâu-khư mà chẳng nêu Lặc-sa-bà là văn kinh lược bỏ. Hơn nữa, Ca-tỳ-la chấp một tức ấm là ngã, Ưu-lâu chấp hai, khác ấm là ngã, Lặc-sa-bà chấp vừa một vừa hai, cũng tức là ấm, cũng khác ấm là ngã, hơi giống với hai ngoại đạo kia nên chẳng nói. Từ câu “Lại có v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về Chân đế chẳng nghe mà nghe. Pháp Chân đế cũng có hai là nghe pháp Chân đế và nghe Bí mật. Đều nói nhân kinh này mà được nghe, tức là nghóa viên chứng. Trong Tỳ-phật-lược nói Tam bảo nhất thể, Phật tánh, thường trụ Niết- bàn. Tiểu thừa không có nên trừ ra. Thứ ba kết luận như văn. Kế là giải thích nghe rồi được lợi ích. Văn cũng có ba là nêu ra, giải thích và kết luận. Nêu lên lợi ích của chứng đắc, chẳng phải lợi ích có thể nghó bàn. Văn ghi: “Được gần Tam-bồ-đề”, Nếu là Tư tuệ thì vẫn chưa phát được chân giải, nói chi đến nghóa gần. Kế là giải thích, có hai là lược và rộng. Lược nêu có hai: một là nêu nguyên do, nên nói là “nghe nhận”. Hai, là hiển bày chân chứng. Đây là một tâm ba trí, nêu được ba việc để dụ. Chân trí chiếu lý như bóng hiện trong gương; giả trí chiếu sư như đuốc soi bên ngoài; Trung trí viên chiếu như mặt trời soi khắp. Luận nói ba lần để làm người dễ hiểu. Khi đã chứng thì trong một tâm có đủ ba trí. Thứ hai, từ câu “Nếu có Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói rộng về lợi ích. Văn có hai đoạn: một, là nêu nguyên do. Xét lần lượt qua bốn pháp để nói về lợi ích. Nói chẳng từ người khác nghe là từ lợi ích của chân chứng mà tự biết gần Tam-bồ-đề, cho nên biết là chẳng phải tư tuệ. Thứ ba là kết luận, như văn kinh có ghi. Nói lợi ích là nội chứng, nói dứt nghi là ngoại luận biện, cũng gọi là xa lìa, là trí đoạn, sáng đến thì bóng tối tan biến, trước sau làm sáng tỏ cho nhau, đồng hiển bày công đức viên chứng. Xưa nói đó là công đức của Văn, Tư. Vậy nếu là văn tư của Tiểu thừa thì không hề văn tư nghóa Phật tánh. Nay lập nghóa lìa và đoạn thì hợp với nghóa chứng. Kế là giải thích văn, có hai: một, là nói lược nghóa xa lìa; hai, là giải thích rộng nghóa xa lìa. Nói lược có ba phần: một, là lìa hai nghi về danh và nghóa; hai, lìa nghi về tám điên đảo; ba, là nghi về quyền thật. Đầu tiên lìa nghi về danh nghóa rất dễ biết. Kế là nói nghi tám đảo. Nghi Phật Niết-bàn là vô thường điên đảo, theo lý phải đủ tám điên đảo mà văn kinh lược bớt chỉ đem ba đơn đối với một cặp thành năm loại. Nói thêm rằng bốn điên đảo của Niết-bàn có chung và riêng khác nhau. Thứ ba là “Nghi có ba loại v.v…” trở xuống là nói lìa nghi về quyền thật. Nghi ba thừa là nghi về quyền, biết Phật tánh của chúng sinh là thật. Theo lý thì phải kể đến Phật tánh, nhưng nay văn chỉ hiển bày cho nhau. Từ câu “Lại nữa v.v…” trở xuống là ý thứ hai, giải thích rộng về xa lìa. Văn có ba: Lìa các nghi, lấy vô thường làm đầu, tức là nghi đối với thật pháp. Từ câu “Sắc là ngã v.v…” trở xuống là nghi về giả danh. Từ câu “Bốn tội trọng, năm tội nghịch v.v…” trở xuống là lìa y báo và chánh báo. Năm tội nghịch bốn tội trọng là y cứ chánh báo để nói về ác nặng. Có Phật tánh, không có Phật tánh là y cứ chánh báo để nói về cực thiện. Thế giới hữu biên, vô biên là y báo. Thứ nhất như văn kinh có ghi. Kế là trong giả danh nói: “Pháp sinh tử có đầu có cuối” nói có đầu có cuối là sở chấp của ngoại đạo tà kiến. Nội đạo cũng có: Thuyết cho rằng sinh tử đều không có đầu cuối, mười hai nhân duyên trôi lăn không bờ mé. cuối. Cho rằng một niệm vô minh là đầu, sau Kim cương tâm là Cho rằng vô thỉ mà có chung. Kinh nói vô thỉ vô minh tức là vô thỉ đến quả Phật tức có chung. Nếu nhất định lập ba chấp ở trên tức là gây tranh luận đến khi chân chứng thì liền được xa lìa. Từ câu “Nghe kinh này v.v…” trở xuống là kết luận. Thứ tư, là giải thích tuệ tâm ngay thẳng không cong vạy, gồm có ba là nêu lên; giải thích và kết luận. Thứ nhất, là trước nói bên trong chứng ba trí, bên ngoài là các nghi nhưng chưa biết trí nào. Nay nêu trí ngay thẳng, chẳng phải hai bên, vì thế nêu cả hai chương là ngay thẳng và tà vạy. Kế là giải thích. Đã biết hai bên thì ngay thẳng tự hiểu. Khi Bồ-tát tu hạnh thánh thì trừ được cong vạy của phàm phu và Nhị thừa. Nên biết năm hạnh là tu, cái thấy tà vạy đã dứt thì thấy biết được ngay thẳng. Vậy mười đức là chứng đã rõ, giải thích văn thấy tà vạy thì như văn đã ghi. Thứ ba, từ câu “Tu hành v.v…” trở xuống là kết luận. Thứ năm, giải thích nghóa bí mật cũng có ba là nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất nói “nếu biết được” tức là nêu lên. Trước nói không có tà vạy hai bên thì có tuệ Trung đạo ngay thẳng. Ở đây là nói tuệ khéo biết nghóa sâu kín. Kế là giải thích, có ba: Quả sâu kín. Nhân sâu kín. Chẳng thể nghó bàn sâu kín. Thứ nhất từ câu “thì đó là v.v…” trở xuống là nói Đại Bát-niết- bàn của Như Lai tức là quả sâu kín. Kế là từ câu “tất cả v.v…” trở xuống là y cứ theo nhân. Thứ ba là từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là y cứ theo nghóa chẳng thể nghó bàn. Hai câu “Thật không có ngã v.v…” “năm ấm hiện đời diệt tận v.v…” là mượn Không để nói Có. Bốn câu còn lại từ câu “Tuy có các nghiệp v.v…” trở xuống là nhờ vào Hữu để nói Không, nhờ vào có không để nói chẳng có chẳng không. Lại nhờ vào chẳng có chẳng không để nói về không chẳng thể nghó bàn, chẳng thể nghó bàn lại chẳng thể nghó bàn, U huyền lại u huyền. Y cứ theo không thể nghó bàn mà nói về sâu kín. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về nghóa, gồm có bốn: Đức Vương nói. Lưu Quang nói. Vô Úy nói. Đức Vương lại nói. Thứ nhất lại có hai là hỏi và khen ngợi. Phần hỏi lại có hai là lãnh chỉ và cung kính bác bỏ. Thứ hai là chiùnh thức hỏi. Ở trên tuy nói năm việc mà ở đây lại chiùnh thức hỏi về việc thứ nhất, có ba cặp: 1/ Một cặp về môn đoạt. 2/ Một cặp về môn buông. 3/ Một cặp về môn so sánh. Môn đoạt gồm có hai là pháp và dụ. Pháp thuyết gồm có ba phần: 1/ Y cứ chung theo có không mà đoạt. 2/ Y cứ vào chẳng nghe mà nghe để đoạt. 3/ Kết luận. Thứ nhất là y cứ vào có không mà đoạt gồm có hai là đoạt và ngăn chặn. Văn đoạt chia thành hai câu. Kế là từ câu “Nếu không thì lẽ ra chẳng sinh v.v…” trở xuống là ngăn chặn sinh diệt chẳng nên cho là một. Thứ hai, từ câu “Như có nghe v.v…” trở xuống là y cứ theo chẳng nghe mà nghe để đoạt. Từ câu “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là kết luận ấn định thành hai. một. hợp. Kế là từ câu “Vì sao?” v.v… trở xuống là ấn định chẳng phải Từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là phần dụ thuyết, trước dụ sau Trong dụ đoạt, gồm xếp ba dụ. Nói đến tức là tướng trụ, do nhân gì mà có đi? Đi đã chưa đến, cho nên cần phải đi. Sinh đã sinh rồi nên chẳng sinh nữa, nếu chẳng sinh tức là chẳng sinh, chẳng được thì chẳng được cũng y như thế, đều ấn định thành hai. Kế đến từ câu “Đã nghe v.v…” trở xuống là hợp dụ nhất định chẳng thể là một. Trong dụ, không có dụ về chẳng phải một, nhưng chỉ vì khai hợp để hiển bày cho nhau. Từ câu “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là cặp thứ hai gạn hỏi về môn buông. Có ba: một, là buông chúng sinh; lại có ba lần buông, một lần nêu, kế là buông về quả Phật, gồm một buông và một nêu ra bằng cớ, thứ ba, là kết luận lại hai lần buông. Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn! v.v…” trở xuống là cặp thứ ba so sánh gạn hỏi. Trước là y cứ theo sắc và thanh để so sánh. Kế là y cứ theo ba đời để so sánh. Thứ nhất như văn kinh có ghi. Sắc, chướng bên trong thì dễ thấy, chướng bên ngoài thì chẳng thể thấy. Sắc thô thì dễ thấy, sắc sâu kín thì chẳng thể thấy. Như cây trụ chỉ thấy một bên, còn các bên khác thì chẳng thấy. Sắc thế gian là có thể thấy và chẳng thể thấy, huống chi Niết-bàn mầu nhiệm làm sao thấy được? Âm thanh cũng như thế. Kế là y cứ theo ba đời. Ba đời là pháp hữu vi chẳng thể thấy, huống chi Niết-bàn vô vi thấy nghe được hay sao? Từ câu “Bấy giờ v.v…” là đoạn hai, Phật khen ngợi và trả lời. Xưa nói đây là lời khen ngợi chứ chẳng phải lời đáp. Nay thì cho rằng đó cũng là lời đáp. Vì Bồ-tát Đức Vương dùng định tướng để gạn hỏi Phật, thì Phật lại nói các tướng huyễn v.v… đâu phải là định tướng, khiến các nghi đều dứt trừ, nên đó là lời khen ngợi đáp nghi. Bồ-tát Lưu Ly Quang phát ra ánh sáng đến chẳng phải xanh thấy là xanh, chẳng phải vàng thấy là vàng, đó đâu chẳng phải là chẳng nghe ư? Đó tức là hiện điềm lành để đáp. Sau đó Bồ-tát Lưu Ly Quang hỏi tức là đáp cả hai. Đức Vương không nghi nhưng vì đại chúng mà hỏi, giải thích căn bản như thế. Hà Tây cũng cho rằng khen ngợi là đáp chung, sau là biệt đáp riêng. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là thứ hai. Bồ-tát Lưu Ly Quang nói về nghóa. Văn có hai: Từ xa đến. Đến rồi thì nói về nghóa. Thứ nhất có hai: 1 Hiện tướng đến. 2 Chánh thức đến. Phần hiện tướng, trước nói phát ra ánh sáng, kế đến là hỏi đáp. Thứ nhất là phát ra ánh sáng. Đó là nhờ vào tướng lạ để giải thích câu hỏi trước tức là thụy đáp. Vì thị hiện tướng đến nên phát ra ánh sáng, đó là thể của ánh sáng. Đại chúng thấy ánh sáng là dụng của ánh sáng. Định Sư Tử Vương là định tự tại, chính là nói lên thể của ánh sáng không thể nghó bàn. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là thứ hai, hỏi và đáp. Văn có hai, trước nói về Bản, sau nói về Tích. Về Bản, văn có hai: Dùng vô ngôn để nói về Bản. Nhờ vào ngôn từ để nói về Bản. Đầu tiên bốn vị Bồ-tát lần lượt hỏi nhau mà đều im lặng, đó là để nói lên pháp vô ngôn, hai là để nói lên mối nghi này, nên để ngài Văn- thù giải đáp, tất cả các vị khác chẳng trả lời. Ngài Văn-thù hỏi Phật, Đức Phật im lặng. Đại chúng thấy Đức Phật im lặng cho rằng ngài Văn- thù đã thầm hiểu. Cho nên ngài Ca-diếp mới hỏi ngài Văn-thù. Ngài Văn-thù im lặng, đại chúng cho là ngài Ca-diếp thầm hiểu, cứ như thế mà chuyển dần đến năm trăm vị. Từ câu “Bấy giờ Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là nhờ lời để nói về bản. Đáp, có bảy phen. Sáu phen trước là phá tướng nhất định. Kế là nói về nhân duyên. Nay nói thêm rằng câu đáp về nhân duyên này là phá là lập. Nói nhân diệt vô minh tức là nghóa phá như sự im lặng và năm trăm vị Bồ- tát ở trước, được Bồ-đề sáng tỏ tức là lập như thế tục nói ở sau. Vả lại, trước là tự hành pháp lập nên tất cả đều im lặng, sau là vì người phá lập, cho nên đáp. Về nhân duyên của ánh sáng thì biết gốc của ánh sáng này chẳng hơn đèn bồ-đề. Cho nên ánh sáng này chẳng phải sắc mà hiện sắc, từ chân khởi ứng, từ nơi kia mà đến, phát ra ánh sáng vời các loại căn cơ, cho nên chẳng hiện mà hiện. Hỏi: Bồ-tát phát ra ánh sáng đâu thể là Thường trụ? Đáp: Có người cho rằng nhờ vào năng lực Phật nên có ánh sáng Thường trụ. Có người cho rằng Bồ-tát ấy là Phật nên tự có ánh sáng này. Từ câu “Phật bảo rằng v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói về Tích của ánh sáng, cũng có hỏi và đáp. Phật nói chớ nên nhập, tức là chớ nên nói về bản, nói về Thế đế tức là nên nói về Tích. Văn nói về tích có ba đoạn: Bồ-tát cõi này nói về cõi nước kia. Bồ-tát cõi kia nói về cõi này. Nói về Bồ-tát cõi kia muốn đến. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đoạn hai, Bồ-tát cõi kia đến. Chẳng phải Đức Phật kia không đáp được nhưng để nêu rõ đạo của chư Phật đồng nhau, muốn sinh pháp lành cho cõi này, diệt ác cho cõi kia, giúp cho được thấy tánh đắc đạo nên mới sai đến. Hỏi: Đạo của chư Phật đồng nhau, lẽ ra cõi kia sai đến cõi này, cõi này sai đến cõi kia? Đáp: Lẽ ra có sai đến nhưng văn lược chẳng nói, vả lại tùy theo vị Hóa chủ đề cử. Đức Phật này đề cử Bồ-tát kia nên Bồ-tát kia đến, lẽ ra Đức Phật kia đề cử Bồ-tát này nhưng văn lược chẳng nói. Hỏi: Thời Phật Ca-diếp là thời Phật thuần thiện nên không nói kinh này. Thời Đức Phật Thích-ca là đời ác trược vì đối với vô thường nên nói kinh thường. Đức Mãn Nguyệt Như Lai cũng ra đời vào thời thuần thiện, vì sao lại nói kinh này mà lời hỏi đồng với Bồ-tát Cao Quý Đức Vương? Đáp: Dùng Thường đối trị Vô thường thì cõi kia chẳng có nhưng vì hợp với vô thường nên thuận theo lý mà nói vì vậy nói là đồng. Vả lại, còn nói “xưa chưa được nghe mà nay được nghe” thì đúng là chẳng phải để đối trị. Lại vào thời Như Lai Ca-diếp cũng có căn cơ thường, vì sao chẳng nói kinh. Nay giải thích chẳng phải như thế, cõi kia tuy không có thuyết đối trị nhưng cũng có thuyết ba tất-đàn kia. Thời Như Lai Ca- diếp cũng giống như thế. Từ câu “Bấy giờ, Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là ý thứ hai, đã đến thì nói về nghóa. Văn có hai: Phụ nói về đến, đi. Chánh thức hỏi nghóa đã nghi ngờ. Văn thứ nhất hỏi trước đáp sau, đều tùy duyên chứ không nhất định. Ở đây trước là Phật hỏi, sau là Bồ-tát hỏi. Lại có phụ đối luận khác với phẩm Thuần-đà. Văn trên đối với Phật mà ngài Văn-thù phụ hỏi, tức là người thì phụ mà pháp chẳng phụ. Đây chính là hỏi về chẳng nghe mà nghe nhưng lại hỏi về đến đi. Vậy pháp là phụ, người chẳng phải phụ. Ý Phật hỏi là thầy thấy các pháp có đến đi mà đến, hay không đến đi mà đến? Bồ-tát Lưu Ly Quang v.v… là lời đáp gồm mười phen. Hai phen đầu là y cứ theo cảnh trước mắt mà nói không đến. Tám phen sau là y cứ theo mê ngộ. Ngộ thì không đến đi, mê thì có đến đi. Lưu Ly Quang nói về lý thì không có đến đi mà về tích thì có đến đi. Mê ngộ cũng như thế, tức đáp cả câu chẳng nghe mà nghe của Cao Quý Đức Vương. Từ câu “Bạch Thế Tôn v.v…” trở xuống là chánh thức nói về nghóa. Có bốn: Xin Phật chấp nhận. Hỏi đáp. Xét lại. Kết luận lời hỏi. Thứ nhất, như văn kinh có ghi. Kế là từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là hỏi. Nếu hỏi đủ thì phải là Bồ-tát Đức Vương nêu ba cặp sáu câu. Ở đây chỉ hỏi thẳng vào nghóa “nghe được điều chưa nghe” mà thôi. Như thế thì có ba điểm khác nhau: Đức Vương hỏi rộng, Lưu Ly hỏi lược. Đức Vương hỏi về chứng, Lưu Ly hỏi về tu. Đức Vương hỏi “Chẳng nghe mà nghe”, Lưu Ly hỏi nghóa “Nghe điều chẳng nghe”. Như thế làm thế nào để hội thông hai văn. Giải thích: Bồ-tát Lưu Ly lúc ở cõi mình đã hỏi đủ ba cặp, đại chúng đã nghe rồi nên nay hỏi lược. Đức Vương hỏi chung về chứng của năm hạnh, chứng là sự thể ngộ bên trong, chẳng do nghe bên ngoài mà được nên hỏi nghóa chẳng nghe mà nghe. Bồ-tát Lưu-ly hỏi về tu trong chứng, tức là hạnh trời, hạnh trời thì tự tại, niệm niệm thêm lớn, càng sáng tỏ nên nói nghe điều chẳng nghe. Cả ba tuy lời khác nhau mà lý thì đồng. Phần hứa nhận gồm sáu câu, dường như sáu pháp Ba-la-mật mà chẳng theo thứ lớp: Ông muốn đạt đến cùng tận mà ta lại muốn giải thích, tức là y cứ theo tinh tấn. Hứa nhổ mũi tên độc là y cứ theo giới độ. Hứa làm đuốc tuệ chiếu sáng là y cứ theo Bát-nhã. Hứa đáp câu hỏi về chẳng nghe mà nghe, Đức Phật nói “Ta sẽ làm đuốc tuệ soi sáng cho ông thấy rõ được Phật tánh” nên biết đó là nói rộng về nghóa chẳng nghe mà nghe, tức là nói rộng về Phật tánh. Văn trên nói “Thế nào là chẳng nghe mà nghe” tức nghe được thường, lạc, ngã, tịnh. Vả lại, nếu nghóa này Bồ-tát Lưu Ly Quang hỏi giống với Đức Vương, thì Lưu Ly Quang được liễu nhân, Cao Quý Đức Vương cũng được. Văn sau nói “Ta nhờ việc này mà giải được một câu, nửa câu, thấy được Phật tánh, nhập Đại Niết-bàn”. Nếu chẳng nghe mà nghe là Phật tánh thì ba câu “Thế nào là chẳng nghe mà nghe” là liễu nhân, “nghe mà chẳng nghe” là duyên nhân, “chẳng nghe mà chẳng nghe” là chánh nhân. Nghe là nghe tức cảnh giới, lại là nhân tánh; nghe mà chẳng nghe là nhân của nhân tánh v.v… Nếu đến mà chẳng đến, sinh mà chẳng sinh, đến mà chẳng đến cũng giống như thế. Làm Thiền sư là y cứ theo Nhẫn độ. Hứa xem là con ruột là y cứ theo Thiền độ. Hứa ban tuệ thí là y cứ theo Đàn độ. Kế là từ câu “Hãy lắng nghe v.v…” trở xuống là khuyên nghe. Văn có hai: Khuyên khi chưa nghe. Bảo khi đã nghe. Khuyên khi chưa nghe có ba ý: Lắng nghe là khiến chẳng che đậy vật chứa. Bảo hãy suy xét kỹ là khiến chẳng nên để vật chứa rỉ chảy. Nghó nhớ kỹ là chẳng để dơ bẩn vật chứa. Vì chẳng che đậy nên có thể thọ nhận; vì chẳng rỉ chảy nên chẳng mất; vì chẳng nhơ bẩn nên uống được. Khuyên khi đã nghe cũng có ba: Dùng ba việc khuyên để ngăn che. Dùng hai việc khuyên về rỉ chảy. Dùng năm việc khuyên về nhơ bẩn. Thứ nhất là nêu ngăn che, kế là giải thích. Nên sinh tâm kính tin là nói về pháp, dốc lòng nghe nhận là nói về chính mình, cung kính tôn trọng là nói về thầy. Chẳng tìm cầu lỗi là giải thích về ngăn che pháp, chẳng nghó đến tham, sân, si là giải thích về nghóa che lấp chính mình; chẳng xét về chủng tánh là giải thích về nghóa ngăn che cái thấy. Nếu không có ba việc này thì vật chứa chẳng bị che lấp. Từ câu “Đã nghe pháp v.v…” trở xuống là ý thứ hai, khuyên về việc chớ để rỉ chảy. Từ câu “Chớ sinh kiêu mạn v.v…” trở xuống là khuyên chớ để rỉ chảy sinh tử, không phạm vào bên này tức là chẳng rỉ chảy. Từ câu “Đối với Phật, Pháp, Tăng v.v…” trở xuống là khuyên chớ làm nhơ bẩn. Chớ làm nhơ bẩn nhất thể. Chớ làm nhơ bẩn y đức. Chớ làm nhơ bẩn Đại thừa. Chớ làm nhơ bẩn Vô trụ. Chớ làm nhơ bẩn pháp tướng. Nếu làm biệt thể nhơ bẩn thì chẳng thể tôn trọng thầy. Nếu khởi bốn điên đảo làm nhơ bẩn thì chẳng thể tôn trọng pháp. Nếu khởi tâm Tiểu thừa chấp trước sinh tham nhơ bẩn thì chẳng thể tôn trọng chính mình. Không có năm điều lỗi này thì chẳng nhơ bẩn. Tất cả gồm mười lăm pháp, kết luận là nói về dốc lòng. Hỏi: Bồ-tát Lưu Ly Quang phát ra ánh sáng, ánh sáng tức là thường trụ thì đâu bị lời khuyên này? Đáp: Đó là chùy chạm vật gỗ, mượn Thánh để răn phàm. Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là phần thứ hai, chánh đáp, có hai: Y cứ vào bốn câu chẳng nghe mà nghe. Khai rộng hai phen bốn câu chẳng sinh mà sinh. Các sư xưa ở Giang Nam giải thích bốn câu đầu là pháp thuyết, hai lần bốn câu là dụ thuyết. Các sư Địa Luận cho rằng bốn câu đầu là giáo tướng, hai lần bốn câu sau là chứng tướng. Các sư Trung Quán cho rằng các loại bốn câu không khác nhau, đều là thuận theo ba căn mà ba phen giảng nói. Các sư xưa giải thích phen bốn câu thứ nhất đều khác nhau: Y cứ theo Nhị đế mà cho rằng chẳng nghe mà nghe là ngay nơi chân mà tục, nên thật có nghe; chẳng nghe mà nghe thì chỉ là chân đế, bặt dứt chẳng thấy nghe, nghe mà chẳng nghe là ngay nơi tục mà chân, là không có chỗ nghe, nghe mà nghe chỉ là có thấy nghe trong tục. Một sư y cứ theo chân và ứng cho rằng chẳng nghe mà nghe tức pháp thân khởi ứng. Chẳng nghe tức chẳng nghe là pháp thân ứng nhiên. Nghe mà chẳng nghe tức thân ứng về chân. Nghe tức là nghe là ứng tích có thấy nghe. Một sư y cứ theo sinh tử Niết-bàn cho rằng Niết-bàn là chân tịch, chẳng nghe là chẳng nghe tức có cảm thì có ứng. Chẳng nghe mà nghe là sinh tử rối ren. Nếu tu đạo thì nghe mà chẳng nghe. Nếu chẳng tu đạo thường thì nghe tức nghe. Có sư cho rằng bốn câu nghe là nghe chẳng phải ý chánh, sau xét lại bốn câu chẳng sinh mới là ý chánh. Cần phải y cứ theo chẳng sinh để giải thích, chẳng nghe chẳng nghe là Niết-bàn vô thỉ vô chung, chẳng sinh mà sinh là Niết-bàn vô thỉ mà hữu thỉ. Sinh mà chẳng sinh là Niết-bàn vô chung mà chung. Sinh tử cũng giống như thế. Sinh sinh là sinh tử vô thỉ vô chung, chẳng sinh mà sinh là sinh tử vô thỉ mà có thỉ, sinh mà chẳng sinh là vô chung mà chung. Nay cho rằng các nghóa trên đều chẳng đúng. Vì sao? Vì ba phen bốn câu này bao gồm các pháp thông suốt tất cả. Dùng ý Viên giáo giải thích kinh còn sợ chẳng hợp thì đâu được dùng ý nghiêng về một bên để giải thích. Nếu dùng giáo, hạnh, chứng, pháp và dụ để giải thích thì chẳng phải chỉ có phương không hợp được viên, mà còn tổn thương đến thể. Lại có sư y cứ vào một đế để giải thích bốn câu, dù nói là gần gũi mà càng xa xôi, huống chi y cứ vào hai đế thì sự sai lầm càng nhiều. Còn về chân ứng, sinh tử Niết-bàn cũng giống như thế, huống chi dùng ba câu về sinh sinh để giải thích thì tổn hại đến sự càng sâu, huống chi lập Hỗ vô chỉ là chút phần ý của Tiểu thừa, chẳng liên quan gì đến đạo lớn. Nay chẳng dùng các thuyết trên, vả lại mười việc này là đức nội chứng. Bồ-tát Đức Vương gạn hỏi về chẳng nghe mà nghe, hai lời tuy khác mà đồng hỏi về chứng. Trong lời đáp nói rộng về bốn câu. Nếu muốn giải thích thì dùng ngàn đường muôn lối đồng để hiển bày sự chứng ngộ này còn sợ là chẳng đúng, mà có các sư như “cỏ bay ngoài đồng nội, như lục bình nổi trên mặt sông”, nghiêng về sự tướng, chấp một hại nhiều, không chỉ trái với nhất viên thường mà còn chẳng bao giờ chứng ngộ. Nếu dùng bốn câu giải thích chung các nghóa thì chỗ nào cũng đều thông. Nếu muốn giải thích bốn câu thì nên dùng lời Phật. Tuy Phật đáp về chứng mà ý lại thông đến tu, mới vào chứng đạo, tu đạo liền xong, không còn có gì, đó gọi là chẳng nghe. Chân minh chợt mở, chiếu soi cùng khắp tức là nghe. Cho nên nói chẳng nghe mà nghe. Chứng đắc Đại Bát-niết-bàn như thế mà Đại Bát-niết-bàn chẳng có tướng nghe nên gọi là chẳng nghe chẳng nghe. Chứng khởi thì hoặc tiêu diệt nên gọi là nghe mà chẳng nghe. Vắng lặng mà thường chiếu, hễ gõ liền ứng nên gọi nghe mà nghe. Nay y cứ theo lời Phật giải thích bốn câu về chẳng sinh mà sinh để giải thích ý này. Đã là Phật giải thì chẳng phải là lời giải thích suông. Câu thứ nhất là nói về trí chứng; câu thứ hai nói về lý chứng; câu thứ ba là nói về đoạn chứng; câu thứ tư nói về ứng chứng. Sự lý trí đoạn ở trong chứng thì tự tha đều đầy đủ không thiếu. Chứng như thế thì chẳng chung với Tiểu thừa, chẳng thể nghó bàn, người khác nghe thì kinh sợ, cùng tận biển Niết-bàn. Đây là dùng một diệu chứng để giải thích tâm nghi của hai Bồ-tát. Lại chẳng nghe mà nghe là chứng hạnh Thánh, nghe mà chẳng nghe là chứng phạm hạnh, chẳng nghe là chẳng nghe tức là chứng hạnh Thiền, nghe là nghe tức là chứng hạnh Trẻ thơ và hạnh Bệnh. Một chứng tất cả đều chứng, đầy đủ viên chứng, nên văn kinh ở trên ghi: “Phật bảo Ca-diếp: Chẳng những mình ông chứng năm hạnh này, mà trong chúng hội này năm mươi ba vạn người đều được như thế”. Tức là nghóa này. Lại chẳng nghe mà nghe là chứng liễu nhân, nghe mà chẳng nghe là chứng duyên nhân, chẳng nghe chẳng nghe là chứng chánh nhân, nghe là nghe tức chứng cảnh giới. Cho nên Đức Phật trả lời Bồ-tát Lưu Ly Quang: “Ta có ngọn đuốc tuệ chiếu sáng cho ông thấy rõ được Phật tánh”. Chính là nghóa này. Lại chẳng nghe mà nghe là chứng viên tịnh, chẳng nghe mà nghe là chứng Tánh tịnh, nghe mà chẳng nghe, nghe mà nghe là chứng Phương tiện tịnh. Cho nên Đức Phật trả lời Bồ-tát Lưu Ly Quang: “Nay thầy muốn cùng tận biển Đại Niết-bàn, ta sẽ giải thích đầy đủ cho thầy nghe”. Tức là nghóa này. Nếu đạt được ý này thì trong nhất chứng được tự tại giảng nói sâu rộng. Thế nào gọi là Như? Vì đó là nghóa chẳng khác. Bốn câu kia đây chẳng khác nhau, mà lại đối với bốn câu kia lập danh nghóa nhằm để hiển bày giải thích lẫn nhau, so sánh ví dụ để thông suốt hiển bày. Cho nên lược nêu hai loại bốn câu để làm đầu mối hiển bày nghóa sâu rộng, bao gồm tất cả pháp trong ngoài đâu thể nói bốn câu này là để dụ thuyết. Hưng Hoàng lại cho rằng bốn câu này đồng với bài kệ “xưa có nay không” mà Bồ-tát ở núi Tuyết xả thân cắt thịt v.v… để được nghe. Trong đó chẳng sinh mà sinh là xưa không nay có, sinh mà chẳng sinh là xưa có nay không, sinh là sinh tức ba đời thật có pháp, chẳng sinh tức chẳng sinh là chẳng có việc ấy. Lại sinh mà chẳng sinh là các hành vô thường, chẳng sinh mà sinh là pháp sinh diệt, sinh là sinh tức là sinh diệt đã diệt, chẳng sinh là sinh tức vắng lặng là an vui. Lại chẳng sinh mà sinh tức Như Lai chứng Niết-bàn, sinh tức chẳng sinh là dứt hẳn sinh tử, sinh tử tức sinh là sinh. Nếu dốc lòng thì thường được vô lượng an vui tức chẳng sinh là chẳng sinh. Ở đây cho rằng đầu tiên là y cứ theo gốc viên chứng, nghóa đã lập, thông suốt đến các pháp trong ngoài. Ở đây chỉ thông các kinh Đại thừa mà còn thông đến các bộ luật Tiểu thừa. Trong đó, sinh là sinh tức các điều ác sinh mà chẳng sinh, tức chớ tạo tác; chẳng sinh mà sinh tức các điều lành nên vâng làm; chẳng sinh tức chẳng sinh là hãy thanh tịnh tâm ý mình, v.v… Bốn câu này chẳng những thông đến các kinh luật Đại Tiểu thừa mà còn thông đến Luận của Bồ-tát. Sinh mà sinh pháp do nhân duyên sinh; sinh mà chẳng sinh là câu “Ta nói tức là không”; chẳng sinh tức sinh là câu “cũng gọi là giả danh”; chẳng sinh tức chẳng sinh “cũng là nghóa Trung đạo”, v.v… Từ câu “Bạch Thế Tôn!” v.v… trở xuống là đoạn ba, nghiên cứu lại. Vì nghóa chẳng sinh mà nghe v.v… để giúp cho lời giải thích. Nếu thấu hiểu được nghóa chẳng nghe mà nghe v.v… thì chẳng cần nói lại nghóa chẳng sinh mà sinh. Nay muốn so sánh để thông thấu, ý nghóa bao gồm tất cả nên phải suy xét lại. Văn có hai đoạn: Y cứ theo bốn câu pháp trong. Y cứ theo bốn câu pháp ngoài. Bốn câu pháp trong, mỗi câu trước đều có hỏi và sau là lời đáp. Nói “an trụ thế đế” có hai nghóa. Nếu theo pháp ngoài sinh tử, một niệm đầu tiên gá thai gọi là an trụ thế đế. Nếu y cứ theo pháp ngoài Niết-bàn, tu tập phương tiện gọi là an trụ Niết-bàn. Từ tu được chứng, vô minh chợt phá tức là mới ra khỏi thai, cũng là Niết-bàn vô thỉ mà nói vô thỉ. Dùng nghóa này so sánh biết các nghóa chẳng nghe mà nghe v.v… tức là viên chứng, nghóa ấy càng rõ ràng. Thế đế sinh tử cũng có hai nghóa. Nếu y cứ theo sinh tử pháp ngoài, khi phước và mạng đã hết thì gọi là chết thế đế. Nếu y cứ theo pháp trong Niết-bàn, khi vô minh diệt hết thì gọi là chết thế đế. Cũng là sinh tử vô chung mà nói có chung. Bồ-tát Tứ trụ, các sư xưa cho rằng đó là Sinh quý trụ trong mười trụ được tự tại sinh, lại nói đó là Tứ địa trong mười Địa, dứt kiến đế, chẳng đọa vào ba đường, có khả năng dùng thần lực, thị hiện tự tại sinh. Nay xét hai cách giải trên thì một dường như nghóa Biệt giáo, một dường như nghóa Thông giáo, chưa hội thông với văn này. Xét kỹ ý nghóa thì chỉ là làm cho Bồ-tát Tứ trụ dứt hết các hoặc, chẳng bị kết nghiệp dẫn sinh vào ba cõi mà năng thị hiện sinh, gọi là sinh tự tại. Kinh Thập Địa có nói nghóa Lục trụ, trụ thứ tư tương ứng với nghóa này, trong Chỉ Quán quyển năm có trích dẫn đầy đủ. Ở đó cũng có dẫn chứng các nghóa chẳng sinh mà sinh, v.v… Thứ hai là y cứ theo bốn câu pháp ngoài. Nói chưa sinh mà sinh, trong đó chưa và chẳng mỗi pháp tùy theo nghóa mà lập. Từ câu “Bồ-tát Lưu Ly Quang v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, kết luận lời hỏi. Trong ba loại bốn câu chỉ kết luận loại bốn câu chẳng sinh mà sinh v.v… lại trong đó chỉ kết luận câu gạn hỏi sinh tức sinh mà thôi. Vì muốn nhân câu này mà hiểu rộng đến tất cả các câu. Văn có ba: Thưa hỏi. Giải thích. Thọ lãnh, tin hiểu. Phần gạn hỏi gồm có sáu câu ba cặp: Cứ theo thường và vô thường để hỏi. Y cứ theo tự sinh, sinh tha để hỏi. Y cứ theo xưa có, xưa không để hỏi. Tất cả đều hỏi về sinh sinh, đó là do thường mà sinh hay vô thường mà sinh; là tự sinh hay tha sinh; là xưa có sinh hay xưa không sinh. Thứ nhất là thường vô thường. Nếu sinh là thường thì pháp hữu lậu lẽ ra không có việc sinh này. Nếu sinh là vô thường thì hữu lậu là thường. Sinh tự là vô thường, vô thường thì diệt, chẳng thể giữ được, há sinh là hữu lậu hay sao? Hữu lậu đã chẳng phải do sinh sinh ra, nên hữu lậu là Thường. Kế là từ câu “Bạch Thế Tôn!” v.v… trở xuống là thứ hai, kết luận y cứ tự sinh và sinh tha mà hỏi. Sinh nếu tự sinh thì sinh chẳng có tự tánh, tức là nói sinh đã tự là sở sinh, thì chẳng phải năng sinh. Vì không có tánh năng sinh nên nói là không có tự tánh. Thuyết thứ hai cho rằng sinh vốn là giả duyên chưa có tự tánh, thì đâu thể tự sinh. Nếu không tự tánh thì đâu thể sinh pháp khác (sinh tha). Nếu sinh ra được pháp khác v.v… là sinh, vì sao chỉ sinh pháp hữu lậu khác mà chẳng sinh pháp vô lậu khác. Hữu lậu vô lậu là đối với tự, còn tất cả đều là tha. Từ câu “Nếu khi chưa sinh v.v…” trở xuống là lời hỏi thứ ba. Nếu xưa có, tức khi chưa sinh đã sinh, vì sao đến nay mới gọi là sinh. Nay chính là lúc duyên hợp. Nếu xưa không sinh mà có thể sinh thì hư không là vô, vì sao chẳng nói là hư không sinh? Từ câu “Đức Phật khen v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích, có ba ý: Bác bỏ là sáu câu hỏi. Giải thích sáu lời bác bỏ ngược lại. Đáp sáu câu hỏi, gồm sáu lời bác bỏ và một lời đúng, gồm có bảy chương. Thứ nhất là bác bỏ sáu câu hỏi. Nếu nhất định như lời ông hỏi thì đều không thể nói, đầu tiên nói chẳng sinh mà sinh không thể nói tức bác bỏ ngược lại câu hỏi sinh nhất định là thường, thứ nhất. Sinh mà sinh không thể nói là bác bỏ ngược lại câu sinh chắc chắn vô thường, thứ hai. Sinh mà chẳng sinh là bác bỏ lại câu “tự sinh thì mất tự tánh, nên sinh mà chẳng sinh”, thứ ba. Chẳng sinh mà chẳng sinh không thể nói là bác bỏ ngược lại câu sinh tha, thứ tư. Trước nói năng sinh tha (pháp khác) vì sao chẳng sinh vô lậu nên nói chẳng sinh mà chẳng sinh không thể nói. Sinh cũng không thể nói là bác bỏ ngược lại câu “xưa có” thứ năm. Chẳng sinh không thể nói là bác bỏ ngược lại câu xưa không thứ sáu. Một câu sau kết luận là có nhân duyên nên có thể nói, tức là nói lên có nhân duyên bốn Tất-đàn mà có thể nói. Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích sáu môn đã bác bỏ lại ở trên. Giải thích môn thứ nhất tự cho là sinh, lại nói là chẳng sinh, chẳng sinh tức là thường, vậy hai việc trái nhau nên không thể nói. Giải thích môn thứ hai. Nếu sinh là vô thường thì sinh lại sinh, sinh được sinh sinh ra, toàn thể đều sinh, lại bị diệt diệt mất thì toàn thể đều diệt. Sinh là sinh nên sinh tức toàn thể đều sinh. Sinh là sinh nên chẳng sinh tức toàn thể đều diệt, cho nên không thể nói. Giải thích môn thứ ba: Chẳng sinh tự sinh vốn là dùng chữ trong sinh tử. Giải thích môn thứ tư. Niết-bàn cũng có nghóa sinh, chẳng thể nhất định nói Niết-bàn là chẳng sinh. Trước là hỏi: “Đều là sinh tha, vì sao chẳng sinh vô lậu?”. Vô lậu chỉ là Niết-bàn, Niết-bàn cũng có nghóa sinh, do tu đạo mà được nên lại là sinh, sinh này chẳng bị diệt diệt mất, vậy sinh này là thường nên không thể nói. Giải thích môn thứ năm. Vốn chẳng có sinh, đâu thể nói chưa sinh đã có. Thế nào là chẳng sinh tức chẳng sinh không thể nói? Vì có được. Giải thích môn thứ sáu. Chẳng thể nói nhất định có nơi chẳng sinh, mà lại có nơi việc có thể được vì thế lại là sinh, chẳng đồng với hư không chỉ một bề không sinh. Thứ bảy là môn có thể nói: Trong mười hai chi nhân duyên, trừ hai chi sau cùng, còn mười chi trước là tác nhân duyên của sinh nên có thể được nói. Ở đây chỉ là giải thích văn, trong Chỉ Quán giải thích bốn câu hỏi rộng hơn. Nay nói thêm: Y cứ theo ý giải thích kia hợp với văn và hội với lý của Đại kinh này. Quán vô sinh của văn kia đều khế hợp với môn Niết-bàn vô sinh. Nói “Chớ nhập Không định vì đại chúng ngu độn”, có hai cách giải: Cho rằng đại chúng thật có ngu độn chẳng biết Không định nên nói chớ nhập. Cho rằng nếu nhập Không định mà nói thì đại chúng hiểu chậm. Nghóa “Không” rất sâu xa, hiểu được cũng khó, khó nên gọi là ngu độn. Nhưng kệ văn có sáu câu đều không thể nói. Lại có một câu do nhân duyên có thể nói. Đức Phật dùng sáu phen giải thích không thể nói rồi lại chỉ ra do nhân duyên nên có thể nói, nhưng văn nghóa còn sơ lược nên nay lập lại hai phen nói rằng hễ có nhân duyên thì đều có thể nói. Đối với một câu mà nói đầy đủ bốn câu, đó là chẳng sinh mà sinh, sinh là sinh, chẳng sinh là chẳng sinh, sinh mà chẳng phải sinh. Bốn câu đều nói như thế, đó là do nhân duyên nên có thể nói. Cũng có thể nói vì có nhân duyên nên không thể nói. Vì sao? Vì một câu đầy đủ bốn, đâu thể chỉ lập một, hai, ba câu mà nói. Vì nhân duyên này nên đều chẳng thể nói, cho đến bốn câu đều đủ bốn câu, đâu thể chỉ nói một, hai, ba câu mà do nhân duyên này nên tất cả đều chẳng thể nói. Hơn nữa, bốn câu ngay nơi sự mà lý, lý mà chẳng thể nói. Bốn câu ngay nơi lý mà sự, sự mà có thể nói. Vì sao? Vì văn sau ghi “Biết Như Lai thường chẳng nói pháp, đó là học rộng”. Nay so sánh với nghóa này, nếu biết bốn câu ngay nơi sự mà lý, tức không thể nói. Các sư Địa luận cho rằng loại bốn câu trước là y cứ theo giáo, hạnh và chứng, vừa xem qua thì chẳng phải không có nghóa này. Nay muốn phân biệt sáu câu dường như có đơn kép, hoặc chung riêng dứt. Trong đó, hai câu đầu nói về giải hoặc chung riêng, hai câu kế là nói giải chung riêng, bất sinh mà sinh là biệt hoặc thiền, sinh sinh là thông hoặc kép, bất sinh mà sinh là thông giải thiền, chẳng sinh chẳng sinh là biệt giải kép, câu sinh kế là kết luận thiền sinh kép đồng là hoặc sinh. Câu bất sinh kế tiếp là tổng kết thiền ở trước chẳng sinh kép, chẳng sinh đồng là giải. Cho nên thiền kép hoặc giải như thế đều không thể nói. Còn do nhân duyên có thể nói như trước đã luận. Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn ba, trả lời. Tức là đáp sáu câu hỏi, được chia làm hai: Trả lời hai câu trước. Đáp bốn câu sau. Đáp hai câu trước, lại chia hai. Trước y cứ riêng bốn tướng, kế đó hợp y cứ theo bốn tướng. Y cứ riêng, có bốn. Sinh là thường, tức ngay nơi phần ấy mà giữ lấy tự tánh nên được nói là thường. Nói vô thường nghóa là trụ lại trụ sinh v.v… sinh tức thay đổi nên trở thành vô thường. Trụ cũng như thế, bị sinh sinh ra nên chẳng phải là Thường. Dị cũng như thế, mà nói các pháp vô thường là vì trong câu nói về sinh ở trước có ghi “Nếu trụ vô thường thì sinh cũng vô thường”. Nay nêu pháp đối với Dị lại là pháp sinh trụ vô thường nói ở trước và dị cũng có nghóa là thường và vô thường, đầy đủ như sinh và trụ. Hoại cũng như thế. Văn kinh ghi “Xưa không nay có nên hoại cũng vô thường”. Xưa không nay có chỉ là nghóa sinh, đã sinh lại sinh nên hoại, hoại thì chẳng phải thường. Vậy xưa nay không lại là vô thường. Từ câu “Vì có tánh v.v…” trở xuống là hợp nói về bốn tướng. Mỗi tường đều giữ tánh phần của mình nên đều là Thường. Lại vì hai nghóa ấy nên chẳng được gọi là Thường. Nói gần thì niệm niệm đổi dời; nói xa thì so sánh với Niết-bàn. Vì bị Niết-bàn cắt đứt nên chẳng phải thường. Từ câu “Pháp hữu lậu v.v…” trở xuống là đáp bốn câu hỏi sau. Chia làm hai phần, trước chánh đáp câu thứ năm, đáp cả câu thứ sáu, sau chánh đáp câu thứ tư, đáp cả câu thứ ba. Thứ nhất là câu thứ năm. Trên hỏi nếu xưa có, vì sao đến nay mới nói là sinh. Nay trả lời, xưa là có lý sinh, chẳng phải là đã có nay mới sinh ra. Tức là gồm đáp câu thứ sáu v.v… đều là vô sinh. Vì sao chẳng nói hư không là sinh? Nay đáp, cũng cho rằng lý có thể sinh mới được gọi là sinh, hư không chẳng có lý để sinh thì đâu thể nói chẳng lấy đó làm sinh. Từ câu “Pháp vô lậu v.v…” trở xuống là trả lời câu thứ tư, gồm có pháp, dụ và hợp. Đầu tiên là hỏi sinh tha, lẽ ra có thể sinh vô lậu, nay đáp không có lý sinh vô lậu nên chẳng thể sinh pháp hữu lậu có tánh sinh, nên được gọi là sinh, tức đáp cả câu thứ ba sinh vô tự tánh. Nếu có tự tánh thì sinh có thể tự sinh ra nó. Đã không có tự tánh thì đâu thể sinh ra. Đó là đáp cả hai ý tự nhiên cách xa. Nêu dụ lửa, mắt là vì mỗi pháp đều có tự tánh. Tánh lửa năng sinh; tánh mắt năng thấy. Trong đó nói có tánh sinh cho nên sinh, năng sinh tức là phá tánh nghóa rồi, sau đó mới nói tánh, cho nên không lỗi. Cũng như trước phá tánh chấp rồi mới nói khi có nhân duyên thì có thể nói. Kế là hợp, như văn kinh có ghi. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đoạn ba thọ lãnh tin hiểu. Có hai phần: Các nhà kết tập kinh tự giảng nói. Chiùnh thức trình bày sự giải ngộ. Trình bày giải ngộ có hai là tự trình bày và trình bày cho đại chúng. Về mình thì nói “nghe mà chẳng nghe”, về chúng thì nói “chẳng sinh mà sinh” đây là trình bày môn được giải ngộ. Vì môn bốn câu “chẳng đến mà đến” có người chưa ngộ. Bồ-tát Vô Úy hỏi việc sinh về cõi Bất động. Đức Vương lại nói về bốn câu chẳng đến mà đến. Từ câu “Bạch Thế Tôn!” v.v… trở xuống là đoạn ba, Vô Úy nói về nghóa. Gồm ba ý: Xin chấp nhận. Luận nghóa. Đáp câu hỏi của Đức Vương. Thứ nhất như văn kinh có nói. Thứ hai, Vô Úy nói về nghóa gồm có ba phần là: Hỏi, đáp và tin hiểu. Hỏi lại có hai: Hỏi cõi này sinh về cõi kia. Hỏi chúng sinh cõi kia lợi căn. Hai câu này thành tựu cho nhau, nếu phân biệt thì thành khác. Hỏi: Kinh nói Bồ-tát ở hai cõi tịnh uế đều có hơn kém, nay làm sao hiểu? Đáp: Nếu theo đối nhau để so sánh thì cõi tịnh cao quý, vào quyền thì cõi uế cao quý. Kế là Đức Phật đáp, tức chánh đáp câu hỏi và gồm phá câu hỏi sau. Gồm hai mươi mốt hạnh, chia làm hai phần: Mười hạnh dứt ác là điều lành. Mười một hạnh nói về làm lành. Nhưng nghiệp tịnh Độ tức là tâm Bồ-đề mà nay nói về hạnh riêng, chính là để nói lên chung riêng chẳng khác. [Thứ ba là lãnh giải như kinh ghi. Từ câu “Bồ-tát Quang Minh v.v…” trở xuống là thứ ba thỉnh đáp câu hỏi của Đức Vương. Bậc thượng căn, trung căn đã hiểu. Bây giờ lại vì người chưa ngộ mà thỉnh đáp. Trước hỏi, sau là Phật đáp. Đức Phật đáp, có hai: trước khen ngợi khuyên nên nghe; sau là đáp. Trong phần đáp, trước nêu chưa đến thì chẳng đến, kế là nêu lại nghe mà chẳng nghe. Trước lại chia làm hai: Nêu chương đến mà chẳng đến. Giải thích. Theo trong phần giải thích, tức là Đức Vương hỏi đầu tiên có ba loại, sáu loại, Đức Phật nói dụ và phát ra ánh sáng để đáp nghóa chẳng nghe mà nghe xong. Kế đó, Bồ-tát Lưu Ly Quang nói về nghóa rồi đáp nghóa chẳng sinh mà sinh. Nay lại nên chẳng đến mà đến. Đầu tiên nói bốn câu nghe mà chẳng nghe thì người thượng căn đã giải ngộ. Kế là nói bốn câu chẳng sinh mà sinh thì người trung căn đã ngộ. Nay vì người hạ căn mà giải thích về “đến mà chẳng đến”. Vì đây là tùy nghi theo duyên nên trước sau nêu ra. Y cứ theo bốn câu này; hai câu trước nói về Niết-bàn có đến mà chẳng đến, tu đạo dứt hoặc thì đến, không như thế thì chẳng đến. Hai câu sau nói sinh tử có đến mà chẳng đến. Nếu tu đạo nhàm chán sinh tử thì không đến, chẳng thế thì đến. Cứ thế xuôi ngược trùng lặp mà tạo thành các câu ở trên. Nhưng trong đây giải thích phải so sánh với văn trước, trước nói chẳng sinh là chẳng sinh tức Đại Niết-bàn. Ở đây nói chẳng đến lại chẳng khác với bất sinh. Nếu thế thì sao chẳng đồng với ở trước nói về chẳng đến thì chẳng đến? Đáp: Vì duyên có đơn có kép, nói chẳng đến là vì phàm phu chẳng thể tu tập nên nói chẳng đến. “Chẳng đến mà đến”, cũng phải đối chiếu với văn trước, mới ra khỏi thai thì gọi là chẳng sinh mà sinh. Ở đây nói chẳng đến mà đến, tức là đối với sinh tử mà chỉ nêu một bên. “Đến mà chẳng đến”, cũng so sánh với văn trước; so sánh với thế đế, khi chết thì gọi là sinh, đó cũng là đắp đổi nhau để nêu lên. “Đến tức đến” cũng đối với trước mà nói. Trước nói “sinh sinh chẳng dứt”, ở đây lại nói về sinh tử nên đồng với ở trước. Kế lại nêu “nghe điều chưa nghe”. Văn có hai. Trước là nêu bốn chương. Kế là giải thích, chỉ giải thích một câu. Trước đã giải thích xong, chẳng muốn nhiều lời. Các sư Địa Luận phân biệt giáo chứng có sâu cạn khác nhau. Nhưng nay ý văn chỉ là gặp duyên thuận tiện, phải lập ba thuyết. Chỉ vì ngộ có trước sau, chẳng liên quan đến cạn sâu. Vì sao? Vì lời thì khác mà nghóa thì đồng. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là thứ tư, Bồ-tát Đức Vương nói lại. Văn có hai: 1/ Chỉ hỏi về quả. 2/ Hỏi cả về nhân quả. Thứ nhất lại có ba: Một, hỏi về Niết-bàn mới có tức là vô thường. Hai, hỏi về nhân trang nghiêm nên lại vô thường. Ba, hỏi về Niết-bàn nên có cũng là vô thường. Trong câu thứ ba lại có bốn chương. Nếu chẳng như thế thì chia thẳng thành bảy câu hỏi: Hỏi rằng xưa có nay không nên vô thường. Hỏi rằng vì trang nghiêm nên vô thường. Hỏi vì là có nên vô thường. Hỏi vì thấy được cho nên vô thường. Hỏi về chẳng bình đẳng cho nên vô thường. Hỏi vì cần sự cung đãi nên vô thường. Hỏi vì có danh tự nên vô thường. Câu thứ nhất có ba là lãnh chỉ, hỏi lược và hỏi rộng. Về hỏi rộng thì có pháp, dụ và hợp. Câu thứ hai, thứ ba, thứ tư như văn kinh có ghi. Câu thứ năm, có hai lớp là thí dụ và hợp. Câu thứ sáu có hợp và dụ, dẫn việc xưa. Câu thứ bảy như văn kinh có nói. Từ câu “Bấy giờ, Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn hai, Đức Phật đáp có ba câu. Đầu tiên là đáp xưa không nay có, gồm có pháp, dụ và hợp. Các sư Địa Luận lập luận chân tu và duyên tu để giải thích. Cho rằng chân tu là xưa có, duyên tu là mới có. Các sư Tam Luận dùng chánh nhân và duyên nhân để giải thích, cho chánh nhân là xưa có, duyên nhân là mới có. Từ câu “Ông nói v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ hai có pháp và dụ. Trong dụ lại có ba lớp dụ, như văn kinh có nói. Từ câu “Thầy nói v.v…” trở xuống là đáp câu thứ ba, Niết-bàn là có. Vừa xem qua thì hỏi và đáp dường như chẳng khớp nhau. Vì hỏi thẳng Niết-bàn là có tức thuộc về vô thường. Nay lại nêu năm nhân là nói Niết-bàn chẳng đồng với nghóa có của năm nhân, sau đó nên sinh nhân và liễu nhân, lại lược giải liễu nhân. Chỉ đáp câu hỏi này tức đáp cả bốn câu kia. Trước nêu năm nhân dường như bốn duyên ba nhân. Trong luận Thành Thật nói: “Sinh nhân tức là báo nhân, chỉ làm cỏ cây thêm lớn, hòa hợp nhân tức là tập nhân, thiện ác tự nhiên tương tự. Trụ nhân tức y nhân. Nhân tăng trưởng tức duyên tăng thượng. Viễn nhân tức là duyên duyên. Chỉ không có duyên thứ đệ”. Hai nhân sau chẳng đồng với tác nhân mà đồng với liễu nhân. Như văn dùng hai nhân sau để phân biệt nói năm nhân trước đều là tác nhân. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là thứ hai, hỏi cả về nhân quả. Trước nói sáu Độ tức hỏi về nhân, kế là hỏi về Niết-bàn tức hỏi về quả. Phật đáp có hai phần: Đáp cả nhân quả. Đáp riêng nhân và quả. Đáp cả như văn kinh ghi. “Này thiện nam! Thế nào là thí v.v…” trở xuống là thứ hai, trả lời riêng về nhân quả. Có hai phần là nhân và quả. Về nhân lại có hai: Thuận nhân. Nghịch nhân. Về thuận nhân lại có hai: Chánh đáp. Khen ngợi kinh. Chánh đáp có sáu lần nói về Độ và chẳng phải Độ. Năm phen trước là chút phần Niết-bàn, một phen sau chính thức xếp vào Độ. Có tướng có đắc chẳng có nghóa là Độ, Vô tướng vô đắc mới có nghóa là Độ. Trong đó nêu Đàn Độ đầu tiên, năm độ kia đều chỉ cho kinh Tạp Hoa. Từ câu “Thế nào là v.v…” là khen ngợi kinh. Trước là kết luận làm lời khen ngợi về Bồ-tát; sau là kết luận Ba thừa làm lời khen ngợi. Nói mười hai thể loại kinh ý nghóa sâu xa. Xưa mười hai loại chỉ nói về Không. Nếu so với sinh tử thì đó là sâu mà chưa xa. Kinh này nói về sinh là sinh, cho nên sâu xa. Đó cũng là có mà chẳng có, ngay nơi không mà chẳng không, ngay nơi chẳng không mà chẳng không. Vì thế rất sâu xa. <篇> ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 21 <詞>PHẨM 22: ĐỨC VƯƠNG (PHẦN 2) Đầu quyển Bồ-tát Đức Vương hỏi: “Nếu phạm v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về nghịch nhân. Gồm có hỏi, đáp và lãnh giải. Dung Thành cho là có sáu câu hỏi. Khai Thiện cho là năm câu hỏi, ở đây nói có ba ý: Gồm hai câu hỏi đầu về bốn tội nặng. Gồm hai câu kế, hỏi về Nhất-xiển-đề. Một câu hỏi về bất định. Thứ nhất hỏi về bốn tội nặng. Nếu có Phật tánh, thì lẽ ra chẳng đọa địa ngục, nếu họ lui sụt thì Phật tánh chẳng giữ gìn được. Câu hỏi thứ hai, nếu có Phật tánh, sao lại nói không có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh? Nếu chẳng có bốn đức thì đâu có Phật tánh. Câu thứ ba, hỏi Nhất-xiển-đề dứt mất gốc thiện lẽ ra dứt cả Phật tánh. Câu thứ tư hỏi nếu chẳng dứt Phật tánh sao gọi là Nhất-xiển-đề? Câu thứ năm hỏi về bốn giới trọng và Nhất-xiển-đề v.v… là bất định nên lại sinh ra Bồ-đề? Niết-bàn bất định nên lại thành phàm phu. Văn hỏi không rộng. Nhập Niết-bàn rồi, nếu lại ra tức Thánh trở lại phàm. Nếu thế thì Phật không có bốn đức. Nếu chẳng như thế thì Nhất- xiển-đề cũng chẳng có nghóa thành Phật? Trước hỏi cho rằng Niết-bàn vô thường, Phật đáp chẳng vô thường, ở đây hỏi về bất định, tất cả đều bất định, tất cả đều vô thường. Niết-bàn cũng nằm trong “tất cả” đó nên cũng vô thường. Câu hỏi này vặn hỏi tất cả mọi người khiến đều chuyển biến. Đức Phật đáp: có hai: Khen lời hỏi. Trả lời. Khen gồm có bốn câu: Khen hiện đức. Khen ngợi nhân quá khứ. Khen ngợi câu hỏi vượt hơn trời, người. Khuyên nghe và chấp nhận. Phân biệt giảng nói như văn ghi. Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là phần chánh đáp, gồm có ba ý: Đáp câu hỏi thứ năm về bất định. Đáp câu hỏi thứ ba là dứt mất gốc thiện tức đáp cả câu thứ nhất và câu thứ hai về người tội. Lại đáp câu thứ năm hỏi về bất định, đáp cả câu thứ tư. Thứ nhất là đáp câu hỏi thứ năm, có ba phần: Một là nêu lên. Thứ hai là đáp. Thứ ba kết luận. Từ câu “Như thầy nói v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ ba, có ba phen: Y cứ trong ngoài. Y cứ hữu lậu, vô lậu. Y cứ thường, vô thường. Phật tánh là Trung đạo, chẳng thuộc hai bên nên chẳng thể cắt đứt. Trời, người là thiện; ba đường là ác. Pháp phàm là ngoài, pháp Thánh là trong; Thế gian là lậu; xuất thế là vô lậu. Hữu vi là vô thường, vô vi là thường. Phật tánh chẳng thuộc hai bên này nên chẳng đoạn. Từ câu “Nếu đoạn v.v…” trở xuống là đáp cả câu hỏi về người tội thứ hai, thứ ba. Tuy tạo tội mà chẳng hề đoạn tánh là nói rõ tội bất định. Vì bất định nên được Tam-bồ-đề. Vốn lấy theo nghóa đã đoạn mà được, nên gọi là Nhất-xiển-đề. Tánh chẳng phải đã đoạn mà lại được, vì sao mà đoạn được? Đã chẳng phải nhất định là có, thì đâu thể ngăn để khỏi đọa. Đây là đáp câu hỏi thứ nhất. Nếu chẳng nhất định có tức là trừ câu hỏi thứ hai. Vả lại, nói đã đoạn rồi mới đắc gọi là Nhất-xiển-đề. Nay nói tánh chẳng phải đã đoạn mà lại được cũng là ngăn trừ câu thứ tư. Từ câu “Phạm bốn giới trọng v.v…” trở xuống là thứ ba, lại đáp câu hỏi thứ năm, có ba ý: Nói chung về bất định. Nói rộng về bất định. Tổng kết bất định. Văn thứ nhất có bốn đoạn: Người ác bất định. Nói các pháp bất định. Nói người thiện bất định. Nói Như Lai bất định. Từ câu “Sắc và sắc tướng v.v…” trở xuống là nói về các pháp bất định. Có pháp và dụ. Thứ nhất là pháp thuyết. Dụ, gồm ba dụ ba hợp, như văn kinh có nói. Nói cũng có tướng nhất định là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, vì trước gạn hỏi về bất định rằng Như Lai nhập rồi lẽ ra cũng xuất. Thánh thành phàm, tức là vô thường, vô lạc, v.v… ở đây đáp chẳng đúng, trong bất định cũng có tướng nhất định, đó là thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai. Vì thế mà nói là có tướng nhất định. Từ câu “Tu-đà-hoàn v.v…” trở xuống là , nói về người thiện bất định. định. Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là , nói về Như Lai bất Trong đạo phương tiện thì Như Lai bất định, trong Pháp thân bản địa thì quyết định. Hai đều chẳng đốt cháy được, có hai cách giải thích: Nói áo lót thân là dụ cho bản địa, lớp ngoài cùng dụ cho Tích ứng. Hai pháp này chẳng diệt. Cho rằng áo lót thân dụ cho trí Phật quán căn cơ, lớp ngoài cùng dụ cho thần thông ứng vật. Vật cơ vô cùng nên thần thông chẳng cùng tận. Vì thế chẳng cháy. Đúng nên gọi là thâu y chẳng nên gọi là thấu y. Y này là áo mặc lót trong mình thân gọi là thâu y. Từ câu “Nên biết v.v…” trở xuống là đoạn hai nói rộng về bất định. Xưa lập một còn một mất để giải thích các câu. Chẳng phải quỷ đến thì mất Pháp thân, chẳng phải chẳng phải quỷ đến thì còn Ứng thân. Nay cho rằng hai phần pháp và ứng là nghóa nhất định chứ đâu phải bất định. Hưng Hoàng cho rằng chẳng phải quỷ thì Pháp thân bất định, cho nên Pháp thân mất mà chẳng mất, chẳng phải chẳng phải quỷ là Ứng thân bất định, cho nên Ứng thân còn mà chẳng còn. Còn mà chẳng còn thì có khả năng làm quỷ, làm chẳng phải quỷ. Mất mà chẳng mất thì có khả năng làm chẳng phải quỷ và làm quỷ. Ở đây cho rằng nghóa ấy chưa tránh khỏi nhất định, vì sao? Vì quỷ chắc chắn làm chẳng phải quỷ. Chẳng phải quỷ chắc chắn có khả năng làm quỷ. Tuy nói bất định mà cũng gọi là Định. Nay nói quỷ tức chẳng phải quỷ, cũng tức là chẳng phải qủy chẳng phải chẳng phải quỷ. Chẳng phải quỷ tức là quỷ cũng chẳng phải quỷ chẳng phải chẳng phải quỷ. Chẳng phải quỷ chẳng phải chẳng phải quỷ cũng tức là quỷ chẳng phải quỷ. Là một tức ba, là ba tức một, chẳng phải một chẳng phải ba, một và ba bất định. Đó mới thật là nghóa bất định. Các câu khác cũng giống như thế. Nay trước là nêu chương, sau là giải thích. Sau là giải thích, gồm có hai mươi chương nhưng chỉ giải thích mười sáu chương. Nói hiện thân ba thước, Hà Tây cho rằng nhà Trưởng giả không có con, chỉ sinh được một đứa bé cao ba thước nhưng chết yểu, cha mẹ vô cùng buồn khổ, tâm thần thờ thẫn. Phật xót thương nên thị hiện thành đứa trẻ. Cha mẹ thấy con thần trí liền hồi tỉnh, nói: “Cha mẹ nghó là con đã chết, bây giờ con từ đâu về đây?”. Đáp: “Con từ nơi cõi chết về đây! Do nhân duyên mà tạm hợp thân này, thân này thuộc duyên do bốn đại giả hợp mà thành, quán khắp các duyên thì cái gì là thân?” Kế lại giảng nói các pháp yếu, khiến tâm mê mờ của Trưởng giả sáng tỏ. Đức Phật lại hiện thân Phật cao ba thước sắc tướng sáng chói. Trưởng giả lúc ấy chứng quả A-na-hàm. Chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu mà môn thứ mười hai lại giải thích sau cùng. Vì sao? Vì Đức Phật muốn giải thích rộng môn này cho nên mới giữ lại. Nay nói thêm rằng: trong các môn thì môn hữu lậu vô lậu phàm phu dễ hiểu. Văn chia làm hai: Nói chẳng phải hữu lậu, văn lại quá rộng. Nói chẳng phải vô lậu thì văn quá lược. Rộng và lược so sánh rất dễ thấy. Thứ nhất nói về chẳng phải hữu lậu, có hai đoạn: Một, nói về ba lậu. Hai, nói về bảy lậu. Hỏi: Vì sao chẳng lấy phiền não của ba cõi làm ba lậu mà lấy Sắc, Vô sắc làm hữu lậu, lấy chung vô minh làm vô minh lậu? Đáp: Đức Phật nói không nhất định, hoặc chuyển ba lậu làm bốn lưu. Nhưng nói ba lậu là vì dục sâu nặng nên chỉ lập một lậu sắc và vô sắc hợp thành một lậu, vô minh là căn bản chung cho ba cõi nên lập một lậu. Như các sư Số Luận cho rằng lậu là rơi vào sinh tử. Các sư luận Thành Thật cho rằng lậu tức mất đạo lý. Nay ý kinh thì chỉ nói phiền não. Từ câu “Tất cả phàm phu v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về bảy lậu, gồm có Kiến, Tư duy, Căn, Ác, Thân cận, Thọ, Niệm. Hai lậu trước là thể của năm lậu. Kiến là lợi sử, Tư là độn sử. Căn là năm căn bên trong, Ác là các pháp ác bên ngoài. Thân cận là người ác. Thọ là nhận lấy, sắc là các pháp bên ngoài v.v…, Niệm là ngày đêm niệm niệm không dừng. Nay văn không nói về tư lậu, lại ác lậu thì gọi là ly lậu. Năng lìa là đạo, sở lìa là ác. Đầu tiên là giải thích kiến lậu, lẽ ra đầy đủ mười sử nhưng nêu nghi, kiến là muốn nói bốn sử tham, sân, si, mạn có cả kiến tư, còn năm kiến và nghi thì chỉ ở kiến đế. Trong môn Tư duy thì thuộc về mạn. Văn có hai. Trước nói rộng về tâm nghi, sau nói riêng về kiến sử. Nghi chẳng phải kiến nhưng nghi và kiến tương quan nhau, nên nói là nghi kiến. Từ câu “Sinh sáu tâm v.v…” trở xuống là nêu đủ các kiến chấp. Trang Nghiêm cho rằng chỉ có năm kiến mà chia biên kiến thành đoạn thường nên thành sáu. Khai Thiện nói rằng chắc chắn có Ngã, chắc chắn vô ngã, chưa phải số sáu, chỉ nói chung là chắc chắn. Từ câu ngã thấy là ngã trở xuống v.v… mới thấy số sáu: 1/ Ngã thấy là ngã; 2/ Ngã thấy vô ngã; 3/ Vô ngã thấy là ngã; 4/ Ngã tạo tác; 5/ Ngã lãnh thọ; 6/ Ngã rõ biết. Một, đối với ngã mà chấp là chân ngã nên nói ngã thấy là ngã. Hai, chấp không có ngã giả nên nói ngã thấy là vô ngã. Ba, chấp thân năm ấm có chân ngã nên vô ngã thấy là ngã. Bốn, năm, sáu: Ngã tạo tác v.v… tức là ba thứ tri kiến trong mười sáu tri kiến. Hà Tây cho rằng chắc chắn có, không phải là hai loại. Ngã thấy là ngã tức vốn chấp có ngã nhưng khi nhập định thấy ánh sáng mầu nhiệm như mặt trời, mặt trăng liền cho chỗ chứng chắc chắn có ngã. Ngã thấy vô ngã tức chấp hiện tại có ngã, quá khứ không có ngã là ngoại đạo đoạn kiến. Vô ngã thấy là ngã, cho rằng loài hữu tình đều vô ngã, lìa năm ấm thì thâý có ngã như lúa, mè v.v… Ngã tạo tác, ngã thọ nhận v.v… nghóa là trước sau thường có, tức thường kiến cho rằng năng tạo nhân thì ngã năng lãnh thọ quả, cho đến biết rõ. Từ câu “Phàm phu v.v…” trở xuống là đoạn ba, giải thích căn lậu. Văn có ba: Nói phàm phu nhân căn mà khởi lậu. Nói Bồ-tát chẳng phải như thế. Kết luận Như Lai là vô lậu. Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là , nói Bồ tát tuy do căn mà chẳng khởi các lậu. Hành khổ, có hai cách giải thích: Cho là hành khổ trong ba khổ, khổ này chung cho ba cõi. Cho rằng hành là vô thường, khổ là báo, không được nói là một. Hai mươi lăm dặm dụ cho hai mươi lăm hữu, bát dụ cho sắc và tâm, dầu dụ cho giới, chẳng rơi một giọt dụ cho chẳng phạm một giới, vua dụ cho Phật, quan dụ cho người tu hành, cầm đao theo sau dụ cho vô thường. Từ câu “Như Lai v.v…” trở xuống là kết luận nói Như Lai vô lậu. Từ câu “Lại có ly lậu v.v…” trở xuống là thứ tư, giải thích ác lậu. Đương thể gọi là ác, theo đạo đối trị thì gọi là ly. Văn có hai: trước, nói về đạo năng lìa; sau, nói về điều ác phải lìa. Thứ nhất lại có hai: Nói về Bồ-tát tu hành. Dẫn xưa chứng cho nay. Trong văn có nêu năm hạng Pháp sư, nói một lần nghe qua mà trong bảy kiếp chẳng bị đọa. Phẩm Danh Tự Công Đức nói: “Nếu nghe được hai chữ Thường trụ thì đời đời chẳng đọa”. Nghe có nhiều loại, nếu suy nghó sâu xa, như lời nói mà tu hành thì đời đời chẳng đọa. Nếu chẳng suy nghó sâu xa đúng như lời dạy mà hành thì chỉ được lợi ích nhỏ. Tám ma, xưa nói bốn điên đảo vô thường, vô lạc v.v… mỗi ma đều có nhân cộng thành tám ma. Hoặc cho rằng bốn ma là phiền não, vô thường v.v… là tám ma. Từ câu “Ta nhớ v.v…” trở xuống là đoạn hai, dẫn xưa để chứng minh cho nay. Bài kệ trên các sư xưa cho rằng hai câu trên là nói về quả, hai câu dưới là nói về nhân. Chứng Niết-bàn là quả, dốc lòng nghe nhận là nhân. Trong quả lại có hai việc là được và lìa. Trong đó, chứng Niết- bàn là được, dứt hẳn khổ đau là lìa. Nhân cũng có hai là dốc lòng tức tu hành và vô lượng an vui là được quả. Nói được quả an vui, chẳng phải thường lạc mà là quả an vui trong nhân, do hành nhân là được. Có người bình xét, cho đó là quá cuộc hạn hoàn toàn không quan hệ. Nếu chỉ có thế thì dâu cần bán thân, đâu thể vừa nghe thì thành Phật đạo ngay. Các Sư Trung Quán cho rằng ý của bài kệ này vô lượng không thể nói hết được, chứa đựng rất rộng, nghóa vị chẳng bao giờ cạn hết, lại nêu ra mười nghóa: Tam bảo. Bốn đế. Ba đức. Bốn đức. Bốn câu là sinh bất sinh, v.v… Bài kệ xưa có nay không. Bài kệ ở núi Tuyết. Bốn tất-đàn. Bài kệ trong Trung luận. Bốn thứ Phật tánh. Bài kệ này chứa đựng Tam bảo: Một câu “Như Lai chứng Niết-bàn” là gồm ý Phật bảo và Pháp bảo. Người năng chứng là Như Lai tức Phật bảo. Pháp sở chứng tức Niết-bàn, là Pháp bảo. Một câu “dứt hẳn sinh tử” chỉ là trợ ngữ. Câu “Nếu dốc lòng” là Tăng bảo. Nếu dốc lòng nghe tức chúng thừa hành pháp, chẳng lẽ không phải là Tăng bảo ư? Chỉ một câu này mà cũng có hai điều so sánh. Nói dốc lòng cũng có thể cho là Pháp bảo, vì chí quyết mong đến nơi đây, tức đến nghe pháp mà nay lại nói thuộc Tăng. Còn câu “Được vô lượng an vui” cũng là trợ ngữ. Vậy nói về Tam bảo chỉ có hai câu, còn bỏ hai câu. Nói chứa đựng ý nghóa Tứ đế: Chẳng lấy nghóa đế, chỉ theo hành chứng. Người chứng pháp này là Phật, chứng Niết-bàn tức là chứng diệt. Vì sao biết được? Vì Niết- bàn dịch là Diệt, há chẳng phải là Diệt đế ư? Câu “Dứt hẳn sinh tử” tức là trừ taÄp. Tập tức là phiền não và kết nghiệp, nay nói sinh tử cũng là phiền não và kiết nghiệp. Câu “Nếu dốc lòng nghe nhận” là Đạo đế, do dốc lòng nghe nên chứng đạo. Câu “Được vô lượng an vui” tức là Khổ đế, vì sao? Vì quả khổ đã dứt thì được quả báo an vui. Chứa đựng ba đức: Ba đức là ba mắt trên mặt của trời Ma-hê-thủ-la. Ba mắt này sắp xếp như chữ Y có ba điểm. Như Lai chứng Niết-bàn là đức Pháp thân, dứt hẳn sinh tử là đức Giải thoát. Dốc lòng nghe nhận là đức Bát-nhã. lAïi mỗi đức có giải thích thêm, trong phẩm Tứ Y nói về ba đức là Pháp thân, Giải thoát và Bát-nhã. Trong phẩm Tứ Tướng thì nêu Niết-bàn, Giải thoát và Bát-nhã. Dùng Niết-bàn thay Pháp thân. Nay ở đây nói Niết-bàn chẳng lẽ không phải là Pháp thân ư? Câu “Dứt hẳn sinh tử” là đức Giải thoát, vì có sinh tử thì bị trói buộc không thể Giải thoát. Nay đã dứt trừ thì không còn bị trói buộc, chẳng lẽ không phải là Giải thoát ư? Dốc lòng nghe nhận tức Bát-nhã, do nghe pháp mà sinh trí tuệ, trí tuệ đã sinh chẳng lẽ không phải là Bát-nhã ư? Nếu chẳng dốc lòng thì đâu thể sinh trí tuệ. Nay đã dốc lòng nghe thì Bát-nhã sinh, lại được pháp lạc tự vui, đó chẳng phải là niềm vui của thế gian. Chứa đựng ý nghóa bốn đức: Bốn đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Như Lai chứng Niết-bàn tức là đức thường. Hỏi: Đó là Như Lai Thường hay Niết-bàn thường? Đáp: Nay nói nhân pháp đều Thường, Văn trước có ghi: “Vì thường nên nhân cũng Thường”. Nói “dứt hẳn” là đức Tịnh. Sinh tử là pháp ác, đầy dẫy sự bất tịnh, đã dứt bỏ bất tịnh thì được thanh tịnh, đó chẳng phải là đức Tịnh ư? Nói: “Dốc lòng nghe nhận” tức là đức Ngã, có ngã mới nghe, không có thì ai nghe. Nói “thường được vô lượng vui” là đức Lạc, cũng có thể cho câu này là lặp lại đức Thường. Bốn câu sinh mà chẳng sinh: Trước đã giải thích rõ ràng rồi, nay chẳng cần giải thích lại. Bài kệ ứng với xưa có nay không: Câu “Như Lai chứng Niết-bàn” tức là nói xưa có nay không, nay đã chứng tức nay mới có. Câu “Dứt hẳn” tức là câu xưa có nay không. Tức khi Như Lai chưa dứt sinh tử thì còn phiền não, đó là xưa có; đã chứng Pháp thân không còn phiền não, chẳng phải là “nay không” ư? Hai câu sau không thể phân chia. “Chỉ ba đời này” là không có việc ấy, cho nên hợp thành hai câu: “Ba đời có pháp, là không có việc ấy”. Thế nào là pháp ba đời? Chỉ chứng pháp Niết-bàn thường lạc này tức là ba đời này không có việc ấy. Nói về bài kệ núi Tuyết: Vì văn có xen lẫn qua lại chút ít, cần phải khéo phân biệt. Hai câu đầu chẳng hợp văn nghóa, ở đây chỉ lấy hai câu kệ sau mà không hoàn toàn ứng hợp. Bốn câu ở đây chỉ hợp với hai câu nay mà thôi. Trong đó câu “Sinh diệt đã diệt” là hợp với câu “Dứt hẳn sinh tử”. Câu “Vắng lặng an vui” tức tương ưng câu “Thường được vô lượng vui”. Hai bài kệ này nếu đối chiếu nhau thì hai bên đều có chỗ thiếu sót, như từ bài kệ này đối chiếu với bài kệ kia, thì bài này không có ý “Các hành pháp vô thường là pháp sinh diệt”, nếu từ bài kệ kia đối chiếu với bài kệ này thì bài kệ kia không có ý “Như Lai chứng Niết-bàn, nếu dốc lòng nghe nhận”. Ý bốn Tất-đàn: Câu “Như Lai chứng Niết-bàn” tức Đệ nhất nghóa đế vì có lúc nói Niết-bàn là Đệ nhất nghóa. “Dứt hẳn sinh tử” là Đối trị Tất-đàn, Trung Luận nói: “Dùng ba Đế đối trị ba lậu” nay dứt sinh tử chẳng phải là đối trị ư? Câu “Nếu dốc lòng nghe nhận” là Thế giới Tất-đàn. Trong Thế giới Tất-đàn hoặc nói có ngã, hoặc nói vô ngã, tất cả đều dốc lòng nghe nhận ngã và vô ngã này. Nói “Thường được vô lượng vui” tức các Vị nhân Tất-đàn. Trung Luận nói: “Một pháp chia làm hai loại mà nói, nếu người chấp ngã thì nói vô ngã, người chấp vô ngã thì nói có ngã; người chấp khổ thì nói vui, chấp vui thì nói khổ”. Nay ở đây trừ chấp vô thường, khổ, nên nói các pháp Thường vui. Kệ Trung luận: Câu “Pháp do nhân duyên sinh” tức là Như Lai chứng Niết-bàn chỉ là pháp nhân duyên, nếu chẳng phải nhân duyên thì thành nghóa định tánh. Câu “Ta nói đó là không” tức là “Dứt hẳn sinh tử” đã dứt sinh tử cho nên không. Câu “Cũng gọi là giả danh” tức “dốc lòng nghe nhận” vì có giả ngã mới có nghe nhận. Câu “Cũng là nghóa Trung đạo” tức là “Thường được vô lượng vui”. Trung đạo tức chẳng phải có, chẳng phải không, cũng chẳng phải thường chẳng phải vô thường, kết luận là Thường. Không khổ không vui, kết luận là đại lạc. Nay Thường Lạc ở đây là thường lạc của Trung đạo. Bốn thứ Phật tánh: Trừ chánh nhân chỉ lấy quả quả, nhân nhân, bốn duyên Phật tánh. Như Lai chứng Niết-bàn tức là quả quả tánh. Nên văn ở sau ghi: “Quả quả là đại Niết-bàn” Sinh tử tức nhân nhân tánh. Văn ở sau ghi: “Pháp do mười hai nhân duyên sinh cũng dứt mười hai nhân duyên, phiền não dứt hết, sinh quán trí giải ngộ”. Đó chẳng phải là nhân nhân ư? Dốc lòng nghe nhận tức là liễu nhân tánh. Ba mươi phẩm, sáu Độ, bốn Đẳng tâm đều là liễu nhân; thường được vô lượng vui tức quả Bồ-đề. Vì thường lạc chẳng lẽ không phải là quả tánh ư? Các sư Trung Quán nói: “Suy nghó như thế thì được mười nghóa lớn”. Cho nên biết lý ấy vô lượng chẳng thể nói hết. Trong phẩm Phạm- Hạnh ở trước nói là đau khổ, ở đây nói chẳng đau khổ. Các sư xưa cho rằng đó chỉ là nói giai vị sâu cạn mà thôi. Kế là nói về điều ác phải xa lìa. Các thú dữ như voi dữ, ngựa dữ, v.v… thường làm hại người, là sinh khởi niệm ác, khởi động thân miệng ác; thành trì, nhà cửa là vật vô tình, làm sao có thể làm ác? Như ở bên thành cầm cung tên, canh gác, chặn đường, chẳng lẽ không phải làm cho người sinh tâm giết hại. Nhà ác cũng giống như thế, ở đây thuộc duyên ác. Nói tri thức xấu ác là kẻ chuyên nói lời ngon ngọt dối trá, dối gạt người, khiến người làm ác nên phải xa lìa. Kế là giải thích thân cận lậu, như văn kinh có nói. Từ câu “Tất cả phàm phu v.v…” trở xuống là đoạn sáu, giải thích thọ lậu. Như văn kinh có nói: Giác tức là thọ, phẩm Thánh Hạnh ghi: “Thọ là tướng giác”. Nhân ba thọ mà sau khởi ba phiền não, vì thế gọi là thọ lậu. Trong đoạn văn trên có giải thích các từ như Sa-môn v.v… tất cả đều có nhiều nghóa, không nên chấp nhất định một nghóa, ở đây nêu sáu điều khó, khác với phẩm Thuần-đà. Ở trước lấy Đàn (bố thí) làm điều khó. Phẩm Ai Thán lấy quả A-la-hán làm điều khó, ở đây cho tâm kinh sợ là điều khó. Vì sao ba phẩm nói về điều khó đều có năm điều giống và một điều khác? Vì phẩm Thuần-đà đối với thế tục nên nói lần cúng dường cuối cùng là khó. Phẩm Ai Thán đối với đạo nên nói quả A-la-hán đạt được là khó. Trong đây là đối chung chấp có phàm phu nên nói sinh tâm kinh sợ là khó. ----------------------------- <詞>PHẨM 22: ĐỨC VƯƠNG (PHẦN 3) Đầu quyển giải thích niệm lậu thứ bảy, có hai đoạn: Trước nói về tướng hữu lậu; sau nói về Bồ-tát vô lậu có khả năng dứt trừ niệm lậu. Hành tâm tà niệm là lậu, theo lý phải đầy đủ sinh niệm lậu trong ba thọ. Nay chỉ nêu sinh niệm lậu trong khổ thọ, sinh các tội lỗi tham, sân, v.v… Từ câu Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về Bồ-tát vô lậu, gồm có pháp, dụ và kết. Đầu tiên nêu một lời về pháp thuyết để nói Bồ-tát suy nghó dứt trừ niệm lậu, phàm phu ngu si chẳng thể suy nghó để dứt các lậu. Từ câu “Thí như có vị vua v.v…” trở xuống là phần dụ thuyết. Có hai là dụ và hợp, hoặc có bảy, tám, chín dụ khác nhau. Nếu đối chiếu với văn hợp ở sau thì nên nhất định là tám dụ: Dụ bốn rắn. Dụ năm người Chiên-đà-la. Dụ dối gạt người thân. Dụ xóm làng. Dụ sáu tên giặc. Dụ sông lớn. Dụ bè cỏ. Dụ đến bờ. Gom tám dụ thành ba nhóm: Sáu dụ đầu nói về duyên của đạo. Một dụ kế nói về tu đạo. Một dụ sau nói về đắc quả. Nói vua, có ba cách giải: Phật nói thân chúng sinh gồm có bốn đại. Vô minh tạo thành thân bốn đại của chúng sinh. Kinh này nói bốn đại của chúng sinh chống trái, tàn hại lẫn nhau như rắn độc. Rương dụ cho thân, ăn uống dụ cho tắm rửa. Nói theo pháp thì y cứ theo các phẩm ác mà định tội nặng nhẹ. Chém ở giữa là dứt gốc thiện, dứt tuệ mạng. Vì việc ấy rõ ràng cho nên nói ở giữa chợ. Lệnh nghiêm tức răn điều ác chớ làm, khuyên nên làm điều thiện. Chạy trốn nghóa là nếu được chân giải thì đường hoàng mà đi. Nay mới hàng phục các hoặc nên nói là chạy trốn. Kế là từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là dụ năm người Chiên-đà- la. Năm Chiên-đà-la dụ cho năm ấm. Đao dụ cho vô thường khổ. Quay đầu, ưa thích Niết-bàn là chạy trốn, nhàm chán sinh tử là quay đầu. Thứ ba từ câu “Năm kẻ kia v.v…” trở xuống là dụ cho dối gạt người thân. Giấu đao tức dùng ngã luống dối che lấp vô ngã, vọng lạc che lấp khổ. Thầm sai một người, một người là dụ cho ái. Tâm hành của năm ấm có tham ái này làm mê hoặc chúng sinh nên dụ giả làm người thân thiện. Thứ tư từ câu “Người kia v.v…” trở xuống là dụ cho xóm làng. Dụ cho năm căn, năm căn là nơi y cứ của thức. Như người sống trong xóm làng. Bình xưa cho là vật chứa có hai miệng, dụ cho năm căn, trọng tức là đạp, tự thư âm là hồng. Nói không có người tức là nhân không, không vật tức là pháp không, ngồi xuống nền đất ức trụ tâm trong cảnh không. Thứ năm, từ câu “Nghe trên hư không v.v…” trở xuống là dụ cho sáu tên giặc. Dụ cho sáu trần cướp mất pháp thiện. Tiếng nói trên hư không là dụ trong lời Phật dạy có nói về sáu trần. Đêm nay sẽ đến là dụ cho vô minh tối tăm che phủ sáu trần. Thứ sáu, từ câu “Trên đường đi v.v…” trở xuống là dụ cho các hoặc. Các chúng sinh ở trong phiền não đâu thể nói chỉ gặp có một. Nhưng vì chưa tu đạo thì chưa biết tội lỗi của hoặc. Nay chuyên tâm tu tập mới biết đó là chướng ngại nên gọi là gặp. Đoạn và thường xung đột nhau dụ như nước chảy xiết. Thứ bảy, từ câu “Nên dùng v.v…” trở xuống là dụ chiếc bè với việc tu đạo. Nghó đoạn, liền đẩy chiếc bè xuống sông, nằm trên đó, tay chèo chân đạp nhắm thẳng dòng bơi qua bờ kia. Tay chèo, chân đạp dụ cho dụng của đạo. Nói bè không bảo đảm chẳng thể nương gá là nghó rằng pháp thiện yếu kém chẳng thể tự qua. Thân nằm trên bè tức tâm nương vào pháp thiện ấy, thẳng dòng mà qua. Cỏ cây dụ cho các pháp thiện, hai tay dụ cho hai trí quyền thật, hai chân dụ cho giới và định. Thứ tám, từ câu “Sang được v.v…” trở xuống là dụ cho việc được quả Niết-bàn. Bên bờ này hay giữa dòng đều có nhiều việc đáng sợ, đã sang đến bờ kia, đạt được quả vị, sẽ không còn lo sợ nữa. Kế là hợp với tám dụ. Đầu tiên là hợp với dụ bốn rắn độc, tức bốn đại. Bốn đại có trong và ngoài. Bốn đại trong thân hợp với bốn rắn độc. Bốn đại cùng tạo thành nhãn căn thì hợp với Kiến độc; bốn đại cùng tạo thành thân căn thì hợp với Xúc độc; bốn đại tạo thành tỷ căn thì hợp với Khí độc; bốn đại tạo thành thiện căn thì hợp với Xỉ độc. Kế là hợp với năm người Chiên-đà-la, như văn kinh có ghi. Thứ ba là hợp nói dối gạt làm người thân. Thân chỉ là ái, ái thường xúc xiểm, phỉnh dụ làm hại chúng sinh nhưng ba tâm trước chẳng thể sinh ái, chỉ có hành tâm mới sinh ra thân ái. Năm ấm đều có làm ác, mà khởi ái thì chỉ có ở hành tâm, vì thế nói là một oán. Văn kinh nói: “Oán dối làm người thân có thỉ có chung; tâm ái chẳng phải như thế, vô thỉ vô chung”. Đoạn này có hai nghóa: Như mười hai nhân duyên giống như bánh xe không có thỉ chung. Tâm ái cũng như thế, không có thỉ chung. Nhưng mười hai nhân duyên lại có thỉ chung, tức vô minh là thỉ, già chết là chung. Về nghóa không thỉ chung, suy tìm chỗ phát khởi của ái không được là vô thỉ, chẳng biết đi về đâu là nghóa vô chung. Hợp dụ thứ tư. Xóm làng hoang vắng là dụ cho sáu nhập bên trong. Đây là nơi người thế gian tu tập. Vì chẳng có người ở, nên gọi là hoang vắng. Sáu căn là nơi nương gá của ngã, tìm cầu chẳng thật có nên nói là không. Như người bên ngoài nhìn vào nhà cho bên trong là có người, đến khi vào nhà thì chẳng thấy gì. Bồ-tát cũng như thế, quán thấy sáu căn đều không, vô ngã, nhưng sáu căn này cùng với sáu trần trong ngoài hợp thành mười hai xứ. Sáu căn còn gọi là sáu tình cũng gọi là sáu thức. Căn lấy năng sinh làm nghóa, tình là từ sinh thức mà đặt tên. Nhưng sáu căn không có tình, thức thì có tình, vì từ năng mà đặt tên nên gọi là sáu tình. Thức lấy hòa hợp làm nghóa tức căn trần hòa hợp mà sinh ra thức. Hợp dụ thứ năm. Sáu tên giặc dụ cho sáu trần từ bên ngoài vào, cướp đoạt tài vật của người. Còn sáu trần thì cướp pháp thiện của người. Nhưng sáu trần sinh ba pháp: bốn việc thì sinh ra phiền não sâu kín nên gọi là bốn vi; còn pháp được sinh ra là Thô nên gọi là bốn việc. Bốn đại sắc, hương, vị, xúc; mỗi đại đều có bốn, cũng không đủ bốn. Năm việc sinh gọi là năm dục; nói năm việc tức bốn việc trên thêm thanh trần. Nói sáu việc sinh thì gọi là sáu trần, trần là tên của các căn vẩn đục. Kế là hợp dụ thứ sáu, một con sông. Sông là dụ cho phiền não, nhưng ở đây không nói hai sông, sáu sông là vì chẳng rảnh để đồng kể ra hết. Như sông sinh tử, sông Niết- bàn, sông pháp thiện, sông Phật tánh v.v… Trong kinh này nói ba con sông khác nhau. Như phẩm Sư-tử thì nói sông sinh tử; phẩm Ca-diếp thì nói sông Niết-bàn; phẩm này thì nói sông phiền não. Từ câu “Đã đến bờ sông v.v…” trở xuống là hợp với dụ thứ bảy. Giới, định, tuệ là ba phẩm. Từ câu “Đến bờ kia v.v…” trở xuống là hợp dụ thứ tám. Đến bờ kia là dụ thường, lạc, ngã, tịnh. Từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là thứ hai giải thích nửa câu “chẳng phải hữu lậu”. Như Lai thường đi trong hữu lậu. Các sư Số Luận cho rằng đều phán định theo cảnh, nếu duyên cảnh hữu lậu thì gọi là hữu lậu; nếu duyên cảnh vô lậu thì gọi là vô lậu. Ở đây nói Như Lai hữu lậu dường như các sư Số Luận đã giải thích. Vì sao? Vì kinh nói Như Lai thường hành trong hữu lậu, hữu lậu tức hai mươi lăm Hữu. Cho nên biết từ cảnh hai mươi lăm hữu mà đặt tên. Các sư luận Thành Thật thì cho là theo tâm, đâu có bao giờ theo cảnh? Ngã thể thanh tịnh khi không có phiền não, dù duyên với cảnh hữu lậu. Hai cách giải thích này là gốc của sự tranh luận. Trong đây nói đủ Như Lai chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu. Chẳng phải hữu lậu là nói Như Lai không có các lậu, chẳng phải vô lậu là nói Như Lai còn hữu lậu. Hữu lậu, vô lậu này là muốn nói Phật chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu; hữu lậu vô lậu đều chẳng đúng, chứ không hề nói là hữu lậu vô lậu. Từ câu “Vì nhân duyên này v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận bất định. Từ câu “Bấy giờ, Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn ba, lãnh giải. Từ câu “Như Phật v.v…” trở xuống là phần hai, Bồ-tát Đức Vương lại thỉnh đáp câu hỏi về quả ở trước. Câu hỏi cách ở trước xa nên phải nêu lên lại. Y cứ vào phần hai hỏi cả về nhân quả, trong đó trước đáp cả nhân quả, kế là đáp riêng nhân quả. Trong phần đáp riêng, Như Lai đã đáp rộng về nhân. Nay Bồ-tát Đức Vương lại nêu câu hỏi về quả, văn có hai. Trước là nêu câu hỏi. Từ câu “Đức Phật v.v…” trở xuống là ý thứ hai, Như Lai đáp, trước khen câu hỏi, sau là chánh đáp. Khen câu hỏi, trong đó có hai ý: Khen nhớ kỹ chẳng quên, đã qua rồi mà còn nhớ câu hỏi ở trước để xin Đức Phật trả lời, vì nói là “Được niệm tổng trì”. Trong Niết-bàn chứa đựng rất nhiều nghóa, nay thầy muốn thọ trì tất cả nên nói là “Được niệm tổng trì”. Từ câu “Như người đời v.v…” trở xuống là đoạn hai, chánh đáp, gồm có hai: Nêu đại tiểu đối đãi nhau là y cứ theo nghóa tương đãi để đáp. Y cứ theo nghóa dứt bặt đối đãi để đáp câu hỏi Đại Niết-bàn. Thứ nhất nói về tương đãi gồm mười cặp. Nghóa tuyệt đãi như văn sau dụ như hư không chẳng do Tiểu không mà gọi là Đại không. Niết- bàn cũng như thế, chẳng do tướng Tiểu mà gọi là tướng Đại. Trong văn nói về tương đãi có hai phần, trước là nêu mười cặp là mười dụ, sau là hợp. Kế là từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích hai chương: trước giải thích Tiểu, kế là giải thích Đại. Giải thích Tiểu có hai: 1. Nêu năm việc có chút nghóa diệt khổ là Niết-bàn, chẳng phải Đại Niết-bàn. Từ câu “kẻ phàm phu v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nêu diệt đoạn phục gọi là Niết-bàn. Trước nêu ra hai môn phàm Thánh. Kế là giải thích, có hai: Trước là giải thích; sau là giải thích thành tựu ý trên. Từ câu “Do thế tục v.v…” trở xuống là giải thích phàm phu nói trên. Từ câu “Hoặc do Thánh đạo v.v…” trở xuống là giải thích Thanh văn. Thế tục là chỉ cho những người được thiền định, hàng phục các hoặc, thuộc về ngoại đạo. Thánh đạo tức các vị Tiểu thừa dứt hoặc. Từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích để hoàn thành hai ý trên. Lại sinh phiền não tức là giải thích phàm phu. Nói có tập khí là giải thích Tiểu thừa. Sau đó văn kinh nêu ra nghóa tập khí. Nói chung mười sử đều có tập khí, như Xá-lợi-phất, Nan-đà, Tất-lăng-già v.v… còn có tập khí. Nay chỉ y cứ theo nghóa kiến để nói về tập (thói quen). Không có ngã, không có lạc, chỉ có thường, tịnh. Đây là cho thường và tịnh, nếu đoạt thì không có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Từ câu “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh v.v…” trở xuống có ba câu, giải thích môn Đại Niết-bàn. Từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nêu dụ để hợp. Gồm mười dụ hợp nhưng chỉ có bảy dụ, còn ba dụ thì hợp chung, tức ba dụ vua, thành và địa cộng thành một hợp. Vì ba việc này tương quan nhau, như vua thì có thành, thành thì có địa, nghóa ý tương quan và phụ thuộc nhau. Lại trời, người cũng cùng hợp nhau. Trong phần hợp riêng, trước hợp với biển, kế là hợp với sông. Ba, là hợp với núi. Ma-ha-na-già và Bát-kiền-đà: Đại luận gọi là Đại long, Đại tượng là các lực só ở cõi trời, Lương Vũ Đế dịch là Cực tráng. Từ câu “Nơi mà v.v…” trở xuống là thứ tư, hợp ba dụ: đại vương, đại thành, và đại địa. Từ câu “Bốn thứ binh v.v…” trở xuống là đoạn năm, hợp dụ thứ bảy, chúng sinh và đại chúng sinh. Từ câu “Nếu có người v.v…” trở xuống là hợp với các dụ là nhân, đại nhân; thiên, đại thiên. “Chỉ dạy v.v…” trở xuống là phần hai, giải thích Đại Niết-bàn tức là y theo dứt bặt đối đãi để giải thích. Văn có hai là chung và riêng. Giải thích chung có hai: một, là không thể nói. Kế là nói về có thể nói. Kế là trong phần giải thích riêng chỉ y cứ theo ba đức mà chẳng nói thường là vì: Cho rằng trước khai tông đã nói thường rồi nên ở đây lược qua chẳng nói. Cho rằng phẩm Danh Tự ghi: “Đại là Thường”, ở đây lại nói về Đại nên chẳng cần nói về Thường. Y cứ theo ba đức, mỗi mỗi cũng có hai. Thứ nhất nói đại ngã, có hai là y cứ Chẳng thể nghó bàn để giải thích Đại và y cứ nhân duyên để giải thích Đại, tức có thể nói và không thể nói. Vì có đại ngã nên gọi là Đại Niết-bàn, lại nói Niết-bàn vô ngã. Xưa có hai cách giải thích: Cho rằng vô ngã tức dứt bặt tên gọi, thầm hợp với chân. Niết- bàn là vô ngã. Nói vô ngã, trong Niết-bàn thì vô ngã là không có vọng ngã sinh tử, có ngã tức có ngã thường lạc. Các sư Trung Quán hỏi về hai cách giải: Nếu nói dứt bặt tên gọi, thầm hợp với chân là vô ngã. Vậy lẽ ra bặt danh hợp chân cũng gọi là vô thường. Kia giải rằng “Chẳng được nói vô thường, vì Niết-bàn là thường”. Cho nên thầm hợp với chân, dứt bặt bốn danh cũng là vô thường. Hỏi thuyết thứ hai “Đã nói vô ngã trong sinh tử thì cũng nên nói vô thường trong sinh tử”. Kia hỏi lại: Trong sinh tử cái gì là thường? Vậy trong sinh tử cái gì là ngã? Nếu kia giải thích rằng trong sinh tử không có chân ngã mà có giả ngã đồng thời nói không có ngưng nhiên thường mà có tương tục thường, thế thì chẳng những không có ngã trong sinh tử mà cũng không có thường trong sinh tử. Điều này thật vô cùng. Tám tự tại ngã: một là một và nhiều; hai là lớn và nhỏ; ba là khinh trọng; bốn là sắc tâm; năm là căn; sáu là chứng đắc; bảy là nói; tám là thấy. Như văn có ghi. Kế là từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích nhiều nhân duyên nên gọi là Đại ngã. Kế là nói đại lạc. Văn có hai Một, là nói đại lạc không thể nói; hai, nhiều nhân duyên là đại lạc. Thứ nhất, giải thích bốn lạc; một là nói về lạc, và ba lần “lại nữa” nói về lạc chẳng phải chẳng lạc. Thứ hai, từ câu “Thứ hai, là đại tịch tónh v.v…” trở xuống là nói không động không tónh là đại tịch tónh, là lạc. Thứ ba từ câu “Vì nhất thiết trí v.v…” trở xuống là giải thích chẳng biết chẳng phải không biết là đại tri, đó là lạc. Thứ tư là giải thích thân chẳng hoại. Tức là thân chẳng phải sinh tử chẳng phải Niết-bàn, chẳng phải hoạn, nên gọi là đại lạc. Kế là từ câu “Danh tự v.v…” trở xuống là đoạn hai, dùng có nhân duyên đối với không có nhân duyên để giải thích. Vì thế chia làm hai phần là có nhân và vô nhân. Thứ nhất nói có nhân duyên, sau là nói không có nhân duyên. Niết-bàn đồng với không có nhân duyên, đó lại là ý dứt bặt đối đãi đã nói ở trước. Nói Ca ca là tiếng chim, Cứu cứu là tiếng kêu của gà, Đát đát là tiếng kêu của chim tró. Man-đà, Hà Tây gọi là Mạn-đà-bà, bản Phạm nói một âm chỉ cho hai vật, một là tòa cao nhà xấu; hai là người dịch kinh nói ở đây lại là điện đường và thức uống. Tát-bà-xa-đa cho rằng tựa như ngựa và rau cần, một âm mà hai tên. Để-la-bà-di là chim yến và chim sẻ, cùng một âm mà hai tên. Kế là từ câu “Thí như có pháp v.v…” trở xuống là thứ ba, y cứ theo nghóa không thể lường để giải thích Tịnh. Trong phần giải thích ở trước, văn nêu nhiều nhân duyên nhưng văn ở đây thì lược. Kế là nói vì thuần tịnh nên gọi là Đại. Sau là giải thích nghóa Tịnh. ba. Nêu bốn nghóa tịnh, như văn kinh đã ghi. “Người thiện nam là tên gọi, v.v…” trở xuống là tổng kết chương <詞>PHẨM 22: ĐỨC VƯƠNG (PHẦN 4 - ĐẦU) Đầu quyển nói về công đức thứ hai. Có người giải thích mười công đức, mỗi công đức đều có nói về thể, cho rằng công đức đầu tiên dùng năm việc làm thể. Nay công đức này lấy năm thông làm thể. Ở đây cho rằng chẳng phải như thế. Văn kinh có ghi: “Vì được năng lực oai thần của Đại Niết-bàn”. Nên biết mười công đức đều lấy Niết-bàn làm thể, tùy theo sự mà có nhiều loại khác nhau. Thể là gốc, đâu có theo cành lá để nói về mười công đức? Năm thông đều y cứ theo vô phân biệt mà phân biệt mười loại, năm loại. Xưa nói công đức thứ nhất sâu, công đức thứ hai cạn. Chẳng đúng như thế, ở trên dùng bốn câu để phân tích nhân thì cho là sâu; ở đây nói thẳng vào nhân thì cho là cạn. Nếu muốn chia đây thành bốn câu thì đó là chẳng đắc mà đắc, đắc mà chẳng đắc, chẳng đắc là chẳng đắc và đắc là đắc. Các môn khác cũng thế, đâu có gì là cạn, v.v… Xưa nói Đại thừa khác Tiểu thừa, chỉ có Phật mới lậu tận. Bồ-tát là người ở giai vị nhân nên chỉ nói năm Thông, chẳng nói lậu tận. Đó mới chỉ là nói qua dùng nhân để nói quả; nếu nói đủ thì chỉ có Phật, Thế Tôn mới có Thiên nhãn (mắt trời) chân thật, chẳng dùng hai tướng để thấy cõi Phật. Tha tâm thông, Túc mạng thông, rốt ráo chỉ có Phật mới đạt được. Bồ-tát đã từng phần được năm thông, vì sao chẳng nói phần đắc vô lậu. Trong văn này tuy nói năm chương nhưng ý đầy đủ sáu Thông. Xưa cho rằng câu “chẳng đắc mà đắc” là nêu chung năm thông. Nay nói rằng chẳng đúng như thế. “Chẳng được mà được” là Đại Niết- bàn, Đại Niết-bàn là Phật tánh Trung đạo và vô lậu của Phi hữu lậu, phi vô lậu. Cho nên văn kinh nói “chẳng phải ngoại đạo” tức chẳng phải hữu lậu; “chẳng phải Nhị thừa” tức chẳng phải vô lậu mà đạt được Đại Niết-bàn tức là vô lậu của phi hữu lậu phi vô lậu. Giải thích rằng nói thần thông chẳng phải như mười tám thứ biến hóa của Tiểu thừa; nói Thần tức thiên tâm, Thông tức là tuệ tánh. Tuệ thiên nhiên tức Trung đạo lìa hai bên lậu, vô lậu, đó gọi là Đại Niết-bàn. Chỉ cho đây là vô lậu thông. Nói thêm rằng nghiệm xét mười công đức là chứng. Văn đầu tiên đã nói biết tạng sâu kín há chẳng thể phần chứng sáu Thông ư? Cho nên biết văn nói về đức đều quán thông nhau mà luận, chẳng riêng mà riêng nên mười tướng khác nhau, riêng mà chẳng riêng nên đồng là một Niết-bàn, vì thế đối với các địa cũng chẳng được sai lầm, huống chi nghóa mười địa chung cho Viên và Biệt. Biệt mà chẳng biệt tức là nghóa viên; chẳng Biệt mà Biệt tức nghóa Biệt. Nếu theo ý này thì lấy mỗi pháp môn trong mười đức này hợp với mười địa, dùng pháp môn đới viên để giải thích Thông, Biệt thì ý nghóa càng sáng tỏ thêm, chính xác thêm. Như thế thì hợp với kinh này, hợp với năm thời, hợp với các giáo, hợp với cơ hội. Văn có bốn đoạn: nêu lên, trình bày chương, giải thích và kết luận. Nêu sáu danh đã khác Tiểu thừa, mà sáu thông cũng chẳng đồng với họ. Văn kinh giải thích mỗi tên gọi đều có phân biệt dứt trừ; nêu các tên gọi tuy khác nhau nhưng nay chỉ cho văn này cũng gọi là sáu thông. Trong đó, chẳng đắc mà đắc là Lậu tận thông; chẳng nghe mà nghe là Thiên nhó thông; chẳng thấy mà thấy là Thiên nhãn thông; chẳng đến mà đến là như ý thông; chẳng biết mà biết là Tha tâm và Túc mạng thông. Thứ ba là giải thích. Văn có năm đoạn nhưng phần nêu chương và giải thích có chút phần không theo thứ lớp, đó là do duyên nghi khác nhau. Thứ nhất, là chương chẳng được mà được, gồm có ba: một là nêu lên; hai là dứt trừ để hiển bày; ba là kết luận. Nêu thần thông: Thần là Đại Niết-bàn, là lý thiên nhiên. Lý này dung thông, tự tại vô ngại nên gọi là Thần thông. Tên tuy đồng mà lý thì rất khác nhau. Nêu phân biệt dứt trừ phàm phu và Tiểu thừa, hiển bày Trung đạo tròn đầy tự tại, cho nên biết lậu tận mới gọi là Thần thông. Từ câu “Thần thông v.v…” trở xuống là dứt trừ để hiển bày, gồm có nêu lên và giải thích. Giải thích có hai là dứt trừ điều chẳng đúng và hiển bày điều đúng. Đầu tiên là dứt bỏ ngoại đạo và Nhị thừa, như văn kinh đã ghi. Kế là hiển bày điều đúng, gồm có hai: Một là nói trong một tâm đầy đủ viên mãn, như văn kinh có nói. Thứ hai, hiển bày thân tâm tự tại, đầy đủ, là y cứ theo thể viên, tự tại nói về diệu dụng. Văn nói về tự tại có hai: một là phân biệt dứt trừ chẳng tự tại. Kế là nói về tự tại. Thứ ba là kết luận. Như văn kinh ghi có thể tự hiểu. Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là giải thích chẳng đến mà đến, tức là Thân thông. Văn có ba: một, là nói về các cõi xa. Thứ hai, phân biệt khác với Nhị thừa. Thứ ba, là nói về tự tại. Như văn kinh có ghi. Từ câu “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là đoạn ba giải thích chẳng nghe mà nghe tức Thiên nhó thông. Văn có hai phần là giải thích và nói về nghóa. Giải thích có bốn ý là tu, đắc, phân biệt và không chấp đắm. Hai ý trước như văn kinh có ghi. Nói chuyển tu thì được nhó căn kỳ lạ, tức là nói tu đắc đều khác Tiểu thừa và ngoại đạo. Chuyển tu tức là tu Đại Niết-bàn tâm vô ngại tự tại. Tuy nghe âm thanh mà không nghó là âm thanh, đó gọi là chuyển tu, được nhó căn khác lạ, chẳng giống như Tiểu thừa. Thứ tư là nói về không chấp đắm, nói tướng chủ, tướng y chẳng đồng với ngoại đạo Đà-phiếu-cầu-na. Chẳng tạo ra tướng quả v.v… tức chẳng lấy thiền định làm nhân, thần thông làm quả, đó phân biệt khác với Tiểu thừa. Các câu khác có thể tự biết. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về nghóa. Có hai phen hỏi đáp. Thứ nhất là hỏi, có hai là lãnh chỉ và kính bác bỏ ý Phật. Từ câu “Vì sao?” v.v… trở xuống là gạn hỏi hai câu: một, là âm thanh thiện; hai, là hỏi về âm thanh ác, đều hỏi về tướng định. Phật đáp, có hai ý: một là khen ngợi câu hỏi; hai là chánh đáp. Chánh đáp có hai: một, là đáp chung; hai, là đáp riêng. Đáp chung lại chia làm hai: một, là nói đều bất định; hai, là nói định, lại là định trong bất định. Thứ nhất có hai lớp, đều trước là phápï, kế là nêu dụ, sau là kết. Kế là từ câu “Như lời ông nói v.v…” trở xuống là phần đáp riêng, có hai: một, là đáp câu hỏi về âm thanh thiện. Kế là trả lời về âm thanh ác. Đó là muốn nói nguyên do chẳng có liên quan đến tiếng ác. Từ câu “Bạch Thế Tôn!” trở xuống là hỏi đáp thứ hai, trước là hỏi, sau đáp, như văn kinh có ghi. Từ câu “Thế nào là xưa chẳng thấy mà nay được thấy?” v.v… trở xuống là phần thứ tư giải thích chẳng thấy mà thấy, tức Thiên nhãn thông. Văn có sáu đoạn: tu, đắc, phân biệt, không chấp đắm, nói về biết khác, kết luận. Ở đây có một vài câu nói về “biết”, nhưng chẳng phải “biết” ở sau. Đây chỉ là mượn biết để nói rõ về thấy mà thôi. Văn kết luận chính là nhờ vào văn mới nói về Thiên nhãn để giúp cho kết luận, vì là bất cộng. Từ câu “Này thiện nam!” v.v… trở xuống là thứ năm, giải thích biết mà chẳng biết, tức Tha tâm thông và Túc mạng thông. Văn có bốn đoạn: Biết tâm người. Biết túc mạng. Lặp lại về tha tâm. Từ câu “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là kết luận. Thứ nhất là tha tâm, có hai ý: Trước là biết tha tâm, kế là biết Phật tánh. <篇> <卷>QUYỂN 22 <詞>PHẨM 22: ĐỨC VƯƠNG (PHẦN 4 - CUỐI) Từ câu “Lại nữa v.v…” trở xuống là nói về biết rõ Túc mạng. Văn kinh có hai: Một, là chánh thức nói về Túc mạng. Kế là, nghó nhớ quá khứ, phân biệt khác lạ y cứ theo trước có thể biết; ở đây lược không nói đủ. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là đoạn ba, giải thích lại về Tha tâm thông. Văn có hai: một, là ngang thì biết sáu đường; hai là dọc thì biết mười sáu tâm. Nói mười sáu tâm là thuận theo nghóa của Số Luận. Luận rằng vô lượng tâm của kiến đạo rất nhạy bén nên gọi là tâm Vô gián. Luận Thành Thật ghi: “Hàng Thanh văn muốn biết tâm thứ ba Đến tâm thứ mười sáu. Duyên giác muốn biết tâm thứ ba đến tâm thứ thứ bảy, chỉ có Bồ-tát biết rõ tất cả”. Hàng Tiểu thừa độn căn cho nên muốn biết từ tâm thứ ba trở đi, đồng thời muốn biết các tâm sau, lại so sánh muốn biết đến tâm thứ sáu. Hàng Trung thừa căn tánh khá nhạy bén, muốn biết tâm thứ ba đến tâm thứ bảy. Bồ-tát chẳng phải như thế, đều biết tất cả không một tâm nào chẳng biết. Đây là nghóa chung của ba Thừa, lại có ba người chẳng đồng mà đồng. Mười sáu tâm này chẳng phải là ý kinh ở đây. Trước biết sáu đường là biết có ngằn mé, kế là biết mười sáu tâm là biết không có, dùng thể Trung đạo chẳng phải có chẳng phải không để biết được có và không. Từ câu “Này thiện nam!” trở xuống là nói về công đức thứ ba. Xưa cho rằng trong văn này nói về Từ, thành nghóa của phẩm Phạm hạnh ở trên. Văn có hai là nêu lên và giải thích. Trong phần giải thích, trước là giải thích, sau là kết luận. Nội dung phần giải thích rằng trong công đức này lẽ ra nêu đầy đủ bốn tâm nhưng chỉ nói về tâm Từ, vì: một, chỉ có văn lược thì nghóa sẽ đầy đủ; hai, cho là gốc của tất cả pháp thiện, vì sao chẳng được nêu? Tức ba tâm này bỏ sự thiên lệch mà nêu sự viên mãn, nêu một biết ba, nêu lược chẳng nói đến. Giải thích văn có hai ý: Nêu hai chương xả và đắc. Giải thích. Giải thích, trước là nêu câu hỏi; sau là giải thích. Giải thích có năm phen: Một, là y cứ hai đế. Hai, là y cứ phàm Thánh. Ba, là y cứ Xiển-đề đối với Như Lai là một cặp thiện ác. Bốn, là y cứ theo kẻ thấp hèn đối với Bồ-tát, là một cặp hơn kém. Năm, là nói về không chấp đắm. Kết luận như văn kinh ghi. Kế là nói về công đức thứ tư. Văn có hai đoạn là nêu công đức và luận nghóa. Kế có bốn: Hỏi, nêu chương môn, giải thích và kết luận. Dung Thành cho rằng hai việc trước thuộc về các giai vị trước Thập địa; tám việc tu sau phải phối hợp với Bát địa. Trước nói căn sâu tức là Tánh địa cũng là Sinh không. Tâm quyết định vào sơ y cũng là pháp không. Tám việc sau, đầu tiên là nói chẳng quán ruộng phước tức Sơ địa viên mãn Đàn độ. Đến thứ mười là dứt trừ hai bên tức Bát địa. Nghóa trên chẳng đúng, ở đây đều là công đức chân chứng. Từ câu “Thế nào là căn sâu v.v…” trở xuống là đoạn ba, giải thích. Trong đó có thứ năm, thứ sáu hợp thành một đoạn giải thích. Việc thứ nhất, văn có ba ý: hỏi nêu, giải thích và kết luận. Trong việc đầu tiên có đủ năm nghóa: Căn bản. Căn sâu. Căn rộng. Căn tăng tưởng. Căn thù thắng. Nói chẳng buông lung tức là căn bản. Nếu nói chung về hành thiện thì tất cả đều chẳng buông lung. Nhưng nếu nói chỉ lấy việc đầu tiên là xem xét tâm chẳng làm buông lung. Đầy đủ hai ý này, tức là căn bản. Kế là nói Vô thượng Bồ-đề, tức là nói căn sâu. Sâu tận cùng thật tướng, đạt đến bờ mé tức chân, đó là gốc Bồ-đề nên nói sâu. Kế là nói gốc thiện của chư Phật đều chẳng buông lung tức là nói căn rộng. Nói vì làm cho thêm lớn tức là nói căn thêm lớn. “Hơn hết trong các điều thiện” tức là căn cao quý. Nêu mười ba dụ, dụ cho tướng cao quý của pháp chẳng buông lung. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là nêu mười căn để giải thích lại về thêm lớn. Đầy đủ mười nghóa thì sâu, bền chắc khó lay động. Nói thêm rằng thêm lớn, cao quý đã dùng nhiều nghóa để giải thích, nghiệm biết ba việc kia cũng như thế, trừ căn thêm lớn đã nêu, các căn còn lại cũng có mười nghóa, mười ba cặp dụ. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là chương hai, văn có ba: Hỏi, giải thích và kết luận. Hỏi: như văn kinh có nói. Giải thích có hai: Một, là thân quyết định; hai, là tâm quyết định. Quán thân là có tức là vật sinh tử, quán thân là không tức là pháp khí Niết-bàn. Nay quán thân chẳng phải có chẳng phải không tức là chính thức hiển bày Trung đạo, là pháp khí Vô thượng Bồ-đề đó gọi là thân quyết định. Kế là tâm cũng giống như thế, nếu tâm nhỏ hẹp là tâm tự vì mình, nói biến dị tức là gồm hai nghóa: Nếu nói theo tu nhân thì sinh diệt vô thường là biến dị. Nếu nói theo chịu quả thì sinh tử biến dị là biến dị. Thanh văn, Bích-chi-Phật từ người mà nêu tâm, đó là vô vi, tâm ma tức ma trời, tâm tự vui thì chung cho các vị trời; tâm thích sinh tử chung cho ba cõi. Ba tâm này thuộc về hữu biên không quyết định. Cầu tâm từ là tâm từ vô duyên; cầu tâm bi là tâm bi bạt hữu. Đó mới là tâm quyết định. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là giải thích chương ba, văn gồm có hỏi, giải thích và kết luận. Trong phẩm Tứ Y nói: “Phò trì Phật pháp phải phân biệt trì phạm”. Còn ở đây vì tự tu nên dùng bình đẳng. Vả lại trước là khuyên hàng xuất gia vâng giữ giới hạnh; còn ở đây khuyên người tại gia phải quên tướng bố thí. Nói niệm xứ khác lạ là khác hai bên, là chánh quán Trung đạo. Ngoại đạo giữ giới, chẳng những là giữ giới mà còn được định cõi trên. Như văn kinh sau có ghi: “Ngoại đạo dứt kết sử còn hơn cả Tỳ-kheo giữ giới”. Vì Tỳ-kheo giữ giới chỉ hàng phục pháp ác cõi Dục, do đó so sánh mà nói là hơn. Bốn loại thí đều được quả báo thanh tịnh, tức là không bố thí, không có quả báo tức là quả báo thanh tịnh. Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích chương bốn, văn có ba: Hỏi, giải thích và kết luận. Nêu câu hỏi như văn kinh có ghi. Trong phần giải thích chỉ nói nghiệp Tịnh độ, lấy Bồ-đề làm gốc. Ở đây nêu mười điều thiện, chẳng phải chỉ riêng mười điều thiện mà phải hòa hợp với tâm Bồ-đề mà tu hành. Ví như ở trên đáp câu hỏi vô úy, nhưng mười điều thiện là nói nhân tương tự được quả tương tự. Như nói lìa bỏ nói dối được hoa quả, nghóa là nói rằng vọng thì không thật, như hoa không kết trái. Nay chẳng nói dối thì có quả báo chân thật, khi chịu báo thì cảm được hoa quả tốt đẹp. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là hợp giải thích hai chương thứ năm và thứ sáu. Ý nghóa liên quan nhau nên hợp thành một để giải thích. Có hai cách giải khác nhau: Cho rằng trong đây phần khai chương nói về ba loại hữu dư, hai việc đầu là giải thích chương năm, dứt trừ hữu dư, một việc sau giải thích chương sáu, dứt trừ nghiệp duyên. Nói phiền não dư báo là giải thích dứt trừ hữu dư, nói dư nghiệp là giải thích trừ nghiệp duyên ở đoạn trên, còn lại một việc chỉ là nêu ra. Văn có ba đoạn: một, là nêu chương ba; hai, là thứ lớp giải thích; ba, là kết luận. Thứ hai, là giải thích chươngba , thứ nhất là giải thích phiền não dư báo. Nếu phân biệt tập và báo thì tập nhân là phiền não, báo nhân là nghiệp. Nay phần tập và báo khác nhau nên nói phiền não dư báo. Nhưng cảm báo là do nghiệp, phiền não chỉ có thể làm cho nghiệp này thêm lớn. Như trong Đại Luận nói thì chỉ có phiền não cũng có thể cảm báo. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là giải thích trừ nghiệp duyên. Đây là nghiệp của phàm phu thông minh và Nhị thừa. Nói Tu- đà-hoàn có nghiệp bảy lần thọ sinh tức Tu-đà-hoàn tuy đã dứt trừ kiến hoặc nhưng còn suy nghó, nhuận sinh cõi trời, cõi người nên còn bảy lần sinh lên cõi trời, bảy lần sinh xuống nhân gian, lên xuống hợp thành một vòng nên nói bảy, nếu chia ra thì thành mười bốn. Tư-đà-hàm có nghiệp hai lần thọ sinh, người Tư-đà-hàm chỉ còn một lần sinh lên cõi trời, một lần sinh xuống cõi người. Đây là chia nên nói hai, nếu hợp thì chỉ là một. Có người hỏi: Vì sao đối với Sơ quả thì hợp lại để tính, còn quả thứ hai thì lại chia ra? Đáp: Đó chỉ là hiển bày cho nhau mà thôi. A-na-hàm có nghiệp thọ thân ở cõi Sắc, tức A-na-hàm đã dứt hết tư hoặc cõi Dục nhưng vẫn còn tư hoặc cõi Sắc. Nhưng A-na-hàm gồm năm hạng chỉ nêu ra hạng thượng lưu, hạng Thượng lưu có hai hạng: Đến A-ca-ni-trá. Đến Vô Sắc. Cho nên kinh nói: “Thích nói về nghóa thì sinh lên cõi Tịnh cư; người thích thiền định thì sinh lên cõi Vô sắc”. Nhưng sinh vào cõi A-ca-ni-trá thì đã trải qua khắp Tứ thiền, nếu ở Sơ thiền chưa được diệt thì sinh lên cõi Nhị thiền. Ở Nhị thiền chưa được diệt thì sinh vào Tam thiền. Ở Tam thiền chưa diệt lại sinh vào Tứ thiền mới diệt. Trong đó lại có ba là siêu, bán siêu và khắp mất. Sinh lên cõi Vô Sắc thì gọi là Vô sắc ban, v.v… nếu sinh lên Vô sắc thì chẳng còn sinh trở lại, cũng là sinh tức diệt, chẳng đồng với việc thọ sinh của Tứ thiền cho nên lược bỏ, chẳng nói “thọ nghiệp cõi Vô sắc” mà chỉ nói “thọ thân cõi sắc” vì chẳng sinh vào đó. Cũng là nói “hành hữu hành vô đồng sinh cõi Sắc”, cho nên cũng chẳng nói. Kế là từ câu “Thế nào là hữu dư v.v…” trở xuống là thứ ba, giải thích trừ hữu dư ở trên. Nói không có nghiệp, không còn kết sử mà chuyển hai quả. Trang Nghiêm nói: “A-la-hán chuyển thành Bồ-tát Lục địa, Bích-chi-Phật chuyển thành Bồ-tát Thất địa nên nói chuyển hai quả. Nay nói đó là nghóa của Thông giáo, chẳng thể dùng để giải thích kinh này. Khai Thiện cho rằng không có việc ấy. Nói chuyển tức vốn là A- la-hán độn căn chuyển thành lợi căn. Bích-chi-Phật cũng như thế, vì dư tập nên chuyển thành hai quả. Nay nói đó cũng là Nhị thừa chẳng phải ý của kinh này. Hà Tây cho rằng câu trên nói hai quả đắc đạo và đắc hướng tức chuyển A-la-hán đắc quả A-la-hán; Bích-chi-Phật cũng như thế. Văn kinh nói: “đắc và quả” thì đâu thể chẳng giải thích như thế. Nay nói cũng là nghóa của Nhị thừa, chẳng phải là ý của kinh này. Lại có người giải thích: Nhân phiền não đã hết, quả báo cũng dứt, mà nay chẳng diệt là vì dư thế trôi lăn nhưng nghiệp đã dứt chỉ còn hai quả này, đối với Bồ-tát là hoạn lụy cho nên nói là chuyển, chuyển tức là xả. Đây cũng là nghóa kia, chẳng liên quan đến kinh này. Hưng Hoàng cho rằng chuyển hai quả nghóa là quả Nhị thừa, thân còn nóng lạnh đói khát. Nay quả này đã dứt cho nên nói chuyển hai quả. Đây cũng là nghóa của Tiểu thừa. Nay nói quả này chẳng sinh, hễ diệt thì dứt, đâu cần do kinh mà chuyển? Đáp rằng quả của ba cõi tuy đã hết mà quả ngoài ba cõi mới sinh. Nói chuyển quả tức chuyển quả ngoài ba cõi. Nay lại nói rằng đó cũng là nghóa của Biệt giáo chưa phải là ý của Viên giáo. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là giải thích chương bảy, cũng có nêu câu hỏi, giải thích và kết luận. Nêu hỏi như văn kinh ghi. Thứ hai là giải thích, trong đó có phẩm Sư Tử Hống. nói: “Hoặc là một nghiệp, một tướng, hoặc là một nghiệp hai tướng, ba tướng”. Trong đây nói một trăm phước thành một tướng, văn có hai đoạn: Nói về nghiệp của tướng quý. Nói nghiệp của vẻ đẹp. Ngoại đạo kính thờ một vị thần, mỗi vị chỉ có một tướng. Phật thì tu tập tất cả các tướng vào một thân. Mười hai nhật tức mười hai chi: Tý, Sửu, Dần, v.v… Hà Tây cho rằng một năm có mười hai ngày tốt dùng để cúng tế và cầu phước. Nhưng tu tướng quý và vẻ đẹp cũng có ý nghóa bốn Tất-đàn: Thể của Pháp vương nên dùng tướng quý và vẻ đẹp để trang nghiêm thân, chư Phật đều như thế, đó là Thế giới Tất-đàn. Khiến cho người thấy sinh tâm tín tâm, khởi hạnh thiện tức là Vị nhân Tất-đàn. Một thân đầy đủ các vẻ đẹp, đối phá ngoại đạo là Đối trị Tất- đàn. Vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã thanh tịnh, Bát-nhã thanh tịnh tức Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Văn nêu bốn dụ hoặc nêu y cứ theo đó để phối hợp. Từ câu “Vì sao v.v…” là chương tám, có ba: hỏi, giải thích và kết luận. Thứ nhất như văn kinh có ghi. Có người nói “Biết nhân duyên hòa hợp tức là Thế đế”. Nghóa trên chẳng đúng. Vì chẳng thấy tướng sắc là chi hành diệt; chẳng thấy duyên của sắc là vô minh diệt; chẳng thấy thể của sắc là thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ diệt; chẳng thấy sắc sinh tức các chi ái, thủ, hữu, sinh diệt; chẳng thấy sắc diệt tức lão tử diệt; chẳng thấy tướng một là chẳng thấy mười hai nhân duyên; chẳng thấy người thấy là chẳng thấy nhân duyên giả, chân tục đều bặt, hai đế đều mất, cũng chẳng thấy Trung đạo. Thông đạt rõ biết nhân duyên như thế, vì sao chỉ là Thế đế? Tất cả pháp cũng như thế. “Vì sao v.v…” trở xuống là chương chín, văn có ba đoạn là hỏi, giải thích và kết luận. Nêu hỏi như văn kinh có ghi. Kế là giải thích, có hai phần: Lìa oán. Phân biệt oán. Thứ nhất, lìa bỏ phiền não là tự lìa oán. Nói năm trụ tức là nói tha lìa oán. Từ câu “Thế nào là oán v.v…” trở xuống là phân biệt nêu lên kẻ oán. Hà Tây giải thích tám ma: Bốn ác như phỉ báng kinh Phương đẳng v.v… là bốn ma, tức là ma sinh tử. Bốn ma như vô thường, vô ngã v.v… là ma Niết-bàn. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là chương mười cũng gồm hỏi, giải thích và kết luận. Thứ nhất, như văn kinh nói hai mươi lăm hữu và phiền não là hai bên tức là hai pháp nhân quả. Nay nói thêm rằng phá ba hoặc trong hai mươi lăm hữu nên nói là xa lìa hai bên. Hà Tây cho rằng nghiệp và phiền não là hai bên. Nay nói thêm, nếu nói ba hoặc có ba thứ nghiệp mới hợp ý kinh này, vậy phải lấy hoặc nghiệp của giới nội làm hai bên, như thế thì hoàn toàn chẳng phải ý kinh này. Đã đạt được ý này thì như tất cả pháp hữu vô, thường đoạn, cấu tịnh, buộc mở, v.v… đều là hai bên. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần nói về nghóa, văn gồm có hỏi và đáp. Ý hỏi nếu Bồ-tát tu tập mười công đức, vì sao Như Lai chẳng tu tịnh độ. Phật đáp có bốn ý: Nói ta nhờ tu mười việc, các bậc Thánh cũng như thế. Từ câu “Ví như v.v…” trở xuống là quở trách câu hỏi. Từ câu “Về phương Tây v.v…” trở xuống là , chỉ bày cõi Tịnh độ Vô Thắng. 4. Từ câu “Vì giáo hóa v.v…” trở xuống là nói vì giáo hóa chúng sinh nên xuất hiện ở cõi uế. Từ câu “Lại nữa v.v…” là công đức thứ năm. Văn có ba đoạn: Hỏi, giải thích và kết luận. Phần giải thích có hai là giải thích và nói về nghóa. Thứ nhất là phần giải thích. Xưa giải thích về năm việc có ba thuyết: Dung Thành cho rằng chung cho hàng ngoại phàm và ba mươi tâm. Đã nói chẳng sinh biên địa và đầy đủ các căn. Đó là minh chứng. Cho rằng đức này chẳng phải là cạn hẹp. Vì sao? Vì Bồ-tát Đăng Địa trở lên đều nương vào sự để hiển lý. Nói các căn đầy đủ chẳng phải chỉ cho mắt tai v.v… mà chính là nêu các căn tín, tấn, v.v… xuất thế. Nói biên địa chẳng phải các vùng biên giới của cõi nước thế gian, không có Phật pháp, mà chính là nói lìa hai bên đoạn thường. Nói các vị trời hộ niệm tức nói Phật là trời, nói bốn chúng cung kính tức là làm ruộng phước cho chúng sinh. Khai Thiện cho rằng đây là nói Bồ-tát Đăng Địa còn sinh vào cõi Dục nên gọi là các căn đầy đủ. Nếu nói theo vô lậu thì được quả báo Biến dịch, nhưng Bồ-tát này còn hữu lậu nên nay thọ sinh. Tuy có năm việc này nhưng tâm không chấp đắm, chính là lấy không chấp đắm làm thể. Nay bình rằng ý của Khai Thiện hoàn toàn là nghóa của Bồ-tát Tạng giáo. Nhà thứ nhất nói “chung cho Bồ-tát trước Thập địa” đó chỉ là nghóa tâm ban đầu của Biệt giáo chẳng quan hệ gì đến kinh này. Nhà thứ hai nói Bồ-tát Đăng địa thì đó là ý chứng đạo. Nay y theo văn có hai là nói về công đức và nói về nghóa. Nói về công đức thì nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất, như văn kinh có chép. kém. Giải thích: Bốn việc trước là báo quả, một việc sau là tập quả. Kế là phần nói về nghóa, trước là hỏi. Kế là Đức Phật, trước khen câu hỏi, sau là chánh đáp. Trong phần trả lời có hai đoạn: trước là nêu hơn kém. Kế là từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là hiển bày tướng Đầu tiên là nêu năm chương, trong đó định là lạc, cao quý là ngã, thường tinh thì sẽ thấy, kỳ lạ là Trung đạo, vô lậu là chứng Trung đạo, lợi ích an vui là hoa sen. Nói xa lìa khát ái là giải thích về định, về lạc; dứt sinh tử chẳng nối nhau là giải thích thường; làm Bồ-tát là giải thích tịnh; dứt trừ sự nghèo thiếu pháp thiện là giải thích cao quý, giải thích ngã; quả vô phân biệt là giải thích dị, giải thích bất cộng, giải thích cả vô lậu, lợi ích chúng sinh. Đức Phật nói năm việc này do Đại Niết-bàn mà được, có sư giải thích là chung cho ba mươi tâm ngoại phàm. Nên biết trước Thập địa thì chẳng gọi là đắc; Đức Phật nói là vô lậu, còn Khai Thiện cho là hữu lậu, đã đối kháng ý Phật lại còn làm người sau lầm lẫn. Cho nên biết, chẳng thể hoàn toàn tin theo người giải thích, người học đời sau nên nương theo kinh. Đó gọi là Bồ-tát tu tập kinh Đại-Niết-bàn mầu nhiệm, thành tựu đầy đủ phần công đức thứ năm. Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là nói về công đức thứ sáu. Xưa giải thích Tam-muội Kim cương. Nếu nói theo Thập địa thì đó là tâm sau cùng (chung tâm). Nếu nói theo ba nhẫn thì đó là Thượng nhẫn. Như thế lùi chẳng phải là Bồ-tát Đẳng giác; tiến thì chẳng phải Diệu giác, đó là Bồ-tát Kim cương tâm. Thuyết khác thì cho rằng đầy đủ giải tâm và hữu; một thuyết thì chỉ dùng nghóa chiếu hữu, chẳng lấy giải không vì giải không chưa đủ. Trang Nghiêm cho rằng Kim cương tâm dứt hết hoặc, dẫn văn “Do bảy mặt trời cùng chiếu nên núi Càn-đà đều bị cháy hết”. Cho nên biết Đẳng giác đã dứt bỏ hết các hoặc. Khai Thiện cho rằng Kim cương Tâm chỉ mới hàng phục vô minh, đến Diệu giác thì dứt một niệm hoặc nhẹ mỏng, liền thành Phật; dẫn kinh Thắng Man rằng: Trí Bồ-đề của Phật là năng đoạn, văn này nói hàng phục là dứt hết. Kim cương Tâm thì giải Hữu là tròn đầy, nhưng còn chưa đủ giải không, dẫn kinh Nhị Thập Nhị Ngộ và kinh Phu Nhân để minh chứng rộng nghóa này. Các sư Trung Quán cho rằng chẳng thể xét định giai vị ấy, nên ví như Bát-nhã, quán thông các Địa. Vả lại, Thập địa thì quá cao, vậy công đức thứ năm thì thuộc Địa nào? Chẳng nên phán định quá xa cách, chỉ nên tương ưng với Tam-muội mà chẳng cần phân biệt cao thấp. Xưa lại cho Thập địa được một trăm Tam-muội rồi mới được định Thủ-lăng- nghiêm, mới nhập Tam-muội Kim cương, trên thì chưa đến Phật, dưới thì chẳng phải hàng Hạ địa, chỉ ở bậc đã cùng học mà thôi. Nghóa này cũng chẳng đúng. Môn Tam-muội này cũng có Thông và Biệt, Biệt thì y cứ theo bậc cùng học, Thông thì suốt khắp các Địa, cũng chung cho Tự đạo, đâu khác gì Kim cương Bát-nhã thông từ Sơ địa đến Thập địa. Bát-nhã đã là Thông thì Tam-muội chẳng lẽ lại là Biệt ư? Vì sao? Vì toàn thể cứng chắc như Kim cương, toàn thể an định như Tam-muội, thể bén nhạy như Bát-nhã. Cho nên kinh nói: “Tam-muội Kim cương có ba tên”. Văn sau cũng ghi: “Phật tánh có năm tên gọi”. Nếu nói chung tâm có dứt và không dứt thì hai nhà đối nhau. Vì duyên làm lợi ích nên nói có dứt và không dứt, theo thật lý thì chẳng dứt, chẳng phải chẳng dứt. Nay cho rằng Trang nghiêm dẫn “núi Càn-đà đều cháy” chỉ là Thiên, vì sao? Vì hễ khi bảy mặt trời đều hiện, thì chẳng những đốt cháy núi Càn-đà mà tất cả đều bị cháy rụi cả, nay lại chẳng lấy nghóa tất cả đều cháy rụi làm dụ, mà chỉ lấy việc cỏ cây cháy còn lại núi để làm dụ. Đó chẳng phải dụ chung cho tâm của Thập địa dứt hoặc. Chỉ lấy bảy mặt trời lúc mới mọc, trước chiếu trên núi Càn-đà, khiến cỏ cây đều bị cháy, để nói Tam-muội này là công đức của Sơ địa. Vì mới dứt hoặc cho nên lấy việc đốt cháy cỏ cây làm dụ. Văn có nêu lên, giải thích và kết luận, thứ nhất là giải thích, có ba đoạn: 1) Nói lược về Tam- muội; 2) Giải thích rộng Tam-muội; 3) Giải thích tên. Phần nói lược có hai là nói về tự đức và nói về hóa tha. Văn nói về tự đức lại có hai: 1) Năng đoạn; 2) Nêu điều sai. “Đều phá tan hết” tức là năng đoạn, “thấy tất cả pháp” là nêu lên sai lầm. Từ câu: “Bồ-tát trụ v.v…” trở xuống là nói về hóa tha. Từ câu: “Thí như v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói rộng Tam- muội, văn có hai: Trước nói về tự hành, sau nói rộng về hóa tha. Nói về tự hành có ba phần: 1/ Năng đoạn; 2/ Năng kiến; 3/ Nói lại về năng đoạn. Năng đoạn có tám dụ: 1) Dụ về năng đoạn. Thứ bảy là dụ khen ngợi. Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói rộng về năng kiến. Đầu tiên, một là dụ về năng kiến. Kế là ba dụ khen ngợi. Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là thứ ba, lặp lại năng đoạn; cũng có ba dụ, thứ nhất là dụ về năng đoạn. Kế là hai dụ về quên công lao. Từ câu: “Nếu Bồ-tát v.v…” trở xuống là thứ hai, nói rộng về hóa tha, có bốn đoạn: Nói biến thân như Phật. Trở về bản xứ. Dứt hoặc cho người. Tam mật thị hiện: Thị hiện lại có bốn: Nói về khẩu mật. Thân mật. Lặp lại khẩu mật. Trước thì nói dùng một âm mà sự thích hợp lại khác, nay nói một pháp mà sự thích hợp lại khác. Từ câu: “Bồ-tát v.v…” trở xuống là ý mật. Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là đoạn ba, giải thích danh, có ba dụ: Nói bất định, ví dụ cho vô tướng. Chẳng thể định giá, dụ cho vô danh. Nói lìa khổ, độc, dụ cho vô úy. Kết luận, như văn kinh có ghi. --------------------------------- <詞>PHẨM 22: ĐỨC VƯƠNG (PHẦN 5) Đầu quyển là nói về công đức thứ bảy, Khai Thiện cho rằng công đức này và công đức thứ tám là vòng thứ hai. Do gần bạn thiện mới nghe chánh pháp, giai vị còn cạn thấp. Đến công đức thứ tám, dùng chín việc làm thể để nói về tâm Tuệ Giải thoát, nghóa rất sâu xa. Nay cho rằng lời này chẳng đúng, đó đều là công đức đạt được khi mới chứng chẳng nghe mà nghe. Phật nói phen thứ bảy, thứ tám để nói về việc biết rõ pháp làm nhân gần Niết-bàn, làm thiện tri thức cho chúng sinh; đâu thể bỏ qua công hóa tha của nội đức mà lập ra kiến giải tự hành, cầu thầy bên ngoài làm khuôn phép. Dẫu nay tự cầu thiện tri thức, thì đó cũng là nương vào sự để hiển lý, ví như ngài Tịnh Danh nghó đến Phật thì các Đức Phật như Sư Tử Hưởng v.v… đều đến nói pháp, nói xong thì đi. Thiện tri thức như thế, nghe pháp suy nghó tu tập, thì đâu thể nói là giai vị cạn thấp? Văn có ba đoạn là nêu chương, giải thích và kết luận. Nêu câu hỏi như văn kinh đã ghi. Nêu pháp đúng, như văn kinh ở trên đã ghi. Nêu khổ hạnh là chẳng đúng, có hai cách giải thích: 1/ Cho rằng ngoại đạo không lìa khổ hạnh; 2/ Cho rằng chỉ ở trong Phật pháp, nếu tu khổ hạnh thì chẳng thể đạt đạo, phải tu tuệ phẩm làm chánh, còn các hạnh khác thì trợ giúp. Thứ ba là nêu tên, như văn kinh. Từ câu: “Ví như v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích; trước giải thích chung, sau giải thích riêng. Giải thích chung có nêu ba dụ, hai dụ đầu là dụ cho Bồ-tát, một dụ sau là dụ cho phàm phu. Dụ về Bồ-tát, đầu tiên là thí dụ về tự hành, gồm có bốn việc. Tức Bồ-tát trụ ở nhân vị, Thánh pháp chưa đủ, nên cũng cần có bạn thiện, nghe pháp về tu hành v.v… Dụ thứ hai là Bồ-tát hóa tha, cũng vâng làm v.v… Một dụ sau cùng là phàm phu. Vì phàm phu có tội nặng, nên nói là: “Như bệnh hủi”. Ba dụ này, mỗi dụ đều có hợp thuyết. Trong dụ trên, bệnh nóng là dụ cho ái, lạnh là dụ cho si, suy nhược dụ cho mạn, tả dụ cho sân, sốt rét dụ cho si, các tà dụ chung cho năm lợi sử, v.v… Hỏi: Đối với Bồ-tát thì lợi sử, độn sử đều dứt hết thì đâu có các bệnh này? Đáp: Nhờ vào chung mà nêu riêng, hoặc riêng của Bồ-tát thì đến quả Phật mới sạch, cho nên đâu được không bệnh. Nói thêm: Hoặc chung riêng, tên thì đồng mà thể lại khác. Từ câu “Thí như có người v.v…” trở xuống là giải thích riêng bốn việc. Trước sơ lược, sau giảng rộng. Đầu tiên là lược giải thích tri thức. Lại có bốn. Trước là khen ngợi gồm có dụ và hợp, như văn kinh ghi. Từ câu “Thiện tri thức v.v…” trở xuống là nêu người. Về người thì có năm bậc: Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, và người tin kinh Phương đẳng. Từ câu “Vì sao gọi là Thiện tri thức v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về giai vị. Đầu tiên là nói năm vị: Dạy bỏ ác làm thiện. Đúng như lời dạy tu hành. Tu tập đạo Bồ-đề. Thực hành giới và thí. Chẳng vì mình mà vì người. Hoặc phối hợp đây với năm người ở trên nhưng chưa hẳn phải như thế. Từ câu “Như mặt trăng v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói được lợi ích của Thiện tri thức. Vào ngày mồng một, tuy chẳng thấy mặt trăng nhưng không thể nói là không có. Lúc mới gần Thiện tri thức tuy cho rằng chưa có lợi ích nhưng thật ra đã được thấm nhuần. Từ câu “Nếu có thể nghe v.v…” trở xuống là thứ hai giải thích người nghe pháp. Có hai đoạn: Trước nói nghe ba kinh, sau nói được ba giải. Ba kinh tức là mười hai thể loại, Đại thừa Phương đẳng và kinh này. Xét ý văn tựa như một đời giáo hóa mà có sơ, trung và hậu. Kế là từ câu “Chuyên tâm v.v…” trở xuống là nói ba giải. Đó là tám Thánh đạo, mười một Không và Đại Niết-bàn, có người dùng ba giải đối với ba giáo nói ở trước. Nay cho rằng chưa hẳn hoàn toàn như thế. Trong mỗi giáo đều sinh ra ba giải. Văn nói nhờ tu tập nên được Đại Niết-bàn. Nếu có người tu tập tám Thánh đạo thì thấy được Phật tánh, được Đại Niết-bàn. Nếu chỉ nghe Đại Niết-bàn mà chẳng tu tập thì đâu thể được Tam-bồ-đề? Từ câu “Thí như người bệnh v.v…” trở xuống là giải thích suy nghó. Văn sau nói năm trần, bốn tướng và vô trần là mười tướng. Văn này dùng năm trần, ba tướng, nam và nữ làm mười tướng. Đó là do giáo môn khác nhau. Từ câu “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là giải thích việc thứ tư, như văn kinh có ghi. Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là phần thứ hai giải thích rộng bốn pháp. Cũng có bốn: thứ nhất nói về Thiện tri thức. Người thì nêu sơ lược mà văn giải thích rộng, trước là pháp thuyết, kế là nêu bảy dụ. Trong phần pháp thuyết có nêu ba thứ ngôn ngữ. Tất cả đều do Như Lai khéo thông đạt các căn cơ. Nên dùng lời nhu hòa để quở trách pháp thiện, nên dùng lời quở trách để nói pháp khổ não ép ngặt, nên dùng hai loại để hợp cả hai. Trong bảy thí dụ trên, hoặc lập dụ trước, hoặc lập dụ sau. Từ câu “Thế nào là Bồ-tát v.v…” trở xuống là phần thứ hai, giải thích rộng về nghe pháp. Trước giải thích, sau dẫn chứng. Trong giải thích có pháp và dụ. Trong dụ gồm có bốn dụ. Từ câu “Vì thế v.v…” trở xuống là phần thứ hai, dẫn chứng. Trước dẫn chứng các kinh, sau dẫn hai việc. Đầu tiên dẫn chứng chung các kinh. Từ câu “Vì nghe pháp v.v…” trở xuống là dẫn hai việc để chứng minh. Trước nói về Sơ quả. Trưởng giả Tu-đạt bị bệnh, nghe ngài Thân Tử nói bốn công đức và mười dụ an ủi thì bệnh liền hết. Bốn tức là bốn pháp ở đây; mười dụ an ủi, xưa cho rằng tám Thánh đạo tức là tận Vô sinh trí nhưng Sơ quả không có hai trí. Kia lại giải thích rằng kiến đế đã tận tức là tận trí, kiến đế chẳng sinh tức là Vô sinh trí. Lời này không có chỗ căn cứ. Hà Tây cho rằng tám Thánh đạo tức là chánh trí chánh Giải thoát, nghóa này của A-hàm chẳng được giải thích khác hơn. Không mắt dụ cho phàm phu; một mắt dụ cho mắt pháp; hai mắt dụ cho mắt pháp và mắt tuệ. Lại không mắt dụ cho hàng phàm phu tán tâm, một mắt dụ cho mắt trời, hai mắt dụ cho mắt trời và mắt tuệ. Từ câu “Khi xưa v.v…” trở xuống là dẫn việc của ngài Thân Tử. Đức Phật bảo A-nan nói pháp, A-nan mới đạt Sơ quả, vì người thượng quả không chịu nghe pháp của người hạ quả, nên sai đệ tử kh- iêng đến trước Đức Phật để nghe Phật nói pháp, bệnh liền hết. Từ câu “Thế nào là v.v…” là thứ ba, giải thích rộng về tư duy, gồm có năm đoạn: Lìa năm dục. Lìa bốn điên đảo. dục”. Lìa bốn khổ. Biết nhân xưa. Biết pháp thường. Văn nói: “Tâm đã suy nghó, chẳng lẽ lại có tâm duyên theo năm Nếu chưa nghe thì chấp ngã, thường. Đã suy nghó thì diệt được thường, ngã, v.v… Trong đó nói về diệt, diệt chỉ là chết. Từ câu “thế nào là đúng như pháp” trở xuống là thứ tư, giải thích rộng về tu hành, có ba: Nói chỉ thực hành điều thiện. Nói về việc giải thích Không, vô thường. Nói bảy thứ tri kiến. Tri kiến lại có ba là nêu lên, giải thích và phân biệt. Đầu tiên là nêu chương môn, kế đến là lược nêu phần giữa, nêu hai chương thật và chẳng thật. Thật thì có bảy tri kiến, không thật thì chẳng có. Từ câu “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là thứ hai, giải thích. Thứ nhất nói về biết Niết-bàn. Trước nêu ba loại Niết-bàn, sau là giải thích: Niết-bàn của Phật. Niết-bàn của phàm phu. Niết-bàn của Thanh văn. Hai Niết-bàn sau đều thiếu phần diệt. Đầu tiên là nói về Niết-bàn của Phật. Phật đầy đủ muôn đức, chỉ lược nêu tám đức. Tận nghóa là tất cả phiền não dứt hết; tánh thiện nghóa là tất cả pháp thiện của Như Lai; thật nghóa là chẳng luống dối; chân là chẳng tà ngụy. Bốn pháp khác thì như văn kinh có nói. Niết-bàn của ngoại đạo có tám việc, nếu ngoại đạo tán tâm thì chẳng liên quan đến văn này. Nay chỉ nói theo ngoại đạo được định Phi tưởng, xa lìa được các hoặc của cõi dưới nên gọi là Giải thoát, tức là có tánh thiện nhưng chẳng phải rốt ráo chân thật, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, nên nói là Không. Sáu tướng của Niết-bàn Thanh văn đều có cho và đoạt, vì chẳng bằng Phật cho nên đoạt mất Ngã và Thường, chỉ còn sáu việc. Vì hơn ngoại đạo nên cho là Lạc và Tịnh. Đây là y cứ theo Niết-bàn hữu dư nên nói tám Thánh đạo vô lậu, còn thân trí nên nói là an vui: Dứt hạt giống trói buộc nên nói là thanh tịnh, là thứ hai giải thích môn ở trên, chẳng giải thích Niết-bàn thứ nhất, chỉ giải thích hai loại sau. Vì Niết-bàn của Phật kinh này đã nói nhiều nên không cần phải nói thêm. Hai loại sau cần phải giải thích. Thứ nhất là giải thích Niết-bàn của phàm phu. Từ câu “Thế nào là sáu tướng v.v…” trở xuống là giải thích Niết- bàn của Nhị thừa. Văn đã nói chẳng chân, chẳng thật, nhưng vì được tám Thánh đạo vô lậu nên nói là Tịnh, Lạc. Vị lai sẽ được Đại Niết-bàn nên nói là vô thường. Sau cùng là kết luận nêu khác nhau. Kế là giải thích môn thứ hai là biết Phật tánh. Trong phẩm Ca-diếp ở sau có nói về năm chủng tánh khác nhau: Phật tánh của Phật, gồm bảy đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Chân, Thật, và Thiện. Phật tánh của Bồ-tát thân sau, cùng gồm có sáu đức là Thường, Tịnh, Chân, Thật, Thiện và Thiển kiến. Phật tánh của Bồ-tát trụ Cửu địa cũng gồm có sáu đức, là năm đức trên và đức thứ sáu là khả kiến thay cho thiển kiến. Nay ở đây nói chẳng phải Phật tánh của Phật, là nghóa khác nhau. Khai Thiện cho rằng cả hai loại trên đều là Phật tánh của Cửu địa. Như phẩm Ca-diếp thì y cứ theo vị để phân biệt nên từ Sơ địa đến Ngũ địa có năm tánh. Từ Lục địa đến Thất địa có năm tánh. Bát địa, Cửu địa có sáu tánh. Thập địa có sáu tánh. Phật tánh của Kim cương hậu tâm có bảy tánh. Nay văn này chẳng phân biệt theo vị để nói sáu hay bảy, chỉ y cứ theo nhân vị của Thập địa Không để phân biệt, phối hợp với các Địa nhưng phải biết rõ là nói chung cho mười địa. Đương kiến và khả chứng đều chưa đắc. Giai vị dưới quả Phật trở xuống đều nói theo thuyết này. Phật tánh của Bát trụ trở xuống đến Lục trụ có năm đức là Tịnh, Chân, Thật, Thiện và Khả kiến. Phật tánh của ngũ trụ trở xuống đến Sơ trụ có năm đức là Tịnh, Chân, Thât, Thiện bất thiện và khả kiến. Kế là giải thích biết tướng Như Lai. Có Nhất thể và Biệt thể. Trước nói về thể Thường Lạc. Kế là nói chỉ bày đạo để thấy (khả kiến), tức là nêu tự thể riêng. Giải thích chương thứ tư là biết pháp. Cũng có đủ hai nghóa: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là pháp nhất thể. Vô thường v.v… là biệt thể. Thường, lạc tức là Nhất thể Tăng, tướng đệ tử này là Biệt thể Tăng. Giải thích môn thứ sáu là biết thật tướng. Thể thật tướng thì chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải có, chẳng phải không. Nếu nói theo dụng thì cùng khắp các quả, tất cả đều có nghóa khác nhau. Giải thích môn thứ bảy là biết hư không. Môn này ở trước chưa nói mà nay làm lời kết luận các môn. Văn kinh có ba: Nói về chân không Nói về sự không. Nói về Niết-bàn không. Không thì chẳng khác nhưng y cứ theo pháp thì có ba. Vả lại, chỉ có hai Không, thì Niết-bàn thuộc về Chân không. Đầu tiên nói về Chân không nên nói là Tuệ nhãn thấy được, cái thấy này tức là thấy mà chẳng thấy. Từ câu “Này thiện nam! Không gọi là vô pháp, v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về Không của sự đoạn. Nêu điều này để làm dụ. Từ câu “Này thiện nam! Tánh của chúng sinh, v.v…” trở xuống là nói về Niết-bàn không. Văn kinh nói vì ánh sáng nên gọi là hư không. Có hai cách giải: 1/ Cho rằng hư không chẳng thể thấy, chỉ có công dụng để ánh sáng chiếu thông, nếu chỉ là không thì chẳng có mầu sắc ánh sáng. Như sắc do hư không mà thấy được, nếu sắc có chướng ngại thì chẳng thể thấy sắc. Do hư không chẳng chướng ngại nên thấy ánh sáng mầu sắc. 2. Hư không chẳng phải là pháp mà thức tâm thấy được, thức tâm chỉ thấy ánh sáng, dẫn sinh ra tâm hành mới thấy được hư không. Từ câu “Niết-bàn v.v…” trở xuống là đoạn ba, liệu giản, tức phân biệt bốn loại. Văn có bốn: Phân biệt Niết-bàn. Vì là đức riêng nên chỉ có vắng lặng mầu nhiệm. Phân biệt Phật tức nói về người. Người bao gồm pháp nên có hai lạc: Chứng Niết-bàn thì có Tịch diệt lạc; có trí chiếu cảnh nên có Giác tri lạc. Phân biệt thật tướng. Đã thông đạt nên có ba lạc. Phân biệt Phật tánh Trung đạo. Vị lai sẽ thấy nên có Bồ-đề lạc, đây là nói theo chánh nhân. Từ câu “Bấy giờ, Bồ-tát v.v…” trở xuống là phần hai, nói về ng- hóa. Có hai: một, là hỏi; hai, là kết luận, vặn hỏi. Phần hỏi chánh có ba: một, là hỏi nơi đã dứt phiền não là Niết-bàn; hai là , hỏi nơi dứt phiền não chẳng phải là Niết-bàn; ba, là hỏi lại câu thứ nhất. Câu thứ nhất có hai: Lãnh chỉ và bác bỏ ngược lại. Chánh thức thưa hỏi. Gạn hỏi có hai ý: đầu tiên là y cứ lời đáp về ma, sau là y cứ Bồ-tát cũng dứt bỏ hoặc này. Câu hỏi này là y cứ vào câu nói ở trước “chính là nơi mà chư Phật dứt phiền não là Niết-bàn”. Lẽ ra chỉ hỏi về phiền não mà lại nói nơi chẳng phải Niết-bàn, đó là sợ rằng Phật lại chuyển sang hỏi ngược lại, vì muốn ngăn chặn ý Phật nên dùng thêm “nơi (xứ)” để thưa hỏi. Thứ nhất là y cứ theo lời đáp câu hỏi của ma. Nếu nói dứt phiền não là Niết-bàn, vì sao lúc mới thành đạo đã dứt phiền não thì liền Niết-bàn, vì sao phải đợi có đệ tử học rộng, v.v… mới Niết-bàn? Lại nói rằng sau ba tháng là Niết-bàn, nên Niết-bàn mới dứt phiền não thì chưa phải là Niết-bàn. Đáp câu hỏi của ma vương xuất xứ từ Trường A-hàm. Thứ hai là dẫn Bồ-tát để thưa hỏi. Nếu nhất định dứt bỏ phiền não là Niết-bàn thì các Bồ-tát cũng đã dứt, lẽ ra cũng là Niết-bàn. Từ câu “Nếu dứt bỏ phiền não v.v…” trở xuống là câu thưa hỏi thứ hai. Đây là ngăn ý Phật, chẳng phải là hỏi đúng, cho nên văn không nhiều. Nếu dứt hoặc chẳng phải là Niết-bàn, vì sao khi xưa Phật bảo Bà-la-môn rằng “Nay thân ta chính là Niết-bàn”. Nếu thân là Niết-bàn thì dứt chẳng phải Niết-bàn, nếu dứt là Niết-bàn thì thân chẳng phải Niết-bàn. Từ câu “Như Lai lại thường v.v…” trở xuống là thứ ba, hỏi lại câu “nơi đã dứt là Niết-bàn”. Văn có ba ý: một là y cứ theo câu đã trả lời cho ma. Về ba tháng, nói tháng thì có khác nhau, có thể cho là sau hai tháng, ba tháng, bốn tháng. Nói bốn tháng là thời gian của nhà Chu, nói ba tháng là thời gian của nhà Ân, nói hai tháng là thời gian của nhà Hạ. Ở đây nói ba tháng là dùng thời gian của nhà Ân. Hai là cho rằng chẳng phải như thế, như tháng mười một năm nay, ma thôi thúc Phật nhập Niết-bàn, Phật đáp là sau ba tháng ta sẽ nhập Niết-bàn. Tức y cứ thời gian tại đạo tràng. Ba, là y cứ theo lời dạy của các lực só mà hỏi. Nói “Bấy giờ” có hai cách giải: Cho rằng lúc bấy giờ là từ lúc ở đạo tràng, lúc bấy giờ là đã Niết-bàn, vậy đâu cần nói cuối đêm nay sẽ Niết-bàn. Cho rằng lúc bấy giờ tức là sáng sớm ngày mười lăm tháng hai là thời gian Niết-bàn, vì sao lại nói cuối đêm nhập Niết-bàn? Đức Phật đáp, có hai ý: Trước đáp thẳng câu hỏi; sau là kết luận nói lỗi của Đức Vương. Lời thành thật đã chẳng luống dối, huống chi là hiện tướng lưỡi rộng dài, há là luống dối ư? Vả lại, Như Lai biết rõ cơ duyên, ứng thời hợp cơ làm lợi ích, cho nên có khi nói dứt là Niết-bàn, có khi nói dứt chẳng phải Niết-bàn đều là lời chân thật của Phật chỉ dạy. Sau là phần đáp ba câu hỏi nhưng chẳng theo thứ lớp. Câu đầu tiên đáp câu thứ nhất; câu thứ hai đáp câu sau cùng; câu thứ ba đáp câu thứ hai. Thứ nhất, có hai câu: Thứ nhất trả lời câu nói của Ma vương. Ma chẳng biết Niết-bàn, cho rằng im lặng là diệt độ, Đức Phật thuận theo ý ma, chẳng lẽ đó là thể của Niết-bàn ư? Từ câu “Như Lai v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi của Bồ-tát. Nói Phật và Bồ-tát tuy đồng mà có khác, tức Phật có Niết-bàn, Bồ-tát không có, Tăng là thật, cho nên nói Tam bảo có tướng khác nhau, chỉ nói hai pháp thường trụ và thanh tịnh không khác nhau. Văn sau giải thích cũng như thế. Từ câu “bấy giờ v.v…” trở xuống là ý thứ hai. Trả lời câu hỏi thứ ba là nơi dứt phiền não. Trước nói về dứt ác nên nêu Niết-bàn, sau nói là sinh điều thiện nên nêu Niết-bàn. Nói dứt ác, đầu tiên là pháp thuyết, kế là nêu rộng năm dụ. Từ câu “Như Lai v.v…” trở xuống là nói vì sinh ra điều thiện cho nên nói Niết-bàn. Từ câu “Này thiện nam! Có loại Niết-bàn v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba đáp câu hỏi thứ hai “Nơi dứt phiền não chẳng phải Niết- bàn”. Nói về phải và chẳng phải, nếu chẳng thấy Phật tánh chỉ dứt phiền não thì gọi là Niết-bàn, chẳng phải là Đại Niết-bàn. Nếu thấy Phật tánh, dứt phiền não thì được Đại Niết-bàn. Phải và chẳng phải như thế, đâu được nói một bề. Văn có hai phần: Nói về phải, chẳng phải. Giải thích rộng Đại Niết-bàn, gồm mười một câu. Xưa nay người dẫn câu văn ở đây cho rằng Bát-niết là bất, bàn-na là chức (dệt) mà dịch như thế. Nên biết trong đoạn văn trên không có từ Bàn-na. Vả lại hai chữ thức (biết) và chức (dệt) trong kinh này cũng khác nhau. Mười câu còn lại rất dễ thấy. Thứ ba kết luận như văn kinh có ghi. Giải thích công đức thứ tám, gồm có nêu câu hỏi, giải thích và kết luận, thứ nhất như văn kinh có ghi. Phần giải thích gồm chín việc, có hai đoạn, trước nói về công đức, sau là nói về nghóa. Thứ nhất lại có hai: trước kể ra chín việc, sau thứ lớp giải thích. Kế chín việc có chín chương, như văn kinh có ghi. Nói dứt trừ năm việc tức là năm ấm, nhưng thật ra Bồ-tát chưa hoàn toàn dứt sạch năm ấm mà chẳng bị năm ấm che ngăn. Đầu tiên giải thích năm ấm. Trước giải thích chung, sau giải thích riêng. Đầu tiên là giải thích chung nói ngăn che và gánh nặng. Từ câu “Tuy thấy v.v…” trở xuống là giải thích riêng. Sắc ấm là gồm năm căn, năm trần, tổng cộng là mười sắc, tất cả đều do nhân duyên sinh nên không có tự tánh. Nói thọ có một trăm lẻ tám món, gồm hai cách giải thích: Cho rằng trong thọ ấm không có từ ngữ một trăm lẻ tám, chỉ có hành ấm mới có phiền não gồm chín mưới tám sử và mười triền thành một trăm lẻ tám. Theo Thích Luận cho rằng trong thọ ấm tự có một trăm lẻ tám món, gồm chung cả sáu căn, mỗi căn có ba, thành ra mười tám. Trong một căn lại có thiện và bất thiện, thành ba mươi sáu, lại nhân với ba đời thì được một trăm lẻ tám. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là giải thích môn thứ hai. Nói lìa bỏ năm kiến, lại nói do năm kiến này mà sinh sáu mươi hai kiến. Câu này có hai cách giải thích: Cho rằng hợp ngã kiến gồm có năm mươi sáu, biên kiến gồm có sáu, Ngã kiến năm mươi sáu món, năm ấm cõi Dục mỗi cõi đều có bốn kiến tức lìa bốn kiến thành hai mươi. Cõi Sắc cũng như thế tức thành bốn mươi món, cõi Vô sắc chỉ có bốn tâm, mỗi tâm đều có bốn kiến, tức thành mười sáu, cộng với bốn mươi thành năm mươi sáu. Sáu món của biên kiến tức ba cõi, mỗi cõi đều có Đoạn và Thường tức thành sáu món. Cho rằng chỉ y cứ theo biên kiến là sáu mươi hai chẳng nói thân kiến và nói theo ba đời mà thành. Hiện tại có ngã và vô ngã, bốn kiến nhân năm ấm thành hai mươi. Vị lai có hữu biên, vô biên kiến thành hai mươi. Quá khứ có như khứ và chẳng như khứ bốn kiến thành hai mươi, tổng cộng là sáu mươi, lại chẳng lìa Đoạn và Thường nên thành sáu mươi hai món. Phẩm quán Niết-bàn trong Trung luận nói sau khi Phật diệt độ, y cứ vào Phật mà sinh hai kiến chấp đoạn thường, lại ý cứ vào quá khứ, vị lai chẳng nói hiện tại mà chấp Như Lai là như khứ và chẳng như khứ, lại y cứ theo năm ấm mà thành hai mươi món. Thường và vô thường bốn kiến nhân với năm ấm thành hai mươi. Vị lai hữu biên, vô biên nhân với năm ấm cũng thành hai mươi, cộng với đoạn và thường thành sáu mươi hai kiến chấp. “Thế nào v.v…” trở xuống là giải thích chương ba. Thành tựu sáu niệm xứ đồng với phẩm Phạm Hạnh chỉ hơi khác nhau về thứ lớp. Từ câu “Thế nào là tu v.v…” là giải thích chương thứ tư. Tức là tu tập năm định, trước là bốn Thiền định, sau là Bát-nhã. Tri định tức Sơ thiền, vì có giác có quán cho nên được. Tịch định tức là Nhị thiền, vì không còn giác quán cũng gọi là Thánh im lặng, nên gọi là Tịch. Thọ khoái lạc, tức Tam thiền. Lạc thọ cùng tột cho nên được, định vô lạc tức Đệ Tứ thiền đã dứt khổ lạc tức xả thọ. Định Thủ-lăng-nghiêm lại có chung và riêng, chung thì suốt tử Thập địa về trước cho đến Địa tiền, riêng thì chỉ trong mười địa, lại tu một trăm lẻ tám Tam-muội mới được định này. Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích chương năm. Nghóa là giữ gìn tâm Bồ-đề, tùy pháp thiện đã tu tập, tất cả đều là hạnh Bồ-đề. Văn có pháp, dụ và hợp. Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích chương sáu. Tức bốn Tâm vô lượng. Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích chương bảy. Tức là Nhất thừa, Nhất thừa là thật, kinh Pháp-hoa nói: “Chỉ một sự thật này, nếu hai thì chẳng chân”. Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích chương tám. Tâm và tuệ khác nhau, có hai cách giải thích: Dung Thành cho rằng duyên với tục đế nào mà tâm chẳng khởi tham sân tức là tâm Giải thoát, duyên với chân đế tâm không còn vô tri thì gọi là Tuệ Giải thoát. Cho rằng dứt tham sân là tâm Giải thoát. Dứt vô minh là Tuệ Giải thoát. Dẫn luận rằng: “Phiền não thuộc về tâm, vô minh thuộc về tuệ”. Từ câu “thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích chương chín. Như trên giải thích, nói nhờ có Tuệ Giải thoát nên xưa chẳng nghe mà nay được nghe v.v… có hai cách giải thích: Cho rằng nghe là tai trời, thấy là mắt trời, cho đến tức thân thông. Cho rằng Cửu địa là nghe thấy Phật tánh, Thập địa là mắt thấy Phật tánh, rõ ràng đầy đủ. Nay nhờ tuệ Giải thoát nên đến Cửu địa tức chẳng nghe mà nghe. Nhờ Cửu địa mà đến Thập địa tức chẳng thấy mà thấy. Nhân Thập địa mà đến Phật địa tức chẳng đến mà đến. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về nghóa. Tức nói về tâm Giải thoát ở tám chương trước, trước là hỏi, sau là đáp. Hỏi thì gồm có ba câu: Y cứ theo vốn không, tức đạo mà hỏi. Y cứ theo vốn có, tức buông mà hỏi. Y cứ theo bất định để hỏi. Tất cả đều là Giải thoát, trói buộc. Thứ nhất có hai: lãnh chỉ và bác bỏ ngược lại, sau là vặn hỏi. Ý hỏi là nếu tâm vốn đã có phiền não thì chẳng đúng, nếu tâm vốn không có phiền não cũng chẳng đúng. Nếu chắc chắn có phiền não cũng chẳng đúng, nếu nhất định là không thì cũng chẳng được. Thứ nhất, câu hỏi y cứ theo nghóa vốn không, gồm có chín câu, gom vào ba ý: Một câu nói về tâm không buộc không thoát. Năm câu nói về tâm không buộc. Ba câu sau nói về tâm không thoát. Thứ nhất gạn hỏi không buộc không thoát. Từ câu “Nếu bản tánh của tâm v.v…” trở xuống là ý thứ hai, gồm năm câu nói về tâm không buộc. Văn có hai: Bốn câu trước nói không bị ràng buộc. Một câu sau nói không thể buộc. Nêu dụ đóng cọc, tức đóng cọc vào hư không thì không biết nương vào đâu mà đứng vững. Từ câu “Nếu tâm, v.v…” trở xuống là ý thứ ba, gồm có ba câu nói về không Giải thoát, gồm có ba: trước nói về không Giải thoát, thứ hai, nói về không có người Giải thoát, thứ ba nói về không đắc đạo Giải thoát. Từ câu “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là đoạn hai, y cứ theo vốn có tức buông mà hỏi. Văn có hai ý: Nói nếu có thì tâm thiện có tham. Từ câu “Thí như cọ xát cây lấy lửa v.v…” trở xuống là ứng với cảnh trước mắt mà có tham. Thứ nhất có hai: trước nêu pháp thuyết, sau là nêu dụ. Phần pháp thuyết ý nói nếu cho tâm vốn có tham thì cũng chẳng được, nếu có thì chẳng do nhân duyên. Nay đã do sắc kia mà tham khởi thì biết chẳng phải vốn có. Vả lại, nếu tâm vốn có tham thì chẳng thể làm cho không có, vậy lẽ ra chẳng được Giải thoát mà tâm lẽ ra cũng thường là tham. Kế đến dùng cảnh đối với tâm cũng như thế mà hỏi. Từ câu “Tâm cũng bất định” trở xuống là đoạn ba, y cứ vào bất định để hỏi. Có ba: Thứ nhất nói về tâm bất định. Kế là nói tham bất định. Thứ ba là nói tham và cảnh cũng đều bất định. Từ câu “Bấy giờ Thế Tôn v.v…” trở xuống là phần hai, Đức Phật trả lời. Có người cho rằng theo thứ lớp đáp ba câu hỏi trước, tức ba câu riêng. Đầu tiên là đáp câu “vốn không”. Từ câu “Có các ngoại đạo v.v…” trở xuống là đáp câu thứ hai “vốn có”. Từ câu “Này thiện nam! chư Phật v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ ba “bất định”. Ở đây cho rằng chẳng phải như thế, vì đâu có nơi nào theo thứ lớp hỏi đáp đối nhau. Vả lại xem ý văn, hoàn toàn cũng chẳng liên quan. Ở đây tùy theo nghóa mà chia làm ba, trước là y cứ theo nghóa chánh, thứ hai là phá chấp, thứ ba là nói rộng về nhân duyên Trung đạo. Đây là đoạn thứ nhất nói thể của tâm chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải tâm, chẳng phải phi tâm, chẳng tham, chẳng phải không tham, mọi việc đều phi, cả hai đều xả, như thế há chẳng phải là chánh nghóa Trung đạo hay sao? Kế là từ câu “Có các ngoại đạo v.v…” trở xuống là ý thứ hai, phá chấp nhất định. Lại có hai đoạn: Trước phá chấp có; sau pháp chấp không. Nếu ông cho rằng tâm có nhất định tham, nhất định không tham thì đồng với Ni-kiền Tử. Văn thứ nhất có hai: trước nêu rộng về sở chấp. Từ câu “Tất cả phàm phu v.v…” trở xuống là phần thứ hai, kết luận nêu lỗi và quở trách. Từ câu “Có các phàm phu v.v…” trở xuống là đoạn hai, phá chấp không. Cũng có hai: trước nêu sở chấp. Từ câu “Những người như thế v.v…” trở xuống là chánh thức quở trách, kết thành lỗi. Văn có pháp và dụ. Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói rộng về nghóa nhân duyên Trung đạo, không có chấp nhất định. Văn có hai: Nói về nhân quả, các pháp chẳng phải có chẳng phải không, vì nhân duyên cho nên có. Nói về tâm có tham cũng có cũng không, vì nhân duyên nên có. Văn thứ nhất có ba: một, là nói lìa bốn câu. “Nếu nói v.v…” trở xuống là thứ hai, chấp nhất định là sai. Từ câu “chư Phật, Bồ-tát v.v…” trở xuống là ý thứ ba, chiùnh thức nói lên pháp Trung đạo. Từ câu “chư Phật v.v…” trở xuống là chương hai, chính thức nói về tâm có, tham chẳng phải có chẳng phải không. Vì nhân duyên cho nên có, văn có hai: Nói tâm tánh vốn thanh tịnh, không nhất định chẳng phải có chẳng phải không. Nói tâm tánh vốn nhất định không có hòa hợp. Văn thứ nhất lại có ba là nêu lên, giải thích và kết luận. Giải thích có ba: một, là nêu chương môn. Gồm hai môn là từ duyên sinh tham, từ nhân duyên mà giải tho- át. Từ câu “Nhân duyên có hai v.v…” trở xuống là ý thứ hai, giải thích hai môn. Từ câu “Vì có nhân duyên v.v…” trở xuống là ý thứ ba, phân biệt bốn câu. Thứ ba, từ câu “Vì nghóa này v.v…” trở xuống, là kết luận về nhân duyên. Từ câu “Này thiện nam! Tâm này không cùng v.v…” trở xuống là nói vì nhân duyên hòa hợp cho nên có buộc và thoát. Nói rốt ráo thanh tịnh nên không hòa hợp. Từ câu “chư Phật, Bồ-tát, v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về nhân duyên hòa hợp có buộc và thoát. Văn có hai: trước nói về cảnh buộc và thoát; sau nói về người bị buộc và được thoát. Về cảnh, văn có hai là nêu lên và giải thích. Nêu cảnh: Trừ tham dục là được cảnh giải thoát, có tham dục là cảnh trói buộc. Kế là từ câu “Thí như nơi cao v.v…” trở xuống là giải thích môn thứ hai. Gồm có hai: Trước là giải thích cảnh trói buộc, gồm có hai đoạn: một là dụ; hai là hợp. Núi dụ cho tám Chánh đạo, cao chót vót dụ cho khổ hạnh khó làm; người dụ cho ma; khỉ vượn dụ cho ngoại đạo; cả hai đều chẳng đi được, dụ cho ma trụ ở cõi Dục; cả hai đều đi được, dụ cho năm trần, sáu dục đều có thể vào; thợ săn lại dụ cho ma và tà đạo; keo dính dụ cho cảnh ái dục; đặt bày trên bàn dụ cho năm dục bày trên quả báo để dối gạt chúng sinh; dùng tay lấy dụ cho mắt, tai v.v… xúc đối với sắc, thanh v.v… Tay dính vào tức trong tâm sinh khởi chấp trước; năm chi đều dính chặt dụ cho năm căn nhiễm ô; dùng gậy xỏ qua là dụ cho hạnh giáo hóa của ma và tà đạo; mang về nhà là dụ cho sắp rơi vào ba đường ác. Hợp dụ như văn đã ghi. Từ câu “Thí như quốc vương v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích cảnh được Giải thoát, tức bốn Niệm xứ. Từ câu “vì sao lệ thuộc, v.v…” trở xuống là nói về người bị buộc và được thoát. Có hai: trước nói về người bị buộc; sau nói về người được thoát. Về người bị buộc có bốn ý: Khởi điên đảo nên bị buộc. Chấp tướng nên bị buộc. Vì ngã kiến nên bị buộc. Vì phi pháp nên bị buộc. Văn nói: “Bỏn sẻn với người” tức là nhà này đối với ta rất tha thiết, ta chẳng cho người khác đến. Nói về “danh tiếng” thì chỉ được khen một mình ta thôi, không cho khen người khác. Từ câu “Nếu có người v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về người được giải thoát. Văn tóm lược, chỉ nêu một lời kết luận ở sau, như văn kinh có ghi.  <卷>QUYỂN 23 <詞>PHẨM 22: ĐỨC VƯƠNG (PHẦN 6) Đầu quyển nói về công đức thứ chín. Khai Thiện cho rằng từ công đức thứ nhất đến công đức thứ sáu, bắt đầu từ chẳng nghe mà nghe đến tâm Kim cương. Công đức thứ bảy, công đức thứ tám bắt đầu từ bạn thiện đến Tuệ Giải thoát. Công đức thứ chín, thứ mười bắt đầu từ tín tâm cho đến ba mươi phẩm Trợ đạo. Quyển này là vòng thứ ba. Có Sư cho rằng chẳng đúng như thế, mười công đức này tạo thành từng cặp, lúc cạn lúc sâu, trang nghiêm năm hạnh trước. Ở đây, chẳng cho như thế, năm hạnh là nói về tu; mười công đức là nói về chứng. Công đức của chứng thì có sâu cạn khác nhau. Nếu thế thì vì sao trước sâu sau cạn? Đáp: Cũng có ý này, như ở công đức thứ nhất nói là chẳng chung cho Thanh văn và Bích-chi-phật, sau cùng là nói ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nghe nói danh từ đạo phẩm thì nói rằng đó là cạn cợt, nếu nói về nghóa lý thì vượt hơn Nhị thừa, v.v… Toàn quyển được chia thành ba là: Nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất như văn kinh có ghi. Kế là giải thích, gồm có hai phần: Trước nói về năm việc, sau nói về nghóa. Thứ nhất có ba: Một là nêu năm việc; hai, là giải thích; ba, là hỏi. Nêu năm việc lại có hai: Một, là đề ra. Kế là kể tên năm việc. Tín do bên trong phát khởi, thấy được Thánh tánh. Trực tức là trực khởi tâm, chẳng phải từ duyên do. Giới là tánh giới, bạn thiện đầy đủ Bồ-đề, học rộng tức là nghe ở nơi chẳng nói. Năm việc này đều y cứ theo lý mà giải thích, đâu thể cho là cạn cợt, trong văn có thể thấy. Từ câu “Thế nào gọi là tín v.v…” trở xuống là phần thứ hai giải thích, gồm có năm chương. Đầu tiên nói về tín, có ba câu: Tín thể. Tín đức. Kết luận. Tín thể: Tin những pháp gì? Gồm nêu lên năm pháp: 1.Tin Tam bảo; 2. Tin nhân quả; 3. Tin hai Đế; 4. Tin Nhất thừa; 5. Tin ba Đế. Có Sư cho rằng tin Đệ nhất nghóa Đế là tin chân; tin phương tiện khéo léo là tin tục. Có sư cho rằng trước đã nói hai Đế rồi đâu cho lặp lại nữa. Y cứ theo kinh Hoa-nghiêm nói: “Nếu khen ngợi Bồ-tát thì nêu tên hai trí; nếu khen ngợi Phật thì nêu tên hai thân”. Chỉ có một thể, tùy ẩn và hiển mà tên có khác nhau. Có sư cho rằng Đệ nhất nghóa Đế và phương tiện khéo léo là hai thân cũng là hai trí. Nay nói văn này tự nói là Đệ nhất nghóa Đế, đâu cho sửa đế là trí là thân. Nay lập ba Đế thì tự đã khác với hai đế, không thành nói lại, mà văn kinh lại y cứ theo Nhất thừa để hiển bày ý nghóa của tín nhưng vì chúng sinh nên phân biệt nói ba. Vì biết không khác đường nên nói là một. Y cứ theo một việc này thì thông suốt bốn pháp kia. Tam bảo cũng như thế, vì chúng sinh nên phân biệt thành hai thể, biết trở về chỗ chí cực nên nói một thể. Nhân quả cũng thế vì chúng sinh nên nói từ nhân cho đến quả, đến chỗ người kia rồi thì chẳng có người thí, chẳng có người thọ. hai Đế, ba Đế cũng như thế. Tín đức: Từ câu “Người tin như thế v.v…” trở xuống là giải thích Tín đức. Giải thích có bốn ý thứ lớp nối tiếp nhau mà sinh, tín này bền chắc chẳng ai hoại được, vì sao? Vì được tánh của bậc Thánh làm cội gốc, tức là tâm tin thấy tánh sâu chắc khó nhổ lên được. Vì gốc sâu nên sẽ lớn thêm, gần gũi Đại Niết-bàn, thành tựu giới, v.v… Đầu tiên tất cả các pháp đều từ Thánh tánh, gần gũi Đại Niết-bàn là dọc cao, giới, học rộng, trí tuệ v.v… tức là ngang rộng. Tuy có dọc cao ngang rộng khác nhau mà chẳng thấy tướng ngang dọc, rộng sâu. Nói về tín như thế, đâu thể vội cho là cạn cợt. Kết luận. Kế là giải thích việc thứ hai, gồm có ba là nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất là nêu lên. Văn giải thích có hai: Chẳng tà vạy là trực tâm. Lấy sám hối làm trực tâm. Thứ nhất nói chẳng tà vạy, có hai đoạn là giải thích và nói về ng- hóa. Phần giải thích có chánh giải thích và giải nghi, thứ nhất là chánh giải thích. Vì hiểu nhân duyên cho nên chẳng tà vạy. Từ câu “Tuy thấy các…” trở xuống là giải thích nghi. Qua lại giải thích cho nhau. Đầu tiên thấy điều ác mà chẳng nói; sau thấy điều thiện thì khen ngợi nên nghi rằng thấy điều ác lẽ ra nên nói mà lại chẳng nói, đó là chẳng trực tâm. Thế nào là Trực tâm? Giải thích: Sợ sinh phiền não. Lại nghi: Lại thấy điều ác chẳng nói, thấy điều thiện lẽ ra chẳng nên nói mới đúng là Trực tâm. Kế đến nói: “Chẳng phải như thế” tức là giải thích: Khen ngợi Phật tánh để được Bồ-đề. Kế là trong phần nói về nghóa có hỏi và đáp. Hỏi có sáu câu, gồm ba cặp. Hai cặp đầu tiên từ phẩm Hiện Bệnh mà sinh. Có người nói ba loại, năm loại người bệnh. Kế là hai câu là từ công đức thứ nhất sinh. Hai câu cuối là từ văn này sinh. Y cứ hai câu đầu, câu thứ nhất gồm có ba: thứ nhất bác bỏ ngược lại ý chỉ của Phật. Kế là nói lại ý chỉ khi mới nói kinh Niết-bàn. Từ câu “nếu gặp hay chẳng gặp v.v…” trở xuống là thứ ba, chiùnh thức thưa hỏi. Đã tự phát được tâm Bồ-đề thì đâu cần Phật tánh mới được Bồ-đề. Đây là y cứ theo người bệnh thứ ba để thưa hỏi. Câu thứ hai của cặp thứ nhất, có hai ý: trước lãnh chỉ và bác bỏ ngược lại; sau là chính thức hỏi. Đây là nói hàng Nhất-xiển-đề cũng phát tâm được. Vì sao? Vì họ đã có Phật tánh lẽ ra tự có thể phát tâm đâu cần đợi khen ngợi. Đây là y cứ theo người bệnh thứ hai để hỏi. Từ câu “Như lời Phật nói v.v…” trở xuống là câu thứ hai từ công đức thứ nhất khởi phát. Trong quyển mười hai nêu năm câu hỏi, trong đó có hai câu đầu y cứ theo người phạm bốn giới trọng, hai câu kế y cứ theo Nhất-xiển-đề, một câu cuối là y cứ theo bất định. Phật đáp rằng “Phật tánh chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng thường chẳng vô thường, vì thế chẳng đoạn”: Bây giờ lại nhân đó mà khởi nghi, vặn hỏi. Đầu tiên là lãnh chỉ và bác bỏ ngược lại. Kế đến là chính thức vặn hỏi. Đã nói chẳng đoạn Phật tánh, vì sao lại nói là cắt đứt gốc thiện? Chỉ vì Phật tánh này là gốc thiện, đã cắt đứt gốc thiện tức là cắt đứt Phật tánh. Vì sao lại nói Phật tánh chẳng ở trong, chẳng ở ngoài? Từ câu “Như khi trước v.v…” trở xuống là câu vặn hỏi. Nếu Phật tánh chẳng bị cắt đứt, vì sao chẳng ngăn chặn để khỏi đọa địa ngục? Đã chẳng dứt bỏ phiền não, chỉ cắt đứt gốc thiện, vì có Phật tánh lẽ ra phải có công năng ngăn chặn các điều ác? Lời đáp chưa được rõ nên phải nói về nghóa. Từ câu “Nếu do Phật tánh, v.v…” trở xuống là thứ ba, lại có hai câu hỏi, gần từ đây mà sinh. Nếu khen ngợi Phật tánh mà khiến phát tâm thì đâu cần nói mười hai thể loại kinh? Nhưng khen ngợi Phật tánh đã tự có đầy đủ ý nghóa. Văn đã có pháp, dụ và hợp. Từ câu “chư Phật Như Lai v.v…” trở xuống là câu hỏi sau. Từ công đức thứ tám, Đức Phật đáp là tâm tham chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải nhân chẳng phải quả; hoặc nói trong nhân có quả, hoặc nói trong nhân không có quả. Nay y cứ theo đây để hỏi, nếu như thế thì trong sữa không có lạc, cây không cao năm trượng. Nếu trong sữa có lạc, có cây cao năm trượng thì nên biết trong nhân có quả, chẳng nên vọng nói là không. Từ câu “bấy giờ, Đức Thế Tôn, v.v… trở xuống” Là Đức Phật đáp, có hai ý: một, là khen ngợi; hai, là đáp. Khen ngợi có hai: một, là khen ngợi câu hỏi; hai, là nêu năm câu khen ngợi công dụng. Đầu tiên là nêu sáu loại hai người, khen ngợi họ khai phát đại chúng khiến được Giải thoát, chẳng những dứt nghi cho người ở hiện tại mà còn khiến cho chúng sinh ở đời vị lai không còn dính mắc. Thật là ít có cho nên khen ngợi. Hai người đầu tiên, người thứ nhất vốn chẳng gây ra điều ác, người thứ hai đã gây ra điều ác lại sám hối tức là đứa bé khỏe mạnh đã dụ ở trước. Người thứ hai biết ân báo ân, người ban ân cho ta, ta cần phải báo đáp. Người thứ ba, một là nghe nhận pháp mới; hai là ôn luyện pháp cũ. Sách nói “ôn cũ biết mới mới đáng làm thầy”. Người thứ tư, là sáng tạo việc mới tốt đẹp, hai là tu bổ việc cũ. Người thứ năm, thích nói, thích nghe pháp. Nếu không có người nói thì nghe điều gì; nếu không có người nghe thì nói cho ai? Người thứ sáu, thứ nhất là khéo hỏi; thứ hai là khéo đáp. Ý chánh là ở hai vị này, còn năm hạng người kia là chỉ đễ dẫn dắt mà thôi. Khéo hỏi là ông, khéo đáp là ta. Không có ta khéo đáp thì đâu có được ông khéo hỏi. Có người thuận nghịch đều thông, biện luận trôi chảy, năng làm chủ làm khách. Có người chỉ được một mà không được hai. Như môn hạ của Trang Ng- hiêm là Pháp sư Tịnh Tạng chỉ khéo hỏi mà không thể đáp. Có người chỉ khéo giải thích mà nói nghóa thì chẳng thông, như Chánh Công ở Bành thành, v.v… Nay suy ra sáu cặp ở trước thành năm câu nói ở sau, trong đó hai cặp luôn nghe luôn nói, khéo hỏi khéo đáp thành câu xoay bánh xe pháp. Tạo mới sửa cũ thành cây khô mười hai nhân duyên, chấp có là mới, vô minh là cũ; chẳng sinh là mới, khi Thế đế chết là cũ, phá mới gọi là tạo pháp mới; dùng cũ phá cũ gọi là sửa cũ. Làm ân nhớ ân thành câu vượt biển, ban ân tức vì người mà làm chiếc thuyền; nhớ ân tức tự lái chiếc thuyền này, vì thế thành câu vượt biển. Cặp chẳng tạo ác, tạo rồi thì sám hối thành câu phá dẹp cờ ma. Ma lấy ác làm cờ, nay ta phá đổ lại tự xây dựng chánh pháp. Các câu trước sau thành tựu cho nhau. Khen ngợi sinh điều thiện là một câu đầu; khen ngợi diệt ác là bốn câu sau. Đã nói: “Nhờ câu hỏi khéo léo này mà xoay được bánh xe pháp vô thượng”. Đó há chẳng phải là nghóa sinh ra điều thiện hay sao? Bốn câu sau được chia làm hai: Hai câu đầu khen ngợi dứt ác. Hai câu sau khen ngợi phá ác. Hai câu này, câu trên khen là làm khô cây mười hai nhân duyên. Nghóa là mười hai nhân duyên cành lá sum suê cao vót dụ như cây lớn, nay làm khô chết cây này thì hoa lá chẳng mọc nữa. Câu “Vượt qua biển sinh tử vô biên”, nghóa là biển sinh tử nổi sóng gió đáng sợ mà nay vượt qua được, mãi mãi tránh được hiểm nguy không còn kinh sợ. Chiến đấu với ma, đây là nói lúc khởi đầu; đạp ngã cờ cao của ma là nói lúc cuối cùng. Nêu cuối cùng để gạn nhiếp khởi đầu. Ở Ấn-độ khi thắng trận là dựng cờ, khi thua trận thì phá đổ cờ này. Nay bại trận nên ma tự đạp ngã cờ của chúng. Kế là trong lời đáp, theo thứ lớp đáp có ba cặp sáu câu hỏi. Đầu tiên đáp hai câu hỏi về ba bệnh ở trước. Kế là đáp câu hỏi về công đức thứ nhất, sau cùng là đáp câu hỏi về văn này. Chỉ trả lời hai câu trước nhưng chẳng theo thứ lớp. Giải thích ba thứ người bệnh xong tức là trả lời hai câu hỏi thứ nhất. Nếu theo lý thì chỉ nên giải thích hai loại người bệnh thứ nhất và thứ ba, mà nay lại giải thích người bệnh thứ hai chẳng cần lấy đây làm câu trả lời, chỉ vì ở giữa đã nêu lên mà nay theo thứ lớp giải thích nên phải nói, nếu kia chẳng nêu thì đây cũng chẳng giải thích. Từ câu “Nhất-xiển-đề, v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ ba. Trước đã nói nếu chẳng dứt Phật tánh lẽ ra cũng chẳng dứt gốc thiện, vì gốc thiện tức là Phật tánh, Phật tánh tức là gốc thiện. Nay đáp Trung đạo Phật tánh chẳng đồng với gốc thiện. Vì sao? Vì Nhất-xiển là Tín, đề là chẳng có. Phật tánh chẳng phải tín cũng chẳng phải có thì làm sao có thể dứt. Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải ác, Xiển-đề chỉ có thể dứt điều thiện thì làm sao dứt được tánh? Trong đó các câu đều nói như thế. Xưa nay đều cho rằng Xiển-đề nghóa là có đủ các điều ác mà chưa biết dịch thế nào. Chỉ có Hà Tây dịch là Cực Dục. Nói về Cực dục chỉ là ở trong tổng ác, mới lấy một việc để dịch như danh từ Niết-bàn bao gồm các đức, không có từ chánh phiên mà phiên là diệt độ, cũng trong chỗ chung ấy lấy một việc này để phiên dịch, vả lại pháp thiện gọi là sinh rồi mới được. Các sư Số Luận cho rằng thiện có hai loại là sinh đắc thiện và phương tiện thiện. Việc từ hiếu ở thế gian là sinh đắc thiện mà hàng Xiển-đề cũng không có nên nói là đã dứt. Từ câu “Như lời ông nói v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ tư. Trước hỏi vì sao chẳng ngăn chặn tội đọa địa ngục, nay lặp lại lời hỏi để trả lời. Nói Phật tánh của Xiển-đề chẳng phải có chẳng phải không. Vì ngay nơi sự cầu mong chẳng được nên nói chẳng có, nhưng lại có lý này cho nên nói chẳng phải không. Vả lại có phương tiện khéo léo nên chẳng phải không, chẳng có phương tiện khéo léo nên nói chẳng phải có. Vì thế nêu cây đàn không hầu để dụ cho có và không. Trước nêu dụ, sau là hợp. Vua là dụ cho chúng sinh, đàn không hầu dụ cho thân chúng sinh, âm thanh dụ cho Phật tánh, đại thần dụ cho Phật Bồ-tát khéo giảng nói pháp mầu, bứt dây đàn dụ cho thân mạng đã hết, chẻ cây xé da dụ cho năm căn bốn đại, tìm cầu chẳng được tức là không có phương tiện, nên chẳng phải có. Hợp dụ, Phật tánh không có nơi chốn tức chẳng phải có, vì có phương tiện khéo léo nên thấy được tức chẳng phải không. Từ câu “Như lời ông nói v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ năm và thứ sáu, nói lẽ ra có tánh nhất định. Ý của lời đáp là nêu chẳng có tánh nhất định vì nhân duyên cho nên có. Nếu trong sữa chắc chắn có tánh lạc thì đã tự sinh, chẳng nhờ tìm nước cây, đã nhờ vào các duyên thì biết trong nhân không có quả. Nhưng trước đã lập sáu câu hỏi mà nay chỉ bị một lời quở trách. Vì sao? Đáp: Cho và đoạt đều hợp thời nghi đều vì lợi ích, chính là nói các câu hỏi này thuộc về chấp tánh, nghóa tánh này đồng với ngoại đạo. Nhờ vào chánh để quở trách tà. Chê là người ngu si thật ra chẳng phải quở trách Bồ-tát Đức Vương. Câu đáp là gồm đáp câu thứ năm. Khen ngợi điều thiện đã tự đầy đủ thì đâu cần nói mười hai thể loại kinh. Nay nói đã không có tánh, nhân duyên nhất định mà có cho nên phải nói mười hai thứ làm duyên. Kế là dùng sám hối để nói về trực tâm. Nếu có tội mà chẳng sám hối thì chẳng phải trực tâm. Văn có ba đoạn: thứ nhất, từ câu “dù có tội v.v…” trở xuống là nói về sám hối. Kế là từ câu “Với thầy v.v…” trở xuống là phát lộ. Thứ ba, từ câu “Hổ thẹn tự trách v.v…” trở xuống là nói dứt trừ tâm nối nhau. Kết luận như văn kinh ghi. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là giải thích Giới. Văn có hai: một, là lìa giới ác. Tức chấp lấy tướng của trâu, chó v.v… để làm theo. Có ngoại đạo tu được thần thông, thấy trâu chó chết đi được sinh lên cõi trời, liền học theo cách sống của trâu chó, cầu mong được sinh lên cõi trời. Các giới khác cũng như thế. Kế là nói được giới thiện. Như văn kinh có ghi. Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, giải thích bạn thiện. Văn có bốn: nói về đúng, nói về chẳng đúng, dẫn chứng về đúng, dẫn chứng về chẳng đúng. Đầu tiên nói về đúng. Văn có hai: một, là Bồ-tát là đúng, hai là nói Như Lai là đúng. Sát-đa thấy Phật được sinh lên cõi trời, có hai cách giải thích: Các sư Số luận cho rằng phải có định cõi trên mới được sinh lên cõi trời. Nay nhờ Phật lực, phát được định khi xưa đã tu cho nên được sinh lên cõi trời. Cho rằng thấy Phật thì chế phục được các điều ác của cõi dưới, thuận theo tánh thiện mà được sinh lên cõi trời. Từ câu “Tuy có…” trở xuống là thứ hai, nói về chẳng đúng. Đã chưa biết rõ căn cơ thì chẳng xứng hợp với duyên cho nên nói chẳng đúng. Như Lai xứng hợp với duyên biết thuốc biết bệnh nên nói là đúng. Từ câu “Khi xưa v.v…” trở xuống là ý thứ ba chứng dẫn về nghóa chẳng đúng. Quán xương trắng là thiền bội xả, quán sổ tức là thiền căn bản. Xưa nói thợ kim hoàn biết xem sắc của lửa nên dạy sổ tức. Ở đây chẳng cho là như thế, thợ kim hoàn khéo điều khiển búa vì giúp cho thói quen nên dạy sổ tức. Nay nói thêm rằng theo luận Trang Nghiêm ghi: “Khéo thổi bể lò rèn, thì khéo biết hơi thở”. Người giặt y phục khéo biết tướng tịnh, nên dạy quán xương trắng. Chẳng đúng như thế, vì người giặt áo quần ghét sự nhơ uế nên dạy quán bội xả dễ hơn. Từ câu “Ví như v.v…” trở xuống là thứ tư, dẫn chứng cho việc đúng. Như văn kinh có ghi. Từ câu “Thế nào là đầy đủ học rộng, v.v….” trở xuống là giải thích chương năm, văn có năm đoạn. Một việc trước là y cứ theo lời văn, bốn việc sau là y cứ theo nghóa lý. Mười hai thể loại kinh thì văn nhiều nghóa xa. Tỳ-Phật-lược văn ít mà nghóa thiết yếu, vì nghóa thiết yếu nên gọi là học rộng. Nói trừ mười hai thể loại, chỉ cho thọ trì kinh Niết-bàn này. Ở đây chẳng nói lý Niết- bàn ở ngoài mười hai bộ kinh, mà chính là nói văn của mười bộ loại kinh này quá rộng, bỏ rộng theo lược mà lý ấy vẫn giữ, đó là học rộng, đâu cần phải ở nơi lời. Lại nói không theo toàn thể bộ kinh, chỉ giữ bốn câu kệ, lại không giữ bốn câu kệ, chỉ thọ trì một câu thường trụ, lại không thọ trì một câu thường trụ mà chỉ giữ lấy im lặng, nên biết giảm lại càng giảm, cho đến không còn làm gì. Thông suốt được lý này tức là học rộng, chẳng y cứ theo việc thọ trì nhiều văn ngôn mà gọi là học rộng. Kế là từ câu “Nếu có v.v…” trở xuống là đoạn ba, khen ngợi. Văn có hai là pháp thuyết khen ngợi và dụ thuyết khen ngợi. Pháp thuyết có hai là nêu ba chương và giải thích. Giải thích có hai: Giải thích ba việc. Chẳng chấp giữ. Như văn kinh có ghi. Dụ thuyết có ba: một, là dụ về khó bố thí. Cũng có hợp. Kế đến dụ về khó nhẫn, khó làm. Cũng có hợp, dụ. Thứ ba, là lập dụ về không chấp đắm có pháp, dụ và hợp. Từ câu “bấy giờ, Quang Minh v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói về nghóa. Gồm có hai phen hỏi đáp. Thứ nhất là hỏi đáp, có hai: một, là định hai ý; hai, là gạn hỏi hai ý. Đầu tiên định hai ý là định tự không và định không không. Nếu tự tánh là không là kết câu thứ nhất thành một lời hỏi. Nếu tự tánh chẳng không tức kết câu thứ hai thành một lời hỏi. Từ câu “này ngưới thiện nam” trở xuống là lời đáp, có hai: một, là đáp câu thứ nhất tánh vốn tự không. Vì sao? Vì văn sau nói tất cả pháp không thật có thì há chẳng phải là không ư? Hai, tức cũng phải tu không mới được không. Vì bản tánh của nó theo lý vốn là không mà chẳng thể thấy được, phải tu không mới thấy được không. Đã đáp hai câu ấn định thì hai câu thưa hỏi tự phá. Đáp câu ấn định thứ nhất, gồm có ba: Một, là lược nêu. Kế là từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích rộng. Thứ ba là từ câu “Vì tương tự v.v…” trở xuống là nêu được mất để làm kết luận. Văn có ba phần: Một nêu phàm phu là mất, kế nói Bồ-tát là được. Lại quở trách phàm phu là mất. Từ câu “Tánh các pháp v.v…” trở xuống là đáp câu thứ hai về ấn định. Ý nói tuy vốn vắng lặng mà phải tu tập mới thấy. Vì có tánh vô thường, nên diệt sẽ diệt được nó; vì có tánh không nên tu không mới được không, nên biết là vốn không. Có pháp, dụ, hợp. Dụ có hai, từ câu “Như tánh các pháp v.v…” trở xuống là nêu nội pháp để làm dụ. Từ câu “Như tánh v.v…” trở xuống là nêu ngoại pháp để làm dụ. Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là hợp dụ. Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là phen thứ hai nói về nghóa. Lại từ dụ về đến muối phát sinh. Hỏi có hai: một, là hỏi quán không điên đảo. Vì sao? Vì xưa nay chẳng phải không, tu không mới thấy không, tức là nơi chẳng không mà thấy không, như thế chẳng phải là điên đảo hay sao? Thí như thật thường mà thấy vô thường, vô thường mà thấy thường, đó là điên đảo. Văn có dụ và hợp, lại chuyển thí dụ về muối để làm dụ. Thứ hai hỏi không đã là vô thì thấy được gì? Nếu thấy được thì chẳng phải không, nếu không thấy được thì chẳng nên nói là thấy. Đức Phật đáp hai câu hỏi, gồm có hai chương. Đáp câu thứ nhất có ba: một là nêu chung, hai là giải thích rộng, ba là kết luận. Trong phần nêu chung có pháp, dụ và hợp. Nói thấy pháp chẳng không trở thành không mà chẳng phải điên đảo, đây chỉ là nói theo lý. Vì các pháp đều là không mà chúng sinh cho là bất không, vì muốn dứt trừ tình chấp ấy nên nói “khiến cho pháp chẳng không trở thành không mà chẳng điên đảo”. Từ câu “tham là v.v…” trở xuống là giải thích rộng. Văn có hai ý: một là giải thích chẳng phải không trở thành không; hai là giải thích chẳng phải điên đảo. Văn thứ nhất nói chẳng không vì do duyên mà có. Lại chia làm hai ý: 1/ Nói tham dục đối với chúng sinh là có; 2/ Nói sắc tánh đối với chúng sinh là có. Nếu chẳng có, vì sao lại tham đắm? Nay cho rằng chẳng phải không, khiến cho không thì các pháp này đều không. Từ câu “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là thứ hai, giải thích rộng về chẳng phải điên đảo, có hai: đầu tiên là nêu chẳng phải điên đảo. Từ câu “Tất cả phàm phu v.v…” trở xuống là giải thích rộng. Văn có hai: một, là không sinh tướng tham cho nên chẳng phải điên đảo. Kế là, nói thấy Phật tánh nên chẳng điên đảo. Hỏi: Khi nhập Sơ địa thì thấy được Không. Văn này lại nói trụ ở Cửu địa thấy pháp có tánh. Nghóa này thế nào? Đáp: Nếu giải thích theo hai nhẫn thì Sơ địa đến Thập địa là Vô sinh nhẫn, chỉ có Phật địa mới là Tịch diệt nhẫn. Nay y cứ theo hai nhẫn thì Cửu địa nếu so sánh với Phật địa tịch diệt thì còn thấy pháp có tánh, tuy thấy không nhưng so sánh với Phật thì chưa phải là rốt ráo không mà vẫn còn là phần hữu không, cho nên kinh Hoa Nghiêm ghi: “Bồ-tát Thất địa có khả năng vào vắng lặng”. Vắng lặng tức là không, vì ứng duyên nên nói khác nhau, chẳng nên mê chấp. Từ câu “chư Phật, Bồ-tát v.v…” trở xuống là kết luận. Có lúc Phật cũng nói có, có lúc nói không, đó là vì duyên. Như nay đều nói là không. Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là thứ hai, đáp câu hỏi thứ hai; trước nêu lại câu hỏi. Văn nói lấy không thấy làm không, ví như Bát-nhã không biết mà không gì chẳng biết. Từ câu “Vì thế v.v…” trở xuống là dẫn rộng việc xưa để chứng minh, như văn kinh có ghi. Sau cùng là nói công đức thứ mười, cũng gồm có hai là nêu lên và giải thích. Xưa dùng ba mươi bảy phẩm làm thể, Hưng Hoàng cho rằng Niết- bàn Phật tánh là thể; xưa cho rằng Bồ-tát thực hành nhân mà đạo phẩm là nhân nên lấy văn trước làm thể. Hưng Hoàng cho rằng các công đức trước không lấy Niết-bàn làm thể công đức sau cùng, nghóa lý sâu xa nên lấy văn sau làm thể. Hỏi: Vì sao trong đây không lấy sáu độ làm thể mà dùng ba mươi bảy phẩm làm thể? Có người giải thích rằng trong Thích luận nói sáu luận là nhân xa, ba mươi bảy phẩm là nhân gần. Có người lại cho rằng đó chỉ là nói lược. Ở đây cho rằng chẳng phải thế, Đạo phẩm thì gồm các nhiếp độ, trừ các nhiếp đàn độ ra còn các pháp khác để thấy. Trong luận Bà-sa có nêu mười một pháp nhiếp hết đạo phẩm, mười một pháp tương đương với danh thể của sáu độ, chỉ trừ hai niệm, còn tất cả đều chung với các độ. Văm có hai: Đầu tiên là nói về công đức, kế là nói về nghóa. Văn thứ nhất lại có hai: Trước nói về đạo phẩm nhập Niết-bàn. Kế là phân biệt đúng sai. Nếu nói tin là đúng, chẳng tin là sai. Công đức thứ nhất nói chẳng nghe mà nghe, thường trụ bí tạng tức Trung đạo; Chẳng nghe mà nghe luận Tỳ-già-la, kinh sách của ngoại đạo tức Tục đế; Chẳng nghe mà nghe mười một thể loại kinh tức Chân đế, ba Đế trong một tâm chẳng nghe mà nghe. Nay công đức thứ mười cũng giống như thế. Ba mươi phẩm tức Chân đế, nhập Đại Niết-bàn tức Trung đạo đế, vì chúng sinh phân biệt giảng nói tức là Tục đế. Đây cũng là Nhất tâm ba Đế, trước sau chẳng khác. Người tin thì được nhập vào Đại Niết-bàn. Ý muốn nói rằng giáo gần với lý. Hưng Hoàng cho rằng dùng công đức Niết-bàn cuối cùng làm thể, còn công đức thứ chín trở xuống thì đều chẳng phải như thế. Cách giải thích này quá sai lầm, như trước đã hỏi. Kế là nói về nghóa, gồm có hỏi và đáp. Đáp có hai: Trước là nêu người ác để răn nhắc; sau nêu người thiện để khuyến khích. Thứ nhất lại có ba: trước là pháp thuyết. Kế là nêu năm dụ. Thứ ba là hợp năm dụ. Trước là hợp riêng; sau là hợp chung. Đầu tiên là nói Chiên-đàn đổi lấy gỗ tạp. Như hai chiếc xe, một chiếc chở than, một chiếc chở gỗ Chiên-đàn; gặp mùa đông cần than, người bán Chiên-đàn bèn đốt gỗ để lấy than, tuy dễ tiêu thụ mà không có giá trị gì. Người giữ giới nghèo khổ đói khát thấy người phá giới giàu có no ấm bèn phá giới để được ăn ngon mặc đẹp, như thế lợi ích có được chẳng nhiều mà mất mát thì quá lớn. Dụ thứ hai nói vàng đổi lấy thau. Xưa, có người cỡi ngựa lưng thắt dây vàng, thấy người cỡi lừa lưng thắt dây da lừa, bèn hỏi: “Ở chợ này vật gì bán đắt nhất?” người kia trả lời: “Đai da lừa đắt nhất”. Người kia liền đổi lấy đai da lừa. Người ta vì sắc thanh mà bỏ chánh pháp cũng giống như thế. Ba thí dụ kia như văn kinh có ghi. Kế là hợp chung. Từ câu “Lúc bấy giờ v.v…” trở xuống là phần hai, nêu người làm thiện. Kế là từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần lãnh thọ ý nghóa. Đoạn lãnh thọ ý nghóa của phẩm này như văn kinh đã ghi. Thứ ba là từ câu “Đó gọi là v.v…” trở xuống là tổng kết. <詞>PHẨM 23: SƯ TỬ HỐNG (PHẦN 1- ĐẦU) Các sư đều cho phẩm này dùng thí dụ về người năng hỏi (chủ thể) mà đặt tên, chẳng phải không có nghóa này, nhưng chẳng phải một bề như thế. Vì ở đây đều dụ cho cả người năng hỏi và đáp, dùng cả hai ý như thế mà đặt tên phẩm. Vì sao? Vì Bồ-tát và Phật đều có hai thứ trang nghiêm. Như văn sau có nói về sư tử đầu đàn và sư tử con. Nếu sư tử con đủ ba tuổi thì sẽ phát ra tiếng rống. Lại rống được tiếng rống sư tử khen ngợi đại bi và rống được tiếng rống vô lượng của sư tử. Nêu văn phải y cứ vào nghóa, cả hai đều rõ ràng, người giảng nói do đâu mà chỉ nói một bên? Có người nghi ngờ cho rằng tên phẩm chỉ nói là phẩm Sư-tử-hống Bồ-tát, vì sao lại gượng lập ra hai nghóa để giải thích? Trả lời, nếu theo tựa đề thì mất văn, nếu theo văn thì mất tựa đề, văn thì rộng bao gồm lược. Sư tử được coi là sư tử vật đứng đầu, Bồ-tát được coi là con, tiếng rống thì chung cho cả hai, hai nghóa đều rõ ràng, sao lại có sự nghi ngờ. Vả lại, chữ Sư tức là gồm chữ Đôi ở bên phải và chữ Táp bên trái hợp thành, đặt ở vị cùng cực. Sự lý đều khắp đủ thì tự hành tròn đầy. Lại chữ Sư giải thích là Soái (thống lãnh), soái tức là sư (chỉ dạy, thống lãnh). Sư có khả năng giáo hóa, nên biết Sư được coi là Phật đã rõ ràng. Tử giải thích là đệ tử. Pháp của đệ tử bẩm thọ từ thầy, nếu theo thầy tu tập thì càng ngày càng được lợi ích. Cho nên biết, chữ Tử được coi là Bồ-tát đã rõ ràng. Hống (rống) thì chung cho cả hai. Rống là thuộc khẩu mật chung cho sáu vị (lục tức), v.v… Nay nói rốt ráo và phần rống, chung cho cả hai chỗ. Thân mật, khẩu mật và ý mật đều có sáu vị. Khẩu mật chung cho sáu vị tức là Thế giới Tất-đàn. Nếu chỉ y cứ theo Tử tức là từ Vị nhân Tất-đàn; nếu chỉ y cứ theo Hống tức là từ Đối trị Tất-đàn; nếu chỉ y cứ theo Sư tức là từ Đệ nhất nghóa Tất-đàn. Vì vậy tên phẩm đã bao gồm các ý nghóa như thế. Các Sư Địa Luận cho rằng đây là thuộc về Nhập chứng phần. Khai Thiện cho đây là trả lời câu hỏi về tánh an vui. Hà Tây và Hưng Hoàng đồng cho là thuộc về pháp môn Phật tánh. Nay chẳng dùng các thuyết này. Nếu cho là Nhập chứng, đã nhập chứng thì không nói, nếu có nói thì chứng nhập chẳng phải là Bồ-tát nói. Nếu cho là trả lời câu hỏi về tánh an vui thì câu này do ai hỏi, mà nay lại dùng phẩm này để đáp? Nếu nói về Phật tánh thì Phật tánh do ai nói mà lại lấy phẩm này làm đề mục để nói về người. Các thuyết đều trái nên chẳng dùng. Nay phẩm này là phần thứ tư, hỏi đáp về nghóa Niết-bàn. Đây là sư tử con hỏi, sư tử đầu đàn đáp. Nếu theo văn này thì lẽ ra nên nói là hỏi đáp về nghóa Phật tánh. Nhưng các chương trước đều gọi là Niết- bàn nên nay theo đó cũng gọi là nghóa Niết-bàn. Mà Niết-bàn chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Niết-bàn. Gọi Niết-bàn là chung, gọi Phật tánh là riêng. Chung gồm thâu riêng. Toàn phẩm được chia thành hai đoạn lớn: Nói về Phật tánh. Khen ngợi kinh. Nói về Phật tánh được chia làm bốn phần: Nói về Phật tánh. Nói về Trung đạo. Nói về buộc và thoát. Nói về tu đạo. Phật tánh là cơ bản, do biết Phật tánh mà trong đó được thông đạt; vì chẳng biết cho nên bị buộc, vì đã biết nên được thoát, muốn thoát khỏi sự trói buộc thì phải tu tập. Thứ nhất lại có hỏi và đáp. Hỏi gồm bốn việc là khuyên hỏi, cầu hỏi, đồng ý hỏi, chính thức hỏi. Trong phần khuyên hỏi, trước là nêu các pháp môn, sau là chính thức khuyên. Trong phần nêu các pháp, kể ra có sáu môn: Tam bảo, Tứ đế, Thật đế, bốn đức, năm Phật tánh, nhân quả; có thừa hay không thừa là nêu tánh liễu nhân. Vì sao? Vì muôn thiện Nhất thừa đều thuộc về liễu nhân. Có tánh, vô tánh là nêu quả tánh và quả quả tánh; có chúng sinh, không có chúng sinh là nêu tánh chánh nhân; có hữu hay không hữu, có chân không chân là nêu tánh cảnh giới. Vì sao? Vì hai đế là cảnh sở duyên của trí, cảnh lại sinh trí nên nói thuộc về tánh cảnh giới; có nhân, không có nhân tức là nêu nhân quả. Có người cho rằng hai câu trước nói về tập nhân nhân quả, ba câu sau nói về báo nhân nhân quả, lại có tạo tác, không tạo tác là nhân phiền não; nghiệp chẳng phải phiền não, nghiệp báo thiện ác này là nghiệp quả của phiền não. Có người cho rằng hai câu trên nói về nhân quả xuất thế, ba câu dưới nói về nhân quả thế gian, lại nữa nêu pháp môn để khuyên tu. Nói chung là chỉ nêu pháp môn Nhị đế, trong đó nói có Phật tức là Thế đế, không có Phật tức là Chân đế, cho đến có quả báo tức là thế đế, không có quả báo là Chân đế. Văn chỉ nêu hai đế. Nếu y cứ theo câu “Nay cho phép các thầy tự do thưa hỏi” thì đâu chỉ có hai đế. Văn đã nêu hai môn, bốn môn v.v… gồm tất cả các pháp chứ đâu chỉ có hai đế. Vả lại chung cả ba Đế cho bốn môn. Chung cho ba Đế thì có Phật tức là tục, không có Phật tức là chân, chẳng phải có Phật, chẳng phải không có Phật là Trung đạo, cho đến quả báo cũng như thế. Chung cho hai đế thì có Phật là môn Hữu, không Phật là môn Không, cho đến có quả báo, không có quả báo cũng như thế. Nếu y cứ theo câu “cho phép các thầy tự do thưa hỏi” thì lẽ ra có bốn môn, trong đó hai môn cũng giống như trên, còn vừa có Phật, vừa không có Phật là môn lưỡng diệc, chẳng phải có Phật, chẳng phải không có Phật là môn song phi, cho đến vừa có quả báo vừa không có quả báo, chẳng có báo chẳng phải không có quả báo cũng giống như nhế. Hỏi: Đức Phật khuyên hỏi các pháp môn, vì sao chẳng y theo lời Phật khuyên mà lại hỏi riêng về Phật tánh? Đáp: Các pháp môn tuy là riêng nhưng đều trở về Phật tánh, nếu hỏi về Phật tánh tức là dùng chung thâu nhiếp riêng. Vì sao? Vì y cứ theo năm câu khuyên hỏi về có thừa, không có thừa v.v… là hỏi về năm loại Phật tánh. Vả lại, nếu y cứ theo Tam bảo thì phải hỏi “Thế nào là Phật tánh?” Nếu y cứ vào Khổ, Tập đế thì là hỏi về cảnh giới Phật tánh; nếu y cứ Đạo đế thì hỏi về duyên liễu; nếu y cứ vào thật, không thật tức là hỏi về chánh tánh; nếu y cứ theo nhân quả thì hỏi về nhân tánh, nhân nhân tánh, quả tánh, quả quả tánh; nếu y cứ theo tạo tác, không tạo tác tức là hỏi nhân tánh; nếu y cứ theo có nghiệp, không nghiệp tức là hỏi về duyên tánh. Lại nếu y cứ theo thừa thì phải hỏi “Thế nào là thể của Phật tánh?” Nếu y cứ theo quả báo, Tam bảo, Tứ đế v.v… thì phải hỏi “Vì sao gọi là Phật tánh?” Nếu y cứ theo bốn đức thì phải hỏi “Vì sao gọi là Phật tánh?” Nếu y cứ theo có nhân, không có nhân thì phải hỏi “Bồ- tát có loại mắt nào chẳng thấy rõ ràng?” Nếu y cứ theo hai câu tạo tác, không tạo tác v.v… thì phải hỏi “Vì sao chúng sinh chẳng thấy?” Nếu y cứ theo quả báo, không có quả báo tức là hỏi về chánh tánh. Đức Phật khuyên mười tám việc, Bồ-tát y theo lời khuyên này mà nêu sáu câu hỏi đồng dị, rõ ràng như thế mà người chẳng thấy. Ở đây nói thêm rằng khuyên thì hỏi riêng thật hợp với lời Phật nhưng chưa đạt được ý. Khuyên chung mà hỏi riêng thì chẳng gồm thâu tất cả pháp, chưa đạt được ý; khuyên chung mà hỏi chung cũng hợp ý Phật, nhưng sợ rằng đại chúng bấy giờ chưa hiểu được ý riêng trong chung. Cho nên Đức Phật khuyên riêng mà lập lời hỏi chung rất đạt ý chỉ của Phật mà chúng hội lại dễ hiểu. Vì thế, Đức Phật khuyên riêng mà Sư tử hống lập lời hỏi chung chính là do ý này. Từ câu “Hôm nay v.v…” trở xuống tức là lời khuyên. Trong phần chánh khuyên có chánh khuyên và đôn khuyên. Đức Phật thật hết lòng khuyên bảo giúp chúng sinh được lợi ích. Từ câu “Bấy giờ trong chúng hội v.v…” trở xuống là đoạn hai, cầu hỏi. Đầu tiên các nhà kiết tập kinh tự trình bày, sau đó là chánh thức lên tiếng thưa hỏi. Chữ Liễm cũng là chữ Kiểm, đều chỉ cho dáng vẻ cung kính. Kế là phát lời thưa hỏi. Từ câu “Bấy giờ Phật bảo v.v…” trở xuống là đoạn ba, cho phép hỏi. Trước khuyên cúng dường, kế là chính thức cho phép. Thứ nhất lại có ba: 1/ Khuyên; 2/ Giải thích; 3/ Kết luận. Khuyên cúng có đủ ba nghiệp, trong đó tôn trọng là ý nghiệp, khen ngợi là khẩu nghiệp, cung kính và đưa tiễn là thân nghiệp. Từ câu “Vì sao? v.v…” trở xuống là giải thích lời khuyên. Văn có pháp, dụ và hợp. Trong phần pháp thuyết có nêu đức ở quá khứ, kế là nói về đức hiện tại. Từ câu “Như Sư tử đầu đàn, v.v…” trở xuống là dụ thuyết, có hai: trước là vì Phật lập dụ, kế là vì Bồ-tát lập dụ. Vì Phật lập dụ, trước là dụ Pháp thân, kế là dụ về Ứng tích. Dụ Pháp thân có ba: Chung, riêng và kết luận. Thứ nhất, một câu là dụ chung. Từ câu “Tự biết sức lực v.v…” trở xuống gồm năm câu, là dụ riêng các đức. Thân là sáu Độ, sức lực là mười Lực, răng nanh dụ cho trí tuệ dứt bỏ phiền não, bốn chân là bốn như ý, đất là giới, hang sâu là cảnh thiền định, đuôi là tâm đại bi, lòng đại bi xót thương cứu giúp như cái đuôi con vật cong xuống phía dưới, âm thanh là tám âm thanh nói pháp. Thứ ba, từ câu “Nếu có đủ v.v…” trở xuống là tổng kết. Từ câu “Sáng sớm v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về Ứng thân phương tiện. Văn có ba: một, là chánh ứng. Sáng sớm là lúc bóng tối vừa tan biến, ánh sáng vừa lên, dụ cho cơ duyên diệt ác sinh thiện mà ứng hóa cứu độ. Kế là nói ra khỏi hang, dụ cho nghóa từ Pháp thân mà khởi Ứng thân. Vươn thân là diệt ác, ngáp dài là sinh thiện, nhìn khắp bốn phía là bốn vô ngại, cất lên tiếng rống tức nói pháp, có mười một việc. Thứ ba, từ câu “Tất cả cầm thú v.v…” trở xuống là nói chúng sinh đắc đạo. Loài sống dưới nước dụ cho phàm phu nhiều ái nhiễm; loài sống trên mặt đất dụ cho Nhị thừa; loài bay trên hư không rơi rớt là dụ cho việc hàng phục các ma; loài voi bỏ chạy là dụ cho việc chế phục ngoại đạo. Từ câu “Như loài chồn v.v…” trở xuống là ý thứ hai, vì Bồ-tát lập dụ. Nói loài chồn tức là trước nêu điều chẳng đúng. Kế là nói điều đúng. Ba tuổi dụ cho ba hạnh, nhưng văn hợp ở sau chỉ nói lược ba hạnh này trong năm hạnh, lại phạm hạnh là hóa tha, trong hóa tha đồng có dứt hoặc, tức là hạnh bệnh, đồng với sinh ra điều thiện là hạnh trẻ thơ, chỉ có một phạm hạnh là gồm tất cả nên hai hạnh kia chẳng nói đến. Từ câu “Như Lai Chánh giác v.v…” trở xuống là hợp dụ. Đầu tiên là hợp với dụ về Phật; kế là hợp với dụ Bồ-tát. Văn thứ nhất lại có hai, trước là hợp với diệu bản là chúng sinh, kế là hợp với Ứng tích. Phần hợp dụ có chút phần không theo thứ lớp. Hợp đủ mười một việc. Hợp với câu “Muốn phá hoại những loài không phải sư tử mà giả làm sư tử” ở trước là câu “Vì chúng sinh mà cất lên tiếng rống sư tử”. Văn ở trước nói “Muốn thử xem sức lực của thân mình” thì văn hợp là “Hiển bày các lực”, v.v… Từ câu “Từ hang sâu v.v…” trở xuống là thứ hai, hợp với chánh ứng nhưng không hợp với buổi sáng sớm. Từ câu “Sư tử hống v.v…” trở xuống là ý thứ hai, hợp với câu chúng sinh được lợi ích ở trước. Trước có bốn câu, ở đây hợp thì nói thẳng là quyết định thuyết, vì thế câu hàng ma và chế phục ngoại đạo gồm cả giải thích nghóa sư tử rống. Kế là từ câu “Thanh văn, Duyên giác v.v…” trở xuống là hợp với dụ về Bồ-tát, cũng gồm có hai: Trước nêu chẳng đúng, sau hợp nói về điều đúng. Hàng Bồ-tát Thập trụ có khả năng tu tập ba hành xứ thì sẽ rống tiếng rống sư tử. Khai dụ và hợp dụ đều nói về chư Phật và Bồ-tát. Hai nghóa rõ ràng như thế, đâu thể theo một bên mà giải thích tên phẩm này. Từ câu “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là ý thứ ba, kết luận khuyên cúng dường. Từ câu “Bấy giờ, Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn hai, chính thức cho phép hỏi. Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, chính thức thưa hỏi, gồm có sáu câu nhưng chỉ cho hai ý. Ba câu hỏi trước là hỏi về pháp, ba câu sau là hỏi về người. Ba câu hỏi này các sư xưa giải thích rằng một câu đầu là hỏi về quả tánh, câu kế là hỏi nhân tánh, câu cuối là hỏi về nhân quả tánh. Các Sư Trung Quán cho rằng cách giải thích trên chẳng tương ứng với văn. Như theo văn thì câu thứ nhất hỏi về thể Phật tánh; câu kế nói về nghóa Phật tánh, câu sau nói về tên gọi Phật tánh. Hà Tây cũng đồng với ý này. Nay dùng người sau (chúng sinh) để hỏi pháp trước (thể của Phật tánh). Đầu tiên là hỏi về lý, tức là thể Phật tánh, kế là hỏi về phần ng- hóa Phật tánh, sau hỏi về rốt ráo tức là tên gọi Phật tánh. Từ câu “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là hỏi về người thấy và người chẳng thấy. Đầu tiên là hỏi về người chẳng thấy. Hai câu hỏi sau là hỏi về người thấy tánh. Đầu tiên là hỏi do pháp gì mà thấy rõ, hoặc chẳng thấy rõ; kế là hỏi do loại mắt gì mà có người thấy rõ, có người chẳng thấy rõ. Bồ-tát Thập trụ dùng loại mắt gì mà chẳng thấy rõ, Phật dùng loại mắt gì mà thấy Phật tánh rõ ràng? Pháp thì y cứ vào thể của tánh, mắt thì y cứ vào dụng của tánh. Phật đáp có hai ý: Đầu tiên khen ngợi câu hỏi, kế là chánh đáp. Khen ngợi lại chia hai: Đầu tiên là khen ngợi, sau là nói về nghóa. Khen ngợi lại được chia làm hai: 1/ Khen ngợi; 2/ Trang nghiêm. Kế là khen hiểu được sáu nghóa. Ông đã hiểu được sáu nghóa, mà thưa hỏi là vì người. Khen ngợi sáu nghóa, chỉ khen ngợi hai nghóa đầu và hai nghóa sau, còn hai nghóa ở giữa thì lược bỏ. Từ câu: “Bồ-tát v.v… trở xuống là ý thứ hai, nói về nghóa, gồm có hai phen hỏi đáp. Thứ nhất là hỏi. Lời đáp có bốn ý, ba ý trước là y cứ theo nghóa hơn kém để giải thích trí tuệ trang nghiêm cao quý hơn phước đức. Một câu sau là y cứ theo bình đẳng để giải thích. Có chỗ cho rằng phen trả lời thứ nhất dùng giải Không làm trí tuệ, dùng giải Hữu làm phước đức, cho giai vị Thập địa là trí, cho năm đôï là phước; Chỉ nói Bát-nhã, tức là nói trí tuệ trong Hữu, nên thuộc về phước đức, nếu biết được Ba-la-mật là thành tựu giải Không, tức thuộc về trí tuệ. Phen trả lời thứ hai cho Cửu trụ trở xuống là phước đức. Đó là y cứ theo thể của pháp để so sánh hơn kém như thế. Nếu ở cõi này thì phước đức hơn trí tuệ, nếu ở Tịnh độ thì trí tuệ hơn phước đức; khiến cho cây cối phát sinh y phục, thức ăn uống, chỉ mong cầu ưa chuộng trí tuệ, nên nói tuệ là hơn. Nếu nói đã đầy đủ rốt ráo tức là pháp thiện.  <卷>QUYỂN 24 <詞>PHẨM 23: SƯ TỬ HỐNG (PHẦN 1- CUỐI) Từ lại nữa, này thiện nam, v.v… trở xuống: Thập trụ cũng thấy được chút phần, đây cũng là nghóa Viên giáo. Nếu nói Thập trụ chẳng phải Thập địa, mà lại nói chín trụ dưới chẳng thấy, trụ thứ mười thấy chút phần thì đây là nghóa Biệt tiếp Thông, mọi người chẳng biết điều này nên chẳng thông được văn nghóa. Từ câu: “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là ý thức thứ ba, kết luận sự sâu xa. Đây là nói năm Phật tánh; mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh tức là kết luận nhân tánh, Đệ nhất nghóa Không là kết luận nhân nhân tánh, Trung đạo là kết luận chánh nhân tánh, Phật là kết luận quả tánh, Niết-bàn là kết luận quả quả tánh. Văn nghóa đầy đủ, lời kết này rất sâu xa mầu nhiệm. Từ câu: “Bấy giờ, Bồ-tát v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về ng- hóa. Nghóa này phát khởi từ câu kết luận ở trên. Hành nghiệp của chúng sinh rất sâu xa, nếu chúng sinh và Phật bình đẳng không hai, thì đâu cần phải tu đạo? Đầu tiên dường như chỉ một câu hỏi, mà Phật lại có hai lời đáp nên thành hai câu hỏi. Văn sau Đức Phật trả lời nghóa Phật và Phật tánh và trả lời nghóa tu đạo. Cho nên biết có hai câu hỏi. Các sư Địa Luận cho rằng chúng sinh là Phật, có đủ vọng tưởng, nên chẳng cần tu đạo, chính là nên gạn hỏi câu này. Các sư Luận Thành Thật cho rằng quả Phật ở đương lai thì chẳng có câu gạn hỏi này, nhưng chẳng được nói “tức là Phật”; ở đây nên dùng nghóa không khác nhau và khác nhau để trả lời: Vì không khác nhau nên nói tức là Phật, vì khác nhau nên không đầy đủ. Như cha có con thì họ của con chẳng khác với cha, mà Dụng chưa đầy đủ, nên cần phải trang nghiêm về sau mới đầy đủ. Nhưng ở đây chỉ nói về Phật tánh đâu liên quan gì đến đầy đủ hay chẳng đầy đủ. Đầy đủ thì nhờ duyên mà đầy đủ, vậy lẽ ra Phật tánh cũng nhờ duyên mà đầy đủ mới phải. Nếu nói Phật tánh ở đương lai, thì đây là y cứ theo quả tánh và quả quả tánh; nếu nói Phật tánh ở hiện tại thì đây là lấy theo nhân tánh và nhân nhân tánh; nếu nói Phật tánh chẳng phải ở đương lai và hiện tại, thì đây là lấy theo ý chánh nhân tánh; nếu mỗi pháp đều chấp là đúng, thì như người mù sờ voi. Còn như thấy được ý này thì không còn tranh luận là ở đương lai hay hiện tại. Phật đáp có ba đoạn: 1/ Bác bỏ lại câu hỏi; 2/ Chánh đáp; 3/ Dẫn chứng. Thứ nhất như văn kinh có nói. Chánh đáp có hai ý: 1/ Đáp trong không khác nhau cũng có khác nhau; 2/ Đáp câu “đâu cần tu đạo”. Lời đáp thứ nhất có ba ý: 1/ Chánh đáp; 2/ Dẫn kệ; 3/ Nêu sữa và lạc làm dụ, ý nói thể thì chẳng khác mà duyên thì khác. Văn thứ nhất có pháp, dụ. Nói chưa đầy đủ tức là chỉ mới có ở lý, còn sử dụng thì chưa đủ, chứ chẳng phải cho rằng tất cả đều không mà nói chưa đủ. Từ câu: “Thí như v.v…” trở xuống, là nêu dụ; có hai: Trước là dụ, sau là hợp. Dụ lại có hai: Trước là dụ ác, sau là dẫn điều lành. Dụ điều ác, như văn kính có ghi. Chắc chắn phải đọa địa ngục như người giết mẹ sau sinh tâm hối hận. Hiện thời thân chưa đọa, mà chắc chắn phải đến đó không nghi ngờ gì. Chúng sinh cũng như thế, đã có lý Phật tánh, thì đương lai sẽ thành. Kế là Phật dẫn rằng: Thực hành thiện lành gọi là thấy cõi trời, cõi người, thực hành mười ác thì gọi là thấy địa ngục, đó cũng là quả báo vị lai. Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” là hợp dụ. Tất cả chúng sinh chưa có tướng tốt, nhưng vị lai sẽ được, có người cho rằng sẽ được quả tướng tốt, có người cho rằng sẽ được quả Phật tánh; nhưng Phật tánh đâu có “sẽ được”, nếu có “sẽ được” thì thuộc ba đời, tức là vô thường, thế thì chẳng nên nói đương quả Phật tánh. Thứ hai, là dẫn kệ để trả lời. Lược giải thích ý nghóa bài kệ, như văn trước đã nói. Bài kệ này được nêu lên bốn phen: Thứ nhất là để đáp về thuờng, vô thường, thứ hai là để trả lời về đắc, chẳng đắc, văn sau quyển hai mươi sáu được nêu ra để đáp về phá định tánh, còn ở đây là dùng để trả lời về cóù và không bất định, hiển bày Trung đạo. Nếu chỉ dùng có không để giải thích thì chẳng hợp với yếu chỉ bài kệ thường và vô thường, cũng nên như thế. Trong đây nếu y theo kinh thì nên lập bốn câu: sai biệt vừa sai biệt, không sai biệt vừa không sai biệt, chẳng sai biệt chẳng phải không sai biệt, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng thể nghó bàn, để giải thích thì mới hợp yếu chỉ bài kệ. Các câu thường, vô thường v.v… cũng giống như thế. Nay văn xuôi giải thích “vốn có” rằng: “Ba đời đều vốn có”, theo văn này thì sinh tử và Niết-bàn, mỗi pháp đều là sẵn có, mỗi pháp đều có “nay không”. Nếu sinh tử sẵn có, thì Niết-bàn đã sẵn có, chẳng phải nay mới “có”. Niết-bàn xưa không tức đã thành Phật từ lâu, chẳng còn các phiền não. Sinh tử tuy xưa có nay không, xưa không nay có, nhưng đều gom về Hữu (có), dùng Niết-bàn so với sinh tử, thì sinh tử có sở đắc. Niết-bàn tuy xưa có nay không, xưa không nay có mà đều gom về vô (không), tức là so sinh tử với Niết-bàn thì Niết-bàn vô sở đắc. Tức xưa có là nay không, chẳng lìa có mà nói không; tức xưa không mà nay có, chẳng lìa không mà nói có. Ba câu đầu thuộc về ba đời khác nhau. Có của xưa có chẳng phải có, không của nay không, chẳng phải là không, chẳng phải có chẳng phải không, ba đời có pháp thì “thật chẳng có việc ấy”, một câu này là không khác nhau, chẳng thuộc về ba đời. Lại y cứ theo gốc ngọn để nói lại bốn câu, tức là có hai câu thuộc gốc, hai câu thuộc ngọn, một gốc một ngọn, ngọn mà chẳng phải gốc, gốc mà chẳng phải ngọn, chẳng phải gốc, chẳng phải ngọn. Văn kinh ở trên ghi: “Ở nhờ sinh một đứa con, chủ nhà bèn đuổi đi,” chủ nhà là cảnh, há chẳng phải sinh tử là gốc ư? Một đứa con là chánh quán, há chẳng phải Niết-bàn là ngọn ư? Văn kinh ghi: “Đại Bát-niết-bàn vốn tự có”, “Như Lai tạng hướng về đó mà kiến lập”, há chẳng phải Niết-bàn là gốc ư? Mê lý khởi hoặc, há chẳng phải sinh tử là ngọn ư? Mỗi pháp đều có gốc thì mỗi pháp đều có ngọn. Vì nghóa ấy nên có hai gốc hai ngọn. Vả lại, sinh tử vô chung mà lấy khởi đầu của Niết-bàn làm chung của sinh tử, Niết-bàn thì vô thỉ mà lấy chung của sinh tử làm thỉ. Hai dòng đối nhau làm chung thỉ cho nhau, đó là một ngọn một gốc. Vả lại, sinh tử dù gốc hay ngọn cũng đều gọi là ngọn, vì nó luống dối không có gốc, cho nên nói là ngọn. Còn Niết-bàn nếu gốc hay ngọn thì cũng được gọi là gốc, vì đó là chân thật chẳng hư giả, cho nên có gốc mà chẳng phải là ngọn. Gốc của ngọn chẳng phải gốc, ngọn của gốc chẳng phải ngọn, chẳng phải gốc, chẳng phải ngọn, chẳng thuộc ba đời. Phân biệt bốn câu đã thành, thì so sánh với đủ chẳng đủ, đắc chẳng đắc, thường vô thường đều bất định, không thể nghó bàn, cũng giống như thế. Bốn câu bất định không thể nghó bàn tức ba Đế chẳng chung chẳng riêng như trước đã nói. Từ câu: “Thí như có người v.v…” trở xuống là đoạn ba, nêu thí dụ sữa lạc để làm chứng cho Đương hữu. Đây là y cứ vào sáu tâm để nói về có Phật tánh, cả hai có gì khác nhau? Chúng sinh có lý Phật tánh, về sau này khi thành Phật thì chẳng lấy chúng sinh làm tâm Phật nữa, tâm Phật cũng như thế, chỉ nói có tâm là Phật tánh, chẳng nói tức tâm là Phật tánh. Từ câu: “Rốt ráo v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói phải tu đạo, tức là chánh đáp câu: “Đâu cần tu tập” ở trước. Chúng sinh đều có Nhất thừa chánh tánh, phải tu sáu Độ để trang nghiêm, nếu chẳng tu thì chẳng được chánh tánh. Có thuyết nói Nhất thừa là muôn pháp lành, nhưng văn này lại nói Nhất thừa là Trung đạo chánh tánh. Nhất đạo thanh tịnh này có năng lực đưa chúng sinh đến quả Phật, vì thế gọi là Nhất thừa, đâu đồng với muôn điều lành. Toàn văn có hai là nêu chương và giải thích. Chương thứ nhất nêu hai cặp bốn pháp. Kế là giải thích, đầu tiên dùng sáu độ để trang nghiêm, nhất thừa là rốt ráo, sau là giải thích thế gian và xuất thế gian. Sáu độ và Nhất thừa đồng một thể, thuận theo nghóa mà giải thích khác nhau. Trong đó có hợp với dụ thứ nhất. Quả báo sinh lên cõi trời Đao-lợi và Uất-đơn-việt tuy tốt đẹp hơn cõi người, nhưng chẳng thấy được Phật tánh. Đã bị vô minh che lấp, thì không thấy được nên cần phải tu tập. Từ câu: “Nói Phật tánh v.v…” trở xuống là giải thích một cặp sau. Có hai: trước chỉ giải thích rốt ráo xuất thế gian, sau giải thích cả rốt ráo của thế gian và xuất thế gian. Thứ nhất lại có ba đoạn: 1/ Nêu Thể; 2/ Giải thích Danh; 3/ So sánh. Thứ nhất như văn kinh có ghi. Thủ-lăng-nghiêm, Hán dịch là Kiên Cố, Hòa-xà-lê dịch là Tu Trị tâm. Tam-muội này có chung, có riêng; riêng thì chỉ có ở chung tâm, chung thì có ở khắp cho các địa. Từ câu: “Như một môn” v.v… trở xuống là đoạn ba, nêu loại. Giác gọi là Định giác, tức Định giác phần trong bảy giác; chánh gọi là chánh định, tức chánh định trong tám Chánh đạo. Lại nói giác gọi là Định giác, tức là Định giác trong tám điều giác ngộ của bậc đại nhân. Thủ-lăng-nghiêm cũng giống như thế, có năm tên gọi. Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích thế gian rốt ráo và xuất thế gian rốt ráo, hạ trung là thế gian rốt ráo, định bậc thượng là xuất thế gian rốt ráo. Văn có hai: Trước giải thích ba định, sau giải thích Định bậc thượng. Đầu trên giải thích thượng định là Phật tánh, tức nói liễu nhân, hoặc nói chánh nhân. Trung định tức là định cõi Sắc. Hạ định tức là tâm sở định. Các sư Số Luận cho rằng mười tâm sở đồng thời khởi gọi là Đại địa, chung cho năm phẩm: Thiện, ác, vô ký, bất công, uế ố. Luận Thành Thật cho rằng: “Pháp khởi theo thứ lớp trước sau mười số, theo nghóa mà nói là mười”, có chỗ cho rằng mười chỗ ở của cõi Dục là mười số, đó là ba đường, người và sáu cõi trời. Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là giải thích lại về xuất thế tức là Thủ-lăng-nghiêm. Thích luận gọi là Tam-muội Kiện tướng. Từ câu: “Có một thời v.v…” trở xuống là đoạn ba, dẫn chứng cho lời đáp. Đây là nói Như Lai quán sát các căn cơ để có thể nói hay chẳng nói. Hoặc có lúc nói Phật và Phật tánh không khác nhau, hoặc có lúc nói khác nhau, hoặc nói tu đạo, hoặc nói chẳng tu. Ví như biết căn cơ của ngoại đạo nên nói Ngã, hay nên nói vô ngã. Văn có hai là: Dẫn việc xưa làm chứng cho nay, dẫn việc xưa lại có ba: 1/ Nói về tắm gội; 2/ Ngoại đạo nói về nghóa; 3/ Chúng đương thời được lợi ích. “Phật tánh này, v.v…” trở xuống là làm chứng cho nay. Chính là nêu: Phật tánh chẳng phải ngã mà nói là ngã, tức dạy chẳng nên có chấp nhất định. Như Lai tự tại hoăïc cho ngã là vô ngã, vô ngã là ngã. Hoặc giải thích Phật tánh ở nhân, nên nói vô ngã, ở quả thì nói có ngã. Từ câu: “Bấy giờ, Bồ-tát Sư Tử v.v…” trở xuống là đoạn ba trả lời câu hỏi thứ tư, có hai: Trước hỏi, sau là đáp. Thứ nhất là hỏi, thêm vào câu Kim Cương lực só. Phần chánh đáp có hai ý là chánh đáp và kết luận khen ngợi. Phần chánh đáp có bảy dụ, gom vào ba ý: 1/ Ba dụ đầu tiên là dụ có mà chẳng thấy; 2/ Một dụ kế là dụ cho nghóa bình đẳng đều có; 3/ Hai dụ sau là dụ cho việc đợi đủ duyên mới thấy. Ba ý theo thứ lớp mà phát sinh. Nghóa là tuy nói có mà chẳng thấy, vì chưa biết chắc chắn là có, nên chẳng thấy; chưa biết chắc chắn là không nên cũng chẳng thấy, kế một dụ là dụ cho nghóa chắc chắn có, đã chắc chắn có, thì sao lại chẳng thấy, kế là đáp rằng đợi nhân duyên mới thấy. Ba dụ đầu đều xếp trước dụ, sau hợp. Đầu tiên là dụ người mù. Dụ hàng phàm phu thấp nhất như người mù chẳng thấy; sắc dụ cho Phật tánh. Các sư Số luận giải thích sắc có hai mươi loại: xanh, vàng, đỏ, trắng, cao, thấp, nghiêng, thẳng, vuông, tròn, dài, ngắn, ánh sáng, hình ảnh, sáng, tối, mây, khói, bụi, mù; có chỗ thêm hư không là không nhất hiển sắc. Từ câu: “Như mắt bị nhặm, v.v…” trở xuống là ý thứ hai, dùng mắt bệnh dụ cho Bồ-tát. Như mắt hơi bị nhặm thì chẳng thấy được sắc, dụ cho các Bồ-tát có phiền não nên chẳng thấy Phật tánh, chẳng đồng với dụ người mù ở trước. Trong phần hợp dụ trước nêu Bồ-tát Thập trụ, sau nêu bốn hạng người là phàm, phu, Nhị thừa, Bồ-tát Thập trụ và Như Lai. Như Lai thấy toàn thể, Bồ-tát thấy chút phần, còn hai người kia hoàn toàn chẳng thấy. Từ câu: “Thí như mặt trăng v.v…” trở xuống là dụ thứ ba. Cũng dụ cho các chúng sinh chưa dứt hoặc thì chẳng thấy, dứt hoặc rồi thì thấy. Như trăng đêm mồng một thì chẳng thấy, nhưng dần dần sẽ thấy. Phật tánh cũng giống như thế, vốn đã có lý này, chúng sinh bị phiền não che lấp nên chẳng thấy, nếu hoặc chướng dần dần dứt trừ thì dần dần thấy được Phật tánh. Văn nói: Đại bi, mười Lực v.v… tất cả chúng sinh đều có, xưa cho rằng sẽ có, tức nay việc chưa có, dẫn văn sau rằng: “Phá Nhất- xiển-đề sau đó mới được.” Các sư Địa Luận giải rằng: “Chân thân Phật tánh giống như tượng vàng bọc trong vải xấu; đại từ, đại bi, mười lực, tướng tốt và vẻ đẹp phụ đều có đầy đủ, nhưng bị các hoặc che lấp, dứt phiền não thì sẽ thấy được; cũng như lột bỏ vải xấu thì được tượng vàng ròng”. Các sư Trung Quán cho rằng: Hai cách giải trên mâu thuẫn với kinh. Nếu nói sẽ có thì kinh nói rằng: “Đại bi, mười lực, bốn vô úy chúng sinh đều có”, như thế đâu được cho là sẽ có? Còn nói hiện có như vàng bị hoặc che lấp, vậy Phật tánh mạnh mẽ sao chẳng phá được? Nếu chấp vị lai hoặc hiện tại thì tạo thành sự tranh luận. Vì đã đầy đủ lý này thì chẳng thể nói là vị lai mới được; vì tu đạo mới được, nên chẳng thể nói là hiện tại đã có. Ba cách giải thích trên đều thuộc chấp nghiêng về một bên, chưa hợp với ý Viên, vì sao? Vì Phật tánh chẳng phải là một, hai, ba, mà vì chúng sinh nên lập ra bốn môn khác nhau, hoặc nói Đệ nhất nghóa không, như thành Ca-tỳ-la không, hoặc nói chẳng không như dụ người có trí tuệ, cô gái nghèo có kho báu, hay hạt châu trên trán; hoặc nói vừa có vừa không như dụ bình rượu và nước; hoặc nói chẳng phải có chẳng phải không gọi là Trung đạo, muốn cho người do bốn mà ngộ được chẳng bốn, xả chấp bốn để cầu sự thông đạt. Các sư Thành Thật nói Đương hữu tức là chấp không, các sư Địa luận nói bị hoặc che lấp tức là chấp có, còn lời giải thích của các Sư Trung Quán là chấp vừa có vừa không. Còn ở đây là giải thích Phật tánh như vua thấy voi, còn chỗ thấy của các Sư như người mù sờ voi. Trong phần hợp dụ cuối cùng có nói: “Ba loại phá phiền não”, các sư xưa có hai cách giải thích: 1/ Cho rằng phiền não kiến tư của hai cõi là hai, hoặc là phiền não của cõi uế ở giới nội, tập khí là phiền não của tịnh độ trung gian hai cõi, vô minh là phiền não của giới ngoại. Bồ-tát Thất địa dứt trừ phiền não trung gian giữa hai nước, Trang Nghiêm theo thuyết này. 2/ Cho rằng Kiến đế là một phiền não, tư duy là hai phiền não, tập khí là ba phiền não. Phần số của nguyên phẩm vô minh đồng với tập khí cho nên chẳng kể riêng. Từ Sơ địa đến Tam địa thì dứt trừ Kiến đế, Bồ-tát Tứ địa đến Lục địa thì dứt tư duy, Bồ-tát Thất địa, Bát địa thì gồm dứt tập khí vô minh. Đây là thuyết của Khai Thiện. Có một Sư gạn hỏi hai cách giải thích này rằng: Văn kinh có nói: “Ba thứ phá phiền não”, chẳng nêu ra ý phá phiền não; nếu chỉ nêu tên của ba loại thì trái với văn kinh, còn nói về ý phá thì phải như Thiùch luận nêu ba quán trị ba bệnh, như kinh Anh Lạc Bản Nghiệp nói từ giả vào Không gọi là quán hai đế, từ Không vào Giả là quán bình đẳng, dùng hai quán này làm phương tiện để nhập Trung đạo đó là Đệ nhất nghóa đế quán. Dùng ba quán này để phá phiền não, lại Thế đế thì phá tánh bệnh, Chân đế thì phá giả bệnh, hai đế này chỉ nói phục là đoạn, nếu chẳng phải Chân, chẳng phải Hữu tức Trung đạo quán, dứt hết hai bệnh tánh và giả thì gọi là dứt phiền não. Nay cho rằng các nghóa trên chẳng đúng. Hai cách giải thích trước trái với kinh, các Sư Trung Quán phá nghóa trái kinh kia. Các nghóa trên đều cạn hẹp, nay gạn hỏi rằng: Như nói phá ba thứ phiền não rồi thì thấy Phật tánh, tức phá phiền não Kiến, Tư ở cõi uế, phá phiền não ở định độ trung gian thì thấy tánh hay chẳng thấy tánh? Nếu nói thấy tánh thì Nhị thừa cũng phá Kiến, Tư, vì sao chẳng thấy? Nếu nói chẳng thấy tánh thì trái với kinh. Khai Thiện nói phá kiến đế là một, phá tư duy là hai, người Tu-đà-hoàn cho đến La-hán đều phá Kiến, Tư, sao không thấy tánh? Nếu nói là thấy thì chẳng đúng, nếu nói chẳng thấy thì trái với kinh. Hơn nữa, Nhị đế quán, bình đẳng quán đều là phương tiện, không nhập Trung đạo, cũng không thấy tánh, lại trái với kinh. Thế đế phá tánh, Chân đế phá giả, là phục chứ chưa phải dứt, lại chẳng thấy tánh, việc này cũng trái với kinh, chỉ có chẳng phải Chân, Tục dứt phiền não mới là thấy tánh. Tuy nêu tên ba thứ phá phiền não mà hai thứ phá thì chưa thấy tánh, chỉ có một loại phá là thấy tánh. Nhưng kinh thì nói ba thứ phá đều thấy Phật tánh, nếu một loại phá được thấy, hai loại phá chẳng thấy thì đâu tương ứng? Nay nói Thất địa tu phương tiện nhập Bát địa, được đạo và quán song song, phá bỏ vô minh, thấy Phật tánh, đây là căn cơ Biệt tiếp Thông, là một loại phá phiền não được thấy Phật tánh. Nếu nhập Lý Bát-nhã thì gọi là Trụ; phá bốn trụ hoặc, sinh ra công đức, thì gọi là Thập hạnh; phá trần sa hoặc chưa thấy Phật tánh, đến Thập Hồi hướng hàng phục vô minh, nhập vào Sơ địa mới phá vô minh thấy Phật tánh, đây là thứ lớp phá hoặc của Biệt giáo, lại là một thứ phá phiền não thấy Phật tánh. Nếu Viên quán Pháp giới thì phiền não tức Bồ-đề, khi mới phát tâm liền thành Chánh giác vào Đồng luân vị, khi vào Sơ trụ thì phá vô minh thấy Phật tánh. Như thế thì nghóa của ba thứ phá hoặc rõ ràng đều thấy Phật tánh, hợp với văn kinh, mà các Sư đâu biết. Vả lại, một Không tất cả đều Không thì ba quán đều Không, pháp quán này phá năm trụ hoặc, thấy Phật tánh; lại một Giả tất cả đều Giả, thì ba Đế đều giả, pháp quán này phá năm trụ hoặc, thấy được Phật tánh, lại một Trung tất cả Trung thì ba Đế đều trung. Pháp quán này cũng phá năm trụ hoặc, thấy Phật tánh. Ba thứ này, về số lượng và nghóa đều hợp với kinh mà các Sư cũng chưa biết. Ba loại phá hoặc trước là ý Biệt giáo, ba loại phá hoặc sau là ý Viên giáo. Từ câu: “Này thiện nam! Mười hai nhân duyên v.v…” trở xuống là ý thứ hai, có một thí dụ, thí dụ bình đẳng đều có. Trước nêu dụ, sau là hợp. Dụ ở trên là y cứ theo duyên ngoài, dụ này y cứ theo duyên trong. Gồm có bốn đoạn: 1/ Nói đều có; 2/ Nêu Thể của nhân duyên; 3/ Nói về đủ và chẳng đủ; 4/ Kết luận là đều có. Đầu tiên, là nói bình đẳng đều có, lại nói cũng có trong ngoài. Đây chỉ là nói ở nơi người, chẳng phải gồm cả vật ngoài, nghóa là tâm thì bên trong (nội), sắc thì bên ngoài (ngoại), đầy đủ sắc tâm nên nói là trong ngoài. Lại trong thai là trong, ra khỏi thai là ngoài. Nay nói thêm rằng: Trong văn kinh, tự đã nói trong ngoài tham cầu và vì các việc trong ngoài, nhưng văn chẳng cho lấy mười hai nhân duyên làm cảnh quán, chỉ lấy mười hai nhân duyên làm Phật tánh. Ví như có sự phân biệt nói riêng từng chi của mười hai nhân duyên, là vì giúp cho chúng sinh biết được tướng luân hồi của ba đời, đâu thể cho rằng khi vô minh chỉ có vô minh? Cho nên biết cho đến già chết cũng có mười hai chi. Vì vậy văn sau hợp rằng: Phật tánh cũng như thế, đâu thể nói khi ở chúng sinh chỉ là chúng sinh? Huống chi mỗi chúng sinh, niệm niệm đầy đủ, nhân duyên y chánh trong mười cõi; trăm cõi, trong mỗi cõi đều có Phật tánh. Bởi thế, lời trong ngoài chứa đựng rất nhiều nghóa. Từ câu: “mười hai chi là gì? v.v…” trở xuống là nêu mười hai thể, giải thích đủ mười hai chi. Ở quá khứ có đủ nhân và quả, vì sao chỉ dùng hai nhân mà chẳng lấy quả? Vì quả ở quá khứ đã thù đáp nhân trước, cho nên chẳng lấy. Thế thì hai nhân sinh ra năm quả nay, lại dùng ba nhân nay để sinh hai quả mai sau. Về chi Thức thì có hai cách giải: 1/ Cho rằng lúc mới thọ thai bảy ngày là thức; bấy giờ có sắc nhưng chưa hiển hiện mà nghóa thức đã hiển, nên lấy tên là Thức; 2/ Cho rằng chỉ y cứ theo một niệm đầu tiên gá thai, tuy cũng đã có sắc, nhưng sắc chưa đủ, cho nên lấy tên Thức vì Thức là chủ của báo, cho đến niệm thứ hai thì thuộc chi sắc, cách giải thích này có vài điểm hay hơn trước. Nói năm phần nhập thai là giải thích chi thứ tư Danh sắc, tức là ba bào: hai tay, hai chân và đầu; bốn căn chưa đủ tức chỉ nói thân và ý, chưa có mắt, tai, mũi, lưỡi. Nói danh sắc, có hai cách giải thích: Một, là cho rằng sắc ấm là sắc, bốn ấm còn lại là Danh. Hai, là cho rằng chỉ có sắc này mà đặt tên chúng sinh nên gọi là Danh sắc. Nói đầy đủ bốn căn tức giải thích chi thứ năm, là sáu nhập. Đã đủ bốn căn thì sáu căn đều đủ nên nói là sáu nhập. Từ đây về sau có các tướng thô tế sinh ra. Tế tướng sinh tức là thức tâm trong thai chưa có thọ tưởng; tướng thô sinh, tức khi mới ra thai chưa có thọ tưởng; tướng thô sinh, tức là khi mới ra thai chưa biết cầm lửa, chạm chất độc, như đứa bé mới sinh được hai tháng. Từ câu: “Chưa biết khổ vui v.v…” trở xuống giải thích chi thứ sáu là xúc, nếu tướng vi tế sinh là tâm tưởng trong thai chưa biết khổ vui, nếu tướng thô sinh thì là đứa bé hai tuổi, biết bốc lửa, chạm chất độc, mà chưa biết gì, trong tay có vật nhưng chưa phân biệt được tốt xấu. Nói “Quen nhiễm một ái” tức nói về chi thứ bảy là Thọ, sau năm Quả. Nếu tướng nhỏ nhiệm sinh tức là tâm thọ trong thai; nói một ái nghóa là sinh ý tưởng chấp trước một duyên lạc; nếu tướng thô sinh là đứa trẻ ba, bốn tuổi chỉ biết thích ăn, chưa biết năm dục. Nói: “quen gồm năm dục”, tức chi thứ tám là ái, nhân đầu tiên trong ba nhân; nếu tướng nhỏ nhiệm sinh khởi tức là hành tâm đầu tiên trong thai; hành tâm có ba: Đầu tiên gọi là ái, giữa gọi là Thủ, sau cùng gọi là Hữu; nếu tướng thô khởi, là đứa trẻ tám, chín tuổi biết một ít Dục ái. Nói: “Trong ngoài tham cầu” tức là chi thứ chín thuộc về Thủ tức đứa trẻ hơi lớn, trên mười tuổi, dần dần chuyển tăng trong hành vi tham cầu. Nói: “Vì các việc trong ngoài v.v…” tức nói chi thứ mười, tức trên mười tuổi, thân cao lớn cho đến một trăm tuổi. Nói: “Thức hiện tại v.v…” tức chi mười một, là quả đầu tiên của hai quả vị lai; lại đồng với thời gian của chi thức hiện tại, tức là một niệm đầu tiên gá thai. Nói: “Danh sắc ở hiện tại v.v…” là chi mười hai, lại đồng với thời gian của Danh sắc v.v… hiện tại, tức là chi già chết ở vị lai. Thức, danh sắc, sáu nhập đều là hai quả ở vị lai, hai quả vị lai lại là thức, Danh sắc, sáu nhập ở hiện tại, chỉ chuyển tên mà gọi như thế. Thứ ba là nói về đủ và chẳng đủ. Y cứ vào cõi Sắc nói không có ba thọ, có hai cách giải thích: 1/ Cho rằng trong ba thọ chẳng có thọ khổï, nên nói là không, cũng không có ý tưởng về thọ khổ nên không có ba xúc, cũng không có hành thọ khổ nên nói là không có ba ái. Như cõi Sắc và cõi Vô sắc đều không có mười hai nhân duyên, vì sao kinh nói: “Cũng được gọi là đủ mười hai nhân duyên?” Như mới Ca-la-la mà đã chết và các chúng sinh ở cõi Sắc và Vô Sắc, tuy không đủ mười hai nhân duyên nhưng bánh xe khổ chưa dừng, còn qua lại ba cõi, nên cuối cùng sẽ đủ mười hai chi. 2/ Cho rằng theo Đệ Tứ thiền cho đến cõi Vô sắc không còn khổ vui, cũng không còn xả trung dung, cho nên nói không có ba thọ. Cõi Vô sắc đã vô sắc thì chẳng đủ mười hai nhân duyên. Từ câu: “Vì nhất định v.v….” trở xuống là ý thứ tư, tổng kết, đều đủ mười hai nhân duyên. Đã chưa dứt vòng khổ, trước sau hướng về nhau mãi nên nói đều đủ. dụ. Từ câu: “Phật tánh cũng như thế v.v…” trở xuống là đoạn hai, hợp Sáu đường, bốn loài sinh đều có mười hai, dụ cho tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Từ câu: “Ở núi Tuyết v.v..” trở xuống là đoạn ba, gồm ba dụ nói về việc đợi duyên mới thấy. Có ba ý: Thứ nhất là dụ và hợp. Phần hợp dụ có hai: Trước là hợp dụ, sau là nói về lý. Nói về lý lại có ba: Đầu tiên nói về chín môn. Mỗi môn đều có ba câu, hợp thành hai mươi bảy câu. Thứ hai là giải thích. Phần giải thích có thêm vào ba việc, tổng cộng ba mươi sáu câu. Hai câu sau là đoạn ba, tổng kết. Thứ hai là nêu dụ khối sắc đen. Thứ ba, là nêu dụ hạt giống. Hai dụ trước đều là trước dụ sau hợp, dụ sau này không có lời hợp, như văn kinh đã nói. Từ câu: “Đại Niết-bàn v.v…” trở xuống, là đoạn hai, kết luận khen ngợi, như văn kinh có ghi. Từ câu: “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ năm. Trước là nêu lại hai câu hỏi trên, sau là nêu hai câu đáp để trả lời hai câu hỏi trước. Lời đáp có hai: Trước nêu mười chương, sau là giải thích. Tám môn đầu là tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân, thuộc về tự hành, hai môn sau thuộc về hóa tha. Bát Đại-nhân-giác là danh giáo của Tiểu Thừa, vì sao Bồ-tát lại tu hành? Một, cho rằng pháp môn bất định ở Đại thì thuộc về Đại; hai, cho rằng Bát Đại Nhân-giác là tự hành tức thuộc về Tiểu thừa, nhưng cũng có hóa tha, cho nên được gọi là Đại. Nay cho rằng dùng tâm Đại Niết-bàn tu tập, cho nên khác với Tiểu-thừa. Từ câu: “Sư tử hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích mười pháp, gồm có năm phen, phen thứ nhất có hỏi và đáp. Lời đáp thì giải thích chung ít muốn và biết đủ làm một câu, vì ý nghóa liên quan nhau. Còn các môn khác thì giải thích riêng. Thứ nhất giải thích ít muốn biết đủ gồm mấy phen giải thích. Thứ nhất là y cứ theo thiện ác. Từ câu: “Có khi v.v…” trở xuống là y cứ theo Đại Tiểu để cùng giải thích. Văn trên có bốn câu: Câu thứ nhất nói ít muốn là Tu-đà-hoàn. Trước nói ít muốn biết đủ là Thiện, nay giải thích chẳng ít muốn là thiện, kinh Pháp Hoa nói: “Được chút ít mà cho là đủ”, tức là chấp giữ Tiểu pháp mà cho là đủ. Nay giải thích ít muốn là Tu-đà-hoàn, biết đủ là hàng Trung thừa, đều là chấp giữ, chưa phải là cùng tột ít muốn biết đủ, cho nên biết bốn quả là cao nhất. Đối với Bồ-tát thì chẳng ít muốn, chẳng biết đủ; vì Bồ-tát, trên thì cầu quả Phật vô cùng nên chẳng có ít muốn, dưới hóa độ chúng sinh cũng vô cùng, nên cũng chẳng biết đủ. Thứ tám là giải thích Giải thoát tức Niết-bàn vô thượng, có ba cách giải thích: 1/ Linh Vị cho dịch đúng của từ Niết-bàn là Giải thoát; nhưng ở đây nói Niết-bàn khác với Giải thoát; 2/ Khai Thiện cho rằng Niết-bàn dịch là diệt độ, Giải thoát tức vô lụy; 3/ Các Sư Trung Quán cho rằng Niết-bàn và Giải thoát đồng là Đoạn đức, nhờ dứt phiền não nên được Giải thoát, vì Giải thoát nên được Đại Niết-bàn, cả hai chẳng khác. Nói bốn con sông dữ, tức là ba lậu ở trước; Nương sông kiến bạo: vì nói chung kiến hoặc của ba cõi, nên gọi là sông kiến bạo. Từ câu: “Người xuất gia v.v…” trở xuống là phen thứ hai y cứ theo người xuất gia mà giải thích mười pháp, nhưng chỉ có tám đoạn. Đầu tiên ít muốn và biết đủ hợp thành một, sau chỉ giải thích Giải thoát mà chẳng nói về Niết-bàn, vì đã lược ghi. Bốn tinh tấn tức là bốn Chánh cần. Từ câu: “Bồ-tát v.v…” trở xuống là phen thứ ba, y cứ Bồ-tát để giải thích mười pháp nhưng chỉ có chín pháp, vì Bồ-tát dùng tâm Niết- bàn để tu tập nên không nói về Niết-bàn. Nói thuận theo hạnh trời, tức chánh định; có người cho rằng vì hạnh Trời lấy định làm thể; nay xin tạm nêu một vài câu hỏi: Nếu Chánh định thuận theo hạnh Trời thì hạnh Trời lấy định làm thể; vậy Ứng thân thuận theo chúng sinh, thì lẽ ra chúng sinh lấy Ứng thân làm Thể? Nay nói rằng hạnh Trời là lý, lấy lý làm gốc, nên nói là chánh định. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là phen thứ tư giải thích mười pháp. Tám Giải thoát là chánh định, các sư Số Luận cho rằng: Tám Giải thoát lấy định làm Thể. Các sư Thành Thật cho rằng tám Giải thoát lấy tuệ làm thể. Nay cho rằng tất cả đều chẳng đúng. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là phen thứ năm, chỉ giải thích chín pháp. Năm niềm vui, Hà Tây cho là niềm vui về nhân, niềm vui về Thọ, niềm vui về đoạn, niềm vui xa lìa và niềm vui Bồ-đề. Vui về nhân, tức là nhờ các duyên bên trong, bên ngoài mà được niềm vui. Về thọ, tức là do duyên bên trong, bên ngoài mà thân thêm lớn, tâm được an ổn. Tu tập đạo lý, dứt trừ các thọ, làm cho đạo được thêm lớn, gọi là niềm vui dứt các thọ, xa lìa hẳn phiền não, thân tâm không còn họa hoạn, gọi là niềm vui xa lìa. Vì thường lạc nên gọi là Bồ-đề lạc. Năm niềm vui này từ cạn đến sâu có ghi trong kinh Bồ-tát Địa. Từ câu: “Này người Thiện nam! v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ sáu. Trước nêu câu hỏi, sau là trả lời: Lời đáp có hai: là đáp và khuyên, đáp có hai đoạn: Trước nói về thấy rõ và chẳng rõ, sau là nói về nhãn kiến và văn kiến. Nói về thấy rõ và chẳng thấy rõ, đã nêu lên năm phen, cuối cùng giải thích Nhất thiết giác, nhất tâm ba trì chiếu soi một đế, ba Đế, gọi là Nhất thiết giác. Bồ-tát Thập trụ cũng có giác này, nhưng so với Phật thì còn mờ tối, nên chẳng thấy được rõ ràng. Hàng Thập trụ trước Thập địa thì hoàn toàn chẳng thấy tánh, nên chẳng nói rõ hay chẳng rõ. Phần nói về nhãn kiến và văn kiến có nêu lên hai phen: Đầu tiên nói Thập trụ là văn kiến, Phật địa là nhãn kiến, kế đó lại nói Cửu địa trở xuống là văn kiến, Thập trụ là nhãn kiến. Ở đây nêu lập bốn câu: Trụ thứ mười cũng có nhãn kiến, Cửu địa về trước chỉ có văn kiến, Phật địa chỉ có nhãn kiến. Trong văn kinh có nêu ba câu này, nếu chúng sinh nghe mà chẳng tin thì chẳng gọi là văn kiến, v.v… Nếu Thập trụ khác Thập địa, thì chẳng những Sơ trụ không thấy mà Thập trụ cũng chẳng thấy, đây là giai vị Biệt giáo. Nếu Thập trụ đồng với Thập địa, thì Thập trụ thấy, Sơ trụ cũng thấy. Nay văn kinh nói là Trụ lại nói là Địa, nên biết ở đây Trụ và Địa chẳng khác nhau. Đây là giai vị của Viên giáo, mà phân biệt Cửu địa là văn kiến, vì giai vị này thấy Phật tánh chưa rõ ràng, nên hạ xuống định là văn, Trụ thứ mười cao quý hơn nên thêm vào nói là Nhãn kiến. Vì đây là vị Viên giáo mới giải thích như thế, các vị khác thì chẳng được.  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 25 <詞>PHẨM 23: SƯ TỬ HỐNG (PHẦN 2) Phần thứ hai ở đầu phẩm này là nói về khuyên tu. Gồm có hai đoạn là khuyên tu và nói về nghóa. Ở trên đã nói văn kiến của Bồ-tát Thập trụ, cho đến nhãn kiến của Phật. Nay nếu muốn văn kiến, nhãn kiến thì nên tu tập mười hai thể loại kinh, do đó có phần khuyên tu. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về nghóa gồm sáu phen hỏi đáp: Phen thứ nhất là nói về thấy nghóa, bốn phen giữa là nói về hạnh năng thấy, một phen sau là kết luận thành tựu. Thứ nhất là trước hỏi, sau đáp. Thứ nhất là thưa hỏi. Trên đã nói: Như Lai thật mầu nhiệm hơn phàm phu, làm sao thấy nghe được? Cho nên nêu câu hỏi. Kế đến từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là lời đáp, gồm có hai: Một, là nói thật chẳng thể biết. Từ câu: “Nếu muốn quán tưởng v.v…” trở xuống là nói cũng có thể thấy biết. Ở trên là y cứ theo rốt ráo chứng nói là nhãn kiến, phần chứng là văn kiến, còn ở đây là y cứ theo sự tu tập của phàm phu, cho rằng văn kiến đắc thọ nên lực mạnh, nhãn kiến sắc thân nên sức yếu. Phẩm Đức Vương nói thấy Phật đản sinh xuất gia, là chẳng đạt được Diệu bản, đó đều thuộc về chỗ thấy tà vạy; nay thấy Như Lai sơ sinh đi bảy bước biết đó là phương tiện, thì thấy được Phật tánh. Mỗi pháp đều có chỗ y cứ, chẳng nên chấp nghiêng về một bên. Văn có ba là: Nêu chương, giải thích và kết luận. Thứ nhất, như văn kinh có ghi. Y cứ theo văn giải thích thì gồm sáu phen: Đầu tiên nói về ba nghiệp thân, miệng, kế hai thù thắng là hình và thanh, ba là thân thông, tâm thông, bốn là thọ thân nói pháp, năm là thân miệng nhẫn, sáu là hình thanh thuyết. Năm phen trước rất dễ thấy. Trong đoạn văn thứ sáu ở trên, cuối phần văn kiến có nói: “Vì Phạm vương mà nói Trung đạo”, ở đây nếu y cứ theo Hiển giáo thì Phật nói Tứ đế, năm người đắc quả; nếu y cứ theo lời Phật dạy thì nói Trung đạo, có vô lượng Bồ-tát được Vô sinh nhẫn cho đến Bổ xứ. Vả lại, người độn căn nghe nói bốn Đế sinh diệt, hàng Trung căn nghe bốn đế vô sinh, cho nên chẳng nghe nói Trung đạo, người lợi căn nghe nói Tứ đế vô lượng, vô tác, tức là nói Trung đạo. Nói về Trung đạo có năm phen: hoặc dùng song xả (xả bỏ cả 2) để nói về Trung đạo, hoặc dùng tương thành (cả hai đều thành tựu) để nói về Trung đạo, hoặc dùng song chiếu để nói về Trung đạo. Nay nói theo rằng: Cả hai đều xả tức hai giáo, tương thành tức Biệt giáo, song chiếu tức Viên giáo; theo văn rất dễ hiểu. Từ câu: “Tâm Như Lai…” trở xuống là đoạn ba, kết luận thành. Như văn kinh có ghi. Từ câu: “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần hai, gồm có bốn phen hỏi đáp nói về hạnh năng kiến. Phen thứ nhất, trước là hỏi, sau là đáp. Lời hỏi có hai: Trước y cứ theo Tăng bảo để hỏi, sau y cứ lời Phật nói để hỏi. Thứ nhất như văn kinh có ghi, gồm có chín, y cứ theo người mà hỏi, tâm là bên trong thuộc về Bản, hạnh là bên ngoài thuộc về Tích. Nói là hai loại đầu, là vì hai loại đầu dễ lẫn lộn với hai loại sau cho nên chẳng biết. Từ câu: “Như lời Phật dạy v.v…” trở xuống, là đoạn hai, nêu lời Phật để gạn hỏi. Gặp ngay Tăng bảo mà còn khó biết được, huống chi đối với Như Lai, chỉ thấy sắc thân nghe nói pháp, làm sao nương vào hai việc này mà biết là Như Lai? Phật đáp có hai: Trước là trả lời về Tăng, sau trả lời về Phật. Thứ nhất lại có ba: 1/ Kết câu hỏi. Từ câu: “Vì khó biết v.v…” trở xuống là nói vì bốn duyên cho nên mới biết. Từ câu: “Đầy đủ bốn việc v.v…” trở xuống, là thứ ba, kết luận thành tựu, theo văn rất dễ hiểu. Từ câu: “Giới có hai loại v.v…” trở xuống là đoạn hai, đáp câu hỏi về Phật, có sáu phen: Một, là nói về trì giới rốt ráo, chẳng rốt ráo. Từ câu: “Lại có hai loại v.v…” trở xuống là phen thứ hai vì lợi và chẳng vì lợi. Bốn phen sau: Y theo văn rất dễ hiểu. Từ câu: “Bồ-tát v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Văn trước nói: Nếu trì giới Bồ-tát thì thấy Phật tánh, đó là cần mà cầu hay chẳng cần mà cầu? Nếu do cần mà cầu thì đó là pháp giao dịch mua bán, nếu chẳng cần mà cầu, thì như có hạnh mà không có nguyện, thật chưa biết thế nào? Cho nên có câu hỏi này. Phật đáp có hai ý: Thứ nhất phát khởi mười bốn câu. Pháp tánh tự như thế, gần gũi tiếp xúc nhau, tự tại pháp nhó, chẳng phải cần cầu, nếu tâm chẳng hối hận, thì giữ giới không cạn. Từ câu: “Tỳ-kheo giữ giới v.v…” trở xuống là nói về tâm tự tại thành tựu, thấy Phật tánh, trụ Đại Niết-bàn, v.v… Phen hỏi đáp thứ ba, phần hỏi có ba: Một, là lãnh chỉ; Hai, là gạn hỏi; Ba, là kết luận, thứ nhất như văn kinh có ghi. Trong câu hỏi, thì hỏi giới là gốc của các hạnh, có quả mà chẳng có nhân lẽ ra là chân thường; Niết-bàn thì ở phần ngọn của các hạnh, có nhân mà không có quả lẽ ra là vô thường? Phần sau chỉ kết luận một bềâ, rất dễ thấy. Phật trả lời. Trước là khen ngợi, sau trả lời. Khen ngợi có ba là khen ngợi nhân duyên sâu xa, khen ngợi sức trì giới và khuyên nghe. Thứ nhất như văn kinh có ghi. Thời gian khi Phật Thiện Đắc trụ thế thì dài, còn ngày giờ vào thời Phật Thích-ca thì ngắn, đó là vì thích hợp với cơ duyên. Ví như sáu mươi tiểu kiếp vào thời Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, thì ở phương đông chỉ trong khoảng một bữa ăn. Phật đáp có hai: Thứ nhất trả lời về giữ giới không có nhân; có pháp, dụ và hợp. Trong pháp thuyết có hai: 1/ Nêu có nhân; 2/ Ngăn chặn nêu vô tận. Thứ nhất, là nói có nhân. Lấy việc nghe pháp và thiện hữu v.v… làm nhân cho giới. Từ câu: “Tín tâm do nơi v.v…” trở xuống là ý thứ hai, ngăn chặn. Sợ hỏi không cùng nên nêu lên hai pháp làm nhân quả cho nhau. Kế là từ câu: “Như Ni-kiền v.v…” trở xuống là nêu ba dụ để ngăn chặn. Một, là vì ngăn chặn vô cùng mà lập dụ. Các Sư phần nhiều cho rằng hạnh của Ni-kiền Tử là không để bình chạm đất, nên dùng ba cây gỗ bắt chéo làm cự và đặt bình lên, bình nhờ cự mà đứng vững, cự do bình mà thành. Lương Vũ Đế cho rằng: Ni-kiền Tử ăn phân bò, thân thể lõa lồ dơ bẩn, có tịnh hạnh gì đáng nói. Nay cho rằng cự giống như dáng chim khát uống nước, cũng gọi là Duẫn cự (thanh gỗ đặt nằm ngang gọi là cự, cột dọc là Duẫn) một bộ phận được lắp đặt trên miệng giếng để lấy nước. Cả hai làm trên dưới cho nhau; tức cả hai làm nhân quả cho nhau; nhưng nói về Ni-kiền là vì ngoại đạo ấy có lập ra loại cự này. Kế là nêu dụ mười hai nhân duyên. Nếu định theo ba đời để dụ thì không thuận tiện, nếu lấy theo ng- hóa luân hồi chẳng cùng tận thì nghóa làm nhân quả cho nhau sẽ thành. Thứ ba, nêu tám tướng của Tiểu thừa để làm dụ. Đại sinh gọi là sinh, Tiểu sinh gọi là sinh sinh, các Sư luận Thành Thật phá nghóa Đại sinh, Tiểu sinh của Tỳ-đàm, nên giải thích văn này rằng: Thọ mạng của một đời là Đại sinh, niệm niệm sinh diệt là Tiểu sinh. Do một đời mà có niệm, do có niệm mà có một đời. Văn giải thích chẳng rõ mà lại chẳng chấp nhận nghóa của Tỳ-đàm. Điều này chẳng nên như thế, khi phá lập đã thích hợp thì mượn dụ, có gì sai trái? Nay nói thêm rằng: Người xưa dùng tuổi thọ một đời và niệm niệm sinh nhau, sao lại chẳng được? Nhưng chẳng bằng một sát-na có đủ tám tướng, chỉ trong một sát-na là sinh, là sinh sinh. Cho nên trong một sát-na, tướng Đại là nhân và tướng Tiểu là nhân nhân, tướng Tiểu là quả, tướng Đại là quả quả. Cho nên cả hai làm nhân quả cho nhau, như đối với một tín tâm là tâm nghe pháp, tâm nghe pháp tức là tín tâm. Tuy đồng một niệm mà là nhân cho nhau, đã là nhân cho nhau thì thành quả cho nhau. Từ câu: “Tín tâm v.v…” trở xuống là hợp dụ. Trả lời câu hỏi ở trước, nói giới có nhân. Từ câu: “Quả quả v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi sau, gồm có ba ý: 1/ Nêu hai chương. Một nói là quả, hai nói là chẳng phải nhân. Kế là từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống giải thích là quả. Là quả xuất thế nên nói quả vô thượng, là tập quả nên nói là quả Sa-môn, Bà-la-môn; là quả Phật nên nói là đoạn sinh tử, là quả dứt bặt đối đãi, nên nói là phá phiền não; phiền não là lỗi của lỗi, vì Thể là nhân của Tử, đó là một lỗi, lại dẫn đến quả khổ, là hai lỗi, cho nên nói là lỗi của lỗi. Hơn nữa vô minh làm mê lý mà lại còn làm chướng ngại trí tuệ nên nói là lỗi của lỗi. Từ câu: “Niết-bàn không có nhân v.v…” trở xuống là ý thứ hai, giải thích chương chẳng phải nhân. Không sinh diệt là không có nhân thế gian, không làm ra là không có nhân của quả báo, chẳng phải hữu vi là không có nhân của sinh, ba câu thường hằng chẳng thay đổi là nói không có nhân đối đãi. Thứ ba, là từ câu: “Nếu Niết-bàn v.v…” trở xuống là kết luận nghóa không có nhân. Phen hỏi đáp thứ tư, hỏi có ba đoạn: 1/ Lãnh chỉ và bác bỏ ngược lại; 2/ Nêu sáu câu hỏi về vô vi; 3/ Kết. Nói rốt ráo “không”, đây chỉ là lời nói, chứ chẳng phải là ý chánh, chánh là lấy câu: “Có lúc không” để hỏi. Nói có nhân là có tập nhân, liễu nhân, nói không nhân là không có sinh nhân, báo nhân. Nêu: “Có lúc không” và lấy đó để hỏi, như ao hồ trời mưa hoặc nắng hạn, như mặt trời, mặt trăng bị mây che hoặc trong sáng mà nói có nói không. Lại nói “vì ít nên nói không”, tức chẳng phải hoàn toàn không. Nói “chẳng thọ là không” chẳng phải không có pháp kia. Nói “chẳng thọ pháp ác” cũng giống như thế; nói “chẳng đúng” cũng giống như thế. Ba câu sau đều có ý nghóa: là làm không lẫn nhau. Thứ ba, kết luận, như văn kinh có ghi. Đức Phật đáp có hai ý: Trước nói về không nhân, sau nói về có nhân. Thứ nhất nói về câu không có nhân, có ba: một, là bác bỏ năm mà theo một; hai, là bác bỏ sáu dụ; ba, là kết luận thành không nhân. Thứ nhất: Ông dùng rốt ráo “không” để làm lý do vặn hỏi, chẳng hoàn toàn là đúng, chỉ đúng được ít phần. Vì thế y cứ theo đó để so sánh với năm dụ, thì năm dụ đâu thể hợp được? Kế là bác bỏ lại sáu dụ. Sáu việc này là pháp thế gian, chẳng thể đối đãi được với pháp xuất thế; nhưng lại bác bỏ rốt ráo “không”, vì dùng đó để thuận theo dứt bỏ vô ngã, vô ngã sở, trái với Niết-bàn, Niết-bàn có ngã, cho nên lặp lại. Từ câu: “Tất cả các pháp v.v…” trở xuống là kết luận. Từ câu: “Là nhân v.v…” trở xuống là trả lời câu Niết-bàn là nhân, chẳng phải quả; văn có hai là nêu chương và giải thích. Thứ nhất là: Nói Niết-bàn là nhân, lấy Phật tánh làm nhân, tức là liễu nhân. Lại phân biệt nêu ra chẳng phải nhân tức chẳng phải sinh nhân. Nói phi quả tức chẳng phải tiểu quả Sa-môn. Trước nói quả Sa-môn, tức là chỉ cho quả Phật là quả Sa-môn, Bà-la-môn. Từ câu: “Nhân có hai thứ v.v…” trở xuống là giải thích. Văn có ba: Một, là nói có hai nhân là sinh nhân liễu nhân. Hai là nêu ba dụ. Ba, là ba phen nêu pháp môn để hợp, trong hợp đều dùng thân làm sinh nhân, sơ làm liễu nhân. Ở đây tuy nói về pháp chẳng thể nghó bàn, nhưng cũng phải nêu sơ lược để phân biệt. Phen thứ nhất là sự lý đối đãi. Năm độ là sự làm sinh nhân, Phật tánh là lý làm liễu nhân. Kế là định tán đối đãi. Sau là ngang dọc đối đãi. Nói Bồ-đề, tức muốn nêu nhân giữ quả, nêu quả thành nhân. Hỏi: Niết-bàn không có nhân, mà theo nghóa nói có sinh nhân, liễu nhân, vậy lẽ ra cũng nên y theo nghóa nói có sinh quả, liễu quả? Đáp: Chỗ thành của liễu nhân tức là liễu quả, chỗ sinh ra của sinh nhân tức là sinh quả. Vì sao chẳng được lập hai quả chung riêng? Vì sinh quả là vô thường, liễu quả là thường, người thế gian cho rằng hai pháp này đối đãi. Đây là pháp môn không nghó bàn thì nơi nào mà chẳng được, có khả năng dùng định Thủ-lăng-nghiêm để giải thích. Thí như nhà ảo thuật đứng trước mọi người giả chết để được tài vật, sau đó thì sống lại. Nay kinh này nói hai chim cùng bay chính là nghóa ấy, như đoạn văn sau có nói: “Thân Phật có hai là thường và vô thường, v.v…” Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là trả lời, có một phen hỏi đáp, quy kết thành bản tông. Câu hỏi này sinh khởi từ câu nhãn kiến văn kiến, Như Lai Phật tánh nói ở trước. Thân Như Lai có hai loại là sắc và phi sắc. Sắc là thân Giải thoát của Như Lai; phi sắc là thân Như Lai dứt trừ hẳn các sắc tướng. Phật tánh cũng có hai là sắc và phi sắc, sắc là Vô thượng Bồ-đề, phi sắc là phàm phu cho đến Bồ-tát Thập trụ. Bồ-tát Thập trụ thấy thân chưa được rõ ràng nên gọi là phi sắc. Phật tánh lại có hai là sắc và phi sắc, sắc là chư Phật, Bồ-tát, phi sắc là tất cả chúng sinh; sắc là nhãn kiến, phi sắc là văn kiến. Phật đáp có hai đều là đáp lại, đều là khai mở hai ý; nên có thấy và chẳng thể thấy, như văn kinh có ghi. Từ câu: “Phật tánh v.v…” trở xuống là đoạn lớn thứ hai của phẩm này. Ở trước nói Phật tánh, ở đây nói về Trung đạo. Văn có ba phần: một là lược nêu Trung đạo; hai là phá chấp hai bên; ba là kết luận khen ngợi Phật tánh. Thứ nhất có ba câu. Câu thứ nhất nói: “Chẳng ở trong, chẳng ở ngoài”, các Sư xưa giải thích rằng: Không nhất định ở trong thân chúng sinh, nên nói chẳng ở trong; vì chẳng lìa chúng sinh, tức do thần thức này mà được thành Phật, cho nên nói chẳng ở ngoài. Các Sư Trung Quán cho rằng: Chẳng phải ở trong thân chúng sinh, nên nói là chẳng phải ở trong; cũng chẳng ở ngoài thân chúng sinh, nên nói là chẳng ở bên ngoài. Ở đây nói chẳng đúng, như thuyết của các Sư xưa có lấy bỏ, như loài trùng bộ khuất, thuyết thứ hai như chim không cánh. Vì sao? Vì chúng sinh năm ấm là pháp do nhân duyên sinh, tức là không chẳng ở tục đế, nên chẳng ở ngoài, pháp này tức giả chẳng ở chân đế nên chẳng ở trong; pháp này chẳng trung nên chẳng ở hai đế; pháp này ở khắp mọi nơi nên chẳng phải chỉ ở Trung đạo đế; pháp này chẳng thể nghó bàn, chẳng dọc chẳng ngang, chẳng chung chẳng riêng, vậy đâu thể chỉ một mình mà nói được, như văn trên nói: “Nhất thiết giác là Phật tánh.”, các Sư chỉ nói: Chẳng phải Nhất thiết giác thì chẳng phải Phật tánh, chẳng gọi là Trung đạo. Ba điểm đầy đủ là Nhất thiết giác, là Phật tánh, mới là Trung đạo. Chỉ dùng tức không, chẳng ở bên ngoài, chẳng ở tục đế, chỉ nương vào ý này mà tùy ý phá thuyết của các Sư. Nêu câu thứ hai, nói như thế là để thành tựu ý của câu trên. Xưa cho rằng chẳng ở bên ngoài nên chẳng mất, chẳng ở bên trong nên chẳng hoại. Nếu chắc chắn ở bên ngoài thì đông tây thất lạc, nếu chắc chắn ở bên trong thì lẽ ra đồng với thân chết và hư hoại, cho nên nói chẳng mất chẳng hoại. Các sư Trung Quán cho rằng: Vì xưa không thành cho nên chẳng hoại, vì xưa không được, cho nên chẳng mất. Nay cho rằng hai nhà đều giải thích câu thứ nhất là chưa thành, giải thích câu thứ hai là không nương gá. Nhưng câu này là giải thích để thành tựu ý nghóa chẳng ở trong, chẳng ở ngoài đã nói trên, vì tức trung cho nên nói chẳng hoại, vì song chiếu cho nên nói chẳng mất. Câu thứ ba này các sư Trung Quán cho rằng: Tuy chẳng phải trong chẳng phải ngoài, chẳng phải có không, nhưng giả danh là có. Nay giải thích chẳng mất chẳng hoại nói trên tức là nghóa “cùng khắp tất cả mọi nơi”, cho nên nói “đều có”. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phần thứ hai, phá kiến chấp hai bên. Văn kinh có hai đoạn: trước là phá kiến chấp trong nhân có quả để thành tựu ý nghóa “chẳng ở trong” nói trên; kế là phá kiến chấp trong nhân không có quả để thành tựu ý nghóa “chẳng ở trong” nói trên; kế là phá kiến chấp trong nhân không có quả để thành tựu ý nghóa “chẳng ở ngoài” nói trên. Hai kiến chấp này nếu dứt hết thì nghóa Phật tánh Trung đạo chẳng mất chẳng hoại đều sẽ hiểu được. Văn phá chấp trong nhân có quả có bốn ý: Một, là y cứ lời Phật dạy; hai, là y cứ theo thế gian; ba, là y cứ theo nhân duyên; bốn, là y cứ theo chánh nhân. Thứ nhất là y cứ theo lời Phật dạy: Gần thì y cứ theo đoạn văn trước, cho nên nói “tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.” Xa thì y cứ theo các dụ “kho báu trong nhà cô gái nghèo”, và “hạt châu trên trán người lực só” của phẩm trước, đó đều là nói bên trong có chứ đâu phải nói không có ở bên trong . Y cứ theo thế gian: người thế gian vì muốn có chất lạc nên mới lấy sữa, muốn có dầu nên mới dùng mè. Nếu không có dầu và lạc thì mọi người đâu cần đến sữa và mè. Y cứ theo nhân duyên: nếu bên trong không có chánh nhân thì đâu cần duyên ở bên ngoài, như hạt lúa, nếu không có mầm thì không cần đất và nước. Y cứ theo chánh nhân: do duyên bên ngoài mà chánh nhân bên trong sinh khởi. Trên đây đều là y cứ theo nghóa trong nhân có quả để nói lên trong tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, vậy tánh lẽ ra phải ở bên trong. Văn thứ nhất, y cứ theo lời dạy của Phật gồm có sáu phen hỏi đáp: Đầu tiên là dẫn văn ở đầu phẩm này và văn phẩm Như Lai tánh để hỏi. Lời Phật đáp, nói sữa tức là không, cho nên chẳng nhất định nói là có, chỉ nói lạc từ sữa sinh ra, sữa tức là giả, từ nhân duyên sinh, cho nên nói có. Phen hỏi đáp thứ hai. Hỏi tất cả pháp đều có thời tiết, tức là trong sữa có chất lạc, đợi thời mới sinh, như hạt lúa vốn có mầm đợi mùa Xuân đến mới nảy mầm. Phật đáp có ba ý: Thứ nhất là lập “tức không” để đoạt phá, cho nên nói khi sữa thì không có lạc. Nếu có vì sao chẳng có hai tên gọi? Thứ ba là từ câu: “Nhân có hai loại” v.v… trở xuống là nêu lại ý trên. Phen hỏi đáp thứ ba. Nếu trong sữa không có tánh lạc, vì sao chẳng từ sừng sinh ra, ở đây là nêu không có nhân để hỏi. Phật trả lời sừng cũng sinh ra chất lạc, tức là buông. Phen hỏi đáp thứ tư. Lấy ý của Phật đáp để hỏi, nghóa là người muốn có chất lạc. Vì sao chẳng dùng sừng để tìm chất lạc. Phật đáp rằng sữa là chánh nhân cho nên mới dùng sữa; sừng chẳng phải duyên nhân, cho nên chẳng dùng. Phen thứ năm nêu chẳng phải quả để hỏi. Trước Phật lập nghóa buông để đáp, cho rằng sữa cũng sinh ra cây. Như văn kinh có ghi: Kế là Phật dùng đoạt để đáp. Nếu do một nhân mà sinh thì sẽ hỏi như thế, nhưng phải có hai nhân mới sinh thì sữa chẳng phải là chánh nhân của cây, vì nhân duyên mỗi pháp đều khác nhau, thì đâu thể sinh ra cây, xét văn kinh rất dễ hiểu. Phen hỏi đáp thứ sáu. Chính là hỏi Phật tánh của chúng sinh có mấy nhân? Trang Nghiêm y cứ theo văn này mà cho rằng giả danh là chánh nhân Phật tánh. Các sư Trung Quán không dùng nghóa này mà cho rằng duyên nhân chẳng những có sáu độ mà còn có cảnh giới và các đạo phẩm; còn chánh nhân đâu chỉ có giả danh mà còn có năm ấm và tâm thần, v.v… Nay cho rằng Trang Nghiêm đã cho ấm thành chúng sinh, đây là y cứ theo bên ngoài. Các sư Trung Quán thì cho năm ấm là chúng sinh, tức y cứ theo bên trong, há có thể như thế ư? Văn trên nói rằng: Phật tánh chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng mất chẳng hoại, nay cho rằng không chúng sinh là chánh nhân, thì chúng sinh giả danh là định ở bên trong hay định ở bên ngoài? Như trong ngoài tìm cầu chẳng được, thì lại là chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Tuy chẳng phải trong chẳng phải ngoài mà có sáu Độ làm chánh nhân sinh thân năm ấm chẳng mất mát chẳng hư hoại, tất cả chúng sinh đều có ấm, lại thành nghóa đã nói trước, chẳng nên giải thích khác. Tuy giải thích văn như thế, nhưng có thể suy xét lại. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là ý thứ hai, y cứ theo thế gian chấp hữu để hỏi. Đức Phật đáp có hai phần là chánh phá chấp và chỉ bày nghóa chánh. Văn thứ nhất lại có hai: 1/ Lập ba phen; 2/ Lại phá. Phen thứ nhất hỏi về lấy sữa chẳng lấy nước, y cứ theo nghóa sữa có lạc để hỏi. Phật đáp có hai là bác bỏ câu hỏi và gạn hỏi chung. Thứ nhất như văn kinh có ghi. Nói rằng: Muốn có lạc thì phải lấy sữa, chẳng phải lấy nước tức là nói rằng: Như người muốn thấy mặt thì phải cầm gương soi, mà nói gương, là muốn nêu ngang dọc để giải thích. Vả lại gương làm đao cũng được, như vị Tiên tên Tôn Bác bẻ cong đao để làm gương, uốn gương thẳng làm đao, v.v… Phen thứ hai, chấp trong đao có mặt để hỏi. Phật đáp nếu đao chắc chắn có mặt, vì sao lại điên đảo thấy mặt dài nếu dựng đứng đao, mặt rộng nếu đao nằm ngang. Nếu là mặt mình thì vì sao lại hẹp dài, thật chẳng hẹp dài mà thấy hẹp dài. Nếu nhờ mặt mình mà thấy hình người khác, vì sao chẳng thấy mặt lừa, ngựa. Phen thứ ba, vẫn thông với Phật, đồng thời. Ánh mắt đến đao thì thấy mặt mình, mà chẳng thấy mặt lừa, ngựa; vả lại, ánh mắt nhìn đến đao, đồng với đao dựng đứng mà mặt dài, đồng với đao nằm ngang mà mặt rộng, cho nên thấy được. Phật đáp có ba: Một là đoạt phá, ánh mắt thật chẳng đến. Hai, là buông phá, dù cho có đến thì phạm nhiều lỗi; Ba, là kết đoạn phá. Thứ nhất như văn kinh có nói, từ câu: “Nếu ánh mắt v.v…” trở xuống là buông phá, có bốn lỗi. Nếu ánh mắt đến lửa, thì lẽ ra lửa đốt cháy mắt, vì chẳng cháy nên biết chẳng đến lửa. Thứ hai, là nếu ánh mắt đến nơi xa kia, thì đâu chẳng sinh nghi? Thứ ba, nếu ánh mắt có đến, thì lẽ ra chẳng thấy vật trong bình thủy tinh, vì thủy tinh chướng ngại mắt, chẳng thấy được vật chứa trong đó. Cá, đá dưới nước sâu, nước lẽ ra làm chướng ngại mắt, làm sao mắt đến mà thấy được? Thứ tư, nếu ánh mắt chẳng đến mà thấy được, vì sao chẳng thấy được bên kia tường, nếu thấy bên kia tường, thì thấy các vật ở bên ấy. Từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận đoạt. Từ câu: “Như lời ông nói v.v…” trở xuống là lại phá. Ở trên chưa được rốt ráo, cho nên mới lại phá, văn có ba đoạn: một là, buông; hai, là đoạt; ba, là kết luận quở trách. Thứ nhất là buông, có ba ý: một, là nêu giá tiền của lạc và ngựa con; hai, là lẽ ra có tánh của con cháu; ba, là lẽ ra có tánh của cây cao năm trượng. Đó là nêu tình chấp thế gian để hỏi, thì Phật cũng dùng thế tình để phá chấp. Nếu trong sữa có lạc, thì người bán sữa lẽ ra nên tính tiền lạc, ví như có lạc thì lẽ ra đồng thời có năm vị. Nếu không có đề hồ, thì đâu thể chỉ có lạc? Người bán ngựa cái lẽ ra nên tính thêm tiền ngựa con, ngựa con lại có ngựa con, cứ như thế tính mãi không thôi. Nếu chẳng như vậy thì biết ngựa cái không có tánh của ngựa con. Người thế gian vì muốn có con nên cưới vợ, nếu vợ đã có con thì chẳng được gọi là con gái. Con gái thì không có con, đã có con thì chẳng phải là con gái. Nếu con gái có con, thì con lại có cháu, rồi có chít cháu, thật vô cùng tận, tất cả đều là anh em, vì đều một bụng mẹ sinh ra, thế gian há lại như thế ư? Nếu chẳng phải như thế, thì biết trong con gái không có tánh của trẻ con. Trong hạt có cây, lẽ ra cao đủ năm trượng, to lớn sừng sững tận trời mây, cành lá giao xen che phủ tám phương. Nếu chẳng phải thế, thì biết trong hạt không có cây. Từ câu: “Khi là sữa v.v…” trở xuống là đoạn hai, đoạt phá. Màu sắc khác nghóa là sữa màu trắng, lạc màu vàng, vị khác, tức sữa ngọt, lạc chua, công dụng khác, tức sữa trị nhiệt, lạc trị lạnh. Đã không có các tánh chất này thì làm sao nói có lạc? Từ câu: “Thí như v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận quở trách. Sáng sớm mới uống bơ mà giờ đã sợ hôi, cũng là nói sáng ngày mới chưng cất ủ ấm, mà giờ đã uống no chất lạc, thì đâu có việc ấy? “Thí như có người v.v…” trở xuống là thứ hai, chỉ cho nghóa chánh; hai, là dẫn kệ chứng minh; ba, là y cứ theo chúng sinh; bốn, là suy tôn cảnh Phật. Thứ nhất có ba dụ, đều là trước nêu dụ, sau là hợp. Trong dụ chỉ bày rằng đối với vô tánh nhờ duyên mà có, như văn kinh có ghi. Từ câu: “Tất cả các pháp v.v…” trở xuống là hợp dụ. Từ câu: “Vì nghóa này v.v…” trở xuống là ý thứ hai dẫn kệ để chứng minh. Chỉ dùng hai câu đầu để chứng minh vô tánh cũng đủ. Nếu chắc chắn có tánh, lẽ ra chẳng phải xưa không mà nay có, xưa có mà nay không. Xưa có lẽ ra là thường có, xưa không lẽ ra là thường không. Đã chẳng nhất định, vì sao lại nói trong sữa có tánh lạc. Hai câu sau do nương vào nhau mà có. Đây là lần thứ tư bài kệ này được nêu ra để làm chứng cho nghóa này. Từ câu: “Nếu các chúng sinh v.v…” trở xuống là y cứ theo nghóa thân chúng sinh là không để nêu nghóa chánh. Tự có pháp dụ, hợp dụ và trùng dụ, như văn kinh có ghi. Từ câu: “Phật tánh v.v…” trở xuống là đoạn bốn, suy tôn cảnh Phật. Xem văn kinh, sau khi đã buông và đoạt phá, thì nói Phật tánh là Không; kế đó nêu ba dụ để nói Phật tánh là Giả; kế lại dẫn kệ để chứng minh cho nghóa Phật tánh tức Không tức Ngã, kế lại nói thân chúng sinh là Không, dụ cho Phật tánh cùng khắp tất cả mọi nơi; dẫn cảnh giới chư Phật để nói Phật tánh tức Trung. Xem văn kinh thấy rất khế hợp, cũng đồng tương ứng với nghóa: Phật tánh gọi là Đệ nhất nghóa Không, Không gọi là trí tuệ. Nay nói thêm rằng: Đại sư Chương An y cứ theo văn kinh biết rõ Phật tánh cùng khắp tất cả mọi nơi mà chưa chịu nói rõ, bởi vì người thời ấy còn chưa tin là có, thì đâu thể nêu là cùng khắp tất cả các loài? Phật tánh đã đầy đủ ba nghóa không, giả, trung, tức ba Đế, thì tất cả pháp đâu chẳng phải là ba Đế, đâu chẳng phải là Phật tánh? Nếu chẳng như thế thì làm sao có thể nói trong thân chúng sinh có hư không. Chúng sinh đã có thì các nơi khác chẳng lẽ là không ư? Nếu không có thì chẳng được gọi là hư không. Hãy suy nghó cho kỹ! Suy nghó cho kỹ! Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là y cứ theo duyên năng phát khởi quả trong nhân. Nếu không có thì đâu cần duyên? Văn có năm phen hỏi đáp. Ý lời hỏi là: Nếu sữa không có tánh lạc, thì đâu cần duyên nhân. Hư không chẳng có tánh thì chẳng cần đợi nhân. Lời đáp như trong kinh đã ghi. Phen thứ hai chuyển duyên nhân thành liễu nhân. Trong lời hỏi có ba dụ, kế là dẫn thí dụ về sữa và hợp dụ. Phật đáp có bốn: một, nói tánh là liễu nhân; hai, là nói nếu đã có liễu thì lẽ ra tự liễu; ba, là nói lẽ ra có hai liễu; bốn, là nêu chánh nhân để quyết định. Đầu tiên là nói tánh là liễu nhân, liễu vốn là liễu thì sẽ khiến cho chất kia xuất hiện. Nếu đã có tánh, thì tánh tự là liễu, đâu cần đến việc khác làm cho liễu. Như sữa có tánh lạc, tánh tự là liễu, đâu cần phải ủ men và giữ hơi ấm mà liễu sữa để lạc sinh ra. Kế là, từ câu: “Nếu là liễu nhân v.v…” trở xuống, chính là muốn nói ủ men và hơi ấm là liễu nhân lẽ ra phải tự liễu, nếu chẳng tự liễu thì làm sao liễu nhân cho sữa? Đầu tiên là nói nếu tự liễu lẽ ra có thể tự liễu mà cho ra lạc, chẳng cần phải liễu sữa, khiến sữa cho ra lạc. Từ câu: “Nếu nói liễu nhân v.v….” trở xuống là ý thứ ba, lẽ ra có hai liễu, tức muốn nói: Ủ men và hơi ấm liễu cho ra lạc, lại liễu sữa cho ra lạc. Từ câu: “Nếu có hai, v.v…” trở xuống là ý thứ tư, nêu ra chánh nhân để quyết định. Muốn nói ủ và hơi ấm để làm hai liễu, thì sữa lẽ ra cũng có hai chánh nhân là: Chánh nhân tự tạo ra lạc và chánh nhân ủ và hơi ấm. Phen thứ ba, ý hỏi ở trước tuy có bốn phen gạn hỏi, nhưng chính là chấp ý thứ ba tự liễu và liễu tha. Nói chúng ta có tám người, tức tính người là bảy cộng với mình là thành tám. Đây là tự tính số của tha, tha cũng giống như thế, tự liễu và liễu tha. Đức Phật đáp có hai: trước phá chấp, sau nêu nghóa chánh. Phá chấp có hai ý: 1/ Phá chấp. Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là giải thích. Trí có khả năng tự tính sắc của mình và sắc của người (tha), còn sắc thì chẳng thể tự tính và tính cho người. Liễu nhân thì như sắc, đâu thể tự liễu và liễu tha; phải có một pháp khác tự liễu và liễu tha, nên nói liễu nhân chẳng phải liễu nhân. Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là ý thứ hai, chỉ bày nghóa chánh. Muốn nói chẳng phải xưa chắc chắn có, nhờ duyên mới có. Phen thứ tư lại chuyển lời hỏi, dẫn lời Phật nói, vì có sữa có lạc nên biết là có. Phật đáp có hai: Trước nêu chung ba lời đáp. Chuyển đáp tức là tùy câu hỏi mà đáp; im lặng đáp tức gác qua là đáp; nghi đáp tức bất định đáp. Sau là chính thức dùng chuyển đáp, như văn kinh có ghi. Từ câu: “Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen thứ năm, chẳng cho phép nói sẽ có, cho nên lập câu hỏi này. Trước bác bỏ ngược lại. Sau là chánh thức hỏi, có pháp, dụ và hợp. Đức Phật đáp có hai là dụ và hợp. Dụ thuyết có bốn: Một, là nói quá khứ có. Thứ hai, là nói vị lai có. Thứ ba, là nói lại quá khứ có. Thứ tư, nói lại vị lai có. Vị lai có tức là sẽ có, là đã lời đầy trả câu hỏi, mà nói thêm về quá khứ, đó là do có nhiều bộ phái khác nhau, nợ chấp trước cũng chẳng phải một. Như Tát-bà-đa bộ chấp ba đời đều có, tức đã có, sẽ có và đang có. Đàm-vô-đức chấp quá khứ, vị lai không có, chỉ hiện tại là có. Ở trên đã phá hữu rồi, mà nay sử dụng chỉ là dùng giả danh tùy tục mà thôi. Hơn nữa, đó là việc của Đấng Pháp Vương sử dụng, đâu thể dùng thế tình mà so lường. Ở trước nói trồng quít, ban đầu thì ngọt mà khi trái chín thì chua, vị chua sau này chính là ở trong vị ngọt trước kia, để chứng minh cho quá khứ là có. Lại nói quít này đầu tiên thì chua, sau thì ngọt, hoặc đó là do đất đai khác nhau, hoặc là do lúc trái chín sau, nên bây giờ trái chín có vị chua. Từ câu: “Phật tánh của chúng sinh v.v…” trở xuống là hợp dụ. Chính là nói về Đương hữu, tức là chúng sinh sẽ được. Từ câu: “Sư Tử Hống…” trở xuống là đoạn thứ tư, y cứ vào chánh nhân mà chấp có. Gồm bốn phen hỏi đáp. Phen thứ nhất có bốn là pháp, dụ, hợp và kết. Ban đầu, trong pháp nói chánh nhân Phật tánh, tức chánh tánh Trung đạo. Từ câu: “Ni-câu-đà v.v…” trở xuống là nêu dụ, gồm bốn phần: Một, là nêu dụ; hai, là phụ nêu họ Cù-đàm; ba, là hợp dụ; bốn, từ câu: “Giống như v.v…” trở xuống là dùng dụ liên hệ với họ để hỏi. Ý gạn hỏi là: Hạt Ni-câu-đà không có tánh của cây, vì sao được gọi là hạt Ni-câu-đà, lẽ ra nên gọi là hạt Khư-đà-la. Sữa không có tánh lạc thì cũng chẳng được gọi là sữa, vì lẽ ra sinh ra một chất khác. Từ câu: “Phật tánh v.v…” trở xuống là hợp dụ. Phật đáp có hai ý: Đầu tiên nêu tám việc chẳng thể thấy. Kế là từ câu: “Nếu nói vì quá nhỏ, bị che lấp v.v…” trở xuống là phá hai việc: trước bác bỏ chung, sau từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là phá. Trong văn phá có hai: Trước phá cho rằng nhỏ, sau phá cho rằng ngăn che, thứ nhất là phá chấp nhỏ. Hễ hình tướng cây rất thô, thì ở đâu mà chẳng thấy! Nếu vốn là nhỏ, thì sau đâu thể lớn? Nếu nói đã lớn thì đầu tiên lẽ ra đã lớn. Kế là phá ngăn che. Nếu hạt Ni-câu-đà che cây Ni-câu-đà, khiến chẳng thấy được, thì lẽ ra phải thường che không thấy được mới phải. Phen hỏi đáp thứ hai. Phật đáp có năm lớp: một, là nói vốn có vốn không, đều chẳng cần liễu nhân. Từ câu: “Nếu hạt Ni-câu-đà v.v…” trở xuống là lớp thứ hai, nêu chẳng phải quả để hỏi. Hỏi về vốn không, hạt Ni-câu-đà vốn không có tướng cây Ni-câu- đà thô, cũng không có tướng cây Khư-đà-la thô, vì sao chẳng sinh ra cây Khư-đà-la? Từ câu: “Nếu nhỏ v.v…” trở xuống, là hỏi “nếu thô thì lẽ ra thấy được”. Thứ tư là nêu tướng cháy để hỏi. Nếu cây vốn có tánh, sau mới sinh cây thì lẽ ra cũng vốn có tướng đốt cháy rồi sau mới cháy, thế thì tánh của hạt bị cháy, vậy cây chẳng sinh. Thứ năm, là dùng ý để phá chấp trước sinh sau diệt. Văn nói tất cả pháp sinh diệt đồng thời. Hãy y cứ theo hạt Ni-câu- đà có sinh diệt đồng thời vì sao nói trước sinh sau diệt? Đã sinh diệt đồng thời, thì được nói trước sinh sau diệt, lẽ ra cũng được nói trước diệt sau sinh. Phen hỏi đáp thứ ba. Nêu chẳng phải nhân để hỏi, đã không có tánh vì sao chẳng cho ra dầu? Kế là Phật đáp cũng có dầu, tức là ép hạt có nước, nước ấy chính là dầu. Thứ tư lại hỏi lẽ ra cũng được gọi là dầu mè. Phật đáp là vì tùy duyên mỗi pháp khác nhau, nên đặt tên cũng khác nhau, như chẳng được gọi là dầu mè mà gọi là dầu Ni-câu-đà. Phật tánh của chúng sinh cũng giống như thế, trong chúng sinh có Phật tánh, trong cây cỏ không có Phật tánh mà có tánh của cây cỏ. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, phá chấp trong nhân không có quả, đã chẳng phải nghóa của ngoại đạo, nên chỉ có một phen hỏi đáp. Hỏi có ba là lãnh chỉ, gạn hỏi và kết luận. Lãnh chỉ và bác bỏ ngược lại, tức lãnh thọ chỉ thú không có quả, mà chẳng nghi. Trong nhân đã không có quả thì trong chúng sinh cũng không có Phật tánh, nghóa này đáng tin, chúng sinh liền chấp chắc chắn không chân thật. Đã chấp chắc chắn không thì chẳng được nói tất cả có tánh, cho nên mới nói: “Chẳng đúng!”, đó há chẳng phải là chấp không ư? Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là đoạn hai, chánh thức vặn hỏi; trước là hỏi, sau là đáp. Thứ nhất có bảy phen: 1/ Y cứ theo hành ng- hiệp; 2/ Y cứ theo đoạn thiện; 3/ Y cứ theo phát tâm; 4/ Y cứ theo lui sụt và không lui sụt; 5/ Y cứ theo muôn hạnh; 6/ Y cứ theo sự lui dụt muôn hạnh. 7/ Y cứ theo Tăng bảo. Thứ nhất y cứ theo hành nghiệp để hỏi. Trời, người vô tánh, chỉ có nghiệp duyên. Như giữ năm giới được thân người, giữ mười thiện thì sẽ được làm thân trời. Trời sinh làm người, người được làm Trời. Bồ-tát cũng như thế, chỉ có nghiệp duyên mà thành Phật, chứ chẳng phải do Phật tánh. Thứ hai, là y cứ theo đoạn thiện để gạn hỏi. Nếu chúng sinh có tánh thiện thì chẳng thể bị dứt trừ mà đọa vào địa ngục; vì nhờ năng lực Phật tánh mà ngăn dứt tội đọa địa ngục. Phật tánh là thường, thường thì đâu thể cắt đứt, cắt đứt gốc thiện thì biết là vô thường, nếu vô thường thì không có Phật tánh. Thứ ba, y cứ Sơ phát tâm để hỏi. Nếu vốn có tánh thì lẽ ra vốn đã phát tâm, tâm đã mới phát thì biết vốn chẳng có tánh, vả lại Phật tánh không có phát, nếu có phát thì chẳng phải tánh. Thứ tư, y cứ theo lui sụt và không lui sụt để hỏi. Nếu vốn đã có tánh thì lẽ ra chẳng nên lui sụt chỉ nên không lui sụt, đã có lui sụt, thì biết không có Phật tánh. Thứ năm, y cứ theo muôn hạnh để vặn hỏi. Như sữa chẳng đợi duyên mà thành lạc, nhưng bơ thì chẳng phải như thế, phải đợi đủ nhân duyên như sức người, nước, bình, dây, khuấy v.v…, chúng sinh cũng như thế, người có Phật tánh lẽ ra lìa nhân duyên cũng được vô thượng Bồ-đề. Nếu vốn có tánh thì đâu cần muôn hạnh. Đã tu tập thì biết chẳng có Phật tánh. Thứ sáu, y cứ theo lui sụt muôn hạnh để hỏi. Phật tánh là thường, làm sao có lui sụt, đã thấy ba ác mà lui sụt, thì biết không có Phật tánh. Thứ bảy, là y cứ Tam bảo để hỏi. Như Phật nói Tam bảo là thường, Tăng đã là thường thì lẽ ra thường trụ, đâu thể tiến tu để sau này thành Phật? Đã có tiến tu thì là vô thường. Vì vô thường nên vô tánh, tại sao nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh? Từ câu: “Phật bảo rằng v.v…” trở xuống là đáp bảy câu hỏi trên, nhưng không theo thứ lớp. Thứ nhất là đáp câu hỏi thứ nhất về hành nghiệp, thứ hai là đáp câu hỏi thứ ba về phát tâm, thứ ba là đáp câu hỏi thứ sáu về lui sụt muôn hạnh; thứ tư là đáp câu thứ hai hỏi về dứt mất điều thiện; thứ năm là đáp câu thứ năm về hỏi về muôn hạnh; thứ sáu là đáp câu hỏi thứ bảy về Tăng Bảo; thứ bảy là đáp câu thứ tư hỏi về lui sụt, không lui sụt. Sau đây là câu thứ nhất. Chỉ tám chữ này là trả lời đầy đủ. Ý câu hỏi là nêu trời, người do nghiệp, chẳng quan hệ gì đến Phật tánh; lẽ ra cũng do nghiệp mà dẫn đến Phật, không liên quan gì đến Phật tánh? Đức Phật đáp trời, người chẳng cần Phật tánh, chỉ do nghiệp dẫn mà có qua lại lên xuống, chẳng quan hệ gì với Phật tánh. Phật tánh là thường nên thành Phật cũng thường biết có Phật tánh. Từ câu: “Ông nói v.v…” trở xuống là câu thứ hai, trả lời câu thứ ba hỏi về phát tâm. Trước nêu lại câu hỏi. Kế là chánh đáp. “Ông lại hỏi v.v…” trở xuống là câu thứ ba, đáp câu thứ sáu hỏi về lui sụt muôn hạnh. Phật nói rằng thật chẳng có lui sụt, chỉ vì chậm chứng đắc nên gọi là lui sụt, mà chẳng trả lời về muôn hạnh, vì văn sau có thể đáp nghóa này. Từ câu: “Tâm Bồ-đề v.v…” trở xuống là câu thứ tư, trả lời câu thứ hai, dứt mất điều thiện. Nói tâm Bồ-đề chẳng phải Phật tánh, như hàng Nhất-xiển-đề chẳng phát tâm Bồ-đề mà Phật tánh chẳng bị cắt đứt. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là câu thứ năm, đáp câu thứ năm hỏi về muôn hạnh. Một, là chánh đáp. Thứ hai, lại dùng ý để hỏi. Ở trước không có lời này, có người cho rằng ở trước lẽ ra có câu hỏi này, nhưng người dịch bỏ sót. Có người cho rằng trước không có câu này, câu hỏi này chỉ theo ý mà lập. Từ câu: “Ông nói Tăng Bảo v.v…” trở xuống là câu thứ sáu trả lời câu thứ bảy, có bốn lần “lại nữa”. Thứ nhất là nói hai thứ hòa hợp. Kế là nói mười hai thể loại kinh hòa hợp. Thứ ba là nói mười hai nhân duyên hòa hợp. Thứ tư là nói chư Phật hòa hợp. Tất cả đều nói về Tăng thường, đó là Nhất thể Tăng, chứ chẳng phải là sự tăng nay. Từ câu: “Ông nói chúng sinh v.v…” trở xuống là câu thứ bảy đáp câu thứ tư hỏi về lui sụt, không lui sụt. Văn có hai: Trước là nêu lại câu hỏi khuyên nghe, kế là chánh đáp. Hỏi rằng: Nếu có Phật tánh, thì đâu có hợp với Bạt trí và A-bạt-trí khác nhau? Văn trả lời có bốn đoạn: 1/ Nói hạnh lui sụt; 2/ Nói về nguyện không lui sụt; 3/ Nói cả về hai hạng người lui sụt và không lui sụt; 4/ Nói lại hai hạnh không lui sụt. Ý Đức Phật đáp là chẳng liên quan đến Phật tánh, có lui sụt hay chẳng lui sụt chỉ là do chí nguyện mạnh hay yếu khác nhau. Tuy lui sụt nhưng chẳng mất, chỉ chậm được nên gọi là lui sụt. Đầu tiên nói về hạnh lui sụt, lại gồm có bốn: Một, là nói về mười ba pháp; hai, là nói về sáu pháp; ba, là nói về năm pháp; bốn, là nói về hai pháp. Thứ nhất là nêu mười ba pháp như văn kinh có ghi. Nêu sáu pháp, có người theo sự nghiệp thế gian, tức người xuất gia học đạo mà kinh doanh theo pháp thế tục thì có hại rất lớn. Nói pháp tục, tức các pháp ngoài pháp chân tu đều gọi là pháp tục. Như truyện Tả Thị trong Xuân Thu có nói Tạng Văn Trọng có ba điều bất nhân: một là bảo vợ đan cỏ làm chiếu để bán, bị người nước khác chê bai rằng: “Đại phu của nước ông thất đức, tranh lợi với người.” (Còn hai điều kia, một là biết Liễu Hạ Tuệ là hiền tài mà không tiến cử; hai là xem tinh tú ngày giờ, nhưng Sớ chủ không ghi). Người thế tục mà còn bị chê là tham, huống chi người xuất gia bậc chân tăng mà bôn ba theo việc cày bừa, buôn bán, làm trở ngại, bỏ phế tu đạo, thì dẫu bị chê trách cũng đâu đáng nói. Lại mỗi câu đều nói về quán tuệ; sợ văn dài dòng nên chẳng chép, nếu đạt được ý thì tự tại vô ngại. Phàm xét lời giải, không nên chỉ cho làm ruộng đốn củi là việc thế tục mà việc như ngồi không, năm trần, sáu dục đều là việc thế tục. Lại chuyên tâm nhớ nghó đến Không, Vô tướng, Vô nguyện cũng gọi là việc thế tục. Lại nghó đến chúng sinh lầm than, đau khổ, khởi tâm từ bi cứu độ cũng là việc thế tục. Nếu vô niệm mà niệm vô niệm, chẳng phải niệm chẳng phải vô niệm, rõ biết trong một tâm, thì đó mới gọi là chẳng phải việc thế tục. Nay nói thêm rằng: Như Đại sư giải thích kinh, mỗi câu đều y văn giải thích, nay xem lời giải thích trong mỗi câu thì chưa phải là yếu nghóa. Nhưng các hành giả vì pháp hãy tùy văn khởi quán, thì chỗ nào cũng đều rõ ràng. Từ câu: “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về nguyện không lui sụt. Nguyện làm thầy của tâm, có hai cách giải: Một, là hai tâm trước và sau, tâm trước khởi ác, tâm sau theo đó trôi lăn, đây chẳng phải là thầy của tâm. Tâm trước khởi ác, tâm sau đoạn dứt thì mới gọi là thầy của tâm. Hai, cho rằng nhờ vào người để hàng phục tâm, chẳng theo tâm mà tạo tác, việc tạo tác nhờ vào người, thì người là thầy của tâm. Nay nói một cách rất gần gũi rằng: Văn kinh ở trên đã nói: “Thầy của chư Phật chính là Pháp”, tâm duyên với Pháp thì Pháp là thầy của tâm, sâu cạn đều được tự tại. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về hai hạng người lui sụt và không lui sụt. Đây chính là trả lời câu hỏi. Gồm có pháp, dụ và hợp. Từ câu: “Sư tử hống v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói về hạnh không lui sụt. Trước hỏi, sau đáp. Nói chung sáu Độ đều là hạnh không lui sụt. Nay lại nêu nghiệp nhân ba mươi hai tướng tức y cứ theo tâm cầu Phật là hợp lý. Văn trên nói một trăm phước thành một tướng, văn ở đây lại nói tu một nghiệp thành một tướng hoặc nhiều tướng. Đó là nói theo nhân quả tương tự, nói một nghiệp, một tướng, nhiều tướng là nói lên nhân quả không khác nhau. Đức Phật có bốn răng nanh nhưng văn chỉ nêu hai cái, tức hai cái lớn, hai cái trắng, hai cái trắng tính là một, hai cái lớn tính là một, nên nói là hai răng nanh. Có người lại cho rằng nếu nói về răng thì có bốn, nếu nói mỗi bên thì có hai cái, nay nói rằng hai bên, nên ghi là hai cái. Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận khen ngợi Phật tánh. Văn này đã đủ năm thứ Phật tánh, trong đó chúng sinh là chánh tánh, cảnh giới chư Phật là quả tánh, quả quả tánh, nghiệp quả là liễu nhân, Phật tánh, tức cảnh giới tánh. Lại có cách giải thích rằng: Chúng sinh là chánh nhân, cảnh giới chư Phật là cảnh giới tánh, nghiệp là liễu nhân tánh, quả là quả tánh, quả quả tánh, sao nói Phật tánh là tổng kết toàn chương? Lại có cách giải thích rằng: Tất cả chúng sinh là nói về phàm phu, chư Phật tức là nói về bậc thánh, nghiệp là nhân tánh nhân nhân tánh, quả là quả tánh quả quả tánh, Phật tánh là tánh nhân tánh, sao cùng là tổng kết bốn pháp, tức bốn điều này gọi là chẳng thể nghó bàn; chẳng nên chấp một tướng nhất định, một tánh là năm tánh, năm tánh là một tánh, chẳng phải một tánh năm tánh mà là một tánh năm tánh, chẳng phải dọc chẳng phải ngang, chẳng phải chung chẳng phải riêng, thế mới gọi là chẳng thể nghó bàn. Nếu đọc được ý này, như đối chiếu với hai phen phá ở trên thì biết vô tánh là hữu tánh, hữu tánh là vô tánh, chẳng phải hữu tánh chẳng phải vô tánh mà là hữu tánh vô tánh, tức chẳng phải trong chẳng phải ngoài, tuy chẳng phải trong ngoài mà chẳng bao giờ hư mất, đó gọi là tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Nếu mất ý này thì hoàn toàn chẳng phải là tông chỉ bí mật, văn lý mâu thuẩn, đâu thể giải thích Niết-bàn. Văn nói bốn pháp, là chúng sinh, cảnh giới chư Phật, nghiệp và quả. Văn lại nói chúng sinh bị phiền não che lấp nên thường, đó là nói thường khởi phiền não; lại có chỗ giải thích rằng: Trong chúng sinh có lý Phật tánh nên gọi là Thường. Nay cho rằng các cách giải thích trên quá cạn thấp! Chẳng đúng với nghóa thường. Nói chúng sinh bị phiền não che lấp tức là thường, nghóa là chúng sinh là sinh tử, sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề. Đã nói “tức là” thì há chẳng phải là Thường hay sao? Hỏi: Quả quả, liễu nhân và muôn pháp thiện, vì sao gọi là Thường? Có người giải thích rằng vì hiểu được Phật tánh, cho nên nói Thường. Ở đây cho là không đúng. Vì đều chẳng thể nghó bàn, cho nên là thường. Hiểu rõ văn thì chỉ ở tại đây, đâu cần phải nhọc tìm cách giải thích khác. Vì chẳng thể nghó bàn cho nên Thường, là nghóa viên giáo. Vô thường che lấp, phá vô thường rồi thì được an vui, đó là nghóa Biệt giáo. <篇> <卷>QUYỂN 26 <詞>PHẨM 23: SƯ TỬ HỐNG (PHẦN 3) Đầu quyển là đoạn ba nói về buộc và thoát. Chúng sinh tuy đều có Phật tánh, nhưng bị các hoặc che lấp, nên chẳng thấy, cần phải tu tập muôn hạnh, sinh giải, dứt hoặc thì lý Phật tánh mới hiện. Vì thế mới nói về buộc và thoát. Toàn văn có ba phen hỏi đáp. Phen thứ nhất, về hỏi, gồm có hai phần là lãnh chỉ và nói không có. Kế là từ câu: “Năm ấm này v.v…” trở xuống là dùng sinh diệt để hỏi. Nếu chánh tánh bất sinh bất diệt thì không buộc không mở; như duyên nhân niệm niệm chẳng dừng trụ lại cũng chẳng có buộc mở. Tánh thế của hoặc này thoạt khởi thoạt diệt, làm sao trói buộc chúng sinh? Đã không buộc thì cũng không có mở. Gồm có pháp, dụ và hợp. Lời đáp có hai: Một, là khuyên nghe và hứa đáp. Kế là chánh đáp. Lại có hai phần: Trước nói về buộc, sau nói về mở. Nói về buộc có ba ý: Một là Tử ấm, hai là Trung ấm, ba là Sinh ấm; trong văn nói Tử ấm lại có pháp, dụ và hợp. Thứ nhất là pháp thuyết, như văn kinh ghi. Mặt trời lặn về Tây, ánh sáng sắp tắt của mặt trời chiếu về Đông, chẳng bao giờ trở về Đông, mạng người sắp hết, tuy còn chút khí lực, nhưng chẳng thể sống lại. Năm ấm này diệt rồi, thì năm ấm sau lại tiếp tục sinh. Đây là dùng tử để nói sinh. Từ câu: “Nghiệp quả v.v…” trở xuống là hợp dụ. Trước là chánh hợp dụ. Thứ hai, lại dẫn dụ để chứng minh. Từ câu: “Như ấn sáp v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về Trung ấm. Có dụ và hợp. Sáp dụ cho Tử ấm, đất sét dụ cho Trung ấm, ấn hoại dấu hiện dụ cho Tử ấm diệt thì Trung ấm liền sinh. Dấu chẳng phải từ đất xuất hiện tức thân này chẳng từ Trung ấm sinh, chẳng phải không có nhân, cũng chẳng phải từ nơi khác đến, chỉ nhờ vào Tử ấm diệt mà xuất hiện. Chẳng thể tìm được nơi chốn của nó, chỉ do nhân duyên mà có. Hỏi: Có trường hợp nào chẳng thọ thân Trung ấm hay chăng? Đáp: Nói chung thì đều có thọ, như Đại Lý Tự (ngục) phán định hình án; Trung ấm cũng giống như thế, phán định thiện ác, nếu ác thì đọa, thiện thì thăng cao. Nếu nói riêng thì tùy theo thiện ác mạnh, như gây ra năm tội nghịch thì đọa thẳng vào địa ngục, thực hành mười điều lành thì sinh thẳng lên cõi trời, như mũi tên rời khỏi tay liền đến phương kia, vì thế chẳng nói về Trung ấm. Từ câu: “Ấm hiện tại diệt v.v…” trở xuống là hợp dụ: Thứ nhất là chánh hợp, kế là nói hai loại mắt, ba là nói về thức ăn. Thứ nhất lại có hai ý: Đầu tiên là chánh pháp. Nêu dụ để hợp dụ. Thứ hai là phân biệt hai thứ mắt, ba loại thức ăn. Không có Sủy thực, là đã thay đổi báo thân thì đâu có cơm để nắm thành viên. Đã có tưởng ấm thì có tư thực, có thân nên có xúc thực, có ý nên có thức thực. Trong luận Câu-xá có nói rộng về Trung ấm v.v… Người xưa có nói về chương Tứ Thực, nhưng ở đây thì không quan trọng. Nếu nói chung thì sáu đường đều có sinh ấm. Ở đây y cứ theo cõi người, nên đầu tiên nói khởi ba phiền não, kế là nói bốn điên đảo, vì thế mới bị trói buộc. Chẳng được hỏi rằng: Vì niệm niệm diệt nên không có trói buộc. Ba phiền não là ái, sân và cho rằng mình có, đây là ngã kiến, cũng gọi là Si. Từ câu: “Người này v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về Giải thoát. Đoạn trên nêu bốn pháp là gần gũi, nghe pháp, suy nghó và tu hành, như văn kinh có nói. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Trước là hỏi, có hai đoạn: 1/ Lập nghịch dụ, nêu trong hư không chẳng có gai, sau nêu ấm không trói buộc. Ở trên Bồ-tát Đức Vương nói: “Tâm vốn không tham, làm sao tham dục buộc được tâm?” Tức là nghóa này. Phật đáp có hai là pháp và dụ. Thứ nhất nói theo lý thì vì nối nhau nên chẳng dứt, vì hư hoại nên vô thường, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng buộc chẳng mở, nếu chưa đạt được lý này thì có buộc có mở. Nêu lên, nắm tay, nếu y cứ khi bàn tay hợp thì nói là nắm; khi bàn tay rời thì nói là mở. Vốn khi chẳng hợp thì nói chẳng nắm chẳng mở. Vốn khi chẳng hợp thì nói chẳng nắm chẳng mở. Ba pháp như trói buộc, v.v… là thuộc ý này. Buộc là nói theo Giả, mở là nói theo Chân, chẳng buộc chẳng mở là nói theo Trung đạo. Đó là tướng ba Đế tức nhau. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ ba, trước hỏi sau đáp. Câu hỏi này gồm thâu cả câu đáp ở trên để lập ra. Ở trên nói danh sắc trói buộc chúng sinh, chúng sinh lại trói buộc danh sắc, danh sắc chỉ là chúng sinh, làm sao tự trói buộc được, như đao chẳng tự cắt. Cho nên bây giờ lại hỏi: Nếu chúng sinh chỉ là danh sắc thì lại là danh sắc trói buộc danh sắc, vì sao nói danh sắc trói buộc chúng sinh? Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ tư, như văn kinh có ghi. Trong phần đáp có pháp, dụ và hợp. Thứ nhất, là pháp thuyết. Bậc A-la-hán, hạt giống trói buộc đã tiêu nên không bị trói buộc, nhưng quả báo vẫn còn nên có trói buộc. Nhưng nói chưa thấy Phật tánh là vì nhìn từ Đại thừa thì Tử và quả đều là buộc, còn Tiểu thừa thì chẳng phải như thế. Kế là dụ và hợp, như văn ghi. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ năm, trước hỏi sau đáp. Ý hỏi là: ở trước, Đức Phật dụ đèn là chúng sinh, dầu dụ cho phiền não, nay hỏi về lời này, có hai cách giải thích: 1/ Cho rằng đèn soi thấy các pháp; ánh sáng, dầu và vật hợp thành đèn sáng. Ánh sáng gọi là ánh sáng đèn, vật thì gọi là đèn; 2/ Cho rằng ánh sáng và dầu khác nhau, là lấy ánh sáng làm đèn, đèn thuộc về tánh lửa, dầu là tánh ướt. Ở đây muốn dùng ý sau để hỏi đèn và dầu, hai tánh khác nhau; còn chúng sinh và phiền não thì chẳng khác, vì sao lại dụ như thế? Phật đáp đầu tiên nêu tám dụ, sau hợp với dụ về đèn. Tám dụ được chia làm hai: Trước là nêu chương, kế là giải thích. Từ nhỏ hướng đến lớn là thuận dụ, từ lớn trở về nhỏ là nghịch dụ; hiện là dùng việc ở hiện tại làm hiện dụ. Các dụ thuận nghịch ở trước cũng là việc hiện tại; trừ hiện sự của dụ thuận nghịch, còn các hiện sự khác đều chẳng phải cùng một loại; đầu tiên là trước dụ sau hợp; sau đó tức trước nêu pháp, sau nêu dụ. Tiên hậu dụ (dụ trước sau) thì có thể tự hiểu. Biến dụ là dụ từ khi khởi đầu cho đến lúc cuối cùng. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn lớn thứ tư nói về Tu đạo. Đã bị trói buộc, làm sao để thoát? Cho nên mới nói về tu đạo để thoát khỏi sự trói buộc. Văn có bốn phen hỏi đáp: Thứ nhất nói đạo để tu, thứ hai chánh thức nói về tu đạo, thứ ba nói về dụng của Tu đạo, thứ tư là khuyên tu. Bốn việc này theo thứ lớp như sau: Các pháp tuy rốt ráo “không’, nhưng có đạo để tu, cho nên có chánh tu, tu thì dứt hoặc, vì thế khuyên tu. Phen thứ nhất có ba câu hỏi đáp. Đầu tiên là hỏi năm ấm và chúng sinh, nhân pháp đều “không”, vì sao lại có tu?” Phật trả lời các tâm đều niệm niệm nối nhau chẳng dứt, tuy niệm niệm diệt, nhưng phiền não mãi mãi lúc nào cũng nối nhau, cho nên có tu. Vì thế, thứ hai lại hỏi niệm niệm diệt thì đâu cần tu đạo? Phật đáp tuy có niệm niệm diệt, nhưng cũng được nói về tu đạo; như đèn sáng tuy niệm niệm diệt mà phá trừ tối tăm. Từ câu: “thầy nói v.v…” trở xuống là dùng ý nghóa để giải thích. Thầy nói không lớn thêm thì chẳng đúng. Lại nêu sáu dụ, đều nói có lớn thêm. Phen hỏi thứ ba, lại gồm thâu sáu dụ để hỏi: Tuy niệm niệm diệt mà phá được tối tăm v.v… tu đạo cũng như thế, đầu tiên tuy chưa viên mãn, nhưng lâu ngày sẽ phá được hoặc. Bồ-tát Sư Tử Hống nhân các dụ ấy mà hỏi: Như hàng Sơ quả có năm ấm thiện lẽ ra phải tương tự nối nhau sinh vào cõi nước thanh tịnh, chứ đâu thể sinh vào nhà mổ dê ở cõi nước ác? Đức Phật đáp rằng tuy sinh vào cõi nước xấu ác, nhưng chẳng mất tên, tên tức vô lậu, vô lậu thì thường hằng còn mãi, còn ấm thì chẳng như thế, thiện ấm hay ác ấm đều do nghiệp mà có, chẳng phải do pháp vô lậu vời lấy. Đức Phật trả lời là chẳng nương tựa, tuy sinh vào cõi nước ác mà chẳng làm ác là do năng lực vô lậu giữ gìn. Trong phần trả lời, trước là pháp thuyết. Nêu cả sáu dụ: Hương sơn dụ cho thân đầu tiên, Sư tử dụ cho kiến đế vô lậu, núi Tuyết dụ cho năm ấm ác, chim thú dụ cho các pháp ác. Lại Hương Sơn dụ cho ấm thiện, núi Tuyết dụ cho ấm ác, chim thú ở núi Tuyết đều chẳng dám ở, là dụ ở trong hai cõi nước thiện ác đều chẳng sinh pháp ác. Ở đây thiếu nghóa của hai nhân tập và báo. Tập nhân thì chủng loại tương tự, thường sinh, chẳng bao giờ làm ác; còn báo nhân dẫn dắt đến quả dị loại, nên đọa vào cõi nước ác. Người là dụ cho vị Tu-đà-hoàn, sản nghiệp to lớn dụ cho kiến đế vô lậu, có khả năng dứt hoặc; chỉ có một người con dụ cho Sơ quả. Vả lại, trong hai đạo kiến tư chỉ có kiến đạo, nên nói “chỉ có một người con”; chết sớm là dụ cho kiến đế vô lậu chẳng hiện tiền, xuất quán thì chẳng có; nhờ tư duy vô lậu mà kiến đế sinh, cho nên nói người con ấy lại có một đứa con; tư duy vô lậu hướng về kiến đế nên gọi là “ở phương xa”; bỗng nhiên qua đời là dụ cho vị Tu-đà-hoàn bảy lần sinh đã hết; người cháu nghe tin trở về nhận lãnh sản nghiệp là dụ cho việc trong đạo suy nghó, lại thừa kế công năng của kiến đế ở trước. Tuy biết tài sản chẳng do đứa cháu làm ra tức nói kiến đế vô lậu chẳng phải vô lậu trong đạo suy nghó. Không ngăn cản là nói kiến hoặc tư hoặc tuy khác mà đồng là một vô lậu. Từ câu: “Sư Tử Hống bạch rằng v.v…” trở xuống là đoạn hai, chánh thức nói về tu đạo; có hai, đầu tiên là nói về nhân duyên tu đạo, kế là nói về nhân duyên tu đạo, lại chia làm hai: Giải thích và luận ng- hóa. Đầu tiên nêu kệ để hỏi. Hai câu đầu là tu đạo, hai câu sau là đắc quả; tu được ba phẩm thì được quả không lui sụt, ba phẩm là nhân gần, Đại Niết-bàn là quả. Thứ nhất nêu kệ để hỏi. Trong lời đáp có ba phen giải thích: 1/ Chân ngụy đối luận; 2/ Chỉ nói phá ác; 3/ Chỉ nói sinh thiện. Chân ngụy đối luận có hai: Trước nói ngụy, sau nói chân. Về ngụy có ba phẩm là: 1/ Hạ hạ tức một bề chẳng thể thọ trì giới cấm; 2/ Hạ trung tức sợ đường ác khổ nên giữ giới; 3/ Hạ thượng là vì độ thoát khổ não cho chúng sinh nên giữ giới. Cả ba đều là ngụy, nay y cứ theo ba hạng này còn chẳng đạt được. Kế là nói về chân. Biết các pháp không mà giữ giới; vì các chúng sinh mà cầu quả Phật, quả không thật có. Chúng sinh còn không huống chi là có quả Phật? Đó gọi là giữ giới chân thật. Kế là nói phá mười sáu ác luật nghi; tức y cứ theo diệt ác, lại giải thích ba phẩm. Khôi quái: xưa cho là người bán thịt cá, hoặc là người dùng gậy để đánh đập. Tam-muội Vô thân, vì tu không định diệt sắc, nên nói là vô thân. Vô biên tâm là định Thức xứ, Tịnh Tụ tức là chỗ Bất dụng. Thế biên tức phi tưởng định, định này biết được tám muôn kiếp và lấy đây làm bờ mé. Vả lại, Phi tưởng còn ở trong ba cõi nên gọi là Thế biên. Thế đoạn, nghóa là ngoài tám muôn kiếp thì chẳng thể biết, liền cho là đoạn. Thế tánh tức là minh sơ, là bản tánh của thế gian. Thế trượng phu, tức là dùng sức định mà thấy được tướng trượng phu trong nước, tức là Tỳ-nữu. Phi tưởng Phi phi tưởng tức là trời quán Tồn vong, là thể của định. Từ câu: “Người tu tập giới v.v…” trở xuống là đoạn ba, y cứ theo sinh thiện để giải thích ba phẩm. Các hữu tức ba hữu, hai mươi lăm hữu; các cõi tức ba cõi cho đến mười tám cõi; các đế là sáu đế cho đến hai mươi lăm đế. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về nghóa. Nhân trước nói tu đạo nên thấy Phật tánh được Bồ-đề Niết-bàn, nên nay gạn hỏi về Niết-bàn và Phật tánh. Gồm có bảy phen hỏi đáp, ba phen đầu hỏi về Niết-bàn, phen thứ tư hỏi về Phật tánh. Đầu tiên nói chẳng sinh diệt là Niết-bàn, vậy thì phàm phu chẳng sinh diệt, lẽ ra cũng gọi là Niết-bàn. Phàm phu một đời từ sinh đến già chẳng còn sinh nữa nên nói là chẳng sinh, mà chưa diệt nên gọi là chẳng diệt, loại chẳng sinh diệt này có phải là Niết-bàn chăng? Lại nói rằng nếu dùng tướng sinh trong ba tướng để hỏi, như trong một niệm này, thì sinh đã sinh nên gọi là chẳng sinh, lại chưa diệt nên nói là chẳng diệt, nghóa này có phải là Niết-bàn chăng? Trong lời đáp, đầu tiên xác định, thuật lại lời hỏi, sau giải thích chẳng phải Niết-bàn, vì có thỉ chung. Lại cũng cần nói chung cho hai lời giải ở trên để thành nghóa thỉ chung, tức nói mới sinh là thỉ, mạng hết là chung. Một niệm gồm ba tướng, trong đó tướng sinh cũng như thế; mới khởi là thỉ, niệm diệt là chung. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ hai. Ở đây muốn nói rõ pháp sinh tử cũng không có thỉ chung, vì mười hai nhân duyên trôi lăn chẳng đừng trụ, thì làm sao có thỉ chung? Phật trả lời pháp sinh tử có nhân quả, mười hai nhân duyên trôi lăn chẳng dừng trụ, hai nhân quá khứ sinh năm quả hiện tại, nên chẳng phải Niết-bàn. Phen gạn hỏi thứ ba, ý muốn nói trong Niết-bàn cũng có nhân quả, tu tập Giới, Định, Tuệ đạt được Niết-bàn, đó há chẳng phải là nhân quả hay sao? Phật đáp Niết-bàn có nhân mà chẳng có quả; lại là quả mà chẳng phải là sở đắc. Lại Phật tánh là nhân Niết-bàn mà chẳng sinh quả Niết- bàn. Thứ hai gồm bốn phen hỏi đáp để nói về nghóa Phật tánh, phen thứ nhất y cứ theo cộng hữu và bất cộng hữu để hỏi. Trước là nêu hai chương, sau là giải thích. Phật trả lời, có pháp và dụ. Nói chẳng phải một, nên chẳng cùng chung; chẳng phải hai, nên chẳng có riêng. Tuy thế, nhưng tất cả chúng sinh đều đồng có. Các sư Địa luận cho rằng: “Tất cả chúng sinh đồng một thức A-lê-da, là thể tánh của pháp giới”, nếu thế thì một người được lẽ ra nhiều người cùng được! Các sư luận Thành Thật cho rằng: “Mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng khi thành Phật thì quyền trí bình đẳng đồng nhất với Pháp thân, mười Lực, bốn Vô úy v.v… cũng như vậy”. Nếu thế thì Phật tánh có thể tính đếm, là vô thường, chính là gạn hỏi ý này. Nhưng Phật tánh bình đẳng chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải chung chẳng phải riêng; cũng như hôm nay, người tu hành giữ giới, chẳng phải một, chẳng phải khác, mỗi người đều tu thì đâu phải là một? Ta hiểu thì người hiểu, người hiểu thì ta hiểu, cho nên chẳng khác. Vả lại, năm loại Phật tánh chẳng phải một, chẳng phải khác, như chúng sinh bình đẳng đồng có, chẳng lẽ là khác ư? Năm loại khác nhau thì đâu thể là một? Trong năm loại Phật tánh, chúng sinh có được mấy tánh? Đáp: Có chúng sinh có đủ và có chúng sinh chẳng có; chúng sinh không có trí quán thì không thể phát cảnh, không có trí phát cảnh cũng không có nhân cảnh quán, đã không có nhân thì đâu có quả và quả quả. Đã không có nhân quả, thì đâu có phi nhân phi quả. Nói chúng sinh có đủ là vì sẽ được, từ duyên mà hiện, nên nói có đủ, hôm nay tuy không, nhưng vị lai sẽ có. Phen gạn hỏi thứ hai, nêu dụ cỏ nhẫn nhục. - Nếu nói một người tu rồi thì những người khác cũng có được. Phật đáp Phật tánh là một, thuận theo nhiều người, ai tu thì được, không hề ngại nhau. Phen hỏi đáp thứ ba. Nếu như nhiều người đi trên đường thì người đi sau bị chướng ngại, Phật tánh cũng như thế, người tu trước chướng ngại người tu sau. Phật đáp là như đường, cầu, thầy thuốc đều chỉ lấy một phần ng- hóa, chứ con đường chánh đạo chẳng phải như thế. Câu hỏi thứ tư. Sáu đường thân tướng chẳng phải một, vì sao nói là cùng có một Phật tánh? Phật đáp: Hòa thuốc độc vào sữa, mà năm vị đều có thể giết người, Phật tánh cũng như thế, cùng khắp tất cả mọi nơi. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về nhân duyên tu đạo. Trước nói về duyên, sau nói về nhân. Nói duyên gồm có bốn xứ duyên, thời duyên và nhân duyên. Chẳng có xứ, chẳng có trời, chẳng có Thiện tri thức thì chẳng được, nên nói đợi thời, đợi xứ, đợi bạn. Xứ có hai là thành và cây, thành có hai, là trước hỏi, sau đáp. Hỏi: Đã có sáu thành lớn, vì sao Như Lai đến thành nhỏ hẹp này? Đáp có hai: Trước quở trách, sau giải thích. Đầu tiên là quở trách người hỏi. Nơi Đức Phật cư trú chẳng nên nói là nhỏ hẹp. Nêu ba dụ để so sánh Như Lai là bậc tôn quý trong loài người, nơi cư trú của người quân tử đâu có nhỏ hẹp! Từ câu: “Ta nhớ khi xưa v.v…” trở xuống là phần thứ hai, chánh giải thích, có hai ý: Báo ân đất, trừ tà đảng. Báo ân có ba ý báo đáp phát tâm, báo đáp bốn tâm vô lượng, báo đáp hoằng thệ. Kế là trừ dẹp tà đảng, có hai: 1/ Cùng khắp sáu thành lớn; 2/ Nói đến đây hàng phục, đã rõ biết tà hết, chánh cũng hết, tức vắng lặng Niết-bàn; sáu thành gồm sáu chương. Thứ nhất là đến Vương xá. Ngoại đạo não loạn dụ dỗ chúng sinh, khiến bị đọa vào ba đường ác, nên phải đến đó để đuổi trừ. Hơn nữa Vua có mời, Phật chẳng thể trái lời, nên đến thành Vương xá; ngoại đạo tự biết pháp thuật của mình cạn thấp, nên mới chạy đến Xá-vệ, Đức Phật nhân đó giáo hóa ba anh em Ca-diếp và hai vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên. Từ câu: “Bấy giờ, v.v…” trở xuống là thứ hai, đến thành Xá-vệ đuổi ngoại đạo. Văn có hai đoạn: 1/ Nói nguyên do đến; 2/ Cùng thử thần lực, chánh thức nói về việc đến nơi ấy. Các ngoại đạo ở thành Vương xá chẳng dám chống cự, nên đến thành Xá-vệ tìm cách đối luận. San-đàn-na, Hán dịch là Hộ di, người ở thành Vương xá. Kỳ-đà, Hán dịch là Thắng Thị; Tu-đạt-đa, Hán dịch là Thiện Ôn, người ở thành Xá-vệ. Hỏi: Đức Phật vang tiếng khắp mười phương, Tu-đạt-đa là một trong sáu đại Cư só, vì sao trong đêm cưới vợ cho con mới nghe danh hiệu Phật? Đáp: Chẳng phải không nghe gì, nhưng như trong tiếng sóng gầm thét mà nghe, như qua bụi mù mịt mà thấy. Hôm nay khi căn cơ đối với đạo pháp đã thuần thục nên vừa nghe thì toàn thân nổi gai ốc. --------------------------------- <詞>PHẨM 23: SƯ TỬ HỐNG (PHẦN 4) Đầu phẩm là phần thứ hai nói về việc đến thành Xá-vệ tỉ thí thần lực. Văn có ba đoạn: 1/ Lý do tỉ thí; 2/ Chánh thức tỉ thí; 3/ Đại chúng được lợi ích. Thứ nhất được chia làm bốn: 1/ Xin tỉ thí; 2/ Vua chẳng cho phép; 3/ Xin một lần nữa; 4/ Vua bằng lòng. Sở dó xin tỉ thí, là vì lúc trước, khi còn ở thành Vương xá đã bị bác bỏ, nay lại đến thành Xá-vệ bị đoạt mất danh, không còn lợi lộc nên chẳng thể nhẫn nhịn được nữa, vì vậy tâu vua xin tỉ thí. Thứ nhất lại có hai: Một, khen vua, dùng lời gian xảo, giả hiện dung mạo thuần thiện. Hai, là chê bai Phật, ra sức phỉ báng. Nói tuổi nhỏ, tức Đức Phật năm ba mươi tuổi thành đạo, nên bấy giờ có lẽ mới ngoài ba mươi; tu tập khổ hạnh chỉ sáu năm, nên nói học lực còn cạn cợt. Nói thật chẳng phải sinh trong dòng vua chúa, tức cho Phật là huyễn hóa. Nói: “Cướp đoạt cha mẹ của người”, Đức Phật dạy người lìa tục xuất gia tức là cướp đoạt con cái của cha mẹ, cũng là cắt đứt con cháu nối dõi, chẳng cho cưới vợ, tức là cướp đoạt cha mẹ của nhà người. Từ câu: “Vua liền nói v.v…” trở xuống là ý thứ hai, vua không cho phép. Từ câu: “Sáu vị giáo chủ ngoại đạo lại nói v.v…” trở xuống là ý thứ ba, lại xin tỉ thí. Từ câu: “Vua nói v.v…” trở xuống là ý thứ tư, vua bằng lòng. Vua tuy đã tự ý cho phép, nhưng phải đến bạch lên Đức Phật. Từ câu: “Phật nói rằng v.v…” trở xuống là đoạn hai, chánh thức tỉ thí, gồm có hai: trước bảo vua xây dựng nhiều Tăng phường. Bấy giờ, ta vì sáu vị giáo chủ ngoại đạo kia nên từ ngày mồng một đến ngày mười lăm luôn hiện ra các thần thông biến hóa vô cùng ít có. Như kinh Hiền Ngu v.v… đã nói. Ba là chúng đương thời được lợi ích. Ở đây chẳng nói tranh luận qua lại, mà chỉ là thị hiện các việc kỳ lạ ít có, ngoại đạo thấy thần biến, tự biết chẳng bằng nên chạy đến thành Bà-chỉ-đa. Hỏi: Vì sao chẳng tranh luận? Đáp: Vì trong ba luân, thì Thần thông luân là thích hợp với lúc bấy giờ. Đại chúng và các môn đồ của ngọai đạo đã được lợi ích, còn sáu vị giáo chủ ngoại đạo thì chưa tin phục. Từ câu: “Bấy giờ sáu vị giáo chủ ngoại đạo, v.v…” trở xuống là đoạn ba, Phật lại dời đến thành ấy. Hỏi: Phật có tâm đại bi, chẳng bao giờ não hại chúng sinh, vì sao lại truy đuổi sáu vị giáo chủ ngoại đạo khắp nơi chẳng dừng nghỉ? Đáp: Vì muốn phá đổ dị kiến, cứu vô lượng chúng sinh ra khỏi đường tà, dứt trừ sinh tử trói buộc, để đạt được Đại Niết-bàn. Nếu đó chẳng phải là đại bi thương xót, thì lấy làm gì Từ bi đây? Từ câu: “Sáu vị giáo chủ lại, v.v…” trở xuống là thứ tư, đến thành Tỳ-xá-ly. Như Lai lại đến nước Tỳ-xá-ly nói các pháp môn cho Am-la nữ và các Ly-xa Tử. Đó là phu nhân Bình-sa mẹ của Kỳ-bà, có nhan sắc rực rỡ. Phật khuyên dạy các Tỳ-kheo quán thân niệm xứ; kế đến vì các Ly-xa mà nói về pháp chẳng buông lung, phá dẹp tâm kiêu mạn. Theo phép nước này, thường chọn người có trí năng làm chủ, còn những người khác thì tham gia luận nghị, cho nên dịch là Biên địa chủ, cũng dịch là Truyền tham quốc sự. Từ câu: “Bấy giờ sáu vị giáo chủ ngoại đạo, v.v..” trở xuống là đoạn năm, đến thành Ba-la-nại. “Sáu vị nghe việc này v.v…” trở xuống là đoạn sáu, chạy đến thành Chiêm-bà. Từ câu: “Bấy giờ, sáu sư v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói đến thành Câu-thi, đều bị truy đuổi, nên chẳng biết đi đâu. Chính là nói Câu-thi nhỏ hẹp, hãy tự giữ gìn mà ở, chẳng cho Phật đến. Văn có ba ý: Một là nói về tà giáo; hai, là chánh giáo; ba, là tà chánh luận nghị. Đầu tiên khi ngoại đạo mới đến thành Câu-thi, vọng rao nói lỗi của Phật khiến mọi người sinh tà kiến. Văn ghi: “Mẹ là huyễn, thì con là huyễn”, câu này có nghóa gì? Ý nói phép sinh của con người tự có pháp tắc thông thường, do nhân gì mà sinh từ hông bên phải, đó há chẳng phải là mẹ huyễn sinh con huyễn hay sao? Thứ hai, Phật đến nói chánh pháp. Dẹp tà về chánh, thì tà chánh mỗi thứ đều có hành pháp khác nhau. Từ câu: “Bấy giờ sáu vị giáo chủ, v.v…” trở xuống là đoạn ba, tà chánh hợp luận. Gồm bảy phen hỏi đáp: sáu phen trước là chiùnh thức lu- ận nghị, một phen sau là hàng phục, phen thứ nhất trước lập nghóa tà. Cho kiến là ngã, tức là một trong sáu mươi hai tri kiến. Phật đáp phá, có ba: Một, là khiến sáu căn đều có tác dụng. Ở trên nêu hướng làm dụ, nay y theo đó mà hỏi, người ở tại một hướng thấy sắc, nghe âm thanh, đều nhận đủ sáu trần, nay các thầy nói ở mắt chỉ thấy sắc, chẳng thể nhận đủ các trần, nên biết các ông nói chẳng đúng. Kế là nói già trẻ chẳng khác. Như đã nói “đối với hướng”, thì dù một trăm tuổi vẫn thấy bên ngoài rất rõ ràng. Nếu già, ngã ở trong nhãn căn thấy không bằng lúc trẻ, thì đâu cần dùng hướng để làm dụ? Thứ ba là trong ngoài đều thấy. Người đối với “hướng” thì trong ngoài đều thấy, ngã ở trong mắt, vì sao chẳng thấy bên trong? Từ câu: “Sáu vị giáo chủ, v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Đây không phải là câu hỏi chính, vì câu hỏi trước rất sâu, cho nên lại hỏi về ngã. Từ câu: “Phật nói v.v…” trở xuống là lời đáp. Có ba ý: Một là nêu nhân duyên, hai là phá tà ngã, ba là kết luận nói chánh ngã. Đây là lời đầu tiên, Đức Phật nói nhờ nhân duyên mà được thấy, sắc chẳng phải Ngã, thấy chỉ tạm tưởng thấy mà nói có thấy. Từ câu: “Nầy sáu vị, v.v…” trở xuống là ý thứ hai, phá tà ngã, văn có ba: Một là nêu chẳng đúng như thế. Thứ hai, từ câu: “Vì sao v.v…” trở xuống là nêu các lỗi. Ngã lấy tự tại làm nghóa, vậy chỉ nên tạo chủng tánh Bà-la-môn mà thôi, vì sao lại thọ thân sáu đường khác nhau? Sắc đã chẳng phải ngã thì thọ, tưởng, hành, thức đều vô ngã. Từ câu: “Vì vô ngã v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận nêu lỗi. Từ câu: “Này sáu vị, v.v…” trở xuống là kết luận nêu chánh ngã. Văn có hai là lược chỉ bày và đối luận. Ý đoạn này muốn nói: trước đã phá sắc, thọ v.v… vô ngã, thì kia lại hỏi: Như Lai có phải là sắc v.v… hay không? Nên nay sự nêu ý này trước là đáp rằng: Ngã của Như Lai chẳng bị sắc cho đến thọ, tưởng, hành, thức trói buộc, có đủ bốn đức, còn ngã mà các thầy nói đó thì chẳng tránh khỏi bốn nợ trói buộc. Kế là lại kết luận, cũng cùng với ngoại đạo đối luận. Ngoại đạo nói Ngã là từ nhân duyên, vì thế vô thường ngã của Như Lai chẳng phải từ nhân duyên mà được, nên có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Từ câu: “sáu vị giáo chủ nói rằng v.v…” trở xuống là phen thứ ba, ngoại đạo đổi tông chỉ. Hoặc cho rằng Bộ riêng của ngoại đạo chấp nghóa “cùng khắp tất cả mọi nơi” là ngã, chẳng lấy sắc làm ngã. Từ câu: “Đức Phật nói v.v…” trở xuống là Như Lai phá ý này. Gồm có hai phần: Đầu tiên y cứ vào nghóa cùng khắp để phá, sau y cứ theo một khác để xem xét. Văn thứ nhất lại có hai lần “lại nữa”, lần thứ nhất là hỏi về nghóa cùng khắp. Ngã đã cùng khắp thì lẽ ra trước phải không thấy, lẽ ra phải thường thấy. Kế là hỏi Ngã cùng khắp, lẽ ra phải khắp trong năm đường, vì sao lai sợ ba đường ác, lại vì muốn làm thân trời, người mà giữ giới làm lành. ghi. Kế đến là y cứ theo một khác, trước nêu hai chương. Kế là giải thích. Trước y cứ theo một để hỏi, như văn kinh có Y cứ theo nhiều để hỏi, trong mỗi thân đều có một ngã; ngã là tự tại, vì sao có lợi độn, ngu trí khác nhau? Từ câu: “Thưa Cù-đàm v.v…” trở xuống là phen thứ tư, ngoại đạo lại luận biện. Ngã là một, cũng thường hằng cùng khắp, chúng sinh tu nghiệp thì có khác nhau nên nghiệp quả khác nhau. Phật phá rằng: Ngã đã cùng khắp lại thường thì đâu có thiện ác đắp đổi nhau, mà lẽ ra tội phước cùng có. Cho nên nói “làm ác lẽ ra có thiện, làm thiện lẽ ra có ác”, nếu chẳng đồng có thì chẳng phải cùng khắp. Vả lại Ngã là tự tại, lẽ ra thiện ác tự làm. Từ câu: “Thưa Cù-đàm v.v…” trở xuống là phen thứ năm, ngoại đạo lại luận biện, dùng đốt đèn làm dụ. Tuy cùng một ánh sáng mà thể của mỗi ngọn đèn khác nhau, rốt cuộc Ngã thì cùng khắp, chỉ do thiện ác khác nhau mà thôi; như trong một ngôi nhà đốt một trăm ngọn đèn. Phật lại phá: Trước nói chẳng phải như thế. Kế là nêu ba loại để phá: Một từ duyên để phá; hai y cứ theo nơi ánh sáng xuất hiện khác nhau để phá; ba là y cứ theo sáng tối cùng trụ để phá. Đầu tiên phá rằng: Ông dùng đèn dụ cho pháp, ánh sáng dụ cho ngã, ánh sáng do đèn, nếu nhiều dầu ở tim đèn thì ánh sáng mạnh; Nếu thế thì ngã do nghiệp, nghiệp hết thì ngã tiêu, nghiệp đã nhỏ hẹp thì ngã chẳng cùng khắp. Thứ hai là hỏi về nơi chốn. Ánh sáng từ đèn phát sinh, vậy ngã từ nghiệp mà có, thế thì ng- hiệp có ngã, chẳng phải ngã có nghiệp. tối. Thứ ba, nói ánh sáng đèn lúc đầu tiên thì ở chung một chỗ với Nếu thế thì ngã thường của thầy lẽ ra ở trong ngã vô thường; ngã vô thường lẽ ra ở trong ngã thường. Từ câu: “Thưa Cù-đàm! Nếu vô ngã v.v…” trở xuống là phen thứ sáu, ngoại đạo lại hỏi. Phật đáp, có hai ý: trước phá tà ngã, Ngã đã là thường, vì sao có tạo tác, thường thi đâu có tạo tác. Dù cho có tạo tác, vì sao chẳng làm lành, mà có lúc lại làm ác? Thiện ác đã chẳng cố định, thì biết là vô thường. Kế là nói chánh ngã. Tức là Như Lai thường trụ. Phen thứ bảy, ngoại đạo quy phục Như Lai, là kết luận chương này, như văn kinh có ghi… Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là phần hai, nói về nơi chốn của cây Ta-la. Văn có hai: Đầu tiên là kết văn trước, khởi văn sau; kế là nói về nơi chốn. Thứ nhất như văn kinh. Từ câu: “Một cặp ở phương Đông”, v.v… trở xuống là thứ hai, nói về nơi chốn của cây. Có ba ý: một, là biểu thị nghóa lý; hai, là hộ pháp; ba, là lợi ích của pháp vị. Thứ nhất là biểu thị nghóa lý. Lý là bốn đức. Ý nói dùng hướng Đông biểu thị cho thường và vô thường? Có người cho rằng thuận theo mà lấy một việc, không có mục đích nào khác. Cũng có thể lấy hướng Đông biểu thị cho lạc và không lạc. Hà Tây cho rằng: Hai cây khô biểu thị cho thân ứng hóa diệt, hai cây tươi tốt biểu thị cho Pháp thân thường còn. Nhưng cây Bồ-đề cũng có một gốc khô một gốc tươi, đến khi Phật pháp diệt thì hai gốc đều khô. Nếu thế, cần gì phải nhất định phá thường và vô thường? Nhưng Đức Phật tùy duyên, ứng hóa đều có nguyên do. Hà Tây cho rằng hai gốc phương Đông biểu thị cho thường và vô thường, vì các ngoại đạo tôn thờ trời Đại Tự Tại trụ ở phương Đông, giáo hành ở phương Tây; nay Phật pháp phá vô thường của ngoại đạo, nên nói hai câu ở phương Đông biểu thị cho Thường và Vô thường. Hai cây ở phương Nam biểu thị cho ngã và vô ngã, vì Nam là phương bên phải, tay phải thì thuận, dụ cho dụng của ngã tự tại. Phương Tây biểu thị cho lạc, vì phương Tây tu hành Phật giáo được an vui, biểu thị cho sự an vui của Phật pháp. Phương Bắc biểu thị cho tịnh, vả lại đó là nơi xuất gia, cho nên biểu thị cho sự thanh tịnh trong Phật pháp. Lại nói trời Đại Tự Tại, mặt hướng về Đông, tay phải thuộc phương Nam; đều biểu thị cho ý nghóa phá bốn điên đảo của ngoại đạo, đạt được bốn đức của Phật pháp; cho nên lập ra cách phối hợp này. Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là ý thứ hai, hộ pháp. Trước nêu Sự, sau nói về Lý. Sự là dưới cây Ta-la mà nhập Niết- bàn, bốn vị Thiên vương thường giữ gìn cây này, chẳng để người ngoài chặt phá cành lá. Ngày xưa, Thiệu Bá ngồi dưới cây tiểu thường mà thành Tiên, người đời sau vẫn còn bảo vệ cây này, huống chi Ta-la song thọ của Như Lai. Từ câu: “Ta-la song thọ v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói lợi ích của pháp vị. Trước là dụ, sau là hợp giải thích. Hoa quả: Hoa nở tô điểm, người thấy sinh tâm ưa mến dụ cho pháp thân vắng lặng thường trụ không thay đổi. Dùng hoa biểu thị cho Ngã, quả biểu thị cho Lạc, vì chúng có vị ngon ngọt, đầy đủ sắc và hương, người thấy, ngửi, xúc chạm, ăn vào đều ưa thích, Pháp thân cũng như thế, tất cả chúng sinh đều đồng có tánh lạc này. Từ câu: “Bố-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về thời duyên, có hai ý: một, là nói về tháng hai; hai nói về ngày mười lăm. Thứ nhất có hỏi và đáp. Đáp có hai ý: Một là nêu dụ để nói về Sự; hai, là hợp dụ để nói về Lý. Thứ nhất: Nếu nói theo lịch nhà Hạ thì thuộc tháng hai, nếu theo lịch nhà Châu thì thuộc tháng tư, bấy giờ chúng sinh đều nghó là thường và rất ưa thích; nên phá chấp trước, được ngộ đạo. Lại nói trong sáu thời, có hai cách giải thích: Hà Tây cho rằng ở Ấn-độ hai tháng là một mùa (thời), một năm có sáu mùa, thế thì ba mùa xuân, hạ và đông mỗi mùa đều có trước và sau. Kinh Kim Quang Minh chép rằng: Nếu hai tháng là một mùa thì một năm có sáu mùa; nếu nói ba tháng là một mùa thì một năm có bốn mùa. Ở đây nói hai tháng là một mùa, đầy đủ sáu mùa. Chiêu- đề cho rằng: Hai mùa Xuân và Đông mỗi mùa đều có mạnh, trọng và quý, nên nói là sáu thời, trong văn nêu Mạnh đông đối lại với Dương xuân, v.v… Từ câu: “Tháng hai v.v…” trở xuống là hợp dụ để nói về lý. Hai loại Pháp thân tức là chân thân và Ứng thân. Hà Tây cho rằng thân Thường và thân Vô thường đều thuận theo thế gian. Quả dụ cho bốn quả, lý thuyết cho rằng bốn quả Tiểu thừa, vì Đại bao gồm Tiểu. Có chỗ cho rằng đó là bốn đức. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về ngày. Trước hỏi, sau đáp. Kinh Trường A-hàm nói mồng tám xuất gia, mồng tám nhập Niết- bàn, ở đây nói ngày mười lăm, đó là do cơ cảm của chúng sinh mà thấy khác nhau, đó cũng là thân mật tự tại của Như Lai. Đức Phật đáp: Một, là y cứ theo Bản, hai, là y cứ theo Tích. Thứ nhất, là muốn nói diệu bản viên mãn tột cùng , nên lấy ngày mười lăm làm dụ. Từ câu: “ngày mười lăm v.v…” trở xuống là y cứ theo Tích. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về người làm duyên: Trước nêu người, kế là nói nghóa. Thứ nhất có hỏi và đáp. Nói trang nghiêm; tức là người này phải có đủ đức, hạnh, trí, khéo chỉ bày, giảng nói mới có thể trang nghiêm Song thọ; cũng là nói người có đầy đủ đức hạnh có khả năng làm chỗ nương cho tất cả chúng sinh, cho nên được duyên này. Phật đáp có hai: Một, là nói sáu hạng người trong nhân, sáu người có lẽ là lược nói, hoặc là cơ nghi của chúng sinh, hoặc là đối trị với sáu vị giáo chủ ngoại đạo ở trên, cho nên nêu sáu. Hỏi: Vì sao chẳng dùng Bồ-tát để trang nghiêm song thọ. Đáp: Vì Bồ-tát du hóa vô định, không thường theo cạnh Phật, còn sáu vị này thì thường ở bên Phật nên có duyên đối với người, hơn nữa sáu vị Tỳ-kheo này đều là Bồ-tát, v.v… Văn kinh nói: Ngài Thân Tử nghe Niết-bàn mà chẳng lo buồn, điều này trong A-hàm nói: Thân Tử nghe nói Phật sắp nhập Niết-bàn, không nỡ thấy Phật diệt độ, nên nhập diệt trước, vì sao nay lại nói nghe Phật Niết-bàn mà không lo buồn? Trong lời đáp của Phật, ngài đã nói về quả đức thì biết đó là nghóa của Bồ-tát, chẳng nên giải thích theo ý Tiểu thừa. Từ câu: “Nếu có Tỳ-kheo, v.v… trở xuống là đoạn hai nói về người đã chứng quả, tức Như Lai là người đã nêu ở trước. Kế là từ câu: “Kính mong v.v…” trở xuống là phần nói nghóa, có ba phen hỏi đáp. Tuy chẳng phải là chánh thức hỏi, nhưng cũng được cho là một câu hỏi. Từ câu: “Phật bảo v.v…” trở xuống là lời đáp, có hai; Trước nói về Bản, sau nói về Tích. Về Bản lại có hai: Một là nói lược về vô trụ. Hai là nói rộng về vô trụ, có hai ý; trước là nêu pháp thuyết, sau là dụ thuyết, trong pháp thuyết, trước giải thích về Trụ. Kế là giải thích Vô trụ. Diệu thể là phi hữu nên nói là hư không. Tam-muội Kim cương tức là Như Lai, xưa giải thích rằng: Thập địa tu học tột cùng mà vẫn chưa phải là Phật, nhưng trong đạo tương tục thì chuyển tâm Kim cương tức gọi là Phật. Nay y cứ theo văn này nên nói là Như Lai, từ này chung cho nhân và quả, thí như Thủ-lăng-nghiêm chung cho nhân quả. Nói Đàn ba-la-mật, chẳng nên cho rằng sáu hạnh có công năng thành tựu quả. Văn trên nói đủ sáu Ba-la-mật, Đạo phẩm cũng như thế. Từ câu: “Thí như hư không v.v…” trở xuống là đoạn hai, y cứ theo dụ để nói về vô trụ. Trước là dụ, sau là hợp. Kế là hợp dụ, trái lại dùng khác nhau để phân biệt Không, Không tức là Vô trụ. Nói Bồ-tát trụ thứ sáu vì nhân duyên phiền não mà đọa vào ba đường ác, đây có lẽ là chỉ cho sáu tâm, hoặc là nói Lục địa. Nói thêm: E rằng đó là Lục địa. Từ câu: “Hôm nay v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về Tích. Trong đạo Phương tiện lại trở về vắng lặng, chúng sinh chẳng thấy, cho rằng Phật nhập Niết-bàn. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen hỏi thứ hai, là hỏi vì sao Như Lai chẳng thường trụ làm lợi ích chúng sinh mà lại nhập Niết-bàn. Phật đáp rộng nghóa trên. Nói Pháp tạng bất cộng là chẳng chung với hàng Nhị thừa, trong đó hoặc là nói Diệt ác, hoặc là nói Sinh thiện, tức là ý bốn tất-đàn, nên cần phải nhập định vắng lặng. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ ba, hỏi vì sao gọi Niết-bàn là Vô tướng? Phật đáp có ba ý, trước nói không có mười tướng. Kế là nói về chỗ mất của hữu tướng. Thứ ba là nói về chỗ được của vô tướng. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về Dụng của tu đạo. Văn có ba: Một, là nói ba pháp; hai là nói về hai pháp giúp nhau; ba là nói về lực dụng. Thứ nhất, trước là hỏi đáp lược, sau là hỏi đáp rộng. Nhưng ba pháp khác nhau, nếu ở phẩm Thánh Hạnh dùng ba pháp Giới, Định, Tuệ, thì nay văn này dùng ba pháp giới, tuệ và xả, trong đó định tuệ là chánh, xả là tùy nghi (hoặc xả định tu tuệ, hoặc xả tuệ tu định). Nhưng nói thường thường tức chẳng phải chỉ chuyên tu một phẩm mà phải điều hòa, để được tự tại. Từ câu: “Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, hỏi đáp rộng. Phần hỏi có hai: trước hỏi chung thế nào là tướng của định, tuệ, xả. Kế là hỏi riêng ba pháp, có hai: Một là rộng y cứ theo định để hỏi; hai, là dùng tuệ xả để dụ. Hỏi về định có ba ý: Một là y cứ theo bản hữu; hai, là y cứ theo một cảnh; ba, là y cứ theo một hạnh. Nói đều có, tức chúng sinh đều có Tam-muội. Các sư Số Luận nói trong mười đại địa pháp có Tam-ma-đề, đó là định số, định này vốn có, đâu cần tu tập. Hà Tây cho rằng đây là lấy tâm chuyên chú làm định, chẳng cần phải là định số trong mười Đại địa. Kế là nói tâm ở một cảnh. Nếu chỉ hành một cảnh gọi là định, thì tất cả các duyên khác chẳng phải là định, nếu chẳng biết các duyên khác thì đâu được gọi là bậc Nhất Thiết Trí? Thứ ba là y cứ theo một hạnh để hỏi. Nếu một hạnh là Tam-muội thì khi thực hành các hạnh khác chẳng phải là Tam-muội. Nếu chẳng thực hành các hạnh khác thì chẳng phải là Nhất Thiết Trí. Kế là nói tuệ xả cũng như câu hỏi trên. Phật đáp, trước là đáp câu hỏi riêng, sau đáp câu hỏi chung. Đáp câu hỏi riêng có hai ý: Trước đáp về định, sau đáp về tuệ xả. Đáp về định, trước hỏi định có ba hướng, bây giờ thứ nhất là đáp câu hỏi thứ hai, dùng câu thứ ba để so sánh; kế đến câu hỏi thứ nhất là xưa có (bản hữu). Nói: Các duyên khác cũng là duyên một cảnh, tức là chuyên tâm vào một duyên. Đây là định cảnh; dùng định mà duyên thì không cảnh nào chẳng định; chẳng thể cho rằng giống như câu hỏi trước chỉ duyên một cảnh. Bởi vì định tâm duyên định cảnh, chứ chẳng phải tán tâm. Dùng định mà chuyên nhất ở Nhất thiết, nên gọi là Nhất thiết trí. Nếu dùng tán tâm duyên cảnh thì bị cảnh dẫn dắt. Nếu dùng định tâm duyên cảnh thì dẫu có đổi duyên thay quán, chẳng phải cảnh kéo dắt tâm, nên gọi là định. Hạnh cũng giống như thế, tức đáp cả câu hỏi thứ ba về nhất hạnh. Nếu dùng tán tâm mà tu tập các hạnh thì hạnh dẫn dắt tâm, nếu dùng định tu tập các hạnh, thì khiến các hạnh là một hạnh. Từ câu: “lại nói v.v…” trở xuống là truy đáp câu hỏi thứ nhất, hỏi về vốn có. Thiện Tam-muội: Chẳng phải lấy định chung cho ba tánh định là lấy định khéo tu (Định thiện tu, tức tam chỉ viên tu) làm Thiện Tam- muội. Kế là từ câu: “Vì trụ trong v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi về tuệ, xả; có hai ý: Trước đáp tướng của tuệ. Kế là đáp về tướng xả. Từ câu: “Lại nữa, Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi chung. Có bốn ý: Một, lược nêu thể của ba pháp; hai, là giải thích tên của ba pháp; ba, là nói rộng thêm về thể của ba pháp; bốn, là nói về công dụng. Thứ nhất nêu thể, có ba ý: một, là nêu thể của định. Nói thủ tướng sắc, chẳng phải là tâm định chấp tướng sắc, mà đó là tướng nhập, trụ, xuất của môn thiền định. Nói chẳng quán tướng Thường và Vô thường của sắc; vì đã thuộc về tịnh, chẳng thực hành chiếu tri nên chẳng thể quán. Từ câu: “Nếu có thể quán v.v…” trở xuống là nêu thể của Tuệ. Thường và Vô thường đều chiếu soi, nên chẳng phải là Thiên tuệ. Thứ ba, là từ câu: “Tam-muội, tuệ v.v…” trở xuống là nói về thể của xả. Hai việc hòa hợp nên gọi là Bình đẳng. Văn có ba: là pháp, dụ và hợp. Kế là dụ. Thiên định là chậm, Thiên tuệ là nhanh, hai pháp phải ngang bằng, vì thế dùng xe bốn ngựa kéo làm dụ. Từ câu: “Bồ-tát cũng như thế” v.v… trở xuống là hợp dụ. Nói Bồ-tát Thập Trụ tuệ nhiều, định ít, Hà Tây giải thích rằng: Mười trụ tiến cầu cảnh giới cao quý mới xây dựng Đại Thừa, trang ng- hiêm cõi nước, giáo hóa mọi người, thiên khởi trí dụng, cho nên chẳng thấy tánh. Hàng Nhị thừa tự hàng phục, tự tịnh tâm ý, mong cầu chứng đắc, nên định nhiều tuệ ít, do đó chẳng thấy tánh. Nếu định tuệ đồng nhau thì mới thấy tánh. Ở đây nói rằng nếu nhập “Không” nhiều thì là tướng chậm, nhập “giả” nhiều thì là tướng nhanh, không giả đều bặt là tướng bình đẳng, thấy tánh, đó là ý Biệt giáo. Như tức không tức giả tức trung, chẳng chậm chẳng nhanh, khéo cỡi xe bốn ngựa kéo, mới thấy được Phật tánh, đây là ý Viên giáo. Từ câu: “Xa-ma-tha” v.v… trở xuống là thứ hai, giải thích tên gọi. Trước giải thích tên Định. Có bản gọi là Đà, đều do âm Phạm nặng nhẹ, dịch danh khác nhau, hoặc dịch là chỉ, tức dứt bỏ duyên ác; hoặc dịch là Định; từ này có rất nhiều cách dịch cho nên âm Phạm không theo một nghóa riêng nào. Tỳ-bà-xá-na dịch là Quán, cũng gọi là Kiến. Ưu-tất-la dịch là tướng xả, cũng dịch là Bình đẳng, bất tranh, v.v… Từ câu: “Xa-ma-tha v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói rộng về thể của ba pháp, đều dùng tăng số để nói. Thứ nhất nói về định, tăng đến mười pháp. Làm được lợi ích lớn, Bách luận giải thích là Tam-muội đạt phần; nhân quả đều vui, Hà Tây giải thích rằng: Định mà chư Phật đạt được thì xuất nhập tự tại, trước sau thường vui; niệm giác quán, tức là thiện ác giác quán đều là tội lỗi; quán sinh diệt, tức là con người phần nhiều đối với sinh diệt mà khởi quán đoạn thường. Mười Nhất thiết xứ, chỉ nêu đất, nước và gió mà không nói lửa, có người cho rằng kinh này ghi sót mất chữ Lửa. Hà Tây cho rằng người tu hành quán bốn đại trong thân chứ chẳng phải quán bốn đại bên ngoài. Ba đại trong thân; trong đó xương thịt v.v… là đất, nước mắt, nước mũi v.v… là nước, còn lửa yếu kém, chỉ là hơi ấm, cho nên chỉ nêu ba. Nhưng chẳng dùng làm xứ là vì muốn nói từ Hạ địa trở xuống chẳng dùng xứ. Chiêu-đề cho rằng: Hỏa đại chẳng thường hằng, nhờ củi đốt mới có, không có củi thì chẳng phát sinh, cón ba đại kia thường hằng, vì thế mới dùng làm xứ. Còn chẳng dùng xứ là muốn nói pháp quán này đã thành tựu, nên chẳng dùng xứ, cho nên tính là một. Từ câu: “Tuệ có hai v.v…” trở xuống là nói rộng về thể của tuệ. Bát-nhã chính là Tuệ, Tỳ-bà chính là quán, cũng gọi là Kiến, Xá-na chính là Trí. Giải thoát Bát-nhã là tất cả chúng sinh, tức hiển bày Bát-nhã là Tuệ biết tất cả số chúng sinh. Lại giải thích Tỳ-bà là tướng chung, cũng có tam-muội, vì thế Tam-muội và Tuệ biết được tất cả. Thường giải thích rằng Tuệ là bất si, cho nên ở phàm phu, Kiến gọi là Tiểu thắng nên ở bậc Thánh, trí là quyết đoán, là tối thắng, nên ở chư Phật. Tướng chung, tướng riêng, Phá tướng cũng y cứ theo hơn kém. Hưng Hoàng cho rằng phàm phu có phân biệt tức là tướng riêng, bậc Thánh Nhị thừa là gom chung các pháp vô thường nói ở trước nên thuộc về tướng chung. chư Phật, Bồ-tát phá chung riêng nên gọi là Phá tướng. Ở đây cho rằng chẳng đúng như thế, đó là nói một tâm ba trí, Phá tướng là chiếu Không, tướng riêng là chiếu Giả, tướng chung là chiếu Trung. Trong ba trí một tâm chỉ được nói về Tuệ không nghó bàn, chẳng nói xả, là vì khác thể thì chẳng phải. Thứ tư nói về công dụng, như văn kinh có nói.  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 27 <詞>PHẨM 23: SƯ TỬ HỐNG (PHẦN 5) Đầu phần này là đoạn hai nói về Định, Tuệ giúp nhau, cũng là Định, Tuệ tức nhau, lẽ ra cũng nên nói là xả, nhưng lược bỏ. Vả lại, xả chẳng phải là một pháp riêng, khi Định, Tuệ đồng đẳng thì gọi là xả. Trước là hỏi, sau là đáp. Ý muốn hỏi: Tuệ có công năng dứt hoặc, thì đâu cần dùng Định. Nêu câu hỏi Thiên, Biệt mà mong được lời đáp Viên dung. Đầu tiên, Bồ-tát Sư Tử Hống dẫn kinh để hỏi; thật biết chẳng phá ngoại đạo, cũng chẳng phá người hỏi, chỉ là kinh phá Phật làm duyên. Kinh Phật không ngoài bốn giáo; xem nghóa này thì chính là dùng Viên để phá Biệt, Biệt đã bị phá, thì các giáo khác so sánh có thể biết. Kế là Phật đáp, đầu tiên nêu phá chung và kế là phá riêng. Trong phần phá chung có nói rằng: “Nghóa này chẳng đúng”, thì chỗ nào không bao gồm, hoặc là tà chấp, hoặc là Tiểu thừa giáo, hay Cộng giáo, Tiệm giáo, tất cả đều rơi vào câu “chẳng đúng” này. Nhưng đây chỉ đối trị với những trệ ngại của nội giáo, chứ chẳng phải phá tà học của ngoại đạo. Kế là Biệt giáo, có hai ý: Một, là dùng phá để phân biệt; hai, là nêu Định, Tuệ viên dung vô cùng. Trong ý thứ nhất có bảy đoạn: Một là y cứ theo không khác; hai là y cứ theo vô hữu; ba là y cứ theo vô sở; bốn là y cứ theo vô khuyết; năm là y cứ theo vô động; sáu là y cứ theo vô năng; bảy là y cứ theo vô tác. Y cứ theo vô dị để phá, văn có hai: Một nói về thể đồng, hai là nêu dụ, thể của dụ là đồng. Vì sao? Vì người mê hoặc đều cho rằng phiền não và trí tuệ như nước và lửa, cần phải tu tập trí tuệ để phá phiền não. Từ Biệt giáo trở xuống đều như thế cả, nên Bồ-tát Sư Tử Hống mới dùng đó để lập câu hỏi, mong được nghe điều khác lạ. Đức Phật dùng Viên phá Biệt. Thế nào là trí tuệ, thế nào là phiền não? Đó đều là giải và hoặc của pháp giới, giải và hoặc đồng thể chẳng hai, chẳng khác. Nếu khi mê hoặc thì toàn thể là hoặc, ngoài hoặc không có trí; nếu khi giải ngộ thì toàn thể là Giải thoát, ngoài giải ra thì không có hoặc. Kinh nói phiền não tức Bồ-đề, Bồ-đề tức phiền não. Kinh lại nói ngoài pháp tánh chẳng có pháp, ngoài pháp thì chẳng phải pháp giới. Nếu như thế, thì khi có phiền não, không có trí tuệ, vậy có gì để nói là phá? Nếu có trí tuệ thì không có phiền não, vậy có gì để phá mà nói là trí tuệ hay phiền não? Kinh lại nêu khi sáng thì không tối, khi tối thì không sáng để làm dụ. Pháp Viên giáo này văn, lý đều rõ ràng, chẳng nên theo cách giải thích nào khác. Từ câu: “Ai có trí tuệ? v.v…” trở xuống là ý thứ hai, y cứ theo vô hữu để phá. Văn có hai: Trước vặn hỏi về nhân và pháp, kế là kết luận không có nghóa phá. Từ Tam Tạng giáo đến Biệt giáo chẳng thể đạt được pháp giới viên dung, ngã pháp đều quên. Hàng Nhị thừa còn chấp y của ta, bát của ta, Bồ-tát thì còn tu tập trang nghiêm cõi nước, hóa độ chúng sinh, người và ta vẫn còn; trí, đoạn đều đã chứng đắc, như thế thì vẫn còn có “ai”, chưa thể nói là không có “ai”. Đức Phật dùng viên pháp vặn hỏi, chỉ nơi trí tuệ này là phiền não, ai dùng phiền não dứt phiền não; chỉ ngay nơi phiền não này là trí tuệ, ai lại dùng trí tuệ dứt trừ trí tuệ? Phiền não dứt phiền não còn không có, thì đâu thể có trí tuệ dứt trí tuệ? Vì kết luận như văn trên đã ghi. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là ý thứ ba, y cứ theo vô sở để phá. Văn có hai: Trước gồm đến mà chẳng đến, sau gồm kết luận không có nghóa phá. Vì sao? Vì trí tuệ là pháp giới, dù cho ra ngoài pháp giới có phiền não, dùng trí tuệ trong pháp giới để phá phiền não ngoài pháp giới, như vậy là đến nơi ấy để phá hay chẳng đến nơi ấy để phá? Nếu chẳng đến nơi của phiền não mà phá được, thì phàm phu chẳng thể đến lẽ ra cũng phá được? Còn đến nơi ấy để phá, thì niệm đầu tiên liền phá hay niệm sau mới phá? Nếu niệm đầu tiên chẳng phá thì niệm sau cũng chẳng thể phá. Vì thế kết luận rằng: “Đến hay chẳng đến đều có thể phá”, thì nghóa này chẳng đúng. Ngoài pháp giới không có pháp, nên không có nơi chốn. Từ câu: “lại nữa v.v…” trở xuống, là ý thứ tư, y cứ theo vô khuyết để phá. Trước y cứ theo pháp để chánh phá, sau đó là nêu dụ. Ý nói trí tuệ là pháp giới, tròn đầy không thiếu sót, trí tuệ tức là giới định, bình đẳng không khác nhau, vậy thì đâu thể cho là ngoài pháp giới mà còn có các duyên phụ để cùng phá phiền não ngoài pháp giới. Đã không có các duyên phá, thì đơn độc cũng chẳng thể phá. Nêu dụ người mù, dù một người hay nhiều người cũng đều chẳng thấy sắc. Như đơn độc hay gom nhiều duyên cũng đều là nghóa thiếu sót. Từ câu: “Này Thiện nam!” v.v… trở xuống là ý thứ năm, y cứ theo vô động để phá. Văn có hai: Trước nêu đồng loại để phá, sau kết luận phá. Như tánh của bốn đại chẳng thể động chuyển, lại chẳng có một vật nào biến động bốn đại làm cho mất bản tánh của nó. Phiền não cũng như thế, đồng tánh với trí tuệ, tánh của trí tuệ tự dứt, tánh của phiền não cũng tự dứt, vì sao lại dùng đoạn làm năng đoạn để đoạn? Kế là kết phá. Văn ghi: Tỳ-bà-xá-na chắc chắn chẳng thể phá các phiền não. Từ câu: “Nếu muốn tánh mặn v.v…” trở xuống là đoạn sáu, y cứ theo vô năng để phá. Văn có bốn: Một là đoạt, hai là buông, ba là đoạt, bốn là buông. Đầu tiên nêu muối, mật để chuyển người đồng với mình, tức là đoạt; trí tuệ chẳng thể như muối và mật, pháp chẳng diệt, thì trí tuệ chẳng thể gượng diệt, trí tuệ không có công năng dứt hoặc, kế đến là buông. Dẫn muối hay là vật mặn, nghóa là buông; Trí tuệ có thể diệt phá, nhưng trí tuệ tự niệm diệt, thì đâu thể khiến pháp khác diệt, như người tự chìm thì đâu có thể vớt được người khác Thứ ba, Từ câu: “Tất cả pháp v.v…” trở xuống là lại đoạt. Chính là dùng tánh diệt để đoạt, tức trí là tánh diệt thì chẳng thể khiến cho phiền não diệt. Thứ tư, từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là lại buông. Nêu lửa đốt búa, chặt tìm chỗ diệt chẳng thể được. Một lần buông đoạt ở trước nói vô thường, khổ, không và duyên tu v.v… trí tuệ tự vô thường thì đâu thể dứt hoặc, rõ ràng sẽ tự thấy. Một lần buông đoạt, sau cật vấn, chẳng thấy nơi chốn của năng đoạn và sở đoạn. Đây là phá biệt hoặc ngoài pháp giới, bị trí đoạn vì sao chẳng thấy nơi chốn, như lửa cháy còn tro, như búa chặt có dấu vết. Nếu chẳng có tro và dấu vết thì không có hoặc để phá; đã không có hoặc thì trí tuệ phá cái gì? Dùng Viên phá Biệt, văn nghóa thật rõ ràng. Từ câu: “Tất cả pháp v.v…” trở xuống là ý thứ bảy, y cứ theo vô tác để phá, cũng gọi là tổng kết các ý trước. Nói tánh các pháp tự không thì cái gì khiến cho sinh diệt, không có người tạo tác, như thế thì đâu được nói trí tuệ phá phiền não.Từ câu: “Nếu tu tập định v.v…” trở xuống là đoạn hai, nêu Viên dung vô cùng, Định, Tuệ đều là pháp giới, chẳng phải chỉ có tuệ mới dứt hoặc mà định cũng có thể dứt hoặc. Văn có bốn ý: Một, là nói Định, Tuệ có đủ trong nhau, cũng đầy đủ tất cả pháp; hai, là nói Định, Tuệ tức nhau, tức tịch mà đoạn, tức đoạn mà tịch; ba, là nói về danh tướng của Định, Tuệ; bốn, là nói về tự tại thích ứng với thời. Bốn đoạn này là ý bốn Tất-đàn, trong đó Định, Tuệ chỉ có Tam-bồ-đề là Đệ nhất nghóa; ngay nơi tịch mà đoạn là đối trị; Danh tướng của Định, Tuệ là thế giới; hợp thời là vị nhân. Thứ nhất gồm ba ý: Một, là Nơi Định có Tuệ tức là chánh tri kiến. Hai là Định có đủ các pháp sinh diệt vô thường của thế gian, dẫn chứng kinh. Ba là đầy đủ Tam-bồ-đề. Định là pháp giới chứa đựng tất cả, Tuệ và Xả cũng giống như thế. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là nói về Định, Tuệ tức nhau, nếu nói giúp nhau thì nghó quá sơ lược. Văn có hai đoạn: Trước nói tức Định mà Tuệ, kế là nói tức Tuệ mà Định. Trong văn thứ nhất có nêu tám dụ, dụ cho tức định mà tuệ khéo dứt hoặc; kế là nói hàng phục năm căn, để nói ngay nơi tuệ mà định, thì an ổn ở nơi nguy ách, lợi ích ở nơi giảm tổn. Nói Ngãi gian (cắt cỏ), Kinh Thi nói: Bạch mao gian hề: Truyện ghi: “Vô khí gian”. Nhó nhã nói: “Bạch hoa giả gian” (Hoa trắng cỏ hoang); Quách Phác nói: Mao là giống. Âm là oa, Phương ngôn cho rằng người Quan Tây gọi phủ là oa, như loại nồi ở phương Nam. Người thời gần đây dùng vật này để chứa vàng nấu chảy. Kế là, văn có hai: Một là chiùnh thức giải thích; hai từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là nói về công năng, như văn kinh có ghi. Từ câu: “Định tướng v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về danh tướng. Không danh mà có danh, duyên tướng nhất thật mà nói ba tướng. Y cứ ba tướng mà đặt ba tên, danh tướng đều là pháp giới, đầy đủ tất cả pháp. Định mà không có tướng định nên gọi là không, Tuệ thì đạt được pháp thanh tịnh, nên không nguyện cầu; xả thì không còn năng sở nên không có tướng. Từ câu: “Nếu có Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, tự tại, hợp thời khéo sử dụng. Văn có hai: trước nói đúng thời và phi thời, sau là hỏi đáp. Trong phần đáp có nói về đúng thời và phi thời của ba pháp, tức là tự thực hành bốn Tất-đàn. Nói thọ an vui, v.v… sinh đại ngã mạn thì nên tu định, đó là khéo dùng Vị nhân Tất-đàn; nói tinh tấn v.v… khởi tâm hối hận thì cần phải tu tuệ, đó là khéo tu Đối trị Tất-đàn; hai pháp bình đẳng thì nên xả, tức khéo dùng Đệ nhất nghóa Tất-đàn; nói khi khởi phiền não thì nên đọc tụng mười hai bộ kinh, thực hành sáu niệm, tức khéo dùng Thế giới Tất-đàn. Kinh nói: “Tu tập ba tướng, nhờ nhân duyên này mà thành tựu Niết-bàn vô tướng”, đã nói nhân duyên tức là khéo tu tất đàn, từ nhân duyên mà thành tựu Đại Niết-bàn. Lại nói nên tu tâp định, tức là môn Hữu, tu tập tuệ tức là môn Không, tu tập xả tức là môn phi hữu phi không, nên tu tập mười hai thể loại kinh, sáu niệm v.v… là môn vừa Không vừa Hữu. Từ nhân duyên bốn môn mà thành Đại Niết-bàn. Lại nên khéo lập bốn Tất-đàn hóa tha, nhưng sợ văn dài dòng nên chẳng nói, người tu hành phải có đầy đủ. Từ câu: “Nếu có Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói lực dụng của tu đạo. Văn có hai: Đầu tiên nói về cảm vui mà được Niết-bàn, sau đó nói về lìa khổ chuyển chướng. Văn thứ nhất lại có hai: Thứ nhất nói được Niết-bàn. Kế là nói nghóa, có hai phen hỏi đáp. Tu cả ba pháp thì được Đại Niết-bàn, nên phải hỏi về tướng của ba pháp. Văn có hai: Đầu tiên nhắc lại không có mười tướng là Đại Niết-bàn. Đức Phật đáp xong thì đã lãnh hội được, nhưng còn những ý khác thì chưa hiểu, nên mới dùng mười pháp làm câu hỏi. Khai Thiện gọi các lửa kết sử diệt là diệt độ để dịch từ Niết-bàn; Trang nghiêm lấy ý lìa giác quán là Niết-bàn để bác bỏ Khai Thiện rằng: Trói buộc hết gọi là diệt độ, ràng buộc hết gọi là Niết-bàn, vì sao lại dùng văn nói Tử phược để dịch quả Niết-bàn? Khai Thiện giải thích rằng: Nếu giữ đủ ý của từ Phạm thì Tử phược tận và quả phược tận đều gọi là Giải thoát; hữu dư vô dư diệt đều gọi là diệt độ. Nhưng người dịch kinh khéo dùng từ, nên gọi Tử phược tận là diệt độ, quả phược tận thì giữ nguyên âm là Niết-bàn Giải thoát. Nhưng trong văn này mười lời đáp đều là đáp về viên đức của Niết-bàn, hai sư mỗi vị chấp một câu mà khởi lên tranh luận, tức do giải nghóa mà sinh phiền não, lại đồng ý với người mù sờ voi. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là hỏi lại. Đã nghe mười nghóa, nhưng chưa biết người tu sẽ tu tập mấy pháp để được Đại Niết-bàn. Kế là từ câu: “Phật đáp v.v…” trở xuống là Đức Phật đáp. Ý đáp là: Mười pháp nói trên chỉ là quả Niết-bàn, quả thì khác nhau, nếu muốn tu hành, phải có đủ mười pháp. Văn gồm ba phần là nêu tên, giải thích và kết luận. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về lìa khổ chuyển chướng. Văn có hai ý: Một là nói về nghiệp chướng được chuyển; hai nói về đạo đối trị năng chuyển. Có hai phen hỏi đáp: Phen thứ nhất nói về nghiệp bất định, nên chướng có thể chuyển; kế là nói về nghiệp bất định nên có thể tu tập chánh đạo. Phen hỏi đáp thứ nhất lại có hai: Trước hỏi về nghiệp thiện, sau hỏi về nghiệp ác. Hỏi về nghiệp thiện có năm câu: Một là nói vô cùng, hai là nói nhất định, ba là nói lại về vô cùng, bốn là nói lại về nhất định, năm là nêu dụ để kết thúc câu hỏi. Thứ nhất lại có ba: Một là khai lời hỏi, hai là lãnh chỉ, ba là kết thành câu hỏi. Đầu tiên nêu việc Thuần-đà là muốn lập lý do cho lời hỏi. Từ câu: “Như lời Phật dạy v.v…” trở xuống là lãnh chỉ. Nói bố thí cho súc sinh được phước gấp một trăm lần, bố thí cho Nhất-xiển-đề phước gấp một ngàn lần, vì súc sinh trước kia gây nhân ác nên nay chịu quả báo thấp hèn; còn Xiển-đề thì nhờ phần nhân đời trước thiện nên nay được quả báo tốt hơn, vì vậy được phước có một trăm, một ngàn khác nhau. Hỏi: Văn trên nói giết súc sinh thì bị tội nhẹ, còn giết Xiển-đề thì vô tội, ý này thế nào? Đáp: Súc sinh không có lỗi dứt mất gốc thiện và phỉ báng pháp, còn Nhất xiển đề thì có tội này. Từ câu: “Nếu Thuần-đà v.v…” trở xuống là kết thành câu hỏi. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là hỏi về nhất định. Văn có hai: trước là lãnh chỉ. Kế là chánh thức đặt câu hỏi. Thứ tư là từ câu: “trong kinh lại nói v.v…” trở xuống là nói lại nhất định. Thứ năm, từ câu: “A-ni-lâu-đà v.v…” trở xuống là nêu dụ để kết thúc câu hỏi. Từ câu: “Đức Phật bảo v.v…” trở xuống là ý thứ hai là đáp, trước là khen câu hỏi, sau là trả lời. Đáp có hai: Đầu tiên là nói về duyên khổ, kế là chánh đáp. Đầu tiên khen ngợi nghiệp lực sâu, là đáp câu hỏi duyên khởi. Nhưng mười lực của Phật cũng không có hơn kém, chỉ thuận theo cơ nghi mà nói như thế. Hơn nữa, nghiệp nhẹ hay nặng, định hay bất định đều khó biết, người khác chẳng hiểu nên gọi là Đại. Từ câu: “Có các chúng sinh v.v…” trở xuống là phần chánh đáp, có bốn ý: Một là khai quyền, hai là hiển thật, ba là giải thích quyền, bốn là giải thích thật. Thứ nhất là khai quyền. Vì người chẳng tin, nên nói là quyết định. Từ câu: “Các nghiệp tạo ra v.v…” trở xuống là hiển thật. Nghiệp bất đồng có nhẹ và nặng, có định và bất định, đâu được một bề cho là quyết định? Từ câu: “Hoặc có người v.v…” trở xuống là giải thích Quyền. Chỉ vì kẻ tà kiến chẳng tin, nên mới nói là quyết định. Từ câu: “Hoặc có nghiệp nặng v.v…” trở xuống là giải thích Thật, trước nêu người ngu và người trí. Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nêu cả hai chuyển. Người trí chuyển nặng thành nhẹ, định thành bất định; người ngu chuyển nhẹ thành nặng, bất định thành định. Nếu như thế v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Nói nghiệp bất định, nên tu tập được chánh đạo. Ý lời hỏi có hai: Một, là vì nghiệp bất định, thì đâu cần tu phạm hạnh để cầu Niết-bàn? Hai là vì nghiệp thiện bất định, nên cũng đâu cần dùng phạm hạnh để cầu Niết-bàn? Đức Phật đáp câu hỏi này, văn rất rộng, nghi hoặc được phá rất nhiều, nên chẳng thể chẳng nói tỉ mỉ. Nếu chẳng hiểu thì chẳng thành tựu Nhất hạnh. Cho nên văn này hơi dài. Văn có bốn đoạn: Một là nói nghiệp bất định nên mới tu chánh đạo, hai là nói định nghiệp có nhiều lỗi, ba là nói cả nghiệp định và bất định, bốn là kết luận bất định, nên có tu chánh đạo. Văn thứ nhất lại có hai: Trước là nói về bất định, sau nói về thiện ác lấn đoạt lẫn nhau. Nói về bất định lại chia làm hai: Trước nói nếu nhất định thì chẳng cần tu tập. Thứ hai nói vì bất định nên phải tu đạo. Từ câu: “Nếu xa lìa được v.v…” trở xuống là nói thiện ác lấn đoạt nhau. Vì ác bất định nên có thể làm thiện, vì thiện bất định nên có thể làm ác. Từ câu: “Nếu tất cả v.v…” trở xuống là thứ hai nói nếu nhất định thì nhiều lỗi, văn có hai đoạn: Trước nói nếu nhất định thì không có tu đạo; kế là nói nếu nhất định thì nhiều lỗi. Thứ nhất lại có hai: Một là sơ lược; hai, là nói rộng. Sơ lược có hai ý: Một nói nếu nhất định thì không có tu đạo. Kế là nói nếu chẳng tu đạo thì không Giải thoát. Từ câu: “Nếu tất cả v.v…” trở xuống là nói rộng, văn cũng có hai, trước nói rộng nếu nhất định thì không cần tu tập. Từ câu: “Nếu xa lìa v.v…” trở xuống là nói rộng nếu không tu tập thì không mong có ngày Giải thoát. Từ câu: “Nếu tất cả v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói nếu là nhất định thì có nhiều lỗi. Văn có hai: Một, là nói lỗi của nghiệp nhất định; hai, là nói lỗi của người và thời nhất định. Văn trước lại chia làm hai: trước nói là có lỗi, thì lẽ ra chỉ tạo một nghiệp thiện hay ác thì mãi mãi được quả thiện hay chịu quả báo ác, không có ngày thiện ác chấm dứt. Từ câu: “Nếu nghiệp quả v.v…” trở xuống là kết luận nói không có tu đạo. Từ câu: “Người làm v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về lỗi nếu người và thời quyết định. Văn có hai: Trước nói về lỗi, sau kết luận nói chẳng tu đạo. Thứ nhất lại có hai, đầu tiên nói về lỗi người nhất định. Nếu nghiệp nhất định thì đường sáu, trời người v.v… sang hèn, đẹp xấu mãi mãi như thế, chẳng thể thay đổi. Từ câu: “Lúc nhỏ v.v…” trở xuống là nói lỗi của thời gian nhất định. Nếu lúc nhỏ tạo nghiệp thì lúc nhỏ chịu báo, tuổi tráng niên và tuổi già cũng giống như thế. Kế là từ câu: “Nếu nghiệp v.v…” trở xuống là kết luận không tu thánh đạo. Từ câu: “Nghiệp có hai v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói rộng về nghiệp có định và bất định. Văn có hai: Trước nêu hai chương, sau là giải thích. Nghiệp có bốn câu: Một, là báo định, thời bất định; hai là thời định, báo bất định; ba là cả hai đều định; Bốn là cả hai đều bất định. Nay hợp thành hai chương: Báo định, Thời bất định. Từ câu: “Duyên hợp v.v…” trở xuống là giải thích; Trước là giải thích Báo định, Thời bất định. Nói Thời bất định tức ở ba thời gian: hiện đời, đời kế và đời sau lẽ ra chịu báo mà chẳng chịu, đây là mãi mãi chẳng thọ, phải là thời bất định. Nói báo định tức các nghiệp báo thiện ác đã có chỉ đợi duyên hợp là thọ, không sai mảy may. Từ câu: “Nếu tịnh tâm v.v…” trở xuống là chương hai, giải thích cả hai đều định. Văn có ba: Một là giải thích báo định; hai là thời định; ba là kết luận hai môn. Thứ nhất lại có ba: một, là nói về định nghiệp; hai là nói về bất định; ba là giải thích nghi và chứng chuyển. Thứ nhất nói về định nghiệp: Có bốn trang nghiêm là: tín tâm, hoan hỉ, phát nguyện và cúng dường. Đây là nói dùng bốn việc của nghiệp thiện để trang nghiêm. Nghiệp ác cũng như thế: một là tin ác; hai là hoan hỉ với điều ác; ba là phát nguyện ác; bốn là cung cấp cho ác đảng, lấy đây mà tô điểm cho nghiệp ác. Từ câu: “Người trí v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói nghiệp này nếu gặp duyên thì chuyển thành bất định. Văn có ba: Một là người trí chuyển nặng thành nhẹ. Hai, người ngu chuyển nhẹ thành nặng. Thứ ba kết luận là bất định. Từ câu: “Bồ-tát Ma-ha-tát v.v…” trở xuống là ý thứ ba giải thích nghi và chứng chuyển. Sợ chúng sinh nghi khi thấy bậc thánh mà còn đọa vào địa ngục, thì há chẳng phải là định nghiệp hay sao? Nên nay giải thích việc thọ sinh đó chẳng phải là nghiệp của họ, mà là do nguyện lực thọ sinh để độ chúng sinh. Cho nên kết luận rằng: Chẳng phải hiện đời, đời kế tiếp và đời sau sẽ chịu quả báo này. Nói chứng chuyển, nghóa là văn trước tuy đã nói ngu trí chuyển nghiệp mà chưa thấy sự chứng ngộ, nên bây giờ nói bậc Thánh vào đường ác giáo hóa chúng sinh. Nếu nghiệp chẳng chuyển thì ở đó cũng vô ích, nếu đã có ích thì biết sẽ chuyển được. Văn có sơ lược và nói rộng. Từ câu: “Ta nhớ khi xưa v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích nhất định. Trước giải thích hiện báo, kế là kết luận đời kế và đời sau. Hiện báo lại có hai phần: Trước nói bị Điều-đạt làm hại, tức là hiện báo. Kế là nói Ca-la-phú làm hại. Tiểu Bát-nhã ghi là tiên Ca-lợi. Kinh Hiền ngu cũng gọi là Ca-lợi. Thích luận ghi là Ca-lê, chỉ là một người, nhưng dịch âm Phạm khác nhau. Nói Nhẫn nhục là giới. Theo thứ lớp sáu độ dung nhiếp nhau thì đều chẳng nói Nhẫn là Giới, nay nói Nhẫn là giới là vì sao? Ở đây là nói Giới và nhẫn nương nhau mà thành tựu. Nếu giới bên trong sáng suốt thì bên ngoài thanh tịnh; Nhẫn chỉ là nhẫn đối với sát, đạo, dâm, vọng; còn giới thì ngăn chặn các điều ác này. Vì thế, Nhẫn có năng lực giúp cho thành tựu giới, cho nên nói Nhẫn là giới. Ở đây nói Nhẫn là pháp giới, đầy đủ tất cả pháp, chẳng thể nói hết, chỉ mới nêu một mối, nên nói Nhẫn là giới. Thuyết văn nói: Tỷ là xẻo mũi; hónh là chặt chân. Từ câu: “Nghiệp thiện sinh báo hậu báo, v.v…” trở xuống là đoạn hai, kết luận hai báo. Từ câu: “Bồ-tát v.v…” trở xuống là kết luận cả báo và thời nhất định. Văn có hai: một, là song kết; hai, chỉ kết luận về thời. Thứ nhất như văn kinh nói: Nhất-xiển-đề, người phạm bốn giới trọng, năm tội nghịch, không cảm quả báo ở hiện đời và đời sau mà chịu quả báo ở đời kế tiếp. Đó là thời gian và quả báo quyết định. Văn ghi: “Khi được Bồ-đề thì tất cả các nghiệp đều có quả báo ở hiện đời, vì bấy giờ Bồ-tát đã dứt trừ hết tất cả kết hoặc, không còn sinh báo và hậu báo. Chỉ còn một đời nữa là thành Phật, nên nói được hiện báo. Lại có người giải thích rằng: Nói một đời thì đồng với phần đoạn, chẳng gọi là hiện báo, vì tăng thêm một phẩm trí đoạn nên nói là một đời, tuy một đời nhưng vẫn gọi là hiện báo. Có cách giải thích khác: Chỉ có Pháp thân Phật mới có hiện báo này; hoặc giải thích rằng thân Phật thùy tích mới hiện báo, tức nói về Ứng thân. Từ câu: “Nếu nghiệp v.v…” trở xuống là ý thứ hai, chỉ kết luận về thời gian nhất định. Chính vì thời gian nhất định, nên chỉ được hiện báo, chẳng được sinh báo và hậu báo. Vả lại, tu ba mươi hai tướng chẳng được hiện báo, vì nghiệp này khó thành, là nhân của quả Phật, nên không được quả báo hiện tại. Từ câu: “Nếu nghiệp v.v…” trở xuống là một câu, giải thích môn bất định. So sánh với văn trên sẽ tự biết, nên chẳng cần nói nhiều. Từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, kết luận thành bất định nên có tu Thánh đạo. Văn có hai: đầu tiên kết luận nếu nhất định là sai. Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là kết luận nếu nói bất định là đúng. “Có hai hạng người v.v…” trở xuống là nói về chuyển chướng tu đạo. Văn có ba: một là người chuyển chướng; hai là hạnh chuyển chướng; ba, là tướng chuyển. Văn thứ nhất lại có hai: Trước là pháp thuyết, kế là nêu mười hai dụ. Hai dụ đầu và cuối thì có hợp, mười dụ giữa không có hợp. Trong mười dụ này, dụ thứ chín nói không có trục phụ, có hai thuyết: một, cho rằng cỡi xe đi xa phải chuẩn bị sẳn các trục để ngừa khi trục bị gẫy hoặc bị hư, như xe vua có chuẩn bị các con trâu phụ để thay đổi khi mỏi mệt; hai là cho rằng viết lầm, lẽ ra phải ghi là bức trục, tức bánh xe có căm và trục, nếu muốn cỡi xe thì xe phải có hai bộ phận này. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về hạnh chuyển chướng, có hỏi đáp, phần hỏi có hai là lãnh chỉ và thưa hỏi. Ý hỏi là: “Vì sao nghiệp nhẹ mà chịu báo nặng, nghiệp nặng mà chịu báo nhẹ? Phật đáp có ba ý: Một là nêu ngu trí hai người tạo nghiệp nặng nhẹ khác nhau; hai là gồm có sáu phen; ba, là nêu mười bốn dụ và các tạp dụ khác. Văn thứ nhất có hai: trước nêu người, kế nêu pháp thuyết để nói rộng về tướng trạng. Nói thân giới tâm tuệ, nếu hợp chung mà nói thì chỉ là giới và tuệ. Như thế tu giới và tuệ có công năng giúp cho nghiệp nặng thành nhẹ. Không tu hai việc này thì khiến nhẹ thành nặng. Nếu phân biệt ra thì nói là tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ. Thân có bảy chi, giới để ngăn ngừa ý, tu tâm tức nhiếp tịnh, tu tuệ tức Bát-nhã. Bảy thứ tịnh tức bảy chi giới. Chẳng tu tâm tức chẳng tu ba tướng nhập, trụ, xuất; lại chẳng thể quán ba tướng sinh, trụ, diệt là vô sinh, vô trụ, vô diệt. Chẳng tu tuệ tức chẳng tu phạm hạnh, trong phạm hạnh có ba pháp đều lấy tuệ làm chính. Kế là nêu sáu phen. Nói thân số tức năm ấm, năm căn, bốn đại v.v…, nói hạ giới tức giới gà, giới chó, giới heo, giới tró v.v… lại nói vì năm dục cõi trời mà giữ giới cũng gọi là hạ giới. Về giới biên, Hà Tây cho năm giới của ngoại đạo, chẳng phải trong Phật pháp; nội pháp thì gọi là trung, nên gọi ngoại giới là biên. Có chỗ nói cùng tận bờ mé ác trụ (ác dục biên), như giữ giới lạc là tận cùng lạc biên, giữ giới khổ là cùng tận khổ biên, bốn pháp kia cũng như thế. Ở trên nói Thần lửa, lửa là miệng của trời, nếu dâng cúng cho trời thì chỉ nướng các loài cá, hơi khói này bốc lên, trời sẽ hưởng được hơi này, nên nói là miệng của trời, vả lại ngoại đạo thờ lửa. Lấy lửa làm thầy, lại dùng lửa này cúng dường cho thầy, vì để tôn kính vị thầy nên gọi lửa là miệng trời. Cuối cùng là phần tạp dụ có nói tơ đâu-la, tức tơ hoa cây dương liễu. Thân là thân tám thước (2m 4); tướng là năm bào; nhân là ăn uống; quả là năm giới ở quá khứ cảm thành thân; tụ là năm ấm nhóm họp, thân một tức gom chung giả và thật hợp thành một thân; thân tức thân do bốn đại hòa hợp mà thành, thân này là tự thân, thân kia là thân của người khác; lại thân này là thân do nghiệp lực tạo thành, thân kia là di thể; thân diệt tức niệm niệm chẳng dừng; thân bình đẳng, tức quán thân và hư không bình đẳng. Lại nói sáu đường mỗi đường đều có thân, nên nói là “Đẳng”; Thân tu là pháp được tu tập; người tu là người năng tu tập, tức là nhân và pháp. Giới và Tuệ cũng như thế. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về tướng nghiệp chuyển. Văn có hai phen hỏi đáp. Đầu tiên hỏi: Thế nào là chuyển nhẹ thành nặng; sau hỏi: Thế nào là chuyển nặng thành nhẹ. Lời đáp như văn kinh có ghi. ------------------------------------ PHẨM SƯ TỬ HỐNG (PHẦN 6) Bắt đầu là phần thứ tư của quyển là khuyên tu, văn có hai đoạn; một là nêu pháp để khuyên tu; hai là nêu người để khuyên tu. Trong đoạn nêu pháp, trước hỏi sau đáp. Hỏi có ba ý: Một là hỏi về có năng lực của Phật tánh, nên lẽ ra đồng được Niết-bàn, đâu có sáu đường khác nhau? Hai, là hỏi có Phật tánh, lẽ ra tự được Bồ-đề, đâu cần tu đạo? Ba, là hỏi đã có Phật tánh tức chẳng thể hấp thu được Bồ-đề? Câu hỏi thứ nhất, trước là lãnh chỉ, sau là hỏi. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ hai, gồm có bốn ý là lãnh chỉ, lập dụ, hợp dụ và kết luận câu hỏi. Từ câu: “Nếu Nhất-xiển-đề v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ ba, gồm có pháp, dụ và hợp. Phật đáp có hai là chánh đáp và tổng kết. Phần chánh đáp có bốn: một, trả lời câu hỏi về đều được Niết-bàn; hai, là trả lời câu thu hút Bồ- đề; ba là trả lời câu hỏi chẳng tu tập Thánh đạo; bốn là trả lời lại câu hỏi về thu hút. Câu trả lời đầu tiên có dụ, hợp và kết. Trong dụ trước nêu chung đại ý, như bên sông có bảy người đầy đủ tay chân, nhưng có người qua được, có người không qua được. Kế là nêu riêng bảy người, đầu tiên nêu riêng bảy người, hai người đầu dụ cho ngoại phàm, một người kế là nội phàm, bốn người sau là bậc Thánh. Ngoại phàm một là hạng Xiển- đề cực ác, và một người sắp được nhập mà lui sụt nên nói là hai người. Hàng nội phàm có năm phương tiện, nhưng đều kể là một, vì tuy có hơn kém nhau, nhưng đều chưa phá chân. Bậc Thánh gồm có bốn, tức Thanh Văn chưa phá trừ tập khí, Duyên giác đã phá trừ tập khí, Bồ-tát đã phá trừ tập khí, lại giáo hóa chúng sinh, Phật thì tập khí đã dứt hết. Nếu không giải thích như thế thì không có cách nào khác hơn. Ở trên nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, vì sao không đều được Niết-bàn? Vì muốn hiểu rõ nên lại lập dụ một con sông và bảy người khác nhau. Kinh này trước sau có nói về sáu con sông lớn đó là: Sông sinh tử, sông Niết-bàn, sông phiền não, sông Phật tánh, sông pháp thiện, sông pháp ác; từng cặp đối đãi nhau. Như sinh tử thì nói là ra khỏi, chẳng ra khỏi; Niết-bàn thì nói là được nhập, chẳng được nhập; phiền não thì nói là dứt và chẳng dứt; Phật tánh thì nói là thấy và chẳng thấy; pháp ác thì nói là lìa bỏ và chẳng lìa bỏ; pháp thiện thì nói là cùng cực và chẳng cùng cực. Trong đây chính là muốn dùng sông Hằng dụ cho sinh tử. Trong phẩm Ca-diếp, Đại Niết-bàn được dụ cho sông, trong sông có bảy hạng người khai hợp khác nhau. Phẩm này nói bảy hạng người, phẩm sau nói bảy hạng chúng sinh. Ở đây hợp bốn quả thành một người thứ tư, chia Ba thừa thành ba hạng người. Phẩm sau chia bốn quả thành bốn hạng nguời, hợp Bích-chi-Phật, Bồ-tát và chư Phật thành người thứ bảy. Đến văn sau sẽ phân biệt rõ. Nói tắm gội dụ cho người xuất gia thọ giới, tự thân thanh tịnh. Sợ cuớp biển là dụ cho phiền não; hái hoa có hai cách giải thích: một, cho là hoa thất tịnh, tức là cầâu nhân; hai, cho rằng là dạo đi trong hoa giác, tức là cầu quả. Người xuất gia lẽ ra phải ra khỏi dòng sông, nhưng ở đây nói vào là muốn nói sinh tử Niết-bàn không khác nhau, phải ở trong sinh tử mà cầu Niết-bàn. Từ câu: “Người thứ nhất, v.v…” trở xuống là nêu riêng bảy người. Người chìm thứ nhất là Xiển-đề, do nhân thiện ở quá khứ đã kém, hiện tại lại chẳng tu nên nói là chẳng biết bơi. Người thứ hai sắp vào được mà lại lui sụt, nói thân có sức mạnh tức nhân thiện quá khứ sâu dày, nhưng đời này chẳng tu tập, nên gọi là chẳng biết bơi, cắt đứt gốc thiện. Người thứ ba nổi lên và trụ vững dụ cho hàng Nội phàm; nói chìm rồi nổi tức là ngày xưa đã chìm. Người thứ tư là bốn quả dụ cho bốn phương; văn sau dùng dụ bốn phương với bốn đế chứ chẳng phải dùng dụ này. Văn kinh lại ghi: “Vì chẳng chỗ nào thoát ra nên quan sát phương hướng”, vì xưa chẳng biết chỗ thoát ra, nên chẳng quán sát, nay đã biết chỗ, nên nói quán sát phương hướng. Vả lại chẳng biết chỗ thoát ra của Đại thừa nên giữ lấy quả Tiểu thừa. Người thứ năm là Bích-chi- Phật, cũng nói quan sát phương hướng, vuợt trên bốn quả; vì lợi căn nên chẳng chấp bốn quả, nhưng vì tự chứng cho nên nói là “bơi đi”, còn sợ sinh tử nên nói là “sợ hãi”. Người thứ sáu là Bồ-tát, xuống nước liền bơi đi mà chẳng trụ lại, tức chẳng trụ sinh tử; trụ nơi cạn mỏng, tức tâm an ổn nơi sinh tử; Luận theo tâm nên nói là nơi cạn mỏng. Người thứ bảy là chư Phật. Từ câu: “Sông lớn sinh tử v.v…” trở xuống là ý thứ hai hợp dụ, trước là hợp thí dụ chung. Sợ giặc phiền não là hợp với câu: “sợ hãi giặc cướp” ở trước, “nếu phát tâm muốn qua” là hợp với câu “Xuống sông “, “xuất gia cạo tóc” là hợp với tắm gội, thân mặc pháp phục là hợp với việc hái hoa ở dụ trước. Từ câu: “Đã xuất gia v.v…” trở xuống là hợp với bảy người trong dụ riêng. Đầu tiên hợp với người thường chìm, tức Nhất-xiển-đề. Ở đây là hợp sơ lược. Từ câu: “Có sáu nhân duyên v.v…” trở xuống là hợp rộng. Năm bộ tăng, có hai cách giải thích: một, cho là năm chúng, là nói lỗi của năm chúng; hai, cho là năm bộ luật, sau khi Phật diệt độ hơn một trăm năm, vua A-dục lập đại hội, Thượng tọa Tha-tỳ-la lập nghóa, đại chúng Ma-ha Tăng-kỳ (Đại chúng bộ) không đồng ý, nên chia làm hai bộ. Về sau Thượng tọa lại chia làm hai bộ là Tuyết Sơn và Tát-bà-đa. Về sau bộ Tuyết Sơn tan rã, còn Tát-bà-đa rất phát triển; bộ Tăng-kỳ thì sinh ra ba bộ là Di-sa-tắc, Đàm-vô-đức và Ca-diếp-di, cộng với Ba- đa và Tăng-kỳ thành năm bộ. Như Lai biết trước về sau các đệ tử tranh nhau luận bàn đúng sai, nên trong kinh Đại Tập đã nêu trước năm bộ, như luận Tông luân đã nói rộng về việc chia thành hai mươi bộ. Việc này chẳng phải là điểm chính ở đây, nên chẳng nêu. “Người thứ hai v.v…” trở xuống là hợp với nghóa sắp nhập vào mà lui sụt. Tức hàng Ngoại phàm cũng có thể cắt đứt gốc thiện mà chẳng đồng như người chìm dưới sông Hằng. “Người thứ ba v.v…” trở xuống là hợp với hàng Nội phàm trụ vững. Hai vị Đại, Tiểu đều ở trong đó, há chẳng phải là ba người cùng ở một giai vị trong Thông giáo ư? Nếu giải thích theo nghóa của Biệt giáo, thì Đại thừa có khác, chẳng thể ba người đồng một vị; Hơn nữa văn kinh có ghi: “Tin Như Lai là Bậc Nhất Thiết Trí thường hằng bất biến, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”. Thuyết khác lại cho rằng đây là Ba thừa, sơ nghiệp (nội phàm của Thông giáo) chẳng mê lầm đối với pháp, như kinh Thắng Man đã nói, có liên quan rất nhiều đến văn này; nếu tin Như Lai là thường trụ bất biến, chúng sinh đều có Phật tánh, thì dường như có ý nghóa của Biệt giáo dùng tâm Đại Niết-bàn tu hạnh phương tiện vào được Phương tiện vị. Văn sau nói Tu-bạt đắc quả chính là nghóa này. Người thứ tư hợp bốn quả thành một vị, tức đã dứt chánh sử mà chưa dứt tập khí; người thứ năm là Bích-chi-Phật chỉ mới dứt trừ ít phần tập khí, người thứ sáu là Bồ-tát dứt trừ phần nhiều tập khí, lại thực hành giáo hóa chúng sinh, người thứ bảy là Phật, tập khí rốt ráo dứt hết. Vì nghóa này nên phân biệt bốn hạng người khác nhau; Đây là hàng Thông giáo; đã đầy đủ hai văn Kinh và Sớ, chẳng nên dùng một giáo để giải thích nghóa. Nay lập một nghóa, thì suy ra biết đó chỉ là nghóa Thông giáo, nhưng lấy sinh tử phần đoạn làm sông, dùng tâm Đại Niết-bàn phát tâm cầu mong vượt qua, nên có bảy hạng người khác nhau, nhưng đều có nghóa Phật tánh, đều được thành tựu Niết-bàn; Để trả lời câu hỏi trên phải giải thích như thế. Từ câu: “Các người v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba kết luận, trả lời câu hỏi: lẽ ra đều được Niết-bàn, đầy đủ tay chân là đáp đều có Phật tánh; biết bơi và chẳng biết bơi, qua được chẳng qua được là đáp câu hỏi chẳng đều được Niết-bàn. Văn có hai: Đầu tiên nói chẳng tu chẳng được không phải là lỗi của Như Lai; có dụ và hợp như văn kinh đã ghi. Kế là nói do tu mà được, nêu ba dụ. Thứ nhất là trước dụ sau hợp. Như Lai bình đẳng vì tất cả chúng sinh mà giảng nói phân biệt rộng mười hai thể loại kinh, mà có chúng sinh chẳng chịu thọ nhận, đó chẳng phải là lỗi của Như Lai. Nếu người tu tập Thánh đạo sẽ được Vô thượng Bồ-đề. Từ câu: “Thầy nói v.v…” trở xuống là đáp câu thứ ba; trước nêu lại câu hỏi để khen và chê. Nếu có tu tập thì sẽ không nghi ngờ gì, cho nên mới khen; nói chẳng cần tu tập, mà tự nhờ vào tánh để hấp thu thì chẳng đúng, cho nên chê trách. Từ câu: “Thí như có người v.v…” là dụ thứ hai chánh đáp, có hai: một, là đáp câu nếu tu sẽ được, nêu múc nước giếng để làm dụ. Giếng dụ cho thân năm ấm, khát nước dụ cho tâm chán khổ tìm vui, giếng sâu dụ cho lý tánh của thân tuy xa chẳng thấy được nhưng chắc chắn là có, múc nước dụ cho việc nhờ tu mà thấy tánh. Từ câu: “Phật tánh cũng như thế v.v…” trở xuống là hợp dụ. “Thí như v.v…” trở xuống là dụ cho việc chẳng tu thì chẳng thấy. Kế là hợp dụ. Từ câu: “Như thầy nói v.v…” trở xuống là đáp câu hai, có hai ý: trước là quở trách dẫn kinh sai lầm. Về lục trụ có hai cách giải thích: Một, cho là Lục trụ trong mười trụ; hai, cho là Lục địa trong mười Địa, ở Địa này, Bát-nhã hiện tiền, có nghóa là tự thiện bệnh. Đức Phật quở trách rằng: Ta nói gặp hay chẳng gặp thì bệnh cũng tự thiện là nói cho Bồ-tát Lục trụ nghe, chứ chẳng nói cho phàm phu, đây là nêu ra chỗ dẫn chứng sai lầm. Từ câu: “Thí như hư không v.v…” trở xuống là chánh đáp, có ba dụ. Có người cho rằng ở đây là nêu hư không mà mắt thế gian nhìn thấy để làm dụ, có người nói là dùng Không của Chân đế làm dụ, có người cho rằng đây là Không chẳng trong chẳng ngoài của lý. Trung luận nói: Hư không chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải trong chẳng phải ngoài; đây là dụ cho Phật tánh. Nói tài sản cất ở một nơi khác, tuy không được hiện dùng, nhưng đi đến đó lấy thì được, dụ cho Phật tánh tuy chưa thấy, nhưng nếu tu thì sẽ thể hội. Văn kinh có ghi: Tạo nghiệp, tạo dụ cho sơ tâm, nghiệp dụ cho tu tập, quả dụ cho thấy tánh. Trong đây có sáu câu: Chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải xưa nay không có, chẳng phải không có nhân mà xuất hiện. Từ câu: “Chẳng phải v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói tu tập thì sẽ được. Gồm năm câu theo thứ lớp giải thích: một, là chẳng phải thân năm ấm này làm, năm ấm này lãnh thọ quả báo, nếu đây làm đây chịu thì chỉ một ấm, một ấm thì thường. Vả lại, chẳng do ấm này mà có ấm sau, đây là nghóa đoạn hai, chứ chẳng phải bao gồm cả năm câu, tức chẳng phải đây làm kia chịu, nghóa là chẳng phải ấm này tạo nghiệp ấm kia chịu quả. Hà Tây cho rằng: Người làm trời chịu thì có nhân mà không có quả, có quả mà không có nhân, có quả không nhân thì là thường kiến, có nhân không có quả là đoạn kiến. Lẽ ra cũng có câu “kia làm đây chịu”, nhưng không ghi, vì có thể tự hiểu; ba, là kia làm kia chịu thì đồng nghóa với câu thứ nhất. Câu bốn không làm không chịu tức không có nhân quả, thế thì chẳng đúng. Thời tiết hòa hợp là câu thứ năm. Từ câu: “Phật tánh của chúng sinh v.v…” trở xuống là hợp dụ. Đầu tiên là hợp với câu thứ sáu là tạo nghiệp. Chỉ hợp với năm câu, chẳng hợp với câu “chẳng phải không có nhân mà sinh ra”. Đầu tiên là hợp với câu năm, kế là chẳng phải trong chẳng phải ngoài hợp với cặp thứ nhất, chẳng phải có chẳng phải không hợp với cặp thứ hai. Từ câu: “Chẳng phải đây chẳng phải kia v.v…” hợp với câu thứ hai “Có tu sẽ được tướng cảm quả”. Trước có năm câu. Ở đây hợp đủ. Đầu tiên nói chẳng phải đây là hợp với câu “chẳng phải đây làm đây chịu”, chẳng kia là hợp với câu “Chẳng phải kia làm kia chịu”, câu “chẳêng phải từ nơi khác đến” là hợp với câu: “chẳng phải đây làm kia chịu”, câu “chẳng phải không có nhân duyên” là hợp với câu: “không làm không chịu”. Câu: “chẳng phải tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là hợp với câu: “do thời tiết hòa hợp mà có”. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ ba, ở trước hỏi đáp có pháp dụ, ở đây chỉ đáp về dụ, đầu tiên bác bỏ ngược lại câu hỏi, kế là đáp. Thứ nhất là bác bỏ ngược lại câu: Nam châm chẳng thể hút sắt. Từ câu: “Vì sao?” v.v… trở xuống là giải thích chẳng hút. văn có hai là giải thích và nêu dụ. Đá nam châm không có tâm thức thì đâu thể hút lấy, như hoa quỳ hoa hoắc vô tâm mà vẫn hướng về phía mặt trời hoặc Đông hoặc Tây. Cây chuối không có tai, nhưng khi có tiếng sấm thì bể bắp. Đó đều là do dị pháp mà sinh ra, luôn thuận theo, luôn nghe nhận. Như hổ phách hút lấy hạt cải cũng như thế, đâu thể so sánh các vật này đồng như Phật tánh? Nay giải thích dị pháp sinh ra, dị pháp hoại diệt: Vì dị pháp có nên dị pháp sinh ra, các pháp đều do nhân duyên mà khởi, nhân duyên đối với các pháp gọi là dị, có dị nhân duyên thì liền có các pháp, vì thế nói là dị pháp có nên dị pháp sinh ra, như nước và đất là duyên của mầm; mầm và nước đất đâu bao giờ có tâm để hiểu nhau việc sinh ra pháp mà nói rằng: “Ta cho ngươi sinh, ngươi hãy thọ sinh”. Chỉ có dị duyên này thì mầm mới sinh, cũng như do nhân duyên của nước mà lửa tắt; nước lửa cũng chẳng hiểu với nhau rằng: “Ta sinh ngươi diệt”! Nêu hoa quỳ, hoa hoắc xoay về hướng Đông, hướng Tây tùy theo mặt trời, há là có tâm ư? Cho nên vì dụ mà lập dụ; nêu lên năm dụ. Từ câu: “Nam châm v.v…” là thứ hai, trước dùng dụ hợp với dụ. Từ câu: “Phật tánh của chúng sinh” v.v… trở xuống là hợp với pháp được dụ tức là Phật tánh. Văn có ba: Một là nói nhân chẳng hút quả; hai là nói Phật tánh không có trụ xứ; ba là nói rộng về Phật tánh. Văn thứ nhất lại có ba: Một là hợp dụ nam châm. Kế là nêu mười hai nhân duyên, nói lên ý nghóa không hút. Vô minh là nhân, các hành là quả, cho đến sinh là nhân, tử là quả, vô minh đâu có hút giữ các hành? Cũng như Phật tánh chẳng thể hút lấy Bồ-đề. Thứ ba, Từ câu: “Có Phật v.v…” trở xuống là chiùnh thức hiển bày không hút. Từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là nói Phật tánh không có chỗ ở, gồm có pháp, dụ và hợp. Pháp thuyết như văn kinh rất dễ thấy. Kế là nêu Như Lai để hợp dụ. Như Lai là nêu mặt hiển bày, Phật tánh là nêu mặt ẩn mật. Kế là hợp dụ. Từ câu: “Thí như bốn giai được v.v…” trở xuống là nói rộng về Phật tánh; văn có bốn đoạn: một, là nói về chẳng phải sẽ có, hiện có mà nói về sẽ có; hai, là nói chẳng tức chẳng lìa; ba, là phân biệt tà chánh; bốn, là nói rộng về Thể tánh. Thứ nhất, nói chẳng phải sẽ có, hiện có, nhưng y cứ theo chúng sinh sẽ được, nên nói sẽ có. Gồm dụ và hợp. Bốn đại không có nghiệp, có công năng vời lấy địa đại, cũng lại có một nghiệp có công năng vời lấy hỏa đại. Hai đại kia cũng như thế. Chỉ do nghiệp duyên nghe mà đồng cảm được. Phật tánh cũng như thế, thời đến thì liền hiện, cho nên lấy bốn đại làm dụ. Dụ nói có nhẹ nặng, tức gió và lửa nhẹ, đất và nước nặng. Lại nói đỏ, trắng, vàng, đen, đây là phối hợp bốn đại với bốn màu, trong đó lửa thì đỏ, gió thì trắng, đất thì vàng, nước thì đen. Nếu phối hợp với năm hành thì: Hỏa đỏ, Kim trắng, Thủy đen, Thổ (địa) vàng, Mộc xanh. Lại trong Tiểu thừa nói gió không có màu sắc, Đại thừa nói gió có màu sắc. Trong Năm hành thì Kim thuộc màu trắng vị ở hướng Tây, chủ vị là màu trắng, hơi thu; Hơi thu màu trắng, gió thu lạnh, buồn hiu hắt nên phối hợp gió với màu trắng, chưa rõ thế nào? Hợp như văn kinh ghi. Từ câu: “Thi như có vị vua v.v…” trở xuống là nói Phật tánh chẳng tức chẳng lìa. Văn có dụ và hợp. Nói lại phục căn, Nhó Nhã gọi là lô phục, họ Quách chú thích là là bặc, đúng là la bặc (củ cải), là bặc căn, tức là củ cải. Dẫn voi đến chỉ cho người mù, có người dùng một còn một mất để giải thích. Đầu, chân v.v… đều chẳng phải là voi, mất, không lìa đầu, chân, v.v.., là voi còn, Phật tánh cũng chẳng phải sáu pháp mất; ngoài sáu pháp cũng chẳng có Phật tánh riêng, lại dùng sáu pháp là còn. Giải thích như thế thì chẳng lìa hai câu tức và lìa, đừng nói gì đến bặt bốn câu, lìa trăm lỗi? Văn này có hai lần bác bỏ tức và lìa. Chẳng phải đầu, chân v.v… là voi, đây là bác bỏ tức, lìa đầu chân thì không có voi nào khác là bác bỏ lìa: Trong đầu chân v.v… đã chẳng phải voi thì chẳng thể tức, ngoài đầu chân v.v… lại không có voi nào khác, thì chẳng thể lìa. Chẳng tức, chẳng lìa, chẳng trong, chẳng ngoài, mà lại gọi là Voi; Phật tánh của chúng sinh cũng như thế chẳng phải tức sáu pháp, chẳng phải lìa sáu pháp, chẳng phải trong chẳng phải ngoài nên gọi là Trung đạo, gọi là Phật tánh. Nếu chấp sáu pháp là Phật tánh thì đó là Phật tánh như người mù sờ voi; nếu lìa sáu pháp mà có Phật tánh thì như chỉ hư không cho là Phật tánh, như các Bà-la-môn phỉ báng kinh Đại thừa bị vua Tiên Dự giết chết; nếu chứng Trung đạo chẳng tức chẳng lìa là Phật tánh, thì thấy Phật tánh như vị quan có trí tuệ của vua. Nếu đạt được ý chẳng tức chẳng lìa, thì tất cả các pháp xúc phạm đều là Phật tánh. Bốn Tâm vô lượng và sáu Độ v.v… cũng giống như thế. Hợp dụ có hai: Thứ nhất là hợp chung. Từ câu: “Các chúng sinh này v.v…” trở xuống là hợp riêng. Văn có ba: một, là chánh hợp; hai, là lại nêu các người mù bẩm sinh để hợp; ba, là kết luận. Chánh hợp có sáu, mỗi pháp đều có ba là sáu hợp pháp, nêu dụ hợp và kết luận, tất cả đều như văn kinh có nói. Từ câu: “Có các ngoại đạo v.v…” trở xuống là đoạn ba, phân biệt Tà chánh. Văn có hai: Trước phân biệt tà ngã là chẳng đúng. Ngoại đạo chấp trước, hoặc nói là thường hằng cùng khắp, hoặc là chấp như hạt cải, đều có tà chấp. Kế là nói về chánh ngã. Trước nói giả Ngã, sau nói chân Ngã. Nói giả Ngã có hai: Một là nói pháp. Kến là dụ, gồm có sáu dụ, trong đó dụ thứ nhất và dụ thứ sáu có hợp, bốn dụ kia không có văn hợp. Khai Thiện cho rằng giả danh có dụng, có danh mà không có thể. Trang Nghiêm cho rằng danh, dụng, thể đều có. Hai ý này đều chẳng đúng. Nếu có danh, dụng, thể thì đâu thể cho là giả; Khai Thiện tuy nói không có thể, nhưng lại có danh và dụng thì cũng chẳng phải Giả. Các sư Trung Quán dẫn Trung Luận: “Vô ngã và Vô vô ngã”. Vô ngã phá thường, Vô vô ngã phá đoạn, cũng phá cả tức và Lìa. Vì phá các nghóa này nên nói ngã và vô ngã. Tuy nói ngã và vô ngã nhưng đều là giả danh, nên văn kinh nêu sáu dụ để dụ cho giả ngã. Từ câu: “Như Lai v.v…” trở xuống là nói về chân ngã. Chân ngã này để đối phó với nói dối. Nếu rốt ráo thanh tịnh tức là vô ngã, vô vô ngã thì lẽ ra chúng sinh cũng được chân ngã này. Từ câu: “Đại từ đại bi v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói rộng về Phật tánh. Văn có ba: Một là nói về Phật tánh, có tám phen; hai là từ câu: “Như ta nói v.v…” trở xuống là kết luận sẽ được; ba là từ câu: “Nếu ta nói v.v…” trở xuống là kết luận chẳng phải năm ấm. Nói năng lực thứ tư, có người cho rằng đó là căn lực thứ tư trong mười lực, có công năng biết được căn duyên của chúng sinh, là pháp quan trọng cần phải có để hóa đạo. Có người cho rằng có một danh giáo khác đó là: một, tín tuệ, hai là nhẫn lực, ba là lực định, bốn là thiện quyền lực. Có thiện quyền lực thì thuận tiện cho việc hóa đạo nên nói là năng lực thứ tư. Phen thứ sáu nói mười hai nhân duyên là Phật tánh, có hai cách giải đều chẳng hợp: Một là cho rằng mười hai nhân duyên là Trí quán, vậy đâu được nói là có tánh cảnh giới; hai cho rằng đó là quả tánh; cũng chẳng thể được. Nay nói rằng mười hai nhân duyên tức Phật tánh, sẽ có chỗ giải thích riêng v.v… Hai phen trên đã nói, tất cả chúng sinh chắc chắn sẽ được các pháp ấy, nên ta nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Từ câu: “Nếu các chúng sinh v.v…” trở xuống là đoạn hai, tổng kết đáp các câu hỏi trước. Văn có ba: Một là kết luận câu hỏi về chẳng cần tu tập Thánh đạo. Kế là từ câu: “Nếu các chúng sinh v.v…” trở xuống là kết luận khuyên bảo. Thứ ba là từ câu: “Phật tánh v.v…” trở xuống là kết luận khen ngợi; văn có hai: Thứ nhất Đức Phật khen ngợi. Kế là Bồ-tát Sư Tử Hống khen ngợi. Từ câu: “Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là nói về người thấy Phật tánh mà khuyên tu, gồm có hỏi và đáp. Phật đáp có ba ý: Một là thử xét tâm mình, hai là vì chúng sinh mà chịu khổ, ba là dùng sáu Độ giáo hóa người. Ý thứ nhất là tự hành, hai ý sau là hóa tha. Đầu tiên nói tự thử nghiệm, là vì hạnh còn cạn mỏng, khi sâu thì chẳng cần phải thử. Chữ Hòa mọi người thường đọc âm Hòa, thì chẳng đúng, hoặc đọc là Lê, hoặc đọc là hòa, tìm kỹ thì không có chữ này. Từ câu: “Bồ-tát vì phá v.v…” trở xuống là nói vì chúng sinh mà chịu khổ. Từ câu: “Lại nữa v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về sáu Độ hóa tha. Từ câu: “Bồ-tát Ma-ha-tát v.v…” trở xuống là đoạn lớn thứ hai của phẩm này là khen ngợi giáo. Văn có ba phần, một là khen người mở rộng kinh, tức Bồ-tát, hai là khen pháp được mở rộng, phải do người; giáo chẳng tự nêu ra mà phải do Phật, nên làm nhân cho nhau mà khen ngợi, đó cũng là khen ngợi Tam bảo. Văn thứ nhất có hai: Trước lược khen ngợi chung, kế là giải thích rộng. Đầu tiên lại có hai ý: một là khen ngợi chúng Bồ-tát, kế là khen ngợi các Bồ-tát Bổ xứ khổ nhọc, siêng năng làm lợi ích chúng sinh. Vì chỉ có Bồ-tát Bổ xứ mới tiếp nối Phật vị, nên khen ngợi riêng. Đầu tiên có chín phen khen ngợi chung, như kinh có ghi. Kế là từ câu: “Bồ-tát v.v…” trở xuống là khen ngợi riêng, có bảy phen. Nói ba điều cao quý, nghóa là trong các tầng trời cõi Dục thì các vị trời cõi trời này có tuổi thọ nhất định; trong cõi người thì người ở cõi Uất-đơn-việt có tuổi thọ nhất định; nếu cộng thêm Phạm thiên thì thành bảy tầng trời, cõi Đâu-suất ở giữa. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là khen ngợi kinh, gồm có hai đoạn. Trước khen ngợi, sau là phân biệt, văn khen ngợi có ba là pháp, dụ và hợp. Nói sâu khó đến đáy, có người giải thích rằng: Nếu nói theo chiều dọc thì chỉ là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, chẳng thể có vô thường, khổ. Nếu nói theo chiều ngang thì đầy đủ thường, vô thường, v.v… cho nên nói sâu khó đạt đến đáy. Cách giải thích này chẳng đúng; kinh chỉ nói sâu thì đâu được giải thích đơn lẻ. Nay cho rằng: Thường, vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chẳng phải một chẳng phải ba, chẳng thể nghó bàn, cho nên nói là sâu. Kế là hợp dụ, như văn kinh. Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống bạch v.v…” trở xuống, gồm hai khoa, có hỏi và đáp. Hỏi rằng trước nói sâu khó đạt đến đáy là do chẳng sinh chẳng diệt, vì sao chẳng có ba thứ sinh, mà chỉ có một thứ sinh? Phật đáp: Đầu tiên nói chung chẳng làm thân noãn sinh và thấp sinh. Kế là, nói riêng chẳng thọ hóa sinh. Từ câu: “Bấy giờ, Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là nói ba bài kệ khen ngợi chủ nói kinh; gồm có bốn mươi câu: Hai câu đầu là xin được nói kệ. Ba mươi bảy câu chính thức khen ngợi. Một hàng kết luận. <篇> <卷>QUYỂN 28 <詞>PHẨM 24: CA-DIẾP (PHẦN 1) Vì đầu tiên đã khéo nêu lên các câu hỏi, nay muốn cho lúc cuối cùng cũng khéo léo như thế, nên lại phải nêu câu hỏi. Ở trước thuận theo nghóa mà đặt tên phẩm, cho nên gọi là phẩm Ca-diếp. Ngài Ca- diếp thì như trước đã nói. Khai Thiện cho phẩm này là trả lời câu hỏi về tánh an vui ở trước. Các sư Địa Luận thì cho đây là Từ quang thiện xảo trụ trì phần. Hà Tây và Hưng Hoàng đều cho đây là môn Phật tánh. Còn ở đây cho là phần thứ năm nói về Dụng của Niết-bàn. Kinh này từ đầu đến cuối đều nói về Phật tánh, phẩm này có gì khác với phẩm trước? Xin nêu lên năm điểm khác nhau: 1/ Nghóa Dụng khác nhau: Phẩm trước nói nghóa Phật tánh Trung đạo là hạt giống Bồ-đề, phẩm này nói về dụng cao quý của Phật tánh có công năng nhiếp phục Nhất-xiển-đề cực ác và ngoại đạo tà chấp. 2/ Nhân quả khác nhau: Phẩm trước nói về Nhân tánh trụ ở nhân, chẳng ở quả; quả tánh quả quả tánh trụ ở quả, chẳng ở nhân; phẩm này nói tất cả các ấm ác đều là Phật tánh, đó tức là nhân tánh, từ năm ấm ác mà sinh ra năm ấm thiện, tức là quả tánh. Lại nói rằng Phật tánh có ba đời. Xưa nay có người giải thích quả tánh chung cho ba đời là Ứng thân Phật tánh, chẳng thông với ba đời là Pháp thân Phật tánh, nghóa này chẳng đúng, chỉ nói về quả tánh chung cho nhân quả, đâu cần phân biệt pháp thân và Ứng thân. Nếu Phật tánh của năm ấm thiện chung cho nhân quả, thì Phật tánh trong nhân thuộc về ba đời, Phật tánh trong quả chẳng thuộc ba đời. 3/ Là khai hợp khác nhau: Phẩm trước nói sông sinh tử hợp với nhân quả mà lìa ba Thừa; phẩm này nói sông Niết-bàn lìa bốn quả mà hợp với Ba Thừa. 4/ Là chung riêng khác nhau: Phẩm trước là nói chung năm loại Phật tánh, trời người sáu đường đều có Phật tánh. Phẩm này chỉ nói về chánh nhân Phật tánh, do chánh nhân mà Xiển-đề lại sinh ra gốc thiện. Phẩm trước chỉ y cứ theo muôn điều thiện là liễu nhân Phật tánh; phẩm này y cứ theo cả thiện và ác, đều là Phật tánh. Vì thế nói người gốc thiện có, Nhất-xiển-đề không có, người xiển-đề có, người gốc thiện không có. Năm, phẩm trước đối bảo với một người, phẩm này đối bảo với Ca-diếp. Chỗ sai khác rất nhiều. Toàn phẩm chia làm hai: 1/ Nhiếp ác 2/ Nhiếp tà Trong nhiếp ác lại có hai: 1/ Nói về dụng của Phật tánh. 2/ Khen ngợi kinh. Nói về dụng lại có hai: 1/ Nói về dứt gốc thiện. 2/ Nói về sinh điều thiện. Vì năng lực luống dối nên cắt đứt điều thiện, nhờ sức Phật tánh nên sinh ra điều thiện. Xưa cho rằng hai người làm ác và sinh điều thiện đắp đổi nhau, nhưng không liên quan. Có sư lại cho rằng chỉ có một người, lúc trước do điên đảo nên khởi ác, sau gặp bạn tốt nên sinh ra điều thiện. Nay cho rằng các thuyết đều chẳng đúng, hoặc có thể là một người, có thể là nhiều người, như bảy hạng người bên sông Hằng tức là nhiều người. Nếu là một người thì từ mới chìm cho đến thành Phật chỉ là một người. Xưa cho rằng sinh điều thiện có nghóa là tiếp thức, nghóa là chúng sinh từ hang vô minh thức ở giới ngoại, mới khởi một phẩm vô minh, chưa khởi bốn trụ, nếu có Phật tiếp dẫn đi thì liền được thành Phật. Nghóa này rất chướng ngại, dầu có kinh này nhưng cũng là nhất thời đổi ác làm duyên, nếu không có kinh này thì hoàn toàn không thể y cứ. Nếu nói phải khởi năm trụ rồi mới có thể bỏ ác làm thiện, thì cũng không có một kinh nào nhất định nói như thế, dẫu có kinh này thì cũng là nhất thời làm duyên mà thôi. Nếu thế thì mặc tình khởi cực ác rồi tự do “bị tiếp”, đâu cần phải tu đạo, chẳng khác gì với việc trải qua tám muôn kiếp đắc đạo? Nếu nói từ hang thức mà đến, tức từ vô minh mà ra, sao lại nói mới khởi một phẩm vô minh? Nếu chưa khởi hoặc thì lẽ ra nên sinh vào một nơi khác; nếu từ trong hang vô minh mà ra, mới khởi một phẩm mà bị tiếp, thì sau khi khởi các phẩm khác cho đến bốn trụ, vì sao lại không bị tiếp? Cho nên thật khó tin. Nếu vậy thì chẳng cần tu. Ở trên đã mấy lần phá nghóa này. Nếu nhờ năng lực Phật tánh mà tự tại được Bồ-đề, chẳng cần tu tập thì chính là phá nghóa này. Xưa nói Thiện Tinh không có nơi phát ra dấu vết, thật là người ác, nghóa này chẳng đúng, tuy chưa thấy nghóa kinh, nhưng suy ra biết là quyền, vì sao? Vì hai người con và hai người em của Phật, mỗi người đều có thiện ác. A-nan là thiện, Điều-đạt là ác, đều là quyền lập, nay La-vân là thiện, Thiện tinh là ác, so sánh mà biết cũng là Quyền. Văn nói về dứt mất thiện có ba: Một là nói về người dứt mất thiện; hai là nói về tướng dứt mất thiện; ba là nói về kiến dứt mất thiện. Người dứt mất thiện tức là Thiện Tinh, tướng đoạn thiện tức căn tánh bất định nghe giáo bất định chấp là định. Kiến giải đoạn thiện, tức phân biệt suy tìm đạo lý các pháp. Trong phẩm nói về người, gồm có hỏi và đáp. Hỏi có hai: Trước nói về duyên khởi, sau là chánh thức hỏi. Về duyên khởi có hai: Một, là nói Phật có đức năng hóa; hai, nói Thiện Tinh có duyên được giáo hóa. Nói đức của Phật có hai câu: một, nói bên trong có Từ bi; hai, là bên ngoài có Phương tiện. Thứ nhất như văn kinh. Thương là đại Từ, xót là đại Bi. Kế là từ câu: “Điều phục v.v…” trở xuống, nói về phương tiện bên ngoài, có bảy câu. Từ câu: “Tỳ-kheo Thiện Tinh v.v…” trở xuống là nói duyên được giáo hóa. Thứ nhất nói như con. Thiện Tinh là anh của La-vân, đây là duyên quan trọng. Nói sau khi xuất gia là đã có tín giới, thọ trì mười hai thể loại kinh là có tuệ, dứt trừ kết sử cõi Dục đạt được Tứ thiền là Định. Đầy đủ Ba học, há chẳng phải là nhân sâu xa ư? Từ câu: “Vì sao Như Lai v.v…” là chánh thức hỏi. Trước là hỏi hai việc, sau là kết luận. Hỏi vì sao nói Thiện Tinh là người ác, sau hỏi vì sao chẳng nói pháp trước. Thứ nhất lại có hai: Một là hỏi vì sao nói Xiển-đề là nhân ác. Kế là hỏi vì sao ở địa ngục một kiếp là quả ác. Từ câu: “Vì sao Như Lai v.v…” trở xuống là thứ hai, hỏi đã có duyên sâu với Như Lai, vì sao trước kia chẳng nói pháp? Từ câu: “Như Lai Thế Tôn! v.v…” trở xuống là kết luận hai câu vặn hỏi ở trên. Từ câu: “Vì sao được gọi v.v…” trở xuống là câu thứ nhất. Phật có lòng từ bi vì sao nói Thiện Tinh là người thấp hèn, ở địa ngục cả kiếp, nếu nói thì biết không có lòng Từ bi. Kế là kết luận câu hỏi sau. Phật trước đã không nói pháp, vì sao gọi là Đại phương tiện? Nếu có phương tiện thì lẽ ra nên nói pháp. Phật đáp, chẳng đáp về duyên khởi, chỉ đáp hai câu hỏi và hai câu kết luận. Trước đáp câu sau, sau đáp câu trước. Thứ nhất là nêu bảy dụ, sáu dụ trước nói duyên có sâu cạn, nên nói pháp có thứ lớp, một dụ sau nói tâm Phật bình đẳng, nên bình đẳng nói, không nghiêng về bên nào. Trong sáu dụ trước, mỗi dụ đều có ba: một là nêu dụ để hỏi, hai là kể việc phụng đáp, ba là hợp dụ để giải thích. Vì sao có thứ lớp ba hạng người này? Có người giải thích rằng: Đầu tiên Đức Phật nói năm giới Nhân thừa Thiên thừa cho Đề-vị, Văn Lân, Cổ Long nghe, kế là đến vườn Nai nói Tứ đế cho Nhị thừa nghe, sau cùng là nói giáo Phương Đẳng cho Bồ-tát nghe, đây là giáo Tiểu thừa làm đầu tiên; nếu nói lúc mới thành Phật dùng thân Xá-na giáo hóa, thì đầu tiên chiếu rọi trên núi cao, kế đến chiếu xuống bình nguyên, đây gọi là lấy Đại thừa làm đầu tiên. Nay ý văn này bao gồm trước sau, lấy núi cao làm đầu, Văn Lân làm giữa và Song Lâm làm cuối. Những người con thứ ba tuy có cực ác, nhưng vì đồng thể nên phải chỉ dạy. Ruộng bậc hạ tuy xấu, nhưng vì gia nghiệp nên phải gieo trồng chẳng thể bỏ; thau tuy vỡ, nhưng phòng khi dùng gấp; bệnh tuy sẽ chết, nhưng vì thân thuộc phải trị; ngựa tuy già, nhưng cũng có thể thay ngựa mệt; người tuy có thấp hèn, nhưng vì trí bình đẳng, nên chẳng bỏ. Sáu dụ trước tuy có khác nhau, nhưng ý nghóa thì chẳng khác, mà ý còn chưa hiển bày, đến dụ thứ bảy văn mới hiển rõ ràng. Nêu Sư tử đầu đàn chẳng xem trọng voi mà khinh loài thỏ, đều ra sức đối trị, dụ cho việc chẳng xem trọng điều thiện, xem nhẹ điều ác, đều vận sức từ bi. Nếu nhìn theo lớn nhỏ thì với voi chẳng đủ, với thỏ có dư, nếu xét theo sức lực thì đối với voi cần phải nhanh, đối với thỏ thì từ từ. Nay Sư Tử Vương này đều đối trị bình đẳng với cả hai không khác. Nếu xét theo duyên thì đối với Bồ-tát chỉ dạy nghóa sâu xa, đối với Thanh văn chỉ dạy nghóa cạn mỏng, đối với Nhất-xiển-đề chỉ dạy đạo thế gian. Đức Phật chẳng phân biệt hai ba, đối với tất cả đều bình đẳng đại bi. Từ câu: “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi của kia, hỏi có hai câu: Trước trả lời về Xiển-đề, sau là đáp ý ghi nhớ. Đầu tiên đáp về việc Xiển-đề tự cho có Tín, tuệ, định; ra sức bác bỏ câu hỏi này; không chấp nhận có, để nói Xiển-đề không có Tín tâm. Văn có ba: Một, không tin Phật là bậc Vô Sở Úy; hai là từ câu: “Một thuở nọ ta ngự tại nước Ca-thi v.v…” trở xuống là nói không tin Phật là bậc không còn nó dối; ba là từ câu: “Một thuở nọ, ta cùng với v.v…” trở xuống, nói không tin Phật là người không ganh ghét. Thầy nói xuất gia là nói lên có tín tâm, nên nay nêu lên ba việc để nói lên tâm vô tín. Khi Đức Phật đi thì chân cách mặt đất bốn tấc (12 cm), hình bánh xe ngàn căm thường hiện rõ ở dấu chân, mọi người đều muốn nhìn thấy, nhưng thường bị xóa bỏ, nay Thiện Tinh đã không xóa mà còn bỏ con trùng chết vào dấu chân Phật, khiến cho vô lượng người nghó là Phật giết hại. Quả báo của người và quỉ khác nhau, mà lại thấy rõ ràng, còn hỏi đáp qua lại, há người thật ác mà làm được ư? Do đó nghiệm biết là quyền hiện mà thôi. Từ câu: “Tỳ-kheo Thiện Tinh v.v…” trở xuống là nói không có tuệ. Chỉ biết văn tự mà không hiểu nghóa thì không có tuệ. Từ câu: “Gần gũi v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói không có định. Văn có hai: Một là nói tuy đã được mà sao lại mất, nên nói là không có định. Từ câu: “Do mất v.v…” là tổng kết khởi tà kiến nên mới nói trước. Từ câu: “Này người Thiện nam! v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi về ý nghóa nói trước. Văn có hai: Trước nói về ý nghóa nói trước, sau nói chẳng thể chữa trị. Vì Thiện Tinh chắc chắn phải đọa, nên ta nói trước, để chứng minh cho tướng chắc chắn đọa nên cùng đến xem. Thấy Phật khởi tâm ác đọa vào địa ngục thì việc chắc chắn, đoạ địa ngục đã rõ. Đến chỗ Thiện Tinh ở, hoặc cho rằng sự thật có đến, hoặc do năng lực chẳng thể nghó bàn bất động là đến. Từ câu: “Thiện Tinh tuy đọa vào v.v…” trở xuống là nói về người chẳng thể chữa trị. Do buông lung, nên chẳng thể trị, chỉ vì thương xót mà thôi. Văn có pháp, dụ và hợp. Hợp dụ có hai phen, mỗi phen đều có chánh hợp và dùng dụ để hợp. Từ câu: “Từ xưa v.v…” trở xuống là đáp hai câu kết. Đầu tiên là đáp câu không có tâm từ bi, lại có hai là chánh đáp và phân biệt. Phần chánh đáp có pháp, dụ và hợp. Thứ hai hỏi đáp để phân biệt, có hai: Trước là hỏi, sau là đáp. Trước là chánh đáp. Kế là dẫn việc xưa để hiễn rõ. Dẫn việc nói trước của Mục-kiền- liên chẳng phải hoàn toàn đúng. Mục-kiền-liên chỉ thấy trước khi mưa, mà chẳng thấy biết sau đó bị Tu-la tiếp nước đổ xuống biển. Chỉ thấy đầu trắng, chẳng thấy thân có vằn, Như Lai thì chẳng phải như thế, nên nói là không hai. Từ câu: “Tỳ-kheo Thiện Tinh v.v…” trở xuống, trả lời câu hỏi về phương tiện. Ta thường ở bên Thiện Tinh, chẳng bao giờ rời xa, vì sợ Thiện Tinh làm ác, vì sao nói không có phương tiện? Giải lực thứ năm là dụng lực, biết rõ ý muốn của chúng sinh. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về việc dứt mất gốc thiện. Văn có ba: Một, là nói về dứt mất gốc thiện; hai nói về căn tánh bất định, cho nên dứt; ba vì thuyết giáo bất định cho nên dứt. Thứ nhất có năm phen hỏi đáp. Phen thứ nhất là Phật đáp. Vì cắt đứt gốc thiện, nên không có gốc thiện. Các Sư Số Luận cho rằng: “Hàng Xiển-đề khởi tà ác, vô ngại dứt các gốc thiện, như đạo vô lậu vô ngại dứt phiền não”. Nếu thế thì rốt cục chẳng thể nào còn sinh thiện, vì sao kinh nói lại được sinh thiện? Vậy nghóa này chẳng đúng. Trong thân Xiển- đề có ác chướng nặng, gốc thiện chẳng thể phát khởi. Đây là bị ngăn che, nên thiện chẳng sinh, mai sau nếu ác dần dần trừ thì thiện lại sinh, nên nói là gốc thiện lại sinh. Hỏi: Hàng Nhất-xiển-đề có thiện để dứt hay không có thiện để dứt. Đáp: Có đủ hai nghóa ấy. Vì người này trước đã làm thiện, sau gặp bạn ác, nên dứt mất gốc thiện ấy, nên nói có thiện để dứt. Còn lúc trước đã làm ác, hoàn toàn chưa có gốc thiện, mà nghiệp ác sắp diệt, nghiệp thiện sắp sinh, nhưng lại khởi chướng làm cho nghiệp thiện chẳng sinh, nên gọi là không có điều thiện để dứt? Văn nói chúng sinh đều có năm căn như tín v.v… mà Xiển-đề đã đoạn diệt, Tương Thừa giải thích rằng: “Chúng sinh theo lý thì đầy đủ năm căn như tín v.v… , chúng sinh ngoài lý thì điên đảo luống dối, nên không có năm căn”. Nghóa này chẳng đúng, chúng sinh ngoài lý cũng có tín, v.v… Xiển-đề đã là chúng sinh ngoài lý khởi ác, dứt bỏ năm căn này, nhưng chúng sinh làm ác đã có Phật tánh thì lẽ ra cũng sinh ra năm căn, Sự tuy chưa hiển, mà về nghóa đã có, nên nói “Tất cả chúng sinh đều có”. Kinh nói: “Giết Xiển-đề không phạm tội sát, giết muỗi kiến thì có tội”, vì Xiển-đề có nghiệp ác nặng ở thân nên giết không tội, muỗi kiến không có tội ác nặng, nên giết thì có tội. Kinh ghi: “Bố thí cho súc sinh thì được phước một trăm lần, bố thí cho Xiển-đề được phước một ngàn lần”. Vì Xiển-đề ở quá khứ tu tập năm giới, chiêu quả báo nay được thân người, nếu bố thí thì được phước nhiều hơn bố thí cho súc sinh. Các súc sinh ở quá khứ làm ác nên đời này chiêu cảm báo thân súc sinh, vì thế bố thí thì được phước ít. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Thứ nhất là hỏi, xác định. Lời đáp rất dễ hiểu. Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ ba. Hỏi: Xiển-đề chẳng dứt thiện ở vị lai, vì sao nói là dứt mất thiện? Đoạn thứ hai là hiện diệt và chướng vị lai. Nếu hiện tại khởi ác thì pháp thiện chẳng sinh, nên nói là hiện diệt. Hiện tại đã làm ác, thì ngăn chặn khiến pháp thiện ở vị lai chẳng thể sinh, nên nói là dứt vị lai. Cũng có dứt ba đời, nếu quá khứ làm ác mà chẳng sám hối, tức không có thiện; vị lai lại có nghóa sinh thiện, nhưng yếu kém chẳng thể cứu vớt nổi. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ tư, nói chẳng dứt Phật tánh. Phật tánh chẳng thuộc bà đời vì sao nói là vị lai? Từ câu: “Nếu Như Lai v.v…” là thứ hai hỏi về Xiển-đề. Nếu nói Xiển-đề hoàn toàn không có pháp thiện, vì sao lại có tâm yêu thương, nếu có tâm ấy thì đã có thiện. Từ câu: “Đức Phật đáp v.v…” trở xuống là lời đáp. Trước đáp câu hỏi thứ nhất, kế là nói nghóa. Đáp câu thứ nhất có hai: Trước khen câu hỏi, kế là chánh đáp. Tánh chẳng thuộc ba đời, nhưng y cứ vào nghóa vị lai sẽ được nên nói là vị lai, vì thế văn sau nói nhân là quả, nói quả là nhân, Phật tánh cũng như thế, nói ở vị lai là nói quả trong nhân. Nói Thực và Xúc tức là nói Thực thì có thể tự biết, còn tên xúc thì khác nhau, hoặc lấy Thức làm Xúc. Ở đây có đủ hai nghóa, nên luận nói: “Vì Xúc bất định nên không có pháp riêng”, nếu ý thức ở duyên mà gọi là Xúc, thì Xúc này ở tại Thức; nên nói nhãn thức nhãn xúc, thì xúc này ở nơi tưởng; nay nói thấy sắc là xúc, thì đó là Thức tâm lấy sắc làm Xúc. Vì sắc là tiền trần làm sinh ra thức xúc, nên nói sắc là xúc, cũng là trong nhân nói quả. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về nghóa, trước hỏi sau đáp. Câu hỏi này nhân lời dạy của Phật ở trước mà có, Phật tánh chẳng thuộc ba đời, vì sao nói chúng sinh đều có? Phật nói tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, giống như hư không, mà các chúng sinh chắc chắn có tánh này, nên văn nói: “Đều có”. Từ câu: “Như lời thầy nói v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ hai. Thứ nhất là lặp lại câu hỏi và bác bỏ ngược lại. Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là chánh đáp, có pháp, dụ và hợp. Nói tuy có các điều thiện như từ, hiếu, nhưng đều là tà nghiệp, tuy có thấy nghe nhưng đều vô ký. Đã không có chánh thiện, thì đều gọi là tà ác. Thủ nghiệp, cầu nghiệp là đối với pháp thiện. Trong pháp thiện thì trước sinh thiện dục, kế là sinh thiện tư, nay lấy thủ nghiệp đối lại với thiện dục, cầu nghiệp đối với thiện tư. Tuy nói là thiện, nhưng chính là vô ký. Trong dụ nêu lên cây Ha-lê-lặc chỉ thuần một vị đắng, còn sắc và hương thì chẳng phải đắng; nhưng trước hỏi Xiển-đề há không có điều thiện ư? Họ có tâm thương yêu, ắt là có điều thiện! Cho nên Phật đáp rằng đều là tà ác. Trang Nghiêm cho rằng: “Không có điều thiện xuất thế, có điều thiện thương yêu”. Quang Trạch cho rằng: “Dù có lòng thương yêu thì cũng đều là tánh vô ký, chẳng gọi là tánh thiện. Như đánh cờ viết nhữ v.v… là Công xảo vô ký”. Khai Thiện cho rằng: “Dứt thiện làm ác, dẫu có lòng thương yêu, thì cũng thuộc tà ác, đâu được gọi là thiện”. Các sư Trung Quán đồng ý với Khai Thiện cho rằng: Nghiệp ác nặng mang ở thân, như trồng dưa đắng, rễ lá đều đắng. Hợp dụ, như văn ghi. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về căn tánh bất định, hoặc ác hoặc thiện. Văn có hai: Một là nói về bất định, hai là hỏi đáp nói về nghóa. Nói bất định có hai ý là nói về bất định và dứt mất gốc thiện. Thứ nhất lại có ba: Một là biết căn bất định; hai là nêu tướng bất định; ba kết luận về bất định Thứ hai là nêu tướng. Thường tu tập thì thành lợi căn, chuyển hạ thành trung thượng; chẳng tu tập thì độn, chuyển thượng thành trung hạ. Thứ ba là kết luận. Từ câu: “Vì không định v.v…” trở xuống là nói về bất định nên dứt mất gốc thiện. Văn có ba: một là nói bất định, dứt mất thiện. Kế là nói nếu chắc chắn thì chẳng phải như thế. Từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là chứng minh cho bất định. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phần nói nghóa. Phật đáp có hai: Một là y cứ theo Thiện Tinh; hai là y cứ theo người khác. Chẳng những biết căn tánh của Thiện Tinh, mà còn biết căn tánh của người khác. Thứ nhất lại chia làm ba đoạn: một, nói Thiện Tinh ở vương vị thì có khả năng phá diệt. Từ câu: “Thiện Tinh v.v…” trở xuống là thứ hai, nói xuất gia hay chẳng xuất gia đều dứt trừ gốc thiện. Xuất gia thì tăng tâm cung kính, phát triển các pháp thiện như tu thiền định, đọc tụng v.v… như trên đã nói. Từ câu: “Nếu ta chẳng cho v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận tri căn lực. Kế là từ câu: “Phật xem chúng sinh v.v…” trở xuống là y cứ theo nhưng người khác mà trả lời. Văn có hai: một, là nói về bất định; hai, là nói theo nổi chìm. Thứ nhất lại có ba: Một, là nói việc về dứt mất gốc thiện. Hai, Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là nói dứt mất thiện. Thứ ba, từ: “Vì nhân duyên này v.v…” trở xuống là kết thúc về dứt mất thiện. Từ câu: “Như Lai lại biết v.v…” trở xuống là nói về sinh thiện. Có pháp, dụ và hợp, thứ nhất là pháp thuyết. Suối dụ cho Phật tánh, làng xóm dụ cho ấm thân, khát nước dụ cho khổ ép ngặt, muốn đi đến là dụ cho tâm cầu an vui, người trí là dụ cho Phật, Bồ-tát. Hợp dụ, trước là hợp. Sau lại kết luận biết căn lực. Từ câu: “Bấy giờ v.v…” trở xuống là nói về lên xuống khác nhau, xuống thì nhiều, lên thì ít. Văn lại có ba: một là nêu việc để hỏi. Ca-diếp lãnh chỉ, vâng đáp. Thứ ba là hợp. Có ba: một là hợp quả. Y cứ theo nhân mà hợp. Thứ ba là kết luận tri căn lực. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là ý thứ ba nói về giáo bất định. Phật quán sát căn cơ khác nhau, nên nói giáo có khác, chúng sinh chẳng biết căn giáo khác nhau, nên chấp trước mà gây ra sự tranh luận, dứt mất gốc thiện. Văn có hai đoạn là hỏi và đáp. Phần hỏi có ba: một là nói về biết căn, hai là nói về tranh chấp, ba là kết luận. Hỏi vì sao nói bất định để dẫn đến tranh luận. Thứ nhất nói về biết căn. Lẽ ra cũng nói quá khứ, nhưng văn lược bỏ. Từ câu: “Các chúng sinh ấy v.v…” trở xuống là nói về tranh lu- ận. Do đây mà tạo ra sự tranh luận. Khai Thiện nói hai mươi việc tranh luận, Dung Thành nói hai mươi mốt việc. Từ câu: “Như Thế Tôn v.v…” trở xuống là kết luận nêu câu hỏi, v.v… Phật đáp ba câu hỏi, trong quyển này đáp hai câu hỏi trước, quyển sau phần đầu đáp câu thứ ba. Đáp câu thứ nhất có hai: Trước là nói về giáo bất định, kế là nói về pháp bất định. Văn thứ nhất lại có bốn: một nói lý sâu khó hiểu; hai, là nói hai người ngu và trí; ba, nói cần nói bất định; bốn, kết luận tri căn lực. Tức là ý bốn Tất-đàn. Đầu tiên nói lý sâu xa, sáu thức của phàm phu chẳng thể biết, chỉ có Thánh trí mới hiểu được. Đây là ý Đệ nhất nghóa. Từ câu: “Nếu đối v.v…” trở xuống là nói ngu trí, trước nói trí, sau nói ngu. Người trí nghe nói có thì biết không, nghe nói không thì biết có, nghe nói có không thì biết chẳng phải có không, một và hai cũng giống như thế. Người ngu nghe nói có thì liền chấp có đối lập với không, nghe nói không thì cho là không mà chẳng có, nghe nói vừa có vừa không, thì chấp cả hai cùng tồn tại, nghe nói đều bỏ thì chấp cả hai đều xả. Đối diện nghe mà còn như thế, thì đến đời mạt pháp lâu xa về sau, sẽ không có cách gì hiểu nổi. Đây là nghóa Đối trị Tất-đàn. Thứ ba từ câu: “Tất cả v.v…” trở xuống là nói phải thuyết bất định. Văn có pháp, dụ và hợp. Vì độ chúng sinh nên nói bất định, đó vốn là vì lợi ích, chứ chẳng nên chấp bất định, để xảy ra tranh luận. Như thầy thuốc dùng thuốc vốn là để trị thiện bệnh, chứ chẳng bao giờ muốn người uống thuốc mà thành bệnh. Về cõi nước thì có ranh giới đất đai khác nhau, đâu phải chỉ một loại, một loại thì không có lợi ích; Như nước này thời tiết giá lạnh thì đắp chăn nệm, mặc áo da thú. Lúc đói khát chỉ xin được thịt. Ngôn ngữ của người, như Bồ-tát Cửu trụ nói chẳng thấy, Thập trụ nói thấy chút phần. Vì người là tùy theo căn tánh. Đây là ý nghóa vì người. Thứ tư là kết luận nói tri căn lực; tức nghóa Thế giới Tất-đàn. Có bản kinh không có phần kết này, đó là do sót mất. Từ câu: “Đối với một danh v.v…” trở xuống là nói rộng về pháp bất định. Văn có ba: một là nói về pháp bất định, hai là dẫn chứng, ba là kết luận nói Nhị thừa chẳng biết. Văn thứ nhất có hai: Trước nói danh nghóa bất định, sau nói rộng lược bất định. Về danh nghóa, trước là nêu chương sau giải thích. Trong đây nêu ba chương, nếu muốn đối đãi nhau để luận, thì nên lập sáu câu: Đối một danh mà nói vô lượng danh, nên lập câu: Đối với vô lượng danh mà nói một danh; câu: Đối một nghóa mà nói vô lượng danh, nên lập câu: Đối vô lượng nghóa mà nói một danh; câu: “Đối với vô lượng nghóa nói vô lượng danh, nên lập câu: Đối với vô lượng danh mà nói vô lượng nghóa. Ở đây văn đã lược, chỉ nêu một bên. Nêu một từ Niết-bàn mà chứa đựng các danh khác nhau. Đại lượng nói: Niết-bàn là tên chung của tám vị, là gọi chung các đức, ý nghóa nói này các Sư lại có nhiều cách phiên dịch khác nhau và cũng do đó mà sinh ra tranh luận. Kế là giải thích một nghóa nói vô lượng danh. Nêu Đế Thích, so với sự giải thích ở trước có gì khác? Trước y cứ theo pháp, sau y cứ theo người, trong phần giải thích lại ở dưới thì y cứ theo năm ấm, ở đây thì y cứ theo quả pháp, cũng là một nghóa mà đặt ra nhiều tên, phân biệt thành nhiều loại, dẫn đến giải thích khác nhau. Vì thế Hà Tây dịch từ Bà tha bà là Hảo Nghiêm Sức, vì khi xưa bố thí y phục tốt đẹp, nên nay được quả báo có y phục đẹp đẽ. Phú-lan-đà dịch là điều phục các căn, tức nói Thiên đế, bên ngoài thì dùng y phục tốt đẹp để trang nghiêm dung mạo, bên trong thì dùng pháp thiện điều phục tâm ý. Ma-khư-bà dịch là Vô Thắng Vô Quá, vì vượt hơn các vị trời. Nhân-đà-la dịch là Quang Minh, vì có ánh sáng rực rỡ nhất. Mắt trời: vì đồng thời biết được một ngàn nghóa dứt trừ một ngàn việc. Kim Cương: vì thân bền chắc. Thứ ba là giải thích vô lượng nghóa nói vô lượng danh. Đây là y cứ theo Như Lai đầy đủ muôn đức để giải thích, tức là vô lượng nghóa, mỗi nghóa một danh thành vô lượng danh. Tám trí có ba cách giải thích: Một là cho rằng thường v.v…, vô thường v.v… là tám; hai là cho rằng bốn đế mỗi đế đều có pháp và dụ thành tám, tức y cứ theo cõi Dục mà nói tức là pháp, nếu theo Sắc và Vô sắc thì đó là Trụ. Các Sư Thành Thật y cứ theo hiện tại mà nói là pháp, theo quá khứ, vị lai mà nói là dụ. Ba là kinh Ưu-bà-tắc giới nêu tám trí, trong đó gồm bảy trí giống như bảy pháp thiện nói trong phẩm Phạm Hạnh, cộng với tri căn là tám. Thứ tư là từ câu: “Lại có một nghóa v.v…” trở xuống là giải thích lại hai chương. Trước y cứ theo Đế Thích chỉ dùng nghóa Thiện, có vô lượng danh, danh này chẳng chung cho nghóa ác. Vì muốn nói lên ý này, nên lại y cứ theo năm ấm. Đây là pháp hữu lậu, nên gọi là điên đảo, ấm là cảnh khổ đế, làm cảnh quán của niệm xứ, tức quán sắc bất tịnh, quán thọ khổ, tưởng và hành vô ngã, quán thức vô thường, nên gọi là Bốn niệm xứ. Trù sắc ấm ra còn bốn ấm kia là bốn thức trụ xứ. Ấm chung cho trong ngoài nên gọi là Bốn thực, vì thông nhau nên gọi là Đạo; từ chỗ thật pháp mà có thời giả danh nên gọi là Thời; vì thể là vô tướng nên gọi là Đệ nhất nghóa; ba tu là phiền não của thân, giới và tâm chính là ở hành ấm, Giải thoát tức là hữu vi Giải thoát, cũng gọi là mười hai nhân duyên, tức lấy năm ấm làm thể của nhân duyên; cũng gọi là Ba thừa, năng thành thân của Ba thừa. Các nghóa khác đều có thể tự hiểu, chẳng cần phải giải thích v.v… Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói rộng lược về bất định. Văn có ba: một là nêu chương; hai, là từ câu: “thế nào v.v…” trở xuống là giải thích; ba là kết luận. Nói Thế đế là Đệ nhất nghóa đế: A dịch là Vô, nhã dịch là trí, ng- hóa là Kiều-trần-như được trí Vô sinh, đây là y theo Thế đế mà nói Đệ nhất nghóa đế, các câu khác có thể tự suy ra mà biết. Thứ ba, từ câu: “Cho nên v.v…” trở xuống là kết luận. Văn có hai, trước kết luận về bất định. “Người có trí v.v…” trở xuống, nói người thấp kém chẳng thế biết được. Từ câu: “Vì sao? v.v…” là nói về người bất định. Chẳng nói năm việc cho năm hạng người, tức chẳng dùng đối trị mà chỉ dùng vị nhân. Chỉ dạy giới, nhẫn thiền, tuệ cho người bỏn sẻn, còn tự mình thực hành bố thí. Đối với người phá giới thì dạy họ tu Thiền, tuệ, v.v…, còn tự mình giữ giới. Từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là dẫn chứng. “Nói pháp v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận nói Nhị thừa chẳng thể biết. Từ câu: “Như lời ông nói v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ hai về tranh luận, chấp chặt. Văn có hai là đáp lược và nói rộng. Đầu tiên nói giải lực, cũng gọi là Dục lực, là phép biết Dục giải của chúng sinh. Văn lại nói hai năng lực này tức là lực thứ tư căn lực và lực thứ năm giải lực. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là phần thứ hai đáp rộng, trong đó nói Phật vì ứng hợp cơ duyên nói có khác nhau, nhưng chúng sinh không hiểu, dẫn đến tranh luận. Có hai mươi mốt điều: một là nói Niết-bàn và chẳng Niết-bàn, phải giải thích theo Dị bộ: Như Tát- bà-đa y cứ theo sự để nói về rốt ráo Niết-bàn, Đàm-vô-đức và Tăng-kỳ thì y cứ vào lý mà nói về rốt ráo Niết-bàn. Xưa nay các Sư phê bình hai bộ này rằng: Bà-đa thì sai mà đoản, Vô đức thì đúng mà trường” tất cả đều chẳng hợp ý Phật. Văn kinh ghi: “Nếu nói Như Lai rốt ráo Niết-bàn hay chẳng rốt ráo Niết-bàn thì đều là lời gây tranh luận, chẳng đạt được ý ta”; Vì sao lại phê bình mà vọng xếp vào trường đoản. Hà Tây cho rằng rốt ráo là Đoạn, chẳng rốt ráo là Thường. Nói đoạn thường, chẳng lẽ là đoạn thường ư? Mà đó chẳng đoạn chẳng thường, năng đoạn năng thường. Nói đoạn mà chẳng trái với thường, nói thường mà chẳng trái với đoạn, đoạn thường chẳng trái nhau, đoạn thường đều tròn đầy. Các sư Trung Quán cho rằng Phật tùy cơ mà nói, đâu được cho là đúng sai, mất đi ý Phật. Như thầy thuốc tùy bệnh mà cho thuốc khác nhau. Các đệ tử chẳng hiểu, nên vọng chấp làm mất đi chỉ thú. Đây là lần tranh luận thứ nhất. Văn có hai: Trước là nêu chương. Kế là giải thích. Văn có hai, một, là giải thích nhất định chấp Niết-bàn; hai là giải thích chấp không Niết-bàn. Văn thứ nhất lại có hai: là giải thích và kết luận. Đầu tiên, Đức Phật vì năm việc mà nói Niết-bàn: Một là vì các vị tiên; hai là vì lực só; ba là vì Thuần-đà; bốn là vì Tu-bạt; năm là vì vua A-xà-thế. Thứ nhất: Tiên sinh sống ở Hương Sơn, mà nói dần truyền đến, tức là do các vị trời truyền đến núi, chỗ ở của các vị tiên, đều chứng quả A-la-hán, nhưng có Quyền có Thật. Vì phá chấp thường, cho nên Phật nói vô thường. Từ câu: “Ở thành Câu-thi-na-kiệt v.v…” trở xuống là vì lực só. Từ câu: “Có một người thợ giỏi v.v…” là đoạn ba, vì Thuần-đà mà Niết-bàn. Từ câu: “Trong thành Vương xá v.v…” trở xuống là thứ tư, vì Tu- bạt. Này Thiện nam! v.v… là thứ năm, vì vua A-xà-thế. Từ câu: “Bồ-tát có hai hạng” v.v… trở xuống là phần hai, giải thích chấp nhất định chẳng phải Niết-bàn. Văn có hai là giải thích và kết luận. Vì Bồ-tát giả danh mà nói chẳng Niết-bàn, còn đối với Bồ-tát chân thật thì chẳng nói Niết-bàn, Bồ-tát này biết Như Lai chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, đâu thể chỉ nói thường hoặc vô thường. Từ câu: “Có các chúng sinh v.v…” trở xuống là đoạn hai, tranh luận. Nói về hữu ngã vô ngã, cần phải khéo nói về các bộ phái: Các Sư Số luận theo bộ Tát-bà-đa nên chỉ nói vô ngã để phá thuyết của ngoại đạo, cho đó là tà ngã, chẳng phải ngã giả danh, một bề nói là vô ngã, tuy nói vô ngã mà rốt cuộc là vô ngã vô thường được nhập đạo, chẳng đồng với ngoại đạo. Các sư luận Thành Thật đồng với bộ Đàm-vô-đức nói có giả ngã, phá thuyết tức ấm lìa ấm của ngoại đạo, nói có Tương tục giả ngã, nhân thành giả ngã, lại nói thật pháp niệm niệm diệt nên không, có giả danh tương tục giả ngã, nhân thành giả ngã. Lai nói thật pháp niệm niệm diệt cho nên vô nghóa, vì giả danh nối nhau chẳng dứt nên có Ngã. Lại nói Chân đế vô ngã, Thế đế có ngã; ở đây một bề nói có ngã. Hai vị trên đều chẳng đạt được ý Phật nên dẫn đến tranh luận. Chiêu-đề giải thích rằng: Hai văn ấy nói Ngã và Vô ngã là để phá trừ hai bệnh; tức nói có ngã là trừ phá tà vô ngã, chẳng nói giả ngã mà nói vô ngã là để phá tức ngã lìa ngã; người chấp thường thì nói thẳng vào vô ngã cũng chẳng nói giả ngã. Chân Đế hỏi rằng: Nếu ngã vô ngã phá ngã vô ngã, thì có việc ấy chăng? Nếu trong lý chẳng có ngã và vô ngã thì cũng chẳng thể dùng ngã vô ngã để phá bệnh? Vả lại, trong sinh tử đã dùng ngã vô ngã để phá bệnh, thì trong Niết-bàn lẽ ra cũng nên dùng Thường vô thường để phá bệnh. Nếu trong Niết-bàn chỉ có thường không có vô thường thì trong sinh tử chỉ có vô ngã chẳûng có ngã. Như Trung luận nói: “Chư Phật hoặc nói ngã hoặc nói vô ngã, trong thật tướng các pháp chẳng có ngã chẳng phải không có ngã, nên dùng ý này để so sánh giải thích các tranh luận. Văn có hai: Trước nói có ngã, sau nói vô ngã. Thứ nhất lại có hai: truớc nói tương tục giả ngã để phá tà vô ngã. Từ câu: “Một thuở nọ, ta v.v…” trở xuống là nói về nhân thành ngã. Văn có hai: Trước nói về nhân thành, sau nói về nhân thành, sở thành. Văn nói: Ngã tức là tánh, xưa có hai cách giải thích: một cho rằng đó là tánh của Phật tánh, dẫn văn trước nói: “Hai mươi lăm hữu có ngã hay chăng? v.v…” Hai là cho rằng tánh giả danh là ngã tánh, tánh tức là thể, thể tức là nhân thành. Trong ba giả chỉ có nhân thành là thể tục, đãi là dụng. Bên trong là bốn ấm, bên ngoài là bốn đại. Mười hai nhân duyên là tên chung của sắc và tâm; chúng sinh là giả danh tánh. Các thân này là nhân thành giả; Nếu từ đó mà lập nghóa Phật tánh, thì thân chúng sinh đều do năm ấm mà thành, Phật tánh chính là y cứ theo pháp tánh của năm ấm trong thân chúng sinh. Ba cõi tức là tâm vương trong năm ấm. Từ câu: “Công đức v.v…” trở xuống là nói nhân thành, sở thành. Hạnh nghiệp tức là nhân, trời Tự Tại là quả. Tu nhân được quả. Nói tự tại, chẳng những nêu trời Tự Tại cõi Dục, mà còn nói chung các vị trời. Thế là bốn đường còn lại. Từ câu: “Một thuở nọ, v.v… ”trở xuống là phần thứ hai, nói về vô ngã. Trước là Phật nói, sau là khởi chấp. Thứ nhất lại có ba: 1/ Giả hỏi; 2/ Giả đáp; 3/ Quán vô ngã được lợi ích. Hỏi có ba: 1/ Hỏi về danh, vì sao gọi là ngã? 2/ Hỏi về Thể, tức hỏi ai là ngã? 3/ Hỏi về duyên. Từ “Bây giờ v.v…” trở xuống là giả đáp. Văn có ba: 1/ Đáp về đại ý chung; 2/ Đáp riêng; 3/ Kết luận không có lợi ích. Thứ nhất có hai ý là nêu chương và giải thích. Giải thích. Từ câu: “Như lời ông hỏi v.v…” trở xuống là đáp riêng ba câu hỏi. Đại ý đã đủ đâu cần phải đáp riêng? Nhưng đầu tiên nói chung về vô ngã, kế đó nói chung về giả danh, giả thể và giả nhân duyên. Trong giả danh nói là Kỳ, Hà Tây cho rằng: Như người vào thời kỳ khế hợp, ứng thời kỳ mà đến tức là hợp nghóa, chẳng ứng thời kỳ thì chẳng hợp. Năm ấm hòa hợp thì thành giả danh, nên nói là kỳ. Kế là nêu nghiệp để đáp câu hỏi về Thế, kế là nêu Ái để đáp câu hỏi về duyên. Nghiệp có công năng thành quả nên có nghóa là thể, Ái là phiền não nhuận sinh từ nghiệp, lại là nghóa của duyên. Từ câu: “Thí như v.v…” trở xuống, kết luận là không. Hai bàn tay có thể làm phát ra tiếng, âm thanh là dụ cho Thể, vỗ vào nhau là dụ cho Ái. Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói tức lìa đều không. Từ câu: “Các ngoaị đạo v.v…” trở xuống là phân biệt. Kinh ghi: “Rốt cuộc chẳng lìa các ấm”, tức ngoại đạo khởi chấp “tức lìa” mà ở đây nói lìa ấm thì không có việc ấy. Có hai cách giải thích: 1/ Vốn đều chấp tức ấm là ngã, không chấp lìa ấm, đối với cỏ cây chấp là ngã; Phật phá tức ấm vô ngã, thì lại chấp lìa ấm có ngã, nay ở văn này còn giữ ý phá nên nói” lìa ấm có ngã thì chẳng đúng”. Hai, Tiểu thừa cũng có chấp nghóa tức ấm có ngã, vì thế Phật mới phá, và cũng chẳng được chấp lìa ấm có ngã. Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là ý thứ tư, kết luận vô ngã. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là ý thứ ba, quán vô ngã được lợi ích. Lúc bấy giờ, giảng nói như thế thì hợp lý và được lợi ích. Chấp đắm thành tranh luận. Từ câu: “Trong kinh v.v…” trở xuống là đoạn ba, tranh luận về có Trung ấm hay không. Bà-sa ghi: Dục-đa-dề sắc-bà nói địa thọ sinh chắc chắn có Trung ấm. Tỳ-bà-sà-bà nói chắc chắn không có Trung ấm. Tát- bà-đa cũng nói chắc chắn có. Các nhà Thành Thật cũng nói có. Lại nêu nghiệp có lợi độn như mâu thuẫn lìa khỏi tay, nghiệp ác nặng thì vào thẳng địa ngục, nghiệp thiện mạnh thì sinh về cõi trời cõi người, đều không có Trung ấm. Văn kinh, trước nói chắc chắn có, gồm ba phen, sau nói chắc chắn không, có bốn phen. Nếu nói có Trung ấm tức có sáu hữu, sáu hữu tức là sáu đường; Phật vì Đế-thích mà trừ Tu-la, Tu-la chỉ là quỷ, nên chỉ có năm đường. Từ câu: “Ta lại nói v.v…” trở xuống là đoạn tranh luận thứ tư. Các Sư Số Luận nói vô lậu có lui sụt, như Sơ quả kiến đế một bề không lui sụt, tiến thẳng vào Tư duy, hai quả kế dùng Đẳng trí dứt hoặc nên có nghóa lui sụt, A-la-hán vô lậu, theo lý thì không lui sụtï. Hai quả trước lui sụt, kéo dắt A-la-hán lui sụt. Nêu dụ giếng cát, trên dưới đều có gạch khoảng giữa giếng cát, cát đã hư hoại thì gạch phía trên lại sụp xuống. Các sư Thành Thật cho rằng vô lậu chẳng lui sụt, chỉ có thiền định lui sụt. Tức là tu được định Điện quang của cõi Dục, nhưng định này khó an trụ, có lúc lại lui sụt, nên gọi là lui sụt, chứ vô lậu không có lui sụt. Văn kinh trước nói lui sụt, sau chấp không lui sụt. Thứ nhất lại có ba là pháp, dụ và hợp. Pháp thuyết được chia làm ba: Một là nói chung Tỳ-kheo lui sụt, hai là nói chung về La-hán, ba là nói chung sáu hạng người. Nói chung Tỳ-kheo gồm có hai: một là nói chung. Kế là nói duyên lui sụt. Từ câu: “lại có hai thứ, v.v…” trở xuống là nói duyên về La-hán: Đầu tiên là nói La-hán có lui sụt. Kế là nêu riêng về Cù-chi là nghóa A-la-hán có chết. Từ câu: “Ta lại nói v.v…” trở xuống là nêu chung sáu người. Một là lui sụt, hai là chẳng lui sụt, ba là tuệ, bốn là câu, năm là thời, sáu là chẳng phải thời (phi thời). Thời là độn căn dễ lui sụt, chẳng phải thời là lợi căn, chẳng lui sụt. Từ câu: “Trong kinh v.v…” trở xuống là nêu dụ. Từ câu “Phiền não v.v…” trở xuống là hợp dụ. Nhân duyên chứa duyên ác bên ngoài. Bên trong không có nhân ác, thì bên ngoài chẳng thể làm loạn động cho nên chẳng lui sụt. Từ câu: “Trong kinh ta có nói v.v…” trở xuống là đoạn năm, nói về tranh luận, nói thêm Phật hữu vi vô vi. Tát-bà-đa thì nói là hữu vi, Tăng-kỳ nói là vô vi, luận Thành Thật nói hai bên, vì không lời cho nên vô vi, vì nương vào lời cho nên hữu vi, ứng thân hữu vi, chân thân vô vi. Trước nói về hữu vi. Hai là nói về vô vi. Từ câu: “Này thiện nam! Trong kinh v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ sáu; trước nói về chấp, kế là giải thích. Văn thứ nhất, Tát-bà- đa chấp nhân duyên là hữu vi, Tăng-kỳ là vô vi. Hữu vi thì cho rằng nhân quả ba đời trôi lăn vô cùng, há chẳng phải là hữu vi hay sao? Chấp vô vi thì cho rằng lý mười hai nhân duyên là vô vi, tuy nhân quả vô thường mà lý của nó là vô vi. Văn chấp thứ nhất, thứ hai: Trước là chấp hữu vi, kế là chấp vô vi. Giải thích: Trước nêu chương. Đầu tiên giải thích câu một: Chẳng từ duyên sinh tức mười hai chi ở vị lai, nhưng vị lai chỉ có hai chi già và chết, vì sao nói mười hai chi? Đối với sự chưa có nhưng dần dần trôi lăn thì sẽ có; tuy chẳng từ duyên, nhưng nghóa mười hai chi đã đủ, há chẳng phải là vô vi ư? Dùng một câu này để chứng minh cho vô vi, còn ba câu kia nhân tiện mà lập thêm. Giải thích câu hai: Từ duyên sinh mà chẳng phải mười hai nhân duyên tức là vị A-la-hán đã phá hoại ba nhân, không còn sinh tử, tức đã phá mười hai nhân duyên rồi mà thân năm ấm này từ mười hai nhân duyên sinh. Giải thích câu ba câu, bốn rất dễ hiểu. Từ câu: “Trong kinh ta đã nói v.v…” trở xuống là đoạn bảy, nói về tâm thường, vô thường. Tát-bà-đa nói tâm không nối nhau tức là vô thường, Tăng-kỳ nói tâm có nối nhau tức là thường. Thành Thật dùng nghóa của Tát-bà-đa. Văn có hai: Trước nói chấp tâm là Thường, sau nói chấp tâm Vô thường. Nói bốn đại tan hoại, thân này hoại diệt, người làm thiện thì tâm đi lên; tức sinh về cõi nước thiện, lại mang tâm này đến cõi thiện, vậy há chẳng phải là nghóa thường hay sao? Làm ác cũng giống như thế. Từ câu: “Trong kinh ta nói v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ tám, nói về chướng đạo, chẳûng chướng đạo. Tát-bà-đa cho rằng có chướng đạo, Tăng-kỳ nói không chướng đạo, Thành Thật nói có chướng ngại và không chướng ngại. Từ câu: “Lại nữa trong kinh v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ chín nói Thế đệ nhất ở cõi Dục là chung cho ba cõi. Nếu Tát-bà-đa nói bốn định căn bản của cõi Sắc có khả năng phát khởi Thế đệ nhất, thì Đàm-vô-đức cho rằng hai cõi Dục và Sắc cùng phát khởi năm phương tiện, bất luận nói cõi Vô sắc phát năm phương tiện. Bộ Độc Tử cho rằng cả ba đều phát, khi ở phàm phu đã dùng Đẳng tâm dứt hoặc đến cõi Vô sắc mà sau đó tu vô lậu dứt hoặc đến cõi Vô sắc, nhưng việc dứt hoặc ở trước, tức là phát khởi phương tiện; nên nói cả ba cõi đều phát. Văn kinh có ba, mỗi phần chấp một cõi. Kê là từ câu: “Trong kinh ta nói v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười, nói về bố thí chung cho cả ba nghiệp hay chẳng chung cho ba nghiệp. Thành Thật cho rằng chỉ ở ý nghiệp, lấy việc xả tài vật tương ưng với Tư làm chánh Thể, cũng dùng thân miệng giúp sức. Tỳ-đàm dùng nghóa của Tát-bà-đa cho rằng định chung cho ba nghiệp, vì ý ng- hiệp thiện nên thân miệng cũng thiện. Văn có hai: trước nêu chấp ở ý, sau nói chung cho năm ấm. Nói bốn câu như thí chủ tin nhân quả v.v… thì đều nói lên Thí ở ý nghiệp, sau nói về sắc, lực là thuộc thân, biện tài thuộc miệng, mệnh là thuộc ý. Từ câu: “Một ngày kia v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười một, nói về việc có ba vô vi hay không có ba vô vi. Trong các bộ phái chẳng thấy bộ nào chấp không có ba vô vi, vì sao ở đây có văn này. Điều này cũng có nghóa như các sư Thành Thật cho rằng ba vô vi đã đồng là vô vi thì đâu có khác thể, đó là chấp không có vô vi. Các sư Số Luận chấp ba vô vi có tự thể riêng, tức có ba loại, tức là chấp có ba vô vi. Từ câu: “Một ngày kia v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười hai có tạo sắc và không có tạo sắc. Tỳ-đàm cho là có, vì bốn đại mới có hình sắc, hiển sắc, còn Thành Thật thì cho là không. Văn có hai: trước nói có, lại có hai: một là nói về bốn đại năng tạo. Từ câu: “Thí như v.v… ” trở xuống là ý thứ hai nêu xanh vàng v.v… là sắc sở tạo, nhẹ nặng, trơn nhám là xúc sở tạo. Kế là nói không tạo. Văn này quá luợc, vì y cứ theo sự mà nói, phần nhiều do bốn đại mà có nghóa tạo, cho nên chẳng nói rộng về nghóa không có sắc sở tạo. Từ câu: “Thuở xưa v.v… : “ trở xuống là nói lần tranh luận thứ mười ba, có sắc vô tác và chẳng có sắc vô tác. Tát-bà-đa chắc chắn là vô tác có sắc, Thành luận và Đàm-vô-đức thì chắc chắn vô tác không có sắc, Tăng-kỳ nói chung là vô tác mà chẳng nói là có sắc hay không sắc. Văn trước chấp có sắc, chẳng phải nhân quả của dị sắc là tâm; nói vô tác tức chẳng làm nhân cho tâm, chẳng làm quả của tâm, nên biết là sắc. Hà Tây cho rằng: “Chẳng sinh các sắc khác”. Văn có hai: Trước nói có, sau nói không. Từ câu: “Trong kinh ta nói v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười bốn, nói về có tâm sở và không có tâm sở. Bộ Tát-bà-đa cho là có Dị thể tâm sở riêng, đồng thời sinh khởi, Tăng-kỳ nói không có tâm sở, Phật-đà-Đề bà nói không có tâm sở dị thể khởi, mà thứ lớp khởi trước là tâm, khởi sau là tâm sở, các Sư Thành Thật thì cũng đồng như trên. Văn có hai: Trước nói không có tâm sở, sau nói có tâm sở. Thứ nhất lại có hai: một, là nêu mười hai nhân duyên của bậc thánh. Kế là nói mười hai nhân duyên của phàm phu. Văn có hai: Một, là nói pháp sau tức pháp trước; Hai, là nói pháp trước tức pháp sau, đã tương tức thì một, nên không có tâm sở; văn thứ nhất có thể xét rõ. Từ câu: “Từ thọ v.v…” trở xuống là nói pháp trước sinh pháp sau. Nên xét kỹ, trong đây nói Thọ có chỗ cho rằng đó là chi ở đời vị lai, chứ chẳng phải chi ở đời hiện tại. Từ câu: “Trong kinh ta có nói, v.v…” trở xuống là ý thứ hai chấp có tâm sở. Cũng y cứ theo năm ấm, mười hai nhân duyên để nói về tướng trạng, rất dễ thấy được. Tuy có sinh nhau mà chẳng tức nhau, nên có tâm sở khác nhau riêng. Từ câu: “Hoặc có lúc v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười lăm, nói về năm hữu, sáu hữu. Các bộ phần nhiều nói năm đường, chỉ có bộ Độc tử nói sáu đường. Thích Luận cũng nói sáu, nhưng đường Tu-la thì Bà-sa nói có hai cách giải thích: 1/ Cho rằng thuộc cõi trời; 2/ Cho rằng thuộc quỉ thần. Nói một hữu là chung cho một hữu vi. Nay nói thêm rằng: “Gọi chung hai mươi lăm Hữu chỉ trong một Hữu, nói chung tức là ba đường thấp cũng chỉ chung cho một Hữu, chẳng giống như cõi trời và người mỗi cõi chia ra làm nhiều hữu, như cõi người có bốn, cõi trời có mười bảy. Nói hai tức nhân quả, thiện ác; nói ba tức ba cõi, nói bốn tức bốn loài sinh; năm tức năm đường, sáu là sáu đường, bảy tức bảy thức xứ. Hà Tây cho rằng năm đường cộng với sắc và vô sắc thành bảy. Nói tám tức tám phước, Hà Tây cho rằng sáu đường cộng với Sắc, Vô sắc là thành tám phước, điều này chẳng đúng vì ba đường làm sao gọi là phước? Nói chín tức chín loài chúng sinh, hai mươi lăm tức hai mươi lăm hữu, Hà Tây cho rằng chín gồm có tám thiền và cõi Dục. Từ câu: “Khi xưa v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười sáu nói về năm giới, tám giới, đầy đủ và chẳng đầy đủ. Tát-bà-đa cho rằng thọ đủ mới được, Thành Thật cho rằng chẳng đủ cũng được, như kinh Ưu-bà-tắc Giới nói nếu chỉ thọ Ba quy y mà chưa thọ một giới nào thì gọi là Vô phần Ưu-bà-tắc, cứ như thế mà gọi là nhị phần, đa phần, mãn phần. Như Trạch Châu giải thích: thọ đủ cả năm giới, nhưng chỉ giữ được một, hai thì gọi là nhất phần, nhị phần. Văn có hai: Trước nói năm giới chẳng đủ, sau nói tám giới đầy đủ, nhưng lại cùng nêu ra. Từ câu: “Lại trong kinh v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười bảy, nói về phạm giới trọng có mất và chẳng mất. Tỳ-đàm quyển bốn nói có phạm giới trọng, xả tức mất giới, cho nên Tỳ-đàm cho rằng: Điều ngự luật nghi giới có năm thời xả: Một là tà kiến tăng mạnh, hai là pháp diệt tận, ba là mạng căn bị cắt đứt, bốn là phạm giới trọng, năm là bỏ đạo. Như Tạp Tâm Tỳ-đàm lại có tăng và giảm, và cho đó là làm ô uế giới; trừ pháp diệt tận xả và phạm trọng cấm xả, đồng thời nói hai việc trên chẳng phải là xả mất giới, lại thêm hai căn sinh và chẳng nhập số chúng, cho rằng các thời xả này chẳng thuộc ni giới. Các bộ phái khác phần nhiều đều nói là chẳng mất giới. Văn có hai: Đầu tiên chắc chắn mất giới, kế là chấp chẳng mất. Đạt đến đạo đức chân vô lậu chỉ bày đạo tức tương tự vô lậu, thọ đạo tức trí giới, ô uế đạo tức phạm giới. Từ câu: “Trong kinh ta có nói, v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười tám về một Thừa và ba Thừa. Trong các Bộ phái đều không có loại chấp này, vì sao? Vì một hay ba đều là Đại thừa lập ra, chứ chẳng phải cảnh giới của các bộ phái, cho nên không chấp nghóa này. Văn kinh nói một thừa, một đạo, một nhân v.v… đồng thời nói: Chẳng hiểu được ý ta v.v… thí như kinh Pháp Hoa nói rõ về một thừa, một đạo, tức biết được ba Thừa đều quy về một lý tức là thừa này, vì sao lại nói chẳng phải? Giải thích rằng: Văn kinh ở trước có nói: “Nếu đạt được hai chữ Thường trụ thì chẳng đọa đường ác”, văn này lại nói: “Chấp Thường thì chẳng hiểu ý Phật” như thế đâu khác gì chấp một thừa, một đạo thì chẳng hiểu được ý Phật? Hơn nữa nếu nói Ba thừa đồng quy một thừa, được thành Phật, thì vì sao Đại Luận có câu hỏi rằng: “Thanh văn có thành Phật hay không? Luận chủ đáp: “Việc này chẳng thể luận bàn mà biết được”. Nếu thế thì đâu thể nói đồng quy về một lý là đúng. Văn có hai: Trước nói đều được Phật đạo tức là một thừa. Sau nói chẳng được, tức là ba nghiệp. Nói A-la-hán có hai loại: Hiện tại và vị lai, hiện tại thì đã dứt, vị lai chẳng sinh. Từ câu: “Trong kinh ta v.v…” trở xuống là phần luận nghị thứ mười chín, nói về Phật tánh lìa chúng sinh, tức chúng sinh. Các bộ cũng không có chấp này, mà là chỗ chấp tức lìa của các nhà cận đại. Đương quả và chân thần tức lìa chúng sinh mà có, tâm và chúng sinh tức chúng sinh mà có, cả hai đều chẳng đạt được ý Phật. Văn có hai: Trước nêu sáu việc và ba văn để nói về lìa. Sau nói chúng sinh tức là Phật tánh. Từ câu: “Vì nhân duyên ấy v.v…” trở xuống là đoạn luận tranh thứ hai mươi, nói về phạm bốn giới trọng, có Phật tánh và không có Phật tánh. Khai Thiện cho rằng có hai mươi đoạn, đoạn này thuộc về nghóa Phật tánh tức lìa của đoạn mười chín. Dung Thành cho rằng có hai mươi mốt đoạn, đây là đoạn hai mươi, đâu thể nói là thuộc đoạn trước, đoạn trước tức chúng sinh, lìa chúng sinh; ở đây nói về gây ra năm tội nghịch, phạm bốn giới trọng có hay không có Phật tánh; vậy đâu thể nói là đồng? Cho nên biết hai đoạn khác nhau. Từ câu: “Trong kinh, ở nhiều đoạn v.v…” trở xuống là đoạn tranh luận thứ hai mươi mốt về việc có mười phương Phật hay không? Tát-bà- đa nói không có, Tăng-kỳ nói có, Thành Thật nói rằng ở một thế giới thì không, đối với nhiều thế giới thì có.  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 29 <詞>PHẨM 24: CA-DIẾP (PHẦN 2) Đầu phần hai là trả lời câu hỏi kết thứ ba. Đức Như Lai khéo biết căn tánh, vì sao nói bất định khiến cho mọi người tranh luận? Văn có hai: Trước khen ngợi lý sâu xa, sau là phân biệt nghi chấp. Văn trước lại có hai: một là nói thuyết bất định là cảnh giới của Phật. Vì lý sâu xa, chứ chẳng phải Phật cố ý nói bất định trái nhau để dẫn đến tranh luận. Do đệ tử chẳng đạt lý nên mới tranh chấp. Từ câu: “Nếu có người v.v…” trở xuống là ý thứ hai, lại có hai: 1/ Khuyên nên sinh nghi; 2/ Là khuyên chớ nên chấp. Nếu nghe nói bất định mà cho là đúng, thì chắc chắn thành gốc mê lầm, vì thế mới khuyên. Văn trước nói: “Nghi là bến bờ của giải ngộ”, lại là gốc mê hoặc, nếu là nghi trong mười sử thì đó là nghi kiến, chẳng phải là bến bờ của giải ngộ, chẳng thể phá hoặc. Nói như núi Tu-di, có người cho rằng phiền não cao lớn như núi Tu-di, tâm nghi có công năng phá trừ; có người cho rằng phiền não như núi Tu di vững chắc, tâm nghi có khả năng thổi bay. Vì thế lấy Tu-di làm dụ. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn hai, phân biệt về nghi chấp, có hai: Trước gồm hai phen hỏi về chấp, sau gồm bốn phen hỏi về nghi. Hai phen trước đều có hỏi và đáp, như văn kinh ghi. Ý hỏi là chưa thấy Niết-bàn thì đâu thể nghi là có hay không. Phật đáp: Sinh tử gọi là khổ, Niết-bàn chẳng phải khổ, nhất định nhân có khổ mà nghi, chẳng khổ nhất định có, phi khổ dứt trừ khổ ư? Phen thứ hai nêu việc hiện tại để hỏi về nghi. Nếu thấy khổ thì nghi chẳng khổ, người thấy Sơ quả lẽ ra nghi có đọa khổ. Phật đáp có bốn: một, phủ định. Đây chỉ là nghóa định chứ chẳng hợp vói nghóa nghi. Ta chỉ nhất định nói quả này chẳng đọa, không hề nói đọa; cũng như nói Phật chắc chắn là Bậc Nhất Thiết Trí, đâu được đối với tâm quyết định mà sinh nghi chẳng định. Từ câu: “Vì sao v.v…” trở xuống là nêu tướng của tâm nghi để hiển bày chẳng nghi. Trong đây có ba dụ, đồng nói trước thấy sau nghi. Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là kết thúc nghi chấp. Thứ tư, từ câu: “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích lý do nghi. Sự lý như thế không hề thấy qua mà vẫn sinh nghi, cần gì phải trước có thấy rồi sau mới sinh nghi. Phật đáp, trước muốn định ra Niết-bàn và sinh tử, sinh tử là sở đối trị, Niết-bàn là năng đối trị. Suy tính thử xem năng trị là có hay không. Từ câu: “Ý của ông v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi về dòng sông đục. Trước nêu lại câu hỏi và phá bỏ, kế là trả lời. Dùng việc trước đã thấy sông đục, sông cạn ở những nơi khác, để nghi sông nơi đây có sâu cạn. Phen hỏi đáp thứ tư. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn lớn thứ ba, nói về kiến chấp đoạn thiện. Văn có ba: Lại nêu người. Nói về khởi kiến. Dứt mất gốc thiện. Lúc trước đã nêu ra Thiện Tinh, nay lại nêu ra nữa là vì sắp nói về khởi kiến. Từ câu: “Lìa bốn việc này v.v…” trở xuống là nói về khởi kiến. Văn có bốn đoạn: 1/ Có sáu phen nói về không có nghiệp bố thí; 2/ Có sáu phen nói không có cha mẹ; 3/ Có ba phen nói không có nhân quả; 4/ Có chín phen nói không có bậc Thánh. Phước từ duyên sinh, người thí và nguời thọ duyên hợp thì tự sẽ sinh phước, như gieo hạt vào ruộng tốt, gặp trời mưa, nhờ nhân duyên đất nước đầy đủ nên hạt nẩy mầm, đâu có bố thí cho kẻ nghèo lại bị quả báo nghèo cùng? Nghèo là quả kém, bố thí thì được quả báo tốt đẹp, chẳng thể gieo lúa mà thâu hoạch cỏ được. Ruộng xấu thí thâu hoạch ít, chẳng cần phải bàn. Nay nói thêm rằng: Nếu bố thí cho người nghèo cùng mà bị nghèo cùng, thì lẽ ra gieo hạt xuống ruộng thì đến mùa đông sẽ thu lấy đất và nước. Nếu khởi kiến đoạn thiện, đoạn thiện khởi kiến, phần nhiều là ở cõi Diêm-phù; ba chân kia rất yếu, các vị trời thì tham đắm lục lạc, địa ngục thì quá khổ, đều không cương quyết, cho nên ít có tâm này. 1/ Nói Tử và quả giống nhau để nói vô nhân. 2/ Nói người thí, người thọ và vật thí đều không; 3/ Nói thí cho người, người lãnh thọ rồi dù có làm thiện làm ác, cũng chẳng liên quan đến người thí. Vậy nếu người thí bố thí cho dao bén để giết người, việc ác này chẳng lẽ không quan hệ đến thí chủ ư? 4/ Thí vật, vật vô ký thì đâu có được quả thiện; 5/ Làm chẳng thể thấy, suy ra thí do ý, ý đã chẳng thể thấy, thì việc thí há có thấy hay sao? Nhưng lại thấy quả thiện ác; 6/ Nói không làm không chịu, nếu vì người chết mà tu phước, thì đâu có người nhận chịu phước này? Từ câu: “Không cha không mẹ v.v…” trở xuống là đoạn hai, gồm sáu phen nói không có cha mẹ. Đoạn ba, ba phen nói không nhân quả. Nói làm thiện sau khi chết đọa vào ba đường ác, làm ác sau khi chết được sinh lên cõi trời cõi người. Giải thích rằng: Tất cả đều tùy thuộc vào một niệm thiện ác lúc sắp chết mà đọa hay thăng. Còn những nghiệp khác chưa trả thì cũng chẳng mất, dùng ba đời là hiện báo, sinh báo và hậu báo để phân biệt, theo lý rất dễ hiểu. Các câu khác đều rất dễ hiểu. Đoạn thứ tư gồm chín phen. Từ câu: “quán xét v.v…” trở xuống là ý thứ ba nói dứt mất gốc thiện. Trước nói dứt mất gốc thiện. Kế là phân biệt lợi độn. Hỏi: quá khứ, người Xiển-đề có tu nhân trí tuệ, lẽ ra phải có tập quả, vì sao lại dứt mất gốc thiện? Đáp: Chỉ có trí thế gian, không có trí xuất thế, mà trí tuệ thế gian đoạn dứt gốc thiện xuất thế, cũng dứt cả gốc thiện thanh tịnh. Ở thế gian việc như thế không phải ít. Xưa Từ Bộc Xạ rất giỏi xử đoán việc người, như khi ở thượng Ngu phạm lỗi thì hỏi đáp chẳng được. Như Thiên Trụ Du hiểu rõ được nghóa sâu xa mà chẳng hiểu biết lời lẽ thế gian. Đó là những người Thượng trí mà chẳng hiểu việc thế gian, nhưng người Xiển-đề tuy có thế trí nhưng chưa hẳn biết được pháp xuất thế. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phần thứ hai trong đoạn lớn, nói về sinh thiện. Văn có ba ý: 1/ Nói về Trung đạo, sinh thiện; 2/ Chỉ nói về Trung đạo; 3/ Chỉ nói về sinh thiện. Thứ nhất có năm phen hỏi đáp. Cũng có thể gom làm ba: 1/ Một phen đầu nói về thời tiết sinh thiện; 2/ Một phen kế nói chẳng dứt mất Phật tánh; 3/ Ba phen sau nói do tánh mà sinh thiện. Phen thứ nhất: Phật đáp có hai ý: Trước nói thời tiết, sau nói sinh thiện. Người lợi căn thì lúc mới vào, người độn căn thì sau ra. Theo lý thì có hàng Trung căn sinh thiện trở lại vào giữa hai thời này. Nhưng lúc ở địa ngục cho chịu khổ không phút tạm dừng để có thể sinh thiện, nên chẳng nói đến. Từ câu: “Thiện có ba loại v.v…” trở xuống, là đối với sinh thiện mà nói về đoạn thiện ở quá khứ, vị lai. Do còn thiện này nên thiện lại được sinh. Văn có ba: 1/ Nêu ba đời; 2/ Giải thích; 3/ Kết luận. Trong phần giải thích có hai: 1/ Là thiện quá khứ, thiện đã tiềm ẩn chẳng thể dứt được; 2/ Nói nhân tuy diệt mà quả chưa chín, tức vị lai chưa khởi thì chẳng thể dứt. Ý thứ ba từ câu: “Vì thế chẳng gọi là, v.v…” trở xuống là kết luậân. Văn có hai: Trước nói về thiện ở quá khứ, vị lai chẳng thể dứt; kế là nói thiện hiện tại có thể dứt. Thiện ở quá khứ và vị lai chẳng thể dứt. Nói quá khứ tức là kết luận quá khứ chẳng thể dứt, nói quả tức kết luận vị lai chẳng dứt. Kế là nói dứt nhân thiện ba đời, tức chánh thức dứt nhân thiện ở hiện tại. Nhân thiện hiện tại diệt, thì không có thiện ở vị lai. Thiện ở vị lai chẳng khởi, theo nghóa nói là đoạn. Đã không có thiện hiện tại và vị lai, thì quá khứ cũng dứt, theo nghóa nói là đoạn; đó là dứt thiện ba đời. Tập nhân đã diệt hết thì chẳng thể dẫn đến tập quả của ba đời. Phen hỏi đáp thứ hai nói Phật tánh chẳng dứt, hỏi cả hai câu: 1/ Hỏi Phật tánh thuộc ba đời chăng? 2/ Hỏi Phật tánh có thể bị cắt đứt hay chăng? Trước là lãnh chỉ, kế là định Tông, sau là kết câu hỏi. Phân định Tông, tức chung riêng ba đời. Kết luận vặn hỏi. Chỉ hói nghóa riêng ba đời. Nếu thuộc vị lai, thì có hai câu hỏi: Một là hỏi chẳng phải vị lai, hai là hỏi ở vị lai. Phật tánh đã thường, thường thì chẳng thuộc vị lai. Nếu chẳng phải vị lai thì vị lai sẽ được Tam-bồ-đề. Đó há chẳng phải vị lai hay sao? Hiện tại cũng có hai câu: câu thứ nhất là nói chẳng phải hiện tại, vì Phật tánh là thường; câu thứ hai nói ở hiện tại; vì tánh đã thấy được, chẳng lẽ không phải là hiện tại ư? Từ câu: “Như Lai cũng nói v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ hai rằng có dứt được hay không? Văn có hai: Trước nêu sáu việc, sau mới hỏi. Nếu sáu nghóa là duyên khởi của câu hỏi. Sáu nghóa gồm có hai cách giải: Một là liễu nhân, hai là chánh nhân, vì nhìn từ pháp tánh ở giai vị dưới thì đó là Phật tánh của cửu địa, cho nên có số lượng tương ứng. Từ câu: “Nếu dứt gốc thiện, v.v…” trở xuống là chánh thức hỏi, văn có ba: 1/ Hỏi Xiển-đề nếu có Phật tánh lẽ ra chẳng dứt mất gốc thiện. Câu hỏi này phát khởi từ nghóa Phật tánh thứ tư, là thiện trong sáu nghóa. Từ câu: “Nếu không có Phật tánh v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ hai: Nếu dứt mất Phật tánh, vì sao nói tất cả đều có? Câu hỏi này phát xuất từ nghóa phá kiến thứ sáu trong sáu nghóa. Vì tất cả đều thấy được, vì sao nói là dứt? Từ câu: “Nếu nói Phật tánh v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ ba, là đáp ý hỏi. Nếu cho rằng khi xưa đều có, sau tự bị dứt trừ thì vừa có vừa dứt, vì sao nói thường, đây là từ nghóa thường thứ nhất trong sáu nghóa mà sinh. Phật đáp có hai: Trước nêu bốn chương, sau giải thích. Trong phần giải thích, trước giải thích ba môn, nhưng lại giải thích phân biệt đáp, sau mới giải thích trí đáp. Trước có ba đoạn văn: Giải thích lại và phân biệt đáp, chính là dùng cách ngăn chặn câu hỏi. Trước đáp câu hỏi sau, sau đáp câu hỏi trước. Đáp câu hỏi sau có bốn: 1/ Từ câu: “Như Lai có vô lượng v.v… ”trở xuống là nêu bảy nghóa của Phật tánh. Kế là nêu Bồ-tát thân sau cùng có sáu nghóa. Nêu bảy, nêu sáu đều là lý do của lời đáp. Từ câu: “Như trước thầy hỏi v.v…” trở xuống là nhắc lại câu hỏi. Có ba lời hỏi, nay chỉ nhắc lại câu hỏi đầu. Từ câu: “Cũng có Như Lai, v.v…” trở xuống là chánh đáp. Trước nói tuy có mà không, sau nói tuy không mà có, là đáp chung cho ba câu trước. Từ câu: “Phật tánh v.v…” trở xuống là lại đáp câu hỏi về ba đời ở trước. Trước hỏi về Phật tánh là thường thì chẳng thuộc ba đời, nay Phật mới đáp. Trước phân biệt Phật tánh của Như Lai, trụ thứ chín, trụ thứ tám, trụ thứ năm khác nhau. Nhưng người dứt mất gốc thiện đều có tánh thứ bảy, thứ sáu v.v…này, vị lai sẽ được, cho nên chẳng thể nói không thuộc ba đời. Đương tướng của các pháp chẳng thuộc ba đời mà ở vị lai sẽ được, nên lại nói là vị lai. Văn có năm đoạn: 1/ Nói Phật tánh của Như Lai và thân Bồ-tát sau cùng; 2/ Nói Phật tánh của Bồ-tát trụ thứ chín; 3/ Nói Phật tánh của Bồ-tát từ trụ thứ sáu đến tám; 4/ Nói Phật tánh của Bồ-tát trụ thứ một đến trụ thứ năm; 5/ Tổng kết các câu hỏi. Đoạn một có bốn: Một, là nói Như Lai tánh chẳng thuộc ba đời. Phật tánh của Bồ-tát thân sau cùng. Hiện tại thấy chút phần, vị lai sẽ thấy toàn phần. Thứ ba, nói lại về nhân Như Lai là thuộc ba đời, còn quả thì có phải và chẳng phải. Nếu năm ấm thiện thì còn thuộc ba đời, còn quả Bồ-đề thì chẳng phải ba đời. Thứ tư, nói lại Bồ-tát thân sau cùng đều thuộc ba đời, vì có thể thấy. trên. trụ. trụ. Từ “Phật tánh v.v…” trở xuống là ý thứ hai. Sáu nghóa chỉ nói khả kiến, không khác với các nghóa đã nói ở Từ câu: “Bồ-tát Bát trụ v.v…” trở xuống là nói Lục trụ đến Bát Chỉ có năm nghóa, không có nghóa thường. Từ câu: “Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói Bồ-tát Sơ trụ đến Ngũ Chỉ có năm việc, nói thiện, bất thiện là khác với sáu nghóa của Bồ-tát thân sau cùng. Nói Thiểu kiến, tức giai vị đã cao, thấy được chút phần, vì tùy phần thấy tánh nên nói là thiểu kiến. Cửu địa đến Sơ địa thì giai vị thấp chưa thấy tánh, vì sẽ thấy nên nói là khả kiến. từ Sơ địa đến Ngũ địa có thiện bất thiện, thiện có nghóa tu và chẳng tu, tu đắc là thiện, chẳng tu thì chẳng thiện. Lẽ ra cũng nói chân chẳng chân, giải thích rằng: Chân thật tức là thể Phật tánh, chẳng có mà đã có, tức chân thật. Chỉ một chân thật này, nên có thiện bất thiện khác nhau. Xưa giải thích rằng: Lục Địa thì Bát-nhã hiện tiền, nhưng có lúc mất niệm; mất niệm thì bất thiện, chẳng mất là thiện. Hỏi: Bồ-tát thân sau cùng và Cửu địa đồng có sáu việc, trong sáu việc đều có một việc là thường. Sơ địa đến Bát địa đều có năm việc, vì sao không có một việc thuờng? Có người giải thích rằng: Bồ-tát thân sau cùng giai vị cao, Cửu địa giai vị thấp nên đều có thưởng, nhưng chưa ngăn chặn đuợc lời gạn hỏi, nên phải lập từ Sơ địa đến Ngũ địa giai vị thấp đều có nghóa vô thuờng, Bồ-tát thân sau cùng nếu so với Phật cũng là vô thuờng. Có người đáp rằng: Phật tùy tự ý ngữ, chẳng nên gượng phân biệt. Câu hỏi cũng chưa ngăn trừ được. Hỏi: Phật tánh của Bồ-tát thân sau cùng có thường tịnh, vì sao không có ngã lạc? Đáp: Bồ-tát có hai tuệ hóa tha nên nói là thường, cảnh trí đều sáng tỏ nên nói là tịnh, chân đối với ngụy, thật đối với hư, không ác là thiện, vì thấy một phần nên nói là thiểu kiến, không có tám tự tại nên không có ngã, còn báo thân nên không có vui. Nay cho rằng cách giải này chưa hoàn toàn, sau sẽ giải thích riêng. Từ câu: “năm loại, sáu loại v.v…” trở xuống là ý thứ năm, kết luận đáp câu hỏi trước. Từ câu: “Nếu có người nói v.v…” trở xuống là giải thích trí đáp, trước là chánh giải thích. Sau nói về hỏi đáp. Trí đáp có hai: 1/ Gác qua chẳng đáp gọi là Trí đáp, hỏi lại vấn đề đáp cũng gọi là Trí đáp. Nói thêm rằng: Gác qua không trả lời gọi là Trí đáp. Từ câu: “Ca- diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói nhờ Phật tánh mà sinh điều thiện. Có ba phen hỏi đáp: 1/ Nói về tánh nhân quả; 2/ Chánh nói nhân Phật tánh sinh thiện; 3/ Giải thích nghi. Ý câu hỏi thứ nhất là: Quả tánh chẳng thuộc ba đời có thể là Phật tánh, nhân quả trong nhân Phật tánh thì thuộc ba đời, vì sao gọi là Phật tánh? Phật đáp có hai là chánh đáp và kết luận nói tánh bị che lấp. Thứ nhất lại có ba: 1/ Phân biệt hai tánh nhân quả có khi thuộc ba đời, có khi chẳng thuộc ba đời. 2/ Nêu tánh thể của nhân quả; 3/ Dẫn chứng. Văn thứ nhất lại có hai: một, là nêu môn nhân quả; hai là giải thích. Nói năm ấm có nhân và quả, nghóa là hoặc nghiệp trong năm ấm là nhân, ấm thiện là quả. Nhị thừa trong nhân là thuộc ba đời, nếu là Đại Bồ-đề thì chẳng thuộc ba đời,. văn trước nói: “Khi Như Lai chưa được Bồ-đề, thì nhân tánh thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai, còn quả tánh chẳng phải như thế, có khi thuộc quá khứ vị lai, có khi cũng chẳng thuộc quá khứ, vị lai”. Đến đây mới có văn giải thích. Kế là giải thích nhân, tất cả vô minh, phiền não, kết nghiệp năm ấm ác là nhân Phật tánh; Tức vô minh phiền não v.v… sinh năm ấm thiện tức là quả tánh. Năm ấm ác chỉ là nhân tánh, còn năm ấm thiện thì chỉ chung cho nhân và quả, nhân là ba đời, quả thì chẳng phải ba đời. văn trước nói quả tánh vừa thuộc ba đời vừa chẳng thuộc ba đời. có người cho rằng ứng thân quả tánh là ba đời, pháp thân quả tánh chẳng thuộc ba đời. Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai nêu thể của nhân quả. Văn có hai là thể của nhân và thể của nhân quả. Muốn nói tánh trung đạo tức là các pháp. Nếu y cứ theo phiền não thì gọi là Nhân. Từ câu: “Từ vô minh v.v…” trở xuống là nêu thể của quả. Văn có hai: Trước nói tánh của quả ấm thiện chung cho nhân, là quả của bốn quả mười địa, tức thuộc ba đời. Kế là nói ấm của quả chỉ ở tại quả, đức chẳng thuộc ba đời. “Vì thế v.v…” trở xuống là đoạn ba, dẫn chứng. Trước dẫn chứng về nhân. Văn có pháp, dụ và hợp. Từ câu: “Vì thế v.v…” là dẫn chứng về quả, cũng có pháp, dụ và hợp. Quả thì gồm đủ quả trong nhân và quả Bồ-đề. Từ câu: “Hiện ta v.v…” trở xuống là đoạn hai. Kết luận nói tánh bị hoặc ngăn che, lại nói Trung đạo bị hoặc ngăn che. Văn có pháp, dụ và hợp. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phen thứ hai nói về nhân tánh sinh thiện. Trước hỏi, sau đáp. Về hỏi, trước nêu lại bảy, sáu, năm nghóa Phật tánh. Trong phần hỏi, ý muốn nêu: Đã ở vị lai, vì sao nói có mà năng sinh thiện. Phật đáp có ba: 1. Song dụ; 2. Song dụ và hợp; 3. Song kết. Song dụ có hai: Trước nói vì nghiệp ở quá khứ nên hiện tại được quả báo an vui. Kế là nói nghiệp vị lai chưa sinh, nên rốt cuộc chẳng sinh quả. Từ câu: “Có phiền não v.v…” trở xuống là song hợp dụ. Văn có hai: Câu đầu hợp với nghiệp quá khứ trước với quả vui hiện tại. Tức hợp với hiện tại: vì phiền não làm cho dứt mất gốc thiện, là do quá khứ. Nay nói phiền não hiện tại, tức là từ quá khứ nay đến hiệân tại. Kế là từ câu: “nếu không có phiền não v.v…” trở xuống là hợp với dụ thứ hai: Nghiệp vị lai chưa sinh, thì rốt cuộc quả chẳng sinh. Tức hợp vì nhân duyên Phật tánh ở vị lai sẽ sinh ra gốc thiện. Từ câu: “Cho nên người dứt mất gốc thiện, v.v…” trở xuống là song kết. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phen thứ ba giải thích nghi, nghi rằng: Vị lai chưa có, vì sao nói sinh điều thiện? Đức Phật đáp có hai là dụ và hợp. Nêu dụ đèn và mặt trời, nếu cố chấp thì lúc đèn và mặt trời chưa xuất hiện, không thể xua tan tối tăm. Nếu theo nhân duyên giả danh thì chưa sinh khởi cũng có thể xua tan tối tăm. Kế là từ câu: “Phật tánh cũng như thế v.v…” là hợp với nghóa chúng sinh đều có điều thiện vị lai có thể sinh ra Phật tánh. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn hai, chỉ nói về Trung đạo thành tựu sinh thiện cho chúng sinh. Nếu không có lý Trung đạo thì làm sao sinh thiện được? Đó là nhờ có Phật tánh giữ gìn kiến lập. Văn có ba: 1/ Nói về Trung đạo chẳng phải trong chẳng phải ngoài; 2/ Nói Trung đạo chẳng phải có chẳng phải không; 3/ Y cứ theo pháp để nói rộng về Trung đạo. Cũng có thể nói hai đoạn trước nói về thể của Trung đạo, một đoạn sau nói về Dụng của Trung đạo. Đoạn một có hai phen hỏi đáp. Phen thứ hai, trước Ca-diếp nói chẳng phải ý của mình, chỉ vì chúng sinh mà thôi. Phật đáp có sáu phen: 1/ Y cứ theo giải hoặc mà nói về trung đạo; 2/ Y cứ theo nội đạo, ngoại đạo để nói về Trung đạo; 3/ Y cứ theo quả trong ngoài để nói về Trung đạo; 4/ Y cứ nhân duyên trong ngoài để nói về Trung đạo; 5/ Y cứ theo hạnh trong ngoài để nói về Trung đạo; 6/ Y cứ vào trong ngoài thân để nói về Trung đạo. Sáu phen này có hai ý: Một, là lược nói đại ý, nên y cứ theo giải hoặc, năm phen sau nói rộng về chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Thứ nhất, là lược nói, gồm có ba: Một, là nêu Trung đạo; hai là giải thích, ba là kết luận. Thứ nhất từ câu: “Ta muốn chúng sinh v.v…” trở xuống là giải thích. Nói chung vì lợi ích chúng sinh. Nói chẳng phải trong tức chẳng phải sáu căn trong thân; chẳng phải ngoài tức chẳng phải sáu trần ngoài thân. Nhưng năm phen sau phá riêng hai chấp. Từ câu: “Cho nên Như Lai v.v…” trở xuống là kết luận. Nay nói thêm rằng: Một bộ kinh này chia làm năm chương lớn, đều gọi là Niết-bàn; Niết-bàn chỉ cho Phật tánh, ngay nơi ba mà một, là tánh chánh nhân, ngay nơi một mà ba, là tánh ba đức. Nay nói chúng sinh có Phật tánh thì gồm có hai nghóa. Đại sư Chương An khi nói đến đây thì gọi là Trung đạo, chẳng lẽ Trung của hữu vô, chân tục mà gọi là Phật tánh hay sao? Vì thế nói Phật tánh Trung đạo, thì Phật tánh trùm khắp tất cả. Cho nên văn kinh từ trước đến sau, chỗ nào cũng đều nói về trùm khắp. Vì thế đến đây lại nói: Chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Nói song phi, chẳng những song phi mà còn là song thị nữa, nên văn sau bác bỏ rằng: Chúng sinh phàm phu, hoặc nói Phật tánh trong năm ấm, như quả trong vật chứa; lại như hư không. Thế gian nói Phật tánh chỉ là hữu tình. Như quả trong vật chứa, còn không thể chấp được như hư không, thì đâu thể hiểu được nghóa chẳng phải trong chẳng phải ngoài? Huống chi văn kinh đã tự giải thích căn trần hợp mới gọi là Trung đạo. Căn hợp há chẳng phải là Nhất thể, há chẳng phải là tức nhau, há chẳng phải là tánh trùm khắp, há có thể đồng như quả trong vật chứa ư? Nay hỏi tường vách là căn hay là trần? Hay là cả hai hợp? Hay là song phi? Nếu là song phi thì cũng chẳng phải năm ấm, đâu chỉ là tường vách? Ôi! Buồn thay người đời! Khổ thay người giảng! Xin cẩn thận dùng sáu chương môn để bao gồm một bộ, xin dùng một bộ để thâu nhiếp một đời giáo hóa, Đức Thích-ca Như Lai so với chư Phật trong mười phuơng ba đời, lý đều không hai, sự cũng chẳng khác. Vì chỗ sai lầm rất nặng, nên hết lòng khuyên bảo. Từ câu: “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là nói rộng về Trung đạo; có năm phen, đều nói chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Phen thứ nhất, trước là nêu hai chấp. Bốn phen đều nói về Trung đạo. Từ câu: “Phật tánh nói chẳng phải có chẳng phải không v.v…” trở xuống là đoạn hai, văn có hai: Trước nói về Tông, sau là phá chấp. Về Tông, văn có ba: một là nói chẳng phải có chẳng phải không; hai là nói vừa có vừa không; ba là kết luận nói chẳng phải có chẳng phải không. Văn thứ lại có ba: một là nêu, hai là chẳng phải, kế là giải thích hai chẳng phải. Thứ ba kết luận hai chẳng phải (phi). Kế là nói vừa có vừa không. Văn có ba cặp: Nêu lên, giải thích và kết luận. Kế là kết luận. Từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là kết luận hai chẳng phải. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai, phá chấp trái với Trung đạo, phần nhiều nhờ vào dụ. Văn có ba: 1. Dùng dụ hạt giống để phá; 2.Dùng dụ sữa và lạc để phá; 3.Nêu dụ muối mặn để phá. Dụ thứ nhất có ba: Dụ, hợp và kết. Nói thêm rằng: Văn hợp có hai: Trước nêu lên, sau giải thích. Giải thích: Chúng sinh tức Phật tánh, Phật tánh tức chúng sinh, ng- hóa là chẳng phải trong ngoài mà cũng là trong ngoài, trong ngoài chẳng hai; cũng có thể nói sắc tức Phật tánh, Phật tánh tức sắc. Phen thứ hai ở trên cho ba mươi hai tướng quý là pháp bên ngoài, cho mười Lực, bốn Vô úy v.v… là pháp bên trong. Nếu không có sắc v.v… thì cũng không có tướng quý. Ba phen sau y cứ theo đó cũng rất dễ hiểu. Kế là dụ về sữa lạc: Trước lập dụ về sữa, sau lại từ sữa mà lập dụ sinh thức. Thứ nhất lại có ba: 1. Định Trung đạo; 2. Phá thiên chấp; 3. Kết luận theo chánh lý. Định trung đạo: Trước hỏi, sau đáp. Đáp có ba: Một là xác định. Hai là kết luận, giả thuyết vừa có vừa không. Thứ ba là giải thích. Từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là đoạn hai, phá thiên chấp, cũng phá cả có không. Ở đây chỉ phá chấp có. Văn có ba: 1/ Nói nhân quả đồng thời đều có vặn hỏi; 2/ Nói trong nhân có quả, so sánh và vặn hỏi; 3/ Nói trong quả có nhân, so sánh và vặn hỏi. Nếu nói sữa lạc đồng thời, thì lẽ ra bơ, đề hồ đều đồng thời xuất hiện; vì đồng thời; cho nên lại vặn hỏi: Nếu chẳng đồng thời thì ai làm cho thứ lớp xuất hiện? Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là nói trong có nhân quả. Trước so sánh, sau vặn hỏi chẳng giống nhau. Sữa là nhân của lạc mà làm sinh ra lạc, nước cỏ là nhân của sữa thì lẽ ra cũng phải sinh ra sữa. Kế là một câu, nói về chẳng giống. Từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là câu thứ ba, so sánh vặn hỏi trong quả có nhân. Nói so sánh tức nói sữa là nhân của lạc, lạc là quả của sữa, quả lẽ ra phải có nhân trong ấy. Văn có ba: trước là chánh thức gạn hỏi, kế là kết luận lời văn hỏi, trước kết luận vốn không. Kế là kết luận chẳng phải có chẳng phải không. Từ câu: “Vì thế Như Lai v.v…” trở xuống là ý thứ ba, kết luận về lý tánh; văn có hai: trước là lìa thiên chấp. Sau, kết luận về Trung đạo. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là nêu dụ sinh thức, vì dụ mà lập dụ; Trước nêu dụ sinh thức. Từ câu: “Trong sữa v.v… “trở xuống, lại dùng sữa lạc để hợp dụ. Văn có hai: Trước là hợp, sau là phá chấp. Phá chấp lại chia hai: Trước nêu lại lời chấp, sau là chánh phá. Trong phần phá, trước nêu hai chương, kế là giải thích. Thứ nhất là nói nhân khác quả khác. Kế là nói chẳng phải một nhân sinh ra tất cả quả, chẳng phải tất cả quả từ một nhân sinh, đây là chương hai. Từ câu: “Bốn việc v.v…” trở xuống là giải thích hai chương. Thứ nhất là giải thích chương sau. Nói chỉ sinh nhãn thức, chẳng thể sinh các thức nhó, tó, v.v… như thế đâu phải là nhân sinh một quả? Sữa sinh ra bơ cũng giống như thế, phải đợi các duyên, do các duyên mới sinh thì thuộc về vô thường. Kế là, từ câu: “cho nên v.v…” trở xuống là giải thích câu nhân khác, quả khác. Nhân sinh nên chấp có, nhân diệt nên chấp không; có diệt và chẳng diệt, tức nhân khác, quả khác. Từ câu: “Như muốn v.v…” trở xuống là dụ thứ ba, nêu muối mặn để phá. Văn có hai là nêu dụ và phá chấp. Phá chấp có hai: Trước nêu lại câu chấp, sau mới phá. Nếu chấp thì nêu hai chấp: 1/ Chấp trong muối có mặn. 2/ Nêu chấp trong hạt giống có bốn đại. Kế là, từ câu: “tánh của muối v.v…” trở xuống là phá hai chấp. Trước phá chấp trong vật không mặn có mặn. Kế là phá bốn đại. Thứ nhất: Trước là phá bỏ. Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là chánh phá. Văn có hai: Trước là vặn hỏi, sau là so sánh với các vật khác. Ý gạn hỏi: Nếu bỏ muối vào vật chẳng mặn làm cho mặn, thì biết không có bản tánh; xưa đã không mặn mà nay mặn há chẳng phải là xưa không ư? Kế là so sánh, đổ một thăng muối xuống một ao nước thì mất tánh mặn, trong nước vẫn không có tánh mặn, cả hai bên đều không, thì ở đâu có tánh mặn? Kế là nêu tất cả đều giống như thế. Từ câu: “Nếu nói ngoài bốn đại v.v…” trở xuống là phá bốn đại, tức phá câu chấp trước sau. Văn có hai: Trước là phá, sau là so sánh. Từ câu “Như mười hai thể loại kinh v.v…” trở xuống là ý thứ ba, y cứ theo các pháp mà nói rộng về Trung đạo, cũng là nói về Dụng. Văn có ba: Một, là y lý khởi giáo dụng; hai, là Tu nhân hướng quả dụng; ba, Tập giải trừ hoặc dụng. Về giáo dụng thì trước nêu lên, sau giải thích. Trong phần giải thích có hai: Trước nói chung về ba ngữ, sau nói riêng về tự ý ngữ. Trước lại có hai: Một, là y cứ theo giáo xưa mà nói ba ngữ. Trong giáo xưa giải thích có đủ ba ngữ. Các Tỳ-kheo mỗi vị tự nói nhân của thân, Phật cũng tự nói, đó là tùy tự ý ngữ. Như Trưởng giả nói huyễn, Phật tùy lời nói của Trưởng giả mà cũng nói huyễn. Đó là Tùy tha ý ngữ. Từ câu: “Như ta nói v.v…” trở xuống là đoạn hai, y cứ theo giáo nay để nói về ba ngữ. Văn cũng có ba ý. Từ câu: “Có lúc Như Lai v.v…” trở xuống là nói riêng về Tùy tự ý. Văn có ba: 1/ Nói rộng và lược; 2/ Nêu bảy loại; 3/ Nói về hữu vô Tùy tự ý. Y cứ theo một pháp tức là lược, y cứ theo vô lượng tức là rộng. Nêu bảy loại. Văn có hai là nêu lên và giải thích. Phần giải thích tự có bảy đoạn: Thứ nhất là trong nhân nói quả. Làm thiện thì được sinh lên cõi trời cõi người, làm ác thì đọa điạ ngục. Kế là trong quả nói nhân. Thấy nghèo thì biết bỏn sẻn, thấy giàu thì biết ưa thích bố thí. Năm việc còn lại như văn kinh. Thứ ba là từ câu: “Như Lai lại có v.v…” trở xuống là nói hữu vô Tùy tự ý ngữ. Văn có ba: Một là nói có không (hữu vô); hai là nói chúng sinh chẳng hiểu; ba là lập bốn câu phân biệt. Thứ nhất lại có hai: Một là y cứ theo Như Lai để nói về có không của Phật tánh; hai, là y cứ theo Xiển-đề để nói về có, không của Phật tánh. Về Như Lai lại có hai ý: Trước nói có không, sau so sánh đồng loại để giải thích. Thứ nhất lại có hai: Một là nói về vô sở hữu; hai, là nói về hữu sở vô. Mười Lực, bốn Vô úy v.v… đều là vô hữu mà hữu, kế là nói về hữu sở vô. Các nghiệp bất thiện, vô ký, tất cả phiền não đều là xưa có mà nay không. Kế là từ câu: “Như có, không, thiện, bất thiện, v.v…” trở xuống là nêu hai mươi hai cặp so sánh với hai việc ở trước. Nói hữu lậu vô lậu, hữu lậu so sánh giống với hữu sở vô, vô lậu so sánh với vô sở hữu; Thế gian so sánh với hữu sở vô, phi thế gian so sánh với vô sở hữu, các cặp khác cũng giống như thế. Từ câu: “Phật tánh v.v…” trở xuống là nói Nhất-xiển-đề có Phật tánh hay không. Đều trái với có không của Như Lai ở trên. Như Lai có thiện thì Xiển-đề không có, Như Lai không có ác thì Xiển-đề có ác. Từ câu: “Tuy ta nói v.v…” trở xuống là nói chúng sinh chẳng hiểu lời này của Như Lai. Văn có hai: Trước nói chẳng hiểu, kế là dẫn chứng việc xưa. Văn thứ nhất có hai: thứ nhất nói chẳng hiểu. Bồ-tát có hạnh sâu xa còn chẳng hiểu, huống chi là người có trí tuệ cạn mỏng. Từ câu: “Khi xưa v.v…” trở xuống là dẫn chứng. Phật nói Thế đế hàng Thanh văn không hiểu, có hai cách giải thích: 1/ Thế đế có nhiều chủng loại khác nhau, sự thì rộng nhiều, hành nghiệp nhân quả thì sâu xa, cho nên khó hiểu. 2/ Cho rằng ứng thân là Thế đế nên hàng Nhị thừa chẳng hiểu. Hỏi: “Phật nói Thế đế ở đâu mà năm trăm vị Thanh văn chẳng hiểu? Đáp: 1/ Cho rằng chính là trong hội Hoa Nghiêm năm trăm vị Thanh văn như câm như điếc; 2/ Bản Phạm thì nhiều nhưng truyền đến Trung Quốc thì ít. Đại sư Thiên Thai giải thích việc này trong một chương riêng. Từ câu: “Hoặc nói v.v…” trở xuống là lập bốn câu để phân biệt; gồm có hai: Trước y cứ bốn câu, kế là khuyên phân biệt. Xưa giải thích rằng: Nhất-xiển-đề có tức là có tánh cảnh giới tà ác, người thiên căn có tức có Liễu nhân muôn điều thiện cũng gọi là duyên nhân; hai người đều có tức đã có chánh tánh, hoặc chúng sinh tánh; cả hai đều không tức không có quả quả tánh; Hà Tây cho rằng Xiển-đề có tức là có năm ấm ác, thuộc về tánh bất thiện; người thiện căn có; tức là có năm ấm thiện, thuộc tánh thiện; cả hai đều có tức là đều có tánh năm ấm vô ký, đều không tức không có quả tánh Niết-bàn mầu nhiệm. Ý này đồng với cựu giải, nhưng dùng lời thì khác. Hưng Hoàng thì giải thích từ một câu đến bảy câu: Một câu chỉ là Trung đạo; hai câu là Phật tánh của Như Lai và Xiển-đề hoặc có hoặc không; ba câu tức là ba loại ngữ: Phật tự ngữ tức Xiển-đề có tánh, tha ngữ tức Xiển-đề vô tánh, tự tha ngữ tức vừa có vừa không; bốn câu tức bốn câu ở đây; bảy câu tức bảy loại chúng sinh, hai loại đầu là ác, năm loại sau là thiện. Lại có ba cách giải thích: 1/ Y cứ chung các nghóa; 2/ Y cứ theo trong ngoài lý; 3/ Chỉ y cứ trong lý. Y cứ chung các nghóa thì lý không có thiện ác mà có dụng thiện ác, người thiện căn có tức có dụng thiện, Xiển-đề có tức có dụng ác, cả hai đều có tức mỗi thứ có một, cả hai đều không tức mỗi thứ không có một. Y cứ theo trong ngoài của lý: Phật tánh vốn chẳng có được và chẳng được, nhưng theo duyên nên có được và chẳng được. Ngoài lý thì xiển-đề có được, trong lý thì không được; người thiện căn có tính vô đắc, người Xiển-đề có tánh hữu đắc; cả hai đều có và cả hai đều không thì giống như trên vừa nói. Chỉ y cứ theo trong lý: Xiển-đề tức Thiện Tinh; người thiện căn tức La-vân. Đây là hai căn cơ giáo hóa thuận và nghịch. Xiển-đề có tánh bất thiện nghịch hóa, người thiện căn có tánh thiện thuận hóa. Cả hai đều có đều không cũng giống như trên đã nói. Cho đây là thuyết “hiểu được điều khó hiểu”. Nay nói muốn y cứ theo văn này mà lập ra bốn câu: Xiển-đề có là có chìm, người thiện căn có là có nổi, cả hai đều có tức có tại bờ sông Hằng; cả hai đều không là đều chẳng đến bờ kia. Muốn suy nghó mà lập, lẽ ra cũng có vô lượng, nhưng chỉ nói lược như thế. Lại y cứ theo ba Đế: Xiển-đề có tức có nhân ác Thế đế, người thiện căn có tức có nhân thiện xuất thế, cả hai đều có tức đều có quả báo thân thế đế, cả hai đều không tức đều không có nhân quả Trung đạo. Từ câu: “Nếu các đệ tử ta v.v…” trở xuống tức là khuyên phân biệt, như văn kinh. Từ câu: “Như bảy người xuống sông Hằng v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về Dụng tu nhân đến quả, cũng lập dụ để nói về Trung đạo, gồm có dụ hợp và kết. Dụ thuyết có hai là chung và riêng. Từ câu: “Nói luôn chìm v.v…” trở xuống là hợp dụ riêng. Hợp thứ nhất thường chìm với Nhất-xiển-đề. Văn có bốn: 1/ Hợp với nghóa trái thiện. 2/ Câu: “Mà nghó rằng v.v…” trở xuống là hợp với việc hướng về ác. 3/ Từ câu: “vì chẳng v.v…” trở xuống là hợp với trụ ác. 4/ Từ câu: “Người này v.v…” trở xuống là hợp với người dứt gốc thiện này. Từ câu: “Tuy ta nói v.v…” trở xuống là hợp với người thứ hai tạm nổi rồi chìm, cũng có bốn: 1/ Khởi hạnh trái lý, tức là vì hữu mà tu thiện; 2/ Từ câu: “Thế nào gọi là chìm v.v…” tức là giải thích nghóa nổi chìm; 3/ Từ câu: “người này tuy tin v.v…” trở xuống là nói hành chẳng đầy đủ; 4/ Từ câu: “Nổi lại chìm v.v…” là nêu riêng người ấy. Y cứ theo nghóa Hạnh chẳng đầy đủ. Văn có hai: Trước nêu người, sau là từ câu: “Năm việc v.v…” trở xuống là kết luận chỉ rõ. Đầu tiên nêu năm việc: 1/ Tin chẳng đủ; 2/ Giới chẳng đủ; 3/ Nghe; 4/ Thí; 5/ Tuệ. Về Tín rất dễ hiểu. Nói sai nghi giới nghóa là bên trong không có thật đức, mà ngoài tỏ vẻ ngay thật, muốn người cung kính. Tùng giới tức trong ngoài tương xứng, chẳng vì việc người, chỉ cầu lợi ích chân thật mà giữ giới. Hữu giới tức là cầu cả ba; xả giới tức xả bỏ cả ba. Nói tin sáu thể loại kinh, Hà Tây cho rằng đó là Tu-đa-la, kỳ-dạ, Tì-già-la, Ưu-đà-na, Y-đế-mục-đa già, Ưu-bà-đề-xá, sáu bộ kia ý nghóa sâu kín khó hiểu, nên không tin. Có người cho rằng chỉ trong mười hai thể loại tin sáu, không tin sáu, các nghóa còn lại có thể tự hiểu. Từ câu: “Người này chẳng đủ v.v…” trở xuống là đoạn hai, kết luận. Từ câu “Người thứ hai v.v…” trở xuống là đoạn ba, hợp với hạng người trụ lại. Theo lý thì phải nói là nguời thứ ba, vì sao lại nói là người thứ hai? Giải thích rằng: Vì hạnh tu tập của người thứø hai này tương ứng với nguời thứ ba. Phẩm Sư Tử Hống năm phương tiện, hai mươi tâm đều được trụ; nay phẩm này chỉ căn cứ theo vị mới chứng đắc, lại y cứ theo Tiểu thừa, nên nói hai phương tiện trước là Niệm xứ và Noãn pháp, nếu theo bảy phương tiện thì đó là bốn phương tiện trước từ Đảnh, Nhẫn cho đến Sơ quả, lại thuộc về người quan sát y phương. Nếu y cứ theo Đại thừa thì ba mươi tâm đều thuộc về người quán sát y phương; Từ Sơ địa trở lên là người đến bờ kia. Văn có bốn: một là nói về bản khởi; hai là nêu người; ba là nói trụ lại; bốn là nói về hành pháp. Ba văn trước thì thuộc phần cuối quyển này; thứ nhất nói về bản khởi. Vì người thứ hai ở trước là người thứ ba ở đây, có chỗ đổi thành người thứ ba thì không đúng. Từ câu: “Đó là v.v…” trở xuống là thứ hai nêu người. Lẽ ra nêu ra người tự giải, nhưng lại nêu Xá-lợi-phất, Mục-kiền- liên là chân giải, xưa giải thích việc này có hai nghóa: Người thứ ba này về giai vị trên chung đến A-la-hán, nên mới nêu các vị ấy; hai, là dùng việc xưa, ban đầu là người tự giải, do tu tập mà đuợc nhập chân; nay vẫn xếp vào giai vị tự giải khi xưa. Từ câu: “Thế nào là trụ, v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về được trụ. Hỏi: Trong dòng sông Niết-bàn có bốn người đều được Niết-bàn là La-hán, Bích-chi-Phật, Bồ-tát và Phật; trong sông sinh tử có Phật là người thứ bảy, còn ba người kia vì sao chưa qua được? Đáp: Có người cho rằng trong dòng sông Niết-bàn, Ba thừa đồng được Niết-bàn, vì thế đều thuộc người thứ bảy. Trong sông sinh tử, bốn quả chưa lìa khỏi sông sinh tử, nên chưa qua được. A-la-hán tuy vô sinh mà còn đời này, nên chẳng qua được. Vì vậy được Niết-bàn vẫn chưa khỏi sinh tử. Còn vượt sinh tử rồi thì chắc chắn được Niết-bàn, v.v… Ở đây phê bình: Lời giải này dường như cách xa lý chưa rõ ràng. Bây giờ lại hỏi rằng: Nếu trong dòng sông Niết-bàn, bốn người đồng được Niết-bàn, thì bốn người có đồng thấy được Phật tánh hay không? Nếu kia đáp là đồng thấy tánh, thì đây đâu chẳng phải là thấy lý? Nếu đáp chẳng đồng thấy, thì cũng chẳng đồng thấy Niết-bàn, vậy sao văn trước nói đồng là người thứ bảy? Đã đồng là người thứ bảy mà có người thấy tánh và người chẳng thấy tánh, thì biết Niết-bàn có khác, sinh tử bất đồng. Ở đây xét ý kinh: Sông sinh tử chỉ ở biến dịch, chỉ có Phật mới qua được, còn những người khác vẫn ở trong sông. Sông Niết-bàn chỉ ở phần đoạn, chung cho bốn hạng người tức bảy hạng người của Tiểu thừa. Cho nên Thích luận ghi: “A-la-hán địa là Phật địa “. Lại Ca-diếp và Phật cùng ngồi giường Giải thoát, tức là nghóa này. Chung riêng đồng nêu, thuận theo thời nghi, không nên chấp nhất định. <篇> ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 30 <詞>PHẨM 24: CA-DIẾP (PHẦN 3) Đầu quyển là đoạn bốn, nói về hành pháp. Văn có năm đoạn: 1/ Nói về tu hành; 2/ Nói về chung riêng; 3/ Nói về danh thể; 4/ Nói về nhân số; 5/ Kết luận được trụ. Văn thứ nhất lại có bốn: 1/ Quán bất tịnh 2/ Quán niệm xứ; 3/ Quán nhân duyên; 4/ Quán noãn pháp. Nhưng người được trụ chỉ có hai phương tiện, đâu cần dùng bốn? Quán bất tịnh và quán nhân duyên là Tiền phương tiện của Niệm và Noãn. Chia ra thì thành bốn, hợp lại thì chỉ có hai là Niệm và Noãn. Văn thứ nhất lại có hai: Trước nói về duyên khởi. Nếu trí chẳng có đủ năm việc thì tức là tín, giới, thí, văn và tuệ đã nói ở trước. Kế là nói về bốn pháp. Ở đây lấy bất tịnh làm tên, nếu theo luận Tạp Tâm thì thuộc môn Tam độ. Ở đoạn trên dư câu “Nặng về chấp ngã thì nên dạy mười tám giới”, nếu y cứ theo luận Địa trì thì thuộc môn Ngũ độ, có thêm quán nhân duyên. Kế là, từ câu: “Như pháp v.v…” trở xuống là nói về quán niệm xứ. Quán thì có chung và riêng, chung thì sâu, riêng thì cạn. Từ câu: “Đạt được pháp quán v.v…” trở xuống là thứ ba, nói về quán nhân duyên. Từ câu: “Quán rồi v.v…” trở xuống là thứ tự quán Noãn pháp. Nói chung thì Tiền phương tiện cũng được trụ, nếu nói riêng, thì chính là y cứ theo Noãn pháp, khi thành tựu giải Không thì chắc chắn chẳng lui sụt, đó gọi là người được trụ. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là nói về chung riêng, phân biệt pháp Noãn. Trước hỏi sau đáp, hỏi lại có hai: Một, là hỏi về người, nêu chung noãn xúc để hỏi. Dẫn lời Phật nói để chứng minh. Phật đáp có hai: Trước bác bỏ lại câu hỏi. Nghóa là điều mà ông y cứ chẳng phải nghóa ta nói. Từ câu: “Pháp Noãn như thế v.v…” trở xuống là chánh đáp. Văn có hai: Trước nói về cõi riêng, sau nói về người riêng. Về cõi thì cõi Sắc có, cõi Dục không, về người thì đệ tử ta có, ngoại đạo không có. Nói pháp Noãn chỉ có ở cõi Sắc, không có ở cõi Dục, lập ba nghóa để giải thích: 1/ Dùng nhiều sắc định để phát khởi quán pháp Noãn, từ số nhiều mà gọi là cõi Sắc có; 2/ Y cứ theo định trung gian thì ba cõi đều phát Noãn pháp, nhưng cõi Sắc ở giữa nên nói cõi Sắc có; 3/ Y cứ theo Thắng xứ thì sắc dễ phát khởi pháp Noãn, còn cõi Dục thì rất khó. Từ câu: “Tuy cõi Sắc v.v…” trở xuống là nói về người riêng. Trừ ngoại đạo, chỉ đệ tử Phật mới có. Nói ngoại đạo quán sáu hạnh tức duyên theo thắng, diệu, xuất ở các cõi trên, nhàm chán khổ, thô, trọng ở cõi dưới. Đệ tử Phật có đủ mười sáu hạnh, tức là mười sáu đế: Khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí, khổ tỉ (loại) nhẫn, khổ tỉ (loại) trí v.v… Trong đây đã chưa dứt hoặc, nên chỉ là mười sáu đế quán. Nay nói thêm rằng: Duyên theo đế quán này mà tu ưa thích nhàm chán, đệ tử Phật cũng tu ưa thích nhàm chán. Còn ngoại đạo tu tập thì chỉ y cứ vào các cõi. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn ba, định danh thể, trước hỏi sau đáp. Trong phần hỏi có hai: trước hỏi về danh, kế là hỏi về thể. Đức Phật đáp, trước đáp câu hỏi sau, sau đáp câu hỏi trước. Trước trả lời về thể, văn có hai: Thứ nhất là chánh đáp. Thứ hai là phân biệt, trong đó trước hỏi sau đáp. Đầu tiên Phật dẫn Mã Sư không có tín tâm tức không có pháp Noãn. Kế là Phật đáp: Ta cũng chẳng nói tín tâm là Noãn, tín là nhân của Noãn. Noãn là do trí quán bốn đế mà sinh. Nói mười sáu tức là mười sáu phân của bốn đế. Từ câu: “Như lời thầy hỏi v.v…” trở xuống là đáp về danh. Văn có hai: Trước là chánh đáp, kế là nói thêm. Thứ nhất lại có hai: 1/ Nêu lại pháp Noãn để đáp lược, nói từ dụ mà có tên. Từ câu: “Thí như v.v…” trở xuống là đáp rộng. Văn có dụ và hợp. Kế đó lại hỏi đáp thêm: Thứ nhất là hỏi, có hai: Trước là lãnh chỉ, kế là từ câu: “Nếu là pháp Hữu vi v.v…” trở xuống là chánh thức hỏi. Nói quả báo được năm ấm cõi Sắc, nếu theo các Sư Số Luận thì Thật có dùng pháp Noãn để được quả báo cõi Sắc; nhưng chẳng thọ thân, vì đó là nghiệp vô lậu, tức diệt báo. Các Sư Thành Thật cho rằng pháp Noãn đốt cháy sinh tử, không còn chịu báo, chỉ do sắc định mà được quả báo, nên từ đó mà đặt tên. Phật đáp có hai: Trước khen lời hỏi. Từ câu: “Pháp Noãn như thế v.v… “trở xuống là chánh đáp. Văn có ba là pháp, dụ và hợp. Ý đồng với lời giải thích của Số luận. Vì lấy tâm tưởng làm ái, có ái nên thọ sinh; vì nhàm chán nên có quán hạnh, đó là tướng vô lậu. Từ câu: “Người được pháp Noãn v.v…” trở xuống là nói về số lượng người. Nói bảy mươi ba, có ba cách giải thích. Trang Nghiêm cho rằng: Như mười điều thiện của cõi Dục tương ứng với tâm gọi là định Điện quang; vì có lúc được, có lúc mất, nên gọi là Điện quang. Người này gọi là có đủ các tánh phiền não, nhưng không chia ra phẩm số. Nếu nói về phương pháp, thì định có chín phẩm, hoặc cũng có chín phẩm. Dùng chín định đoạt chín hoặc cộng với người đạt được Điện quang là thành mười người. Bốn thiền của cõi Sắc, ba không cõi Vô sắc, mỗi địa đều có chín phẩm định trừ chín phẩm hoặc, tổng cộng là sáu mươi ba và mười người vừa nêu thành bảy mươi ba. Khai Thiện cho rằng: Không có định Điện quang, khác với phương pháp, cũng không có phương pháp khác với Điện quang, chỉ dùng định Điện quang đối trị với chín hoặc mà thành chín định. Một phẩm định thứ nhất là Phật pháp, chưa nhờ vào giả, còn đối kháng với hoặc chưa thể hàng phục hoặc, phẩm định thứ hai làm tương tục giả cho phẩm định thứ nhất, cùng nhau phát ra lực dụng mới hàng phục được phẩm hoặc thứ nhất; phân định thứ ba chế phục phẩm vô minh thứ hai, cho đến phẩm định thứ chín chế phục phẩm hoặc thứ tám, còn lại một phẩm hoặc sau cùng của cõi Dục thì dẫn đến phẩm định thứ nhất của Sơ thiền, pháp khởi mới cùng điều phục. Bốn thiền và ba không, mỗi pháp đều có chín hoặc chín định, cho đến phẩm định thứ chín Bất dụng xứ chế phục phẩm hoặc thứ tám, còn lại phẩm hoặc thứ chín, lại dùng định Phi tưởng để chế phục phẩm hoặc thứ chín bất dụng xứ. Tám lần chín là bảy mươi hai, thêm định Phi tưởng là thành bảy mươi ba. Dẫn Uất-đầu-lam-phất được định Phi tưởng tức là nghóa này. Ở văn này nói cõi Dục, Sơ thiền cho đến Vô sở Hữu xứ; văn trước nói được định Phi tưởng dứt trừ hoặc bất dụng xứ đều là những lời dẫn chứng khéo léo. Các sư Số Luận giải thích: Cũng có hai thuyết khác nhau, sự thì chướng vị lai, tánh thì chướng căn bản. Một thì chia làm chín phẩm giải, mỗi phẩm giải đối trị một phẩm hoặc. Lại có mười điều thiện tương ưng tâm, tức có đủ tánh phiền não, cộng với chín phẩm giải trước thành mười. Người có đủ phiền não và với phẩm định thứ nhất cùng dứt một phẩm hoặc, sau đó dùng một phẩm định dứt một phẩm hoặc, bốn Thiền và ba Không mỗi pháp đều có chín định, chín hoặc thì cũng thành bảy mươi ba người. Hai là nói tánh chướng căn bản, tức chín phẩm định của vị lai thiền dứt chín phẩm hoặc cõi Dục, lấy một người có đủ tánh phiền não cõi Dục cộng với chín phẩm thành mười người; như thế tám định đều có vị lai. Định vị lai cõi Nhị thiền dứt chín phẩm hoặc của Sơ thiền, chín phẩm định vị lai của Tam thiền dứt chín phẩm hoặc của Nhị thiền, cho đến định vị lai cõi Phi tưởng dứt chín phẩm hoặc của Bất dụng xứ như thế cũng thành bảy mươi ba vị. Hỏi: Trước nói rằng Noãn là pháp của cõi Sắc, vì sao ở đây nói chung cho ba cõi, lập bảy mươi ba người? Đáp: Người mới học phải nương vào Tứ thiền; y cứ vào việc lợi ích về sau thì chung cho ba cõi, vả lại, xưa ở tại phàm phu ngoại đạo từng được bảy mươi ba định, nên nay nhập vào Phật pháp thì quán Noãn pháp. Từ câu: “Những người như thế v.v…” trở xuống là đoạn năm, kết luận người được trụ chẳng gây ra năm tội nghịch, chẳng phạm bốn tội trọng, chẳng dứt mất gốc thiện. Từ câu: “Người này v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nhìn phương hướng. Văn có hai: Trước nêu thể của người nhìn bốn phương, kế là hỏi đáp, nói về ý nghóa của Sơ quả. Thứ nhất, văn có hai: Một, nêu lại văn trước; hai, chánh đáp. Lặp lại người thứ hai tạm nổi rồi chìm, nếu gặp bạn ác thì thường làm người như thế. Nếu gặp bạn thiện thì tiến lên mà làm người trụ vững, lại trở thành người quán sát bốn phương. Vì thế trước nói về người thứ hai. Kế là, từ câu: “nói quán bốn phương v.v…” trở xuống là nêu thể của người quán bốn phương. Hoặc cho rằng từ Khổ nhẫn cho đến Sơ quả mới là người được nói trong đoạn này, ý văn chẳng phải thế. Gồm có năm hạng người: Đảnh pháp, Nhẫn pháp, Thế đệ nhất pháp, Khổ nhẫn đến mười lăm tâm, Sơ quả đến tâm thứ mười sáu, năm hạng người này đều quán bốn đế, đều gọi là người nhìn bốn phương. Nhưng pháp Noãn ở trước cũng nói là quán bốn phương, vả lại từ nghóa được trụ mà đặt tên là chìm, còn nghóa nhìn bốn phương thì từ Đảnh pháp trở lên mới được gọi. Nói năm vị này là gồm năm chương, theo văn kinh rất dễ thấy. Nhưng hai văn trước đều nói Tánh là năm ấm, nếu nói cho đúng thì Đảnh pháp chỉ là hành ấm; mà nói năm là vì chưa khỏi bị các ấm khác ngăn che. Do đó mới nói chung năm ấm quán được bốn đế, Thế đệ nhất pháp. Nói năm căn, vì chúng rất sâu xa thù thắng, sinh ra chân giải, hiển bày nghóa căn này. Bản riêng cũng ghi là ấm. Kế là được khổ pháp nhẫn tức là chân giải. Nói duyên Nhất đế, tức là được Nhất đế bình đẳng chân không. Trong phẩm Sư Tử Hống thì dụ bốn phương với bốn quả, nay dụ cho bốn đế, mỗi đế đều có nơi y cứ, Bà-sa nói: Phương Đông dụ cho khổ, cho đến phương Tây là Đạo. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phần hai, nói về nghóa, tức nghóa của Sơ quả. Có ba phen hỏi đáp: Phen thứ nhất: Là trước hỏi, gồm bốn câu: 1/ Hỏi về dứt hoặc; 2/ Hỏi về nhìn bốn phương; 3/ Hỏi về danh nghóa; 4/ Hỏi về thí dụ. Kiến tư hoặc gồm chín mươi tám sử, kiến đế có tám mươi tám thứ, tư duy có mười tám. Mười tám tư duy trước đã dứt sạch, chỉ còn mười sử, nên nói là nhẹ. Có kinh nói Tu-đà-hoàn mộng thấy rắn tám mươi tám đầu chết, tức nói lên ý này, nói như vùng nước rộng bốn mươi dặm thì như kinh Trì Dụ đã ghi. Phật đáp bốn câu hỏi, trước là câu hỏi về dứt hoặc; văn có hai: Một là chánh đáp; hai là nói về việc làm. Thứ nhất lại chia làm hai là nêu chương và giải thích. Nêu chương có hai: Trước là nêu chương quan trọng. Thứ hai, chương gồm thâu tất cả phiền não. Từ câu: “Thí như v.v…” trở xuống là giải thiùch chương, thứ nhất giải thích chương gồm thâu, gồm có dụ và hợp. Ba phiền não này gồm thâu tất cả, như vua ra khỏi cung, có rất nhiều người theo hầu, nhưng người đời chỉ nói vua đến vua đi; vì ba hoặc này là gốc gồm thâu các hoặc. Từ câu: “Do nhân duyên gì v.v…” trở xuống là giải thích chương môn quan trọng. Có năm câu: 1/ Vì thường khởi; 2/ Nhỏ nhiệm khó biết; 3/ Khó dứt trừ; 4/ Nhân của hoặc; 5/ Kẻ thù. Câu thứ nhất là thường tồn tại Hữu ngã, tức ngã kiến; tin tà thần tức giới thủ; do dự chưa quyết định tức là tâm nghi. Kế là nói khó biết. Ngã kiến dường như chánh kiến, giới thủ giống như chánh giới, tâm nghi giống như chánh giải. Thứ ba, thứ tư rất dễ thấy. Ngã kiến trái với chánh tuệ, giới thủ trái với chánh giới, tâm nghi trái với chánh định. Từ câu: “Có các chúng sinh v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về việc làm. Tức là vì dẫn dắt chúng sinh nên nói là ba. Nếu nói dứt vô lượng phiền não thì chúng sinh sẽ sinh tâm lui sụt, cho nên không nói nhiều. Kế là đáp câu hỏi về quán bốn phương, văn có hai: trước là nêu câu hỏi. Kế là chánh đáp. Nói năm căn là năm căn như tín, tấn, v.v…; phiền não trong ngoài tức ba độc là bên trong, si và các kiến là bên ngoài. Kế là trả lời về danh nghóa. Văn có hai: Trước là chánh đáp, sau là hiển bày lại. Chánh đáp có hai: Một là nêu câu hỏi; hai là chánh đáp. Phần chánh đáp có hai: trước giải thích danh từ tu vô lậu. Từ câu: “Tu là v.v…” trở xuống là giải thích danh từ nghịch lưu. Lưu có hai: Một là sinh tử lưu, người Tu-đà-hoàn ngược với lưu (dòng) này, còn chúng sinh thì thuận với lưu này. kinh Tiểu Bát-nhã ghi: Gọi là nhập lưu mà không có chỗ nhập. Kế là nói nghóa và hiển bày lại. Đầu tiên là hỏi về nghóa chung. Nếu nói là nghịch lưu thì ba người sau cũng là nghịch lưu, có được gọi là Tu-đà-hoàn chăng? Phật đáp: có hai: Trước là chánh đáp, kế là nói căn cơ khác nhau. Chánh đáp có hai: Một là nói tên của giai vị dưới chung cho tên của giai vị trên; Hai, là nói tên giai vị trên chung cho tên của giai vị dưới. Thứ nhất lại có hai: Một là nói tên tu vô lậu là chung; Hai là nói tên nghịch lưu là chung. Vì thế tên giai vị dưới chung cho giai vị tên; mới được thì gọi là Tu-đà-hoàn, được sau thì gọi là Tư-đà-hàm. “Tu-đà-hoàn v.v…” trở xuống là ý thứ hai, tên của giai vị trên chung cho giai vị dưới. văn lại có hai: Một là nói danh từ Bồ-tát chung cho giai vị dưới. Nói từ Phật chung cho các giai vị dưới. Phật là giác, có khả năng thấy chánh lý, nên nay Tu-đà-hoàn giác biết các pháp, dứt hoặc thấy lý, há chẳng phải là Phật ư? Từ câu: “Tu-đà-hoàn v.v…” trở xuống là nói về căn cơ khác nhau. Trước nêu hai căn. Kế là giải thích riêng, trước là giải thích độn căn. Cực độn căn thì bảy lần sinh tử, hoặc là ít hơn, cũng đều thuộc về độn căn; trong đó lại có sáu lần, hoặc là năm, bốn, ba, hai lần. Kế đến là giải thiùch lợi căn, tức từ sinh đến quả thứ tư. Kế là đáp bốn thí dụ, văn có hai: trước nêu lại câu hỏi. Sau là giải thiùch. Văn có hai là nêu lên và giải thích. Nói giữ chặt, như ma nói năm đế, Trưởng giả không tin, đó là giữ chặt. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Trước hỏi sau đáp. Hỏi có hai câu xác định, hai lần kết luận nêu câu hỏi. Thứ nhất là từ câu: “Nếu trước đắc đạo v.v…” trở xuống là kết hai câu hỏi. Thứ nhất là câu kết thứ nhất. Nếu mới đắc đạo gọi là Tu-đà-hoàn, thì khi đã được chân giải khổ nhẫn cũng gọi là Tu-đà-hoàn, chẳng gọi là Hướng. Kế là kết câu hỏi thứ hai. Nêu ngoại đạo xưa đã dứt phiền não, được Thượng định, hàng phục kết sử ở cõi dưới; sau đó, khi hồi tâm thì đồng với chỗ hàng phục mà dứt kết sử liền thành A-na-hàm. Đã là Sơ quả lẽ ra phải gọi là Tu- đà-hoàn. Phật đáp: Trước trả lời câu thứ nhất. Vốn lấy Sơ quả mà gọi Tu-đà-hoàn; khi đạt được Khổ nhẫn thì chưa được Sơ quả, mà còn là Hướng, vì thế mới bác bỏ ngược lại. Từ câu “Như lời ông hỏi v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi sau. Văn có hai: 1/ Nêu lại câu hỏi; 2/ Chánh đáp, rất dễ thấy. Này Thiện nam! Vì Sơ quả nên mới gọi là Tu-đà-hoàn, vì người này có đủ tám trí và mười sáu hạnh. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phen thứ ba; trước hỏi, sau đáp. Hỏi A-na-hàm cũng có đủ tám trí, mười sáu hạnh. Phật đáp có hai: Trước nói về hạnh khác nhau, sau nói về cảnh khác nhau. Thứ nhất nói hạnh khác nhau. Nói mười sáu hạnh, tức là quán mười sáu đế. Hữu lậu tức là tự giải có cộng và bất cộng; gồm ba cách giải thích: 1/ Tì-đàm cho rằng mười lăm tâm trước là cộng, tâm thứ mười sáu là bất cộng; nhất thời đồng quán, như khi quán khổ thì chỉ được quán khổ, không được quán không cho đến các đế khác, còn Đạo cũng như thế, nên nói là Cộng. Tâm thứ mười sáu, nhất thời quán mười sáu đế nên nói là bất cộng. 2/ Ái sư cho rằng mười sáu hạnh hữu lậu thì chung (cộng) với phàm phu, còn mười sáu hạnh vô lậu chẳng chung (bất cộng) với phàm phu. Nghóa này chẳng đúng, kinh đã nói: “Hữu lậu có cộng và bất cộng” sao lại dùng vô lậu để giải thích. 3/ Hà Tây cho rằng: Ba phương tiện trước trong bảy phương tiện cũng quán mười sáu đế thì gọi là Cộng; bốn phương tiện sau thì Bất cộng. Nếu Sơ quả theo thứ lớp tu hành thì lập đầy đủ bảy phương tiện quán, xả bỏ cộng được bất cộng. Nếu là người vượt hơn thì chỉ tu quán bốn phương tiện sau, chứng quả thứ ba, cho nên nói Bất cộng. Mười sáu hạnh vô lậu cũng có hai loại là Hướng và Đắc, các sư Thành Thật giải thích rằng: Trước Sơ quả thì chưa có quả, nên nói xả Hướng được quả; trước Na-hàm có hai quả, người vượt hơn tuy không thủ chứng, nhưng cũng đều từ trong đó mà vượt lên cho nên mới nói là: “Chẳng phải như thếâ”. Nếu theo nghóa của Số Luận thì người vượt hơn đã đắc quả A-na- hàm, cũng chẳng từ hai quả trước mà vượt qua, thế thì từ Phương tiện đạo mà vào mười sáu tâm, tâm thứ mười lăm là hướng A-na-hàm, tâm thứ mười sáu là chứng quả A-na-hàm, cũng là xả Hướng mà đắc quả. Cách giải này chẳng hợp; Họ còn giải thích rằng: Nếu Sơ quả chắc chắn như thế thì A-na-hàm sẽ bất định. Nếu là người vượt hơn cũng như thế, thì người theo thứ lớp chẳng phải như thế. Đã bất định nên nói “chẳng phải như thế”. Tám trí cũng có hai, tức bốn đế mỗi đế đều có Tỉ và Hiện nên thành tám, chẳng phải là tám của mười trí. Nếu theo các Sư Số Luận thì trong Hướng chỉ có bảy trí, trong quả chỉ có một trí. Nghóa này cũng chẳng hợp. Từ câu: “Hàng Tu-đà-hoàn v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về cảnh khác nhau. Nói Sơ quả duyên bốn Đế, A-na-hàm chỉ duyên một Đế, tức Sơ quả mới nhập đạo, khi tu Phương tiện đạo thực hành đủ mười sáu hành quán nên có đủ bốn Đế, A-na-hàm thì ở tại tư duy đạo tu Trạch pháp, giác chi tùy thời được Nhất đế làm duyên, cho nên chỉ nói là một đế. Từ câu: “Nhìn khắp rồi đi v.v…” trở xuống là hợp với dụ thứ năm, tức quả Tư-đà-hàm. Nếu nhiếp hết các Hiền Thánh thì nhiếp cả Na- hàm hướng, Tư-đà-hàm hướng và quả ở tự địa; gồm thâu ba việc này vì sao lại gồm thâu A-hàm hướng? Na-hàm vốn đã quán rồi thì trụ, khi còn ở Hướng thì đi mà chẳng trụ, cho nên gồm thâu được. Hướng vị đã nêu trên đều thuộc về quả dưới, nếu chứng quả A-na-hàm thì được gọi là: “Đi rồi lại trụ”. Ví như A-la-hán hướng thì thuộc quả A-na-hàm. Theo đó Tư-đà-hàm hướng nên thuộc Sơ quả, nhưng chẳng phải vì Sơ quả chỉ nói về chánh vị, chẳng nói về hạnh tiến tu, vả lại hai đạo kiến tư khác nhau nên chẳng thuộc nhau. Nay nói về Tư-đà-hàm thì vị chỉ có một mà quả có hai Hướng. Văn nói: “Vì dứt bốn hoặc, ba độc và mạn”, lẽ ra có nêu đủ mười sử, nhưng trong suy nghó đạo thì có năm kiến và nghi thuộc về Mạn, nên chẳng kể. Văn có hai: trước là chánh hợp, kế là nêu dụ để hợp Từ câu: “Đi rồi lại trụ v.v…” trở xuống là hợp với dụ thứ sáu, nói về A-na-hàm, có bốn chương: 1/ Nêu chương, 2/ Giải thích, 3/ Phân biệt Trung diệt, 4/ Giải thích lại trụ. Thứ nhất nêu chương gồm có bốn: Một là nêu hai người; hai là nêu năm người; ba là nêu sáu người; bốn là nêu bảy người. Thứ nhất nêu hai người, tức kinh sinh và chẳng kinh sinh. Kinh sinh là bậc thượng hạnh. Hỏi: Nếu theo thuyết của Trang Nghiêm thì có mười một loại A- na-hàm, trong chín người lại nói Tín giải và Kiến đắc, thành mười một. Khai Thiện chỉ nói có chín, bác bỏ Trang Nghiêm rằng: “Đây là phân biệt lợi độn, nên chẳng có hai người sau”. Nay hỏi rằng văn này chỉ nói bảy loại trong chín loại, không nói thân chứng và chuyển thế? Đáp: Có ba nghóa: 1/ Chẳng nói thân chứng và chuyển thế là vì người chuyển thế chẳng xuất quán, còn thân chứng thì nhập định Diệt tận. Đại thừa chẳng nói về định này; do đó không kể. 2/ Đây chỉ là triển khai rộng và lược nêu mà thôi. 3/ Chuyển thế và phần chứng là do là do luận lục Túc lập ra, còn Đại thừa thì không có. Từ câu: “Hành Bát-niết-bàn v.v…” trở xuống là thứ hai, giải thích chương trên tuy có bốn nhưng ở đây chỉ giải thích hai chương. Trước giải thích hai hạng, kế là giải thích năm hạng. Còn hai chương sáu và bảy không giải thích. Thứ nhất giải thích hai người, trong đó người thứ nhất là Hiện diệt thì đã giải thích ở chương trước. Vả lại, nếu thân hiện đời được A-na-hàm, tiến tu đắc quả A-la-hán, mà thân này chưa diệt, như thế một thân này được hai quả, là hàng rất lợi căn; vì dễ hiểu nên không giải thích, này chỉ giải thích hàng thượng hạng. Văn có hai, trước nói số lần thọ sinh, sau nói về hạnh khác nhau. Thứ nhất, Hành bát tức là thượng lưu tham đắm cả Sắc và Vô sắc. Nói thọ hai thân tức từ Sơ thiền qua đời sinh lên Nhị thiền. Nói thọ bốn thân tức thọ sinh đủ ở bốn Thiền. Nói thọ sinh hai thân là hàng lợi căn, bốn thân là độn căn, lợi hay độn cũng không chánh thức liên quan đến số lần sinh, nay chỉ y cứ theo nhiều ít để phân biệt. Hàng Na-hàm lợi căn ở Sơ thiền qua đời, sinh về Nhị thiền thì chứng A-la-hán. Hàng độn căn đầu tiên từ Sơ thiền qua đời sinh về Nhị thiền, nếu chưa được quả A- la-hán thì sinh lên Tam thiền, nếu chẳng được thì tiếp tục sinh lên Tứ thiền, bấy giờ mới đắc quả A-la-hán. Ở đây y cứ theo Tứ thiền mà có lý thuyết này. Từ câu: “lại có hai loại v.v…” trở xuống là nói về hạnh khác nhau. Đồng nói có hai loại, là gồm bốn câu y cứ vào hai hạnh tấn, định có hay không. Từ câu: “Chúng sinh cõi Dục v.v…” trở xuống là giải thích chương năm hạng người. Có năm đoạn: trước là giải thích hạng Trung ấm diệt, vì sao? Vì đã lìa cõi Dục mà chưa đến cõi Sắc, ở trung gian được quả A-la-hán, lại có ba: Một là nói về nghiệp dụng; hai là giải thích danh từ Trung ấm; ba là nói nhập diệt. Thứ nhất nói về nghiệp dụng của Trung ấm. Nói hai nghiệp, trong đó Tác nghiệp tức là Tán nghiệp, Thọ sinh tức là định nghiệp sinh lên cõi trên. Từ câu: “Xả thân ở cõi Dục v.v… ” trở xuống là giải thích danh từ Trung ấm. Ở khoảng giữa hai thân Dục và Sắc. Nói thêm rằng: Ở ngay thân trung ấm của cõi Sắc mà nhập vào Niết-bàn, chứ chẳng thọ chánh thân, nên gọi là lợi căn. Từ câu: “Hàng A-na-hàm v.v…” trở xuống là nói về tâm nhập diệt. Bốn tâm này, có hai cách giải thích: 1/ Cho rằng hai tâm trước là hai tâm không và hữu của quả A-na- hàm, hai tâm sau là hai tâm không và hữu của quả A-la-hán. 1/ Chẳng phải Học, chẳng phải Vô học tức tâm A-na-hàm duyên với Thế đế, 2/ Hữu học tức tâm A-na-hàm duyên với chân đế; 3/ Vô Học tức tâm A-la- hán duyên với chân đế; 4/ Chẳng phải Học, chẳng phải vô học tức tâm A-la-hán duyên với Thế đế. Vì A-na-hàm diệt độ thì đắc A-la-hán, nên y cứ theo hai quả để giải thích. 2/ Cho rằng bốn câu này đều nói theo quả A-na-hàm: 1/ Chẳng phải Học chẳng phải Vô học là Tâm được dắt dẫn 2.Hữu học là tâm duyên chân; 3. Vô học là tâm tu hạnh xưa; 4. Là tâm thất niệm. Có Sư cho rằng cách giải thích này chẳng đúng, vì thấy kinh ghi: “A-na-hàm có bốn tâm” thì liền lầm cho là bốn tâm này đều thuộc A-na-hàm. Cách giải thích trước hợp lý hơn, hai tâm trước là tâm A-na-hàm, hai tâm sau thuộc A-la-hán. tâm. Hỏi: Đã nói hai quả gồm bốn tâm, vì sao nói A-na-hàm có bốn Đáp: Nay nói A-na-hàm có bốn tâm là y cứ theo gốc mà nói như thế, chứ ở đây giải thích người Trung diệt, diệt rồi là thành A-la-hán. Lại nói hai phải, hai chẳng phải cho nên có hai cách giải thích: Như thuyết thứ nhất thì nói hai tâm La-hán là Niết-bàn, hai tâm A-na-hàm chẳng phải Niết-bàn; vì A-la-hán được Vô dư là cực quả cho nên nói Niết-bàn; A-na-hàm chưa được Vô dư nên chẳng phải Niết-bàn. Như theo thuyết sau thì hai tâm Thế đế là Niết-bàn, hai tâm chân đế chẳng phải Niết-bàn, lại cần giải thích thêm. Kế là giải thích thọ thân Niết-bàn. Văn có hai: Một là chánh giải thích, hai là nói về nghóa. Đây là chánh giải thích, nói người sinh diệt được sinh lên Sơ thiền diệt độ. Kế là nói về nghóa. Trước hỏi, sau đáp. Kế là giải thích Hành diệt. Thường tu hành tức là người độn căn, Tam-muội là tuệ tâm vắng lặng. Kế là giải thích Bất hành diệt. Nói đạt Đệ tứ thiền rồi lui sụt Sơ thiền, giải thích rằng: Thật sự không có bậc Thánh đã được định cõi trên mà còn lui sụt xuống cõi dưới, có lời này là vì từng được huyền ký tu định đặc biệt ở cõi trên rồi, mà lui sụt, chứ chẳng phải thân đã ở cõi trên rồi mà còn đoạ. Nói nhờ đạo lưu mà được sinh lên cõi trên, tức đây chỉ là Phương tiện, chứ chẳng phải thật do phiền não thọ sinh. Từ câu: “Trong Tứ thiền v.v…” trở xuống là giải thích, gồm cả hai cõi trên. Từ đây chia dòng (lưu) mà sinh lên hai cõi. Người thích luận ng- hóa thì sinh lên cõi A-ni-trá, người thích Tam-muội thì sinh lên cõi Bất Dụng. Hỏi: Có người từ Sơ thiền sinh lên cõi A-ni-trá liền nhập diệt, lại có người sinh lên cõi Bất dụng được nhập diệt, có người chưa đến A- ni-trá thì nhập diệt, chưa đến cõi Bất dụng thì nhập diệt, ở đây thuộc người nào? Đáp: Ở đây thuộc về hai hạnh kiến đắc và Tín giải, chẳng được gọi là Thượng Lưu, Có bốn nghóa đối đãi: Một là y cứ theo thích định, thích tuệ; hai là tu năm bậc và chẳng tu năm bậc; ba là thích tịch tónh, thích luận nghóa; bốn là huân tu thiền, chẳng huân tu thiền. Bốn nghóa này gồm hai ý, trong đó nghóa thứ ba lại thành nghóa thứ nhất ưa thích trí tuệ, ưa thích Tam-muội, nghóa thứ tư lại thành nghóa có năm bậc và không có năm bậc khác nhau nói ở trước. Ba nghóa trước thì như văn. Trong nghóa thứ tư, nói huân là có hai cách giải thích: 1.Các Sư Số luận cho rằng hai tâm vô lậu kèm một tâm hữu lậu mà huân tu; 2.Các sư Thành Thật cho rằng dùng tâm từ bi mà huân tu định này. Sở dó không giải thích hai môn sau là vì sáu người thì năm người đã nói thêm Hiện diệt, Hiện diệt thì chương trước đã giải thích. Còn bảy người thì vốn có sáu người đã nói, thêm hàng Thượng hạnh, sinh lên cõi Vô sắc diệt độ, trên cũng gồm giải thích chung với người thứ năm rồi, nên ở đây chẳng cần nói nữa. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về nghóa, phân biệt Trung diệt. Trước hỏi sau đáp. Hỏi có hai: Trước hỏi Trung diệt là hàng lợi căn, vì sao chẳng hiện diệt được A-la-hán. Thứ hai hỏi vì sao cõi Dục có, mà cõi Sắc không có. Phật đáp có hai, đây là đáp câu thứ nhất, vì có ba nghóa nên chẳng hiện diệt: Một là yếu kém, hai là thiếu các duyên, ba là thích làm các việc thế tục lăng xăng; tất cả các nghóa khác đều dễ biết. Thứ nhất như văn kinh ghi. Thứ hai là thiếu các duyên. Việc này ghi trong Bà-sa, đó là Thiên Tu-bồ-đề, chẳng phải Giải không Tu-BỒ-đề. Từ câu: “Như lời ông hỏi v.v…” trở xuống là đáp câu hai, văn có hai: Một nói về duyên khác nhau; hai nói về căn cơ khác nhau. Thứ nhất lại có hai: Một là nói cõi Dục phần nhiều do duyên; hai, là nói vì tánh mạnh mẽ. Ở cõi Sắc không có các khổ bên ngoài, vì thế không được; cõi Dục thì có các phiền não bên ngoài, vì nhàm chán, nên tu tập Đạo phẩm, gọi tu là mạnh mẽ. Nếu y cứ theo các sư Số Luận thì cõi trên hoàn toàn không có người mới nhập đạo, các sư Thành Thật cũng có vị đồng như trước nói là không, có vị cho rằng cõi trên cũng có người mới nhập đạo. Kinh Phổ Diệu nói: “Tám muôn vị trời được mắt pháp thanh tịnh”, cho nên cõi trên cũng có người chứng Sơ quả; nhưng có văn này là vì hàng Tín hành, pháp hành đầu tiên trụ ở Phương tiện đạo, có thể xuất quán mà thượng sinh cho nên nói đắc quả, chẳng phải mới phát, mới từ phàm nhập vào Thánh. Kế là nói căn tánh mạnh mẽ. Kế là, từ câu: “Trung Niết-bàn v.v… “trở xuống là nói căn tánh khác nhau. Từ câu: “Thí như cá Tích v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, giải thích nghóa đi rồi lại dừng. Đến bờ kia là người thứ bảy. Lại có bốn người là A-la-hán, Bích-chi-Phật, Bồ-tát và Phật. Ba người trước là phần chứng, Phật là rốt ráo chứng ngộ. Từ câu: “Như bảy người v.v…” trở xuống là phần thứ ba, kết luận các dụ. Văn có ba: Một là chánh kết luận; hai là nói về được mất; ba là nói về đồng khác để thành tựu ý trên. Thứ nhất lại có ba: Một là kết luận chung bảy người; hai là hỏi đáp nói nghóa; ba là chỉ kết luận người đến bờ kia. Kết luận chung lại có hai: 1/ Kết luận bảy người, tức thấy Phật tánh; 2/ Kết luận bảy pháp, pháp tức là Phật tánh. Đầu tiên nói bảy người đều chẳng lìa nước Phật tánh. Gồm có dụ và hợp. Trong Đại Bát-Niết-bàn mầu nhiệm thì từ Nhất-xiển-đề cho đến chư Phật, tuy khác tên, nhưng chẳng lìa nước Phật tánh. Từ câu: “Bảy loại chúng sinh v.v…” trở xuống là nói bảy pháp, tức là Phật tánh. Một là thiện, hai là bất thiện, ba là phương tiện, bốn là Giải thoát, năm là thứ lớp, sáu là nhân, bảy là quả. Hai trước, hai sau rất dễ biết; ba pháp ở giữa là ba đạo ghi trong luận Bà-sa; phương tiện là Tự giải; Giải thoát là Giải thoát đạo; Thứ lớp là Vô ngại đạo. Nêu phẩm Niệm xứ của luận này ghi: “Như thứ lớp vô ngại sẽ sinh Giải thoát. Nhưng bảy pháp ở đây là Phật tánh thì gồm có hai ý: 1/ Thứ lớp hợp với bảy hạng người ở trước; 2/ Hợp chung. Theo thứ lớp hợp, tức khéo hợp với ngườøi thứ hai, phàm phu có một ít gốc thiện; bất thiện hợp với hạng người thường chìm thứ nhất, Nhất-xiển-đề không có gốc thiện, nên gọi là bất thiện. Phương tiện đạo hợp với người được trụ thứ ba, có đủ bốn niệm xứ, hai pháp phương tiện Noãn, Đảnh; Giải thoát đạo hợp với người thứ tư nhìn bốn phương, tức từ Đảnh pháp đến tâm thứ mười sáu là người Giải thoát chân thật; Thứ đệ đạo hợp với người nhìn bốn phương rồi đi, tức từ Đạo kiến đế dần dần nhập Tư duy đạo, chứng quả Tư-đà-hàm, nên gọi là thứ lớp; Nhân là hợp với người đi rồi lại trụ; chưa được quả A-la-hán, mới được A-na-hàm nên gọi là nhân, quả là hợp với người thứ bảy đến bờ kia; tức là A-la-hán, Trung thừa, Bồ-tát và Phật. Hợp chung bảy người, tức hai thứ thiện ác là người thường chìm và người nổi rồi chìm, nhân là từ người được trụ đến A-na-hàm; quả tức bốn người là A-la-hán v.v… Phương tiện đạo đều là nhân vị. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói về nghóa, gồm hai phen hỏi đáp. Thứ nhất về hỏi, có hai câu: Trước hỏi Niết-bàn không có nhân thì được gọi là quả hay chăng? Kế đó hỏi rằng: Vì sao Niết-bàn là quả Sa-môn? Phật đáp có hai: trước đáp câu hỏi thứ nhất, sau đáp câu hỏi thứ hai. Thứ nhất có hai phần: Trước nói bảy quả, Niết-bàn là quả xa lìa. Kế là nói hai nhân. Niết-bàn có Liễu nhân; nói chung được theo nghóa thuyết nói Bất sinh là sinh nhân, nhưng thật ra là liễu nhân. Kinh ghi: “Giải thoát môn có thể làm Bất sinh sinh nhân cho tất cả phiền não”, nghóa là làm cho phiền não chẳng sinh, pháp thiện được sinh, tức là nghóa thuyết; ba môn Giải thoát là liễu nhân mà làm sinh nhân; lại làm liễu nhân cho Niết- bàn, tức là nghóa chánh ở đây. Từ câu: “Như lời ông hỏi v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ hai. Có đủ ba nghóa: một là dứt trừ sự nghèo thiếu, hai là thích vắng lặng, ba là bậc Thượng nhân. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Thứ nhất là hỏi, lại nói về ý trước. Phật đáp rằng Phiên-na là Đạo, Sa-môn là nghèo thiếu, dứt ng- hèo thiếu, dứt các đường khác là tám Chánh đạo, tức cả hai đều chẳng phải. Từ câu: “A-la-hán v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận người đến bờ kia. Văn có hai: Trước kết luận về A-la-hán và Bích-chi-Phật, sau kết luận về Bồ-tát và Phật. Hỏi: Bích-chi-Phật là quả thuộc về người đến bờ kia, còn giai vị Hướng thuộc về người nào? Đáp: Như trước đã nói A-na-hàm hướng thuộc người thứ năm nhìn bốn phương rồi đi; Vốn lấy sự dừng trụ làm người thứ sáu, trong giai vị Hướng thì còn đi, vậy đâu chẳng thuộc về người thứ năm? Cũng lấy bản quả làm người thứ bảy, Hướng thì còn thuộc về nhân, nên đó là người thứ sáu, đi rồi lại dừng trụ. Hỏi: Vốn lấy việc đắc quả làm người thứ bảy, Bồ-tát chưa đắc quả, vì sao gọi là người thứ bảy? Đáp: Trong kinh giải thích rằng: Thế nào là Bồ-tát? Vì tu hành sáu ba-la-mật? Ba-la-mật dịch là “Đến bờ kia”. Lại mười địa là mười Ba-la-mật, vì sao chẳng phải là người vượt đến bờ kia? Nay cho rằng lời đáp này chưa giải thích được câu hỏi, còn phải có nghóa khác. Từ câu: Bảy hạng chúng sinh v.v…” trở xuống là nói về được mất. Văn có ba: Một là lại kết luận, Trung đạo bất định; hai là chính thức nói về được mất; ba là tổng kết tông chỉ lớn. Văn thứ nhất có bốn: Một là nói về người bị chìm. Nói bảy nguời đều chẳng tu thân giới tâm tuệ, nhưng có bốn người đạt quả, chính là hay tu tập, vì sao nói là không tu tập? Đáp: Đầu tiên đều chẳng tu tập, sau đó Phật, Bồ-tát tu tập nên đạt đến bờ kia, Nhất-xiển-đề chẳng thể tu thì chẳng đến bờ kia. Phật tánh vừa có vừa không, đạt được Phật tánh vừa có vừa không này thì cả hai đều phá. Nay cho rằng: Chẳng nên theo cách giải thích này, vì bảy người lúc đầu đều chưa tu, khi chưa tu thì chẳng phải là người thứ bảy. Văn kinh hiện nói: bảy người đều chẳng tu tập, vì sao lại nói đầu tiên chẳng phải là người thứ bảy? Nay nói đây là dùng Biệt phá Thông, nên mới nói bảy người đều chẳng tu thân, giới, tâm tuệ. Trong đây dùng Niết-bàn của Thông giáo làm sông, rõ ràng là văn kinh ở tại ý này, chẳng nên nghi ngờ gì. Từ câu: “Nếu người nói rằng, v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói Thiên chấp thì chẳng đúng. “Bảy người này v.v…” trở xuống là đoạn bốn, nói Trung đạo bất định. Nói một người đầy đủ bảy thì đó là nói theo đầu và cuối. Đầu tiên tuy làm ác, nhưng sau đó dần dần tu tập thành người thứ hai, thứ ba cho đến thứ bảy. Hoặc bảy người, mỗi người một hạng, là nói theo đương phần. Từ câu: “Nếu có người v.v..” trở xuống là phần hai, nói về được mất. Đầu tiên chỉ nói về mất, sau nói cả về được mất. Thứ nhất lại có hai: 1/ Y cứ theo ba pháp để nói về được mất; 2/ Kết luận về mất. Thứ nhất lại có ba: 1/ Y cứ Nhất-xiển-đề; 2/ Theo Thánh đạo; 3/ Y cứ theo Phật tánh mà định thì đều chẳng được. Hai, từ câu; “Vì thế v.v…” trở xuống là đoạn hai, kết luận về ng- hóa mất. văn có bốn: Một là nêu lên hai người phỉ báng. Ba, từ câu: “Nếu người có v.v…” trở xuống là, nói không có lòng tin. Từ câu: “người chẳng tin v.v…” trở xuống là, kết luận nói đều là phỉ báng. Bốn, từ câu: “Vì thế ta nói v.v…” trở xuống là , kết luận không có. Từ câu: “Nếu có người nói v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói cả về được và mất. Văn có hai: Trước y cứ theo nghóa Xiển-đề thành Phật hay không thành Phật; sau y cứ theo nghóa có Phật tánh hay không có Phật tánh. Mỗi trường hợp đều có ba câu, ba câu thứ nhất. Hai hạng người trước phỉ báng, một người sau chẳng phỉ báng. Vì sao? Vì mỗi người chấp một bên, hoặc có hoặc không, nên trở thành phỉ báng. Vì giải thích theo Trung đạo dung thông nên một người không phải là phỉ báng. Có người cho rằng người Xiển-đề không xả tâm ác mà thành Phật, tức là phỉ báng. Lại nói Xiển-đề ngay thân này chẳng thể thành Phật, đến thân khác mới thành Phật, đây cũng là nghóa phỉ báng. Có người nói Nhất-xiển-đề bỏ ác tu thiện, tâm thiện nối nhau, chẳng dứt, tức chẳng phải nghóa phỉ báng. Nghóa Phật tánh cũng thế, có người nói rằng chúng sinh có Phật tánh trong thân, thì có tướng tốt, vẻ đẹp, thường lạc đầy đủ, dứt hoặc rồi thì được Bồ-đề, thì cũng là nghóa phỉ báng. Nếu nói chúng sinh hoàn toàn không có Phật tánh thì cũng là nghóa phỉ báng. Thời nay có người nói Phật tánh ở đương quả, thì cũng rơi vào trường hợp này. Ba câu sau thì hai câu đầu là nghóa phỉ báng, một câu sau chẳng phải phỉ báng. Từ câu: “Nói về Phật tánh v.v…” trở xuống là phần thứ ba, tổng kết Tông chỉ lớn. Văn có bốn: Một là nói về lý Phật tánh. Từ câu “Chưa được Bồ-đề v.v…” trở xuống là y cứ theo pháp, trong nhân nói quả. Thứ ba là dẫn chứng nói Như Lai hoặc trong nhân lập quả, hoặc trong quả nói nhân. Từ câu “Đó gọi là v.v…” trở xuống là kết luận Tùy tự ý ngữ. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, nói về đồng khác. Tăng Triệu nói: “Vì người thích đồng thì nói đồng, tuy đồng mà khác; vì người thích khác thì nói khác, tuy khác mà đồng”. Trước nói Phật tánh có đồng với hư không và chẳng đồng với hư không, đó là chánh điển của Đấng Pháp Vương có đồng và chẳng đồng, để phá ngoại đạo. Hư không là hư không phá thể tánh nhìn thấy của mắt. Đầu tiên nói về nghóa đồng: trước hỏi sau đáp. Trong lời đáp có ba: Một là nói Phật tánh đồng với hư không, chẳng thuộc ba đời; hai là nói đồng hư không chẳng phải trong chẳng phải ngoài; ba là nói đồng hư không chẳng ngăn ngại. Đầu tiên là nói rộng về ba đời đối đãi là không, nên chẳng có ba đời. Ba đời đã không thì hư không chẳng thuộc ba đời. Kinh nói: “Vì hư không là không cho nên chẳng thuộc ba đời, tướng nó như thế nào? Không chỉ là không, không tức là thường; Phật tánh là có mà lại thường, nên nói chẳng thuộc ba đời. Hư không là không mà cũng là Thường, nên cũng chẳng thuộc ba đời. Hỏi: Như thế, lẽ ra Phật tánh là có, chẳng thuộc ba đời, vì sao nói Thường thì chẳng thuộc ba đời? Đáp: Phật tánh chẳng phải hoàn toàn có, nên chẳng nói là có. Từ câu: “Vả lại, hư không là không v.v…” trở xuống là phần hai, nói Phật tánh đồng với hư không, chẳng phải trong chẳng phải ngoài. “Như thế gian v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói Phật tánh đồng với hư không, chẳng ngăn ngại, lại chẳng thể phân chia nhỏ. <篇> ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 31 <詞>PHẨM 24: CA-DIẾP (PHẦN 4) Từ câu: “Ca-diếp bạch rằng v.v…” trở xuống là nói khác với hư không, có hai phen hỏi đáp. Câu hỏi thứ nhất, là nói Phật tánh, Niết-bàn, hư không đều chẳng thuộc ba đời, mà hư không gọi là Không, còn Niết-bàn là Thường, làm sao gọi là có? Phật đáp có ba ý: 1/ Nêu chương; 2/ Giải thích; 3/ Kết luận trả lời. Như văn kinh. Từ câu: “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là giải thích ba môn đều có lý do. Niết-bàn, Như Lai, Phật tánh, vì lợi ích, nên nói đối đãi nhau; hư không thì chẳng có lợi ích nên không có đối đãi. Nhưng được “không” này chẳng gọi là Thường. Nói thêm rằng: Nói lợi ích là chỉ vì muốn hộ trì hạng quyền cơ ở thời mạt pháp, chẳng thuận theo nghe sinh tử là Niết-bàn, Nhị thừa là Như Lai, gạch ngói là Phật tánh; nhưng nếu bỗng nhiên có cơ duyên thì không thể không nói. Chỉ y cứ theo lời đáp ở sau, thì lời nói ấy có chỗ quy hướng. Kinh Pháp Hoa đã nói, đâu thể cố ý trái nghịch. Cho nên kinh ghi: “Tướng thế gian thường trụ”. Lời thế gian đâu có vượt qua năm ấm, cõi nước v.v… Huống chi ấm, giới, nhập, sắc, hai thừa Đại Tiểu không chỉ có chánh báo. Từ câu: “Tất cả thế gian v.v…” trở xuống là kết luận câu trả lời. Vì hư không chẳng có đối đãi nên gọi là Không, Niết-bàn có đối đãi nên gọi là Thường. Hỏi: Niết-bàn đã đối với phi Niết-bàn, thì cũng có hư không đối với phi hư không, vì sao chẳng có? Đáp: Muốn hiển bày cho nhau, nên Niết-bàn vốn dứt đối đãi mà nói là đối đãi, hư không vốn đối đãi mà nói dứt đối đãi. Vì Niết-bàn đối đãi nhau nên có chỗ nói Diệu hữu; hư không dứt đối đãi cho nên được gọi là vô minh, là Diệu vô. Ở đây không nêu ra. Ca-diếp nhân câu trả lời của Phật ở trên liền nêu câu hỏi rằng: “Trước Như Lai đã nói Niết-bàn có đối đãi nên gọi là có, hư không chẳng đối đãi nên nói là không, vậy bốn đại không có đối đãi lẽ ra cũng là không? Bốn đại không có đối đãi mà lại có, hư không chẳng có đối đãi lẽ ra cũng có, văn này chẳng thay đổi; tất cả thế gian không có khi bốn đại đối đãi mà còn nói là có, nghóa là các vật ở thế gian đều là bốn đại tức là có; không có phi bốn đại đối với bốn đại. Tuy nêu các câu hỏi, nhưng rốt cuộc Phật chẳng đáp, chỉ lặp lại hư không đối với Niết-bàn. Hỏi: Vì sao chẳng đáp? Cũng có ý nghóa sâu xa, Ca-diếp vốn nói: bốn đại không đối nên gọi là có, hư không lẽ ra cũng không đối thành là có. Nay nói đại tuy không có ngoại chấp, chẳng phải bốn đại để đối với bốn đại, nhưng trong bốn đại tự có đối đãi, như đất, nước v.v… đều tự đối đãi nhau, mà trong hư không lại không có vật tự đối đãi, cho nên nói không, đây đều là dối nêu, nên Phật chẳng đáp. Phật đáp có ba: Một, nêu lại câu hỏi để bác bỏ, kế là giải thích. Nói về Niết-bàn có mười lăm câu nên gọi là có, hư không chẳng có mười lăm câu nên là không. Từ câu: “Nếu có lìa v.v…” trở xuống là ý thứ ba chánh đáp, có năm câu: Một, là nói hư không nếu là có thì đồng với mặt đất, thuộc về ba đời. Từ câu “Như người đời v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói nếu hư không là có, thì lẽ ra đồng là tâm sở, có ba câu. Từ câu: “Nếu hư không v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói nếu có pháp thì thuộc ba đời. Thứ tư nói là bốn ấm chỉ đồng bốn ấm, trừ sắc ấm. Bốn ấm còn lại gọi là ấm, bốn ấm chẳng thể thấy, hư không cũng thế, ấm thuộc ba đời, hư không cũng như thế. Từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là ý thứ năm, kết luận nói chẳng phải có. Ý này chính là nói về pháp, nếu là có thì có thể nói đối đãi nhau, không đã là vô thì sao có đối đãi? Từ câu: “Lại nữa v.v…” trở xuống là đoạn ba, phá chấp không của ngoại đạo. Văn có hai: 1. Chánh phá chấp; 2. Kết luận về đồng khác. Chánh đáp có hai: 1. Phá riêng tám chấp; 2. Nêu chung năm đại để so sánh mà phá. Phá riêng tám chấp: 1/ Phá nghóa hư không là ánh sáng; 2/ Phá chấp hư không là chỗ ở; 3/ Phá chấp hư không là thứ lớp; 4/ Phá chấp hư không ở tại ba chỗ; 5/ Phá chấp hư không có thể tạo ra; 6/ Phá chấp hư không ở chỗ vô ngại; 7/ Phá cả hai chấp; 8/ Phá lại hư không là chỗ ở. Thứ nhất phá chấp hư không là ánh sáng: Các Sư Số Luận nói không là thuộc về minh sắc trong hai mươi mốt sắc. Trước nêu câu chấp, sau là phá. Văn kinh ghi: “Cũng có thể nói hư không là Thường”, nếu ghi đầy đủ là: “Cũng chẳng thể nói hư không là Thường”, vì văn kinh đã lượt bỏ chữ Bất (chẳng). Hư không tuy chẳng thể chẳng nói là Thường, nhưng rốt cuộc là Vô thường, các ngoại đạo này chẳng hiểu được nghóa Không, nói không là sắc; đó là trong không chứa đựng ánh sáng; đâu được nói hư không là sắc? Nói “Cũng có thể”, lẽ ra nên nói: “Chẳng thể”, vì lời nói đã bị lược bỏ. Từ câu: “Lại có người v.v…” trở xuống là thứ hai, phá chấp không trụ chỗ ở. Cũng trước là nhắc lại, kế là phá, sau là kết luận. Quang Trạch cho rằng: Đã nói Chân đế có trùng số, cũng nói hư không có chỗ ở, như hai ngôi nhà, một ở phía đông thì đầy người, một ở phía Tây, thì trống không, nên biết nói có chỗ ở cũng đồng một cách phá này. Từ câu: “Lại có nguời nói v.v…” trở xuống là thứ ba, phá chấp hư không là thứ lớp. Nói thứ lớp, như trong ống tiêu, ống sáo và cửa hướng vào trong. Các Sư Số Luận cho rằng trong cửa sổ thấy được hư không ngoài cửa sổ, đầu tiên ở trong lớp chấn song thứ nhất nhìn thấy, rồi kế đến thấy lớp thứ hai, thứ ba, đó là thứ lớp. Văn kinh trước nhắc lại, sau là phá. Từ câu: “Lại có người v.v… ” trở xuống là thứ tư phá chấp hư không ở ba chỗ, tức có ba chấp. Trước là nhắc lại, sau là phá. 1/ Không tại ở nơi không, chẳng có trong hữu; 2/ Chấp không ở nơi hữu, chẳng có trong không; 3/ Chấp tại Hữu không , như vật sắp mục nát mà chưa mục nát, gọi là hữu không. Kế là phá chấp, như văn kinh. Từ câu: “Như nói hư không v.v…” trở xuống là thứ năm, phá chấp hư không là pháp được làm ra. Cũng trước là nhắc lại chấp, sau phá chấp. Ngày nay các sư Số Luận v.v… mỗi vị đều chấp đào đất, chặt cây, v.v… đều được hư không, tức cho hư không được làm ra. Từ câu: “Người thế gian v.v…” trở xuống là thứ sáu, phá chỗ không ngăn ngại, trước là nhắc lại chấp. Kế là phá chấp. Có hai câu: 1. Từ: “Nếu đủ và chẳng đủ v.v…” Đầu tiên là nêu hai câu để định.Kế là vặn hỏi. Chỉ hỏi chỗ không ngăn ngại là hư không, hư không này có dung chứa đầy đủ hư không ở mười phương hay không? Nếu chứa đủ thì nên biết mười phương chẳng có hư không, nếu chẳng đầy đủ, thì đây có kia không. Từ câu: “Lại có nguời nói v.v…” trở xuống là thứ bảy, phá hai chấp: 1/ Chấp không và hữu; 2/ Chấp hư không ở trong vật. Trước nhắc lại hai chấp. Kế là chánh phá, trước nêu chung chẳng phải. Từ câu: “Vì sao? v.v…” là phá cả hai chấp: Trước phá chấp không và hữu hợp, kế là phá chấp vật trong vật chứa. Văn thứ nhất có hai: Trước nêu ba chương, kế là theo thứ lớp giải thích ba chương. Một là dị nghiệp, giống như chim bay nhóm họp trên cây, chỉ có chim đến đậu trên cây, cây chẳng đến đậu ở chỗ chim; cũng giống như thế, vật đến hợp với không, không chẳng đến hợp với vật. Cộng nghiệp hợp nhau như hai con dê cụng nhau, cũng như thế, hư không cũng hợp với vật, vật cũng hợp với hư không. Đã hợp rồi như hai ngón tay xúc chạm nhau, tức dụng của vật hợp với vật rồi, vật chỉ là thế, dụng là động dụng của vật, thể dụng hai việc đã hợp. Dụng của không đã hợp với không, không tức là thể của hư không, dụng là công dụng dung chứa của hư không, thể và dụng này đã hợp lại còn dùng vật mà hợp với hư không. Như hai ngón tay trước đã hợp rồi, sau đó từng cặp hợp với nhau. Từ câu: “Nếu nói dị nghiệp v.v…” trở xuống là giải thích ba chương ở trên. Chương một có ba ý: Một là hỏi về vô thướng, hai là hỏi về thường, ba hỏi vừa thường vừa vô thường. Thứ nhất như văn kinh ghi. Nói vật nghiệp tức là động nghiệp, hư không nghiệp tức là không nghiệp. Không nghiệp hợp với vật, thì hư không vô thường, vật đã vô thường mà hư không hợp với nó, há chẳng phải vô thường hay sao? Nếu vật hợp với không, vật thì chẳng cùng khắp, đây đã hợp với kia, lẽ ra thì hư không cũng được cùng khắp, lẽ ra tùy hư không cũng là thường. Bách luận nói nếu tâm thần là giác thì dùng các thần như giác, v.v… để phá. Nhưng lời này hơi khác, mà lại là chấp nghóa này. Chính là nói vật đã chẳng khắp vì sao lại hợp với hư không. Nói là vô thường, thì hư không cũng là vô thường ư? Từ câu: “Nếu nói hư không v.v…” trở xuống là ý thứ hai, hỏi về thường. Văn có hai: Trước nêu chấp để bác bỏ, sau là hỏi. Ý hỏi là hợp thì khiến cả hai đều vô thường. Từ câu: “Nếu nói hư không là thường, v.v…” trở xuống là câu thứ ba, nói về thường, vô thường. Hoặc nói nếu hợp với vật thì hư không tự vô thường, chẳng hợp với vật thì hư không thường tự là thường. Nói vừa thường vừa vô thường, nay hỏi rằng: “Không có việc đó”, nghóa là trong pháp tướng, không có pháp nào nửa thường nửa vô thường. Từ câu: “Nếu cộng nghiệp hợp v.v…” trở xuống là giải thích chương hai, văn có hai: Trước nêu chấp để bác bỏ, kế là phá. Nói hư không và nghiệp hợp, thì nghiệp phải cùng khắp, tức là Thể và Dụng của không hợp, lẽ ra Dụng cũng cùng khắp, nếu Dụng cùng khắp thì lẽ ra hợp khắp với tất cả vật, chẳng thể có hư không lìa vật, chẳng được nói có hợp và chẳng hợp. Từ câu: “Nếu nói đã hợp v.v…” trở xuống là giải thích chương môn thứ ba. Văn có hai: Trước nêu chương môn để bác bỏ. “Vì sao v.v… “ trở xuống là chánh phá, gồm có pháp, dụ và hợp. Nói “trước không sau có”, nghóa là không và vật khi trước chưa hợp, sau đó mới hợp, là xưa không nay có, lẽ ra là vô thường nhưng đây mới chỉ phá nghóa hợp sau, chưa phá nghóa hợp trước. Vì sao? Vì trước là thể Không và nghiệp dụng Không, Thể vật và nghiệp dụng vật không có thì thôi, đã có thì đồng thời đâu được nói trước thì không hợp, sau mới hợp. Mà người nông cạn cho rằng “không” mà thể mà có, khi đến mức quá dụng của không; vật cũng như thế, khi thể di động thì mới có dụng. Chỉ cần ý hợp trước này cũng đã là xưa không nay có, khi phá thì nên nói là vô thường. Chỉ một nghóa “trước không nay có” này mà phá là phá đầy đủ hai hợp trước sau. Chánh là phá hai hợp sau, phụ là phá một hợp trước. Từ câu: “Nếu nói hư không v.v…” trở xuống là phá chấp sau, nói hư không ở vật chứa. Văn có ba: Một là nêu lời chấp và bác bỏ; hai là vặn hỏi; ba là kết luận. Thứ nhất nêu lời chấp. Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là vặn hỏi. Trước y theo lý để hỏi, sau y theo hợp để hỏi. Thứ nhất lại có ba: 1/ Chánh thức hỏi. Nếu nói có vật thì hư không ở trong vật ấy, vậy khi không có vật chứa, thì hư không ở đâu? 2/ Từ câu: “Nếu có trụ xứ v.v…” là vặn hỏi rằng lẽ ra có nhiều hư không. Chưa có vật chứa thì đã có một hư không, có vật lại có thêm một hư không, vậy chẳng phải là nhiều hư không hay sao? 3/ Từ câu: “Nếu nhiều v.v…” trở xuống là kết luận nêu lỗi. Kết ba lỗi: Một, chẳng được nói thường, nghóa là trước chẳng có hư không trong vật chứa, nay có hư không trong vật chứa, chẳng lẽ là thường được ư? Hai, chẳng được nói là một; Ba, chẳng được nói cùng khắp; nghóa là hư không khi đã có vật chứa chẳng phải là hư không khi không có vật chứa, như thế thì đâu thể nói là cùng khắp? Từ câu: “Ví như v.v…” trở xuống là hợp để vặn hỏi. Nếu cho rằng hư không lúc không có vật chứa lìa hư không khi có vật chứa mà có chỗ ở, thì vật lìa hư không lẽ ra cũng có chỗ ở. Từ câu: Cho nên biết được v.v…” trở xuống là kết luận. Từ câu: “Nếu có người nói v.v…” trở xuống là đoạn tám lại phá chấp hư không là chỗ ở. Trước nêu lời chấp, sau là phá. Nói chỗ ở của ngón tay, tức là nếu nói tất cả chỗ ở của ngón tay là chỗ ở của hư không, đã có bốn phương, mà phương khác nhau, thì hư không lẽ ra cũng có bốn phương, tùy theo chỗ ở của hư không. Từ câu: “Nếu có pháp nào v.v…” trở xuống là đoạn hai, tổng kết, nêu năm đại trụ, so sánh phá tất cả. Từ câu: Vì hư không là không v.v…” trở xuống là kết luận đồng khác trong phần phá chấp ngoại đạo. Nói đồng thì Niết-bàn và hư không đồng, không thuộc ba đời; nói khác thì Niết-bàn là thường, hư không là không. Văn có ba ý: 1. Nói hư không chẳng thuộc ba đời, kế là đến nêu sừng thỏ cũng chẳng phải. 1/ Từ câu: “Vì thế nên ta nói v.v…” trở xuống là kết luận đồng khác. 2/ Từ câu: “Này người Thiện nam! v.v…” trở xuống là về Dụng tập dứt trừ hoặc thứ ba, cũng là Dụng vô tánh. Vì sao dứt được hoặc? Vì đã được Trung đạo quán, nên sẽ dứt bỏ được các hoặc, nếu không có pháp quán này thì lấy gì dứt hoặc. Có hai đoạn lớn: 1/ Nói Như Lai tập giải đã đầy đủ, không còn tranh tụng với thế gian; 2/ Nói các Bồ-tát v.v… có quán giải dứt hoặc. Đoạn một có ba ý: 1/ Quán giải; 2/ Luận nghóa; 3/ Kết luận thành dụng vô tránh. Văn ý thứ nhất: Người trí thế gian, thể hiện lý Trung đạo, nói cả có không, Phật cũng nói thế, chẳng có chống trái. Vả lại, Phật đã chứng Trung đạo nên hòa hợp với chúng sinh, do đó chẳng tranh cãi, đó há chẳng phải là Dụng của Trung đạo quán ư? Người ngu thế gian lời nói trái với chánh lý, chẳng đúng với Pháp tướng, cho dù nói có nói không cũng đều trái với ý chỉ của Phật, như tranh luận với Phật, huống chi với người thế gian? Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là ý thứ hai, luận về nghóa gồm bốn phen hỏi đáp. Phen thứ nhất, là trước hỏi, sau đáp. Trong lời đáp có ba phần: Một là nêu mười pháp. Hai là nêu người pháp. Ba, là kết luận không tranh cãi. Trong hai đoạn văn nêu mười pháp và kết luận đều có chữ Triêm, phải đọc âm là Điểm. Phen thứ hai hỏi đáp nói về người trí thế gian nói có không, thứ nhất là hỏi. Trong lời đáp là định về pháp thể. Văn có hai: trước nói về có, kế là nói về không. Phen thứ ba. Hỏi có hai: trước đặt ra câu hỏi trái nhau. Kế là kết luận Phật có điên đảo. Lời đáp chẳng trái nhau, mỗi lời đều có y cứ: Sắc của chúng sinh từ phiền não sinh, nên sắc là Không, sắc của chư Phật chẳng phải như thế, cho nên nói là Có. Phen hỏi đáp thứ tư nói về tướng sắc Thường, Vô thường . Câu hỏi chứa đựng hai ý: Một là hỏi thế nào là sắc ấm từ phiền não sinh mà gọi là Vô thường? Hai là hỏi thế nào là sắc chẳng từ phiền não sinh mà nói là Thường? Lời đáp cũng có hai nghóa; nay trong lời hỏi đã lược, nên chỉ nêu sắc từ phiền não sinh là vô thường mà thôi. Đức Phật đáp có ba: Một là nói quán và chẳng quán, là gió của Thường và Vô thường; Hai là nói về quả của Thường và Vô thường; Ba là kết luận nêu người lệ thuộc. Thứ nhất, văn có hai: Đầu tiên nói chung về quán và chẳng quán, kế là nói người quán. Cũng có thể nói trước lược sau rộng. Trong rộng chỉ nói một nghóa. Văn trước lại có bốn, đây là đoạn một nói sinh ba lậu là cảnh sở quán. Từ câu: “Người trí v.v…” trở xuống là đoạn hai, nêu người năng quán; từ câu: “Như có người v.v…” trở xuống là đoạn ba, nêu người chẳng thể quán; từ câu: “Lại có bốn hạng người v.v…” trở xuống là đoạn bốn, nêu cả hai hạng người. Nói người chẳng thấy, người dụ cho ba lậu, kẻ mù dụ cho chúng sinh, rừng gai dụ cho đường ác; Muốn nói ba lậu dắt dẫn các chúng sinh rơi ba đường ác, dẫu có ra khỏi được thì pháp thân bị tổn thương, pháp thân tổn thương thì ba thân cũng bị hoại. Thứ tư là kết cả hai hạng người, trong đó có bốn câu: Hai câu đầu là hai nguời quán và chẳng quán, hai câu sau là nói hạng người bị nghiệp dẫn dắt. Từ câu: “Nếu có người v.v…” trở xuống là đoạn hai, chỉ nêu người năng quán; Trước nêu người, kế là nói rộng về người. Văn có hai là nói chung và nói riêng, nói chung lại có hai: Một là nói quán các lậu, gồm sáu câu. Từ câu: “lại nghó rằng v.v…” trở xuống là nói tự mình khuyên tu, có năm câu. “Vì thế v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về quán hữu lậu, cũng có hai: thứ nhất nói về quán các loại, kế là siêng tu tập. Thứ nhất lại có ba đoạn: Quán nhân, có pháp, dụ và hợp. Từ câu: “Người có trí v.v…” trở xuống là quán quả báo. Từ câu: “Quán quả báo v.v…” trở xuống là nói, quán nặng nhẹ. Từ câu: “Người trí nếu biết v.v…” trở xuống là , nói về tự mình siêng năng tu tập, gồm có pháp, dụ và hợp. Từ câu: “Nếu người biết v.v…” trở xuống là , nói về quả Thường, Vô thường. Văn có hai: Trước nói chẳng từ phiền não sinh thì được quả thường, kế là nói phiền não sinh thì được quả vô thường. Từ câu: “Biết phiền não v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, kết luận về người. Văn có hai: trước nói người được quả thường, tức Như Lai. Kế là nói người được quả vô thường tức phàm phu. Từ câu: “Người trí ở thế gian v.v…” trở xuống là ý thứ ba, kết luận thành dụng vô tránh. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về Bồ- tát dứt hoặc, tức các Bồ-tát v.v… tu tập quán giải, xa lìa các kết sử lậu hoặc, nếu không có lực dụng của Trung đạo, làm sao có thể khiến cho các hoặc dứt hết. Văn có bốn phần: 1. Quán thể của lậu; 2. Quán nhân của lậu; 3. Quán quả của lậu hoặc; 4. Kết luận trí quán. Quán thể gồm ba phen hỏi đáp: Thứ nhất, trước hỏi thể của ba lậu hoặc. Phật đáp có ba câu: một đáp về Dục lậu, ở đây lại chia làm ba: 1. Nêu thể; 2.Dẫn chứng; 3. Kết luận. Thứ nhất là nêu thể. Ác giác bên trong là nộâi tâm, do duyên bên ngoài là ngoại duyên. Từ câu: “Vì thế khi xưa v.v…” trở xuống là dẫn chứng. Kế là nói về hữu lậu cũng có ba: Nêu thể. Phân biệt khác với dục lậu. Kết luận nêu danh. Kế là nói về vô minh lậu. Văn có hai: 1. Nêu thể; 2. Nói sinh ra các lậu. Câu này là nêu thể của vô minh lậu. Từ câu: “Vô minh v.v…” trở xuống là nói về công năng sinh ra các lậu. Văn có ba là nêu lên, giải thích và kết luận. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là lần hỏi đáp thứ hai. Trước hỏi vì sao nói khác nhau. Từ câu: “Hai pháp như thế v.v…” trở xuống là Đức Phật đáp; Văn có ba: 1/ Nêu hai chương: Một làm nhân quả lẫn nhau, hai là giúp nhau lớn lên. 2/ Từ câu: “Chẳng khéo suy nghó, v.v…” trở xuống là giải thích hai chương: trước giải thích làm nhân quả. Từ câu: “Chúng giúp nhau lớn lên, v.v…” trở xuống là giải thích lớn lên. Từ câu: “Như hạt giống v.v…” trở xuống là lập dụ, kết luận. 3/ “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” là lần hỏi đáp thứ ba. Ý hỏi: Trước Phật nói lậu thứ ba là vô minh, vì sao nay lại nói từ vô minh mà sinh. Từ câu: “Phật bảo rằng v.v…” trở xuống là Phật đáp, Văn có ba: trước nói có hai thứ vô minh. Từ câu: “Nếu nói vô minh, v.v…” trở xuống là giải thích hai thứ vô minh. Văn có hai: Trước nói vô minh lậu là vô minh bên trong, kế giải thích từ đó sinh là lậu bên ngoài. Nội tâm chẳng biết là vô minh, bên ngoài lại sinh phiền não là ngoại vô minh. Từ câu: “Nếu nói vô minh lậu, v.v…” trở xuống là kết luận hai quả. Nói vô minh lậu là thỉ chung, nghóa là được quả vô thỉ, vô chung. Trong mười hai nhân duyên thì vô minh là chi thứ nhất, làm sinh ra các quả hành thức v.v… nhân duyên này trôi lăn ba đời, nên gọi là vô thỉ chung. Nếu được Trung quán, trừ diệt nhân duyên thì thành có thỉ chung, ngược dòng sinh tử trở về Niết-bàn cuối cùng. Nói từ vô minh sinh ấm nhập v.v…, nghóa là từ vô minh sinh ra các lậu, vời lấy quả ấm. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn hai, quán nhân của các lậu, gồm có hai lần hỏi đáp. Thứ nhất là từ câu: “Người trí, v.v…” trở xuống là Phật đáp. Văn có bốn: Thứ nhất nói về nguyên nhân bên ngoài. Từ câu: “Do nhân duyên gì v.v…” trở xuống là nói về nguyên nhân bên trong. Từ câu: “Khi Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói nhờ có tu quán nên đắc đạo. Từ câu: “Vì thế v.v…” là thứ tư, dẫn chứng. Từ câu: Ca-diếp v.v…” trở xuống là lần hỏi đáp thứ hai, tức là hỏi. Kế là Phật đáp: trước là dụ, sau là hợp. Nói một vật chứa là dụ cho một thần minh; có các hạt giống là dụ cho các hoặc đã thành thục, được mưa thì các hạt đều nẩy mầm, nghóa là nếu chấp tướng thì tự tướng mỗi hạt đều sinh khởi, nếu chấp tướng đẹp thì sinh tham, chấp tướng xấu thì sinh sân. Kế là hợp dụ. Nói do ái nên sinh ra các phiền não, nghóa là lại chấp tướng. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn ba, quán quả của các lậu; cũng có hỏi và đáp. Phần đáp có hai: Trước nói về quả báo, sau nói về tập quả. Trong quả báo có ba khổ và ba vô thường, có hai cách giải thích: Một là cho rằng ba khổ tức khổ khổ, hành khổ và hoại khổ; ba vô thường là sinh diệt, lưu động và đại kỳ. Hai là cho rằng ba cõi là ba khổ, ba vô thường tức ba cõi đều vô thường. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là lần thứ hai phân biệt quả báo vô lậu. Phần hỏi có hai là lược và rộng. Lược hỏi lại có ba: Một là nói có quả vô lậu. Hai là nói người trí dứt bỏ quả báo. Ba là chánh thức hỏi. Từ câu: “Những người đắc đạo v.v…” trở xuống là hỏi rộng. Văn có ba: Thứ nhất là nêu có quả vô lậu. Từ câu: “Như người trí v.v…” trở xuống là hỏi vì sao nói đoạn? Từ câu: “Như đoạn v.v…” trở xuống là thứ ba, hỏi vì sao nói có. Ý hỏi là: Có quả hữu lậu, lại có quả vô lậu. Nếu bậc Thánh dứt quả vô lậu thì làm sao được quả báo bậc Thánh? Nhưng Phật đáp có hai ý: Một là nếu nói theo đương thể tức pháp vô lậu không có quả báo, mà nay nói có tức là trong nhân nói quả. Phật đáp, văn có ba: Một, là nhân quả cùng nói; hai là nói không có quả vô lậu; ba là không có quả phiền não. Thứ nhất lại có ba câu: 1/ Nói Như Lai có hai thuyết. 2/ Từ câu: “Như người thế gian v.v…” trở xuống là câu thứ hai, nêu người thế gian nói. 3/ Từ câu: “Ta cũng thế v.v…” trở xuống là câu thứ ba, nêu Như Lai nói. Nói thân nhờ tâm vận mà đến Phạm thiên, là trong nhân nói quả, nghóa là cõi Sắc là thân, định sở thiền là tâm, định là ý nghiệp, vì thế gọi là Tâm, là Thường. Cho cõi Sắc là tâm sinh thân, đó là định tâm; tâm thật ra chẳng phải thân, nhưng từ tâm có thể được thân, nên gọi là thân. Đó là trong nhân nói quả, còn trong quả có nhân thì rất dễ hiểu. Từ câu: “Tất cả bậc Thánh v.v…” trở xuống là nói về vô lậu không có quả báo. Trong ba Hữu chỉ có nghiệp Hữu lậu được quả báo, nên nói không có quả vô lậu. Câu sau lại nói về quả vô lậu, đây là trong nhân nói quả, tức nhân vô lậu mà được quả Phật. Nhân thật chẳng phải quả mà vẫn sinh quả, nên nói nhân là quả. Từ câu: “người có trí v.v…” trở xuống là thứ ba, nói không có quả phiền não. Văn có hai: 1/ Nói về dứt hoặc. Kế là nói tu đạo. Thứ tư, kết luận về quán trí. --------------------------------- <詞>PHẨM 24: CA-DIẾP (PHẦN 5) Đầu quyển là đoạn thứ ba, chỉ nói về sinh thiện, gồm hai phen hỏi đáp: Thứ nhất, gồm có ba: Một, nói về duyên khởi; hai, hỏi; ba, kết luận lời hỏi. Về duyên khởi, văn có pháp, dụ và hợp. Từ câu: “Nếu từ nghóa này v.v…” trở xuống là hỏi. Nói phiền não là chúng sinh, chúng sinh là phiền não; phiền não là chúng sinh, tức nhân khổ mà không có điều thiện; chúng sinh lại là phiền não tức là quả khổ bất thiện. Nếu thế thì đều chẳng thiện, vì sao nói sinh được pháp thiện? Làm sao lại có thuốc hay? Từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là kết luận câu hỏi. Phật đáp có ba câu: 1/ Khen câu hỏi; 2/ Hợp dụ; 3/ Kết luận nói người năng tu, tức năng lực Phật tánh. Thứ nhất như văn kinh. Từ câu: “Núi Tuyết v.v…” trở xuống là hợp dụ. Ở truớc thì thuốc quý dụ cho Phật tánh, ở đây lạc dụ cho phạm hạnh. Lời nói hơi khác nhau. Từ câu: “Nếu có chúng sinh v.v…” trở xuống là kết luận. Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” là phen hỏi đáp thứ hai, nêu ra hạnh được sinh. Đây là hỏi lại ý trước. Phật đáp có hai ý là đáp chung và đáp riêng. Đáp chung, trước là nêu dụ. Sau là hợp dụ. Ý Phật đáp là: Chúng sinh cũng chẳng phải hầu hết đều có phạm hạnh này; Như quả cây ở thế gian, đã là quả nhưng chưa hẳn đã sinh ra hạt; hoặc do chim ăn, lửa đốt, nước làm mục rã thì chẳng thể sinh. Chẳng bị ba việc này thì sẽ sinh ra hạt. Chúng sinh cũng như thế, người chẳng thể tu tập gọi là quả phiền não, từ quả này sinh lại sinh nhân của hoặc. Nếu người tu điều thiện, tức chỉ có hoặc quả mà không có hoặc nhân, tức trong thân chúng sinh có phạm hạnh thanh tịnh. Từ câu: “Chúng sinh quán Thọ…” trở xuống là thứ hai, đáp riêng, nói về tu quán giải. Văn có năm đoạn: 1. Quán Thọ; 2. Quán Tưởng; 3. Quán dục; 4. Quán nghiệp; 5. Quán mười hai nhân duyên. Năm pháp quán này gom thành hai khoa: bốn pháp trước là quán năm ấm; một pháp sau là quán nhân duyên. Trong phần quán năm ấm vì sao chẳng quán hai ấm thức và sắc? Vì lúc Thức mới khởi chưa phân biệt được khổ vui. Các sư Thành Thật cho rằng: Thức thì được thật pháp, Tưởng thì được giả danh, đều chưa thể phân biệt; cho nên chẳng quán. Còn Sắc ấm thì thô thiển nên cũng chẳng quán. Ba ấm còn lại rất mạnh mẽ, nên cần phải quán. Trong ba ấm này, Thọ và Tưởng ấm thì chẳng chia, hành ấm chia làm hai là dục và nghiệp. Vì sao? Vì hành ấm quá nặng nên phải chia ra để quán; trong quán mỗi quán đều có bốn phần: 1/ Quán thể của Thọ; 2/ Quán nhân của Thọ; 3/ Quán quả của Thọ; 4/ Nói về tu đạo. Thứ nhất là quán thể của Thọ. Phàm Thọ tâm chỉ là quả báo, mà nói nhân gần là vì Thọ là chi cuối trong năm quả, từ đây lại khởi ra ba nhân, sinh các phiền não, gọi là xúc nhân duyên. Nói nhân duyên là vì tên xúc chẳng nhất định, không có tự thể riêng, cũng có thể nói thức là xúc, Tưởng là xúc. Đây là theo thứ lớp nhân duyên; nói vô minh xúc tức là tâm trước của phiền não, nói minh xúc tức là tâm trước của vô lậu, nói chẳng phải minh, vô minh xúc tức là tâm trước của các thiện hữu lậu. Từ câu: “lại quán v.v…” trở xuống là dứt hai quán nhân của Thọ. Trước nói nhân của Thọ không từ đâu sinh, sau nói từ hòa hợp sinh. Từ câu: “lại quán quả báo v.v…” trở xuống là thứ ba, quán quả. Từ câu: “Nếu có người v.v…” trở xuống là ý thứ tư, tu đạo. Xúc có ba: Một là vô minh xúc, nếu tâm hành tạo ác thì Thức, Tưởng Thọ gọi là vô minh xúc; tâm hành khởi điều thiện thì ba tâm Thức, Tưởng Thọ là vô minh xúc. Hành vô ký chẳng phải thiện chẳng phải ác thì ba tâm trên gọi là chẳng minh, vô minh xúc. Lại có một cách giải thích rằng: Như văn trước nói minh xúc là tám Chánh đạo, hai xúc kia làm cho các điều ác thêm lớn. Từ câu: “Lại nữa, này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai, quán về Tưởng, cũng như trước, văn có bốn. Nói Tưởng ở đây không phải là Tưởng ấm, mà nói về Tưởng điên đảo trong tâm hành; lại trong tư duy đạo gọi là Tưởng đảo, tâm đảo; trong Kiến đế gọi là Kiến đảo. Nay nói chung chẳng được gọi là Kiến mà gọi chung là Tưởng. Văn kinh ghi: “Cõi Vô sắc là tất cả Tưởng” nghóa là trong cõi Vô sắc mới có bất dụng xứ, chẳng phải cho rằng tất cả đều có. Nhưng hai cõi trước là tất cả, cho nên gọi là Tưởng. Văn quán thể của Tưởng có hai: trước là chánh quán thể, kế là đáp. Nói diệt Thọ Tưởng là Giải thoát, các sư Số luận nói rằng: “Người được Giải thoát chẳng những diệt hai tâm này, mà còn diệt tất cả tâm mới được Giải thoát; nay chỉ nói hai tâm là vì hai tâm này nhiều tội lỗi. Tâm Thọ tu thiền, Tưởng tu định Vô sắc. Tâm Thọ đắm thiền, Tưởng tâm chấp Vô sắc là Niết-bàn”. Các sư Thành Thật chẳng cho như thế: “Nói rằng duyên thế đế gọi là Tưởng Thọ, duyên nhân đế gọi là Tuệ tâm, tâm Tưởng thế đế có thể diệt để được Giải thoát. Tuệ tâm chân đế chẳng thể diệt”. Nghóa này đồng với các sư Số Luận, Ca-diếp hỏi rằng: Phải diệt tất cả pháp gọi là Giải thoát, đâu thể diệt hai tâm mà được Giải thoát? Đức Phật đáp phải diệt tất cả tâm mới được Giải thoát. Đức Phật có lúc nói chung tức gồm thâu tất cả, hoặc có lúc nói riêng. Nay nói Thọ và Tưởng diệt được Giải thoát, tức nói chung rồi mới nói tất cả. Văn kinh trước nói: “Nhân chúng sinh mà nói, người nghe hiểu pháp”, nghóa là nhờ duyên vào chúng sinh mà nói các pháp thiện ác, người nghe liền hiểu. Văn kinh lại ghi: “Do pháp mà nói chúng sinh, chúng sinh cũng hiểu, pháp ác nên bỏ, chúng sinh nghe xong thì hiểu được. Hai ý này chính là để trả lời câu hỏi ở trước. Kế là quán nhân của Tưởng, cũng có hai: trước là chánh quán. Kế là hai phen hỏi đáp. Thứ ba là quán về quả. Thứ tư là nói về tu đạo. Từ câu: “lại nữa v.v…” trở xuống là đoạn ba, quán Dục, tức là môn phiền não, cũng có bốn phần: Một là quán thể của Dục. Chính là do nội tâm, mà nay chỉ nói về ngoại trần, là vì ngoại trần làm phát sinh tâm dục, nên nói trần là dục. Đây là trong nhân nói quả. Từ câu: “Do điên đảo v.v…” trở xuống là thứ hai, quán nhân của Dục, kế là quán quả báo. Thứ tư nói về Tu đạo. Từ câu: “Lại nữa người trí v.v…” trở xuống là đoạn bốn, quán nghiệp. Cũng có bốn: Một, là quán Thể. Nói Thọ, Tưởng, Xúc, Dục là phiền não, có hai cách giải thích của Số luận và Thành Thật. Cho rằng Thọ, Tưởng, Xúc, Dục, khi tâm vương khởi thì tâm sở liền khởi theo, trong đó nói Thọ, Tưởng tức là bốn tâm sở trong mười tâm sở, Thọ là tâm sở Thông, đã thuộc Thông tâm thì đều có chung cả Thiện ác. Tâm sở khởi thiện thì gọi là Tâm thiện, tâm sở khởi ác thì gọi là phiền não. Ở đây ý cứ theo tâm sở khởi ác nên gọi như thế. Các sư Thành Thật cho rằng: Tâm vương là tâm sở không khác, trong đây nói bốn pháp Thọ, Tưởng, v.v… tức bốn tâm nhưng không có sắc ấm, xúc là thức ấm, Dục là Hành ấm. Nếu hành khởi thiện thì gọi là thiện, còn hành khởi ác thì gọi là phiền não. Ở đây là nói về phiền não. Kinh ghi: “Tạo ra sinh nghiệp, chẳng tạo ra Thọ nghiệp”, có hai cách giải thích: Cho rằng do nhân duyên phiền não này chẳng dứt mất, nên nói là sinh nghiệp, nhưng chẳng thể phân biệt quả báo của năm cái, các Thọ khác nhau, nên chẳng tạo Thọ nghiệp. Do phiền não nhuận nghiệp mà được sinh, nên nói là tạo sinh nghiệp, nhưng chẳng thể vời lấy xả Thọ. Hai xả vừa chừng, tâm xả đã là phiền não làm sao thuận sinh Thọ được? Lạc Thọ chính là tâm lạc, lại cũng chẳng thể nhuận sinh. Đây là cùng nói về nghóa nhuận nghiệp sinh. Văn nói: “Cùng đi với nghiệp thì có hai loại”, nghóa là Dục sinh ra thể của nghiệp; đây là nói khi nghiệp còn có các hoặc, nên nói “đi chung với nghiệp”, nhưng nghiệp và pháp khác nhau, nên có hai nghiệp là sinh và Thọ. Lại nói: “hai nghiệp thân miệng là nghiệp, cũng gọi là quả”. Vì năng tạo tác nên gọi là Nghiệp, lại làm vui thích miệng ý nên gọi là quả, ý chỉ gọi là nghiệp, nhưng không có nghóa tự vui thích, nên chẳng gọi là quả. Lại nói “Chánh nghiệp là ý” vì ý chánh là thể của nghiệp. Nói Kỳ nghiệp là nghiệp thân và miệng, vì thân miệng tự nhiên, phù hợp với ý mà có, như đến thời kỳ thì khế hợp, nên gọi là Kỳ nghiệp. Thứ ba là quán quả báo. Văn có hai: Một, là giải thích bốn ng- hiệp, kế là hai phen hỏi đáp phân biệt. Phen hỏi đáp thứ nhất. Trong lời đáp nói: Vô lậu gọi là quả, chẳng gọi là báo, nghóa là hoặc có lúc nói không khác, còn ở đây chắc chắn là khác. Nói thêm rằng: Vô lậu là tập quả, cho nên chỉ gọi là quả, chẳng gọi là Nhân. Phen hỏi đáp thứ hai. Nói mười bất thiện có thượng, trung, hạ, tức là khổ nặng thì đọa vào địa ngục, khổ nhẹ thì đọa vào ngạ quỷ, chẳng nhẹ chẳng nặng thì vào súc sinh. Mười thiện có bốn quả báo sinh vào bốn châu. Quả báo Thọ mạng ở cõi Diêm-phù là quả của nghiệp thấp kém nhất mà nói là thượng thượng, vì ở đây là lấy về mặt tu đạo, làm thiện có thuận lợi. Thứ tư, Từ câu: “Người trí quán v.v…” trở xuống là nói Tu đạo. Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn năm, quán mười hai nhân duyên. Văn cũng có bốn là phiền não, nghiệp, hữu và khổ. Nhưng văn này y cứ theo Thọ, Tưởng v.v… ở trước đều có bốn môn, mà nay chỉ nói phiền não. Nói thêm rằng: Ba nghóa Thể, nhân và quả báo đều có đủ trong mười hai nhân duyên. Trí năng quán tức là tu Thọ. Vả lại, y cứ theo văn này thì đó là quả báo. Từ đó suy ra biết phiền não sinh khổ. Chẳng nên nói phiền não chẳng vời lấy quả báo. Kinh Thập Địa chia mười hai nhân duyên làm ba đạo là phiền não, nghiệp và khổ, trong đó vô minh, ái thủ là phiền não đạo; hành, hữu là nghiệp đạo; thức, lão tử là khổ đạo. Trong đây, bốn trường xuất xứ từ hữu; tức chỉ cho năm quả hiện tại là hữu; sinh tử là khổ, khổ và hữu ở đây cũng không nhất định. Nhưng văn trước nói tám khổ, không lấy thức danh sắc, chỉ lấy lão tử, vì thế lập thuyết này. Nhưng bốn câu này, nếu nói đủ thì: Một, từ phiền não sinh phiền não; hai, từ phiền não sinh nghiệp; ba, từ phiền não sinh hữu; bốn, từ phiền não sinh ra khổ. Kế là y cứ theo nghiệp: Một là từ nghiệp sinh nghiệp; hai là từ nghiệp sinh hoặc; ba là từ nghiệp sinh ra hữu; bốn là từ nghiệp sinh ra khổ. Hai câu này cũng như thế, tức gồm mười sáu câu. Nay văn này chỉ có chín câu thì thiếu, mười hai câu thì thừa. Theo lý thì chỉ nên có mười một câu. Vì sao? Vì mười hai nhân duyên theo thứ lớp sinh nhau: vô minh sinh hành, nhân hành sinh thức, cho đến do sinh mà sinh lão tử, lão tử lại chẳng biết sinh pháp nào nữa, như vậy thì chỉ có mười một câu. Nhưng người kết tập kinh lập ra mười hai, là muốn nói lên mười hai nhân duyên. Nay văn này không đầy đủ, đó chỉ là rộng lược khác nhau mà thôi. Phàm nói sinh nhau thì có loại pháp trước sinh pháp sau, pháp sau sinh ngược lại pháp trước, lại có loại khoa tiết sinh nhau, như xét câu thứ nhất: phiền não sinh phiền não, thì vô minh là gốc, tức do phiền não mà sinh ái thủ; nói phiền não sinh nghiệp tức là vô minh sinh ra hành; phiền não sinh hữu tức vô minh sinh thức v.v…, phiền não sinh ra khổ tức sinh ra lão tử. Câu thứ hai: Từ nghiệp sinh ra nghiệp, tức là từ hành sinh ra hữu, từ nghiệp sinh ra phiền não, tức là từ hành sinh ra vô minh, từ nghiệp sinh ra hữu tức là từ hành sinh ra thức v.v…; từ nghiệp sinh ra khổ tức là từ hành sinh ra lão tử. Câu thứ ba: Từ hữu sinh hữu, tức từ thức sinh sáu nhập v.v…, từ hữu sinh ra phiền não, tức từ thức sinh ra vô minh; từ hữu sinh ra nghiệp tức từ thức sinh ra hành; từ hữu sinh ra khổ tức là từ thức sinh ra lão tử. Câu thứ tư: Từ khổ sinh ra khổ tức từ sinh sinh ra lão tử; từ khổ sinh phiền não tức là từ lão tử sinh ra vô minh; từ khổ sinh ra nghiệp tức là từ lão tử sinh ra hành, hữu; từ khổ sinh ra hữu tức là năm quả như thức, v.v… Văn kinh nói: “Vì trong ngoài có ái thì có ái khổ”. Kinh có hai văn: một nói ái khổ, hai nói Thọ khổ, nhưng nghóa ái yếu kém; tuy hai nghóa đều thông. Nói Thọ, là vì ái này mà lãnh chịu các khổ. Nói ái khổ, trong kinh phần nhiều nói ân ái là khổ. Y cứ theo quán nhân duyên, nay cũng ý cứ theo bốn pháp quán khác nhau ở trên. Một là quán thể; văn có bốn: Một là nói nhân quả sinh nhau; hai là quán năm đường đều khổ; ba là quán ba cõi đểu khổ; bốn là quán tám khổ. Văn thứ nhất có hai: Trước nói về sinh nhau, sau kết luận mười hai nghóa. Chín câu sinh nhau đều liên quan nhau. Từ câu: “Người có trí v.v…” trở xuống là quán năm đường đều khổ. Y cứ theo năm đường thì gồm có mười hai nhân duyên, trong đó có phiền não, nghiệp, khổ và hữu, địa ngục là khổ, phiền não là phiền não, nghiệp là nghiệp, Thể tức là Hữu. Các đường kia suy theo đây cũng có thể biết. Từ câu: “Người trí v.v…” trở xuống là quán ba cõi đều khổ. Nhưng hai cõi chưa hẳn đều là khổ, chỉ có ba đường là toàn khổ, còn cõi trời, người và đệ Tam thiền đều lạc, Đệ Tứ thiền là xả. Ở đây chỉ nói một bên, nếu y cứ lúc Như Lai mới thành đạo một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, thì ba cõi đều khổ. Từ câu: “Người trí v.v…” trở xuống là quán tám khổ. Từ câu: “Người trí v.v…” trở xuống là quán nhân khổ. Nhân khổ là ái vô minh, đối với Tiểu thừa thì nghiệp phiền não là nhân khổ; trong pháp Đại thừa thì ái hữu, vô minh là nhân khổ. Trong Tiểu thừa thì ái là gốc khổ, vô minh la phụ. Vì thế văn kinh ghi: “Ái là tập đế”, đều có phiền não làm gốc của khổ. Văn kinh lại ghi: “Ái vô minh có hai thứ là trong và ngoài”, gồm hai nghóa: Một là nêu trong ngoài của ái, thấy sắc cảnh bên ngoài thì tâm sinh chấp đắm, đó là ái bên ngoài, tự tâm khởi nhiễm là ái bên trong; thấy thân người khác là ái bên ngoài, thấy thân chính mình lá ái bên trong. Hai là nêu vô minh, nếu nội tâm chẳng liễu ngộ thì gọi là vô minh bên trong, chẳng phân biệt việc bên ngoài, thì gọi là vô minh bên ngoài. Văn kinh ghi: “Ái là duyên thủ, thủ duyên ái”, đó là mười hai nhân duyên, nếu nói thuận thì ái duyên thủ; nói nghịch thì thủ duyên ái, hai nghóa này là nói thủ và ái làm nhân duyên đối đãi nhau, như vô minh duyên hành, hành duyên vô minh, vừa làm nhân, vừa làm quả. Thứ ba là quán quả báo. Thứ tư, Từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là nói tu Thánh đạo. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là phần hai trong phẩm, khen ngợi kinh, được chia làm ba phần: Y cứ theo giáo để khen ngợi. Y cứ theo hạnh để khen ngợi. Y cứ theo Phật để khen ngợi. Thứ nhất, khen ngợi giáo sinh ra Trung đạo Phật tánh. Vì khiến Xiển-đề trở lại sinh ra gốc thiện, nên mới khen ngợi giáo; ý giáo mà tu hành, thì hành thật ít có, do đó mà khen ngợi hạnh. Đức Phật là giáo chủ nên khen ngợi Phật. Đây là khen ngợi Tam bảo. Thứ nhất văn có hai phen hỏi đáp. Đầu tiên ý hỏi thế nào là duyên của phạm hạnh, chứ không phải là hỏi về thể của phạm hạnh. Phật đáp: “Tất cả pháp”, đó là nói chung tất cả pháp đều có khả năng sinh ra phạm hạnh. Ý văn là đối với Niết-bàn Mãn giáo, chứa đựng tất cả pháp. Nghóa sau tự hiển bày. Phen hỏi đáp thứ hai, chính thức khen ngợi kinh. Ý hỏi là: Kinh sinh ra các hạnh, vì sao nói chung là tất cả pháp? Đức Phật đáp có hai: Trước khen, sau đáp. Ý lời đáp nói chỉ có kinh Đại Niết-bàn này là tất cả pháp. Văn có hai: Trước nêu rộng hai mươi lăm dụ; sau từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là kết luận chỉ cho Niết-bàn, khen ngợi kinh này. Nói cắt đứt phiền não, tức là phẩm nhẹ thì đồng được, nay dứt phẩm vô minh nhẹ nhất, nên nói là tập khí. Nếu nói Tạng giáo và Thông giáo đều trước dứt chánh sử, sau dứt tập khí, thì đó chính là chánh và tập của giới nội, kế là dứt chánh sử của giới ngoại và sau là dứt tập khí của giới ngoại. Nếu theo Viên giáo thì chánh và tập của giới nội, giới ngoại đồng thời dứt. Nay văn ghi: Dứt tập, tức là khen Viên giáo đồng thời dứt tập, chứ chẳng phải Phương tiện. Từ câu: “Như trước kia v.v…” trở xuống là khen ngợi hạnh. Văn có hai: Một là nói Đạo phẩm; hai là nói về Tưởng. Ở đây có hai nghóa: Một là hạnh cốt yếu; hai đều là Đại hạnh. Nói hạnh cốt yếu thì đâu được dùng Đạo phẩm, mười Tưởng của Thanh văn để làm cốt yếu. Ở đây nói Đạo phẩm là lấy vị chân giải trở lên, còn Thập Tưởng thì lấy vị Phương tiện. Đó là tự giải chánh quán, là Tông chỉ nhập đạo, há chẳng phải là cốt yếu ư? Vả lại, dùng tâm Đại Niết-bàn để tu tập, thì đó chẳng phải là pháp của Nhị thừa. Nói Đại hạnh là muốn nói tất cả các pháp thiện đều là sở hành của Đại só. Văn đầu tiên nói Đạo phẩm, trong đó chia ra hai đoạn: Một, nói về thể của đạo phẩm; hai là nói về nhân duyên của Đạo phẩm. Nói về thể, văn có ba ý: Một là nói chân giải là đúng; hai, nói hữu lậu là sai; ba, kết luận nói chân giải là đúng. Trang Nghiêm giải thích Đạo phẩm rằng: Bốn niệm, Bốn chánh, Bốn như là sở quán của ngoại phàm; Năm căn, năm lực là năng quán của nội phàm; tám chánh và bảy giải là sở quán của bậc chân Thánh. Khai Thiện thì cho ba mươi bảy phẩm đều chung, cho nội phàm và ngoại phàm, trong đó bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như y túc, năm Căn, năm Lực đều là cảnh quán của hàng nội phàm Tự giải; còn tám Chánh đạo và bảy Giác chi thì đều là cảnh quán của bậc chân Thánh; Tám chánh đạo là Kiến đế, bảy Giác chi là Tư duy. Các sư Trung Quán bác bỏ Trang Nghiêm rằng: Đại phẩm nói ba mươi bảy phẩm là pháp xuất thế, vì sao nói ba Bốn là ngoại phàm. Lại bác bỏ Khai Thiện rằng: Văn này nói Thế đệ nhất pháp chẳng phải phạm hạnh thanh tịnh, ba mươi bảy phẩm là phạm hạnh thanh tịnh, vì sao nói ngoại phàm là năng quán? Các nhà Thiên Thai nói đạo phẩm có rất nhiều loại, nói đầy đủ trong văn giảng về Đạo phẩm trong Chỉ quán. Trang Nghiêm thì y cứ theo vị mà nói về Đạo phẩm, còn Khai Thiện thì y cứ theo pháp tu chung để nói về Đạo phẩm; đều chỉ thiên về một đường. Thứ nhất, nói là đúng. Văn có bốn: Một là nói ba mươi bảy phẩm là gốc của phạm hạnh. Từ câu: “Nếu xa lìa v.v…” trở xuống là nói lìa Đạo phẩm thì chẳng đắc quả. Từ câu: “Vì nhân duyên v.v…” trở xuống là kết luận đúng. Từ câu: “Vì ba mươi bảy đạo phẩm v.v…” trở xuống là ý thứ tư, giải thích vì sao đúng. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là nói về chẳng đúng, có bốn lần hỏi đáp. Lần thứ nhất nói về hữu lậu là chẳng đúng. Ý hỏi là: Thiện hữu lậu cũng giúp cho vô lậu thêm lớn, vì sao chẳng gọi là phạm hạnh? Ý muốn nêu thế pháp để hỏi, cho nên trước định ra ý nghóa. Phật đáp Hữu lậu, Khai Thiện nói rằng: Hàng phương tiện vị đều chấp tướng, thật là Hữu lậu; nhưng lại là tương tự vô lậu; vì chưa thể dứt các lậu, chẳng thuộc về quả vô lậu, nên nói là hữu lậu. Nhưng thể của nó thật chẳng chấp tướng, cho nên văn vặn hỏi ở sau ghi: “tánh của nó chẳng phải điên đảo”. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là lần hỏi đáp thứ ba. Nói hướng về vô lậu, nên chẳng gọi là điên đảo, tức là nói từ pháp quán này mà phát sinh pháp vô lậu, nên chẳng gọi là điên đảo, nhưng tự thể lại có chấp. Nói pháp Thế đệ nhất chỉ là một tâm, chính là lấy gần với khổ nhẫn làm pháp Thế đệ nhất, thế thì chỉ trong một sát-na tâm. Nay ý Phật đáp là vốn nói Phạm hạnh là muốn cho chúng sinh phát tâm nối nhau, còn Thế đệ nhất thì chỉ một niệm tâm, cho nên chẳng chấp. Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là lần hỏi đáp thứ tư. Văn kinh nói: Năm thức của chúng sinh chẳng điên đảo, câu này có nhiều cách giải thích: Có thuyết cho rằng thức ấm chưa có chấp tướng, hoặc cho rằng thức tâm có tướng nhưng còn nhẹ hơn ba tâm sau, mà nay người hỏi lại nói năm thức chẳng điên đảo, nghóa là chỉ vừa bắt cảnh thì chưa phân biệt được tướng khác nhau của ba giả, nên nói là chẳng phải điên đảo; còn nói chẳng phải một tâm, vì như mắt thấy sắc là tâm nối nhau. Nếu thế thì chẳng thể gọi là Phạm hạnh. Phật đáp: “Nhưng vì hữu lậu, là điên đảo”, nên biết thức tâm đã có chấp tướng. Lại nói: “Thể chẳng chân thật, chẳng phải chấp Tưởng, cho nên điên đảo”, văn sau lại giải thích: “Nghóa là nam nữ cho đến Tưởng là xe cộ, nhà cửa v.v…” nghóa là thức tâm chưa biết được thân tâm nam nữ, bình chén, y phục v.v… đây chỉ mới do tâm Tưởng mà có. Văn này muốn nói khi tuởng, vì sao có chấp? Đó là do thức tâm, truớc đã chấp đắm sắc thanh rồi, nên nay sinh ra Tưởng, đây là nêu quả mà nói nhân. Từ câu: “Nếu có Bồ-tát v.v…” trở xuống là phần hai, nói về nhân duyên của Đạo phẩm, tức biết chín nghóa; chín nghóa là Dụng của Đạo phẩm. Trong luận Bà-sa nói Đạo phẩm có chín tánh, thì đó là tánh, nếu nói về thể thì mỗi pháp có chỗ y cứ. Chín tánh là: giới, định, tuệ, niệm, tín, tinh tấn, hỷ, ỷ, xả. Trong Đạo phẩm thì chỉ có ba loại là Giới: Tức chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng; tám loại là Định: Bốn Như ý túc là bốn định, năm là định căn, sáu là định lực, bảy là định giác, tám là chánh định, chín loại là tuệ: bốn niệm xứ là bốn, Tuệ căn, Tuệ lực là sáu, giác phần Trạch pháp là bảy, chánh kiến, chánh tư duy là chín; bốn loại là niệm: Tức niệm căn, niệm lực, chánh niệm và niệm giác; hai loại là tín: Tức tín căn và tín lực; tám thứ là tinh tấn: Tức bốn chánh cần, căn, lực, chánh tinh tấn và giác phần tinh tấn, còn xả, ỷ và hỷ mỗi pháp chỉ có một. Văn có năm phần: Một là nêu tên; hai là nói về Thể; ba là giải nghóa; bốn là nói về pháp; năm là phân biệt. Thứ nhất là nêu tên. Chín nghóa này có ba phần: Bốn nghóa đầu là nhân của đạo phẩm, ba nghóa kế là Thể của đạo phẩm, và hai nghóa sau là quả của đạo phẩm. Nói bốn nghóa trước là nhân, vì căn là dục, muốn phát tâm cầu Bồ-đề; nhân là minh và vô minh, nhân thiện là minh, nhân ác là vô minh; nhiếp là thâu nhiếp chẳng để tản mát, tăng là khéo suy nghó, suy nghó để tạo nghiệp thiện. Cho nên nói bốn nhân; chủ là niệm, đạo là định, thắng là tuệ. Đã nói niệm định tuệ, thì há chẳng phải là Thể ư? Thật là Giải thoát được ít phần, rốt ráo là quả Niết-bàn; hai nghóa này, chẳng phải là quả ư? Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai nêu thể. Trước hỏi, sau đáp. Văn đáp có hai: Trước là khen câu hỏi. Kế là chánh đáp. Nói nhân là minh xúc, tức duyên của thiện tri thức. Từ câu: “Thiện dục v.v…” trở xuống là phần thứ ba, giải thích chín nghóa; có chín câu. Thứ nhất giải thích căn bản. Văn có hai: Trước giải thích, sau là phân biệt. Trong phần giải thích thì một là đáp, hai là nêu dụ. Kế là phân biệt, có hai phen hỏi đáp. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là giải thích xúc. Nêu rất nhiều, vì xúc không nhất định, tùy theo nghóa xúc đối mà lập. Kinh nói: Nhân chánh mạng mà được giới căn thanh tịnh, tức trước nói chánh mạng đã là Mộc-xoa, Mộc-xoa Hán dịch là giới, mà chưa nói về Định cộng, Đạo cộng. Vì sao biết được? Vì văn sau tự nêu: Vì giới căn thanh tịnh nên ưa thích vắng lặng, thì mới được định, khéo suy nghó thì mới được tuệ. Do đó, chưa nói định tuệ thì vì sao đã có Đạo giới, định giới? Nay được Mộc-xoa rồi, trước Đạo, định, lại nói giới căn thanh tịnh, có hai cách giải thích: Một, là cho rằng trước nói chánh mạng là giới Mộc-xoa, tức là nói giữ chắc chẳng phạm, ở đây lại nói căn thanh tịnh, vì nói giới này dần dần sâu kín cho đến nhiếp giữ năm căn chẳng để phạm tội, vì thế nói là căn thanh tịnh. Hai, cho rằng chẳng nói thanh tịnh năm căn, mà chỉ là Bồ-tát tự có năm căn như tín, tấn v.v…, giới có nghóa năng sinh, tức giới là căn, giới này đã thanh tịnh thì năng sinh ra định, tuệ, cho nên nói là giới căn thanh tịnh. Luận Thập Trụ và kinh Ưu-bà-tắc Giới đều có nói căn thanh tịnh. Từ câu: “Thọ là nhiếp thủ v.v…” trở xuống là câu thứ ba, giải thích Thọ. Trước nói về quán Thọ, Thọ là gốc để sinh ra phiền não, nhiếp lấy phiền não. Nay nói Thọ sinh Đạo phẩm nên lại cho Thọ là nhiếp lấy. Từ câu: “Do khéo suy nghó, v.v…” trở xuống là câu thứ tư, giải thích Tăng. Do suy nghó nên tâm hiểu biết tăng tiến, gọi là Tăng. Trước nêu lên, sau giải thích. Từ câu: “Nếu năng lực quán v.v…” trở xuống là câu thứ năm, giải thích niệm. Có pháp, dụ và hợp. Từ câu: “Đã nhập định v.v…” trở xuống là câu thứ sáu, giải thích Đạo. Nghóa là Định năng dẫn sinh ra trí, nên gọi là Đạo. Từ câu: “Ba mươi bảy phẩm này v.v…” trở xuống là câu thứ bảy, giải thích Thắng. Văn có pháp, dụ và hợp. Ý nói tuệ có công năng chánh đoạn, nên gọi là Thắng. Từ câu: “Tuy nhờ tu tập v.v…” trở xuống là câu thứ tám, giải thích Thật. Trước nêu định chế phục, chẳng phải thật. Kế là chính thức nói về trí đoạn là thật. Từ câu: “Ba mươi bảy phẩm v.v…” trở xuống là giải thích rốt ráo. Văn có hai: Trước nói bốn quả Sa-môn chưa rốt ráo. Sau nói được Đại Niết-bàn mới là rốt ráo. Văn nói: Dứt trừ sở hành của ba mươi bảy phẩm, nghóa là ngày đắc quả xả bỏ các tuệ hữu vi trong nhân. Từ câu: “Tâm khéo ái niệm v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói về pháp. Văn có ba: Một là y cứ theo pháp; hai là y cứ theo người; ba là y cứ theo dụ. Thứ nhất là chín pháp gồm ba ý: Bốn pháp trước là nhân, ba pháp kế là thể, hai pháp sau là quả. Từ câu: “Lại nữa v.v…” trở xuống là đoạn hai, y cứ theo người. Chín pháp ở đây có hai ý: bốn pháp trước là y cứ theo nhân, năm pháp sau là y cứ theo quả. Nhưng trong nhân bao gồm nội phàm, trong quả chung cho Học và Vô học. Từ câu: “Lại nữa, Dục gọi là v.v…” trở xuống là đoạn ba, y cứ theo dụ. Đoạn này có ba cách giải thích: - Khai Thiện cho rằng: Ở đây là nêu mười hai nhân duyên, là cảnh của chín pháp, giống như mười hai nhân duyên sinh nhau. Chín pháp này cũng như thế, theo thứ lớp sinh nhau. Nhưng mười hai nhân duyên này gồm có ba việc khó giải thích: một là không đủ, hai là tri thức nêu hai lần, ba là không theo thứ lớp. Sở dó không đủ là vì đã lược bỏ; nhưng lược bỏ Hành, không lược bỏ vô minh, vì vô minh là căn bản của nhân duyên. Sở dó tri thức nêu hai lần, là vì tri thức và xúc là thức. Sở dó không theo thứ lớp là vì muốn nói mười hai nhân duyên trôi lăn vô cùng không có thứ lớp nhất định. Từ câu: Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn năm, phân biệt: trước hỏi sau đáp. Phật đáp: Có năm phen. Nói gốc thiện mới phát thì có thể tự hiểu, nhân là tương tự, tức hai tâm trước sau nối nhau chẳng dứt; Tăng là diệt tương tự lại được tương tự, tức diệt tâm tương tự trước lại được tâm tương tự sau. Nhưng trong phân biệt ba pháp này còn có thuyết ba đạo, Kiến đạo tức Kiến đế, Tu đạo tức tư duy đạo, chỉ trừ quả A-la-hán, Vô học đạo tức quả A-la-hán. Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn hai, y cứ theo mười Tưởng đề nói về Hành. Trước hỏi sau đáp. Lời đáp có ba là nêu chung, giải thích và tổng kết. Thứ nhất là nêu chung mười Tưởng. Kế là nêu. Nói về Thể thì đúng thật là tuệ, nhưng lại lấy Tưởng làm tên gọi. Khi mới khởi quán thì chưa thấy được rõ ràng, chỉ Tưởng tượng ra việc ấy. Sau đó khi quán đã thành, thì từ phương tiện mà đặt tên, cũng gọi là Tưởng. Nếu nói theo vị thì chung từ cạn đến sâu, vì mới tu tập cũng gọi là mười Tưởng. Trong Đại Phẩm cũng có nói về mười Tưởng, Thích Luận ghi: “Mới tu tập thì gọi là chín Tưởng, đã thành tựu thì gọi là mười Tưởng, danh số rất sơ lược đồng với kinh này. Nhưng có hai điểm khác nhau: một, trong Đại phẩm thừa có bất tịnh Tưởng và đoạn Tưởng; hai, Đại phẩm không có đa quá tội Tưởng và vô ái Tưởng, trong đó lìa ác Tưởng, tức lìa Giải thoát Tưởng, tận Tưởng tức diệt Tưởng. Mười Tưởng này gồm có hai phần: Một, sáu Tưởng đầu nói về Quán hạnh; hai, bốn Tưởng sau nói về xuất ly. Trong sáu Tưởng đầu lại chia làm hai: Ba tuởng đầu là chánh quán, nghóa là khổ, vô thường, vô ngã, ba Tưởng bốn, năm, sáu chỉ là thành nhau mà thôi. Xưa nay có hai cách giải thích: - Một, cho rằng các tướng riêng đối với nhau thành tựu trong đó tư Tưởng thành tựu là vô thường, lạc Tưởng thành cho khổ, chán lìa thực Tưởng thành tựu vô ngã; nói chán lìa thực thành tựu vô ngã, như thế gian đối với thực sinh tham, là do chấp ngã muốn sắc được đẹp, Đức Phật biết vô ngã nên chẳng tham cầu thức ăn uống ngon ngọt; vì thế chán lìa thực, thành tựu Tưởng vô ngã; Tưởng không đáng vui thành tựu cho Tưởng khổ, vì thế kinh Thụy Ứng nói: “Ba cõi là khổ, đâu có gì đáng gọi là vui?” Tử Tưởng thành tựu cho vô thường, điều này rất dễ thấy, vì chết nên vô thường. Hai, là nếu thành tựu chung cho nhau thì chỉ do yểm thực, không đáng vui, chết cho nên vô ngã, cũng chỉ do yểm thực, không đáng vui, chết nên có khổ, cũng do yễm thực, không đáng vui, chết nên vô thường. Bốn Tưởng sau, thì nhiều tội Tưởng đồng với nhàm chán thế gian; Lìa Tưởng Giải thoát và diệt Tưởng khác nhau, có ba cách giải thích: Một là cho rằng dứt hết nhân là lìa, dứt hết quả là diệt. Hai là cho rằng biết từng phần là lìa, hoàn toàn diệt là Diệt. Ba, là cho rằng hàng phục các hoặc là lìa, dứt hết là diệt. Vô ái Tưởng, nghóa là đã lìa diệt thì tâm không ái nhiễm. Kinh lại nói: “Xứng hợp với nghóa Tỳ-kheo”, thì có thể biết, nên văn sau nói: “Xứng với tướng Sa-môn”. Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích. Văn có ba: Một là giải thích riêng sáu Tưởng; hai là khen ngợi chung sáu Tưởng; ba là lược nêu bốn Tưởng. Thứ nhất giải thích riêng sáu Tưởng: một là vô thường; trước hỏi, sau đáp. Đáp sáu Tưởng, văn có sáu đoạn. Về vô thường thì trước nêu lên, sau là giải thích. Giải thích: Trước giải thích thô về Tưởng vô thường. Hai nhân khổ, có hai cách giải thích: Một, cho rằng nhân bên trong thì sinh khổ bên trong, nhân bên ngoài thì sinh khổ bên ngoài. Hai là ở văn này, đói khát là bên trong, lạnh nóng là bên ngoài. Nói hành sáu xứ, tức là đối với sáu trần. Kế là từ câu “Tu khổ Tưởng v.v…” trở xuống là giải thích khổ Tưởng. Nói quán thân này là vật chưa vô thường, vì ba khổ, tám khổ đều ở trong thân nên mới nói là vật chứa khổ. Kinh lại nói: “Vì vô thường nên khổ”, các sư Số Luận cho rằng: Vô thường ép ngặt cho nên khổ, nếu không bị vô thường ép ngặt thì chẳng khổ. Các sư Thành Thật cho rằng chẳng phải thế, khổ hẳn là vô thường, nhưng vô thường chưa hẳn có khổ, như tất cả cỏ cây cũng vô thường mà chẳng khổ. Còn các loài hữu tình có khổ hẳn là vô thường. Ba tụ, thì sắc và vô ký đều vô thường mà chẳng khổ, chỉ có tâm mới khổ. Từ câu “Người trí v.v…” trở xuống là đoạn ba, quán Ngã Tưởng. Kế là nói về Tưởng Thực yểm. Văn có ba là: Chính thức nói, luận nghóa và kết luận. Kinh nói có bốn thứ thực: Sủy thực, tư thực, xúc thực và thức thực. Sủy thực tức là cơm mà người bây giờ ăn, được chia ra từng phần. Xúc thực là y báo như y phục, đồ nằm, v.v… sự xúc chạm mềm mại, thô cứng. Thực là nghiệp thực, thức thực thì chỉ là ý thực. Kế là nói về Tưởng không có gì đáng vui thích. Kế là nói về Tưởng chết. Văn có hai: Một, là nói về sự chết trong thời gian lâu dài. Sau nói về sự chế trong từng niệm; có hỏi và đáp. Văn kinh ghi: Một hơi thở, một cái chớp mắt có bốn trăm lần sinh diệt, còn luận Thành Thật ghi rằng: “Trong một niệm có sáu mươi lần sinh diệt, vì sao hai văn lại khác nhau?” Đáp: gồm có hai ý: Một, là cho rằng Luận Thành Thật là Tiểu thừa, nói vô thường còn xa, nên cho rằng chỉ có sáu mươi lần sinh diệt, còn kinh này thuộc Đại thừa nói vô thường rất ép ngặt nên lập ra bốn trăm lần sinh diệt. Hai là luận nói một niệm là thời gian rất ngắn, nên chỉ có sáu mươi lần; Kinh nói một hơi thở thì dài, nên nói có bốn trăm lần. Từ câu “Người trí có đủ v.v…” trở xuống là đoạn hai, khen ngợi chung sáu Tưởng. Từ sáu Tưởng được bảy Tưởng, thường tu Tưởng chẳng phải là quán cảnh thường, mà thường khởi tu tập pháp quán này. Lạc tu Tưởng tức là ưa thích tu tập. Từ câu “Nếu người nào v.v…” trở xuống là đoạn ba, lược nêu bốn Tưởng. Nhàm chán ba cõi là quá tội Tưởng, xa lìa ba cõi là ly Tưởng, dứt trừ ba cõi là Diệt Tưởng, chẳng tham đắm ba cõi là Vô ái Tưởng. Từ câu “Đó gọi là người trí v.v…” trở xuống là đoạn ba, tổng kết. Từ câu “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần ba, kệ khen ngợi Phật. Gồm bảy mươi hai câu, chia làm ba đoạn: Một là bốn câu đầu nêu chung; hai sáu mươi câu kế là chánh thức khen ngợi; ba là tám câu cuối là kết luận. Sư Linh Vị cho rằng phẩm Sư Tử Hống khen ngợi tâm đại Từ của Phật, phẩm này là khen ngợi Đại bi. Nay nói chẳng phải thế. Trong kinh đã nói rõ: “Phật có một vị từ tâm”, lại nói: “Đó là tâm từ cứu giúp thế gian”, đâu chỉ nói Đại bi như Linh Vị. Phẩm Sư Tử Hống nói về Phật tánh tức là đại từ ban vui, phẩm này nói về Nhất-xiển-đề sinh điều thiện, tức là đại bi cứu khổ. Nói riêng thì như thế, nhưng nói về đại từ chẳng phải là không có đại bi, nói đại bi chẳng phải không có đại từ. <篇> ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH SỚ <卷>QUYỂN 32 <詞>PHẨM 25: KIỀU-TRẦN-NHƯ (PHẦN 1) Kiều-trần-như là họ, Hán dịch là Hỏa Khí, A-nhã là tên, Hán dịch là Vô Tri. Có rất nhiều nghóa, nay chỉ nêu ra bốn ý vì sao lấy ngài Trần- như làm đương cơ. Ngài Kiều-trần-như là bậc Thượng tọa đắc đạo đầu tiên. Trong hội này, ngài Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất đã nhập diệt trước Phật rồi, còn ngài Ca-diếp và A-nan thì chưa đến, chỉ còn ngài Kiều-trần-như là đứng đầu trong hàng tuổi cao đức trọng. Đức Phật muốn đầu cuối đều thiện nên chọn Ngài làm đối cơ. Tại lần xoay bánh xe pháp đầu tiên, Đức Phật nhằm vào Trần như để giảng nói cam lộ, xoay bánh xe pháp lần cuối lại cũng nhằm vào Trần-như mà khai mở bí tạng. Xưa thực hành theo ngoại đạo, thì đầu tiên từ ngài Kiều-trần-như mà phá tà, thì nay cũng do nơi ngài mà dẹp ngoại đạo. Đầu tiên từ ngài Kiều-trần-như mà khiến năm người thấy đế lý, sau cùng cũng từ nơi ngài Kiều-trần-như mà khiến mười vị Tiên thấy lý. Vì các nghóa này nên lấy tên người đặt tên phẩm. Nếu y cứ theo sự phó chúc đối với ngài Kiều-trần-như, thì việc lãnh thọ ngôn giáo lẽ ra là phần A-nan, nếu giữ gìn chánh pháp tương tục thì lẽ ra thuộc về Ca-diếp, nếu là việc mở rộng đại yếu chỉ thì thuộc ngài Văn-thù; nhưng các vị đệ tử lớn này hoặc có vị đã diệt độ, có vị chưa đến, chỉ còn ngài Kiều-trần-như là bậc tuổi cao đức trọng, gần Phật từ đầu đến cuối, nên Như Lai phải nhờ vào vị Thượng tọa này nhận lãnh lời phó chúc, vì thế đối cáo với Kiều-trần-như, để truyền bá lời dạy. Khai Thiện cho rằng kinh dịch chưa hết, chỉ có hai phần tự, và Chánh; phần Chánh có ba là Khai tông, Biện tông và Quảng thuyết. Phẩm này là phần thứ ba “Nhiếp tà quy chánh thuyết”. Quang Trạch cho rằng: Tuy kinh chưa dịch hết, nhưng đã đủ ba đoạn. Phẩm này thuộc về đoạn lưu thông. Lại cho rằng phẩm này, nội dung trả lời câu hỏi thứ ba mươi bảy là: “Tôi muốn hỏi các ấm, ngặt vì không trí tuệ”. Hưng Hoàng cho rằng: Nếu là trả lời câu hỏi thì được chút phần ý nghóa ở trước, mà mất các văn ở sau. Nếu cho là lưu thông thì được văn bảo A-nan mà mất các văn khác. Nếu phê bình lời của các Sư, thì mỗi lời được một ý. Nếu dẫn lời của ngài Đàm-vô-sấm “Kinh này về nghóa thì đã đủ, mà văn thì chưa hết”. Nếu dẫn kinh Cư Só Thỉnh Tăng thì kinh này còn ba phẩm chưa truyền đến Trung Quốc, lại dẫn văn sai A-nan thì có hai việc: Một là bảo giáo hóa Tu-bạt, hai là nên phó chúc. Sai bảo giáo hóa thì đã xong, mà văn phó chúc thì chưa thấy. Do đó biết kinh truyền chưa hết. Nói lưu thông thì một là nhiếp tà quy chánh lưu thông, hai là phó chúc lưu thông. Tuy không có văn phó chúc mà có văn nhiếp tà, nên nói là có phần lưu thông. Nay cho rằng phẩm này, còn thuộc về phần Dụng Niết-bàn. Ng- hóa Dụng rất rộng, hiện tại thì có dụng nhiếp tà nhiếp ác, tương lai thì có dụng cứu ác cứu tà. Nếu muốn lập ra hai đường chánh thuyết và lưu thông thì cũng được, nếu muốn nói dịch đã hết và chưa hết thì cũng được, hai nghóa không ngại nhau. Ở đây nói dụng Niết-bàn: Phẩm trước là Dụng nhiếp ác, phẩm này là Dụng nhiếp tà. Văn có hai phần: Kết thành hạnh chánh quán. Phá các tà thuyết. Điều cốt yếu của việc tu hành không ngoài hai phần này. Chánh quán là tự hành, thuộc về trên cầu, phá tà là lợi tha, thuộc về dưới hóa. Chánh quán là trí đức, phá tà là đoạn đức; tức là ý bốn Tất đàn. Đầu tiên nói về chánh quán. Văn có hai đoạn: Chánh thức nói về quán hạnh. Tổng kết khen và chê. Đầu tiên nói về quán thường và vô thường, đều nhờ vào ấm làm cảnh quán, mà chẳng nói về các pháp khác, gồm có bốn nghóa: Một là vì trước sau của việc hóa đạo; hai là tùy chỗ thích hợp của chúng sinh; ba là tổng kết từ đầu đến cuối một bộ kinh; bốn là đầu cuối của các pháp. Trước sau của việc giáo hóa: Kinh Pháp Hoa ghi: “Ở nước Ba- la-nại xoay bánh xe pháp Tứ đế, phân biệt nói sự sinh diệt của các pháp năm chúng”. Năm chúng là năm ấm, sinh diệt là vô thường, được năm ấm thường hằng. Tùy chỗ thích hợp của một bộ kinh: Kinh này vừa khai tông thì liền nói: “Nay ta ban cho các ông thường, mệnh, sắc, lực”, bây giờ đến lúc sau cùng kinh lại viết ý này, nói về năm ấm là thường, muốn nói mệnh, sắc, an, biện tức là năm ấm. Kết luận đầu cuối của các pháp: về thể của quán hạnh, đầu tiên đều dùng năm ấm làm chỗ khởi đầu, và chủng trí làm nơi cuối cùng. Vì thế các kinh như Đại phẩm v.v… phần nhiều đều nói sắc là không, thọ tưởng v.v… cũng không, cho đến chủng trí. Năm ấm là khởi đầu, Niết- bàn là cuối cùng, lược qua đoạn giữa. Có người giải thích sắc là pháp vô ngại, tâm duyên pháp. Phật thì vô ngại, vô duyên, nên không thuộc sắc tâm. Nếu có sắc, lẽ ra có nhà để che đụt, dùng áo quần để mặc; nói sắc là luận về trí, sáng tỏ trong lặng dụ như sắc. Cách giải thích này trái với kinh, kinh ghi; “Do diệt sắc này mà đạt được sắc thường”, lẽ ra cũng có diệt sắc ngại được sắc vô ngại, lẽ ra cũng diệt tâm duyên, được tâm vô duyên, đâu được nói còn tâm duyên? Đã nói tâm duyên, mà lại là sắc ư? Nếu dùng sắc dụ cho trí tuệ, thì thọ tưởng hành thức dụ cho cái gì? Đâu thể dùng dấu chân bò Tiểu thừa mà chứa nước biển lớn ư? Có Sư lại cho rằng: Nếu nói theo sự thật thì Phật không có sắc tâm, dẫn văn kinh: “Bây giờ, vượt qua Ý giới, trụ trong trí nghiệp”. Tuy dẫn kinh, mà thành ra tự hại mình. Trí nghiệp là gì? Há chẳng phải là tâm Phật ư? Lại nói phàm phu là ấm, chẳng lẽ Phật lại như thế ư? Gọi Phật là năm phần, vì sao? Như ấm là ngăn che, Phật không ngăn che, nên Phật chẳng phải ấm. Vì như nhân gọi là muôn hạnh, quả là muôn đức. Cách giải thích trên cũng trái với kinh. Kinh nói: “Đạt được thường sắc. Thọ, tưởng, hành thức cũng như thế”, đó há chẳng phải là lời nói thường ấm, thường sắc tâm ư? Văn kinh trên còn nói: “Nay ta ban cho ông thường mệnh, sắc, lực, an, vô ngại biện”, tức là ấm thường trụ che kín pháp giới, vậy có chỗ nào trở ngại đâu mà nói chẳng phải ấm. Pháp thân chẳng phải ấm Thường, chẳng phải ấm Vô thường, giới nhập cũng như thế, mà lại làm ấm Thường, ấm Vô thường. Trong đây là đối với ngài Kiều-trần-như nói lại nghóa ở trước, để phá sắc vô thường, đạt được sắc thường, tức sắc ấm thường. Vì sao lại trái với kinh, nói không phải sắc ấm? Nếu nói theo Viên quán thì sắc vô thường vẫn là sắc thường hằng, thọ tưởng v.v… cũng giống như thế, tức ấm vô thường là ấm thường hằng; giới nhập cũng như thế. Tuy có hai pháp quán Biệt, Viên, nhưng đồng với Ấm, giới, nhập thường hằng. Theo văn có thể thấy được do đây mà phá tà. Từ câu “Bây giờ ngoại đạo v.v…” trở xuống là đoạn hai, phá tà. Văn có hai: Một là nói về duyên khởi; hai là chánh phá. Trong phần duyên khởi lại có hai: Trước nói ngoại đạo mưu tính bàn luận; sau là thỉnh Phật đấu sức. Phần mưu tính bàn luận có năm phen, rất dễ thấy. Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là muốn được đấu sức. Từ câu “Bấy giờ, trong chúng ấy v.v…” trở xuống là chánh phá mười hai vị tiên. Gồm có mười chương. Đây là chương thứ nhất, nói Xiển-đề Thủ-na học theo Ca-tỳ-la chấp nhân có quả, nhân quả đồng thời, cho nên Bách Luận nói: Đệ tử của Ca-tỳ-la tụng đọc hai mươi lăm đế của kinh Tăng-khư”, nay ở đây có nêu ra, cho nên biết là đúng. Chương này có hai đoạn là luận nghóa và quy phục. Phần luận nghóa có bốn: Một là xác định tông nghóa; hai là thọ nhận và xác định; ba là chánh thức hỏi; bốn là giải thích chung. Thứ nhất là định tông nghóa. Ta nghe Cù-đàm nói Niết-bàn là thường, có chắc chắn như thế chăng? Kế là đáp đúng thế, đúng thế, tức là xác nhận lời này. Nhưng Niết-bàn không hề chắc chắn là thường, vô thường, vừa thường vừa vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Muốn dùng thường phá ngoại đạo, cho nên mới nói đúng thế, đúng thế. Từ câu “Bà-la-môn v.v…” trở xuống là chánh thức hỏi. Văn có ba: Một là bác bỏ nghóa Phật nói; hai là chánh thức hỏi; ba là theo ý kết luận. Thứ nhất, trong phần hỏi có năm câu, chẳng ngoài hai ý: một, bốn câu đầu là hỏi đồng khiến vô thường; hai, một câu sau là hỏi chẳng phải chỉ vô thường mà còn vô lạc, ngã, tịnh. Đầu tiên là nói tu tưởng vô thường, được Niết-bàn thường, chẳng thể nhân vô thường mà được quả thường. Các Sư xưa định câu này rằng: Như kia nói Niết-bàn là quả, vậy tu tập nhân thì được tập quả, quả Niết- bàn đã là thường thì phải lấy gì làm nhân cho quả thường này; cho đến ngã, tịnh cũng như thế. Nếu như kia đáp: Niết-bàn của ta tự là Thường, thì lại rơi vào nghóa tự nhiên. Từ câu “Cù-đàm lại nói Giải thoát dục tham, v.v…” trở xuống là câu thứ hai. Nói Giải thoát dục tham, được Niết-bàn, dục tham sở thoát là vô thường thì Niết-bàn năng thoát cũng vô thường. Câu hỏi này quá vụng về. Từ câu “Cù-đàm lại nói từ nhân cho nên sinh lên cõi trời, v.v…” trở xuống là câu thứ ba, nói thẳng từ nhân sinh cho nên vô thường, vậy Niết-bàn là quả từ nhân sinh, thì chẳng thể là thường. Từ câu “Cù-đàm cũng nói sắc từ duyên sinh, v.v…” trở xuống là câu thứ tư, chia làm hai câu. Nếu Niết-bàn tức là ấm, ấm đã vô thường thì Niết-bàn cũng thế. Nếu là năm ấm, giống như hư không, thì chẳng thể được, vậy làm sao chúng sinh được Niết-bàn. Từ câu “Cù-đàm cũng nói từ nhân sinh, v.v…” trở xuống, là câu hỏi thứ năm. Nói Niết-bàn đã là vô thường thì chẳng được gọi là thường, tức đâu chỉ là vô thường mà còn vô lạc, ngã, tịnh. Từ câu “Nếu Cù-đàm nói vừa thường vừa vô thường trở xuống, v.v…” là dùng ý để kết luận. Ý hỏi là: Nghó Phật bị hỏi về thường không thể trả lời thông suốt được, sợ rằng Phật lại thay đổi tông nghóa, hướng về vừa thường vừa vô thường, như thế sẽ thành hai lời, hai lời thì chẳng phải là Phật; nên mới ngăn chặn như thế. Từ câu “Đức Phật nói rằng v.v…” trở xuống là phần thứ tư, giải thích. Văn có hai: Một là trả lời câu kết. Ý thứ nhất lại có hai: Một là đáp câu thứ nhất; hai là đáp câu thứ ba. Sở dó chẳng đáp ba câu kia, là vì hỏi về Niết-bàn, khiến trở thành vô thường; chẳng đáp câu thứ hai hỏi dứt dục tham vì dục tham vô thuờng, đâu thể dứt rồi cũng vô thường. Sở dó chẳng đáp câu thứ tư, vì Niết-bàn đã là thường thì đâu cần nói đến tức, lìa. Chẳng đáp câu thứ năm, vì nếu Niết-bàn đã là thường thì chẳng lẽ không có Lạc và Tịnh ư? Thứ nhất đáp câu hỏi đầu tiên. Đầu tiên là Phật hỏi, khiến ngoại đạo đưa ra nghóa của mình. Khi trước chỉ mới phản đối, chứ chưa nêu ra tông nghóa của mình, Đức Phật do đó gạn hỏi, Bà-la-môn kia bèn nêu ra nghóa của mình rằng: Tánh của Ngã là vô thường, nhưng các pháp như Đại, v.v… đâu ngại là vô thường, nếu nhân năng sinh là Thường, quả sở sinh là vô thường, thì Phật liền đáp rằng: Như trong pháp của ông, nhân thường, quả vô thường không có trở ngại, vậy trong pháp của ta nhân vô thường mà quả thường cũng đâu có lỗi gì?… Hai mươi lăm đế này so với Bách Luận thì có đồng khác, gồm có ba điểm: một, là danh khác thể đồng: luận nói từ minh sinh giác, từ giác sinh ngã tâm. Ở đây nói từ tánh sinh Đại, từ Đại sinh mạn. Minh là lúc còn ngoài tám muôn kiếp thì mờ mịt chẳng biết; ở đây nói Tánh từ tánh sinh Đại, từ Đại sinh mạn, tức là tên khác mà thể đồng, chỉ biết việc trong tám muôn kiếp, ngoài tám muôn kiếp chẳng thể biết được. Luận nói giác tức là rõ biết các việc trong tám muôn kiếp; ở đây nói Đại tức chỉ cho Đại giác tri. Còn mạn và ngã thì dễ hiểu. Danh thể đều đồng: Tức là năm đại, năm trần, năm căn, năm nghiệp và tâm bình đẳng. Danh thể đều khác: Luận nói Thần ngã là chủ, tức là một căn; ở đây nói nhiễm, thô, hắc vì sao là một căn? Đáp: Cả ba chẳng đồng thời khởi, vì tham v.v… nên trước sau thuận theo lấy một, cộng với hai mươi bốn đế. Hỏi: Xà-đề này đã học theo tông nghóa của Ca-tỳ-la, vì sao chẳng đồng? Đáp: Khi Phật tại thế, chẳng thấy ba Sư, chỉ thấy đồ chúng mà thôi. Các đồ chúng thay đổi tông nghóa đã học nên nói chẳng giống có nhiễm, thô, hắc khác nhau. Như Trang Nghiêm nói rằng: Quả Phật không có ba giả là Tương tục giả, tương đãi giả và nhân thành giả, sau Chiêu Đề Viêm là học trò, thay đổi nói rằng: Quả Phật không có nhân thành giả, chẳng ngại có tương tục, tương đãi giả. Khai Thiện nói: Nhị đế đồng thể, về sau có học trò là Long Quang thay đổi nói: Nhị đế mỗi mỗi có tự thể riêng, v.v… Trong năm nghiệp có nói hai căn nam nữ, luận cho đại tiểu tiện là hai căn. Đó là luận y cứ trên một thân, còn kinh thì y cứ theo hai người. Nhưng tánh đế này, hoặc cho là thần ngã, hoặc cho là minh sơ, đều có ý nghóa riêng. Nói minh sơ là y cứ theo chỗ khởi đầu của hai mươi lăm đế, cũng là Minh đế, lại nói là thường, là thần ngã, chẳng biết có gì khác nhau không? Trong đây nói từ Mạn sinh ra mười pháp, ở đây chưa phải đã sinh mười sáu pháp, không có ba pháp nhiễm, thô, hắc đồng thời sinh khởi, thuận theo đó mà một pháp sinh. Vì bất định, cho nên trước chẳng nói. Mười sáu pháp là năm đại, năm tri căn, năm nghiệp căn và tâm bình đẳng căn. Trong năm căn, có nói xúc, tức cho thân là xúc. Về bình đẳng căn, các sư luận Thành Thật nói rằng ý thức ra vào năm căn, pháp khởi tức là năm tri căn, vì tâm đã duyên khắp, nên gọi là bình đẳng. Kinh ghi: “Hai mươi lăm pháp đều do tánh sinh”, thật ra tánh sinh hai mươi bốn pháp, vì tính tròn số nên gọi là hai mươi lăm. Nếu y cứ theo nghóa này thì tánh là Thường sinh ra Vô thường. Phật y cứ theo nghóa của Bà-la-môn mà đáp thông câu hỏi: Đâu ngại gì nghóa của ta, do vô thường mà quả thường. Từ câu “Này Bà-la-môn! v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ ba. Đoạn này trước cũng hỏi nghóa của Bà-la-môn. Kinh nói: Liễu nhân và sở liễu có đồng liễu chăng? Như đèn là liễu nhân, liễu ra quả là bình thau, liễu nhân này có đồng với liễu quả bình thau hay chăng? Kia đáp khác nhau. Vì sao? Như đèn là liễu nhân, có người thổi đèn tắt, thì đâu làm cho bình phải diệt? Niết-bàn cũng giống như thế, tuy từ liễu nhân mà có, nhưng quả Niết-bàn là thường, ông không được nói từ nhân sinh ra quả là vô thường. Nếu đáp nghóa của ông đã có hai nhân, thì liễu nhân và quả sở liễu chẳng đồng với nhân năng liễu, thì ta cũng giống như thế, Niết-bàn này từ liễu nhân mà có, tuy liễu nhân là vô thường mà quả Niết-bàn là thường. Từ câu “Vì thế v.v…” trở xuống là ý thứ hai, phá câu kết luận. Nói Như Lai không hai lời, chỉ tùy căn cơ mà nói pháp, có lúc nói có, có lúc nói không, ý muốn làm cho người hiểu được chánh pháp Trung đạo, đó há là hai lời ư? Văn sau lại dùng nhãn sắc sinh ra thức để giải thích, ý đã nói. Phật nói hai lời là vì một lời, nghóa là nhãn sắc tuy hai mà đồng sinh ra thức, thức là một, nên nói một lời. Từ câu “Bà-la-môn v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về quy phục. Văn có sáu: Một là thỉnh; hai là nói; ba là kể lại; bốn là ấn chứng; năm là quy phục; sáu là cho pháp. Thứ nhất là thỉnh Phật nói. Từ câu “Bấy giờ, Thế Tôn v.v…” trở xuống là Đức Phật đáp. Nói khổ đế phàm phu có hai, bậc Thánh có một, nếu theo pháp sư Ái thì đâu hiểu được văn này. Sư sau dùng phàm phu để phân biệt nên có hai pháp cảnh trí, còn đối với bậc Thánh thì tuyệt cảnh trí, cả hai là nhất chân, nên nói bậc Thánh có một. Thứ tư là Ấn chứng; năm là quy kết, như văn kinh có ghi. Phẩm Trần-như, phần một: Thứ sáu là cho phép. Phật bảo Kiểu-trần-như “cho phép ông xuất gia”, nghóa là Kiều- trần-như là người được phó chúc sau cùng: “Ngài là bậc Thượng tọa, nên trông coi việc Tăng”, chứng quả A-la-hán, Khai Thiện cho rằng đó đều là hiện tích, còn Trang Nghiêm thì cho rằng có đắc La-hán nhờ thần lực và công đức nói pháp của Phật khiến cho người này từ phàm nhập thánh, là việc rất mầu nhiệm. Nhưng văn trước nói là đã được chánh kiến thì chưa định được là sâu hay cạn, cũng có thể là mới đạt được Sơ quả, cũng có thể chỉ là Phương tiện đạo. Cho nên nay mới được quả A- la-hán. Nói thêm rằng: Xoay tà về chánh tức là chánh kiến, đâu cần nói nhập vị cạn sâu? Từ câu “Lại có Phạm chí v.v…” trở xuống là người thứ hai. Đây là môn đồ của Ưu-lâu-tăng-khư. Văn cũng có hai là nói nghóa và quy phục. Nói nghóa có bốn phen; hai phen trước đều có hỏi đáp, theo văn rất dễ hiểu. Hỏi Niết-bàn là thường phải không? Phật cũng đáp: Đúng thế! Mà rốt ráo Niết-bàn đâu nhất định là thường. Lại hỏi: Không có phiền não có phải là Niết-bàn hay chăng? Phật cũng đáp là: Đúng thế. Chẳng lẽ Phật không từng nói không phiền não là Niết-bàn hay sao? Văn trước chẳng nói đã dứt phiền não là Niết-bàn, chỉ nói chẳng sinh phiền não là Niết-bàn, nay đối với ngoại đạo này nên lập thuyết như thế, vì đó là ngoại đạo chấp đoạn kiến. Phen thứ ba, trước nêu bốn pháp không, nhưng ý ở diệt không, lấy đó để hỏi. Nếu pháp diệt là không, thì sao nói có thường, lạc, ngã, tịnh? Chưa sinh tức là không của vị lai, diệt không tức là không của quá khứ. Phật đáp: Đồng với không của tướng khác nhau. Đây cũng là để đối trị với ngoại đạo, nếu đúng chánh lý thì chẳng phải hoàn toàn không có tướng khác nhau. Vì sao? Vì nếu bò và ngựa không có trong nhau gọi là không có lẫn nhau, mà nay nói trong sinh tử vốn có Niết-bàn, vì thế theo chánh lý thì chẳng phải hoàn toàn là Hỗ vô. Gồm bốn phen, Bà-tư-tra đều hỏi nếu là Hỗ vô thì lẽ ra là vô thường. Tuy trong bò không có ngựa mà nói có ngựa, trong ngựa không có bò cũng như thế. Bò ngựa vốn xưa không nay có, Niết-bàn cũng như thế, trong Niết-bàn không có sinh tử, mà có Niết-bàn, tức là xưa không nay có, cũng là vô thường. Phật đáp tuy đồng với Hỗ vô mà lại chẳng đồng với cái khác không (Dị vô). Trong đó có ba loại “không” một là đều không, hai là trước không sau có, ba là đã có lại không. Nên biết Niết-bàn đồng với khác không, tức không có ba việc trên, vì thế có thường lạc, kế là nêu ba bệnh ba phương thuốc làm dụ; ba là nêu dụ để nói về quả. Nói mật trị lạnh, theo thầy thuốc nói tánh mật trị lạnh, ở cõi này thì nên thay đổi, không hẳn đều phải như thế! Lại dụ nói trong ba thứ bệnh không có ba loại thuốc, trong ba loại thuốc không có ba thứ bệnh. Các Sư xưa dùng văn này để dẫn chứng cho việc tự thể khác nhau. Nếu trong tuệ có vô minh, thì trong thuốc mới có bệnh, như thế thì trái với thuyết này, nhưng Trang Nghiêm và các Sư xưa nói trong vô lậu có loại hữu lậu, ở đây nói không là không có các hoặc như chấp tướng, v.v… Chiêu-đề nói trong chân vô lậu không có quả báo, chẳng cần phải nói từ vô minh vào thể của Giải thoát. Kinh Thắng Man nói Vô minh trụ địa duyên với nghiệp vô lậu làm nhân, đây là nói về tương tự vô lậu và đạo vô lậu, chẳng nói chân vô lậu. Từ câu “Bà-tư-tra nói v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về quy phục. Kinh nói: Sắc là vô thường, Giải thoát sắc là thường, có hai cách giải thích: Một, sắc đã vô thường, ta đã Giải thoát sắc thì không có sắc, cho nên là thường. Hai là Giải thoát tức sắc, sắc tức thường, nên văn trước nói đạt được sắc Giải thoát thường trụ. Cách giải thích sau hay hơn. Trong đây nói gởi cho Kiều-trần-như sám hối. Văn kinh nói: Họ Cù-đàm, tức đệ tử Phật gọi Phật là Cù-đàm, như phẩm Hiện Bệnh có bài kệ: “Cù-đàm là bậc Đại Thánh đức, xin giảng nói pháp yếu” đó đều là lời khen ngợi, muốn nói Phật tuy đã từ bảy đời nay thuộc dòng vua họ Thích, nhưng gốc là dòng họ lớn Cù-đàm đã có từ lâu xa, chứ chẳng phải mới có đời này. Nếu ngoại đạo gọi từ Cù-đàm, thì chẳng nói về đức, chỉ gọi họ mà thôi. Đây là lời xem thường. Như ở thế gian, nếu chẳng gọi theo vị thứ của người, mà gọi họ của người khác, thì đó là lời xem thường. Nói: “Tôi chẳng thể trụ lâu với thân ác độc này, nay muốn nhập diệt”, nghóa là đã có thần thông, thì được quả Thánh, dùng trí Biên tế mà nhập Niết-bàn. Văn trước nói: “Chứng quả A-la-hán, ban cho ba y”, nếu theo ý khi đã được quả A-la-hán thì đầy đủ y bát, ở đây nói không, vì nếu là La-hán Thiện lai thì có ba y, còn tự đặt A-la-hán thì phải cung cấp y, hơn nữa người này vốn là ngoại đạo xuất gia, thì chẳng đợi phải cạo bỏ râu tóc. Vì sao? Vì nói Xà-đề thì gọi là Bà-la-môn, còn nay Bà- tư-tra là Phạm chí, Phạm chí là ngoại đạo xuất gia. Vì thế phải cung cấp cho bình bát. Từ câu “Bây giờ, trong chúng v.v…” trở xuống là nói ngoại đạo thứ ba. Ngoại đạo Tiên-ni chẳng phải chỉ có một người. Nói Tiên-ni ở đây chẳng phải là Tiên-ni nói ở quyển trước. Như trong hàng đệ tử Phật có nhiều người đồng tên Ca-diếp. Chương này có bốn đoạn: Một là duyên khởi; hai là phá chấp; ba là luận nghóa; bốn là quy phục. Phật nói bất định, có lúc trước tự nói chánh nghóa giúp ngoại đạo giải ngộ, có lúc trước phải im lặng, đợi bên kia lập nghóa xong rồi mới phá, để trình bày chánh lý. Nay trước phải im lặng, nên ba lần hỏi Phật đều chẳng đáp. Nhưng chẳng đáp, là có ba nghóa: Một là căn duyên thích hợp, tuy không đáp mà im lặng chính là đáp; hai là nhất định hỏi về có không, đều là tà kiến; như trong Đại luận có mười bốn câu gạn hỏi, Phật đều chẳng đáp, đó là hỏi về hữu biên và vô biên, thường vô thường, như khứ chẳng như khứ v.v… ba là Đức Phật muốn ngoại đạo tự lập nghóa, nêu ra giềng mối rồi mới phá. Như Lai ở trên đã trả lời, thường bị gạn hỏi, rốt cuộc không thể phá được, cho nên mới im lặng. Từ câu “Tiên-ni nói rằng, v.v…” trở xuống là phá chấp. Có hai: Trước lập tông, sau chánh phá. Dưới đây là lập tông: Gồm có ba nghóa: một, là lập ngã cùng khắp; hai, là nói ngã là một; ba, là lập ngã là tác giả. Ngã là chúng sinh só phu, thọ mạng; Ngã đã bị phá thì người, và chúng sinh só phu tự trừ. Tác giả và trí giả đã bị phá; khởi giả tức đồng loại với tác giả cũng đều bị phá. Nay hỏi ngoại đạo chấp tức ấm hay lìa ấm. Cho rằng chấp ngã là tác giả, tác là hành ấm, chấp hành là ngã. Nếu chấp là tri giả, kiến giả thì đều là chấp tức ấm là ngã. Chấp ngã là tác giả, tùy nghiệp tạo tác khác nhau mà đồng là tác giả. Từ câu “Phật bảo Tiên-ni, v.v…” trở xuống là chánh phá. Có hai: Một là phá ba chấp; hai là phá riêng ba chấp khác là kiến giả, tri giả và thọ giả. Văn thứ nhất có ba: Một, phá chấp cùng khắp; hai, phá chấp một; ba, phá tác giả. Thứ nhất có bốn phen, trước là ấn định nghóa của Tiên-ni. Từ câu “Phật bảo v.v…” trở xuống là ý thứ hai chánh phá. Nói rằng nếu ngã cùng khắp, lẽ ra phải cùng ở trong năm đường, đâu cần tu thiện, muốn sinh lên cõi trời phải lìa đường ác, tà ác và sinh thiện lẽ ra ngã thường có mặt, mà chẳng cần tu thiện. Tiên-ni nói ngã có hai loại là ngã tác thân và ngã thường thân, tức ngoại đạo này vốn chấp ngã của thường thân, vì bị phá nên chuyển thành hai ngã. Từ câu “Phật bảo như ông nói ta, v.v…” trở xuống là ý thứ ba lại phá. Nếu nói Ngã thuờng thân ở trong tác thân, tác thân vô thường thì Ngã thường thân lẽ ra cũng vô thường. Nếu Ngã thường thân chẳng ở trong tác thân thì chẳng có nghóa cùng khắp. Tiên-ni do đây mà nêu dụ về nhà. Chủ nhà dụ cho thân thường, nhà dụ cho tác thân. Nhà đã bị cháy, thì chủ nhà liền ra khỏi nhà. Như khi tác thân vô thường thì Ngã liền ra khỏi thân. Nói Ngã thường thân đã cùng khắp thì thường tức vô thường, tại thường đã là thường, thì ở tại vô thường há chẳng phải là vô thường ư? Như thế cùng khắp ở sắc và phi sắc, tại phi sắc đã là phi sắc, thì tại sắc há chẳng phải là sắc ư? Nhà và chủ khác nhau, có cháy và chẳng cháy, chẳng thể nói giống nhau. Nhà và chủ như thế, vì sao lại nói Tác thân vô thường thì Ngã xuất ra? Nay xin hỏi là xuất đi đâu? Thường thân đã thường, thường thể thì hằng cùng khắp, nếu ra khỏi thân thì sẽ chẳng có chỗ đi. Từ câu “Nếu ý ông v.v…” trở xuống là thứ hai, phá nghóa chấp một. Có tám lần. Ngã đã là một thì ngã của cha và ngã của con đâu có gì khác. Tiên ni lại bác bỏ rằng: Chỉ nói một người một ngã, chẳng nói tất cả đồng một ngã, nên có hai ngã là cha và con. Đã bị phá nên phải chuyển tông nghóa. Từ câu “Đức Phật nói nếu nói một người, v.v…” trở xuống là ý thứ hai, Phật lại tùy nghóa mà phá. Nếu mỗi người có một Ngã, thì có nhiều Ngã, vậy chẳng được gọi là Thường, Tiên-ni nói nghiệp báo của chúng sinh là đồng, ông nói mỗi người có một Ngã, Ngã đã cùng khắp, không nơi nào chẳng có, như Ngã của người họ Trương cũng đến với Ngã của người họ Vương, Ngã của người họ Vương cũng sẽ đến với Ngã của người họ Trương. Như thế thì ngã, ngã thông nhau, sẽ không có ngu trí, sang hèn, cũng như Ngã mà trời được đã ở tại Phật được mắt thấy; Ngã mà Phật được cũng ở tại trời được. Ngã Phật được đã do mắt mà thấy, thì Ngã của trời được, lẽ ra cũng nhờ Phật được mà mắt thấy, trời được, Phật được đều là tên người. Tiên-ni chống chế rằng: Ngã cùng khắp tất cả pháp, mà các pháp chẳng có trong nhau, nên Phật được và trời được, hai sự tạo tác khác nhau. Từ câu “Phật nói pháp và chẳng phải pháp v.v…” trở xuống là thứ ba Phật lại phá. Hỏi pháp và phi pháp chẳng do nghiệp tạo tác ư? Tức là xác định tông nghóa của Tiên-ni. Hoặc giải thích Tiên-ni chấp Ngã là tác giả. Chữ nghiệp lẽ ra phải gọi là chữ Ngã. Vì nghóa cũng như thế nên chẳng cần thay đổi chữ, tùy theo chữ Nghiệp ở văn sau; đã chấp Ngã là tác giả, thì nói nghiệp tác tức là Ngã tác. Sau đó là Tiên-ni đáp, rất dễ hiểu. Từ câu “Phật nói: pháp và phi pháp, v.v…” trở xuống là lần thứ tư lại phá. Đã đồng do Ngã tạo tác, nên khi trời được mà tạo tác tức là Phật được mà tạo tác. Cả hai đã đồng nhau thì lẽ ra quả báo chẳng khác. Văn sau nêu nghiệp bình đẳng, lẽ ra quả cũng phải đồng. Tiên-ni nêu đèn và ánh sáng để chống chế. Từ câu “Phật nói ông nói đèn sáng v.v…” trở xuống là phá dụ. Ánh sáng ở bên đèn lại chiếu khắp phòng, dụ cho nơi có bờ mé, Ngã lẽ ra cũng có nơi chốn của nhãn thức, Ngã đã cùng khắp trong pháp và phi pháp, thì lẽ ra pháp và phi pháp cùng khắp trong Ngã, vậy cả hai cùng khắp trong nhau. Tiên-ni lại chống chế. Từ câu “Dụ cho ta dẫn là phi dụ, v.v…” trở xuống là phá dụ của Tiên-ni. Dụ như thế là dụ chẳng đúng, cho nên biết đèn sáng chẳng được dụ cho Ngã. Nếu dụ cho Ngã, thì đối với Tiên-ni sẽ chẳng tốt, đối với Phật thì tốt. Tiên ni nói: “Lúc trước Phật trách tôi v.v…” là biện hộ cho dụ đèn sáng, nói Phật cũng không bình đẳng. Từ câu “Phật nói nếu ta không bình đẳng, v.v…” trở xuống là đoạn bảy. Nói tâm chẳng bình đẳng của ta phá tâm chẳng bình đẳng của Ông, khiến Ông được bình đẳng, tức ta bình đẳng, vì đồng là bậc Thánh được bình đẳng; nghóa là đầu tiên là đại bình đẳng. Sau, Tiên-ni chống chế rằng: Tất cả chúng sinh đều bình đẳng có Ngã, vì sao nói tôi không bình đẳng? Từ câu “Ông cũng nói v.v…” trở xuống là ý thứ tám, Phật lại phá nghóa bình đẳng. Nói sẽ chịu thân tạo nghiệp, thì biết là không bình đẳng. Từ câu “Ý ông cho rằng ta, v.v…” trở xuống là đoạn ba, phá tác giả. Có sáu phen: Thứ nhất: Y cứ theo việc chịu khổ để phá. Nếu Ngã là tác giả thì đâu tự làm khổ, nếu chẳng phải do Ngã làm ra, thì tất cả pháp cũng chẳng phải do Ngã tạo ra. Từ câu “Khổ vui v.v…” trở xuống là nói mừng lo. Từ câu “Ông nói Ngã là thường v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói có mười thời. Nếu ngã là tác giả v.v… là đoạn bốn, nói về thiïnh suy. Đâu được nói người này viết chữ thì lanh lợi, đánh cờ thì chậm chạp, người kia viết chữ thì chậm chạp, đánh cờ thì lanh lợi? Các việc khác cũng như thế. Đoạn thứ sáu, từ câu “Nếu ý ông cho rằng v.v…” trở xuống là phần thứ ba, phá bỏ ba nghóa khác, nên phải phá riêng. Gồm có ba: một, là phá người thấy (Kiến giả); hai, phá người thọ (Thọ giả); ba, phá người biết (Tri giả). Thứ nhất gồm ba câu, thứ nhất là chánh phá. Nếu cho rằng lìa mắt có thấy, thì đó là nói Ngã có thấy. Vệ Thế Sư chấp thần khiến trí biết mà thần khác trí, nghóa này đồng với Tăng- khư chấp thần là năng tri, nên nói lìa mắt mà thấy được, thì đâu cần mắt, nếu lìa Ngã mà thấy, dùng mắt làm năng kiến, thì cũng như hoa đốt cháy làng xóm; chỉ vì hoa bọc lửa ném lên nóc nhà, nên nói là hoa đốt. Thần nhờ mắt mà thấy cũng giống như thế, rốt cuộc mắt thấy chứ thần chẳng thấy. Từ câu “Tiên-ni nói v.v…” trở xuống là Tiên-ni chống chế. Nói như người cầm liềm thì có thể cắt cỏ, thí như Ngã nhờ mắt mà thấy được sắc. Theo nghóa chánh thì đây là giả Ngã, giúp cho mắt thấy được, ắt chẳng phải thật Ngã, phải nhờ mắt thấy. Từ câu “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là ý thứ ba, lại phá. Cái liềm và người khác nhau mà có công năng cắt cỏ; nếu lìa các căn thì không có Ngã riêng, vì thế chẳng thể làm ví dụ. Từ câu “Nếu ông cho rằng v.v…” trở xuống là ý thứ hai, phá chấp thọ giả là Ngã. Nói thân làm tức là Ngã làm ra, v.v… trở xuống là tự hiển. Từ câu “Tiên-ni nói Ngã có hai thức, v.v…” trở xuống là ý thứ ba, phá bỏ tri giả là Ngã. Văn có hai, trước nói về chấp. Từ câu “Đức Phật nói: Này thiện nam, v.v…” trở xuống là phá chấp. Ngã nhờ trí mới biết được thì đồng với dụ hoa ở trước, tức hoa bọc lửa, lửa đốt cháy nhà. Thần tuy có biết, nhưng lại dùng trí làm biết, vậy rốt ráo là trí tự biết chứ Thần chẳng biết. Truớc đã phá rồi nên nay chỉ nói đồng với dụ về hoa. Chánh nghóa của Phật pháp cũng có nghóa giả ngã, ngự nơi trí mà biết, nhưng chẳng đồng với thật ngã, nhờ trí mà biết. Từ câu “Tiên-ni nói nếu vô ngã, v.v…” trở xuống là ý thứ ba nói về nghóa. Ở trên mỗi câu Phật đều phá nghóa của Tiên-ni. Tà nghóa đã dứt, nay lại nói về nghóa này với Phật để nhất định là có Ngã hay vô Ngã: Một là vặn hỏi Phật về nghóa không có Ngã; hai là lập lại nghóa Ngã để vặn hỏi Phật về nghóa vô Ngã. Nghóa Phật chẳng lập, nghóa vô Ngã tự bày. Có năm phen. Thứ nhất, Tiên-ni hỏi câu đầu tiên. Phật đáp: Nếu vì nhớ nên biết có Ngã, thì nay đã quên nên biết lẽ ra vô Ngã. Ông lấy có niệm để chứng minh là có Ngã, thì lẽ ra cũng nên dùng quên mất để chứng lấy vô Ngã. Nếu tạm thời nhớ là nói lên có Ngã, thì tạm thời quên cũng nói lên vô Ngã. Ngã đã tự tại, vì sao lại niệm ác mà chẳng niệm thiện. Lại nói niệm điều chẳng đáng niệm, tức ngay lúc trong định lẽ ra nên từ suy nghó nhớ cảnh định, vì sao lại duyên các việc khác? Nói chẳng niệm điều đáng niệm, nghóa là lúc sinh ác lại giữ pháp thiện, đã có Ngã, vì sao chẳng được định? Từ câu “Tiên ni ai thấy ai nghe, v.v…” trở xuống là câu thứ hai. Như văn kinh. Ý Phật đáp: Căn trần hòa hợp nên có thấy nghe, thật chẳng do Ngã mà sinh thấy nghe. Tự nêu hai dụ. Từ câu “Tiên-ni lại hỏi v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ ba. Ý là dùng danh để vặn hỏi. Vì sao nói ta thấy, ta nghe; người thế gian đều nói ta thấy, ta nghe, ta khổ, vui, lo, mừng. Phật đáp có hai ý: Một là bác bỏ lại Tiên-ni nói Ngã thấy nghe thì biết có Ngã, nên nói người tạo tội, ta chẳng thấy nghe, lẽ ra là vô Ngã; hai là nói: như bốn binh v.v… trở xuống, là lại nêu giả danh để hợp với Ngã thấy nghe. Từ câu “Tiên-ni nói như lời Ngài nói v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ tư. Như văn kinh. Phật liền đáp do vô minh, tức do mười hai nhân duyên hòa hợp thành thân, vì có thân nên có giác quán làm phát ra gió, gió khởi động mà lưỡi phát ra âm thanh nói là Ngã. Như Đại Luận nói: Gió gọi là A- ưu-đà, xúc chạm từ rốn đẩy lên tới răng, lửa làm phát động phát ra âm thanh, gió thổi làm sắt nóng cũng giống như thế. Từ câu: “Tiên-ni nói như Cù-đàm cho rằng, v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ năm. Nói nếu tùy lý thì hoàn toàn không có Ngã, vì sao Như Lai nói có thường lạc? Do có Ngã nên có thường lạc v.v… Nếu vô ngã thì đâu có các pháp này? Ý Phật đáp: Nếu được thường ngã thì phải diệt thân rồi mới được, đâu chỉ ở thân này mà được thường ngã. Từ câu “Tiên-ni thưa rằng v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, quy phục. Có bốn phen: Một là thỉnh Phật nói. Đức Phật nói rộng về nhân, về nghóa của mạn, là muốn quở trách, bác bỏ tâm mạn của Tiên-ni. Từ câu: “Tiên-ni nói đúng thế đúng thế, v.v…” trở xuống là đoạn hai, lãnh yếu chỉ của Phật. Do đó Như Lai lặp lại. Văn có hai là khuyên nghe và nói. Nói chẳng tự, chẳng tha, chẳng có chúng sinh là nói pháp và chúng sinh đồng một bình đẳng. Từ câu: “Tiên ni nói tôi đã hiểu, v.v…” trở xuống là thứ ba, tự được hiểu. Như Lai lại vặn hỏi, để Tiên-ni nêu ra tướng ấy. Từ câu: “Sắc mà Đức Thế Tôn! nói, v.v…” trở xuống lá ý thứ tư, nêu ra sự hiểu biết của mình. Văn có hai: trước là tự kể lại. Kế là Phật bảo thiện thay, được Tuệ nhãn thanh tịnh. Pháp nhãn tức Sơ quả, Pháp nhãn thanh tịnh là quả thứ tư, lúc cùng nói Phật luận đáp đã được Sơ quả, sau khi Phật nói thiện thay thì đắc quả thứ tư. Từ câu: “Trong chúng ngoại đạo v.v…” trở xuống là phá ngoại đạo thứ tư. Văn có ba: một là duyên khởi; hai là nói nghóa; ba là quy phục. Ba lần hỏi đều im lặng để làm duyên khởi, nên chẳng đáp. Như Lai muốn Ca-diếp nêu nghóa của mình. Từ câu: “Phạm chí lại nói v.v…” trở xuống là phần nói về nghóa, có năm phen: Một là lập nghóa. Nói thân mạng khác: như người bỏ thân trước, chưa được thân sau, khi làm thân trung ấm, thì thân và mạng này khác với thân mạng trước, chẳng phải do nhân mà được. Kế là, Từ câu: “Này thiện nam! Ta nói thân mạng, v.v… ” trở xuống là Như Lai phá chấp. Nói muôn pháp đều từ duyên sinh, không phải chỉ có thân mạng. Khi ấm chết thì mạng này nhờ vào duyên mà tiếp tục đến trung ấm. Từ câu: “Phạm chí lại nói v.v…” trở xuống là phen thứ hai, Phạm Chí lập nghóa. Đức Phật nói: Thế nào ông thấy thế gian có pháp chẳng từ nhân duyên? Phạm chí đáp rằng v.v… trở xuống là Ca-diếp lập dụ. Nói lửa lan là chẳng từ duyên, Như Lai lại phá, nói cũng từ duyên. Từ câu: “Phạm chí nói v.v…” trở xuống là ý thứ tư, nói lại chẳng do củi than. Phật liền phá, nói là do gió. Từ câu: “Thưa Cù-đàm v.v…” trở xuống là phen thứ năm, Ca-diếp vặn hỏi. Nói thân trung gian ai làm nhân duyên? Đức Phật liền đáp là do phiền não làm duyên. Nói có nhân duyên nên thân tức là mạng v. v… đây là y cứ vào quả báo của một thời kỳ, do một nghiệp mà có nhân duyên, nên thân khác mạng, đây là y cứ theo nghóa sắc tâm giữ gìn thành mạng, năm ấm gọi là thân, ý nghóa khác nhau. Từ câu: “Phạm chí bạch rằng v.v…” trở xuống là đoạn ba, quy phục. Có ba phen: Một là thỉnh cầu. Phật đáp: Văn có hai câu: Một là đáp. Kế là nêu lại chấp để bác bỏ, cũng gọi là ấn định lời kể lại. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là phen thứ hai, lãnh giải. Kế là Phật lại vặn hỏi. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là đoạn ba, trình bày sự hiểu biết của mình. Nói trải qua năm ngày thì chứng quả A-la-hán là nói về việc chứng quả xa gần, căn cơ ngộ đạo sớm muộn của Phạm chí. Từ câu: “Lại có một ngoại đạo v.v…” trở xuống là ngoại đạo thứ năm. Ngoai đạo này chấp biên kiến, nhưng e rằng còn có sự ngăn trệ nên chẳng dám trình bày, mà lại thưa hỏi. Văn có hai phần là nói nghóa và quy phục. Nói nghóa gồm bốn phen, đây là phen thứ nhất, nêu câu hỏi về sáu mươi hai kiến. Về sáu mươi hai kiến; có hai cách giải thích: Thân kiến, biên kiến có sáu mươi hai kiến, đó là: Thân kiến gồm năm mươi sáu kiến và biên kiến có sáu kiến. Năm ấm, mỗi ấm đều có bốn chấp: tức sắc, lìa sắc, vừa tức vừa lìa, chẳng tức chẳng lìa. Bốn ấm kia cũng như thế, tổng cộng là hai mươi. Cõi Dục và cõi Sắc là bốn mươi chấp, cõi Vô sắc không có sắc, chỉ có bốn ấm nên gồm mười sáu chấp. Ba cõi thân kiến tổng cộng là năm mươi sáu chấp. Biên kiến có sáu, tức trong ba cõi, mỗi cõi đều chấp đoạn thường. Tổng cộng Thân và Biên kiến có sáu mươi hai kiến. Vì thế Đại Phẩm ghi: “Thí như Ngã kiến có sáu mươi hai kiến”. Chỉ Biên kiến đã đủ sáu mươi hai chấp: Chấp ở đời hiện tại tức sắc là Ngã, sắc diệt thì Ngã đoạn; lìa sắc là Ngã thì sắc diệt ngã thường, vừa tức vừa lìa, thì vừa đoạn vừa thường, chẳng tức chẳng lìa thì chẳng đoạn chẳng thường. Bốn ấm kia cũng như thế, tổng cộng thành hai mươi; quá khứ hiện tại cũng như vậy, thì thành sáu mươi. Tuy có sáu mươi nhưng chẳng lìa đoạn thường, nên lấy đoạn thường làm đầu, thành sáu mươi hai. Nay văn kinh nói thường, vô thường, là y cứ theo quá khứ. Nói hữu biên là y cứ theo vị lai. Nói biên ở đây chẳng phải nói về rộng hẹp hay giới hạn theo ngang dọc. Nói như khứ chẳng như khứ là y cứ theo việc sau khi Như Lai diệt độ nhập Niết-bàn, đó là như khứ, nếu thân chẳng diệt thì chẳng như khứ. Vừa như khứ vừa chẳng như khứ v.v… cộng với các kiến chấp trước thành sáu mươi. Lại nói thân là mạng tức Thường, Kiến, thân khác mạng là đoạn kiến. Tổng cộng thành sáu mươi hai. Văn kinh nói: “Sau khi Như Lai diệt độ”, có người chẳng thấy ý này, đã chẳng chịu y cứ theo đó lập hai mươi chấp, mà tự giải thích rằng: Ngã như sắc mà đến, tức như sắc mà đi, chẳng như sắc mà đi, nên nói như khứ bất như khứ. Nên Phật liền đáp: Ta chẳng nói như thế. Từ câu: “Phạm chí nói nay thấy tội gì, v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ hai. Kiến này có lỗi gì mà chẳng nói? Phật đáp đây là lỗi kiến thủ nên chẳng nói. Từ câu: “Thưa Cù-đàm! v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ ba. Như Lai thấy gì, chấp trước gì? Nói gì? Phật đáp, đầu tiên là phá lời nói về kiến trước, sau là nói năng kiến, năng thuyết. Từ câu: “Thưa Cù-đàm v.v…” trở xuống là câu thứ tư, hỏi lại kiến và thuyết. Đức Phật đáp rộng, có hai: Trước chánh đáp. Sau là hỏi lại để nêu ra tướng chấp. Từ câu: “Phú-na nói xin nói một ví dụ, v.v…” trở xuống là phần hai, quy phục. Nói như một thôn xóm lớn là dụ cho quả Phật Niết-bàn; rừng Ta- la có người dụ cho Kim cương tâm, nay nói dụ cho tâm chúng sinh: có một cây là dụ cho Phật tánh; đủ một trăm năm là con số tròn đầy dụ cho Phật tánh Trung đạo tròn đầy, xinh đẹp. Kinh nói: “Một cây trước từ rừng mà sinh”, một cây đã dụ cho Phật tánh, nên có thể nói Phật tánh ở trước chúng sinh; không có chúng sinh thì thôi, nếu có chúng sinh thì có Phật tánh. Nay vì sao nói sinh trước khi có khu rừng? Nếu nói Phật tánh và chúng sinh có trước có sau, có chung, có lìa thì đều chẳng đúng, nên phải phá bỏ; tánh chấp đã phá rồi thì mới được giả nói là có trước có sau, trước sau này sẽ không trái nhau. Đã chẳng trái nhau, thì sẽ y theo nghóa nói Phật tánh có trước, vì sao? Vì Phật tánh vốn có; vì vốn có, nên theo nghóa nói là có trước, như thế, mới chẳng mất yếu lý. Người chủ rừng chăm bón là dụ cho người tu trì. Cây ấy già cỗi, hư mục, vỏ, cành, hoa, lá rơi rụng là dụ cho phiền não nghiệp ác đã trừ hết. Chỉ còn lõi cây dụ cho muôn đức. <篇> <卷>QUYỂN 33 <詞>PHẨM 25: KIỀU-TRẦN-NHƯ (PHẦN 2) Đầu phần này nói về ngoại đạo thứ sáu. Văn có hai đoạn là luận nghóa và quy phục. Luận nghóa có hai phen: Phen thứ nhất, hỏi chúng sinh chẳng biết do pháp gì mà khởi sáu mươi hai kiến? Phật đáp: “Chẳng biết sắc v.v…” phàm phu nói sắc, nghóa là lấy nghiệp trước làm nhân cha mẹ, y phục, ăn uống ở đời này làm duyên, luống dối giả hợp, mà cho là Thường trụ. Vì thế mới khởi các kiến chấp thường, vô thường cho đến chẳng biết thức cũng khởi các kiến chấp. Phen thứ hai, lại hỏi biết sắc gì, thức gì mà chẳng khởi kiến. Đức Phật nói sắc chỉ là nhân duyên hòa hợp, không có chủ, vô ngã là không có các kiến, cho đến biết thức cũng như thế. Từ câu: “Phạm chí nói rằng v.v…” trở xuống là đoạn hai, Phạm chí quy phục. Nói bỏ cũ, cũ là Vô minh và Ái, mới là Thủ và Hữu; có hai cách giải thích: Cho Vô minh và Ái thuộc quá khứ nên nói là cũ, Thủ và Hữu thuộc hiện tại nên nói là mới. Ái là hiện tại đâu được cho là cũ. Lại gượng giải thích là do hành mà có ái. Cách giải thích này chẳng đúng. Nếu y cứ theo phiền não thì Vô minh và Ái là mới, nếu y cứ theo nghiệp thì Thủ, Hữu là cũ. Lý này cũng chẳng đúng. Hữu là phiền não, đâu thể vội cho là mới, Vô minh ái là mới thì đâu thể vội cho là thuộc về nghiệp? Thật chẳng thể được. Vả lại, cách giải thích khác cho rằng: Chẳng cần nói về quá khứ, hiện tại và nghiệp phiền não, chỉ nên nói về Vô minh và Ái. Khởi tức là ngọn ngành, vì thế gọi là mới, không bị phạm các lỗi của hai cách giải thích trước. Văn kinh ở trên nói: Vô minh là cha, tham ái là mẹ, nếu tôn kính hai pháp này thì sau khi chết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián. Kinh lại nói: “Gốc của sinh tử gồm có hai là Vô minh và Ái”. Đó há chẳng phải là cũ ư? Nay y cứ theo ba đời để giải thích: Hiện tại nhìn về quá khứ thì Vô minh là cũ, vị lai đối với hiện tại thì ái là cũ, đồng với cách giải thích của các sư Trung Quán, lại chẳng mất nghóa ba đời. Văn kinh ghi: “Nay con đã được Chánh pháp tịnh nhãn, hoặc nói Pháp nhãn thanh tịnh, ở đây lẽ ra không khác nhau”. Nói mười lăm ngày sau đắc quả A-la-hán tức là nói ngộ có sớm muộn. Từ câu: “Phạm chí Độc tử v.v…” trở xuống là ngoại đạo thứ bảy. Văn có ba: Một là Duyên khởi; hai là nói nghóa; ba là quy phục. Cũng lấy việc im lặng làm duyên khởi; không giống như trước; vì biểu hiện sự hòa nhã, nên Như Lai thư thả đợi đến lần thứ ba mới đáp. Từ câu: “Độc Tử lại thưa v.v…” là nói nghóa. Người này vốn không có chấp, chỉ hỏi chánh nghóa. Do Phật im lặng, nên trước hỏi về lý do vì sao im lặng, kế là Phật im lặng tư duy, đó là đầu mối thưa hỏi. Từ câu: “Độc Tử hỏi rằng v.v…” là phần chánh luận nghóa. Đã không có chấp, chỉ hỏi về chánh nghóa. Văn có hai: Trước hỏi về chánh pháp, sau hỏi về người. Hỏi về pháp có hai là hỏi và đáp. Trong phần đáp có hai: Truớc là chấp nhận. Kế là chánh đáp nói về ba loại, mười loại. Trong đó, trước gồm giải thích, sau gồm kết luận. Nói Giải thoát Dục, tức là gốc lành vô tham. Kế là hỏi về người làm lành dứt ác. Vì muốn tu tập, nên trước hỏi về người nếu có người đạt được vị cao thì ta cũng theo đó tu học. Trong đây chỉ hỏi hai chúng xuất gia, nhưng gồm cả bốn chúng. Dứt tất cả hữu là nói về A-la-hán, tức hai chúng xuất gia. Được quả A-na-hàm là hỏi hai chúng tại gia. Vượt bờ nghi, tức đạt được chút phần. Trong đây lại nói về Ưu-bà-tắc, là người lìa dục, có vợ con. Văn kinh nói: Thọ năm dục lạc, mà tâm không có lưới nghi, Đức Phật đều đáp: Chẳng phải một, hai, ba cho đến năm trăm là thế nào? Như Đại Phẩm nói có số lớn đến năm ngàn phần. Nhưng kinh này phần nhiều nói năm trăm đệ tử, đây là nói theo số phương. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là đoạn ba, quy phục. Văn có năm câu: Một là thỉnh Phật. Hai là Phật cho phép. Ba là thuật dụ. Bốn là, xin xuất gia. Phật bảo thử thách bốn tháng, tức kinh Ưu-bà-tắc nói nhất định phải bốn tháng. Bốn tháng là chỉ cho một thời gian, còn căn tánh khác nhau lại chẳng phải là một hạng. Nghe nói chẳng phải một hạng thì liền xin xuất gia. Năm là cho phép xuất gia. Sau khi xuất gia tu hành được lợi ích, nói hai pháp, hoặc chỉ là quán, hoặc là định tuệ. Nói Xa-ma hay Xá-ma là do âm đọc nặng nhẹ mà thôi. Báo ân Phật, nghóa là y pháp tu hành. Từ câu: “Phạm chí nạp y v.v…” trở xuống là ngoại đạo thứ tám; đây cũng là ngoại đạo xuất gia thường đắp nạp y, nên được gọi như thế; trong đó cũng có hàng Ma-nhu, Bôi-độ. Văn có hai đoạn là nói nghóa và quy phục. Luận nghóa có hai phần là nêu chấp và phá chấp. Khai Thiện chia làm tám phen: “Một, y cứ theo phiền não; hai là y cứ theo năm đại; ba là y cứ theo vòng xuyến; bốn là y cứ theo tự tánh; năm, là y cứ năm trần; sáu là y cứ năm căn; bảy là y cứ theo đứa bé; tám là y cứ theo có không. Chiêu-Đề chia văn này ra làm hai đoạn là hỏi về chánh nghóa và lập tà nghóa. Trong đoạn thứ nhất lại có hai ý: một, là bác bỏ nghiệp hạnh; hai là hỏi về phiền não. Các sư Trung Quán chia văn này làm bốn đoạn: gồm một phen hỏi về nghóa nhân duyên; hai là gồm ba phen lập nghóa tự tánh; ba gồm một phen hỏi lại về chánh nghóa; bốn là gồm ba phen lặp lại nghóa tự tánh. Nhưng văn là do người, phải có đúng có sai. Hãy y cứ theo các sư Trung Quán. Các Sư phần nhiều cho rằng Nạp y hỏi về khởi đầu của chúng sinh qua lại trong ba cõi, còn Hoằng Quảng là hỏi về cuối cùng tức nói về Niết-bàn của Như Lai. Hỏi về khởi đầu là hỏi về “lưu lai”, hỏi cuối cùng là hỏi về “phản xuất”. Còn các sư Trung Quán y cứ theo ba văn mà suy nghiệm: Một là ngài Kiều-trần-như đáp lời Hoằng Quảng rằng: Nếu có người đến hỏi Thuờng, Vô thường, có thỉ có chung, thì Phật thường im lặng, nếu Nạp y hỏi thì sao Phật lại đáp? Hai, là đầu tiên vặn hỏi vì sao chúng sinh trong vô lượng đời gây ra các nghiệp thiện bất thiện, vị lai lại được quả báo thiện, bất thiện? Câu hỏi này là hỏi về hành nghiệp và quả báo, đâu liên quan gì đến việc hỏi khởi đầu. Ba, là có thể trong đó hỏi đầu tiên là “lưu lai”, Phật đáp là “bất khứ”, vì sao? Vì giới ngoại mới khởi một niệm Lưu lai, thì lưu lai này từ đâu mà đến? Theo ý trước mà suy ra thì chẳng bao giờ được nêu. Biết đáp “bất khứ”, là do chẳng hỏi câu như thế, cho nên Như Lai giải thích. Nạp y là hỏi về nghóa nhân duyên ái nhuận sinh, gây ra nhân duyên ác thì chết đọa địa ngục, bấy giờ trái lại làm ác thì lại đọa vào trong đó. Tạo nhân duyên lành thì khi chết sinh lên cõi trời, nếu sinh ái thì lại sinh vào trong đó. Các sư Số Luận và Thành Thật giải thích khác nhau. Số Luận cho rằng: Trước sinh ấm khởi ái nhuận sinh, có thân và có hoặc cùng trong một thời gian này. Vừa khởi tâm ái, liền có thân này, đây là thân trước, phiền não theo sau. Các sư Thành Thật cho rằng: Sau tử ấm mới khởi ái nhuận sinh, tức phiền não có trước, thân có sau. Văn thứ nhất, là hỏi về nhân duyên trước lãnh yếu chỉ và bác bỏ ngược lại. Kế là gạn hỏi về phiền não, văn có bốn câu: Một là lãnh chỉ, hai là gạn hỏi, ba là hỏi riêng, bốn là tổng kết. Lặp lại lời của Phật nói về phiền não và thân, nên gọi là lãnh chỉ. Từ câu: “Nếu do phiền não v.v…” trở xuống là hỏi về hai việc. Có ba ý: một, là Ấn định; hai, là gạn hỏi; ba, là kết luận. Thứ nhất rất dễ thấy. Thứ hai, là vặn hỏi. Nói nếu phiền não có trước, thế thì thân này phải từ phiền não mà có. Thân đã từ phiền não sinh, thì phiền não chẳng do thân mà có. Cả hai đều chẳng thể được. Từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là hỏi riêng. Đã nói là nhân quả, thì chẳng phải cùng một lúc. Từ câu: “Truớc, sau v.v…” trở xuống là đoạn bốn, tổng kết ba nghóa. Cả ba đều chẳng đúng, nên biết các pháp đều chẳng từ nhân duyên. Từ câu: “Lại nữa v.v…” trở xuống là đoạn hai, lập nghóa tà tự tánh. Văn có ba phen. Ngoại đạo nói tánh đất là cứng cho đến tánh hư không vô ngại vốn như thế, chẳng phải do nhân duyên mà thành. Năm đại đã như thế, thì tất cả cũng như thế. Đó là nghóa tự tánh. Từ câu: “Lại nữa v.v…” trở xuống là chứng minh cho nghóa đã nêu ở trước. Nói vật trang sức trên trán gọi là man, là vật trang sức ở Ấn- độ thời xưa. Nếu thợ mộc sử dụng gỗ để hỏi: Loại cây thẳng thì làm giường, loại cong thì làm ghế. Lại nêu năm đường để hỏi, tức nói tự tánh đọa địa ngục v.v… Nếu rùa sinh ra từ mặt đất mà sống được trong nước, con nghêu con trai vỏ nó ai khắc họa. Phen thứ ba là nêu tham dục, hỏi về nhân duyên. Trước là bác bỏ yếu chỉ của Phật. Sau là lập lời hỏi, hỏi có bốn ý: Một là hỏi về tham v.v… chẳng đối với trần, như người ngủ chẳng đối với trần mà cũng sinh tham dục. Hai là hỏi đứa bé mới sinh không phân biệt được năm trần mà vẫn sinh tham. Ba là hỏi bậc Hiền thánh ở nơi núi rừng xa lìa năm trần, mà cũng sinh tham. Bốn là hỏi rằng cũng có người đối với năm trần khởi tham, có người chẳng tham, tất cả đều là tự tánh. Thứ tư gồm ba phen, lặp lại nghóa tà. Nói người chẳng đủ năm căn mà giàu có, người có đủ năm căn mà nghèo thiếu. Nếu người không đủ năm căn, thì đời quá khứ làm tạo ác, vậy vì sao nay lại giàu có. Người có đủ năm căn, thì quá khứ đã làm lành, sao nay lại nghèo cùng. Tất cả đều là tự tánh, chẳng quan hệ đến nhân duyên. Phen thứ hai, rất dễ hiểu. Phen thứ ba, nêu có không để hỏi. Ngoại đạo nay cho hư không là có, cho sừng thỏ là không; ai khiến hư không là có? Ai khiến cho sừng thỏ là không? Hai việc tự nhiên như thế, thì tất cả pháp cũng thế, đều thuộc về tự tánh. Từ câu: “Phật nói rằng v.v…” trở xuống là Đức Phật đáp. Từ đáp mà so với câu hỏi thì có ba điểm khác nhau: Một là có không; hai là trùng đáp; ba là chẳêng theo thứ lớp. Về có không: Trước bốn câu hỏi có tám phen, bây giờ chỉ có bảy phen. Vì sao? Vì Phật đáp có bảy phen thì ngoại đạo đã lãnh ngộ, vì thế chẳng đáp đến phen thứ tám. Trùng đáp: Đáp lại lại câu thứ hai, vì sao? Vì tánh là tông chỉ của ngoại đạo, nên phải phá bỏ lần nữa. Không theo thứ lớp: Câu thứ nhất là đáp câu hỏi thứ hai, câu thứ hai là đáp câu thứ ba, câu thứ ba là đáp câu thứ tư, câu thứ tư đáp câu thứ nhất, câu thứ năm đáp lại câu thứ hai, câu thứ sáu đáp câu thứ năm, câu thứ bảy đáp câu thứ sáu, câu thứ tám đáp câu thứ bảy. Đầu tiên là đáp câu hai phá bỏ nghóa tự tánh. Ngoại đạo này dùng năm đại chẳng từ nhân duyên sinh để dụ cho tất cả pháp cũng giống như thế. Phật liền nói rằng: Ông lập nghóa năm đại chẳng từ nhân duyên sinh, cho nên gọi là Thường, dụ cho tất cả pháp cũng giống như thế, chẳng từ nhân duyên sinh, lẽ ra cũng là Thường. Từ câu: “Ông nói chỗ sử dụng vv….” trở xuống câu hai, đáp câu thứ ba, phá nghóa Chứng. Ngoại đạo nói: “Vòng xuyến không hề có nhân duyên”. Đức Phật bèn phá: “Đều từ nhân duyên mà có tên, cũng từ nhân duyên mà lập nghóa. Tên là vòng, tên là xuyến đều từ nhân mà đặt. Người thợ làm ra tên, mầu là từ nhân mà có nghóa. Nếu tánh đã là mũi tên, thì đâu cần phải nhờ thợ? Huống chi xưa là vòng nay thành xuyến, biến đổi xuyến thành vòng. Lúc trước cây cong thì dùng làm ghế, cây thẳng thì làm giường. Khi trước cây thẳng thì làm giường, nay uốn giường cong làm ghế. Đều do nhân duyên, chứ đâu có gì gọi là Tự tánh. Từ câu: “Ông nói rùa sinh v.v…” trở xuống là phá câu thứ tư. Trong đây, có bảy việc phá bảy việc. Thứ nhất là vì sao chẳng vào lửa, bù sừng, chính là để bác bỏ lại tông nghóa của ngoại đạo. Từ câu: “Nếu nói các pháp đều có tự tánh, v.v…” trở xuống là việc thứ hai. Trong lời hỏi ở trước không có lời này, chỉ có câu: “Ai có dạy dỗ” mà thôi; mà nay dùng lời này để phá, vì đã nói lợi là tánh, độn cũng như thế, thì há chẳng phải có dạy dỗ mà thêm lớn hay sao? Từ câu: “Nếu tất cả pháp có tự tánh v.v…” trở xuống là việc thứ ba, nói Bà-la-môn chẳng nên cúng tế. Từ câu: “Cách nói của thế gian v.v…” trở xuống là việc thứ tư, nói có từ ngữ tạo tác, thì đâu phải tự nhiên? Từ câu: “Nếu nói các pháp v.v…” trở xuống là việc thứ năm, buông thì lẽ ra có tánh nhất định. Từ câu: “Nếu tất cả pháp v.v…” trở xuống là việc thứ sáu. Đã không phải định tánh, thì phải từ nhân duyên sinh. Từ câu: “Ông nói tất cả pháp v.v…” trở xuống là việc thứ bảy. Vì có nói thí dụ nên biết không có tự tánh, nếu hiểu thì có tánh hiểu, đâu cần gì phải nói. Nếu chẳng hiểu, thì tự tánh chẳng hiểu, vậy tuy có nói dụ mà lại không có ích lợi. Từ câu: “Ông nói thân v.v…” trở xuống là trở lại phá phen thứ nhất ở trước. Nhưng trong phần hỏi có bốn ý là lãnh chỉ, gạn hỏi, hỏi riêng và tổng kết, nay đáp thì chẳng thể đối nhau từng cặp, mà chỉ đáp chung. Nhưng bốn ý này trong phần chánh thức vặn hỏi thì chỉ có ba: Một là hỏi thân có trước; hai là hỏi phiền não có trước; ba là hỏi phiền não và thân có đồng thời. Trong phần hỏi riêng không có, kết luận gạn hỏi thì có. Nay đáp cũng có ba phần: Đầu tiên là đáp thân có trước, kế là đáp có đồng thời, sau cùng đáp phiền não có trước. Thứ nhất có hai: trước là bác bỏ. Kến là chánh đáp. Văn có ba: thứ nhất là đáp câu hỏi thân có trước. Phật vốn nói phiền não là nhân của thân, thì ngoại đạo chiùnh thức chỉ hỏi về phiền não có trước thân, mà nay sở dó hỏi thân có trước là vì đối đãi mà thôi, chứ chẳng phải bản ý muốn hỏi. Nay muốn trả lời, truớc phải dẹp lời này, cho nên Phật nói: “Ta không có thuyết này, nghóa của ông cũng như thế, đâu bỗng dưng lại hỏi như thế! Vốn muốn hỏi ta, lại trở thành nghóa của ta. Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là câu hai, đáp về nhất thời; hai, là nói về trước sau; ba, lại dùng ý mà đáp. Nói cùng lúc, trừ cùng lúc mà ngoại đạo kia chấp. Nếu là cùng lúc mà kia hiểu, thì sẽ đúng với ở đây. Ở đây nói cùng lúc là trước sau mà cùng lúc, cũng là cùng lúc mà trước sau. Nói truớc sau, đây là trước sau trong cùng lúc, không có trước sau khác với cùng lúc, cũng không có cùng lúc khác với trước sau. Nay từ nơi nghóa cùng lúc mà có trước sau, tức phiền não có trước, thân có sau, phiền não là nhân, thân là quả. Há chẳng phải nhân trước quả sau ư? Còn như Trung Luận nói: “Duyên thành do quả” là có ý riêng. Nói thêm rằng: Các kinh Đại thừa nói: Vô thỉ, tức không nói riêng thân, không nói riêng phiền não, nếu một ở trước, thì một là có thỉ. Nay kinh này từ việc đối trị, giáo hóa các căn cơ mà nói rằng: Phải do phiền não mà có thân, nhưng vẫn tùy ý mà nói, cho nên mới nói: “Tuy không có truớc sau”, “Tuy” là lời nói “Chưa cùng tận”, chưa cùng tận thì có ngoại lệ. Cho nên biết thật lý lại là chỗ ngoại lệ ở ngoài quyền đạo. Thật ra, chẳng những quá khứ nói không có truớc sau, mà ở hiện tại phiền não làm nhân cho thân cũng không có trước sau, vì sao? Vì nhân quả không hai, sắc tâm chỉ một thể, ba đạo, ba đức trong một niệm không trái nhau; năm ấm, năm Giải thoát trong một sát-na lý đều bình đẳng. Mục đích là phá chấp cho Nạp y, phá rồi thì liễu ngộ tánh đồng với hư không, chẳng có trước sau, trong ngoài ai bì. Ba mươi sáu quyển chỉ là từ một Niết-bàn, hai mươi lăm chúng đều thành tựu Phật tánh. Đến đây mà chẳng liễu ngộ thì rốt cuộc chỉ thành chúng kết duyên mà thôi. Nghóa hai đoạn văn này, chỉ gần vài hàng, còn các văn kinh khác là lời cần thiết để giải nghi mà thôi. Từ câu: “Nếu ý ông cho rằng v.v…” trở xuống là đoạn ba, lấy ý để phá. Nếu nói phiền não và thân là cùng lúc thì chẳng thể có trước sau, như bò có hai sừng, sừng trái chẳng nhân sừng phải, sừng phải chẳng nhân sừng trái. Việc này chẳng phải như thế; đèn và ánh sáng tuy đồng thời có, nhưng phải có đèn mới có ánh sáng, mà chẳng thể do ánh sáng mà có đèn. Phiền não và thân cũng như thế. Như tim đèn và ánh sáng có cùng lúc, nhờ tim đèn mà có ánh sáng. Nhưng nói tim đèn tức đã thắp sáng; khi chưa thắp sáng, thì chẳng gọi là tim đèn; ở đây muốn nói nghóa chánh của Phật là nhân quả cùng một lúc. Các Sư xưa phần nhiều cho đây là nói lúc khởi đầu của chúng sinh là nhân quả cùng lúc. Nay cho rằng chẳng đúng như thế, chẳng nói khởi đầu của chúng sinh mà chỉ nói nghiệp dụng sinh thân của chúng sinh là dị phiền não, gồm hai thứ là nhuận nghiệp và nhuận sinh. Nếu nghiệp làm nhân sinh thân thì quả còn rất xa, cho nên ở đây lấy nghóa nhuận sinh. Nếu theo sự giải thích của các Sư Số Luận thì chính là lúc khởi đầu của sinh ấm có thức nhiễm ô làm hoặc nhuận sinh, tức kết thúc thời kỳ quả báo. Đây là phiền não và thân có cùng lúc, rất hợp với nghóa lý. Nhưng nay y cứ theo cách giải thích sau; nếu Pháp sư Linh vị cũng dùng sinh ấm, nói đầu tiên khởi ái nhuận sinh thì rất giống với nghóa của Số Luận, còn các sư khác thì đều nói. Trong tử ấm khởi ái niệm sinh cũng là nhân quả cùng lúc, việc này Phẩm Ca-diếp nói rằng: “Do nhân duyên ai mà Vô minh, nên được thọ mạng”. Kinh Thập Địa nói: Tâm hữu lậu có chấp sinh ra hạt giống nóng bức. Kinh Tiệm Bị ghi: Tâm Hữu lậu có chấp sinh ra hạt giống hữu lậu”. Hoặc nhuận sinh tuy khởi trước, mà chính là do thức; hữu lậu này chắc chắn là ái nhuận sinh, vì thế mà kết luận đó là thủ thức. Hữu lậu đã có tức là nghóa nhân quả cùng lúc. Do đó ý nghóa này là thuyết để tham khảo của Linh Vị. Trước đã nói rằng: “Nếu nói là cùng lúc thì cũng chẳng đúng”. Nay lại nói đồng thời mà có, nghóa này rất trái ngược với câu gạn hỏi tà chấp kia, vì thế mới nói rằng: Nếu ông cho rằng hai mắt của người v.v…”. Sau đó là lấy ý của ngoại đạo mà phá, nói tuy đồng thời mà thật có nghóa làm nhân cho nhau, như đèn và ánh sáng là có cùng lúc, nhưng lại làm nhân cho nhau. Từ câu: “Nếu ông cho rằng v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi phiền não có trước. Văn có hai: trước là nêu câu hỏi, kế là chánh phá. Đoạn văn có hai nhà đọc khác: Một, đọc là Nếu cho rằng trước khi có thân không có nhân duyên, nên gọi là không, đây là lặp lại câu hỏi ở trên, lại nói: “Ông chẳng nên nói”, tức là bác bỏ bảo chẳng nên nói như thế, lại nói: “Tất cả pháp đều có nhân duyên”, là nói rõ tất cả pháp thật có nhân duyên. Nhưng chẳng cần phân câu như thế, chỉ nên nói: “Ông chẳng nên nói tất cả pháp có nhân duyên”. Nhưng ngoại đạo kia chấp nghóa tự nhiên, không có nhân duyên, mà nay lại nói: “Ông chẳng nên nói tất cả pháp có nhân duyên”, là vì ba ngoại đạo này đều nói hai mươi đế, đều là sinh nhau, tức thuộc về nghóa nhân duyên nhưng khác với nghóa nhân duyên của Phật. Phật pháp y cứ theo quá khứ làm nhân, hiện tại làm quả. Các sư ngoại đạo kia chỉ y cứ một đời hiện tại sinh nhau làm nhân quả. Lại như Lặc-xoa-bà có lập y đế, chủ đế, như năm đại tạo ra năm căn, năm đại là chủ đế, năm căn là y đế, đều là nghóa nhân duyên. Như hỏa đại tạo ra mắt làm cho thấy được sắc, sắc là Cầu-na (bảy đế) của Hỏa. Như không đại tạo ra tai, để nghe được âm thanh, âm thanh là cầu-na (y đế) của tai. Từ câu: “Nếu nói vì chẳng thấy v.v…” trở xuống là lấy để phá. Nếu nói chẳng thấy nhân của thân nên chẳng nói, mà nay thấy cái bình từ đất làm ra, vì sao lại chẳng nói là thấy. Chẳng nói là trái với tâm. Từ câu: “Dù thấy hay chẳng thấy v.v…” trở xuống, là nói đâu cần nói ông thấy hay chẳng thấy, chỉ cần nói hiện tại các pháp đều từ nhân duyên sinh. Trước là phá chấp về Địa đại. Phật vì phá bỏ nghóa này nên nói chất bơ, sáp v.v… là địa của họ chấp, các chất này bất định, có lúc là nước, có lúc lại là đất. Sau lại phá các vật như chì, thiếc v.v… lại nêu năm đại, chẳng nói ba đại, bốn đại thì há chẳng phải nhân duyên ư? Trong đó có hai cặp, cặp trước cho rằng trong nghóa của ông nói có năm Đại, sau lại nói có Hương là địa, sắc là Hỏa. Như phẩm Hương Tướng trong luận Thành Thật có nói về nghóa của Vệ Thế Sư, chẳng nói Hương là thủy, sắc là địa, đó há chẳng phải nhân duyên ư? Cặp sau, trước cho rằng từ đất sét cho ra bình, từ vải sợi cho ra y phục, đó chẳng phải là nhân duyên ư? Sau cho rằng trong nghóa của ông thì ướt là tánh của Thủy đại, dù cho vì lạnh làm nước đóng băng, ông vẫn còn y theo nhân duyên ướt mà gọi Thủy, chứ chẳng theo duyên lạnh mà gọi là đất! Vả lại, khi nước đóng băng chẳng gọi là đất mà gọi là nước, vì sao khi nước nổi sóng chẳng gọi là gió? Đây là cách vặn hỏi theo kiểu đối chéo nhau, nếu vặn hỏi theo cheo chiều ngang thì phải nói rằng: Nước vốn có tánh trôi chảy, khi đông đặc thì chẳng chảy mà vẫn gọi là nước, vậy gió vốn tánh động, tức vật chẳng động thì chẳng gọi là gió. Nhưng nay văn này lập ý đối chéo (lăng giác) để vặn hỏi rằng: Nước vốn có tánh chảy, khi đông đặc thì không chảy mà vẫn gọi là nước, gió vốn có tánh động, thì sóng động lẽ ra cũng gọi là gió. Sóng động chẳng được gọi là gió, vậy nước chẳng chảy lẽ ra chẳng được gọi là nước. Vả lại, giải thích theo cách hỏi theo chiều ngang rằng: Như nước vốn chảy, gặp nhân duyên lạnh thì đóng băng chẳng thể chảy được, mà vẫn thuận theo bản tánh mà gọi là nước; gió vốn động gặp nước thì thành sóng, lẽ ra vẫn theo bản tánh mà gọi là gió. Nếu sóng động tùy theo nhân duyên trở thành nước mà chẳng gọi là gió, thì khi đóng băng lẽ ra thuận theo nhân duyên mà thành đất, đất chẳng phải nước. Ý nói rằng: Nước vốn có tánh ướt và chảy, khi đóng băng thì không còn chảy, chỉ lấy tánh ướt nên vẫn gọi là nước, gió vốn có tánh động, gió thổi vào nước thành sóng, thì vẫn gọi là nước, chẳng gọi là gió, có gì khác nhau? Khi sóng động là lấy tánh động, nên gọi là gió; chỉ vì sóng động gọi là Nước, khi đông đặc thì gọi là băng, cho nên động là phong đại; khi nước nổi sóng tuy nhờ vào gió làm duyên, nhưng vẫn theo nhân thuộc về nước, chẳng theo động là gió. Đó chẳng phải là nhân duyên hay sao? Từ câu: “Ông nói chẳng phải v.v…” trở xuống là câu thứ sáu, phá câu thứ năm. Nói năm trần chỉ là duyên bên ngoài, lại do nhân bên trong là giác quán, giác quán thiện ác sinh ra tham sân. Từ câu: “Ông nói người có đủ năm căn v.v…” trở xuống là phá câu thứ sáu. Nói nhân duyên khác nhau dẫn đến quả báo khác nhau. Từ câu: “Như lời ông nói v.v…” trở xuống là câu thứ tám, phá câu thứ bảy. Nói đức bé có khóc có cười thì biết là có duyên, chẳng phá câu thứ tám, có hai cách giải thích: 1. Khai Thiện cho rằng câu thứ tám có hai ý: Không pháp nào không từ duyên sinh, nên chẳng cần phá; 2. Dung Thành cho rằng: Thế Tôn vừa phá đến câu thứ bảy thì ngoại đạo liềân hiểu, nên không cần phá câu thứ tám. Từ câu: “Phạm chí nói rằng v.v…” trở xuống là đoạn hai, quy phục. Văn có hai: Một là nêu hai câu hỏi, giải thích rộng, kế là từ câu: “Xin Thế Tôn v.v…” trở xuống là chiùnh thức quy phục. Đức Phật biết căn cơ nhạy bén nên nói hai bên và khoảng giữa, Phạm chí liền lãnh ngộ. Phàm phá nghóa thì có nhiều phương tiện, chẳng phải chỉ một loại. Tùy bệnh cho thuốc, chẳng nhất định là trước hay sau. Nếu bỏ Thông theo Biệt thì phải nói theo thứ lớp như sau: Đầu tiên mới thành đạo thì phần nhiều dùng nhân duyên để phá Tánh; kế đó là dùng vô thường, khổ, không để phá nhân duyên; kế là dùng Thể không phá Tích không; kế là dùng phân biệt phá Thể và Tích không; kế là dùng Trung đạo phá hai bên, kế là dùng Viên thường phá Thiên tiệm. Các nghóa này được dùng khắp trong các kinh luận. Nay kinh Đại Bát-Niết- bàn thì nói về viên thường rốt ráo, dùng nhân duyên phá Nạp Y chấp tự tánh, đều là tùy bệnh, dùng phương thuốc đầu tiên này mà chữa trị căn bệnh sau cùng. Đầu tiên và cuối cùng đã như thế, thì khoảng giữa cũng thế. Đối với tất cả nơi, đều dùng trí phương tiện hoặc tùy theo ý muốn, tùy chỗ cần dùng, tùy sự chữa trị, tùy sự thể ngộ, dùng lẫn nhau không mất, thứ lớp rõ ràng. Nói thêm rằng: Y tất-đàn kiêm nghóa Bí mật, Bất định. Tuy có bí mật, bất định mà thứ lớp vẫn rõ ràng. Nếu đạt được ý này thì nêu lập đủ các nguyên do, khiến cho văn nghóa rõ ràng. Nhân duyên phá tánh tuy đầy đủ trong văn kinh, nhưng phải tự lập các nghóa vô thường Tích không cho đến Viên thường v.v… làm cho pháp hành được thành tựu, tiết mục rõ ràng, tất cả đều hợp với Tu-đa-la. Nếu nghóa này thành thì phá dẹp tất cả tà chấp, tà giáo của ngoại đạo, phá tất cả giác, hành, vị, lý của Hiền thánh Đại thừa; chứa đựng tất cả Phật pháp, chứ đâu chỉ một ngoại đạo chấp tự tánh mà thôi? Trong mười vị Tiên trên, mỗi vị đều chép đủ, thì văn dài dòng cho nên trong chương nói về Nạp Y lược nêu ra ý này. Nếu đạt được ý lời hỏi trên thì trước sau, ngang dọc đều sử dụng được. Từ câu: “Lại nữa, Bà-la-môn v.v…” trở xuống là ngoại đạo thứ chín. Văn có hai là luận nghóa và quy phục. Bà-la-môn này không có Sở chấp thì hỏi có biết tâm niệm hay không? Đức Phật biết được nên mới lập thuyết khác. Bà-la-môn vốn có bốn niệm, Phật cũng có bốn câu đáp: Niết-bàn là thường v.v… bốn nghóa này về danh đồng mà ý thì khác. Vì thế ngoại đạo hỏi lại thì Đức Phật mới nói rằng: Khất thực là thường, thỉnh riêng là vô thường v.v…; tức dùng sự có thể hư hoại để thử Phật. Phật biết được tâm niệm này vượt lên trên, dùng lý được nêu bày để đáp. Lời đáp lại vượt quá sự nêu bày của ngoại đạo. Do đó lại thưa hỏi. Sau lại hỏi về tám chánh đạo có làm cho chúng sinh diệt hết chăng? Đức Phật chẳng đáp, vì câu hỏi này có chứa đựng ý nghóa rằng: Chúng sinh tu đạo thì đều diệt hết, lẽ ra không còn chúng sinh, nhưng đối với chí lý thì chúng sinh vô tận. Vì thế mà Phật chẳng đáp. Nếu có tận thì thành hữu biên. Nói thêm rằng: Theo văn thì ngại, cho nên mới y cứ theo Sự. Xưa cho rằng văn này là Hoằng Quảng hỏi về cuối cùng. Từ câu: “Lành thay! v.v…” trở xuống là nói về quy phục. Trong đây nói phát tích gieo nhân đã từ lâu, đến kiếp Hiền thành Phật là mới thành. Linh Vị cho rằng dùng một người này so sánh với chín người kia thì biết đều là Quyền hóa. Các sư Trung Quán chẳng chấp nhận, đồng thời cho rằng nếu thấy một người phát tích mà nói chín người kia chẳng phải thật, thì ngược lại dùng chín người kia là thật để so sánh biết một người này cũng là thật, chẳng phải quyền. Nhưng các người kia đều là nói chứng quả, chẳng nói đến phát tích. Người này muốn biết thành lớn, muốn biết đạo, tự làm người giữ cửa, tức đã phát Đại tâm thì chẳng phải việc nhỏ. Nên tùy văn mà sắp xếp, chẳng cần phải so sánh với chín người kia. Từ câu: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là ngoại đạo thứ mười. Có người cho rằng chương này có ba đoạn, hơi khác với các chương trên, không chỉ là vì hóa độ người đạo: Một là phó chúc; hai là vì hàng ma; ba là vì hóa độ Tu-bạt. Vì phó chúc, tức nói kinh xong thì phải phó chúc cho A-nan. Nói hàng ma là vì làm chướng ngại chánh pháp vốn là do ma trời, nay dùng năng lực của chú hàng phục khiến cho pháp không bị trệ ngại. Giáo hóa Tu-bạt các ngoại đạo trước dùng tà kiến để vặn hỏi Phật, Đức Phật đã hàng phục xong; còn Tu-bạt cây thị chẳng đến, Đức Phật bảo A-nan gọi đến mà được đắc đạo. Nay cho rằng chẳng phải như thế, tất cả đều vì giáo hóa ngoại đạo, nhưng lời khác mà ý thì đồng. Vì sao? Đức Phật có tâm đại Từ vô lượng, chẳng những phá chấp lúc bấy giờ mà còn cứu giúp kẻ tà đảo đời vị lai. Vì thế gửi gắm cho A-nan, phó chúc lưu thông. Lúc bấy giờ A-nan đang bị ma quấy nhiễu, và ma cũng nhiễu loạn vị lai. Do đó dùng thần chú chú nguyện, khiến chánh pháp trong đời hiện tại và vị lai không bị chướng ngại. Tu-bạt ngang bướng là nói lên chúng sinh đời vị lai trái nghịch với sự giáo hóa; Phật sai A-nan đến kêu gọi là nói lên việc truyền pháp lưu thông. Tu bạt đến và đắc đạo là nói lên chúng sinh vị lai đều trở về chánh đạo. Giải thích văn như thế thì nghóa giáo hóa ngoại đạo đã thành, mà nghóa lưu thông cũng chẳng mất. Văn có bốn đoạn: 1/ Hỏi về A-nan; 2/ Nói về nghóa; 3/ Chánh thức sai bảo A-nan; 4/ Hóa độ cả Tu bạt. Thứ nhất, là trước hỏi sau đáp. Từ câu: “Kiều-trần-như v.v…” trở xuống là đáp. Văn có hai: 1/ Là nói về sự nhiễu loạn; 2/ Nói A-nan bị nhiễu loạn. Thứ nhất lại có hai: Trước dùng lời nói nhiễu loạn, sau dùng thần thông nhiễu loạn. Tỳ-già-la-na là luận, không nói Hòa-già-la-na là vì dịch âm Phạm khác nhau. Nhưng ma nói ở đây đều là thuyết về chánh nghóa của Phật pháp, chẳng nói pháp của tà ma. Nếu nói nghóa của ma nghó rằng ngài A-nan sẽ biết ngay, vì ngài A-nan thường nghe Đức Phật giảng nói. Nếu nói dị nghóa khác, thì chẳng tin nhận; như thế làm sao nhiễu loạn được? Nghó rằng: Hoặc nói mười hai nhân duyên, hoặc nói bốn duyên, lại nói bốn đế, tám đế để làm hoặc loạn. Văn kinh ghi: “Ba quán”, có rất nhiều loại: 1/ Cho rằng khổ, vô thường, vô ngã; 2/ Cho rằng quán ấm nhập giới, cũng nói quán ba độc. Nói bảy phương tiện, các Sư sớ luận cho rằng đó là quán Bất tịnh, Bốn niệm xứ chung riêng, Noãn, Đãnh, Nhẫn, Thế đệ nhất. Các Sư luận Thành Thật cho rằng: Một là quán sắc khổ, hai là quán khổ tập, ba là quán khổ diệt, bốn là quán khổ đạo, năm là quán khổ quá, sáu là quán khổ xuất, bảy là quán khổ nhập. Y cứ tất cả pháp cũng đều như thế. Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là nói về việc A-nan bị nhiễu loạn. A-nan đã được Sơ quả, tự thân lại hầu hạ Phật, mà nay bỗng nhiên bị ma nhiễu loạn, việc này có hai nghóa: 1/ Trong Tích thị hiện thọ, để nói lên công năng của thần chú hàng phục được tà ma; 2/ A-nan chẳng ở trong pháp hội, muốn Như Lai quan tâm thăm hỏi, và để ngài Văn-thù luận bàn về đức nghiệp của mình, hầu thọ nhận sự phó chúc. Hà Tây cho rằng: Sở dó A-nan bị ma nhiễu loạn gồm có năm ý: 1/ Vì Kiều-trần- như đang là đối cơ để hóa độ ngoại đạo, nên A-nan chẳng đến; 2/ cho rằng ma được độ nên thị hiện đến trước A-nan; 3/ Muốn nói lên tám việc của nội đức A-nan; 4/ Muốn bảo A-nan đến dắt dẫn Tu-bạt; 5/ Muốn phá bỏ tâm cống cao của A-nan. Từ câu: “Bấy giờ, ngài Văn-thù v.v…” trở xuống là phần luận nghóa giải thích nghi. Văn có hai là hỏi và đáp. Hỏi có hai: Thứ nhất là nêu các Bồ-tát tự có khả năng truyền bá kinh này. Từ câu: “Do nhân duyên gì v.v…” trở xuống là hỏi vì sao chỉ một A-nan được quan tâm thăm hỏi. Từ câu: “Bây giờ Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là Phật đáp. Văn có ba đoạn: 1/ Nói lại bản duyên; 2/ Hiện tiền được khen ngợi; 3/ Trả lời hai câu hỏi. Thứ nhất là nói lại bản duyên. Đây là bản duyên khi xưa Như Lai tìm cầu thị giả trong Tăng. Từ câu: “Này Văn-thù-sư-lợi! v.v…” trở xuống là đoạn hai, hiện tiền khen ngợi. Nếu bấy giờ A-nan ở trong chúng thì đâu được khen. Văn có hai: trước khen tám việc chẳng thể nghó bàn, khen ít có. Phật Tỳ-xá-phù, tên của bảy Đức Phật nhất định là như thế, có bản ghi là: Hữu-xá-phù là lầm. hỏi. Từ câu: “Như ông nói v.v…” trở xuống là đoạn ba, trả lời hai câu Nói Bồ-tát tuy cũng có khả năng truyền bá, nhưng mỗi vị đều có trọng trách là điều phục quyến thuộc. Vì thế Như Lai không phó chúc. A-nan còn ở quả vị thấp nhưng tự thân là thị giả của Phật, học rộng bậc nhất nên Phật phó chúc. Đầu Phẩm Trường Thọ có nói nhiều về việc Thanh văn chẳng có khả năng nhận lãnh, còn Bồ-tát mới có khả năng nhận lãnh, nhưng bây giờ lại phó chúc cho A-nan, chẳng phó chúc cho Bồ-tát, việc này có ba nghóa: Một là phẩm trước quở trách thật hạnh, nên nói chẳng có khả năng; nay nói về quyền nên nói có khả năng thọ nhận. Hai là làm đối cơ cho Đại pháp để giảng nói lý mầu thì chẳng có khả năng; còn thọ trì văn ngôn chương cú của giác thì kham nhận được; như văn có nói: Điều mà A-nan chưa nghe thì Bồ-tát Hoằng Quảng truyền bá, như vậy nghóa sâu xa và chánh lý đã phó chúc cho Bồ-tát. Ba là nói hàng Thanh văn tự có cho và đoạt, vì đoạt nên chẳng kham, vì cho nên nói kham nhận. Văn kinh ghi: “là em của ta”, đây là Tùng đệ (Đường đệ tức em họ), tức chỉ muốn luận đến nghóa thân cận, nên nói thằng là “Em của ta” mà chẳng nói đến chữ “Tùng”. Văn kinh ghi: “Những điều chưa nghe thì Bồ-tát Hoằng Quảng lưu bố”, câu này có ba cách giải thích: Dung Thành cho rằng trong mười ngoại đạo vừa nêu thì vị thứ chín là Quyền Tích, thật ra là Bồ-tát, cho nên Phật nói: Bồ-tát Hoằng Quảng tự có khả năng truyền bá. Chiêu-đề cho rằng trong Phật pháp bậc Đại só đâu phải là ít mà vội lấy người đồng tên với ngoại đạo. Đây là muốn nói người có khả năng truyền bá rộng kinh này, nên gọi là Hoằng Quảng, chẳng phải chỉ cho một người nào, nếu người nào mở mang truyền bá lưu thông, giáo hóa làm lợi ích thì người đó là Hoằng Quảng. Trong luận Đại Trí Độ, phần kết tập pháp tạng có nói về việc này. Như Ca-diếp đối với A-nan thì tụng ra Tu-đa-la A-tỳ-đàm, nếu đối với Ưu-ba-ly thì tụng ra Tỳ-ni, tức luật tạng. Nếu Bồ-tát Văn-thù, Di-lặc đối với A-nan thì lưu xuất ra tạng Đại thừa. Thế thì Bồ-tát Văn-thù và Di-lặc là Bồ-tát Hoằng Quảng. Cho rằng chẳng phải ngoại đạo, chẳng phải chỉ chung, mà có riêng một vị Bồ-tát tên là Hoằng Quảng, như nói Bồ-tát Phổ Hiền, Văn- thù, v.v… Từ câu: “Này Văn-thù-sư-lợi v.v…” trở xuống là chánh thức sai bảo A-nan. Xưa lập ba nghóa mà văn kinh chỉ có việc hàng phục ma trời, gọi Tu-bạt đến; lẽ ra nên có việc phó chúc. Nhưng còn một ít đoạn văn chưa được truyền đến. Toàn văn có năm đoạn: 1/ Phật bảo Văn-thù; 2/ Như Lai nói thần chú; 3/ Văn-thù vâng lời; 4/ Ma vương phát tâm; 5/ A-nan kính lễ. Thứ nhất, là Đức Phật bảo Văn-thù mang thần chú đến giải cứu A-nan. Nói Đại Đà-la-ni, vì cách dịch khác nhau nên có vị dịch là Tổng trì, năng trì, tức năng trì chánh pháp chẳng để sót mất, khiến tà pháp chẳng khởi, vì thế gọi là Trí. Cũng dịch là Biện tài, đó là hai nghóa của âm Phạm Đà-la-ni, nhưng dịch đúng là Trì, nên văn kinh nói: “Nghe trì danh này”. Trong đó khiến người trì thần chú thực hành năm việc như dứt hết, v.v… như văn kinh có ghi. Từ câu: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là nói thần chú. Danh nghóa của chú như trước đã giải thích. Nhưng trong chú nói: Nhã-kiệt-bệ, các bản kinh viết khác nhau, hoặc có bộ y ở bên, hoặc có bộ Thổ ở bên. Nay viết bộ y ở bên là đúng, có hai âm: Từ Ái âm ghi là Ti, nay đọc là Tỳ. Nếu bộ thổ thì cũng có hai âm. Nói Bà-lam-di, tức chữ Sơn ở trên, ở dưới chữ Phong, nhưng vốn là chữ huề, nhưng cũng có thể âm huề, âm huề đúng ra là Lam. Thuyết văn nói: Từ chữ lam bỏ đi thanh Khuê, chữ Lại đệ có lẽ là âm đệ. Nay là âm Đề. Thuyết văn nói là lụa dầy. Nhưng phẩm Tịnh Địa Đà-la-ni trong kinh Kim Quang Minh (Tân dịch) Đức Phật vì Bồ-tát Thập địa nói mười bài thần chú, một bài thần chú này là Thiên thứ mười Ủng hộ Thập Địa trong bản kinh trên. Bài chú này chính là Ủng hộ Bồ-tát Thập địa. Nếu thế thì biết hành vị của A-nan rất cao, là hàng Bồ-tát Thập địa, vì thế Như Lai nói chú để ủng hộ. Kinh kia nói rằng: Người được thần chú này chẳng sợ rắn độc, sư tử, lang sói v.v… Theo Viên giáo thì trong một đời đã vượt lên giai vị Thập địa, vì thế nhục thân chưa tránh khỏi sự sợ sệt này, do đó mới nói chú bảo vệ. A-nan dẫu chẳng phải đời này mới chứng, nhưng bản và tích đâu khác? Ý nghóa thần chú hộ trì theo đó suy nghó cũng có thể thấy. Nếu thế thì Bồ-tát dứt phiền não, không còn sợ hãi, vì sao nay lại nói rằng: Được chú này mới tránh được sự sợ hãi? Phần nhiều giải thích rằng việc này rất khó hiểu, chẳng thể dùng tình thức nông cạn để tính lường; nhưng có một nghóa là thể của pháp thân không có sự sợ hãi. Nếu nói theo Ứng thân thì có thị hiện sự sợ hãi. Như Lai đã đạt đến Chủng giác mà còn có chín sự não loạn, huống chi là Bồ-tát, đều y cứ theo sự giải thích ở trước. Từ câu: “Bấy giờ v.v…” trở xuống là Văn-thù vâng lời. tâm. lễ. Từ câu: “Ma vương v.v…” trở xuống là đoạn bốn, các ma phát Từ câu: “Văn-thù v.v…” trở xuống là đoạn năm, nói A-nan kính Xưa nay, các văn Đà-la-ni không bao giờ giải thích là do năm ng- hóa: 1/ Tên Tam bảo; 2/ Tên bốn đế; 3/ Tên cảnh không; 4/ Tên thắng hạnh; 5/ Tên quỷ thần. Bao gồm năm nghóa này nên gọi là Tổng, giữ gìn điều lành chẳng để mất, kềm giữ chẳng cho điều ác sinh, nên gọi là Trì. Về tên của Tam bảo, kinh Thỉnh Quán Âm ghi: “Nam-mô Phật- đà, Đạt-ma, Tăng-già” Nhưng Tam bảo có nhiều tên khác nhau, hoặc nên gọi như thế, cho nên khi cá lớn Ma-kiệt nghe tên Tam bảo thì liền ngậm miệng. Nói tên bốn Đế, kinh Hiền Ngu ghi rằng chim Anh võ nghe tên Tứ đế thì được sinh lên cõi trời. Về lý không: chân cảnh không có tên mà chẳng có cảnh nào không có tên, vì thế nghe Không này liền ngộ đạo, thành thánh, dứt hoặc. Về Thắng Hạnh, Đại phẩm nói Bát-nhã Ba-la-mật là chú Đại minh, là chú vô thượng minh. Lại kinh Thỉnh Quán Âm nói sáu chữ là sáu diệu môn, đó là sở, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Tên của quỉ thần, một là tên của thần thiện, hai là tên của thần ác. Từ câu: “Đức Phật bảo v.v…” trở xuống là đoạn bốn, giáo hóa cả Tu-bạt. Văn có ba: Duyên khởi, nói nghóa và quy phục. Văn duyên khởi có ba: Một là bảo A-nan; Hai là A-nan vâng lệnh; Ba là theo nhau mà đến. Tu-bạt-đà-la, có hai cách dịch là Thiện Hiền và Hảo Hiền. Tuy được năm thần thông mà chưa xả bỏ tâm kiêu mạn, mạn là tán tâm, đã được thượng định lẽ ra hàng phục được hạ hoặc, nhưng chưa xả được kiêu mạn, việc này các sư Số luận và Thành Thật giải thích khác nhau. Nếu theo nghóa của Số Luận thì mạn từ sử bối thượng (tức năm lợi sử) mà khởi. Tu-đạt đã đắc định Phi tưởng, thì từ duyên này mà khởi mạn. Vì thế nói chưa xả tâm kiêu mạn. Theo các sư Thành Thật thì cho mạn là phiền não tán tâm. Thật ra đã hàng phục mạn, nhưng Tu-bạt khi xưa tuy đã được định Phi tưởng mà vẫn còn tập khí kiêu mạn. Vả lại, mạn vốn là tự cao, cho rằng kia được hạ định, tâm ta cao quý tốt đẹp. Vì có ngã tâm nên được gọi là chưa xả tâm kiêu mạn. Nói sinh nhất trí khởi tưởng Niết-bàn; đây là các tưởng tồn tại dài lâu ở Tu bạt, tức là sinh tưởng nhất thiết trí và Niết-bàn. Lại nói “người này vẫn còn tâm ái tập, chưa trừ hết, có hai ng- hóa: 1/ Đây là ái thiện, tức là tâm ái của cha hiền con hiếu, do phiền não ái mà sinh ra tâm này v.v… Nhưng nay sắp xếp thuộc về điều lành thế gian, mà cho là tập chưa hết, chưa hẳn đó là tập khí, chỉ nói thường sinh khởi điều lành này, về việc ấy đã thường tu tập không dừng, cho nên mới nói là “Tập chưa hết”. Hai, đây là nói về tập phiền não, nêu tập phiền não có hai cách giải thích; xưa cho rằng phải hàng phục hẳn khi vừa mới khởi lên”. Như vậy hai cách này đều là tập của phàm phu khởi lên. Nhưng nói chưa hết trừ là vì Tu-đạt đã được thượng định, hàng phục các hoặc nặng, nhưng các hoặc nhẹ vẫn còn, nên nói là “Tập chưa hết”. Từ câu: “Tu bạt, v.v…” trở xuống là nói nghóa. Văn có hai, trước nói về nghiệp hạnh, sau nói về Giải thoát, nói nghiệp hạnh là thế gian, nói Giải thoát là xuất thế gian. Tức là luận về pháp thế gian và xuất thế gian với Phật. Y cứ theo văn trước thì gồm có bốn, sau đây là đoạn một, xin cho phép Phật nói bây giờ là đúng thời; thứ hai, Phật cho phép; thứ ba từ câu: “Thưa Cù-đàm v.v…” trở xuống là chánh thức hỏi; thứ tư là Như Lai đáp. Tu đạo không nói đó là nghóa của mình, chỉ nói thế gian có các Sa-môn v.v… lập thuyết này. Vì sao chẳng nêu ra tông nghóa của mình? Việc này cũng có nghóa lý. Trước kia đến nghe Phật phá nghóa mà ngoại đạo đã lập, vì thế nay chẳng tự lập tông, sợ lại bị Phật phá, do đó nêu kiến giải của người khác để hỏi Phật. Nói tất cả quả báo thiện ác đều do nghiệp xưa, không có hiện thân khởi nghiệp và nhân duyên hiện tại. Nghóa nghiệp này rất gần với chánh thuyết, nhưng nói không có nhân duyên hiện tại thì thành tà. Chỉ nói nghiệp quá khứ cảm vời hai quả khổ vui, nếu hiện tại tu tập thì dứt trừ quả báo khổ vui. Đã tu đạo thì hiện tại ngay thân này được Niết-bàn. Cho nên mới nói: Các quả báo thiện ác của chúng sinh đều chẳng do nghiệp hiện tại, chỉ do quá khứ mà hiện tại chịu quả; hiện tại không gây nhân, vị lai không có quả. Từ câu: “Nếu có Sa-môn v.v…” trở xuống là Phật đáp. Văn có ba: 1/ Gạn hỏi về tà thuyết kia; 2/ Quở trách tà sư; 3/ Nói chánh nghóa. Gạn hỏi về tà thuyết. Có bốn lớp giả thiết, đều lập một ta, một người đối nhau, theo văn rất dễ thấy. Từ “Ta nói với nhân giả v.v…” trở xuống là quở trách tà sư. Trong đây nói là Phú-lan-na, nhưng thầy của Tu-bạt là Uất-đầu- lam-phất; vì thế văn sau có nói: “Thầy ông là Uất-đầu-lam-phất, căn tánh thông minh bén nhạy, mà nay nói là Phú-lan-nan, vì đây là lời giả thiết. Phú-lan-na là người đứng đầu trong sáu vị giáo chủ ngoại đạo, ngoại đạo tà kiến bác không nhân quả, thật chẳng nói đến nghiệp hạnh, chỉ nói giả sử đó là Đại sư Phú-lan-na thì cũng phải chê trách. Văn kinh nói: Nhân duyên khổ bậc hạ chịu khổ bậc trung, bậc thượng, nếu thật nói về nhân quả thì gây nhân bậc hạ chịu quả bậc ha; nhưng cũng có lúc chướng chuyển, tùy duyên bất định, cho nên nói nhân bậc hạ chịu khổ trung thượng, nhân bậc thượng chịu quả bậc hạ. Văn lại nói: Có thể làm cho nghiệp vui chịụ quả khổ hay chăng? Nghóa là làm lành, tức là nghiệp vui, mà chuyển thành địa ngục; chịu quả báo thọ quả ở cõi người, tức là nghiệp vui thọ quả vui, nếu nghiệp khổ được quả vui, tức là vua trừ giặc cướp, đây là nghiệp khổ mà được giàu sang, là nghiệp khổ mà được quả vui, có thể khiến cho nghiệp không khổ không vui thành chẳng thọ quả hay chăng? Đây chẳng phải là nghiệp không khởi thành không khổ không vui, nay dùng thiện bậc hạ làm nhân xả thọ, tức là nghiệp không khổ không vui, tùy duyên khác nhau tất cả đều chẳng cảm quả báo, nên nói: “Chẳng thọ quả”. Lại nói: “Có thể làm cho không có báo thành định báo được chăng? Đây chẳng phải là vượt lên không còn quả báo, mà chính là nói có thể làm cho quả báo bất định thành định báo. Từ câu: “Này nhân giả! v.v…” trở xuống nói về chánh nghóa. Từ câu: “Này nhân giả! v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về nghóa Giải thoát, văn có năm phen, sau đây là phen thứ nhất. Từ câu: “Tu-bạt-đà nói v.v…” trở xuống là ý thứ hai, Tu-bạt kể lại và tự trình bày. Kế là lại trách hỏi. Từ câu: “Bạch Thế Tôn v.v…” trở xuống là ý thứ tư. Kinh nói: Trước tiên tôi quán dục là vô thường, vô lạc, vô tịnh, nhưng sở quán của ngọai đạo phần nhiều là sáu hành: Khổ, thô, chướng, chỉ, diệu, ly. Còn đệ tử Phật thì lập tám hành quán là: Vô thường, khổ, không, vô ngã, bất định, như ung nhọt, như ghẻ lở, như thuốc độc, như mũi tên. Nay Tu-bạt cũng quán tám hành này, nhưng nếu giống như Phật pháp thì lẽ ra phải nói: Quán cõi Dục là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh; mà nay lại thiếu vô ngã, đó là do ngoại đạo vì ngã mà tu thiền, khiến cho ngã được ra khỏi, nên không có quán vô ngã. Tu-đạt theo thứ lớp dứt phiền não trong ba cõi, được Phi tưởng xứ, cho đó là Niết-bàn, mà nói như thế tức là trước hàng phục tâm. Từ câu: “Đức Phật bảo rằng v.v…” trở xuống là đoạn năm, Như Lai lại phá chấp. Tuy ông nói điều phục tâm mà còn chấp cõi Phi tưởng là Niết- bàn. Niết-bàn không có tưởng mà ông tự chấp là tưởng, vậy há là điều phục tâm ư? Trước dứt phiền não, suy nghó trong ba cõi là trừ thô tưởng, mà lại chấp có Niết-bàn là còn tưởng sâu kín. Trong đó nói: Thầy ông là Uất-đầu-lam-phất, về sau lui sụt định Phi tưởng làm con chồn biết bay. Vì sao? Vì ngoại đạo này vốn là từ thân cõi Dục mà được định Phi tưởng; do các chim làm náo động trên đầu mà phát lời nguyền rằng: Nguyện làm con chồn biết bay để giết hại hết các loài chim cá. Sau đó bị lui sụt định mà đọa làm thân này. Nhưng nếu đắc định lại cho đó là Niết-bàn, sinh đại tà kiến, thì sau đọa vào địa ngục Vô gián, làm thân xấu ác. Từ câu: “Bạch Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn ba nói về quy phục. Văn có ba phần: 1/ Cầu Thỉnh nói về pháp vô tưởng; 2/ Chúng đương thời được lợi ích; 3/ Tu-bạt ngộ đạo. Nói thêm rằng: Văn nói về ngộ đạo rất ít, có lẽ còn ở quyển đầu của Hậu phần. Từ đây, trở xuống là thỉnh nói về pháp Vô tưởng. Văn có hai: trước là thỉnh, sau là đáp. Văn đáp có hai: là lược và rộng. Thứ nhất là nói lược. Thật tưởng, nếu từ cảnh đặt tên, thì nên gọi Thật tưởng, nếu từ trí mà đặt tên thì gọi là Thật tướng. Tưởng là tên của Trí, tướng là tên của Cảnh. Từ câu: “Tu-bạt nói rằng v.v…” trở xuống là phần hai, xin nói rộng. Trước là thỉnh cầu, kế là Phật đáp. Nói: “Tùy nơi diệt gọi là chân thật tưởng”, ở đây có hai nghóa: 1/ Dùng trí chân thật cắt đứt phiền não, nên gọi là tùy nơi diệt; 2/ Dùng Không này mà ngăn dứt tục hửu, nên gọi là tùy nơi diệt. Lại nói Đệ nhất nghóa đế, Đệ nhất nghóa không, đối với quả Niết-bàn cũng có tên gọi này. Như phẩm Sư Tử Hống có nói. Nay văn này nói về chân không là Đệ nhất nghóa. Nói người hạ trí quán thì được Bồ-đề Thanh văn, người trung trí quán thì được Bồ-đề Duyên giác, xưa nay cho rằng ba thừa quán khác nhau. Nay văn này lại nói ba thừa đồng quán Đệ nhất nghóa không, nhưng trí thì có thượng, trung, hạ thành ra có ba thừa khác nhau. Như ba con thú qua sông xuống nước sâu hay cạn, ba thừa đồng quán Trung đạo mà người trí sâu thì được Vô thượng Bồ-đề, người trí cạn thì được Bích-chi-Phật hoặc Thanh văn Bồ-đề. Từ câu: “Khi nói pháp này v.v…” trở xuống là nói về chúng đương thời được lợi ích. Kinh nói: “Được Nhất sinh thật tướng, Nhị sinh pháp giới”, nghóa là Bồ-tát Thập địa Bổ xứ gọi là Nhất sinh, Bồ-tát cửu địa gọi là Nhị sinh, nếu nói đủ thì như nghóa “Tổn sinh” trong kinh Pháp Hoa. Từ câu: “Tu-bạt-đà v.v…” trở xuống là nói Tu-bạt-đà ngộ đạo. Lẽ ra có văn chiùnh thức phó chúc, nhưng văn chưa truyền sang đầy đủ. Khai Thiện cho rằng: Từ đây về sau hầu như lời văn rất bi thương, nhưng tất cả đều là nhân duyên đắc độ. Vì thế, sau khi Như Lai diệt độ, người đắc đạo chẳng phải một. Nay kinh giáo đầy đủ, chỉ nên tự sách tấn tu hành; nếu chẳng gặp được kinh này thì chìm đắm trong khổ, như kinh Cư Só Thỉnh Tăng nói rằng: Phần sau của kinh Niết-bàn còn có các phẩm Thiêu Thân, phẩm Khởi Tháp và phẩm Chúc Lụy. Văn ba phẩm này chưa truyền đến Trung Quốc.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 135