<經 id="n1763">ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH TẬP GIẢI HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1763 ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI Pháp sư Bảo Lượng, đời Lương soạn. Hoàng Đế Vì Pháp sư Thích Bảo Lượng Chùa Linh Vị soạn lời tựa Nghóa Sớ. <卷>QUYỂN 1 Các vị Pháp sư: Pháp sư Đạo Sinh. Pháp sư Tăng Lượng. Pháp sư Pháp Dao. Pháp sư Đàm Tế. Pháp sư Tăng Tông. Pháp sư Bảo Lượng. Pháp sư Trí Tú. Pháp sư Pháp Trí. Pháp sư Pháp An. Pháp sư Đàm Chuẩn. Đây là đề tựa Kinh của mười vị Pháp sư này, nay nêu lược gồm đủ, trong ấy ý nghóa quan trọng gồm có tám phần như sau: Giải thích tên gọi. Nói về thể. Nói về bản hữu. Bàn về dứt hẳn tên gọi. Giải thích chữ Đại. Giải thích chữ Kinh. Khảo sát ý nghóa giáo pháp. Chia ra từng phần, đoạn. Bài Tựa Đại Bát Niết-bàn Kinh Nghóa Sớ: Minh Tuấn Án, kính ghi. Hoàng Đế vì Pháp sư Thích Bảo Lượng Chùa Linh Vị soạn. (Hoàng Đế đây là Lương Vũ Đế ( 4 6 3- 549) Nhà Lương ( 5 0 2- 557) Thời Nam Bắc triều). Không có ngôn ngữ thì không làm được việc truyền đạt bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là sự ràng buộc của Vô ngôn, đã ràng buộc để có ngôn ngữ thì dứt ngôn ngữ, các thứ kiến giải tranh nhau dấy khởi. Cho nên Như lai nương theo bản nguyện hiện thành thân người, là để nói lên diệu lực từ bi để hóa độ ứng hợp, lìa văn tự để chỉ bày giáo pháp, quên tâm tướng để thông tỏ đường đạo, muốn cho ngọc đá quý nêu gía trị khác thường, tính trong, đục phân rõ theo dòng chảy; chế ngự sáu phái ngoại đạo, làm chân chánh bốn thứ điên đảo, xoay tám đường tà để cùng quy về một vị; bẻ gảy mọi tranh luận của trí tuệ thế gian, lấp nhiều ngôn thuyết của hạng người dị học; chỉ dẫn tâm cho bậc cao quý tìm cầu, mở mặt trời cho người tối tăm nhìn thấy, cứu mọi thiếu sót trong nhà lửa, vớt bao loài đắm chìm trên biển sóng! Vì thế, tuôn mưa pháp giúp cho các thứ khô héo trở lại tốt tươi, mặt trời hiện lên thì đêm dài tăm tối được phủ đầy ánh sáng. Phát huy sự ngộ đạo còn ẩn tàng của Ngài Ca- diếp, giảng nói bao lời thành thật, chỉ nhằm trước nêu rõ hai thứ, sau tỏ bày năm đại. Ba mươi bốn câu hỏi, biện luận khác nhau không đều, phương tiện và mục đích khuyến khích dẫn dắt, đều theo ý giải đáp. Nói bàn về Kinh, nêu lên điều cốt yếu không ngoài hai đường. Phật tánh được mở ra, mới thấy có ngọn nguồn gốc gác. Niết-bàn nói về, mới hay chốn cùng cực của chốn trở về, chẳng nhân, chẳng quả. Không dấy không tạo. Nghóa mầu cao vời muôn điều lành, sự duyên dứt bặt trăm lời. Không không nên chẳng thể so lường cõi thật; huyền huyền nên không thể suy cứu đường mầu. Ta hay chẳng phải ta, thảy đều bình đẳng, tâm hợp lý vô sinh. Nhà ngọc tường vàng, đâu dễ bước vào! Có vị Sa-môn xứ Thanh Châu là Thích Bảo Lượng, chí khí điều hòa trong sáng hơn người, phong thái năng động rõ bậc tài ba. Lúc thiếu thời giữ vững nề nếp khổ hạnh, thường an trú trong Pháp nhẫn. Tuổi già càng dốc sức. Sức trẻ chẳng chút suy giảm, sự hiểu biết thường ở trước mọi người, để truyền bá rộng khắp, tinh thần ấy lúc nào cũng chăm chăm, không hề biết mệt mỏi. Các hậu sinh tiến bước sau này chẳng ai không kính mến, nương tựa. Vào ngày mồng 8 tháng 5, niên hiệu Thiên Giám năm thứ tám (5 0 9) Trẫm ban sắc chỉ cho Pháp sư Bảo Lượng biên soạn “Đại Niết- bàn Nghóa Sớ”, đến ngày 20 tháng 9 năm ấy thì hoàn thành. Ngôn từ tinh tế, thể hiện rõ sự trong sáng, khen ngợi chánh đạo, trước sau hợp nhau để giải bày đầy đủ, bao lưới nghi được xé toang, mọi đường đều thông suốt, tỏ rõ, đáng được xem là ngôn từ dón gọn sắc xảo. Hễ có được lúc rảnh rỗi là Trẫm liền đem sách ra xem, đọc qua mấy hàng, vội ghi mấy lời này. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: Ôi: Chân lý vốn tự nhiên, ngộ cũng là sự phù hợp sâu xa, chân là dứt hết mọi sai lầm, nhưng ngộ được đâu phải là điều dễ dàng? Thể tánh không hề thay đổi, thường trong lặng tỏa sáng, chỉ vì theo đường mê lầm mà làm trái với thể tánh ấy. Sự việc chưa thực hiện được là do mình. Vậy phải dốc lòng lặn lội tìm cầu, mới xa đường mê, trở về chốn cao tột. Về với chốn cao tột thì đạt được gốc gác ngọn nguồn, giống như khởi điểm ban đầu. Đã có ban đầu thì sẽ có chung cuộc, thường do đó mà mờ tối, như đang tìm đường hướng về, mà cho mình đã gặp chốn ban đầu! Sự tỏa chiếu đâu phải nay mới có. Sự có ấy không ở ngày hôm nay, đó chính là chẳng phải có trước mà cho là Đại, nên được gọi là Đại. Sở dó gọi là Thường, vì Thường có liện hệ với Diệt, còn gọi là Bát-nê- hoàn. Bát-nê-hoàn chính là Diệt. Chọn lấy sự giải thích rõ ý nghóa ấy, thì phải tự trở lại tiếp xúc gần gũi theo nhiều hướng. Nay Kinh này để nói về thể chân thường, điều phục sự mê lầm. Mê lầm đã hoàn toàn bị chế ngự thì sau đó mới được ngộ. Ngộ thì đám mê kia bị diệt, do đó nên gồm lại cái gọi là “Chỉ” nhằm nêu về thể thường có được chăng? Lại, Bồ-tát trụ trong Kinh này đều đã chế ngự, dứt trừ mọi thứ trói buộc. Tuy chưa tạo được sự cao tột, nhưng vẫn có khả năng nói về Bát-nê-hoàn. Các vị đã nói về Nê-hoàn nhiệm mầu không gì hơn, nên cũng lại thể hiện tính chất Đại. Lại dùng ý nghóa đó để làm tên Kinh, thật đã gồm thâu trọn vẹn sự, tốt đẹp cùng tột. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đó chính là danh hiệu cao tột trong đạo mầu nhiệm của Đức Như lai, đều là tên gọi của tánh nhiệm mầu thường lạc. Niết-bàn là âm của tục lệ khác nhau. Âm có vùng Sở, vùng Hạ không giống nhau, trước sau phát ra, nên có ba tên gọi là Nê-hoàn, Niết-bàn, Nê-viết Niết-bàn, là cách phát âm của vùng trung Ấn-độ. Tên gọi ấy bao gồm nhiều nghóa, ở đây, Trung quốc không thể dùng một tên gọi để dịch ra, nên phải giữ nguyên tiếng Ấn-độ. Bát-niết ý nói là chẳng, cũng gọi là Vô sinh. Chữ Bàn nghóa là sinh, là diệt, là nhân, là tướng. Sinh là gốc của tám khổ. Phật đã dứt hết các thứ khổ ấy nên gọi là Bất sinh. Tuổi thọ của ngài sánh bằng với hư không, nên gọi là Bất diệt. Không còn theo đường tạo tác nhân quả nên gọi là Vô nhân. Thể không có mười tướng cho nên vô tướng. Pháp của bậc Vô học đều là dụng của thể, nói lược có ba tướng, nhằm nêu rõ đường nhiệm mầu của đạo pháp: Một là Bát-nhã; hai là Pháp thân; ba là Giải thoát. Nói Bát-nhã tức chỉ cho hiệu lực hiển bày của Ba đạt. Nói về Pháp thân tức đồng với lý ứng hóa. Gọi giải thoát là nhấn mạnh chỗ hoàn bị của các đức. Nêu ba pháp này là nói về một cách đầy đủ chỗ cao tột trong sự nhiệm mầu cùng cực của đạo. Đạo ấy để nói về tính chất thường hằng, cũng gọi là Đại Ngã, đại Lạc. Đại tịnh, sau đó thì có sự giải thích. Đức, Như lai mở đầu từ đạo tràng, kết thúc nơi Sa-la song thọ. Tất cả ba lần nói Kinh Niết-bàn, hai lần là phương tiện, một lần là chân thật. Ban đầu khai mở ba đường rốt ráo, là một phương tiện. Chỉ giảng nói về giải thoát, đó là Niết-bàn, mà thân tướng, trí tuệ là pháp hữu vi. Trong hai lần nói phương tiện, thì giảng nói Pháp Hoa để phá ba đường rốt ráo, nhằm làm rõ thân tướng, trí tuệ đó là pháp hữu vi. Nay giảng nói ở Sa-la song thọ thì thân tướng trí tuệ là Niết-bàn. Đó là giảng nói về rốt ráo cùng tột. Về Kinh, phát âm theo tiếng Ấn-độ là Tu-đa-la. Tu-đa-la gồm có năm nghóa. Xét: Pháp sư pháp Dao nói: Gọi là Niết-bàn tức gồm thâu các đường tụ hội chính của ngọn nguồn cùng tột. Là chốn trở về lớn lao hết mực, chính là bản thể. Là sự dứt bặt tuyệt diệu giữa hai lãnh vực hữu và vô, là sự vượt qua một cách thâm huyền chỗ phân biệt danh số. Ngôn thuyết chẳng thể cùng tận, khen ngợi chẳng thể nào cùng. Nhưng khen ngợi chẳng cùng, không vì thế mà không định rõ đến cùng cực, vậy nên nhờ khen ngợi để định rõ. Ngôn thuyết chẳng cùng tận, chẳng vì thế mà không hiển bày cõi chân thật, vậy nên nương ngôn thuyết để hiển bày, đó chính là đều cốt yếu. Gom lại không ngoài tính chất lớn lao, nên gọi là bao trùm mọi lý, đứng đầu mọi nghóa. Cho nên gọi là trong một tên gọi mà gồm có vô lượng tên gọi. Cái âm mang tính chất quan trọng như vậy thì không thể dịch được phần khen ngợi của nó. Đời Tấn đã cho là không thể thay thế tên gọi ấy, nên muốn giữ nguyên phiên âm ấy. Đánh mất ý nghóa sâu xa, tên gọi đó chỉ còn là sự kết hợp tạm bợ. Làm trái đường suy cùng thì dù có dùng lời khen ngợi hết mực cũng không thể đạt được chỗ tột cùng ấy, huống chi không dùng lời khen ngợi! Chính là do danh hiệu Niết-bàn quá sâu mầu, nghóa ấy thật dồi dào bao la. Phân tích, biện bạch, thì sự luận bàn sẽ kéo dài đến vô cùng, đâu chỉ giới hạn trong ba tướng là Bát- nhã mà thôi? Nhằm hướng tới chỗ cùng tột, nên nêu lược những điểm cốt yếu, đó chính là ý nghóa tóm gọn của ba tên gọi kia. Đi vào hội nhập Niết-bàn, thấu hiểu được từ ngữ ấy cũng là điều nên làm. Nhưng với ba tướng đó tên gọi dù khác mà thật là đồng vì thể chẳng khác nhau. Nếu xem thể ấy là cách biệt thì Niết-bàn đồng nghóa với nhân tạo ra pháp giả danh. Luống dối chẳng thật, đâu được xưng gọi là thường lạc! Xét: Pháp sư Đàm Tế nói: Đại Niết-bàn là tôn hiệu tột cùng đối với đạo nhiệm mầu của bậc Đại thánh, đều là tên gọi của tám pháp vị. Đó là sự giáo hóa của đạo pháp sắp đạt được sự trọn vẹn. Phát ra ngôn từ với cách đọc không giống nhau nên đặt ra tên gọi khác nhau, hình thành theo cách phát âm của Thiên-trúc, nghóa mầu nhiệm mầu ấy có sự bao gồm rộng khắp. Trung Hoa không thể dùng một từ để dịch mà đạt được sự tương xứng. Tìm hiểu ý nghóa thì rõ ràng chẳng phải một, gọi là vô sinh, lại gọi là vô diệt, cũng gọi là vô vi, vô tướng. Sở dó gọi là vô sinh vì đã hòa toàn dứt bặt bốn thứ sinh. Gọi là vô diệt, vì dung lượng bình đẳng với hư không, nên gọi là vô diệt. Gọi là vô tướng là vì thể đã dứt hẳn buộc ràng đối với mười tướng. Niết-bàn là các công đức của bậc Vô học được phát huy hết mức nhằm đạt tới chỗ tận cùng là thể Niết-bàn. Lược nêu có ba điểm, dùng để diễn tả tạm gọi là hoàn toàn, đó là Bát-nhã, pháp thân, giải thoát. Nói Bát-nhã là để nói về trí tuệ thấu suốt khắp muôn cảnh. Nói pháp thân là để nói về tính chất ứng hiện đầy đủ qua muôn hình tướng. Nói giải thoát là nói về các hệ lụy không còn dấy khởi. Trí thấu khắp muôn cảnh nên diệu dụng của ba đạt được hiển bày. Ứng hiện đầy đủ qua muôn hình nên cùng nhau ứng hiện ở mọi nơi chốn khác nhau. Các thứ hệ lụy không còn phát sinh, nên đường sáng của đạo nhiệm mầu được gồm thâu, tạo nên sự thành tựu. Cái gọi là Đại, do có đại ngã nên dưới mới có ngôn ngữ, văn tự. Ví như có một phương pháp huyền bí thâu nhiếp được tất cả các phương. Kinh này cũng giống như thế, vì sự bao trùm có nhiều. Bắt đầu từ Vườn Nai, cuối cùng nơi rừng Sa-la song thọ, ba lần giảng nói Niết-bàn. Lần đầu tiên nói ở Vườn Nai để nói lên ba thừa đều có Niết-bàn khác nhau. Lần thứ hai nói ba thừa cùng một thứ Niết-bàn. Lần thứ ba để nói về giáo pháp chân thật, phá bỏ hai thứ phương tiện, nói thân trí tức Niết-bàn. Vì vậy, pháp bao gồm nhiều nên gọi là Đại. Chữ Kinh, tiếng phạm gọi là Tu-đa-la, gồm có năm nghóa: Một là năng sinh, hai là vi phát, ba là dũng tuyền (suối vọt), bốn là Thằng mặc (dây mực), năm là Hoa man (tràng hoa). Hoặc dùng văn tự làm Kinh, hoặc dùng lý mầu làm Kinh. Hoặc văn tự chép trong bốn mươi quyển, tận cùng là thể tánh của Kinh. Sở dó gọi là năng sinh là do thông qua văn tự ấy, người thực hành dốc sức tìm cầu sẽ sinh ra các gốc lành. Gọi vi phát tức gốc lành lớn dần, như ban đầu thực hành ba quy y, kế là tu tập theo năm giới, cứ như thế đến khi đắc đạo. Đó là ý nghóa của vi phát. Gọi là Dũng tuyền (suối vọt), tức là qua văn tự để nêu bật lý mầu, cho thấy lý mầu ấy vô cùng vô tận, nên gọi là Thằng mặc (dây mực) tức là gốc của dây (thằng) để định rõ cây kia là cong, thẳng; ở đây để nói về Kinh này giải thích thông suốt đường chánh tà, dựa vào văn tự để lãnh hội được ý nghóa của Thằng mặc (dây mực) là như vậy. Gọi kết man, tức là hoa rơi khắp dưới đất, chẳng có lợi ích cho con người, dùng chỉ khâu xâu các hoa kia lại thành vật trang sức trên đầu người. Nếu không dùng chỉ khâu xâu lại thì chẳng có lợi ích gì cho con người. Ở đây để nêu rõ, nếu không dùng văn tự để giải thích lý mầu thì đối với con người sẽ vô dụng. Dùng văn tự để giải thích lý mầu, trở nên hữu dụng đối với con người, nên xem đó như sợi chỉ. Tuy có nghóa này, nay gọi là Kinh thì kết man là một trong năm nghóa. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Đó đều là tên gọi của sự thêm dần vào đường tận cùng, là sự xưng tụng cao tột của muôn điều lành. Về đại, một là giáo pháp đại, hai là lý mầu đại. Vì sao? Vì khởi đầu ở Vườn Nai, hoàn thành một cách trọn vẹn ở Pháp hoa. Giải thích nhân quả chưa trọn, nói về cảnh giới, hành hóa chưa khắp. Do đó nên gọi là nhỏ. Giáo pháp này tròn đầy, hoàn bị, vì vậy nên gọi là Đại. Trước nói Niết-bàn của ba thừa, chẳng phải rốt ráo đích thực, đó là đạo lý của đường vừa và nhỏ. Nay nói về pháp thân, Bát-nhã đều là nằm ngoài mọi thứ ràng buộc. Đó là đạo lý của bậc trung và lớn, cho nên gọi là Đại. Chữ Niết-bàn đúng là tiếng phạm, Hán dịch là Giải thoát, có nghóa là thoát khỏi muôn ngàn trói buộc. Mọi lo lắng về trói buộc đã chấm dứt, thể tánh hiện đủ các đức. Nay nêu lược có ba, gồm thâu các đức kia: Một là Pháp thân, hai là Bát-nhã, ba là Giải thoát. Diệu hữu vốn thanh tịnh, thể đều là Pháp, nên gọi là Pháp. Diệu thể thường sáng ngời, khác nào hư không, nên gọi là thân. Tinh thần trong lặng, tỏa chiếu thênh thang, chẳng gì không gồm thâu, nên gọi là Bát-nhã. Đạo pháp cao siêu khiến cho muôn sự mê lầm đều tỏ ngộ. Thể thường dứt mọi cấu uế, trói buộc nên gọi là Giải thoát. Ba đức ấy, nghóa tuy khác mà thể là một. Trên thể nhất ấy, các nghóa nhiệm mầu quan trọng gồm có ba, nhưng nay chỉ chọn và giữ lấy nghóa Giải thoát. Có ba nghóa để nêu rõ ý nghóa Kinh. Một là nói lý mầu vượt ngoài muôn đường mê lầm. Hai là gạt bỏ quan niệm cũ về giải thoát. Vì sao? Vì ngày trước, Tiểu thừa vốn dấy khởi sự lo lắng về thân trí, phải dứt trừ mọi khổ đau tai hoạ ấy nên dốc lòng mong cầu giải thoát, dứt sạch cả thân, trí, đó là sự giải thoát đơn độc, nên biết là nhỏ. Hôn nay, chỗ cần nói về là thể, gồm đủ các đức, gồm thâu cả Pháp thân và Bát-nhã, đều là thường hằng nên gọi là lớn. Kinh ấy, nghóa là Chư Phật ba đời, từ phàm phu đến bậc Thánh giác ngộ, vị nào cũng trải qua con đường đó. Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: Bàn về vắng lặng, kín mầu, thể ấy vượt ngoài hữu vô. Bất động hay chiếu soi thường trong lặng mênh mông. Đường vượt mọi sự nêu bày của số lượng. Hướng đi tới thường dứt bặt mọi vây hãm của sinh tử. Vượt lên bao pháp hữu vi đối với ngôn từ, cảnh giới, nên bậc đại giác thường rủ lòng thương xót lấy sự cứu khổ khắp các loài làm gốc. Chỉ vì chúng sinh căn trí khác nhau, nên giáo pháp phải chia thành năm bậc. Cũng như vật mê bị chướng ngại nhiều lớp, chưa thể đứng yên trong chốn rộng sâu. Cho nên trước phải khai mở giảng nói phương tiện, nhờ đó nay ý chỉ mới tròn đầy, thường hằng, chúng sinh đã được ân giáo hóa từ trước, lấy đó mà tu tập ý tâm, bèn dần dà bước qua cõi thênh thang mà đi vào đường đạo. Thể là thường, vô thường, hai luận ấy đều phải dứt trừ. Xem sinh tử là có của cái không có, rõ Niết-bàn là không của cái chẳng không. Đã được đứng yên trong chân thật mà ngộ lý mầu, biết khổ là không mà dứt mê lầm. Từ chỗ chẳng tu hành vào đạo, phát huy được lý mầu, biết rõ nhân duyên, nên phiền não mê lầm không còn sai khiến. Sinh tử khó dứt, nên nay phải mở rộng giáo pháp nhằm khai mở tự thể mầu nhiệm trong sáng vô lượng. Nói về sinh tử, dùng hai thứ khổ làm gốc. Nói về Niết-bàn lấy thường lạc làm nguồn. Thể chất nhiệm mầu thường hằng mà chẳng chút xao động. Hoạt dụng thường đổi thay mà không hề bị phá hủy. Dứt, vượt các đường danh tướng, trăm lời chấp nê chẳng thể giải thích! Nay, danh từ Niết-bàn hay dùng và trở nên thông dụng. Đó là tên gọi bao gồm đối với các pháp ra đời gian, là tôn hiệu hợp chung, gồm thâu các thứ công đức. Là đích quan trọng để đổi với sinh tử, là sự nêu bày hết mực về cái đẹp rốt ráo tột cùng. Bao nhiêu chướng ngại, trói buộc đã dứt trừ sạch, thì muôn hạnh trở về đường chân, chẳng đức nào không tròn đầy. Các diệu dụng đều đủ nên nhân chuyển quả sinh, gọi là Đại Niết-bàn, nên sau đó mới có văn tự, ngôn ngữ. Nếu thiếu một đức thì chẳng được gọi là Đại Niết-bàn. Nhưng từ ngữ ấy được đọc như thế, là cách phát âm của từng địa phương, cõi nước. Bậc Thánh giác ngộ đã xuất hiện nước kia, nên ở đây không thể dùng tên gọi để dịch cho chính xác. Chỉ vì trong văn tự còn có sự giảng dạy nên phải y theo nghóa để giải thích. Tuy nhiên, đức ấy thật sâu xa rộng lớn, khó có thể nêu lên một cách đầy đủ, nay chỉ xin trình bày tóm lược những điều quan trọng. Về lý có thể nói về ba điểm, nên phẩm Ai Thán có nói. Đó là thành trì quý báu của chánh pháp và kho chứa nhiều thứ huyền bí, nhiệm mầu. Hai là nói về các đức khác nhau. Ba là truyền đạt công dụng. Nghóa ấy thế nào? Ôi! Niết-bàn vô thể, là chỗ thành tựu của các đức, nên phải giữ lấy nào là thành trì quý báu, đối với ý nghóa sâu xa ấy thì dù cho việc đó được hai thừa bảo vệ, ngói, đất, đá, sỏi đều là vật báu. Thể đã gồm đủ muôn công năng thì báu nào mà chẳng tròn đầy, chỉ vì giáo pháp ngày trước chưa được nói ra, nay nói ra để có được sự rõ rệt từ đầu. Giấu thật làm bày quyền, như thế chẳng phải là huyền bí mầu nhiệm hay sao? Hai là nói các đức khác nhau, phẩm Công Đức chép: “Đó là Đại thường đại ngã, đại lạc, đại tịnh.” Do đó đã tạo thành nhân thắng diệu của Niết-bàn, nên dựa vào chỗ khác nhau mà nói về vẻ đẹp. Thể dứt mọi sinh diệt nên được gọi là Thường. Tám diệu dụng tự tại, đó chính là Ngã. Vắng lặng, không còn khổ đó là điểm nổi bật của lạc. Bụi bặm nhơ uế hoàn toàn dứt, đó gọi là Tịnh. Thể tướng vô biên nên được gọi là Đại. Đó đúng là các ngôn từ mang tính chất khen ngợi, là lời khen ngợi về sự tốt, đẹp. Ba là khen ngợi về công dụng, nên phẩm Sư Tử Hống nói là trở về nương dựa các cồn bãi lớn nhỏ hay đất liền, có công năng khiến cho mọi vật khỏi khổ mà được an ổn hoàn toàn. Rời khỏi sông để bước lên đất liền, đúng là vượt qua bốn dòng chảy của biển cả rộng sâu để đi đến bờ giác ngộ giải thoát. Như tìm về danh, dụng, lý, thì thường phải quên lời. Nên sự giáo hóa của bậc Thánh thường bao trùm, nói về đức thì muôn mối. Do vậy, nên đầu tiên phải khai mở chỗ quan trọng, mượn dụ nơi chữ y ấy để nêu rằng: Ba điểm định rõ chẳng dọc, chẳng ngang. Đã không nói thì gồm đủ cả Pháp thân, Bát-nhã và Giải thoát. Nhưng ba đức ấy vừa nêu bày đường chánh ở lãnh vực giáo hóa của đạo pháp, lại vừa gồm thâu xuyên suốt đối với các đức, cũng để nói về tâm, sắc ở trong nhân kỳ lạ. Làm hiển bày diệu dụng cao quý của quả Phật. Không cảm nào chẳng ứng hiện, nên gọi là Pháp thân. Các cảnh giới liên quan điều thông tỏ, đó là Bát-nhã. Thể ấy không còn các khổ đau, trói buộc, nên gọi là Giải thoát. Dốc nói về mỗi đức ấy, điều chẳng phải Niết-bàn. Gồm thâu các điểm chính là ở thể ấy, nên trong phần cuối của phẩm Danh Tự Công Đức có dùng tám vị ngon ngọt của bơ để khen ngợi. Luận bàn về chân, tục, thì thể của hai đường ấy vốn đồng. Dụng chẳng hề trái nhau mà mọi tăm tối được xua tan, bao điều tục đều dứt. Bỏ giả để làm rõ hơn cõi chân, ánh sáng an nhiên tỏa chiếu thông suốt, nên được khen ngợi là Phật. Kinh này đã nêu bày pháp ra đời, khai mở giáo pháp ra đời để chỉ dạy, dẫn dắt các phàm phu, ngoại đạo đến gần chỗ nương nhờ, tiếp độ các căn cơ ngu kém đến với chính đạo. Lý mầu ấy tròn đầy mà lợi ích cho người. Thể ấy là vô vi thường tiến tới các đức. Chỉ vì văn từ bao gồm rộng lớn mà ý chỉ thì u huyền, nên mới trước thì thuật lại truyền đạt rồi sau sẽ giải thích rõ. Kinh ấy, lấy từ chữ Kinh làm nghóa, nếu người học hỏi không nhờ vào giáo pháp lý mầu ấy thì sẽ không có được một dung lượng hiểu biết, cho nên chỉ dùng chữ Kinh mà thâu gồm xuyên suốt cả văn từ, lý mầu vào một bộ. Xét: Pháp sư Trí Tú bàn: Đó là tên gọi bao gồm các đức tròn đầy tột cùng. Nếu gọi đủ theo bản cũ thì nên đọc là Ma-ha Niết-bàn-na. Đạo thì thường dứt hẳn trăm đường luận bàn, không có chấp nê, mà lý mầu thì trở về một chốn cùng cực. Do trở về một chốn nên nhận biết về sự tạo thành. Vì dứt hẳn trăm thứ không thật có nên phải vô ngôn mới tiếp cận được với cõi cao diệu. Nhưng đã nhờ vào dấu vết để thấy danh, cũng là tìm hiểu về danh để biết gốc, nên dốc lòng phát huy danh, dấu vết, mới biết khởi đầu từ Thiên-trúc. Ở Trung quốc đời Đại Lương, đúng ra thì cũng có sự đề xướng để trước mắt là để mở mang đạo pháp. Đã mở ra sự rạng rỡ khắp bốn cõi, nhưng chưa lường hết ở cõi này, thế thì dùng cái gì để dịch? Do vậy, các bậc Hiền triết lần lượt sửa sang từ bản có lâu đời, chỉ kể lại mà không sáng tác, nên ở đầu Kinh nói gồm thể, đức, danh. Dùng Danh để gọi tên của Thể, nên Thể có đức. Thể ấy là gốc của sự mầu nhiệm tròn đầy tột cùng. Đức là sự phổ cập của Bát-nhã, Giải thoát. Nói về đức thì nhiều, nói về thể thì chỉ một. Danh tuy có đặc biệt, nhưng thật thì không khác. Vì sao? Vì thể thường tròn đầy tột cùng. Chứa đựng nghóa mầu về phép tắc nên gọi là Pháp thân. Chứa đựng công hiệu của sự tỏa sáng vắng lặng, ấy là Bát-nhã. Chứa đức dứt sạch mọi thứ trói buộc nên gọi là Giải thoát. Đó là khả năng tỏa chiếu thể giải thoát, mà cũng là thể giải thoát của khả năng chiếu soi ấy. Lại không có sự cách biệt khỏi thể mà có các đức. Cho nên dùng Niết-bàn để gọi chung. Thể tròn đầy, danh gồm thâu. Do thể tròn đầy nên bao gồm đủ các nghóa mầu. Phần cuối văn Kinh phẩm Danh Dự Công Đức đã dùng nhiều nghóa để giải thích về danh: Gồm đủ tánh vị nên gọi tên là Đại Niết-bàn. Tám vị gồm: Thường. Hằng. Tu. Mát mẻ. Không già. Không chết. Không nhỏ. Vui sướng. Tìm hiểu ý nghóa giáo hóa cùng tột của đạo pháp vắng lặng. Người có gốc lành thì sẽ được giác ngộ. Người chưa thì thấy được đường ngăn tình giữ khí, đều trở thành bậc hơn người. Chỉ nói về tuổi thọ lâu dài, lại còn cho rằng gấp bội số lượng, trên thì vẫn chưa thấy rõ chỗ đọng lại ở cõi bao la của sự giác ngộ là rất mực trong lặng, bất diệt. Nay với Kinh này, lấy cõi diệu hữu tột cùng làm kim chỉ nam, lấy việc mở rộng Phật tánh thường trụ làm tông chỉ, để làm sáng rõ về hạng Xiển-đề đức nhân chính đáng không đổi. Phân biệt rõ Pháp thân tức quả tròn đầy phải được nhận biệt một cách trọn vẹn. Cái gọi là giáo pháp cao mầu hết mực rốt ráo tức là để giảng nói về chốn rốt ráo cùng tột. Kinh, là từ ý nghóa của chữ Kinh. Người Ấn-độ dùng chữ ấy để chỉ cho việc giải thích mọi nghóa lý của văn tự, gọi chung là Tu-đa-la. Chữ Tu-đa-la chứa đựng nhiều nghóa, như sinh ra, vi phát, dũng tuyền (suối vọt), thằng mặc (dây mực), là các nghóa phổ biến. Nhưng nghóa mầu tột cùng của Kinh thì cũng là một. Điều đáng nói là hầu hết sách vở xưa có liên quan đến Phật giáo đời Lương đều dùng chữ Kinh làm đầu đề, do đó mà trở nên thông dụng đối với những người có học. Làm gọn chỗ phức tạp, theo đó mà lược bày, làm rõ điều cốt yếu để gọi tên, giảng rộng truyền khắp, tiến tới thì không trái với nghóa chính đã được gồm thâu, lùi lại thì thích hợp với thông tục mà được đơn giản. Xét: Pháp sư Pháp Trí nói: Ngôn ngữ sinh ra từ hình tượng, từ trong số lượng mà có hình tướng, tên gọi, được dấy lên trong sự liên quan ấy, nhưng với đạo pháp nhiệm mầu của bậc Chí Tôn thì đã dứt hết các đường ngôn ngữ, hình tượng, đâu lại còn có hình tượng, tên gọi nữa. Đạo viên dung thì chẳng thể truyền rộng khắp chốn, cho nên phải dùng phần đức gồm thâu, tinh túy để gọi tên một cách bao gồm. Tạm gọi là Niết-bàn, đó là tiếng Ấn- độ. Danh từ ấy gọi đủ là Bát-niết-bàn-na, đối với người nước ngoài, tên gọi đó có nhiều nghóa. Ở Trung quốc không có từ ngữ nào dùng để dịch được, nên phải giữ nguyên tiếng Ấn-độ. Đã nhờ tên gọi để làm rõ danh, thì có thể nhờ vào ngôn ngữ mà làm việc giải thích, truyền bá được chăng? Lý mầu phần nhiều cũng nhờ người để truyền đạt. Nếu có thể nhờ vào ngôn ngữ thì xin dùng ngôn ngữ để trình bày. Ngọn nguồn Niết-bàn là lý mầu, vượt qua các sự liễu ngộ của việc chú giải theo số lượng, dứt bặt mọi đường bên ngoài của sự xưng gọi ngầm từ chủ thể. Nói lời êm ái, thấu suốt, điều ấy chính là do bản hữu. Cái gọi bản hữu, đúng là chỗ kín mầu nhằm đến vị lai qua nhiều đời mà có, chứ không phải nói về hiện tại cùng đời mà có. Nếu cho rằng vị lai là có thì đó là thứ nhận thức bẩm sinh. Lúc ngọn nguồn chưa tạo nhân, thì đã tự có rồi, chẳng chờ nghiệp duyên làm khởi điểm, nên chẳng phải sự tạo tác từ ban đầu. Đã chẳng phải sự tạo tác ban đầu, nên cho rằng vị lai thì chẳng cùng với ba đời mong đợi sự tạo nghiệp mà có. Tuy đã tự có, nhưng đời vị lai chưa dấy khởi thì diệu dụng đã thể hiện khắp. Cho nên phải thấu đạt được nhân thì mới thuận hợp trong việc hiển bày quả. Thể gồm đủ các sự tròn đầy nên lấy đó đặt tên, đó chính là nghóa mầu của muôn đức, đều bao gồm trong nghóa mầu Niết-bàn. Khởi đầu, khai mở chữ Y (Tất-đàm) theo đó mà truyền đạt ba đức, dùng để nói về Niết-bàn, nói về sự khác nhau đối với sự giảng nói từ trước. Vì sao? Vì giáo pháp được giảng dạy từ trước xem thân, trí là hữu vi, chưa thoát khỏi sự trói buộc của quả, nên phải dứt bỏ thân, trí, khởi đầu là vô vi, giảng nói về pháp diệt ấy là vô vi giải thoát. Nếu pháp diệt đó được dùng để giảng nói các nghóa giải thoát, diệt độ, vô vi, lạc tịnh, là đối với sinh tử mà nói, thì đó chính là Niết-bàn Vô dư. Là vì trước giảng nói về Niết-bàn cũng gồm có nhiều nghóa, chỉ không được nói về thân trí mà thôi, cho nên ba việc nêu ra đều là không, nay đã giảng về giác pháp rốt ráo tột cùng nên có khác đối với trước, phải giữ lấy ba đức, tức chỉ cho thân, trí mà là giải thoát. Ba đức thường tồn tại là sự hiển bày một thể gồm ba đức, là pháp Niết-bàn. Pháp đều có đức, đó là nghóa Niết-bàn. Thể gồm cả ba đức gọi là pháp Niết-bàn, trong Kinh nói pháp là tự thể, nên dùng Thể làm pháp. Ba đức là nghóa của Niết-bàn, là dùng ba đức của pháp, nên pháp có ba nghóa, do đó mà nghóa của ba đức đều là nghóa Niết-bàn. Nói Pháp thân là nghóa của Niết-bàn, thì pháp là dùng phép tắc làm dụng. Thân là tên gọi khác của thể, hay còn hiểu thể ấy gồm thâu các pháp, nên gọi là Pháp thân, hay gọi là Niết-bàn thường trụ. Đã gồm thâu các pháp, thì nên dùng nghóa Pháp thân làm nghóa Niết-bàn. Gọi Bát-nhã là nghóa Niết-bàn, thì Bát-nhã lấy sự soi tỏ, lý giải làm công năng. Niết-bàn thường trụ đã nói có tự thể thì dứt hết mọi nhận thức, nhưng chẳng có điều gì không biết, tức là Bát-nhã. Nên dùng nghóa của Bát-nhã làm nghóa Niết-bàn. Nói giải thoát là nghóa Niết-bàn, thì giải thoát đã lấy nghóa cởi bỏ mọi thứ trói buộc. Niết-bàn thường trụ, thể ấy tuy hiện hữu nhưng hai thứ trói buộc về nhân, quả đều cởi bỏ, nên dùng nghóa giải thoát làm nghóa Niết-bàn. Đã cho rằng hai thứ thân, trí đều diệt hết, cho nên hai thứ ấy đều được nói về. Là vì đối với các nghóa còn lại, hai giáo đều có. Sự đồng giải thoát, nói lược mà không giải thích. Nhưng về nghóa mầu của ngã thì diệu lực ở bậc Giác ngộ. Niết-bàn là pháp bảo. Người pháp đã khác nhau thì không chờ có sự giải thích rõ. Nếu đã xem nghóa muôn đức đều là nghóa Niết-bàn thì pháp là pháp viên dung, danh cũng là danh viên dung. Danh, pháp đều viên dung, nên từ khởi đầu đã thể hiện trọn vẹn chốn tột cùng ở đạo thần diệu của bậc Chí tôn, nên gọi là Niết-bàn. Lại còn dùng chữ Đại, Đại là để làm hiển bày danh, lý, cả hai đều cao tột. Ngày trước, hai việc đều diệt tận, như thế chưa được gọi là Đại. Nay nói về Niết-bàn, thể ấy tròn đầy, lý đã ứng hợp với danh, danh không làm mất lý, cả danh, lý đều cùng tột, mới đích thực là Đại. Kinh, chỉ cho bao ngôn từ lý mầu từ miệng vàng của Đức Thế tôn nói ra nên được gọi là Kinh. Nếu do đệ tử tạo ra, chẳng được Phật ấn chứng thì không được gọi là Kinh. Vì sao? Vì Kinh chứa đựng tính chất dạy bảo, nói lược gồm hai nghóa. Một là dạy bảo về nghóa thường, hai là dạy bảo về lý do. Thường, hễ là bậc Chí tôn cao tuệ cao diệu mà có lời chỉ dạy, thì ngôn ngữ phải xứng hợp với lý. Các bậc Thánh không thể thay đổi ngôn từ, nên gọi là thường. Vào Thánh ra Phàm chẳng ai không nhờ vào đó. Lời giảng nói của Phật, xét về hai nghóa ấy đều đạt tới sự tột cùng nên được xưng tụng là Kinh. Sự giảng dạy của đệ tử, về lý có chỗ chưa thấu suốt, về ngôn từ có chỗ chưa chân thật, đối với lẽ thường và lý do, hai nghóa ấy có chỗ chưa cùng tột nên không được gọi là Kinh. Về trường hợp Duy-ma, Thắng-man, tuy có sự giảng nói nhưng đều được Phật ấn chứng, khen ngợi nên mới gọi là Kinh. Xét: Pháp sư Pháp An nói: Niết-bàn là ngôn từ tên gọi phải không? Đó là quả hết mực cao tột, quả cao tột đó, vi tế vượt qua hình sắc, âm thanh, nhiệm mầu dứt hẳn mọi dung lượng và buộc ràng của vật dụng. Sự phân tán ấy sâu xa nhiều, thì đức đó sẽ hoàn bị. Cho nên có khả năng vượt qua mọi chốn sinh diệt, an nhiên thường còn, thế thì làm sao dùng ngôn từ để diễn đạt? Pháp tỏa chiếu chưa tận cùng, mới biết sự thần diệu ấy có thay đổi. Làm cho sự trói buộc là nhân, mọi sự dấy khởi sẽ bị tàn tạ. Nay quả cùng tột, thể không chút bụi bặm che lấp. Dốc làm rõ chỗ sinh của nhân, cao vời mà thường còn, việc ấy có thích ứng hay không? Sẽ dùng để dẫn dắt muôn vật, nên mới nhờ ngôn từ nêu bày ba đức. Vì chỉ lấy pháp làm thể, nên gọi là Pháp thân. Mọi mê lầm trói buộc kia đều mất hết nên gọi là Giải thoát. Chỗ tỏa soi không nơi nào bỏ sót, nên gọi là Bát-nhã. Gọi là Pháp thân, đức nói về thể nhiệm mầu ấy. Trí dứt hai đường xưng gọi là để nêu lên đức cao quý. Nói lược ba điều đó, tức là đã gồm nhiếp nhiều sự tốt đẹp. Một tên gọi của người Ấn-độ, kết hợp được ba điều dạy bảo ấy. Nếu chỉ lấy ra một phần để gọi thì chẳng đạt tới chỗ tận cùng của chốn cao tột kia, cho nên phải giữ lại tiếng của người Ấn-độ để làm tựa đề Kinh. Đại, là tên gọi của Đại Niết-bàn. Tên gồm thâu nhiều nghóa. Từ chỗ nương dựa của nhân chưa tròn đầy, sự xưng gọi kia phải có sự quan tâm, cho nên thêm vào một chữ Đại, làm cho chỗ quan trọng được sáng tỏ. Xét: Pháp sư Đàm Chuẩn nói: Vì chỗ linh diệu của sự tốt lành, là nhà cửa thênh thang của sự sống tốt đẹp, giữ vững lấy nhân thì sự hành hóa vượt khỏi Thập Địa. Nghiêm xét về quả thì chỗ sâu mầu cao tột được tiếp xúc gần gũi từ đầu. Chốn tạo tác mênh mông chẳng thể đổi dời. Đường u huyền xoay vần nhưng không chút lay động. Lý vắng lặng hết mực thần diệu, đó là lấy đức thường làm tông chỉ. Nhưng các điều tốt đẹp chẳng thể dùng ngôn từ diễn tả hết được, nên phải dốc nhờ ba đức để truyền đạt, giữ lấy sự chiếu tỏa, soi sáng thường thông suốt, thênh thang, đó là điểm nổi bật của Bát-nhã. Ứng hợp chẳng hề làm lay động sự vắng lặng, nghóa ấy chính là Pháp thân. Mọi thứ trói buộc mê lầm đều dứt, đó gọi là Giải thoát. Ba nghóa đã được sáng rõ, chính là nghóa mầu vốn có của Niết-bàn. Đại là ngôn ngữ được dùng ở đời Lương , còn Niết-bàn là từ ngữ thông dụng của Tây vực. Tính chất dạy bảo của từ ngữ ấy bao gồm nhiều nghóa, ở đây, Trung Hoa, không thể dịch trọn được, nên tốt nhất là giữ nguyên tiếng gốc của Ấn-độ dùng làm đề mục. Ý nghóa quan trọng trong ấy lần lượt nêu ra gồm: Giải thích tên gọi. Giải thích tự thể. Nói về bản hữu. Nói về dứt bặt danh ngôn. Giải thích chữ Đại. Giải rõ chữ Kinh. Xem xét ý nghóa của giáo pháp. Chia ra phần đoạn. Trên đây là tám mục. Giải thích tên gọi: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Như lai là tôn hiệu cao tột của đạo pháp thần diệu, là tên chung của tám vị thường, lạc. Mà cách phát âm của tục lệ khác lạ ấy có sự khác nhau của vùng Sở, vùng Hạ, nên gọi là Niết-bàn, Nê-hoàn, Nê- viết. Niết-bàn là chánh âm của người Trung Ấn-độ, tên gọi đó bao gồm nhiều nghóa, ở đây Trung Hoa, không thể dịch được. Các vị Pháp sư Pháp Dao, Đàm Tế, Bảo Lượng, Đàm Ái, Trí Tú, Pháp Trí, Pháp An, Đàm Chuẩn đều đồng ý về điều này. Nhưng chỗ bàn của Pháp sư Pháp Dao dường như có chỗ chẳng đồng, ý cho rằng: “Cho nên nói là trong một tên gọi mà gồm có vô lượng tên gọi”, suy xét tìm hiểu để phát biểu cho đúng thì danh từ Niết-bàn thật ra không phải chỉ bao gồm nhiều nghóa, mà còn bao gồm nhiều tên gọi. Lại như Pháp sư Bảo Lượng cho là “Tuy cũng cho là không thể dịch”. Không nói là tên gọi bao gồm nhiều nghóa, nhưng cho rằng “Tính chất dạy bảo phải nên nói về việc giải thích ý nghóa”. Tiếp tục cho là: “Bậc Thánh giác ngộ đã xuất hiện ở cõi ấy, Trung quốc không thể phiên dịch một cách chính xác. Chỉ vì trong văn tự còn chứa đựng tính chất dạy bảo nên phải nói về việc giải thích ý nghóa mà thôi”. Pháp sư Pháp An cũng nói “Sự dạy bảo phát xuất từ các ý nghóa”. Pháp sư Đạo Sinh bảo “Tên gọi chính thức là Diệt. Giữ lấy y nghóa ấy tức là sự dạy bảo. Tự mình trở lại tiếp xúc gần gũi từ nhiều hướng. Nay Kinh này để nói về thể chân thường khiến chế phục sự mê lầm kia. Mê lầm đã hoàn toàn bị chế ngự thì sau đó mới được tỏ ngộ. Ngộ thì các mê lầm bị tiêu diệt, dùng điều ấy để gọi tên cho sự quy về, như thể là chỉ nhằm giảng nói về Thường chăng? Lại, Bồ-tát trụ trong Kinh này đều đã chế ngự dứt trừ mọi thứ trói buộc. Tuy chưa tạo được sự cao tột, nhưng vẫn nói về được Bát-niết-bàn. Các vị đã nói về Niết-bàn nhiệm mầu không gì hơn, nên cũng lại dùng tính chất không gì hơn ấy để nói về lớn lao. Lại dùng ý nghóa đó để gọi tên Kinh thật đã gồm thâu một cách trọn vẹn sự tốt đẹp, tận cùng”. Pháp sư Tuệ Lãng thuật lại lời Pháp sư Pháp Dao rằng “Điều ấy gọi là vắng lặng, nghóa là dòng tâm thức không còn được gọi tên nữa”. Lại nói lại lời của Pháp sư Đàm Tiên rằng: “Đó được gọi là dứt hết mọi hệ lụy”. Pháp sư Tăng Tông cho là: “Điều đó được gọi là Giải thoát, tên gọi tuy khác mà ý nghóa là một. Vì vậy cũng gọi là lìa bỏ mọi trói buộc. Nhưng giải và thoát đều là tên gọi của đức, là lời xưng tụng của tính chất dứt mọi hệ lụy, gồm cả những diệu bị dứt”. Xét về bài luận của Đại sư Tăng Triệu (luận Niết-bàn Vô Danh) cho rằng: “Đó gọi là diệt độ, cũng gọi là vô vi, nghóa là dứt trừ sinh tử để đi đến bờ giác ngộ giải thoát, gọi là vắng lặng, vô vi”, cối kê Tuệ Cơ đồng với ý kiến trên cho rằng đó gọi là vô vi. Trí Tạng, Pháp Vân thì cũng đồng với ý kiến trên cho rằng đó gọi là diệt độ. Pháp sư Minh Tuần xét: Tuy không thể dịch một cách chính xác, nhưng chẳng phải tên gọi chung của các đức, mà chính là từ ngữ gọi chung của việc dứt hết mọi hệ lụy, trói buộc. Vì sao? Vì phần cuối văn cho rằng: “Bát-niết là chẳng, cũng gọi là không. Bàn-na là sinh, cũng gọi là diệt”, như thế là đủ để nói về tên gọi của sự dứt hết mọi hệ lụy, trói buộc, dùng để giải thích tính chất dạy bảo. Nói về thể: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: Chân lý tự nhiên, ngộ cũng thầm hợp. Chân là dứt hết mọi sai lầm, nhưng tỏ ngộ được đâu phải là điều dễ dàng? Thể tánh không hề thay đổi, thường trong lặng tỏa sáng, chỉ vì theo đường mê lầm mà làm trái với thể tánh ấy. Việc chưa thực hiện được là ở chính ta. Vậy nên phải dốc lặn lội tìm cầu mới thoát khỏi đường mê, trở về chốn cao tột”. Pháp sư Tăng Lượng nói: Pháp của bậc Vô học đều là thể ấy. Đức Phật nói lược có ba, để nêu bật đạo Thần diệu. Một là Bát-nhã, hai là Pháp thân, ba là Giải thoát. Pháp sư Pháp Dao nói: Niết-bàn là tôn hiệu cao tột, ý nghóa thật dồi dào, rộng lớn, đâu chỉ dừng lại ở ba nghóa như Bát-nhã? Nhằm hướng về chỗ tột cùng nên nói lược những điểm cốt yếu. Tuy nhiên, ba đức ấy tên gọi tuy khác mà thật ra thì đồng thể chẳng hề khác nhau. Nếu xem thể ấy là tánh khác thì Niết-bàn đồng với nhân, tạo nên pháp giả danh, luống dối chẳng thật, đâu được xưng gọi là thường? Pháp sư Tăng Tông nói: Mọi lo lắng về trói buộc đã dứt, thể tánh hiện đủ các đức, lược nêu có ba, có công năng gồm thâu được tất cả. Nhưng với ba đức ấy, thể là một mà nghóa lại khác nhau, nên đối với nhất thể đó, nghóa mầu biểu hiện có ba. Pháp sư Bảo Lượng nói: Bao chướng ngại, trói buộc đã dứt sạch thì muôn hạnh quy về nhân, chẳng đức nào không tròn đầy, mọi diệu dụng đều đủ nên nhân chuyển quả sinh. Gọi là Đại Niết-bàn, nhưng đức ấy rất mực sâu xa rộng lớn, khó có thể nêu lên một cách đầy đủ, chỉ trình bày tóm lược điều quan trọng. Về lý có thể nói về ba điểm: Thành trì quý báu của chánh pháp. Nói về các đức khác nhau. Gởi gắm công dụng. Vì sao? Ôi, Niết-bàn là vô thể, là chỗ thành tựu các đức, nên phải giữ lấy như thành trì quý báu, để dụ cho ý nghóa sâu xa kia. Nêu lên các đức khác nhau, đó là Đại thường, Đại ngã v.v… do đó đã tạo thành nhân thắng diệu của Niết-bàn. Về công dụng, nghóa là trở về nương tựa cồn bãi, đất liền, thì khiến cho mọi vật khỏi khổ mà được yên ổn. Pháp sư Trí Tú nói rằng: Thể ấy là gốc của diệu hữu tròn đầy tột cùng. Đức ấy là sự cùng khắp của Bát-nhã, Pháp thân, Giải thoát. Nói về đức thì tuy nhiều nhưng nói về thể thì chỉ có một. Vì sao? Vì tự thể tột cùng thường tròn đầy ấy chứa đựng nghóa mầu về pháp tắc thì gọi là Pháp thân. Chứa đựng công hiệu của sự tỏa sáng vắng lặng thì gọi là Bát-nhã. Chứa đựng đức dứt sạch hết mọi thứ trói buộc, hệ lụy gọi là Giải thoát, đó chính là tự thể có khả năng tạo ra phép tắc của sự giải thoát, cũng là tự thể có khả năng tỏa chiếu của phép tắc để đạt được. Lại không có sự tách biệt khỏi thể mà có các đức. Khảo sát kỹ các tài liệu giảng tập cũ thì có hai lối giải thích. Một cho rằng tự thể là quả cao tột tròn đầy, là diệu hữu chân thật, chẳng phải như danh giả chỉ nhờ vào tác dụng mà không có tự thể. Một thì cho rằng Niết-bàn là vô thể, mượn các đức mà thành, nên đâu đạt được cái “Bất không”? Tuệ Lãng thuật lại lời của Pháp Dao: Sinh, tử, Niết-bàn, nghóa chia làm hai, là do nhận thức điên đảo về mười hai nhân duyên mà có. Tức nhân duyên tánh không, đó là Niết-bàn, đâu phải chờ dứt bỏ hết phiền não? Có cái diệu, cái ái để đạt được mà là “Bất không” chăng? Cho nên Kinh Bát-nhã chép: “Dù cho có pháp nào đó hơn cả pháp Niết-bàn, ta cũng nói là như huyễn như mộng.” Lại thuật lời của Tiêm Ái, Tông Đẳng cựu giải thích rằng: “Muôn hạnh đạt được quả cao tột tròn đầy. Thể của quả là thật, nhưng theo đức để lập nghóa, thì chẳng phải mượn các nghóa để cùng tạo một thể. Pháp sư Pháp An nói: Niết-bàn tuy dùng các đức làm thể mà khác với việc năm ấm tạo thành con người. Vì sao? Vì con người và năm ấm giả thật cả hai đều không, còn Niết-bàn tuy không mà các đức là thật. Nói về Bản hữu: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói rằng: Trở về chốn cao tột thì đạt được gốc gác ngọn nguồn, giống như khởi điểm ban đầu. Đã có ban đầu thì có chung cuộc, thường do đó mà mờ tối, như đang đi tìm chỗ hướng tới bèn cho mình là đã gặp được chốn ban đầu. Sự tỏa chiếu chẳng phải nay mới có. Pháp sư Tăng Lượng rằng: Bát-niết là chẳng, cũng gọi là không. Bàn-na là sinh, cũng gọi là nhân. Chẳng từ sự tạo tác nhân quả mà có nên gọi là vô nhân. Pháp sư Bảo Lượng nói rằng: Nói về sinh tử, lấy tám khổ làm gốc, nói về Niết-bàn lấy thường, lạc làm nguồn. Thể chất nhiệm mầu thường hằng mà chẳng chút động. Hoạt dụng thường đổi thay mà không hề bị phá hủy. Dứt các thứ danh tướng, trăm phi chẳng nói. Nay, ý chỉ của Niết-bàn, nhờ diệu dụng mà được xưng tụng. Như nói về chân, tục, thì hai thể này vốn đồng. Dụng chẳng hề trái nhau mà mọi tăm tối được xua tan, các thứ tục đều dứt hết. Bỏ giả để làm sáng rõ chân, ánh sáng an nhiên tỏa chiếu, đó chính là Phật. Pháp sư Pháp Trí nói rằng: U huyền, là nhiệm mầu khó giải thích, đó chính là bản hữu. Cái gọi là bản hữu đúng là chỗ mầu nhiệm nhằm đến vị lai cách nhiều đời mà có, chẳng phải nói là có ở đời hiện tại. Là loại nhận thức bẩm sinh. Lúc ngọn nguồn chưa tạo nhân thì đã tự có rồi, nên gọi là bản hữu. Chẳng đợi nghiệp duyên làm khởi điểm, vì vậy chẳng phải sự tạo tác từ lúc đầu, cho nên nói rằng vị lai chẳng cùng với ba đời mong chờ sự tạo nghiệp mới được xem là có. Tuy nhiên, lúc vị lai chưa dấy khởi, chưa làm thì đã có diệu dụng. Cho nên phải thấu đạt về nhân, sau đó mới có được sự ứng hợp. Tuệ Lãng kể lại lời ngài Pháp Dao cho rằng: Sinh, tử chẳng dứt, do mười hai nhân duyên. Nhân duyên không có tánh, tức là Niết-bàn, nên gọi là có từ ban đầu. Nói về dứt bặt tên gọi: Xét: Nhiều người nói rằng: Về các tài liệu giảng tập có từ trước, thì có năm giải thích. Thứ nhất: Pháp thân nhiệm mầu tột cùng, vắng lặng vô vi, sánh ngang một cõi chân như. Một tướng, vô tướng, chẳng lẽ cho rằng đức có thể bao gồm đủ? Tuy phải nhờ ngôn ngữ để thường giải thích, nhưng giải thích mà thường dứt, bặt ngôn từ. Cũng như nhờ vào ngón tay chỉ mà thấy được trăng nhưng mặt trăng, chẳng phải ngón tay. Thứ hai là: Ngôn từ vuông mà lý thì tròn, khó dùng để giải thích. Đạo thần diệu thì mênh mông sâu mầu, chỉ có thể hội nhập mà không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ. Ví như người giàu Kinh nghiệm trong việc sử dụng các chi tiết nhỏ nhặt của bánh xe, chẳng thể truyền hết chỗ sâu xa về Kinh nghiệm của mình cho người được trao truyền. Tục đế vốn thông thường, cạn cợt, hay còn khó dùng ngôn ngữ để diễn đạt, huống chi chân đế sâu mầu mà gọi tên được hay sao? Thứ ba: Cái gọi là dứt hẳn ngôn từ thuộc về lãnh vực pháp thân, dứt bặt các tên gọi của sự buộc ràng của phàm trần. Thể là Diệu hữu tối tôn, tối thắng. Làm sao gọi tên được chỗ diệu hữu tối tôn, tối thắng ấy? Chắc chắn chẳng thể được! Thứ tư: Danh, tự là hình tướng liên quan với các pháp. Nếu dùng ngôn từ để chỉ cho nội dung của hình tướng liên quan ấy thì ngôn từ cùng với đối tượng được chỉ, phải tương xứng. Nếu là lãnh vực vô tướng thì nhờ vào sự chỉ, kia mà đạt được, nhưng cuối cùng vẫn dứt bặt đối với sự dùng ngôn từ để chỉ, ấy. Lối giải thích thứ năm: Tất cả các pháp vốn dứt bặt các danh, tự, dựa theo điều ấy mà bàn luận, do đó mà lãnh hội được Pháp thân. Cũng có thể xem sinh tử là Niết-bàn, xem Niết-bàn là sinh tử. Nay, danh, tự đã được xác định, nghóa là Niết-bàn là sự dứt bặt đối với tên gọi sinh tử, là điều đáng tôn quý. Giải thích chữ Đại: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: Sự có chẳng ở hiện tại, tức là chẳng phải có trước mà gọi là Đại, nên được gọi là Đại. Sở dó gọi là Thường, vì thường có liên quan tới diệt. Pháp sư Tăng Lượng nói: Đại là nói về thường, cũng gọi là Đại ngã, đại lạc. Văn sau có giải thích: Pháp sư Tăng Tông cho rằng: Là giáo đại, lý đại. Giáo đại: Tức trước đây sự giảng nói ấy nhằm giải thích nhân, quả, cảnh giới, sự thực hành, đều chưa được chu toàn, tròn đầy. Hôm nay, điều được nói là rốt ráo liễu nghóa, nên gọi là Đại. Về lý đại, ngày trước giảng về Niết-bàn của ba thừa chẳng phải là rốt ráo chân thật. Trong lý ấy là nhỏ. Hôm nay nói về thân, trí giải thoàt, đều nằm ngoài mọi sự hệ lụy, đối với lý là Đại, nên gọi là Đại. Pháp sư Bảo Lượng nói: Hình tướng của thể là vô biên, nên gọi là Đại. Pháp sư Pháp Trí nói: Lý đã ứng hợp với tên gọi, tên gọi không làm mất lý, danh lý đều là tột cùng nên gọi là Đại. Pháp sư Pháp An nói: Ngày trước tuy có giảng về Niết-bàn nhưng thể, đức chưa tròn đầy nên chẳng được gọi là Đại. Ngày nay, thể tròn đầy, đức đầy đủ, nên được gọi là Đại. Giải rõ chữ Kinh: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Kinh, tiếng Ấn-độ là Tu-đa-la, tên gọi gồm năm nghóa. Pháp sư Tăng Tông nói: Từ phàm phu đến bậc Thánh, đều trải qua để được lý này. Pháp sư Bảo Lượng nói: Người tu học đều nhờ vào đó mà được hiểu rõ. Dùng một chữ ấy gồm thâu văn lý của một bộ. Pháp sư Trí Tú nói: Người Ấn-độ dùng văn tự để giải thích lý, gọi chung là Tu-đa-la, từ ấy chứa đựng nhiều nghóa, thông dụng là các nghóa: Xuất sinh, vi phát, dũng tuyền (suối vọt), thằng mặc (dây mực) và hoa man (tràng hoa). Nhưng nghóa mầu tột cùng của Kinh thì cũng gồm thâu trong một. Pháp sư Pháp Trí nói: Có hai điều dạy bảo. Một là dạy bảo về lẽ thường, nghóa là dùng ngôn ngữ để nnói về lý , vì lời dạy của các bậc Thánh là không thể thay đổi. Hai là dạy bảo về lý do, tức là chỗ dựa để “Ra phàm vào Thánh”. Pháp sư Pháp An nói: Kinh, giải thích về ý nghóa dạy bảo có hai thứ: Một là Thường; hai là Pháp. Tiếng nước ngoài là Tu-đa-la, gồm có nhiều nghóa: Gọi là Dũng tuyền (suối vọt), cũng gọi là Thằng mặc (dây mực). Nay dùng nghóa Thường thay cho nghóa Dũng tuyền (suối vọt), nói về thường chảy không cạn kiệt, dũng nghóa pháp để làm nghóa sinh động Thường mặc (dây mực), là nói về tính chất khuôn khổ dù bị mờ nhạt, thì cái đích của phép tắc, cũng không bị chìm mất. Khảo chứng về ý nghóa của giáo pháp: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đức Như lai bắt đầu từ đạo tràng, chung cuộc ở Sa-la song thọ. Ba lần giảng nói về Niết-bàn, hai lần là phương tiện, một lần là chân thật. Vì sao? Vì ban đầu khai mở ba thứ rốt ráo, nghóa là để vào một phương tiện. Chỉ giảng nói về giải thoát, đó là Niết-bàn là thân, trí là hữu vi. Trong hai phương tiện, tuy giảng nói Pháp Hoa để phá ba thứ rốt ráo trước đây, mà thân, trí là hữu vi. Nay giảng nói nơi Sa-la song thọ thì thân trí tức là Niết-bàn, nghóa là giảng nói về rốt ráo không còn sót. Pháp sư Bảo Lượng nói: Do căn tánh của chúng sinh khác nhau nên giáo pháp chia thành năm bậc. Cũng như vật mê bị chướng ngại nhiều lớp, chưa thể đứng yên nơi chốn rộng sâu. Cho nên trước phải khai mở, giảng nói phương tiện, nhờ đó nay ý chỉ mới tròn đầy thường hằng. Chúng sinh từ trước đã được ân giáo hóa, lấy đó tu tập tâm ý, dần dà bước qua cõi thênh thang, nhập vào đường đạo. Cho nên thường, vô thường, hai luận ấy đều dứt bỏ. Xem sinh tử là cái có của cái không có, rõ Niết-bàn là cái không của cái chẳng không. Đã được đứng yên nơi chân thật mà tỏ ngộ lý mầu, biết khổ mà không dứt trừ mê lầm. Từ chỗ chẳng tu hành nhập đạo phát huy được lý mầu, biết rõ nhân duyên, nên phiền não mê lầm không còn sai khiến. Sinh tử khó dứt, nên nay phát triển giáo pháp nhằm khai mở các diệu thể trong sáng vô lượng, do vậy trước phải khai mở tông, mượn dụ nơi chữ Y, ba điểm định rõ chẳng dọc chẳng ngang, khác với trước là về hữu dư, vô dư. Pháp sư Tăng Tông nói rằng: Nay, sở dó chỉ chọn, giữ lấy đức giải thoát là để nêu lên tên Kinh, có hai nghóa: Nói về lý nằm ngoài muôn hoặc. Vạch ra sự mê chấp về giải thoát trước đây. Ngày trước, Tiểu thừa vốn dấy khởi sự lo lắng về thân, trí, dứt trừ các khổ hoạn, mà dựa vào giải thoát. Vì thế nay dùng sự cao quý đó để thay thế quan niệm cũ. Pháp sư Trí Tú nói: Đức Như lai đầu tiên hóa độ ở Vườn Nai, sau rốt là ở đỉnh Linh Thứu. Dốc nói về chỗ cao tột của độ pháp vắng lặng. Người có gốc lành thì sẽ đạt được giác ngộ, người chưa có thì thấy được chỗ ngăn tình giữ khí, đều trở thành bậc hơn người. chỉ nêu về tuổi thọ dài lâu, lại còn cho là gấp bội số lượng trên nên chưa thấy rõ chỗ đọng lại ở cõi bao la của sự giác ngộ là trong lặng, bất diệt. Nay, với Kinh này, lấy cõi diệu hữu tột cùng làm kim chỉ nam, dùng việc phát huy Phật tánh thường trụ làm tông chỉ. Nói về Xiển-đề, tức nhân chính không thay đổi. Phân biệt về pháp thân, tức quả tròn đầy phải được nhận biết một cách trọn vẹn. Cái gọi là giáo pháp cao diệu hết mực rốt ráo, tức để nói về chỗ rốt ráo cùng tột. 8. Chia ra đoạn mục: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Kinh nêu ra chưa hết, phần hiện có được chia làm bốn: Khuyến khích thưa hỏi. Hỏi. Trả lời. Chứng Pháp luân. Xét: Pháp sư Đàm Ái nói: Chia ra làm mười: Nói về phần mở đầu, tức là phẩm Tự. Nói về phần chính, từ Phẩm Thuần-đà đến hết phẩm Kim Cương Thân. Phần lưu thông, từ phẩm Danh Tự Công Đức cho đến hết phẩm Tứ đảo. Nói về Phật tánh, từ phẩm Như lai Tánh đến hết phẩm Nguyệt Dụ. Khen ngợi công đức Kinh, từ phẩm Bồ-tát đến hết phẩm Hiện bệnh. Mục đích y theo Kinh để tu tập, tức là năm hạnh. Nêu ra thể của sự thực hành chứa đựng nghóa mầu công đức. Vì hướng về quả vị Phật là nghóa mầu của hành. Do công sức tạo ra mà đức chính là nghóa mầu công đức. Nhằm giải thích phần trên, ở chỗ nói về Phật tánh, tức là Phẩm Sư Tử Hống. Cũng nhằm giải thích Phật tánh, nói rộng về đoạn “Thọ vương” v.v… trở xuống, cùng với ngày nay ở chỗ nói về diệu chỉ, nêu lên trường hợp Tỳ-kheo Thiện Tinh dứt các căn tức Phẩm Ca-diếp. Phần Lưu thông, sai Kiều-trần-như hóa độ mười vị ngoại đạo, tức từ phẩm Kiều-trần-như cho đến hết Kinh. Xét: Pháp sư Đàm Tiêm nói: Phần chính của Kinh này là hai phần khác nhau: Trước dón gọn, sau nói rộng. Theo nội dung chính của phần dón gọn, được chia làm năm đoạn: Phẩm Tự. Khai mở tông chỉ, nói về nhân quả thường trụ: Từ phẩm Thuần- đà đến phẩm Ai Thán. Nêu hỏi: Từ phẩm Trường Thọ cho đến hết phẩm vấn. Đáp lại lời hỏi: Từ phẩm Khen ngợi Ca-diếp cho đến sau phẩm Đại chúng Vấn. Phó chúc: Từ “Bấy giờ đại chúng bạch Phật” cho đến hết phẩm. Về nội dung phần nói rộng, cũng chia làm năm đoạn: Nói rộng về quả: Tức phẩm Hiện Bệnh. Nói rộng về nhân: Tức là năm hạnh. Nói rộng về lưu thông: Tức phẩm Thập Công Đức. Sở dó Lưu-ly quang từ xa đến, chính là vì nói sự lưu thông rộng lớn. Nói rộng về Phật tánh: Tức hai phẩm Sư Tử Hống và Ca-diếp. Nói rộng về sự Phó chúc: Từ phẩm Kiều-trần-như đến hết văn Kinh. Xét: Pháp sư Đàm Tế nói: Có chia ra gồm ba đoạn: Phần khuyến khích. Phần thưa hỏi. Phần đáp. Từ “Tôi nghe như vầy” cho đến “Ca-diếp phát vấn” là phần khuyến khích. Từ “Đáp lại lời hỏi”, cho đến hết phẩm Kiều-trần-như là phần đáp. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Từ đầu đến cuối Kinh, gồm có năm phần: Lý do mở đầu: Tức phẩm Tự. Lược khai mở tông chỉ thường hằng: Từ phẩm Thuần-đà đến hết phần tân y sư, cựu y sư. Nói rộng là nói về lý thường trụ: Từ phẩm Trường Thọ đến hết phẩm Ca-diếp. Là nói về nhân quả, cảnh, hạnh, đã nêu rõ và đầy đủ. Trước phá các ngoại đạo, từ phẩm Kiều-trần-như cho đến đoạn “A-nan ở đâu” thì văn từ, y chỉ đã xong xuôi, nên phải phó chúc là đúng lúc. Để nói về sự di chúc cho người thọ trì, từ đoạn “Tỳ-kheo A-nan hiện ở đâu” cho đến hết Kinh. Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: Kinh này, nói kỹ về phần chính có bốn phần: Từ “Có khất v.v…” đến hết đoạn là “ví dụ về hai người già trẻ” là phần khuyến khích nêu câu hỏi. Từ “Đa-la tụ lạc Ca-diếp”, là phần nêu câu hỏi. Từ “Phật khen Ca-diếp” v.v… trở xuống cho đến hết phần Ca- diếp là phần trả lời câu hỏi. Từ phẩm Kiều-trần-như cho đến hết Kinh, là phần Phó chúc, lưu thông. Sở dó phần một được gọi là khuyến khích hỏi, là vì Kinh này lấy cách hỏi, đáp làm Tông chỉ. Từ “Song thọ” về trước, “Bán tự” được giảng nói đều chẳng thấu đạt nghóa mầu, nhằm khiến cho chúng sinh có sự nghi ngờ thì nêu câu hỏi. Xét: Pháp sư Đạo Tuệ nói rằng: Kinh này được chia ra mười phần: Phần tựa thuyết, tức là phẩm Tự. Nói về phần chính, tức từ phẩm Thuần-đà cho đến hết phẩm Kim Cương Thân. Nói về phần lưu thông, từ phẩm Danh Dự Công Đức cho đến hết phẩm Tứ Đảo. Nói về Phật tánh, từ phẩm Như lai Tánh cho đến hết phẩm Nguyệt Dụ, nói sở dó đạt được chốn thường trụ là nhờ vốn có Phật tánh. Khen ngợi Kinh, tức phẩm Bồ-tát. Chứng tỏ lý thường trụ thành tựu, nói về điều không ăn mà thị hiện ăn, không bệnh mà thị hiện bệnh. Không diệt mà thị hiện diệt, tức là phẩm Hiện Bệnh. Nói về chỗ đạt được: Không bệnh là nhờ hạnh, tức năm hạnh, mười công đức. Nói về cảnh giới, nghóa mầu là sự thành tựu ở hạnh, tức là hai phẩm Sư Tử Hống và Ca-diếp. Nói về phá trừ ngoại đạo, tức phẩm Kiều-trần-như. Nói về sự chúc lụy, từ đoạn “A-nan ở đâu” cho đến hết văn Kinh. Xét: Pháp sư Đạo Tuệ lại soạn rằng: Kinh này có mười phần: Phẩm Tự. Khai mở tông chỉ: Tức phẩm Thuần-đà. Lãnh hội một cách thông đạt: Tức phẩm Ai Thán. Phần Lưu thông, từ phẩm Trường Thọ cho đến hết phẩm Hiện Bệnh. Nói về Nhân. Nói về quả, tức là mười công đức. nan. sau. Nói về Phật tánh, tức phẩm Sư tử Hống. Giải thích về mở đầu và chung cuộc, tức phẩm Ca-diếp. Phá Ngoại đạo, tức phẩm Kiều-trần-như. Phần Chúc lụy, tức sự quan tâm dặn dò đối với Tôn giả A- Xét: Pháp sư Pháp An nói: Kinh này chia làm hai phần: Từ mở đầu đến hết phẩm Đại Chúng Vấn, là nói về phần trước. Phần sau, từ phẩm Hiện Bệnh cho đến hết Kinh, là nói về phần Trong phần trước gồm có năm đoạn: Lý do của Kinh, từ phẩm Tự cho đến hết đoạn ba mươi lăm người thưa hỏi. Chính là nói thể của Kinh: Từ mở đầu phần trả lời câu hỏi cho đến hết phẩm Danh Tự Công Đức. Nói về sự lưu thông cả người pháp, từ phẩm Tứ Tướng cho tới phẩm Tứ Đảo. Nói về Phật tánh: Từ phẩm Phật Tánh cho đến hết phẩm Nguyệt Dụ. Khen ngợi Kinh và chúc lụy, từ phẩm Bồ-tát cho đến hết phẩm Đại Chúng Vấn. - Về phần giảng nói ở sau, cũng gồm năm đoạn: Nêu bày lý do, tức là phẩm Hiện Bệnh. Nói lần nữa về nhân, quả của Niết-bàn, tức năm hạnh. Nói về công đức lưu thông, tức mười công đức. Nói lần nữa về Phật tánh, tức Phẩm Sư tử Hống và phẩm Ca- diếp. Lại Chúc lụy lần nữa, tức phẩm Kiều-trần-như cho đến hết Kinh. Xét: Pháp sư Trí Tú nói: Kinh này, có chia ra hai phần chính rộng lược: Nói lược: Từ phẩm Tự đến hết phẩm Đại chúng vấn. Nói rộng: Từ phẩm Hiện Bệnh cho đến hết phẩm Kiều-trần- như. Trong nói lược có ba đoạn: Nêu lý do tức là phẩm Tự. Giảng nói phần chính: Từ phẩm Thuần-đà cho đến phần đầu phẩm Đại Chúng Vấn. Phó Chúc: Từ giữa phẩm Đại chúng vấn: “Bấy giờ, đại chúng bạch Phật” cho đến hết phẩm. Trong Quảng Môn gồm hai đoạn: Nói rộng phần chính ở trước: Từ phẩm Hiện Bệnh cho đến hết phẩm Ca-diếp. Nói rộng phần Phó chúc ở trước: Từ phẩm Kiều-trần-như cho đến hết Kinh. Xét: Pháp sư Pháp Trí nói: Kinh này phân tích đại ý gồm hai phần chính: 1- Người thuật lại Kinh nêu lên phần mở đầu, tức phẩm Tự. 2- Nói về phần chính: Từ phẩm Thuần-đà cho đến hết Kinh. Sở dó không có phần Phó chúc vì việc truyền dịch chưa hết. Trong phần chánh thuyết, chia làm sáu đoạn: Gồm hai phẩm Thuần-đà và Ai Thán, để khai mở tông chỉ. Từ phẩm Trường Thọ cho đến hết phẩm Hiện Bệnh, có thể cho là tùy theo điều được hỏi mà nói. Nói về năm hạnh, chỉ bày phương pháp tu tập của người lãnh hội Kinh. Nói về mười công đức, làm rõ công đức đạt được của người tu tập. tánh. Gồm phẩm Sư tử Hống và phẩm Ca-diếp, nói về nhân quả, thật Phẩm Kiều-trần-như: Nói về việc hóa độ ngoại đạo. Xét: Pháp sư Đàm Chuẩn nói: Kinh này không chia ra ba phần: Mở đầu, tức phẩm Tự. Nói về điểm chính: Từ phẩm Thuần-đà cho đến đoạn “A-nan ở đâu”. Phần lưu thông, từ đoạn “Nên bảo A-nan” cho đến hết Kinh. Lại soạn rằng: Kinh này có chia ra tám phần: Phần Tựa thứ nhất. Khai mở Tông chỉ, tức hai phẩm Thuần-đà, và Ai Thán. Nói về nhân duyên nhập vào cảnh giới và công đức của Kinh, từ phẩm Trường Thọ cho đến hết phẩm Tứ Đảo. Nói về nhân chính là thật tánh, từ phẩm Như lai Tánh cho đến hết phẩm Hiện Bệnh. Nói rộng về hạnh nhân duyên, từ năm hạnh cho đến mười công đức. Nói rộng về tánh của nhân chính, từ phẩm Sư Tử Hống cho đến phẩm Ca-diếp. Nói rộng về hình tướng của quả, tức phẩm Kiều-trần-như. Nên gọi là: Nhờ dứt trừ sắc vô thường mà được sắc giải thoát, thường trụ. Phần Phó chúc, từ đoạn “A-nan ở đâu” cho đến hết Kinh. Pháp sư Minh Tuấn xét: Kinh này được chia thành ba phần: Phần kể lại, tức là phẩm Tự. Phần nói lược, từ phẩm Thuần-đà cho đến hết phẩm Đại Chúng Vấn. Phần nói rộng, từ phẩm Hiện Bệnh cho đến hết văn Kinh. Trong phần giảng nói rộng có ba đoạn: Khai mở tông chỉ, khuyến khích nêu câu hỏi: từ phẩm Thuần- đà, cho đến hết đoạn ví dụ hai người già trẻ. Hỏi, đáp. Từ đoạn “Đa-la tụ lạc Ca-diếp Phát Vấn” cho đến phần đầu phẩm Đại Chúng Vấn. Nói lược việc Phó chúc: Từ giữa phẩm Đại Chúng Vấn: “Bấy giờ, đại chúng bạch Phật” cho đến hết phẩm. Trong phần nói rộng cũng có ba đoạn: Nói rộng về “Khai mở Tông chỉ” ở trước, tức phẩm Hiện Bệnh “Ăn uống là gốc của sinh, bệnh là nhân của diệt” trước phẩm Thuần-đà ở trước nói do việc ăn uống mà làm rõ cuộc sống hiện có. Phẩm này nhân việc bệnh để nói về sự diệt. Nói rộng nghóa mầu trong phần “Hỏi đáp” ở trước, từ năm hạnh cho đến hết phẩm Kiều-trần-như. Chỗ nói của Kinh này là nhân quả thường trụ và sự thực hành của cảnh. Nay dùng năm hạnh, mười công đức để nói rộng về hành, nói rộng về nhân. Hai phẩm Sư tử Hống và Ca-diếp là nói rộng về cảnh, còn phẩm Kiều-trần-như để nói rộng về quả thường hằng. Nên gọi là nhờ hình sắc vô thường mà đạt được sắc tướng thường lạc, giải thoát. Nhân, quả, cảnh, hạnh được nói rộng lược đã xong về phần thô, nhằm hướng về sự giáo hóa thích hợp ở vị lai. Hóa độ nối nhau trong muôn kiếp luôn tồn tại, nếu không đẩy lùi các dị thuyết của các ngoại đạo, nhổ sạch cội gốc của sự mê lầm, thì ngàn năm về sau, chung cuộc chính là chỗ làm hại cho sự lưu thông của chánh pháp. Do đó, đoạn thứ ba là phần hóa độ các ngoại đạo, dứt trừ đám tà, giúp cho sự truyền bá chánh pháp được mở rộng, thân tâm bậc Đại só vô ngại, nên gọi là nói rộng phần phó chúc ở trước. Từ đoạn “Bấy giờ các ngoại đạo” v.v… trở xuống cho đến hết văn Kinh. ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI <卷>QUYỂN 2 <詞>Phẩm 1: PHẨM TỰA Gồm: Giải thích “Tôi nghe như vầy, một thuở nọ v.v… ” Giải thích “Thành Câu-di”. Giải thích “Sinh địa của lực só”. Giải thích sông A-lợi-la-bạt-đề. Giải thích Sa-la Song Thọ. Giải thích hoa Ba-la-xa. Giải thích hoa Ưu-bát-la. Giải thích hoa Câu-vật-đầu. Giải thích hoa Phân-đà-lợi. Giải thích hoa Mạn-đà-la. Giải thích cây Ba-lợi-chất-đa. Giải thích y Kiêu-xa-da. Giải thích y Ma-từ-bạt-đa. Giải thích y Ca-lăng-già. Giải thích nước có tám tính chất tốt. Giải thích sự im lặng chẳng nhận. Giải thích năm môn quán. PHẨM TỰA THỨ NHẤT (Phần 1) Xét: Kinh bản dịch cũ chép: Phẩm Tận Mạng. Pháp sư Tăng Lượng nói: Điều các Kinh, không nói có ba ý chỉ: Thường trụ. Tam bảo là một thể. Chúng sinh đều có Phật tánh. Nhưng thường trụ là phần chánh tông của Kinh, hai thứ còn lại là thường, cho nên nói. Nay dùng tuổi thọ để nói lên tính chất thường, nhằm lược nêu đại thể của Kinh. Pháp sư Tăng Tông nói: Phần Tự là nói về lý do. Sắp nói về chánh tông, nếu không nêu lý do, nói lại phần mở đầu, thì không lấy gì làm chứng cho sự tin tưởng. Có hai loại Tựa: Hiện Tựa, cũng gọi là tựa riêng. Vị lai Tựa, cũng gọi là tựa chung. Như hiện tượng phát ra ánh sáng là nói lý do về đương thời, nên gọi là hiện Tựa. Ngoài ra vì Kinh khác nhau nên gọi là tựa riêng. “Năm chứng tín Tôi nghe như vầy… ”, là chỗ thỉnh của ngài A-nan, gọi là vị lai tựa. Các Kinh đều có phần ấy nên gọi là tựa chung. Pháp sư Bảo Lượng nói: Trong khuyến thỉnh nêu hỏi này gồm có bốn đoạn: Phẩm tựa hiện có. Phẩm Thuần-đà: Khai mở tóm lược về tông chỉ thường hằng. Phẩm Ai Thán: nói về pháp tu tập cao quý, nói rộng về lý thường, khuyến thỉnh thưa hỏi. Ví dụ hai người già trẻ: Thúc giục việc nêu hỏi. Pháp sư Trí Tú nói: Có tám việc: Xưng là “Như vầy”. Xưng là “Tôi nghe”. Xưng là một thuở nọ. Ghi về nơi chốn đang an trú. Nêu cùng nghe. Nêu thời gian. Nói lý do nhóm chúng. Nêu bày, tướng dứt hóa độ. Pháp sư Pháp An nói: Phẩm tựa có ba đoạn: Đầu tiên có sáu chữ, nói lời Ngài A-nan là không luống dối. Kế là nêu chỗ ở, nói bày pháp căn bản. Sau, nêu chúng đương thời, nói về duyên khởi của việc nói pháp. Trong phần Duyên khởi có chia làm ba: Từ “Bấy giờ, Thế tôn và các đại Tỳ-kheo” cho đến “Trước sau vây quanh”: Nói lên việc các đệ tử thường gần gũi bên Phật. Từ “Ngày 15 tháng 2” cho đến sau “Chúng chư thiên”: Ở đây nêu do âm thanh và ánh sáng mời gọi. “Đại Bồ-tát Đại thân đến nhóm hợp” là do Chư Phật kia chỉ dẫn, sai khiến, chẳng phải sự mời gọi của âm thanh, ánh sáng. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Phẩm này có hai đoạn: Đoạn trước gọi là tựa chung. Đoạn sau nói về tựa riêng. Trong tựa riêng có sáu phần: Nói về chúng sinh trong sáu đường gặp phải ba tướng nên sanh tâm lo buồn. Từ “Thần lực nhờ Phật” cho đến hết “Cho nên hỏi lại”. Nêu ra việc làm của bốn chúng đệ tử xuất gia và tại gia. Từ “Bấy gờ, có vô lượng” cho đến “Ba Sông Hằng”. Nêu lên các quyến thuộc đều là những giòng họ nổi tiếng. Từ “Bốn hằng sa” đến “Bảy hằng sa”. Nêu vô số chúng Trời, Rồng, Quỷ thần. Từ “Tám Hằng sa” cho đến “Thần sông thiết cúng”. Khu rừng có sự biến đổi hiện rõ hình tướng Niết-bàn, để nói về các quyến thuộc của các vị trời ở các tầng trời, từ bốn Thiên vương cho đến Phạm vương. Nói về các quyến thuộc của Bồ-tát Vô Biên Thân. Pháp sư Minh Tuấn nói: Phẩm này, được chia làm hai phần. Trước là tựa chung, sau là tựa riêng. Trong phần tựa chung bao gồm năm việc: Như vầy. Tôi nghe. Một thuở nọ. Nơi chốn. Người cùng nghe. Trong phần tựa riêng cũng có năm: Như vầy. Tôi nghe. Một thuở nọ. Nơi chốn. Người cùng nghe. Trong phần việc riêng cũng có năm việc: Từ “Ngày 15 tháng 12” cho đến “Sẽ hỏi lại người nào”: Nói lại ba tướng, những người lần lượt thấy nghe đều hết sức lo lắng buồn bã. Từ “Lúc ấy, có vô lượng các đệ tử” cho đến hết đoạn “Các vị thần sông, bày biện sự cúng dường… ” là nói riêng về bốn chúng đệ tử và chúng sinh ở các cõi nhóm hợp đông đảo. Nói về hai tướng: Nói về các vị trời cùng các Bồ-tát ở các cõi khác đến nhóm họp. Từ “Bốn Thiên vương” cho đến “Trừ hạng Nhất-xiển-đề”. Nói về hai tướng, từ “Bấy giờ, khắp Tam thiên Đại thiên thế giới”, cho đến hết phẩm. Trước sau gồm có ba lần nói về tướng kỳ lạ, hợp lại có bảy thứ: Ban đầu thì âm thanh, ánh sáng làm rung chuyển cả mặt đất. Ở giữa là khu rừng biến hóa thành nhiều dãy lầu gác. Sau hết làm thay cảnh nhơ nhớp và gom lại ánh sáng đã phát ra. Về hai lần nêu ra thời gian chúng hội nhóm họp cũng có bảy thứ lớp. Như vầy: Tức là bậc Thánh và chúng sinh trong sáu cõi. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Chữ: “Như” là từ ngữ nói về sự chẳng khác, nói sở truyền của Tôn giả A-nan không khác với điều Đức Phật nói. Chữ “Thị” nói lên điều ấy tức là Phật nói. Có hai vật tương tự nhau cũng gọi là Như, do đó nên dùng chữ ấy, là phân biệt với tương tự. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Như” văn và lý ấy, thì đều là lời Phật nói. Pháp sư Trí Tú nói. Điều Tôn giả A-nan truyền lại không khác với lời Phật nói nên gọi là “Như”. Ngôn từ ứng với lý nên gọi là “Thị”. Pháp sư Pháp Trí nói: Lời A-nan tự nói là lời do miệng vàng nói ra, ý chỉ sâu xa, chẳng thể lường được. Nhưng chương, câu thì phải có trước sau, chính là từ hai chữ “Như vầy”. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Giải thích cũ cho rằng đó là lời chỉ thẳng, nghóa là Kinh như thế, tôi đã từng theo Đức Phật và được nghe Ngài nói chẳng phải tự mình bịa ra. “Tôi nghe”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: (Phần văn Kinh được viết chữ in Hoa) Những điều được nghe từ sự gần gũi thân thuộc thì thuần, truyền lại sự nghe thì đạm lột, vì hình thành câu trên là nói chẳng phải sai lầm. Pháp sư Trí Tú nói: Nêu hỏi, vâng theo vừa chừng, không vượt quá sự tin tưởng của mình. “Một thuở nọ”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Uy thần Phật che chở, lại được Tam-muội Phật giác, nên hễ thọ nhận là thọ nhận một cách trọn vẹn, không hề bị mất mát, như vậy là đã thành câu: “Tôi nghe”. “Phật ở thành Câu-di”: Xét: Cũng gọi là nước Câu-thi-na-yết. Cũng gọi là thành Câu-thi- na. Pháp sư Pháp Dao nói: Là tên vị tiên, nói lên tuổi thọ của vị tiên lâu dài. Hàm ý nhấn mạnh bệnh tật là việc thường xảy ra, bậc Chí tôn hãy thế, huống chi phàm phu. Pháp sư Tăng Tông nói: Dựa vào nơi chốn để chứng tỏ chẳng có sai lầm. “Nơi sinh của lực só”: Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: Nhằm làm hiển bày tính chất tự tại của Pháp thân, gồm có năng lực của đại ngã, hàm ý ngăn dứt mọi nỗi lo âu về ngã. “Bên bờ sông A-lợi-la-bạt-đề”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Sông này và sông Hy-liên cách nhau trăm dặm. Pháp sư Pháp Dao nói: Sông này là nơi tạo ra loại vàng tên là vàng Diêm-phù-đàn. Nước sông trong sạch, không nước sông nào hơn nước sông này. Nhằm làm hiển bày tính chất thanh tịnh, chân thật của Pháp thân. Hàm ý giữ gìn tâm được thanh tịnh. Pháp sư Tăng Tông nói: Sông ấy gọi là sông Kim sa. Sông sâu nưới chảy xiết, dụ cho sinh tử. Kim sa thì chẳng động, dụ cho Phật tánh, qua đó nói lên trong sinh tử có Phật tánh, ở bên bờ sông, qua đó chỉ ra Niết-bàn ở ngay bờ giải thoát, giác ngộ. Lại giải thích thân ứng hiện là vô thường, dòng nước chảy là dụ cho điều ấy. Còn Pháp thân thường trụ thì cũng như chất kim sa. Pháp sư Bảo Lượng nói: Sông ấy cũng được gọi là sông Kim tuyền. Lưu lượng nước rất lớn. Được người đời giữ gìn, nay dốc phá chỗ yêu mến đó, tuy gọi là rất trong sạch, nhưng còn chỗ chứa nhóm phiền não, cần phải tu tập theo pháp vô lậu để mong đạt được sự thường tịnh. “Trong rừng Sa-la song thọ”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Mỗi phương có hai cây, hợp thành tám cây. Cây cao khoảng năm trượng, trên chụm lại, dưới loe ra, hoa màu trắng tinh, quả như cái bình, hương thơm, vị ngon. Nay dùng hình ảnh hai cây tươi tốt, hai cây khô héo để nói lên chánh pháp không hề nghiêng về một phía nào. Ngày trước ở đạo tràng, sự giảng nói để nhấn mạnh về một khía cạnh, do đó hình ảnh là một cây. Ngày nay, giáo pháp đã tròn đầy nên dùng hình ảnh hai cây để truyền đạt. Pháp sư Pháp Dao nói: Khu rừng ấy tên là Kiên Cố, gió sương chẳng thể làm cho biến chuyển, bốn mùa cũng không khiến cho đổi thay, để so sánh với chất kim cương của Pháp thân, sự già, chết chẳng thể làm biến đổi. Niệm niệm không chút dời đổi, là hình tướng của đức thường, lạc. Hàm ý giữ gìn ý nghóa của sự thường, lạc. Pháp sư Tăng Tông nói: Sở dó gọi là rừng Kiên Cố, vì được bốn vị Thiên vương che chở giữ gìn, chỉ cho các pháp do Phật giảng nói thường được bốn bộ chúng bảo vệ, không bao giờ bị mất mát, hủy diệt. Ở bên bờ sông, trong khu rừng; ở trong rừng thì mọi loạn động đều dứt; gần nước thì được sạch trong, nói lên tính chất vắng lặng của Như lai đã dứt sạch mọi thứ ràng buộc. Pháp sư Bảo Lượng nói: Cũng để phá trừ sự chấp trước. Cảnh vật thuận hợp là do thời xa xưa Chư Phật đều chọn nơi này để nhập Niết-bàn. Bốn vị Thiên vương bảo vệ nghóa là giữa gìn sự vững chắc. Nếu chẳng bị bốn thứ ma hủy hoại thì mới đúng là kiên cố. “Bấy giờ, Đức Thế tôn và chúng đại Tỳ-kheo gồm tám mươi ức trăm ngàn vị vây quanh trước sau”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là nêu lên số người cùng được nghe pháp, bốn hạng: Cùng với Đức Phật có mặt đông đủ trong rừng Sa-la, không chờ sự mời gọi của ánh sáng. Nhờ ba điềm lành hiện ra thì mới đến. Tuy đã nhờ ba điềm lành, nhưng chưa thể tự mình thực hiện được, cho nên có sự biến đổi của khu rừng mới thôi thúc họ đến. Không chờ ánh sáng mời gọi. Chư Phật thường biết rõ về thời gian, hoàn cảnh nên khiến các vị Bồ-tát cùng đến đúng lúc. Đó tức là phần một ở trước đã nêu ra: Số vị ở gần bên Phật. Tỳ-kheo là tiếng Ấn-độ, gồm có ba nghóa, đã được giải thích, đó là khất só, phá ác và Bố ma. Pháp sư Bảo Lượng nói: Ở đây nêu số lượng Tỳ-kheo theo Đức Phật đến nơi này trong mười bốn ngày. Tỳ-kheo là tên gọi người xuất gia ở nước ấy. Ở đây không có tên gọi đó, nên chỉ dùng ba nghóa để tôn xưng, như Bố ma… Trước sau vây quanh là sự quây quần bày tỏ lòng cung kính hết mực. Pháp sư Trí Tú nói: Đó là do âm thanh và ánh sáng mời gọi. Vì muốn dựa vào chuẩn mực ở phần mở đầu của các Kinh khác, nên được nêu số chung, gọi riêng số lượng đang có mặt ở phía trước. Nhưng về cùng nghe thì có ba thứ: Cùng nơi chốn. Cùng lúc. Cùng là đối tượng nghe pháp. Lúc ấy Tôn giả A-nan đã ở bên ngoài rừng Sa-la, thì đó là thời gian khác nhau. Pháp sư Đạo Tuệ ghi: Chữ Đại là chỉ cho các vị đã được đạo. “Ngày 15 tháng 2 lúc Phật sắp nhập Niết-bàn”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu ấy sẽ được giải thích dưới đây: Đất nước đó chỉ có ba mùa: Mùa xuân, mùa hạ và mùa đông. Tháng hai là thời gian giữa mùa xuân, có khác nhau chăng? Đông, hạ lạnh nóng, sự nghiêng lệch ấy hiện ra rất rõ. Ngày trước, nói về các pháp khổ, không, tính chất nghiêng về một phía là như thế. Nay thì hai lý đã cùng hiển bày, nên chọn lấy sự biểu lộ trung hòa. Pháp sư Tăng Tông nói: Đó là thời gian thay đổi nối nhau giữa tươi tốt và khô héo, để nói về hai thứ pháp thân của Như lai, lìa bỏ dấu vết để trở về bản thể. Pháp sư Trí Tú nói: Lúc sắp nhập Niết-bàn là chỉ cho thời gian nói Kinh. “Đức Phật dùng thần lực phát ra âm thanh lớn”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đó là sự việc có tính chất cảm ứng. Gốc là từ cảnh giới Phật. Không dùng âm thanh kêu gọi thì sự vật không thể nhận biết được. Pháp sư Tăng Tông nói: Các Bồ-tát, Nhị thừa cũng có thần lực, nhưng không được gọi là lớn, nay nói lớn thì đó là thần lực Phật. Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: Trong có ba hiện tượng. Lại cho là: Kể luôn sự buồn than thương tiếc thì có đến bảy hiện tượng. Âm thanh ấy không từ miệng phát ra nên gọi là thần lực. “Âm thanh ấy vang xa khắp nơi đến tận cõi Hữu Đỉnh”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Cái gọi là trời Sắc cứu cánh, trong cõi Vô Sắc, vì ở đó chúng sinh không có các căn nên không nói tới. Pháp sư Bảo Lượng nói: Hễ chúng sinh nào có duyên thì đều được nghe âm thanh ấy. Nói chung chỉ mới nêu lên một phần của đối tượng. Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: Suy cứu về chỗ cùng cực của âm thanh ấy thì đúng là đã ứng hợp khắp hai mươi Hằng hà sa cõi nước. Trong phần sau nói về thực tế cho rằng: “Nay, âm thanh vang đến hai mươi Hằng hà sa cõi”, nên lấy đó làm mẩu mực. Ánh sáng, mặt đất rung chuyển cũng ứng hợp như vậy. “Theo từng ngôn ngữ của loài chúng sinh mà bảo khắp”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Chúng sinh trong sáu đường khác nhau, tuy có sự khác nhau của vùng Sở, vùng Hạ, nhưng đều nghe như nhau mà hiểu rõ. “Ngày hôm nay Đức Như lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri” cho đến… “Đấng Đại Giác Thế tôn sắp nhập Niết-bàn”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nhờ giả mà làm rõ thật, mượn sự diệt để nói lên sự tồn tại. Pháp sư Tăng Tông nói: Sở dó trước nêu ba đức, khiến thường nhớ nghó tới đức mà kính mến điều lành. Trong đã mang sẵn tâm từ bi thương xót nên bên ngoài mới bày tỏ được sự che chở. Dùng hai câu ấy thực hiện một cách bình đẳng đối với muôn vật, đã là điều chẳng phải dễ dàng. Lại đạt tới mức cao tột xem muôn loài như con mình, càng thấy đó là việc vô cùng khó khăn, trở về nương tựa. Như con trẻ sà vào vòng tay mẹ hiền. Ngôi nhà là vật dùng để ngăn che gió sương, chỉ cho diệu lực của tâm từ bi rộng lớn, với phương tiện, dồi dào, nên khiến cho chúng sinh không còn dấy khởi phiền não. Đấng Đại Giác Thế tôn: Là cùng nêu hai tôn hiệu để nói lên khía cạnh mau chóng, tức thì của tâm ấy. Pháp sư Bảo Lượng nói: Sắc nhập Niết-bàn: Chẳng phải là điều mà đề mục Kinh nêu lên mà là nói về cảnh giới Niết-bàn Vô dư, quá trình hóa độ chúng sinh bắt đầu từ Vườn Nai và kết thúc ở đây. Chúng sinh được nghe giáo pháp nhất thừa mà tăng thêm một sự nghi ngờ. Chỉ ở hiện tại, vào thời thứ năm mới giảng nói về việc dứt trừ nhanh chóng tâm nghi ngờ. Sở dó mười tôn hiệu của Phật chỉ lược nêu ra là để giúp cho mọi người biết ân đức của Phật rất sâu nặng. Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: Thương xót chưa hẳn đã che chở, chưa hẳn đã thực hiện bình đẳng. Nay dùng từ “Trở về nương tựa” là để giải thích rõ sự thương xót, dùng hình ảnh ngôi nhà để giải thích sự che chở, dùng hình ảnh Tôn giả La- hầu-la để nói lên sự bình đẳng. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Trong âm thanh có năm trường hợp: Gọi chung là Từ bi, tức là tính chất thương xót, che chở, giữ gìn. Gọi là diệu dụng của lòng từ, tức là xem chúng sinh như La- hầu-la. Gọi là diệu dụng của tâm Bi, tức làm chỗ cho chúng sinh trở về nương tựa. Nhấn mạnh về lìa bỏ hóa thân, tức là nay sắp nhập Niết-bàn. Thúc giục khiến tới để hỏi, nghóa hỏi lần sau cùng. “Tất cả chúng sinh nếu có điều gì nghi ngờ nay hãy thưa hỏi, cũng là thưa hỏi lần cuối cùng”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Chúng sinh nhàm chán khổ, khổ từ mê lầm dấy khởi, nên dứt khổ là phải dứt trừ mê lầm. Mê lầm có nhẹ và nặng, nặng thì gọi là kiến chấp, nhẹ thì gọi là nghi. Nghi còn phải dứt trừ, huống chi là kiến chấp. Dứt trừ nghi thì đã dốc lòng tin Phật, chẳng lẽ không nêu câu hỏi? Pháp sư Tăng Tông nói: Trước đây chỉ nói về vô thường, ở đây nói về lý thường, giác pháp trái với ngày trước. Việc ấy nên nghi ngờ, tuy nói là không nói về mục đích, nhưng ý thì đã ở ngay đây. Pháp sư Bảo Lượng nói: Đó chính là Đức Như lai, cho đến giáo pháp được giảng nói sau rốt rất quan trọng nên mới khuyến khích việc thưa hỏi. “Bấy giờ, Đức Thế tôn vào lúc sáng sớm”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Ở trên nói về ngày tháng, còn ở đây nói về thời gian. “Từ nơi mắt, mũi, miệng phát ra nhiều lớp ánh sáng” cho đến “Khắp cả mười phương cũng giống như vậy”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Âm thanh vang đến tận tầng trời Hữu Đỉnh, là nói tiếng gọi ấy được nghe từ chốn cao; Ánh sáng chiếu khắp mười phương, là nói ánh sáng đó được nhận thấy từ bốn phương xa. Hai văn bày lẫn nhau, việc ấy nói lên việc khác lạ chưa từng có. Pháp sư Pháp Dao nói: Miệng phát ra ánh sáng như thế là để nói về hình tướng của pháp hết mực sâu mầu sẽ được giảng nói. Pháp sư Tăng Tông nói: Đó là hình tướng thứ hai, ở trên dùng âm thanh làm phát sinh sự thông hiểu. Còn đây thì nhờ ánh sáng mà có sự giác ngộ. Cửa lấy sự qua lại thông thương làm nghóa nên dùng miệng làm khuôn mặt. Pháp sư Bảo Lượng nói: Về nhiều lớp ánh sáng gồm nhiều màu sắc, các Kinh trước đây cũng có hiện tượng ấy. Chỉ trong Kinh mới xuất hiện hiện tượng đó, biểu thị cho uy quang của Đức Phật, nên nói là vô số lớp. Pháp sư Trí Tú nói: Tuy nghe âm thanh, nhưng chưa lường được nơi chốn, vì cho nên phát ra ánh sáng để nói về khiến muôn loài được biết. “Trong ấy, tất cả chúng sinh sáu cõi” cho đến “Thân thể run sợ, khóc lóc nghẹn ngào”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Vừa bảo cho biết, còn ở đây là để dứt trừ tội chướng. Pháp sư Tăng Tông nói: Tội là nói về quả, phiền não cấu nhiễm là nói về nhân. Pháp sư Bảo Lượng nói: Ở đây là nói về việc dứt trừ tội lỗi. Dựa vào sự chế ngự, điều phục mà dứt trừ. Đó là nhìn thấy ánh sáng, tâm duyên vào cảnh tốt đẹp nên ba độc không thể cùng dấy lên, mà chỉ sinh tâm thanh tịnh thôi, nên gọi là tội được dứt trừ. “Lúc này khắp mặt đất, núi non sông biển tất cả đều rung chuyển”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Tội chướng cấu uế đã được dứt trừ, thì tới lượt tình cảm luyến tiếc kính mến bộc phát. Sự buồn thương làm tâm mê loạn, do đó phải mau chóng nhóm hợp đúng chỗ, cho nên dùng thần lực khiến cho mặt đất rung chuyển, nhằm ngăn dứt, hạn chế tình cảm buồn thương kia. Pháp sư Pháp Dao nói: Không có tình vẫn còn động, huống chi là “Có tình” mà chẳng động hay sao? Do cảm ứng đến đúng lúc với mọi người, khiến họ mau chóng nhóm họp. Pháp sư Tăng Tông nói: Đó là hình tướng thứ ba. Đức cao tột của Như lai khác nào mặt đất, đem lại sự an định cho muôn loài. Nay lìa bỏ thân ứng hóa trở về bản thể chân thật, nói về như thế để giúp cho chúng sinh giác ngộ. Pháp sư Trí Tú nói: Thấy mặt đất rung chuyển rồi, thì sẽ sinh ra ba y nghó: Khuyên nhau hãy nên tự kiềm chế. Hiện tại phải mau đến nơi ấy. Nếu sau này còn có điều gì nghi ngờ thì cũng không còn cơ hội thưa hỏi. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Ở phần này có hai thứ dẫn dắt, đây là loại dẫn dắt thứ nhất nói về tướng mặt đất rung chuyển. “Các chúng sinh nói với nhau” cho đến “Hoặc dưới một kiếp, cùng nắm tay nhau”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Thấy ba hiện tượng ấy, ai chẳng buồn bã, thương cảm. Lại bảo cho nhau biết, nên dự định việc thưa hỏi. Pháp sư Bảo Lượng nói: Giải thích cũ cho rằng: “Nếu chúng sinh có tuổi thọ một kiếp thì sẽ cầu xin thêm tuổi thọ được một kiếp. Nếu tuổi thọ là nửa kiếp thì cầu xin thêm tuổi thọ nửa kiếp. “Ý tôi thì chẳng cho là không đúng, mà chỉ theo tục lệ thế gian thôi”. Tình cảm của mọi người lúc ấy đều mong Phật trụ lại cõi đời. Nên tất cả điều mong muốn ấy chỉ nguyện được tăng thêm nửa kiếp. Vì ít thì mới bày tỏ ra lời, còn nhiều thì sợ mong khó được. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Trong phần này, loại dẫn dắt thứ hai gồm có hai ý: thứ nhất, trước là khuyến khích bảo cho nhau biết. “Lại nói lời này: Thế gian hầu như trống rỗng, vắng lặng” cho đến “Đức Như lai chẳng còn bao lâu nữa sẽ nhập Niết-bàn”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Đạo pháp của Như lai trùm cả Đại thiên, đức độ cùng khắp ba cõi, nay nhập Niết-bàn thì cả thế giới hầu như hoang vắng. Phước hết: Phước là từ bậc Thánh giác ngộ thể hiện, bậc Thánh không còn ứng hiện nên biết là hết. Điều bất thiện thêm lớn. Phước đã hết nên những điều xấu ác do đó mà tăng thêm. “Rồi lại nói: Thế gian trống rỗng” cho đến “nếu có điều nghi ngờ lầm lạc thì biết hỏi ai”: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Không ai cứu giúp che chở: Ở đây là nói lên nghóa mầu của âm thanh đã nói ở trước, mà bảo cho biết. “Cứu giúp”: Trước đã nêu lên câu “Lòng từ rộng lớn thường thương xót muôn loài”. “Hộ trì”: Trước đã nêu ra câu “Tâm Bi bao la thường che chở giúp đở”. “Nghèo cùng”: Trước đã nêu lên việc “Cùng xem chúng sinh như La-hầu-la”, là diệu dụng của lòng từ rộng lớn. Nghóa là Tôn giả La-hầu-la đã có được tài sản là chánh pháp, còn chúng ta thì hiện chưa có được, thế mà Phật đã lìa bỏ chúng ta, nghèo cùng là vậy. “Không có chỗ kính ngưỡng phụng thờ”: Tức là trước đã nói làm chỗ cho chúng sinh trở về nương tựa. Côi cút bơ vơ: Trước đã nói việc “Là ngôi nhà của thế gian” tức diệu dụng của tâm đại bi. “Một sớm xa lìa”: Tức ở trước đã nói việc “Bậc Đại Giác Thế tôn sắp nhập Niết-bàn”. “Nếu có điều gì nghi ngờ, lầm lạc”: Trước đã nói việc “Nay đều nên thưa hỏi”. Do đó, phải nên dẹp bỏ những tình cảm buồn thương, mau chóng tới chỗ ấy. “Khi đó, có vô lượng các vị đệ tử lớn” cho đến “Sinh ra rất nhiều thứ khổ não như vậy”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Ba điềm lành ở trên nhóm họp các nhân duyên. Còn dưới đây là nói về thời gian nhóm hợp, thứ lớp trước sau. “Đại đệ tử”: Chỉ cho các đệ tử thường ở cạnh Phật, nên không nói là từ đâu tới. Pháp sư Đại Tuệ ghi rằng: Tức là ở trước nói “Tám mươi ức trăm ngàn vị”. Đã không chờ do âm thanh, ánh sáng mời gọi, nhưng được kể ra như thế là để nói lên việc gặp ánh sáng mà buồn bã sầu não. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Ở đây nói về sự khổ não của ba nghiệp: Đó là thân run rẩy, tâm bị xáo trộn nên phát ra tiếng rên than. “Bấy giờ lại có tám mươi trăm ngàn các vị Tỳ-kheo”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Dưới đây nêu ra các vị từ xa đến. Đến thì không cần trước sau. Lời văn không thể gây phiền lụy, được chia làm ba hạng: Số đông ở sau. Số đông cúng dường cao quý. Chỉ lấy số cúng dường cao quý. Pháp sư Tăng Tông nói: Kinh này, nêu ra thời gian và chúng hội so với các Kinh khác chẳng cần về chuyện giống nhau vì các Thanh văn đức còn hạn hẹp, chẳng thể du hóa rộng khắp, phần nhiều thường hầu hạ bên cạnh hay gần gũi Đức Thế tôn, do đó mà được kể ra trước. Pháp sư Bảo Lượng nói: Ở đây kể ra số lượng các vị vào ngày mười lăm, đã vâng theo ánh sáng mời gọi mà đến. “Tỳ-kheo”: Là nêu ra tính chất ngôi thứ. Gọi “La-hán” là để khen ngợi đức độ. Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: Xếp vào số đông có chia ra làm năm: “Tám mươi ức trăm ngàn”: Chỉ cho các quyến thuộc bên trong. “Lúc ấy, có vô lượng các vị Đại đệ tử”: Chỉ cho các quyến thuộc bên ngoài. Từ “Ưu-bà-tắc” v.v… trở xuống, tùy theo số đông nhiều nhất cúng dường cao quý được nêu ra sau. Từ “ (chim cánh vàng)” cho đến “Vua núi”: Chỉ lấy số đông để sau. Từ “A-tăng-kỳ các vị Thần” cho đến hết đoạn “Vô biên thân”: Chỉ lấy việc cúng dường làm việc sau. Lại bàn thêm: Trước sau, đều chẳng phải chuyện bận tâm. Chỉ có ý nghóa lần lượt hiện ra thì có trước sau. Nhưng nếu đã nêu ra có trước sau thì không ngoài bốn thứ: Dùng ngôi vị làm thứ bậc trước sau. Dùng số lượng làm thứ bậc trước sau. Dùng sự cung cấp làm thứ bậc trước sau. Không dùng ngôi vị, số lượng, sự cung cấp, chỉ lấy số người đến vào lúc ấy, tức việc nêu ra trong đây. Pháp sư Trí Tú nói: Dưới đây cho đến đoạn “Khu rừng biến thành màu trắng” đều là chỗ mời gọi của ánh sáng và mặt đất rung chuyển. Nhưng nêu ra các điều ở phần mở đầu thì khác nhau. Nhiều thì đến năm điều, ít thì chỉ có hai. Nói có năm điều là: Nêu số lượng. Đặt để ngôi vị. Khen đức. Nêu tên. Nêu lên hình tướng tới nhóm họp. Nói có hai, là: Nêu số lượng. Nêu tên gọi. Lại nêu ra về thứ lớp, về phẩm khác nhau có ba: Từ đó cho đến “Được diệu lực tự tại có khả năng hóa thành Phật”. và 3. Nêu hai chúng xuất gia. Nhờ đạo, nên ít nhiều được gần gũi Phật, nên được nêu trước. Pháp sư Minh Tuấn xét: Ở đây đã nêu sáu việc: Nêu số lượng. Xưng ngôi vị. Khen ngợi đức phương tiện. Nói về sự lo buồn. Khen đức chân thật. Nói về việc đang tới. “Đều là La-hán”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “A-la-hán” Hán dịch là Bất sinh. Sinh là gốc khổ. Mê lầm (hoặc) là nhân của sinh. La-hán đã dứt trừ các hoặc (phiền não) trong ba cõi, quả khổ chẳng còn sinh ra nữa, nên gọi là Bất sinh. Pháp sư Tăng Tông nói: Tên gọi ấy chứa đựng ba nghóa: Sát tặc: Tức chỉ cho việc dứt trừ các phiền não. Bát sinh: Chỉ chung cho việc không còn sinh trong ba cõi. Ứng cúng: Là do có đủ ba đức nêu có khả năng làm ruộng phước cho chúng sinh. “Tâm được tự tại”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Tâm là gốc khổ, vui. Chúng sinh chán khổ, không lìa bỏ nhân khổ là chỗ mê lầm của phiền não nên chẳng được tự tại. Nay, vị La-hán không còn nhân khổ, cho nên mà được tự tại. “Việc phải làm đã làm xong”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nhân khổ đã hết sạch nên sự gắn bó, ràng buộc cũng dứt. Pháp sư Tăng Tông nói: Nghóa là đạt được trí tận, rốt ráo là trí vô sinh. Trí được chứa đựng trong ý nghóa ấy làm rõ ý nghóa chữ “Ứng Cúng”. Pháp sư Bảo Lượng nói: Hai câu ấy đều giải thích nghóa Bất sinh. Sở dó được “Bất sinh” là do đã dứt sạch các thứ phiền não trói buộc (sử) trong ba cõi, nên đạo lực được thể hiện trọn vẹn. “Lìa các phiền não”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là để giải thích rõ về nghóa “Đã làm xong” ở trên. Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là giải thích ý “Do đó mà bất sinh”. Pháp sư Đạo Tuệ nói: Đây là giải thích về ý “Vì sao tâm được tự tại”. Tâm được tự tại là vì sự tạo tác đã bị cắt đứt. “Điều phục các căn”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Là để giải thích được tự tại. Pháp sư Tăng Tông nói: Mê lầm là do các căn. Các căn đã được điều phục, do đó mà mê lầm (hoặc) được dứt hết. Pháp sư Bảo Lượng nói: Hai câu này là giải thích nghóa “Giết giặc phiền não”. Các thứ giặc phiền não sở dó được dứt sạch là do sáu (căn) được nhiếp phục, tức là chế ngự được ba nghiệp. “Như vua rồng lớn”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Là dụ cho ba minh, sáu thông. Rồng có hai tính chất: Có khả năng làm chuyển mây, tuôn mưa. Biến mất, hiện ra một cách tự tại. Pháp sư Bảo Lượng nói: Ở đây nói về ý nghóa đã được lợi ích là nói về ứng cúng. Pháp sư Đạo Tuệ nói: Vua rồng là voi đầu đàn trong loài người. Như Kinh Đại Phẩm (Bát-nhã) chép: “Như điều phục voi đầu đàn”. Lấy việc khéo điều phục làm ví dụ để nói về phiền não, sở dó lìa được là nhờ khéo điều phục các căn. “Có uy đức lớn”: Xét: Pháp sư Đạo Tuệ nói: Ở đây nhằm khen ngợi đức bên ngoài, tỏa sáng khắp nơi, là chỗ quan trọng để mọi người quy phục. “Thành tựu tuệ không”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là để giải thích phiền não. Nếu chẳng đạt được “Tuệ Không” thì chẳng dứt bỏ được phiền não. “Đã đạt được tự lợi”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Kết sử được dứt trừ, không còn dấy khởi, điều gọi là lợi lạc có thể giữ gìn được. Pháp sư Đạo Tuệ nói: Đây là để giải thích do đâu có được uy đức lớn lao. “Tuệ Không” là nói lên trí tuệ ấy đã tròn đầy. Đạt được tự lợi là nói các kiết sử kia đã dứt sạch. “Như rừng Chiên-đàn có các cây chiên-đàn vây quanh, như sư tử đầu đàn có các sư tử vây quanh”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sư tử đầu đàn”: Tức tuệ Không đã được thành tựu. Giới, định đều là tuệ Không vô lậu. Như vị vua xem các đức khác của mình như con. Pháp sư Đạo Tuệ nói: Ở đây không lấy “Vua” làm ví dụ mà là khen ngợi chung các công đức lại cùng nhau vây quanh. “Thành tựu vô lượng công đức như vậy, tất cả đều là đệ tử chân chánh của Phật”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Từ pháp Hoa về sau đều được gọi là Bồ-tát. Nếu trước đó thì chẳng được gọi như thế, Pháp sư Bảo Lượng nói: Tên gọi chân giả trong giáo pháp có ba trường hợp: Cho Thánh là chân, cho phàm là giả. Cho Nhị thừa là giả, Bồ-tát là chân. Cho tin thường là chân, tin điều chưa lập là giả. Hiện nay nên dùng lớp thứ ba để nhận xét, nói lên những người ấy đã hiểu rõ trọn vẹn từng cặp về sáu hạnh. “Đều vào lúc sáng sớm khi mặt trời mới mọc” cho đến “Khóc lóc mắt đầy lệ, lòng rất buồn khổ”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Hoa Ba-la-xa, là loại cây xanh, hoa trắng, một ngày ba lần đổi màu: Mặt trời chưa mọc thì hoa màu trắng. Mặt trời mới mọc thì hoa màu đỏ. Mặt trời về chiều thì hoa màu vàng. Pháp sư Đạo Tuệ nói: Hoa ấy chất màu xanh, các đường gân màu đỏ. “Vì muốn đem lại lợi ích an vui cho chúng sinh”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Năm câu dưới là khen ngợi riêng, còn một câu này là khen ngợi chung. Pháp sư Bảo Lượng nói: Ở đây đều nhằm tìm đức chân thật để khen ngợi. Phần thứ nhất này nói do lợi ích nên đi tới, nghóa là những người đó có duyên với đạo, nếu khiến ngàn người làm duyên thì thiếu một người cũng không được. “Thành tựu hạnh Không bậc nhất của Đại thừa”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Các vị La-hán biết Phật là thường, nay muốn thỉnh Phật nêu ra và nói về giáo pháp thường. Bậc nhất của Kinh này là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh không còn sự ràng buộc của hai mươi lăm cõi nên gọi là không. Pháp sư Tăng Tông nói: Bát-nhã đứng đầu muôn hạnh, để khiến cho chúng sinh có được sự thấu hiểu về vô tướng. “Nói về phương tiện đối với giáo pháp bí mật của Như lai”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Ngày trước nói về vô thường, nay lại nói về Thường, tức là giáo pháp sâu mầu. Pháp sư Tăng Tông nói: Nêu ba thừa là phương tiện, nhất thừa là chỗ hành hóa chân thật, thân tướng Phật là hữu vi, pháp thân là vô vi. “Muốn làm nhân duyên, để điều phục chúng sinh” cho đến “Chắp tay cung kính lui lại ngồi sang một bên”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Nghóa là giảng về vô thường thì hiểu rõ về vô thường, nghe giảng về thường trụ thì cũng lãnh hội. Đã tự mình thông đạt, lại nói cho người nghe. Pháp sư Bảo Lượng nói: Tức là dứt trừ sự chấp đối với bốn điên đảo của chúng sinh. Nói theo đây thì nên biết trong giáo pháp của Kinh Pháp Hoa là để đối trị những người không đắc đạo. “Bấy giờ, lại có cô gái tên Câu-đà-la” cho đến “Chắp tay cung kính lui ra ngồi sang một bên”: Xét Pháp sư Tăng Tông nói: “Ni” ở đây là nữ. Chỗ thông lệ của khoa nêu ra là như nhau với ở trên. Pháp sư Minh Tuấn nói: Ở đây nêu chín việc. Nêu dòng họ. Nêu địa vị. Nêu tên. Nêu số lượng. Khen đức phương tiện. Nói về sự lo buồn. Khen đức chân thật. Nêu việc đang tới Nêu Lược các pháp tối tôn tối thắng. Nên gọi là bước lên giai vị Thập địa. “Trong chúng Tỳ-kheo-ni, lại có các vị Tỳ-kheo-ni” cho đến “Đạt được diệu lực tự tại có khả năng hóa thành Phật”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Hai chúng xuất gia, quyền thật khó biết. Nay lược nêu cho rằng trong ni chúng có Bồ-tát. Suy ra trong chúng Tỳ-kheo cũng phải như thế. Pháp sư Bảo Lượng nói: Chỗ hướng tới nhằm nêu ra sự thấu đạt đích thực về sáu hạnh, trở thành ý nghóa của người đệ tử Phật chân chánh. Sự nhấn mạnh về một phía, ở đây là để nói về ni chúng cũng có gốc là Bồ-tát Bát địa trở lên. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Trong đoạn này là khen đức phương tiện. Phần đầu cho rằng các lậu đã được nhận rõ, tức là nêu chung toàn câu. Pháp sư Minh Tuấn nói: Đoạn trước khen ngợi trong chúng Tỳ-kheo, kết luận sau cùng cho là đa đạt được lợi lạc cho mình, ở đây việc khen ngợi ban đầu là các lậu đã dứt sạch. Hai việc ấy cùng có quan hệ với nhau, nói chung là sự khác nhau do việc diễn ra từ Kinh rồi y theo đó mà tồn tại. “Bấy giờ, lại có một Hằng hà sa” cho đến “Đại Bồ-tát đều là bậc Thượng thủ”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Trên đã nêu ra hai chúng Thanh văn, ở đây thì nêu các Bồ-tát, mà không nói tới sắp bày cúng dường nên đều là bậc xuất gia cả. Pháp sư Bảo Lượng nói: Sự nhấn mạnh về một phía ở đây là chỉ cho trong chúng Tỳ-kheo ở trước, có những vị theo phương tiện mà hiện thân Thanh văn. Pháp sư Trí Tú nói: Trong hai chúng Thanh văn hướng tới đều là Phật tử chân thật, đã biết đều là Bồ-tát. Nay lại nêu riêng như thế đều là nói theo sự hành hóa. Trước đã nêu sự hành hóa của các Thanh văn, có liên quan tới ý nghóa gần gũi, hầu hạ nên ở trước đã nêu. Chỗ hành hóa của Bồ-tát rộng lớn, dấu vết ấy có ý nghóa bao gồm nên được nêu ra sau. Sư Tuệ Linh đất Bành Thành cho rằng: Đây là những người đã lìa xa cuộc sống gia đình, nhưng chẳng phải Tỳ-kheo. Pháp sư Minh Tuấn nói: Trong đoạn này có nêu bảy việc: Nêu số. Lược khen đức vị và phương tiện. Nêu tên gọi. Khen ngợi về sự hành hóa trong ba đời. Bày tỏ sự lo buồn. Khen ngợi đức chân thật. Bày tỏ việc đang tới. Bồ-tát, La-hán, đều không phân biệt thứ bậc. Số lượng bốn chúng bất luận tại gia, xuất gia. Cho nên trong một Hằng hà sa này, trong khoảng gồm hai phần chính chỉ ra các vị Bồ-tát là để làm rõ sự khác nhau của hai bên kia đây. Thời Pháp hoa không có Thanh văn, huống chi trong hội này, lẽ nào chỉ có Bồ-tát hay sao? Mà ni chúng lược nêu các vị ở bậc Thập trụ, nói chung là để nói về tính chất cao quý của họ, do vậy được gọi là rồng trong loài người. “Tâm các vị đều quý trọng Đại thừa” cho đến “Những người chưa được hóa độ sẽ khiến cho được hóa độ”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Bồ-tát lầy việc cứu độ muôn vật làm hoài bão của mình. Pháp Đại thừa là thứ thuốc hay nên phải làm rõ trước tiên. Thuận theo tất cả là khi dùng pháp để cứu gíúp muôn loài, điều quan trọng là phải tạo sự thuận hợp như nhau giữa phần nhỏ hợp với sự vật bên ngoài, đức nhân phải rộng lớn trùm khắp. Sự thuận theo có bốn thứ: Hình loại. Ngôn ngữ. Căn tánh. Sự nghiệp. Lập lời thề rằng: Tức là đã đi vào trong năm đường thì cùng chịu khổ vui với cảnh giới ấy, khó thì tâm dễ lui sụt. Vui thì sinh tham đắm. Tự biết đó chẳng phải thệ nguyện rộng lớn, không lý do gì mà không lìa bỏ hai đường kia. Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là sự khen ngợi về đức ở hiện tại. Pháp sư Bảo Lượng nói: Bồ-tát chỉ cho người có đạo tâm, khen ngợi đức không ngoài việc hành hóa của mình và sự giáo hóa bên ngoài, trong ấy thường dựa vào ba đời để khen ngợi. Ở trong một đời cũng gồm đủ hai nghóa vừa nêu. “Đã trong vô số kiếp về quá khứ” cho đến “Nối tiếp sự tồn tại của Tam bảo chẳng để dứt mất”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Để thực hiện đầy đủ đức trên, nếu chẳng làm việc chứa nhóm thì không thể thành tựu. Giảng nói cho người chưa hiểu: Ở trước nói thệ nguyện, nay nói về thực hành. Pháp sư Tăng Tông nói: Hướng tới để nói về sự hành hóa trong hiện tại, còn nay là nói về sự hành hóa trong quá khứ. “Ở đời vị lai sẽ xoay bánh xe pháp dùng các pháp trang nghiêm lớn để tự trang nghiêm. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Kế là khen ngợi đức ở đời vị lai. “Thành tựu được công đức vô lượng như thế” cho đến “Chắp tay cung kính lui lại ngồi sang một bên”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Ý nghóa giống như ở trước. “Bấy giờ, lại có hai Hằng hà sa” cho đến “Bình đẳng không hai, xem như con một”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là các Bồ-tát tại gia. “Ưu-bà-tắc”: gọi là Thanh tín só. Luận văn đã có giải thích. Đó là đời trước đã làm điều lành, đều dùng ý nghóa để chuyển lại tên gọi ấy. Ở đây, việc nêu ra số lượng có bốn bậc: Từ số ấy (hai) đến mười Hằng hà sa, dùng số đông dần thêm nhiều mà cung cấp một ít số lượng tối đa làm thứ lớp. Từ hai mươi Hằng sa, tới chín mươi Hằng sa: Cung cấp số lượng không cần là tối đa, chỉ lấy số đông dần thêm nhiều làm thứ lớp. Từ một ngàn Hằng sa, dùng nhiều ít số lượng bất định cho tới lẫn lộn làm thứ lớp. Sự kiện rừng biến đổi v.v… trở xuống, số đông không cần là nhiều, chỉ lấy sự cung cấp nhiều nhất làm thứ lớp. Pháp sư Minh Tuấn nói: Trong đoạn này nêu ra mười lăm việc: Nêu số lượng. Khen ngợi giai vị. Lấy giới làm gốc cho sự hành hóa nên trước là khen ngợi về giới. Nêu tên gọi. Kế là khen ngợi định, nghóa là quán kỹ pháp môn đối trị. Khen ngợi tuệ, nghóa là cũng ưa thích được lãnh hội các pháp Đại thừa vô thượng. Nêu bốn thệ nguyện lớn, khen ngợi sự hóa độ bên ngoài. Nêu lên giới thanh tịnh trang nghiêm, kết thúc việc khen ngợi. Nêu bày việc gặp phải ánh sáng sinh ra lo buồn. Nói về việc sắp bày sự cúng dường. Nói nhân để sắp bày việc cúng dường, lại phát thệ nguyện rộng lớn. Nêu việc Phật thọ nhận cúng dường xong sẽ nhập Niết-bàn. Nói việc đi tới chỗ Phật bày tỏ sự cung kính. Nói việc Đức Phật im lặng không nhận. Kế là nói về sở nguyện không đạt nên buồn bã, sầu não. “Cũng vào lúc sáng sớm mặt trời vừa mọc” cho đến “áo kiêu-xa- da, áo dệt bằng sợi gai, vải vóc lụa là”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Thiên Mộc Hương là loại thực vật nổi tiếng, có giá trị thời bấy giờ. Người xuất gia thì pháp thí, người tại gia thì tài thí. Việc bố thí có chín thứ. Tài thí gồm có ba, đó là: Vật đúng thời. Vật có giá trị. Vật đúng với giáo pháp. Tâm thực hành bố thí cũng có ba, gồm: Trước khi bố thí, tâm vui vẻ. Lúc bố thí tâm thanh tịnh. Bố thí rồi, tâm không hối hận. Về Địa cũng có ba là: Bất động. Vô tướng. Vô lượng định. Nay chỉ nói về sáu Phật địa, khỏi nói từng chi tiết. “Do thần lực Phật”: Tức là do uy lực của Phật khiến cho các vật ấy trở thành vật quý hiếm, khiến tâm người chủ bố thí được vui vẻ. Cho đến bao gồm khắp cả Tam thiên Đại thiên thế giới, đều gống như tâm trạng ấy. Hoa Ưu-bát-la màu xanh, hoa Câu-vật-đầu màu đỏ, còn hoa Ba-đầu-ma thì màu sắc không nhất định, giống như hoa Xương bồ; hoa Phân-đà-lợi màu trắng, sống trong nước. Mạn-đà-la là thứ hoa rất quý, ở Trung quốc cũng có, màu sắc không nhất định, như đỏ mà pha vàng, như xanh mà pha tím, như xanh lục mà ánh màu đỏ sẫm, nhiều màu nhiều sắc biến đổi như vậy. Cây Ba-lợi-chất-đa ở trên cõi trời Đao-lợi màu sắc cũng đủ loại, ở Ấn-độ cũng có, nhưng hoa, lá, sắc cây cùng màu xanh lục. Kiều-xa-da: Tức loại áo được dệt bằng tơ của loài tằm. Phía đông Ấn-độ có tên là Ô-đà. Loại lúa canh vừa chín biến thành một thứ sâu, con sâu này liền ăn hạt gạo của lúa ấy, người ta bèn dùng tơ của loại sâu đó chế thành thứ bông mềm. Như thứ bông tơ ấy tên là Ma-ha Bạt- đa, ở đây gọi là áo choàng lớn, rất quý giá. Còn Sô-ma là áo dệt bằng vải. Ca-lăng-già là tên nước, cũng sản xuất nhiều thứ vải bông tơ mịn ấy. “Các thứ gỗ hương ấy được chở trên xe báu” cho đến “Thương xót chúng con mà nhận lễ cúng dường cuối cùng này”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đều suy nghó: Nếu ai có sự thiếu thốn gì: Ở đây nói về ba thứ tâm. Pháp sư Đạo Tuệ ghi: Nước có tám tính chất tốt, tám tính chất tốt đó là: Nhẹ nhàng. Trong lặng. Mềm mại. Đẹp đẽ. Trong sạch. Không có mùi hôi. Lúc uống vào dễ chịu, điều hòa. Uống xong thì an vui. “Đức Thế tôn biết thời nên im lặng chẳng nhận” cho đến “Lui lại ngồi sang một bên”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Biết rõ sự thọ nhận không thích hợp. Nếu thọ nhận sự cúng dường của người trước thì người đến sau chẳng được hiến cúng. Trước đây im lặng tức là thọ nhận, nay im lặng là chẳng nhận. Ngày trước thân thể an khang, sự tiếp xúc với mùi vị nhận biết rõ, nếu nói thọ nhận thì chẳng khác nào là tham nên không nói. Nay đang bệnh, thể lực suy yếu, sự cần dùng tự biết, nên nói ra tức là nhận, không nói tức là không cần. Pháp sư Pháp Dao nói: Tuổi thơ sống trong cung vua, gọi thì có người hầu hạ đáp ứng ngay, đó là có dâng lên liền thọ nhận, đâu cần phát ra lời? Nay muốn thể hiện Pháp thân thường, lạc, khỏi phải ăn uống, im lặng không nói, theo lý mà biết đó là không nhận. Pháp sư Bảo Lượng nói: Biết rõ về hoàn cảnh thọ nhận có ba thứ: Phật không nhận hai thí chủ cùng thỉnh. Do trước đã nguyện nên nhận. Biết Thuần-đà sẽ làm thí chủ, để sự lợi ích được mở rộng. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Biết rõ về hoàn cảnh thọ nhận có ba: Biết lúc thọ nhận chưa đến. Biết lúc ấy có nhiều trường hợp không có nguyện từ trước. Biết ngay lúc đó nếu thọ nhận các thí chủ khác thì không thể mở rộng lợi ích. “Bấy giờ, lại có ba Hằng hà sa” cho đến “Trăm ngàn chúng sinh nên hiện thân nữ”: Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: Đại chúng nghe, thấy hiện tướng Niết-bàn, đúng lý thì trong một lúc cùng nhóm họp đến, không cần trước sau. Vả lại, đã có trước sau thì cũng biết đều như chỗ nêu ra trong Kinh. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Các việc như nêu số lượng, nêu ra tên họ, khen ngợi công đức, so với trước có thể biết. “Thường chê trách gia pháp”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: nữ. Nơi chốn tạo sự lưu luyến, tham đắm gọi là nhà, tức là đối với thân “Tự xem thân mình như bốn rắn độc” cho đến “Thân này đáng ghét, giống như xác chó chết”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là sự quán khổ. “Thân này chẳng sạch, chín lỗ trên người thường rỉ chảy”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là quán bất tịnh. “Thân này như thành trì, máu thịt gân xương” cho đến “Quỷ la-sát ngu si cư ngụ trong ấy”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là quán Không. Sắc ấm thì như ngôi thành, bốn ấm như người, các nhận thức không sai lầm ví như vua, còn các phiền não, lỗi lầm ví như dân chúng. “Thân này không bền chắc, giống như lau sậy, cây y lan, như bọt nước, như cây chuối: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là quán vô ngã. “Thân này vô thường, niệm niệm không dừng trụ” cho đến “Ai là người trí mà lại ưa thích thân này”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là quán vô thường. “Nên đem hết nước biển lớn đựng đầy trong dấu chân bò” cho đến “Vì thế phải mau lìa bỏ như vứt bỏ đờm dãi”: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Kết thúc về các quán trên. “Do nhân duyên ấy các vị Ưu-bà-di” cho đến “Trong lòng buồn bã, lui lại đứng sang một bên”:  <卷>QUYỂN 3 <詞>Phẩm 1: PHẨM TỰA Gồm: Nêu các chủng tộc Ly-xa ngồi trên hư không cách mặt đất bảy cây Đa-la. Lại nêu việc các vị Trưởng giả cũng ở cách mặt đất bảy cây Đa-la. Nêu tên khác của các quỷ, thần và các loại cầm, thú. Bày tỏ việc khu rừng biến đổi cùng các dãy lầu gác, giảng đường hiện ra. Giải thích việc Ma vương đọc chú. Nêu việc Bồ-tát Vô Biên Thân đến. PHẨM TỰA (Phần 2) “Bấy giờ, lại có bốn Hằng hà sa” cho đến “Cùng quyến thuộc của các vị vua trong cõi Diêm-phù-đề”: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Ở đây là lần thứ ba, nêu ra các vị hào tộc. “Vì cầu chánh pháp nên khéo tu giới hạnh” cho đến “Yên lặng, an trụ trong hư không”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Vua Đà-na-bà: Là dùng mẫu mực của chúng A-tu-la. Ở đây nói về các vị đi theo. “Bấy giờ, trong cõi Diêm-phù-đề, các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni” cho đến “Khu rừng ấy biến thành màu trắng giống như mầu trắng lông chim ngỗng trời”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Tham sống, yêu tiếc mạng sống của mình, nên cho việc nhập diệt là khổ. Nay nói nhập diệt chẳng phải pháp tạo tác, chỉ là dứt bỏ cái giả để trở về chỗ chân thật, tự nhiên, chẳng thể nhuộm thành, là mượn việc để thể hiện lý. Pháp sư Tăng Tông nói: Hướng về ba điềm lành kia, đều nhóm họp trong cõi người. Nay, hiện ra hình tướng ấy là để thôi thúc chư ma trờiu nhóm họp. Trong hư không tự nhiên mà có cho đến thảy đều bi cảm, buồn bã không vui. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nay nói Niết-bàn dứt hết tất cả các thứ sinh tử, nên gọi là không. Muôn đức của thường, lạc là điều ít có, cũng như trong hư Không có lầu gác, giảng đường. “Lúc này, Bốn vị thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân” cho đến “Đi tới chỗ Phật, cung kính đảnh lễ dưới chân Phật”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Ma, phần nhiều là bậc Thánh, như nay là thật, Phật dùng tâm đại Từ nên có công năng chuyển cái ác của ma. “Mà bạch Phật rằng: Chúng con từ nay” cho đến “Dứt trừ sợ hãi, nên nói chú như thế này”: Xét: Pháp sư Minh Tuấn nói trong Kinh Duy-ma chép: Các “Thế giới trong mười phương trở thành của Ma vương, cũng đều là chỗ an trụ của Bồ-tát giải thoát chẳng thể nghó bàn”, điều ấy ở đây đáng tin. “Sá chỉ trá trá la sá chỉ lô ha lệ” cho đến “A la già la đa la sa ha”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Nếu đạt tới tận cùng nghóa mầu ấy, thì việc nêu ra chú của Kinh rốt ráo là ở chỗ nào? Chỉ vì vật tâm khó dùng lý để tạo sự liên quan, nhưng dễ dùng uy lực để ép buộc. Chú là thuật riêng để ngăn dứt. Ma không có pháp nào dùng để giúp sức cho việc giáo hóa, nói chú là để góp phần vào việc mở mang đạo. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Ở đây có ba bậc: Trước là nói việc ma dùng thần lực đem lại sự vui vẻ cho địa ngục. Bày biện sắp đặt xong thì đi tới, lần thứ hai này đã nói chú, xin được ấn chứng. “Bài chú này có công năng khiến cho những người tâm ý bị tán loạn” cho đến “Lòng rất sầu não, lui lại đứng sang một bên”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Khen ngợi công đức của chú, lại nói là tự mình làm việc giữ gìn để khuyên thọ trì. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Đây là lần thứ ba thỉnh Phật thọ nhận sự cúng dường và ấn chứng bài chú. Phật không nhận sự cúng dường, chỉ ấn chứng các bài chú. “Khi ấy, Thiên vương Đại tự tại và các quyến thuộc” cho đến “Thiên Nhân Sư, Phật, Thế tôn”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Ở đây nêu ra lý do Bồ-tát xuất hiện, nên dùng từ ngữ rất bóng bẩy. Trong ấy nói thân tướng cao lớn, cõi nước trang nghiêm, chúng sinh thanh tịnh, thế giới an vui hết mực. Từ xa đến hiến cúng, lại cầu pháp cao siêu, chứng tỏ pháp hữu vi chẳng an vui. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Ở đây có hai đoạn: Đầu tiên là nói về sự vô biên, kế là nói về thần lực Phật. Nói về sự vô biên trong thân có tám chương, đây là phần thứ nhất nói lược các Phật sự ở cõi nước ấy. “Đức Phật ấy liền bảo vị đại đệ tử của mình” cho đến “Cũng nên kính lễ, xin giải quyết điều nghi”: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Đây là phần thứ hai, nêu Đức Phật ở cõi ấy sai đệ tử mình đến. Bấy giờ Đại Bồ-tát Vô Biên Thân” cho đến “Tất cả uy đức đều mất không còn”: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Đây là phần ba nói việc đông đảo người Kinh hãi, sợ sệt. “Lúc này, Pháp Vương Tử Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Như lai chẳng còn bao lâu nữa sẽ nhập Niết-bàn”: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Đây là phần bốn nói việc Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi an ủi đại chúng. “Bấy giờ, đại chúng đều thấy” cho đến “Kinh điển Đại thừa được truyền bá rộng khắp như thế”: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Đây là phần năm nói về thần lực Bồ-tát. “Lúc này, Bồ-tát Vô Biên Thân” cho đến “Như lai chẳng còn bao lâu nữa sẽ nhập Niết-bàn”: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Đây là phần sáu nói về Bồ-tát dùng thần lực, khiến cho chúng sinh ngay nơi thân mình được sự giác ngộ đạo pháp. “Khi ấy Bồ-tát Vô Biên Thân” cho đến “Nngoài ra không ai có khả năng thấy được bờ mé thân tướng của Bồ-tát ấy”: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Thứ bảy là nói việc dùng thần lực để sắp bày cúng dường. “Bồ-tát Vô Biên Thân và các quyến thuộc của mình” cho đến “Ba lần cầu xin như thế thảy đều không nhận”: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Thứ tám là nói dâng vật phẩm lên Đức Phật, Phật không nhận. “Bồ-tát Vô Biên Thân cùng các quyến thuộc” cho đến “Lui lại đứng sang một bên cũng như vậy: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Phần tổng kết, nói về việc khắp mười phương cùng đến chỗ Phật. “Khi ấy khu rừng sa-la song thọ là đất phước an lành” cho đến “Nhìn thấy cõi nước của Chư Phật cũng giống như thế”: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Phần nói về thần lực Phật này gồm có hai chương: Đây là phần thứ nhất cho thấy ánh sáng đã biến chốn uế trược thành thanh tịnh. “Bấy giờ, từ mặt Như lai phát ra” cho đến “Các lỗ chân lông trên thân đều tuôn ra máu chảy đầy trên mặt đất”: Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: Hóa duyên đã xong, hiện tướng Niết-bàn. Có ba thứ: Tâm chúng sinh thanh tịnh. Cõi nước thanh tịnh. Ánh sáng phát ra được thâu vào miệng. Ánh sáng được thâu vào miệng chính là hình tướng của sự giáo hóa đã dứt. Tâm chúng sinh thanh tịnh là nói lên sự giáo hóa đã xong. Cõi nước thanh tịnh là nói con đường hành hóa đã xong. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Đây là giai đoạn hai, thị hiện tướng Niết-bàn.  <卷>QUYỂN 4 <詞>Phẩm 2: THUẦN-ĐÀ (Phần 1) Giải thích nghóa ruộng phước. Giải thích tên gọi Thuần-đà. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Năm phần của Kinh, hai phẩm dưới đây, là lần thứ hai khai tông nói về nhân quả thường trụ. Thông thường chia làm ba đoạn: Nhân việc dâng cúng để nói về Thường, cũng gọi là nhân thỉnh cầu thọ nhận sự cúng dường mà nói về Thường: Từ đầu phẩm đến hết: “Thích Phạm, chư Thiên v.v… đều đến cúng dường Như lai”. Nhân việc thỉnh cầu để nói về Thường. Từ “Tất cả mọi loài trong thế gian đều sinh tâm rất khổ não” cho đến hết “Thí như châu ngọc lưu ly…” Nhân sự lãnh hội thông đạt để nói về Thường, tức ví dụ thầy thuốc cũ, mới. Pháp sư Đàm Sấm nói: Phẩm này có bốn đoạn: Nhân việc dâng cúng để nói về pháp Thường. Nhân đại chúng vui mừng để nói về Thường. Nhân việc Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi luận nghóa với Thuần-đà để nói về đức Thường. Nhân thôi thúc việc cúng dường để nói về Thường. Pháp sư Đàm Ái nói: Phẩm này chia làm tám đoạn: Thuần-đà thỉnh cầu Phật thọ nhận sự cúng dường Phật thọ nhận. Thuần-đà nêu năm câu hỏi được Đức Phật trả lời. Đại chúng kính mến Thuần-đà nên nhờ ông ấy thỉnh Phật an trụ lại thế gian. (Thiếu đoạn này). Thuần-đà tự vui mừng, bày tỏ ý đại chúng xin Phật trụ lại thế gian. Phật ấn chứng về sự vui mừng của Thuần-đà, nhưng không chấp nhận điều thỉnh cầu của ông. Thuần-đà lãnh hội ý chỉ trong lời đáp của Đức Phật, lại nêu lý do mình thỉnh cầu. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi luận bàn với Thuần-đà. Phát ra ánh sáng thúc gịục sự cúng dường. Pháp sư Đạo Tuệ ghi: Phẩm này chia làm bốn đoạn: Nhân việc thọ nhận cúng dường để nói về Thường. Nhân việc thỉnh cầu trụ thế để nói về Thường. Nhân việc hai vị Đại só bàn luận mà nói về Thường. Nhân việc Phật không chấp nhận sự thỉnh cầu mà nói về Thường. Pháp sư Trí Tú nói: Ở đây cho đến hết phẩm Ai Thán là phần khai mở tông chỉ có chia làm hai: Trước lược, sau rộng. Phẩm này có ba đoạn: Đầu tiên, nhân hai lần thỉnh cầu mà cũng hai lần làm rõ tính chất thường trụ. Đó là Đức Như lai giảng dạy, khai mở tông chỉ. Từ “Thật như Thánh giáo” cho đến hết đoạn luận bàn về ý nghóa: Đây là sự kính tin, hiểu rõ của Thuần-đà, ông đã nói lên điều mình lãnh hội. Trước tuy do hai lần thỉnh cầu và cũng có hai lần được nghe chỉ dạy, mà lý mầu chưa hội nhập được. Giữ vững điều kính tin là khó, cho nên trước phải kính tin thì mới hiểu mà nêu bày. Do đó, Bồ-tát Văn-thù nói: “Dùng các việc của Bồ-tát để thử ông”. Từ việc phát ra ánh sáng cho đến hết phẩm: Đó là Đức Như lai giảng nói những điều có tính chất tổng kết, tóm tắt. Pháp sư Đạo Lãng thuật lời của Pháp sư Tăng Tông rằng: Nghóa là hai phẩm này nhằm khai mở tông chỉ, làm rõ nhân quả thường trụ, gồm có bốn chỗ: Sự cúng dường của Thuần-đà là nhân, Phật liền khai mở tông chỉ, nói về quả Thường. Thuần-đà luận bàn với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, dẫn ra hàng ngàn Lực Só Vương v.v… để làm hiển lộ quả Thường. Dẫn ra hai ví dụ về người đàn bà nghèo và người đàn ông để làm sáng tỏ nhân Thường. Đức Phật nói về chữ Y Niết-bàn là quả, nói về ba pháp tu cao siêu, lấy ví dụ ngọc báu lưu ly làm nhân. Nói về vị thuốc cũ mới, thông suốt giáo pháp nhân quả xưa nay, để hiển bày Thường. “Lúc này trong chúng hội có vị Ưu-bà-tắc”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Thuần-đà nhờ nguyện lực từ trước nên được Đức Như lai thọ nhận sự cúng dường. Ý nghóa của việc ấy có sáu việc, việc thứ nhất này nói lên không từ bỏ sự tu học lúc đầu, tức coi trọng những việc làm cũ. Pháp sư Pháp Dao nói: Ứng hợp với dấu vết theo ảnh hưởng dưới đây thì bậc Đại thánh nhằm phát biểu rất rõ về lý mầu hết mực cao xa. Pháp sư Tăng Tông nói: Sở dó thọ nhận sự cúng dường của Thuần-đà, vì có năm nghóa được lược nêu sau đây: Ở đây dùng hình ảnh Thuần-đà ở chốn nghèo khổ, thiếu thốn là để nói lên việc Đức Như lai không hề bỏ rơi ng nghèo hèn mà tiếp nhận hạng giàu có. Ý nghóa việc dâng cúng của Thuần-đà mang tính chất bao gồm tất cả. Đã có sự hiểu rõ nghóa mầu nên sẽ cùng nhau luận bàn về Thường. Đối với chúng hội đã có duyên. Vào thời Đức Phật Ca-diếp ông đã có phát nguyện: “Ngày đức Thích-ca Như lai nhập Niết-bàn, tôi sẽ là người cúng dường sau cùng”. Từ đây cho đến hết đoạn “Thích, Phạm, chư Thiên đều đến cúng dường Như lai là sự dâng cúng bậc nhất để nói về Thường. Có năm chương: Thuần-đà xin Phật thọ nhận sự cúng dường. Phật thọ nhận sự cúng dường ấy, nhờ vào sự trả lời để nói về thường, tức nêu ra năm câu hỏi được Đức Phật trả lời. Đại chúng rất vui mừng. Nói kệ để nhờ Thuần-đà thỉnh Phật kéo dài thêm sự trụ thế. Thuần-đà tự vui mừng. Pháp sư Đàm Sấm nói: Từ đoạn này đến hết đoạn đáp năm câu hỏi, trong bốn đoạn ấy, đoạn thứ nhất này, nhờ sự cúng dường để nói Thường, có bốn chương: Từ đầu cho đến hết đoạn “Xem như La-hầu-la”: Là Xin Phật thọ nhận sự cúng dường. Từ “Bấy giờ, Đức Thế tôn” cho đến hết đoạn “Giúp ông được đầy đủ Bố thí Ba-la-mật”: Phật thọ nhận sự cúng dường. Thuần-đà nêu năm câu hỏi. Đức Phật trả lời. Pháp sư Đàm Ái nói: Từ đây đến hết đoạn “Giúp ông được đầy đủ Bố thí Ba-la-mật. Là đoạn thứ nhất trong tám đoạn. Có hai chương: Thuần-đà thỉnh cầu. Đức Phật thọ nhận. Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời của Pháp sư Tăng Tông rằng: Ở đây đi vào trong bài kệ của Thuần-đà tự bày tỏ sự vui mừng đến hết đoạn “Thích, Phạm, Chư Thiên đều đến cúng dường Như lai” là đoạn thứ nhất trong ba đoạn, gồm có sáu chương: Thỉnh cầu thọ nhận cúng dường. Phật thọ nhận sự cúng dường. Thuần-đà hỏi về không nên, v.v… Đức Phật đáp. Đại chúng nhờ Thuần-đà thỉnh cầu Đức Phật. Thuần-đà tự vui mừng. Pháp sư Pháp An nói: Hai phẩm này khai mở tông chỉ, đều có hai đoạn: Từ đầu đến hết đoạn trả lời năm câu hỏi: Nhân thỉnh cầu thọ nhận sự cúng dường để khai mở tông chỉ. Từ “Đại chúng vui mừng” đến hết phẩm: Nhân thỉnh cầu trụ thế để khai mở tông chỉ. Trong đoạn trước, thỉnh cầu thọ nhận cúng dường có bốn chương: Thuần-đà thỉnh Phật thọ nhận cúng dường. Phật thọ nhận cúng dường của Thuần-đà. Thuần-đà nêu năm câu hỏi. Đức Phật trả lời năm câu hỏi ấy. Trong đoạn sau, thỉnh cầu Phật trụ thế có ba chương: 1.Đại chúng thỉnh cầu: Từ “Đại chúng vui mừng” cho đến hết đoạn “Đem các việc của Bồ-tát để thử ông”. 3.Thuần-đà mong đại chúng hãy cùng nhau dốc lòng thỉnh cầu: Từ “Phát ra ánh sáng nhằm thôi thúc sự cúng dường” cho đến hết phẩm. Pháp sư Minh Tuấn xét: Phẩm này có bốn phần: đều là môn thỉnh cầu: Nhân Thuần-đà thỉnh Phật thọ nhận cúng dường, để khai mở tông chỉ. Nhân đại chúng thỉnh Phật trụ thế, để khai mở tông chỉ. Hai phần này để nói về sự khác nhau giữa “Bản và tích”. Nhân Thuần-đà thỉnh cầu nên phát sinh việc luận bàn các vấn đề liên quan, trở về điểm chính là, Thường tông nói về sự vui vẻ của việc thọ nhận cúng dường. Vì sao? Vì đối với việc Thuần-đà thỉnh cầu thọ nhận sự cúng dường, Đức Phật liền thọ nhận, giống như nhận thật. Chứng cớ ấy phải nên khai triển. Lại, ở trên xoay quanh năm câu hỏi, tâm bậc Thánh đã có sự vui vẻ. Bàn luận sâu xa rốt ráo với Bồ-tát Văn- thù, chứng cớ ấy rõ ràng là đã dựa vào nền tảng, lại càng được phát huy, triển khai rộng. Từ hiện tượng phát ra ánh sáng thôi thúc cúng dường v.v.. cho đến hết phẩm: Lại cùng nói về “Bản và tích”, để giải thích rộng diệu chỉ ở trên. Hướng chính tuy cho là “Khắp vì đại chúng nhóm hợp ở đây mà thọ nhận sự cúng dường của ông”. Do đó mà mở đầu cho khai ông. Nhưng chỉ nói là “Sẽ ban cho Thuần-đà tuổi thọ, sức khỏe”. Nay, trong một chương này nhằm khẳng định ý nghóa đó. Cho nên dạy rằng: “Như hàng trời, người đối với sự cúng dường cuối cùng đối với Như lai đều được quả báo bất động. Vì Như lai là ruộng phước tốt của chúng sinh.” “Trong thành Câu-thi”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là ý nghóa thứ nhì: Không bỏ gần để theo xa. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Đây là nêu ra quê nhà. “Con nhà khéo léo”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là ý nghóa thứ ba: Không bỏ rơi người thấp hèn, chỉ quan tâm tới tầng lớp cao sang. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Đây là nói về nghề nghiệp. “Tên là Thuần-đà và mười lăm người bạn cùng nghề: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là ý thứ tư: Không bỏ ít theo nhiều. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Xưng tên gọi, để hiển bày đức. “Vì muốn cho thế gian có được quả lành”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Ý nghóa thứ năm này là nói lên đức tiềm tàng bên trong của bậc Đại só thể hiện trong đại chúng. Pháp sư Pháp Dao nói: Nói về địa vị con người tuy thấp kém, nhưng đức độ ý chí thì hết sức lớn lao. Vả chăng có được sự thấu đạt về đạo pháp ch phải do địa vị cao quý hay thấp kém. Điều này càng khiến cho đông đảo những người ở cùng hoàn cảnh thấp kém ấy đều không hề tự coi thường mình. Pháp sư Trí Tú nói: Sở dó không theo những người khác đến cúng dường là để làm nổi bật ý nghóa của sự thôi thúc cúng dường. “Bỏ các uy nghi của thân, liền đứng dậy: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Ý nghóa thứ sáu này là không xem nhẹ điều thô mà tham cầu chỗ diệu. Vì sao? Vì Đức Phật trước đã bảo Thuần-đà bày biện sự cúng dường, nhưng do các vật phẩm cúng dường kia là tầm thường nên không dám dâng lên Phật, chỉ ngồi yên mà thôi. Bây giờ, đã thấy Đức Phật không thọ nhận sự cúng dường của những người khác nên mới thực hành việc dâng cúng của mình. Pháp sư Pháp Dao nói: “Bỏ các uy nghi của thân”: Tức là bỏ dáng dấp của nghề nghiệp khéo léo của mình, tạo được dung mạo cung kính của sự tôn quý đạo pháp. Pháp sư Tăng Lượng nói: Đã có được dáng vẻ tươi tắn của sự cầu thỉnh nên lìa bỏ dáng vẻ thường có hàng ngày. “Vén y bày vai phải, gối phải sát đất” cho đến “Vì hóa độ vô lượng chúng sinh”: Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là nói về có tích, có thật. Về “Tích”: Nếu đức thọ nhận chỗ cúng dường của mình thì những người khác cũng mong được Đức Phật thọ nhận. Về “Thật”: Nếu sự cúng dường được sắp bày thì liền trở thành bố thí Ba-la-mật. Bố thí Ba-la-mật đã thành tựu thì sẽ giúp cho sự giáo hóa, mở mang của Phật. Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: Bậc Đại só vốn chẳng tự làm, nhưng đạo ấy có công năng gồm thâu cả ngôn từ của thiên hạ. “Bạch Đức Thế tôn! Chúng con từ nay không có chủ, không có người thân, không ai cứu giúp, không chốn nương tựa, trở về”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Chủ là để cứu giúp đối với nước, người thân là để giúp đỡ đối với nhà. Đức Phật là bậc cứu giúp, hộ trì đối với tất cả muôn loài. Không có ai cứu giúp bảo vệ, là do không có chốn nương tựa, trở về. Pháp sư Tăng Tông nói: Cứu là vớt lên khỏi khổ, đặt vào chỗ thiện gọi là hộ. Không có chỗ trở về nương tựa là chỉ cho tâm không tìm được chốn để an trụ. Pháp sư Bảo Lượng nói: Lìa bỏ chốn chở che, giúp đỡ là không chủ. Lìa sự gần gũi để hỏi han vâng theo là không có người thân. Nếu bậc Thánh còn tại thế thì điều ác không dấy khởi, đó chính là sự cứu độ. Điều thiện đạt được càng dồi dào, đó chính là sự hộ trì. Làm trái với chỗ nương tựa nên gọi là không có chỗ để trở về. “Nghèo cùng, đói khổ muốn theo Đức Như lai” cho đến “Xin nhận chút lễ mọn cúng dường của chúng con rồi hãy nhập Niết-bàn”: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: Khổ về đói khát dụ cho sinh, tử. Nếu dứt sạch được điều ấy thì ý nghóa đó được gọi là ăn. Nay, sự cúng dường ấy, sự mong cầu là cầu cho cả đồng loại nên nói như vậy. Pháp sư Tăng Lượng nói: Nếu bố thí Ba-la-mật thành tựu trọn vẹn thì đó chính là sự nuôi dưỡng làm thêm lớn Pháp thân ở tương lai. Pháp sư Pháp Dao nói: Chỗ thật của thường trụ là ở tại đây, đều do Phật mà có được, nên gọi là: “Theo Đức Như lai để mong cầu”. Pháp sư Tăng Tông nói: Nêu tâm quả Phật thường trụ pháp thực, vả như lại cùng nêu bày về điều ấy đúng là chưa sáng tỏ. “Bạch Đức Thế tôn! Ví như các giai cấp sát-lợi hoặc Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Thân là sự hợp thành của bốn đại, chọn lấy để làm ví dụ đối với bốn giai cấp. Pháp sư Tăng Tông nói: Trong bốn chủng tánh ấy, chọn lấy một người làm thí dụ. “Do nghèo cùng nên”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nêu ví dụ về việc không có pháp lành xuất hiện ở thế gian. “Đến xa ở nước khác”: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: Đã rời bỏ khỏi chốn vây hãm tức là hội nhập vào chỗ hành hóa của Phật. Pháp sư Tăng Lượng nói: Từ cảnh giới của Đức Phật ấy trong ba cõi này là dụ cho sự tạo ra cõi nước khác. Pháp sư Tăng Tông nói: Niết-bàn đối với sinh tử là “Khác”, người tu hành nêu tâm mong cầu nên gọi là đi tới nơi xa. Nhưng đó là nói quả trong nhân nên chắc chắn sẽ đạt đến. Pháp sư Trí Tú nói: Cảnh giới sanh điều lành sinh khởi là khu vực đã ra khỏi mê lầm, nên gọi là “Khác”. Pháp sư Pháp Trí nói: Chánh đạo đối với tà đạo là khác. “Ra sức làm ruộng”: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: Làm lành, trái với tính thường hằng, phải tự phấn đấu mới trở thành siêng năng. Như làm ruộng không để mất thời vụ mới đạt được kết quả gấp bội, là dùng việc làm ruộng để dụ. “Có trâu bò cày bừa giỏi”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Ở đây dụ cho việc đầy đủ nhân duyên của sự bố thí đã thành tựu. Bên trong có sự đổi khác thì có chánh kiến. Bên ngoài thì thân, miệng không gặp trở ngại. Chỉ có Phật thọ nhận sự cúng dường thì pháp thân được sinh. Pháp sư Tăng Tông nói: Ở đây dụ cho sự điều phục bảy chi ác của thân miệng. “Ruộng đất tốt, bằng phẳng”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Ruộng dụ cho trí tuệ. Dùng trâu bò cày ruộng, mặt ruộng bằng phẳng nên gọi là tốt. Nay dùng điều lành của thân miệng làm thành vốn liếng cho sự tạo tác của tâm, nhờ đó mà đạt được trí tuệ chân chánh. Pháp sư Bảo Lượng nói: Ruộng có công năng, năng sinh. Nếu không dùng trâu bò cày cấy thì sức mạnh của chủ thể phát sinh ấy không có kết quả. Dùng việc ấy dụ cho nghiệp của thân, miệng để đem lại kết quả cho tác dụng của cõi ý. rạp”: “Không có các thứ cát bồi, đất mặn, cỏ xấu mọc tràn lan rậm Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Dụ cho sự điều phục chín mươi tám phiền não (sử). “Chỉ mong trời mưa”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Như lai thọ nhận sự dâng cúng ấy thì pháp thân được sinh, giống như sự thấm nhuần của nước mưa. Pháp sư Trí Tú nói: Tâm dâng cúng là hạt giống, nên kế là dụ về sự gieo trồng hạt giống ấy, ở đây văn lược. “Nói trâu bò cày bừa giỏi và dụ cho bảy nghiệp của thân, miệng” cho đến “Cứu vớt vô lượng chúng sinh khổ não: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Ở đây cho rằng nếu sự hành hóa của Như lai tiếp tục ổn định thì chúng sinh sẽ được ân đức về sự hóa độ ấy… Pháp sư Tăng Tông nói: Cũng vậy, nếu sắp bày cúng dường Đức Như lai đều mong được thọ nhận. Sự dâng cúng của đại chúng, cũng đều như thế. Pháp sư Minh Tuấn nói: Như cúng dường cho Như lai đều mong được thọ nhận cũng là vì sự trụ thế của Như lai. Nếu thế gian có Phật thì chúng sinh được mang ân cứu độ. “Sự dâng cúng hôm nay của con tuy ít ỏi tầm thường nhưng mong rằng Đức Như lai và đại chúng thọ dụng đầy đủ: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: Nói rằng vật phẩm dâng cúng ít, nên mong nhờ vào uy thần Phật khiến cho toàn thể đại chúng thọ dụng được đầy đủ. “Nay con không có chủ, không có người thân, không chốn nương nhờ, xin đức Thế tôn rũ lòng thương xót xem con như la-hầu-la: Xét: Pháp sư Đàm Tế nói: Nước lấy vua làm chỗ che chở, giúp đỡ, nhà lấy người thân làm chốn nương dựa, cậy nhờ. Thế gian không có bậc Thánh thì lấy ai làm việc cứu giúp tế độ? Pháp sư Trí Tú nói: Nêu ra các ví dụ gốc để kết thúc sự thỉnh cầu. “Bấy giờ, Đức Thế tôn, Bậc Nhất Thiết Chủng Trí, Vô Thượng Điều Ngự”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Chỗ thỉnh cầu xưa nay, chẳng phải chỉ có vật phẩm cúng dường quý giá. Người cũng là hạng giàu có, hiền thiện mà không mong được thọ nhận. Nay Đức Phật hứa thọ nhận của Thuần-đà, ý nghóa ấy phải có lý do. Vì vậy, pháp được gom góp này đã dùng hai câu ấy để tôn xưng bậc đức độ cao tột. “ Phật bảo thuần-đà: Lành thay! Lành thay!” cho đến “Mưa xuống ruộng thân tâm của ông, giúp sinh ra Pháp thân: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: Tuy sự thực hành theo đường lành đã có được trí tuệ, nhưng nếu chưa thông hiểu về thường trụ, thì mầm pháp cũng chưa phát sinh. Pháp sư Tăng Lượng nói: Bố thí dẫn đầu muôn hạnh, là mầm móng của Pháp thân. Kính Di ghi. Pháp sư Tăng Tông nói: Dưới đây cho đến hết đoạn “Đáp lại năm câu hỏi”, trong năm chương ấy thì đây là chương thứ hai. “Mưa xuống ruộng thân tâm của ông”: Một số Kinh khác phần nhiều dùng sự nói pháp làm mưa. Trong ấy, chính là nói về lên sự thọ nhận bố thí, nên mầm móng của sự bố thí thường được thêm lớn, cũng như trận mưa kia đối với muôn vật. Pháp Liên ghi. Pháp sư Tăng Tông nói: “Thân”, là nói về thân, miệng. “Ruộng”, là chỉ cho trí tuệ, tức chỗtạo tác của tâm, ý. Pháp sư Bảo Lượng nói: Dứt trừ nghèo cùng: Là nói chỗ chấp hiện tại, ý chỉ ấy có hai: Hứa thọ nhận sự cúng dường. Hứa nói pháp. Đó chính là sự dứt trừ hai thứ nghèo cùng. Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời Pháp sư Tăng Tông rằng: Trong ấy có ba bậc: Đây là bậc thứ nhất, Phật đáp lại sự thỉnh cầu thọ nhận sự cúng dường. Nếu Phật hứa thọ nhận thì rõ là mầm mống của sự bố thí đã sinh rồi, chứ không phải thọ nhận rồi thì mầm móng ấy mới nẩy sinh. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Nên chọn lấy nhân của việc thỉnh cầu thọ nhận sự cúng dường. Trong phần nói về thường, lược có nêu mười chi tiết đáng chú ý: Đức Phật vì hai thứ thiện của duyên sanh bên ngoài: Một là công đức; hai là trí tuệ. Trí tuệ là nơi chốn làm sinh ra sự hiểu biết về đức thường. Công đức tức là chỗ phát sinh ra điều tương tự như bố thí Ba-la-mật. Chủ thể làm sinh ra nhân bên trong cũng có hai thứ: Một là hạt giống công đức, nghóa là tức là tâm bố thí; hai là hạt giống trí tuệ, tức là tâm suy tìm nhân quả. Nói về “Chủ thể sinh ra” và “Đối tượng được sinh ra” cùng là một tánh. Nghóa là tâm thực hành bố thí Ba-la-mật, tâm suy tìm nhân quả và sự hiểu biết về thường là mới. Lại, hạt giống của tâm bố thí Ba- la-mật là cũ. Theo Phật để có được pháp bố thí Ba-la-mật là mới. Nói rộng về hai thứ hạt giống. Tâm tiếp xúc gần gũi phán xét các pháp không ngoài ba thứ: Thiện, bất thiện và vô ký. Ba thứ tâm ấy đều có hai nghóa: Một là tính chất không quyết định, hai là tính chất suy xét tìm tòi. Như khéo suy xét tìm tòi tức là hạt giống trí tuệ. Còn tính chất không nhất định là hạt giống công đức. Nên nói rộng về nghóa của công đức và trí tuệ. Nói về Thuần-đà và Đức Phật, cả hai làm thí chủ và người nhận. Thuần-đà dùng tâm hữu lậu, dâng cúng của cải hữu lậu cho bậc vô lậu, còn người nhận là bậc vô lậu. Đức Phật dùng tâm vô lậu, ban pháp vô lậu cho người hữu lậu, đó là người bố thí là vô lậu, còn người nhận là hữu lậu. Nói lược về Thuần-đà và Đức Phật, tuy cả hai bên đều là người bố thí nhưng không được làm ruộng phước lẫn nhau. Ruộng có công năng sinh dụng nuôi lớn. Đức Phật là người đã viên mãn công hạnh, đâu cần nhờ lợi 1ich của ruộng không chờ đem của cải đến chỗ người nhận. Như của cải của một người ở nơi khác, quan địa phương ấy xác định là của bố thí, thì của cái đó thuộc về người nhận. Nói Phật là người quyết định thọ, thuần-đà-la là người quyết định thí, cả hai đã là quyết định, Phật pháp nhận thọ liền sanh đàn độ. Nói về địa vị của con người. Vì sao? Vì Thuần-đà gốc là hạng ngoại phàm phu, do nghe Phật giảng nói, đã thấu đạt được Thường, trở nên có trí tuệ tương tự, đạt được sự bố thí Ba-la-mật tương tự, nhập vào nội phàm phu. Nhân được nghe Phật đáp về năm câu hỏi liền chứng được Vô lậu. Nói về nhân thí và duyên thí. Nghóa là Đức Phật giảng nói về đức Thường. Nhân bố thí là Thuần-đà đã lìa bỏ của cải. Nhân thì gần mà duyên thì xa. Vì sao? Vì bố thí bằng của cải thì lý gần mà sự thì xa. Tài thí thì của cải là từ thân mình, do đó mà lý xa. Pháp thí thì của cải là từ thần lực, do đó mà lý gần. Mà đã giảm mình, bỏ của cải, nên đối với sự thì gần, nên gọi là nhân. Pháp thí thì không làm tổn giảm đối với chủ thể, nên đối với sự là xa, do đó mà gọi là duyên. Giải thích rộng về ý nghóa ruộng phước. “Nay ông đối với Như lai muốn cầu tuổi thọ” cho đến “Thường được đầy đủ tuổi thọ, dung mạo, sức lực, an vui, biện tài vô ngại”: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: Phàm bố thí mong được thọ dụng, khiến được quả là năm việc, năm ấy đều quy về việc đã qua. Nếu bố thí chẳng đợi thọ dụng thì năm việc ấy thường hiển bày, do năm việc thường hiển bày nên mới đúng là “Hữu thường”. Nhưng nếu người dâng cúng được quả Thường, thì do người thọ nhận là Thường. Pháp sư Tăng Lượng nói: Ở trên khuyến khích nêu nghi vấn, nay khai mở điểm chính của sự nghi ấy. Vì sao? Vì ở trước giảng nói tứ phàm phu đến Phật đều là vô thường. Nay cho rằng “Thí thường”, như thế lời nói về ràng trái với ở trước, theo lý là nên nêu nghi vấn. Pháp sư Pháp Dao nói: Ở đây, ý chỉ có hai: Nói về sự thỉnh cầu của Thuần-đà thuộc về việc thọ thực sắp tới. Mục đích là nói lên ý chỉ thường. Nói Đức Như lai ngày nay, có khả năng ban cho thường, tức là ruộng thường. Đây là nhân việc thọ thực để nói lên không thọ thực, mượn “Diệt” để nói lên lý bất diệt. Ý nghóa quy về Kinh là để làm hiển bày điều ấy. Kính Di ghi. Pháp sư Tăng Tông nói: Từ Vườn Nai đến Linh Thứu, trước sau bốn thời, chỗ cao tột cho rằng số lượng còn tăng hơn trên gấp bội. Tự có sự chú trọng về một phía nên mới có giáo pháp riêng, như Kinh Đại Vân, kinh Thắng-man được truyền bá. Đây là hàng thượng căn. Hôm nay khai mở tông chỉ, hiển bày về Thường, chính là vì người hạ căn. Do đó mà có thứ lớp. Pháp sư Bảo Lượng nói: Về dung mạo thì thân an lập. Về sức lực thì tâm an lập. Chỗ hợp thành của sắc tâm, niệm niệm không sinh diệt, nên gọi là tuổi thọ thường. Tức Như lai xuất hiện ở đời, sự giáo hóa thường thấy, làm cho con người phát sinh một niệm lành, đều là ban cho con người về thường. Vì sao? Vì dù chẳng phải tưởng tám muôn đều là nghiệp phiền não tạo nên. Nếu chỉ có một mảy may điều lành thì, tất cả xa lìa quả thường, không cảm ứng với sinh tử, cho nên biết chính là khí phần của thường. Chỉ vì lý mầu ấy sâu xa chưa thể giảng nói, nay mới nói bày. Pháp sư Trí Tú nói: Nay gọi là “Ban cho ông”, ý chỉ ấy có hai: Vì Thuần-đà hôm nay dâng cúng gặp được ruộng thường, lý sẽ thành quả Thường, quả do ruộng mà được, nên gọi là Phật ban cho. Nếu Thuần-đà đem một nhân của sự dâng cúng ấy, còn cảm ứng với Thường, huống chi là đối với Phật đã từng thực hành chứa nhóm trong nhiều kiếp, mà chẳng phải Thường hay sao? Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời Pháp sư Tăng Tông rằng: Đây là bậc thứ hai, thuộc pháp môn công đức, nói về quả của sự dâng cúng. Về năm việc ấy, vì dùng để đối với vô thường, nên nói là thường. Dung mạo và biện tài, là nói theo tích, còn tuổi thọ, sức lực, sự an ổn, ba việc ấy là nói theo Bản. “Vì sao? Vì dâng cúng thức ăn có hai quả báo không khác nhau”: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: Nói theo ở chỗ tột cùng, Phật là thường, nên có khả năng ban cho con người về thường. Nói theo Bồ-tát thì, tích của thể chưa cao tột, sự giao tiếp là cần thiết, làm sao bỗng chốc từ hình tướng thô thiển liền trở thành diệu thường ngay được? Làm hiển bày điều ấy thì đồng với điều nói trên, nên khiến cho sự thật được rõ. Pháp sư Tăng Lượng nói: Sở dó dùng ruộng phước của Phật làm rõ đức thường, là do ở trên nói mâu thuẫn, chẳng thể không biết, nên nhờ sự cúng dường mà phát sinh sự luận bàn. Vì sao? Vì do người thọ thực được năm điều lợi, nên người dâng cúng được năm quả báo. Nếu dâng cúng đồ ăn của mình mà có dụng ý, thì dụng ý là vô thường, chẳng lẽ quả đạt được là thường sao? Chỉ có Đức Phật là không thọ thực, vì dụng ý nên khiến cho người dâng cúng có được phước vô dụng. Pháp sư Pháp Dao nói: Nói về Bồ-tát và Phật, hai tích đều là quyền. Sau rõ được Phật từ lâu đã là thường, chẳng phải hôm nay mới là thường. Nếu hôm nay mới là thường, thì Bồ-tát thọ thực và nhờ đó đạt đạo cũng đều là ứng hợp với thật. Nếu là thật thì đó chính là vô thường. Nay Bồ-tát vả Phật đều chung một thân, vậy thì làm sao bỗng nhiên liền được thân thường trụ chẳng thọ thực? Suy xét điều ấy và nói về, thì diệu thể thường trụ riêng tự nó có ý chỉ, chẳng phải thân ứng hóa hiện nay. Thường trụ đã hiển bày, đó chính là sự thọ thực đạt đạo, cho tới Niết-bàn đều là ứng hợp với tích. Pháp sư Tăng Tông nói: Ở đây vì sao phải giải thích, vì trước kia chỉ là đối với thọ thần, ý dâng cúng còn được quả báo thường, huống chi nay ông đối với Phật, khởi tâm trí nhất thiết, nay và xưa đều là pháp thân, âm thầm hay khai mở không khác, lý mầu về quả báo là đồng. Pháp sư Bảo Lượng nói: Câu đáp cho sự xem xét cần phải giải thích thẳng, đó là hôm nay vì sao nói là ban cho ông năm điều thường, sợ ý của Đức Phật chẳng phải như thế. Mỗi người có một cách hiểu, nhỏ lại chọn lấy điều xa. Vì sao? Vì nói xưa vốn là thường, hôm nay thọ nhận sự cúng dường cũng là gốc thường, vậy sao hôm nay mới nói ban cho thường, mà xưa không nói? Cho nên nói rằng thọ nhận cúng dường tuy có hai, nhưng có được quả báo thì không sai khác. Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: Giải thích lý do nhận được sự ban cho “Mạng thường”, là do thí thực có hai: Thọ thực xong thì nhập Niết-bàn Hữu dư. Thọ thực xong thì nhập Niết-bàn Vô dư. Cả hai đều xa lìa hai thứ ma, dứt trừ mọi chốn lo lắng, việc lớn sẽ được hoàn thành, do đó công dụng của hai thời đều lớn lao. “Hai thời là? Một là thọ thực xong” cho đến “Khiến ông đạt được đầy đủ bố thí Ba-la-mật”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Sở dó liên quan với bậc học địa là để nói lên vô thường có thô tế. Đoàn thực, xúc thực vốn có cùng sự sinh tử phần đoạn, đó là vô thường cạn cợt. Niệm niệm sinh diệt, đó là vô thường sâu xa. Như thân sau của Bồ-tát đâu phải giả đối với đoàn thực, nên liền đạt được thường mầu nhiệm, chính là Kim cương. Do thọ thực không phải giả nên cái thường diệu ấy tức là thứ bậc. Sở dó nêu ra hai thứ dâng cúng là vì dụng cao siêu. Nếu dùng đạo pháp quyền biến dứt trừ nhân quả hữu vi mà khó dứt trừ thì như kim cương là sự tu tập, vì quả khó dứt trừ nêu vô học có khả năng dứt trừ. Vì thế hai phước báo của sự dâng cúng đều không khác nhau. Nếu thức ăn giả thì dứt trừ, công dụng nội tại là hơn. Đạo chân thật dù không cần đến cái ăn nhưng thí cho, thì vì tưởng khó được, nên tác dụng bên ngoài là hơn. Kính Di ghi lời Tăng Tông nói rằng: “Chỉ thú này có hai: Phát ra giáo pháp xưa. Dứt trừ sự cố chấp của con người. Chúng sinh xưa thật sự là Bồ-tát, nay ban cho phước v.v… thì thường thú hướng tự sáng tỏ”. Trí: Nêu đại khái hai cách cúng dường trước, sau đều gặp ruộng phước, thì sẽ được quả thường, một trong hai vị. Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời của Pháp sư Tăng Tông rằng: Cấp bậc thứ ba này nêu ra môn tuệ, giải thích lý do v.v… Pháp sư Bảo Lượng nói: “Xét về ruộng phước, phải dùng tội phước đối nhau, mới được sáng tỏ, vì sao? Vì một niệm lành trên đến mé kim cương, mỗi việc lành nối tiếp nhau đều là phần vị của ruộng phước, vô minh trụ địa. Dưới đến bốn địa. “Hoặc” của một niệm, có công năng chiêu cảm quả báo sinh tử, đều là ruộng tội. Đại loại là thế. Khảo sát kỹ về chỉ thú kia, không ngoài sáu câu ba cặp: Cặp thứ nhất là phước ở trong phước, sẽ được phước tiền của ở mai sau. Sự thanh tịnh của ruộng trước, với tâm hết lòng kính trọng, vì cho ruộng không có ngăn cách, nên sẽ được tiền của sau này. Kế là nói về trong ruộng tội, thì gây ra tội, sẽ được tiền của về sau. Như người bố thí cho người thì trước gây ra việc xấu ác, tức là giữa người kia với người này có liên quan về tội, tiền của ở mai sau. Cặp thứ hai, nói về làm phước trong ruộng phước, sẽ không được tiền của, phước báo, nghóa là để ý người này, vô tâm với người kia. Và người kia đã đưa đến trái với tâm, vì trước đó đã vô ý đối với người kia sẽ không có phước, tiền của ở mai sau. Dù có tâm với người này, mà người này lại không có việc kia thì lại không có phước báo, tiền của ở mai sau. Làm việc ác trong ruộng tội, không đem đến tiền của: Như người hại một Xiển-đề, vì ruộng nghịch nên không nhờ cậy. Cặp thứ ba, làm ác trong ruộng phước, mà trong ruộng không có tiền của ở mai sau, chỉ sinh ra điều ác, tội do tâm thì trái với phước, không có khả năng giúp đỡ nhau. Lại, làm phước trong ruộng tội, chẳng hạn như người cúng dường Xiển-đề, chính là do bên tâm sinh phước mà thôi. Cho nên phân biệt về tâm đều có lý do. Con gái của Mị-gia dù là ý của Thần cây thí cho, nhưng tâm họ không có ngăn cách, thầm tương quan giao cảm. Minh Tuấn xét: Sự vó đại của ruộng phước chỉ trong hai lúc là: Thành thật. Niết-bàn. Việc thí cho trong thời gian này, được khẳng định là quả thường. Chỉ thú này có hai: Xác minh: Nếu thí cho vào lúc này, tất nhiên sẽ được quả thường, thì ta cũng có gieo trồng, làm sao chẳng phải thường cho được? Nay khác xưa, đồng được quả thường, do câu hỏi sau của Thuần- đà. Xác minh: Nếu thí cho vào lúc này sẽ được quả thường, thì ta cũng đã có gieo trồng, chẳng lẽ không phải thường ư? “Bấy giờ, Thuần-đà liền bạch Phật rằng” cho đến “Không khác nhau”, nghóa này không đúng. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: Đều cho là bình đẳng, chưa hiểu rõ lý do, nên phải dùng sự để đặt ra câu hỏi, rồi sau mới biện bạch. Pháp sư Tăng Lượng nói: Nếu trí Phật đầy đủ dụng cao siêu của địa vị thanh tịnh thì giúp cho người thí được thường, cho nên trước không như sau. Nếu sau không dùng mà trước dùng, thì sau sẽ không như trước. Trong năm câu hỏi này, bốn câu trước nói về địa bất tịnh, một câu hỏi sau, nói Đức Phật không có dụng. Pháp sư Pháp Dao nói: Nói nhắm thẳng là bình đẳng, chẳng hay lý do vì sao? Nay, phó thác vấn nạn không bình đẳng. Muốn nói về hai dấu vết đồng là quyền mà chẳng phải thật. Nếu khiến cho quả Bồ-tát thật mà không phải quyền, thì Đức Phật cũng đồng phần. Vì sao? Vì đã cùng chung một thân, sao Đức Phật thường riêng khác, mà Bồ-tát lại không ư? Nay, y theo Phật là thường, chính là lý do chứng tỏ Bồ-tát là quyền. Kính Di ghi lại lời của Pháp sư Tăng Tông rằng: Ý câu hỏi chấp nhờ giáo pháp xưa, thường khiến cho trước kém mà sau vượt hơn. Nếu nghóa không bình đẳng đã thành, thì nghóa thường sẽ hư hoại. Dù cho rằng sau hơn, nhưng về lý do thì không hơn, vì sao? Vì nếu trước là vô thường thì chẳng lẽ chấp nhận một ít thời gian sẽ được là thường? Y theo vào công đức, trí tuệ tròn đầy hay không để thưa hỏi. Vì chúng sinh trái với phi chúng sinh. Vì báo trái với phi báo. Hành trái với phi hành. Dùng trái với không dùng. Pháp Liên ghi lời Tăng Tông rằng: Năm câu hỏi khó làm, khiến cho không bình đẳng. Về quả cũng có khác nhau. Hiện thấy thi thố công hạnh của Bồ-tát không bằng thi thố công hạnh Phật thì vượt hơn. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý của Thuần-đà cũng khó thấy, mà giải thích thì có nhiều phương pháp. Nay, trước hết xem xét, khảo chứng giáo pháp Phật, nếu Đức Phật vốn là thân thường của pháp thân, thì ngay hôm nay, cũng đúng vì sao lại vấn nạn ư? Dù cho xưa nay, đều là vô thường thì hai đời lại bình đẳng. Chính thức lẽ ra y cứ sinh ở cung Vua, tìm tòi lý, đặt ra câu hỏi. Vì sao? Vì xét trong giáo pháp xưa, do ngộ đạo dưới cội cây mà thành Phật là thật, đến Kinh Thủ Lăng Nghiêm chép: Tuổi thọ “Bảy trăm a-tăng-kỳ là chân. Một trượng sáu là ứng, mà cả hai lý đều mầu nhiệm, ta không thể biết. Vả thấy cung vua mà sinh ra thân phiền não, bắt đầu thành Phật. Như Bồ-tát Di-lặc đã vấn nạn trong Pháp Hoa. Nếu nói theo lý, thì nghiệp và phiền não đều mắc phải quả báo khổ đau vô thường. Nay, nghiệp phiền não đã dứt hết, đương nhiên quả báo lẽ ra không có, sao vẫn còn có năm ấm này? Tuy nhiên, cũng có thể là biến hóa, ta không thể biết được, chỉ hôm nay, công hạnh của mười địa đã mãn, vô lậu tròn đủ, đã được quả báo, đáng lý là thường. Nếu vậy, thì trước thời gian thọ thí, tức chưa thành Phật, lẽ ra là vô thường, hôm nay là thường, quả báo của hai cách thí làm sao nói là bình đẳng nhau được?” Pháp sư Đàm Ái nói: “Dưới đây là đoạn hai gồm có hai chương: Thứ nhất là hỏi; thứ hai là đáp. “Vì sao, trước khi thọ thí, phiền não chưa dứt hết” cho đến “Được khắp đầy đủ Đàn Ba-la-mật”. Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Niết-bàn ở tông, bao gồm là chúng. Đại khái nêu lên ba nghóa, để nói về thể Niết-bàn kia. Đây là y theo dấu vết thật của Bồ-tát để đặt ra câu hỏi. Nếu phiền não chưa hết, thì chưa được chủng trí. Vì chưa được, nên vẫn còn bị khổ lụy buộc ràng, chưa được giải thoát. Ở đây nêu giải thoát để nêu câu hỏi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hoặc” do che lấp ánh sáng, nếu mảy may “Hoặc” không dứt hết, thì Chủng trí sẽ không khởi, đây là trí đoạn không có, thì làm sao sinh ra phước của Đàn ư?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý nghóa năm nạn: Nạn thứ nhất, được, và chưa được chủng trí. Nạn thứ hai, hàng phục và chưa hàng phục bốn ma. Nạn thứ ba, đăng và chưa đăng pháp thân. Nạn thứ tư, mãn và chưa mãn nhân khó thực hành. Nạn thứ năm, chờ đợi cái ăn, và không có cái ăn. Đây là bậc nhất. Pháp sư Pháp An nói: “Ba vấn nạn trước trong năm nạn, nói về lúc thọ nhận của cúng dường, điều nên dứt trừ chưa dứt trừ. Một câu hỏi sau, nói về xưa kia đáng lý được, lại không được. Câu hỏi thứ năm là dùng, không dùng. Trước, người thọ thí vẫn là chúng sinh. Về sau, người thọ thí là trời trong trời. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai ở đây là căn cứ vào con người để đặt câu hỏi. Kinh có hai bổn cũng nói: “Vẫn là chúng sinh, vì nắm cái sau để so với cái bắt đầu. Cũng nói rằng ngay phải, vì lời nói chỉ là người thực hành địa. “Trước, người thọ thí là thân ăn tạp nhạp” cho đến “Quả báo… của hai thí, đều không khác nhau”: Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là y theo Pháp thân để hỏi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dù được thức ăn giúp đỡ, vì tột một đời sống này, nên nói là biên sau. Đã thành Phật rồi thì tất nhiên, “Hoặc” đã dứt hết, nên nói không có thân phiền não.” “Trước, người nhận bố thí, chưa thể đầy đủ” cho đến “Quả báo của hai thí bình đẳng không khác nhau.”: Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là nêu Bát-nhã. Nếu ba việc này có đủ, không đủ, thì tức là Niết-bàn thường trụ. Có được, không được, thì làm sao bình đẳng ư?” Kính Di ghi lời ngài Tăng Tông rằng: “Nêu sáu độ để nói về muôn hạnh chưa mãn. Nêu năm thứ mắt để nói về các đức chưa thành. Chỉ được nhục nhãn. Đây là y theo cho đoạt để đặt tên. Nhục nhãn nhìn thấy rất thô sơ, với cái tên của nó, Phật gọi là Giác. Về lý hiển nhiên chấp nhận không được tuệ nhãn của Phật ư? Nay, nói rằng, chưa được Phật nhãn, Phật nhãn chẳng lẽ có thể được ư? Đây là tuệ nhãn về mặt quả, còn chưa được, huống chi là Phật nhãn?” Lại, giải thích: “Nhục nhãn, Thiên nhãn trong năm thứ mắt ở địa vị phàm, ba nhãn còn lại về mặt quả, nghóa là Phật nhãnlà hơn hết. Kế đến là pháp nhãn, tuệ nhãn v.v… Nêu kém trong cái hơn. Vì nói tóm tắt, nên nói “Cho đến”. Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời Pháp sư Tăng Tông rằng: “Có nhục nhãn… cho đến tuệ nhãn, mà không nói Phật nhãn, vì Phật nhãn là vô thể, chỉ có bốn loại nhãn này đủ nhìn thấy sáng rõ, chính là Phật nhãn, nên chỉ nói bốn nhãn đầy đủ, là biết có Phật nhãn.” Pháp sư pháp Trí: “Trong nhân chỉ có bốn nhãn trước đã cho nhục nhãn kia. Kế là, nói chưa được Phật nhãn. Nay, nói lý do vì sao Phật nhãn chưa được? Vì nhân chưa mãn, nên cho đến nhân địa, tuệ nhãn cũng chưa được. “Đức Thế tôn trước thọ cúng dường, thọ xong Ngài dùng” cho đến “Quả báo của hai thí bình đẳng không khác nhau”: Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Ba vấn nạn trước nói về cùng tột, chưa cùng tột, không được bình đẳng. Một câu hỏi này nói về thọ dụng, không thọ dụng. Thọ dụng thì sẽ được năm quả, không thọ dụng, thì sẽ được bình đẳng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Người thọ dụng, vì có chỗ nhờ cậy, nên tiêu hóa, thí chủ lại được quả vô thường. Nếu không có lãnh thọ, thì sẽ không có tiền của, chỉ ứng tích mà thôi. Về mặt lý, sẽ được quả báo thường. “Phật bảo: Này người thiện nam! Như lai đã nói” cho đến “Thân thường, pháp thân, kim cương thân”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp chung bốn câu hỏi trước”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Đã lâu không phải thân ăn, tích của Bồ- tát, không thật nói. Vì là thường, nên bố thí bình đẳng là thường”. Đây là đáp pháp thân thứ ba chưa có thưa hỏi”. Pháp sư Tăng Tông nói: Ý của năm nạn dù giả vì không bình đẳng nhưng ý muốn làm rõ sự bình đẳng do đó giải thích về bình đẳng. Giảng nói ý chỉ thường. Đây là trước đáp câu hỏi thứ ba ở trước, mà về nghóa thì giải thích năm câu hỏi. Với ý vấn nạn, chỉ khiến người thí cho ở trước thật sự là Bồ-tát. Nay, đáp rằng: “Đã từ lâu không có thân ăn ở đây mới nói quyền”. Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là chính thức đáp câu hỏi thứ ba, gồm đáp câu hỏi thứ nhất. Ở đây, chính là nói về hai thời gian thích hợp, mà ruộng thật của pháp thân từ lâu là thường.” “Này người thiện nam! Người chưa thấy Phật tánh” cho đến “Quả báo của hai thí bình đẳng không khác nhau”: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì sao biết được đã từ lâu không phải thân ăn?” Vả chăng, khi thấy Phật tánh soi rọi cùng tột thì đâu đợi ăn ư? Mà nói rằng ăn rồi thấy? Đáp: “Vì nhận biết chẳng phải thật.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là y theo công hạnh thật, Bồ-tát cũng có thức ăn giả làm tác dụng với tác dụng không thật, là hai thứ tịnh này. Vì sao? Vì thức ăn tiêu hóa nhập vào trăm mạch, đối với thân thì thành công dụng và thời gian của công dụng đó là thấy Phật tánh, không còn lý do phiền não bình đẳng nữa. “Bấy giờ, Bồ-tát phá hoại bốn ma” cho đến “Quả báo của hai thứ bố thí bình đẳng, không khác nhau.”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đầu tiên thành đạo, phá ma trời, ma phiền não. Ngày nay, phá tan ma năm ấm, ma chết, vì nêu số ấy, nên nói chung là bốn”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ nhất. Vả chăng, thân vô thường, chưa ra khỏi cảnh ma, vì sao? Vì đã là pháp lụy thì tức là ma phiền não. Vì là hữu vi, nên tức là ma năm ấm. Vì là pháp chết, nên tức là ma chết. Với ma trời đồng là như thế, há vượt ngoài cõi kia ư? Phá bỏ bốn ma, chẳng lẽ không phải là nghóa ở thường trụ, nhưng thường trụ, đâu phải ở Song thọ mới có, vì bắt đầu nói nên nghóa không có ma được sáng tỏ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp thẳng câu hỏi thứ hai của chúng sinh. “Hoặc” che lấp ánh sáng, cũng là yếu tố dẫn dắt đến sự sinh. Nay cùng nhau phá bốn, nên nói là bình đẳng. “Bấy giờ, Bồ-tát dù không nói rộng” cho đến “Quả báo của hai thứ bố thí bình đẳng không khác.”: Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đáp câu hỏi thứ ba. Từ lâu đã được Bát-nhã, chỉ nói và không nói, thời gian đó khác nhau.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ tư, về sáu độ, năm nhãn chưa tu. Căn đã hóa độ vì có thành thục, chưa thành thục, nên có sự khác nhau giữa nói nín.” “Này người thiện nam! Thân Như lai đã ở vô lượng” cho đến “Sau cùng đã phụng, thật ra cũng không ăn.”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ năm, về thọ dụng, không thọ dụng. La-hán còn không ăn, huống chi là Bồ-tát thân sau ư? Quyền và thật, trước cũng không ăn, sau cũng không ăn. Vì các vị Thanh văn, nếu Đức Phật không thọ lãnh thì chí nhỏ sẽ tự dứt. Cho nên, bảo cho Tiểu thừa kia bỏ nhân chấp không xa. Vì đại chúng ở đây đều nhắm vào lý do không nhận sự cúng dường, nói lên tình ý bỏ đi, giữ lại khác nhau, e rằng ý lấp vô căn cứ của người thời bấy giờ, nghóa là không còn tiếp nhận đức từ, không dám thưa hỏi.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Đáp câu hỏi thứ tư, nói về Bồ-tát thật sự không thọ dụng, thọ dụng dấu vết. Nay, nhập Niết-bàn cũng là thọ lãnh dấu vết. Cả hai sự thọ lãnh đều cùng dấu vết, không phải bình đẳng là sao?” Pháp sư Đàm Tế nói: “Xưa, không có quả của năm việc, đến nay cũng không có. Xưa vì Tiểu thừa nên thọ lãnh dấu vết. Cả hai sự thọ lãnh đều cùng dấu vết, không phải bình đẳng sao? Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ năm. Hai dấu vết đều không đặc biệt, đều cùng nói về, thì đâu có hơn kém ư?” “Lúc bấy giờ đại chúng nghe Phật, Thế tôn” cho đến “Là Phật tử, như La-hầu-la bình đẳng không khác”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghe nói Đức Phật vì đại chúng thọ thực, tất nhiên sẽ có nghóa quả báo bố thí, cũng có lý để thỉnh Phật an trụ, nên tất cả đều vui mừng.” Pháp sư Đàm Tế nói: “Dưới đây là thứ hai trong bốn đoạn, đại chúng vui mừng, nhân thỉnh Phật ở đời, để nói về thường.” Pháp sư Đàm Ái nói: “Đoạn Thứ ba trong tám đoạn, có hai chương: Vui mừng khen ngợi Thuần-đà. Xin thỉnh Thuần-đà làm sao thỉnh Phật ở đời.” Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời Pháp sư Tăng Tông rằng: “Từ đây tở xuống cũng là chương năm của bảy chương trong đoạn thứ nhất, đại chúng khen ngợi Thuần-đà”. Kính Di ghi lời Tăng Tông rằng: “Đây là chương thứ ba trong năm chương của môn khí, đại chúng vui mừng”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đại chúng vui mừng có ba ý: Sáng sớm, tuyên bố diệt độ, không nói có thời gian, chỉ e không kịp. Vì đã ngước nhìn dung nhan đức Từ phụ, nên vui mừng. Một mặt đã không thọ lãnh sự cúng dường của mọi người, chỉ vì e rằng luống qua. Nay nghe tiếp nhận sự cúng dường của Thuần-đà, lại nói khắp vì đại hội, nên vui mừng. Không biết sẽ Niết-bàn ở đâu, dù ta không thấu rõ ý Phật, nhưng Thuần-đà đã khéo được tâm Thánh. Nay, xin Thuần-đà làm sao thỉnh Phật ở đời, hoặc lý có trụ, cho nên vui mừng.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây, là đoạn thứ hai trong bốn đoạn, gồm có ba chương: Đại chúng vui mừng thỉnh Thuần-đà. Thuần-đà tự vui mừng, bày tỏ ý của đại chúng để thỉnh Phật. Đức Phật có thể tự vui niềm vui ấy của đại chúng, ngưng dứt việc thỉnh cầu của họ, gọi là người am hiểu nghóa mầu nhiệm, người có khuynh hướng tốt đẹp về niềm vui chung ấy, biện luận với Phật về nghóa sâu kín của hai thí”. “Bấy giờ, đại chúng liền nói kệ rằng” cho đến “cho nên, nên nhìn thấy vì cúi đầu khẩn thỉnh Điều Ngự Sư.”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xưa, lúc Đức Phật mới thành đạo, quán thấy thế gian khó hóa độ, muốn nhập Niết-bàn. Lúc bấy giờ, vua Phạm thỉnh Phật xoay bánh xe pháp. Nay, ông thỉnh Phật, được thọ của cúng dường, đồng với Pháp Vương kia. Phạm Vương là vị trời thứ bảy, muốn nói rằng vượt qua tầng trời thứ sáu.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đoạn thứ tư trong năm đoạn, xin Thuần-đà, nhờ thỉnh cầu Phật. Minh Tuấn bàn rằng: “Bài kệ bốn hàng này chỉ có một ý. Hàng thứ nhất, vì muốn thỉnh Thuần-đà, nên trước khen ông ấy có đức của Phạm Vương, một hàng kế là, thỉnh Thuần-đà sao cho ông ấy thỉnh Phật. Hàng kế nói về lý do ý nên thỉnh Phật. Hàng cuối, bày tỏ lần nữa vì rất muốn thỉnh cầu.” “Bấy giờ, Thuần-đà vui mừng, phần khởi” cho đến “Cũng giống như vậy, lại đứng dậy Phật.”: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn thứ năm này, từ đây nhập kệ hết mười một hàng rưỡi. Mừng có hai ý: Vì nhờ am hiểu thọ lãnh cúng dường, nên vui mừng Vì được đại chúng vui mừng chấp nhận nên vui mừng.” “Mà nói kệ rằng: Vui thay! Được lợi mình” cho đến “Thích, Phạm chư thiên thảy, đều đến cúng dường ta!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bốn bài kệ rưỡi đầu, phân biệt về tướng riêng khác, tự cảm thấy hớn hở, trong được thân người, ngoài, gặp Đức Phật ra đời, thoát khỏi sáu đường.” Bốn bài kệ kế, là tướng chung, đã giải thích xong. Sở dó được thành tựu độ Đàn, là vì bên ngoài được gặp độ đời kia, còn bên trong, nhờ phát nguyện chân chánh. Hai bài kệ kế là, vì vui mừng nên nói thí dụ. Một bài kệ kế, nói trời người đều quy mạng mình, kết thúc đáng vui mừng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bốn hàng rưỡi đầu, vui vì lìa sinh tử sáu đường. Hai hàng kế, vui vì khó gặp mà gặp. Hai hàng kế là phát nguyện. Ba hàng kế là, nói về việc đã vui mừng.” “Hầu hết các thế gian đều khổ não” cho đến “Ở lâu trên thế gian.”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cũng như lúc mặt trời mọc. Nửa bài kệ này thích ứng với sự thay đổi nhau của nửa bài kệ, nói cũng như trong hư không”. Kính Di ghi lời của Pháp sư Tăng Tông rằng: Dưới đây là nói xong về xót thương, khen ngợi. Môn thỉnh cầu, nói về thường. Từ đây đến phẩm cuối, có mười phần: Có bảy hàng kệ: Là Thuần-đà biểu dương ý thỉnh cầu của đại chúng. Đức Phật nhắc lại việc Thuần-đà tự cảm thấy vui mừng, ngăn việc thỉnh cầu. Thuần-đà lãnh hội am hiểu, dù biết được bản xứ, nhưng không thể thỉnh. Nay, thỉnh lại về dấu vết. Bồ-tát Văn-thù giả làm người không thấu rõ, chấp dấu vết, sinh ra biện luận. Thuần-đà nêu hai thí dụ: Cô gái nghèo, và người lửa, để khuyến khích tu hành. Bồ-tát Văn-thù kết hai ví dụ này với Thuần-đà. Nhân thỉnh trái ngược lại dấu vết ăn. Quét cả hai dấu vết của hai người, vì sao? Vì Bồ-tát Văn-thù giả làm người không thấu suốt, mà Thuần-đà ở địa vị vượt hơn, vì vậy chớ vội tin, nên cần phải “Ấn khả”. Phát ra ánh sáng nhằm thúc giục cúng dường. Thuần-đà lãnh hội, am hiểu. Đức Như lai nói lại thành tựu, ở đây, là nêu đại chúng thỉnh lần thứ nhất. Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời Pháp sư Tăng Tông rằng: “Dưới đây sẽ nói về ví dụ ngọc lưu ly. Nói chung là môn thỉnh thứ hai, nói về thường, được chia làm hai phần. Vì sao? Vì trước kia, Ngài Thuần-đà xin Phật nhận cúng dường, vì người căn cơ bậc thượng, mở ra tông chỉ, nói về nhân, quả, thường trú. Nay, dưới đây, cho đến “Phát ra ánh sáng, đôn đốc cúng dường”, nhân thỉnh lần nữa vì người căn cơ bậc trung, mở rộng nhân quả, thường trụ. Kế là, từ “Phát ra ánh sáng thúc giục cúng dường xong” cho đến “Ví dụ ngọc lưu ly”, do phát ánh sáng nên mặt đất rung chuyển. Hai tướng Niết-bàn nhằm mở rộng nhân quả, thường trụ. Y cứ vì người căn cơ bậc trung, nói trung, được chia thành mười một chương: Thuần-đà gợi lên tâm đại chúng thỉnh Phật. Phật có khả năng làm cho Thuần-đà, tự vui mừng. Trái với điều họ thỉnh. Thuần-đà lại thỉnh cầu. Bồ-tát Văn-thù ngăn Thuần-đà, không thừa nhận có thỉnh. Thuần-đà chê Bồ-tát Văn thù, chính là nói về quả thường trụ. Nói hai thí dụ: cô gái nghèo và bậc trượng phu để, nhằm khuyên răn Văn-thù. Bác bỏ sự chấp mắc của niệm vui vẻ. Nêu hai thí dụ: Xe giá của Đấng Điều Ngự và chim cánh vàng. Nói rằng trên có thể biết dưới, dưới không thể đo lường được trên. Trên đây qua lại bởi khu vực u huyền của cảnh tượng “Không”, há cho rằng khắc ghi, dò xét đối với lý ư?”  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI <卷>QUYỂN 5 <詞>Phẩm 2 : THUẦN ĐÀ (Phần 2) Văn-thù luận nghóa Với Thuần-đà. Giải thích khéo vốn, thấy trượng sáu, dùng ví dụ về chim cánh vàng. “Phật bảo Thuần-đà: Đúng thế! Đúng thế!” cho đến “Thành tựu đầy đủ Đàn Ba-la-mật.”: Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đức Phật ấn khả sự vui mừng của Thuần- đà, đại chúng.” “Không nên thỉnh Phật trụ ở đời lâu” cho đến “Tánh, tướng, các hành cũng giống như thế”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Việc cảm ứng là cảnh giới của Phật, bảo cho biết đồng với bên ngoài. Về mặt lý, thì không thể thỉnh, bởi bên trong thật là thường tại, đâu có gì để thỉnh?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ứng tích là cảnh giới của Chư Phật. Ứng với chúng sanh mà diệt, diệt không ở “Ngã”, cũng do hình đổi thay mà ảnh chấm dứt, đâu thể thỉnh ư? Xứ thật bất diệt! Đâu cần gì thỉnh? Về tánh tướng các hành: Tánh sinh, tánh diệt, tánh không thể thỉnh. Nên như đối tượng thích nghi, làm sao có thể thỉnh ư?” Pháp sư Pháp Dao nói: “Lẽ ra do chúng sinh chiêu cảm. Cảm dừng, thì ứng dứt, há có thể thỉnh cầu ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trượng sáu là dấu vết của pháp thân, lại, “Sở tri” là cùng cực của thần, nên nói là cảnh giới. Ứng đối với sở ứng, đâu được để lại? Tánh tướng của các hành: Trên nêu cảnh giới, nói ứng đồng với sở ứng. Nay, nêu tánh tướng nói sở ứng đồng với ứng. Tánh ngôn ngữ bên trong, tức lấy trạng thái dòng chảy nối nhau, tiềm tàng, thôi dứt làm bản chất. Tướng lời nói bên ngoài, lấy trạng thái tắt mất cuối cùng của một trăm năm làm nghóa. “Liền vì Thuần-đà mà nói kệ” cho đến “Trên đến thân chư thiên, đều cũng lại như thế.”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng các hành không thể thỉnh”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong bài kệ này cũng có thể nói tán loạn về các lỗi vô thường, khổ… Nay, theo nghóa triển khai: Ba bài kệ rưỡi đầu là môn vô thường. Một bài kệ kế là, nói đạo “Hữu”, nghóa là hai mươi lăm “Hữu”, là môn “Không” của nửa bài kệ này. Kế là, hai bài kệ rưỡi nói về pháp có thể hư hoại, là môn vô ngã. Vì đã có lỗi như vậy nên nói: “Như con tằm ở trong kén không tự tại. Thân này, nơi nhóm họp các khổ, một bài kệ rưỡi, nói về môn bất tịnh,”. “Vì các dục đều vô thường, nên ta không tham đắm” cho đến “Hôm nay, sẽ Niết-bàn.”: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dùng lý để nghiệm biết, chẳng phải thật Niết-bàn. Vả chăng từ “Hoặc” có thân, thân tất nhiên khởi “Hoặc”, làm sao có thể trái lại, phải theo thầy mới ngộ, mà thọ ngộ có giải. “Hoặc” thì bị tối tăm chế phục. Sự tối tăm đè ép không khởi, cũng gọi là diệt, nhưng chưa diệt hẳn. Nếu đến chỗ không có thầy, sau đó, cảnh tăm tối đều dứt hết, nghóa là dứt trừ rốt ráo, cho nên từ lâu đã không thật có, ngày nay, bỏ thân, nói chẳng phải thật diệt. Diệt đã không phải thật, bảo cho biết đồng với thỉnh cầu nghóa là sao?” “Ta đã giải thoát hữu, sang bờ bên kia, vượt ra tất cả khổ. Cho nên, hôm nay, chỉ thọ niềm vui mầu nhiệm trên hết”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nói về “Hữu” có thì “hữu” diệt. Có diệt thì có khổ. Đã giải thoát hữu thì hữu nào diệt khổ ư? Cùng cực không có khổ, giả gọi niềm vui mầu nhiệm. Giả gọi là thọ, nên không có người nhận thỉnh.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mà chứng ở chân thật, nghóa là dục đủ, đạo đã chân thật, không còn diệt nữa. Rốt ráo dứt trừ “Hữu”. Dứt trừ hữu tức Niết-bàn. Nói sẽ Niết-bàn là ứng theo chúng sanh, không thể thỉnh. “Ta đã vượt qua hữu, đến bờ bên kia”: Đây là chứng pháp thân, lắng trong thường lạc, không cần thỉnh nữa”. “Bấy giờ, Thuần-đà bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Thường trụ ở đời, không nhập Niết-bàn”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Thuần-đà đã hiểu sâu sắc được chỉ thú bất diệt, Ngài bèn nói lên điều mình đã hiểu biết để bày tỏ.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thuần-đà sẽ làm thỉnh chủ giúp Phật hóa độ rộng rãi. Trên đây nói: “Cảnh giới Chư Phật vô thường, như tự ứng thân, tánh đồng với các hạnh, khác hẳn với sự cao lớn của chân thân. Nay vì muốn nói về nghóa này, nên trước là khen ngợi Niết-bàn, không phải đối tượng mà nhận thức nông cạn biết được. Tuy nhiên Thuần-đà đã am hiểu sâu sắc về dấu vết, tức gốc, chỉ vì với thân trượng sáu này đối với mình có ân, cho nên, nguyện được thường, nêu không xả”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Thuần-đà đã nghe nói ứng thân phải diệt, pháp thân thường trụ, mới tỏ ngộ lý không có thỉnh, chỉ vì niệm trí nông cạn, dù được tồn tại trong Đại Bồ-tát, nhưng vẫn không thể biết được, nghóa thường vô thường của pháp thân và ứng thân, vì đạo Bồ-tát kia chưa thành tựu, nên cũng còn cần lời Phật dạy. Cho nên, do đây, lại ân cần thỉnh cầu”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là phần ba của môn thỉnh”. Đức Phật vừa thuật lại lời khen ngợi của Thuần-đà và ngăn việc thỉnh cầu của ông. Về hai lý bổn và tích, đủ như trước đã giải thích. Nay Thuần-đà đã lãnh hội chỉ thú, đã biết vốn mầu nhiệm không thể thỉnh, mà vẫn ít dấu vết, sâu, cạn không nhất định. Đây chính là công hóa độ chưa toại nguyện. Lại, với tâm hư của Phật, ví như người đói khát nọ, đâu để cho công hóa độ chưa đủ, mà sẽ bị xả, cho nên lại được thỉnh”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nay, Thuần-đà thỉnh, gồm có hai nghóa: Nói về mình là người đáng được giáo hóa. Tự nói có chỗ mình chưa biết. Đức Phật nên ở đời, giáo hóa giúp cho thành tựu, chỉ cho người đói làm thí dụ, nhằm làm rõ sự chí thành”. “Bấy giờ, Pháp Vương Tử Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Muốn cầu chánh pháp nên học như thế.”: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Thuần-đà nói dấu vết giống như vô diệt, nên đã y cứ vào diệt để thưa hỏi.”: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Văn-thù muốn cho Thuần-đà giải thích rõ về nghóa Niết-bàn bất diệt, chính là đối với văn nghóa không được rõ ràng, chưa thấu suốt, nên chấp dấu vết với thưa hỏi, cho là không nên thỉnh. Kính Di ghi lời ngài Tăng Tông: “Thứ tư là môn thỉnh, giải thích nghóa, nói về thường”. Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời Pháp sư Tăng Tông rằng: “Thường trụ Diệu hữu, đây là bất “Không”. Vô thường cắt đứt, cho nên mới nói là có “Tam-muội không”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dấu vết của Văn-thù ở phụ Địa, để nói về đức của Thuần-đà, sẽ sai khiến chúng đương thời, chúng bỏ những gì đã hiểu xưa kia, để rồi tin tưởng từ hôm nay, Văn-thù chấp dấu vết có hai lỗi. Nếu nói trượng sáu là thật có sinh diệt, thì hợp với đạo, tức là bỏ đi một lỗi kia. Trượng sáu lấy pháp thân làm gốc. Dấu vết gốc dù có khác, nhưng lại không có tự thể riêng . Nếu trượng sáu sinh diệt là thật, thì gốc của pháp thân đâu được thường đơn độc, đây là hai lỗi”. “Thuần-đà hỏi: Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Nếu là người tu hành là pháp sinh diệt”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Biết chân Như lai, lẽ ra phải biết Như… Như lai: Là nương như mà thật đến. Chỗ nương đã thật, thì quả lẽ ra cũng chân, cho nên chẳng phải hành”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Hai người dưới đây lại nói rộng về lý vô thỉnh. Điều mà ngài Văn-thù y cứ là sinh diệt của ứng thân, đồng với các hành tướng, chẳng thỉnh mà có chỗ trụ. Điều mà Thuần-đà biện luận là pháp thân vô vi, không đợi thỉnh mới trụ. Cả hai người đều y theo một bên, chê khen lẫn nhau để bày tỏ chỉ thú vô thỉnh của ý Phật”. Pháp sư Đàm Tế nói: “Thuần-đà dùng năm việc để nói về các hành khác nhau của Như lai: Nói: Nếu đồng với các hành thì khác nào như bánh xe kia. Không được mệnh danh là trời trong trời. Như vị trưởng làng. Nói: Do khác với các hành, nên như người lực só kia. Nếu đồng với các hành, thì lẽ ra như con của vị trưởng giả kia”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở đây nói rằng trên không được đồng với dưới. Đức Như lai là trời trong trời, thì sao lại đồng với các hành ư? Dưới đây có năm ví dụ nói lên Đức Phật là thường, khác với pháp hữu vi”. Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây có sáu thí dụ: So sánh bắt đầu nêu bốn thí dụ. So sánh làm rõ chánh đáng Đức Như lai đã từ lâu là vô vi. Sau nêu hai thí dụ, để răn Văn Thù”. Pháp sư Tuệ Lãng nói riêng: “Dưới đây, sẽ nêu bốn việc để làm pháp thuyết, mỗi việc đều có một ví dụ chia ra thành tám. Sự thứ nhất là pháp thuyết, nghóa là Đức Phật đã là trời trong trời, đâu được đồng với người phàm”. “Ví như bọt nước chóng khởi, chóng diệt” cho đến “Tất cả các hành cũng giống như thế”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bánh xe, một cao, một thấp. Ở trên nói rằng quả chúng vượt hơn, đâu lại được như bánh xe ấy ư?” Pháp sư Tuệ Lãng nói riêng: “Ví dụ thứ nhất. Nếu nói là trên được so sánh với dưới, thì sẽ đồng với hai ví dụ này”. “Ta nghe mạng sống của chư Thiên rất lâu dài” cho đến “Tuổi thọ lại ngắn ngủi không đầy một trăm năm”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lấy dưới để so sánh trên. Như tuổi thọ ở cõi trời Phi tưởng còn tám muôn kiếp, huống chi Đức Như lai? Pháp sư Tuệ Lãng thuật riêng: “Pháp thuyết thứ hai. Nói là nếu đồng với các hành, tức là xưa thì kéo dài nay lại rút ngắn. Vì sao? Vì khi xưa Phật từ cõi trời mà giáng sinh, xuống đâu được tạm thời ở nhân gian, bèn mất đi tuổi thọ của cõi trời ư?” “Như vị trưởng làng, với thế lực được tự tại” cho đến “Chớ quán Như lai đồng với các hành”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Theo ví dụ thứ ba, lúc đầu thì vượt hơn, về sau, không bằng. Khi xưa, Đức Phật thành đạo dưới cội cây, với oai thần vòi vọi, vì sao nay lại mất hết thế lực ư”. Pháp sư Tuệ Lãng nói riêng: “Ví dụ thứ hai, là không chấp nhận như mất đi thế lực kia”. “Lại, Văn-thù vì biết mà nói” cho đến “là trời trong các trời, đấng Pháp vương tự tại.” Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói riêng: “Pháp thuyết thứ ba, nghóa là nếu đồng với các hành, thì chẳng phải Pháp Vương. Phật do muôn hạnh tròn đầy, là Đấng Chí Tôn của ba cõi, đâu thể nói có các hành tướng ư?” “Ví như vua cõi người có Đại Lực Só” cho đến “Nên xưng Như lai, Ứng Chánh Biến Tri.”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vua dụ cho Đức Phật trước, lực só dụ cho Đức Phật nay. Kỹ năng, dụ cho Chư Phật mười phương vô úy hàng phục bốn ma, há là hành ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ thứ tư. Đạo Như lai vượt ngoài cảnh ma, há là pháp chết ư?” Pháp sư Tuệ Lãng thuật riêng: “Ví dụ thứ ba, lực só dùng các thứ kỹ năng, cho nên tương đương với ngàn Đức Phật, do muôn hạnh tròn đầy, nên là bậc thầy của ba cõi”. “Văn-thù-sư-lợi! Nay ông không nên nhớ tưởng, phân biệt, do pháp Như lai đồng với các hành.”: Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói riêng: “Pháp thuyết thứ tư, chớ trống không, sinh ra tưởng luống dối, cho thường là vô thường”. “Ví như trưởng giả giàu có sinh con”, cho đến “Như lai đồng với tất cả các hành”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dùng lời Phật nói để chứng lý chân thật, vốn không thay đổi. Chỉ từ người nói được tỏ ngộ mới biết mà thôi. Lý Phật đã nói, đã không thể đổi thay, nên biết sự tỏ ngộ kia cũng vắng lặng thường còn”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cái mà Chư Phật tôn thờ làm thầy, chính là pháp Niết-bàn. Nếu Phật vô thường thì pháp cũng vô thường, nên nói rằng: “Pháp chân đã nói cũng không có người tin”. Pháp sư Tuệ Lãng nói riêng: “Ví dụ thứ tư. Người trong nhà kia sở dó không còn thương đứa con ấy: Là vì có tướng đáng tin, nói tưởng giả dối của thầy. Nếu người nào nghe ông nói là Phật vô thường, thì chính ông là người đáng tin, cũng có thể “Duyên” ở ông, mà không tin”. “Lại, này Văn-thù! Ví như cô gái nghèo”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trên đã nói: “Không nên nói Đức Phật đồng với các hành”, ở đây nói Phật là vô vi. Đã hiểu mà nói được là hộ pháp chân thật. Dẫn chứng việc này làm thí dụ, nhằm làm rõ chỉ thú kia: Người nghèo thiếu pháp tài. Người nữ nhờ gốc lành nhỏ nhoi mà sinh sự hiểu biết này”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên nói Phật là vô vi, chỉ thú này là dài. Về phương tiện ứng vật, nghóa này là ngắn. Người giữ gìn chánh pháp, phải phát huy rộng rãi chỉ thú dài kia để che lấp mặt thích ứng chúng sinh ngắn ngủi nọ. Cô gái dụ cho tuệ vô thường, tuệ có ba thứ, dùng văn tuệ nhập lý không sâu sắc, dụ cho nghèo.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước nói: “Không nên nói Đức Phật đồng với các hành tướng, đó là bên trong có kiến giải chân thật, nên hãy thường tin vào lý này, có thể gọi là người giữ gìn chánh pháp. Nay, kiến giải chân thật thường trụ, tất nhiên, là do niềm tin của sự tỏ ngộ nhỏ nhoi trong nhiều kiếp. Vì cho nên gọi hành giả là cô gái, chưa dồi dào về pháp lành là nghèo”. Pháp sư Đàm Tế nói: “Cô gái, dụ cho văn tuệ năng sinh ra tư tuệ. Kính Di ghi lời của Tăng Tông: “Đây là ví dụ thứ năm. Dùng năm ví dụ trước để đối kháng,bắt bẻ Ngài Văn -thù, bài bác dẫn chứng kẻ chưa tỏ ngộ. Nay, hai ví dụ này nói về chủ thể tạo tác nên lối tu này, tất nhiên sẽ được quả thường. Cô gái lấy sinh đẻ, nuôi nấng làm nghóa, nói bắt đầu làm Bồ-tát, hay sinh thường xuyên ôm ấp kiến giải. Hoài bão kiến giải ngày càng trở nên sáng suốt, nghóa ấy đồng với sự nuôi nấng. Vì chưa có pháp tài vô lậu, nên nói là nghèo”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là hai thí dụ: Đầu tiên, lấy cô gái có khả năng giảng nói về thường làm thí dụ. Sau, là nói ví dụ nam nhi ẩn hữu vi.” Pháp Liên ghi lời của Tăng Tông: “Hai ví dụ dưới đây, nêu trong ngoài là khác. Người nữ lấy việc chăm sóc con làm thí dụ, nhằm biểu lộ rõ về kiến giải nội tại kia thật vững chắc, chính đáng. Nam nhi, lấy khả năng bền chắc, mạnh mẽ làm thí dụ, nhằm nói về thuyết ngoại kia không thể ôm ấp”. “Không có người ở nhà cứu hộ”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì công hạnh chưa sâu đậm, nên không khỏi bị điều xấu ác làm hư hoại. Người vốn đã được an ổn, vì không lập, nên nói “Không có”.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Công đức trí tuệ giúp đỡ đắp đổi lẫn nhau, dụ cho quyến thuộc tại gia, vì không có công đức trí tuệ này, nên ví dụ họ không có sự che chở”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Xưa, điều lành chưa mạnh mẽ nên không thể làm cho niềm tin kia mãi mãi bền chắc, lại còn bị mọi điều xấu ác của năm dục lôi cuốn, khiến thất lạc nơi ở cũ, căn nhà đức tin yếu ớt. Trong, không có nhà thiện, ngoài không có bạn giữ gìn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã theo nghe sinh tuệ thì sự hiểu biết này tức là cảm xa quả thường. Hiểu biết thường tồn tại ở “Ngã”, có cảnh tượng ra đời. Đây là ba cõi, chứ không phải còn là nhà kia, mà lại chưa được quả thường. Vì ở trong hai thứ đầy của mình, nên nói là “Không có nhà ở”. Người cứu hộ, sức hiểu biết đã yếu kém, nên chưa thể ngưỡng cảm bạn lành dìu dắt nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Pháp Phật chính là dùng đức tin đứng đầu, năm căn là nhà. Người mới tu hành, đức của cây chưa ăn sâu, đó là nhà Phật chưa lập”. Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: “Tâm mình đã thoát khỏi sinh tử, thì ba cõi chẳng phải nhà. Nếu ba mươi tâm tràn đầy vô lậu của Sơ địa trên, thì có thể xứng đáng sinh trong nhà Phật. Người bắt đầu tu hành cách đây hãy còn xa, nên nói là “Không có”. “Lại thêm khổ bệnh”. Xét: “Một bản khác chép là cùng khốn”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là phiền não che lấp văn tuệ”. Pháp sư Trí Tú nói: “Bị tám khổ làm cho bệnh” “Bị đói khát ép ngặt”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Cát kiết sử ràng buộc là bệnh khổ, sinh tử là đói khát”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Trong không có nhà thiện, ngoài không có bạn giúp đỡ. Chính vì thế, nên thường bị bạn xấu ác, mọi chứng bệnh làm hại, ép ngặt bởi đói khát”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Không có nước thiền định, lại thiếu ăn của pháp Niết-bàn, nên nói là “Đói khát”. “Khắp nơi khất thực”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Điều lành là pháp ngoài ba cõi, mà bị việc xấu ác làm hư hoại, đến chỗ sinh tử lần lượt bỏ nhà, là nghóa đi khắp. Đã chán khổ, cầu vui mà chẳng phải vốn thiện, đáng được không được, là nghóa khất thực”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lìa bỏ năm đường, ví dụ đi dạo. Sinh tử không phải là chỗ được vui, dụ cho khất cái.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Bị khổ ép ngặt, tư duy điều lành để thay cho nỗi khổ đó, ví như khất cái. Kính Di ghi lời Tăng Tông: “Thiếu thức ăn định, tuệ, tu tướng lành để tự nuôi sống. Việc lành này không nhiều, vì gồm nghóa chẳng phải phần của mình, nên đồng với khất cái (xin ăn). Đi dạo, là quay gót đi chậm chạp, không phải dáng vẻ bước đi nhanh, nói về tướng thiện, không thể phát ra chỉ yếu ngay.” Pháp Liên ghi lời của Tăng Tông: “Cách quả xa diệu vợi, thường am hiểu bến mê tăm tối, vì nghóa hướng về quả vị Phật, nên nói đi dạo”. “Ngăn cấm nhà khách của người khác”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Thân trong ba cõi là ngôi nhà tà kiến, là nơi ở của người xấu ác. Đối với vốn thiện kia là nhà của người khác”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quả của người, trời là quán khách trọ”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Thân của người, trời là cái được của “Hoặc”, thoát ngoài lý của mình. Cuối cùng, bỗng nhiên hợp với vô, dụ cho nhà khách”. Pháp sư Đàm Tế nói: “Trong sinh tử không phải là chỗ ở lâu dài, ví dụ nhà người khác”. Pháp sư Trí Tú nói: “Thường hiểu nhân tu tập không phải là quyến thuộc của sinh tử, là khách. Năm ấm nghóa là dừng lại nghỉ vội vã, gọi là nhà”. “Gửi gấm sinh con một” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đã dùng vô vi của Như lai làm lý giải, không có “Hoặc” riêng, dụ như đứa con một. Sinh ra gửi gắm, gọi là ký sinh.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sự sáng suốt của tư tuệ từ tối tăm mà sinh ra, gọi là gửi gắm. Ánh sáng, bóng tối dù khác, nhưng sự hiểu biết thì không khác, nói là “Một”. Hẳn là, kế thừa nhà Phật, nên nói là con”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Sự hiểu biết nương gá vào ấm sinh, nói là gởi. Chân mà không hai nên nói là “Một”.” Pháp sư Đàm Tế nói: “Ví dụ cho tư tuệ”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát đối với ấm thân này, chính là hiểu biết về thường. Hiểu là nghóa ta sinh, gọi là con.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ nghe mà sinh tư duy, gọi đó là con.” Pháp sư Trí Tú nói: “Hiểu thường là “Một”, không có hai thứ sinh, diệt, nói là một đứa con.” “Là chủ của nhà khách đuổi bảo phải đi, sinh ra kia chưa lâu.”: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tà kiến là gốc của sự thọ thân, là chủ nhà. Chẳng bác bỏ kiến giải kia, nghóa là như xua đuổi.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vô minh là gốc thọ sinh, dụ như người chủ. Tư tuệ thì dứt bỏ vô minh, xa dần, ví dụ cho đuổi chạy.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Thân là nhà của người kia. Do nhận thức bất chính đã tạo nên, nói là chủ nhà. Tà kiến chê bai, không tin thường trụ, là nghóa theo đuổi”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nghóa giải về “Hoặc” trái nhau, nghóa như xua đuổi. Là biết mảy may điều lành, tất nhiên, sẽ không cảm được ánh sáng sinh tử.” Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Đoạn kiến trái với thường giải, mà đoạn kiến là đứng đầu sinh, tử, nên nói “Người chủ đuổi khách”. “Mang bào thai đứa con này muốn đến nước khác”. Xét: Một bản cho rằng: “Sự sinh ra kia chưa lâu”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tư tuệ mới sinh, vẫn sinh chưa lâu. Chấp chặt không bỏ, so sánh việc mang bào thai, xa với thường lạc, ví dụ nước khác”. Pháp sư Đàm Tế nói: “Hai tuệ văn, tư cùng với một kiến giải, dụ cho mang bào thai. Tu tuệ nên được mà chưa sinh, ví dụ muốn hướng về nước người khác.” “Ở giữa đường kia, gặp phải gió mưa dữ dội” cho đến “Bị ong, sâu, trùng độc cắn ăn.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Năm dục như gió, mưa. Các kiết sử như nỗi khổ lạnh giá. Bạn xấu ác như muỗi mòng.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phiền não che lấp tư, tuệ, dụ cho khổ lạnh. Quả của phiền não, dụ cho cắn ăn”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Đạo Phật dài xa, tu khổ hạnh khó thực hành, dụ cho nỗi khổ rét mướt. Không tránh khỏi bị ma gây ra bậc bội, dụ cho cắn ăn. Pháp sư Tăng Tông nói: “Bị học bất chính chống đối, bẻ gãy, ví dụ gió mưa. Chưa tránh khỏi phiền não nuốt ăn, rút rỉa gốc lành, ví dụ trùng độc.” Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: “Quả khổ sinh tử, dụ cho gió rét, giặc ác sáu trần, dụ cho trùng độc.” “Trải qua số cát sông Hằng, ôm con mà lội qua”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ôm ấp tà, ganh ghét chánh, tất nhiên, do làm hại người, dụ cho sông. Chấp lấy kiến giải chân mà không đoái hoài sự nguy hiểm, dụ cho ôm con mà lội qua.” Pháp sư Đàm Tế nói: “Con sông, dụ lời dạy của sư chẳng phải thường. Ôm con, dụ cho chấp kiến giải của tư tuệ”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Sông, ví dụ nước Tiểu thừa, pháp của nước ngoài, nếu có chấp khác, cho đến uống nước một con sông không chung. Nay dụ cho người đến nước khác, việc phải trải qua sông mà là pháp chung, đại só, ôm ấp hiểu biết thường mà cầu Phật, cũng nên quyền hóa độ chấp khác”. “Trôi nhanh theo dòng nước kia mà không buông bỏ”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sự sinh diệt mau hơn dòng nước chảy xiết. Chấp hiểu không bỏ, chính là điều kỳ lạ, đặc biệt”. “Ở đây, cả mẹ con đều chìm.”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù sống trong vô thường, mà không sinh ra kiến chấp khác lạ. Nếu có người chê bai chánh pháp, thì họ sẽ chìm, phải cứu vớt họ.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Vả lại, người bảo vệ chánh pháp, tất nhiên, ở đời ác, chỗ có nhiều tai nạn, thì sẽ bị ganh tî, mà có khả năng, dù bị dòng nước cuốn trôi. Cũng chấp kiến giải không bỏ, từ đó gây ra mất mạng. Nhân khiến cho sự hiểu biết thường trụ, không hoạt động ở đời, người pháp đều dứt bỏ, về nghóa như mẹ chìm.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Gia phong hưng thịnh, gặp ở chánh thuyết, bèn khiến cho ngôn ngữ co rút đương thời, kiến giải không phơi bày rõ ràng, về nghóa như đứa con chết chìm. Người bị bẻ gẫy nhục nhã, nghóa như mẹ chết chìm.” “Như thế, với công đức niệm từ của người nữ, sau khi qua đời, sẽ được sinh lên Phạm thiên.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Quả báo của việc khéo gìn giữ kiến giải về thường. Tiếng Phạm Niết-bàn, Hán dịch là Tịnh. Thiên, là Đệ nhất nghóa thiên.” “Văn-thù-sư-lợi! Nếu có thiện nam” cho đến “Nhất định là hữu vi, nhất định là vô vi”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu chưa thấy lý thường, chỉ ngần ấy không có lời nói, sẽ không thêm lớn điều xấu ác bên ngoài thì đâu phân biệt hữu vi, vô vi ư? Dưới đây, là nêu ra giữ gìn chánh pháp.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu cho rằng Như lai chắc chắn là hữu vi sinh diệt, thì cũng được gọi là đoạn diệt vô vi”. Lại nói “Không nên nói rằng, Đức Phật hoàn toàn đồng với hữu vi, nhưng Đức Phật chắc chắn là vô vi.” Pháp sư Đàm Ái nói: Xét thẳng câu rằng: “Chớ nói Như lai chắc chắn là hữu vi, nên nói chắc chắn là vô vi”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu chỉ thể thường, mà mê dấu vết, thì chẳng phải lý do là kiến giải. Nếu nói vốn không trái với dấu vết, hiểu biết dấu vết không trái với bổn, thì mới khế hợp với Trung đạo. Cho nên nói “Không nên chắc chắn nói là Phật đồng với các hành, cũng được nói là hoàn toàn không đồng. Vì, nếu hoàn toàn không đồng thì sẽ hại dấu vết. Như hôm nay, chưa thấu suốt,chỉ tự quở trách mà thôi.” “Nếu người chánh kiến, nên nói Như lai” cho đến “Vì sinh ra pháp lành, nên sinh tâm thương xót”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói chắc chắn là vô vi, nghóa là nói thường để hóa độ người, cái gọi là giữ gì che chở chánh pháp như trên. Sinh pháp lành nghóa là dùng điều lành để hóa độ người. Người được mạng lành. Cho nên, Đức Như lai mới có quả báo tuổi thọ dài lâu, như tám con sông đổ ra biển. Tâm thương xót, nghóa là lòng từ che chở mạng sống của muôn vật, là nhân tố sống lâu”. “Như cô gái nghèo kia ở tại sông Hằng” cho đến “Không cầu Phạm thiên, Phạm thiên tự đến”. Xét: Pháp sư Tuệ Lãng thuật lời của Pháp sư Tăng Tông rằng: “Không nương gá đều hợp với thí dụ, chỉ rút lấy chỉ yếu, nêu làm lời khuyên răn”. “Văn-thù-sư-lợi! Như người đi xa”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ví dụ này không nói Đức Phật hữu vi. Tất nhiên, sẽ thành tựu nghóa vô vi”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đảm nhiệm kiến giải thường để cầu Phật, ví dụ đi xa”. Pháp sư Tăng Dao nói: “Ví dụ hộ pháp ở trước, là nói về vô vi. Ví dụ này ẩn giấu hữu vi, mới có kiến giải chưa sâu, cách Phật rất xa, ví dụ đi xa”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn thứ năm của môn Thỉnh”. “Giữa đường mỏi mệt”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chánh kiến chưa sâu đậm, mà khởi trong tâm tà.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xa lìa sinh tử, kiến giải thường chuyển biến nhỏ nhiệm”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người tu hành kèm theo tướng”. “Nằm ngủ ở nhà người khác”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trong tâm tà tối tăm dụ cho nằm ngủ”, Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân, Hoặc” thọ báo, không phải vốn đã hẹn, nói là nằm ngủ. Trôi dạt đã lâu, là mất đi kiến giải thường. Nói Đức Phật là vô thường, dụ cho ngủ say”. Pháp sư Đàm Tế nói: “Sinh tử không thể ở lâu, là nhờ vả”. Pháp sư Trí Tú nói: “Dù có chút kiến giải, “Hoặc” che lấp tuệ nhãn, tạm quên đi hoài bão, như ngủ mê, tăm tối.” “Ngôi nhà kia, bỗng nhiên, lửa lớn bốc cháy dữ dội.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Bức hại thân mạng, dụ cho lửa đốt nhà.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã sinh ra hành động chê bai này sẽ mang tai ương đến cho thân.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Giống như ví dụ mà nói”. Pháp sư Đàm Tế nói: “Vì thỉ giác, nên nói khởi gấp.” “Tức thời, sợ hãi, thức giấc.”: Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Biết chẳng phải mình chiêu cảm, như thức dậy từ giấc ngủ.” Pháp sư bảo Lượng nói: “Quái tà, giải thích là sai , nói là sợ hãi, tìm tòi lý không đúng, nói là thức giấc.” Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: “Trước kia, do tạm thời không “Duyên”, nay lại được hiểu biết. “Liền, tự suy nghó hôm nay, ta nghóa là chắc chắc chết, không nghi ngờ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghóa là tội chê bai Phật, nặng không thể diệt.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Chấp kiến giải chính đáng không theo lời nói tà. Biết, thì chắc chắn sẽ nhận thấy tai hại”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu theo tà đạo, tất nhiên sẽ đọa vào địa ngục.” “Vì có hổ thẹn, nên vấn y vào thân”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tức dùng sự hổ thẹn làm y. Nếu nói Đức Phật là hữu vi, thì sẽ không có sự hổ thẹn, lại nói Đức Phật là thường, che giấu sở đoản xưa kia, dụ dùng y vấn thân.” Pháp sư Đàm Tế nói: “Dùng lời nói che chở thường để ràng buộc kiến giải thường.” “Liền đó qua đời , sinh lên tầng trời Đao-lợi” cho đến “Lần lượt thường sinh về chỗ yên vui.” Xét: Pháp sư Đàm Tế nói: “Vì hổ thẹn nên sinh lên cõi trời, vì gìn giữ thường nên giải thoát.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Quả báo của kiết, trời Đao-lợi có ba mươi hai vị quan, ví dụ tiêu biểu cho ba mươi hai tướng. Tám mươi, nghóa là tám mươi vẻ đẹp. Đại Phạm vương, tiếng Phạm gọi Niết-bàn, vua tức là Phật”. “Do đó, nên Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Mau thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chỉ nêu ví dụ để khuyên răn”. “Bấy giờ, Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Cũng đủ che lấp hữu vi của Như lai.”: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật khai sáng tông chỉ thường, mà Thuần-đà nói rộng, nói lên được đầu mối của thường kia, cho nên khen ngợi”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Môn thỉnh thứ sáu, dùng ví dụ lửa và người để kết với Thuần-đà.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Chẳng phải ngay điều lành mà ngài nói được cũng là mỹ mà ngài hiểu biết một cách sâu sắc. Vật, nghóa là mất thân vì pháp, chưa có Nhân kia, nên kết chỉ Thuần-đà nói lên không xa. “Hữu vi, vô vi, lại đặt để chung” cho đến “Bố thí như thế là hơn hết trong các thứ bố thí”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì muốn cho nghóa không ăn ở trên được mở rộng, nên nhân thúc giục cúng dường, nhằm chứng tỏ thân trượng sáu không phải vô vi, không đồng với hành tướng”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là môn thỉnh thứ bảy, đôn đốc cúng dường”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là thúc giục cúng dường, đoạn thứ tư: “Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni” cho đến “Phải thanh tịnh, lúc nào cũng cấp cho”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về thời gian, vật tịnh, vật thí, phải thành tựu đàn”. “Thí nhanh chóng như thế, tức là đầy đủ” cho đến “Như lai sắp nhập Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đàn là hạt giống Pháp thân. Thời gian, phẩm vật là hạt giống của đàn. Nhiều hay ít, nghóa là phẩm vật nói trên. Chưa nói về tâm địa. Nay, kế là, nói phẩm vật cúng dường có tám thứ, như văn luận có giải thích. Nay, nói về Đức Phật và Tăng quyết định thanh tịnh tâm, đa số là người giới, chỉ cúng phẩm nhiều hay ít không nhất định mà thôi”. “Thuần-đà nói: “Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Hôm nay, vì sao Ngài” cho đến “tức là Pháp thân, chứ không phải thực thân”. Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Ngài Văn-thù đã thúc giục, e rằng vật nói là trượng sáu hoàn toàn đồng với kẻ phàm, nên Thuần-đà lại nói chỉ biểu thị là đồng, chẳng lẽ thật sự cần hay sao?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thuần-đà nói pháp thân không ăn, mới dẫn chứng xưa để so sánh, Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Khéo nhập Kinh điển Đại thừa rất sâu”. Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lời nói của Thuần-đà có thề là ý Phật, nên nói thành tựu”. “Ngài Văn-thù-sư-lợi bảo Thuần-đà” cho đến “Cũng vừa làm hài lòng tất cả chúng sinh”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Niệm ái nẩy sinh từ chấp mắc ng- hiêng lệch. Nay, nói Đức Như lai hợp với lý thì được, về tình thì không có nghiêng lệch, đều hài lòng vì có tự thể. Nói về lý thì chưa sáng tỏ, vì cho nên phải tìm hiểu tường tận hơn”. Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Ở đây Khiển Niệm có ba cách dịch, đây là khiển thiên niệm thứ nhất”. “Văn-thù-sư-lợi nói: Như lai đối với ông” cho đến “Tôi và Nhân giả đều là điên đảo”. Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Đây là khiền tất cả niệm thứ hai”. “Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Đức Như lai không có niệm ái” cho đến “Chính là cảnh giới trí tuệ của Chư Phật.” Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Đây là thứ ba, chỉ nêu ví dụ để nói niệm không có tướng”. Minh Tuấn nói: “Tư hai người biện luận một bên về Đức Như lai đến đây, có ba nguyên nhân: Giải thích nghóa thường, vô thường, quét chung dấu vết hữu vi, nhằm hiển bày diệu bổn thường trụ, nghóa có thể thỉnh, không thể thỉnh. Quét sạch dấu vết ứng thân. Vả chăng ăn để tiêu dùng cho thân. Nếu ăn mà không ăn, thì chẳng lẽ thân là thật ư? Rũ sạch dấu vết của ứng tâm. Truyền đạt sự hài lòng có khả năng biện luận, để nói lên niệm của vô niệm, nên nhân đây thuật thành, nhằm trừ bỏ dấu vết của tâm.” “Thưa Ngài Văn-thù-sư-lợi! Ví như vị vua” cho đến “Thẳn thắng (trực giác) muốn so sánh tài đức của vị vua ấy với sự nghiệp của các Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chim dụ cho Đức Phật. Vô lượng do-tuần, ví cho quán “Trống không”. Biển dụ cho sinh tử. Rùa cá, ví với sáu đường. Bóng của mình, dụ cho Ứng thân. Nói “Trống không” có hai hơi thở phàm phu: Người còn bị ràng buộc. Một ít trí, chỉ cho người Nhị thừa.” Kính Di ghi lời của Tăng Tông rằng: “Môn thỉnh thứ tám này quét sạch dấu vết của hai Đại só.” Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời của Pháp sư Tăng Tông rằng: Trong đây có hai ví dụ: Trước, nói dưới không bắt kịp trên, dùng ví dụ chim, để nói trên có khả năng biết được dưới. Sau, ngài Văn-thù tự quét sạch dấu vết.” “Bấy giờ, Đức Thế tôn, từ trên khuôn mặt” cho đến “Nghe Đức Phật nói xong, Thuần-đà buồn bả, nghẹn ngào, im lặng”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước kia, Thuần-đà nguyện sau cùng sẽ sắm sửa phẩm vật cúng dường Đức Thế tôn để nói về thường trụ, nói về lý đã rõ ràng, không diệt hiện diệt, không ăn hiện ăn. Việc nông cạn ấy cùng khắp. Nay, văn khác với trước, sau đó mới nói bằng miệng.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước kia, ngài Văn-thù hối thúc Thuần- đà sắm sửa phẩm vật cúng dường, bị Thuần-đà trách cứ, giống như Ngài Văn-thù trước kia đã nói là giả dối, đây là thân trượng sáu, lại đều không nhận người cúng dường. Thực phẩm cúng dường đại chúng sẽ trở nên lập bày trống không, không thỏa lòng trong sạch, nên, Đức Thế tôn phát ra ánh sáng chiếu thẳng vào ngài Văn-thù, để chứng tỏ rằng lời Ngài Văn-thù nói trước kia không phải giả dối, nên phải thúc giục mau cúng dường.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ chín là môn thỉnh, thúc giục cúng dường. Trên đây đã biểu dương sáng tỏ nghóa thường quét sạch dấu vết xong. Vật tình không còn dấu vết ngưng đọng nữa! Dù diệt mà biết là thường, dù ăn mà biết không ăn, nên lại phát ra ánh sáng, nói lên mọi dấu vết phải xóa bỏ.” Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: “Thuần-đà một bề thỉnh cầu Đức Như lai ở mãi trên thế gian, còn Ngài Văn-thù thì biện luận một bên. Về sự đã xong. Nay, Đức Thế tôn phát ra ánh sáng này là để đáp lại ý muốn của Thuần-đà. Đức Thế tôn đã không chấp nhận lời thỉnh cầu ở đời của Thuần-đà, nên do ánh sáng mà Ngài Văn-thù thúc giục cúng dường.” Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời của Pháp sư Tăng Tông rằng: “Dưới đây, sau cùng là ví dụ ngọc lưu ly, vì căn cơ bậc hạ, mở rộng tông chỉ nhân quả thường trụ.” “Phật bảo Thuần-đà: Ông đã dâng phẩm vật cúng dường” cho đến “Lần thứ hai, thứ ba cũng giống như thế”. Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Muốn cho Thuần-đà nhanh chóng dâng lễ cúng dường cho kịp giờ và cả đại chúng đều thỏa lòng mong đợi, nên Đức Phật nói luôn ba lần”. “Bấy giờ, nghe Đức Phật nói xong, Thuần-đà” cho đến “Đồng thanh tha thiết thỉnh cầu Đức Phật đừng nhập Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sự chí thành của một người không thể cảm động đến Đức Phật, nên nhờ đại chúng đồng tâm cùng nhau thỉnh cầu.” “Bấy giờ, Đức Thế tôn lại bảo Thuần-đà: Ông chớ nên khóc than nhiều” cho đến “Pháp hữu vi có nhiều tai họa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chẳng phải không có ích, tâm rối loạn mê đạo, không phải đối tượng thích hợp của người tu hành, phải quán thân mình, là giải thích ý chí của không có ích. Thân ông là cái thích hợp đã không được trụ, chẳng lẽ lại được trụ ư?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chất độc lẫn lộn: Giáo pháp xưa sinh kiến giải, nhân quả chưa phân biệt, cũng nói là chất độc lẫn lộn. Nói theo Kinh này thì từ Kim Cương trở xuống, dù nói rằng kiến giải không phải chất độc, nhưng thể của nó và khổ vẫn chưa phân chia rõ ràng, nên cũng nói là chất độc lẫn lộn.” “Bấy giờ, Thuần-đà lại bạch Phật rằng” cho đến “Cho nên, nay ông chớ nên khóc lóc!”. Xét: Tăng Lượng nói: “Ý Thuần-đà lại thỉnh, nghóa là Đức Phật từ bi, do ứng với chúng sinh đau khổ. Nay ta hiện đang khổ, cho nên nguyện Đức Phật để tâm thương xót. Ý đáp của Đức Phật: “Vì đi thì sẽ có ích, còn ở lại thì vô ích.” Pháp nhó của Chư Phật, nghóa là cho sinh diệt là khổ, không sinh diệt là vui, vì cho nên ta dứt bỏ khổ sinh, diệt này.” “Bấy giờ, Thuần-đà lại bạch Phật rằng” cho đến “Giờ đây, tự suy xét, con càng cảm thấy vui mừng.” Phật khen Thuần-đà: “Lành thay! Lành thay!” cho đến “Hãy mau sắm sửa phẩm vật cúng dường, không nên để trễ!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đều đến là chỗ. Chỗ đồng đứng dậy trong hiện tại, đều là tướng huyễn, tức là Đức Phật bảo Thuần-đà hãy quán trống rỗng, để ngăn dứt sự rối loạn của nỗi buồn bã, lưu luyến. Dùng năng lực phương tiện: Nếu các pháp không là trống không, mà quan hệ với cái “Có” thì chẳng gọi là Phương tiện, vì tâm Đức Phật là không, nên chẳng chấp mắc, nên chứng các pháp là không. Các Phật pháp như thế: “Chứng không có chấp mắc là quả Phật. Nay ta nhận thức ăn của ông, nghóa là chứng phương tiện. Không ăn mà nhận lãnh, vì ích lợi của phương tiện.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là phẩm cuối, đoạn thứ mười: Lãnh hội kiến giải.” “Bấy giờ, Thuần-đà vì các chúng sinh” cho đến “Vội đứng dậy cùng ngài Văn-thù đi sắm sửa phẩm vật cúng dường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lành thay! Nay đã cúng dường, tất nhiên là ruộng phước thành Phật. Niết-bàn thật khó hiểu rõ. Nếu công hạnh bố thí cúng dường được thành tựu thì con sẽ tự biết rõ rằng Đức Như lai có nhập Niết-bàn hay không.” Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: “Dấu vết của Thuần-đà chưa khéo hiểu về pháp sắm sửa cúng dường, nên cùng đi với ngài Văn-thù. <卷>QUYỂN 6 <詞>Phẩm 3: AI THÁN (Phần 1) Giải thích: mặt đất rung chuyển: phát ra Mười lăm pháp môn như không, bất không không, v.v… Ví dụ thành báu hợp với chánh pháp. Giải thích: Niết-bàn của chữ y. Giải thích: Nghóa Hoặc lìa, hoặc không lìa tư tưởng vô thường. Giải thích ý nghóa năm mươi bảy phiền não. Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời của Tăng Tông rằng: “Từ cuối phẩm trước, Đức Thế tôn phát ra ánh sáng từ miệng, thôi thúc cúng dường. Cuối cùng là ví dụ ngọc lưu ly, cũng là môn Thỉnh, để nói về thường. Đây là nói về căn cơ bậc Hạ, gồm có sáu đoạn: Phát ra ánh sáng thôi thúc cúng dường. mặt đất rung chuyển, đại chúng buồn bã than thở. Nói năm thí dụ, chê bai việc thỉnh Phật. Đức Phật khuyến khích, hỏi han, lại được sở đắc kia. Tỳ-kheo khen ngợi giáo pháp tích. Nói tu vượt hơn. Kính Di ghi lời của Tăng Tông rằng: “Phẩm Ai Thán đầu tiên, cũng thuộc về Thuần-đà cùng với đại chúng thỉnh Phật ở đời của phẩm trước, là môn thỉnh thứ hai, nói về thường.” Từ câu “Lại, nếu Tỳ-kheo có nghi ngờ” v.v… trở xuống, là mở bày môn khuyến đoạt thứ ba trong Tông chỉ, để nói về thường. Có bốn phần: Đoạt quả. Đoạt nhân. Nêu ví dụ châu báu, thành tựu quả xưa, cho nên trống rỗng. Kết hội hai giáo. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phẩm này chia ra bảy đoạn: Phật. Nói kệ và văn xuôi: Bày tỏ nỗi khổ của mình, chê bai việc thỉnh Đức Phật liền khuyên xả bỏ pháp tu sở đắc trước kia. Tỳ-kheo lại thỉnh Phật trụ ở đời nữa để dạy bảo chúng ta phương pháp tu. Đức Phật lại khuyên các Tỳ-kheo sao cho chỉ theo giáo pháp Phật để tu ba tu vượt hơn, thì sẽ được quả thường. Tỳ-kheo lại thỉnh, nếu quả Phật là thường, thì sao Đức Phật không ở đời để dạy cho chúng ta biết phương pháp tu vượt hơn ư?. Lại khuyên nói ngày nay ta diệt độ là vì ông có chứng bệnh chấp nghiêng lệch, ông chỉ cần dừng bảo thủ những gì mình đã làm ngay xưa là thật. Đã ba lần khuyên, ba lần thỉnh xong. Mọi người bắt đầu mang một nỗi nghi ngờ: Về lý ấy nếu là thật, thì Đức Phật mới ra đời, sao không sớm nói cho chúng ta nghe? Tức là hội thông xưa, nay. Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: “Phân tích rộng phẩm này thành bốn đoạn: Đại chúng buồn thương thở than. Đức Phật mở bày tông chỉ Niết-bàn. Nói pháp tu thù thắng. Hội thông.” Lại nói: chia làm chín đoạn. Sắp Niết-bàn, cho đến mặt đất rung chuyển. Đại chúng nói bài kệ và ví dụ để thỉnh Phật ở đời. Đức Phật nói hai bài kệ, để ngăn đại chúng thỉnh cầu. Nếu có ai nghi ngờ, Đức Phật sẽ mở rộng đầu mối của thường, vô thường, xóa bỏ mọi nghi ngờ, khuyên họ cứ hỏi, tức nói ba quan điểm Niết-bàn. Vì Tỳ-kheo chưa thể lãnh thọ, nên lại khen ngợi giáo pháp xưa là đúng. Đức Phật vì các Tỳ-kheo nói ba pháp tu vượt hơn. Tỳ-kheo lại thỉnh Phật ở đời. Đức Phật lấy Ca-diếp để làm y chỉ, ngăn dứt hai lần thỉnh kia. Lại dùng ví dụ châu báu, nhằm khuyên các Tỳ-kheo hãy bỏ pháp tu xưa kia để tu pháp tu vượt hơn ngày nay. Hội thông cái không được của ngày xưa, tức nói lên ý được nói của ngày hôm nay. Sáu đoạn sau, tự lệ thuộc nhau. Pháp sư Trí Tú nói: “Từ đây đến phẩm Trường Thọ cho đến câu hỏi của đồng tử Ca-diếp, là thứ hai, chính thức nói, đại ý có sáu đoạn: Hiện tại mặt đất rung chuyển, nói lên Phật sẽ đến. Chúng đương thời nói kệ và năm ví dụ để thỉnh Phật trụ lại đời. Đức Phật nêu các pháp để khuyên hỏi. Nói phương pháp tu vượt hơn để đoạt chấp. Nói ví dụ thầy thuốc, hội thông xưa, nay. Làm lại sáu phiên, chỉ nêu pháp để khuyên.” Pháp sư Pháp An nói: “Phẩm này mở rộng đoạn hai của Tông chỉ, có ba phần: Chê bai việc thỉnh, từ đầu phẩm, đến cuối phẩm là Niết-bàn của chữ Y. Chấp giáo pháp xưa để thỉnh, từ chỗ liền nói về vô thường, cuối cùng đều ba pháp tu. Nay dùng giáo để thỉnh, từ “Như lời Đức Phật nói lìa bốn điên đảo”, là phẩm cuối. Trong ba phần đều có hai lần lặp lại: Năm ví dụ từ đầu đến cuối, là Thể của Thỉnh. Kế là, từ “Đức Phật bảo các Tỳ-kheo” v.v… trở xuống, là đáp lời thưa hỏi. Theo lần thỉnh thứ hai, trước từ “Vui lòng nói, v.v… trở xuống, chấp giáo xưa để thỉnh: “Con đã thông hiểu, cúi mong Đức Phật trụ lại thế gian để giảng dạy. Kế là, từ “Đức Phật khen Tỳ-kheo” v.v… trở xuống, là đáp lời mình đã thỉnh, rằng chỉ tập giáo hôm nay lìa được bốn đảo. Y theo lần thỉnh thứ ba, đầu tiên, từ “Lìa bốn đảo, nghóa là cuối cùng theo Đức Phật nhập Niết-bàn, rằng nếu Đức Phật là thường, thường thì không diệt, sao không trụ lại thế gian để giáo hóa dẫn dắt ta ư? Kế là, từ “Ta trao gởi chánh pháp cho Ca-diếp, để đáp lại lời thỉnh”. Minh Tuấn nói: “Phẩm này đại khái chia làm năm đoạn: Đại chúng thấy mặt đất rung chuyển, biết là biểu hiện diệt, bèn buồn thương, thở than nói năm thí dụ, nhằm để thỉnh Phật. Đức Phật nói hai bài kệ, ngăn dứt sự thở than thảm thương của đại chúng. Chỉ nêu pháp, khuyên hỏi. Cuối cùng là dụ châu báu. Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe nói ví dụ châu báu, bắt đầu tỏ ngộ về lý. Vì lẽ đó, nên nêu câu hỏi: Vì sao không nói ngay ư? Đức Phật dùng ví dụ thầy thuốc mới cũ, để hội thông xưa nay. Y theo đoạn đầu, có ba chương: Trải qua nhà để nêu lên việc mặt đất rung chuyển. Đại chúng nói kệ tự trình bày. Dùng năm ví dụ chê bai việc thỉnh. Trong đoạn hai có hai chương: Lời nói gởi gắm cảm kích thiết tha: “Rằng chớ như phàm phu”. Dùng kệ nói pháp, để ngăn thương thảm cầu thỉnh. Trong đoạn ba có năm lượt lật lại: Chỉ nêu pháp để khuyến khích thưa hỏi. Tỳ-kheo chấp sở đắc xưa, không hiểu chỉ thú nay. Đức Phật nói về pháp tu vượt hơn, dứt bỏ cái mình đã chấp. Tỳ-kheo nghe vượt hơn, đây tức là cái xưa của mình là sai, Đức Phật dạy pháp tu nay là đúng. Do mình chưa hiểu, nên vẫn cố tình thỉnh Phật ở đời mãi, rằng Đức Phật đúng ra nên ở đời để dạy ta sao cho hiểu được pháp tu vượt hơn, nên đem thân mạng để cầu thỉnh. Đức Phật dùng ví dụ châu báu để nói lên sự mê mờ kia. Đoạn thứ tư, thứ năm không giải thích rộng nữa. “Thuần-đà đi rồi, không bao lâu” cho đến “Cho nên, mặt đất ở đây rung chuyển mạnh như thế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật và Thuần-đà nói về nghóa cảm ứng thường trụ, đủ ở văn trên. Sau khi Thuần-đà đi rồi, người nên sinh tâm hoài nghi mà chưa hỏi ngay, nghóa là rất mong Đức Phật sống lâu, nên hiện phải bỏ đi, thôi thúc khiến thưa hỏi. Về nghóa của rung chuyển sáu cách đã được mô tả đầy đủ trong Kinh Hoa Nghiêm. Ở đây có hai ý: Trước kia, làm tâm của chúng sinh động. Trong động có tiếng, nói là tướng to, nhỏ. “Từ tầng trời Đâu-suất giáng xuống” cho đến “rung chuyển mạnh như thế”, thì chắc chắn có sự kiện lớn. Địa Hữu học có ba thứ, Địa Vô học có ba thứ, mà năm thứ đã qua, đây là thứ sáu.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Vì không có người gõ mà phát ra nên mặt đất rung chuyển, để nói lên Niết-bàn, là đầu mối nhanh chóng khuyến thỉnh kia. Niết-bàn của chữ y do đây mà nêu lên.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là tướng thứ bảy. Ý sau của điềm lành này chẳng phải vì mời gọi chúng, chỉ cho người đương thời thấy được ánh sáng uy nghi của Đức Phật điềm nhiên. Tình ý, tình nhỏ lại hiện ra tướng này, để nói lên phải bỏ đi. Dưới đây sẽ nói về ví dụ hai người già, trẻ: Thứ nhất, tự bày tỏ nỗi khổ của mình để thỉnh, mà chê bai Đức Phật, có ba ý: Nói mười một hàng rưỡi kệ, chính thức bày tỏ nỗi khổ mà thưa thỉnh. Hai hàng kệ sau, nói rằng nếu Đức Phật ở lại đời thì sẽ có ích dứt trừ các khổ. Thưa thỉnh xong, Đức Phật im lặng. Lại dẫn việc chê bai Đức Phật. Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là đoạn thứ nhất, trong đất có tiếng ở đây, nói về hai nghóa: Báo cho biết hôm nay có sự rung chuyển lớn. Báo cho biết sự rung chuyển này là tướng Niết-bàn. Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Cuối phẩm trước, Đức Phật phát ra ánh sáng từ miệng, phẩm này, đầu tiên là mặt đất rung chuyển, đều là muốn vì người cơ căn bậc hạ mà nói về thường. Từ phát ra ánh sáng từ miệng, nói xong kệ. Thứ nhất trong sáu đoạn, hiện tướng Niết-bàn, gồm có ba chương, đây là chương thứ nhất. “Bấy giờ, các trời, rồng, Càn-thát-bà” cho đến “Như lai thấy rằng sự buông bỏ, cũng như nhổ bỏ đàm dãi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về khổ mà Đức Phật đã dứt bỏ.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây nói xong năm thí dụ. Đoạn hai, tự bày tỏ nổi buồn than để thỉnh Phật.” “Ví như mặt trời mới mọc, ánh sáng chói chang rực rỡ” cho đến “Ví như núi Tu-di”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu Đức Phật trụ ở đời, thì sẽ có lợi ích như thế. “Bạch Đức Thế tôn! Ví như nhà vua sinh và nuôi nấng các con” cho đến “Cúi mong Đức Phật ở lâu trên đời, không nhập Niết-bàn” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai chương trên, bày tỏ đủ sự tổn hại, lợi ích của ra đi, ở lại, phơi bày nỗi khổ của mình để thỉnh Phật mà không nhờ đức Từ đoái tưởng. Dưới đây, nói xong văn xuôi, dùng năm thì dụ Đức Phật quá khứ: Nói không có điều thiện bắt đầu, để cho tốt đẹp sau cùng. Nói lấy hữu vi làm khổ, vô vi làm niềm vui. Vì sợ hữu vi, nên Đức Phật ch phải vô vi. Nói vô vi không có niềm vui, vì con ở trong ngục, cha không được vui làm thí dụ. Từ mà không bình đẳng. Đều không có lòng Từ.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Ví dụ này nói dù được chánh kiến, nhưng Bát-nhã chưa đủ, nên tha thiết thỉnh Phật trụ ở đời để thành tựu Bát-nhã cho ta.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Bốn bộ không phải một là dụ cho các con, nói về tuệ không ư? Ví dụ cho xinh đẹp. Đầu tiên, Đức Phật dạy định, tuệ để ta tu học, sinh tuệ mạng cho ta. Nên đeo đuổi tuệ cao quý, giáo pháp do lý sâu thì tuệ mạng không dứt. Nay, Đức Phật đã ra đi, tuệ cao quý không nối tiếp nữa, chẳng phải là giết chết con hay sao?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ta chưa tránh khỏi bốn ma, còn kiến chấp thì Phật đã rũ bỏ sạch, há không phải trao con cho Chiên-đà-la ư?” “Bạch Đức Thế tôn! Ví như giác ngộ, học giỏi các luận” cho đến “tức là không còn sợ đọa vào địa ngục nữa”. Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Ví dụ này nói về Đức Phật, là đấng đầy đủ tất cả Bát-nhã, lẽ ra nên ở đời giảng nói cho chúng ta nghe. Nếu nhập Niết-bàn thì dường như đối với các pháp Ngài sợ mà không nói”. Pháp sư Đàm Tế nói: “Dường như Đức Như lai sợ pháp hữu vi.” “Bạch Đức Thế tôn! Ví như có người mới học nghề” cho đến “Sao Đức Như lai thọ lãnh sự yên vui cho được?” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Ví dụ này nói rằng, ta chưa được giải thoát, nên muốn thỉnh Phật ở đời, hầu dạy bảo cho ta.” Pháp sư Đàm Tế nói: “Dụ cho Sơ nghiệp của Tiểu thừa, nhà tù là Vô minh. Có người hỏi, thì đó là Bồ-tát.” Kính Di ghi lời của Tăng Tông rằng: “Theo giáo pháp của Thanh văn tu hành là dứt bỏ các phiền não, là công việc mới bắt đầu làm. Người kia vì không thể siêng năng tu học, nên mắc tội phải ở trong ngục. Nay nói dù dứt trừ “Hoặc” thô, nhưng tế thì không nghiêng đổ, vì lẽ đó, nên đã bị quả năm ấm lủng đoạn, giam nhốt”. Có người hỏi họ nhận lãnh tội gì? Là thiên hạ có việc hay không, người chung quanh lại cố ý hỏi, vẫn không thể làm lợi ích. Nếu Đức Thế tôn quyết định bỏ chúng con ra đi mãi mãi thì đâu khác gì kẻ ở gần nói chuyện phiếm không xác thực, kẻ không có lòng từ.” “Bạch Đức Thế tôn! Ví như thầy thuốc hiểu rành các môn thuốc” cho đến “Kính mong Đức Thế tôn ở lâu trên đời này, chớ nhập Niết- bàn.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Nếu Đức Phật không ở lại trên đời để dạy bảo chúng con được giải thoát, tức là Ngài đã để dành phương thuốc bí truyền, chỉ trao riêng cho con ruột mà không truyền cho các học trò khác. Đức Như lai hoàn toàn không hề phân biệt đối xử thân, sơ, không dạy dỗ chúng con, khác nào như vị thầy thuốc kia.” Pháp sư Đàm Tế nói: “Dù có lòng Từ mà tâm vẫn còn phân biệt hơn kém, thắng thua, thì sẽ tổn thương cho bình đẳng.” “Bạch Đức Thế tôn! Ví như người già, người trẻ mắc phải chứng bệnh khốn khổ” cho đến “Ở lâu trên đời, chớ nhập Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Ví dụ này, nói rằng, mình mới bắt đầu học tập ngần ấy, nên chưa thành pháp thân. Vì lẽ đó nên thỉnh Phật ở đời để giúp đỡ cho việc tu học của chúng con, thì pháp thân mới thành tựu được.” Pháp sư Đàm Tế nói: “Nếu người có lòng từ, thì nên cứu vớt nổi đau khổ. Nay, đã bỏ khổ, chẳng lẽ cho là có lòng từ hay sao?” “Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo” cho đến “Xa lìa các phi pháp, hãy tự an ủi, thọ nhận niềm vui mừng, yên vui.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chính vì Từ bi nên Đức Phật thị hiện diệt độ, cụ thể như đoạn văn trước nói. Chỉ vì ái của phàm phu, “Duyên” bi nặng nề, nên không thể tỏ ngộ đạo lý. Nay, Đức Phật bảo riêng với các Tỳ-kheo để khích lệ mọi người.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là lời khuyên thứ hai, có ba ý: Giới, thời gian, chúng. Khuyên trong nhân quả chung. Khuyên xả bỏ sở đắc ngày trước, tu chữ Y của hôm nay. Đây chính là thứ nhất của Tỳ-kheo, răn dè phàm phu. Pháp của Chư Phật như thế, nghóa là hễ có cảm thì có ứng. Cảm hết, về chân. Vui không buông lung. Đức Phật dạy khuyên chúng ta phải nghiêm giữ giới, giữ tâm, nhớ nghó chân chánh tu định. Câu sau, là tu tuệ. Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là đoạn ba, chính thức chỉ nêu các pháp, nói lại bổn ý của Đức Phật, khuyên thưa hỏi, có ba phần: Sắp thưa hỏi: Trước dùng hai bài kệ để ngăn ngừa tâm tán loạn của các Tỳ-kheo. Nói rộng các pháp, khuyên nêu câu hỏi. Lại nêu ra duyên khác, khuyên nêu câu hỏi. Đây là phần thứ nhất, chấm dứt rối loạn lo buồn của đại chúng kia.” “Lại này các Tỳ-kheo! Nếu có ai còn nghi ngờ” cho đến “Như lai sẽ thuận theo mà giải quyết cho các thầy.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dù Đức Phật đã nói nghóa bất diệt cho Thuần-đà nghe, nhưng các Tỳ-kheo vẫn cố chấp giáo xứ không thôi. Ở đây sẽ giải thích nghóa ấy, để chứng minh rằng, giáo pháp xưa, nay vẫn đều là nhiệm mầu tốt đẹp. Xưa nói: “Tất cả đều rỗng không, vốn vì chúng sinh chấp mắc “Hoặc” của ba cõi. Do đó dứt trừ chứng bệnh không là trống rỗng. Nói dấu vết đã tản mạn, đáng lý gây ra nỗi ngờ vực. Nay chấp nhận nghi ngờ đó, lời nói nhỏ nhặt được bày tỏ, dẫn dắt kẻ sống trái với giác, trở về với tông chỉ. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Về phần mở rộng tông chỉ, có lược, rộng. Đây là khuyến khích cách hỏi rộng rãi. Các Tỳ-kheo quán bốn phi thường, dứt trừ nghi ngờ về Phật thành đạo. Nghe nói Đức Phật thường trụ, nên sinh ngờ vực về quả này, tức là việc đáng hỏi mà không ai hỏi, tất nhiên cho thuyết xưa là thật. Nếu cho thuyết xưa là thật thì sau cùng sẽ không tỏ ngộ được giáo pháp hiện nay. Thế nên gọi là phát sinh mối nghi ngờ kia. Xưa, nói tất cả trống rỗng, nay lại nói không là trống rỗng, là điều đáng nghi ngờ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là phần thứ ba trong phần mở rộng tông chỉ. Phần thứ nhất trước kia, nhờ bố thí nói về thường. Phần thứ hai, Thuần-đà đã vượt lên đại chúng để mong thỉnh Phật trụ lâu ở đời. Nay, đây là môn khuyên răn thứ ba, nói về nghóa thường. Sở dó sắp đoạt lấy nên khuyên thưa hỏi trước, là vì dùng năm ví dụ để chê bai Phật. Hoặc nói là bỏn sẻn pháp, hoặc cho rằng lòng từ nghiêng lệch, riêng tư. Nay, Đức Phật khuyên các Tỳ-kheo ấy hãy nên hỏi về chỉ thú mở bày tông chỉ trên. Phát ra hai giáo hiện nay, ngày xưa, chứng tỏ cả hai thứ đều không thể thỉnh, vì họ chưa thấu suốt, nay nên nghi ngờ. Sự sinh tử là không, là giả dối, chung quy trở về chỗ trống rỗng. Niết-bàn tròn đầy cùng cực, yên lặng tồn tại mãi, là không là trống rỗng. Xưa kia nói vô thường nằm trong ba cõi, nay nói vô thường nằm ngoài ba cõi. Xưa, lấy ba vô vi làm thường, nay, nói về “Diệt hữu” cho là thường.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là phần thứ hai, chỉ nêu nhân quả, khuyên chung nên hỏi.” Pháp sư Trí Tú nói: “Phần hai, chỉ nói rộng các pháp, để khuyến khích nên hỏi. “Cũng sẽ vì các ông, Như lai trước nói pháp Cam lộ, sau đó mới nhập Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nếu vì quyết không nghi ngờ, không biết mà hỏi, thì Như lai cũng sẽ tự nói cho ông nghe, cuối cùng, sẽ không để cho ông phải rơi vào lưới nghi ngờ.” Pháp sư Tăng Lượng nói rằng: Ông tự có nghi ngờ mà không thể hỏi. Như lai sẽ nói cho ông nghe, sau đó mới nhập Niết-bàn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đáp chung về ý chê bai thỉnh Phật qua năm ví dụ ở trước. Từ khi ra đời đến nay, Đức Thế tôn đã giảng nói nhiều về khổ, vô thường, dứt trừ bốn thứ điên đảo khác. Hôm nay, Ngài còn nói về Thường, Lạc, đầy đủ vào đạo, vì sao lại sinh sinh ý chê trách rằng Đức Phật không có đầu cuối ư? Giáo pháp mà Ngài đã nói xưa nay đều là chân lý cùng tột sâu xa mầu nhiệm, há có lỗi sợ pháp hay sao? Nay, trước khi nhập Niết-bàn, Như lai sẽ nói rộng nghe về lý cùng cực của Cam lộ cho ông, mong sao cho ông sớm được pháp Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, thì đâu có trái với bản nguyện của Như lai? Hơn nữa, hôm nay, Như lai muốn cho ông nhận thức thường, vô thường, được bình đẳng với Văn-thù, chẳng lẽ nói là lòng Từ nghiêng lệch, riêng tư hay sao? Từ khi ra đời đến nay, Như lai đã chỉ dạy cho ông con đường chân chánh như thế. Giờ đây còn dạy cho ông được biết rõ đạo nhiệm mầu Cam lộ, há cho rằng Như lai không có lòng từ ư?” “Này, các thầy Tỳ-kheo! Phật ra đời là khó, thân người khó được” cho đến “như tìm cát vàng, và hoa Ưu-đàm-bát-la.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cái gọi là sắp đoạt, tất nhiên là sẽ cho.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ trước đến nay là khuyên thưa hỏi. Dưới đây là đoạt, có bốn đoạn: Đoạt quả. Đoạt nhân. Chỉ nêu ví dụ châu báu, nói về lý do của quả xưa là giả dối. Kết hội hai giáo.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây thứ ba, là khuyên bỏ quả đã được khi xưa, gồm có bốn ý: Trước là Đức Phật khen các Tỳ-kheo lìa năm nạn đồng thời khuyên răn. Chính thức đoạt quả. Đoạt nhân đã thực hành trước kia. Đức Phật khuyên phải giữ lấy quả thường hiện nay.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây làm xong như chữ Y của thế gian, phần thứ ba lại chỉ nêu duyên khác để khuyên hỏi, gồm có ba chương: Nêu đức của Tỳ-kheo. Nêu sự lỗi của Tỳ-kheo. Nêu giáo sắc chân thật của Phật để, khuyên thưa hỏi.” “Các Tỳ-kheo thoát khỏi tám nạn, được thân người là khó” cho đến “Vì thế, các thầy không nên buông lung.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước và nay đoạt, trước nói riêng về vô thường là nói phương tiện của thường, nên ông mới chấp cho là đủ, không còn cầu tiến nữa, há chẳng phải là người buông lung luống qua hay sao?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Tỳ-kheo đã, hết lòng thỉnh Phật ở đời. Đức Phật không bằng lòng trụ lại, bèn khuyên nên thưa hỏi. Lý đã nêu lên, chẳng phải cảnh giới đó, phương pháp dứt bặt hỏi han, thưa thỉnh chính là lùi lại để giữ gìn cái mình đã được, thôi dứt con đường tiến tới. Vì kế thừa ý niệm này nnên có lời trách cứ luống qua. Chỉ nêu lối tu khổ hạnh xưa kia, để nói về trách hiệm khó khăn của Đấng Đại từ”. “Này các Tỳ-kheo! Thế nào là trang nghiêm” cho đến “Gặp thành báu, lấy những vật luống dối”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ này nói rộng về việc trên, ngôi thành, dụ cho Niết-bàn”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Quả Phật dứt trừ mọi lụy phiền, dụ cho ngôi thành đề phòng mọi sai quấy. Giới ngăn ngừa lỗi ở ngoài thân, miệng, như bức tường. Nước định là hào bao quanh thành. Tuệ có công năng quyết đoán, dứt bỏ việc xấu ác, như sai khiến tôi tớ. Giữ lấy sở đắc kia, nghóa là nhặt lấy vật luống dối”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai là được quả. Thành báu không tự thể, vì do các báu hợp thành. Nếu một tính chất không đủ thì sẽ không được xứng đáng gọi là Đại Niết-bàn. Thuyết đã nói khi xưa, chính là thuyết trong nhân duyên của Niết-bàn”. “Các thầy chớ dùng tâm thấp kém” cho đến “Chưa vì chánh pháp mà dứt sạch các kiết sử”. Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là thứ ba, được rồi. “Sở nhân” của ngày xưa, gồm có bốn trường hợp, chỉ khuyên bảo hãy quên đi, hoài bão hai tu mà bậc nhất là đức. “Dù mặc ca-sa”: Đây là môn đầu tiên mới học chẳng liên quan đến con đường cùng cực của chân. “Này các Tỳ-kheo! Nay, các thầy phải chân thật” cho đến “Là thuốc hay chữa lành các phiền não”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sự chân thật, nghóa là lý thường. Lý thường rất khó hiểu. Đã không phải sự yếu hèn của tâm tán loạn mà biết được, nên phải gom nhiếp tâm mình. Chỉ có mặt trời Phật mới có công năng soi sáng. Một khi Mặt trời Phật đã lặn mất thì các thầy sẽ bị vô minh che lấp, làm sao nhìn thấy được ư? Địa đại là quả báo chung của chúng sinh. Pháp Phật cũng giống như thế, vốn vì chúng sinh, nên cầu sự chân thật này, tức pháp của chúng sinh đã xong” Pháp sư Tăng Tông nói: “Mặt trời tuệ mười Lực đã lặn, nghóa là thời, cơ khó khác nhau. Cỏ cây là dụng của chúng sinh, thuốc pháp giúp ích cho tư chất, để dứt trừ tai hại. Đã có thuốc pháp, cho nên thời gian không thể mất”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là phần thứ tư, khuyên tu nhân hiện nay, nhận lấy quả hiện nay. Khi sắp khuyên tu, trước hết dùng một câu để răn dạy rồi. đại khái phát ra thể tướng thường trú rằng: “Pháp tánh của Như lai chân thật không điên đảo. Ngày xưa cũng nói rằng pháp tánh mà là giáo pháp đoạn diệt, ngay nay, nói về thể của quả thường trú, “Trăm phi” đã không thật có. Chẳng có “Cái có” cũng chẳng có “Cái không có”, nghóa là “Chẳng có tướng” của một tướng, không đoạn, không thường. Tâm vương như thế chẳng lẽ là điên đảo ư? Tức sinh ba pháp làm phương pháp tu nhân, đó là tinh tấn, nhiếp tâm và mạnh mẽ”. “Nay, Như lai sẽ làm cho tất cả chúng sinh” cho đến “Đều được trong tạng bí mật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhập, là lý thường trụ. Xưa kia vì bị vô thường che lấp, nên chúng sinh không nhìn thấy. Nay, vì được nhìn thấy, nên gọi là nhập.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước đây mở mang sơ lược tông chỉ thường, chưa xuất phát thể thường. Nay, đã được sơ đắc kia, thì phải làm rõ tướng đó. Bí mật, nghóa là pháp mà mười Địa không nhận thấy, chỉ có Đức Phật mới hiểu rõ, các đức được chứa đựng nghóa ở trong quả tròn đầy, gọi là tạng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trụ: Có ba địa vị, đó là Tín, Kiến, Đắc. Vì sao? Vì từ phàm ngoại, đến chín địa, được gọi chung là Tín trụ. Địa thứ mười, gọi là Kiến trụ, chỉ có Đức Phật mới ở địa vị Trụ.” “Như lai cũng sẽ an trụ, nhập Niết-bàn trong Trụ vị này.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì Đức Phật được Thường nên gọi là Trụ. Vì chúng sinh mà nhập Niết-bàn, nên Đức Phật không diệt, nhập là dấu vết của thân trượng sáu. Duyên hết, trở về với chân. Vì y theo ứng thân không hiện, nên nói là Nhập. “Thế nào gọi là tạng bí mật” cho đến “Gọi là nhập Niết-bàn, như chữ Y ở đời.” Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chiếu soi cùng cực tự nhiên, đối với tông chỉ tồn tại ở trên. Vì hàng trên không thể hiện đều, nên hàng ngang tất nhiên không đúng. Đã dứt trừ hệ lụy thì gần giải thoát. Đối với dưới đều ứng, gồm thì sắc thân là đều có. Vì chẳng có trước sau, nên hàng dọc cũng không đúng. Vì lý ba điểm không lìa nhau, nên riêng khác, rất không đúng. Vì cho nên yên lặng, chẳng khác nhau, cũng như chữ Y. Đã nói là Thường thì đâu có nay diệt, nay diệt, thì chẳng phải thật. Sắc thân thì tồn tại. Một lời nói che lấp tất cả, dụ như chữ Y.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu đều thì thân có năng phát trí, vì tác dụng của trí tròn đầy. Ba pháp đều cùng thường, công năng trí đã vượt hơn. Vì vượt hơn, nên không đều. Hàng dọc cũng không thành, nghóa là vì diệt của thân, trí không có hơn, kém.” Ba mắt trên mặt: Bát-nhã ở trên, cả hai thứ thân và giải thoát không có hơn, nên đều xếp ở dưới. Đây là giải thích về sự duyên nhau của ba đức, lý do được thường. Nếu riêng lẻ thì không nhân nhau. Thân được trí, không do trí mà được diệt, đây là đều không có. Đủ ba pháp này nên nói là an trụ. Gọi là nhập Niết-bàn, nghóa là pháp thường không có diệt, vì chúng sinh mà diệt.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Ba pháp đều khác, nghóa là thể khác thì có phần, có phần thì vô thường, chẳng lẻ đều khác mà hợp thành Niết-bàn ư? Lại, dù nói rằng mỗi thứ đều “Không đúng”, nhưng ngoài “Không đúng” này, cũng lại “Không có”.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đều không thành nghóa là nói về công dụng khác nhau. Hàng dọc không thành: Nói về nghóa không vượt hơn, thua kém. Sự riêng khác không thành, nghóa là nói không thể khác. Giải thoát cũng “Phi”: Đây là tổng hợp hai trường hợp trước: Nếu nói công dụng giải thoát tức là công dụng của pháp thân thì không đúng. Ba pháp khác nhau, nghóa là hợp với pháp thứ ba, công dụng của pháp thân thì không phải như vậy. Ba pháp khác nhau, nghóa là hợp với pháp thứ ba, nếu là trường hợp khác, nói giải thoát cũng không phải có, nghóa là chỉ một nghóa chính là dứt hệ lụy ràng buộc, không gồm thâu các đức tròn đầy. Câu văn ẩn lược: “Đắc ý, nghóa là nên nói rằng giải thoát không phải Niết-bàn đã thành thể tròn đầy. Vì sao? Vì ba đức thành tựu tạng bí mật, đây là gồm thâu hết công đức của Phật địa. Về mặt ba đức, mỗi đức đều gồm thâu một nghóa, đây là nắm lấy riêng khác, thì làm sao gồm thâu hết, nên nói chẳng phải Niết-bàn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đều, nghóa là cùng lúc đều có, dùng làm thí dụ. Vì sao? Vì xưa kia lấy sự dứt bỏ vô vi làm Niết-bàn, nhưng vì vô vi này đều có chung với thân, trí, nên không phải chữ Y của ngày nay. Dọc, nghóa là lấy trước, sau làm mắt, cũng ví như ngày xưa không có Niết-bàn. Nghóa là vì trước có thân, tiếo theo có trí, sau có diệt, nên nói là “Phi”. Như ba mắt, là tên dùng hai câu chẳng phải xưa. Câu này chính là hiện nay. Nghóa là muôn điều trên đều nói về Niết-bàn. Nếu ba điểm khác nhau, nghóa là trên ba đức, mỗi đức đều nhận lấy khác nhau, cũng không được. Câu dưới nói rằng pháp thân cũng không phải bình đẳng. Ba pháp đều khác cũng không đúng, nghóa là mỗi pháp đều có tự thể riêng.” “Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật, Thế tôn” cho đến “Rất là bậc nhất trong các tưởng.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nghe nói Niết-bàn như chữ Y của thế gian, mới tỏ ngộ được ý chỉ vô thường mà ngày xưa nói, dừng ở ba cõi mà xa cách với thường.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhận hiểu về thỉnh. Nghe ví dụ về chữ Y hiện nay, hiểu được tất cả vô thường mà xưa kia Phật nói là phương tiện, nhưng phương tiện này lại có khả năng dứt trừ các kiết thật của ba cõi, còn gì vui sướng bằng?” Pháp sư Pháp Dao nói: “Phật nói thường của Niết-bàn chữ Y, cho nên nói cái chẳng phải Niết-bàn là vô thường. Lại tự cho rằng hiện nay, hiểu rõ được chỉ thú của thuyết vô thường xưa chẳng phải Phật, chính là vì để nói lên Phật là thường, có thể nói là thuyết thú vị.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước kia giải thích ba nghóa với chỉ thú nhiệm mầu, sâu sắc, tìm tòi ở tâm, ngoài phần tăm tối, thì nghe nói diệt. Bỏ ứng về bổn, vì cách trở xa với vật, nên lo buồn. Thích thú nói vô thường, nghóa là nói chữ Y, không phải cái mà tâm hiểu được. Con đường phía trước khó bước qua, lùi lại để giữ gìn giáo pháp trước kia, vậy phải lấy gì để chỉ bày ư? Giáo pháp xưa của Đức Như lai dạy bảo ta tu học quán vô thường… để xa lìa “Hoặc” ba cõi, y theo lời Phật dạy tu hành, kết quả sẽ thoát khỏi đau khổ, cho nên không khó. Giáo pháp ngày nay: Hiện nay, dù nói thường mà ta chưa chứng được, ta đã chưa được thì sự tồn tại của Như lai, kết hợp với nhìn thấy diệt độ, dù có nói thường, nhưng không thấy thường đó. Nếu Đức Phật không ở đời thì thuyết xưa đáng tin cậy. Vì cho nên khen ngợi. Dấu chân voi là hơn hết: Nghóa là câu trên khen giáo pháp. Câu này khen theo giáo pháp sinh ra hiểu biết.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, văn thứ hai trong môn Thỉnh, chỉ thú lớn có hai: Đức Phật nói hai mươi lăm hữu, tạo ra quán năm môn, mà vì Đức Phật là thường, nên được biết từ Kim Cương trở xuống là sinh tử, mà tâm sau cùng là thường. Ta là người được dạy dỗ, Đức Phật nên trụ ở đời. Dù Đức Phật đã vì ta nói Niết-bàn chữ Y, nhưng ta không biết phải làm thế nào để được. Theo phần thỉnh thứ hai, có ba đoạn: Nói ta là người được giáo hóa. Vì đại khái có sự hiểu biết, nên trước dùng hai ví dụ để khen năm món khổ, không, vô thường, dứt trừ “Hoặc” hiện nay, vượt hơn giáo pháp ngày xưa. Từ ví dụ Đế Vương, cuối cùng đến ví dụ người say, là lời thỉnh chính thức. Từ câu: “Khen cây chuối v.v… trở xuống, chấp giáo xưa để cầu xin Đức Phật, nếu Phật không trụ ở đời thì ta sẽ tìm tòi học tập theo giáo xưa, chung với tu khổ, vô thường trên của Đức Phật. Thích thú: Thích thú về năm môn quán trong phẩm Thuần-đà ở trên. Trong phẩm Thuần-đà nói thường, vô thường. Nay, chỉ khen lý vô thường, vì vô thường, trước nay đã quán. Về lý thường, vốn là pháp chưa thấu suốt. Lưu lại lý thường này để làm lời thỉnh, nói ta chưa hiểu, Đức Phật nên trụ ở đời để dạy dỗ ta. Vì nếu ta đã hiểu được chỉ thú thường hôm nay, thì đâu cần thỉnh làm gì?” Pháp sư Trí Tú nói: “Đoạn thứ tư dưới đây là dứt chấp, có bốn phần: Chính là chấp. Dứt chấp. Thỉnh Phật trụ ở đời. Phật đáp. Từ đây đến cuối mà có các kiến chấp, thì không có việc đó. Thích thú với giáo xưa, định nêu lời thỉnh trái lại. Pháp sư Minh Tuấn nói: “Dưới đây làm xong đối với tưởng vô ngã khuyên hỏi. Trái với thắng pháp khuyên hỏi đã nêu trên, chẳng phải là pháp của mình hiểu, nên mới chấp vào giáo xưa. Có ba bậc: Khen ngợi giáo vô thường xưa, mà ta đã hiểu. Chỉ nêu các ví dụ như Đế vương v.v…, nói về pháp mình chưa hiểu, nghóa là tồn tại ở giáo nay, mà Đức Phật không trụ ở đời để dạy bảo, làm sao cho ta hiểu được ư? Chỉ khen các giáo như vô ngã v.v… “Nếu có người siêng năng tinh tấn tu tập” cho đến “Vô minh, kiêu mạn và tưởng vô thường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ nêu thật kiết của ba cõi, nhằm chứng tỏ năng lực của giáo vô thường. Không nói sân, vì dễ dứt trừ.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nếu ai siêng năng tu tưởng vô thường, thì sẽ không lìa “Hoặc” ba cõi và ngược lại với tưởng vô thường trên của Đức Phật. Về nghóa giảng nói chính là ở đây.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu là tập quán tiền phương tiện của “Không quán” thì sẽ chẳng dứt trừ được kiết. Nay, dùng quán không hợp với hiểu biết vô thường, tức là “Tuệ Không”, tạo nên danh, thuyết của tưởng. Nếu không như thế, thì sẽ trở lại tiền phương tiện của “Thủ không”, chế phục các kiết. Do đoạn sau chế phục, nên nói chung là đoạn. Và tưởng vô thường, nghóa là vô thường của “Chấp đoạn”!” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đối tượng dứt trừ kiết sau cùng trong môn tư duy, nên nói riêng, chứ không phải dứt trừ thô trước. Tưởng vô thường là dứt trừ cả điên đảo trên của Phật.” “Bạch Đức Thế tôn! Nếu Đức Như lai đã lìa hẳn tưởng vô thường” cho đến “Vô minh, kiêu, mạn và tưởng vô thường.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ở trên nói rằng: Tu vô thường có công năng trừ bỏ tưởng vô thường.” Tưởng là tên của tuệ, giống như khiên và giáo (mâu thuẫn), nên lại nói về tưởng. Nếu lìa, nghóa là không tu tưởng vô thường thì không có Bát-nhã. Bát-nhã đã không có thì sẽ không có giải thoát, nay, đâu được nhập Niết-bàn ư? Nếu không lìa, thì sẽ lấy tưởng của thuyết xưa làm tưởng vô thường, đây là điên đảo, đâu được nói là với mạn… đều lìa ư?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thỉnh là được lý quán, nghóa là cảnh, trí không lìa nhau. Nếu Như lai là thường, thì sẽ lìa hẳn tưởng vô thường, vì chúng sinh thì không nên nhập Niết-bàn. Trên đã nói chúng sinh hữu vi, do đó nên được có thỉnh. Nếu không lìa, nghóa là nếu Đức Phật không trụ ở đời, thì về lý, thường tự diệt quán vô thường, không bao giờ lìa ví dụ chữ Y của Đức Phật, lại càng thêm “Hoặc” điên đảo.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Hướng về tốt đẹp, ưa thích nói về tưởng vô thường, có công năng dứt trừ hoặc chấp thường v.v… trong ba đời. Và trái với tưởng vô thường trên của Đức Phật. Nay, kế là, khen tưởng này cũng có thể được thường. Vì sao? Vì nếu Đức Như lai vốn không tu tưởng vô thường, thì sẽ không biết vô thường tồn tại phi Phật, thường ở nơi Phật thì làm sao được tu vô thường không lẫn lộn, nhập Niết-bàn chữ Y ư? Luận này đã giải thích giáo ngày nay, không nói giáo ngày xưa. Nếu không lìa, thì lời nói này giải thích giáo ngày xưa. Nếu quả tu tưởng vô thường thì tưởng vô thường này lẫn lộn với Phật, chẳng những không nhận thức về nghóa thường mà cũng chưa nhận biết sâu sắc về nghóa vô thường, đâu được dứt trừ hết “Hoặc” của ba cõi và trái với tưởng vô thường ở trên của Đức Phật. Các Tỳ-kheo nói về hai trường hợp được mất này, tự bày tỏ mình đã giải ngộ chỉ thú vô thường, trở nên thành hướng về ý thích thú đã nói.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ý Tỳ-kheo nói: “Vì ta chưa gây ra việc cùng cực, thì phải diệt thân, sau mới khỏi khổ. Nay, cao tìm, Như lai không đồng với con, nghóa là đã nói là thường trụ thì đâu đợi diệt thân mới gọi là Niết-bàn ư? Nếu không lìa, là chấp lấy ý của Phật. Nếu nói con cũng không lìa, tức là Đức Phật đồng với con, thì không nên nói tu tưởng vô thường là sai.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là lời thỉnh, hai bài kệ thường, lạc trong phẩm trước, đã lìa trường hợp vô thường. Nếu theo lời nói này, thì Đức Phật đã lìa tưởng vô thường, cũng không nên nhập Niết-bàn, nghóa là ứng thân này chính là vô vi chưa tự tại của Pháp thân. Nếu quả không tự tại thì làm sao nói ta là Thường trụ? Nếu không lìa thì quả nay của Phật mà nhập Niết-bàn, tức là chưa lìa tưởng vô thường, đâu được nói là ta đã lìa vô thường.” Pháp sư Trí Tạng nói: “Lìa, là tên khác của Diệt. Tưởng là tên khác của “Tuệ Không”. Trước kia, Phật nói: “Muốn nhập ba điểm Niết- bàn, nếu diệt “Tuệ Không” thì sẽ không có Bát-nhã, há có Niết-bàn của ba điểm để nhập ư? Nếu không lìa nghóa là lấy ý Phật, nếu nói không diệt tuệ này thì sao ở trước nói là diệt tưởng vô thường? Đây là “Tuệ Không” không được, không diệt, ba điểm ở yên.” “Bạch Đức Thế tôn! Ví như nhà nông vào lúc trăng thu” cho đến “Trong các tưởng, tưởng vô thường là hơn hết.” Xét: Pháp sư Đàm Tế nói: “Đây là do chê bai mà thỉnh Phật trụ ở đời. Vì nếu Đức Phật thật nhập Niết-bàn, thì biết rằng tưởng vô thường là vượt hơn. “Bạch Đức Thế tôn! Ví như Đế vương biết trước mạng mình sắp chết, liền quyết định ân xá các người phạm tội trước khi qua đời.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sự yêu thương của Đế vương, là yêu thương cả một nước, còn ban hành sắc chỉ ra ân, ân xá các người phạm tội. Đức Phật thương xót tất cả chúng sinh mà không thấy khó nhọc ư?” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dù nói là giáo xưa không đúng, giáo hiện nay là đúng, nhưng chưa được dụng tâm thì cũng vẫn bị vô minh ràng buộc, chưa được giải thoát. Do đó phải hiểu rõ giáo pháp Phật.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là lời thỉnh trong chương hai.” “Bạch Đức Thế tôn! Ví như có người bị quỷ bắt giữ” cho đến “Pháp giải thoát như chữ Y của thế gian”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thầy thuốc thế gian với tâm yêu thương nông cạn, mà còn không bỏ người bệnh, huống chi thầy thuốc ra đời mà không cứu giúp chúng ta hay sao?” Pháp sư Pháp Dao nói: “Ví dụ trên nói về người chưa giải thoát, ví dụ này nói về người chưa được Bát-nhã.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Người Thanh văn dù dứt thô mà tế vẫn còn. Đức Phật là thầy thuốc hay. Ví dụ trước, nói về sự tai hại của quả, ví dụ này nói về tai hại của nhân.” “Bạch Đức Thế tôn! Ví như voi lớn bị người bắt trói” cho đến “Sao Đức Như lai muốn bỏ mà nhập Niết-bàn?” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Bồ-tát như voi lớn, Thanh văn chưa được như thế, sao Đức Thế tôn có thể bỏ ư?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì Đức Phật tạo nên lỗi. Nghóa là nói lòng từ bình đẳng của Như lai không được riêng vì các Thanh văn hiện thân, mà còn giáo hóa Bồ-tát ở phương khác nữa. Nếu vậy, thì lòng từ vốn cứu giúp khẩn cấp. Con đã không thể tự giải thoát, nên khổ nặng là gấp rút. Bồ-tát vì có khả năng tự giải thoát, nên khổ nhẹ, chẳng phải gấp rút! Năm mươi bảy là nương vào kiết trên, gọi là ái, mạn, vô minh. Về chiều ngang thì chung cả năm hành, thành mười lăm. Về chiều dọc thì chung cho cả ba cõi, hợp thành bốn mươi lăm. Vô thường là kiến, bốn đế cũng chung cho cả ba cõi, bốn đế có mười hai, hợp chung thành năm mươi bảy.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Ví dụ này nói được chưa như đại Pháp thân tự tại.” Pháp sư Tăng Tông nói: “La-hán dứt bỏ hết phiền não, không còn tập khí nối nhau, nên nói có năm mươi bảy.” Lại giải thích: “Không do dứt trừ kiến thủ, trí quán chiếu y cứ bốn Đế của ba cõi thành mười hai. Trí bị “Hoặc” nhỏ nhiệm làm mờ tối, tức là vô minh, cũng gọi là phiền não.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đối với Phật, khởi lên ba đảo: Vô thường, khổ, vô ngã. Ở đây ba phiền não chứng tỏ kiến không có tạo ra bốn đế để đối trị: Một đế trở xuống có ba, thành mười hai, cộng thành bốn mươi lăm. Bốn đảo không là chấp không: “Không tức vô ngã, lại không có nghóa riêng. Bất tịnh vì vốn chẳng quáùn lý, cho nên không chấp,” “Bạch Đức Thế tôn! Ví như người bị bệnh sốt rét, may mắn gặp được bác só,” cho đến “Sao Đức Như lai lại nỡ nở bỏ mà nhập Niết- bàn.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Cho dù nương vào giáo xưa được giải thoát, nhưng đối với giáo khác vẫn chưa hiểu rõ.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại vì Đức Phật, gây ra lầm lỗi: Nếu Từ, thì phải cứu vớt kẻ khổ đau nặng nề, lẽ ra nên bỏ Thánh để theo kẻ phàm tục. Vì người phàm chấp thường, nên Đức Phật ứng hiện diệt. Nếu vậy, con có nửa bệnh, cho nên lấy chứng sốt rét làm thí dụ, Đức Phật nên cứu giúp con.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Ví dụ này nói không có Niết-bàn thường, lạc. Vì lẽ, dù tránh khỏi khổ phần đoạn, mà khổ biến dịch vẫn còn, là bệnh nữa ngày.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bệnh sốt rét ý nói chín mươi tám sử chúng con đều chưa dứt bỏ.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đức Phật đã dứt bỏ phiền não thô của ngã, tức suốt ngày không phát sinh, mà phiền não nhỏ nhiệm, là căn bản vẫn chưa dứt bỏ, như ghẻ lở chưa phát.” “Bạch Đức Thế tôn! Ví như người say rượu, không tự hay biết” cho đến “Sao Đức Như lai lại nỡ bỏ mà vội nhập Niết-bàn?” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Hiểu một nửa còn phải dạy dỗ thêm, huống chi hoàn toàn chưa hiểu ư?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Rằng bệnh của người Thanh văn hoàn toàn đồng với phàm phu, chẳng phải bệnh nửa ngày. Vì sao? Vì nếu các Thanh văn hiểu rõ ba cõi vô thường thì không nên khởi tưởng vô thường, tức là không hiểu rõ nhân duyên, có đủ chấp thường của ba cõi. Về mặt lý, thì đồng với phàm phu.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Ví dụ lúc người phàm phu say rượu năm dục, thì tình nặng, căn tánh chậm lụt. Vì thế, nên nay, phảng phất có hiểu, nhưng vẫn chưa tỉnh, sao Đức Như lai lại nỡ bỏ họ mà nhập Niết- bàn?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Bốn ví dụ trên là nói cho bậc Thánh, ví dụ này là nói cho cả phàm và Thánh.” Pháp sư Trí Tú nói: “Ví dụ này so với ví dụ bệnh sốt rét trên, về sự thì khác nhau, mà về lý thì đồng, đều dùng chưa dứt hoặc làm dụ.” “Bạch Đức Thế tôn! Ví như có người khen cây chuối” cho đến “Mà có các kiến, thì không có việc đó.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Xưa do Đức Phật nói, nay cũng chính Đức Phật nói. Sự hiểu biết xưa kia đã sai thì cái hiểu hiện nay đâu thể đúng. Vì thế lại chấp sự hiểu biết khi xưa, rồi phán quyết đối với Đức Phật.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cho rằng Đức Như lai là thường. Nói theo lý thì lẽ ra nên tự tại, mà nay, thỉnh không được ở đời, tức là không được tự tại, tức là xưa nói vô ngã là thật, nay nói tự tại, lẽ ra là giả dối? Như Đức Phật đã nói, nghóa là giáo pháp nay, xưa đều do Đức Phật nói. Nay nói chưa hẳn hoàn toàn đúng, nên dẫn xưa để phán quyết.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Từ khi nói thích thú đến nay, Tỳ-kheo dù tự nói mình hiểu, nhưng cũng chưa tự xem xét. Nay, muốn lấy quyết định đối với Đức Phật, thì nên trình hiểu biết xưa, khen tư tưởng vô ngã là chân. Nếu Phật là sai thì nay hiểu là đúng. Nếu Ngài không sai, thì sự hiểu biết hôm nay làm sao đúng được? Ví dụ cây chuối, hiểu rõ vô ngã. Ví dụ nước thấm ướt, chỉ cho lời nói thật về thân kia. Về lý tự vô ngã, không cần lời nói, tâm kia tự hiểu. hoa bảy cánh, tu hành vô ngã, được nhập Niết-bàn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chương ba này nói muốn trở lại tu tập giáo pháp xưa.  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI <卷>QUYỂN 7 <詞>Phẩm 3: AI THÁN (Phần 2) Giải thích nghóa Bốn đảo. Giải thích nghóa Ba đảo. Hợp ví dụ ngọc lưu ly. Hợp ví dụ thầy thuốc mới, cũ. “Bấy giờ, Đức Thế tôn khen các Tỳ-kheo: “Lành thay! Lành thay! Các thầy khéo hay tu tập pháp quán vô ngã!” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Sẽ được cho trước”. Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là đoạn bốn, vì nói tu vượt hơn, được đối tượng chấp kia. Có bốn chương: Sẽ được sở chấp quyết định ở trước. Tỳ-kheo lại nói các thí dụ, mình đúng còn người sai. Ví dụ Đức Phật trở về là có, làm cho Tỳ-kheo thành lỗi. Đức Phật vì các Tỳ-kheo nói tu vượt hơn. Trước kia, Đức Phật hứa nói mà chưa nói. Trước là, tạo nên hai thứ trái lại, để nói về nghóa không thật của pháp tu kia. Sau, chính là nói về tu, đây là chương thứ nhất. “Bấy giờ, các Tỳ-kheo liền bạch Phật rằng” cho đến “Chúng con đã khéo tu các tưởng như thế”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đã nhờ “Lành thay”, mới thích buông tuồng các pháp tu khác để được nhiều”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nhờ “xưng hô tốt đẹp”, bèn nói là tưởng khác. Không gọi là bậc Thánh, nghóa là lời tự chúc mừng”. Pháp sư Trí Tú nói: “Là chương thứ hai”. “Bấy giờ, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo rằng” cho đến “Chỉ biết văn tự mà chưa hiểu thấu thật nghóa”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ví như người say vì bị mê lầm Hoặc nên không còn tu, luống biết tên vô ngã của thuyết xưa, chưa hiểu thấu lại tu nghóa trái ngược, say mà có chỗ trở về”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ông cho say là không say, biết gọi là say thì chưa thấu rõ nghóa say, không say”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là được nhân, có bốn chương: Ví dụ say về, đặt trên Tỳ-kheo. Nêu rộng tám đảo, để chỉ bày cho đại chúng. Người tránh khỏi tám đảo, có thể gọi là Tu. Nếu người ấy không tránh khỏi, thì sao gọi Tu ư? Kết tám thứ đảo cho Tỳ-kheo: “Chẳng phải chỉ có đảo nhẹ, mà còn có đảo nặng”. Vì nói ba pháp tu cao siêu, thay cho sở chấp kia. Nghóa chưa hiểu thấu, nghóa là quả vị Phật là thường, Kim Cương lại là vô thường, mà ông hoàn toàn nói là tu thường, lạc là say. Tu khổ, không là nghóa chẳng say ư? Nếu biết đối với quả Phật chấp khổ, không, sinh tử chấp thường, lạc là sai lầm, thì đây là thật biết say”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần hai dưới đây là khuyên, có bốn chương nói về nghóa: Từ đây đến cuối ví dụ thầy thuốc nói ba tu. Trước là chuyển ví dụ say, cho Tỳ-kheo. Từ “Nói ba tu” cho đến “Là người không biết tu chân chánh các pháp, là chỉ nêu tám đảo để nói về hai “Phi”. Từ “Các Tỳ-kheo cuối cùng đối với pháp khổ mà không biết nghóa” là nêu bốn đảo, giải thích đúng sai. Nói về hai đúng: Sinh tử tạo ra khổ, vô thường cũng đúng. Trên Đức Phật tạo ra thường, lạc cũng đúng”. Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là chương ba”. “Thế nào là thật nghóa, như người say kia” cho đến đối với việc không đảo mà nghó là đảo”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thế nào là lấy say làm nghóa không say”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Về nghóa sẽ được giải thích ở dưới. Như người say kia, nghóa là ví dụ trở về với say cho Tỳ-kheo, nghóa là đối tượng mà người nhìn thấy. Thật ra không đảo mà cứ nghó là đảo. Quả Phật thật thường mà chấp là vô thường, đây là say mà tự không biết, nên nói rằng không hiểu thấu nghóa”. “Ngã là nghóa thật” cho đến “Kiêu mạn, cống cao lưu chuyển sinh tử”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tri kiến tự tại là nghóa “Phật”. Vì thân không có lo toan, phân tích, nên lấy không dời đổi làm nghóa Pháp thân. Bên trong dứt khổ là vui, đó là nghóa Niết-bàn. Thân, trí Niết-bàn đều là pháp nghóa thanh tịnh”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Tỳ-kheo tự nói là tưởng đảo của phàm phu. Nay, nói về tưởng “Ngã” của phàm phu, lại được quán tưởng vô ngã, lại là “Mất”. Ví dụ người say, trái chính mình”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại chứng tỏ lý do trước kia là trái ngược. “Ngã” nghóa là hiểu rõ. Do giác ngộ muôn pháp vì sao tự tại, nên nói “Phật” nghóa “Ngã” là lời trái ngược. Câu dưới, cứ so sánh như thế. Không lấy vô vi làm nghóa thường, nghóa là vì sao bao gồm ba vô vi, nên không lấy. Nay, chỉ nêu pháp thân, là coi trọng ở chỗ có thể”. “Nếu các thầy nói rằng: Tôi cũng tu tập” cho đến “Nay Như lai sẽ nói ba pháp tu đắc thắng”. Xét:Pháp sư Đạo Sinh nói: “Lại, tu đã “Không đúng, tu trước kia cũng “Không đúng”, nên hiện nay mới được “Không đúng” nghóa là biết chữ, biết nghóa là pháp tu đắc thắng”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Nay Đức Phật bắt đầu phán quyết hiểu biết xưa là không đúng, nên không có “Nghóa thật”, nay hiểu là nói ba pháp tu đắc thắng này”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây, trước kết tám đảo với thầy Tỳ-kheo, sau nói pháp tu đắc thắng?” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là chương bốn”. “Khổ chấp là vui, vui chấp là khổ” cho đến là người không biết rõ các pháp tu chân chánh”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đủ thứ điên đảo, thì chẳng phải tu, đó là lẽ cố nhiên, mà người này phần nhiều là các Tỳ-kheo”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước nói tu tà, lấy tà để làm rõ chánh tương đối làm bốn”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Giải thích nghóa không thật. Hiểu biết thì không nghiêng lệch, “Hoặc” cũng đều dứt bỏ. Các thầy Tỳ-kheo cho vui là khổ, cũng cho khổ là vui. Thì chẳng những không nhận thức được vui, mà cũng không hiểu rõ “Khổ”, “Không”, là bốn đảo v.v… Thường, Vô thường đều có bốn”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Một lần chia thành tám đảo bốn hiện tại ràng buộc phàm phu, bốn hiện tại ở người Tiểu thừa. Đại thừa nói chung là phàm, thánh đều có tám đảo. Đã không nói về chân, về lý không nhận thức được ngụy. Nhưng tìm chọn cái thật để nói, thì trong đây nói là đối với bậc Thánh, mà mục đích là ở phàm phu.Vì sao? Vì nhập địa vị Thánh trở lên, không cần đến ngôn giáo, tự nhiên tin là thường”, Kinh có văn thành thật. Từ trước đến nay, chỉ biểu dương, khen ngợi, vì chưa hiểu thấu!” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tám đảo đại khái chia ra làm bốn lớp. Nói cũng được một người có tám, một người có bốn. Nếu luận đầu cuối thành tựu, thì một người có tám. Nếu nói về sự hiện khởi kia thì chỉ có bốn “Hoặc”. Là thể dụng tính là si mê, bất luận khởi hay không khởi, đều thành tựu cả. Nói về khởi dụng, nghóa là nếu khởi bốn đảo trước thì sẽ không có bốn đảo sau, vì nương tựa lẫn nhau để khuất phục, nên nói rằng, một người chỉ bốn. Nói về đều khuất phục, nếu tin đứng đầu năm căn để lập thì tám đảo sẽ được khuất phục mãi mãi, đủ biết khi bốn đảo sau khởi, thì tin đứng đầu năm căn, gần gũi bốn niệm xứ, giả gọi là “Phật không”, lúc chưa thành thục thì quán vô thường, khởi “Hoặc” này trong tâm quán. Nói về “Hoặc” này, chấp nhận “Hữu” để can thiệp vào không tà vi tế của tư duy, vì “hoặc” của vô minh trụ địa là chính thể của tư duy ấy. Vì sao? Vì “Hoặc” của kiến đế đã được chế phục, không còn khởi lên nữa. “Hoặc” của tư duy dù không phải bình đẳng, nhưng “Hoặc” của sự giả dối này không khởi, nên biết là “Hoặc” của vô minh trụ địa. Nói về đạo đoạn, lúc được chánh quán không có nghiêng lệch, phải trước dứt trừ thô, mà sau bỏ vi tế, không được như sự hiểu biết tương tự lúc đều chế phục. Vì sao? Vì chế phục, thì phải y cứ về lý bên cạnh tình. Trái với tình nghóa là khuất phục cùng tận, thì bất luận thô tế, khi chân quán dứt trừ, thì tâm sở này trái nhau, nên dùng cạn để đối trị thô”. “Các thầy đối với pháp khổ” cho đến “Đối với bất tịnh mà nghó là tịnh.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nói đối với khởi, đối với vô ngã là “Ngã”: cũng là lấy vô ngã làm ngã, chẳng lẽ cho là tu chân ư?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói tướng trái nhau, nay kết với thầy Tỳ-kheo. Đã tự cho rằng mình đã tránh khỏi sự điên đảo. Nay nói chưa hiểu thấu về tướng điên đảo đó. Nếu nhận thức được tướng “Ngã”, thì sẽ biết rõ về “Vô ngã”.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì sắp giải thích “đúng” “sai”, nên trước hết, chỉ nêu thể của điên đảo. “Thế gian cũng có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh” cho đến “Pháp thế gian có chữ mà vô nghóa.” Xét: Đạo Sinh nói: “Đầu tiên muốn nói về ba pháp tu cao siêu, trước nói thế gian vốn không có “Thật ngã”. “Ngã” của kiến, có văn tự, chữ mà không có nghóa.” “Ra đời gian có chữ có nghóa” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì trái với tám điên đảo, nên gọi là ra đời gian. Dưới đây kết rằng “Vì không điên đảo, nên biết chữ, biết nghóa.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thầy Tỳ-kheo đã không tránh khỏi có điên đảo, cho nên nhân bốn thứ điên đảo của thế gian, nghóa là biết danh mà không biết nghóa.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dưới đây, bắt đầu giải thích nghóa tu đắc thắng. Trước nêu sự điên đảo về Thường, Lạc,… của thế gian, để nói về thường không điên đảo của ra đời gian, nghóa tu đắc thắng. Có chữ có thật nghóa, giải thích lý do là tu.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đức Phật chỉ cái mà Tỳ-kheo chấp, Xuất thế gian cũng có, nghóa là có chữ, có nghóa, cho nên tu vượt hơn”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây sẽ giải thích, trước mở rộng hai môn: Nói có chữ, không có nghóa. Có chữ, có nghóa. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chỉ nêu bốn đảo khổ, không và bốn đảo thường, lạc làm gốc. Nay, lại nêu ra ba đảo để giải thích. Về lý do của bốn đảo trước là tưởng đảo, nghóa là do lấy giả làm nghóa, nên chấp sai lầm không được thật pháp, nhớ tưởng, tìm tòi, mong cầu, do đó mà khởi điên đảo. Tám đảo: Ý thức thứ sáu có công năng “Duyên” với lý. Trước do tâm “Duyên”, sau mới khởi đảo. Kiến đảo: Kiến là pháp có công năng xem xét, do xem xét mà thành đảo. Do đảo này mà sinh ra bốn, đối lại tức là tám.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hễ tâm thức tiếp lấy cảnh thì hiểu lầm, chấp pháp không được, gọi là Đảo. Về sau dùng tâm tưởng để phân biệt lại, theo đuổi sự ngộ nhận của tâm, gọi là tưởng đảo. Kiến là tâm của hành ấm, do tưởng phân biệt, nên có hai nghóa: Trái và không trái: Thay đổi kiến chấp nặng nề cho rằng, Đức Phật là vô thường, gọi là kiến đảo. Không nói thọ đảo, vì tưởng và thọ là tương tự một loại, y theo phẩm trung kia, cho nên không nói. Kiến là sau ba nhà, vì chú trọng hành ấm nên nói.” “Thế nào là nghóa? Vô ngã là sinh tử, ngã là Như lai.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì sinh tử không được tự tại, nên nói là vô ngã.” “Vô thường là Thanh văn, Duyên giác, còn thường là Pháp thân của Như lai.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Người Nhị thừa vì không thấy Thường, nên cho là vô thường.” “Khổ là tất cả ngoại đạo, còn lạc là Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì trái với chính kiến, nên không thoát được khổ”. “Bất tịnh là pháp hữu vi, còn tịnh là chánh pháp mà Chư Phật, Bồ-tát đã có”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Lại khởi theo chiều ngang đều là hữu vi.” “Đây gọi là không điên đảo, vì không điên đảo” cho đến “Nên biết Thường, Lạc, Ngã, Tịnh như vậy.” Xét: Tăng Lượng: “Chính là nói ba pháp tu đắc thắng”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Đã nói về bốn đảo của hai thứ, mà không biết nghóa của chúng. Kế là nói về bốn không đảo của hai thứ và nhận biết rõ thật nghóa của chúng, nghóa là chính văn tự tỏ rõ, không còn ghi nữa.” “Bấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Mà lại nỡ bỏ chúng con, muốn nhập Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đã bài bác sự hiểu biết kia là sai lầm, tức là dạy bảo cho họ pháp tu nọ là đúng, nên được thỉnh Phật trụ ở đời.” “Nếu được Đức Như lai đoái thương dạy bảo” cho đến “Đồng ở chung để tu tập phạm hạnh.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nếu Đức Phật nhập Niết-bàn, sẽ không còn ai dạy bảo chúng con nữa, dù có tu phạm hạnh, cuối cùng vẫn không thể khi rời thân độc hại này chúng con sẽ nhập Niết-bàn theo Phật.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nếu Đức Phật ở đời dạy bảo con, thì con sẽ được nhập Niết-bàn theo Phật.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên khen ba pháp tu xưa, lấy quyết định đối với Như lai. Như lai đã phán quyết, Tỳ-kheo dù tỏ ngộ pháp xưa là điên đảo, nhưng chưa được pháp tu sau là dụng, nên thỉnh cầu Đức Phật dạy bảo, dìu dắt, chúng con sẽ kính cẩn tu tập.” Nhập Niết-bàn Theo Phật, nghóa là tu đã là trái ngược thì làm sao lại đồng với thân độc hại này. Nếu Đức Phật thị hiện diệt độ, thì chúng con cũng sẽ diệt độ theo.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trên thỉnh mà Đức Phật không trụ ở đời, chúng con sẽ lui về che chở giữ gìn giáo xưa. Đã được Đức Phật mở bày, giải thích, mới biết được mình chưa hiểu thấu. Kỉnh phục lời nói trước của Đức Như lai, chúng con đã có điên đảo, thì phải dứt trừ. Nếu Đức Phật không trụ ở đời, thì chúng con cũng muốn theo Ngài chứng lấy diệt độ. Ý tìm lấy diệt độ, nếu tương tự, cũng hợp với lời dạy bảo ở trước, dù không mong trụ ở đời, nhưng ý vẫn chưa bỏ, cho nên không dám nói công khai. Chấp giáo, nghóa là đã nhờ Đức Phật mở bày, giải thích, thẹn ở chỗ chưa hiểu thấu.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, lần thỉnh thứ ba bắt đầu. Y theo phần này cũng có hai ý: Nhận hiểu trực tiếp. Thỉnh Phật ở đời dạy cho con ba pháp tu đắc thắng. Nếu Đức Phật không nhận lời thỉnh cầu của con, thì nay con sẽ nhập Niết-bàn theo Phật, nghóa là dùng cái chết để yêu sách Đức Phật.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đức Phật mở bày, giảng nói pháp tu đắc thắng, con tỏ ngộ được tình mỏng manh. Nay, lại thỉnh Phật trụ ở đời, lại vì đã nói: “Nhập Niết-bàn theo Phật”, nghóa là không cho rằng có Niết-bàn riêng để nhập, vì Đức Phật xưa đã nói: “Khi được Niết-bàn thì phải bỏ thân”, nên dùng lời lẽ thiết yêu để thỉnh cầu.” “Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy không nên” cho đến “Cũng giao phó chánh pháp cho Ma-ha Ca-diếp.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Sở dó phó thác cho Thanh văn, vì chứng tỏ phải gồm cả kiến giải, sau đó mới đắc đạo. Tôn giả Ca-diếp xuất gia ở trước Phật, tôn thờ các Đức Phật mười phương làm thầy, Đức Phật đã thành đạo, làm đệ tử Phật, khổ hạnh bậc nhất, kiến giải sâu sắc thành tựu, tất nhiên, có khả năng dạy dỗ làm khuôn phép cho kẻ hậu học, nên Đức Phật phó thác.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp lời thỉnh Phật dạy bảo, dạy cho các thầy pháp di chúc. Nay, để lại cho đời sau.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước đã dùng lời thỉnh trái ngược ở đời. Nay, nói giao phó có người, nào lo gì không dứt trừ tai hại trái ngược.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lời khuyên thứ ba, y theo đây có ba ý: Không phải ý thỉnh thứ nhất kia, rằng, chỉ tu pháp tu cao siêu, thì diệt độ theo đâu có ích gì? Nêu người được y chỉ, ngài Ca-diếp đã làm chỗ y chỉ, như Đức Phật còn tại thế không khác, nào lo gì muốn tu pháp tu cao siêu mà không có địa ư?” Có người giải thích: “Ca-diếp này tức là người của ba mươi bốn câu hỏi. Cho là không đúng, chỉ là bậc Thượng tọa trong các Thanh văn mà thôi, nên loại sáu quyển nói: Do thừa Thanh văn, nên không thể lưu thông, chẳng đều không thể, là vì đại đệ tử của Phật, vì ở vào thời bấy giờ không đến, nên biết trước là người của Thể thường.” “Các thầy phải biết rằng, quán vô thường, khổ mà các thầy đã tu tập trước kia chẳng phải chân thật!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tất cả Kinh tạng đều được giao phó cho Tôn giả Ca-diếp, biết được trước sai, sau đúng.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Sắp muốn lâp ra thí dụ, sao cho các thầy Tỳ-kheo kia biết được rõ rằng xưa tất nhiên là sai, vì khuyên học theo thuyết hiện nay, nên trước phải răn bảo.” “Ví như mùa xuân”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mùa xuân là mùa bắt đầu của việc làm ruộng. Giáo vô thường, là điểm bắt đầu của Hữu học.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Mùa của muôn vật chen nhau đua nở tươi thắm, làm vui lòng người, để dụ cho lúc phát triển căn cơ của người nghe, lúc mà người nghe pháp đều được mở mang hài lòng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ có ba ý: Đầu tiên, nói về ví dụ được hiểu bên Đức Phật quá khứ. Kế là, nói về ví dụ mất hiểu biết. Sau, nói ví dụ lại chiêu cảm Đức Phật hiện nay, nghe nói thường, phát sinh hiểu biết. Chúng sinh có gieo trồng nhân lành, gặp Đức Phật quá khứ, cảm ứng giao nhau, mầm lành mọc lên, dụ cho mùa hòa thuận vừa ý của nhà nông kia.” Pháp sư Trí Tú nói: “Chỉ thú của ví dụ có hai: Trước là “Từ đầu đến cuối, mới biết chẳng phải chân” nói về người học vốn có hiểu biết tu quả cùng cực ở đương lai, được lợi ích bởi giáo riêng của Đức Phật, tìm kiếm giáo ấy không thật có. Sau, từ “Bấy giờ, thì dụ châu báu”, là nói về giáo nay, để nói về chỉ thú tu cùng cực, biểu hiện người cầu bậc hạ của giáo nghiêng lệch xưa, sau cùng, có thể được đối với bậc trung. Mở rộng hai ý này để răn người học hãy thận trọng chớ để mất đi giáo trước kia, kính mến cái được của giáo sau này. Trong ví dụ ở trước có hai ý: Từ đầu đến cuối, bị chìm trong nước sâu, chính là nói về viên ngọc của pháp tu cùng cực, chìm trong nước của giáo nghiêng lệch. Xuân đến, cây cỏ đua nhau nẩy mầm ở đây, ví dụ cảm ứng mà giáo phát sanh tâm lành vẻ vang, tốt đẹp, có mọi người v.v… ” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Năm vị Kiều-trần-như bằng lòng nghe”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Lẽ ra là các phàm phu Trụ tiền.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ví dụ chung cho người ba thừa”. “Tắm gội trong ao lớn” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bẩm thừa Kinh giáo, rửa sạch “Hoặc” tà, ví như tắm gội trong ao lớn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nước dụ chung cho pháp Phật ba đời. Trong ao có nước, nước chảy ra từ ao hồ. Trong pháp Phật có lý, giáo. Lý, giáo xuất xứ từ Phật pháp”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đức Thích-ca ra đời, từ Vườn Nai đến Song Thọ, dụ chung là ao. “Ngồi thuyền dạo chơi” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Y Kinh tìm lý, mới dùng văn, tư. Đã vào lý không sâu, như chiếc thuyền nổi trên mặt nước. Vì sao? Vì chúng sinh sẵn có chấp bốn đảo, cho rằng tất cả pháp là thường. Vì muốn dứt trừ quan niệm điên đảo đó, nên Đức Phật mới nói chỉ thú của một công vô thường, là ở ba cõi, quá lạm đến pháp thân. Hễ cố chấp đối với giáo thì sẽ mất tông chỉ, nghóa cạn cợt, không có công thật, là ví dụ cho dạo chơi. Kinh Do ghi Pháp sư Tăng Tông nói: Dạo chơi là cảm nghe giáo thường, chẳng phải không hiểu đôi chút, cho là được hài lòng. Pháp Liên ghi lời ngài Tăng Tông rằng: “Muôn điều thiện là thuyền, vui vẻ là dạo chơi.” “Rơi mất báu lưu ly” Xét: Một bản cho là ngọc. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ thú của Kinh không nghiêng lệch. Về lý thì tròn đầy đáng quý, dụ cho vật báu, cũng nói là viên ngọc. Sự nghiêng lệch là chấp lấy trong điên đảo, để ví dụ cho rơi mất.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Chỉ thú của lời nói là viên ngọc. Không hiểu thấu pháp giải thích là rơi mất.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ ngoại đạo ngồi chơi thuyền đánh rơi mất viên ngọc. Kết hợp nội đạo để nhận hiểu chỗ chưa chuyên sâu. Các căn rong ruổi theo năm dục, đánh mất kiến giải gốc, như rơi mất viên ngọc. Nếu nói về rơi mất, thì lối chấp thường xưa kia là trái với hiểu biết, đã có nghóa mất mát, mà vì nay nghe giáo pháp vô thường, mới gọi là rơi mất, nên cho tên Thường khi xưa đồng với nghóa rơi mất, không nói về giáo vô thường sinh ra hiểu biết về vô thường, ngăn cấm thường kiến, nghóa mất mới phô bày.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Về hiểu biết của Trung đạo, điều lẽ ra là được lại không được, gọi là mất.” “Chìm trong nước sâu” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Thường và vô thường, về lý, vốn không nghiêng lệch, nói đáng trân trọng, tất nhiên là nên được. Vì người Nhị thừa tu tản mạn, trái là mất. Trái, là ẩn mãi mãi, nghóa là chìm sâu.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì quyền giáo bị che khuất, dụ cho trong nước sâu.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Thường, cho là vô thường, về lý tất nhiên đối lập nhau, mà nói vô thường xưa, chưa sáng tỏ có tồn tại, tức là quá lạm đối với thường của Đức Phật. Đây là lý thường tiềm ẩn trong giáo vô thường, là viên ngọc chìm trong nước. Về lý, hẳn là cả hai đều tỏ ngộ, không nên có sự nghiêng lệch về nước vô thường chẳng sâu như thế?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ẩn giấu viên ngọc hiểu biết trọn vẹn, người học không có khả năng nhìn thấy, nói là sâu. Giáo vô thường in bóng tất cả pháp. Dựa vào lời nói thấp kém mà cầu mong được hiểu biết lý thường, vì không có lý để được, nên nói là chìm mất.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lý Trung đạo tiềm ẩn dưới giáo của Niết-bàn nay, nên nói là chìm trong nước, chứ không phải y theo nước ở Đông, Tây, làm thí dụ.” “Bấy giờ, mọi người đều vội lặn xuống nước để mò tìm viên ngọc báu này.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là tu tuệ. Tìm tòi lý càng sâu. Muốn dứt hoặc, dụ như lặn xuống nước để tìm vật báu.” Pháp sư Pháp Dao nói là tư tuệ”. Tìm giáo càng sâu, nghóa lặn xuống nước. Vì đánh mất chỉ thú, nên phải tìm. Suy xét về lý thì nên như thế, không nói là ý kia”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước kia, vì có đánh mất trong lý, nay, cũng tìm tòi trong lý. Vì sao? Vì hiểu biết về thường là công hạnh đắc thắng trong lý. Con người đâu chấp nhận là không có ý mong cầu là đắc thắng ư?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ nghe mà được tư duy, nghóa nói là nhập”. “Những người ấy tranh nhau nhặt sỏi, đá, cỏ cây, gạch, cát, trong bụng mừng thầm cho là ngọc lưu ly”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng các trí như vô thường v.v… cho là ba quả”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dựa vào Kinh xưa, hiểu được hai tuệ văn, tư, cho là chân lý”. “Đến chừng đem lên khỏi mặt nước, mới vỡ lẽ là không phải”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “La-hán ra khỏi ba cõi, tự biết chẳng rốt ráo”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Xưa cho rằng, lý vô thường là chỉ thú cùng cực của lời nói thật. Nay, nghe nói Thường, mới biết là có, rõ ràng có phán quyết nên không còn chấp ở trong giáo vô thường. Đây là “Khi đem lên khỏi nước, mới biết không phải thật”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Vui mừng: Thuộc về hướng lên. Đối với giáo nghiêng lệch, sinh ra hiểu biết, rồi cho là chân lý. Như reo lên rằng mình đã tìm được viên ngọc! Giữ kín trong lòng, nghóa gọi là vui mừng. “Khi đem vật ấy lên khỏi mặt nước, mới biết là chẳng phải thật”, nghóa là giáo thường đã nói, mở mang giải thích hai đường, tức là không còn bị vô thường mê hoặc. Biết sở đắc trước kia chưa phải là lý cùng cực.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nhờ hiểu biết vô thường, nên được lên Noãn, Đảnh, Tín, Căn thành tựu, quyết định tin Đức Phật là thường. Bấy giờ khác với giáo xưa, mới biết là thuyết giả dối. Như đến khi đem các vật ấy lên khỏi nước, thì mới biết chẳng phải thật.” Pháp sư Trí Tú nói: “Được tu tuệ lìa giáo, dụ cho “đem lên khỏi nước, ra khỏi quán thì duyên diệt. Biết sinh vị lai, vị lai đều hết, ví dụ “Mới rõ ra chẳng phải vật báu thật”. Pháp sư Đạo Tuệ soạn cho là vui mừng”. Cầm giữ, nghóa là xưa cho là lý, bảo thủ lý đó là trì, đem lên khỏi mặt nước, mới biết chẳng phải thật, là nói khi Niết-bàn, đã nhập vào giáo thường nay, là ra khỏi giáo vô thường xưa”. “Lúc ấy, viên ngọc lưu ly vẫn ở dưới đáy nước.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đối với người không tìm được viên ngọc, vì cố ý lặn hụp dưới nước.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Từ khi biết sinh tử chưa hết, vì không nhận biết quả Phật thường còn, nên bị ngôn giáo xưa che lấp.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Giải thích rõ ràng về gốc, để nói lên chỉ thú, giúp cho mọi người đều được viên ngọc, đối với người chưa tìm được viên ngọc, thì nói vẫn chìm ở dưới nước.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Giáo thường đã hưng thịnh, biết được chỗ tu hành xưa chưa phải lý cùng cực mà tư duy, tu theo giáo ấy, tin là ngọc lưu ly. Chưa, tức là còn dụng tâm, vẫn còn ở trong lý, giáo.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Biết được giáo Kinh xưa nay, đều giải thích về hiểu biết thường (lý giải về nghóa thường), chỉ vì chúng sinh mê lầm nặng nề, nên không được chính thuyết.” “Do thế lực của viên ngọc, nên nước đều được lóng trong.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nói ý chỉ đã hiện, không còn dấu vết vẩn đục, là năng lực của viên ngọc.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lý không thể che lấp, gọi là thí dụ giáo tự phần chữ Y, nên gọi là lóng tay. Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ viên ngọc. Hiểu là nêu: Ngọc, là vật phản ảnh trong suốt. Nước được trong, tuệ cao siêu của tu, tư là nhận biết lý chiếu sáng, tìm xét giáo không vẩn đục.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã tin là Thường thì quyết định biết giáo lý nghiêng lệch chẳng phải Thật. Về mặt lý dù chẳng phải thật, nhưng không hề rối loạn lẫn nhau, chỉ vì nhờ hướng về hiểu biết Thường, nên nói là lắng trong.” Pháp sư Trí Tú nói: “Vì có chỉ thú này, nên sẽ cảm đến thuyết đã nói ngày nay, định yên rõ giáo xưa, cũng là giải thích cùng cực, há chẳng phải là nước lắng trong do năng lực viên ngọc ư?” Pháp sư Đạo Tuệ đã lựa chọn: “Tình mê hoặc làm rối loạn giáo, dụ cho nước đục ngầu. Nếu là vô thường thì sự mê lầm kia có thể lâu. Về mặt lý, thì chẳng phải giáo nghiêng lệch, nên vọng tình sẽ dứt, dứt thì gọi là giáo rõ ràng, dụ cho nước trong.” “Bấy giờ, những người ấy mới nhìn thấy viên ngọc báu, nên còn ở dưới nước.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tin Đức Phật là thường mà thỉnh, không bằng lòng ở đời vì không tự tại, là chấp thuyết xưa để nói lên nỗi nghi ngờ, chính là dùng phán quyết ở Đức Phật, chỉ thú của ví dụ này.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Lý thường đã tỏ rõ, mới biết được chỉ thú của giáo xưa, chỉ thú ở thường, ví dụ cố ý ở dưới nước.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Chỉ có văn tuệ thì chưa thể nhập lý, như chưa lội xuống nước, chưa tu tuệ đắc thắng thì không gọi là tìm được viên ngọc. Chẳng phải không văn tuệ, về nghóa gọi là thấy xa.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã được tin, hiểu, đều biết chỉ thú thường, khắp trong giáo ngày xưa.” “Giống như ngước nhìn mặt trăng trên hư không” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật nói tu cao siêu viên giáo, có thể kính mến, để dụ cho mặt trăng trên hư không.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Tâm tư, tu không trung đạo không nghiêng.” “Bấy giờ, có một người trí ở trong chúng, tìm cách khéo léo, từ từ lặn xuống, liền vớt được viên ngọc.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tu hành đúng như lời Phật dạy, dụ cho chậm rãi lặn xuống nước. Phải tu tập bốn pháp ngã thường, mà thật ra không bỏ nghóa phương tiện. Tu thường rồi sau đó mới hiểu vô thường. Lý ấy bắt đầu được đến với “Ngã”, nên nói là Trí.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ bỏ xưa tu nay”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Người trí, là Bồ-tát. Tu tập không quá lạm. Vô thường như thế mới được thường, dùng ví dụ lặn xuống nước nhặt được viên ngọc. Tu tập được, vì không vẩn đục, vì chậm rãi từ từ.” Kính Di ghi lời của Tăng Tông rằng: “Mê nhiều ngộ ít, vì đáng quý đáng kính trọng, nên nói một người, dùng phương tiện khéo léo, dù cho chấp nhận lý vị thì giáo không vẩn đục, rối loạn, vì tu tuệ được thắng ở “Ngã”, như nhờ chậm rãi lặn xuống nước, nước không chao động, nên mò tìm được viên ngọc.” Kính Di ghi lời Tăng Tông rằng: “Ví dụ một người là Bồ-tát, không chấp đoạn thường. Nếu chấp nhận ở giữa, là ví dụ chậm rãi. Pháp sư Đạo Tuệ đã chọn: “Rằng nhiếp tâm ở lý, nói là chậm rãi.” “Các thầy không nên như thế” cho đến “Tức là quán tưởng Ngã, Thường, Lạc, Tịnh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là sơ lược về hợp ví dụ để khuyên lần nữa.” “Bấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Sẽ chứng được Niết-bàn, nghóa ấy thế nào?” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nếu xưa nói vô ngã, thì thật ra cũng biểu lộ “Ngã”, nghóa là vì sao ngôn giáo chỉ nói vô ngã, được lìa ngã mà không nói là ngã, đến nay mới nói ư?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu tu nay là chánh, ngày xưa nói khắp, nghóa ấy thế nào?” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nếu có ngã là chân, không có ngã là chẳng phải thật, thì ngày xưa, vì sao không nói? May mắn cho chúng con không có điên đảo nhận lấy sai lầm. Hai thuyết này như dùng giáo và khiên. Chỉ thú ấy thế nào?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là môn được quả, là đoạn thứ tư. Thứ nhất là được quả. Thứ hai là được nhân. Thứ ba nhờ ví dụ ngọc báu, trở thành pháp tu kia giả dối mà không thật. Đoạn thứ tư này, là giải thích kết hợp hai giáo, không trái phụ nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn thứ bảy này, hội chung cả hai giáo. Từ Phẩm Ai Thán đến đây, Tỳ-kheo đã ba lần thỉnh, Đức Thế tôn khuyên ba lần, mà mọi người chỉ ôm một nỗi nghi ngờ, nên biết được từ quyển đầu đến đây, chưa phải là chính nói. Vì chung nhau khuyên thưa hỏi để nói, nỗi hoài nghi này, do đó được sinh ra trong lời khuyên thứ ba. Nếu lý ấy sáng tỏ thì giáo ngày xưa vì sao không nói trước ư?” “Phật bảo các Tỳ-kheo: Lành thay! Lành thay!” cho đến “Bạch hỏi nghóa ấy để tự dứt nghi ngờ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Khéo hỏi được để tìm kiếm giáo xưa, quyết định giáo nay để tự dứt nghi ngờ.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dưới đây dẫn ví dụ thầy thuốc của khách cũ, nói thuyết xưa nay, chỉ thú ấy không khác. Xưa khen vô ngã, chỉ ở ba cõi, bỏ đi ngã của ba cõi, không chê “Ngã” của Đức Phật. Nay, chê quá lạm tu vô ngã của sinh tử. Sự khen chê dù khác, nhưng chỉ thú ấy thật sự đồng nhau, chứ chẳng phải mâu thuẫn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Có thể dùng hai giáo để gạn hỏi, do đó tâm ngờ vực sẽ dứt. Nay, giải thích hai giáo, tức là không chấp mê lầm xưa. Dù cho quyền, thật có phân chia, hệ lụy nghi ngờ kia vẫn dứt. Minh Tuấn nói; “Dưới đây là đoạn thứ năm trong một phẩm. Nói hội thông, nghóa là nói giáo xưa nên không nói về thường, vì thế nay nói, chứ chẳng phải cho rằng, lấy giáo nghiêng lệch vô thường xưa để hội với Viên giáo nay. Chính vì thế, nên trong ví dụ dưới đây nói: “Thuốc sữa này, người bệnh uống hay không uống, đều do sự chỉ dẫn của thầy thuốc. Không nói rằng, vị mặn, đắng, cay, chua v.v…, là thuốc sữa.” “Ví như vị vua kém thông minh”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Người được giáo hóa, sẽ có phần hiểu biết. Vết nhơ nặng, nghóa là vì nhiếp thu nhẹ nên làm vua, vì vết nhơ nặng, nên kém thông minh. “Có một thầy thuốc, tánh tình ngang bướng.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dù còn vết nhơ nặng mà dứt, điều lành cũng nhẹ. Nay, ở trong đó, lấy sự ngu si để dạy bảo lẫn nhau, tất nhiên có thầy, mà nhà vua không phân biệt, lại ban cho họ bổng lộc.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Hội ý của lời dạy bảo tà, tông chỉ chớ thay đổi.” “Bất cứ chữa trị mọi chứng bệnh gì, cũng dùng sữa để làm thuốc cả” cho đến “Thầy thuốc này biết sữa tốt, xấu.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thuốc sữa, nghóa là nói sáu Đế, hai mươi lăm Đế, đều dùng ngã kiến làm giáo để nâng đỡ vật tình, nên dùng sữa làm thí dụ. Nguồn góc sanh bệnh: Nếu sinh khởi từ pháp thân thì nên dùng ngã để làm thuốc. Đây là nói về người không nhận biết nguồn gốc của bệnh. Lại, không hiểu rành, không biết được pháp chân ngã.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ có chia ra năm phần: Khi Đức Phật chưa ra đời, ngoại đạo giáo hóa thế gian. Nói mới ứng sinh vào cung vua. Nói cùng vào yết kiến vua, vừa muốn thọ lãnh sự dạy bảo của Đức Phật. Nói sẽ được thành Phật, quyền nói, giáo nghiêng lệch. Nói về khai thật, hiển bày thường quốc là, ví dụ chung: Về sở hóa của một Đức Phật. Do tỏ ngộ trước kia: Là Ví dụ vua, thấy thuốc, là ví dụ ngoại đạo. Gió nổi lên hung ác, ví dụ giận dữ. Tánh lạnh, ngưng kết, dụ cho si mê. Tánh chất nóng, bực bội, vẩn đục, dụ cho ái. Đây là nói về không biết bệnh. Thuần uống sữa: Nói về không biết thuốc. Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Ví dụ này có hai ý: Đầu tiên, cuối cùng chữa các chứng bệnh đều được lành, nghóa là ví dụ xưa. Vì ví dụ trước chiếu soi trước tòa của ngày nay. Từ sau đó không lâu… trở xuống, là dụ cho hôm nay, chính vì tức thời làm dụ. Trước, nói do bị bệnh chấp thường, nên không nói cho nghe. Sau, nói về chứng bệnh thường đã hết lại, vì cho vô thường là tai hại, nên là Thường. Lại có chỗ nói thầy thuốc hiểu tám thứ thuật, khéo trị các bịnh, biết các phương thuốc, từ nơi xa đến. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là ví dụ thứ hai. Ví dụ lúc duyên ngộ đến, Bồ-tát ra đời, có khả năng chữa trị sinh tử. Tám phương thuật của thầy thuốc, dụ cho dứt trừ tám đảo. Pháp thân đối với con người là nghóa xa, nên nói “Từ phương xa đến”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Tám phương thuật, là bốn cặp như tâm từ…, ba độc và Đẳng phần, khéo trị liệu các chứng bệnh, nghóa là nhận biết được căn tánh của chúng sinh. Biết các phương thuốc, nghóa là khéo hiểu rành Pháp tướng. Pháp thân cách xa diệu vợi, dụ cho từ phương xa đến.” “Lúc đó, cựu y vì sẳn tánh tự cao, khinh mạn, nên không đếm xỉa tới.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thấy ở cung vua, thọ hưởng năm dục, lạc, chúng sinh không biết, khởi lên ý tưởng phàm phu. Lúc ấy, ngoại đạo tự xưng là bậc Trí nhất thiết, coi thường Đức Cù-đàm.” “Bấy giờ, người thầy thuốc liền y theo” cho đến “Cúi mong giải thích cho con nghe.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắp muốn bỏ đi, trước phải hưởng thụ, sở dó vâng lãnh các pháp như bốn thiền, bốn không hành, v.v… kia.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Đến với sư môn kia, hoặc hỏi han, thọ lãnh thường đảo.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Kinh Duy-ma chép: “Vì không có tâm, nên không có thọ, hành, mà đều chiết phục các ngoại đạo. Đây là đồng sự nhiếp trong bốn nhiếp. Cựu y đáp: “Nay, nếu ông có thể” cho đến “Theo khả năng của tôi sẽ cung cấp sao sử.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Thành Phật, gồm bốn mươi tám năm, một ngày khuất phục thời gian, thì suốt đời sẽ trở nên bậc thầy.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phải suốt đời làm đệ tử.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Từ đêm đắc đạo đến đêm Niết-bàn. Trong suốt bốn mươi tám năm đó, bấy giờ có sáu sư. Một người không hàng phục hóa độ, biện minh kháng với Phật, hành, nghóa thầy trò chưa dứt. Với ý tà vạy thường rình rập căn cơ, dụ cho người cung cấp sai khiến.” Lại giải thích: “Bốn mươi tám năm là bốn thiền, tám thiền.” “Lúc đó, cựu y liền đưa khách y vào yết kiến nhà vua.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát dùng thọ hóa làm cõi nước. Trình bày lên nhà vua các phương thuật khác. Bấy giờ, nhà vua mới tónh ngộ, xét biết tên cựu y nọ là hạng dụng cao ngạo, liền đuổi đi, rồi trọng dụng minh y. Minh y bèn yêu cầu nhà vua hạ lệnh cấm dân chúng dùng thuốc sữa của cựu y, vì thuốc ấy rất độc hại, làm thương tổn người bệnh. Đối với phần giác ngộ, ngày càng gần Đức Phật. Nghóa có vào trong nước, mới được yết kiến nhà Vua, dùng làm ví dụ.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Những gì mà tà sư dạy, cũng có thể dùng pháp để giáo hóa, vì là thấy biết chung.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là ví dụ thứ ba. Khi chưa thành Phật, dần dần muốn quay lưng với tà, mà chưa hoàn toàn chánh, đồng tin cả hai bên. Về nghóa nói là nhập chung.” Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Bấy giờ, có năm trăm người lái buôn được Phật hóa độ. Khi chưa được độ, nếu gặp ngoại đạo, họ liền thọ lãnh pháp tà. Đến khi gặp Phật thì được độ. Vì hai căn cơ đều không nhất định, nên nói “Cùng nhập chung”. “Bấy giờ, khách y (minh y) liền vì nhà vua y cứ theo phương pháp, chế ra các thứ thuốc.” Và các kỹ nghệ khác Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Năm giới, mười điều lành, cũng là phương thuốc. Thật ra, vì bỏ xuống mà giống như sinh lên trên, đó là kỹ nghệ.” “Đại vương phải biết, nên khéo phân biệt” cho đến “Pháp này như thế, có khả năng trị bệnh.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dùng định để dứt trừ tán loạn, gọi là trị nước, dùng tuệ dẹp bỏ kiết, gọi là chữa bệnh.” “Bấy giờ, nhà vua nghe lời này xong” cho đến “Sau đó, nhà vua lại càng cung kính khách y hơn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là ví dụ thứ ba. Khiến cho người biết tà, về sau mới nói về chánh. Tắm rửa, thọ mè, lấy cỏ đến Song thọ, liền nhập định, hàng phục ma vương, thành Phật. Bấy giờ, tónh thân được định, lấy ví dụ trị vì nước. Tuệ có công năng dứt kiết, dụ cho chữa bệnh.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Từ trước đến đây, đều là dụ cho việc trước khi thành Phật, dưới đây là dụ cho việc sau khi thành Phật: Thần thông… là kỹ thuật. Ba quy y, năm giới cấm là phương thuốc. Giới để nghiêm cấm điều sai quấy. Định, để dừng tâm tán loạn, là trị nước.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói về tai hại lỗi lầm của sinh tử, để cho trái bỏ, là phương thuốc, dạy tu giới, định, là kỹ thuật. Do năm giới, mười điều lành, sẽ được sinh về tịnh độ, tức là trị nước. Dùng bất tịnh để chấm dứt tham, từ bi, dứt hết sân, nhân duyên, dứt ại si mê, tức là chữa bệnh. Đạo Phật đã thành, tâm tà thôi dứt, dụ như đuổi ra khỏi nước.” “Bấy giờ, khách y hòa hợp với thứ thuốc” cho đến “Dùng chữa lành mọi chứng bệnh.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ví dụ quán năm môn vô thường… ” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại, lo nghó môn hữu trị, dứt kiết tư duy.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Vị cay, đắng…, dụ cho quán vô thường… Trước kia nói kỷ nghệ của phương thuốc. Ở đây nói “Cay, đắng”, là nêu chỗ rốt ráo của giáo. Việc của một đoạn đã hoàn tất, nên nói “mọi chứng bệnh đều được chữa lành”. “Ít lâu sau, vua bị bệnh nặng, vội truyền lệnh dời thầy thuốc đến điều trị. Nay, trẫm bị bệnh khốn khổ, khanh phải chữa trị cách nào?” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chấp giáo vô thường, bao gồm cả thường” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là ví dụ thứ năm. Tà ngã đã diệt, không nhận thức chân ngã, cho rằng tất cả pháp không có tự tại, nghóa là chê bai pháp. Thân Phật, “Bệnh thỉ giác” khởi, “Phải chữa trị thế nào?” phải thứ lớp dứt “Hoặc”. Căn cơ đã đến thúc giục Đức Phật, nên nói lời như thế.” Pháp sư Đàm Tế nói: “Nên nghe giáo về thường, nên hiểu về vô thường là bệnh”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là ví dụ thứ tư. Biết căn cơ Niết-bàn đã phát, cho nên nói bệnh. Chúng sinh đã nghe nói về bốn thời giáo, tâm tức được mở mang dần. Tìm lý mà nói, thì Đức Phật không nên vô thường, mà sinh ra kiến chấp đoạn diệt, dụ như chứng bệnh.” Pháp sư Trí Tú nói: “Được hiểu vô thường, tức trái lầm với Phật, vì tai hại thường kia cũng hết, vì bệnh vô thường khởi, nên nói “Không lâu”. “Thầy thuốc chẩn đoán, biết rằng bệnh của vua phải dùng thuốc sữa” cho đến “Hiện nhà vua đang bị bệnh nóng, thì nên dùng sữa.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nên nói là thường”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã cho vô ngã là điên đảo thì nên dùng tám tự tại làm phương thuốc để chữa trị, vì thế nói “Nên dùng sữa”. “Là nói dối nghiêm trọng: “Vô ngã” nghóa là chỉ đối với sinh tử mà nói là tất cả, đó là nói dối. Phiền não điên đảo có khả năng đốt cháy chúng sinh, dụ cho bệnh nóng.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Vốn do lửa vô thường thiêu rụi sinh tử, mà vì lạm chấp Phật địa, vì bệnh nặng, nên nói bệnh nóng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Tâm trái ngược vô thường là giả dối không thật. Do khởi lầm, nên nói rằng “Nóng giả”. Hiểu biết của chân thường, vì mát mẻ chân thật, thành ra nói nên dùng sữa”.” “Vua bảo: Nay ông điên loạn rồi hay sao, hay mắc phải bệnh nhiệt, mà nói rằng uống sữa sẽ trị được bệnh của ta?” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Chấp giáo vô thường cho là lý cùng cực. Ví dụ này nói lúc chưa tin nói thường.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ví dụ phẩm Ai Thán, ba lần khuyên ba lần thỉnh.” “Trước kia, cựu y dùng sữa để chữa bệnh, ông cho là độc. Giờ đây, sao ông lại bảo ta uống? Ông xem thường ta phải không?” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chấp giáo xưa để vấn nạn giáo nay.” “Thầy thuốc đã khen ông nói là độc” cho đến “Ta vốn là cựu y, chắc chắn là hơn ông rồi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thầy thuốc trước, biết trước, nên nói là hơn.” “Bấy giờ, khách y lại tâu vua” cho đến “Như con mối đục gỗ, tình cờ thành chữ.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Con mối này tự nó không biết là chữ hay không phải chữ. Dù là chữ, hay không phải chữ, nhưng người trí nhìn thấy, cũng không bao giờ nói rằng: con mối biết chữ và cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên. Cũng vậy, cựu y không phân tích, hiểu rõ các chứng bệnh, bất cứ bệnh khởi từ “Ngã” của lúa mì, lúa mạch, không thể dùng “Ngã” để trị. Nếu khởi tám tự tại thì sẽ dùng ngã để chữa trị không nhân thức của cựu y kia.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong ba tu trên, nói rộng về tám đảo, chỉ có danh, không có thật của nó thì nào khác gì với con mọt ư?” “Cựu y trước này không hiểu thuốc sữa” cho đến “Vừa là độc hại, vừa là Cam lộ.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chữa đúng bệnh của vua, thì đó là Cam lộ, trái lại là chất độc. Thế nào là thuốc sữa Cam lộ? Nếu là bò cái, không ăn bã hèm, trấu cặn.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tà được đặt ra ở trong thường, sự thật đã đổi thay. Ngoại đạo đã lấy như gốc mà làm mê hoặc con người, là bả hèm. Đã sinh “Hoặc” thường, thì vô thường liền khởi, là cỏ sống, điều đã nói không có thật (có vỏ không có hạt) là trấu cặn, trấu nát.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Công vắt lấy sữa là ở chỗ khéo nuôi bò. Giải thích miệng đi xuống vào bụng là bệnh. Ngã kiến thì dựa vào tình, dễ yên thì thành bệnh. Ngã kiến có sinh không có thật, dụ như trấu cặn, trấu rỗng không có hạt chắc.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Bò, dụ cho Phật, Bồ-tát. Đã dùng sữa để ví dụ cho giáo thường. Nay, vì sữa được lấy ra từ con bò, đây là giáo thường, do Đức Phật, Bồ-tát nói. Bã hèm không có vị thật, làm cho con người ngu đần, để so sánh với pháp lạc, tịnh của tà thuyết, thật ra là khổ, thật ra là bất tịnh. Đảo thường, nghóa là yên lặng không dời đổi, mà thật ra không lúc nào tạm dừng, dụ cho đồng cỏ. Bên trong trấu cặn trống rỗng, dụ cho vô ngã.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Bã hèm, ăn thì say mòng mòng, tướng hư hoại ở tâm, tức là mê chân pháp, cỏ sống: Thể tánh nó sắc bén, ăn thì trúng thương; dụ cho “Lợi sử”. Trấu cặn không có vị, dụ cho tâm trôi nổi lông bông, không có vị lý.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bã hèm, trấu cặn, vốn là vật hư hao, dụ cho đoạn kiến. Cỏ non, chính là một phen đẹp tình, dụ như chấp mắc tướng, nói là thường kiến.” “Nghé con của nó vẩy vọc điều tốt lành.” “Này các Tỳ-kheo! Các thầy phải biết Đức Như lai” cho đến “Là bậc Đại y vương hiện ra trong đời”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là hợp dụ. Lời văn ấy rất bao gồm, chỉ nêu giềng mối của hợp dụ thôi.” “Hàng phục tất cả tà y của ngoại đạo” cho đến “Ta muốn hàng phục ngoại đạo.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hợp ví dụ thứ ba.” “Nên nói lời này: Vô ngã, Vô nhân” cho đến “Vì biết là lúc phải nói là vô ngã như thế.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hợp ví dụ thứ tư.” “Vì có nhân duyên nên cũng nói có ngã” cho đến “Đều phải tu tập pháp quán chân ngã như thế.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là hợp với ví dụ thứ năm.” <篇> ĐẠI NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI <卷>QUYỂN 8 <詞>Phẩm 4: TRƯỜNG THỌ, (Phần 1) “Phật lại bảo các Tỳ-kheo: Các thầy đối với giới, luật” cho đến “Như lai sẽ giảng nói cho các thầy nghe để tâm các thầy được vui mừng.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đức Phật muốn cho đại chúng hỏi về nhân sống lâu. Sống lâu vốn là vào sinh tử, bến tốt lành cứu giúp chúng sinh, lấy tâm từ làm gốc. Từ là cứu giúp, không đặt ra giới luật, khiến chúng sinh không gây ra các điều xấu ác, nhưng khiến cho thực hành mọi việc lành đó là cùng cực. Đã đặt ra giới luật, hễ có tội, thì phải bị trị, tức sự giống nhau không có lòng từ, nói là không có từ, nghóa là không phải xuất phát từ nghi ngờ đối với giới luật, chính là giải thích căn bản của tuổi thọ, không thể không hỏi. Hỏi về gốc của tuổi thọ là sự lý của Bồ-tát, chẳng phải là nỗi do dự giả dối mà hàng Thanh văn đã thích ứng, cần phải tìm hiểu!” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong đây nói, hoặc là việc tu hành của Tỳ-kheo, cho nên khuyên riêng: “Về giới luật, nếu các thầy còn có điều gì nghi ngờ, cho đến “Chớ cho rằng Như lai chỉ tu bản tánh vắng lặng của các pháp”. Đầu tiên, Đức Phật mở bày tông chỉ, nói bố thí là nhân sống lâu. Thuần-đà lấy việc hộ pháp làm nhân.Trong tông chỉ rộng, dùng ba pháp tu làm nhân. Dù nói ba nhân, nhưng chưa giải thích căn kẽ về gốc sống lâu. Nay, trước chỉ nêu giới, sau nêu trí, lược chỉ nêu điểm bắt đầu, sau cùng, để nói tất cả muôn hạnh đều là nhân sống lâu. Triển khai câu hỏi về tông chỉ của các vị Tỳ-kheo kia, nên ở đây, trước chỉ nêu giới luật.” Kính Di ghi lời của Tăng Tông rằng: “Được nhân, quả trước kia là giải thích rõ về đầu mối tông chỉ của hai giáo. Nêu sơ lược từ trước đến nay, nêu cảnh để khuyên đại chúng nên hỏi, chỉ vì lý đã nêu ra là rất sâu sắc, nhiệm mầu, người Nhị thừa dù cho có hoài nghi, lo nghó cũng không sánh bằng, nên chưa thể nêu lên câu hỏi. Đức Phật biết họ không thể, nên lại khuyên nên hỏi, để họ suy tìm có sự tồn tại. Sở dó chỉ nêu giới luật để cho đại chúng đặt câu hỏi, vì giới luật là hạnh thiết yếu của người Thanh văn, là nền tảng đầu tiên của người vào đạo. Lại, một nghóa là người Thanh văn không nghi ngờ giới, không hướng về Đức Phật, nhưng nghi ngờ đối với giới, chưa hẳn là Thường.” Lại, một nghóa nữa là: “Dù cho người Thanh văn có nghó đến quả thường đi nữa, cũng chưa biết được giới này và giới xưa khác nhau thế nào? Đã ôm ấp nỗi nghi ngờ này, nghi thì nên hỏi.” Pháp Liên ghi lời của Tăng Tông rằng: “Phẩm chỉ nêu cảnh tuệ của “Không”, bất “Không”, để khuyên nêu câu hỏi. Nay, nêu ra nhân muôn hạnh của giới luật, để khuyến hỏi. Nếu nhân không hiểu rõ thì quả cũng không rốt ráo, mà nhân thì có giới, định, tuệ. Cho nên hỏi riêng về giới luật, vì giới là đối tượng hành trì của Thanh văn. Do luật nghi giới giúp đỡ nên được giới định, được “Giới đạo cộng”. Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời của Tăng Tông rằng: “Khuyên Tỳ- kheo thưa hỏi, gồm có ba lớp: Phẩm trước, dừng lại ở Ai Thán kia, tức là khuyến khích để cho hỏi, nhân tu đến đây. Nay, lớp thứ hai này lại khuyên. Sắp mở rộng về chỉ thú thường, mà vì giới là gốc của muôn điều lành, nên chỉ nêu giới để khuyên thưa hỏi.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là đoạn thứ tư, thúc giục chúng thưa hỏi. Giới là gốc của Thanh văn, cho nên chỉ nêu giới mà khuyên thưa hỏi.” Pháp sư Trí Tú nói: “Trên đây nêu các pháp để khuyên, e rằng các Tỳ-kheo kiêng sợ sự sâu sắc của lý thường, nên không dám nêu câu hỏi. Nay, chỉ nêu giới sự thực hành của thường, y cứ ở tình ý gần để khuyên. Pháp sư Minh Tuấn nói: “Nhân thọ cúng dường trước kia, để mở bày tông chỉ thường, chỉ có Thuần-đà, lợi căn hễ nghe liền tỏ ngộ. Đặt ra năm lượt hỏi han, vấn nạn, để nói về pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát, tức được nói về lần nữa từ lâu là ruộng thường. Nhưng vì chỉ thú về thường u huyền, mầu nhiệm, nên phải giải thích rộng. Do đại chúng bi ai sâu đậm, liền quên thưa hỏi để được giải quyết nghi vấn, vẫn thường thiết tha thỉnh Phật ở đời, bèn sinh ra biện luận một bên. Vì cho nên Phật phát ra ánh sáng để thôi thúc cúng dường, để nói về lần nữa về nghóa tông chỉ. Lại, do Thuần-đà đã hiểu rõ hai chỉ thú của dấu vết xưa, nên nói ăn không phải thật, chẳng lẽ thọ diệt là chân hay sao? Nên sau khi Thuần-đà ra đi, đại chúng đều im lặng. Bấy giờ, mặt đất rung chuyển, Đức Phật cho đại chúng được nêu câu hỏi hàng đầu, mà rất xót xa lưu luyến. Hiểu rõ không có hỏi han thưa thỉnh, chỉ tỏ bày sâu sắc với nỗi khổ bi lụy thảm thiết. Ví dụ sắm sửa cúng phẩm, vừa kính mến vừa chê trách. Khi ấy, Đức Thế tôn nhân hai bài kệ để ức chế tâm trạng buồn thảm của đại chúng, chỉ nêu tóm tắt, khuyên đại chúng thưa hỏi, chỉ nêu pháp môn, việc khuyên hỏi đều là chỉ thú của quả. Đức Phật quán tâm của đại chúng vẫn còn mê, bèn nói ba đức Niết-bàn, chứng được niết- bàn. Tỳ-kheo lại chấp giáo xưa, lại hết lòng thỉnh Đức Phật trụ ở đời. Phật dùng pháp tu đắc thắng để loại bỏ chấp. Dùng ví dụ thầy thuốc để hội giáo. Với nỗi khổ khóc than bi ai để thỉnh cầu Đức Phật trụ ở đời. Vì nỗi phân vân của đại chúng vừa chấm dứt, cho nên Đức Phật lược chỉ nêu nhân thường trụ, là giới, định, tuệ, nhằm khuyên đại chúng hãy thưa hỏi. Đây là lời khuyên thứ hai. Sở dó trước chỉ nêu giới là vì Thập địa lấy đại bi làm đầu, năm giới lấy không giết hại làm trước. Dưới đây đáp về nhân sống lâu: “Đấng đại từ, đại bi truyền trao giới không giết hại, là nhân sống lâu, ưu tiên ở giới. Cho nên trước, Đức Phật khuyên nên hỏi.” “Như lai đã tu học thông suốt tất cả các pháp với bản tánh vắng lặng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là nhân của trí.” Pháp sư Tăng Tông nói Đức Như lai biết rõ bản tánh các pháp. Đã được gốc thì nắm ngọn, sẽ có đức rửa sạch nỗi hoài nghi, nên khuyên cứ hỏi. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Xưa, nói giữ giới được quả, chỉ được đoạn diệt vô vi không!” ý hiện nay của Đức Phật: “Xưa Như lai đã nói đoạn diệt vô vi không, chính là nhân của ngôi nhà thường trụ ngày nay. Về nghóa này các thầy nên nghi ngờ, hãy theo đúng căn cơ mà hỏi.” Pháp sư Trí Tú nói nêu đức bên trong của Phật. Pháp sư Đạo Tuệ nói: “Trước, Đức Phật đã tu hành, được đến chỗ thường. Nay, chẳng lẽ ông được không tu các hạnh như giới v.v… ư?” Minh Tuấn bàn: “Muôn hạnh, chung quy lấy giới, định, tuệ làm gốc. Câu trước chỉ nêu giới, câu này chỉ nêu định tuệ, bản tánh là không, nghóa là cảnh của tuệ. Tịch là định. Văn dưới nói: “Tỳ-kheo liền nói lại ba chỉ thú này rằng không thể nghó bàn.” “Nầy các Tỳ kheo các thầy chớ nghó rằng, Như lai chỉ tu các pháp bản tánh vắng lặng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói Muôn hạnh đều là nhân. Pháp sư Tăng Tông nói “Không” chẳng khác xưa, e rằng nỗi nghi ngờ của các Tỳ-kheo kia chấm dứt, lại nêu, bất không, phát ra câu hỏi kia.” “Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo. Nếu đối với giới luật, có điều gì nghi ngờ, các thầy nên hỏi.” “Các Tỳ-kheo bạch Phật rằng” cho đến “không có trí tuệ để hỏi đạo Như lai.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quả Phật sâu xa, mầu nhiệm, trí của chúng con nhỏ nhoi, nông cạn, không thể hỏi. Dạy bảo tức là giới luật.” Minh Tuấn nói: “Giải thích lý do không thể hỏi, tức lãnh hội ba chỉ thú trên, đều không thể nghó bàn. Cảnh giới: Tức chỉ nêu tánh không ở trên. Các định: Tức nêu lên nghóa vắng lặng ở trên. Dạy bảo: Tức là nói giới luật trên.” “Bạch Đức Thế tôn! Ví như ông lão thọ một trăm hai mươi tuổi” cho đến “Đối với các giới luật sẽ hỏi về điều gì?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Như lai bảo nên hỏi, tất nhiên là muốn lưu thông, mà các Thanh văn lại không trụ, có ba lý do: Vì trí nông cạn. Vì tuổi thọ ngắn. Không có quyến thuộc. Vì thế, nên không thể che chở giữ gìn chánh pháp.” “Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay, các thầy” cho đến “Có các nghi ngờ, cho phép được hỏi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tỳ-kheo ngỏ lời, chưa có đối tượng để tìm cầu. Vì muốn cho các Tỳ-kheo tìm cầu các Bồ-tát, cho nên lại răn bảo.” “Bấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Bấy giờ, các Thanh văn ngồi yên lặng.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thấy lời lẽ của mình không kham, bèn tiến cử người có khả năng.” Pháp sư Tuệ đản nói: “Trước, ý khuyên hỏi, muốn cho các Tỳ- kheo dùng ví dụ để tự bày tỏ. Sau, ý khuyên nên hỏi, khiến cho tìm cầu người có khả năng là Bồ-tát. Vì sao? Vì Đại só ngồi trong đây, sinh hiểu biết của phẩm hạ, về sau, lại sinh kiến giải của phẩm trung, thượng, cho nên suy cử. Hai mươi lăm tuổi, là người trí lực mạnh mẽ, nhạy bén, hiểu biết thường đầy đủ, dụ cho sự tốt đẹp, tu đủ muôn điều lành, dụ cho nhiều pháp tài. Nhờ hiểu về thường của phẩm mầu nhiệm quá khứ, nên sinh hiểu biết hiện tại, dụ cho cha mẹ. Do hiểu biết phẩm trung ở hiện tại, nên sinh hiểu biết phẩm thượng ở vị lai, dụ cho vợ con. Mỗi phẩm đều có chủng loại, dụ cho bà con giòng họ thân thuộc, vì chung một hiểu biết, nên nói “đều tồn tại”. Như lai dụ cho người trí. Lý thường dụ cho vàng, báu. Văn ở dưới nói: “Niệm niệm diệt, dụ cho bệnh nặng, qua đời, cảm thắng giải sâu, vì dạy quyến thuộc gia đình. Do hiểu biết tồn tại, nên về lý được sáng tỏ, về nghóa nói là được trở lại.” “Bấy giờ, Đức Phật khen các Tỳ-kheo” cho đến “Để cho pháp mầu nhiệm này được ở lâu trên đời.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tâm La-hán, là ít muốn, biết đủ. Do hai duyên này, nghóa là người Thanh văn không hội đủ ba việc trên, Bồ-tát có đủ ba việc.” Pháp sư Đàm Tế nói: “Do hai duyên này: Vì người Thanh văn không có quyến thuộc. Vì Bồ-tát có nhiều quyến thuộc.” Pháp sư Tăng Tông nói: “có hai nhân duyên: Khéo léo hay hỏi đáp, hiện tại có lợi ích. Vì khiến ở đời lâu, vị lai có lợi ích”. Pháp sư Tuệ Đản: “Có hai nhân duyên: Vì có thể hỏi. Vì có thể nói.” Minh Tuấn nói có: “Hai lý do: Có khả năng làm cho pháp bảo được ở đời lâu. Làm lợi ích, yên vui cho chúng sinh.” “Đức Phật bảo toàn thể đại chúng” cho đến “Đức Phật tuyên bố luôn ba lần như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mạng sống lâu là quả cùng cực. Năm giới, ba quy y là bắt đầu của nhân. Chỉ nêu nhân, quả để khuyên.” Minh Tuấn nói: “Phẩm trước khuyên hỏi về “Không”, bất không v.v… là chỉ nêu riêng về quả, mà đầu tiên của phẩm này lại chủ trương giới, định, tuệ là chỉ nêu riêng về nhân. Nay nêu hoặc năm giới, hoặc ba quy y là nêu cả nhân, quả. Giới là gốc của muôn hạnh. Quy là nhất thể Tam bảo. Dưới đây, là phẩm Nhập Đại Chúng Vấn, là đoạn hai trong nói lược, tức lấy hỏi, đáp làm hai lượt. Trong phần hỏi có hai lớp: Vì hỏi dần, tức văn xuôi. Chính là đang hỏi, tức là kệ. Trong văn xuôi có bốn lượt: Đức Phật dạy bảo khắp. Tôn giả Ca-diếp vâng lời Phật dạy. Phật liền chấp nhận. Ngài Ca-diếp phát ra ánh sáng. Đây là câu hỏi thứ nhất.” “Bấy giờ, trong đại chúng có một vị Đại Bồ-tát tuổi còn nhỏ” cho đến “Nếu Đức Như lai cho phép, con mới dám hỏi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp tự nghi ngờ, dù được xếp vào hàng đại chúng, nhưng vẫn sợ rằng, mình không phải là người thích ứng với lời Đức Phật đã dạy răn, nên có lời thưa hỏi.” “Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Như lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri” cho đến “sẽ giải quyết điều nghi ngờ của ông, để ông được vui mừng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ nêu ba danh hiệu Phật, để nói Đức Phật chẳng có pháp nào mà Ngài không biết. Có hỏi, đều có khả năng đáp.” “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Và nhân gốc lành oai đức của đại chúng, mà thưa hỏi ít điều thôi.” Minh Tuấn nói: “Lời khiêm nhường phát ra ánh sáng để vâng chỉ.” “Bồ-tát Ca-diếp ở trước Phật nói kệ hỏi rằng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây, thứ hai là phần thưa hỏi. Gồm có ba mươi bốn câu hỏi: có bốn đoạn: Đoạn thứ nhất là lược, đoạn thứ hai là rộng, đoạn thứ ba là khuyên tin, đoạn thứ tư là hỏi về tu hành. Trong đoạn một có bốn câu hỏi: Hai câu đầu hỏi về quả, câu thứ ba hỏi về nhân, câu thứ tư hỏi về tên Kinh và công đức truyền bá Kinh. Thể Kinh đã khắp, gọi là rốt ráo bờ bên kia. Trong đoạn thứ hai có mười sáu câu hỏi: Từ “Mở bày mầu nhiệm, sâu kín” cho đến “Thiên, ý, thọ”. Trong đây, nói rộng có bốn lớp: Một câu hỏi đầu, nói rộng về quả. Kế là, từ “Từ được rộng lớn v.v…” v.v… trở xuống cho đến bốn đảo cuối cùng, có bốn câu hỏi, truyền bá rộng khắp và dựa vào nghóa của con người. Kế là, có hai câu hỏi: Hỏi về nghiệp lành và khó thấy tánh, vì nhân rộng. Kế là, có chín câu hỏi: Từ “Giải thích chữ Mãn” cho đến “Thiên, ý, thọ”: Công đức của văn tự rộng.” Trên đây, gồm hai mươi câu hỏi, rộng lược đã nói xong. Trong đoạn ba có mười câu hỏi khuyến tin, vì Đức Phật do nhân mà chứng đắc. Lại, nói Niết-bàn là Thường, nếu không còn dùng sự giải thích thì vì đời khó tin, nên đặt ra mười câu hỏi để giải thích: Ý hỏi: “Nếu Đức Phật từ “Duyên” vô tánh thì không nên thường riêng?” dưới đây là đáp: “Dù từ duyên được, nhưng có “Hoặc” thì vô thường, không có “Hoặc” thì Thường.” Câu thứ hai, thứ ba chỉ nêu quả để khuyên tin. Trước, chỉ nêu bên ngoài, sau chỉ nêu bên trong. Câu thứ tư, thứ năm, nói có Đấng Đại Từ, như cha mẹ thế gian. Điều tâm từ nói, không lừa dối chúng sinh. Câu thứ sáu nói Niết-bàn, thị hiện không thật. “Đức Phật thường” v.v… trở xuống, có bốn câu hỏi, làm chứng thị hiện, vì sao? Vì Đức Phật không ăn mà thọ thực, không bệnh mà thị hiện nằm, nên biết không diệt mà hiện diệt. Kế là có hai câu hỏi, nói hiện tại biết thường, thọ vui. Đời sau, biết được hữu dư, vô dư, công đức hóa độ đã xong, cho nên ứng hiện. Câu thứ chín, chứng minh không bệnh. Câu thứ mười, nói về bệnh, nói diệt, đều là Mật giáo. Trong đoạn thứ tư có bốn câu hỏi: Dựa vào Kinh tu hành, tức năm hạnh, cho nên hỏi về hạnh. Ở trên nói công đức của Kinh có khả năng chữa trị bốn tội trọng, năm tội nghịch. Chữa trị, tất nhiên là tu hành. Thực hành năm hạnh này, cũng không chữa trị được sai lầm của chính mình. Câu thứ hai, giải thích lý do sai lầm, do chuyển biến gần mà thành sai lầm, bèn nêu năm người xa, gần làm chứng. Câu thứ ba thỉnh Phật nói về nghóa Hành. Câu thứ tư, hỏi về tánh, nói về tánh có nhân, quả. Hành có trái, theo, thức tánh thì theo, tức hỏi về sư tử rống. Không nhận thức tánh là nghịch, tức câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp. Kế là hai bài kệ nói về nhân quả mông mênh của Niết-bàn. Về câu hỏi thì không thể hết, cho nên không hỏi. Điều mà Pháp sư Bảo Lượng đã phán quyết, đồng với thuyết này, ở đây không chép lại.” Pháp sư Đàm Tế nói: “Thứ nhất có bốn câu hỏi, chính là nói về thể của Kinh, nhân quả của sống lâu là kết thác tên Kinh. Thứ hai là mở rộng chỗ sâu kín, cho đến quán Tam bảo, có mười sáu câu hỏi, nói rộng về quả trên và truyền bá tên Kinh. Thứ ba là từ “Ba thừa hoặc vô tánh” cho đến “Nói pháp sâu kín có mười câu hỏi để khuyên tin. Thứ tư nói về các hạnh mầu nhiệm, có ba câu hỏi, hỏi về nhờ Kinh mà tu hành. Thứ năm là đều có tánh an vui, một câu hỏi là nói dựa vào Kinh mà thực hành, thứ lớp tu hành. Thứ sáu, nay muốn hỏi về các ấm, một là hỏi để Kiều-trần-như đáp: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đại yếu của Kinh này, lấy quả thường làm tông chỉ. Trước kia Thuần-đà do bố thí mà nói về thường, vì nghóa thì lược. Nay, Bồ-tát Ca-diếp đặt nhiều câu hỏi, để bày tỏ lại chỉ thú trước qua hai lần hỏi rộng, lược. Vì sao lấy nhiều tệ giáo riêng lẻ để nói về thường? Nay, lập ra hỏi đáp để tiếp nhận lấy sự tỏ ngộ. Tuy nhiên, Chỉ thú lớn của hỏi đáp là luận nhân, nói quả, để nói về cảnh, nói hạnh. Đầu mối dù nhiều, nhưng chủ yếu không ngoài hai lượt hỏi đáp này, vì thể của câu hỏi lấy xa ý đáp, cho nên chỉ thú của nghóa thường phù hợp nhau, không vượt qua ý chỉ Kinh. Y theo câu hỏi này, chia ra tiết mục, lược có bốn phần: Thứ nhất có mười ba câu hỏi, nói về nhân quả thường trụ, kế là mười chín câu hỏi khen công năng của Kinh. Kế là có một câu hỏi nói dựa vào Kinh, mà sinh ra hạnh. Kế là một câu hỏi nói về cảnh được chiếu soi. Căn cứ bốn phần này, mỗi phần đều có rộng, lược. Mở rộng thì có tám, hợp lại thì thành bốn, trong đó gồm có các chi tiết riêng . Vì cho nên lấy bốn phần làm đầu mối của việc hỏi đáp kia.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Về chỉ thú của lời khuyên đã rõ, còn về thời gian nên hỏi”. Vì căn cơ ở tại Bồ-tát Ca-diếp, nên nghe lời Phật dạy bảo. Về lời hỏi, đại khái có ba mươi bốn, dùng nghóa để chia, thì lược thành ba đoạn? Về chỉ quy của Kinh, dùng quả cùng cực làm tông. Nhưng lý do của quả chẳng phải nhân không mà đến, nên đầu mối của lời hỏi han thưa thỉnh, thì phải được ưu tiên. Vì thế, nên thứ nhất, từ bắt đầu đến rốt ráo cho đến “Bên kia bờ”, gồm có năm câu hỏi. Hỏi về nhân, quả, kết danh tự, thể của răn bảo, đại khái đã nêu. Sắp muốn giáo hóa, truyền thừa ngàn năm, đem lại lợi ích cho chúng sinh không thôi. Nhưng vì đạo không tự làm cho rộng lớn hơn mà nói chung là do ở con người. Cho nên câu hỏi thứ hai, từ “Cúi mong Đức Phật mở bày pháp sâu kín” cho đến “Thái bạch và sao Tuệ”, gồm mười câu hỏi. Hỏi thông qua pháp của Kinh và có thể thông qua người. Dù rằng về hai lý người , pháp rõ ràng có thể riêng khác, nhưng vẫn chưa nói rõ có ích rộng lớn, nên không do đâu thấm nhuần một cách nhạy bén cho người học. Vì thế, nên câu hỏi thứ ba, từ “Thế nào là chưa phát tâm” cho đến “Đạo tối thắng vô thượng, gồm có mười chín câu hỏi, hỏi về thế lực của Kinh. Nếu luận chung thì ba nghóa này cũng đủ thông suốt. Nay, từ việc, từ nghóa mới có riêng khác.” Minh Tuấn nói: “Phán quyết về đại thể của câu hỏi, thế gian có sáu, chia làm ba đoạn: Lược. Rộng. Khuyên tin. Trong phần lược hỏi có tám câu: Hỏi về nhân sống lâu. Hỏi về quả sống lâu. Hỏi về quả của thân Kim Cương. Hỏi về nhân của thân Kim Cương. Bốn câu hỏi này giải thích sơ lược về Bát-nhã, Pháp thân. Hỏi về giải thoát. Hỏi về oai lực của Kinh. Hỏi về tên Kinh. Sở dó y cứ tên Kinh để nói về thế lực của Kinh là để hỏi về sự giải thoát, gồm có hai nghóa: Kinh này lấy thường trụ làm tông chỉ, lấy dòng phiền lụy để làm tên phiền lụy. Cho nên vô thường là vì thường, không có phiền lụy. Nói về giải thoát gần, xa đều do công đức của Kinh. Gần thì có khả năng dứt trừ được ba chướng trong nhân. Xa, thì có thể giải thích về sự giải thoát của quả Địa. Vì cho nên hỏi: “Thế nào là đối với Kinh này? Tức là hỏi về danh, hỏi về năng lực. Rốt ráo đến bờ bên kia, tức là hỏi về giải thoát. Phẩm Danh Tự dưới đây nói: “Nghe danh hiệu Kinh này, vang khắp bốn cõi, thì không có việc đó”, tức là năng lực gần. Lại nói: “Bồ- tát ở đây, tức là có khả năng thị hiện khắp mọi nơi, tức là năng lực xa. Chỉ nêu bảy điều lành để đáp danh hiệu Kinh. Hàng phục tất cả các phiền não kiết và các tánh ma. Sau đó, chủ yếu là đối với Đại Bát-niết- bàn, buông bỏ thân mạng, chính là đáp rốt ráo đến bờ kia”. Lại nói: “Tám vị đầy đủ, chỉ nêu các câu như thường hằng… là giải thích về thể giải thoát. Vì sao? Vì văn dưới trong phần nói về giải thoát, có nêu tám câu hỏi này, mỗi câu đều được giải thích rộng, sáng tỏ dễ nhận thấy. Câu hỏi thứ tám là lưu thông y, như Kinh Nê-hoàn loại sáu quyển chép: “Bồ-tát hóa độ chúng sinh, nói pháp có bao nhiêu thứ? Mà thiếu sót, rơi rớt hoặc có trong đây. Nghóa là nghóa thật sự dễ. Nếu không lấy câu hỏi kia, thì y cứ vào vị của lời nói này cũng có nghóa truyền bá câu hỏi. Trong phẩm Danh Tự, Bồ-tát Ca-diếp hỏi: “Nêu gọi tên Kinh này là gì? Làm sao vâng giữ?” Chỉ thú của Kinh đó rõ ràng. Dưới đây, dùng phẩm bốn tướng để đáp. Thứ hai là hỏi rộng, gồm mười sáu câu hỏi. Đầu tiên, dùng một câu hỏi, hỏi rộng về ba đức của quả địa. Văn dưới, dùng “Phẩm Bốn Tướng, Niết-bàn Hữu dư, Vô dư” cho đến “Giải thoát” để đáp câu hỏi này. Kế là, có hai câu hỏi, truyền bá rộng, nói về người , về pháp, về tà. Chính là giải thích về phẩm Bốn Y, dùng chánh pháp, chánh nhân để làm y. Phẩm Tà, Chánh, bỏ người tà, pháp tà cho là ma. Kế là, có bốn câu hỏi, nhân rộng bốn đế, bốn đảo. Hai câu hỏi chỉ nêu “Giải”, “Hoặc” để nói về trí, tức nói rộng về nhân duyên. Nghiệp lành khó thấy tánh. Hai câu hỏi chỉ nêu đầu cuối. Để nói về chánh nhân. Kế là, có hai câu hỏi, hỏi rộng về tên Kinh, tức mãn tự và hạnh Thánh. Kế là, có bảy câu hỏi nói rộng về thế lực của Kinh. Bốn câu hỏi như chưa phát tâm v.v… ở trước là hỏi rộng về năng lực diệt ba chướng của nhân địa. Sau, ba câu hỏi về thuyền sư v.v… giải thích rộng về quả địa. Muôn “Hoặc” dứt ở đây, rốt ráo giải thoát. Thứ ba có mười hai câu hỏi nhằm khuyên tin, đồng với cách giải thích của Pháp sư Tăng Lượng: Làm thế nào để được sống lâu?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Tựa đề Kinh này dù lấy giải thoát để tiêu biểu cho tên, nhưng nếu nói về thể tròn đầy của Kinh kia, thì tức là pháp thân, Bát-nhã. Vì thế, nên lập ra ngôn thuyết để hỏi, trước hết, lấy Bát-nhã làm đầu. Dù Bát-nhã này hoàn toàn, mà nghóa gồm cả nhân quả. Ý ở nơi quả, không được không hỏi về nhân. Dù có hai ý, nhưng hợp chung thành một câu hỏi. Sống lâu, nghóa là một thuở nọ kỳ là thọ, sự dài lâu của thời kỳ là Trường. Quả thường không có kỳ hạn chỉ nói là dài thôi. Vì bàn về tuệ soi sáng vô cùng, tức là Bát-nhã. “Thế nào là được?” Nghóa là hỏi về nhân của tuổi thọ lâu dài kia. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, đáp rằng: Tu bốn vô lượng, trao giới không giết hại làm nhân, được thể pháp tánh của mạng lâu dài làm quả.” Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi này có hai: Câu hỏi thứ nhất: “Thế nào là được?” Câu hỏi thứ hai: “Tướng của quả sống lâu?” “Thân kim cương bất hoại”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước hỏi về Bát-nhã, ở đây hỏi về pháp thân. Trên nói về vô tận, ở đây nói về không hư hoại, như kim Cương ở thế gian, thể của nó không thể hư hoại, nhưng có công năng làm tan hoại muôn vật, lấy ví dụ Pháp thân. Ba tướng không thể dời đổi. Vạn hóa của thần kia không làm đổi thay thể của nó.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thể, tướng, thân mạng, thật ra không khác. Nói theo nghóa thì chẳng thể không khác. Thân thích hợp với Pháp thể, mạng nói có đầu cuối, nên chia thành hai câu hỏi.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là câu hỏi thứ ba, hỏi về quả của Pháp thân.” “Lại nhờ đâu được năng lực vững chắc rộng lớn.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu trên, đã hỏi về quả, câu dưới đây, hỏi về nhân. Văn dưới đây là đáp, lấy giữ gìn chánh pháp làm nhân.” Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ tư là, hỏi về nhân của thân kim cương.” “Thế nào nói Kinh này? Rốt ráo đến bờ kia?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chỉ thú lớn của Kinh nhân quả đã rõ ràng, vẫn kết tên Kinh. Văn ở dưới nói: “Kinh này gọi là Đại Bát- niết-bàn. Cho nên nói rốt ráo là vì Kinh này có văn có lý. Văn để giải quyết lý, lý để thích hợp với văn. Văn lý phù hợp nhau, nghóa không có thiếu sót, là nói Kinh rốt ráo. Đối với văn, lý, con người tu học thành Thánh. Quả Phật của thời hạn sau cùng, là nói mh rốt ráo. Y Kinh truyền bá, sẽ có đủ đức nào? Phẩm Danh Dự Công Đức ở trước, đã kết tên Kinh, mới là thành Kinh, mà Kinh thì phải có con người mở mang, chẳng phải đức thì không lưu truyền. Phẩm Bốn Tướng, đầu tiên nói về lợi ích của truyền bá, tự thực hành, gồm mọi người, sau cùng thành Đại giác, bờ bên kia xán lạn.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là câu năm, hỏi về tên Kinh, gồm cả ích lợi của việc thọ trì.” “Xin Phật mở sâu kín Nói rộng chúng sanh nghe.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây có chín câu hỏi, là pháp môn rộng. Trong môn lược trên, nói về Bát-nhã, pháp thân. Ở đây, trong pháp môn rộng, nói về giải thoát. Ba đức đã hiển bày, chữ Y mới tròn đầy. Mở rộng chỗ sâu kín, là nói rộng về hai thứ ẩn giấu của Như lai: Lời nói ẩn giấu. Hình dáng ẩn giấu. Vì giáo xưa chưa rõ là nhiệm mầu, giải thích Thường là sâu kín.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là pháp môn rộng, gồm có mười sáu câu hỏi. Một câu hỏi này hỏi về công dụng của quả rộng. Quả, là pháp thân, Bát-nhã, giải thoát.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là câu hỏi thứ sáu, hỏi về pháp rộng lớn suốt qua. Dưới đây có mười câu hỏi, đều nối nhau mà nêu.” “Thế nào là rộng lớn Làm y chỉ cho chúng? Thật chẳng phải La-hán Lượng đồng với La-hán.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong môn nói lược về nhân quả, kết tên Kinh, làm rõ việc truyền bá. Nay, trong môn rộng, chỉ nói về quả, không nói kinh, vẫn truyền bá chung, nên biết rằng, ý chỉ của nhân không ở nhân, chỉ lấy quả làm tông. Phẩm Bốn tướng ở trên, nói về Bốn pháp. Trong phẩm này chỉ nêu người Bốn Y. Bốn tướng kia thì nhờ pháp nói về đức, phẩm này thì chỉ nêu địa vị, tiêu biểu cho người. Đức Như lai là thể tôn quý cùng cực, là La-hán chân thật, Bồ-tát là tương tự La-hán, chỉ cho dấu vết của đấng Đại só cao siêu, cách con người rất xa, khó phân biệt biết rõ, nên mới y cứ ở bốn quả, phưởng phất nơi tâm, sao cho người ấy được nhận thức. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây thường có bốn câu hỏi đều truyền bá rộng. Đây là một câu hỏi, hỏi rằng: “Đức của con người truyền bá, so lường cao hay thấp? Là đáp phẩm Bốn Y.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là câu hỏi thứ bảy: “Nên nói đâu thừa nhận giai vị của người, có khả năng được kinh rộng lớn, có thể làm chỗ nương tựa, tuy là Bồ tát mà địa vị ngang hàng với Thanh văn?” “Làm sao biết ma trời Làm trở ngại cho chúng? Phật nói, Ba-tuần nói Làm sao phân biệt biết?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Muốn có pháp ra đời thì phải nhận thức tà, chánh. Ma trời, ngoại đạo thường gây trở ngại, rối loạn Phật pháp. Chúng giả dạng với thuyết ngụy tạo, nhằm mê hoặc những ai chưa thấu suốt chánh pháp. Những người được chúng cảm hóa, sống lâu dài trong sinh tử. Ngay bây giờ, bốn y ra đời, ngăn cấm ma, mở mang đạo. Trước kia nói: “Ma trời phải nhận thức, chứ không phải nói”. Chớ cho rằng ma nói, Phật nói. Về lý, có phân biệt rõ ràng. Chính vì thế, nên nhờ lời nói để xem xét tà chánh.” “Thế nào các Điều Ngự Vui mừng noi chân đế?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Rộng thì nghóa nhân ở trước. Ở trên, đáp nhân Bát-nhã, là mười thiện bốn đấng v.v… Nhân của pháp thân, nghóa là hộ pháp. Đây là nhân quả tương tự. Nay, y theo môn rộng, nhờ cảnh để nói. Vì sao? Vì nếu gồm thâu khắp nhân của pháp thân kia thì có đến bốn muôn tám ngàn. Nói lược thì, không ngoài trí tuệ. Do tró tuệ sinh ra thì sinh ở cảnh. Vì cảnh có sâu, cạn, nên giáo có Thiên viên, kiến giải cũng tùy ở giáo. Đức Như lai đầu tiên mở ra bốn đế, chỉ nói là khổ là tập, chưa nói khổ, tập bất sinh. Đến giáo Bát-nhã mới hiển bày bấtg sinh, đến thời Pháp hoa, tướng khổ, tập vẫn còn dừng lại ở ba cõi. Ngày nay, nói một mảy may “Hoặc” khởi, tức là vô minh trụ địa, cho đến Kim cương khổ cũng như thế. Ngày xưa nói diệt dứt ở thân trí. Diệt đã hữu dư, đạo cũng chưa hiểu rõ. Giáo không rốt ráo, sinh giải cũng nghiêng lệch. Vì hiểu biết nông cạn thêm nhỏ nhoi, nên tâm Thánh không vui. Ngày nay, đã nói, giáo viên, lý đủ. Sinh giải cũng sâu xa, công mở rộng được biểu dương, tâm vui mừng nói nghóa.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là hỏi về cảnh thứ chín. “Đủ thành tựu chánh thiện Giảng nói bốn điên đảo.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên, chỉ nêu cảnh để thành tuệ. Nay, nêu ra “Hoặc” để hình dung về giải. Sở dó như thế là vì “Giải” “Hoặc” đều do giáo. Giáo xưa đã nghiêng lệch thì giải cũng trái ngược, đâu có chánh thiện ư?” lại nói: “Đế là khác thì Đảo cũng khác. Vì lý thú tương quan với đầu mối, nên lại phải nói.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai câu hỏi này, hỏi về giáo trở xuống lý được nói, có chân, ngụy. Bốn Đế nói về chân, bốn đảo nói về ngụy. Vì muốn cho người học nhận thức về sự đúng sai của chân, ngụy kia, nên nếu gọi là bốn đế thì tất nhiên là bốn đảo, ngữ hợp với tám đảo, thì đó là ma.” Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi thứ mười này trái với tướng lý.” “Làm việc lành thế nào? Nay Đại tiên dạy bảo.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Nghiệp lành bắt đầu này là nhân cùng cực. Trước nói về trì giới, hộ pháp, chưa làm nhân tích cực. Nếu chiếu giải tròn sáng thì mới gọi là Nghiệp lành. Căn cứ vào văn đáp về nghiệp lành, tự có năm lớp sinh nhau, sẽ trình bày rõ ràng ở văn dưới. Một lớp này nói: Nếu sinh niềm tin ở tánh, là chỗ bắt đầu nghiệp lành.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là câu hỏi thứ mười một, hỏi về lý Phật tánh. Nếu chúng sinh không có ngã, thì một lần hóa độ là hết, cần gì được chấn hưng nghiệp lành để hướng về quả lành?” “Thế nào các Bồ-tát Thấy được tánh khó thầy?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cũng là nói lớp thứ hai, nhằm làm rõ nghiệp lành sau cùng của thấy tánh.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai câu hỏi thứ mười, mười một, là nhân rộng v.v… trở xuống, lời đáp của phẩm Như lai Tánh. Thực hành nghiệp lành là duyên nhân. Trong lời đáp lý do ở trước. Nói về chánh nhân, nghóa là muốn nói về phương pháp lập tâm của người tu hành. Nếu nói về tánh nhận thức nhân quả thì thực hành sẽ thành Trung đạo. Nếu thực hành Trung đạo thành thì muôn điều lành chính là cây. Vì thế, nên đáp thực hành chánh nhân Trung đạo, tức là “Duyên” nhân.” Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi thứ mười hai: “Bậc Đại só ở địa nào có khả năng chiếu lý của tánh quả đương lai?” “Làm sao hiểu được nghóa Mãn tự và bán tự. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là lớp thứ ba, lưu thông rộng, là dụng của Kinh, có văn, có lý. Trong phần lược câu hỏi ở trên, kết tên Kinh, gọi là Đại Niết-bàn. Lại, pháp bảy thiện, khen lý của văn này. Nay, một phẩm Văn tự, trước là tác dụng của văn rộng. Văn Kinh dùng mười bốn âm làm gốc của các âm. Cho nên nói bán, mãn là vì giáo có Thiên, Viên do căn cơ có đầu mối thứ lớp. Đức Như lai đã khéo được sự thích nghi đó, nên nói “Khéo hiểu rõ mãn tự và bán tự. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là chín câu hỏi công đức của văn tự rộng v.v… trở xuống, thuộc về lý. Đây là câu hỏi thứ mười hai. Trước quyết định văn tự Kinh ấy. Phẩm Văn Tự ở dưới là đáp.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là ý của câu hỏi thứ mười ba. Nếu tên “Ngã” bắt đầu từ Đức Phật thì ngoài ra, danh tự khác sẽ do ai ư?” “Thế nào Thánh hạnh chung Như chim Bà-la-ca? Thế nào là ân Đế? Như nhật nguyệt, Thái bạch Với năm, tháng thì sao?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ tư, lưu thông rộng. Làm công dụng của lý không ngoài thường và vô thường. Ứng với chân, giáo này, nói về tám lý đối nhau, lẽ ra trừ tám đảo. Sự đồng với trong văn tẫn (chim đực), mẫu (chim cái), chỉ xếp vào sáu hành, vì sơ lược. Như mặt trời, mặt trăng, nghóa là bốn ví dụ này là lý do trở thành chân, ứng, nhật, nguyệt lên trời thì muôn vật sẽ được trong thấy ở đây. Đây là chỉ nêu riêng chân, ứng, để nói về đức tự tại.” “Vì sao chưa phát tâm? Mà gọi là Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là mười chín câu hỏi khen ngợi Kinh, bảy câu đầu tiên là hỏi khen sơ lược. Bốn lời khen trước, là nhân ích, ba lời khen sau, là quả ích. Kinh nói có người có thể chưa phát tâm, gắng gượng khiến họ phát tâm, nếu hoặc có người được nghe từ Chư Phật, Bồ-tát mà không sinh niềm tin, sắp trở thành Xiển-đề. Do oai lực của Kinh, nằm mộng thấy những việc xấu ác, thì liền phát tâm thực thành hạnh Bồ-tát.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Căn cứ vào nghóa có công năng diệt ác sinh thiện: “Thế nào giữa đại chúng Mà được không sợ hãi Như vàng Diêm phù đàn Không ai nói lỗi chúng.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã bắt buộc phải phát tâm để trở thành Bồ-tát, tức là trên cầu tuệ Phật, dưới độ chúng sinh, nghiệp công đức trở nên vượt hơn. Về lý, không còn phải sợ ma trời, ngoại đạo và các Dị học nữa!” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau khi dứt ác thành ruộng phước thanh tịnh.” Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi thứ mười bảy hỏi về oai lực của Kinh có công năng dứt trừ nghiệp chướng.” “Thế nào ở đời trược chẳng nhơ như hoa sen, để giáo hóa chúng sinh, không bị pháp đời nhiễm cũng giống như hoa sen?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tín, tuệ khai phát, không còn che lấp Thánh đạo.” Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi thứ mười tám hỏi về oai lực của Kinh có công năng tiêu diệt báo chướng.” “Thế nào là phiền não? Phiền não không thể nhiễm Như thầy thuốc trị bệnh Không bị bệnh làm nhiễm.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước thì suốt qua nhân quả, nay, lời nói nghiêng lệch vì bệnh nặng, cho nên không dễ gì cứu chữa mà Bồ-tát vẫn cứu. Trước kia chỉ nói không nhơ, nay, nói đối trị “Hoặc”, như ví dụ thầy thuốc”. Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi thứ mười chín hỏi về oai lực của Kinh có công năng diệt trừ chướng phiền não.” “Thế nào là lái thyền Ở trong biển sinh tử?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Bốn câu hỏi trên, nói về oai lực của Kinh, khi người chưa phát tâm, khiến cho Bồ-tát có khả năng làm thầy thuốc. Dù chưa thành Phật mà ở ngay trong nhân, đã có khả năng làm lợi ích. Đây là nói về quả giúp ích lời nói, nhờ Kinh mà tu hành, cuối cùng thành Phật. Sau khi đã được thành Phật, lại lái thuyền Đại Niết- bàn này để đón rước, cứu giúp chúng sinh. “Thế nào thoát sinh tử Như rắn lột da cũ?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước kia nói: “Lái thuyền Niết- bàn, chúng sinh thấy kia diệt, thật ra thì không diệt, vì nhận thức cạn cợt nên chưa tỏ ngộ. Dùng ví dụ dời đổi để làm rõ, như rắn lột da, chẳng phải chết thật. Đức Như lai cũng thế, thị hiện diệt, không phải Phật thật, mượn để làm dụ.” “Vì sao xem Tam bảo Cũng như cây thiên ý?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu đối với người đã hiểu biết thì không cần ví dụ dời đổi, chỉ tỏ ngộ có trước sau, đến nỗi có người nghi giặt áo mau bằng nước sôi. Ngờ vực rằng, hiện thấy Đức Như lai bắt đầu giáng sinh ở cung vua, cuối cùng nhập diệt ở Song thọ, chẳng lẽ nói là bất diệt ư? Nên mượn ba việc đổi thay của cây Thiên ý để làm thí dụ.” “Nếu ba thừa vô tánh Thì làm sao nói được như niềm vui chưa có làm sao gọi thọ vui?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây có mười hai câu hỏi, khen rộng về Kinh. Dựa vào Kinh giáo của ba thừa, để nói về vô tánh của ba thừa. Mỗi thừa đều có Niết-bàn, rốt ráo có tánh khác, không chấp nhận đồng. Nếu ba thừa kia không co tánh thì vì sao ở trên đáp với Thuần-đà là sắc lực của mạng là thường, quả thường không có sai lầm, hễ “Cớ” thì “Đều cơ”, còn “Không” cũng “Đều không”. Nếu tánh của ba thừa kia là “Không ” thì trước kia không nên nói, nếu ba thừa kia đã có, mà có thì quá sớm. Trong nhân không có quả, trong quả không có nhân, mà nói là có, tức là niềm vui chưa phát sinh, đã gọi là thọ vui. Vì thế, nên Bồ-tát Văn-thù đã vượt ngoài nỗi ngờ vực của Thuần-đà là ở đây. Y theo lời Phật đáp dưới đây: “Vì có lý nên chẳng thể nói là “Không có”, vì chưa có tác dụng hiện tại, nên không thể nói là “Có”. Đây là ba thừa đồng tánh có.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây có mười câu hỏi để giải quyết nghi ngở, khuyên tin.” “Đã là mù bẩm sinh Làm sao chỉ đường được?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Theo phần khen rộng Kinh, cũng có nhân ích, quả ích, về nghóa thì không khác với trước. Đã hiểu biết chính đáng, lại hóa độ người ngu tối, làm sao cho họ được mở mắt tuệ, cũng như dùng người có mắt để dẫn đường người mù.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là nói quả nội tại, khuyên tin. Nếu không thấy Kinh này thì cho dù có ở chung đi nữa, như người mù bẩm sinh kia, vẫn không biết là nhân của Đức Phật.” “Thị hiện nhiều đầu kia Xin Phật giải lý do?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Bắt đầu là trong nhân, mở mắt tuệ cho người, sau cùng là thành Phật, sắp sửa ứng không có phương hướng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Y theo sự ứng hiện để khuyên tin.” “Vì sao người nói pháp Thêm lớn như trăng mọc?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước, hỏi về nhiều đầu, là hỏi về “Thân mật”. Nay, hỏi người nói pháp, là hỏi về “Khẩu mật”. Căn cơ có lợi, độn, giáo có sâu, cạn. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Xem Đức Phật như cha mẹ, không xem thường con, tùy căn tánh để nói pháp mà khuyến tin.” “Thế nào là thị hiện Rốt ráo đối Niết-bàn?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nói về lợi ích của quả không ở một vị Phật. Nay, y theo Đức Thích-ca để giải thích về diệt không diệt, tức là nghóa chèo thuyền Niết-bàn, để cứu giúp chúng sinh. Văn dưới, nhân phát ra ánh sáng, đôn đốc Thuần-đà cúng dường. Nói mười ba bài kệ, để nói về không diệt.” Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi thứ hai mươi tám nói xa thấy đại chúng, thấy Đức Phật thọ thực, rồi cho là chết thật sự, nên hỏi về nghóa ứng tích diệt, không diệt.” “Thế nào bậc Dũng kiện Hiện trời, người, ma đạo.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Giáo nghiêng lệch của ngày xưa, nói thật vô thường nhốt kín trong thường, người mê lầm đánh mất chỉ thú, tuệ mạng chẳng sinh, đó là đường ma. Nay, Viên giáo đã mở mang, sinh ra kiến giải tròn đầy, cuối cùng thành Đại giác, đây là đạo trời.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây thường có bốn câu hỏi, hỏi về chứng chung sự rốt ráo. Một câu hỏi này, tức chứng sự vị lai một cách hoàn tất, vì chúng sinh ớ vị lai, Đức Phật mở bày hai môn tà, chánh rồi. Đến hiện tại hôm nay lại không có sự.” Pháp sư Đàm Tiên nói: “Văn dưới cho rằng: Nếu có người không thể quán rõ Tam bảo là thường như thế, người ấy chính là Chiên-đà-la, tức là đường ma, khác với đường ma này, gọi là đạo trời.” “Làm sao biết pháp tánh Mà thọ hưởng pháp lạc.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói hai đường trời, ma, đại chúng hiểu biết tăm tối, được pháp thấm nhuần, tâm sinh vui mừng, sự do giáo nay.” Pháp sư Đàm Tiên nói: Văn dưới chép bấy giờ các trời, người đại chúng nghe pháp này rồi tâm sanh vui mừng, hớn hở vô lượng, đó tức là pháp lạc, để đáp câu hỏi này. Thế nào là các Bồ tát xa lìa tất cả bịnh. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Trước nói vô diệt, ở đây nói vô bịnh phẩm Hiện bịnh ở dưới nói rộng về sự không thật của bịnh. Pháp sư Đàm Tiên nói: Văn dưới nói: Nay thấy các Bồ tát thể mạo đều khác lạ, rất lớn rất mầu nhệim. Chỉ thấy thân Phật dụ như cây thuốc, được các Bồ tát vi nhiễu chung quanh, đó là trong ngoài vô tịnh, để đáp câu hỏi này. Thế nào là vì chúng sanh mà bày nói chỗ bí mật? Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Ngày xưa mật ngữ, sanh ra sự chấp lầm cho mọi người, nếu không có giáo nay, thì do đâu mà thông đạt cùng khắp. Giải thích rộng lời nói ẩn chứa của Phật, giảng rõ ý chí sâu xa, sanh ra hiểu biết nhờ kinh, cũng khen ngợi giáo. Pháp sư Đàm Tiên nói: Ở dưới là văn nay, Như lai muốn làm ngọn đèn sáng lớn cho vô lượng chúng sanh đời vị lai, nên giảng nói kinh Đại niết bàn như thế, để đáp câu hỏi này. Vì sao nói rốt ráo và không rốt ráo, dứt nghi như thế vì sao không có thuyết nhất định. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Giáo xưa nói hai hạng người bị bịnh thì không trị được, điều mà kinh này nói đều có thể trị được, do tăng lực thù thắng của kinh, cũng khen ngợi giáo. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về ba hạng người: Xiển-đề, năm tội nghịch, chê bai chánh pháp, rốt ráo không thể thấu suốt. Bồ-tát rốt ráo có thể bỏ hàng Thanh văn. Gặp bạn lành thì tiến, không gặp thì lùi, là nói không rốt ráo. Dưới đây nửa bài kệ còn lại, lại thỉnh Đức Phật giải thích.” Pháp sư Đàm Tiên nói: “Văn dưới có bài: “Kệ khác v.v…, nói hữu dư, tức không rốt ráo, vô dư tức là rốt ráo”, đáp câu hỏi này. Kết đáp: “Chỉ trừ trợ đạo, pháp lành thường vui, ngoài ra tất cả, là hữu dư, vô dư. “Thế nào mới được gần Đạo tối thắng vô thượng?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Bắt đầu là trị tội, sau cùng là oai lực, đức độ của Bồ-tát càng cao gần với cảnh cùng cực, đều do oai lực của Kinh. Trong Kinh này đều chỉ bày giáo nay, có khả năng mở rộng hiểu biết một cách tròn đầy, chúng sinh không có nghi ngờ, là lợi ích rõ rệt của Kinh.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở đây nói về năm hạng người Hữu Học, từ bốn thời giáo đến Kinh hiện nay, dạy phát sinh niềm tin đối với nhân quả, sẽ được gần đạo Vô thượng.” Pháp sư Đàm Tiên nói: “Văn dưới chép: “Bấy giờ, đại chúng dâng các thứ phẩm vật cúng dường Đức Như lai xong, liền phát tâm đạo Vô thượng. Vô lượng Bồ-tát an trụ sơ địa, tức là gần với đạo Vô thượng”, đáp câu hỏi này.” “Nay con thỉnh Như lai Vì các vị Bồ-tát Giảng nói pháp sâu xa Các hạnh mầu nhiệm thảy.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là văn thứ ba trong bốn lớp văn. Trước nói về nhân quả: Một là chỗ chỉ quy của Kinh đã rõ rệt; hai là khen ngợi giáo. Nay nói dựa vào Kinh tu hành, nhận lấy quả thường, cũng muốn cho tín chúng lặn lội tìm cầu, sẽ được kính mến khuôn phép trước, muốn cho câu văn của luận đều hợp nhau. Trước nói trong quả, cũng nói về nhân, nay văn giải thích nhân, đồng thời cũng nói về quả, cho đến nói về cảnh, cũng nói về hạnh, cũng nói về cảnh. Đây là văn Kinh đắp đổi lẫn nhau, tương tự không phân biệt, nhưng chủ yếu phải tìm cầu giềng nói của cảnh, hạnh kia, cũng đều tồn tại. Nguyện vì nói pháp sâu mầu nghóa là hạnh, nguyện của Thập địa, người Nhị thừa chẳng quan hệ, nên nói là sâu xa, chỉ vì hạnh có cạn sâu. Cạn thì nói là hạnh, sâu là công đức rõ ràng. Công đức với hạnh, rộng lược dù khác, nhưng nghóa của nhân không khác.” “Đối tất cả các pháp Đều có tánh an vui Cúi xin bậc Đại tiên Phân biệt dạy chúng con.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói cái do: “Hạnh sinh ra, phải do cảnh. Sự nhiệm mầu trong cảnh, không gì hơn Phật tánh. Sư tử rống là lược, Ca-diếp là rộng. “Y chỉ lớn chúng sinh Thuốc hay Lưỡng Túc Tôn! v.v… cho đến Cảnh giới của Chư Phật.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi, đã xong, sẽ tự gồm thâu thoái lui. Các ấm nghóa là trên đến Chư Phật, dưới cùng khắp chúng sinh, năm đường người, trời. Thánh giáo khác nhau, chỉ thú này rất sâu sắc, mà vẫn chưa thấu suốt. Về lý, nên thưa hỏi, chỉ vì tình cạn, trí kém, nên không dám thưa hỏi, đâu chỉ con đã không dám, cho đến tinh tấn đến bát trụ trở lên, có ba hạng không lui sụt, cũng không phải cảnh giới của họ cho nên chẳng dám hỏi”. <卷>QUYỂN 9 <詞>Phẩm 4: TRƯỜNG THỌ (Phần 2) Giải thích ý nghóa của nhân sống lâu. Nêu ra việc lực só Mật Tích giết Đồng tử . Nêu ra danh hiệu của các Yết-ma. Nêu ra việc tám con sông đổ ra biển.Hợp thí dụ con trâu cày. Giải thích nghóa pháp tánh. Giải thích việc trời Vô tưởng thọ vui. Giải thích nghóa Nhất thể Tam bảo. “Bấy giờ, Đức Phật khen Bồ-tát Ca-diếp: Lành thay! Lành thay!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thuyết trên dù rõ ràng, nhưng vì chỉ thú của nghóa chưa chu toàn, cho nên phải nói.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, trước là đáp về nhân sống lâu, được chia thành bảy đoạn: Cho phép nói. Răn chúng. Nói chung. Khuyến khích giáo hóa ngoại đạo. Phật tự dẫn chứng. Thể, tướng của chánh nghiệp. Giải thích nghi ngờ. Pháp sư Trí Tú nói: “Một phẩm này đáp hai câu hỏi về nhân quả, chia làm hai phần. Trong lời hỏi của nhân đáp trước, có ba đoạn: Khen ngợi sự thưa hỏi của Bồ-tát Ca-diếp. Nói về tướng của nhân sống lâu. Nói về nghóa. Minh Tuấn nói: “Dưới đây là đáp câu hỏi về nhân, đại khái được chia làm hai: Chính là đáp. Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi. Căn cứ trong phần chính đáp có năm lượt: “Từ đây đến lợi ích chúng sinh”, trước khen lời thưa hỏi của Bồ-tát Ca-diếp, gồm có ba ý: Đầu tiên, do xa, bình đẳng Chư Phật. Kế là, do gần với bình đẳng với Đại só. Sau khen ích lợi rộng lớn của nhân sống lâu kia để kết khen. Từ “Con không có trí, lực” cho đến “Vì trí tuệ sâu xa”, Bồ-tát Ca-diếp kính cẩn đáp, khen chỉ thú, cũng có ba ý: Dẫn muỗi mòng làm thí dụ. Không dám nâng lên bình đẳng Chư Phật. Dẫn quan giữ kho báu làm thí dụ, nghóa là đã hiến dâng, cung kính trên hết. Hoặc có chút đồng với Bồ-tát. Về sau, Bồ-tát tự khiêm nhượng nói rằng: “Điều con hỏi rất hẹp hòi kém cỏi, đâu thể lợi ích rộng rãi, chỉ lợi mình mà thôi. Từ “Lắng nghe v.v…trở xuống, cho đến chuyển thành người nói, là răn bảo dốc lòng, khuyến cho vận chuyển giáo. Từ “Con do tu tập”, trở xuống, chỉ nêu hiện tại làm chứng. Chính là đáp câu hỏi, có năm thứ bậc. Nói về Thập địa, dùng đại bi làm đầu, năm giới lấy không giết hại làm trước, là dùng đầu mối thưa hỏi, phát ngôn ở giới, nên biết giới tâm của Bồ-tát không có tự đại bi. Nay, đã nói về nhân sống lâu, cho nên: Trước nêu cho đến lòng từ để nói về hạnh lợi mình. Khuyên thực hành không giết hại chúng sinh. Truyền trao thì dùng mười điều lành, năm giới, để nói về sự giáo hóa người ngoài. Xông pha vào ba đường để cứu vớt nỗi khổ đau hiện tại, là nói rộng về công dụng của tâm Bi. Phát bốn thệ nguyện rộng lớn, dụng của lòng từ sâu rộng, bao la nhằm an ủi chúng sinh ở vị lai. Kết: Trên trời, nghóa là từ gần mà nói xa.” “Này, người thiện nam! Nay, ông chưa được” cho đến “Đồng như các nghóa sâu sắc mà bậc nhất thiết Trí đã hỏi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây là phần đáp câu hỏi thứ ba.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi này cương yếu chung của một bộ Kinh, gồm thâu then chốt muôn hạnh. Vì kính mến Thánh chỉ sâu rộng, nên hợp xứng điều lành để khen ngợi. Ông hỏi, Như lai đáp, chiếu lý là đồng. Với chỉ thú mà Chư Phật đã giảng, vì sao lại khác với điều ông đã hỏi ở đây? Cho nên nói “Đồng với Chư Phật”.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sự thật Bồ-tát Ca-diếp vẫn chưa tường tận ở chỗ do dấu vết mà lấy, đâu nói về soi thấy bình đẳng với Đức Phật? Vì lý mà Chư Phật đã hỏi thật là u huyền độc tôn, cao đẹp tuyệt vời! Vì tín chúng có nhận thức rất nông cạn, nên phải nói lên lời khen ngợi này.” “Này, người thiện nam! Lúc Ta mới thành đạo Chánh giác dưới cội Bồ-đề” cho đến “Là đem lại lợi ích cho vô lượng chúng sinh.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng những được đồng với Chư Phật mà còn đồng với Như lai trước kia. Xưa kia, ở bảy xứ, tám hội, Như lai đã giảng nói Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Phương Quảng. Bấy giờ, các Đức Như lai mười phương đều nhóm họp để luận về nghóa, cũng đã có nêu lên câu hỏi này.” “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật” cho đến “Nghóa rất sâu sắc của pháp tánh hư không.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên đây Đức Phật quá khen, nên Bồ-tát Ca-diếp tỏ ra khiêm tốn, rằng mình chưa đạt được cử chỉ đó khiến cho ánh sáng đức độ của ngài càng thêm rực rỡ. Biển trí tuệ: Một là sâu rộng; hai là cất chứa vật báu. Pháp tánh hư không có hai thứ: “Một là muôn pháp xưa nay không có tánh; hai là Niết-bàn cũng xứng với pháp tánh. Đây là việc mà năng lực suy nghó không thể hiểu được.” “Bạch Đức Thế tôn! Ví như vị vua đem viên ngọc sáng trong búi tóc” cho đến “Giúp con có được trí tuệ sâu rộng.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghóa là được chỉ thú của Đức Phật đáp, kính cẩn, vâng giữ, cung kính, như quan cất giữ kho báu kia.” “Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Đã tự lãnh thọ rồi, sẽ nói lại cho người khác nghe.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp Đại thừa không vì một người mà gìn giữ, phải ứng với vô biên mà lưu thông.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Sắp đáp việc thưa hỏi, Đức Phật vừa khuyên răn, vừa dạy bảo. Tông chỉ rất sâu kín, tâm xem thường thì chẳng lãnh thọ được. Dù rằng lời Phật nói chỉ với Bồ-tát Ca-diếp, nhưng ý là đối với đại chúng.” “Này, người thiện nam! Do tu tập hạnh nghiệp như thế, mà Như lai được thành Vô thượng Chánh giác” cho đến “Nay lại giảng rộng nghóa ấy cho ông nghe.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “lời đã nói không giả dối, là dẫn Như lai làm chứng.” “Này người thiện nam! Ví như Vương tử phạm tội, bị giam vào ngục” cho đến “Đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở đây trước nói thí dụ, sau nói pháp. Bồ-tát có hạnh nghiệp bên ngoài và hạnh nghiệp bên trong. Lòng từ là nhân tố của hạnh nghiệp bên ngoài, tám con sông chảy về biển là quả của hạnh nghiệp bên ngoài. Chúng sinh là nhân hạnh bên trong, Niết-bàn, Phật tánh là quả hạnh bên trong. Kế là, nói Nhất Thể Tam bảo, làm rõ lại hai quả là thường. Nhà Vua tự quay xe giá trở về, vì ngục tù là nơi bất tịnh, không phải chỗ Vua đến, vì lòng từ nên đến. Năm đường là nơi khổ sở, chẳng phải chỗ ở của Bồ-tát. Cũng chính vì đức từ, nên ở chỗ khó đến mà Bồ- tát vẫn đến được .” “Truyền cho giới bất sát, dạy cho tu pháp lành” cho đến “Sau khi qua đời, được sinh lên cõi trời.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Từ vốn cứu khổ, giới là gốc cứu khổ. Cưu giúp là công hạnh của lòng Từ. Sinh lên cõi trời, là hiện báo của nhân địa.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Mười điều lành Bốn bình đẳng là hạnh quan trọng. Bốn thệ nguyện rộng lớn là nguyện quan trọng. Chỉ nói lược bất sát trong mười điều lành là nhân tố sống lâu, vì lấy nghóa tương tự với nguyện kia. Chín điều lành còn lại, lược qua không nói.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Có Kinh Riêng nói về bốn thệ nguyện rộng lớn, phối hợp với bốn Đế. Nghóa là đối với người chưa vượt qua khổ, nói khổ đế để vượt qua, người chưa tránh khỏi ràng buộc, thì nói tập đế để họ được giải thoát, người chưa Niết-bàn thì nói diệt Đế, cho họ được hội ngộ. Yên ổn sau cùng là nói đạo Đế, sao cho họ được yên ổn. Vì tâm Bồ-tát rộng lớn bao la, nên gọi là “Hoằng”, vì chắc chắn có khả năng thực hành, nên gọi là “Thệ”.” “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Thật sự xem đồng là con, như La-hầu-la.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Việc ở đây nêu là khó là không bình đẳng. Thường tình chúng sinh nhận thấy xưa kia thường trị tội, dường như tổn thương lòng từ, vì thế, nên phải nói.” Minh Tuấn nói: “Dưới đây, thứ hai, là Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi. Nay, thứ nhất này trước là thưa hỏi vì không có lòng từ nên trái phạm giới sát, để cho nghóa của nhân không lập. Sau, thứ hai, là nêu hiện thấy Niết-bàn không có quả sống lâu. Nếu có nhân lâu dài thì quả sẽ không ngắn. Vì quả tất nhiên không dài, nên biết không có nhân trái lại với hai quan hệ để trở thành nghóa nhân quả kia. Căn cứ vào mối quan hệ trước, có ba trái ngược: Quyết định lòng từ coi như con. Chỉ nêu lên việc, do thần Kim cương, làm thành lời thưa hỏi. Chỉ nêu lý, dùng cắt, xóa để so sánh. Đây là thứ nhất, quyết định lòng từ. Ba hạng người ác cũng coi như con phải không? Có hai thứ bậc: Trước là Bồ-tát Ca-diếp quyết định, sau là Phật đáp.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Xem đồng như La- hầu-la” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Từ, thật ra không bình đẳng, dùng hai việc để làm chứng: Vì chúng sinh không thể bình đẳng, nghóa là phá giới. Vì sự nghiệp từ của Bồ-tát không bình đẳng, bằng cớ là lực só đã giết Đồng tử. Người kế thừa ý chỉ của Phật, Phật còn bình đẳng, huống chi là Bồ-tát?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Kim cương tức là Bồ-tát. Đã vâng theo ý chỉ của thần, tức là hai Thánh giết chung, việc này không nói bình đẳng.” “Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: Nay ông không nên” cho đến “Đều thương xót như con là La-hầu-la.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người tại gia hủy báng chánh pháp, còn thêm khổ để trừng trị, huống chi người xuất gia ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Bậc Thánh cho được lợi ích có lúc, không cần phải chờ đợi biến hóa, chỉ vì sự thật nên Bồ-tát Ca-diếp chỉ nêu biến hóa thôi.” Minh Tuấn nói: “Dưới đây Đức Phật đáp có năm thứ bậc: Quét sạch dấu vết để làm rõ Đồng tử, là biến hóa. Nói về pháp vua và pháp Phật, sự tà vạy khác để chứng minh không giết hại. Lấy nhỏ để so sánh với lớn. Nếu phát ra một tia sáng, còn cho sự không sợ hãi, huống chi là sẽ có giết hại? Nêu ba thí dụ, để nói về pháp hạnh sau cuối. Bốn chúng có khả năng trừng trị người tội phá hoại chánh pháp, được vô lượng phước. Nhưng kết thúc hai ý chỉ: Nếu người không trừng trị sẽ mắc vô lượng tội, người đúng pháp trừng trị, là đệ tử của Như lai.” “Này người thiện nam! Ví như vị vua” cho đến “Những người làm việc xấu ác sẽ có quả báo”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật dùng ba việc để chứng minh bình đẳng: Dùng Yết-ma trị tội, không cắt đứt mạng sống của người tội. Dùng ánh sáng soi chiếu, ánh sáng là quả của đức từ, giúp họ không sợ hãi. Trừng trị chúng sẽ được phước, không tổn hại lòng từ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu người có đức tin, thì không được cắt đứt mạng sống. Sinh đạo có muôn mối, đâu cần cẩu thả ở pháp này. Tỳ-kheo tự có thể y theo pháp mà lập đức, đâu sợ chê trách mà làm hư hoại” “Này người thiện nam! Nay ông nên biết Như lai tức là” cho đến “Đầy đủ vô lượng thế lực như thế” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Được vô lượng phước, nghóa là trước kia dùng việc để so sánh.” Sắp diệt: là Không ăn năn tức là diệt, có ăn năn thì dừng. Nhà vua kia vì dùng hai việc sau đây nên được phước: dụ.” Thương xót người dân. Lệnh cho người ác phải làm điều lành. Pháp trị Tỳ-kheo: Để giữ gìn chánh pháp. Lệnh cho làm việc lành. “Dưới đây, kéo cắt dây, nhổ tóc, riêng cho hộ pháp để làm thí “Này người thiện nam! Pháp chưa được thấy, nếu ông muốn thấy” cho đến “Hãy nên xua đuổi, quở trách trừng trị.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là việc thứ ba, dẫn chứng, để nói về hộ trì chánh pháp ở vị lai, sẽ được vô lượng phước, để nói sẽ có lợi ích sâu rộng.” “Nếu Tỳ-kheo hiền thiện, thấy có người hoại chánh pháp” cho đến “Là Thanh văn chân thật, đệ tử của ta.” Minh Tuấn nói: “Đây là thềm bậc thứ năm, kết thúc được, mất.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Nếu trừng trị kẻ phạm luật thì lời dạy kia sẽ có lỗi.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước kia dùng đồng tử làm biến hóa, để nói lên lỗi không bình đẳng, nhưng cũng trừng trị người tội, đối với lòng từ mà thành, cho nên, dẫn chứng hai việc cắt, xóa để đặt câu hỏi.” “Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Này, người thiện nam! Ví như vị vua” cho đến “Dạy bảo như thế, sẽ được vô lượng phước.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Sắp đáp vấn nạn, trước nêu thí dụ: Vị vua dụ cho Phật. Đại thần dụ cho pháp chung. Bồ-tát, các con dụ cho bốn chúng. Sự xinh đẹp dụ cho hiểu lý không nghiêng lệch.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói Đức Như lai, giao phó bốn bộ đệ tử cho người hoằng pháp, giáo hóa thành tựu. Dù khiến cho ba bộ đệ tử không vâng theo sự dạy bảo, tất nhiên, không phải đều thành đạo, mà có một chúng khác không thể ít muốn, nhưng lại không trừng trị. Sở dó không phạm tội, vì có hai lý do: Một là không có tâm xấu ác; hai là nói vì vận dụng lòng từ.” “Này người thiện nam! Như lai cũng vậy” cho đến “Cũng khéo biết được những việc đời trước.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hợp thí dụ, so sánh phàm Thánh. Đáp khó nói về sự bình đẳng của đứa con một chẳng phải sai lầm.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Như lai không nên nói như thế.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Muốn nói quả, dùng quả để hỏi người, quả hiện tại không dài lâu thì nhân dó vãng đâu thể bình đẳng?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dù rằng lấy quả để tìm nhân mà việc thưa hỏi ở quả, tức đáp câu hỏi về quả sống lâu.” Pháp sư Trí Tú nói: “Vẫn là nhân của vấn nạn. Nhân, phải là thật, về lý, gọi là quả thường, thì không nên Niết-bàn. Nay, dùng quả để hỏi nhân, tất nhiên nhân cũng không phải thật. Do đó suy ra, sự hiểu biết cũng là nhân của thưa hỏi, chẳng phải là quả của đáp. Có hai điểm trái nhau: Một là hỏi; hai là đáp. Theo việc thưa hỏi có ba giai đoạn: Trực tiếp, nghóa là không thích ứng với chỉ thú sống lâu. Chỉ nêu thí dụ. Hợp thí dụ, kết thúc thưa hỏi. “Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Nay, vì sao ông nói” cho đến “Như lai đã chứng được pháp thường trụ hơn hết trong các pháp thường trụ.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ hai này, Đức Phật đã quở trực tiếp thay cho lời đáp mà thôi. Từ trước đến nay đã nói, không nên lại có lời thô như vậy.” “Bồ-tát lại bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn! Đức Như lai được tuổi thọ vô lượng thế nào?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu nói về sự nghiệp của Đức Như lai thì chỉ tám mươi năm, mà nói rằng, Như lai đã chứng được pháp thường trụ hơn hết trong các pháp thường trụ thì chẳng lẽ không có ý chỉ? Vì thế, nên hỏi: “Thế nào là thường?” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là Đức Phật đáp câu hỏi về quả sống lâu thứ hai. Đáp câu hỏi khác nhau: Hoặc cần chú trọng tương xứng với câu hỏi để tìm lời đáp. Hoặc hỏi trực tiếp, hoặc nhân đáp khác trước kia, vẫn là đáp, nghóa là trong lượt đáp này có ba phần: Chính là đáp ý nghóa sống lâu. Đặt ra câu hỏi. Cải chính ba quy y. Từ đây cho đến tuổi thọ thứ nhất, chính là đáp câu hỏi. Có hai ý: Đầu tiên là Bồ-tát Ca-diếp hỏi, sau là Phật đáp.” “Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Này người thiện nam! Như tám con sông lớn” cho đến “Và các con sông nhỏ đều chảy ra biển cả.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Sở dó chảy vào biển, là vì rất thấp, do các dòng chảy của các con sông nhỏ kia là nước của biển. Nước cũng gọi là biển.” “Cũng vậy, tất cả con sông tuổi thọ của người, của trời” cho đến “Đều chảy vào biển tuổi thọ của Như lai.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tuổi thọ của Đức Như lai ra sao? Lấy trăm họ làm tuổi thọ, nói là biển tuổi thọ.” “Vì vậy, nên Như lai có tuổi thọ vô lượng.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Lý do tuổi thọ lâu dài là nhờ không giết hại. Nhưng mạng của trời, người cũng phần nhiều do không sát sinh, đây là nhân vào phần ít tuổi thọ của Đức Phật, nên nói: “Tất cả mạng đều vào trong biển mạng của Phật”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Biển thâu nhận các dòng chảy không có thêm, đều là do muôn điều thiện của, đất đúc lại nơi quả cùng cực, do nhân đầy là thường”. Lại, Kinh Thắng Man nói: “Như lai tạng, tức là Phật tánh, ở nhân là Tạng, ở quả là Phật, chẳng phải đầu, chẳng phải cuối ẩn, hiển mà khác. Nếu chúng sinh không có tánh, thì giữa chừng cũng có thể bị cắt đứt, vì nghóa của Phật tánh kia không mất, nên chắc chắn sẽ thành Phật. Đến Phật tức là thường, như các dòng sông chảy ra biển, lại khó chảy đi, cho nên “Hoặc” hết, hạnh khắp, chứng được Phật tự thường”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Biển là đồ đựng để thâu nạp dòng chảy. Tuổi thọ của Như lai là cùng cực của các tuổi thọ. Nghiên cứu phân tách ý chỉ của tuổi thọ kia, gồm có ba nghóa: Hai nghóa kia sâu kín, một nghóa từ văn : Nói mạng sống lâu của chúng sinh, đều là tuổi thọ của Như lai, ở trong biển, không ai hơn Đức Phật. Tuổi thọ của chúng sinh dù là vô lượng, nhưng trôi lăn mãi không nhất định, đến Phật mới dừng lại. Nói về ngày mà Bồ-tát còn ở hạnh địa đã có ban cho chúng sinh mạng mình, lấy việc này làm nhân. Ngày đắc quả, thì sẽ không được rút ngắn. Tuy nhiên, Kinh nói: “Chúng sinh sinh tử như con tằm dệt thành kén, chẳng phải điều mà bậc Thánh dạy. Mãi đến nay mới nói là thí cho thân mạng là nhân, việc này thật khó hiểu”. Lại nói: “Chúng sinh có thể hãm hại, mà người hành đạo thì không có tâm làm hại, tức gọi bố thí mạng. Đây lại là việc khó hiểu. Bậc Thánh ra đời, chính vì muốn cho người dứt trừ phiền não, dứt sinh tử. Nếu theo ý nghóa này thì lẽ ra là cướp đoạt mạng sống mà lại nói là thí cho mạng. Sống là sao? Mạng được gọi là sinh, sinh nơi chân thọ, Chân thọ tức là thân pháp tánh. Vì thế, nên bậc Thánh thường bảo chúng sinh tu đạo để nói về tuổi thọ chân thường. Vì ý Thánh ở đây, nên nói là bố thí mạng”. “Lại, Này người thiện nam! Ví như ao A-nậu-đạt” cho đến “Cũng vậy, Như lai sinh ra tất cả tuổi thọ”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Lấy tuổi thọ của trăm họ làm tuổi thọ, cảm thì sẽ sinh ra, sinh ra thì sẽ vô cùng, như vũng chứa nước”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là nói về tuổi thọ của trời, người đều do Đức Phật biến hóa mà có, cho nên nói: “Từ mạng của “Như lai xuất ra tất cả mạng û”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ trước nói về nhập, ở ví dụ này nói về xuất. Kinh Đại Phẩm chép: “Tất cả trời, người, Đại tánh sát-lợi, cho đến cư só, tất cả đều do Bồ-tát biến hóa, nói về thời gian ở nhân địa. Thí cho tất cả mạng, đã do công dụng biến hóa, nên thí trở về với chủ biến hóa. Cho nên đến Đức Phật là thường”. “Này người thiện nam! Ví như trong tất cả các pháp thường” cho đến “Như lai là bậc nhất trong các pháp”, thường nói về hình dáng phù hợp với mạng sống lâu khi còn ở nhân địa, ở quả cùng cực, không nói về sau cùng bất tận, nên dùng ví dụ này, lại nói về vô tận như hư không. “Như trong các vị thuốc, vị đề hồ là bậc nhất” cho đến “Trong các chúng sinh, tuổi thọ của Như lai là bậc nhất”. Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Khen ngợi chỉ thú thường hiểu biết do cảnh sinh ra, vì có công năng dứt trừ “Hoặc” nên định so sánh với đề hồ.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng:” cho đến “Thường nói pháp mầu, như tuôn mưa lớn.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì y theo căn cơ nên thỉnh Đức Phật ở đời, trên là nói quả mầu là thường, chưa nói về dấu vết thì phải diệt. Nay, nhân Bồ-tát Ca-diếp phụng thỉnh, nói thân trượng sáu chẳng phải thật, là lấy dưới để so sánh với trên, là bổn tích dễ biết.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói lý đã xong, dẫn bốn việc để làm chứng: Mượn gần để so sánh với xa. Nói về có tên thường, căn bản ở Đức Phật. Dẫn pháp tánh làm chứng. Nói về Nhất thể Tam bảo, chỉ nhất cực làm chứng. Đây là bậc nhất.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đáp câu hỏi nhằm làm sáng tỏ thường, đã nói ở trước. Dưới đây, thứ hai lại nêu ba duyên làm chứng, đây là thứ nhất, dẫn khuất phục để hỏi: “Đã nói là thường thì lẽ ra thường trụ, đã không trụ thì vô thường.” Phật dạy: “Này người thiện nam! Nay ông không nên có quan niệm diệt tận đối với Như lai” cho đến “Vậy, nên Như lai thị hiện bỏ thân mà nhập Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Năm thông của ngoại đạo còn làm cho rút ngắn, kéo dài tự tại, huống chi Đức Như lai có năng lực tự tại để thị hiện đồng với cây độc.” “Này người thiện nam! Ông nên biết rằng, Phật là pháp thường” cho đến “Đã tu tập và giảng nói cho người khác nghe.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Trong chương này có hai phần: Một là hỏi; hai là đáp. Trong đáp có hai bậc: Trước là đáp, đây là kết khuyên.” “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:” cho đến “Bụi nhỏ thế, tánh cũng không hiện.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sẽ nói về nhân quả hiện hành bên trong, trước hỏi về quả thường: “Nếu quả không thường hiện thì làm sao khác với pháp thế gian. Tánh, nghóa là dị đạo chấp rằng, dùng “Minh sơ” làm tánh thế gian.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước nói về lý thường của Như lai rõ ràng, chỉ y cứ vào hiện nhập Niết-bàn ngày nay, dường như là luống dối, tức là đồng với thuyết thế gian đã nói. Nếu không có do phân biệt khác thì hoặc giả vì chúng, nên phát câu hỏi này, khiến có sự phê phán rõ ràng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Y cứ trong phần đáp về quả, có bốn chương: Gởi gắm ngôn, hạnh trái nhau, đủ thấy rõ bổn tích là thường. Dù biết là thường nhưng ngoại đạo cũng nói có thường. Giải thích danh từ ngã là thường, vốn ở Đức Phật, đã bị ngoại đạo trộm lấy. Nay giải thích về chân, ngụy: Chân, tức là Niết-bàn của Phật pháp, thể Niết-bàn kia là thường. Thường tức là pháp tánh, chỉ cho Niết-bàn xưa, cũng nói là Pháp tánh. Hai giáo đã đồng, thì về sự, phải giải thích tỉ mỉ. Thế nên thứ ba là phân biệt hai danh từ nay xưa đồng nói về pháp tánh. Điều được nói khác với nhau nói về pháp tánh, chỉ vì “Diệt” riêng. Nay, nói pháp tánh là thường mà diệu hữu, quả cùng cực, thể tròn đầy, đủ đức của ba quy y. Vì thế, thứ tư là khuyến khích người tu hành, bảo nên quy y. Có khác gì với có, thật biết bổn tích thích hợp, chỉ vì ngay nơi sự là diệt. Như ngay cả ngoại đạo cũng có lời nói suông, đều không có sự nghiệm. Môn đồ mắc kẹt ở lời nói, không do đâu mà tin. Cúi mong Phật giải thích để cho chân ra chân, ngụy ra ngụy.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là ý thứ hai, chỉ nêu trách nhiệm nặng. Nếu đều không hiện, thì lẽ ra đều là vô thường.” “Đức Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Ví như Trưởng giả”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quả không thường hiện, bổn tích không thể giải thích, là nhân dụ để giải thích. trong ví dụ này có bốn phần nghóa: Ví dụ Đức Phật ở đời, đọc tụng được ý chỉ, tu hành thành Phật. Ví dụ Phật mới nhập diệt, được Phật để lại giáo pháp, không hiểu nghóa sâu, cũng vẫn được làm người trời. Ví dụ trí tuệ của mình, lại không có từ bi, mong cầu tự độ, không giải thoát rốt ráo, không thành quả Phật. Tâm cầu thường, thì sinh ra tà kiến. Người có kiến chấp nhiều, thì sẽ đánh mất người trời, ít thì không mất. Trưởng giả dụ cho Phật. Cách giải thích của Pháp sư Bảo Lượng đồng với cách giải thích này, chỉ hợp với phần thứ tư. phần thứ ba, Pháp sư Tăng Tông chia ví dụ thứ tư thành thứ năm.” “Có nhiều con bò”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là Kinh Tạng. Bò cho ra năm vị, Kinh sinh ra năm quả.” Sắc, dù mỗi thứ án, nhưng Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tám muôn bốn ngàn pháp tạng”, Pháp sư Tăng Tông nói: “Mười hai bộ Kinh đồng chung một nhóm”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trở về một giải thoát”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Dù trong mười hai bộ lý vị, có khác, nhưng đồng một Đức Phật nói.” “Giao cho người chăn”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát mở mang”. “Đi ăn cỏ uống nước.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cái gọi là Chư Phật vì một việc nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Người, trời là sữa, bơ. Người Nhị thừa là bơ sống, Bồ-tát là bơ chín, chỉ Phật là đề hồ.” “Người chăn bò kia, vắt lấy sữa rồi tự uống.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đọc tụng, hiểu được chỉ thú Kinh.” “Trưởng giả chết”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật nhập Niết-bàn”. Dưới đây là ví dụ thứ hai: “Tất cả các con bò đều bị bọn cướp đoạt hết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người phàm không theo chỉ thú Kinh để tìm hiểu, dụ cho cướp đoạt.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù đạt thọ trì, tâm giữ lấy tướng mạnh, đa số là các ngụy tạp nhạp, không được chân lý.” “Bọn cướp bắt được bò rồi, không có phụ nữ”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Người chế biến ra đề hồ, vốn là tài khéo léo của phụ nữ. Nếu thọ từ phụ nữ kia thì sẽ có lý thành. Nay, nói rằng không có phụ nữ là dụ cho không có mở mang, gần gũi bạn Thánh, Hiền, nên không có thành.” “Liền tự vắt sữa được rồi liền uống” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Phàm phu chấp ngang trái, gồm có ba cách, đây là một trong ba cách đó. Dù không có thầy, nhưng nhờ khéo đọc tụng, hoặc được người, trời cúng dường, rồi chấp cho là phước, là một trong những chấp trước ngang trái.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cách xa Thánh, nói là gần, do được người trời giúp đỡ.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dù không xuất ly, nhưng cũng được chút ít việc lành, dụ cho vắt sữa.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù không có phương tiện tuệ, nhưng đều dùng tướng, tâm để thọ trì.” “Bấy giờ, bọn cướp bàn bạc với nhau rằng:” cho đến “Gọi là vị ngon bậc nhất ở thế gian.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là ví dụ thứ ba, biết đại ý Kinh, do người, trời tiến dần, đến kỳ hạn sau cùng sẽ thành Phật. Do phương pháp nào mà được? Tự biết không hiểu, không có phương tiện. Pháp sư Tăng Tông nói: “Dù được gọi là thường, nhưng thật không hiểu chỉ thu của thường.” “Chúng ta không có đồ đựng” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát dùng đại bi làm đồ đựng. Quên mình cứu giúp chúng sinh, tự xét pháp không.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Không biết cách cầu Niết-bàn.” Pháp sư Đàm Tế nói: “Từ, giới là đồ đựng muôn hạnh, tự biết là “Không”.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Rằng, thân này chẳng phải đồ đựng đạo.” “Dù vắt được sữa cũng không có chỗ chứa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghóa là cho dù được làm trời, người cũng chẳng phải nhân cầu Phật.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã nói là dù cho, thì không có lý, chẳng những người Nhị thừa vô lậu không thể mà ngay như giải thích về lập ra điều lành của hạnh địa, cũng chẳng phải đối tượng giải thích.” Pháp sư Trí Tú nói: “Chẳng những không có chỗ yên định quả cùng cực của Niết-bàn mà dù có được chút điều lành như sữa, cũng không có đồ đựng chánh tín để làm gốc cho điều lành đó.” “Chúng lại bàn với nhau rằng, chỉ có túi da có thể dùng đựng sữa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn bắt chước Thanh văn thọ thân, như túi da đựng nước, không thể đựng đề hồ.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dù biết phương tiện Niết-bàn, nhưng có giỏi đọc tụng, cũng không thể hiểu biết chính đáng, nên chỉ được làm trời người.” “Dù có đồ đựng, nhưng vì không biết cách làm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cách làm dụ cho tư tuệ, khuấy động dụ cho tu tuệ. Dù tự cầu độ, nhưng không sinh hai tuệ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Chính là thuyết không có phương tiện”. Các trường hợp trên đây chưa nói về như thế, chỉ bảo thủ, chấp mắc trời, người không biết rằng suy xét, mong cầu, còn có người hơn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù muốn thực hành Tiểu thừa, nhưng không biết thực hành, giả danh quán hạnh “Pháp không”.” “Nước còn khó được, huống chi là bơ sống.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tinh túy, ròng rặc thành bơ. Nước có nhựa khác là nước uống. Người Nhị thừa thành đạo, thân tức là thừa. Nếu không hiểu nghóa thường, trái với thường này là xa, là hai điều chấp ngang trái.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quả hướng dụ cho nước uống. Đắc quả, dụ cho bơ. Đã không có hai tuệ mà chứng đắc, thì với hướng đều không thành.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Đã không giải mà biết cách nói là su khéo léo của thế tục, còn không dể gì được, huống chi là quả Nhị thừa?” Pháp sư Đàm Tế nói: “Bảy phương tiện trong Thanh văn hướng, dụ cho nước uống.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Sơ địa đến Thất địa, như bơ (sinh tô). Bát địa đến Thập địa, như phó mát bơ chín. Nước uống chẳng phải giới hạn của năm vị. Nay nói đã không biết chứa nhóm lại, để tìm cầu cái khéo của sinh ra vượt hơn, cho đến trụ điều lành hữu lậu của người phàm trước kia, còn không thể được, huống chi trụ vị chân trên, mà có thể được bơ hay sao?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tín đứng đầu năm căn cũng không lập.” “Vì muốn được đề hồ, bấy giờ bọn cướp vì đề hồ nên đổ thêm nước vào.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là ví dụ thứ tư. Cầu Thường không được, bèn sinh ra tà kiến.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dù biết Kinh này nói có thể được quả thường, nhưng không thể biết được Thường ở đâu. Lại nói “Các pháp thường trụ, nghóa là đổ thêm nước vào.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là dụ thứ tư. Đề hồ (phó mát) là vật, chất nó rất trong. Vì muốn chóng được, nên đổ thêm nước vào để nó được trong. Đây là tương tự sắc trong, vị nó thì khác. Dù biết Niết-bàn là pháp thường, lạc, nhưng vì muốn chứng đắc nhanh chóng, nên chấp thân này chính là thường, lạc, tên thì đồng mà thật ra thì khác. Ví như đổ thêm nước vào, thì sẽ làm hao hụt sữa có lẫn máu. Nếu chấp thân là “Ta” thì sẽ gây tổn hại điều lành của trời, người.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là dụ thứ ba, đều sinh ra các tà kiến.” “Vì nước nhiều, nên tất cả sữa, bơ, pho mát (đề hồ) đều bị hỏng. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Lại nói là Kinh được thắng giải thường trụ mà không biết lại nói các pháp tà thường. Tà thường đã tăng thêm thì sẽ làm hư hoại vị vốn thường, cả năm thời đều mất, là ba chấp ngang trái.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người tà kiến nhiều, làm dứt gốc lành, người trời đều mất. Người ít tà kiến, do tin nhân quả.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Thêm vào nước thường đảo, sẽ phá hoại chân thường, nên cả năm vị đều mất.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là dụ thứ năm, bị dứt mất gốc lành, cho đến nhân quả trời, người đều mất!” “Phàm phu cũng vậy, dù có pháp lành, nhưng đều là chỗ dư thừa của chánh pháp Như lai.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đây là hợp thí dụ. Kinh Phật dạy người được giới, định, tuệ. Ba pháp này vốn là đạo quan trọng để thành Phật. Bọn cướp kia vì chấp lấy niềm vui ở đời, nên mất gốc còn thừa, vì vui của đời cho nên bỏ.” “Vì sao khi Như lai, Thế tôn nhập Niết-bàn” cho đến “Như bọn cướp kia đoạt đàn bò”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vốn không nên lấy, vì đó là niềm vui của người đời mà lấy, gọi là trộm.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp ví dụ thứ hai”. “Các phàm phu dù được giới, định, tuệ, nhưng vì không có phương tiện, nên không thể giải thoát.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì không hiểu giới, định, tuệ là nghóa của nhân thường trụ, giải thoát, nên không hiểu giải thoát, hợp hai thứ chấp ngang trái. “Vì nghóa này, nên họ không thể được” cho đến “Không biết phương tiện nên quên mất đề hồ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là hợp riêng ví dụ thứ ba ở trên, ở trên nói: “Thêm vào nhiều nước là chưa bị hợp. Vì sao? Vì tà kiến có nhẹ, nặng. Nặng, là nói không có nhân quả, trời, người đều mất. Nhẹ là chấp lầm Niết-bàn, hoặc được làm trời, người.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là nêu ví dụ thứ tư, mà trước, hợp ví dụ thứ năm.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là hợp ví dụ thứ ba, thiếu không hợp dụ đầu.” “Các phàm phu ấy có chút phạm hạnh” cho đến “Như bọn cướp kia được sữa pha với nước.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dù lại thêm thường, người chưa dứt gốc lành, cũng do chút việc lành, được sinh lên các tầng trời cõi Dục, hợp với ba thứ ngang.” “Mà hạng phàm phu ấy thật sự không biết” nhân cho đến “Lại tuy nói mà thật không biết. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì họ còn không biết việc lành thế gian, nên sinh lên cõi trời, chẳng lẽ biết Tam bảo hay sao?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong sữa pha thêm nước này, là pha thêm ít nước. Không biết do tu phạm hạnh, nghóa là nhân gần của trời, người còn không biết được, huống chi nhân thường ra đời mà biết hay sao?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Tu chút phạm hạnh, được hưởng chút vui, phải tự phân rõ mà ăn, như bọn cướp kia pha thêm nước vào sữa, lại nêu ví dụ thứ tư. “Mà phàm phu ấy thật sự không thể biết nhân chút phạm hạnh: Tức là pha thêm nước (Nhân gọi là lý do). Đã chấp thân là thường, thì đâu thấu suốt lý do của chân thường.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là giải thích giáo”. Xưa, chủ trương ngoại đạo sinh lên cõi trời, nghóa là nói dùng tà kiến làm nhân. Ở đây giải thích: “Chẳng phải dùng tà kiến làm nhân, chính là xưa nói rằng, cúng dường cha mẹ, là điều lành hiếu kính làm nhân. Ngoại đạo không biết được lý này, đâu biết được con đường ra khỏi sinh tử, vì điên đảo chấp ngang trái nên trở thành Đại tà.” “Vì thế, nên sau khi Như lai ra đời” cho đến “Bọn cướp tan rã, đàn bò vẫn còn nguyên.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Sau Phật ra đời, nói chân thường.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho sau Đức Phật giáng sinh, phàm phu mong cầu ngang trái, về lý vốn thường còn, Chư Phật ba đời đồng chung một đạo.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Năm ví dụ trên nói về ngoại đạo trộm được danh thường mà không phải thật là thường. Nay nói tên thường, trước sau trở về với Phật. Hợp thí trước kia đã xong, nghóa này là sinh.” “Bấy giờ, vua Chuyển Luân liền giao đàn bò” cho đến “Tất cả người dân không bị bệnh khổ.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói Đức Thích-ca ra đời, lại giao phó pháp thường, cho Bồ-tát.” “Vua chuyển luân ra đời” cho đến “Bây giờ, Như lai khéo giảng nói pháp thế gian và ra đời gian”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Khéo nói điều lành thế gian, cho nên được nghóa thường trụ, huống chi là pháp ra đời ư? Đã bỏ phàm phu, được mang về quả Phật.” “Vì chúng sinh, Như lai đã bảo các Bồ-tát hãy theo đó để giảng nói.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Để giao cho Bồ-tát, giúp cho được thắng giải thường, đạo gồm thiên hạ.” “Các Đại Bồ-tát đã được đề hồ” cho đến “Cái gọi là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Như lai.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Gồm có hai ý: Trước, hợp với bọn cướp trốn mất. Sau, hợp với Như lai giao phó cho Bồ-tát nhiệm vụ.” “Này người thiện nam! Vì những nghóa ấy, nên” cho đến “Gọi là pháp thường trụ thì chủ yếu là Như lai, chứ chẳng phải pháp nào khác.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nói theo trên đây, pháp thường hư, thật đều có rõ ràng.” Pháp sư Trí Tú nói: “Kết thúc trả lời câu hỏi.” “Này người thiện nam! Phải biết như thế biết thân Như lai” cho đến đi theo chỗ ta đã đi đến chỗ ta đã đến.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Khuyên thọ trì”. “Này người thiện nam! Nếu có người nào tu tập hai chữ như thị” cho đến “Tức là pháp tánh của Chư Phật.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Pháp: Không còn có nghóa phi pháp. Tánh, nghóa là nghóa chân cùng cực không có thay đổi, tức chân mà không có biến đổi, chẳng lẽ có diệt hay sao? Nay, nói diệt là pháp tánh, vì không có đối tượng diệt mà thôi.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát thông đạt pháp tánh, thành Phật Niết-bàn. Pháp tánh vô diệt, Niết-bàn thường trụ. Đây là nói nghóa trên quả của hạnh bên trong, phàm phu chẳng hiểu “Không”, nên chẳng chứng được Niết-bàn, dùng “Không” để chứng Niết-bàn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, thứ ba, chứng địa của quả Phật, vì dùng pháp tánh làm tuổi thọ, cho nên dài xa.” Có người giải thích: “Tướng diệt này là “Diệt” của “Đoạn diệt”. Nói thế không đúng! Vì sao? Vì văn dưới đây có câu kết: “Tức là pháp tánh của Chư Phật”, chẳng lẽ là lời đoạn diệt ư?” Nay, giải thích: “Nếu người nào có khả năng yên định hai chữ này là “Diệt” của “Tịnh diệt”, thì Đức Phật đối với người đó là thật sự nhập Niết-bàn chữ Y, nên nói: Vì sao? Vì tức là pháp tánh.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Nay con hiểu thế nào về nghóa ấy?” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trước kia cho rằng: Diệt là pháp tánh, dường như thân trượng sáu vẫn còn. Nếu Thân trượng sáu là thật thì nên xuất ra từ trong “Phi pháp”, mà pháp tánh không có “Phi pháp”, thì đâu có thân trượng sáu ư? Thân và pháp tánh không thể đồng nhau, mà có thân chưa hiểu rõ ư?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chấp phương tiện làm lời hỏi, chân cực không có thay đổi, gọi là pháp tánh, phải bỏ thân, trí, sau đó là đúng. Nay, thân đã không diệt, lại nói là tánh, là lý của ánh nắng, giọt sương, cả hai không phải cùng tồn tại, làm sao biết được nghóa này?” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước nói Niết-bàn là pháp tánh của Phật, tương tự như Niết-bàn là pháp tánh. Nay, muốn nói pháp tánh là thể của pháp thân thường trụ, Pháp tánh tức là pháp thân, nếu dùng diệt tận làm pháp tánh, thì vì không có cái có, chẳng lẽ có pháp thân ư? Nếu có pháp thân, chẳng phải diệt hết thì đâu có pháp tánh? Vì hai việc, không được đồng đều.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là văn thứ hai. Pháp tánh mà giáo nay nói, nghóa là quả viên chẳng có “Phi”, nên nói thể của pháp không thay đổi, nên gọi là tánh, danh và xưa đồng sự phải phân biệt.” “Phật bảo Ca-diếp: Này người thiện nam! Nay ông không nên” cho đến “Pháp tánh không có diệt.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Pháp tánh chiếu soi tròn đầy, lý thật sự thường còn, cho đến ứng cảm, đâu tạm bỏ dở?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tìm gốc để chứng cho ngọn, đó là hữu vi, sinh diệt theo chiều ngang! Pháp tánh xưa nay chẳng thật có, nên không có diệt. Như lai cũng xưa nay chẳng thật có, chẳng lẽ có diệt hay sao?” “Này người thiện nam! Ví như trời Vô tưởng” cho đến “Các Thanh văn, Duyên giác chẳng phải biết được”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phàm phu thọ báo sắc, tâm, thì cần phải trực tiếp dùng tưởng sâu kín. Người Nhị thừa không biết, gọi là trời Vô tưởng, là sự gần không phải cảnh giới của ông, huống chi là vô lậu ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Theo Kinh này nói, cho đến “Bốn không” ở đây đều có sắc. Nay, trời Vô tưởng, là cõi trên hết của bốn phàm phu, trong bốn thiền. Dưới tầng trời Na-hàm có một địa này, dù có sắc thân, nhưng vì tâm của địa đó sâu kín nên tưởng Vô sắc, chỉ có Đức Phật mới biết, ngoài ra, không ai hiểu rõ. “Này người thiện nam! Ông không nên nói rằng, thân Như lai” cho đến các “Thanh văn, Duyên giác không thể biết được”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng lẽ đối với pháp mầu nhiệm cùng cực của Như lai, mà có thể biết ư? Xưa, Đức Phật chỉ thị hiện diệt riêng để làm pháp tánh, đó là quyền không phải thật.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Nay ông không nghó lường” cho đến “Các thứ phương tiện không thể nghó bàn.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là Phật khuyên răn.” “Này người thiện nam! Ông phải nên tu tập” cho đến “Tu tưởng thường, thì có chỗ quy y”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật thật sự không diệt. Sau Phật nhập Niết-bàn, không nghe Kinh này, rồi nghó là thật diệt, dựa vào Tam bảo thể khác mà xuất gia, thọ giới, không thành thanh tịnh, đầy đủ ba quy y. Nếu người nào nghe Kinh mà không tin, thì dù cho người ấy xuất gia, cũng không thể thành tựu quả.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đoạn văn thứ tư, trước nói pháp tánh, nếu chẳng phải diệt đơn lẻ thì “Diệu hữu” có thể trở về. Nếu yên tâm đối với “Chẳng phải không có”, thì sẽ nhận thức được quả chân. Thế nên nêu ba quy y để tiêu biểu có phương tiện.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì chỉ cho địa vị cùng cực, cho nên là Thường. Nói ba pháp này là một thể mà không có ba, nên nói không có tướng khác. Thể là sừng sững, nên nói là tướng vô thường. Vì không bị ba tướng làm dời đổi, nên không biến thành tướng khác. Nhất thể Tam bảo: Chính là nói về ba nghóa của Thể một Đức Phật. Chỉ vì tâm gọi đầu tiên, thích hợp với pháp thể. Muôn tưởng đều là danh của nghóa, không có danh của thể riêng, danh của nghóa giác thì khác, vì thế, Phật Bảo là “Đương thể”. Ngoài ra Pháp, Tăng thuộc về Danh của nghóa. Xưa nói ba thể Tam bảo đều khác nhau. Nay, vì đặt pháp và Tăng của ngày xưa trên Phật, nên nói là Tam bảo của Nhất Thể Phật, dùng nghóa giác sát làm Phật Bảo, với thể không có “Phi pháp”. Vì đầy đủ các thứ công đức, nên gọi là Pháp bảo, với thể không ngăn cách chúng sinh thì hòa hợp với lý, gọi là Tăng bảo. Nếu người vì tu khác với ba pháp này thì phải biết người ấy không thành quy y thanh tịnh. Đã nói Phật bảo chưa cùng cực, thì làm sao được giới cụ túc ư? Không nói số đầu đều ít, chính là nói rằng, giới không phải phẩm thượng. Nếu nương tựa ba quy y thường trụ thì sẽ được giới cụ túc. Hạnh sinh ra từ địa vị Tín. Nay tín chưa tròn, thì giới đã được đâu thể chấp nhận là đầy đủ ư? Xưa Đức Phật tự nói: “Ta là Nhị thừa”, nay dựa vào Tam bảo khác nhau, còn không thể được, như ta tạo nên quả gần của Thanh văn, Duyên giác, huống chi không nương tựa vào ba quy y thường trụ, mà lại được vào địa vị Chân thánh vô lậu hay sao?” Cho nên chấp giáo hiểu Kinh, việc ấy là sai lầm!” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là Đại ý thứ ba trong phần đáp câu hỏi. Thứ ba là đại ý vì xưa, nói về Tam bảo, vì nói chỉ thú chưa chu toàn, nên tâm quy y chưa chính đáng. Nay, nói về pháp tánh thể đầy đủ Tam bảo còn mãi bất diệt. Đây là tâm quy y cần thay đổi. Vì vậy, một chương này đủ nói về quy y chính đáng, gồm có ba lượt: Đức Phật tự nói về lý, khuyên chúng sinh hãy quy y. Bồ-tát Ca-diếp đặt ra câu hỏi, Phật đáp. Bồ-tát Ca-diếp trình bày ý chỉ Phật khen ngợi thành tựu. Tam bảo không có tự thể riêng lẻ, nên nói “Không có khác”. Vì không dời đổi, nên chẳng phải vô thường. Vì không có sửa đổi ngu thành trí nữa, nên không thay đổi. “Này,Ca-diếp! Ví như do nơi cây nên có bóng cây” cho đến “Ví như trong chỗ tối có cây mà không có bóng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cây dụ cho Phật, bóng dụ cho quy Không có cây thì không có bóng, không có Phật thì không có chỗ nương tựa. Có cây không có bóng, nghóa là trong chỗ tối có cây không có bóng. Đức Phật dù vẫn còn mà không hiện, thì sẽ không thành quy y.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói vì có lý thường, nên được nghóa quy y, như có cây thì có bóng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Kế nhau giải thích: “Hễ có tâm “Năng quy”, thì sẽ có lý “Sở quy”. Đây là giải thích câu hỏi của Bồ-tát Ca- diếp, tức là được dịp. Căn cứ vào văn, lại có lúc không được dịp: Theo cách giải thích xưa thì cây ở đây dụ cho pháp thân chân thật, bóng dụ cho ứng thân. Đối với văn trước thì có dịp, đối với câu hỏi thì không có dịp. Hai cách giải thích này đều không phải một bên, chưa được thích ý trọn vẹn, đều không tăng lên được ý văn. Nay nói: Có quy y, chính là nói “Diệu hữu” của quả cùng cực là thường thì có đức của quy y. Nếu không có đức này thì nghóa “Có” cũng mất, cho nên Bồ-tát Ca-diếp y theo bóng để thưa hỏi, là vì muốn cho không có đức của quy y.” Pháp sư Trí Tú nói: “Tâm của năng quy y vì sau cùng có hkả năng thành Phật, nên lấy cây dụ cho tâm quy y, bóng dụ cho Phật đã thành, nên nói: “Nhân cây nên có bóng”. “Này người thiện nam! Ông không nên nói có cây mà không có bóng” cho đến “ Mỗi mỗi đều khác, nên trở thành vô thường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trăng, sao có ánh sáng. Cây có bóng tối, chỉ vì nhỏ nhiệm, nên nhục nhãn không thấy được. Pháp thân cũng vậy, ông chẳng thấy được.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Chớ nên không thấy mà nói là “Không có”. Pháp thân thường trụ, vì tuệ nhãn thấy, nên nghóa quy là có nhưng nhục nhãn không thấy, rồi cho là không có nghóa quy y thường trụ! Ở đầu phẩm này khuyên hỏi rằng: “Nếu quy, tức là ba quy thường trụ này”, lại nói: “Nếu giới, tức là đấng Đại từ, đại bi trước xem chúng sinh như con một.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thiên nhãn nhờ ánh sáng của “Không” nhỏ nhiệm, mà ngắm nhìn sắc, nên không đồng với công dụng của nhục nhãn.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật:” cho đến mà được sống lâu, là khéo biết những đời đã qua.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ ba, thuật lại chỉ thú, mở rộng biến hóa, có hai điểm khác nhau: Trước, Bồ-tát Ca-diếp lãnh hội thắng giải. Sau, Đức Phật khen ngợi thành tựu.”  <卷>QUYỂN 10 <詞>Phẩm 5: THÂN KIM CƯƠNG DANH TỰ Giải thích nghóa “Trăm Phi”. Xuất Xứ: của Tỳ-kheo Hộ Pháp, Quốc Vương, Thủ Hộ, Hoằng Pháp. Giải thích: Mở bày hạnh người tại gia cầm dao, gậy theo hộ. Giải thích: Thọ trì Kinh này không theo bốn đường. Giải thích Kinh này có bảy điều lành. Giải thích Kinh này đầy đủ tám Vị. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Phẩm Kim Cương và Trường Thọ đều nói thân trượng sáu, chỉ nói trong ngoài mà thôi. Sống lâu là dấu vết ngoại ứng, Kim Cương là thật của nội chiếu. Thể của thật, chiếu tròn, khắp nên không có pháp.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi về thể Kim Cương không thể hư hoại. Có mạng người bất tận, mà vì các căn hư hoại, nên phải có hai thuyết.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Ở trên nói về tuổi thọ dài lâu vô cùng. Nhưng chưa hẳn là không niệm niệm nối nhau. Nay nói Kim Cương bền chắc, không bị dời đổi, hư hoại trong từng niệm, trước nhân nghóa, ở đây làm rõ Thể.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ hai. Đáp nhân, đáp quả, tức là hai đoạn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phẩm này, trước nói về quả, sau nói về nhân. Nay dùng quả để nêu phẩm: Đức Như lai dùng pháp tánh làm thể. Chẳng phải hữu, chẳng phải vô, trăm nhi” không sánh bằng, bặt cảnh có tướng. Chia ra làm năm: Đầu tiên, có hai hạnh, giải thích chung về tướng của thân Kim Cương. Thể thường, không nghiêng động, chẳng được cấp dưỡng bởi thức ăn. Từ “Bồ-tát Ca-diếp nêu câu hỏi v.v… trở xuống”, là y cứ bổn tích để thưa hỏi. Từ “Phật bảo Ca-diếp v.v… trở xuống là sắp đáp câu hỏi. Vả lại, nói rộng về pháp thân, nhằm dứt hẳn tướng “Trăm phi”. Từ “Như lai sở dó thị hiện bệnh khổ”, là đáp câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp. Giải thích về ý nghóa bụi cát vô thường. Lãnh hội hiểu biết. Tự nói thể của mình là thường, gồm truyền đi khắp cho người chưa nghe.” Pháp sư Trí Tú nói: “Y theo lời đáp câu hỏi về quả, có bốn phần: Hai hàng chính là đáp câu hỏi. Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi. Phật đáp. Khuyên tin. “Bấy giờ, Đức Thế tôn lại bảo Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Chẳng phải thân tạp thực, tức là pháp thân.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp không có nghóa Phi Pháp, giải thích chẳng phải thực thân. Ăn đã nuôi lớn, phi pháp sinh ngang trái, gọi là thân tư dục.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Như các thân mà Phật nói đó” cho đến “Nay Như lai sắp nhập Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát Ca-diếp chấp tích làm câu hỏi, để giải thích hòa diệu.” Phật dạy: “Này người thiện nam! Ông chớ cho rằng” cho đến “Bền chắc khó hư hoại, chẳng phải như thân trời, người.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Tìm kiếm ý giải thích này, từ đầu tiên, cho đến “Chẳng phải thức rời ngoài tâm này”, nói riêng về chân, ứng không khác. Từ “Chẳng phải thức lìa tâm” v.v… trở xuống, cho đến “Không tức” để nói về nghóa: Chẳng phải thân trời, người, nghóa là giai vị vượt ngoài năm đường.” Pháp sư Trí Tú nói: “Tìm ý chỉ của lời đáp này có hai phần: Trước, dùng bốn thứ bậc để giải thích rộng về tướng pháp thân. Kết. Từ đây đến “Thân Như lai chẳng phải thân. Trước là nói không phải thân ác để giải thích câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp. Từ “Thân này” cho đến “Không phải thức”, đối với danh tướng, để giải thích về thân bất sinh, bất diệt, tức dùng hai duyên để giải thích. Đầu tiên, từ không tập không tu, trở xuống là nói không từ tập khởi. Kế là, từ “Không lay động trở xuống, nói ở quả không còn theo duyên tạo nghiệp nữa. Do hai duyên này mà biết được pháp thân bất sinh, bất diệt. Từ “Lìa tâm cũng không lìa tâm” v.v… trở xuống, kèm theo ứng nói về bổn, chính là hiển bày bổn do ứng mà có, nên bổn theo ứng, để chế ngự danh. Từ “Thân Như lai thành tựu trở xuống, trước dù lấy ba duyên để nói về tướng của pháp thân, đều là ở trong danh tướng, nghóa là chưa rõ hết sự tốt đẹp của pháp thân kia, tức lại nói về các tướng mầu nhiệm của pháp thân, chẳng cho rằng không có pháp để gọi, chính là dùng đức của pháp thân rộng lớn, không phải phương ngôn của địa dưới mà nói được một cách rõ ràng. “Chẳng phải thân sợ sệt.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lìa nỗi sợ hãi sinh tử”. “Chẳng phải thân tạp thực”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Không được nuôi bằng bốn cách ăn.” “Thân của Như lai chẳng phải thân mà là thân.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thân lấy sinh diệt chứa nhóm làm nghóa, mà có chân, có ứng. Vì chân thân chẳng phải sinh diệt, chứa nhóm nên chẳng phải thân. Ứng thân vô sinh, bất sinh, vô hình, bất hình, nên gọi là Thân.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng phải thân của hình lụy phiền, tức gọi là Pháp thân.” “Bất sinh bất diệt”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lìa tướng hữu vi”. “Không nhóm hợp, không tu” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thân chẳng phải nghiệp phiền não. Vô lượng vô biên. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Thân không có lớn nhỏ, khó có thể quyết định. Pháp sư Tăng Tông nói: “Pháp thân bao trùm cùng khắp, đâu có bên ngoài, bên trong. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở không có phương nhất định.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì có hình nên có vết chân, không có hình, thì đâu có vết chân.” “Không có biết, không có hình.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đại ngộ không có biết, hình tượng mầu nhiệm không có hình.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Biết hình thì sinh nới đặt tên, pháp thân nhiệm mầu, vì dứt bặt đối đãi.” “Rốt ráo thanh tịnh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có biết có hình, chẳng phải trong, không phải đục.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trừ sạch cả hai mới là tịnh.” “Không có dao động”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích thanh tịnh. Hễ có biết thì sẽ có cái không biết. Có hình thì có cái không hình, có thể động, có thể lay, đâu thể nói là tịnh ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Pháp thân lắng đọng, lặng yên, đâu thể dao động?” “Không có thọ, không có hành, không trụ, không làm, không có vị, không có lẫn lộn, chẳng phải hữu vi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Dưới đây, cho đến “Chẳng phải hữu vi”, là giải thích “Không có biết” ở trên. Thọ duyên thì hành, hành thì có trụ, trụ thì có làm, làm thì chấp mắc vị, chấp mắc thì xen lẫn xấu ác được tu tập ở đây. Tu tập xấu khác thì không có lưu lại thể, là pháp hữu vi. Do không có hiện tượng này, nên chẳng phải hữu vi. Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì địa vị mãn. Nên không thọ trụ vị, không hành, vì không trụ sinh tử nên không trụ. Tác động tức là nghiệp, vị là phiền não, lẫn lộn tức là quả.” “Chẳng phải nghiệp, chẳng phải quả, chẳng phải hành, chẳng phải diệt, không phải tâm vương, tâm sở.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích không phải hữu vi. Hữu vi thì là nghiệp, là quả, là hành, là diệt, do tâm sở mà khởi. Vì chẳng phải nên là vô.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì lìa quả hữu dư, nên chẳng phải nghiệp, chẳng phải quả. Vì lìa quả vô dư, nên chẳng phải hành, chẳng phải diệt, chẳng phải tâm, tâm sở nên lìa bốn ấm.” “Không thể nghó bàn, thường không thể nghó bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chân thân như thế không thể nghó bàn. Hoặc cho rằng chân không thể bàn luận, lẽ ra là có thể bàn luận, nên nói rằng “Lẽ ra tức là chân thường không thể bàn luận.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ba thừa, mười địa không thể so lường.” “Không có thức lìa tâm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích “Không phải tâm” ở trên. Vì hiện phân biệt nên gọi là Thức. Vì năng sinh hữu sau, nên gọi là Tâm. Nay cho rằng vì không có phân biệt, nên chẳng phải thức. Vì không sinh hữu sau, nên chẳng phải tâm.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây, Chân, Ứng đều nói.” “Cũng không lìa tâm”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù không phân biệt, nhưng chẳng có việc nào không biết.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên đã nói “Không có thức” nghóa là đồng với gỗ đá. Vì quét sạnh nỗi nghi ngờ này, nên cũng không rời tâm.” “Tâm đó bình đẳng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù biết mà không có tướng biết.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì dứt bỏ cao, thấp, nên nói là bình, vì không có hơn, kém nên nói đẳng. “Không có mà cũng có”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì không có sinh, trụ, diệt, nên “Không phải có”. Vì trí khắp ba đời, nên cũng “Có”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì pháp thân không có hình tượng, nên “Chẳng có”. Vì thân trượng sáu, thần thông biến hóa nên cũng có”. “Không có đến đi mà cũng có đến đi”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã không có sắc, thì ai đi ai đến. Thân trong sáu đường, thấy đến đi.” “Không phá chẳng hoại, không đoạn không tuyệt, không sinh ra, không diệt đi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên, nói đến,đi, dường như có phá hoại, sanh diệt. Nay, nói không có tình huống này, nhằm giải thích chẳng phải hữu vi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì lìa bốn tướng nên không phá, cho đến không dứt. Vì thể chẳng phải vị lai, nên không xuất sinh đến hiện tại, không diệt vào quá khứ.” “Chẳng phải chủ cũng là chủ” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì tâm ở dưới vật, nên không phải chủ. Vì có đủ tám tự tại, nên cũng là Chủ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Pháp thân mầu nhiệm, nương tựa vào đâu, làm chính? Vì vương đạo có ba ngàn, nên nói “Cũng là chủ”.” “Chẳng phải có, chẳng phải không”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Hai “Chẳng phải” là nói lập lại, chung quy dứt bỏ “Cái có”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì khác với hai mươi lăm hữu, nên “Chẳng phải có”. Vì khác với hư không, nên “Chẳng phải vô”. Cũng gọi là pháp thân nên “Chẳng phải có”, vì ứng tích nên “Chẳng phải không”. “Chẳng phải giác, chẳng phải quán, chẳng phải tên gọi, chẳng phải không có tên gọi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì chẳng phải người, chẳng phải trời, nên chẳng phải tên gọi. Vì ứng với người gọi là người, nên chẳng phải không có tên gọi.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì lìa tướng tâm thô tế, nên chẳng phải giác, quán. Vả lại, danh sinh ra từ hình. Vì không có hình dáng, nên không có danh, vì ứng dụng nên có văn tự.” “Chẳng phải định, chẳng phải không định” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì tâm rong ruổi theo muôn cảnh, nên chẳng phải định. Vì yên lặng không dao động, nên chẳng phải không định.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì có thể lớn, có thể nhỏ, nên chẳng nhất định. Vì thể của tâm kia thường trong lặng, nên chẳng phải không định.” “Không thể thấy rõ mà thấy rõ”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cái mà Thập địa không thấy nên không thể thấy, vì thân sau thấy, nên thấy rõ ràng.” “Không có chỗ nơi, cũng là chỗ nơi, không có nhà cũng là nhà”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chân thì chẳng phải người, không có chỗ, không có nhà. Vì thường ở năm đường, nên cũng là nơi chốn, cũng là nhà.” “Không có tối, không có sáng” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì soi suốt ba đời, nên không có bóng tối. Vì hiện đồng với phàm phu, cho nên vô minh. “Không có vắng lặng mà cũng vắng lặng”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chẳng có việc gì không làm, mà vẫn thường không làm.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì phân tán thân thể, nên không có vắng lặng. Vì quả thường vắng lặng, nên nói cũng vắng lặng.” “Là không có gì, không nhận lấy, không ban cho.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì không có hai mươi lăm hữu, cho nên không có. Vì không mặc không ăn, cho nên không nhận lấy. Vì công đức không có thêm, nên không có ban cho.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dù nói mới có, nhưng vì nghe, nhìn không được, nên không có. Vì ở địa vị đầy đủ, nên không nhận lấy. Vì lìa tướng nhân, nên không có ban cho.” “Trong sạch không nhơ, không tranh đua, dứt tranh đua.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là giải thích câu trên: “Vì không có đúng”, “Không có sai” nên không có ganh đua.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Phiền não là tranh cãi, vì dứt hết sự ganh đua, nên nói “Là không”. Trụ “Ở chỗ vô trụ”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích câu “Không có nhà, mà cũng là nhà”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Niết-bàn không có khu vực, là nơi cư trú thật.” “Không chấp lấy, không sa ngã”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì không cầu tiến, nên không chấp lấy. Vì không lùi bước, nên không sa ngã.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Do chấp lấy nên sa ngã, vì không chấp lấy, nên không sa ngã.” “Chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp, chẳng phải ruộng phước, chẳng phải chẳng phải ruộng phước.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì dứt tướng khuôn mẫu nên phi pháp. Vì người biến hóa, nên chẳng phải “Phi pháp”. Vì dứt lời nói, nên không phải ruộng phước, vì ứng cúng, nên không phải chẳng phải ruộng phước.” “Vô tận, bất tận, lìa tất cả tận.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là giải thích câu trên: Vì trong lặng nên vô tận.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì số kiếp dời đổi không cùng cực, nên nói vô tận, tức là vì vô tận, nên lìa tất cả tận.” “Là không, lìa không.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vô tánh, vô tướng, cho nên không. Vì lìa vô thường, vô ngã, nên lìa không.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Không, vô sinh tử, tức lìa không.” “Dù không thường trụ, nhưng chẳng phải niệm niệm diệt”, xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Tự thể vô sanh diệt, hoặc ẩn hoặc hiển Pháp sư Tăng Tông nói: bặt lời nói, không thể gọi là thường, bặt các tướng, chẳng có niệm niệm diệt “Không có nhơ đục.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là giải thích không diệt”. “Không có văn tự, lìa văn tự, chẳng phải tiếng, chẳng phải nói.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là dứt hết năm trần.” “Cũng không phải tu tập, không phải so lường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì hiểu rõ nhân không phải tạo tác, nên nhân chẳng phải tu tập. Vì dứt tư duy, bàn luận, nên không phải so lường.” “Không phải một, không phải khác”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì vuông, tròn thích hợp khác nhau, nên chẳng phải một, vì chân tánh không đổi thay, nên chẳng khác.” “Chẳng phải hình tượng, chẳng phải tướng mạo, mà vẫn có tướng tốt trang nghiêm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Các tướng mạo, dứt bặt mà mạo vượt hơn thế gian.” “Chẳng phải sức mạnh, chẳng phải sợ sệt, chẳng có yên lặng, không yên lặng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì phá diệt bốn ma, nên chẳng phải sợ. Vì chẳng có yên lặng, không yên lặng, nên không yên lặng.” “Không có nhiệt, không nhiệt, không thể xem thấy, không có tướng mạo.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Động, tónh cùng một thể, tướng chúng khó thấy.” “Như lai độ thoát tất cả chúng sinh” cho đến “Vì pháp không có hai, nên không thể nghó lường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phát ra việc kia” “Vì không có ai sánh bằng” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ có Phật và Phật bình đẳng.” “Bằng như hư không” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích nghóa “bình đẳng” “Không có tướng mạo, đồng với tánh vô sinh, không đoạn, không thường. Thường thực hành Nhất thừa, chúng sinh thấy là ba.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không có tướng mạo, xuất phát ra sự việc bình đẳng, hoặc ba, hoặc một, giải thích về nghóa bình đẳng.” “Không lùi, không chuyển, dứt tất cả ràng buộc, không đánh nhau, không va chạm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cái mà Đại thừa không có”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì bốn ma đã hết, nên không gây chiến. Vì mất theo duyên, nên không có xúc chạm”. “Chẳng phải tánh mà trụ trong tánh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì không có tự tánh, nên không phải tánh. Vì không đổi dời, nên trụ nơi tánh.” “Chẳng phải hợp, chẳng phải tan, chẳng phải dài, chẳng phải ngắn” cho đến “Không có thêm, không có bớt, không có hơn, không có thua.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích chung ở trên”. “Thân Như lai thành tựu như thế” cho đến “Chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải thế gian, chẳng phải không phải thế gian.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có biết, không biết chẳng bình đẳng.” “Chẳng phải làm, chẳng phải không làm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cho là liễu nhân, chẳng phải tác nhân.” “Chẳng nương tựa, chẳng phải không nương tựa” cho đến “Trừ một pháp tướng không thể tính đếm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không thể một phương, một đếm lấy.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu cho rằng, được một pháp tướng ngoài “Trăm phi” thì cũng dứt trừ đi.” Một cách giải thích khác: “Trừ một pháp phương tiện.” “Lúc nhập Niết-bàn là không nhập Niết-bàn”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chúng sinh thấy có diệt, nhưng rốt ráo không diệt.” “Pháp thân Như lai đều thành tựu vô lượng công đức mầu nhiệm như thế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tổng kết các pháp ở trên.” “Này người thiện nam! Chỉ có Như lai mới biết tướng ấy, các Thanh văn, Duyên giác không thể biết được.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kết luận về không thử suy nghó bàn luận ở trên”. “Này người thiện nam! Những công đức như vậy thành tựu thân Như lai, chứ chẳng phải thân do thức ăn nuôi lớn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kết pháp thân mầu nhiệm cùng cực, lìa sinh tử nói trên.” “Này người thiện nam! Chân thân Như lai có công đức như vậy” cho đến “Vì muốn điều phục các chúng sinh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kết ứng thân nói trên, dù sinh mà bất sinh.” Nầy người thiện nam! “Nay, ông nên biết rằng, thân Như lai là thân kim cương.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do tướng của bổn tích, tức kết thúc cả hai.” “Kể từ ngày nay ông thường phải chuyên tâm” cho đến “Nói thân Như lai tức là pháp thân.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đầy đủ các đức trên, tương quan với bổn tích. Chỉ thú ấy rõ ràng. Đức Phật khuyên thọ trì, mở mang giáo hóa sâu rộng.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Cũng sẽ nói rộng nghóa ấy cho mọi người nghe, biết”. Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Nhận lấy, hiểu rõ.” “Vâng, kính Bạch Đức Thế tôn! Pháp thân của Như lai, là Kim Cương không hư hoại, nhưng chưa thể biết lý do thế nào?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi, lại nhờ đâu được sức mạnh vững chắc? Văn dưới đây sẽ nêu thủ hộ chánh pháp làm lý do. Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong phần đáp về lý do, có bốn đoạn: Nêu ba món chướng, đó là hộ pháp, dẫn chứng và mở bày. Mở bày rộng ba môn này. Nói về đời mạt, chung cho cả pháp và người. Nói chẳng những lưu thông Kinh, mà còn kết hợp lưu thông luật để giáo hóa.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Căn cứ trong phần đáp này, đại khái chia làm ba: Đáp chung: dùng hộ pháp làm nhân. Đức Phật tự dẫn chứng: “Xưa, đích thân ta thực hành nhân này. Từ “Người gìn giữ chính pháp, không thọ năm giới, nói rộng vể tướng hộ pháp, hộ pháp không ngoài hai đường: Y cứ muôn hạnh để làm đầu mối. Tự giữ giới hạnh, gánh vác gìn giữ ở tâm. Không màng thân mạng, chỉ làm sao chánh pháp thường được mở mang. Nếu có khả năng giáo hóa rộng, với tâm kiến lập, làm sao cho cái xấu ác được thay đổi, đồng thời, lưu thông chánh pháp. Chính vì vậy, nên ở văn dưới, Đức Phật khen người hộ pháp, có công đức tốt đẹp lợi mình, lợi người.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đại khái chia lời đáp này thành hai đoạn: Nêu câu hỏi, xin đáp. Chính là đáp. Trong phần đáp, lại có hai phần: Một là lược; hai là rộng. Đây là phần thứ nhất trong phần đại khái, nêu câu hỏi, xin đáp.” “Phật bảo: “Này người thiện nam! Vì nhân duyên hộ trì chánh pháp, nên được thành tựu thân Kim cương này.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Trong phần chính thức đáp dưới đây, là môn lược thứ nhất, có hai lượt, đây là lượt đáp thẳng thứ nhất.” “Này người thiện nam! Vì ngày trước, Như lai đã hộ pháp” cho đến “Thân Kim cương thường trụ không hư hoại này.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì phương pháp hộ trì chánh pháp hoàn toàn, cho nên chiêu cảm được thân không thể hư hoại.” Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt đáp thứ hai này, Đức Phật tự nêu ra việc hộ pháp khi xưa, để lược làm chứng.” “Này người thiện nam! Người hộ trì chánh pháp” cho đến “Hộ trì Tỳ-kheo giữ giới thanh tịnh.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Văn dưới, phân tích rõ người xuất gia có ba phẩm, còn người tại gia, bỏ đi phẩm hạ, chỉ phát ra trung thượng. Nếu không thọ năm giới mà quên thân che chở, giữ gìn chánh pháp, làm cho chánh pháp được lưu thông thì người đó quả thật là rất mạnh mẽ. Người xuất gia thông hiểu chánh pháp, cho nên thích ứng với người tại gia hộ trì chánh pháp đều cầm dao, gậy, đây là nói theo đời mạt.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là môn rộng thứ hai, có ba lượt: Nói người tại gia hộ pháp. Dẫn chứng. Nói về cách hộ pháp của người xuất gia. Từ đây đến cuối “Không phải người giữ giới”, được tên như vậy, gọi là thứ nhất, giải thích người hộ pháp tại gia có hai lượt: Chính là nói về việc hộ pháp. Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi, đây là lượt thứ nhất. “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn” cho đến “Phải biết người này là cư só trọc”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Với dao, gậy nghóa là đều. Luật có thành chế, không gọi thanh tịnh, cho nên phải hỏi”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước kia, có nêu ba chương môn. Nay, vì muốn giải thích rộng việc hộ pháp, nên trước mượn chấp trong giáo Thanh văn, chỉ lấy trang thái vắng lặng riêng làm trên hết. Nay, Đức Phật giải thích rằng, lối chấp này không phải trên hết, mà lấy việc hộ trì chánh pháp làm trên hết.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là lượt thứ hai, là lời thưa hỏi: Dù là Tỳ-kheo, nhưng thật ra là nói cách che chở giữ gìn chánh pháp của người tại gia.” “Phật bảo Ca-diếp: “Ông chớ gọi là cư só trọc.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây nêu ba hạng Tỳ-kheo. Trước, nêu ra phẩm trung, nêu phẩm thượng, sau, nêu ra phẩm hạ.” “Nếu có Tỳ-kheo kế đến chỗ nào” cho đến “Phải biết người này không làm được gì .” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là nêu Tỳ-kheo thuộc phẩm trung.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Xưa cho việc giữ luật là phẩm thượng. Nay, sở dó nói phẩm trung là vì Tỳ-kheo giữ luật đó không thể đem lại lợi ích rộng cho chúng sinh, chỉ tự giữ mà thôi.” “Nếu có Tỳ-kheo nuôi thân đầy đủ” cho đến “Y theo pháp mà trừng trị, buộc phải hoàn tục.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ nêu Tỳ-kheo phẩm thượng.” “Nếu có Tỳ-kheo làm được như thế” cho đến “Chẳng phải người trì giới được tên gọi như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là nêu Tỳ-kheo phẩm hạ, tức kết luận chính là người phá giới.” “Này người thiện nam! Về quá khứ lâu xa, trong vô lượng, vô biên” cho đến “Tôi tớ, bò, dê, vật phi pháp”. Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là dẫn chưng thứ hai, có hai chương: Trước dẫn chứng, sau nhận lấy, hiểu rõ.” Minh Tuấn nói: “Dưới đây là dẫn chứng có bảy đoạn: Chứng Tỳ-kheo hoằng pháp, tất nhiên phải là người có sức mạnh, để hộ pháp. Chứng thế gian có người ác, tất nhiên họ có thể ngăn cản việc nghiệp mở mang, che chở đạo. Chỉ nêu lòng chí thành hộ pháp của người tại gia. Nói về quả báo của hai người được Đức Phật khen có công mở mang khen ngợi chánh pháp. Gom nhóm xưa, nay. Bồ-tát nhận lãnh, hiểu rõ. Đức Phật thuật lại, khuyên bảo. Đây là thứ nhất, xuất phát duyên khởi Tỳ-kheo thông hiểu chánh pháp.” “Bấy giờ, có nhiều Tỳ-kheo phá giới” cho đến “Cầm dao gậy bức hại vị pháp sư này.” Minh Tuấn xét thứ hai, là nêu người ác, ngăn cản duyên khởi của việc mở mang chánh pháp.” “Bấy giờ, có vị vua tên là Hữu Đức” cho đến “Thân vua sẽ được vô lượng pháp khí.” Minh Tuấn nói: “Đoạn ba, nói về người che chở, giữ gìn chánh pháp.” “Nhà vua được nghe pháp xong” cho đến “Nên phải thọ trì, ủng hộ như thế.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Kinh Nê-hoàn loại sáu quyển: Vua là đệ tử thứ hai (Quốc vương trước kia là tiền thân của Đức Như lai này), Giác Đức là đệ tử thứ nhất (tiền thân của Phật Ca-diếp), mà ở đây lại nói vị vua thứ nhất là vì trước sinh ở nước kia.” Minh Tuấn nói: Đây là đoạn thứ tư, làm sáng tỏ người mở mang chánh pháp, nghóa là quả báo của người tại gia, xuất gia.” “Này người thiện nam! Nhà vua lúc bấy giờ chính là thân ta” cho đến “Thành tựu pháp thân, thân không thể hư hoại.” Minh Tuấn nói: “Đoạn thứ năm, hội giáo xưa nay. “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Thân chân thường của Như lai, giống như khắc chạm vào đá.” Minh Tuấn nói: “Đoạn sáu là nhận hiểu.” “Phật bảo Ca-diếp: “Này người thiện nam! Vì nhân duyên này” cho đến “Cầm đao kiếm gậy gộc bảo vệ Pháp sư (người nói pháp). Minh Tuấn nói: “Đây là đoạn thứ bảy, thuật lại lời Phật khuyên hộ pháp.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn! Nếu các Tỳ- kheo” cho đến “Là người trì giới hay là phá giới?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên, sở dó không thọ năm giới, mà gọi Ưu-bà-tắc, là vì lấy công để bổ túc đức. nếu vậy thì cần gì phải thọ giới mà gọi Tỳ-kheo ư? Vì thế, nên Bồ-tát Ca-diếp hỏi rằng: “Có thầy hay không, để quyết định người đó là người trì giới hay phạm giới. Có thầy thì có giới, cũng có thể lấy công bù đắp lỗi lầm? Nên câu hỏi kế là: Là người trì giới, hay phạm giới?” Pháp sư Pháp Dao nói: “Theo đuổi, giữ gìn, dấu chân dường như người phá giới, e rằng không có đức của thầy người. Vì muốn nói về đức độ của người giữ giới này không thiếu, có thể đạo đức của thầy càng thêm đầy đủ. Chính vì vậy nên Bồ-tát Ca-diếp mới nêu lên câu hỏi này.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở đây có hai câu hỏi: Câu hỏi đầu: “Có đức, nhân của thầy hay không? Câu hỏi hai: “Là người trì giới hay phá giới? Giáo xưa nói Tỳ-kheo không được cùng đi chung với người cầm gậy gộc, nên có câu hỏi này.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sở dó lại có câu hỏi này, là vì lẽ trước kia, dù nói về sự khác nhau của hai giáo xưa nay, nhưng lại nói về chỗ hoằng pháp, nên nay, trước xét về địa vị của Tỳ-kheo, sau nói về chỗ hoằng pháp của thầy. Pháp sư Trí Tú nói: “Đoạn thứ ba, dưới đây nói về phương pháp hộ trì chánh pháp của người xuất gia, có hai điểm khác nhau: Trước là chia ra hai lượt hỏi, đáp. Sau là nhận hiểu, thuật lại lời Phật khen. Hai lượt hỏi, đáp trước là: Nêu sai để làm rõ đúng. Triển khai việc chế giới. Ở đây, sẽ nói về “Sai” để làm rõ “Đúng”, nên Bồ-tát Ca-diếp mới hỏi.” “Phật bảo Ca-diếp: “Ông đừng cho rằng những người ấy” v.v… cho đến “Đuổi ra khỏi chùa hoặc giết hoặc hại”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước đáp, sau hỏi. Người ác, đời mạt, phá hoại, làm rối loạn chánh pháp. Vì trừng trị hạng người này, nên lẽ ra phải đi chung với người cầm binh khí, vì đây chính là công hạnh của bậc Đại só, không phải cho người phá giới.” Pháp sư Trí Tú nói: “Chính là nêu sai để làm rõ đúng.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng:” cho đến “Đi vào thành ấp để giáo hóa?” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ hai, là khai chế, xin nghe khai chế nên mới hỏi.” “Này người thiện nam! Cho nên Như lai cho phép Tỳ kho trì giới” cho đến “Thì được gọi là người trì giới bậc nhất.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Không nên cắt dứt mạng sống, nghóa là việc ở pháp chung, khi đã hiểu rõ thì không cần khởi ý cắt đứt mạng sống, tất nhiên là bậc Đại só đã xét thấy cơ duyên, ở đây không nói.” Pháp sư Trí Tú nói: “Khai cho cùng đi với người cầm gậy gộc, vì thông hiểu pháp.” “Này người thiện nam! Người hộ pháp là người có chánh kiến” cho đến “Tâm người đó rộng lớn như biển.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói về Tỳ-kheo hộ pháp, có đức của thầy người, có khả năng làm đạo sư, nên nói là thầy hộ pháp, thầy trì luật, kể cả Kinh sư. Ba người này đều có đạo làm thầy, như Kinh thật có văn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu hỏi trước: Có đức, nhân của thầy, hay không? Nay, nói rằng có chánh kiến ở bên trong, tức là giáo hóa truyền ra bên ngoài, đây là đức của thầy tỏ rõ.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây sẽ dùng ba lần “Lại” để giải thích câu hỏi trước. Đầu tiên là nói về phương pháp che chở, giữ gìn chánh pháp. Kế là nói về cách trị tội người phá giới. Sau, nói về Tỳ-kheo hiểu rành về tướng luật. Đây là đoạn thứ nhất, chính là biểu lộ rõ đức của thầy.” “Này người thiện nam! Nếu có Tỳ-kheo vì lợi dưỡng” cho đến “Đó gọi là bậc Đại sư hộ pháp vô thượng.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đoạn bốn. Ở trên nói về lưu thông Kinh, ở đây nói về lưu thông luật.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở đây nói về chỗ lưu thông. Tạp tăng, nghóa là vì việc lành, ác đều không có làm, chung thành con người này, nên gọi tạp nhạp, chỉ tự giữ giới, không vì việc khác, gọi là ngu si. Thanh tịnh là do hai duyên khó hư hoại: Một là không cầu danh; hai là không trái với pháp luật. Tạp tăng có thể hư hoại cũng có hai duyên: Một là vì danh lợi, chuyên tìm tòi những gì mình đã nhận lấy; hai là nếu gặp bạn lành, cũng có thể bỏ ác, làm lành. Nêu hai chúng này, để nói về oai lực hàng phục. Dưới đây nêu năm pháp để làm phương pháp hàng phục.” “Người khéo trì luật vì muốn điều phục” cho đến “Nếu là luật thì liền chứng biết.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là nêu ra năm pháp.” “Điều phục chúng sinh thế nào? Nếu các Bồ-tát” cho đến “Như lai cũng vậy, không thể suy nghó bàn luận.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đủ năm đức này sẽ điều phục được hai hạng người: Khéo Hiểu trong mỗi chữ, khéo nghóa về ý chỉ của ngôn ngữ.” Lại, giải thích: “Khéo Hiểu về chữ “Mãn”, tìm tòi chỉ thú của văn này, nên nói “khéo hiểu một chữ Luật”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Năm pháp là: Điều phục chúng sinh. Biết nhẹ. Biết nặng. Chẳng phải luật thì không chứng. Đúng là luật thì nên chứng. Tùy căn cơ mà giáo hóa, không câu nệ hình thức là điều phục chúng sinh. Biết “Bốn trọng” là biết trọng, dứt biết “Trọng” này chẳng phải khéo tốt. Nếu biết có tâm “Trọng” trong các “Thiên” thì đây là biết trọng. Từ biết “Thiên” thứ hai trở xuống, đây gọi là biết “Khinh”, cũng như biết “Trọng”. Chẳng phải luật thì không chứng: Nếu trái với luật, nên chế thì phải chế, không đồng dùng. Phải luật thì nên chứng, nghóa là dựa vào Kinh, luật mà thực hành, tức là khen ngợi, khuyên bảo.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Như thấy các hình sắc trong gương soi.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là điểm khác nhau thứ hai, có hai lượt: Trước Bồ-tát Ca-diếp không nhận lấy chỉ thú hoằng hóa, sau, Đức Phật khen ngợi, khuyến bảo.” ---------------------------- <詞>Phẩm 6: DANH TỰ CÔNG ĐỨC Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh này lấy thường trụ làm thể. Trên nói thân Kim cương tuổi thọ và hai nguyên nhân của mạng sống lâu. Nay, sẽ nói về danh, tự của Kinh, cuối cùng nói tóm tắt về lưu thông rốt ráo.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Từ đây đi vào cuối phẩm Bốn tướng, giải thích rõ ràng về nhân duyên xong thì đáp câu hỏi này. Phẩm trên nói về sống lâu. Kim cương là đầu mối cùng cực của Kinh, vì người tu hành kia, nghóa là tu tập Kinh này sẽ chứng được chỉ thú sâu sắc của Kinh. Đủ cả bốn đức, tự sửa đúng cho mình, đúng cho người khác, ở đây có khả năng đến bên kia bờ của Kinh.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ tư. Tôn chỉ cốt yếu của Kinh, là pháp tròn đầy cùng cực của nhân, quả. Ba đức làm thể, danh nghóa của giải thoát không khác với giáo xưa, chỉ khác ở hai đức. Trên đây nói về pháp thân Bát-nhã, gồm nói về nhân của pháp ấy. Nhân quả đã rõ rệt thì tức là thể của Kinh đã đủ, nên kết thúc tên Kinh, là nói về lưu thông. Nói danh, tự, nghóa là đề mục. Văn dưới đây nói Danh là Đại Bát- niết-bàn.” Pháp sư Trí Tú nói: “Chia làm ba đoạn: Khen ngợi công đức của Kinh. Nếu câu hỏi, xin Đức Phật đáp. Bồ-tát Ca-diếp lãnh hội, thắng giải. Minh Tuấn nói: “Nói về Bát-nhã, tức tuệ mạng vô cùng. Nói về pháp thân tức là Kim cương không hư hoại, để làm rạng rỡ hai đức. Ở đây câu hai là giải thích về giải thoát, mà nói rằng cuối cùng Kinh này sẽ đến bờ bên kia là vì sao? Vì có công năng rốt ráo cởi mở sự ràng buộc của nhân, vì thoát khỏi sự ràng buộc của quả, nên được đến bờ bên kia chí cực. Đối với Kinh này, tức là thỉnh tên Kinh. Niết-bàn, là âm Phạm, Hán, không có từ ngữ nào để dịch, chỉ chú thích bằng các từ ngữ giải thoát, vô hệ lụy diệt độ, v.v… mà thôi chẳng bao gồm mọi đức. Điểm khác nhau giữa giáo xưa và nay, là chỉ dùng pháp thân, Bát-nhã làm riêng. Ngay như nghóa giải thoát, sau cùng ở Niết-bàn. Giáo xưa là tiêu diệt phiền não, bỏ thân, trí, đặt danh từ này. Giáo nay, dùng danh từ này làm tên Kinh, nên nói: “Kinh này rốt ráo đến bờ bên kia?” Dưới đây là đáp: “Hàng phục tất cả các kiết phiền não và tánh các ma, sau đó phải đối với Đại Bát-niết-bàn, mà buông bỏ thân mạng, nên biết, dùng Niết-bàn làm tên Kinh, nghóa ở giải thoát. Nhân giải thích về giải thoát để thỉnh tên Kinh. Trong đây có bốn câu hỏi: “Hỏi về giải thoát, hỏi về tên Kinh, hỏi về oai lực Kinh và hỏi về lưu thông.” “Bấy giờ, Đức Như lai lại bảo Bồ-tát Ca-diếp,” cho đến “Danh tự, chương cú và công đức của Kinh này.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Văn tự nói lên lý.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Tông chỉ của Kinh cùng cực ở Kim cương, sống lâu. Đây là nói đại thể của Kinh, về thô, lược đã xong. Vì lý do này, nên Đức Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp hãy gửi gắm Kinh này khiến cho chúng sanh thọ trì.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì lý văn vượt hơn, nên có công đức lớn. Người thọ trì tốt thì không cần lãnh thọ rồi mới nhớ giữ, nhớ giữ rồi không để mất, chỉ ở chỗ lưu thông sâu rộng, giáo hóa, truyền thừa mãi không dứt, chính là nhờ Kinh mà được giải thoát, đến bờ giác bên kia.” “Nếu có người thiện nam, thiện nữ” cho đến “Như lai sẽ nói về công đức do Kinh này mà được.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lý mà Kinh nói, là cùng nguồn tận tánh, tức là rốt ráo của Kinh. Con người có khả năng thọ trì, đọc tụng, tự tu hành, giáo hóa mọi người, cuối cùng thành Đại giác, chính là rốt ráo của con người. Cho nên phẩm này và phẩm Bốn Tướng đều nói về lưu thông, đồng đáp câu hỏi thứ tư này.” Minh Tuấn nói: “Đáp về oai lực của Kinh có hai thứ. Ở đây trước nêu trong nhân được oai lực của Kinh. Dưới đây, sẽ dùng bốn câu như: “Người chưa phát tâm là thế nào để hỏi rộng?” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Đại Bồ-tát vâng giữ thế nào?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắp dựa vào danh, để nói về đức.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Bồ-tát Ca-diếp vâng lời Phật, gởi gắm vẫn chưa nhận thức về phương pháp thọ trì danh hiệu Kinh. Ở đây là nói Kinh xong, suy tìm đến lý thường của câu hỏi là cần thiết.” Minh Tuấn nói: “Trong bài kệ trước, lời nói tản mạn. Nay, nêu riêng hai câu hỏi, mà lẽ ra chỉ nêu bốn mới phải, bởi là một góc độ của câu hỏi. Câu hỏi hai là: “Hỏi về lưu thông, hỏi về tên Kinh.” “Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: Kinh này tên là” cho đến “Nay ông khéo nghe, Như lai sẽ nói”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chẳng có Kinh nào không có đủ bảy nghóa này. Cho nên lược qua pháp riêng thứ tư, mà thêm Bảo Tạng Kim Cương, là vì Kinh khác nói về lý chưa chu toàn, không được gọi là đầy đủ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thượng, trung, hạ, vì gộp chung là một việc. Nghóa vị sâu xa, đây là khen về lý. Văn Kinh cũng tốt, đây là khen riêng về giáo. Đầy đủ thuần túy: Kinh Pháp Hoa chép: “Thuần nhất”. Luận Thành Thật chép: “Pháp độc”. Nói theo cách giải thích của giáo xưa thì “Đầy đủ thuần túy”, nghóa là nói Phật giáo, khác với thuyết của ngoại đạo. Mà Kinh này gồm nói không lẫn lộn với Tiểu thừa. Đầy đủ: Nói Kinh giáo của Phật pháp không như năm thứ Kinh đối đãi của ngoại đạo. Nghóa trên đầy đủ trong một bài kệ, như câu kệ: Các việc ác chớ làm, là đủ hai điều thiện: Chỉ và hành (ngăn dứt và thực hành). Một bài kệ trong Kinh này cũng vậy. Như Tuyết Sơn La-sát đã nói, là có đủ hai nghóa: Thường và vô thường. Thanh tịnh là lý của Kinh này nằm ngoài muôn sự bó buộc, lụy phiền. Phạm hạnh nghóa là nói lý văn của Kinh này làm cho người sinh ra phạm hạnh. Bảo tạng Kim cương không có thiếu, nghóa là viên giáo đã nói về Niết-bàn của quả viên mãn, đủ tất cả đức, không đồng với giải thoát của diệt riêng, cũng như kho tàng chứa đựng vật báu. Vì sắp giải thích về giáo thiên khác với xưa, cho nên có lời than thứ tám này.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chỉ riêng Kinh này có tám lời than thở này, lời nói thượng, trung, hạ, hợp thành một điều lành. Vì muốn nói Niết-bàn là pháp vượt hơn hết trong các pháp, nên gọi là ngữ thượng, pháp vô lậu của Thập địa là ngữ trung; nói khổ vô thường của sinh tử, cho đến tánh chất của tánh người là ngữ hạ. Nếu nói ba ngữ này đều không trái với pháp thì gọi là thiện. Vị của nghóa xâu xa, nghóa là việc lành thứ hai, là nói riêng về lý. Thứ ba là văn Kinh kia cũng tốt, nghóa là cũng y theo văn riêng trên lý để nói về điều lành. Thứ tư là thuần túy thiện: Nói thể của thừa đầy đủ. Xưa, Pháp Hoa đã giải thích về quả thừa, do không có thường này, tức là quả thừa không đủ. Vì trong nhân không có trí của giải thường, nên nhân của thừa không đầy, chỉ có thể của Kinh này nói về nhân quả một cách tròn đầy đủ, nên nói đủ thuần túy. Thứ năm là việc lành đầy đủ, đây là y cứ được đầy đủ trong nhân, quả, không khác với điều lành ở trước, chính là nghóa theo đuổi gọi là Danh, nên chia thành hai điều thiện. Thứ sáu, là thiện thanh tịnh: Lý giáo của Kinh này chân chánh, vì đều có thể quên tướng trong nhân quả, nên nói là thanh tịnh. Thứ bảy, điều lành của phạm hạnh: Đây là nói theo ở người học. Nếu xứng với lý này mà thực hành, tức là sinh tâm thanh tịnh của người tu hành, nên nói là Phạm hạnh. Thứ tám, là kho báu Kim cương: Đây là y theo thể của Niết-bàn, chung mọi đức được gọi tên. “Này người thiện nam! Nói Đại, gọi là thường, như tám sông lớn đều chảy ra biển cả.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví như mọi việc lành đã được gom nhóm lại, thì các điều ác sẽ hết.” Pháp sư Trí Tú nói: “Văn lược, lẽ ra nên nói “Gọi Đại Niết-bàn gọi là thường.” “Kinh này, hàng phục tất cả như vậy,” cho đến “Vì cho nên có tên là Đại Bát-niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Và các tánh ma, nghóa là ma phiền não và ma trời. Buông bỏ thân mạng, nghóa là ma năm ấm, ma chết.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dưới đây có tám nghóa để giải thích lý do vì sao gọi là Đại Niết-bàn: Hàng phục phiền não, nói là được giải thoát. Buống bỏ thân mạng, nói về diệt. Hóa thân, được pháp thân. Có khả năng chế phục phiền não, chủ thể buông bỏ thân mạng, tức là Bát-nhã. Không được nói riêng, có thể nói là trụ vào ba việc này là Đại Niết-bàn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là khen riêng về lý.” Minh Tuấn nói: “Đáp giải thoát có hai chỗ, đây là nêu nghóa không có hệ lụy.” “Này người thiện nam! Lại như thầy thuốc có một phương thuốc bí truyền” cho đến “Vì cho nên gọi là Đại Bát-niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chẳng có bệnh gì không trị được, nên gọi gồm thâu tất cả phương thuốc khác. Pháp thiện, thường lạc, đủ tất cả nghóa, trước kia chỉ nói có ba, chưa hết lý ấy. Nay, nói Niết-bàn không nghóa nào chẳng bao gồm, đâu phải chỉ Pháp thân, Bát-nhã, giải thoát mà thôi?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là khen ngợi riêng về giáo.” Minh Tuấn nói: Pháp lưu thông có hai chỗ, phát khỏi một trong hai chỗ đó.” “Này người thiện nam!Ví như người nông phu xuống giống vào tháng mùa xuân” cho đến “Có thể giúp cho chúng sinh thoát ra các dòng hữu lậu trong ba cõi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh cũng có dài và ngắn, người học cũng thường mong đồng khác, vì Kinh này chẳng có lý nào không đủ, nên hy vọng được dứt hẳn.” Pháp sư Pháp Dao nói: “So sánh với các Kinh, có thể gọi là Đại.” “Này người thiện nam! Như trong các dấu chân” cho đến “Kinh này là bậc nhất đối với các Kinh Tam-muội.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước nói về hai Kinh sinh trí hơn, kém, ở đây nói các định Tam-muội cũng giống như vậy.” “Này người thiện nam! Ví như cày ruộng vào mùa thu là hơn cả. Cũng vậy trong các Kinh, Kinh này là hơn cả.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là nói về nghóa sinh điều lành của ruộng phước, vượt vượt hơn các Kinh.” “Như trong các vi thuốc, vị đề hồ là bậc nhất” cho đến “Kinh Đại Bát-niết-bàn này là bậc nhất.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vui mừng thường bảo vệ mạng, nghe nói Niết-bàn, sinh ra nhiệt.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói Kinh này dứt các điều ác hơn cả các phép tắc.” Này người thiện nam! “Ví như bơ ngọt có tám mùi vị” cho đến “Vì cho nên gọi là Đại Bát-niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh nghóa đầy đủ nói trên.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Điều các Kinh không có là ở đây.” Minh Tuấn nói: Cũng là đáp câu hỏi về giải thoát. Ở đây chỉ nêu nghóa đến bờ kia. Cuối phẩm Bốn Tướng dưới đây là giải thích về giải thoát một cách sâu rộng hơn.” “Nếu các Đại Bồ-tát an trụ trong đây” cho đến “Vì nên gọi là Đại Bát-niết-bàn.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là nói về cảm ứng vô cùng, thị hiện tự tại, cùng cực của Đại.” Minh Tuấn nói: “Cũng là đáp câu hỏi về oai lực của Kinh. Đây là nêu quả của đất được lợi ích.” Dưới là dùng ba câu hỏi về thiền sư, v.v… để nói rộng. “Này Ca-diếp! Thiện nam, thiện nữ” cho đến “Như lai thường trụ, Pháp, Tăng cũng thường trụ.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là giải thích về nghóa vâng giữ. Phẩm Bốn Tướng ở sau sẽ nói về tu hành theo giáo của Kinh, cũng là nghóa vâng giữ.” Minh Tuấn nói: “Đáp về phương pháp lưu thông, dưới đây sẽ dùng phẩm Bốn Tướng để nói rộng.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật” cho đến “Người này đui mù không có mắt tuệ, vì bị vô minh che lấp.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Bồ-tát Ca-diếp tiếp nhận ý chỉ của Phật, khen ngợi.”  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI <卷>QUYỂN 11 <詞>Phẩm 7: BỐN TƯỚNG (Phần 1) Giải thích bốn nghóa như “Tự Chánh” v.v… . Đặt ra giới dứt ăn thịt. Giải thích nghóa Ba-la-đề-mộc-xoa. Giải thích về nghóa dần dần chế giới. Xét: “Bổn cũ nói là phẩm Như lai Tánh.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Như lai tánh: là nói rộng về nhân quả và văn tự của đoạn thứ năm, không thể chú nặng về danh. Đây đều là tánh nhân, quả của Như lai, dùng tánh làm danh. Bốn Tướng: là đáp chung câu hỏi thứ tư, thứ năm, vì sao? Vì đã nói nhân quả của Kim cương sống lâu, và tên kinh, pháp lưu thông kinh, việc rốt ráo của kinh. Cho nên đáp câu hỏi thứ tư. Vì danh tự cuộc hạn, nên không hợp với lưu thông. Vì danh từ Phật tánh thông suốt, nên gồm thâu vào phẩm Phật Tánh.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Phẩm trên, Bồ-tát Ca-diếp hỏi Đức Phật: Kinh này tên là gì? Vâng giữ thế nào?” Ngày nay, dùng bốn nghóa như “Tự chánh” (tự sửa cho đúng) v.v… để nói về nghóa vâng giữ. Vì thế, nên nói nghóa tự sửa cho đúng này. Cuối cùng nói: “Nên giữ như vậy”, tức là kết. Lại một nghóa: Phẩm trên, lược dùng tám nghóa để giải thích Đại Niết-bàn. Từ dưới đây, trở lại văn giải thoát, nhằm giải thích rộng về nghóa Đại Niết-bàn. Dùng bốn việc như tự sửa cho đúng v.v…, để giải thích rộng về nghóa Bát-nhã, thành Đại Niết-bàn. Từ “Thế nào” cho đến “Phải biết là vô thường ư? Cuối cùng có Mật tạng, mở rộng nghóa thân mật, khẩu mật, làm sáng tỏ khả năng vô cùng của pháp thân. Ở đây y theo pháp thân để nói về nghóa Đại Niết- bàn. Nói rộng nghóa giải thoát để thành Đại Niết-bàn, phải dùng ba nghóa này để làm rõ thể Niết-bàn kia. Phẩm trước đã nêu câu hỏi: “Thế nào là vâng giữ? Đã nêu ra phương pháp giữ gìn. Nay, đủ bốn tướng này thì có thể lưu thông kinh, tức là nghóa vâng giữ. Lại, một nghóa: “Về chỉ thú của kinh đã rốt ráo, tức là có thể lưu thông. Tuy nhiên, người lưu thông yếu chẳng phải đức thì không truyền. Nếu giáo tròn, lý đủ, rốt ráo của kinh, thì người có khả năng sinh hiểu biết tròn đủ trong lý, giáo của kinh, tự tu hành, gồm giáo hóa người, cuối cùng thành Chánh Giác, là nhân rốt ráo. Chính vì vậy, nên phẩm này đáp chung hai câu hỏi.” Pháp sư Trí Tú nói: “Kinh Nê-hoàn loại sáu quyển chép: “Bồ-tát hóa độ chúng sinh, nói pháp có bao nhiêu thứ?” kinh này nói: “Mong Đức Phật mở bày giáo pháp mầu nhiệm, thâm mật”, chỉ thú hỏi dù khác, mà lý được làm rõ là một, nên quyển sáu nói: “Giải thích về giải thoát xong là nói Bồ-tát thành tựu bốn pháp.” Pháp sư Đàm Tiên nói: “Quyển sáu nói, có Bồ-tát hóa độ chúng sinh, không nguyện Phật mở bày chỗ sâu kín, nhưng ở kinh này lại có nói mà không có hóa độ chúng sinh. Vậy cả hai kinh đều có thiếu sót. Nếu có đủ là vượt hơn. Từ đây cho đến khéo hiểu về nhân duyên xong, thì sẽ đáp nói pháp có mấy thứ. Từ các ví dụ như hoại y v.v… cho đến “Nói rộng về giải thoát, đáp câu hỏi về mở bày giáo sâu kín.” “Phật lại bảo Bồ-tát Ca-diếp: Này người thiện nam” cho đến “Bốn là khéo hiểu về nghóa nhân duyên.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chánh tha, nghóa làm sao cho người nhận lãnh kinh cũng được hiểu đồng với ta, có thể tùy người hỏi mà đáp, có thể giúp cho họ được tỏ ngộ, nên khó đáp mà đáp được. Có đủ cơ bản của ba việc nói trên là do khéo hiểu về nghóa nhân duyên. Đủ ba đức này mới lưu thông được kinh.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Sắp trao cho người lý cao siêu, thì trước, phải tự sửa cho đúng, đã tự sửa cho đúng rồi thì có khả năng làm cho đạo được đến khắp với người có duyên. Vì thế, nên đoạn thứ hai, nói về “Chánh tha” (sửa cho người khác đúng). Theo tác dụng vượt hơn trong môn “Chánh tha” chia ra thành bốn. Nói tự chánh nghóa là: Hạnh chánh: Đúng như luật mà thực hành. Giải thích: Xét, hiểu Phật là thường, Kim cương lại là vô thường. Trước hết, phải đủ các đức này, thì sẽ có khả năng hóa độ người khác.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Danh dù có bốn, nhưng lý không quá hai, nghóa là “Tự chánh” và “Chánh tha”, theo chánh tha, thì lìa hai pháp sau. Vì sao? Vì nếu làm cho không thể tùy hỏi mà đáp thì đối với việc hóa độ người ngoài, không thể thực hành, lại không nhận thức sáng suốt về căn tánh, tức là giảng nói không thích hợp với căn cơ, trình độ. Như thế là không có “Chánh tha”. Vì thế, y theo nghóa “Chánh tha”, chia ra hai tướng.” Pháp sư Trí Tú nói: “Phẩm này có ba đoạn: Nói về bốn đức trong nhân, chính là đáp câu hỏi. Nói về quả ngăn cấm bốn tướng. Nêu các giác bất liễu xưa, xin Phật hội thích rõ ràng thành bốn nghóa, tức mở bày các pháp sâu kín.” “Này người thiện nam! Thế nào là “Tự chánh”? Nếu Phật, Như lai đến “Giống như đống lửa. Đây gọi là Tự chánh”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân việc hiện tại để nói lên lời thề.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Có nhân duyên riêng, xuất xứ từ trong kinh Khô Thọ: “Phật dẫn Tỳ-kheo đến chỗ trống trải thấy bọng cây khô, liền hỏi Tỳ-kheo: “Thầy có ôm cây này được không? Tỳ-kheo đáp Bạch Đức Thế tôn không thể. Phật lại hỏi: “Nếu có người bắt buộc thầy, phải nói Phật là vô thường. Nếu không nói, thì phải ôm cây khổ này thì thầy chọn bên nào? Thầy Tỳ-kheo đáp: “Bạch Đức Thế tôn! Thà rằng con ôm đống lửa mà chết, còn hơn là ôm lấy cây khổ”. Chính trong lời nói này có đủ hai nghóa: “Tự chánh”, “Chánh tha”. Pháp sư Trí Tú nói: “Tự quán thân mình, là sinh ra tà kiến, thì phải từ thân khởi, nên bảo phải quán thân, cũng như đống lửa.” “Này người thiện nam! Thế nào là chánh tha? Một hôm Đức Phật đang nói pháp” cho đến “Vì Như lai nói đúng như thật, nên con rất vui mừng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Biểu thị rõ tướng “Chánh tha”, có thể giúp cho người khác thọ lãnh, vì được hiểu biết rõ. Lúc bấy giờ có người nữ, tức việc kia. Nếu trước không bỏ tâm rối loạn nhớ nghó đến đứa con, thì sẽ không ngộ được thuyết Thường, đó gọi là khéo sửa cho người khác đúng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong đây nói bốn tướng của Bồ-tát. Nay, chính là y theo Phật để làm rõ. Nghóa là sẽ nói về lý mầu của bốn tướng cùng cực chỉ có Bồ-tát là người rốt ráo. Chí giáo của Như lai, hợp với căn cơ, hễ giảng nói, thì có lợi ích, tức là “Chánh tha”, làm cho chánh pháp được mở rộng, nhiệm vụ của Đại só là vâng theo lời dạy đó. Một nghóa khác: “Muốn nói về lợi ích hóa độ, đường đi ấy tự có nhiều. Tự có pháp thuyết mà được hữu ích, nghóa là có cơ nghi, thì chỉ dùng thần thông để làm lợi ích: Trong đây nói chỉ dùng nói pháp thuyết.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Y theo văn này thì cũng có khả năng trả lời câu hỏi, khéo hiểu về nhân duyên. Vì sao? Vì có nói kia, tức là “Chánh tha”.” Vả lại giải thích về lý, chính là đáp theo câu hỏi. Nhận biết cơ duyên của chúng sinh, gieo được căn cơ thích nghi đó, tức là am hiểu về nhân duyên. Chưa biết người nữ này được thich hợp, là khi Đức Phật nói kinh Niết-bàn, mới đến. Không như vậy đã đến, ngồi sang một bên. Trước, trong tâm có một điều nghi, sau khởi một niệm Nghi là ngờ vực rằng, chẳng biết Đức Phật có phải là Đấng Trí nhất thiết hay không? Kế là nghi rằng phải chăng vì mình đã mớm cho con ăn nhiều chất bơ, không biết có tiêu hóa hay không? Vì ôm ấp hai điều nghi này, nên nàng nghe pháp không thâm nhập. Đức Phật biết được tâm niệm của nàng, nên mượn làm thí dụ.” Pháp sư Trí Tú nói: “Cũng là dẫn giáo thật xưa để làm rõ việc nay.” “Đức Thế tôn cũng thế vì muốn điều phục” cho đến “Đồng với ngoại đạo mà không chịu tin theo.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói pháp cho người nữ nghe, để chứng minh cho ý chỉ chánh tha.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đức Thế tôn như thế, đây là lời Phật nói.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cũng có thể là lời người nữ nói, cần gì gieo trồng gốc lành đời trước, vì hễ nghe thì liền tỏ ngộ?” Pháp sư Trí Tú nói: “Xét kỹ là lời nói của người nữ. Sau Đức Thế tôn, thì dẫn để so sánh rằng, đệ tử của Như lai cũng giống như thế.” “Phật dạy: Con ăn thức ăn ấy đã tiêu hóa tốt, nó sẽ được lớn khôn khỏe mạnh” cho đến “làm cho các đệ tử Như lai đều được nếm vị ngọt ngon.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sáu vị: Hữu vi có ba, vô vi có ba. Khổ vì đổi thay, vui vì tác dụng, như dấm có thể biến thành vị ngọt. Các pháp sở dó trôi nổi dời đổi là vì vô thường ép ngặt, cũng như vị muối có công năng làm cho cái không phải mặn thành ra vị mặn, nói vô ngã, vì không tự tại, nên trái với tình. Như vị đắng, con người không thích. Vui, lấy việc hài lòng làm nghóa. Cũng như người ưa thích vị ngọt. Ngã, là chế ngự tự do, vật không gây trở ngại, được như chung với vị cay phát ra. Lý thường lắng trong, một tướng không có khác, như vô phân biệt của vị lạt. Vì lửa tuệ của hiểu biết thường đốt cũi “hoặc” của tám đảo. Để nuôi lờn tuệ mạng, dụ là cơm.” “Phật lại bảo người nữ: Nếu có sự duyên” cho đến “Giao tạng bí mật vô thượng cho các Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói Đức Phật ở đời là “Chánh tha”, ở đây nói sau diệt độ là chánh tha. “Này người thiện nam! Nếu có chúng sinh nào cho rằng Phật là thường trú” cho đến “Tức là nhà người đó có Phật”, đó là “Chánh tha”. Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Điều lành dựa vào niềm tin để lập, lấy chữ tín làm nhà. Vì tâm lành này, mỗi niệm sở duyên chỉ ở thường trụ, cũng thường tồn tại trong nhà Tín kia.” Này Ca-diếp! “Thế nào là khả năng trả lời câu hỏi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phước cao quý là Đại, nghóa là phước không hao hụt của cải hơn phước hao tổn của cải. Thật là thí lớn, mà trả lời câu hỏi này. Nói về vị thấm nhuần, cái mà con người dung tục tham. Đến khi đối diện với việc đó, thì sẽ sinh ra ý niệm dày, mỏng, mà có thể tự ức chế không thọ nhận, dứt tham, tu giới, nuôi lớn pháp thân. Vì dùng của cải thanh tịnh, nên thí chủ không hao tổn tài sản của mình, là công đức lớn. Nếu không ức chế mà thọ lãnh, sinh tham, phá giới, thêm lớn sinh tử, của cải sử dùng bất tịnh, nên thí chủ đã phải hao tốn của cải nhiều mà công đức thí ít ỏi. Vấn đề này thật khó đáp mà đáp được.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Không thấy việc đáng mong muốn, tâm mình không tán loạn thì dễ, còn thấy thì khó”. Nay ban cho cái đáng mong muốn mà tâm mình không tiêm nhiễm, đây là nhân giữ cho điều mình mong muốn, nên không có lòng mong muốn? Đó là lý do thí pháp, là vì phí tổn một mảy may, trong khi lợi ích của pháp thí thì thật rộng lớn. Ban cho danh được truyền đi khắp, mà nghóa thì vẫn còn mãi ở đây.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nói về “Tự chánh” “Chánh tha”, lý thì đều cùng tận, chính vì trong sự hóa độ người ngoài, trái với lo nghó thường, điều mà con người không thấu suốt, thì phải biết đó là. Cho của cải là dễ, cho người tiếng tốt là khó. Nay, y theo tiếng tốt để giải thích. Vì sao? Vì các người giữ giới, ít muốn, biết đủ, mà với bản ý của thí chủ này thì vì làm danh người này sao cho đức không ở chỗ bỏ của. Vì thế ban cho không nhận ở giữa người đông, chúng rộng, người kia đã không nhận, lấy mọi người để so sánh, đây tức là người không nhận của cải, thì tiếng khen ít muốn biết đủ sẽ được sáng tỏ. “Người cho có thể bỏ danh, đại thí rõ rệt.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây sẽ nói về nghóa có năm phần: Giải thích đúng về tướng trả lời câu hỏi. Nhân việc thỉnh Phật đặt ra giới cấm ăn thịt. Dẫn giáo thật xưa để thưa hỏi. Chỉ nêu sự sái quấy ở vị lai, nhằm lập ra pháp chế về cấm ăn thịt. Thưa hỏi Phật về pháp thanh tịnh.” “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn! Người ăn thịt không nên cho họ thịt.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Cho còn không nên, huống chi đích thân ăn thịt ư? Nếu Đức Phật không cấm ăn thịt, thì nhân nào dẫn đến tuổi thọ lâu dài?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người không ăn thịt là người có đức Đại từ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Do xưa đã nói, thế nghóa cùng cực ở đây, quý ở chỗ nói về nghóa mà thôi.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cho nên ngày nay, nói về pháp chế không ăn thịt, là vì chúng sinh đời xưa, đã quen với sự tanh hôi, nhơ nhớp, từ lâu đã không được cấm hẳn. Đến kinh giáo hiện nay, lòng người đã thuần thục, nhận thức được lý lẽ rõ ràng, biết được thứ nhơ nhớp hôi tanh này, tự nhiên phải bỏ dần. Chính vì lý do đó, nên thời buổi hiện nay, cữ ăn thịt, việc đó phải chấp hành. Nhân ở trên đã nói, nên nói rằng, người ăn thịt còn không nên thí thịt cho họ, huống chi người không ăn mà phải thí thịt cho ư? Vì người đã không ăn thịt, có công đức lớn.” Pháp sư Trí Tú nói: “Ý muốn thỉnh Phật chế giới. Cho nên nhân theo dẫn ý chỉ của lời Phật đáp ở trước, bèn nói “Đã thấy”, nghóa là cho người thịt, không phải là điều nên làm.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây giải thích lý do không nên cho. Nếu người không ăn thịt, sẽ được công đức lớn, chẳng lẽ không chế giới không nên cho thịt ư?” “Vì sao con thấy người không ăn thịt” cho đến “Bồ-tát hộ pháp phải như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nay, nói tuổi thọ lâu dài, Từ là nhân sống lâu, điều tổn hại từ phải dứt, vì nói được thời gian đó là khéo biết ý Như lai.” “Này người thiện nam! Bắt đầu từ nay trở đi, Như lai sẽ không cho phép các đệ tử Thanh văn ăn thịt.” Minh Tuấn nói: “Trên nói nhân thường trụ, nghóa là dùng đại bi trao cho giới không giết hại, mà hiện nay vẫn còn ăn thịt, tức là chính mình có hành động làm tổn thương lòng từ, trong khi đó, lại muốn răn người khác vì không giết hại, thật không có tâm trơ trẽn ư? Giới là gốc của các đức, từ là rễ của muôn hạnh. Nếu chặt gốc, sẽ hại đến rễ, liệu nhánh nhóc có được an ổn tồn tại không?” Pháp sư Trí Tú nói: “Phép đặt ra kiêng ăn thịt được bắt đầu từ ý chỉ này. Về nghóa “Không cho phép”, đâu riêng gì người Thanh văn. Do đó suy ra Bồ-tát xưa nay vốn không ăn thịt.” “Nếu đàn-việt đem thịt đến dâng cúng, thì phải xem thịt ấy như thịt con mình.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Ăn thức ăn khác còn như vậy, huống chi là ăn thịt ư? Xem như thịt con mình: Có nhân duyên riêng đề cập ở kinh khác.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn! Vì sao Đức Như lai không cho phép ăn thịt?” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Xin được nghe về những tai hại của việc ăn thịt.” “Này người thiện nam! Nói về người ăn thịt, thì dứt mất hạt giống đại từ.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Thêm vị đậm đà, chớ nên ăn thịt nhiều. Nếu ăn thịt một cách đậm đà, thì sẽ quên lòng thương xót, sự rộng lớn của lòng thương xót, nói là hạt giống của đại từ, hạt giống đại từ đã bị hư thì lý sống lâu cũng dứt.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Giết hại, làm tổn thương tâm đại từ, còn ăn thịt làm hại tâm tiểu Từ. Vì nhờ tiểu mà được đại, nên tiểu từ là hạt giống của tâm đại từ. Lại, giải thích: “Quả là Đại từ, nhân là tiểu từ. Đây là nhân từ làm hạt giống cho quả từ. Nay, vì đã ăn thịt là trái với từ của nhân địa, nên nói dứt hết hạt giống từ.” Pháp sư Tuệ Đản: “Ăn thịt, che lấp mạng sống, nhóm góp dày dạn tâm tiểu từ của gốc lành, đâu có công năng phát sinh chủng tánh đại từ ư?” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn! Vì sao” cho đến “Nên biết chính là nghóa kiêng ăn thịt ở đây.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu từ là gốc của sống lâu, ăn thịt là hại từ, nghóa là trước kia Đức Phật cho phép ăn ba thứ tịnh nhục, đó là trừ thấy, nghe, nghi. Mười thứ bất tịnh: Về sau có thành lập số. Chín thứ gồm: Không thấy có ba, nghóa là tỏ vẻ vui mứng trước khi chưa ăn. Ngay khi ăn, ăn xong cũng vui mừng. Không nghe, không nghi mỗi thứ đều có ba cũng như vậy.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ba thứ, mười thứ, chín thứ đều dẫn đến pháp chế xưa. Ba thứ là thấy nghe, nghi. Mười thứ: Thì dưới đây có lập văn. Chín thứ thọ: Ngày xưa, một hôm Đức Phật dạy: “Ngoài thấy, nghe, nghi thì cho phép ăn. Lúc đó, dù ngăn cấm mà tổn hại mạng cũng nhiều, nên lớp thứ hai, Đức Phật lập pháp chế trừ ngoài mười thứ, lìa thấy nghe, nghi thì cho phép ăn”. Dù vậy, nhưng vì sự tổn thương vẫn còn nhiều, nên lớp thứ ba, có phần rõ ràng hơn: Trước kia có ba việc đều có phương tiện trước, sau. Mỗi sự có ba hợp thành chín. Trong thấy có ba: Khi thấy dứt mạng, lúc thấy lôi kéo đi, sau khi thấy giết, người giết mổ cắt chặt. Trong nghe có ba: Lúc nghe nói giết, khi nghe nói lôi kéo đi, lúc nghe nói người hàng thịt giết mổ. Nghi có ba: Cũng không lìa thấy nghe. Nghi: “Chẳng biết là ta giết hay người khác giết? Thậm chí phương tiện trước, sau cũng nghi.” Lại, giải thích về nghi: “Như trước kia ăn thịt ở nhà đó, nay, ăn ở nhà này, trong ý sinh nghi rằng chẳng biết, có phải là thịt trước kia hay không. Cũng không được ăn? Như tìm cách trước sau sinh nghi, đều không được ăn. Trong nghe sinh nghi, cũng giống như trước, chỉ khác nhau ở việc thấy, nghe, đều được chia làm ba, nên thành sáu. Sự nghi ngờ giữa hai nhà không còn phân biệt nữa, vì đồng là một nghi. Nay, giáo thường đã hưng thịnh, tất cả đều dứt. Đây tức là loại bỏ việc trì trệ được thực thi dần dần, không thể làm ngay được. Lại một nghóa: “Về quả thường phải là việc thực hành ở chỗ bố thí thân mạng, phải dứt ngay một cách sáng suốt.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật:” cho đến “Vì sao Như lai lại khen cá, thịt là món ăn ngon?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dựa theo tình người mà nói, thì vị bổ dưỡng cho thân thể rất đặc biệt chú nặng một cách đậm đà, còn về việc sửa sang tốt đẹp lại xem nhẹ. Xem nhẹ mà còn ngăn cấm, huống chi là nặng ư?” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật: Nếu Như lai chế” cho đến “Nhưng các vật dụng… như thế, cũng không nên dùng?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu vì đắm nhiễm các vật dụng v.v… trên, cũng không nên dùng.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nếu vì phước của Đại từ nên không ăn thịt, thì các vị sữa bơ…, kể cả dép da cũng không nên dùng. Nếu vì mặc áo, tất nhiên là hoại sắc, tiêu biểu cho không tham, thì những vật quý báu vàng bạc… cũng không nên thọ dụng?” Phật dạy: “Này người thiện nam! Ông không nên có kiến chấp đồng với bọn ngoại đạo Ni-kiền Tử lõa thể kia” cho đến “Bao nhiêu giới cấm của Như lai đã chế ra đều có ý khác.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Không có ham muốn mục đích ở chỗ sợ tổn hại hữu tình, đâu được đồng với kiến chấp lạ lùng kia, lấy việc lỏa thể làm hành đạo, dùng việc chống đối để dứt tâm dục vọng ư?” “Vì ý khác, nên cho phép ăn ba thứ tịnh nhục” cho đến “Cấm tất cả các thứ thịt đều không được ăn, dù là thịt con vật tự chết.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Bệnh có hai thứ, đó là từ ý, từ tưởng. Thỏa lòng rồi dừng lại, nói là xuất phát từ ý. Còn lòng tham không đáy, gọi là từ tưởng. Vì thế, nên ngăn cấm nhỏ làm hao hụt ý kia. Đều cấm ngăn, tổn hại tư tưởng kia.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dứt trừ ý tham kia, là thêm lớn lòng từ nọ.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói về dễ được, nghóa là gặp gỡ, nhìn thấy mà sinh ý. Khó được nghóa là thường nghó tưởng mà ham muốn. Vì thế, nên Đức Phật cho ăn ba thứ tịnh nhục. Ý của ba thứ bất tịnh nhục tự chúng cũng tiêu tan mất. Mà ba thứ tịnh, nghóa là vì khó được, nên tưởng mà mong muốn. Kế là, trong mười thứ kiêng có ba thứ tịnh, lại không được ăn, vì ở mười tưởng kiêng cử chỉ tưởng ba thứ tịnh ngoài mười thứ, nghóa là vì càng khó được, nên tưởng càng sâu. Nay, vì đều cấm, nên hầu hết các tưởng đều không có chỗ sinh ra nữa, nên tất cả tưởng đều dứt.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu làm cho công cụ cấp dưỡng thân mà gây nên tổn hại trong nhiều lónh vực, thì Đức Phật nghiêm cấm hẳn. Nếu đối với việc, áp dụng tiểu chế còn thưa thớt thì Đức Phật sẽ khai cho. Chúng sinh có quả báo luống dối, phải được thấm nhuần, nếu hoàn toàn cấm ngay thì thần của họ sẽ không lập.” Pháp sư Trí Tú nói: “Tưởng khác, ý khác, là ngôn từ lẫn nhau. Nói “Khác” là ý xấu ác kia.” “Này người thiện nam! Kể từ hôm nay, Như lai cấm các đệ tử không được ăn tất cả thứ thịt.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Kết ngăn cấm.” “Này người thiện nam! Người ăn thịt, hoặc đi, đứng” cho đến “Nghe hơi thịt kia đều sinh kinh sợ.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Dùng sự để thấy lý”. “Ví như có người ở gần sư tử” cho đến “Cũng không nhìn thấy, huống chi phải ở gần.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Lấy người ăn làm thí dụ.” “Những người ăn thịt cũng vậy” cho đến “Thảy đều sợ hãi, nghó sợ cái chết.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Con người không có tâm hại thú, thú cũng không hại người. Vì cho nên tìm thứ xương thịt vụn mà cọp đã bỏ rơi rớt lại trong núi, với thứ cá mà cò đã làm rơi khi bay liệng trên biển. Nếu đã ăn thứ thịt đó thì chẳng lẽ hại tâm mà diệt hẳn ư? Đã nghe mùi thịt bị giết chết thì nghó sợ cái chết.” “Các loài cá trạnh, muông thú và chim chóc đều bỏ chạy, tránh xa, chúng đều nghó rằng, người ấy là kẻ làm hại chúng ta.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Nếu vì lòng nhân, thương xót chưa được trọn vẹn, thì sẽ lẫn tránh. Cho nên biết không ăn thịt, cho đến “Không còn ăn các thức ăn thanh tịnh, huống chi là ăn thịt.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Dẫn hạnh của bậc Địa só, khen không ăn thịt, thật đáng quý.” “Này người thiện nam! Sau khi Như lai nhập Niết-bàn, các bậc só quả Thánh” cho đến “Nên nói người ấy thật là đệ tử Như lai.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Nêu việc ác trong đời Mạt pháp. Nếu có người xuất gia xa lìa được những việc xấu ác này thì người đó quả thật là đệ tử Như lai.” “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật:” cho đến “Đều không được ăn: Người ăn thịt thì mắc tội.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Vì thỉnh pháp được ăn.” “Nay Như lai tuyên bố pháp chế cấm ăn thịt này” cho đến “Đây chính là khả năng hễ hỏi liền đáp. Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Kết thúc các đoạn vừa nêu trên.” “Này người thiện nam! Thế nào là khéo hiểu nghóa nhân duyên?” cho đến “Thế nào là Ba-la-đề-mộc-xoa?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giới là thời đến thì chế, không đến thì không chế nghóa là khéo hiểu về nghóa nhân duyên. Thế nào là đọa? Cho đến Ba-la-đề-mộc-xoa? Đọa là phạm tội. Luật là tên gọi nhẹ, nặng. Mộc-xoa là danh nghóa của giới, cũng gọi tri túc, giải thoát. Sao không gọi là Pháp môn? Nghóa là nếu: Trì” thì sẽ được giải thoát các đau khổ, phạm thì sẽ rơi vào đường ác. Nên sớm đặt ra giới để biết nhẹ, nặng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu muốn “Chánh tha”, thì trước phải hiểu biết tường tận. Nếu không thấu suốt căn tánh, thì trái lại, gây phiền lụy cho căn tánh đó, chẳng phải cho rằng đem lại lợi ích cho chúng sinh. Trong văn “Chánh tha” ở trên, cũng nói “Tiêu tức vật, tình”, có khả năng, tức là có thể nói, chẳng khác với văn này. Nói chung, thật sự chẳng phải “Chánh tha”. Trước lược chỉ nêu một việc. Nhân đối với người nữ, nhờ nói về tướng “Chánh tha”. Sao không trước vì vua Ba-tư- nặc nói pháp môn này? Quốc chủ vốn biết phép vua, ngày đêm dù khác nhau, nhưng về diệt trừ tai hại thì đồng. Cho nên Đức Phật cho biết sơ lược về tướng giới. Nước vua Ba-tư-nặc quy định: Trộm đến năm quan tiền thì bị tội tử hình. Người xuất gia phạm tội trộm thì bị đuổi ra khỏi chúng. Còn nói về tội, thường can dự với quốc chủ, nay, hỏi: “Sao không nói ngay về lý rất sâu của kinh, luật ư?” Trong đây dù có năm câu, nhưng đại ý không quá hai: Đầu tiên là hỏi: “Sao Đức Phật không chế giới ngay? Câu thứ hai, hỏi về tướng giới luật. Đôi khi nói là sâu, nghóa là giáo xưa cũng có sâu, cạn. Như mười điều lành, năm giới là cạn, bốn Đế, mười hai nhân duyên là sâu. Nếu so sánh giới hiện nay với giáo xưa thì nói chung là sâu. Đức Phật mới ra đời, không nói pháp ngay, nghóa là ứng có nhân duyên. Hoặc gọi là phạm, không phạm, nghóa là xưa, Đức Phật đặt ra pháp chế chung: “Các việc ác chớ làm!” Đã không có văn kết tội, thì không nói là phạm. Và do việc mà chế giới riêng, thì nói là phạm. Thế nào gọi là đọa? Ba pháp này hỏi chung về sự trái hay không? Trái gọi là đọa, không trái thì gọi là Luật. Thế nào gọi là Mộc-xoa? Là hỏi riêng về giới thể. Trong đây, lại nói về Mộc-xoa: Trước kia nói về giới thể, vì giới thể đó quan hệ với luật, e người hiểu lầm, nên lại phân biệt, lấy việc xa lìa bất thiện của thân, miệng, ý, tức là giới thể, còn luật thì vì lấy việc ngăn dứt oai nghi bên ngoài và chế ra thiên chương. Vì muốn phân biệt hai pháp khác nhau, nên lại nêu ra.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Năm câu hỏi là: Hỏi: “Sao Đức Phật không nói ngay kinh giáo, mà lại nói có cạn, sâu ứ? “Sao không chế giới trước mà khi có người phạm rồi Phật mới chế?” Hỏi về Đọa: Nói khác với “Thiên” thứ ba xưa là nói chung năm thiên, bảy nhóm đều là quả báo của Đọa. Hỏi về luật. Luật vốn lý giải, cân nhắc, về tội nhẹ nặng, tức là giải thích về sự của Đọa trước kia. Hỏi về Ba-la-đề-mộc-xoa, nghóa là hỏi về giới “Vô tác”.” Pháp sư Trí Tú nói: “Có bốn câu hỏi: Hỏi: “Sao Đức Phật không nói ngay kinh, luật?” Ba câu hỏi sau chẳng khác với cách giải thích trước. Pháp sư Tuệ Lãng nói: Luật nói giống nhau.” “Phật dạy: Ba-la-đề-mộc-xoa” cho đến “Chẳng cất chứa cũng gọi là tịnh mạng.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu nói về giới thể, tức là “Vô tác”. Nếu nói về nghóa của giới thì gọi là sự rốt ráo. Nói là biết đủ, không phải giải thích đúng về danh nghóa Mộc-xoa, mà là y theo công dụng của tâm, để nói về giới. Pháp của Thanh văn lấy ít muốn làm nghiệp. Nếu vâng theo ít muốn thì sẽ được thọ “Vô tác”, thêm lớn suốt ngày đêm, nên nêu ít muốn để nói về giới.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vô tác” vốn là pháp ngu, chẳng phải tánh hiểu biết, đâu thể dứt điều ác để nay được gọi là dứt ư? Có ba nghóa: Từ nhân mà đặt tên. Trong duyên được tên. Trong nhân nói quả. Từ nhân mà được tên, nghóa là do tâm dứt điều ác, mà phát ra. Vì pháp này đã sinh ra từ dứt việc ác, nên nói “Vô tác” là ngưng dứt việc ác. Được tên từ trong duyên: Tức đã được giới này, ngăn dứt ở trong tâm, vì không làm các điều ác, nên nói là được tên từ trong duyên. Nói quả trong nhân, do giữ giới này, mà tâm được vắng lặng. Vì vắng lặng nên nhận rõ chân lý, được thành vô lậu, dứt các trói buộc, gọi là bậc Thánh giải thoát, nên nói “Vô tác” dứt ác.” “Đọa, là gọi bốn đường ác” cho đến “Vì các nghóa này nên gọi là Đọa.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Có ba chỗ nói là Đọa. Hai chỗ trước là chỗ chịu tội, còn chỗ sau là nói đường ác kia phải đọa.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ba lớp trong đây nói về Đọa: Lớp đầu nói chung về nhẹ, nặng. Kế là, nói riêng về nặng, sau đến nhân để nói về đọa.” “Ba-la-đề-mộc-xoa, nghóa là lìa nghiệp tà bất thiện của thân, miệng ý.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại, người nói giới, trước kia nói là người thuyết giới. Về sau, y theo giới để nói về thể của giới.” “Luật, nghóa là nhập vào nghóa thiện của kinh sâu mầu, giới, oai nghi” cho đến “Nhân duyên bất tịnh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhập, là từ. Phân tích tội nhẹ, nặng, làm chướng đạo sâu cạn. Nghóa thiện của kinh sâu sắc và nhân duyên bất tịnh, nghóa là thể đã không phải tịnh, thì có thể tạo ra bất tịnh, như ăn phi thời…, đều nên ngăn dứt.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là giải thích về chữ Luật. Văn năm bộ luật là do giới kinh đã nói, ẩn tế thành sâu sắc, không trái với ý chỉ chế ra giới cấm. Vì thân miệng đúng như pháp, nên nói “Nhập”, vì trái với ác, nên nói nghóa thiện, ngăn dứt thọ bất tịnh, trăm vật bất tịnh.” “Cũng ngăn bốn tội nặng, mười ba tội tăng tàn” cho đến “Rất nhiều pháp học, bảy pháp diệt tránh v.v… .” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói đều bẩm thừa chỉ thú của luật.” “Hoặc có người còn phá tất cả giới” cho đến “Bảy pháp diệt tránh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giới có hai thứ: Một là thọ giới; hai là chế giới. Đức Phật mới thành đạo, Ngài chỉ nói: “Thiện lai Tỳ- kheo” là đã thọ được giới, chưa có chế giới, vì không biết phạm, khoa mục nhẹ, nặng, tất cả đều phá.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu phạm, không phạm trước kia. Trước nói chế chung là ngầm sinh khởi các điều ác. Nếu Đức Phật chế giới ngay thì tâm tình chúng sinh, sẽ không chấp nhận. Cho nên Đức Như lai đầu tiên chế ra: “Các việc ác chớ làm.” Phân tích việc ác nặng kia, sau đó do việc mà chế giới.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là đáp câu hỏi đầu, nói lý do vì sao Đức Phật không chế giới ngay, nghóa là do người nghe không tin, thì sẽ bị chê bai: Từ câu: “Bấy giờ, có người thiện nam” v.v.. trở xuống, là giải thích ý không được chế giới ngay, chính là khởi lên một câu hỏi.” “Đôi khi có người chê bai chánh pháp” cho đến “Dần dần chế giới, không được chế cùng lúc.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tất cả tướng, nghóa là tất cả tướng ác. Che giấu là không đối trước người trí để tự phát lộ, là nói về tình, đã không biết phạm, làm sao biết phát lộ. Nói về sự thì vì che giấu mà thôi, không ăn năn cũng vậy. “Chế giới dần dần, nghóa là nói về tướng nhẹ, nặng của bảy thiên.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu hỏi đầu. Nói căn cơ của con người cạn, hẹp, chưa có khả năng tiếp thu giáo pháp sâu sắc. Nếu nói ngay, sẽ càng nặng thêm chứng bệnh của họ, cho đến xiển-đề. Cùng tận tất cả tướng, là dứt tướng gốc lành. Không có nhân duyên, nghóa là nhân duyên không thể cứu giúp, cũng có thể tức là chấp tất cả đều không có nhân duyên, nên càng thêm tản mạn, nghóa là chướng ngấm ngầm chê bai sâu sắc.” “Bấy giờ, có người thiện nam, thiện nữ” cho đến “Vì vậy, thỉnh Phật nên chế giới trước.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đến phương khác, nghóa là ở sinh tử mà cầu ra khỏi, vì người khác, phi pháp phá giới là mê lầm. Không thấy có người đáng hỏi là sai quấy, nghóa là chẳng biết phạm, không phạm. Công đức tăng thượng của mười điều lành có năm phẩm. Mười điều lành phẩm hạ là trời, người, phẩm trung là Thanh văn, phẩm thượng là Duyên giác. Phẩm trung thượng là Bồ-tát, phẩm thượng thượng là Phật, chứng tỏ Đức Phật đã biết đạo.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý chỉ giới không được chế ngay, còn chưa thể nói nay lại nêu một câu hỏi. Đáp: “Đức Như lai cũng đã biết việc này, như Tu-đề-na ngày mai lẽ ra sẽ phạm, sao hôm nay không chế giới trước? Pháp có chế, thì sẽ không phạm, đã không thì không rơi vào đường ác, nên nói “Nên chế giới trước.” “Phật nói: Này người thiện nam! Nếu nói Như lai” cho đến “Muốn cho chúng sinh, vào địa ngục?!” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Trước nêu lời hỏi trước kia. Có một dạo nọ ngăn dứt rằng: “Không được nêu lên câu hỏi này.” “Như lai thấy một người có nhân duyên đọa vào địa ngục?” A-tỳ tưởng như con sẽ khiến vào địa ngục. Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Kế là nói đức đại bi của Phật có đức xót thương cứu giúp.” “Này người thiện nam! Như trong nước vua có người mặc nạp y” cho đến “Như lai liền dùng giới thiện để vá lại cho.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Áo để che đậy chỗ xấu, như giới che lấp điều xấu ác. Đó năm lớp, bốn lớp dù rách mà lậu chưa chảy ra thì không được vá ngược, lâu chảy ra thì vá. Chính vì cho nên Tôn giả Xá-lợi-phất thỉnh Phật chế giới, Phật nói: “Vì lậu chưa phát ra, nên không chế được”. Về sau, có vị Tỳ-kheo vì bị cơn đói ép ngặt, nên đi khất thực vào ban đêm. Một người phụ nữ mang thai trong thấy, cho là quỷ, quá sợ hãi nên té và bị sẩy thai. Việc này khiến cho người đời chê bai, ngờ vực”. Vì pháp hữu lậu đã phát ra, nên Đức Phật mới chế giới.” Pháp sư Trí Tú nói: “Kế là lập hai ví dụ chính là đáp câu hỏi: Ví dụ trước trực tiếp nói vì cấm điều xấu ác khởi, sau đó mới dùng việc lành để bù đắp lại, sửa chữa lại cho tốt.” “Này người thiện nam! Ví như vua Chuyển luân thánh vương” cho đến “Sau đó, toàn dân đều nhất trí tự chấp hành pháp lệnh của nhà vua.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Ví dụ thứ hai ở đây chứng tỏ lý do mà Đức Phật với ý định chế giới chung lúc đầu và chế giới riêng về sau.” “Này người thiện nam! Cũng vậy, Như lai” cho đến “Nghóa nhân duyên trong Đại Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Song hợp hai thí dụ.” “Lại nữa, “Tự chánh”, cái gọi là được” cho đến “Tức không khác với Đại Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là y cứ riêng về quả. Sắp nói nhân thời gian thực hành giáo hóa, với đủ bốn đức, chung quy, chúng sinh đều được qua đến bến bờ kia. Đó là con người rốt ráo đã được tiến đến quả Phật. Lại, do hóa độ con người, nên biết được bốn đức đã đủ, nói lưu thông là ở đây không lầm. Vì thế, nên chỉ nêu quả với niềm tin mới có thưa hỏi, sao cho tất cả mọi người đều kính mến phép tắc trước kia với lòng mong mỏi được tu tập. <篇> <卷>QUYỂN 12 <詞>Phẩm 7: BỐN TƯỚNG, (Phần 2) Giải thích ý nghóa Niết-bàn Hữu dư, Vô dư. Mở bày sự không thể suy nghó bàn luận của “Thân mật”. “Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: Nếu có người thiện nam, thiện nữ nói thế này: “Như lai vô thường.”” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây bắt đầu đáp câu hỏi thứ năm. Đức Phật chỉ bày “Khẩu mật xưa, lược thành năm câu hỏi: Câu hỏi thứ tư, thứ năm, là nêu Niết-bàn Vô dư, thứ nhất, thứ hai, thứ ba, chỉ nêu Niết-bàn Hữu dư.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trên đây đã nói về thường trụ đã rõ. Từ dưới đây, Đức Như lai không có mật tạng, mở bày Mật giáo vô thường xưa và “Thân mật”. Xin Phật mở bày chỗ sâu kín, chính là câu này.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đức Phật đáp, mở bày, gạn hỏi. Ở trên dù đã nói về Bát-nhã pháp thân, khác với Niết-bàn xưa, nhưng chưa gội sạch giáo xưa. Nay, nói về diệt riêng là “Quyền”, chẳng phải Thật”. Mở bày giáo sâu kín, chính là phương tiện mở rộng lời nói. Dưới đây, các “Giác Hoa”, là nói cung vua không phải thật sinh, Song thọ chẳng phải thật diệt.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tức là bắt đầu của văn rộng, mở bày đầu mối của sâu kín, là nói về dụng của quả, hiển dương sáng tỏ pháp thân, Bát-nhã và giải thoát. Nay, trước là nói rộng về khẩu mật, nhằm nói về trí tuệ.” “Phải biết thế nào là vô thường?” cho đến “Là pháp thường trụ không biến đổi ư?” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Dẫn giáo xưa đã nói chỗ phiền não dứt hết là Niết-bàn Hữu dư. Diệt hết vô vi, cuối cùng còn có pháp nào để gọi là Thường ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Với các câu hỏi trong đây, mà người giải thích khác nhau, vừa bốn, vừa năm, đều không có đối tượng tồn tại, đều là chấp hữu dư, vô dư, chỉ cốt làm rõ cho nghóa dứt mất không còn mà thôi! Tuy nhiên, về ý câu hỏi chỉ giới hạn với ngang lời nói sinh hiểu biết, tất nhiên không thể chấp sâu ý Phật!” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây ra bốn câu hỏi; thứ nhất và thứ ba dẫn hữu dư để hỏi, đây là câu hỏi thứ nhất. Ngày xưa, chỉ cho phiền não không có chỗ làm ra Niết-bàn, thật ra không có vật mà thôi. Nếu vậy thì còn có gì thường trụ?” “Như Phật dạy: “Lìa các cõi” cho đến “Là pháp thường trụ không biến đổi ư?” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Y theo giáo xưa, thì thân Phật dứt hết Niết-bàn Vô dư. Nếu thân, trí đều diệt hết thì cái gì là Thường trụ ư?” Minh Tuấn nói: “Nếu đặt ra năm câu hỏi, thì ví dụ áo hoại sắc này là vấn đề thứ ba.” “Như Phật dạy: “Lìa dục vắng lặng” cho đến “Là pháp thường trụ không biến đổi ư? Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây lại là kiết sử hết, là Niết-bàn hữu dư. Chỉ dẫn ví dụ xưa của Phật, tuy khác lời mà ý chỉ thì đồng.” Minh Tuấn nói: “Y theo Niết-bàn Hữu dư, Vô dư này để đặt ra câu hỏi. Đại khái có năm phần: Đức Phật tự dẫn giáo xưa, dùng làm câu hỏi nay. Bồ-tát Ca-diếp lại nêu hai câu hỏi. Đức Phật đáp. Kết thúc chỉ thú trên. Bồ-tát Ca-diếp nhận lấy hiểu biết. Y theo lượt thứ nhất, có bốn thứ bậc: Dẫn giáo xưa. Đức Phật răn Bồ-tát Ca-diếp. Giải thích lãnh hội chỉ thú xưa. Chỉ nêu pháp thường làm chứng, đây là lớp thứ nhất, dẫn ra giáo xưa.” “Này người thiện nam! Nếu có người nào hỏi như vậy” cho đến “rằng tánh Như lai là diệt tận.” Minh Tuấn nói: “Lớp thứ hai. Một dạo, trước chẳng phải điều mà người khác đã chấp, mà là khuyên răn Bồ-tát Ca-diếp.” “Này người thiện nam! Dứt hết phiền não không gọi là chúng sanh ” cho đến “Câu này vắng lặng không có gì hơn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đáp câu hỏi hữu dư của lớp thứ nhất, thứ ba, thứ tư. Giải thích phiền não hữu dư, khởi tạo không vắng lặng. Diệt phiền não là tónh, nhân diệt của hữu dư.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Đức Phật đáp câu hỏi thứ nhất, thứ ba về chỉ thú hữu dư. Hai câu này kết thúc hết vô vi vắng lặng, vẫn được thường trụ, huống chi là pháp thân mà không thường trụ hay sao?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp ba lượt hỏi về hữu dư, nói không gọi là chúng sanh, nghóa là chẳng phải vật trong hữu vi. Vì nói theo thời gian tướng che lấp thì “Phiền não dứt hết”, với ngụ ý là vật ở trong chẳng phải sinh tử, mà ông đã lầm ý Phật, rồi cho là đều dứt hết. Nhưng pháp thân thường còn đâu có diệt? Trong đây, “Vì sao?” là giải thích trước kia Phật đã nói: “Không gọi là thưa hỏi.” Nói rốt ráo mãi mãi, nghóa là chẳng có “Hoặc” nào không dứt, cho nên công dụng của đạo đối trị đã thôi dứt, câu này vắng lặng, nghóa là trước kia đã giải thích “Có” mà là thường. Nay, lại nêu câu diệt phiền não trên, tức là vắng lặng chân thật. Minh Tuấn nói: “Dưới đây là hợp giải thích thứ ba về chỉ thú của giáo xưa.” “Dứt hết các tướng không có dư, sót” cho đến “Như lai cũng, thường trụ không thay đổi như vậy .” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là tướng hữu vi, giải thích về lượt hỏi thứ hai, thứ năm. Lại nữa, câu này tươi trắng: Hữu vi là vết nhơ, vì dứt hết nên là tươi. Được là quả diệt tận của vô dư.” Pháp sư Pháp Dao nói: Đức Phật đáp câu hỏi thứ hai về thân đều vô dư. Thân đều vô vi cũng được là thường, huống chi Pháp thân Như lai thường còn bất diệt ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vô dư, nghóa là sinh tử dứt hết, đâu được tiếp nối lời nói lìa “Có” xưa, nên nói là diệt hết ư? Chỉ giáo xưa vì chúng sinh tâm chán khổ, sâu thành ra Đức Phật mới thị hiện dấu vết có diệt khổ đó thôi!” Lại, một nghóa: “Chúng sinh có bệnh chấp ngã, không được nói chân ngã. Lời nói ẩn giáu mà lý rõ ràng, nghóa thường mầu nhiệm làm sao diệt? Câu này trắng tươi: Nghóa là đã dứt hẳn các hữu lậu, cho nên trắng tươi. Người ba thừa vẫn còn có địa đã trụ trong vô thường, do đó không được gọi là vẻ đẹp trắng tươi. Chỉ cho pháp thân Phật chân chánh không có ô nhiễm cho nên trắng tươi.” “Nói mạt lửa là để dụ cho phiền não” cho đến “Là pháp thường trụ không thay đổi.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đáp câu hỏi vô dư thứ tư.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đức Phật đã đáp câu hỏi xong lại giải thích thí dụ.” Phật nói: “Này người thiện nam! Chánh pháp là thầy của Chư Phật” cho đến “Vì pháp là thường trụ, nên Chư Phật cũng thường trụ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì diệt là phương cách dứt khổ, nên gọi là thầy. Ở trên nói Niết-bàn là Thường, cho nên Phật là Thường, nhưng vì chưa nói lý do vì sao Niết-bàn là Thường, nên phải nói lại.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên đã nói là giáo của Đức Phật. Đây là y theo lý để giải thích, bởi vì thầy là thường, tròn đầy cùng cực. Lý này thật trong sáng, nhưng vì ẩn hiển nên khác. Và con người gặp lúc, không phải mới bắt đầu. Con người đã giữ vững pháp, pháp đã là thường, thì chẳng lẽ con người há vô thường ư?” Minh Tuấn xét: “Đây là bậc thềm thứ tư, chỉ nêu pháp của thầy để làm chứng.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật” rằng cho đến “Như lai cũng diệt như mà không có đến đâu!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp lấy ý thí dụ, khác với ví dụ trước về thừa, để làm lời hỏi.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Lại hỏi hai câu hữu dư. Trước kia Đức Phật đáp: “Nói kiết dứt hết, vô vi là thường, Như lai cũng thường.” Lại giống như Như lai với phiền não đều dứt hết, sau đó là thường, nên có lời hỏi này.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Tình người chưa hiểu, lại chấp ví dụ tấm sắt. Câu trước đã nêu mạt sắt văng tung tóe, hơi nóng và màu lửa đỏ, khi đã tắt chẳng biết chúng sẽ văng về đâu. Quả như đã thí dụ, Như lai lẽ ra là “Không”, vì Như lai là người là pháp phiền não. Cả hai người pháp đều là không, đều đồng với ví dụ thanh sắt nóng, chẳng lẽ lại có?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tình người đối với lời Phật đáp trong câu hỏi thứ tư, với tâm ngờ vực vẫn còn. Nay, lại đổi ví dụ để thưa hỏi: “Nếu như Phật nói: “Đã lìa phiền não như mạt sắt văng kia đã tắt rồi không có. Pháp thân lẽ ra là thường”. Con cho rằng, lẽ ra như thanh sắt trên chày đá, không tránh khỏi định luật vô thường, vì như thanh sắt kia khi đem ra khỏi lửa thì đen, bỏ vào lửa thì đỏ. Đức Phật cũng giống như vậy, phiền não dứt rồi, lẽ ra phải sinh trở lại?” Pháp sư Trí Tú nói: “Theo lời đáp trước, thì Đức Phật nói: “Không ở trong năm đường”. Bồ-tát Ca-diếp nhân tiếng để thưa hỏi: “Nếu không ở trong năm đường thì không nên có thân thường. Nếu có thân thường thì lẽ ra có chỗ mà hiện thấy phiền não. Như màu đỏ của mạt sắt văng ra kia tắt rồi, chẳng biết nó sẽ văng về đâu. Phiền não đã dứt rồi cũng đồng với ví dụ này.” Minh Tuấn nói: “Dưới đây là lượt thứ hai, Bồ-tát Ca-diếp lại đưa ra hai câu hỏi: “Lại như hơi nóng của thanh sắt kia và màu đỏ” cho đến “Phải biết rằng Như lai tức là vô thường.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Lại là hai câu hỏi về vô dư. Về nghóa cũng đồng với ở trên. Hơi nóng dụ cho phiền não, màu đỏ lửa dụ cho Phật. Nghóa là phiền não diệt rồi, Đức Phật lẽ ra cũng diệt, vì nhập Niết- bàn Vô dư!” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là câu hỏi thứ hai. Dùng sức nóng của thanh sắt trên chày đá với màu đỏ của lửa làm thí dụ, tức là dù ngay lúc đó là không, nhưng bản chất nó đã tồn tại, khi nung vào lửa thì sinh.” Pháp sư Trí Tú nói: “Cũng thành câu hỏi trước. Ở đây đề phòng ý Đức Phật, e rằng Đức Phật nói màu đỏ, rất có thể không biết nó có vẫn còn, mà sức nóng của thanh sắt kia vẫn còn. Cho nên Đức Phật lại nói hơi nóng và màu đỏ đã tắt “Rồi không còn”.” Minh Tuấn nói: “Ý hỏi rằng: “Nếu có thường thì lẽ ra phải có chỗ ở. Nay, phiền não dứt rồi, Như lai cũng diệt, cả hai đều không có nơi chốn, chẳng biết ở đâu, nghóa thường đâu được gởi gấm. Thứ hai, lại như thanh sắt kia, lại thành câu hỏi trước, vì màu đỏ của lửa dụ cho phiền não, sức nóng dụ cho thân, tức là Như lai nhập Niết-bàn Vô dư, phiền não và thân, cả hai đều dứt hết. Sao lại nói có Thường để trụ ư?” “Phật nói: Này người thiện nam! Thanh sắt là nói các phàm phu” cho đến “Diệt rồi không còn sinh lại, nên gọi là Thường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Như lai dùng hơi nóng và màu đỏ, đồng dụ cho phiền não. Khi màu đỏ tắt rồi, thì thanh sắt không hiện. Phiền não diệt rồi, thì Như lai không ở trong năm đường nữa. Đây là ví dụ phần ít. Nếu ví dụ cùng khắp, thì thanh sắt tức là hai thí dụ. Lại đỏ, thì dụ cho phàm phu, không đỏ để dụ cho Phật.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước có hai câu hỏi, đây là trước đáp, sau thưa hỏi: Ông không được hoàn toàn dẫn ví dụ tấm sắt. Thanh sắt trên chày đá dụ cho phàm phu, vì phàm phu mà chế ngự hàng phục kiết. Dù đến Phi tưởng, nhưng về sau lại sinh trở lại. Đức Phật thì không phải như vậy, không bao giờ còn khởi lại nữa.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích đồng với ở đây.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đều phá có hai thí dụ, nói về phàm phu như thế, vì “Hoặc” dứt rồi lại khởi, nên không có thân thường. Minh Tuấn nói: “Bồ-tát Ca-diếp với lời hỏi trước, ý ở chỗ thường, y theo lời đáp này của Đức Phật, chưa chính thức bí lối về câu hỏi của mình. Vả lại, trước ví dụ kiết dành cho phàm phu. Phàm phu dù dứt được kiết, nhưng chẳng phải rốt ráo diệt. Vì diệt kiết chẳng phải rốt ráo, nên có thể còn sinh trở lại. Đức Như lai không như vậy, cho nên chẳng phải vô thường.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Như thanh sắt, màu đỏ lửa đã tắt” cho đến “Nếu phiền não kiết sinh trở lại, tức là Vô thường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói phàm, Thánh diệt kiết khác nhau, nhưng chưa giải thích lý do, lại đưa ra câu hỏi này.” Pháp sư Bảo Lượng và Trí Tú đều đồng với cách giải thích này.” “Phật nói: Này người thiện nam! Ông không nên” cho đến “Gọi là áo rách, chém, đầu bình bể.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có tro: Tro, tuy là “Có”, không thành gỗ trở lại. Đức Phật là diệu hữu, không trở lại vô thường, tức là có Niết-bàn. Niết-bàn, nghóa là kiết của Như lai đã dứt hết, kiết của phàm phu diệt, tên diệt dù đồng, nhưng thật ra khác nhiều. Phàm phu dù diệt kiết, mà lại là hữu vi. Vì tướng đồng với kiết, nên không có tên khác. Đức Như lai dứt hết kiết rồi, không còn sinh lại nữa. Diệt là vô vi, lại có tên khác, gọi là Niết-bàn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là Đức Phật đáp câu hỏi đầu. Trước kia Đức Phật dẫn mạt sắt văng ra, để nói kết sử, hoặc đã dứt hết, con người cũng diệt. Nay Đức Phật dẫn đốt cháy gỗ. Lửa tắt rồi, dù không ở trong năm đường, nhưng vẫn có thân thường.” Minh Tuấn nói: “Tro dụ cho Niết-bàn, gỗ cháy tàn có tro. Phiền não dứt rồi thì có Niết-bàn. Dù rằng Niết-bàn không thể nắm giữ, không có nơi chốn, mà vẫn có thể gởi lời nói. Lìa địa vị phàm phu, được nơi chốn không lay động. Vì có thể gởi gấm lời nói, nên biết có thường, vì không phải pháp diệt, nên chẳng phải vô thường.” “Này người thiện nam! Như thanh sắt đã nguội rồi, có thể làm nóng lại” cho đến “Lửa phiền não không còn nóng trở lại.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên nói kiệt diệt là thường, chưa giải thích lý do thường. Vô lậu, kiến “Diệt”, vì tánh diệt là thường, nên kiết không còn khởi nữa. Hữu lậu “Duyên” “Có”, vì “Có” chẳng phải thường, nên diệt rồi lại sinh. Đây là phán quyết lớn về vô lậu, hữu lậu.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi về con ở trước”. “Này người thiện nam! Phải biết vô lượng chúng sinh” cho đến “Đốt cháy các kiết sử phiền não của chúng sinh kia.” Minh Tuấn nói: “Kết thúc chỉ thú trên”. “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Lành thay! Lành thay!” cho đến dạo các hoa giác, hoan hỷ thọ vui. Minh Tuấn xét: Bắt đầu nhận lãnh hiểu rõ Ca-diếp lại hỏi: “Như Phật nói rằng” cho đến. “Cúi xin Như lai nói về nhân duyên đó.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Mở bày đầu mối Thân mật của Như lai.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lời nói bí mật dù đã rũ bỏ, nhưng đối với một lần ứng hóa thác sinh, từ đầu đến cuối vẫn chẳng thể không mê lầm. Vì cho nên chỉ cho sự, nhằm quét rộng để mở bày dấu vết về quyền. Có chia làm hai: “Đều y cứ Bồ-tát; hai là y cứ vào dấu vết của Đức Thích-ca.” “Phật bảo: “Này người thiện nam! Lại có vị Bồ-tát” cho đến “Rồi đem để lại chỗ cũ.” Minh Tuấn nói: “Trước chỉ cho một Tu-di, nay thì nêu một trăm ức Tu-di, như đã nói rộng trong kinh Thủ lăng nghiêm.” “Này, Ca-diếp! Lại có vị Đại Bồ-tát” cho đến “Cho đến chỗ cũ cũng giống như vậy.” Minh Tuấn nói: “Một lỗ chân lông nhỏ, lại một hạt cải mầu nhiệm.” “Này người thiện nam! Lại có vị Đại Bồ-tát” cho đến “Cho đến chỗ cũ cũng giống như thế.” Minh Tuấn nói: “Trước nêu một cõi Tam thiên giới, nay chỉ cho các thế giới mười phương.” “Này người thiện nam! Lại có vị Đại Bồ-tát” cho đến “Cho đến chỗ cũ cũng giống như vậy.” Minh Tuấn nói: “Trước nói ném một thế giới Phật, nay ném các thế giới nhiều như cát bụi. Này người thiện nam! Lại có Đại Bồ tát “Cho đến” cho đến chỗ cũ cũng giống như vậy”. Minh tuấn nói: Ở trước nói: “Phương khác thì rộng, xa là dễ. Nay, nói thân mình, vì gần, nhỏ là khó.” “Này người thiện nam! Lại có vị Đại Bồ-tát” cho đến “Tập gần ái dục, sinh La-hầu-la.” Minh Tuấn nói: “Kiết không nghó bàn của Bồ-tát, để sánh với Đức Phật.” “Này người thiện nam! Như lai từ lâu đã trụ nơi Đại Niết-bàn này, thị hiện vô lượng thần thông biến hóa.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây chỉ rõ về sự thị hiện pháp thân không thể suy nghó bàn luận của Đức Phật.” “Trong Tam thiên Đại thiên thế giới này” cho đến “Như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đã nói rộng.” Minh Tuấn nói: “Nêu chung, cảnh của một hóa thân.” “Như lai ở nơi Tam thiên Đại thiên thế giới” cho đến “Cũng không rốt ráo nhập Niết-bàn”, có việc sâu kín. Minh Tuấn nói: “Nói Đức Phật dù diệt nhưng không diệt. “Hoặc ở cõi Diêm-phù-đề thị hiện vào thai mẹ” cho đến “Thuận theo thế gian mà thị hiện vào thai mẹ.” Minh Tuấn nói: ‘Hiển bày dù sinh mà bất sinh.” “Này người thiện nam! Ở tại vườn Lâm-tỳ-ni, cõi Diêm-phù-đề này” cho đến “Người phá giới cấm, thị hiện làm giọt sương, bọt nước. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở Thiên-trúc, lấy hướng Đông làm đầu, hướng Tây làm phía sau, phía Bắc làm trái, phía Nam làm bên phải. Đức Phật bước đi về hướng Đông, nói lên ý nghóa bắt đầu. Bắt đầu có hai thứ: Một là thị hiện đứa trẻ; hai là nói về người đứng đầu dẫn đường, để nói lên sự tự tại. Bên phải, là dụ cho việc thuận tiện. Vì hướng Tây là phía sau, nên Đức Phật thị hiện thân sau cùng. Phía Bắc nói lên sự cao quý. Trong bốn thiên hạ, Uất-đơn-việt là hơn cả. Ở xứ này, mùa Xuân ở phía Đông, mùa hạ ở phía Nam, mùa thu ở phía Tây, mùa đông ở phía Bắc. Muôn vật, mùa xuân thì nẩy mầm, mùa hạ thì lớn, mùa thu hạt chắc, mùa đông chứa đựng, mọi việc đều hoàn tất. Ruộng phước: Nuôi lớn công đức vượt hơn, nói lên ruộng Phật là hơn cả. Bảy bước: Ở Thiên-trúc, khi voi đầu đàn sinh, voi con vừa ra khỏi thai mẹ, liền đi bảy bước, biết ngay là voi đầu đàn. Bồ-tát mới sinh, thị hiện tướng vua tự tại. Xướng lên lời nói thế này, nghóa là trên, dùng thân để thị hiện, ở đây, dùng lời nói để nói là Đấng Pháp Vương tự tại của ba cõi.” “Sinh ở Diêm-phù-đề sau bảy ngày” cho đến “Tức là pháp giới của Chư Phật, Như lai.” Minh Tuấn nói: “Trên đây, thị hiện đầu cuối của một hóa thân Phật.” “Như lai lại thị hiện trong Diêm-phù-đề” cho đến “Thế nên gọi là thường trụ, không thay đổi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói rộng khác với ứng tích, không phải thứ lớp xuất hiện trong cung vua, xuất gia.” Minh Tuấn nói: “Trên đây, chỉ nêu việc của một thiên hạ.” “Như Phát-vu-đãi ở phía Đông Diêm-phù-đề” cho đến “Thần thông biến hóa không có chút sợ hãi.” Minh Tuấn nói: “Lại nêu việc của cõi đại thiên .” “Này người thiện nam! Do nhân duyên trên đây, ông không nên nói rằng” cho đến “Gọi là thường trụ không có thay đổi.” Minh Tuấn nói: “Kết thúc chỉ thú.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Vì sao Như lai” cho đến “Đã diệt độ rồi cũng không có nơi chốn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước kia, Đức Phật tự dẫn chứng năm việc của khẩu mật. Nay Bồ-tát Ca-diếp lại dẫn mật chỉ của giáo xưa, để thỉnh Phật mở bày.” “Phật nói: Này người thiện nam! Ông không nên” cho đến “Vì thể Như lai tức Niết-bàn, nên gọi là Thường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dầu dụ cho chấp lấy. Ánh sáng dụ cho phiền não, bình đèn dụ cho vô thường. Chẳng phải Như lai: Về nghóa bình đèn giống nhau, thì dụ phần ít. Vì thể Như lai nên gọi là thường, nghóa là theo giáo xưa, chỉ nói kiết diệt là thường, không nói thể là thường, là hữu dư.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trên dẫn bốn câu vô dư, cũng là “Khẩu mật”, chỉ chưa biểu trưng đúng về giáo xưa, là nói tướng che lấp này, ở đây chính là nói.” Lại nữa, Này người thiện nam! Nói đèn tắt đó” cho đến “Chẳng phải Đại Niết-bàn đồng với đèn tắt.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân quả của phiền não phần đoạn đều dứt hết, ví như đèn tắt, giống như trí của thân khác, chẳng phải Đại Niết-bàn, chỉ là Tiểu Niết-bàn mà thôi, không được nói đồng với đèn tắt, nghóa là phiền não phần đoạn chưa dứt hết, thì không đồng với đèn tắt. Tướng che lấp nói pháp, nghóa là nói Đức Phật đã dứt hết tất cả kiết, thân trí cũng là Niết-bàn, tức Đại Niết-bàn. Vì giáo xưa chỉ nói tướng chung, nên không nói điểm khác nhau giữa Tiểu thừa và Đại thừa, nên gọi là che lấp.” “Bậc A-na-hàm chẳng phải thường đến” cho đến “Không còn đi lại, gọi là A-na-hàm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thường đến nghóa là sinh lên cõi trên, lui xuống cõi dưới gọi là “lai”. Ở trong cõi Sắc lại có “Nhất lai” mà không phải thường thường. Vì sao? Vì về sau, nói là thượng lưu A- na-hàm. Lưu có hai thứ, nghóa là phiền não lưu và đạo lưu. Vì phiền não lưu nên sinh ra Bốn thiền, rồi lùi lại sinh Sơ thiền. Vì đạo lưu nên dứt kiết của Sơ thiền, sinh lên Bốn thiền. Phàm phu ràng buộc đủ, đủ hai mươi lăm cõi, chỉ có cõi Dục đầy đủ, không trở lại cõi Dục, gọi là Bất hoàn, vì không thọ hai thân.  <卷>QUYỂN 13 <詞>Phẩm 7: BỐN TƯỚNG (Phần 3) Giải thích ý Mật, chỉ rõ nghóa dấu vết vô thường. Giải thích Mật giáo, nói rõ ý nghóa Giải thoát, nói rộng về Phẩm Danh Tự Công Đức ở trước. Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật” cho đến “Chỉ có mật ngữ, không có Mật tạng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai Mật che lấp thường, trước đây đã khai phát. Nay, giải thích “mở bày vi mật” mà kệ trên đã nói. Không nói tạng, nghóa là vì Đức Phật không có Tạng.” Từ các ví dụ dưới đây, nói vì không có sở đoản, nên không chứa đựng.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trên đây, nói rộng nghóa thân mật, khẩu mật, dường như Đức Như lai có tâm keo kiệt cất chứa. Chính vì thế, nên Bồ-tát Ca-diếp mới nói là có mật ngữ, không có Mật tạng. Như lai thành lập thuyết ngài đã nói.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Chúng đương thời đối với ở trên, về thô thì đã nhận hiểu. Lại muốn bày tỏ thân trí ở ngoài hằng muôn trói buộc, thuật bày giáo xưa, chưa nói về ý. Cho nên Bồ-tát Ca-diếp dạy rằng nhận hiểu, nhưng sự tướng che lấp của giáo xưa là nhiều, về sự, phải quét rộng. Văn dưới, đối với Đức Phật, nắm lấy giáo nghiêng lệch xưa, thứ lớp mở mang, gội sạch, cái gọi là “Mở ra chỗ sâu kín.” Chỉ có mật ngữ: Bồ-tát Ca-diếp tìm lấy ý Phật nói chỉ có mật ngữ, không có Mật tạng. Vì sao? Vì giáo xưa, căn cơ thường chưa đến, nên không được nói thường, mà giáo vô thường chính là ý ở thường, đâu có bí mật?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây vì sắp giải thích rộng về giải thoát, nên trước phải biết rõ ý Thánh, chỉ có mật ngữ, không có Mật tạng, tức nói rộng về ý mật.” Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: “Trước kia Đức Phật mở bày Thân mật, khẩu mật. Giờ đây mở bày về ý mật.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây, lại mở ra khẩu mật.” “Như nhà ảo thuật điều khiển người máy bằng gỗ” cho đến “Chư Phật, Thế tôn có tạng bí mật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ảo thuật là kỹ thuật cạn thấp. Nhà ảo thuật không muốn cho mọi người biết. Đức Như lai không nông cạn, vì thường muốn cho mọi người biết, chẳng lẽ gọi là cất ư? Giấu ư?” Pháp sư Tuệ Đản nói: “Nhà ảo thuật làm chỉ cốt cho người thấy, không cho người được. Đức Phật thì không như thế, Ngài thường mong cho tất cả chúng sinh đều chứng đắc như Như lai, chẳng lẽ gọi là cất ư? Giấu ư?” “Phật khen: “Này người thiện nam! Lành thay! Lành thay!” cho đến “Người trí thấu rõ thì không gọi là Tạng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây là các thí dụ: Đức Phật thành lời Ca-diếp nói. Trăng thu dù sáng, nhưng người có mắt mới thấy. Đối với người không có mắt, gọi là Tạng. Pháp Phật cũng như vậy, đối với người trí thì được rõ ràng, với người ngu lại bị che lấp.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đức Phật nói rộng có mười thí dụ: Tám ví dụ trước hoàn toàn sáng rõ không có bí tạng. Ví dụ thứ chín, giải thích về giáo, nói sở dó trước không nói về pháp thâm mật, là vì chúng sinh. Ví dụ thứ mười, là nói về chúng sinh, nếu không học năm thời giáo này, thì không phải là Đức Phật bỏn sẻn đối với hữu tình. Đó là ví dụ thứ nhất.” “Này người thiện nam! Vì như có người để dành vàng bạc” cho đến “cho nên không được, gọi là Bí tạng”. Xét: Pháp sư Tăng lượng nói: đều làm sáng tỏ nghóa Phật không có bí tạng. “Này người thiện nam! Thí như Trưởng giả tuy có con một “Cho đến”. Ngày đêm ân cần dạy cho con mình học về “Bán tự”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đầu tiên Đức Phật nói về giáo Tiểu thừa, sau nói giáo Đại thừa. Vì dường như có ẩn, nên dùng ví dụ để bày tỏ. Chúng sinh bị ràng buộc, nên nghe giáo đầy đủ. Về lý thì thường cảm nhau. Về nghóa phải đến với thầy, nên mới nói tất cả pháp vô thường, dẫn dắt sao cho chúng sinh được cảm nhập, như sắp trở về. Giáo nghiêng lệch của ba thừa, dụ cho dùng “Bán tự”. “Mà không dạy con mình luận Tỳ-già-la, vì nó còn nhỏ tuổi quá, chưa đủ sức học.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sáu hạnh của Đại thừa, dụ cho “Mãn tự”. “Này người thiện nam! Dù cho trưởng giả dạy cho con “Bán tự” rồi” cho đến “Sao lại phải nói Như lai Bí tạng?” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Nói vì không có căn cơ Đại thừa, nên phải cảm nhận giáo Tiểu thừa, há là bí mật bỏn sẻn cất giấu mà không nói ư?” “Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Này người thiện nam!” cho đến “Gọi là Như lai thường còn không thay đổi.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Hợp thí dụ, kết chỉ thú.” Lại nữa, Này người thiện nam! Ví như tháng mùa hạ” cho đến “Nhưng Phật Như lai thật ra không có gì giấu giếm.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu người nào không theo học năm thời giáo của Phật thì đâu phải là lỗi của Phật.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Nay con chắc chắn biết rõ Như lai Thế tôn” cho đến “Thường còn không có thay đổi, nghóa này thế nào?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng “Bán tự” ở trên.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nhận hiểu, tự bày tỏ bản hoài, chỉ có giáo xưa nói: “Chưa rửa sạch”, rất có thể làm cho nỗi hoài nghi của người không được dứt trừ, nay dẫn rộng kệ xưa, để giải thích vì sao thực thi chỉ thú của Quyền giáo?” “Phật dạy: “Này người thiện nam! Như lai vì tất cả Thanh văn” cho đến “Vì sao lưỡi của người này không bị rút?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Xuất xứ rộng, nói duyên khởi của bài kệ, nhằm chỉ bày rõ tùy từng thời kỳ mà lập giáo khác nhau.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Như lời Phật dạy” cho đến “Mà sự đi này là đến phương nào?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh không có cất chứa. Cũng muốn cho trở xuống là so sánh trên, để nói Nhị thừa còn không có, huống chi Như lai.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Kệ trước chứng minh Niết-bàn Hữu dư, bài kệ này chứng minh Niết-bàn Vô dư. Dù rằng hợp dẫn một bài kệ, nhưng ý ở nửa bài kệ dưới.” Dấu vết không thể tìm kiếm, nghóa là thân trí đều mất. Vì đây cũng là giáo xưa nói, nên phải quét. Ở dưới giải thích rằng: “Gần với Bồ-đề, Bồ-đề Niết-bàn không nơi chốn, sự dứt tình gần, nghóa là khó tìm kiếm. Chỉ thú của bài kệ như thế. Ai có thể hiểu rõ ư?” “Phật dạy: “Này người thiện nam! Nói về chứa nhóm” cho đến “Người không ham ăn gọi là biết đủ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói hữu vi co của cải còn không có cất chứa, huống chi là vô vi không cần ư?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chứa nhóm có hai thứ: Một là hữu vi; hai là vô vi, nghóa là đạo chứa nhóm các công hạnh, chứ không phải là của báu thế gian. Các Thanh văn nắm lấy tướng mạo, thực hành đạo trong tâm, không được tướng ấy, nên nói là hữu vi. Lại, hợp với tướng để tu điều lành, thì sẽ cách xa quả Phật, nghóa là sinh tử suốt ngày. Vô vi là công hạnh của Như lai, nếu có khả năng cẩn nặng nương theo sáu hạnh để tu đạo, tiến đức, thì vì không chấp lấy tướng “Có”. “Không”, nên gọi là vô vi. Lại nếu quên mất tướng khi hành đạo, thì sẽ nhận lấy quả Phật mau chóng. Nói quả trong nhân, cũng gọi là vô vi.” “Dấu vết khó tìm tức là gần với vô thượng” cho đến “Như lai đến trong rừng Ta-la, chỗ Đại Niết-bàn, mà nhập Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đi mà không có đến, nghóa là dù có danh ra khỏi khổ và Đức Phật đã lập công hạnh tích cực, nhưng vì trên lãnh vực này hoàn toàn không có dấu vết, nên không có đến. Thế nên Đức Phật đến trong rừng cây Ta-la này, đó là dấu vết của pháp thân. Mầu nhiệm khó tìm kiếm, nhờ giải thoát hoàn toàn mà Đức Phật thị hiện nhập diệt.” “Phật bảo: “Này Đại mà Ca-diếp! Nói cho đến “Nếu một người có đủ cả tám thứ thì rất cao siêu.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp, câu dưới đây nói rằng: “Nói rộng cho chúng sinh nghe. Ý chỉ thường hằng mà Đức Phật đã nói, nay nói rộng là nghóa rộng lớn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong phẩm Danh Tự Công Đức chẳng phải không nêu giải thích đại thể, không giải thích Đại nghóa, cho nên trong đây dẫn tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân, lấy sự rộng lớn bao dung làm nghóa.” Pháp sư Trí Tú nói: “Ở trên nói Đại Niết-bàn này có công năng lập ra nghóa Đại, không giải thích lý do, nay nói có công đức lớn, nên lập ra nghóa đại.” Minh Tuấn nói: “Chính là nói rộng về giải thoát. Trong phẩm Danh Tự Công Đức trên đã nói lược về giải thoát, cũng chỉ là giải thích sơ lược. Ngày nay, sở dó gọi Đại là vì muôn đức của quả cùng cực. Tóm tắt nêu lên ba đức để thành lập tạng bí mật, mà dùng công dụng của một đức giải thoát thích hợp với đề kinh: Niết-bàn là tên chung của sự “Không có trói buộc”, dùng nhiều nghóa để giảng dạy, lấy giải thoát là một trong nhiều nghóa đó. Cho nên hỏi: “Thế nào đối với kinh này? Tức thưa hỏi tên kinh, oai lực kinh và lưu thông. Rốt ráo đến bờ bên kia là hỏi về giải thoát, cho nên ở phẩm trước, Đức Phật đáp: “Hàng phục tất cả các kiết phiền não và các tánh ma, đối với Đại Niết-bàn, buông bỏ thân mạng”, đã sơ lược chỉ rõ giải thoát. Nghe một câu hỏi: “Nói pháp có mấy thứ?” bốn tướng trên đã nói rộng về cách lưu thông của phẩm trước. Từ Niết-bàn Hữu dư, Vô dư cho đến phẩm này sẽ nói rộng, ba đức. Từ phẩm Tứ Y trở xuống là nói rộng về người lưu thông.” “Đã nói Niết-bàn, nghóa là không có các chứng nhọt, bướu” cho đến “Cho nên gọi là Đại Bát-niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng ung nhọt dụ cho các khổ. Vì không khổ, gọi là Niết-bàn. Nếu tự mình chữa trị chứng nhọt bướu này thì không gọi là đại diệt, bởi phải diệt tất cả khổ, mới được gọi là “Đại diệt”. Thảy đều chữa trị, gọi là niềm tin. Dù ung nhọt chưa lành ngay, nhưng đã làm nhân để khỏi bệnh.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trên giải thích về nghóa “Đại”, ở đây giải thích nghóa Niết-bàn: Chứng nhọt, bướu tức là trói buộc. Đã không có nhọt bướu, tức là giải thoát. Trong đây, trước nói về chúng sinh năng trị, dẫn thầy thuốc làm dụ. Dưới đây, là nêu thể, là nói rộng về giải thoát. “Đại Bát-niết-bàn gọi là chỗ giải thoát” cho đến “Vì nghóa sâu xa này, nên gọi là Đại Niết-bàn: Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hậu tâm Kim cương, phiền não dứt hết, chứng được Niết-bàn.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Cho nên Niết-bàn gọi là không có nhọt, bướu.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu theo văn dưới đây, thì Niết- bàn làm chỗ nhân duyên cho giải thoát cho tất cả chúng sinh,.” Chúng sinh cõi Diêm-phù-đề có hai hạng: Một là có đức tin; hai là không có đức tin. Giải thích về người có đức tin, có hai cách giải thích: Rằng, từ khi Đức Phật ra đời, có người y theo giáo pháp tu hành, lập được tín căn đứng đầu, đều gọi là sửa mình. Lúc chưa lập thì dù có niền tin, cũng chưa quyết định, vì không tránh khỏi Xiển-đề, nên gộp thành hạng người không có niềm tin. Hạng người được gặp Phật, có thể sinh ra một niệm lành trở lên, cho đến đặt tín căn ở đầu, đều được gọi là sửa mình. Nếu người nào không thể sanh một niệm lành, thì đều là không có niềm tin.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn! Thế nào gọi là Niết-bàn?” Phật nói: “Này người thiện nam! Niết-bàn gọi là giải thoát.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dự Sắp nói về sắc và trí là giải thoát nên nêu câu hỏi này. Niết bàn gọi là giải thoát: Xưa nói Niết-bàn là giải thoát trong ba việc này, nay chính là tên gọi đó. Kính Di ghi lời của Tăng Tông rằng: “Đức Viên, thể diệu ở ngoài muôn sự trói buộc, vì thế, nên gọi là giải thoát. Niết-bàn là tiếng Ấn Độ, giải thích theo nghóa của họ, thì có từ ngữ riêng, trong đây là giải thoát, tức là phiên dịch danh từ của thích nghóa. Theo giáo xưa nói là cô diệt giải thoát, nên gọi là Niết-bàn, là vì thân trí bị trói buộc, nên lấy việc dứt trói buộc làm giải thoát.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là ba cách phiên dịch: Ra khỏi thể. Đức Phật dùng ví dụ để làm rõ chỉ thú giải thoát. Làm rõ ví dụ với đối tượng ví dụ đồng, khác. Do xưa nói về giải thoát, thì thân, trí đều là “Không”, mà bao gồm cả quả Phật. Vì thế, nên dùng cach phiên dịch thứ nhất này để nói về từ ngữ chánh giải thoát.” Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn! Nói giải thoát” cho đến “Các Thanh văn, Duyên giác không thể biết được.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “hoặc hữu là sắc, hoặc chẳng phải sắc, nghóa là lấy không trói buộc làm giải thoát. Thân, trí không có sự trói buộc, cũng là giải thoát đã quyêt định trước.” Giải thoát của Nhị thừa: Phiền não phần đoạn đã diệt, gọi là giải thoát, còn thân trí hữu vi chẳng phải giải thoát. Thân trí của Như lai là vô vi, được gọi là giải thoát. Thế nào là Trụ? Nghóa là các tướng mượn danh, nghóa là được lập, gọi là Trụ. Nếu các tướng đó không có sắc thì danh từ giải thoát sẽ dựa vào đâu mà Trụ? Chẳng phải sắc, nghóa là thân, trí của Thanh văn cũng không có kiết thô, trực tiếp là ít, nên nói chẳng phải sắc. Pháp sư Tăng Tông nói: “Muốn nói không có trói buộc, thì trước phải sửa cho đúng thể đó. Thể nó dù chẳng phải “Không”, cô “Diệt” thì quyền hiển, nói về then chốt là tồn tại ở sắc mà thôi. Nay, nói Thanh văn chẳng phải sắc, là không thể hiện thân trong sáu đường. Vì chúng sinh, nên nói chẳng phải sắc, nghóa là theo giáo xưa, chỉ nói là bỏ thân tận diệt, không nói đến ba việc. Đã không có ba việc, thì không có pháp thân ứng xuống, nên nói chẳng phải sắc. Thế nào là Trụ? Mượn chấp giáo xưa không có sắc để hỏi. Vì muốn cho Đức Phật giải thích về người Nhị thừa chẳng phải đều không có sắc, cho nên Đức Phật dùng Phi tưởng làm dụ. Vì thật sự có sắc nhỏ nhiệm, nên nói Nhị thừa chẳng phải sắc, Niết-bàn cũng vậy. Với sắc ứng thân Tiểu thừa, đúng ra lúc bấy giờ không được nói.” “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Nghóa giải thoát của hạnh Đại Bát-niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Những điều chúng sinh ưa thích khác nhau, khen ngợi rộng về giải thoát, nói không khổ nào không hết, không có vui nào không đủ, xứng tình, hợp nguyện , thật là đầy đủ!” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì muốn cho đức không trói buộc, hiển bàycho người chưa nghe, nên Bồ-tát Ca-diếp lại bạch thỉnh lần nữa, tức là nói rộng cho chúng sinh nghe.” “Phật khen Bồ-tát Ca-diếp: “Lành thay! Lành thay!” cho đến “Cho nên, Như lai không gọi là chết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh, già, bệnh, chết, là gốc các khổ , nên nói trước. Lại, nói chết, nghóa là trước nói về già chết, sau nói về bệnh chết.” Minh Tuấn nói: “Dưới đây sẽ nói rộng về tám vị đầy đủ trong phẩm Danh tự Công đức. văn trước chỉ nói năm là không già, sáu là không chết, bỏ không nói ø bệnh và sinh. Trong đây nói lại đủ bốn tai hại.” “Như lai thanh tịnh không có nhơ nhuốc” cho đến “Sinh ý nghó tham, được giải thoát thì không như vậy.” Minh Tuấn nói: “Nói rộng về điều trong mát thứ tư. Chứng minh ung nhọt, bướu u, đấu tranh đều không trong sạch, mát mẻ. Nhân việc mà tiếp xúc rộng, so với việc khác lớn hơn, cũng có công hiệu như việc này.” “Lại, giải thoát, gọi là yên tónh” cho đến “Chân giải thoát tức là Như lai.” Minh Tuấn nói: “Rộng ba là yên, nếu không yên, thì cầu các bạn. Yên ổn vô thượng, thì không lo lắng, không vui mừng, không cần các bạn.” “Lại giải thoát không có bụi nhơ” cho đến “Chân giải thoát tức là Như lai.” Minh Tuấn nói: “Rộng tám, nghóa là vui sướng. Khổ là nghóa ép ngặt. Nay, nói có một ép ngặt để chứng tỏ sự vui sướng.” “Lại, giải thoát gọi là pháp vô động” cho đến “Chân giải thoát tức là Như lai.” Minh Tuấn nói: “Rộng một, là thường. Vô thường thì trôi lăn không ngừng. Nay, lấy sự rộng lớn như biển làm dụ. Phẩm trước dùng Thường để giải thích Đại. Nay, ở đây dùng Đại để giải thích Thường, nghóa là trái lại, cho đến trên vô thượng cũng giống như vậy.” “Lại giải thoát gọi là pháp hằng” cho đến “Chân giải thoát tức là Như lai.” Minh Tuấn nói: “Rộng hai, nghóa là hằng. Thường không dời đổi, không có lay động, lấy sự kết hợp nhất định làm nghóa. Hằng là lấy như trời không thay đổi làm nghóa, cũng là lời vừa chừng mà thôi. Cho nên chẳng nêu hư không chẳng có bờ mé, không có dấu vết, bởi nói chết là thường như vậy.”  <卷>QUYỂN 14 <詞>Phẩm 7: BỐN TƯỚNG, (Phần 4) lai.” “Lại, giải thoát gọi là sâu xa” cho đến “Chân giải thoát tức là Như Minh Tuấn nói: “Phẩm trước đã nói rộng về tám vị trên, dưới đây, lại nêu nghóa riêng là nghóa mà người Nhị thừa không thể nhập. Đây là khen ngợi chung nghóa sâu sắc, nhiệm mầu không thể thấy.” “Lại, giải thoát, gọi là không có nhà cửa” cho đến “Chân giải thoát tức là Như lai.” Minh Tuấn nói: “Chỉ nêu xen lẫn các đức, tùy đối tượng ưa nhập mà giải thích.” “Lại, giải thoát, gọi là dứt tất cả” cho đến “Pháp lành vô lậu, lấp bít các đường.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dứt trừ các đạo tà kiến.” “Cái gọi là hoặc ngã, vô ngã, phi ngã, phi vô ngã.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: ““Ngã” là chấp “Thường”, vô ngã là “Chấp đoạn”, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ngã là chấp thường, vô ngã là chấp đoạn. Chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, đây là chấp thứ tư, thiếu chấp thứ ba. Chấp thứ ba nói: “Cũng có ngã” cho nên khác với chấp thứ nhất. “Cũng chẳng có ngã” lại khác với chấp thứ hai. Nói khác nghóa là không hoàn toàn giống nhau, mà là giống đôi chút mà thôi. Nay, chấp thứ tư lại khác với chấp thứ ba. Nói “Phi ngã”, nghóa là không đồng với lối bác bỏ “Ngã” của chấp thứ ba. Nói “Phi vô ngã”, nghóa là khác với cách bác bỏ “Vô ngã” của chấp thứ ba. Dù cho có lời nói này và ngay cả xem xét, cũng không thể khác với lối chấp thứ ba.” “Chỉ dứt chấp mắc, chứ không dứt “Ngã kiến”” cho đến “Chân giải thoát tức là Như lai.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Sinh tử chẳng phải “Ngã”, mà sinh tâm ngã một cách ngang trái, đây là chấp mắc, cần phải dứt trừ. Phật tánh là lý không dứt chấp này.” “Lại, giải thích gọi là “Chẳng phải không” mà “Không”.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thường, lạc, ngã, tịnh là một thật lại giải thoát các khổ là hai thật, nên nói “Chẳng không mà không””. “Chẳng, không” là không có gì” cho đến “Vì thật sự không có giải thoát, nên nói là “Chẳng, không”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thoát mà Ni-kiền Tử chấp: không có thường, lạc, ngã, tịnh là mến “Không”. Lại, chẳng phải giải thoát là “Hai không”, gọi là không có gì: Thể là vô thường, lại chẳng phải giải thoát là không có sở hữu.” “Chân giải thoát thì không như vậy” cho đến “Mà còn không có thực chất của nước, rượu v.v… .” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nước, rượu, bình, làm ví dụ “Chẳng phải không mà không”, là có thể không có, nước mà bình đựng chẳng phải là không, chính là nói Niết-bàn là không, chẳng có sinh tử mà thôi, nhưng quả thường không là bất không.” “Giải thoát cũng vậy, không thể nói là sắc” cho đến “Ai thọ thường, lạc, ngã, tịnh này?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hiện thân trong chỗ sáu đường, mỗi chỗ đều thấy sắc.” “Vì nghóa này, nên chẳng thể nói là “Không”” cho đến “Như lai tức là Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xưa nay giải thích: Tham là gốc kiết. Tướng là cảnh của tham. Tham với đối tượng tham ràng buộc ba cõi. Vì tất cả phiền não đều từ tham mà sinh, nên nhân quả của số sinh tử vô cùng. Vì dứt trừ hẳn tham, nên thứ lớp mà diệt, tất cả đều giải thoát. “Tất cả chúng sinh vì sợ phiền não sinh tử” cho đến “Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên nói rộng về giải thoát, để cho người quay về. Pháp tướng có ba. Vì sao? Vì pháp tướng thường nhất định, mục đích là giác ngộ được pháp tướng đó. Người giác ngộ trước quy y Phật. Được giác ngộ là pháp quy y mầu nhiệm. Chẳng phải pháp không được gọi là giác. Các pháp của giác nhỏ chẳng phải ngã. Giả dùng cảnh trí dụng hợp, sinh tử được dứt trừ. Nhận thức được sự dung hợp đó, trở về với Tăng. Trở về là nói bắt đầu tu hành. Ở đây nói về tu hành sau rốt. Cuối cùng sẽ được hết khổ, gọi là giải thoát.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn” cho đến “Các Thanh văn, Duyên giác không thể biết được.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp Niết-bàn đủ có hai, hai lời nói đều tương đương. Phật, Pháp, Tăng đều là thường, thường tức Niết- bàn. Thường gọi là một, mà ba việc tức Niết-bàn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Như sự khác nhau của ba quy y, phải biết rằng, Niết-bàn dường như không phải một thể. Vì muốn sao cho Như lai thích hội ba quy y, cho nên thể một mà chỉ thú khác với nghóa. Vì chúng sinh sợ sinh tử, nên Phật nói ba danh, chứ không phải vì lý do có tự thể riêng. Có pháp, danh một mà nghóa khác. Ở đây lại mở rộng, giải thích về lý do được sự lập bày cuối cùng của ba danh, chứ không phải vì có tự thể riêng. Có khi pháp danh một mà nghóa khác. Ở đây lại mở rộng, giải thích về lý do được sự lập bày cuối cùng của ba danh. Nói về lập bày danh nghóa, tự mà ba có nhiều đường. Chẳng hạn như Phật, Pháp, Tăng là Thường. Danh một nghóa là khác. Phật lấy Giác làm nghóa. Về danh từ “Pháp”, người không giác biết là pháp, lấy phép tắc làm nghóa, thì không phải nghóa giác. Niết-bàn gọi là giải thoát, tức là không có trói buộc. Niết-bàn kia tự có giải thích nghóa rồi. Nay, danh từ giải thích là phiên dịch, giải thích nghóa Niết-bàn kia. Hư không, gọi là phi thiện, nghóa là chẳng phải thiện, ác. Đây là chứng minh danh nghóa đều khác nhau. Xưa, Như lai bảo Ba Đề”, đó là chứng minh danh nghóa của ba quy y không nên là một. Y theo Pháp, Tăng có tự thể riêng thì nghóa của thể đều khác nhau. Nay, y theo Đức Phật thì thể của Phật dù một, nhưng theo nghóa là ba. Vì chẳng thể lấy thể “Một”, khiến cho nghóa không được ba. Nói là nghóa có ba, vì muốn cho thể cũng riêng. Nói một là ba, nghóa là tùy nơi chốn mà lập ra hóa độ, nói pháp khác nhau. Ba quy y cũng giống như vậy.” Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật: Như lời Thế tôn đã nói” cho đến “Chân giải thoát tức là Như lai.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh diệt, chứa nhóm gọi là thân, phân biệt khổ vui gọi là trí. Vì Niết-bàn không có việc này, nên gọi là xả. Ai thọ yên vui? Nghóa là ở trên nói các thứ vui, vì nói không phải thọ nhận niềm vui, nên Bồ-tát Ca-diếp mới nêu ra câu hỏi. Thân được yên vui, nghóa là có ăn, có thân, có thức phân biệt, gọi là Khổ. Không có ăn. Không có thân, không sinh phân biệt gọi là Vui. Không thọ niềm vui, nghóa là không có thọ, về lý thì tròn, không thể lấy việc vuông để dụ. Các dụ trong đây đều là phần ít.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ăn xong thì cảm thấy buồn bực. Lúc còn ở hạnh địa ham thích năm dục, dụ cho cái ăn, bị “Hoặc” che lấp”; như tâm buồn nôn muốn mửa”, nghóa là tiêu biểu cho tâm đã lìa khổ, phát ra lời nói. Muốn dứt trừ phiền não: “Đã mửa ra rồi ăn lại”, nghóa là tu đạo dứt kiết, công sức lên cao, quả sẽ thành tựu, luống vào sinh tử, ví như ăn lại. Câu hỏi của đồng bạn: Như Bồ-tát Ca-diếp đã thưa hỏi Phật hôm nay. Nếu nói khác nhau, nghóa là Đức Như lai đã hiểu, giải thích rõ ràng về lẽ mầu nhiệm cùng cực của quả địa, chỉ bày rõ về giáo riêng ngày xưa. Xả thân, xả trí, lời nói không thật.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn! Bất sinh, bất diệt” cho đến “Tánh Như lai nghóa là giải thoát.” Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Nhân giải thích về giải thoát, Bồ-tát Ca-diếp mới nêu câu hỏi này, cố ý dùng làm câu hỏi nhằm thỉnh Phật giải thích lại.” Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: Này Thiện nam! “Việc ấy không đúng” cho đến “Không thể dùng ví dụ cho tiếng hót của chim quạ, chim khách.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lấy quạ dụ cho chim, dùng tiếng dụ cho tiếng, lấy khắp đồng với chim. Không thể so sánh nhau, lấy một phần, có thể dụ cho tiếng nói của Phật.” “Bấy giờ, Đức Phật khen Bồ-tát Ca-diếp: “Lành thay! Lành thay!” cho đến “Biết các pháp tánh cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì nhân duyên ấy, nghóa là nhân duyên của phần ít. Không gì sánh bằng, nghóa là chẳng phải dụ khắp làm dụ, là phần ít.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật: “Vì sao Đức Như lai lại nói “Vì thành tựu tròn đầy Vô lượng công đức như vậy, nên gọi là Đại Bát-niết- bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phàm, Thánh không thể dụ lẫn nhau. Nếu lấy một phần ít thì được mượn phàm để nói về Thánh. Dù không đầy đủ, nghóa là về tội nghịch có hai thứ: Một là chỉ vì tâm nặng, làm không đầy đủ; hai là vì tâm nặng, công việc nặng nhọc, làm được đầy đủ.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn” cho đến “Phải nên che chở, giữ gìn chánh pháp như vậy.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Bồ-tát Ca-diếp tiếp nhận chỉ thú, Đức Phật khen ngợi.  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI <卷>QUYỂN 15 <詞>Phẩm 8: BỐN Y (Phần 1) Giải thích: Dùng bốn quả suy nghó về Bồ-tát. Giải thích ba thừa mười Địa. Xuất xứ kinh Cù-sư-la, giải thích việc ma biến thành Phật. Việc ba mươi năm trước trong hơn tám mươi năm của chánh pháp Giải thích về người của bốn Y tu nhân lâu xa. Nói gần về tướng tin, không tin. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phẩm này đáp, làm thế nào được câu hỏi lớn? Rộng là trên y kinh lưu thông. Bốn tướng nói về đức ấy. Bốn tướng này phát ra chỗ ở của người kia. Nhân nói về người lưu thông: Đức Như lai giải thoát, lý sự nhiệm mầu sâu xa, e rằng tương lai về sau sẽ không có người nào mở mang truyền bá rộng rãi! Và đối với nhân quả thường trụ, sẽ không tin. Nếu không tin quả thì sẽ không gieo nhân, dù nói là vô ích. Y theo nên trước giải thích về lưu thông. Đại khái chia làm tám đoạn: Căn cứ ở địa Bồ-tát, phối hợp tướng của bốn vị. Chỉ rõ phải là tướng của bốn Y. Pháp sư Tăng Tông, Bảo Lượng nói: “Nói về phương pháp hàng phục ma.” Thời gian và nơi chốn xuất phát lưu thông: Pháp sư Trí Tú nói: “Nói rộng về công đức hóa độ của bốn người hạng nương tựa. Giải thích về thầy và đệ tử của bốn người tu nhân xa, gần. Nói về việc không tin vào sự sai lầm của bốn Y, đức của người tin.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Kinh khuyên Tin.” Nói rằng nên kính nặng thầy. Nêu lên lợi ích của bốn hạng người nương tựa, đó là y kinh tu hành, dứt tám thứ bất tịnh, dù rằng bên trong phạm giới, nhưng không mất ruộng phước.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Phân biệt với ruộng phước.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói rộng về tướng ruộng phước.” Hội thông tông chỉ để nói về “Nhân”, khả năng biết pháp người, tức là pháp không trái với thuyết xưa.” “Đức Phật lại bảo Bồ-tát Ca-diếp: Này người thiện nam!” cho đến “Làm lợi ích an vui và chỗ tựa cho trời, người, thế gian.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp chung của đời mạt, chẳng phải địa Thanh văn mà vì phối hợp với Bồ-tát, chỉ do pháp phục xuất gia của người Thanh văn, bởi thân họ trang nghiêm ngay ngắn, nên được phối hợp với Bồ-tát, nghóa ở đây tự ngay thẳng. Dù rằng theo dòng tục, dấu vết tối tăm, nhưng vẫn trong trắng, không có ô nhiễm, chất lượng đồng với La-hán. Dưới đây là đoạn thứ nhất trong tám đoạn, phối hợp nhằm làm sáng tỏ tướng của bốn người: Dựa vào kiến đế và tư duy cõi Dục mà Thanh văn dứt bỏ để phối hợp với công hạnh dứt trừ phiền não ba cõi của Bồ-tát, đầu cuối là hai người. Dựa vào Thanh văn vì tư duy ba cõi để phối hợp với đối tượng đoạn dứt của Bồ-tát, nghóa là tập đầu cuối thành hai người, hợp thành bốn người.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Người hộ trì chánh pháp, có nhiệm vụ không để cho tà xâm lấn, phá hoại. Kiến lập, là giúp cho chánh pháp không suy đồi. Nhớ nghó là òn mà không quên.” Pháp sư Trí Tú nói: “Trong đoạn thứ nhất này có ba chương. Chương thứ nhất này, nêu chung về số, khen ngợi đức.” “Bốn người là: Người thứ nhất, bậc xuất thế, còn tánh phiền não.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong địa Thanh văn, bắt đầu từ nội phàm phu, sau cùng là A-la-hán. Trong giai vị Bồ-tát, bắt đầu là Trụ tiền, thời kỳ cuối cùng là Thập địa, lấy tương tự phần ít để phối hợp xét định với nhau. Đó là từ bốn ý chỉ, đến pháp Thế đệ nhất, định trụ ở ba mươi tâm trước, đều là đạo chiết phục, chưa được vô lậu chân thật.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bắt đầu được giả gọi “Pháp không”, chế phục chấp nặng kiến đế.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là chương hai, nêu ra số lượng đặt ở địa vị. Theo kinh Đoạn Kiết chép: “Được chúng sinh “Không”, đến phẩm thứ bảy sẽ nói: “Tâm trở lên, tín đứng hàng đầu năm căn được lập, chưa nhập vô lậu chân thật, như các Thanh văn bắt đầu ở pháp Noãn, sau cùng là pháp Thế đệ nhất.” “Người Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm là bậc thứ hai.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thanh văn thì kiến đế là thô, tư duy là tế. Bồ-tát cho ba cõi là thô, “Tập khí” là tế. Nay, tâm sau cùng của sáu trụ, dứt hết kiết của ba cõi, như Tu-đà-hoàn, dứt hết “Hoặc” của kiến đế. Bảy trụ bắt đầu xâm lấn tập khí, như Tư-đà-hàm tư duy kiết.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ Sơ địa đến Lục địa, nếu một mảy may “Hoặc” chưa hết về sau, thì sẽ như Tu-đà-hoàn dứt hết “Hoặc” của kiến đế. Tư-đà-hàm dứt hết sáu phẩm kiết của tư duy cõi Dục, chứng quả hạnh hướng, chỉ cần một mảy may “Hoặc” của cõi Dục chưa hết, thì vẫn còn gọi là Tư-đà-hàm, vì chưa lìa cõi Dục.” “Người thứ ba là bậc A-na-hàm.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hoặc” cõi Dục hết, xâm lấn tư duy của hai cõi trên, không còn thọ sinh ở cõi dưới: Nói Bát địa trở lên, dứt ngoài ba cõi hoặc thô, hoặc tế, không còn thọ sinh trong ba cõi nữa, trong khi Thất địa thì không như vậy. Chấp nhận thân hữu lậu ở cõi Dục, trở thành Thất địa cuối cùng không được, vẫn tiến đến Bát địa, không theo đuổi hữu lậu nữa, về danh thì không sáng tỏ. Nói về thế của nghóa này, lẽ ra thông qua Thập địa, để phối hợp với người thứ tư.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lục địa đầy đủ, về sau lại tiến tới đích cuối cùng của đối tượng dứt ư? Cửu địa đã dứt trần của sắc tâm, chướng thô đã hết, vì không còn thọ sinh trong ba cõi nữa, nên lấy để so sánh với người ở quả thứ ba.” “Người thứ tư là bậc A-la-hán” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Kinh chép: “Bồ-tát Thập địa phải biết, như Đức Phật có voi đầu đàn, trông hình dáng giống như Đức Phật, cho nên trước kia, Bồ-tát Ca-diếp đã hỏi: “Thật ra không phải sánh ngang bằng với La-hán ư?” Về sự thì nên thí dụ. La-hán, Thanh văn, về địa vị đã gần với Phật, dùng công dụng của trí Thanh văn để nói về hình dáng vượt hơn, sánh ngang bằng với Phật, La-hán… .” Pháp sư Bảo Lượng nói: “La-hán đã dứt hết kiết sử ba cõi, mà tập khí chưa dứt trừ, để so sánh với Bồ-tát Thập địa đã dứt hết chướng thô của sắc tâm, mà gốc tập khởi của sắc, tâm vẫn chưa dứt, để làm việc so sánh.” Pháp sư Trí Tú nói: “La-hán là địa vị cùng cực của bốn quả. Thập địa là địa vị cùng cực của muôn hạnh, về nghóa là đồng.” “Bốn người này hiện ra đời” cho đến “Đem lại nguồn an vui cho trời, người, chỗ nương tựa cho thế gian.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là chương ba, nói rộng về đức vị.” “Thế nào là có tánh phiền não?” cho đến “Đó gọi là phàm phu, chẳng phải người thứ tám (Đức Phật).” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trên hợp lại thì thành bốn, chia ra thì thành tám. Đây là vì Thanh văn và Bồ-tát, đều có “Hướng” ấy, tức là thành tám. Giống như tâm thứ mười sáu, kết thành Sơ quả. Tâm thứ mười lăm trở lại là gần hướng, năm phương tiện là hướng xa. La-hán lấy ba cõi diệt hết làm quả. Đạo vô ngại trở lên là “Hướng”. Hướng của quả trung gian vì ý chỉ suy nghó, cho nên thứ tám danh đồng, cao, thấp là khác. Vì e rằng con người hiểu lầm, nên lại phân biệt là danh tự của địa vị Trụ tiền. Thứ nhất từ “Chưa được giả gọi là “Pháp không”, gần với người bốn niệm xứ, gọi là Địa Càn Tuệ. Thứ hai từ “Được bốn niệm xứ trở lên, cho đến pháp Thế đệ nhất, tín căn được lập, gọi là Tánh địa. Thứ ba, từ “Đăng tâm khổ nhẫn” trở lên, cho đến “Chưa được quả Tu-đà-hoàn trở xuống, gọi là Bát nhẫn địa, thứ tư, dứt hết “Hoặc” Kiến đế, được gọi là kiến địa. Thứ năm, được quả Tư-đà-hàm, gọi là Bạc địa. Thứ sáu, được quả A-na-hàm, gọi là địa Ly dục. Thứ bảy, là quả A-la-hán, gọi là địa Dó biện. Thứ tám, là Bích-chi-phật. Thứ chín, là địa Bồ-tát, thứ mười là Phật địa. Trên đây, là số thứ nhất, đến Bát nhẫn địa là địa vị Thánh. Nay nói “Không phải là người thứ tám này” là địa phàm phu tánh, là y ban đầu. Sở dó cần làm pháp tính toán phân biệt này là vì Thập địa trong giáo Tiểu thừa xưa có hai thứ khác nhau là nhân, quả. Từ tánh cho đến địa Bát nhẫn đều là Tu-đà-hoàn hướng. Nay, Thập địa Đại thừa khác ở chỗ không có nhân, quả, mà vì Tánh địa lúc làm người Y đầu tiên, e con người vẫn còn mang ý niệm xưa nói là Tu-đà-hoàn Hướng không còn là người nương tựa ban đầu. Vì muốn chỉ địa định tánh, nên phân biệt ngoài địa Bát nhẫn.” Hạng người thứ tám không gọi phàm phu, mà gọi Bồ-tát, không gọi là Phật. Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Tên gọi người thứ tám lại lạm quá Phật. Từ số dưới Đức Phật đến địa này là thứ tám. Từ số trên địa này đến Phật, cũng là thứ tám. Nay, dùng tên Bồ-tát để gọi, rõ ràng Đức Phật chẳng phải thứ tám.” “Hạng người thứ hai, gọi Tu-đà-hoàn” cho đến “Gọi là Bồ-tát đã được thọ ký.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát có ba giai vị: Sơ địa được vô lậu là giai vị của tâm. Bát địa vô lậu là giai vị của thân. Địa thứ mười là giai vị Pháp vương. Nói về giai vị thứ hai này dựa vào hai vị chưa được Bát địa trở lên.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Chế Thập địa thành ba Trụ xứ. Ba Trụ xứ là sáu địa trở xuống, chưa ra khỏi một trú xứ của cõi uế trong ba cõi. Thất địa là trung gian giữa hai nước, chẳng phải tịnh, chẳng phải uế, làm một trú xứ. Bát địa trở lên, tướng, tâm đều dứt hết, gọi là nước tịnh, thành một trú xứ. Người thứ hai này vì chưa được trú xứ của Thất địa trở lên.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Sở dó phải phân biệt danh, là vì giai vị Thánh có ba, mà người này là thứ hai trong bốn, e rằng lạm quá giai vị thứ hai trong các giai vị Thánh, nên phải phân biệt. Người thứ ba, tức là thứ hai của Thánh, tức là thứ ba trong bốn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Y theo người Y thứ hai, hướng về người Y thứ ba làm thứ hai, mà người thứ tư làm người thứ ba. Dù rằng chưa được giai vị này, nhưng đã được thọ ký, tiến đến Thánh vô lậu.” Hạng người thứ ba gọi là bậc A-na-hàm” cho đến “Đó gọi là hạng người thứ ba.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Khách trần, nghóa là lấy “Hoặc” ngoài của ba cõi làm cựu, “Hoặc” trong của ba cõi làm khách, dùng căn bản làm nghóa, như ví dụ đèn tàn mà phẩm trước đã nói. Về sau, nói về nghóa Bất Hoàn.” “Hạng người thứ tư, gọi là bậc A-la-hán” cho đến “Gọi là bậc tôn quý trong loài người, làm chỗ quy y.” Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Chỉ nêu lược ba đức, để giải thích La-hán. Dứt các phiền não, giải thích sát tặc. Được lợi ích mình, là giải thích ứng cúng. Việc làm đã xong, là giải thích vô sinh, như đã giải thích trong phẩm Tựa.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn” cho đến “Cũng không có ý niệm kính mến để con nương tựa.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Người chấp vô thường, thì sẽ sợ thuyết Thường. Như người đáng sợ là bốn Y xuất hiện biến hóa, cho nên thành ma.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thuyết thứ hai nói tướng của người phải nương tựa, thường nói nương tựa pháp, không nương tựa người. Nay, bỏ pháp, nương tựa người, thì đạo ma sẽ làm loạn “Chân”. Vì vậy, nên dưới đây, sẽ dần thành kinh để chứng minh rằng, ma đã gây rối hay chưa? Nếu nương tựa pháp thì không cần nương tựa người.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Sắp nói về đời ác, do bọn ma gây xáo trộn, nhằm phá hoại chánh pháp, nên phải nhờ bốn Y vận dụng các phương pháp để hàng phục chúng, trước là giả nói lời lẽ nương tựa.” Y theo văn hàng ma thì có năm lượt: Dẫn kinh Cù-sư-la để thưa hỏi. Dùng ví dụ để nói Thanh văn phải nương tựa Bồ-tát. Nói Bồ-tát nhờ oai lực của kinh, nên giải thích việc hàng ma. Nói về ma ở trong tâm của người Nhị thừa không chút sợ hãi, chỉ với năng lực của người bốn Y mới hàng được chúng mà thôi.” Nói người Thanh văn cảm thấy sợ hãi đối với ma bên ngoài. Đây là thứ nhất, dẫn kinh để thưa hỏi, chẳng rằng Cù-sư-la là người đã chứng quả Tu-đà-hoàn mà còn chưa khỏi bị ma phá hoại, huống chi người khác? Dưới đây sẽ dùng vật ngậm quý giá, được giữ gìn vững chắc để dụ cho Tu-đà-hoàn, sẽ không bị bọn ma gây rối loạn, vì một khi ở trong hình dáng, chẳng thể không mê hoặc mà thôi!” “Phật dạy: “Này, Ca-diếp! Đối với lời Như lai đã nói” cho đến “Được như vậy, mới có hiệu quả yên vui lâu dài.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đây là nói thường có chân, ngụy, chẳng thể không tin.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dựa vào kinh pháp để xét sự thật, sẽ nhận biết ngay điều thiện, ác do người nói.” Pháp sư Trí Tú nói: “Kế là, nói thế gian phải nương tựa bốn người này để thọ nhận phương pháp hàng phục ma. Bồ-tát Ca-diếp lần lượt nêu ra hai câu hỏi cho là ma có thể hiện hình tượng Phật giả và chân, nhờ đâu mà phân biệt được?” Nay, trong lượt đáp này có hai ý, đây là ý thứ nhất. Vả lại, một khi đã thừa nhận, là đã làm cho chúng ta phân biệt được thiện, ác.” “Này người thiện nam! Ví như con chó vụng trộm, ban đêm lén vào nhà người” cho đến “Như con chó ăn vụng sợ bỏ đi luôn, không quay lại nữa.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ma dụ cho con chó. Thông thường, con chó định đi ăn vụng, nó phải ngóng xem phía ngoài nhà không có người canh giữ, bên trong thì tối đen, nhờ vậy, nó mới lẻn vào được. Ma cũng giống như vậy. Bên ngoài không có bạn lành tri thức, bên trong bị vô minh che lấp tâm, là cơ hội để cho ma làm loạn. Văn tuệ quá thấp kém, dụ cho tôi tớ để sai bảo trong việc gạn hỏi, nói, nhằm kiểm chứng giả ma, thật, bằng cách dùng năng lực của năm trói buộc, ma sẽ bỏ đi ngay!” Pháp sư Trí Tú nói: “Khuyên người tu hành hãy dùng lý để thường xem xét ma, chính là phương pháp xét ma.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Lời nói của bốn hạng người trên đây, chưa hẳn đáng tin.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đại ý câu hỏi này nói bốn Y không có lợi ích. Vì sao? Vì nếu nói rằng, có khả năng hàng phục ma, thì sẽ không cần bốn Y. Nếu không thể khuất phục ma thì thân hình, dáng dấp sẽ lẫn lộn nhau, làm sao tìm xét được?” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là câu hỏi của lượt thứ hai.” “Phật dạy Ca-diếp: “Này người thiện nam! Như Như lai đã nói, cũng giống như thế, chẳng phải, không như thế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý Đáp rằng: Nếu là bậc Bồ-tát thì chẳng phải không đúng, Như lai vì các Thanh văn nên nói hàng phục ma, bởi người Thanh văn chưa học tập Đại thừa, nên phải nương Bồ-tát. Vì nương vào Bốn Y, nên được phương pháp hàng phục ma.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đáp có hai, đây là ý thứ nhất. Vả lại, hễ đã thừa nhận xác minh là có khả năng hàng phục ma, thì thật sẽ gần Niết- bàn.” “Này người thiện nam! Như lai vì các Thanh văn, người có nhục nhãn” cho đến “Phật thừa này là trên hết và hơn tất cả.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lý thường ở ngoài sinh tử, mà Thiên nhãn vốn được bi kiến che lấp bên ngoài làm công dụng. Nếu là người không thể biết thì không bằng nhục nhãn vì nhục nhãn biết được. Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu chắc chắn có khả năng hàng phục ma, thì không cần bốn Y. Như lai nói cho các Thanh văn.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là đáp câu hỏi, có ba lượt, đây là thứ nhất, nói về người nên học phương pháp hàng phục ma chỉ là Thanh văn, chứ không phải đều là những người không can dự Phật pháp, nên phải có bốn Y.” “Này người thiện nam! Ví như người lực só mạnh khỏe với uy lực mạnh mẽ, khuyên bảo những người nhút nhát hãy theo mình.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người có bốn thệ nguyện rộng lớn, dụ cho lực só. Sợ sinh tử, dụ cho yếu hèn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây có hai thí dụ: Một là trước nói Đức Phật lúc còn ở đời, đã dạy cho các Thanh văn phương pháp hàng phục ma. Dũng: Phật có mười Lực, bốn vô úy. Nhút nhát khiếp sợ là Thanh văn.” Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ hai trong lời đáp này, nêu bốn thí dụ, đây là ví dụ thứ nhất.” “Người mạnh mẽ kia thường khuyên bảo kẻ nhút nhát” cho đến “Kẻ hèn nhát giả làm lực só, mang cung tên, đao kiếm đến dọa nạt, hò hét.” ác.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ ba tu để ngăn dứt điều xấu Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Văn tuệ trong ba tuệ như cung, tư tuệ như tên, Tu tuệ như kiếm báu…” “Đức Phật lại bảo: “khi chiến đấu, v.v…” cho đến “Phải tỏ ra dạn dó, mạnh mẽ đừng khiếp sợ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lặn lội qua chỗ hiểm nguy sinh tử, như dẫm lên gươm đao, phải ngắm xem trời, người. Kẻ cảm thấy yếu hèn, nghóa là các hoặc sinh tử không có gốc rễ, dụ cho sự yếu hèn kia. Xuất phát từ lý sinh ra hiểu biết. Có rễ khó nhúc nhích, nghiêng động, tự dụ cho dũng cảm, mạnh khỏe.” “Đôi khi kẻ dối trá ấy thấy ngươi không có vẻ sợ hãi” cho đến “Không lâu sẽ tự rút lui, không dám khuấy phá, như con chó ăn vụng kia.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ma, như chó ăn vụng, dù cho lừa dối làm dáng vẻ như Phật, trong đó không có phương pháp. Nếu thấy Thanh văn không có sợ hãi thì chúng không thể khuấy rối.” “Này người thiện nam! Cũng như thế, Như lai đã bảo hàng Thanh văn” cho đến “Ma kia sẽ lo buồn mà bỏ đi.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Hợp thí dụ.” “Này người thiện nam! Như dũng só kia không bắt chước ai” cho đến “Dù có vô số loài ma muốn đến khuấy phá, cũng không hề sợ hãi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người học Đại thừa có hai việc, không cần nương theo người: Một là do chứa đức sâu dày; hai là do oai lực kinh Đại thừa, tự mình có khả năng hàng phục ma, đây là bậc nhất, nói lên công hạnh của Bồ-tát, cho nên không sợ hãi.” “Này người thiện nam! Ví như người được thuốc A-già-đà” cho đến “Cũng có khả năng hàng phục ma, không cho nó sanh khởi lại nữa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lượt thứ hai, dụ cho oai lực kinh.” “Lại nữa, Này người thiện nam! Ví như loài rồng dữ cho đến nhìn bằng mắt, hoặc hà hơi độc.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên đã nói: “Người học Đại thừa có khả năng làm cho việc ma không khởi, mà Đức Phật ở dưới cây đạo, không có việc ma. Lời nói này dường như giả dối. Cho nên dùng ví dụ này để nói lên Bồ-tát dùng oai lực hàng phục ma, thu nhiếp được Thanh văn, loại bỏ cả nỗi ngờ vực này. Rồng dụ cho ma.” “Cho nên tất cả Sư tử, cọp, sói” cho đến “Hoặc chạm trúng thân nó, đều sẽ bị mất mạng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho Nhị thừa, người có thần chú thiện. Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: Dụ cho bốn y, vì nhờ năng lực của chú.” Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Dụ cho năng lực kinh.” “Có khả năng điều phục các loài rồng dữ” cho đến “Dùng làm con vật để cỡi.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chính là nói về Bốn Y. Nhờ oai lực kinh, nên chẳng những có khả năng hàng phục ma, mà còn thu nhiếp được người Nhị thừa.” “Thanh văn, Duyên giác cũng giống như vậy” cho đến “Không sinh tâm sợ hãi, vẫn thực hành nghiệp ma.” Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Hầu hết các thú đều sợ rồng, rồng không hề sợ loài thú nào cả.” “Người học Đại thừa cũng giống như vậy” cho đến “Vì nói rộng các môn pháp mầu.” Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Như thần chú kia, sở dó hàng phục được rồng dữ, là vì đã điều phục được các thú.” “Các Thanh văn, Duyên giác đã điều phục được ma rồi” cho đến “Chớ làm chướng ngại chánh pháp Đại thừa.” Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Như các thú kia vì thấy rồng đã bị hàng phục, nên cũng chịu điều phục.” “Này người thiện nam! Các Thanh văn, Duyên giác” cho đến “Trăm, ngàn ức kiếp sau, sẽ không bị rơi vào đường ác.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là lượt đáp thứ ba, kết thúc chỉ thú trên. Nói lý do Thanh văn phải nương vào kinh Đại thừa, học Đại thừa, thật đáng tôn quý!” “Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Kinh điển mầu nhiệm Đại Niết-bàn này.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đoạn ba, nói về thời gian và nơi chốn lưu thông. Sau Như lai Niết-bàn, tức là thời gian, sẽ có người chê bai, tức là nơi chốn.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Sẽ cứu vớt được sự chê bai chánh pháp ấy chăng?” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Câu hỏi có hai ý: Một là thời gian lâu sau khi Như lai nhập Niết-bàn, sẽ có người chê bai? là hỏi: “Những người nào có khả năng làm người cứu giúp muốn chỉ rõ bốn Y.” “Phật dạy: “Này người thiện nam!” cho đến “Rồi sau đó sẽ ẩn vào trong đất.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lưu hành thì hiển, không lưu hành là ẩn, chứ chẳng phải đều mất.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp có năm trăm năm, Tượng pháp cũng năm trăm năm. Nay, nói bốn mươi năm, là y cứ sau khi Đức Phật mới nhập Niết-bàn trong chánh pháp.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đức Phật ở đời nói pháp trong năm mươi năm. Nếu người đồng năm với Đức Phật đã qua, người ấy có thọ lãnh đạo ở giữa năm, thì dù Đức Phật nhập Niết-bàn, nhưng với số người cùng một điểm này có thể vì truyền bá, đúng ra sẽ được bốn mươi năm. Số chung này lại bỏ. Về sau này, giáo lý chánh pháp dẫn đến nhiều sai sót và suy đồi!” “Này người thiện nam! Ví như có người có nấu gạo thơm, mía, đường” cho đến “Người nơi đó đều cho các thực phẩm ấy là ngon nhất!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ người thực hành kinh. Pháp sư Tăng Tông nói: “Người này cố chấp truyền bá rộng rãi, cuối cùng họ sẽ không nhập vào.” “Đó là những người phước mỏng, sẽ thọ nghiệp báo” cho đến “Như người phước đức kia chỉ thọ hưởng những thực phẩm quý: Cơm ngon, mía, đường, sữa, trọn đời không nghe nói cơm hẩm đầy bông cỏ.” Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Nêu hai ví dụ để hợp với nơi có lưu hành, không lưu hành chánh pháp.” “Này người thiện nam! Ví như có vị Vua ở trong núi sâu hiểm trở” cho đến “Vì sợ khan hiếm, nên không dám ăn, chỉ dùng toàn rau cỏ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bị phiền não trói buộc nhiều, tâm Đại thừa yếu ớt, dụ cho tai nạn nguy hiểm, vì từ bi đã ít, nên không thể truyền bá rộng chánh pháp, dụ cho tiết kiệm thực phẩm ngon, sợ hết, nên không ăn, chỉ nói Tiểu thừa, của tiền ngày càng ít, dụ cho chỉ ăn rau cỏ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Núi sâu, tai nạn hiểm trở, dụ cho con đường lưu thông rộng rãi, chứ chẳng phải không có con đường, vì đường núi ghập ghềnh khó vào. Cũng như chẳng phải không có kinh điển Đại thừa, bí mật mà không truyền bá, dụ cho tham tiếc không ăn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hóa chủ Tiểu thừa, dụ cho vị vua kia ngu si, chướng nặng, dụ cho núi sâu hang thẳm. Dù có kinh điển Đại thừa, với ý vị sâu kín u huyền, không phải pháp mà mình hiểu nổi, dụ cho khó được. Lại sợ rằng phi lý, dụ cho nỗi sợ hãi sẽ hết.” “Vua nước láng giềng nghe biết, vừa xót thương, vừa cười” cho đến “Nhà vua nhận được tặng phẩm với hương vị ít có này.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Viết chép rộng, kinh điển Đại thừa, truyền bá xứ kia, cùng một lúc từ giáo hóa, ví dụ dân chúng cả nước đều được ăn chung.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát bốn Y đến chỗ chúng sinh được cảm hóa kia, dụ cho xót thương. Đích thân tự truyền bá chánh pháp một cách sâu rộng, dụ như xe chuyên chở.” “Này người thiện nam! Bốn bự người Y chỉ trên đây cũng vậy” cho đến “Vì nhờ năng lực vua mà được thưởng thức các món ăn ngon lạ ít có.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hợp thí dụ, nói về hướng, nghóa là Tiểu thừa. Vua ở núi sâu, nghóa là thọ lãnh sự giáo hóa của bốn bậc y chỉ, cũng sẽ thành Bồ-tát, vẫn còn nói rộng. Xưa, vì Tiểu thừa không bằng lòng ở chung với những người thọ trì, chỉ vì tiếng tăm, lợi dưỡng. Dưới đây, nêu ra năm trưòng hợp: Vì lợi dưỡng. Vì khen ngợi. Vì hiểu pháp, tức là muốn hơn người. Làm Y chỉ, phải là cần người quy y, nương tựa. Vì mua bán. Ngoài kinh ra, còn phải mở rộng tất cả, rồi sau đó mới thí cho, đều là nhân duyên che lấp chánh pháp, chính mình không phải bốn Y chỉ, thì làm sao có khả năng giáo hóa mọi người? “Lại, Này người thiện nam! Kinh Đại Niết-bàn này” cho đến “Vì nghóa lý sâu xa của kinh điển Đại thừa này.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hễ chỗ nào kinh này được truyền bá thì phải biết rằng đất ở nơi đó là đất quý như Kim cương, con người ở chỗ đó thật đáng tôn nặng. Nếu không như vậy, thì dùng pháp năm ấm, như đất, người là giả danh đối với pháp, nhờ pháp này mà thành người, người và pháp đều là kim cương.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Vậy không biết bao giờ kinh này sẽ lại xuất hiện?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đoạn thứ tư, nói về bốn y gieo trồng nhân xa, gần. Xa là thầy, gần là đệ tử, nhằm chỉ bày công đức cạn, sâu và khuyên người tu tập.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước lấy sự gian nan hiểm trở trong núi sâu làm dụ, đủ biết rằng ngày giờ, nơi chốn của việc truyền bá đều khó khăn, tự chẳng có cội đức sâu dày, thì đâu thể giảng nói giáo hóa? Nay, giải thích về thầy bốn Y chỉ từ xa, gần của tu đức.” Phật dạy: “Này người thiện nam! Nếu chánh pháp của Như lai” cho đến “Rưới trận mưa pháp lớn xuống cõi Diêm-phù-đề.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chân lý của chánh pháp vô cùng trong sáng, đâu có hưng thịnh, đâu có ẩn mất, hễ được truyền bá thì hưng thịnh, không lưu hành thì suy vi mà thôi!” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nêu bốn mươi năm là Chánh pháp. Bốn mươi năm đầu trong năm trăm năm, đã qua một lần truyền bá, nay nói chánh pháp sắp cuối cùng là hơn tám mươi năm. Bốn mươi năm chánh pháp này sắp hết, lại một phen hưng thịnh. Nếu hai thời kỳ đã qua, pháp ác thêm lớn, thì chẳng phải là vì đạo không truyền thừa, chẳng phải nhân thì không gieo trồng, mà muốn cho chúng đương thời mếm đạo tu nhân.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bốn mươi năm sau khi Phật nhập Niết- bàn. Đến nay người bốn Y làm nhiệm vụ giáo hóa lẫn nhau. Gồm ba trăm tám mươi năm, tin nhận bốn Y, đều là bốn mươi năm trước, hợp thành bốn trăm hai mươi năm. Chánh pháp chỉ tồn tại trong hơn tám mươi năm, mà kinh pháp trong bốn mươi năm vẫn còn truyền bá. Sau bốn mươi năm, hơi gần với tượng pháp, mạt pháp không còn truyền bá. Vì sao? Vì con người ở thời kỳ này đều được bốn Y giáo hóa, đều có khả năng thọ trì kinh này. Qua thời kỳ này về sau, bấy giờ diệt độ hết, không còn truyền bá, nên nói là chánh pháp sẽ ẩn vào trong đất.” Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ dưới đây là đoạn thứ tư, sẽ nói về nhân xa, gần của người bốn Y.” “Bấy giờ, Đức Phật khen Bồ-tát Ca-diếp: “Lành thay! Lành thay!” cho đến “Thọ trì kinh điển này mà không chê bai.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây, nói về người Y chỉ đầu, có nhân của người còn tánh phiền não, kinh nói: “Bồ-tát Sơ địa cúng dường Chư Phật nhiều như cát bụi, đâu phải chỉ có số cát của tám sông Hằng, tức là đủ Thập địa, chỉ nói công đức của người Y đầu tiên như thế. Ba người còn lại, không cần nói đến. Địa tánh, địa giải có ba thứ tuệ: Văn, Tư, Tu. Các công đức hữu lậu này đều có ba phẩm. Cát sông Hy Liên được văn tuệ phẩm hạ hạ. Sông Hằng thứ tám được Tu tuệ phẩm thượng thượng, đây là chín phẩm hữu lậu tuệ mãn, hơn đây được vô lậu, nhập Sơ địa. Người hộ trì chánh pháp ở vị lai cúng dường nhiều như số cát của tám sông Hằng, bắt đầu có khả năng giảng nói chánh pháp, e có người lui sụt. Dùng công đức này để khuyến khích hộ trì, cúng dường.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong đây nêu ra nhân của hai nhà: Từ số cát của sông Hy-liên, cho đến số cát của hai sông Hằng, là nhân của người nghe. Từ số cát của ba sông Hằng đến tám sông Hằng là nhân của người nói.” “Này người thiện nam! Nếu chúng sinh nào phát tâm Bồ-đề với Chư Phật bằng số cát của một sông Hằng” cho đến “Không thể phân biệt nói rộng cho người nghe.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “văn tuệ là Phẩm trung, cúng dường nhiều bằng số cát của sông Hy-liên, được văn tuệ phẩm hạ, chỉ cần không chê bai, nay nói rằng yêu thích là sách.” “Này người thiện nam! Nếu có chúng sinh nào đối với Chư Phật bằng số cát của hai sông Hằng mà phát tâm Bồ-đề” cho đến “cũng không thể giảng nói rộng cho người nghe.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Văn, Tư phẩm thượng tròn đầy, thêm vào đó, sự hiểu biết đúng đắn, tin ưa, thọ trì, đọc tụng kinh này, vẫn chưa có khả năng nói rộng cho người nghe.” “Nếu có chúng sinh nào đối với số cát của ba sông Hằng” cho đến “Dù giảng nói cho người nghe, nhưng vẫn chưa hiểu được nghóa sâu xa.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là người thuộc tư tuệ phẩm hạ. Người này giả gọi “Là pháp không”, vì sắp lập mà chưa lập, nên thuộc về số đệ tử. Nói “Chưa hiểu được nghóa sâu kín, nghóa là chưa nhận thức được căn cơ của người, vì ba người Văn tuệ ở trước đều là người niệm xứ.” “Nếu có chúng sinh nào đối với Chư Phật, phát tâm Bồ-đề nhiều như số cát của bốn sông Hằng” cho đến “Dù rằng giảng nói, nhưng cũng không đầy đủ.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nay, người y chỉ ban đầu có mười sáu phần hiểu biết, đây là phần nói rộng mà thôi, vì ý văn giống như giải thích về đăng ký ở trụ. Vì sao? Vì truyền bá trong đời ác, đối với người là khó khăn, mà phàm phu có “hoặc”, thì có thể truyền bá, giáo hóa, quả là việc đáng lấy làm lạ. Nếu là người đã đăng ký nơi trụ thì sẽ không đáng đặt ra câu hỏi, cũng không cần hỏi. Vả lại, người bị buộc ràng, muốn truyền bá rộng, thì không cần đời ác. Nay, nói đức giảng thuyết rộng, đời ác dẫy đầy, cho đến người thứ nhất đến thứ tám, về sau còn bốn, thêm bớt như thế là cũng có ý. Nói về tạo nên thứ lớp để tìm tòi lý, công phu ấy thật gian nan, nên được một phần và người y chỉ kia tìm hiểu được lý rồi, thì trước, lững thững cưỡi dễ dàng, nên tiến lên tám phần. Đã nhập vào chỗ sâu kín, vì thần công khó nên phải hao hụt đến bốn. Sự hao hụt hai của bốn. Nghóa ấy cũng vậy. Sau cùng lẽ ra còn một mà lại hai người. Kết hợp với năng lực của nhân trước, vì sắp mãn để mong khích lệ, nên lại đến hai người. Văn kinh không có chỗ nào chính thức chỉ bày, vì thế, nên thầy nói là thỉnh thoảng khác nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Y theo phẩm thượng của người y đầu tiên, suốt bốn mươi tâm, ôm ấp sự hiểu biết, chia thành mười sáu phần, sở dó khác nhau không đồng đều vì phàm phu đã quen với “Hoặc”, dụng có thô tế. Đã ở khoảng giữa gặp phải bạn bè xấu ác, khởi lên một đoạn “Hoặc” nặng nề, với dụng tâm không đồng đều, thì kiến giải đâu có chứa đựng sự bình đẳng? Vì chấp tướng khó dứt bỏ, nên người y chỉ đầu tiên chỉ hiểu một phần. Với thói quen giả dối không thôi. Nhờ vào sự hiểu biết trước kia để làm vốn liếng, của cải, cho nên tỏ ngộ ngay bảy phần, nhưng vì tướng nhỏ nhiệm khó đối trị, nên thắng giải không dể gì phát sinh. Đây là giao tiếp với cố chấp khó bỏ, thoáng chốc tồn tại thì dễ quên, nên thắng giải khó được.” “Nếu có chúng sinh nào đối với số cát của năm sông Hằng” cho đến “Nghóa của tám phần trong mười sáu phần.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Sở dó người y chỉ đầu tiên, cho đến người thứ tám, phân tích về hiểu biết bên ngoài của họ lẽ ra là có vô lượng, chỉ vì không nằm trong giới hạn đáng nương tựa, nên không chép. Nay, nêu người y chỉ kia đáng được gọi là người bất thoái, nghóa là nói một phần.” “Nếu có chúng sinh nào đối với Phật, nhiều bằng số cát của bảy sông Hằng” mà phát tâm Bồ-đề cho đến “Nghóa mười hai phần trong mười sáu phần.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Về lý, đã sâu sắc dần, mà hiểu biết tinh tường thì thật khó được, cho nên trước nhiều mà sau ít.” “Nếu có chúng sinh nào ở trước Đức Phật, nhiều như số cát của bảy sông Hằng” mà phát tâm Bồ-đề cho đến “Nghóa mười bốn phần trong mười sáu phần.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Ao sai biệt chứa dần, về nghóa đồng với trên.” “Nếu có chúng sinh nào ở trước Đức Phật, nhiều như số cát của tám sông Hằng” mà phát tâm Bồ-đề cho đến “Tất nhiên có khả năng che chở, giữ gìn chánh pháp vô thượng.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Tập hiểu biết vừa mới chứa nhóm, đối với công đức của một phần đã bắt đầu được đầy đủ, trở thành người y chỉ đầu tiên.” “Này người thiện nam! Có hạng Tỳ-kheo xấu ác, nghe Như lai vào Niết-bàn” cho đến “Chê bai chống đối kinh Đại thừa này.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đoạn thứ năm giải thích tướng tin, không tin, nói về tin bốn y thì được, không tin là mất. Ở đây, trước hết nói về tướng mạo của người không tin.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ý khuyến tin, vì nhờ được nghe kinh, nên năng lực của người đó không cạn cợt, lẽ nào không sinh tin sâu ư?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây có bảy lớp: Nói về sau Đức Phật nhập Niết-bàn, có lỗi của người không tin. Nói người tin, thì sẽ diệt ác. Nói rộng về tai hại của việc chê bai chánh pháp. Nêu ra hiện báo của người kính, tin kinh này. Nói về tội lỗi của người chê bai chánh pháp. Đối với kinh Niết-bàn này mà sám hối, thì lỗi lầm của họ chắc chắn được tiên diệt, cũng sẽ trở thành người tin pháp thứ hai trước kia. Dụ cho người mới xuất gia, lấy tin pháp, tin người làm dụ. Nói về người vốn không có ý tốt, mà học Đại thừa, hoặc có người vì thấy người khác được lợi dưỡng, nên mới đọc. Hoặc có người vì ham tiếng khen, nên xem. Dù vậy, nhưng chúng sinh với tinh thần sáng suốt về sau, tự giác biết nghóa sâu xa của oai lực kinh, đây chính là lớp thứ nhất.” “Này người thiện nam! Nay ông phải ghi nhớ như vậy” cho đến “Nghiệp ác đã gây ra, đều được tiêu trừ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói rõ tướng của người có đức tin.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn hai, là nói về người tin kinh, chắc chắn sẽ tiêu diệt mọi điều xấu ác.” “Nếu người nào không tin kinh điển này” cho đến “Không bao giờ được đến cõi lành trời, người.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn thứ ba nói về hiện báo của người không tin.” “Nếu lại có người tin được như thế” cho đến “Người này có nói ra điều chi, ai nghe đều kính tin.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn thứ tư, nói về hiện báo của người có lòng tin.” “Trong các đệ tử Thanh văn của Như lai” cho đến “Nên giảng rộng kinh điển ấy.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trên nói công đức của người kính tin, là các Thanh văn vì ưa làm việc lành riêng, nên Đức Phật khuyên riêng.” “Này người thiện nam! Như sương mù kia chỉ có thể tồn tại đến khi mặt trời mọc, sương mù lập tức sẽ tan biến. Bao nhiêu nghiệp ác của chúng sinh, thế lực sẽ phải tiêu diệt khi thấy mặt trời Đại thừa Đại Niết-bàn này.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc lành có hai quả báo: Tiêu diệt điều ác. Thành tựu việc lành.” Kế là nói về thành tựu việc lành. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn thứ năm, vì người hướng, là người chê bai kinh Đại thừa, dùng làm thí dụ, để nói về tội chê bai chánh pháp. Nếu người nào đối với kinh Đại Niết-bàn mà sám hối, thì lỗi lầm của họ chắn chắn sẽ tiêu diệt, cũng sẽ trở thành người có lòng tin thứ hai trước kia, vì dứt trừ điều ác.” “Này người thiện nam! Như có người” cho đến “Tức là đã được dự vào trong số các Bồ-tát Thập Trụ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về sinh điều lành, sở dó nói dự vào số Thập trụ, vì Thập trụ cũng không lui sụt, người này cũng không lui sụt.” Ở dưới nói “Nếu tai được nghe nói tên một bộ kinh, thì đời đời sẽ không mất chánh kiến.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn sáu, là người hướng được làm thí dụ, vì được xếp vào số Thập địa.” “Có chúng sinh nào là đệ tử Phật” cho đến “Bốn hạng người ấy, là chỗ nương tựa của thế gian.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước, vì người phát tâm tin sâu, ví dụ đoạn bảy hiện nay. Đây là nói về người phát ra không có ý tốt, mà người học Đại thừa, hoặc thấy người khác được lợi dưỡng, hoặc vì tham tiếng tăm, nên đọc kinh điển. Dù vậy, chúng sinh không phải là gỗ, đá. Về sau, cũng sẽ tự giác ngộ, biết được oai lực của kinh, mà được gần gũi đạo.” Kính Di ghi lời Tăng Tông rằng: “Trước kia, đã nói nhân xa, vì e rằng, tâm người tự dứt, nên lại dẫn chứng, bất luận chân ngụy, chỉ có thể tâm, thì tự sẽ có lợi ích sâu rộng.” <篇> <卷>QUYỂN 16 <詞>Phẩm 8: BỐN Y (Phần 2) Nói về người cung kính, mở rộng kinh. Không nên phân biệt già, trẻ, màu da đen, trắng… . Nêu ví dụ hai quả tương tự. Nêu ví dụ mua thuốc ở núi Tuyết. Hội thông về nghóa bốn y xưa nay. “Này người thiện nam! Ông hãy cúng dường cho bốn người như thế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đoạn sáu, nói về nghi thức kỉnh sư.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Về đức của bốn y, thật đáng tôn quý, vì có khả năng sinh ra điều lành, nên phải cúng dường”. Pháp sư Trí Tú nói: “Khuyên cúng dường có bốn lượt: Chính là khuyên. Nói về pháp cúng dường. Hỏi đáp, nói về pháp cúng dường. Hỏi đáp về có khả năng hiện thành người ác. Người này có phá giới không? Đây là khuyên cúng dường thứ nhất”. “Bạch Đức Thế tôn! Con phải làm thế nào để nhận biết được người ấy để cúng dường?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dấu vết tối tăm của bốn y không thể phân biệt được”. Pháp sư Trí Tú: “Dưới đây, thứ hai, nói về pháp cúng dường. Đức Phật định nói, thì Bồ-tát Ca-diếp liền hỏi: “Phật bảo Ca-diếp: Nếu có kiến lập” cho đến “Cũng như các vị trời kính thờ Đế Thích”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bên trong, thật khó biết. Chỉ xem dấu vết bên ngoài, người nào mở mang, giữ gìn chánh pháp, thì nên cúng dường”. Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Nay con có điều nghi, cúi mong Như lai nói rộng”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Giáo nay và xưa đã trái. Xin Đức Phật hội cả hai thuyết”. “Nếu có vị trưởng túc, giới hạnh tinh nghiêm” cho đến “Nếu thọ học những điều chưa nghe thì có phải lễ kính chăng?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong đây có ba câu hỏi, đây là câu hỏi thứ nhất, không gọi là người giữ giới, không gọi là giữ giới của Tiểu thừa”. “Nhưng, người xuất gia không lễ kính cho đến giống như ruộng tốt thường có cỏ dại”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thành ba câu hỏi trước. Trước là phân biệt câu hỏi thứ ba. Kế là phân biệt câu hỏi đầu tiên, sau là phân biệt câu hỏi thứ hai”. “Lại, như Phật thường nói: “Có người biết pháp là thầu Tỳ-kheo trì giới, cũng có điều trái phạm” cho đến “Lời dạy bảo đó của Phật cũng chưa trọn nghóa”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai lời dạy trên trái nhau, chẳng lẽ cả hai đều là thật, phải là một thật, một giả. Cũng có điều trái phạm, nghóa là dù tự trì giới mà không trừng trị kẻ phá giới thì pháp sẽ tiêu diệt, không thể cứu vãn! Cũng không phải đệ tử Như lai. Không trừng trị vẫn còn là phạm, huống chi nên lễ bái ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Cũng có người đã trái phạm, như điều Phật đã chế hôm nay, ngày xưa, Tiểu thừa trì giới cũng có sự trái phạm”. Minh Tuấn nói: “Lại như Phật nói v.v… trở xuống, là nêu lời dạy hôm nay để kết lời hỏi. Như Đức Phật dạy v.v… trở xuống, dẫn giáo xưa để thành câu hỏi”. “Phật bảo Ca-diếp: “Này người thiện nam! Như lai vì vị lai” cho đến không nói cho đệ tử Thanh văn”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý đáp, người đã làm là vì khác. Hàng Tiểu thừa dùng sự trong sạch để tự độ mình. Đại thừa lấy cứu vớt chúng sinh làm hoài bão. Do đó, không được nói đồng ngày”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Chế Tiểu thừa như xưa, khuyên Đại thừa như nay, thông suốt, bít lấp có lúc, già, khai chẳng nhất định”. “Này người thiện nam! Như lời Như lai nói, lúc chánh pháp diệt rồi” cho đến “Dù có trái phạm, nhưng không gọi là phá giới”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người mở mang chánh pháp, dù bề ngoài có trái phạm, nhưng nội tâm không có gì là phá”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại nêu đời ác, nên phải lưu thông, nghóa là hoặc nói lên sự yên lặng, có khi nói về đồng sự, hoặc nói về loạn, trị đối với đạo Bồ-tát, không gọi phạm giới”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bốn người ra đời, động thì phải quán căn cơ, đúng thời thực hành. Phải sáng suốt trong công hạnh đồng sự, sau đó mới đề cập, nên nói: “Chỗ mình đã làm và chỗ Đức Phật làm, đều khéo phân biệt”. “Này người thiện nam! Ví như vị vua bị bệnh mà chết.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Sư sư Tịnh chúng, chớ có hai hành động, là nghóa có vua” Pháp sư Tăng Lượng nói. Hộ pháp của phương tiện trước, người không phạm giới, làm thí dụ, vị vua dụ cho người giữ giới thanh tịnh có đức, đứng đầu một chúng, có sinh, có tử”. “Thái tử còn thơ ấu, chưa thể nối ngôi”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Noi theo xưa mà thực hành, rõ ràng có thể y cứ, chỉ vì con người chưa tìm tòi”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Đệ tử dù tập tành theo đức của thầy, nhưng vì còn trẻ tuổi, nên đạo hạnh chưa điều phục được chúng sinh”. “Có người Chiên-đà-la có nhiều của báu” cho đến “Thừa dịp vận nước suy yếu, âm mưu soán ngôi tự lên làm vua”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tình ý buông thả làm điều xấu ác, hại mạng trí tuệ là Chiên-đà-la. Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ thầy Tỳ-kheo phá giới trong tâm nhiều thủ thuật dung tục bên ngoài, của cải dồi dào mà đồng giao du với kẻ ác, nhiếp thu ở tăng sự, ở chô chẳng phải đạo, làm việc soán đoạt của người khác.” “Vua Chiên-đà-la trị vì không bao lâu, người dân trong nước, phần nhiều cư só, Bà-la-môn… đều trốn chạy sang nước.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người không có đức độ thì ở địa vị chính, có tính toán việc phi pháp, còn Tỳ-kheo giữ giới thanh tịnh thì thậm chí chỗ ở cũng không yên!” “Số người còn ở lại cho đến, không muốn nhìn thấy vị vua ấy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù thọ lãnh lời Tỳ-kheo kia nói, nhưng không bao giờ cùng chung Bố tát, Tự tứ, không có tinh thần hòa hợp như nước với sữa.” “Hoặc có trưởng giả Bà-la-môn… ” cho đến “Hễ sinh chỗ nào cũng, chết trong chỗ đó.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trú xứ của Tông sư, đồng thuyết giới với Tỳ-kheo kia. Chỗ này đắc giới, nơi kia phá giới, như cội cây kia.” “Vua Chiên-đà-la biết người dân của nước ấy” cho đến “Sai các Chiên-đà-la canh giữ các nẻo đường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có người giữ giới, muốn trốn tránh, mà tìm kiếm, truyền bá không có đường.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hoặc sai khiến đệ tử phá giới ngăn cản đạo kia.” “Đến bảy ngày, vua Chiên-đà-la cho đánh trống truyền lịnh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “biết các Tỳ-kheo không thể dùng sức để chế ngự, định dùng luật để trừng trị. Nếu tăng có tội thì dùng bảy pháp diệt tránh tuyên bố cho tăng biết.” “Các Bà-la-môn nào có thể vì ta” cho đến “Sẽ chia đôi cõi nước để phong thưởng cho.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã biết chúng không khuất phục, nay muốn cho chúng tăng hòa hợp Yết-ma để biết được sự việc, biết chung về tăng sự, dụ cho chia đôi đất nước.” “Các Bà-la-môn dù nghe lời này” cho đến “Có vị Bà-la-môn làm việc như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tỳ-kheo thanh tịnh, thói quen của thầy không phải như vậy, chẳng lẽ có lý cho đồng sự ư?” “Vua Chiên-đà-la lại nói thế này” cho đến “Chia đôi cõi nước, lời nói này không giả dối.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu lập Như lai làm người đứng đầu tri sự thì sẽ phải kiết giới riêng, đều tự Bồ-tát, không có ngăn ngại cho. Nếu không, như thế thì phải khiển trách người phi pháp đồng với tăng sự của ông, làm cho ông không được mỗi nửa tháng thuyết giới.” “Còn nếu ai chịu chủ lễ tôn vương, thì nhà vua chắc chắn sẽ chia đôi cõi nước để ban thưởng, cho đến “Thuốc Cam lộ bất tử của cõi trời Đao-lợi, do sức thần chú cầu được, nhà vua cũng sẽ chia đều cho người ấy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước, dùng luật để trừng trị. Nay, lấy kinh làm chính. Chú thuật, dụ cho Bát-nhã. Trời Đao-lợi (trời ba mươi ba) dụ cho Niết-bàn. Thuốc, dụ cho thường trụ. Phải cùng lưu hành kinh để cùng nhau mong cầu được thường, nên dụ cho ăn.” “Bấy giờ, có con của một người Bà-la-môn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tịnh hạnh suốt bảy đời, gọi là Bà-la-môn.” “Tuổi vừa hai mươi” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gieo trồng các đức bằng số cát tám sông, dụ cho con trẻ yếu ớt, chính là nói người lớn tuổi phải lễ người trẻ tuổi.” “Tu trị tịnh hạnh”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: nói về nghóa tự chánh. Là tướng tóc dài. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tóc mọc trên đầu người, chỉ tóc dài là đẹp. Mạng, đức đứng đầu, lấy thường làm trên hết.” “Giỏi về chú thuật”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh luật gồm nói, giải thích tường tận nghóa kinh, luật đó.” “Bấy giờ, có một người Bà-la-môn tuổi trẻ, đức hạnh thanh tịnh, giỏi về chú thuật ra làm chủ lễ tôn vương cho vua Chiên-đà-la.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dấu vết tối tăm là ác, là điều mà người đó có thể làm.” “Bấy giờ, tâm nhà vua rất vui mừng, nhận Bà-la-môn trẻ tuổi này làm thầy quán đảnh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Liền làm Yết-ma, nêu trị tăng sự.” “Các Bà-la-môn nghe việc này xong” cho đến “Sao lại làm thầy của gã Chiên-đà-la?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có người chưa thấu suốt, không nhận thức giáo quyền kia.” “Bấy giờ, vị vua ấy y lời hứa, chia đất nước ra làm đôi, cùng vị Bà-la-môn trẻ đồng trị vì trải qua thời gian dài.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghe trị loạn, pháp Đại thừa thông suốt qua thô.” “Bấy giờ, vị Bà-la-môn trẻ tâu với vua:” cho đến “Nhưng mãi đến nay, nhà vua vẫn không thấy thân.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tốt, xấu đồng nhau, nói là thân. Ta có chung các xấu của ông, mà ông khác với cái tốt của tôi, nên cũng chưa thấy thân.” Bấy giờ Vua đáp rằng: “Nay, trẫm làm sao” cho đến “Nhà vua chưa cho tôi cùng được uống thuốc Cam lộ bất tử của tiên vương.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Điều tốt đẹp của Như lai là ở thường trụ, mà kinh thường này cũng chưa được truyền bá chung.” “Vua bảo: Phải lắm, Đại sư quả nhân thật sự không biết. Nếu đại sư cần cứ lấy mà dùng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không biết có kinh này. Lại chưa biết điều tốt đẹp của Sư, cứ lấy đi mà dùng, nghóa là chỉ truyền bá kinh để cầu thường.” “Bấy giờ, vị Bà-la-môn trẻ nghe Vua nói xong, vội đem thuốc Cam lộ về nhà.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát dùng sự truyền bá chánh pháp rộng lớn làm nhà của tâm. Được kinh rồi, truyền bá mới đem về nhà.” “Mời các vị đại thần đến, cùng nhau uống thuốc Cam lộ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tri sự đã thừa nhận mở mang kinh. Ở đây, người mở mang lưu thông bèn có thế lực, nhưng lưu hành kinh để cầu thường. Lấy giữ giới thanh tịnh làm gốc. Chế ngự Tỳ-kheo ác, dứt trừ hết vật bất tịnh, tu nhân thường trụ, dụ cho cùng uống. “Các đại thần uống xong, liền cùng nhau đến tâu lên nhà Vua: “Muôn tâu đại vương! Vui lắm! Đại sư có thuốc Cam lộ bất tử này.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau khi được thế lực lưu hành kinh, các đại thần đến trước nhà vua nói về sự tốt đẹp của kinh.” “Biết được tin ấy, nhà vua bèn nói với vị Bà-la-môn trẻ rằng: “Sao Đại sư và các đại thần cùng uống thuốc Cam lộ, mà không thấy chia phần cho trẫm?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bè đảng hung tợn đã hết, nhưng cái ác vẫn không cô lập, nên cầu nương theo kinh để nghe pháp thường trụ.” “Bấy giờ, vị Bà-la-môn trẻ liền đưa thuốc có lẫn chất độc cho nhà vua uống.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cầu mong thường trì giới thanh tịnh làm gốc, trước phải bảo đọc luật. Đã phạm giới cấm, về phần bản thân minh là khổ, gọi là độc. Trị tội người kia, gọi là thuốc.” “Vua uống xong, không bao lâu thuốc ngấm, buồn nôn, ngã lăn ra đất, mê man bất tỉnh, như người chết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đọc luật, nêu tội, dụ cho thuốc ngấm, phát ra phản ứng. Ở ngoài chúng, không còn đi chung con đường nữa, dụ cho ngã lăn ra đất. Bên trong dứt mầm thánh, dụ cho mê man bất tónh không còn biết gì, không có tuệ mạng, vì như người chết.” “Bấy giờ, Bà-la-môn trẻ liền lập thái tử” cho đến “Con của tiên vương lên ngôi, dùng chánh pháp để an dân trị nước.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại dùng người thanh tịnh như luật, để làm Tri sự.” “Sau khi sắp đặt việc triều chính xong, đến chỗ vị Bà-la-môn trẻ giải độc cho Chiên-đà-la được hồi tỉnh, rồi đuổi ra khỏi nước.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bảo thọ trì kinh Niết-bàn, dụ cho giải độc. Không trải qua ba đường, dụ cho được hồi tỉnh. Không được ở trong chúng, dụ cho ra khỏi nước.” “Vị Bà-la-môn trẻ dù làm việc ấy” cho đến “Khảo xua đuổi vua Chiên-đà-la.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Dù Bồ-tát đồng ở chung với Tỳ-kheo ác kia, nhận chứa vật bất tịnh, mà vẫn không hề trái phạm, còn được các vị tịnh hạnh khen ngợi.” “Này người thiện nam! Sau khi Như lai nhập Niết-bàn, các Bồ-tát hộ trì chánh pháp” cho đến “Đem lại lợi ích cho các trời, người.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Hợp ví dụ rất lược, chỉ hợp Bồ-tát. Trước bày tỏ đồng, mà sau thì trái.” “Này người thiện nam! Vì nhân duyên này, nên Như lai nói hai bài kệ trước kia” cho đến “Chỉ vì Bồ-tát mà nói kệ này.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Nêu ví dụ để đáp lại câu hỏi, hội thông ý của hai bài kệ trước.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn” cho đến “Giới của các Bồ-tát ấy đã thọ, có đầy đủ chăng?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói không trái phạm, cho nên hỏi lại, là vì dù nói là hiện đang phạm giới, nhưng cũng phải hiện sám hối, cũng rất cần người tịnh giới, để giúp người đã lỡ trái phạm được tiêu trừ. Đây là sự vó đại của Phật pháp, chẳng thể không nói.” “Này người thiện nam! Nay ông không nên” cho đến “Liền phải sám hối. Sám hối rồi sẽ được thanh tịnh.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giới của các vị ấy không mất, dù cho có phạm, cũng không bao giờ thành lỗi.” “Này người thiện nam! Như bờ đê cũ có lỗ hở trống” cho đến “Thì giới đã thọ được đầy đủ không mất.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giới như bờ đề cao chắc, lấy định, tuệ làm nước. Nếu không có bốn y ra đời, khuyên bảo thay đổi việc ác, thực hành theo điều lành, thì bờ đê giới sẽ bị lở, bể, nước định, tuệ sẽ chảy ra hết.” “Này người thiện nam! Đối với “Thừa” mà thong thả, mới gọi là thong thả” cho đến “Dù hiện ra sự phá giới, nhưng không gọi là thong thả.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thừa” là cương lónh của hộ pháp. Giới là việc riêng của nhà “Thừa”. Cương lónh đã lập, tất nhiên muôn hạnh sẽ được đề cao ở đây. Nhưng gốc của thừa là do giới mà thôi. Nếu giới không có thì làm sao có được thừa? Chính vì thế, nên giới cũng không thể trì hoãn, thong thả. Trước ấy nói “Vì chúng sinh nên biểu hiện đồng có phạm, thật ra không phạm. Về mặt lý, nếu vậy thì giới thật ra ít hoãn đãi, nên nói được hoãn đãi mà thôi.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Trong chúng tăng” cho đến “Làm thế nào biết được người nào trì giới, người nào phá giới?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đoạn bảy, nói vềï lợi ích của bốn người. Nương vào Niết-bàn tu hành. Ngoài dứt bỏ tám vật, bên trong dù phạm giới, nhưng vẫn không mất ruộng phước, được gọi là Đại thừa, không ứng cúng dường mà cũng được. Không nương tựa Niết-bàn mà tu hành, bên ngoài, bị ô nhiễm bởi tám vật, bên trong dù thanh tịnh, nhưng không được gọi ruộng phước, không thành Đại thừa, ứng cúng dường bị mất.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nói về đức của pháp chung, lại khuyên người cúng dường, chỉ vì người có chân, ngụy, khó có thể phân biệt biết được, nên phân biệt đục trong, sao cho sạch nhơ có phần.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây có ba lượt: Bồ-tát Ca-diếp nêu trái cây có sống chín, dáng mạo của chúng khó biết, để thưa hỏi Phật. Phật giải thích rộng: khó biết mà lại biết được để đáp. Bồ-tát Ca-diếp nhận hiểu, đây là thứ nhất”. “Phật dạy: “Này người thiện nam! Nhân kinh điển mầu nhiệm Đại Niết-bàn” cho đến “nhục nhãn không thể phân biệt được.”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trừ tám bất tịnh, tức là sinh tưởng tịnh của người, là ruộng phước của người; gọi là ruộng sạch, nghóa là cỏ, lúc chưa phân, không sinh ý nghó là nhơ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong đáp có ba thí dụ: Ví dụ trước, nói về việc thiện, ác trong chúng. Một dó vãng khó biết, chỉ thấy oai nghi thanh tịnh liền cúng dường. Phàm phu chưa được Thiên nhãn, đúng ra nên dùng bốn việc để quán sát. Ví dụ thứ hai nói về chân, ngụy đã lẫn lộn. Cần bốn việc để quán sát thì mới nhận biết được đầu, cuối không thể giao nghiệm, nên phải xét hỏi, để tìm tòi thuyết mà người kia đã nói. Ví dụ thứ ba, nói dù không thể phân biệt được, nhưng sinh tư tưởng bình đẳng thì cả hai phàm thánh đều được. Nếu trước xét không được, thì sẽ mất bậc Thánh. Hư không sinh lăng xăng lại thành lỗi lầm. Đây là ví dụ thứ nhất.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Như rừng Ca-la-ca” cho đến “Trái của hai thứ cây này giống nhau, không thể phân biệt.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ hai là rừng, dụ cho phòng Tăng. Ca-la-ca, dụ cho trong ngoài đều thô. Cây Trấn-đầu-ca, dụ cho trong tế, ngoài thô (trong láng, ngoài sần sùi) mà vẻ bên ngoài giống nhau.” “Đến mùa trái chín” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lúc nên thọ cúng dường.” “Có một cô gái lượm cả hai thứ” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người tu công đức, thô tế đều xin. “Một phần trái Trấn-đầu-ca” cho đến “Đem ra chợ bán.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chợ là chỗ trao đổi mua bán hàng hóa. Dụ cho nhà thí chủ, nghóa là kia, đây giúp nhau. Chia ra cúng dường tăng, công do thỉnh, dụ như bán.” “Các trẻ nhỏ ngu dại, vì không phân biệt, nên mua lầm trái Ca-la- ca, ăn xong trúng độc mà chết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhận thức nông cạn, tâm tình hạn cuộc, dụ như trẻ con. Cúng dường người thô, tâm khởi giận dữ, ngạo mạn, không sinh phước thanh tịnh, ví như chết.” “Có người hiểu biết nghe việc này rồi” cho đến “Mọi người biết được đều chê cười bỏ đi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù biết bên trong tế, vì chúng kia thô cũng không cúng dường, là nghóa mất phước. Không thành Đại thừa, nên được mà mất, tiếc thay!” “Này người thiện nam! Tám pháp bất tịnh trong đại chúng” cho đến “Cúng dường người này. Nếu muốn cúng dường v.v…” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lược hợp thí dụ.” “Nên hỏi trước rằng bạch Đại đức” cho đến “Như kẻ phải chết vì ăn lầm trái Ca-la-ca.” Minh Tuấn nói: “Dấu vết thô tế, khó dùng nhãn thức, mà trước , phải tra xét, hỏi han, tự sẽ có thể thấy, đâu nói lấy thô, bỏ tế, làm cho ngọc, đá đều bị đốt cháy cả ư?” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như ở chợ có người bán thuốc” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ thứ ba, chỗ dân chúng nhóm họp, trao đổi mua bán, nhờ vả lẫn nhau, gọi là chợ, dụ cho phòng tăng. Người bán thuốc, dụ cho chủ giáo hóa.” “Bán cả thuốc quý ở núi Tuyết, cùng nhiều thứ thuốc độc khác, với mùi vị ngọt đều giống hệt nhau.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thuốc Cam lộ, dụ cho trong ngoài đều đều tế, núi Tuyết, dụ cho kinh Niết-bàn. Nói là nương theo kinh tu hành, tức là trong ngoài đều giúp. Thuốc tạp nhạp khác dụ cho ngoài tế, trong thô. Giống như vị ngọt, nghóa là dấu vết của một dó vãng là tế, đều sinh ra trong tâm tịnh của người.” “Bấy giờ có nhiều người đều muốn mua” cho đến “Đây là thuốc quý ngon ngọt ở núi Tuyết.” Minh Tuấn nói: “Người bán thuốc kia, biết thuốc là tạp nhạp mà đánh lừa người mua này, với ý muốn làm cho mọi người đều tưởng là thật. Người đứng đầu giáo hóa biết ở trong chúng, ngoài tế lẫn lộn với chân, mà ý thì muốn sao cho người ngoài, trong đều là ruộng phước cứu giuíp, nên đều khen ngợi.” “Bấy giờ, người mua thuốc, vì nhục nhãn nên” cho đến “Nay ta đã mua được thuốc Cam lộ ở núi Tuyết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không biết bên trong thuốc, chỉ xem bề ngoài, đều nghó là thanh tịnh, được vô lượng phước.” “Này Ca-diếp! Trong các Thanh văn, có giả danh tăng” cho đến “Người có Thiên nhãn mới biết rõ được.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không thể phân biệt, chỉ tâm bình đẳng cúng dường.” “Này Ca-diếp! Nếu Ưu-bà-tắc biết Tỳ-kheo này” cho đến “Vì nhân duyên đắp ca-sa mà cung kính lễ bái.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu biết chắc bên trong thô, thì không nên vì bên ngoài tế mà cúng dường.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Ví như vật báu kim cương và các vật khác.” Xét: Trí Tú: “Nhận lấy, hiểu biết rõ”. “Như lời Phật dạy: Các Tỳ-kheo” cho đến “Nên phải chứng biết chẳng phải bốn hạng người.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đoạn tám, hội hợp tông chỉ. Nói người có khả năng biết pháp, người tức là pháp, không trái với thuyết xưa.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hai giáo dường như trái nhau, cho nên cần phải hội. Xưa, nói bốn Y, nghóa là y theo pháp, không y theo người, cho đến y theo trí, không y theo thức, tức là Phật không bảo y theo người, vì con người có nhiều lỗi lầm. Có khi người đúng mà pháp sai, người sai mà pháp đúng. Tự có nhân pháp đều đúng, người pháp đều sai, mà tín đồ nhận thức quá nông cạn, thậm chí không thể phân biệt được, đôi khi cho là người sai, bèn mất chánh pháp hoặc thấy người đúng, bèn thọ tà giáo, tức là có lỗi mất pháp. Chính vì vậy, nên Đức Phật khuyên y theo pháp. Dù rằng đặt để con người, vì lấy pháp nên phải phân biệt giải thích về liễu, không liễu. Liễu nghóa thì vâng làm, không liễu nghóa thì chớ áp dụng. Dù biết liễu nghóa, nhưng nên bỏ đi danh từ trau chuốt, để giữ lấy thật nghóa. Dù để lại văn, nhưng vì nhập lý, nên phải là tâm “Hư” để được vượt hơn. Nếu tâm không “Hư” thì sẽ trở thành thức chấp mắc. Phải nương vào hoài bão xót thương của người hiểu biết, chớ y theo thức chấp mắc của phàm phu. Đây là bốn y ngày xưa. Nếu là người lợi căn thì không cần nghe theo bốn y, chỉ nghe một, hai thì đã biết được. nếu y theo người thì nhiều lỗi. Ngày nay, sở dó nói y theo người, là vì xưa, khi Đức Phật còn ở đời, kinh giáo chưa có ngụy soạn. Căn cơ con người phần nhiều nhạy bén, tự mình có khả năng y theo pháp để được người. Khi Phật nhập Niết-bàn rồi, kinh giáo bị xuyên tạc, lý văn khó tìm, chính là phải nhờ đức tin thông qua sự rộng lớn để được chân thật. Xưa nói y pháp, tất nhiên là chánh pháp, tức là con người được pháp giáo hóa. Nay, nói y theo người, thì người có pháp thể, tức là y theo pháp mà người đã thực hành. Xưa nói pháp, nay nói người, vì lẫn nhau nêu một thứ. Dưới đây có ba chương: Y cứ kinh để hội thích. Y cứ luật để hội thích. Kết danh từ bốn y.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người là tên chung, pháp là phẩm khác nhau, nên Đức Phật bảo y theo pháp để lấy người và nắm giữ pháp để lấy người, nên là y theo pháp. Ngày nay, vì bốn người không khác với Phật, nên Đức Phật dạy y theo người. Dù có bốn danh, nhưng chỉ vì chỉ thành một y ban đầu mà thôi. Vì sao? Vì nói y theo pháp, không y theo người, mà năm ấm là pháp hình thành con người. Về nghóa là dưới pháp, cho nên lời nói này có nghóa, tương ưng với lý, thì lời nói này đáng y theo. Như nói “Ấm có thần, ngã” thì chỉ có lời nói. Nếu nói “Sinh diệt vô thường” thì lời nói có nghóa. Kinh Liễu Nghóa: Lấy ba pháp ấn làm liễu nghóa, khác đi là phi liễu nghóa. Y theo trí, không y theo thức: Tánh trí y theo pháp rõ ràng, quên tướng trong duyên, cho nên đáng y theo. Thức vốn chấp lấy chấp mắc, không lãnh hội pháp tướng, nên không đáng nương tựa. Do đó, mà biết ba y sau làm thành một y trước.” “Phật dạy: Này người thiện nam! Y theo pháp” cho đến “Cho nên Như lai thường trụ không thay đổi”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng pháp tức là người. Trước kia, nói theo chỗ cùng cực, thường trụ không thay đổi, nghóa là lấy thường làm chứng”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Giải thích về chỉ thú y pháp mà ngày xưa Đức Phật đã nói: Xưa, Đức Phật bảo y pháp, ý là ở quả thường. Pháp không khác người, tức nói là y theo người. Nay nói người, thể là pháp thường, nghóa là nếu y theo người này, tức y theo pháp thường, quả Thường tức là pháp tánh”. “Nếu lại có người nói rằng Như lai vô thường cho đến là pháp tánh, thì không nên nương tựa”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người nào không thấy pháp, thì người đó chẳng thấy pháp. Người nương tựa pháp này tức nương tựa vào người. Pháp sư Tăng Tông nói: “Chọn bỏ người bất chánh, chấp giáo trái với lý, không đáng nương tựa”. “Như trên đã nói, bốn hạng người xuất hiện ở đời” cho đến “Hiểu và nói được mật ngữ của Như lai”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người này hiểu được lời Phật nói. Hiểu tức là pháp, nên đáng nương tựa. Biết Như lai là thường. Nếu nói là vô thường thì không có việc đó, nghóa là sự hiểu biết đồng với Phật, cũng tức là Phật.” “Nếu có người biết rõ Như lai” cho đến “Huống chi không y chỉ với bốn hạng người”. Án; Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lấy dưới so sánh với trên, để chứng bốn người y chỉ”. “Y chỉ theo pháp, tức là pháp tánh” cho đến “Này người thiện nam! Đó gọi là định nghóa y theo pháp, không y theo người”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Khác là trái ngược, trái ngược tức là diệt, không đáng y chỉ. “Y nghóa không y ngữ” cho đến “Đó gọi là y theo nghóa, không y theo ngữ”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp do thật nghóa, kế là pháp nói về nghóa. Giác biết rõ, là tuệ, điều mà tuệ hiểu rõ là thật, nên dùng tuệ để nói về nghóa. Không yếu kém: Nghóa sâu chiếu, tuệ cạn, gọi là yếu kém, không gọi là giác biết rõ. Đầy đủ là soi chiếu cùng cực không sót, cảnh trí đều tròn đầy. Thường trụ không thay đổi, trí tròn đầy, trói buộc cỡi mở hết, không còn thay đổi, tức là pháp thường, thường tức là pháp, tức gọi tăng thường, nghóa là vì được thường, nên hòa hợp thường như thế”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Giải thích về công đức của quả địa, là do tu trí tuệ tròn đầy”. “Những lời nói nào không nên y theo” cho đến “Những lời nói như thế, không nên y theo”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích đủ như văn dưới. Nếu vì pháp thì thông, không vì pháp thì bít”. “Y theo trí, không y theo thức” cho đến “Kinh sách đó cũng không nên y theo”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghóa do trí làm sáng tỏ, nên kế là nghóa nói trí. Biết như thật gọi là trí, trí tức là Như lai. Biết không như thật, tức là thức chấp mắc, chấp mắc là nghiệp của thức, không đáng y theo”. “Y theo kinh liễu nghóa, không y theo kinh bất liễu nghóa” cho đến “Nhập vào pháp tánh, đó gọi là liễu nghóa”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do kinh sinh trí, nên kế là trí, giải thích kinh”. “Pháp Thanh văn thừa thì không nên y theo” cho đến “Bốn y như thế, cần phải chứng biết”. Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Giải thích nghóa cả hai: đáng y theo, và không đáng y theo”. “Lại nữa, y theo nghóa: Nghóa là chân thật, ngay thẳng” cho đến “không thể ràng buộc mà cũng thấy được”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây là đoạn hai, nói hội bốn Danh, nghóa đối nhau, gọi là chân chất, ngay thẳng, cũng là nói theo Phật địa. Gọi là ánh sáng, tức là danh, nghóa đối nhau, phát sáng lẫn nhau. Không yếu kém: Rõ ràng lẫn nhau thì gọi là danh nghóa đều cùng tận. Không kém, gọi là trí tuệ: Tuệ là Bát-nhã. Trên là nói về ba việc chung, nay là nói riêng. Thường trụ là pháp thân, cũng có thể thấy: Kết thúc cùng tận tức là chứng”. “Nếu có lời nói thì không thể thấy” cho đến “Nên y theo pháp, không y theo người”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kết luận người này không nên nương tựa”. “Nếu lại có người dùng lời nói mầu nhiệm” cho đến “Cho nên y theo nghóa, không y theo lời nói”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai thứ này tạo nên Phật địa, vì giải thích nên kết hợp nói.” “Y theo trí: Chúng tăng là thường, vô vi, không thay đổi” cho đến “Cho nên, y theo trí, không y theo thức”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Y theo trí vô lậu, nói tăng Thanh văn, được trí vô lậu tiếp nối nhau thường, vô lậu, dứt kiết, cuối cùng không còn khởi nữa, nghóa là vô vi không thay đổi. Được giới vô tác, không bao giờ làm ác, nghóa là không chứa để tám vật bất tịnh. Không y theo thức, nghóa là dứt kiết rồi khởi lại, không đáng nương tựa”. “Nếu có người nói: “Thức tạo tác, thức thọ” cho đến “Cho nên thức này không đáng y chỉ”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dẫn người nói để làm chứng. Tạo tác là đạo vô ngại, thọ là đạo giải thoát. Không có hòa hợp tăng, nghóa là Thanh văn nối nhau thường, là hòa hợp thường. Vô ngại, giải thoát chẳng phải thức, nghóa là không có hòa hợp thường. Hòa hợp là không có sở hữu, nghóa là hòa hợp hữu lậu, vốn không mà nay có, đã có rồi lại không có, đều có thể nói. Cho nên, thức không đáng nương tựa”. “Y theo liễu nghóa: Liễu nghóa, gọi là tri túc” cho đến “Kinh không liễu nghóa, thì không nên y chỉ”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở đây nói y theo pháp, lấy kinh làm pháp. Pháp có liễu nghóa và không liễu nghóa. Trụ là ở trong, nghóa là giải thích điều kinh đã nói, trụ ở trong đó.” “Này người thiện nam! Nếu có người nói: Như lai thương xót” cho đến “Bốn pháp như vậy, phải nên y chỉ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì hộ trì chánh pháp phải có đủ ba duyên này. Vì nối tiếp thân mạng, vì thực hành chánh pháp, nên nhóm không tham là nhẹ.” “Nếu có giới luật, A-tỳ-đàm, Tu-đa-la không trái với bốn y này, thì cũng nên y chỉ.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: Không chỉ nói người bốn y mà có thể y chỉ ba tạng tương ưng với ở đây cũng đáng y chỉ. “Nếu có người nói: Có phải thời, phi thời” cho đến “Ba phần như vậy, cũng không nên y theo.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Nêu “Sai” để làm rõ “Đúng”, chẳng phải chỉ người nói không thể, mà dựa vào ba tạng có người nói này, cũng không nên y theo.” “Như lai đã vì các chúng sinh với mắt thịt v.v…” cho đến “Cho nên, nay Như lai nói bốn Y này.” Nhận xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Kết hội ý nay, xưa nói về bốn y, đều vì chỉ bày, dẫn dắt người mắt thịt”, “Pháp, là pháp tánh” cho đến “Rõ biết tất cả kinh điển Đại thừa.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ ba, nêu chung về chỉ thú của ngày nay, kết quyết dịnh chân giáo, để giải thích hợp với ý xưa.”  ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI <卷>QUYỂN 17 <詞>Phẩm 9: PHÂN TÀ CHÁNH Nói Mười Một việc Tà Chánh. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp rằng: “Làm sao biết được Ma trời? Vì chúng gây ra chướng ngại, nên phải lưu thông rộng khắp.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Bè đảng tà luôn ganh tî chánh. Bọn ma thường khuấy rối đạo chân chánh, làm mê hoặc người mới học. Do đó, phải giải thích tướng của chúng. Chính vì lý do đó, nên trong phẩm bốn Y đã nêu các thí dụ: Con chó ăn vụng, rồng dữ v.v… để đáp lại câu hỏi: “Thế nào là gây ra chướng ngại?” Nay phẩm này và phẩm Bốn Đế, nhằm đáp câu hỏi Về thuyết Như lai, Ba tuần, làm sao phân biệt được?” Đồng là giáo bốn mươi chín năm, mà xem xét kỹ thì vẫn bình yên, không có gì khác lạ.” Pháp sư Trí Tú nói: “Gọi là Ma trời: Vì là nêu lên trời, để chỉ cho sự vượt hơn của ma cùng cực, tìm xét ma thường gây ra những việc khuấy rối không ngừng: Chỉ dùng lời nói ma, vì thật sự chúng đã tạo ra nhiều rối loạn, nên hỏi rằng: “Làm sao phân biệt được thuyết Như lai, Ba tuần?” Về việc này dù là người, pháp cả hai đều khác nhau, nhưng đồng là đạo hay khuấy rối, nên kết hợp thành một câu hỏi thôi.” Pháp sư Tuệ Đản nói: “Phẩm này có bốn đoạn: Từ đầu phẩm đến chín bộ kinh, nói về hai thuyết ma, Phật giống nhau mà khác nhau.” Từ “Chín bộ trở xuống” đệ tử Phật chấp có nhẹ nặng có nặng, chấp có Tiểu, không có Đại, chê bai lẫn nhau, cũng là ma. Từ “Không có bốn Ba-la-di” trở xuống, là nói về thuyết của người đại tà kiến nói là không có lý thiện, ác, cũng là ma. Từ “Phải nhờ trì giới v.v… “Trở xuống, nói chung về cái mà xưa nay, có thể trái với việc Phật pháp, đều là ma nói. Nay, ma nói Phật tại gia, xuất gia, tà kiến, chánh kiến, kinh luật thông suốt, bít lấp, đều sẽ được giải thích rõ ràng.” “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Các kinh luật khác có thể thọ trì.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Siêng giữ gìn kinh luật của ma, gọi là y theo người, không y theo giáo. Nếu có đủ bốn điên đảo tức là bốn na.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Bốn ma là: Ma Kinh, ma luật, ma thầy và đệ tử ma. Ma dùng hai việc để khuấy rối chánh pháp: Một là dùng hình làm rối loạn; hai là dùng thuyết để gây rối loạn nay trước nói về dùng hình gây rối loạn, kế là nói về dùng thuyết gây rối loạn. Căn cứ vào thuyết rối loạn, lược có hai: Kinh rối loạn. Luật rối loạn. Cả hai rối loạn này đều có hai lớp: Trước lược, sau rộng. Y cứ vào lược kinh rối loạn, tiếp nối giáo nghiêng lệch của Phật, chấp cho là liễu nghóa. Y theo lược luật, đầu tiên, nghóa về một dó vãng trái ngược với giáo luật. Còn trong kinh rối loạn rộng, về câu văn lại xuất hiện, không cần từ giáo, chính là tự tìm tòi, so đo, sinh ra hiểu biết tà vạy này, chẳng phải người công đức. Về sau, sẽ nói về Tỳ-kheo đáp câu hỏi của Vua: “Tánh có mắc tội”. Cũng gọi là kinh rối loạn. Y theo kinh rối loạn rộng, có thể chia thành bảy, cho đến lại chia ra.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích về tà trong đây có hai đoạn: Đạo rối loạn của Ma trời. Người làm ma để khuấy rối chánh.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Phe nhóm như thế, làm sao biết rành được?” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Một lượt trước kia, trước chỉ định cho bốn Y trước, để thưa hỏi Phật. Đã được Phật ấn khả, tức là nêu lên câu hỏi trước để xin Phật đáp.” Phật bảo Ca-diếp: “Sau khi Như lai vào Niết-bàn bảy trăm năm” cho đến “Làm thân vô lậu, hư hoại chánh pháp của Như lai.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Trong hai thứ lẫn lộn, đây là hình lẫn lộn.” “Là thời kỳ ma Ba-tuần làm hư hoại chánh pháp” cho đến “Người thuận theo lời Phật nói, tức là Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây sẽ chỉ rõ lời nói rối loạn, có mười một lần “Lại nữa”, đây là “Lại nữa” lần thứ nhất, nói là Như lai thật sự giáng sinh ở cung vua.” “Nếu có người nói: “Lúc Như lai giáng sinh” cho đến “Người nào thuận theo Phật nói, tức là Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ hai, là không tin bốn phương mỗi phương, Như lai đều bước đi bảy bước.” “Nếu có thuyết nói, Bồ-tát giáng sinh rồi” cho đến “Thuận theo lời Phật nói, tức là Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ ba, cho rằng, Phật sinh sau, nên kính lễ trời. Vì trời sinh trước, do đó không nên lễ Phật.” “Nếu có kinh, luật nói: Bồ-tát” cho đến “Người thuận theo kinh, luật Phật, gọi là Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ tư, cho rằng thật có thọ năm dục.” “Nếu có thuyết nói: Phật ngự tại nước Xá-vệ” cho đến “Thuận theo lời Phật nói, tức là Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ năm, cho rằng Đức Phật cho thọ tám vật bất tịnh.” “Nếu có thuyết nói: “Bồ-tát vì muốn cúng dường” cho đến “Phải biết là lời ma nói.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ sáu, cho rằng “Đức Phật không thể hiện vào các đường để thị hiện các kỹ năng.” “Nếu có thuyết nói: “Bồ-tát như thế” cho đến “Người thuận theo lời Phật nói, chính là Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: Thứ bảy là cho rằng giới luật một bề đều nặng. Lại nói một bề không có Đại thừa. Lại nữa! Này người thiện nam! Nếu có thuyết nói cho đến thuận theo lời Phật nói tức là Bồ tát. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ tội nặng nhẹ, tánh nó đều nặng” Từ dưới đây, ma nói luật, để làm cho chánh pháp lộn xộn. Có bảy ý. Đây là ý thứ nhất: Lời nói trái với luật Phật dạy. Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ tám, cho rằng lời Đức Phật không được thành tựu công đức, nên thân là vô thường.” Lại có người nói: “Hoặc có Tỳ-kheo” cho đến “Nếu có thể thuận theo là Đại Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba là nói hai người không phạm mà phê phán là phạm.” Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ chín, cho rằng thật không phạm mà nói phạm.” “Lại có thuyết: “Không có bốn Ba-la-di” cho đến “Phải biết rằng, người này thật là đệ tử Như lai.” Nhận xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba, là nói hoàn toàn hủy phạm, đều không có tội.” Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ mười, nói là không có tất cả giới. Dưới đây do Bồ-tát Ca-diếp hỏi, mà Phật giải thích riêng về nghóa “Khác”. “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Pháp Phật rất sâu không thể suy nghó bàn luận.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ tư, trong phần nói về chín bộ kinh, không nói về Phật tánh. Y theo giáo nói là không có, trường hợp này không phạm tội. Nếu nói là phạm tội thì cũng là ma nói, làm rối loạn luật.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Không gọi là rơi vào pháp hơn người, gọi là Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ năm, là nói về người chắc chắn có khả năng che chở giữ gìn chánh pháp, giảng nói thông suốt, giáo hóa chân chính, dù có nói là được đạo, cũng không phạm tội. Nếu nói là phạm tội thì cũng là ma nói, vì làm rối loạn luật.” “Nếu nói có người phạm Đột-cát-la” cho đến “Thuận theo lời Phật nói, gọi là Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ sáu, nói về quả báo phạm tội. Lại gồm nêu ra việc thâu-lan-giá của Đại thừa, để răn dạy người đời sau.” “Nếu có thuyết nói: “Thường giơ lên một chân” cho đến “Phải biết người này là Đại Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ bảy, cho rằng chín mươi lăm thứ ngoại đạo, xuất gia, cũng làm rối loạn luật.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là thứ mười một, nói là Đức Phật cho phép cất chứa vật không đúng pháp và cho xuất gia, cũng là ma nói.” “Này người thiện nam! Về sự khác nhau giữa ma nói, Phật nói, nay Như lai đã giảng nói, phân biệt rộng cho ông nghe.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Kết thúc ý chỉ trên”. “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Nay con mới biết” cho đến “Nhờ đây mà con được ngộ nhập nghóa sâu của Phật pháp.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đức Phật khen ngợi.” “Phật khen Bồ-tát Ca-diếp: “Lành thay! Lành thay!” cho đến “Ông phân biệt hiểu rõ như vậy, đáng gọi là người trí tuệ.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Thuật thành!” <卷>QUYỂN 18 <詞>Phẩm 10: BỐN ĐẾ có. Giải thích nghóa Bốn Đế. Giải thích nghóa Bốn Đảo. Giải thích lược nghóa Phật Tánh. Ví dụ cô gái nghèo Kim Tạng. Ví dụ bệnh của con người phụ nữ. Bồ-tát Ca-diếp đặt ra mười một câu hỏi, để trách cứ làm cho thấy Ví dụ viên ngọc giữa hai đầu chân mày của người Lực só. Nhận xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi: “Thế nào là các Bậc Điều Ngự?” Là tâm vui mừng nói chân đế.” Trên nói, giáo của ma là tà. Nay, nói Đức Phật là Đấng Điều Ngự. Xưa nói chẳng phải khổ là khổ, do “Điều trị” hoặc vui, “Hoặc” vui đã được trị, thì Phật rất vui mừng. Nói Phật là niềm vui, niềm vui của Đức Phật là chân đế.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ đây cho đến hỏi về thấy tánh, nói rộng về nghóa của nhân. Bốn đế: Cảnh mà tuệ soi chiếu. Từ Vườn Nai đến hội Pháp Hoa. Đức Phật nói về giai cấp, phần lớn khác nhau, chỉ có giáo này là tròn khắp, đầy đủ. Sẽ nói về, nhân mầu thường trụ, tất nhiên là đạo quán chiếu trong tư chất, nhưng chẳng phải cảnh thì sẽ không lấy gì để giải thích trí, nên chỉ nêu bốn đế, để nói về tướng mạo của nhân.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Xưa nói bốn đế là chỉ ở ba cõi, giáo ngày nay, về lý đều bao gồm. Dù nói có bốn, nhưng phải ở chân như vắng lặng. Thuyết nay chỉ y cứ gốc mà bỏ sót ngọn. Chỉ thú này mới sáng tỏ để gọi tâm Thánh, nên nói “Vui mừng”. Nhưng với phẩm Bốn Đế, nói về lý, vì chu tất nên nói rằng do tín nên thường trụ, từ trong đạo trời người ra khỏi thẳng sinh tử, đây tất nhiên là trước hết tin thường, sau đó là nhận thức vô thường. Nếu không hiểu cả hai thì đâu được vào đạo. Vì thế, nên trong Diệt đế ở đây nói: “Người tu, khổ diệt là trái với ngoại đạo. Nay, nếu quả tu “Không” của đoạn diệt và nếu do “Không” mà tỏ ngộ được lý, thì ngoại đạo lẽ ra cũng biết đúng? Về lý thì không thể. Xưa, vì dẫn dắt phàm phu, nên có thuyết này. Nếu không có quyền giáo thì người ngu thấp hèn sẽ dứt hy vọng!” “Phật lại bảo Ca-diếp! “Nỗi khổ mà Như lai đã nói” cho đến “Chúng sinh ở địa ngục, lẽ ra có Thánh đế?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không thấy chân lạc, không gọi là thấy khổ. Vì sao? Vì tâm tuy cầu vui mà không nhận thức được vui chân thật, cho ba cõi là vui, nên không thấy khổ, không dùng súc sinh để quyết định.” Kính Di ghi lời của Tăng Tông rằng: “Trong mỗi đế đều có chia làm bốn: Nói về hoặc. Nói về giải. Kết Thánh đế. Kết phi đế. Sẽ nói về trung đạo tròn chiếu trước nói không hiểu, dùng hình tướng để giải thích nghóa. Lớp đầu, nói về tên đế là ở chiếu, không ở khổ. Lớp thứ hai, nói dù tên đế ở chiếu, nhưng không ở chấp nghiêng lệch. Nói về khổ có địa, không thật có nơi chốn, chẳng những mất đi lý mà cũng đắm chìm trong khổ. Trí hữu dư của giáo xưa không khỏi điên đảo. Nay, nói là lý cùng cực, cho nên nghiệp chân, thiện.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong bốn đế lý có bốn lớp, được gọi là Đế, sẽ giải thích cảnh chưa rõ, nên y cứ vào cảnh để nói đế. Trong khổ đế có bốn: Từ “Bắt đầu, cho đến nhiều khổ não”, là nói về “Mất”. Từ “Nếu có thể biết” cho đến “Liền sinh lên cõi trời” là nói về được.. Từ “Sau khi được giải thoát” cho đến “Vừa mới chứng biết”, đó là chứng đắc. Từ “Như lai đối với Bổn tế” cho đến “Bèn được chân trí”, đó là nói về mất.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới mỗi đế có ba ý. Ba ý trong khổ đế, là từ bắt đầu” cho đến “Phần nhiều chịu khổ não: Nêu “không biết” kia, ngoài thể tướng của khổ đế. Từ “Nếu có thể biết” cho đến “Bèn được chân trí”, giải thích từ lý được quả. Từ “Nếu biết như thế” cho đến “Chẳng phải khổ Thánh đế”, kết thúc tà, chánh. Pháp sư Tuệ Lãng thuật lời của Pháp sư Tăng Tông rằng: “Nói về khổ đế có sáu thứ bậc, đây là ngôi thứ nhất, lý trực bình, nghóa là không phải chánh khổ là khổ đế.” “Này người thiện nam! Nếu có người không biết Như lai” cho đến “Thêm lớn các kiết, phần nhiều chịu khổ não.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Tầng bậc thứ hai, là nói về mất.” “Nếu có người biết được Như lai thường trụ” cho đến “Một lần nghe qua tai, liền được sinh lên cõi trời.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Tầng bậc thứ ba, là nói về được.” Về sau, lúc được giải thoát, mới chứng biết được” cho đến “Nay được giải thoát, mới chứng biết.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ tư là chứng đắc”. “Thuở trước, Như lai vì bốn thứ điên đảo” cho đến “Đây gọi là khổ, chứ chẳng phải khổ Thánh đế.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ sáu, kết thúc cả hai “Được” “Mất”. “Khổ, Tập đế ở trong chân pháp” cho đến “Không được sinh lên cõi trời và chánh giải thoát.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp chân là Tập, chẳng sinh chân trí, là không sinh tập trí.” Thọ vật bất tịnh, có khả năng tu tập trong sinh tử là chân tập, mà không sinh tập trí. Không biết pháp tánh, là không thấy Phật tánh. Kính Di ghi lời của Tăng Tông rằng: “Trong đây nói về Tập, câu văn lại, vì phân biệt nêu ra tập, nên không biết thường.” Pháp sư Tuệ Lãng ghi lời của Tăng Tông rằng: “Nói về tập, diệt, đạo, đều có năm thứ bậc, đây là thứ nhất, trước nói về “Mất”. Nêu lên trôi lăn sinh tử, cho là lỗi lầm.” “Nếu có trí sâu, thì không hư hoại chánh pháp”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ bậc thứ hai, là nói về “Được”. “Do nhân duyên này, được sinh lên cõi trời và chánh giải thoát.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ bậc thứ ba là chứng đắc.” “Nếu có người không biết lãnh vực của khổ đế, tập đế” cho đến “Trôi lăn sinh tử, chịu các khổ não.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ bậc Thứ tư là chứng “Mất”. “Nếu biết được pháp thường trụ không khác” cho đến “Đó gọi là tập, chẳng phải tập Thánh đế.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ bậc Thứ năm là song thúc cả hai “Được” và “mất”. “Khổ đế, diệt đế, là nếu có người thường tu” cho đến “Cũng tu “Pháp không”, lẽ ra có diệt đế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước chẳng phải xưa đã nói, nghóa là tự biết nay là đúng. Xưa nói diệt có hai thứ: Một là tánh diệt, nghóa là “Không vô ngã”; hai là diệt thân trí; Đức Như lai chẳng phải “Không vô ngã”, thân trí bất diệt, mà nghó là diệt, là hoài bão của Như lai.” Kỉnh Di thuật lời của Tăng Tông rằng: “Sinh tử là không, quả Phật bất không. Nếu cho rằng hai chỗ đều không thì đối với quả là sai lầm, nên nói là “Nhiều”, trái vơí ngoại đạo tu “Không”, bao gồm tất cả pháp. Nay, phân biệt tướng “Không”, vì chánh trái với tà, nên nói trái ngược. Pháp sư Tuệ Lãng thuật lời của Tăng Tông rằng: “Cũng có năm thứ bậc, đây là thứ bậc thứ nhất, nêu “Hoặc” để nói về “Mất”. “Nếu có thuyết nói: “Có Như lai tạng” cho đến “Dứt trừ tất cả phiền não, bấy giờ mới được nhập.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai, là nói về “Được”. “Nếu phát một niệm nhân duyên của tâm này, thì sẽ được tự tại đối với các pháp.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba là chứng đắc.” “Nếu có người tu tập bí Tạng của Như lai” cho đến “Trôi lăn chịu khổ trong sinh tử.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ tư là chứng “Mất”.” “Nếu người nào tu tập Diệt đế như vậy, cho đến đó gọi là tu pháp “Không”, chẳng phải diệt Thánh đế.” Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Thứ năm là kết thúc cả “Được” và “Mất”. “Đạo Thánh đế tức là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo và Chánh giải thoát.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong đây có tám thềm bực, đây là thềm bậc thứ nhất, trước nêu ra cảnh đạo.” “Có các chúng sinh tâm điên đảo nói rằng” cho đến “Trôi lăn trong ba cõi chịu khổ lớn lâu dài.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai là nói về “Mất”.” “Nếu người phát tâm nhận biết Như lai thường trụ không có thay đổi. Pháp tăng giải thoát cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba là nói về “Được”.” “Nhân một niệm này, sẽ được quả báo tùy ý tự tại trong vô lượng đời.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ tư là chứng đắc”. “Vì sao? Như ta thuở xưa, vì bốn đảo” cho đến “Thành Phật Chánh Giác, đây gọi là đạo Thánh đế.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ năm là chứng mất”. “Nếu có người nói Tam bảo là Vô thường” cho đến “Chân kiến tu tập bốn pháp Thánh đế.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ sáu là kết thúc cả “Được” và “Mất”.” “Đó gọi là bốn Thánh đế”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ bảy là tổng kết”. “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật:” cho đến “Tu tập rất sâu bốn pháp Thánh đế.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói rằng: “Thứ tám là nhận hiểu.” ---------------------- <詞>Phẩm 11: BỐN ĐẢO Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi về chánh thiện thành tựu đầy đủ, nói rộng về bốn điên đảo. Vì muốn cho bốn đế đầy đủ, lại nói bốn đảo nên thuộc về lưu thông.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trên nêu Cảnh để nói về trí. Ở đây nói về “Hoặc” để làm rõ “Giải”, vì nói rộng làm rõ tướng “Giải”, nên trước hết nêu tướng “Hoặc” kia thì nói về nghóa mới được rõ ràng. Cũng như sắp nói về phương pháp tu thắng lợi trong văn của ba tu trên, thì trước hết nêu tám đảo.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ chín, kế là, nói về lý ngụy.” Pháp sư Trí Tú nói: “Trên nói về bốn đế, dẫn vật sinh “Giải”, chỉ vì hiểu biết chân thật khó phát sinh, đẽ trở nên lối chấp hẹp hòi, chấp thì thành trái ngược.” “Phật bảo Ca-diếp: “Nói là bốn đảo” cho đến “Là vô thường, gọi là tội khổ lớn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước nói về thể đảo, cũng nên nói rõ, chỉ vì văn kinh nói sơ lưọc mà thôi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây, trước nói trong khổ mà nghó là vui, trái với nỗi khổ, chính là chưa giải thích thích hợp với nghó là khổ trong chẳng phải khổ. Nay, sẽ giải thích về lý do của sự trái ngược kia. Có chấp này, nói là quyết định được lý, bèn chấp ngang trái tưởng vui ở trong sinh tử.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phân biệt trong đảo ban đầu, có ba lượt: Trước là nói về đảo sau. Kế là, nói về đảo trước. Thứ ba là nêu đảo sau để kết câu. Y theo đảo trong phần nói về Phật có bốn ý: Trước, là mở rộng môn chương. Giải thích môn chương. Cho rằng, Như lai là hành khổ. Nói Đức Phật là hoại khổ. “Nếu người nào chấp như vậy, thì chính là người mắc tội khổ lớn.” lượt: Pháp sư Trí Tú nói: “Trong phần giải thích về đảo ban đầu có ba Cuối cùng nghó là khổ gọi là điên đảo. Vì định chỉ rõ mê có vui trong khổ, nên giải thích về thể của khổ, có hai ý: Đầu tiên y cứ vào lý để nói về tướng mạo của đảo kia. Sau là kinh, kết thêm nghó là điên đảo. Đây là thứ nhất. Nếu đối với niềm vui, khởi tưởng khổ, thì sẽ chịu quả khổ, mà cho là “Ngã” tức là thọ hưởng niềm vui. Đây là ở trong khổ mà khởi “Hoặc vui”. “Nếu nói Như lai đã xả thân khổ này” cho đến “Đó gọi là chẳng phải khổ mà nghó là khổ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Khổ có hai thứ: Hành khổ và Hoại khổ. Trước nói là Vô thường, thay đổi khác đi là hành khổ. Nay nói xả thân khổ này, nghóa là hoại khổ, đều nêu cả hai đảo.” “Đây gọi là điên đảo”. Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Ý thứ hai, kinh kết thêm tên đảo kia.” “Nếu ta nói rằng Như lai là thường” cho đến “Nói như thế, tức là ta cảm nhận niềm vui.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích về ý sinh ra đảo, tức là ngã kiến. Nếu nói Phật không sinh, diệt, thì tức là tự tại, tự tại là “Ngã”. Ngã kiến là gốc sinh ra các kiết. Cho nên, không nói Đức Phật là thường.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, là thứ hai nói về đảo ở trước. “Hoặc” là “Tự cho rằng”. Nếu nói Phật là thường, thì tức là chấp ngã. Thuở xưa ta vì lối chấp này, nên mắc vô lượng tội. Nay, nếu nói Phật là vô thường, thì sẽ lìa bỏ ngã kiến, thọ nhận niềm vui.” Pháp sư Trí Tú nói: “Giải thích thỏa đáng về khởi chấp vui trong khổ, có hai ý, đây là ý thứ nhất, nêu ra ý khởi đảo kia. “Như lai vô thường, tức là khổ này” cho đến “Vì cứ nghó là vui, nên gọi là điên đảo.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Ý thứ hai, kinh kết thêm thành đảo kia.” “Vui mà nghó là khổ, gọi là điên đảo” cho đến “Gọi là điên đảo, đó gọi là đảo ban đầu.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói:“Hoặc” là “Cho rằng” vì thường thì không diệt, diệt thì bất thường, là giải thích về lý do của hành khổ này.” Xả thân là thế nào? Vui thì không nên xả mà xả, nên biết là khổ. Đây là giải thích thế nào là hoại khổ?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây thứ ba, nêu lại đảo sau, kết thúc câu trước.” Pháp sư Trí Tú nói: “Chính là nói đối với vui mà khởi chấp khổ, là đảo có ba ý: Dựa theo lý để nói chấp kia là đảo. Kinh kết thêm thành điên đảo. Nêu ra ý khởi chấp của người kia.” “Vô thường, mà nghó là thường, thường, mà nghó là vô thường” cho đến “Đây gọi là điên đảo thứ hai.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tánh “Không” là thường, vì thấy thường nên thường, không thấy thường là vô thường.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nên nói đối với thường, nghó là vô thường, gọi là chẳng tu pháp “Không”, sinh tử là không quả Phật là không. Nếu nói quả Phật là không, thì sẽ mất đi giới hạn, trái với đạo tu “Không”. Tuổi thọ ngắn ngủi, nghóa là lối chấp đã trái thì chắc chắn không được mầu nhiệm chân thường, há không phải tuổi thọ ngắn ngủi ư?” “Vô ngã nghó là “Ngã”, “Ngã” nghó là “Vô ngã” cho đến “Đây gọi là điên đảo thứ ba.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không có Phật tánh: Vì Phật tánh không có “Hoặc”, nên tự tại không dứt, vì có “Hoặc” nên không được tự tại.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Có hai thứ bậc: Từ đầu đến “Là gọi điên đảo”, trước nói về đảo ở trước, kế là từ Phật pháp có ngã trở xuống, kế là nói đảo sau tuy nói có ngã, nhưng không có Phật tánh, chỉ vì chấp thần ngã là “Ngã”, nên không nói Phật tánh là ngã.” “Tịnh, nghó à bất tịnh, bất tịnh tưởng là tịnh” cho đến “Chúng con đều là người tà kiến.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có hai thứ bậc: Từ đầu v.v…đến là diệt”, đó gọi là điên đảo. Trước nói về đảo sau. Kế là, từ nghó là bất tịnh” cho đến “điên đảo thứ tư là nói về đảo trước. Phẩm cuối Bồ-tát bạch Phật, đã nói bốn đảo xong, Bồ-tát Ca-diếp nhận lấy, hiểu biết rõ.” ---------------------- <詞>Phẩm 12: NHƯ LAI TÁNH (Phần 1) Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi: “Thế nào là tạo nghiệp lành? Nay, Như lai sẽ nói để ông được biết rộng về nhân của hai quả: Sống lâu và Kim Cương. Trên, vì nói lược về nhân, nên lấy từ bi hộ pháp làm gốc. Nay, vì nói rộng về Nhân, nên từ ba quy y cuối cùng đến Thập địa.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Từ đây cho đến “Nếu ngã trụ thì sẽ không lìa khổ, là đáp câu hỏi: “Thế nào là tạo nghiệp lành?” “Bốn Y trở về trước, đại ý nói về người tu hành. Tu điều lành, che chở giữ gìn chánh pháp là sự nghiệp lành. Nay, nói về lý do phát sinh nghiệp lành, tức là Phật tánh. Phát tánh là lý sinh ra điều lành. Nếu lý không có thì việc lành do đâu sinh? Đây là Phật tánh, là căn bản tạo ra nghiệp lành. Phật tánh là chánh nhân. Nghiệp lành là duyên nhân.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Phẩm trước đã nói: “Giải” là đế, “Hoặc” là đảo. Chỉ vì giải rõ ràng vi tế, vi tế thì sẽ được sinh lên cõi trời, rõ ràng thì được gọi là chánh giải thoát. Nay, nói về nghiệp lành, về khởi thỉ của nghiệp lành, vì khó thấy tánh và rộng về chung cuộc của nghiệp lành đó. Sở dó nói rộng, vì người mới hiểu rõ lý mầu nhiệm trong cảnh, chẳng qua Phật tánh nói cảnh chân này sinh ra văn tuệ phẩm hạ kia, dù là “Giải” sâu kín, nhưng chẳng phải không nhờ giải này mà sinh ra hạnh cao siêu, cuối cùng sẽ thấy tánh. Vì thế, nên đều gọi là nghóa của nghiệp lành.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật tánh có bốn thứ, đó là chánh nhân duyên, quả của nhân và quả của quả. Bốn tên gọi đã gồm thâu hết chỉ thú đều cùng tận. “Duyên” nhân và chính nhân đều là đạo của thần lự. Tránh khổ, tìm vui, người trí, kẻ ngu đều đồng như vậy, chỉ khác ở chỗ là theo đuổi công dụng cần thiết. Về nghóa, được chia làm hai. Lấy sự hiểu biết thường có đầu cuối, không có tác dụng kiến lập, bỏ phế, ghi chép thành chánh nhân, không có công dụng hưng phế, trong một sát-na, tiến đến quả Phật bất động. Vì thế, nên biết rằng, tránh khổ tìm vui, thật sự là do công dụng của “Giải” này, chứ không phải là chiêu cảm bởi nhân thiện ác. Bởi, kinh Thắng-man chép: “Tự tánh thanh tịnh tâm”; phẩm Sư Tử Hống nói: “Một thứ Trung đạo”, mà công dụng này không trái với lý Đại thừa thì há chẳng phải là chánh hay sao? Nhân duyên, nghóa là dùng muôn điều lành làm thể. Từ một niệm lành trở lên, đều giúp sức sinh ra quả tốt đẹp. Vì nhờ duyên mới phát, nên gọi là duyên nhân. Tuy nhiên, “Giải” này lự mà không hằng, mới sinh mà không diệt, tức là khác hẳn với chánh nhân. Nếu, không có “Duyên” này giúp đỡ, thì bảo thủ tánh mà không dời đổi. Cho nên hai nhân phải cần nhau, đeo sát nhau. Nếu tác dụng đã đủ thì nghóa của chánh nhân cũng khắp. Hai tác dụng đều tròn thì sinh tử dứt hết. Tâm sau của Kim cương được gọi là Trí nhất thiết. Chủ quả của nhân chuyển, gọi là tánh quả. Quả của quả, là tên gọi đối với sinh tử, đối với các đức, lại đặt tên chung, gọi là Đại Niết-bàn. Vì trên quả lập quả, gọi là quả của quả. Lại không có lúc khác, chỉ là nghóa có trước, sau mà thôi. Nếu nói về tánh của Cảnh giới thì chỉ thú của tánh đó thông suốt qua, đồng là trợ duyên, không còn khai riêng. Ở văn dưới, Đức Phật tự cắt đứt thành bốn tên, đó là nhân đơn, quả đơn, nhân trùng, quả trùng. Phẩm này được chia thành bốn phần: Đầu tiên có năm thí dụ, trước hết, tánh nhân quả nhất định. Thứ hai, giải thích về một thể ba quy y, để khuyên người học sinh niềm tin. Thứ ba, nói về ba thứ Trung đạo, nhằm chính thức nói về hành nghiệp làm điều lành. Thứ tư, từ “Khó thấy tánh trở xuống, vẫn đáp câu hỏi thứ mười một, để nói chính mình chẳng phải chiếu cùng cực về lý quả, mà không có do thấy suốt nhân.” Pháp sư Trí Tú nói: “Phẩm này có ba đoạn: Giải thích nghóa được thực hành nghiệp lành. Nói về ba Quy y. Căn cứ ba thứ Trung đạo để làm sáng tỏ tuệ hạnh.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Đức Thế tôn! Hai mươi lăm cõi có ngã hay không? Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ở trước nói: “Ngã” trong pháp Phật, tức là Phật tánh.” Vậy thì hai mươi lăm cõi lẽ ra có chân ngã mà giao tiếp nhau không thấy, cũng giống như không có ngã? Giáo lý chưa hiển bày, nên có câu hỏi này.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sẽ chỉ rõ về chân quy, tự quy Tam bảo trong thân vị lai, nên trước phải xác định là “Có” ngã hay không.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nếu tự xét nghiệm trong thân có ba quy y thường trụ, thì lý không khác với thú, có thể được siêng năng thực hành các việc lành. Vì thế, nên trước phân biệt có Phật tánh chân ngã, sau đó sẽ nói rộng trong thân có thể của ba quy, chỉ nên quy ở đây mà thực hành nghiệp lành.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nói sinh tử không có “Ngã” mà chấp có “Ngã” tức gọi là đảo. Nay, lại hỏi quyết định là “có” hay quyết định là không. Ý cho rằng: “Nếu nhất định là không thì sẽ không có Phật tánh, còn nếu quyết định có, thì không nên nói điên đảo. Pháp sư Trí Tú nói: “Nếu trong sinh tử không bao giờ có “Ngã”, thì một lần giáo hóa là dứt, làm sao thực hành nghiệp lành ư?” Phật dạy: “Này người thiện nam! “Ngã” tức là nghóa Như lai tạng, tất cả chúng sinh đều có.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về Như lai tạng, “Ngã” và Phật tánh, thể một mà nghóa khác: Đủ tám tự tại nghóa là ngã. Nương đạo như thật, gọi là Như lai, vì không thay đổi, nên gọi là Phật tánh. Đều có, nghóa là thường, lạc, ngã, tịnh là Phật tánh. Vốn do hạnh địa, vì có tâm cầu chứng đắc, nên nhân quả không dứt, có nhân cũng có quả lẫn nhau, vì quả cũng có nhân, nên nói “Tất cả chúng sinh đều có”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong đáp câu hỏi, có bốn đoạn: Ký thác năm ví dụ để giải thích “Có”, “Không” của tánh. Khuyến tin: Nói về mê thì rơi vào khổ, hiểu rõ thì giúp cho tinh thần, vì lý sâu khó chế phục, đâu thể không phát sinh tín ngưỡng sâu sắc ư? Dù có tín ngưỡng, nhưng nếu nhờ tâm thì sẽ mất sự vừa chừng dù có tin cũng vô ích. Cho nên khuyên người tu hành chỉ trở về với Tam bảo của chính mình. Không nên bỏ thân mình gần để quy y Đức Phật xa khác. Nếu ai hiểu được như thế, thì tức là tiêu biểu tông chỉ có lónh vực, an tâm được vừa chừng. Dù là nghó định tâm có địa, nhưng vẫn phải cần muôn hạnh để hướng về yếu chỉ thường, về sự đối với Trung đạo, cho nên kế là, đây chính là nghóa của nghiệp lành.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Về câu hỏi: “Thế nào là tạo nghiệp lành?” mà đáp rằng do chánh nhân”, ấy là vì muốn nói về người tạo nghiệp lành, thì phải nhận thức trước nhân quả. Vì nếu chỉ nam không lập thì nghiệp sẽ không thấy, nên phải nói về chánh nhân trước. Dưới đây, thường có năm thí dụ, chính là để nói về lý này.” Pháp sư Trí Tú nói:“Đều có” nghóa là đều có tánh sẽ thành quả Phật. Do nghóa này, nên sẽ làm cho chúng sinh sinh tử nối nhau không dứt, để được xây dựng nghiệp lành.” Pháp sư Đàm Tiên nói: “Đáp câu hỏi có hai ý: Nói là “Có”. Nói dù “Có” mà không thấy. Minh Tuấn nói: “Đáp có hai ý: Phán quyết là “Có”. Đã nói “Có” nhưng sở dó không thấy, là vì có hai lý: Một là nói chỉ có nhân không thấy, không có duyên cớ thấy. Vì sao? Vì bị phiền não che lấp, tự không có nhân thấy; hai là đã bị pháp “Hoặc” ngăn che, Đức Phật không thể nói cho nghe. Do đó, dù mình không thấy, nhưng không tổn thương cái “Có”. Vì nói mà không được đúng điều mình đã nói, nên hễ nói thì thành trái ngược. Dưới đây dùng năm ví dụ để thấy rộng về chỉ thú này. “Phật tánh tức là nghóa “ngã”.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tướng hạt giống, nghóa là tánh tự nhiên. Phật tánh sinh ở nhỗ Chư Phật. Trước kia nói: “Ngã” tức là Phật tạng”. Nay nói rằng: “Phật tánh tức “Ngã”, làm từ ngữ lẫn nhau.” “Nghóa của “Ngã” như vậy, từ xưa đến nay” cho đến “Vì cho nên chúng sinh không thể thấy được.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đã che mờ lý thành Phật. Lại, che lấp ánh sáng thấy Phật” đồng với Pháp sư Tăng Lượng giải thích về nghóa tạng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lý này, không hề tạm vô chỉ vì ẩn, hiển nên khác. Vì sao? Vì nói về “Hoặc” và “Giải” là hai đường mà thôi. Nếu trái với lý khởi “Hoặc” thì sẽ lăng xăng sinh tử. Nếu thuận theo lý mà sinh “Giải”, thì Niết-bàn văng lặng. Chính vì bị Niết-bàn che lấp thì ẩn mà không hiển bày rực rỡ. Về nghóa, gọi là tạng, về lý thì không phải mới xây dựng, nên không thể nói là “Không”. Chưa có dụng thấy được thì không được nói là có thuyết Trung đạo, tức là không phải bệnh. Nếu chấp “Đã có” thì sẽ trở thành điên đảo.” “Này người thiện nam! Như cô gái nghèo.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Phật tánh vốn có, chính là lòng từ nghó đến chúng sinh.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Với có mà không thấy làm thí dụ, tánh người nữ vốn ưa thích vật báu. Vì không biết chỗ có vàng, nên phải cam chịu nghèo khổ. Chúng sinh rất muốn được niềm vui, vì không có được, nên vẫn phải cam chịu trôi lăn trong sinh tử.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Chúng sinh có lý thành Phật, lý do lòng từ thương xót là cô gái nghèo, lý thành Phật đối với ta chưa có tác dụng, dụ cho nghèo.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước kia Bồ-tát Ca-diếp nhắm vào câu hỏi, làm cho trở thành phạm lỗi, với Như lai nay thí dụ nói cả hai đều không có tai hại. Về lý, như kho vàng chẳng thể không có, vì chưa phát hiện được công dụng của chúng, nên không được nói có. Người con gái lấy khả năng sinh làm nghóa, cũng dùng công sức chăm sóc, nuôi nấng làm đức. Ví dụ người tu hành này, thì phải hoài bão hiểu về thường, là lấy nghóa “Năng sinh”. Đạo gồm chưa nghe, lấy đức chăm sóc nuôi nấng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý làm ví dụ có năm: Ví dụ thứ nhất nói về chúng sinh sáu đường, đều có chánh nhân, chẳng phải mới khởi. Ví dụ thứ hai, giải thích lý do không được, tức ý nói người thời bấy giờ lại sinh nghi ngờ đối với hai ví dụ này, cho rằng, nếu quyết định không là “Không có”, thì lẽ ra có công dụng hiện thật? Bồ-tát Ca-diếp đặt ra mười một câu hỏi. Ví dụ thứ ba, là đáp chung: “Dù rằng về lý tánh, là bất không, nhưng mất “Giải”, khởi “Hoặc” trôi lăn sinh tử, đâu được công dụng hiện thật?” Ví dụ thứ tư, ở trên dù đã nói trước được mà sau mất, chưa nói đã mất rồi lại được. Lại, nói trong chúng sinh tự có người chưa từng được “giải” mà đã trải qua sáu đường. Nếu đối với người này, thì chưa hẳn là có? Vì thế, nên ví dụ hôm nay, nói rộng về hai chỉ thú này. Trước nói dù đã từng mất, mà sau lại được. Kế là, nói về chánh nhân không trở ngại, hư hoại, tức là trải qua mất và chưa được, đều là không vô. Ví dụ thứ năm, dụ riêng về được, là nói về nghóa chắc chắn thành. Cô gái nghèo, dụ cho tất cả chúng sinh. “Trong nhà” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Năm ấm nối nhau, lấy ý nghóa chứng bệnh vội vã của năm ấm kia. Lý nhân quả không đến từ bên ngoài, dụ cho bên trong.” “Có nhiều kho vàng ròng” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tàng, nghóa là lý thường, lạc, cất giấu chưa phát hiện.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Được kho vàng, thì sẽ trở thành người giàu. Nếu thấy được Phật tánh, thì sẽ thành Phật.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Phật tánh trong thân, về lý, chắc chắn là rõ ràng, như nghóa kho báu trong nhà cô gái nghèo kia.” Pháp sư Đàm Tế nói: “Đủ nhân, quả là kho tàng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Pháp bảo trong quả, đức của Tam bảo vô cùng, dụ cho có nhiều. Sự quý báu của lý tánh, lấy ví dụ ở vàng, nghóa bị “Hoặc” che kín, gọi là Tàng.” Pháp sư Trí Tú nói: “Lý tánh không hai, vì tùy theo chúng sinh chẳng phải một, nên nói có nhiều.” “Hầu hết những người lớn, nhỏ trong nhà, chẳng có ai biết.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì chỗ ở yên chung, nên là một nhà.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phàm phu, dụ cho nhỏ, người Nhị thừa, dụ cho lớn.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Chúng sinh có Muôn vạn khác nhau, là có lớn, có nhỏ. Cùng ở trong quan hệ buộc ràng, là người nhà. Đều mê lý, là “Không có người nào biết”. Pháp sư Đàm Tế nói: “Thân có hơn kém là lớn, nhỏ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Văn tuệ là nhỏ, Tu tuệ là lớn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nêu rộng về không, vì sáu đường đều không biết, nên nói có lớn nhỏ.” Pháp sư Trí Tú nói: “Trong một nhà Phật pháp, hễ là người học Phật, vì Đức Phật chưa nói, nên nói là không biết.” “Bấy giờ, có người khác” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho Đức Phật, vì đã ra khỏi ba cõi nên là người khách.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đức Phật lấy nhân, quả so sánh khác nhau làm dụ”. Pháp sư Đàm Ái nói: “Ví dụ mình có tất cả mà không thấy”. Từ dưới đây, là dụ cho lý do không được liền nói”. “Khéo biết phương tiện”. Xét: Pháp sư Đàm Tế nói: “Khéo làm sáng tỏ Phật tánh. Pháp sư Đàm Ái nói: “Có năng lực Từ bi”. “Bảo cô gái nghèo rằng:” Xét: Pháp sư Đàm Ái nói: Cơ cảm làm phát sanh lẫn nhau. Nay ta thuê ông. Pháp sư Đàm Tế nói “Chính là bổn nguyện của ta”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Mô phỏng theo danh từ thích hợp. Phật tánh là vật định kỳ hạn, là chia vạch bờ cõi của ngã, không bao dung, gọi là người làm thuê. Thuê là mượn để thu được lợi, vì ít ỏi. Nay, vì Niết-bàn Vô dư, phải là dứt kiết, quả mà Tiểu thừa được sánh với thường là ít ỏi, như thuê mượn. Chúng sinh tự dứt “Hoặc” rồi đạt được quả, mà nói là Đức Phật thuê người làm, cứu khổ đã là do đại Bi, mặc dù chúng sinh kia tự dứt hoặc, cho đến việc cần thiết của người.” “Cô hãy vì tôi” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thệ nguyện xưa của Đức Phật là cứu vớt hết các khổ. Nếu khổ không hết, thì trách nhiệm phải gánh vác vẫn chưa hoàn thành. Nếu độ thoát hết sinh tử, thì sẽ được theo đuổi bản nguyện của bậc Thánh, nên nói là “vì tôi”. “Dọn cỏ rác dơ bẩn” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước kia đã nói là vô ngã dứt trừ điên đảo. Dù “Ngã” ô uế, nhưng trong tâm ý vẫn thường còn chân ngã Phật tánh. Đây là nghóa thuê.” “Cô gái nghèo đáp: “Nay tôi không thể”.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ cho lúc tu nghiêng lệch. Tu đạo thắng lợi, nên cuối cùng không thể tu tập thường.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là nghóa. Nhờ nói về việc của chúng sinh chỉ giữ lấy lợi mình, mà không gồm đạo giáo hóa, nên nói “Không thể”.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chúng sinh chấp thường đã lâu. Một sớm một chiều không thể tin vô thường được.” Pháp sư Đạo Tuệ ghi: “Lời lẽ chưa tin, chủ yếu phải biết mình đã có lý tánh rõ ràng, sau đó mới tự siêng năng thực hành lý tánh đó.” “Nếu ông chỉ cho con tôi kho vàng, thì tôi sẽ nhanh chóng dọn cỏ rác cho ông.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu Đức Phật vì chúng sinh nói Phật tánh chân ngã, dụ cho tìm cầu kho vàng của mình.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Phỏng theo cơ nghi chúng sinh đều có lý này! Không nói ý kia. Nếu xét biết lý do, về sau tu điều lành, như trước hết, chỉ cho tôi biết, rồi mới dọn cỏ rác.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Căn cơ thường sắp phát, nên làm Bồ-tát, trước là vì người, sau là vì mình, như chỉ cho con kho vàng. Đã là công sức ở sau, nghóa dứt trừ “Hoặc” rõ ràng. Lấy quả càng nhanh chóng, dụ cho dọn cỏ rác nhanh chóng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về cơ cảm thì giáo Tiểu thừa, căn cơ Đại thừa tất nhiên thuần thục, cuối cùng được nghóa thường, lạc, nói là chỉ cho biết.” Pháp sư Đạo Tuệ nói: “Đây là dụ cho trí tuệ. Nếu bảo cho biết rõ Phật tánh, làm cho chúng sinh được hiểu biết chân thật, thì mới thực hành công hạnh được.” “Người khác ấy đáp: “Tôi biết cách có thể chỉ cho con ông biết.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đã nói người thuê thì có thể chỉ cho kho vàng kia.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng ba Đạt, bốn Biện tài, thì tất nhiên sẽ nói rộng được.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Đức Như lai dùng phương tiện trước giảng nói vô ngã, vì làm cho chúng sinh được hiểu biết, gồm giúp thông suốt lý. Vì lý được thông suốt là nhờ Đức Phật, nên nói “Có thể chỉ cho biết”. Pháp sư Tuệ Lãng thuật lời của Đàm Tiêm rằng: “Con, dụ cho hiểu biết vị lai.” Cô gái lại nói: “Hầu hết người lớn, nhỏ trong nhà tôi còn không ai biết, huống chi ông mà biết được sao?” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vẫn là lời nói chưa tin” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sự đồng với thân, thì gần, khác với thân thì xa, gần còn không biết được, huống chi là xa.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Lời nói này là nói ngày nay, tình trái với lý, từ Phật mà được. Trí vô ngã chưa sáng tỏ, còn không nói “Có ngã”, huống chi trí thấy ngã của Phật đã tròn đầy, mà nói là “Có Ngã” ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu tánh là tánh của “Ngã” thì “Ngã” còn không biết, huống chi “Phi ngã” mà biết được “Ngã” ư? “Người khác ấy nói: “Nay tôi xét thấy có thể.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Lý không thể mất, chỉ cho tôi biết được.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì có “Hoặc” nên dù gần mà không biết, vì không có “Hoặc” nên dù ở xa, nhưng nhìn thấy được.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Về lý này chỉ có Đức Phật, người có khả năng soi sáng, mới gọi là xét biết.” Cô gái lại nói: “Tôi cũng muốn thấy xin ông hãy chỉ cho tôi thấy!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Về lý, nói là có chỉ thú, biết được chỉ thú ấy, tất nhiên là tự có, nên dụ cho cô gái nọ tự tìm thấy kho vàng.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Ứng theo căn cơ nghe mà phát ra, dụ cho “Muốn thấy”. Cảm giáo do mình, dụ cho “Chỉ bày”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Trùm khắp vật là trước, sau mới đến mình, nên nói cũng muốn thấy.” Pháp sư Trí Tú nói: “Vì người, và ta gồm có lợi, nên nói là “Đều”. “Người khác ấy ở ngay trong nhà cô gái, đào được kho vàng.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dứt trừ sự che lấp của kiết “Hoặc”, là “Đào xới”. Vì nhận được Phật tánh, là tìm ra kho vàng.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói riêng về vô thường thì “Ngã”, “Thường” tự sáng rỡ.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói giáo của Niết-bàn là nói về Phật tánh, để chỉ bày cho chúng sinh biết.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Tánh không ở người khác, hoặc đã dứt trừ thì sẽ thấy. Về nghóa thích hợp với ở ngay trong nhà mà đào được ra.” “Cô gái thấy kho vàng rồi, lòng rất vui mừng” cho đến “Như cô gái nghèo kia có kho vàng mà không biết.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chế phục kiết, kính tin, gọi là nhìn thấy, chẳng phải là được.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghe nói về Phật tánh, phát sinh “Giải” sâu kín, là nghóa của nghiệp lành.” Pháp sư Trí Tú nói: “Cảm ứng không khác nhau, nói pháp phải thích hợp căn cơ, dụ cho vui mừng”. “Này người thiện nam! Hôm nay ta chỉ bày Phật tánh sẵn có của tất cả chúng sinh” cho đến “Có kho vàng ròng mà không thể thấy được.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ hợp với ở trên mà không thể biết.” “Ngày nay, Đức Như lai chỉ bày cho khắp chúng sinh” cho đến “Lòng rất vui mừng, quy ngưỡng Đức Như lai.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Kết hợp với việc đào xới nói trên, là chỉ bày kho vàng.” “Khéo dùng phương tiện: Tức là Như lai” cho đến “Kho vàng ròng tức Phật tánh.” Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Nêu lại thí dụ, đối với hợp.” Lại nữa, “Này thiện nam! Ví như người nữ.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trước nói dứt “Hoặc” mới thấy, nay nói đã được giáo hóa.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho Đức Phật. Cô gái có đức nuôi con, Đức Phật có đạo từ cứu hộ.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Đại ý vì muốn nói về lý do giáo xưa chưa nói và lý do giáo nay nói.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ này đã có trong ví dụ trước. Nếu quả có mà thấy được, thì lẽ ra Đức Như lai đã nói sớm. Vì sao? Vì tức làm cho chúng sinh sẽ sinh khởi điên đảo vô thường? Ví dụ này và ví dụ thầy thuốc mới lời nói thì giống nhau, mà ý thì khác. Ví dụ kia nhằm gạn lọc sự thật, hư của hai giáo, còn ví dụ này nói Đức Phật sao không nói trước? Lược có năm ý: Nói đã từng trải qua “Thường” và “Giải” trong quá khứ lâu xa. Nói về trái với lời Phật giáo hóa, mất đi “Giải”. Nói thiện cảm với Đức Thích-ca vì nói Thiên giáo. Dù nói giáo “Thường”, nhưng chưa tin. Nói lại về quyết đoán, dần dần tin tưởng, rồi mới uống thuốc. Người nữ dụ cho Phật quá khứ.” “Sinh nuôi một đứa con trai.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xem chúng sinh bình đẳng, dụ cho không có hai.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tướng hữu lậu khéo sinh, vì Phật dụ cho sinh, nuôi.” Pháp sư Trí Tú nói: “Nói sinh từ miệng Phật.” “Đứa trẻ bị bệnh.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vâng lời Phật giáo hóa chưa sâu sắc, dụ cho trẻ thơ, mà bị tà ngã mê hoặc, dụ cho bị bệnh.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai, dụ cho mất “Giải”. “Người nữ này buồn rầu, tìm thầy thuốc giỏi. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì binh nghiêng lệch nên cần thuốc, thầy thuốc, bệnh điều trị lẫn nhau, nghóa là như thầy thuốc.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Mẹ với thầy thuốc, tùy thuộc ở nghóa làm dụ. Lấy tuệ giải thêm lớn kia để dụ cho mẹ. Nghóa trị bệnh là thầy thuốc. Lại không có ý chỉ riêng, tìm kiếm thầy thuốc. Dò xét căn cơ của người nữ kia phát ra mà điều trị cho.” Pháp sư Trí Tú nói: “Khéo giành lại pháp thân. Pháp thân khéo ứng, ứng thân làm thầy thuốc, dụ như tìm kiếm.” “Lương y đã đến.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Căn cơ đáng điều trị phát ra vào thời gian này.” “Hòa chung ba thứ: Bơ, sữa và đường phèn rồi bảo đứa trẻ uống.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói pháp hữu vi vô thường, khổ, vô ngã là thứ thuốc hay chữa trị bệnh nghiêng chấp.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba, dụ cho nói giáo nghiêng lệch.” “Thầy thuốc dặn người nữ: Sau khi trẻ uống thuốc xong, nhớ đừng cho nó bú ngay.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sữa của giáo “Thường”, pháp nuôi con ví dụ cho “Vô ngã” ít, nói dụ về “Ngã” nhiều, đều dùng sữa làm dụ. Điều trị do đạo quyền, ví dụ căn dặn, vì tà ngã chưa dứt, chớ nói pháp thân là “Ngã”.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói “thường” là thật trí, nói vô thường là quyền trí. Vào thời bấy giờ, chỉ được nói “Quyền”, chưa được nói “Thật”, vì nghóa liên quan nhau giữa “Quyền” và “Thật”, nên nói “Căn dặn”. Chẳng phải không cho bú, chỉ vì lúc cho bú chưa đến, nên nói vã lại”. Vì “Quyền” tuệ chính là nói “Vô thường”, “Thật” tuệ biết thời gian chưa đến. Vì không nói về “Thường”, nên nói “Vả lại chớ”. “Phải chờ khi thuốc đã tiêu hóa, mới được cho trẻ bú.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói:“Ngã” ba cõi đã dứt, mới được gọi là “Ngã”.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu Điên đảo nặng đã dứt trừ, thì đạo đối trị cũng cáo chung.” “Lúc ấy, người nữ liền thoa chất đắng vào vú.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Giáo vô ngã không phải điều mà chúng sinh ưa thích, vì vị nó đắng.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vô thường, vô ngã, lạm quá pháp thân, có danh, không có thật, dụ cho thoa chất đắng bên ngoài.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lẽ ra phải nói rằng, thầy thuốc thoa thuốc vào vú mới đúng, đàng này lại nói rằng, người mẹ tự thoa, ấy là lấy nghóa khéo nuôi con, tiện hơn. Lại, giải thích: “Vì tiêu biểu thầy thuốc với người mẹ không có tự thể khác nhau.” “Nói khẽ với con mình: “Vú mẹ đã thoa thuốc độc, con chớ sờ đến.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ái nhiễm gọi là sờ mó. Thân đều vô thường, không thể ái nhiễm.” “Đứa bé khát sữa, muốn được mẹ cho bú, nhưng thoáng đánh hơi chất đắng trên núm vú, nên không dám đến gần.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chán tai hại thân khổ, tìm niềm vui vô vi, nghe nói Đức Phật vô thường, nên chí không mong cầu.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Cần sữa thường trụ, dụ cho khát. Đây là nói theo lý. Vì sinh khởi nói vô ngã, nên trái với giáo mà không thọ, dụ cho không dám đến gần (bỏ đi), đây là nói theo tình.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thói quen chấp thường đã lâu, giờ đây lại sắp khởi, như khát sữa. Thường nói là vốn ở Đức Phật, dù là chấp trái ngược, vì cũng được từ Phật, nên nói sữa mẹ, chỉ vận chuyển sáng suốt gần với giáo thiên lệch, tâm điên đảo muốn khởi không được, dụ cho bỏ đi (không dám đến gần mẹ). Lại, giải thích: Dù nghe chỉ thú của giáo thiên lệch, như có lý trở về chân, mà giáo thiên đã gần mà “Giải” viên không có dịp phát ra, như vì nghe mùi đắng, nên bỏ đi.” “Đến khi thuốc uống đã tiêu hóa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tà ngã đã dứt, tức là lúc để nói chân ngã.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ thứ tư, nói về viên giáo.” “Người mẹ vội dùng nước rửa sạch vú rồi gọi con đến cho bú.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nay, nói “Ngã” thường, chia ra hai giáo rõ ràng.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là căn cớ đáng nói, tức là gọi con.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Giáo thường đã hưng thịnh, không có “Hoặc” lạm quá Đức Phật nữa. Về nghóa như dùng nước rửa sạch vú.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích giáo “Thường” như nước, lý được giải thích như sữa. Về nghóa, là dùng nước rửa sạch vú.” “Lúc đó, đứa trẻ dù khát sữa, nhưng vì còn nhớ mùi đắng, nên không dám đến bú.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chấp giáo nghiêng lệch trước, không tin thuyết sau.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đủ như đã nói trong phần khai tông.” Người mẹ bảo: “Vì con đã uống thuốc” cho đến “Giờ đây con hãy đến bú, không còn đắng nữa đâu!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Như ví dụ thầy thuốc mới, thầy thuốc cũ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ thứ năm, chỉ rõ lại chỉ thú nay và xưa.” Đứa trẻ “Nghe mẹ bảo, dần dần đến bú.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Kính vâng theo thuyết nay, không còn chấp lầm giáo xưa nữa.” “Này người thiện nam! Như lai cũng vậy. Vì hóa độ tất cả chúng sinh” cho đến “Vì dứt bỏ các kiến chấp giả dối của thế gian.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba cõi luống dối, chấp cho là “Ngã”, đây gọi là kiến chấp giả dối.” “Thị hiện pháp xuất thế gian” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Biết kia luống dối, tức là xuất thế gian.” “Lại, chỉ rõ quan niệm chấp ngã của thế gian là giả dối, vì chẳng phải chân thật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là giải thích về “Ngã” gạo, mè ở câu đầu trong lý không có.” “Vì tu pháp vô ngã, thân được thanh tịnh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích câu thứ hai.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên đây, lược hợp ví dụ ba thứ thuốc như bơ, sữa…” “Như cô gái kia vì chữa bệnh cho con mình” cho đến “Nói các pháp đều không có ngã.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu lại ví dụ thứ ba, lại hợp.” Như cô gái kia rửa sạch vú rồi, gọi con đến bú.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu ví dụ thứ tư.” “Nay ta cũng vậy, là nói Như lai tạng, vì cho nên các Tỳ-kheo không nên sinh tâm kinh sợ.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hợp ví dụ rửa sạch vú.” Như đứa trẻ kia, khi nghe mẹ gọi, lần lần trở lại bú.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu ví dụ thứ năm.” “Các Tỳ-kheo cũng vậy, nên tự phân biệt bí tạng của Như lai, là không được, không có.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hợp theo giáo pháp.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Thật không có ngã.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói chúng sinh có ngã, “Ngã” tức Phật tánh. Nói về “Hữu” có hai thứ: “Hữu” hiện tại và “Hữu” ở vị lai, nhưng về nghóa thì “Hữu” chưa phân biệt rõ ràng, do đó phải dùng mười một việc làm câu hỏi, để bắt bẻ về cái “Hữu” của hiện tại trở thành chỉ thú của “Hữu” vị lai.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Kho báu trong nhà dụ cho chúng sinh có chân ngã sáng lớn ở ngay trong họ. Bồ-tát Ca-diếp biết chúng đang nghi ngờ, bèn đặt ra câu hỏi rằng: “Tức là lẽ ra đã có tác dụng của tánh quả ư?” “Vì sao? Vì khi đứa trẻ mới sinh không hiểu biết gì” cho đến “Do nghóa này nên biết không có ngã.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đều trách cứ ở tác dụng hiện tại.” Pháp sư Tăng Tông nói:“Ngã” lấy tự tại làm nghóa, trong khi đứa trẻ không hiểu biết gì, thì không có tác dụng soi sáng, cho nên biết không có “Ngã”! Nếu chắc chắn có “Ngã” thì khi thọ sinh rồi cho đến “Là thường trụ, lẽ ra sẽ không có tướng hư hoại.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Người tự tại lẽ ra không vô thường.” Nếu không có tướng hư hoại, thì sao có Sát-đế-lợi” cho đến “Biết chắc chắn Phật tánh chẳng phải là pháp thường.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu quả báo không bằng nhau, để chứng tỏ không có tự tại.” Nếu nói Phật tánh chắc chắn là thường” cho đến “Nói dối, nói thêu dệt, tham lam, giận dữ, tà kiến.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói do nhân không chính đáng, cho nên biết vô “Ngã”. “Nếu tánh chất của “Ngã” là thường, vì sao sau khi uống rượu, con người lại say sưa, mê loạn?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu trước nói: “Nếu có ngã thì không nên bị chuyển biến theo duyên bên ngoài.” Nếu tánh của “Ngã” là thường, thì người mù lẽ ra thấy sắc, kẻ điếc lẽ ra nghe tiếng, người câm đáng lẽ nói được và người què quặt lẽ ra cũng đi được.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước kia nói không nên gây ra điều ác trong nhân. Nay, ở đây nói không nên cam chịu quả ác này.” Nếu tánh của “Ngã” là thường, thì không nên tránh xa hầm lửa, nước lụt, thuốc độc, gươm, dao, kẻ ác, thú dữ.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu có chút sợ sệt, thì đâu phải là tự tại?” “Nếu “Ngã” là thường, thì đối với những việc đã từng nghe, thấy” cho đến “Tôi đã từng thấy người này ở chỗ nào ư?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Có Ngã thì thường ghi nhớ, chẳng lẽ quên ư?” “Nếu “Ngã” là thường thì không nên có các trạng thái già trẻ, thịnh suy, nhớ lại việc đã qua.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Các câu trước đều căn cứ vào tâm, một câu này là nêu sắc. Nếu tự tại, thì hẳn là thường, tâm làm sao quên được, sắc làm sao biến chuyển được?” “Nếu “Ngã” là thường, thì nó ở chỗ nào? Có phải ở trong nước mũi, nước miếng, hay trong các màu xanh, vàng, đỏ, trắng chăng?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Từ trước đến đây, đã tra xét lý cùng cực, nay trách cứ chỗ ở. Nếu không ở riêng một phương, thì đáng lẽ phải ở khắp mọi nơi? Ở mỗi chỗ trước đây để xem xét là không .” “Nếu “Ngã” là thường, thì lẽ ra phải ở khắp thân” cho đến “Nếu khi chặt đứt thân thể, thì “Ngã” đó lẽ ra cũng bị chặt đứt?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Không ở riêng một chỗ nào, về sự đã nói như trên. Nếu hiện nay có khắp, thì đồng với mè, gạo, đâu nói là tự tại, lại nói là thường ư?” “Phật bảo Ca-diếp: Này người thiện nam! Ví như nhà vua” cho đến “Có viên Kim cương giữa trán.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nói chẳng phải không có, nhưng chẳng phải mình có, vì trên trán trí tuệ có gắn viên ngọc chân ngã.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đáp câu hỏi để nói về Phật tánh dù “Có” đối với người nhận thấy thì thành “Giải” (hiểu rõ), đối với người không thấy, sẽ thành “Hoặc” (mê lầm). Vì không thể nói là “Có” nên trách cứ tác dụng hiện tại, như hạt châu ở giữa trán kia, nếu sáng rõ thì trang nghiêm cho thân, còn ẩn thì sẽ thành bệnh, vì không thể dùng viên ngọc ở thân, nên thường trách cứ vẻ đẹp của nó. Đây là đáp chung các câu hỏi. Dưới đây sẽ có thí dụ riêng: Vua, dụ cho Đức Phật lực só, dụ cho người tu hành, viên ngọc dụ cho “Giải”. Phật nói tánh nhân quả, người nghe nhận hiểu được. Hiểu tròn đầy có thể trách, như ở giữa hai đầu chân mày.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Tin, hiểu Phật tánh Trung đạo không nghiêng lệch, cũng như ở giữa hai đầu chân mày kia. Tin, biết Phật tánh chắc chắn là dụng của mình, giống như giữa hai đầu chân mày kia có viên ngọc này.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ý ví dụ này nói chẳng phải không có tánh thường, chỉ vì bị hoặc che lấp, nên không có công dụng hiện tại. Không thể lấy cớ hiện tại chưa có công dụng mà cho là không có. Ví dụ này có năm lớp ý: Nói đã có lãnh thọ việc “Giải” trong quá khứ. Nói trôi lăn trong sinh tử, tức là mất đi “Giải” xưa. Nói dù mất “Giải” gốc, nhưng do năng lực lành đã chiêu cảm đến bậc Thánh, nên ra đời nói giáo nghiêng lệch. Nói về căn cơ thường mới phát, vì nói Viên giáo. Giải thích lại, sau đó mới tin ý chỉ chủ yếu đã quy lấy, thứ hai, dụ cho mất “Giải”, khởi “Hoặc”, nhằm nói về “Hoặc” đọng lại trong sinh tử, che lấp mắt tuệ, không có công dụng hiện tại, không thể nói là hoàn toàn “Không”. Nhà Vua: Nhà là chỗ, chỗ mà Đức Phật giáo hóa cùng khắp. Vì lực só đã dùng năng lực chống cự dữ dội để khuất phục đối phương nên gọi là Đại, đã giáo hóa người tu hành, cuối cùng bẻ gãy hết việc ác lớn, như Đại lực só. “Hạt kim cương là nói về tín, hiểu Trung đạo, phá tan được điên đảo, dụ như Kim cương.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ví dụ có bốn ý: Ví dụ sinh “Giải”. Ví dụ mất “Giải”. Về sau Đức Phật ra đời, nói giáo nghiêng lệch. Nói viên giáo. Hạt ngọc: “Dùng chung sáu hạnh lý giải nhân quả hợp thành thí dụ.” Pháp sư Trí Tú nói: “Chia ví dụ này thành hai đoạn: Từ bắt đầu, cho đến “Buồn rầu than khóc”, là nói về trước hiểu mà sau mất. Kế là, từ “An ủi dụ cho lực só nói thí dụ, là nói về sau, Đức Phật nói lại, lại được hiểu rõ.” Trong đoạn trước có hai thứ bậc, đây là bậc thứ nhất, chính là nói về ngày xưa, lúc đã được lòng tin hiểu rõ về Trung đạo. “Cùng đấu vật, đọ sức với lực só khác”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tà “Ngã” là khác đối với chánh “Giải”. Chánh giải chưa vững chắc, mà tranh luận với tà mạnh mẽ, dụ cho so sánh thế lực.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là ví dụ về mất “Giải” thứ hai, nói về “Giải” vi tế, kiến cạn cợt, mà khởi lên “Hoặc” nặng nề, đã lìa sinh tử, đâu được nghe “Có”, mà liền khiến cho có công dụng hiện thực. Công dụng hiện tại đã “Không”, bàn cho rằng mất hẳn ư? Lực só khác, dụ cho tâm vô minh. “Giải” là dứt hết “Hoặc”. Thủ dụ cho lực só. “Hoặc” hữu lậu là kẻ ngăn cản “Giải”, cũng gọi là lực só. So sánh thể lực, là văn tuệ chưa sáng suốt mà lúc tâm ngã dao động. “Giải” “Hoặc” giao đấu với nhau, dụ như so sánh thể lực (đọ sức)” Pháp sư Trí Tú nói: “Đấu sức với nhau, dụ cho hai lực só khuất phục lẫn nhau.” “Mà lực só kia đã húc đầu vào lực só nọ.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vô minh là kiết đứng đầu các kiết.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngã kiến, là kiết đứng đầu các kiết, nên nói dùng đầu húc.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Giải, Viên lấy chánh tín làm đầu, tâm tà dùng Bất Tín làm đầu. Tín đã bị bất tín xâm phạm, như hai cái đầu húc vào nhau.” “Hạt ngọc trên trán lực só kia đã lún mất dưới da.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chịu khuất phục dưới phe tà, nói là ẩn mất. Có danh, không có thật dụ cho da.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Chánh tín nhỏ nhen, cạn cợt, không thể tự làm mình vững chắc, tức là đồng với thuyết tà kiến.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Tín bị Bất tín lấn át, “Giải” tròn thì ẩn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đệ tử Phật dùng tướng, tâm để nói không có tướng. Về lý đã vô tướng, u ẩn mà khó hiển bày. Ngoại đạo lại dùng tướng, tâm để nói về tướng. Về mặt lý thì dễ an ổn, sống trong sinh tử đã lâu, tức là mất đi “Giải” gốc, đuổi theo tà chấp kia, nên nói là lún vào trong da.” Đạo Tuệ ghi: Sở dó nói trong da vì nói chẳng phải hạt ngọc mất hẳn, mà tìm kiếm thì, sẽ phát hiện không lâu.” “Đều không tự biết rằng hạt ngọc này vẫn còn”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lấy “Tà ngã” làm chân, không biết đã mất đi chân ngã.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dùng đầu “Tà hoặc” để làm vỡ trán chánh tín. Hễ chánh tín bị phá vỡ thì làm sao biết được mình vốn có Phật tánh ư? Dù không biết mình có, nhưng cuối cùng về mặt lý thì rõ ràng, như viên ngọc lút mất trong da.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Khởi kiến thường ngang trái, tức là mất đi những gì vốn đã hiểu biết. Nếu nhận thức thường ở quả thì sẽ ổn định được địa kia, tức là có sự tồn tại. Đã trái với hiểu biết kia, vì tâm vô thường, nên nói “Không biết vẫn còn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lý được, mất chẳng phải đối tượng mà mình tỏ ngộ, nên nói “Đều không tự biết”. “Ngay chỗ lún trên trán của lực só kia, mọc một mụt nhọt.” Pháp sư Tăng Tông nói: Vì mất chân ngã mà thành hoặc điên đảo, đưa đến khổ sanh tử. Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Phá vỡ chánh tín, nên có mụt nhọt bất tín.” “Liền mời thầy thuốc điều trị” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Khổ sinh tử rất ép ngặt, duyên “Giải” lại chiêu cảm. Lúc tỏ ngộ đã gần kề, căn cớ đến, hợp với Thánh, như ý nghóa nhờ thầy thuốc.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là ví dụ thứ ba, đường cảm ứng giao nhau, nghóa là mời, bảo.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chúng sinh có thiện, có khổ, cả hai đều duyên cảm đến Phật, thấy Phật, tức là vì có khả năng diệt khổ, nên nói chữa trị.” “Bấy giờ, có người thầy thuốc khéo biết các phương thuốc.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Minh y dụ cho Đức Phật khéo dứt trừ tám đảo, dụ cho biết rõ về phương thuốc”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Chính là Đức Thích-ca điều trị bệnh “Hoặc”, nên gọi là thầy thuốc, thấu hiểu phương pháp của kinh giáo, thuốc của Tông chỉ sâu kín, nhiệm mầu cùng cực.” “Biết ngay nguyên nhân mụt nhọt này là do hạt ngọc tiềm tàng sâu trong thân.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Duyên” mất “Giải” trở thành “Hoặc”, đưa đến sinh tử.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Người thầy thuốc thấy mụt nhọt, biết nguyên nhân thấm vào cơ thể. Đức Phật thấy chúng sinh trôi lăn trong năm đường, biết là khởi ngang trái chấp thường giả dối, nên đánh mất “Giải” vốn có.” “Viên ngọc này khi lún vào da rồi liền dừng lại.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì biết ngay chẳng phải mất lâu, nên nói “Dừng lại.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Lý Phật tánh chung quy là công dụng của tâm. Dù bị phiền não tạm thời che lấp nhưng hạt ngọc chỉ ở tạm trong da, không bao lâu sẽ lộ ra.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lý viên “Giải”, không lúc nào tạm dứt, mới có việc bỏ dở, hưng thịnh, lý ấy thường còn như sự dừng lại.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù có mất đi kiến giải vào thời gian bấy giờ, nhưng căn cơ xưa vẫn còn không mất.” “Bấy giờ, người thầy thuốc liền hỏi lực só: “Viên ngọc trên trán ông đâu rồi?” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì nói vô ngã tức là nói lên có chân ngã”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói giáo nghiêng lệch, chấp thường một cách ngang trái là đánh mất. Chỉ có “Ngã” thường đồng mất, mất gọi là không hiện rõ. Đức Như lai ra đời vì giảng nói về giáo nghiêng lệch, đẫy lùi tà ngã kia, tìm kiếm sở chấp, nhận biết các chấp đó đều là sai lầm, nghóa mất mới được biểu hiện rõ. Như lực só kia đánh mất hạt ngọc, dù đã lâu, nhưng không tự biết, đến lúc thầy thuốc hỏi, mới biết.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sở dó vì nói lẽ vô thường, là vì ý muốn bày tỏ “Giải” sẵn trong kia, dụ như hỏi lực só nọ hạt ngọc vốn có kia hiện nay đâu rồi?” “Lực só kinh ngạc đáp: “Thưa Đại sư y vương! Hạt ngọc trên trán tôi đã biến mất rồi?” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì chàng lực só không biết mất lúc nào, nên khi nghe hỏi, mới tỏ vẽ kinh ngạc, nói bừa là mất. Đáp rằng: “đúng vậy?” “Viên ngọc này, hiện giờ nó ở đâu? Chẳng phải huyễn hóa”, nói xong, buồn rầu, khóc lóc.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đã cho là đánh mất hạt ngọc, lẽ ra phải tìm kiếm xem nó ở đâu, lại nói là không còn, cho là như huyễn hóa.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tìm kiếm bác bỏ năm ấm, mà không được gì. Hóa, nghóa là chấp tất cả pháp đều không, khóc lóc, là tỏ ngộ tất cả pháp chỉ là tám khổ.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Vì học quán sâu vô ngã, cho đến nói rằng, không biết chân ngã ở đâu?” Pháp sư Trí Tú nói: “Dù nghe giáo nghiêng lệch, nhưng hễ chưa hàng phục thì ví dụ kinh hãi đáp. Cuối cùng tin vào nghóa chỉ thú hôm nay, nói là “Hạt ngọc của tôi”, đã mất rồi ư?” “Lúc ấy vị thầy thuốc an ủi lực só: Nay ông không nên quá buồn rầu đau khổ”. Xét: Pháp sư Đạo sanh nói: “Để thỏa lòng mình, nói là hạt ngọc không còn, bèn nói rằng, vì tôi đã tỏ ngộ. Về lý, đã hiển này trong thân, cũng là nói biết rõ ràng.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là ví dụ thứ hai. Pháp hữu là bất không, cũng có “Ngã” thường, không phải như đã thấy tất cả khổ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là ví dụ thứ tư. Y theo giáo mà thực hành, đã dứt trừ điên đảo nặng nề. Nay căn cơ thường mới phát, giải thích quả Phật, Phật sở dó là thường, vì đây là hữu tình đã được ổn định, như hỏi han an ủi.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ dưới đây đoạn thứ tư, ví dụ về căn cơ chúng sinh thành thục, có khả năng nghe pháp thường trụ, tức kinh giáo Niết-bàn, là lời an ủi, khuyến dụ.” “Vì lúc đấu vật, hạt ngọc bị lún vào cơ thể ông, nay nó ở trong da, bóng nó hiện ra ngoài.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là thuyết nay, nói về “Giải” của lúc trước, “Hoặc” tạm thời mê, duyên xưa ngầm phát, dụ cho ảnh hiện ra ngoài.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dù lại mất kiến giải, nhưng lý không mất. Đương thời dù bị “Hoặc” che lấp, nhưng với năng lực của một niệm kia, tất nhiên dẫn đến quả cùng cực. Tướng tối tăm cảm vời, chẳng được nói là tướng “Không”, như viên ngọc dù tiềm ẩn trong da, nhưng bóng nó vẫn hiện ra ngoài.” “Lúc các ông đấu vật nhau, vì cơn giận dữ qua sâu độc mạnh mẽ, nên hạt ngọc đã bị lún vào thân thể, mà không tự biết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cho rằng nhân của giải, thường vẫn tồn tại, tỏ ngộ ở ngày nay, tự không biết mà thôi.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Khởi “Hoặc” thì mất “Giải” vì bị độc nặng nề, nên không tự biết.” “Bấy giờ, lực só không tin lời thầy thuốc nói” cho đến “Nay sao ông lại nói dối tôi.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chấp mất, không tin vào thuyết nay.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong da cạn gần dụ cho thời gian hiện tại. Pháp hữu vi hiện tại, chỉ cho khổ bất tịnh, há thấy được công dụng của Phật tánh ư? Trong gân rất sâu xa dụ cho vị lai, vì không thể thấy nên nói Phật tánh (viên ngọc) kia không có.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Phật tánh thanh tịnh. Do đó, nếu đối với phiền não thì Phật tánh sẽ không được chấp nhận như vậy, nếu đối với việc lành, lúc chưa có điều lành, thì sẽ không có Phật tánh, không nên nói là thấy.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Gần là mười một lần thưa hỏi của Bồ-tát Ca-diếp.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Không khác với từ ngữ thường mà các Tỳ-kheo không tin trong ví dụ thầy thuốc mới cũ ở trước.” “Bấy giờ, người thầy thuốc cầm gương soi, soi vào mặt lực só kia, hạt kim cương liền hiện rõ ánh sáng trong gương.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Gương trí tuệ có được từ Đức Phật, như người thầy thuốc.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gương soi là biểu tượng để dụ cho Viên giáo. Mặt có hai mắt, dụ cho hai tuệ, tánh ở trong văn, như người có mắt soi thấy vóc dáng mình trong gương soi.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dù một lời nói thoảng qua, vẫn chưa thể tin ngay được. Nếu được chiếc gương “Chân giải”, mới chứng biết được, “Giải” từ Đức Phật mà được, như thầy thuốc cầm gương soi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là ví dụ thứ năm. Hạt ngọc phản ánh trong suốt dưới lớp da mà không biết, phải là chiếc gương sạch, thì mới soi thấy. Sẽ nói về lời nói để giải thích lý, lý do lời nói được tỏ rõ, như hạt ngọc hiện trong gương.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chiếc gương soi tức giáo Niết-bàn, mặt, dụ cho tâm chúng sinh.” Minh Tuấn nói: “Gương chỉ cho ví dụ này, mặt dụ cho đức tin. Lý và giải, trái phải là thí dụ, đồng với ví dụ hạt ngọc. Dù lý chưa có mà tin, hiểu đã được. Đã nhờ ví dụ mà được ngộ, như mặt thấy rõ trong gương. Ví dụ này do chính Đức Phật nói, nên nói thầy thuốc cầm chiếc gương.” “Lực só thấy rồi, tâm rất kinh ngạc, có cảm tưởng kỳ lạ đặc biệt.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Tín đồ thọ giáo, nghe thấy Phật tánh, mới sinh tin hiểu, trong thân bèn có lý vượt hơn này, có cảm tưởng kỳ lạ, đặc biệt này.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Sự hiểu biết sinh ra, ý biểu lộ sự kinh ngạc. Quý ở chỗ tỏ ngộ, là ý tưởng kỳ lạ đặc biệt.” “Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh cũng giống như vậy” cho đến “Chỉ có Phật tánh đều không thể thấy được.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hợp ví dụ về mất “Giải”. “Mà bị tham dâm, giận dữ, ngu si” cho đến “Vì sự ngu si đã che lấp bản tâm, nên không biết Phật tánh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ ban đầu.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hợp với ví dụ chỗ hạt ngọc lún vào trán của lực só, nổi lên mụt nhọt. Che lấp tâm, nghóa là hợp với “Đều không tự biết hạt ngọc này vẫn ở chỗ của nó.” “Như hạt ngọc của lực só vẫn ở ngay trong cơ thể” cho đến “Huống chi biết được chân tánh của ngã”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Hợp với thí dụ thứ hai. Pháp sư Tăng Tông nói. “Người tu học vô ngã, hợp với ở trên là không có bỏ ư? Không biết chân tánh của ngã, nghóa là lại hợp với ví dụ thứ hai. Không biết chỗ vô ngã: Trở lại chấp nghiêng lệch mà tu không quán, vì chẳng phải căn cơ ở bạn lành học tập mà được, nên chẳng phải khéo hiểu. “Này người thiện nam! Như lai nói các chúng sinh đều sẵn có Phật tánh như thế” cho đến “Tạng Như lai vô lượng không thể suy nghó bàn luận như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ thứ ba.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hợp với ví dụ cầm gương soi thứ năm.”  Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng, Đời Lương. <卷>QUYỂN 19 <詞>Phẩm 12: NHƯ LAI TÁNH, (Phần 2) Ví dụ thuốc một vị ở núi Tuyết. Giải thích: Phật Tánh ở trong năm ấm, không mất, không hư hoại. Giải thích kinh Phương Đẳng như Cam lộ, thuốc độc. Nói rộng về ba thứ ba quy y: Thứ bậc. Một thể. Phật tánh vị lai của thân mình. Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như ở núi Tuyết”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Không theo lời Phật nói, mà chấp nên, trở thành mê hoặc”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên, đã đáp chung mười một câu hỏi, mà Phật tánh không hư hoại, nghóa ấy chưa rõ ràng. Lại, ví dụ ở trước nói: “Hạt ngọc đã bị lún vào thân, dường như Phật tánh có thể hư hoại. Nay dùng ví dụ này để nói lý do mất “Giải”, Phật tánh không thể phá hoại. Núi Tuyết, dụ cho Thân năm ấm.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dụ cho chúng sinh.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ ở trước nói về khởi “Hoặc” trái lý, không được dụng hiện tại. Ví dụ này nói: Nếu muốn lấy, có phương thì được, trái với phương thí mất. Núi Tuyết, dụ cho Kim Cương, trở xuống, là thần minh của nhân địa.” “Có một vị thuốc tên là “Vị lạc”, vị rất ngọt ngon”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thuốc dụ cho Phật tánh, Ngọt, dụ cho cho Thường, Lạc.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thấy Phật tánh, là trị bệnh sinh tử, dụ cho thuốc. Vị lạc: Thể của vị chẳng phải niềm vui, mà sinh ra niềm vui cho người. Phật tánh chẳng phải niềm vui, vì hiểu được Phật tánh, thì sẽ thoát khổ, nên dụ Phật tánh là vị lạc. Rất ngọt: Vị ngọt, thì được người ưa thích. Lý Phật tánh có biết được hương vị ngọt ngào, dụ cho vị ngọt.” Pháp sư Trí Tú nói: “Nhất vị, là lý Phật tánh không có sự khác nhau về sinh và diệt.” “Ở dưới lùm bụi, không có người nào thấy được.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chín trụ trở xuống, không thể thấy được.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Vì bị phiền não che lấp nên dù có Phật tánh, chúng sinh vẫn không thấy.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Không có mắt tuệ của Thập địa, cho nên không thể thấy được.” “Có nhiều người ngửi thấy mùi thơm biết ngay ở chỗ đó chắc chắn sẽ có thuốc này.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Bồ-tát nói giáo “Vô ngã”, nói lên chân ngã của Như lai, dụ cho nghe mùi hương.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví như Bồ-tát Thập địa khi nghe Phật nói xong, có thể thấy được phần ít, là nói về lý tánh sâu xa.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Người tu hành nghe Phật nói, biết trong phiền não có “Phật tánh”.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Có” chỗ cho là đã được hiểu văn tuệ. Dù không có mắt tuệ Thập địa thấy được, nhưng tin giáo, sinh hiểu sẽ biết là “Có”. Pháp sư Trí Tú nói: “Vì như Đức Phật quá khư, lúc đầu nhận biết nhỏ nhoi, như vừa nghe mùi hương của thuốc kia, biết ngay là thuốc, cuối cùng tu hành, sẽ được thành quả Phật.” “Ở đời quá khứ có vua Chuyển Luân” cho đến “Làm các đồ đựng để nhận thứ thuốc này.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chư Phật xa xưa, nói pháp vô ngã. Lý vô ngã như đồ đựng kia có bên ngoài, không có bên trong.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vua, dụ cho Phật. Chỉ cho Đức Phật là người có khả năng thấy được, nói được. Đồ đựng dụ cho Viên giáo.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói giáo pháp của Phật quá khứ dù chẳng phải một, nhưng đều biểu dương cho tánh, như làm đồ đựng là để nhận thuốc.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vua thông suốt, dụ cho Phật trước. Nếu lấy gần, tức là Đức Phật Ca-diếp. Vì nhà Vua muốn tìm kiếm thuốc ở trên núi, nên chỗ nào cũng đều có làm đồ đựng để nhận thuốc, dụ cho Đức Thế tôn Ca-diếp lúc còn là phàm phu, tu muôn hạnh để mong cầu quả Phật.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Núi dụ cho năm ấm, đồ đựng dụ cho kinh giáo. Các chỗ dụ cho mười hai bộ, nói Đức Phật trước vì muốn cho năm ấm chúng sinh đều được tánh của ngã thường, nên nói mười hai bộ kinh. Dù nói vô thường, nhưng đều vì muốn cho chúng sinh được lý Trung đạo thường, nên nói “Để nhận thuốc này.” Pháp sư Trí Tú nói: “Muôn hạnh như đồ đựng. Hạnh do thân khởi, dụ cho chỗ nào cũng làm ra.” “Khi thuốc này chín”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghe Đức Phật nói liền, nhận hiểu không có sai lầm, nhờ dụ mà lộ hạt ngọc trên trán.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Lúc Phật tánh ứng với lưu thông, nghóa rạng rỡ là chín.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Năng lực của nhân đầy đủ, như thuốc đã chín muồi.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Là thời kỳ thành Phật.” “Từ đất tuôn chảy ra”. Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Vì tánh sáng tỏ nên thoát khỏi phiền não.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nhân mãn, quả được hiển bày vì Phật nhãn đã soi sáng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì lý nhân quả không ngoài thân, nên nói có ngay trong năm ấm.” “Gom trong đồ đựng”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Lý Ngã thường ứng với lúc tu muôn hạnh. Nghóa vị đều ở trong văn kinh.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Vị lý của Phật tánh, kinh giáo được nhóm hợp đầy đủ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Quả lại ứng với nhân là gom nhóm.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hiển bày trong kinh giáo.” “Mùi vị chân chánh”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lý Phật tánh khác thể với vật ngụy.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lý thường là lý được Viên giáo giải thích, là chân chánh.” “Sau khi vua băng, hễ ở chỗ nào thuốc chảy ra, thì đều có các vị thuốc khác nhau.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Sau khi Phật nhập Niết-bàn, các đệ tử Phật tìm tòi, nghiên cứu kinh, giáo, chấp nghiêng lệch nghóa kinh giáo, đối với lý nhất vị, tùy theo thuyết mà thành khác. Chấp lấy nghóa đã nghiêng lệch mà thọ thân khác nhau.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhận lấy kiến giải chưa được thuần thục. Phật đã nhập diệt, pháp bị rời rạc, người sanh hiểu khác, khởi các thứ kiến chấp, chịu quả khác nhau, để bày tỏ nỗi khổ mất “Giải”.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Sau khi Phật nhập Niết-bàn, vì các Luận sư đều chấp nghiêng lệch, nên nói Phật tánh có các thứ khác nhau. Theo các các chấp nghiêng lệch, thì thọ thân có khác, như chỗ thuốc chảy ra có các thứ khác nhau.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lý Phật tánh chỉ có một, vì người chấp khác nhau, nên có chín mươi lăm thứ. Đã gây ra nhân tà, thì sẽ cảm thọ bốn quả ác, như các vị của thuốc.” “Vị thật của thuốc này ngưng đọng ở trên núi, giống như mặt trăng tròn.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Không vì chấp lấy mà có nghiêng lệch, chánh lý bị hư hoại, không do thọ thân khác nhau, làm cho chân ngã dứt.” “Người phàm phước mỏng, dù cho có ra công đào xơi vất vả cách mấy đi nữa, cuối cùng vẫn không được thuốc.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù sinh kiến chấp khác, vẫn không thể hủy hoại chân. Thánh và Phàm bặt giao, thì “Thường” mới được sáng tỏ, là nghóa không hư hoại.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Kiến chấp dù khác đường, nhưng không làm thay đổi Phật tánh. Dù cảm thọ thân khác nhau, nhưng Phật tánh vẫn không thay đổi, phàm phu chấp nghiêng lệch, nên dù dứt hết lo nghó, thì vẫn không thể nào thấy được chánh lý.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Không lẫn lộn với ngụy, là chân tánh, phải thường ở người, không thể dời đổi, như thuốc ngưng đọng. Tròn sáng, không nghiêng lệch, về sự thì đồng với mặt trăng.” Phàm phu phước mỏng, không thể được, nghóa là không có tuệ, để tự tu dù gia công khổ hạnh, như pháp giữ giới trâu, tự nhịn đói… cách lý càng xa. Nếu là người khuất phục dục, thì sẽ được định Vô tưởng và định Phi tưởng, chấp là Niết-bàn, cũng trái với phương cách nói trên, nên nói “Dù có gia công khổ sở, vẫn không thể thấy được thuốc.” Quyển sáu nói: “Về lý, thì đồng đựng không sâu, nói là không phát vô lậu.” “Khi có vua Thánh ra đời, vì nhân duyên phước đức của vua, nên liền được vị chân chánh của thuốc.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh lại chỉ thú không hư hoại.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Tức Đức Phật Thích-ca. Nói sau khi Phật trước diệt độ, nhận lấy chỉ thú được phương, là được, nhưng chúng sinh phước mỏng, tìm kiếm trái với phương thuật, thật ra, có trái, không trái khác nhau, lý này vẫn thường như vậy.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Về sau, khi Đức Phật ra đời, sẽ hiểu được Trung đạo như thế.” “Này người thiện nam! Mùi vị bí tạng của Như lai cũng như vậy” cho đến “Chúng sinh vô minh, nên không thể thấy được.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ đầu.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hợp dụ dưới lùm bụi sâu rậm, không thể thấy được.” ÁN: “Một vị”, dụ như Phật tánh” cho đến “Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Ty- xá, Thủ-đà,… ” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp ví dụ thứ hai.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hợp với các thứ vị”. “Phật tánh mạnh mẽ, khó có thể hư hoại” cho đến “Tất cả không ai có thể hủy hoại, đốt cháy, tiêu diệt được.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp ví dụ thứ ba”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Lời nói này chủ yếu nghiêng về mười một câu hỏi, hỏi rằng: “Nếu khi mất thân thì “Ngã” cũng mất theo phải không? Hợp Đáp: “Vì không lìa tinh thần sáng suốt của nhân địa mà có, nên nói là “Có”! Đâu thể trách cứ cho “Ngã” và ấm là một. Hễ ấm diệt thì “Ngã” dứt.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về tánh của chánh nhân, vì thể tánh không thể thay đổi, nên không ai có thể giết hại được. Máu thịt sinh tử là do nhân riêng chiêu cảm, có thể bị tổn thương. Tánh chất của chánh nhân tự nhiên, chẳng phải do nhân sinh, nên không thể hư hoại”. “Dù không thể hư hoại, nhưng không thể thấy” cho đến “Do nhân duyên này, nên không ai giết hại được.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Tổng kết ở trên”. “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật” rằng: Cho đến “Lẽ ra không có nghiệp bất thiện?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là thế của lời nói trên mà có câu hỏi này: “Nếu tánh không thể giết hại, thì giống như sát sinh không có tội?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ngụ ý câu hỏi này là muốn cho giải thích về nghóa “Vì không lìa tánh, nên nói là “Có”, chứ chẳng phải có tánh và ấm là một.” Phật nói: “Này người thiện nam! Thật sự có sát sinh” cho đến “Tướng khác nhau trôi lăn trong sinh tử.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dù phá hoại năm ấm, nhưng không gây tổn thương Phật tánh. Vì tổn hại năm ấm, nên gọi là sát sinh. Không thể vì Phật tánh không bị tổn thương, rồi cho rằng đều là nghiệp lành được.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì nhân không lìa quả nên nói trụ. Năm ấm nối nhau, hoặc làm trời, hoặc làm người ấm của trời, người khác nhau. Vì chết nơi này, sinh nơi khác, nên có thể hư hoại. Đều mong cầu lạc, tịnh, vì hai thứ này không khác, nên không thể phá hoại, Đức Phật dùng sữa có lẫn, chất độc làm thí dụ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Giải thích lý do dù có sát sinh, nhưng Phật tánh không hao tổn. Vì sao? Vì nói về đạo lý nhân, quả, nghóa thật tương quan, hễ có nhân thì có quả, không có nhân thì sẽ không có quả, chính là vì Phật tánh không lìa thần minh của nhân địa, nên nói trụ trong ấm, đâu được trách cứ, khiến ta có một pháp với ấm là một, không thể thương tổn ư? Sở dó có tội giết hại, là vì năm ấm là pháp nối nhau của hữu vi. Năng lực là “Duyên” cắt đứt, vì đủ bốn nhân duyên, nên có tội giết hại. Tội từ dứt ấm sinh, vì không thể làm cho ấm dứt, nên tánh đều cùng bị hại, vì tánh là thường, nên ấm cũng không thể hư hoại.” Kính Di ghi: “Trụ năm ấm là nương vào thân này tu “Duyên” tốt của nhân. Thần minh là chánh nhân, có nghóa phát sinh. Nay cắt đứt sự nối nhau, thì nghóa cấp dưỡng sự sinh phải bỏ dở dang! Bỏ dở, tức là nghóa nhận lấy quả xa vời. Nay nói quả trong nhân, nên nói trụ. Vì cắt đứt nghóa năm ấm nối tiếp nhau, ngăn cách thì điều lành không sinh, nên phạm tội sát sinh, chứ không phải trực tiếp vì cắt đứt hình chất, nên thành tội sát sanh. Vì vậy, nên cúng dường Xiển-đề không có phước, giết hại cũng vô tội. Nói mắc tội, nghóa là trực tiếp dùng lòng dạ xấu ác mà được, chứ chẳng phải vì xa lìa ấm.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu nói về quả báo luống dối vô thường thì sinh ở chỗ kia, chết ở nơi này, há có tội ư? Nay nguyên nhân mắc tội có lý do riêng. Nếu không có tâm địa gian ác và gây tổn thương ruộng phước, thì đều không có tội. Văn dưới đây nói: “Nếu giết con kiến, còn có tội báo, chứ giết một người Xiển-đề thì không có tội.” Nói về cách nhận biết người phạm tội sát: Một là do tâm ác; hai là do gây tổn thương ruộng phước. Việc lành của người kia lẽ ra nên nối tiếp nhau sinh. Vì cắt đứt mạng người kia không được sinh nối tiếp, cho nên mắc tội, chứ không phải trực tiếp cắt đứt mạng sống để rồi phải rước lấy tai họa. Phật tánh ở trong năm ấm: Đây là nêu “Duyên” Phật tánh của nhân. Nói về hành đạo thành Thánh là nhân của thân năm ấm này. Đã cắt đứt mạng sống người kia rồi, việc lành không khởi được. Muốn nói về sự tương ưng của tội phước hãy nói theo nghóa này.” “Người chẳng phải bậc Thánh, chấp “Ngã” ngang trái cho đến “Tướng của vọng tưởng không chân thật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người phàm tục nhận thấy ngang trái là nhân của năm ấm. Nhân hư, quả dối thì có thể hư hoại.” “Tướng của Ngã” xuất thế, gọi là Phật tánh, chấp “Ngã” như thế, gọi là rất tốt.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dù còn thọ thân muôn mối, nhưng Phật tánh thường còn. Nếu chấp lấy cái được này thì rất tốt.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật khởi từ tánh, lý tánh không thay đổi, nhân thật, quả chân, cho nên không hư hoại.” “Này người thiện nam! Ví như người khéo biết kho báu trong lòng đất.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dụ cho chấp ngang trái đối với “Ngã”, tự cho là khéo biết.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát biết lý viên này ẩn trong các “Hoặc”, như kho báu trong lòng đất.” “Vội dùng cuốc bén”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dùng tà trí đập tan các ấm.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói là sức của trí”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tu muôn hạnh” “Đào thẳng xuống đất”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát dùng năng lức trí tuệ, dứt trừ phiền não”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Quán năm ấm”. “Tảng đá lớn, cát, sỏi, đào xuyên thẳng qua không khó.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Quả ấm đã cảm thọ đều là đối tượng dứt trừ của tuệ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dứt trừ phiền não”. “Chỉ đến lớp đá kim cương thì không thể xuyên suốt. Nói về kim cương, tất cả, búa rìu đều không thể đập vỡ.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Phật tánh không bị tà kiến xuyên tạc, xoi thủng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dụ cho Phật tánh.” “Này người thiện nam! Phật tánh của chúng sinh cũng giống như vậy” cho đến “Là không thể suy nghó bàn luận”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ này nói Phật tánh không thể hư hoại.” “Này người thiện nam! Kinh Phương Đẳng… giống như cam lộ, cũng như thuốc độc.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dù rằng kinh giáo để tỉnh ngộ chúng sinh, nhưng phải tỏ ngộ từ kinh giáo đó. Chính vì vậy, nên đối với người tỏ ngộ, kinh giáo đó là Cam lộ. Trái lại, là thuốc độc.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xin Đức Phật nói rộng về nghóa đó.” Phật nói: “Này người thiện nam! Nay ông muốn biết nghóa chân thật bí tạng của Như lai chăng?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lời Phật nói được gửi gắm cho Bồ-tát Ca-diếp để khuyên răn đại chúng.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Nay con thật muốn biết được nghóa bí tàng của Như lai. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói “Ngã” tức là Phật tánh, chính thân mình vốn đã có, tức là nên tự quay về Tam bảo trong thân, tất nhiên, được thường lạc, thành nghóa của nghiệp lành.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn thứ hai. Sinh nhau, nói về tánh, “Có” mà là “Thường”. Trái với tánh, là ẩn. Ở lâu trong sinh tử thì không trái, tức là nói rõ mãi mãi tiến lên thường lạc, đây là lý do khởi tín, về sự, thì y theo kinh này. Nếu muốn cầu giải thích để nhập lý thì há không được đối với kinh Phương Đẳng thường trụ, sinh niềm tin sâu sắc hay sao? Trước kia, nói về nghiệp thiện, đã khởi lên mầm mống của niềm tin kia, nay, khuyên hãy tin sâu, để giúp cho “Giải” trước kia thêm lớn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đoạn thứ hai, khuyên tin một thể, ba quy y, lại mở rộng thành mười chương: Sắp nói ba quy y, trước là, khuyên tâm là không có, không chấp mắc. Vì, nếu chấp mắc, thì sẽ trái với pháp tướng. Nói nếu tu học theo giáo của bốn thời để nghe thuyết nay thì, thành người quên hoàn bão. Vì sắp nói lý này, nên Đức Phật khuyên chúng đương thời nên cố gắng, nên bắt chước theo người này để dụng tâm. Chính là nói ba quy y. Nói về chúng đương thời đối với lý của thuyết cùng cực này, chưa thể tin ngay, nên Bồ-tát Ca-diếp lại thỉnh Phật. Đức Phật lại nói lần nữa tướng khác nhau của ba quy như thế. Bồ-tát Ca-diếp nhận hiểu một thể ba quy ở Vị lai. Lại khuyên người tu hành làm sao cho chúng đương thời này phát sinh chí lớn. Bồ-tát Ca-diếp tự khuyến khích người tu hành phát khởi dấu vết mà đi theo. Đức Phật lại tán thành lý đã nói. Cam lộ dụ cho lý thường trụ. Nếu tạo ra chẳng phải có, chẳng phải không thì tâm không chấp mắc vào đâu cả thì trở thành Cam lộ. Nếu có sự tồn tại như vậy, đó tức là đoạn thường. Đã không xứng với Trung đạo, thì đối với người này trở thành chất độc. Trong đây có bốn lượt: Đức Phật nêu lên Tông chỉ này. Bồ-tát Ca-diếp xin Phật giải thích. Đức Phật lại hỏi có muốn nghe không? Bồ-tát Ca-diếp lại thỉnh Phật.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đoạn thứ ba, ở trên nói Phật tánh tức “Ngã”. “Ngã” này không có nghiệp lành được hưng thịnh với khởi thỉ của điều lành, vì chớ vượt qua quy tín, nên chương này trước hết khuyên nương tựa Tam bảo thường trụ của thân mình, chia thành bảy chương: Y cứ vào người để khen chê kinh. Chính thức khuyên nương vào tạng Như lai của thân mình. Nói vì đại chúng không hiểu, nên xin Phật giải thích lại. Đức Phật nói rộng, dạy bảo ý thưa thỉnh của Bồ-tát Ca-diếp. Bồ-tát Ca-diếp nhận hiểu, để lập song quy. Đức Phật nói ngay kiến giải nay, răn điều quấy trước kia. Bồ-tát Ca-diếp phát hiện dấu vết, nhằm giải quyết, sự ngờ vực của chúng sinh, cuối cùng không sinh, cũng không tử.” “Bấy giờ, Đức Thế tôn nói kệ rằng” cho đến: “Hoặc có người uống Cam lộ, được sống lâu.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là nói về tu không gặp lúc. Như ở Vườn Nai xưa, Câu Luân nghe Phật nói pháp xong, lại thêm thường kiến, tuệ mạng yểu. Ngày nay, người tu thì được pháp thân.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Bài kệ này nói đều tìm kiếm sách thường, được chỉ thú thì mạng sống lâu dài, mất chỉ thú thì mạng yểu sớm.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu y theo giáo, tin tưởng, thực hành thì sẽ được bất tử, như Cam lộ kia. Nếu trái thì sẽ mất chỉ thú, trở thành thuốc độc. Các thuyết của các Luận sư đều khác nhau. Về cách giải thích cũng khác, tự có một cách giải thích: “Tức cho rằng tánh của Viên giáo là thuốc độc. Ở đây cho là không đúng. Không chỉ sự sai lầm của nghóa khuyên tin, mà còn có lỗi chê bai kinh. Trong đây, trước nêu ví dụ ngoài, muốn chỉ rõ tánh của kinh chẳng phải chất độc. Như Cam lộ ở thế gian vốn không phải thuốc độc, chỉ vì nghóa con không thể tiêu hóa, nên gọi là chất độc mà thôi. Sắp nói về viên giáo, đối với người hiểu biết điên đảo, tức là hại yểu mà mất, chứ chẳng phải kinh. Pháp sư Trí Tú nói: “Nhằm làm rõ lý, trước là y theo người ngu trí mà khen chê văn kinh, một hàng rưõi kệ đầu, trước là nêu ra người tu hành có thể điều phục hay không. Một hàng kế là, nói về thể của thuốc. Bốn hàng kế là, lại nêu thí dụ. Nói về thuốc dù là một mà vẫn có hai thứ khác nhau, chính là do hai người ngu, trí, mà được nghóa trở thành chất độc, trở thành thuốc, nói thẳng là Cam lộ, nói sao cho con người thành Phật, hoàn tất là chỉ thú không chết.” Pháp sư Tuệ Đản nói: “Muốn khuyên người thấy tánh để hoàn thành nghiệp lành, nên trước nói về chỉ thú kinh. Vì sao? Vì nghóa thường trụ hết hẳn sinh tử. Nghóa thường trụ đó cũng là Cam Lộ, vì gây tổn thương, chê bai bốn phẩm pháp, mê hoặc nghóa của người, như thuốc độc, hoặc biết sâu về hai nghóa thì nghiệp ba quy thành tựu, như uống Cam lộ mà sống lâu, uống thuốc độc mà bất tử. Nếu người không biết thì ba quy y sẽ không thành, như uống hai thứ thuốc mà gây nên cái chết.” “Có người uống thuốc độc được sống, có người uống thuốc độc mà chết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ Tam bảo vô thường, là quy y của ngày xưa, ở đây tức là được tuệ mạng. Nay, nếu người quy y mà chê bai Phật, Pháp, Tăng, thì tuệ mạng dứt. Bài kệ này nói cả hai giáo xưa, nay đều theo giáo vô thường. Nếu được chỉ thú thì tuệ mạng sinh, mất chỉ thú thì tuệ mạng dứt. Lại một nghóa: “Sách thường của Đại thừa, đối với người trí là Cam lộ, đối với người ngu là thuốc độc. Người ngu uống Cam lộ của người trí mà sớm chết yểu, người trí uống thuốc độc của người ngu thì sống lâu.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trước nêu ví dụ để nói về Viên giác. Nay, nêu ví dụ chất độc, nhằm chỉ rõ giáo nghiêng lệch. Sẽ nói về tánh của giáo là không liễu nghóa, sinh ra kiến chấp, trái ngược của con người, là nói về nghóa chất độc. Chính là có thể y theo kinh dứt trừ kiết. Riêng một dụng này được gọi là chất độc, không ở nơi đây.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lại nói Phương Đẳng trở thành chất độc. Về ý không thành có bốn phẩm người, nghóa là hai Luận sư đều dạy hai đệ tử. Vì sao? Vì hoặc uống Cam lộ, thì tổn hại thân mạng. Người thứ nhất này dù còn hỏi han, thọ lãnh pháp của Luận sư giỏi, nhưng vẫn không quên giữ lấy chỉ thú. Nếu đối với người này thì chỉ thú đó sẽ thành chất độc. Nếu uống Cam lộ, thì sẽ được tồn tại lâu dài. Người thứ hai này nhờ khen ngợi giao của thầy mà được chỉ thú, nên trở thành Cam lộ. “Có người uống thuốc độc mà được sống”, người thứ ba này dù thọ học với thầy bất thiện chấp tướng, nhưng vì xứng lý, hiểu không, nên dù là uống chất độc mà không chết. Hoặc “Do” uống chất độc mà chết. Người thứ tư này đã theo học với thầy bất thiện, lại nhớ mãi không quên, vì đồng nói chấp lấy, nên nói uống chất độc mà chết.” “Trí vô ngại như Cam lộ Đó là kinh điển Đại thừa Kinh điển Đại thừa như vậy Cũng gọi là thuốc tạp độc.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nêu thí dụ. Ở đây hợp ví dụ, cũng gọi thuốc độc, nghóa là đối với người uống thuốc mà không tiêu, cũng có nghóa độc người tu hành hãy uống, nghóa là niệm do kính tin, khuyên tin sáng suốt.” Pháp sư Trí Tú nói: “Phát ra sáng tỏ thể của thuốc.” “Như bơ, đề hồ vân vân Kể cả các thứ đường phèn, v.v… Uống vào thì thành chất độc”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước kia nêu Cam lộ. Về chỉ thú của Cam lộ lược chỉ bày, lại dẫn ví dụ hay, đủ chứng tỏ rằng Cam lộ kia chẳng phải chất độc. Dưới đây, sẽ nói về hai người ngu, trí, nghóa ấy được hiểu ngay.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Có người biết Cam lộ, không bao lâu lại dẫn ví dụ Năm vị.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là bốn hàng kệ. Ý thứ ba, nêu lại thí dụ, chính là chỉ rõ thể của thuốc là một, mà do ngu trí nên chia thành hai.” “Với Thanh văn và Duyên giác Pháp Đại thừa là Cam lộ v.v… Thành voi đầu đàn trong người.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tà ngã đã dứt trừ, nên biết chân ngã là cam lộ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nêu ngu trí, chưa có ai bị dứt trừ. Về sự, cần phải phân biệt. Nay, nói bậc Thánh của Nhị thừa, nếu nghe Viên giáo, thì hãy thực hành theo, người này là Cam lộ. Nên biết phàm phu không nên tin, thực hành, vì đều là thuốc độc.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai, phát ra trở thành người Cam lộ. Nói về ba thừa xưa. Đến nay, nghe nói một thể ba quy, đều thành dụng của Cam lộ. Khuyên tinh tấn như vậy, nghóa là nói người nào y theo Đại thừa mà tu hành, sẽ trở thành voi đầu đàn trong loài người. “Chúng sinh chứng biết Phật tánh Như Bồ-tát Ca-diếp thảy Được vị Cam lộ vô lượng Thì không sinh cũng không chết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích thành Cam lộ. Vì sự hiểu biết của Bồ-tát Ca-diếp và pháp mà chúng sinh đã làm, nêu việc hiểu biết, tức không sinh, không chết.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn thứ ba là khuyên răn. Nói Bồ-tát Ca-diếp đã biết. Nếu chúng sinh được như Bồ-tát Ca-diếp thì sẽ được quả không sinh, không chết.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đoạn thứ tư, là giải thích nghóa, nói lý do làm sao cho con người thành Phật, vì mãi mãi không sinh không chết.” “Này người thiện nam! Nay ông phải Khéo phân biệt pháp ba quy Tánh ba quy y như vậy Chính là chân tánh của ngã.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tự tại là nghóa “Ngã”, không thầy, tự ngộ là nghóa giác, không có phi pháp là nghóa pháp, các pháp hòa hợp là nghóa Tăng. Bốn pháp này thể một, mà tên khác.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đoạn ba, ở trên dù khuyến tin, nhưng phải làm cho an tâm, nên khuyên hãy phân biệt, khéo biết chân, ngụy, bỏ ba ngụy xưa, nương vào chân duy nhất hiện nay. Đây là lónh vực tình không có sai lầm. Phát khung xe, tức là đạo quan trọng của thu hướng. Y cứ ba bí quyết này để nói trong ba quy y có thể có năm chương khác nhau. Dùng ba bài kệ rưỡi, một phen khuyên trực tiếp quy Tam bảo chân chánh. Có mười bài kệ, Bồ-tát Ca-diếp vẫn còn hoài nghi, chưa chấp nhận thuyết hiện nay. Có bốn bài kệ rưỡi, lại vì mở bày giải thích, rửa sạch hai nỗi nghi ngờ kia. Có bốn bài kệ, Bồ-tát Ca-diếp lại chấp. Trước kia có ba điều nghi, chấp mắc “có”, “Không”, mà nghe giải thích rửa sạch. Nay chân ngụy chưa rõ, tức là muốn hai quy y. Nói văn xuôi, lại vì ý giải thích về ý nghóa thứ bậc, chỉ thú hư thật. Khéo phân biệt, nghóa là phân biệt quy y xưa là “Quyền”. Quy hiện nay là “Thật”, tức là tánh của “Ngã”, không cần xả tự thân của “Ngã” để quy y đạo Phật kia.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây có ba bài kệ rưỡi, chính là nói về tướng của ba quy y. Một dạo nọ, nếu bỏ ba quy y xưa và một thể ba quy y của Đức Thích-ca, thì Đức Phật chỉ khuyên chúng sinh tự quy nhất thể Tam bảo ở thân vị lai. Nếu hễ tâm này đã lập thì sẽ có ba thứ ba quy y đều hoàn toàn thành tựu. Khéo phân biệt, là Tam bảo của tướng riêng với một thể ba quy của Đức Thích-ca nay đều không khỏi lỗi. Vì sao? Vì dùng thân trượng sáu làm Phật, lấy mười hai bộ kinh làm pháp, dùng chúng sinh ba thừa làm tăng, mà hình tướng bị ma cảm hóa, đã nói lên pháp bất chính. Kẻ chấp hành theo ma cũng được phép quy y, đều là chấp lấy trong hình hài, đâu được tránh khỏi sự quá lạm ư? Nếu y cứ theo một thể ba quy y của Đức Thích-ca thì cũng không khỏi phạm lổi. Vì sao? Vì thân trượng sáu của Đức Phật là dấu vết. Pháp thân là gốc. Y cứ gốc để nhận lấy dấu vết, như làm Tiểu thừa vượt hơn, nhưng đồng là hình hài, thì ma cũng có thể như vậy, chẳng lẽ được khỏi phạm lỗi? Hai báu Pháp, Tăng cũng tương tự như vậy, chỉ tự quy y nhất thể Tam bảo của thân ngã ở vị lai, thì sẽ không có lỗi, chẳng những khỏi phạm lỗi mà còn thành ba đức: Nhận biết về hai thời giáo trước mà Đức Phật đã nói là lỗi của ba quy y, xét về quy y vị lai là đúng. Đã an tâm có chỗ tồn tại, thì làm gì phải sợ ma đến nhiễu loạn chánh giải kia ư? Đã có chánh trí thì dụng của tâm rộng lớn bao la, xét định sáng suốt về một thể ba quy chân thật sau tâm kim Cương, tất nhiên là sự quý báu của “Ngã”. Chúng sinh hàm thức, về lý thì đồng với Như lai, bất luận thời gian thành Phật là gần hay xa, đều được quay về nương tựa. Đã phán quyết vật báu này, xét thuộc về “Ngã”, tức là xem xét sáng suốt về nhân quả, không có “Hoặc” của tám điên đảo. Vì sao? Vì người này lẽ rõ ràng đã nhận thức Phật địa là thường, sinh tử là vô thường, thì làm gì mà không lập ra ư? Ba tâm đã lập, ba lỗi lại dứt, cho nên Đức Phật khuyên con người hãy phân biệt rõ ràng, chính xác về ba quy y, chỉ thú đó chính là ở chỗ này. “Nếu có thể quán sát kỹ Tánh của “Ngã” có Phật tánh Nên biết những người như vậy Được nhập Bí tạng Như lai.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lý tánh không khác, chính vì ẩn hiển mà thành khác. Nếu bỏ “Ngã” để trở về với lý tánh kia thì chính là bỏ gốc theo ngọn, chẳng phải nói là chân đế. Vì đó, nên Phật khuyên bảo phải nhận thức sâu sắc về tánh trong quả đương lai của thân mình. Nhận thức này đã kỹ càng, thì tính chất dính mắc mà con người đã tạo nên từ vô thỉ cuối cùng sẽ trở thành “Hoặc”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tánh của Ngã là tánh của Nhân. Có Phật tánh là tánh của quả, tất nhiên có người nhận hiểu như thế, sẽ được xét cho nhập vào tạng bí mật.” “Biết ngã là ngã sở Người này đã xuất thế v.v…đến Nghóa tánh đó như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã quy y Tam bảo ở thân vị lai, tu hành tinh tấn, hướng về đích cùng cực, được gọi là biết ngã. Ngã sở là Pháp, Tăng. Bốn pháp này và thể một mà về nghóa thì khác. Đức Phật và nghóa “ngã”, nghóa một mà tên khác.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Biết ngã”: Là tánh vị lai của Ngã, Ngã sở, là hạnh Thập địa, là điều ngã nên làm. Nếu người nào biết được như thế, thì đã là người xuất thế.” “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp lại nói kệ rằng: Nay tôi đều không biết Chỗ quy y Tam bảo.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã bỏ ba quy theo thứ lớp, muốn trở về với Tam bảo vị lai, nhưng vì vị lai không có điềm bày ra trước, nên không biết đối tượng quy y.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Tam bảo đã có Chân có Ngụy, nay muốn quy y Tam bảo mà tạo ra nghiệp lành nhưng chỉ không biết được điều chân thật.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Xưa, khuyên quy y khác nhau, nay khuyên quy y đồng nhau. Hai lời dạy trái nhau, làm sao có được niềm tin, nên nói “không biết chỗ quay về.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là đoạn năm. Chúng đương thời nghe nói như trên, tâm vẫn chưa hiểu, nên Bồ-tát Ca-diếp nay đều không khẳng định thọ lãnh. Vì sao? Vì xưa ta đã quy y Tam bảo của Thể riêng, Đức Phật không cho phép. Kế là quy y nhất thể Tam bảo của Đức Thích-ca, lại nói không tránh khỏi phạm lỗi. Lại, một thể ba quy của Đức Thích-ca “Có” mà không có tướng. Chúng sinh nghe nói “Không có” liền “Chấp đoạn”, nghe nói “Có” thì chấp “Thường”, cho nên khó lập. Nay, Đức Phật lại khuyên bảo chúng ta hãy bỏ quy y nhất thể Tam bảo ở vị lai của Ngã, ở vị lai đều không có tướng mạo, thì làm sao lập được tâm mà quy y ư?” “Vì sao phải quy hướng về Vô thượng vô sở úy?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tức giải thích Tam bảo.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý hỏi rằng: “Nếu vì quay về với Tam bảo thì sẽ được hướng về chỗ vô úy vô thượng ư?” “Không biết chỗ Tam bảo Làm sao quán vô ngã?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu chân ngã ở vị lai, quán ba cõi không có ngã, thì sẽ dùng quy, nếu không thể biết cái ngã ở vị lai, mà quán vô ngã thì sẽ quy về chỗ nào ư?” Pháp sư Pháp Dao nói: “Tam bảo chính là “Ngã” trước kia. Không có “Ngã”, tức là “Ngã sở” trước kia. Ngã sở tức là nghiệp lành. Hễ làm việc lành thì nhằm mục đích mong cầu thường trụ, cần phải biết chân ngã. Tam bảo vì tu nghiệp lành kia nên thường trụ sẽ được thành tựu. Đã là người không biết, thì đương nhiên sẽ không được việc lành đã làm, nên nói “Làm sao quán vô ngã?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu đã không biết chỗ Tam bảo chân thật, thì làm sao tu quán hạnh vô ngã, để nhàm chán phàm lìa sinh tử mà khởi?” Kính Di ghi: “Đã không biết Tam bảo chân thật, thì làm sao giáo xưa lại khuyến khích tu quán vô ngã ư?” Là khuyên khiến tu quan vô ngã ư? Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã không biết quy y Tam bảo, thì làm sao lập thành quán vô ngã mà tu hành?” “Thế nào Quy y Phật Để được nơi yên ổn? v.v… cho đến Càng được lợi vô thượng?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì Đức Phật có khả năng dứt trừ sự sợ hãi nên nói là an ủi. Pháp có công năng cắt đứt hoài nghi, nên nói tự tại. Vì tăng là ruộng phước, nên nói là lợi ích vô thượng. Tùy tùy nghóa phối hợp. ở trên là chung, ở đây là riêng.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước kia, tìm tòi, hỏi về chỗ của Tam bảo. Nay, nói về nghóa quy y: Quy y Phật được an ủi, quy y Pháp được tự tại, quy y Tăng được lợi ích nói trên, đều nêu một nghóa mà thôi, nhưng quy y Tam bảo đều có nghóa này.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hai bài kệ này, chính là đối tượng nghi ngờ về chân, ngụy. Nay, thế nào là quy y Phật? Nghóa là theo cách quy y xưa là hơn hay quy y nay là hơn? Được tự tại là thế nào? Xưa, Đức Phật quy y pháp, có bốn thứ chẳng phải thường. Nay, quy y pháp, có tám tự tại. Vậy lời dạy bảo nào là chân thật ư? Quy y Tăng: Lợi ích vô thượng, nghóa là xưa, nói quy y Tăng, là lấy người thực hành chánh pháp. Tăng hiện nay lấy nghóa muôn đức không trái. Vậy, quyết định tăng nào để nương tựa, để chuyển biến nghiệp lành của “ngã” và được lợi ích vô thượng ư? Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thế nào là Quy y Phật? là phương pháp quy y. Quy pháp, quy tăng cũng giống như vậy.” “Sao là thuyết chân thật? Thành Phật đạo vị lai Nếu mai sau không thành Làm sao quy Tam bảo?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật là người nói lời chân thật. Nay, chúng ta nên kính tin rằng mình sẽ được thành Phật ở mai sau. Tuy nhiên, nhân có khả năng thành tựu quả. Người phàm tục với đủ các thứ ràng buộc, vẫn chưa có được nhân quý giá đó, e rằng ở tương lai, chắc chắn sẽ không thành Phật ngay, thì làm sao quy y Tam bảo ở vị lai cho được?” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dưới đây là ba bài kệ rưỡi, nói về thời gian của nhân, cũng có nghóa của ba quy y. Nếu biết trong thân có nghóa ba quy y, quy y mà tu điều lành thì chính là ba quy y của quả địa. Do đây, dẫn chúng sinh tu điều lành, khuyến phát và tạo nên nghóa của nghiệp lành, nghóa ấy ở đây ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Sáu bài kệ rưỡi dưới đây. Nói về có, nghi ngờ hay không.” Đức Phật khuyên ta hãy quy y Phật tánh vị lai của tự thân. Vì có tánh, nên về sự, Ngã chưa được tự tại, mà triệu chứng trước kia khó biết. Tìm xét về lời Đức Phật đã nói trước đây, vì là chân thật hay không phải chân thật? Nếu vị lai không thành, thì dù rằng nói thành Phật, nhưng về lý, không hẳn là như vậy. Giải thoát sẽ không thành, tức là luống uổng sinh tâm quy y!” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thế nào là thuyết chân thật? Cúi mong Đức Phật nói về tướng chân thật của Tam bảo sẽ thành ở vị lai của Ngã. Nếu ở vị lai không thành Phật, và nếu khi tâm quy y thành Phật ở vị lai không lập thì làm sao gọi là quy y Tam bảo ư?” “Nay, tôi không dự biết Sẽ thứ lớp quy y.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì Ngã chưa tự tại, nên khó có thể dự biết, không kịp về lại cách quy y theo thứ lớp của giáo xưa.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về Tam bảo ở vị lai, khó có thể biết trước, nay, phải kính cẩn y theo Thánh giáo là thuyết của Phật, tất cả đều quy y theo thứ lớp.” “Vì sao chưa có thai. Mà nghó mình sinh con v.v…cho đến Nghiệp chúng sinh cũng vậy”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không có Nhân mà chấp có quả, việc ấy cũng giống như vậy”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Có con trong thai, nên gọi là mang thai. Kỳ hạn cuối cùng, phải ở trong thai mười tháng. Nếu được Thập địa vô lậu, thì có thể ví dụ mang thai. Nay, xa dằng dặc, phàm phu cách quả xa vời, chưa tin điều lành, mà nói là có quả, về sự, đồng với việc chưa mang thai mà nghó mình sinh con”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ba hàng kệ dưới, dụ cho gởi gắm, để kết thúc các câu hỏi về ba quy y ở vị lai. Hai hàng kệ còn lại sau, lại thỉnh Phật nói quy y chân thật. “Như điều Phật đã nói: Người ngu không thể biết v.v… cho đến Kho báu rất bí mật”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu không biết mà quy y thì không thành quy y, nên ở lâu trong sinh tử. “Giả gọi Ưu-bà-tắc Ba quy sẽ không thành. Đâu biết nghóa chân thật.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Trên đây gồm mười hàng kệ. Chương ba nói về ba chỉ thú của Tam bảo xưa, nay rất sâu xa khó hiểu. Vì Bồ-tát Ca-diếp thị hiện mê, nên bày tỏ những điều mình không hiểu, xin Phật giải thích lại. Đầu tiên, có ba hàng rưỡi. Bày tỏ rằng: “Đều mê đối với hai giáo, cho rằng hạnh quán vô ngã không được thành tựu. Có hai ý: Một hàng rưỡi đầu, chính là bày tỏ không biết tướng quy y và quán vô ngã không thành. Hai hàng kế là, nêu giáo nghiêng lệch xưa, để hỏi ngược lại rằng: “Nếu giáo hiện nay nói là phải thì vì sao giáo xưa nói ra thuyết này ư? Có năm hàng kệ. Xét theo thuyết chân thật của Phật, với công dụng giúp sức cho Phật vị lai, có hai ý: Nửa hàng kệ đầu, chính là suy tìm tướng của thuyết chân thật, e rằng Đức Phật sẽ không chỉ rõ ngay, do đây cảm thông với ý của Phật. Kế là, bốn hàng rưởi kệ, nêu ra bốn lỗi, để thỉnh cầu Đức Phật dạy cho biết tướng chân thật kia. Nói bốn sai lỗi: Một hàng đầu nói: Nếu không xét Đức Phật, thì không có lỗi quy y ở vị lai. Nửa bài kệ trên nói: Nếu không xét Đức Phật thì Phật vị lai sẽ không thành, làm sao có Tam bảo để trở về ư? Đã không có Phật vị lai để quy y, tức nửa hàng kệ dưới kết: “Không có Phật vị lai v.v… làm cảnh để tâm trở về, để làm thứ lớp nương tựa. Nếu không có nương tựa mà nói là có thì không hợp lý. Kế là ba hàng rưỡi kệ, chỉ rõ sai lầm kia một cách rộng rãi. Đoạn thứ ba, có một hàng rưỡi kệ, thỉnh Phật giảng nói. Nửa hàng kệ đầu là trực tiếp thỉnh. Một hàng kế, là khen ngợi đức thỉnh”. “Ca-diếp! Ông nên biết Nay ta sẽ vì ông Khéo “Mở” tạng sâu mầu Giúp ông dứt được nghi.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đoạn ba. Trước, là giải thích nghi về “Có”, “Không”. Kế là, giải thích nghi về chân, ngụy. Phật tánh bị phiền não che đậy, gọi là Tàng, vì dứt trừ “Hoặc”, sẽ thấy ngay, nên gọi là “Mở”.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây có bốn hàng rưỡi kệ, là đoạn sáu, Đức Phật lặp lại tướng thắng lợi của quy y vị lai. Hai bài kệ đầu, thừa nhận thuyềt mà khen ngợi. Kế là co hai bài kệ chính là giải thích quy chân, nửa bài kệ sau là. Kết thắng lợi về quy chân hiện nay.” “Nay phải dốc lòng nghe Ông đối các Bồ-tát Đều đồng một danh hiệu Với Đức Phật thứ bảy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Thích-ca là vị Phật thứ bảy. Nghóa là pháp thân vị lai của ông đồng danh hiệu với ta, chỉ thời gian có khác, nên đặt ra danh hiệu như vậy mà thôi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Là vị Phật thứ bảy trong kiếp Hiền, chẳng những tên đồng mà mười hiệu cũng đồng. Nếu vậy thì quả vị lai vẫn bình yên, tức là dứt nghi ngờ.” Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Kinh Bổn khởi chú chép: “Thích-ca là Năng, Văn là Nhu, nghóa là Năng Nhu. Mỹ từ Ca-diếp này có công mở rộng chánh pháp.” “Người quy y Đức Phật Thật gọi Ưu-bà-tắc Không còn quy y nữa Với các thiên thần khác. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích nghóa quy Phật.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây giải thích nghi về chân ngụy. Nói xưa là để ông trở về với Tam bảo của thể riêng, thay vì trở về với tà, chẳng lẽ là thật ư? Không hề quy y với thiên thần, vì ngoại đạo sát sinh, thờ cúng thần với tâm nguyện khẩn cầu. Khuyên bảo quy y với thân trượng sáu thay vì mê mờ cúng thờ thần. Mượn việc gần để dẫn dắt người ngu, chứ chẳng phải cho là rất cùng cực. Quy y với nhất thể Tam bảo của thân vị lai, của ngã. Về sự không có trái lầm, đâu sợ lo nghó quy y với thiên thần ư?” “Người quy y chánh pháp Thì dứt sự giết hại.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chín mươi lăm thứ ngoại đạo, phần nhiều làm việc giết hại. Nay, Phật dạy y theo mười hai bộ kinh, dời đổi tâm trí của họ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu hậu tâm Kim cương, thể đều là pháp, thì không cần y theo mười hai bộ kinh này.” “Người quy y Thánh tăng Không cầu các ngoại đạo Quy Tam bảo như vậy Thì được Vô sở úy.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đảm nhiệm sự hiểu biết thích đáng để chỉ bày điều lành cho người, vì thay thế ba tà này, nên nói ba quy, không phải lý tích cực.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trở về với Tăng vô vi của quả Phật, tức là không sợ có lỗi quy y ngoại đạo.” Pháp sư Trí Tú nói: “Bốn hàng rưỡi kệ, là đáp lại lời thỉnh cầu, có ba ý: Một hàng kệ là Phật hứa nói. Một hàng kệ là chỉ rõ thuyết nay, là Bồ-tát Ca-diếp tốt đẹp… đối với Đức Thích-ca. Hai bài kệ rưỡi, là chỉ bày rõ tìm ý của giáo. Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Tôi cũng quy Tam bảo Đó gọi là đường chánh Cảnh giới của Chư Phật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp là bậc Thượng thủ dẫn dắt đại chúng, nhận hiểu, tự quy y Tam bảo vị lai. Vị lai chưa biểu hiện lúc hiện tại hình thành thì công đức cũng ngang bằng, nên nói “cũng”. Con đường chánh nghóa là ba quy y, ba quy y là con đường chánh đại hướng về Đức Phật.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng những quy y nhất thể Tam bảo thường trú của giáo nay, mà cũng quy y Tam bảo của thể riêng giáo xưa.” Dưới đây là bốn hàng kệ còn lại là đoạn thứ bảy, là nhận được thắng giải.” Pháp sư Trí Tú nói: “Bồ-tát Ca-diếp tự nói như lý Song quy: Một hàng kệ đầu, như “Quyền” mà quy. Ba hàng kế là, trở về với thuyết nay. Một hàng kệ đầu, phát ra giáo ngày nay nên nương vào pháp thể. Hai hàng kệ kế là, dùng một hàng để khen ngợi pháp này, một hàng kệ là kết tâm quy kia.” Tướng bình đẳng Tam bảo Thường có tánh đại trí Tánh “Ngã” và Phật tánh Không hai, không sai khác.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích ở trên cũng là nghóa quy y.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu nhất thể Tam bảo của nay. Quả viên ở đương lai, có đủ ba nghóa không có hơn kém, cho nên bình đẳng. Tánh của đại trí khác với đơn diệt. Không có hai, là nhận lấy chỉ thú một cách sâu sắc.” “Là đạo mà Phật khen: Chánh tiến, chỗ an tịnh Cũng gọi chánh biến kiến Nên được Phật ngợi khen.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích con đường chánh nói trên.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu tự thể riêng của Tam bảo, nói “Ngã” cũng không trái, gọi là chánh biến kiến. Nói thân trượng sáu cũng là mười hiệu chân thật.” “Tôi cũng đến Thiện Thệ Đã khen đạo vô thượng Là cam lộ hơn hết Các cõi không hề có.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tự thuyết là chân quy”. “Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Thì nên phân biệt có ba quy y.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói quy y nhất thể Tam bảo vị lai. Giải thích rộng về ba quy đã nói trên. Trước chẳng phải thuyết xưa. Thể khác của giáo xưa, nương tựa người, vì các Thanh văn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nay, Đức Phật quở Bồ-tát Ca-diếp, chính là ngầm bác bỏ phàm phu.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là đoạn tám, Phật lại khuyên Bồ-tát Ca-diếp thực hành, Bồ-tát đã nhận hiểu trước Phật. Nay lại vì khích lệ chúng đương thời, nên kế là có đoạn văn này. Không nên như Thanh văn: Bị quở trong đoạn năm ở trước: Nay, ta không đoán biết trước, mà phải thực hành theo thứ lớp. Nếu vì hóa sinh thì có thể nói Tam bảo khác nhau, nếu không thì chỉ một thể mà thôi.” “Này người thiện nam! Bồ-tát nên nghó rằng:” cho đến “Đồng vì chúng sinh làm chỗ quy y” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nên lập thệ rằng”: Làm chỗ nương tựa cho người.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích, khuyên quy y nhất thể Tam bảo của tự thân ở vị lai.” “Nếu muốn tôn nặng xá-lợi của Pháp thân” cho đến “Khởi tưởng tháp, miếu mà lễ bái cúng dường.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Phật dùng trí tuệ làm tôn quý. Sắc thân là chỗ nương của trí tuệ, cho nên được cao quý. Tháp miếu không khác với sắc thân.” “Như vậy chúng sinh đó lấy pháp thân của ta” cho đến “Vì những người trí mà làm Phật sự.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đối với người mù bẩm sinh, là nói phải nương tựa.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã có tuệ nhãn, nên giác ngộ cho người chưa hiểu, mở mắt cho người mù.” “Này người thiện nam! Ví như có người sắp ra trận chiến đấu” cho đến “Như vua, con vua, các quan cũng như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì Bồ tát muốn phá sinh tử, nên dụ làm y chỉ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là Đức Phật đáp câu hỏi ở trước: “Thế nào là được tự tại? Thế nào là không tự tại?” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Ông phải quyết đoán mạnh mẽ bén như con dao.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tức Niết-bàn, nghóa là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là một. Người tự giác ngộ là Phật, là trên hết. Pháp sở ngộ pháp là kế đó. Pháp sư là Tăng, tăng ở dưới, như bậc thang kia. Vì hóa độ chúng sinh nên có sự khác nhau đó.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là đáp lời hỏi: “Nay, tôi không biết trước rằng, sẽ thực hành quy y theo thứ lớp.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn” cho đến “Tám mươi vẻ đẹp cũng không thể suy nghó bàn luận.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đoạn chín, khuyến khích chúng đương thời, dựa vào mình mà vận dụng tâm.”  Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 20 <詞>Phẩm 12: NHƯ LAI TÁNH, (Phần 3) Nói rộng nghóa Trung đạo: Giải thích Trung đạo hữu vô. Giải thích Trung đạo thật tướng. Giải thích Trung đạo nối tiếp. Giải thích nghóa Phật tánh nương giữ, xây dựng. Giải thích Ngà voi có lưới võng lúc sấm sét. Ví dụ chữa mắt cho Một Trăm Người Mù. Người nghèo gặp Vương Tử, ví dụ về con dao sạch nhiệm mầu. “Lúc bấy giờ Đức Phật khen Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Ông đã thành tựu trí tuệ sâu sắc.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đoạn Mười, nói việc Đức Phật lại ấn khả, khen ngợi.” “Nay ta sẽ lại vì ông nói về nhập Như lai tạng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã biết chỗ quy y rồi, thì phải tu tập hướng đến. Dưới đây, sẽ nói rộng về được và mất, nhằm chỉ rõ hạnh Trung đạo.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là đoạn lớn thứ tư. Trước kia đã triển khai về nghiệp lành, giải thích giáo xưa, không nói hàm thức có tánh, tức là vì nghiệp lành trái ngược nên không thành. Nay, y theo Viên giáo đều có chân tánh. Đây là chánh giải, tức là nghiệp lành. Vì lý sâu sắc khó hiểu, nhiều lần sinh ra chê bai. Khuyên chúng sinh tin hiểu, phải phải nhận thức về tướng trạng của quả đương lai, dù lại tiêu biểu tâm khế hợp cao xa, nhưng nếu không phải thực hành, thì sẽ không bước lên thềm bậc được. Cho nên phải tu hạnh quán Trung đạo. Dưới đây nói về Trung đạo, có chia ra mười việc: Có hai câu, trước quyết định nhân quả, tức là lược chỉ thể tướng Trung đạo. Nói trái với lý là điên đảo. Nói đúng như lý là giải. Nói Đức Như lai phát hiện biết giáo nghiêng lệch kia, có khả năng khéo trị liệu. Lại nêu lý để xem xét đối tượng chấp đó. Tìm nguồn gốc khởi “Hoặc” của chúng sinh kia. Vì đối với giáo nghiêng lệch mà Đức Như lai đã nói sinh ra nhiều chấp trước sai lầm! Chẳng phải chỉ trực tiếp phát sinh điên đảo vô thường trong giáo nghiêng lệch, mà còn mê lời nói nhân, quả của giáo ngày xưa, nghó là hai pháp. Trích dẫn Trung đạo nối nhau trong phẩm “Đăng chủ” kinh Bát-nhã. Ví dụ gởi sữa, phó mát, nhằm hiển rõ lý Trung đạo. Khen ngợi giáo, nói lên sự tiềm ẩn sâu sắc của kinh này, bắt đầu là lý cùng cực.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là phần ba trong đoạn lớn, nói về ba thứ Trung đạo, chính là nói về tạo ra nghóa của nghiệp lành: Nói về Trung đạo lìa đoạn thường hữu, vô. Nói về Trung đạo thật tướng. Nói về Trung đạo nối nhau. Trung đạo lìa hữu vô, gồm có năm chương: Nói về mất. Nói về được. Đều là được, mất làm thí dụ. Làm ví dụ với Đức Phật. Khuyên thực hành. Trong phần nói về mất: Mở ra hai câu, nói rộng về ý của người bị đánh mất trong thiên hạ. Từ câu: “Nếu nói các pháp đều vô Ngã” trở xuống, nêu cả sáu hạnh, chính là nói về mất. Hai câu đầu: “Nếu chấp thân có thần ngã, tức là thường kiến”. Là nói người như thế, không bao giờ lìa khổ! Lại có người nói: “Đức Phật cũng đồng với Ngã của Thần ngã, đây là câu thứ nhất. Không có ngã, nghóa là nếu cho rằng thân này, thậm chí còn hơn Đức Phật, đều là đoạn diệt, đều là pháp không thì cho dù có thực hành tịnh hạnh đi chăng nữa, cũng đâu có được gì?” Pháp sư Trí Tú nói: “Nói về Trung đạo không đoạn, không thường có năm ý: Từ bắt đầu, cho đến “Không có lợi ích”, chính là nói về lý Trung đạo thường trú quyết định. Dù “Có” mà không ở trong nhân, nhưng quả thì chẳng phải hoàn toàn không có. “Cuối cùng phải nhân đoạn, thường”, nói trái với thuyết đã nói trên, tức là sẽ trở thành hai kiến, cho là mất. Đến “Xa lìa hai bên, mà nói là pháp chân thật”, nói về an tâm trong lý, tu được Trung đạo. Đến “Phật tánh thanh tịnh, thường trụ, không thay đổi”, giải thích hai chương thứ hai và thứ ba ở trên, nói về lý do có ý “Hoặc”, “Giải”. Đến “Dù có đến đi nhưng vẫn thường trụ không thay đổi”, là khuyên răn người học.” “Nếu Ngã trụ, tức là pháp thường” cho đến “Tu hành hạnh thanh tịnh đều không có lợi ích.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước nói lý không thể nghiêng lệch, là vì muốn chứng tỏ rằng, cái mất mát của sự nghiêng lệch là không có lợi ích, nghóa là nếu tất cả là vô ngã, thì tu hành đạo nghiệp sẽ không có kết quả, chính là nói về lỗi nghiêng lệch.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Không lìa khổ, nghóa là nếu Ngã ở ấm thì cùng với ấm là một. Nếu “Ngã” là thường, thì khổ lẽ ra cũng là thường? Nếu khổ là thường, thì việc không nên lìa, mà nay, khổ chắc chắn có thể lìa. Do đó biết được quả Thường không ở trong thân. Sáu Quyển chép: “Dù cho có “Ngã” thì cuối cùng không trải qua khổ, mà vì phải trải qua khổ, nên biết không có “Ngã”. Không có lợi ích, là nếu đến kỳ hạn cuối cùng, thân người bị tiêu diệt, thì hóa ra hoài công tu tịnh hạnh! Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu chấp thân này có thần Ngã, thì đó là thường Kiến. Người này rốt cuộc không lìa khổ, cũng giống nói Đức Phật đồng có cái ngã của thần ngã. Không có lợi ích, là nếu nói thân này gồm cả Phật đều là đoạn diệt, đều là pháp “không” thì tu tịnh hạnh luống uổng, nào có ích lợi gì?” “Nếu nói các pháp đều không có Ngã” cho đến “Cũng giống như vậy, phải là do đoạn, thường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là nói lỗi của người chấp nghiêng lệch, như con sâu đo, không bao giờ lìa đoạn, thường.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai, là nói trái lý chấp tướng, khởi chấp đoạn, thường. Trong sinh tử, dù vô ngã, mà lý tánh không mất, thần minh do đó mà không dứt mất, nếu chấp tất cả đều diệt thì trên, trái với viên cùng cực, dưới mâu thuẫn với tánh nhân, đó là chấp đoạn. Nếu cho rằng có “Ngã” chân thật trụ trong sinh tử, thường mà không dứt mất, tức là chấp Thường. Nói “Tất cả hành pháp vô thường, nghóa là ở trên nói về “Ngã đảo”, ở đây nói về “Thường đảo”. Dưới đây nói về sáu câu khổ, vui đối nhau. Tu tất cả pháp thường, sẽ rơi vào thường kiến. Rơi vào thường kiến, là muốn nói về phàm phu buông bỏ, nắm lấy không nhất định: Có lúc chấp đoạn, có khi lại chấp thường, giống như con sâu đo.” “Do nghóa này, nên người tu các pháp khổ” cho đến “Xa lìa hai bên mà nói pháp chân thật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Lỗi chấp nghiêng lệch trên đây có phân biệt tướng khác. Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là ý thứ ba, vì nói như lý, cho nên hiểu rõ. Sở dó nói “Khác” là vì nếu trước kia đã nói quả Phật thì sinh tử khác chưa nói, hay trước đã nói sinh tử thì cũng giống như vậy.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong năm phần này, phần hai nói về được. Sinh tử khác với Niết-bàn. Niết-bàn cũng khác với sinh tử. Vì được làm điều lành. Nên người phàm phu qua đó không có hoài nghi, như người bệnh suy dinh dưỡng ốm yếu, ăn uống đầy đủ thì sức khỏe trở nên nhẹ nhàng, vui sướng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phàm phu đối với việc đó, còn không có chút gì nghi ngờ trong khi làm việc đạo, để được dễ dàng tiến lên quả vị Phật, huống chi là bậc Thánh ư? Đây là giải thích về nghóa “Vào” nói trên”. Kính Di ghi lời cảu Tăng Tông rằng: “Nghi là bến của sự am hiểu, đã có sự điên đảo nặng nề ở lòng mình, thì đâu chấp nhận sự hiểu biết nghi ngờ? Sức khỏe nhẹ nhàng vui sướng, nghóa là người gầy yếu không chịu dùng nhiều bơ, vì cử động vội vã, không ngừng, đoạn thường không nhất định, nắm lấy buông bỏ, dễ đổi thay”. Tuệ Lãng thuật lời của Pháp sư Tăng Tông rằng: “Người phàm nghe Phật nói xong liền được, không có nghi ngờ, như người bệnh gầy yếu, uống ăn sữa, bơ, sức khoẻ sẽ được nhẹ nhàng, vui sướng, mà ít cử động”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Không có nghi ngờ, là kết thúc ý trên. Từ câu: “Như người uống thuốc bổ v.v… trở xuống là ý thứ ba, nêu chung được, mất làm thí dụ. Về ví dụ uống thuốc bổ này, là nói về cái có của được, mất. Nghóa là người trí được lý, thì sẽ có lợi ích, như người bệnh uống thuốc bổ sẽ được dồi dào sức khoẻ. Dưới đây sẽ dùng bốn đại để dụ cho mất mát”. “Thể tánh của các pháp hữu vô, không nhất định. Ví như tánh của bốn đại không đồng, đều tự trái nhau”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không nhất định, nghóa là không nghiêng lệch. Vì Niết-bàn là thật, nên gọi là Diệu hữu. Vì sinh tử giả dối, hư ảo, nên nói là vô. Nhân, quả nối nhau, trong một thể mà có hai tướng. Không nhất định, đây là nói về lý pháp không nghiêng lệch”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người bị mất làm thí dụ, vì sẽ làm thí dụ, nên trước là, nêu người mất, nghóa là chấp đoạn, thường. Chấp đoạn là vô, chấp thường là hữu. Đã là chấp ngang trái, cho nên không nhất định. Dưới đây, dẫn ra bốn đại, tánh chất của chúng đều khác để so sánh. Như chấp thường.” “Thầy thuốc đã khéo biết tùy phát hiện tính chất nghiêng lệch của bốn đại kia” cho đến “Phật tánh thanh tịnh, thường trụ không thay đổi”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phiền não của chúng sinh phát nghiêng lệch, Như lai cũng có giáo nghiêng lệch để dứt trừ “Hoặc” nghiêng lệch của chúng sinh đó, sao cho hợp với Trung đạo. Hoặc nghe nói nghiêng lệch rồi cho rằng Phật tánh thay đổi”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là ý thứ tư. Thầy thuốc là Đức Phật. Nếu là người bịnh thường thì sẽ nói giáo nghiêng lệch cho họ nghe. Nếu là người bệnh “Đoạn” thì sẽ nói viên giáo cho họ nghe. Cho đến ba độc khác nhau, cũng nói ba thứ thuốc để chữa trị ba độc đó”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn thứ tư làm ví dụ với Đức Phật, như người thầy thuốc kia đã khéo biết nguồn gốc bệnh cho nên, ứng với bệnh, thì bệnh sẽ hết.” “Nếu nói là “Có” thì lẽ ra người trí không nên nhiễm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đoạn văn sau có dẫn chứng. Nếu chắc chắn “Có” Phật tánh, thì đó gọi là đắm nhiễm. Nếu chắc chắn “Không có” Phật tánh, thì gọi là nói dối.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn năm lại nêu lý, để xem xét “Hoặc” là tội. Nói sinh tử có “Ngã”, là nhà chấp ngã, vì sao gọi là nhiễm ư? Mà nói là người nhiễm, thì phải biết là bất chính, nhận lầm không hợp lý.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn năm, khuyên bảo người tu hành hãy lìa chấp mắc, rằng Tam bảo nhất thể của thân vị lai, nên nói là như pháp của chất tượng, chấp mắc mà lấy.” “Nếu nói là vô thì tức là nói dối.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu trong quả tròn đầy, thì sẽ không có “Ngã” tự tại, nghóa là bậc Thánh vì sao im lặng? Ông lại nói năng ư?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu nói là vị lai thì hai đầu, ba đầu đều không có, tức là nói dối!” “Nếu nói là “Có” thì không nên im lặng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không nên có bậc Thánh im lặng. Lo nghó đến lợi ích vì các pháp “Không” nên gọi bậc Thánh im lặng. Ở đây không có câu đối.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu sinh tử có ngã và lúc xem xét câu hỏi, thì vì sao im lặng ư?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Không nên như đối tượng mà người của đạo Độc tử đã chấp. Như các câu này nhằm khuyên bảo, khích lệ người tu hành phải sưu tầm lý để lãnh hội Trung đạo. Cũng giống không nên hý luận tranh cãi” cho đến “Không hiểu tạng sâu kín của Như lai.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói không có sự nghiêng lệch trong lý, chấp nghiêng lệch là cạnh tranh, không nghiêng lệch thì hiểu rõ chân.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Một ngang bằng với bốn chấp đều co lỗi, lỗi “Tức” sắc, như phái tăng-già, lỗi “Lìa” sắc, như Vệ thế sư. Chấp nhất thần ngã không phải một, không phải khác, như người của đạo Độc tử. Ngoại đạo đoạn kiến chấp tất cả là không. Lại, trái với trước, đều là tranh tụng. Chỉ cầu biết rõ, tức là đối tượng chấp bất chính, chỉ phải cầu lý thật tướng, đâu thể khinh thường mà sinh chấp ư? “Nếu nói về khổ, thì người ngu bèn nói rằng” cho đến “Thân ta có hạt giống Phật tánh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói về được mất, nay lại khuyên. Nói về tánh của chánh nhân là thường, thường tức là lạc.” Kính Di ghi lại lời Tăng Tông rằng: “Dưới đây là đoạn tám, lý do mê giáo nghiêng lệch mà khởi “Hoặc”. Trong đây có ba lượt nói về con người mê lầm giáo: Mê lầm giáo nghiêng lệch. Mê lầm viên giáo. Mê lấm cả giáo nghiêng lệch và viên giáo. Nếu nói về khổ thi người ngu cho là vô thường, đây là mê lầm “Hoặc” thứ nhất. Trên giáo nghiêng lệch chỉ nói khởi “Hoặc”, chứ chưa nói rõ về bắt đầu khởi “Hoặc”. Nay nghóa về nguồn gốc khởi “Hoặc”. Nếu nói về thứ lớp, thì nên trước, mê hoặc trên viên giáo, thường nói nghóa này. Biết chấp tà là sai. Nay bắt đầu mê lầm giáo thiên. Đối với tất cả đều khổ, lại không thể nhận biết thân có tánh lạc. Câu trên nói quá lời rằng: Đức Phật cũng vô thường. Lời nói này chưa phải đều không có Phật tánh. Nếu bốn câu như: Vô thường, Vô ngã, không, tịch đều là hữu vi, giải thoát là vô vi. “Vô ngã” là “Chúng sinh không”. Không, tịch là “Pháp không”. Thân ta có hạt giống Phật tánh: Chúng sinh là chánh nhân, làm hạt giống. “Nếu nói vô ngã thì người phàm sẽ cho là” cho đến “Dù có qua lại, nhưng vẫn thường trú không thay đổi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân quả hữu vi khởi từ điên đảo, giả danh không thật. Như huyễn hóa, nghóa là thấy từ duyên.” Kính Di ghi lời Tăng Tông rằng: “Như kinh Tịnh Danh chép: “Ca- chiên-diên về sau sẽ rộng nói nghóa đó, chứ chẳng phải trực tiếp thông đạt Phật địa không có khổ, cũng giống chẳng biết được “Bất sinh” của khổ”. Cho nên, bị Tịnh Danh quở trách. Đầu tiên nói khổ, kế nói vô thường, kế là nói vô ngã, rồi nói “Không”, chẳng nói bất tịnh.” Pháp Liên ghi lời Tăng Tông rằng: “Như huyễn hóa, nghóa là kinh Đại Phẩm chép: “Dù cho có một pháp nào hơn Niết-bàn, ta cũng nói pháp đó như huyễn, như mộng.” Lời nói này đều không, như tám muôn kiếp đoạn, là Sư tử trong loài người. Dù có đến đi, nhưng vì nói tướng che lấp, nên nói là Phật cũng diệt, mà sự thật thì pháp thân vẫn chân thường bất diệt.” “Nếu nói vô minh làm nhân “Duyên” các “Hành”” cho đến “Tánh không hai, tức là thật tánh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên, vì không phân biệt là lỗi. Ở đây lấy tướng nhân quả nhất định, vì chấp mắc hữu vi, nên là lỗi. Dưới đây, lấy khổ, vô thường, vô ngã để chứng minh rõ ràng sự sai lầm chấp mắc vô vi. Tánh của “Ngã” đối với “Vô ngã” không hai, đây là nói Trung đạo Đệ nhất nghóa, lìa hai bên hữu, vô.” Kính Di ghi lời của Tăng Tông rằng: “Đây là đoạn tám, có nghe Sư nói: “Nhưng ở đây gọi là mê Viên giáo mà khởi “Hoặc”. Y theo đoạn văn mà xét, thì không có gì chứng tỏ có khác, mà tùy ở người giải thích mà thôi. Chỉ vì ở trên đã nói về Trung đạo hữu, vô, nhưng cũng là việc phải nói rõ về Trung đạo nối nhau, vì thế của nghóa đó quan hệ nhau. Ba câu trước y theo pháp hữu lậu để nói về hai pháp đen, trắng, nhân, quả, bèn cho là cách nhau như trời với vực, nghó là sanh hai pháp. Người thấu rõ sâu sắc về lý do khác nhau của thể nhân, quả, nên không nói là một. Vì tương quan nhân quả, nên không thể nói khác. Pháp Liên ghi lời Tăng Tông rằng: Đây là lượt thứ hai, mê viên giáo. Nghe nói pháp thân là Thường, Học địa vô thường, phàm phu chấp rằng: “Phật và chúng sinh có minh và vô minh khác nhau, hữu vi, vô vi đều không liên quan nhau. Giáo thiên cũng nói về mười hai nhân duyên, vì sao khác nhau? Vì mượn dùng làm thí dụ. Đối với minh, vô minh, còn không hiểu rõ, huống chi khéo thông suốt lý mầu nhiệm của viên giáo ư? Vô minh là nhân, còn minh là quả, dưới đây, các câu hữu vi, vô vi… đều như vậy.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ hai dưới đây nói về Trung đạo thật tướng. Nếu nói thẳng giáo xưa thì chấp riêng sinh tử, “Không”, “Hữu” là thật. Nếu nói theo kinh nay thì biết được, thể nhiệm mầu của thần minh Chân như là thật. Biết tâm Kim cương trở lên là khổ, không, vô thường và quả Phật là thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu hiểu như thế thì đối với hai bên đều được thật nghóa, thành hạnh Trung đạo. Vì sao? Vì thể của sinh tử là không, cũng trên đây không hai, không khác. Thể Niết-bàn như như, cũng xưa nay vô tướng, đây là thể, nhận thức lý thật tướng của các pháp. Tuy nhiên, trong đây đã nói, chỉ một con đường này. Việc đã từng trải dưới đây dù nhiều, nhưng nghóa thật tướng kia phải không còn khác nhau nữa. Nói về người chấp tướng, cho rằng, pháp nhân duyên có tánh nhất định, vô minh cũng có tánh nhất định, hai vật thể đều không quan hệ nhau. Cho nên Đức Phật nói: “Lý thật tướng kia, đều không thật có.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây sẽ nói về pháp nối nhau. Trên đã giải thích về Trung đạo của một đoạn không khác. Có hai ý: Nói về thuyết không hai, tức là Thật tánh, chính là làm rõ không “Khác”, không phải “Một”, một giả gọi là nghóa. Từ “Ngã” và “Vô ngã”, tánh không hai” cho đến “Không có hai tướng”, là ý thứ hai. Vì tướng lý sâu xa, e người nghe không hiểu ngay, nên mới dẫn chứng đã được Chư Phật ngợi khen và kinh Đại phẩm cũng có nói: “Ta cũng có nói lý giả một”, dùng để chứng minh cho thuyết nay, nói về lý đó rất thật, chẳng thể không tin.” “Nếu nói nên tu tất cả pháp khổ” cho đến “Tánh không hai, tức là thật tánh.” Xét: Kính Di ghi lời Tăng Tông: Xét lời nói này tương tự như mê viên giáo mà khởi “Hoặc”. Nói Kim cương trở lên, tất cả pháp lạc, nghe lời nói này, cho là thiên nhiên khác lạ. Đây là mê trì trệ một bên của nghóa giả dối nối nhau. Nếu không y theo cách giải thích này, mà lại căn cứ vào giáo thiên khởi “Hoặc”, thì chính là nói giáo nghiêng lệch nói tất cả khổ, rồi cho rằng Bí tạng cũng khổ. Khi nghe lời nói này, phàm phu sinh ra chấp đoạn tức là niệm niệm sinh diệt, trước diệt, sau khởi, đều không quan hệ nhau, liền trái với chỉ thú không khác của nối nhau. Pháp Liên ghi lời Tăng Tông rằng: Lượt thứ ba, giải thích tình người có nghi rằng, hai người mê lầm hai giáo, chính là kết với một người. Tất cả pháp là giáo nghiêng lệch. Phàm chu cho là hai, là viên giáo, lẽ ra cũng như trước, có đủ năm câu, chỉ nói khổ, vô ngã, dựa vào quán vô ngã, được cả “Pháp không”, Niết-bàn cũng “Không”, gồm cả cũng tận. “Ngã và tánh “Vô ngã” không hai cho đến “Ông phải cung kính, thọ trì như vậy.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nhân duyên không được lìa nhau, vì nhân duyên có, nên tu học được thành Phật, há lìa vô ngã mà có “Ngã” hay sao?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là chánh lý thứ tám. Như người trí đã hiểu định luật nhân quả liên quan nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Theo thời giáo xưa, thì không nói “Ngã”, “Vô ngã”. Nếu theo giáo nay thì không cần nói.” “Ngã” là nói theo quả Phật, “Vô ngã” là nói theo sinh tử, trong phần nói về thật tướng thì không có khác.” “Này người thiện nam! Ông cũng phải ghi nhớ, giữ gìn vững chắc kinh điển này” cho đến “nói “Ngã” và “Vô ngã” không có hai tướng.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Kinh ấy đã nói về nghóa không hai, cũng như thuyết nay.” Kính Di ghi lời Tăng Tông rằng: Đây là đoạn tám, dẫn Trung đạo mà giáo “Không” xưa đã nói để làm chứng. Trong phẩm Đăng Chủ kia có nói, ngọn lửa trước, ngọn lửa sau đều không thể cháy xém. Sự cháy xém cũng không lìa ngọn lửa trước, sau.” Giáo xưa đã nói từ lâu rồi, không phải riêng gì giáo nay mới nói, lại nêu ra tình ý sai lầm, chẳng phải là điều mà kinh không giải thích.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là lớp thứ ba, nói về làm nghiệp lành. Y theo người tu hành mà giải thích về Trung đạo nối nhau. “Ngã” “Vô ngã” ở đây không khác với cách giải thích trên, nhưng đối tượng mà ở trên đã nói là y theo “Không”, chẳng có bên “Khác”. Nay, ở trong đây bàn về bên nối nhau kia. Chuyển biến lời nói của một người tu hành nối nhau này, nên nói là “Ngã”, “Vô ngã”. Cho nên dẫn kinh Niết-bàn để làm chứng cho nghóa nối nhau, là vì như nhân trở thành nghóa giả. Nếu nói thẳng là “Một” thì không gọi là nhân thành. Nếu nói “Đều khác” thì cũng không gọi là nhân thành. Nhân thành, nghóa là có chủ thể thành (năng thành) và đối tượng thành (sở thành). Năng thành là chung. Sự nối nhau nay cũng như thế, thẳng “Một” cũng không nối nhau. Nếu nói thẳng là “Khác” thì cũng không nối nhau, phải là pháp trước lui đi, pháp sau khởi lên, để bù đắp lại chỗ từng có này. Vì giả gọi lời nói Trung đạo nối nhau. Từ nhân đến quả, giống như sự nối nhau của năm vị.” Pháp Liên ghi lời ngài Tăng Tông nói: Đây là đoạn chín, dẫn kinh làm chứng. Nhưng kinh Đại phẩm thì không nói về nghóa “Ngã”, “Vô ngã” mà nói không phải do sơ tâm mà được, không phải lìa sơ tâm mà được thành nghóa không hai.” “Như do sữa sinh lạc, do lạc được bơ sống” cho đến “Do bơ chín mà được đề hồ.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nêu việc gần, để dụ cho lý xa.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba thứ Trung đạo lấy nhân duyên làm gốc, chỉ chứng minh cái khác của nhân duyên, nghóa là tự nói trước giải thích chánh nhân, như Pháp sữa, lạc… sau, phá chấp ngang, trái thành nghóa nhân sinh.” Kính Di ghi lời của Tăng Tông nói: “Dưới đây là đoạn chín, mượn ví dụ để làm rõ chỉ thú “Một”, “Khác” của Trung đạo. Trước là nêu ba quan điểm: Trong đây không thừa nhận “Từ tự tha sinh ra”, mà cho là “Từ sữa sinh”. Lời nói này chưa rõ. Dưới đây, nhân Bồ-tát Ca-diếp nêu câu hỏi về nghóa hữu, vô, mới được sáng tỏ. Pháp Liên ghi lời của Tăng Tông rằng: “Đoạn mười là mượn sữa, làm thí dụ, cũng chứng thành chỉ thú không hai thứ tám, mà nhân quả liên quan nhau. Nhân sữa sinh lạc (sữa đông đặc), nghóa là từ nhân đến quả, về lý không được khác nhau, bởi lý Phàm, Thánh là lý liên quan nhau.” Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ ba kế là, nói về Trung đạo nhân quả, gồm ba phen qua lại: Đức Phật tự nói. Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi. Đức Phật đáp. Dưới đây, sau cùng không có hai tướng, là ý thứ nhất. “Chất lạc là từ sữa sinh ra” cho đến “Chất đề hồ (sữa đông đặc) cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nghiệm xét trong luân lý, phải từ duyên sinh, không phải từ người khác, không phải từ mình.” Pháp sư Trí Tú nói: “Trước là mở ra ba chương môn.” “Nếu từ cái khác sinh, tức là cái khác làm ra, chứ chẳng phải từ sữa sinh ra. Nếu chẳng phải từ sữa sinh ra, thì sữa sẽ không làm ra chất lạc.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chẳng phải sữa, tức là không, há từ cái khác ư?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu nước sinh ra lạc thì sữa thành cái gì?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Tức cái khác làm, nghóa là ngoài sữa, thì muôn vật còn lại đều thích hợp với cái khác đó.” “Nếu tự sinh thì không nên giống nhau” cho đến “Chắc chắn không còn từ chỗ khác đến. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nếu có thể tự sinh thì đâu cần phải nối nhau, giống nhau?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu tự sinh thì không nên cần sữa. Nếu quyết định phải nối tiếp từ sữa mới sinh, thì chẳng thể không có nhân, tức chẳng phải tự lực. Tức là không đều cùng sinh, nghóa là vì nối nhau, nên không cùng sinh, nếu là tự sinh thì cũng có thể cùng sinh. Không từ chỗ khác đến, nghóa là hoàn toàn không cùng sinh, nên nói không phải chẳng tự sinh. Lại giống như từ chỗ khác đến, nối tiếp với cái sau kia. Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi này có ba lớp: Cho là không nên nối tiếp sữa. Cho là cùng sinh với sữa. Cho là lẽ ra từ chỗ khác đến.” “Phải biết rằng trong sữa trước đã có tướng của lạc.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Không từ chỗ khác đến, lại không có tự sinh, chỉ vì từ sữa mà ra, nên nói “Trước đã có tướng của chất lạc.” “Vì nhiều vị ngọt, nên không thể tự thay đổi, cho đến chất đề hồ cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước có tướng của lạc (váng sữa), nghóa là trước đã có vị ngọt. Không thể tự thay đổi, nghóa là chờ rượu đục, mới biến nhiều thành ít. Vị ngọt nhiều thì thành sữa, vị ngọt ít thì thành lạc, nên “Chẳng phải một”. Đồng là chất ngọt, vì tánh chất không khác, nên gọi là nghóa Trung đạo.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước đã có tướng của lạc, nghóa là nói quả trong nhân, vì có nên nói là hữu” “Con bò cái này do uống ăn nước, cỏ” cho đến “Sữa của nó sẽ khác nhau về màu sắc, mùi vị.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng nhiều việc để làm chứng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Gọi là béo ngậy: Đây là lấy người tu hành làm thí dụ. Núi Tuyết, dụ cho thân năm ấm. Cỏ dụ cho sáu hạnh lý của tánh nhân quả Niết-bàn thì sẽ hướng thẳng về quả Phật, không trải qua bốn đường.” “Các chúng sinh này vì nhân duyên của nghiệp minh, vô minh, nên sinh ra hai tướng.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì trái với minh thành vô minh, nên mê lầm tướng không hai thành hai, chẳng phải vốn là hai.” “Nếu vô minh chuyển thì biến thành minh” cho đến “Cũng giống như vậy, không có hai tướng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chúng sinh có tâm, biết khổ đáng chán, niềm vui đáng mong cầu. Vì không biết khổ, nên gọi là vô minh. Nhận thức thì danh từ vô minh sẽ được thay đổi, tức là có sự khác nhau giữa ánh sáng và bóng tối “Chẳng phải một”.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Trong sữa có lạc, nghóa đó thế nào?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trung đạo của nhân duyên là lìa “Có”, “Không”. Thuyết mà Chư Phật đã nói trên, vì có nghóa vị Trung đạo, nên có câu hỏi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trên nêu ba quan hệ, để nói tự, tha đều có lỗi. Cho rằng từ sữa sinh, về lý chưa thể thấy. Đặt ra câu hỏi chắc chắn hữu, chắc chắn vô, sao cho chỉ thú của Trung đạo được sáng tỏ.” “Bạch Đức Thế tôn! Nếu nói rằng trong sữa chắc chắn có tướng lạc,” cho đến “Vì sao trong sữa không sinh ra cỏ?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong một trăm thứ cỏ, lẽ ra cũng có sữa? Như vậy, trong sữa cũng có cỏ và cỏ là nhân, sữa là quả. Nếu cho rằng trong nhân có quả thì trong quả cũng có nhân, đây là phạm lỗi nói tới nói lui!” “Này thiện nam! Không thể nói chắc chắn trong sữa có lạc” cho đến “Cũng không thể nói từ cái khác mà sinh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì khi vị ngọt không có chua, nên “Chẳng phải có”. Vì vị ngọt là nhân của chua, nên “Chẳng phải không”. Không từ cái khác sinh, nghóa là chắc chắn do sữa sinh, chứng minh cho nghóa nhân.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đức Phật tự phân biệt, lìa hai bên mà được sinh ra lạc.” Trên đã phân biệt không tự sinh, ở đây không giải thích nữa. “Nếu nói trong sữa chắc chắn có lạc” cho đến “Trong sữa chắc chắn có tánh lạc.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Màu vàng nhạt vị chua ngọt, đã không phải một loại, nên biết khi có sữa, thì không có lạc.” “Nếu nói trong sữa chắc chắn không có lạc” cho đến “Không thể nói rằng trong sữa không có tánh lạc.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu cho rằng không có lạc của sữa, như không có sừng thỏ, thì vì sao sinh ra lạc, mà không sinh ra sừng thỏ?” “Nếu nói lạc này từ cái khác mà sinh” cho đến “Chẳng thể nói rằng lạc từ cái khác sinh.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hoàn toàn y cứ vào chắn chắn “Có”, chắc chắn vô mà thành lỗi. Nay, lại phân biệt từ cái khác sinh là lỗi. Vì nếu từ cái khác sinh, thì tại sao trong nước không sinh ra lạc?” “Này người thiện nam! Con bò cái này vì nhân duyên ăn cỏ, nên máu biến thành màu trắng.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Về lỗi của ba quan hệ, ở trên đã giải thích cụ thể. Nay sẽ nói về nghóa thích đáng, chẳng phải không cần duyên mà có nghóa thay đổi, đây là nói về nghóa của duyên giúp đỡ.” “Cỏ, huyết tiêu mất rồi, do phước lực của chúng sinh” cho đến “Lìa sữa mà có, thì không có việc đó.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cỏ, sữa dù khác, nhưng vì có nối nhau nên trở thành nghóa một vị, không được chấp rằng tự nhiên là khác.” “Này người thiện nam! Minh và vô minh cũng giống như vậy” cho đến “Trở thành chất đề hồ, Phật tánh cũng vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chúng sinh có năng lực cảm quả. Vì quả có tác dụng đáp lại tác dụng của nhân, nên có công năng chuyển bóng tối thành ánh sáng. Sữa lại có lạc không thể thành hai, chẳng lẽ chúng sinh và Phật thành hai hay sao. Đầu cuối nối tiếp nhau, giả nói là một, đúng ra có thể nói từ duyên sinh.” “Này người thiện nam! Chúng sinh phước mỏng không thấy được thứ cỏ này” cho đến “Liền thấy được Phật tánh, thành đạo vô thượng.” Xét: Pháp sư Đàm Tiên nói: “Từ dưới đây, là đáp câu hỏi: “Làm thế nào các Bồ-tát thấy được tánh khó thấy ấy?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật tánh không phải tạo tác mà có nghóa là Phật tánh của chánh nhân không phải chiêu cảm bởi thiện ác, thì làm sao có thể tạo lập, nên biết căn bản của thể thần minh có pháp tánh này làm nguồn. Nếu không có vật báu tự nhiên như thế, là gốc của thần lực, thì công dụng ấy nên thay đổi, mà dụng của Phật tánh kia vẫn thường như vậy, phải biết rằng chẳng phải mới tạo ra. Nếu thần minh hoàn toàn từ nhân duyên của nghiệp mà khởi, không lấy Phật tánh này làm thể thì nay, làm sao nói rằng trong thân độc có vua thuốc hay, cái gọi là Phật tánh, không phải pháp tạo tác?” Nên biết rằng, do y cứ vào chánh nhân mà thành lời nói. Nếu là tánh quả thì chất độc trong thân, lý tự không có. Lại không nên dùng quả sau dựa vào nhân. Nếu dùng quả sau dựa vào nhân, thì như kinh Thắng man nói: Vì dựa vào sinh tử nên có Như lai tạng, mà lại nói: “Dựa vào Như lai tạng có sinh tử, gọi là khéo nói, không tức là văn này ư? Biển cả dù mặn, cũng có thượng vị, lý vi tế có thể y cứ.” “Ví như giữa hư không, có sấm dậy, mây giăng” cho đến “Có thể đền đáp ân Phật, mới thật là đệ tử Phật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hư không dụ cho Phật. Sấm dụ cho Niết-bàn, ngà voi dụ cho chúng sinh, “Hoa” dụ cho thấy tánh. Nghóa là Phật tánh do kinh mà thấy.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đoạn kết thứ mười.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Lạ lùng thay!” cho đến “Như ông đã khen, không trái với lời ta nói.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi: “Các Bồ-tát làm thế nào thấy được tánh khó thấy, cũng là nhân sống lâu. Trên đã giải thích về điểm bắt đầu của nhân ba quy y. Một lượt hỏi đáp ở đây là cuối cùng của nhân.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Từ “Nếu ta trụ đến nay” cho đến “Phẩm Văn Tự”, là đáp câu hỏi này. Trong ba quy y trên, nói tánh ngã có Phật tánh, dường như có tánh thần ngã, đó là Phật tánh, cho nên nay nói rộng về Phật tánh chẳng phải có, chẳng phải không, lìa cả hai bên, trụ trong Trung đạo, không có tướng để chấp. Nếu chấp thì sẽ rơi vào hai bên đoạn, thường. Tánh ấy huyền diệu, Nhị thừa chẳng thể suy lường. Đại só Thập Trụ vẫn còn một giai vị Noãn, chẳng lẽ không phải khó thấy ư?” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là đáp câu hỏi, có bốn lượt: Kính khen Phật tánh, Đức Phật liền trình bày thành tựu. Nêu câu hỏi, xin Phật giải đáp. Đức Phật đáp ngay. Thỉnh cầu lập thệ, Phật liền nói cho nghe. Bồ-tát Ca-diếp đặt ra câu hỏi. Đức Phật liền đáp. Đây là kính khen ngợi thứ nhất.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Phật tánh ấy rất sâu, khó thấy, khó vào là sao?” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là thứ hai, nêu câu hỏi, xin Phật giải đáp. Phần khen, thuật đã xong, lại nêu câu hỏi.” “Phật nói: “Này người thiện nam! Như một trăm người mù” cho đến “Giơ ba ngón tay, người mù mới nói thấy lờ mờ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giáp vàng dụ cho các kinh giáo. Một ngón tay dụ cho các kinh của ba thừa. Nói ba Niết-bàn, thật ra Đức Phật muốn chỉ bày một Niết-bàn thường trụ. Vì văn ẩn nghóa sâu nên ví dụ một ngón tay. Hai ngón tay dụ cho Pháp Hoa, đả phá hai Niết-bàn. Nhất thừa dù tỏ rõ, nhưng “Ngã thường” chưa sáng, dụ cho hai ngón tay. Ba ngón, dụ cho thuyết thường, lạc của Phật tánh nay, tức như người mù thấy ở chỗ tận cùng. Tận cùng, thì cảm quả, lý rõ ràng, nói xong liền thấy. Mới bắt đầu, thì sự sâu kín, khi nói, dù có chỉ bảo cũng không hiểu rõ. Cho nên kinh nói: “Bồ-tát Thập Địa thấy sau cùng, không thấy điểm bắt đầu.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Người mù dụ cho Thập địa trở xuống, còn sinh tử. Một trăm người, là cuối của số mười. Tạo Y nghóa là khéo cảm Thánh.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi khó thấy tánh, là tánh của chánh nhân. Ở đây trong lời đáp, chính là nói về duyên nhân, nghóa là vì ngày được quả Phật, mới nói biết chánh nhân, chứ không phải chỉ có tánh quả khó biết, mà ngay tánh của nhân cũng khó biết. Văn dưới đây nói: “Thập địa biết chung cuộc, không biết bắt đầu, cho nên hỏi, ở chánh nhân, đáp dùng duyên nhân.” “Này người thiện nam! Kinh điển Đại Niết-bàn mầu nhiệm này” cho đến “Như lai đã nói, mới thấy được chút ít.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Bồ-tát Thập Trụ phải nghe kinh Niết-bàn này mới thấy được Phật tánh lờ mờ. Dưới đây nói rằng dù nghe Niết-bàn, nhưng không thể chỉ có chánh tín mà thôi.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Y cứ vào văn để tìm nghóa, đây thật là khó, làm sao bước lên từng bậc? Địa Pháp Vân còn không biết có Phật tánh, nên mới cần Phật giảng nói, mới được thấy ư? Ở đây nói là trụ trong ba mươi tâm trước. Mười tâm đầu gọi là Thập trụ, mười tâm thứ hai gọi là Thập hạnh, mười tâm thứ ba gọi là Thập hồi hướng. Dù cho Bồ-tát tu hành khổ hạnh trong vô lượng kiếp, cũng vẫn không được nghe kinh Niết-bàn này, Tín đứng đầu năm căn, cuối cùng cũng không thể lập. Khi tín căn được lập, chính là tâm thứ ba mà thôi! Như trước đã giải thích Bồ-tát Thập Trụ thì Bồ-tát Pháp Vân Địa cũng không hiểu được. Nói thấy đôi chút, nghóa là sau khi nghe Đức Phật nói, tuệ tính sáng suốt dần dần, nên nói là thấy một ít”. “Đại Bồ-tát này đã được thấy” rồi cho đến “Người Duyên giác mà thấy được ư?” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, sau cùng vẫn còn bị vô ngã luân mê hoặc. Trước kia, nói tánh nhân quả cho Bồ-tát nghe, được tiến đến lập căn, bước lên Sơ địa, lúc tiến đến hạnh Thập địa mãn, là đã lìa chướng mỏng manh. Bấy giờ mới thấy tánh lờ mờ, tám tự tại “Ngã” “Không”. Dù quán “Không” này, nhưng vẩn còn trông cậy để nhập vào tâm vô ngã. Vì tình kia chưa quyết đoán, nên nói là bị vô ngã mê hoặc, chứ chẳng phải chấp Phật địa một cách ngang trái, cho vô ngã là mê hoặc”. “Lại, này thiện nam! Ví như xa trông” cho đến “Các vị Thanh văn, Duyên giác chẳng thể thấy biết”. Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói rằng: “Gồm có chín thí dụ, vì khó thấy làm thí dụ”. “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Có tánh chúng sinh đều nói có ngã”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ý hỏi rằng: Nếu chỉ có Đức Phật là “Ngã” mà khó thấy, thì phàm phu ngăn cách như trời với vực, không nên nghó là có ngã. Tưởng “ngã” dù mê lầm, nhưng phải có lý do. Nếu có lý do, thì không phải cao xa dứt bặt, thì sao lại nói Bồ-tát Thập Trụ mới thấy lờ mờ ư? “ Pháp sư Tăng Tông nói: “Lý đã sâu mầu, thì danh cũng nên quý nặng, vì sao người đời cũng tự tạo nên danh từ thường lạc để truyền đạt cho đời ư?” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là đoạn bốn, dù nghe thuyết trên đã nói, nhưng vẫn chưa hiểu, nên cố chấp phàm phu có “Ngã” để hỏi”. “Phật nói:“Ví như hai người là bạn thân với nhau” cho đến “Hai người đó thường qua lại với nhau”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Người kia và người này giúp nhau, có nghóa bạn thân”. Pháp sư Tăng Lượng nói: Ý đáp rằng: “Nghóa là dù rằng có lý do, nhưng về lý, tự ngăn cách, như ví dụ ở dưới. Đạo Bồ-tát rất cao quý, dụ cho Vương tử. Phàm phu không có đức, dụ cho người nghèo. Qua lại với nhau: Đệ tử thọ học, thầy có công giáo hóa nghóa là người kia, người này giúp nhau.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Cảm qua thì ứng lại”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Qua lại là công hạnh rộng lớn với người được giáo hóa, là hoài bão tương đắc”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đại ý ví dụ này không khác với ví dụ trộm bò ở trước, chính là vì người bốn y xuất thế làm thí dụ”. Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây có ba thứ lớp: Nói lên Đức Phật từng vì chúng sinh, trước nói có ngã, duyên hết, bỏ giáo hóa. Về lý, trở về với nơi chốn của bậc Thánh. Dụ cho chúng sinh về sau chấp sai lầm. Dụ cho Đức Thích-ca ngày nay ra đời giáo hóa rộng khắp. Dưới đây, cùng trốn đến nước khác, là ví dụ thứ nhất. “Lúc đó, người nghhèo thấy vương tử này” cho đến “Cầm dao này trốn đến nước khác”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chân ngã đã nói có công năng dứt trừ “Hoặc” chấp đoạn của chúng sinh, dụ cho dao.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chân ngã thường trụ, nói là một. Tự tại dáng hài lòng, gọi là tốt. Giải thì dứt “Hoặc”, dụ cho dao. Kiết tập hết hẳn, nói là tịnh diệu. Tham đắm trong tâm, nghóa là chân ngã vốn lấy dứt trừ tham làm dụng, mà hễ thấy là khởi lòng tham, chứng tỏ không hiểu rõ. Người cầm dao này, nghóa là chân lý này chỉ có Bồ-tát mới nói được. Trốn đến nước khác: Sự nghiệp mở mang giáo hóa chưa hoàn tất, chưa nên bỏ mà bỏ, nghóa là trốn bỏ chỗ này, đến nơi khác, nói là “Đến nước khác”. “Về sau, người nghèo xin ngủ nhờ ở nhà người khác, khi ngủ mớ nói: “Con dao! Con dao!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Được sự hiểu biết từ thầy. Lý đã hiểu là chỗ ở an ổn, dụ cho nhà. Thầy bỏ đi, trò mất hiểu biết, dụ cho nhà người khác. Nhân gốc phải phát, tạm trú không lâu, dụ cho ngủ nhờ qua đêm. Mất hiểu biết khởi “Hoặc”, để dụ cho ngủ mê. Tâm mê mờ nói là ngã, không do hiểu biết chân thật, dụ cho nói mớ khi ngủ mê.” “Người nhà bên cạnh nghe được cho đến, bắt nộp cho vua, vua tra hỏi: “Con dao mà ngươi nói, hãy đem cho ta xem”. Xét Pháp sư Đạo Sanh nói: Nếu cho thật là thật thì trở thành trộm cắp, còn cho không thật là thật thì sau mới biết là sai, nên tìm cầu nghóa thật mà xin chỉ bày Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát đã bỏ đi, Viên giáo cũng ẩn mất. Tiểu thừa dùng vô ngã để giáo hóa. Giáo nghiêng lệch mất Trung đạo, dụ cho người bên cạnh. Trái với giáo hóa, thì mắc tội, dụ cho “Bắt”. Phải trải qua sự đoạn, dụ cho “Giao nộp cho vua. Hãy tỏ bày cho ta rõ: Sơ quả đã dứt tham. Bày tỏ ngã tướng, là đối tượng mà Sơ quả đã hiểu rõ. Nay trách cứ sự mong cầu tướng tự tại của hình, sắc.” “Người nghèo này tâu lại cho vua nghe cụ thể việc vừa xảy ra” cho đến “Người muôn có được con dao ấy, thật không thể được.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Phân tích, gạn hỏi, mong cầu, thật không thể được.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quên năm ấm hiện tại, tìm mãi không thể được.” “Quan và Vương tử vốn là bạn thân” cho đến “Con không dám sờ tay vào, huống chi là cố ý lấy.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nếu do tu được làm dụng, cho nên lấy. Vì được chẳng phải do tu, nên gọi là trộm.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích lý do quên. Mắt thấy, dụ cho văn tuệ. Sờ tay vào, dụ cho tư tuệ. Cố ý lấy dụ cho tu tuệ. Nghe nói giáo xưa, dù tin, nhưng ý không suy nghó về nghóa, huống chi khởi tu tuệ mà lấy ư? Vì cho nên quên mất kiến giải trước kia.” “Vua lại hỏi: Con dao nhà ngươi đã nhìn thấy” cho đến “Tôi thấy nó giống như sừng dê đen.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Giống mà chẳng phải, hễ nhìn thấy qua chẳng thể nói là thật.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sừng dê cong mà cho là thẳng. Mè, gạo tà ngã, mà phàm phu chấp giữ lấy nó mà sanh ngạo mạn.” “Nghe kể xong, nhà vua vui mừng bảo:” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có “Ngã” là sự thật, mà “Vô ngã” thì chẳng phải quả, là nỗi lo lắng của người Thanh văn, huống chi là “Vô ngã”, vô thật vô ngã là quả, về lý, là việc đáng vui mừng!” “Rằng, nay ta trả tự do cho ngươi, chớ quá lo sợ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngã đứng đầu các hoặc. Năm đường là nơi thich ý. Vì thế nếu không phải Ngã kiến thì thật ra không đáng phải âu lo.” “Trong kho tàng của ta đều không có con dao ấy” cho đến “Không hề thấy nó, huống chi ngươi thấy nó ở Vương tử”. Nói xong, nhà Vua băng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba tạng kinh là pháp tang của Tiểu thừa, thật là do Phật nói, đều không có “Tướng ngã” này, huống chi các Bồ-tát nghe nói về “Cái ta” này ư?” “Lập ngay thái tử khác lên kế thừa ngôi vua.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là quả thứ hai.” “Lại hỏi các quan: “Các khanh đã từng thấy” cho đến “Đều xét tìm con dao ấy mà không được.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đầu cuối đều thực thi giáo hóa vô ngã.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Kinh giáo nói hoàn toàn không có “Cái ta” mà những người kia đã chấp, huống chi ở cạnh Bồ-tát mà nghe “Ngã” bị chấp ư?” “Lần lượt nêu bốn vị Tân vương xét tìm con dao ấy đều không được”, là nói ngàn vị Thánh dù khác nhau, nhưng kinh giáo đều đồng nhau. Chúng sinh có đến muôn phẩm loại, mà chấp ngã ở đây vẫn là một. Thứ lớp bốn vị vua: Ngàn vị Thánh nối tiếp nhau là vị Phật thứ tư.” “Thời gian sau, vị Vương tử bỏ trốn ngày trước, từ xứ khác trở về nước, được phong làm Vua.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Thích-ca thành Phật” “Sau khi lên ngôi nhà vua lại hỏi các quan:” cho đến “Các khanh đều không thấy, biết hình dáng thật con dao của trẫm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lên ngôi vua nghóa là nói Vườn Nai”. Ngoại đạo chấp ngã khác với Bà-la-môn chấp thần Trắng, Sát- lợi, thần Đỏ, Thù-đà, thần Vàng, Chiên-đà-la chấp thần Đen, lúc đó Vua cười nói: Thuyết Song thọ mới thật là tướng chân thật.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước kia đã nói bốn vị Phật đều đồng. Nay, nói Phật vị lai cũng đồng như vậy, nhưng lược nêu một mà thôi!” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Mang con dao tịnh diệu trốn đến nước khác.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Hợp ví dụ thứ nhất.” “Người phàm phu mê nói rằng tất cả” cho đến “Như hỏi về hình dáng con dao?” đáp: “Trông giống như sừng dê”. Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Hợp với ví dụ thứ hai.” “Các người phàm này thứ lớp nối tiếp nhau” cho đến “Nên biết rằng, chính là tướng mạo của Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Hợp ví dụ thứ ba.” Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương <卷>QUYỂN 21 <詞>Phẩm 13: VĂN TỰ Giải thích Mười Bốn Âm. Giải thích Điểu Dụ. Nói về sáu hành thường, vô thường không lìa nhau. Giải thích ví dụ từ trên đỉnh núi thấy đất bằng phẳng. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phẩn này đáp câu hỏi: “Giải thích thế nào là nghóa Mãn tự và Bán tự? Giải thích rộng phẩm danh Tự ở trên: Ở trên nói: “Dù nghe Khế kinh, nhưng không biết được Phật tánh. Nghe kinh Niết-bàn, biết có Phật tánh. Thập địa nghe nói vẫn còn lờ mờ, Phật tánh từ đầu đến cuối đều do kinh nói. Hỏi là để được Đức Phật chỉ bày rõ về Phật tánh.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Phẩm trên nói về Phật tánh khó thấy. Bồ- tát Thập Trụ còn không hiểu rõ, chỉ có Phật mới thấy được rõ ràng, đó là lý Phật tánh đầy đủ, để so sánh với Mãn tự. Chẳng phải Phật tánh, nghóa là đều chẳng đầy đủ, để so sánh với Bán tự. Lại, so sánh với giáo vô thường là bán tự, giáo pháp thường là mãn tự. Lại, căn bản “Hoặc” là “Bán tự”. Tất cả điều lành là “Mãn tự”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trên đã nói rộng về nhân quả và lưu thông rộng. Nhưng vì dùng lý văn để hợp thành thể kinh, nên đến phẩm này thì văn rộng hơn. Hai ví dụ chim và mặt trăng là lý rộng. Lý của văn đã rõ ràng, đối với kinh không có thiếu sót!” Pháp sư Trí Tú nói: “Trong phẩm trước Bồ-tát Ca-diếp nói: “Tên gọi “Ngã thường” không nhờ phàm phu mà được. Đức Phật nêu Vương tử làm thí dụ, nhằm nói về danh từ “Ngã thường”. Là do Phật có, cho nên Ca-diếp nêu câu hỏi này. Nếu danh từ ngã thường do Phật có thì chẳng hay danh tự khác của Đức Phật lại nhờ đâu mà có? Vì thế, nên nói: “Thế nào là giải thích “Mãn tự”? Và lý do của “Bán tự” “Phật lại bảo Ca-diếp: Có bao nhiêu thứ dị luận” cho đến “Đều là Phật nói, chẳng phải ngoại đạo nói.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Do trên nói: “Ngã” mà phàm phu đã nói, vốn xuất phát từ Đức Phật. Nay lại nói về Ngã mà ngoại đạo nói, cũng đều như vậy. Cho nên văn, tư, ngữ ngôn nào hợp lý là Phật, trái với lý là phàm phu. Đối với Đức Phật, đều trở thành chân thật. Đối với người phàm, đều thành tục đế.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Sau đó, có thể biết là pháp, phi pháp.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói chẳng phải chỉ danh từ Thường đã bị ngoại đạo lén trộm, mà tất cả lời nói hữu ích của ký luận, đều xuất phát từ Đức Phật. Tương truyền rằng: “Mười bốn là chữ, còn lại là âm. Chữ kết hợp với âm, gọi là Mãn. Mười bốn chữa chưa mãn gọi là Bán, vì âm, chữ hợp lại, nên có ký luận. Ấm là hữu vi, thật pháp là vô vi. Pháp sư Trí Tú nói: “Phẩm này có bảy đoạn: Chính là đáp câu hỏi. Nêu ra mười bốn âm. Y cứ vào bốn âm để kết thành nghóa chữ. Nói về âm sở dó khác nhau, là do có mười bốn âm. Nói về tướng lên, xuống của Mãn tự, Bán tự. Nói về tướng biết, không biết. Lãnh đạo, khuyên tìm hiểu chỉ thú, Đức Phật liền nói lại. Đoạn thứ nhất này có ba lớp: Trước hết, Đức Phật nêu lên văn tự, đều do Phật nói. Bồ-tát Ca-diếp thỉnh Đức Phật giải thích căn bản. Đức Phật nói rộng về nghóa gốc của chữ. “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Tức là thân Kim cương của Như lai.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nghóa chữ kia gọi là bất tận, tức chỉ cho pháp thân. Nay, trước y cứ vào Niết-bàn làm đầu mối.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghóa ấy thế nào?” Nghóa là hỏi về thể của chữ kia, cũng hỏi về nghóa chữ. “Có mười bốn âm”, đây là đáp thể chữ. Tương truyền rằng: Người Ấn-độ vốn nói “Chữ” không nói “Âm”, do người phiên dịch lầm. “Gọi Niết-bàn”. Ở đây là đáp nghóa chữ. Phật nói ý của chữ vốn là Niết bàn, dứt khổ hữu vi, nói nghóa của chữ. Vì thường nên không tuôn chảy, là giải thích về “Âm”. Niết-bàn không bị dòng sinh diệt làm dời đổi.” Pháp sư Tăng Tông rằng: “Truyền dịch nói: “Mười bốn âm là âm gốc của thiên hạ, như giỏi sử dụng cung, thương. Trong mười bốn âm, tùy thích nghi chế ra ngữ. Cho nên là gốc của tất cả chữ. Trong đây chỉ có mười hai chữ, hai chữ còn lại, bị thất lạc không truyền.” Tương thừa rằng chính là: “Hai chữ “Tất-đàm”. Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là đoạn hai. Mười bốn âm từ âm “Ác”, “A” có mười hai, hợp lại thành sáu. Từ Ca Khư trở xuống, có hai mươi lăm âm, dùng năm âm làm một, hợp lại thì thành năm, đều là mười một âm trước. Sau có chín âm. Gia-La v.v… hợp ba thành một, lại trở thành ba, đều thành Mười bốn. Ca Khư kia và Gia La đây không đồng bởi phong tục khác nhau. Người phiên dịch có lòng tin! “Mười bốn âm này được gọi là “Chữ” gốc cho đến “Rất cao siêu nên gọi là “A”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói bốn âm mà nêu có mười hai, vì kinh Thoại Ứng chép “Sách thiếu hai chữ”, nên lấy đây làm chứng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu y cứ theo đoạn văn này mà quyết đoán thì đúng ra nên dùng Niết-bàn làm hai chữ, nhưng theo tương truyền thì không lấy, không rõ lý do vì sao?” “Ca”, nghóa là đối với các chúng sinh, khởi đại Từ bi” cho đến “Đại Niết-bàn”, nên gọi là “Ma”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ba mươi tám âm được phát ra từ mười bốn âm, chỉ y cứ ở hai mươi lăm âm trước trong ba mươi tám, âm là theo thứ lớp, tiếng xuất phát từ âm thanh gốc của lưỡi, kế đến chót lưỡi, răng, môi. Từ âm Hai mươi sáu đến âm ba mươi, đây là siêu vượt không nhất định. Dưới có tám chữ đều biểu thị cho tướng âm thanh dài, ngắn, siêu việt. “Bán” tự là gốc của “Chữ”, nghóa phát sinh ở đây. Nói về thể của trí giáo, chủ yếu là trước một nửa rồi sau mới mãn. Đây là căn bản thứ lớp trước sau. “Ca Khư”, năm chữ này là âm của cuống lưỡi, “Giá” “Xa” năm chữ này là âm ở giữa lưỡi. “Đa, Tha” năm chữ này là âm của đầu lưỡi, Đa, Tha, năm âm này là âm của lưỡi, răng. “Ba, Pha”, năm chữ này là Da, La, Hòa năm chữ này là âm thanh siêu việt. Tám chữ dưới đều là co rút vào, căng ra, khác nhau giữa ngậm, miệng và há miệng.” Pháp sư Đàm Tiên nói: “Hai mươi lăm chữ này đều xuất xứ từ mười hai chữ trước. Bỏ các chữ dưới, đều không xuất xứ từ đâu.” “Da” nghóa là các Bồ-tát ở các chỗ” cho đến “Có cha, mẹ, vợ, con, nên gọi là “La”. Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Mười bốn âm cùng ở đây, trong đây có chín chữ là ba âm.” “Bốn chữ: Lỗ, Lưu, Lô, Lâu như vậy” cho đến “Vì cho nên gọi lỗ, lưu, lô, lâu.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Các chữ từ trước đến đây, chữ “Sẽ” biểu thị cho nghóa. Nay bốn chữ này biểu thị chung bốn nghóa. Bốn nghóa gồm: Nói là đối pháp của Tam bảo. Tam bảo dùng việc lành đối lại với cái ác, như ba tội nghịch của Điều-đạt, các thứ là ác, là nhân duyên khởi sự chế giới cho điều ác ở vị lai.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là đoạn ba, kết thành nghóa chữ. “Chính” là dùng âm để nói lên chỉ thú, nên gọi âm này là “Chữ”. Chữ có mãn tự, bán tự, nếu dùng mười bốn âm, nói lên lý viên thì gọi là mãn tự, còn biểu thị lý chưa viên mãn gọi là bán tự.” “Thiệt căn hô hấp dưỡng khí theo tiếng của mũi” cho đến “Đều do lưỡi, răng mà có khác nhau.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là đoạn bốn, nói về âm vì sao có được mười bốn âm.” “Nghóa của chữ như vậy, có công năng làm cho chúng sinh” cho đến “Mà không đồng với ấm, giới nhập.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thân, miệng là nhân của văn tự, văn tự là nhân của khẩu nghiệp, tất cả đều do pháp tác động. Phật tánh của chúng sinh thì không như vậy, mà là do văn tự nói về tánh, chúng sinh mới được biết. Có người cho rằng Phật tánh cũng do văn tự mà được thanh tịnh. Nay nói người không hiểu rõ vì từ duyên sinh, nên thuộc về tác pháp. Phật tánh từ duyên mà thấy, chứ chẳng phải do tác pháp, không đồng với ấm, giới, nhập, là không thể hư hoại.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật tánh dù ở trong ấm, giới, nhập, mà chẳng thuộc về ấm, nghóa là hai đế chân tục mới thành lập chung một pháp thần minh, mà bên tục thường ấm, nhập, giới, còn bên thể chân thì thường vô vi, vì thể của chân là vô vi, dù ở trong ấm, mà chẳng thuộc về ấm. Thể tánh bất động, mà dụng thì không hề tạm thời thiếu sót. Vì dụng không thiếu, nên lấy làm chánh nhân. Nếu không có tự thể mầu nhiệm nàylàm gốc cho dụng của thần minh, thì không nên nói “Dù ở trong ấm, nhập, giới mà chẳng thuộc về ấm, nhập. Cho nên biết lý, phải như vậy. Dù cho không như vậy, lại không thể khiến cho Phật tánh của quả Phật nhập trở ngược vào trong ấm, nhập, giới mà nói rằng: “Chẳng thuộc về ấm, giới, tức nói là kính thuật lại chỉ thú chân thành, không dám có việc làm giả dối.” Pháp sư Trí Tú nói: “Vì trở thành khen ngợi công dụng của chữ, do đó mà nói chữ “Khen” để biểu thị, sự tốt đẹp. Dưới đây là kết khuyên.” “Vì thế chúng sinh đều nên quy y” cho đến “Đều xem chúng sinh bình đẳng, không có khác nhau.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nương tựa pháp không hư hoại, thành quả không hư hoại.” Pháp sư Trí Tú nói: “Vì “Chữ” có biểu thị, nên cảm đến Bồ-tát, xem chúng sinh đều bình đẳng.” “Cho nên, bán tự làm căn bản cho các kinh, sách, ký luận văn chương.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói “Chữ” chưa hợp với âm là Bán. Nay, nói dù hợp mà không được chỉ thú của “Chữ”, thì cũng là Bán.” Pháp sư Trí Tú nói: “Kế ở dưới, là chỉ rõ công dụng hơn, kém của bán tự.” “Như vậy, tất cả kinh, sách, ký luận” cho đến “Không có chướng ngại, không có chấp mắc, thật được giải thoát.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói: “Căn bản của tất cả pháp lành, có người cho rằng cũng lấy Như lai làm gốc”. Phật không thầy mà giác ngộ, chẳng thuộc về chữ, gọi là lìa văn tự, chỉ gọi là Bán, đó gọi là Bất thiện. Mãn thì đều là thiện.” “Sao gọi là hiểu rõ nghóa chữ” cho đến “Người này không biết được tánh Như lai.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói về “Chữ” rồi. Kế là nói về hiểu và không hiểu. Nếu được chỉ thú của “Xuất” là hiểu về “Chữ”. Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây đoạn sáu là nói về sự biết, không biết” “Thế nào là nghóa của vô tự?” Cho đến “Phải lìa “Bán tự”, khéo hiểu “Mãn tự””. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghóa chữ: Mặc dù thường đọc tụng văn tự, mà việc làm lại trái với chỉ thú của lời nói, thì “Chữ” sẽ không vì người này mà xuất hiện, gọi là không có “Chữ”, vì chưa biết được Phật tánh thường trụ.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Người ưa thích chánh pháp, phải học như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đoạn bảy, Bồ-tát Ca-diếp nhận chỉ thú. Phật trình bày thành tựu.” ---------------------------- <詞>Phẩm 14: ĐIỂU DỤ Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thế nào là Thánh hạnh chung” cho đến Thái Bạch và Sao Tuệ? Ở trên nói văn tự, ở đây nói sáu hạnh do văn biểu thị, thể kinh đầy đủ, lý pháp không nghiêng lệch. Sáu hạnh thường cùng có, lấy chim làm dụ.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Mãn tự” tức là nghóa thường, chữ “Bán” tức là nghóa vô thường. Thường và vô thường dù khác, nhưng về lý của chúng, cùng cực là đồng. Giáo xưa nói vô thường, vì Đức Phật muốn cho chúng sinh được thường, như vậy được thường là do vô thường, đâu được lìa nhau? Đây là thành chung một Thánh, gọi là chung hạnh Thánh.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đại để chia phẩm này thành ba đoạn: Thể của sáu hạnh. Nhờ vào nhân để nói sáu hạnh. Y cứ vào tướng, hạnh để nói sáu.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai phẩm dưới đây đồng với chỉ thú dưới của văn tự rộng, nghóa là sáu hạnh thường, vô thường. Phẩm Diểu Dụ nói cả sáu hạnh. Phẩm Nguyệt Dụ nói riêng về ba hạnh, nhưng vì cùng nói rộng về lý, nên đáp chung một câu hỏi. Phẩm này có hai môn chung, riêng: Từ đầu phẩm trở xuống là môn chung. Từ “Như lai đã lìa lo buồn” đến “Cuối phẩm, là môn riêng.” Pháp sư Trí Tú nói: “Phẩm này chia thành hai đoạn: Từ đầu đến, lại khác với đậu, lúa, tẻ, mía là lược nêu sáu hạnh. Từ “Các thứ như vậy” đến “cuối phẩm, là nói rộng sáu hạnh. Trong phần rộng có môn chương riêng, đến sáu hạnh kia lại mở rộng ra.” “Phật lại bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Này người thiện nam! Có hai giống chim” cho đến “Vì sao? Vì là tánh chân thật.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là đoạn thứ nhất, nói về thể của sáu hạnh chung riêng.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Những vật như vậy” cho đến “Vô ngã cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Theo phần nói về thể của sáu hạnh có hai chương, đây là chương thứ nhất, y theo giáo nghiêng lệch để nói về thường, vô thường.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ trên đến đây, là môn chung nói về sáu hạnh.” Pháp sư Trí Tú nói: “Chương hai trong môn rộng này, trước nói về thường, vô thường.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Đây gọi là chim Oan ương, Ca-lân-đề.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là phần thứ hai, nhờ chân ứng để nói về “Ngã”, “Vô ngã”, pháp thân chí cực. Không có lo buồn, tức nghóa ngã thấy có lo buồn, giống như vô ngã. Mượn trời Vô Tưởng để so sánh. Báo của trời Vô Tưởng chỉ có bốn ấm, không có khu vực, nơi chốn. Dù không có chỗ ở, nhưng chẳng thể “Không”. Đối với việc gần còn khó biết được, huống chi là pháp thân diệu cực ư? Thần cây nương vào cây cũng giống như vậy.” Pháp sư Trí tú nói: “Đoạn thứ hai của môn rộng là nói về vô ngã.” “Lại nữa, này người thiện nam! Phật pháp giống như” cho đến “Mầu nhiệm bậc nhất, vì phá hoại các hành.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn ba, nói về khổ, vui.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “pháp khác là ngã, pháp khác là vô ngã.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nương vào nhân để nói về sáu hạnh, nói về buông lung, tức là quả khổ, vô thường, không buông lung là quả thường, lạc.” Văn xuôi giải thích kệ, nhỏ không có thứ lớp, trước giải thích về quả buông lung. Kế là giải thích quả không buông lung. Kế là giải thích nhân buông lung. Kế là giải thích nhân không buông lung. Chẳng phải Thánh Phàm phu, nghóa là trước đây đã giải thích về nhân, quả hai nhà, nay nêu ra người đó. “Như người ở dưới đất, ngước nhìn lên hư không” cho đến “Như chim Ca-lân-đề, Uyên ương… .” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn ba y cứ vào đối đãi nhau để nói về sáu hạnh, lấy sinh tử làm dưới, quả Phật làm trên, do trên, biết dưới, cho nên là thường, vì dưới không biết trên, nên là vô thường. Nhờ dụ để nói về Như lai. Trụ trong trí tuệ, thấy năm đường sinh tử. Mượn dụ để nói về Kiến, mà các căn của chúng sanh, thấy trở ngại đối với thí dụ, nên Bồ-tát Ca-diếp đã trân trọng thưa hỏi Phật, để quét sạch dấu vết này.” Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương <卷>QUYỂN 22 <詞>Phẩm 15: NGUYỆT DỤ Giải thích mặt trăng có sáu việc, để dụ cho Pháp thân. Giải thích mặt trời và ví dụ Sao Tuế. Giải thích: Việc chưa phát tâm Bồ-đề thì làm nhân duyên Bồ-đề. Giải thích: Việc Nhất- Xiển-đề không thọ đạo. Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Từ câu “Thấy mặt trăng không hiện” cho đến “Ví như mặt trời mọc, các thứ sương mù đều tiêu tan”. Là đáp câu hỏi: “Thế nào là như mặt trời, măt trăng, sao thái bạch?” Phẩm Trường Thọ, Kim cương ở trên nói về thể tướng của pháp thân. Phẩm Danh Tự, Công Đức là kết tên kinh. Thể lớn của kinh lấy Niết-bàn làm đầu mối cùng cực. Cuối cùng là giải thoát, đều nói về nghóa đại Niết-bàn ! Từ bốn hạng người, cuối cùng là bốn đảo, là nói về người lưu thông rộng kinh, tức là nhân duyên của Trường Thọ, Kim Cương. Từ “hai mươi lăm hữu có ngã hay không? cuối cùng là Thánh hạnh chung Điểu dụ nói về Phật tánh, tức là chánh nhân của Kim Cương, Trường Thọ. Một nói lớn, khắp về nghia nhân quả đã xong. Nay, lại nói về năng lực ứng cảm vô phương của Trường Thọ, Kim Cương”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Điểu dụ nói trên, căn cứ khắp sáu hạnh, để nói về lý viên. Nay, ví dụ măt trăng, là nói riêng về đức chân ứng của Pháp thân”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cũng đáp câu hỏi thứ mười hai chưa xong, lại nói riêng về ba đức: Thường, lạc, ngã”. “Phật lại bảo Ca-diếp: “Ví như có người” cho đến “Vì hóa độ chúng sinh, nên Phật thị hiện có sinh, diệt”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ mặt trăng có sáu việc, đây là thứ nhất, nói dù sinh bất sinh, thành dấu vết chưa ứng vật của phẩm trước, giải thích rộng về nghóa thường. Hỏi: “Ở trước, đáp về mặt trăng vì việc mặt trăng rộng”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói về dấu vết đầu cuối của một ứng thân”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong ví dụ này có năm lớp: Chỉ nêu có một hóa thân từ đầu đến cuối. Nói chẳng phải chỉ ở nơi này, mà khắp cả mười phương. Mượn việc Nguyệt thực để nói có việc làm thân Phật chảy máu, mà thật ra không thể gây thương tích. Nói tuổi thọ ngắn, là do tùy cảm mà ứng. Nói Đức Như lai đứng đầu trong các Thánh, có khả năng đem lại lợi ích cho chúng sinh. Vì bị núi Tu-di che khuất, nên không thấy được mặt trăng. Có bốn thiên hạ, mà chính giữa là Tu-di, mặt trời, mặt trăng vận hành, quay chung quanh”. “Này người thiện nam! Như ở xứ này thấy mặt trăng tròn, ở những ở nơi khác vẫn thấy trăng tròn” cho đến “cho nên được gọi là thường trụ, không thay đổi”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sự thứ hai, giải thích rộng về ng- hóa sinh diệt ở trên. Từ mùng một đến rằm, giải thích rộng về nghóa sinh. Từ ngày mười sáu đến cuối tháng, nóirộng về nghóa diệt.” “Này người thiện nam! Ví như mặt trăng tròn” cho đến “Như lai thường trụ không có thay đổi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ ba, ứng thân khắp sáu đường. Tùy cảm mà hiện, cũng là giải thích rộng về việc trong sinh. Ở mỗi nơi chốn, vò chậu đựng nước có lớn, nhỏ khác nhau, nên hình mặt trăng cũng khác, là dụ cho sáu đường đã khác, thì dấu vết cũng chẳng phải một. Một trăm do-tuần: Ở trước, chỉ nêu chậu đựng nước, để nói mặt trăng hiện ở bất cứ chỗ nào, giờ đây nói đến, đi tùy ở người.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vẫn là việc thứ hai.” “Này người thiện nam! Như vua A-tu-la La-hầu” cho đến “Phân biệt pháp cú, như con của người thầy thuốc kia.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sự thứ tư, vì chế giới nên Phật thị hiện có việc làm thân Phật chảy máu… .” Pháp sư Pháp Dao nói: “Hễ có gây quả báo, thì phải chịu.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là việc thứ ba.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là thị hiện chế giới, gồm có ba ý: Nói pháp thân không thương tổn, cũng như mặt trăng tròn. Dù có việc ấy, nhưng vẫn không hề bị thương tổn. Sở dó không có thương tổn là vì dẫn chứng hai người chiến đấu với nhau, vốn không có tâm giết hại, thì dù có chết, vẫn không có tội. Nêu ví dụ thầy thuốc để nói rằng, hễ có việc thị hiện này, thì sẽ có lợi ích.” “Này người thiện nam! Như người nhìn thấy mặt trăng” cho đến “Cho nên Như lai thường trụ không có thay đổi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ năm, thể hiện rõ Niết- bàn và nghiệp báo… .” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước là nói, hễ làm điều ác thì dứt việc lành, ở đây thị hiện làm việc lành chế giới.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Sự thứ tư, mặt trăng thật không bị mặt trời nuốt, chỉ giống như mặt trăng bị hao hụt, để dụ cho Niết-bàn.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như mặt trăng sáng” cho đến “Nên nói ví dụ Như lai như mặt trăng sáng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sự thứ sáu, công đức của Phật, sơ lược như việc kia.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Là việc thứ năm.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Đã chỉ bảo làm việc lành chế giới, dứt bỏ điều ác. Nay nói chúng sinh ưa mến chánh pháp, theo giáo pháp không nhàm chán.” “Này người thiện nam! Ví như mặt trời mọc” cho đến “Chính là pháp tánh chân thật của Chư Phật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi về mặt trời, có hai thí dụ: Trước là lấy số đo dài, ngắn làm dụ. Kế là, lấy việc tổn hại, lợi ích làm dụ.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như các vì sao” cho đến “Cũng như người đời không thấy sao vào ban ngày.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi về sao Thái bạch.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Ví dụ pháp thân huyền diệu, vắng lặng, tuyệt đối, vượt ngoài sự thấy nghe bình thường. Đối với hữu tình, vì bị chướng che lấp, nên chỉ thấy thân Phật trượng sáu, cho là cùng cực! Đối với người Nhị thừa thì chép là “Không”, nên người Nhị thừa không thấy.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như bóng râm” cho đến “Không bị các vết nhơ làm ô nhiễm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đều lấy mặt trời, mặt trăng dụ cho Tam bảo diệt.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dụ cho khi Đức Phật còn tại thế thì chúng sinh cho rằng thân Phật cao một trượng sáu, đây là không có pháp thân thường trụ. Nay, nói sau Phật nhập Niết-bàn, nên khác với thuyết trên.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như mặt trăng bị che tối” cho đến “Như mặt trời, mặt trăng kia không có lặn mất.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi về sao Tuệ (Sao chổi), cho rằng Đức Phật đều không xuất hiện, vì nếu Bích-chi-phật ra đời, thì Phật chân thật sẽ diệt độ. Người thấy điên đảo, cho là điềm chẳng lành.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Mặt trăng bị che tối là vì Tu-la dùng tay che mặt trăng, làm cho người ta không thấy. Lại nói “Thủy tinh, bạch ngân hình thành măt trăng, vì ở bên thủy tinh, nên trông như mặt trăng đen tối.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như mặt trời mọc” cho đến “Tất cả các điều xấu ác, tội nghiệp Vô gián.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã chứng minh Phật là thường, sáu hạnh đã rạng rỡ. Nay, nói về công đức của kinh và lợi ích nghe kinh, khuyện người thọ tài, là đáp chung hai câu hỏi: “Thế nào là người chưa phát tâm mà gọi là Bồ-tát? Cho đến “Cũng như vàng Diêm-phù-đề, không ai có thể nói khuyết điểm của nó.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước dụ mặt trời, mặt trăng, sao Thái bạch, sao chổi… để giải thích phẩm Trường Thọ Kim Cương, ở trên. Kế là đây sẽ giải thích rộng về phẩm Danh tự Công Đức hễ nghe kinh này, qua tai, khởi công đức của việc nghe thì cuối cùng nhờ tuệ này, mà mọi điều ác đều được dứt trừ, không nói một lần nghe qua tai, phiền não sẽ dứt hết, chính là chứng tỏ công năng của kinh này là diệt ác, sinh thiện, ngang với pháp thân. Cuối cùng ví dụ thầy thuốc, đều nói về năng lực của kinh.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Phẩm trí của kinh xuất xứ từ người đời sau, tùy nghóa loại mà nêu. Nghóa là phẩm Bồ-tát, cái gọi là truyền thừa nhau đầu tiên ở đây, vẫn là sữa đổi lại dấu xe cũ, là việc khó khăn, để giao phó cho bậc Thánh triết ở tương lai.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu là người đã có trải qua sinh tử mà phát tâm, thì gọi là Bồ-tát phát tâm. Ở đây nói người chưa phát tâm, chính là y cứ vào việc soạn luận trong một đời. Trong đời này, chưa từng phát tâm, chỉ thấy kinh Niết-bàn, bỏ việc xấu ác, tu tất cả điều lành, phát tâm che chở, giữ gìn được gọi là Bồ-tát phát tâm. Vì muốn đáp rộng câu hỏi này, nên trước , mượn ánh sáng mặt trời, mặt trăng để dụ cho kinh Niết-bàn.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây có ba ý: Từ đây về sau, là đáp hai câu hỏi, nói, rộng về năng lực của kinh. Kế là, nhân Bồ-tát Ca-diếp nêu ra câu hỏi trước, tức là chính đáp câu hỏi. Sau, giải thích rộng về nghóa loại trừ xiển-đề.” “Là cảnh giới đại Niết-bàn rất sâu” cho đến “Chánh pháp không gián đoạn, tăng bảo không diệt mất.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là nói về tâm tư tuệ tư duy Tam bảo thường trụ. Cho nên phải tu nhiều phương tiệnn cho đến vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: đây là nói về tu tuệ. Vì siêng năng tu học, nên được gần đạo Vô thượng, vì thế nói là không bao lâu.” “Cho nên, kinh này gọi là do vô lượng công đức mà thành.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Kinh này chính là nói Phật là thường trụ. Thường trụ cũng do ba tuệ mà thành. Nay, vì ba tuệ này bao gồm hết tất cả hạnh, nên nói: “Do vô lượng công đức mà thành”, cũng gọi là Bồ-đề không thể cùng tận. Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Nhân đã vô lượng, quả cũng vô cùng. Vì nhân quả đều vô lượng, nên gọi là Đại. “Vì không cùng tận nên được gọi là” cho đến “Vì thân vô biên nên gọi là Đại Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Vì có ánh sáng của Trí Bát-nhã, nên Pháp thân vô biên. Do hai việc này, nên gọi là Đại Niết-bàn.” ---------------------- <詞>Phẩm 16: BỒ-TÁT (Phần 1) Lại nữa, “Này người thiện nam! Như ánh sáng mặt trời, mặt trăng” cho đến “Vì cho nên gọi là Đại Bát-niết-bàn.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dù chưa phát tâm, nhưng vẫn được làm nhân của Bồ-đề, không khác với quyền Đại thừa. Nếu nghe nói Phật pháp tin, hiểu, thì là tâm Bồ-đề phát sanh, tức làm nhân, nếu sanh chê bai thì đâu được làm nhân ư?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chúng sinh thọ lãnh đạo pháp, tức phải do niềm tin bên trong. Tin tưởng nhỏ nhoi không vượt qua bốn tội nặng, năm tội nghịch. Gốc lành không dứt, do như sợi lông, cọng tóc, nhờ vào chút điều lành nhỏ nhoi này, mà cảm được ánh sáng Niết-bàn, thành nhân Bồ-đề, được gọi là Bồ-tát, không sợ đại chúng, như vàng ròng kia không có dấu vết nào để nói. Làm duyên Bồ-đề, nghóa là Bồ-tát dùng việc phát tâm làm nhân, trụ ba mươi tâm trước là nhân của sơ phát tâm, tức ngày xưa có tâm này nhưng đã bị điều xấu ác che lấp. Nhờ năng lực của kinh, nên được làm Bồ-tát.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước kia đã nói có công năng diệt các điều ác. Nay ở đây nói sinh các điều lành, là phát tâm Bồ-đề rồi!” Pháp sư Tăng Tông nói: “Gốc lành chưa dứt, tất nhiên có ngần ấy chân tơ, kẽ tóc. Nhờ có năng lực của duyên phát, có thể làm cho cảm tỏ ngộ, hối cải sâu xa. Trên cầu tuệ Phật, dưới hóa độ chúng sinh, sao cho khi chưa phát tâm mà đã thành Bồ-tát! Vào lỗ chân lông: Sẽ nói về năng lực của kinh này năng diệt trừ bóng tối, gọi là ánh sáng khéo do cảm giáo, giáo khéo giúp đỡ nhau. Nghóa như “Vào”. Đối tượng lợi ích chưa sâu, gọi là lỗ chân lông.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Làm sao dứt tất cả phiền não?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có ba chướng, tức là không lãnh thọ đạo. Nếu nghe đều làm nhân Bồ-đề thì thiện ác không khác nhau! Vì sao Đức Như lai lại nói nghóa bốn y? Hễ nghe qua tai, thì do nhó thức này mà được, đã làm nhân Bồ-đề rồi, thì vì sao giáo xưa lại nói rằng y theo trí không y theo thức? Làm sao dứt tất cả phiền não? Bồ-tát không lui sụt, phải hàng phục, dứt trừ phiền não. Nếu không hiểu nghóa thì làm sao hàng phục được kiết ư? Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai câu hỏi đều có hai quan hệ, cho nên thành bốn. Quan hệ đầu, một đã qua, không phải là chỉ thú nay. Nếu ba loại người tội nghe kinh thì sẽ làm nhân Bồ-đề, giữa hai người giữ giới, phá giới đâu có gì khác nhau? Quan hệ thứ hai, tức lấy phẩm bốn y để kết thúc câu hỏi, nghóa là người trì giới, nghe kinh cũng thành Bồ-tát, kẻ phá giới cũng vậy, thì đâu dùng bốn y xuất thế để đối trị người phá giới? Lại Như Phật nói: “Câu hỏi thứ hai cũng có hai quan điểm: Quan điểm đầu, tức dẫn phẩm Điểu Dụ ở trên rằng: “Nếu người quy y nhất thể Tam bảo, thì dù có phiền não cũng như không có. Nếu quả thật một phen nghe qua kinh này mà tin chắc chắn, thì sẽ làm cho gốc phiền não này bị hư. Nghóa là trong phẩm Bốn y, Đức Phật tự nói rằng sa Phật đã phát tâm, nghe kinh còn không hiểu nghóa, thì làm sao chỉ nghe của tai, tức là dứt trừ phiền não? Quan điểm thứ hai, tức dùng lý để tra gạn, kết thành câu hỏi. Nghóa là “Giải” (hiểu rõ), “Hoặc” (mê lầm) trái nhau. Đối với người đã chứa nhóm công đức kia, vẫn còn chưa hiểu, mà chỉ nghe qua một lần, làm sao dứt trừ được “hoặc”? Pháp sư Trí Tú nói: “Có hai câu hỏi”. “Nếu ba loại người tội, tâm họ không ưa hướng tới, mà vì năng lực của kinh, nên đã phát tâm một cách gượng gạo, thì đâu cần phải nương người Bốn y phải không?” Nếu quả thật đã phát tâm, thì liền được hợp lý, tức cũng có thể dứt trừ “Hoặc”, thì sao kinh kia lại nói ở chỗ Ba Hằng hà sa Phật mà phát tâm, cũng chưa hiểu nghóa?” Hai thuyết đây, kia chưa thể hiểu được. Phật nói: “Này người thiện nam! Trừ Nhất-xiển-đề” cho đến “Vì nghóa này nên gọi là việc lớn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trừ Nhất-xiển-đề, vì có đủ cả chướng. Thế nào là đủ? Đó là không nhận thấy nhân quả, là chướng phiền não. Nói không có nghiệp chướng nhân quả, đới đời chứa nhóm việc ác. Nay, thành xiển-đề là báo chướng. Ngoài ra chúng sinh nghe kinh này, là bốn tội nặng năm tội nghịch, dù có nghiệp ác, nhưng được nghe kinh, sinh niềm tin, tất nhiên do gieo trồng nhiều công đức đã lâu, chứ chẳng phải không có nhân. Phàm phu thấp kém, không được nghe là không được nghe qua tai, thì cho dù có nghe, cũng không sinh niềm tin.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Người chưa phát tâm được nhân Bồ-đề.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là hai người này đều đã có nghiệp chướng, lẽ ra phải trở ngại cho việc phát tâm mới đúng, sao lại phát tâm được ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hai câu hỏi đã được thông qua, nay sẽ nói rộng về lý do là nhờ năng lực của kinh, mà phát tâm: “Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Nếu có người nghe kinh Đại Niết- bàn này” cho đến “Diệu điển Đại thừa, thật sự là do Phật chân thật nói ra.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người mộng thấy hình tượng La- sát, vì bị chướng nên dù có nghe kinh, cũng không phát tâm ngay. Do kinh phát ra mộng, mộng thấy nghiệp quả, vì sợ khổ, nên phát tâm sau khi thức giấc, đó là nhờ năng lực của kinh. Người nhớ lại tâm Bồ-đề: Phát tâm có mạnh yếu, mạnh thì sinh lên làm người, yếu thì đọa vào ba đường, dù chịu tội báo, nhưng tâm Bồ-đề không dứt.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Người chê bai kinh lúc sắp qua đời, tướng bóng tối hiện ra mới cảm thấy sợ sệt. Khi qua đời tâm họ rối loạn, gọi là Mộng. Tội ép ngặt con người, thật đáng sợ hãi, còn hơn La-sát.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đại Kinh giáo luận có hai thời nói về nghóa. Kinh nói: “Dùng trí hạ hạ để dứt trừ phiền não thượng thượng, lẽ ra nên dùng kinh xưa để đối trị ba thứ tội mới phải, đằng này, giáo Niết- bàn hiện nay lại nói rằng, có công năng dứt trừ “Hoặc” này, thì về lý trái nhau, làm sao được trung? Kinh nói trí phẩm hạ hạ, dứt trừ “Hoặc” phẩm thượng thượng, đó là y cứ ở đạo chân vô lậu, dứt trừ nói chung, chỉ là lời nói. Nay đã giải thích hai kinh. Chính là nói về đạo chế phục, còn về sinh thiện và khởi “Hoặc” vốn ở trong tâm hữu lậu, hoặc tâm nặng, tâm nhẹ, thiện ác cũng đều như vậy. Kinh xưa nói về “Lý” không viên “Giải” cũng nhỏ nhoi ít ỏi, nên dùng điều lành nhẹ để chế phục “Hoặc” nhẹ. Kinh nay nói, về lý thì đã đủ khắp, tin hiểu sâu sắc vượt hơn, cho nên dùng điều lành tăng thượng để ức chế “Hoặc” phẩm Thượng Thượng. Sở dó biết được như vậy, là vì như trong giới luật, nếu phạm thiên thứ hai, thì phải làm sám hối trước hai mươi mốt người, tội mới diệt. Nếu phạm từ thiên thứ ba trở đi, thì đối thú trực tiếp, tội mới dứt trừ, cho đến tội Đột-cát-la, tự trách cứ ở tâm mà dứt bỏ. Nếu nói theo đây, thì lẽ ra tội nhẹ cũng phải có nhiều người mơi diệt. Nay thì không như thế, cho nên biết kinh xưa lý sâu, sanh thiện thì kém, chỉ hàng phục được hoặc nhẹ. Kinh nay, thì lý sâu, sinh phước tăng thượng, có công năng chế phục “Hoặc” nặng. Do đó suy ra, kinh xưa không thể làm cho con người đắc đạo đó là điều rõ ràng.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Như trong hư không” cho đến “Bọn Nhất-xiển-đề, lập ra nhân Bồ-đề.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mụt nhọt ở tay: Xiển-đề dùng tà kiến làm tay. Hễ gặp điều lành thì phá hoại, dụ cho mụt nhọt.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Như cỏ Mã xỉ” cho đến “Kín, dày như chất kim cương, vật thể bên ngoài không lọt vào được.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Mưa xuống không thấm vì quá dày chắc không thọ nhận. Xiển-đề như vậy, chẳng lẽ có lỗi của mưa pháp ư?” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Bài kệ đó có nghóa gì?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dẫn bài kệ xưa để nói: “Làm ác không ăn năn”, để chứng minh hạng xiển-đề không thể hóa độ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại hỏi về bài kệ xưa, phô bày nhiều việc ác trước kia, nêu các việc đáng sợ. Vì muốn giải thích rõ về nghóa vô úy của bài kệ sau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là đáp câu hỏi thứ mười lăm, nói về ba loại người tội, nghe kinh Niết-bàn, sửa đổi ăn năn tu điều thiện, có thể làm ruộng phước cho trời, người. Trước kia mình có làm điều ác, nên thường sợ sệt trước đại chúng. Nay đã sửa lỗi dó vãng, tu tập tương lai, thì sẽ không còn sợ sệt nữa. Trong phần đáp này nói ba bài kệ: Một hàng kệ đầu, nói làm điều xấu ác, sẽ sợ hãi đối với chúng.” “Phật nói: Này người thiện nam! Không thấy nghóa là” cho đến “Như con đường bằng phẳng của Vua đi, nghóa này thế nào?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dẫn giáo xưa nói bài kệ: “Gây ra tội.” “Gây ra tội có thể sám hối”, để chứng minh rằng bốn tội nặng có thể hóa độ. Ở trên nói phát tâm, ở đây nói dứt ác.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu hỏi: “Đối với đại chúng được vô úy là thế nào?” Rằng theo kinh, ăn năn, sửa đổi, tu nhiều điều lành, thì các việc ác sẽ được tiêu diệt, như con đường bằng phẳng của vua đi.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai bài kệ này chính là nói lúc làm việc ác không sợ đại chúng, nói là trước kia mới ác. Nay y theo kinh, sửa đổi, ăn năn.” “Phật nói: “Này người thiện nam! Thấy việc đã làm” cho đến “Vì sao là Chư Phật pháp nhó?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đến chỗ không có chỗ đến, nghóa là không có đến, gọi vô thỉ, từ vô thỉ đến nay, đều phát lộ. Lại không có đến, gọi là Niết-bàn, vì phát lộ thì sẽ đến Niết-bàn. “Mỡ dầu đều cạn hết”: Nói Đức Phật do hạnh mà có được tướng tốt tự nhiên, cũng đều diệt với con người mà thôi! “Nếu có Bồ-tát”…trở xuống, không tin hai người, dùng công đức phát lộ để hồi hướng Bồ-đề, tức gọi là Bồ-tát. Dù bị xiển-đề phá hoại, nói không có nhân quả, nhưng các Bồ-tát đã không vì kẻ độc ác đó bỏ, mà không cứu.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ chỗ bờ mé sinh tử đến Niết-bàn. Nếu Bao nhiêu nghiệp ác đã làm, đều phát lộ tất cả. Phát tâm này để sám hối, thì sẽ không có tội nào không được tiêu diệt. Con vượn với lấy mặt trăng dưới đáy nước, nghóa là dùng xiển-đề làm thí dụ. Nói về mặt trăng dưới đáy nước, sự thật chỉ là bóng của mặt trăng. Vượn dụ cho xiển-đề. Mặt trăng dụ cho Niết-bàn. Nước dụ cho thiện hữu lậu. Mặt trăng dưới đáy nước dụ cho bóng Niết-bàn. Không có nước thì không có bóng mặt trăng. Hình tượng có, Đức Phật gọi là thiện hữu lậu. Việc lành vốn là để hướng đến Niết-bàn, phần khí quan hệ với nhau. Phàm phu nhờ tu tập điều lành, nên ngăn dứt được “Hoặc” nặng, quả báo trời, người, không có khổ lớn mà vì điên đảo, nên cho là vui. Cũng như xiển-đề thấy thú vui năm dục trong sinh tử, cho là chân thật.” “Làm ác chẳng thọ ngay Như sữa thành bơ liền Như tro lấp trên lửa Người ngu xem thường đạp.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phương tiện làm ác điều ác của xiển-đề không thọ báo ngay. Vì xiển-đề là sinh báo, chứ chẳng phải hiện báo. Như sữa thành bơ ngay, nghóa là sữa có hiện quả, nói không như ví dụ này.” Người ngu xem thường đạp, là người ngu chỉ thấy hiện tại, không thấy vị lai, vì chẳng phải hiện báo, nên xem thường mà gây ra. Vì sắp đưa ra hành vi của xiển-đề, nên Phật nói bài kệ trước.” Pháp sư Tăng Tông nói: Lại “Giải thích kẻ làm điều ác cho nên gây ra tội lỗi, vì họ không thấy có đời sau cho nên như thế. Nếu làm cho niệm trước gây ra điều ác, niệm sau cảm thọ quả báo ngay thì họ sẽ không dám làm điều ác. Không thấy có đời sau, như không thấy lửa bị tro phủ, người ngu liền đạp lên, bất giác bị phỏng chân.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không có mắt là chỉ thấy việc hiện tại, mà không thấy việc mai sau, không thấy đạo La-hán, là La-han có khả năng dứt bỏ đời sống ở vị lai, mà người xiển-đề này không thấy.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ví như sứ giả vua giả dạng là La-hán trông giống như xiển-đề, một bề bác bỏ, kinh điển Đại thừa trước kinh Pháp Hoa . Người phàm phu nhìn thấy người ấy đều cho là A-la-hán thật. Chỉ có Bồ-tát thật mới phân biệt được La-hán thật, giả: Xiển-đề giả dạng La-hán này tin chắc Đại thừa hoàn toàn bác bỏ kinh Pháp Hoa, cho là: Chẳng phải thật, mà là phương tiện dó nhiên, lời nói này là của xiển-đề. Sứ giả vua, dụ cho Bồ-tát giỏi biện luận, là nói về bốn biện tài của Bồ-tát. Vâng lệnh vua đến nước khác, là Bồ-tát bỏ địa pháp thân, ứng với sinh tử. Thà hy sinh thân mạng, quyết không giấu lệnh vua truyền, dù có thể bị ngoại đạo bưng bít, nhưng quyết định không bao giờ nói Phật là vô thường. Ví như hoa sen dụ cho người tu hành. Đã hợp với niềm tin gây ra tội. Nếu là người thấy mặt trời Niết- bàn, thì lòng tin của họ sẽ càng thêm sáng suốt! “Lại nữa, này người thiện nam! Ví như hoa Ưu-bát-la” cho đến “Vì sao chẳng phải pháp khí?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi: “Thế nào là ở đời vẩn đục mà không nhiểm ô, như hoa sen?” Với hai người làm thí dụ, dù có tội nặng, nhưng nếu không gây trở ngại cho phát tâm thì sẽ không bị tội, thực hành pháp nhiễm ô.” Pháp sư Tăng Dao nói: “Nói về Bồ-tát có khả năng không sợ sệt đối với chúng, thì là phải quên thân mạng, để giảng nói rộng khắp về thường trụ, mà ở đời ác, tà kiến chê bai thuyết Đại thừa kia, rồi chấp rằng sự hiểu biết không từ đâu, không sửa đổi điểm yếu kém của mình. Đây là ở trong đời vẩn đục mà không nhiễm ô như hoa sen. Nói về người có khả năng không theo tà ngoại là đều do chính mình, bên trong có công năng chế phục các thứ phiền não buộc ràng, không bị phiền não làm ô nhiễm tâm mình, nên ở trong phiền não mà phiền não không thể nhiễm. Bốn thứ hoa sen mọc ở trong bùn mà vẫn không hề bị bùn làm nhiễm ô, là đáp: ở trong đời không ô nhiễm. Kế là, câu dưới nói: “Dù có phiền não, nhưng không bao giờ bị nhiễm ô bởi phiền não, vì nhận biết được năng lực tánh tướng của Như lai, còn ví dụ thầy thuốc, là đáp: Phiền não không làm ô nhiễm.”  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương <卷>QUYỂN 23 <詞>Phẩm 16: BỒ-TÁT (Phần 2) kinh. Nêu rộng mười hai thí dụ về thầy thuốc để nói về năng lực của Giải thích ví dụ thuyền trưởng. Giải thích ví dụ rắn lột da. Giải thích Tiên Đà một tên mà bốn nghóa. Nói về: Sửa đổi nghóa chỉ của văn kinh. Giải thích ví dụ bán sữa pha thêm nước. “Lại nữa, này người thiện nam! Ví như thầy thuốc” cho đến “Chỉ trừ hạng Nhất-xiển-đề chắc chắn là chết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi: “Thế nào là ở trong phiền não, mà phiền não không thể nhiễm? Như thầy thuốc chữa lành các chứng bệnh, mà không bị bệnh làm nhiễm. Từ đây trở xuống lấy kinh làm thí dụ. Tám phương pháp trị bệnh: Điều trị thân. Điều trị mắt. Điều trị mọt nhọt. Trị bệnh trẻ em. Trị tà. Chữa độc. Trị thai. Đoán xem tinh tú, biết rõ thuộc về chứng bệnh nào trị được không trị được . Một phương thuốc có hai ngàn bài kệ. Bệnh A-tát-xà không thể chữa trị, nghóa là dụ cho hai tội nặng. Chứng bệnh bất trị đối với Khế kinh xưa, nói Niết-bàn có khả năng trị được bệnh khó trị, chỉ không thể chữa được người bệnh chắc chắn chết. Vì không thể chữa trị, chứ chẳng phải khó trị.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Khế kinh khác ví như người thầy thuốc giỏi. Kinh có tám thứ thuốc là: Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, Bất tịnh, Từ tâm, Nhân duyên và quán Phật. Chữa trị tám thứ bệnh: Bốn đảo, ba độc và đẳng phần. Sau đây có mười thí dụ, đều nói về kinh có năng lực cao quý, có khả năng cứu vớt tội nặng. Tám thứ thuốc là tám chánh đạo. Vượt qua tám thứ thuốc, nghóa là lý của kinh này là viên, vì uy lực của công đức vượt hơn nên nói là “Quá”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là Đức Phật đáp câu hỏi thứ mười bảy. Đây là ví dụ thứ nhất: Kinh giáo trước Pháp Hoa xưa, đến sau này gồm là mười hai ví dụ (xem văn tự trình bày). Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như người thầy thuốc” cho đến “Tất cả các thứ thuốc hoặc thuốc viên, hoặc thuốc tán bột.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Tám thứ thuốc dụ cho diệt trừ chứng bệnh tám đảo.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Mửa ra: là nói về tướng tội báo. Thoa thân là chỉ quán của thân ý. Thuốc nhỏ mũi là pháp quán hơi thở, thuốc xông hơ cho thân là huân tu thiền. Thuốc để tắm gội là quán Bất tịnh, thuốc viên tròn là quán chung. Thuốc tán là phương pháp quán riêng. “Mà người ngu nghèo không muốn uống.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tội nặng đã nặng, làm che lấp phát tâm, nên không chịu uống.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước nói về người Nhị thừa đã dứt tám “Đảo”, sinh tám “Giải”. Nay ở đây nói về phàm phu và kẻ phạm tội nặng không tin.” “Vị thầy thuốc thương xót, vội đưa người này về nhà mình” cho đến “Ép uống thuốc, bệnh được qua khỏi”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Địa ngục là chỗ trở về của người tội kia, ví dụ nhà cửa, sợ khổ, nên phát tâm, ví dụ ép uống thuốc, nên che lấp không che lấp, ví dụ bệnh được qua khỏi. Nói về người không tin, vì họ không màng đến vô thường, nên không sợ đối mặt với tội, do đó là mà sinh sự chê bai. Khi sắp chết, tội chê bai hiện rõ trước mặt, mới hoảng sợ mà sửa đổi, ăn năn. Bấy giờ, họ mới thôi chê bai, sinh khởi niềm tin. Đối lập với tội vô thường là ngôi nhà tư duy điều lành, làm nhà ở. Sống phải trở về, chết là trở lại. Khi bị tướng khổ ép ngặt rồi, mới bắt đầu tin, là ép cho uống thuốc.” “Sản phụ sinh đẻ, lá nhau không ra” cho đến “Đều làm cho phát tâm, trừ hạng Nhất-xiển-đề.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người phạm tội nặng có gốc lành nhỏ nhoi, có thể phát tâm, dụ cho phụ nữ. Lúc chưa phát tâm, tội bị ràng buộc bên trong, dụ cho lá nhau của thai nhi. Quả báo địa ngục chưa dứt, dụ cho lá nhau không ra.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói về niềm tin nay, đều do việc lành xưa. Việc lành xưa là mẹ, niềm tin nay là con. “Giải” không biểu lộ hiện liền, cũng như lá nhau của thai nhi. Phiền não chưa dứt là không ra. Người nghe được kinh này thì chẳng có hoặc nào không dứt trừ, cũng như lá nhau của thai nhi ra ngay.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Làm sao là nhân Bồ-đề được?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh xưa nói người có hai tội nặng này nghe kinh, không sinh đạo quả, làm sao ngày nay lại làm nhân được, lại bày tỏ chỉ thú hướng đến Bồ-đề.” “Phật nói: Này người thiện nam! Các chúng sinh này” cho đến “Do nhân duyên này, nên mạng mình được an toàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người phạm hai tội nặng, nghe kinh được tỏ ngộ, nhân quả càng sáng tỏ, khen ngợi ân của kinh này.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Biết “Giải” của nay là nhờ chút việc lành nhỏ nhoi xưa, dụ cho ở trong thai. Do năng lực của kinh, nên sinh niềm tin, trừ bệnh không tin, cho mẹ thuốc, để mẹ được an lành, không gầy gò, cho nên con hiểu được sống, dụ cho mạng mình được an toàn.” “Cảm thương mẹ mình chịu khổ não lớn” cho đến “Làm nhân Bồ- đề, trừ hạng Nhất-xiển-đề.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bị tội ràng buộc, dụ cho lúc chịu khổ. Tội đã chồng chất lâu, dụ cho thời gian nằm trong thai mười tháng. Gốc lành không dứt mất, dụ cho mang thai. Nay được phát tâm, dụ cho sau khi sinh. Tu hành vô lậu, dụ cho tìm chỗ khô ráo. Dứt trừ “Kiết hoặc”, dụ cho bỏ chỗ ướt. Chế năm điều xấu, ác của thân, miệng, dụ cho hốt rửa phân, tiểu tiện. Thọ trì thường, lạc, dụ cho bú mớm.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hành giả là mẹ, phương đẳng là thuốc, “Giải” thường dụ cho con. Làm cho con người thọ trì, dụ cho mẹ uống thuốc. Do năng lực kinh, cho nên có tuệ, dụ cho mạng an toàn. Tu hành mười địa, dụ cho mười tháng. Vì dứt ái, mạn dụ cho tìm chỗ khô, bỏ chỗ ướt. Ngày đắc quả, đáp lại thời kỳ xưa, dụ cho đền đáp công ơn.” Lực, là ba mươi hai tướng, cho đến mười Lực. Bốn bộ đệ tử, như thị vệ. Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như người thầy thuốc” cho đến “Chỉ trừ rồng lớn và hạng Nhất-xiển-đề.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thầy thuốc, dụ cho Đức Phật. Con dụ cho Bồ-tát. Chú thuật (phương thuốc trừ độc) dụ cho Phật tánh thường. Hoặc rồng, hoặc rít dụ cho hai tội nặng. Thuốc dụ cho Danh, vị, cú, thân. Giày, dép dụ cho viết trên giấy mực. Các trùng độc chạm đến dụ cho đọc tụng. Tiêu tan chất độc dụ cho phát tâm.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Thầy thuốc dụ cho văn kinh. Con dụ cho hai chữ thường trụ. Muốn nói chỉ nghe hai chữ, là đã quyết định việc ác rồi, huống chi là nghe đủ kinh ư? Vì dứt bốn tội nặng, năm tội nghịch, nên dụ cho thoa thuốc vào giày dép, va chạm các trùng độc, chất độc sẽ tiêu tan ngay.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như người” cho đến “Trừ hạng Nhất-xiển-đề không chết ngang trái.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thuốc độc dụ cho Phật tánh. Vì mới nghe, là ví dụ mới. Đại chúng dụ cho hạnh hữu vi, tiếng dụ cho đọc tụng. Chết dụ cho phiền não dứt.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Lý thường như thuốc. Văn tự như cái trống. Vì dùng thuốc độc nên khi vừa nghe tiếng trống thì chết. Vì lý ấy sâu, nên người nghe tội sẽ được tiêu diệt.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như đêm tối” cho đến “Đối với các pháp lành, mọi việc làm đều dừng nghỉ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Các thuyết mà kinh khác nói, về lý thì khác nhau, nên dụ cho bóng tối. Mặt trời dụ cho kinh này. Lại nêu mưa nghóa là nghe kinh này như trời mưa làm tươi nhuần muôn vật sinh sôi nảy nở.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Như tám mươi vị Thanh văn trong Pháp Hoa, là lầm, vì kinh ấy nói là tám ngàn vị Thanh văn.” Lại nữa,“Này người thiện nam! Ví như thầy thuốc” cho đến “Ngoài ra đều là bậc Đại Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thầy thuốc ví như kinh này, phi nhân ví như người phạm tội nặng. Thuốc tốt dụ cho hai chữ Thường trụ. Sứ giả dụ cho người thọ trì hai chữ này. Nhanh chóng với người kia, dụ cho vì nói hai chữ này. Tự đi qua, dụ cho đầy đủ được nghe.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trong bốn bộ, người chưa nghe thường trụ và đồ chúng phi pháp của ngoại đạo phạm bốn tội nặng, năm tội nghịch, làm con của người khác.” Kinh là thầy thuốc, lý là thuốc hay. Văn ở chỗ truyền lý, làm sứ sai đưa thuốc. Về lý, quý trọng ở chỗ truyền bá, chủ yếu là do văn tự. Được sắc chỉ của vua sai: “Khanh hãy trao thuốc này cho người kia”. Nghe được lý kinh này thì các ma, bạn ác không thể làm hại. Cũng như người nhờ có năng lực của thuốc, quỷ thần sẽ bỏ đi xa.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Người phạm bốn tội nặng, năm tội nghịch. Hễ nghe kinh liền được thấy sứ giả, tư duy về lý, là oai đức của ta. Do hai việc này, tội kia sẽ được tiêu diệt.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ví dụ thứ tám, nói về năng lực của kinh. Người kia dụ cho ngoại đạo, thầy thuốc dụ cho Đức Phật. Sứ giả dụ cho Bồ-tát, thuốc dụ cho kinh này. Vì giải thích cho người kia hiểu như đưa thuốc cho.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như người điếc” cho đến “Vì sao? Vì không có nhân duyên.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ chín, chỉ lấy xiển-đề làm thí dụ. Nghe kinh, không thể sinh niềm tin, như người điếc không nghe.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như thầy thuốc” cho đến “Không thể chữa trị hạng Nhất-xiển-đề.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người phạm giới trọng, không cắt đứt gốc lành, mới là xiển-đề, vì sự nhỏ nhoi là vượt hơn, nên dụ cho vua, phải vào địa ngục, dụ cho bệnh chắc chắn chết. Quả báo ở vị lai không biểu hiện ở nay, dụ cho ở trong bụng. Luật có công năng trị tội, dụ cho thuốc đã được uống vào bụng. Khuyên bảo hãy xem luật, mà không chịu tin, dụ cho không bằng lòng uống thuốc. Do năng lực kinh, phát ra chiêm bao, khiến cho chịu khổ địa ngục. Ngục là đường dưới, dụ cho hậu môn phồng lên. Cũng chịu quả báo súc sinh, dụ cho vi trùng máu lẫn lộn chảy ra.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Khanh không thấy việc trong tâm ta”, là không tin dứt mất gốc lành, là chịu báo địa ngục. Nên uống thuốc, là xiển-đề đầu tiên vào địa ngục, bèn có ba ý nghó vì tự biết. Kinh nói lý cao siêu, như thầy thuốc tâu với vua. Khả năng chữa bệnh của thầy thuốc, là dụ cho lý thường. Chỗ ẩn dụ cho địa ngục.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thí dụ thứ mười, Chư Phật khéo nói năm thời kinh giáo.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như thầy thuốc” cho đến “hạng Nhất-xiển-đề chắc chắn chết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thế lực của lời nói này, bắt kịp chủ trương phi nghóa, cho rằng, tội của xiển-đề kia đã nặng, pháp không thể cứu chữa!” Pháp sư Tăng Tông nói: “Tám thí dụ trên đây gồm, đều để so sánh với kinh, là hai dụ cho Phật, Bồ-tát này.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là dụ cho thứ mười một, do lấy trừ tám đảo làm thí dụ.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như thầy thuốc” cho đến “Tôn quý nhất, hơn tất cả, đứng đầu trong các kinh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giáo pháp của Như lai trước cạn, sau sâu, chỉ có Niết-bàn là rốt ráo, chẳng có “Hoặc” nào không dứt trừ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thí dụ thứ mười hai và các kinh trước Pháp Hoa, trừ ba độc và đẳng phần và bốn đảo, nên nói là tám phương pháp. Lại, có thể rõ thấu, sâu rộng vượt qua tám thứ, là dụ cho kinh giáo Niết-bàn có mười hai phương pháp. Sở dó hai dụ cho này y cứ con người làm thí dụ là vì dứt trừ nghi ngờ của chúng sinh.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như thuyến lớn” cho đến “Hóa độ chúng sinh cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi của vị thuyền sư (Thuyền trưởng). Trong biển khổ sinh tử, con người đều mong cầu được cứu độ mà kinh có công năng khuyên người tu học. Đức Phật độ thoát sinh tử. Lại không có đạo nào khác, nương Đại Niết-bàn, để cứu khổ con người. Dưới đây là dụ hai ngọn gió: Ngọn gió đầu dụ cho tốc độ, ngọn gió sau dụ cho tự mừng vui, đều khuyên cái đẹp.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ bốn câu hỏi trước, đã nói về lợi ích trong nhân. Ở đây nói lợi ích trong quả, có ba ý: Đây là ý thứ nhất, trước nói Chư Phật được dộ xong, lại cứu độ chúng sinh.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đáp câu hỏi thứ mười tám, ba câu hỏi này đều nói về năng lực của kinh, có công năng làm duyên cho vật ngoài. Thuyền có hai thứ: Vì chúng sinh làm cảnh giới, chính là vì dùng tín, giáo, nên tức có công năng sinh điều lành. Nói Đức Phật trụ trong quả địa, trở lại cứu độ sinh tử.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như người” cho đến “Đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý thứ hai: Là Độ thoát sinh tử, sở dó được nhanh chóng là nhờ năng lực của kinh.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Chúng sinh dù có năm giới, mười điều lành, nhưng nếu muốn vượt qua biển cả, mà bám trụ vào điều lành này, thì sẽ không thoát khỏi sinh tử, nghe kinh này thì được thoát khỏi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Các công hạnh là thuyền. Niết-bàn là gió. Tu hành muôn hạnh, phải hiểu trọn vẹn giáo thường.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như người sinh lòng tin thanh tịnh đối với kinh Đại Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là ý thứ ba, tự vui mừng.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Chúng sinh bị khổ ép ngặt, lúc nghó đến điều lành, trái với việc ác, cảm kinh tu hành, ngày càng tinh tấn, không lui sụt.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Khích lệ chúng sinh, sinh tử trôi lăn cho nên không dứt chính là vì không gặp được gió Niết-bàn, chẳng lẽ không phát tâm tăng thượng sâu sắc ư?” Lại nữa, “Này người thiện nam! Như rắn lột da” cho đến “Cũng gọi là thường trụ, không có thay đổi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên nói kinh Niết-bàn có công năng cứu độ sinh tử, chứ chẳng phải Khế kinh khác, nên lấy ý này để giải thích. Chân thân của Phật là thật. Niết-bàn nói thật, thấy thật, tức là sinh tử dứt hết. Ứng thân chẳng phải thật, nên sinh tử không dứt.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Rắn lột da, nghóa là chỉ nói về dấu vết song thọ mà thôi. Dù Đức Thế tôn đã thị hiện bỏ sinh tử, nhưng dấu vết không có sinh diệt, vì pháp thân thường, nhất.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là Đức Phật đáp câu hỏi thứ mười chín. Trước kia nói: “Lái thuyền Niết-bàn để cứu vớt chúng sinh, thật ra không có sinh diệt. Đừng lấy việc Đức Phật giáng sinh ở cung vua và nhập Niết-bàn ở Song thọ làm mối hoài nghi, nên dùng dụ cho quét sạch sự ngưng trệ này.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Như cây am-la” cho đến “Như lai thường trụ, không có thay đổi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Thế nào là quan Tam bảo giống như cây Thiên ý?” Trước là khuyên tu kinh này, nói phương pháp tu kinh có hai ý: Trước, giải thích về thân mật của Như lai, cũng như cây Thiên ý. Kế là, giải thích về khẩu mật, ý mật, như Tiên-đà-bà.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Thiên thọ, tùy ý mà cảm biến, còn cây của người thì dời đổi theo thời gian. Dù khác nhau về sự dời đổi, nhưng cây thật sự vẫn còn mãi. Nêu cây ở cõi người, thì có thể biết cây ở cõi trời. Vì thế, nên gần thì lấy cây thiên ý này, còn xa thì sánh với Tam bảo. Thí dụ này và vị thiền sư (thuyền trưởng), rắn lột da, nhằm nói chung về Đức Phật đã thị hiện từ đầu đến cuối của một thân.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ hai mươi, trước nêu thí dụ rắn lột da, một mặt chỉ nói chẳng phải thật diệt. Nay, mượn thí dụ cây. Có sự biến chuyển của ba thời kỳ, nói rộng từ mới sinh cho đến Niết-bàn, dấu vết của một ứng thân. Dưới đây sẽ có năm lớp nói về nghóa: Nêu thí dụ cây, dù có trạng thái đổi thay của ba mùa, nhưng thật ra thì không diệt mất. Nói về khẩu mật, có thể dùng lời nói chẳng phải thường để giải thích sâu xa về chỉ thú “thường”. Nhân nói về trạng thái hưng thịnh, suy vi của Tam bảo, vì người không thực hành, nên nói nghóa diệt. Khuyên lập chí của bậc trượng phu, về mặt lý, đã do con người mở mang kinh cho nên ức chế được lời lẽ kia. Lại nêu ra nơi chốn, thời gian suy vi, hoại diệt của Tam bảo trong giai đoạn mạt pháp này. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong sự mở rộng lời Phật đáp này có ba ý: Nói về sự thịnh, suy của Tam bảo. Nói về tướng mạo của chánh pháp suy diệt! Giáo hạnh; Người thực hành giáo pháp. Từ đây trở xuống nói về Phật bảo hiện đang diệt! “Này người thiện nam! Mật ngữ của Như lai rất sâu, khó hiểu” cho đến “Các phàm phu trong đời này có thể tin được “. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là, giải thích rõ về khẩu mật: Như vị quan có trí kia hiểu rành về lời nói kín đáo của vua, cho nên tìm cách tu bổ kinh, dùng thí dụ Tiên-đà-bà. Bốn thứ chẳng phải thường: Một là danh tiêu biểu cho bốn thứ thật. Tu, chính là pháp thường, nghóa là biết có nhân thường để được quả thường”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai là nói về khẩu mật. Trên kia dùng một tên gọi tiêu biểu cho bốn thứ thật, ở đây, dùng giáo nghiêng lệch cũng biểu thị bốn thật lý của “Ngã” thường. Người có trí nhờ chẳng phải thường mà tỏ ngộ thường, lạc. Sự đồng với ứng thân, dù có ba thời kỳ mà vẫn nhận thức pháp thân là thường còn”. Lại nữa, “Này người thiện nam! Như cây Ba-la-xa” cho đến “Cho nên chúng sinh này phước đức kém mỏng”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại dùng ba thứ cây để dụ cho thời kỳ suy, diệt của kinh Niết-bàn. Vì không hiểu mật ngữ, nên cơn mưa “Thường” không rơi xuống nên không được quả thường. Muôn vật ở dưới nước, trên đất liền đều khô héo, dụ cho không có điều lành của trời, người. Tất cả các phương thuốc đều không còn công hiệu dụ cho cho Khế kinh khác”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là ý thứ ba, nói về sự suy vi, tận diệt của Tam bảo, là nói thời mạt pháp này không thể truyền bá”. Lại nữa, “Này người thiện nam! Lúc chánh pháp của Như lai” cho đến “Thuận theo không trái, giảng nói cho chúng sinh nghe.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên nói sau khi Đức Phật nhập diệt. Đây là nói về thời kỳ pháp sắp diệt tận, không hiểu mật ngữ. Người thọ học kinh. Sao chép qua loa trước sau, chia thành nhiều bộ, chỉ có Bồ-tát, người duy nhất am hiểu được mật ngữ của Phật, mới không trái với chỉ thú của kinh!” Lại nữa, “Này người thiện nam! Như thiếu nữ chăn bò” cho đến “Lại pha thêm hai phần nước, rồi đem ra chợ bán.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho người thực hành kinh Niết- bàn này rất, biếng nhác, tìm cầu việc lợi dưỡng!” Pháp sư Tăng Tông nói: “Pha thêm hai phần nước, vẫn chưa thôi, thậm chí còn pha thêm tám phần nước vào thùng sữa, không còn hương vị sữa! Các Tỳ-kheo tội ác vì lợi dưỡng, nên đặt để lời lẽ bông khơi, làm cho vị lý khó hiểu.” “Bấy giờ, có một người vì cưới vợ cho con” cho đến “Vì vị sữa là hơn hết trong các vị.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một người dụ cho mật ngữ của Bồ-tát, sắp sai bảo đệ tử vì hóa độ chúng sinh, nối dõi dòng họ không dứt, dụ cho cưới vợ cho con. Giáo hóa thì cần có pháp, dụ cho cần mua sữa. Cầu pháp vì chúng sinh, dụ cho tiếp đãi khách. Nơi có pháp dụ cho chợ. Được của cải mới nói, dụ cho trả giá. Đọc tụng thọ trì, dụ cho dùng sữa nấu thành cháo.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại sữa đổi lời văn, trở nên tầm thường vô nghóa. Giáo khác, không thể thí dụ.” “Này người thiện nam! Sau khi ta nhập Niết-bàn, là lúc chánh pháp chưa diệt” cho đến “Có thể làm mất đi hương vị tốt đẹp của chánh pháp.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp dụ cho pha thêm nước vào sữa lần thứ nhất.” Những người ác này dù có đọc tụng” cho đến “Trau chuốt văn vẻ với những từ ngữ rỗng tuếch vô nghóa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp dụ cho pha thêm nước vào sữa lần thứ hai.” “Sao phần trước để ở sau, sao phần sau đặt ở trước” cho đến “Các Tỳ-kheo tội ác này là bè đạy của ma.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ pha thêm nước vào sữa lần thứ ba.” “Họ nhận chứa tất cả các vật bất tịnh” cho đến “Như thiếu nữ chăn bò pha nhiều nước vào sữa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp dụ cho thêm nước vào sữa lần thứ tư.” Pháp sư Đàm Tiên nói: “Lấy trên, sao phần trước để ở sau, là một lần thêm. Sao phần sau để ở trước, là hai lần thêm. Sao phần trước đem để ở giữa và sau, là ba lần thêm. Sao phần giữa và sau để ở trước là bốn lần thêm. “Các Tỳ-kheo tội ác cũng giống như thế” cho đến “Vì nghóa này, nên nói là Đại Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Nêu chung ví dụ hợp lược ở trên.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Như loài người ai cũng mong được làm người nam” cho đến “Như con ong hút mật hoa, ông cũng như thế.” Nhận xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn bốn, khuyên lập chí trượng phu.” Lại nữa,“Này người thiện nam! Như nước tiểu của con muỗi không thể làm cho mặt đất thấm ướt” cho đến “Chánh pháp vô thượng sắp diệt, không còn bao lâu.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn năm, lại nêu ra nơi chốn, thời gian Tam bảo suy vị hoại diệt trong thời đại Mạt pháp này!” <篇> ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương <卷>QUYỂN 24 <詞>Phẩm 16: BỒ-TÁT (Phần 3) Giải thích: Bài kệ vốn có nay không. Giải thích nghóa nếu thế gian không có Phật, thì chẳng phải không có người Nhị thừa được hai thứ Niết-bàn. Giải thích ý nghóa Chiên-đà-la được Phật thọ ký. Xuất xứ Đức Phật tự nhận cúng dường của Thuần-đà để hóa độ, Đức Phật nhận sự cúng dường của đại chúng. Đức Phật nói mười ba bài kệ, cho rằng giả sử con quạ và cú tai mèo đồng ở trên một cành cây. “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng:” Cho đến “Lại giải thích phân biệt cho ông nghe, để ông được dứt hết nghi ngờ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Nếu ba thừa không có tánh thì làm sao nói được?” Ở trên lại nói thể của kinh nhân quả đã đồng, thường cố gắng tu hành, nhưng vẫn chưa nói về phương pháp tu. Sắp nói về năm hạnh là căn bản của tu, lại dùng mười câu hỏi để giải thích về sự nghi ngờ của Thuần-đà và Khuyên Tin. Vì sao? Vì nhân quả của kinh, về mặt lý rất mầu nhiệm, sâu xa, mà Thuần-đà đã biết trước, còn chúng đương thời thì vẫn còn nghi ngờ. Bồ-tát Văn-thù biết đại chúng vẫn còn hoài nghi, mà không thể giải quyết, nên dùng việc để hỏi Phật. Nghi rằng: “Từ duyên được pháp, đều là vô tánh. Thành quả của ba thừa đều từ duyên mà được. Nếu Phật là thường thì người Nhị thừa cũng thường. Nhị thừa vô thường, Phật cũng vô thường, nên nói rằng không có khác nhau. Ngược lại, nếu người Nhị thừa là thường, thì vì sao lạc thật sự chưa sinh, mà gọi là thọ lạc ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ đây cho đến đạo vô thượng hơn hết, đều là khen ngợi rộng. Vì sự lợi ích của kinh, không ngoài nhân quả. Trong bảy câu hỏi trước, bốn câu hỏi nói về lợi ích của nhân, ba câu hỏi nói về lợi ích của quả. Một vòng nói về nghóa, nhân quả có hai lợi ích, hoàn toàn ở văn trước. Dưới đây Bồ-tát Văn-thù lập lại hoài nghi của Thuần-đà để khen ngợi rộng, bởi con người được hiểu là do kinh này.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Điều mà Thuần-đà nghi ngờ với câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp, nói về ý thì đồng mà lời lẽ thì khác nhau.” “Phật bảo: “Này người thiện nam! Tâm nghi ngờ thế nào?” cho đến “Thanh văn, Duyên giác đều có khác nhau.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Ở trên nói Tam bảo có lúc thịnh, lúc suy, dường như chẳng thường trụ, đến nỗi sinh nghi ngờ. Chính vì lẽ đó, nên Thuần-đà đã bày tỏ đồng có hoài nghi. Bồ-tát Văn-thù thuật bày để kích phát bậc đại Thánh, sẽ làm sáng tỏ Phật tánh của Ba thừa, đồng trở về một mối. Cho nên Tam bảo sẽ được hưng thạnh mà không diệt. Nếu không như vậy, thì ba thừa không có tánh làm sao đồng với vắng lặng ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghi rằng: “Vốn không có mà nay có là pháp vô thường. Như lai là vốn không mà nay có, y cứ vào sự mà tìm cầu, lẽ ra là vô thường, vì khai sáng tông chỉ nói là thường? Vì vậy cho nên sinh nghi. Lại, Bồ-tát Ca-diếp ở trên đã nói về ba thừa vô tánh, tức là lẽ ra không có. Nếu ba thừa kia có tánh thì lẽ ra phải thấy tác dụng. Lời nói của hai Đại só dù có khác nhau, nhưng chỉ thú vẫn đồng. Dưới đây Đức Phật sẽ dẫn kệ để đáp hai nhà: “Bấy giờ, Đức Thế tôn bèn nói kệ rằng:” cho đến “Vừa có khác nhau, vừa không khác nhau.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vốn có mà nay không: là vốn có phiền não mà không có Niết-bàn. Vốn không mà nay có, là vốn không có Bát-nhã mà có phiền não. Nếu cho rằng Phật ba đời đều có phiền não thì không có việc đó. Cho nên duyên thì đồng mà lý do thì khác. Vì có phiền não nên vô thường, vì không có phiền não nên là thường.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Đem lại lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp làm người đứng đầu thưa hỏi pháp, do nghóa trên còn bí ẩn, nên phải hỏi thật sáng suốt để nhận hiểu một cách rộng hơn.” “Phật nói: “Này người thiện nam! Hãy lắng nghe cho kỹ!” cho đến “Do nhân duyên nghiệp báo, nên làm cho sữa đồng một màu.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trưởng giả dụ cho Đức Phật trước, bò dụ cho người tu hành. Màu sữa khác dụ cho ba thừa. Một người dụ cho Đức Phật nay. Ba thừa đã thành Phật, báo đáp công ân của Phật trước, như việc cúng kiến. Được một thùng đựng Đại Niết-bàn. Màu trắng, dụ cho ngã, lạc, tịnh. Người ấy suy gẫm kỹ, đầy kinh ngạc. Vì sao mỗi con trong đàn bò đều khác màu mà sữa của chúng đều đồng một màu? Sẽ giải thích lý do, giả làm lời kinh ngạc, vì nhân khác mà quả một. Người này suy gẫm kỹ, nghóa là nhân quả của tám muôn hạnh không khác nhau.” “Này người thiện nam! Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát cũng như vậy” cho đến “Vì sao? Vì đồng dứt sạch hết phiền não.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với trước, mà màu sữa là một.” “Mà các chúng sinh lại nói Chư Phật, Bồ-tát” cho đến “Tự hiểu rằng, màu sữa đồng một là do nhân duyên nghiệp báo.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với trước, ngạc nhiên nhưng về sau thì tỏ ngộ.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như quặng vàng” cho đến “Vì đã biết dứt vô lượng ức phiền não.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Ví dụ trước nói nhân duyên Phật tánh đều đồng nhất. Ví dụ này nói về nhân quả Phật tánh. Nói ba thừa đồng có tánh này. Tu đạo, dứt hết kiết, rèn luyện, hun đúc mới được thành Phật. Lý này chẳng phải vốn có mà nay không, hay vốn không mà nay có.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Người nói như vậy có nhiều lỗi lầm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắp hỏi về sự khác nhau, ở trước thưa hỏi không có khác nhau, nghóa là về nhân cũng “Có”, quả cũng “Có”, nghóa “Có” không khác nhau, thì có gì khác nhau? Chúng sinh “Có” tánh, giống như mình “Có”, sinh ra lời hỏi này.” “Nếu các chúng sinh đều có Phật tánh” cho đến “Như lai Niết-bàn mà không nhập Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu trước đã có thì được, lẽ ra là đồng, không nên có khác.” “Này người thiện nam! Niết-bàn mà Chư Phật, Thế tôn chứng đắc” cho đến “Đại Niết-bàn, gọi là có thiện.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì chỉ có Đức Phật mới được, nên chẳng phải có trước. Nếu chẳng phải có trước thì cả hai lời hỏi đều cùng giải thích, gọi là “Có”, nghóa hữu vi bất thiện. Ba việc vô vi, gọi là “Có” thiện.” “Nếu thế gian không có Phật, thì chẳng phải không có người Nhị thừa” cho đến “Một Đức Phật xuất hiện ở thế gian, để khai thị ba thừa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ Đức Phật có điều thiện. Chẳng phải Phật được, nghóa là chẳng phải có thiện. Tức có một Đức Phật, nghóa là có điều thiện khó thành, phải nhiều kiếp mới thành. Khai thị ba thừa, nghóa là ba chẳng phải thật có, chẳng phải trước rốt ráo.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là nói người Nhị thừa không được nghóa Niết-bàn. Nếu là Niết-bàn cùng cực, thì Bồ-tát rất gần. Đời không có Phật, còn không có huống chi người Nhị thừa ư? Mà nói rằng người Nhị thừa được Niết-bàn, đó là không thật.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Căn cơ có Đại, Tiểu, đều có rộng, hẹp. Đời không có chúng sinh có tâm Đại thừa, mà vì nói quả thường, để cho thành Phật, chẳng phải không quyền nói người Nhị thừa được hai diệt vì chí họ nhỏ hẹp, phải nói quyền để dắt dẫn họ, biết được quả “Không có thật” chưa cùng cực thì đâu được trách cứ khiến cho đồng với Niết-bàn của Phật ư?” Lại giải thích: Nếu thế gian đều không có lý thành Phật thì chẳng phải không có người Nhị thừa được hai Niết-bàn. Về lý đã không như vậy thì nên biết được người Nhị thừa quyền lập ra Tiểu quả, đâu được đồng với Phật ư?” “Vô lượng kiếp mới có một Đức Phật ra đời”, là giải thích câu trên, nghóa là viên giải, khó bền chắc, đảo thường dể sinh, vì không có thiện cảm với Phật, nên Phật không thường xuất hiện. Vì căn cơ thiện ít có, nên ở vào thời kỳ có một Đức Phật xuất thế, trái với giáo hóa, mất căn cơ, động thì trải qua kiếp số làm sao nói là đại ư? Đến nỗi giáo pháp chỉ vì hấp dẫn ba thừa, nên biết tiểu quả chỉ là quyền lập bày, chứ chẳng phải “Thật”. “Này người thiện nam! Như ông đã nói, Bồ-tát, Nhị thừa” cho đến “Vì cho nên gọi là Đại Bát-niết-bàn.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên đã đáp chung.” Lại, dẫn thuyết xưa để đáp riêng lời hỏi ở trước. Thuyết xưa nói ví dụ chữ Y và giải thoát là sắc, mà người Thanh văn thì chẳng phải sắc, đã nói về nghóa của ba việc có thiện.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Như lời Phật nói nay con mới biết, cho đến vừa sao khác, vừa không sai khác. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Xứng với hai thuyết của Phật mà nhận hiểu. “Bồ-tát Ca-diếp bạch rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là tánh khác nhau?” Cho đến “Các phiền não tạp nhạp cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên đã nói Đức Phật khác với Nhị thừa, chưa nói mỗi người đều khác, nên hỏi lại. Thanh văn như sữa, nghóa là nhân có xa gần: Thanh văn, Bồ-tát, đối với Phật cũng vậy.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch: “Trong thành Câu-thi-na” cho đến “Tôn giả Mục-kiền-liên… đã nhanh chóng thành Phật đạo.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên đã nói nhân của Thanh văn phàm phu có gần, xa mà vui mừng Chiên-đà-la trong số một ngàn vị Phật, nhưng không nói Thanh văn, đây là nhân gần mà lại xa là sao?” “Phật nói: Này người thiện nam! Hoặc có Thanh văn” cho đến “Vì phát nguyện nhanh chóng, nên thọ ký cho mau thành Phật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hạnh có trong, ngoài. Hạnh nghiêng lệch thì chậm, hạnh phổ biến thì mau chóng, mà hạnh nghiêng lệch của Thanh văn là hạnh ngoài. Vì sao? Vì trước đó có tâm tiểu, nên phải có thời gian để dứt bỏ hạnh nghiêng lệch, còn phàm phu thì không như thế, nên mau chóng hơn.” “Lại nữa, này người thiện nam! Ví như người buôn bán” cho đến “Người giữ gìn, che chở chánh pháp thì thọ ký cho lâu thành Phật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây là nói phàm phu biết Thanh văn với chí hướng nhỏ, tự khinh thường hạnh của mình. Vì vậy, nếu Đức Phật thọ ký cho mau chóng, thì phải xem xét sâu xa. Dưới đây, trong phần hợp dụ, sẽ nói về việc đó. Người buôn bán dụ cho Phật. Viên chân ngọc dụ cho công hạnh được ghi nhận. Nhà buôn dụ cho lời thọ ký. Châu pha lê, dụ cho hạnh sinh tử.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Sẽ được quyến thuộc không bao giờ hư hoại.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Các Bồ-tát làm thế nào để được quyến thuộc không hư hoại?” Vì Thanh văn ở trên, giữ gìn chánh pháp, trang nghiêm quyến thuộc. Quyến thuộc là quả ngoài của Đức Phật, chính vì quả ngoài, nên Đức Phật khuyên tin.” Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Vì nghóa này nên gọi là nhục nhãn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi: “Vì sao mù bẩm sinh mà làm người dẫn đường cho kẻ có mắt? Kế là, vì quả bên trong nên khuyên tin. Nếu không nhận thức được quả thường thì sẽ không biết thân là nhân thường. Đối với nhân không thấy thì gọi là mù bẩm sinh, không biết chi tiết tay chân của thân mình, gọi là người không có mắt. Thường là người chưa thể thấy, là che lấp việc bên ngoài, gọi là người không có mắt. “Này người thiện nam! Như lai thường vì” cho đến “Do nghóa này, nên gọi là cha mẹ.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Thị hiện nhiều đầu là thế nào? Cúi mong Đại tiên giảng nói?” Do nói để khuyên tin, nghóa là người giảng nói chính là Phật. Phật có Đại từ, là lời nói của cha mẹ chúng sinh nên chẳng thể không tin. “Vì sao trở xuống”. Là Phật nói bằng một âm thanh, chúng sanh, đều được nhận hiểu, chứng tỏ lòng từ.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Như người sinh con trai” cho đến “Mà vì chúng sinh giảng nói pháp mầu.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Kế là đáp câu hỏi: “Thế nào là người nói pháp thêm lớn như trăng mới mọc”? “Đầu tiên nói pháp vô thường, về sau nói pháp Thường, giống như xem thường người, không có lòng từ với chúng sinh, chẳng phải nghóa cha mẹ là nói không đúng, nên dùng việc cha mẹ dạy dỗ con trẻ để làm ví dụ.” ------------------------- <詞>Phẩm 17: ĐẠI CHÚNG VẤN (Phần 1) Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc giáo hóa đã rốt ráo, Phật muốn nhập Niết-bàn, đại chúng thỉnh Phật, dùng làm tên phẩm kế là, đáp câu hỏi: “Thế nào là thị hiện rốt ráo Niết-bàn?” Dưới đây, cuối cùng là năm việc dựa, nằm v.v… là thể hiện nghóa Niết-bàn, trước sau đều có một việc: Nhờ không ăn, nên không bệnh, chứng minh Đức Phật không diệt mà ứng hiện diệt, để chứng tỏ rằng, Niết-bàn là thị hiện. Trung gian mở bày ba việc, nhằm thị hiện tất cả công việc đều đã làm xong. Biết Phật thường trụ nên nói việc giao hóa của Phật trong hiện tại đã xong. Nói hữu dư, vô dư là giáo vị lai đã xong. Thọ ký cho Bồ-tát Văn-thù v.v… là việc đã xong. Vì năm việc trên đã rốt ráo, nên Phật thị hiện nhập Niết-bàn.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Ở trên nói thêm lớn như trăng mới mọc, nghóa là trước nói, Đức Phật nói về pháp cạn, gần là nói vô thường. Ở đây nói sau cùng, giáo thường, lạc là nói thị hiện, nghóa là nói thật không có diệt, nhằm nói rõ nghóa Thường trụ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ hai mươi sáu. Cũng gọi là phẩm Tùy Hỷ. Văn dưới, đại chúng nghe Phật nói về nghóa thường, tất cả đều vui mừng. Lại chép: Thuần-đà thành đạo, ta cũng tùy hỷ. Văn xuôi trước bài kệ là câu hỏi đáp. Trong bài kệ nói không diệt, là nghóa thị hiện mới rõ ràng.” “Bấy giờ, từ khuôn mặt Đức Thế tôn phát ra các thứ ánh sáng màu” cho đến “Thuần-đà và quyến thuộc, mang đầy đủ các thức ăn đến trước Phật.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ý ở chỗ Thuần-đà thúc giục cúng dường Đức Phật.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Theo pháp của đạo Phật xưa là quá giữa ngày không ăn. Thời điểm đó đã đến! Vì không cho phát ngôn, nên Phật phát ra ánh sáng, nhằm nói rõ ý mình.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây trong văn xuôi có mười việc, đây là việc thứ nhất, là kinh gia kể lại việc Thuần-đà đã nhờ ánh sáng Phật soi chiếu, liền biết được việc ấy, nên sửa soạn vật phẩm để dâng cúng.” “Bấy giờ có trời, người oai đức lớn” cho đến “Cùng đem cúng phẩm đến chỗ Phật để cúng dường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ánh sáng lại thôi thúc lần nữa, Thuần-đà biết lúc cúng dường đã đến, nên cảm động mà làm theo.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là việc thứ hai.” “Bấy giờ trời, người và các chúng sinh” cho đến “Các Tỳ-kheo thọ nhận của cúng dường này.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật không nhận, Thuần-đà không dám thỉnh nữa, nên cúi mong Đấng Đại Bi cho phép các Tỳ- kheo nhận.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là việc thứ ba.” “Các Tỳ-kheo biết đã đến giờ ăn” cho đến “Như cõi nước An lạc ở phương Tây.” Nhận xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là việc thứ tư, kinh gia kể lại việc các Tỳ-kheo cũng biết đã đến giờ ăn, nên bưng y bát, an lành ngồi yên.” “Bấy giờ, Thuần-đà ở trước Phật” cho đến “Sau cùng đầy đủ Đàn ba-la-mật.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Việc thứ năm là thỉnh Phật trụ lại thế gian.” “Bấy giờ, tất cả Đại Bồ-tát” cho đến “Chúng ta thật vô phước, uổng công thiết cúng.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Việc thứ sáu, mừng cho Thuần-đà.” “Bấy giờ, Đức Thế tôn muốn cho tất cả” cho đến “Tự nhận phần của Thuần-đà dâng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hóa Phật không ăn, nói lên Đức Thích-ca cũng vậy, nhằm nói về nghóa không diệt mà thị hiện diệt. Tự thọ cúng phẩm mà Thuần-đà đã lập bày, là vì người nên nhìn thấy, mới có thuyết này mà thôi, chứ không phải quyết định như vậy.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Pháp thân này không có hình tượng, ứng thân, hóa thân đâu có khác. Tự nhận lãnh cúng phẩm của Thuần-đà, nghóa là thị hiện chủ thỉnh có người, chứng tỏ Thuần-đà không khác với nguyện ở kiếp trước.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là việc thứ bảy.” “Bấy giờ, do thần lực Phật, tám hộc cơm của Thuần-đà” cho đến “Đều cung cấp đầy đủ cho tất cả đại chúng trong đại hội.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là việc thứ tám, nêu lên nguyện vọng của Thuần-đà và đại chúng đều được thỏa mãn, tất cả đều vui mừng.” “Bấy giờ, đại chúng đồng tiếp nhận Thánh chỉ của Phật” cho đến “Những thức ăn cũng không khác nhau.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là việc thứ chín, nói lên việc đại chúng tiếp nối ý chỉ của Phật, nên nghó rằng, Đức Phật sắp vào Niết- bàn,.” “Bấy giờ trời, người, A-tu-la… ” cho đến “Chúng ta mất hẳn Đấng Điều Ngự Vô Thượng, khác nào người mù không có mắt.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là việc thứ mười, trước nêu lên hoài niệm, nay nói về phát ngôn.” “Đức Thế tôn vì muốn an ủi” cho đến “Đây là lời thệ nguyện, trên hết của Chư Phật.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong đây nói mười ba bài kệ, không có văn chủ đích, chính là nên bỏ bốn bài kệ trước sau, chỉ lấy bài kệ giữa. Đại ý nói về pháp thân Phật tròn đầy cùng cực, ứng mà không nhập diệt. Bốn bài kệ trước, môt mặt an ủi, khuyến dụ, bốn bài kệ sau, làm cho đại chúng đều được an tâm có sự tồn tại, không nên lo buồn, tức là đáp câu hỏi về nghóa Niết-bàn rốt ráo mà Phật đã thị hiện ở trên.” Ở trên nói thị hiện, là nói Như lai đã thành Phật từ lâu, nhập Niết- bàn đức Viên của chữ Y, nên mới nói nghóa mầu này, sao cho đại chúng được mở mang hiểu biết, tức là thị hiện. Lại, một nghóa khác: Đã là gốc diệu không diệt, đây là ứng tích thì chẳng lúc nào không hóa độ, chỉ một ứng không hiện, cũng nói là nhập diệt.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Xướng có mười ba bài kệ, thệ nguyện chỉ có mười hai, không biết vì lý do nào mà như vậy? Có lẽ là do sự rời rạc của kệ. Nếu không như vậy thì mười ba chữ là lầm, nên nói mười hai.” Pháp sư Trí Tú nói: “Trong kệ chia thành bốn đoạn: Có một hàng rưỡi, nói thị hiện nhập Niết-bàn đã lâu, thật ra vẫn tồn tại mãi. Kế là, có một hàng nói vì đã được Niết-bàn, nên từ lâu không có khổ đói, khát. Kế là có mười bốn hàng rưỡi, nêu nhiều ví dụ, nói nay không phải thật diệt, chỉ là thị hiện nhập diệt, tức trong mười bốn hàng này, còn có ba ý, một hàng rưỡi trước là khuyên. Mười hai hàng giữa chính thức nêu rõ chỉ thú của kệ. Một hàng sau cùng là kết đại ý khuyên. Có bốn hàng, nêu Tam bảo vẫn tồn tại mãi, nói về tướng mạo Niết-bàn, có ba ý: Hai hàng đầu là khuyên, một hàng kế là nêu Tam bảo, khuyên hãy cầu mong quả thường. Một hàng sau là nêu thệ nguyện của Chư Phật, kết thành lý do của ý khuyên.” “Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni” cho đến “Kẻ không thể quán sát rõ Tam bảo thường trụ, chính là Chiên-đà-la.” Xét: Pháp sư Đàm Tiên nói: “Kế là đáp câu hỏi:“Thế nào là người dũng cảm, tinh tấn?” Chỉ bảo đường ma cho trời, người biết. Nói nếu theo Phật phát thệ nguyện trước, là tức đạo trời, không hiểu nhất thể Tam bảo, thường, lạc, ngã, tịnh, gọi là đạo ma. Người Chiên-đà-la chính là kẻ giết, là lời khác của ma.” “Nếu có người biết Tam bảo là thường trụ” cho đến “Không có ai nhiễu hại, làm trở ngại.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Làm sao biết được pháp tánh mà thọ pháp lạc?” Nói Tam bảo là pháp tánh chân thật, người nào biết thì mãi thọ an vui.” “Lúc đó, cả đai chúng, trời, người, A-tu-la… ” cho đến “Đánh trống trời, kỹ nhạc trời để cúng dường Phật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Để đáp câu hỏi này: “Biết được pháp tánh, thọ pháp lạc là sao?” Chúng hội đương thời biết Phật thường trụ là biết pháp tánh thọ an vui, nghóa là hiện tại hóa đạo đã xong, nên thị hiện nhập diệt.” “Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Đều biết Như lai là pháp thường trụ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn cho người nói dị kiến để làm rõ năng lực âm thầm của Như lai, đều biết sự thọ vui của pháp tánh, có hai lượt: Đây là lượt thứ nhất ở trước hỏi Bồ-tát Ca-diếp”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Căn cứ vào năm việc trong lời đáp cho Bồ-tát Ca-diếp: Thấy Chư Phật rất đông. Thấy chỗ ngồi rất nhỏ mà có khả năng dung nạp. Thấy đại chúng đều y theo mười ba bài kệ mà Phật đã nói. Thấy đại chúng đều tâm niệm rằng: “Chỉ riêng tôi được cúng dường Đức Thích-ca.” Thấy phẩm vật cúng dường của Thuần-đà, dù rất ít ỏi, nhưng vẫn dâng cung đủ cho đại chúng.” “Đức Thế tôn bảo Thuần-đà rằng”: Cho đến “Đại Bồ-tát… cung kính vây quanh.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thuần-đà tự nhận thấy một việc, đều hợp với trước hành sáu việc. Đây là nói về việc hiện tại đã hoàn tất. Từ khi đắc đạo đến nay, đối tượng được hóa độ có thể có lợi ích, người có duyên được lợi ích, cuối cùng đều do đây.” “Phật bảo Thuần-đà: “Vô lượng Chư Phật mà ông đã thấy” cho đến “Đã làm xong đầy đủ các công hạnh của Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trên đã nêu hai lớp lược và rộng để nói về nghóa thường. Lại đáp hơn hai mươi câu hỏi đã xong, chính là kết quả: “Thuần-đà trụ trong Địa vị Thập Trụ, hầu hết các công hạnh đã làm xong. Phải biết rằng về mặt lý, giáo, có thể biểu trưng, đâu phải chỉ nói chú Đà-la-ni mà sáu muôn bốn ngàn người liền được Vô sinh nhẫn. Vì thế, nên biết giáo xưa chắc chắn là phương tiện, giáo nay chắc chắn là chân thật. Nếu giáo xưa không thường dùng phương tiện để nói rằng: “Có người đắc đạo”, thì tâm vào đạo của người ngu, sẽ không dao động.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Nói là kinh Đại thừa Đại Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong lời đáp câu hỏi thứ hai mươi bảy, nói về việc vị lai đã xong, vì mở ra hai môn tà, chánh, mười việc ác là đường ma, mười điều lành là đường trời, khiến cho bỏ điều ác, thực hành các điều lành, nên nói là việc vị lai đã xong.” <篇> ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương <卷>QUYỂN 25 <詞>Phẩm 17: ĐẠI CHÚNG VẤN (Phần 2) Giải thích nghóa bài kệ Hữu Dư - Vô Dư. Nói về nghóa bố thí cho Xiển-đề không có phước. “Bạch Đức Thế tôn! Tất cả khế kinh nói có còn nghóa thừa” cho đến “Vừa có nghóa Thừa, vừa không có nghóa thừa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói khắp Khế kinh có đủ hai thứ, như trong kinh Pháp Hoa nói một giải thoát là không có thừa. Lại nhân bội số lên, là có thừa. Ngoài ra đều như vậy.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trong các tội như: Chê bai chánh pháp, trái phạm bốn tội trong năm tội nghịch v.v…, đầu tiên không cải hối, thì tâm hộ pháp sẽ dứt trừ gốc lành, hưóng về Nhất-xiển-đề, ở đây nói là chỉ bày đường ma. Nếu thường có tâm hổ thẹn, khởi tâm che chở giữ gìn chánh pháp, thì nhờ nhân duyên này, giới sẽ trở lại như lúc đầu, tức cũng là đường trời. Từ đây, dứt bỏ phá giới, như nhổ bỏ cỏ dề, cỏ đắng, là đáp câu hỏi này.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây, cuối cùng là pháp trai giới thứ bốn mươi tám, chính là đáp câu hỏi thứ mười bảy: “Thế nào là chúng sinh? Là nói rộng về bí mật, mà từ trước đến sau, dứt bỏ phá giới, như nhổ cỏ dề, cỏ đắng, là đáp câu hỏi thứ mười sáu: “Thế nào là các Bồ-tát lìa bỏ tất cả bệnh? Vì sao? Vì trước đã nói về khó bố thí có dư, vẫn chỉ rõ cách lìa bệnh. Tội phá giới làm hư hoại thân, tâm, nói là bệnh. Nhờ năng lực kinh nên tiêu trừ bệnh trên, do đó mà nêu lên câu hỏi này. “Thuần-đà bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Như lời Phật đã nói” cho đến “Ngoài ra tất cả đối tượng bố thí cho đầy đủ nên khen ngợi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xiển-đề, là không có các gốc lành như tín v.v… gọi là xiển-đề. Nguyên tắc giết hại, tội không có từ đất, cũng như thí cho không có phước từ đất, nên phải dứt trừ.” Thuần-đà bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Sao gọi là” cho đến “Nhất-xiển-đề, nghóa ấy thế nào?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi ở trong khoảng đã thành xiển-đề hay chưa thành xiển-đề? Ý Thuần-đà cho rằng, dù chưa thành xiển-đề, nhưng đây là người đã gây ra nghiệp ác rất nặng. Dù có chút ít việc lành nhỏ nhoi, nhưng là đồng với không có gốc lành, vì cho nên hỏi lại.” “Phật bảo Thuần-đà: Nếu có Tỳ-kheo” cho đến “Cũng gọi là xu hướng, con đường của Nhất-xiển-đề.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thành câu hỏi của Thuần-đà. Nói bốn hạng người ác, không bao giờ hối cải, xu hướng xiển-đề.” “Nếu lại có người nói: Không có Phật, Pháp, Tăng” cho đến “Bố thí cho người khác tất cả đều khen ngợi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì pháp tướng vô biên, không thể một người mà biết đều không có Phật, Pháp, chúng Tăng, nên dù có nhân quả, cũng xu hướng xiển-đề.” “Bấy giờ, Thuần-đà lại bạch Phật rằng” cho đến “Những người như vậy, gọi là phá giới.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba tội nghịch chê bai chánh pháp, không hẳn có giới. Nói phá giới, nghóa ấy thế nào? Nếu phạm bốn tội nặng, cuối cùng gọi là phá giới, là nói về Tỳ-kheo hại người thân, chê bai chánh pháp, tội ấy nặng đối với người tại gia. Nay, sao chỉ nói là phá giới?” Thuần-đà lại hỏi: “Bạch Đức Thế tôn! Người phá giới như vậy” cho đến “Ta nói người này không bị phá giới.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu hai nhân duyên: Sinh tâm sửa đổi tội nặng. Siêng năng giữ gìn chánh pháp, đủ hai điều lành này, thì không chướng ngại giải thoát, gọi là không phá giới.” “Vì sao? Này người thiện nam! Ví như mặt trời mọc” cho đến “Bố thí cho người này, được phước không đáng kể.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên dù đã nói thọ học Đại thừa, nhưng chưa nói khả năng cứu vớt người phạm tội nặng? Chính là kinh Niết-bàn này.” “Lại, này người thiện nam! Người phạm tội nặng” cho đến “Thí cho người này, sẽ được quả báo cao quý.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp có sâu, cạn, tâm gây tội có nhẹ, nặng. Tâm nặng gây tội, tâm nhẹ không thể diệt, nên mới nói rộng về tướng đó.” “Này người thiện nam! Ví như thiếu phụ kia mang thai, gần ngày sinh nở” cho đến “Có vô lượng quả báo như thế… .” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho tâm trân trọng giữ gìn chánh pháp, pháp do người mở rộng, pháp được rộng lớn là ở thực hành, nghóa là giới, định, trí tuệ, lần lượt sinh nhau. Giải tuệ ngày nay dùng giới, định làm nhân, dụ cho sản phụ. Giải nay, dụ cho con. Giới định xưa rất thanh tịnh, tất nhiên sinh tuệ vượt hơn, dụ cho sắp sinh. Gặp phải duyên ác mà phạm trọng cấm, dụ cho trong nước có loạn lạc. Bỏ nhơ của sạch, dụ cho trốn qua nước khác. Do năng lực của nhân xưa nghe kinh Niết-bàn, dụ cho thiếu niên. Tin thường, lạc, tịnh, dụ cho sinh con. Lại nghe kinh nói về công đức giữ gìn chánh pháp có công năng dứt trừ việc phạm tội nặng, dụ cho nghe tin nước nhà đã được yên ổn, giàu sang. Siêng năng gia công giữ gìn chánh pháp, dụ cho mang con, muốn cho giới bổn thanh tịnh, dụ cho trở về quê cũ. Đời mạt pháp có nhiều “Hoặc” tà, người cố chấp giáo nghiêng lệch, không thọ lãnh thuyết thường, nên cả hai đều chết chìm, không hề bỏ con để được sống sót một mình, dụ cho qua đời. Dù có bổn ác phá giới, nhưng vì công đức giữ gìn chánh pháp, nên khởi lên đại đạo, sẽ được sinh lên cõi trời.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Vì cải hối, làm người giữ gìn chánh pháp, nghóa là lập ra ví dụ. Nói điều lành xưa đã có mầm, chồi của “Giải” nay, dụ cho mang thai. Thiên miếu là nơi giảng pháp. Nghe pháp sửa đổi, sinh tâm che chở giữ gìn chánh pháp, dụ cho sinh con một.” “Thuần-đà lại bạch Đức Thế tôn: “Nếu hạng Nhất-xiển-đề” cho đến “Tất cả việc thí cho, chẳng phải không có khác nhau.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quả Am-la là quả có khả năng sanh ra quả, dụ cho việc lành có công năng sinh ra việc lành. Về cách gieo trồng quả này, là đập vỡ hạt quả, bỏ cơm (thịt) thì khó mọc mầm, để nguyên cả hạt quả, nhân và cơm thì dễ nẩy mầm, mà người phạm tội nặng, dụ cho ăn hết cơm của quả. Mửa hạt quả dưới đất. Hạt quả dù mọc khó, tự nó vẫn có thể làm hạt giống cho quả, là nói dù người phạm tội nặng, mà còn có việc lành nhỏ nhoi, vẫn có khả năng làm hạt giống lành. Đập vỡ ra để nếm, vì ham ngọt, nên đã tiêu diệt hat giống của quả, dụ cho ngu si quá nặng. Nên đã cắt đứt gốc lành nhỏ nhoi. “Lòng cảm thấy hối hận” trở xuống, là nói hạt giống của quả đã bị làm hư, nên dù muốn giữ gìn chăng nữa, quả cũng không thể mọc mầm, dụ cho điều lành bị cắt đứt, mà không hối tiếc thì đâu được sinh? Không gọi người xiển-đề, vì không ăn năn, nên gọi là xiển-đề thôi, chứ không phải vì ăn năn, nên gọi xiển-đề.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Dụ cho học trò của Nhất-xiển-đề không sửa đổi này, cho người mới thọ giới là ăn quả, phá giới là mửa ra hạt quả”. “Thuần-đà lại bạch: Vì sao Như lai” cho đến “Trừ bỏ phá giới, như nhổ bỏ cỏ dề, cỏ đắng?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là đệ tử Phật chưa được niềm tin thanh tịnh, cũng thờ Ni-kiền. Ni-kiền nói: “Chỉ thí cho Ni-kiền là có phước, ngoài ra không có phước”, sinh nghi liền đến hỏi Phật, Phật nhân việc này mà đáp.” “Này người thiện nam! Như ta ngày xưa” cho đến “Tất cả tự tại, chắc chắn hưởng yên vui.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Trên đây đã nói nghóa không có thừa, một vòng đã xong. Nay, kế là nói về thuyết xưa đều cũng có nghóa thừa không cùng tận. Nếu người tu hành hiểu rõ pháp tánh có thừa này thì sẽ không có khổ tám đảo, chỉ thọ hưởng pháp lạc mà thôi. Từ đây đến cuối phẩm, là đáp câu hỏi: “Thế nào là biết pháp tánh, mà được thọ hưởng pháp lạc?” “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Hỏi rộng Như lai về nghóa kệ như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người nữ không có thật đức, người nam thì không tự tại. Thế gian không có niềm vui, không nên tỏ ra ngạo mạn, không thọ lãnh pháp Phật.” “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp Vương Tử” cho đến “Người như vậy là đệ tử của ta”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người có tội cầu xin sám hối, cầu người nhận cho sám hối vui mừng, nên chỉ thuận theo không trái, tất nhiên, do người nhận sám hối mà được thanh tịnh. Chính vì vậy, nên không quán tạo tội, vì không tạo tội, trong tâm phải cảm thấy rất hổ thẹn, nên biết không sám hối là ác, sám hối là thiện, thành ra chỉ tự quán hành động thiện và bất thiện của thân. “Bấy giờ, Đức Thế tôn vì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Hỏi Như lai về mật giáo như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu La-hán dùng bản thân mình để dụ cho người kia thì phàm phu cũng phải giữ gìn và La-hán cũng phải giữ gìn.” “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại nói bài kệ này” cho đến “Thì sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vô minh đứng đầu các “Hoặc”, dụ cho cha, tánh tham ái nhiễm, dụ cho mẹ.” “Bấy giờ, Đức Như lai lại vì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Hỏi Đức Như lai về mật ngữ như thế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thuộc về nghóa thầy không thành. Dạy bảo là do ở thầy, nghóa chúng cũng đủ ở thầy, do đó nghóa khổ không thành. Về nghóa không thuộc về thầy không thành, nghóa là không từ thầy dạy bảo, ngu tối không biết, là nghóa vui không thành. Nếu được tự tại thì không thành, nghóa là không thuộc về thầy, nên ngu tối không biết, không gọi là tự tại.” “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại nói bài kệ rằng” cho đến “Bấy giờ, tôi sẽ nói bài kệ này cho họ nghe.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai bài kệ nói về công đức của tám giới. Tám giới lấy trai làm gốc, là giải thích lý do tại sao phải ăn chay. Gốc của sinh tử là ăn và ganh ghét, khó dứt bỏ ngay được. Ăn chay nghóa là để bớt đi cái ăn, là nhàm chán sinh tử. Cho nên Phật quở Đế Thích. Người đã dứt hết các lậu, nên nói bài kệ này. Kệ ở trong văn luận: Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ lớp từ xưa đến nay, về sự nghiệp giáo hóa chúng sinh của Phật rất sâu rộng, công đức đã tròn đầy, thì lẽ ra không nên bị bệnh!? “Bạch Đức Thế tôn! Đại Bồ-tát” cho đến “Vì sao hôm nay, Đức Phật lại nói rằng bị bệnh?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ năm là nói về thuở còn tu nhân Bồ-tát, có đủ các nguyện lớn, lược nêu chín nguyện, đủ chứng tỏ chỉ yếu không bị bệnh.” “Bạch Đức Thế tôn! Trong thế gian có người bị bệnh” cho đến “Không nên nói là hôm nay, ta đau lưng.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ sáu là nói về người đời đến lúc sắp qua đời, không thể có lời răn dạy. Như lai, đấng được suy tôn cao siêu, chẳng lẽ đồng với hạng người này?” “Bạch Đức Thế tôn! Trong thế gian có người bị bệnh” cho đến “Không nên im lặng nằm nghiêng hông bên phải?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ bảy là nếu có dấu vết này, thì sẽ bị ngoại đạo chê cười!” “Bạch Đức Thế tôn! Trong thế gian có người bị bệnh” cho đến “Đem lại lợi ích cho chúng sinh, dẹp tan các ngoại đạo.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Việc thứ tám là tạm mượn thân người đời suy ra, so sánh với Phật, tất nhiên không bị bệnh, vẫn nói bài kệ để khuyên.” Pháp sư Trí Tú nói: “Bảy lần “Lại nữa” đây là lần thứ nhất, suy ra Đức Phật lẽ ra không nên bị bệnh. “Bấy giờ, Đức Thế tôn, đại bi đầy trong lòng” cho đến “Tu hành pháp ác, trừ Nhất-xiển-đề.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Kệ trước thỉnh rằng: “Đại bi nay ở đâu? Đó là vì nhà dịch kinh hay vì Phật khởi, nên nói: “Đại bi đầy trong lòng.” Pháp sư Trí Tú nói: “Lần thứ hai này, Đức Phật đã phát ra ba thứ thần lực, để đem lại lợi ích cho tất cả.” Bấy giờ, tất cả Trời, Rồng, Quỷ thần” cho đến “Khắp cả Tịnh Cư đều được nghe Phật nói pháp.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Lần thứ ba, đại chúng đều được nhiều lợi ích, rộng bày cúng dường, thỉnh Phật nói pháp.” “Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Bèn cho rằng Như lai thật sự bị bệnh.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Lần thứ tư là trước kia, Phật đã nói rõ rằng Ngài đã khỏi bệnh từ lâu!” “Này Bồ-tát Ca-diếp! Như nói Như lai là Sư tử trong loài người” cho đến “Cũng không rốt ráo nhập Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói rộng là Đức Như lai không bao giờ bị bệnh, nếu nói bị bệnh là “Mật giáo” nhờ đây lại được giảng nói rộng bí mật. Kế là đáp câu hỏi “Thế nào là vì chúng sinh, mà nói rộng về bí mật?” “Bồ-tát Ca-diếp! Đại Niết-bàn này là thiền định rất sâu của Chư Phật” cho đến “Chẳng phải là pháp thực hành, cảnh giời của Thanh văn, Duyên giác.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Dưới đây là lượt sau cùng, đáp câu hỏi: “Sẽ bị các bệnh khổ là sao ư?” kế là đáp câu hỏi: “Thế nào lại là sự thị hiện rốt ráo Niết-bàn?” “Này Ca-diếp! Vừa rồi ông hỏi: “Vì sao Như lai” cho đến “Sao lại bị bệnh khổ ư?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Thế nào là thị hiện Niết-bàn rốt ráo?” “Trong đời có ba hạng người bị chứng bệnh khó chữa trị” cho đến “Cúng dường cung kính, nói pháp cho người khác nghe.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Thế nào là nói rốt ráo và không rốt ráo?” “Tất cả các năng lực lớn: “Giải thích không hoàn toàn dứt cái ăn, vì dứt trừ tánh ganh ghét, bọn ngoại đạo nhàm chán việc sống, không ăn, vì thân không có sức khỏe, nên chẳng thể suy gẫm đạo để dứt trừ sư ganh ghét. “Thường bị bệnh khổ, nếu giảm dần cái ăn, thì không cữ ăn buổi sáng, mà tránh ăn sau giờ ngọ. Ăn tối thì không tiêu thực, phần nhiều đều bị bệnh khổ. Đối với đạo cũng gây trở ngại không ít. Tất cả hạnh thanh tịnh là tám giới này. Ở chính giữa là thanh tịnh, yên vui là Niết- bàn. “Nếu ông bị bệnh, ta cũng như vậy: “Nói về cách thức ăn trai vào giữa ngày, vốn là vì phàm phu, không phải bậc Thánh. “Tám giới thứ tư: “Mười giới, giới Cụ túc, hai giới này là giới của người xuất gia. Năm giới, tám giới, hai giới này là giới của người tại gia, nên nói là “Thứ tư”. “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật” cho đến “Sao lại gọi là nghóa tất cả ư?” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Về nghóa không có dư, mỗi kinh đều có nói, chỉ từ đầu đến cuối, mỗi việc đều thật.” Pháp sư Trí Tú nói: “Vì Đức Phật nói pháp có hai giáo khác nhau: Xưa và nay, nên mong được nghe luận thuyết nhất định. Xin Đức Phật đáp câu hỏi thứ tám: “Thế nào là rốt ráo và không rốt ráo? Chẳng hạn như đức nói giáo nay chắc chắn dứt được nghi, thì vì sao giáo xưa lại nói không nhất định?” “Này người thiện nam! “Tất cả”, chỉ trừ trợ đạo” cho đến “Nay ông đã thấy được nghóa mầu nhiệm rất sâu.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn dùng một giải thích mà hai sai khiến. Trước kia nói là không có dư. Chánh nhân, duyên nhân, giúp nhau để dứt “Hoặc”. Nhân gọi là trợ bạn, quả gọi là thường, lạc, nói là quả tận. Sở dó nói là thiện vì hễ thường thì chẳng phải thiện, chẳng phải quả, vì nhân quả khác nhau không có dư sót, nghóa là tất cả nói “Đều là thật”, nghóa là không có dư.” Pháp sư Trí Tú nói: “Cũng gọi là không có dư, chính là phát ra giáo nhất định, để làm sáng tỏ quả tròn đầy của Đức Phật là do lời nói này. Ngoài ra các pháp, nghóa là phát ra thể của giáo không nhất định. “Vì muốn cho các thiện nam ưa thích chánh pháp”, là giải thích ý sau của Phật, để giải thích về thuyết không nhất định, đều là tình cảm nhất thời mà thôi.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Đọc tụng thông suốt, viết chép quyển kinh.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước kia nói về biết pháp tánh, nay nói về công đức đã được, tức là thọ hưởng pháp vui.” Pháp sư Trí Tú nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Làm sao gần được đạo vô thượng hơn hết?” Nói trì kinh được công đức, tự nhiên sẽ thú hướng về quả Vô thượng.” “Bấy giờ, các vị trời, người đời và A tu la” cho đến “Các Bồ-tát… được trụ Sơ địa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sơ địa đủ đàn Ba-la-mật, Đức Phật hiện thân mật, nhận vật cúng dường của Thuần-đà và đại chúng, vì công hạnh như vậy nên gọi Sơ địa.” Pháp sư Trí Tú nói: “Là lược phú chúc thứ ba trong phần nói lược.” “Bấy giờ, Đức Thế tôn và Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Thọ ký cho Thuần-đà.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Địa vị chưa được nghóa là nhập vị. Đã nhập vị thì được thọ ký, là ký sự thứ ba của Bồ-tát.” “Thọ ký xong, nói như thế này” cho đến “Nằm nghiêng bên hông phải, như người bệnh kia.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ năm, là việc thị hiện Niết- bàn đã xong.” Pháp sư Trí Tú nói: “Trong phần gửi gắm dặn dò có năm lớp: Trời, người thỉnh. Phật đáp. Trời, người bày lễ cúng dường. Phật thọ ký cho. Phú chúc. <篇> ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 26 <詞>Phẩm 18: HIỆN BỆNH Nêu ra nguyên nhân không bệnh, đó là thương xót chúng sinh, cho thuốc người bệnh. Giải thích ý nghóa năm hạng người, đó là Tu-đà-hoàn, tám muôn kiếp được Bồ-đề, cho đến Bích-chi-phật, mười ngàn kiếp được nghóa Bồ-đề. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là Đức Phật đáp câu hỏi: “Làm thế nào mà các Bồ-tát lìa tất cả bệnh?” Về bệnh đã nói ở phẩm trước, nhưng vẫn chưa giải thích về nghóa không bệnh, tức là về nghóa thị hiện chưa được nói rõ, phẩm này là nói rõ” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nhân Đức Phật thị hiện bệnh, Bồ-tát Ca- diếp được nghe nói rộng về nhân không bệnh. Nói về địa Bồ-tát đã lìa khỏi bệnh từ lâu, huống chi hôm nay ư? Tức là nhờ bệnh mà nói rõ không bệnh.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên đây đã nói: “Tông chỉ thường dù đã nêu, nhưng vẫn chưa có được chỗ chân thật. Vì sắp chỉ bày rõ cho con người về sự tai hại của bệnh phiền não buộc ràng, sẽ được dứt hết từ đây, nên trước bảo cho họ biết rõ trạng thái bệnh. Do thỉnh Phật, lại khởi uy nghi sáng rỡ cao quý, nhằm nói lên chỉ thú không bị bệnh, là nhân đáp câu hỏi thứ hai mươi chín.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là đoạn hai của kinh, nói rộng về nghóa. Lại có hai phần: Chính là nói rộng. Truyền bá rộng. Trong phần chính là nói rộng có ba phần: Quả rộng, tức phẩm này. Nhân rộng, tức năm hạnh. Phật tánh rộng, tức hai phẩm Sư Tử Hống và Ca-diếp. “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng” cho đến “Khổ bệnh đều dứt, không còn sợ hãi.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây nêu tám việc, suy tìm Như lai lẽ ra không bệnh.” Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây có bốn phần: Bồ-tát Ca-diếp nêu bảy lần “Lại nữa”, để suy ra Đức Phật không bệnh. Phật dùng thần lực thị hiện ba tướng. Chúng sinh được lợi ích, thỉnh Phật nói pháp. Nói rộng không bệnh, để dạy bảo chúng hữu tình đương thời. “Bạch Đức Thế tôn! Tất cả chúng sinh có bốn mũi tên độc” cho đến “Các ông nên nói pháp cho đại chúng nghe.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ nhất là nói về nhân bị bệnh, không ngoài bốn mũi tên độc này. Như lai đã lìa hẳn rồi, cho nên không bệnh?” “Có hai nguyên nhân không bị bệnh khổ” cho đến “Vì sao hôm nay, Như lai tự nói là bị bệnh?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai, là nhân không bệnh, không ngoài hai thứ này. Vì Đức Thế tôn đã tu hành, nên không bị bệnh.” “Bạch Đức Thế tôn! Người đời bị bệnh, hoặc ngồi, hoặc nằm” cho đến “Sao Đức Thế tôn lại yên lặng nằm nghiêng bên hông phải?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba là nói Đức Như lai đã không có sự nhuốm bệnh thì làm sao bị bệnh được ư?” “Các Bồ-tát thường cung cấp” cho đến “Dứt hẳn các bệnh nặng ba chướng ấy.” Trước nói người tu hành bị bệnh, đại chúng thỉnh Phật trị bệnh, là nói trước trị bệnh, thuốc do đối với bệnh mà đặt tên. Y theo Niết-bàn tu hành, thì chẳng bệnh nào không chữa trị được, vì muốn biết rõ công năng của hạnh bệnh, nên trước nói các kinh bị bệnh không chữa trị được. Ba hạng người mà Khế kinh không chữa trị này là nói rốt ráo bệnh của người Nhị thừa nghe Phương đẳng khác, dù có phát tâm, nhưng không biết Phật là thường, nên không bao giờ thành Phật, không được gọi là rốt ráo, nghóa là những người trên đây nếu nghe Niết-bàn sinh lòng tin thì không cần người bên ngoài chữa trị, tự có khả năng thành Phật. Được gọi là hạnh bệnh, về mặt sự là cùng tận ở đây.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Đại Niết-bàn này chính là thường định rất sâu của Chư Phật, không phải là cảnh giới mà người Nhị thừa có thể tu hành. Vì nhập định sâu này, nên nói là rốt ráo nhập Niết-bàn, chứ không phải vì dứt hẳn mà nhập Niết-bàn, nên không được gọi là rốt ráo nhập Niết-bàn. Về nghóa rốt ráo, không rốt ráo đều là ở đây.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Rốt ráo, không rốt ráo đều có chỉ thú của nó, chẳng phải không nhất định. Chỉ vì cố chấp ở lời nói thì sẽ mất chỉ thú, rối cho là thuyết bất tịnh. Lưới nghi là sinh, được chỉ thú thì sẽ biết được thuyết quyết định và lưới nghi sẽ bị xé toang. Lại một nghóa mà giáo xưa đều nói là rốt ráo hết hẳn. Nay, do hiện bệnh để nói lên không bệnh, biết bệnh là mật ngữ, do đó nói rộng về mật ngữ xưa của Như lai. “Này người thiện nam! Có năm hạng người đối với kinh điển Đại thừa Niết-bàn này” cho đến “Có chỗ của hạnh bệnh, chẳng phải Như lai.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi “Làm thế nào để được gần với đạo Vô thượng tối thắng?” Như trên nói: Tự nhiên được thành Phật. Nay, chuyển gần được, chỉ vì nói năm hạng người do dứt kiết nhất định, nên phàm phu ở định vị, không có giới hạn về kiếp số. Tám muôn kiếp, về sau nói rằng được tâm Bồ-đề, cũng nói rằng tám muôn kiếp trụ xứ, là tiểu Niết-bàn, dường như tâm Bồ-đề này thành tựu. Tư duy phiền não, hàng Tiểu thừa đã dứt rồi, không cần phải ở Bồ-tát. Vì kiếp số như thế, nên biết ái nghiêng lệch rất dễ dứt, mà tâm Bi bình đẳng thật khó thành.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Do biểu hiện Đức Như lai không bệnh mà biết được bệnh một cách sáng suốt, đó là nghóa của tâm, phải từ Phật nghe pháp. Nói về căn cơ nhạy bén, dù không theo Phật nghe pháp, mà vẫn tự phát tâm, nên biết hai người này được gần đạo Vô thượng.” Pháp sư Đàm Tiên nói: “Năm hạng người là: Từ Tu-đà-hoàn cho đến Duyên giác. Lấy một quả để y theo hai địa. Như vậy, lấy Sơ địa, Nhị địa, để y theo Sơ quả, cho đến cửu địa, là y theo Duyên giác.” <篇> Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 27 <詞>Phẩm 19: THÁNH HẠNH (Phần 1) Nêu phương tiện cầu giới. Giải thích năm chi giới của Bồ-tát. Giải thích: Giới của thế giáo, giới của chánh pháp. Giải thích Giới tánh trọng, giới dứt chê bai, ngờ vực. Giải thích: Chín giới như giới không chiết phục v.v… Kết quả trì giới. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Nay con thỉnh Như lai, nói cac hạnh mầu nhiệm sâu xa cho các Bồ-tát nghe?” phẩm trước đã nói hạnh bệnh. Xin nói các hạnh khác, nên gọi là v.v… .” Năm hạnh: Trên dù đã nói hạnh bệnh, đối trị phiền não, nhưng chưa đề cập hành tướng và thứ lớp của hạnh, nay sẽ nói. Vì sao? Vì tự mình phải không có sự ràng buộc, mới cởi mở cho người bị trói buộc, nên hạnh Thánh ở đầu. Nếu mở trói cho người, thì công sẽ do bốn đẳng. Nên kế là nói về phạm hạnh. Bốn đẳng với sự cứu giúp rộng khắp, việc phải có thần thông. Về đạo thần thông, thì bốn thiền là vượt hơn, nên kế là nói về hạnh trời, vì thần đạo tiếp vật, hoặc người ngu, hoặc người trí, nên kế là nói về hạnh trẻ thơ. Bốn hạnh như vậy, nếu ở giai vị học thì đối trị phiền não, gọi là hạnh bệnh. Nếu ở địa vị Vô học thì gọi là hạnh Như lai, vì Như lai là người “Năng thuyết, năng hành” (lời nói đi đôi với việc làm).” Pháp sư Pháp Dao nói: “Cho nên kế là nói về năm hạnh, vì phàm phu, Nhị thừa trước đã phát tâm đạo vô thượng. Tâm này chẳng phải không đi xa năm hạnh, tức các hạnh mầu nhiệm… trong câu hỏi trước. Phẩm Sư Tử hống nói rộng về Phật tánh, chính là tánh yên vui trong câu hỏi trước. Tánh yên vui là chánh nhân, hạnh mầu nhiệm là duyên nhân. Nếu chẳng phải hai nhân này và phát tâm ở trước, thì do đâu mà được gần với đạo Vô thượng? Cho nên ở đây là đáp câu hỏi: “Làm thế nào để được gần đạo Vô thượng tối thắng?” Hạnh dù vô lượng, nhưng năm thật là chung. Hạnh Thánh do tuệ soi sáng để nói về bên trong. Phạm hạnh đến khắp các vật, để nói về bên ngoài. Dùng hai hạnh này để thông suốt Thập địa. Hạnh trẻ thơ, hạnh bệnh: Là đối tượng của phương tiện quyền trí thị hiện là đồng. Hạnh này chỉ cho Bát trụ trở lên. Lại hạnh bệnh, nghóa là hạnh khổ, chỉ Bồ-tát mới có khả năng thực hành. Người Nhị thừa bị bệnh nên không thể thực hành, là hạnh bệnh. Về hạnh trời, vì kinh không nói, nên ở đây không nói.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên đây, nói là luận về nhân, luận về quả, kết tên kinh và nói về lưu thông, đều là trước lược, sau rộng. Thể kinh đã sang suốt, lý văn tròn đủ, công dụng dứt hoặc, diệt tội vượt hơn kinh khác. Vì thế, nên “Từ chưa phát tâm” trở xuống, gồm mười chín câu hỏi, là khen ngợi rộng năng lực của kinh, cũng đầy đủ ở văn trước. Dưới đây là nói y theo kinh để tạo ra hạnh, quả cùng cực của kỳ hạn cuối cùng, tức là đáp câu hỏi thứ ba mươi ba ở trước.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, cuối cùng là mười công đức, đáp chung câu hỏi thứ ba mươi ba. Năm hạnh, là nói về mười công đức của thể hạnh. Vả lại, hạnh rộng là vì lý có. Hai thứ này nói về phương pháp lập hạnh. Nói về muôn hạnh dù nhiều nhưng gồm thâu trong hai môn: Tự thực hành và giáo hóa người cùng thực hành, sao cho chai ra làm năm. Căn cứ trong Thánh hạnh phát ra hạnh trời, phát ra hạnh trẻ thơ trong phạm hạnh, chỉ hạnh bệnh là không tự thể, không có sở thuộc.” Pháp sư Trí Tú nói: “Vẫn là đáp rộng Bồ-tát Ca-diếp và các vị trời… trong phẩm Hiện Bệnh, đó là nghóa nhân quả. Trên đã nói rộng về quả. Quả do nhân mà được, nhân phải làm rõ quả. Từ đây trở xuống, cuối cùng là mười công đức, là nói lại ý nghóa của nhân, tức là ý thứ hai trong nghóa của nhân rộng. Từ nghiệp dẫn đến quả, cũng người quả mà tiếp độ giáo hóa, đều là nghóa của hạnh. Nói năm hạnh, vì là số của một phương.” “Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Cái gọi là kinh Đại Niết-bàn của Đại thừa.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Để nói về hạnh Thánh đầu cuối có ba giai đoạn: Từ “Xuất gia” trở xuống, là nói về tu giới. Từ “Quán bất tịnh” trở xuống, là nói về tu định. Từ “Bốn đế” trở xuống, là nói về tu tuệ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Y theo sự giải thích ý nghóa của năm hạnh, ba hạnh trước đều có tự thể. Hai hạnh sau, y cứ vào công dụng để lập nghóa. Nếu nói chung về năm hạnh thì tên ba hạnh đều có thể gọi là Thánh. Nếu nói riêng, thì công dụng sẽ được lấy riêng để đặt tên gọi. Nghóa khác thì chìm mất, nên không nói. Thánh, nghóa là chánh. Giới, định, tuệ làm thể, nghóa là con đường ngay thẳng không có quanh co khúc khuỷu. Nói về tự thực hành và giáo hóa người, là công hạnh chung. Nay, y cứ vào giới, định, trí, tuệ, phát ra đức hóa độ người trong thể tự hành nêu ra đức hóa tha, nghóa là người phạm hạnh của hạnh trời. Trời ý nói là tịnh, phạm cũng là tịnh, khác nhau thế nào? Hai danh từ này, là y cứ vào quả mà đặt tên. Văn dưới đây nói trời, nghóa là trời Đệ nhất nghóa. Lại, kinh, luận đều nói rằng, trời đều có chỉ thú. Phạm, vì đối lập với tính chất thô nặng của cõi Dục mà được gọi tên. Trời là vì đối với nhân được tên. Kinh nói: “Phạm, gọi là Niết-bàn, là đạo muốn đến. dù từ quả được tên gọi, mà hạnh trời lấy bốn thiền làm thể, mở rộng định ở trước. Phạm hạnh dùng bốn đẳng làm thể, mở rộng tuệ trước. Công dụng của giới cạn cợt yếu kém nêu lược mà không rộng. Do ba hạnh trên đây có công năng chữa trị bệnh, nên hạnh của bệnh chữ cho ta biết đồng với trẻ thơ, tức gọi hạnh trẻ thơ.” “Này Ca-diếp! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Được nghe kinh Đai Niết-bàn như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đại để phân tích hạnh Thánh thành sáu đoạn: Nói về Giới. Nói về định. Nói về tuệ. Ba đoạn này nói về Thể đã xong. Khen ngợi kinh. Nói về truyền bá sâu rộng. Đức Phật dẫn chứng cách tu khổ hạnh xưa.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phán quyết về hạnh Thánh có bốn đoạn: Nói về giới. Nói về định. Nói về tuệ. Khen ngợi kinh, nói về phương pháp truyền bá kinh. Pháp sư Trí Tú nói: “Trong đại bộ phận Thánh hạnh, được chia làm hai đoạn: Đến “Vô cấu tạng vương, chính là nói về hạnh Thánh. Phẩm cuối, vì hạnh do kinh lập ra nên khen ngợi kinh. Trước đã nêu tên năm hạnh. Sau đây sẽ giải thích về hạnh Thánh. Vì hạnh do kinh mà có, nên chỉ rõ về nghe kinh làm căn bản.” “Nghe xong, sinh lòng tin, tin rồi thì nên suy nghó như vầy” cho đến “Lại có kinh điển Đại thừa phương đẳng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giới, định, trí tuệ lấy tín làm đầu, nên trước phải làm sáng tỏ về tín. Tư duy nghóa là phẩm Kim Cương, Sống lâu đã dùng nghiệp lành làm nhân, nghiệp lành đã nói, là tự trở về với Tam bảo vị lai trong thân mình. Chư Phật, Thế tôn được gọi là bình đẳng, làm chỗ quy y cho chúng sinh gọi là “Tự quy”. Đạo vô thượng: Kinh nói: “Biết pháp gọi là Phật, biết lìa gọi là Pháp, biết vô vi gọi là Tăng. Tăng pháp tự giác ngộ, nghóa là Phật vô thượng, đại chánh pháp lìa phi pháp. Mọi việc lành đều nhóm họp. Thể là vô vi, vì Chư Phật đồng được, nên gọi là đại chúng chánh hạnh tăng. Lại có phương đẳng, là trong Đại thừa nói rộng về nghóa này. Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói trong giới có tám phần: Nói về thọ giới xuất gia, tức là giới thể. Nói chẳng phải chỉ có giới xuất gia mà còn có các giới của năm chi, đủ mười điều lành,… . Nói từ đây tự dần dần tốt đẹp cho đến sẽ dừng lại ở đạo vô lậu cộng giới trên. Nói chẳng những chỉ được đạo định cộng giới mà còn giữ gìn giới tinh nghiêm không trái phạm đối với luật nghi nhỏ nhiệm. Mặc dù đã chuẩn bị chu đáo về các giới của bốn bậc trước, nhưng nếu chỉ có hạnh mà không có nguyện, thì phần nhiều dễ sinh tâm trạng chán nản, tụt lậu! Nói rộng về các nguyện, sau đây sẽ có chín lớp nguyện. Dù có hạnh nguyện, nhưng nếu không nhờ phương tiện khéo léo thì sẽ không khỏi ở lại mãi trong sinh tử! Nói về hồi hướng: Xoay việc lành của chúng ta về cho chúng sinh, để cùng thọ hướng chung về quả Phật. Đã cụ thể hóa các đức nói trên, kết hợp với công hạnh ngày càng sâu, thì sẽ được tiến lên Sơ địa. Có ba phen giải thích về từ ngữ “Bất động”. Kết thúc giải thích về lý do được gọi là Thánh hạnh. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong phần giải thích giới có sáu đoạn: Nói về phương tiện cầu giới. Chính là nói về giới thể. Nói về sự sâu cạn của giới. Phát nguyện để giữ giới. Nói về hồi hướng. Kết quả. “Nay, ta nên vì ưa thích mong cầu” cho đến “Mà lìa bỏ vợ con, quyến thuộc, trâu, dê, gà, chó, heo…” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tìm phương tiện muốn xuất gia, dưới đây có ba tư duy, thứ nhất này y cứ vào tư duy trong văn tuệ.” “Lại nghó rằng: “ở nhà thường bị thúc giục” cho đến “Cạo bỏ râu tóc, xuất gia, học đạo.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai, là y cứ vào tư duy trong tư tuệ: nghó nên xuất gia.” “Lại nghó rằng: “Nay ta chắc chắn sẽ” cho đến “Tâm giữ gìn giới cấm giống như kim cương.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ ba, là tư duy trong tu tuệ, quyết định xuất gia.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai, chính là nói về thể của trì giới.” “Này người thiện nam! Ví như người có mang phao nổi” cho đến “Kính trọng, giữ gìn vững chắc như nhau không khác.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Biển dụ cho sinh tử, phao nổi dụ cho giới. La-sát dụ cho phiền não. Văn kinh tự phối hợp.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là phần thứ nhất.” “Nếu Bồ-tát giữ gìn giới luật vững chắc như vậy” cho đến “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giới có năm phần: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, năm giới, mười giới, hai trăm năm mươi giới, là hạnh chung của ba thừa căn bản. Bốn giới còn lại là giới Bồ-tát. Giác nghóa là giác biết ba việc lành. Niệm là niệm vô tướng. Giới chánh pháp là vô lậu, do kiến giải bên trong không thể do thầy truyền trao.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là phần thứ hai.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Năm chi giới là giới thể. Giới căn bản nghiệp: Bốn giới trọng của Tiểu thừa. Bồ-tát dù lấy tâm làm trước, nhưng cũng không bỏ sót thân, miệng. Quyến thuộc trước, sau, nghóa là từ thiên thứ hai trở xuống, ngoài bốn giới trọng. Giác thanh tịnh, là ba độc… đều trái phạm giới Bồ-tát. Ở đây nói không khởi chánh niệm, là bốn mươi giới khinh cũng không phạm. Hồi hướng: Tức bốn giới trên.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát lại có hai thứ” cho đến “Bạch bốn lần Yết-ma, sau đó mới được.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Phần thứ ba, nói hai giới trước cũng là hữu lậu. Ở đây phát đạo cộng giới bên tâm vô lậu.” “Này người thiện nam! Có hai thứ giới” cho đến “Với giới tánh trọng… đều đồng nhau không khác”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giới tánh trọng là trái phạm bốn giới trọng, ví như viên đá bị chẻ, không thể ghép lại được. Lui mất Thánh chiếu, cũng gây ra sự chê bai của thế gian, chỉ có bên trong chướng nặng, nên được gọi là trọng. Giới chê bai, gièm pha cũng giống như vậy.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Phần thứ tư, nói cho đến không phạm giới nhỏ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn ba, nói về hoặc cạn sâu, nếu có tạo tội, là vận dụng ba độc mà khởi, đâu có tội nào chẳng phải tánh? Nếu nói người thế tục trái với pháp luật mà không có tội, thì hóa ra bậc Thánh làm người xuất gia gây ra nhân duyên tội, về lý chẳng lẽ như vậy sao? Ở đây đều là tánh.” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Đây gọi là đại Bồ- tát hộ trì giới cấm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hạnh nguyện giúp nhau, thành tựu trì giới.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Phần thứ năm là hạnh, cần phải có nguyện.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần thứ tư, phát nguyện để giữ giới.” “Đại Bồ-tát giữ giới cấm như vậy” cho đến “Đầy đủ thành tựu giới Ba-la-mật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ sáu là nói “Nếu dùng phương tiện thì sẽ không dính mắc sinh tử.” Giới thiện là khác với Ngoại đạo. Không thiếu, là không phạm giới nhỏ. Không chiết, là không phá bốn giới trọng. Người Đại thừa, là người lìa tâm tiểu. Không lui sụt, nếu được tám trụ thì đủ “Ba không lui sụt”. Giới thuận theo, là giới Bồ-đề. Rốt ráo, nghóa là thành Phật mới được. Lại, nói rốt ráo không khởi lên tướng của tâm. Ba-la-mật, là đến bên kia bờ vô tướng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần thứ năm là nêu các giới. Nguyện cho chúng sinh đồng với ta, cùng tiến bước chung, không bao giờ đi riêng.” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Đó gọi là Đại Bồ-tát tu tập hạnh Thánh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sơ địa là nói quả của hạnh Thánh, nói về phần giới đã được, chẳng phải trực tiếp một giới mà được ngay địa này. Dưới đây nói: “Bốn ma không thể làm nghiêng động”, là nói về công năng đầu cuối của giới.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Khoa thứ bảy là kết quả. Nay, Sơ địa, thật ra là Hoan Hỷ mà gọi là Bất động nói cho đúng là không bị nỗi sợ hãi làm dao động. Không đọa, là đã lên sơ trụ rồi, không có lý trở lại phàm. Không lui sụt, là không khởi tâm Nhị thừa. Thứ hai là giải thích bất động: “Không bị giận dữ dao động bởi tham lam, thứ ba là giải thích bất động: “Không bị bốn ma khuấy động”. Suy ra về mặt lý thì không đúng, chỉ vì lúc Bồ-tát xả thọ mạng, hoàn toàn không vì khổ chết mà thay đổi ý niệm!” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần thứ sáu là kết quả. Giới, định, tuệ đều được kết quả ở Sơ địa. Nếu không tu thì thôi, nếu đã tu, thì đâu chấp nhận chỉ có giới mà không có định ư? Sở dó kết có trước sau là vì theo đuổi công năng của nghóa mà thôi! Bấy giờ, tâm giới đã vững chắc, cho nên kết rằng, tâm không dao động! Định do tónh nhiếp thu an nhẫn, tức kết kham nhẫn. Tuệ do chiếu rõ, lìa sợ sệt, tức kết vô úy. Lại, giới là nhân của định, do định phát tuệ, vì theo thứ lớp. “Này người thiện nam! Sao gọi là hạnh Thánh?” cho đến “Vì nghóa này, nên phải gọi là hạnh Thánh.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Phần thứ tám, kết tên hạnh Thánh. Có pháp tánh nêu lên thể của pháp vô lậu. Thường thì quán “Không”, nghóa là nêu cảnh của pháp giới, để thành nghóa Thánh.”  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 28 <詞>Phẩm 19: THÁNH HẠNH (Phần 2) Giải thích quán ba mươi sáu vật. Giải thích bốn ý chỉ quán. Kết thúc quả của định. Xuất xứ từ Tiên Dự giết hại. Việc Bà-la-môn. Giải thích nghóa bốn đế. Giải thích nghóa ba khổ. Giải thích nghóa hữu lậu, vô lậu của bốn đế. Giải thích nghóa tám khổ. “Lại nữa, này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Trừ bỏ da thịt, chỉ quán xương trăng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai, là nói về môn định. Có tám đoạn: Quán chung về thân, có ba mươi sáu vật. Quán dời đổi. Quán bốn sắc, tìm “Ngã” không thật có. Quan tướng trụ về chi tiết tay, chân, càng quán càng sáng. Thấy tất cả đều là màu xanh, vì quán này mới thành. Chư Phật hiện mà lại ẩn, làm cho hành giả kia suy nghó mà dễ quán. Quán tâm, tức là trước quán thân, sau quán tâm, đủ cả ba. Ý chỉ có hai đã đủ thì bốn cũng đủ. Kết thúc về địa kham nhẫn. Nói đã được định tốt đẹp, thì có khả năng vì chúng sinh mà phá giới. Ở đây trước nói về thân ý chỉ. Vì mọi người thường chấp trong thân có tịnh, đây là quán thứ nhất.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Môn thứ hai có năm đoạn: Quán bốn niệm, tức bốn, đoạn thứ năm là kêt quả. Dưới đây là quán thân vô ngã.” “Lại nghó rằng: “Màu xương khác nhau” cho đến “Liền được dứt trừ tất cả sắc dục.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “dứt bỏ các dục tươi nhuần. Nhân sắc khởi dục chưa hết ba thứ như hình mạo v.v… ở dưới… đều do sắc khởi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai là quán dời đổi bốn sắc, tìm kiếm “ngã” không được.” “Lại nghó: “Xương như vậy” cho đến “Hai là dục nhiễm về tư thái, ba là dục nhiễm về xúc chạm mịn màng.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Là quán Thứ ba.” “Đại Bồ-tát lúc quán xương màu xanh” cho đến “Quán ánh sáng của xương màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen… .” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì quán càng rõ, cho nên thứ tư quán xương màu xanh thì tất cả đều xanh.” “Lúc Bồ-tát quán sát như trên thì, giữa hai đầu chân mày liền phát ra ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, xám” cho đến “Chư Phật trong ánh sáng bỗng nhiên biến mất.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hoài nghi là đã lâu thấy hình tướng này bèn hỏi. Bỗng nhiên biến mất, nghóa là đạo quán chưa rõ, không đáp mà biến mất.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ năm là Chư Phật hiện mà lại ẩn, làm cho Bồ-tát tư duy mà dễ quán.” “Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ nhất, quán thân niệm xứ.” “Lại nghó rằng: “Hoặc thức là “Ngã”” cho đến “Cũng giống như dòng nước tuôn chảy, cũng chẳng phải “ngã”.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai là quán tâm niệm xứ.” “Lại nghó: “Hoặc thức chẳng phải “Ngã”” cho đến “Thì sẽ ở chỗ nào mà sinh tham dục?” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba là quán pháp niệm xứ.” “Nếu bị mắng nhiếc, hạ nhục, thì lại ở chỗ nào” cho đến “Thì sẽ đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhận lấy chỉ thú Phật không đáp, tức là quán thức tìm “Ngã”, lại không thật có quán hơi thở ra vào, hoặc “Ngã” ấy, hễ có hơi thở thì sống, không có hơi thở thì chết. Quán hơi thở, biết ngay là tánh gió, cũng lại chẳng phải hơi thở của “Ngã”, vì gió, phần nhiều gió là do bốn đại hợp thành mà là một tánh, chẳng phải do “Ngã” hòa hợp, cũng “Chẳng”. Nghó rằng: “Đều không có ngã”, nghóa là được “Vô ngã không”, thấy Đệ nhất nghóa, tức là thấy được thế đế.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hoặc hơi thở là “Ngã”, nghóa là thứ sáu tức là chỉ, quán của tâm, ý. Chỉ thấy sinh diệt, niệm niệm thay đổi, đâu có nhất thần thường mà không diệt ư? Ở chỗ nào sẽ chịu mắng nhiếc, lăng nhục? Đây là nói về “Vô ngã”, chỉ vì nhận thấy ngã của các pháp, là tâm tự dứt.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tư là nói về quán thọ niệm xứ.” “Bấy giờ, Bồ-tát quán như vậy rồi” cho đến “Thế, nên gọi là trụ ở địa Kham nhẫn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kết quả của định.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Địa Kham nhẫn là kết quả của địa thứ bảy, nghóa là ba địa. Bồ-tát tam địa tu mười hai môn, được nhẫn độ thành tựu. Đã có khả năng an tâm nhẫn lý, nên có thể đối với sự, không khởi tâm sân.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ năm là kết quả.” Đại “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn” cho đến “Đại Bồ-tát có được phá tịnh giới hay chăng?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Theo ví dụ chiếc phao nổi nói trên, thì việc nhẹ, nặng đều không phạm, mà Bồ-tát hộ pháp, ứng hóa tùy duyên, hai lời nói ăn ý nhau, cần phải lãnh hội. Người chưa được địa Bất động thì nói rõ là chưa được, nếu vì nhiếp lấy chúng sinh thì được phá giới.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ tám là nói được định sâu rồi, có khả năng tùy duyên lợi ích chúng sinh thì được phá giới.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý hỏi quyết định ban đầu dựa vào địa vị con người, cho nên không đợi sau khi nói về tuệ, mà người hỏi trong đây là lấy phần vị của giới, định, vốn ở hạnh vô tướng trong năm phương tiện ở trên, là địa vị của bậc Thánh. Đầu tiên dựa vào người, dù rằng tín căn vẫn chưa lập hẳn, quan trọng là chưa được chân giải. Trong trường hợp vì đạo mà đem lại lợi ích thì được phá giới. Không hiểu lời Bồ-tát nói: “Thà đọa địa ngục, chứ không bao giờ làm cho chúng sinh bị lui sụt tâm Bồ-đề”. Do nhân duyên này thì được phá giới, không gọi là phạm.” “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Nếu vì duyên cớ ấy mà đọa vào địa ngục A-tỳ, thì không có việc đó.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cuối cùng thì lời nói thật, phải lấy việc để làm chứng.” “Đức Phật khen Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Mới có vô lượng thế lực như thế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì pháp đoạn mạng, tức là hộ pháp, huống chi ngang nhiên ra vào không kỳ hạn, tâm đồng với hư không ư?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dẫn bổn hạnh để làm chứng. Dưới đây trong phạm hạnh, sẽ nói về ba vô lượng, sẽ lại nói rộng về việc đó.” “Phật lại bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Có hạnh Thánh là bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về tuệ là tuệ “Duyên” chân đế. Nói chân đế có ba thứ: Đầu tiên nói về bốn đế, giữa là nói về hai đế, sau là nói lược về thật đế. Dưới đây, đều có tám chữ, năm lượt nói bốn đế.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì tuệ sinh do cảnh, nên nhờ cảnh để tuệ. Có bốn bậc để nói về nghóa: Nói về bốn đế. Nói về hai đế. Nói về thật đế. Khen ngợi kinh. Căn cứ vào bốn đế có bốn lượt: Dùng năm lớp nói lược về bốn đế. Căn cứ vào môn tám khổ, nói rộng về khổ đế. Nhờ quán hạnh của Bồ-tát để xem xét lý do của khổ đế kia, là pháp đáng nhàm chán. Lược hội thông hai giáo.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là môn thứ ba, nói về tuệ, có sáu đoạn: Y cứ vào bốn đế để nói về tuệ. Căn cứ vào chân tục. Căn cứ vào thật đế. Bỏ chấp. Kết quả của tuệ. Nói bước lên Sơ địa. Về sau tiến tu hai mươi lăm Tam-muội. Tiến đến bất động tự tại, tức trên đến tâm kim cương. Căn cứ vào bốn môn đế, chia làm ba chương: 1. Có năm lớp, đây là lớp thứ nhất, nói lược về bốn đế. Nỗi khổ đến ép ngặt tâm, tâm sinh bực bội, là sự ép ngặt. Kiết nghiệp phiền não sinh ra khổ ở mai sau, là trạng thái sinh trưởng. Nhân sinh tử đã hết thì được sự vắng lặng. Biết quên tướng trong “Duyên” là đạo Đại thừa.” “Này Ca-diếp! Khổ là tướng ép ngặt” cho đến “Diệt là tướng vắng lặng, đạo là tướng Đại thừa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ép ngặt chúng sinh”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ nhất do mười bốn thứ sắc là khổ cụ, tâm là tự thể của khổ. Nói “Không khởi thì thôi, khởi thì sẽ bị duyên ép ngặt, nên nói là trạng sự ép ngặt. Mười điều ác làm nhân, vô minh làm duyên, vì sinh trưởng ở vị lai, nên gọi là tập. Giáo pháp nghiêng lệch, lấy chỗ diệt của ba tâm làm “Diệt”. Viên giáo dùng thể thường trụ, dứt hẳn các tướng làm “Diệt”. Phá tan ba nhân kia, dùng nhân thường trụ của Đại thừa làm đạo.” “Lại nữa, này người thiện nam! Khổ có ba tướng” cho đến “Diệt là tướng bị trừ, Đạo là tướng năng trừ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì hiện bị phiền não ép ngặt, nên nói hiện tướng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ hai, nghóa là pháp quả biểu hiện rõ ràng. Tập là năng lực, có sức lôi kéo con người đi cảm quả chịu khổ trong sáu đường là tướng chuyển. Thể của quả viên dứt trừ tất cả điều ác, nói là Trừ. Thể tánh vô lậu, chủ thể trừ năm phương tiện “Hoặc”. Dù là hàng phục diệt trừ, nhưng chưa phải là dứt hẳn, nên cũng theo nhau làm đạo, vì nghóa cảm quả kia, vẫn thuộc về Tập đế.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là lớp thư hai. Chấp thô rất dễ biết, vì là tướng hiện hữu. Nhân dứt thì quả khởi, chuyển nhân được quả, là tướng chuyển. Diệt, là căn cứ vào đối tượng dứt trừ để luận. Đạo là y cứ vào chủ thể dứt trừ để luận.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Khổ có ba tướng trạng” cho đến “Đạo là tu giới, định, tuệ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba tướng: Khổ thọ tánh khổ, làm khổ chúng sinh, gọi là khổ khô. Không khổ, không vui, lấy sự mong cầu cần thiết, là hành khổ. Khi lạc thọ diệt thì sinh ra khổ là hoại khổ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba, giải thích lại nghóa khổ, đủ ở trong đó. Tập là hai mươi lăm cõi hữu lậu. Đây là nêu đối tượng tập hợp, để nói về chủ thể nhóm hợp.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là lớp thứ ba, xưa hóa độ người ngu thấp hèn, Đức Phật chỉ bày môn giáo ba thọ. Kế là dùng ba khổ để điểm hoại ba thọ. Nỗi khổ chồng chất từng lớp là khổ khổ, vì quả sau là nhân hư hoại, nói rõ thể của lạc thọ, vì là khổ, nên gọi là hoại khổ, chung với hai tâm trước, hành duyên động tác nên gọi là hành khổ. Hai mươi lăm cõi hữu với nhân là Tập đế, quả là Diệt đế, tu giới định tuệ là Đạo đế.” “Này người thiện nam! Pháp hữu lậu” cho đến “Nhân vô lậu thì gọi là đạo.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ tư, nói về nhân quả hữu lậu: Về nghóa, tương ứng với Tỳ-đàm.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp chỉ cho hai mái nhà, dễ thấy.” “Này người thiện nam! Có tám tướng gọi là khổ” cho đến “Ba niệm xứ, đại bi, đó gọi là Đạo”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ năm, nói về bốn đế. Từ mười lực cho đến Đại bi là Đạo. Tâm Kim cương là vô ngại, tâm Phật là giải thoát. Vì có nghóa là song đạo, nên giả gọi là Đạo.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ năm, nói rộng về ba khổ thành tám khổ, sinh khổ có hai, đó là khổ khổ và hoại khổ. Vì ái thấm nhuần cho sinh từ lạc thọ mà đến. Nói quả trong nhân, tức là hoại khổ. Lấy sinh của sinh ra, tức là có khổ khổ, tâm là thể của khổ. Đọa địa ngục là khổ. Oán ghét, cầu mong không được, cũng thuộc về khổ khổ. Ngoài năm khổ, còn lại thuộc về hoại khổ.” “Này người thiện nam! Sinh là tướng sinh ra, có năm thứ” cho đến “Vì cho nên gọi là khổ năm ấm lừng lẫy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sở dó gồm bảy khổ, lại có thêm một tên khổ nữa: vì có người cho rằng, bảy khổ khác với ấm mà có. Nay, nói ấm là đúng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ hai, y cứ vào môn tám khổ, nói rộng về khổ đế.” <篇> ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 29 <詞>Phẩm 19: THÁNH HẠNH (Phần 3) Nêu thí dụ: Hai chị em: Công Đức Thiên và Hắc Ám nữ. Giải thích về khổ chết. “Này Ca-diếp! Cội gốc sinh gồm có” như thế cho đến “Quán sát sở sinh rồi, thấy là tai hại lỗi lầm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì phàm phu điên đảo nên thường ham sống mà ghét chết, để nói Bồ-tát thì không như vậy.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ ba, dùng môn quán hạnh để nói về tướng của tám khổ. Trong đây có sáu thí dụ, đều nói phàm phu ham sống, Bồ-tát thì thấy lỗi, nên xả bỏ, không ưa thích.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là lỗi của quán thứ hai, có sáu thí dụ.” “Này ca-diếp! Như có thiếu nữ vào nhà người” cho đến “Rải hoa, cúng dường cung kính lễ bái.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì Bồ-tát làm thí dụ, Bồ-tát yêu thương chúng sinh, vì tình đời bạc bẽo, nhận thấy lỗi lầm của sinh tử, nên đều nhàm chán. Sanh là gốc của lòng tham lam, vui sướng, dụ cho người nữ. Năm ấm là chỗ cư ngụ của sanh, dụ cho ngôi nhà. Do nhân được quả, dụ cho người khác. Lẽ sanh đáng ưa thích, dụ cho xinh đẹp. Trí để ngự trị thân, dụ cho chủ nhà. Danh để biểu lộ cái thật, dụ cho hỏi tên. Sinh là quả lành. Vì nhân quả của thiếu nữ kia thanh tịnh, nên dụ cho công đức. Quả chẳng phải bất tịnh, nên dụ cho trời. Tra hỏi tên để trách cứ cái thật, dụ cho hỏi việc làm, có sinh có thật dụ cho năng thí.” “Lại ở ngoài cổng, thấy một thiếu nữ” cho đến “Nếu cô không đi tôi sẽ giết chết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Xả sanh gọi là tử, dụ cho môn ngoài, trái với sanh dễ hiển bày, không cần tốn từ ngữ. Liền cầm dao bén: “Thuốc men cứu sống, ví như cầm dao bén, để ngăn ngừa cái chết. Pháp sư Tăng Tông nói: “Chết là cái mà con người căm ghét, là tình ở bên trong, dụ cho ở ngoài cổng.” “Người thiếu nữ đáp: “Ông thật là ngu si” cho đến “Ta đều không cần, mỗi người hãy tùy ý đi đi!” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Sinh ở báo trước, dụ cho người chị, chết ở báo sau, dụ cho người em.” “Lúc đó, hai thiếu nữ cùng dắt nhau trở về” cho đến “Vì thế, nên tôi mời cả hai cô hãy ở tại nhà tôi.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dụ cho phàm phu không có pháp tài, nên dụ cho nghèo.” “Này Ca-diếp! Đại Bồ-tát cũng giống như vậy” cho đến “Vì thế, nên họ tham luyến hai pháp sinh tử.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Hợp cả hai thí dụ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là thứ nhất, dùng hai thiếu nữ dụ cho phàm phu đối lại với Bồ-tát.” Lại nữa, “Này Ca-diếp! Như con của Bà-la-môn” cho đến “Như đứa trẻ kia lượm quả Am-la rồi lại bỏ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đứa trẻ thơ bé dụ cho hành nghiệp mới bắt đầu. Bồ-tát thấy khổ không sâu sắc, chưa làm cho đứa trẻ quên đi sự sống, như lượm quả rồi bỏ. Nếu trí, hạnh đều sâu sắc thì sẽ không lấy, không bỏ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát là dòng họ của hạnh cao quý, dụ cho con của Bà-la-môn. Nhiều kiếp đã bị khổ trong địa ngục, dứt hết thức ăn của trời, người. Phân, dụ cho ấm thân, quả dụ cho sự sinh. Hữu tình ham sống dụ cho muốn lượm lấy. Sự sống là lỗi lầm, lời Thánh nói, dụ cho người trì quở, biết được lỗi tham sống, dụ cho tự dưng cảm thấy hổ thẹn, vì sinh trong đời có năm thứ dục lạc, dụ cho rửa sạch, không bao giờ chấp mắc, dụ cho lại bỏ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là dụ thứ hai, dùng trẻ con dụ cho tiểu Bồ-tát đối đáp với Đại Bồ-tát.” Lại nữa, “Này Ca-diếp! Ví như có người” cho đến “Vì phàm phu kia không thấy già, bệnh, chết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngã tư đường, dụ cho bốn vô lượng không có giới hạn của Phật. Chậu đựng, dụ cho kinh tạng, thức ăn, dụ cho thí, giới, định. Đức Phật vì người tại gia, đầu tiên, khen ngợi bố thí, trì giới, niềm vui sinh tử. Sau, nói vô thường, nhằm khen ngợi vui Niết-bàn. Pháp này từ đầu đến cuối đều do Phật nói. Phàm phu vì tham sinh, nên không thấy lỗi sau. Bậc Thánh vì nhận thấy lỗi nên không sinh tham. Đường ngã, tư dụ cho bốn biện tài. Chậu đựng, dụ cho danh, cú, vị, thân. Thức ăn, dụ cho thí, giới, định. Bán, dụ cho khuyên thực hành. Khách từ phương xa đến đói lả, dụ cho trải qua ba đường đã lâu. “Đây là vật gì?” là gọi cái mà họ mong cầu, hỏi để quyết định. Chủ bán thức ăn đáp: “Giới, Định có thể được thú vui trời, người, về sau sẽ bị chi phối bởi định luật vô thường, nghóa là sẽ phải chết! Nghe xong, người này không vì Bồ-tát nói, mà trả giá đắt cho tôi, sinh lên cõi trời không chịu khổ bốn đường.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói pháp ở chỗ đông người. Dụ cho ở ngã tư đường. Hóa chủ nói về nhân quả của trời, người. Lấy lợi dưỡng của con người như bán. Dù Bồ-tát nhận biết quả báo tốt đẹp trên cõi trời, nhưng vì nhận thấy có tai hại của cái chết, nên không muốn sinh, dụ cho người khách kia dù muốn mua ăn, nhưng vì bị cái ác là phải chết, cho nên liền bỏ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là dụ thứ ba, lấy người bán thức ăn để dụ cho giải thích giáo. Nói là nếu quả của sinh tử như vậy thì vì sao bậc Thánh lại nói nếu tu năm giới, mười điều lành, thì sẽ được thọ hưởng quả báo trời, người ư?” Đây là điều lành chứng thật nghóa không thọ. Giáo nấy vốn dắt dẫn người ngu si thấp hèn. Vì nếu họ không nghe nói về thú vui trời, người thì liệu họ có bằng lòng hành đạo hay chăng?” “Này Ca-diếp! Ví như cây độc” cho đến “Sống thấp nhất là mười tuổi, cũng đều chịu khổ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai dụ này đồng chứng minh rõ ràng hễ có sinh thì có tử. Tu và chết yểu, không có gì khác nhau!” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai dụ thứ tư, thứ năm y cứ riêng về quả báo sinh tử, chỉ có khổ mà không có vui.” Lại nữa, “Này Ca-diếp! Ví như trên bở biển hiểm yếu cheo leo, có cỏ che khuất” cho đến “Kinh Đại Niết-bàn quán khổ sinh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho Bồ-tát đối với quả báo trên cõi trời còn không tham, huống chi lại tham quả báo cõi người này ư??” Pháp sư Tăng Tông nói: “Bờ hiểm trở, dụ cho thân năm ấm. Cỏ che lấp dụ cho vô minh. Cam lộ bên mép bờ, dụ cho quả báo của thuốc hay mầu nhiệm. Hầm lớn, dụ cho khổ chết, lượm lấy quả ngay, vì ham ưa quả, là tu nhân điều lành. Trượt chân là chìm hẳn trong sinh tử.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dụ cho vì ngoại đạo mà đặt ra dụ: Bờ hiểm trở dụ cho Phi tưởng. Cỏ che khuất dụ cho quả báo của sinh tử kia, ngoại đạo không biết, chấp là Niết-bàn. Cam lộ dụ cho vui thiền định. Sống lâu một ngàn năm là tám muôn kiếp. Ăn vị Cam lộ kia, là chấp mắc thiền định. Hầm sâu là khổ sinh tử. Trợt chân, nghóa là ngoại đạo lấy Phi tưởng làm Niết-bàn, vì mất lý nên rơi vào ba đường.” “Này Ca-diếp! Đại Bồ-tát” cho đến “Trụ trong kinh Đại Niết-bàn này để quán sát khổ già ra sao?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đều dụ cho sự suy yếu, hư hoại. Vua, dụ cho sắc mạnh khỏe. Nước thù địch, dụ cho già. Người dân nước khác, dụ cho nhớ nghó đến việc ít thịnh vượng.” “Này Ca-diếp! Đại Bồ-tát” cho đến “Kinh Đại Niết-bàn quán khổ bệnh?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đoan chánh dụ cho sắc xinh đẹp mạnh khỏe. Phu nhân, dụ cho kiết ái. Vua, dụ cho bệnh. Bị khoét một mắt… dụ cho làm hư hoại sắc đẹp.” “Này Ca-diếp! Đại Bồ-tát” cho đến “Trụ trong chú Đại Niết-bàn Đại thừa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ trừ Nhị thiền, thông thường khổ chết, một khi đã đến, thì đều bị não loạn, nên lấy tai biến làm thí dụ. Bồ-tát đến khi chết, tâm không tán loạn. Rắn độc Ma-la màu đen. Nếu chạm trúng áo người, hoặc áo người chạm đến chỗ nó bò qua thì đều bị chết cả, nên gọi là sự va chạm độc hại. Sao A-kiệt-đa, cứ tám tháng thì mọc một lần. Vì sao này để kết chú, có công năng tiêu trừ bốn thứ độc.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Bệnh là khổ, làm lủng phao nổi thì thật là đau khổ!” Lại nữa, “Này Ca-diếp! Ví như có người” cho đến “Kinh Đại Niết- bàn này quán khổ chết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đây đã nói về chết, mà chưa nói về khổ chết. Nay, nói về các tai nạn nguy hiểm: Không có tư lương: Các thọ căn diệt, căn không thọ khởi, gọi là chết. Căn không thọ khởi, thì đường sống dứt bặt, dụ cho tai nạn nguy hiểm! Thọ căn không khởi, không khởi thì không có pháp. Không có pháp thì không thể nhờ cậy, dụ cho không có tư lương. Nẻo đường tư lương mênh mang vô định! Dụ cho xa diệu vợi. Năm căn đều diệt, ý thức đi một mình, dụ cho không có bạn bè. Bị gió nghiệp thổi bay mãi, tìm kiếm sự sinh không dừng lại, dụ cho thường đi. Năm đường chưa phân, dụ cho không biết được bờ mé. Gặp được sinh duyên, nhân si mê thọ sinh, dụ cho không có đèn sáng. Trên đây, các dụ đều nói về nỗi khổ sắp thọ sinh. Từ đây trở xuống, dụ cho khổ chết. Nói tất cả khổ đều do thọ sinh. Tâm diệt, gọi là chết. Diệt không do cửa, dụ cho không có cửa. Căn không thọ khởi, dụ cho có nơi chốn. Không hay biết khổ vui, dụ cho không thể chữa trị. Các căn diệt dần, sức khỏe không chế ngự nổi, dụ cho không có ngăn cấm. Thọ căn (Cơ quan cảm nhận) đã diệt, không còn sinh lại, dụ cho không được thoát. Căn sinh diệt đã khác, tướng mạo bên ngoài không thay đổi, dụ cho không có phá hoại. Người không nhìn thấy, dụ cho chất độc của cơn ưu sầu, không thể hại người, dụ cho chẳng phải sắc xấu ác, con người rất lo sợ tai họa của cái chết kia, dụ cho sợ hãi. Căn này đều diệt, dụ cho ở thân. Diệt không thể thấy, dụ cho không thể hay biết.” <篇> Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 30 <詞>Phẩm 19: THÁNH HẠNH, (Phần 4) Nêu ra duyên khởi vua Đảnh Sinh. Hội thông ý nghóa khổ năm ấm lừng lẫy xưa nay. Nêu xưa vì Thích-ma-nam nói sắc có nghóa vui. Nêu xưa nói nghóa pháp lành được thọ vui. Nêu bài kê lạc thọ mà xưa đã nói. Giải thích nghóa khổ phẩm hạ, sinh ý nghó là vui. Giải thích nghóa khổ của ba thọ. Giải thích: Người Nhị thừa không biết nhân vui thường trụ, cho nên bị nói là lấy khổ phẩm hạ làm vui. “Này Ca-diếp! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Khổ thương yêu mà chia lìa, cái gọi là chết?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh là gốc năm ấm, ái là cội rễ các kiết sử. Dẫn bài kệ trước để làm chứng: “La-hán sở dó không có lo lắng Không có sợ hãi về ái hết.” Cái gọi là chết, là nói sự quan trọng của cái chết đó. Tất cả khổ nói trong đây đều do ái sinh ra. “Này người thiện nam! Vì biệt ly làm sinh ra các khổ” cho đến “khổ thương yêu mà chia lìa ở đời hiện tại.” Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Phát ra duyên khởi, để nói về sự quan trọng của cái chết kia.” “Này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Đại Bát- niết-bàn quán sát khổ, oán ghét mà phải gặp nhau, tức là thân phải gánh chịu, cho nên thường gặp mặt mình oán ghét.” “Này người thiện nam!Thế nào là Bồ-tát tu hành Đại thừa” cho đến “Ca-diếp! Đây gọi là khổ đế.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về cảnh chưa đủ, chỗ không tránh khỏi, ngoại trừ Đức Phật, tất cả đều có khổ này. Năm hành ấm, không có tự thể riêng, tức chỉ cho bảy khổ.” “Bấy giờ, Đại Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Khổ năm ấm lừng lậy, nghóa ấy không đúng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói năm ấm đều khổ, là trái với giáo xưa để chứng cho giáo nay.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là thứ tư, dẫn thuyết xưa để gạn thuyết nay, là hội thông hai giáo.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba là hội thông hai giáo xưa nay. Giáo có nhân quả, xưa đã hội quả thì nay sẽ hội thông nhân. Xưa đã điểm ba thọ đều khổ, làm cho hữu tình nhàm chán mà tiến đức. Nghóa ấy dù vậy nhưng cuối cùng không bằng nhân hoại. Nếu làm cho nhân quả gặp nhau thì chúng sinh đâu chịu làm lành để dứt ác, ở trong thân sinh tử, tu học thành Thánh, mà thể của trí nhất thiết vẫn chưa tránh khỏi vô thường, chỉ vì quả vui chưa hiển hiện, thì không được làm nhân hư hoại. Nay giáo thường trụ với nghóa của quả vui đã rõ ràng, bắt đầu được nhân hư hoại. Ta vốn nói: “Tu điều lành, là nhân của Bồ-đề, chứ chẳng phải pháp sinh tử.” Có chỗ giải thích rằng: “Giáo nay, do thích hợp với quả, e rằng chẳng phải ý Phật. Giáo xưa đã thích hợp thì giáo hiện nay đâu cần phải lập lại nữa. Nên biết rằng về lý thì không hợp, nhưng hiện nay, vì sắp muốn gặp nhân, nên Bồ-tát Ca-diếp, trước nắm lấy quả để tạo nên câu hỏi. Đức Phật trước đã sai khiến quả, chỉ có biết khổ, sau đó chính là nói: “Khi xưa ta làm thế nào để khéo được niềm vui? Chính là niềm vui của đạo Bồ-đề”, nhưng nghóa này chưa được sáng rõ, nay mới hội thông.” “Vì sao? Vì như ngày trước Phật đã bảo Thích-ma-nam” cho đến “Nếu có người cầu thì sẽ không gọi là khổ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thông thường nêu ra năm y cứ, đây là y cứ thứ nhất, nêu ra duyên vui, vì có người mong cầu thì không nên không có niềm vui.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp trước nêu ra năm câu hỏi: thứ nhất, vì có vui, không nên có khổ trong năm dục của trời, người.” “Như Phật bảo các Tỳ-kheo: “Có ba thứ thọ: thọ khổ, thọ vui, thọ không khổ, không vui.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai, nêu ba thọ để nói: Nếu không có vui, thì làm sao có thọ vui ư?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai, vì có thọ lạc trong ba thọ, vì thế không nên khổ.” “Như Đức Phật trước vì các Tỳ-kheo mà nói: “Nếu có người nào tu hành pháp lành, thì sẽ được thọ vui.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ ba, nêu nhân lành đã tu. Nhân đã lành, về lý, vì có quả vui, nên lấy nhân làm chứng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ ba, vì điều lành là nhân vui, vì thế mà biết không nên chẳng có niềm vui.” “Lại, như Phật đã nói “Đối với đạo thiện” cho đến “Pháp tốt đẹp của ý tứ cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ tư, trước kia, nêu nhân lành, nay nêu sáu xúc chạm tức là quả lành. Nếu dùng nhân vui mà được quả vui thì làm sao không có niềm vui ư?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Như thọ già ở trong người, vì thọ hưởng quả báo của trời, nên biết đối tượng của sáu căn đều là vui.” “Như Phật đã nói bài kệ: “Trì giới là niềm vui” cho đến “Những việc phải làm đều đã làm xong, đây gọi là rất vui.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ năm, là nêu nhân quả, các bài kệ đều chứng minh có vui. Pháp sư Bảo Lượng nói: Thứ năm là câu hỏi nêu bài kệ thành thật xưa, làm câu hỏi.” “Bạch Đức Thế tôn! Như trong các kinh đã nói” cho đến “Làm thế nào tương ứng với nghóa mà Phật đã nói hôm nay?” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Nêu chung việc nói trên, để mong được thông suốt thích hợp.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi dù có năm, nhưng không ngoài hai đường. Câu hỏi thứ nhất, thứ hai và thứ tư đều căn cứ trên quả báo để thưa hỏi. Câu hỏi thứ ba, thứ năm, dùng nhân để gạn hỏi quả.” “Phật bảo Ca-diếp: “Lành thay! Lành thay!” cho đến “Tưởng khổ mà ta nói hôm nay không khác với tưởng khổ đã nói ngày trước.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Không có khổ, thể đã chẳng phải khổ, mà được không khổ, chúng sinh lại lấy nhẹ để thay thế nặng, rồi cho là không có khổ, đó gọi là chấp ngang trái.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ nhất, thứ hai và thứ tư, nói là niềm vui ngang trái. Nghóa là chúng sinh cũng lấy khổ phẩm hạ để sinh tư tưởng vui một cách ngang trái, là nhờ vào giáo. Vui mà giáo xưa nói là căn cứ vào tâm tình ngang trái của phàm phu kia, là không bao giờ có vui. Nay nói đều là khổ, nên cũng không có trái.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp chung năm câu hỏi. Vì chúng sinh, không biết chân tướng nên trong khổ phẩm hạ, sinh ra ý tưởng vui một cách ngang trái. E rằng sinh khởi việc này thì phải đọa vào ba đường. Vả lại, nói trời, người là vui, làm cho chúng sinh tu mười điều lành, năm giới để quay lưng với đường ác, cái gọi là dùng việc vụn vặt để phát ra việc vụn vặt.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là ba thọ trở xuống, trước đáp câu hỏi về quả thứ nhất, thứ hai, thứ tư.” Nỗi khổ phẩm hạ: Ba ác nặng là khổ phẩm thượng. Trời, người thì nhẹ là khổ phẩm hạ. Phàm phu không giác biết khổ phẩm hạ, nên sinh ý tưởng là vui một cách ngang trái.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Như Phật đã nói” cho đến “Người sinh cõi trên, gọi là lên cõi trời.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Sinh là người sinh tham khổ, khổ này đáng ghét. Tham thì còn hơn ác, vì dữ dội nên đọa xuống cõi dưới. Từ khổ phẩm hạ của ba đường này, từ cõi trời, người này mà sinh, tức là khổ. Tương tự như nếu khổ phẩm hạ là sinh cõi dưới kia. Nên mới đặt ra câu hỏi.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tiếp nối tiếng để làm câu hỏi, là hỏi với ba quan điểm: Phẩm hạ mà Phật nói, có nghóa nhỏ nhoi là hạ. Chẳng hạn như Bồ-tát Ca-diếp nói: “Lấy rất nặng làm phẩm hạ.” Đây là quan điểm thứ nhất.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vật tình một sớm một chiều chưa ngộ, nay Bồ-tát Ca-diếp lại đặt ra hai câu hỏi. Theo ý Phật, cho trời, người là khổ phẩm hạ, trong khi Bồ-tát lại cho ba đường là khổ phẩm hạ. “Nếu lại có người hỏi thế này” cho đến “Tưởng cho là vui thì phải trả lời thế nào?” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đối với khổ phẩm hạ, sinh ý tưởng là vui một cách ngang trái, dùng làm lời hỏi.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “thứ hai, là nói về sự nhớ nghó để đáp ngược lại: “Vì khổ phẩm hạ nên nói là vui, biết tất cả đều khổ. Nay vì cũng lấy niềm vui thuộc phẩm hạ, nên nói là khổ. Phải biết rằng tất cả đều vui.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai, đều trái với nghóa trước của Như lai, nếu dùng ba thọ để dứt hết nỗi khổ thì nay sẽ dùng ba thọ để dứt hết vui nhưng chỉ là vui nhỏ nhặt không đáng kể. Bạch Đức Thế tôn! Hoặc hạ hoặc trung mà nghó là vui, cho đến dưới đây trong khổ mà nghó là vui. Xét: Pháp sư Đạo Sanh nói: Ý câu hỏi không chấp nhận khổ dưới sanh ra vui, cho nên lấy đây để nêu lên.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quan điểm thứ ba, nếu quả thật đối với nỗi khổ bậc hạ nhỏ nhặt mà sinh niềm vui thì lúc bị đánh một trượng, so với một ngàn trượng, thì một ngàn trượng rất nặng, còn một trượng rất nhẹ, rồi cho là vui. Vì cho nên biết rằng, không lấy khổ nhẹ mà nghó là vui.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở đây, căn cứ vào mặt lý để giải thích: Nếu lấy khổ nhẹ của trời, người làm khổ bậc ba, thì lẽ ra phải dùng hình phạt một trượng cho khổ nhẹ là khổ bậc hạ, nếu vậy thì lẽ ra nên “Duyên” đánh một trượng này mà sinh niềm vui?” “Phật bảo Ca-diếp: “Đúng thế! Đúng thế! Đúng như lời ông vừa nói. Do nghóa này nên không có ý tưởng là vui.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đáp câu hỏi sau cùng. Hai câu hỏi trước tự hiểu. Như vậy, mỗi khổ phẩm hạ, không nghó là vui, là đều nghiệm xét không có niềm vui.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thật ra không có niềm vui, câu án đã giải thích. Người này sẽ thọ lãnh hằng ngàn hình phạt, để khỏi phải chịu khổ khác, nên đối với bị đánh một gậy nói trên, tưởng ngang trái là vui.” Pháp sư Đàm Ái nói: “Do đó không dùng một khổ bậc hạ làm niềm vui, vì thoát khỏi khổ nặng. Thật ra là hành khổ. Phàm phu cứ cho đó là vui. Dùng một lời đáp này đều đáp cho cả ba câu hỏi. Vì sao? Vì phạt đánh một gậy so với bị đánh một ngàn gậy đều là khổ nặng. Đã không cho khổ bậc hạ là niềm vui, thì sao lại nói đối với tận đáy khổ bậc hạ mà nghó là vui ư? Tức là đáp câu hỏi thứ nhất. Lại, người này “Duyên” thoát khỏi khổ nặng, mà sinh tư tưởng là vui một cách ngang trái, thì sao lại nói là đối với niềm vui bậc hạ, nghó là khổ ư? Tức là đáp quan điểm thứ hai.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lời đáp này trả lời cho cả ba câu hỏi. Nay, trước nên giải thích nghóa sinh ra một cách ngang trái: Nếu một khổ bậc hạ, đâu cho là vui được, há không phải là thứ vui giả dối ư? Chẳng phải khi chịu đánh một gậy mà sinh ra niềm vui. “Vì sao cũng như người tội kia sẽ bị phạt đánh một ngàn gậy” cho đến “Trong việc không có niềm vui, là nói ở đây.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Giải thích nghóa theo chiều ngang.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Người tội đó không vì bị phạt đánh một gậy (khổ bậc hạ)” cho đến “Mà chính là vì được thả ra, nên nghó là vui.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp nói: “Thật ra không có chín trăm chín mươi chín gậy, nên “Duyên” này không có. Vì vậy, nên có vui thật.” “Này Ca-diếp! Thế nên trước kia, ta đã nói với Thích-ma-nam rằng, có vui trong năm ấm, là thật không giả dối.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chịu sự trách cứ rằng, đã không dùng một hình phạt bậc hạ (đánh một gậy) làm niềm vui, mà là vì vui nên vui, chứ chẳng phải vui ngang trái, bởi Đức Phật nói: “Vui thật không giả dối. Vì tránh khỏi chịu sự hình phạt là vui, chẳng thể trong cái không mà nói là vui được.” Pháp sư Đàm Ái nói: “Bồ-tát Ca-diếp hiểu rõ điều không thể thưa hỏi. Đức Phật liền nói cho thành tựu.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích câu hỏi thứ ba, về nghóa thật vui. Khổ trong ba đường, đối với trời, người thật sự không có. Chỗ không có đó nào khác gì với Phật(tức có niềm vui thật). Vì thế, nên biết chẳng phải thuyết giả dối.” “Này người thiện nam! Có ba thọ ba khổ” cho đến “Hai thọ còn lại, là hành khổ và hoại khổ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước kia vì lấy nghóa nhẹ, nặng nên nói là ba thọ. Nay, vì lấy ba khổ, nên nói là tất cả khổ, vì việc đã làm khác nhau, nên không trái nhau. Khổ thọ, gọi là ba khổ, là tánh gồm thâu ba khổ. Hai thọ còn lại, chính là nghóa khác của tánh khổ.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ hai ở trước. Trước đây, Phật nói: “Ba thọ đều là khổ!” Bồ-tát Ca-diếp hỏi rằng: “Ba thọ đều là vui”, nay Phật nêu ba thọ chỉ có khổ mà không có vui đâu được bắt bẻ rằng: “Ba thọ đều là vui ư?” đối với khổ bậc hạ, vì nhỏ nhặt không biết, sinh ra ý nghó ngang trái cho là vui, chính là đáp câu hỏi đầu, nói là đối với khổ phẩm hạ rất nặng, sinh ý nghó là vui. Khổ thọ có ba khổ: Nếu giải thích như trước, thì xét ngay ba thọ là ba khổ, tức là: Khổ thọ là khổ khổ, lạc thọ là hoại khổ và xả thọ là hành khổ. Nay nói khổ thọ có ba khổ, về chỉ thú nghóa có khác một ít với giáo xưa. Vì sao? Vì nếu tâm sinh ra trong “Duyên” dao, gậy, thì cũng là khổ thọ, còn tâm sinh trong “Duyên” mất, hoại thì cũng vẫn là khổ thọ. Nay lấy sinh khổ thọ trong “Duyên” dao, gậy làm khổ khổ và sinh khổ thọ trong “Duyên” mất mát, hư hoại làm hoại khổ, thì chính thể của nỗi khổ này là động tác mong cầu “Duyên hành”, tức là hành khổ, nên nói khổ thọ có ba khổ, chứ không phải là “Khổ khổ” có ba khổ. Hai thọ còn lại đều có hai khổ, nghóa là khi lạc thọ khởi, là nói quả trong nhân, tức là hoại khổ, tức thể là động tác cầu duyên hành, nên là hành khổ, cũng được phép nói “Lạc thọ” có cả hai khổ. “Xả thọ” có hai khổ: Bốn thiền trở lên, là xả thọ. Nhưng chúng sinh ở cõi đó lúc xả mạng, cũng vẫn yêu tiếc mạng sống lâu, tức là hoại khổ. Thể của “Hoại khổ” đó chẳng lẽ không phải “Hành duyên” động tác mong cầu hay sao? Nếu vậy, thì xả thọ có cả hai khổ.” Này người thiện nam! Do nhân duyên này mà mà trong sanh tử cho đến cho nên nói rằng tất cả đều khổ. Xét: Pháp sư tăng Lượng nói: Vì nhân duyên nhẹ nặng. Tánh khổ, vui không lìa nhau, nghóa là giải vô lậu của Thập trụ, từ Sơ trụ đến tâm Kim cương này, phải phân chia việc dứt trừ “Hoặc”. Đối với bên không có “Hoặc”, thì thường là vui thật. Nhưng vì thể vô lậu chưa tránh khỏi thế đế, nên nêu thể là khổ và vì thế, nên nói là tánh khổ, vui không lìa nhau.” “Này người thiện nam! Trong sanh tử thật ra không có niềm vui” cho đến “Vì thuận theo thế gian, nên nói rằng có vui!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sẽ nói nhân vui là vui, là đáp câu hỏi thứ ba và thứ năm, nên trước nói cõi trời hữu vi không có niềm vui.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thật ra không có vui sáng sủa nào trong năm dục.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Nay Phật nói như vậy, ý nghóa thế nào?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghóa trên chưa rõ, nên hỏi để hoàn thành.” Pháp sư Đàm Tiên nói: “Nhận hiểu rõ ràng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì hai câu hỏi thứ ba, thứ năm chưa được Phật đáp, nên ở đây nêu lần nữa để xin Phật đáp.” “Phật nói: “Này người thiện nam! Như trên đã nói” cho đến “Tất cả đều khổ, không có ý tưởng vui.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cũng là nhân sinh khổ, nghóa là nói vật ngoài, chẳng phải nhân của khổ khổ, nên nói là khổ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp hai câu hỏi kia, là nói trong nhân có quả thì đâu có luống dối ư?” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Mới nhận biết được tường tận về nhân khổ, nhân vui này.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Người Nhị thừa không biết thường trụ, nên không biết được nhân vui.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích khổ, là giải thích về ba khổ. Không khổ, là nói khổ phẩm hạ là vui, vui thì không khổ.”  Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 31 <詞>Phẩm 19: THÁNH HẠNH (Phần 5) Giải thích rộng Tập đế, lấy Ái làm Thể. Giải thích hai thứ Ái: Yêu bản thân mình. Yêu vật cần dùng. Lại giải thích hai thứù Ái: Yêu điều lành. Yêu việc không lành. Nêu chín việc để dụ về Ái. Giải thích: Bồ-tát không có khổ, có đế. Các Thanh văn có khổ, có đế. Giải thích rộng về nghóa thấy diệt đế. Giải thích rộng nghóa Đạo đế. Giải thích rộng nghóa Đạo là một, tùy theo pháp mà khác. “Này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Phân biệt, tính toán, vô lượng, vô biên.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại yêu “Hữu”, nghóa là ba hữu.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước đã nói lược, nay là nói rộng. Kế là hội thông. Sau, nói về quán hạnh. Nhân duyên của ấm này, là do nghiệp phiền não, được quả ấm ở vị lai. Lại yêu “Hữu”: Xưa do nghiệp phiền não nên có thân, nay lại yêu ba cõi nên lại dẫn đến sự sinh. Nhân duyên nghiệp ái: là vì nghiệp đời trước nên khởi ái, theo tập quán. Ái nhân duyên phiền não, như người nặng về sân, thường ưa thích binh khí. Ái nhân duyên của khổ, như người bị bệnh, thích châm cứu.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là giải thích về Tập đế, nói về nghiệp và phiền não cấu kết với quả báo sinh tử ở vị lai, nối tiếp sinh khởi, được gọi là Tập. Trong phần nói về Tập đế, này cũng có ba ý. Nhưng đoạn văn vừa, nhỏ từ trái sang phải, không như thứ lớp trong khổ đế: Giải thích về tướng của Tập đế. Hội thông. Quán lỗi. Nay trong phẩm này nói về Tập đế đều căn cứ vào sử ái, làm nguyên nhân. Vì sao? Vì ái có công năng thấm nhuần nghiệp, lại còn tươi nhuần. Vì được sinh là do mình. Vì cho nên chẳng phải ái, sẽ không thành nghiệp. Cho nên y cứ ái mà gom nhóm. Sao chép cảm đến duyện của ấm cùng tận. Nhưng tánh chất của ái là ô nhiễm hệ lụy. Về sự thì chẳng có pháp nào không từ nó sinh ra, nên trong văn có nói rộng, về ái, đúng đầu các duyên. Yêu bản thân mình, là yêu chánh báo, các nhu cầu cần thiết cho mình, được gọi là y báo, như nghiệp công xảo… Những sự nghiệp được hoàn thành, bảo hộ, vương mang, cùng mọi thứ đẹp đẽ, thỏa thich ở trong lòng, được gọi là ái của nghiệp nhân duyên. Nếu gặp phải cảnh ngang trái khởi tâm thì gọi là nuốt hận từ xưa. Lại tu tâm này cho được tốt đẹp, lại bị nhân duyên ái của phiền não, đau khổ rồi muốn quay lưng lại. Nếu lìa “Ngã” mà hợp với tình thì sẽ không có khổ này, mà tâm lại được vui vẻ, nên nói ái là nhân duyên của khổ.” “Này người thiện nam! Ái có hai thứ” cho đến “Người cầu pháp Đại thừa, được gọi là Thiện.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kết nhóm tám khổ, nghóa là điên đảo nặng nề, yêu thích công đức của Phật thì xem nhẹ. Vì thế phải dứt tám khổ.” “Này người thiện nam! Kẻ phàm phu tham ái, gọi là “Tập”“ cho đến “không vì ái mà thọ sinh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh này dùng trí để biết Tập, gọi là “Đế”. Phàm phu vì không biết “Tập”, nên Tập chẳng phải Đế. Bồ- tát thì “Đế” mà chẳng phải “Tập”. Vì sao? Là giải thích lý do vì sao là Đế mà chẳng phải Tập. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về đặt tên ái, hai chỗ tên và sinh như trước đã nói, đều là ái bất thiện của phàm phu. Nếu phát tâm ưa mến chánh pháp, dùng điều tốt đẹp làm lẽ sống với tâm tình vui vẻ nguyện cầu, thì gọi là ái thiện. Tên gọi dù đồng nhưng nghóa thì cả hai đều khác nhau. Danh là đồng, tâm thì khác: Đều tự có chỗ về. Nhưng ái thiện tuy đồng nhưng lại có chia làm hai. Nếu Bồ-tát phát tâm nhớ nghó quanh co, không lìa nhiễm trong duyên, thì gọi là yêu mến Đại thừa. Tiểu đạo của hàng Thanh văn dù muốn yêu điều lành, nhưng vì kiến giải không xứng với cảnh, nên trong tâm thường có chỗ sai trái về mong cầu điều tốt lành, bị rơi vào cổng ái bất thiện. Nên biết rằng người Nhị thừa làm việc đạo không xứng với đạo, không sửa đổi tâm, nên không được xuất ly. Làm sao biết được? Câu dưới đây, là gom nhóm ái của phàm phu, gọi là “Tập”. Biết được người Nhị thừa chấp tướng ở tâm, chưa khỏi sinh tử, không có dụng của đế. Bồ-tát tạo hạnh xuất gia không vì sinh tử mà vì tai hại lỗi lầm. Đã biết được lỗi lầm sinh tử, nên về tình cảm chấp mắc, bảo thủ, đối với Bồ-tát rất hời hợt, xa lạ. Vì lý do đó, nên dù Bồ-tát có yêu, cũng không gọi là “Tập”. Nếu vì chấp mắc cần phải thể hiện sự sinh để ứng hóa cứu độ chúng sinh, thì không gọi là Ái.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cho đến riêng dùng tánh ái làm nhân năm ấm. Xét: Pháp Sư Tăng Tông nói: “Đây là văn hội thông, thuyết xưa thì khác, xin giải thích về nguyên nhân đó.” “Phật khen Bồ-tát Ca-diếp: “Lành thay! Lành thay!” cho đến “Có khả năng sinh ra tất cả mầm của nghiệp phiền não.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Mặc dù nghiệp và phiền não là nói về nhân của quả, nhưng ái là sự sinh của thọ sinh.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai, hội thông câu hỏi. Dù nói là có chiêu cảm nhân của ấm khác nhau, nhưng nếu chẳng phải ái thì không nói, dùng ba dụ cho để làm rõ.” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát trụ trong Đại Niết-bàn Đại thừa này” cho đến “Đây gọi là như trách hàng Thanh văn, Duyên giác vì còn tập khí thừa của ái, nên không chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây là môn giáo. Ở đây, chỉ nói lỗi của ái, không nói là Tập, nên không dứt bỏ. Bồ-tát không yêu mà là Tập, nên dứt bỏ.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quán sát tai hại lỗi lầm của ái.” “Này người thiện nam! Thế nào là Như vợ La-sát?” cho đến “Quán sát kiết ái có chín thứ như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cứu vớt căn bản vô thượng của Tôn giả Xá-lợi-phất, tức có duyên khởi (Ghi chép từ Thích luận kia). Lại tương thừa giải thích rằng: “Bấy giờ, đã đến lục trụ, chưa được tâm thất trụ.” Có thuyết nói: “Hai mươi tâm trong ba mươi trụ tâm.” “Này người thiện nam! Do nghóa này nên” cho đến “Đại Bồ-tát có Đạo, có chân đế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì quán sát khác nhau, mà nói là khổ, tập của giáo xưa, chỉ ở ba người. Nhân nói bốn người quán sát có khác nhau. Về thứ lớp ngôn ngữ được đề cập. Bồ-tát có khả năng quán khổ quán, ưa thích tám tai họa vô thượng. Nhân luận quán sát về sự khác nhau của người, cho rằng điên đảo là khổ. Ba người đều điên đảo, đều có khổ. Vì thấy khổ, nên gọi là đế. Ba người đều thấy khổ, nên có đế. Dưới đây phải lướt qua. Quán cõi Dục vô thường, như bệnh, được ra khỏi cõi Sắc là phàm phu thấy khổ. Vì ba người đối với Phật có khổ điên đảo, nên đối với đế không được gọi là chân. Hiểu khổ là sinh tử, không có khổ là Niết-bàn. Đối với hai pháp này không điên đảo, nói là không có khổ mà có chân đế. Khổ thô, tập tế. Phàm phu không thấy Tập, nên không có Đế. Có Tập đế nghóa là có điên đảo đối với Phật, cảm thọ khổ biến dịch, nên gọi là Tập. Vì biết được nhân của phần đoạn, nên có Đế. Trên đây chỉ nói phàm phu là “Tập”, không nói khổ biến dịch. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở trên đã nói Khổ đế, Tập đế rồi. Ở đây sẽ kết thành dụng của Đế: Không thành dụng của đế, khảo sát nhận thức của phàm phu được sự sai quấy mà lìa lỗi. Rằng phàm phu có khổ, không có đế, nghóa là phàm phu chỉ biết thô về sự khổ ép ngặt, mà không hiểu chắc chắn về nguyên nhân của khổ, nên không có dụng của Đế. Người Nhị thừa có khổ đế, nghóa là có sự khổ gây ép ngặt, chẳng phải không hiểu thô, mà dứt trừ nhân khổ, cho nên được nói là có dụng của đế. Không có chân thật, nghóa là không biết Đức Phật không có khổ. Vì hợp với Phật tạo ra quán khổ, nên không có chân thật. Các Bồ- tát hiểu khổ không thật khổ, nghóa là ngày xưa, hiểu khổ không khổ, tánh là “Không”. Ngày nay, nhận hiểu Kim cương lại có khổ, quả Phật không có khổ. Lầm nói về hai nhà cho nên có chân đế. Dưới đây ba đế còn lại, so sánh, giải thích về nghóa có thể hiểu. Đấng Đại só nói cả hai luân, vì an pháp được nơi chốn, cho nên có chân.” “Này người thiện nam!Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Trụ trong Đại Niết-bàn để quán diệt Thánh đế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là quán diệt đế, Đại Niết-bàn là diệt đế. Có đủ hai nghóa: Chỉ dứt phiền não. Dứt tất cả tướng. Pháp sư Pháp Dao nói: “Ba đế đều không nói là có hai kiến. Ở đây nói rằng kiến diệt, kiến đế, là sao? Vì Diệt có hai thứ: Phật địa diệt. Bồ-tát địa diệt. Phật diệt mà chẳng phải đế, Bồ-tát diệt mà là đế. Đế, là dùng để chiếu soi cảnh. Đức Phật thì dứt chiếu sáng, bỏ xem xét, tức là Đức Phật không có Đế mà diệt. Bồ-tát có đế có diệt. Trên Phật không có đạo, cũng không có khổ đế, tập cũng vậy. Lại, kinh vì tự nói với văn như thế, nên chỉ có Diệt đế, chỉ nói là kiến diệt, kiến đế, đế còn lại thì không như vậy.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong văn diệt đế thiếu, không có hội thông, có thể có nghóa rộng, có nghóa quán môn. Dứt trừ tất cả phiền não, nghóa là diệt của giáo xưa là phần diệt. Diệt của giáo nay là dứt vô minh trụ địa trở xuống, dứt hết ở đây. Dứt thì gọi là Thường, nghóa là vì còn có “hoặc chưa dứt trừ, tất nhiên vẫn còn lưu động, dời đổi, lùi lại. Nay hoặc đã dứt hết, công dụng chiếu sáng cùng khắp, thế nên là Thường.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ba “Giải “theo thứ lớp. Hai lý khổ, tập trong diệt đế, là pháp hữu lậu, vì bị nhiều chỗ tai hại, cho nên mở ra quán riêng. Nay, hai đế diệt, đạo đã là vô lậu, không có tánh chẳng nhiễm chẳng , trói buộc, chỉ “Giải” hội thông nhau, có thuyết của hai môn. Trong diệt đế thì không có phân biệt văn hội thông, nhưng về nghóa, suy ra có hai. Trong văn đạo đế, về sự của đạo đế tự khác. Nay, đầu tiên thấy diệt, thấy diệt đế. Hai câu này tạo nên chỉ thú đối nhau dưới chương môn. Tám câu sau giải thích thấy diệt, nghóa là thấy diệt xưa là thấy diệt đế, thấy ngày nay là lý chân như thường trụ. Đây là hội thông, cũng có thể nói rằng câu trên là tướng của Diệt đế. Nói “Dứt trừ tất cả phiền não” nghóa là giải thích câu “Thấy diệt” ở trên. Vì phiền não diệt, nên gọi là “Thường”, nghóa là giải thích câu “Thấy diệt đế”. Dập tắt lửa phiền não, thì gọi là vắng lặng, nghóa là giải thích câu thấy diệt ở trên. “Vì dứt phiền não nên được thọ hưởng niềm vui, trước giải thích câu “Thấy diệt đế”. “Bồ-tát vì cầu nhân duyên, nên gọi là tịnh, nghóa là giải thích câu “Thấy diệt đế”. Vì dứt hẳn tất cả phiền não nên gọi là xuất thế, là giải thích. Vì xuất cho nên gọi là ngã, nghóa là giải thích câu “Thấy diệt đế” dưới đây, là bỏ câu giải thích “Thấy diệt”. “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát làm thế nào” cho đến “Trụ trong Đại Niết-bàn để quán đạo Thánh đế?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây, là nói về đạo đế. Trước là quán đạo, tức là tướng xuất thế, không nhân khổ, tập, mà nhân tám Thánh. Thấy tất cả pháp: Tám đạo cũng là Đế, đạo đế quán đạo. Diệt là quả, chỉ quán vô học. Đạo là nhân, quán chung địa học. Từ thường, vô thường, cho đến tịnh quán nhân, quả. Vô thường là nhân, thường là quả. Dưới đây sẽ y cứ vào nhân, quả để quán riêng. Về nghóa, Đa-la-phiếu chân thật chủ. Cầu da là y, cũng là nghóa trang nghiêm. Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nói về nghóa rộng, gồm giải thích cả quán hạnh. Sau, nói về hội thông. Cái gọi là Thường, Vô thường, nghóa là nêu cảnh được Đạo soi sáng, để nói về thể của quán. Thường là quả Phật. Vô thường là từ Kim cương trở xuống, là số chúng sinh. Kim cương là vật thể trong trói buộc. Quả Phật chẳng phải là vật thể bị buộc ràng. Đà-la-phiếu: Mượn y đế, chủ đế để giải thích chánh nghóa. Phật ở thể tông cùng cực, là Đà-la-phiếu. “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Chư Phật Như lai đã lìa hẳn sự nhận lầm từ lâu.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không tương ứng, nghóa là giáo nay nói Tám là đạo, còn giáo xưa thì không nói tám, nên chẳng phải đạo. Muốn nghe nói về Đạo, hoặc lược, hoặc rộng, cũng đều là đạo cả.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là hội thông giáo xưa và nay.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật đáp: “Các kinh đều nhập đạo đế.” Y cứ ba nhân duyên để nói về nhập: Môn nhân. Môn duyên. Thể của đạo, không ngoài ba pháp này.” “Bấy giờ, Đức Thế tôn khen Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Có thể có nhiều dạng nói pháp như thế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là nói rộng về tướng đạo. Có công năng giúp đỡ Bồ-đề, là giải thích nghóa gốc. Bồ-đề là chánh thể của trí đạo, lấy tín làm gốc. Nói tin một việc, về sau so sánh một việc khác, dễ biết.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Các kinh như thế đều nhập đạo đế: Thuyết xưa dù có thể không đủ, nhưng đều là đạo. Tùy giáo hóa mà giảng nói, nên gọi là không đồng!” “Này người thiện nam! Ví như người thầy thuốc hiểu rõ mọi căn bệnh của chúng sinh” cho đến “Vâng theo lời dặn của thầy thuốc, mà bệnh được lành.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với thuốc và những thứ cấm kî chỉ có nước là không theo lệ cấm. Một ngọn cỏ, một viên đá đều có công dụng của nó, bỏ thêm bớt, chẳng phải đều có, mà nước thì không có ngăn ngại. Bố thí, trì giới có sự khác nhau về hành chỉ, còn đạo thì suốt qua. Vì sao? Vì như kinh nói: “Đời có năm người, không khen năm việc, đó là không bỏn sẻn, khen ngợi bố thí… .” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong sáu ví dụ sau đây, ba ví dụ trước nói đạo là một, để tương ứng với ba ví dụ sau. Ba ví dụ sau lại tương ứng với thuyết trước, nói rõ, nói rộng về đạo là “Một”. Đại ý dụ cho này nói về đạo, dù có thể là “Một” nhưng vì căn bệnh của chúng sinh khác nhau, nên phương thuốc chữa trị cũng khác.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Các thứ thuốc là dụ cho những thời nói pháp khác nhau. Nước có một thứ, dụ cho đạo. Tánh của thuốc không đồng, dụ cho cái nơm tốt của đạo tinh tấn, của cơ nghi nhất thời, lấy tư chất cốt yếu của vô vi.” “Lại nữa, này người thiện nam! Ví như có người” cho đến “Từ tín căn đến tám Thánh đạo.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tiểu, khác với ví dụ trên. Từ tín căn đến tám Thánh đạo, nghóa là nói một pháp làm tín, cho đến tám đạo làm tên lẫn nhau.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đại ý ví dụ thứ hai, nói về đạo dù là “Một”, nhưng tùy từng địa phương mà đặt tên khác nhau.” “Này người thiện nam! Ví như người thợ kim hoàn” cho đến “Vì chúng sinh mà phân biệt nhiều cách.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là tùy theo từng công dụng của đồ trang sức mà cách chế biến có khác nhau làm thí dụ. Đạo của Như lai tùy căn cơ của Đại thừa, Tiểu thừa mà có rộng lược khác nhau! Từ một đến chín là thuyết lẫn lộn của ba thừa. Dưới đây nói Đại thừa chỉ có một đạo, không có hai, nghóa là Chư Phật ba đời có đồng thấy “Có”, không đồng với thấy “Không”, là đạo Đại thừa Định, Tuệ nghóa là do giới xa, nên không nói. Thấy trí tuệ, nghóa là tìm tòi gọi là “Kiến”. Hiểu rõ chân, gọi là tuệ. Xét định gọi là Trí. Kiến đạo nghóa là như đắc quả, do sơ kiến, được gọi là trọng. Lại tu tập, mong cầu tiến lên quả trên, gọi là Tu. Kiết đã dứt hết, không còn tu, gọi là vô học. Năm thứ nhân lợi, độn được định diệt tận, gọi là sáu thứ nhân người nhân đạo. Tam-muội niệm Phật: Chỉ có Phật niệm Phật, thật sự được tướng Phật, có thể gọi là định.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ thứ ba nói về đạo, dù là một, nhưng vì vận dụng phương tiện, khéo léo, nên có nhiều thuyết khác nhau. Một đạo, đây là nói vì từng căn duyên khác nhau của chúng sinh, nên giáo pháp của Như lai khác nhau, thích hợp với ví dụ trước. Đạo tín hạnh, pháp hạnh: Đại ý kinh này khác với quan điểm của Số Luận. Số Luận giải thích Tín hành, Pháp hành là năm phương tiện trở xuống. Xét về ý của văn này, cho đến kiến đế Trung đạo. Tín giải thoát kiến đắc vẫn là hai thứ trước để vào tư duy, thông qua pháp chế của ba quả. Thân chứng, nghóa là hai người Tùy tín hành, Tùy pháp hành này đều có khả năng thân chứng. Nói mười Lực, vô úy là đạo, là không có nghóa cầu tiến, vì lực, vô úy kia đã có nghóa của đạo giải thoát, cũng có thể là đạo nói trong duyên. Ba ví dụ sau, nghóa rất dễ hiểu. “Lại nữa, này thiện nam! Ví như một thứ lửa” cho đến “Vì hóa độ chúng sinh nên có nhiều thứ phân biệt.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói có: “Khả năng dứt trừ là đạo, ví dụ này đồng với đối tượng dứt trừ.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như một thức” cho đến “Vì hóa độ các chúng sinh mà có nhiều thứ phân biệt.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắc tùy theo đối tượng nương tựa mà có khác nhau. Đạo tùy ở Tiểu thừa, Đại thừa mà căn cơ có khác nhau.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như một sắc” cho đến “Vô lượng chúng sinh được thoát sinh tử.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dựa vào kiến, là tên gọi.”  Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 32 <詞>Phẩm 19: THÁNH HẠNH (Phần 6) Hội thông chung nghóa bốn đế - Giải thích nghóa hai đế. Giải hoặc đối nhau, giải thích nghóa hai đế. Hư thật đối nhau, giải thích nghóa hai đế. Hữu, vô đối nhau, giải thích nghóa hai đế. Giả, thật đối nhau, giải thích nghóa hai đế. Hữu vi, vô vi đối nhau, giải thích nghóa hai đế. Thân sơ đối lập nhau, giải thích nghóa hai đế. Giải thích nghóa mười đế - Chân, bất chân, nói về thật đế. Điên đảo, không điên đảo, nói về thật đế. Luống dối, không luống dối, nói về thật đế. Đại thừa, chẳng phải Đại thừa, nói về thật đế. Phật nói ma nói, nói về thật đế. Một đạo thanh tịnh không hai, nói về thật đế. Có thường, có lạc, nói về thật đế. Giải thích hư không, Phật tánh, phi đế là thật. Giải thích bốn đế, đương thể là thật. “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Vì sao Đức Như lai lại bảo rằng không nói?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên nói người Nhị thừa có đế không có thật, vì không biết thường. Nay, nói thấy khổ của ba cõi cũng có cạn sâu, chứng thành nghóa trên.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Bốn đế mà trên đây, nói, mỗi đế đều chắc thật. Sau đây, đều sẽ có cách giải thích riêng, chỉ Diệt đế thiếu văn hội thông mà thôi. Bốn đế đã nói xong. Nay hợp chung chỉ thú chung và riêng của hai giáo xưa nay”. Phật nói: “Này người thiện nam! Dù lại nhập nhưng vẫn không gọi là nói.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây là nói xong môn Bốn đế. Thứ ba, là hội thông chung, nói về muôn pháp mà Đức Phật đã giác ngộ rõ, như cỏ mọc trên mặt đất, mà xưa kia nói cho người Nhị thừa, như cỏ trong lòng bàn tay, nên hôm nay, Bồ-tát Ca-diếp nắm lấy việc này để nêu lên câu hỏi. Hỏi: “Phật đã giác biết rõ pháp, như cỏ trên mặt đất, là có nhập vào bốn đế hay không? Lẽ ra phải có năm đế? Đức Phật đáp: “Đều thâu nhiếp vào lý bốn đế, mà trong dó vãng đã lấy không ngoài bốn đế. Bốn đế được gọi là gồm thâu, thì về mặt lý há có bỏ sót ư? Chính vì cho nên nói rằng “Đều gồm thâu ở bốn đế, dù nói là đã xếp vào trong bốn đế, nhưng cũng vẫn không gọi là nói. Vì sao? Vì nếu xem xét cảnh này, cùng cực thì sinh trí, cũng thỏa mãn người Nhị thừa, chỉ biết tướng chung của các pháp, chứ chưa thấu suốt chỉ thú sâu xa uẩn khúc của các pháp, nên sinh giải thoát kém. Đối với sự nhận biết về pháp môn, cũng hạn cuộc trong cạn cợt. Nếu sự hiểu biết không như Phật, thì phải biết rằng chưa tận cùng cảnh, để nhận thấy cảnh chưa cùng khắp. Vì cho nên ở người bên này mà trông qua bên kia, thì chỉ được nói rằng gồm thu thì không hết, cho nên, dù có nói nhưng không gọi là nói. “Này người thiện nam! Biết Thánh đế có hai thứ trí” cho đến “Trong các kinh khác, ta hoàn toàn không nói .” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh diệt, chứa nhóm, gọi là ấm, cũng có nghóa là khổ. Bốn đế vốn là tướng chung của Thanh văn. Nói khổ là tướng riêng dễ biết, chẳng phải kinh kia đã nói.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu nói theo kinh Thắng Man thì có tám đế, giáo xưa chỉ nói bốn, mà là “Thánh đế vô tác”. Giáo xưa chưa nói, nay y theo kinh này, chẳng những không tạo tác, chưa nói nghóa tạo tác, mà cũng chưa được rốt ráo. Vì sao? Vì, như nói tướng ấm, sắc thì có mười bốn thứ, tâm thì có tưởng, thọ, hành, đây là tướng chung, cảnh sở tri của trí trong phân biệt thô. Nếu giải thích theo tướng tế, thì chẳng hạn như một sắc ấm là do rất nhiều trần hình thành, rất nhiều hành nghiệp chiêu cảm. Tâm thì niệm niệm sinh diệt, rất nhiều sát-na mới tập khởi tướng? Chính là vì cảnh sở tri của tám trụ, chín trụ, nên kinh Thắng Man chưa nói.” “Này người thiện nam! Biết các nhập, được gọi là môn” cho đến “Trong kinh ấy ta cũng không nói đến.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhập là nghóa xứ, biết chung là nghóa Môn.” “Này người thiện nam! Biết các giới gọi là phần” cho đến “Trong các kinh khác, cũng không nói.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Giới nghóa là tánh, phần, khác nhau đều là tên gọi của đương vị. Về nghóa giống như trên đã giải thích. Tâm lấy khả năng nhận biết làm tánh. Sắc lấy ngăn ngại làm tánh.” “Này người thiện nam! Biết được tướng sắc hoại, gọi là trí bậc trung” cho đến “Trong các kinh khác, ta cũng không nói.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là y cứ môn bốn đế, để nói ái là tập, chủ thể sinh ra năm ấm là khổ. Từ đây trở xuống là văn về Diệt, Đạo.” “Này người thiện nam! Biết thế đế, đó gọi là trí bậc trung” cho đến “Các nghóa ấy trong kinh Thắng Man, ta cũng không nói.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại gồm thâu chung pháp môn thành một thế đế, là sở tri của trí bậc thượng. “Tất cả hành vô thường, các pháp vô ngã, Niết-bàn vắng lặng, lại gồm thâu thành chân đế. Nói hành vô thường… giúp phát sinh sự hiểu biết chân thật của con người, chỉ nói lược về môn “Không”. Niết-bàn là chỗ đoạn dứt của ba tâm xưa. Vắng lặng vô sinh là Đệ nhất nghóa đế.” “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Đệ nhất nghóa đế, nghóa ấy thế nào?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là nghóa “Một” mà danh “Khác” hay danh nghóa đều khác? Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trên, nói bốn đế, nghóa của bốn đế thì hẹp. Nay, nói hai đế, lý của chúng thì rộng, vì đều là cảnh của trí. Sở dó nói bốn đế hẹp là vì đây là trong đạo đế này được chia thành bốn. Nay, Đệ nhất nghóa mênh mông so với bốn đế trước. Vả lại, hư không và phi số duyên diệt không thuộc trong bốn đế. Nay, do hai đế mà gồm thâu, tức là thuộc về thế đế.” Pháp sư Trí Tú nói: “Sẽ nói hai đế, trước là lập ra một câu hỏi vơi hai điều thắc mắc. Đây là câu hỏi thứ nhất về thể tướng của đế phải chăng? Bạch Đức Thế tôn! Trong nghóa đệ nhất có thế đế, trong bất thế đế có đệ nhất nghóa hay không? Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Về lý, không có hai sự thật, mà có hai danh, nếu tướng kia “có” thì không nên đặt ra hai. Nếu tướng kia là “Không” thì cả hai tướng này đều giả dối.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Sẽ nói về hai đế, Danh khác, mà thật đồng, nên sự thật của Đệ nhất nghóa, tức có sự thật của thế đế. Sự thật của Thế đế tức có Đệ nhất nghóa, là để hỏi sự thật của hai đế tướng thật hay không, chứ không hỏi về nghóa của hai Danh thật tướng hay không.” “Nếu là “Có” thì tức là một đế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu danh, nghóa đều khác, hữu, vô có cùng lúc, thì hai không song hợp, thường là một đế.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Như một sự thật có hai, thì hai không khác thật, nếu hai không khác thật, thì hai tức là một.” “Nếu là không có, thì sẽ không phải là Như lai đã nói dối ư?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu là một đế mà nói có hai nghóa thì lẽ ra một là luống dối, nên nói rằng sẽ không phải nói luống dối ư?” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nếu tướng đế kia là “Không”, thì hai danh sẽ không có thật. Nếu không có thật mà có hai danh thì há chẳng phải luống dối ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước mở ra hai quan hệ để tìm chỉ thú của đế kia: Nếu trong chân có tục, thì tục sẽ đồng với chân. Nếu trong tục có chân, thì chân sẽ đồng với tục. Nếu vì chân đồng với tục thì chỉ một thế đế, vì tục đồng với chân thì một chân đế, không nên có thuyết của hai đế. Nếu tục không dung chân, chân không dung tục thì đây là Việt tự nhiên, nếu trong chân không hề có tục, mà Đức Như lai lại nói “Sắc” tức “Không” thì đây là thuyết luống dối!” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thế đế do luống dối nên có, tức thể chẳng khác “Không”. Nếu “Không” mà có thể khác “Không” thì đâu có “Không” để khác với “Hữu”? Vì thế, nên hữu, vô mà là một thể thì tên hai đế được thành lập. Nếu có cái hữu để “Không”, thì tức là trong Thế đế có Đệ nhất nghóa. Cái “Không” đã “Chẳng có” chỗ, thì không vũng chẳng có cái “Không” để khác với cái có, tức là trong Đệ nhất nghóa có Thế đế vì cả hai đã không có nhau, nên biết được hữu, vô có thể “Có”. Chẳng có cái “Không” để “Không”. Nếu có cái “Có” để “Có”, thì có cái “không” để “Không”. Đây tức là có lẫn nhau. Biết được các pháp từ trên đến đây là không, chẳng có mảy may tướng cuối cùng, thì chỉ đối với người bệnh là “Có”, đối với người am hiểu thì thường không. Bồ-tát Văn-thù đã suy tìm đến chỗ cùng cực của câu hỏi để làm rõ lý này.” “Này người thiện nam! Thế đế chính là Đệ nhất nghóa đế.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Hoặc (mê lầm) đều cho sự mê lầm là thật, gọi là thế đế. Dù nói là thế đế, nhưng vì sự thật thì không khác, nên là Đệ nhất nghóa. Đệ nhất nghóa thì không bao giờ biến thành thế đế.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn nói cả hai Thế đế và Đệ nhất nghóa đế đều là luống dối. Vì sao? Vì hai sự thật thì không thể “Tức” nhau, mà đã “Tức” nhau thỉ đủ chứng tỏ rằng cả hai đều là “Không”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Tên gọi không có hai thật, mà chỉ một thôi. Lý một thật, về mặt lý, thì không thể gọi, đâu thể là tức, chỉ mượn “Tức” để biết rõ “Tức”, gọi là không có hai thật, chứ chẳng phải có một cái thật để “Tức”.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Một lời đáp nói lên hai mối quan hệ với nhau: Đã nói “Tức” thì đâu có lỗi “Sở việt”, “Tức” lý là đồng, chẳng lẽ có lỗi nói dối hay sao? Cho nên nói “Tức” là vì chẳng phải lấy “Không” để tạo ra “Sắc”, lấy “Sắc” để tạo ra “Không”, bởi Đệ nhất nghóa đế xưa nay vốn “Không” thật có. Nay nói Thế đế “Không thật có”, mà đã “Không thật có”, thì đâu thể phân biệt được ư? Nên nói là “Tức”.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người bệnh bèn nói sinh ra mê lầm (hoặc). Nay, vì muốn giữ lấy tâm mình buộc nó phải dừng lại, cho nên nói rằng Thế đế “Tức” Đệ nhất nghóa đế, không tìm kiếm pháp ở ngoài pháp, chỉ tìm tên gọi “Tức” vốn y cứ trong “Một”, “Khác” để giải thích mà thôi, chứ thật sự không phải là hai thuyết trái nhau.” “Bạch Đức Thế tôn! Nếu vậy thì sẽ không có hai đế?” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nếu Thế đế “Tức” Đệ nhất nghóa thì chỉ có Đệ nhất nghóa chứ không có thế đế.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lãnh hội sâu sắc về chỉ thú “Tức nhau”, để gạn lọc giáo xưa mà nói là có hai sai lầm!” Phật nói: “Này người thiện nam! Có phương tiện khéo léo” cho đến “Một là pháp thế gian, hai là pháp xuất thế gian.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Về lý, như đã nói, chỉ “Một” không hai, phương tiện tùy tục thì nói hai!” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp vốn không có danh tướng, đường ngôn ngữ dứt, chẳng lẽ có thể lấy tên hai đế để chỉ bảo cho chúng sinh biết hay sao? Phương tiện khéo léo, giả gọi chân tục, nhằm khuyến dụ người ngu hãy gần gũi với đạo mà thôi, chứ chẳng phải nói lý có hai.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu dùng nghóa “Không thật có” để giải thích, thì sẽ không có hai. Nếu có cái “Có” để được mà công dụng giả thì hai danh sinh ra, tức là sự sinh của hai danh, y theo vật tình mà lập. Sau đây là có sáu lớp giải thích: Vì “Giải” hoặc đối nhau. Hư, thật đối nhau. Hữu, vô đối nhau, là điều mà Bồ-tát Văn-thù hỏi. Giả thật đối nhau. Hữu vi, vô vi đối nhau. Gần xa đối nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Khéo léo nghóa là có khả năng nói hữu của bất hữu, vô của bất vô đặt ra hai tên gọi để dẫn dắt chúng sinh. Tuy nhiên vì giải ngộ khác nhau, nên không mở rộng sáu lớp, lại giải thích chỉ thú đó. Sau đây thứ nhất, là y cứ vào hai hạng phàm, Thánh để nói về hai đế. Nói về hữu là hữu của “Giả hữu”, chẳng có “Thật hữu” để được, “Không” là cái “Chẳng có” của nhân duyên, cũng chẳng có cái “Không” để đầy đủ cả hai. Xứng với hai lý này mà hiểu, thì người xuất gia gọi Đệ nhất nghóa. Nếu thuyết mà người đời đã nói, nghóa là hễ nói hữu thì nói rằng có tánh, nói vô, tức cho là đoạn diệt, thì là hữu, vô đều không có thật và sai lầm, vì không rõ lý, nên đối với người này, đều gọi là thế đế.” “Này người thiện nam! Như cái mà người xuất thế biết” cho đến “Mà biết được, thì gọi là Đệ nhất nghóa đế.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Năm ấm hòa hơp, chẳng phải “Tức”, chẳng phải “Lìa”, không có tướng nhất định. Bậc Thánh như tánh tướng của năm ấm đó mà biết, vì hơn hẳn người đời, nên gọi là Đệ nhất nghóa.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thế pháp là tám pháp thế gian, trái lại, tức là xuất thế. Cái biết của xuất thế, đó là ba giả và “Không” đều là Đệ nhất nghóa. Cái mà người đời biết, chắc chắn có tướng, như trâu chắc chắn là trâu, không thể là ngựa, cũng được nghóa thật, là thế đế.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ nhất, năm ấm hòa hợp, gọi là gì?: Đây là nêu cái mà phàm phu biết, để nói về “Hoặc”, hiểu được ấm là “Không”, đây là nêu cái biết của bậc Thánh, để nói về “Giải”.” “Lại nữa, này người thiện nam! Hoặc có pháp” cho đến “Khổ, tập, diệt, đạo”, gọi là Đệ nhất nghóa đế.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ngọn lửa nóng lấy không thật làm thật, đây là thế đế. Nhận hiểu ngọn lửa nóng kia không thật, là Đệ nhất nghóa đế.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghóa thật như khổ, tập… có công năng dứt trừ “Hoặc”.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên lớp thứ hai, hòa hợp với ấm để nói về “Giải”, “Hoặc”. Nay, nói cảnh có hư, thật, nghóa là lý của bốn đế. Khổ thật sự là khổ, không thế làm cho vui. Tập, diệt, đạo đều như thế. Thế đế lấy nghóa luống dối nặng, không thật có. Biết “Ngã” chúng sinh, là vượt ngoài việc không thật. Lại, nói các ấm, giới, nhập, là như Tiểu thừa không giống, vì đây mới là “Duyên” pháp thành. Nếu chấp ấm, giới nhập là thật, thì về lý, không thật có, đâu khác với ví dụ vòng bánh xe quay… .” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là lớp thứ hai, y cứ vào hư, thật, để nói về nghóa, vì luống dối mà có, cho nên là thế đế, vì hợp lý nên là chân đế.” “Này người thiện nam! Pháp thế gian có năm thứ” cho đến “Biết đúng như thật, đó gọi là Đệ nhất nghóa.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Cái mà đời chấp mắc là thế đế. Vì nhận biết đúng như sự thật kia là Đệ nhất nghóa.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thế đế không ngoài năm thứ này: thứ nhất là giả danh. Giả danh có nhiều thứ như chúng phần giả, tương tục giả, tương trì giả, cũng có pháp giả, nói chung là tất cả thế đế. Bốn chữ dưới là các chữ riêng, hợp lại, gọi là câu. Các sắc kết hợp thành sự ràng buộc. Âm thanh bảo cho biết, sai khiến là pháp. Y phục, nêu lên tướng mạo cho mọi người thấy, là chấp mắc. Không có những thứ này là Đệ nhất nghóa.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ ba. Đối với năm pháp này, tâm không điên đảo, biết đúng như thật về thể không thật có, tức Đệ nhất nghóa đế”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ ba là dùng “Không” “Hữu”để nói về nghóa. Có tên, có công dụng là thế đế. Tánh “Không” là Đệ nhất nghóa”. Lại nữa, “Này người thiện nam! Hoặc đốt, hoặc cắt đứt” cho đến “Không có chết. Không có hư hoại, đó gọi là Đệ nhất nghóa đế”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đó là lấy tương tục giả, gọi là thế đế, vì mỗi niệm diệt. Pháp thật là Đệ nhất nghóa”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ tư, y cứ vào giả thật để nói về nghóa. Như phẩm Đăng Chú trong kinh Bát-nhã nói”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích đồng nhau. “Này người thiện nam! Có tám tướng khổ,” cho đến “Không có năm ấm lừng lẫy ấm, đây là Đệ nhất nghóa đế”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì có nhiều “Hoặc” nên thuộc về thế đế. Vì không có nhiều “Giải”, nên là Đệ nhất nghóa”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói khổ là Đệ nhất nghóa, nay nói là thế đế”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ năm, nói về Kim Cương trở xuống, chưa tránh khỏi tám khổ, là thế đế, chỉ có quả Phật là đối lập với tướng tám khổ, nên gọi là Đệ nhất nghóa. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích đồng nhau”. Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như một người” cho đến “Thật ra là một mà có nhiều tên”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên nói về chân, tục đều là thế đế. Tùy lợi ích của Thế đế mà có nhiều, có ít. Nhiều gọi là chân ít gọi là tục”. “Do cha mẹ hòa hợp mà sinh, gọi là thế đế”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Phụng sự gần, xa là thế đế, được thật là Đệ nhất nghóa”. Mười hai nhân duyên hòa hợp mà sinh, gọi là Đệ nhất nghóa đế”. Xét: Pháp sư đạo sanh nói: Giải thì kiến, gọi là Đệ Nhất nghóa, người có hoặc là thế đế. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Biết từ cha, mẹ thì lợi ít gọi tục. Biết mười hai nhân duyên thì lợi nhiều gọi là chân.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ sáu, y cứ vào gần, xa để đặt tên. Mười hai nhân duyên là gần, nghóa là vì thấy ở lập quả, do vô minh, hành… trong quá khứ, khiến cho cha mẹ thành duyên ngoài, cho nên thành xa. Tìm xét chỉ thú của văn này, vốn nói về nghóa “Không” “Hữu” của hai đế, gồm thu phép tắc rộng rãi. Nay, sáu lớp đã nói, đều y cứ vào cách đối đãi nhau trong sự, đã nói rõ ở đây. Chỗ trở về của chỉ thú ở câu thứ ba”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích đồng nhau. “Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Thật đế của Phật đã nói, ý nghóa thế nào? Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Y theo thuyết trước nói không rõ, giống như thật đế, hoàn toàn khác với bốn đế, nên lại hỏi”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hỏi một đế là chung cho sáu đế trên, gọi là thật đế. Vì nhị, thừa ở trên có khổ đế, tập đế mà không chân thật, dường như không thuộc về thật đế của người Nhị thừa. Vì thế, nên phải nói”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước đã nói thật đế của Nhị thừa, Bồ-tát có. Nay, hỏi lý do Bồ-tát có được nghóa của thật đế?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là nói về cảnh tuệ thứ ba, nói về thật đế. Trên, hội thông bốn đế, nói là Thanh văn có khổ, có khổ đế mà không chân thật. Bồ-tát hiểu khổ không có khổ, mà có chân thật. Nếu hiểu lý mà chân thật, thì còn có cảnh nào? Vì sở tri của Thanh văn, nên mới nêu lên câu hỏi này”. “Phật nói: “Này người thiện nam! Nói thật đế, là pháp chân thật”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Thường, lạc, ngã, tịnh, gọi là pháp chân thật. Bốn đế có, thì gọi là nghóa thật”. “Này người thiện nam! Nếu pháp chẳng chân, thì không gọi là thật đế” cho đến “Thì gọi là nghóa thật đế”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Người Nhị thừa dù có bốn đế, nhưng vì không có chân thật, nên “Hoặc” trở thành “Hoặc” luống dối của tám đảo. Do đó, dù có được kiến giải đi nữa, cũng không phải là sự hiểu biết của Đại thừa. Nếu thể nhận được bốn đế chân thật thì đã không có bệnh”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật dùng bảy nghóa để nói là thật: pháp chân thật vì lấy thể thường không có biến đổi, không điên đảo, vì cảnh trí đều là thật. Không hư, vì lời nói không có luống dối. Đại thừa vì lấy rốt ráo diệt hết khổ. Đức Phật nói vì lời nói không sai lầm. Một đạo, vì không có nhân khác. Thường lạc vì vô thượng trong quả. Đây là nói lên pháp thật, chẳng có pháp nào không thật”. Pháp sư Pháp Dao nói: “Thường, lạc, ngã, tịnh là pháp chân thật mà Bồ-tát đã thể nhận, tức là không do điên đảo, mà hiểu chúng một cách chân chánh, xác thật, không thay đổi, đáng nói là thật. Trí, chẳng có đối tượng nào không xem xét, chẳng có pháp nào không nhận thức. Nghóa của xem xét, nhận thức, đáng nói là “Đế”. Chính vì thế, nên sự hiểu biết của Bồ-tát thật đáng được gọi là pháp chân thật, không điên đảo, không luống dối, gọi là Đại thừa, người của một đạo thanh tịnh, đủ các nghóa này gọi là thật đế”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Thật đế này, nói về lý thì thật mênh mông! Vì sao? Vì hai đế trước chính là gồm giải thích, không gồm thâu chỉ thú quên giải thích. Nay, thật đế tức thể để nói về nghóa, quên đi chỗ giải thích, cũng lại là thật, tức là “Hoặc” Dưới “Giải” trên, còn có một lý nào không tường tận ư? Y theo văn, dù có tám câu, nhưng về nghóa thì không ngoài sáu. Đầu tiên, nói về người tu hành quả Phật là thật. Thứ hai, thứ ba, là hai câu điên đảo luống dối, dùng “Giải”, “Hoặc” để nói về nghóa. Thứ tư, thứ năm, căn y theo giáo để nói về sự thật. Thứ sáu, nói về nhân thật. Thứ bảy, nói về quả thật. Nay, sáu câu đã không gồm thâu tất cả, lại dùng thật cảnh để gồm thâu. Hai câu thứ nhất, thứ bảy ở trước thì y cứ vào nhân, sau này thì y theo “Pháp”, vì lập trường này là khác! Điên đảo luống dối: Y cứ vào chỗ nặng nề của “Hoặc” kia để nói. Luống dối, nghóa là từ chưa tránh khỏi “Hoặc” với nhau, tâm Kim Cương trở xuống là nói theo chỗ nhẹ”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Có bảy lớp nói về sự thật. Nói về thể của quả là thật. Pháp chân thật: Nếu pháp không chân thì sẽ không gọi là thật, nên biết được Diệu thể của thần minh chẳng phải do nhân ngụy sinh ra. Về tướng lý vắng lặng, vượt ngoài lời nói, chỉ một pháp này cũng có khả năng xứng chân mà thật. Y cứ vào cảnh giới để nói về thật. Y cứ vào chánh trí là thật, tà “Giải” chẳng phải thật. Nói Đại thừa là thật, Tiểu thừa chẳng phải thật. Nói về giáo thật, điều mà giáo xưa giải thích chưa quyết định tỉ mỉ về sự thật, phải là Đức Phật nói đương thời hữu ích, cho nên là thật. Ma giáo khuấy rối chân làm cho người tu hành phải rơi vào vòng sinh tử, nên nói chẳng phải thật. Một đạo thanh tịnh, là nói về nhân thật, một đạo là một nhân, nếu có một nhân khác thì chẳng phải thật. Thường, ngã, lạc, tịnh, nói về quả thật. Vì sao khác với câu thứ nhất? Vì câu ấy nói về thể của quả, là nói khi đắc quả. Đây là nói về việc làm của đệ tử Phật, chắc chắn sẽ được bốn pháp này, nên đây là nói quả trong nhân, lấy đó làm khác”. “Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn” cho đến “Không khác với Phật tánh”. Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trước kia nói rằng bốn đế có thật, gọi là thật đế, mà Như lai, hư không, Phật tánh đều là chân thật, tức là bốn đế chân thật, hợp thành ba. Vì ba hữu không thật, nên phải phân biệt”. Pháp sư Tăng Lượng nói: “Văn-thù cho thường là chân thật. Pháp thường có ba: Đó là quả gọi là Như lai, nhân gọi là Phật tánh, những thứ còn lại gọi là hư không. Ba pháp thường này không khác nhau, có tự thể chân thật, pháp khác chẳng phải thật.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Đã nói Bồ-tát được làm nghóa thật đế, dường như ngang bằng với Phật, nên phát ra câu hỏi này. Sẽ chỉ rõ Như lai khác với Bồ-tát: Bồ-tát có thật, có đế, còn Như lai chỉ có thật mà không có đế. Vì sao? Vì đế có nghóa là dụng chiếu sáng, xem đoán. Như lai thì lý cùng cực, đạo dứt, thôi chiếu, bỏ xem xét, trong lặng, mãi mãi yên ổn, vì thế, nên không có tên đế. Vì thường trụ không thay đổi, nên có tên gọi là Thật. Lại có nghóa: Một đế là tên vật cố định. Như lai cùng cực vắng lặng, vượt ngoài danh số, vì danh chẳng quyết định được, nên dưới đây sẽ nói rộng về bốn đế, nhằm giải thích Như lai không có nghóa Đế. Từ đây trở xuống, chưa cùng tận lý. Nếu lý cùng, thể viên, chiếu sáng, xem xét sự vật, thì được gọi là quyết định.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát Văn-thù nhận hiểu sáu câu dưới, đặt ra câu hỏi, tức là Như lai, là từ ngữ hội ba pháp để nhận hiểu. Sở dó có sự nhận hiểu này là vì trước đây dù nói là đồng với thật, nhưng dường như khác với quả, thể là một, nên phải phân biệt. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là phân biệt bảy môn trên. Y theo sự giải thích trong chương thứ nhất có năm lớp: Nói “Khác”. Giải thích “Khác”. Kết chân. Sai khiến đối trị. Nắm lại các khổ để kết câu. Đại ý hỏi: “Chỉ có ba pháp như hư không… là ngoài ba pháp thật đế, không còn có thật đế khác ư?” “Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Có khổ, có đế” cho đến “Phật tánh chẳng phải khổ, chẳng phải đế là thật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu cho rằng không thay đổi là thật thì có thường mà không thay đổi, vô thường mà không thay đổi. Thường, vô thường khác nhau, nghóa thật không khác, tất cả đều thật.” Chẳng phải khổ, chẳng phải đế: Là “Giải thích nghóa thật, vì học địa tìm cầu, nên có đế không đế. Vô học không có mong cầu, nên chẳng phải đế.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Phàm phu có khổ, không có đế, Nhị thừa có khổ có đế, Bồ-tát có đế có thật, Đức Như lai có thật, không có đế.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây sẽ có năm lớp giải thích: Trãi qua bốn đế, nói Như lai khác nhau. Giải thích lý do khác nhau. Giải thích tâm nghi của người. Nghi rằng, có thể khác với bốn đế. Nhưng ba pháp này đâu hẳn là không có tự thể riêng? Nay nói ba pháp một thể, cho nên là thường, trở thành nghóa khác nhau. Kết thúc chẳng phải. Tổng kết, giải thích. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là lớp thứ nhất, nói về “Khác”. Trãi khắp bốn đế, đương thể đều là thật, tuy đương thể là thật nhưng chẳng phải thật của ba pháp trên, nên dưới đây nói: “Như lai chẳng phải khổ, chẳng phải đế là thật, nghóa là thật của quả đế cùng cực chẳng phải cái thật của bốn đế.” “Văn-thù-sư-lợi! Nói khổ” cho đến “Hư không, Phật tánh cũng giống như vậy.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Lý khổ, thật như vậy, nên gọi là chắc chắn, xét là thật đế. Lại, gọi Bồ-tát, là hiểu khổ được thật, là thật đế. Về nghóa của ba đế dưới cũng đồng. Như lai chẳng phải đế, vì như trước đã giải thích, nên không giải thích từng câu một.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ hai, giải thích lý do nói là pháp vô thường trôi chảy đoạn hoại. Pháp sư Bảo Lượng nói: Lớp thứ hai là giải thích khác. vì sao? Vì thật của Như lai chẳng phải là thật của bốn đế. Khổ là pháp có thể dứt bỏ, vì thật của Như lai không thể dứt trừ, cho nên khác nhau.” Lại nữa, này người thiện nam! Cái gọi là Tập cho đến hư không Phật tánh cũng giống như vậy. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Tập, có công năng làm cho năm ấm ở vị lai được hòa hợp và thể của chúng là lưu động.” “Này người thiện nam! Nói diệt, là phiền não dứt diệt” cho đến “Hư không Phật tánh cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Xét danh mà nói, thì chỉ ở kiết diệt, không đề cập đến bất diệt. Kiết diệt hại trừ, về lý nên chứng biết. Ở đây gọi là đế. Đế lấy xét sự thật làm nghóa, nên nói là thật, chứ chẳng phải cái gọi là thật đế ở trước nói.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Diệt đế, noi diệt là vì không có phiền não, chứ không có pháp nào gọi là diệt. Dưới đây, thông qua học địa có thường, vô thường, do trí chứng diệt, nên gọi là chứng pháp. Tánh của Như lai rốt ráo không gọi là chứng. Biết là do trí gọi là chẳng phải không có. Nếu dứt được phiền não thì chứng chẳng phải không có. Dứt trừ được kết, chỉ là tánh quả, không thông qua chẳng phải thường, vô thường của học địa. Trí không thể tự chứng vì chẳng phải chứng pháp.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Diệt có hai thứ: Một là kiết diệt; hai là Niết-bàn. “Thiện” cũng có danh gọi là diệt, thiện có diệt tức là Như lai. Nay, nói kiết diệt, không nói “Thiện” có diệt, cho nên cái gọi diệt, là phiền não diệt. Kiết của Nhị thừa diệt là chưa cùng cực. Cùng cực nghóa là vì dứt kiết, nên vô thường. Kiết của Phật đều diệt, là tích cực diệt, cùng cực diệt, không có duyên cớ gì làm thay đổi được nên thuộc về thường. Dù là diệt, nhưng thể đều là diệt kiết mà thôi. Chẳng phải là thể vô phương của Như lai, nên sẽ diệt, gọi là dó vãng, chắc chắn nói là đế diệt. Vô sinh diệt có thể nói là thật, đây là nghóa thật đế. Lại, y theo kiến giải của Bồ-tát là thật đế.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Người Nhị thừa diệt ba tâm, dù còn vô vi, nhưng chưa phải cùng cực và vì còn có sự cầu tiến, nên gọi là vô thường. Lónh vực mà Chư Phật đã dứt trừ đều đầy đủ ở đây, vì không còn tiến thêm nữa, nên thuộc về thường. Nay Đức Như lai không gọi là diệt, chẳng phải thường, vô thường, chẳng gọi là hai thứ diệt, gọi là chứng biết, không gọi là hai pháp đã chứng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì thể không có vật, nên thuộc về thường, tuy nhiên, vì có mãn, không mãn, nên gọi là vô thường. Tánh Như lai không gọi là diệt, là nói “Diệt” của Như lai chẳng phải là năng “Diệt” phiền não dứt sau, cũng chẳng phải cái thường của dứt vô. Lại chẳng thể chứng đắc. Thường trụ không biến đổi, đã là “Diệt” của đoạn diệt thì chẳng phải tịch của chân thường. Nói thẳng là vì tánh này không thay đổi, nên nói là thường trụ.” “Này người thiện nam! Đạo là dứt bỏ được phiền não” cho đến “Hư không Phật tánh cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tên của đạo là ở công dụng thông suốt qua, không nói không có công dụng. Chưa cùng cực thì phải chuyển biến tinh tấn hơn lên, nên là vô thường. Đã cùng cực rồi thì là thường.” Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì đạo là nhân của diệt, nên gọi là năng đoạn, vô lậu vì không lui sụt nên nói là thường. Vì thể của đạo là sinh, diệt, vô thường, hữu vi, nên còn gọi là pháp tu. Như lai chẳng phải đạo, cho đến chẳng phải pháp tu. Như lai không suốt qua Học địa, vì chẳng phải là nhân diệt, nên chẳng phải đạo, tuy Như lai có khả năng dứt kiết, nhưng chẳng phải đạo hữu vi, chẳng phải thường, vô thường, cũng chẳng phải pháp tu.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Danh từ đạo, là đời đời tiến thú, dụng công trừ diệt. Đức Như lai thì hoàn toàn không có công phu này, vì cho nên chẳng phải đạo.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Cũng thường, vô thường, là nói người Nhị thừa thì làm lại, cầm giữ, lại hướng về nghóa Phật, nên gọi là vô thường. Bồ-tát vốn tự hướng về Phật, vì không có chuyện làm lại cầm giữ, nên là thường. Đức Như lai chẳng phải đạo có khả năng dứt phiền não, có khả năng vì đạo giải thoát mà chứng dứt. Chẳng phải thường, vô thường, chẳng phải hai thứ đạo.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tự bốn thời kinh giáo không có lời này. Nay, Đại thừa liễu nghóa, thì chỉ thú của kinh giáo kia mới bắt đầu phán quyết. Được biết thần minh lấy chân, tục làm bản chất. Vô lậu, giải thoát đã nhờ sau khi phát được một trong các quả báo này, nên kiến giải kia thường còn, chỉ đối với công dụng của tục đế, tự có thể dứt. Y cứ vào chân để giải thích, thì bên dụng thường mà không hư hoại. Việc này cũng không liên quan gì đến thường của nối tiếp nhau. Kinh nói: “Vốn được không mất, vì người tốt được đặt tên. Nay tìm kiếm chỉ thú này, tất nhiên chẳng phải pháp trước sinh, sau diệt. Đoạn văn dưới đây lại nói: “Phiền não cũng thường, vô thường. Sau khi khởi phiền não, nếu chưa được đối trị về sau thì, thường gây chướng ngại cho người tu hành. Dù có lời này, nhưng vì từ đầu đến cuối, đều được sức đạo đối trị, nên cuối cùng sẽ rơi vào môn vô thường! Tuy nhiên, đạo đế từ đầu đến cuối không có một pháp nào bị cái khác đối trị nữa, nên trước sau trở thành thường. Chính vì chứa nhóm Thập địa để nói về kiến giải đã mãn, thành tựu quả cùng cực. Khi kiến giải chưa mãn thì gọi là Nhân. Nếu mãn thì gọi là quả.” “Này người thiện nam! Nói chân thật” cho đến “Phật tánh chính là chân thật.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ ba, là giải thích lý do là thường. Vì ba pháp không khác nhau, nên được như vậy.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ ba là kết chân.” “Này Văn-thù-sư-lợi! Có khổ, có nhân khổ” cho đến “Hư không và Phật tánh cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói bốn đế đã khắp, nên kết thúc nghóa trên đây, đã nói rằng Như lai chẳng phải đế, là thật.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thư tư, kết thúc là chẳng phải.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ tư, nói về bốn đế, vì là đối trị gọi là thật. Như lai như thật vì chẳng phải đối trị, nên là thật của chân thật.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ tư, kết thúc “Không” phải?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần thứ nói về tứ đế, vì là đối trị, nên gọi là thật. Như lai như thật vì không phải đối trị. Nên là sự thật của chân thật.” “Khổ, là hữu vi, hữu lậu, không có niềm vui” cho đến “Yên lặng, yên vui là thật, chẳng phải đế.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ năm, là kết thúc việc giải thích.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ năm, dùng khổ để kiết câu: “Nói Như lai chẳng phải hữu lậu, mà là vắng lặng, yên vui. Thế nên là thật.”  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 33 <詞>Phẩm 19: THÁNH HẠNH (Phần 7) Giải thích rộng bảy nghóa thật đế ở trước. Rộng nêu thường, lạc, ngã, tịnh, mà ngoại đạo chấp. “Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn” cho đến “Tất cả điên đảo không gọi là thật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên đã hỏi về chân. Kế là hỏi về bốn đảo (bốn điên đảo): Nếu không nhập bốn đế thì pháp thuộc về thật đế sẽ không cùng tận. Sau đây, cuối cùng Phật cũng nói như vậy. “Một đạo trở xuống, không hỏi về nhiếp thâu thật chẳng cùng khắp, mà chính là nói về lời thật không lạm!” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trên đây đã nói về bốn đế, đều gọi là thật đế, tương tự như điên đảo, hoặc vọng, chẳng thuộc về khổ đế, tập đế, vì lý do đó, nên mới phát câu hỏi này.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở đây giải thích vể thật cảnh thứ hai. Hỏi: “Trong bốn đế có điên đảo hay không?” nếu có, thì sao lại nói là thật? Còn nếu bốn đế không có điên đảo thì ngoài bốn đế lẽ ra còn có pháp khác nữa mới phải?” “Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Tất cả điên đảo” cho đến “Chẳng có điều gì không phải khổ, mà đều là khổ.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Dùng tận tưởng tượng mà nói, thì đó là điên đảo. Dùng tánh để quán sát là nhập khổ đế.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lẽ ra nói là đều nhập khổ đế, tập đế. Nay chỉ nói nhập khổ đế, là y theo một bên!” “Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Như lời Phật nói” cho đến “Vì đã dứt trừ nên gọi là thật đế.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích thật trí thứ ba. Nếu cảnh sở duyên của trí không có chỗ khế hợp thì tức là luống dối.” Văn-thù- sư-lợi bạch Phật rằng: như lời Phật nói cho đến là pháp thay đổi, gọi là không thật. Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích thật thừa thứ tư. Vì quên tướng trong duyên Đại thừa, nên là thật. Tiểu thừa vì chấp tướng nên không thật.” “Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Như lời Phật đã nói” cho đến “Những điều luống dối như vậy, gọi là lời của ma.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích thật giao thứ năm. Chỉ có lời Phật nói. Chắc chắn sẽ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Lời ma nói sinh ràng buộc, nên chẳng phải thật.” “Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Như lời Phật nói” cho đến “Họ không có đạo duy nhất thanh tịnh “Không hai”.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng phải diệt mà nghó là, diệt, là chấp phi tưởng là quả Niết-bàn, tám thiền là nhân Niết-bàn.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích thật của một nhân thứ sáu.” “Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Như lời Phật đã nói” cho đến “Cũng đều nói các hành pháp là thường.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghóa là lời nói của Phật, người thường không thấy. Ngoại đạo chấp ấm là thường, vì xem xét qua lại mà chấp, nên lẽ ra là có.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích quả thật thứ bảy. Bồ-tát Văn- thù chấp sở chấp của ngoại đạo, trải qua bốn pháp này, lời nói ở dưới, gồm hai mươi ba câu.” “Thế nào là thường vừa ý, không vừa ý” cho đến “Nếu là thường thì tức là thật đế.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dùng bảy việc để chứng minh thường.” “Bạch Đức Thế tôn! Có các ngoại đạo lại mói rằng có lạc” cho đến “Vì có các bậc Thượng, Trung, Hạ, nên biết rằng có lạc.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng năm việc để chứng minh có lạc.” “Bạch Đức Thế tôn! Các ngoại đạo lại nói có tịnh” cho đến “Do nghóa này nên gọi là tịnh.” Xét: Pháp Sư Bảo Lượng nói: Dùng ba việc để chứng minh thanh tịnh. “Bạch Đức Thế tôn! Các ngoai đạo lại nói có “Ngã” cho đến “Cho các hành pháp là thường thì không đúng.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Định muốn phá chấp, đáp câu hỏi kia, trước, dùng hai mươi việc để quở trách chấp của ngoại đạo.” “Này người thiện nam! Ta quán sát các hành pháp đều là vô thường” cho đến “Chẳng có một pháp nào không từ duyên sinh?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói là hành, thì về lý, tự nó vô thường. các pháp từ duyên, là chứng minh rằng các hành pháp là vô thường, pháp từ “Duyên” khởi, xưa không, mà nay có, đó gọi là “Sinh”. Đã có rồi lại không, đó gọi là “Diệt”. Vì sao? Vì tâm lấy đối tượng duyên (sở duyên) làm gốc. Vì không thích hợp với sở duyên, nên cho rằng vốn không, mà tâm tự sinh ra ngang trái, là nay có. Cây mọc theo chiều ngang, không có rễ, mọc lên rồi tự chết. Nhân đã như thế, thì quả cũng như thế. Vì thế kinh nói: “Vì nhân vô thường, nên sắc vô thường”, đây là bằng chứng cho vô thường kia.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Sơ chấp của ngoai đạo không được tách rời ấm trong mỗi pháp đều từ duyên. Chỉ có Phật tánh không từ duyên sinh, nên chẳng thuộc ba đời.” “Này người thiện nam! Phật tánh không có sinh, không có diệt” cho đến “được nhiếp giữ. Đó gọi là thường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là tánh của chánh nhân, cũng từ duyên thấy, chẳng phải từ duyên sinh. Vì sao? Vì hành “Duyên” cầu lý, mà lý chẳng phải trước không nay có, nghóa là bất sinh. Niệm niệm thường mong cầu, gọi là bất diệt. Đã chẳng phải sinh diệt, không có đi, không có đến, cũng không có ba đời. Vì nhân không sinh khởi theo chiều ngang, nên chẳng phải tạo tác. Vì không dùng một pháp làm nhân, nên chẳng phải danh. Nói là chánh nhân, chẳng phải không có danh. Chẳng phải danh, chẳng phải sắc, cho đến chẳng thuộc về ấm giới, chứng tỏ không có danh. Ấm, giới có hư hoại mà Phật tánh không diệt, không nhiếp thuộc, cho nên gọi là Thường. Do hai nghóa thường: Một là Chắc chắn được quả; hai là nhân không thể diệt.” “Này người thiện nam! Phật tánh tức là Như lai” cho đến “Đều là nói dối, không có chân đế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thấy tánh thành Phật, tức tánh là Phật. Như lai là pháp, nghóa là pháp tức tánh không, tánh không tức pháp, pháp tức Phật tánh. Phật tánh là “Có”, tánh không là “Vô”. Phật thấy hữu, vô gọi là Giác. Phật tức là pháp, pháp tức là thường, là chấp chung hai câu. Vì thấy thường nên Thường. Như lai tức là Tăng, thấy thường mà thường hòa hợp, hòa hợp là nghóa Tăng. Pháp thầy là nghóa đệ tử Tăng tức là Thường, nghóa là vì thấy thường nên được Thường. Nếu không biết Tam bảo là Thường, mà nói là Thường, thì gọi là nói dối.” “Các phàm phu trước đã thấy bình, y, xe cộ, nhà cửa cho đến Phải biết rằng, những vật dụng đó thật chẳng phải thường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh không thấy mà nói thấy, tức là nói dối”. Tất cả hữu vi đều là vô thường: Sẽ y theo hữu vi để nói về nghóa vô thường, vì hữu và vô đối lập nhau.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu câu thứ bảy trong chấp thường để nói là lời nói tương tự, trước sau nối nhau. Thể của lời nói đó niệm ý niệm sinh diệt, đâu phải là thường?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chấp rằng”: Trước đã thấy chiếc bình, y phục… thời gian sau, cũng biết được. Phải biết rằng đã có một thần ngã thường, nên thường mới được như thế. Dưới đây sẽ bỏ bớt chỉ còn hai câu hỏi: Rằng: “Nếu tâm Ông là thường, thì nên đồng với Nhất thiết Trí của Phật. Vận dụng thường xuyên, tự không có hạt giống dời đổi. Khi nhãn thức tiếp xúc với trần, lẽ ra duyên riêng tất cả pháp, mà hiện nay thì không như thế, mỗi niệm sinh diệt, duyên đây, bỏ kia, nên biết tâm là vô thường.” Rằng: “Dùng cảnh để quyết định tâm, nếu quả thật tâm từ duyên sinh mà thường, thì lẽ ra phải thường bảo thủ một pháp, không được thay tâm, đổi duyên mới phải? Vì sao? Vì tâm đã là thường thì lẽ ra thường, quán vô thường không được, lại duyên không vô ngã, mà hiện nay, vì tâm “Duyên” khắp tất cả cảnh, nên biết là vô thường.” “Này người thiện nam! Tất cả pháp hữu vi đều là vô thường” cho đến “vô vi là thường.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sẽ y theo pháp hữu vi để nói về nghóa vô thường, lại dùng hữu, vô đối nhau.” “Này người thiện nam! Pháp hữu vi gồm có hai thứ” cho đến “Sắc pháp là đất, nước, lửa, gió.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước chỉ nói vô thường, nay phát ra pháp kia, chỉ là sắc tâm.” “Này người thiện nam! Tâm gọi là vô thường” cho đến “Cho đến nhân duyên của ý thức cũng khác như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tâm duyên lấy cảnh mà khởi, trước sau tương ứng, rõ biết chung một duyên. Đây là nói chung, dưới đây là nói riêng: Tánh của nhãn thức là khác, là nhãn thức duyên hiện tại, ý thức duyên quá khứ, vị lai. Tương ứng với cảnh giới sau đây cũng thế: Nhãn thức lẽ ra duyên riêng tất cả, là nhãn thức không diệt, vận hành trong các căn, lúc ở tai, lẽ ra cũng phải thấy sắc, vì tánh của thức không khác. Nếu vậy thì lẽ ra phải “Duyên” với tất cả pháp. Nay thì không như thế, vì phàm phu chấp điên đảo là thường.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Vì nhân duyên phá hoại các hành” cho đến “Các pháp nhớ nghó không nên quên mất.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là hạnh vô lậu khác với vô lậu ở chỗ là dứt trừ các hành, cái gọi là tâm tánh của Thanh văn khác, cho đến tâm của ngoại đạo. Trên, là nói về phiền não khổ, vui, là nói đệ tử Phật. Ở đây là nói ngoại đạo không thể phân biệt được các sắc, chính là lấy sự biết rõ làm tâm. Hiểu rõ màu xanh không thể hiểu rõ màu vàng. Nhãn thức không thể nhận lấy sắc.” “Này người thiện nam! Nếu tâm là thường” cho đến “Vì có khác nhau, nên phải biết tâm là vô thường.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tử đây trở xuống là đáp ba câu hỏi thứ tư, thứ năm, thứ sáu trong chấp thường. Y cứ vào sắc, tâm để phân biệt tướng mạo, bác bỏ kiến chấp kia.” “Này người thiện nam! Nay ta đối với pháp phi sắc này” cho đến “Trước là hỏi về việc này, ta đã đáp câu hỏi đó.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây, nói lược về tánh chất của sắc trong ngoài xưa không, mà nay có, đã có rồi nay lại không, thường mà khác với tất cả sắc bên trong.” <篇> Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 34 <詞>Phẩm 19: THÁNH HẠNH (Phần 8) Phá nghóa mà ngoại đạo chấp. Giải thích nghóa lại xoay bánh xe pháp. Lại nữa, “Này người thiện nam! Các hành pháp đều vô “Ngã”” cho đến “Do nghóa này nên nhất định biết là vô “Ngã”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chuyên nhớ nghó, là chứng minh việc thứ ba, thứ tư của người chủ trương thường. Thường thì tự tại, cho nên gồm phá. Lại nữa, “Này người Thiện nam! Nếu các ngoại đạo” cho đến “Nhu lai có ngã chân thật như thế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sáu việc chấp ngã. Các căn hòa hợp giả gọi là ngã. (Ngã giả danh) giả gọi chỉ gọi nhà, gọi tên.” Lại nữa, “Người thiện nam! Nếu các ngoại đạo” cho đến “Do nghóa này nên biết chắc chắn vô “Ngã”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đả phá chung việc thứ nhất, thứ hai. Trước dùng miệng để phá việc thứ tư.” “Này người thiện nam! Các ngoại đạo này ngu si như trẻ con” cho đến “Có chân thật đế, chẳng phải như ngoại đạo.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngã” vốn ở Phật địa. Ngoại đạo vì không nhận biết được chút phần của ngã, nên chấp bừa các hành là “Ngã”, như người mù bẩm sinh không thấy sắc, chỉ lấy sự hiểu biết của mình làm màu sắc, không bao giờ biết được tướng của sắc.” “Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Ít có thay!” cho đến “Nên phân biệt chân đế như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bốn đế, hai đế, từ trên đến đây, gồm là nói rộng, nhằm chỉ bày rõ ứng tích, giống như trái với duyên cớ sẽ được muốn hội thông.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Nghe ở trên nói rộng về nghóa chân thật của bốn đế, khen ngợi thật đế của thuyết nay, lại xoay bánh xe pháp ở Vườn Nai xưa.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ba lớp nói về tuệ, cùng tận lý tánh, hạnh Thánh đã hoàn tất. Bồ-tát Ca-diếp lấy tâm của chúng đương thời, giả làm nhân bất đạt, nhằm dứt hết hoài nghi.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần thứ tư trong một phẩm, là bỏ chấp nói về trí tuệ. Nếu pháp thuộc về tâm rỗng không trong duyên thì sẽ thành dụng của trí tuệ. Một câu hỏi của Bồ-tát Văn-thù trở thành ba lỗi: Nói Như lai thật có Niết-bàn. Đức Phật có tâm xoay bánh xe pháp. Cho rằng lại xoay bánh xe pháp .” Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Nay ông vì sao” cho đến “Thường trụ, không thay đổi, không nhập Niết-bàn?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xoay bánh xe pháp, nghóa là nói pháp mà Phật đã nói, sao cho người nghe được tỏ ngộ, là chuyển. “Kiến giải” để dẹp bỏ “Hoặc” là luân. Nếu Đức Phật có nói, tất nhiên hữu vi có cùng tận, làm sao gọi là Niết-bàn? Nay, Phật không có nói mà chúng sinh tự nghe không diệt, vì con người tự diệt, nên nói là không Niết-bàn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghi có ba ý, ở đây giải thích ý thứ nhất.” “Này người thiện nam! Nếu có người chấp ta là Phật” cho đến “Như lai lại vừa xoay bánh xe pháp!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây giải thích về không chuyển, có hai ý: Do không chuyển, nói chuyển. Y cứ vào dấu vết thì lẽ ra có chuyển, đây là ý thứ nhất: Không chuyển, nói chuyển.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Giải thích không chuyển, có ba lớp: Chỗ cùng cực, không có chuyển. Vì ứng nên có chuyển. Làm rạng rỡ tướng của chỗ cùng cực, như hư không.” Này người thiện nam! Ví như do mắt “Duyên” sắc, duyên ánh sáng” cho đến “Chẳng phải cảnh sở tri của các Thanh văn, Duyên giác.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ hai nói về nghóa có xoay bánh xe pháp, “Duyên” là nguyên nhân có ứng tiếp.” “Này người thiện nam! Cũng như vậy chẳng phải sinh, chẳng phải xuất, chẳng phải tạo tác, chẳng phải pháp hữu vi.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ ba, nói về địa cùng cực, không để tâm xoay bánh xe pháp, như hư không kia.” “Này người thiện nam! Lời thuyết giáo của Chư Phật, Thế tôn có hai thứ:” cho đến “Vì các Bồ-tát nói xuất thế ngữ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ tư, nói về tiểu giáo xưa, Đại giáo nay. Không nên nói “Lại”. Nêu vì đem lại lợi ích cho chúng sinh mà nói là “Lại” thì Bốn mươi chín năm đến nay, chưa có lúc bắt đầu nào không lợi ích. Vì thế, không phải đến ngày nay mới nói là “Lại”.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây sẽ giải thích không có nghóa “Lại”, có chín lớp, lớp thứ nhất nói về sự khác nhau của giáo, nghóa là giáo xưa cạn, giáo nay thì sâu.” “Này người thiện nam! Các đại chúng này lại có hai hạng” cho đến “Vì các Bồ-tát chuyển đại pháp luân.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ hai, nói về mục đích khác nhau của thừa: Giáo xưa nói cho người cầu Tiểu thừa còn giáo hiện nay thì nói cho người mong cầu Đại thừa.” “Này người thiện nam! Lại có hai người” cho đến “Người hạ căn tức Nhất-xiển-đề.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ ba nói về căn cơ khác nhau: Giáo xưa nói cho người căn cơ bậc trung, nay nói cho người căn cơ bậc thượng.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Người cầu Phật đạo” cho đến “Vì xoay bánh xe đại pháp cho hạng tinh tấn bậc thượng.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ tư, nói về tinh tấn khác nhau: Xưa vì người tinh tấn bậc trung, còn nay thì nói cho người tinh tấn bậc thượng.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Ngày trước, Như lai ở thành Ba- la-nại” cho đến “Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Lớp thứ năm là nói được đạo khác nhau. Xưa tám muôn vị trời, người ngộ quả Tu-đà-hoàn, nay tám mươi vạn ức người không còn lui sụt Tam-bồ-đề, Lại nữa, “Này người thiện nam! Lúc Như lai ở thành Ba-la-nại” cho đến “Đảnh lễ Như lai xoay bánh xe đại pháp.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ sáu là nói về chủ thỉnh: Ngày xưa là Phạm vương, ngày nay là Bồ-tát Ca-diếp.” “Lại nữa, này người thiện nam! Ngày trước khi ở thành Ba-la-nại” cho đến “Như lai giảng nói về thường, lạc, ngã, tịnh.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ bảy nói về giáo lý khác nhau: Xưa nói vô thường, nay nói pháp thường.” “Lại nữa, này người thiện nam! Ngày xưa Như lai ở thành Ba-la- nại cho đến bốn duy, trên, dưới, cũng như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ tám, khi nói pháp, tiếng nói của Như lai được nghe xa gần khác nhau: Xưa, chỉ có Phạm thiên được nghe, hiện nay, thì thấu suốt tận các thế giới nhiều như như số cát sông Hằng ở khắp mười phương.” ““Lại nữa, này người thiện nam! Chư Phật, Thế tôn” cho đến “Đều gọi là xoay bánh xe pháp.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ chín, nói về Như lai, từ khi ra đời đến nay, chẳng lúc nào không xoay bánh xe pháp, nay đâu “Lại” có ư?” “Này người thiện nam! Ví như vua Chuyển Luân có Luân báu” cho đến “Kinh Đại Niết-bàn, thực hành hạnh Thánh.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Khen ngợi pháp luân.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Chính vì có thể vâng hành, nên gọi là hạnh Thánh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói Giới, Định, Tuệ chung cho Bồ-tát, được xưng là hạnh Thánh. Vì chưa biết thật đế rốt ráo, có thông qua Học địa hay không? Nên mới hỏi. Thánh, chỉ cho Chư Phật, Thế tôn: Nói về rốt ráo thật đế, là được xưng Hạnh Thanh, chỉ có Phật, Thế tôn.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Sau đây sẽ nói về Thánh, không nói về Hạnh: Từ trên đến đây đã nói giới, định, tuệ, là công hạnh của bậc Thánh đã thực hành, chẳng phải nói về Thánh. Cho nên nói Phật thuyết nghóa Thánh. Thánh nghóa là “Chánh”. Như lai mới xứng đáng với địa vị Thánh. Nay kết hợp với Hạnh Thánh mà nói, theo y chỉ thì không ở hạnh.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trên trong phần nói về giới, đã kết danh hiệu Thánh. Nay, nói về ba pháp đã xong. Lại tổng kết Hạnh Thánh.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn năm là kết quả.” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát này” cho đến “Cho nên địa này được gọi là Vô sở úy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba địa trước là nhân, bốn địa sau là quả. Vì tuệ có có công năng cắt đứt nhân quả, nên nói chung là đức địa, cũng là người không sợ ba đường ác, vì dứt ác dần dần, nên nói theo thứ lớp. Vì ba đường ác này thô nên dứt trừ trước, ác có hai thứ, đây là điều ác trong điều thiện. Không sợ thọ hai mươi lăm hữu, nghóa là không có việc ác như trên, có công năng cắt đứt hai mươi lăm cõi.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Được công hạnh giới, định, tuệ ở trên, chính là vào địa Sơ trụ này. Vì lìa năm sự sợ hãi, nên nói là địa vô úy. Sự tham, giận dữ, bệnh, chết…, tức là sợ không chết, không sợ sống. Hạng xiển-đề…, nghóa là lìa sợ tên ác. Không sợ ba đường ác; là một có đường ác nào phải sợ. Không sợ Sa-môn, cho đến Ba-tuần, không sợ đại chúng, Địa bất động ở trước bắt đầu vào Sơ địa. Địa Kham Nhẫn là địa Vô úy này trong sơ địa, địa sau cùng trong sơ địa, cũng có thể là Thất trụ đã dứt hết, bắt đầu không có sợ về ba sợ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Địa Vô úy là Thất địa. Trước đây, trong quả của kiết giới có nói: “Đầu tiên là địa Bất Động”, kế là, kết về quả của định, đã nói: Địa Kham Nhẫn thứ ba. Nay, kết quả của tuệ, chỉ cho định của Thất địa. Vì sao? Vì chỉ bày công hạnh có cạn sâu, kết quả cũng khác nhau. Nói vô úy là Thất địa, đó là dựa vào thường để giải thích Thất địa là địa Viễn Hành. Nay, nói là vô úy, nghóa là vì không sợ quả báo của ba cõi, nên gọi riêng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Quả vô úy cũng đồng là Sơ địa. Nói tuệ là tánh của giải, không có duyên mà vẫn soi sáng. Đã có đủ sự hiểu biết của vô phân biệt, nên dùng vô úy để kết thúc: Không sợ không sống, vì Bồ-tát đã biết rõ muôn pháp với tướng không, chẳng nhờ vả ở sự sống, há lại sợ không sống ư? Vì không lo sợ, nên không sinh ra ba độc, cho nên sẽ chẳng sợ mình không sống. Không sợ ba đường ác. Không sợ tên đường ác. Không sợ oai đức của đại chúng. Không sợ sinh tử. Bậc Đại só không hề sợ sinh tử của hai mươi lăm hữu. Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Tất cả công đức mà có thể nói?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trí có công năng dứt trừ kiết, nếu chẳng có định, thì không thành. Vì cho nên do định mà nói trí. Nếu muốn thổi nát núi chúa Tu-di, cho đến nghiền nát khổ của thân Địa có hai quả: Một là diệt ác; hai là thần thông. Cả hai đều nói tên đó. Vì sao? Vì trên đã nói dứt hữu (cõi), hoặc cho rằng không vào cõi vì hóa độ. Lại ra khỏi sự tự tại, để tiêu biểu cho tên đất, giải thích nghi ngờ kia.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là nói tiến dần lên, hướng về Bát địa. Hướng về Thất địa rồi, không sợ quả báo đường ác mà vẫn chưa khỏi hai mươi lăm cõi, nghóa là y theo Thất địa, tự có báo thân dư thừa. Nay, Bát địa trở lên, vì hoàn toàn là pháp thân, nên nói hai mươi lăm cõi. Tam-muội chẳng phải tuệ, nhờ định sanh tuệ giúp thành lẫn nhau. Cho nên biết Bát địa, là vì nói đủ hai mươi lăm Tam-muội là có khả năng thể hiện nhiều thứ thần thông. Xét về dụng của thần thông, thì chẳng phải thực hành những việc gần.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đoạn sáu. Nếu làm chung đoạn kết quả, thì cũng thuộc về đoạn văn ở trước, là đoạn thứ năm, kết quả trực tiếp. Ở Sơ địa đã phát được chánh giải vô lậu. Về sau, mới tiến tu muôn hạnh, được hai mươi lăm tam-muội, dứt hai mươi lăm cõi hữu lậu, kết được quả tự tại của Địa thứ tám trở lên. Nếu y cứ nghóa này mà phân tích thì thành thứ sáu. Hai mươi lăm tam-muội này sẽ y theo lãnh vực tốt đẹp hơn để được đặt tên. Mỗi danh hiệu tam-muội đều gồm thu các tam-muội, nên nói là đứng đầu trong các tam-muội.”  Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 35 <詞>Phẩm 19: THÁNH HẠNH, (Phần 9) - Giải thích: Từ Đức Phật có ra mười hai bộ kinh. Từ mười hai bộ kinh có ra Tu-đa-la, từ Tu-đa-la có ra kinh Phương đẳng. Từ kinh Phương đẳng có ra Bát-nhã. Từ Bát-nhã có ra nghóa Niết-bàn, xuất hiện Bồ-tát ở núi Tuyết, soạn nửa bài kệ nói về lý do Xả thân. “Bấy giờ, trong chúng, có một vị Bồ-tát” cho đến “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh này lại nói về công đức kinh, khuyên người thực hành kinh. Kinh tức là pháp, thực hành chánh pháp dù do người, nhưng dứt bỏ điều xấu ác là do pháp. Ví dụ thuốc có công dụng trị bệnh, dù rằng do người bệnh có thể uống, nhưng năng lực đẩy lùi bệnh là thuốc. Vì lẽ đó, nên kinh Pháp Hoa chép: “Nếu người mắng chửi Phật, thì người đó phạm tội nhẹ. Người chê bai kinh pháp, thì phạm tội rất nặng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là đoạn thứ tư, khen ngợi việc truyền bá kinh. Có bốn lượt: Vua Vô Cấu Tạng khen. Đức Phật tự khen. Bồ-tát Ca-diếp khen. Đức Phật dẫn chứng, được Bồ-tát Ca-diếp khen ngợi. Đây là thứ nhất, vua Vô Cấu khen ngợi. Phật khen: “Lành thay! lành thay!” cho đến “Vô lượng vô biên, không thể tính kể.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giáo pháp Phật sanh khởi từ Tiểu thừa. Con bò dụ cho Đức Phật. Sữa dụ cho ba tạng, dụ cho các thuyết tạp nhạp của ba thừa. Bơ sống dụ cho Phương đẳng. Bơ chín dụ cho thuyết “Không” Bát-nhã. Đề hồ, dụ cho kinh pháp Niết-bàn. Pháp khó thấy là “Không”, “Hữu”, vì Bát-nhã nói “Không”, Niết-bàn nói “Hữu”. Đức Phật thì khó gặp. Niết-bàn là tốt đẹp hơn hết, nên đặc biệt tôn trọng khen ngợi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hạnh Thánh dở dó được thành công, là do năng lực kinh, sinh ra kiến giải tròn đầy. Như từ con bò sinh ra sữa. Đức Phật nói pháp luân Bốn đế cho Tiểu thừa, đây là nói trong khoảng thời gian mười hai năm sau khi thành Phật. Từ sữa có ra lạc, nghóa là sau mười hai năm, nói Thông giáo của ba thừa, tức là kinh Đại phẩm. Lạc có ra bơ sống, như kinh Tư Ích Duy-ma, chống đối người Nhị thừa, khen ngợi, biểu dương Bồ-tát. Từ bơ sống sinh ra bơ chín, nghóa là Đức Phật nói Pháp Hoa, đả phá không có ba nhân quả. Nay kinh này nói về Phật tánh thường trụ, cùng tận lý tánh, như đề hồ. Lại, có ra mười hai bộ, là mười hai bộ của Tiểu thừa. Từ mười hai bộ có ra Tu-đa-la, nghóa là Tu-đa-la của “Không giáo”. Chỉ nói Tu-đa- la, vì gồm thâu mười hai bộ, nên chỉ nói gốc thôi. Có ra Phương Đẳng với lý chánh, không tà. Vì người Nhị thừa đồng học Bát-nhã, nên dùng Thông giáo làm phương tiện. Nói ra Bát-nhã, nghóa là Bát-nhã thật Tuệ của Nhất thừa. Từ Bát-nhã sinh ra Đại Niết-bàn, tức là giáo nay. Một cách giải thích khác: “Văn kinh này có chút lầm lẫn, chẳng hạn: Bát-nhã nên đặt ở thứ lớp thứ ba, Phương đẳng nên ở lớp thứ tư.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đức Phật dụ như con bò. Năm vị dụ cho cho năm thời giáo. Đức Phật đầu tiên ra đời, suốt trong mười hai năm, Ngài nói ba tạng Tiểu thừa, phân tích tướng để nói Pháp luân, đặt bày giáo xuất thế, bắt đầu thích ứng với danh từ mười hai bộ. Từ sau mười hai năm, nói về không, hữu trong môn không giáo, nói về hai đế chân, tục. Về lý sâu rộng, như từ sữa có ra lạc. Hai đế là chính của “Không giải”, cũng là gốc của muôn kiến giải. Sở dó thích ứng với danh hiệu Tu- đa-la, là vì chỉ từ trước không giáo. Trực tiếp nói về nghóa nhân, quả, không nói hai đế. Vì quên tướng, nên không xứng với gốc. Từ Tu-đa-la có ra kinh Phương đẳng, nghóa là từ sau thuyết của thông giáo, thuật Duy-ma Tư ích, tiến đến hạnh Thanh văn. Vì làm cho họ bỏ chấp, được kiến giải, nên dùng kinh Phương đẳng. Ví như từ lạc có ra bơ sống. Từ Phương đẳng có ra Bát-nhã ba-la-mật: Bát-nhã là trí tuệ, từ sau khi nói Duy-ma, nói Pháp Hoa, giải thích một nhân, một quả, trí tuệ mở mang sáng suốt, để dụ cho Bát-nhã, dụ cho bơ chín. Đã nói kinh Pháp Hoa rồi, giáo Niết-bàn hưng thịnh, nói lý đầy đủ, giống như đề hồ.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát Ca-diếp là chủ thỉnh pháp, tự nói về tướng tu hành.” Pháp sư Pháp Dao nói: “Trên đây, dù đã nói nhiều về công hạnh của bậc Thánh, nhưng vẫn chưa nói rõ ràng về sự cao quý của hạnh ấy. Chương này sẽ nói rộng về tấm lòng kính mến pháp sâu nặng, dám hy sinh cả thân mạng mình vì chánh pháp mà không có gì là khó. Dùng tâm xả này tu tập hạnh Thánh qua rồi mà không đủ, dùng khổ hạnh này thì đâu có dó vãng nào mà lui sụt. Nỗi khó khăn của Hạnh Thánh không có gì hơn đây. Thế, nên lấy công hạnh này để kết thúc hạnh Thánh.” “Bấy giờ, Phật khen Bồ-tát Ca-diếp:” cho đến “Các hành pháp vô thường, là pháp sinh diệt.” Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Trước nói vô thường. Dùng hai lý thì phải đối, phải ứng, vì thuyết tròn đầy, nên nói là một nửa viên ngọc như ý.” “Nói nửa bài kệ này xong, bèn ở trước Như lai” cho đến “Sinh diệt dứt rồi, vắng lặng là vui.” Pháp sư Trí Tú nói: “Nói về thường, vắng lặng là không có khổ. Do không có khổ, nên gọi là vui. Vì không còn có niềm vui riêng nào, nên nói là vắng lặng. “Bấy giờ, La sát nói bài kệ này xong” cho đến “Trụ trong Đại Bát-niết-bàn để tu hạnh Thánh.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên đã khen hạnh Thánh là khó. Nay dẫn việc xưa để chứng minh cho công hạnh hộ trì chánh pháp không luống dối và tâm cầu pháp rất thành khẩn!  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 36 <詞>Phẩm 20: PHẠM HẠNH (Phần 1) Giải thích bảy pháp lành là phạm hạnh, là biết pháp biết nghóa… Giải thích mười hai bộ kinh. Nói rộng bốn tâm Vô lượng. Nói Người ái hành phần nhiều tu hỷ, xả, người kiến hành phần nhiều tu từ bi. Giải thích rộng về bốn số nhất định vô lượng. Giải thích nghóa người trong oán, thân có chín phẩm. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng bốn đẳng làm thể, gốc là đạo Phạm thiên, vẫn là tên gốc. Cũng nói Phạm nghóa là thanh tịnh. Hạnh Thánh là tự tịnh, bốn đẳng là tịnh người khác, nên được gọi là Phạm. Người có phạm hạnh, trước dùng bảy việc lành để tự sửa mình cho chính đáng, sau là dùng bốn đẳng để chánh người. Gọi bảy việc lành trước để sửa đổi bên trong, đủ ba việc lành sau, nhằm sửa đổi bên ngoài, đều là nghóa tự chánh.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đại khái phán quyết phẩm này có bốn đoạn: Nêu bảy việc lành, để làm thể cho tự tu hành. Từ “Bốn tâm vô lượng trở xuống, đến cuối sáu niệm, chính là nói về hóa độ bên ngoài. Thể đã bày, tức là khen ngợi sự truyền bá. Vua A-xà-thế làm chứng cho kinh này, có công năng dứt trừ Đại ác, đồng thời cũng chứng tỏ lòng từ bi có lợi ích thật sự.” Pháp sư Trí Tú nói: “Phẩm này có năm đoạn: Nói về nhân của Phạm hạnh, tức bảy việc lành. Nói về thể của Phạm hạnh, tức bốn vô lượng. Nói về quả của Phạm hạnh. Khen ngợi kinh. Dùng A-xà-thế làm chứng.” “Này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Sáu là biết chúng, bảy là biết cao thấp.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bảy pháp lành chẳng phải phạm hạnh. Y theo bảy pháp lành, năm pháp trước là tự thực hành, hai pháp sau là hóa độ người. Vì đủ bảy pháp lành, nên có được bốn vô lượng, thành tựu công hạnh hóa độ người.” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát tu phạm hạnh như thế nào?” cho đến “Tất cả như vậy, gọi là Tu-đa-la.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tu-đa-la gồm có năm nghóa, như kinh có nêu.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Biết pháp, là biết mười hai bộ kinh. Từ câu: “Tôi nghe như vầy”“ cho đến “Vui mừng vâng hành.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói là biết mười hai bộ kinh, nhưng ở đây nói tức là “Pháp biện”, biết được phạm vi của pháp, về danh, tướng thể khác nhau, thấu suốt một cách tốt đẹp về chỉ thú của pháp và chẳng phải pháp biện như thế nào? Đó là lý do ở đây y theo “Pháp biện” để lấy pháp. Mười hai bộ kinh nói, về mặt lý, chẳng có lý nào không thông suốt qua các pháp như: Bốn đế, mười hai nhân duyên…, không có một kinh nào không nói về lý này, vì thế, nên đi suốt qua các bộ. Nay, nói về sự khác nhau của các bộ đó. Theo nghóa sự đã nói, để nêu lên các sự khác nhau. Nhưng danh từ mười hai bộ, đều là âm nước ngoài. Tu-đa- la, Hán dịch là Pháp bổn (gốc pháp), cũng dịch là kinh bổn, vì có công năng sinh ra trí của cảnh quán, nên gọi là gốc pháp. Nếu tứ “Tôi nghe như vầy” trở xuống, cho đến câu “Vui mừng vâng hành”. Tóm lại, về lý văn chung thành mười một bộ làm gốc. Chính vì nghóa này nên gọi là Tu-đa-la.” “Những gì gọi là Kỳ-dạ kinh” cho đến “Không còn thọ các hữu, đây gọi là kinh Kỳ-dạ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hán dịch là kệ Trùng tụng, văn xuôi đã nói, lại trùng tụng giúp cho hiển bày nghóa này, nên nói lên khác hẳn các bộ khác.” “Những gì gọi là kinh Thọ Ký?” cho đến “Hiệu là Di-lặc, đó gọi là kinh Thọ Ký.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thiên-trúc nói Hòa-già-la-na. Xưa khi chưa nói bốn đế thì thọ ký chỉ ghi nhận rằng: “Từ sau không giáo, nói về thọ ký trong đương lai sẽ thành Phật với danh hiệu, cõi nước, gọi là kinh Thọ Ký, cũng vì lấy nghóa thọ ký này mà thành khác nhau.” Thế nào gọi là kinh Già-đà?” cho đến “Là giáo của Chư Phật, đây gọi là kinh Già-đà.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trừ Tu-đà-la và các giới luật, nghóa là trừ trùng tụng Tu-đà-la và trùng tụng giới luật.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở đây trừ mười một bộ dịch thẳng là kệ, nghóa là không tụng văn xuôi, cũng do tụng về thứ khác mà thành khác.” Những gì gọi là kinh Ưu-đà-na” cho đến “Vô vấn tự thuyết”, Đây gọi là Ưu-đà-na.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là kinh Vô vấn tự thuyết. Các Tỳ-kheo đều nghi rằng: “Đức Phật xuất định đã lâu mà không ai hỏi, liền dùng Tha tâm trí mà tự nói rằng: “Này các Tỳ-kheo! Tất cả các vị trời có tuổi thọ rất dài so với con người. Lành thay! CácTỳ-kheo biết vì người, không cầu lợi cho riêng mình, ít muốn biết đủ và giải quyết các nghi ngờ”. Vì muốn cứu độ chúng sinh, nên Đức Phật mới nghó ra cách giải thích này.” “Thế nào là kinh Ni-đà-na?” cho đến “Giọt nước dù nhỏ, dần đầy lu lớn”. Như trên đây, gọi là kinh Ni-đà-na.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nguyên nhân căn bản, là trước nói nhân duyên, sau nói kệ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì nhân duyên nên nói kệ, không dùng kệ làm nhân duyên.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hễ có người phạm tội thì nhân việc đó mà chế giới, nên gọi là nhân duyên. Do nhân duyên chế giới này mà khác hẳn với bộ khác.” Thế nào là kinh A-ba-đà-na?” cho đến “Đây gọi là kinh A-ba-đà- na.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hán dịch là thí dụ kinh, lý rất sâu mầu, không thể dùng lời nói thẳng để nhận lấy sự tỏ ngộ. Nếu không mượn việc bên ngoài, thì sẽ không có lý do để so sánh với giáo đã giải thích.” Thế nào gọi là Y-đế-viết-đa-già kinh” cho đến “Đó gọi là Y-đế- viết-đa-già.” (Bổn sư) Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gọi là Nhật giới kinh, nghóa là khi Đức Thích-ca ra đời, thường nói về pháp tánh. Kinh này lấy danh hiệu như thế. Chư Phật quá khứ đã đặt danh hiệu như thế, gọi là Như thị ngữ kinh.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Hán dịch là Như thị ngữ kinh. Phật đời quá khứ khi nói kinh đã đặt ra tên gọi như thế. Đức Thích-ca gọi là giới, để phân biệt với nghóa khác của giới pháp tướng. Phật Cưu-lưu-tần dịch là Trống Cam lộ, ý nói bôi chất độc lên mặt trống. Người nghe tiếng trống đánh, mọi chứng bệnh dứt.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói chung, Đức Thích-ca đã nói kinh trong mỗi lần hóa độ gọi là Nhật giới kinh. Cho đến Phật Thích-ca gọi là Phân biệt. Không dùng việc quá khứ để chứng minh cho việc nay.” “Thế nào gọi là kinh Xà-đà-già?” cho đến “Có thể thọ thân, đó gọi là Xà-đà-già kinh” (Bổn sinh). Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hán dịch là kinh Bổn Sinh.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Như trong Pháp Hoa chia làm hai Bổn sinh và Bổn sự. Nay, trong đây chỉ lấy nghóa sự như Đức Phật đã từng làm vua Túc Tán… khi thực hành hạnh Bồ-tát ở đời quá khứ, dùng làm một bộ. Nếu chỉ nêu Bổn sinh của Đức Phật, thì các việc ở đời sống cũng tùy, vì thế, nên y cứ thì chung, mà dấu vết thì riêng.” “Thế nào gọi là kinh Tỳ-phật-lược?” cho đến “Cũng như hư không. Đây gọi là Tỳ-phật-lược.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Hán dịch là kinh Phương Quảng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thuở xưa vì chỉ nhận lấy câu, lời văn rộng của kinh, trong mười hai năm nên cho là kinh rộng, không được gọi “Phương”. Từ Thông giáo về sau, mãi đến Niết-bàn hiện nay, như chỉ một bài kệ bốn câu của Bồ-tát ở núi Tuyết cũng đủ gồm thiếp cùng tận lý của hai luân hữu vi và vô vi, tất nhiên sẽ không có pháp nào, đối tượng nào mà không bao gồm nên nói là Phương Quảng.” “Thế nào gọi là kinh Vị Tằng Hữu?” cho đến “Các kinh như thế…, đều gọi là Vị Tằng hữu.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thiên-trúc dịch là A-phù-đa-đạt- ma. Bất luận việc ít có nào cũng đều được gọi là Vị Tằng hữu. Chẳng hạn như con bò Đại thanh bưóc đi trên bát sành, làm cho các bát sành va chạm nhau nghe rổn rảng mà không cái nào bị vỡ. Những chuyện như thế…, đều gọi là kinh Vị Tằng Hữu.” “Thế nào gọi là kinh Ưu-bà-đề-xá?” cho đến “Mười hai bộ kinh, gọi là biết pháp.” Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hán dịch là luận nghóa kinh. Lý tướng rất sâu kín, cho nên nếu không nhờ việc bàn luận qua lại thì về nghóa sẽ không rõ ràng. Cho nên dùng việc nghị luận để lập riêng một bộ. Nhưng mười hai bộ này đều có văn, lý, như bài kệ “Nhà lửa”, nếu Tu-đa-la lấy việc trong dó vãng thì nêu thể là pháp bổn. Nếu dùng kệ tụng dó vãng để xét định, thì là Kỳ-dạ ngữ, là ví dụ, tức kinh Ví dụ. Như ba nghóa này là văn của ba nhà, ở đây không có, vì lý mà không có lời văn, hay chỉ có văn mà không có lý.” “Thế nào là Đại Bồ-tát biết nghóa?” cho đến “Biết rộng nghóa của kinh.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Nếu người không biết được nghóa kinh thì đối với đạo của mình chưa được thành thục, thì liệu có thể dùng sự hiểu biết để đem lại lợi ích cho chúng sinh ư? Vì lẽ đó, nên điều cần thiết nhất là phải biết pháp và nghóa.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai, không còn có chỉ thú khác. Chính vì hiểu biết sâu sắc về mười hai danh hiệu của kinh này, vì nguyên nhân dưới đây, nên gọi là biết nghóa.” “Thế nào là Đại Bồ-tát biết thời?” cho đến “Bát-nhã ba-la-mật. Đó gọi là biết thời.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói về hóa độ chúng sinh, thì phải biết thời. Nếu không như thế mất đi căn cơ của chúng sinh đó, há thành hóa độ ư?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba, biết rành về thời tu hành đạo nghiệp, thì về lý sẽ được tốt đẹp hơn, không có thiếu sót. “Thế nào là Đại Bồ-tát biết đủ?” cho đến “Ngủ, thức, nói nín. Đó gọi là biết đủ.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Nếu không biết đủ, thì chỉ có lợi là ngày càng tham lam, bỏn sẻn mãi mà không bỏ, thì đâu thể nào dùng từ bi để cứu độ chúng sinh ư? Thế nên phải biết đủ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tư, đối với bốn oai nghi, phải biết rõ lúc nào động, lúc nào tónh, sao cho không trái với ba nghiệp mà làm chướng ngại đạo.” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát làm thế nào?” cho đến “Đáp như vậy, gọi là biết mình.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đạo tự biết mình và cả chúng sanh. Sau đó mới dùng sự hiểu biết của mình để hóa độ chúng sinh, có thể nói là tự biết mình.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ năm, nếu không tự giác biết mình có đức, thì cũng nên biết nhận thức sai lầm về nghóa tinh tấn sâu sắc. Vì thế, nên có thể tự biết mình có hiểu được ít nhiều, có thể trang nghiêm cho nghiệp của tâm. “Đại Bồ-tát biết chúng như thế nào?” cho đến “Hỏi, đáp như vậy gọi là biết chúng.” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Chúng có các loài, không thể dùng ngôn ngữ của một vùng mà thích hợp với đa số quần chúng kia. Vì thế, nên phải biết quần chúng đều khác nhau về ngôn ngữ, chủng loại để thích ứng với họ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Pháp thứ sáu, là nên biết về phong tục, phép tắc, nghi lễ của từng cõi nước. Nếu không biết rành thì sẽ không tránh khỏi nhiều trở ngại trong việc hóa đạo.” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát làm thế nào?” cho đến “Bảy pháp lành sẽ được đầy đủ phạm hạnh?” Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Đối với người biết đạo cao hơn ta, thì tỏ lòng tôn kính. Đối với người hiểu đạo kém hơn ta thì dùng từ để cứu giúp họ. Trên đây là bảy pháp lành, thành tựu, thỏa mãn bốn hạnh cần thiết. Vì thế nên phải nói.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Pháp lành thứ bảy, y cứ ở thực hành điều lành, nghóa là có cao, thấp, hơn, thua như kinh đã chỉ bày về thực hành điều lành. Người kém thì thấp, người hơn thì tôn quý. Một khi đã hội đủ bảy pháp lành này rồi, thì được tự tại vừa ý, thích ứng với chúng sinh, như ngọc báu như ý.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Lại có Phạm hạnh, đó là Từ, Bi, Hỷ, Xả.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đầu tiên nói về tướng của bốn vô lượng. Bốn đều là từ, từ cạn đến sâu là bốn. Luận có văn mô tả rõ ràng, không phí lời lẽ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ, Bi, Hỷ, Xả chính là tánh tuệ. Vì công dụng của chúng có hơn kém, đặt tên của một vùng, cho nên nói bốn. Nói vô lượng, gọi là “Sở duyên”, như Bi cứu vớt đối tượng khổ, thì có tình thức nhờ cứu độ. vì tình cảm không giúp ích thiên vị, riêng tư, mà là “Duyên” vô lượng, nên gọi là vô lượng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đoạn lớn thứ hai, nói về hạnh hóa độ người, được chia thành bảy lớp: Nói về danh số bốn vô lượng. Nói về sự cạn sâu của bốn tâm. Chứng tỏ bốn hạnh này là thật. Lược kết ba vô lượng. Quả ở Sơ địa, y cứ phần vị trong “Hữu”. Kết riêng quả “Xả” cũng ở Sơ địa, y theo “Không” làm phần vị. Nói sau khi bốn tâm đã thành, tiến lên Sơ địa trở đi, lại tiến tu mười một “Không” được đầy đủ, ngang bằng tâm Kim Cương, tức là thường lập ra ba ví dụ để khen ngợi. Từ “Tám thứ tri kiến, do thứ lớp ba ví dụ trên. Dưới đây, cuối cùng là địa Nhất tử. Đoạn thứ hai, nói về thể của Phạm hạnh, tức bốn vô lượng, có ba lượt: 1. Danh hiệu cuối cùng là Vô lượng định. Danh từ vô lượng được lập thành bốn: “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Xét theo nghóa đó lẽ ra chỉ có ba.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây lập ra tất cả năm lớp thưa hỏi. Đây là đoạn hỏi thứ nhất: “Đã nêu lên tuệ của đối tượng trị đồng với từ bi của chủ thể trị, không nên có sự khác nhau, vì thế, nên chỉ có ba, không được bốn?” “Bạch Đức Thế tôn! Lòng từ có ba duyên: Một là duyên chúng sinh” cho đến “Duyên Như lai gọi là vô duyên.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là câu hỏi thứ hai: “Bốn tâm dù khácmà đều có ba duyên; đó là Duyên chúng sinh, Duyên pháp và Vô duyên”. Đối tượng duyên đã đồng thì lẽ ra chỉ một?” “Bạch Đức Thế tôn! Đối tượng duyên của lòng từ là tất cả chúng sinh” cho đến “Thế nên lẽ ra chỉ có ba, không nên có bốn.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là câu hỏi thứ ba: “Nói là có thấy cha, mẹ…, gọi là “Chúng sinh Duyên”. Không thấy cha, mẹ, chỉ “Duyên” năm ấm gốc của chúng sinh. Lìa hai tâm trước tức là “Không”. Vì duyên cảnh đã có, y cứ tâm từ cảnh, thì chỉ nên có ba?” Bạch Đức Thế tôn! Con người có hai hạng: Một là người kiến hạnh” cho đến “Thế nên đáng lẽ có hai, không nên có bốn.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là câu hỏi thứ tư: “Vì hai người kiến, và ái lẽ ra là hai? Vì nếu là kiến hạnh, thì sẽ thấy căn cơ nhạy bén. Vì có sức mạnh, cứu giúp là năng lực, nên chỉ tu từ bi, nếu là người ái hạnh, thì chí khí quá đổi yếu hèn, tất nhiên là căn chậm lụt (Độn căn), thấy sự nghiệp thắng lợi vẻ vang của người, chỉ tùy hỷ mà thôi, nên chỉ có hỷ, xả. Thế nên chỉ có hai.” “Bạch Đức Thế tôn! Nói về vô lượng, gọi là vô biên” cho đến “Vì thế, nếu là vô lượng thì lẽ ra nên có một, không nên nói là bốn?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là câu hỏi thứ năm y theo danh tự để hỏi: “Nếu dựa vào nghóa thích đáng để giải thích vô lượng, thì chính là dùng duyên vô lượng chúng sinh làm cảnh, mà giả làm lời lẽ không thông suốt, đã là nhận lầm ý Phật thì có nghóa là thể tâm không có bờ mé. Vì thế nếu gọi vô lượng thì sẽ không vượt hơn có bốn? Nếu còn ít thì chỉ nên một?” Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Này người thiện nam! Chư Phật Như lai” cho đến “Đối với hạnh sâu xa của Như lai không nên sinh nghi.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây sẽ đáp câu hỏi, trước đức để lộ rõ bí mật: Pháp nói ra mục đích đều vì độ người, chẳng thể với sự nhận thức nông cạn mà đo lường được, không nên toan tính, so đo rằng, nên như thế hay không nên như thế. Trước, nêu nhân duyên là một, mà vì chúng sinh, nên hễ có thuyết giảng nhiều, ít khác nhau, chỉ có Phật mới biết được, đây là mật ý, trừ sinh một pháp, là Tát-già-ni- kiền Tử, cha là Phạm Chí, mẹ là Ni-kiền, do ông ta bất sinh đúng như pháp, nên vì gìn giữ ý đó, nên không nói là sinh.” “Này người thiện nam! Như lai, Thế tôn có phương tiện lớn” cho đến “Vì điều phục chúng sinh, há lại nói dối ư?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là, nói về “Miệng mật”. “Này người thiện nam! Có chúng sinh tham của cải” cho đến “Nhưng không có nhiễm ô, cũng như hoa sen.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là, chỉ rõ về “Thân mật”. “Này người thiện nam! Nên biết nghóa của bốn tâm vô lượng như thế” cho đến “Nếu có người tu hành thì sẽ sinh lên tầng trời Đại Phạm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp chung câu hỏi trên, sinh lên tầng trời Đại phạm, là có cạn có sâu. Hai cõi trên đều gọi là Đại phạm. Sơ thiền mới được nghe danh hiệu bốn vô lượng, nói về công hạnh của bốn vô lượng có cạn, có sâu. Kinh nói: “Tu từ thật sâu, sinh Đệ tam thiền, tu bi, sinh không xứ, tu hỷ, sinh thức xứ, tu xả, sinh Bất dụng xứ. Tánh có sâu cạn không nên lìa.” “Này người thiện nam! Tâm vô lượng này có bốn loại bạn” cho đến “Được gọi là bốn, chẳng phải một, hai, ba.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không vui, nghóa là ganh ghét. Bốn thứ phiền não, không thể một hạnh mà dứt trừ ngay, phải có các hạnh giúp nhau, là nghóa bạn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dùng ba câu để đáp chung câu hỏi: “Chẳng phải một, hai, ba.” “Này người thiện nam! Như lời ông nói thì lòng từ sẽ dứt được sân” cho đến “Bạn bè của tâm vô lượng đối nhau, chia thành bốn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói tánh có cạn, sâu, đối trị kiết, phải nhờ bè bạn, có bốn nghóa. Ở trên nói là hai thứ giận, yêu khác nhau. Nay nói giận có hạ, thượng, đối trị có sâu cạn, cũng phải đợi bạn.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ông nói lòng từ có thể dứt được giận, đây là nêu câu hỏi đầu, dù đồng đối trị với giận, nhưng giận có thô, tế. Tâm từ dứt được thô, tâm bi dứt được tế. Nay đối tượng dứt đã khác, thì chủ thể dứt có thể riêng một mình không khác ư? Từ “Sáu câu dưới, giải thích về nghóa thô tế”. Nói loại bạn đối nhau, nghóa là từ bi dù là loại bạn, mà vì thô tế đối nhau cho nên thành bốn.” “Lại, vì pháp khí, cho nên gọi là bốn” cho đến “Vì nghóa này nên phải là bốn, không bớt được.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp hai hạnh kiến, ái đều dùng nhân để đối trị làm câu hỏi. Ở trước, đáp người là pháp khí mà thực hành được lòng từ, nhưng vẫn chưa thể đề cập đức bi, là pháp khí có khác nhau.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ hai, đáp chung câu hỏi thứ ba. Nói khí thế gian có lớn, nhỏ, bốn tâm có sâu cạn khác nhau, đâu được y theo cảnh khiến cho đầy vơi ư? Đồ đựng để đựng vật có công dụng. Cảnh có nghóa chứa đựng, tâm đâu thể không có?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước đáp câu hỏi thứ tư: Pháp khí lợi độn khác nhau, tự có khả năng thực hành từ bi, mà chưa thể thực hành hỷ, xả, lần lượt đều như thế, thực hành lòng từ bi, tự có cao, thấp, hỷ, xả cũng có cạn sâu. Nếu vậy, thì đâu được hỏi rằng: “Nên hai mà không phải bốn ư?” “Này người thiện nam! Do thực hành phân biệt, nên phải có bốn” cho đến “Không có hạnh bi, hỷ, xả, cho nên có bốn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp cả hai câu hỏi về nhân duyên: “Dù là nhân duyên, mà trong duyên có khác, chẳng phải một, chẳng phải ba.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ tư”: Nếu thực hành tâm từ, chưa có bi, hỷ, do bốn hạnh khác nhau, nên từ đầu đến cuối có một người thực hành bốn đức này, thì đâu được dùng căn tánh lợi, độn để nêu lên câu hỏi” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ hai, thứ ba. Câu hỏi thứ hai rằng: “Một là “Duyên” chúng sinh, hai là duyên pháp cần dùng. Đức Phật không cần duyên. Nếu vậy chỉ là một chúng sinh thôi. Cảnh đã là một, chỉ nên một.” Câu hỏi thứ ba rằng: Một là “Duyên” chúng sinh; hai là “Duyên” “giả danh không ”; ba là “Duyên” “Thật pháp không”, tức cảnh có ba, nên lẽ ra là ba”. Ở đây ý đáp rằng: “Dù nói là cảnh đều đồng, nhưng vì công hạnh của người tu hành có sâu, cạn, nên tự có người có khả năng thực hành một tâm hạnh ban đầu, nhưng không thể thực hành ba hạnh sau. Tự có người có thể thực hành tâm hạnh thứ hai, nhưng không thể thực hành tâm hạnh thứ tư, thì làm sao lại hỏi rằng: “Vì cảnh là đồng, nên phải là một, hay phải là ba?” “Này người thiện nam! Vì vô lượng nên cũng được gọi là bốn” cho đến “Mới được gọi là vô lượng, vô biên.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ năm: “Dù vô lượng gọi là đồng, nhưng hạnh trong ngoài khác, sâu cạn khác, chủ thể là một. Không thể được tam-muội Tự Tại. Mới thực hành hạnh Bồ-tát, chẳng phải vô lượng duyên đem lại cho cha mẹ vô lượng niềm vui, không lấy vô lượng chúng sinh làm duyên.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ năm: “Nói “Duyên” vô lượng chúng sinh làm cảnh, nên có sự khác nhau giữa bốn tâm, không nói thể của tâm thông suốt đồng với không có bờ mé, không thể nối tiếp âm thanh thành câu hỏi.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ năm: “Tên gọi dù đồng, nhưng về nghóa thì có bốn cấp bậc, đều gọi là vô lượng, không được thành một.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Đó gọi là được Từ chẳng phải đại Từ” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai là nói về bốn đẳng thành và không thành. Hạnh đầu tiên là tu tập lòng từ, phải từ gần gũi. Từ gần mà khởi, phiền não khó bỏ. Phiền não dù nhẹ, nhưng khác với oán thân, nên chưa thành đại bi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn thứ nhất ở trước là quyết định bốn vô lượng gọi là giáo. Nay, đoạn hai là nói tâm từ có cạn sâu. Trụ phẩm hạ là cạn, trụ phẩm thượng là sâu. Đối với người trong oán thân, chẳng phải không bình đẳng, giống như cũ gọi là cạn, vì tâm từ khó thành, nhiều lần có lui mất. Nếu trụ phẩm thượng thì sẽ không còn lui sụt.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đoạn hai, giải thích cạn sâu, là tâm tưởng tướng mạo hữu lậu, gọi là cạn. Được chân vô lậu, vì một tâm đủ bốn, nên gọi là Đại vô lượng rất sâu xa. “Bạch Đức Thế tôn! Vì sao Bồ-tát có tâm Từ như vậy” cho đến “Do nghóa này nên gọi là Đại vô lượng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không thể điều phục tâm trong một ngày, mà phải tu từ thật lâu. Khi tâm từ đã thành thục rồi, cho dù còn phải trải qua sự sinh, tạm thời quên tu tập chăng nữa, thì chỉ cần một ngày là thành tựu, không từ thân khởi. Các ví dụ ở dưới sẽ nói về sự giận dữ rất khó dứt trừ, nói tâm từ rất khó thành.” <篇> Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 37 <詞>Phẩm 20: PHẠM HẠNH (Phần 2) Nói Từ bi có lợi ích chân thật. Nói rộng về việc bố thí, phát nguyện trong tâm từ. Nói rộng về tâm từ mà Bồ-tát tu, tức là muôn hạnh. Nói rộng về lợi ích của đức Từ: Voi trông thấy lực só Sư Tử dời nhà đá đến chỗ trưởng giả Tu-na trước sự chứng kiến của rất nhiều người nữ và Đề-bà-đạt-đa, giặc Kiều-tát-la, Thái tử Lưu-ly. “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Tu quán như vậy, chẳng phải luống dối hay sao?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn thứ ba, nói về Bốn đẳng, là phần thực hành. Thưa hỏi có hai ý. Ở đây lấy hạnh suông làm câu hỏi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Việc thưa hỏi có ba lớp. Đây là lớp thứ nhất rằng: “Chúng sinh hiện đang còn đau khổ mà không được cứu vớt, chứng tỏ lòng từ chẳng phải thật!?” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là đoạn lớn thứ ba, nói từ là hạnh thật, sẽ giải thích về lý này, nên trước là, Bồ-tát Ca-diếp đã soạn sẵn câu hỏi về luống dối. Trong đây gồm có sáu lớp. Sau đây là lớp thứ nhất, giải thích thể của tâm từ là hạnh thật. Bồ-tát Ca-diếp sẽ dẫn năm việc, nhằm chứng minh cho câu hỏi về “Không có thật.” “Bạch Đức Thế tôn! Nếu chẳng phải luống dối mà thật sự ban cho niềm vui” cho đến “Vì chúng sinh không nhờ năng lực oai đức của Chư Phật, Bồ-tát, để tất cả đều được thọ vui?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thưa hỏi lớp thứ hai. Nếu tâm từ kia quyết định có lợi ích thật sự, thì tức là chúng sinh chắc chắn sẽ được lìa khổ?” “Nếu quả thật không được vui” cho đến “Thì làm sao tương ưng với nghóa này.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai này nói về hạnh không thật, sẽ không được quả báo chân thật.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ ba, hỏi rằng: “Lấy quả để nghiệm nhân, thì hai việc trái nhau: Hư, thật chưa giải thích, thỉnh cầu Đức Phật giải thích.” Phật nói: “Lành thay! Thiện nam!” cho đến “Chư Phật, Bồ-tát với lòng Từ chân thật, không luống dối.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bài kệ đầu nói lòng từ của thế gian. Người tu hành cho rằng bố thí cho là hạnh thật, nên đã bố thí làm phước, tu lòng từ thế gian, đã không có một người, huống chi là lòng từ xuất thế gian. Vì sao? Vì dù yêu thương một người, đem niềm vui cho đời, bố thí không được như vậy, lên xuống dễ hiểu.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Y theo phần nói về môn lòng từ có ích thật sự này, có năm lượt làm chứng: Nói tu từ thật sự có công năng chuyển biến cảnh. Nói tâm từ có công năng dứt được phiền não. Nói lòng từ là căn bản của muôn điều lành. Nói về đức từ tức muôn hạnh. Dẫn hạnh từ của quả địa để chứng minh chân thật không luống dối. Đức Phật là biểu trưng cùng cực của lòng từ, được biết nhân địa cũng có lợi ích thân thật. Dù có thể có năm lớp này, nhưng nếu không muốn đáp lại ba câu hỏi thì với năm lớp này đều chứng tỏ lòng từ có lợi ích chân thật, đều đáp câu hỏi đầu thì dưới đây sẽ nêu lại. Câu hỏi thứ hai phát ra đáp riêng, bài kệ này nói: “Công dụng của hạnh từ là tốt đẹp nhất trong các hạnh, đâu chỉ có ích chân thật mà thôi sao? Không thể vì Thanh văn là không thật, rồi làm cho Bồ-tát cũng không thật. Hai câu đã được giảng giải thì câu hỏi thứ ba số tự nhiên được giải thích.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật sẽ đáp câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp, trước Đức Phật khen bài kệ, nói về công đức vô lượng lợi ích chân thật của hạnh từ. Vì sao? Vì có người chỉ ở bên cạnh một người khởi lên lòng từ đem đến cho người ấy niềm vui thì trước sau chắc chắn sẽ được ra khỏi sinh tử. Nếu một người dù từng cúng dường vô lượng thần tiên có năm thần thông cho là ruộng phước, cũng chẳng bằng công đức khởi tâm từ đối với người bên cạnh, chỉ bằng một phần sáu. Bởi cúng dường thần tiên, chỉ mới được quả báo sinh tử! Nếu cứu vớt được một người đau khổ thì thật sự được lợi ích xuất thế. Lại hóa độ vô lượng người thì được thoát khỏi sống chết, phải biết rằng lòng từ là thật. Giải thích tâm từ có ý nghóa lợi ích thiết thực, văn xuôi cũng tương đương với bài kệ này. “Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát?” Cho đến tư duy chân thật chẳng phải không chân thật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Năm việc chứng minh tâm từ. Đây là việc thứ nhất, nói về công năng làm cho cảnh (đối tượng) dù không thật, nhưng chúng sanh vẫn được lợi ích chân thật. Như do vàng mà được vui, đất tức là vàng. Nếu không có vàng mà vẫn có được niềm vui thì vàng tức là đất không khác. Lớn nhỏ dung hợp nhau, ngay sự việc đều là thật mà được công dụng đó.” “Này người thiện nam! Sao gọi là” cho đến “Vì thế nên gọi là tư duy chân thật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ hai, vì dứt được kiết, nên biết chẳng phải luống dối.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ ba, do từ có thể sinh ra muôn điều lành, chẳng lẽ không phải thật ư?” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thân bị ghim bởi mũi tên có tẩm thuốc độc, nghóa là mũi tên tham lam keo kiệt, quyến thuộc muốn cho người đó được yên ổn: Chư Phật, Bồ-tát, liền mời thầy thuốc đến nhổ mũi tên độc, khiến các ruộng phước đến đó để xin. Người bị nạn nói: “Đừng chạm đến! Hãy chờ tôi xem mũi tên này từ hướng nào bay đến?” Cho đến “Có thể thí, không thể thí, hoặc tài vật nhiều ít, thời gian có thể bố thí được hay không? Bồ-tát cũng như vậy. “Nếu lúc thực hành thí cho”: Là hợp với ví dụ. Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Thường nên siêng năng phát thệ nguyện như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói chiếc áo rời thân một thước sáu tấc: Như văn kinh dưới nói. Lại nói: “Y phục rời thân bốn tấc không rớt, tức là một bên, bôn tấc bôn bên thành một thước sáu tấc. Ở đây tức là nêu bốn bên của chiếc áo kia, chính là nói một mặt áo.” “Này người thiện nam! Tất cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát” cho đến “Vì nghóa này cho nên là chân thật, chẳng luống dối.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sáu độ là công hạnh riêng của Bồ-tát. Nói thí cho một việc, năm việc còn lại dễ hiểu. Các hạnh còn lại, Bồ-tát đều thực hành chung với ba thừa. Do vì Phật nói, nên lấy Từ làm gốc. Trước nói “Người”, sau nói “Pháp”, pháp bất tịnh cho đến vô ngã quán, đều nói về hành tướng. Pháp Noãn cho đến Kiến đạo tu đạo, là nói chứng quả sâu cạn. Chánh cần cho đến tám Thánh đạo, là nói tên pháp sâu cạn. Bốn thiền cho đến tam-muội Vô Tránh là nói tên định. Tha tâm trí cho đến Phật trí là nói tên trí. Tóm lại tất cả đều dùng tâm từ làm gốc.” “Này người thiện nam! Người nào làm việc lành, thì được gọi là tư duy thật” cho đến “Sẽ được vô lượng vô biên công đức.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ tư nói muôn hạnh tức tâm từ, dứt khổ là từ. Ba thừa đều là diệt khổ, phải được chẳng thật, tức là diệt khổ. Tư duy từ này, sẽ được hết khổ, gọi là thừa.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Tâm từ mà Bồ-tát đã tu tập là không có ích lợi” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ năm là nói về tâm Từ, vì hiện có lợi ích chân thật, cho nên mới hỏi.” “Này người thiện nam! Lòng từ của Bồ-tát” cho đến “Là tư duy thật, chẳng phải không có lợi ích.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có hai thứ chắc chắn sẽ thọ khổ: Vì không cứu vớt. Tuy được niềm vui nhỏ, nhưng lại tăng thêm khổ, đó là Nhất- xiển-đề. Nói về người chắc chắn sẽ chịu quả báo khổ, thật ra cũng không phải chỉ có xiển-đề, mà ngay cả nghiệp ác cũng có, nhưng trạng thái của chúng rất khó nói. Chịu khổ không nhất định, hễ cho vui thì được, không cho vui thì không được. Xa thấy Sư tử: Chúng sinh nào không có lòng từ, hễ có người nào gặp thì sẽ cảm thấy sợ hãi! Người có tâm đại bi, dù gặp phải nghịch cảnh, cũng tự nhiên cảm thấy vui, vì có chỗ trở về.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước có hai quan điểm đồng nói về tâm từ có lợi ích chân thật. Đã khiển trách một quan điểm, sẽ bày tỏ sự tích, cho nên, Bồ-tát Ca-diếp lập lại câu hỏi trước, Phật liền giải thích.” “Này người thiện nam! Như lai nói tâm từ này có vô lượng” cho đến “Kinh Đại Niết-bàn, cũng không thể suy nghóa bàn luận.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về pháp thân “Không có duyên”. Nhưng hễ có cảm thì đây sẽ ứng, nhằm chứng tỏ công dụng của đại từ chẳng có khác nhau.”  Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 38 <詞>Phẩm 20: PHẠM HẠNH (Phần 3) Giải thích: ý nghóa của Địa vị “Cực ái nhất tử”. Nói Đức Phật không bao giờ gây ra nhân duyên phiền não cho chúng sinh. Nói: Giải thích việc giết Bà-la-môn để được địa vị nhất tử. Nói Bà-la-môn vào địa ngục, phát ba niệm. Nói việc giết xiển-đề không có tội. Nêu ra duyên khởi về quỷ thần Khoáng Dã. Phát hiện dấu vết của Điều-đạt. Kết tu tâm xả, đó là địa vị không, bình đẳng. Giải thích rộng về nghóa mười một không. “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Được trụ vào địa vị Cực ái nhất tử.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây dùng năm ví dụ giải thích tên địa này.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn bốn là kết ba quả vô lượng, nói Cực ái nhất tử: Đây là Địa thứ bảy. Nói Bồ-tát Thất địa thấy chúng sinh vẫn còn đau khổ, thậm chí máu tuôn chảy xối xả xuống đất. Ái này sâu hơn trước, vì tốt đẹp hơn. Bát địa trở lên, một tâm có đủ muôn hạnh. Vì thôi dứt hai tướng “Không” “Hữu”, cho nên chìm mất ái kia, gọi là thọ tên gọi “Bất bình đẳng”. Sau đây có năm thí dụ: Thí dụ cực ái. Thí dụ dưới đây có bốn ví dụ. Ví dụ con một là nói về tâm từ bình đẳng khi mới Đăng địa.” “Này người thiện nam! Sao địa này gọi là cực ái?” cho đến “Thế nên địa này gọi là cực ái.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ nhất nói thấy điều lành thì vui mừng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là dụ cho Hỷ vô lượng.” “Này người thiện nam! Ví như cha mẹ thấy con đau ốm” cho đến “Vì thế, nên địa này gọi là Nhất tử.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ hai nói thấy điều xấu ác thì lo lắng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Bốn ví dụ sau đây là nói về khổ bệnh, khổ có nhẹ nặng. Về nghóa, suy ra có từ bi, nhưng thiếu xả.” “Này người thiện nam! Ví như con người lúc còn bé thơ, lượm đất cục” cho đến “Vì thế, nên địa vị này gọi là Nhất tử.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ ba nói về dạy bảo thực hành pháp lành.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Tay trái đỡ đầu con, dụ cho thật tuệ. Tay phải móc ra, dụ cho tuệ phương tiện.” “Này người thiện nam! Ví như đứa con được cha mẹ yêu thương” cho đến “Vì thế, nên địa này gọi là Nhất tử địa.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ tư vào địa ngục là vì chúng sinh. “Này người thiện nam! Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con” cho đến “Vì thế, nên địa này còn gọi là Nhất tử địa” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ thứ năm là nói về không giận thêm ác, hoặc giận thêm ác là khổ vô ích. Bồ-tát không làm việc ấy. Kết xả tự có địa riêng nay chỉ nói ba.” Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Lại do nhân duyên gì không đọa vào địa ngục?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghe trên đây đã dùng năm ví dụ để giải thích danh hiệu địa. Nay, hỏi Phật: “Vì khi Bồ-tát cắt đứt mạng căn của người đã không tương xứng với ý nghóa của địa, mà sao vẫn không đọa địa ngục, tiến lùi chưa rõ?” “Nếu tâm từ bình đẳng, nhìn tất cả chúng sinh” cho đến “Làm sao không trái với nghóa?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước, nêu việc giết Bà-la-môn để hỏi về thân nghiệp của nhân địa. Nay nêu chuyện mắng nhiếc Đề-bà- đạt-đa, nhằm thưa hỏi về miệng nghiệp của nhân địa. Nếu thân, miệng đã như vậy, thì ý nghiệp phải biết ra sao rồi.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp lập ra hai câu hỏi, có bốn quan điểm. Y cứ từ đầu dẫn đến sau cùng, về sự vì không thiếu sót, nên sau đây sẽ nêu ra sự việc để xem xét Đức Phật không còn như vậy.” “Bạch Đức Thế tôn! Tôn giả Tu-bồ-đề trụ hư không địa” cho đến “Làm cho các chúng sinh khởi tâm ác nặng nề.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Các Thanh văn còn gìn giữ ý nghó mình, huống chi là Phật, Bồ-tát mà khởi việc ác nặng nề ư?” “Phật bảo Ca-diếp: “Nay, ông không nên cho đến, không bao giờ làm nhân duyên phiền não cho chúng sinh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật sẽ chính đáp, trước là mượn ví dụ qua lời lẽ giả thiết, để nói rằng Phật không làm nhân duyên phiền não cho chúng sinh, có hai ý: Trước, nói Phật thật sự không làm. Sau, nói Bồ-tát Ca-diếp không nên nói như vậy. Cây Khư-đà-la khi cháy thành tro rồi, hễ đốt thì cháy suốt sáu ngày mới tắt, chất nó chắc, bén nhọn, rất dễ gây thương tích cho người. “Này người thiện nam! Như ông vừa nói, ngày xưa Như lai” cho đến “Cuối cùng không cướp đi mạng sống của các chúng sinh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong phần chính thức đáp có ba ý. Đây là ý thứ nhất, nêu sáu độ để nói, chính là thí cho thân mạng mình, đâu thể nói là cướp mạng. Đối với con kiến, còn không vô cớ mà giết, huống chi là Bà-la-môn ư? Nêu ra độ đầu, chỉ nói hiện tại có ích. Nêu năm độ sau, để nói về sự lợi ích của hai đời.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây sẽ đáp về quan điểm trước của câu hỏi đầu: Là pháp Bồ-tát đối với một con kiến, còn không cố giết, huống chi là Bà-la-môn, nhưng tự người này nếu không giết, cũng đọa địa ngục. Nay, bậc Thánh vì làm nhân duyên, nên đã làm cho chúng bỏ mê nhanh chóng. Nếu không làm duyên bên ngoài cho chúng thì sẽ sa đọa không có ngày ra khỏi. Cho nên gieo nhân duyên giải thoát, mà chẳng cho là giết. Nhân đó, sự việc sáng tỏ, nói về việc Bồ-tát làm là thường bố thí cho chúng sinh thọ mạng, sao lại hỏi rằng dứt thân mạng của người kia? Tuy nhiên, Bồ-tát đã thí cho chúng sinh sự sông lâu dài, đó là quả Phật. Mạng của pháp tánh vô vi chỉ có vui, không có khổ, há lại cho chúng sinh kia sự sống chết với mạng ba thọ lạc ấy ư? Nên biết rằng lý đó là tất nhiên. “Bấy giờ đã được địa này”, chỉ vì tự tâm từ nên giết, chứ chẳng phải vì tâm ác. Đặt ra một ví dụ để làm rõ: Chính là vì che chở giữ gìn chánh pháp, nên cắt đứt mạng sống người kia, để cho tâm lành của họ được sinh ra! Nhưng Bồ-tát thường sinh tâm này là tùy theo chúng sinh, người sinh ra pháp lành, bất luận tốt xấu, phải vì lợi ích cho họ. Cho nên sau khi qua đời, các Bà-la-môn liền sanh ba niệm: Đã bỏ quả báo thế gian, cảm thọ khổ nặng ở địa ngục, liền biết việc làm của mình là xấu xa, gồm được túc mạng trí, biết mình từ cõi người đến và biết nơi đọa là địa ngục. Tỏ ngộ rằng, do chê bai kinh mà phạm tội rất nặng, đó là lý do gây nên quả báo này. Đã biết tội nghiệp như thế, nên có chí kính tin, cung kính ăn năn, những việc mình đã làm trước kia, thì phá bỏ được nghiệp xưa, sinh lên cõi trời, cõi người. Cho nên biết rằng, sinh niềm tin đối với lý thường, một khi đã học hiểu tới rồi thì chẳng có gì không cảm, tự nhận hiểu rằng: “Đã đọa vào A-tỳ, chịu khổ Vô gián, thì lẽ ra không được sinh ba ý niệm: Một người đã hiểu, không kiêng sợ gì ở cõi này bị ngăn ngại, mới bị đọa vào Vô gián không được thọ vui. Đâu chấp nhận trong sự biết về khổ, đều không được sanh tâm, mà lại có đối tượng để ghi nhớ trong tâm ư? Nên biết lời này không có chướng ngại.” “Này người thiện nam! Trước đây ông đã hỏi: “Giết Bà-la-môn” cho đến “Dứt mạng căn của họ, chẳng phải do tâm ác.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là ý thứ hai, nói được địa này, nên vì ba ý nghó, vì lợi ích nên giết, do đó không có tội.” “Này người thiện nam! Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con” cho đến “Đó là vì muốn cho chúng sinh chừa bỏ tội ác trong dó vãng để tu theo pháp lành.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trực tiếp dùng nghóa sát của tâm từ để làm thí dụ, không dùng ví dụ cùng khắp.” “Ý Bồ-tát thường nghó” rằng cho đến “Tuy từng phương tiện, phải vì đem lại niềm tin và lợi ích cho chúng sinh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ làm sao cho việc có ích, bất luận là thiện hay ác.” “Sau khi Bà-la-môn chết” cho đến “Tuổi thọ đến mười kiếp, làm sao gọi là giết? Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do giết mà bố thí mạng sống, không làm họ khởi phiền não, để chứng thành nghóa của Địa.” “Này người thiện nam! Nếu có người đào đất, cắt cỏ, đốn cây” cho đến “Dù giết hại mạng chúng, mà chẳng có tâm ác.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi: “Không vào địa ngục.” Ở trên nói: “Vì tâm lành mà giết, nên không có tội, giống như cha mẹ vì tâm lành mà giết con, nên được vô tội, cho nên phải nói. Ở đây nói là ta không có tâm ác, đất lại không có tội, nên không đọa địa ngục. Nói về người mắc tội sát, có ba thứ: Một là do tâm mà mắc tội, như người với tâm ác, giết xiển-đề; hai là do địa mà đắc tội, như người có tâm lành, giết người lành; ba là do tâm, địa cùng mắc tội như người có tâm không lành, giết người lành.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Chứng minh không có tâm ác, dù có giết cũng không có tội.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp quan điểm sau của câu hỏi đầu: “Vì không có tâm giết, nên không đọa địa ngục. Vì Bà-la-môn đều là xiển- đề, không có nghóa làm thương tổn ruộng phước, nên biết mắc tội giết, tất nhiên là do người có tâm ác vì làm tổn thương ruộng phước kia.” “Này người thiện nam! Cứ theo giáo pháp Bà-la-môn, nếu giết chết con kiến” cho đến “Thì sẽ phải đọa địa ngục trong vô số ngàn năm!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắp nói về nghóa đắc tội qua việc giết hại Bà-la-môn không có tùng địa. Trước là nêu ra lời ngoại đạo nói: “Có khi giết mà không có tội.” Thuyết này là sai!” “Này người thiện nam! Phật và Bồ-tát biết rằng, giết hại có ba” cho đến “Vì thế, nên dù có giết hại họ, cũng sẽ không đọa địa ngục.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là ở ba, nghóa là tùng địa đắc tội. Nếu không rơi vào ba hạng này thì vì xiển-đề dứt mất gốc lành, nên không có nghóa tùng địa mắc tội.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ý thứ ba, là ý chứng minh lý do giết hại không có tội, rằng trong ba hạng, quyết định nhân giết hại mà có lợi, còn không có tội, huống chi không rơi vào trong ba thứ giết hại mà có tội ư?” “Này người thiện nam! Trước kia ông nói: “Vì sao Như lai” cho đến “Vì Chư Phật, Thế tôn, Ứng, Chánh biến tri biết rõ phương tiện.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây là đáp câu hỏi trong quả có lỗi của miệng, nói vì biết phương tiện, nên đừng nói lời thô, tế để hỏi, chỉ việc gì làm cho chúng sinh có ích thì nói, không có ích thì không nói. Việc này chẳng phải là “Sở tri” của Nhị thừa.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong lời đáp này có ba ý: Đây là ý thứ nhất, trước nói về khéo chiếu soi cơ nghi, hễ động thì có lợi ích.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ hai, nói lý do phát ra lời này, nghóa là vì chủ yếu làm cho vào thời điểm này, pháp này phải có lợi thế thôi! Chư Phật đâu có nói suông?” “Này người thiện nam! Như một hôm, ta đi ngang qua thôn Khoáng dã” cho đến “Nên thị hiện các phương tiện như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ý thứ hai này nói chỉ cần có ích, cho đến chúng sinh phải chịu khổ về thân nghiệp, huống chi lời nói thô ư?” “Này người thiện nam! Bấy giờ, thật ra ta không mắng nhiếc” cho đến “Ông không nên sanh ra lưới hoài nghi như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý thứ ba, là quét sạch dấu vết, nói Đề-bà-đạt-đa chẳng phải là người thật.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi liên quan về sau. Đề-bà- đạt-đa không phải là tình cảm gần gũi mà lường trước được thì làm sao đọa vào địa ngục này ư?” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Cái gọi là rất yêu thương như con một (nhất tử địa). Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ trước đến nay có năm đoạn: Quyết định danh số của bốn vô lượng. Nói về cạn sâu. Nói tâm từ có lợi ích chân thật. Kết quả của ba vô lượng. Thứ năm này, khen ngợi thuyết của Phật nói.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Địa không bình đẳng” như Tu-bồ-đề.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng Tiểu dụ cho chứng Đại. Về lý tất nhiên là bình đẳng.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn thứ tư ở trước đã kết quả của ba vô lượng. Đoạn năm vẫn khen ngợi Phật. Đây là đoạn thứ sáu, kết hiệu quả của tâm xả. Trong đây có tám lớp, nói về nghóa: Thứ nhất là nói vì tu tâm xả nên được địa “Không bình đẳng”, tức khéo biết về “Mười một không”, là quả của tâm xả kia. 2.Nói chẳng phải chỉ có “Thức không”, mà còn có công năng chiếu sâu thế đế, vượt ngoài tám thứ tri kiến giác biết. Đã “Không” có hai “Giải”, nên lớp thứ ba nói được bốn biện tài để lợi ích chúng sinh. Đã là dấu vết có ích, là người chấp ngưng trệ, nghóa là có bốn thứ để được, nên lớp thứ tư nói mười thứ “Không có” khiển chấp. Lớp thứ năm, Bồ-tát Văn-thù nêu bài kệ: “Vốn không nay có”, với ý còn không chấp, không đắm, để chứng minh “Vô trước”. Dù nói vô để dứt hữu mà lại chấp vô, cho là vượt hơn, nên lớp thứ sáu, nói về thuyết trái với “Thường”, trừ bỏ cả hai thứ tai họa kia, cho đến ý chỉ trái với “Thường” còn làm cho đương thời có ích, huống chi là giáo hữu, vô mà chẳng có ích hay sao? Ở đây, vật tình đều mê muộn, không có chỗ để gá tâm. Vì thế, nên lớp thứ bảy nói dù không có “Sở đắc”, nhưng đối với lý thể, cuối cùng nói rằng có được, vì thế, nên nói Bồ-tát được Đệ nhất nghóa. Nói Đệ nhất nghóa tức Niết-bàn. Lớp thứ tám, nêu đã có kiến, nghóa là chứng tỏ có đắc, như Tu-bồ- đề, đây là quán không thứ nhất trong Thanh văn. Đã là có thời gian, còn người và “Sở tri”, nên mượn cái cạn để nói về cái sâu.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn năm, kết thúc xả quả cũng đồng với Sơ địa. Nói về bốn hạnh vô lượng, vốn tương quan nhau, không thể lìa nhau. Nay nói được địa bình đẳng, là ngày lên Sơ địa, được vô lậu chân thật. Vì nhận thấy thể của pháp là “Không” nên lấy “Không, bình đẳng” để đặt tên, sở dó kết riêng là vì muốn cho người ưa thích pháp “Không” này, mà tu hành.” Pháp sư Trí Tú nói: “Sau đây là đoạn hai có ba phần: Hỏi quả ở địa nào? Hỏi “Không” là “Không” nào? Nói được lợi ích. Đây là đáp câu hỏi thứ nhất, chính là giải thích quả của tâm xả. Nói quả này ở tâm, cho nên khéo có thể soi chiếu “Không”, từ sở chiếu mà có tên, nghóa là cái mà địa được là “Không, bình đẳng”? “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến khéo “Tu tập các pháp “Không”.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích nghóa “Không bình đẳng”, để nói về tướng của địa, danh của địa. Ví như hư không, nghóa là giải thích lý do “Không, bình đẳng” là địa: Vì khéo tu các pháp “Không”.” Pháp sư Trí Tú nói: “Nói bổn tánh tự “Không” nên chẳng có đối tượng để thấy, chứ chẳng phải không thể thấy pháp.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Sao gọi là “Không”“ cho đến “Đó gọi là trong, ngoài đều “Không”.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tình bên trong gọi là nội, dùng hai thứ “Quán không”: Trống không lẫn nhau, như trong bò không có ngựa. “Ngã” không có các pháp khác, gọi là “Không”. 2.Đối đãi nhau, gọi là “Không”: Do chẳng có ngoài, nên chẳng có trong. Vì sao? Vì cha mẹ là ngoài, cũng không tự ngoài, vì nhân trong cho nên ngoài. Vì bên trong là không, nên bên ngoài chẳng thật có. Vì ngoài chẳng thật có, nên chẳng có trong, tuổi thọ của chúng sinh, thường lạc, ngã, tịnh. Bảy pháp đều chấp ngang trái cũng gọi là ngoài. Kinh Đại Phẩm chép: “Hai đế không có chúng sinh, mà biết chúng sinh… là chấp ngang trái. Dù có Phật tánh, nhưng vì chấp ngang trái bảy pháp nên có thể vô. Vì Phật tánh không ngang trái, cho nên phải nói. Pháp trong, pháp ngoài là khác nhau. Vì có riêng nên có chung, “Không” cũng đồng với ở trên. Không ở hai “Không”, nghóa là hai “Không” trong, ngoài, chẳng ở “Không” đối đãi nhau. Chỉ nói hai, là trong cái riêng đã “Không”, thì trong cái chung rất dễ hiểu.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Mười một “Không” chính là giáo nhất thời của kinh này. Từ Đại phẩm, các kinh mới có mười tám “Không”. Phải biết rằng, “Không” chẳng có nhiều, ít, vì dứt “Hoặc” có rộng, hẹp, nên giáo môn không đồng. Y theo mười một môn, năm “Không” trước, bài trừ bệnh gia của sáu đế. Trong Bách luận nói: Ngoại đạo chấp có một pháp có chung, kết hợp với tất cả pháp”. Nay, năm “Không” ở trước khiển trách tâm chung của họ: Nói trong nội không có ngoại, trong ngoại không có nội. Hữu vi, vô vi cũng như vậy, đâu có pháp chung để kết hợp với pháp? Vô thỉ thứ sáu, khiển trách chấp của các nhà chủ trương hai mươi lăm đế. Năm “Không” ở trên thì mê quả, còn “Minh đế” ở này là mê nhân. Tình người, nghóa là dứt trừ nhắm vào chấp ngang trái, mới có “Không” sinh. Nay nói không đợi dứt bỏ chấp ngang trái, chỉ thể tánh của pháp kia tự là “Không”. Chẳng có tất cả “Không”, là trước dù nói tánh “Không”, nhưng lấy gì để giải thích ư? Nay dùng trí để xem xét lại, thì thấy đều không có sở hữu, nghiệm xét là “Không”. Đệ nhất nghóa không: Nói về chỗ “Có” sinh ra sự chấp đắm. Trước kia mượn vô để khiển trách hữu. Vô này đối với hữu lý ấy vượt hơn. Đây là khen ngợi thứ nhất để nhận danh. “Không không” là vật, tình sinh chấp, nghóa là bỏ hữu, hội lý “Không”, lý cực ở đây. Chấp lý “Không” này tốt đẹp hơn lại thành bệnh! Nói vốn vì bỏ “Hữu”, nên nói là “Không”, đều có cái không để được ư? “Đại không”: Trước đã bỏ cảnh, nay lại bỏ trí, cảnh trí đều quên, mới là Đại. Vì trong pháp nội không có pháp ngoài, đâu có một cái hữu chung trùm khắp tất cả chỗ? Chưa được thì gọi là tánh, đã được thì gọi là Tam bảo. Chẳng phải trong, chẳng phải ngoại: Vì chúng sinh là hữu vi, Phật tánh vô vi. Vì vô vi, nên nói chẳng phải trong. Vì không lìa chúng sinh mà có tánh, nên nói chẳng phải ngoài. Trong, ngoài “Không”: Tâm của hai “Không” ở trên yếu ớt, nên không thể đều quán. Nay, vì năng lực của tâm đã chuyển biến vượt vượt hơn, nên có thể song quán. Tâm của Bát địa đâu có mạnh, yếu, mà chỉ bày môn “Không” có thứ lớp, chỉ có Phật tánh chẳng ở hai “Không”, nghóa là song quán hai pháp, dù rằng còn sự khác nhau giữa trong ngoài, nhưng “Có” là đồng, mà Như lai Phật Tánh, Tam bảo, đều chẳng phải là pháp “Có”. Vì thế, nên dù song quán nhưng trong ngoài đều không gồm thâu bốn pháp này. Nay, đến khi song quán, chẳng nói là không có cha mẹ, mà chỉ nói không có Tam bảo…, là vì cha mẹ từ đầu đến cuối không lìa trong ngoài, nên không nói lại, mà vì Tam bảo chẳng phải trong ngoài, nên nói như thế.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đoạn sáu, nói trong quả Sơ địa, lại tiến lên tu mười một “Không” cho đến quả Thập địa, cũng như trong hạnh Thánh đã được sơ trụ xong, lại tu hai mươi lăm tam-muội. Về nghóa mười một “Không” này, người hiểu biết khác nhau, có người lầm lẫn với người không có kiến giải, nên cho rằng mười một “Không” này chẳng phải đối tượng quán (sở quán) của Sơ địa. Nay, sẽ giải thích: Mười một “Không” này đều là môn gần, xu hướng về đạo, con đường quan trọng để chứng lý cực quả. Chín “Không” ở trước là chín người, mỗi người đều tự nắm lấy một “Không” để nhập đạo, cho đến chín địa. Vì sao? Vì nói chín “Không” trước kia đã không giải thích về mức độ sâu cạn của Hữu, đến thứ mười, mười một mới nói, nên biết, mỗi người đều tự theo đuổi phương tiện dễ dàng mà người tu tập trước đã ưa thích để bước vào đạo. Nay nói nếu khi được môt “Không” đầu thì các “Không” còn lại, lẽ đương nhiên đều được cả, chỉ vì theo đuổi thói quen là hữu trước kia, là vì đã có bốn “Không” ở trước, lại chứng thành lẫn nhau. Hai “Không” kế tiếp, đem sau để chứng minh trước. Lại, một “Không” đem cái giả để chứng cái thật. Các cái “Không” còn lại, đều đương vị để nói về nghóa. Như khi quán “Không” nội, nếu thấy đều “Không” thì biết ngay quán nội đã thành tựu. Nếu “Không” như vậy, thì sẽ chẳng thành. Quán “Không” nội, nghóa là quán trực tiếp năm ấm của mình là nội. Nếu thấy năm ấm của mình cũng là lúc thấy kẻ oán người, thân đều không, biết “Không” bên trong đã thành, ngoài thường, lạc, ngã thì tài vật đều “Không”. Vì sao? Vì các pháp của đầu quả chẳng phải năm ấm nội, cũng chẳng phải năm ấm ngoài, cho nên phải dứt trừ.” Lại, một cách giải thích khác: “Lúc khởi quán trong, thì bốn pháp như Phật v.v… thì tài vật v.v… đều thuộc về bên ngoài, vì không phải chánh quán “Ngã”. Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, nghóa là tánh chất của chánh nhân là “Kiến giải” tránh khổ, tìm vui, với công dụng tìm kiếm kiến giải này, khi công dụng đã không thì chẳng có. Dù ở trong năm ấm, nhưng năm ấm có thể dứt trừ mà kiến giải này thì không thể mất, sau cùng sẽ thành Phật. Cho nên ghi chép thường dụng từ đầu đến cuối này, không có pháp hưng thịnh, bỏ phế là chánh nhân, nên tạo thành quán trong, ngoài. Trong pháp nội này, vì là chánh quán của “Ngã”, cho nên phải phân biệt. Thường trụ không thay đổi: Chẳng phải thường vắng lặng, mà chỉ vì “Giải” này chẳng hề không có, nên nói là thường. “Không” bên ngoài, là cũng không có như vậy. Pháp nội, là có người quán trực tiếp “Không” bên ngoài, cũng không thấy có. Lúc năm ấm nội khác với pháp ngoài, thì biết được quán bên ngoài đã thành. Ở đây cũng như vậy. Bốn pháp như Phật… và tánh chất của chánh nhân, cũng còn phải phân biệt. “Không” trong và ngoài, là người này là nhà phát ra pháp, nhưng quán trong ngoài chẳng vượt qua trong ngoài, song quán đều “Không”, chẳng có đối tượng chứng thành. Chỉ có Như lai, Pháp, Tăng, Phật tánh đều chẳng ở hai “Không” trong ngoài, nghóa là lại phân biệt xuất ly, vốn quán hai pháp trong và ngoài sinh tử. Tam bảo… không phải là pháp sinh tử, nên phân biệt. Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là đáp câu hỏi thứ hai, nêu tên “Không”, đều giải thích về pháp quán. Trước nêu danh từ “Không”, “Không” có mười một, là phương pháp giáo hóa ở một phương, tìm không vô có mười một “Duyên” khiến cho chúng sinh bị bệnh vì theo đuổi pháp là riêng nên có mười một! Kế là, giải thích về pháp quán. Do người ngoại đạo chấp có một “Ngã” lớn khắp tất cả chỗ, với phần “Hữu” là “Một”. Dùng năm “Không” ban đầu để lẫn về lý “Vô”. Nói về các pháp trong ngoài không được “Hữu” lẫn nhau, vì đả phá chúng sinh chấp pháp quán trong đầu , tức là thân mình. Xét tìm thân này không có các pháp ngoài, cho rằng trong là “Không”, lại trừ Phật tánh, là “Duyên” Phật tánh, dù lệ thuộc chúng sinh, nhưng vì chẳng nhất định ở trong, ở ngoài, nên tùy thích nghi mà dứt trừ. Quán pháp trong: “Chẳng có mạng sống lâu, nghóa là không có mạng chúng sinh bên ngoài.” Quán Hữu vi “Không” rằng: không có tuổi thọ, tức là đương quả thường trụ mạng. Quán vô vi không rằng vô ngã: Đây là nắm lấy thể của pháp năm ấm hữu vi không có năng lực tự tại, gọi là vô “Ngã”, chẳng phải là vô ngã của Đệ nhất nghóa “Không”. Quán vô thỉ “Không”, nhằm phá tan chấp tám muôn kiếp trở đi của người ngoại đạo, là điều mà họ không biết, rồi gọi là Minh đế và cho là thường. Nay quán sát trong đây các pháp, thường lưu động vô thường. Đây chính là đả phá lối chấp thường của ngoại đạo. Cho nên các câu, như lạc, tịnh… theo nhau đều quán sát.” Trong đây nói thọ mạng là mạng thường của đương quả. Quán tánh không, đây là phá chấp muôn pháp đều có bệnh “Tánh”. Quán vô sở hữu “Không”, đây là phá chấp có pháp Vô vi, là chứng bệnh của người mắc phải sợi dây trói chặt. Tìm kiếm muôn hữu không có, giả cho là không. Tự có chúng sinh tiềm kiếm danh, rồi chấp giả dối. Nghe nói pháp “Không” rồi cho là có pháp “Không” này. Đoạn thứ mười, kế là quán “Không”, “Không” đả phá chứng bệnh này của chúng sinh ra là “Hữu”, là đối tượng chấp “Không”. “Không này là nói “Không” này là “Vô”, đã nghe “Không” đối với “Không” này, lại cho rằng quán này là “Đúng”. Kế là lại đả phá “Đúng”, nói “Đúng”. “Đúng” nghóa là vượt ngoài chẳng đúng là nói “Chỗ đúng” cũng “Vô”. Đoạn chín là Đệ nhất nghóa không, quán trí năng quán này lý chánh quán vô sinh. Đoạn thứ mười một là “Đại không” này, thể chẳng thật có. Hai “Không” này đều là lý vô sinh. ngoài ra chín “Không” đều tùy theo việc mà phá bệnh, nên nói chẳng phải lý vô sinh.” “Này người thiện nam! “Không” hữu vi, nghóa là pháp hữu vi” cho đến “Đây gọi là Bồ-tát quán “Không” vô vi”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh diệt là hữu vi, chẳng có sinh diệt là vô vi. Nay, nói “Không”. Trong “Có” nghóa là “Không có”, đồng với trong ngoài.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Cũng “Không” lẫn nhau. Hữu vi là pháp do duyên thành, cái có thể gọi vô là vô không. Nói “Không” trong ngoài,… nêu các pháp này là “Không”, nói về pháp hữu vi là giả hữu, vô các pháp này. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Pháp hữu vi cũng không là Tam bảo…, là pháp vô vi. Nếu quán pháp hữu vi là “Không” thì sẽ chẳng thấy sự khác nhau với vô vi, mới biết được quán hữu vi đã thành. Nêu pháp vô vi để chứng thành. “Không” vô vi, là có một người phát đầu tiên, bèn quán ba quán vô vi, nghóa là quán Niết-bàn hữu dư, tạo ra các duyên vô Quán Niết-bàn vô dư, tạo ra phi số duyên diệt vô vi. Quán như thế sẽ không thấy hữu vi khác với vô vi. Hữu vi cũng không, mới là quán vô vi thành. Thế nên nêu vô vi để chứng thành cũng phân biệt các pháp như Tam bảo… khác với hữu vi, vô vi. Nếu khiến cho thần minh không có căn bản tốt đẹp này thì vì sao đến lúc vô vi “Không” lại chọn tánh chánh nhân ư?” “Đại Bồ-tát quán thế nào về “Không” vô thỉ?” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát quán “Không vô thỉ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngoại đạo cho rằng hữu vi, vô vi đều là vô thỉ, nên gọi “Vô thỉ không”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Khiển trách chấp Chân đế. Trong Phật pháp nói đều do, các hành vô minh tạo ra khổ sinh tử, đâu có minh đế nào là điểm bắt đầu? Nay, dùng tâm giải soi sáng, biết được vô thỉ nên nói chấp đó của ngoại đạo là trống không” cho đến “đây gọi là Đại Bồ- tát quán tánh không.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp từ “Duyên” mà được. Vì không có tánh nên gọi là không. Hữu vi từ duyên mà được, vô duyên từ duyên mà thấy, đều không có tánh.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở đây nói thể tánh các pháp là “Không”, đâu cần phải bỏ bệnh ư? Cho nên nêu thường, vô thường, cả hai đều có, vì vô thường là không, nên không nói, nay nói về thường mới đối lại với Thế đế là “Diệu hữu”. Nhưng pháp này đã sinh ra từ sự đối đãi nhau, vì đối đãi là giả, cho nên tướng và “Không”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tánh của không vô thỉ là không, đều do dứt chấp mà đặt tên. Bồ-tát quán muôn pháp xưa nay vô thỉ, cho đến sinh tử và Tâm bảo, Phật tánh đều không, đây là dùng cái sau để chứng cái trước. Vô tánh cũng giống như vậy, đâu có minh sơ, thế tánh ư?” “Đại Bồ-tát làm thế nào?” cho đến “Đại Bồ-tát quán không vô sở hữu?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không này vốn là nói theo con người.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là dùng trí để xét về Không, chẳng lấy không có con để thí dụ, mà lấy người nghèo cùng để nói tất cả rỗng không làm thí dụ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là quán không theo Tập quán, chẳng có gì để chứng thành. Nhận thấy trực tiếp thể tánh của tất cả muôn pháp đều không, tức là điều mà trong kinh Đại phẩm đã nói.” “Đại Bồ-tát?” cho đến “Đó gọi là Đại Bồ-tát quán Đệ nhất nghóa không.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hiện tại không có mắt, là hữu vi Không.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu hai pháp giả danh và thật pháp là không. Mắt… là không. Mắt… là tác giả thật, có nghiệp là giả danh. Hai nhà này vô sinh, là vì tốt đẹp hơn đối với pháp hữu vi, nên thọ lãnh Đệ nhất nghóa! Không là chẳng có giả thật, chỉ là dựa vào giả thật để nói về không!” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là không của pháp thật, nói thế là sao? Vì không có từ đâu đến và đi về đâu, nên biết được pháp thật là không. Sở dó nêu tác giả là vì cái không giả danh, để chứng thật pháp Không thành. Nếu không thấy sự khác nhau giữa giả thật thì biết rằng thật pháp không thành. Đại Bồ-tát quán sát “Không không” như thế nào?” cho đến “Đây gọi là Đại Bồ-tát quán sát “Không không”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Là có là không, đó gọi là Không Không, nghóa là hữu không này cũng không, cái vô không này cũng không, vì cái không sau không cái không trước, nên lập ra không không, nhằm phá tan sự tồn tại của người chấp tướng, là thị phi thị, đó gọi là không không. Nghóa là hai không đều gọi cả hai câu trên. Kế là song phi, kế là câu kết. Vì sao? Vì muốn bỏ cái không sau, không được không có cái vốn là không, nên cả hai đều phi, sau đó là câu kết.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Chín “Không” là bỏ “Hữu”, chỉ có “Không” này. Tâm người sinh chấp đắm, cho rằng có cái “Không” này, là vì thật có cho, nên bỏ. Là hữu là vô, nghóa là chín “Không” ở trước của ông, cái vô bị bỏ cũng chẳng có cái vô này. Vì bỏ hữu, nên nói là vô, há có cái vô để đợi ư? Tức là hữu hay vô cái không này nên nói là không không.” Là phải, chẳng phải đây gọi là không không, nghóa là tìm chúng sinh lần lượt sinh ra tai hại, trong sự dứt bỏ chấp đắm, xoay vần sinh ra tai họa ý nói trước đây đã lấy không để bỏ hữu. Đây là vì đối nhau mà đặt tên, nên không thật có. Nay, nói hai chấp đều bỏ, tâm này là hơn, muốn bảo thủ tâm xả này thì lại bị tai hại! Là đúng, chỉ cho ý chỉ trong vòng. Nếu cho rằng, ý chỉ này là cùng cực thì cũng không có ý chỉ này, đây tức là lý và tâm đều không thật có, nghóa là “Không không”.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đối tượng chứng đắc của Địa Pháp Vân, “Không không” có hai thứ. Như xưa người Tiểu thừa đã quán muôn hữu là “Không”. Vì ái chấp đắm “Không” này, nên mới nói không này tức là không, cũng gọi là không không. Lại, có một thứ quán muôn hữu là “Một không”. Trí quán không này lại tức thể là không, đây cũng là “Không không”. Nay nói “Không”, đều khác với hai thứ “Không không” nói trên. Vì sao? Vì từ Cửu địa trở xuống cho đến tín đứng đầu năm căn, chẳng phải không có tướng mạo. Tin biết tám tự tại “Ngã” không, chỉ cho Cửu địa về sau, đều lập ra quán vô ngã này, về sau đến Thập địa, thấy phần ít tám tự tại “Ngã” không. Vì nhờ “Không” mà được “Không”, nên nói là “Không không”, cũng tức là tam-muội không. Đây chính là chỗ người Nhị thừa mê muội, chìm mất! Khen ngợi lý “Không” nhiệm mầu này, chẳng phải là đối tượng duyên của tâm mình! Là hữu là vô: Là tên của hai pháp. Là hữu nghóa là Cửu địa trở xuống đã được “Không” vô ngã. “Không” vô ngã này do dứt bỏ “Không” . Lại “Không” này đã là pháp của “Sự tượng”, nên lại tạo ra thuyết có danh. Là vô, là tám tự tại ngã “Không” này. Lúc được “Không” này, tâm hữu, vô đều không hiện hành. Nếu tạo ra có lấy cũng không được, tác động không có lấy cũng không được. Hai tâm hữu, vô đã được hoạt động, tức là vì hiểu Trung đạo, nên nói là vô, là tên của hai pháp đã xong. Sau kết thúc gọi là “Không không”. Là phải, nghóa là hiểu, lãnh hội ý chỉ này, nghóa là ý bình định. Lại là vô ngã mà Cửu địa ở trước đã chứng được, là “Không” của “sự tượng”. “Sự tượng” là pháp hữu, nên nói là đúng. Là chẳng phải, nghóa là lại chẳng phải là người của Cửu địa, nghóa là Cửu địa trở xuống đã được “giải không” là cùng cực. Nay, thì chẳng phải cùng cực. Nếu nhờ “Không” vô ngã, được “Ngã không” của tám tự tại thì sẽ được nói chẳng phải hướng, nghóa là không mà Cửu địa đã được, nên nói là chẳng phải. Vì thế nên văn nói: “Thập trụ vẫn còn thông đạt phần ít trong đây, huống chi là Cửu địa trở xuống mà được ư? Không lập ra kiến giải này, tức là không lãnh hội được ý chỉ của văn kinh.” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát làm thế nào?” cho đến “Thì sẽ được trụ trong địa “Hư không đẳng”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì với tất cả hữu đều không, nên gọi là Bát-nhã, cũng vì không tất cả tướng, nên gọi là Đại không.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghóa là thể của trí cũng “không”, hai ví dụ ở dưới đều làm đẹp cho kiến giải bình đẳng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thập địa đầy đủ, chính là Kim Cương. Tâm Kim Cương soi rọi hết muôn pháp, gọi là Học địa. Nhất thiết chủng trí đủ năm nhãn của Phật, gọi là Bát-nhã ba-la-mật, trí tuệ đầy đủ”.  Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương. <卷>QUYỂN 39 <詞>Phẩm 20: PHẠM HẠNH (Phần 4) Giải thích rộng tám thứ giác trí kiến. Giải thích rộng bốn vô ngại. Nói rộng nghóa “Vô sở đắc”. Nói rộng về ý nghóa thần thông ứng hóa, không câu chấp. Giải thích rộng về trái với pháp thường nói, nghóa là chân đế nói là thế đế. Nói rộng về sự khác nhau giữa nội đạo và ngoại đạo. “Này người thiện nam! Nay, Như lai ở trong đại chúng” cho đến “Còn được gọi là Địa vị hư không đẳng”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chẳng bị hữu ràng buộc, chẳng bị Không làm mê muội. Giải thoát “Không”, “Hữu” để giải thích địa danh. Sau đây, sẽ dùng hai thí dụ, để giải thích công năng: Vì bất sinh tham, giận. Thường bao dung chúng sinh. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đoạn bảy, nói về công dụng lớn của mười một thứ “Không”. Đã được tâm Kim Cương, nhận thấy rõ ràng tất cả muôn pháp, tức là tùy ý vận dụng đối với duyên, không còn câu chấp, trệ ngại nữa, là lời khen thứ nhất. Sau, từ “Kệ xưa có nay không” trở đi, cho đến cuối cùng sáu niệm xứ lại rộng, là lời khen thứ hai. Như hư không đối với các thứ sắc đáng ưa thích không cảm thấy tham đắm, đối với sắc không đáng ưa thích, cũng không nổi cơn giận dữ, nói lúc trụ trong tâm Kim Cương, không thấy tướng khác đáng ưa thích, chỉ có một tướng, vô tướng trở xuống, mười vô tận lại rộng. Lời khen thứ ba: “Như hư không rộng lớn chẳng có đối đãi, có khả năng dung nạp tất cả vật. Ví dụ được tâm Kim Cương, như hư không. Đủ tất cả tri kiến, chẳng có pháp nào không cùng khắp. Sau đây, sẽ dùng tám thứ tri kiến để giải thích rộng về nghóa này”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì đầy đủ song chiếu không, hữu nói trên nên được lợi ích của bốn biện tài để hóa độ chúng sinh. Theo đây, có sáu lớp giải thích: Nói chung tất cả pháp hữu vô ngại. Y cứ khắp trên công hạnh của ba thừa, để nói về pháp vô ngại. Nói được bốn vô ngại, không chấp đắm. Nói về khả năng thọ trì. Suy tìm nhân. Đoạt sở đắc của người Nhị thừa, để làm rõ công hạnh đầy đủ của Bồ-tát. Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là phần ba, nêu người nghe pháp được lợi. Trên đã nói về thực hành tâm xả được trí, biết về vô pháp. Ở đây, kế là, là nói không phải trực tiếp nhận biết về vô, mà cũng có thể hữu, vô song chiếu”. “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Các pháp như vậy, tất cả đều thấy biết”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là nói tám thứ tri kiến, vượt ngoài việc dung nạp, đây là việc thứ nhất: Hoặc hành, hoặc “Duyên”…, nói chung tất cả pháp, bên trong gọi là tánh, bên ngoài gọi là tướng. Mạnh mẽ gọi là nhân, yếu kém gọi là duyên.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây, là nói rộng về ví dụ thứ ba. Tám thứ tri kiến, nói về tự tu hành. Bốn vô ngại ở dưới, nói về hóa độ người ngoài: Tri kiến trong nhân quả chung thứ nhất như hành là hạnh sinh diệt khởi động. Hoặc “Duyên” là từ “Duyên” mà có, nghóa là sự giúp đỡ bên cạnh. Tánh là bên trong, tướng là bên ngoài. Sức mạnh là nhân, gần xa là Duyên. Biết tâm thiện ác của chúng sinh khởi động trong sát- na. Hoặc căn: Căn cơ nhạy bén, chậm lụt. Hoặc thiền định: biết chúng sinh được định sâu cạn. Hoặc thừa: là Đại thừa, Tiểu thừa. Hoặc Thiện tri thức khác: Biết duyên bên ngoài. Hoặc giữ giới: Hiểu suốt việc dứt ác. Hoặc Sở thí: khéo biết quên tướng. Tất cả tri kiến như vậy, nghóa là tổng kết sự thấy biết đối với nhân quả. Biết được pháp mà ngoại đạo đã thực hành, không thấy được quả tốt. Thấy pháp mà ngoại đạo thực hành, bị quả báo ba đường. Biết sửa đổi việc ác, hướng về điều lành, chắc chắn sẽ được quả thanh tịnh, giải thoát. Thấy thường, vô thường. Thấy biết thuận dòng, ngược dòng. Thấy biết chuyển biến chướng ngại. Thấy biết Phật tánh. Thấy biết hai Đế.” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Được chánh giải thoát, đó gọi là không thấy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ hai cạn cợt gọi là biết, đồng biết với việc thứ tám. Nhân tà, không được quả chánh. Từ đầu tiên” cho đến “Trên phân bò”. Là nói về khổ của bốn oai nghi. Áo thô, áo gai, đến nước cám, nước sôi, là nói về áo cơm, cam chịu khổ sở. Dưới đây sẽ nói về khổ của hành nghiệp.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai, biết pháp mà ngoại đạo thực hành, không thấy họ được quả lành.” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Nhập chánh giải thoát, đó gọi là biết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai, thấy nhân tà kiến, tất nhiên sẽ mắc phải quả khổ. Biết ra khỏi khổ, sẽ được giải thoát. Vì sao? Vì người này dù thực hành tà đạo, nhưng tâm tình chán khổ tột độ. Do tâm chán khổ này mà thoát khỏi khổ, cần phải chánh giải thích đúng. Quả tà dễ biết, gọi là thấy giải thoát, việc xa gọi là biết.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba, thấy pháp mà ngoại đạo đã thực hành, được quả của ba đường. Nếu họ biết bỏ ác làm lành, sẽ được quả thanh tịnh giải thoát.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Đều có Phật tánh, đó gọi là biết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ tư là hợp quán thường và vô thường… . Đầu tiên, chung dễ biết, gọi là thấy. Sau là riêng khó thấy, gọi là biết.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tư là thấy thường, vô thường.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Từ sáng vào sáng, đó gọi là thấy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ năm, biết ngược theo các dòng, vì ngược khó biết, gọi là biết. Vì theo cái dễ hiểu, nên gọi là thấy. Từ “Tín” cho đến “Thị”, gọi là biết. Nói phàm phu trong dòng nước chảy ngược, nội phàm phu dứt ngoại gọi là ngược, chưa dứt nội gọi là theo.” Dưới đây, là người từ sáng đi vào sáng, là nói ba đường là bóng tối, phàm phu ngoại này đều xuôi theo dòng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ năm là thấy biết ngược dòng, thuận dòng.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Chịu quả báo ở địa ngục, đó gọi là thấy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ sáu, biết chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ thành nặng. Nếu chuyển nặng thành nhẹ, nghóa là vì hướng đến giải thoát, nên gọi là biết. Chuyển nhẹ thành nặng, vì nhắm vào sinh tử, nên gọi là thấy.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ sáu là thấy biết chướng chuyển biến.” “Lại có biết mà không thấy” cho đến “Cũng như đêm tối thấy vật không rõ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ bảy là biết Phật tánh, vì nói về thấy biết và cả Như lai, chẳng phải như các trường hợp kia.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ bảy là thấy biết Phật tánh.” Lại có vừa thấy, vừa biết, đó là Chư Phật Như lai” cho đến “Tức là sở tri của năm nhãn của Như lai.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ tám là biết hai đế. Cho nên lại nói chân tục, là vì đầu tiên nói là tướng của địa không thấy các pháp. Về sau, nói là công năng của địa, thì không có pháp nào thấy biết, e rằng người nghe sẽ sinh hoặc hữu vô nên phải nói chân tục để hội thông. Vì chân đế không có tướng, nên chẳng thấy, chẳng biết. Chẳng phải cho rằng việc bị che giấu nên không thấy, khác với nghóa “Cũng chẳng ”, biết đối tượng huệ thí. Ở trên nói rằng chân đế vô tướng, nên không thấy, không giống như tục đế, chắc chắn có tướng để thấy. Lại nói tục đế biết thọ, là ba việc giả nói, gọi là không thấy, không có tướng cố định để thấy. Trên đã nói thấy, đều nói biết là thấy.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tám là thấy biết hai đế.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Biết được như vậy, thì sẽ được những lợi ích gì?” Xét: Pháp sư Tăng Lương nói: “Lợi ích ngoài bốn đẳng là nghóa. Nay, nói xả quả không bình đẳng địa, tám thứ thấy biết đối với bốn đẳng sẽ có lợi ích gì ư?” “Phật nói: “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Từ vô ngại, nhạo thuyết vô ngại.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lợi ích ngoài từ là lợi, bốn vô ngại là lợi về từ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là nói về công hạnh hóa độ người ngoài. Gồm có năm lượt giải thích, cũng tức là tám thứ thấy biết, chỉ vì tự tu hành và hóa độ người là khác. Ở đây, trước nêu tên bốn vô ngại.” “Pháp Vô ngại là Đại Bồ-tát biết tất cả pháp” cho đến “Tức được bốn trí vô ngại như thế!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Biết chung gọi là Thật, gọi là pháp vô ngại. Tùy tên gọi mà giải thích nghóa, gọi là nghóa vô ngại. Nói danh, nói nghóa, gọi là từ vô ngại. Nói không thể biết, là nhạo thuyết vô ngại.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ nhất là pháp, là biết giới hạn của pháp. Nghóa là lý do của lời nói một cách thông suốt. Nhạo thuyết nghóa là dùng tâm không biếng nhác nói pháp bảo chúng sinh nghe. Tùy từng chữ mà biện luận, nghóa là bậc Thánh vì pháp lập ra danh tự, muốn giúp cho chúng sinh biết phân biệt thiện, ác, bỏ ác, làm lành. Chánh âm luận, nghóa là tùy theo chủng loại, phong tục của địa phương đều được giải thoát, đều được chân chánh. Xiển-đà luận là Đại Tập Luận. Thế Biện Luận, là lối biện luận rất nhạy bén trong thế đế.” “Này người thiện nam! Pháp vô ngại là” cho đến “Các thuyết khác nhau, không thể cùng tận.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát biết pháp, vốn vì độ người, người không ngoài ba thừa, do biết pháp ba thừa là pháp vô ngại. Biết ba cuối cùng quy về một, là nghóa vô ngại. Một giới, định, tuệ tạo ra nhiều tên gọi, là từ vô ngại, cũng đồng với nghóa nhạo thuyết.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói pháp Ba thừa là pháp vô ngại, biết lý quy một là nghóa vô ngại. Trên một pháp đặt ra các tên gọi là từ vô ngại. Nói pháp không biết mệt mỏi là nhạo thuyết vô ngại.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Pháp vô ngại là” cho đến “Nếu chấp chấp đắm thì không gọi là Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên dù lại nói, nhưng vẫn chưa nói về không chấp đắm. Nay nói không có chấp đắm, để trở thành nghóa vô ngại.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ ba, lấy quên tướng làm tông.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật” cho đến “Nói là biết pháp mà không chấp đắm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghóa chỉ chưa rõ rệt, nên phải kích phát. Nói không chấp lấy tướng khác thì không biết khác. Không biết tướng khác thì sẽ không biết pháp.” “Phật nói: “Này người thiện nam! Nói về người chấp đắm” cho đến “Tất cả phàm phu đều không có bốn vô ngại.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói vô ngại là do ra khỏi sinh tử làm tên gọi. Cái tên chấp đắm, không ra khỏi sinh tử. Sau đây, sẽ nêu ra việc để làm chứng. Ở đây trước chứng minh chấp đắm chẳng phải vô ngại.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý thưa hỏi của Bồ-tát Ca-diếp: “Đã nói rằng được Bốn vô ngại, sao lại còn chấp đắm ư?” nay, Đức Phật đáp: “Tâm chấp đắm vốn là sự trói buộc của “Hoặc”, tất nhiên, không gọi là vô ngại. Bồ-tát tâm sau, tướng chấp đã dứt hẳn, nên gọi không đắm. Này người thiện nam! Đại Bồ tát cho đến đại Bồ tát mà không hề đắm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh không chấp đắm, sẽ được bốn vô ngại.” “Này người thiện nam! Pháp vô ngại cho đến “Mà không thể hết. Đó gọi là nhạo thuyết vô ngại.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ tư giải thích về điểm khác nhau giữa bốn sự pháp, nghóa vô ngại. Nói rộng một nghóa, tất nhiên là không có nghóa: Như Bồ-tát Địa Trì Sơn có nói: “Không có đất, không có núi, cũng không có cái gì để giữ gìn. Cảnh giới của Chư Phật, là biết không có đất, không có núi, là tướng của vô vi. Cảnh giới của phàm phu là đắm danh, cầu tướng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ tư, được sáu Pháp này giữ mãi không quên, dùng không quên để giải thích.” “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Nói thế luận cho nghe, nên được nhạo thuyết vô ngại.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ năm, là lấy Thế đế làm pháp lấy Đệ nhất nghóa làm nghóa Pháp sư Bảo Lượng nói: Thứ năm là lấy thế đế làm pháp vô ngại, lấy đệ nhất nghóa đế làm nghóa vô ngại vì người Tiểu thừa nên đặt ra thuyết này. Nếu y theo kinh Thập Địa, thì Đệ nhất nghóa là pháp vô ngại, Thế đế là nghóa vô ngại. Đây là nói cho người Đại thừa. “Không” là một loại pháp dễ biết, nên gọi là pháp vô ngại. Thế đế thì hư cấu, giới hạn khó biết, gọi là Nghóa vô ngại.” “Này người thiện nam! Nếu Thanh văn, Duyên giác có được bốn vô ngại này” cho đến “Thanh văn, Duyên giác thật sự không có.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì người Nhị thừa không có nhân, cho nên vô ngại.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước nói được, nay nói mất.” “Vì sao Đại Bồ-tát” cho đến “Vì sao Phật im lặng không nói?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về độ người ra khỏi khổ, phải do nói pháp. Nếu chỉ dùng thần thông để chứng thì sẽ không có bốn vô ngại để chứng.” Duyên giác không thể nói pháp độ người cho đến tất cả không có bốn trí vô ngại. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Chứng riêng cho nên vô. “Thế nào là hàng Thanh văn không có bốn vô ngại” cho đến “Vì không có ba phương tiện này, nên không có bốn vô ngại.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thanh văn nghe Phật nói pháp, có khả năng nói pháp độ người. Cũng biết Phật tánh thường trụ, nhưng vì không có phương tiện khéo, nên không phải vô ngại trong bốn việc.” “Hàng Thanh văn, Duyên giác không thể rốt ráo” cho đến “Vì thế nên người Nhị thừa không có bốn vô ngại.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xưa riêng, nay nói chung. Vì không biết căn cơ chúng sinh, nên Thế đế ngờ vực, không biết khéo nói Đệ nhất nghóa “Không” nên chẳng có bốn vô ngại.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Nếu nói là đầy đủ bốn vô ngại thì không có việc đó!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thanh văn như bốn con sông. Bồ- tát như ao A-nậu-đạt, Phật như biển cả. Hoặc có người được một, nghóa là phàm phu này nói được bốn, không cần một người có đủ bốn.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Sao lại nói Bồ-tát mà có sở đắc?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trụ trong địa vị hư không vô đắc, được tám thứ tri kiến, bốn vô ngại. Chúng sinh khởi chấp, nay nhằm quét sạch phiền não trói buộc, bưng bít của chúng sinh nên Phật dùng mười vô để dứt trừ.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây sẽ giải thích về mười vô, nói rộng về ví dụ thứ hai ở trên, để nói tâm Bồ-tát không còn hữu vô. Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là nói xong sáu niệm, tình mê mờ, chấp giả dối, để chuyển biến theo duyên. Đã nghe nói vô, lại cho rằng không bao giờ có sở đắc, nên kế sẽ dùng đoạn văn này để nói rõ có sở đắc, làm sinh khởi lòng tin. Văn có sáu phần: Xin Phật giải thích bài kệ “Xưa có nay không có”. Đức Phật nói cho nghe thuyết trái với thường. Chính là nói nghóa có sở đắc. Nói thấy tướng rõ ràng. Nói kệ khen ngợi Phật và kinh giáo. Xin Phật giải thích sự đồng khác giữa thế gian và xuất thế gian.” “Phật nói: Này “Người thiện nam! Lành thay! Lành thay!” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về bốn vô ngại, lấy giả để đặt tên, thật ra thì không được nói, dù có khác nhau mà nghóa không trái với mục đích của địa.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ nhất, còn có cái được là bốn điên đảo, không có sở đắc là vô ngại.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Gồm có mười cặp đối nhau. Đây là cặp thứ nhất: Có trái ngược và không trái ngược đối nhau.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ hai nói về ánh sáng và bóng tối đối lập nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tuệ và Vô minh đối lập nhau.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ ba là nhân và quả đối nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì sinh tử và Niết-bàn đối nhau.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là vô sở đắc.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ tư là hành tướng trong nhân đối lập nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì Bồ-tát thừa và Nhị thừa đối nhau.” “Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ năm là giáo đối nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phương Đẳng và Tiểu thừa đối lập nhau.” “Này người thiện nam! Vô sở hữu” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ sáu là định và loạn đối lập nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: ““Không tam-muội” và vòng sinh tử.” “Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ bảy là lý thường và vô thường đối nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đồng với cách giải thích này.” “Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ tám là “Giải” và “Hoặc” đối nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: Vì đệ nhất nghóa và năm kiến đối nhau. “Này người thiện nam! Vô sở đắc” cho đến “Thế nên Bồ-tát được gọi là Vô sở đắc.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ chín là nhân quả và người đối nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đức Phật và Đại thừa đối nhau.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Lời ông hỏi cũng vô sở đắc” cho đến “Là quyến thuộc của ma, chẳng phải đệ tử ta.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cặp thứ mười là bỏ, hỏi về bỏ, đáp đối nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Là đồng.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Lìa quyến thuộc của ma, là đệ tử Phật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói rộng về nghóa vô đắc. Sở dó bảo cho biết là vì “Không” đứng đầu muôn hạnh.” “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Bạch Đức Thế tôn! Nghóa này như thế nào?” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là đoạn năm. Trước kia, dùng mười vô để dứt chấp, giúp cho sự bưng bít tâm của phàm phu được giảm bớt phần nào, nay lại muốn dẫn chứng.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là xong sáu niệm xứ, là giải thích rộng về ví dụ thứ nhất trên. Lối chấp của vật tình vốn giúp cho “Hoặc” ở trong tâm. Cho nên chỗ nào cũng bị ngăn ngại, chẳng thể hóa độ vô cùng. Nay nói về Bồ-tát Thập địa, với tâm Kim cương viên mãn và vì phiền não đã dứt hẳn cho nên ẩn, hiển vô phương, trăm biến hóa tự tại, nên nói không có đối tượng câu chấp. Nay, Bồ-tát Ca-diếp với ý hỏi rằng: “Nếu quả Phật đã không có câu chấp thì sao ở trên nói bài kệ “Xưa có nay không”, chỉ vì Thuần-đà, không vì khắp đại chúng? Được biết Như lai vẫn chưa tránh khỏi chấp câu nệ?” Phật nói: “Này người thiện nam! Ta vì hóa độ” cho đến “Văn-thù- sư-lợi liền được hiểu rõ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý Phật đáp rằng nói pháp cùng tận. Sau đây, trước nói rộng về nghóa “Xưa có nay không”, sau Đức Phật sẽ đáp riêng câu hỏi.” Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Như Văn- thù-sư-lợi” cho đến “Là vô thường thì không có việc đó!” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói Phật vì chúng sinh chấp đắm nên nói tên của địa vô sở đắc. Không chấp đắm: là nói địa gọi là có sở đắc Văn-thù hiểu rõ, nghóa là ở trên Bồ-tát Văn-thù sắp hỏi Phật về nghóa khác nhau, không khác nhau, vừa nghe xong kệ này thì hiểu ngay!” “Này người thiện nam!” Như lai khắp vì các chúng sanh cho đến “Dù thấy các pháp, mà vẫn nói là không thấy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây chính là đáp câu hỏi. Như trong Tỳ-ni nói: “Vì tùy theo thế tục nên hỏi.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đoạn sáu, từ lúc đầu, nói “Mười một không”, người nghe nói vô, tâm không có chỗ nương gá, nên nói lại tám thứ thấy biết và lợi của bốn vô ngại. Đã nghe nói hữu, lại còn bỏ vô nên, chấp chặt lấy cái hữu. Vì dứt bỏ sự trệ ngại này, nên lại nói mười thứ vô, lại rửa sạch tình chấp. Chúng đương Thời nghe nói không “Hữu” nói lẫn nhau, nên chẳng biết phải theo bên nào? Đức Như lai quở, phải dừng tâm mình lại, cần phải tìm kiếm, mong cầu ý trong giáo. Như lai giảng nói đều đem lại lợi ích cho chúng sinh. Nói trái với lý thường còn vì lợi ích cho đương thời, huống chi hai thuyết “Không” “Hữu” mà lại sinh ra chấp chặt ư? Nói hữu vi để khéo biết về thế đế. Nói vô vi là để nói các pháp đều không ở đây. Ở đây là hữu chẳng trái với vô, vô chẳng trái với hữu, đâu được trái với lời nói hữu, không có để rồi thêm chấp kia ư? Dù biết các pháp nói là không biết, nghóa là nếu y theo cái học của ngoại đạo, thì thấy cũng như thế!” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là đáp riêng về không có tướng câu chấp: đã nói là biết rồi lại nói không biết, đây là nói trái với lý thường, là nói Như lai trụ trong địa “Không bình đẳng” để nói tất cả pháp một cách tự tại, tùy ý. Nếu vậy, sao ông lại hỏi rằng: “Phật có câu chấp hay không?” “Dù biết các pháp mà nói là không biết”, nghóa là dù biết thường trụ mà nói rằng vô thường. Dù thấy mà nói là không thấy, nghóa là Đức Phật nói thấy chân thường mà nói là không thấy.” “Pháp có tướng nói là vô tướng, pháp vô tướng nói là có tướng.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Pháp có tướng nói là vô tướng: thật ra tự nó không diệt, nói là đoạn diệt. Pháp vô tướng, nói là có tướng, nghóa là Đức Phật thật sự dứt tướng, mà nói là Bồ-tát giáng sinh trong cung vua.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tầng trời Ba mươi ba thật sự là sinh tử mà nói là thường, ngã, lạc, tịnh. Ở đây nói có tướng mà cho là vô tướng, vô tướng mà cho là có tướng, nghóa là nói Niết-bàn là khổ, vô thường.” “Thật ra có vô thường mà nói là có Thường” cho đến “Ngã, lạc, tịnh… cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Như A-la-hán ở vị lai có tướng sinh tử, mà nói là “Vô”. Thật không có tướng rốt ráo mà nói là “Có”.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Thật có vô thường, nghóa là tầng trời Ba Mươi ba nói là thường. Thật sự có thường, nghóa là nói giáo nghiêng lệch lạm quá Phật địa.” “Pháp của ba thừa nói là Nhất thừa. Pháp nhất thừa, tùy cơ nghi nói ba.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ba nói là một, nghóa là đã phá “Hoặc” khác với ba, nói giáo đồng quy. Một nói ba, nghóa là phương tiện của ngày xưa là giáo phương tiện tùy nghi.” “Tướng lược nói thành tướng rộng, tướng rộng nói thành tướng lược.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Như một nhân duyên, rộng thì mười hai, lược thì chỉ có nhân quả mà thôi.” “Pháp bốn tội nặng gọi là tội Thâu-lan-già, pháp Thâu-lan-già nói là bốn tội nặng.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Việc được biểu hiện trong luật, chẳng hạn như giới của tăng thì nhẹ, mà giới của ni lại nặng.” “Phạm, nói không phạm, không phạm nói phạm” cho đến “Vì Đức Như lai thấy rõ căn tánh chúng sinh.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng hạn như tăng đi một mình, không phạm, Ni đi một mình thì phạm… .” “Này người thiện nam! Đức Như lai dù nói lời như vậy” cho đến “Tùy phương tiện thích nghi, sẽ nói cho họ nghe.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do nói luống dối mà được lợi cho chánh pháp, nghóa là ngữ, tâm thì không có luống dối. Nếu nói luống dối mà có ích, thì cũng vì họ nói. Giải thích lại việc trên. “Này người thiện nam! Tất cả thế đế, nếu đối với Như lai tức là Đệ nhất nghóa đế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Danh từ hai đế xuất xứ từ Phật nói, không phải do phàm phu. Nếu có cái gọi là Thế đế mà không có Đệ nhất nghóa. Nói giả có là vì muốn nói lên chẳng thật có, nên đối với Phật là Đệ nhất nghóa.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Danh từ hai đế nói ra từ miệng Phật, không phải nói ra từ phàm phu. Nói giả có là vì muốn nói lên chẳng thật có, mà đối với Như lai thì thường là Đệ nhất nghóa.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thế đế dù là sum-la, nhưng đối với kẻ điên đảo thì thường có, còn đối với người không mê hoặc thì thường “Không”, chẳng hề “Có”. Nếu do Phật mà lấy thì thường là một đế, nhưng đến khi thành Phật, thì mới biết rằng chúng sinh là mộng. Đối với Như lai thì suốt ngày không có. Có cái vô để có, chẳng có cái vô để không. Vì yên lặng không có tướng mạo, nên đối với Phật đều là Đệ nhất nghóa.” Pháp sư Trí Tú nói: “Xưa nói Niết-bàn đều không có thân, trí nói chưa liễu nghóa, tức là luống dối, nên gọi là thế đế. Thế đế này thật ra chẳng phải là pháp vô được Phật soi sáng, tức là Đệ nhất nghóa.” “Vì sao Chư Phật, Thế tôn vì Đệ nhất nghóa” cho đến “Thì Chư Phật không bao giờ giảng nói Thế đế.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích nghóa trên, chúng sinh chấp “Có”, thì Chư Phật nói “Chẳng thật có”. Nói giả có là để đắt dẫn chúng sinh. vì để cho chúng sinh biết là giả có, chẳng thật có. Nếu không biết chẳng thật có thì Phật cũng không nói là giả có. Vì sao? Vì dù là giả, thật khác nhau, nhưng vì tai hại là một thì cần gì phải nói.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước kia là thuyết trái với thường, nay lại trở về với sự hiểu biết kia rằng: “Như lai tùy phương tiện giải thích, hóa độ chúng sinh được lợi ích khác nhau.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phàm phu vì phải y theo thế đế, mới biết được muôn pháp “Là vô”. Nên nói rằng, vì làm cho chúng sinh được Đệ nhất nghóa, nên mới nói thế đế.” “Này người thiện nam! Như lai có lúc giảng nói thế đế” cho đến “Không phải điều mà Thanh văn, Duyên giác biết được. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói Phật vô thường, phàm phu cho là thật, là bậc nhất. Nói Đệ nhất nghóa, chúng sinh cho là Đức Phật nói thế đế. Phật nói thường, lạc là Đệ nhất nghóa, phàm phu cho là Giả, là Thế đế.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chấp lấy gần, thì giả danh, thật pháp là “Không”, đều là thế đế. Chấp lấy xa là cửu địa trở xuống, đã được “Không” vô ngã, cũng là thế đế, chỉ có thể của Niết-bàn thường vắng lặng là chân đế, mà chúng sinh đã nói là Cửu trụ trở xuống được “Không”, bỏ Đệ nhất nghóa, lý luận đều là thế đế.” “Này người thiện nam! Vì thế, ông không nên hỏi rằng:” cho đến “Sao lại hỏi rằng Vô sở đắc ư?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói ý Phật rất khó hiểu hễ nghe nói là chấp đắm. Chúng sinh nói vô đắc, là bình đẳng địa, bèn cho là tất cả vô đắc, lại kết như trên.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây là đoạn bảy. Trước kia, nghe nói trái lại với lý thường, dứt bỏ mê muội cho chúng sinh, tâm không có chỗ đặt để, lại nói có được để gồm thâu ý kia. Thường được Niết-bàn, tức Đệ nhất nghóa.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật nói vô phương, chẳng lẽ là cảnh giới của ông ư?” Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ hai, chính thức đáp lời hỏi. Nghóa có đắc tức là Bồ-đề Niết-bàn.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Đệ nhất nghóa đế” cho đến “Cũng gọi là Bồ-đề, cũng gọi là Niết-bàn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đệ nhất nghóa đế, gọi là chân thật. Pháp chân thật có ba thứ: Mười một “Không” thần thông, trí tuệ là đạo. Trí tức Bồ-đề. Kiết dứt hết là vô vi, gọi là Niết-bàn. Hai pháp này đều là bậc nhất.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lý Đệ nhất nghóa, về lý lẽ ra là thường. Thường thì không thể đắc. Nếu đối với sự có đắc, thì là vô thường. Muốn Đức Như lai giải thích lý do vì sao là thường, chẳng phải mới có.” Nếu có Bồ-tát nói rằng có đắc đạo” cho đến “Giống như Phật tánh không có đắc, không có sinh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là hỏi chung ba pháp.” “Bạch Đức Thế tôn! Nói về Đạo: Chẳng phải sắc, chẳng phải không phải sắc” cho đến “Bồ-đề, Niết-bàn cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hỏi về “Không” để nói không có tướng để đắc.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Niết-bàn là tên chung của các đức. Ba đức này chỉ là một thể. Nếu có thể đắc thì lẽ ra là vô thường. Vì sao pháp thường không được có, cho nên chẳng phải thường”. Phật nói: “Đúng vậy! Đúng vậy! Này người thiện nam!” cho đến “do nghóa này nên không thể chấp lấy”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lấy khổ hạnh v.v… làm đạo, đó là vô thường, dùng “Không” làm đạo, đây là thường. Bồ-tát ít thấy Phật tánh, được gọi là thường. Ngoại đạo chế phục kiết, vì kiết sinh trở lại, nên gọi là vô thường”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước giải thích về thường, tất nhiên, là ở Phật, vì bị phiền não che lấp, nên không thể thấy được. Nay được thấy chẳng phải mới có”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu đạo là vô thường thì làm sao giúp người tu hành dứt hoặc, thành Thánh được?” “Này người thiện nam! Dầu đạo không có hình sắc để thấy được, cân lường biết được, nhưng thật có công dụng”. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Không thể làm cho chẳng phải sắc mà không có tự thể, thể biểu hiện ở muôn “Hoặc”, hạnh mãn tức là công dụng”. “Này người thiện nam !Như tâm chúng sinh dù chẳng phải sắc” cho đến “Tất cả Bồ-tát đều thấy biết rõ ràng”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thấy “không”, dứt “Hoặc” là có dụng của “Không”. Thấy, biết rõ ràng, nghóa là dùng hai việc để chứng minh là “Có”. Dứt bỏ kết. Thấy được rõ ràng. Pháp sư Tăng Tông nói: “Mượn tâm chúng sinh để so sánh”. “Này người thiện nam! Thấy có hai thứ” cho đến “Dù thấy như vậy, nhưng đầu tiên vẫn không có tướng thấy”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại dùng thấy để làm chứng. Tư tuệ của thế gian không hiểu rõ, tu tuệ thì hiểu rõ”. Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là đoạn tám, chứng minh có đạo. Có năm lượt, đây là lượt thứ nhất, nói có thấy, cho nên có biết, tất nhiên là có”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thấy tướng mạo, nghóa là Cửu địa trở xuống, tin thấy là mắt thấy: Thập Trụ thấy rõ ràng. Lại, giải thích Thập trụ thấy không rõ, nên nói là thấy tướng mạo. Đức Phật vì thấy đầy đủ, nên gọi là mắt thấy”. “Này người thiện nam! Do nhân duyên này, nên ngày trước, cho đến “Gọi là phàm phu, Bồ-tát cũng vậy”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì nhân duyên thấy có rõ, không rõ, nên biết là “Có”. Dẫn thuyết đã nói ở trước, thấy “Có” tướng thấy là thế gian, thấy “Không” tướng thấy là Phật, Bồ-tát “ Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ hai là dẫn xưa, Đức Phật đã vì Xá-lợi-phất nói pháp, nên chứng biết là “Có”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Điều mà thế gian không thấy biết, là ngoại đạo biết thì Phật và Thập trụ cũng biết. Điều mà ngoại đạo không biết thì là Phật và Thập trụ cũng biết. Nhưng cái mà thế gian không biết, đó là Phật tánh. Ngoại đạo không biết mà khởi chấp đoạn thường. Bồ- tát dù biết nhưng không nói có tướng biết, cho nên không câu chấp”.  ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI Sưu Tập trình bày: Pháp sư Bảo Lượng-Đời Lương <卷>QUYỂN 40 <詞>Phẩm 20: PHẠM HẠNH (Phần 5) Nói về thế gian không thấy biết, thì Bồ-tát thấy biết. Nói rộng về tướng tu giới của Bồ tát. Răn dạy rộng, phép tắc của người truyền bá rộng chánh pháp. Giải thích rộng sáu niệm, thứ nhất là nói về mười danh hiệu. Giải thích Bà-già-bà… Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Như Phật, Thế tôn” cho đến “Không gọi là thế gian, không gọi là chẳng phải thế gian”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không gọi là thế gian, không gọi là người tại gia trong Phật pháp. Không gọi chẳng phải thế gian, không gọi người tín căn trở lên”. “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp nghe việc này rồi” cho đến “Chúng sinh nghe tạng bí mật, liền được bất sinh diệt”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói công năng của địa rồi, nói phạm hạnh thô đã xong. Ở đây là khen Phật. Bài kệ này nói Đức Phật khéo nói chánh đạo, gọi là thầy thuốc. Bài kệ tiếp, giải thích nghóa thầy thuốc, đủ chủ thể trị, đối tượng trị, rốt ráo không phát. Bài kệ kế là, lập ví dụ về pháp. Kệ sau nói về thể của pháp.” Pháp sư Trí Tú nói: “Vì sẽ hỏi về chỉ thú của nghóa trước, nên đoạn năm, trước dùng kệ để khen ngợi Phật và kinh giáo”. Bồ-tát Ca-diếp nói kệ này xong” cho đến “Nếu chẳng phải thế gian, thì có tướng gì khác? Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây, nói về công năng của kinh: y theo kinh tu hành, sẽ mau được xuất thế. Như Công Đức Tạng Vương đã nói ở cuối phẩm Thánh Hạnh”. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là phân biệt rộng về người hiểu biết. Thế nên Bồ-tát Ca-diếp nhân thưa hỏi để phát ra lợi thưa thỉnh”. Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là xong sáu niệm, đoạn sáu nói Bồ-tát khác với thế gian, xuất thế gian có ba ý: Y cứ giới, định, tuệ. Y cứ phép tắc, oai nghi của Pháp sư. Y cứ pháp sáu niệm, nói về giống nhau, khác nhau giữa sáu niệm. “Phật nói: “Này người thiện nam! Nói Bồ-tát” cho đến “Cũng đồng với thế gian không hiểu biết”. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đại khái Bồ-tát có hai loại: Loại thế gian, và loại xuất thế gian. Nếu là người đang giữ giới thanh tịnh, tâm bền chắc không lay động, cuối cùng sẽ được phát định, sinh tuệ, biết lối chấp của chín mươi sáu thứ ngoại đạo là sai quấy. Biết lý mà pháp Phật nói là đúng. Công dụng của lòng tin này là tu hành, dứt hết hai bên, thuộc về người thấy biết. Hỏi: “Đây là người ở địa nào? Là tín, đứng đầu năm căn trở lên, người này được lìa hẳn sinh tử, không còn nỗi lo rơi vào ba đường nữa, gọi là Bồ-tát xuất thế gian. Nếu lòng tin không lập thì giữ giới sẽ không thanh tịnh. Dù được thấy kinh Niết-bàn kính tin thọ trì, nhưng lại không biết. Chín mươi sáu thứ chấp là sai lầm và pháp Phật đã nói là đúng. Đây gọi là tạo ra bốn niệm xứ, người trước là Bồ-tát thế gian, trở lại xếp vào số người không thấy biết. Dưới đây là bỏ, gồm có ba lớp, văn sẽ được phân biệt. Đầu tiên y theo sự thành tựu, không thành tựu trong tâm tín tuệ, để chọn lựa nhắm vào người đã am hiểu, tức là lớp thứ nhất. Y theo sự chọn lựa trong số người mở mang chánh pháp, nếu là người giữ giới thanh tịnh trong cõi đời vẩn đục này, không sanh chê bai, biết chín mươi sáu thứ chấp của ngoại đạo là sai lầm, thể nghiệm pháp Phật thường truyền bá là đúng đắn, đây là Bồ-tát xuất thế gian, rơi vào địa vị của người thấy biết. Nếu là người dù ở trong đời ác, truyền bá rộng kinh này, nhưng giữ giới không thanh tịnh. Lại tỏ thái độ chê bai, thêm vào đó không nhận thức được chỗ đúng sai của nội đạo, ngoại đạo, thì đây gọi là Bồ-tát thế gian, thuộc về hạng người không thấy biết. Y theo sáu niệm để lựa chọn: Nếu là người y theo kinh Niết- bàn, tạo nên sáu niệm xứ thành tựu, biết nội đạo, ngoại đạo đúng sai, thì gọi là Bồ-tát xuất thế gian, là người thấy biết. Nếu thực hành sáu niệm không thành tựu, do y theo giáo học xưa. Lại, không biết chỗ đúng sai của nội đạo, ngoại đạo, thì gọi là Bồ-tát thế gian, là người không thấy biết.” “Bồ-tát nghe kinh Niết-bàn này rồi” cho đến “Đây gọi là Bồ-tát tu trì tịnh giới.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu biết có Phật tánh có công năng đạt được quả thường mà phát tâm, thì cho dù có trải qua sinh tử, cũng không mất niệm này, đó là công năng của kinh.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ ba, nói về đạo dù chẳng phải là không nhưng phải có giới, định, tuệ.” “Giới đã thanh tịnh, kế là tu thiền định” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát tu định thanh tịnh.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Văn, Tư, Tuệ được rồi, chẳng cần tu tuệ, là nói có thể tu hai tuệ là tónh và định.” “Giới, định đã đủ, kế là tu tuệ thanh tịnh” cho đến “Đó gọi là sự thấy biết chẳng phải thế gian.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong thân có ngã, thì thân lớn, ngã nhỏ. Trong ngã có thân thì thân nhỏ ngã lớn. Thân này ngã này dù nhỏ, dù lớn đều là đúng. Chẳng phải thân, chẳng phải ngã, cả hai đều vô. Tuệ có công năng dứt kiết. Trước là phải dứt bỏ thường, vững chắc không lay động, nghóa là các kiến là gốc phạm giới, kiến đã dứt hết, thì giới sẽ không nghiêng động.” “Này người thiện nam! Bồ-tát thấy giới cấm của mình thọ trì” cho đến “Là điều Bồ-tát thấy biết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói không ăn năn, do giới mà sinh, chưa giải thích về nghóa sinh nhau. Ở đây sẽ giải thích nghóa sanh nhau.” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Thế nào là Bồ-tát” cho đến “Do giới thanh tịnh, nên tâm được vui mừng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không nhờ kinh Niết-bàn mà giữ giới, là giới thế gian, tức có đủ bốn điều ác, không thấy được Phật tánh xuất thế.” “Này người thiện nam! Như người xinh đẹp khôi ngô, tự thấy dung nhan mình trong gương” cho đến “Người phá giới cũng giống như vậy.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gương mặt, dụ cho giới thanh tịnh. Gương, dụ cho Tỳ-ni, ở đây dù nói không có gương, nhưng kinh khác có nói.” “Này người thiện nam! Như có hai cô gái chăn bò” cho đến “Do nhân duyên này, tâm cảm thấy vui vẻ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong thí dụ một đời ở trên có lúc vui mừng, có lúc không vui mừng, dụ cho khi qua đời. Bò, dụ cho kinh giáo. Cô gái chăn bò dụ cho người tu hành. Bình, dụ cho thân người. Lạc dụ cho phá giới. Bơ dụ cho trì giới. Thành dụ cho kinh Niết-bàn. Trợt chân dụ cho vô thường. Bình bể dụ cho qua đời. Bơ đã lấy ra ngoài, nước không đáng tiếc, dụ cho thân người trì giới, lợi mình đã phát ra, còn lại không đáng kể tới, dụ cho vui mừng. Bơ ở trong lạc mất chung với bình. Thí như người phá giới lợi ích của thân chưa phát ra với thân đều mất, dụ cho đáng buồn rầu!” “Bồ-tát Ca-diếp lại bạch: “Mừng và vui” cho đến “Là sự thấy biết của Bồ-tát.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Năm pháp giúp cho giải thích lại tịnh giới. Sở dó giới là nhân của Niết-bàn là do được tuệ… giúp đỡ. Vì lìa năm cái, nên sinh năm thứ Niết-bàn, giải thích sở dó có năm pháp như tín… là vì suy ra công của tuệ, vì có khả năng lìa bỏ cái và kiến nghi, nên người có đủ năm căn là được năm giải thoát.” “Này người thiện nam! Nếu đệ tử thọ trì, đọc tụng” cho đến “Không thể cho người phá giới cấm thọ trì tu tập.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói năm thứ trì kinh, để nói về xuất thế. Vì sao? Vì kinh khác nói, vì chưa rốt ráo nên hành vi ác đã không giữ đủ, làm cho người chê bai kinh, cho rằng người trì kinh này khởi việc ác, dù có thể lợi mình, nhưng không thể làm lợi ích cho người, chẳng phải Bồ-tát xuất thế! Vì lẽ đó, nên Đức Phật chỉ cho phép người xuất thế được trì kinh, để thích ứng với nghóa của hạnh rốt ráo.” “Này người thiện nam! Nếu đệ tử ta thọ trì, đọc tụng” cho đến “Là quyến thuộc của ma, không phải đệ tử của ta.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không có công phu chân thật, đó gọi là buông lung đùa bỡn. Nếu chuyển các hữu thì gọi là nghiêng động.” Lại nữa, “Này người thiện nam! Nếu đệ tử ta” cho đến “Là quyến thuộc của ma, chứ chẳng phải đệ tử ta.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lúc tỏ ngộ chưa đến, gọi là phi thời. Nơi chốn không nên nghe, gọi là chẳng phải nước. Không nghe lời răn dạy trên là tiêu diệt Phật pháp. Ý nói pháp Phật tắt mất thì pháp thế gian sẽ lừng lẫy. Nếu người muốn thọ trì cho đến mà là chỗ thấy biết của Bồ tát này. Xét: Pháp sư tăng Lượng nói: điều mà kinh này nói lý đều đầy đủ, khi nói kinh này lẽ ra đầy đủ các thuyết!” “Này người thiện nam! Thế nào lại gọi” cho đến “Niệm tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói sáu niệm của Bồ-tát xuất gia, tức là chung cho cả tại gia, dứt sợ sinh tử. Người tu sáu niệm không sợ nạn biển, vì tham của báu. Bồ-tát không sợ nạn khổ sinh tử vì tham vật của Tam bảo. Sợ chết, là sợ ba đường. Niệm giới, thí, thiên, đẩy lùi được sợ chết, là bắt đầu tu hành, không phải công đức xuất thế. Nếu dựa theo kinh này mà tu, thì chính là sự thấy biết xuất thế, là công năng tốt đẹp của kinh này.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn năm nói về sáu niệm, là trước kia, nói về giới, định, tuệ. Nay nêu cảnh để làm rõ công đức của tuệ.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu tạo ra sáu niệm thành, thì gọi là Bồ-tát xuất thế gian, là người hiểu biết. Nếu không như vậy thì chẳng được gọi là người thấy biết của thế gian.” “Này người thiện nam! Thế nào là niệm Phật?” cho đến “Vì nói Trung đạo nên gọi là Đại Pháp sư.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh này phân tích mười danh hiệu có chánh tạp, có lược rộng, từ Như lai đến Đại Pháp sư, ở đây ban đầu là rộng mười hiệu sau là lược, cũng có thể trước chánh, sau tạp.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong niệm Phật có ba lượt: Nêu chung tất cả công đức của quả Phật. Trải qua mười hiệu. Nêu nhân thành Phật. Khi xưa Đức Phật tu các công đức của sáu độ. Nay được thường trụ muôn cảnh đều soi chiếu. Năm niệm dưới đây đều là chân ứng đều nói, chỉ có thể thấy trong văn, không cần giải thích.” “Thế nào gọi là Như lai? Như Chư Phật quá khứ” cho đến “Thế nên hiệu Phật là Như lai.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Như là Như Phật; Lai là nương nhân mà đến quả, trong quả này nói Như lai. Từ sáu Ba-la-mật, nghóa là nói Như lai trong nhân.” “Thế nào là pháp ứng hợp với thế gian” cho đến “Để cúng dường Phật nên gọi là ứng.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ứng ác dứt trừ ứng thiện, vì nhóm họp đủ hai đức, nên xứng đáng nhận cúng dường.” “Thế nào là Chánh biến tri? Chánh gọi là không điên đảo” cho đến “Thanh văn, Duyên giác không có Biến tri.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì biết nhân là chánh, biết quả là khắp.” “Thế nào là Minh hạnh túc? “Minh” là nói danh được vô lượng” cho đến “Do nghóa này nên gọi là Minh hạnh túc.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hạnh “Không” dù chẳng phải chiếu “Giải”, nhưng chẳng phải nhơ bẩn, tăm tối.” “Thế nào là Thiện Thệ? Thiện là cao” cho đến “Thành tựu Đại Niết-bàn, nên gọi là Thiện Thệ.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tánh Niết-bàn, thật ra chẳng thật có. Nghóa là sinh, trụ, diệt là tướng hữu vi, vì Niết-bàn không có tướng này, nên chẳng phải “Có”.” “Thế nào là Thế Gian Giải? Thế gian” cho đến “Vì thấy rõ thế gian, nên hiệu là Thế Gian Giải.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhờ lời nói của thế gian, là “Có”, nghóa là “Chẳng phải có”, nói “Có”, để nói “Chẳng phải có”. “Thế nào là Vô Thượng Só? Thượng só” cho đến “Thế nên hiệu Phật là Vô Thượng Só.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có điều ác chưa hết, trí tranh luận với tâm. Vì trí vượt hơn tâm, nên nói là “Thượng”. Lời nói có thể hư hoại, nghóa là có tranh cãi thì sẽ hư hoại.” “Thế nào là Điều Ngự Trượng Phu? Tự mình đã là Trượng phu” cho đến “Thế nên hiệu Phật là Điều Ngự Trượng Phu.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nên dùng thân người nam để thành Phật, gọi là Đại Trượng Phu, giải thích câu trên. Đầy đủ pháp, là giải thích câu dưới. Điều Ngự Trượng Phu ở sau, gồm có bốn thứ, thích hợp với căn cơ sâu thì nói sâu, ứng với căn cơ cạn thấp thì nói cạn thấp, là nói khéo điều phục.” “Thế nào là Thiên Nhân Sư? Sư có hai hạng” cho đến “Thế nên Phật hiệu là Thiên Nhân sư.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sư có hai hạng: Giải thích Vô thượng sư ở trên. Cũng kế là giải thích hai nghóa: Trời, người, nói về năng thọ đạo.” “Thế nào là Phật? Phật Hán dịch là Giác” cho đến “Thường được không lìa thấy Phật, Thế tôn.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một lần nói về mười hiệu.” “Này người thiện nam! Vì sao gọi là Như lai?” cho đến “Thân Kim Cương với tám mươi vẻ đẹp.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại nêu quả để gọi. Vì muốn cho chúng sinh ưa thích quả nên thực hành nhân. Lại nói nhân, là trước lược, sau rộng. “Lại Bồ-tát trong vô lượng kiếp xưa” cho đến “Đó gọi là Đại Bồ- tát niệm Phật.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh, Trụ là hữu vi, tự tại là vô vi, tu năm mươi tâm, thành tâm quả này.” <篇>