<經 id="n1758">A DI ĐÀ KINH THÔNG TÁN SỚ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1758 BÀI TỰA A-DI-ĐÀ KINH THÔNG TÁN SỚÙ Rõ được lý thì dứt bặt giải thích, chẳng lẽ ba thừa có thể nhiếp sao? Trí tròn đầy muôn đức, bậc Thập địa chẳng thể quán sát. Rải mây từ khắp bốn sinh, tuôn mưa pháp làm sinh trưởng khắp cả chín cõi. Do đó mà Đức Bổn Sư giáng thần từ tầng trời Đâu-suất, đản sinh vào thành Ca-tỳ-la-vệ. Chán dục lạc ở chốn cung vua, đạt chân thường dưới cội Bồ-đề. Cũng do nghiệp cảm của chúng sinh làm cho ma quân thêm lớn, mở ra biển khổ để nhốt ba đường, làm đắm chìm thuyền từ mà nuốt cả muôn thiện. Cho nên Phật giăng rộng lưới giáo, chỉ thẳng cõi Tịnh độ, là cửa huyền để nhập Thánh, là bước diệu để vượt phàm. Mười loại Tịnh độ, y theo địa vị thì có khác nhau. Chín phẩm đài sen, vì khế hợp với căn cơ nên có thứ lớp. Lớn lao thay, pháp môn xả bỏ không–hữu, biểu hiện riêng về đoạn thường. Phật là bậc đã giác ngộ viên mãn. Nói là dùng tâm từ bi để giảng pháp. A-di-đà nghóa là Vô Lượng Thọ, Kinh: là thường pháp gom nhiếp thông suốt. Thường thì trăm vua không dời đổi, pháp thì ngàn đời đồng giữ khuôn phép. Nhiếp thì bao gồm hết cả ngôn từ, thông suốt thì xuyên suốt và liên kết diệu lý. Cho nên nói rằng: Kinh Phật nói về Đức Phật A-di-đà. Kinh chép: Tôi nghe như vầy… Lời tán rằng: Giải thích kinh này, lược có sáu khoa: Nói chung về nguyên nhân. Nói riêng tông chỉ. Nói thể dụng của kinh. Nói về người dịch, thời gian dịch Nói về đốn tiệm. Chính thức giải thích văn kinh. 1.Nay nói phần thứ nhất là nêu chung nguyên nhân: Phật từ nhân địa phát thệ nguyện rộng lớn, nguyện cứu độ chúng sinh. Nay dẫn ra nhân đời trước, nên nói là các pháp. Trong phẩm Phương tiện kinh Pháp Hoa chép: “Xá-lợi-phất nên biết, ta vốn lập thệ nguyện, muốn cho tất cả chúng, bằng như ta không khác.” Lại, trong phẩm Thọ Lượng chép: “Thường tự nghó rằng: làm sao giúp cho chúng sinh nhập vào đạo vô thượng, mau thành tựu thân Phật.” Nếu đối với nhân đời trước hoặc quả vị hiện tại đều có phát nguyện, nguyện giúp cho tất cả chúng sinh, cũng được như thân ta, được nhập vào Phật đạo, nên tùy theo bổn nguyện mà nói các kinh. Lại như trong luận chép rằng: Lúc Bồ-tát mới sinh , phát ra ánh sáng rực rỡ, chiếu khắp mười phương, bước đi bảy bước, quán thấy cả bốn phương, cất tiếng như sư tử rống, mà nói kệ rằng: “Ta thai phần đã hết, đây là thân cuối cùng, ta đã được giải thoát, nên cứu độ chúng sinh.” Vì nguyện báo ân này cho nên nói ra các kinh. Hỏi: Nơi Đức Thế tôn nói pháp rất nhiều, vì sao ở Kỳ Viên lại bàn luận các kinh điển nói về lòng từ? Đáp: Các nơi nói pháp ý thú khác nhau, như Kinh Duy-ma là phá sự thiên chấp, kinh Pháp Hoa dẫn dắt người vào con đường nhất thừa. Nguyên nhân khơỉ ra kinh này là để phá bỏ ba bánh xe, ba bánh xe là: Phá bánh xe vô thường, hữu tình,vô tình đều là vô thường, giúp cho chúng sinh được giác ngộ, xả bỏ vô thường. Phá bánh xe bất tịnh: vì hữu tình, vô tình đều là bất tịnh, chúng sinh trở về Tịnh độ, hóa sinh vào hoa sen, bỏ hết thân bào thai máu thịt, đó là phá hết thân hữu tình bất tịnh. Về cõi Tịnh không còn nhơ uế xấu xa, đó là phá hết khí thế gian bất tịnh, đó gọi là phá bánh xe bất tịnh. Phá bánh xe khổ: chúng sinh bị các khổ ép ngặt, phải giúp họ trở về Tịnh độ, dứt hết các khổ. Vì muốn phá bỏ hết ba bánh xe cho nên Phật nói kinh này. Lại vì muốn dắt dẫn hai thứ chúng sinh: Muốn dắt dẫn các chúng sinh biếng nhác, sợ các pháp tu hạnh đại thừa, thường bị lui sụt. Cho nên Phật nói kinh này, nhân nhỏ nhiệm, quả hiển trước, giúp thân không còn lui sụt. Kinh chép: Hoặc một ngày cho đến bảy ngày liền được vãng sinh. Vì độ chúng sinh tán loạn, rong ruổi theo các cảnh, đắm chìm trong đường ác, cho nên nói kinh này, chỉ bày cõi Tây phương, giúp cho tâm chuyên chú. Hỏi: Nơi nơi nói pháp đều phá ba bánh xe, vì sao kinh này chỉ hiển bày về lòng từ? Đáp: Trong kinh khác tuy phá ba bánh xe, nhưng thời gian xả bỏ dài, nên khác nhau với kinh này, cho nên nói là phá ba bánh xe. 2.Thứ hai nói về tông chỉ: Ở đây các vị tôn đức đều chia kinh thành bốn tông chỉ. Lập tánh tông: là “Tạp tâm”,… lập năm nhóm pháp có thể tánh. Phá tánh tông: là “Thành thật” v.v… phá pháp thể có tánh, chỉ có tướng. Phá tướng tông: là “Bát-nhã”,… phá tướng trạng của pháp cũng thành không. Hiển thật tông: là Các bộ như Niết-bàn, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v… Hiển bày nghóa trung đạo chân thật, lìa bỏ hóa thành mà trờ về đảo châu báu. Kinh này là tông thứ tư. Nương theo văn mà chia giáo, giáo chỉ có ba, dùng loại để chuẩn tông, thì tông có tám. Giáo chỉ có ba là: Hữu tông: Phần nhiều nói về “hữu tông”, là các giáo tiểu thừa như kinh A-hàm v.v… Không tông: Phần nhiều nói về “không tông” là các bộ “Trung luận”, “Bách luận”, “Thập Nhị Môn”, “Bát-nhã, v.v…” Phi hữu tông: là các Kinh: Hoa Nghiêm, Thâm Mật, Pháp Hoa và kinh này. Hữu vi, vô vi là “hữu”. Ngã và ngã sở là “không”. Đây là những điểm của ba giáo được nói rộng. Tông có tám là: Ngã pháp không hữu tông: như Độc tử bộ, v.v… Hữu pháp vô ngã tông: như các bộ Tát-bà-đa v.v… Pháp vô khứ lai tông: như Đại chúng bộ, v.v… Hiện thông giả thật tông: như thuyết giả bộ v.v… Tục vọng chân thật tông: như thuyết xuất thế bộ, v.v… Chư pháp đãn danh tông: như Nhất thuyết bộ,… Thắng nghóa giai không tông: như Kinh Bát-nhã…, các bộ Trung luận, Bách luận… của ngài Long Thọ. Ứng lý viên thật tông: các bộ Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và các giáo nói về Trung đạo của ngài Vô Trước. Kinh này chính là ứng lý viên thật tông, tức lấy Tịnh độ làm tông. Lại có hai tông: Không nói pháp tông. Nói pháp tông. Không nói pháp tông do ngài Long Thọ v.v… nói. Phật chỉ có ba pháp là đại định, đại trí và đại bi. Đã lìa hết hý luận từ lâu, không hề nói pháp. Vì Phật duyên theo năng lực bổn nguyện từ bi, trong thức của chúng sinh tướng văn nghóa sinh, tuy thân nương vào năng lực gốc lành mà khởi ra, nhưng do duyên mạnh nên gọi là Phật nói, cho nên trong luận Vô Tánh chép: “Tùy rơi vào tám thời, người nghe biết thuyết trên thật hay chẳng Phật, nhóm họp hiển hiện ra mà lấy làm giáo thể.” Kinh chép: Bắt đầu từ lúc mới thành đạo, cho đến lúc nhập Niết- bàn, trong thời gian đó không nói một chữ, như mẹ cắn ngón tay, mà con biết mẹ gọi. Ngài Thân Quang chép: thân Phật có đủ cả: uẩn, xứ, giới,… do lìa hết phân biệt nên gọi là vô hý luận. Như vậy không nói pháp mà gọi là vô hý luận hay sao? Nói rằng người nghe duyên theo bổn nguyện gốc lành, tướng văn nghóa sinh trong thức của Như lai, tướng văn nghóa này là do gốc lành lợi tha của Chư Phật khởi lên, gọi là Phật nói. Thức của người nghe tuy không tự thân đắc, nhưng gần như tướng kia được hiển hiện rõ ràng, nên nói là tôi nghe,… Ngài Thế Thân chép: Các thức khác nối nhau sai khác, giúp cho các thức khác sai biệt nối nhau, kia đây làm duyên tăng thượng cho nhau. Do đó, ngài Hộ Pháp tùy cơ mà ứng sự, thuyết giáo nói ra ba thừa, kinh này thuộc về Đại thừa, là tạng Bồ-tát trong ba Tạng, là phần vô vấn tự thuyết trong mười hai phần. Hỏi: Bạch Liên Hoa giáo, đợi có người thỉnh mới giảng nói. Còn văn kinh Tịnh độ, vì sao lại tự nói? Đáp: Nói Pháp Hoa mà đợi thỉnh, vì sợ sinh tâm khinh mạn. Nói về Tịnh độ mà tự giảng nói, là biểu hiện rõ ý từ bi. Chỉ là chỉ thú, giúp cho xa lìa cõi uế, thú hướng về cõi nước thanh tịnh. 3.Thứ ba nói về thể dụng của kinh. Thể là thể của giáo pháp, có chia ra năm môn: Gom tướng về tánh: Đều lấy chân như làm thể. Gom cảnh theo tâm: Tất cả đều duy thức. Gom giả theo thật: Tức thuộc về bất tương ưng, quy về sắc, tâm, tâm sơ. Thể dụng biệt luận môn (môn luận riêng về thể dụng): Tức bốn uẩn năng duyên gồm thâu tướng phần bản chất, đều có tướng khác nhau, tự tha có khác nhau. Nhóm họp hiển hiện môn: Như nghe qua bốn chữ “Các hành vô thường” nhóm họp hiển hiện cho là thể của giáo pháp, chỉ giữ lấy bốn pháp: Thanh, danh, cú, văn của bản chất Phật làm thể. Nếu chấp lấy giáo pháp ảnh tượng để gọi là thể liền thành hữu lậu. Nếu chỉ chấp ảnh tượng hữu lậu làm thể, thì ứng với chân thật. Tam bảo chỉ ứng với hữu lậu vô ký, nếu không như vậy thì làm sao gọi là thể của giáo pháp ảnh tượng? Cho nên chỉ giữ lấy: Thanh, danh, cú, văn vô lậu làm thể. Thanh là thật. Danh, cú,văn là giả. Các sư lại còn nói ra các giáo thể, như chỗ khác nói. Dụng thì lấy việc bày uế, hiển tịnh làm dụng, lại có dụng hiển thật chứng chân. 4.Thứ tư nói về người dịch, thời gian phiên dịch: Kinh này lần lượt có bốn người dịch. Ngài La-thập, dịch vào ngày mùng 08 tháng 02 niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ tư, đời Tần. Tên kinh là “Tiểu Vô Lượng Thọ Kinh”. Ngài Cầu-na-bạt-đà-la, dịch vào niên hiệu Nguyên Gia đời Tống, gồm bốn quyển. Ngài Tam tạng chùa Từ ân, dịch vào niên hiệu Vónh Huy năm thứ sáu đời Đại Đường, tên kinh là “Khen ngợi Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ”, gồm mười quyển. Đời Hậu Tần lại dịch ra “A-di-đà Kinh Kệ Tụng”, một quyển, mất tên người dịch. Nay chỉ nói về người giải thích, tức là Pháp sư La- thập. giáo Hỏi: Trong ba thời, kinh này thuộc về thời nào? Do lời hỏi này, nên ở đây nói lược về phần các bậc thầy phán Phần phán giáo ở Trung quốc. Phán giáo ở Tây Thiên. Chú thích: “Khai nguyên Thích giáo lục” quyển tám có nêu: “Khen ngợi Tịnh độ Phật Nhiếp Thọ Kinh”, một quyển trong phần chú thích ở dưới có ghi: xem “Nội Điển Lục” rút ra đồng với bản Kinh A- di-đà của ngài La-thập. Vào ngày 01 tháng 01 niên hiệu Vónh Huy năm đầu, do Sa-môn dịch Kinh ở chùa Đại Từ Ân là Đại Thừa Quang dịch. Phán giáo ở Trung Quốc thì có năm vị: Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi đời Ngụy, Hán dịch là Giác Thọ, lấy thời giáo một đời của Phật xếp chung vào một thời, có hai nghóa khác nhau, nên giáo pháp dường như có nhiều: Giáo đồng mà căn khác: Như trời mưa thì có một mà chúng sinh ngộ giải thì khác nhau. Như Thanh văn, Duyên giác thì hiểu theo pháp Bốn đế, mười hai nhân duyên, Bồ-tát thì hiểu theo pháp sáu độ, y theo căn cơ thì giáo pháp dường như có khác. Lý đồng mà chứng ngộ thì khác: Chứng lý thì ba thừa khác nhau, như ba con thú qua sông, sâu cạn đều khác nhau, do đó xét giáo thành một thời. Tam tạng Đàm-vô-sấm đời Tống, chia thời giáo một đời của Đức Như lai thành hai thời Đốn, Tiệm. Một đời nói giáo của Phật có nói về hai không, ba tánh, ba vô tánh, tám thức, hai vô ngã… đều là Đốn giáo. Cho nên trong hội Hoa Nghiêm các Thanh văn đối trước mặt mà không nghe không biết. Tiệm giáo là Phật nói về pháp bốn đế, duyên sinh, năm giới, tám giới… gọi chung là Tiệm giáo. Tam tạng Chân-đế đời Lương chia thời giáo của Đức Như lai thành ba thời: Hữu giáo. Không giáo. Phi không phi hữu giáo. Hữu giáo là khi Phật thành đạo, trong bảy năm đầu đều nói Hữu giáo, năm năm đầu độ năm câu luân, năm thứ sáu hóa độ ngài Xá- lợi-phất, năm thứ bảy độ ba anh em Ca-diếp, gọi chung là Hữu giáo. Không giáo là từ năm thứ tám đến năm ba mươi tám, Phật nói tám bộ kinh như Bát-nhã, v.v… Phi không phi hữu giáo: từ năm thứ ba mươi chín, đến khi Phật nhập Niết-bàn, đều nói về giáo pháp Phi không phi hữu, như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Tư Ích, v.v… Hai vị Tam tạng Quật-đa và Cấp-đa đời Tùy đều chia giáo pháp Đức Như lai nói trong một đời thành bốn thời: Sinh không giáo. Pháp không giáo. Pháp tướng giáo. Quán hạnh giáo. Sinh không giáo: tức là mười hai năm đầu Phật nói Kinh A-hàm v.v… Pháp không giáo: ba mươi tám năm Phật nói tám bộ Bát-nhã. Pháp tướng giáo: từ năm ba mươi tám về sau, cho đến năm bốn mươi chín Phật nói các kinh Lăng-già, Tư Ích, Pháp Hoa, v.v… Nói rộng về trăm pháp, ba tánh, ba vô tánh, tám thức, hai vô ngã,… Quán hạnh giáo: Tức nói về quán pháp giới của kinh Hoa Ng- hiêm,… Lưu cư só đời Tấn, vào trong núi sống ẩn dật, tự thuật lại tâm ý bổn hoài, chia giáo pháp của Phật thành năm thời: Trời người giáo. Sinh không giáo. Pháp không giáo. Câu không giáo. Phi không phi hữu giáo. Trời người giáo: tức là trong hai mươi mốt ngày sau khi thành Phật, vì Trưởng giả Đề-vị mà Phật nói ba quy y, năm giới, mười điều lành,… vì người chưa có gốc lành xuất thế. Giác Thọ Nan chép: Trong kinh Đề-vị chép: năm trăm người đi buôn khi sắp thọ năm giới, trước sám hối năm tội nghịch, mười điều ác chê bai chánh pháp, v.v… Đức Thế tôn dạy: “Bốn đại vốn thanh tịnh, bản ngã của ta vốn thanh tịnh”. Đề-vị được Bất khởi pháp nhẫn, tức Vô sinh pháp nhẫn. Năm trăm người thương buôn đắc pháp nhẫn nhu thuận, đều được chứng thánh, há là trời người giáo hay sao? Sinh không giáo: tức mười hai năm đầu Phật nói giáo pháp Nhị thừa. đầu. nhã. Pháp không giáo: là giáo pháp Phật nói trong ba mươi hai năm Câu không giáo: ba mươi tám năm đầu, Phật nói tám bộ Bát- Phi không phi hữu giáo: tức bốn mươi năm Phật nói kinh Pháp Hoa, Lăng-già, v.v… Phán giáo ở Tây Thiên gồm có: Tông Thắng Nghóa Câu Không phán giáo. Tông ứng lý viên thật phán giáo. Giáo phái câu không: Đầu tiên do ngài Sư Tử Giác, Trí Quang, tại chùa Na-lan-đà, y theo ngài Văn-thù làm tông chủ, chia giáo thành ba thời: Sinh không. Phi không phi hữu. Câu không. Sinh không là nói rộng các pháp Nhị thừa v.v… Phi không phi hữu: là nói kinh Pháp Hoa v.v… Câu không: là tám bộ Bát-nhã. Tông ứng lý viên thật phán giáo: Ở chùa Na-lan-đà có vị Luận sư tên là Giới Hiền, nương ngài Di- lặc làm Tông chủ, chia giáo thành ba thời: Hữu giáo: Thời giáo một đời Đức Phật nói về hữu xứ. Không giáo: Chỉ nói về không xứ. Phi hữu phi giáo: Nói về phi không phi hữu xứ. Y vào Viên là hữu, biến kế là vô. Chân-đế thì cho rằng dùng giáo pháp để thành tựu thời gian là sai. Luận sư Giới Hiền dùng thời gian thành tựu giáo pháp là đúng, vấn nạn Chân-đế rằng sau khi Phật thành đạo, trong mười bốn ngày đầu nói Kinh Hoa Nghiêm, há đó là thời giáo thứ nhất hay sao? Lại nói bốn mươi năm sau đó Phật nói phi không phi hữu là thời giáo thứ hai, tức khi sắp nhập Niết-bàn, Phật nói Kinh Di Giáo, chẳng lẽ là thời thứ ba sao? Ngài Giới Hiền dùng thời gian thành tựu giáo pháp chính là, kinh này giải thích Tịnh độ, y theo Viên là hữu, biến kế là vô, tức là phi không phi hữu giáo. 5. Thứ năm nói về Đốn Tiệm: Đã đắc quả nhị thừa lại phát tâm hướng đại, nên gọi là tiệm ngộ, do số vãng sinh ít, hoặc hoàn toàn không có. Nếu từ phàm phu Nhị thừa mà quy về Đại thừa, tức là thuộc về Đốn ngộ, chưa hề chứng ngộ giáo lý Nhị thừa, số vãng sinh lại nhiều thì không gọi là Tiệm ngộ. Kinh Niết-bàn chỉ nói người sơ quả hồi tâm tám muôn kiếp, cho đến Bích- chi-ca mười ngàn kiếp, không nói về Tư vị và Gia vị, kiếp số nhiều ít, biết rõ năm quả hồi tâm thì mới gọi là Tiệm ngộ, nếu bảy phương tiện hồi tâm, thì chỉ là Đốn ngộ. Đã từng phát tâm Nhị thừa, từng tu hạnh Nhị thừa, rồi cầu trở về Đại thừa đều gọi là Tiệm ngộ. Tu đầy đủ tánh hạnh đó, nghe pháp suy tư rồi giải ngộ, thì cũng gọi là ngộ đâu cần phải chứng ngộ? Huống chi lại có số vãng sinh ít, nghóa là đã quyết định sinh ngay trong đời này và vừa ngồi liền thuận theo phần chọn lựa. Trong Kinh Niết-bàn nói năm quả hồi tâm, mà nói về kiếp số, cũng không ngăn bảy phương tiện hồi tâm, cũng gọi là Tiệm ngộ. Cho nên biết hai quả Tư vị và Gia vị cũng có số vãng sinh ít, rõ được việc hồi tâm cũng đều thuộc về Tiệm ngộ. Ở đây hai vị Pháp sư thì vị thứ nhất có giáo có lý. Vị thứ hai thì vô giáo hữu lý. Kinh này nếu nhất tâm bất loạn, mười niệm chuyên tinh thì liền vãng sinh Tịnh độ, liền bỏ cõi đời có năm thứ vẩn đục, tức là thuộc về Đốn giáo, cho nên kinh nói rằng: “Từ một ngày cho đến bảy ngày nhất tâm bất loạn”,… ---------------------- <節>SỐ 1758 A-DI-ĐÀ KINH THÔNG TÁN SỚ Sa-môn Khuy Cơ chùa Đại Từ Ân soạn <卷>QUYỂN THƯỢNG Kinh chép: “Kinh Phật nói A-di-đà”. Tán rằng: phần thứ sáu ở dưới chính là giải thích bổn văn, chia làm hai: Giải thích đề mục. Giải thích văn kinh. Đây là nói về phần đầu: Phật nói: là Giáo chủ năng hóa A-di-đà: Hán dịch là Vô Lượng Thọ Kinh có bốn nghóa như nhiếp quán… Dùng hơn để bày kém, là y chủ thích. Hoặc dùng riêng để phân biệt với chung thì cũng là y chủ thích chính, y theo người mà có tên gọi. Phần chính giải thích văn kinh: Kinh: Tôi nghe như vầy. Tán rằng: Kinh này gồm có ba đoạn: Từ “Tôi nghe như vầy” cho đến “Thích-đề-hoàn-nhân v.v… cùng với vô lượng các vị trời đại chúng”, đây là phần tựa. Từ “Bấy giờ Phật bảo trưởng lão Xá-lợi-phất: từ cõi này đi về phương Tây…” cho đến “Là việc rất khó” là phần chánh tông. Từ “Phật nói kinh này xong” v.v… trở xuống là phần lưu thông. Phần tựa nói về nguyên nhân, là phần khởi đầu. Trình bày lý do nói giáo, sự khởi đầu dần dần làm cho pháp hưng thạnh nên gọi là phần tựa. Bậc Kim Tiên nói pháp, đều có chỗ y cứ, nói về cảnh giới Tịnh độ tốt đẹp, khuyên sinh về ưa giải thích nên gọi là phần chánh tông. Nói các việc đã xong, đại chúng đương thời đều được lợi ích, là muốn nói lên giáo môn không để mất đi, mong được lưu thông lâu dài, nên gọi là phần lưu thông. Theo các vị sư xưa, thì phần tựa chia ra sáu phần. Nay y theo “Luận Phật Địa” chia phần tựa thành năm: Giúp cho sinh tín tâm, hiển bày những điều đã nghe, nên nói là: Tôi nghe như vầy. Thời khắc người nói người nghe cùng gặp gỡ không khác nhau. Cho nên nói một thuở nọ. Nói thì phải có chủ- Muốn hiển bày vị chủ, thì pháp tôn quý phải cao siêu, nên gọi chung là Phật. Nói Pháp thì phải có chỗ nương, là tại vườn Trưởng giả Cấp cô độc, rừng cây Thái tử Kỳ-đà ở nước Xá-vệ, là nơi hóa thân Phật ở chứ chẳng phải báo độ. Căn cơ được gồm nhiếp như ngài Xá-lợi-phất v.v… “Tôi nghe như vầy” tức là phần đầu giúp cho người sinh lòng tin, nêu bày những gì đã nghe, nên chia thành ba môn: Nói về lý do. Nguyên nhân lập ra. Giải thích Bản văn. Nói về lý do, như kinh Đại Thuật, v.v… Nói về bổn duyên: Khi Phật sắp Niết-bàn, Ngài bảo những ai còn nghi ngờ điều gì thì nên hỏi lại. Bấy giờ, ngài Ưu-ba-ly, A-nâu-lâu-đà bảo ngài A-nan hỏi bốn việc: Sau khi Phật diệt độ, các Tỳ-kheo nương vào ai làm thầy? Nương vào đâu mà trụ? Tỳ-kheo tội ác dùng pháp gì để trị? Ở đầu tất cả kinh, nên đặt câu gì? Phật dạy: “Sau khi ta diệt độ, các ông nương Ba-la-đề-mộc-xoa làm thầy, nương vào bốn niệm xứ để an trụ tâm, Tỳ-kheo tội ác dùng phạm đàn để trị, đó gọi là mặc nhiên, không nên đánh mắng, chỉ nên mặc tẫn, còn tất cả kinh thì nên có câu “Tôi nghe như vầy” ở đầu”. Sau đó, ngài A-nan kiết tập hoàn toàn y theo lời Phật dạy. Về nguyên nhân lập ra là giúp cho chúng sinh sinh tâm kính tín, thuận theo. Luận Trí Độ chép: “Tôi nghe như vầy” là để sinh lòng tin. “Tin nhận vâng làm” để sinh trí. Tín là năng nhập, trí là năng độ. Tin là căn bản để nhập pháp. Trí là huyền thuật của rốt ráo. Tín thì lý thuận theo lời nói, thuận thì đạo pháp thành tựu. Do lòng tin mà giáo pháp Phật nói đều có thể thuận theo. Do thuận nên có thể kiến lập sự nói nghe giữa thầy và trò. Đối với lòng tin này, có mười giải thích sơ lược. Nhân ban đầu hướng về quả cao nhất. Theo kinh Nhân Vương là ban đầu hướng về thánh vị, là sự chóng hoặc chày để chứng đế lý. Cho nên trong bốn mươi hai tâm thì tín đứng đầu. Lúc đầu tiên phát khởi tâm đại Bồ-đề, phải có đủ mười đức, khởi ba tâm diệu quán. Tâm đại Bồ-đề lấy gốc lành làm tự thể, lấy bạn lành làm duyên tốt, dùng việc không lui sụt để sách tấn, năng lực tăng thượng thanh tịnh và tâm vững chắc thẳng tiến thuộc Đại thừa, gọi là Bồ-tát bắt đầu tu vô số ba đại kiếp. Căn bản xâm nhập đế lý. Trong các luận đều chép:- Khi sắp bước lên giai vị thánh thì phải có tín căn, tín lực. Có tín căn thì muôn điều lành đều do đây mà sinh. Có tín lực thì bốn ma không thể khuất phục, do đó mà kinh này khi mới sáng lập đều giúp cho sinh lòng tin. Chứng đắc thanh tịnh mà thông đạt diệu chân. Vì có thể vượt qua đường ác, lìa hết nhân nghèo hèn. Sau khi thể nhập Thánh đạo liền chứng bốn bất hoại tín, vì kính tín Tam bảo nên vượt khỏi đường ác. Do tin giới nên lìa nhân nghèo hèn. Trong các luận cũng nói về tín hiện quán. Nói về đức tốt đẹp. Theo luận “Tỳ-bà-sa” thì “Tín là bàn tay đẹp cầm lấy pháp vị mà ăn. Người học Phật pháp như loài voi, loài rồng lớn, lấy lòng tin làm tay, sự buông xả làm răng, lấy niệm làm cổ, lấy trí tuệ làm đầu, dùng hai vai để gánh vác pháp lành.” Loài voi khi ăn uống dùng vòi làm tay, cho nên người học Phật pháp, đầu tiên phải có lòng tin. Trong bảy thánh tài thì pháp tài đứng đầu. Người học Phật, điều lớn nhất không gì bằng quy y pháp bảo, giáo dục bảo hộ Thánh tài, cho nên đầu tiên phải sinh lòng tin. Trong Luận Hiển dương chép: “Bảy tài sản của bậc Thánh là: Tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm, quý” trong đó Tín đứng đầu. Sự thuần thục sáu thiện, tám nhân, thì pháp lành là gốc. Luận Du-già Sư Địa chép: “Các pháp lành của loài người thì dục là cội gốc, do tác y sinh ra, xúc làm tập khởi, thọ là dẫn nhiếp, định là tăng thượng, tuệ là tối thắng, giải thoát là vững chắc, xuất ly là hậu biên.” Nói dục là cội gốc, vì khởi lên hy vọng. Tác ý sinh ra dụ cho giác ngộ. Xúc làm tập khởi vì cùng tâm, tâm sở đối lập với thắng duyên. Thọ là dẫn nhiếp vì thống lãnh ở trong tâm. Định là tăng thượng vì tâm lắng trong. Tuệ là tối thắng vì phân biệt thiện ác. Giải thoát là vững chắc vì ngăn dứt sự ràng buộc. Xuất ly là hậu biên vì đường giác viên mãn. Tín đã nương vào dục, cho nên phải phát khởi trước tiên. Bàn tay giỏi mở ra cơ môn: là bàn tay nhiếp giáo, luận Câu-xá chép: “Cứu vớt chúng sinh ra khỏi biển sinh tử”, phơi bày chánh tông là bàn tay Phật giáo. Nói lời tựa giúp cho sinh lòng tin là bàn tay chúng sinh. Hai tay nhiếp nhau, ra khỏi bùn lầy ứ đọng. Luận Trí Độ lại chép: “Như người có tay lên được núi báu, tùy ý lấy về. Còn người không tay thì không làm sao lấy được. Người có tín tâm, vào núi báu của Phật, đắc được đạo quả. Nếu không có được tín tâm thì tuy có hiểu nghóa văn cũng không có sở đắc”, cũng đều thuộc ở đây. Viên ngọc sáng của nước tâm trong suốt, vì giúp cho tâm lắng đọng thanh tịnh. Thành Duy thức chép: Tín như viên ngọc sáng thủy tinh, làm cho nước lắng trong, có thể trị được tánh vẩn đục bất tín.” Tư lương lập ra danh của đạo: Tuyên Ni chép: “Ba việc binh, thực, tín, này không thể lìa bỏ, xưa nay việc sống chết đều có, người không có niềm tin thì không thể lập. Như xe lớn không có thanh ngang, xe nhỏ không có vết xe.” Cho nên trước phải sinh lòng tin. Sự đối đãi tốt đẹp chân thành. Sách Xuân Thu có chép:”Nếu có lòng tin rõ ràng thì một chút nước ở khe, ao, sông, hồ, một chút rau, lá, cỏ, hoa đều có thể dâng cúng quỷ thần, có thể dâng lên cho Vương công, huống chi người quân tử được lòng tin của cả hai nước.” Mười nghóa này, tám nghóa đầu là y theo chân, hai nghóa sau là y theo tục, cho nên đầu kinh phải có câu: “Tôi nghe như vầy”, nghóa kinh như thế, đích thân nghe Phật nói, lìa hết sự thêm bớt là giúp cho chúng sinh khởi tâm tín ưa, thuận theo tu học. Chíùnh là giải thích văn kinh. Trong luận Phật Địa chép: Lời “Như thế” là y theo bốn nghóa mà chuyển: Y theo thí dụ: Như có thuyết chép: giàu sang như thế, như Tỳ-sa- môn. Như thị là pháp được truyền được nghe, như lời Phật nói, chắc chắn không có sai khác, chắc chắn là nhân của phương tiện làm lợi lạc cho chúng sinh.Hoặc nói văn cú là “như thế”, như tôi đã nghe trước kia. Y theo lời dạy bảo: như có thuyết chép: Ông nên đọc tụng kinh luận như thế. “Như thế” ở đây, xa là lời dạy bảo của Phật, gần là lời giáo hối của vị truyền pháp. Y theo hỏi đáp. Nghóa là có người hỏi rằng: những điều ông nói chắc chắn đã nghe những lời này từ trước phải không? Ở đây đáp: Tôi nghe như vầy. Y theo lời hứa khả. Như có thuyết chép: Ta nên vì ông mà suy nghó như thế, thực hành như thế, giảng nói như thế. Nghóa là khi kiết tập, các Bồ-tát đều thưa thỉnh: những gì ông đã nghe, nên nói lại đúng như thế. Bồ-tát truyền pháp liền hứa khả rằng: Những điều đang nói như thế là những điều tôi đã nghe, hoặc do tín mà nói việc ấy như vậy. Nghóa là pháp như thế, tôi đã từng nghe trước đây. Những việc như thế nay sẽ nói lại, chắc chắn không hề khác nhau.” Do bốn nghóa này nên trong kinh đều có câu “Tôi nghe như vầy”. Tam tạng Chân-đế chép: Trong luật nhỏ nhiệm có nói khi ngài A-nan lên tòa kiết tập pháp tạng, thân như vị Phật thật, có đầy đủ tướng tốt. Lúc xuống tòa, thân trở lại như cũ. Đối chiếu với các tập tạng lưu truyền cũng đều nói như vậy, đại chúng có ba điều nghi: Nghi Phật có tâm đại bi, từ Niết-bàn mà xuất định, để giảng nói lại pháp mầu. Nghi có Đức Phật từ cõi khác đến, nói pháp ở đây. Nghi ngài A-nan chuyển thân thành Phật, nói pháp cho đại chúng nghe. Nay hiển bày pháp được nói như thế, xưa ta làm thị giả Phật, đích thân đã có nghe qua, chẳng phải Phật khởi dậy, Phật từ cõi khác đến, chuyển thân thành Phật. Vì để dứt mối nghi này, cho nên ở đầu kinh có câu “Tôi nghe như vầy”. Về nhân duyên kiết tập, trong tạng có ghi rõ ràng. Những lời giải thích ở trên, nói ta nghe là Bồ-tát truyền pháp tự chỉ cho thân mình, ý nói pháp này chính ta nghe Phật nói, cho nên nói ta nghe. Chẳng phải nói ta nhất định là một người nào. “Ta” là các uẩn, là pháp giả mượn của thế tục. Nhưng ngã có ba: 1.Vọng chấp là ngã: là chấp ngã ngang trái của ngoại đạo. Giả lập ra ngã: nghóa là các pháp thường lạc ngã tịnh trong kinh Đại Niết-bàn, vì gượng lập ra để trừ bỏ sự điên đảo của người Nhị thừa. Ngã lưu bố ở thế gian: là ở thế gian cùng truyền nhau về sự trao truyền của trời, của dòng tộc…. Nay người truyền pháp cũng thuận theo thế gian, tự xưng là ngã. Hỏi: Chư Phật nói pháp, vốn để dứt trừ chấp ngã, vậy vì sao không xưng là vô ngã mà lại xưng là “Tôi nghe”? Đáp: Có bốn nghóa: Nói cho dễ, nếu nói vô ngã thì chung cho cả uẩn xứ giới, thì biết ai nói kinh này. Thuận theo thế gian. Dứt trừ sự sợ hãi vô ngã, nếu nói vô ngã thì lấy ai mà tu? Có tự tha nhiễm tịnh, nhân quả sự nghiệp…. Cho nên nói là tôi nghe. Hỏi: Như vậy sao không xưng tên mình, mà chỉ xưng là tôi nghe? Đáp: Có ba nghóa: Mở bày không trái với tục tông, tuy hiển bày chân tông, cũng không trái với lý thế tục, tuy hiển bày lời hay đẹp mà không trái với dục vọng thô lậu, tuy hiển bày Chân-đế mà không lìa tục đế. Ngã là chủ tể, có nghóa là tự tại. Trong Tạp Tạng truyền rằng: có ba vị A-nan. Một là A-nan-đà, Hán dịch là Khánh Hỷ, nắm giữ tạng Thanh văn. Hai là A-nan-bạt-đà, Hán dịch là Hỷ Hiền, nắm giữ tạng Độc Giác. Ba là A-nan-già-la, Hán dịch là Hỷ Hải, nắm giữ tạng Bồ-tát. Ở đây chỉ có một người, tùy theo đức hạnh mà đặt tên khác. Do đó mà ngài A-nan học rộng, nghe giữ những điều mình đã nghe, đầy đủ ba tuệ, văn nghóa đều nắm giữ. Đối với ba tạng giáo nghóa đều tổng trì đầy đủ tự tại, nếu xưng tên mình thì dù thuận với chánh lý, nhưng đối với các pháp chẳng được nghóa tự tại, do đó mà xưng là ngã, không phải là nói A-nan. Ngã là tự thân: thế gian đều nói “Tôi thấy nghe”, lấy đây làm thân chứng. Nếu nói A-nan nghe, hoặc chẳng phải tự thân nghe, từ người khác truyền thọ. Nay nói lên tự thân nghe Đức Thế tôn nói pháp, chẳng phải do truyền lại mà nghe, phá hết lưới nghi kia, cho nên không nói tự thân, chỉ nói tôi nghe. Nghe là do nhó căn phát ra thức, nghe nhận lời nói, nay phế bỏ cái tai nghe mà gọi chung là ngã, nên nói là tôi nghe. Tuy theo Đại thừa thì căn thức, tâm sở đối cảnh hòa hợp thì mới gọi là nghe. Nhưng năm nghóa của căn, thì vượt hơn thức, nên căn gọi là nghe. Nếu chỉ nghe tiếng, thì chỉ ở lỗ tai; đã duyên với danh nghóa, chỉ ở trong ý. Luận Du-già chép: Nghe là sự so sánh, tai gọi là nghe đó là tự thân nghe âm thanh, ý làm cửa vào thì ý mới nghe, do đó cả hai đều là nghe, huân tập lại thì do nghe mà thành, gọi chung là nghe, chỉ bỏ ý của nhó căn, gọi chung là tôi nghe. Hỏi: Ngài Khánh Hỷ (A-nan-đà) đương thời đích thân cũng thấy biết lời Phật nói, vì sao chỉ nói tôi nghe mà không nói tôi thấy? Đáp: Vì có ba nghóa: Muốn chứng lý sâu xathì trước phải nghe pháp. Danh là nghóa giảng nói, chẳng phải sắc, Ở thế giới này lấy âm thanh thành Phật sự. Sự là chỗ nương, vì danh là có Mong chứng Bồ-đề: từ nghe mà huân tập, thành ra xuất thế. Vì kinh này tỉnh lược nên không chép: thấy, hay, biết, chỉ nói y theo sự thật tôi đã nghe. Bấy giờ cũng thấy Phật nói về các cõi nước khác, dùng ánh sáng thành Phật sự, cùng có thể nói thấy. “Một thuở nọ”: Tán rằng: Thứ hai là lúc nói giáo. Ở đây có hai nghóa: Đạo lý thời: Cả hai việc nói nghe, tuy chỉ đối với năm uẩn các hành hiện tại sát-na sinh siệt, tức các pháp hiện tại này có ý nghóa báo trả ở trước và dẫn dắt ở sau. Tức lấy cái được đáp trả, giả gọi là quá khứ. Lấy cái được dẫn dắt giả gọi là vị lai, đối với hai thứ này, nói là hiện tại, quá khứ vị lai này giả lập trên pháp hiện tại, các pháp năm uẩn của người nói và người nghe sát-na sinh diệt, trước sau đều nối tiếp nhau, từ đầu đến cuối giả lập ra ba đời, gọi chung là một thuở nọ, chẳng phải một thời sinh diệt. Duy thức thời: Sự thấy nghe đều dựa trên sự biến hóa của thức tâm phát khởi tướng trạng ba thời. Thật ra thì hiện tại tùy theo phần hạn của tâm mà biến hậin ra có dài ngắn, đầu cuối, gọi chung là một thuở nọ. Như những điều thấy trong mộng cho là đã trải qua nhiều cuộc sống, giác vị do tâm, đều không phải cảnh thật. Người nghe tâm biến ra, ba đời cũng như thế. Chỉ có sở duyên của ý không tương ứng với hành uẩn, thuộc về pháp xứ, pháp giới, không phải chỉ y cứ vào bốn thời, tám thời, chỉ do người nghe căn cơ thuần thục, cảm được lời Phật nói. Người nói vì lòng từ bi ứng cơ mà nói. Việc nói nghe đã xong, gọi là thời. “Phật” Tán rằng: Thứ ba là nói về giáo chủ, tiếng Phạm là Phật-đà, Hán dịch lược là Phật, là vị chủ có trí tuệ. Đời Đường dịch là Giác giả, Giác có ba nghóa: Tự giác: vượt hơn phàm phu, vì phàm phu không tự giác ngộ. Giác tha: vưột hơn Nhị thừa, vì Nhị thừa không giác tha. Giác hạnh viên mãn: vượt hơn Bồ-tát, vì Bồ-tát tuy tu hai giác hạnh trên nhưng chưa viên mãn. Luận Phật Địa chép: “Có trí Nhất thiết, trí Nhất thiết chủng, thì có khả năng tự khai giác, cũng có khả năng giác ngộ cho tất cả hữu tình, như ngủ biết là mộng, như hoa sen nở ra, nên gọi là Phật”. Theo các kinh bản Phạm đều gọi Đức Bổn sư là Bạc-già-phạm, Phật giáo đặt ra từ này vì bao gồm các đức. Chủ phiên dịch ý vẫn còn tỉnh lược, tùy phương mà sinh thiện, nên gọi là Phật. Hỏi: Thuộc về thân nào trong ba thân? Đáp: Y theo xứ và y theo cơ, ứng Thanh văn mà thành hóa Phật. Còn y theo văn, theo lý thì vì giáo hóa Bồ-tát mà hiện ra báo thân. Người cảm thì căn khí khác nhau, nên sự ứng hiện cũng khác. Ở Vương Thành Thứu lãnh lúc kiếp hết thì lửa thiêu, Thu Tử nghe kinh đó là hóa Phật. Ở cõi ta an ổn, tuổi thọ dài lâu. Ngài Văn-thù trong đó tức là báo thân. Trưởng giả Cù-sư-la nhìn thấy ba thước dài đã phát tâm. Năm trăm vị Bà-la-môn thấy tro thân mà khởi lòng tin. Bồ-tát vô biên cùng tận thượng giới vẫn có chỗ trụ khàc. Các phàm phu tiểu thánh quán một trượng sáu chẳng nơi nào không cùng tận. Nay hiển bày chủ Tôn, giáo hóa tùy theo đó nhất định vượt hơn. Đầu tiên nêu ra giáo chủ, giúp cho sinh tâm vui mừng. Kinh chép: Tại rừng cây Thái tử Kỳ-đà vườn Trưởng giả Cấp cô độc, trong thành Vương-xá. Tán rằng: Thứ tư là chỗ giáo hóa. Tiếng Phạm là Thất-lợi-la- phiệt-tất-để. Nói Xá-vệ là dịch âm lược sai. Đây là tên kinh thành của nước Kiều-tát-la ở nước Ấn Độ. Vì muốn nêu riêng nước Kiều-tát-la, nên gọi thành là nước. Kinh Kim Cương Bát-nhã chép: ở thành Xá-bà-đề có hai anh em, tu tập đạo tiên ở đó, về sau đắc quả. Thành này do đó mà đặt tên là Xá-bà-đề. Nay theo lý giải thích mới nên gọi là thành Phong Đức, là vì: Có đầy đủ tài vật. Cảnh đáng ưa thích. Đầu đủ học rộng. Dồi dào giải thoát. Nước có đầy đủ bốn đức, nên gọi là thành Phong Đức. Kỳ Thọ lẽ ra dịch là rừng Thệ đa, gọi Kỳ Thọ là sai. Thệ-đa là Chiến Thắng. Đây là tên Thái tử. Khi sinh Thái tử, các nước lân bang do giặc thù kéo đến, cả nước chiến đấu thắng lợi cho nên mới Thái tử được đặt tên là Chiến Thắng. Cấp cô độc là Trưởng giả Tô-đạt-đa, Hán dịch là Thiện Thí, thích làm việc nhân từ bố thí mà lại lanh lợi thông minh. Của cải chứa nhóm đều bố thí hết, cứu giúp những người chịu cảnh nghèo khổ, sống cô thân đơn độc. Người bấy giờ cảm ơn đức tốt đẹp đó nên gọi ông là Cấp Cô Độc. Bát-thích-tê-na-đặc-đặc vương, xưa dịch là vua Ba-tư-nặc, Hán dịch là Thắng Quân, Tô-đạt-đa là đại thần của vua này. Phật ngự tại nước Ma-kiệt-đà, khi chưa đến thành Xá-vệ, Trưởng giả Cấp cô độc vì cưới vợ cho con nên đến thành Vương-xá. Lúc ấy, có vị Trưởng giả trải chiếu thỉnh Phật đến nhà cúng dường, Thiện Thí hỏi lý do, Trưởng giả nói đầy đủ lại việc thỉnh Phật, Thiện Thí nghe ân đức của Phật rất tin sâu vui mừng. Phật ngự tại núi Linh Thứu, Thiện Thí tìm đến, khi còn cách hơn năm mươi dặm Đức Phật đã phát ra ánh sáng chiếu đến Thiện Trí, Thiện Thí dõi theo ánh sáng đó từ xa nhìn thấy Thế tôn. Trong lòng bi cảm vui mừng như con gặp cha. Lần theo ánh sáng đến chỗ Phật, giữa đường gặp miếu thần hoàng, Thiện Thí lễ bái, ánh sáng Phật biến mất, Thiện Thí hổ thẹn, ánh sáng lại chiếu tỏ, bèn tìm đến chỗ Phật, thưa hỏi Ngài: “Chư Phật hóa độ người hữu duyên khắp các nước, đâu riêng ở cõi này?” Bấy giờ Phật chấp nhận, bảo Xá-lợi-phất đến xem trước. Phật dạy: “Người xuất gia cần ở chỗ vắng lặng.” Người ở thành Phong Đức rất ồn ào náo nhiệt, thành lại nhỏ hẹp, chỉ ở phía Nam thành cách hơn năm, sáu dặm có khu vườn của Thái tử Thệ Đa, cõi đất yên tịnh, phong cảnh đẹp đẽ, trong rừng đầy hoa cỏ, chu vi mười dặm có thể xây già-lam. Thiện Thí muốn xin mua chỗ đó, Thái tử không chịu bán, lại cười bảo rằng: “Trải vàng khắp mặt đất, dầy năm tấc, được vậy mới bán”. Thiện Thí bằng lòng, Thái tử lại từ chối bảo là nói đùa. Thiện Thí cố trình bày mãi không được, bèn mời người đối lý. Bây giờ, các vị trời ở cõi trời Tịnh cư sợ người ngăn trở bèn hóa thành một người xử kiện, đối lý cho Thiện Thí được thắng kiện. Sau đó, Thiện Thí đem vàng đến trải khắp mặt đất. Khi còn thiếu khoảng năm trăm bước nữa mới đủ cả mười dặm thì vàng trong một kho đã hết. Sứ giả đến báo, Thiện Thí suy nghó không biết nên lấy ở kho báu nào? Thái Tử nghi ông đã hối tiếc, đòi lấy đất lại, Trưởng giả trình bày rằng, tâm ông không hề hối tiếc. Thái tử thấy Thiện Thí rất thành khẩn, liền phát tâm lành nghó rằng: Cái mà người ta quý trọng không gì hơn vàng bạc, mà ông ấy còn đem hết vàng bạc trong kho báu ra mua đất, để lập tăng xá, ta nào có thiếu thốn gì mà không tu tạo? Rồi muốn đòi lại mảnh đất trước, Trưởng giả không chịu, Thái tử chép: Bán đất lấy vàng không bán cây cối. Đất thuộc về ông, còn cây là của tôi. Vậy thì cùng nhau giúp thành cúng dường. Ngoại đạo sinh tâm ganh ghét, tấu lên vua mọi chuyện. Sáu phái ngoại đạo đều giảm bớt, cả nước đều xem trọng Thích giáo. Về sau Phật đến đây, bảo A-nan rằng: “Đất thì do Thiện Thí mua, vườn cây do Kỳ-đà cúng, hai vị đồng tâm tạo phước, từ nay trở đi nên gọi đất này là rừng cây Thái tử Thệ-đa vườn Trưởng giả Cấp cô độc,”. Đất trải vàng từ đây mà có tên. Kinh chép: Cùng chúng đại Tỳ-kheo gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Tán rằng: Thứ năm là nói về các căn cơ được bao trùm, chia làm bốn môn. Nói lên lai ý. Nói về quyền thật. Quyết định nhiều ít. Nói về thứ lớp. Lai ý có hai: Chứng tín: Nêu thính chúng để giúp thành tựu sự trùng tuyên giáo pháp của ngài Khánh Hỷ, người nghe pháp đáng tin, đại chúng có ba điều nghi, nay nói lên cùng nghe Chứng kinh đức: Như cácvị trời vây quanh trời Đế-thích, Phạm chúng vây quanh trời Đại Phạm Thiên Vương, nay nói lên các Thánh vây quanh đấng Pháp Vương Nói về quyền thật: Như trong Luận Phật Địa chép: Hóa Phật trong cõi uế, các Thanh văn là thật, Bồ-tát là quyền. Trong cõi Tịnh của Báo thân Phật, Bồ-tát là thật,Thanh văn là quyền. Đã là cõi uế thì Bồ-tát là quyền. Quyết định nhiều ít: Đầu tiên có năm chúng. Chúng đạo hạnh cao quý. Chúng bi tâm rộng lớn. Chúng chư thiên ưa thích nghe pháp. Chúng đường người cõi Dục. Chúng phi thiên tu-la. Ba chúng trên ở đây sẽ nói ra, hai chúng dưới trình bày sau. Hỏi: Vì sao kinh khác lại gồm có các chúng tám bộ… kinh này chỉ có năm chúng? Đáp: Khuyên tu quy hướng Tịnh độ, cảnh trí rất mầu nhiệm, đất đai tốt đẹp. Nếu chẳng phải bậc thượng đức thượng hiền thì không thể tin nhận, cho nên chỉ nêu năm chúng, không nêu các chúng khác. Nói về thứ lớp: Trước nói về hai chúng Thanh văn và Bồ-tát, đó là chúng nội hộ. Kế là nêu Đế Thích là chúng ngoại hộ. Lại chúng nội hộ thì trước nói Thanh văn, sau mới nói Bồ-tát. Trong Luận Phật Địa có giải bốn ý: Hình tướng khác nhau: Người Thanh văn xuất gia, hình tướng đồng với Chư Phật, Bồ-tát thì không như thế. Nơi chốn thì có xa gần: Thanh văn gần gũi Phật, Bồ-tát thì xa. Giới đức có khác nhau: người Thanh văn xuất gia, giữ giới xuất gia, Bồ-tát thì không phải như thế, vì tùy loại mà hóa sinh. Muốn giúp cho Bồ-tát xả bỏ tánh kiêu mạn đối với Thanh văn. Chúng đạo hạnh cao quý lại chia làm ba: Nêu số loại. Khen ngợi công đức. Nêu danh. Ở đây nói phần đầu. “Dữ” nghóa là “Cùng”, “Và”. Ngài Long Thọ giải thích chữ Đại (lớn) có năm nghóa. Số lượng lớn: có một ngàn hai trăm năm mươi vị Thanh văn. Lìa bỏ lớn: là đại chướng đã dứt bỏ. Địa vị lớn: là đại A-la-hán. Tên tuổi lớn: tiếng tâm đồn xa. Hiểu biết lớn: là bậc đại nhân mà đại chúng đều biết. Tiếng Phạm gọi là Bí-sô, dịch lầm là Tỳ-kheo. Vì có năm nghóa sau đây nên không dịch: Bố ma: vì khi người mới xuất gia, thì cung ma bị rung chuyển. Khất só: vì khi đã xuất gia thì đi xin ăn để tự nuôi sống. Tịnh trì giới: vì vào trong tăng số, nên giữ giới. Tịnh mạng: khi đã thọ giới thì giữ gìn ba nghiệp cho thanh tịnh, không để cho lòng tham phát ra,không theo tà mạng để nuôi thân. Phá ác: vì dần nương vào Thánh đạo, dứt hết phiền não tà kiến. Dùng cỏ để đặt tên, dụ cho cỏ năm đức, nên gọi là Tỳ-kheo. Chúng nghóa là Tăng, hòa hợp cả lý sự thì gọi là chúng, từ ba vị trở lên được gọi là Tăng. Một ngàn hai trăm năm mươi vị cùng nhóm hội tại vườn Thái tử Kỳ-đà. Kinh chép: Đều là bậc Đại A-la-hán, mọi người đều biết. Tán rằng: Thứ hai là khen ngợi công đức, kinh Đại Bát-nhã dịch mới và mười sáu câu trong cựu luận, nói đều là A-la-hán, các lậu đã dứt hết, không còn phiền não, được tự tại thật sự, (trong kinh này là một câu đầu). A-la-hán, trong luận Duy Thức thì Hán dịch là “ứng”, (nên phải, xứng đáng) có đủ ba nghóa: Vì phải dứt hẳn giặc phiền não. Vì xứng đáng thọ sự cúng dường của trời, người. Vì không còn chịu sinh tử phần đoạn. “Mọi người đều biết” là chỉ cho các vị danh cao đức trọng được mọi người biết tiếng. Kinh chép: Trưởng lão Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên Tán rằng: Thứ ba là nêu danh, chia làm hai: Nêu tên. Tổng kết. “Các đại đệ tử như thế” là Tổng kết. Lại phần nêu tên chia ra thành tám cặp đối nhau: Cặp nội trí, ngoại thông. Cặp khổ hạnh, biện tài. Cặp ngộ không, biết huyễn. Cặp bỏ ngu, lìa dục. Cặp học rộng, mật hạnh. Cặp lưu tuyền, ứng cúng. Cặp hóa tham, trừ mạn. Cặp thí thuốc, cúng tăng. Ở đây là nói phần đầu. Cũng có hai nghóa, gọi là Trưởng lão: Tuổi cao hạ lớn. Học rộng hiểu sâu. Tiếng Phạm là Xà-lê-phất-đát-la, Hán dịch là Xuân Lộ, cũng dịch là Thu Điểu. Phất-đát-la, Hán dịch là Tử. Vì dịch lược sai nên gọi là Xá- lợi-phất. Khi mẹ chưa mang thai, là nói năng thường ngọng nghịu kém lời, luận bàn lý nghóa với anh là Câu-hy-la đều bị thua. Từ khi mang thai Ngài, thì bà trở thành hùng biện thông suốt. Luận bàn thắng anh mình. Vì mẹ biện tài giỏi nên gọi là Xuân Lộ tức nay là chim trăm lưỡi, con gọi theo tên mẹ nên, cũng gọi là Thu Tử. Tôn giả dòng Bà-la-môn, cha là người học rộng nhiều tài, tinh vi sâu xa, dù là kinh điển sách vở nào đều nghiên cứu học tập. Người vợ nằm mộng, bèn nói với chồng: “Tôi nằm mộng thấy một người lạ, thân mặc áo giáp đội mũ trụ, tay cầm chày kim cương, đập vỡ các hòn núi, sau đó lập một hòn núi. Chồng bảo: Bà nằm mộng như vậy là tốt, chắc chắn sinh con trai, tuệ học đều hơn người đời, phá hết các luận sư, và các tông phái khác.” Nhưng họ không biết người đó là đệ tử Phật. Quả nhiên, khi mang thai, người mẹ trở nên thông minh cao đức, nói năng luận biện đều thông suốt. Khi Tôn giả mới tám tuổi đã nổi tiếng khắp nơi, tánh tình thuần lương chân chất, tâm hạnh từ bi, sớm bỏ hết mọi buộc ràng, thành tựu trí tuệ, nên gọi là Nội trí. Hỏi: Ngàn vị La-hán ở nơi khác đều đến Kỳ viên, cùng chứng ba minh, đều đắc bốn quả, nêu tên các vị đó, vì sao nêu ngài Thu Tử trước? Đáp: Chỉ có Thu Tử có sự biện luận vượt hơn các vị tiểu Thánh, trí tuệ hơn người thường. Là người phát thỉnh trên Linh Sơn trước tiên, là bậc thượng thủ nghe kinh ở thành Xá-vệ, cho nên nêu trước tiên đâu có trái lý. Tiếng Phạm là Ma-ha-một-đặc-già-la, Hán dịch là Đại Mục-kiền- liên là không đúng, ở Hán dịch là Đại Thái Thúc Thị. Đời thượng cổ có vị tiên ở trong chốn núi sâu yên tịnh, thường hái đậu đũa để ăn, do đó mà lấy họ là Thái Thúc (Đậu đũa). Mẹ của Tôn giả thuộc dòng họ này, bà lấy họ mình để đặt tên con, được thần thông rộng lớn, để so sánh với các họ Thái Thúc thấp kém hơn nên gọi là Đại Thái Thúc. Ngài và Thu Tử thuở nhỏ là bạn thân, rất nhàm chán cõi trần luî nhưng chưa biết chỗ quy về, hai vị cùng học pháp với ngoại đạo San-xà- da và đều cho đây chẳng phải đạo lý rốt ráo. Mỗi vị đều tham học các nơi để tìm cầu pháp cao siêu, bấy giờ ngài Xá-lợi gặp Tôn giả Mã Thắng vào thành hóa đạo. Thu Tử thấy vị này uy nghi nhàn nhã, liền bước đến hỏi: “Thầy của Tôn giả là ai? Đáp: Đức Thích-ca Thế tôn là thầy tôi Thu Tử hỏi: Ngài nói pháp gì? Có thể nói cho tôi nghe được không? Tôn giả Mã Thắng tùy nghi giảng pháp: “Các pháp do duyên sinh Các pháp diệt theo duyên Đức Thích-ca Như lai Thường nói pháp như thế.” Thu Tử nghe xong liền chứng Sơ quả. Sau đó tìm gặp Mục-liên nói lại bài pháp đã nghe. Mục-liên cũng chứng Sơ quả. Bèn cùng nhau dẫn hai trăm năm mươi vị đồ đệ đến chỗ Phật đảnh lễ xin học Phật pháp. Đức Thế tôn dạy: “Lành thay Bí-sô”. Nghe lời đó xong, các vị giới phẩm đều đầy đủ, dần dần tiến tu, thành tựu quả La-hán. Vị Tôn giả này thần thông bậc nhất, hiếu thảo dưỡng nuôi cha mẹ không ai bằng, cứu khổ chúng sinh ở chốn tăm tối, dẫn dắt mẹ sinh về cõi trời, cho nên gọi là Ngoại thông. Chánh kinh: Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên. Tán rằng: Thứ hai là cặp khổ hạnh, biện tài. Ma-ha đã giảng ở trước Ca-diếp: tiếng Phạm là Ca-diếp-ba, là họ, ở đây gọi tắt là Ca-diếp, họ này thuộc dòng Bà-la-môn, thuộc dòng Tiên nhân Ẩm Quang, Xưa có một vị Bà-la-môn, chứng được quả tiên, thân đều có sắc vàng, lấn át cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng, Tôn giả thuộc dòng họ này, nên lấy họ nêu danh. Lại thân ngài Ca-diếp, lấn át cả ánh sáng mặt trời mặt trăng, nên lấy đó làm hiệu. Trong Phó Pháp Tạng Truyện chép: Trải qua chín mươi mốt kiếp ở thời quá khứ, sau khi Phật Tỳ-bà-thi nhập Niết-bàn, bốn bộ đệ tử xây tháp bảy báu thờ Xá-lợi. Bấy giờ, trong tháp kia có hình tượng Phật. Lúc ấy, mặt Phật sắc vàng, có một chỗ nhỏ bị hư, có một cô gái nghèo xin được một đồng vàng, thấy mặt Phật bị hư muốn sửa lại. Ca-diếp bấy giờ làm thợ bạc, cô gái liền cầm đến chỗ người thợ bạc. Người thợ nghe nói làm phước cũng rất vui mừng bèn phát nguyện làm cho. Cô gái chép: “Nguyện sinh ra đời đời đều làm vợ chồng, được thân sắc vàng, thường được sự vui sướng, thường tu phạm hạnh”. Từ đó đến nay, trải qua chín mươi mốt kiếp được thân sắc vàng, sinh lên cõi trời, cõi người, hưởng sự vui sướng vô cùng tận. Cuối cùng sinh lên tầng trời thứ bảy. Bấy giờ ở nước Ma-kiệt-đà có một vị Bà-la-môn tên là Ni-câu- luật-đà, vào thời quá khứ thường tu phước, thông minh trí tuệ, phước đức vô lượng. Của cải châu báu ngựa xe, súc vật, vườn ruộng, nhà cửa, tôi tớ so với vua Bình-sa nhiều hơn cả ngàn lần. Vua có một ngàn khí cụ làm ruộng bằng vàng. Vị Bà-la-môn kia sợ bằng vua sẽ bị tội nên trong nhà chỉ làm có chín trăm chín mươi chín đồ vật bằng vàng. Trong nhà có một ngàn tấm dạ, giá trị một tấm là rất nhiều lượng vàng. Có sáu mươi bồ lúa, mỗi bồ lúa có ba trăm hộc lúa vàng. Nhà ông tuy giàu có mà không có con nối dõi. Bên cạnh nhà có một vị thần cây rất linh ứng. Vợ chồng nhiều lần ra đó cầu con, đã lâu năm mà không linh ứng, bèn tức giận chép: “Bảy ngày nữa ta hết lòng thờ phụng cúng dường, nếu không linh nghiệm, thì sẽ đốt cây”. Thần cây rất lo lắng, bảo với Bốn vị Thiên Vương, bốn vị Thiên Vương nói với Đế-thích, Đế-thích tìm khắp nơi trong cõi Diêm-phù-đề không ai có thể đầu thai làm con vị này được, bèn đến chỗ Phạm Vương, nói lại việc trên. Phạm Vương bèn dùng Thiên nhãn nhìn xem khắp nơi, có một vị Phạm thiên sắp qua đời, liền đến khuyên vị ấy nên đầu thai làm con Bà-la-môn. Vị Phạm thiên nghe lời, bèn thác sinh vào nơi đó, Đủ mười tháng, sinh ra một bé trai, mặt mũi thật khôi ngô thân màu vàng ròng, chiếu sáng cả bốn mươi dặm thầy xem. Tướng sư đoán rằng: Đứa bé này có phước đời trước, chắc chắn sẽ xuất gia. Cha mẹ nghe nói đều rất lo buồn, bởi muốn cầu con để kế nghiệp, nếu đi xuất gia thì sẽ bị tuyệt tự. Vợ chồng bàn tính với nhau phải làm cách nào con bỏ ý định xuất gia. Suy đi tính lại chỉ có nữ sắc mới cầm chân được, thế là liền cưới vợ cho con. Khi Ca-diếp được mười lăm tuổi, cha mẹ định hỏi vợ, Ca-diếp nói với cha mẹ “ý chí của con chỉ muốn thanh tịnh, không muốn lấy vợ”. Cha mẹ không bằng lòng, người con biết khó từ chối, bèn tìm cách, thưa với cha mẹ: Nếu có người con gái nào thân màu vàng tím như con, lại xinh đẹp hơn người thì con mới lấy. Cha mẹ liền nhờ các vị Bà-la-môn đi khắp nơi tìm vợ cho con, các Bà-la-môn đúc một thân bằng vàng, thật xinh đẹp đặc biệt, lại sai người đi khắp xóm làng, lớn tiếng xướng rằng: Nếu nhà nào được thấy và lễ bái thần vàng này thì sau khi xuất giá, sẽ được chồng tốt. Có một cô gái, thân thuần màu vàng, xinh đẹp vô cùng, nghe lời rao này, liền đến lễ bái thần vàng. Trưởng giả nhìn thấy rất vui mừng, liền hỏi làm vợ cho con. Vợ chồng gặp nhau mà không có tình nhiễm, cùng giữ tinh khiết, mỗi người ở một phòng. Cha mẹ hay biết liền bỏ một phòng, bắt hai người ở chung. Ca-diếp bảo vợ: “Khi ta ngủ, nàng nên tu đạo, khi nàng ngủ, ta cũng tu đạo”. Một lần, khi vợ đang ngủ, tay duỗi ra ngoài giường. Có một con rắn độc bò vào giường, định cắn vào tay người vợ, Ca-diếp nhìn thấy, dùng y quấn tay, đưa vào giường, người vợ liền tỉnh giấc, và trách rằng: “Vốn đã lập thệ nguyện, mỗi người tu phạm hạnh, nay sao anh lại đụng vào tay tôi.” Ca-diếp thuật lại sự việc, vợ chép: Rắn độc cắn vào tay tôi, tôi chỉ chết nửa thân. Còn anh đụng vào tay tôi thì sẽ khiến cho đọa vào ba đường.” Vợ chồng cùng giữ tịnh hạnh, nhàm chán cảnh thế gian. Bèn từ biệt cha mẹ, xin đi xuất gia. Cha mẹ thấy chí con không đổi, bèn bằng lòng cho đi. Vợ chồng đều xuất gia, cùng đến chỗ Phật, Phật liền nhiếp thọ và đều được chứng quả. Vị Tôn giả này tâm bền chắc như ngọc trắng, thân thể toàn màu vàng, tu hạnh đầu-đà không ai bằng, lại tu hạnh ít muốn biết đủ, nghiệp lặng tình không.Tuy không vào vắng lặng, nhưng lại lưu thân nhập vào Tam-muội trong núi Kê túc, hiến ca-sa trong hội Long Hoa, nên gọi là khổ hạnh. Ca-chiên-diên, tiếng Phạm là Ma-ha-ca-đa-diễn-na, dịch Ca Chiên Diên cũng là dịch sai. Trong kinh Đại Bát-nhã chép: Ca-đa-diễn-ra, Hán dịch là Đại Tiển Thế Chủng Nam, Tiễn Thế Chủng là dòng họ Bà-la-môn. Vào thời thượng cổ có vị tiên, ở trong núi yên tịnh, tuổi tác đã cao, râu tóc ra dài mà không có ai cắt cho. Theo pháp Bà-la-môn chê trách việc cắt bỏ râu tóc. Vị tiên này có hai người con, một hôm cùng đến thăm cha. Người con nhỏ cắt tóc cho các vị Tiên các vị Tiên cũng nguyện che chở, sau tu thành đạo tiên. Từ đó đến nay dòng họ này đều xưng là Tiển Thế (cắt bỏ râu tóc). Tôn giả thân là người nam, uy đức đặc biệt tôn quý hơn các dòng họ khác, nên gọi là Đại Tiễn Thế Chủng Nam. Lại ở Tây phương cũng có người lấy họ mẹ, nay đổi lại họ cha, nên đặt tên là Nam, xưa dịch là Phiến Thằng. Người mẹ rất thương con, như dây buộc quạt không muốn rời xa. Lại lúc xưa có quét đất cho một người thọ năm giới, nên được quả báo thân tướng trang nghiêm vô song. Ngài đi du hành hóa đạo, gặp vua Bát-thú-đa, lấy làm lạ về thân tướng của Ngài bèn bạch hỏi Đức Thế tôn, Đức Thế tôn đáp: “Vị này trước đây có quét dọn ô uế giúp người thọ năm giới. nên được thân khôi ngô.” Vua rất vui mừng liền phát tâm lành. Ngài biện luận vô song, nên gọi là luận nghị bậc nhất. Vị Tôn giả này biện luận sôi nổi như sóng dậy, dung mạo như băng ngọc, có thể dùng ngọn đuốc chánh pháp phá trừ bao tăm tối trong đêm dài, dùng ngôn từ chánh giáo bẻ gãy hết các tông đảng của sáu phái ngoại đạo nên gọi là Biện tài. Chánh kinh: Ma-ha Câu-hy-la, Ly-bà-đa. Tán rằng: Thứ ba là cặp ngộ không, biết huyễn. Ma-ha Câu-sắt- sỉ-la, dịch là Đại Tất, vì đầu gối rất lớn, nên dịch Câu-hy-la là sai. Là cậu ngài Xá-lợi-phất, luận biện với em gái, mấy lần bị thua nên giận dữ bỏ đi xa, học rộng các môn, khi thành bèn trở về nước, thì em gái đã già, người cháu thì xuất gia. Ngài bèn vào chùa, tìm Phật để luận biện, trên đầu đội chậu lửa, thân mặc lá sắt, tóc dài chấm đất, áo giáp dài hơn thước, huýt sáo nghêu ngao đi đến chỗ Phật, tâm thật kiêu mạn như chỗ không người. Khi thấy Đức Thế tôn bèn hỏi rằng: “Giáo hóa cháu tôi, dùng pháp gì để dạy?”, liền yêu cầu luận nghị. Đức Thế tôn hỏi: Ông dùng pháp gì làm tông? Đáp: Tôi lấy không thọ tất cả pháp làm tông. Phật hỏi: Nói không thọ tất cả pháp cũng là thọ rồi. Câu-hy-la tuy thua, nhưng tâm kiêu mạn chưa dứt. Đức Thế tôn bèn dùng thần lực giúp cho áo sắt bó lấy thân, chậu lửa cháy đầu. Khi đó ông mới hoảng sợ bái phục, thành tâm sám hối, xin đầu Phật xuất gia, Phật bảo: Thiện lai! Ngài liền có đủ tăng nghi nhàn nhã, chứng quả A-la-hán, liền ngộ lý không, đắc được đạo quả, hiệu là Ngộ Không. Vị Tôn giả này là người thông hiểu đạo thuật, xem rộng các kinh sách, biện luận làm nghiêng đổ cả sông nước, lời nói trong suốt như ngọc, một lời ngộ đạo năm uẩn đều không, mong vãng sinh về Tịnh quốc, cùng đến Kỳ viên nghe pháp, nên gọi là Ngộ Không. Tôn giả Ly-bà-đa, tiếng Phạm là Hiệt-lệ-phiệt-đa, Hán dịch là Thất Tinh, là một ngôi sao ở phương Bắc do cầu sao ấy được con nên đặt tên. Hoặc tên là Tuệ tinh, Tuệ tinh là ngôi sao đẹp. Khi ông sinh ra vào lúc ngôi sao xuất hiện, do đó được đặt tên là Tuệ Tinh, dịch Ly-bà- đa là sai. Hoặc dịch là Giả Hòa Hợp. Trong Luận Trí Độ chép: “Có một người tránh mưa, vào trong miếu thần tá túc. Nửa đêm thấy một con quỷ lôi một thây chết đến để ăn thịt. Trong khoảnh khắc liền có một con quỷ lớn hơn cũng đến dành ăn thây chết ấy. Mỗi con đều cho rằng của mình mang đến. Con quỷ lớn có sức mạnh, bèn đoạt lấy ăn, con quỷ nhỏ chép: “Có người trên xà nhà làm chứng”. Người kia vì thấy việc quái lạ kinh sợ, bèn thật tình chép: “Quỷ nhỏ đem đến trước.” Quỷ lớn nghe vậy rất tức giận, bèn bắt người đó, bẻ lấy một chân ăn rồi bỏ đi. Quỷ nhỏ cảm ơn người làm chứng, liền lấy chân của thây chết gắn vào, liền lành lặn như cũ. Do đó, người ấy chợt nghó: Thân này thật là hư huyễn, rồi tìm đến chỗ Phật, hỏi Đức Thế tôn: Đường sinh tử riêng khác, kia đây đều khác nhau, sự giả hợp thân này là do đâu? Đức Thế tôn bảo rằng: “Bốn đại giả hợp, năm uẩn như ánh sáng (có đó rất chu đáo), ngộ ra thì sẽ hiểu.” Người ấy liền tỏ ngộ, xin Phật xuất gia, dần dần chứng quả Thánh. Vị Tôn giả này tâm không chấp mắc, miệng không nói lời luống dối. Vì bị quỷ làm bị thương một chân, lại được Phật giác ngộ sự huyễn hóa của cuộc đời, nên gọi Ngài Tri Huyễn. Chánh kinh: Châu-lợi-bàn-đà-già, Nan-đà. Tán rằng: Thứ tư là cặp xả ngu, lìa dục. Châu-lợi-bàn-đà-già, Hán dịch là Lộ Biên Sinh. Có vị Trưởng giả, có cô con gái lấy chồng, khi có thai bèn trở về nhà cha mẹ ruột để sinh nở, giữa đường thì sinh con, đặt tên là Lộ Biên Sinh, hai anh em, anh tên là Bàn-đà-già, em là Châu-lợi-bàn-đà-già. Kinh Tăng Nhất chép: Cha mẹ hai vị này đều mất, người anh vào đạo trước đã chứng quả, người em sau đó cũng xuất gia vì ngu muội nên tu đã lâu mà chưa hiểu ngộ. Người anh lấy làm lạ hỏi: Vào chùa đã lâu mà sao chưa lãnh hội? Bèn đuổi về nhà không cho tu tập. Người em đứng trước cổng chùa khóc lóc buồn thảm, Đức Thế tôn nhìn thấy, bảo mỗi ngày lấy việc cầm chổi quét nhà làm tụng học, hễ nhớ một chữ lại quên một chữ, về sau hoát nhiên tỉnh ngộ, nói rằng: “Quét dọn nghóa là trừ hết nhơ bẩn, liền được sạch sẽ. Đó là Đức Thế tôn muốn ta dứt hết phiền não nhơ bẩn trong thân.” Nhờ đó mà được chứng quả. Lại trong Kinh Ngũ Bá Đệ Tử Bổn Khởi chép: Vị Tôn giả này ngày trước cưỡi heo qua sông, lấy dây buộc miệng heo làm nó bị ngẹt thở chết, do đó mà đời này bị mê muội, nhờ xả bỏ ngu muội mà được trí tuệ. Tôn giả đời trước gây nghiệp ác, đến đời này mới được tiêu trừ. Biết là dùng chổi quét có công năng dọn sạch nhà cửa, giác ngộ được tự thân nên tỏ ngộ mà xua tan tối tăm, nên gọi là xả ác. Tiếng Phạm là Tôn-đạt-la-nan-đà, Hán dịch là Diễm Hỷ, dịch Tôn-đà-la là sai. Diễm là hiệu của người vợ, vì nhan sắc xinh đẹp không ai bằng nên gọi là Diễm. Hỷ là tên Ngài, để phân biệt với Mục-ngưu Nan-đà, nên gọi là Diễm Hỷ, là sự ưa thích sắc đẹp. Là em của Phật, thân cao một trượng năm thước hai tấc, Phật hóa độ Nan-đà, giúp ông ra khỏi sanh tử, nhưng lòng còn mến tiếc vợ đẹp. Phật bày các phương cách chỉ bày những việc khổ vui rồi mới chịu đi xuất gia, sau đó chứng quả Thánh. Tôn giả là em của Đức Thế tôn, vui mừng trong thâm tình anh em, nhưng còn luyến sắc đẹp ở chốn cung vua, Phật mở bày những việc ác ở địa ngục, do đó mà sợ hãi hồi tâm. Biết rõ tham dục là nguồn gốc của khổ đau, sắc đẹp là cội gốc của mọi tai ương, xả bỏ vinh nhục tốt xấu thế gian, cạo tóc xuất gia nên gọi là lìa dục. Chánh kinh: A-nan-đà, La-hầu-la. Tán rằng: Thứ năm là cặp học rộng, mật hạnh. Tiếng Phạm La- hầu-la, Hán dịch là Khánh Hỷ, nhưng gọi là Nan-đà, dịch Hoan hỷ cũng là dịch sai. Khi Đức Thế tôn thành đạo, trong ngoài đều vui mừng. Khi ấy, ngài A-nan vừa sinh ra nên đặt tên là Vui mừng, sau đó theo Phật tu hành chứng quả Thánh. Lại luận chép: Tôn giả đời trước từng là một vị Trưởng giả giàu có, nhân bố thí nước uống cho một vị Sa-di tụng kinh, bèn phát thệ nguyện rằng: “Nguyện khi vị tiểu sư này thành Phật, tôi xin làm đệ tử học rộng, khi nghe nói pháp thì ghi nhớ đầy đủ”. Nay đã đúng với chí nguyện, được học rộng nghe nhiều. Tôn giả này khuôn mặt khôi ngô như vầng trăng thu, tâm tỏ sáng như mặt trời. Khi kết tập kinh điển trong hang núi tụng hết những lời trong ba tạng, phân thân đi trên nước, nhận lời thỉnh của bốn vị thiên vương, nên gọi là Học rộng. Tiếng Phạm La-hầu-la, Hán dịch là Chấp Nhật, dịch La-hầu-la là không đúng. Chấp Nhật có nghóa là che lấp chướng ngại. Đời trước từng làm Thái tử của nhà vua, gồm hai anh em, người anh tên Nhật, người em tên Nguyệt. Sau khi nhà vua băng, người anh được nối ngôi, nhưng rồi lại chán cảnh vinh hoa giàu sang, bèn nhường ngôi cho em, đi đầu Phật xuất gia, tinh giữ cấm giới, không chút sai phạm. Sau, vào một đêm tăm tối, dùng lầm bình nước của người khác, bèn rung chuông nhóm họp chúng lại để sám hối. Chúng tăng biết tội này quá nhỏ nhặt nên không cho làm pháp sám hối. Vị này ưu sầu buồn bã, tự đi vào cung thất của Nguyệt Vương, cầu sám hối tội trộm. Nguyệt Vương không muốn trái ý anh, bèn đuổi hết những người xung quanh, rồi trói người anh trong phòng, lại còn tham vì làm vui lòng anh mà trị phạt đến sáu ngày. Nay bị quả báo ở trong thai đến sau năm. Lại có chỗ nói: Đời trước lấp hang chuột sáu ngày, nay bị quả báo ở trong thai mẹ sáu năm. Những sự tích này đều không rõ ràng. Ngày đi vào thành Thái tử, cầm roi ngựa chỉ vào bụng Da-du, rằng nàng đã có thai, để chỉ thai này có biểu hiện vượt hơn người thường, hiện những điều kỳ đặc khác thường. Sáu năm ở trong thai mẹ, khi sinh ra tánh chất đã khác thường. nhà vua nghi ngờ, đem mẹ con để trên lửa đốt, lửa biến thành ao sen, nên không bị thương tổn. Vua Quan đều dứt sự nghi ngờ, biết Đức Thích-ca lìa nhiễm tình đã lâu, và nói lên việc La-hầu-la khác nhau với chúng khác. Lại dùng châu ngọc cúng dường Phật, minh chứng cho Da-du, ngài Xá-lợi-phất nhận La-hầu-la làm đệ tử, dạy cho tu hành giải thoát. Ngài thực hành thiểu dục tri túc, tu đại mật hạnh, chứng đắc quả vị thứ tư. Vị Tôn giả này thánh phàm không lường được, nhân quả khó biết. Trong tâm tu hạnh Bồ-tát, ngoài hiện tướng Thanh văn, nên gọi là Mật hạnh. Chánh kinh: Kiều-phạm Ba-đề, Tân-đầu-lô-phả-la-đọa Tán rằng: Thứ sáu là cặp lưu tuyền, ứng cúng, tiếng Phạm là Cấp- phòng-bát-để, Hán dịch là Ngưu Tướng, dịch Kiều-phạm Ba-đề là sai. Ở thời quá khứ do ngắt một thân cây lúa, làm cho hột rơi xuống đất, phải trải qua năm trăm đời làm trâu để thường lại. Nay tuy làm thân người, miệng vẫn còn nhai như trâu, nên gọi là Ngưu Tướng Tỳ-kheo. Sợ mọi người chê bai mà rơi vào các khổ, nên Phật bèn bảo Ngài lên vườn Thi-lợi-sa ở cung trời Đạo-lợi tu tập thiền định. Sau khi Phật nhập diệt, lúc kiết tập pháp tạng, các Đại đức cho người thỉnh Ngài về. Ngài hỏi sứ giả: Đức Thế tôn có được an vui chẳng? Đáp: Phật đã nhập diệt. Lại hỏi: Thầy ta còn không? Đáp: Ngài Xá-lợi-phất không nỡ nhìn thấy Đức Thế tôn diệt độ, ba cõi không còn nơi nương tựa, nên đã thị vắng lặng trước. Tôn giả nghe xong, than thở hồi lâu, bèn hóa thành dòng nước chảy xuống cõi dưới, trong dòng nước có nói kệ: Kiều-phạm Ba-đề cúi đầu lễ Chúng diệu trang nghiêm thân bậc nhất Voi chúa đi rồi, voi con theo Đại Sư nhập diệt, ta cũng diệt. Sau đó hóa lửa đốt thân, nhập vào vắng lặng. Tôn giả do tránh sự hiềm nghi, vào núi Diệu cao tu tập thiềùn quán. Ở trong vườn Sa-lợi được nghe tin Đức Thế tôn nhập diệt, lại biết thầy là Thu Tử cũng không còn, nên hiện ra dòng nước nói kệ trên núi cao, nổi lửa đốt thân ở cõi trời, cho nên gọi là “Lưu tuyền” (dòng suối). Tân-đầu-lư-phả-la-đọa, theo kinh Thỉnh Tân-đầu-lư có chép: Tân- đầu-lư là tên chữ, chưa rõ được nghóa. Phả-la-đọa là họ, Hán dịch là Lợi căn. Trong luật Tỳ-nại-da chép: Trưởng giả Thọ Đề đặt bát chiên-đàn ở trên cao rồi bảo: ai dùng thần thông lấy được thì xin cúng dường. Khi ấy Tôn giả đang vá y trên núi, dùng thiên nhãn nhìn thấy, bèn bỏ kim, dùng thần lực mà đi, sợi chỉ kéo theo núi vào vương thành, che lấp cả mặt trời, hư không. Dân chúng trong thành đều kinh hãi. Phụ nữ mang thai thì bị sẩy thai, bèn đến bạch Phật. Phật quở trách xong, Ngài dạy: “Từ nay về sau thầy không được theo ta, không được nhập diệt phải lưu thân trụ lại thế gian, để làm phước cho người, thọ thỉnh cúng dường.” Hiện nay, ở phía nam Thiên Trúc núi Ma-lợi-chi, Ngài thường hiện thân, thọ thỉnh xong thì đi. Tôn giả thọ sắc mệnh của Phật, không nhập Niết-bàn, thường qua lại trong núi Ma-lợi-chi, thọ cúng dường trong cõi Diêm-phù, nên gọi là Ứng Cúng. Chánh kinh: Ca-lưu-đà-di, Ma-ha Kiếp-tân-na. Tán rằng: Thứ bảy là cặp hóa tham, trừ mạn. Ca-lưu-đà-di, trong Kinh Chánh Pháp Niệm có chép: “Hán dịch là Hắc Diệu, thân có ánh sáng màu đen, chiếu soi khắp cả.” Kinh Tăng Nhất chép: Ca-lưu-đà-di ban đêm đi khất thực, gặp lúc trời tối như mực, ánh chớp lóe chiếu , có người phụ nữ mang thai nhìn thấy Tôn giả tưởng là quỷ, thần, do đó mà hư thai, bèn đến bạch Phật. Phật quở trách xong, bèn đặt ra giới cấm, là không được đi khất thực ban đêm. Vị Tôn giả này giáo hóa người nữ san tham khiến họ dứt bỏ tánh san tham, chỗ khác có nói đầy đủ. Vị Tôn giả này làm người phụ nữ mang thai bị sợ hãi, giáo hóa người nữ san tham bỏ tánh tham, làm tổn hại chánh giáo torng một thuở nọ, mà lập ra khuôn phép cho ngàn đời, nên gọi là Hóa tham. Ma-ha Kiếp-tân-na, Hán dịch là Phòng túc. Vì ngủ đồng phòng với Phật, Phật hóa thành vị Tỳ-kheo già nói pháp cho ông nghe, nhờ đó mà đắc đạo, nên gọi là Phòng túc, do được Phật hóa đạo, tâm kiêu mạn mới dứt. Vị Tôn giả này được Đức Thế tôn ẩn tàng tướng Thánh, biến hiện ra tăng nghi, cầm tích trượng vàng đồng hành, cùng ngủ trong thảo đường. Phật biết gốc lành đã thuần thục, bèn trở lại bổn hình. Nhìn thấy tướng tốt của Phật liền phát tâm, nghe lời nhiệm mầu mà tánh kiêu mạn tự dứt, nên gọi là Trừ mạn. Chánh kinh: Bạt-câu-la, A-nậu-lâu-đà. Tán rằng: Thứ tám là cặp bố thí thuốc, cúng dường Tăng). Tiếng Phạm Bạc-củ-la, Hán dịch là Thiện Dung, dịch Bạc-câu-la là sai. Khi Đức Phật Tỳ-bà-thi nhập Niết-bàn, có một vị Tỳ-kheo bị bệnh đau đầu. Khi đó, Thiện Dung là một bần só, đem thuốc Ha-lợi-lặc-thi đến trị cho Tỳ-kheo. Tỳ-kheo uống thuốc liền hết bệnh. Nhờ bố thí thuốc mà trải qua chín mươi mốt kiếp được hưởng phước vui sướng trong cõi trời, cõi người. Lại đời trước từng làm một vị Tỳ-kheo, phát nguyện không nhìn ngó phụ nữ, không thọ cúng dường y của phụ nữ, không nhận thức ăn từ tay phụ nữ. Mẹ Tôn giả nhớ con buồn khổ tha thiết bèn vào chùa tìm. Thiện Dung không vui bước đến trách mẹ, đuổi ra khỏi phòng- Người mẹ khởi tâm buồn giận, cho là con ngỗ nghịch bèn phát nguyện ác: “Nguyện cho tôi đời sau, làm mẹ kế của hắn để trị tội”. Quả như lời nguyện, năm lần ông bị giết không chết, bèn đầu Phật xuất gia, thành tựu quả Thánh, tu hạnh ít muốn biết đủ đã nhập tháp còn ném trả đồng tiền vua cúng. Vị Tôn giả này giữ tâm chuyên tu ít muốn, thân không chú trọng y phục, nhờ nhân nhỏ bé cúng dường thuốc, mà được quả báo không bệnh thù thắng, nên gọi là Thí dược. nậu-la-đà, tiếng Phạm A-ni-luật-đà, Hán dịch là Vô diệt, là em họ của Phật, gọi A-nậu-la-đà là sai. Vào thời quá khứ Ngài có cúng dường một bữa ăn cho một vị Duyên giác, giúp cho trong năm mươi kiếp phước đức không mất. Lại ở thời quá khứ, Ngài từng làm một người thợ săn, định ăn trộm hào châu, dùng mũi tên khêu đèn, thấy Phật có tướng tốt, bèn phát tâm lành, xả bỏ hết cung tên, thệ không còn hại mạng sát sinh. Do nhân lành đó mà ngày nay được xuất gia, thường mê ngủ làm chướng ngại sự tu tập thiền định. Phật bèn quở trách, ông hổ thẹn trước đại chúng bèn thệ không ngủ, sau đó chứng đắc thiên nhãn. Vị Tôn giả này nhờ chút ít gốc lành của việc khêu đèn được công đức thiên nhãn cao quý và nhân duyên nhỏ bé cúng thí thức ăn, mà cảm được ruộng phước đến vô tận, nên gọi là Diên Tăng (cúng dường Tăng). Chánh kinh: Các vị đệ tử lớn như thế. Tán rằng: Thứ hai là kết thúc. Có hơn ngàn vị nhưng chỉ nêu mười sáu vị, không thể ghi đầy đủ hết, nên gọi là vân vân. Các vị đệ tử lớn: những người học sau ta gọi là Đệ, từ ta mà Phát sinh liễu ngộ thì gọi là Tử, phần trên nói về chúng đạo hạnh thanh cao đã xong. Chánh kinh: Cùng các vị Đại Bồ-tát. Tán rằng: Thứ hai là chúng bi tâm rộng lớn, lại chia ra làm ba: Nêu loại. Nêu tên. Tổng kết. Ở đây nói về phần đầu. Tiếng Phạm Bồ-đề Tát-đỏa, Ma-ha Tát- đỏa, lược dịch là Bồ-tát Ma-ha-tát, Bồ-tát tu hành lược có hai: Tự lợi, đại trí đứng đầu. Lợi tha, đại bi trước tiên. Bồ-đề nghóa là giác, dùng trí để cầu quả. Tát-đỏa là hữu tình, dùng bi để độ sinh. Nương vào thệ nguyện rộng lớn thì gọi là Bồ-tát. Dùng hai phần này làm cảnh, gọi là Bồ-tát, thuộc về hữu tài thích. Lại giác là quả sở cầu, hữu tình là tự thân, hữu tình cầu Tam-bồ-đề nên gọi là Bồ-tát, thuộc về y chủ thích. Nói là Ma-ha-tát, nay các Bồ-tát này nổi tiếng khắp mười phương, quả chứng Bát địa, phân biệt với tiểu Bồ-tát, khác với Nhị thừa, nên gọi là Ma-ha-tát. Chánh kinh: Pháp Vương tử Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát A-dật-đa. Tán rằng: Thứ hai là nêu tên, chia làm hai: Cặp mười điều tốt lành, ba tội. Cặp thương xót chúng sinh, sách tấn. Ở đây nói về phần đầu, tiếng Phạm Mạn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu Cát Tường, khi sinh Ngài có hiện ra mười điều lành: Ánh sáng đầy nhà. Mưa cam lộ đầy sân. Đất nổi lên bảy vật báu. Các thần mở cửa kho báu Gà sinh ra phụng hoàng. Heo sinh con rồng Ngựa sinh kỳ lân. Bò sinh ra ngựa trắng. Kho biến ra lúa vàng. Voi có sáu ngà. Nên Ngài được đặt tên là Diệu Cát Tường, cũng là Phật Vui mừng Tạng Ma-ni Bảo Tích ràng ở thế giới Thường Hỷ phương bắc, ai nghe danh hiệu Ngài có thể diệt trừ bốn tội nặng, lại thời quá khứ là Đức Phật Long Chủng Thượng Tôn Vương. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Ở núi Ngũ Đài Thanh Lương này, cùng với một muôn vị Bồ-tát.” Pháp Vương Tử, trong Luận Phật Địa chép: sinh ra từ chánh pháp do miệng Đức Thế tôn nói ra, nối tiếp thân Chư Phật không để dứt mất, gọi là Pháp Vương tử. Hỏi: Văn-thù đã ba a-tăng-kỳ hạnh mãn, mười hiệu đầy đủ, làm sao dứt sự hóa độ ở cõi này, lại thị hiện dấu vết ở cõi khác? Đáp: Tôn giả này lòng từ bi rộng lớn, ích chúng sanh sâu rộng. Hiển bày ngộ lý của ngài Tịnh Danh giúp Đức Thích-ca tùy cơ nói pháp. Hoặc nhân hoặc quả, đâu có gì phải sinh nghi? A dật đa, Hán dịch là Từ Thị, theo bản Phạm thì nên gọi là Mai- đát-lợi-duệ-na, dịch là Từ. Xưa dịch là Di-đế-lệ, hoặc dịch là Di-lặc đều sai. Ngài sẽ đản sinh vào đời hậu lai. Khi sinh ra có đủ ba mươi hai tướng, thân màu vàng tím, tư dung mạnh mẽ đặc biệt. Người mẹ có tánh không điều hòa, từ khi mang thai con thì lòng từ bi thương xót mọi vật Từ tâm cứu giúp khi gặp nguy. Thầy xem tướng sư chép: “Đây là đức của Sư tử con”. Do đó mà đặt tên là: Mai-đát-lợi-duệ-na. Nếu giải thích tên gọi này thì đáng lẽ gọi là: Mai-đát-lợi-duệ-ni, Ni là nữ thanh, là nói đến đức tánh từ bi của mẹ, do đó mà gọi là Từ Thị. Nhân thành ở hiện tại, quả chính ở tương lai, tâm ưa thích cõi Tịnh, nên Ngài cũng đến hội này. Chánh kinh: Bồ-tát Càn-đà-ha-đề, Bồ-tát Thường Tinh Tấn. Tán rằng: Thứ hai là cặp thương xót chúng sanh sách tấn. Bồ-tát Càn-đà-ha-đề chưa rõ dịch ý. Trong Kinh Khen ngợi Tịnh độ chép: Bồ-tát thứ ba tên là Bất Hưu Tức, tức giáo hóa làm lợi ích cho hữu tình không hề ngừng nghỉ. Thường Tinh Tấn: Niệm niệm tiến thẳng tới trước, lại không hề biếng nhác. Chánh kinh: Cùng các vị Đại Bồ-tát như thế. Tán rằng: Thứ ba là tổng kết. Như trên là chúng Bồ-tát, là chúng có tâm bi rộng lớn đã nói xong. Chánh kinh: Cùng Vô lượng chư thiên đại chúng như Thích-đề- hoàn-nhân… Tán rằng: Thứ ba là nói về chúng chư thiên ưa thích Phật pháp. Tiếng Phạm Thích-ca-đề-bà-nhân-đạt-la. Thích-ca là họ, Hán giải thích là Năng. Đề-bà là Thiên, Nhân-đạt-la là Đế. Nói Thích Đề-hoàn Nhân, hoặc Thiên Đế-thích đều là dịch sai. Đây là chỉ cho Đế Vương trụ ở tầng trời ba mươi ba trên đỉnh núi Diệu Cao.Thời quá khứ tự là Kiều- thi-ca, Hán dịch là Mân Nhi, tên là A-ma-kiệt-đà, dịch là Vô độc hại, tức nước Ma-kiệt-đà là nơi tu nhân của Đế-thích trước kia. Lấy nước làm tên, dùng để làm nhân duyên tu hành, như trong “Tông Luân sớ”. Chư thiên đại chúng như trời Đế-thích… đều đến tịnh xá Kỳ Viên. Như trên là nói về ba chúng khác nhau, đều là nói phần thứ năm về sự bao trùm căn cơ đã xong. Năm đoạn khác nhau, đều là phần tựa đã xong.  A-DI-ĐÀ KINH THÔNG TÁN SỚ <卷>QUYỂN TRUNG Chánh kinh: Bấy giờ, Phật bảo trưởng lão Xá-lợi-phất: Từ đây đi về phương Tây hơn mười muôn ức cõi Phật có thế giới tên là Cực lạc. Tán rằng: Thứ hai là phần chánh tông, đại văn chia ra làm sáu: Nêu Tông quả của cõi Tịnh. Kinh chép: “Bấy giờ, Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất” cho đến “được ở chung một chỗ với các bậc thượng thiện như thế.” Nói về nhân đặc biệt của cõi Cực lạc, kinh chép: “Xá-lợi-phất! Không thể với chút ít gốc lành” cho đến “Nếu có chúng sinh nghe lời này, thì nên phát nguyện sinh về nước kia.” Chư Phật chứng minh. Kinh chép: Xá-lợi-phất! Như nay ta khen ngợi công đức của Phật A-di-đà” cho đến “Xá-lợi-phất! Các thầy đều nên tin nhận lời ta và lời Chư Phật nói”. Ba đời phát nguyện, kinh chép: “Xá-lợi-phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện…” cho đến “Nếu có người tin nhận thì nên phát nguyện, sinh về nước kia.” Đức Thế tôn khen ngợi cõi kia, thật là ít có lạ kỳ. Kinh chép: Xá-lợi-phất! Như nay ta khen ngợi Chư Phật” cho đến “Là pháp mà tất cả thế gian khó tin”. Những gì Phật đã trình bày, là việc rất khó. Kinh chép: Xá-lợi-phất nên biết! Ta ở trong… cho đến hết. Văn chia làm hai: Nói lược về cõi Tịnh. Nói rộng về cõi Tịnh ä. Phần một lại chia làm bảy. Chỉ phương hướng. Nói về số lượng. Nói về tên nước. Nói về hóa chủ Nói về nói pháp. Nói về danh hiệu cõi nước. Tổng kết thành Cực lạc. Ở đây nói về ba phần đầu. “Phật bảo”, bảo là nói. “Từ đây đi về phương Tây”, từ đây là chỉ cho nơi chốn. “Cõi này” xa chỉ cho phương Tây, “Cách mười muôn ức cõi Phật” là chỉ cho số lượng, “Có thế giới tên là Cực lạc” là hiển bày tên nước, chính là cõi nước Cực lạc. Trong kinh nói Phật bảo ngài Xá-lợi-phất để giúp cho biết, đây là ví dụ bao gồm cả sự yêu mến của chúng sinh, không thể trình bày ra hết, tạm thuật lại bảy điều: Giải thích tên. Nêu thể. Giải thích giả thật. Phân biệt hữu lậu, vô lậu. Phân biệt năm vị. Gom nhiếp ba khoa. Giải thích về chướng nan. Vả lại về việc giải thích tên gọi thì “Cõi đời” nghóa là có thể phá hoại, “Giới” là phạm vi của cảnh, tức cõi sở cư. Tên gọi là Cực lạc, “lạc” là năng cư, thức thứ sáu tương ứng với lạc thọ. “Thế” tức là cõi thuộc về Trì nghiệp thích. “Cực” là lạc thọ tối cao, thế giới tức là loài vô tình. Đây thuộc về tương vi thích. Nêu thể: “Cực lạc” chính là lạc thọ cao nhất. “Thế”: là pháp hữu tình, vô tình không vững bền, có thể bị phá hoại mà đặt ra tên gọi là “Thế”, tức là giả lập về sắc tâm. “Giới” lấy bốn trần, năm trần làm thể. Tuy cảnh Thánh không có sự nhóm họp xấu ác, vì nghóa giống trần nên cũng gọi là trần. Bốn tướng nhỏ nhiệm dời đổi, gọi là Thế giới. Nói về giả thật, nếu cho hóa Tịnh độ này là giả, là quả định, không có sắc tướng thì loài hữu tình chưa dứt uế nhiễm, chưa thể biến thành cõi tịnh, chỉ là biến tâm, như ba lần biến đất đai ruộng vườn),… không trái với Duy thức. Phân biệt hữu lậu, vô lậu: nếu cõi Tịnh là bản chất của Phật, thì chỉ thuộc về vô lậu. Nếu loài hữu tình vãng sinh và cõi Tịnh độ do Bồ- tát biến ra, chỉ thuộc về hữu lậu, nghóa là quả của thức thứ tám chuyển chẳng phải nhân. Phân biệt năm vị: Cực lạc thuộc về tâm sở, thế giới thuộc về sắc pháp. Thuộc về Ba khoa: Cực lạc thuộc về hành uẩn. Thế giới thuộc về sắc uẩn. Trong mười hai xứ thì pháp Cực lạc thuộc về pháp xứ. Thế giới thuộc về sắc xứ. Trong mười tám giới thì thuộc về pháp giới và sáu cảnh. Giải thích về chướng nạn: Hỏi: Các cõi nước trong mười phương sự vui sướng đều đồng, vì sao lại chỉ nói về cõi Tây phương, khuyên mọi người sinh về đó? Đáp: Vì phàm phu nghiệp nặng, chỗ nào cũng đều sinh ra tham. Nếu không chỉ riêng một cõi, thì không thể buộc tâm chuyên chú, cho nên Kinh Pháp Hoa chép: “Chúng sinh chỗ nào cũng đều chấp trước, phải dẫn dụ giúp cho ra khỏi”. Lại vì cõi Tây phương, chủ cao quý mà nguyện thì mạnh mẽ, người vãng sinh về đó rất mau thành Thánh quả, cho nên mới nói riêng cõi đó. Chánh kinh: Cõi nước đó có Đức Phật hiệu là A-di-đà hiện đang nói pháp. Tán rằng: Phần thứ tư này nói về hóa chủ, phần năm: nói về nói pháp. “A-di-đà” ở trên đã giải thích rồi. Từ phần này trở xuống cũng có giảng thêm. “Hiện nay” là thời gian phân biệt với quá khứ và vị lai. “Nói” là giảng nói. “Pháp” là pháp chấp trì danh hiệu, tức là giáo pháp. Phật A-di-đà vì chúng sinh mà giảng nói pháp mầu, để cho mọi người cùng tinh tấn, cho nên nói từ bi rộng lớn, lợi vật sâu xa, hiện ra báo thân ở bậc Sơ địa, hóa ra căn khí vô biên, cho nên nói hiện đang nói pháp. Hỏi: Vì sao Phật không bảo các Bồ-tát, mà chỉ bảo với Thanh văn. Đáp: Bồ-tát không còn nghiệp uế, đều ở các cõi tịnh, các Thanh văn thì chưa dứt trừ được sự phân biệt, ở cõi nhơ đục cũng khác. Phật muốn cho họ sinh tâm ưa mến, nên chỉ nói với các Thanh văn. Hỏi: Các Thanh văn số rất đông, những vị đốn ngộ cũng nhiều, vì sao không bảo với ai, lại chỉ nói với ngài Xá-lợi-phất? Đáp: Ở đây cũng như trách nhiệm giao cho người con trưởng trong gia đình. Nước thì giao cho các hiền thần. Ngài Thu Tử trí tuệ biện luận không ai bằng, nên Phật bảo với ngài là điều hợp lý. Chánh kinh: Này Xá-lợi-phất! Nước kia vì sao tên là Cực lạc? Tán rằng: Thứ sáu là nêu danh hiệu cõi nước, trước nêu tên Cực lạc mà chưa nói về tướng của Cực lạc, không thấy được sự tốt đẹp thì khó phát tâm, vì muốn hiển bày cõi Tịnh cho nên mới nêu ra danh hiệu cõi nước. Chánh kinh: Chúng sinh ở cõi đó không có các điều khổ, chỉ hưởng các điều vui, nên gọi là Cực lạc. Tán rằng: Thứ bảy là kết thành danh hiệu Cực lạc. “Chúng sinh cõi ấy” là chúng sinh có đủ mười hiệu, chúng sinh là một danh hiệu trong mười danh hiệu đó. Hóa sinh trong hoa sen, không còn khổ sinh. Bốn chữ “không có khổ sinh” không thể thay đổi, cho nên không có già khổ, không phải phần đoạn nên không có khổ bệnh, tuổi thọ vô tận, nên không có khổ chết, không có cha mẹ thân sơ, nên không có sự khổ về thù ghét mà gặp nhau. Mong muốn điều gì đều như ý nên không có khổ mong cầu mà không được. Nhan sắc xinh đẹp trang nghiêm, nên không khổ vì các căn thiếu khuyết. Lại bốn thời đều như nhau nên không có khổ vì nóng lạnh ép ngặt. Do đó nên nói là “chúng sinh cõi đó không có các điều khổ não”. Nghóa là ở cõi này dứt cả ba cõi, con người không còn đau khổ. Chẳng phải như cõi Ta-bà có hình tướng hữu lậu, bốn thứ rắn ép ngặt cơ thể, ba thứ rồng hại mạng. Trái mùa thì bệnh não, quả báo hết thì vô thường đến, có ái thì có chia lìa, không oán thì không gặp, vì mê lý nên năm ấm ràng buộc. Ở cõi Tịnh không bao giờ còn sự đau khổ ấy nữa. Lại chứa nhóm bạch nghiệp, sinh vào sen hồng, thân thường là tướng tốt, trừ hết bốn tướng, dứt hết tình lự, thì còn ai để oán ghét? Tùy ý đi đến các nơi, cầu gì được nấy, dâng năm hương lễ Phật, các đức đều trang nghiêm, cho nên nói không có các điều khổ. “Chỉ hưởng các sự vui”: Khi về cõi Tịnh thì Thánh chúng ra đón rước, hoa sen nở ra đã thấy kim dung tướng tốt. Gió nhẹ thổi đến, nghe những cây báu phát ra âm thanh từ xa. Lại thêm bay bổng xa thì như mây tiên, gần là thần túc, y áo phất phơ, từ xa đến cúng dường hoa lành rực rỡ. Sáng Sớm thì lễ Phật và các Thánh, đắc pháp ấn rồi đi nhiễu quanh các nước. Chiều đến đi dạo khắp các điện vàng, nghe kệ báu, đi kinh hành. Nhưng nguyện đại từ rộng lớn, lợi độn đều nhiếp, vả lại hoa sen củ sắp nở để trừ bỏ hiểm họa, hàng tân học hóa sinh thành tựu hạnh không lui sụt, đây chẳng phải: gần thì xa lìa sự khổ, mà diệu quả chẳng xa đó sao? Cho nên nói “chỉ hưởng các điều vui, gọi đó là cõi Cực lạc”. Hỏi: Nước kia có nằm trong ba cõi hay không? Đáp: không còn dục thì không thuộc cõi Dục. Địa cư (ở trên đất) nên không thuộc cõi Sắc, có hình tướng nên chẳng thuộc cõi Vô sắc. Trong thì không còn nhơ đục, ngoài thì chiêu cảm cõi Tịnh, ra khỏi bốn dòng, thoát hẳn ba cõi, cho nên không còn nằm trong ràng buộc của ba cõi. Chánh kinh: Lại, Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực lạc có bảy lớp lan can, bảy lớp mành lưới, bảy lớp hàng cây, bao bọc xung quanh bằng bốn chất báu. Tán rằng: Thứ hai là giảng nói rộng về cõi Tịnh. Văn chia làm hai: Nói cõi nước trang nghiêm. Nói về công đức thân Phật. Phần I: Lại chia làm tám: Cây được trang hoàng bằng bốn chất báu. Ao trang nghiêm bằng các chất báu. Trên hư không đầy tiếng nhạc trời. Khắp mặt đất trải vàng ròng. Hoa rải như mưa đầy khắp hư không. Người được đi khắp các cõi nước. Chim hót tiếng pháp mầu. Gió thổi tiếng nhạc. Phần I lại chia làm hai: Chính là nói về sự trang nghiêm. Tổng kết thành Cực lạc. Ở đây nói phần a. “Hựu” là lại, nữa. Nghóa là trước đây đã nói với ngài Xá-lợi-phất là cõi nước kia không có các thứ khổ nên gọi là Cực lạc, ở đây muốn nói rộng về cảnh vật đẹp đẽ khác thường của cõi Cực lạc. Cõi nước Cực lạc có bảy lớp lan can bao bọc chung quanh cây báu có bảy lớp, nên nói là bảy lớp lan can. Ngang gọi là lan, dọc gọi là can, cây báu trang nghiêm bằng các thứ châu báu, hoa lá vây quanh, vì sao chỉ nêu cây trang nghiêm? Vì ở cõi nước này chỗ nào cũng có. Bảy lớp mành lưới tô điểm khắp cả cõi nước, bao phủ khắp rừng cây, chỉ vàng kết thành các thứ báu để tô điểm. Trong Quán Kinh chép: “Trên mỗi thân cây có bảy lớp mành lưới, đều bằng châu báu. Trong mỗi mành lưới đều có năm trăm ức hoa mầu bao quanh thành cung điện như cung trời Phạm vương, Có đồng tử là các vị trời hiện rõ trong đó, ngọc ma-ni kết thành chuỗi ngọc, ánh sáng trong đó chiếu xa cả trăm do-tuần.” Cũng giống như ở trước, chỗ nào cũng có. Cho nên trong kinh Thụy Tướng có chép: “Vô lượng lưới báu đều dùng chỉ vàng, châu báu, trăm ngàn các thứ báu kỳ diệu để tô điểm. Vây quanh bốn mặt đều là linh báu, ánh sáng tỏa ra rực rỡ, thật là chói lọi. Gió lành nhè nhẹ thổi đến, thổi lay các mành lưới, phát ra các tiếng giảng nói pháp âm, khắp cả nước đều nghe. Tai nghe tâm được an vui, càng làm tăng thêm sự vui sướng”. Bảy lớp cây báu thành hàng khắp ở trong nước, nở đầy các thứ hoa thơm cỏ lạ, không có sự tàn úa héo rụng. Các thứ chinh linh thiêng ở trên lầu, các Thánh cũng dạo đi trên đó, nên gọi là bảy lớp hàng cây”, đều bằng bốn chất báu: giai là đều, đều bằng bốn chất báu. Bốn báu: Hoặc là vàng, bạc, san hô, hổ phách. Trong Kinh Thụy Tướng chép: trong nước đó có bảy thứ cây báu vây quanh khắp cả thế giới. Nghóa là có từ hai chất báu cho đến các loại báu hợp lại mà thành, như cây vàøng thì cành lá hoa quả bằng bạc. Cây bạc thì cành lá hoa quả bằng vàng. Cho đến có các loại vàng tím làm gốc, thân bằng bạc trắng, cành bằng lưu ly, nhánh bằng thủy tinh, lá bằng san hô, hoa bằng mã não, quả bằng xa cừ, gốc bằng bạc trắng,…. Mỗi thứ đều nêu bày ở đây, từng hàng đối nhau, từng cành giao nhau, từng lá cùng chiếu sáng rực rỡ, màu sắc thật mầu nhiệm, vô cùng đẹp đẽ. Gió mát thổi đến phát ra năm thứ âm thanh, các điệu cung thương nhiệm mầu tự nhiên vang lên. Lại trong Quán Kinh có chép: “Mỗi thân cây cao tám ngàn do- tuần, mỗi chiếc lá rộng dài hai mươi lăm do-tuần, lại tỏa ra nhiều màu sắc, ở trong mỗi hoa lá đều có bảy báu chiếu sáng.” “Đều là bốn chất báu” tức là y theo kinh này. Lan can, mành lưới, hàng cây: ba thứ này đều do bốn chất báu hợp thành. Bốn chất báu là: vàng, bạc, lưu ly, và phả-chỉ-ca, cũng chung với văn trên, đều là bốn chất báu. Chung quanh: thời xưa có nhiều cách giải thích. Lan can bao quanh cây báu, nên gọi là vây quanh. Lan can, mành lưới, hàng cây vây quanh cõi nước, chỗ nào cũng trang nghiêm. Hỏi: Lan can, mành lưới, hàng cây, mỗi thứ vì sao có bảy lớp, mà không nhiều hơn hay ít hơn? Đáp: Đây là nói lên sinh về nước kia, được bảy giác chi, cho nên bảy chi của thân và miệng đều không có lỗi, vì vậy có bảy thứ tài sản của bậc Thánh. Chánh kinh: Cho nên nước kia tên là Cực lạc Tán rằng: Thứ hai là tổng kết thành tựu Cực lạc. Chánh kinh: Lại Xá-lợi-phất, cõi Cực lạc có ao bằng bảy báu. Tán rằng: Thứ hai là ao tô điểm bằng các chất báu, lại chia ra làm bảy: Ao bảy báu sâu. Nước có tám công đức tràn đầy. Cát vàng làm đất. Bực thềm bằng ngọc. Gác hồng chọc trời. Hoa sen báu phủ mặt nước. Kết thành cõi Cực lạc. Ở Đây nói phần một. Như trước đã giải thích bảy báu gồm: Vàng: Vàng có năm loại: màu vàng là trên hết, chôn lâu không mất màu , luyện cả trăm lần không nhẹ, liệu định không trái, sinh hai bên phải trái của đất, cho nên tượng hình của chữ Kim có bộ thổ trong đó. Bạc: Rất dễ biết. Lưu ly: Tiếng Phạm là: phệ-lưu-ly, có năm màu, gọi chung là lưu-ly. Pha-lê: Trong luận Trí Độ chép: “Lấy từ các hang núi, trải qua ngàn năm đóng thành băng, hóa thành pha lê. Ở cõi Tịnh không có nóng lạnh, mặt đất không có băng, thì làm gì có hóa vật? Ở đây nói loại đá, chẳng phải thật đá, nghóa là ở Tịnh độ, cũng gọi là Chỉ-ca. Xa cừ: Tiếng Phạm là Mâu-sa-lạc-yết-la-bà, màu sanh nhạt. Xích châu báu: Loại ngọc màu đỏ. Mã não: Tiếng Phạm là Át-thấp-ma-yết-bà. Hán dịch là chữ tàng. Ở phần dưới nói về bảy báu, cũng y theo đây. Trì là ao. Trang trí bằng báu anh lạc. Thềm đá trong ao, cũng sáng chói khác lạ. Kinh Thụy Ứng chép: Ao ngang dọc sâu cạn từ mười do- tuần, cho đến trăm ngàn do-tuần. Trên bờ có cây chiên-đàn, hoa lá rủ xuống tỏa mùi hương thơm phức. Chánh kinh: Nước tám công đức, tràn đầy trong ao đó. Tán rằng: Thứ hai là nước có tám công đức tràn đầy. Nước Tám tính chất tốt tràn đầy trong ao. Tịnh độ phước đức cao quý, nên nước cũng khác với thế gian. Bao gồm lợi ích cao quý của tám đức, diệu thể của năm thường. Tám tính chất tốt ấy là: Lắng trong, sãch sẽ. Thanh mát. Ngon ngọt. Nhẹ nhàng, mềm mại. Thấm Nhuần. An hòa. Uống hết đói khát. Uống vào nuôi lớn các căn. Trong Kinh Thanh Tịnh Giác chép: Nước trong ao đó, sâu cạn lên xuống tùy ý. Quán kinh chép: Nước lên xuống tùy theo cành lá của hoa sen. Âm thanh của dòng nước nghe thành âm thanh Ba-la-mật như: Tam bảo, Không, Vô ngã,… Chánh kinh: Đáy ao là đất thuần bằng cát vàng. Tán rằng: Thứ ba là cát vàng làm đất. Nước sanh cát vàng, tỏa sáng rực rỡ. Kinh Vô Lượng Thọ chép: Các thứ ánh sáng soi chiếu lẫn nhau, ao vàng cát bằng bạc trắng,… Chánh kinh: Đường đi bốn bên do vàng, bạc, lưu ly, pha-lê hợp thành. Tán rằng: Thứ tư là ngọc xếp thành thềm. “Biên”: Bên là bốn mặt xung quanh. Giai là thềm, đạo là đường đi, là đường lên các bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-lê như trước đã giải thích. Hợp thành: Được hình thành bằng Bốn chất báu. Chánh kinh: Trên có lầu gác, cũng tô điểm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-lê, xa cừ, xích châu, mã não. Tán rằng: Thứ năm là lầu hồng cao ngất trời. Phía trên có lầu gác là trên ao bảy báu có lầu gác trên hư không, cũng trang trí bằng bảy báu nên gọi là “cũng”. Vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não là bảy thứ báu đã giải ở trước. Nghiêm sức: là các loại hoa đẹp trang nghiêm tô điểm. Luận Vô Lượng Thọ chép: “Trang nghiêm mặt đất”. Quán Kinh: Chỗ nào cũng đều có lầu gác bằng các chất báu trang nghiêm trên ao, thường đi du ngoạn thưởng thức, bước lên các bậc thềm nhìn về cõi Tịnh độ, tâm tư vui vẻ an vui. Chánh kinh: Hoa sen trong ao, lớn như bánh xe. Tán rằng: Thứ sáu là sen báu phủ khắp mặt nước. Văn này chia làm bốn: Nêu tên hoa. Nói về thân lượng. Giải thích về nhan sắc. Nói về mùi hương thanh khiết. Ở đây nói về hai phần trước. Liên: là gương sen. Hoa lớn đẹp lại tròn, hình dạng giống như bánh xe. Quán Kinh và kinh Bình Đẳng Giác chép: “Sen lớn rộng hai mươi dặm cho đến sáu trăm muôn dặm”. Nhưng ở đây lớn nhỏ đều không có tiêu chuẩn nhất định, ở đây là nói theo loại nhỏ. Chánh kinh: Hoa màu sanh phát ra ánh sáng sanh, hoa màu vàng phát ra ánh sáng vàng, hoa màu đỏ phát ra ánh sáng đỏ, hoa màu trắng phát ra ánh sáng trắng, mùi hương thơm tho, tinh khiết. Tán rằng: Đây nói hai phần sau: Thứ ba: nói về màu sắc. Thứ tư: mùi hương thơm tho. Bốn sắc này đều có ánh sáng khác nhau, ánh sáng là ánh sáng màu sắc. Mầu nhiệm: là nhiệm mầu thù diệu khác thường, “Hương” là mùi thơm, “Khiết” thì thể không có cát bụi nhơ nhiễm, nên gọi là thơm tho tinh khiết. Kinh Thanh Tịnh chép: “Tất cả hoa lá đều có sắc báu khác nhau”. Đâu phải chỉ có ánh sáng màu sanh? Trong kinh chỉ nói thuần một màu sắc. Hỏi: Vì sao chỉ có bốn màu. Đáp: Bốn màu tiêu biểu này là thật không phải giả, nói lên tâm người ở cõi Cực lạc không quanh co, lời không luống dối, chứng bốn thứ Niết-bàn, được bốn trí. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực lạc, thành tựu công đức trang nghiêm như thế. Tán rằng: Thứ bảy là kết thành Cực lạc, rất dễ hiểu. Chánh kinh: Lại Xá-lợi-phất! Cõi nước Phật kia thường trổi nhạc trời. Tán rằng: Thứ ba là tiếng nhạc trời đầy khắp hư không, trên hư không tấu nhạc, âm thanh giảng pháp giúp cho người cõi đó nghe phát sinh ý thiện. Quán Kinh chép: “Vô lượng nhạc khí treo lơ lửng khắp ư không, không đánh cũng tự kêu” Hoặc rừng, hoặc trụ đá đều treo nhạc khí, tự hòa vang theo, tùy theo ý chúng sinh, đều tấu lên tiếng pháp âm. Trời, người nghe được những tiếng đó, đều phát tâm đạo. Hoặc khen ngợi sáu độ, hoặc khen ngợi pháp ba thừa. Chánh kinh: Đất bằng vàng ròng. Tán rằng: Thứ tư, là mặt đất trải đầy vàng ròng. Tâm không vẩn đục, nên mặt đất chiêu cảm ra vàng ròng, mềm mại tự nhiên, cao thấp tùy theo bước chân. Quán Kinh chép: Đất ấy như mặt trời treo trên hư không. Đất đai mềm mại khi bước đi thì lõm xuống, giở chân đất lại nổi lên, trong cõi nước không có núi Tu-di và các núi non. Kinh Thụy Tướng cũng chép: Cõi Phật đó do bảy báu tự nhiên hợp thành. Đất không có giới hạn, đặc biệt tốt đẹp, đi khắp các thế giới ở mười phương. Ở đây chỉ nói vàng cũng là văn lược. Các loại y phục bằng chất báu đầy khắp ở đất này, tất cả trời, người đều giẫm lên đó mà đi. Các thứ trang nghiêm hiển bày ra rất đặc biệt. Chánh kinh: Ngày đêm sáu thời hoa Mạn-đà-la cỏi trời tuôn rải như mưa. Tán rằng: Thứ năm là hoa rải đầy khắp hư không. Ngày đêm sáu thời là ngày đêm có mười hai thời (ngày sáu thời, đêm cũng sáu thời). Hỏi: Cõi Tịnh độ Tây phương, cảnh vật tươi tắn, mặt đất tốt đẹp, con người dứt hết vô minh, đất nước không còn tăm tối, làm gì có ngày đêm? Đáp: Hoa nở hồ vàng, hóa sinh thành tướng trạng rạng đông, chim trú trong rừng quỳnh, Bồ-tát làm thành tướng trời chiều, khác xa buổi chiều tối ở thế giới này. Chữ nhi là trợ từ. Mưa: vì từ hư không rơi xuống nên gọi là mưa. Hoa Mạn-đà-la: là tiếng Phạm, dịch là hoa Thích ý. Hoa tỏa ra ánh sáng tinh khiết, mùi hương thơm lạ, người nào nhìn thấy tâm đều được an vui vui vẻ, nuôi lớn ý đạo. Gió thổi làm cho các hoa héo rơi rụng, mặt đất nứt ra lấp các hoa héo. Lúc ấy hoa mới lại mưa xuống trang nghiêm khắp đất vàng. Kinh Pháp Hoa chép: “Gió thơm thổi hết các hoa héo, rồi lại mưa hoa mới đẹp”. Hoa có bốn đức: Trang nghiêm cõi Tịnh, nói lên việc người sinh về nước kia, dùng pháp lành làm đẹp thân. Thấy các đền đài tốt đẹp: nói lên vượt hơn pháp chân thật của Nhị thừa. Trước hoa sau quả, nói lên người sinh về nước kia, nhân trước quả sau. Khí hương thơm bay đến nơi xa, người ngửi thấy đều ưa thích, biểu hiện cho người sinh về nước kia có đức nghiệp thơm tho, nổi tiếng khắp mười phương, cho nên rải hoa như mưa. Hỏi: Tịnh độ rải hoa trắng như mưa là tiêu biểu cho điều gì? Đáp: Tiêu biểu cho người sinh về Tịnh độ, chỉ có bạch nghiệp, có khi gọi là hoa tròn đỏ, nhưng lý không hay. Kinh Pháp Hoa chép: “Chỉ có hoa sen trắng phát ra ánh sáng trắng, cưỡi trên lưng con trâu trắng, tay cầm phất trắng,…”. Màu trắng tiêu biểu cho gốc của tất cả màu sắc, Nhất thừa là nguồn cội các pháp. Nếu nói tròn đỏ là chưa đủ ý. Chánh kinh: Chúng sinh ở cõi kia vào mỗi buổi sáng sớm, dùng y kích đựng các thứ hoa đẹp đi cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở mười phương. Tán rằng: Thứ sáu, là người đến các cõi nước. Đoạn văn này chia làm ba. Dâng hoa cúng Phật. Trở về đi kinh hành. Tổng kết thành cõi Cực lạc. Ở đây nói phần đầu, trong văn kinh rất dễ hiểu. Mỗi người đều dùng y kích là vạt áo. Đựng đầy hoa đẹp cúng dường Chư Phật. Điều này dễ thấy. Cúng dường: dâng tài vật là cúng, có chỗ tiếp nhận là dường. Cúng dường ở phương khác tức là mười muôn ức Phật, là nói lên số lượng cúng dường Phật. Theo các kinh nói thì hoặc nương cung điện bảy báu, hoa sen báu trắng, nương vào oai thần Phật, đi trong hư không đến các thế giới trong mười phương, dâng các thứ hoa đẹp và phẩm vật, tùy tâm cúng dường, lắng nghe pháp mầu, và được Phật thọ ký… Chánh kinh: Đến trước giờ ăn liền trở về cõi nước mình, ăn xong đi kinh hành. Tán rằng: Thứ hai là trở về cõi nước đi kinh hành. Tức là khi sắp đến giờ ăn liền trở về cõi nước mình, ăn xong thì đi kinh hành. Đi kinh hành hoặc là nhiễu tháp báu, hoặc nhiễu quanh rừng quỳnh, hoặc đến hoặc đi, như sợi vải qua lại, đó gọi là kinh hành. Chân đi trên đất báu, miệng niệm kinh vàng, nên gọi là kinh hành. Trong Kinh Thụy Tướng chép: “Người vãng sinh, khi muốn ăn thì các đồ đựng bằng bảy báu tự nhiên hiện ra trước mặt. Các loại bình bát như vậy tùy ý hiện ra, trong đó đựng đầy thức uống ăn. Tuy nói là ăn nhưng thật ra không phải ăn, chỉ nhìn sắc ngửi hương tự nhiên cũng đủ no. thân tâm nhẹ nhàng không hề mê đắm vị ngon. Việc xong thì biến mất, thời đến lại hiện ra”. Trong Quảng kinh nói ăn, sai trái thế nào? Ở cõi kia thị hiện việc ăn nào có lỗi gì? Hỏi: Con người ở Tây phương cao quý, tự thân có ánh sáng phát ra, đã không có mặt trời mặt trăng soi tỏ, thì nói gì đến thời gian? Đáp: Chuông vàng tự gióng, khánh ngọc vang lên, Thánh chúng nhóm họp đến, tự nhiên cùng nhau phó hội. Hỏi: Nói đến ăn là có ý nghóa nuôi lớn, ở cõi Tịnh là loại thức ăn gì? Đáp: Nếu y theo Tịnh độ Thật báo, thì lấy thiền duyệt làm thức ăn, nếu hóa Tịnh độ thì nhờ đoàn thực (thức ăn từng miếng) mà nuôi thân. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực lạc có các công đức trang nghiêm như thế. Tán rằng: Thứ ba là tổng kết thành cõi Cực lạc. Chánh kinh: Lại, Xá-lợi-phất! Nước kia thường có các loại chim nhiều màu xinh đẹp lạ thường. Tán rằng: Thứ bảy là chim hót tiếng pháp mầu, văn chia làm hai: Nói về loài chim thiêng. Dứt trừ nghi chấp. Câu một lại chia làm năm phần: Nêu chung loài chim thiêng. Phân biệt tên gọi. Phát ra âm thanh êm tai. Giảng nói pháp âm. Nghe khởi thiện niệm. Ở đây nói phần một. Lại: “Lại” là trở lại, lặp lại, “Nữa” là lần sau. Hỏi đi hỏi lại nên nói là “lại”. Cõi nước kia: tức cõi Tây phương. “Thường có”: là hằng hữu. Các thứ (chủng chủng): chẳng phải một thứ nên gọi là các thứ. Xinh đẹp lạ thường: kỳ là khác lạ; diệu là đẹp đẽ ít có. Nhiều màu: đủ các màu lông. Hỏi: Cõi Tịnh cao quý, không còn chúng phàm phu, vì sao các loài chim bay lại sinh về đó? Đáp: Do Đức Phật Di-đà biến hóa, mà có các loài chim thiêng, để khen ngợi pháp âm, trang nghiêm cõi nước, cho nên trong kinh chép: “Muốn cho pháp âm truyền bá nên biến hóa ra”. Chánh kinh: Các loài chim như hạc trắng, chim công, anh vũ, xá- lợi, ca-lăng-tần-già, cộng mạng,… Tán rằng: Thứ hai là nêu tên các loài chim. Hạc trắng: là loài đỉnh đầu màu son, lông trắng như tuyết, tiếng hót vang tận chín tầng mây, khi múa thì phát ra tám âm tiết êm tai, khác hẳn các loài chim khác. Chim công: loài chim linh sinh ra ở cõi trời, khác hẳn các loài chim thường, đầu màu sanh lục, khắp thân có màu sặc sỡ. Anh vũ: lông màu sanh biếc, mỏ màu đỏ thắm, cánh nhẹ nhàng đẹp đẽ có thể bay đi, lưỡi nhỏ dài biết nói. Xá-lợi: là tiếng Phạm, Hán dịch là Thu lộ, lúc còn nhỏ đã đẹp đẽ xinh xắn, trong khoảnh khắc mà bay xa cả muôn dặm, phát ra cả ngàn âm vận. Ca-lăng-tần-già: dịch là chim Diệu âm điểu, tiếng hót rất hay, thân rất khác thường, người nghe tiếng hót của nó thì chùng lòng, ng- hiêng tai, nhìn thấy nó thì tinh thần vui vẻ. Cộng mạng: cũng gọi là mạng mạng, dùng âm thanh hay giảng nói pháp, lông cánh nhẹ nhàng bay mau, mặt người hình chim, một thân mà hai đầu, nên gọi là cộng mạng. Chánh kinh: Các loài chim như thế, ngày đêm sáu thời, hót ra những âm thanh êm tai. Tán rằng: Thứ ba là truyền âm vận hoà nhã. “Ngày đêm sáu thời”: ngày có sáu thời, đêm có sáu thời, cộng chung mười hai thời. “Phát ra các âm thanh êm tai”: hòa là nhu hòa, nhã là âm vận hay ho. Các loài chim linh ở Tây phương không phải loài phàm cầm, nên âm vận rất êm ái hài hòa, ngôn từ lại thanh nhã, khéo léo, nên gọi là “hót ra những âm thanh êm tai”. Chánh kinh: Những âm thanh đó giảng nói các pháp năm căn, như năm lực, bảy phần Bồ-đề, tám phần thánh đạo. Tán: Thứ tư là giảng nói pháp âm. Giảng chép: giảng là dòng chảy bất tận, nói là tuyên xướng. Năm căn, năm lực,… là các pháp trong ba mươi bảy phần Bồ-đề. Trong kinh này nói thiếu các pháp bốn niệm trụ, bốn chánh cần, bốn thần túc, ở dưới có nói. Đẳng là ba giai vị nầy. Ở đây giải thích pháp này, nói lược có bảy vị: Bốn niệm trụ: nghóa là Thân, thọ, tâm, pháp, dùng trí tuệ làm thể, nghóa là do niệm lực mà tuệ trụ ở cảnh. Bốn chánh đoạn: là luật nghi đoạn, đoạn đoạn, phòng hộ đoạn và tu tập đoạn, lấy tinh tấn làm thể, tinh tấn khởi dụng, vì có thể tu đoạn. Bốn thần túc: là dục, cần, tâm, quán, lấy định làm thể, dùng bốn pháp này để tu định. Năm căn: nghóa là tín, tiến, niệm, định, tuệ, như tên mà lấy làm năm thể, vì phát sinh pháp thiện. Năm lực: thể là năm căn, khó mà khuất phục, cho nên lìa căn mà lập riêng. Bảy giác chi: là trạch pháp, tinh tấn, hỷ, niệm, định, xả, khinh an. Ba món trạch pháp, niệm, định là biệt cảnh. Ba món cần, xả, khinh an là số thiện. Một biến hành là hỷ. Tám Thánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh định, chánh mạng, chánh niệm, chánh tinh tấn. Chánh tư duy là thể, dùng tuệ làm tánh, có thể phát ra ngôn ngữ, vì chung cho Phật pháp. Chánh ngữ, chánh nghiệp dùng thân ngữ do không có sân si phát ra làm thể, dùng danh do không tham dục phát ra làm chánh mạng, lìa năm thứ là mạng, đều lấy tư vô biểu sắc làm thể: ba mươi bảy loại hợp với thể thì có chín: Tuệ. Tinh tấn Định Tín. Niệm. Hỷ. Xả. Khinh an Vô biểu sắc. Biến hành có một: là Hỷ. Biệt cảnh có ba: Niệm, Định, Tuệ. Thiện có bốn: Tín, cần, xả, khinh an. Sắc pháp có một: Vô biểu sắc. Pháp tu của Bồ-tát và pháp tu của Thanh văn khác nhau, cho nên phần Bồ-đề gọi là pháp Bồ-tát. “Các pháp như thế:”, trên từ căn, lực, đường ác, dưới là niệm, đoạn, thần túc, gọi chung là “Các pháp như thế”. “Hoặc các pháp…” đó là các pháp sáu độ muôn hạnh. Không thế thì vì sao các pháp khác không giảng nói. Chánh kinh: Chúng sinh ở cõi đó nghe các âm thanh này, đều niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng. Tán rằng: Thứ năm là nghe pháp sanh khởi niệm lành, niệm Tam bảo. Chữ Phật: nghóa đã nói ở trước. Pháp: tiếng Phạm là Đạt-ma, Hán dịch là Pháp, pháp tức là vật nắm giữ, tức là các pháp bốn đế, mười hai nhân duyên, sáu độ. Tăng: tiếng Phạm là Tăng-già, Hán dịch là chúng, nghóa là hòa hợp. Nghóa là thân hòa đồng ở, ngữ hòa không cãi, ý hòa không trái, giới hòa đồng tu, kiến hòa cùng giải, lợi hòa đồng chia. Có đủ sáu pháp hòa này gọi là Tăng, đều đáng coi trọng nên gọi là Tam bảo. Chim truyền pháp mầu, người phát tâm lành, niệm danh hiệu Tam bảo, tiêu tội chướng trăm đời. Hỏi: Loài chim linh giảng pháp, số lượng rất nhiều, chúng niệm danh chỉ có một, làm sao mầu nhiệm được? Đáp: Chim linh truyền rộng các pháp, tiêu biểu cho ngôn từ lời nói vô cùng. Người niệm ba danh hiệu, đều bao gồm hết các pháp lành. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Ông chớ cho rằng các loài chim thật do tội báo sinh ra. Tán rằng: Thứ hai là dứt trừ nghi chấp, văn chia làm năm: Ngăn chẳng phải thật báo. Nêu lý do hỏi. Đáp không có tên ba đường. Đều không có danh từ đường ác. Nói về sự hóa hiện. Nay nói về phần một. Ông: là từ ngữ gọi đệ tử. Chớ (vật): là, chẳng nên, cho rằng loài chim linh này do tội báo nghiệp ác sinh ra. Nghe nói loài chim linh sợ sinh nghi ngờ cho là ở cõi Tịnh các duyên ác chưa dứt, giúp cho ở trong một hội không sinh thắng ý nên Phật bảo như thế với ngài Xá-lợi-phất. Chánh kinh: Vì sao? Tán rằng: Thứ hai là nêu lý do hỏi. “Vì sao” nghóa là lý do gì. Chẳng phải là thật báo, nguyên nhân là vì sao? Chánh kinh: Ở cõi nước kia không có ba đường ác. Tán rằng: Thứ ba là đáp không có tên ba đường ác. Ba đường ác là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Địa ngục, tiếng Phạm Na-lạc-ca, Hán dịch là khổ khí, là nơi chúng sinh chịu khổ ở. Ngạ quỷ: loài chịu nhiều khổ não bức ngặt, lâu ngày không được ăn uống, nên gọi là ngạ quỷ. Súc sinh: có chỗ gọi là nhận-lục-phản hoặc gọi là hy-lục-phản, là loài do người nuôi. Hoặc gọi bàng sinh, vì gây ra nghiệp ngang trái nên chịu quả báo cũng ngang trái. Hỏi: Vì sao ba đường ác đều không có? Đáp: Người sinh về Tịnh độ, là nhờ có nghiệp duyên lành rất sâu xa, dứt hẳn thân loại khác, đều là chúng đồng sinh. Cũng như cảnh đẹp ở cõi trời cũng phải do nghiệp lành mới sinh về. Cực lạc là cõi cao quý, há lại có nhân ác mà được vãng sinh về đó hay sao? Huống chi Phật Di-đà đã có phát nguyện: “Nếu khi ta thành Phật, nếu trong cõi nước còn ba đường ác, thì ta không thành Chánh giác”, cho nên biết không có ba đường ác Chánh kinh: Xá-lợi-phất!- Ở cõi nước Phật ấy, danh từ ba đường ác, còn không có huống chi là có thật. Tán rằng: Thứ tư là không có tên gọi ba đường ác. Tên gọi còn không có, huống chi là có thật ba đường ác. Chánh kinh: Các loài chim đó, đều do Đức Phật A-di-đà muốn pháp âm được truyền bá, nên biến hóa ra. Tán rằng: Thứ năm là nói về sự hóa hiện. Lúc đầu trong chúng hội vẫn còn có tâm nghi, đã chẳng phải là thân thật báo, thì do đâu mà có? Ở đây dẫn ra một đoạn văn kinh để đáp. Hỏi: Đức Phật A-di-đà dùng thần lực rộng lớn biến ra thân Phật, để cho chúng sinh thấy các tướng tốt mà phát tâm, nghe phạm âm mà ngộ đạo, vì sao lại biến ra các loài chim linh để hiển phát giáo môn? Đáp: Hóa thân là Phật, thì chẳng phải là điều kỳ lạ ít có, nếu hiện ra loài chim linh, các loài mà chúng sinh ít gặp, thì liền phát tâm khó gặp, mà có được niềm tin. Sự hóa hiện có nhiều đường nào có khó gì, huống chi tùy loại mà hóa thân, chỗ nào cũng đều có nói. Rừng quỳnh, lưới báu đều giảng nói pháp âm, nước trong gió mát cũng luận bàn chân giáo, do vậy Phật mới hiện ra các loài chim linh. Chánh kinh: Này Xá-lợi-phất! Cõi nước Phật kia gió nhè nhẹ thổi, làm lay động các hàng cây báu và các mành lưới báu cùng phát ra những tiếng hay, ví như trăm ngàn thứ tiếng nhạc đồng thời trổi lên. Tán rằng: Thứ tám là gió thổi, phát ra tiếng nhạc. Văn chia làm bốn: Gió lay cây báu. Âm thanh như tiếng nhạc. Nghe sinh ý thiện. Kết thành trang nghiêm. Ở đây nói hai phần đầu. Vi phong là gió nhẹ, gió thổi làm cho cây và mành lưới phát ra tiếng pháp hay. “Thí như”, “Thí ” là so sánh. “Như” là tương tự, tựa như trăm ngàn thứ âm nhạc cùng lúc trổi lên. Gió nhẹ từ từ thổi qua, lay động hàng cây và mành lưới, tạo nên các âm vận vang khắp mười phương, âm thanh êm dịu như tiếng nhạc, nên gọi là thí như trăm ngàn tiếng nhạc cùng lúc trổi lên. Chánh kinh: Nếu nghe được âm thanh đó, đều tự nhiên sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Tán rằng: Thứ ba là nghe rồi liền sinh khởi thiện ý. “Tự nhiên” là thói quen nhậm vận. Chẳng phải không có nhân duyên mà gọi là tự nhiên. Niệm Phật có ba: Tâm niệm: trong tâm buộc niệm. Niệm tiếng nhỏ: niệm chỉ tự mình nghe. Niệm lớn tiếng. Lại có mười công đức: Dứt buồn ngủ. Khiến cho ma trời sợ hãi, Âm thanh vang khắp mười phương. Ba cõi dứt khổ. Âm thanh bên ngoài không nhập vào. Tâm không tán loạn. Tinh tấn mạnh mẽ. Chư Phật vui mừng. Tam-muội hiện tiền. Vãng sinh Tịnh độ. Lại chia thành bốn trường hợp: Tâm niệm miệng không niệm. Miệng niệm tâm không niệm. Tâm miệng đều niệm. Tâm miệng đều không niệm. Trong bốn trường hợp này thì câu thứ nhất và câu thứ ba là đúng. Trong Kinh Thụy Tướng chép: “Gió mát nhè nhẹ thổi, không lạnh không nóng, lay nhẹ các mành lưới báu và các hàng cây báu, giảng nói pháp âm mầu nhiệm vô thượng. Nếu người nghe được sẽ dứt trừ hết bụi nhơ, vui sướng tự nhiên, như được Tam-muội. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Cõi nước Phật kia có các công đức trang nghiêm như thế. Tán rằng: Thứ tư là kết thúc thành tựu cõi Cực Lạc trang nghiêm. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Ý thầy nghóa sao? Đức Phật kia vì sao hiệu là A-di-đà? Lời tán: Dưới đây là phần hai, nói về công đức của thân Phật, văn chia làm hai: Nói về công đức của hóa chủ. Công đức của thính chúng. Phần đầu lại chia làm ba: Hỏi về danh hiệu Phật. Nói lý do vì sao có danh hiệu ấy. Nói về kiếp số thành Phật. Ở đây nói phần một, Phật tự nêu. Chánh kinh:Xá-lợi-phất! Đức Phật ấy ánh sáng vô lượng, chiếu khắp các cõi nước trong mười phương, không có chướng ngại, nên hiệu là A-di-đà. Lời tán: Thứ hai là giải thích vì sao hiệu là A-di-đà, có hai nghóa: Do ánh sáng vô lượng nên có tên gọi là A-di-đà. Do tuổi thọ vô lượng mà có tên gọi là A-di-đà. Ánh sáng có hai thứ: Nội quang: tức là trí chiếu lý ở bên trong. Ngoại quang: ánh sáng soi chiếu ở bên ngoài, đây tức là thân quang. Có tự thể kim cương bất hoại, thân vô ngại giải thoát, như lưu ly thanh tịnh, biểu hiện trong suốt. Ở cõi đó các cảnh vật đều hiện ra trong ánh sáng đó ánh sáng đó thu lại dài một tầm, phát ra thì xa vô lượng. Trong kinh Vô Lượng Thọ chép: “Thân có nhiều ánh sáng, cho đến vô lượng ánh sáng. Chúng sinh hễ nhìn thấy ánh sáng đó thì ba cấu đều tiêu trừ. Nếu ở trong ba đường thấy ánh sáng thì thì sẽ dứt hết khổ nạn, khi chết, được giải thoát”. Trong Đại luận chép: “Các vị Bồ-tát ở cõi Phật A-di-đà thân thường phát ra ánh sáng, chiếu soi đến mười muôn do-tuần. Nếu là ánh sáng của Phật thì chiếu khắp các thế giới ở mười phương”. Lại, trong Quán Kinh chép: “Thân Đức Phật kia như trăm ngàn muôn ức sắc vàng Diêm-phù-đàn ở cõi trời Dạ-ma, thân Phật cao sáu mươi muôn ức na-do-tha Hằng hà sa do-tuần, sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày xoay về bên phải mềm mại như năm ngọn núi Tu-di. Mắt Phật như nước bốn biển lớn, sanh trắng phân chia rõ ràng, các lỗ chân lông trên thân phát ra ánh sáng như núi Tu-di. Vầng ánh sáng quanh thân Phật tròn đầy như trăm ức Tam thiên đại thiên thế giới. Ở trong vầng ánh sáng tròn ấy có trăm muôn ức na-do-tha Hằng hà sa hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật cũng có vô số các vị hóa Bồ-tát theo làm thị giả. Đức Phật kia có tám mươi bốn ngàn tướng, mỗi tướng có tám mươi bốn ngàn tướng tốt, mỗi tướng tốt cũng có tám mươi bốn ngàn tia sáng, chiếu khắp vô lượng thế giới trong mười phương”. Do ánh sáng này mà Phật có hiệu là A-di-đà. Hỏi: Ánh sáng chiếu khắp vô lượng thế giới trong mười phương, vậy sao người ở cõi này không thấy? Đáp: Hợp đạo thì ngàn dặm cũng khéo ứng, trái đời thì gần như gan mật cũng cách xa. Như người đau mắt không thấy được ánh sáng mặt trời, chẳng lẽ do lỗi mặt trời sao?- Cũng như người điếc không nghe được tiếng sấm, chẳng phải là lỗi của sấm. Chúng sinh nghiệp nặng chướng sâu, Phật có chiếu ánh sáng cũng không thể nào thấy được. Chánh kinh: Lại Xá-lợi-phất! Tuổi thọ của Đức Phật kia và người dân ở cõi nước Ngài là vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, nên hiệu là A-di-đà. Tán rằng: Thứ hai là đáp do tuổi thọ mà gọi tên là A-di-đà. Về tuổi thọ, nói theo thức thứ tám thì đó là công đức nối nhau liên tục, tức là thuộc về hành pháp bất tương ưng. Vô lượng là không có hạn lượng, vô biên là không bị giới hạn ngăn cách. tăng-kỳ kiếp, Hán dịch là vô ương số kiếp. Hỏi: Thân Phật và thân chúng sinh ở cõi nước kia, thuộc về hữu vi, chưa ra khỏi bốn tướng thay đổi, làm sao tránh khỏi trong một thời gian bị tiêu diệt? Đáp: Lìa bỏ hai lớp sinh tử, được thân năm uẩn chân thường, bi nguyện thật vô biên thì thân mạng đâu cùng tận? Huống chi nghiệp sát đã dứt, tuổi thọ phải càng lâu dài chứ. Hỏi: Đức Phật Di-đà đã ở quả vị Phật, tuổi thọ vô lượng là điều hiển nhiên. Người dân ở cõi đó vì sao cũng đồng như Phật? Đáp: Nghiệp chướng nhẹ nhàng, hạt giống lành thêm lớn, thân chẳng phải phần đoạn bản thể xa lìa hẳn sự đến đi, nên việc cũng đồng như Phật theo lý thì không trái. Nên trong kinh Vô Lượng Thọ chép: “Tuổi thọ của Đức Phật kia rất lâu dài không thể tính kể. Dù cho chúng sinh trong vô lượng thế giới ở mười phương đều chứng quả A-la-hán, cùng tư duy trong trăm ngàn muôn kiếp cũng không tính biết được tuổi thọ của Phật. Tuổi thọ của Bồ-tát, trời, người cũng giống như thế.” Lại, trong Kinh Thanh Tịnh Giác chép: “Đức Phật A-di-đàmuốn cho tất cả chúng hữu tình trong cõi nước đó đều được giải thoát. Nếu là bậc Bồ-tát thì đều giúp cho thành Phật. Sau khi thành Phật thì lần lượt giáo hóa tất cả chúng sinh khác đều được giải thoát, tất cả chúng sinh đó tu hành thành Phật rồi lại giáo hóa tất cả chúng sinh khác nữa cũng được giải thoát rồi sau đó mới nhập Niết-bàn”. Như vậy đủ thấy tuổi thọ của Phật là vô lượng vô biên. Hỏi: Người dân ở cõi nước đó là phần đoạn hay biến dịch? Đáp: Nếu nói về báo độ thì là thân biến dịch, còn nói về hóa tịnh quốc thì thân phần đoạn chưa dứt. Hỏi: Đức Phật kia tuổi thọ lâu dài, trong kinh đã có nói nhưng chẳng hiểu là từ khi thành Phật đến nay, đã bao nhiêu kiếp rồi? Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Phật A-di-đà từ khi thành Phật đến nay đã trải qua mười kiếp. Tán rằng: Thứ ba là nói về kiếp số thành Phật. Chánh kinh: lại Xá-lợi-phất!- Đức Phật kia có vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn, đều là bậc A-la-hán, chẳng thể dùng con số tính toán để biết được. Các chúng Bồ-tát cũng giống như thế. Tán rằng: Thứ hai là nói về công đức của thính chúng. Đoạn văn này chia ra làm bốn: Hai chúng Đại thừa, Tiểu thừa số lượng nhiều vô biên. Nhân công hạnh mà hai chúng tân cựu có khác nhau. Khuyên sinh về nước kia. Khuyên sinh có lợi ích. Ở đây là nói về phần đầu, lại chia làm hai: Nói về chúng nhiều ít. Kết thúc thành tựu trang nghiêm. Ở đây nói phần đầu: Chúng đệ tử Thanh văn: là do âm thanh mà ngộ đạo, nên gọi là Thanh văn. Đệ tử: Lớn lên sau ta gọi là Đệ, nhờ ta mà giải ngộ gọi là tử. Đều là bậc A-la-hán là phân biệt với ba quả trước. “Chẳng thể dùng con số tính toán mà tính biết được” vì toán số không với tới được. Các Bồ-tát cũng giống như thế, cũng không thể dùng con số tính toán mà biết được. Hỏi: Chúng sinh cõi đời vẩn đục, nghiệp nặng khó hóa độ, nên Phật nói về ba thừa. Chúng sinh ở Tịnh độ tin sâu nên dễ khuyên hóa, vì sao còn nói bốn quả? Đáp: Có hai ý: Muốn nói sự hóa trạch bao trùm cả sâu cạn, cho nên hạng người gây ra năm tội nghịch mười điều ác cũng sinh về đó. Nói lên quyến thuộc trang nghiêm nên có nhiều chúng vây qua- nh nên tuy là cõi Tịnh, nhưng cũng có các Thanh văn, nên trong kinh Pháp Hoa chép: Khi Đức Phật kia đản sinh, tuy chẳng phải đời ác nhưng vì bổn nguyện, nên Phật cũng nói pháp ba thừa. Quán Kinh cũng chép: Người căn cơ Tiểu thừa sinh về nước kia đều đắc bốn quả. Hỏi: Nếu nói về báo độ chân tịnh, thì người Nhị thừa không thể sinh về đó, nếu nói về hóa hiện cõi tịnh thì bốn quả đều được vãng sinh, vì sao nói đều là bậc A-la-hán, mà không nói ba quả kia? Đáp: Người Thanh văn quyền hóa ở báo Tịnh độ, y cứ theo sự tốt đẹp cõi đó, thì không nói bốn quả trong hóa Tịnh độ đều hàng phục được sự phân biệt trong quả vị gia hạnh, mới được sinh về Tịnh độ. Trong kinh Vô Lượng Thọ chép: nhị thừa không sinh về báo độ. Chánh kinh: Này Xá-lợi-phất! Cõi nước của Phật kia có các công đức trang nghiêm như thế. Tán rằng: Thứ hai là kết thúc thành tựu cõi trang nghiêm. Chánh kinh: Lại, Xá-lợi-phất! Ở cõi nước Cực lạc, chúng sinh sinh về đó đều là bậc A-bệ-bạt-trí. Tán rằng: Thứ hai là do công hạnh mà có hai chúng mới cũ khác nhau. Văn này chia làm hai: Chúng mới sinh về được không lui sụt. Chúng Bổ xứ ở ngôi vị cao. bệ-bạt-trí hoặc gọi là A-duy-việt-trí, đó là tiếng Phạm, Hán dịch là Không lui sụt chuyển (không lui sụt). Không lui sụt có năm: Tín không lui sụt. Vị không lui sụt. Chứng không lui sụt. Hạnh không lui sụt. Phiền não không lui sụt. Vì không còn bị phiền não làm thối chuyển. Hỏi: Sinh về cõi kia nhờ đâu lại không lui sụt? Đáp: Vì không có năm duyên lui sụt: Không bị bệnh khổ ràng buộc. Không trái với hạnh. Thường tụng kinh pháp. Thường làm việc lành. Hòa thuận luôn luôn, không hề có việc chống trái, tranh cãi, nên gọi là Không lui sụt. Còn chúng sinh ở cõi vẩn đục này đa phần trái vo năm điều trên, lại bị cảnh dục kéo lôi, nên phần nhiều đều lui sụt. Chánh kinh: Ở cõi đó có nhiều vị Nhất sinh Bổ xứ, số ấy rất nhiều, chẳng thể dùng con số tính toán mà biết được, chỉ có thể nói là vô lượng vô biên a-tăng-kỳ mà thôi. Tán rằng: Thứ hai là nói về chúng Bổ xứ ở địa vị cao. Nhất sinh Bổ xứ: “Bổ” là bổ khuyết, “Xứ” là nơi chỗ, các vị Bồ- tát này đã viên mãn Thập địa, đủ ba a-tăng-kỳ kiếp, hết đời này sẽ thành Chánh giác, nên gọi là Nhất sinh bổ xứ, văn các kinh khác dễ dàng thấy được, như Đức Di-lặc hiện ở cõi trời, tương lai quả thành, một đời bổ khuyết chỗ đấng Đại giác, trong ba hội độ chúng vô lượng. Trong Kinh Vô Lượng Thọ chép: “Khi ta thành Phật, các Bồ-tát ở các cõi nước khác sinh về nước ta, rốt ráo sẽ đến được giai vị Nhất sinh bổ xứ.” Vì bổn nguyện này, nên ai sinh về đó cũng được ngôi vị không lui sụt. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Chúng sinh nào nghe được thì nên phát nguyện, nguyện sinh về nước kia. Tán rằng: Thứ ba là khuyên sinh về cõi kia. Tất cả chúng sinh ở hiện tại, vị lai nếu nghe lời ta nói từ đầu đến đây thì nên phát nguyện, nguyện sinh về nước kia. Hỏi: Cõi trời của ngài Từ Thị sự vui sướng không thiếu, bạn lành cao quý lại nhiều, vì sao phải nhất định khuyên sinh Tây phương? Đáp: Nếu nói về cõi Đâu-suất, thì cao quý hơn cõi nhân gian, nhưng so với Cực lạc Tây phương thì còn rất kém. Vì vậy mới khuyên sinh về Tây phương. Sự hơn kém có khác, Tịnh độ có mười điều cao quý, còn cõi Đâu- suất có mười điều thua kém. Mười điều cao quý của Tịnh độ là: Là nơi ở của vị hóa chủ. Tuổi thọ của người được giáo hóa dài lâu. Cõi nước không bị ba cõi ràng buộc. Tịnh độ vô dục. Không có người nữ. Tu hành không lui sụt. Tịnh độ không có nhơ đục. Cõi nước trang nghiêm. Niệm Phật nhiếp tâm. Mười niệm được vãng sinh. Mười điều thua kém ở cõi trời Đâu-suất: Cõi nước nơi ở thấp kém. Tuổi thọ của người được giáo hóa có giới hạn. Bị ba cõi ràng buộc. Có dục lạc. Nam nữ ở chung. Tu hành có lui sụt. Cõi nhơ đục không thanh tịnh. Cõi nước kém trang nghiêm. Niệm thiện nhiếp các căn. Tu hành khổ nhọc. Vì có mười điều cao quý và mười điều thua kém này, nên mới khuyên sinh về Cực lạc. Chánh kinh: Vì sao? Vì được ở chung một chỗ với các bậc Thượng thiện. Tán rằng: Thứ tư là khuyên sinh lợi ích. Các bậc Thượng thiện: “thiện” là việc lợi ích cho con người trong quá khứ và hiện tại, “Bậc” là các Thanh văn không lui sụt và Bồ-tát Bổ xứ đều ở chung một hội Tây phương. Cùng một thầy tiến nghiệp, thì phải nhờ duyên lành. Kết bạn gây thù thì chỉ trở thành bè đảng ác. Mạnh mẫu dời nhà tìm nơi ở tốt, Tuyên Ni không uống nước trộm trên dòng suối, ấy đều là vì mến điều thiện và hổ thẹn điều ác. Mến điều lành thì an lành trong cảnh tịnh, gây ra điều ác thì buông thả huân tập theo điều ác. Khuyên sinh về Tịnh độ gần gũi bạn lành thầy tốt. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Không thể với chút ít gốc lành phước đức nhân duyên mà được sinh về cõi kia. Tán rằng: Từ đây trở xuống là phần hai, nêu nhân cao quý của cõi Cực lạc, văn chia làm năm đoạn: Ngăn chút ít điều lành. Nói nhiều nhân. Thánh chúng đến đón rước. Chúng sinh được vãng sinh. Kết khuyến vãng sinh. Ở đây nói về phần đầu, không thể với chút ít gốc lành mà được sinh về cõi Tịnh độ cao quý. Hỏi: Mười niệm Di-đà được đốn nước sinh về Tịnh độ, theo lời nói này thì quả lớn lao mà nhân thì nhỏ, vì sao chút ít nhân duyên lành không được sinh về cõi kia? Đáp: Mười niệm được vãng sinh Tịnh độ là để tiếp dẫn các chúng sinh biếng nhác, còn nói về nhiều nhân duyên lành, là gồm nhiếp những người siêng tu tinh tấn, hoặc nói rộng hoặc nói lược, không trái với lý.  <卷>QUYỂN HẠ Chánh kinh: Này Xá-lợi-phất! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào nghe nói về Đức Phật A-di-đà, chấp trì danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Tán rằng: Thứ hai là nói về nhiều nhân. Người thiện nam, tiếng Phạm là Ô-ba-xách-ca, Hán dịch là Cận Sự Nam. “Sách” chỉ cho người nam, giữ bền năm giới mới được gần gũi kính thờ Tỳ-kheo tăng. Người thiện nữ là Ô-ba-tư-ca. Tư chỉ cho người nữ, cũng giữ năm giới mới có thể kính thờ Tỳ-kheo ni, cho nên Tây phương chia nam thanh và nữ thanh. Nghe nói về Đức Phật A-di-đà nghóa là nghe bạn lành nói vãng sinh trong giáo pháp Di-đà, hoặc tự tìm xem, chấp trì danh hiệu Phật. Từ một ngày cho đến bảy ngày nhất tâm, không hề có xen hở, thì gọi là nhất tâm. Bất loạn là chuyên chú không tán loạn. Hỏi: Luận Tịnh độ chép: “Người nữ, người thiếu căn và người Nhị thừa thì không được vãng sinh”, như vậy chẳng phải trái ngược sao? Đáp: Nếu người nữ niệm Phật, ghi nhớ tinh chuyên, khi qua đời muốn vãng sinh Tịnh độ khi sinh về thì chuyển thành thân nam, vì sao lại không được? Người thiếu căn cũng thế. Trong văn kinh-thù Bát-nhã chép: “Nếu người muốn sinh về cõi nước Tịnh diệu hiện tại ở phương khác, thì nên tùy theo danh hiệu Phật của cõi nước kia, nhất tâm tụng niệm, thì sẽ được vãng sinh. Trong kinh Quán Phật Tam-muội chép: Muốn mau thành tựu pháp Tam-muội Niệm Phật thì năm nhân duyên: Giữ giới không phạm. Không khởi tà kiến. Không sinh tâm chê bai, kiêu ngạo. Không tức giận, ganh ghét. Tinh tấn mạnh mẽ. Kinh Cổ Âm Thinh chép: Khiến niệm danh hiệu Đức Phật kia trong bảy ngày bảy đêm, sáu thời lễ bái”. Kinh Hiền Ngu chép: “Giữ giới chuyên niệm trong bảy ngày, cũng được vãng sinh”. Kinh Bình Đẳng Giác và Kinh Đại A-di-đà cũng nói ba hạng người được vãng sinh. Chánh kinh: Người ấy khi sắp qua đời, Phật A-di-đà các Thánh chúng hiện ra trước mặt. Tán rằng: Thứ ba là nói về Thánh chúng đón rước. Người ấy: Là hành nhân niệm Phật trong bảy ngày. Lúc sắp qua đời: Là lúc tuổi thọ sắp hết. Liền có Phật A-di-đà và các Thánh chúng tức là Bồ-tát và Thanh văn hiện thân ở trước người niệm Phật. Như Thiền sư Trân đời Lương thấy đài bạc trắng, hoặc thấy hóa Phật đến đón rước. Chánh kinh: Người ấy qua đời, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về thế giới Cực lạc của Đức Phật A-di-đà. Tán rằng: Thứ tư là nói về chúng sinh vãng sinh. Không điên đảo là không thay đổi chánh niệm. Hóa sinh vào hoa sen, dung mạo xinh đẹp, như các Bồ-tát, “Tâm không điên đảo” là ý tưởng tu hành chân chánh, xa lìa cõi nhơ đục, sinh ngay về Tịnh độ nên gọi là “Liền được vãng sinh”. Hỏi: Nghiệp ác của chúng sinh vô lượng, làm sao niệm Phật mà diệt trừ hết nghiệp chướng, lại được vãng sinh Cực lạc? Đáp: Luận Thập Nghi có chép: Có ba nghiệp, có công năng diệt trừ nghiệp ác: Ở tâm: Vì gây tội là tâm luống dối, niệm Phật là tâm chân thật, lấy chân thật để trừ luống dối, vì sao lại không được? Như bóng tối ngàn năm, không thể chống lại ánh mặt trời buổi sáng. Ở cảnh: Nghóa là gây tội duyên ở cảnh giới điên đảo, niệm Phật duyên với công đức thắng diệu. Lấy chân thật để trừ luống dối, vì sao lại không được? Ở tịnh: Gây tội là ý nhiễm, niệm Phật là tâm tịnh, tâm tịnh thì hơn còn ý nhiễm thì kém, có thể so sánh như đứa trẻ cầm dao có thể chặt sợi dây ngàn trượng, một đốm lửa nhỏ có thể đốt hết cả vạn bó củi. Lại trong Quán Kinh chép: “Trong mỗi niệm, diệt trừ tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp, tội nghiệp đã trừ, thì hoặc gì còn phát sinh được? Người bên Tây vực khi qua đời, đều dùng phướn, tượng tiếp dẫn, hàng thân hữu tri thức trợ niệm Di-đà, giúp người sắp chết phát tâm vãng sinh”. Lại trong Kinh Hoa Nghiêm chép: “Lúc người gần qua đời, phải làm cho người đó nhớ nghó muốn thấy Đức Như lai, khi qua đời được sinh về Tịnh độ. Khi thấy người sắp qua đời nên khuyên họ niệm Phật, lại đặt tôn tượng Di-đà để họ chiêm ngưỡng tôn kính, sinh khởi thiện ý thì liền được vãng sinh”. Hỏi: Khi sắp qua đời có niệm lành liền được vãng sinh, vì sao lại tu các thắng nghiệp trước làm gì? Đáp: Đời người thọ hay yểu, khó suy lường dài ngắn, hoặc do bị bệnh mà mê muội, hoặc phi thời mà qua đời. Nếu khi còn sống không có nghiệp lành thì khó thoát được tai ương ở đời sau. Chuẩn bị trước các duyên lành là để ngăn ngừa lỗi này. Hỏi: Người vãng sinh có thân trung hữu hay không? Đáp: Trong luận Quần Nghi có nói về hai vị sư. Một sư cho là cực thiện, cực ác thì không có thân trung hữu, còn một vị thì cho bất luận thiện ác, hễ xả báo thọ sinh thì đều có thân trung hữu vì để truyền thức, trừ biến thân trong hiện đời thì không có thân trung hữu, Tịnh độ đã là cực thiện thì thân trung hữu chắc chắn là có, có là đúng. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Ta thấy lợi ích đó, cho nên nói lời này. Nếu có chúng sinh nào nghe những lời này, thì nên phát nguyện sinh về cõi kia. Tán rằng: Thứ năm là kết khuyên vãng sinh. Ta thấy lợi ích ấy: “Ta” là lời tự xưng của Đức Thế tôn, “thấy lợi ích đó” là thấy lợi ích khác thường, cho nên Phật mới khuyên sinh về cõi nước kia. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Như nay ta khen ngợi công đức không thể suy suy nghó bàn luận luận của Phật A-di-đà. Tán rằng: Thứ ba là Chư Phật chứng minh, văn chia ra làm ba: Tự nói ra lời khen ngợi. Dẫn các Đức Phật khác để làm chứng. Giải thích tên kinh. Như nay ta: là lời Phật tự nói mình, công đức của Đức Phật kia không thể suy suy nghó bàn luận luận. Chánh kinh: Phương Đông cũng có Phật A-súc-bệ, Phật Tu-di Tướng, Phật Đại Tu-di, Phật Tu-di Quang, Phật Diệu Âm. Tán rằng: Thứ hai là dẫn các Đức Phật khác để làm chứng. Kinh Khen ngợi Tịnh độ chép: “Chư Phật mười phương”, ở đây chỉ nói lược sáu phương, chia làm sáu đoạn. Lại nêu phương Đông. Mỗi phương đều có năm đoạn: Chỉ cõi nước. Nêu danh hiệu Phật. Nói về nhiều ít. Nói về tướng chứng minh. Dùng lời dẫn chứng. Ở đây phần đầu hợp hai đoạn lại thành một. Phương Đông chỉ cho cõi nước, cũng có “Phật A-súc”… là nêu danh hiệu Phật. Trước tiên dẫn ra phương Đông vì người Tây vực cho phương Đông là trên hết, cho nên nêu trước. A-súc là tiếng Phạm, Hán dịch là Vô Động, vì không bị bốn ma phiền não trái thuận làm động. Tu-di Tướng là kim dung vì tướng trạng cao quý của Đức Thế tôn này như núi Tu-di. Đại Tu-di: là các tướng rất lớn như Đại sơn vương. Tu-di Quang là ánh sáng nơi thân rực rỡ như Sơn Vương. Diệu âm: là âm thanh nhiệm mầu, trong suốt vang xa. Chánh kinh: Hằng hà sa số Chư Phật như thế, mỗi vị đều ở cõi nước của mình le ra chiếc lưỡi rộng dài che khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Tán rằng: Thứ ba là nói về nhiều ít. Thứ tư là nói về tướng để làm chứng. “Hằng hà sa số Chư Phật như thế” là nói về nhiều ít, “ở trong cõi nước của mình” đó là nói về tướng để làm chứng. Như thế…: Nêu lên số Chư Phật so với số cát sông Hằng mà vẫn không nêu đủ cho nên nói là như thế v.v… Hằng hà: tiếng Phạm gọi là Căng-già, Hán dịch Hằng Hà là dịch sai, là tên của thần sông, lấy tên thần đặt tên sông. Trong kinh nói cát sông Hằng làm ví dụ. Từ ao Vô Nhiệt Não phát ra bốn con sông lớn, sông Hằng là một, vì có năm nghóa: Do cát nhiều. Vì người đời đều cho là dòng sông phúc xuống sông tắm gội sẽ diệt trừ tội nghiệp, khi chết được sinh lên cõi trời. Dù trải qua kiếp hoại, mà tên gọi vẫn thường còn. Phật thường giảng nói pháp mầu ở đây. Dân chúng đều gửi gắm vào đó, cho nên lấy đó làm ví dụ. Tướng minh chứng: Chư Phật trong các cõi nước mình đều le ra chiếc lưỡi rộng rộng dài, tức các vị Phật đó đều ỏ tại cõi nước mình le ra chiếc lưỡi. Tam thiên đại thiên thế giới là theo Đại luận chép: “Ngàn núi Tu- di, ngàn mặt trời, mặt trăng, ngàn bốn vị Thiên hạ và một ngàn Phạm vương, gọi là một Tiểu thiên. Lấy tiểu thiên làm một, cho số đến một ngàn, gọi là Đại Thiên, cho nên gọi là Tam Thiên.” Chẳng phải tiểu, trung nên là đại Thiên, luận Câu-xá chép: Tiểu thiên thì đến Sơ thiền, Trung thiên thì đến Nhị thiền, Đại thiên thì đến Tam thiền, đều là một lần thành hoại, cho nên nói che khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Đây là tiêu biểu cho vô lượng kiếp đến nay khẩu nghiệp lìa hết bốn lỗi, nên chiêu cảm đượcchiếc lưỡi này. Chứng minh việc nhỏ thì le ra chiếc lưỡi: che mặt cho đến mí tóc; chứng minh việc lớn thì che khắp tam thiên, nay nói nhân nhỏ nhiệm mà quả cao siêu, nên sợ chúng sinh sinh nghi, bèn bỏ hết yếu môn khổ não, chứng con đường thường lạc mau chóng, việc đã rộng lớn thì hiện ra tướng lành chẳng khinh nhẹ. Duỗichiếc lưỡi mềm mại che phủ khắp Đại thiên, chứng minh Tây phương là vui sướng chân thật. Chánh kinh: Nói lời thành thật rằng: chúng sinh các ngươi nên tin kinh Khen ngợi Bất Khả Tư Nghì Công Đức, nhất thiết Chư Phật che chở này. Tán rằng: Thứ năm là lời dẫn chứng, văn kinh dễ hiểu. “Thành” là chân thật. Hỏi: Các ngươi là Chư Phật sáu phương nói với chúng đệ tử của mình, hay Đức Thích-ca khuyên đại chúng ở Kỳ viên? Đáp: Xem qua kinh này, thì có hai ý: Chư Phật ở phương khác bảo thính chúng trong nước mình. Đức Thích-ca chuyển dẫn lời ý của các Đức Phật ấy để chứng minh cõi Tây phương ấy, giúp cho chúng sinh trong hội đều kính tin, “Kinh Nhất thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm” tức là kinh này. Y theo đây nói đầy đủ lẽ ra phải là “Kinh Khen ngợi A -di-đà Phật Bất Khả Tư Nghì công đức, văn ấy là lược”. Nói “Kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm” là Chư Phật hộ trì cho người ghi nhớ tụng đọc kinh này. Các hạnh tuy rộng nhưng khó sánh với công đnhớ nghó Phật, phước đức tuy nhiều nhưng đâu bằng năng lực trì kinh? Cho nên giúp cho Chư Phật sáu phương dùng thần lực hộ trì, bậc Thánh ở Hằng hà sa cõi nước trong một niệm ghi nhớ, cho nên nói là “Kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm”. Hỏi: Nếu Phật Thích-ca nói về cõi Tịnh độ, thì mới có thể nói là Phật Sở Hộ Niệm, nếu Chư Phật không nói kinh này thì đâu nói Phật Sở Hộ Niệm? Đáp: Lời vua nói là sắc lệnh, lời Phật nói thành kinh. Đã khen ngợi Tịnh độ thì thuyết này liền thành kinh. Hoặc văn kinh có thể được Phật che chở, tức là chỉ cho Kinh A-di-đà do Phật Thích-ca nói. Hỏi: Linh sơn mở tháp, phải nhờ triệu tập phân thân, Xá-vệ mở hội nói pháp, vì sao không mời Chư Phật? Đáp: Mời Chư Phật mở tháp báu kia, là do nguyện tâm của Chư Phật, vì làm chứng Cõi nước mà khởi lên tướng tín thành, hiển bày bi ý của Đức Phật đó, chỉ ở nơi cõi nước mình, không đến cõi này. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Các thế giới phương Nam có Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu-di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn. Tán rằng: Thứ hai là nói về phương Nam, cũng chia ra năm phần như trước, ở đây nói hai đoạn trước (tức một là chỉ cõi nước; hai là chỉ tên Phật). Phật Nhật Nguyệt Đăng: Ánh sáng của thân, ánh sáng trí tuệ trong ngoài đều chiếu soi. Phật Danh Văn Quang: vì có ánh sáng nổi trội chiếu soi trong ngoài, hoặc nghe danh thấy ánh sáng mà sinh giác ngộ. Phật Đại Diệm Kiên: Ánh sáng của thân như ngọn lửa, xuất phát từ vai, hoặc “kiên” có nghóa là “đều cùng” tức là thân quang trí quang đều phát ra lửa. Phật Tu-di Đăng: Ánh sáng thân như ngọn đèn, có công năng phá trừ hết tăm tối. Vô lượng tinh tấn: Làm lợi lạc chúng sinh. Chánh kinh: Hằng hà sa số Chư Phật như thế, mỗi vị ở tại cõi nước mình, đều le ra chiếc lưỡi rộng dài, che khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Tán rằng: Thứ ba là nói về nhiều ít. Thứ tư là nói về chứng tướng, hành tướng như thế nào. Chánh kinh: Nói lời thành thật rằng: chúng sinh các ngươi nên tin Kinh Khen ngợi Bất Khả Tư Nghì Công Đức nhất thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này. Tán rằng: Thứ năm là từ ngữ dẫn chứng, cũng giải thích như trước. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Các thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Vô Lượng Tràng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang. Tán rằng: Thứ ba là nói về phương Tây, cũng có năm đoạn như trước. Vô Lượng Thọ là bổn tôn của cõi phương Tây. Y theo hai nghóa mà có danh hiệu là Vô Lượng Thọ, như đã giải thích trước kia. Hỏi: Đạo Nho còn không tự khoe các điều lành, vì sao Phật Di-đà tự khen là khó suy suy nghó bàn luận luận? Đáp: Theo thế văn này, thì được Chư Phật khen ngợi, lại dù cho Phật Di-đà tự khen, cũng đâu trái với lý. Đó chỉ là để dẫn dụ chuyển hướng cho chúng sinh, khiến họ sinh ý lành. Vô Lượng Tướng là tướng tốt vô lượng. Vô Lượng Tràng: Thân lượng công đức cao chót vót như núi. Đại quang là thân quang, trí quang chẳng nơi nào không soi chiếu. Đại minh: Đắc ba minh của Phật, chẳng có điều gì không biết, tức chính là biến tri. Bảo Tướng là hai tướng trong ngoài đều đáng bảo trọng. Tịnh quang: “Tịnh” là vô lậu. “Quang” là thân quang và trí quang nên gọi là Tịnh Quang. Chánh kinh: Hằng hà sa số Chư Phật như thế, mỗi vị đều ở tại nước mình le ra chiếc lưỡi rộng dài, che khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Tán rằng: Thứ ba, thứ tư văn cũng như trên đã nói. Chánh kinh: Nói lời thành thật rằng: chúng sinh các ngươi nên tin Kinh Khen ngợi Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Che chở này. Tán rằng: Văn thứ năm cũng dẫn lời làm chứng. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Các thế giới phương Bắc có Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật Sinh, Phật Võng Minh. Tán rằng: Thứ tư là lấy phương Bắc làm chứng minh, văn chia làm năm đoạn như trước. Phật Diệm Kiên: nghóa đồng như trước. Phật Tối Thắng Âm: âm thanh mượt mà, hay hơn các Phật khác. Phật Nan Trở: các ma không thể làm trở ngại. Phật Nhật Sinh: là nương vào mặt trời trí tuệ mà lưu xuất ra thanh giáo. Hoặc nương vào mặt trời trí tuệ để giúp cho chúng sinh phát sinh pháp lành. Phật Võng Minh: bày ra mành lưới giáo pháp này giúp cho chúng sinh sinh ra hiểu biết rõ ràng. Chánh kinh: Hằng hà sa số Chư Phật như vậy, mỗi vị đều ở tại nước mình le ra chiếc lưỡi rộng dài, che khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Tán rằng: Đoạn văn thứ ba, thứ tư như trước đã nói. Chánh kinh: Nói lời thành thật rằng: chúng sinh các ngươi nên tin Kinh Khen ngợi Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này. Tán rằng: Đoạn văn thứ năm này, ý đã nói như trước. Chánh kinh: Này Xá-lợi-phất! Các thế giới phương dưới có Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Đạt-ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp. Tán rằng: Thứ năm là nói về phương dưới làm chứng. Văn chia ra năm đoạn như trước, ở đây nói hai đoạn. Phật Sư Tử: như Sư tử tự tại trong các loài thú, Phật tự tại đối với các pháp nên gọi là Phật Sư Tử. Lại loài sư tử ở thế gian hàng phục các loài thú dữ, Phật hàng phục được bốn ma. Phật Danh Văn: tiếng tăm vang khắp mười phương. Phật Danh Quang: nghe danh hiệu thấy được ánh sáng mà phát sinh giác ngộ. Phật Đạt-ma: là tiếng Phạm, Hán dịch là Pháp, lấy pháp làm thân, tức lấy các pháp hữu vi, vô vi làm y chỉ. Phật Pháp Tràng: mở rộng đại pháp, cao lớn như cột cờ. Phật Trì Pháp: Nắm giữ pháp của Phật quá khứ, truyền lại cho hậu lai. Chánh kinh: Hằng hà sa số Chư Phật như thế, mỗi vị đều ở tại nước mình le ra chiếc lưỡi rộng dài, che khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Tán rằng: Phần thứ ba, thứ tư lời văn rất dễ hiểu. Chánh kinh: Nói lời thành thật rằng: chúng sinh các ngươi nên tin Kinh Khen ngợi Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này. Tán rằng: Đoạn văn thứ năm này, hành tướng như trước. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Các thế giới phương trên có Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta-la Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghóa, Phật Như Tu- di Sơn. Tán rằng: Thứ sáu là nói Chư Phật ở phương trên, văn đồng như trước. Ở đây nói phần một và hai. Phật Phạm âm: Âm thanh hay sắc tướng ho đẹp đẽ, người nghe sinh tâm vui mừng. Phật Tú Vương: Tú là sao, mặt trăng đứng đầu trong các vì sao, Phật đứng đầu trong hàng Bồ-tát Thập địa, Nhị thừa, phàm phu, vì được tự tại. Phật Hương Thượng: Giới đức thơm tho, không ai hơn được. Phật Hương Quang: Mùi hương bay ra rất xa, ánh sáng tỏ khắp giáo môn. Phật Đại Diệm Kiên: Thân vai đều phát ra ánh sáng. Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân: Tâm hoa phát ra ánh sáng tự trang nghiêm. Hoặc các thứ châu báu nhiều màu để trang nghiêm thân tô điểm tướng đẹp. Phật Ta-la Thọ Vương: Như cây cao bóng mát lớn, có công năng che mát. Đức Phật có khả năng làm bóng cây che mát cho chúng sinh. Phật Bảo Hoa Đức: Thân trí công đức như châu báu đáng xem trọng. Phật Kiến Nhất Thiết Nghóa: Nghóa là Cảnh, Phật có đủ năm nhãn, thấy tất cả cảnh. Phật Như Tu-di Sơn: Phước trí như núi, cao lớn vòi vọi. Chánh kinh: Hằng hà sa số Chư Phật như thế, mỗi vị đều ở tại nước mình hiện ra chiếc lưỡi rộng dài, che khắp Tam Thiên Đại thiện Thế giới. Tán rằng: Thứ ba, thứ tư văn cũng như trước. Chánh kinh: Nói lời thành thật rằng: chúng sinh các ngươi nên tin Kinh Khen ngợi Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhất thiết Chư Phật Che chở này. Tán rằng: Văn đoạn năm này cũng giống như trước. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Ý thầy nghó sao? Vì sao kinh này tên là “Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm”? Tán rằng: Thứ ba là giải thích tên kinh, văn chia làm ba: Nêu câu hỏi. Giải thích chung. Kết khuyến. Ở đây nói về phần đầu, Đức Thế tôn hỏi ngài Xá-lợi-phất có biết vì sao kinh này gọi là Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm” hay không. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào nghe lời Chư Phật nói và tên kinh này, thì các thiện nam, tín nữ đó đều được Chư Phật che chở, đều được không lui sụt trên đường tiến đến quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tán rằng: Đây là đoạn hai giải thích chung. Người thiện nam, người thiện nữ là người được che chở, nghe nói Phật Di-đà và Hằng sa danh hiệu Chư Phật trong sáu phương che chở cho người, các thiện nam, thiện nữ đó đều được tất cả Chư Phật che chở tức được sự che chở chân chánh. Thọ trì kinh và danh hiệu Phật thì thiện nam tín nữ được nghe Đức Thích-ca nói kinh tu hành vãng sinh Tịnh độ mới được sinh Tịnh độ, tức kinh này, được Chư Phật che chở, soi sáng nhớ nghó. A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề: A là Vô, Nậu-đa-la là thượng. Tam chính là, miệu là đẳng Tam chính là, Bồ-đề là giác, gọi ghép lại là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hỏi: Chỉ niệm danh hiệu Phật A-di-đà liền được không lui sụt, đâu cần có các phương tiện khác? Đáp: chẳng phải chỉ xưng niệm lễ kính, mà còn phải dốc lòng sám hối trước Chư Phật, tùy hỷ khuyến thỉnh, hồi hướng phát nguyện. Nhờ sám hối mà chuyển được các định nghiệp, như hạt châu như ý tùy nguyện đạt được không còn lui sụt, vì được Chư Phật che chở, cho nên đối với đạo Vô thượng Chánh Đẳng giác tâm không lui sụt. Chánh kinh: Cho nên, Xá-lợi-phất! Các thầy đều nên tin nhận lời ta và lời Chư Phật nói. Tán rằng: Đây là phần thứ ba kết khuyến. “Cho nên” là lời kết thúc phần trên. Các ông đều nên là lời khuyến khích, cỗ vũ. Các ông nên tin lời ta và lời Chư Phật trong các cõi nước ở sáu phương nói. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện và sẽ phát nguyện muốn sinh về cõi nước của Phật A-di- đà. Tán rằng: Dưới đây, là phần thứ tư nói về ba đời phát nguyện. Văn chia làm bốn: Phát tâm vãng sinh. Nêu bày ích lợi cao quý. Địa vị trong ba đời. Khuyến sinh về nước kia. Ở đây là nói phần đầu. Đã phát nguyện thuộc về quá khứ. Đang phát nguyện thuộc về hiện tại. Sẽ phát nguyện thuộc về vị lai. Muốn (Dục): là hi vọng. Sinh: là năm uẩn giả hợp. Chánh kinh: Thì những người đó đều được không lui sụt trên đường tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tán rằng: Thứ hai, là nói lên lợi ích cao quý. Người niệm Phật phát nguyện đều được Chư Phật hộ trì, giúp cho tâm cầu đạo không hề lui sụt, chí nguyện sinh không dời đổi, nên nói là không lui sụt. Người đã phát nguyện thì đã được không lui sụt, đang phát nguyện thì đang được không lui sụt, sẽ phát nguyện thì sẽ được không lui sụt. Chánh kinh: Thì đối với cõi Phật kia, hoặc đã sinh về hoặc đang sinh về và sẽ sinh về. Tán rằng: Thứ ba nói về địa vị trong ba đời. Đã phát nguyện: là ở quá khứ đã phát nguyện sinh về. Đang phát nguyện: là hiện nay đang sinh về. Sẽ phát nguyện: là tương lai sẽ phát nguyện sinh về. Chánh kinh: Cho nên Xá-lợi-phất! Các người thiện nam, người thiện nữ nếu ai có tín tâm, thì nên phát nguyện sinh về nước kia. Lời tán: Thứ tư là khuyên sinh về cõi nước kia. Nếu người có tín tâm sâu xa, phiền não nhẹ ít thì nên biết đấng Đại Giác dùng lời thành thật khuyên phát nguyện lành sẽ được vãng sinh. Chánh kinh: Xá-lợi-phất! Như nay ta khen ngợi công đức không thể suy nghó, bàn luận của Chư Phật, thì Chư Phật ấy cũng đang khen ngợi công đức không thể suy nghó, bàn luận của ta. Tán rằng: Thứ năm là các Đức Phật khen ngợi đều nói là lạ lùng ít có. Văn này có bốn đoạn: Khen ngợi công đức khó suy suy nghó bàn luận luận. Khen ngợi hạnh giáo hóa ở đời vẩn đục. Khen ngợi thành Phật. Nói pháp sâu kín. Đây là đoạn đầu. Ta khen ngợi Chư Phật sáu phương, vì chúng sinh mà nói ra những lời chân thật đó. Giúp cho chúng sinh do đây mà không còn nghi ngờ. Lại được Phật Di-đà Từ bi tiếp dẫn. Ta và Chư Phật riêng khen ngợi Đức Phật đó, Đức Phật đó lại hết lời khen ngợi ta. Chánh kinh: Mà nói rằng: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni có thể làm những việc ít có khó làm, có thể ở trong cõi nước Ta-bà là cõi đời có năm thứ vẩn đục là: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược. Tán rằng: Thứ hai là khen ngợi hạnh hóa độ ở cõi vẩn đục. “Mà nói rằng” là lời người kiết tập. Thích-ca: là tiếng Phạm, Hán dịch là Năng Nhân, Mâu-ni, Hán dịch là Vắng lặng Mặc. Nói những việc khó khăn ít có là việc chịu đựng khổ não giáo hóa chúng sinh. Có thể ở trong cõi nước Ta-bà, tiếng Phạm Ta-bà, Hán dịch Kham nhẫn, là chịu đựng những điều khổ não. Cõi đời có năm thứ vẩn đục: lược có năm: Một là giải thích tên gọi; hai là nêu ra thể; ba là đối trị; bốn là phế lập; năm là nhiếp nhau. Giải thích tên gọi: Trược là nhơ uế, nhơ bản đáng nhờm gớm. Ở đây ý nói vào kiếp tăng, thì ba tai nhẹ bớt, phiền não dần ít, chúng sinh hướng về điều tốt, ác kiến dần dần mất đi, mạng căn lớn dần cho đến thành tốt đẹp. Mọi việc tốt đẹp vui vẻ, thì gọi là Thanh, chúng sinh không còn đau khổ, hóa Phật không ra đời. Chư Phật ra đời hóa độ là vào kiếp giảm. Ba tai nhỏ dần dần nổi lên, phiền não càng dày thêm, chúng sinh thích làm điều ác, nhiễm kiến dần tăng. Mạng căn lại ngắn, chuyển dần đến thấp kém, điều xấu ác lan tràn, nên gọi là vẩn đục. Nêu ra thể: Luận Trì Địa chép: Con người đời nay thường chết yểu, cao nhất chỉ một trăm tuổi, đó gọi là mạng trược. Ở đây nếu theo bổn thức thì gọi là hạt giống. Do nghiệp dẫn dắt, công năng khác nhau, mạng căn là thể, năng lực của nghiệp lành yếu kém, mạng căn dần ngắn, đây là do nghiệp sát sanh chiêu cảm ra. Nếu khi chúng sinh không biết đến cha mẹ, không biết Sa-môn và thân tộc tôn trưởng, không tu nghóa lý, không sợ quả báo nghiệp ác đời này đời sau, không tu bố thí, không làm các công đức, không tu trai pháp, không giữ giới cấm, đó gọi là hữu tình trược. Tuy thức thứ tám gọi là hữu tình nhưng ở đây nói là do gần gũi duyên ác bên ngoài, do năm trược giả hợp, làm những điều bất thiện thì gọi là hữu tình trược. Hợp thức thứ tám và năm trược này thành tánh, nếu chúng sinh này tăng thêm lòng tham trái pháp, hoặc bán đao kiếm, hoặc bố thí gậy gộc, tranh đấu loạn lạc, nói dối dua nịnh, nhiếp thọ tà pháp và các pháp ác, bất thiện, đó gọi là phiền não trược. Trừ năm kiến ra thì tất cả phiền não, tùy phiền não đều là thể của phiền não trược, đây là lòng tham phi pháp, cho đao kiếm, v.v… khiến cho người gây ra các việc giết hại, hoặc tham tài lợi, chỉ bỏ đao kiếm, vì tham lam tranh giành phi pháp khởi lên, cho đến các điều pháp ác bất thiện khác nhiếp hết tất cả phiền não, tùy phiền não. Do một số tập tánh, bị cảnh ác kéo lôi, phiền não càng sâu. Như đời nay chánh pháp hoại dần, tượng pháp khởi lên, tà pháp cùng sinh. Đó gọi là kiến trược. Ở đây lấy năm kiến làm thể tánh, thường gần ngoại đạo, ác kiến lần lượt sinh ra, như kiếp bệnh tật, đói khát xảy ra, rồi chiến tranh xảy ra, gọi chung là kiếp trược, còn lấy sắc uẩn bốn trần làm thể, hoặc chung cho năm uẩn bốn trần vẫn là bất tương ưng thời làm thể, vì nương vào năm uẩn mà lập ra, do đó phiền não càng thêm nhiều, nghiệp ác càng nặng, lần vời lấy quả ác, ba tai liền sinh ra. Đối trị: Trong Luận Trí Độ lập ra bốn tất-đàn, lấy bốn tất-đàn làm tông: Thế giới tất-đàn. Vị nhân tất-đàn. Đối trị tất-đàn. Bậc nhất nghóa đế tất-đàn. Kiếp trược, chúng sinh trược, dùng thế giới tất-đàn để trị. Biết khí thế gian, chúng sinh thế gian đều là hư huyễn, nay nhàm chán nó để tu tập, tức là xa lìa. Mạng trược thì dùng các các vị nhân tất-đàn để trị. Tri thức của người do nghiệp lành chiêu cảm mà được. lại tu trì tịnh giới, thực hành bất sát,… để mong tuổi thọ được dài lâu, Hoặc vì người tu ba thừa mà nói quả Niết-bàn của mình, liền trừ hết mạng trược của kiếp sinh tử, phiền não; Kiến trược dùng đối trị tất-đàn để trị. Tu tập tùy theo đạo mà đối trị, không để khởi lên, do ba tất-đàn phá trừ năm thứ vẩn đục, nhập vào bậc nhất nghóa đế, chứng ngộ chân tông. Phế lập: Vì sao chỉ lập ra năm trược, không thêm bớt sao? Đáp: Chúng sinh có hai: Ác hạnh: là người bạch y tại gia. Tà hạnh: là ngoại đaọ xuất gia. Người Bạch y thì không có trí tuệ, phiền não càng tăng thêm, nên gọi là phiền não trược. Còn ngoại đạo thì tà giải, buông lung cầu thời lập thành kiến trược. Lại có các thứ độn hoặc gọi là phiền não trược, còn các thứ lợi hoặc thì gọi là kiến trược. Do hai nhân này mà tạo thành kết quả, ly hợp khác nhau. LaÏi chia ra thành hai trược, hợp hai quả bên trong gọi là chúng sinh trược, là chúng sinh ác. Hợp hai quả bên ngoài, gọi chung là kiếp trược, vì đầy đủ các vật ác. Kiếp gọi là thời phần thời không có thời khác, đó là phân biệt theo pháp, đó là kiếp trược, dùng ác khí làm thể. Chúng sinh ác này và ngoại quả, tuy là nêu chung, còn hai quả trước chưa nói, vì sao? Vì ngay thể của quả ác nay hiển bày căn bản, cho nên lập ra mạng trược. Hoặc quả ác bên trong, gọi là mạng trược, quả ác gọi là kiếp trược. Nhân ác quả này do đâu mà có? Vì là chúng sinh ác, cho nên gọi là chúng sinh trược, Do năm trược này càng làm cho hành tướng tăng lên, muốn cho chúng sinh nhàm chán, nên nói riêng có năm. Nhiếp nhau. Trong Kinh Tát-già-ni-càn Tử chép: Lập ra mười hai sự vẩn đục: Thị hiện sự vẩn đục về kiếp. Thị hiện sự vẩn đục về trược. Thị hiện sự vẩn đục về chúng sinh. Thị hiện sự vẩn đục về phiền não . Thị hiện sự vẩn đục về mạng. Thị hiện sự vẩn đục về tam thừa sai biệt. Thị hiện sự vẩn đục về Cõi nước bất tịnh. Thị hiện sự vẩn đục về chúng sinh khó giáo hóa. Thị hiện sự vẩn đục về nói các thứ phiền não. Thị hiện sự vẩn đục về ngoại đạo. Thị hiện sự vẩn đục về ma. Thị hiện sự vẩn đục về nghiệp ma. Kiếp trược và thời trược là kiếp trược. Chúng sinh và chúng sinh khó giáo hóa là chúng sinh trược. Phiền não và nói các thứ phiền não là phiền não trược. Mạng là mạng trược. Ngoại đạo loạn là kiến trược. Tám điều này là năm trược, bốn loại khác là: ba thừa sai khác, Cõi nước bất tịnh, Ma và nghiệp ma chẳng thuộc về năm trược. Đời năm trược thật là tạp nhiễm. Mười hai trược có cả năng hóa và năng chướng nên Phật mới thị hiện. Hỏi: Vì sao Phật Thích-ca thị hiện ra đời khi con người sống một trăm tuổi và Phật Di-lặc thị hiện ra đời khi con người sống tám muôn ( 8 0. 000) tuổi? Đáp: Mỗi vị y cứ vào bổn nguyện, cho nên sự ra đời của mỗi vị khác nhau. Chánh kinh: chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tán rằng: Thứ ba là khen ngợi thành Phật, duyên vào cảnh giới này, chỉ có những người xấu ác không biết phải trái chứng Bồ-đề như trong lửa mọc hoa sen, được giải thoát, cũng giống như trong băng phát ra đuốc. Chánh kinh: Vì các chúng sinh mà nói pháp tất cả thế gian khó tin này. Tán rằng: Thứ tư là nói pháp u huyền. Pháp khó tin, chỉ như kinh này mỗi sớm niệm danh hiệu Phật, mười niệm tinh tấn, thì vượt ra cõi đời có năm thứ vẩn đục, vào tịnh vực của sơ địa, há chẳng phải là khó tin sao! Những điều đã nói trên, là do Đức Thế tôn khen ngợi, thật là kỳ diệu ít có. Chánh kinh: Xá-lợi-phất nên biết! Ta ở trong cõi đời có năm thứ vẩn đục làm được việc khó làm này. Tán rằng: Dưới đây là đoạn sáu, Đức Phật trình bày vì sao gọi là việc khó. Văn này chia ra làm bốn: Nêu ra hạnh khó tu. Nêu quả khó chứng. Nêu ra pháp khó tin. Tổng kết các việc khó làm. Ở đây nói phần một. Làm những việc khó này tức là trong ba a-tăng-kỳ kiếp muôn hạnh đều tu đầy đủ, cho đến tổn thân mạng để cầu đạo Bồ-đề, bỏ nước mà cầu giải thoát cho chúng sinh, được như thế mới thành Chánh giác, há chẳng phải là việc khó sao? Chánh kinh: là Đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tán rằng: Đây là phần hai, là nêu quả khó chứng, như trên đã giải thích. Chánh kinh: Nói pháp khó tin này tất cả thế gian nghe. Tán rằng: Thứ ba là nêu pháp khó tin. Chánh kinh: Đó là việc rất khó. Tán rằng: Đoạn thứ tư này tổng kết là rất khó. Kết lại ba việc trên, trước sau đã giải hết phần chánh tông. Chánh kinh: Phật nói kinh này xong, Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, tất cả thế gian: Trời, người, A-tu-la v.v… nghe lời Phật nói đều vui mừng tin nhận, làm lễ rồi lui ra. Tán rằng: Thứ ba là phần lưu thông. Văn chia làm bốn đoạn: Việc nói kinh xong rồi. Duyên nghe pháp đã xong. Nghe pháp vui mừng. Lễ Phật lui ra. Bốn đoạn này hợp lại thành một. “Phật nói kinh này rồi” là việc nói kinh thứ nhất đã xong và các lời văn ở dưới đều là lời kết tập. “Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, trời, người, A-tu-la và tất cả chúng sinh trong thế gian đều nghe Phật nói pháp” là phần hai: duyên nghe pháp đã xong. Nói thế gian là hữu tình thế gian, vì có thể phá hoại. Trời, người: trời là các vị trời ở sáu tầng trời cõi Dục. Trời tỏa ra ánh sáng tinh khiết tự tại gọi là trời. Người là loài người, nghóa là đa nhẫn. A-tu-la, Hán dịch là Phi thiên, như người không có lòng nhân thì gọi là Phi nhân, loài Tu-la cũng vậy. Vui mừng tin nhận: là phần ba, nghe pháp vui mừng hớn hở. Nhan sắc thư thái là vui, thần khí vui hòa là mừng, đó gọi là vui mừng, tức ý thức tương ưng với hỷ thọ. Kinh này là diệu chỉ của ba thừa, là then chốt của các Thánh, là cội gốc lớn để ra khỏi sinh tử, là con đường mau chóng để chứng chân thường, vừa được nghe , vừa được biết đường đi cả hai đều tròn đầy, chẳng phải vui hay sao? Cho nên nói là vui mừng. Hỏi: Ở trước trong phần nêu người nghe có nói cả chúng Bồ-tát và Thanh văn, cuối kinh nói làm lễ vui mừng, vì sao không nói chúng Bồ-tát? Đáp: Đây là nói lược, không cần trình bày ra hết. Làm lễ mà lui: là từ tạ Phật lui về, năm vóc gieo sát đất, ba nghiệp đều chân thành, tỏ ý từ biệt Đức Thế tôn, về lại cõi nước mình.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 132