<經 id="n1748">KINH VÔ LƯỢNG THỌ LIÊN NGHÓA THUẬT VĂN TÁN HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1748 KINH VÔ LƯỢNG THỌ LIÊN NGHÓA THUẬT VĂN TÁN Thích Cảnh Hưng soạn. <卷>QUYỂN THƯỢNG Kinh: Kinh Phật thuyết Vô Lượng Thọ: Thuật: Lược chia làm ba môn để giảng kinh này: Lý do vì sao có kinh này. Giải thích tên gọi. Giải thích bản văn. Về lý do vì sao có kinh này lược có ba nghóa: Một là muốn nói về sở Nhân Tịnh độ, cho nên trong kinh trước nói tòa hoa do nguyện lực của Tỳ kheo Pháp Tạng tạo nên, nhưng cũng chưa nói về y Báo, chánh báo trang nghiêm đều nương vào năng lực bổn thệ Pháp tích mà thành. Nên nay phải nói rộng về bốn mươi tám nguyện ở đời trước mà nói về Nhân hiện nay ở nước ấy; ba là muốn nói về Bổn thệ không luống dối, cho nên nói tất cả Phật tuy có phát bổn nguyện nhưng cũng có bổn nguyện không thể thỏa nguyện. Như trong Bát-nhã có chúng sinh muốn được diệt độ nhưng nguyện lực pháp tích lại không như thế. Nên ở đây nói rộng về y chánh công đức trang nghiêm thanh tịnh để hiển bày nguyện xưa có chỗ phải bày, khiến hành giả thêm ý muốn vãng sinh; ba là muốn hiện bày khổ não của cõi uế, tức như trong Quán kinh nói ở vị lai tất cả chúng sinh bị giặc phiền não làm khổ hại, mà chúng sinh không nghe tướng đau khổ thì không thể khởi ý ưa thích nhàm chán, do đó nghiệp vãng sinh cũng không thành. Cho nên ở đây nói rộng năm điều Ác, thiêu đốt làm khổ hại khiến người tu hành chán cõi khổ này mà ham phương vui kia, để tu phước quán hạnh mau ra khỏi Ta-bà mà sinh Tịnh độ. Như thứ lớp ấy tức là ba thứ sở thành, sở hóa. Ấy là ba nghóa. Nên sau Quán kinh thì nói kinh này. Thứ hai là giải thích tên, xem lịch sử các đời truyền kinh. Tên kinh này tuy có nhiều, nhưng ở đây chỉ nêu ba tên đầu của ba đời. Đời Ngụy thì ngài Bạch Diên nêu hiệu là Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng giác. Đời Ngô thì ngài Chi Khiêm gọi là Kinh Chư Phật A-di-đà Tam-da tam-Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo, cũng gọi là kinh Đại A- di-đà. Nay đời Tây Tấn, ngài Pháp Hộ gọi là kinh Vô Lượng Thọ. Cho nên tên kinh tuy có rộng, lược nhưng nghóa giống nhau. Muốn giải thích tên kinh này của ngài Pháp Hộ thì có bốn cặp: Một là chung riêng đối nhau. Tức Phật Thuyết và Kinh là chung, còn Vô Lượng Thọ là riêng; hai là người pháp đối nhau, tức là Phật là Nhân, còn các tên khác là pháp; ba là Thuyên Chỉ đối nhau, tức Vô Lượng Thọ là chỉ, còn kinh là Thuyên, nói gồm cả hai. Cho nên phần bốn đầu cuối đối nhau, tức lời trên đối dưới, cũng có lời dưới đối trên. Như thứ lớp đầu đuôi, cho nên y theo nghóa giải thích cặn kẽ như trước. Tôi nghe như vầy: Thứ ba là giải thích Bổn văn. Lại có thứ hai nêu thẳng Di-đà xưa thành Phật có bổn nguyện ưa quả vui để chỉ cho chúng sinh Nhân quả vãng sinh. Trong đó có người nói kinh này mở ra mười phần: Một là từ đầu cho đến nhất thời đến dự hội…, gọi là phần tựa; hai là khi ấy Thế tôn các căn vui vẻ v.v… là phần hiện tướng; ba là Tôn giả A-nan nương thánh chỉ Phật… là phần khải thỉnh; bốn là Do đó Đức Thế tôn bảo A-nan… là phần tựa hứng; năm là A-nan hãy lắng nghe nay ta sẽ nói v.v.… là phần chánh thuyết; sáu là Bồ-tát Di-lặc bạch Phật rằng… là phần sinh sinh; bảy là Phật bảo Di-lặc v.v… là phần khuyến tín; tám là Khi ấy, Đức Thế tôn nói kinh pháp này v.v… trở xuống là phần thuyết ích; chín là bấy giờ Tam thiên Đại thiên… là phần khuyến thỉnh. Mười là Phật nói kinh xong tất cả đều vui mừng v.v… là phần tất cả đều vui mừng. Vừa nêu ý mười phần song chưa hết lý cho nên chưa nắm được gì. Chưa hết cái gì? Là Như lai sắp nói Thánh giáo, pháp môn ấy tên gọi là gì, mà nói phần hiện tướng. Nếu nói ra mà không có tựa phát khởi thì A-nan chứng cái gì? Tựa chứng tín nếu không có chứng tín thì không thể nói là phần tựa - Lại từ Thế tôn các căn vui vẻ, nếu trước không nói tựa thì sẽ nói gì, cho nên có tên phần tựa thuyết. Chẳng thể dùng cái khác mà gồm tên phát khởi trong phần tựa thuyết mà chỉ chứng tín. Cho nên A-nan lại nêu câu hỏi và Như lai đáp lại sau đó để nêu ý chỉ sẽ nói, đều phải lắng nghe nên gọi là Chánh thuyết. Chánh thuyết và tựa không thể khác nhau, nếu riêng khác thì các ý sẽ trái nhau. Nếu mỗi chương đoạn nói ra đều phải làm riêng thì các phần chẳng phải chỉ có mười. Cho nên nói kinh này văn có chia làm ba: Từ “Tôi nghe” cho đến “Rất muốn nghe” là tựa nêu lý do Phật bảo A-nan đến quá khứ là phần Chánh tông. Phật bảo Di-lặc nếu có người được nghe là phần lưu thông. Phần tựa có hai: Một là tôi nghe như vầy là tựa chứng tín. Sau Vương xá thuở nọ, Đức Phật là nghóa đã gồm hai. Cho nên đối chuẩn chứng tín là tựa phát khởi. Trong đó có ba: Một là nói về Hóa chủ; hai là nói về Đồ chúng; ba là Như lai hiện tướng. A-nan nêu thỉnh. Đây cũng chẳng đúng. A-nan nêu lời thỉnh nếu là phát khởi thì phần Phật đáp A-nan không phải là Chánh tông, nếu đáp là Chánh tông thì hỏi không phải là tựa, cho nên xét các kinh luận, nếu đáp gọi là Chánh thuyết thì phải gồm cả câu hỏi. Nếu hỏi là phát khởi thì đáp là Chánh tông. Không ai như thế. Lại thời gian và nơi chốn thì y theo chứng tín làm chuẩn, tôi nghe như vầy há chẳng phải là phát khởi thực hành? Hoặc nghe, hoặc Phật đều trước có nói. Lại y theo thời, Phật và xứ mà nói về Hóa chủ thì cũng trái với luận Phật Địa, hiển bày chung đã nghe có năm nghóa. Nay xét bộ kinh này phải chia làm ba phần: Một là từ Tôi nghe đến dung nhan vòi vọi, gọi là khởi nhân nói kinh; hai là kể từ Tôn giả A-nan cho đến nói lược mà thôi, gọi là phần hỏi nói vui làm. Vì sắp giải thích là có ba phẩm này lại đồng với luận Phật Địa. Trong phần đầu lại có hai: Một là Truyền pháp khuyên tin; hai là Tựa phát khởi Thánh nói. Phần một lại có năm. Một là như thế, đây là truyền pháp. Bạch Diên và Chi Khiêm đều không có lời này. Còn kinh của Pháp Hộ thì nói theo Ấn-độ. Hai là Vương xá thuở nọ: Nói về thời gian truyền. Ba là Phật: Nói về chủ truyền. Bốn là tại thành Vương xá, núi Kỳ-Xà-Quật: Nói về chỗ truyền. Nếu giải thích bốn văn này thì giống như kinh trước nên không cần nhắc lại. Năm là cùng các đại Tỳ-kheo, nói về Cơ truyền. Các bản kinh không giống nhau. Theo Bạch Diên thì nêu đủ ba chúng: Một là chúng Thinh văn, tức cùng chúng Đại đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi vị, năm trăm Tỳ-kheo-Ni, bảy ngàn nam tín só, năm trăm nữ tín só; hai là chúng Bồ-tát, tức bảy mươi Na-diễn Bồ-tát; ba là chúng chư thiên, tức tám mươi muôn vị Thiên tử cõi Dục, bảy mươi muôn vị Thiên tử cõi Sắc, sáu mươi Na-diễn vị trời cõi Biến Tịnh, một ức vị Phạm thiên. Ngài Chi Khiêm thì chỉ nêu chúng Thinh văn, tức Đại Tỳ-kheo tăng mười hai ngàn vị. Nay kinh ngài Pháp Hộ chỉ nêu hai chúng Tỳ-kheo và Bồ-tát, còn các chúng khác không có. Lý do có thiếu đủ này là do ý người dịch để nhiều ít khác nhau. Nay giải thích về căn cơ được truyền giáo có hai: Một là chúng Thinh văn; hai là chúng Bồ-tát. Chúng này theo thứ lớp cũng giải thích như trước. Trong chúng Thinh văn lại có năm. Trước là nêu hạnh, tức trong luận Pháp Hoa có chép: luận về chúng Thinh văn tu hạnh Tiểu thừa, y pháp khất thực tự nuôi sống, cho nên oai nghi nhất định không giống với Bồ-tát, nên gọi là Tỳ kheo. Cùng với Mười hai ngàn vị, đây là phần thứ hai nói về số. Luận ấy cũng nói số thành tựu, tức là đại chúng có vô số, chung riêng tuy khác nhưng nghóa là một. Nhưng ngài Bạch Diên nói một ngàn hai trăm năm mươi vị là nêu lược, chúng thường tính kể không hết nên cũng chẳng trái. Tất cả bậc Đại thánh đã đạt thần thông, đây là phần thứ ba khen đức tất cả, tức là khắp hết. Đại thánh, tức là hội lý gọi các vị phàm thánh có đức. Vì thế luận rằng: tâm được tự tại đến được bờ kia, nên gọi là Đại. Thần thông, là danh từ gọi chung sáu thông, không bị ngăn lấp khó lường. Dó là, rồi, xong, đạt nghóa là tác chứng (chứng được), tức đã chứng được sáu thông. Cho nên có người nói A-nan ở bậc Hữu học tuy chưa được thông nhưng có đức tốt nên gọi là đã đạt. Không đúng, A-nan là người mà kẻ phàm tục không thể biết được sự thật, tức kinh nói tích tuy ở Sơ quả nhưng cũng đã chế phục chướng mà được Định căn bản, được vô lậu tận, đã phát năm thông. Cho nên theo phần nhiều mà nói đã đạt thì cũng không có gì lạ. Tên là Tôn giả Liễu Bổn Tế v.v… cho đến Tôn giả A-nan, đây là phần thứ tư nêu tên. Các kinh nêu chúng không theo thứ lớp nhất định. Có người y theo đức hạnh lớn nhỏ làm thứ lớp. Như kinh Pháp Hoa sắp Ca-diếp ở hàng thứ hai, ngài Thu Tử thì sắp đứng trên Ca-chiên-diên: Hoặc có người y cứ vào xuất gia trước sau làm thứ lớp. Như kinh Báo Ân, trước độ năm vị, kế độ môn đồ Da-xá năm mươi vị, kế độ môn đồ Ưu-Lầu-Tần-Loa hai trăm vị, độ cho Thu Tử và môn đồ một trăm vị, độ Mục-liên và môn đồ một trăm vị. Hoặc có người y theo đức mà làm thứ lớp. Như Vô Cấu Xưng vì Phật sai đi thăm bệnh, phải dùng trí biện mà đối đáp. Nay kinh này thì giống như kinh Báo Ân. Nêu thứ lớp nhập Thánh thì ngài Bạch Diên nêu ba mươi sáu tên, Ngài Chi Khiêm và Pháp Hộ đều nêu ba mươi mốt tên, Kiều-trần-như đứng đầu. Bạch và Khiêm đều gọi là Hiền, còn Pháp Hộ thì gọi là Tôn giả, đều là tiếng khen đức, tức nghóa Đại Thánh ở trước. Liễu Bổn Tế, thì Chí Khiêm gọi là Câu-lân, tiếng Phạm là A nhã- đa Kiều-trần-na. Kiều-Trần là họ Bà-la-môn, Na là nam (đàn ông). A-nhã-đa là hiểu nghóa, trước hiểu tịnh cư, cũng nói là đã hiểu. Ấy là người hạnh hiểu đầu tiên có họ là Kiều-trần. Nên nhiều người lấy Hiểu mà đặt hiệu (tên), còn nam là để phân biệt với nữ, nên gọi là Na. Nói Bổn tế tức là hiểu rõ bốn Đế chân tánh, tức hiểu rõ mà nói tuy chẳng đồng nhưng nghóa là một. Chánh nguyện, ngài Chi Khiêm gọi là Bạt-trí-chí bởi có tên Bạt- Đề. Có thuyết chép: bị Mã Sư đuổi đi bèn phát nguyện không trở về nhà, nên được quả A-la-hán. E rằng đây là không đúng. Theo Luận Bà-sa nói thân Mã Sư mãn Túc đời trước hiện tướng rồng mà thành La-hán, thọ thân súc sinh là không có việc đó được. Có thuyết nói là Chánh ngữ, tức Tất-Lăng-già-Bà-Sai là không đúng. Người này tánh ác còn thô, nói đã được La-hán nhưng thói quen cũ vẫn còn, nên không thể nói là Chánh ngữ được. Ở đây luận này nói Tỳ-kheo Ma-ha na-di, Hán dịch là Chánh ngữ, bởi tên là Ma-nan, nên ngài Bạch Diên gọi là Hiền để khen. Đại Hiệu, luận này gọi là Hiền giả Hàm Thi, tức là Ly-bà-đa. Vị này giữ giới không nói dối, nhân làm chứng cho quỷ tranh cãi nên bị lấy thây chết thay làm thân mình. Ở ngôi vị vua, tên có đức nổi tiếng khắp nơi. Nhân Hiền, ngài Chi Khiêm gọi là Tu Mãn, tức bên trong là hiền thiện, bên ngoài là nhân từ, nên lấy đó đặt tên. Ly Cấu, ngài Chi Khiêm gọi là Duy-mạt-để, tức trừ sạch tất cả. Thuyết Bổn khởi nói Luân-đề-đà quét sạch chùa nhà, nguyện khiến tâm mình không chút bụi nhỏ, sạch như chùa kia, nên gọi là Tịnh Trừ. Tịnh trừ tức là Ly Cấu, tên gọi khác mà nghóa giống nhau. Danh Văn, có thuyết gọi là Phạm Chí Móng tay dài (Trường Trảo Phạm Chí) tên là Bác-đạt, nổi tiếng khắp nơi nên gọi là Danh văn. Sợ đây không đúng, vì trái với thuyết Bổn khởi không có tên này. Nay theo kinh ấy thì Tôn giả Dạ-da, tên là Danh văn, có phạm hạnh tịnh khiết, mọi người đều biết và kính trọng. Thiện Thật, tức là Trưởng giả Bổn khởi, thích danh tiếng mà làm lành cúng dường pháp. Thời Phật Duy-vệ đến nay đã chín mươi mốt kiếp mà ông vẫn thường sinh làm trời, người, nên được quả A-la-hán. Cụ Túc, tức Tôn giả Bổn khởi Thọ Đề, nguyện được thọ Đại giới thành Sa-môn. Ngưu Vương, tức là Cấp-phòng-bát-để, Hán dịch là Ngưu Tướng mà gọi là Vương (đầu đàn) là có ý tốt đẹp. Ổ-lô-tần-loa là tiếng Phạm, Hán dịch là Mộc qua, vì trước bụng có cái bứu lớn như trái khổ qua. Gọi Ưu-lầu-tần-loa là sai. Già-da, tức là do ở núi Tượng đầu (đầu voi) mà đặt tên. Tiếng Phạm là Nại-địa. Kinh Trang Nghiêm nói Nan-đề tức tên sông. ba vị Ca-diếp này đều thuộc giòng Ẩm Quang, gồm ba anh em. Trong kinh của ngài Bạch Diên lại có vị Hiền giả tên Thị Tụ Ca-diếp. Bởi thuyết Bổn khởi gọi là Thừa thiền Ca-diếp, trong đây Tôn giả Cụ Túc, Giác kinh trừ Thị Tụ ra còn gọi Ngưu Tự. Đã không răn nói lại mở ra hai đường mặc tình lấy bỏ, học giả nên hiểu. - Tiếng Phạm là Ca-diếp-ba, Hán dịch là Ẩm Quang, tức họ Bà-la-môn, thời thượng cổ có vị tiên, thân ánh sáng lấn át cả mặt trăng, mặt trời. Ca-diếp cũng giống như vậy cũng phát ra ánh sáng lấn át mặt trăng, mặt trời nên y theo họ đặt tên. Ma-ha là lớn. Con người giàu có thì cũng gọi đại nhân. Nêu tên Đại khái phân biệt với hai hạng kia. Tiếng Phạm là Xá-lợi-Phất-đát-la. Xá-lợi là thu (chi thu) tức chim trăm lưỡi gọi là xuân thu - phất-đa-la là tử (con). Vì mẹ có tài hùng biện cũng như chim thu, vị này là con người ấy, do đó gọi là Thu Tử (con của bà Thu) gọi Xá-lợi-phất là sai. Tiếng Phạm là Một-Đặc-già-la, Hán dịch là Thái Thúc Thị. Đời thượng cổ có vị tiên ở núi vắng thường hái đậu ăn nên lấy tên đậu làm họ. Mẹ của Tôn giả họ ấy nên lấy làm tên. Có thần thông rộng lớn để phân biệt với những người khác nên gọi là Đại. Gọi Mục-liên là đọc âm sai. Kiếp-tân-na, Hán dịch là Phòng Túc, vì Phật hóa thành vị Tỳ- kheo già cùng ngủ chung phòng qua đêm với kiếp-tân-na, nói pháp cho ông nghe mà được ngộ Đạo. Tiếng Phạm là Ma-ha Ca-đa-diễn-na, Hán dịch là Đại Tiễn Thích Chủng Nam, tức họ Bà-la-môn. Đời thượng cổ có nhiều vị tiên ở trong núi vắng, nhiều năm để râu tóc mọc nhiều phủ mặt, theo pháp Bà-la- môn thì vị này cạo sạch râu tóc. Ở Vương xá có vị tiên có hai con trai, hai anh em cùng đến hầu che. Người em cạo sạch râu tóc cho các vị tiên, nên các tiên nguyện hộ trì sau này sẽ thành tiên sang quý. Từ đó dòng họ gọi là Tiển Thích. Thích giả (người cạo râu tóc) là người thân nam có oai đức đặc biệt tôn quý, để phân biệt với các giòng họ khác nên gọi là Đại Tiễn Thích Chủng Nam. Xưa gọi là Ca-chiên-diên, Hán dịch Thằng Phiến là lầm. Ở đây gọi là Đại Trụ cũng là theo xưa mà đặt tên. Mẹ ông thương con chẳng chịu có chồng khác, như sợi dây cột cây quạt nên gọi là Trụ. Đại Tịnh Chí, trong thuyết Bổn khởi gọi là Lại-tra-hòa-la, chí không còn vui thích gì cả, chỉ ưa pháp thanh bạch, thích nhàn cư bậc nhất, nên gọi là Đại Tịnh Chí. Ma-ha Chu-Na, tức Chu-na-bác-đặc, Hán dịch là Lộ Sinh. Lộ Sinh có lớn nhỏ, nên gọi Ma-ha để phân biệt với nhỏ. Tiếng Phạm Bổ-lại-noa-mai-đát-rị-duệ-ni Phất-đát-la, Hán dịch là Mãn Từ Tử. Gọi Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử là sai. Mãn là tên, Từ là họ mẹ. Tôn giả Từ Mãn là con của nàng Từ, do đó đặt tên. Nay nói Mãn Nguyện là sai. Tiếng Phạm Ni-luật-đà, Hán dịch là Vô Diệt, là em họ của Phật, là người Thiên Nhãn bậc nhất. Nay gọi Ly chướng ý, cũng y theo đây mà gọi, gọi A-nậu-lâu-đà là sai. Lưu Quán, có thuyết nói là Ly-bà-đa, Hán dịch là giả Hòa Hợp, nên gọi là Lưu Ly, gọi Lưu ly e không đúng, vì không phải chữ Ly. Chi Khiêm gọi là Nan-đề, cho nên nay trong thuyết Bổn khởi gọi là Nan- đề. Tiếng Phạm Tôn-đạt-la Nan-đà, Hán dịch là Diễm Hỷ. Hỷ là tên mình, Diễm là tên vợ, muốn phân biệt với Nan-đà chăn trâu, cho nên lấy tên vợ mà đặt tên, tức là em ruột của Phật, do vua Đại Thánh sinh ra, vào đời Phật Duy-vệ đã bố thí nước nóng cho nhà tắm nên thân tướng cao lớn đẹp đẽ, người ngắm nhìn không thỏa mãn. Nay gọi Lưu Quán cũng là theo tên ấy. Kiên phục, tức thuyết Bổn khởi gọi là Thọ-đề. Kinh ấy nói là người bền chí siêng năng theo định ý (thiền định) vô vi vô động. Ngài Bạch Diên cũng gọi là Hiền giả, là người rõ được định sâu. Diện Vương, ngài Chi Khiêm gọi là Hiền giả Ba-Cưu-Loa. Tiếng Phạm Bạc-cự-la, Hán dịch là Thiện Dung (khuôn mặt đẹp). Vẻ đẹp tuy có nhiều, lấy mặt làm trước nên gọi Diện Vương (người có khuôn mặt đẹp nhất). Dị Thừa, ngài Bạch Diên gọi là Hiền giả thị giới tụ, giới hạnh tột bực nên gọi Dị thừa. Nhân tánh tức bản khởi gọi là Thi-lợi-la. Kinh ấy nói cho nhiều tiền của để cứu giúp người nghèo khổ. Gia lạc, tức trong bổn khởi gọi là Nan-đà, là vui vẻ, ngài Chi Khiêm cũng gọi Nạn trì, chánh âm là Nan-đà, Hán dịch là Gia bản, tức là người chăn trâu. Nhờ hỏi Phật mười một việc chăn trâu mà biết được trí Nhất thiết của Phật, chứng quả A-la-hán. Ông rất mực thông minh, tiếng nói rất hay. Ở đây Gia lạc cũng không phải dịch đúng. Thiện lai, ngài Chi Khiêm gọi là Hiền giả Nại-yết. Bổn khởi gọi là Hóa-Yết. Truyện nói tiếng Phạm là Sa-yết-đa, Hán dịch là Thiện lai, lai là về. Về với Phật pháp có lợi lớn không gì bằng, nên gọi Thiện lai. Thiện lai là tên chung của một ngàn hai trăm năm mươi vị, tức từ chung mà lập tên riêng. Như lai thường gọi chúng là Thiện lai, nghóa là đến được dạy khuyên điều lành, như kinh Đại Trang Nghiêm nói. Tiếng Phạm La-hộ-la, Hán dịch là Chấp Nguyệt, nên gọi là La Vân. Ngài Bạch Diên nói sinh trong cung vua là sai. Tiếng Phạm là A- nan-đà, Hán dịch là Khánh Hỷ, nay gọi A-nan. Ngài Bạch Diên dịch là học rộng, đều trình bày sơ lược. Đều là các vị thượng thủ như thế, đây là thứ năm lược kết. Lại hội họp với chúng Bồ tát Đại thừa, là phần thư hai nói về chúng Bồ-tát. Có bốn: Vương xá là nêu hạnh, tức như luận Pháp Hoa nói Bồ-tát tu Đại hạnh cầu giác ngộ và làm lợi ích hữu tình, nên gọi là Tát-đỏa. Lại dùng năng lực thần thông tùy lúc thị hiện, tu hạnh Đại thừa như mười sáu vị: Bạt-đà-bà-la v.v…, đầy đủ hạnh Bồ-tát chẳng thể suy nghó bàn luận, hoặc hiện thân làm cư só v.v…, bốn chúng gọi là Bồ-tát. Theo ngài Bạch Diên thì Bồ-tát có bảy mươi Na-diễn. Ở đây không nói nên lược qua. Bồ-tát Phổ Hiền cho đến tất cả Bồ-tát là phần thứ hai nêu tên. Có hai, đây là vị Bồ-tát ở kiếp Hiền. Phổ Hiền, Phổ là khắp, tức là trí chứng chân. Hiền là hiền thiện, tức hạnh làm việc nội đức thì biến khắp, ngoại hóa thì hiền thiện, nên gọi là Phổ Hiền. Diệu Đức, phải nói là Diệu Cát Tường, Cát Tường nghóa là công đức, nghóa gọi là Diệu Đức. Từ Thị, tức là ở chỗ Phật, Từ Thị mới phát tâm Bồ-đề, cũng là sinh ra ở họ Từ nên gọi là Từ Thị. Tiếng Phạm là Phệ-đà, Hán dịch là Thiện, cũng dịch là Thiện kiếp, nghóa như Trí luận. Nhưng nói Hiền là y theo tên hiện nay. Kiếp dài ngắn, Phật nhiều ít thì rộng như kinh Di-lặc Thuật Tán đã giải thích. Lại Hiền Hộ… cho đến Bồ-tát Giải thoát, là Bồ-tát ở các kiếp khác. Có thuyết nói mười sáu Chánh só Hiền Hộ là nêu Vương xá người đầu mà gồm hết số sau đều nêu chung. Thiện tư nghị v.v… là theo đó mà nêu riêng. Ở đây e không đúng. Nếu Thiện tư nghị v.v… là thuộc mười sáu vị Chánh só thì sao mười lăm Chánh só kia lại không nêu, cho nên trái nhau. Nếu chó là thế thì cũng trái với luận Pháp Hoa nói mười sáu vị Bồ-tát Bạt-đà-ba-la v.v…, cho nên Thiện tư nghị… cùng mười sáu Bồ-tát trong kinh Vô Tận Ý tên gọi có khác, không thể gọi Thiện tư nghị v.v… là mười sáu vị Chánh só này. Có thuyết nói Hiền Hộ v.v… tức là hai Bồ-tát cho nên khắp mười sáu Chánh só đều có đức hiền nhân, nên nói là Hiền só, ngoài thì có tâm che chở chúng sinh nên gọi là Hộ. Ý này cũng chẳng đúng. Vì Bạt-Đà-Bà- La, Hán dịch là Hiền Hộ mà chia làm hai thì trái nhau - Lại Phổ Hiền… đều nêu Vương xá tên, vậy Hiền Hộ không phải là tên hai Bồ-tát. Có thuyết nói tuy nêu số mười sáu mà mười lăm tên kia thì thiếu như kinh Giáo pháp chép: có hai Bồ-tát một vị tên là Hiền Hộ, vị kia tên là Nhất thiết thế gian nhạo kiến. Đây cũng không đúng. Vì đó chỉ có hai vị này. Có mười sáu vị thì không thể chỉ nêu có một, nên không thể được. Trong các kinh, các Bồ-tát nếu ở sau ngài Hiền Hộ thì đều vào số mười sáu. Nên nay Bồ-tát ở các kiếp khác tự có hai loại. Cho nên mười sáu Chánh só như Hiền Hộ v.v… tức là một loại. Có thuyết nói mười sáu nước lớn mỗi nước đều có Vương xá vị, có mười sáu vị là không đúng. Vì một nước phải có nhiều Bồ-tát, mà một nước chỉ có một vị thì không có lý do nào khác cả. Cho nên nay xem đây là tướng loại của mười sáu hạnh nguyện. Cho nên trong Thánh giáo chỗ nào cũng đều nêu đủ mười sáu việc không thể nghó bàn hóa hiện độ chúng sinh. Rộng như trong Kinh Di-lặc Thuật Tán đã giải thích. Mười bốn Bồ-tát như Thiện tư nghị v.v…tức là loại hai này. Tuy là mười bốn mà lược thành bảy cặp: Một là cặp Tư pháp tín giải, tức là khéo suy nghó luận bàn quán sát giáo pháp mà tín thuận trao nhận nên gọi là tín tuệ; hai là cặp Chứng không thiệp hữu, tức là trong chứng lý không, nên gọi là không vô, ngoài đến giáo hóa các hữu, nên gọi là thần thông hóa; ba là cặp Đại từ đại trí, tức là đuốc từ quang rực sáng nên gọi là Quang Anh, tuệ căn không có gì trên, nên gọi là tuệ thượng; bốn là cặp Tư lợi Lợi tha: Tức tu đạo Bồ-đề nên gọi là Trí tràng, ngăn giữ các căn môn thì gọi là Tịnh căn; năm là cặp Pháp Danh dụ Danh: tức là nguyện tuệ, Pháp hương tượng là dụ; sáu là Phước Tư trí Tư đối: Tức đủ phước Tư lương thì gọi là Bảo Anh, đủ trí tư lương thì gọi là Trung trụ; bảy là cặp Tu hạnh trừ Phược: Tức tu Thánh hạnh thì gọi là Chế hạnh, dứt trừ hai phước nên gọi là giải thoát. Đều vâng theo pháp chí công đức của Phổ Hiền, đây là phần thứ ba khen đức có hai: Một là đủ đức quyền thật; hai là Lợi hạnh tự tha Trong một lại có ba: Một là khen lược; hai là khen rộng; ba là kết khen. Trong một lại có hai: Một là khen đức của thật, vâng hành đức của Phổ Hiền tức là tu hạnh Thượng vị. Đủ hạnh nguyện Bồ-tát tức là đủ Nguyện hạ vị. Trụ pháp công đức tức là nói rõ pháp tự trụ. Tuân là vâng, là thuận - Phổ Hiền tức là y theo như như mà đủ các đức hạnh ở bậc Đẳng giác. Hiền Hộ v.v… đều vâng theo đức của Đại Só Phổ Hiền, tức biết ngôi vị ở Địa Pháp vân - Hạnh tức là trong Luận Du-già nói các pháp Bồ-đề phần, các Ba-la-mật, thành tựu hữu tình, các hạnh thần thông, nguyện tức là trong kinh Hoằng Tuệ nói biết tất cả pháp, được thuyền Bát-nhã gặp gió trí tuệ được phương tiện khéo mà độ tất cả mọi người vượt qua biển khổ lớn, được Đạo đầy đủ lên núi Niết-bàn, vào nhà vô vi, được thân pháp tánh. mười thứ Nguyện, nếu hạnh không có nguyện thì chìm sâu trong biển khổ, Nguyện mà không hạnh thì cũng không thuần thục. Phải đủ cả hạnh, nguyện thì mới gọi là Đạo Bồ-đề. Công nghóa là các hạnh công năng đều có công làm lợi đất nước, tức là đức của người làm lành nên gọi là công đức. Có đức này thành tựu nên gọi là tất cả, thành tựu đầy đủ nên gọi là an trụ. Đến khắp mười phương thực hành quyền phương tiện, đây là sau khen đức của quyền. Bộ là đi. Thân hóa vô ngại. Không cảm thì chẳng ứng, cho nên nói đến khắp mười phương, hóa hạnh khéo léo, không thân tướng nào chẳng hiện nên gọi là thực hành quyền phương tiện. Vào kho Phật pháp, rốt ráo đến bờ kia, là phần thứ hai khen rộng. Có hai: Một là khen đức thật. Có thuyết nói vào kho Phật pháp là nói nhân đi lên. Rốt ráo đến bờ kia là nói quả rốt ráo. Trong kho Như lai có hằng sa pháp gọi là kho Phật pháp. Chứng hội gọi là Nhập, đến bờ Niết-bàn gọi là rốt ráo, đây là không đúng. Vì kho Như lai nghóa là Phật tánh, mà nói chứng hội pháp nhiều như số cát sông hằng, gọi là nhân đi lên tức trái với kinh nói khi thấy Phật tánh thì được Vô Thượng Giác. Nếu chứng Phật tánh mà không phải quả Bồ-đề, đến bờ Niết-bàn mà không phải là quả viên tịch thì nay nói nhập tức hiểu rõ rốt ráo, chứng biết như thật, tự lợi và lợi tha, nên nói vào kho Phật pháp, tức như kinh Pháp Hoa nói khéo vào tuệ Phật, Đại trí thông suốt bờ kia là chân lý chứng Phật pháp tánh này, nên nói là rốt ráo tức trong kinh ấy nói đến bờ kia. Hai đế thường chiếu để lợi mình lợi người nên gọi là đức Thật. Hiện thành Đẳng giác trong vô lượng thế giới, đây là sau khen rộng đức quyền (Quyền đức). Có hai: Một là khen chung, có thuyết chép: Các Bồ-tát mỗi vị đều ở một cõi thành Phật hóa sinh, cho nên nói vô lượng thế giới. Nhưng Tâm này không đúng. Vì Bồ-tát Sơ địa có cảnh giới thần thông còn gấp trăm lần cõi Phật huống chi là Bồ-tát Pháp Vân hóa vật thế giới có thể đếm được mà nói mỗi vị ở một cõi ư? Chắc chắn không phải là lý đúng. Cho nên ở đây nói mỗi vị Bồ-tát đều ở vô lượng thế giới mà hiện thành Đẳng Giác. Ở tầng trời Đâu-suất nói rộng Chánh pháp, đây là sau khen riêng, có chín: Một là Bỏ cõi này mà lên trời; hai là giáng thần vào thai; ba là ra thai dị thường; bốn là giỏi nghề hiểu rộng; năm là thi tài lấy vợ; sáu là xuất tục theo tà; bảy là hàng ma thành Chánh giác; tám là giáo hóa bằng chánh pháp khắp nơi; chín là Quy chân lợi vật. Ở đây là thứ nhất: Ở cung Trời Đâu-suất tức là lên trời. Nói rộng Chánh pháp là hóa độ các vị trời. Phạm Thiên là Đổ-Sử-Đa-Đề-Bà, dịch là trời Hỷ Túc, các Đức Phật thường thực hành Trung đạo, nên các Bồ-tát đều sinh ở tầng trời này, tức Kinh Trang Nghiêm chép: Từng ở trăm ức na-do-tha câu-chi Phật, theo Phật xuất gia. Từng ở năm mươi ức na-do-tha câu- chi-Phật mà làm Đại thí, từng gần gũi ba trăm năm mươi câu-chi các Bích-chi-phật, đã từng giáo hóa vô lượng A-tăng-kỳ các chúng Thinh văn, đều khiến trụ vào chánh phương tiện, vì muốn chứng Vô Thượng Giác nên hướng về Nhất sinh Bổ xứ, từ cõi này chết rồi liền sinh lên tầng trời Đâu-suất, làm con của vị trời ấy tên là Tịnh Tràng. Các thiên tử… có số trăm ngàn câu-chi Na-do-tha nhóm họp tại pháp đường, vây quanh Bồ-tát mà nghe nhận Đại pháp Vô thượng được nói ra, dứt bỏ các phiền não, sinh tâm rộng lớn. Rời tầng trời ấy giáng thần vào thai mẹ, là thứ hai, nói giáng thần vào thai. Muốn giúp cho chúng sinh sinh tâm tôn trọng dễ nhận điều nói ra, nên bỏ tầng trời ấy mà giáng thần vào thai. Khi ấy nói Bồ-tát khi muốn giáng sinh thì mười hai năm trước có Trời Tịnh Cư xuống Diêm-phù làm Bà-la-môn nói luận Vi-đà. Mười hai năm sau có một bậc tôn quý hiện hình voi trắng chui vào thai mẹ, đủ tướng Đại nhân, nếu xuất gia thì sẽ thành Phật. Lại có thiên tử xuống cõi Diêm-phù-Đề bảo Bích-chi-phật nên bỏ cõi này, sẽ có Bồ-tát giáng thần vào thai. Khi đó, ở thành Vương xá trong núi Vó-Bàn có vị Bích- chi-phật tên là Ma-đăng nghe lời nói ấy rồi bèn bay lên hư không cao bảy cây Đa-la, phát ra lửa đốt thân mà nhập vào Niết-bàn, chỉ xá-lợi của vị ấy từ trên không hạ xuống nước Ba-la-nại. Có năm trăm vị Bích- chi cũng đều như thế. Lúc ấy, Bồ-tát ở trên cõi trời nhìn thấy các cõi nước ở các phương mọc lên một tòa điện lớn tên là Cao Tràng, rộng mỗi bề sáu mươi bốn do-tuần, Bồ-tát nói một trăm lẻ tám pháp môn cho các vị trời nghe, nói từ Tín pháp môn cho đến cuối cùng là pháp môn Quán đảnh. Rồi từ cung trời ấy mà hạ sinh vào thai. Có một vị Thiên tử tên là Thắng Quang đã nói như thế trong Vi-đà luận (Phệ-đà) rằng Bồ-tát hạ sinh bằng cách hoá thành voi trắng mà vào thai mẹ. Bồ-tát ở từ mùa đông cho đến mùa xuân trong tháng Tỳ-xá-khư chẳng lạnh lắm, chẳng nóng lắm. Tinh tú hợp cùng trăng sáng tròn sạch. Sao Phất-sa hợp với mặt trăng, mẹ lại trai giới thanh tịnh, lúc bà ngủ nghỉ an ổn bèn hiện hình voi trắng sáu ngà, răng mầu vàng, đầu có ánh sáng đỏ, hình tướng các căn đều đầy đủ. Chánh niệm rõ ràng bèn giáng thần vào thai bên hông phải của mẹ. Thật khó thể khen ngợi hết các đức của Bồ-tát, không biết làm sao để giải thích. tám tướng này gọi là tám tướng Thích- ca, là các hạnh thắng tấn của Bồ-tát. Lại khi hiện tám tướng thì các Bồ-tát đều hiện tướng giống như chúng sinh. Cho nên dẫn kinh ấy mà giải thích sự tôn quý trang nghiêm. Chín tướng Bồ-tát này đâu có gì trái, chỉ vì văn kinh rườm rà, e phí lời luận nói. Cho nên nay theo nghóa mà gọn lời, nêu kinh để đủ lý. Bồ-tát ở trong thai trang nghiêm tuy nói rộng hoặc hẹp nhưng đều nêu ra ba thứ: Một là cung điện, tức các tầng trời cõi Dục đều dâng lên vua (vua Luận Đàn) cung điện đẹp nhất, vua cũng vì Bồ-tát mà tạo cung điện đẹp đẽ nhất ở nhân gian không có. Bồ-tát có oai lực khiến trong các cung điện đều hiện thân Thánh mẫu Ma-da, đều có Bồ-tát kết thai ở hông phải. Các vị trời tự bảo mẹ của Bồ-tát chỉ ở cung ta. Điện báu của Bồ-tát dài rộng mỗi bề ba trăm do-tuần, vây quanh ba lớp đều dùng hương trời ngưu đầu chiên-đàn mà tạo thành, một phần hương ấy có giá trị vô cùng, hơn cả Tam thiên Đại thiên thế giới. Cung điện các vị trời cõi Dục đều hiện trong cung điện của Bồ-tát. Khi sắp vào thai thì các cung điện này đã có trước trong hông phải của mẹ. Sau đó, Bồ-tát mới từ cung trời giáng thần vào thai ở trong cung điện này mà ngồi kiết già; hai là việc ăn uống. Đêm Bồ-tát vào thai mẹ thì từ lớp nước, hoa sen xuyên đất mọc lên đến trời Phạm Thế, mỗi bề đều rộng sáu mươi tám lạc-xoa do-tuần, chỉ có Phật, Bồ-tát và Đại Phạm Vương thấy, còn ngoài ra không ai thấy. Các thức ăn ngon nhất trong Tam thiên thế giới cũng như cam lộ đều hiện trong hoa ấy. Vua Đại Phạm Thiên dùng bình Tỳ-Lưu-Ly đựng đầy cam lộ ngon ngọt mà dâng lên Bồ-tát. Bồ-tát thọ thực chỉ trừ thân rốt sau của Bồ-tát không ăn. Đây là phước báo do hoa mầu y dược cứu bịnh trong đêm dài hầu, bậc thánh chiêu cảm ra; ba là Hóa vật: Bồ-tát ở trong thai thân tướng sáng suốt chiếu khắp các thế giới, Tứ Đại Thiên Vương, Đại Tướng Dạ- Xoa cùng các quyến thuộc Thích Đề-hoàn Nhân cùng trời Ba mươi Ba ở thế giới Ta-bà đứng đầu là vua Đại Phạm Thiên cùng vô lượng chúng phạm. Như thế theo thứ lớp đúng giờ vào buổi sáng đều được nghe pháp, đều thấy Bồ-tát, được Bồ-tát thăm hỏi an ủi, nghe pháp xong thì đảnh lễ mà lui ra. Vô lượng Bồ-tát ở mười phương mỗi ngày đúng giờ đều được nghe pháp rồi hỏi đáp lẫn nhau. Chỉ có người đồng hạnh mới thấy, còn Ma-da không thấy biết gì theo kinh ấy thì vô lượng vị Nhất sinh Bổ xứ và các Thiên tử cõi Sắc, cõi Dục trong các thế giới ở mười phương đều đến tầng Trời Đâu-suất cúng dường Bồ-tát. Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất tối thắng mà giáng sinh. Khi đó phát ra ánh sáng từ thân chiếu khắp thế giới Tam thiên, sáu thứ rung chuyển có mười tám tướng mà ở đây không có, bởi lược bỏ bớt. Từ hông phải sinh ra, đây là phần thứ ba nói ra thai khác thường, gồm có ba: Một là chỗ sinh khác thường. Có thuyết nói Ma-da mười tháng đã mãn ngồi xe vân mẫu đến vườn Lâm-Vi-Ni, tay vịn cây vô ưu, từ nách phải sinh ra là không đúng. Xét Kinh Trang Nghiêm không có nói việc này. Cho nên nay Bồ-tát ở trong thai mười tháng đã mãn khi sắp ra thai thì Thánh hậu liền biết. Đầu hôm thưa vua muốn đến vườn Long-tỳ. Vua liền sai các quan phò giá hai mươi ngàn voi trắng, hình dạng giống như tiên, đầy đủ binh lính tay cầm dao gậy và các thứ vật báu. Vườn Long tỳ như vui mừng đón Thánh hậu ngồi xe đến. Cả thế giới rung chuyển sáu cách. Đế-Thích làm cho đường đi sạch sẽ, bốn vị Vương ngồi xe, Phạm Thiên dẫn đầu trừ các vị có hình tướng hung xấu, tất cả đều đến vườn dạo xem cây báu ấy, mẹ của các Đức Phật quá khứ. Tất cả cùng đến ngồi dưới cây báu. Khi đó trăm ngàn vị trời Tịnh cư cũng đến dưới cây ở vườn ấy mà đi nhiễu quanh Thánh hậu, vui mừng khen ngợi. Lúc đó thân Thánh Hậu phát ra ánh sáng, rồi ngó cây đưa tay phải vịn cành phía Đông của cây mà đứng thẳng thì Bồ-tát sinh ra một cách an lành từ hông phải. Đế-Thích, Phạm Vương cúi mình đưa hai tay phủ khăn lụa mà ẳm bồng Bồ-tát về Phạm cung. Hiện đi bảy bước cho đến là Đấng Vô Thượng, đây là kế bày tướng lạ thường (đi mười hướng, bảy mươi bước). Bồ-tát sinh rồi không cần ẳm đỡ, liền hướng về mười phương mỗi phương đều đi bảy bước, dưới mỗi bước chân đều mọc hoa sen, không chút sợ hãi. Đây là nói lên năng lực trượng phu mạnh hơn sáu đường nên đi bảy bước, Ánh sáng chiếu khắp mười phương, là ánh sáng từ thân, làm lợi ích chúng sinh. Kinh ấy nói Bồ tát phát ra ánh sáng vô lượng màu sắc lạ, khắp thế giới tam thiên. Chúng sinh nào được chiếu thì tâm an vui, xa lìa tham, sân, si, lìa các tội chướng. Rung chuyển sáu cách là muốn cho ma sợ sệt quy phục. Chấn là động. Theo Kinh Trường A-hàm thì có ba mươi sáu thời động. Động nghóa là vào thai, xuất thai, xuất gia, thành Đạo, quay bánh xe pháp và nhập Niết- bàn. Nay Động tức là xuất thai. Thời có mười hai phương động, nghóa là phía Đông dựng lên thì phía Tây chìm xuống, Nam dựng Bắc chìm, Bắc dựng Nam chìm, giữa dựng ngoài bìa chìm, bìa dựng trong chìm - ba mươi sáu tướng động là Động, dũng, chấn, kích, hống, bạo, diêu, dương, bất an là động. Lên xuống lồi lõm là dũng, ẩn ẩn có tiếng là chấn, có đánh gõ đập là kích, ầm ầm soang soảng phát ra tiếng vang là hống, phát ra tiếng kinh khiếp lạ thường là bạo. Ở đây mỗi thứ đều có ba: Gọi là mười tám tháng, nghóa là động, năm thứ động kia đều như thế. Trong sáu động này tức sáu tướng động. Nên kinh Trang Nghiêm nói sáu động có mười tám tướng. Đấng Đấng Vô Thượng tức là tự khen tôn hiệu khiến mọi người nương về. Nếu nói đủ thì đi về hướng Đông chép: ta được tất cả pháp lành sẽ nói cho chúng sinh nghe. Ở hướng Nam chép: ta ở trong trời, người đáng nhận cúng dường. Ở hướng Tây chép: Ta ở thế gian là bậc cao quý nhất. Ở hướng Bắc chép: Ta là bậc cao tột nhất của chúng sinh, ở hướng (dưới) nói ta sẽ hàng phục tất cả Ma quân. Ở hướng trên chép: Ta sẽ được tất cả chúng sinh ngước nhìn. Khi Bồ-tát nói các lời ấy thì khắp cả Tam thiên thế giới đều nghe thấy. Tuy có việc lạ thường này nhưng đều do Thế tôn tạo ra, nên nói chung là Đấng Vô Thượng. Như kinh ấy nói Bồ-tát trong a-tăng-kỳ trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp tu hành tinh tấn, nên khi mới sinh liền đi khắp mười phương, mỗi phương đều bảy bước, được oai thần của tất cả các Đức Phật che chở khiến đất này hóa thành Kim cương, nên Bồ-tát đi không bị ngã. Thích Phạm đều hầu hạ, trời, người đều quy kính, đây là nói trời, người đều hầu hạ nương về. Bồ tát sinh rồi ở vườn Long-Tỳ-Ni bảy ngày bảy đêm trời, người đều tấu trỗi các thứ âm nhạc để dâng cúng tôn nhan. Có ba mươi hai ngàn vị Bà-la-môn nổi tiếng thông minh hễ cần vật gì đểu được đầy đủ. Các vị Phạm Vương, Đế-thích khiến thân Bà Ma-da oai nghiêm ở giữa chúng hội, ngồi trên một tòa cao nhất, mà khen ngợi sự tốt lành nhiệm mầu. Trời Ma-hê-thủ-la và trời Tịnh cư thiết lễ đại cúng dường và tuyên bố Bồ-tát này chắc chắn được thành Phật, rồi trở về nước mình. Khi sinh xong bảy ngày thì Thánh hậu Ma-da qua đời và sinh lên tầng trời Ba mươi Ba. bảy ngày sau thì Ca-tỳ-la lại tổ chức lễ lạc rất trang nghiêm tốt đẹp hơn khi Thánh mẫu đến vườn Long-Tỳ-Ni. Có năm trăm người họ thích đều xây dựng cung điện thỉnh vua mà thưa rằng: lành thay, xin thánh thượng nhận cung điện của chúng tôi để kỷ niệm ngày thành đạt lớn. Rồi đặt tên cho Bồ-tát là Tát-bà-tất-đạt-đa. Vua cho ẳm Bồ-tát đến khắp các cung dòng họ Thích, phải bốn tháng mới giáp hết. Bèn rước Bồ-tát về cung vua. Trong cung có một ngôi điện lớn tên là Bảo Trang Nghiêm. Vua cho mời trong thân tộc chọn người lớn tuổi đức cao, có bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề là dì ruột đứng ra nuôi nấng Bồ-tát, bà sai ba mươi hai bà mẹ chăm sóc Bồ-tát, Bồ-tát ví như vầng trăng sáng thanh tịnh tròn đầy. Thị hiện tính đếm cho đến thông suốt các sách, đây là thứ tư nói Thái tử tài giỏi hiểu rộng. Toán kế là số và văn, tức thơ và sách. Nghê là lễ nhạc, xạ là bắn cung, ngự là cưỡi ngựa. Đó gọi là sáu nghề. sáu nghề Bồ-tát đã biết từ lâu nhưng thị hiện có học tập. Nghóa đạo thuật trong đây là sách phép của thần tiên, sách lạ của thế tục gọi là các sách, đạo thuật bí truyền đều rành rẽ nên gọi là Quảng tổng. Quán là Thông, luyện là biết rõ nguồn cội. Giáo lạ thế tục cùng đều rành rẽ nên gọi là quán luyện, kinh ấy nói Bồ-tát mới bảy tuổi đã đầy đủ oai nghi tốt lành. Tất cả trời, người, tám bộ và dòng họ Thích đều theo Luân Đàn Vương, dẫn Bồ-tát đến trường học. Lúc đó, có nhà thông thái là Tỳ-xà-mật-đa thấy Bồ-tát oai vệ đến thì hổ thẹn quỳ sát đất, thiên tử cõi trời Tri Túc tên là Diệu Thân đỡ lên. Vua về bổn cung thì thấy Bồ- tát đọc sách trời (bằng thẻ chiên-đàn) thoa hương trời, trang sức bằng ngọc sáng Ma-ni. Bèn hỏi thầy có sáu mươi lăm sách nên dạy sách nào? Lúc đó, Tỳ-Xà-Mật-Đa nghe điều chưa nghe, vui mừng khen Bồ-tát thế gian không ai hơn. Mười ngàn trẻ nhỏ cùng đến học với Bồ-tát. Lúc đó, Bồ-tát cất tiếng nói vô lượng pháp môn khiến ba mươi hai ngàn bé trai, ba mươi hai ngàn bé gái đều phát tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Đó là thị hiện vào trường học. Dạo ra vườn sau… đến trong chốn sắc vị, là thứ năm, nói Thái tử thi tài cưới vợ - giảng võ thi nghề là việc trước khi cưới vợ, ở trong chốn sắc vị là việc sau khi cưới vợ. Có nơi dẫn kinh Bản Khởi nói rằng: Ném voi đấu sức giảng võ, cùng bắn trống vàng gọi là thi nghệ. Có thuyết cho rằng nay Bồ-tát tuổi đã lớn khôn, vua bèn hỏi vợ cho Thái tử là nàng Gia-du-đà-la xinh đẹp bậc nhất, là con của quan Đại thần Chấp Trượng. Chấp Trượng nói theo phép nhà ta, phải thi tài hơn người mới được lấy con gái ta làm vợ. Vua nghe thì lo buồn không vui. Bồ-tát thưa vua cứ cho mời thi đấu, con có thuật lạ. Bèn ở ngoài thành vua cho lập một chỗ thi tài mời khắp dân chúng trong nước ai có tài nghệ đến thi đấu. Đến bảy ngày thì có năm trăm người dòng họ Thích ghi tên, Bồ-tát đứng đầu, cùng đến thi đấu. Vua cho voi trắng đón Bồ-tát. Đề-bà-đạt-đa đến trước sinh tâm ghen ghét, bèn nắm vòi voi kéo Vương xá cái thì voi chết. Nan-đà lúc ấy ra cửa thành thấy có voi trắng nằm chết giữa đường bèn lấy tay kéo qua bên lề đường. Bồ-tát đang ngồi trên xe dùng ngón chân trái vít voi lên hư không, bay qua bảy lớp thành cách một câu-lư-xá, nơi voi rớt xuống thành một cái hầm lớn, người đời gọi là hầm voi. năm trăm người họ Thích cùng đến chỗ thi đấu mời Tỳ-xa-mật-đa làm giám khảo xem ai là người giỏi hơn hết. Tỳ-xa-mật-đa mỉm cười nói trong trời đất có bao nhiêu chữ nghóa thì Thái tử là giỏi nhất. Vua cũng hỏi Át-thuận-na xem ai giỏi toán số. Lúc đó Bồ-tát đọc số khiến các em bé thứ lớp tính không được, nhưng năm trăm em bé cùng đọc số thì Bồ-tát tính không lộn, Át-thuận-na cho là ít có và khen là trí nhạy bén, không ai bằng nổi Bồ-tát. Năm trăm người họ Thích cùng thi đánh vật, chia làm ba mươi hai cặp. Nan-đà được xem là người mạnh mẽ và khi Bồ-tát chạm tay vào mình ông thì ông liền ngã quị. Đề-bà-đạt-đa kẻ xuất chúng muốn đánh thắng Bồ-tát. Bồ-tát an nhiên dùng tay phải muốn dẹp sự ngã mạn của ông bèn ba lần hất ông lên hư không, nhưng vì lòng từ bi nên không gây thương tích gì. Các người họ Thích đều giận dữ cầm vật bén nhọn cùng ùa đến đâm Bồ-tát, Bồ-tát chỉ tay thì đều té ngã. Khi ấy, quan Đại thần Chấp Trượng cho thi bắn cung. A-nan-đà bảo đặt trống đồng xa hai câu-lư- xá, Đề-bà-đạt-đa bảo để xa bốn câu-lư-xá, Tôn-đà-la-nan-đà bảo để xa sáu câu-lư-xá. Quan Chấp Trượng bảo hãy để xa tám câu-lư-xá, Bồ-tát thì bảo đặt xa mười câu-lư-xá. Bồ-tát có bảy thuẫn sắt và bảy cây đa-la sắt. A-nan, Đề-bà, Nan-đà và quan Chấp Trượng tự tiếc nuối vì không bằng. Khi Bồ tát kéo mạnh thì không ai giương nỗi. Bồ-tát chỉ kéo nhẹ rồi buông tay thì dây cung phát ra tiếng vang khiến nhân dân trong thành Ca-tỳ-la đều kinh hồn. Sau đó, Bồ-tát bắn một phát thì mũi tên sắt xuyên qua cả bảy thuẫn sắt và bảy cây đa-la sắt rồi rơi xuống đất tạo thành một cái giếng sâu. Sau người ta gọi là giếng tên. Trời, người đều bảo Thái tử xưa nay chưa hề học tập mà rành các nghề. Do đó, quan Chấp Trượng bèn gả con gái cho. Nay nói giảng võ tức là đấu sức bắn tên. Thí nghệ tức là thi thơ tính đếm. Vườn sau tức là vườn ở ngoài thành, hiện xứ (chỗ ở) Nan-đà ưa thích ái dục nên thị hiện chỗ ấy. Tức kinh ấy chép: khi ấy, Bồ-tát thuận theo phép thế gian hiện thân ở trong cung tám mươi bốn ngàn thể nữ vui thú không ngừng. Gia-du-đà-la là vợ chánh ở trong cung, khi ấy khiến được tám mươi bốn ngàn gái đẹp đều phát tâm Vô Thượng Giác, vô lượng các vị trời đều đối với Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng được không lui sụt, nói kệ cao siêu, khuyến thỉnh Bồ-tát mau xuất gia. Thấy già, bịnh, chết vào núi học Đạo - là phần thứ sáu, nói xuất tục theo tà. Có ba: Một là ra khỏi trần tục, bỏ đất nước, tiền của, ngôi vị. Các vị trời khuyến phát xong, Bồ-tát bèn cùng các quan thuộc ra khỏi cửa thành Đông thì thấy trời Tịnh Cư hóa thành người già, bèn sầu lo mà trở về cung. Từ cửa thành Tây lại thấy một xác chết, bèn quày xe trở về. Nay nói thấy già, bịnh, chết tức là trời Tịnh cư hóa ra hình tướng đáng nhàm chán. Hễ có sinh thì bất luận sang hèn đều có già bịnh, chắc chắn sẽ trở về với cõi chết, nên chỗ sinh rất đáng mừng mà phải nêu bày. Khiến người thấy mà ngộ đời là vô thường. Như kinh nói: Phiền não ba cõi như lửa dữ, mê hoặc mãi chẳng lìa, thường bị thiêu đốt, cũng như đám mây nổi, phút chốc liền biến mất, hợp rồi lại tan như rạp hát, cho nên nói là vô thường. Bỏ đất nước, tiền của, ngôi vị, như bài tụng nói: Các pháp Hữu vi đều vô thường Năm dục tài vị đều bất định Là khổ sở bức ép các chúng sinh Xin mau xuất gia để cứu vớt. Bỏ tiền của, như kinh nói: đắm nhiễm năm dục như bị sa vào lưới bắt chim, dục như giặc cướp, kẻ thù rất đáng sợ. Năm dục cũng như gai (mũi nhọn) mê đắm năm dục như ôm cây độc. Bậc Thánh bỏ đi như khạc bỏ đàm dãi. Vào núi học đạo tức sở học. Thái tử ra cửa thành phía Bắc thấy người xuất gia, liền xuống xe hỏi: xuất gia có lợi ích gì? Tỳ- kheo đáp: “Ở trong thế gian tu tập Thánh Đạo, điều phục các căn, che chở chúng sinh, không đắm nhiễm thế gian, thường được giải thoát”. Bồ tát vui mừng bảo: “Trong trời, người, chỉ đây là trên hết, ta nhất định tu học”. Kinh nói như thuở xưa các Đức Phật ở trong núi rừng mà được trí Nhất thiết, rộng tuôn xuống mưa pháp. Nay phải xuất gia. Trao lại ngựa trắng cho đến, cạo bỏ râu tóc: Đây là kế vào Đạo, mũ báu chuỗi ngọc trao lại cho người hầu đem về, lại bỏ áo quý đẹp, tức là những thứ phải bỏ. Có thuyết nói phục thừa là lúc giã biệt nhau, là không đúng, vì như thế không nhận mũ báu và chuỗi ngọc. Nay phục tức là mang, thừa là cỡi ngựa. Ngựa trắng tức là vật cỡi, mũ báu chuỗi ngọc tức là đồ trang sức. Bồ-tát nghó riêng mình xuất gia là trái giáo pháp, chẳng thuận lý thế tục, bèn đến vua cha thưa rằng: nay con muốn xuất gia, xin cha chấp thuận. Vua bèn ra lịnh cho dòng họ Thích cả bốn mặt thành đều có năm trăm lính cảnh vệ đi tuần không lúc nào ngừng nghỉ. Bồ-tát bảo Xa-Nặc: “Ta muốn có Kiền-trắc” Xa-nặc nghe Thái tử ra lệnh, bèn trang sức vàng báu quý cho ngựa khỏe, chờ lệnh Thái tử. Lúc đó Trời Tónh Tuệ làm cho người trong thành đều ngủ mê. Nghiêm Tuệ Thiên Tử hóa thành con đường báu trên hư không. Bồ-tát cỡi ngựa bay lên hư không, bốn vị trời nâng chân ngựa, Phạm Thích mở đường, bèn rời thành Ca-tỳ-la đến vườn Du-Ni. Đêm ấy, Thái tử đi hơn sáu do-tuần. Việc xong, các vị trời, tám Bộ đều biến mất. Bồ-tát bèn đến rừng khổ hạnh Tiên Nhân mà xuống ngựa, bảo Xa-nặc đem ngựa và ngọc báu Ma-ni về dâng vua, còn đai ngọc và các báu khác dâng cho Du-già-đa-la bảo rằng: người ở thế gian có thương yêu phải có chia lìa. Nay muốn dứt khổ này nên xuất gia học đạo, Xa-nặc òa khóc, ngựa kiền-trắc qụy xuống hí vang đau thương. Bồ-tát dùng kiếm báu cạo bỏ râu tóc quăng lên hư không, Thiên đế dùng về cúng dường. Bồ tát khi ấy nghó áo báu đẹp không cần mặc nữa thì trời Tịnh Cư bèn hóa thành người thợ săn đổi áo ca-sa cho Bồ-tát. Bồ-tát bèn cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, thành bậc chân xuất gia. Xa-nặc đem kiền-trắc về cung. Bồ- tát đến rừng tiên nhân tu khổ hạnh. Vua sai năm người vào núi hầu Thái tử, không thấy, bèn trốn ở lại rừng. Bồ-tát đến chỗ nữ nhân khổ hạnh Bệ-lưu nhưng đi vắng, lại đến chỗ nữ nhân khổ hạnh Ba-đầu-ma cũng đi vắng, lại đến chỗ tiên nhân phạm hạnh Lợi-bà-đà, cũng đi vắng. Sau cùng đến chỗ hai vị tiên Quang Minh, Điều Phục cũng bảo ngày mai sẽ đi thọ trai. Bèn đến thành Tỳ-xá-ly bên thành có vị tiên A-la-la đang giảng cho ba trăm đệ tử về chẳng có gì thật có, không có gì nhất định, chỉ trong thời gian ngắn thì chứng quả. Nhưng biết nó không giúp hết khổ, bèn đến thành Vương xá vào núi Linh Thứu ở riêng một mình. Các vị trời che chở, giúp đỡ, bèn đắp y ôm bát vào thành Vương xá khất thực. Vua nghe tin than thở rồi lên lầu nhìn Bồ-tát. Bèn sai người hầu dâng cơm mà phát hiện chỗ ở của Bồ-tát. Bồ-tát có nguyện đại Từ bi ở cõi nước này mà chứng Phật Bồ-đề, khiến không còn ngã. Từ xa lễ rồi, vua liền trở về cung. Luận Trí Độ nói Bồ-tát ở cách thành mười hai do-tuần. Đến chỗ vị tiên Bạt già là nói chỗ cạo bỏ râu tóc cũng chẳng xa hơn sáu do-tuần. Nay nói áo quý đẹp tức là đồ mặc làm đẹp thân. Pháp phục tức là áo hủy hình của thợ săn, mặc áo này thì xa lìa bụi nhơ, nên gọi là pháp phục. Ngồi thẳng dưới gốc cây cho đến làm việc đáng làm, đây là nói sau lúc theo tà, Bồ-tát nhận lời vua mời đến sông Ni-liên bên thành Vương xá, có vị tiên của Ma-la-la tên là Ô-đặc-ca thường giảng cho bảy trăm đệ tử về Định Vô Tưởng, đến nghe vị tiên nói xong bèn ở yên một chỗ tinh tấn tu học liền được trăm ngàn Tam-muội thế gian. Hành tướng các Định đều hiện ra. Khi xuất định hỏi vị tiên thì không còn pháp nào khác, cũng không phải pháp của Sa-môn. Năm vị Bạt-đà-la kia liền bỏ vị tiên về với Bồ-tát. Bồ-tát ra khỏi thành Vương xá cùng năm vị Bạt- đà-la, hướng về sông Ni-liên đến núi Già-da suy tư lìa tham, thân tâm yên tịnh, siêng tu khổ hạnh, liền chứng được thắng trí xuất thế. Bèn đến phía Đông Tây của bờ ao Ưu-lâu-tần-loa thì nước sông Ni-liên trong mát, bờ sông bằng phẳng, xóm làng đông đúc, dần dần đến một nơi vắng vẻ, nghó rằng: Từ xưa đến nay những vị tu hạnh Thánh phần nhiều ở đây, thường thấy các ngoại đạo, chấp ngã kiến mà tu tập khổ hạnh còn ta tu tập là muốn dẹp bỏ chấp ngã, nên rất khổ hạnh, đã trải qua sáu năm không hề biếng trễ. Vào thiền thứ tư tên là định A-bà-bà, thường được trời rồng quỷ thần cúng dường, có khả năng khiến cho mười hai vị Lạc-xoa trụ vào ba thừa. Ma Ba-tuần thường theo rình dịp làm hại mà chẳng được, tâm bèn chán nản buồn rầu bỏ đi. Làm điều đáng làm, có thuyết nói là bỏ tà học Chánh đạo, tức là những gì nên tu học phải cẩn thận mà thực hành. Nếu văn như thế thì thuộc thành Đạo, vì sao lại thuộc tướng xuất gia? Có thuyết nói làm theo các hạnh mà bậc Thánh trước đã làm, nên nói việc đáng làm. Ở đây không đúng, các bậc thánh đời trước chưa hẳn đã tu khổ hạnh. Cho nên nay làm việc nên làm là để phân biệt với việc làm cực nhọc mà vô ích không đúng hạnh phương tiện. Tức như luận Du-già dẫn bà tụng rằng: Như ta cực nhọc Như thế như thế Yếu kém như ta Yếu kém như thế Như như thế thế Trụ ta đã trụ Như thế nêu đây? Trong đây khi tu khổ hạnh chẳng thuộc phương tiện, mạnh mẽ tinh tấn thì gọi là cực nhọc. Thực hành phương tiện tà: Vọng chín Pháp lành bị mất thì gọi là giảm kém, đã biết mất các pháp lành rồi thì đó là phương tiện tà. Nên nói Chánh trụ, bỏ các khổ hạnh mà cầu thầy khác. Bèn ở bên Ốt-đạt-lạc-ca-a-trà v.v… các chỗ tà chấp mà thuận theo quán sát nên gọi là chìm nổi. Nói theo đây thì Bồ-tát các khổ hạnh nào cũng tu nhưng đã đến Chánh hạnh phương tiện, nên nói làm việc đáng làm. Tu khổ hạnh rồi đối với các vị thầy khác thuận theo quán sát, bèn bỏ các quán hai Định trước đã tu, nên chẳng trái nghóa kinh. Hiện ở cõi đời có năm thứ vẩn đục cho đến vịn cành cây lên khỏi ao, là thứ bảy nói về hàng phục trụ ma thành đạo. Có năm, Vương xá là tắm gội thân dơ - sát là cõi, Bồ-tát đã biết khổ hạnh chẳng phải nhân Bồ-đề. Cũng nghó rằng xưa vua cha ở trong vườn dưới cây Diêm-phù tu được bốn thiền là Nhân Bồ-đề, nên nhận thức ăn ngon cho thân có sức khỏe mới đến được Bồ-đề tràng. Năm vị Bạt-đà-la liền bỏ Bồ-tát mà đến Ba-la-nại chỗ vị tiên Đọa Xứ mà trước đây Bồ-tát đã tu khổ hạnh. Chủ xóm Ưu-lâu-tần-loa tên là Tư-na-bát-để có mười người con gái từ xưa đã từng cúng dường lúa mè cho năm vị Bạt-đà-la. Bồ-tát biết bỏ khổ hạnh trở lại ăn uống, thì không bao lâu sắc tướng sẽ sáng đẹp trở lại, bèn đến rừng thây ma lượm các vải áo rách mặc vào để thay cho áo khổ hạnh, hỏi nơi nào có nước, thì có một vị trời ở trước Bồ-tát tay chỉ xuống đất liền thành một ao nước sạch. Sau lại nghó ở đâu có đá, thì Thích Đề-hoàn Nhân bèn đặt một tảng đá vuông ở giữa ao. Bồ-tát bèn đến đó giặt rửa và tắm gội. Lúc đó, ma Ba-tuần biến bờ ao cao lên. Bên bờ ao có cây A-tư-na, thần cây bèn đè cành cây xuống, Bồ-tát vịn cây mà lên. Ở dưới cây ấy Bồ-tát mặc áo cũ, trời Tịnh cư tên là Vô Cấu Quang đem áo ca-sa của Sa-môn đến cúng dường. Bồ-tát nhận rồi, buổi sáng ấy Bồ-tát mặc Tăng-già-lê vào xóm khất thực. Có nàng Thiện Sinh nghe thần cây mách bảo, bèn lùa ngàn con trâu vắt sữa, nấu sôi bảy lần, rồi gạn lấy chất tinh túy bên trên đem nấu với gạo thơm thành cháo sữa. Bên trên hiện tướng lành bánh xe ngàn căn Ba-đầu-ma. Có vị tiên bảo ăn vào sẽ được Bồ-đề. Nàng Thiện Sinh nấu xong liền bảo Ưu-đa đến thỉnh Phạm Chí, liền đi khắp bốn phương mà tìm thì thấy chỉ có Bồ-tát. Bèn thưa với Thiện Sinh là chẳng thấy Phạm Chí, chỉ có Sa- môn Cù-đàm. Nàng Thiện Sinh bèn đến mời. Bồ-tát dùng xong bèn ra khỏi xóm Ưu-lâu-tần-loa, đạt bát bên bờ sông Ni-liên, cạo bỏ râu tóc và xuống sông tắm gội, tắm xong ngồi ở bờ sông. Vương phi của Long vương đem dâng tòa báu. Ăn xong cháo sữa thì hình tướng như xưa, bèn ném bát xuống sông, rồng đầu đàn định lấy về cúng dường thì Đế-thích hóa thành chim cánh vàng cướp lấy đem về xây tháp cúng dường, vì Bồ-tát có năng lực phước tuệ. Cho nên dùng cháo sữa thì tướng tốt càng sáng đẹp rực rỡ. Tóm lại, Phật hiện tướng hóa độ ở cõi đời có năm thứ vẩn đục thuận theo chúng sinh mà thị hiện có cát bụi, tắm gội khiến sạch sẽ. Cho nên thị hiện tắm gội. Dưới sông cát vàng, trời đè cây, tức sông vàng là sông Ni-liên. Đè cây tức là cây bên bờ ao, trước sau cùng nêu cho nên không trái nhau. Thần cũng gọi là trời. Chim linh cũng bay theo đến đạo tràng, là phần thứ hai đi đến Đạo tràng. Bồ-tát sau khi tắm gội thân thể, ăn cháo sữa rồi khí lực bình ổn Chánh niệm hướng về cây Bồ-đề. Từ sông Ni-liên đến cây Bồ-đề được quét dọn sạch sẽ cả thế giới Tam thiên. Các cây các núi hoặc lớn hoặc nhỏ đều rạp mình trước cây Bồ-đề. Các tầng trời cõi Dục đều hóa thành bảy báu, cách hai khoảng cây Đa-la có ao bảy báu. Đường đi và thềm bậc ở bốn phía ao đều bằng bảy báu. Có các loài chim quý như ca-lăng, tần-già, chim nhạn, chim cộng mạng… hót tiếng êm tai, khi đến cây của Bồ-tát thì thân đầy khắp vô lượng ánh sáng. Lại có vô lượng chim anh vũ, xá-lợi, câu-chỉ-la, ca-lăng-tần-già, chim nhạn, uyên ương, chim công, phỉ thúy, cộng mạng v.v… bay lượn vây quanh hót ca ríu rít. Đêm Bồ-tát sắp ngồi tòa Bồ-đề thì trời Đại phạm dùng năng lực thần thông khiến cõi Tam thiên hết sạch các bùn cát ngói gạch gai gốc, khiến đất bằng phẳng như bàn tay, không có gò đồi hầm hố, đều tô điểm bằng bảy báu. Có mười sáu vị vua trời đem vật quý báu nhất giữ gìn Bồ-đề tràng, đều chứng vô sinh nhẫn. Lại có bốn thần giữ cây Bồ-đề Đề-tỳ-lưu-bạc- cù-tô-ma-na… đều dùng thần lực biến cây Bồ-đề thành cao rộng trang nghiêm đẹp đẽ, mỗi bề đều cao bằng tám mươi cây đa-la. Vì Bồ-tát thường hàng phục ma oán nên dùng tướng Đại nhân quay mặt về hướng Tây mà đến Bồ-tát tràng. Có thuyết nói có năm trăm chim sẻ mầu xanh bay theo sau Phật, gọi là cầm dực, đều là chim thần, cũng gọi là chim linh, không phải chỉ có chim sẻ mầu xanh như trước đã dẫn. Cho nên nay cũng nói bay lượn theo sau, là nói lên sự kỳ lạ - Trời đè cành cây là ý nói chúng sinh chiêu cảm mà phát ra như thế. Vịn cây lên khỏi sông là ý nói Phật ứng phó các căn cơ. Chim linh là tượng trưng quyến thuộc cùng đi. Nếu không như thế thì trái. Kinh Vô Cấu Xưng nói có tới lui làm mọi việc đều là Phật sự cả. Cảm ứng điềm lành cho đến ngồi kiết già, là phần thứ ba nói về điềm cỏ lành thành Thánh. Bồ-tát liền biết các Đức Phật quá khứ đều ngồi cỏ sạch mà thành Chánh Giác. Lúc đó, Thiên đế hóa thân, thành người cắt cỏ, ôm cỏ đứng bên Bồ-tát, cỏ xanh đẹp như đuôi công. Hỏi tên có thì đáp là cỏ Cát Tường. Bèn nghó rằng: ta muốn cầu lợi mình lợi người mà Cát Tường đứng bên ta thì nhất định là chứng Bồ-đề, nên nói bài tụng rằng: Cát Tường hôm nay ngươi Hãy mau dâng cỏ sạch, Ta sẽ ngồi cỏ ấy Hàng phục các ma quân, Nếu khi chứng vắng lặng, Thì hỏi đạo Vô thượng. Cát Tường nghe xong liền dâng cỏ sạch lên Bồ-tát, trước thọ ký Bồ-đề sau nhận cỏ sạch. Bồ tát bảo Cát Tường rằng: Không phải chỉ ngồi cỏ sạch mà được Đại Bồ-đề, mà phải tu vô lượng đức mới được Phật thọ ký, Cát Tường ngươi nên biết ta chứng Bồ-đề rồi, phân bố khắp các thế gian, ngươi phải ở chỗ ta, nghe nhận pháp Cam Lộ. Bồ-tát lấy cỏ bày khắp, sắp chứng Bồ đề mặt quay về hướng Đông ngồi kiết già trên cỏ sạch mà phát thệ rộng lớn rằng: Tối nay nếu chẳng được Đại Bồ-đề Vô thượng, thà nát thân này, không bao giờ đứng dậy. Tóm lại khi Phật sắp thành đạo thì cảm được Cát Tường là điềm lành, nên biết chắc chắn thành Chánh giác mà lợi ích khắp tất cả. Cho nên nói Cát Tường chiêu cảm điềm lành. Tức dùng điềm lành này mà nói lên chỗ thành công quả phước đức, cho nên nói biểu thị phước tộ. Tộ là phước, giúp. Chương là bày, hiểu. Ý nhận cỏ là chứng Đại Bồ-đề mà lợi lạc chúng sinh, cho nên nói thương xót nhận cỏ, nương cây thành Chánh Giác nên gọi là Phật thọ. (Cây Phật, cây giác, cây Bồ-đề) tức ở trung tâm của thế giới Tam thiên. Chúng sinh nên thấy đã có muôn phẩm cho nên Phật hiện bày tòa ngồi, cũng là nói Thánh giáo bất định mà chú ý cứu xét vào đó. - Ngồi kiết già tức là ngồi hàng phục ma, có hai cách: Ngồi hàng phục ma thì đặt chân trái trên đùi phải, nếu ngồi Cát Tường thì đặt chân phải trên đùi trái. Nay ta tuy ý hàng phục ma mà tưởng thành Phật nên ngồi Cát Tường. Gia là trọng tức ngồi tréo chân nhau, gọi là già thì chẳng biết do đâu. Phát ra ánh sáng rực rỡ cho đến đều khiến ma bị hàng phục, là phần thứ tư nói về trí lực hàng ma. Có thuyết nói nghóa ma này có tám thứ không ngoài bốn đảo, gần thì phá chánh giải, xa thì chướng chân đức, nếu không phải tai họa của Thinh văn thì cũng là kẻ thù của Bồ- tát, nên gọi là Ma. Nhưng ở đây chẳng phải thế - Vì các thứ có qua lại phải là Ma trời, lại thị hiện làm các tướng phi thường. Cho nên ma có nhiều loại nhưng ma bị hàng phục ở đây là Ma trời. Cho nên Bồ-tát ngồi tòa Bồ-đề nay thành Chánh giác thì Ma Vương Ba-tuần phải bị hàng phục, khiến phát tâm Bồ-đề. Nên Ngài liền phát ra ánh sáng từ sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày chiếu khắp thế giới Tam thiên, chiếu cả cung điện ma Ba-tuần. Ma Vương thấy ánh sáng bảo rằng: Đời có người thanh tịnh trên hết Qua nhiều đời tu hành đã xong Đó là họ Thích, bỏ ngôi vua Hiện nay đang ngồi tòa Bồ-đề. Ngươi tự xưng là rất mạnh mẽ Hãy đến cây ấy mà giao tranh. Ma Ba-tuần nghe kệ xong thì mộng thấy cung điện mình tối đen rung chuyển không yên. Thức dậy thì khắp thân thể run rẩy, tâm thần kinh khiếp. Ma có ngàn người con, năm trăm người bên phải thì quy y Bồ-tát, năm trăm người bên trái thì khen giúp Ma Vương. Ma Vương bảo các con tìm đủ cách để phá dẹp Bồ-tát. Con ma bên phải tên là Hữu Tín thưa với Ba-tuần rằng: Nếu sức nghiền nát cõi Tam thiên - sức lớn như thế khắp cát sông, Chẳng động sợi lông chân của Bồ-tát, đâu đủ sức hại người trí tuệ. Đứa con bên trái tên là Bách Tý lại thưa với Ba-tuần rằng: nay con có cả trăm cánh tay, mỗi cánh tay đều phát ra trăm mũi tên, Đại vương cứ đi chớ sợ sệt, như Sa-la này ai hại được. Các con của Ma Vương rất hăng hái mạnh mẽ không tả xiết. Ma Vương lại ra lệnh các con gái hãy đến dưới gốc cây kia mà dụ dỗ người họ Thích phá hoại tịnh hạnh. Rồi xua các Ma nữ đến trước Bồ-tát mà trêu ghẹo, dùng ba mươi hai thứ mê hoặc Bồ-tát, lại nói tụng rằng: Tiết xuân ấm hòa vui, cỏ lá rừng xinh tươi, chàng hãy nên vui gấp, kẻo bỏ uổng xuân thời, dẫu khôi ngô đẹp đẽ, năm dục khó tìm cầu, đối đây mà vui thú, chẳng hơn Bồ-đề hay sao? Bồ-tát nghe xong lòng rất buồn thương, bèn nói kệ rằng: Ta thấy năm dục đầy ràng buộc, do phiền não ấy mất thần thông, ví như hầm lửa và chất độc, chúng sinh lao vào mà chẳng biết, thân ấy luống dối từ nghiệp sinh, bốn đại năm uẩn giả hợp thành, gân cốt thịt da tạm gá có, người trí ai đâu thèm mê đắm, phàm phu mê lầm sinh tâm dục, ta đã giải thoát ở thế giới, như gió trên không ai buộc được, đây da đựng đầy thứ hôi tanh, ta chẳng ham đâu hãy đi mau. Các ma nữ chẳng làm gì được bèn rải hoa khen ngợi, đi nhiễu ba vòng, đảnh lễ bỏ về thưa với Ma Vương rằng: Chúng tôi xưa nay chưa hề thấy có người như thế. Ở trong cõi Dục nhìn dung nhan đẹp đẽ của chúng tôi mà tâm không xao động. Xin Đại vương chớ ganh ghét, ngăn trở người ấy nữa. Khi ấy, ma Ba-tuần đến dưới cội Bồ-đề bảo Bồ-tát rằng: Ông nên mau thành Luân Vương, Bồ-đề khó được, chớ nên cực nhọc. Bồ-tát chép: Ta chẳng ham năm dục, chỉ như ăn đồ ói ra, ta quyết ngồi tòa Kim cương chứng được Bồ-đề. Người chẳng nên nói nữa hãy đi mau! Ma Ba-tuần nổi giận liền kéo vô số trăm ngàn muôn ức chúng ma đến lấy cây Bồ-đề. Nhưng đều không hại được. Ba-tuần muốn đến gần Bồ-tát cũng chẳng được. Bồ-tát bảo rằng: Ngươi do ngày xưa có chút ít gốc lành nay được phước báo trời. Còn ta từ vô lượng kiếp đã tu tập hạnh Thánh chắc chắn sẽ được Bồ-đề. Bèn chỉ tay xuống đất, thần đất liền hiện ra, nói rằng hãy làm chứng lời ta. Lúc đó, cả cõi Đại thiên rung chuyển ầm ầm, các ma tan tác. Ma Vương trốn chạy về cung. Nói ánh sáng rực rỡ tức là ánh sáng của sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày, chiếu sáng khắp cõi Đại thiên, nên nói là rực rỡ - khiến ma quân biết tức là nằm mộng thấy điều chẳng lành. Đến bức ép thi đấu là đêm các binh chúng muốn đến gần Bồ-tát. Ma, tức là Ma-la, Hán dịch là tệ ác (xấu ác) cũng gọi là sát (giết hại). Có thuyết nói trí lực là mười trí lực, khiến ma phải hàng phục. Nếu như thế thì làm sao gọi là hàng Ma? Đó là do định lực của từ bi. Nay tức là trí, vì đạo lực của Bồ-tát có năng lực oai thần, nó muốn phá hoại tự lợi tức là trí có khả năng hàng phục, nếu phá lợi tha tức thần lực hàng phục, tùy nghóa nào hay thì dùng, nên gồm cả. Thần lực là do từ Định phát ra nên nói trí lực đều khiến phải bị hàng phục. Tức Trí luận chép: “Do được đạo Bồ-tát”. Các kinh khác cũng nói là do tam-muội. Được pháp nhiệm mầu, thành tịch Chánh giác: Là phần thứ năm nói quả giác đã thành. Có thuyết nói pháp mầu là lý, có thuyết nói là Niết-bàn vắng lặng, đều không đúng. Vì chẳng thể nói Lý được Diệt được mà thành Chánh Giác. Cho nên nay nói Bồ-tát hàng phục ma oán, dựng lập cờ pháp, đi vào bốn thiền không xao động. Đến đầu hôm thì được trí, được minh, nhiếp trì Vương xá tâm phát ra thiên nhãn thông. Nửa đêm thì được Túc mạng thông, đều nhớ việc của mình và của người đời quá khứ. Lại thấy tất cả chúng sinh do nhân già chết sinh ra mà có hữu, cho đến hành cũng do nhân vô minh mà có. - Lại suy nghó do đâu mà diệt. Nếu già chết diệt thì vô minh diệt nên hành diệt, cho đến sinh diệt thì già chết diệt. Lại suy nghó đây là sắc vô minh, đây là nhân vô minh, vô minh này diệt thì sắc vô minh này diệt. Vô minh cho đến già chết lo buồn khổ não đều cũng như thế. Gần sáng, khi sao mai mọc thì Điều Ngự Thánh Trí, điều nên biết, điều nên ngộ, điều nên thấy, điều nên chứng, tất cả một niệm tương ưng, tuệ chứng Vô thượng giác, đầy đủ cả ba minh. Vì các vị vua trời mà hiện thành Phật, bay lên hư không cao bảy cây đa-la, nói tụng rằng: “Phiền não đều đã dứt, các lậu đều hết sạch, lại không còn thọ sinh, gọi là dứt hết khổ.” Các vị trời đều vui mừng, tung rải hoa trời cúng Phật ngập đến gối. Cho nên Pháp nhiệm mầu, thuộc về quả đức sở chứng, là lời nói đều cùng tận. Như Luận Du-già chép: Sau đó, ngồi tòa Bồ-đề bỏ tất cả thứ không phải thuộc phương tiện. Mạnh mẽ tinh tấn, đối với tất cả pháp lành đều được thêm lớn, đối với tu đoạn mà cầu thắng diệu, không cầu các thầy ngoại đạo khác, không thầy mà tự tu pháp ba mươi bảy phần Bồ-đề, chứng được Chánh Đẳng Bồ-đề Vô thượng, gọi là Đại giác. Thích Phạm đều khuyến thỉnh Phật quay bánh xe pháp - đây là phần thứ tám, pháp hóa khắp thấm nhuần. Có hai: Một là gia tâm cầu thỉnh; hai là do thỉnh mà nói. Khi mới thành Chánh giác, các vị trời khen xong, Bồ-tát liền trụ vào định Hỷ diệt, nhìn cây Bồ-đề mắt không tạm rời. Thiền duyệt làm thức ăn, ngồi mãi chẳng đứng dậy, suốt bảy ngày ở nơi ấy dứt bỏ các khổ. Đến tuần lễ thứ hai thì đi kinh hành trong Đại thiên làm giới hạn. Tuần lễ thứ ba, quan sát Bồ-đề tràng, cũng là ở đây mà được Đại giác. Tuần lễ thứ tư, đi kinh hành bờ biển làm giới hạn. Lúc đó, Ma Vương thỉnh rằng phải nhiều kiếp khổ hạnh mới được thành Phật, cúi mong Đấng thiện thệ hãy mau nhập Niết-bàn. Phật bảo Ba-tuần rằng: cầu Đại Bồ-đề là muốn lợi ích chúng sinh. Mà trong pháp ta chưa được nghóa lợi ích. Tam Bảo chưa đầy đủ, chưa nói pháp, vì sao lại nhập Niết-bàn? Ma Ba-tuần nghe xong tâm rất buồn khổ. Khi ấy, có ba ma nữ thấy cha buồn khổ bèn biến hình thành một thiếu nữ và một thiếu phụ, nhưng khi đến chỗ Phật thì bị thần lực biến thành già cỗi. Bèn về thưa cha rằng con biến hình để làm mê loạn Sa-môn ấy, nhưng bị oai lực biến con thành già khú, xin vua cha dùng oai lực biến con lại như cũ. Ma đáp, các con hãy tự đến sám hối tội lỗi ấy để Ngài thâu thần lực thì sẽ trở lại như cũ. Các ma nữ đến chỗ Phật bạch rằng: chúng con rất ăn năn hối lỗi muốn được hết tội. Cúi mong Ngài từ bi khiến cho chúng con được trở lại như cũ. Phật liền từ bi thu thần lực khiến họ trở lại như cũ - Tuần lễ thứ năm, Phật đến chỗ ở của Long Vương Mục-Chân-Lân Đà, Long thần rất ủng hộ. Tuần lễ thứ sáu Phật đến dưới cây Ni-Câu-Đà gần sông Ni-liên, có nhiều ngoại đạo đều đến an ủi hỏi han - Tuần lễ thứ bảy Ngài đến rừng Đa-Diễn thấy các chúng sinh bị sự sinh già bịnh chết bức ép. Khi đó, ở Bắc thiên trúc có hai anh em thành người đứng đầu đoàn lái buôn, một người tên Đế-Lý-Phú-Bà, một người tên Bà-Lý, dùng năm trăm xe chở đồ châu báu trở về nước. Có hai người chăn trâu, một tên Thiện Sinh, một tên Xương Xảo Thức. Họ ngừng trên đường không tiến lên được, lòng rất lo sợ. Thần rừng mách bảo: chớ sợ, các ông được lợi ích lớn vì gặp Phật ra đời mới thành Chánh giác ở tại rừng này, không ăn đã từ bốn mươi chín ngày nay. Các ông nên đem các thứ ăn uống dâng lên cho Ngài. Hai người chăn trâu tiến lên, các lái buôn theo sau. Từ xa bỗng thấy Như lai thân tướng đẹp đẽ như mặt trời mới mọc, cho là ít có, cho là thiên thần Phật, thấy ca-sa liền biết Như lai. Bèn đem các thức ăn ngon như bơ, mật, mía, cháo sữa, đậu… dâng lên. Đi nhiễu bên phải ba vòng rồi dừng lại thưa rằng: xin Phật thương xót nhận chúng con cúng dường. Phật thầm nghó dùng đồ đựng gì để nhận. Bốn vị Thiên Vương liền dâng lên bát vàng. Phật bảo người xuất gia không dùng bát vàng. Thiên Vương phương Bắc bảo các vị trời khác rằng: thuở xưa, trời Thanh Thân đã cho chúng ta bát đá trắng, nếu muốn cúng dường bát đá thì nay đã phải lúc, nay các trời cùng về cung mình lấy bát đá dâng lên Như lai. Phật bèn nhận bát của bốn vị Thiên Vương, thứ lớp đặt chồng lên nhau rồi dùng tay phải đè xuống thành một bát có bốn lớp vành. Lúc đó, những người lái buôn từ sáng đã cho người vắt sữa, sữa đã hóa thành đề hồ, bèn cho là việc ít có bèn cho gạo vào nấu thành cháo sữa đựng đầy bát chiên-đàn dâng lên Như lai. Như lai ăn xong liền tung bát lên hư không. Phạm Vương nhận lấy đem về cung xây tháp cúng dường. Phật tự chú nguyện và thọ ký cho. Rồi nhập thiền định quán các thế gian. Lại nghó rằng pháp chứng được không phải tâm, nói ra e không có lợi. Bèn yên lặng, mà nói kệ rằng: được pháp vô vi cam lộ - Sâu xa vắng lặng lìa bụi nhỏ nếu Phạm Vương đến khuyến thỉnh ta, hoặc ta sẽ nói pháp nhiệm mầu. Phạm Vương Loa Kế nhờ oai thần Phật mà biết được ý của Như lai vì sao im lặng, nên cùng sáu mươi tám câu chi Phạm chúng đến bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Có nhiều chúng sinh có khả năng ngộ nhập được pháp sâu xa, cúi mong Đức Thế tôn nói cho. Nhưng Phật vẫn yên lặng. Phạm Vương cũng biết ý lặng im, bèn cùng Trời Đế-thích cho đến Trời A-Ca-Ni-tra vào giữa đêm đến rừng Đa-diễn, đi nhiễu bên phải xong liền bạch Phật xin quay bánh xe pháp. Phật cũng vẫn im lặng, Đại Phạm lại thỉnh, Phật nói hai bài kệ rằng: Ta chứng Đạo ngược dòng, sâu xa khó thể thấy, kẻ mù chẳng nhìn được, nên im lặng không nói. Các chúng sinh thế gian, dính mắc năm trần cảnh - Chẳng thể hiểu pháp ta, Cho nên nay im lặng. Các trời Đế-thích Phạm vương nghe xong thì buồn lo, bỗng nhiên biến mất. Lại vào Vương xá lúc, Đại Phạm Thiên Vương than rằng các ngoại đạo nước Ma-già-đà mê đắm tà kiến, bèn đến chỗ Phật nói kệ thỉnh rằng: nước Ma-già-đà, có nhiều Dị Đạo, vì tà kiến, nên các thứ tính toán, cúi mong Mâu-ni, vì mở Cam lộ, pháp rất thanh tịnh, khiến họ được nghe. Đức Thế tôn dùng Phật nhãn xem thấy các chúng sinh căn thượng, trung, hạ, và ba nhóm, Phật bảo Phạm Vương rằng: “Nay ta vì ngươi sẽ mưa cam lộ, tất cả trời, người rồng thần ở thế gian nếu có người tịnh tín nên nghe nhận pháp ấy”. Phạm Vương nghe rồi liền vui mừng khen rằng: Nay Như lai nhận lời khuyến thỉnh của Phạm Vương. Chỉ trong chốc lát lời ấy truyền khắp hư không vang đến trời A-ca-tra. Nay nói Phạm Thích khuyến thỉnh là lược nêu mà thôi. Kỳ là cầu phước. Chuyển là cả mình, người. Mình là chuyển đến Như lai ba đạo đầy đủ, người là chuyển pháp mình được đến người khác, pháp nối tiếp chuyển tức là nghóa bất định, tức là dời chuyển. Tuy Phật đã tự chuyển mà chưa có người khác chuyển cho nên kế là thỉnh chuyển. Dùng bước đi của Phật, dùng tiếng gầm thét của Phật mà gầm thét. Đây là phần thứ hai, do thỉnh mà nói. Có hai: Một là thân miệng lược hóa độ; hai là thân miệng rộng lợi ích - phần một lại có ba: Một là văn thỉnh cảnh cáo chúng sinh. Phật đi, tức là thân nghiệp hóa hiện oai nghi Phật đi hóa độ các chúng sinh - Như lai việc phải làm đã làm xong, không đức nào chẳng đủ, năm nhãn thanh tịnh xem thấy các người thế gian có thể nhận được pháp. Phật bèn nhớ lại Ma-la-tử, ba cấu yếu mỏng, nghe pháp sẽ được chứng, Ngài bèn dùng Phật nhãn thấy họ chết đã chết bảy ngày, có vị trời cũng nói, họ chết đã bảy ngày. Sau đó thấy ngoại đạo tiên A-la-la, chết đã ba ngày. Vị trời ở trên hư không chép: chết đã ba ngày. Nhớ năm vị Bạt-đà-la, căn tánh đã thuần thục, nếu nghe sẽ được khai ngộ, dùng Phật nhãn thấy ở vườn Lộc dã từ cây Bồ-đề hướng về nước Ca-tỳ-la thành Ba-la-nại, rung chuyển Đại thiên. Bên thành Già-da có một ngoại đạo tên là A-tự-bà hỏi thầy Phật là ai và Ngài đi đâu? Như lai đáp đầy đủ. Sau đó Ngài đi về phương Bắc qua thành Già-da. Trong thành có một con rồng tên là Thiện Kiến. Ngày hôm sau thiết trai cúng dường, Như lai dùng trai xong thì đến thôn Lư- hê-đa-bà-tô-đô, kế đến xóm Đa-la, rồi đến thôn Bà-la. Lần lượt đi như thế đều nhận được các Trưởng giả, cư só cúng dường ăn uống. Lần hồi đi đến bờ sông Hằng. Bờ sông rộng lớn nước chảy cuồn cuộn, bèn bay lên hư không sang bờ bên kia. Đến thành Ba-la-nại, vào buổi sáng mặc y ôm bát vào thành khất thực. Trong vườn Nai năm vị Bạt-đà-la từ xa nhìn thấy Thế tôn liền bảo nhau rằng không chào hỏi kính thờ ông ấy nữa. Chỉ có Kiều-Trần-Như tâm khác mọi người. Khi Phật đến gần thì cả năm người đều trái lời ước hẹn mà cùng đứng dậy thưa: kính chào Trưởng lão, mời Ngài ngồi. Thế tôn ngồi xong, bảo năm người rằng: Ta đã chứng được chủng trí không nên gọi Trưởng lão, năm vị bèn gọi Sa- môn. Phật nói “Thiện lai”, bèn thành Sa-môn râu tóc chừng khoảng như cắt cạo mới bảy ngày, oai nghi khoan thai, như Tỳ-kheo trăm tuổi hạ. Thế tôn xuống ao tắm gội xong nghó chư Phật quá khứ ngồi ở đâu mà quay bánh xe pháp? Bỗng có tòa ngàn báu từ ao trồi lên, bèn cung kính đi nhiễu quanh rồi lên tòa ngồi kiết già. Khi ấy, năm vị Bạt-đà-la ngồi ở trước Phật. Phật phát ánh sáng rực rỡ chiếu khắp thế giới Đại thiên, mời gọi các vị trời, người. Thần đất dùng thần lực khiến đạo tràng này rộng một bề đều bảy do-tuần. Các tầng trời cõi Sắc và cõi Dục đem tám mươi bốn ngàn tòa Sư tử đặt trong Đạo tràng, thỉnh Thế tôn thương xót lên ngồi tòa của con mà quay bánh xe pháp vô lượng câu-chi Bồ-tát ở mười phương, Thích Phạm trong thế giới Tam thiên ở mười phương, các vị trời hộ đời đều đến chỗ Phật thỉnh Phật quay bánh xe pháp, thương xót chúng sinh mà mưa pháp rộng lớn, dựng cờ pháp lớn, thổi loa pháp lớn, đánh trống pháp lớn. Lúc đó, có Bồ-tát tên là chuyển pháp dùng một ngàn bánh xe bằng các thứ báu trang nghiêm đẹp đẽ, phát ra ngàn tia sáng. Các Đức Phật quá khứ đều có bánh xe này. Sau đó, Bồ-tát Chuyển pháp dâng lên Như lai. Như lai vào lúc đầu hôm im lặng, đến nửa đêm thì an ủi Đại chúng, gọi năm vị Bạt-đà-la bảo rằng người xuất gia có hai chướng: Một là tâm đắm mê cảnh dục không lìa; hai là không Chánh tư duy, tự làm khổ thân (khổ hạnh) mà cầu thoát ly, phải bỏ hai thứ này. Nay Thánh giáo là lời chỉ dạy của Phật, nên nói Phật gầm thét, gầm thét là trái. Kinh ấy trước khen đức hiệu, nói lược Trung Đạo, tức ở đây lược bày hai chương gồm nói Trung đạo nên nói Phật gầm thét. Gầm thét cũng là chuyển. Đánh trống pháp cho đến giảng nói pháp thì, đây là nói riêng về pháp hóa. Có thuyết nói muốn giúp người có duyên khắp được nghe, nên đánh trống pháp. Trống pháp là khiến xa nghe, thổi loa pháp tức là muốn đổi hiệu, khiến bỏ tà theo chánh. Vì muốn dứt bỏ chướng mà cầm kiếm pháp nói lên sự vượt hơn. Dựng cờ pháp là muốn động chấp pháp, chấn sấm pháp. Vì muốn hết tối tăm nên chớp điện pháp, vì muốn thấm nhuần chúng sinh nên tưới mưa pháp. Muốn bố thí cùng khắp thuốc pháp nên giảng nói pháp thí. Đây có lời luống dối thì đều không nhặt lấy trái sót. Trong luận Thế Thân cũng có trái sót chánh lý. Có thuyết nói đánh trống pháp là nói về Văn tuệ pháp, thổi loa pháp là nói về Tư tuệ pháp, cầm kiếm pháp là nói về Tu tuệ pháp, dựng cờ pháp là nói về chứng tuệ pháp, rền sấm pháp là hóa độ vô ngại, chớp điện pháp là nghóa vô ngại - tưới mưa pháp là từ thuyết vô ngại. Giảng pháp thí là lạc thuyết vô ngại, để lợi ích chúng sinh. Đây cũng không đúng. ba Tuệ đều đã giác chứng tuệ pháp, cho nên ba tuệ được học cũng không khác. Cho nên bốn biện tài nói trên cũng là ba tuệ pháp. Nay tức Như lai nói Trung đạo rồi thì vì các vị Kiều-trần-như mà nói hai môn tu hành: bốn Đế pháp và mười hai nhân duyên lưu chuyển, ba lần chuyển mười hai hành pháp luân xong thì các vị Kiều-trần-như đều thấu suốt nhân duyên các pháp mà thành A-la-hán, tức Tam bảo xuất hiện. Bà-già-bà là Phật, ba lần chuyển mười hai hành pháp luân là pháp, năm vị Bạt-đà-la là Tăng. Tiếng quay bánh xe pháp vang khắp các cõi Phật mười phương. Riêng các Đức Phật im lặng không nói, pháp hóa năm người xong, thì đến chỗ Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp ở trong hang đá mà hàng phục rồng dữ. Ca-diếp nói “Thần lực Phật khó chống chỏi”, bèn cùng năm trăm đệ tử xin làm Sa-môn. Phật chép: “Thiện lai” liền đều trở thành Sa-môn. Ca-diếp và hai em là Nan-đề và Già-da mỗi người đều có hai trăm năm mươi đệ tử đều ném vật thờ lửa xuống sông, cùng năm trăm người từ dòng sông ngoi lên. Nghe Ca-diếp khen sự thần hóa của Phật đạo bèn xin làm Sa- môn. Phật nói “Thiện lai” và đều thành Sa-môn. Phật cùng một ngàn vị Tỳ-kheo đến thành Ba-la-nại ở trong rừng giáo hóa bằng mọi cách, đều thành Ứng cúng. Rồi từ Ba-la-nại cùng ba anh em và một ngàn vị La- hán. Khi đến nước Ma-ha đà thì vua Tần Bà-sa-la, Đại thần, trăm quan trước sau, ngàn xe muôn ngựa cùng ra cửa thành đón Phật. Phật ngự gần thành Vương xá tại rừng Già-Việt, vua xuống xe lễ Phật. Phật an ủi hỏi han, bảo rằng năm uẩn vô thường, khổ không, ba cõi chẳng thật, tất cả vô thường. Phật hỏi vua, nước này đã bao lâu. Vua đáp đã hơn bảy trăm đời, từ khi vua trị vì chỉ biết có năm đời. Phật nói thế gian phút chốc chỉ có Đạo có thể cậy nương, nên tu phước đời sau, chớ nên để thì giờ luống qua. Bèn nói ý nghóa lưu chuyển, hoàn diệt của duyên khởi. Vua được pháp nhãn tịnh, thọ năm giới. Có Trưởng giả Ca-lan-đà dâng cúng vườn trúc tốt đẹp lên Như lai. Như lai chú nguyện và nhận lấy, thường an trụ trong ấy với Thánh chúng. Có đệ tử Phật tên là Xá-bà-kỳ vào thành khất thực. Khi đó Xá-lợi-phất hỏi thầy của Sa-môn là ai, vì nghe đức của Phật bèn đem các đệ tử đến chỗ Như lai xin làm Sa-môn. Phật nói thiện lai, liền thành Sa-môn, cũng nói pháp cho nghe, thành A-la-hán. Vào thành Vương xá đến thăm Mục-liên, Mục-liên thấy Xá-lợi-phất hình dạng đổi khác bèn hỏi pháp đã chứng được, rồi đến chỗ Phật xin làm Sa-môn. Phật nói thiện lai, bèn thành Sa-môn, cũng nói pháp cho nghe, thành tựu quả A-la-hán. Khi đó, vua Du-Đầu-Đàn nghe con đắc Đạo trải sáu năm ăn uống kham khổ. Bèn bảo Ưu-đà-di nên đến thỉnh Phật, đã biệt ly nhau mười hai năm, suốt ngày đêm mong nhớ nay gặp nhau như sống lại, liền nghe lời vua dạy đến chỗ Phật trình bày đầy đủ và xin làm Sa-môn. Phật nói thiện lai, liền thành Sa-môn và chứng quả A-la-hán. Phật liền bảo Ưu-đà-di về báo bảy ngày nữa Phật sẽ trở về. Đến ngày thứ bảy Phật dắt các đệ tử đến thành Ca-tỳ-la. Phụ vương ra khỏi thành bốn mươi dặm để đón Như lai. Bèn sai chọn năm trăm người khôi ngô trong nước cho làm Sa-môn để hầu hạ Phật. Em Phật là Nan-đà cũng làm Sa-môn. Nan-đà nhờ Ưu-bà-ly xin Phật cứu độ. Phật nói thiện lai liền thành Sa-môn. Phật nói pháp cho vua nghe, vua liền được đạo. Tóm lại, trong câu tám: Cầm kiếm pháp, tưới mưa pháp, Y luận Pháp Hoa lấy nghóa mà suy thì nên nói cầm kiếm pháp, tưới mưa pháp, đánh trống pháp, gầm sấm pháp, dựng cờ pháp, chớp điện pháp, thổi loa pháp, giảng pháp thí. Trong luận ấy nói nếu có người nghi thì dùng pháp dứt nghi, muốn nói Đại pháp thì nay phải cầm kiếm pháp mà chặt đứt các nghi của ngoại phàm, khiến cho tiến tu, người đã dứt nghi rồi thì thêm lớn thuần thục trí thân, cho nên mưa Đại pháp tức nay là tưới mưa pháp. Đã vào nội phàm mà không nghi thì thấm nhuần, nảy mầm lành, khiến vào thánh vị. Người gốc lành đã thuần thục thì nói cho nghe hai thứ cảnh giới bí mật, tức là cảnh giới bí mật của Thinh văn, Bồ-tát bị. Hai câu thị hiện tức là đánh trống pháp khiến không dứt Đại pháp. Vì trống đánh là để nghe xa nên khiến đánh trống pháp, gầm sấm pháp là cùng nghóa với trống, khiến mở mang Bồ-tát thừa là cảnh thật mật, đó gọi là hai thứ mật cảnh. Nay người gốc lành thuần thục thì bỏ quyền lấy thật. Cho nên người vào cảnh giới bí mật thì khiến tiến lên để lấy nghóa thanh tịnh. Nên liền dựng cờ pháp lớn, Bồ-đề diệu trí cực cao sáng rỡ như cây cờ cao lớn. Do biết quyền thật có bỏ có lấy, thực hành hạnh Đại thừa được trí Bồ-đề, lìa thanh tịnh mà tiến lên thượng thượng. Nghóa thanh tịnh là tiến lên đạt lấy Nhất Thiết trí hiện. Cho nên đốt đuốc pháp lớn tức nay là chớp ánh điện pháp. Đã được chân trí thì kiến lập Bồ-đề, xét chiếu chân cảnh mà chứng Niết-bàn, lấy tất cả trí hiện, là vì tất cả pháp mà kiến lập nghóa danh tự chương cú, tức là thổi loa pháp. Đã được chân cảnh thì cần phải nói bàn giáo nghóa, giải thích tất cả pháp nên gọi là vì tất cả pháp mà kiến lập nghóa danh tự… Như thế tục làm các nhạc khúc ở khắp các vị là thổi loa pháp lớn - gầm thét là nay đã được giai vị quả sự tròn đầy vì người khác chứng pháp cũng giống như thế. Tức kinh Niết-bàn chép: thổi loa kèn biết lúc kiến lập nghóa danh tự chương cú, là khiến nhập vào không thể nói chứng. Cho nên nghóa chuyển pháp là khiến giảng nói pháp thí - nói giáo là khiến người đáng độ nhập chứng, cho nên cầu quay bánh xe pháp, cán dẹp phiền não. Cho nên tán dương rồi thì nói ở bốn cặp: Một là cặp phá ác tiến thiện tức là hai pháp đầu; hai là cặp khai quyền hiển thật, tức là pháp thứ hai; ba là cặp Đắc trí chứng chân, tức là pháp thứ hai; bốn là cặp thuyết pháp lợi sinh, tức là hai pháp sau. Nghóa của tám câu có sự tuần hoàn này tên là pháp luân, tự đã được quả mà muốn giúp chúng sinh chứng được chân trí của bậc Thánh, phá diệt phiền não nên gọi là chuyển. Song đây giải thích nghóa của tám tướng là nương vào sự hóa độ của Mâu-ni đã qua để nêu các Bồ-tát sẽ hiện tướng chưa hẳn đều có trí, nên xét. Thường dùng pháp âm giác ngộ các thế gian, đây là sau lược kết về miệng hóa độ. Ánh sáng chiếu khắp… cho đến rung chuyển bằng sáu cách, đây là phần thứ hai nói về thân ngữ rộng lợi ích. Có bốn: Một là hàng phục ma khiến lìa tà; hai là phá tà để mở chánh; ba là nhận cúng dường để sinh phước; bốn là nói pháp khiến tu đạo. Phần một lại có hai: Một là nêu chung về hàng phục Ma. Nhiếp chung cõi ma… cho đến đều quy phục, đây là sau giải thích riêng hàng phục ma; hai là do phát ra ánh sáng nên gồm nhiếp cõi ma mà đều quy phục. Do chấn động nên rung chuyển cả cung điện ma đều sợ sệt. Xé rách lưới tà, tiêu diệt các kiến, là phần thứ hai nói phá tà mở chánh. Có bốn: Một là nói phá tà, lại có hai: Một là trừ kiến tà phẩm, lưới tà tức là tà pháp. Các kiến tức là tà chấp. Tà kiến sẽ nương tà pháp mà khởi lên cho nên đều phá. Quạch cũng là xé. Chân nhảy miệng xé, cũng là bẻ gãy. Lăng cũng là phá. Xua tan các trần lao, phá tan các hầm dục, đây là dứt trừ sự tà vạy của ái. Trần lao tức là năm cảnh dục quấy phá rối loạn chúng sinh nên nói trần lao. Nói không để tiến lên nên nói là tan. Hầm dục tức là tâm ái dục nương vào cảnh ái mà khởi cảnh cấu, pháp chúng sinh nên nói trần lao, tham rất sâu khó vượt qua nên nói hầm. Cho nên quán cảnh không ái dục mới thôi. Đây cũng gọi là phá hoại. Giữ nghiêm thành pháp, mở rộng pháp môn, đây là phần thứ hai nói về mở chánh. Có thuyết nói pháp có công năng ngăn ngừa nên gọi là thành pháp, có nghóa thông thường ra vào nên gọi môn (cửa) là không đúng. Các pháp nếu là một thì có lỗi nói quá, nên nay thành pháp tức là quả của trí đoạn. Pháp môn tức là nhân quả Định tuệ, vì sát tặc nên gọi là thành, vì nó có công năng nạp đức nên gọi là cửa (môn), khen điều lành nên gọi là nghiêm, dứt chê bai nên gọi là Hộ (giữ gìn). Vì giảng nói nên gọi là mở, khiến tiến lên nên là xiển, rửa sạch nhơ bẩn, đây là phần thứ ba kết phá tà. Nhơ bẩn là chỉ chung chi kiến ái. Từ giáo để phá trừ nên gọi là rửa, quán là tắm gội. Hiển bày trong sáng cho đến tuyên lưu chánh hóa, là phần thứ tư kết thúc mở chánh. Trừ tà hiển chánh nên nói là hiển sáng. Vượt các chê bai nên gọi là trong sáng, tức là giữ nghiêm thành pháp. Quang là rộng, là dung thông, là rộng thông, vì là Thánh hạnh nên gọi là quang, chứa đựng Phật pháp dẫn dắt hóa độ không dứt nên nói tuyên lưu pháp hóa, tức là mở mang pháp môn. Tóm lại, giữ nghiêm thành pháp nên hiển sáng, giữ thành pháp nên thanh bạch, mở pháp môn nên là tuyên lưu. Vào thành khất thực cho đến thị hiện ruộng phước, đây là phần thứ ba nói nhận cúng dường sinh phước. Tiếng Phạm là Tân-trà-ba-đà, Hán dịch là khất thực. Ở đây nói phân-vệ là sai, Phân-vệ là nhiều thức ăn ngon, tức nhận cúng dường. Chứa đức biểu thị cho ruộng tức là sinh phước. Trữ là chứa. Chứa đức đã rộng, hiện đời nhận cúng dường để sinh phước lợi, có thể dụ cho ruộng. Khi muốn nói pháp thì thị hiện mỉm cười, đây là phần thứ tư nói pháp khiến tu đạo, có hai: Một là nêu tướng sắp nói nghóa giống với văn dưới. Dùng các thuốc pháp cứu lành ba khổ, sau phần này là chính thức nói giáo. Có hai: Một là cứu khổ; hai là giáo nhập Đạo. Ba khổ là khổ khổ, hoại khổ, hành khổ theo thứ lớp mà thọ nhận ba thứ. Giáo có công dụng trừ khổ nên nói thuốc pháp, đúng giáo mà làm sẽ vượt qua hai thứ chết nên nói là liệu.  KINH VÔ LƯỢNG THỌ LIÊN NGHÓA THUẬT VĂN TÁN <卷>QUYỂN TRUNG Hiển hiện Đạo ý vô lượng công đức, đây là phần thứ hai nói về giáo nhập Đạo. Có hai: Một là giáo tu nhân, hiển ý Bồ-tát, phát tâm Bồ-đề, khiến được phát tâm, công đức khó lường khiến tu hành. Thọ ký Bồ tát thành Đẳng Chánh Giác; hai là nói giáo được quả. Thọ ký Bồ-tát, tức luận chép: khiến được tâm quyết định. Ký là biết, là riêng. Thọ là trao cho, bậc Thánh nói ngay quả khiến biết lợi ích của nhân, nên nói là thọ ký - thành Đẳng giác là quả được thọ ký. Thị hiện diệt độ cho đến gieo trồng các gốc đức, đây là phần thứ chín, nói quy chân lợi vật. Như Nhiếp luận nói hóa thân diệt độ có sáu ý: Một là sự rốt ráo; hai là trừ ưa thích đảo điên; ba là giúp cho bỏ khinh mạn; bốn là làm sinh khát ngưỡng; năm là khiến thân tinh tấn; sáu là muốn mau thành tựu. Ở đây nói diệt độ ý cũng ở đấy. Cứu giúp vô cực tức là lợi ích rộng lớn, trừ lậu gieo trồng gốc đức tức là lợi đầy đủ. Lậu là ba lậu, là nghóa rỉ chảy, tức là nhân sinh tử. Đức là phước trí thấm nhuần, ích là công, tức là nhân Niết-bàn, gốc cũng là nhân. Vì Phật thị hiện diệt độ thì chúng sinh chán sợ là nhân sinh tử, ưa vắng lặng để tu nhân Niết-bàn. Nên gọi là lợi đầy đủ. Đầy đủ công đức cho đến hiện khắp Đạo giáo, là phần thứ ba, kết cả hai. Đủ đức khó lường là kết về thật đức. Đi khắp nước hiển bày giáo là kết về quyền đức. Tu hành thanh tịnh không nhơ bẩn, là phần thứ hai, là khen về hai lợi, có hai: Một là khen lược; hai là khen rộng. Phần một lại có hai: Một là khen riêng. Lại có bốn: Một là khen tự hạnh thanh tịnh, thí như nhà ảo thuật cho đến tại ý mà làm. Là phần thứ hai, khen hóa độ khéo léo. Có hai: Một là dụ. Bồ-tát hiển hóa khéo léo thuận theo chúng sinh nên nói hóa tướng do nhà ảo thuật làm ra. Như hiển bày các hình tượng là đức khởi hóa, như vốn học pháp minh hóa, lấy học tập làm gốc nên gọi là vốn học, học tốt nguồn gốc lành nên nói là học rõ suốt, học xong thì khởi hóa độ mặc tình nên nói làm tại ý. Pháp sư Viễn chép: Học thành thì khởi dụng, thành ở tâm nên nói tại ý. Mặc ý hóa độ nên nói những việc đã làm, ở đây e không đúng. Vì học chưa thành cũng ở tâm, cho nên nay không còn. Các Bồ-tát này cho đến thảy đều hiện khắp, là sau hợp dụ. Các Bồ-tát tức họp với nhà ảo thuật. Tu học tất cả pháp hóa độ chúng sinh nên nói học tất cả pháp tức họp với bổn học, là thông suốt, là tổng tập, là giải thích, là đào luyện, tức thông suốt các sách, tập luyện bao gồm các lý sự thuyên biểu, huyền chỉ, đào luyện các nghi, nên nói là quán thông suốt rành rẽ tất cả tức hợp với minh liễu. Cảnh của Trí bi là chỗ thi thố quyền thuật nên nói sở trụ, giải an tâm cảnh không lầm lẫn quên mất, nên nói an chắc. Tức là hợp với ý. Mî là không, là vận dụng hết mức. Đối với các sở cảm đều vận hóa. Nên nói là đều trí hóa (hóa độ hết mức) tức cảm trí, khiến tất cả chúng sinh đều được cảm hóa. Cho nên kinh vốn nói đều cảm hóa, nghóa ấy không trái, tức hợp với điều phải làm. Vật đã là muôn phẩm thì vô tướng không hiện. Cho nên vô số cõi Phật đều hiện khắp tức là hợp với hiện các hình tượng lạ. Không hề khinh mạn, dễ duôi là phần thứ ba kết thúc tự hạnh thanh tịnh đối với sự tu hành sinh tâm cung kính nên không khinh mạn, cũng không xen hở nên không dễ duôi. Thương xót chúng sinh, là phần thứ tư kết thác hóa độ khéo léo. Mẫn là thương xót, thương là buồn bã, tức thương xót chúng sinh không thân tướng nào chẳng hiện. Các pháp như thế đều đầy đủ, đây là kết chung. Kinh điển Bồ-tát cho đến Đạo ngự mười phương, là phần thứ hai, khen rộng có bốn: Một là y pháp Bồ-tát mà tu hành tự phần; hai là y pháp Như lai mà tu hạnh thắng gần; ba là tự phần thành đức; bốn là thắng tiến thành đức - đây là phần một: Điển là thường nghiên cứu rốt ráo, giảng nói là thông suốt về đạo yếu yếu, pháp diệu diệu. Đối với pháp tự phần nghiên cứu rốt ráo yếu đạo và giảng bày diệu chỉ. Cho nên nói nghiên cứu chỗ yếu diệu, tức là tự lợi. Đức khác nhau thường ở trong lòng ảnh hưởng tốt ra ngoài, không vật nào chẳng khen. Cho nên nói dẫn dắt cùng khắp, tức là lợi tha. Vô lượng các Đức Phật cho đến đều đã lập, tức là phần thứ hai, tu hạnh thắng phần - có hai: Một là Tu nội đức, đi vào cảnh Phật nên cùng hộ niệm. Niệm lành khiến thêm lớn, điều ác khiến tiêu diệt. Nên nói chỗ trụ tức là pháp giới chân thật. Nhiếp luận nói là mười pháp giới. Chỗ an lập tức là năng lực thần thông - kinh Niết-bàn nói có khả năng lập nghóa lớn. Đây e không đúng, có khả năng lập nghóa lớn, đã là nghóa Đại Niết-bàn làm lợi chúng sinh thì không phải tự lợi, cho nên nói chỗ trụ tức không, vô tướng. Lý được lập là mười hai phần giáo. Đây cũng không đúng, việc thế tục phải như thắng nghóa, cũng là chỗ Phật trụ, nên nói chỗ trụ tức chứng hạnh, chỗ lập tức giáo hạnh, các độ giáo hạnh pháp giới là do Phật lập ra. Đây cũng không đúng. Pháp Hoa nói Phật tự trụ vào nghóa Đại thừa. Đại thừa là chung cho các độ giáo, lý, hạnh, quả. Đã thực hành thì không phải chỗ lập. Nay tức chỗ Phật an trụ tức là ý chỉ của hai đế mà Bồ-tát đã toại, Phật đã ngộ, nên nói đã được trụ vào. Chỗ Đại thánh lập tức là sự giải thích ba tạng, đại só cũng thông suốt ý thú của sự giải thích này, nên nói đều đã lập. Phật và các Đại thánh nói khác mà thể đồng. Như lai hóa đạo cho đến khai đạo mọi người, là khen ngoại hóa có hai: Một là tướng hóa đạo, Bồ-tát làm ảnh hưởng rộng khắp giúp mở mang Phật sự cho nên Đạo hóa thường giảng nói, tức là nói pháp giống như Phật. Thị hiện làm Phật hóa, tức Bồ-tát làm thầy giáo hóa chúng sinh như Phật. Thiền tuệ sâu tức hóa hạnh đồng với Phật. Thiền chỉ và tuệ quán, hạnh tuy có nhiều nhưng cốt yếu là ở hai thứ này. Khai đạo mọi người tức là lợi ích chúng sanh đồng như Phật. Khai là khiến mới học, Đạo là khiến cuối cùng thuần thục. Chung cho các pháp tánh cho đến hiểu rõ các cõi nước, đây là nói hóa đức. Có thuyết nói chung cho các pháp tánh là chung cho pháp lý không, thấu đạt tướng chúng sinh. Thấu suốt người không mà sinh chân. Hiểu rõ các cõi nước là thấu suốt khí giới không. Lìa người không, pháp không thì chẳng có không nào khác. Nếu có khác thì cũng là lìa hai trí nên có trí riêng khác. Có thuyết nói chung cho các pháp tánh là trí Chánh giác, hạnh tự tại thông suốt hai đế pháp tánh. Cho nên thấu đạt tướng chúng sinh là chúng sinh thế gian tự tại thực hành các thể trạng của chúng sinh, thảy đều thấu suốt. Cho nên hiểu rõ các cõi nước là hạnh tự tại của khí thế gian. Trước nói thông, kế nói suốt, sau nói minh, nói chung quanh. Đây cũng không đúng. Chúng sinh ngoại khí không phải thế tục. Nếu thế tục thì chung có cả hai Đế rồi lại không biết gì. Nay thông pháp tánh tức là hạnh pháp giới vô lượng, chỗ điều phục thế giới vô lượng, không thuộc về vô chủng tánh, cho nên lược qua không nói. Điều phục phương tiện vô lượng tức là sự khéo léo ở trước, nên cũng không nói. Cúng dường các Đức Phật cho đến pháp huyễn hóa, là trình bày rằng tự phần thành đức thứ ba gồm có bốn: Một là Tu phương tiện; hai là Tu thành đức; ba là lại luận về khởi tu; bốn là lại bày thành đức. Phần một lại có bốn: Một là tự lợi tu - cúng dường các Đức Phật, huyễn hóa như điện chớp, tức là phước hạnh. Khéo học vô úy, hiểu rõ huyễn hóa tức là trí hạnh. Có thuyết nói muốn cúng dường các Đức Phật hóa hiện thân ấy, một niệm đến khắp, như ánh điện chớp, bỏ tà theo chánh cho nên nói khéo học, đạt chánh vượt tà cho nên nói là vô úy. Gồm nhiếp các pháp nên nói là dưới, tức là trí phương tiện. Cũng thấy các pháp chẳng nhất định có không, tánh nó như huyễn nên nói là hiểu rõ huyễn hóa, tức là trí thành tựu. Lại đối với người (nhân) không sợ, học vô úy đối với pháp hay biết nên hiểu là huyễn hóa. Có thuyết chép: Các pháp tuy chẳng phải không mà cũng chẳng phải có, nên không thấy một pháp nào đáng sợ, nhiếp hóa chúng sinh không bỏ nên nói học vô úy. Lưới tuy chẳng phải có cũng chẳng phải không, mà lìa có lìa không cho nên nói là huyễn hóa. Có thuyết chép: Như Quán Thế Âm dùng pháp vô úy thí mà nhiếp rộng chúng sinh, nên nói lưới vô úy, ba thứ đều không đúng. Bởi nếu khéo học mà phương tiện chưa thấu suốt tà chánh thì chẳng phải là vô úy. Cho nên các pháp chẳng phải có mà chẳng thấy đáng sợ, cũng chẳng phải không mà thấy đáng sợ. Như thứ lớp thì nay tức hóa hiện, cúng Phật tuy cùng khắp mà chẳng trụ, cho nên như điện chớp. Học lưới vô úy tức là trí thấu suốt lời lẽ, hiểu pháp huyễn hóa tức là trí ngộ ý chỉ. Lưới là giáo - Phật có đủ bốn vô úy nên nói vô úy. Hoặc lý hoặc sự đều như huyễn, nên nói là huyễn hóa. Bồ-tát đối với ý Phật dạy, thấu suốt các pháp, lời lẽ tự tánh chẳng thật có, nên nói là khéo học hiểu. Xé rách lưới ma, mở các trói buộc, là phần thứ hai, nói về tu lợi tha. Lưới ma tức là giáo của ma trời. Trói buộc tức là tám triền, ba phược. Có thuyết chép: Mười triền, bốn phược. Ở Tiểu thừa có nghóa này, nhưng Đại thừa không có. Tức phá lưới ma, khiến cho lìa nghiệp ác. Mở trói buộc, giúp dứt bỏ phiền não. Vượt hơn Thinh văn cho đến Tam-muội Vô nguyện, là phần thứ ba lại nói về tự lợi. Vượt địa Nhị thừa, tức là đối với các thừa khác mà nói lên sự cao quý. Được “Không, vô tướng, vô nguyện” tức là nói thẳng hạnh cao quý. Mới phát Đại tâm còn hơn Nhị thừa huống là thực hành đã lâu, nên nói vượt hơn. Muốn vào Đại Niết-bàn phải dùng ba thứ Tam-muội làm cửa nên nói khắp ba thứ này. Như Luận Du-già chép: Pháp ta vì chẳng phải có, vì chẳng phải không, vì không tướng, vô tướng nên chẳng thể nguyện cầu mà có. Có chỗ nói không, vô nguyện, vô tướng không trái với hạnh Nhị thừa. Có thuyết chép: Trước là giáo hạnh, đây là chứng hạnh, nên có chỗ khác nhau, là không phải vậy. Bởi học lưới vô úy tuy có thể giáo hạnh mà hiểu là huyễn hóa nên nói là chứng. Nay tức trước là Đạo Bồ- đề, sau là cửa Niết-bàn, nên phải giải thích lại. Khéo lập phương tiện cho đến thị hiện diệt độ, là phần thứ tư, lại nói về lợi tha. Phương tiện tuy nhiều nhưng ở đây phương tiện gọi là Xảo quyền. Có thuyết nói là thiện phương tiện, tức có ý phương tiện thì hiện ba thừa mà diệt độ, tức là khẩu phương tiện khéo lập ba thừa tùy tiện độ chúng sinh, nên gọi là thiện phương tiện. Nói ba thừa là nhân, diệt độ là quả, hiển bày diệt độ, nên đây là không đúng. Ở hạ thừa, Trung thừa mà hiện diệt độ, thì tướng ứng hóa ắt chẳng thể nói có quả Nhị thừa. Nếu chẳng thế thì sao nói thị hiện diệt độ mà chẳng nói năng? Có thuyết chép: Khéo lập phương tiện là khẩu phương tiện chỉ bày Trung thừa, hạ thừa mà hiện Trung hạ diệt, đều là thân phương tiện. Điều này cũng không đúng, thị hiện ba thừa nghóa đã đủ, cũng nói là hiện diệt độ thì lẽ ra vô dụng, cho nên không đúng, vì sao không thuộc ba thừa mà nói là Trung hạ ư? Cho nên nay, khéo lập phương tiện tức là ý phương tiện, thuận theo các Đức Phật tìm ba thừa mà hóa độ, nên hiển bày ba thừa tức là khẩu phương tiện, phân biệt Vương xá thừa mà nói ba thừa. ba thừa cũng tức là phương tiện của Phật. Cho nên Trung thừa hạ thừa diệt độ tức là thân phương tiện. Duyên giác là Trung thừa, Thinh văn là Hạ thừa, tức đồng với kinh Pháp Hoa nói nghóa không hai: Ba. Bồ-tát muốn dắt dẫn Nhị thừa bất định là khiến đến Phật thừa, nên ở Niết-bàn kia mà thị hiện diệt độ, tức là đồng với Nhiếp luận nói biến hóa. Nên nói ý kinh Phật Địa nói trí thành Sở tác khởi ba thừa hóa thành bốn ký luận, tức là ở đây. Cũng không có việc làm ra cho đến được pháp Bồ-đề, là phần thứ hai, nói tu thành đức. Có hai: Một là đức tự lợi; hai là đức lợi tha. Phần một lại có bốn: Một là chỗ được bình đẳng. Có thuyết chép: Ba thừa tánh không, nên chẳng có việc làm ra, chẳng thấy quả chứng riêng ba thừa cho nên chẳng thật có. Đạt được vô tánh chân để hiểu rõ các pháp không sinh diệt, nên chẳng sinh chẳng diệt là không đúng. Vì quyết định Nhị thừa đã vào vô dư, nên chẳng thể nói nhất định là không chứng riêng. Lại hiển bày ba thừa cho nên đều là việc làm ra hiện diệt độ cho nên đều là thật có. Có thuyết chép: không nhân việc làm ra nên không có việc làm ra, chẳng quả để có nên không thật có, chẳng tịnh để khởi nên không nhiễm nào để diệt, cho nên nói bình đẳng. Đây cũng chẳng phải vì có công năng nên đều có việc làm ra, quả nhờ duyên mà có nên chẳng phải không thật có. Nay tức không làm, không có tức là sự bình đẳng. Chẳng sinh chẳng diệt là lý bình đẳng. Không thật có tác dụng nên không làm, không có khả năng tự sinh nên chẳng có. Tịnh pháp tuy thêm nhưng thật chẳng thêm theo. Cho nên nói không sinh pháp nhiễm, tuy diệt mà như chẳng diệt theo nên nói là không diệt. Các pháp nhất tướng gọi là vô tướng nên nói là bình đẳng. Do đó chứng hội cũng gọi là được. Đầy đủ thành tựu cho đến các căn trí tuệ, đây là phần thứ hai nói về sự thành tựu rất nhiều. Có thuyết chép: tập luyện gọi là Tam-muội, thành tựu gọi là tổng trì, là không đúng. Phật địa mà không có Tam- muội thì trái với các giáo. Nên nay ngay nơi Tổng trì, tuy có mặt cả định, tuệ nhưng Chánh là tuệ tánh, cho nên trăm ngàn Tam-muội tức chỗ nương của tổng trì, như trong Địa kinh có nói rộng: Các căn chung cho tất cả pháp lành, tức nói tinh tấn niệm Định là không đúng. Hễ nói pháp lành đều chung cho cả các pháp hữu vi. Điều lành trong hữu vi tuy có gọi là căn, còn vô vi thì không đúng. Lại tín, tinh tấn v.v… gọi là các căn thì không nên nói trí tuệ riêng. Đã nói tam muội tức chỉ riêng cho định, do đâu cũng nói là Định căn. Cho nên nay các căn là sáu căn thanh tịnh. Các Bồ-tát này ở ngôi Thập địa đã được tự tại, sáu căn dùng chung cho nhau. Tổng trì tuy là tuệ, nhưng tuệ chưa hẳn là trì cho nên dẫn dắt các hạnh, nên phải phân biệt nói. Tịch Định rộng khắp cho đến kho pháp Bồ-tát là phần thứ ba, nói chỗ chứng rất rộng. Kho tức là mười muôn pháp uẩn, phân biệt kho của Nhị thừa nên nói là Bồ-tát, là chỗ chứng sâu. Có thuyết chép: Khắp Định thì có khả năng chứng rộng, đối với tất cả pháp chẳng khởi vọng tưởng, cho nên kho là chỗ chứng sâu, ở kho chân pháp mà có khả năng đi sâu vào. Nếu thế tức trái với danh nghóa sâu rộng của chỗ chứng. Được Tam-muội Hoa Nghiêm của Phật, đây là phần thứ tư chỗ lạ lùng cao siêu được thành. Công đức của Phật địa làm nghiêm thân Phật, cho nên nói Phật Hoa Nghiêm. Nhập tam muội này thì hiện thấy Phật các phương và các cõi Phật. Cũng nói là được, tức kinh Hoa Nghiêm chép: một Tam-muội đó bao trùm pháp giới, tất cả Phật pháp đều ở trong đó. Tuyên dương giảng nói tất cả kinh điển, đây là phần thứ ba nói về đức lợi tha. Phật hiển bày sự hóa độ, nên nói là tuyên dương, tức phân biệt với Như lai, Như lai tự giảng nói. Trụ định môn sâu cho đến đều cùng khắp, là phần thứ ba lại nói về khởi tu. Có hai: Một là khởi tu tự lợi. Có thuyết chép: Định sâu là khởi chung lý Định được nương. Có thuyết chép: Một niệm cùng khắp, là nhập định quán chúng sinh hai thứ đều, là không đúng. Vì đã chung thì sự là chỗ nương của Định, mà không phải là lý Định. Cho nên quán vô lượng Phật không phải là một niệm như thứ lớp. Nay tức chung là chỗ nương của Định mà không cảnh nào chẳng quán, nên nói là Định sâu. Thấy các Đức Phật tức là Thiên nhãn thông, một niệm khắp tức là thần cảnh thông, nương vào Định sâu này mà phát ra thiên nhãn, có công năng thấy các Đức Phật. Nhiếp hạnh cũng rộng khởi thần thông, một niệm đến khắp là chỗ thấy cõi Phật, nhiếp phước sinh trí, cho nên khởi hạnh nhanh chóng. Cứu các nạn dữ cho đến khai hóa tất cả, là nói khởi tu lợi tha. Có thuyết chép: Nhị thừa đối với việc cứu độ chúng sinh thì nhàn, còn Bồ- tát thì vô nhàn. Phàm phu đối với tu thì nhàn, Bồ-tát thì không nhàn. Nhị thừa và phàm phu đối Vô thượng Đạo thì nhàn, Bồ-tát thì không nhàn. Ở đây đều không đúng. Nếu có nói thì là nói biếng lười hay tinh tấn. Còn nhàn là chỗ nhàn, chỗ yên vắng, không phải biếng lười. Có thuyết chép: nạn dữ có tám, đường ác có ba: Tức ba đường ác. Nhân gian có bốn: Một là mù điếc câm ngọng; hai là thế trí biện thông; ba là sinh trước Phật sau Phật; bốn là Châu Câu-lô ở phía Bắc. Trên trời có một tức là trời Vô Tưởng, nên trong tám nạn thì ba đường là dữ nhất. Bồ-tát cứu khổ trời, người nhẹ hơn nên nói các nhàn Bồ-tát, siêng hóa độ nên nói không nhàn. Đây cũng chẳng phải, trên trời có một tức trái với các kinh khác nói trời Phi tưởng là nạn thứ tám. Lại nạn trời, người nói các nhàn là có các trời, người không có nạn cũng không được Bồ-tát hóa độ. Có thuyết chép: Nạn dữ tức là tám nạn. Trong đó A-tỳ chịu khổ Vô gián (không ngưng nghỉ) nên nói không nhàn, trừ bảy thứ kia gọi là nhàn. Bồ-tát có khả năng cứu giúp nên gọi là tế, đây cũng không đúng. Nên nói bảy thứ kia là bảy thứ nào? Nếu nói bảy nạn sau gọi là nhàn, thì bảy địa ngục đều nhàn vì nó thuộc nhàn. Nếu nói bảy địa ngục gọi là nhàn thì tám ngục lạnh cũng không phải hai thứ. Bồ-tát cứu giúp cũng không khắp. Nay ngay tám nạn gọi là nạn dữ thì gồm cả trời Phi tưởng, lại có hai chướng nghiệp, và hoặc thì gọi là chẳng nhàn. Nếu không phải tám nạn và không có hai chướng thì đều gọi là nhàn. Bồ-tát đại bi đều có khả năng cứu giúp trừ diệt nên cũng gọi là Tế. Chân thật tế là sở chứng, hai không chân như chẳng gì hơn nên nói là thật tế. Bồ-tát đại bi phân biệt lời lẽ mà khai thị ý chỉ, giúp được chứng nhập, nên nói phân biệt hiển bày. Biện tài trí là nói ra cho hiểu để được bốn trí vô ngại Như lai hiểu rõ các nghóa. Cho nên lời lẽ vào chúng tức là khởi nói để được hiểu. Tam-muội Ngữ ngôn khởi lên các thuyết. Nhập là hiểu. Biện tài đầy đủ ở trong thì khéo nói phát ra ngoài, không chúng sinh nào chẳng được hóa độ. Nên nói là khai hóa tất cả. Vượt hơn thế gian cho đến Đạo xuất thế, là phần thứ tư lại nói sự thành tựu. Có hai: Một là thành tự đức. Vượt hơn thế gian là nói đoạn đức thành, vượt qua hai thứ chết, nên đối với pháp mà nói là hơn thế gian. Gồm hiển bày nghóa giải thoát phiền não. Trụ đạo độ đời là nêu trí đức thành tựu cả hai trí. Tức Duy Thức nói trong dòng pháp chảy nhanh mặc tình chuyển vận. Đế là yên. Độ là vượt ra là tên khác của Đạo xuất thế. Đối với tất cả muôn vật cho đến là gánh nặng, là nói thành tựu hóa đức, do thành trí đoạn trùm khắp muôn vật, hoặc biến hoặc hóa đều mặc tình, nên gọi là tự tại. Thứ là các loại phàm thứ phẩm loại là tên gọi chung của chúng sinh. Cho nên có kinh vốn cho rằng chúng sinh ngày xưa không có gốc Đạo, hiện tại không có tin ưa không biết cảm thánh, cho nên nói không mời mà còn dắt dẫn, huống chi là có mời ư? Cho nên nói bạn không mời. Tức kinh nói chẳng đợi nghi giờ. Quần sinh, tức trong Kinh Thắng Man gọi bốn thứ chúng sinh, đó là không nghe, phi pháp và người cầu ba thừa. Có thuyết chép: Trong bốn thứ chúng sinh thì một là người phi pháp, không cảm thánh thiện nên nói không mời là không đúng. Sau ba thừa chưa hẳn đều có cảm điều lành thế gian của bậc Thánh. Cho nên kinh Hoa Nghiêm, Du-già đều có nói bốn thứ này, mà ba thứ sau thì chung có cả Định và Bất định. Một trong phần đầu là vô tánh hữu tình, cho nên trời, người có gốc lành đều thành tựu. Bồ-tát gánh vác bốn thứ chúng sinh này làm gánh nặng của mình mà thành tựu. Nên nói là gánh nặng, làm người bạn không mời, đều gồm bốn thứ chúng sinh. Thọ trì Như lai cho đến thường không để dứt, là phần thứ tư lại nói về tu thắng phần thành đức. Có hai: Một là nói về chỗ tu hành; hai là nêu thành đức. Trong một lại có hai: Một là tu Tự lợi. Có thuyết chép: Kho pháp sâu xa tức là kho Như lai, ám chướng đã dứt bỏ thì bày rõ tâm mình. Cho nên nói thọ trì các độ trong pháp giới, tức là chủng tính Phật, giữ gìn khiến lìa chướng mà khởi điều lành không xen hở mà gọi là thường không dứt. Đây e không đúng. Vì tánh Như lai tạng đã là chân thể thì không thể nói thọ trì kho pháp. Cho nên đã nói kho pháp thì cũng nói thọ trì, tức như giáo pháp không phải Phật tánh. Nay đã thọ trì Phật giáo khiến ở lâu trên đời, thuộc về có tánh, y vào đó mà gieo trồng điều lành thường không để dứt. Tức đồng thượng sinh nói rằng người khéo thọ trì chớ làm chết hạt giống Phật khởi đại bi cho đến thí cho mọi người, đây là nói tu lợi tha. Có ba: Một là pháp. Đại bi với chúng sinh tức là cứu khổ, giảng đại từ, trao pháp nhãn, tức là cho vui. Hành biện, tức là luận bàn ưa nói năng, dùng tâm từ Định mà nói pháp, nhẫn nhục giảng từ biện. Như lời nói mà thực hành thì chắc chắn vào Thánh địa, được pháp nhãn thanh tịnh, nên nói là trao pháp nhãn. Pháp nhãn tức là tuệ nhãn, là tên của thể. Bi Định nói pháp là để cứu khổ ba đường, nên nói là lấp ba đường. Đổ là lấp ngăn. Giảng từ biện mà giúp tu nghiệp trời, người, nên nói là mở cửa điều lành bố thí cho thì các lê thứ. Thờ cha chỉ có kính, đối với mẹ cũng thương, cho nên từ như kính cha, vui đáng tôn kính. Bi như thương mẹ, khổ đáng yêu, cho nên đối với các chúng sinh xem như thân mình. Sau đây là hợp dụ. Như mình là ý xem như con một của mình. Như Kinh Niết-bàn chép: Xem các chúng sinh như con một, từ bi thương xót như con của mình. Tất cả gốc lành cho đến chẳng thể suy nghó bàn luận, là phần thứ hai nói đức đã thành. Gốc lành tức là nhân của phước trí. Độ là đến. Hạnh phước trí đều đến Bồ-đề, Niết-bàn bờ kia, tức là nhân thành. Được công đức Phật tức là phước đức trang nghiêm trí tuệ thánh minh. Chẳng thể suy nghó bàn luận, tức là trí tuệ trang nghiêm quả đã thành. Như thế cho đến một lúc cùng đến nhóm họp. Đây là phần thứ tư: Tổng kết. Khi ấy, Đức Thế tôn cho đến dung nhan vòi vọi, đây là phần thứ hai nói kinh và nêu tựa. Các căn vui vẻ là tướng vui vẻ năm căn đều lộ vẻ vui mừng, để nói lên Tịnh độ vui sướng không xen hở. Sắc đẹp thanh tịnh là không có sắc buồn bã, lo âu để nói lên Tịnh độ không có các khổ. Vòi vọi tức là cao lớn. Dung nhan là danh từ gọi chung các sắc căn, lại nói lên cõi ấy có vui, không khổ. Tư là diệu, đẹp. Tức Bạch Diên và Chi Khiêm đều nói mặt có chín màu sáng biến thành trăm ngàn mầu sáng chói lòa rực rỡ. Có thuyết chép: Phật không có tâm bất định, đầy đủ các căn thân tướng tốt sao lại có lúc chẳng vui. Đây chỉ là muốn thêm việc để hỏi, do đó mà biểu thị cho pháp được nói, là không đúng. Vì Phật dầu không có buồn vui nhưng hiển hiện sự vui cười để dự bị các tướng tốt mà không phải thật vui. Nay Thế tôn hiển bày sự vui là Phật ấy đã thành hạnh đức đáng mừng, là chúng sinh sắp được lợi ích. Tôn giả A-nan quỳ xuống chắp tay, là thứ hai nói về hỏi đáp nói rộng có sáu: Một là hỏi Phật bày tướng vui; hai là xét câu hỏi; ba là nêu câu hỏi tự thỉnh; bốn là khen hỏi được chấp nhận; năm là A-nan muốn nghe; sáu là Như lai nói rộng. Lại phần một có hai: Một là bày nghi thưa hỏi Thánh chỉ tức là ý Như lai bày tướng kín đáo để thêm oai vệ. Nói thừa lệnh quỳ xuống, tức là nói hai gối sát đất. Mà bạch Phật rằng cho đến đẹp đẽ khác lạ như nay, là nói chánh hỏi ý bày tướng vui. Có ba: Một là bày chỗ thấy; hai là nói chỗ nghó; ba là nêu những việc phải làm. Vật ngoài soi vào gương gọi là ảnh, tức đồng ánh sáng của thân Phật phát ra, ánh sáng chiếu ra ngoài hiển bày ảnh rõ trong gương, ảnh bên trong cũng phát ra ánh sáng mà làm sáng rỡ mặt Phật. Nên nói trong ngoài đều phát ra ánh sáng, nêu lên chỗ thấy của mình không hề có là lạ lùng. Chiêm là thấy. Đúng thế Đại thánh cho đến pháp kỳ đặc, là phần thứ hai, nói những điều mình nghó - Pháp sư Viễn chép: Có năm ý nghó: Một là nêu chung, bốn điều sau là nêu riêng. Chỉ có bốn ý, tức bốn ý nghó đời sau, hiện đời không có, nên nói kỳ đặc. Đây e không đúng, khi Phật còn ở đời không phải năm ý nghó này là hết, huống chi là bốn ý nghó, cho nên không thể gồm mà nói bốn. Nếu nói kỳ đặc nên biết là câu gồm chung, Đức của Như lai cũng không chỉ riêng, nên không có nghó riêng. Tức nay A-nan nói lược năm ý nghó đều có mục tiêu, đây là ý nghó thứ nhất. Có thuyết chép: Duy là chỉ, nói điều mình chuyên nghó, là không đúng. Vì trái các điển chế ở đời, là nghi thức ứng đối. Nay “Đúng thế” tức là đối với bậc trên mà nói, là lời nói rộng. Hôm nay là lời phân biệt với xưa, y thần thông mà hiện tướng, chẳng phải chỉ lạ thường mà cùng có ý là không ai bằng, nên nói là kỳ đặc, tức là lý do lập ra tên gọi Thế tôn (bậc cao quý nhất trên đời). Hôm nay Đấng Thế Hùng trụ vào chỗ các Đức Phật đã trụ, đây là ý nghó thứ hai. Có thuyết chép: chỗ trụ là Đại Niết-bàn, các Đức Phật cùng trụ ở đấy. Vì Phật ở thế gian là bậc hùng mạnh nhất, nên nói Thế hùng, là không phải vì Phật thường trụ ở Niết-bàn, không phải nay mới trụ. Nay tức là Như lai trụ vào Tam-muội bình đẳng của các Đức Phật, có khả năng chế phục các ma trời hùng mạnh. Trụ chỗ Phật trụ là nhân của tên gọi Thế Hùng. Hôm nay Đấng Thế Nhãn an trụ trong hạnh Đạo sư, là nói ý nghó thứ ba. Có thuyết chép: bốn pháp nhiếp là hạnh Đạo sư nhiếp hóa của Phật. Phật trụ vào hạnh này nên có khả năng mở mắt cho đời, giúp họ thấy đường chánh, nên gọi là Đấng Thế Nhãn. Đây cũng không đúng. Hạnh bốn nhiếp tuy là hóa độ chúng sinh nhưng không phải nghóa nhãn. Nay tức năm nhãn gọi là hạnh Đạo sư, Phật trụ vào năm nhãn mà dẫn dắt chúng sinh không để có lỗi. Cho nên dùng hạnh Đạo sư để giải thích nghóa Thế Nhãn. Hôm nay, Đấng Thế Anh trụ vào Đạo trên hết. Đây là ý nghó thứ năm. Thiên Tôn tức là Đệ nhất nghóa thiên, vì hiểu Phật tánh là nghóa bất không, tức chỉ Phật có pháp bất cộng gọi là Như lai đức, các bậc Thánh khác thì không. Lấy Đức Như lai mà giải thích danh từ Thiên tôn, tuy Pháp sư Viễn gọi là Đức mà giải thích riêng. Nay tức lấy đức mà giải thích tên. Xem văn kinh này thì thuận nêu nghóa giải thích. Tên gọi là Thế tôn, Thế Hùng… tức là chỗ trụ đặc biệt. Các Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cho đến nghó đến các Đức Phật ư? Đây là phần thứ ba nêu chỗ làm. Có hai: Một là nghó nhớ việc phải làm. Có thuyết chép: Phật khứ, lai, hiện là tướng Phật ba đời, niệm Phật là nhớ tướng Phật, là tướng Phật mười phương, là không phải vì lìa ba đời thì không có Phật mười phương. Cũng chẳng phải thế. Cho nên nay nêu tướng Phật ba đời, niệm loại này được không? Nay Như lai nghó nhớ các Đức Phật chăng. Chữ da (chăng) là lời bất định, lượng định Phật này nghó nhớ các Đức Phật mà chưa dám chắc chắn. Vì sao, vì oai thần ánh sáng như thế. Nên nói rằng đây là nêu những điều phải làm, quang quang là hình ảnh ánh sáng rực rỡ. Do đó Thế tôn cho đến hỏi oai nhan ư? Đây là phần thứ hai nói Phật xét lý do câu hỏi. A-nan bạch Phật cho đến hỏi nghóa này, là thứ phần ba nói A-nan hỏi lý do. Thật ra tuy nương oai lực của Như lai mà đối với các vị trời nên nói là tự hỏi. Phật nói lành thay cho đến câu hỏi rất đúng lúc, là phần thứ tư khen câu hỏi được chấp nhận. Có hai: Một là khen câu hỏi; hai là nêu Đức được chấp nhận. Phần một lại có ba: Một là khen chung. Câu hỏi của A-nan xứng cơ và pháp, hợp thời nghi nên nói rất đúng lúc. Phát trí tuệ sâu cho đến hỏi nghóa tuệ này, là nói kế hỏi khen riêng. Phát trí tuệ sâu là khen hỏi về trí, chân diệu biện tài là khen hỏi về lời. Thương nghó chúng sinh là khen hỏi về ý. Có thuyết chép: nghó nhớ năm đức của Phật nên phát trí tuệ sâu là khen Phật trụ ở năm Đức, nên nói là chân diệu biện tài. Đây e không đúng. Nghó năm Đức của Phật là nghóa năm trụ chẳng khác nhau. Niệm nếu không khen, nếu khen không niệm nghó thì đều không phải chánh lý. Cho nên nay nói đó là năm hiệu của Phật nên phát trí tuệ sâu, đem Đức năm trụ mà khen nghóa năm hiệu chân diệu biện tài, tuy hỏi năm đức, nhưng năm đức đều lấy trí làm chính nên nói là hỏi nghóa tuệ. Như lai dùng đại bi vô cái mà thương xót ba cõi, đây là khen riêng mà hỏi lợi. Có bốn: một là bày lòng từ bi thương xót của Phật. Có kinh nói vô tận đại bi. Có người giải thích đây là nương vào nội vô tận pháp mà sinh. Cho nên nay Đại bi của Phật không có ngăn che, gọi là vô tận hay vô cái, chính là không nên sửa đổi. Căng là thương. Do đó mà ra đời cho đến lợi ích chân thật. Đây là phần thứ hai nói Phật làm lợi ích chúng sinh. Mở lớn Đạo giáo muốn cứu độ chúng sinh mê mờ, là dùng giáo làm lợi ích chúng sinh. Quang là rộng, xiển là bày, tuệ là lợi ích chân thật, ngay nơi lý mà làm lợi ích chúng sinh. Tuệ là bố thí. Có sách khác nói giúp khắp chúng sinh được lợi chân pháp thì nghóa cũng không trái. Lý do Như lai ra đời là muốn đem giáo lý làm lợi ích chúng sinh. Vô lượng ức kiếp cho đến thường xuất hiện, là phần thứ ba nói Phật khó gặp. Ngài Bạch Diên và Chi Khiêm đều nói như thế gian có cây Ưu-đàm chỉ có hạt (trái) mà không có hoa. Khi trong thế gian có Phật ra đời thì cây ấy có hoa. Nay nói hoa Linh thoại là theo tên gọi của Trung. Thường là người ít có vì phải chọn thời lành mà xuất hiện. Nay hỏi cho đến các trời, người, đây là phần thứ tư chánh thức thưa hỏi ích lợi. Ngài Bạch Diên và Chi Khiêm đều chép: nếu hỏi về Phật thì hơn cúng dường cho một vị A-la-hán, Bích-Chi-phật, bố thí cho các trời, người đến loài nhuyến động trăm ngàn muôn ức lần. Này A-nan phải biết cho đến không thể cạn hết, là phần thứ hai, nêu đức được chấp nhận. Có hai: Một là nêu đức của Phật để nói về thành tựu; hai là chấp nhận để đáp câu hỏi. Phần một lại có hai: Một là nói về quả hơn; hai là dùng nhân mà nói hơn. Phần một lại có hai; một là nói A-nan nghó. Như lai Chánh giác tức là pháp đặc biệt mà trí khó lường biết, tức là Tam-muội bình đẳng phát ra trí thắng diệu. Đem trí khó lường mà nói chỗ Phật trụ có nhiều đạo ngự, tức là nói về hạnh Đạo sư. Có thuyết chép: Tuệ kiến vô ngại tức là đức của Như lai là không đúng. Vì vượt nói đức của Thiên tôn thì lại thành Đạo trên hết là không có lý do khác. Nên nay tuệ kiến vô ngại là nói Đạo trên hết. Không thể cạn hết tức là đức của Như lai hết, đức của Phật đã thắng diệu không bị các thánh khác bức ép cho cạn, nên nói không cạn hết. Dùng năng lực một bữa ăn cho đến dung nhan không khác. Đây là nói A-nan thấy, năng lực một bữa ăn tức là nhờ nhân thí thực mà được sống lâu, cho đến lại còn hơn đây là khen tuổi thọ, các căn vui vẻ cho đến dung nhan chẳng khác là chánh nêu những điều thấy được. Các căn vui vẻ là trước thấy không có. Bị hủy tổn là nói về nghóa vui vẻ. Sắc đẹp không đổi là sắc đẹp thanh tịnh. Thanh tịnh nghóa là không đổi. Dung nhan chẳng khác tức là dung nhan trước vòi vọi. Vòi vọi tức là nghóa chẳng khác. Thí thực tuy có năm quả báo, nhưng chỉ nói về mạng sắc thì sắc là sự hiện bày ra, mạng là chỗ nương. Có thuyết chép: chẳng bị hủy tổn, chẳng thay đổi, không khác, đều nói về thường, nhưng không đúng. Nếu thường thì A-nan không nói không hề thấy nhiệm mầu như hôm nay. Vì sao cho đến mà được tự tại, là phần thứ hai, dùng nhân mà hiển bày sự cao quý. Định là chỉ, tuệ là quán. Nghiên cứu tức là thông thương rốt ráo, vô cực tức rộng xa không bờ bến. Do đó, Như lai năm đức về tuệ, ba tướng về thân, tức là tuệ rốt ráo, là được chỗ nghỉ năm đức chắc chắn rốt ráo, nên được hiện ra ba tướng, nhân tuy nhiều, nhưng hai hạnh chỉ quán là đường Tịnh độ, cho nên muôn hạnh nương vào dắt dẫn các hạnh, nên nói hai hạnh này dư là gồm hai nhân đã đủ thì không có đức nào chẳng tròn, cho nên đối với các quả pháp được tự tại. Tức là ngài An Tuệ nói chứng được tất cả pháp tự tại. Có thuyết chép: Định tuệ rốt ráo vô cực tức tâm tự tại, thực hành được các pháp tự tại, tức tự tại làm lành mà vào tất cả pháp giới môn, chẳng thứ nào chẳng hiện, là không đúng. Vì đối với tất cả pháp mà được tự tại. Nếu không phải quả thì sẽ không có tự tại, nên trước giải thích là lành. Này A-nan hãy lắng nghe, nay ta sẽ nói cho ông, là phần thứ hai, chấp nhận để đáp câu hỏi, lắng nghe tức là bảo hậu tâm, vì nói tức nhận lời thưa hỏi trước. Thưa rằng, đúng thế con rất muốn nghe, tức phần thứ năm, A-nan muốn nghe. Phật bảo A-nan cho đến vô lượng số kiếp, là phần thứ sáu, Như lai nói rộng. Có hai: Một là nói rộng: Nhân quả Tịnh độ của Như lai, tức những việc làm vè sự thành tựu. Sau rộng bày nhân quả vãng sinh của chúng sinh, tức thuộc về những điều lợi ích. Phần một lại có hai: Một là nói Nhân sinh về Tịnh độ; hai là nói quả ở cõi Phật. Phần một lại có hai: Một là nêu chung duyên tốt; hai là nói riêng về hạnh tốt. Phần một lại có hai: Một là nêu duyên xa; hai là nêu duyên gần. Phần một lại có ba: Một là nêu thời gian. Có thuyết chép: không thể đếm gọi là kiếp. Về số pháp ở Tây Vực đến sáu mươi chuyển thì không thể đếm được nữa, là không đúng. Tuy có thể đếm cũng gọi là kiếp, cho nên cũng trái, Hoa Nghiêm nói có một trăm hai mươi chuyển, cho nên ở đây nói Kiếp là tên chung của thời gian. Tiếng phạm là A-tăng-kỳ, Hán dịch là vô ương số, Vương Dật cho rằng ương là cùng tận. Định quang Như lai cho đến kế gọi là ở đời, đây là kế nói về Phật. Kinh của Bạch Diên nêu lược có ba mươi sáu Phật, phần nhiều dùng tên gọi Trung quốc. Phật thứ ba mươi hai là tên Ấn-độ. Kinh của Chi Khiêm chỉ nêu ba mươi hai Phật đều dùng âm Phạm. Nay quyển này ngài Pháp Hộ nêu đủ năm mươi ba Đức Phật. Vì người dịch muốn nêu nhiều ít, không nên lấy làm lạ. Đinh quang thì ngài Chi Khiêm nói là Đề-Hòa- Kiệt-la. Có thuyết chép: Không có bộ túc đọc là Định, có bộ Túc đọc là Đăng. Định Quang và Nhiên Đăng là một. Thích-ca được đạo cho nên đứng đầu, từ trước đã có lời này. Nếu thế Thích-ca được thọ ký trước mà sao lại thành Phật sau Di-đà, nếu chẳng phải sau thì Di-đà thành Phật mười tiểu kiếp rồi mới nêu ý mình mà gọi tên, tuy đồng Phật mà khác, cả hai đều bất tận, nếu cho là môït vị thì Nhiên Đăng ra đời vào kiếp thứ hai, mãn rồi thì không thể gặp Di-đà đã thành Phật hơn mười kiếp. Nếu khác thì cũng trái với các Đức Phật ra đời trước mà đồng tên. Cho nên nay Định Quang và Nhiên Đăng thì vừa đồng mà vừa khác, tức Định quang tuy là Nhiên Đăng, nhưng không phải là Phật Nhiên Đăng đã thọ ký cho Đức Thích-ca. Bởi trước Đức Thích-ca cũng có Phật Nhiên Đăng có thể đó là Phật Định Quang, chẳng gì khó nói. Nếu đó không phải là vị Phật đã thọ ký cho Đức Thích-ca được đạo thì vì sao Phật Định Quang xưa kia mà không phải Phật khác? Từ đức Phật ấy đến nay đã có năm mươi bốn Đức Phật ra đời. Nên nói từ Phật Đinh Quang đến nay dần dần có nhiếp thọ hạnh Tịnh độ. Do đó mà Định Quang cũng gọi là Nhiên Đăng thì cũng không có lỗi gì. Các Đức Phật Như thế đều đã qua, đây là lời kết chung. Khi ấy, kế có cho đến Phật Thế tôn, là phần thứ hai nói thắng duyên gần. Tiếng Phạm là Lâu-di-đát-la, Hán dịch là Thế tự tại vương, vì đối với tất cả pháp được tự tại, tức là tên riêng, Đức của Phật có vô lượng thì tên cũng phải vô biên. Nay nêu lược tự lợi lợi tha để lập mười hiệu tức là hiệu chung. Tuy có mười hiệu nhưng lược có hai: Một là tên của tự đức, tức là năm tên trước; hai là tên làm lợi ích chúng sinh, tức là năm tên sau. Tên tự đức cũng có hai đối: Một là cặp Đạo Viên diệt cực, tức là Như lai, gọi là Đạo viên ứng cúng, gọi là diệt cực; hai là cặp Nhân mãn quả viên, tức là Đẳng Chánh Giác Minh Hạnh Túc, gọi là Nhân mãn như thứ lớp, giải hạnh đã tròn. Tên gọi Thiện thệ là quả viên hướng lên không trở lại. Tên gọi lợi vật cũng có ba: Một là cặp tổng danh xưng, tức bốn thứ trước là riêng, Vương xá tên sau là chung, đổi vật mà không thêm tên Thế tôn; hai là cặp hóa trí hóa tâm, tức tên Thế gian giải là trí hóa tha, Vô thượng Điều ngự là tâm hóa tha; ba là cặp hóa năng hóa đức, tức tên Thiên Nhân sư là hóa tha năng, Phật là hóa tha đức, cho nên giải thích rõ mười hiệu rộng như trong Luận Du-già. Lúc đó có vị vua cho đến Đạo ý chánh chân, là phần thứ hai, nói về thắng hạnh. Pháp sư Viễn nói khởi hạnh có hai từ đầu đến hết bài tụng là luận hạnh thế gian, tức những việc làm của bậc Địa tiền. Tỳ- kheo Pháp Tạng nói bài tụng này trở đi là nói về hạnh xuất thế, tức chỗ tu của bậc Địa Thượng. Đây e không phải, vì Bồ-tát Địa Thượng niệm niệm thường tu lợi ích các chúng sinh, tịnh Phật quốc độ, không phải năm kiếp chuyên tu nhận hạnh Tịnh độ. Nên nay lại có hai: Một là nói lược thắng hạnh; hai là nói rộng thắng hạnh. Phần một lại có ba: Một là nghe pháp phát tâm. Phát đạo ý Vô thượng, tức là thêm phát tâm, không trái với Quán Âm thọ ký trong kinh Bi Hoa. Bỏ nước quên ngôi vua cho đến vượt cao hơn thế gian, là phần thứ hai nói tu đạo xuất tục. Sa-môn tức là nghóa Sa-môn như đã giải thích ở trước. Ngài Bạch diên nói Đàm-ma-ca-lưu tức là Pháp Tạng. Ngài Chi Khiêm bỏ chữ lưu mà nói Đạo Bồ-tát, tức Bồ-tát Pháp Tích của Trí luận. Cao tài dũng triết là người tánh hạnh vượt cao ở đời, nên nói là vượt khác, đến chỗ Thế Tự Tại Vương quỳ xuống chấp tay, đây là phần thứ ba khen Phật khởi nguyện. Có ba: Một là thân lễ; hai là miệng khen; ba là tự thệ. Khể là dốc, thủ là đầu. Tức là đầu sát đất, lấy đầu tôn quý mà tiếp dưới chân nên gọi là khể thủ, ba vòng ý nói Như lai tu ba đức. Lại tụng khen rằng: Đây là phần thứ hai miệng khen. Có hai: Một là tỏa văn, lời tụng hay cũng bao gồm nhiều nghóa nên dùng bài tụng mà khen ánh sáng vòi vọi, là nêu ánh sáng cao quý. Nhan vòi vọi tức là nói thân cao quý. Oai thần vô cực cho đến cũng như đống mực, là giải thích khen ngợi. Có hai: Một là khen sáng vòi vọi. Oai thần tức là chỗ ánh sáng nương không ai bằng, giả là đối với kém khen vượt hơn, như đống mực là so sánh việc mà khen hơn. Có thuyết chép: Diệu là năm ngôi sao là sai, tức ngài Bạch Diên nói cảnh không thể bằng, nghóa là ánh sáng nhìn riêng. Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng đối với ánh sáng của Phật cũng như đống mực, như võ ốc để cạnh Ngọc Kha? Dung nhan Như lai vượt hơn thế gian, không ai sánh bằng. Đây là giải thích nhân vòi vọi. Luân là bọn, đám người… Tiếng lớn Chánh pháp vang khắp mười phương, là phần thứ hai, khen khẩu nghiệp, Đại âm là mật âm, tức tiếng của Như lai, không gì hơn tiếng Như lai nên nói là Đại âm hưởng, tức là âm hiển rõ, tuỳ theo cơ nghi mà phát ra có dừng hạn. Giới, văn, tinh tấn tốt đẹp ít có, là phần thứ ba khen ý nghiệp. Có hai: Một là khen nghiệp hơn, tức phẩm Bồ-đề; hai là khen quả hơn, tức là quả quả đều dứt. Phần một lại có hai: Một là khen hợp với việc là hơn; hai là Giới tức thể của nghiệp, do tư duy mà gieo trồng. Nghe tinh tấn… tức các quyến thuộc của nghiệp kia không thể bằng, nên nói là không bạn. Đức của Phật hơn các thứ khác nên gọi là ít có. Thiện niệm sâu chắc cho đến cùng tận bến bờ: đây là khen chứng lý cao quý. Đế là xét kỹ, cùng pháp là pháp giới nhất chân, tức là trí hậu đắc tư duy sâu đế quán, xứng với pháp giới chân thật, nên nói là Thiện niệm. Trí Vô phân biệt thấu suốt cùng tột chỗ sâu kín chân thật, nên nói là cùng tận bến bờ. Thế tôn hoàn toàn không còn Vô minh dục nộ, đây là hai nhân quả cao quý, ba độc đều hết. Người hùng Sư tử cho đến rung chuyển Đại Thiên, là phần thứ tư khen chung ba nghiệp. Công huân rộng lớn, là khen quả của ý nghiệp. Huân là công, trí tuệ sâu mầu là khen dụng của ý nghiệp, tức khắp khen cao quý bất tận, nói lược giới văn… oai tướng sáng rỡ là khen thân nghiệp cao quý. Rung chuyển Đại Thiên là khen tiếng nói của bậc Chánh giác. Đã có đức tốt đẹp này đáng gọi là người hùng Sư tử, thần đức vô lượng. Nguyện tôi thành Phật cho đến đều được giải thoát, là phần thứ ba nói tự thệ. Có hai: Một là nguyện cầu khen ngợi, tức là mười bài tụng; hai là thỉnh Phật làm chứng, tức ba bài tụng. Phần một lại có hai: Một là nguyện cầu khen ngợi, tức Phật pháp thân; hai là nhân cầu chỗ nương, tức là Tịnh độ Phật. Phần một lại có ba, đây là cầu quả. Có thuyết chép: ngang hàng với Thánh Pháp Vương cầu tự đức của Phật vượt ra khỏi sinh tử là cầu đức lợi tha, không đúng. Hễ là Phật thì phải đủ hai lợi, nay tức là nguyện tôi thành Phật, ngang hàng với Thánh Pháp Vương là nguyện được đức vượt ra khỏi sinh tử, đều được giải thoát là nguyện bỏ tất cả (mới bỏ nguyện này). Bố thí điều ý cho đến trí tuệ là trên hết, là phần thứ hai nói cầu nhân, có hai: Một là cầu nhân tự lợi, tức sáu độ. Bố thí để trị san tham cho nên nói là điều ý. Tôi thề thành Phật cho đến làm an lành tất cả, đây là nguyện nhân lợi tha, nêu quả mà cầu nhân. Dù cho có Đức Phật cho đến vững chánh không lùi, là phần thứ ba khen nguyện cao quý. Phật tức Phật bảo, Đại thánh tức là Tăng. Có thuyết chép: cúng dường Phật… cũng gồm Tăng Bảo là không đúng. Tuy là Phật nhưng nói các Đức Phật tức là biết hướng lên các bậc cao hơn. Nên nay tức Phật là sở cúng dường, còn Đại thánh là năng cúng dường. Vô lượng Đại thánh tuy cúng nhiều Phật mà có hạn lượng bờ bến, thì không bằng cầu tâm Phật không lui sụt là vô biên. Khước là lùi. Thí như cát sông Hằng cho đến oai thần khó lường, là phần thứ hai nói về quả Tịnh độ. Có ba: Một là khen các cõi Phật. Chiếu sáng khắp các nước tức là Phật phát ra ánh sáng trang nghiêm. Oai thần nước ấy khó lường, tức Phật dùng thần thông trang nghiêm cõi Phật ấy. Ở cõi ấy siêng thực hành hóa độ, nên nói là tinh tấn, hiện hóa tính đếm biểu thị nên nói là khó lường. Khiến tôi thành Phật cho đến không ai sánh bằng. Kế đây là đối cầu cõi tốt đẹp, cõi nước tức là thế giới Cực lạc. Bậc nhất tức là các tướng trang nghiêm, kỳ diệu tức là các thứ bậc nhất. Đạo tràng tức là tòa bậc nhất. Như Nê-hoàn là vui sướng bậc nhất. Tiếng Phạm là Nặc- Phược, đời Nam Đường dịch là Viên Tịch. Nói Nê-hoàn là sai vì cõi ấy vui sướng đứng dưới Niết-bàn, cho nên đem thí dụ. Không cõi nào sánh bằng là cõi nước bậc nhất. Hễ nói bậc nhất, tức đối với ở dưới mà nói, không như thế thì trái với Hoa Nghiêm như trước đã nói. Tôi sẽ thương xót cho đến ra sức tinh tấn sở dục (chỉ cho ham muốn) là phần thứ hai, thỉnh Phật làm chứng. Có hai: Một là thỉnh Phật hay Thế Tự Tại Vương làm chứng nguyện tôi không luống dối. Hạnh là nguyện, mong tín là thành, nguyện Phật biết thật rõ những điều mong cầu không luống dối chắc chắn được quả. Sở dục (những điều mong muốn) là công đức pháp thân và vui sướng Tịnh độ, hai quả ấy rất cố gắng siêng năng tu tập nên cố gắng hết sức. Thế tôn mười phương cho đến nhẫn chịu không bao giờ ăn năn, là nói thỉnh Phật mười phương chứng biết hạnh không lui sụt. Đối với Phật kết thệ thân dứt các khổ, siêng năng chịu đựng không hối hận. Phật bảo A-nan cho đến giảng nói rộng kinh pháp, là phần thứ hai nói rộng hạnh tốt đẹp. Có hai: Một là chánh luận tu hành; hai là nhân hiển bày chỗ tu. Phần một lại có năm: Một là Pháp tạng thỉnh nói; hai là Như lai ngăn; ba là pháp Tạng lại thỉnh; bốn là Như lai hứa nói; năm là luận tu hạnh cao quý. Phần một lại có hai: Một là nhân trước mà chánh thỉnh; hai là phát giác tâm vô thượng tức là tâm nguyện được pháp thân và Tịnh độ của Phật ở trước. Tôi sẽ tu hành cho đến gốc siêng năng khổ nhọc, là phần thứ hai nói về ý thỉnh nói. Sẽ tu hành, tức là tu hành Nhân của thân và cõi. Nhiếp cõi mầu tức là muốn được quả của cõi. Cho nên khiến thành Chánh giác tức là muốn chứng quả thân và cõi, cứu khổ sinh tử là muốn lợi ích chúng sinh. Sinh tử là quả siêng năng khổ nhọc. Gốc tức là Nhân. Do nhân mà nhiều phen chịu khổ sinh tử nên gọi là gốc siêng năng khổ nhọc. Giáo hóa các chúng sinh khiến sinh Tịnh độ dứt hẳn các khổ nhân quả sinh tử. Cho nên cũng nói là bạt (nhổ). Tức như thứ lớp sở tu, sở đắc, sở hóa. Phật bảo A-nan cho đến ông phải tự biết, là phần thứ hai nói Phật chẳng chấp nhận. Nhiêu là lời giải thích tự tại, đã phát đại nguyện ông cũng nên biết tức là lời trái với lời thỉnh. Tỳ-kheo bạch Phật cho đến viên mãn sở nguyện. Là phần thứ ba nói Pháp Tạng lại thỉnh. Hoằng là rộng lớn, tức nghóa Thánh hạnh địa thượng rất rộng sâu. Không phải như cảnh giới mình cho nên lại thỉnh. Nhưng Phật ngăn nói ông nên tự biết, tức là chỗ tu của bậc Địa Tiền, nên không trái nhau. Có thuyết chép: Trong đây chỉ cầu Tịnh độ còn thân nhân lược không nói, là chẳng đúng. Như lai Tịnh độ tức trái nhau mà giải thích theo thứ lớp thân và cõi. Khi ấy, Phật Thế Tự Tại Vương cho đến mà nói kinh rằng, đây là phần thứ tư, Như lai nói cho nghe. Có hai: Một là nêu chung chấp nhận sẽ nói. Thí như biển lớn cho đến nguyện nào chẳng được, là nêu riêng những điều cần nói. Có hai: Một là nhờ dụ khuyên tu. Hội cũng là ắt. Khắc là bèn, là được. Do đó, Phật Thế Tự Tại Vương cho đến đều hiện cho thấy, là nói chánh thức đáp điều thưa hỏi, hai trăm mười ức cõi Phật tức là nói chung các cõi Phật Tịnh uế. Trời, người, thiện ác tức là nhân của các cõi. Sự thô diệu của cõi nước tức là quả của các cõi. Nên có bổn chép: sự thô diệu của cõi nước là nhiếp thân theo cõi nên chẳng nói riêng. Do đó không chỉ nói nhân quả Tịnh độ mà nói cả Uế độ, là muốn cho bỏ thô ác mà tu điều tốt lành. Cho nên chẳng những nói cho nghe mà còn hiện cho thấy, nên theo tâm mà hiện cho thấy. Tức hai ngài Bạch Diên và Chi Khiêm nói Phật Lâu-di-đát-la rồi. Đàm-ma-ca nhất tâm liền được thiên nhãn thấy suốt trời, người thiện ác, cõi nước xấu đẹp trong hai trăm mười ức cõi nước các Đức Phật. Lại các cõi nước này không phải do gần gũi chọn lựa cõi nào ứng cơ hợp ý mà thấy được. Nếu không thế thì trái với kinh của Bạch Diên và Chi Khiêm nói Đức Phật ấy chọn lựa các cõi nước tốt xấu và trời, người thiện ác trong hai trăm mười ức cõi nước các Đức Phật cũng chẳng khó nói. Hễ người nào thấy các cõi nước trong ánh sáng đã không có cõi uế thì làm sao lại hiện xấu ác cho Pháp Tạng? Cơ mong muốn đã khác thì Thánh cũng chẳng phải một. Nếu không như thế thì phàm người đã chán Uế độ mà cầu chỗ tịnh, thì phải hiện Tịnh độ theo chỗ mong cầu mới được nhiếp thọ. Khi Tỳ-kheo ấy cho đến nguyện cao siêu, là phần thứ năm nói chánh tu hành. Có ba: Một là thấy tướng phát nguyện. Đã thấy tướng Tịnh độ được cầu nhiếp nhau với nguyện Tịnh độ càng sâu nên nói vượt phát thắng nguyện. Tâm ấy vắng lặng cho đến hạnh thanh tịnh. Đây là phần thứ hai nói y nguyện tu hành. Có thuyết chép: Chứng trí thì lìa tướng, nên nói vắng lặng vượt hơn Địa tiền nên không thể sánh kịp là không đúng. Vì trí vô phân biệt chẳng thể là nhân duyên Sự độ, cũng không thể y theo Lý mà nói hạnh Địa thượng. Có thuyết nói hạnh Tịnh độ tuy rất nhiều nhưng chỉ có hai loại: Một là duyên theo sự mà thành gọi là niệm Phật; hai là y lý mà thực hành là dứt phan duyên. Đây tức một, là xưng danh Di-đà, cho nên thuộc về biệt hạnh của Cực lạc; hai là Chung cho các cõi Phật mà thực hành gọi là tâm vắng lặng không mê đắm, đây cũng không đúng, vì trái với nguyện mà tâm muốn, kết được hai mươi bốn nguyện này liền vâng làm. Nguyện mà Tâm muốn là cõi Cực Lạc không thể nói là hạnh chung cho các cõi. Nên nay Tịnh độ muốn hiện thì nhất định là gốc. Tâm vắng lặng ấy tuệ dắt dẫn đến Định nên nói không mê đắm, gọi đó là tâm quán. Nói nghiệp Tịnh độ chính là gốc lành phương tiện tốt nhất để ra khỏi thế gian. Tất cả thế gian không thể sánh kịp là sở do của phẩm Vô Phân Biệt, năm kiếp nghó nhiếp hạnh cõi Phật, tức là phương tiện của Trí hậu sở đắc. Có thuyết chép: năm kiếp mà chỉ tu một hạnh, đó gọi là tâm vắng lặng chí không mê đắm, là không đúng. Nguyện đã bốn mươi tám, thì hạnh chắc chắn chẳng phải một. Tức trải qua năm kiếp tu tập các hạnh của cõi ấy. Trong đây có nói Pháp Tạng ở tâm thứ sáu trong Thập trụ chiết pháp không vị là đó. Có người hỏi rằng nếu ở tâm thứ sáu đã tu Nhân Tịnh độ thì trong cõi Tây phương nên không có Hóa chủ, đều không đúng. Nếu tâm thứ sáu thì nên nói nhiếp thủ vị nào mà tu hạnh Tịnh độ? Lại Nhân tu cõi bèn hiện Tịnh độ là hóa độ của các Đức Phật chẳng lúc nào không có, phải biết thứ lớp mà giải thích câu hỏi. Có thuyết nói: Pháp Tạng là Bồ-tát Bát địa trở lên, phát các Đại nguyện tu nhân Tịnh độ là biến dịch. Nên hỏi vặn rằng lại thành lỗi cõi ấy là vô chủ, đây cũng không đúng. Bồ-tát Bát Địa trong từng niệm thấy khắp vô lượng cõi Phật, thì chẳng thể nói là thấy hai trăm mười ức cõi. Cho nên nay Pháp Tạng là Bồ-tát Thập Hướng mãn vị cho nên năm kiếp tu hành nhân Tịnh độ. Kiếp thứ nhất hạnh mãn rồi gọi là Nhiếp Thủ không nên vặn hỏi. Bồ-tát Sơ Địa thấy trăm thế giới Phật, vì sao Pháp Tạng thấy cõi như thế mà không trái nhau là nhờ sự che chở của Phật mà thấy, cũng là vượt hơn địa vị trên. Bồ-tát Sơ Địa thực hành gia hạnh thì lại thấy hơn ở đây. A-nan bạch Phật cho đến hạnh tu tập. Đây là phần thứ ba theo lời vặn hỏi mà giải thích lại. Tuổi thọ của Phật không thể ngắn hơn năm kiếp, vì hạnh thanh tịnh nên nói Phật ấy thọ bốn mươi hai kiếp để giải thích nghi này. Có thuyết chép: Đức Phật ấy sống lâu nhiều kiếp, khi kiếp hết, chúng sinh tuy thấy kiếp hết thiêu đốt nhưng cõi ấy vẫn an ổn. Cho nên Bồ-tát pháp Tích năm kiếp tu hành nhân thanh tịnh tức đồng như kinh Pháp Hoa nói chúng sinh thấy bị thiêu, cõi ta vẫn an ổn, trời, người thường đầy đủ. Đây e không đúng. Kinh Pháp Hoa nói luận tự giải thích rằng Báo Phật Như lai thanh tịnh chân thật thì biết cõi ấy là tha thọ dụng. Tha thọ dụng thì tuổi thọ của Phật là vô lượng không thể nói bốn mươi hai kiếp. Cho nên nay tức là bốn mươi hai kiếp. Bởi số kiếp như cho nên trải năm kiếp nhiếp hạnh Tịnh độ không phải kiếp hết. Phật Đại thông tuổi thọ không thể tính đếm số kiếp còn chưa phải là Tịnh độ, thì sao bốn mươi hai kiếp mà gọi là Tịnh độ. Như thế tu xong cho đến hạnh thanh tịnh, là phần thứ hai nói sự tu hành có hai: Một là nói sự tu hành; hai là nói tu thắng hạnh. Phần một lại có sáu: Một là Pháp tạng bùi ngùi; hai là Như lai bảo nói; ba là Thệ pháp tuyên nguyện; bốn là lập thệ tự chế; năm là khế hiện điềm lành; sáu là kết khen chung. Phật bảo Tỳ-kheo cho đến vô lượng đại nguyện, đây là phần thứ hai Phật khuyên nói. Tất cả đại chúng tức là phàm phu, Nhị thừa, pháp Tạng nói xong lời phát nguyện thì đại chúng đều nguyện sinh về cõi ấy, nên nói phát khởi vui vẻ. Có thể Bồ-tát nghe nói cũng đồng phát nguyện, nên nói tu hành tức là tu hành nhân duyên nguyện này đến mãn Đại nguyện. Tỳ kheo bạch Phật cho đến sẽ nói đầy đủ. Là phần thứ ba, tự tuyên phát nguyện. Có hai: Một là theo lời khuyên liền hứa nói. Nói tôi thành Phật cho đến không thành Chánh giác, là nói nguyện của mình. Song Pháp Tạng phát nguyện ba đời kinh bổn có số khai họp thứ lớp khác nhau. Nên nay dùng hai mươi bốn nguyện của hai ngài Bạch Diên và Chi Khiêm mà đối với bốn mươi tám nguyện của ngài Pháp Hộ mà lược bỏ để giải thích văn hoằng thệ. hai bản kinh của Bạch Diên và Chi Khiêm đều có hai mươi bốn nguyện, ý đều khác lạ, Bạch Diên chọn trong kinh này hai mươi bốn nguyện, Túc Bảo Bát Nguyện là hai mươi bốn nguyện, Chi Khiêm cũng chọn hai mươi bốn nguyện trong bốn mươi tám nguyện lại thêm Bảo Bát và ba thông Nhãn, Nhó, Thần Cảnh và trí biện của Phật ấy làm hai mươi bốn nguyện. Lại hai kinh ấy đã chép ra từ bốn mươi tám nguyện mà thứ lớp khác với kinh này. Các nguyện số bảy, mười bốn, mười hai, mười ba, mười chín, hai mươi hai, hai mươi lăm kinh này thì theo bản của ngài Bạch Diên là nguyện số chín, mười hai, mười ba, mười bốn, mười tám, hai mươi, hai mươi bốn nên khai hợp cũng khác nhau. Lại hợp nguyện hai mươi ba, hai mươi bốn thành nguyện hai mươi hai, hai mươi bảy, Bảo Bát nguyện là nguyện hai mươi ba, lược bỏ nguyện mười tám này và nguyện hai mươi kia trong đây không có. Hai mươi bốn nguyện của ngài Chi Khiêm thì thứ lớp cũng khác. Các nguyện thứ ba mươi lăm, ba mươi tám, hai mươi bảy, hai mươi, mười tám, mười chín, ba mươi hai, mười sáu, hai mươi mốt, hai mươi lăm, mười ba, mười bốn, mười lăm, hai mươi tám, ba mươi ba của kinh này theo thứ lớp của kinh ấy là nguyện số tám, mười, mười một, mười lăm, sáu, mười chín, hai mươi, hai mươi mốt, hai mươi hai, hai mươi ba, hai mươi bốn. Cho nên khai hợp cũng khác. Hợp nguyện hai mươi ba, hai mươi bốn ở đây thành nguyện mười ba. Hợp nguyện thứ năm, sáu, bảy thành nguyện hai mươi hai, cho nên có không cũng khác. Nguyện mười bốn ở kia, nguyện mười bảy về ba Thông, nguyện mười tám Trí Biện của Báo Bát thì trong kinh này không có. Còn nguyện hai ở đây thì ở kinh ấy không có. Sở dó có khác nhau là do bản chữ Phạm có thiếu đủ nên dịch ra như thế. Suy nghóa mà nói thì kinh của ngài Pháp Hộ có thể coi là chỉ nam. Hỏi “Bản thệ của các Đức Phật là giống nhau hay khác nhau, nếu khác thì trái với kinh Hoa Nghiêm chép: Tất cả các Đức Phật đều đầy đủ tất cả nguyện thì mới thành Phật. Nếu giống thì cũng trái với kinh Dược Sư có mười hai Bổn nguyện, Di-đà có bốn mươi tám nguyện nên đáp rằng không có một Phật nào thiếu một hạnh nguyện mà thành Đạo được. Cho nên đều giống nhau, nhưng đối với cơ duyên hóa độ có thuần thục hay chưa thuần thục khác nhau. Cho nên Phật Dược Sư ở cõi này đối với chúng sinh có mười hai nguyện cứu khổ thì duyên đã thuần thục, cho nên không nói bốn mươi tám nguyện. Còn Di-đà Như lai có bốn mươi tám nguyện ở vị lai lạc duyên đã chín nên không nói mười hai nguyện. Do đó các Đức Phật có thệ nguyện chưa hẳn đã toại quả, mà Bồ-tát Pháp Tạng phát nguyện đều thành. Cho nên bốn mươi tám nguyện lược có ba ý: Nguyện cầu thân Phật; Nguyện cầu cõi Phật tức là nguyện ba mươi mốt, ba mươi hai. Nguyện lợi ích chúng sinh tức nguyện bốn mươi ba. Dùng ba ý này để giải thích văn bốn mươi tám nguyện, thì một là từ nguyện bảy đến mười một là nguyện nhiếp chúng sinh; hai là hai nguyện kế là nhiếp thân Phật; ba là ba nguyện kế là nhiếp chúng sinh; bốn là một nguyện nhiếp thân Phật; năm là mười ba nguyện là nhiếp chúng sinh; sáu là hai nguyện nhiếp cõi Phật; bảy là mười sáu nguyện sau là nhiếp chúng sinh - Phần một lại có hai: Hai nguyện đầu là nguyện lìa khổ, chín nguyện sau là nguyện được vui. Phần một lại có hai, nguyện đầu không có khổ khổ, hễ nói nguyện là nghóa mong cầu nên nói nếu tôi thành Phật… Lại nói thệ tức là nghóa yêu cầu, không thành Chánh giác là trường hợp đó. Nếu các nguyện không thỏa mãn thì không bao giờ thành Phật. Cho nên nếu nguyện không trọn mà được thành thì thệ cuối cùng chẳng thành Phật. Cho nên các nguyện khác đều có hai câu này, nên đúng lý mà suy xét. Nếu tôi thành Phật cho đến không thành Chánh giác, là nguyện không có hoại khổ. Nếu tôi thành Phật cho đến không thành Chánh Giác, là thứ hai nguyện được vui, có hai, hai nguyện đầu là nguyện được thân vui. Nếu tôi thành Chánh giác, là bảy nguyện sau, nguyện được tâm vui. Có sáu, đây là một nguyện được vui túc mạng. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là hai, nguyện được vui Thiên nhãn. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là ba, nguyện được vui Thiên nhó. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là năm, nguyện được vui Thần thông. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là sáu, nguyện được vui Lậu tận. Có hai, một là thể của lậu tận. Tưởng niệm tức là chướng sở tri, tham thân tức phiền não chướng, dứt hết cả hai lậu chướng này. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là nói sau vị lậu tận, từ Thập tín trở lên đều gọi là Chánh định tụ pháp. Nói trụ là từ chung cho cả Chánh phụ. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là nguyện thứ hai nhiếp thân Phật. Có hai, đây là một, nguyện có mầu vàng. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là nguyện được sống lâu. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là nguyện thứ ba nhiếp chúng sinh. Có ba. Đây là một, nhiếp quyến thuộc. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là kế nguyện được sống lâu. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là nguyện lìa bỏ ganh ghét. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là nguyện thứ tư, nhiếp pháp thân. Tứ là khen. Ta là khen, than. Nếu tôi… Chánh giác, là nguyện thứ năm, nhiếp chúng sinh. Có hai, bốn nguyện đầu là nguyện nhiếp trời, người, chín nguyện sau là nguyện nhiếp Bồ-tát. Phần một lại có hai: Một là nhiếp người vãng sinh; hai là nhiếp báo được sinh. Phần một lại có ba, đây là nguyện nhiếp thượng phẩm. Có thuyết chép: Một là hạ phẩm; hai là thượng phẩm; ba là trung phẩm, là không đúng. Chẳng phải chỉ rối thứ lớp mà còn trái với Quán kinh, không trừ người gây ra năm tội nghịch. Nhưng kinh ấy nói gây ra năm tội nghịch được sinh Tịnh độ là trái với nguyện này đã chép: “Chỉ trừ người gây ra năm tội nghịch, hủy báng chánh pháp”. Mọi người giải thích theo xưa tự thành trăm nhà. Có thuyết chép: Cũng cho hủy báng chánh pháp được sinh, chỉ trừ người gây ra năm tội nghịch. Có vấn nạn lời này. Nên kinh ấy cũng nói đủ các bất thiện. Nếu không chê chánh pháp, không thể nói đủ các bất thiện thì làm sao mà nói chỉ gây ra năm tội nghịch đều được sinh Tịnh độ. Lời vấn nạn này sai. Nếu bảo kinh ấy nói đủ các Bất thiện cho nên cũng nhiếp cả chê bai pháp, tức năm tội nghịch cũng thuộc về các Bất thiện. Nên chẳng cần nói riêng. Nay nên thuận theo và nói nghóa nhóm họp mà giải thích trái nhau. Giải thích trái nhau là nghóa tránh điều tranh cãi, cho nên tội đã riêng thì tên cũng riêng. Có thuyết chép: Đây trừ không hối, kia lại nói hối. Đây cũng không đúng. Đã trong mười niệm, một niệm riêng diệt được tội nặng sinh tử tám mươi ức kiếp, nên không hối và chẳng hối khác nhau. Nếu lại có pháp sám hối khác thì ở văn Hạ phẩm hạ sinh đều không có. Có thuyết chép: Đối với người chưa gây tội thì nói trừ, đối với kẻ đã gây tội thì nói sinh. Đây cũng không đúng. Chưa gây ra còn trừ huống chi đã gây ra. Nếu đã gây ra khiến tiến lên mà không có lỗi này còn chưa gây ra mà khiến lui ư? Nói chánh năm tội nghịch thì trừ loại năm tội nghịch là không sinh. Đây cũng không đúng, không có Thánh giáo nào nói loại năm tội nghịch gọi là năm tội nghịch. Không thể kinh ấy gọi năm tội nghịch là loại. Có thuyết chép: Nếu tâm nặng tạo thì trừ, còn tâm nhẹ tạo thì được sinh. Đây cũng không phải, chê bai Chánh pháp thì có nặng nhẹ, chẳng thể nói trừ chẳng sinh. Có thuyết chép: Trừ tức là gây ra năm tội nghịch bậc thứ ba, còn Sinh là gây ra năm tội nghịch bậc hai. Đây cũng không đúng. Chúng sinh có ba lỗi đối với Thánh giáo. Nếu có Thánh nói thì cũng trái với tự hứa. Người bậc thứ ba không thực hành pháp chung có nghịch hay không nghịch đều chẳng được sinh. Nếu đúng như lời nói thì chỉ trừ có người bậc ba mà nói, trừ nghịch chỉ là lời nói luống dối. Có thuyết chép: Trừ là trước ngăn sinh, sau là mở. Đây cũng không đúng. Trước ngăn nếu thật sinh, sau mở thì thật phải chẳng sinh. Có thuyết chép: Chưa phát tâm Bồ-đề mà gây ra tội nghịch thì trừ, đã phát tâm Bồ-đề mà làm nghịch thì sinh, cũng chẳng phải. Đã phát tâm Bồ-đề nếu có lui sụt thì phải như chưa phát tâm, tức chẳng được sinh. Nếu chẳng lui sụt thì sẽ chẳng làm nghịch. Có thuyết chép: Trừ tức là đối Phật nói năm tội nghịch quyết định, còn sinh là đối Phật nói năm nghịch đều bất định. Đây cũng không đúng. Vì bất thiện mà thuận sinh, sau chịu nghiệp thì phải xếp năm tội nghịch này vào tội lớn. Có thuyết chép: nếu đời trước là vô đạo đã gây ra năm tội nghịch thì không sinh. Theo lý nếu trước phát tâm Bồ đề tuy lại gặp duyên gây ra năm tội nghịch thì phải rất hối lỗi cũng được vãng sinh, người ở đường lành mà có gây ra năm tội nghịch và chê bai Chánh pháp thì hai văn đều nói giống nhau không trái. Đây cũng không đúng. Nói đời trước phải vô dụng nên hiện phát tâm Bồ-đề mà gặp duyên gây ra tội nghịch thì lẽ ra cũng sinh. Lại đường lành kia là thập tín nên gây tội nghịch, chê bai pháp, thì không có lý này như trước đã nói. Có thuyết chép: Người một niệm niệm Phật thì trừ, người mười niệm niệm Phật thì sinh. Đây ắt không đúng. Tức trái đây nói dù chỉ mười niệm. Có thuyết chép: trừ là đủ mười, nếu không đủ mười thì không được sinh. Sinh thì chỉ đủ mười câu. Đây cũng không đúng. Tuy gồm chẳng đủ mười câu thì cũng nói là đủ mười câu, phải như kinh ấy không thể trừ. Cho nên nay tức kinh này trong ba nhóm sinh trên chắc chắn không có gây ra năm tội nghịch nên trừ đi. Còn kinh kia nói Hạ sinh tuy có gây ra năm tội nghịch nhưng nếu đủ mười niệm thì cũng được sinh, cho nên không trái. Có thể giải thích mà không vặn hỏi. Nói Trung phẩm ba nhóm sinh thì cũng không có gây ra năm tội nghịch. Chẳng cần trừ là phát tâm Bồ-đề, tu các công đức, tức là nghóa không gây ra tội nghịch đã rõ. Chỉ tội chê bai Chánh pháp đã sâu nặng, trong vô số kiếp chịu khổ báo, thì dù có đủ mười câu chắc chắn cũng không được sinh. Vì Thánh giáo không có dị thuyết, dung túng những kẻ bất thiện. Vì rất khó. Cho nên có thuyết chép: kinh này nói mười niệm là y vào mười pháp mà niệm chớ không phải là danh hiệu Phật, tức là mười niệm mà ngài Di-lặc hỏi. Đây cũng không phải mười niệm của kinh ấy không phải phàm phu cũng không phải chỗ tu của Thượng phẩm tam sinh. Cho nên ở đây tức là đồng với mười niệm của Quán kinh, bậc thượng cũng tu mười niệm, lý không trái. Muốn nói một, hai… nên nói “Cho đến”. Muốn nói lại thôi, nay lại giải thích bản văn này. Nếu tôi cho đến Chánh giác, đây là kế nhiếp trung phẩm. Đã nói phát tâm Bồ-đề thì biết rằng nếu chẳng phát tâm thì bậc Thánh tuy chẳng đón cũng không trái với bản nguyện. Nếu tôi cho đến Chánh giác, đây là nhiếp Hạ phẩm. Có thuyết chép: Nhiếp luận tuy nêu nguyện thì ý cũng nói niệm Phật là ý lúc khác. Có thuyết chép: Đó không lấy niệm Phật làm ý lúc khác. Luận Vãng Sinh lại chép: Niệm Phật liền sinh, chẳng phải lúc khác. Luận vãng sinh và Nhiếp Luận đều giải thích theo lý của Thiên Thân thì ắt phải đồng mà không thể trước sau có trái nhau. Nhưng các chúng sinh tuy nghe giáo Tịnh độ mà chê bai không tin, thì tự đắm chìm trong đường ác. Hoặc tin không chê bai nhưng bị ái dục cột trói không dám phát nguyện, huống chi cũng tu hành. Hoặc có chúng sinh nghe nói liền phát thệ nguyện muốn sinh, nhưng lại gặp bạn ác, gây nhiều nghiệp ác, khi chết thì không gặp bạn lành nên không thể niệm Phật. Tuy không sinh liền nhưng đó là nhân xa, Phật cũng khen loại này có thể sinh về cõi Cực lạc. Người ngu bảo đó là không tu nhân mà được vãng sinh. Cho nên Thích luận nói là ý lúc khác. Cả hai đều không đúng. Hoặc nguyện, hoặc niệm đều là nhân xa đối với Tịnh độ. Nếu không như thế thì trái với mật ý như trước đã nói. Nếu các chúng sinh phát nguyện niệm Phật thì liền sinh hóa độ. Cho nên văn này nói kệ niệm nước ta tức là hạnh vãng sinh. Nếu tôi cho đến Chánh giác, đây là nguyện thứ hai nói báo được sinh. Nếu tôi cho đến Chánh giác, đây là nguyện thứ hai nhiếp Bồ- tát. Có hai: Một là nhiếp Bồ-tát cõi ấy - Thường luận là thuộc nhóm phàm phu. Các địa cũng là Địa kiếp sơ. Nếu tôi cho đến Chánh giác, đây là nguyện nhiếp Bồ tát cõi mình. Có tám, đây là Vương xá nguyện nương năng lực Phật cúng dường Thánh. Nếu tôi cho đến Chánh giác, đây là phần thứ hai, nguyện đồ cúng tùy ý muốn. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là phần thứ ba, nguyện nói pháp đều cao quý. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là phần thứ tư, nguyện thân được bền chắc. Na-la-diên tức ngài Chân-Đế dịch là Thiên lực só (Lực Só cõi trời). Nếu tôi cho đến Chánh giác, là phần thứ năm, nguyện có mầu sáng đặc biệt khác lạ. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là phần thứ sáu, nguyện thấy biết cây đạo. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là phần thứ bảy, nguyện có bốn biện tài vô ngại: Một là nếu tôi cho đến Chánh giác, là phần thứ tám, nguyện được tuệ biện vô lượng. Hai là nếu tôi… Chánh giác, là phần thứ sáu, nguyện nhiếp cõi Phật. Có hai, đây là một nguyện có công đức hình sắc. Ba là nếu tôi cho đến Chánh giác, là nguyện có công đức trang nghiêm. Bốn là nếu tôi cho đến Chánh giác, thứ bảy, nguyện nhiếp chúng sinh. Có năm: Một là nhiếp chúng sinh cõi khác. Lại có hai: Một là nguyện mong ánh sáng được lợi. Năm là nếu tôi cho đến Chánh giác, là nguyện nghe tên được lợi ích. Có bốn: Một là Pháp nhãn tổng trì. Sáu là nếu tôi cho đến Chánh giác, đây là thứ hai, nguyện lìa bỏ ganh ghét. Nhưng Âm Thinh Vương nói Phật A-di-đà có cha mẹ. Có thuyết chép: đó là hiển bày cõi uế, Phật có cha mẹ chẳng phải là Tịnh độ, thì chẳng trái: văn này tự nói Ma Vương gọi là Vô Thắng Đề- bà-đạt-đa dịch là Tịch. Có thuyết chép: Không đúng, tuy có Ma Vương nhưng tự giữ gìn. Nếu không thế tức là trái với kinh Pháp Hoa nói Tịnh độ Ẩm Quang thì ma là ma dân đều che chở giữ gìn Phật pháp. Cho nên nói kinh ấy hiển bày cõi biến hóa. Cũng có người nữ tự nói chỗ sinh lìa hẳn thân uế dục ở bào thai. Mà không có người nữ tức là do cõi thọ dụng còn đây là nói Bồ-tát Thiện Thuận ở kinh Anh Lạc. Như kinh ấy quyển mười một giải thích tuệ trí tạo Tịnh độ của Như lai nói rằng: Chỉ nam nữ chúng sinh không như ở cõi nước A-di-đà, người đắc đạo tuy có nam nữ nhưng không có dục nam nữ. Đây là không đúng. Đã nói chúng sinh nam nữ chẳng bằng cõi Di-đà là không nói có người nữ. Có thuyết chép: kinh ấy nói có cha mẹ thành ấp… đều là pháp công đức. Như kinh Duy-ma nói Trí độ là mẹ Bồ-tát phương tiện là cha. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói Văn-thù-sư-lợi ở Giác thành phương Đông gặp Đồng Tử Thiện Tài. Kinh nói: giác thành còn gọi là công đức nên không trái, có thể giải thích. Đây cũng không phải thân tự thọ dụng sẽ do Trí độ và dùng phương tiện nên có cha mẹ mà hứa thì không có lỗi nào lớn hơn. Nay có hai nghóa: Một là Phật ấy tuy có mẹ mà là biến hóa, chỉ Phật mới có. Nói không có người nữ là trừ mẹ Phật ra thì không có hóa nữ, huống là thật có nên không trái; hai là Theo kinh Bi Hoa thì hoặc có Bồ-tát sinh về cõi nước ấy tu hạnh Bồ-tát, tức ở cõi nước ấy mà thành Đẳng Chánh Giác. Hoặc có Bồ-tát ở thế giới này sinh về đó rồi tu hành đến ở cõi khác mà thành Đẳng Chánh Giác. Long Nữ trong kinh Pháp Hoa cũng thuộc về loại đó. Do bổn nguyện khác nhau nên hiện khác. Nay Phật A-di-đà vì cũng ở các cõi nước khác mà thọ thân thai sinh, tu hạnh Bồ-tát, đến Tịnh độ Phật Tôn Âm mà thành Phật Đạo. Nên Kinh Âm Dương chép: có cha mẹ là nói cõi nước chỗ sinh ra, nói có Tịnh độ tức là thế giới thành Phật thì đều không trái. Lược mở hai đường, người học nên suy nghó, muốn nói lại thôi, nên theo văn gốc. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là thứ ba, nguyện thường tu phạm hạnh. Nếu tôi cho đến Chánh giác, là thứ tư, nguyện lễ kính . Nếu tôi cho đến Chánh giác, đây là thứ hai, nguyện nhiếp chúng sinh nước mình. Có ba: Một là nguyện y phục tuỳ theo ý muốn. Nếu tôi cho đến Chánh giác, hai là nguyện thọ Vui không mất. Nếu tôi cho đến Chánh giác, ba là nguyện thấy khắp các cõi Phật. Nếu tôi cho đến Chánh giác, đây là thứ ba, nguyện lợi ích chúng sinh ở phương khác. Có năm: Một là nguyện các căn đẹp đẽ. Nếu tôi cho đến Chánh giác, hai là nguyện đủ hạnh chỉ quán. Nếu tôi cho đến Chánh giác, ba là nguyện vật hóa hiện cao quý. Nếu tôi cho đến Chánh giác, bốn là nguyện phước trí song tu. Nếu tôi cho đến Chánh giác, năm là nguyện không lìa các Đức Phật. Phổ là trùm khắp. Đẳng là bằng nhau, là sự thấy biết rộng khắp, Phật Phật đều thấy. Chỗ trụ nhất định nên gọi là phổ đẳng. Nếu tôi cho đến Chánh giác, bốn là nguyện lợi ích ở cõi mình, tức là nghe pháp tự tại. Nếu tôi cho đến Chánh giác, bốn là nguyện nhiếp các phương khác. Có hai: Một là nguyện cố gắng không lui sụt. Nếu tôi cho đến Chánh giác, đây là nguyện tự lực không lui sụt. Có thuyết chép: Pháp nhẫn một hai, ba là năm nhẫn trong Nhân Vương Bát-nhã, theo thứ lớp là Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn. Đây e không đúng. Vì Tín nhẫn là Sơ, Nhị, Tam Địa. Thuận nhẫn là Tứ, Ngũ, Lục Địa thì làm sao chỉ nghe danh hiệu Phật ấy mà được hai nhẫn. Bảo rằng nghe tên thì lần lượt được, thì cũng nên nói là được năm nhẫn. Cho nên nay Phục nhẫn ba vị gọi là ba pháp Du-già, cũng gọi là Địa thắng giải hạnh, có ba nhẫn hạ, trung, thượng phẩm. Phật bảo A-nan cho đến dùng kệ khen rằng, đây là phần thứ tư, tự thệ cảm điềm lành. Có hai: Một là là Tỏa văn. Tôi lập nguyện vượt hơn thế gian cho đến chẳng thành Chánh giác, đây là lập thệ. Có hai: Một là lập thệ; hai là xin điềm lành. Phần một lại có hai: Một là phản thệ; hai là thuận thệ. Phần một lại có hai: Một là đối tự đức của Phật mà thệ. Kiến là khởi, tức trước nguyện thân và cõi Phật vượt hơn thế gian. Nguyện sẽ khởi thực hành, chắc chắn đến Đạo Vô thượng. Tôi trong vô lượng kiếp cho đến thề không thành Đẳng giác, đây là đối với hóa đức của Phật mà thệ. Có hai: Một là thệ tài thí hóa lợi. Kinh này không nhất định, có chỗ chép: không làm đại thí chủ cứu giúp khắp những người nghèo khổ. Có chỗ nói không làm đại thí chủ thì không bao giờ cứu giúp những người nghèo khổ. Bổn xưa phải có người giải thích lời nói này. Nói pháp thí hóa ích là không đúng. Muốn cứu giúp nghèo khổ thì phải thí tài vật. Tu đến thành Phật đạo cho đến thệ không thành Đẳng giác, là đối với pháp thí mà thệ, tuy nêu thinh danh nhưng ý ở ngôn giáo. Lìa dục, Chánh niệm sâu cho đến làm thầy các trời, người, là phần thứ hai, nói về thuận thệ, có hai: Một là lược thệ. Lìa dục, chánh niệm tịnh tuệ Phạm hạnh là nhân của thệ, cầu Đấng Vô Thượng làm thầy trời, người là quả của thệ. Thần lực bày ánh sáng rực rỡ cho đến thông đạt cửa đường lành, đây là thệ rộng. Có hai: Một là rộng khen Đức của Phật; hai là tổng kết lập thệ. Phần một lại có bốn: Một là khen hóa đức, bày ánh sáng chiếu khắp tức là thân nghiệp hóa độ, sáu câu kia đều là khẩu nghiệp hóa độ. Trừ ba cấu giúp các nạn là hóa độ Tiểu thừa, ba cấu tức là tham, sân, si. Mở mắt trí, diệt mù tối là hóa độ Đại thừa. Đóng đường ác, mở đường lành là hóa độ trời, người. Công tộ thành đầy đủ cho đến tất cả ẩn không hiện, là phần thứ hai, khen tự đức. Tộ là giúp, phước. Tập là tập, nhiếp. Công tộ thành đầy đủ tức là đức thể quả phước đều thành tựu. Oai sáng sáu phương là ánh sáng rộng lớn. Ánh sáng trời tắt mất là ánh sáng kỳ diệu hơn hết. Hoặc có bổn chép: ánh sáng của mặt trăng, mặt trời tất cả đều ẩn mất, nghóa đó không trái. Ánh sáng của Phật rực rỡ chói lòa nên ánh sáng của mặt trăng, mặt trời không còn sáng nữa. Nên nói là tập trùng huy. Vì chúng mở kho pháp cho đến nói pháp sư tử rống, đây là phần thứ ba, lại khen đức hóa. Cúng dường tất cả Phật cho đến thông suốt đều chiếu sáng, là phần thứ tư lại khen tự đức. Nguyện năng lực công đức của tôi đều bằng bậc trên hết này, đây là thứ hai, kết thệ. Nguyện này nếu kết quả cho đến sẽ rải hoa quý giá nhiệm mầu như mưa, đây là phần thứ hai, điềm lành thưa hỏi. Phật bảo A-nan cho đến tung rải lên trên, là phần thứ năm, theo lời xin, hiện điềm lành. Có hai: Một là theo lời thệ hiện điềm lành. Âm nhạc tự nhiên cho đến Vô thượng Chánh giác, là phát lời khen thọ ký. Do đó Pháp tạng cho đến rất ưa vắng lặng, là phần thứ sáu, là kết khen chung. Lúc đó A-nan cho đến lập nguyện này rồi, là phần thứ hai nói tu hạnh cao quý. Có hai: Một là kết nguyện cao quý. Có thuyết chép: Phát thệ lớn này tức lập bốn mươi tám nguyện này là lập thệ nguyện, là không đúng. Kinh trước nói nguyện, sau nói thệ. Cho nên ở đây tức thệ nguyện sâu rộng là kết lời thệ trái với thuận. Nguyện này là bốn mươi tám nguyện. Từ sau hướng về trước mà kết nên không lỗi. Một bề chuyên chí trang nghiêm cõi nước chính là nói hạnh cao quý. Có hai: Một là tu hạnh cõi; hai là tu hạnh thân. Phần một lại có hai: Một là tu nhân. Chỗ tu cõi Phật cho đến không thương không tiếc, đây là nói quả. Khôi khuếch rộng lớn là vô lượng đức thành, nên luận nói rốt ráo như hư không, rộng lớn không bờ bến. Riêng đẹp hơn hết là cõi cao quý là không đúng. Vì các cảnh Bồ-tát nên thường kiến lập như thế. Nhân trọn thì quả lập, không đổi khác, không thương không tiếc là không bị ba tai phá hoại. Chẳng thể suy nghó bàn luận cho đến vô lượng đức hạnh, là phần thứ hai, nói về hạnh tu thân. Có hai: Một là tu nhân; hai là khen quả. Phần một lại có ba: Một là nêu chung; hai là giải thích riêng; ba là kết. Đây là một. Huỳnh Đế Toán có ba phẩm, lại nêu mười ngàn ức là một triệu, mười ngàn triệu là một kinh, mười ngàn kinh là một cai, mười ngàn cai là một tỷ, mười ngàn tỷ là một thất, mười ngàn thất là một tải. Có người nói triệu tải là năm rất xa, là không đúng. Chẳng sinh dục giác cho đến hương vị xúc pháp, là phần thứ hai, giải thích riêng. Có bốn: Một là lìa nhiễm; hai là tu điều lành; ba là lìa nghiệp; bốn là tu điều lành. Phần một lại có bốn. Đây là phần một, lìa nhân duyên nhiễm. Không sinh dục, sân, hại, giác tức là nêu khắp những lời quá nặng bất tận. Giác là tầm. Có thuyết chép: Chưa đối cảnh giới mà dự khởi ý nghó tà thì gọi là giác. Đối duyên sinh tâm thì gọi là tưởng. Không sinh ba giác là lìa thỉ, chẳng khởi ba tưởng là lìa chung, là không đúng. Ngay khi đối cảnh giới mà không sinh ba giác, không có lý do khác. Nay tức nhân của ba giác như chấp ba tưởng lấy giới hạn của cảnh mới sinh dục v.v… thì không tham danh lợi là không sinh dục giác, chẳng quấy não chúng sinh là không sinh sân giác, chẳng tổn hại mạng chúng sanh là không sinh hại giác. Ba giác chẳng sinh thì sẽ dứt ba tưởng, cũng gồm nhân bên trong đã lìa, duyên bên ngoài không dứt. Cho nên nói không đắm sắc,… kinh nói Nhẫn lực thành tựu cho đến ít muốn biết đủ, đây là phần thứ hai, nói tu đối trị. Nhẫn lực, tức là yên chịu khổ chịu oán hại mà quán xét pháp nhẫn. Vì nhẫn lực này có công năng nhẫn chịu tổn não. Cho nên lìa ba giác, ba tưởng, ít dục là lợi ở đời sau, tri túc là lợi ở hiện tiền, nên không mê đắm sắc. Không nhiễm nhuế si, đây là phần thứ ba, chính là phiền não, nhiễm là tham. Tam muội thường vắng lặng, trí tuệ vô ngại, là phần thứ tư, nói chánh tu đối trị. Tam muội thường vắng lặng là định sâu. Trí tuệ vô ngại là trí cao quý. Không có luống dối cho đến ý trước nương hỏi, đây là phần thứ hai, lợi tha lìa nhiễm. Không tâm dối nịnh tức là lìa lỗi của ý. Vẻ mặt vui vẻ là lìa lỗi thân. Ái ngữ trước hỏi là lìa lỗi của miệng. Có thuyết chép: ý trước nương hỏi là ý nghiệp, là không phải vậy. Tuy nói ý trước mà liền thưa hỏi. Mạnh mẽ tinh tấn cho đến trí tuệ lợi ích chúng sinh, là phần thứ hai tu lời nói. Có ba: Một là tu không ngơi nghó. Mạnh mẽ tinh tấn tức là từ đầu tinh tấn thệ không sợ địch. Cầu pháp thanh bạch tức là phần thứ ba, không tinh tấn tu không thôi, tức là tu tự lợi. Trí Tuệ lợi ích chúng sinh tức là tu lợi tha. Cung kính Tam bảo cho đến công đức thành tựu, là phần thứ hai tu cung kính - cung kính Tam bảo là phước phương tiện, kính thờ thầy tổ là trí phương tiện. Dùng Đại trang nghiêm tức là hai thứ phước trí trang nghiêm đã thành tựu, các hạnh thánh bố thí đầy đủ. Dùng chỗ tu của mình mà lợi ích chúng sinh nên khiến công đức thành tựu. Trụ không, vô tướng cho đến quán pháp như hóa, là phần thứ ba thực hành thành tựu chứng tu. Có thuyết chép: Trụ trong tham, sân, si là ý nghiệp không điều phục. Nay trụ Không, Vô tướng, Vô nguyện nên điều được phục ý nghiệp. Tham là da nên điều phục bằng vào không . Sân là thịt nên điều phục bằng vô nguyện. Si là tim nên vô tướng mà điều phục. Trong các pháp tướng đều không có lý này, thì ai phải nhọc chê. Cho nên nay ngã pháp thật chẳng nên nói không. Giả tướng cũng không, nên nói vô tướng. Trong hai thứ này chẳng có mong cầu nên nói vô nguyện. Có thuyết chép: Trong ba thứ này không có quả để làm cho nên nói không. Không có làm, không có nhân để sinh nên nói không khởi, đây e không đúng. Vì làm đã có tác dụng há chẳng gọi là nhân, khởi cũng sinh khởi, có thể gọi làquả. Cho nên nay ngay nơi nhân không có thật dụng nên nói không làm (vô tác). Như kinh Duy-ma chép: Tuy làm nhưng vô tác. Quả không có thể chân thật nên nói không khởi. Tức kinh ấy nói tuy làm mà không khởi. Đã không thể dụng chân thật nên xem như hóa. Tóm lại, không làm không khởi nên chẳng thật có, quán pháp như hóa nên chẳng phải không, chẳng phải không chẳng phải có tức là Lý Trung Đạo, gọi là chứng hội. Lìa bỏ lời nói thô ác cho đến kia đây đều hại, là phần thứ ba nói lìa nghiệp ác. Có hai: Một là lìa lỗi. Lìa lời thô ác là lìa lỗi khẩu nghiệp, hại mình hại người. Kia đây cùng hại là lìa lỗi thân nghiệp. Bỉ là người khác. Tu tập lời nói lành cho đến nhân ngã đều được lợi, đây là nói nhiếp điều lành. Tu lời nói lành thì lìa bỏ lời nói thô ác. Tu ba lợi nên lìa ba hại. Bỏ nước, quên ngôi vua, dạy cho người làm, đây là phần thứ tư nói tu điều lành. Tự mình có chỗ bỏ chỗ tu cũng khiến người khác có chỗ bỏ, chỗ tu. Vô ương số kiếp chứa nhóm nhiều công đức, là phần thứ ba lại kết. quả. Hễ sinh chỗ nào cho đến Đạo chánh chân, là phần thứ hai, khen Có ba: Một là khen báo công đức. Có ba: Một là nêu chung. Hoặc làm Trưởng giả cho đến tất cả các Đức Phật, đây là kế khen riêng. Có thuyết chép: Trưởng giả tức là Tùy loại sinh, Sát-đế-lị… là tối thắng sinh, sáu tầng trời cõi Dục là tăng thượng sinh, không đúng, vì Trưởng giả cũng nên thắng sinh, các vị trời cũng đâu chẳng phải thắng sinh. Công đức như thế chẳng thể xưng kể, là kết khen. Hơi thở thơm sạch cho đến tướng tốt khác lạ, là phần thứ hai khen y báo chánh báo, có hai: Một là khen Chánh báo cao quý. Tay thường sinh ra cho đến vượt hơn trời, người; là khen y báo. Đối với tất cả pháp được tự tại, đây là phần thứ ba khen quả trí đức cao quý. A-nan bạch Phật cho đến thành Phật hiện tại, là phần thứ hai, nói quả đã thành, tức quả của thân và cõi do thệ nguyện mà thành. Có hai: Một là lược nói chỗ thành; hai là nói rộng chỗ thành. Phần một lại có bốn: Một là luận Phật đã thành, tức chủ đức thành. Cho nên luận chép: Chánh giác A-di-đà Pháp Vương khéo trụ trì. Tây phương cách đây cho đến gọi là An Lạc, là phần thứ hai, nêu cõi đã biến đổi. Ngài Bạch Diên và Chi Khiêm đều chép: Cõi nước ở trên là Tu-ma-đề, chính là ở phương Tây, cách đây ngàn ức muôn núi Tu-di cõi Phật. Mà nay nói cách đây mười muôn ức cõi, Nhân trái nhau như trước đã giải thích. A-nan lại hỏi cho đến trải qua mười kiếp, là phần thứ ba, nói thành Phật đã lâu. Kinh của Chi Khiêm chép: Thành Phật đến nay đã mười tiểu kiếp, ý giống kinh này. Còn ngài Bạch Diên nói thành Phật đến nay đã mười tám kiếp là bởi chữ tiểu thiếu nét giữa. Cõi nước Phật ấy cho đến cũng như báu trời thứ sáu, là phần thứ tư, nói nước ấy đẹp đẽ. Có hai: Một là nói cõi nước trang nghiêm. Trước thành Phật tức là ứng với nguyện thân Phật, cõi cõi này thanh tịnh, tức ứng với nguyện cõi Phật. Nghóa là đức chủng chủng sự thành tựu, nên luận chép: Đủ các châu báu, tánh đầy đủ trang nghiêm. Khôi là lớn, hách là đỏ. Trang nghiêm giới hạn tức đức hình tướng thành tựu, nên luận nói ánh sáng sạch đầy đủ như gương chứa ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Ánh sáng đỏ rực sáng tức là đức diệu sắc thành tựu. Nên luận nói; không dơ bẩn sáng sạch chiếu sáng khắp thế gian - Thanh tịnh tức đức thanh tịnh thành tựu nên luận chép: xem tướng thế giới ấy, đạo hơn cả ba cõi. Trang nghiêm, tức đức trang nghiêm thành tựu. Đó gọi là thủy, địa, không đều trang nghiêm. Như báu trời thứ sáu, tức là đem vật báu trời hơn gấp mấy lần của người để nói báu ở Tịnh độ hơn thế gian mà thôi. Lại cõi nước ấy cho đến thường hòa nhã thích hợp, đây là nói cõi trang nghiêm không nhơ uế. Có hai: Một là nêu chung các thứ không có, tức đức vô nạn thành tựu. Nên luận chép: lìa hẳn não thân tâm, hưởng vui thường vô gián. Khi ấy A-nan cho đến nương đâu mà ở, là nói về lý do không có. Có năm: Một là hỏi. Phật bảo A-nan cho đến nương đâu mà ở, là phần thứ hai, Phật hỏi lại. A-nan bạch Phật cho đến chẳng thể suy nghó bàn luận, là phần thứ ba, A-nan đáp: Phật bảo A-nan cho đến nên như thế, là phần thứ tư, Phật trình bày thành tựu, tức chỗ cầu đức mãn đã thành, nên luận chép: Điều nguyện của chúng sinh, tất cả đều trọn đủ. A-nan bạch Phật cho đến nên hỏi nghóa này, là phần thứ năm nói ý hỏi. Mặt trời, mặt trăng cũng có là như Giác kinh nói: Mặt trời mặt trăng, các sao đều trụ trên hư không, cũng không vận hành qua lại, cũng không có ánh sáng. Bởi tuy không có chỗ cho Tu-di qua lại cho nên có mà thôi, y cứ vào đó mà biết cõi ấy trời, người, khoảng không và mặt đất đều khác nhau, các nhà có khác giải thích khác nhau, chỉ luống nói suông. Phật bảo A-nan cho đến một cõi nước Phật, là phần thứ hai, nói rộng sự thành tựu. Nên đối nguyện trước mà nêu riêng sự thành tựu chỉ e rườm lời, lược bày quả cao quý. Có bốn: Một là khen quả thân Phật, tức nguyện báo thân Phật; hai là nói quyến thuộc, tức nguyện báo Bồ- tát Thanh văn; ba là khen cõi Phật nhiệm mầu, tức là quả cầu Tịnh độ; bốn là bày chỗ làm, là quả của nguyện nhiếp sinh. Phần một lại có hai: Một là khen riêng; hai là kết khen. Phần một lại có ba: Một là khen ánh sáng nhiệm mầu; hai là Nói tuổi thọ dài lâu. Phần một lại có bốn: Một là Đức Thích-ca tự khen. Có hai: Một là đối kém khen hơn, tức là nguyện quả báo ánh sáng không gì hơn được. Cho nên Phật Vô Lượng Thọ cho đến Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang là kết khen hiển bày cao quý. Có thuyết chép: Vì dài nên là vô lượng, vì rộng nên là vô biên, vì tự tại nên vô ngại. Vì các thứ khác không đối lại được nên là vô đối, vì hơn các sáng khác nên là Diêm vương, vì lìa cấu nên là thanh tịnh, vì thấy tâm vui vẻ nên là vui mừng, vì đối cảnh khéo chiếu nên là trí tuệ, vì chiếu vật không thôi nên là không đứt quãng, vì hơn tưởng thế giới nên là khó nghó, vì dứt nói tưởng nên là vô xứng, vì vượt hơn các sắc ở đời nên là siêu nhật nguyệt. Tuy có giải thích này nhưng không sáng riêng, cũng không trịnh trọng. Cho nên nay tức ánh sáng Phật không thể tính đếm nên là vô lượng, không duyên nào chẳng chiếu nên là vô biên, không có nhân pháp nào làm chướng ngại được nên là vô ngại, các Bồ-tát không bằng được nên là vô đối, sáng suốt tự tại không gì trên nên là Diêm vương. Từ gốc lành vô tham của Phật mà hiện, cũng dứt trừ hết tâm tham đắm của chúng sinh nên là thanh tịnh. Từ gốc lành không sân của Phật mà sinh có công năng dứt bỏ tức giận lo lắng của chúng sinh nên gọi là hoan hỷ Quang. Từ gốc lành không si, của Phật sinh khởi, lại dứt trừ tâm vô minh phẩm của chúng sinh, nên gọi là trí tuệ. Thường Quang của Phật luôn soi chiếu làm lợi ích, nên gọi là bất đoạn. Ánh sáng ấy người nhị thừa không lường biết được nên gọi là Nan tư. Cũng chẳng phải các thừa khác có khả năng nói được nên gọi là vô xưng. Ngày đêm thường soi chiếu không đồng với hai vầng sáng ở Ta-bà nên là Siêu Nhật Nguyệt. Nói tóm lại tức là Thân trang nghiêm. Nên luận nói tướng đẹp có ánh sáng phát ra xa một lầm, sắc tượng vượt hơn chúng sinh. Có chúng sinh cho đến đều được giải thoát, là phần thứ hai, nói người thấy được lợi ích, ba cấu dứt hết, tức trừ chướng lợi thân, ý vui mừng, tức là lợi sinh điều lành, khổ được ngưng nghỉ, tức là lợi ích cứu khổ, đều được giải thoát tức lợi ích được vui, đều được ánh sáng chạm thân là nguyện thân tâm khoan khoái mà được như thế. Phật Vô Lượng Thọ cho đến cũng giống như thế, đây là phần thứ ba, các Thánh cùng khen, tức vô lượng các Đức Phật đều khen ngợi nguyện xưng danh. Nếu có chúng sinh cho đến cũng như nay, là phần thứ tư, nghe ánh sáng được lợi ích, tức là nguyện báo thân lễ mừng, trời, người kính trọng được thành. Phật bảo ta nói cho đến còn chưa hết được, là phần hai kết khen, tức chẳng luống dối làm trụ trì trang nghiêm. Cho nên luận chép: Quán năng lực bản nguyện của Phật không lỗi khiến mau chóng đầy đủ công đức của biển báu lớn. Phật bảo A-nan cho đến ông có biết chăng, là phần thứ hai, luận tuổi thọ thành. Có hai: Một là nêu tuổi thọ dài lâu. Dù mười phương cho đến biết được hạn cực, là nói việc hiển bày sự dài lâu. Có thuyết chép: tiếng Phạm là Mặc-Diễn-Na, Hán dịch là Tónh Lự, xưa gọi là Thiền-na, hoặc gọi là thiền đều sai, vì gọi tắt. Tuy biết xưa là thiền, nay là Tónh Lự, nhưng chưa nghe chữ thiền, lại có người gọi thật đáng buồn. Nay tức là Thiền tư, là tên khác của chuyên tư (chuyên nghó). Thinh văn, Bồ-tát cho đến đều biết là phần hai, nói về quyến thuộc. Có bốn: Một là nói về tuổi thọ, tức tuổi thọ của trời, người không thể so sánh biết được, nguyện ấy đã thành. Lại Thinh văn, Bồ-tát cho đến chẳng thể xưng kể, là phần hai, nói chúng vô số, tức là nguyện Thinh văn vô biên đã thành. Luận Vãng Sinh gọi là chúng trang nghiêm, nên có bài tụng rằng: trời, người chúng chẳng động, biển trí thanh tịnh sinh. Thần trí rỗng suốt cho đến tất cả thế giới, là phần ba, lược khen đức cao quý, tức là nguyện được Tha tâm trí, túc mạng, thuyết Nhất thiết trí, trí tuệ biện tài… đều thành. Phật bảo A-nan cho đến Bồ-tát cũng thế, là phần thứ tư, nói rộng chúng đông nhiều. Có hai: Một là nêu chung. Hội đầu là nêu riêng nói bất tận để nói lên vô số. Như Đại Mục-kiền-liên cho đến số nhiều ít sau đây, là giải thích riêng. Có hai: Một là đối trí khen nhiều. Thí như biển lớn cho đến sao gọi là nhiều, là mượn việc mà hiển bày nhiều. Có ba: Một là lập dụ hỏi lại. A-nan bạch Phật cho đến như nước biển lớn, là Phật nói về thành tựu. Thích Vãng Sinh Luận nói hai hạng người Nhị thừa không sinh, rộng như trước đã nói, không giải thích lại. Lại cõi nước ấy cho đến cây xà cừ, là phần thứ ba, nói về Báo độ. Có bốn: Một là cây trang nghiêm; hai là nhạc trang nghiêm; ba là cung trang nghiêm; bốn là ao trang nghiêm. Phần một lại có ba: Một là cây báu trang nghiêm; hai là cây Đạo trang nghiêm; ba là đối kém mà khen hơn. Phần một lại có hai: Một là cây báu; hai là âm nhạc. Phần một lại có ba: Một là cây thuần báu, hoặc hai báu cho đến mã não làm báu; hai là nói cây tạp báu, từng hàng đối nhau cho đến chẳng thể xưng kể, là khen chung. Khi gió mát phát ra cho đến tự nhiên hòa nhau, là phần thứ hai nói về âm nhạc. Về gió mát thì bản khác nói là gió chẳng phải của trời hay của người. Âm thì kinh thi nói cung, thương, giốc, chủy vũ hợp tiếng ngũ hành. Nay nói cung, thương là nêu lược hai thứ. Cung là thô, thương là tế, hòa là ứng, không trái mạo âm, nên nói là tự nhiên. Pháp sư Hòa vị nói năm âm thinh: Một là rõ khắp; hai là dễ hiểu; ba là không tan; bốn là không chán; năm là vui tai. Tuy có điều này nhưng chẳng phải Phật nói nên không đáng tin. Lại Phật Vô Lượng Thọ cho đến tùy ứng mà hiện, là phần thứ hai, nói về cây Đạo tràng. Có ba: Một là thể tướng của cây Đạo, một dặm là ba trăm bước. bốn trăm muôn dặm là mười hai muôn do-tuần, ứng với nguyện Bồ-tát ít công đức thấy Đạo Tràng ở trước mà thành. Có thuyết chép: Tùy thân Phật ấy cao sáu mươi muôn na-do-tha hằng sa do-tuần là do thần lực của Phật, dẫu cây Đạo nhỏ cũng không ngại gì. Như thế các cung điện khác không cần xứng với hình thể lớn nhỏ. Nên nay kinh ấy Phật lượng đã là thân tha thọ dụng, còn cây Đạo này tức là hóa độ, nên không trái nhau. Hai mươi muôn dặm là sáu ngàn do-tuần, là không xứng với lượng ấy. Có bổn nói hai trăm muôn dặm mới đúng. Gió nhẹ thổi từ từ cho đến không gặp nạn khổ, là nói kế phát ra tiếng lợi ích chúng sinh tức đức diệu thinh thành tựu. Luận chép: Tiếng Phạm ngộ sâu xa nhiệm mầu nghe khắp mười phương. Mắt nhìn sắc ấy cho đến không có các nạn khổ, là nói thấy nghe được lợi. Có hai, đây là đối cảnh được lợi. Nhờ nguyện lực các căn không thiếu xưa mà được, cho nên nói sáu căn thanh tịnh, còn nói Pháp Nhẫn, sâu tức là thấu suốt tánh vô từ tướng sinh. Này A-nan nếu cho đến do năng lực oai thần, là nói nhờ năng lực của Hậu trí mà được Nhẫn. Có hai: Một là Nhờ thần lực mà được lợi ích. Có thuyết chép: Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa theo tiếng mà được ngộ. Thinh như tiếng vang. Nói âm Hưởng Nhẫn là Tứ Địa, Ngũ Địa, Lục Địa bỏ thuyền mà về thật, nên gọi là Nhu Thuận Nhẫn. Thất Địa trở lên là bỏ tướng chứng thật, nên nói là Vô sinh Nhẫn. Nhẫn tức là Tuệ tâm an pháp, ở đây không đúng. Sơ địa trở lên đều đã chứng Thật, nên không có theo tiếng về thật khác. Nên hữu ký hữu thuyết đầu tiên ở Thập tín là theo tiếng mà ngộ giải. Kế ở Tam hiền là hàng phục nghiệp hoặc, sau là chứng thật dứt tướng, nên nói là vô sinh nhẫn. Đây cũng không đúng, vì chưa vào Thập tín nếu sinh về cõi ấy thì không được pháp Nhẫn là trái với bổn nguyện, cho nên nay tức là tìm âm thinh của cây từ gió mà có, có mà chẳng phải thật, nên được âm thinh Nhẫn. Nhu là không trái Thuận, chẳng trái không. Ngộ cảnh tánh không chẳng trái với có, mà thuận với không, nên nói Nhu Thuận Nhẫn. Thấy các pháp sinh dứt bốn trường hợp nên gọi vô sinh nhẫn. Nhờ năng lực Bổn nguyện cho đến nguyện rốt ráo, đây là nói do nguyện lực mà được lợi. Bổn nguyện tức là năng lực thệ nguyện xưa. Bồ-tát ở phương khác nghe tên mà còn được nhẫn huống chi là ở cõi mình. Cho nên nguyện không thiếu sót vì cầu đầy đủ không luống dối, vì duyên minh liễu không thể hoại, vì nguyện bền chắc sẽ toại nguyện, rốt ráo do nguyện lực này mà sinh cõi ấy đều được ba nhẫn. Phật bảo A-nan cho đến gấp ngàn ức lần, là phần thứ ba, đối kém mà khen cao quý. Đối với tầng trời thứ sáu, là tầng trời cao quý nhất của cõi Dục. Cũng có tự nhiên cho đến rất là bậc nhất, là phần hai nói về nhạc trang nghiêm. Nhạc ở trên hư không không từ cây gió mà có, nên nói là tự nhiên. Các cảnh tượng bày ra đều là Phật pháp, không có tiếng nào chẳng phải pháp, tất cả tiếng đều đáng yêu, cũng là tùy theo nên nói ai lượng, tức hư không trang nghiêm. Nên luận chép: Có Vô lượng thứ báu giao nhau, giăng lưới khắp hư không, các thứ chuông phát ra tiếng vang, giảng nói pháp mầu. Lại giảng đường nhà cửa cho đến che trùm ở trên, là phần thứ ba nói về cung điện trang nghiêm - giao lộ là màn trướng, giăng màn. Tức nhà cửa rừng cây đọng nước như phủ sương, tức là Địa trang nghiêm. Luận nói cung điện lầu các nhìn thấy khắp mười phương vô ngại. Nhiều cây có ánh sáng lạ, bao quanh các hàng rào báu… Trong ngoài hai bên cho đến đều một loạt, là phần bốn nói về ao trang nghiêm. Có hai: Một là tướng của ao, có bốn: Một là lượng của ao, tức nước trang nghiêm. Nên luận nói hoa báu ngàn muôn thứ, che đậy khắp ao suối, gió nhẹ động lá hoa, rung rinh sáng lấp lánh. Nước tám công đức cho đến vị như ngọt cam lộ, là phần thứ hai, nói về tướng nước thanh tịnh, tức là một trong tám tính chất, thơm sạch là tính chất thứ hai. Vị như cam lộ là tính chất thứ năm. Nếu muốn giải thích đủ thì giải như trước, nay chẳng luận thêm. Ao vàng ròng cho đến che phủ mặt ao, là phần thứ ba, nói về ao trang nghiêm, trước là giảng đường nhà cửa, đây là ao, do điều nguyện thứ ba mươi ba mà thành. Các Bồ-tát và Thinh văn ấy cho đến chẳng chậm chẳng nhanh, là phần thứ tư, nói về vật dụng mặc tình. Tâm cấu tức là phiền não, chỉ có tuệ dứt trừ. Mà nước trừ là dùng nước làm duyên, phát nước tuệ mà trừ sạch. Sóng lăn tăn vô lượng cho đến vui vẻ vô lượng, là phần thứ hai, khen tiếng. Có ba: Một là tùy loại nghe có khác. Thuận theo thanh tịnh cho đến đạo thực hành, là phần thứ hai, nghe những tiếng ấy rồi thì tu việc lành. Nghóa chân thật tức là Niết-bàn. Pháp Bất cộng, tức là Bồ-đề. Đạo thực hành tức là nhân quả. Không có ba đường cho đến gọi là An Lạc, là phần thứ ba, nói chỉ có vui. Này A-nan, Đức Phật ấy cho đến thần thông công đức, là phần thứ tư, nói thuộc về nguyện nào, có hai: Một là báo sinh cao quý, tức là nguyện lực nhiếp phương khác đã thành; hai là diệu báo của trụ, tức là nguyện nhiếp cõi mình đã thành. Phần một lại có hai: Một là là Chánh báo nhiệm mầu. Sắc thân là nguyện báo thân vàng ròng. Diệu ý là nói nguyện Nhất thiết trí đã thành. Thần thông, tức là quả nguyện cúng dường Phật phương khác. Công đức tức là các nguyện có kết quả về thọ trì, phúng tụng, phạm hạnh, tổng trì, Tam-muội… Cung điện nơi ở cho đến đạo Niết-bàn, là nói y báo tốt đẹp, tức nguyện muôn vật đẹp đẽ, y phục tùy ý nghó liền có… đã thành. Bạch Diên và Chi Khiêm đều nói Phật A-di-đà và các Bồ-tát, A-la-hán khi muốn ăn thì tự nhiên có thức ăn ngon ngọt, mà ở đây không có là do lược bỏ. Chỉ nói thấy sắc, nghe hương, tức là biết cõi ấy chỉ ngửi mùi mà không cần ăn nuốt. Có thuyết chép: Sắc không lìa ăn cho nên nói thấy sắc thể tức ba trần là không đúng. Đã chẳng thọ dụng thì làm sao vị xúc chạm thức ăn mà gọi là ăn. Kế là gần đấy, đã không có nhân khổ thì vui như lậu hết, là quả báo của nguyện. Các Thinh văn ấy cho đến là thể vô cực, là phần hai, nói người ở cũ có quả báo cao quý. Có hai: Một là Chánh báo cao quý; hai là y báo cao quý. Phần một lại có hai: Một là nói thẳng báo cao quý cùng một loại, tức là quả báo của nguyện thứ tư. Hư vô vô cực là không có chướng, là ít có, như thứ lớp tức là quả báo của nguyện lực Na-la-diên. Có thuyết chép: Không phải trời, không phải người. Sinh về nước ấy tuy là phàm phu nhưng không phải cõi trời, cõi người. Nếu cõi người thì phải có bốn thiên hạ. Việt Đơn chép: Nếu không phải bốn thiên hạ, thì ngoài bốn châu có người riêng ư? Nếu có Bắc Châu thì có trời Trường Thọ. Cho nên trong Tịnh độ sẽ có sự gạn hỏi. Do đây mà Tịnh độ không phải cõi trời, cõi người, không phải ba cõi. Tức Trí luận chép: vì không có dục, vì ở đấy, vì có sắc như thứ lớp không phải dục sắc. Đây e không đúng. Do bổn thệ chỉ nói về ba đường mà không nói đường lành. Nếu không phải đường lành thì phải nói có năm đường. Lại nếu không phải Phật mà không phải ba cõi thì tức trái. Kinh nói ngoài ba cõi có chúng sinh thì không phải bảy Đức Phật nói. Mà Trí luận nói chẳng phải ba cõi, hơn nữa để phân biệt với cõi uế, nên nghóa cũng không lỗi. Tuy có trời, người, nhưng trời, người không khác, chỉ theo nghiệp cõi uế mà phân biệt trời, người, cho nên nói vì thuận với các phương khác mà có tên trời, người thôi. Do đây mà các vị trời đều ở trên hư không. Ngài Bạch Diên nói một là trời Tứ Thiên vương, hai là trời Đao-lợi đều tự nhiên ở trên hư không, không có nhân sở y. Phật bảo A-nan cho đến đâu thể giống, là nói mượn việc mà hiển bày sự cao quý. Có năm: Một là so sánh người nghèo với vua, có ba, đây là mượn việc mà hỏi lại. A-nan bạch Phật cho đến nhân được như thế, đây là kế A-nan đáp là hơn. Để là rất, Tư hạ là thấp hèn, đãi là gần, tọa là tội. Hộ là phước. Tu cực là rất mệt mỏi v.v… Phật bảo A-nan, ông nói đúng, là nói sau đó Phật nói thành tựu. Kể như Đế Vương cho đến bên Đế vương, là phần thứ hai, so sánh vua với Luân Vương. Vua Chuyển luân cho đến gấp ức lần, là phần thứ ba, so sánh Luân Vương với Đế-thích. Nếu khiến cho Thiên-đế cho đến không cùng loại, là phần thứ tư, so sánh Đế-thích với Ma Vương. Nếu như Thiên Vương tầng trời thứ sáu cho đến gấp nhiều lần không thể kể hết, là phần thứ năm, so sánh Ma Vương với chúng ở Tây phương. Phật bảo A-nan cho đến cao thấp lớn nhỏ, là phần thứ hai, nói về y báo nhiệm mầu. Có sáu: Một là đồ dùng gọi là hình. Hoặc một báu cho đến theo ý nghó liền có, là phần hai, nói về các báu theo ý (mặc tình sử dụng). Lại dùng các báu cho đến đạp lên mà đi, là phần ba, nói áo báu trải đầy đất. Vô lượng lưới báu cho đến hết sức đẹp đẽ trang nghiêm, là phần thứ tư nói lưới báu giăng đầy. Tự nhiên gió đức cho đến sáu lần như thế, là phần thứ năm, nói về gió đức thổi vào trống. Quá nhã là hay, phương là thơm, liệt là ánh sáng, là đẹp. hai ngài Bạch Diên và Chi Khiêm nói cúng hoa Phật bốn lần, ở đây nói sáu lần cũng không hại gì. Lại các hoa sen báu cho đến trăm ngàn ức tia sáng, là phần sáu, nói các vật báu biến hóa đầy đủ. Có hai: Một là thế giới Hoa Nghiêm. Trong mỗi tia sáng cho đến Chánh đạo của Phật, là nói ánh sáng làm lợi ích chúng sinh, tức là cung trang nghiêm, cho nên luận nói tiếng nói Phạm của Như lai rất nhiệm mầu vang khắp mười phương.  KINH VÔ LƯỢNG THỌ LIÊN NGHÓA THUẬT VĂN TÁN <卷>QUYỂN HẠ Phật bảo A-nan cho đến nhóm bất định, là phần thứ hai, nói nhân quả vãng sinh của chúng sinh, tức nguyện nhiếp chúng sinh mà nói về vãng sinh. Vãng sinh có bốn: Một là phàm tiểu vãng sinh; hai là Đại thánh vãng sinh; ba là nói sự hơn kém của cả hai và khuyên phàm tiểu vãng sinh; bốn là khen cõi nước ấy cao quý, khuyên Đại Thánh cầu sinh. Phần một lại có ba: Một là bày Chánh định khiến mọi người cầu sinh. Có thuyết chép: Có pháp Niết bàn gọi là nhóm Chánh định, không có pháp Niết-bàn gọi là nhóm Tà định, lìa hai thứ này gọi là nhóm Bất định, là không đúng. Lìa chủng tánh có và chủng tánh không thì ngoài ra không có nhóm chúng sinh, nên chỉ có hai thứ này. Có thuyết chép: Đường lành trở xuống gọi là Tà định, ở giai vị đường lành thì có số lui sụt, số tinh tiến gọi là Bất định. Tập chủng trở lên là phần vị không lui sụt nên gọi là Chánh định. Như Nhị thừa ngoại phàm thường bị chìm đắm nên gọi là tà định. Sáu phương tiện trước gọi là Bất định. Nhẫn pháp trở lên gọi là Chánh định. Cho nên vãng sinh về nước ấy bất luận là ba thừa đều an trụ Chánh định mà không có nhóm khác. Đây cũng không đúng. Bởi nghóa ba nhóm trái với các giáo lý, nên đúng lý mà nghó. Đường lành trở xuống gọi là Tà định, nếu sinh về cõi nước ấy liền an trụ chánh định thì phải vượt Thập Tín mà vào Tập chủng, hông bao giờ có nghóa này. Nếu sinh về cõi nước ấy mà không vào vị Tập chủng, thì sẽ không có lỗi này. Lại có nhóm Bất định ở cõi ấy, cho nên có thuyết chép: Theo Luận Trung Biên thì Chánh vị Tập khởi đã ở Sơ địa, cho nên Bồ-tát vãng sinh trong đây chỉ là Sơ địa trở lên, là không đúng. Nếu chỉ có Bồ-tát thì trái kinh, vì kinh nói đều có. Vậy cũng nên có nhóm Bất định. Có thuyết chép: Trụ nhóm Chánh định thì đồng với Tiểu kinh (Di-đà) tức đều là A-bệ-bạt-trí. A-bệ-bạt trí tức là không lui sụt. Nên y theo Thập giải của bổn nghiệp thì các giai vị từ tâm thứ bảy trở lên đều thuộc về không lui sụt. Tuy có hạ vị nhưng nói theo chỗ hơn thì đều thuộc về không lui sụt. Đây cũng không đúng. Đã từ tâm thứ bảy trở lên thì gọi là không lui sụt, tức các giai vị thấp hơn chẳng phải không lui sụt, cho nên có Bất định - nay tức là các giáo khác nói ba thừa đều là cõi uế mà có ba thừa này, cho nên nếu sinh Tịnh độ thì bất luận là phàm Thánh đều chắc chắn hướng về Niết-bàn, chắc chắn hướng về hạnh lành, chắc chắn sinh về đường lành, chắc chắn thực hành sáu độ, chắc chắn được giải thoát. Cho nên chỉ có nhóm Chánh định mà không có hai nhóm kia (tức nhóm Tà định và nhóm Bất định). Mười phương hằng sa cho đến chê bai Chánh pháp, là phần thứ hai, nêu các Đức Phật khen khiến người sinh tâm cầu sinh. Các Đức Phật nói đã cùng khen nghe tên muốn sinh thì sẽ được vãng sinh. Có thuyết nói: kinh này dựa theo nhóm Chánh định nên trừ năm tội nghịch và chê bai Chánh pháp, trong Quán kinh nói nhóm Tà định được sinh, cho nên người gây năm tội nghịch cũng được sinh, là không đúng. Nếu nói người Hạ Hạ sinh sinh về Tịnh độ thì đó không phải Chánh định. Có thuyết chép: tuy gây ra năm tội nghịch, nhưng nếu tu mười sáu pháp quán thì liền được vãng sinh, tức là ý kinh ấy. Nếu chẳng tu mười sáu pháp quán thì tuy có làm các điều lành khác cũng không được sinh. Cho nên kinh này trừ ra, cũng không đúng. Vì Hạ phẩm Hạ sinh cũng tu mười sáu pháp quán thì trái với kinh ấy. Cho nên nay văn này trước đã giải thích nên không cần phải giải thích lại. Mà mười niệm trước đây nói một niệm là quá ít hay quá nhiều cũng là thêu dệt, nên không trái nhau. Phật bảo A-nan cho đến có ba nhóm kia, là phần ba, nói về nhân vãng sinh khiến người tu sinh. Có hai: Một là nêu chung. Có thuyết chép: ba nhóm trong đây đều sinh về cõi tha thọ dụng, không đồng với sinh chín phẩm của cõi biến hóa trong Quán kinh. Nếu không thể làm các công đức là giả thiết, cho nên mười niệm cũng là nói lời hỏi của Di-lặc là không đúng. Chữ nếu là dẫu các công đức khác cũng khiến phát tâm Bồ-đề, kinh nói nếu cũng như các lời nói khác, nên cũng là nói thật. Lại nếu mười niệm tức là không phải phàm phu niệm, thì làm sao chỉ có hai nhóm Thượng trung mà không nói là chỉ có nhóm hạ. Cho nên ở đây hợp chín nhóm kia thành ba nhóm này thì nghóa cũng chẳng khác. Không nên hỏi gạn rằng trong kinh ấy hai phẩm Trung thượng và Trung trung đều là Sa-môn cũng thấy chân Phật, không phát đại tâm, còn Trung hạ một đời không làm Sa-môn đều không thấy Phật, không phát đại tâm mà nhóm Trung này không làm Sa-môn lại cũng hóa Phật, nếu có phát tâm Bồ-đề thì nghóa sẽ trái nhau. Ở nhóm Trung tự có nhiều loại, hai kinh đều nói một loại nên không trái. Nhưng nói phải phát tâm Bồ-đề là muốn nói sinh về cõi ấy phải phát tâm Bồ-đề là để phân biệt rõ với tánh chắc chắn không được sinh. Cho nên sự trái nhau của các văn đều là loại này. Có thuyết chép: Lại có khi vãng sinh mà không phải ba nhóm, nghóa là trong văn dưới có nghi rằng người có năm trí có tâm nghi ngờ, tu các công đức cũng tin tội phước, nhưng tu ít gốc lành mà nguyện sinh cõi nước ấy, vì lòng tin bất định nên không phải sáu phẩm trước tu ít phước, cũng không phải ba phẩm sau. Do đó mà không thuộc chín phẩm. Đây cũng không đúng, hai ngài Bạch Diên và Chi Khiêm đều chép: Người nhóm Trung nghi ngờ chẳng tin, tuy sinh về cõi ấy nhưng ở trong thành năm trăm năm chẳng thấy Phật, chẳng nghe kinh, chẳng thấy Thánh, thì chẳng thể nói phàm phu nghi trí chẳng thuộc chín phẩm. Có thuyết chép: Chẳng quyết bốn nghi, tuy sinh về nước ấy mà ở biên địa là một loại riêng, không thuộc chín phẩm. Cho nên đừng vọng sinh nghi ngờ. Đây cũng không đúng. Điều hai kinh nói là nhóm Trung Hạ ở trong thành báu năm trăm năm thì như kinh này phàm phu nghi trí ở trong cung báu cũng là biên địa. Nếu không thế thì trái. Vì kinh nói ở trong nhà cửa trên mặt đất nhưng không thể tùy ý khiến to lớn như ở trên hư không, lại cách Phật A-di-đà rất xa. Có thuyết nói người nghi trí Phật tức nhóm Trung này là Trung phẩm của Quán kinh. Theo kinh của Bạch Diên và Chi Khiêm thì nói nhóm Trung là người giữ giới, bố thí, cúng dường Sa-môn, cất chùa xây tháp, sau nghi không tin. Người này lúc tin lúc không, tiếp tục kết nguyện lành mà được vãng sinh. Tuy sinh về nước ấy nhưng không được ở trước Phật Vô Lượng Thọ. Lại nói bị ở ngoài cõi Phật, trong thành báu suốt năm trăm năm không được thấy Phật nghe pháp… không phải người nghi trí Phật trong kinh của ngài Pháp Hộ. Đây cũng không phải, hai ngài Bạch Diên và Chi Khiêm cũng nói bậc Hạ ở bên thành năm trăm năm không được thấy Phật, thì làm sao nghi người Trí chỉ ở trong nhóm Trung mà không phải là nhóm Hạ. Nên nói nhóm trung người trí nghi tu nhân giống như thế, nên tuy thuộc phẩm Trung mà không phải Hạ thì cũng có thể nhóm Hạ mà chịu quả giống như Trung phẩm. Cho nên thuộc về quả nghi ngờ trí Phật, tuy giống, nhưng không thuộc nghi trí nhân. Tuy là đồng nhưng sao cho là nghi trí? Lại điều nói trong chín phẩm thì nó thuộc Trung thượng, lý ấy không đúng. Trung thượng của Quán kinh thì trong kinh này là nghi trí, hoa nở thấy Phật nghe pháp được lợi cũng đều khác nhau. Cho nên nếu nói Trung thượng tự có nhiều loại cho nên ở đây không lỗi, thì đâu chẳng phải Trung hạ cũng có nhiều loại mà thuộc nghi trí? Cho nên nay nghi ngờ năm trí Phật thì thuộc hai phẩm Trung hạ và Hạ thượng, do đây mà hai ngài Bạch Diên và Chi Khiêm đều nói hai nhóm sau ở trong thành năm trăm năm không được thấy Phật nghe pháp thấy Thánh. Hoặc ba nhóm hoặc chín phẩm đều không rộng hẹp, đều thuộc về vãng sinh. Song ba nhóm thì làm lành là bậc Thượng, ngăn ác là bậc Trung, gây điều ác là bậc Hạ thì nghó rất đúng lý. ba nhóm ở đây có ba nghóa riêng: Một là thân tâm khác nhau, tức tâm thì phát tâm Bồ- đề, chuyên niệm Di-đà, phần nhiều giống như đây, còn thân thì xuất gia là bậc Thượng, ở tục thì bậc Trung, hạ; hai là Tu nhân khác nhau, tức tu đủ các hạnh là bậc Thượng, ít phần tu phước là bậc Trung, xưng niệm danh hiệu Phật ấy mười niệm, một niệm là bậc Hạ; ba là duyên sinh khác nhau, tức Di-đà, Quán Âm chân thân đến đón rước là bậc thượng, hóa thân đến đón rước là Trung, còn mộng thấy thân Phật là bậc Hạ. Ngài Bạch Diên nói ba nhóm có bốn nghóa riêng: Một là khác về thân tâm, tức xuất gia và phát tâm Bồ-đề là nhóm Thượng. Ở tục mà tâm chí thành là Trung, hạ; hai là khác về tu hành, tức tu đủ các hạnh, mộng thấy các thánh là bậc Thượng, ít tu các điều lành, ngày đêm không dứt mộng thấy các thánh là bậc Trung. Chỉ dứt ái nộ, niệm Phật mười ngày mười đêm không dứt là bậc Hạ; ba là khác về thấy Phật, tức giống ba thứ này; bốn là khác về thọ quả, tức sinh vào cõi ấy thành A- Duy-việt, ở nhà cửa trên hư không, cách Phật cũng gần là bậc Thượng. Còn ngưng ở thành báu giữa đường, nhà cửa ở trên mặt đất, cách Phật khá xa là bậc Trung, bậc hạ. Kinh của ngài Chi Khiêm có nhiều điểm giống nhưng có khác là muốn sinh về nước ấy phải treo nhiều cờ phướn, lọng báu, vải mầu, cất chùa xây tháp, cúng dường Sa-môn, phải dứt ái nộ, trai giới thanh tịnh, một lòng niệm Phật mười ngày không dứt chỉ là bậc Hạ mà thôi. So sánh hai kinh ấy với kinh ngài Pháp Hộ thì bậc Thượng tuy giống nhưng Trung Hạ thì khác. hai phẩm ấy còn nghi tâm, chưa phát đạo ý. Trong đây hai nhóm này đều phát đạo ý tin quyết định - Sở dó có khác nhau là vì bản chữ Phạm tuy có đủ, nhưng Bạch Diên và Chi Khiêm chỉ dịch và nghi tin là vãng sinh, còn ngài Pháp Hộ chỉ dịch tịnh tín tu nhân, sau mới bày lỗi nghi của người trí. Cho nên lời tuy trái nhau nhưng lý không khác. Muốn giải thích sự khác nhau của ba nhóm hạnh vị thì giải thích như trước, ở đây không nói lại. Nhóm thượng ấy cho đến nguyện sinh về nước ấy, là giải thích riêng. Ở đây có ba: Một là giải thích bậc Thượng, có hai: Một là Chánh giải thích. Có bốn: Một là xưa có tu nhân. Các chúng sinh ấy cho đến hiện trước người ấy, là phần hai, nói chết có tướng hiện. Liền theo Đức Phật ấy vãng sinh về nước ấy, là phần ba, có theo Phật. Liền ở bảy báu cho đến thần thông tự tại, là phần thứ tư nói sinh có được lợi ích. Có thuyết chép: Ba nhóm như thứ lớp, tức trong chín phẩm thì có thượng trung, trung thượng, hạ hạ cho nên kinh ấy nói chỉ trong bảy ngày được không lui sụt, là không đúng. Có thuyết chép: Đây nói trụ không lui sụt, tức Sơ địa trở lên là địa vị không lui sụt - Quán kinh nói ngộ Vô sinh nhẫn được thông trăm pháp đều là Sơ địa. Đây cũng không đúng. Trong kinh ấy nói sinh được không lui sụt tức là Sơ địa. Cho nên nay tức Thượng phẩm tam sinh tuy có nhanh chậm, nhưng đều vào Thập tín mà được vô sinh nhẫn, ngộ trăm minh môn, nên gọi là trụ không lui sụt. Cho nên A-nan cho đến nguyện sinh về nước ấy, là kết thúc khuyến khích. Phật bảo A-nan cho đến nguyện sinh về nước ấy, là phần hai, giải thích bậc Trung. Có hai: Một là nêu chung. Tuy chẳng làm được cho đến nguyện sinh về nước ấy, là giải thích riêng. Có bốn: Một là xưa có tu nhân. Người ấy khi qua đời cho đến hiện ra trước người ấy, là thứ hai, nói chết có tướng hiện. Liền theo Hóa Phật mà vãng sinh về nước ấy, là phần ba có chỗ đến. Trụ không lui sụt cho đến như bậc Thượng, là phần thứ tư, nói sinh được lợi. Theo Quán kinh thì bậc Thượng, Trung, Hạ đều nói có Di-đà tự hiện ra trước người ấy mà chẳng nói là chân thân hay hóa thân, văn đã hết lý. Phật bảo A-nan cho đến muốn sinh về nước ấy, là phần thứ ba, giải thích bậc Hạ. Có hai: Một là nêu chung. Nếu không thể cho đến nguyện sinh về nước ấy, là giải thích riêng. Có ba: Một là xưa có tu nhân. Phải phát tâm Bồ-đề, tức là phân biệt với Định tánh không bao giờ hướng về Đại thừa, nên không trái với văn Quán kinh. Người này khi sắp qua đời mộng thấy Phật ấy là phần hai, nói chết có tướng hiện. Cũng được vãng sinh cho đến như bậc Trung, là phần thứ ba nói về sinh được lợi , phối hợp riêng chín phẩm ấy để giải thích, thì e phiền nhọc, nên không chép đủ. Phật bảo A-nan cho đến khen ngợi việc ấy, thứ hai là nói Đại Bồ tát vãng sinh. Có hai: Một là lược nêu; hai là rộng tụng. Phần một lại có hai: Một là các Đức Phật cùng khen. Đông phương Hằng sa cho đến cũng giống như thế, là các thánh cao quý cùng sinh. Nói chung, là muốn giúp cho kẻ phàm tiểu thêm ý muốn sinh nên nói nước ấy cao quý. Lúc ấy, Đức Thế tôn nói tụng rằng, là phần hai rộng tụng. Có hai: Một là tỏa văn. Các cõi nước Phật ở phương Đông cho đến đến hầu Vô Lượng Giác, là Chánh tụng. Có hai: Một là khen Thánh cao quý cùng sinh, tức bài tụng thứ mười lăm; hai là Tụng các Đức Phật đều khen, tức bài tụng thứ mười lăm. Phần một lại có có ba: Một là Thánh cao quý đều sinh, lại có hai: Một là tụng phương Đông vãng sinh. Cận là hầu, các quan gặp vua gọi là cận (hầu). Bốn duy Nam, Tây, Bắc cho đến đến hầu Vô Lượng Giác, đây là nói các phương khác vãng sinh. Tất cả các Bồ-tát cho đến cúng dường Vô Lượng Giác, là phần hai, nói cung kính tu phước. Có ba: Một là ngoại sự cúng dường. Thấu suốt thần thông tuệ cho đến đảnh lễ Đấng Vô Thượng; hai là nói nội nghiệp cúng dường. Cứu là rốt ráo, Đạt là rỗng suốt, đứng bên cạnh nhìn gọi là Du, cùng nguồn gọi là nhập. Đi vào pháp sâu xa là người trí vào sâu. Thông là đi thông qua, tức là có cả thông và trí. Vì phước hạnh tròn đủ cho nên có công đức. Tuệ Hạnh khác lạ sâu mầu nên trí tuệ không ai sánh bằng. Phước là tuệ tư, tuệ là phước đạo, tức là phước trí đều có. Có thuyết chép: Cả hai thứ này đều là khen tự đức của Phật, là không đúng. Thông là phương pháp hay để hóa độ chúng sinh, nên đó nói trí là gốc của thông, thông là dụng của trí. Cũng không đúng. Thông đã là trí của thế tục thì phải có thể dụng. Còn mặt trời tuệ là từ dụ mà gọi tên. ba thứ hoặc, nghiệp, khổ có công năng che lấp chân không và mặt trời, mặt trăng trí tuệ, đồng như mây che mặt trời, mặt trăng trên hư không nên nói là mây sinh tử. Trí Phật là đạt chân, có công năng dứt trừ chướng hoặc, nghiệp, khổ của mình và người nên nói mặt trời trí tuệ, khiến mọi người hiểu biết nên gọi là chiếu thế gian. Thấy cõi trang nghiêm thanh tịnh ấy cho đến nguyện nước tôi cũng thế, thứ ba, là thấy cõi mà ham cầu. Tâm vô lượng là bốn tâm vô lượng. Đúng lúc Vô Lượng Tôn cho đến ba vòng rồi vào đảnh, là bài tụng thứ ba, nói về nghe pháp sinh trí. Có bốn: Một là hiện tướng phát khởi. Chiếu khắp, cứu giúp không hai, nhiễu thân là nhóm họp đức tròn đầy, cho nên nhiễu ba vòng chắc chắn gồm hai đại só - vào đảnh là vào chỗ tôn quý nhất trong ba chỗ tôn quý. Tất cả chúng trời, người, đều hớn hở vui mừng, là thứ hai, chúng nhìn thấy đều vui mừng. Đại só Quán Thế Âm cho đến đúng thế xin nói ý, là phần thứ ba, nói Quán Âm thỉnh nói. Tiếng Phạm như sấm gầm cho đến nay nói nhân giả hãy lắng nghe, là phần thứ tư, nói Như lai đáp lời mời. Có hai: Một là là lược nêu và hứa nói. Tiếng Phạm là nêu chung. Tám âm là khen riêng. Như kinh Phạm-Ma Dụ chép: Một là tiếng hay nhất, tiếng êm dịu; hai là tiếng dễ hiểu, tiếng nói luận rõ ràng; ba là tiếng điều hòa, lớn nhỏ vừa chừng; bốn là tiếng êm ái nhẹ nhàng; năm là tiếng không lầm lỗi; sáu là tiếng chẳng phải tiếng nữ, tiếng trầm ấm rõ ràng; bảy là tiếng Tôn tuệ, tức nói có oai; tám là tiếng sâu xa, tiếng nghe xa. Dùng diệu âm này mà đáp Quán Âm nên nói tiếng hòa diệu. Chánh só mười phương đến cho đến được thọ ký sẽ thành Phật, là phần thứ ba, theo trí hạnh được thọ ký thành Phật. Thông đạt các pháp tánh cho đến sẽ thành cõi như thế, là phần thứ tư, nêu Trí nguyện được thọ ký thành cõi. Trí pháp như mộng, chớp,… tức là Đế Trí thế tục, thông suốt pháp tánh không, tức là Đế trí thắng nghóa. Các Đức Phật bảo Bồ-tát cho đến mau được chỗ thanh tịnh, là phần thứ hai, hai bài tụng nói các Đức Phật khen ngợi. Có hai: Một là Bài tụng nói các Đức Phật khác khen ngợi, tức năm bài tụng, bài tụng sau nói Đức Thích-ca tự khen, tức bài tụng thứ mười. Phần một lại có bốn: Một là khen nghe pháp được độ. Đến cõi nước trang Nghiêm thanh tịnh ấy cho đến thọ ký thành Đẳng Chánh Giác, là phần thứ hai, khen đắc thông thành Chánh Giác, tức trước thọ ký cho Bồ-tát. Năng lực bổn nguyện của Phật, tự được không lui sụt, là phần thứ ba khen nghe tên được không lui sụt, tức trước trụ vào nhóm Chánh định. Bồ-tát khởi Chí nguyện cho đến lại đến nước An dưỡng, là phần thứ tư khen được nguyện cúng Phật. Nguyện được độ như cõi nước Di- đà nên nói nước không khác, tức là nguyện cầu Tịnh độ. Nguyện khi thành Phật thì đức danh vang xa nên nói danh hiển bày mười phương, tức nguyện cầu thân Phật. Nếu người không gốc lành, mà được nghe kinh này, là phần thứ hai Đức Thích-ca tự khen. Có ba: Một là khen kinh khó tin; hai là trí Phật khó nghó; ba là khuyên khiến phát tâm. Phần một lại có hai: Một là nói khéo nghe, khen kinh nhiệm mầu. Lại từng thấy Thế tôn cho đến ưa nghe giáo như thế, là nói có người ác chẳng tin nghe để khen kinh sâu nặng. Khen nhiệm mầu; là khiến người bỏ ác tu lành. Khen sâu nặng là khiến bỏ chê bai, sinh tin ưa. Thinh văn hoặc Bồ-tát cho đến chỉ có Phật biết rõ, là thứ hai nói trí Phật khó suy nghó bàn luận. Có hai: Một là Đối với trí Nhị thừa mà khen chỉ có Phật biết rõ. Nếu tất cả người cho đến như thế rất thanh tịnh, là đối với các Thánh trí mà khen trí sâu xa thanh tịnh, được Đạo là hạnh cao quý. Đạt không là hiểu sâu. Ức kiếp là thời gian lâu - Cùng lực là nói cùng cực vô biên, khắp mười phương - Vô tế là cùng ba cõi, thanh tịnh là chướng hết. Rốt ráo thanh tịnh đạo quả, nên khen khó suy nghó bàn luận. Tuổi thọ rất khó được cho đến, nếu nghe siêng năng cầu, là phần thứ ba khen khiến cầu nguyện. Có ba: Một là khuyên nghe siêng cầu. Đã lìa ba nạn chẳng chịu luống qua. Cho nên tuổi thọ là nương Phật làm duyên tốt, tin tức là hạnh gốc nên nói riêng. Nghe pháp hay chẳng quên cho đến cho nên phải phát ý, là kế chánh khuyên phát tâm, tức chẳng quên lời Di-đà nói, cũng thấy Phật ấy mà sinh tâm kính trọng, rất vui mừng. Hạnh thuận theo Thích-ca, được Phật Thích-ca che chở nên nói bạn lành của ta. Nếu lửa đầy thế giới cho đến rộng độ dòng sinh tử, là thứ ba khuyên tâm không lui sụt. Phật bảo A-nan cho đến tất cả chúng sinh, là phần ba, khen chê được mất để khuyên phàm tiểu - có ba: Một là khen cõi ấy tốt đẹp khiến người ham cầu; hai là nói cõi này uế ác khiến người chán bỏ; ba là cùng nêu hơn kém khiến có tu bỏ. Phần một lại có hai: Một là khen rộng sự vui cao quý; hai là khuyên khiến vãng sinh. Phần một lại có tám: Một là khen tuổi thọ dài lâu - một đời là đời rốt sau trong năm đời, sinh quyền thật bất định. Thật tức là đối với Trí Ma-hê-thủ-la mà sinh quyền cũng có hai thứ khác nhau. Nếu ở cõi uế thì sinh ở Diêm-phù-Đề gọi là một đời. Nếu sinh Tịnh độ tức một đời thành Phật gọi là một đời. Nay muốn phân biệt thật, nên gọi là Bổ xứ, nếu có nghi thì nói Bồ-tát ở cõi ấy. Nếu đều Bổ xứ thì chẳng cần du hóa. Cho nên giải thích là trừ có bổn nguyện, đều không lui sụt nửa chừng. Này A-nan, cõi nước ấy cho đến thế giới Đại thiên, là phần thứ hai nói ánh sáng đặc biệt lạ lùng. Có hai: Một là nêu ánh sáng khác nhau. Ngọc Thiên nói một tầm là tám thước. Lại nói bảy thước, đây hình như không đúng, tức đồng với nhận. A-nan bạch Phật rằng cho đến hóa sinh về cõi ấy, đây là nói sau đó càng khó, đã nói ở cõi này tu hạnh Bồ-tát tức là biết vua Vô Tránh Niệm ở cõi này. Bảo Hải cũng thế. Này A-nan cõi ấy có cho đến ba mươi hai tướng, là phần ba nói thân tướng đầy đủ. Vẻ đẹp bất định nên không nói. Trí tuệ đầy đủ cho đến vô sinh pháp nhẫn, đây là phần tư nói trí đức tốt đẹp. Có thuyết chép: Chứng hội pháp tánh nên nói vào sâu các pháp hiểu suốt lời nhiệm mầu, nên nói biết hết chỗ sâu xa. Đây hẳn chẳng đúng. Chúng sinh sinh về nước ấy được hai trí này nên chẳng phải phàm tiểu. Nay tức nhập các pháp là ngộ sở thuyên. Sướng yếu diệu là nhàn năng thuyên. Có thuyết chép: Các căn là năm thứ tín…, là không đúng. Tín… tức là Độn căn, nay tức là sáu căn. Có thuyết chép: Hai nhẫn tức là hai nhẫn sinh, pháp, lại là nhẫn đầu trong năm nhẫn. Vô sinh nhẫn tức là nhẫn thứ tư. Đây e không đúng. Vô sinh pháp nhẫn tức là sinh pháp nhẫn, vượt trên thuận nhẫn nên nói là vô sinh, không có lý do khác. Nên nay tức là bậc trung, hạ chỉ được âm hưởng, người được Vô sinh nhẫn rất nhiều không thể tính đếm, hai nhẫn âm hưởng và nhu thuận, thuộc về thượng phẩm, không thể đếm hết người được Vô sinh nhẫn nên nói không thể đếm. Đã có lợi độn thì phải có phàm địa, nhưng không phải căn tánh lợi độn. Lại Bồ-tát ấy cho đến như nước ta vậy, là phần thứ tư nói phản tích địa. Phật bảo A-nan cho đến không trái, không lỗi, là phần tám nói hạnh đức đầy đủ. Có hai: Một là khen riêng; hai là kết chung. Phần một lại có bảy: Một là tu hạnh lìa lỗi. Có ba: Một là là hóa hạnh lìa lỗi, tức là thuận trí tuệ Phật Di-đà. Ở cõi nước ấy cho đến không có tâm mê đắm, là phần thứ hai, nói tự hành không lỗi. Có hai: Một là tu tự hạnh. Có sáu: Một là tu thí hạnh. Lìa kiến nên không có tâm ngã sở, lìa ái nên không có tâm đắm nhiễm. Tới lui đi đứng cho đến không giành, không cãi, là phần thứ hai nói tu giới hạnh. Lìa lỗi thân nên đi đứng tới lui không bị vướng mắc, tùy ý tự tại. Lìa lỗi ý nên không đối địch, không kia không đây, Pháp sư vị chép: Thích là đi, mạc là ngừng. Nếu thế đi đồng với đi và ngừng, lìa lỗi thân. Nay luận ngữ nói trong thiên hạ không thích mạc, vậy thích là thân, mạc là sơ. Lìa lỗi miệng nên không tranh cãi giành giựt, mình người đều dứt, nên không có giành cãi. Đối với chúng sinh cho đến lìa cái, được thanh tịnh, là phần ba, nói tu Nhẫn hạnh. Không tức giận, nên mềm mỏng dịu dàng. Không kiêu mạn nên điều phục. Sân nhuế đã không khởi thì phẫn hận cũng ngừng. Do đây cũng lìa năm cái mà thanh tịnh. Không có chán lười cho đến thắng tâm, thâm tâm, là phần thứ tư nói tu cầu hạnh. Cầu điều lành không ngừng nên không biếng lười, không hạnh nào chẳng tu nên nói Đẳng tâm, không đặt chân xuống nên gọi là Thắng tâm, không lui sụt nên nói thâm tâm. Định tâm, là phần năm, nói tu định hạnh, lìa các tán loạn, nên nói là Định tâm. Tâm Ái pháp, Lạc pháp, Hỷ pháp, là phần sáu, nói tu tuệ hạnh. Có thuyết chép: Ái là dục, Lạc là tín, Hỷ là tham. Có thuyết chép: Ái là trọn thành, Lạc là khi nghe. Hỷ là khi cầu. Cả hai đều không đúng. Dục tín… tức là thí giới… các hạnh quyến thuộc, lấy chung mà hướng thỉ không khác, do đó như thứ lớp. Nay tức là Văn tuệ Ái lạc nên nói là Ái pháp tư tuệ. Đắm vị nên nói là Lạc pháp tu tuệ. Nhuận thần nên nói tâm vui (Hỷ tâm). Tâm diệt các phiền não, lìa các đường ác, là phần thứ hai nói lìa lỗi. Có thuyết chép: Nhân hết nên diệt phiền não, quả hết nên tâm lìa đường ác, là không đúng. Quả không phải chỉ do tâm. Nên nay ngay nơi lìa hoặc là lìa phiền não, nghiệp hết nên tâm lìa đường ác. Rốt ráo tất cả việc làm của Bồ-tát, là phần thứ ba kết chung. Thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, là phần hai nói thành đức đầy đủ. Có hai: Một là khen chung. Được Thiền định sâu cho đến hiểu rõ pháp tánh, đây là khen riêng. Có hai: Một là Thành tựu tự đức; Thiền định thông minh tuệ bảy giác, là đức đã thành. Thiền là bốn Thiền, định là bốn không. Thông là sáu thông minh là ba minh, tuệ là ba tuệ. bảy giác cũng ở giai vị kiến đạo, vì tiến cầu đức của Phật mà tu tâm cầu đức Phật pháp. Đức tuy có vô lượng nhưng lược nêu có năm. Nhục nhãn và thiên nhãn đều dùng tịnh sắc làm thể. Nhục nhãn ở cõi ấy thấy chung cả các sắc ở vô số thế giới. Nên nói thấu suốt những gì nhìn thấy. Xét thật nên đều hiểu rõ. Có thuyết chép: Nhục nhãn thấy chướng nội sắc, là không đúng, vì trái với sự trong suốt rộng rãi. Nên nay nếu xét thấy sắc tượng hiện tại thì gọi là nhục nhãn. Nếu nhục nhãn nương định mà phát thì chúng ta thấy chúng sinh chết đây sinh kia. Nên gọi là Thiên nhãn. Sự thấy biết rộng nhiều nên nói vô lượng, cũng là rộng xa nên nói vô hạn. Pháp Nhãn lấy trí làm thể nên thấy được căn dục tâm tánh của chúng sinh và các Phật pháp, nên gọi là pháp nhãn. Biết khắp ba thừa Đạo pháp khác nhau nên nói là rốt ráo các Đạo. Tuệ nhãn tức lấy không trí làm thể mà xét chiếu lý chân không nên nói thấy chân - cùng nguồn cội chân lý nên nói vượt đến bờ kia, Độ là đến. Phật nhãn tự có hai thứ chung và riêng. Riêng thì trí Nhất thiết chủng làm thể, không pháp nào chẳng chiếu soi nên nói là đầy đủ. Cũng thấy Phật tánh nên nói giác pháp tánh. Chung tức là bốn nhãn trước Phật đều có, xem cảnh đồng hết nên gọi là biết đầy đủ. Dùng trí vô ngại giảng nói cho người nghe, là nói đức Thánh hóa tức là bốn vô ngại biện, nói pháp cho người nghe. Quán ba cõi bình đẳng cho đến nạn phiền não, là phần ba nói tu đầy đủ. Có hai: Một là tu hành, quán ba cõi không Vô, là bỏ sinh tử hạnh dục… là cả ba cõi không có cõi nào chẳng không, nên nói là quán bình đẳng. Chí cầu Phật pháp tức là ưa thích hạnh Bồ-đề. Đủ biện tài tức là đức lợi tha, tức là bốn biện tài v.v… diệt nạn phiền não là lợi ích hóa tha. Từ Như lai sinh cho đến hai kia đều hết, là nói tu thành. Có hai: Một là tự hạnh thành. Lại có hai: Một là giải hạnh đều thành. Có thuyết chép: Từ Như lai sinh hiểu pháp như như là lý giải khéo biết Tập Diệt. Phương tiện là giáo ấy giải thích. Nhờ Như lai giáo hóa mà sinh hiểu tất cả pháp đều tức là như, cho nên nói từ Như lai sinh hiểu pháp như như. Giáo tu lành gọi là Tập âm thinh, giáo dứt ác gọi là Diệt âm thinh. Đối với đây mà khéo hiểu khéo biết nên gọi là khéo biết phương tiện. Đây cũng bất tận, giáo giải cũng từ phương pháp sinh. Có thuyết chép: Tập tức Tập đế, ý cũng gồm khổ, Diệt tức Diệt đế, nói gồm cả Đạo. Nhân quả liên quan nhau, nên nói giáo bốn đế tức là âm thinh phương tiện. Đây cũng không đúng. Tập tuy hẳn là khổ, nhưng khổ chưa hẳn phải có Tập, Diệt khác với Đạo vô vi, chẳng thể xếp Tập Diệt vào Khổ Đạo. Cho nên nay tức từ Như lai sinh là nêu chung Bồ tát được hiểu, lý do hiều pháp như như tức nêu ngộ riêng, không phải là trí an lập chân. Khéo biết tập diệt, tức hiểu riêng luận ngộ an lập Đế. Tập Diệt là nêu nhân nhiễm mà tịnh quả nói bất tận. Thật dứt các tướng mà nói bốn đế, chỉ có giáo lập ra nên nói là âm thinh phương tiện, nhờ Thánh giáo mà khéo hiểu nên không ưa thích thế gian, thích nói Chánh luận. Có thuyết chép: Lìa bốn lỗi của miệng nên không ham lời của thế gian, chỉ nói bốn Thánh giáo mà ưa thích chánh luận, không đúng. Tưởng thật lời Thánh thì không phải là Chánh luận, tức là giải thành tựu. Tôn sùng Phật đạo, là cầu tâm Bồ-đề. Biết pháp vắng lặng là tu hạnh đối trị, hai dư đều hết, là hạnh trừ chướng khổ. Có thuyết chép: Sinh thân là Báo dư, phiền não là phần Đoạn dư. Sơ Địa trở lên thì hết Biến dịch, hai dư sẽ hết. Có thuyết chép: hai dư phiền não và Tập đều hết. Cả hai đều không đúng. Trong bảy Địa trước thì cũng chịu phần đoạn, phiền não Dư khí gọi là dư, Tập thì không phải phiền não nên như thứ lớp. Nay sinh thân còn, Báo khổ nhân phiền não, nhân dư và quả dư đều đã hết, tức là Hạnh thành. Nghe pháp sâu xa cho đến thường hay tu hành, là nói giải hạnh đều tu. Có thuyết chép: Đối với sâu xa mà hiểu được cho nên chẳng nghi, đối với sâu xa mà vào được nên chẳng sợ, là không đúng. Vừa vào vừa hiểu, cho nên nay tức tin được giáo sâu nên chẳng nghi, hay giải thâm nghóa nên chẳng sợ. Tu giải là đó. Phải tu hạnh tức là tiến tu hạnh, nghe thì tu tập mà không để đứt quãng, nên nói là thường tu. Các Đại bi ấy cho đến đều che chở, là nói hóa hạnh thành tựu. Sâu xa nhiệm mầu, là khen tâm sâu nặng. Đều che chở là khen cứu giúp khắp, là không đúng. Chỉ có bóng mát từ Bi, cũng giúp ra khỏi sinh tử, nên nói là chở. Rốt ráo nhất thừa cho đến vào bờ kia, đây là phần thứ tư thành đức kỳ diệu. Có hai: Một là thành tựu tự đức; hai là thành tựu hóa đức. Phần một lại có hai: Một là Tu điều lành cao quý. Có ba chặp: Một là là cặp Trí đoạn: Nhất thừa, tức là Trí tuy có ba thừa nhưng rốt cục không có hai thứ kia, cho nên nói nhất thừa. Có thuyết chép: Đối với nhất thừa này gọi là cùng cực, là rốt ráo, đến quả Niết-bàn, nên đến bờ kia là không đúng. Nếu cùng cực nhất thừa đến Niết-bàn thì không phải Bồ-tát. Cho nên nay tức sự tín hiểu này tột cùng, nên gọi là rốt ráo - bờ kia tức là đoạn, đã đoạn thì trí chướng vô vị, nên nói là đến bờ kia. Quyết xé rách lưới nghi cho đến trùm hết không gì ngoài, là nói cặp lý giáo. Hiển bày thật để trừ vọng nên nói là xé rách lưới nghi. Thân giải phát bày nên nói Tuệ do tâm sinh ra. Tâm là nghóa trung thật, tức là Tuệ chứng lý, thấu suốt không gì sót nên nói là bao trùm không gì ngoài, tức là thấu suốt giáo giải. Có thuyết chép: biết Tuệ vô ngã không từ ngoài đến, nên Tuệ do tâm sinh ra. Biết giáo từ tâm hiện nên bao trùm không ngoài. Ở đây cũng chưa hết. Tuệ vô ngã từ Phật hóa sinh, hiện tâm trong giáo là không đúng. Chánh giáo là tánh nên không thể nói từ tâm xuất hiện thì biết tâm là trung thật, không gì ngoài, Vô dư tức là giáo trí. Trí tuệ như biển lớn cho đến cũng như núi Tuyết, là nói cặp Định tuệ. Tuệ sâu rộng như biển, Định cao quý như núi. Cho nên Tuệ có dụng sáng sạch hơn mặt trời mặt trăng, Định có đức cao đầy hơn núi Tuyết. Chiếu các công đức bình đẳng, duy nhất, thanh tịnh, là nói sự cao quý của dứt trừ chướng. Có hai: Một là nêu chung. Pháp sư Vị nói dưới có hai mươi câu đều nói về tuệ. Song Tuệ chẳng lìa Định, nên nói Định tuệ lìa chướng là cao quý, không có một đức nào chẳng lìa nhiễm, cho nên nói bình đẳng, duy nhất, thanh tịnh. Cũng như đất bằng cho đến không có nhiễm ô, là giải thích riêng. Có ba cặp: Một là cặp Sở nhân sở khởi, tức tâm khác là hai chướng sở nhân phi lý mà tác ý cấu nhiễm, như thứ lớp mà tác ý khởi trí, hoặc, chướng; hai là Năng y sở y đối, tức là phiền não chướng ngại, như thứ lớp là hai chướng hoặc và cặp Trí làm năng y sở y; ba là cặp Vô trước vô nhiễm, tức là đối với ba hữu mà mê đắm cũng là Sở trí chướng, nhiễm ô chỉ là hoặc. Cũng như chiếc xe lớn cho đến Đại Từ…, là phần hai nói nói vè hóa đức thành tựu. Có mười ba câu lược làm sáu cặp: Một là cặp xuất phàm nhập Thánh, tức là ba câu đầu. Thừa là xe. Chúng sinh là phàm phu và Nhị thừa, chở phàm tiểu ra khỏi hai thứ tử. Nghe quyền thật mà thấm nhuần mầm giống lành; hai là cặp Tức Tà Tựu Thiện, tức hai câu kế; ba là cặp Phổ Phúc Hy Kiến tức là hai câu kế; bốn là cặp Tồi Tà Quy Chánh: tức hai câu kế, không có chứa nhóm tức là dòng thánh; năm là cặp Vô Thắng Vô Nhiễm, tức là hai câu kế. Không điều lành nào hơn được, điều phục các nhiễm; sáu là cặp Vô úy Hữu lân, tức là hai câu sau. Không tà nào đáng sợ, thương mà không ưa thích. Dẹp bỏ tâm ganh ghét cho đến tu sáu hòa kính, là phần năm nói hạnh tu thêm tiến. Có hai: Một là tu hạnh tự phần; hai là tu hạnh thắng tiến. Phần một lại có hai: Một là tu hạnh phương tiện. Dẹp trừ tâm ganh ghét tức là phương tiện lợi tha, vì nếu có ganh ghét thì chẳng thể làm lợi ích chúng sinh. Cầu pháp không đủ tức là tự lợi phương tiện. Vì nếu có thoả mãn thì không thể tiến tu; ba là siêng tu Chánh hạnh, tức là thường Chánh hạnh, thường muốn nói rộng, tu hạnh lợi tha tâm không lười mỏi. Muốn nói rộng là nói tâm cao quý. Đánh trống pháp… là những điều nói cao quý. Chiếu sáng mặt trời trí tuệ… là sự lợi ích cao quý. Chiếu ba mặt trời trí tuệ để xua tan ngu si. Tu sáu hòa kính tức là hạnh tự lợi. Tu ba nghiệp: kiến, giới, lợi đều đồng, nên tôn kính lẫn nhau, tình không trái khác, nên gọi là sáu hòa kính. Thường làm pháp thí cho đến dạo các thần thông, là phần hai nói tu hạnh thắng tiến. Có ba bậc: Một là thắng tiến, mới đầu thường hành pháp thí lợi tha. Ban đầu chí mạnh không yếu, tự lợi làm đầu; hai là thắng tiến làm đèn sáng, ruộng phước trong lợi tha. Giúp cho người hiểu nên nói đèn sáng ở đời. Cũng làm cho người phát sinh điều lành nên nói ruộng phước cao quý. Dùng tuệ khai hóa nên nói Đạo sư, phước lợi chẳng khác nhau nên không sinh yêu ghét. Vui đạo không ham lo, tức tu điều lành trong tự lợi, nên nói vui Đạo. Trừ lỗi nên không sót; hai là Sau tu thắng tiến thành tựu, tức là nhổ gai ái dục, là hạnh lợi tha thành tựu, dạy khiến lìa lỗi cho nên giúp an được chúng sinh. Dạy theo điều lành nên kính đức cao quý. Diệt ba cấu thì tự hạnh thành tựu. Diệt tham sân… nên đoạn hạnh thành tựu. Dạo chơi trong thần thông nên hạnh đức thành tựu. Có thuyết chép: Ba cấu tức là phiền não nghiệp, khổ, là không đúng. Vì nghiệp khổ chưa hẳn là cấu. Năng lực nhân, năng lực duyên cho đến các năng lực thông minh, là phần sáu nói các năng lực đầy đủ. Có ba: Đây là một tự lực đầy đủ. Có bảy cặp: Một là cặp nhân duyên. Tức năng lực nhân, năng lực duyên đời trước. Gốc lành gọi là năng lực nhân, gần gũi bạn lành mà nghe pháp gọi là năng lực duyên; hai là cặp ý nguyện, tức năng lực ý năng lực nguyện. Có thuyết chép: Tâm cầu Phật là năng lực ý, nguyện khởi làm là năng lực nguyện. Có thuyết chép: Phát tâm Bồ-đề là năng lực ý, mong cầu quả Phật là năng lực nguyện. Cả hai đều không đúng. Cầu nguyện khởi hạnh nói khác nhưng nghóa là một. Nên phát tâm Bồ- đề tức mong cầu quả Phật. Theo thứ lớp thì nay thì đúng lý tác ý gọi là năng lực ý, cầu tâm Bồ-đề gọi là năng lực nguyện; ba là cặp chung riêng, tức năng lực phương tiện là chung. Năng lực thường, năng lực điều lành là riêng. Tu không xen hở là năng lực thường, pháp ác không xen là năng lực điều lành, hai năng lực này gia hạnh khéo léo nên gọi là năng lực phương tiện; bốn là cặp chỉ quán: Tu chỉ hạnh thành tựu nên gọi là năng lực định, quán hạnh thành tựu nên gọi là năng lực tuệ; năm là cặp văn hành, tức năng lực học rộng là tu giải, sáu độ như thí… là tu hạnh; sáu là cặp Niệm Định: Tức niệm khiển tướng là năng lực Chánh niệm, dứt loạn chứng thật là năng lực Chánh quán. Hoặc có bổn nói Chánh định chỉ quán. Pháp sư Vị giải thích rằng chỉ là định, quán là tuệ. Chánh quán là đó. bảy là cặp thông minh, năng lực thông là sáu thông, năng lực minh là ba minh. Năng lực đúng pháp điều phục các chúng sinh, là phần hai, nói về Hóa hạnh thành tựu. Các năng lực như thế đầy đủ tất cả, là kết chung. Thân sắc đẹp đẽ cho đến vô lượng các Đức Phật, là phần thứ bảy nói các đức tốt đẹp. Có bốn, đây là một tự đức tốt đẹp. Thường được các Đức Phật cùng khen ngợi, thứ hai là nói hạnh thuận theo các Đức Phật. Rốt ráo Bồ-tát cho đến các môn tam-muội, là thứ ba, nói giải hạnh đầy đủ, tức sáu độ là hạnh, tam-muội là giải. Có thuyết chép: Thấy các pháp sinh thì, biết chẳng diệt, thấy các pháp diệt thì biết chẳng sinh. Nên nói chẳng sinh diệt, là không đúng. Đã thấy pháp sinh thì biết có diệt, sinh là nhớ một bề về diệt. Cho nên nay tức ngã pháp là không, vì không nên vô tướng, vì vô tướng nên vô nguyện. Do đó mà không thấy có sinh diệt. Xa lìa giai vị Thinh văn, Duyên giác, là phần thứ tư nói hạnh vượt cao hơn Nhị thừa. Này A-nan, các Bồ-tát ấy cho đến chẳng thể cùng tận, là phần hai, kết khen. Phật bảo Di-lặc cho đến chẳng thể kể hết, là phần thứ hai, khuyên người vãng sinh. Có hai: Một là kết nhân và cõi cao quý; hai là Chánh khuyên vãng sinh. Phần một lại có hai: Một là kết người có đức cao quý. Lại nước ấy cho đến thanh tịnh như thế, là kết cõi vui cao quý. Sao chẳng gắng sức làm cho đến lên Đạo vô cùng cực, là phần hai, Chánh khuyên vãng sinh. Có hai: Một là khen thẳng vãng sinh sao chẳng có gắng làm điều lành là khuyên tu nhân vãng sinh, lực là cố gắng hết sức. Trời, người, bậc thánh, cõi nước đều nhiệm mầu, há chẳng cố gắng làm lành nguyện sinh? Lại lực là nói cố gắng về Đạo. Tự nhiên là tu được lợi, nhân lành đã thành tựu nhưng không cho là được quả nên nói nghó tự nhiên. Chỉ nghó Đạo hạnh đức mà nương vào chẳng phân biệt sang hèn đều được vãng sinh, nên nói nương vào không trên dưới. Chữ niệm là đọc dài. Có thuyết nói: Là rỗng suốt, là hiểu rõ thông suốt. Không bờ mé là thật tướng, không có ba cõi để tìm. Thật tướng đã là gốc của Tịnh độ, người vãng sinh phải hiểu rõ nguồn cội, nên phải thấu suốt là không đúng. Cùng nguồn thật tướng thì phàm phu chẳng được vãng sinh Tịnh độ, chỉ phải là bậc Thánh. Nên nay được sinh về cõi ấy thì thần trí rỗng suốt không có bờ mé. Đi là bỏ, bỏ uế độ. Có thuyết chép: Năm đường ác là ba đường và phi thiên cùng người nữ. Vì người nữ là gốc đường ác. Lại văn sau nói năm điều ác tức năm đường là không đúng. Không có chỗ nào nói đường người nữ. Cho nên năm ác là Nhân chẳng thể nói đường. Nên nay tức trời, người tuy gọi đường lành song ở Tịnh độ cũng gọi là đường ác, nên nói năm đường ác. Ở cõi uế này trước dứt bỏ kiến hoặc là nhân quả lìa ba đường. Sau mới dứt tư hoặc là dứt Nhân quả trời, người. Nếu sinh về Tịnh độ thì năm đường ác sẽ bỏ ngay, nên nói là cắt ngang. Cắt là quả tự đóng, nhân ấy được Đạo sâu rộng nên nói là không cùng tận. Dễ đến mà không người cho đến hưởng vui vô cùng cực, là rất thương xót khen ngợi. Tu nhân liền vãng sinh cho nên dễ đến mà không người, tu nhân vãng sinh ít hiếm nên không có người tu nhân cầu sinh, không hề trái nghịch nên nước chẳng nghịch trái, tức trước dễ đến. Thói quen cũ cột trói cho nên tự nhiên bị cột trói, không đến nên tự nhiên bị cột trói, tức vãng sinh không người. Có thuyết chép: nhân mãn quả chín không cần dụng công tự nhiên vời đến, nên tự nhiên trói cột nghóa cũng được. - Đạo đức là nhân, hưởng vui là quả. Thọ là thụ, chịu. Hỏi: Tu Tịnh độ và nhân Đâu-suất cái nào khó? Đáp: có thuyết nói Đâu-suất là cõi Tịnh độ chẳng cột trói, cho nên sinh Tịnh độ dễ hơn Đâu-suất, là không đúng. Hễ nói cõi thì đều là chỗ trôi lăn. Còn Tịnh độ Tây phương là chỗ xuất ly nên khó tu, nghiệp trôi lăn dễ làm nhân xuất ly, hẳn trái với Chánh lý. Có thuyết chép: xưa nay các bậc đạo đức tu hạnh Đâu- suất đều cho Tây phương là khó sinh nên chẳng dám tu. Nay dùng bảy nghóa chứng minh Tây phương dễ sinh. 1.Chỉ tu ít trong một thời gian ngắn, tức quán kinh nói ba phẩm khi sắp qua đời chỉ một niệm cho đến mười niệm thì đều vãng sinh; hai là vì các Đức Phật đều che chở, tức kinh xưng tán cho rằng các Đức Phật sáu phương che chở v.v…; ba là vì ánh sáng nhiếp thọ, tức Quán kinh nói: Nhiếp thủ chúng sinh niệm Phật chẳng bỏ; bốn là nương Bổn nguyện của Phật, tức kinh này nói Phật A-di-đà có bốn mươi tám thệ nguyện lớn; năm là Phật ấy đến đón rước, tức văn trên chép: Ai nguyện sinh về nước ta mà ta không đến đón rước thì ta không thành Chánh giác; sáu là Được trợ niệm, tức là khi sắp qua đời, người đồng hạnh cùng trợ niệm mà đưa đi; bảy là bậc Thánh nói dễ sinh, tức là văn này nói dễ đến mà không người, nước ấy chẳng trái nghịch. Nay xem lời giảng này là lý sinh dị, hẳn là không đúng. Vì Di-lặc cũng có thệ nguyện: Có ai sinh về cõi trời ấy thì Di-lặc sẽ phát ra ánh sáng đến đón thì cũng giống như Di-đà. Một phen xưng niệm đức hiệu còn được sinh lên cõi trời huống chi là cũng mười niệm kẻ đồng hành cũng sẽ giúp nhau mà chẳng nói không người. Cũng không nói chỗ đó là ý lúc khác vì muốn hóa độ kẻ biếng lười. Không một chúng sinh nào chẳng có nghiệp ấy (lười biếng). Cho nên từng đã sinh thì cũng sẽ được sinh. Người trí chẳng thể nói sinh Tịnh độ dễ vãng sinh hơn Đâu-suất. Nếu dễ sinh thì quả sẽ chẳng cao quý hơn. Cho nên nay Tây phương tuy là rất khó, nhưng người chuyên cầu vãng sinh thì một niệm cho đến mười niệm đều được vãng sinh, tức là dễ sinh trong khó sinh. Nghóa bên chỉ để giải thích cho bản văn. Song người đời bạc bẽo cho đến là việc chẳng gấp, là phần hai nói Ta-bà uế ác khiến người chán bỏ. Có bốn: Một là nói lỗi phiền não; hai là khuyên khiến tu bỏ; ba là nói lỗi tội nghiệp; bốn là lại khuyên tu bỏ. Phần một lại có ba: Một là nói về lỗi tham; hai là nói lỗi sân; ba là nói lỗi ngu si. Phần một lại có hai: Một là nêu chung. Gấp hướng về. Người thế tục bạc bẽo ở đời vì tâm tham dục tranh giành nhau ở đời không gì hơn năm dục. Đối với sự khổ cực dữ dội này cho đến không có lúc nào yên, là giải thích riêng. Có hai: Một là nêu chung lỗi tham; hai là nói riêng lỗi tham. Phần một lại có ba: Một là khổ tìm cầu. Cầu là khổ, doanh là hộ, che chở, cấp là cho, tức vì thân mà cố cầu - không tôn ti giàu nghèo là người mong cầu, lớn nhỏ, nam nữ là người phải làm, tức là cầu cho người khác. Có thì sợ mất, không có thì muốn được, đều lo lắng không khác, nên nói có, không giống nhau. Thích là bèn, vừa. Bình là đóng, lấp. Doanh là tên gọi huyết khí như mạnh ưu lo thì hơi bị lấp khó thở, tức tâm khổ. Bị tâm sai khiến như con nai khát thấy nước ở sa mạc (do hơi nóng tạo ra, ảo giác) mắt nhặm thấy hoa đốm trong hư không đều do nước ái của tâm, không có hoa thật mà chạy tìm, tức là thân khổ. Có ruộng lo ruộng cho đến lo buồn sầu sợ, là nói khổ do giữ gìn. Có thuyết chép: Thập vật là của cải. Ở thế tục của cải là ruộng vườn nhà cửa, trâu ngựa, tiền của, y thực, gà vịt, tôi tớ… xuất gia thì có sáu vật. Cung cấp cho thân là một trăm lẻ một thứ. Tuy có hai cách giải thích nhưng đều không có y cứ chuẩn xác. Tức nay y theo Tịnh Truyền nói có ba y mười vật, là do ý người dịch chia làm hai chỗ không theo bản chữ Phạm nói riêng ba y, ở đây mở làm thập vật, nói là tạp vật, không hợp với ý trước. Cho nên mười ba Đổ-đa chỉ chế có mười ba vật dụng gồm cả trung hạ, cung cấp cho thân. Còn một trăm lẻ một vật thì chưa thấy văn luận. Kinh tuy có nói nhưng là ý, lúc riêng. Do đây các tăng tục quan nhân ở phương Tây mặc y phục chỉ có hai xấp vải trắng, còn kẻ nghèo hèn thì chỉ có một xấp. Theo phép người xuất gia chỉ có ba y sáu vật. Có người thích nêu rộng ra là xứ này dùng mười ba vật. Ngang trái Vô thường cho đến không buông bỏ, là nói khổ mất mát. Có hai: Một là khổ mất tiền của, túng là sợ sệt, tâm loạn động. Hoặc bị nghiền nát cho đến chẳng có ai theo, đây là nói khổ mất thân, không ai theo tức là không một vật nào theo mình. Giàu sang tôn quý cho đến đau đớn cùng, là phần thứ hai nói riêng lỗi tham. Có hai: Một là mượn giàu sang nói lỗi tham. Nói lạnh là có tám địa ngục lạnh. Nóng là tám địa ngục nóng, vì chịu nóng lạnh là khổ tầm thường nên ở chung với đau khổ. Thống là chịu. Đây e không đúng. Thân hiện đời và khổ sau này không thể nói hết. Nay tức là sợ sệt buồn lo nóng lạnh và đau đớn lẫn lộn. Hoặc có bổn kinh nói khi chết bị nóng lạnh v.v… e là sai. Nghèo cùng thấp kém cho đến trọn đời yểu mạng, là dựa vào nghèo cùng để nói lỗi tham. Có hai: Một là chỉ rõ hiện khổ. Có một thiếu một, là có ruộng thì thiếu nhà, có đó thiếu đó là tùy có ruộng mà không đủ. Lo có cho bằng là lo cho bằng người giàu sang. Không chịu làm lành cho đến không thể biết được, là nói khổ sau. Người ở thế gian cho đến đền trả cho nhau, là phần hai nói lỗi sân. Có ba: Một là kết oán đền trả nhau. Gia thất, chồng gọi vợ là gia, vợ gọi chồng là thất. Tuy có lời này e không đúng. Sau lại hiểu vô là không, hoạn là não. Tinh thần là hạt giống thức. Khắc là yếu, thức là nhớ. Do trước kết hận thành hạt giống oán nên dẫn quả không cần dụng công, nên nói tự nhiên lại đền trả nhau. Người ở thế gian cho đến lại còn gặp nhau, là nói giã biệt thì dễ mà gặp nhau thì khó. Đương là theo, hạnh là nghiên. Tự đương là tự chịu. Thiện biến hóa tức là quả báo đường ác. Ác biến hóa tức là quả báo đường lành. Dự là nghịch, nghiêm là tu. Do đời xưa nghịch tu nghiệp thiện ác nên có báo khổ vui. Lại nghiễm nhiên, là tùy nghiệp thiện ác xưa mà Thiên đường, địa ngục nghiêm nhiên đứng đợi - Yểu yểu là lúc thân trung hữu, minh minh là lúc sinh hữu (lúc sinh). Sao không bỏ các việc cho đến còn muốn vui nào, là nói sau muốn khuyên tu bỏ. Muôn là kịp, Diên là kéo dài không phải nghóa ở đây. Đãi là dừng. Pháp sư Vị nói đợi việc gì là muốn vui nào nữa. Người đời như thế cho đến lại tự thấy, là phần ba nói lỗi si. Có ba: Một là tự không chánh tín. Tọa là do. Do không tin, chuyên chấp ý kiến riêng của mình, tức là lỗi. Nhìn nhau cho đến không lấy làm lạ: Là nói do thói quen không tin, khiến cũng là dạy. Tố là xưa, không làm lành là không làm hạnh nào, chẳng biết đạo đức là chẳng hiểu. Thân là sắc căn, Thần là tánh, tâm là quả, Ý là căn, thú là quả, Đạo là nhân. Tức nhân quả thiện ác ở đời đều không biết, không lấy làm lạ là không thắc mắc. Sinh tử Đạo thường cho đến rất đáng thương, chính là nói lỗi si. Có hai: Một là đối cha con mà nói lỗi. Có thuyết chép: Trẻ chết sớm, già chết sau. Nên nói điên đảo không quả báo, trên dưới chết giống nhau. Nên nói trên dưới là không đúng. Nếu lời ấy phải chép: điên đảo chẳng quả báo người trên, người dưới. Nay, điên đảo tức nghóa là lầm lẫn, trên là bay lên, dưới là rơi xuống, năm đường lầm lạc, hoặc bay lên đường lành hoặc đọa xuống nẻo ác, nên nói trên dưới. Cội gốc Vô thường tức là không có một gốc nghiệp nào thường còn. Đương là chịu. Mông là chẳng sáng, minh là tối mù, không biết. Mông là mắt có tròng mà không thấy. Lại mông lung cũng là không thấy để chống lại, tôi là ngang ngược, lang là lỗi tham. Hoặc lúc gia thất cho đến không biết làm sao, là đối với thân thích mà nói lỗi. Có hai: Một là đắm mê không bỏ. Lễ ký nói ba mươi trai tráng có thất, có thất là có vợ, do đây mà luận ngữ nói thăng đường mà chưa nhập thất. Tốt là chết, cuối. Tiện tuyền là nhanh. Sợ sệt lo âu cho đến đau khổ giận dữ là nói sau khi gây ra điều ác chịu khổ báo. Có bốn: Một là phát lòng tham tìm kiếm mong cầu. Ổi là ác, lâm là đông nhiều, Quảng Nhã bảo là nhanh, là tạp. Nhiễu là loạn. Hiếu kinh nói một người có điều mừng thì cả nhân dân nhờ cậy. Đều có tâm giết hại cho đến không theo lòng người, đây là phần hai khởi sân giết hại. Tự nhiên không phải ác cho đến không có ngày ra, là phần ba nói khổ báo khó ra. Người làm ác, năng lực của tội xưa tự nhiên kéo mời, các pháp duyên ác đến. Nên nói tự nhiên không phải ác trước đi theo. Tự thính tức là làm ác tự tại không sợ. Đau đớn chẳng thể nói rất là đáng thương, là phần thứ tư, thương xót khiến sinh nhàm chán. Phật bảo Di-lặc cho đến ở sau người, là phần thứ hai, khuyên người tu xả bỏ. Có bốn: Một là Chánh khuyên tu bỏ; hai là Di-lặc nhận hiểu; ba là lại khuyên tu bỏ; bốn là Lại Di-lặc nhận hiểu. Phần một lại có hai: Một là khuyên khiến tu hành. Muốn giúp người trời mau tu bỏ, nên lại đối với Di-lặc mà khuyên. Việc thế gian tức là việc ba độc ở trước. Tọa là do. Người đời do ba độc này mà không được về chân, cách Đạo rất xa, nên nói không được Đạo, phụ là trái. Nếu có ý nghi cho đến sẽ nói cho nghe, là nói sau khuyên thưa hỏi, Thảng là nếu. Bồ-tát Di-lặc cho đến như lời Phật nói, là phần hai, nói về nhận hiểu. Có năm: Một là tin thuận lời Phật. Quán là thông, là tâm nghó thông việc người đời, thật theo nghiệp ba độc nên không được Đạo như lời Phật nói. Nay Phật thương xót cho đến giải thoát sầu khổ, là phần hai, nhân lãnh lòng từ bi làm lợi ích của Phật. Lời Phật dạy răn cho đến đều được thỏa thích, là phần ba khen lời nói rất tốt. Điều lành sâu xa là khen giáo lợi sâu, trí tuệ sáng. Kiến là khen trí khắp thấu suốt, Ngang thì khắp mười phương, tức tám phương và trên, dưới. Dọc thì suốt ba đời khứ, lai, hiện tại, đều thông suốt. Nay chúng con cho đến đều giúp cho được Đạo, là phần thứ tư, lại thọ lãnh ân Phật. Khiêm nhường khổ nhọc là nhân, ân đức là quả. Khổ còn viết là cách, Tự lâm nói Cách là cung kính. Khiêm là nhún nhường. Khổ là khổ hạnh phước lộc quang minh là phước mình tốt đẹp - thấu suốt không vô cực, là trí mình thù thắng. Khai nhập Nê-hoàn là giáo hóa chúng sinh được diệt độ. Dạy trao điển lãm là dạy giúp cho tu đạo. Điển là thường. Bày Đạo thường nên Quãng Nhã lấy Điển làm chính. Lãm là nắm lấy. Thường Đạo nắm lý nên gọi điển lãm. Trong đây ý nói dắt dẫn Đạo pháp nên nói dạy trao. Do đó kinh điển này phải nắm các nghóa, khiến học tập, nên nói điển lãm, tức là trí hóa, chúng sinh ngang bướng thì dùng oai đức chế ngự khiến tiêu phục mà theo Thánh hóa, nên nói oai thế tiêu hóa. Còn chúng sinh tốt lành mềm mỏng thì dùng từ lực mà nhiếp lấy. Cho nên cảm khắp mười phương kẻ có duyên mà nhiếp vô cùng cực, tức là phước hóa. Nay được gặp Phật cho đến tâm được mở sáng, là phần thứ năm, nói mình vui mừng. Phật bảo Di-lặc rằng ông nói như thế, là phần ba lại khuyên tu bỏ. Có ba: Một là khen xin chứng hiểu; hai là Chánh khuyên tu hành; ba là khuyên bỏ nghi ngờ. Phần một lại có ba: Một là khen lời nói trước, Phật nói rất sâu xa rất tốt lành, rất đúng lý, nên nói như thế. Nếu có người từ kính cho đến bèn lại có Phật, là kế khen ngợi nhận lãnh ân Phật. Có hai: Một là Chánh khen nói Phật khó gặp. Có thuyết chép: mình khó gặp là không đúng. Lại nói là nói việc sẽ có. Cho nên nay nói lúc Di-lặc thành Phật. Nay tôi ở đời này cho đến Đạo Niết bàn, là nói hóa ích của mình, tức là hành đạo dưới cây Bồ-đề, xoay bánh xe pháp ở vườn Nai. Có thuyết nói: Dứt nghi của Kiều-trần-như nên nói xé rách các lưới nghi, là không đúng. Phật giải quyết nghi ngờ cho mọi người chứ không phải riêng Trần-như, nên nay tức là dứt nghi. Nhổ dục là giúp cho dứt bỏ phiền não. Đóng bít các nguồn ác là khiến dứt bỏ nghiệp ác. Đổ là đóng lấp. Nghi ái là nguồn gốc của hoặc lợi độn nên nói là gốc. Nghiệp ác là dòng khổ chung riêng, nên nói là nguồn, chính là khẩu nghiệp hóa. Trên trời dưới đất chỉ có Phật là đấng tôn kính nhất nên đi khắp ba cõi, hóa độ mặc tình không trở ngại, tức là thân nghiệp hóa. Khéo nhàn kinh điển cần nắm các nghóa nên điển lãm trí tuệ, hiểu đủ ba thừa, đạo phải thực hành, cốt yếu của các Đạo, tức là ý nghiệp hóa. Cương duy cũng như Cương kỷ, nghóa là có phép tắc. Đặt ra giới để chế ngự mọi người nên nói giữ gìn, nêu chánh để phân biệt với tà cho nên chiếu xét rõ ràng. Hóa độ chúng sinh rộng khắp nên chỉ bày năm đường, khiến vượt biển khổ, độ kẻ chưa độ, giải quyết giúp cho ra khỏi sinh tử, vào đường Chánh Niết-bàn, tức dạy dỗ mở mang. Này Di-lặc phải biết cho đến không thể tính đếm, là mừng được gặp Phật nghe pháp. Có ba: Một là nói trước sau về Di-lặc. Ông và mười phương cho đến chẳng thể nói đủ, đây là kế nêu cội nguồn chúng sinh. Vónh là lâu dài, mãi mãi. Nhẫn đến đời này cho đến ta giúp ông được vui mừng, đây là Như lai chính thức vui mừng. Nhờ nhân lâu xa mà được gặp Phật nghe pháp nên rất đáng mừng vui. Nay ông cũng có thể cho đến chứa nhiều gốc lành, là phần thứ hai, khuyên tu hành. Có hai: Một là Chánh khuyên tu bỏ. Bệnh là khổ bên trong, Thống là khổ bên ngoài. Tuy một đời siêng khổ cho đến đạo Niết-bàn, là nêu lợi khiến tu. Thân và phước đủ nên nói đạo đức hợp, tâm và trí đủ nên nói hợp sáng. Các ông đều nên cho đến chịu các tai ách, là phần ba, khuyên bỏ nghi ngờ. Trong bản của hai ngài Bạch Diên và Chi Khiêm nói nhóm Trung, hạ đều bảo sinh về cõi nước của Đức Phật ấy không thể đến trước chỗ Phật A-di-đà, mà thấy bên cõi nước ấy có thành bảy báu, bèn mừng vui mà ở trong thành ấy, tức trong hoa sen ở ao bảy báu mà hóa sinh, tự nhiên to lớn lên. Ở trong ấy năm trăm năm. Thành ấy rộng mỗi bề hai ngàn dặm, cũng có nhà cửa bảy báu, trong nhà đều có ao tắm bảy báu. Trong ao có hoa sen. Ở đây nói cung điện bảy báu, tức là nhà cửa báu trong thành ấy. Ở trong thành ấy hưởng vui. Kinh này nói vui như trời Đao-lợi, nhưng phải chịu các tai ách, tức là không được thấy nghe Tam bảo. Nếu thế thì cõi ấy cũng có buồn lo, là các ách nạn, tức lo mà là cái lo xuất thế, không phải khổ khổ. Các thuyết chép: Ở Tịnh độ thân tâm thanh thản không có lo rầu chỉ là chán đời bỏ xuất thế, không phải lo rầu, nên nêu lo không phải là lo rầu, chỉ là chướng thấy Phật, lỗi này là do nghi ngờ. Nên khuyên răn nói không được nghi ngờ, ăn năn giữa chừng mà bị lỗi. Di-Lặc bạch Phật rằng cho đến chẳng dám nghi ngờ, là phần thứ tư, nói Di-lặc nhận hiểu. Vâng làm là hiểu lời khuyên tu, trước nói việc mình vâng lời không nghi, nhận lãnh khuyên bỏ nghi, nói tự mình không nghi. Phật bảo Di-lặc cho đến dễ khai hóa, là phần ba, nêu rộng nghiệp khổ khiến người chán bỏ. Có hai: Một là khen tin hiểu thực hành ở trước; hai là Chánh nói nghiệp khổ, đây là khen Di-lặc hiểu rõ vâng làm. Nay ta ở đây cho đến khiến lìa năm thiêu, là phần hai, chính là nói nghiệp khổ mà khiến chán bỏ. Có ba: Một là lược giải thích; hai là giải thích riêng; ba là giải thích chung. Phần một lại có hai: Một là khiến bỏ khiến lìa. Có thuyết chép: Năm điều ác là nhân, thống và thiêu là quả, tức là năm giới, phòng thân ba lỗi là ba, khẩu bốn là thứ tư, uống rượu là thứ năm. Đáp năm nhân này là bị năm thống, thống là khổ. Bị thiêu là khổ cụ. Hoặc thống hoặc thiêu đều là quả báo địa ngục. Nên văn trước chép: Khi qua đời nóng lạnh và thống khổ đều đủ. Bèn có các nhà khác nói người trong năm thống chịu năm thiêu ở địa ngục, nói rằng đây là rất lầm lẫn vì xét kinh hại văn hại nghóa là do chẳng hiểu thống là khổ, chịu thiêu là khổ cực. Không thể người chịu thống mà không có khổ cụ. Địa ngục có khổ cụ nhưng không thống. Cho nên gây ra năm điều ác trước phải vào đường ác, sau mới sinh làm người. Cho nên địa ngục chịu quả báo thống thiêu rồi sau mới sinh làm người, chịu các quả báo đau khổ khác. Đây e không đúng. Nếu nói năm điều ác tức năm giới để ngăn ngừa thì giới chẳng nói dối chỉ ngăn ngừa nói dối vì sao lại nói khẩu bốn là ác thứ tư là đúng lý? Lại thống ắt gồm cả cụ thiêu vì sao không chịu? Cho nên chẳng thể nói người trong đó có chịu mà không có cụ, địa ngục có cụ mà không có chịu. Như A-xà-thế giết cha rồi hiện đời bị các khổ, chẳng thể nào nói trước chịu thống thiêu rồi sau mới chịu các quả báo đau khổ khác. Kinh nói hoa báo đáng lẽ nên trở thành nói dối. Cho nên nay giữ nguyên nghóa đã nêu ra. Sát, đạo, tà dâm, nói dối, uống rượu là năm điều ác, hoa báo năm thống hiện đóng pháp vua, thân bị ách nạn, gọi là năm thống. Quả báo ba đường gọi là năm thiêu. Không như thế thì trái. Đời có các đạo lý như đạo thường, phép vua, lao ngục…. Hàng phục ý ấy cho đến Đạo Niết-bàn, là giúp cho giữ gìn, giúp cho chứng được. năm điều lành tức giới đề phòng năm điều ác, do giữ năm giới mà hiện không có các khổ, cho nên được phước đức, trái với năm thống. Sau sinh về Tây phương cuối cùng được Niết-bàn, cho nên độ đời sống lâu thì trái với năm thiêu. Phật nói những gì cho đến thế nào là năm thiêu, là phần thứ hai giải thích riêng. Có hai: Một là hỏi; hai là giải thích. Phần một lại có hai: Một là hỏi chỗ lìa bỏ. Tiêu hóa những gì cho đến đạo Niết-bàn, là hỏi việc giữ gìn, việc chứng được. Phật nói điều ác thứ nhất cho đến chứa nhóm phước đức mà được, là phần thứ hai, giải thích có năm: Một là giải thích sát sinh. Có hai: Một là giải thích chỗ lìa bỏ; hai là giải thích chỗ giữ được. Phần một lại có ba: Một là giải thích lại; hai là kết chung; ba là mượn dụ nói lỗi. Phần một lại có ba: Một là giải thích điều ác - khắc là giết, Tặc là hại. Có thuyết chép: Thần minh tức Đồng sinh và Đồng danh. Đồng sinh ở vai phải ghi chép làm việc ác. Đồng danh ở vai trái ghi chép làm việc lành, nên nói ghi biết. Đây e không đúng. Nghiệp ác cảm khởi lên không phải thần làm được. Cho nên nay tức cùng tinh thần mà biết do hạt giống, công năng nhớ biết chẳng quên gọi là ghi nhớ. Cô là không cha mẹ, độc là không con cái, vang là gầy yếu. Vang cuồng là thay đổi tánh ý, là điên loạn. Đời có đạo thường cho đến khó được xuất định, giải thích về thống. Thế gian có thứ này cho đến phải về là giải thích, thương hoán là trao đổi, tốt bao là gấp. Hội đương là sẽ. Quy là về. Ấy là điều ác lớn cho đến cần khổ như thế, là phần hai, là kết. Thí như lửa lớn đốt cháy thân người, là phần ba, nói lỗi. Người ở trong ấy cho đến làm một điều lành lớn, là phần thứ hai, giải thích điều giữ được. Phật nói điều ác thứ hai cho đến bèn ăn năn là phần thứ hai, giải thích trộm cắp. Có hai: Một là giải thích việc phải lìa bỏ. Có ba: Một là nhắc lại. Có ba: Một là giải thích điều ác. Độ là suy lường, nói việc trộm cắp là bất nghóa, cầu tài phi lý nên không thuận theo phép tắc. Không đè nén tâm tham nên nói đam mê tiền của muốn được, nên nói là dâm. Tuy có tâm muốn mà nói đủ. Tâm miệng khác nhau là miệng nói lời lành mà tâm nghóa chấp ác nên nói nịnh. Che giấu tánh mình nên nói là siểm, là hạnh không đáng tin nên nói bất trung?. Nói dụ là ý dối trá. Mî là dối gạt. Uổng là chết ngang trái, độ là pháp lượng. Cơ là cơ quan, tức nói khôn khéo khiến uốn mình theo ý vua làm điều dua nịnh, biết hình thế vua mà không can ngăn. Hưởng lộc 12500 nhà. Đãng là năm trăm nhà, chợ là nơi trao đổi, năm nhà là một lân, năm lân là một lý. Người quê mùa Khổng Tử nói trước dâng lễ nhạc là dẫn nhân, sau dâng lễ nhạc là quân tử. Bao thị gọi là kẻ quê mùa. Ở ngoài thành gọi là Dã, ở ngoài ấp gọi là giao. Tùng sự là gọi nhau người làm. Chí cánh là chết. Thiện ác là nhân. Họa phúc là quả. Truy là lại. Thủ mạng là mời dẫn, khi nhân thiện ác đã thành thì chắc chắn nay quả sẽ khởi. Lại, truy là đuổi. Mạng là nghiệp, theo nghiệp thiện ác mà sinh sau này. Đời này hiện có cho đến chịu hình phạt, là giải thích về thống. Do nhân đời trước cho đến đau đớn không thể nói là giải thích về thiêu. Là điều ác lớn thứ hai cho đến siêng khổ như thế, là phần hai: kết. Thí như lửa đốt cháy thân người, là phần ba, nói về lỗi. Người trong ấy cho đến là điều lành lớn thứ hai, là phần hai, giải thích chỗ giữ được. Phật nói ấy là điều ác thứ ba cho đến hoạn nạn mà khổ, thứ ba là giải thích tà dâm. Có hai: Một là giải thích chỗ bỏ. Có ba: Một là Giải thích lại. Lại có ba: Là giải thích điều ác. Miên là nhìn sai, lại là lé (đồng tử không ngay), nhìn nghiêng. Tế sắc là sắc đẹp, thái là khéo lượng tình người. Kết là hẹn. Sư, bốn ngàn người là quân, hai ngàn năm trăm là sư. Sư là mười hai con ngựa. năm trăm người là lữ. Cưỡng đoạt là công khai cướp lấy. Bất đạo là trái đạo lấy vật. Nghèo không sản nghiệp nên chẳng tự tu nghiệp, chỉ mong lấy ở ngoài nên có tâm ác với bên ngoài. Trộm là giấu riêng (lén lấy), là rình người không biết để tìm vật người khác mà lấy đi gọi là trộm. Kích là kích động, khủng là sợ, nhiệt là nóng bức, vật khổ ép thân gọi là bức, dùng oai làm nhục người gọi là hiếp. Cũng lại chẳng sợ phép vua lệnh cấm, là giải thích về thống. Điều ác như thế cho đến đau đớn chẳng thể nói, là giải thích về thiêu. Đặt trước là đồng với u minh. Đó là điều ác lớn thứ ba cho đến siêng khổ như thế, thứ hai là kết. Thí như lửa đốt cháy thân người, ba là nói về lỗi. Người ở trong đó cho đến là điều lành lớn thứ ba, là phần thứ hai, nói những điều giữ được. Phật nói điều ác thứ tư cho đến thường có tâm kiêu mạn, là phần thứ tư, giải thích nói dối. Có hai: Một là giải thích chỗ lìa. Có ba: Một là là giải thích nhiều lớp. Có ba: Một là giải thích điều ác. Bàng là vợ chồng dễ đến chỗ khinh nhờn. Kiểm là kiêu ngạo, tự cao tự đại. Các điều ác như thế cho đến không chỗ nương cậy, là giải thích về thống, thiên thần tức trời che chở thế gian, ghi chép người làm ác mà tâu lên Thượng đế, giải thích ghi vào sổ ác nên nói ghi biết. Tuổi thọ hết rồi cho đến đau đớn không thể nói, là giải thích về thiêu. Có thuyết chép: Gọi hạt giống là ở thức lại-da nghiệp chủng dẫn sinh ắt có chỗ đến, nên nói nhờ thần minh tức là trái. Tự bảo thiên thần che chở thế gian tâu lên thượng đế giải thích ghi ở sổ ác, nên nay ngay khi tuổi thọ hết rồi thì nghiệp ác dẫn quỷ thần đến bắt đi đem vào đường ác. Đó gọi là sổ dẫn chịu báo khổ. Đốn là đến, tùng là chỗ, đặc là nương. Có thuyết chép: Thiên Đạo là đạo của thiên hạ, là sai. Vì khổ báo chưa hẳn ở thiên hạ. Nên nay thiên là nghiệp, tức là đạo của nghiệp ác. Cho nên Du-già cũng nói nghiệp trời che đồng. Tự nhiên là rõ ràng. Tha diệt là vấp ngã, sai lầm. Nghiệp báo vận số chẳng sai lầm tức nghóa chẳng trái. Đó là điều ác lớn thứ tư cho đến siêng năng khổ nhọc như thế, là thứ hai: kết. Người ở trong đó cho đến là điều lành lớn, là phần thứ hai giải thích những điều đạt được. Phật bảo điều ác thứ năm cho đến ăn uống vô độ, là phần thứ năm, giải thích uống rượu. Có hai: Một là giải thích chỗ lìa. Có ba: Một là là giải thích nhiều lớp. có ba: Một là giải thích điều ác. Có hai: Một là gây việc ác. Đồ ỷ giống như bồi hồi, là trạng thái thất thần. Pháp sư vị nói cổ là tội, giảo là thẳng. Đoạt là trộm. Lấy tiền vật của người để khoái ý, không biết sự ngay thẳng sinh ra ở chỗ nào. Tán là đi, chẩn là bố thí, cho là đem của người giàu giúp kẻ nghèo. Mặc ý buông lung cho đến trù cơ cho chết, là nói về lỗi ác. Tứ là bày. Có thuyết chép: Lổ hỗ là ngang bướng, để đột là xúc phạm xâm lấn. Sáu thân có thuyết chép: Cha có ba: Mẹ có ba: Hợp thành sáu thân, có người nói sáu thân là cha mẹ, anh em, vợ con. Vương Bật nói là cha mẹ, anh em, vợ chồng đều trái. Trì tụng chép: Cha có sáu thân, mẹ có sáu thân. Thức đương là nhận. Người đời như thế cho đến ý chẳng hiểu, là giải thích về thống. Nghiêu, kiêu là gặp, tức cầu thân mà gặp. Hảnh là không phải những điều đã được mà gọi là được. Đại mạng sắp mất cho đến đau đớn chẳng thể nói được. Đây là giải thích về thiêu. Mạng là tuổi của trời đất, là một trong ba thứ lớp, nên gọi là Đại; yểu yểu là tối tăm, hạo hạo là mênh mông, nước lớn mênh mang mịt mù. Số là lý số. Đó là điều ác lớn thứ năm cho đến siêng năng khổ nhọc như thế, là phần thứ hai: kết. Thí như lửa lớn đốt cháy thân, thứ ba là nói lỗi. Người ở trong đó cho đến là điều lành lớn, thứ hai là giải thích những điều giữ được. Phó là giúp, xứng. Phật bảo Di-lặc cho đến lần lượt sinh nhau, thứ ba là giải thích chung. Có hai: Một là giải thích chung những điều phải lìa bỏ; hai là giải thích chung những điều sẽ được. một lại có hai: Một là nêu chung. Chỉ làm các điều ác cho đến chỉ cho chúng thấy, là giải thích riêng. Có hai: Một là từ điều ác sinh thống thiêu. Làm các điều ác tức là năm điều ác vào đường ác tức năm thiêu, bị bịnh ương tức là năm thống. Thân chết rồi đi theo cho đến thiêu đốt nhau, đây là từ thiêu sinh ác, thống. Có ba: Một là năm thiêu. Hạnh là nghiệp. Đến lâu sau cho đến theo đó mà mòn mất, là từ thiêu sinh ra ác, tỉnh là xét. Thân bị khổ nhọc cho đến đau đớn thay thật đáng thương, đây là từ ác sinh ra thống. Tọa là do, chịu. Khổ thêm không ngừng nên nói lâu sau càng rất dữ. Lý nghiệp quả không có tác giả nên nói là Đạo trời giăng bày, gây ra điều ác sẽ bày rõ, nên nay gọi là ước, hạn định, hẹn. Thân bị lưới pháp luật, nên nói mành lưới, sang hèn đều phải theo pháp nên trên dưới tương ưng với tội. Người tội tự về không bạn đưa tiễn. Phật bảo Di-lặc cho đến Phật đều thương xót, thứ hai là giải thích những điều phải giữ. Có hai: Một là kết nói lên sự buồn thương của mình. Dùng năng lực oai thần cho đến Đạo Niết-bàn, chính là bày lợi ích của sự giáo hóa. Dứt ác làm lành là khiến tu điều lành ở đời. Bỏ nghó thọ Đạo là tu lành xuất thế. Phật bảo: nay các ông nói Đạo khổ thống, thứ tư là khuyên người tu xả bỏ. Có hai: Một là Phật khuyên tu bỏ; hai là Di-lặc nhận hiểu. Phần một lại có ba: Một là dùng lý chánh khuyên; hai là nêu hiện hóa mà khuyên; ba là dùng hóa diệt mà khuyên - một lại có hai: Một là Chánh khuyên tu xả bỏ. Đoạn thủ là sửa tà giữ chánh. Do đó các ông cho đến không có mảy may điều ác, là đối khen khiến tu. Có hai: Một là đối cõi Di-đà mà khen cao quý khiến tu. sáu độ như thí… tức là tự lợi được chuyển hóa. Lập điều lành tức là hạnh lợi tha “Hành thiện”. Chánh tâm trai giới là “Chỉ thiện”. Tu đây khó thành cho nên tu điều lành ở đây một ngày hơn ở Tây phương tu điều lành trăm năm mà khen rằng sinh nước ấy mau được Bồ-đề Vô thượng. Vì ở đây không lúc nào chẳng tu. Cho nên tu điều lành này ít thời gian, nên chẳng trái nhau. Đối tu điều lành này cho đến không hề ngừng dứt, là đối với các cõi Phật khác mà khen tốt đẹp hơn khiến tu. Tức trông lên vị trên ở cõi cao quý so sánh khen tốt đẹp hơn mà khiến thân tu. Đãi là nguy, là hết. Nay ý ở đây giữ lời tục mà nói lừa dối. Ta thương xót các ông cho đến cốt tu cầu nguyện, thứ hai là nêu hiện hóa ích để khuyên tu. Có hai: Một là thiện được ích. Ấp Chu Lễ nói bốn giếng là một ấp, vuông vức hai dặm. chín người là một giếng, vuông vức một dặm. Văn nói tám nhà là một giếng. Xóm làng, Vương xá làng nhỏ gọi là tụ. Quảng nhã nói lạc là ở, nghóa là chỗ người tụ họp nhau ở đó. Lệ là dịch lệ. Thích danh gọi là bịnh thời khí, lan truyền trong loài người. Qua là loại kích đầu bằng, dài một thước sáu tấc, hoặc sáu thước sáu tấc. Phật nói ta thương xót đến là an vô vi, là nói dứt ác lìa khổ. Dứt năm điều ác nên được năm đức, lìa năm thống thiêu cho nên lên cõi an vui vô vi. Sau khi ta diệt độ cho đến nói lược như thế, thứ ba là nói diệt hóa tổn để khuyên tu. Có hai: Một là Nói về cách Thánh. Tất là đủ. Phật bảo Di-lặc cho đến không được phạm, là khuyên người tu hành. Do đó Di-lặc cho đến không dám trái lỗi, là phần hai, Di-lặc nhận hiểu. Chịu khổ thật như thế là nhận hiểu, không dám trái lỗi là vâng làm. Không dám là sợ. Phật bảo A-nan cho đến không mê đắm vô ngại, thứ ba là khen chê được mất khiến người tu xả bỏ. Có năm: Một là Phật khiến A-nan lễ Phật Di-đà. Di-lặc đứng đầu chúng ảnh hưởng, còn A-nan đứng đầu chúng đương cơ. Phật chỉ đối hai vị Đại thánh này mà khuyên người khiến tu nhân Tịnh độ. Do đó A-nan cho đến chúng Thinh Văn, đây là phần hai, nói A- nan vâng lệnh lễ Phật để xin thấy, cõi là chỗ ở. Chúng là người được hóa độ. Nói lời ấy rồi cho đến chỉ thấy ánh sáng Phật, là phần ba, nói Phật ấy phát ra ánh sáng nên xin được thấy. Quang dạng là chứa nhiều nước tức mênh mông. Hạn là mồ hôi do hơi nóng xông lên. Nay nói hạo hạn là mênh mông. Khi ấy A-nan cho đến cũng giống như thế, là phần thứ tư, tìm ánh sáng mà thấy đủ sự hơn kém ở cõi ấy. Chúng này thấy cõi ấy, chúng ấy thấy Ta-bà sáng tối có khác như trước đã giải thích. Bấy giờ Phật bảo cho đến thưa rằng đã thấy, là phần thứ năm, là bày lỗi ấy, dạy cầu mong, dạy xả bỏ. Có hai: Một là nói đức dạy cầu mong. Có ba câu hỏi đáp. Các thuyết nói Tịnh độ không có trời đất khác nhau là trái văn này nói từ đất lên đến trời Tịnh cư. Kinh của ngài Bạch Diên nói tức cõi nước của các Đức Phật từ thứ nhất Tứ thiên vương lên đến tầng trời thứ ba mươi sáu, trên thì các Bồ tát A-la-hán trời, người đều ở trên hư không, cùng trỗi các thứ âm nhạc. Dưới lại chép: Một là các trời, người Bốn thiên vương; hai là các trời, người Đao-lợi; ba là các vị trời trên cõi trời; bốn là các vị trời trên cõi trời; năm là các vị trời trên cõi trời. Sáu là các vị trời trên cõi trời; bảy là các vị trời trên cõi Phạm thiên, đến thứ mười sáu là các vị trời trên cõi trời. Còn kinh ngài Chi Khiêm cũng chép: Phật A-di-đà vì các Bồ tát A-la-hán nói kinh. Bồ tát A-la-hán và các trời, người vô ương số đều bay đến chỗ Phật A-di-đà nghe pháp vui mừng, tức thứ nhất là trời Bốn Thiên vương, thứ hai là trời Đao-lợi, lên đến các trời, người trên tầng trời thứ ba mươi hai, đều đem muôn vật tự nhiên đến chỗ Phật A-di-đà đảnh lễ cúng dường Phật và các Bồ-tát, A-la-hán. Theo hai kinh này trong các thế giới đều có ba mươi sáu trời và ba trời. Tuy là một bổn nhưng người dịch lại dịch khác. Nên theo kinh Mật Nghiêm thì có hai mươi sáu trời, gọi là trời Lục Dục, Phạm thiên có mười, Tịnh Cư có năm, Vô Sắc và có bốn tầng trời Vô Tưởng. Cho nên bài tụng ấy chép: Cõi Dục, Sắc, Vô sắc, Vô tưởng đẳng thiên cung. Phật vượt hơn các cõi ấy. Nương Mật nghiêm mà trụ. Nếu theo kinh bổn nghiệp thì có hai mươi tám tầng trời, tức cõi Dục có sáu thiền đều có bốn Tịnh cư là một chẳng nói Vô tưởng thêm trời Đại tịnh và Vô Sắc. Theo kinh Hoa Nghiêm thì có ba mươi hai tầng trời, tức là sáu tầng trời cõi Dục Thiên, Sơ Thiền có năm, ba tầng trên mỗi tầng có bốn, Tịnh Cư cũng có năm và bốn Vô Sắc, không nói vô tưởng. Nói tóm lại Bổn của Chi Khiêm tức đồng với Hoa Nghiêm. Nên tuy chẳng nói Vô Tưởng, đại tịnh có ba mươi hai mà Bạch Diên thì nói ba mươi sáu, là sai. Đem bản của Chi Khiêm mà kiểm tra kinh ngài Bạch Diên thì kinh Bạch Diên có nhiều sai. Tuy có trời Vô Sắc mà nương vào dục sắc mà ở, lại không khác chỗ. Cho nên nay chỉ hỏi cho đến chỗ tất cả sự trang nghiêm ở Tịnh Cư. Tuy có trời Tịnh cư mà Định tánh Na-hàm chắc chắn chẳng sinh Tịnh độ. Nhưng Mật Nghiêm chép: hoặc sinh cõi Dục tự tại và cả các tầng trời cõi Sắc cho đến vô tưởng cung A-ca-ni-tra xứ, không, thức, Vô Sỡ Hữu, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ… như thế các địa Trung Tiệm. Kế trừ tham dục mà trụ vào đó. Nhưng không phải rốt ráo tìm đến đời sau. Mật Nghiêm là cõi Mật Nghiêm, là chỗ sinh của Bồ-tát Thập địa, nên không trái nhau. Văn trước tự nói các trời Tịnh Cư cùng A-ca-ni-tra Loa kế phạm vương đồng gặp một chỗ đều ở cõi này và Bồ-tát sinh tâm ít có. Liền biết sinh cõi trời Mật Nghiêm ấy là Bồ-tát. Bàn thêm là để giải thích bản văn. Nhân dân nước ấy cho đến cũng đều tự nhiên, là nói sự thua kém ở cõi ấy để khiến nhàm chán, khiến xả bỏ. Có hai: Một là nêu sự thua kém của thai sinh; hai là khuyên phát ý tu bỏ. Phần một lại có bốn: Một là mượn hỏi mà nói quả thai sinh ở cõi ấy. Mười do-tuần là cung chỗ sinh của nhóm hạ nghi ngờ trí Phật. năm trăm do-tuần là cung chỗ sinh của nhóm trung nghi ngờ trí Phật. Nhưng kinh của Bạch Diên và Khiêm hoặc Trung, hoặc Hạ đều nói là hai trăm dặm - thành là bởi nêu lược chẳng nói hết. Không đúng. Bậc trung, bậc hạ phải không sai khác bao nhiêu, nên văn này lấy sự cao quý mà lượng định lớn nhỏ. Suy nghó kỹ sẽ hiểu. năm trăm năm là số năm của cõi này. Các bản khác đều nói thời gian ấy khoảng năm trăm năm. Khi ấy Từ Thị cho đến thai sinh, hóa sinh, là phần hai là đối nhân mà bày quả. Có hai: Một là hỏi, chính là hỏi nhân của thai sinh gồm có hóa sinh. Phật bảo Từ Thị cho đến gọi là thai sinh, tức là lý trái chung riêng đồng giải thích như trước, cũng thứ lớp trái các luận, cho nên có thuyết chép: Trí Phật là nêu chung, bốn trí là nêu riêng. Nên trí Đại viên cảnh gọi là không thể suy nghó bàn luận, trí bình đẳng tánh không thể gọi tên, trí Diệu quan sát gọi là Quảng trí Đại thừa, trí thành sở tác gọi là trí vô đẳng tác gọi là Thắng trí vô đẳng vô luân tối thượng. Đây cũng không đúng. bốn trí sau là bốn trí như Đại viên cảnh… là thuận theo Thánh giáo, không phải bốn trí đều gọi là trí Phật. Cho nên hai trí bình đẳng và Diệu quán thì tâm phẩm Bồ-tát cũng được. Cho nên nói năm trí này như thứ lớp là năm pháp trong kinh Phật Địa. Thanh tịnh pháp giới gọi là trí Phật. Trí xứ trí tánh đều gọi là trí. Cho nên nói nghi về Di-đà tuy có thệ nguyện sâu rộng với muôn loài chúng sinh, có khả năng dắt dẫn trời, người ở mười phương sinh về nước ấy, nên nói không hiểu trí Phật. Di-đà đã chứng pháp giới Nhất chân, các đức đều tròn đủ, xứng theo Bổn nguyện mà đón rước. Cho nên chúng sinh có duyên đều sinh về nước ấy không nên nghi ngờ kinh. Trí Đại viên cảnh gọi là trí Bất tư nghị, có nghe kinh nói thiện ác tội phước nặng nề thì trước sinh nghi ngờ việc xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà sẽ sinh về nước ấy, nhưng mình đã thường làm các điều ác, tâm ác sâu nặng không thể mười niệm nối nhau, điều lành nhỏ không thể diệt hết các tội mà vãng sinh nước ấy, vào nhóm Chánh định rốt ráo được không lui sụt, cho nên nói không hiểu rõ Trí bất tư nghì. Trí bất tư nghì có oai lực lớn không thể lường được. Các ông đâu chẳng nghe gương một mặt mà không bóng nào chẳng hiện, há lại nghi năng lực một trí mà diệt hết các tội chướng. Lại muôn cân treo sợi tóc ngọn lửa nhỏ cũng đốt tiêu. Nên mười niệm xưng niệm, một niệm riêng trừ được sinh tử tội nặng tám mươi ức kiếp mà vãng sinh Tịnh độ thì có gì là lạ - trí Bình đẳng tánh gọi là Trí bất khả xưng. Có nghe trí Phật cao xa sinh nghi mà nói tên sẽ đối đãi nhau, chẳng biết mà gọi là biết thì có gì là cao xa, mà niệm được nhiều phước. Nay giải thích nghi này nói Phật có trí Bất khả xưng, trí bình đẳng tánh, chứng lý cảnh hai không. Trí bình đẳng cao xa không thể xưng nói, dùng tên bỏ tên mà nói huyền chỉ. Ngộ chỉ là quên lời. Cảnh đã không thể gọi tên thì trí có thể nói là không thể gọi tên. Vì không thể gọi tên cho nên niệm thì được nhiều phước. Do đó mà không nên có tâm nghi. Trí Diệu quán sát gọi là Quảng trí Đại thừa. Có người nghe niệm Phật đều được vãng sinh mà sinh nghi rằng: Các Đức Phật quá khứ hiện tại tuy là vô lượng độ sinh bất tận, một Phật có thể độ hết chúng sinh đâu cần có Phật khác hóa sinh, thì làm sao niệm Phật Di-đà đều sinh về cõi ấy, cho nên nói không hiểu Quảng trí Đại thừa. Trí Diệu quán sát thường gồm cả bi trí, đối với những ai có duyên đều chuyển vận vào Niết-bàn. Chỉ các chúng sinh đều có chỗ thuộc. Thuộc là tuy là cùng tận nhưng không thuộc nên vẫn còn. Do đó lại có các Đức Phật khác ra đời để hóa độ. Do đó, người niệm Phật đều sinh Tịnh độ là ý này. Trí Thành Sở Tác gọi là Thắng trí Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng. Có người nghe Như lai chẳng đáp mười bốn việc không đáng nhớ, liền nghi rằng Phật biết không khắp tất cả các pháp. Đã không có thắng dụng mà niệm thì làm sao có phước được, nên nói không hiểu Trí Vô Đẳng Luân. Trí Thành Sở Tác duyên khắp sáu trần nhưng khác với phàm phu, nên nói vô đẳng (không ai bằng). Tuy thấu suốt muôn cảnh nhưng thường ở trong Định mầu, chẳng phải như Nhị thừa có sự khác nhau, nên nói Vô luân. Hai chướng đều hết, phát ra ba nghiệp, hóa thành bốn ký luận, các Bồ-tát không làm được nên nói là Tối Thượng Thắng. Tối Thượng Thắng là theo thứ lớp mà phân biệt với ba kỳ kiếp. Cho nên Như lai đáp lời vấn nạn thì có lợi ích. Còn đáp mười bốn việc thì chỉ có nói suông thôi, nên biết mà không đáp. Cho nên người niệm thì phước chắc chắn không ít. Do nghi trí Phật này nên tuy sinh về nước ấy mà phải ở biên địa, không nghe được Thánh giáo. Nếu thai sinh thì nên bỏ. Nếu có chúng sinh cho đến thành tựu đầy đủ, là đáp cả nhân quả hóa sinh. Lại, này Từ Thị cho đến trí tuệ cao quý, là phần ba, so sánh để nêu sự thua kém. Có hai: Một là khen Hóa sinh cao quý. Thai sinh cho đến do nghi ngờ nên như thế, đây là phần hai là nói thai sinh thua kém. Mê hoặc là chấp. Phật bảo Di-lặc cho đến ưa thích chỗ ấy chăng? Đây là phần thứ tư, mượn dụ nói lỗi. Có ba: Một là lập dụ hỏi lại. Đáp rằng không cho đến muốn mình thoát ra, là Di-lặc thuận đáp theo. Phật bảo Di-lặc cho đến chẳng ưa thích chỗ ấy, đây là phần ba, Như lai bày lỗi. Nếu chúng sinh này cho đến tu các công đức; hai là khuyên khiến tu bỏ. Có hai: Một là Chánh khuyên cho tu hành, cho xả bỏ. Biết rõ gốc tội là biết rõ tội nghi ngờ năm trí Phật, rất ăn năn tự trách thì liền lìa được cung báu ấy. Này Di-lặc phải biết cho đến trí tuệ Vô thượng, là kết khuyên tu học. Bồ-tát Di-lặc cho đến cõi nước Phật ấy, thứ tư là trình bày Đại Bồ-tát vãng sinh Tây phương để làm tăng thêm ý muốn vãng sinh. Có hai: Một là hỏi. Phật bảo Di-lặc cho đến đều sẽ vãng sinh; hai là đáp. Có hai: Một là nói Bồ-tát ở Ta-bà sinh về cõi ấy. Phật bảo Di-lặc cho đến cũng giống như thế; hai là nói phương khác vãng sinh. Có ba: Một là nêu chung. Phật thứ nhất cho đến đều sẽ vãng sinh, đây là nêu riêng. Phật bảo Di-lặc cho đến nói lược mà thôi, đây là phần ba, phân loại nói vãng sinh, khiến thêm nhiều ý ham cầu. Nếu mười ba nước mà chung cho Ta-bà nên nói có mười bốn. Bắt đầu từ A-nan hỏi Phật nhan đến cuối là Như lai nói về sự vãng sinh của các Bồ-tát, mà bày hỏi đáp rộng rãi. Phật bảo Di-lặc cho đến trì tụng nói làm, đây là phần ba, nghe nói vui làm. Có bốn: Một là khen kinh khuyên học; hai là nói bày lợi ích; ba là bày tướng khiến tin; bốn là nói chúng vui làm. Phần một lại có năm: Một là khen nghe khuyên làm. Phật bảo nay ta vì các chúng sinh cho đến lại sinh nghi ngờ: Một là khuyên mọi người bỏ nghi. Ở đời tương lai cho đến đều được độ, đây là phần ba, khen kinh cứu độ cùng khắp. Có thuyết chép: Phật Thích-ca có Chánh pháp là năm trăm năm, tượng pháp là một ngàn năm, Mạt pháp là mười ngàn năm. Tất cả đều qua, nên nói khi pháp diệt hết. Tuy đã diệt hết rồi, nhưng Phật vì lòng từ bi thương xót chúng sinh lưu lại riêng kinh này một trăm năm để cứu độ. Đây e không đúng. Không phải chỉ trái với pháp trụ mà các việc Thánh giáo cũng chưa hết. Cho nên nay y theo Pháp Trụ Ký cho rằng: Khi Phật diệt độ, giao phó pháp Vô thượng cho mười sáu vị Đại A-la-hán và các quyến thuộc giữ gìn cho chẳng diệt mất và bảo thân mình làm ruộng phước chân thật, cho các thí chủ, khiến người cúng thí được quả báo lớn. Đó là mười sáu Đại A-la-hán như Tân-Đầu-Lô… giữ gìn Chánh pháp làm lợi ích hữu tình. Đến lúc người ở châu Thiệm bộ ở phía Nam tuổi thọ dài nhất chỉ còn mười tuổi, khi ấy kiếp đao binh khởi lên, tranh nhau giết chóc. Lúc ấy, Phật pháp tạm thời diệt mất. Sau kiếp đao binh thì tuổi thọ của người tăng dần cho đến một trăm tuổi. Người ở châu này nhàm chán kiếp đao binh giết hại nhau khổ não nên lại thích tu việc lành. Lúc đó, mười sáu vị Đại A-la-hán cùng các quyến thuộc lại vào loài người mà giảng nói Chánh pháp Vô thượng, độ vô lượng chúng cho họ xuất gia, làm việc lợi ích cho các hữu tình. Như thế cho đến người ở châu này sống lâu đến sáu mươ ngàn tuổi. Khi đó Chánh pháp truyền bá ở thế gian rất hưng thạnh không ngừng. Sau đến khi người sống đến bảy mươi ngàn tuổi thì Chánh pháp Vô thượng mới diệt hẳn. Lúc đó, mười sáu vị Đại A-la-hán này và các quyến thuộc cùng đến nhóm họp trên đất châu này, dùng năng lực thần thông đem bảy báu xây dựng chùa tháp đẹp đẽ cao rộng. Có bao nhiêu di thân của Phật Thích-ca đều nhóm họp lại thờ trong pháp ấy. Lúc đó, mười sáu vị Đại A-la-hán cùng các quyến thuộc đi nhiễu quanh tháp, cúng dường hương hoa, cung kính khen ngợi, đi nhiễu trăm ngàn vòng ngước nhìn lễ bái xong, đều bay lên hư không, đồng hướng về tháp mà nói rằng: Kính lạy Đấng Thế tôn Thích-ca Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chúng con vâng lệnh giữ gìn Chánh pháp, và làm các việc lợi ích cho trời, người, pháp tạng đã hết, kẻ có duyên đã tròn, nay xin giã từ mà diệt độ. Nói xong lời ấy thì cùng lúc đều vào Niết-bàn Vô dư. Trước các Thánh khởi lửa nguyện lực đốt cháy thân như đèn sáng thiêu đốt hết hài cốt, không còn sót chút gì. Bấy giờ, các tháp tụt xuống đất đến lớp kim luân mới dừng lại. Khi ấy, Chánh pháp Vô thượng của Đức Thế tôn Thích-ca Mâu-ni ở Tam thiên đại thiên thế giới đều mất hẳn. Từ đó trong các cõi Phật có đến bảy mươi ngàn câu-chi Độc giác cùng lúc xuất hiện. Đến khi loài người tuổi thọ đến tám mươi ngàn tuổi thì Thánh chúng Độc giác đều mất hết. Kế đó, Di-lặc Như lai ra đời. Nói theo đây thì khi loài người tuổi thọ bảy mươi ngàn tuổi thì Chánh pháp Vô thượng mới diệt hết. Cho nên, nói kinh Đạo diệt hết. Khi mười sáu vị Đại Thánh diệt độ thì tháp kia liền sụp xuống đất. Đặc là riêng, kinh Đại Niết-bàn nói rộng về Phật tánh, các bậc Thánh sâu xa trong thánh giáo mất trước, kinh này chỉ bày Tịnh độ khiến người cầu sinh, là cốt yếu nhất trong việc cứu độ phàm nhân. Nên lưu lại riêng một trăm năm, nên đối việc mất trước sau chẳng có gì lạ, ấy là do nguyện, tức là lưu lại lợi ích lúc pháp diệt rồi mà nghe còn được lợi vãng sinh, huống là hiện nay được nghe ư? Phật bảo Di-lặc cho đến chẳng việc nào khó hơn việc này, đây là phần bốn, khen nghe mà khiến kính trọng. Cho nên pháp ta cho đến đúng pháp mà tu hành, đây là phần năm, kết khuyên tu học - pháp của ta tức là kinh này. Làm như thế, tức là kinh này nói Di-đà tùy nguyện tu hành thành thân, thành trí. Nói như thế tức là trên vì chúng sinh mà nói ra. Dạy như thế, tức là dạy người khiến vãng sinh. Khí ấy Đức Thế tôn cho đến tâm Chánh Giác, đây là phần hai, bày nói lợi ích. Có ba: Một là phát nguyện làm lợi ích. Mười hai ngàn na-do-tha người cho đến lậu tận ý giải, kế là lợi ích Thinh văn. Pháp nhãn thanh tịnh tức là quả Dự lưu. Lậu tận tức là chướng hết, ý giải tức là trí đủ, chúng nghe cõi này uế ác đáng nhàm chán, nên được quả Thanh văn. Bốn mươi ức Bồ-tát cho đến sẽ thành Chánh giác, nói lợi ích Bồ- tát. Nghe Di-đà thành đức rộng lớn nên không còn lui sụt. Nghe cõi này nhiều điều ác nên thệ nguyện muốn cứu độ. Cho nên dùng đức thệ nguyện sâu rộng để tự trang nghiêm. Khi ấy, Tam thiên cho đến phơi phơi rơi xuống, đây là phần ba, bày tướng để cho tin. Phân phân là rơi lăng xăng. Phật nói kinh xong cho đến đều vui mừng, đây là phần thứ tư, nói Đại chúng vui mừng vâng làm. Than ôi! Kinh này tuy có nhiều sớ như thế nhưng cũng giống như Đức Phật đeo những vật Trang Nghiêm đẹp đẽ, khác nào đem châu báu diệu sáng trang nghiêm bằng trăm ngàn lầm lẫn như giăng lưới bên ngoài, thì đức của Phật càng được kính ngưỡng, mà sự kính tín của các chúng sinh phải càng chắc rễ, ấy là kinh này. Rất sâu diệu khó lường biết được song sớ ra là phụ giúp xé bỏ lưới nghi hoặc rửa sạch bùn nhơ mà nhận lấy nguồn huyền chỉ trong sạch, tín căn kia càng làm thấm nhuần sớ nọ. Thật kinh ấy là Đại Trang Nghiêm, là một chỗ nhìn rộng lớn trên thế gian. Sách này là Tịnh ảnh soạn hay Gia Tường soạn ư? Các ngài Nghóa Tịch, Pháp Vị là những bậc nổi tiếng cũng đều có soạn mà Đại sư công khéo ở đây có thể nói là rất đặc biệt. Tôi từng lo sách này truyền bá không xa. Nay nhặt lấy mà so sánh chỗ hay đẹp rồi khắc bản để lưu hành trên đời, chọn pháp nhãn xin xem mà kính ngưỡng. Ngày mồng một tháng chạp năm Kỹ Mão, niên hiệu Nguyên Lộc Hoa Đảnh Nghóa Sơn kính <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 131