<經 id="n1730">KINH TAM MUỘI KIM CƯƠNG LUẬN HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1730 KINH TAM MUỘI KIM CƯƠNG LUẬN Sa-môn Nguyên Hiểu nước Tân-La <卷>QUYỂN THƯỢNG Kinh này lược chia ra bốn môn: Một: Nói về đại ý. Hai: Nói về tông chỉ kinh. Ba: Giải thích tựa đề. Bốn: Hiển bày rõ ràng về văn nghóa. Thứ nhất là nói về đại ý: Nguồn gốc của Nhất tâm kia xa lìa có không chỉ một thanh tịnh. Biển của ba “không” dung chứa Chân - tục trong suốt tự nhiên. Trong suốt tự nhiên dung hợp hai mà không phải một, chỉ một thanh tịnh xa lìa bên mà chẳng phải trung, chẳng phải trung mà lìa bên, nên pháp bất hữu không tức là trụ vô tướng bất vô không thể tức là trụ hữu, không là một mà dung chứa hai. Cho nên, Sự chẳng phải chân - chưa hẳn là Tục, Lý chẳng phải Tục - chưa hẳn là Chân, dung hợp cả hai mà không phải một. Vì thế, tánh của Chân - tục ch tánh nào không thể lập ra, tướng của Nhiễm - Tịnh chẳng tướng nào không đầy đủ. Xa lìa bên mà chẳng phải trung, cho nên pháp của có không chẳng pháp nào không tạo tác, nghóa thị, phi chẳng nghóa nào mà không có đủ. Như thế chính là không phá bỏ mà không gì không thể phá bỏ, không lập ra ra mà chẳng có gì không thể lập ra. Có thể nói là chí lý của vô lý, rất đúng trong không thể đúng vậy. Đây gọi là đại ý của kinh này. Vì rất đúng trong không thể đúng, nên lời của năng nói khế hợp mầu nhiệm vòng quanh bên trong. Chí lý của vô lý, cho nên Tông của sở thuyên vượt ra khỏi bên ngoài. Không có gì không thể phá trừ cho nên gọi là Tam-muội Kim Cương. Chẳng có gì không thể lập ra nên gọi là Kinh Nhiếp Đại Thừa. Tất cả nghóa - tông không ra khỏi hai nơi này, thế nên cũng gọi là Vô Lượng Nghóa - Tông. Tạm thời nêu ra một phần mục để lên đầu tiên đó, cho nên nói là Muội Kinh Kim Cương Tam. Thứ hai là phân rõ tông chỉ của kinh: Tông yếu của kinh này có mở có hợp, hợp mà nói thì một ý vị quán hành làm chính. Mở ra mà nói thì mười tầng pháp môn này làm tông chỉ. Nói là quán hành: Quán là luận theo bề ngang (hoành), thông suốt đối với cảnh trí. Hành là hướng đến bề dọc (thụ) kéo dài liên tục nhân quả. Quả là năm pháp viên mãn, nhân nói là sáu hạnh đầy đủ. Trí tức là hai Giác bổn - thỉ, cảnh tức là chân - tục đều dứt. Cả hai dứt mà không mất, hai giác ngộ mà vô sanh. Hành của vô sanh sâu xa hợp cùng vô tướng, pháp của vô tướng thuận theo trở thành lợi ích bổn. Lợi ích đã là lợi ích bổn mà không có đắc nên không động thật tế, tế đã là thật tế mà lìa tánh nên chân tế cũng không. Chư Phật Như-lai ở tại chỗ này mà cất giữ, tất cả Bồ-tát ở trong đó thuận theo nhập vào, như vậy gọi là nhập Như-lai-tạng. Đây là đại ý của sáu phẩm. Đối với quán môn này, từ sơ Tín - Giải cho đến Đẳng Giác, lập ra làm sáu Hạnh, lúc sáu Hạnh đầy đủ, chín Thức chuyển sang hiển bày. Hiển bày vô cấu tức là tịnh pháp giới, chuyển tám thức còn lại mà trở thành bốn trí. Năm pháp đã trọn vẹn thì ba thân đầy đủ, như vậy nhân quả không xa lìa cảnh trí, cảnh trí không hai, chỉ là một vị. Như vậy một vị quán hành lấy làm tông của kinh này. Cho nên, pháp tướng Đại thừa chẳng pháp nào không thể thâu nhiếp, Vô lượng nghóa tông chẳng nghóa nào không hội nhập, tên gọi không luống dối xứng hợp với điều nói ở đây, hợp lại luận về một quán lược thuật như vậy. Mở ra nói mười môn làm Tông: Nghóa là từ một môn tăng lên đến mười môn, thế nào là một môn? Một niệm dấy động trong một tâm, thuận theo một Thật, tu tập một Hạnh, nhập vào một Thừa, an trụ một Đạo, sử dụng một giác, giác ngộ một Vị. Thế nào là hai môn? Không trụ vào hai bờ vì giải tán hai chúng, không mê đắm hai Ngã vì xa lìa hai bên, thông đạt hai “Không” chẳng rơi vào hai thừa, cùng dung hợp hai Đế không xa cách hai Nhập. Thế nào là ba môn? Tự quy y ba vị Phật mà thọ nhận ba giới, thuận theo ba đại đế đạt được ba giải thoát, Đẳng Giác ba địa, Diệu Giác ba thân, nhập vào ba Nhóm không, dứt trừ ba tâm có. Bốn môn là: Tu bốn chánh cần, nhập vào bốn thần túc, bốn đại duyên lực, bốn nghi dung thường lợi ích, vượt trên bốn thiền, xa lìa bốn chê bai, bốn trí có ra, trong bốn hoằng địa. Năm môn là: Ở tại năm ấm sanh ra đầy đủ năm, mười ác cho nên gieo trồng năm Căn mà nuôi dưỡng năm Lực, vượt qua biển năm không, leo lên vị trí năm Đẳng, đạt được pháp năm Tịnh, độ chúng sanh năm đường, các loại như vậy v.v… thế nào sáu, bảy, tám, chín môn? Tu đầy đủ sáu độ trừ diệt hẳn sáu Nhập, thật hành bảy Giác phần dập tắt bảy nghóa khoa, biển tám thức lắng trong, dòng chín Thức sạch sẽ, mới khởi điểm từ Thập Tín cho đến Thập Địa, trăm hạnh đầy đủ, muôn đức tròn vẹn. Các môn như vậy là tông của kinh này, đều ở tại văn kinh, nơi văn sẽ giới thiệu. Nhưng chín môn sau này đều nhập vào một môn, một môn có chín môn, không ra ngoài một quán, cho nên mở ra không thêm thêm một, hợp lại không bớt bớt mười, không thêm không bớt là Tông Yếu. Thứ ba là giải thích đề mục: Đề mục của kinh này có ba thứ: Một là Gọi là Kinh Nhiếp Đại thừa, Hai là Gọi là Tam-muội Kim Cương, Ba là gọi là Vô Lượng Nghóa Tông. Hai tên gọi đầu và sau sẽ giải thích ở phần kế. Nay tạm thời giải thích trước một đề mục ở giữa, vì chỉ một tên gọi này ở tại đầu đề, trong đó có hai: Đầu tiên giải thích về Kim Cương, sau đó giải thích Tam-muội. Trong phần đầu cũng có hai: Trước giải thích - sau phân biệt. Nói về Kim Cương: Dựa vào thí dụ mà gọi, cứng chắc vững chắc làm Thể - xuyên thủng, phá vỡ làm công. Tam-muội Kim Cương nên biết cũng như vậy, thật tế là thể, phá thủng làm năm. Thật tế làm thể ấy là chứng cùng tận cội nguồn của lý, như văn dưới nói là chứng pháp chân thật định. Phá xuyên làm năng có hai nghóa của nó: 1. Phá trừ các nghi ngờ; 2.Xuyên suốt các định. Phá trừ các nghi ngờ ấy là bắt đầu nói về dứt nghi ngờ, như văn dưới nói quyết định dứt nghi hối. Xuyên suốt các định ấy là định này có công năng khiến cho các Tam-muội khác đều được hữu dụng, như xâu ngọc quý thành chuỗi, được hữu dụng. Như kinh Đại Phẩm chép: “Thế nào gọi là Tam-muội Kim Cương? Vì an trụ Tam- muội này có thể phá tan các Tam-muội”. Luận kia giải thích: “Tam- muội Kim Cương ấy ví như Kim Cương - chẳng vật gì không thể bị phá vỡ. Tam-muội này cũng như vậy, ở trong các pháp, không có pháp nào không thể thông suốt, khiến cho các Tam-muội đều có được công dụng, như xà cừ, mã não, lưu ly, chỉ có Kim Cương có thể xuyên vào”. Xét rằng: “Kinh nói phá các Tam-muội tức phá nói là xuyên. Trong luận nói xuyên nhập giải thích kinh nói là phá cho nên thông hiểu các Tam-muội đều không có tự tánh, khiến cho Tam-muội kia đều xa lìa tự vướng mắc, do vậy được vô ngại tự tại”. Giải thích tên gọi như vậy. Kế là phân biệt riêng, trong đó có hai: Trước là phân biệt định tuệ. Hỏi: Kim Cương Bát-nhã - Tam-muội Kim Cương đều gọi là Kim Cương, có gì sai khác? Giải thích: Tuệ kia định này đây là sai khác. Lại Kim Cương Bát-nhã thông suốt đối với nhân quả, Tam-muội Kim Cương vị trí còn ở quả địa. Lại, Bát-nhã Kim Cương có ba nghóa, Thể cứng chắc - Dụng sắc bén - Hình trạng rộng hẹp, Tam-muội Kim Cương chỉ chọn lấy cứng chắc và sắc bén, sai khác như vậy. Kế là nói với định khác, ở đây có ba thứ: Tam-muội Kim Cương. Kim Cương Luân Tam-muội. Tam-muội Như Kim Cương. Kinh Đại Phẩm chép: “Thế nào là Tam-muội Kim Cương Luân? An trụ Tam-muội này có thể nắm giữ các phần Tam-muội. Thế nào là Tam-muội Như Kim Cương? An trụ Tam-muội này có thể nối liền thông suốt các pháp cũng không thấy thông suốt”. Luận kia giải thích: “Hỏi: Ba thứ Tam-muội vì sao đều nói là Kim Cương? Đáp: Đầu nói là Kim Cương, giữa nói là Kim Cương Luân, sau nói là Như Kim Cương. Như Tam-muội Kim Cương, đức Phật nói: Có thể xuyên suốt các pháp, cũng không thấy sự xuyên ấy. Tam-muội Kim Cương có thể thông suốt đạt được các Tam-muội. Kim Cương Luân Tam-muội có thể nắm giữ các vòng Tam-muội. Nghóa này đều là đức Phật tự giới thiệu”. Luận giả chép: “Như Tam-muội Kim Cương ấy là có thể phá trừ tất cả phiền não kiết sử không còn sót lại, ví như Thích-đề-hoàn-nhân tay cầm Kim Cương phá tan quân đội A-tu-la. Chính là tâm cuối cùng của người học, từ tâm này lần lượt đạt được ba thứ Bồ-đề: Thanh-văn, Bích-chi Phật và Phật Vô thượng Bồ-đề. Tam-muội Kim Cương là có công năng phá trừ tất cả các pháp nhập vào Niết-bàn Vô dư lại không nhận chịu Hữu dư, ví như Chân Kim Cương thật có thể phá tan các núi khiến cho diệt hết không sót lại gì. Kim Cương luân là có thể phá vỡ tất cả các pháp Phật không che lấp, không chướng ngại. Xét rằng: Trong này phá vỡ các pháp Phật ấy là giống như vòng báu của chuyển Luân Thánh Vương có thể phá vỡ, các vương không ai không hàng phục. Vì thế cho nên khác nhau so với hai Kim Cương trước. Hai Kim Cương trước khác nhau thế nào? Có năm sự sai khác: Dụ khác nhau, nghóa là Như Kim Cương phá tan quân đội. Kim Cương phá vỡ núi non. Pháp khác nhau, vì trước là phá trừ phiền não, sau là phá vỡ các pháp. Vị trí khác nhau, vì trước ở tại địa vị học, sau ở tại Vô học. Tên gọi khác nhau, trước gọi là Như Tam-muội Kim Cương, nơi khác gọi là Kim Cương Dụ Định, sau gọi thẳng là Tam-muội Kim Cương, trừ ra Như và Dụ. Vì sao? Vì biểu hiện nhân quả hai Định khác nhau. Nhân có công dụng mà quả không có công dụng, vì giảm bớt lại giảm bớt cho đến vô vi. Còn Như Kim Cương chọn lấy nghóa tương tự phần ít đó, chỉ phá trừ phiền não mà không phá vỡ pháp khác. Nói là Kim Cương là biểu hiện điều đó hoàn toàn giống như sự sắc bén của Kim Cương, tất cả sắc vật chẳng có gì không thể phá vỡ xuyên suốt, công dụng của Tam-muội nên biết cũng như vậy, tất cả các pháp cũng không pháp nào không thể phá vỡ. Giáo khác nhau, nghóa là như Tam-muội Kim Cương ở địa vị Hữu học, còn Tam-muội Kim Cương bổn tánh thanh tịnh, không thêm không bớt, tức là trong kinh đã nói về Tam-muội Kim Cương ở địa vị Vô học đó, nay trong kinh này vốn nói về điều này vậy. Nay trong kinh này Đức Phật đã nhập định phá vỡ tất cả các pháp đều không có gì đạt được, vì thế cho nên gọi là Tam-muội Kim Cương. Trong sáu thứ giải thích đây là Trì Nghiệp thích, chọn lấy thí dụ tên gọi là Lân Cận thích. Trước mắt dùng danh mục này thì kinh này là Y chủ thích, vì Định là Chủ. Kế là thứ hai giải thích về tên gọi Tam-muội, trong đó có hai: Trước là giải thích - sau là phân biệt. Sư xưa chép: “Tiếng Phạm là Tam-muội, Hán dịch nói là chánh Tư, nay thuật lại luận nói này vì văn nghóa thích hợp”. Nghóa là lúc đang Định đối với cảnh sở duyên xem xét chính là, suy nghó quan sát nên gọi là Chánh tư. Như Du-già nói Tam ma địa, nghóa là đối với sở duyên xem xét chính là quán sát tâm một cảnh tánh. Hỏi: Định phải là yên ổn bất động - yên ổn bất động trụ ở một cảnh, vì sao lại nói xem xét chính là suy nghó quan sát. Công dụng của suy nghó quan sát phải tìm tòi chờ đợi. Vì sao nói Định là suy nghó quan sát? Đáp: Nếu vâng giữ một cảnh chính là Định, thì hôn trầm trụ trong cảnh tức là Định. Nếu chính suy nghó quan sát là tìm tòi chờ đợi (tầm tứ), thì tà tuệ suy xét tìm tòi lẽ ra không phải là tìm tòi chờ đợi (tầm tứ), nên biết suy nghó quan sát (tư sát) có hai thứ đó. Nếu chung cả tà - chánh, ý nói phân biệt gọi là suy nghó quan sát, tức là tìm tòi chờ đợi dứt khóat là phân biệt. Nếu chỉ xem xét chính là hiểu rõ duyên cảnh gọi là chánh tư sát, thì chính là dụng của Định mà chẳng phải tầm tứ, vì Định gồm cả phân biệt và vô phân biệt, dùng xem xét phân biệt tầm tứ kia. Lại, trụ trong một cảnh cũng có hai thứ. Nếu trụ trong một cảnh, hôn mê ám muội không thể xem xét tức là hôn trầm. Nếu trụ trong một cảnh mà không chìm đắm, không trôi nổi xem xét chính là suy nghó quan sát thì gọi là Định, cho nên dùng suy nghó quan sát phân biệt hôn trầm kia. Cho nên biết rằng không dùng tướng sai khác của an trụ - di động để phân biệt Định hay Tán. Tại vì sao? Vì giải thích về nhanh chóng (tiệp tật) tuy di chuyển mau lẹ mà có Định, niệm không nhạy bén (trì độn), tuy trụ trong cảnh lâu dài mà là Tán. Nay Tam-muội Kim Cương này gọi là chánh tư sát là, không có chánh không thể chánh, đã mất tư chẳng phải tư, chỉ là sai khác đối với phân biệt tà niệm. Lại không giống như đối với hư không vô tư, cho nên gượng gọi là chánh tư. Tên gọi Tam-muội, giải thích sơ lược như vậy. Kế là phân biệt riêng, trong đó có hai: Trước là các tên gọi riêng, sau là phân biệt. Tên gọi về Định không giống nhau, sơ lược có tám loại: Một là gọi là Tam-ma-hê-đa, Hán dịch là Đẳng dẫn, chuyên xa lìa hôn trầm trạo cử nên gọi là Đẳng, dẫn phát thần thông cùng các công đức cho nên gọi là Dẫn. Lại, Đẳng dẫn này, các vô hối, vui mừng, khinh an, lạc được dẫn ra nên gọi là Đẳng dẫn, do vậy mà không giống như Định của cõi Dục. Hai là gọi là Tam-ma-địa, Hán dịch là Đẳng trì, nghóa về Đẳng giống như trước, năng chế ngự gìn giữ tâm khiến cho không thể rong ruỗi phân tán nên gọi là Đẳng trì. Lại, định tuệ bình đẳng khiến cho không xa lìa lẫn nhau cho nên gọi là Đẳng trì. Trước đây nói Tam- ma-đề cũng chính là Đẳng trì. Ba là gọi là Tam-ma-bạt-đề, Hán dịch là Đẳng chí, bên trong Đẳng trì có thể đến địa vị cao siêu nên gọi là Đẳng chí. Bốn là gọi là Đà-diễn-na, Hán dịch là Tỉnh lự, là vắng lặng, tư lự, còn có thể vắng lặng mà suy nghó tản mác. Trước kia nói là Thiền na, hoặc nói Trì-a-na, phương xứ phong tục khác nhau mà nói giống nhau gọi là Tỉnh lự. Năm. Gọi là Xa-ma-tha, Hán dịch là Chỉ, làm cho tâm dừng lại cảnh vì thế gọi là Chỉ. Sáu. Gọi là Tâm nhất cảnh tánh, khiến cho tâm chuyên chú vào tánh của cảnh cho nên gọi là Tâm nhất cảnh tánh. Trước kia nói là Nhất tâm là giản lược. Bảy. Gọi là Định, xét định sở duyên nên gọi là Định. Tám. Gọi là Chánh tư, nghóa như trước giới thiệu. Có sư giải thích: Tên gọi Tam-muội và Tam-ma-đề chỉ là Đẳng trì chẳng phải là tên gọi khác. Giải thích như vậy không đúng, vì sao như? Vì như mười loại Định mà kinh Kim Cổ nói thì, trong ba Địa trước gọi là Tam-ma-đề, trong bảy địa sau gọi là Tam-muội. Như vậy hai tên gọi nếu cùng là Đẳng trì, vì sao thay đổi tên gọi trước sau khác nhau? Lại, hai tên gọi này vì sao không giống nhau? Nếu do phương xứ phong tục khác nhau vì thế không giống nhau, thì không nên một nơi cùng nói hai tên gọi. Nếu vì người truyền bá trước sau cho nên khác nhau, thì không đồng ý một bản có hai tên gọi này, như Tam-ma-đề và Tam-ma- địa, đây là do trước sau người truyền bá không giống nhau, do đó điều ấy là giống nhau rõ ràng có thể thấy. Tên gọi Tam-muội và Tam-ma- đề cùng ở tại một bản vì sao không khác nhau? Do vậy nên biết rằng như nói trước. Thứ hai là nói về thông cục ấy sơ lược làm thành bốn ví dụ: Một là Định và Đẳng trì, hai tên gọi rộng nhất, có cả lậu và vô lậu, cũng có cả ba cõi và có cả tâm tán loạn trong Cõi Dục, vì sáu vị trí tâm sở trong năm biệt cảnh có Tam-ma-địa cũng gọi là Định. Hai là Tên gọi là Tâm Nhất Cảnh Tánh và Tam-muội, hai tên gọi này rộng thứ hai, tuy có cả Cõi Dục mà không thông hoàn toàn với tâm tán loạn, vì Ban Chu Tam-muội hoặc Cõi Dục quan hệ với chín loại tâm trụ, Tâm nhất cảnh tánh cũng có ở Phương Tiện Tâm của Cõi Dục. Ba là Tam-ma-hê-đa và tên gọi Tónh lự, hai thứ này là hẹp, hoàn toàn không thông với tâm Cõi Dục, chỉ giữ lấy sự khinh an vốn hàm chứa lợi ích. Bốn là Tam-ma-bạt- đề và Xa-ma-tha, hai thứ này hẹp nhất, vì đối với Định bên trong Địa có sự phân biệt phân biệt. Vì Xa-ma-tha không thông với Tâm nhất cảnh tánh trong bốn loại Tuệ hành. Tam-ma-bạt-đề không thông với Tam- ma-địa của ba thứ Không - Vô tướng - Vô nguyện. Tám tên gọi rộng hẹp sơ lược thuật ra như vậy. Giải thích tên gọi của đề kết thúc. Bốn: Hiển bày rõ ràng về văn nghóa: gồm tám phẩm ------------------------------------- Phẩm Thứ 1: TỰA VỀ KINH Trở xuống là phần thứ tư xét định văn để giải thích. Văn có ba phần: 1. Phần Tựa. 2.Phẩm thứ hai xuống dưới sáu phẩm văn khác là phần chánh nói. 3. Từ “Nhó thời Như-lai bảo đại chúng rằng v.v…” trở xuống hai tờ có lẽ văn là phần Lưu Thông. Nội dung của phần Tựa có hai thứ Tựa gọi là Thông và Biệt (Từ tôi nghe như vầy, sáu mươi muôn ức - kinh có một trăm bốn mươi mốt chữ, nhưng trong này không thấy có?). Trong Tựa chung thì có sáu việc, ba việc trước nói về truyền thụ tự mình kế thừa, ba sự việc sau chứng minh sự giảng nói của Đại sư. Nói về ba sự việc trước ấy là: 1. Như vầy. 2. Tôi nghe. 3. Nhất thời. Ba việc sau là gì: 1.Giáo chủ. 2.Trụ xứ. 3.Đồ chúng. Trong phần đồ chúng xếp theo thứ tự bốn loại chúng: 1. chúng Thanh-văn. 2. chúng Bồ-tát. 3. chúng Trưởng giả. 4. chúng Tạp loại. Trong đó biết rõ chính là như bình thường đã nói. Kinh: “Nhó thời Tôn giả đại chúng vi nhiễu, vị chư đại chúng nói Đại thừa kinh danh nhất vị chân thật vô tướng vô sanh quyết định thật tế bổn giác lợi hành. Nhược văn thị kinh nãi chí thọ trì từ cú kệ thị nhân tức vi nhập Phật trí địa, năng dó phương tiện giáo hóa chúng sanh, vị nhất thiết sanh tác đại tri thức”. Lúc ấy, đức Thế Tôn cùng đại chúng vây quanh, vì các đại chúng nói kinh Đại thừa tên là Nhất vị Chân thật Vô Tướng Vô Sanh Quyết Định Thật Tế Bổn Giác Lợi Hành. Nếu nghe kinh này dù chỉ thọ trì một bài kệ bốn câu, người này liền được nhập vào địa Phật trí, có thể dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, làm bậc đại tri thức cho tất cả chúng sanh. Luận chép: Từ đây trở xuống là tựa riêng thứ hai, tức là có bốn phần: 1. Phần Oai nghi. 2. Phần Nói kinh. 3. Phần Nhập định. 4.Phần Trùng tụng. Phần oai nghi: Như kinh chép:”Bấy giờ, bốn chúng vây tròn xung quanh,” Phần nói kinh như kinh chép: “Vì các đại chúng nói kinh Đại thừa…” Văn kinh này hướng mở ra giống như phần tựa Kinh Pháp Hoa. Như chép: Bấy giờ, bốn chúng vây quanh đức Thế Tôn, nghe nói kinh gọi là “Vô lượng nghóa.” Xét theo như luận trên thì tên gọi tên này, tức là phần mục khác của kinh Pháp Hoa. Ý luận kia cho rằng nói ra ở trước cho nên gọi là phần tựa. Nay xem xu thế văn của kinh này đều là ngôn từ mở đầu của người kết tập kinh, vì thế, xét chuẩn theo đây, đúng là kinh này riêng, ở trước nói rộng, nói xong nhập định, từ định mà xuất, mới nói kinh Tam-muội Kim Cương. Sau khi nói về Tông chỉ của kinh mới nói tên kinh. Nên biết rằng tên gọi Nhất vị Chân thật v.v… Là phần mục của kinh đã nói rộng ra trước đó. Như vậy đại ý hai kinh tuy giống nhau, mà tướng của văn chính là khác nhau. Đã nói trước đó ấy là nói rộng ra, pháp môn làm ích lợi cho lúc bấy giờ. Đã nói sau đó ấy là sơ lược thâu nhiếp pháp môn vì lợi ích cho đời sau. Vì thế cho nên nói rộng ở trước đó, lấy làm lý do tóm lược kinh. phần nói kinh này tướng văn có hai: Trước là mở đầu tên kinh, sau là khen ngợi công đức kinh. Từ “Nếu nghe v.v… trở xuống là phần thứ hai”. Kinh: “Phật nói thử kinh dó kiết già phu tọa, tức nhập Tam-muội Kim Cương thân tâm bất động”. Đức Phật nói kinh này xong ngồi xếp bằng liền nhập Tam-muội Kim Cương, thân tâm bất động. Luận chép: Là phần nhập định thứ ba. Lý do trước khi muốn nói kinh, đầu tiên phải nhập định ấy là biểu hiện chỉ riêng sự vắng lặng, đối với pháp có thể giác ngộ, có thể giảng nói. Lại còn để biểu hiện sự mặc nhiên của Hiền Thánh, sự nói pháp của Hiền thánh tùy theo thời gian mà sử dụng, không xa lìa nhau. Kinh: “Nhó thời chúng sanh trung hữu nhất tỳ kheo danh A-già- đà tùng tòa nhị khởi, hiệp chưởng hồ quỳ dục tuyên thử nghóa nhi nói kệ ngôn”: Lúc ấy, trong chúng có một Tỳ kheo tên là A-già-đà đứng dậy chỗ ngồi, chắp tay quỳ xuống, muốn nói lên nghóa này bèn nói kệ rằng: Luận chép: Đây là phần trùng tụng thứ tư. Vì nói lên kinh Nhất vị nói ra ở trước và đại ý nói ra sau đó không khác nhau, cho nên dùng kệ tóm lược tụng về kinh mở rộng trước đó. Do đây phát khởi sau đó tóm lược nói kinh, vì vậy văn sẽ có hai: trước là Tựa - sau là Tụng. Là người kết tập kinh mở đầu để phát ra tụng sau. A-già-đà Hán dịch là Vô Khứ, hoặc dịch là Diệt khứ. Đây là tên thuốc, có thể khiến cho các bệnh đều diệt hết, nên gọi và Vô Khứ. Bồ-tát này cũng giống như vậy, có thể chữa trị các bệnh phiền não cho chúng sanh vì thế lấy tên thuốc làm hạng mục của mình. Trong tám hàng tụng có chia ra hai phần: Bảy tụng trước tụng về nói kinh, một tụng sau tụng về nhập định. Trong phần trước cũng có hai: ba tụng là bói chung, bốn bài tụng là biểu hiện riêng. Kinh: “Đại từ mãn túc tôn, trí tuệ thông vô ngại, quảng độ chúng sanh cố, nói ư nhất đế nghóa, giai dó nhất vị đạo, chung bất dó tiểu thừa, sở nói nghóa vị xứ, giai tất ly bất thật, nhập chư Phật trí địa, quyết định chân thật tế, văn giả giai xuất thế, vô hữu bất giải thoát”: Lạy đấng Đại từ mãn túc, trí tuệ thông suốt vô ngại, vì độ tất cả chúng sanh, nói ra nghóa lý nhất đế, đều dùng đạo lý nhất vị, hoàn toàn không dùng Tiểu thừa, ở nơi nghóa - vị đã nói, thảy đều xa lìa không thật, nhập vào các nơi Phật trí, quyết định ranh giới chân thật, người nghe đều được xuất thế, chẳng có ai không giải thoát. Luận chép: Nói chung về ba hàng tụng thì có bốn ý: 1.Hai câu khen ngợi đức năng nói. 2. Một hàng tụng khen ngợi giáo năng thuyên. 3. Một hàng tụng khen ngợi nghóa sở thuyên. 4. Hai câu khen ngợi lợi ích thù thắng của giáo. Trong mục thứ hai nói về Nhất đế nghóa, ấy nghóa là nhất tâm dựa vào pháp nhất tâm có hai thứ môn, hai môn sở y chỉ là một chân thật nên gọi là Nhất đế. Nhất vị đạo là chỉ cho Nhất thừa, văn còn lại có thể biết. Kinh: “Vô lượng chư Bồ-tát, giai tất độ chúng sanh, vị chúng quảng thâm vấn, tri pháp vắng lặng tướng, nhập ư quyết định xứ”: Vô lượng các vị Bồ-tát, thảy đều hóa độ chúng sanh, vì chúng thưa hỏi rộng sâu, biết tướng vắng lặng của pháp, nhập vào nơi chốn quyết định. Luận chép: Từ đây trở xuống bốn hàng tụng hỏi đáp khen ngợi riêng. Năm câu này là khen ngợi thưa hỏi rộng sâu khiến cho biết tướng vắng lặng nhập vào thật tế. Kinh: “Như-lai trí phương tiện, đương vi nhập Phật nói, thuận theo giai nhất thừa, vô hữu chư tạp vị, do như nhất vũ nhuận, chúng thảo giai tất vinh, tùy kỳ tánh các dị, nhất vị chi phép nhuận, phổ sung ư nhất thiết, như bỉ nhất vũ nhuận, giai trưởng Bồ-đề nha”. Trí phương tiện của Như-lai, sẽ nói cho nhập vào thật, thuận theo đều là Nhất thừa, không có các vị xen lẫn, giống như cơn mưa tưới nhuần, cỏ cây thảy đều tốt tươi, tùy theo tánh đó đều khác, pháp của một vị lợi ích, rộng khắp đầy đủ tất cả, như cơn mưa tưới thấm kia, mầm Bồ-đề đều tăng trưởng. Luận chép: Đây là phần thứ hai khen ngợi đức Phật trả lời về lợi ích thù thắng. Trong đó có ba đó là pháp - dụ - hợp. Như thứ tự đó, bốn câu- hai câu- năm câu cuối tùy đó biết rõ. Kinh: “Nhập ư Kim Cương vị, chứng pháp chân thật định, quyết định vô nghi hối nhất pháp chi ấn thành”. Vào nơi ý vị Kim Cương, chứng được Định chân thật, quyết định dứt trừ nghi hối, ấn định thành tựu nhất pháp. Luận chép: Đây là phần tụng thứ hai nói về nhập định. Hai câu trên chính là tụng về nhập định ở trước, hai câu dưới là nghịch tụng về sau bắt đầu nói pháp. Giáo nói ra sau đó có hai công năng cao quý: 1. Quyết định dứt trừ nghi ngờ ân hận, như Kim Cương có thể phá vỡ. 2. Ấn định thành tựu nhất thừa, như Kim Cương không hư hoại hai câu dưới nói lên hai nghóa này, văn phần Tựa xong. Trong phần Chánh Nói toàn bộ chia ra làm hai: Nghóa là sáu phẩm trước hiển bày riêng Quán hành, một phẩm Tổng trì chung trừ bỏ tình ý nghi ngờ. Trong phần hiển bày riêng thì chia làm sáu phần: 1.Phẩm Vô Tướng pháp nói về quán Vô Tướng. 2.Phẩm Vô Sanh hạnh nói về hạnh Vô Sanh. 3. Phẩm Bổn Giác Sát dựa vào bổn lợi ích cho chúng sanh. 4. Phẩm Nhập Thật Tế là từ luống dối nhập vào chân thật. 5. Phẩm Chân Tánh không phân rõ tất cả các hạnh đưa ra Chân Tánh Không. 6.Phẩm Như-lai Tạng nói về vô lượng môn nhập vào Như-lai tạng. Như vậy sáu môn Quán Hành rộng khắp tất cả. Vì sao? Vì tất cả các vọng tưởng từ vô thỉ trôi lăn chỉ do tai họa giữ lấy tướng phân biệt. Nay muốn ngược dòng quay về nguồn, thì trước cần phải phá sạch các tướng, cho nên đầu tiên là nói về quán pháp vô tướng. Tuy trừ bỏ các tướng, mà nếu còn tâm quán thì tâm quán hãy còn phát sanh không hội nhập bổn giác, vì thế diệt mất đi tâm sanh. Vì lẽ đó nên thứ hai là nói về hạnh Vô sanh, hạnh đã vô sanh mới hội nhập bổn giác, dựa vào đây cảm hóa chúng sanh khiến cho được lợi ích vốn có. Cho nên thứ ba là nói về bổn giác lợi môn. Nếu dựa vào bổn giác để lợi ích chúng sanh, chúng sanh liền có thể từ luống dối nhập vào chân thật. Cho nên thứ tư nói về nhập vào thật tế, nội hành tức là vô tướng vô sanh, ngoại hóa chính là lợi ích vốn có nhập vào thật tế. Như vậy hai lợi ích đã có đủ muôn hạnh, cùng phát ra chân tánh, đều thuận với chân không. Vì thế cho nên thứ năm nói về Chân Tánh không. Dựa vào chân tánh này có đủ muôn hạnh ấy, nhập vào cội nguồn nhất vị của Như-lai-tạng, cho nên, thứ sáu nói về Như- lai-tạng. Đã quay về cội nguồn của tâm tức là không có gì làm, không có gì làm cho nên không có gì không làm. Vì thế nói sáu môn để thâu nhiếp Đại thừa. Lại, sáu phẩm này cũng có ý khác nhau, nghóa là phẩm thứ nhất chỉ ra pháp Sở quán, pháp gọi là nhất tâm - Thể của Như-lai- tạng. Phẩm thứ hai nói về hạnh năng quán, hạnh nghóa là sáu hạnh quán vô phân biệt. Thứ ba là phẩm Bổn giác Lợi nói về môn sanh diệt trong nhất tâm. Thứ tư là phẩm Nhập Thật Tế nói về chân như môn trong nhất tâm. Thứ năm là phẩm Chân Tánh Không cùng trừ bỏ chân - tục mà không làm hỏng hai đế. Thứ sáu là phẩm Như-lai-tạng thu nhận khắp cả các môn cùng chỉ ra một vị. Dùng hai tầng sáu môn này thâu nhiếp nghóa Đại thừa rộng khắp tất cả. Lại, sáu phẩm này hợp lại thành ba môn, hai phẩm trước thâu nhiếp quán - hạnh trước sau, hai phẩm kế là giáo hóa bổn mạt. Hai phẩm sau là môn thâu nhiếp nhân trở thành quả. Lại, hai phẩm trước bỏ tướng quy về bổn, hai phẩm ở giữa từ bổn phát khởi hạnh, hai phẩm sau cùng nói trở về phát khởi. Dùng hai tầng ba thứ này thâu nhiếp tất cả Đại thừa. Lại, sáu phẩm này chỉ là hai môn, tướng sanh đều phải bỏ là bổn giác lợi, thật tế chân không là Như-lai-tạng. Lại, môn trước là trừ bỏ vọng hiển bày nhân, môn sau là hiển bày chân thành tựu quả. Như vậy hai lớp hai môn cũng thâu nhiếp Đại thừa rộng khắp tất cả. Lại, sáu phẩm này chỉ là một vị. Vì sao? Vì tướng sanh vô tánh, bổn giác vô bổn, thật tế xa lìa ranh giới, chân tánh cũng không, do đâu có được tánh Như-lai-tạng? Như trong phẩm Như-lai-tạng ở dưới chép: “Thức này thường vắng lặng, vắng lặng cũng vắng lặng”. Phẩm Tổng Trì chép: Bảy và năm bất sanh, tám và sáu vắng lặng, chín tướng Không không có”. Như vậy một vị không có gì đạt được chính là điểm quan trọng trong tông chỉ của kinh này. Nhưng vì không có gì đạt được cho nên không có gì không thật có, vì lẽ đó các môn không có môn nào không mở bày cho nên làm thành tông chỉ của vô lượng nghóa. Tuy là một vị mà chia thành sáu môn, cho nên dựa vào sáu phần xét định văn mà giải thích. Trước tiên giải thích tên gọi của phẩm. Nói vô tướng ấy là quán vô tướng, do đó phá bỏ các tướng. Kế đến là nói pháp ấy nghóa là pháp sở quán, vì là pháp của một tâm. Vô tướng quán ấy là của phần thứ nhất trong sáu phần trước đây. Pháp sở quán là pháp của môn thứ nhất trong sau môn sáu đó. Nay phẩm thứ nhất này nói lên hai nghóa như vậy, theo đây nên nói là phẩm Vô Tướng Pháp. -------------------------------------------- Phẩm Thứ 2: VÔ TƯỚNG PHÁP Kinh: “Nhó thời Tôn giả tùng Tam-muội khởi như nói thị ngôn”. Bấy giờ, Đức Thế Tôn xuất Tam-muội mà nói rằng: Luận chép: Văn một phẩm này xét định chia ra làm ba phần: 1. Phần xuất định. 2. Phần khởi nói. 3. Phần đắc ích. Hai phần một và ba là lời trình bày của người kết tập kinh. Phần thứ hai đó chính là lời Đức Phật nói. Trong phần một hiển bày ba thứ thành tựu: Một là thuyết pháp thời thành tựu, như “Nhó thời” trong kinh. Hai. Nói pháp chủ thành tựu, như “Đức Thế Tôn” trong kinh, có đủ năm sự thông đạt được thế gian kính trọng, đối với pháp rất sâu xa đúng như nghóa mà nói ra. Ba là Tự tại thành tựu, như “xuất Tam-muội mà nói rằng” trong kinh. Như-lai nhập định không thể kinh động thức tónh, ở chỗ Định an trụ hay xuất ra được tự tại. Kinh: “Chư Phật trí địa nhập thật pháp tướng quyết định tánh cố”. Trí địa của chư Phật nhập vào tánh quyết định tướng thật pháp. Luận chép: Từ đây trở xuống phần thứ hai chính là phát ra lời nói. Trong phần này có hai: Một là Trường hàng, hai là Trùng tụng. Trong phần một là Trường hàng cũng có hai phần: Một. Phần sơ lược nêu ra, Hai. Phần giới thiệu rộng ra. Trong phần sơ lược nêu ra hai thứ nghóa: Đầu tiên nêu ra quán vô tướng, sau là nêu ra pháp sở quán. Trong phần quán vô tướng có hai câu đó: Trước nêu ra Như-lai tự nhập vào quán vô tướng, sau nêu lên khiến cho người khác nhập vào quán vô tướng. Nói là Tự nhập ấy, như trong kinh chép: “Tới địa của chư Phật nhập vào tánh quyết định, thật tướng pháp”. Trí địa của chư Phật nghóa là trí tương ứng đã nhập vào Tam-muội Kim Cương như trước đây, an trụ nắm giữ tất cả công đức của pháp. Nhập thật pháp tướng: Nghóa là Phật trí này phá bỏ tất cả các tướng thông suốt thật tướng của các pháp. Quyết định tánh: Là tướng của thật pháp, chẳng phải Phật làm nên, cho nên có Phật tánh, không có Phật tánh tự nhiên như thế. Kế là nói là Cố, lấy quyết định giải thích thành tựu câu trên, vì nếu không quyết định thì chẳng phải thật tướng. Lại thâu nhiếp câu trên mà thành tựu câu dưới, vì Như-lai tự nhập vào tướng thật pháp, cho nên có thể khiến người khác được lợi ích về vô tướng. Kinh: “Phương tiện thần thông giai vô tướng lợi”. Phương tiện, thần thông đều là lợi ích vô tướng. Luận chép: Đây là câu thứ hai khiến cho người khác được nhập vào. Nói phương tiện ấy là tám tướng phương tiện, nghóa là từ trời Đâu suất lùi lại cho đến nhập Niết-bàn. Thần thông là sáu thứ thần thông, tức là ba luân hóa độ chúng sanh. Đều là lợi ích vô tướng: Tám tướng phương tiện sáu thứ thần thông như vậy đều bắt đầu từ tự nhập vào thật tướng mà khởi lên, có thể giúp cho người khác đạt được lợi ích vô tướng cho nên nêu quán vô tướng xong ở trước. Kinh: “Nhất giác liễu nghóa nan giải nhập chư nhị thừa chi sở tri kiến, duy Phật Bồ-tát nãi năng tri chi”. Nhất giác liễu nghóa khó hiểu khó nhập, chẳng phải chỗ thấy biết của hàng nhị thừa, chỉ riêng Phật và Bồ-tát mới có thể biết được. Luận chép: Từ đây trở xuống là phần thứ hai nêu ra pháp sở quán cũng có hai câu: Một là trực tiếp nêu ra pháp sở quán sâu xa, hai là đối với người khác nói về pháp sâu xa này. Nhất giác liễu nghóa: Là nghóa của nhất tâm bổn giác Như-lai-tạng, vượt qua pháp sâu xa này thì không bao giờ có pháp sâu nào khác. Nan giải là nghóa rất sâu xa chẳng phải thấy biết của hàng Nhị thừa. Nan nhập là thể rất sâu xa chỉ có Phật và Bồ-tát mới có thể hội nhập. Chính là dùng câu sau để giải thích câu trước, muốn nói về môn đầu tiên đã nêu ra, Phật trí vốn hội nhập tướng thật pháp ấy, dứt khóat là pháp của nhất tâm bổn giác Như-lai-tạng. Như kinh Lăng nghiêm chép: “Vắng lặng ấy gọi là nhất tâm, nhất tâm ấy gọi là Như Lại tạng”. Nay văn này nói tướng thật ấy là nghóa của vắng lặng, nhất giác liễu nghóa ấy chính là nghóa của nhất tâm Như-lai-tạng. Luận Pháp Hoa chép: “Chư Phật Như-lai có thể biết thật tướng rốt ráo của pháp kia.” Nói thật tướng ấy là nói về nghóa thể bất biến của pháp thân Như-lai-tạng. Nay kinh này nói nhất giác ấy là tất cả các pháp chỉ là nhất tâm, tất cả chúng sanh là một bổn giác. Vì nghóa này cho nên gọi là nhất giác. Đến trong phần nói dưới sẽ tiếp tục phân biệt. Kinh: “Khả độ chúng sanh giai nói nhất vị”. Có thể độ chúng sanh đều nói về một vị. Luận chép: Đây là nói về đối với người khác đều nói về pháp sâu xa. Có thể độ chúng sanh: Như-lai vốn giáo hóa tất cả chúng sanh không có gì chẳng phải sự trôi lăn của nhất tâm. Đều nói một vị: Tất cả giáo pháp Như-lai đã nói ra không pháp nào không làm cho hội nhập ý vị của nhất giác. Muốn nói về tất cả chúng sanh vốn có nhất giác chỉ vì vô minh tùy theo mộng tưởng trôi lăn, đều thuận theo Như-lai nói về một vị chẳng có gì cuối cùng không quy về nguồn gốc của nhất tâm. Lúc quay về nguồn gốc của tâm đều chẳng có gì đạt được nên nói là một vị, tức là nhất thừa. Đầu tiên văn sơ lược nêu ra hoàn tất tùy theo trước. Kinh: “Nhó thời Giải thoát Bồ-tát tức tùng tòa khởi hiệp chưởng hồ quỳ nhi bạch Phật ngôn”. Lúc ấy, Bồ-tát Giải Thoát liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi chắp tay quỳ gối mà thưa đức Phật rằng: Luận chép: Từ đây trở xuống là phần thứ hai giới thiệu rộng. Trong đó có hai: Trước là thỉnh, sau là nói. Trong phần Thỉnh có hai: Trước là lời tựa về nghi dung của người, sau là nói về lời phát biểu. Lời tựa có hai câu: Một là Dựa vào thời gian bày tỏ con người. Bồ-tát Giải thoát ấy là khiến cho các chúng sanh giải thoát như nhau; nhờ vào người chủ động hỏi (người năng vấn) bày tỏ pháp đã nói ra (pháp sở thuyết). Hai. Lời tựa về lễ nghi, như trong kinh “nói liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi v.v…” Kinh: “Tôn giả! Nhược Phật diệt hậu chánh pháp khứ thế tượng pháp trụ thế, ư mạt kiếp trung ngũ được chúng sanh đa chư ác nghiệp luân hồi ba cõi vô hữu xuất thời”. Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sau khi đức Phật diệt độ, chánh pháp không còn ở đời, tượng pháp trụ ở thế gian, ở trong kiếp cuối cùng chúng sanh đầy năm thứ vẫn đục rất nhiều ác nghiệp luân hồi trong ba cõi không lúc nào vượt ra. Luận chép: Đây là đến phần thứ hai phát ra lời nói mà thưa thỉnh. Trong đó có hai: Trước là nêu ra thời gian để thật hiện, sau là thưa thỉnh vì chúng sanh kia giảng nói. Từ đầu đến giữa là thời tượng pháp trụ ở thế gian và trong thời mạt kiếp tức là trước đây rộng nói ra kinh là ích lợi của thời chánh pháp. Nay kinh này là vì hóa độ thời gian tượng pháp, tùy theo thời gian lâu mau mà lập ra giáo pháp khác nhau. Kinh: “Nguyện Phật từ bi vi hậu chúng sanh giảng nói nhất vị quyết định chân thật linh bỉ chúng sanh đẳng đồng giải thoát”. Cúi mong Đức Phật từ bi vì chúng sanh đời sau giảng nói nhất vị quyết định chân thật khiến cho những chúng sanh kia cùng được giải thoát. Luận chép: Đây là phần thứ hai chính thức thỉnh cầu giảng nói. Giảng nói nhất vị ấy là thỉnh cầu giảng nói ý vị của nhất giác liễu nghóa. Quyết định chân thật là thỉnh cầu nói về quán hội nhập tướng của thật pháp, khiến cho các chúng sanh kia cùng được giải thoát làm cho các chúng sanh đời sau cuối của thời tượng pháp cùng một vị rốt ráo giải thoát. Nói theo đây thì, giáo có bốn câu: Một là Chính là giáo hóa chánh pháp bao gồm lợi ích thời gian sau, nghóa là các kinh trước đó. Hai Chính là giáo hóa tượng pháp bao gồm lợi ích thời gian trước, nghóa là các kinh này. Ba. Giáo hóa tất cả trước sau, nghóa là các kinh khác. Bốn. Không lợi ích trước sau, trừ bỏ các giáo trước đây như vậy. Kinh: “Phật ngôn: Thiện nam tử, nhữ năng vấn ngã xuất thế chi nhân, dục hóa chúng sanh linh bỉ chúng sanh hoạch đắc xuất thế chi quả, thị nhất đại sự bất khả tư nghị, dó đại từ cố dó đại bi cố, ngã nhược bất nói tức đọa xan tham, nhữ đẳng nhất tâm đến thính vi nhữ giảng nói”. Đức Phật nói: Này người thiện nam! Ông hãy hỏi ta về nhân xuất thế, muốn giáo hóa chúng sanh khiến cho chúng sanh kia được quả xuất thế, là một sự việc lớn lao không thể nghó bàn. Vì đại từ, vì đại bi nếu ta không nói thì rơi vào tham tiếc, các ông nhất tâm lắng nghe ta sẽ vì ông giảng nói. Luận chép: Đây là đến phần thứ hai Như-lai vì đó nói ra. Trong đó có hai: Một là Khen ngợi thưa hỏi và đồng ý nói ra. Hai là Đối với sự thưa thỉnh mà giảng nói. Trong phần khen ngợi thưa hỏi nói về nhân của xuất thế là vì nhập vào quán thật tướng. Quả của xuất thế là một ý vị giải thoát. Là một sự việc lớn lao tức nghóa giống như Vô thượng. Không thể nghó bàn là xa lìa ngôn ngữ bặt dứt nghó suy. Như kinh Pháp Hoa chép: “Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên cho nên xuất hiện ở thế gian”. Luận giả giải thích: Một đại sự dựa vào bốn loại nghóa. Bốn loại nghóa gồm? Một là Nghóa vô thượng, chỉ trừ ra trí Nhất-thiết-trí của Như-lai, lại càng không có sự việc gì khác, như kinh nói “Muốn mở bày tri kiến Phật, vì làm cho chúng sanh biết được thanh tịnh, chonên xuất hiện ở thế gian”. Phật tri kiến ấy là Như-lai có thể chứng vì Như thật trí, cho nên biết nghóa kia. Hai là Nghóa đồng, vì Pháp Thân của Phật - Bích chi Phật và các Thanh-văn đều bình đẳng, như kinh nói “Muốn chỉ ra tri kiến Phật cho chúng sanh, cho nên xuất hiện ở thế gian”. Pháp thân bình đẳng ấy là vì Phật tánh và Pháp thân không hề sai khác. Ba là nghóa bất tri, vì các hàng Thanh-văn- Bích chi Phật không thể biết nơi chân thật kia. Không biết nơi chân thật ấy vì không biết rốt ráo chi một Phật thừa, như kinh nói “Muốn làm cho chúng sanh hiểu được tri kiến Phật cho nên xuất hiện ở thế gian”. Bốn là Khiến cho chứng được địa vị bất thối chuyển, vì thế thị hiện muốn ban cho vô lượng trí nghiệp. Như kinh chép: “Vì muốn khiến cho chúng sanh nhập vào tri kiến Phật, cho nên xuất hiện ở thế gian”. Nay trong văn này nói Nhất đại sự ấy cũng có bốn nghóa: Một là nghóa vô thượng, như văn trên nói, vì là trí địa của chư Phật nhập vào tướng của thật pháp. Hai là nghóa đồng, như kinh nói “Nhất giác liễu nghóa nan giải nan nhập”. Ba. Nghóa bất tri, vì chẳng phải sự thấy biết của các Thanh-văn. Bốn. Nghóa khiến cho chứng, có thể hóa độ chúng sanh vì thế đều nói về một vị. Khen ngợi thưa hỏi đã xong. Kế là trong phần đồng ý giảng nói cũng có hai câu: Câu đầu trở lại hiển bày không giảng nói là có sai lầm, câu sau thuận theo nói về khuyên nhắc lắng nghe đồng ý giảng nói. Kinh: “Thiện nam tử! Nhược hóa chúng sanh vô sanh ư hóa bất sanh vô hóa kỳ hóa đại yên”. Này thiện nam! Nếu giáo hóa chúng sanh mà không chúng sanh nào ở nơi giáo hóa, không chúng sanh nào không giáo hóa, sự giáo hóa đó lớn lao thay. Luận chép: Từ đây trở xuống chính là phần giảng nói. Trong đó có hai: Trước là nói về quán vô tướng trình bày rộng về lợi ích của vô tướng. sau là nói về tâm nhất giác mở rộng nghóa về nhất giác trước đây. Trong phần quán vô tướng cũng có hai phần: Một. Trực tiếp nói về tướng của quán hành. Hai. Lặp đi lặp lại quyết định các nghi ngờ hỏi. Trong phần một cũng có hai: Trước là phương tiện quán, sau là nói về chánh quán. Trong phương tiện quán, có bốn câu về điều đó: Một câu đầu là nói về Năng hóa, một câu sau khen ngợi sự giáo hóa rộng lớn, hai câu ở giữa chính là nói về tướng quán. Vô sanh ư hóa: Lúc ban đầu tu quán phá bỏ các tướng “có”, ở tướng huyễn hóa diệt sanh tâm về “có”. Bất sanh vô hóa: Đã phá bỏ tướng giáo hóa kế là lìa bỏ tướng trống không, đối với không có giáo hóa. “Trống không” cũng bất sanh khởi tâm. Vì sao? Vì chúng sanh xưa nay tâm mê muội lìa bỏ tướng, giữ lấy tất cả các tướng động niệm sanh khởi tâm, nên trước phá trừ các tướng, diệt đi tâm giữ lấy tướng, tuy lại phá trừ xong tướng “có” huyễn hóa, rồi mà còn giữ lấy tánh “không” của sự không có giáo hóa đó, giữ lấy tánh “không” nên đối với “không” mà sanh khởi tâm, vì lẽ đó cũng giải tán tánh “không” của không giáo hóa, lúc bất sanh khởi tâm giữ lấy “không” chẳng thể khác được lónh hội Trung đạo không hai, giống như Phật vốn hội nhập thật tướng các pháp. Giáo hóa như vậy cho nên sự giáo hóa đó rộng lớn làm sao! Hỏi: Phương tiện quán này là thuộc về địa vị nào? Đáp: Nếu kính mến tin tưởng tu thì quyết định ở Thập Tín, tương tự quán đó ở tại ba mươi tâm, luận về thuần tu đó thì ở tại bốn gốc lành, cho nên sẽ nhập vào sơ Địa tiếp cận phương tiện. Hỏi: Nơi khác nói có ba quán vô tánh. Vì sao trong này chỉ nói hai vô? Đáp: Vô tướng - Vô sanh hợp lại thành một phía, vì tướng - sanh đã giải tán cùng là có. Lại hai quán này đều có tầm tư, vì thế lúc lìa bỏ tánh không có thì không có tầm tư. Do đó hoặc khai ra hoặc hợp lại đều có đạo lý. Đã nói về phương tiện, kế là nói về chánh quán. Kinh: “Linh bỉ chúng sanh giai ly tâm ngã, nhất thiết tâm ngã bổn lai vắng lặng. Nhược đắc không tâm, tâm bất huyễn hóa, vô huyễn vô hóa tức đắc vô sanh, vô sanh chi tâm tại ư vô hóa”. Khiến cho chúng sanh kia đều xa lìa tâm - ngã, tất cả tâm - ngã xưa nay vắng lặng. Nếu đạt được tâm không thì tâm không thể huyễn hóa, không huyễn không hóa tức là đạt được vô sanh, tâm của vô sanh ở nơi vô hóa. Luận chép: Đây là nói về tướng chánh quán không hai, vì xa lìa hai thứ sở thủ - năng thủ. Lìa sở thủ: Vì xa lìa tất cả tướng người - pháp. Ở đây có hai thứ: Một là giải tán xa lìa, hai là phai mờ xa lìa. Giải tán xa lìa là trước kia vốn giữ lấy tướng nay dứt trừ đi, như kinh chép: “Khiến cho chúng sanh kia đều xa lìa tâm - ngã”. Lìa dứt hết các tướng giữ lấy trước đây xưa nay vốn không, như kinh chép: “Tất cả tâm - ngã xưa nay vắng lặng”. Nói tâm ngã ấy tức người gọi là Ngã - pháp gọi là Tâm. Vì tâm là nơi nương tựa chủ chốt của các pháp lúc thấu đạt người và pháp xưa nay không, thì tướng vốn giữ lấy trước đây lúc này không khởi, cho nên hai xa lìa trong một lúc được thành tựu. Đã nói xa lìa sở thủ, vì sao xa lìa năng thủ? Nghóa là xa lìa tất cả năng thủ phân biệt, ở đây cũng có hai thứ: Một là vốn có xa lìa, hai là bắt đầu xa lìa. Nói vốn có xa lìa ấy là lúc thông suốt tâm - ngã xưa nay không, chính là đạt được tâm bổn giác tâm vắng lặng vắng lặng này vốn xa lìa năng thủ, xa lìa năng thủ cho nên vốn có không huyễn hóa. như kinh nói “Nếu đạt được tâm không, thì tâm không có huyễn hóa.” Không huyễn hóa ấy là chẳng phải luống dối. Nói bắt đầu xa lìa ấy là lúc đạt được tâm bổn giác vắng lặng này thì năng thủ phân biệt không trở lại có thể sanh ra, tùy theo tâm đã đạt được không có huyễn hóa. Như kinh nói “Không huyễn không hóa tức là đạt được vô sanh”. Như vậy, tâm bắt đầu đạt được vô sanh lónh hội lý vô hóa của bổn vắng lặng”. Nói tâm của vô sanh tại nơi vô hóa, là giả định nói về tâm cảnh cho nên mượn nói là Tại như vậy. Bắt đầu xa lìa năng thủ là nghóa về Thỉ giác, vốn có xa lìa Không tâm là nghóa về Bổn giác. Nghóa tuy có hai mà trộn lẫn thành nhất giác, cùng xa lìa năng sở xa lìa mới cũ. Như Luận giải thích chép: Vì Thỉ giác ấy tức là đồng với Bổn giác, nên biết giác này vónh viễn xa lìa các tướng sanh diệt thỉ chung. Bắt đầu từ Sơ Địa cho đến Phật Địa, chỉ có phần - mãn không như nhau mà thôi. Như Thập Địa Luận trong bổn phần chép: “Tự Thể xưa nay Không - có không hai bất tận, cho đến nói rộng ra”. Lại, nhất giác này có nghóa về Bổn - Thỉ, vì có nghóa về Bổn giác hiển bày thành tựu. Nói về chân tu cũng có đạo lý vì có nghóa về Thỉ giác tu thành tựu. Bàn về mới tu cũng có đạo lý, như thiên chấp đó tức là có chưa sạch hết, hãy ngưng nương vào luận trở lại giải thích Bổn. Văn mở rộng về quán Vô tướng xong tùy theo trước. Kinh: “Giải Thoát Bồ-tát nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Chúng sanh chi tâm tánh bổn vắng lặng, vắng lặng chi tâm thể vô sắc tướng, vân hà tu tập đắc bổn không tâm, nguyện Phật từ bi vị ngã giảng nói”. Bồ-tát Giải Thoát lại bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tâm tánh của chúng sanh vốn Vắng lặng, tâm Vắng lặng Thể không có sắc tướng, làm sao tu tập đạt được tâm Không vốn có? Cúi xin Đức Phật từ bi giảng nói cho con nghe. Luận chép: Từ đây trở xuống là phần thứ hai lặp đi lặp lại quyết định nghi ngờ, có bốn lần hỏi - đáp thứ tự quyết định nghi ngờ. Ý hỏi trong câu hỏi thứ nhất có hai: Một là tâm tánh chúng sanh xưa nay Vắng lặng mà hãy còn động niệm trôi lăn từ vô thỉ, vì sao mới tu mà đạt được tâm vốn có? Hai là Thể của tâm Vắng lặng vô sắc tướng, chúng sanh xưa nay thường giữ lấy tướng có, vì sao luyện tập không có mà đạt được tâm Không? Vì thế nói là vì sao tu tập đạt được tâm Không vốn có. Câu hỏi trong này đã nói về tâm của chúng sanh phải là sáu Thức bằng tâm sanh diệt, vì sao có thể biết nhất tâm bổn giác? Đáp: Khởi Tín Luận chép: “Có pháp có thể khơi dậy tín căn Đại thừa, nghóa là tâm chúng sanh dựa vào pháp nhất tâm có hai thứ môn, cho đến nói rộng ra”. Còn như kinh chép: “Vắng lặng ấy gọi là nhất tâm”. Nay văn này chép: “Thể của tâm Vắng lặng không có sắc tướng”. Nói có ý trái phải làm cho trở lại giống nhau. Nói vô sắc ấy là không hiển bày sắc của các hình tướng. Vô tướng ấy là vì không có các tướng sanh diệt. Văn này chính là hiển bày tâm chân như môn. Trên nói về tâm của chúng sanh tạm thời đưa ra tâm sanh diệt môn, đưa ra tâm sanh diệt hiển bày chân như môn. Vì điều này cho nên chép: Tánh vốn Vắng lặng. Nhưng hai môn này Thể nó không hai, cho nên đều là pháp của nhất tâm. Kinh: “Phật ngôn: Bồ-tát! Nhất thiết tâm tướng bổn lai vô bổn, bổn vô bổn xứ, vắng lặng vô sanh. Nhược tâm vô sanh tức nhập vắng lặng, tâm vắng lặng địa tức đắc tâm không. Thiện nam tử! Vô tướng chi tâm vô tâm vô ngã, nhất pháp tướng diệc phục như thị”. Đức Phật nói: Bồ-tát! Tất cả tâm tướng xưa nay không vốn có, vốn không có nơi vốn có, Vắng lặng vô sanh. Nếu tâm vô sanh tức là nhập vào Vắng lặng, tâm địa Vắng lặng tức là đạt được tâm Không. Này người thiện nam! Tâm của vô tướng không có tâm - không có ngã, tất cả pháp tướng cũng giống như vậy. Luận chép: câu trả lời này có hai: Chính thức trả lời - quyết định trả lời. Nói Bồ-tát là từ để gọi Giải Thoát Bồ-tát. Văn dưới từ để gọi cũng đều giống nhau. Nhất thiết tâm tướng: Tất cả tâm và tâm sở động niệm của tám thức tương ứng với hành tướng sai khác. Hoặc là hành hoặc là tướng đều có bốn tướng. Bổn lai vô bổn, bổn vô bổn xứ: Tất cả tâm tướng thì hạt giống là căn bản, cầu hạt giống căn bản này mãi mãi không thật có. Vì sao? Vì đang lúc này đã là quá khứ. Nếu đang lúc này tức là cũng với quả đều không có đầu đuôi khác nhau, như trâu hai sừng. Nếu đã là quá khứ thì không có tác nhân - không có Thể tánh, giống như sừng thỏ. Đạo lý như vậy thì pháp xưa nay như thế. Vì điều này cho nên nói Bổn lai vô bổn. Còn tâm sanh diệt sanh thì chắc chắn dựa vào nơi vốn có, nơi vốn có đã không tức là không thể được sanh ra. Nói là Bổn xứ, nghóa là đều có căn, năm sắc căn đó đã là sắc pháp, có phương hay không có phương đều không thật có. Ba sở y còn lại đều là vô sắc pháp, có thời hay không có thời hoàn toàn không thật có. Vì thế cho nên cũng nói Bổn vô bổn xứ, nghóa là từ xưa đến nay không có nơi vốn có đó, đã không có hạt giống vốn có cũng không có nơi chốn vốn có, nên biết tâm tướng xưa nay không có sanh ra. Vì điều này cho nên chép: Vắng lặng vô sanh. Lúc quán sát như vậy không thể nào sanh khởi, tâm năng quán đó cũng không có sở sanh, lúc này chính là nhập vào Vắng lặng vốn có. Đã nhập vào Vắng lặng tức là nhất tâm, tất cả sở y gọi đó là Địa, cho nên nói là: Tức nhập Vắng lặng. Tâm địa Vắng lặng tuy các chúng sanh trôi lăn xưa nay, thường giữ lấy tướng có, nhưng dựa vào môn này là suy xét tìm tòi quán sát, thì có thật có tâm vốn Không, cho nên nói là: Tức đắc tâm Không. Tâm - Không - Không tâm nói có trái phải, chỉ là nghóa của nhất tâm bổn giác. Chính là trả lời câu hỏi xong tùy theo trước. Dưới đây là kết thúc trả lời. Tâm vô tướng là nêu Thể của một tâm. Vô tâm vô ngã ấy là kết luận điều đã nói trước đó, trong tâm Vắng lặng vô sanh vô tướng, xa lìa tướng tâm - ngã, tướng của tất cả các pháp cũng như vậy ấy là tiếp tục kết luận về Vắng lặng, chẳng phải trực tiếp xa lìa hai tướng tâm - ngã này, tất cả pháp hữu vi - vô vi còn lại đó cho đến các tướng vô tướng có cao hơn - không có cao hơn trong tâm đều xa lìa hết. Kinh: “Giải Thoát Bồ-tát nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Nhất thiết chúng sanh nhược hữu ngã giả, nhược hữu tâm giả, dó hà pháp giác linh bỉ chúng sanh xuất ly tư phược”? Bồ-tát Giải Thoát lại bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả chúng sanh nếu có ngã, hoặc có tâm dùng pháp nào hiểu biết khiến cho chúng sanh kia vượt ra xa lìa sự trói buộc này? Luận chép: Từ đây trở xuống là trả lời câu hỏi thứ hai. Trả lời một câu hỏi trước đây là nói chung về phá trừ môn Hữu tướng. Nay trả lời câu hỏi này là nói riêng xa lìa môn hai trói buộc, nêu riêng hai bệnh để hỏi về thuốc của bệnh đó. Nói là có ngã ấy là bệnh của chấp người, nếu có tâm là bệnh của chấp pháp. Nói sự trói buộc là phân biệt mà nói về điều đó. Chấp người là sự trói buộc nặng nề, chấp pháp là tướng trói buộc. Nói theo Thông thường thì hai chấp đều có tướng trói buộc nặng nề. Lại hai chấp này đều có hai trói buộc, đó là tương ưng trói buộc và năng duyên trói buộc, trong chương về hai chướng nghóa đó đã có đủ. Trong phần trả lời có hai: Trước là chữa trị chấp người, sau là điều trị chấp pháp, trong phần chữa trị chấp người trước là chung, sau là riêng. Kinh: “Phật ngôn: Thiện nam tử! Nhược hữu ngã giả linh quán thập nhị nhân duyên.” Đức Phật nói: Này người thiện nam! Nếu có ngã thì dạy quán xét mười hai nhân duyên. Luận chép: Đây là điều trị chung. Quán xét mười hai chi lược có hai môn: 1.Quán vô tác duyên sanh, chữa trị chấp về tác giả, như nói sự việc này có cho nên việc này có. 2. Quán vô thường duyên sanh, chữa trị bịnh chấp thường trụ, như nói việc này sanh cho nên việc này sanh. Lý do Ngã tồn tại lấy hai môn này làm căn bản, gốc đã nhổ bỏ cho nên cành nhánh cũng khô héo theo. Kinh: “Thập nhị nhân duyên bổn tùng nhân quả, nhân quả sở khởi hưng ư tâm hành, tâm thượng bất hữu hà huống hữu thân. Nhược hữu ngã giả linh diệt hữu kiến, nhược vô ngã giả linh diệt vô kiến.” Mười hai nhân duyên vốn thuận theo nhân quả, nhân quả đã khởi lên phát động ở tại tâm hành, tâm còn không có huống chi có thân. Nếu có ngã ấy thì khiến cho dứt trừ cái thấy về có, nếu không có ngã ấy thì khiến cho dứt trừ cái thấy về không. Luận chép: Đây là chữa trị riêng. Chữa trị riêng có hai: Một là so sánh chữa trị ; hai là lần lượt chữa trị. Trong so sánh chữa trị nói là Bổn tùng nhân quả là thuận theo chung đưa ra riêng. Nói chung thì, chỉ có nhân và quả. Từ nhân đưa ra hai và ba, từ quả đưa ra năm và hai. Lại, từ nhân đưa ra mười chi, từ quả nói về hai chi cho nên vốn thuận theo căn bản chỉ là nhân quả. Nhân quả đã khởi lên phát động tại tâm hành ấy là, khởi lên nhân quả thì tâm hành làm căn bản, tâm có thể làm nhân thì tâm nhận lấy quả. Tâm còn không có huống chi có thân là dựa vào đạo lý quán sát đã nói ở trên thì tâm không thật có, huống chi tâm vốn làm nên sắc thân là có ư? Thân tâm còn không có huống chi có ngã sao? Lại, tâm không có cho nên nhân quả cũng Không, nhân quả hãy còn Không huống chi có Ngã ư? Lại, nhân quả Không cho nên mười hai chi là Không. Huống chi là Tác giả - Thọ giả v.v… chăng? Như kinh chép: “Bồ-tát quán mười hai nhân duyên như hư không không thể cùng tận”, là nói về điều này. Đã nói là so sánh phá trừ, thế nào là lần lượt chữa trị? Nghóa là nếu có Ngã ấy thì khiến cho dứt trừ cái thấy về có. Nói về so sánh phá trừ trước đây là diệt đi cái chấp ngã. Nếu không có Ngã ấy thì khiến cho dứt trừ cái thấy về không, đây chính là lần lượt phá trừ căn bệnh chấp vô ngã. Vì sao? Vì trước đây phá trừ ngã chấp xa lìa căn bệnh ngoại đạo, mà giữ lấy vô ngã cho nên rơi vào căn bệnh của nhị thừa, nay lần lượt phá trừ cái thấy đắm vào không có, Ngã vốn chẳng phải có huống chi có Ngã là không, cho nên hai quán chung và riêng phá trừ Ngã chấp hoàn tất. Kinh: “Nhược tâm sanh giả linh diệt diệt tánh, nhược tâm diệt giả linh diệt sanh tánh, diệt thị kiến tánh tức nhập thật tế.” Nếu tâm sinh ra thì khiến cho dứt trừ tánh diệt, nếu tâm diệt đi thì khiến cho dứt trừ tánh sanh, dứt trừ tánh thấy này thì hội nhâïp thật tế. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai chữa trị về thấy còn lại tâm. Trong đó có hai: Chính là chữa trị và giải thích lại. Pháp của nhị thừa … chấp còn lại tâm, cho rằng có tâm sanh diệt vô thường, cho nên phá trừ sanh diệt, diệt đi cái thấy còn lại tâm. Nếu còn lại tâm sanh khởi mà thành bệnh thì phá trừ tánh diệt trước, phải dựa vào sự dứt trừ kia giữ lại sanh ra này. Nếu thấy sau khi dứt trừ mà chấp tâm có hiện hữu, nếu tâm không diệt thì cũng giống như sừng thỏ. Phá trừ cái thấy như vậy khiến cho diệt đi tánh sanh, vì bất sanh mà có diệt đi thì không hợp với lý. Dứt trừ tánh thấy này thì hội nhập thật tế ấy là, phá trừ cái thấy tánh diệt đi chắc chắn không giữ lấy sanh, phá trừ cái thấy tánh sanh ra chắc chắn không giữ lấy diệt, cho nên không giữ lấy sanh - diệt, thì chắc chắn không còn lại tâm. Kinh: “Hà dó cố bổn sanh bất diệt, bất diệt bất sanh, bất diệt bất sanh, bất sanh bất diệt, nhất thiết pháp tướng diệc phục như thị”. Tại vì sao vốn có sanh mà không diệt đi, không điệt đi bất sanh ra, bất sanh ra không diệt đi, tất cả pháp tướng cũng giống như vậy. Luận chép: Đây là giải thích lại. Vì sao thấy tâm sanh thì khiến cho diệt tánh diệt, thấy tâm diệt đi thì khiến cho dứt trừ tánh sanh cho nên nói là tại vì sao? Kế là giải Thích Câu hỏi này. Bổn sanh bất diệt: Cầu tâm sanh khởi trước đây mãi mãi không thật có, không thật có thì có pháp nào mà dứt trừ? Như vậy không giữ lại tánh diệt của tâm trước tức là không có thể giữ lấy sanh khởi của tâm này, cho nên nói là Bất diệt bất sanh, là giải thích lý do khiến cho diệt đi tánh diệt. Kế là nói Bất diệt bất sanh, nói lại bất diệt trước dây nay không có thể sanh khởi. Như vậy không đạt được tánh sanh khởi của tâm này, thì không có thể giữ lấy tánh diệt đi của tâm này, cho nên nói là Bất sanh bất diệt, là giải thích lý do khiến cho diệt đi tánh sanh. Như đối với tâm pháp không có diệt đi - không có sanh ra, các pháp còn lại đó cũng giống như quán này, cho nên nói là tất cả pháp cũng như thế. Hỏi: Nếu cho tâm sanh thật sự phá trừ sự sanh khởi này, đâu cần phải phá trừ sự diệt đi của tâm trước kia? Đáp: Sanh khởi này là hiện tại phá trừ cái có không dễ dàng, tâm trước tự mình vượt qua hiểu rõ Không chẳng khó gì, cho nên trước tiên phá trừ cái dễ dàng mà bỏ đi cái khó đó. Dựa vào thứ tự này phá trừ tánh sanh hiện tại. Từ đó lập tức bỏ đi cái chấp về diệt sau này, đây gọi là phương pháp hết sức khéo léo của y Vương vậy. Kinh: “Giải Thoát Bồ-tát nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Nếu có chúng sanh kiến pháp sanh thời linh diệt hà kiến?” Giải Thoát Bồ-tát lại bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh lúc thấy pháp - sanh thì dạy họ diệt trừ cái thấy nào? Luận chép: Dưới đây là phần hỏi - đáp thứ ba. Kế là lần hỏi - đáp trước nói về căn bệnh thấy của sự diệt. Nay lần hỏi - đáp này nói lên vị thuốc thấy của năng diệt. Lại, trước đây phá trừ cái thấy của hai thời gian sanh - diệt, nay phá trừ cái thấy của hai bên có - không. Ý câu hỏi này là nói nếu hành giả quán xét, thuận theo ý Đức Phật dạy bảo thì lúc quán pháp sanh khởi khiến cho dứt trừ cái thấy nào? Dứt trừ cái thấy nào ấy là hỏi về ý dạy bảo của Đức Phật, tạm thời nêu ra một bên bao gồm nói rõ về quán diệt. Kinh: “Phật ngôn: Bồ-tát! Nhược hữu chúng sanh kiến pháp sanh thời linh diệt vô kiến, kiến pháp diệt thời linh hữu kiến. Nhược diệt thị kiến đắc pháp chân vô nhập quyết định tánh, quyết định vô sanh.” Đức Phật nói: Bồ-tát! Nếu có chúng sanh lúc thấy pháp sanh thì dạy họ dứt trừ cái thấy về Không, khi thấy pháp diệt thì dạy họ dứt trừ cái thấy về có. Nếu dứt trừ cái thấy này thì đạt được sự “không có” chân thật của pháp và nhập vào tánh quyết định, quyết định vô sanh. Luận chép: Lúc thấy pháp sanh chính là lúc chính là quán tục pháp do nhân duyên sanh, lúc này có thể xa lìa kiến chấp về Không, cho nên nói khiến cho dứt trừ cái thấy về “không”. Lúc thấy pháp diệt chính là lúc chính là quán tục pháp xưa nay vốn diệt, lúc này có thể xa lìa chấp “có”, cho nên nói khiến cho dứt trừ cái thấy “có”. Vì sao trong này nói là khiến cho dứt trừ ấy là vì Đức Phật dạy bảo thường khiến cho người quán sát dứt trừ. Ý này chính là nói về hành giả tu quán lúc pháp sanh khởi chỉ xa lìa cái thấy “không có” mà không chấp còn sự sanh khởi, lúc quán vắng lặng chỉ xa lìa cái thấy “có” mà không chấp lấy có sự dứt trừ. Vì sao? Vì nếu chấp còn sanh ư? Thì sanh vốn vắng lặng, nếu chấp lấy diệt ư? Thì diệt tức là sanh khởi. Như dưới đây tụng chép: “Nhân duyên sở sanh nghóa thị nghóa diệt phi sanh, diệt chư sanh diệt nghóa thị nghóa sanh phi diệt, sở dó năng ly nhị biên nhi bất trước trung, như kỳ ly vô thủ hữu không” Nghóa sanh do nhân duyên là nghóa diệt chẳng sanh, nghóa diệt các sanh diệt là nghóa sanh chẳng diệt, cho nên thường lìa hai bên mà không mê đắm Trung, nếu lìa không lấy có phá có lấy Không, đây là rỗng không, giả dối mà chẳng phải sự “không có” chân thật. Nay tuy xa lìa có mà chẳng còn lại Không, như vậy chính là đạt được sự “không” chân thật của các pháp, cho nên nói là đạt được sự “không” chân thật của pháp. Nghóa quyết định tánh như trước đã nói. Lúc đạt được chân thật Không, quán tâm bất sanh khởi xa lìa tất cả tâm có - không, cho nên nói là quyết định vô sanh. Kinh: “Giải Thoát Bồ-tát nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Linh bỉ chúng sanh trụ ư vô sanh thị vô sanh dư?” Bồ-tát Giải Thoát lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Khiến cho chúng sanh kia an trụ nơi vô sanh là vô sanh chăng? Luận chép: Dưới đây là phần hỏi - đáp thứ tư. Trước nói về chân quán lìa bỏ tướng hai bên, nay hiển bày cái hiểu luống dối không xa lìa sanh trụ nghóa là có hành giả ít học tu quán ý nói phân biệt, quán pháp bất sanh khởi, có thể nhiếp phục sự tán loạn và trụ cảnh Vô sanh, dấy lên ý niệm như vậy cho là bất sanh khởi, sau lúc xuất định khởi lên tăng thượng mạn, ý nói rằng đã đạt được vô sanh pháp nhẫn. Vì phá trừ căn bệnh này cho nên nêu ra căn bệnh để thưa hỏi: An trụ nơi vô sanh là vô sanh chăng? Kinh: “Phật ngôn: Trụ ư vô sanh tức thị sanh, hà dó cố? Vô trụ vô sanh nãi thị vô sanh.” Đức Phật nói: Trụ nơi bất sanh khởi chính sanh khởi. Vì sao? Vì không an trụ bất sanh khởi chính là vô sanh chăng? Luận chép: trong phần trả lời có hai: trả lời Sơ lược và giải thích rõ lại. Đây chính là trả lời sơ lược, có hai câu về điều đó, câu trước thuận theo nói về Chính là sanh khởi, an trụ nơi cảnh bất sanh khởi tức là tâm phân biệt phát sinh, câu sau lại giải thích về bất sanh khởi nếu tâm không an trụ vào cảnh bất sanh khởi thì lìa bỏ các sự phân biệt là vô sanh nhẫn. Vì thế biết rằng có an trụ thì chẳng phải vô sanh nhẫn. Như vậy trở lại giải thích, văn sơ lược trả lời xong. Kinh: “Bồ-tát! Nhược sanh vô sanh dó sanh diệt sanh, sanh diệt câu diệt bổn sanh bất sanh, tâm thường vắng lặng, vắng lặng vô trụ, tâm vô hữu trụ nãi thị vô sanh.” Này Bồ-tát! Nếu sanh khởi không có sanh khởi lấy sanh diệt sanh khởi, sanh diệt đều diệt đi, vốn sanh khởi bất sanh, tâm thường Không vắng lặng, Vắng lặng không có an trụ, tâm không có an trụ mới chính là vô sanh. Luận chép: Đây là giải thích rõ lại, trong đó có hai: Trước nói rõ chính là sanh, sau nói rõ về vô sanh. Nếu có an trụ tâm sanh khởi ở tại cảnh không có sanh khởi, tức là lấy sanh diệt sanh khởi của cảnh giới đó, cho nên nói là “Nếu sanh khởi, không có sanh khởi, lấy sanh diệt sanh khởi”. Tuy diệt sự sanh khởi của cảnh giới mà giữ lấy cái không diệt của diệt đó, ở nơi cảnh không có diệt đó có thể giữ lấy tâm sanh khởi, sanh và diệt đều còn, chẳng lẽ nói là vô sanh ư? Như vậy hai câu nói rõ chính là sanh khởi ở trước, chân thật vô sanh nhẫn thì không thể như vậy. Bên ngoài không giữ lại đối với cái diệt của sở thủ, bên trong bất sanh khởi cái sanh của năng thủ, vì điều này cho nên nói là “Sanh diệt đều diệt”. Nhưng đều diệt này chẳng phải gọi là trở lại không có, suy xét tìm tòi vốn sanh khởi không đạt được sanh khởi đó, đã không có thể sanh khởi sao có thể trở lại diệt đi? Vào lúc chứng đạt lónh hội xưa nay vắng lặng cho nên nói là “Bản sanh bất sanh, tâm thường vắng lặng”. Như vậy Vắng lặng bình đẳng về năng sở, không có tâm năng trụ an trụ vào cảnh Không, cho nên nói là “vắng lặng vô trụ”. Như vậy mới gọi là vô sanh pháp nhẫn cho nên nói là “Chính là vô sanh”. Nói về quán Vô sanh hoàn tất tùy theo trước. Kinh: “Giải thoát Bồ-tát nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Tâm vô hữu trụ hữu hà tu học vi Hữu học dã vi Vô học dã?” Giải thoát Bồ-tát lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tâm không có an trụ thì có gì tu học, là Hữu học hay là Vô học vậy? Luận chép: Dưới đây là mở rộng về nghóa Nhất giác trong đó tám lần hỏi - đáp, xét định chia làm hai phần: Hai lần hỏi - đáp trước là chính là mở rộng về nghóa Nhất giác Như-lai-tạng, sáu lần hỏi - đáp sau dựa theo luận phát sanh luận trừ bỏ các nghi vấn khó xử lý. Đây là câu hỏi đầu tiên, hỏi về tâm không có an trụ. Nếu hàng người Hữu học tức là chẳng phải không an trụ, nếu hàng người Vô học thì chẳng quán hành. Lại, nếu người Hữu học cần phải có tâm sanh khởi, nếu người Vô học thì chỉ là lý Không. Kinh: “Phật ngôn: Bồ-tát! Vô sanh chi tâm, tâm vô xuất nhập bổn Như-lai-tạng tánh tịch bất động.” Đức Phật nói: Này Bồ-tát! Tâm bất sanh khởi, tâm không ra vào, tánh Như-lai-tạng vốn vắng lặng không lay dộng. Luận chép: Trong này trước là hiển bày rõ đạo lý - sau chính là trả lời câu hỏi. Hiển bày rõ đạo lý là lúc đạt được không an trụ thì tâm không có sanh khởi - tâm thường vắng lặng, không có ra ngoài quán đạt được căn bản không phát khởi cũng chẳng phải bắt đầu nhập vào. Vì điều này cho nên nói “Tâm không có ra vào” Như vậy quán tâm đã không có ra vào, tức là tâm Bổn giác Như-lai-tạng, chính là nói về Thỉ giác chính là giống như Bổn giác. Tâm không có sanh khởi này đã làm Bổn tạng xưa nay tánh vắng lặng không còn khởi lên dao động, làm sao có thể vào ra khởi lên hay dừng nghỉ” Lời nói này lại trở thành nghóa không có ra vào. Kinh: “Diệc phi Hữu học, diệc phi Vô học, vô Hữu học bất học thị tức Vô học phi Hữu học thị vi sở học”. Cũng chẳng phải Hữu học, cũng chẳng phải Vô học, không có học hay không học thì chính là Vô học, chẳng phải không có học chính là sở học. Luận chép: Đây chính là thức trả lời ý câu hỏi, trong đó có hai: Trước là ngăn dứt - sau là thừa nhận. Đã chẳng phải bắt đầu nhập vào cho nên chẳng phải Hữu học, cũng không có cuối cùng vượt ra cho nên chẳng phải Vô học. Lại, không có tâm năng trụ cho nên chẳng phải Hữu học, chẳng thể không có tâm không an trụ cho nên chẳng phải Vô học. Đây là câu cùng ngăn dứt dừng lại. Không có học hay bất học thì chính là Vô học: Vì không phân biệt sở học tức là không phải năng học, theo nghóa này cho nên thừa nhận là Vô học. Đây là dựa vào nghóa chẳng phải Hữu học để thừa nhận là Vô học. Chẳng phải không có Hữu học chính là sở học: Tuy chẳng phải quán về có an trụ - chẳng phải không có hành vô trụ; vì nghóa này cho nên thừa nhận là Hữu học. Đã là Hữu học cho nên là sở học của người Hạ địa. Đây theo nghóa chẳng phải Vô học để thừa nhận là Hữu học. Đây là đều thừa nhận tự tại trả lời. Kinh: “Giải thoát Bồ-tát nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Văn hà Như-lai-tạng tánh tịch bất động?” Giải Thoát Bồ-tát lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Sao nói tánh Như-lai-tạng vắng lặng không dao động? Luận chép: Dưới đây là lần hỏi - đáp thứ hai: Trước đó nói về thỉ giác không khác với Bổn giác của tánh Như-lai-tạng. Nay là chính là nói về tánh Như-lai-tạng tàng ẩn không dao động. Trong này nói lược về nghóa của Như-lai-tạng. Môn Như-lai-tạng có hai có ba, nói là ba, như trong kinh Bất Tăng Bất Giảm chép: Trong pháp giới chúng sanh thị hiện ba thứ pháp, đều là chân thật Như không khác nhau không sai lệch. Ba pháp gồm? Một là Như-lai-tạng trong thời gian đầu tương ưng với Thể và pháp thanh tịnh, pháp này như thật không luống dối, không lìa bỏ không thoát khỏi trí là pháp không thể nghó bàn, thời gian đầu từ vô thỉ đến nay có pháp Thể tương ưng thanh tịnh này. Hai là Như-lai- tạng trong thời gian đầu “Bổn tế” không tương ưng với Thể và phiền não ràng buộc pháp không thanh tịnh, thời gian đầu này xa lìa thoát khỏi không tương ưng với phiền não ràng buộc pháp không thanh tịnh, chỉ có những năng đoạn về trí Bồ-đề của Như-lai. Ba là Như-lai-tạng trong thời gian vị lai bình đẳng lâu dài cho đến có pháp, tức là tất cả các pháp căn bản, đầy đủ tất cả pháp vốn có tất cả pháp, đối với pháp thế gian không lìa bỏ không thoát khỏi”. Xét rằng: “Là nói lên ba thứ Như- lai-tạng môn. Ba thứ ấy là? Một là thường thâu nhiếp Như-lai-tạng, lúc an trụ tự tánh có thể thâu nhiếp công đức quả địa của Như-lai, vì có thể thâu nhiếp Như-lai gọi là Như-lai-tạng. Hai là vốn thâu nhiếp Như-lai- tạng, nghóa là phiền não ràng buộc, pháp thân thanh tịnh, tất cả đều ở trong trí của Như-lai, đều là sự thâu nhiếp giữ gìn của Như-lai, Như-lai vốn thâu nhiếp gọi là Như-lai-tạng. Ba là bao phủ che lấp Như-lai-tạng, nghóa là Pháp thân Như-lai bị phiền não che đậy, Như-lai tự ẩn kín gọi là Như-lai-tạng”. Tam tạng Chân Đế thật hiện giải thích như vậy: Hiểu hết văn đó, tức là nói trong thời gian vị lai bình đẳng lâu dài cho đến có pháp ấy là Thể của nhất tâm khắp cả ba thời gian. Nhưng trong hai môn trước, đã nói lên thời gian ban đầu (bổn tế), trong đó nói về các thời gian sau (hậu tế). Còn muốn nói về nghóa của Như-lai, nghóa là thời gian vị lai bình đẳng lâu dài ấy chính là nghóa của Như, nói cho đến có (cập hữu) ấy là nghóa về Lai. Như trong Luận Phật Tánh chép: “Chân như này là có Như trong chẳng phải Như, không có chẳng phải Như cũng Như. Như của nhị thừa ấy là Như trong chẳng phải Như, là chẳng phải Như trong không có chẳng phải Như. Vì sao? Vì người nhị thừa dựa theo luống dối quán các tướng vô thường cho là Chân Như. Quán luống dối này chỉ là có trong nhân quả địa thì không có, vì thế cho nên Như này hoặc thành tựu hoặc hư hoại. Như của Bồ-tát là xa lìa luống dối, dựa theo tánh chân để quán sát Như cho nên đối với hai nơi nhân - quả không khác nhau chỉ thành tựu, không có hư hoại, cho đến nói rộng ra.” Vì thế biết thời gian sau (hậu tế) bình đẳng lâu dài chính là nói lên nghóa như của Đại thừa. Vốn nói cho đến có (Cập hữu) là nói về nghóa của Lai, đối tất cả pháp quá khứ nói lên một tâm vị lai, như lúc tất cả không còn năm pháp Thủ Uẩn không đến, quả địa mất đi mà không đến. Một tâm này giống như quả địa hãy còn có không bao giờ quá khứ; cho nên nói cho đến có (cập hữu) chính là nói lên nghóa Lai. Như luận chép: “Từ an trụ tự tánh đến cùng cực đạt được”, chính là nói về điều này. Như vậy một tâm thông suốt làm nơi y chỉ cho tất cả các pháp nhiễm tịnh, tức là phần vắng lặng xưa nay của các pháp căn bản, hằng sa công đức chẳng có gì không đầy đủ, cho nên nói là “bao trùm tất cả pháp”, phần dao động tùy theo duyên hằng sa pháp nhiễm chẳng pháp nào không vốn có, cho nên nói là “Đầy đủ tất cả pháp. Nhưng nêu ra pháp nhiễm để so với thể của tâm là không có thể thông suốt khắp nơi, cho nên xa lìa thoát khỏi. Nếu nêu ra thể của tâm so với các pháp nhiễm, thì khắp các pháp nhiễm chẳng pháp nào không thông suốt. Cho nên nói đối với pháp thế gian không lìa, không thoát. Nghóa không lìa thoát là nghóa ẩn tàng. Môn thứ ba này nói chung về nhất tâm, thông suốt đối với động tónh làm chỗ dựa cho nhiễm tịnh. môn thứ hai là nói riêng về phần dao động, nơi nương tựa của pháp nhiễm. môn thứ nhất ấy là hiển bày riêng về phần vắng lặng, nơi nương tựa của pháp tịnh. Trong môn thứ hai nói thời gian đầu (bổn tế) không tương ưng với Thể là, các pháp phiền não trái với tâm Thể gọi là không tương ưng. Thể của nhất tâm dao động tùy theo duyên làm chỗ nương cho pháp kia, là thể của pháp không tương ứng. Nói “Và phiền não ràng buộc, pháp không thanh tịnh” ấy là: Pháp kia có thể dựa vào pháp dựa vào tâm Thể mà xoay chuyển, ràng buộc Thể của tự tâm khiến cho tùy theo nhiễm mà hợp lại giữ lấy pháp của năng y - sở y để làm Thể của Như-lai-tạng thứ hai. “Chỉ có những năng đoạn về trí Bồ-đề của Như-lai”: Vì chỉ riêng đạo giải thoát có thể chính là đoạn. Nghóa này đầy đủ như trong chương về hai Chướng giải thích. Trong môn thứ nhất nói thời gian đầu tương ưng với Thể ấy là vì môn vắng lặng xưa nay đầy đủ hằng sa công đức cùng với tâm tương ưng, là Thể tương ưng của công đức. Nói “Và pháp thanh tịnh” ấy là vì tánh công đức năng y xa lìa pháp nhiễm, hợp lại lấy pháp năng y và sở y để làm Thể cho Như Lại tạng thứ nhất. Pháp này như thật không luống dối, trí không lìa bỏ không thoát khỏi là pháp không thể nghó bàn ấy là giải thích về nghóa tương ưng, vì nghóa của pháp thân cùng với các pháp công đức tương ưng. Như văn trên chép: “Phật pháp tương ưng không xa lìa không thoát khỏi không dứt trừ không sai khác không thể nghó bàn gọi là Pháp thân”. Nghóa này thế nào? Thể của một tâm này sơ lược có năm tướng. Những gì là năm? Một là xa lìa tướng sai khác của sở thủ. Hai là thoát khỏi cái chấp phân biệt của năng thủ. Ba là khắp cả thời gian ba đời không có gì không giống nhau. Bốn là hư không giới không có nơi nào không cùng khắp. Năm là không rơi vào các bên có - không đồng - khác v.v… Vượt lên tâm hành xứ, qua khỏi ngôn ngữ đạo, hơn hẳn hằng sa chủng loại vốn có công đức cũng có năm nghóa cùng với Thể tương ưng: một là mỗi mỗi công đức xa lìa tướng sở thủ cho nên chẳng phải sự xa lìa của Pháp thân, cùng với tướng thứ nhất tương ưng, vì kinh nói.”Bất ly”. Hai là mỗi mỗi công đức thoát khỏi sự chấp năng thủ cho nên chẳng phải sự thoát khỏi của pháp thân, cùng với tướng thứ hai tương ưng, như kinh nói “Bất thoát”. Ba là mỗi một công đức này khắp cả thời gian ba đời xuyên suốt trước đến sau không có gián đoạn, cùng với tướng thứ ba tương ưng cho nên nói “Bất đoạn”. Bốn là mỗi một đức này sánh bằng hư không giới, ngang không có nơi này nơi kia khác nhau, cùng với tướng thứ tư tương ưng cho nên nói “Bất dị”. Năm là mỗi một công đức đều xa lìa các bên chẳng phải cảnh giới suy nghó bặt dứt con đường nói năng, cùng với tướng thứ năm tương ưng, như kinh nói “Bất tư nghị”. Các pháp công đức có năm nghóa này, cùng với Thể không có sai khác dung thông một ý vị. Từ đạo lý này gọi là tương ưng, chẳng giống như Vương - Sổ phân biệt Thể tương ưng. Nay trong này nói trí không xa lìa không thoát khỏi, pháp không thể nghó bàn ấy là trong các công đức sơ lược nêu ra nghóa về Giác, trong năm tương ưng sơ lược nói về ba nghóa, đây là nghóa thứ nhất Năng nhiếp tạng. Nghóa về ba thứ Tạng sơ lược thuật ra như vậy. Nói về Nhị môn ấy như Kinh Phu Nhân chép: “Không Như-lai-tạng ấy là hoặc xa lìa hoặc thoát khỏi hoặc khác với tất cả phiền não tạng. Bất Không Như-lai-tạng ấy là không xa lìa không thoát khỏi không khác nhau không thể nghó bàn về Phật pháp”. Xét rằng: “Các pháp phiền não đều là luống dối vì cảnh không thật cho nên hư, do Thể tán loạn cho nên vọng, vọng cho nên không có chân, hư cho nên không có thật, không có chân thật cho nên nói gọi là Không. Có thể che phủ Như-lai, gọi là Như-lai-tạng, tức là nghóa về Không, ẩn kín che phủ chân. Tướng của các cảnh phiền não không thật vốn xa lìa pháp thân cho nên nói là “Hoặc xa lìa”. Ràng buộc của các phiền não thể theo vọng chấp là chỗ thoát khỏi của Pháp thân cho nên nói là “Hoặc thoát”. Nói “Hoặc khác” ấy tức là sự phân biệt sai khác luống dối trước kia trái với tính bình đẳng của Pháp thân. Vì ba nghóa này không tương ứng, là không có chân thật nên tức là nghóa không. Nói “Bất không” ấy là, tất cả công đức cùng với Thể tương ưng, Thể chẳng phải vọng cho nên chân, cảnh chẳng phải hư cho nên thật. Vì chân thật cho nên nói tên là Bất Không. Như-lai bị che phủ ẩn kín gọi là Như-lai-tạng, các câu như “Không lìa, không thoát v.v…” là giải thích về nghóa của Bất Không, nghóa giống như ba thứ Tạng môn đã nói. Nhưng thể Như-lai-tạng của Bất Không trong này chính là pháp thứ nhất trong ba pháp trước, nghóa không trong này là pháp thứ hai kia, mà nghóa của che phủ ẩn kín trong ba thứ Như-lai-tạng kia hợp lại ở pháp thứ ba. Vì thế trong hai thứ trước hiển bày riêng về hai nghóa Năng nhiếp và Sở nhiếp, nay hại loại Như-lai- tạng môn này muốn hiển bày nghóa Không, ẩn tàng che phủ chân thật, nên riêng hai nghóa Năng che và bị che. Lại nữa hai kinh này cùng hiển bày nghóa riêng cho nên hai môn hai là ba giải thích khác nhau. Tạm thời kết thúc luận về Thừa mà trở lại giải thích bổn văn. Kinh: “Phật ngôn: Như-lai-tạng giả sanh diệt lự tri tướng, ẩn lý bất hiển thị Như-lai-tạng tánh tịch bất động.” Đức Phật nói: Như-lai- tạng ấy là tướng sanh diệt suy nghó hiểu biết, lý ẩn kín không hiển bày là tánh vắng lặng không dao động của Như-lai-tạng. Luận chép: Tướng sanh diệt suy nghó hiểu biết ấy tức là Không Như-lai-tạng. Nhưng trong văn này hiển bày nghóa Năng ẩn mà không gọi đây là Như-lai-tạng. Nói lý ẩn kín không hiển bày là Như-lai-tạng ấy là Bất Không Như-lai-tạng, dựa theo nghóa Sở ẩn gọi là Như-lai-tạng. Nói tánh vắng lặng không dao động ấy là hiển bày Tạng tánh này, tuy ẩn kín mà không thay đổi. Tánh này có năm nghóa, như Vô Tướng Luận chép: “Một là nghóa chủng loại là nghóa Tánh, như các loại bình chậu áo quần v.v… tất cả sắc pháp không xa lìa bốn Đại, chủng loại đều lấy bốn Đại làm tánh. Như vậy chúng sanh không vượt ra một cõi giới, đều dùng một cõi giới làm chủng loại, Nhiếp Đại thừa Luận gọi là Thể loại nghóa, trong Phật tánh luận gọi là Tự tánh nghóa, nói có nhiều cách mà ý không khác nhau. Hai là nghóa về nhân là nghóa Tánh, như trong gỗ có tánh lữa, cùng với lữa làm nhân cho nên gọi là tánh. Như vậy các pháp vô lậu của bậc Bậc Thánh lấy đây làm nhân mà được thành tựu, trong hai Luận kia cùng gọi là về nghóa về nhân. Ba là nghóa về sanh là nghóa Tánh, như luyện vàng thật sanh ra đồ dùng trang nghiêm các thứ này được sanh ra lấy vàng làm tánh; cõi giới này cũng như vậy, có thể phát sinh quả địa của năm Phần pháp thân, nảy sinh pháp Thân thân cõi giới này làm tánh, trong Nhiếp Đại thừa luận cũng gọi là Sanh nghóa, trong Phật Tánh Luận gọi là Chí Đắc Nghóa, bỏi vì nghóa của Biệt nhân là ở trước quả, ngay nơi đã nảy sinh gọi là Chí Đắc nghóa. Bốn là nghóa về không thay đổi là nghóa Tánh, giống như tánh quý báu của kim cương tồn tại ngang một kiếp không thêm thêm không bớt bớt. Như vậy cõi giới này an lạc trụ ngang bằng ba đời, thế gian không hư hoại - xuất thế gian không cùng tận, trong hai Luận kia gọi là Chân thật nghóa, nghóa chân thật ấy là nghóa không hư hoại, cho nên nói khác nhau mà ý như nhau. Năm là nghóa về mật tạng là nghóa Tánh, như trong đá vàng (hoàng thạch) có tánh vàng thật, nếu không phá vỡ quặng mỏ thì không có gì lợi ích, thuận theo nung luyện sửa trị thì có công dụng quý báu. Vì thế cho nên tánh kia là nghóa tàng ẩn kín đáo. Tánh Như-lai-tạng nên biết rằng cũng như vậy, không phá bỏ sự ràng buộc vì bên ngoài, vì ô nhiễm, phá bỏ sự ràng buộc tương ưng trở thành bên trong trở thành thanh tịnh, cho nên biết rằng tánh này là nghóa của mật tạng. Trong luận Phật Tánh gọi là nghóa Bí Mật, Luận Nhiếp Đại thừa gọi là Tạng nghóa, nghóa như nhau mà nói khác nhau, rõ ràng như vậy có thể thấy. Nay trong văn nói về tánh là bao gồm năm nghóa này. Vắng lặng không dao động là nói lược về hai thứ sau. Vắng lặng là nghóa của Mật tạng, không dao động là nghóa không thay đổi, do đó trên đây chính là mở rộng về nghóa của Nhất Giác hoàn tất. Kinh: “Giải Thoát Bồ-tát nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Vân hà sanh diệt lự tri tướng?” Bồ-tát Giải thoát lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Sao nói là tướng sanh diệt suy nghó hiểu biết? Luận chép: Từ đây trở xuống có sáu lần hỏi - đáp nhờ luận để sanh khởi giải quyết các nạn nghi. Đây lần hỏi đáp thứ nhất nói về tướng suy nghó hiểu biết thường ẩn kín. Kinh: “Phật ngôn: Bồ-tát! lý vô khả bất nhược hữu khả bất tức sanh chư niệm thiên tư muôn lự thị sanh diệt tướng”. Đức Phật nói: Này Bồ-tát! Lý không có đúng sai, nếu có đúng sai thì nảy sinh nhiều niệm suy nghó, là tướng sanh diệt. Luận chép: Trong câu trả lời có hai lớp: Trước là trả lời sơ lược - sau là mở rộng phát triển. Trong phần sơ lược trả lời hai câu trước nêu ra sở mê. Vốn mê mờ lý tâm hành xứ diệt, cho nên nói “Lý vô khả bất”. Khả ấy là đúng, Bất ấy là sai. Lý dứt bốn câu lìa đúng sai, những hành xứ của tâm phân biệt sai trái. Kế là nói về năng mê. Nếu có đúng sai thì sinh ra nhiều niệm ấy là vì có vô minh không hiểu được bình đẳng, lập tức có tâm phân biệt đúng sai, do vậy khởi lên đủ sáu thứ tâm ô nhiễm. Nhiều niệm suy nghó là tướng sanh diệt: Sáu thứ tâm ô nhiễm tuy có thô tế nhưng đều trái với bình đẳng, cho nên là tướng sanh diệt. Như trong Khởi Tín luận chép: “Lại, tướng sanh diệt phân biệt ấy sơ lược có hai thứ. Thế nào là hai? Một là thô, vì cùng với tâm tương ưng. Hai là tế, vì cùng với tâm không tương ưng. Lại, thô của trong thô là cảnh giới phàm phu, tế ở trong thô - thô ở trong tế là cảnh giới Bồ-tát, tế ở trong tế là cảnh giới Phật. Hai thứ sanh diệt này dựa vào vô minh huân tập mà có, đó gọi là dựa vào nhân - dựa vào duyên. Dựa vào nhân ấy là nghóa của không hiểu biết, dựa vào duyên ấy là nghóa của vọng tác cảnh giới. Nếu nhân diệt đi thì duyên diệt, nhân diệt cho nên tâm không tương ưng diệt, duyên diệt cho nên tâm tương ưng diệt”. Xét rằng: “Thô trong này cùng với tâm tương ưng ấy gọi là ba thứ tương ưng nhiễm, tế không tương ưng với tâm ấy là ba thứ không tương ưng nhiễm. Thô trong thô gọi là chấp tương ưng nhiễm - chẳng đoạn tương ưng nhiễm đều ở sáu Thức cho nên cảnh giới phàm phu. Tế ở trong thô ấy gọi là trí phân biệt tương ưng nhiễm ở Thức thứ bảy, Thô ở trong tế gọi là hiện sắc không tương ưng nhiễm thường thấy tâm không tương ưng nhiễm. Tế ở trong tế gọi là nghiệp căn bổn không tương ưng nhiễm. Ba thứ này đều ở vị trí thức thứ tám. Trong này ba thứ tế sanh diệt bị gió vô minh làm cho dao động, vì thế nói “Nhân diệt cho nên tâm không tương ưng diệt”; ba thứ thô sanh diệt, bị gió cảnh giới làm dao động, nên nói duyên diệt thì tâm tương ưng diệt. Trong đó biết đích xác, như trong Luận, Sớ kia giải thích.”Nay kinh này nói “thiên tư” ấy là thâu nhiếp chung phân biệt tế của tất cả không tương ưng nhiễm, “Muôn lự” là chung thâu nhiếp phân biệt thô của tất cả tâm tương ưng nhiễm. Hai thứ này đều là tướng của động niệm, vì điều này cho nên nói là tướng sanh diệt. Kinh: “Bồ-tát quán bổn tánh tướng, lý tự mãn túc, thiên tư muôn lự bất ích đạo lý, đồ vi động loạn thất tổn tâm vương.” Bồ-tát quán sát tánh tướng vốn có, lý tự nhiên đầy đủ, nhiều niệm suy nghó không ích gì cho đạo lý, chỉ làm hỗn loạn mất đi tâm vương lúc đầu. Luận chép: Dưới đây là mở rộng, trong đó có ba: Một là đối với tướng sanh diệt nói lên lý đầy đủ. Hai là đối với lý đầy đủ nói về nhiễm thiếu sót mất đi. Ba là phân rõ thuận theo lý diệt nhiễm không còn dao động là lợi ích hướng vắng lặng. Trong phần đầu nói là Bồ-tát ấy là từ để gọi Bồ-tát Giải Thoát. Quán sát tánh tướng vốn có ấy là Đức Phật quán xét tánh Bổn giác Như-lai-tạng. Lý tự nhiên đầy đủ là vốn quán xét Bổn giác Như-lai-tạng lý đầy đủ vô lượng tánh công đức. Như trong Luận Khởi Tín chép: “Lại, chân như tự Thể tướng ấy từ xưa đến nay tánh tự đầy đủ tất cả công đức, đó gọi là nghóa về Tự Thể có ánh sáng trí tuệ rộng lớn, nghóa về soi chiếu khắp cả pháp giới, nghóa về chân thật hiểu biết, nghóa về tự tánh thanh tịnh tâm, nghóa về thường lạc ngã tịnh, nghóa về trong lành tự tại không thay đổi. Đầy đủ như vậy vượt quá hằng sa Phật pháp không xa lìa không dứt trừ không khác nhau không thể nghó bàn cho đến đầy đủ không có nghóa nào bị thiếu đi cho nên gọi là Như-lai-tạng, cũng gọi là Như-lai pháp thân. “Nay kinh này nói Lý tự nhiên đầy đủ, nói chung đầy đủ công đức như vậy. Văn đoạn thứ nhất hoàn tất. Kế là nói về sai lầm của động niệm sanh diệt. trong đó nói chung về không ích lợi mà có tổn hại, như trong Luận kia giải thích mở rộng về nghóa này nói”. Hỏi: Trước nói chân như Thể đó bình đẳng, xa lìa tất cả tướng, vì sao lại nói Thể có các loại công đức như vậy? Đáp: Tuy thật sự có nghóa về các công đức này, mà tướng không có sai khác, cùng một vị như nhau duy nhất chân như. Nghóa này nói gì? Vì không có phân biệt xa lìa tướng phân biệt, vì thế cho nên không có hai. Lại vì sao có thể nói về sai khác? Vì dựa vào tướng sanh diệt của nghiệp thức để chỉ ra. Đây vì sao chỉ ra? Vì tất cả các pháp xưa nay chỉ do tâm thật sự không có tướng niệm, mà có vọng tâm bất giác khởi niệm, thấy các cảnh giới cho nên nói là vô minh, tâm tánh không khởi lên chính là nghóa của ánh sáng trí tuệ rộng lớn. Nếu tâm khởi lên thấy thì có tướng của không thấy, tâm tánh xa lìa thấy tức là nghóa của soi chiếu khắp cả pháp giới. Nếu có tâm dao động thì chẳng phải chân thật hiểu biết, không có tự tánh chẳng phải thường - chẳng phải lạc - chẳng phải ngã - chẳng phải tịnh, cho đến nghóa của đầy đủ vượt quá hằng sa các vọng nhiễm bình đẳng. Đối chiếu với nghóa này cho nên tâm tánh không dao động tức là có nghóa thị hiện về vượt quá hằng sa, bình đẳng các tướng công đức thanh tịnh. Nếu tâm có khởi lên lại thấy pháp trước đây có thể niệm nhớ, tức là có các thiếu kém. Như vậy pháp thanh tịnh pháp công đức vô lượng tức ngay một tâm này lại không có gì niệm nhớ. Thế nên đầy đủ gọi là tạng Pháp thân của Như-lai. “Nay kinh này nói chỉ làm hỗn loạn là vì tâm có dao động chẳng phải chân thật hiểu biết, không có tự tánh, chẳng phải Thường - Lạc - Ngã - Tịnh v.v… cho nên nói là dao động. Vì tâm khởi lên thấy tức là có các tướng của không thấy, cho nên nói là hỗn loạn. Mất đi tâm vương ban đầu là vô lượng công đức ngay nơi một tâm này, một tâm làm chủ nên gọi là tâm vương. Sanh diệt dao động hỗn loạn làm trái tâm vương này không thể nào quay trở về cho nên nói là mất đi. Kinh: “Nhược vô tư lự tức vô sanh diệt, như thật bất khởi, chư thức an tịch lưu chú bất sanh, đắc ngũ pháp tịnh, thị vị Đại thừa”. Nếu không có lo nghó thì không có sanh diệt, như thật sự không khởi lên, các Thức yên ổn vắng lặng nhập vào bất sanh, đạt được năm pháp thanh tịnh đây gọi là Đại thừa. Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba thuận theo lý diệt nhiễm không còn dao động chính là vắng lặng. Trong đó có hai: Chính thức hiển bày - trở lại thành tựu. Đây tức là chính thức hiển bày không còn dao động chỉ có vắng lặng. Nếu không có suy xét ấy là bắt đầu từ Sơ Địa cho đến Phật Địa, dần dần thuận theo một tâm bình đẳng pháp giới, không bao giờ có tất cả suy xét phân biệt. Thì không có sanh diệt: Do suy xét trước đây có tướng sanh diệt, nay không có suy xét không bao giờ có phân biệt, hai thứ sanh diệt cuối cùng xa lìa. Từ đó trở đi thuận theo lý không dao động, cùng tận thời gian vị lai không trở lại còn dao động cho nên nói là như thật sự không khởi lên. Lúc hai thứ sanh diệt rốt ráo chấm dứt, tám chủng Thức dao động đều được trở về vắng lặng yên ổn, sáu nhiễm nhập vào mãi mãi dứt trừ không phát khởi, cho nên nói là các Thức yên ổn vắng lặng nhập vào bất sanh. Nhập vào bất sanh cho nên pháp giới hiển bày trọn vẹn, các Thức yên ổn vắng lặng cho nên bốn trí thành tựu hoàn toàn, vì thế nói là được năm pháp thanh tịnh. Công lao vận tải không gì hơn được nơi này, tổng kết nói đây là Đại thừa. Chính thức nói về không còn dao động thành tựu là vắng lặng đã xong. Kinh: “Bồ-tát! Nhập ngũ pháp tịnh tâm thức vô vọng, nhược vô hữu vọng tức nhập Như-lai tự giác Thánh trí chi địa, nhập trí địa giả thiện tri nhất thiết tùng bổn bất sanh, tri bổn bất sanh tức vô vọng tưởng”. Này Bồ-tát! Nhập vào năm pháp thanh tịnh thì tâm không còn vọng, nếu không có vọng tức là nhập vào địa vị Thánh trí tự giác của Như-lai, nhập vào trí địa là khéo biết tất cả từ lúc đầu bất sanh, biết lúc đầu bất sanh tức là không có vọng tưởng. Luận chép: Đây là tiếp tục hiển bày tức là có ba câu: Thứ nhất chép: “Nhập vào năm pháp thanh tịnh thì tâm không còn vọng” ấy là lúc quay về nguồn tâm thì không có sự không hiểu biết của vọng niệm. Thứ hai nói “Nếu không có vọng tức là nhập vào địa vị Thánh trí tự giác của Như-lai “Ấy là lúc sự không hiểu biết không còn lập tức nhập vào địa vị viên trí của Thỉ giác, là đối với không hiểu biết hiển bày đầy đủ Thỉ giác. Thứ ba chép: “Nhập vào trí địa ấy là khéo biết tất cả từ lúc đầu bất sanh, biết lúc đầu bất sanh tức là không vọng tưởng” ấy là lúc đầy đủ Thỉ giác có thể biết bốn tướng không hiểu biết động niệm xưa nay bất sanh, tức là biết xưa nay không có vọng tưởng, là hiển bày Thỉ giác không khác Bổn giác. Như trong Khởi Tín Luận chép: “Tất cả chúng sanh không gọi là Giác, vì từ xưa đến nay niệm niệm nối tiếp nhau không hề lìa niệm cho nên nói là vô thỉ vô minh. Nếu đạt được vô niệm ấy, tức là biết tâm - tướng sanh trụ dị diệt vì những vô niệm, mà thật sự không có khác nhau với thỉ giác, vì bốn tướng cùng lúc mà có đều không tự lập vì xưa nay bình đẳng một Giác như nhau”. Xét rằng: Trong này nói “Nếu đạt được vô niệm tức là biết tâm - tướng sanh trụ dị diệt” ấy chính là hiển bày rõ “Khéo biết tất cả” trong kinh. “Mà thật sự không có khác nhau với thỉ giác” ấy tức là hiển bày “Khéo biết từ lúc đầu bất sanh” trong kinh. “Vì bốn tướng cùng lúc mà có đều không tự lập, vì xưa nay bình đẳng một Giác như nhau” ấy tức là hiển bày “Biết lúc đầu bất sanh tức là không có vọng tưởng” trong kinh. Dụ về trong mộng vượt sông trong này thuận theo giải thích rộng ra vậy. Kinh: “Giải thoát Bồ-tát nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Vô vọng tưởng giả ứng vô chỉ tức”. Giải thoát Bồ-tát lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Không có vọng tưởng ấy nên không có dừng lại. Luận chép: Dưới đây là lần hỏi - đáp thứ hai nói về không có dừng lại. Ý câu hỏi chép: Vốn không thật có vọng tưởng thì không thật có ý dừng lại. Cái dừng lại (sở chỉ) không có cho nên làm cho dừng lại (năng chỉ) cũng không có. Không có làm cho dừng lại (năng chỉ) cho nên thuận theo không có Thỉ giác. Chất vấn như vậy. Kinh: “Phật ngôn: Bồ-tát! Vọng bổn bất sanh vô vọng khả tức, tri tâm vô tâm vô tâm khả chỉ, vô phân vô biệt hiện thức bất sanh, vô sanh khả chỉ thị tức vô chỉ diệt phi vô chủ. Hà dó cố, chỉ vô chỉ cố”. Đức Phật nói: Này Bồ-tát! Vọng vốn bất sanh không có vọng để chấm dứt, biết tâm không có tâm - không có tâm có thể dừng lại, không có phân biệt không có sai khác hiện tại biết bất sanh, không có sanh khởi để dừng tức là không có dừng cũng chẳng phải không có dừng. Tại vì sao? Vì dừng lại không có dừng lại. Luận chép: Ý trả lời có hai: Trước là thừa nhận không có dừng lại. Sau là ngăn dứt không có dừng lại. Thừa nhận ấy là vì Thỉ giác không khác với Bổn giác. Ngăn dứt ấy là vì Thỉ giác chẳng phải chỉ là bổn giác. Dừng lại (tức) và chấm dứt (chỉ) trong thừa nhận khác nhau thế nào? Vọng khởi lên dao động cho nên có thể dừng lại, tâm rong ruổi phân tán cho nên có thể chấm dứt, mà vốn không có khởi lên - không có rong ruổi cho nên không thể dừng lại, không thể chấm dứt mà thôi. Vô phân ấy là vì không có tướng phân chia đối với cái thấy. Vô biệt ấy là vì không có cái thấy sai khác đối với tướng. Tướng và thấy đã không có phân biệt, thức hiện tại xưa nay bất sanh khởi, quá khứ vị lai bất sanh khởi, kẻ ngu người trí biết điều đó, dựa theo hiện tại nói về vốn bất sanh khởi. Đã không có những dừng lại (sở chỉ) sự sanh khởi của không hiểu biết (bất giác), thì không có khả năng dừng lại (năng chỉ) sai khác của lúc đầu hiểu biết (thỉ giác), căn cứ vào Không hai môn thừa nhận như vậy. Cũng chẳng phải không dừng lại là chẳng phải không có sự hiểu biết lúc đầu (Thỉ giác) không khác nhau. Vì dừng lại không có dừng lại ấy là khả năng dừng lại (năng chỉ) không có vọng tâm sanh khởi, tuy sanh khởi không thật có mà chẳng phải chỉ có bất sanh khởi, chẳng phải chỉ có bất sanh khởi cho nên chẳng thể không có những sự dừng lại (sở chỉ), vì lẽ đó chẳng phải không có hiểu biết về khả năng dừng lại (năng chỉ) trả lời như vậy. Kinh: “Giải thoát Bồ-tát nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Nhược chỉ vô chỉ, chỉ tức thị sanh, hà vị vô sanh?”. Giải thoát Bồ-tát lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu như dừng lại không có dừng lại, thì dừng lại tức là sanh khởi, sao nói là không có sanh khởi? Luận chép: Dưới đây là lần hỏi - đáp thứ ba nói về vô sanh quán. Ý chất vấn: Nếu có hiểu biết về khả năng dừng lại, thì nảy sinh quán về khả năng dừng lại, tuy bỏ đi sự dấy lên của không hiểu biết, mà còn tồn tại sự sanh khởi của hiểu biết ban đầu, sao nói là khả năng chứng được vô sanh quán vậy. Kinh: “Phật ngôn: Bồ-tát! Đương chỉ thị sanh, chỉ dó vô chỉ, diệt bất trụ ư vô chỉ diệt bất trụ ư vô trụ, vân hà thị sanh?”. Đức Phật nói: Này Bồ-tát! Đang dừng lại là sanh khởi, dừng lại rồi không có dừng lại, cũng không an trụ vào không có dừng lại, cũng không an trụ vào không có an trụ, cũng không an trụ vào không có an trụ, thế nào là sanh khởi? Luận chép: Ý trả lời có hai: Trước là cho nhận - sau là lấy đi. Cho ấy là cho phép sanh khởi ở Phương tiện quán, vì sanh khởi tâm năng dừng lại (năng chỉ tâm sanh). Hơn nữa, thời gian của Thế đệ nhất pháp tuy dừng lại Thức sanh khởi không giữ lấy nơi thức, mà tâm năng dừng lại giữ lấy “không có” mà sanh khởi. Lúc đang dừng lại này chính là thừa nhận sự sanh khởi. Vì điều này cho nên nói “Đang dừng lại là sanh khởi”. Vượt qua một niệm này tức là không giữ lấy “không có”, không giữ lấy “không có” cho nên tâm giữ lấy bất sanh khởi. Vì điều này cho nên nói “Dừng lại rồi không dừng lại”. Lúc này xa lìa tất cả phân biệt, không an trụ vào nơi “không có” của không dừng lại (vô chỉ), cũng không giữ lấy tâm tự không có an trụ đó, năng sở vónh viễn đoạn tuyệt, bình đẳng và bình đẳng, thế nào là lúc có thật có sự sanh khởi này? Trả lời như vậy. Kinh: “Giải thoát Bồ-tát như bạch Phật ngôn: Tôn giả! Vô sanh chi tâm hữu hà thủ xả, trụ hà pháp tướng? Phật ngôn: Vô sanh chi tâm bất thủ bất xả, trụ ư bất tâm, trụ ư bất pháp”. Bồ-tát Giải thoát lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tâm không có sanh khởi có gì lấy bỏ, an trụ pháp tướng nào? Đức Phật nói: Tâm không sanh không lấy không bỏ an trụ vào nơi không tâm (bất tâm), an trụ vào không pháp (bất pháp). Luận chép: Đây là lần hỏi - đáp thứ tư bỏ đi cái thấy thêm bớt, nghóa là nhiều người học vẫn còn dấy lên ý niệm này, tâm nhập vào quán giữ lấy lý vô tướng - xả bỏ sự của các tướng. Vì bỏ đi cái thấy tăng thêm này nên nói là “Không lấy, không bỏ”. Hoặc dấy lên niệm này: Lúc nhập vào quán hoàn toàn không có pháp sở trụ, cũng không có tâm năng trụ, như vậy chẳng khác đối với cuối cùng vô vi. Trừ bỏ cái thấy giảm bớt này cho nên nói “Trụ ở không tâm, trụ ở không pháp”. Tuy chẳng phải có an trụ chẳng phải không an trụ, chẳng phải không có an trụ cho nên có thể nói là an trụ. Kinh: “Giải thoát Bồ-tát nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Vân hà trụ ư bất tâm, trụ ư bất pháp? Phật ngôn: Bất sanh ư tâm thị trụ bất tâm, bất sanh ư pháp thị trụ bất pháp”. Giải thoát Bồ-tát lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là an trụ vào không tâm, an trụ vào không pháp? Đức Phật nói: Bất sanh khởi đối với tâm là an trụ vào không tâm, bất sanh khởi đối với pháp là an trụ nơi không pháp. Luận chép: Dưới đây là lần hỏi - đáp thứ năm tiếp tục bỏ đi tình ý nghi ngờ. Lời của tình ý nghi ngờ: Đã nói an trụ tức là tùy theo tâm hay pháp? Nếu không là tâm - pháp thì phải nói là không an trụ, lời nói này rất sâu, làm thế nào tin hiểu được. Nghi ngờ như vậy. Ý trả lời của đức Phật nói: Không giữ lại quán tâm năng chứng - không giữ lại lý pháp sở chứng, cho nên nói bất sanh đối với tâm, bất sanh đối với pháp thì sanh khởi vẫn còn. Đã thường không tồn tại tâm - pháp, không phải hoặc là thất niệm mà tồn tại, cho nên nói là an trụ không tâm, là an trụ không pháp thì an trụ còn thường hằng. Thường hằng không lui sụt cho nên gọi là Trụ, nghóa về Trụ như vậy, càng thuận với không tâm, sao để cho trái ngược lẫn nhau ở trong đó? Chính là trả lời như vậy, về sau tức là hiển bày trở lại. Kinh: “Thiện nam tử! Bất sanh tâm pháp tức vô y chỉ, bất trụ chư hành tâm thường vắng lặng vô hữu dị tướng, thí bỉ hư không vô hữu động trụ, vô khởi vô tác vô bỉ vô thử, đắc không tâm nhãn, đắc pháp không thân, ngũ ấm lục nhập tất giai vắng lặng”. Này người thiện nam! Bất sanh khởi tâm pháp tức là không có dựa vào dừng, không trụ vào các hành thì tâm thường vắng lặng, không có tướng sai khác ví như hư không kia không có dao động an trụ, không có phát khởi không có tạo tác không có đây không có kia, đạt được con mắt không tâm, đạt được thân pháp không, năm ấm sáu nhập thảy đều là không vắng lặng. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai hiển bày lại. Trong đó có hai: Trước là nói lên xa lìa các tướng rộng khắp ba đời, sau là nói lên thuận theo pháp giới tu đủ sáu độ. Ba câu trong phần đầu nói là pháp dụ hợp. Bất sanh tâm pháp: Trích lại câu chính trả lời trước đó. Tức vô y chỉ: Theo chiều ngang không có sự khác nhau giữa năng y và sở y. Không trụ các hành: Theo chiều dọc không có các hành ở đang hiện tại. Không từng đang là cho nên tâm thường vắng lặng. Không có năng sở cho nên không có tướng sai khác. Từ “thí bỉ v.v…” trở xuống là thứ hai dẫn ra Dụ. “Không có dao động an trụ: Giống như bầu hư không thế gian vô vi thường trụ không có dao động của trước mất sau sanh”. Thí như đối với không trụ vào các hành, cũng không có sự an trụ của năng y sở y, so sánh với tức là không có dừng lại dựa vào, không có phát khởi không có tạo tác, tức là đồng với tâm thường thường vắng lặng, không có kia không có đây, không sai khác không có tướng khác nhau, vì thế nêu ra hư không, dụ cho quán Bất sanh. Trong đó hợp lại nói “được với tâm không”: Do bất sanh khởi tâm năng quán cho nên đạt được không có gì không thể quán. Đắc pháp không thân: Vì bất sanh khởi pháp sở quán cho nên đạt được pháp thân bình đẳng. Năm ấm giai không. Vì đạt được con mắt không tâm thông hiểu đối với ba đời cho nên năm ấm là không, hợp cùng hư không không phát khởi tạo tác ở trước. Lục nhập tất không: Vì đạt được thân thể pháp không, khắp nơi trong ngoài sáu nhập là không, hợp cùng hư không ở trước, không kia đây. Kinh: “Thiện nam tử! Tu không pháp giả, bất y ba cõi, bất trụ giới tướng, thanh tịnh vô niệm, vô nhiếp vô phóng, tánh đẳng kim cương, bất hoại tam bảo, không tâm bất động cụ lục ba-la-mật”. Này người thiện nam! Người tu pháp không, chẳng dựa vào ba cõi, không trụ vào giới tướng, thanh tịnh vô niệm, không gom lại không phát ra, tánh sánh bằng Kim Cương, không làm hỏng Tam Bảo, không tâm bất động đầy đủ sáu Ba-la-mật. Luận chép: Là phần thứ hai biểu hiện tu đủ sáu độ. Tu pháp không là: Nhắc lại tâm vắng lặng ở trước. Ở dưới hiển bày riêng đầy đủ sáu độ. Không dựa vào ba cõi cho nên đầy đủ Thí Độ, không trụ vào giới tướng cho nên đầy đủ Giới Độ, thanh tịnh vô niệm cho nên đầy đủ Nhẫn Độ, không gom lại không buông ra cho nên đầy đủ Tinh tiến, tánh sánh bằng Kim Cương cho nên đầy đủ Thiền định, không làm hoại Tam bảo, cho nên đầy đủ Bát-nhã. Tại vì sao? Vì chỉ một tâm quán xét soi chiếu cùng khắp đáng theo, bặt dứt các sự tranh luận cho nên đầy đủ Tam bảo. Nghóa Tam bảo thành tựu cho nên nói là Bất hoại. Chỉ một không có hành động tạo tác khác nhau mà đầy đủ sáu độ, cho nên nói không tâm bất động đầy đủ sáu Ba-la-mật. Kinh: “Giải thoát Bồ-tát nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Lục Ba-la- mật giả giai thị hữu tướng, hữu tướng chi pháp năng xuất thế da? Phật ngôn: Thiện nam tử! Ngã sở nói lục Ba-la-mật giả vô tướng vô vi”. Giải thoát Bồ-tát lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Sáu Ba-la-mật, đều là tướng có, pháp của tướng có, có thể xuất thế chăng? Đức Phật nói Này người thiện nam! Sáu Ba-la-mật ta đã nói ấy là vô tướng vô vi. Luận chép: Dưới đây là lần hỏi - đáp thứ sáu hiển bày lại nghóa xuất thế của sáu độ. Người hỏi thừa dịp nghi ngờ mà làm lý do quyết định, nêu ra sự tướng sáu độ thế gian vì nghi ngờ trong tâm xuất thế đầy đủ sáu độ. Trong trả lời có hai: Một là nêu ra sơ lược, hai là giải thích rộng. Đây chính là nêu ra sơ lược. Nói vô tướng ấy là lìa bỏ tướng ba luân: Thí - Thọ v.v… Nói vô vi là lìa bỏ các tướng sanh diệt hữu vi trong ba cõi. Trước ta đã nói một tâm đầy đủ sáu độ là mỗi pháp đều là vô tướng vô vi. Sáu độ này là pháp xuất thế gian, không giống như thế gian hữu tướng hữu vi. Kinh: “Hà dó cố? Thiện nhập ly dục, tâm thường thanh tịnh, thật ngữ phương tiện bổn lợi, lợi nhân thị đàn Ba-la-mật”. Vì sao? Khéo nhập vào xa lìA-dục, tâm thường thanh tịnh, lời nói chân thật phương tiện vốn có lợi ích, lợi ích cho người là Đàn Ba-la-mật. Luận chép: Dưới đây là giải thích rộng ra. Trong đó có hai: Trước là giải thích riêng. Sau là nói chung. Vì sao: Căn cứ câu hỏi phát khởi, đã có sáu số, tại vì sao là vô tướng? Chuyển sang dựa vào chân như gọi là lìa dục, lìa bỏ dục của ba hữu đã nói rõ. Quán tâm chính là hiểu rõ cho nên nói là khéo nhập. Lại không có vào ra nên nói là tâm thường. Xa lìa cấu bẩn của ba luân cho nên nói là thanh tịnh, tức là ở trên nói không dựa vào ba cõi. Như lý mà nói ra cho nên nói là thật ngữ. Khéo léo thuận tiện dẫn dắt cho nên nói là phương tiện. Tuy không có công dụng mà ứng cơ phát ra lời nói giống như trống cõi trời, là nói đến điều này vậy. Tất cả chúng sanh chỉ một bổn giác, khiến cho các chúng sanh cùng quay về Nhất giác. Vì thế cho nên nói lợi ích mình lợi người, đây gọi là Đàn Ba-la-mật của xuất thế. Kinh: “Chí niệm cứng chắc, tâm thường vô trụ, thanh tịnh vô nhiễm, bất trước ba cõi, thị thi Ba-la-mật”. Nhớ nghó chí niệm bền chắc, tâm thường vô trụ, thanh tịnh không nhiễm, không vướng mắc ba cõi, là Thi Ba-la-mật. Luận chép: Thương nghó đến chúng sanh như con một của mình, nên nói là chí niệm vững chắc. Thường ở tại thế gian không trụ vào Niết-bàn, cho nên nói là Tâm thường không an trụ. Đây là phòng ngừa sai lầm của hàng nhị thừa. Quán tâm rõ ràng thấu suốt, không xen lẫn các lậu, cho nên nói là thanh tịnh không nhiễm. Trải qua khắp nơi sáu đường thấu suốt đều là vắng lặng, cho nên nói là không mê đắm ba cõi. Đây là ngăn ngại nghiệp ác của phàm phu, là nói về không trụ vào giới tướng phàm Thánh, chính là ở trên nói không trụ giới tướng, đây gọi là Thi Ba-la-mật của xuất thế. Kinh: “Tu không đoạn kết bất y chư hữu, vắng lặng tam nghiệp bất trụ thân tâm, thị Sằn đề Ba-la-mật”. Tu không dứt trừ kiết, không nương vào các Hữu, ba nghiệp vắng lặng, không trụ vào thân tâm, là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Luận chép: Hai câu trước là an trụ lý Không - xa lìa kết hoặc Hữu, hai câu sau là ba nghiệp vắng lặng hết cả thân tâm, đều là nghóa của vô sanh pháp nhẫn, tức là ở trước nói Thanh tịnh vô niệm. Kinh: “Viễn ly danh số, đoạn không hữu kiến, thâm nhập ấm không, thị Tỳ-lê-da Ba-la-mật”. Xa lìa các danh số, dứt trừ cái thấy Không - Hữu, đi sâu vào ấm không, là Tinh tấn (Tỳ-lê-da) Ba-la-mật. Luận chép: Hai câu trên là lìa bỏ, thô tinh nhập vào Không là nghóa Tiến, tức là ở trước nói không gom lại, không phát ra, đây là tinh tiến độ của xuất thế. Kinh: “Cụ ly vắng lặng, bất trụ chư không, tâm xứ vô tại đại không, thị thiền Ba-la-mật”. Xa lìa vắng lặng, không trụ vào các không, chỗ tâm - chẳng ở Đại Không, là Thiền Ba-la-mật. Luận chép: Xa lìa vắng lặng là vì ứng hóa thọ sanh khắp nơi ba cõi. Bất trụ chư không ấy là vì không đình trệ vào năm không mà thường hóa hiện khắp mười phương. Đây là nói về Thiền giáo hóa chúng sanh. Chỗ tâm là vô: Tuy thân trải qua ba cõi mà tâm thường trụ ở lý không có (lý vô). Lý vô ấy là lý bặt dứt tướng của ba cõi (tam hữu). Tại Đại Không: Tuy thường hóa hiện ở mười phương mà tâm ở Đại Không. Đại Không ấy là tướng rộng lớn của hư không khắp mười phương. Đây là biểu hiện sự thành tựu của Thiền Phật pháp, thân tuy phát khởi tạo tác mà tâm vắng lặng không dao động, chính là ở trước nói Tánh bằng Kim cương. Nhưng nghóa về Đại Không đại khái có năm thứ: Một là người - không hai là pháp Không gọi là Đại Không, như kinh Tạp A-hàm Đại Không nói, trong Luận Du-già cũng nói giống như vậy. Hai là Bát-nhã Ba-la-mật Không gọi là đại Không, như kinh Đại Niết-bàn nói, trong kinh Lăng Già cũng nói đồng như vậy. Ba là khí thế giới chẳng gọi là Đại Không, như kinh Giải Thâm Mật nói, trong Luận Trung Biên cũng nói giống như vậy. Bốn là thức A-lê-da không gọi là Đại Không, như trong Luận mười Địa chép: Năm là Thập phương tướng không gọi là Đại Không, như trong Luận Trí Độ nói. Nay văn kinh này nằm ở thứ năm, tạm thời tùy theo ý thuận tiện thật hiện nói như vậy mà thôi. Kinh: “Tâm vô tâm tướng, bất thủ hư không, chư hành bất sanh, bất chứng vắng lặng, tâm vô xuất nhập tánh thường bình đẳng, chư pháp thật tế giai quyết định tánh, bất y chư địa bất trụ trí tuệ, thị Bát-nhã Ba- la-mật”. Tâm không có tâm tướng, không giữ lấy hư không, các hành bất sanh khởi, không chứng đắc vắng lặng, tâm không có ra vào tánh thường bình đẳng, thật tế của các pháp đều là tánh quyết định, không nương vào các Địa - không trụ vào trí tuệ, là Bát-nhã Ba-la-mật. Luận chép: Tâm không có tâm tướng: Vì không giữ lại tướng từ trong quán tâm, chẳng giữ lấy hư không: vì không giữ lấy tánh Không của tâm giả tạo (tâm hư). Đây là tuệ của chứng đạo các hành bất sanh: Vì thấu suốt tất cả các hành xưa nay bất sanh. Không chứng vắng lặng: Vì không mê đắm vô sanh mà thường hóa hiện bên ngoài. Đây là tuệ của giáo đạo. Tâm không xuất nhập tánh thường bình đẳng: Hai đạo trước thường không thể xa lìa nhau, dao động mà thường vắng lặng. Vắng lặng mà luôn dao động, cho nên nói là không có xuất nhập. Dao động vắng lặng thường thường song song không đình trệ một phía, cho nên Tánh thường bình đẳng. Thật tế các pháp đều là tánh quyết định: Giảng nói tướng thường vắng lặng của chứng đạo, cho nên giống như chân tế sánh với pháp tánh. Không nương các địa không trụ ở trí tuệ: Vì không nương tựa mê đắm vào mười tầng pháp giới, không chấp đắm đình trệ vào tuệ vắng lặng soi chiếu nên thường dao động giảng nói về giáo đạo. Trong này chính là đầy đủ Giác Chiếu, đáng nói theo. Nghóa của bặt dứt tranh luận, chính là ở trước nói Bất hoại Tam Bảo, đây gọi là Bát-nhã Ba-la-mật của xuất thế. Trên đây là văn giải thích về sáu độ xong. Kinh: “Thiện nam tử! Thị lục Ba-la-mật giả, giai hoạch bổn lợi, nhập quyết định tánh, siêu nhiên xuất thế, vô ngại giải thoát”. Này người thiện nam! Đây là sáu Ba-la-mật đều được lợi ích vốn có, nhập vào tánh quyết định, xuất thế vượt ra ngoài, giải thoát không chướng ngại. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai nói chung. Trong đó có hai: Trước là nói về sáu độ giải thoát y như nhau, sau là nói rõ giải thoát tức là Niết-bàn. Trong phần đầu chép: “Đều được lợi mình nhập tánh quyết định” ấy là sáu độ lúc bắt đầu tu đều chung Bổn Giác, do đó Bổn Giác hiển bày rõ thành tựu lợi hành vốn có, cho nên nhập vào tánh Như-lai-tạng vốn vắng lặng thanh tịnh không có bắt đầu không có kết thúc không có thay đổi. Như vậy sáu độ đạt được lợi ích vốn có cho nên xa lìa tướng trôi lăn của vọng niệm, do đó nói là xuất thế vượt ra nhập vào pháp tánh. Rộng khắp pháp giới vô tướng vô vi, không trói, không thoát, nên nói là vô ngại giải thoát. Kinh: “Thiện nam tử! Như thị giải thoát pháp tướng giai vô tướng hành, diệu vô giải bất giải, thị danh giải thoát. Hà dó cố? Giải thích chi tướng vô tướng vô hành, vô động vô loạn tịch tịnh Niết-bàn, diệt bất thủ Niết-bàn tướng”. Này người thiện nam! Pháp tướng giải thoát như vậy đều không có tướng hành, cũng chẳng có cởi bỏ nào không thể cởi bỏ, đây gọi là giải thoát. Tại vì sao? Vì tướng của giải thoát không có tướng không có hành, không có động không có loạn thanh tịnh vắng lặng Niết-bàn cũng không giữ lấy tướng Niết-bàn. Luận chép: Đây là phần thứ hai nói về giải thoát tức là Niết- bàn. Trong đó có hai: Trước là nói về giải thoát, sau chính là Niết-bàn. Trong phần đầu chép: “Đều không có tướng hành” ấy là hành của sáu độ đều cùng chung Bổn Giác, tướng của Bổn Giác lìa tướng lìa tánh, cho nên nói là vô tướng. Hành của sáu độ lìa tu lìa hành, cho nên nói là vô tướng. Hành tướng đều bặt dứt cho nên nói đều không có tướng hành. Pháp tướng giải thoát đã như vậy, có gì khởi bỏ xa lìa ràng buộc, có gì ràng buộc không thể cởi mở. Cho nên nói cũng không có cởi bỏ nào không thể cởi bỏ. Vì sao? Vì sao hành của sáu độ mà nói là Vô tướng hành vậy? Trả lời ý này nói là sáu độ như vậy không những chính là giải thoát, mà cũng chính là Niết-bàn, thế nên nói là vô tướng hành. Tướng giải thoát là không chẳng có hành tướng vô hành: Trích lại giải thoát ở trước. Không động, không loạn vắng lặng Niết-bàn: Nói chính là Niết- bàn, muốn nói như trước đã nói về hành của sáu độ đều không có phát khởi chuyển động cũng không có phân tản hỗn loạn chính là xưa nay vắng lặng Niết-bàn. Đã chính là Niết-bàn, làm sao có tướng hành? Lìa bỏ tướng dao động hỗn loạn cho nên nói là Vắng lặng. Cũng xa lìa tánh vắng lặng cho nên cũng không giữ lấy tướng Niết-bàn. Sáu độ trong này là giải thoát Niết-bàn, bắt đầu từ sơ Địa cho đến Phật Địa. Nói là Niết-bàn chính là thanh tịnh xưa nay Niết-bàn trong bốn loại Niết-bàn, chính là giải thoát không thể nghó bàn. Dựa vào nghóa của tự tánh vô chướng ngại đó, cho nên gọi là vô ngại giải thoát. Hỏi: Nghóa giải thoát có rất nhiều, có giải thoát trong hai đạo, có giải thoát trong Tam điểm, có giải thoát trong Ngũ phần Pháp thân, giải thoát trong mười môn giải thoát, trong các môn này là ở môn nào? Giải thoát trong ba việc này, giải thoát chính là Niết-bàn, muốn hiển bày hành của sáu độ - đức của ba việc hạn định thật sự mà nói, Sơ Địa đã đạt được cho đến địa vị Diệu Giác cuối cùng viên mãn, như trong kinh chép: “Nếu có Bồ-tát an trụ Đại Niết-bàn có thể xây dựng nghóa rộng lớn, cho đến nói rộng”. Kinh: “Giải thoát Bồ-tát văn thị ngữ dó, tâm đại hân dịch đắc vị tằng hữu, dục tuyên nghóa ý nhi nói kệ ngôn: Đại giác mãn túc tôn, vị chúng phô diễn pháp, giai nói ư nhất thừa, vô hữu nhị thừa đạo, nhất vị vô tướng lợi, do như đại hư không, vô hữu bất dung thọ, tùy kỳ tánh các di, giai đắc ư bổn xứ”. Bồ-tát Giải thoát nghe lời này rồi, tâm rất vui thích đạt được điều không hề có, muốn nói ra nghóa ý mà nói kệ: “Đấng Đại Giác mãn túc tôn, vì mọi người giảng nói pháp, đều nói hướng về nhất thừa, không có con đường nhị thừa, một vì lợi ích vô tướng, giống như hư không rộng lớn, chẳng có gì không dung nạp, tùy tánh đó đều khác nhau, đều đạt được chỗ mình”. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai trùng tụng, trong đó ở trước là lời tựa khơi mở của người kết tập kinh điển. Trong phần chánh Tụng có bảy hàng tụng, trong đó có hai: sáu hàng trước là tụng riêng, một hàng sau là tụng chung. Trong phần trước cũng có hai: Một là hai hàng một câu tụng về nêu sơ lược ra trước đó, hai là ba hàng ba câu tụng về giải thích rộng ra ở sau. Trong phần nêu sơ lược ra chép: Trí địa của chư Phật nhập vào tướng thật pháp và tánh quyết định, phương tiện thần thông đều là lợi ích vô tướng. Nay trong tụng này một tụng đều là khen ngợi. Lại chép: Nhất giác liễu nghóa khó hiểu khó hội nhập, cho đến có thể độ chúng sanh đều nói về một vị. Nay trong tụng này dùng ba nghóa khen ngợi, đó là một câu trước là khen ngợi về pháp nói ra, hai câu kế là khen ngợi về thí dụ dẫn ra, hai câu sau là khen ngợi về thí dụ kết hợp. Kinh: “Như bỉ ly tâm ngã, nhất pháp chi sở thành, chư hữu đồng dị hành, giai hoạch ư bổn lợi, diệt tuyệt nhị tướng kiến”. Như xa lìa tâm ngã kia, là vốn thành tựu một pháp, các cõi thật hành đều khác, đều được lợi ích vốn có, dứt sạch cái thấy hai tướng. Luận chép: Dưới đây là văn tụng về giải thích rộng ra. Trong đó có hai: Năm câu trước tụng về mở rộng quán vô tướng, hai hàng rưỡi sau tụng về mở rộng nghóa Nhất giác. Trong phần mở rộng vô tướng chính là mở rộng tiếp tục hiển bày. Nay hai câu đầu tụng về văn chính là mở rộng. Trong phần chính là mở rộng trước đó cũng có hai phần: Trước là quán phương tiện, sau là nói về chánh quán. Nay trong bài tụng này là tụng về văn chánh quán. Nơi kia nói là khiến cho chúng sanh kia đều xa lìa tâm - ngã, cho đến nói rộng ra xa lìa năng sở. Nay hai câu này chính thức tụng về văn này. Nói là Nhất pháp: xa lìa hai bên có - không, chỉ một Trung đạo quán, vì quán này có thể xa lìa cái chấp về tân - ngã. Trong văn hiển bày lại có bốn lần hỏi - đáp, nay hai câu này tụng về hai lần hỏi - đáp ở trước. Nói là các cõi thật hành cùng, khác ấy, trong lần trả lời đầu tiên kia chép: Tất cả tâm tướng xưa nay không có cội gốc. Các văn như vậy tức là cùng thật hành quán tướng chung. Trong lần trả lời thứ hai chép: Nếu có ngã ấy thì khiến cho dứt trừ chấp có, nếu không có Ngã thì khiến cho dứt trừ chấp không. Nếu tâm phát sanh thì khiến cho dứt trừ tánh diệt, nếu tâm diệt thì khiến cho dứt trừ tánh sanh. Các văn như vậy chính là thật hành riêng quán biệt tướng. Thật hành cùng, khác này đã hội nhập vô dị, cho nên nói đều được lợi ích vốn có, như cuối cùng trước đó nói, dứt trừ tánh thấy này tức là hội nhập thật tế. Lại, tụng này nói Diệt sạch cái thấy hai tướng ấy là tụng về hai lần hỏi đáp sau. Trong lần trả lời thứ ba nơi kia chép: Lúc thấy pháp sanh khởi thì khiến cho dứt trừ cái chấp không có, lúc thấy pháp diệt đi thì nên nói dứt trừ hai chấp. Lần trả lời thứ tư chép: Sanh diệt đều dứt trừ, vốn sanh bất sanh khởi, tâm thường vắng lặng, vắng lặng vô trụ. Nay chính là tụng về điều này cho nên nói dứt bặt hai tướng. Kinh: “Vắng lặng chi Niết-bàn, diệt bất trụ thủ chứng, nhập ư quyết định xứ, vô tướng vô hữu hành”. Niết-bàn vắng lặng, cũng không trụ vào thủ chứng, hội nhập vào nơi quyết định, không có tướng không có hành. Luận chép: Dưới đây là hai hàng rưỡi tụng về mở rộng Nhất giác, trong phần mở rộng Nhất giác chính là mở rộng hiển bày là. Nay trong tụng này chỉ tụng về hiển bày lại. Trong văn tiếp tục hiển bày, có sáu lần hỏi - đáp. Trong này có hai: Một hàng trước tụng về lần trả lời thứ sáu, một hàng rưỡi kế là tụng về lần trả lời thứ năm. Bốn lần hỏi đáp trước lược qua nhóm khôngng. Trong lần trả lời thứ sáu chép: Nhập vào tánh quyết định, xuất thế vượt ra khỏi, giải thoát không chướng ngại, tướng giải thoát chẳng có tướng, không có hành, không động, không loạn, vắng lặng Niết-bàn cũng không chấp lấy tướng Niết-bàn. Nay trong bài tụng này tụng theo thứ tự ngược lại. Kinh: “Không tâm vắng lặng địa, tâm vắng lặng vô sanh, đồng Bỉ kim cương tánh, bất hoại ư Tam bảo, cụ lục Ba-la-mật, độ chư nhất thiết sanh”. Địa vị Không tâm vắng lặng, tâm vắng lặng bất sanh khởi, giống như tánh Kim cương kia, không hủy hoại nơi Tam bảo, đầy đủ sáu Ba-la-mật, độ tất cả các chúng sanh. Luận chép: Đây là tụng về lần trả lời thứ năm. Văn kia chép: Bất sanh khởi tâm - pháp tức là không nương vào dừng, không trụ vào các hành, tâm thường vắng lặng, chẳng có tướng sai khác, cho đến tánh sánh bằng Kim cương, không hủy hoại Tam bảo, tâm vắng lặng không dao động, đầy đủ sáu Ba-la-mật. Nay trong này tụng thuận theo thứ tự. Kinh: “Siêu nhiên xuất ba cõi, giai bất dó tiểu thừa, nhất vị cho pháp ấn, nhất thừa chi sở thành”. Vượt hẳn ra ngoài ba cõi, đều không dùng Tiểu thừa, pháp ấn của một ý vị, đã thành tựu nên Nhất thừa. Luận chép: Một tụng này chung tụng về Đại ý của một phẩm từ trước đến nay, hiểu rõ hết đại ý của văn như trước đã nói. Kinh: “Nhó thời đại chúng văn nói thị nghóa, tâm đại hân dịch đắc ly tâm ngã nhập không vô tướng, khôi khoách khoáng đãng, giai đắc quyết định đoạn kết tận lậu”. Lúc bấy giờ đại chúng nghe nói nghóa này, tâm rất vui thích được xa lìa tâm - ngã nhập vào Không - Vô tướng, rộng lớn khoáng đãng, đều được quyết định dứt trừ kiết hoặc - không còn các lậu. Luận chép: Nội dung của một phẩm có trong ba phần: Hai phần trước từ đầu đến cuối nằm ở trước. Đây là toàn văn lúc chúng được lợi ích phần thứ ba. Đắc ly tâm - ngã: Là chứng được hai Không chân như. Dứt kết tận lậu là dứt trừ hai hoặc về kiến - tu. Muốn nói lên được nhập vào Sơ Địa thấy đạo chính là dứt trừ kiến hoặc bao gồm dứt trừ tu hoặc. Nghóa giống như trong Luận Di-lặc Sở Vấn giải thích, trong đó chính là toàn bộ ở tại chương nói về hai chướng.  KINH TAM MUỘI KIM CƯƠNG LUẬN <卷>QUYỂN TRUNG Phẩm Thứ 3: VÔ SANH HÀNH Luận chép: Lúc Bồ-tát quán hành thành tựu, biết tự quán tâm thuận theo lý tu hành, chẳng có sanh tâm, chẳng phải không sanh tâm, cũng chẳng có hành, cũng chẳng phải không có hành, chỉ vì lìa bỏ các bên tăng thêm cho nên giả nói là không sanh không đối với có sanh mà sanh tâm, không ở nơi không có sanh mà sanh tâm, vì xa lìa các bên giảm bớt, cũng giả nói là hành. Tuy chẳng phải có hành của hữu hành, mà chẳng phải không có hành của vô hành, thế nên đặt ra tên gọi là phẩm Vô Sanh Hành. Kinh: “Nhó thời Tâm Vương Bồ-tát văn Phật nói pháp xuất ba cõi ngoại bất khả tư nghị, tùng tòa nhi khởi xoa thủ hiệp chưởng dó kệ vấn viết”. Lúc bấy giờ Tâm Vương Bồ-tát nghe Phật nói về pháp vượt khỏi ba cõi không thể nghó bàn, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi vòng chắp tay dùng kệ thưa hỏi. Luận chép: Hiển bày riêng trong quán hành có sáu phần, thứ nhất là xả bỏ tướng các cảnh hiển bày vô tướng quán đã xong ở trước. Dưới đây là phần thứ hai mất đi tâm sanh khởi đó nói về Vô sanh hành. Ngay trong văn có ba: Một chính là nói, hai là khen ngợi, phần thứ ba đó nói về nghe nói đạt được lợi ích. Trong phần một chánh nói có bốn phần của nó: Một là hướng đến hỏi - đáp lại. Hai là lại nêu lên hỏi - đáp. Ba là Bồ-tát lónh ngộ hiểu rõ. Bốn là Như-lai nói về thành tựu. Trong phần một có sáu: 1.Hỏi. 2.Đáp. 3.Vấn nạn. 4.Từ chối. 5.Thỉnh cầu. 6.Giải thích. Trong phần một có hai: Trước là lời tựa của người kết tập kinh. Bồ-tát Tâm Vương thuận theo Thể mà lập thành tên gọi, nhưng nghóa của Tâm Vương sơ lược có hai thứ: Một là tâm của tám thức cai quản các tâm sở nên gọi là Tâm Vương. Hai là pháp của một tâm cai quản toàn bộ nhiều đức cho nên gọi là Tâm Vương. Nay Bồ-tát này nhập vào vô sanh hành chứng đạt một Tâm Vương, từ thể đã chứng dùng lập thành tên gọi. Nay trong phẩm này nói về vô sanh hành, cho nên Bồ- tát Tâm Vương khởi sự thưa hỏi về pháp thoát ra ba cõi không thể nghó bàn, là nêu ra pháp đã nghe để làm căn bản cho sự khởi sự thưa hỏi. Pháp đã nghe đó nghóa là phẩm trước giới thiệu, nay lại nêu ra sau để thâu nhiếp điều trước đó, nghóa là cuối cùng tụng chép: Vượt thoát ba cõi cho đến đã thành tựu nên. Kinh: “Như-lai sở nói nghóa, xuất thế vô hữu tướng, khả hữu nhất thiết sanh, giai đắc tận hữu lậu, đoạn kết không tâm ngã, thị tức vô hữu sanh, vân hà vô hữu sanh, nhi hữu vô sanh nhẫn”. Nghóa mà Như-lai nói xuất thế chẳng có tướng Có, có thể có tất cả sanh, đều được tận cùng hữu lậu, dứt hẳn tâm - ngã là không, đây chính là không có sanh, vì sao không có sanh, mà lại có vô sanh nhẫn? Luận chép: Hai tụng này là từ ngữ thưa hỏi, trong đó tụng đầu là lãnh ngộ điều đã nói trước đây, nửa bài tụng trên lãnh ngộ pháp ấn về một vị trước đó, nửa bài tụng sau là lãnh ngộ sự thành tựu về nhất thừa tiếp đó, một tụng sau chính là khởi sự thưa hỏi, trong đó nửa tụng trước là nhắc lại nghóa Vô sanh, nửa tụng sau hỏi về vô sanh nhẫn, đã không có sanh, thì phải không có tâm nhẫn. Kinh: “Nhó thời Phật cáo Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Thiện nam tử! Vô sanh pháp nhẫn, pháp bổn vô sanh, chư hành vô sanh, phi vô sanh hành, đắc vô sanh nhẫn tức vị luống dối”. Lúc bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Tâm Vương: Này người thiện nam! Vô sanh pháp nhẫn, pháp vốn sanh khởi, các hành vô sanh, chẳng phải vô sanh hành đạt được Vô sanh nhẫn tức là luống dối. Luận chép: Đây là phần thứ hai là trả lời. Ý trả lời có hai: Trước chỉ ra tướng vô sanh nhẫn, sau là nói rõ sai lầm về có đạt được. Vô sanh pháp nhẫn: Thông hiểu pháp vốn vô sanh, vậy thì Định Tuệ các hành cũng vô sanh, chẳng phải đối với vô sanh mà có khả năng hành nhẫn. Do đó nói chẳng phải sanh hành. Trong đó có đạt được hành của khả năng nhẫn thì trái với chân thật nhẫn không có trụ không có hành (vô trụ vô hành), cho nên nói tức là luống dối. Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Tôn giả! Đắc vô sanh nhẫn tức vi luống dối, vô đắc vô nhẫn ưng phi luống dối”. Tâm Vương Bồ-tát chép: Bạch Đức Thế Tôn! Đạt được vô sanh nhẫn tức là luống dối, không đạt được vô sanh nhẫn, lẽ ra chẳng phải luống dối. Luận chép: Đây là phần thứ ba vấn nạn Ý vấn nạn mà chép: Nếu cho rằng có đạt được có nhẫn là luống dối, thì nghóa là không đạt được vô sanh nhẫn thì lẽ ra chẳng phải luống dối, vì ngược lại với luống dối. Những người học Đại thừa vô sở đắc, chấp như vậy, tự cho là chẳng phải luống dối, vì hiển bày cái vọng kia cho nên vấn nạn như đây. Kinh: “Phật ngôn: Bất! Hà dó cố? Vô đắc vô nhẫn thị tắc hữu đắc, hữu đắc hữu trụ thị tắc hữu sanh, hữu sanh ư đắc, hữu sở đắc pháp tịnh vi luống dối”. Đức Phật nói: Không phải! Tại vì sao? Không đạt được vô sanh nhẫn tức là có đạt được, có đạt được có an trụ tức là có sanh khởi đối với đạt được, có pháp đã đạt được hoàn toàn đều luống dối. Luận chép: Đây là phần thứ tư từ chối. Trong đó có hai: Không phải ấy là thẳng thắn từ chối. Từ “Tại vì sao? v.v…” trở xuống là phần thứ hai giải thích về từ chối. Ý từ chối mà chép: Nếu ý kia cho rằng không đạt được vô sanh nhẫn thì tuy không thật có cái có của có đắc - có nhẫn mà còn đạt được cái không của không đắc - vô sanh nhẫn đó. Đã đạt được đối với cái không có thì tâm trụ vào nơi không có, tâm đã có trụ vào tức là có sanh khởi, nghóa là có tâm sanh khởi đối với có cái đã đạt được, cũng trái với vô sanh không có đạt được, vì thế cho nên nói rằng hoàn toàn là luống dối. Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Tôn giả! Vân hà vô nhẫn vô sanh tâm nhi phi luống dối?”. Tâm Vương Bồ-tát chép: Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao tâm vô sanh nhẫn - bất sanh khởi mà lại chẳng phải luống dối? Luận chép: Đây là phần thứ năm thỉnh cầu. Truy tìm vấn nạn đến cùng lộ trình mà ý không có thể đến được, vì thế cần phải ngước lên thưa hỏi thỉnh cầu mong được hướng dẫn cho. Kinh: “Phật ngôn: Vô nhẫn vô sanh tâm giả, tâm vô hình đoạn, do như hỏa tánh, tuy xử mộc trung kỳ tại vô sở quyết định tánh cố, đản danh đản tự, tánh bất khả đắc, dục thuyên kỳ lý, giả nói vi danh, danh bất khả đắc, tâm tướng diệt nhó, bất kiến nơi chốn, tri tâm như thị tắc vô sanh tâm”. Đức Phật nói: Tâm vô nhẫn vô sanh ấy là tâm không có hình hài dài ngắn, giống như tánh lửa, tuy ở trong gỗ mà nó thuộc về tánh không có gì quyết định, chỉ là danh từ chỉ là tên gọi, tánh không thật có, muốn giải thích về lý đó, mượn làm tên gọi, tên gọi không thật có, tướng của tâm cũng như vậy, không thấy nơi chốn biết tâm như vậy thì vô sanh. Luận chép: Dưới đây là phần thứ sáu giải thích. Trong đó có bốn: Trước khai bày đạo lý vô đắc. Kế đến chỉ ra đạo lý vô sanh. Ba là nêu lên không phải. Bốn là trình bày chính là. Trong phần đầu có ba, đó là Pháp - Dụ và Họp. Đầu tiên nói về tâm vô nhẫn vô sanh ấy là nhắc lại tâm của pháp nhẫn đang hiện tại. Nói rằng tâm vô hình đoạn ấy là nói rõ tâm không thật có. Hình là nói về Thể, Đoạn là nói về Phần, chính là trong các duyên cầu tìm Thể Phần của tâm, hoặc chính là - hoặc xa lìa đều không có gì đạt được. Do lý này cho nên không có hình hài dài ngắn. Không phải ấy gọi là tướng hình đoạn của vô sắc. Trong dụ về tánh lửa tuy ở trong gỗ là dụ cho tâm nhẫn, tuy ở trong lý mà nó thuộc về không có gì (Vô sở), ngay trong gỗ này có nhiều cực vi, trong đó hoàn toàn không có tánh lửa. Như vậy trong lý có hằng sa pháp môn, ở trong đó tìm tâm không bao giờ có ở đó, như vậy tánh lửa không có lý ở đó, có Phật - không có Phật thì pháp tánh thường như vậy, cho nên nói là tánh Quyết định. Từ “Hỏa tánh danh v.v…” về sau là nghóa không thật có. Như vậy tánh lửa tuy không thật có mà trong gỗ đó không phải không có tánh lửa. Muốn giải thích lý này nói về tên gọi tánh lửa, mở rộng phân tích tên gọi này chỉ có các chữ, chuyển sang cầu tìm các chữ đều không thật có. Danh tướng của tâm nhẫn nên biết cũng như vậy, cho nên kế là hợp lại mà chép: Tướng của tâm cũng như vậy. Bồ-tát đạt được nhẫn biết tâm như vậy, làm sao có thể ở trong đó thường giữ lấy tâm sanh? Căn cứ điều này cho nên chép: Không có tâm sanh. Kinh: “Thiện nam tử! Thị tâm tánh tướng hựu như A-ma-lặc-quả bổn bất tự sanh, bất tùng tha sanh, bất cọng sanh, bất nhân sanh, vô sanh. Hà dó cố? Duyên đại tạ cố duyên khởi phi sanh, duyên tạ phi diệt, ẩn hiển vô tướng, căn lý vắng lặng, tại vô hữu xứ bất kiến sở trụ, quyết định tánh cố”. Này người thiện nam! Tánh tướng của tâm này lại như quả A-ma-lặc, vốn không tự sanh ra, không từ nơi khác sanh ra, không cùng chung sanh ra, không nhân tố sanh ra, không có sanh ra. Tại vì sao? Vì duyên thay thế tàn tạ cho nên duyên phát khởi chẳng phải sanh, duyên rơi rụng chẳng phải diệt, ẩn kín hiển bày không có tướng, gốc rễ lý vắng lặng, tồn tại mà không có nơi chốn, không thấy nơi an trụ, vì tánh quyết định. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai nói về lý vô sanh. Trong đó có hai: Trước là dụ - sau là hợp. Trong dụ có hai: Trước nói về bốn bất, sau nói về tám bất. Nói về bốn không là vì đối đãi duyên nên không tự sanh, tự gieo hạt nên không từ nơi khác sanh; không tạo tác cho nên chẳng cùng chung sanh, có tác dụng cho nên chẳng thể không có sanh. Lại, lúc chưa sanh không có tự nhiên cho nên không từ tự sanh. Khi đã sanh, đã có nên không cần tự đã không thành tựu, chờ đợi ai có người khác? Tự - tha đã không có, sao có thể có cùng sanh? Có nhân tố mà sanh, đã không thật có, huống chi có không nhân tố mà sanh ư? Như vậy cầu mong sanh khởi đều không có gì đạt được. Nói về không nhân tố sanh ra và không có sanh ra: Là nói về chẳng thể không có nhân tố mà sanh, gọi là không khả năng sanh ra nhân “không có” mà quả được sanh ra . Từ “vì sao v.v…” trở xuống là giải thích điều phục nghi ngờ. Ý nghi ngờ chép: Ba cái bất như vậy, thứ ba như thế nào? Ý cho rằng quả sanh ra - hạt giống là nhân tố gần, đất - nước là duyên xa. Hai thứ này cùng hợp lại cho nên có quả sanh ra, vì sao lại nói không cùng chung sanh ra? Thế nên hỏi là vì sao? Vì duyên thay thế tàn tạ: Nói về hai duyên kia trước là thay thế, sau là rơi rụng không thể nào tạm dừng. Lúc dừng đã không có thì chẳng có công dụng, công dụng chẳng có cho nên đều không thể sanh ra quả. Như kệ chép: “Các hành đều là sát-na, trụ còn không có huống chi là dụng”, do đó lại cầu thay thế tàn tạ, không có sanh không có diệt, Vì sao? Vì đã không có tạm thời an trụ thì không có sanh, vì sanh không có, nên không có diệt vì thế nói duyên phát khởi chẳng phải sanh, duyên rơi rụng chẳng phải diệt. Như vậy suy xét tìm kiếm ẩn kín hay hiển bày đều không thật có. Ẩn kín là hạt giống còn dưới mặt đất, hiển bày là mầm cây đã nẩy ra trên mặt đất. Gốc rễ lý vắng lặng: Suy xét gốc rễ cây đó và lý của thân cây cầu sanh ra nhân của quả cây rốt ráo không bao giờ phát khởi, cho nên nói là vắng lặng. Còn không có nơi chốn, không thấy nơi an trụ, Vì sao? Vì tánh quyết định, nghóa về tánh quyết định như trước đã nói. Kinh: “Thị quyết định tánh diệt bất nhất bất dị bất đoạn bất thường bất nhập bất xuất bất sanh bất diệt, ly chư tứ báng ngôn ngữ đạo đoạn, vô sanh tâm tánh diệt phục như thị, vân hà nói sanh bất sanh hữu nhẫn vô nhẫn?”. Tánh quyết định này cũng không phải một là không khác - không đoạn - không thường - không vào - không ra - bất sanh - không diệt, xa lìa các loại về bốn sự chê bai đường ngôn ngữ dứt, tâm tánh vô sanh cũng giống như vậy, vì sao nói là sanh - bất sanh - có nhẫn - không nhẫn? Luận chép: Kế là nói về tám bất. Chẳng phải dứt khoát pháp là như vậy, chỉ riêng bốn bất trước đây cũng đủ bặt dứt tám thứ như một là khác v.v… Vì sao như vậy? Vì quả và hạt giống không phải một, tướng đó không như nhau, mà cũng chẳng khác nhau, xa lìa hạt giống không có quả. Lại, hạt giống và quả không dứt đoạn vì quả nối tiếp hạt giống sanh ra, mà cũng không thường hằng, vì quả sanh ra thì hạt giống diệt đi. Hạt giống không nhập vào quả, vì lúc là quả thì không hạt giống. Không ngoài hạt giống vì khi là hạt giống thì không có quả, không vào trong, không ra ngoài cho nên bất sanh. Không thường hằng không đứt đoạn cho nên không diệt. Không diệt cho nên chẳng thể nói là. Bất sanh cho nên không thể nói có. Xa lìa hai bên nên không thể nói là vừa có vừa không có. Không thích hợp một là trung cho nên không thể nói là chẳng phải có chẳng phải không. Vì thế nói là xa lìa các loại về bốn sự chê bai ngôn ngữ dứt. Quả A-ma-lặc như vậy bặt dứt nói năng. Tâm pháp nhẫn cũng không khác chỗ này, cho nên nói tâm tánh vô sanh cũng giống như loại này. Kinh: “Nhược hữu nói tâm hữu đắc hữu trụ cập dó kiến giả tức vi bất đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-Bồ-đề Bát-nhã, thị vi trường dạ”. Nếu có người nói tâm có đạt được - có an trụ cho đến nhìn thấy tức là không đạt được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề-bát-nhã, đúng là đêm dài tăm tối. Luận chép: Đây là phần thứ ba nêu lên điều không đúng. Nghóa là có người nói rằng tâm thể của tâm vô sanh nhẫn có thể được an trụ vào vô sanh, và cùng với người có thể nhìn thấy lý Vô sanh, không hiểu rõ tâm tánh, dứt khoát là vọng chấp thường chướng ngại Bồ-đề và Bát-nhã đó là nói về không đạt được tính Bồ-đề thanh tịnh có thể chứng Bát- nhã. Lại, Bồ-đề là bắt đầu khởi lên Bồ-đề. Nói Bát-nhã là nhân của Bồ-đề, không đạt được nhân giác ngộ cho nên là đêm dài tăm tối, vọng tưởng từ vô thỉ là giấc mộng rất lớn. Kinh: “Liễu biệt tâm tánh giả tri tâm tánh như, thị tánh diệt như, thị vô sanh hành”. Phân biệt rõ ràng tâm tánh ấy là biết tâm tánh Như, tánh này cũng Như, là vô sanh hành. Luận chép: Đây là phần thứ tư nói rõ điều đúng. Nói liễu biệt tâm tánh tức là dùng tự tâm hiểu rõ tánh của tự tâm. Như kinh chép: “Nếu có thể dùng khả năng giữ lấy tác ý trở lại có thể thông đạt khả năng giữ lấy tác ý, như vậy chính là năng duyên bình đẳng - sở duyên bình đẳng, trí vô lậu phát sanh thông đạt Thánh đế”. Biết tâm tánh như: Vì biết tự quán tâm thể tánh bình đẳng. Tánh này cũng như: Là có thể biết dụng, vì tánh dụng bình đẳng, như vậy quán tâm thể dụng bình đẳng, bất sanh - không diệt - không trước - không sau. Vì điều này cho nên nói là vô sanh hành. Trước nói về Vô sanh của bốn bất là nói rõ lý vô sanh, lý thông suốt phàm Thánh. Nay nói về vô sanh của biết Như (tri như) là nói về Vô sanh hành, hành riêng ở Thánh, hành của Thánh cùng một vị với lý, lý thông suốt với khắp cả, bình đẳng với trí, bình đẳng một vị cho nên Bậc Thánh vốn không thể nào khác nhau. Có chung có riêng cho nên bậc Thánh vốn không thể nào giống nhau. Không thể nào giống nhau ấy tức là giống nhau mà khác nhau. Không thể nào khác nhau ấy tức là khác nhau mà giống nhau. Giống nhau ấy là phân rõ giống nhau đối với khác nhau. Khác nhau ấy là trình bày khác nhau đối với giống nhau. Trình bày khác nhau đối với giống nhau ấy chẳng phải phân chia giống nhau làm khác nhau. Phân rõ giống nhau đối với khác nhau ấy là chẳng phải loại trừ khác nhau làm giống nhau. Vì giống nhau chẳng phải loại trừ khác nhau cho nên không thể nói là giống nhau. Khác nhau chẳng phải phân chia giống nhau cho nên không thể nói là khác nhau. Nhưng vì không thể nói khác nhau cho nên được nói là giống nhau không thể nói giống nhau cho nên được nói là khác nhau. Nói và không nói chẳng hai chẳng khác. Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Tôn giả! Tâm nhược bổn như vô sanh ư hành, chư hành vô sanh, sanh hành bất sanh, bất sanh vô hành, tức vô sanh hành dã”. Bồ-tát Tâm Vương chép: Bạch Đức Thế Tôn! Tâm nếu vốn là Như, vô sanh đối với hành, các hành vô sanh, sanh hành không thể sanh, không thể sanh vô hành, tức là vô sanh hành. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai quay lại chất vấn - trả lời. Trong đó có tám: 1.Đưa ra hành vấn nạn lý; 2.Hỏi vặn lại có chứng đạt; 3. Dựa vào trả lời không có chứng đạt; 4. Hỏi vặn lại có đạt được; 5.Dựa vào trả lời không có đạt được; 6.Nói về không có chứng đắc đạt được; 7. Lại trình bày điều nghi ngờ; 8. Giải quyết sự nghi đó. Đây chính là thứ nhất nêu ra hành vấn nạn lý. Nói tâm nếu vốn là như vô sanh đối với hành ấy là nêu ra nghóa về hành vô sanh đã nói trước đây, đó chính là trước đây nói “Biết tâm tánh Như, tánh này cũng Như, là vô sanh hành”, nghóa là vô sanh đối với hành của sanh diệt, tức là chính là nêu ra hành tướng của vô sanh. Nói là hành vô sanh ấy là nêu ra lý vô sanh, nghóa là hành năm ấm của các chúng sanh xưa nay vô sanh. Sanh hành không thể sanh là nói về lý vô sanh khác với hành vô sanh, nghóa là sanh khởi hành chính là Không không thể sanh chẳng phải do chứng lý diệt tâm không thể sanh. Nói không thể sanh vô hành ấy là hiển bày lý bất sanh tương tự hành vô sanh, nghóa là môn Bất sanh cũng là vô tâm hành, như vô sanh nhẫn - vô phân biệt hành cho nên thuận theo chính là vô sanh hành phải chăng? Nếu vậy thì tất cả phàm phu không ai chứng đắc vô sanh nhẫn. Kinh: “Phật ngôn: Thiện nam tử! Nhữ dó vô sanh nhi chứng vô sanh hạnh da?”. Đức Phật nói: Này người thiện nam! Ông dùng vô sanh mà chứng vô sanh hành phải chăng? Luận chép: Đây là phần thứ hai hỏi vặn lại có chứng đạt. Ý vặn lại mà chép: Lúc Ông nhập vào quán Vô sanh nhẫn vì dựa vào lý các hành vô sanh mà được Vô sanh chăng? Sở dó chất vấn ngược lại như thế là vì kia dùng lý vô sanh phân biệt khác với hành vô sanh mà vấn nạn lý vô sanh cũng là hành vô sanh. Nay hỏi vặn: Lúc ông nhập vào quán lý - hành phân biệt khác nhau, có năng - sở hay chăng? Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Bất! Hà dó cố? Như vô sanh hành tánh tướng vắng lặng, vô kiến vô văn, vô đắc vô thất, vô ngôn vô nói, vô tri vô tướng, vô thủ vô xả, vân hà thủ chứng? Nhược thủ chứng giả tức vi trách luận, vô tránh vô luận nãi vô sanh hành”. Bồ-tát Tâm Vương chép: Không thể! Vì sao? Như vô sanh hành tánh tướng là không vắng lặng, không thấy không nghe, không được không mất, không lời không nói, không biết không tướng, không lấy không bỏ, làm thế nào thủ chứng? Nếu thủ chứng tức là tranh luận, không tranh luận chính là Vô sanh hành. Luận chép: Đây là phần thứ ba vâng mạng trả lời không có chứng đạt. Trong đó có ba: Một là nói về không có chứng đạt; hai là nêu ra cái sai; ba là nói đều đúng. Trong phần một lại có hai: Trước là nêu ra - sau là giải thích. Như vô sanh hành tánh tướng vắng lặng là câu nêu chung. Nói tánh vắng lặng, nghóa là quán tâm Thể tánh xa lìa tướng sanh diệt, tức là Biết tâm tánh Như đã nói ở trước. Tướng vắng lặng là quán tâm biết dụng, dụng tướng cũng Như, chính nói rằng Tánh này cũng Như ở trước. Xuống dưới dùng mười vô giải thích câu chung này. Không thấy, không nghe: Tâm tánh ít có phẳng lặng, phẳng lặng cho nên bặt dứt sắc chất chẳng phải cái mà hình tượng biểu thị vì ít có cho nên bặt dứt âm thanh chẳng phải cái mà giáo pháp giải thích (sở thuyên) không được, không mất: Là nói Không mà chẳng có gì đạt được, xả bỏ Sanh mà không có gì mất đi. Bốn không có (tứ vô) như vậy giải thích về tánh Vắng lặng. Không lời, không chép: Tâm hành đã vắng lặng không khởi lên nói năng. Không biết không tướng: Tâm hành vắng lặng xa lìa hai phần. Không lấy, không bỏ: Đã không có phân biệt không có tánh đáng giữ lấy - không có tướng đáng bỏ. Sáu như vậy giải thích về tướng Vắng lặng. Trong Vô sanh hành vắng lặng như vậy, vì sao ở trong đó mà lại có thủ chứng? Lúc dấy lên trả lời điều này thì tự biết vấn nạn trước dây không trở thành khó khăn. Nêu ra cái sai nói lên cái đúng. Tìm hiểu thì có thể biết được. Kinh: “Phật ngôn: Nhữ đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề- dạ”. Đức Phật nói: Ông đạt được A-nậu-đa-la-Tam-miệu-Tam-bồ-đề hay chăng? Luận chép: Đây là phần thứ tư hỏi vặn lại có chứng đạt chăng. Hỏi: Bồ-tát chưa đạt được A nậu Bồ-đề, tại vì sao Như-lai hỏi ông đạt được chăng? Giải thích: Ở đây tuy chưa đạt được Bồ-đề rốt ráo, mà đã chứng đắc Sơ Địa Bồ-đề. Như trong luận Pháp Hoa chép: “Tám đời cho đến một đời đạt được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, nghóa là chứng đạt Sơ Địa Bồ-đề, vì xa lìa sanh tử Phần đoạn trong ba cõi, tùy theo phần có thể thấy chân như Phật tánh gọi là đạt được Bồ-đề, chẳng phải cho là rốt ráo đầy đủ Như-lai phương tiện Niết-bàn”. Xét rằng: Là dựa theo chân như Phật tánh gọi tên là Bồ-đề, có thể chứng đạt cái thấy cho nên gọi là đạt được Bồ-đề. Như trong kinh nói các pháp tánh không chính là Bồ-đề. Hán dịch như vậy. Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Tôn giả! Ngã vô đắc A-nậu-đa- la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Hà dó cố? Bồ-đề tánh trung vô đắc vô thất, vô giác vô tri, vô phân biệt tướng, vô phân biệt trung tức thanh tịnh tánh, tánh vô gian tạp, vô hữu ngôn nói, phi hữu phi vô, phi tri phi bất tri, chư khả pháp hành diệc phục như thị. Hà dó cố? Nhất thiết pháp hành bất kiến nơi chốn, quyết định tánh cố bổn vô hữu đắc bất đắc, vân hà đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề?”. Bồ-tát Tâm Vương chép: Bạch Đức Thế Tôn! Con không đạt được A-nậu-đa-la-Tam-miệu-Tam-bồ- đề. Vì sao? Vì trong tánh Bồ-đề không có được - không có mất - không có hiểu - không có biết, không có sự phân biệt, trong chỗ không có phân biệt chính là tánh thanh tịnh, tánh không có pha tạp, không có nói năng, chẳng phải có - chẳng phải không có, chẳng phải biết - chẳng phải không biết, các pháp có thể hành cũng giống như vậy. Tại vì sao? Vì tất cả pháp hành không thấy nơi chốn, tánh quyết định cho nên vốn chẳng có được hay không được, làm sao được A-nậu-da-la Tam miệu Tam Bồ-đề? Luận chép: Đây là phần thứ năm dựa vào trả lời không có được. Trong dó có ba, đó là nêu ra, giải thích và kết luận. Trong phần giải thích có hai: Trước là nói Bồ-đề vốn đạt được mà tánh không hề đạt được; sau là nói các hành có thật có mà tướng không hề đạt được. Trong phần trước nói về tánh Bồ-đề, nghóa là tánh chân như là không vô ngại tánh xa lìa tối tăm che ngăn nên gọi là Bồ-đề. Trong đó vốn không có chân tánh giữ lại, cũng chính là vốn không có vọng tưởng mất đi, cho nên nói là không có được, mất. Như vậy cái hiểu vốn có (bổn giác) xa lìa cái hiểu của suy nghó tạo thành, cũng mất đi cái biết bất chợt cho nên nói là vô giác vô tri. Đã không có cái thấy phân biệt xa lìa, tướng sở hành nên nói là không có tướng phân biệt. vì như vậy cho nên nói chẳng bị hoặc làm vẩn đục, bổn tánh xa lìa tạp nhiễm nên nói là Tức tánh thanh tịnh. Chiều dọc chẳng phải sanh diệt làm cho gaín cách- chiều ngang chẳng phải năng sở làm cho lẫn lộn, cho nên nói là Tánh không xen lẫn. Không có ngôn nói là vì năng ngôn - sở ngôn chẳng có gì không thể bặt dứt. Chẳng có, chẳng không ấy là tuy chẳng phải có Như mà chẳng phải không có Như. Chẳng phải biết, chẳng phải không biết là tuy chẳng phải vốn có hiểu biết mà chẳng phải không thể hiểu biết. Tánh Bồ-đề như thế không có nghóa để đạt được Từ “Các pháp có thể hành v.v…” trở xuống là kế là hiển bày hành không có khả năng đạt được. Như phẩm trước nói về hành của sáu độ chẳng có gì không phải là khuôn phép chân thật (chân quỹ). Nói khả năng được các pháp cũng như thế ấy là vì giống như Vô đắc trước đây. Tất cả pháp hành ấy là các hành về sáu độ. Không thấy nơi chốn ấy là không nhìn thấy nơi chốn vốn có thể hành như được - mất - hiểu - biết cho đến có - không - biết không biết v.v… Cùng với Bồ-đề bình đẳng và hoàn toàn bình đẳng, cho nên vốn không có khả năng đạt được hay không thật có. Từ “Làm sao v.v…” về sau là tổng hợp kết luận về Vô đắc. Kinh: “Phật ngôn: Như thị, như thị! Như nhữ sở ngôn nhất thiết tâm hành bất quá vô tướng thể tịch vô sanh”. Đức Phật nói: Đúng vậy, đúng vậy! Như ông đã nói tất cả tâm hành chỉ là Vô tướng - thể vắng lặng Vô sanh. Luận chép: Dưới đây là phần sáu Như-lai nói về thành tựu, trong đó có ba: Một là chính nói về, hai là nêu ra cái sai, ba là nói về chỗ đúng. Trong phần Một cũng có ba: Nói chung về. Nói riêng sau cùng lại kết luận thành tựu. Đầu tiên là nói “đúng thế, đúng thế” ấy là nói về vô chứng ở trước và vô đắc ở sau. Từ “tất cả v.v…” trở xuống là phần hai nói riêng. Nói vô sanh là vô sanh hành, nói về không có năng chứng năng đắc. Nói về vắng lặng là lý vắng lặng, nói không có sở chứng sở đắc. Đầu tiên nói về tất cả tâm hành là vì tất cả trí vô phân biệt của xuất thế tương ưng với tâm hành không giữ lấy các tướng chứng đạt lónh hội vô tướng. Nói chỉ là vô tướng - thể ở trong vắng lặng sâu xa nhưng vô sanh cho nên nói là thể vắng lặng vô sanh. Kinh: “khả hữu thức thức, diệc phục như thị. Hà dó cố? nhãn nhãn xúc tất giải vắng lặng, thức diệc vắng lặng, vô hữu động bất động tướng, nội vô tam thọ, tam thọ vắng lặng, nhó tỷ thiệt thân, tâm ý ý thức cập dó Mạt-na A-lê-da diệc phục nư thị, giai diệc bất sanh tâm vắng lặng cập vô sanh tâm”. Có thể có thức thức, cũng giống như vậy. Tại vì sao: Vì nhãn - nhãn tiếp xúc đều là không vắng lặng, thức cũng là không vắng lặng, không có tướng động hay bất động bên trong không có ba thọ, ba thọ vắng lặng, nhó tỷ thiệt thân, tâm ý - ý thức cho đến Mạt-na, A-lê-da cũng giống như vậy, cũng đều không thể sanh khởi tâm vắng lặng và tâm vô sanh. Luận chép: Đây là phần thứ hai thuật về nghóa vắng lặng, đó là tám thức là không vắng lặng của các thế gian. Trong đó có hai: Một là ví dụ trước, hai là giải thích rộng ra. Đầu tiên chép: Có thể có thức - thức thâu nhiếp chung tất cả tám thức vốn có ở thế gian, như nói xứ xứ, vì thâu nhiếp tất cả nơi chốn. “Cũng như thế ấy là lý Vắng lặng giống như Vô sanh của tâm xuất thế trước đây. Từ “Vì sao? v.v…” trở xuống là phần hai giải thích rộng. Nhãn là nhãn căn, nhãn xúc tức là xúc trong Biến hành, dựa vào ba hòa hợp mà sanh khởi, làm cho ba hòa hợp muốn nói về Tản Không cho nên có ý đưa ra điều đó. Thức cũng Không: Nhãn xúc đã Không thì Nhãn thức không thể phát sanh. Không có nối tiếp nhau chuyển biến dao động cũng không sát-na nào không chuyển biến, cho nên nói là không có tướng động hay bất động. Nói bên trong không có ba thọ: Vì ba thọ sanh khởi xưa nay vắng lặng, trong các tâm sổ xúc - thọ tiếp cận lẫn nhau, có khả năng rất hơn hẳn cho nên đưa ra hai thứ này thông thường điều khiển pháp còn lại. Nhó - tỷ - thiệt - thân ấy là nói rằng các loại nhó - nhó xúc - nhó thức v.v… tâm ý ý thức ấy là Thức thứ sáu, vị lai gọi là tâm, quá khứ gọi là Ý, hiện tại gọi là Ý thức, dựa vào tùy theo chuyển môn đưa ra ba tên gọi này, để hiển bày ba đời đều là không vắng lặng. Mạt-na, A-lê-da thứ bảy thứ tám đều giống như Nhãn thức cho nên cũng bất sanh khởi. Văn giải thích rộng xong. Kế là nói Tâm vắng lặng ấy là văn gần kết luận tám Thức vắng lặng và tâm vô sanh là kết luận xa với văn nói Thể vắng lặng vô sanh. Kinh: “Nhược sanh tâm vắng lặng, nhược sanh vô sanh tâm, thị hữu sanh hành phi vô sanh hành, nội sanh tam thọ tam hành ba cõi”. Nếu sanh khởi tâm vắng lặng, hoặc khởi vô sanh tâm, là có sanh hành mà chẳng phải không có sanh hành, bên trong sanh khởi ba Thọ - ba Hành - ba giới. Luận chép: Đây là phần hai nêu ra cái sai, nghóa là có sở đắc. Người học Đại thừa không thể là không tám thức thì làm trái sự vắng lặng đó, cho nên nói là sanh khởi tâm vắng lặng. Không biết Vô sanh của tâm xuất thế, nói là có tâm sanh khởi chứng lý vô tướng, cho nên nói là sanh khởi vô sanh tâm. Dứt khóat là Hành trôi lăn của thế gian mà trái với Vô sanh nhẫn hành của xuất thế, vì thế nói là có sanh hành v.v… Nói ba Hành là thân miệng ý dấy lên có cả thiện và bất thiện. Nói ba giới ấy là thân khẩu ý dừng lại chỉ giữ lấy điều thiện đó. Sanh khởi ba hành, ba Giới này làm nhân mà sanh khởi ba cõi thọ nhận đầy đủ ba thọ, trôi lăn như vậy không thể nào giải thoát. Kinh: “Nhược vắng lặng sanh tâm bất sanh, bất thường vắng lặng vô công dụng, bất chứng vắng lặng tướng, diệc bất trụ ư vô chứng, khả xứ vô trụ, tổng trì vô tướng. Tức vô tam thọ đẳng tam, tất giai vắng lặng, thanh tịnh vô trụ, bất nhập Tam-muội, bất trụ tọa thiền, vô sanh vô hành”. Nếu vắng lặng sanh khởi tâm bất sanh, tâm thường vắng lặng không công dụng, không chứng tướng vắng lặng, cũng không trụ trong vô tướng, tức là không có các thứ ba như ba Thọ v.v… thảy đều vắng lặng, thanh tịnh vô trụ, không nhập vào Tam-muội, không trụ trong ngồi thiền, vô sanh vô hành. Luận chép: Đây là phần thứ ba nói cái đúng: Nói nếu vắng lặng sanh khởi tâm bất sanh: Ngược lại câu “Nếu sanh khởi tâm vắng lặng” trước đây, vì xả bỏ các tâm sanh khởi không giữ lấy sanh khởi. “Tâm thường vắng lặng vô công vô dụng.” Ngược lại câu “Nếu sanh vô sanh tâm” trước đây, vì xa lìa tướng của các sự sanh diệt khởi động cũng không có công dụng tác ý phân biệt. Không thể chứng tướng vắng lặng: Tuy xả bỏ tâm của sanh khởi, mà không giữ lại tướng vắng lặng. Cũng không trụ ở vô chứng: Mặc dù tâm không giữ lấy tướng vắng lặng nhưng không rơi vào sai lầm vô chứng. Có thể ở vô trụ: Là nói chung về xa lìa sai lầm chấp đắm, vì các nơi có thể an trụ đều không thể an trụ. Nơi có thể an trụ ấy là nếu xả bỏ sanh khởi thì có thể an trụ vắng lặng, nếu xả bỏ có chứng đạt thì có thể an trụ vô chứng, như vậy nơi thích hợp đều là Vô trụ. Tổng trì vô tướng: Nói chung đầy đủ công đức, nghóa là tâm vô sanh nắm giữ đức các hành mà cùng chung một vị tướng Vô sai biệt. Tức không có ba như ba thọ …. Ngược lại câu: “Bên trong sanh tam thọ …” Trước đây, vì xa lìa tướng nhân quả trôi lăn. Thảy đều vắng lặng: Vì thấu suốt các loại như ba Thọ xưa nay là không. Thanh tịnh vô trụ: Vì tâm thường thấu chẳng trụ vào Không. Chẳng nhập Tam- muội”: Thường quên đi tâm nhập định của thế gian. Không trụ ngồi thiền: Cũng xả bỏ thế gian trụ vào thiền vắng lặng. Nếu thường như vậy thì tâm sanh khởi không có cũng không có hành của phân biệt, cho nên nói là Vô sanh vô hành. Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Thiền năng nhiếp động, định chư huyễn loạn, vân hà bất thiền?”. Tâm Vương Bồ-tát chép: Thiền có thể thâu nhiếp dao động làm ổn định các sự huyễn loạn, vì sao không thể thiền? Luận chép: Đây là phần thứ bảy nói về nghi, ý nghi: Tất cả các thiền định có thể thâu nhiếp ý niệm dao động, làm cho tâm tán loạn được yên định, vì sao tâm vô sanh hành xuất thế cũng không thể nhập vào, an trụ thiền định? Nếu không thể thiền thì phải dao động. Có nghi ngờ như vậy nên nhân dịp hỏi về điều đó. Kinh: “Phật ngôn: Bồ-tát! Thiền tức thị động, bất động bất thiền thị vô sanh thiền, thiền tánh vô sanh, ly sanh thiền tướng, thiền tánh vô tướng lý trụ thiền động, tri thiền tánh vô hữu động tónh, tức đắc vô sanh, vô sanh Bát-nhã, diệc bất y trụ, tam diệt bất động, dó thị cố cố đắc vô sanh Bát-nhã Ba-la-mật”. Đức Phật nói: Này Bồ-tát ! Thiền tức là động không động không thiền là vô sanh thiền, thiền tánh vô sanh, lìa sanh khởi thiền tướng, thiền tánh vô trụ, lìa an trụ thiền động, biết thiền tánh không có động tónh, tức là đạt được vô sanh, vô sanh Bát-nhã cũng không dựa vào tâm an trụ, tâm cũng không xao động, vì trí này cho nên đạt được Vô sanh Bát-nhã Ba-la-mật. Luận chép: Đây là phần thứ tám xử lý sự nghi ngờ. Nói Thiền chính là động: Nghóa là thiền thế gian tuy chẳng phải tán loạn mà giữ lấy cảnh tướng, giữ lấy tướng thì tâm sanh khởi vì sanh khởi cho nên xao động, xa lìa được thiền của sanh khởi xao động như vậy mới được nhập vào lý định, do đó nói là thiền vô sanh. Lý ổn định như vậy thì tánh không có sanh khởi xao động, cho nên nói là Thiền tánh vô sanh, chẳng phải dứt khóat bất sanh khởi cũng không an trụ vắng lặng, cho nên nói là Thiền tánh vô trụ. Nếu có sanh khởi thì là tướng, có chấp đắm thì là động, nay chính là trái với điều này cho nên nói lìa sanh khởi thiền tướng, lía an trụ thiền động. Các câu trên đây nói về tướng định theo lý. Từ “Biết thiền tánh v.v…” trở xuống là nói về tướng trí theo lý. Chỉ dựa vào một Thể mà nghóa phân làm hai: Biết thiền tánh không có hữu động là biết thiền tánh không có sanh khởi. Không có tónh là không hề an trụ. Tức đắc vô sanh là được lý không có sanh khởi. Vô sanh Bát-nhã là đạt được hành không có sanh khởi. Cũng không dựa vào an trụ ấy là nói rằng trí Vô sanh không dựa vào lý an trụ mà xa lìa năng sở. Tâm cũng bất động tuy không dựa vào lý an trụ mà chẳng phải sanh khởi tâm xao động. Do vào trí như vậy có thể đến bờ bên kia (bỉ ngạn), cho nên nói là Bát-nhã Ba-la-mật. Tám phần trên đây hợp lại thành phần thứ hai quay trở lại chất vấn - trả lời. Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Tôn giả ! Vô sanh Bát-nhã ư nhất thiết xứ vô trụ, ư nhất thiết xứ vô ly, tâm vô xứ trụ, vô xứ trụ tâm, vô trụ vô tâm, tâm vô sanh trụ. Như thử trụ tâm tức vô sanh trụ. Tôn giả! Tâm vô sanh hành bất khả tư nghị, bất tư nghị trung khả bất khả nói?”. Bồ-tát Tâm Vương chép: Bạch Đức Thế Tôn! Vô sanh Bát-nhã không trụ ở Nhất thiết xứ, không lìa Nhất thiết xứ, tâm không trụ xứ, không có xứ trụ tâm; không án trụ không có tâm, tâm bất sanh khởi an trụ. Như vậy an trụ tâm tức là bất sanh khởi an trụ. Bạch Đức Thế Tôn! Tâm không có sanh hành không thể nghó bàn có thể giảng nói hay không? Luận chép: Đây là phần thứ ba lãnh ngộ hiểu rõ. Nhất thiết xứ là tất cả mọi nơi chân - chân tục - động - tịnh v. v… Nói không trụ ấy là đối với tất cả mọi nơi này chẳng có gì đạt được. Nói không lìa ấy là đối với tất cả nơi này không có gì không đạt được. Vì sao? Vì tất cả nơi chốn kia thảy đều không phải như thế – chẳng phải không thể như thế. Tâm không trụ xứ là không có sở trụ xứ. Không có xứ trụ tâm là không có tâm năng trụ. Không trụ không tâm là hợp cùng hai câu trước, vì tâm không có nơi chốn, có an trụ. Tâm bất sanh khởi an trụ ấy là chẳng thể không có tâm bất sanh khởi không an trụ. Như an trụ tâm ấy là kết luận đối với tất cả nơi chốn không thể an trụ cho đến nơi xa lìa trước đó. Nghóa về không xa lìa giả thiết lập ra an trụ. Tức bất sanh khởi an trụ ấy là kết luận, tâm không có nơi chốn an trụ cho đến tâm bất sanh khởi an trụ” trước đó, vì trụ tức là vô trụ, vô trụ chính là trụ. Tâm vô sanh hành không thể nghó bàn ấy là xa lìa nói năng bặt dứt suy tư. Trong không thể nghó bàn là có thể thuyết hay không là vì xa lìa nói năng cũng lìa luôn sự xa lìa nói năng. Vì xa lìa nói năng cho nên nói năng không thể nói. Lìa cả sự xa lìa nói năng cho nên cũng có thể nói được. Nói có thể nói ấy là không phải không thể như vậy. Không thể nói là chẳng phải đúng như vậy. Vì thế nói chung rằng “Khả bất khả nói”, nluống dốing nói nói giảng nói hay không có thể, nên biết rằng suy nghó đó cũng hay không có thể, chỉ nêu ra một phía phỏng theo biểu hiện mà thôi. Kinh: “Phật ngôn: Như thị như thị!”. Đức Phật nói: Đúng vậy, đúng vậy! Luận chép: Đây là phần thứ tư nói rõ thành tựu. Như sự lónh hội hiểu rõ trước đó không phải dứt khóat phù hợp với đạo lý, cũng chính là kính mến xứng với lời Phật dạy, cho nên nói lặp lại “đúng vậy, đúng vậy”. Phần Trường Hàng về chánh nói ở trước đã xong. Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát văn như thị ngôn thán vị tằng hữu nhi nói kệ ngôn”. Tâm Vương Bồ-tát nghe nói như vậy khen ngợi không hề có mà nói kệ rằng. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai dùng kệ khen ngợi giảng nói. Trong đó có hai: Trước là lời tựa - sau là bài tụng. Nghe nói như vậy ấy là nghe Đức Phật nói về nội dung của một phẩm này. Kinh: “Mãn túc đại trí tôn, giảng nói vô sanh pháp, văn sở vị tằng văn, vị nói nhi kim nói”. Đấng đầy đủ đa trí tuệ, nói rộng về pháp vô sanh, nghe điều không hề được nghe, chưa nói mà nay nói. Luận chép: Dưới đây là ba bài tụng không phải văn tụng riêng mà là khen ngợi chung. Trong đó có bốn: Pháp - dụ - hợp và kết. Đây là phần thứ nhất Pháp nói. Khen ngợi “Chưa nói mà nay nói” ấy là tuy trước đó nói rộng, bây giờ kinh này nói giảng lược nghóa phong phú - văn đơn giản lý tận tường. Dường như sự vi diệu này trước đây chưa nói ra. Kinh: “Do như tịnh cam lộ, thời thời nãi nhất xuất, nan ngộ nan tư nghị, văn giả diệc phục nan, vô thượng lương phước điền, tối thượng thắng diệu dược, vị độ chúng sanh cố, nhi kim vị giảng nói”. Giống như cam lộ thanh tịnh, thường mà một lần xuất hiện, khó, gặp khó nghó bàn, người nghe cũng giống khó, ruộng phước tốt lành vô thượng, vị thuốc tuyệt diệt trên hết, vì cứu độ cho chúng sanh, mà nay vì đó giảng nói. Luận chép: Dưới đây hai câu là phần thứ hai về Dụ. Nói Cam lộ ấy là vị thuốc của sự bất tử, để dụ cho kinh này có khả năng vượt ra sanh tử. Kế bốn câu là phần thứ ba kết hợp, ruộng phước tốt Vô thượng là khen ngợi người có khả năng nghe, thuốc hay tốt trên hết là kết hợp với pháp được nghe. Hai câu sau cuối là phần thứ tư kết luận. Kinh: “Nhó thời chúng trung văn nói thử dó giai đắc vô sanh vô sanh Bát-nhã”. Lúc bấy giờ trong chúng hội nghe tụng nói này xong đều đạt được vô sanh - vô sanh Bát-nhã. Luận chép: Đây là phần thứ ba lúc chúng hội được ích lợi. Địa tiền phàm phu nghe nói phẩm này đạt được Vô sanh nhẫn nhập vào Sơ Địa. ------------------------------- Phẩm Thứ 4: BỔN GIÁC LỢI Luận chép: Tất cả hữu tình từ vô thỉ đến nay nhập vào đêm dài vô minh dấy lên mộng lớn vọng tưởng, Bồ-tát tu quán lúc đạt được vô sanh, thông suốt chúng sanh xưa nay vắng lặng dứt khóat là vốn có hiểu biết (bổn giác), nằm giường Nhất Như dùng lợi ích vốn có này làm lợi ích chúng sanh. Phẩm này nói lên đạo lý này cho nên gọi là Phẩm Bổn Giác lợi. Kinh: “Nhó thời Bồ-tát Vô Trụ văn Phật sở nói nhất vị chân thật bất khả tư nghị, tùng viễn cận lai thân Như-lai tòa chuyên niệm đế thính, nhập thanh bạch xứ thân tâm bất động”. Lúc ấy, Bồ-tát Vô Trụ nghe Đức Phật giảng nói về một vị chân thật không thể nghó bàn, từ xa đến gần tiếp cận ngồi tòa Như-lai chuyên chú ý niệm chăm chú lắng nghe, nhập vào chỗ thuần khiết thân tâm không xao động. Luận chép: Nói riêng về quán hành, trong sáu phần, dưới đây là phần thứ ba nói về Bổn giác lợi. Dựa vào vô sanh hành có thể hội nhập bổn giác, mới có thể hóa hiện khắp ích lợi cho tất cả. Căn cứ vào nghóa này cho nên kế là giảng nói về điều đó. Ngay nơi văn có ba: Một là nói rộng về bổn giác lợi ích, hai là dùng kệ khen ngợi, ba là lúc ấy chúng hội được lợi ích. Trong phần Một có hai: 1. Dựa vào xao động nói về yên tónh, sơ lược nêu lên tông chỉ của bổn lợi. 2. Từ nhỏ nhiệm đến lớn rõ nói rộng về nghóa lý của bổn lợi. Trong phần một có ba: Một là nhờ vào thân di động để nêu lên bổn lợi. Hai là Căn cứ ngôn ngữ trở lại để nêu lên bổn lợi Ba là phát ra ánh sáng khen ngợi chúc mừng bổn lợi. Trong phần đầu nói Bồ-tát Vô Trụ là, vị này tuy thông hiểu bổn giác vốn không phát khởi xao động, mà không an trụ vắng lặng thường khởi lên hóa hiện rộng khắp. Dựa vào đức đặt tên hiệu gọi là Vô Trụ. Đức của Vô Trụ khế hợp với bổn lợi, do đó dựa vào vị này để nói lên tông chỉ đó. Nói một vị chân thật không thể nghó bàn là vì phẩm trước nói Tâm vô sanh hành không thể nghó bàn v.v… Từ từ đến gần bên tòa của Như-lai: Chỗ ngồi trước đó cách xa tòa của Đức Phật, nghe phẩm trước xong dời đến chỗ gần hơn, biểu thị thời gian trước đó chưa nghe pháp sâu xa, đại vị ở tại phàm phu ngu dốt cách xa quả Phật, nay nghe Đức Phật giảng nói đạt được lợi ích về bổn giác, tự biết sẽ được quả Phật, đang gần kề. Chuyên niệm lắng nghe, thân tâm bất động nơi thanh bạch: Lúc đã gần cạnh tòa ngồi Đức Phật thì chuyên chú niệm hướng về lắng nghe, nhập vào nơi thanh tịnh minh bạch vốn có, thuận theo hiểu biết vốn có (bổn giác), yên tónh nên thân tâm không xao động, vì vậy chính là nói lên lúc nhập vào hiểu biết ban đầu thông suốt vốn có không hề xao động được vô sở đắc. Kinh: “Nhó thời Phật cáo Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Nhữ tùng hà lai kim chí hà sở? Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Nhữ hàng hà lai kim chí vô bổ sở”. Lúc bấy giờ Đức Phật nói với Bồ-tát Vô Trụ: Ông từ đâu đến nay đến nơi nào? Bồ-tát Vô Trụ chép: Bạch Đức Thế Tôn! Con từ chỗ không có ban đầu đến nay đến nơi không có ban đầu. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai dựa vào lời nói quay trở lại. Trong đó có ba: Hỏi - Đáp và Nói rõ thành tựu. Thứ hai là ý trả lời nói về địa vị phàm phu đến địa vị bậc Thánh, lúc đến địa vị bậc Thánh ngoái lại tìm xem mình từ xưa đến nay thế nào. Khi xưa ở vị phàm phu mới bắt đầu hướng đi tự tin rằng tâm mình vốn không hề khởi lên xao động, vì vậy căn bản khởi động không thật có, nay đến địa vị hàng Thánh lúc đạt được vô sanh chứng thật biết rõ tự tâm xưa nay không có sanh khởi, vì căn bản của sanh khởi là vô sở đắc. Do đó biết rằng bắt đầu từ nơi không vốn có mà đến, nay nơi đã đến cũng là nơi không vốn có (vô bổn sở). Đã nêu không vốn có (vô bổn), nên biết là không cuối cùng (vô mạt). Vô bổn mạt là không đến không tới (vô lai vô chí). Chỉ nương nhờ thuận theo từ ngữ của Đức Phật hỏi để giả định gởi gắm lời của đến - tới. Tuy không có đến - tới mà chẳng phải hoàn toàn không có đến - tới. Vì do nơi đến tới để nói về đến tới, vì chỗ đến - nơi tới như nhau không vốn có. Kinh: “Phật ngôn: Nhữ bổn bất tùng lai, kim diệc bất chí sở, nhữ đắc bổn lợi không thể nghó bàn, thị Đại Bồ-tát Ma-ha tát”. Đức Phật nói: Ông vốn không từ đầu đến, nay cũng không tới nơi nào, ông đạt được lợi ích vốn có không thể nghó bàn, là bậc Đại Bồ-tát. Luận chép: Đây là phần nói về thành tựu. Ý nói về thành tựu rằng: Nơi tới - nơi đến đã như nhau không từ đầu thì không có đến - tới, Vì sao? Vì nơi đến không khác đối với nơi tới, vốn không có từ đâu đến, nơi tới đã giống nhau đối với nơi đến cho nên nay không có tới (vô sở chí). Lại, nơi đến đã không có từ đầu cho nên không có đến không thể đến (vô lai bất lai), nay nơi đã tới cũng không có từ đầu cho nên không có tới không thể tới (vô chí bất chí). Đã không có đến - không có tới (vô lai vô chí) xưa nay vắng lặng, cho nên chép: Ông đạt được lợi ích vốn có không thể nghó bàn. Đã đạt được lợi ích vốn có về tự lợi lợi tha, cho nên nói là Đại Bồ-tát. Kinh: “Tức phóng tại quang biến chiếu đại thiên thế giới nhi nói kệ ngôn: Đại tai Bồ-tát, trí tuệ mãn túc, thường dó bổn lợi, lợi ích chúng sanh, ư tứ oai nghi, thường trụ bổn lợi, đạo chư quần thứ, bất lai khứ khứ”. Tức thì phát ra ánh sáng rực rỡ soi chiếu khắp thế giới đại thiên mà nói kệ: Thật lớn thay Bồ-tát! Trí tuệ được đầy đủ, thường dùng lợi vốn có, lợi ích cho chúng sanh, đối với bốn oai nghi, thường trụ lợi vốn có, dẫn dắt các chúng sanh, không đến mà cứ đi. Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba Như-lai phát ra ánh sáng biểu hiện ngợi khen Bồ-tát. Trong đó có hai: Trước là tựa của người kết tập kinh điển: Lý do phát ra ánh sáng lớn soi chiếu đại thiên thế giới ấy là để biểu hiện đạt được trí tuệ rộng lớn ánh sánh soi chiếu thế gian tăm tối khiến cho được sáng suốt, chứng thật thành tựu Như-lai đã khen ngợi trước đó. Thật lớn thay Bồ-tát là đặc biệt khen ngợi Bồ-tát Vô Trụ. Trí tuệ đầy đủ ấy là vì không có gì biết mà không có gì không biết. Ở bốn oai nghi thường trụ bổn lợi là như trước đã từng bày từ xa đến gần bên cạnh tòa ngồi Như-lai, vì vậy thị hiện lợi ích hiểu biết vốn có (bổn giác lợi). Bất lai khứ khứ là vắng lặng mà thường cảm hóa. Nói không đến là tùy theo sự dẫn dắt giáo hóa khiến cho được xuất thế không còn trở lại. Nói khứ khứ là tùy theo đạt được không lui sụt lần lượt vượt ra mà đến Thiện Thệ. Kinh: “Nhó thời Bồ-tát Vô Trụ nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Dó hà lợi chuyển, nhi chuyển chúng sanh nhất thiết tình thức nhập úm ma la?”. Lúc bấy giờ Bồ-tát Vô Trụ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Dùng lợi ích nào xoay chuyển tất cả tình thức của chúng sanh nhập vào Án ma la? Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai giảng rộng về nghóa của bổn lợi. Trong đó có hai: Một là trực tiếp mở rộng, hai là hiển bày lại. Trong phần đầu trực tiếp mở rộng trước là hỏi - sau là trả lời. Dùng lợi nào chuyển: Là hỏi về nghóa chủ động giáo hóa chuyển vận lợi ích, hỏi về câu “dẫn dắt các chúng sanh” ở trước. Mà chuyển chúng sanh v.v… Là hỏi về nghóa được giáo hóa chuyển vận các thức, hỏi về câu “Mà cứ đi: “Khứ khứ” trước đây. Tất cả tình thức tức là tám Thức. Úm-ma-la: Là Thức thứ chín. Nghóa về chín Thức của Tam Tạng Chân Đế căn cứ vào văn này thành lập, như chương kia giải thích. Kinh: “Phật ngôn: Chư Phật Như-lai thường dó nhất giác, nhi chuyển chư thức nhập úm ba la. Hà dó cố? Nhất thiết chúng sanh bổn giác, thường dó nhất giác như chúng sanh, linh bỉ chúng sanh giai đắc bổn giác, giác chư tình thức vắng lặng vô sanh. Hà dó cố? Quyết định bổn tánh bổn vô hữu động”. Đức Phật nói: Chư Phật Như-lai thường lấy Nhất giác mà chuyển đổi các Thức nhập vào Án-ma-ba-la. Tại vì sao? Vì tất cả chúng sanh vốn có hiểu biết, thường lấy Nhất giác để giác ngộ các chúng sanh, khiến cho chúng sanh kia đều đạt được hiểu biết vốn có, giác ngộ các tình thức vắng lặng không có sanh khởi. Tại vì sao? Vì quyết định bổn tánh vốn không có xao động. Luận chép: Là phần trả lời chính là mở rộng về nghóa của bổn lợi. Trong đó có hai: Trước là nêu ra - sau là giải thích. Chư Phật Như-lai thường dùng Nhất giác: Là nêu ra căn bản của năng hóa. Mà chuyển các thức nhập Án-ma-la: Là nêu ra sự chuyển đổi sở hóa. Trong giải thích có hai: Chính là giải thích - quay lại giải thích. Trong chính là giải thích nói Nhất thiết chúng sanh bổn giác ấy là giải thích về Nhất giác căn bản của năng hóa, tất cả chúng sanh cùng một hiểu biết vốn có cho nên nói là Nhất giác Thể của Chư Phật ở đây chính là thường cảm hóa rộng khắp (năng phổ hóa) cho nên nói là “thường dùng”. Vì dùng bổn giác này làm cho người khác giác ngộ, cho nên nói là thường dùng nhất giác giác ngộ cho chúng sanh. Khiến chúng sanh kia đều được bổn giác: Là giải thích về câu: Được giáo hóa chuyển đổi nhập vào: Bổn giác chính là Thức Án-ma-la. Đắc bổn giác: Là giải thích nghóa Nhập vào. Lúc nhập vào bổn giác ngộ, các tám Thức xưa nay vắng lặng, giác ngộ hoàn toàn cho nên các Thức không thể sanh khởi, vì thế nói là các Thức vắng lặng vô sanh. Câu này chính là giải thích về câu chuyển đổi các Thức. Văn này hiển bày đầy đủ hai Giác bổn - thỉ. Nói là Nhất thiết chúng sanh bổn giác v.v… ấy là nghóa về Bổn giác, giác ngộ các tình thức vắng lặng vô sanh ấy là nghóa về Thỉ giác, là hiển bày Thỉ giác tức là giống như Bổn giác. Từ “Vì sao? v.v…” về sau là thứ hai quay lại giải thích. Giải thích Thỉ giác trước đây vốn giác ngộ vắng lặng, tuy các tám Thức này tùy theo duyên mà động chuyển, nhưng cầu mong tánh ổn định đều không có gì đạt được, cho nên nói là Quyết định bổn tánh vốn không có xao động, vốn không có xao động cho nên vốn là vắng lặng. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Khả nhất bát thức giai duyên cảnh khởi như hà bất động?”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Có thể tám Thức của một chúng sanh đều là duyên cảnh phát khởi, như thế nào không dao động? Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai giảng nói lại. Trong đó có hai. Trước là giảng nói Thỉ giác, sau là diễn Bổn giác. Trong phần đầu cũng có hai: Một là Giảng nói các Thức Vắng lặng; hai là Giảng nói các Thức Vô sanh. Trước là sự giác ngộ của Thỉ giác, sau là Thỉ giác của khả năng giác ngộ. Trong phần đầu thì có sáu phần hỏi - đáp trong đó có ba: Một là Hai lần hỏi đáp trước chính thức nói về Vắng lặng. Hai là Hỏi đáp lần thứ ba là nói về Tướng không giống nhau. Ba là ba lần hỏi đáp sau nói về Tướng không khác nhau. Lần hỏi đáp đầu tiên này nói về không có khởi lên xao động. Nói Khả nhất: Là nói rằng tất cả, nghóa là tất cả chúng sanh vốn có tám thức; đều duyên cảnh khởi: Trong bốn duyên tạm thời nêu ra duyên duyên để vấn nạn về không dao động (bất động). Kinh: “Phật ngôn: Nhất thiết cảnh bổn không, nhất thiết thức bổn không, không vô duyên tánh như hà duyên khởi?”. Đức Phật nói: Tất cả cảnh vốn không, tất cả Thức vốn không, không có tánh duyên thì làm sao duyên khởi? Luận chép: Tạm thời xả bỏ cảnh duyên, nói lên Thức không có khởi. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Nhất thiết cảnh không như hà kiến? Phật ngôn: Kiến tức vi vọng, hà dó cố? Nhất thiết muôn hữu vô sanh, vô tướng, bổn bất tự danh, tất giai vắng lặng, nhất thiết pháp tướng diệc phục như thị, nhất thiết chúng sanh thân diệc như thị, thân thượng bất hữu vân hà kiến?”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Tát cả cảnh không thì làm sao thấy? Đức Phật nói: Thấy tức là vọng, tại vì sao? Vì tất vả muôn hữu không có sanh - không có tướng, vốn không tự nơi tên gọi, thảy đều vắng lặng, tất cả pháp tướng cũng như vậy, tất cả thân chúng sanh cũng như vậy, thân hãy còn chẳng thể có thì làm sao thấy? Luận chép: Dưới đây là hỏi đáp lần thứ hai nói về thấy là vọng vì vọng cho nên là chân không, nghóa là cảnh là không cho nên thấy có cảnh tức là vọng, thấy cũng là không cho nên suy nghó có thấy cũng là vọng. Trong giải thích có hai, chung và riêng: Nói chung: Ấm giới đều có vốn không từ nơi tên gọi - Ngã là các sắc, chỉ do vọng tâm gọi là các sắc, vì thế cho nên tất cả thảy đều là không vắng lặng. Trong nói riêng cho rằng tất cả pháp tướng cũng giống như thế: Nghóa là pháp tướng sáu trần bên ngoài như núi sông. Tất cả chúng sanh thân cũng như thế: Thân năm ấm bên trong như sắc - thọ v.v… thân thể hãy còn không làm sao có dụng thấy? Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Nhất thiết cảnh không, nhất thiết thân không, nhất thiết thức không, giác diệc ứng không. Phật ngôn: Khả nhất giác giả bất hủy bất hoại, quyết định tánh phi không phi bất không vô không bất không”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Tất cả cảnh là không, tất cả thân là không, tất cả Thức là không, hiểu biết cũng phải là không. Đức Phật nói: Có thể tất cả hiểu biết ấy không phá hủy không làm hỏng, quyết định tánh chẳng phải là không - chẳng phải không là không - không có là không - không thể là không. Luận chép: Dưới đây là lần thứ ba nói về tướng không giống nhau của hiểu biết - không hiểu biết (giác bất giác). Ý hỏi rằng Giác cũng nên là Không: Từ duyên sanh ra Thức đã là không, từ duyên khởi lên Giác cũng là không, Thức đã là không cho nên thấy đó là vọng, Giác cũng là không cho nên Giác đó cũng vọng. Đức Phật trả lời ý nói rằng tất cả hiểu biết ấy, không làm hỏng đạo lý cho nên chẳng phải có thể là không, không giữ lại tự tánh cũng chẳng phải không thể là không, vì thế trong giác không có là không - không thể là không. Các Thức không như thế, vọng giữ lấy các pháp không phù hợp với chân lý, có thể là không có thể xả bỏ, như vậy không giống nhau, sao có thể tương tự lẫn nhau? Quyết định tánh: Nghóa là chân như tánh không thể phá hoại được, vì tánh tự nhiên như thế. Nói không hủy: Không giữ lấy tướng có dùng cản trở không. Nói không hoại: Không tính toán tánh không có, dùng tổn hại chân thật. Nghóa là không hủy hoại đối với tánh quyết định. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Chư cảnh diệc nhiên phi không tướng phi vô không tướng. Phật ngôn: Như thị bỉ khả cảnh giả tánh bổn quyết định, quyết định tánh căn vô hữu nơi chốn. Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Giác diệc như thị vô hữu nơi chốn. Phật ngôn: Như thị giác vô xứ cố thanh tịnh, thanh tịnh vô giác vật vô xứ cố thanh tịnh, thanh tịnh vô sắc”. Bồ- tát Vô Trụ chép: Các cảnh cũng như vậy chẳng phải tướng là không chẳng phải tướng chẳng có không. Đức Phật nói: Như vậy có thể cảnh kia là tánh vốn quyết định, gốc rễ quyết định tánh không có nơi chốn. Bồ-tát Vô Trụ chép: Giác cũng như vậy không có nơi chốn. Đức Phật nói: Như vậy Giác không có nơi chốn cho nên thanh tịnh, thanh tịnh không có sắc Giác, không có nơi chốn cho nên thanh tịnh, thanh tịnh không có Sắc. Luận chép: Dưới đây là ba lần nói về tướng không sai khác. Trong đó hai lần trước nói về tướng giống nhau của Giác và Cảnh, lần hỏi đáp sau hiển rõ tướng giống nhau của Giác và thức. Trong phần đầu lần trước nói về Cảnh giống như Giác, nói là các cảnh vọng xưa nay không có, đã không có điều đó, sao có tướng là không? Đã chẳng phải có là không, sao có thể không có là không. Vì thế nói “phi không tướng phi vô không tướng”. Theo điều này mà nói thì không khác với Giác. Trong trả lời nói Tánh vốn quyết định: Trình bày vốn không có cho nên chẳng phải tướng là không. Không có nơi chốn: Trình bày chẳng phải có là không cho nên chẳng phải không có là không. Lần hỏi đáp sau trình bày Giác giống như cảnh. Giác cũng như vậy: Giác cũng là duyên sanh, vì tánh vốn là không. Trong trả lời nói Thanh tịnh vô giác: Lý của Giác là không xa lìa tất cả tướng cho nên nói là thanh tịnh. Giác tánh đã là không - trong là không không có Giác, như trong sắc là không không có tướng của Sắc. Trước nói về Cảnh giống như Giác ấy là lấy nghóa về Cảnh chẳng phải là không chẳng phải không là không đồng với nghóa về Giác trước đây chẳng phải là không chẳng phải không là không. Nay nói về Giác giống như cảnh ấy là dùng lý vô tướng là không của Giác tánh đồng với nghóa vô tướng là không của Cảnh. Hai văn không giống nhau cần phải biết như vậy. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Tâm nhãn thức diệc phục như thị không thể nghó bàn. Phật ngôn: Tâm nhãn thức diệc phục như thị không thể nghó bàn, hà dó cố sắc vô nơi chốn thanh tịnh vô danh bất nhập ư nội, nhãn vô nơi chốn thanh tịnh vô kiến bất xuất ư ngoại, tâm vô nơi chốn thanh tịnh vô thượng vô hữu khởi xứ, thức vô nơi chốn thanh tịnh vô động vô hữu duyên biệt, tánh giai vắng lặng”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Tâm - nhãn - thức cũng giống như thế không thể nghó bàn. Đức Phật nói: Tâm - nhãn - thức cũng giống như thế không thể nghó bàn. Vì sao? Vì sắc không có nơi chốn, thanh tịnh không tên gọi không thể nhập vào bên trong, nhãn không có nơi chốn, thanh tịnh không trông thấy không thể vượt ra bên ngoài; tâm không có nơi chốn, thanh tịnh không gì hơn không có xứ khởi lên, thức không có nơi chốn, thanh tịnh không dao động không có duyên khác nhau, tánh đều là không vắng lặng. Luận chép: Đây là lần thứ ba nói về Thức giống như Giác. Tâm nhãn thức: Nghóa là tâm chứa nhóm hạt giống nhãn thức và hạt giống này đã khơi dậy nhãn thức. Sơ lược đưa ra hai thứ này nêu lên tánh là không đó. Về sau dựa sát vào bốn duyên nói về nhãn thức là không. Sắc không nơi chốn: Vì tánh của Sắc tự là không. Thanh tịnh vô danh: Vì trong là không không có Sắc. Không nhập ở trong: Vì không cùng với nhãn căn làm thành cảnh giới, là nói về sở duyên duyên là không. Nhãn không có nơi chốn thanh tịnh không có thấy: Vì trong nhãn tánh là không không có nhãn căn. Không ra ở ngoài: Vì không có năng lực thật hành đối với cảnh giới sắc, là nói về tăng thượng duyên là không. Tâm không nơi chốn thanh tịnh vô thượng: Trong hạt giống là không không có hạt giống, vì đứng đầu trong bốn duyên không có nơi chốn khởi lên: Vì nơi chốn không tự khởi lên Thức, là nói về nhân duyên là không. Thức không có nơi chốn, thanh tịnh không động: Vì đã không có ba duyên thì nhãn thức không thể khởi lên. Không có duyên khác nhau: Dùng vô duyên sắc liễu biệt Thức, là nói về Đẳng vô gián duyên và nhãn thức là không. Duyên ấy là duyên của diệt trước đây, biệt ấy là biệt của kết thúc; sanh sau này. Hai thứ này đều là không cho nên nói là vô hữu. Như vậy bốn duyên và thức đều là không, tổng kết nói là Tánh đều vắng lặng. Như nói nhãn thức và bốn duyên đều là không cho đến ý thức thuận theo như vậy mà nói, gọi là pháp không có nơi chốn thanh tịnh không tên gọi không nhập vào bên trong, ý không có nơi chốn thanh tịnh không nhìn thấy không vượt ra bên ngoài, tâm không có nơi chốn, thanh tịnh không gì hơn, không có xứ khởi lên, thức không có nơi chốn, thanh tịnh không dao động không có duyên khác nhau, tánh đều là không vắng lặng. Ý trong này ấy là Thức thứ bảy. Tâm trong này ấy là Thức thứ tám, là nói về tám Thức, đều hoàn toàn là không vắng lặng cho nên đồng với tất cả Giác Không. Kinh: “Tánh vô hữu giác giác tắc vi giác. Thiện nam tử! Giác tri vô giác chư thức tắc nhập, hà dó cố? Kim cương trí địa, giải thoát đạo đoạn, đoạn dó nhập vô trụ địa, vô hữu xuất nhập, tâm xứ vô tại, quyết định tánh địa, kỳ địa thanh tịnh như tịnh lưu ly, tánh thường bình đẳng như bỉ đại địa, giác diệu quán sát như tuệ nhật quang, lợi thành đắc bổn như đại pháp vũ, nhập thị trí giả thị nhập Phật trí địa, nhập trí địa giả chư Thức bất sanh”. Tánh không có giác - giác tức là giác. Này người thiện nam! Giác biết là không có giác thì các thức lập tức hội nhập, tại vì sao? Vì Kim cương trí địa, giải thoát đạo đoạn, đoạn rồi nhập vào vô trụ địa, không có ra vào, tâm xứ không tồn tại, quyết định tánh địa, địa đó thanh tịnh như lưu ly trong suốt, tánh thường bình đẳng như mặt đất kia, khéo hiểu biết quán sát như ánh sáng mặt trời trí tuệ, lợi ích thành tựu đạt được căn bản như cơn mưa đại pháp, người nhập vào trí này là nhập vào Phật trí địa, nhập vào trí địa ấy thì các Thức bất sanh khởi. Luận chép: Đây là phần thứ hai nói về các Thức bất sanh khởi. Muốn trình bày lúc đầu tùy theo vô minh mà các Thức sanh sanh khởi nay thuận theo Thỉ giác trở về nguồn tâm. Lúc quay về nguồn tâm các Thức không khởi lên, Thức không khởi lên cho nên Thỉ giác đầy đủ trọn vẹn. Trong đó có hai: Sơ lược nêu ra và mở rộng giải thích. Trong phần nêu ra cũng có hai: Đầu tiên nói Tánh không có giác giác tức vi giác: Là nêu lên chương Thỉ giác viên mãn. Giác biết không có giác thì các thức liền nhập: Là nêu lên chương các thức bất sanh. Nói Tánh không có giác: Nghóa là trong Không Tánh không những không có Thức mà cũng không có Thỉ giác. Giác ngộ biết lý không có giác tức là trí của Thỉ giác cho nên nói là Giác tức là giác. Nói Giác biết là không có giác: Nhắc lại Thỉ giác trước đó, lúc thỉ giác đầy đủ thì tám Thức không khởi lên, vì thuận theo Giác không có giác không có các Thức. Vì thuận theo Giác cuối cùng quay về nguồn tâm, cho nên nói các Thức liền hội nhập. Từ “Vì sao?” về sau trong phần giải thích có hai: Trước nói về nhân đầy đủ, sau hiển rõ về quả trọn vẹn. Kim cương trí địa: Nói là địa vị Đẳng giác đầy đủ nhân của Thỉ giác, Kim cương dụ cho Định - nghóa như trước đã nói, nay dựa theo nhân của Giác gọi là Kim cương gọi là Kim cương trí. Giải thoát đạo đoạn: Nhân của Bất sanh đầy đủ. Nhưng trong này Đoạn có hai nghóa của nó. Nếu đối với sanh đạt được Vô minh trụ địa, tức là Kim cương tâm làm Vô gián đạo, Diệu Giác sơ tâm là Giải thoát đạo. Lúc Vô gián đạo cùng với vô minh đều còn, Giải thoát đạo khởi lên mới có thể chính thức đoạn. Nếu đối với hạt giống hý luận của các Thức hý luận, thì tâm trước đó là vô gián đạo, cùng với hạt giống kia cùng khởi lên cùng diệt đi, một niệm sau cuối Kim cương dụ Định là Giải thoát đạo, chính thức đoạn hạt giống. Nay dựa theo phần nghóa đoạn hạt giống đó cho nên nói Kim cương giải thoát đạo đoạn. Lúc này hiện có Dị thục Thức ấy là do hạt giống đã sanh ra niệm trước đó, vì sanh khởi nhân quả không cùng một thời gian. Sau này Dị thục không tiếp tục sanh khởi ấy là lúc này đã đoạn tất cả hạt giống. Vì vậy biết Hán dịch Giải thoát đạo đoạn chính là nhân của các Thức bất sanh. Kế đến hiển bày quả đó. Trong đó có hai: Trước là nói về Giác viên mãn, sau là nói về Thức bất sanh. Trong phần đầu chép: Đoạn rồi nhập vô trụ địa: Kim cương giải thoát đoạn hạt giống rồi, liền nhập địa vô trụ của Diệu Giác. Ngoài hai đế tồn tại độc lập không có hai cho nên nói là vô trụ. Tâm của Vô trụ cùng dứt hết hai đế cho nên nói không có khác nhau giữa xuất tục nhập chân đã không có xuất nhập - không tồn tại Không Hữu cho nên nói Tâm xứ không tồn tại. Nơi chốn không tồn tại chỉ là Nhất tâm. Thể của Nhất tâm xưa nay vắng lặng cho nên nói là Quyết định tánh địa. Lúc nhất tâm hiển bày thì tám Thức đều xoay chuyển, cho nên ở tại lúc này bốn trí viên mãn. Vì sao? Vì chính nhất tâm này xa lìa ám muội trở thành sáng suốt, rõ ràng trong sáng không hình ảnh nào không thể chiếu rọi cho nên nói là địa đó thanh tịnh. Như lưu ly trong suốt: là hiển bày nghóa của Đại viên cảnh trí: Ngay nơi nhất tâm này xa lìa hai bên thông suốt tự tha bình đẳng không hai cho nên nói là Tánh thường bình đẳng. Như đại địa kia: Là hiển nghóa của Bình đẳng tánh trí. Nhất tâm như vậy không có gì quán xét (vô sở quán) cho nên đối với các pháp môn không có gì không thể quán sát, vì thế nói là Giác diệu quán sát. Như ánh sáng mặt trời trí tuệ: Là nói về nghóa của Diệu quán sát trí: Như vậy nhất tâm không có nghóa gì tạo tác (Vô sở tác) cho nên đối với sự việc lợi tha không có gì không thể thật hiện, vì thế nói là lợi thành tựu bổn như mưa pháp lớn. Cơn mưa tưới thấm muôn vật khiến cho quả hạt thành tựu; trí này cũng như vậy, sự việc lợi tha thành tựu làm cho đạt được bổn giác, là nói về nghóa của Thành sở tác trí. Bốn trí đã trọn vẹn là Thỉ giác đầy đủ. Từ “người nhập vào trí địa này v.v…” về sau là kế là nói về các Thức bất sanh. Đạt được bốn trí này chính là địa vị của Diệu Giác, cho nên nói là nhập vào Phật trí địa. Lúc này đã quay về cội nguồn của Nhất tâm, vì các làn sóng của tám Thức không thể tiếp tục khởi động, nhập vào trí địa ấy thì các Thức bất sanh khởi vậy. Hai phần trên đây giảng nói về Thỉ giác hoàn tất. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Như-lai sở nói nhất giác thánh lực tứ hoằng trí địa, tức nhất thiết sanh bổn căn giác lợi. Hà dó cố? Nhất thiết chúng sanh tức thử thân trung bổn lai mãn túc?”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Như-lai đã nói về Nhất giác Thánh Lực - tứ hoằng trí địa, chính là tất cả chúng sanh vốn có gốc rễ lợi ích giác ngộ. Tại vì sao? Vì tất cả chúng sanh ngay trong thân này xưa nay đầy đủ. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai giảng nói về nghóa của Bổn giác. Trong đó có hai: Một là chính thức trình bày, hai là xả bỏ mê đắm. Trong phần một cũng có hai: trước là nói về lý không có hai của Bổn giác, sau là chỉ ra môn nhập chứng của trừ chướng, trong phần trước cũng có hai: Đầu là hỏi, sau là trả lời. Trong phần hỏi Nhất giác Thánh lực tứ hoằng trí địa ấy là tiếp thu lần lượt nghóa của bốn trí đã nói trước đây. Thỉ giác viên mãn tức là giống như Bổn giác, Bổn - Thỉ không hai cho nên gọi là Nhất giác. Không có việc gì không làm cho nên nói là Thánh lực. Trong nhất giác đều là bốn đại trí địa nắm giữ các công đức, cho nên nói là Trí địa. Như vậy bốn trí giống nhau một tâm, lượng đều không có gì không hoàn bị, cho nên gọi là Hoằng trí. Như vậy Nhất giác chính là Pháp thân, pháp thân tức là chúng sanh Bổn giác, cho nên nói tất cả chúng sanh vốn có gốc rễ lợi ích giác ngộ. Xưa nay vốn có vô lượng tánh đức xông ướp tâm chúng sanh làm nên hai thứ nghiệp, cho nên gọi là Bổn lợi. Căn cứ vào nghóa Bổn giác không hai cho nên không có một chúng sanh nào vượt ra ngoài pháp thân, vì vậy nói tức trong thân này xưa nay vốn đầy đủ. Kinh: “Phật ngôn: Như thị! Hà dó cố? Nhất thiết chúng sanh bổn lai vô lậu, chư thiện lợi bổn, kim hữu dục thứ vi vị hàng phục”. Đức Phật nói: Đúng vậy! Vì sao? Vì tất cả chúng sanh xưa nay vô lậu là căn bản của các thiện, lợi, nay có dục giữ lấy mà vì chưa hàng phục. Luận chép: Đây là trả lời đồng ý các câu hỏi. Trình bày trong Bổn giác có vô lượng tánh đức không bị ba lậu làm cho nhiễm động, cho nên nói là Xưa nay vô lậu. Lấy đây làm căn bản sinh các điều thiện, ích lợi, cho nên nói là căn bản của các thiện, lợi. Tuy có Bổn giác mà do khách trần dục giữ lấy che phủ, cho nên nay chưa đạt được Bổn giac chính mình mà thôi. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Nhược hữu chúng sanh vị đắc bổn lợi, do hữu thái tập, vân hà hàng phục nan phục? Phật ngôn: Nhược tập nhược độc hành, phân biệt cập dữ nhiễm, hồi thần trụ không quật, hàng phục nan điều phục, giải thoát ma sở phược, siêu nhiên lộ địa tọa, thức ấm bàn Niết-bàn”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Nếu có chúng sanh chưa đạt được lợi ích vốn có, còn có sưu tập, làm sao hàng phục điều khó hàng phục? Đức Phật nói: Hoặc là tập - hoặc là độc hành phân biệt cùng với đắm nhiễm, quay lại tinh thần an trụ hang trống, hàng phục cái khó điều phục, thoát khỏi sự trói buộc của ma, vượt ra ngoài ngồi nơi đất trống, thức - ấm nhập vào Niết-bàn. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai chỉ ra môn trừ chướng hội nhập chứng. Trong đó cho hai: Trước hỏi - sau đáp. Trong Hỏi nói tập ấy là trình bày ba Hữu muốn giữ lấy quả sanh tử cho nên nói là Thái (thu thập) các phiền não này cùng với tâm tương ưng cho nên nói là Tập (Nhóm họp). Từ vô thỉ đến nay hiện hành không ngớt cho nên nói là khó phục. Trị đạo mới sanh khởi lực đó còn yếu kém, làm sao có thể điều phục, nghi ngờ như vậy. Trong trả lời có ba: Trước là đưa ra Sở phục, sau nói khả năng điều phục đạt được những thắng lợi. Hoặc tập, hoặc riêng làm: Tâm hành của chúng sanh thô tế không chắc chắn, hoặc lúc phiền não tương ưng cho nên Tập, hoặc lúc tâm hành xa lìa hoặc chướng cho nên riêng. Lúc xa lìa phiền não hãy còn có pháp chấp phân biệt, lúc phiền não đều còn thì bị đắm nhiễm bởi phiền não, vì thế nói là phân biệt cùng với nhiễm. Kế là nói về Năng phục: Nói là nương vào kinh Phật, hồi chuyển tâm thần, gạt tướng người pháp an trụ lý hai không, cho nên nói là hồi chuyển tâm thần trụ nơi hang trống. Tâm này mới khởi lên mà thuận với đạo lý, cho nên có năng lực hơn hẳn. Hoặc chướng kia từ vô thỉ mà trái ngược đạo lý cho nên không thể nào địch nỗi. Do đó nói Hàng phục sự khó điều phục, là nói về Địa tiền điều phục trừ diệt hai chướng. Căn cứ vào đây điều phục đạo nhập vào địa của đoạn đạo, dần dần bạt trừ hạt giống cho đến mãi mãi không còn. Lúc không bao giờ còn thì xa lìa bốn loại ma, cho nên nói Giải thoát ma ràng buộc. Kế đến nói về hàng phục đạt được những thắng lợi có hai, đó là Bồ-đề quả cùng với quà quả. Bồ-đề quả là vượt khỏi nơi làng xóm của năm ấm hữu lậu ngồi nơi đạo tràng đạt được vô thượng giác, cho nên nói vượt ra khỏi ngồi nơi đất trống. Nói quả quả ấy là dùng vô thượng giác chứng đại Niết-bàn, giác ngộ các Thức đều hội nhập, cho nên nói Thức ấm bát Niết-bàn. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Tâm đắc Niết-bàn độc nhất vô bạn, thường trụ Niết-bàn ưng đương giải thoát”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Tâm đạt được Niết-bàn chỉ có một chẳng bè bạn, thường an trụ Niết-bàn sẽ hướng về giải thoát. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai xả bỏ mê đắm. Trong đó có hai: Trước là nói về vô trụ để xả bỏ sự mê đắm của có an trụ, sau là chỉ ra vô đắc để trừ diệt cái chấp của có đạt được. Trong phần đầu có hai: Trước hỏi - sau trả lời. Trong phần Hỏi nói chỉ có một là lúc tám Thức chuyển đổi trở thành một Giác. Nói không bè bạn là hai chấp về người - pháp xa lìa không còn. Giác của không bè bạn thường an trụ vào Niết- bàn Trí của thường an trụ thoát khỏi tất cả ràng buộc; có dấy lên cái chấp này cho nên thật hiện câu hỏi này. Kinh: “Phật ngôn: Thường trụ Niết-bàn thị Niết-bàn phược. Hà dó cố? Niết-bàn bổn giác lợi, lợi bổn Niết-bàn. Niết-bàn giác phần tức bổn giác phần Giác tánh bất dị Niết-bàn vô dị, giác bổn vô sanh Niết-bàn vô sanh, giác bổn vô diệt Niết-bàn vô diệt. Niết-bàn bổn cố vô đắc Niết- bàn, Niết-bàn vô đắc vân hà hữu trụ? Thiện nam tử! Giác giả bất trụ Niết-bàn. Hà dó cố? Giác bổn vô sanh ly chúng sanh cấu, giác bổn vô tịch ly Niết-bàn động. Trụ như thị địa tâm vô sở trụ, vô hữu xuất nhập úm ma la”. Đức Phật nói: Thường an trụ Niết-bàn là Niết-bàn ràng buộc. Tại vì sao? Vì Niết-bàn vốn là giác lợi, lợi ích vốn là Niết-bàn. Niết-bàn giác phần chính là căn bản giác phần. Giác tánh không thể khác Niết-bàn không khác nhau, giác bổn bất sanh khởi Niết-bàn bất sanh khởi, giác bổn không diệt đi, Niết-bàn không diệt Niết-bàn vốn có cho nên không đắc Niết-bàn, Niết-bàn không đạt được làm sao có an trụ? Này thiện nam! Giác là không an trụ Niết-bàn. Tại vì sao? Vì giác vốn bất sanh khởi xa lìa chúng sanh cấu nhiễm, giác vốn không vắng lặng xa lìa Niết-bàn xao động. An trụ nơi như vâïy thì tâm không có gì an trụ (vô sở trụ), không có ra vào hội nhập úm ma la. Luận chép: Đây là phần trả lời chính là xả bỏ cái chấp về có an trụ. Trong đó có hai: Đầu tiên sơ lược phá trừ chấp trước, sau đó rộng ra hiển bày rõ lý. Trong phần đầu nói Thường trụ Niết-bàn là Niết-bàn trói buộc ấy là giả sử có Giác thường an trụ vào Niết-bàn tức là chấp trước ràng buộc đối với Niết-bàn, làm sao thường an trụ là giải thoát được? Từ “Vì sao..” về sau mở rộng hiển bày rõ đạo lý. Lý không có an trụ vì vậy có an trụ là trái với lý. Tâm trái với lý chẳng phải ràng buộc thì là gì? Ý giải thích như vậy. Trong đó có hai: Trước là dựa theo Bổn giác để trình bày vô trụ, sau là dựa theo Thỉ giác để hiển bày rõ Vô trụ. Nghóa về Vô dị này có bốn loại của nó: 1.Lý vốn không khác nhau. Vì như kinh nói “Niết-bàn vốn là giác lợi, lợi vốn là Niết-bàn”, là nói về Niết-bàn, là vốn có giác lợi. Giác lợi vốn có này là nguồn gốc Niết- bàn, Thỉ giác đó chính là đồng với Bổn giác, vì thể không khác nhau cho nên không đạt được. 2. Giác phần không khác nhau. Như kinh nói “Niết-bàn giác phần tức bổn giác phần”, là nói về các đức của Niết-bàn chính là đức của bổn giác, không khác nhau - không đạt được như trước giải thích. 3. Một vị không khác nhau. Như kinh nói “Giác tánh không thể khác Niết-bàn không khác”, là nói về giác tánh đồng nhất vị không có tướng sai khác, tức là không có sai khác về Niết-bàn. 4. Không hai không khác nhau. Như kinh nói “Giác vốn vô sanh, Niết-bàn vô sanh, giác vốn vô diệt Niết-bàn vô diệt”, là nói về Bổn giác vốn không có sanh diệt, tức là không có sanh diệt của Niết-bàn. Căn cứ theo bốn loại đạo lý vô dị này vốn không có khác nhau cho nên không có đắc Niết-bàn, là nói về nghóa không có “năng đắc” Niết-bàn giác. Kế đến nói Niết-bàn vô đắc. Là nói về nghóa Niết-bàn, không có “sở đắc”. Đã không có năng đắc, sở đắc, thì đâu có khả năng trụ, sở trụ? Vì đều này cho nên chép: Làm sao có an trụ? Chính là hiển bày rõ thường trụ không thể thích hợp đạo lý. Kế đến dựa theo Thỉ giác để nói về vô trụ, trước nêu ra - sau giải thích. Nói Giác giả: Nghóa là người bắt đầu giác ngộ. Trong giải thích nói Giác vốn vô sanh ấy là giác ngộ biết rõ sanh tử xưa nay bất sanh khởi, cho nên xa lìa mê đắm sự cấu nhiễm của sanh tử. Nói giác vốn vô tịnh ấy là giác ngộ biết rõ Niết-bàn vốn không vắng lặng, cho nên xa lìa nhập vào sự xao động của Niết-bàn. Tâm không có sở trụ: Vì không trụ vào sanh tử và Niết-bàn. Không có xuất nhập: Vì không thấy Tục hữu và chân Không. Nhập Úm-ma-la: Vì Thể của nhất tâm xa lìa hai bên quay về nguồn tâm này cho nên gọi là Nhập. Như vậy vô trụ mới được giải thoát, vì thế trụ (chấp) Niết-bàn không thể xa lìa ràng buộc. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Úm-ma-la thức thị hữu nhập xứ, xứ hữu sở đắc thi đắc pháp dã”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Thức Úm-ma-la là có nơi nhập vào, nơi có những gì đạt được là đạt được pháp vậy. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai xả bỏ chấp trước về có đạt được. Trong đó có bốn: 1. Chính thức nói về vô đắc. 2. Tiếp tục xả bỏ tính ý nghi ngờ. 3.Lónh ngộ hiểu rõ. 4.Nói về thành tựu. Trong phần một có hai: Trước hỏi - sau trả lời. Dựa theo lời nói về Nhập trước kia như nói nghóa “giữ lấy”, nói rằng Vô cấu thức tức có chỗ sở nhập, lúc nhập vào chứng đắc cho nên có sở đắc. Có dấy lên nghi ngờ này cho nên thật hiện câu hỏi này. Kinh: “Phật ngôn: Bất! Hà dó cố? Thí như mê tử thủ chấp kim tiền nhi bất tri hữu, du hành thập phương kinh ngũ thập niên, bần cùng khốn khổ chuyên sự cầu sách, nhi dó dưỡng thân nhi bất sung túc. Kỳ phụ kiến tử hữu như thị sự nhi vị tử ngôn: Nhữ chấp kim tiền hà bát thủ dụng, tùy ý sở tu giai đắc sung túc. Kỳ tử tỉnh dó nhi đắc kim tiền tâm đại vui mừng nhi vị đắc tiền. Kỳ phụ vị ngôn: Mê tử! Nhữ vật hân dịch, sở đắc kim tiền thị nhữ bổn vật, nhữ phi hữu đắc vân hà khả hỷ?”. Đức Phật nói: Không thể! Tại vì sao? Vì ví như người con mê muội tay cầm tiền vàng mà không biết là có, lang thang khắp nơi trải qua năm mươi năm trời, nghèo túng khốn khổ chuyên việc tìm kiếm để mà nuôi thân nhưng không đầy đủ. Người cha thấy con có việc như vậy nên gọi người con chép: Con cầm tiền vàng sao không lấy sử dụng, tùy ý cần thứ gì đều được đầy đủ. Người con tỉnh ngộ rồi mà lại được tiền vàng, lòng rất vui sướng nên mà cho rằng mình được tiền. Người cha chép: Này con mê muội! Con chớ vui mừng, tiền vàng có được là vật con vốn có, chẳng có gì đạt được thì vì sao đáng mừng? Luận chép: Đây là phần trả lời chính là nói về nghóa của Vô đắc. Trong đó có ba: Đó là pháp - dụ - hợp. Đầu tiên nói “không thể” là chung về không phải có đạt được. Từ “Vì sao? v.v…” trở xuống là Dụ nói về Vô đắc. Trong đó có bốn loại Dụ: 1.Dụ về người mê không biết có tiền vàng lang thang nghèo khổ. 2.Dụ về người cha chỉ ra cho con có tiền vàng khiến cho được đầy đủ. 3. Dụ về vui mừng được tiền vàng. 4. Dụ về nói cho biết không phải có đạt được. Trong dụ đầu nói người con mê muội nghóa là các chúng sanh mê mờ nguồn tâm của mình, Như-lai vô cùng thương xót xem giống như con một, cho nên dụ là người con mê muội. Cùng tử nơi Pháp Hoa chỉ hạn cuộc dụ cho Thanh-văn, trong kinh này dụ cho tất cả chúng sanh. Tay cầm tiền vàng…” là dụ cho các vọng thức năm sự phiền não ràng buộc chấp trước phân biệt, bao phủ tâm thanh tịnh của mình cho nên không biết là có. “Đi rảo mười phương…” vì biến kế năm tướng và năm sự. “Trải qua năm mươi năm”: Là thọ nhận năm Ấm sanh ra năm mươi ác. Bần “Nghèo” do là ít có điều thiện thế gian. “Túng” là vì hoàn toàn không có tài vật xuất thế. Khốn đốn là hoặc đọa tam đồ, khổ sở là hoặc sanh trong trời - người chịu khổ đau nhẹ hơn. “Chỉ biết cầu xin” là cầu niềm vui thế gian làm phước nghiệp. “Ma dùng nuôi thân” là thọ nhận niềm vui trời người mà thọ dụng. “Mà không sung túc” ấy là thọ nhận niềm vui thế gian càng tăng thêm khát ái, hưng thịnh thì có suy tàn, vì lợi ích vô nghóa. Trong Dụ thứ hai người cha thấy con: Đức Phật quay về nguồn tâm đồng thể đại bi, vì các chúng sanh làm người cha hiền từ. “Có sự việc như vậy” là có như Dụ đầu đã nói “Mà bảo con rằng”: Là vì chúng sanh nói về giáo pháp Đại thừa. “Người giữ tiền vàng sao không đem dùng” là chỉ rõ có tâm thanh tịnh nên tin hiểu. “Tùy ý cần dùng đều được sung túc” là nếu sử dụng tâm thanh tịnh thì Bổn giác thắng lợi, Pháp thân tuệ mạng được đầy đủ trọn vẹn. Trong Dụ thứ ba người con tỉnh ra: Nghe giáo pháp Đại thừa mà sanh ra tin hiểu, địa vị ở nơi Địa tiền, “Rồi lại được tiền vàng” là được nhập vào sơ địa chính là thông suốt địa vị, chứng thấy Phật tánh lợi ích Bổn giác. “Tâm rất vui mừng” là trong Hậu đắc trí niệm đang hiện tiền được sanh khởi niềm vui cực độ. Mà cho rằng mình được tiền là: Xuất quán thất niệm trong tâm hữu lậu cho nên khởi lên chấp pháp, nói là có đắc. Trong Dụ thứ tư “Tiền vàng có được là vật vốn có của ngươi”: Là chỉ ra lợi ích của Bổn giác đã chứng được đó xưa nay thuộc về ông chứ không phải mới có. Ngươi không phải có được sao có gì đáng vui?” Là đã vốn thuộc về ngươi chứ không phải nay mới đạt được, vì thế không nên đối với cái đạt được sanh tâm mê đắm. Ngươi chớ vui quá là ngăn dứt sự phân biệt, cho rằng có đạt được mà sanh khởi mê đắm vui mừng thích thú. Kinh: “Thiện nam tử! Úm-ma-la giả diệc phục như thị, bổn vô xuất tướng, kim tắc phi nhập, tích mê cố phi vô, kim giác cố phi nhập”. Này người thiện nam! Úm-ma-la cũng giống như vậy, vốn không có tướng vượt ra, nay thì chẳng phải nhập vào, xưa mê muội nên chẳng phải không có, nay giác ngộ vì thế chẳng phải nhập vào. Luận chép: Đây là phần thứ ba về Hợp. Trong đó có hai: Chung kết hợp và riêng kết hợp. Trong phần kết hợp chung nói úm ma la: Hán dịch là Vô Cấu, Bổn giác vốn thanh tịnh - tánh không hề chuyển biến thay đổi giống như tiền vàng kia tánh không có thay đổi. Lại nữa. Kim (vàng) có bốn nghóa về Dụ. Thường lạc ngã tịnh trong Bổn giác là hợp chung với nghóa kim Tiền (tiền vàng) trong bốn Dụ. Trong hợp riêng có bốn câu. “Vốn không có tướng ra” là hợp dụ thứ nhất câu “tay cầm tiền vàng” Nay tức không phải vào là hợp dụ thứ ba câu: “Mà được tiền vàng” Xưa mê nên không phải không có, là hợp với thứ hai, câu “con cầm tiền vàng sao không lấy sử dụng”. “Xưa mê cho nên không sử dụng, mà tay cầm vì thế chẳng phải không có. Nay giác ngộ nên không phải là hội nhập hợp với dụ thứ tư câu: Là vật con vốn có, chẳng phải đạt được”. Nay giác ngộ vốn có không ngoài tự tâm, đã vốn có không ngoài sao có thể nhập vào, chẳng phải có nhập vào cho nên chẳng phải có đạt được. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Bỉ phụ tri kỳ tử mê vân hà kinh ngũ thập niên thập phương du lịch bần cùng khốn khổ phương thỉ các ngôn? Phật ngôn: Kinh ngũ thập niên nhất niệm tâm động thập phương du lịch viễn hành biến kế”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Người cha kia biết con mình mê muội vì sao trải qua năm mươi năm rong ruỗi khắp mười phương, nghèo cùng khốn khổ rồi mới bảo cho biết. Đức Phật dạy: Trải qua năm mươi năm, một niệm tâm động, mười phương, suy nghó khắp nơi đi xa. Luận chép: dưới đây là tiếp tục xả bỏ tình ý nghi ngờ. Ba lần hỏi đáp lần lượt xả bỏ nghi ngờ, đây là lần thứ nhất. Hỏi dựa vào Dụ mà nghi ngờ. Đáp ngay nơi pháp để xả bỏ. Ý trả lời nhưng chép: Trải qua năm mươi năm, dụ cho Nhất niệm tâm động. Đi khắp mười phương, dụ cho dự định đi xa. Đây tức là trong khoảng một niệm suy nghó khắp cả các pháp, chính là ở tại niệm này người cha đã nói cho biết, lúc nói cho biết liền được tỉnh ngộ, lúc ở niệm cuối cùng đạt được không có gì đạt được, như giác ngộ tiền vàng mà không có gì đạt được. Vì lẽ đó người cha nói cho biết chẳng phải là trải qua thời gian dài, chỉ là hiển rõ một niệm có đủ năm mươi ác nghiệp, vì thế trong Dụ nói là trải qua năm mươi năm mà thôi. Ý trả lời như vậy. Nghóa này là thế nào? Đó là do lực của vô minh mà khởi lên bốn tướng, vì lực của bốn tướng vô minh hòa hợp, thường dao động một tâm sanh trụ - dị - diệt, một tâm đã dao động lôi kéo bốn tướng này, vì thế cho nên nói tên là Nhất niệm tâm động. Như Luận khởi Tín chép: “Tự tánh thanh tịnh tâm vì gió vô minh dao động v.v…”, cho đến nói rộng ra, trong đó chính là biết rõ, như ý kia giải thích. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Vân hà nhất niệm tâm động? Phật ngôn: nhất niệm tâm động ngũ ấm cụ sanh, ngũ ấm sanh trung cụ ngũ thập ác”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Thế nào là một niệm tâm dao động? Đức Phật nói: Một niệm tâm dao động năm ấm sanh khởi đầy đủ, trong năm ấm sanh khởi có đủ năm mươi ác nghiệp. Luận chép: Đây là phần thứ hai xả bỏ nghi ngờ thứ hai, nói lên sự chữa trị ác, muốn nói về một niệm bốn tướng thâu nhiếp các sanh tử vì đầy đủ năm ấm có năm mươi ác nghiệp. Thế nào là năm ấm có đủ năm mươi ác nghiệp? Đó là Thức ấm có tám, tức là tám Thức. Hai ấm Thọ Tưởng tùy theo Thức đều có tám. Hành ấm có chín, tám là tương ưng, một là bất tương ưng. Sắc ấm có mười bảy hợp lại thành năm mươi. Nói mười bảy là năng tạo bốn đại, sở tạo mười ba, đó là năm căn - năm trần - pháp xứ vốn thâu nhiếp có ba thứ Sắc, như Luận Hiển Dương chép: “Đó là Luật nghi sắc - Bất luật nghi sắc và Định tự tại sở sanh sắc. “Tạm thời ngay nơi một môn lập thành năm mươi, như vậy năm mươi là ác thật sự, đều là trôi lăn trái với Niết-bàn, hướng về Niết-bàn kia là chân thật thiện. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Viễn hành biến kế, du lịch thập phương, nhất niệm sanh tâm sanh cụ ngũ thập ác, vân hà linh bỉ chúng sanh vô sanh nhất niệm? Phật ngôn: Linh bỉ chúng sanh, an tọa tâm thần, trụ kim cương địa tịnh niệm vô khởi, tâm thường an thái, tức vô nhất niệm”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Đi xa khắp nơi suy nghó, mười phương nhiều lần đi lại, một niệm tâm sanh khởi có đủ năm mươi ác, làm sao khiến chúng sanh kia bất sanh khởi một niệm? Đức Phật nói: Khiến chúng sanh kia an tọa tâm thần trụ trong Kim cương địa, niệm vắng lặng bất sanh khởi, tâm thường yên ổn, chính là không có một tâm niệm. Luận chép: Đây là lần thứ ba xả bỏ nghi ngờ thứ ba là nói đạo có khả năng chữa trị. “Khiến cho chúng sanh” là tất cả chúng sanh từ Thập Tín trở xuống. An tọa tâm thần là từ Thập Trụ trở lên an tâm vào ba Không quyết định không lui sụt gọi là An tọa. Trụ kim cương địa là từ Sơ trụ trở lên chứng được pháp thân, xa lìa các sự diệt hoại, giống như Kim cương. Niệm vắng lặng không khởi là trong địa vị Đẳng Giác giác ngộ sự động niệm đó xưa nay vắng lặng yên tónh khiến cho không thể khởi lên. Tâm thường an thái là đến địa vị Diệu Giác được thấy nguồn tâm không khởi lên không diệt đi, vốn không động niệm, không có bắt đầu không có kết thúc. Không khởi lên - không diệt đi cho nên Thường. Không có động niệm cho nên An. Không bắt đầu không kết thúc cho nên không có gì không thể thư thái. Tu hành như vậy đạt được rốt ráo giác ngộ, tức là không có bốn tướng sanh tử trong một niệm. Vì điều này cho nên nói tức không có một niệm. Vì nói lên nghóa này, trong Luận Khởi Tín giải thích chép: “Bậc sơ phát ý đến Bồ-tát, Đẳng giác đối với niệm khác niệm tướng chẳng khác nhau để xả bỏ chấp tướng, phân biệt thô thiển cho nên gọi là Tương tự giác. Như Bồ-tát pháp thân, giác ngộ đối với sự an trụ niệm, niệm tướng vô trụ, vì lìa phân biệt niệm tướng thô nên gọi là Tùy phần giác. Như Bồ-tát địa tận cùng đầy đủ phương tiện một niệm tương ưng, giác ngộ tâm ban đầu khởi tâm không có tướng ban đầu, vì xa lìa niệm nhỏ nhiệm, được thấy tâm tánh, tâm chính là thường trụ gọi là Rốt ráo giác”. Xét rằng: Trong này được thấy tâm tánh - tâm chính là thường trụ, tức là giải Thích Câu Tâm thường an thái của kinh này. Những câu còn lại giải thích theo đúng như trước tùy đó biết được. Phần lớn trên đây giảng nói về Bổn giác đã hoàn tất. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Bất khả tư nghị! Giác niệm bất sanh kỳ tâm an thái, tức bổn giác lợi, lợi vô hữu động, thường tại bất vô, vô hữu bất vô, bất vô bất giác, giác tri vô giác bổn lợi bổn giác, giác giả thanh tịnh vô nhiễm, bất kiến bất dịch, quyết định tánh cố, không thể nghó bàn. Phật ngôn: Như thị”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Không thể nghó bàn! Giác niệm bất sanh khởi thì tâm đó yên ổn, chính là lợi ích Bổn giác, lợi ích không có lay đôïng, thường tồn tại chẳng thể không có, không có chẳng thể không có, chẳng thể không có - bất giác, giác ngộ biết rõ không có giác ngộ vốn có lợi ích vốn giác ngộ, giác ấy thanh tịnh vô nhiễm, bất biến bất dịch, vì quyết định tánh, không thể nghó bàn! Đức Phật nói: Đúng như vậy! Luận chép: Đây là phần thứ ba lãnh ngộ hiểu rõ và phần thứ tư nói về thành tựu. Bất khả tư nghị là tổng kết sự lãnh ngộ khen ngợi rất mực. Xuống dưới là lãnh ngộ hiểu rõ, trong đó có hai: Trước là câu nói lãnh ngộ, sau là nghóa lý lãnh ngộ. Nói giác niệm bất sanh thì tâm an thái: Lãnh hội câu nói Tịnh niệm không khởi tâm thường an thái ở trước, đây là nơi rốt ráo của Thỉ giác. Xuống dưới là lãnh hội nghóa lý chép: Tức bổn giác lợi là lãnh hội không có nghóa Thỉ giác khác với Bổn giác. Như luận giải thích: “Nếu đạt được vô niệm tức là biết tâm tướng sanh trụ dị diệt, vì những vô niệm ấy cho nên thật sự không khác nhau về Thỉ giác, vì bốn tướng cùng lúc mà có đều không tự lập nên xưa nay bình đẳng cùng chung một giác”. Xét chép: Thật sự không khác với Thỉ giác là giải Thích Câu “Tức bổn giác lợi” trong kinh. Bốn tướng có cùng lúc đều không tự lập nên xưa nay bình đẳng là giải thích về “lợi vô hữu động” trong kinh. Như vậy Thỉ giác ngộ biết rằng không có khác nhau, vì có thật có thường còn chẳng thể không có. Nói Thường tại là thẳng thắn cho rằng chẳng thể không có. Nhưng trong này nói thường, mà không có đương có, cho nên nói không có mà chẳng thể không có. Đã không đương ở có Thỉ giác, tuy chẳng thể không có giác, mà chẳng thể có giác, nên nói chẳng thể không có Bất giác. Giác biết đạo lý không có giác ngộ như thế, tức biết Thỉ giác không thể khác với Bổn giác. Giác biết không có giác là lợi ích vốn có là giác ngộ. Người giác ngộ biết điều ấy rốt ráo như vậy, xa lìa sự che lấp của vô minh cho nên thanh tịnh không còn cấu nhiễm. Thanh tịnh là xưa nay trong sạch. Vô nhiễm ấy là nay xa lìa đắm nhiễm. Không bao giờ có sanh trụ dị diệt cho nên Bất biến bất dịch. Bất dịch là không có sanh - trụ. Bất biến ấy là không có dị - diệt. Nếu là như vậy thì tức là giống như Chân - tế khác nào pháp tánh, cho nên nói là vì tánh Quyết định. Đã bình đẳng như nhau xa lìa ngôn ngữ bặt dứt suy tư, nên nói là Bất khả tư nghị. Trước đã nói Bất khả tư nghị, nay lại nói Bất khả tư nghị là cũng không thể nghó bàn đối với điều không thể nghó bàn. Phật nói: Như vậy là văn phần thứ tư kể rõ thành tựu, như những gì lãnh ngộ hiểu rõ trước đây, không trái với lý. Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ văn thị ngữ dó đắc vị tằng hữu nhi nói kệ ngôn: Tôn giả đại giác tôn, nói sanh vô niệm pháp, vô niệm vô sanh tâm, tâm thường sanh bất diệt, nhất giác bổn giác lợi, lợi chư bổn giác giả, như bỉ đắc kim tiền, sở đắc tức phi đắc”. Bồ-tát Vô Trụ nghe lời này rồi được điều không hề có mà nói kệ: Bạch Đức Thế Tôn bậc Đại giác, nói về pháp sanh vô niệm, vô niệm vô sanh khởi tâm, tâm thường sanh khởi bất diệt, lợi ích bổn giác nhất giác, lợi ích các bổn giác ấy, như người kia được tiền vàng, chỗ được thì chẳng phải mới được. Luận chép: Đây là phần thứ hai dùng kệ khen ngợi. Trong bài tụng có ba: Hai câu đầu khen chung về năng nói, kế đến có bốn câu tụng về pháp nói trước đó, sau có hai câu tụng về Dụ nói kia. Đầu tiên nói nói pháp sanh vô niệm: Giảng nói về các chúng sanh thành tựu pháp vô niệm rốt ráo giác ngộ. Vô niệm vô sanh tâm: Không có ý niệm sanh tử thành tựu tâm vô niệm. Nói Tâm thường sanh bất diệt: sơ lược tụng về văn giảng nói. Văn ấy nói Tâm thường an thái cho đến thường tồn tại chẳng thể không có, sanh khởi nói là Tại, diệt đi nói là vô. Vì thế Nhất giác bổn giác lợi, lợi các bổn giác là các chúng sanh kia chẳng có ai không có bổn giác, cho nên nói là các Bổn giác. Hai câu sau cùng tụng về bốn dụ ở trước, toàn bộ tụng có thể biết. Kinh: “Nhó thời đại chúng văn nói thị ngữ giai đắc bổn giác lợi- Bát-nhã Ba-la-mật”. Lúc bấy giờ đại chúng nghe nói lời này đều được lợi ích về Bổn giác - Bát-nhã Ba-la-mật. Luận chép: Đây là phần thứ ba nghe pháp được lợi ích. Tùy theo nghóa lý đã giảng nói thuận theo được lợi ích cho nên được lợi ích về Bổn giác, Thỉ giác - Bát-nhã bình đẳng không khác nhau, giống như trước giải thích. ------------------------------- Phẩm Thứ 5: NHẬP THỰC TẾ Luận chép: Nói Thật tế ấy gọi là lìa bỏ giả dối, nghóa của rốt ráo lìa huyễn rốt ráo nên gọi là Thật tế. Dựa vào giáo tu tập lý, lý phù hợp - hành phù hợp, cho nên gọi là Nhập. Nhưng Thật tế lấy vô tế (không có bờ mé) làm ranh giới, hai Nhập là nhập của Vô nhập nên gọi là phẩm Nhập Thật tế. Kinh: “Ư nhị Như-lai tác như thị ngôn: Chư Bồ-tát đẳng bổn lợi thâm nhập khả độ chúng sanh”. Ngay lúc đó Đức Như-lai nói lên như vậy: Các Bồ-tát đi sâu vào lợi ích vốn có - có khả năng độ cho chúng sanh. Luận chép: Nói riêng phần thứ ba dựa vào vốn có lợi ích cho người trong sáu phần của Quán Hành đã hoàn tất. Dưới đây là phần thứ tư từ luống dối nhập vào thật tế. Lại, phẩm trước nói về môn tâm sanh diệt, nay phẩm này nói về môn tâm chân như. Ngay trong văn có bốn: 1. Sơ lược nêu ra Đại ý. 2. Mở rộng hiển bày đạo lý. 3. Thân Tử lónh ngộ hiểu rõ. 4. Đại chúng đương thời được lợi ích. Trong phần đầu có hai: Trước là mở bày khiến cho nhập vào phương tiện, sau là chỉ ra thật tế nhập vào. Trong phần khai bày phương tiện có nêu chung và riêng mở bày. Đây là văn nêu chung lên khiến cho nhập vào đại ý. Kinh: “Nhược hậu phi thời ưng như nói pháp thời lợi bất câu, thuận bất thuận nói phi đồng phi dị tương ưng như nói, dẫn chư tình trí lưu nhập Tát-bà-nhã hải, vô linh khả chúng ấp bỉ hư phong, tất linh bỉ thứ nhất vị thần khổng”. Nếu sau này trái thời, ứng với như thật nói pháp thì lợi ích, thời gian không thể đều có, thuận hay không thuận mà giảng nói chẳng phải giống chẳng phải khác tương ưng như nói, dẫn dắt các tình ý - trí thức trôi lăn nhập vào biển Tát-bà-nhã, không làm cho chúng sanh nào phải nhận lấy làn gió giả dối kia, thảy đều khiến cho họ mong mỏi một vị và hang động thần tiên. Luận chép: Đây là phần thứ hai mở bày riêng về phương tiện. Trong đó trước mắt khai bày bốn thứ phương tiện: 1.Phương tiện Tri thời. 2. Thức cơ phương tiện. 3. Dẫn nhập phương tiện. 4. Phương tiện Xuất ly. Phương tiện Tri thời: Như kinh nói “Nếu sau này trái thời, ứng với… không thể đều có”. Sau này có ba nghóa: vì sau khi Đức Phật diệt độ, vì sau khi chánh pháp diệt mất, vì năm trăm năm sau trong năm lần năm trăm. Nói trái thời là thời gian chẳng phải thuần thục, chẳng phải thời gian dễ dàng giác ngộ, các dị kiến hưng thịnh là tướng trái thời. Nếu ở thời gian không hợp như vậy cứ mãi thuận theo chân như nói pháp thì không thích hợp thời gian kia không có lợi ích gì. Thời gian và lợi ích không song song cho nên nói là không thể đều có; đây là phương tiện tri thời. Phương tiện Thức cơ: như kinh nói “Thuận bất thuận nói phi đồng phi dị tương ưng như nói”. Thuận bất thuận nói: Nếu cứ thuận theo mà nói thì tâm họ không thể dao động tà chấp, nếu chỉ nói không thuận theo thì không khởi chánh tín, vì muốn làm cho họ được tâm chánh tín trừ diệt tà chấp vốn có, cần phải thuận theo hoặc không thuận theo mà nói. Lại, thẳng thắn thuận theo lý giảng nói thì bất sanh khởi chánh tín, vì trái với ý của ho, không thuận theo lý giảng nói, há sanh khởi chánh giải hay sao! Vì trái với lý, để đạt được tín hiểu cho nên thuận hay không thuận mà giảng nói. Nếu lúc các kiến giải khác nhau nổi lên tranh luận, hoặc cùng thấy “có” mà giảng nói, thì khác với cái thấy “không”, hoặc cùng chấp “không” mà giảng nói, thì khác với chấp “có”, những cái giống nhau - những cái sai khác càng dấy lên sự tranh cãi đó. Lại, cả hai giống với hai cái kia thì tự bên trong tranh cãi lẫn nhau, nếu khác với hai cái kia thì tranh cãi lẫn nhau với hai. Vì thế cho nên chẳng phải giống nhau - chẳng phải khác nhau mà giảng nói. Chẳng phải giống nhau là như lời nói mà giữ lấy, đều không thể chấp nhận. Chẳng phải khác là được ý mà nói thì chẳng có gì không được. Vì chẳng khác nhau cho nên không trái với tình ý của họ. Vì chẳng giống nhau cho nên không trái với lý, hợp lý hợp tình không trái nhau cho nên nói là Tương ưng như nói. “Như” là như vậy. Phương tiện Dẫn nhập: Như kinh nói “Dẫn các tình trí chảy vào biển Tát-bà-nhã”. Các tình là tình ý ham muốn Đại, Tiểu sai khác. Các trí là thấy biết sai khác về Không - Hữu. Dẫn dắt tiếp nhận chúng đều thuận theo dòng đạo, khiến cho hòa nhập vào biển cả của Nhất giác Nhất-thiết-trí, vì nghóa vô thượng Bồ-đề sâu rộng, như trăm dòng sông cùng chảy ra biển lớn, biển lớn sâu rộng một vị như nhau, như vậy gọi là phương tiện Dẫn nhập. Phương tiện Xuất ly: Như kinh nói “chẳng khiến cho chúng sanh nhận lấy gió giả dối, đều mong được một vị, và hang động thần tiên”. Ấp là châm (rót rượu, trà, nước v.v… ), là nghóa của Thủ Nạp (chọn lấy, tiếp thu). Nói Hư phong: Nghóa là gió thường di đôïng trong hư không, có thể làm dậy sóng; dụ cho các cảnh giới dao động theo làn sóng của các Thức, có thể độ cho chúng sanh ôm nhận lấy gió của cảnh giới, nên từ trước đến nay bị các làn sóng của các Thức, xoay chuyển nay không khiến cho nhận lấy thì làn sóng thức ngừng yên. Thứ ấy là Thứ cơ (ngõ hầu, cơ hồ), là nghóa của hy vọng. Nói Thần khổng: Nghóa là hang động của thần tiên, là nơi xa lìa chốn thành ấp ồn ào, vô sự, nhàn nhã, vắng lặng, sống lâu, dụ cho tòa nhà bất tử của Đại Niết-bàn, viên tịch bình đẳng cho nên gọi là một Vị, khiến cho chúng sanh kia mong mỏi Đại Niết-bàn, làn sóng dừng lại vượt các Thức khỏi dòng xoay chuyển, như vậy gọi là phương tiện xuất ly. Kinh: “Thế gian phi thế, trụ phi trụ xứ, ngũ không xuất nhập, vô hữu thủ xả. Hà dó cố? Chư pháp không tướng, pháp tánh phi vô, phi vô bất vô, bất vô bất hữu, vô quyết định tánh, bất trụ hữu vô, phi bỉ hữu vô phàm thánh chi trí, nhi năng trắc ẩn, chư Bồ-tát đẳng, nhược tri thị lợi tức đắc Bồ-đề”. Thế gian chẳng phải thế gian, An trụ chẳng phải nơi an trụ, ra vào năm không; không có gì lấy bỏ. Tại vì sao? Vì tướng không của các pháp và pháp tánh chẳng phải không có, chẳng phải không có chẳng thể không có, chẳng thể không có - không thể là có, không có tánh quyết định, không trụ vào có - không, chẳng phải trí của phàm thánh có - không kia, mà có thể đo lường yên ổn. Các vị Bồ-tát, nếu biết rõ lợi ích này thì được Bồ-đề. Luận chép: Đây là chỉ ra đạo lý hội nhập. Trong đó có bốn: 1. Nói Sơ lược. 2. Giải thích lại. 3. Chấp trước nghiêng lệch không thích hợp. 4.Người thông hiểu được lợi ích. Trong phần đầu nói “Thế gian chẳng phải thế gian: Vì năm pháp thế gian không hề vốn có. An trụ chẳng phải nơi an trụ: Vì thường an trụ Niết-bàn không đạt được gì. Người tu quán hành lúc thông hiểu năm không, ra có vào không nên nói là xuất nhập. Lúc nhập vào “không”, chẳng giữ lấy tánh không, tuy chẳng giữ lấy “không” mà chẳng thể xả bỏ “không”. Vì điều này cho nên nói là không có lấy bỏ. Đã nhập vào năm không, vì sao không giữ lấy? Nếu không giữ lấy điều ấy thì thế nào là không xả bỏ? Vì để trả lời cho câu hỏi này. Thứ hai là giải thích về tướng không của Chư pháp pháp tánh chẳng phải, không có, do đó nói về Nhập không, chẳng phải không có, chẳng thể có, chẳng thể không, cho nên không có lấy bỏ. Nói chẳng không là lý pháp tánh, vì không giống như sừng thỏ. Nói chẳng thể không có nghóa là người quán hành mà không xả bỏ, không xả bỏ điều ấy vì chẳng phải lý không có. Nói chẳng thể có ấy nghóa là người quán hành cũng không thể giữ lại, không giữ lại vì chẳng phải lý có. Pháp tánh như vậy chẳng phải nhất định có - không, thế nên người thông hiểu không trụ vào hai bên, do đó nói là không có tánh quyết định - Không thể an trụ ở có, không. Căn cứ vào đạo lý này cho nên không có lấy bỏ. Trong phần thứ ba nói “Chẳng phải trí phàm thánh có, không” ấy là phàm phu giữ lại có mà lìa bỏ đối với không, Nhị Thừa lìa bỏ có mà hướng về vắng lặng, như vậy không xa lìa trí có - không mà có thể so lường an ổn pháp tánh ấy, không có điểm này cho nên nói là “chẳng phải”. Trong phần thứ tư nói “Các Bồ-tát”: Bồ-tát Địa tiền nếu biết pháp tánh chẳng có - chẳng không, lúc mới phát tâm thì thành tựu Chánh giác, vì thế cho nên thiết thật nói là Tức đắc Bồ-đề nghóa là ngay khi phát tâm vào lúc biết rõ pháp tánh, lúc này lập tức đạt được vô thượng Bồ-đề; nghóa này trích từ phẩm phát Tâm Công Đức trong kinh Hoa Nghiêm. Các văn trên đây đều nói Quyết định tánh, tại vì sao trong này chính là nói vô quyết định tánh thì không trái ngược lẫn nhau ư? Vì sao? Vì nghóa về Vô quyết định vô có thay đổi chắc chắn. Kinh: “Nhó thời chúng trung hữu nhất Bồ-tát danh viết Đại Lực tức tùng toà khởi tiền bạch Phật ngôn: Tôn giả! Như như sở nói ngũ không xuất nhập, vô hữu thủ xả, vân hà ngũ không nhi bất thủ xả?”. Lúc bầy giờ trong chúng hội có một vị Bồ-tát tên gọi Đại lực liền từ chỗ ngồi đứng lên đến trước bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Như như đã giảng nói là năm không ra vào, không có lấy bỏ, vì sao năm vô mà chẳng lấy bỏ? Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai nói rộng về đạo lý. Trong đó chính là chia ra làm bốn môn: 1.Nói nghóa về Thật tế. 2.Nói về nghóa Thú nhập. 3. Mở bày tầng bậc, địa vị nhập vào. 4. Chỉ ra phương tiện nhập vào. Trong phần đầu cũng - có bốn: 1.Nói về năm không. Nói về ba không. 3. Nói về không là Chân. 4. Nói về Chân là Như. Trong phần một có hai: Trước hỏi - sau đáp. Người hỏi tên gọi là Đại lực: Người này được nhập vào pháp môn Thật tế, rộng khắp tất cả pháp giới, chẳng có việc gì không được đại tự tại, hoàn toàn nên gọi là Đại Lực, vì thế đối với môn này khai phát hiển dương: Nói Như Như là vì lời Đức Phật giảng nói phù hợp như lý, Như trước là nghóa xác đáng (đương nghóa), Như sau là đạo lý. Trước là lãnh hội - sau là thưa hỏi. Hỏi có hai nghóa: 1.Hỏi về pháp môn năm Không. 2.Hỏi về nghóa không có lấy bỏ. Kinh: “Phật ngôn: Bồ-tát! Ngũ không giả tam hữu thị không, lục đạo ảnh thị không, pháp tướng thị không, danh tướng thị không, tâm thức nghóa thị không. Bồ-tát như thị đẳng không, không bất trụ không, không vô không tướng, vô tướng chi pháp hữu hà thủ xả, nhập vô thủ địa tức nhập tam không”. Đức Phật nói: Này Bồ-tát! Năm không là: Ba hữu là không, hình ảnh sáu đường là không, pháp tướng là không, danh tướng là không, nghóa về tâm thức quả là không. Này Bồ-tát, năm không như vậy, không không bất trụ không, không không chẳng có tướng không, Pháp có gì lấy bỏ, nhập vào nơi không có chấp lấy tức là nhập vào ba không. Luận chép: Như thứ tự đó trả lời hai câu trước. Năm không, tức là hiển bày rõ ba thứ Chân như. Ba thứ ấy? Đó là: 1.Chân như Lưu chuyển. 2. Chân như Thật tướng. 3. Duy thức Chân như. Nghóa này đầy đủ như Hiển Dương Luận giải thích. Trong này hai Không trước chính là hai thứ Chân như trước, ba không sau là Chân như thứ ba. Nghóa này như thế nào? Đầu tiên “Tam hữu là không”: Vì ái trước ba cõi nên trôi lăn trong ba cõi (tam hữu- ba cõi), ba cõi xoay vòng không có tánh trước sau, sát-na không an trụ - Không không có gì đạt được, tức là trôi lăn Chân như môn. Thứ hai là “Hình ảnh sáu đường là không”: Vì nghiệp thiện ác đều có hai phẩm, quả báo sáu đường giống như, vốn của nó hiện ra hình ảnh, hình ảnh không lìa nguồn gốc Không, không có gì đạt được, tức là Thật tướng Chân như môn. Ba không sau là thứ ba Duy thức Chân như môn: Hai thứ trước là xả bỏ tên gọi và nghóa sở thủ, vì tên gọi và nghóa là khách của nhau cho nên không trở thành là thật. Một loại sau là xả bỏ tâm thức năng thủ, vì khách chủ (năng - sở) đối đãi lẫn nhau không thể riêng lập. Đạo lý về duy thức rất khó có thể hội nhập, do đó khai bày ba không để xả bỏ năng sở đó. Năng sở không cho nên đạt được vô phân biệt. Từ “Bồ-tát v.v… ” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ hai. “Các không như thế…”. Chung đưa ra năm Không phân biệt rõ lý trí đó. Không bất trụ Không: Vì Không trí không an trụ cùng với lý bình đẳng. Không vô không tướng: Bởi vì Không lý không có tướng cùng với trí bình đẳng. Lý trí bình đẳng không có tướng của năng sở, đâu cho phép lấy bỏ ở tại trong đó được. cho nên nhập vào trong đó tức là nhập vào ba Không. Nơi không có giữ lấy: Nghóa là Thập Địa v.v… Kinh: “Đại lực Bồ-tát ngôn: Vân hà tam không? Phật ngôn: tam không giả không tướng diệt không, không không diệt không, sở không diệc không. Như thị đẳng không bất trụ tam tướng, bất vô chân thật, văn nôn đạo đoạn, không thể nghó bàn v.v…” Đại Lực Bồ-tát chép: Thế nào là ba không? Đức Phật nói: Ba không ấy là tướng không cũng không, không- không cũng không, sở không cũng không. Ba không như vậy không trụ vào ba tướng, chẳng thể không có chân thật, đường ngôn ngữ dứt, không thể nghó bàn. Luận chép: Một lần hỏi - đáp này là nói về hai Không. Không tướng cũng Không: Không tướng chính là xả bỏ Tục hiển bày Chân, tướng của bình đẳng cũng không, tức là hòa hợp Chân lẫn Tục. Nghóa của Không Không giống như nung chảy vàng thật làm thành vòng xuyền trang nghiêm. Như kinh Niết-bàn chép: “Thị hữu thị vô thị gọi là không không, thị thị phi thị danh - không không (là có là không có thì gọi là không không, là vậy chẳng phải vậy thì gọi là không không)”. Đây là nói về tướng sai khác vô hữu vô thị phi của Tục đế, là nghóa của không, không: Không đối với bình đẳng không, nói lên Tục sai khác. Do đó sai khác này gọi là Không không, Không không cũng không: Không, không chính là tục đế sai khác, cũng không trở lại hòa hợp với Tục trở thành chân, giống như nung chảy đồ vật trang nghiêm trở lại làm thành bình vàng. Trong phần thứ ba chép: “Sở không cũng không”: nghóa là trong Không đầu tiên Không vốn hiển bày Tục, trong Không thứ hai Không vốn nói lên Chân, hai Không này Không hai cho nên nói là cũng Không, là hòa hợp một Đế hiển bày một pháp giới. Một pháp giới ấy gọi là Nhất Tâm. Nhưng trong môn Không đầu tiên vốn xả bỏ Tục ấy là tướng sở chấp, trong không thứ hai vốn hòa hợp Tục ấy là tướng Y tha. Tục có hai thứ tướng cho nên cái xả bỏ - cái hòa hợp chẳng phải là một. Lại, trong môn đầu tiên xả bỏ Tục đã hiển bày Chân, trong Không thứ hai hòa hợp Tục để hiển bày Chân. Hai môn này Chân chỉ là một không có hai, Chân chỉ có một loại thành tựu trọn vẹn thật tánh (viên thành thật tánh), vì lẽ đó xả bỏ hay hòa hợp vốn hiển bày chỉ có một. Không thứ ba ấy là chẳng phải Chân - chẳng phải Tục - chẳng phải Nhị- chẳng phải Nhất. Lại, ba không này - Không đầu tiên hiển bày Trung đạo Tục đế, Không thứ hai hiển bày Trung đạo Chân đế, Không thứ ba hiển bày nghóa Trung đạo của chẳng phải Chân - chẳng phải Tục - Không phải bên - Không phải giữa. Nói “các Không Như thế” là nêu chung ba Không, không trụ vào Tục tướng, không trụ vào Chân tướng, cũng không trụ vào nơi tướng của không có hai, vì vậy nói là không trụ ba tướng. Như vậy không an trụ rốt ráo hiển bày Thật cho nên nói là không thể chân thật. Tuy chẳng thể không có chân thật mà chẳng phải là có chân thật. Vì như vậy nên đường Văn ngôn dứt. Nói là Đạo đoạn cũng không thể gởi gắm cho nên cũng nói rằng Bất khả tư nghị (không thể nghó bàn). Kinh: “Đại lực Bồ-tát ngôn: Bất vô chân thật là tương ứng hữu” Bồ-tát Đại lực chép: Chẳng thể không có chân thật là tương ứng với có. Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba nói về nghóa Không, chẳng thể không có chân thật mà chẳng thể có chân thật. Trước hỏi - sau trả lời, ý hỏi mà chép: hễ nói về có - không chắc chắn cũng tương đối, chẳng thể có thì chắc chắn là không, chẳng thể không thì là có. Nếu nói chẳng thể không có lý của chân thật thì phải là có lý chân thật. Tất cả những người học thường có chấp này, vì xả bỏ chấp kia nên có lời hỏi này. Kinh: “Phật ngôn: Vô bất trụ vô, bất vô bất hữu chi pháp, bất tức trụ vô, bất vô chi tướng, bất tức trụ hữu, phi dó hữu vô nhi thuyên đắc lý. Bồ-tát! Vô danh nghóa tướng không thể nghó bàn, hà dó cố? Vô danh chi danh bất vô ư danh, vô nghóa chi nghóa bất vô nghóa”. Đức Phật nói: Không có không thể trụ vào không có, chẳng thể không có - chẳng thể có, pháp chẳng thể có không thể tức thì trụ vào không có, tướng chẳng thể không có không thể lập tức trụ vào có, chẳng thể dùng có - không mà giải thích được lý: Này Bồ-tát! Tướng không có danh nghóa không thể nghó bàn, tại vì sao? Vì danh của vô danh chẳng thể không có nơi danh, nghóa của vô nghóa chẳng thể không có nơi nghóa. Luận chép: Trong trả lời có hai: 1. Chính là trả lời. 2. Khen ngợi sâu sắc. Trong phần đầu nói “Chẳng có không thể trụ vào không có”: Trong câu “chẳng thể không có chân thật” nói ở trước mới là tên gọi của không có, không thể trụ vào nghóa không, thế nên tên gọi của chẳng thể không có trụ vào nghóa không, cũng không thích hợp đối với nghóa có. Vì điều này cho nên nói chẳng thể không có, chẳng thể có”, là nói về danh của vô danh không thích hợp với nghóa của hữu nghóa. “Pháp chẳng thể có, không thể tức liền trụ vào không có: Tuy hòa hợp Tục thành Chân mà không giữ lấy pháp Chân không. Tướng chẳng thể không có không thể tức liền trụ vào có” Tuy hòa hợp Chân trở thành chân của Tục mà không giữ lấy Tục có. Vì Chân - Tục không thể trụ vào có - không, nên chẳng thể không có lý vô nhị của chân thật. Vì Chân tục chẳng thể không có hai đế. Nên chẳng thể có lý vô nhi của chân thật. Cho nên chép: Chẳng thể dùng có, không mà truyên bày được lý. Tức là nói về nghóa của vô nghóa không thể tương xứng với danh của vô danh. Từ “Bồ-tát v.v… ” trở xuống là phần thứ hai khen ngợi sâu sắc. Trong đó có hai: Thẳng thắn khen ngợi - Giải thích khen ngợi - Danh của vô danh chẳng thể không có ở danh”: Đức Phật đã nói về danh không thích hợp với nghóa của có nghóa (hữu nghóa) cho nên là danh của không có danh (vô danh), mà thích hợp với nghóa của không có nghóa (vô nghóa) cho nên nói là chẳng thể không có ở danh. Nghóa của vô nghóa chẳng thể không có ở nghóa: Nghóa về Thể của Phật không tương xứng với danh của có danh (hữu danh) cho nên nghóa của không có nghóa (vô nghóa), mà xứng hợp với danh của không có danh (vô danh) cho nên nói không thể ở nghóa. Như vậy chẳng thể có danh - nghóa mà cũng chẳng thể không có danh - nghóa, căn cứ vào lý này nếu không thể nghó bàn được vậy. Kinh: “Đại lực Bồ-tát ngôn: Như thị danh nghóa, chân thật như tướng Như-lai như tướng, như bất trụ như, như vô như tướng, tướng vô như cố, phi bất Như-lai, chúng sanh tâm tướng diệc Như-lai, chúng sanh chi tâm ưng vô biệt cảnh”. Bồ-tát Đại lực chép: Danh - nghóa như vậy chân thật như tướng, tướng Như của Như-lai, Như không trụ vào Như, Như không có tướng Như, tướng không có Như, nên chẳng phải không Như-lai, tâm tướng chúng sanh - tướng cũng Như-lai, tâm của chúng sanh nên là không có cảnh riêng biệt. Luận chép: Dưới đây là phần thứ tư nói về nghóa Chân chẳng thể có Như mà chẳng có không thể Như. Trong đó có hai: Trước hỏi - sau trả lời. Trong phần Hỏi cũng có hai: trước là lập ra đạo lý, sau là hỏi về những điều nghi ngờ. Nói danh nghóa Như thị: Như trước đã nói về tướng không thể nghó bàn của danh - nghóa. Danh - nghóa tương xứng không trái ngược không thay đổi cho nên gọi là chân thật. Danh - nghóa như vậy xa lìa năng sở bình đẳng một vị cho nên gọi là Như Tướng. Danh -nghóa như vậy bình đẳng Như tướng của Thể chư Phật Như-lai cho nên nói là Như-lai như tướng. “Như không trụ vào Như”: là nói về Như danh của không có danh (vô danh) thích hợp đối với Như nghóa của không có Như (vô Như). “Như không có tướng Như, - tướng không có Như”: Tướng Như của không có tướng Như (vô như tướng) xứng hợp đối với Như danh của không có danh (vô danh), tương xứng thích hợp năng sở bình đẳng, như vậy nên hoặc là danh - hoặc là nghóa chẳng phải không là Như-lai. Tướng không có Như: Tướng Như không có Như, Như tướng chính là vô tướng làm Tướng. Nên biết rằng “Như không có tướng Như” là trình bày chẳng thể có vô tướng của Như. “Tướng không có Như vô”: Là nói chẳng thể có Như của vô tướng. Thể tướng của Như tuy là chẳng thể có mà cũng là thể tướng chẳng thể không có Như (vô như). Như vậy tướng Như của không có tướng Như (vô như tướng) mới tương xứng Như danh của không có danh (vô danh). “Chúng sanh tâm tướng - tướng cũng Như-lai:” Nghóa là tâm tướng phân biệt của các chúng sanh - tướng chính là chẳng phải tướng - không có gì không thể bình đẳng, vì thế cho nên tướng kia cũng là Như-lai. Trên đây chính thức lập ra đạo lý bình đẳng. Kế đến chép: Tâm của chúng sanh nên là không có cảnh riêng biệt: Là hỏi về những điều nghi ngờ. Tâm tướng chúng sanh đã là Như-lai, thì tâm chúng sanh lẽ ra không có cảnh riêng biệt. “Không có cảnh riêng biệt” ấy tức là không có phân biệt. Không có phân biệt cho nên thuận theo không có nhiễm ô. Không có nhiễm ô cho nên lập tức không có ba cõi . Có dấy lên nghi ngờ này cho nên nêu câu hỏi này. Kinh: “Phật ngôn: Như thị chúng sanh chi tâm thật vô biệt cảnh, hà dó cố? Tâm bổn tịnh cố lý vô uế cố; dó nhiễm trần cố danh vi ba cõi, ba cõi chi tâm danh vi biệt cảnh, thị cảnh luống dối cảnh luống dối tùng tâm hóa sanh, tâm nhược vô vọng, tức vô biệt cảnh”. Đức Phật nói: Như vậy tâm chúng sanh thật sự không có cảnh phân biệt, tại vì sao? Vì tâm vốn thanh tịnh cho nên lý không uế tạp, vì nhiễm bụi nhơ cho nên gọi là ba cõi, tâm của ba cõi gọi là cảnh phân biệt, cảnh này luống dối từ tâm hóa sanh, tâm nếu không có vọng thì không có cảnh phân biệt. Luận chép: Đây là trả lời những điều nghi ngờ, trước là cho, sau đoạt. Cho là y cứ vào tự tánh thanh tịnh, vốn không nhiễm ô. Đoạt là dựa theo tùy người khác nhiễm ô, vì có cảnh phân biệt. Tự tánh thanh tịnh: Như Luận Thật Tánh dẫn kinh chép: “Từng niệm từng niệm tâm thiện diệt không trụ vào, không bị phiền não làm cho ô nhiễm, từng niệm từng niệm tâm bất thiện diệt đi không trụ vào, không bị phiền não làm cho ô nhiễm, phiền não không tiếp xúc tâm - tâm không tiếp xúc phiền não, vì sao không tiếp xúc với pháp mà thường có thể ô nhiễm tâm?” Cho đến giải thích rộng tra, chính là môn nhiễm mà không thể nhiễm. Tùy tha nhiễm: Trong kinh Phú Nhân chép: “Tự tánh thanh tịnh tâm khổ có thể hiểu biết rõ ràng, tâm kia bị phiền não làm cho ô nhiễm cũng có thể hiểu biết rõ ràng”, chính là môn không thể nhiễm mà lại nhiễm. Tâm vốn thanh tịnh nên lý không uế tạp: Lý tự tánh tịnh tâm của Bổn giác chẳng phải nhập vào nơi của các trần uế tạp. Từ “Vì nhiễm trần v.v… ” về sau làm mất đi những câu hỏi đó. Trong đó trước là hiển bày không giác ngộ mà nhiễm trần, sau là đối với không giác ngộ sơ lược chỉ ra Thỉ giác. Trong Bất giác nói “Vì nhiễm trần nên gọi là ba cõi”: Trụ địa phiền não sơ lược có ba thứ, đó là Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa. Vì trụ địa này khởi lên ái ba cõi, ái ba cõi cho nên tâm ba cõi phát sanh, do vọng tâm này, thay đổi làm thành cảnh luống dối. Vì điều này cho nên từ tâm hóa sanh. Kế đến nói về Thỉ giác. Nếu Tâm không có vọng: Vì dựa vào lý quán hành nên vọng tâm bất sanh khởi. Tức không có cảnh phân biệt: Vì vọng tạo thành cảnh giới nên tùy theo tâm mà diệt. Bốn môn trên đây hợp lại làm phần thứ nhất mở rộng nghóa về Thật Tế. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Tâm nhược tại tịnh chư cảnh bất sanh, thử tâm tịnh thời ưng vô ba cõi. Phật ngôn: Như thị! Bồ-tát, tâm bất sanh cảnh, cảnh bất sanh tâm, hà dó cố? Sở kiến chư cảnh duy sở kiến tâm, tâm bất huyễn hóa tức vô sở kiến”. Đại Lực Bồ-tát chép: Nếu Tâm đang tịnh thì các cảnh không thể sanh, lúc tâm này thanh tịnh thì sẽ không có ba cõi. Đức Phật nói: Đúng vậy! Này Bồ-tát, tâm không thể sanh cảnh, cảnh không thể sanh tâm, tại vì sao? Vì các cảnh sở kiến ấy chỉ là tâm sở kiến, tâm không thể huyễn hóa tức là không có cảnh sở kiến. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai tức là mở rộng về nghóa Thú Nhập. Trong đó có bốn: 1. Nói chung về Thú Nhập. 2. Hiển bày riêng về thú nhập. 3. Xa lìa sai lầm về Nhập. 4. Lìa bỏ ngằn mé của Nhập. Trong phần Một có hai: Trước hỏi - sau trả lời. Trong phần Hỏi chép: “Lúc tâm này thanh tịnh, thì sẽ không có ba cõi”: Là từ Sơ Địa trở lên chứng cái thấy vốn là thanh tịnh, tùy theo những thích ứng có thể diệt đi, không có ba cõi. Sự tướng ba cõi: Hoặc ở tại Sơ Địa hoặc là Địa thứ tám mà đạt được diệt đi không có ba cõi. Tự tánh Ba cõi: Là trong địa vị Đẳng Giác mà được diệt đi không có, tập khí của ba cõi đến địa vị Diệu Giác mới diệt sạch không còn. Nghóa này đầy đủ như chương về Nhị Chướng giải thích. Trong phần trả lời chung thừa nhận cho nên nói như thế. Lúc ba cõi dứt sạch không còn thì tâm cảnh không thể sanh khởi lẫn nhau, Vì sao? Vì chỉ là tâm vọng thấy thay đổi tạo thành cảnh giới, lúc tâm không luống dối thì không thể dấy lên cảnh, cảnh giới không có cho nên tâm không thể sanh khởi. Kinh: “Bồ-tát nội vô chúng sanh, tam tánh vắng lặng, tắc vô kỷ chúng diệc vô tha chúng, nãi chí nhị thập diệc sanh tâm, đắc như thị lợi tức vô ba cõi”. Bồ-tát bên trong không có chúng sanh, ba tánh vắng lặng, không có chúng của mình cũng không có chúng của người, cho đến hai hòa nhập cũng không thể sanh khởi tâm, đạt được lợi ích như vậy tức là không có ba cõi. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai nói riêng về thú nhập. Trong đó có hai: 1.Nêu chung ra số. 2.Hỏi đáp hiển bày riêng. Đây là văn phần đầu. Trong không có chúng sanh: Nghóa là địa vị Thập Trụ đạt được Nội nhân Không. Ba tánh vắng lặng: Trong địa vị Thập Hạnh đạt được Nội pháp Không. “Thì không có chúng của mình cũng không có chúng của người: Địa vị Thập Hồi Hướng đạt được Bình đẳng Không khắp mọi nơi xả bỏ chúng tự - tha - người - pháp. Nói Chúng là chúng sanh gọi là chúng, pháp của năm Ấm cũng gọi là năm chúng, là tương tự Không chưa được Chân chứng. Cho nên hai nhập: Là cùng nêu ra số Địa tiền và Địa thượng hòa nhập. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Vân hà nhị nhập bất sanh ư tâm, tâm bổn bất sanh vận hà hữu nhập? Phật ngôn: Nhị nhập giải nhất vị lý nhập, nhị vị hành nhập. Lý nhập giả thâm tín chúng sanh bất dị chân tánh, bất nhất bất cọng, đản dó khách trần chi sở ế chướng, bất khứ bất lai ngưng trụ giác quán, đế quán Phật tánh bất hữu bất vô, vô kỷ vô tha phàm Thánh không hai, kim cương tâm địa kiên trụ bất di, vắng lặng vô vi hữu phân biệt, thị danh Lý nhập”. Đại Lực Bồ-tát chép: Vì sao hai nhập bất sanh ở tâm, tâm vốn bất sanh làm sao có nhập? Đức Phật nói: Hai nhập - một gọi là Lý nhập hai gọi là Hành nhập. Lý nhập là tin sâu sắc rằng chúng sanh không khác chân tánh, không là Một là không chung nhau, chỉ vì các chướng ngại che động khách trần, không đi không đến ngưng lại an trụ giác quán, quán sát kỹ càng Phật tánh chẳng phải có - không phải không có, không có mình - không có người khác phàm Thánh không hai, nơi tâm Kim cương kiên quyết an trụ không di động, vắng lặng vô vi không có phân biệt, đây gọi là Lý nhập. Luận chép: Dưới đây là hỏi - đáp nói riêng. Trong phần hỏi có hai: trước hỏi - sau chất vấn. Trong phần đáp cũng có hai: Trước đáp - sau khơi thông. Trong đáp có ba: Nhắc lại số nêu ra tên gọi lần lượt phân rõ tướng. Trong này nói Lý nhập: Thuận theo lý tin hiểu chưa được chứng hành nên gọi là Lý nhập, địa vị ở Địa tiền. Hành nhập: Chứng lý tu hành nhập vào vô sanh hành nên gọi là Hành nhập, địa vị ở Địa thượng. Trong văn Lý nhập có bốn câu. Từ “Tín sâu sắc v.v… ” trở xuống cho đến “bị chướng che lấp”, là Thập Tín nhập vào. Bất nhất: Nghóa là tướng chúng sanh không khác chân tánh nhưng không phải là một. Bất cọng: Vì không phải vừa là một vừa là khác. Câu thứ hai nói “Không đến, không đi lắng đọng an trụ giác quán”, là Thập Trụ nhập vào, hiểu rằng chúng sanh Không cho nên không đến không đi, đối với môn nhân không an trụ tâm vắng lặng đó giác ngộ xét kỹ Phật tánh không có đi - đến (khứ lai). Câu thứ ba nói “Quán kỹ Phật tánh chẳng phải có chẳng phải không”, là Thập Hạnh nhập vào, đã đạt được pháp không dựa vào môn pháp Không quán sát kỹ càng Phật tánh, vì chẳng thể có pháp tướng, chẳng thể không có Không tánh. Câu thứ tư chép: “Không có tự, tha phàm Thánh không hai v.v… ”, là nói về vị thập Hồi Hướng, lý nhập đã đạt được - tự tha bình đẳng Không nên tâm giống như Kim cương kiên quyết an trụ không lui sụt. Trong kinh Phạm Võng gọi là Thập Kim Cương, trong kinh Nhân vương gọi là Thập Kiên Tâm, là tên gọi khác của Thập Hồi Hướng. Kinh: “Hành nhập giả tâm bất khuynh ỷ, ảnh vộ lưu dịch, ư sở hữu xứ tịnh niệm vô cầu, phong cổ bất động do như đại địa, quyên ly tâm ngã cứu độ chúng sanh, vô sanh vô tướng bất thủ bất xả”. Hành nhập là tâm không nghiêng về nương dựa, hình ảnh không có trôi lăn thay đổi, đối với tất cả nơi chốn ý niệm vắng lặng không có mong cầu, gió lay chẳng động giống như mặt đất, vứt bỏ xa lìa tâm ngã cứu độ chúng sanh, không có sanh khởi - không có tướng trạng - không lấy không bỏ. Luận chép: Đây là nói về hành chứng nhập của Địa thượng - Tâm chẳng ngã nghiêng, dựa dẫm: Vì như lý trí tâm không níu bám duyên, vì thế tâm bám víu kéo duyên không thể sanh khởi. Ảnh không trôi lăn thay đổi: Cảnh như lý xa lìa ba thời gian (tam thế), vì thế cảnh tượng chuyển đổi không còn hiện nữa. Tất cả phước lạc thế gian cho đến quả Bồ-đề đại Niết-bàn, đối với tất cả điều này đều không mong cầu, vì thông suốt bình đẳng không có bên này bên kia, cho nên không bị gió cảnh giới làm cho dao động, là nói về tự lợi hành nhập. Từ “Bỏ lìa v.v…” trở xuống là khiến cho người khác nhập vào thật hành, vì chứng hai Không xa lìa tướng người - pháp, có thể rộng khắp mọi nơi cứu độ tất cả. Tuy tâm bất sanh khởi, cũng không có cảnh tướng, nhưng không giữ lấy tánh vắng lặng đó mà thường không xả bỏ đối với tất cả chúng sanh. Vì điều này cho nên nói là không lấy không bỏ. Hai hành như vậy gọi là hành nhập. Kinh: “Bồ-tát! Tâm vô xuất nhập, vô xuất nhập tâm, nhập bất nhập cố cố danh vi nhập”. Này Bồ-tát! Tâm không có ra vào, không có ra vào tâm, vì vào không vào, cho nên gọi là nhập vào. Luận chép: Đây là phần thứ hai khơi thông các vấn nạn kia. Tâm chứng lý xa lìa sanh diệt không trước không sau cho nên tâm không có ra vào. Đã không có ra vào cũng không có tâm ra vào của ngày xưa cho nên không có ra vào tâm. Lìa bỏ ngày xưa có ra tâm, nhập vào tâm, tâm nhập vào cái không thể ra vào này nên nói là Nhập bất nhập nên gọi là nhập. Như vậy vấn nạn trước đây hiểu được dễ dàng. Kinh: “Bồ-tát! Như thị nhập pháp, pháp tướng bất không, bất không chi pháp, pháp bất hư khí, hà dó cố? Bất vô chi pháp, cụ túc công đức, phi tâm phi ảnh, pháp nhó thanh tịnh”. Này Bồ-tát! Như vậy nhập vào pháp, pháp tướng chẳng thể không, pháp chẳng thể không pháp chẳng thể giả dối bỏ đi, tại vì sao? Vì pháp chẳng thể không có, đầy đủ công đức, chẳng phải tâm chẳng phải ảnh, pháp nhó thanh tịnh. Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba xa lìa sai lầm về chủ động nhập vào. Trong đó có hai: Sơ lược và giải thích rộng. Đây chính là nói lược. Như vậy nhập vào pháp: Nghóa là hội nhập thật tế không có pháp ra vào, là chẳng thể không có pháp - năng sở bình đẳng xa lìa các sai lầm tai họa - đầy đủ các công đức. Phi tâm phi ảnh: Vì tâm - cảnh bình đẳng xa lìa năng sở. Pháp nhó thanh tịnh: Vì xa lìa các tướng không có trước - không có sau. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Vân hà phi tâm phi ảnh pháp nhó thanh tịnh? Phật ngôn: Không như chi pháp, phi tâm thức pháp, phi tâm sử sở hữu pháp, phi không tướng pháp, phi sắc tướng pháp, phi tâm bất tương ưng pháp, phi tâm vô vi tương ưng pháp, phi sở hiện ảnh, phi sở hiển thị, phi tự tánh phi sai khác - phi danh - phi tướng nghóa, hà dó cố? Như cố. Phi như chi pháp, diệc vô vô như, vô hữu vô như, phi vô như hữu, hà dó cố? Căn lý chi pháp, phi lý phi căn, ly chư tranh luận, bất kiến kỳ tướng. Bồ-tát như thị tịnh pháp, phi sanh chi sở sanh sanh, phi diệt chi sở diệt diệt”. Bồ-tát Đại Lực chép: Thế nào là chẳng phải tâm - chẳng phải ảnh - pháp nhó thanh tịnh? Đức Phật nói: Pháp của Không Như, chẳng phải pháp của tâm thức, chẳng phải các pháp của tâm sai khiến sở hữu, chẳng phải pháp Không tướng, chẳng phải pháp Sắc tướng, chẳng phải pháp bất tương ưng của tâm, chẳng phải pháp tương ưng tâm vô vi, chẳng phải các ảnh tượng hiện bày, chẳng phải những gì hiển bày, chẳng phải tự tánh - chẳng phải sai khác - chẳng phải danh - chẳng phải tướng nghóa, tại vì sao? Vì là Như, nên pháp “không phải Như”, cũng không có, không có Vô như, chẳng phải Vô Như có, tại vì sao? Vì pháp của căn - lý, chẳng phải lý - chẳng phải căn, xa lìa các sự tranh luận về không thấy tướng đó. Này Bồ-tát, tịnh pháp như vậy, là chỗ sanh của chẳng phải sanh mà sanh, chỗ diệt của chẳng phải diệt mà diệt. Luận chép: Dưới đây là phần thứ nhất mở rộng giải thích về xa lìa sai lầm. Đầu tiên hỏi - kế là đáp - thứ ba lónh hội - thứ tư nói về. Trung phần đáp có hai: Trước là giải thích về câu “chẳng phải tâm, chẳng phải ảnh”, sau là giải thích về câu “Pháp nhó thanh tịnh”. Trong phần đầu cũng có hai: Trước là trình bày nhập vào pháp lìa bỏ các tâm ảnh, sau là trình bày tâm ảnh không gì không phải Như lý. Trong phần đầu chép: “Pháp của Không Như”: Là lúc hội nhập thật tế xa lìa các tướng nói là không, năng sở bình đẳng nói là Như. Như vậy nhập vào pháp lìa bỏ các tâm ảnh. Tâm ảnh sai khác đại khái có sáu cặp: 1.Tâm và tâm sở là một cặp. 2. Hư không và sắc là một cặp. 3. Bất tương ưng hành và các vô vi là một cặp. 4. Ảnh hưởng cùng với bản chất là một cặp. 5. Tự tánh sai khác là một cặp. 6.Danh ngôn cùng với tướng nghóa là một cặp. Trong sáu cặp này thì một cặp đầu tiên là chủng loại của tâm năng duyên, năm cặp sau là chủng loại ảnh sở duyên. Lìa bỏ sáu cặp này cho nên chẳng phải tâm ảnh. Như thứ tự các câu đó có sáu cặp: Chẳng phải tâm thức pháp”: Vì lìa bỏ tám thức tâm. “Chẳng phải tâm sử sở hữu pháp: Vì lìa bỏ sáu địa vị tâm sở hữu pháp. Chẳng phải không tướng pháp”: Lìa bỏ vô sắc tướng hư không pháp. “Chẳng phải sắc tướng pháp”: Lìa bỏ ba thứ sắc: Hiển, hình và biểu. “Chẳng phải tâm bất tương ưng pháp”: Lìa bỏ hai mươi bốn bất tương ưng Hành. “Chẳng phải tâm vô vi tương ưng pháp”: Lìa bỏ bảy loại vô vi pháp còn lại. Dựa vào tâm sở hiển bày cho nên gọi là tâm vô vi. Tướng của ba thứ vô vi tương ưng pháp cho nên gọi là Tương ưng pháp. Cũng lìa bỏ ba thứ Chân như pháp ấy là vì trong môn nhập chứng không có ba sai khác. “Chẳng phải ảnh hiện”: Vì lìa bỏ ảnh tượng của phần đồng pháp vốn có, đã hiển hiện của phương tiện quán. “Chẳng phải sở hiển thị”: Cũng lìa bỏ những pháp cốt toả của bản chất đã hiển thị của ảnh tượng. “Chẳng phải tự tánh”: Vì lìa bỏ tự tánh của các sắc tâm v.v… “Chẳng phải sai khác”: Vì lìa bỏ các tướng sai khác của vô thường. “Chẳng phải danh”: Vì lìa bỏ các tướng năng thuyên danh, cú, văn. “Chẳng phải tướng nghóa”: Vì lìa bỏ tướng sở thuyên về danh và nghóa của danh thích đáng. Tại vì sao lìa bỏ tướng sáu cặp này: Vì năng sở bình đẳng không có sai khác cho nên nói là Vì như. Từ “Pháp chẳng phải Như v.v… ” về sau là phần thứ hai nói về tâm -ảnh- pháp không có gì không thể như lý. “Pháp chẳng phải như”: Nghóa là trước đây pháp tướng vốn chẳng phải sáu cặp. “Cũng không có vô như”: Vì Như lý thông suốt khắp nơi. “Không có Vô Như”: Vì không có một pháp nào có tướng mà không như lý ấy. “Chẳng phải Vô như có”: Giả sử có pháp vô Như có thể được làm có. Đã chẳng phải pháp của không phải Như thì không thật có là có. Từ “Vì sao?..”trở xuống là giải thích về nghóa chẳng phải có (phi hữu). Căn ấy là gốc cây (thụ căn) dụ cho hạt giống. Lý ấy là thớ gỗ (mộc lý) dụ cho hiện pháp. Như quả Am la nói trong dụ trước kia. Lìa các tranh luận về không thấy tướng đó: Vì cầu mong giác tuệ không có gì đạt được. Hai phần trên đây mở rộng về chẳng phải tâm - ảnh. Từ “Tịnh pháp như vậy v.v… ” trở xuống là kế đến mở rộng về pháp nhó thanh tịnh. Là chỗ sanh của phi sanh mà sanh. Câu dưới cũng vậy. Vì lìa tướng diệt nên thể chẳng phải diệt: Vì lìa bỏ tướng sanh cho nên Thể chẳng phải sanh. Cũng vậy pháp thanh tịnh lìa bỏ tướng hữu vi vô sanh vô diệt vô thỉ vô chung. Căn cứ vào nghóa này cho nên pháp nhó thanh tịnh. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Bất khả tư nghị! Như thị pháp tướng bất hợp thành bất độc thành, bất ki bất bạn, bất tụ tán bất sanh diệt, diệc vô lai tướng cập dó khứ tướng, không thể nghó bàn”. Đại Lực Bồ- tát chép: Không thể nghó bàn! Như vậy pháp tướng không hòa hợp mà thành - không riêng rẽ mà thành, không ràng buộc không phụ hoạ, nhóm không tán bất sanh diệt, cũng không có tướng xảy ra cho đến tướng lìa bỏ, không thể nghó bàn. Luận chép: Đây là phần thứ ba lónh ngộ hiểu rõ. Chẳng hợp thành ấy là chẳng phải tâm- chẳng phải tâm sở, vì tâm và tâm sở Thể khác nhau tương ưng. Chẳng riêng lẽ thành ấy là chẳng phải tự tánh - chẳng phải sai khác, vì hai nghóa này riêng không có hai Thể. Chẳng buộc ràng là vì chẳng phải danh, chẳng phải nghóa, danh nghóa làm khách lẫn nhau. Chẳng phụ họa là chẳng phải ảnh, chất, vì ảnh chất tương tự nhau mà làm bạn. Chẳng tụ tán là vì chẳng phải Không - chẳng phải sắc, vì nhóm hợp là sắc - tán hoại là Không. Chẳng sanh diệt là vì chẳng phải bất tương ưng - chẳng phải vô vi, vì bất tương ưng thành là sanh khởi, các vô vi pháp diệt đi mà hiển bày. Đây là lónh hội nghóa về lìa bỏ sáu cặp nói trước đây. Cũng không có tướng đến là vì sanh ra từ chỗ sanh của phi sanh. Cho đến tướng mất là vì chỗ diệt của phi diệt. Là lónh hội về “Pháp nhó thanh tịnh” nói sau đó. Đầu tiên nói Bất khả tư nghị: là như của chẳng phải như, lìa tâm mà nói. Sau nói bất khả tự nghị là lìa tâm của tâm cũng lìa bỏ cả hai. Kinh: “Phật ngôn: Như thị! Bất khả tư nghị, bất khả nghị. Tâm tâm diệc như thị, hà dó cố? Như bất dị tâm tâm bổn như cố”. Đức Phật nói: Đúng vậy! Không thể nghó bàn, không thể nghó bàn Tâm tâm cũng như vậy, tại vì sao? Vì Như chẳng khác tâm - tâm vốn là Như. Luận chép: Đây là phần thứ tư nói về thành tựu. Như thứ tự đó nói về về hai thứ câu Bất tư nghị kia. Cái gọi là Tâm ấy, nghóa là tâm nhập vào chứng thật, tâm của vô tâm nhập vào nơi không thể nhập vào cho nên Bất tư nghị. “Như chẳng khác tâm” là giải thích Bất tư nghị ở trước, “Vì tâm vốn Như” là giải thích bất tư nghị ở sau. Kinh: “Chúng sanh Phật tánh bất nhất bất dị, chúng sanh chi tánh bổn vô sanh diệt, sanh diệt chi tánh tánh bổn Niết-bàn, tánh tướng bổn như như vô động cố”. Phật tánh và tánh chúng sanh không phải một không phải khác, tánh của chúng sanh vốn bất sanh diệt, tánh của sanh diệt là tánh vốn có Niết-bàn, tánh tướng vốn là Như Như không có biến động. Luận chép: Dưới đây là phần thứ tư lìa bỏ ngằn mé đã Nhập. Trong đó có hai: Trước là nói về Phật tánh lìa bỏ ngằn mé một khác, sau là hiển bày Như Như lìa bỏ ngằn mé Hữu - Vô. Trong phần đầu có hai: trình bày Sơ lược và nói rộng. Đây chính là nói lược, trong này cũng có hai. Trước là lìa bỏ một khác, sau là giải thích lìa bỏ khác. Lìa một khác: Nghóa là vì chúng sanh cùng Phật tánh không một mà cũng không phải khác. Nói Phật tánh ấy là Chân như Phật tánh. Như trong kinh Niết-bàn chép: “Phật tánh ấy gọi là Đệ nhất nghóa Không, hoặc là một hoặc là khác đều có sai lầm”. Tánh của chúng sanh vốn bất sanh diệt: Dưới đây giải thích nghóa về lìa khác vì nghóa của không một (bất nhất dễ dàng có thể thấy. Câu này trình bày con người không khác nhau Phật tánh. “Tánh của sanh diệt là tánh vốn có Niết-bàn”: Là nói về sanh tử không khác Niết-bàn. Tánh tướng vốn như như không động: Là tánh người của chúng sanh (nhân tánh) sanh diệt mà pháp tướng xưa nay là Như cho nên không khác. Kinh: “Nhất thiết pháp tướng tùng duyên vô khởi, khởi tướng tánh như như vô sở động, nhân duyên tánh tướng tướng bổn không vô, duyên duyên không không vô hữu duyên khởi, nhất thiết duyên pháp hoặc tâm vọng kiến, hiện bổn bất sanh duyên bổn vô cố, tâm như pháp hoặc tâm vọng kiến, hiện bổn bất sanh duyên bổn vô cố, tâm như pháp lý tự thể không vô, như bỉ không vương bổn vô trụ xứ, phàm phi chi tâm vọng phân biệt kiến”. Tất cả pháp tướng từ duyên không khởi lên, khởi lên tướng tánh Như Như không hề bị biến động, nhân duyên tánh tướng - tướng vốn là không không có, duyên duyên Không Không không có duyên khởi, tất cả duyên pháp mê hoặc tâm vọng nhìn thấy, hiện tại vốn bất sanh - duyên vốn không có, Lý của Tâm - Như - Pháp tự Thể không có, như chúa tể hư không kia vốn không có trụ xứ, tâm của phàm phu vọng phân biệt mà thấy. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai nói rộng. Trong đó chỉ mở rộng về nghóa lìa bỏ mé khác. Tất cả pháp tướng từ duyên mà sanh ra, tất cả quả pháp từ duyên mà có cho nên chính là không có sanh khởi, khởi lên tướng tánh Như Như không hề bị biến động. Xuống dưới nói về năng khởi các duyên cũng Không. Nhân duyên tánh tướng, tướng vốn vắng lặng không có: Vì hạt giống nhân duyên không gì vốn có. Duyên duyên không không không có duyên khởi: Sở duyên duyên pháp chẳng phải một mà rất nhiều chẳng gì không đều là Không cho nên nói Không Không. Vì vậy cho nên không có năng khởi của duyên. Tất cả duyên pháp hoại tâm vọng kiến: Nghóa là Tăng thượng duyên và vô gián duyên chỉ là tâm vọng nhìn thấy cho nên cũng Không. Hiện vốn bất sanh duyên vốn không có: Kết thành hai không, Duyên vốn hiện rõ quả xưa nay bất sanh, năng khởi các duyên xưa nay không có. Lý của tâm như pháp tự thể vắng lặng không có: Trước nói về nhân quả là pháp sở thủ, pháp sở thủ không có cho nên tâm năng thủ cũng Không. Như nói của phápsở thủ đạo lý Không, Thể của tâm năng thủ cũng vậy. Bên trên là pháp nói, dưới đây dẫn thí dụ. Nói không vương là Không có hai thứ: 1. Không giới, nghóa là Sắc sáng tỏ - tối tăm. 2. Không vương, nghóa là pháp hư không làm nơi nương dựa cho tất cả Sắc. Như vị vua là nơi nương tựa của mọi người dân vì thế nói hư không gọi là không vướng. Như thế không vướng vốn không có trụ xứ mà phàm phu vọng suy nghó phân biệt, hư không nơi này -hư không nơi kia chỉ là luống dối thấy chấp. Không có đây, kia, nhân quả các pháp nên biết rằng cũng thế, vọng tâm giữ lấy không có nhân - không có quả, đều là dựa theo nhân quả biến kế sở chấp, mà làm thí dụ về chỗ vọng thấy này. Kinh: “Như như chi tướng bổn bất hữu vô, hữu vô chi tướng kiến duy tâm thức. Bồ-tát! Như tâm chi tánh, bất vô tự thể, tự thể bất hữu, bất hữu bất vô. Bồ-tát! vô bất vô tướng, phiênngôn nói địa, hà dó cố? Chân như phi pháp hư khóang vô tướng, phi nhị sở cập”. Tướng của Như Như vốn chẳng thể có - không tướng của có - không nhìn thấy chỉ là Tâm thức. Này Bồ-tát! Tánh của tâm Như, chẳng thể không có tự thể, tự thể chẳng thể có, chẳng thể có - chẳng thể không có. Này Bồ-tát! Không có gì chẳng thể không có tướng, chẳng phải nơi ngôn nói, tại vì sao? Vì pháp của Chân Như rộng rãi khóang đãng không có tướng, chẳng phải nơi đạt đến của hai sở hành tầm tứ. Luận chép: Đây là phần thứ hai nói về pháp Như Như lìa bỏ ngằn mé có - không. Trong đó có bốn: Câu đầu tiên chính thức nói về Như Như lìa bỏ ngằn mé. Câu kế là trở lại đưa ra có ngằn mé là vọng. Thứ ba dẫn ra tâm lìa bỏ ngằn mé làm ví dụ. Thứ tư trở lại trình bày Như Như xa lìa ngôn từ. Trong phần thứ ba nói “Tánh của tâm Như”: Cũng như Thể tánh của nhất tâm vậy. “Chẳng thể không có tự thể”: Nghóa là vì lìa bỏ ngằn mé không có tự Thể giống như sừng thỏ. “Tự thể chẳng thể có”: Nghóa là lìa bỏ ngằn mé có tự Thể giống sừng trâu. Chẳng phải nói là Tha tướng không có cho nên chẳng thể có - do đó nói tự Thể chẳng thể có mà thôi. “Chẳng thể có, chẳng thể không có”: Chẳng thể có tức là chẳng thể không có, chẳng thể không có tức là chẳng thể có. Căn cứ vào nghóa này cho nên lại kết hợp trình bày vậy. Tâm - Pháp như nhất chẳng thể có - chẳng thể không có, lý của Như Như cũng giống như vậy, vì thế cho nên đầu câu nói là Tâm Như. Từ “Không có gì chẳng thể không có tướng, không phải chỗ ngôn nói v.v… ” trở xuống là phần thứ tư trở lại nói về đạo lý Như Như xa lìa ngôn từ. “Không có gì chẳng thể không có tướng”: Nói về “Vốn chẳng thể có không có” trong câu đầu tiên, vì chẳng phải là nơi các loại lời lẽ yên ổn đạt tới. “Chẳng phải hai sở hành hiểu kịp”: Vì chẳng phải sở hành của hai thứ tầm, tứ. Hai pháp tầm, tứ là ngôn ngữ đạt tới. Chẳng phải là hai sở hành này cho nên không phải chỗ của ngôn từ nói năng. Kinh: “Hư không cảnh giới, nội ngoại bất trắc, lục hành chi só nãi năng, tri chi”. Cảnh giới hư không, trong ngoài không thể suy lường, người có đức hạnh của sáu hành mới có thể biết được. Luận chép: Dưới đây là phần lớn thứ ba về tầng bậc địa vị của Nhập. Trong đó có bốn: 1. Nói về sở nhập sâu xa. 2. Nêu ra hành của vị năng nhập. 3. Nói riêng về tầng bậc địa vị. 4. Đối chiếu nói về tâm Nhập. Trong phần đầu chép: “Hư không cảnh giới”: Nghóa là pháp của Như Như rộng rãi khóang đãng không có tướng cho nên gọi là Hư không. Nội ngoại chẳng thể lường: Nghóa là hai mươi tám bậc Thánh nội đạo và chín mươi lăm loại trong ngoại đạo, hạng phàm Thánh này không thể nào suy lường được. Trong phần thứ hai nói “Bậc só của sáu hành mới có thể biết”: Là nêu ra tầng bậc địa vị hai Nhập của hàng Bồ-tát. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Vân hà lục hành nguyện vi nói chi. Phật ngôn: Nhất giả thập tín hành, nhị giả thập trụ hành, tam giả thập hạnh hành, tứ giả thập hồi hướng hành, ngũ giả thập địa hành, lục giả đẳng giác hành. Như thị hành giả nãi năng tri chi”. Bồ-tát Đại Lực chép: Thế nào là sáu hành, nguyện giảng nói cho điều đó! Đức Phật nói: Một là thập Tín hành, hai là thập Trụ hành, ba là thập Hạnh hành, bốn là thập Hồi hướng, năm là thập Địa hành, sáu là Đẳng Giác hành. Người thật hành như vậy mới biết được. Luận chép: Đây là phần thứ ba nói riêng về tầng bậc địa vị. Chỉ có hiển bày hành vị mà không nói về quả vị đó, cho nên không chọn lấy địa vị của Diệu Giác. Trong sáu Hành này thì bốn địa vị trước là Lý nhập của tầng bậc dưới thấp, hai địa vị sau là Hành nhập sai khác. Trong đó nghóa sơ lược ở kinh Bổn Nghiệp, nghóa phân biệt rộng, xuất xứ từ giáo Hoa Nghiêm. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Thật tế giác lợi vô hữu xuất nhập, hà đẳng pháp tâm đắc nhập thật tế? Phật ngôn: Thật tế chi pháp pháp vô hữu tế, vô tế chi tâm tắc nhập thật tế”. Bồ-tát Đại Lực nói: Thật tế giác lợi không có ra vào, pháp - tâm hạng nào có thể hội nhập thật tế? Đức Phật nói: Pháp của thật tế - pháp không có ranh giới, tâm không có ranh giới thì hội nhập thật tế. Luận chép: Đây là phần thứ tư đối chiếu nói về tâm Nhập. Trong câu hỏi nói “Thật tế giác lợi không có ra vào”: Nêu lên hai địa vị sau đạt được hai lợi hành và lý tương xứng với nghóa không có ra vào. Pháp tâm hạng nào có thể hội nhập thật tế: Trong đó chính là hỏi về tâm - pháp năng nhập. Trong trả lời nói “Pháp của thật tế pháp không có ranh giới”: Là nêu lên pháp sở nhập. Vì pháp như thế không có ranh giới (vô tế), chiều dọc thì không có thời gian trước sau không có bắt đầu không có cuối cùng cho nên lìa bỏ thời gian ba đời, chiều ngang thì không có ranh giới, đây kia không chính giữa không bên cạnh cho nên lìa bỏ nơi chốn sáu phương; rất sâu không có bến bờ không có giới hạn nào không thể xa lìa, rộng lớn không có ranh giới không có nơi nào không thể cùng khắp. Đầy đủ bốn nghóa này cho nên nói là vô tế. Tâm của năng nhập cũng có đủ bốn nghóa, cho nên đối với thật tế không có nơi nào không thể hội nhập. Nên biết rằng thật tế xa lìa ngằn mé năng sở, tâm cũng như thế xa lìa ranh giới năng sở, tức là không có hội nhập đó mới có thể hội nhập được, thì gọi là nghóa không thể nghó bàn. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Vô tế tâm trí, kỳ trí vô nhai, vô nhai chi tâm, tâm đắc tự tại, tự tại chi trí đắc nhập thật tế; như bỉ phàm phu nhuyến tâm chúng sanh, kỳ tâm đa suyễn dó hà pháp ngự linh đắc kiên tâm đắc nhập thật tế?”. Bồ-tát Đại Lực nói: Tâm trí không có ranh giới, trí đó không bến bờ, tâm không bến bờ, tâm được tự tại, trí của tự tại được hội nhập thật tế, nếu như phàm phu kia tâm chúng sanh yếu hèn, tâm đó nhiều vội vã thì dùng pháp gì điều khiển làm cho tâm được vững chắc có thể hội nhập thật tế? Luận chép: Dưới đây là phần lớn thứ tư về phương tiện hội nhập. Nhập phương tiện: Địa vị ở tại bốn địa vị Địa tiền, phương tiện quán bên trong môn lý nhập. Trong đó có hai: Trước là nói về phương tiện năng nhập, sau là nói về phương tiện thắng lợi. Trong phần đầu cũng có hai: Trước sơ lược - Sau mở rộng. Trong phần sơ lược trước là hỏi, trong hỏi cũng có hai: 1. Lónh hội đối với trước đây. 2. Hỏi đối với sau đó. Trong lónh hội nói “vô tế” là vì Thể của tâm không có ranh giới. Vô nhai là Dụng của trí không có bến bờ. Kinh: “Phật Ngôn: Bồ-tát! Bỉ tâm suyễn giả dó nội ngoại sử, tùy sử lưu chú, trích lịch thành hải, thiên phong cổ lãng, đại long kinh hãi, kinh hãi chi tâm cố linh đa suyễn. Bồ-tát! Linh bỉ chúng sanh tồn tam thủ nhất, nhập Như-lai thiền, dó thiền định cố tâm tắc vô suyễn”. Đức Phật nói: Này Bồ-tát! Tâm kia là vì kiết sử trong ngoài, tùy theo kiết sử trôi lăn rót vào. Nhỏ giọt dần thành biển, gió trời làm nổi sóng, rồng lớn kinh hãi, tâm kinh hãi cho nên khiến nhiều vội vã. Này Bồ-tát! Khiến cho chúng sanh kia giữ lại Ba là vâng theo một, nhập vào Như-lai thiền, vì thiền định cho nên tâm sẽ không có vội vàng. Luận chép: Trong phần trả lời có hai: Trước là đưa ra các tướng sửa trị chướng, sau là chỉ rõ phương tiện có thể sửa trị. Trong phần đầu nói “Tâm suyễn” là tâm kinh sợ không yên ổn hơi thở ra vào rất nhanh nói là đa suyễn, để dụ cho sáu Thức thay đổi biến động không dừng. Nội ngoại sử: Vì bốn sử Mạt-na bên trong duyên với tự ngã, sáu sử ý thức bên ngoài duyên theo các cảnh. Tùy sử chảy rót: Nghóa là các tiểu tùy phiền não như phẫn hận v.v… những đại tùy phiền não chìm xuống nổi lên đó, và trung tùy phiền não vô tàm quý tùy theo các sử di chuyển chứa nhóm rót vào Thức hiện tại. Nhỏ giọt dần thành biển: Bởi các sử, tùy Hoặc vốn có tất cả hiện hành đều xông ướp Thức hiện tại chứa nhóm sâu rộng. Gió trời làm nổi sóng: Nghiệp lực sở cảm cảnh giới sáu trần mặc ý chuyển vận hiện hành cho nên gọi là gió trời kích động, biển cả tùy miên khơi dậy làn sóng bảy Thức cho nên nói làm cho nổi sóng. Rồng lớn kinh hãi: Năng lực Vô minh trụ địa của nó lớn nhất trụ ở đáy biển tùy miên của bổn thức cho nên gọi là Rồng lớn. Như vậy vô minh trái với vắng lặng thường, có thể tăng thêm tâm của thô động cho nên nói là kinh hãi. Do các duyên này làm cho tâm thường gấp gáp. Đây là khiến cho biết những tướng sửa trị về chướng. Từ đây trở xuống là chỉ ra phương tiện có thể sửa trị đó. Giữ lại ba là phương tiện có thể ngăn dứt gió trời. Giữ lại một là phương tiện có thể chế phục rồng lớn. Nhập Như-lai thiền ấy là phương tiện chủ yếu sửa trị thường vội vàng. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Hà vị tồn tam thủ nhất nhập Như-lai thiền? Phật ngôn:Tồn tam giả tồn giải thoát, thủ nhất giả thủ nhất tâm như, nhập Như-lai thiền giả lý quán tâm như, nhập như thị địa tức nhập thật tế”. Đại Lực Bồ-tát chép: Cái gì là giữ lại ba là vâng theo một là nhập vào Như-lai thiền? Đức Phật nói: Giữ lại ba là giữ lại ba giải thoát, vâng theo một là vâng theo một tâm như, nhập vào Như-lai thiền ấy là lý quán tâm như, nhập vào nơi như vậy tức là nhập vào thật tế. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai mở rộng hiển bày phương tiện. Có ba lần hỏi - đáp. Trong lần đầu tiên này nêu chung lên số. Thủ nhất tâm như: Trong pháp Nhất tâm có hai chủng loại. Nay trước tiên vâng theo môn tâm chân như, để chế phục thế lực của con rồng lớn vô minh, vì vô minh chính là không nhận ra Nhất tâm Như. Trong này Thủ ấy là lúc nhập vào vắng lặng tuân giữ cảnh Nhất Như, lúc đi ra không đánh mất tâm của Nhất vị, cho nên nói là Thủ Nhất. Như trong phần Thập Hạnh của kinh Bổn nghiệp chép: “Thập là vì tự tại xoay bánh xe Đại pháp. Đó gọi là Bồ-tát Tam bảo. Bồ-tát lúc bấy giờ ở tại trí Trung đạo đệ nhất là giác bảo, tất cả các pháp bất sanh khởi dao động qua lại tức là pháp bảo; thường lưu động trong sáu đường hòa hợp cùng với chúng sanh sáu đường, gọi là Tăng bảo, đưa chuyển tất cả chúng sanh chảy vào biển cả Phật pháp”. Xét rằng: Ba thời không mất đi một vị Trung đạo chính là công dụng tuân giữ một của pháp quán này. Pháp quán này ở tại địa vị Thập Hạnh. Các môn khác về sau hiển rõ nên trong này không luận đến. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Tam giải thoát pháp thị hà đẳng sự, lý quán Tam-muội tùng hà pháp nhập? Phật ngôn: Tam giải thoát giả hư không giải thoát - kim cương giải thoát - Bát-nhã giải thoát. Lý quán tâm giả tâm như lý tịnh vô khả bất tâm. Đại Lực Bồ-tát ngôn: Vân hà tồn dụng vân hà quán chi? Phật ngôn: Tâm sự không hai thị danh tồn dụng, nội hành ngoại hành xuất nhập không hai, bất trụ nhất tướng tâm vô đắc thất, nhất bất nhất địa tịnh tâm lưu nhập, thị danh quán chi”. Bồ- tát Đại Lực chép: Pháp của ba giải thoát là sự việc như thế nào lý quán Tam-muội từ pháp nào hội nhập? Đức Phật nói: Ba giải thoát ấy là Hư không giải thoát - Kim cương giải thoát - Bát-nhã giải thoát. Lý quán tâm ấy là tâm như lý thanh tịnh không có gì có thể chẳng là tâm. Bồ-tát Đại Lực chép: Thế nào còn dụng, thế nào quán sát? Đức Phật nói: Tâm và sự không hai thì gọi là còn dụng, nội hành ngoại hành ra vào không hai, không trụ vào một tướng thì tâm không có được mất, nơi một không một mà tâm thanh tịnh trôi lăn hội nhập thì gọi là quán sát. Luận chép: Hai lần hỏi đáp này nói riêng về quán hành. Trong phần trả lời trước nói “Ba giải thoát”: Tức là ba tuệ thâu nhiếp tám giải thoát cho nên gọi là Giải thoát. Như trong phần Thập Trụ của kinh Bổn Nghiệp chép: “Sáu là được chư Phật che chở. Gọi là tám giải thoát quán: Văn tuệ đạt được hai tướng nội giả - ngoại giả không thật có, là một giải thoát, Tư tuệ bên trong năm ấm pháp - bên ngoài tất cả pháp không thật có là hai giải thoát, Tu tuệ sáu quán đầy đủ sắc giới năm ấm Không là ba giải thoát, bốn Không năm ấm và diệt định quán không thật có; năm là giải thoát như tướng. “Xét rằng: Tám giải thoát quán sơ lược có hai môn: Nếu căn cứ sự tướng chỉ có Tu tuệ quán, thì chung cả Nhị Thừa, như nơi khác giải thích. Nếu dựa theo ba tuệ quán Nhân Không - Pháp Không, là quán Đại thừa Như văn đây nói. Giải thoát đầu tiên là trong có sắc tướng, bên ngoài quán các sắc, nghóa là bên trong còn các sắc, pháp tướng năm ấm quán sát Nội Ngã Không, bên ngoài còn các sắc quán sát chúng sanh Không, Không này dễ dàng nhập vào là sở đắc của văn Tuệ, vì thế nói “Văn tuệ đắc nội giả, ngoại giả hai tướng không thật có”. Không xả bỏ các sắc, dùng quán không có tựa như hư không cho nên không xả bỏ sắc tướng, giải thích đây là Hư không giải thoát. Giải thoát thứ hai: Bên trong không có sắc tướng - ngoài quán sát các sắc. Trong xả bỏ các pháp tướng năm ấm sắc… bên ngoài quán tất cả núi sông đều không, các pháp cõi Dục không có pháp nào không là Không, Không này khó hiểu - là pháp quán của Tư Tuệ, vì thế nói là “Tư Tuệ pháp năm ấm bên trong tất cả pháp, bên ngoài không thật có”. Suy xét tìm tòi phân tích làm rõ các pháp trong ngoài, giống như Kim cương san bằng các sắc pháp, vì thế cho nên gọi là Kim cương giải thoát. Sáu thứ giải thoát sau đều là Tu tuệ. Quán tất cả các pháp của hai cõi trên đều Không cho nên nói là Tu Tuệ. Sáu quán đều là Tu tuệ dựa vào Định mà phát khởi, vì thế cho nên gọi chung là Bát- nhã giải thoát. Sáu thứ trong đó sai khác về tướng. Thứ ba gọi là Tịnh giải thoát: Thân tác chứng năm ấm cõi sắc sáng ngời sạch sẽ vắng lặng, quán tất cả đều Không vì thế gọi là Tịnh giải thoát. Tự bên trong đã chứng gọi là thân tác chứng, nói là “Đầy đủ sắc giới ngũ ấm không là ba giải thoát”. Thứ tư gọi là Không xứ giải thoát: Vì quán không xứ năm ấm đều không, cho đến Phi Tưởng giải thoát cũng như thế. Quán diệt định pháp cũng không thật có, cho nên gọi là Diệt tận giải thoát, đều từ những xả bỏ để lập ra lên tên gọi đó, vì vậy nói là “Bốn không năm ấm và diệt định quán đều không thật có”. Năm là giải thoát như tướng. Như vậy ba tuệ quán Nhân Không - Pháp Không, chế phục lìa bỏ hai ràng buộc hiện hành của hai chấp cho nên gọi là giải thoát. Đã xả bỏ tất cả giả pháp trong ngoài, có thể ngăn dứt các cảnh gió tự nhiên thổi đến kích động. Trong Lý quán nói “Tâm như lý tịnh không có gì không thể là tâm: Vì thuận theo lý vô tướng nên tâm không có phân biệt. Trong phần trả lời sau nói “Tâm sự không hai gọi là còn dụng”: Đây gọi là còn lại ba công dụng hơn hẳn khả năng. Nếu người chưa đạt được ba công dụng giữ lại ba, tâm yên lặng quán Không vượt qua sự thất niệm, giữ lấy ngã và Ngã sở đắm vào cảnh trái thuận, gió tự nhiên làm cho dao động nên tâm và sự đều khác nhau. Nếu người có thể tu tập thành thục ba giải thoát, ra khỏi quán vượt qua sự quán khí thế hãy còn không giữ lấy tướng của tự - tha, không đắm vào cảnh tốt - xấu, vì vậy không bị gió trời kích động. Vào ra cùng quên tâm - sự không hai, như vậy mới gọi là công dụng giữ lấy ba, là quán như tu ở tại địa vị Thập Tín, dụng còn lại được thành tựu ở tại địa vị Thập Trụ, như trong phần Thập Trụ vị của kinh Bổn Nghiệp lập ra pháp quán này. Từ “Nội hành v.v… “ về sau là trả lời câu hỏi thứ hai để trình bày tướng quán. Nội hành là tiến hành nhập vào quán vắng lặng chiếu soi. Ngoại hành là tiến hành ra khỏi quán cảm hóa người khác. Hoặc là ra hoặc là vào không mất đi Trung đạo cho nên nói là Không hai. Như trong phần thập Hướng của kinh Bổn Nghiệp chép: “Hòan toàn dùng tuệ tự tại cảm hóa tất cả chúng sanh, đó gọi là Trung đạo đệ nhất nghóa đế. Trong chốn Bát-nhã mà quán sát, thấu suốt tất cả các pháp mà không có hai, tuệ đó từng bước chuyển nhập vào Thánh địa cho nên gọi là Tương tự đệ nhất nghóa quán, mà không phải thật sự Trung đạo đệ nhất nghóa đế quán”, cho đến nói rộng ra. Không thể trụ nhất tướng là vì hai đế quán. Tâm không có được mất là vì bình đẳng quán. Vì dựa vào hai thứ phương tiện quán này, tiến vào trong dòng nước pháp tuôn chảy của sơ Địa, cho nên nói nơi một, không là một mà tịnh tâm lưu nhập…” Như kinh đó nói chép: “Tam quán ấy là từ Giả nhập vào Không gọi là Nhị đế quán, từ Không nhập vào Giả gọi là Bình đẳng quán, là hai quán phương tiện đạo. Dựa vào hai Không quán này được nhập vào Trung đạo đệ nhất nghóa quán, cả hai soi chiếu hai đế tâm tâm vắng lặng tiến vào trong dòng nước pháp tuôn chảy của Sơ Địa”, cho đến nói rộng ra. Xét rằng: Hai đế quán trong này là xả bỏ Tục quán sát Chân, chính là phương tiện của Chánh thể trí. Bình đẳng quán là dung hòa Chân quán sát Tục, tức là phương tiện của Hậu đắc trí. Quán sát tục như huyễn hóa không giữ lấy được, mất không thích hợp không chối bỏ cho nên gọi là Bình đẳng. Nói nơi một, không là một là tên gọi khác của Sơ Địa. Vì sao như vậy? Vì Sơ Địa tức là Thập địa, ngay một lúc lập tức nhập vào mười tầng pháp giới. Thập Địa chính là Sơ Địa, vì thẳng thắn dùng khắp nơi đầy đủ (biến mãn) làm Sơ môn nhập vào. Vì Thập Địa chính là Sơ địa cho nên gọi là Nhất, Sơ Địa chính là Thập Địa cho nên Bất nhất. Vì thế cho nên gọi là “nơi một, không là một”. Dựa vào hai phương tiện để làm sạch tâm đó, từ đây trôi lăn nhập vào một nơi Một là không phải một. Vì điều này cho nên nói Tịnh tâm lưu nhập. Trong này chỉ mở rộng hai quán trước sau, một quán ở giữa theo đó có thể biết được. Kinh: “Bồ-tát! Như thị chi nhân bất tại nhị tướng, tuy bất xuất gia bất trụ tại gia cố, tuy vô pháp phục bất cụ trì giới Ba-la-đề-mộc-xoa, bất nhập Bố tát năng dó tự tâm vô vi tự tứ nhi hoạch Thánh quả, bất trụ nhị thừa nhập Bồ-tát đạo, hậu đương mãn địa thành Phật Bồ-đề”. Này Bồ- tát! Người như vậy không còn hai tướng, tuy chẳng xuất gia mà không trụ ở tại gia, tuy không có pháp phục, không thể giữ gìn đầy đủ giới Ba- la-đề-mộc-xoa, không nhập vào bố tát mà có thể dùng tự tâm vô vi tự tứ mà đạt được Thánh quả, không trụ Nhị thừa mà nhập vào đạo Bồ-tát, về sau sẽ đầy đủ địa vị thành tựu Bồ-đề quả Phật. Luận chép: Dưới đây là phần lớn thứ hai về phương tiện thắng lợi. Trong đó có bốn: 1.Thắng lợi đạt được quả. 2.Thắng lợi được cung cấp. Thắng lợi không có tai họa. 4. Thắng lợi không trụ lại. Đây chính là thắng lợi thứ nhất đạt được quả. Trong phần đầu cũng có bốn loại thắng lợi: 1.Thắng lợi lìa bỏ ngằn mé, vì không rơi vào tướng hai bên đạo tục. Như kinh nói “Người như thế … cho đến “không trụ ở tại gia”. 2.Thắng lợi tự tại, vì không bị sự ràng buộc của giáo môn và giới luật, có thể dùng tự tâm phân định đạo lý, vắng lặng thuận theo tự nhiên mà không có gì không làm. Như kinh nói “Tuy không có pháp phục v.v…” cho đến “Mà được Thánh quả”. 3.Thắng lợi nhập đạo, như kinh nói “Không trụ Nhị thừa mà nhập Bồ-tát đạo”. 4. Thắng lợi đạt được quả, vì như kinh nói “Về sau sẽ viên mãn thành tựu Bồ-đề quả Phật”. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Bất khả tư nghị! Như thị chi nhân phi xuất gia phi bất xuất gia, hà dó cố nhập Niết-bàn trạch, trước Như-lai y, tọa Bồ-đề tòa? Như thị chi nhân nãi chí Sa-môn nghi ưng kính dưỡng. Phật ngôn: Như thị hà dó cố? Nhập Niết-bàn trạch tâm khởi ba cõi, trước Như-lai y nhập pháp không xứ, tọa Bồ-đề tòa đăng chánh giác nhất địa. Như thị chi nhân tâm siêu nhị ngã, hà huống Sa-môn nhi bất kính dưỡng?”. Đại Lực Bồ-tát chép: Không thể nghó bàn! Người như vậy chẳng phải xuất gia - chẳng phải không xuất gia, tại vì sao nhập vào nhà Niết-bàn, mặc áo Như-lai, ngồi tòa Bồ-đề? Người như vậy cả đến Sa-môn nên thuận theo cung kính hầu hạ Đức Phật nói: Đúng vậy, vì sao? Vì nhập vào nhà Niết-bàn tâm vượt khỏi ba cõi, mặc áo Như-lai nhập vào chỗ pháp Không, ngồi tòa Bồ-đề bước lên Nhất địa Chánh giác. Người như vậy tâm vượt trên hai ngã, huống chi Sa-môn mà không cung kính hầu hạ? Luận chép: Dưới đây là thắng lợi thứ hai được cung dưỡng. Vì đạt được ba đức thù thắng có thể làm ruộng phước, tiếp nhận sự cung dưỡng của tất cả đạo tục. Ngay nơi văn có ba: Đầu tiên nói về ruộng phước bậc Bồ-tát, kế đến biểu hiện Nhị thừa không thấy, sau cùng biểu hiện Bồ-tát thường thấy. Trong phần đầu chính là nói rõ ba thứ ruộng phước: Vào nhà Niết-bàn tâm khởi trên ba cõi là còn lại ba cái dụng của ba giải thoát, ba cõi vắng lặng gọi là nhà Niết-bàn là nơi thanh tịnh yên tâm dừng ở. Quán ba giải thoát nhập vào ba cõi Không mà không giữ lấy sự chứng, trở lại khởi trên thế tục tâm cảm hóa khắp nơi ba cõi cho nên nói là tâm vượt khỏi ba cõi. Tâm vượt khỏi ba cõi mà không nhiễm sắc trước tức là còn lại dụng. Mặc áo Như-lai, vào xứ pháp không tức là quán tuân thủ Nhất tâm như. Nghóa là khi trải qua ba cõi hóa độ khắp nơi, mặc áo nhẫn nhục mà không mệt chán, trở về nhập vào pháp không tuân giữ Nhất tâm như, Như kinh Pháp Hoa chép: “Áo nhu hòa nhẫn nhục”. “Ngồi tòa Bồ-đề bước lên Chánh giác nhất địa” là tâm Lý quán của Như-lai thiền, gọi là ngồi ở pháp Không, tiến tu phương tiện đạt được chân quán bước lên Sơ Địa Chánh giác, như kinh Pháp Hoa chép: “Các Pháp Không làm tòa”. Như vậy ba địa vị đều quán hai không, người ngã - pháp ngã hai chấp này điều phục diệt sạch cho nên nói Tâm siêu vượt nhị ngã. Vượt trên hai Ngã cho nên Đoạn đức đầy đủ, tu tập ba Quán cho nên Trí đức cũng đầy đủ, vì thế thường có thể làm ruộng phước cho đạo tục. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Như bỉ nhất địa cập dữ không hải, nhị thừa chi nhân vi bất kiến dã. Phật ngôn: Như thị! Bỉ nhị thừa nhân vị trước Tam-muội, đắc Tam-muội thân, ư bỉ không hải nhất địa, như đắc tửu bệnh hôn túy bất tỉnh nãi chí số kiếp do bất đắc giác, tửu tiêu thỉ ngộ phương tu thị hành, hậu đắc Phật thân”. Đại Lực Bồ-tát chép: Như Nhất địa kia cùng với biển Không, người Nhị thừa không thấy. Đức Phật nói Đúng vậy! Người hàng Nhị Thừa mê đắm Tam-muội, được Tam-muội thân, đối với biển Không Nhất địa kia, như bệnh được rượu mê mẫn say sưa không tỉnh ngộ cho đến nhiều kiếp hãy còn không thể nào giác ngộ, tỉnh rượu mới hiểu ra - mới tu tập hạnh này, về sau đạt được thân Phật. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai người Nhị thừa không thấy. Trong đó có hai: Trước hỏi - sau trả lời. Trong câu hỏi nói Nhất địa, đó là Địa đã bước lên. Thập Địa chính là Sơ Địa gọi là Nhất Địa. Biển Không là Không của ba quán trước đã nhập vào sâu thẳm rộng lớn nên gọi là biển. Trong phần trả lời nói Như thị là vì thừa nhận không thấy, xuống dưới giải thích lý do không thấy của hàng Nhị thừa. Đắm vào vị Tam-muội: Vì vui mừng đắm vào tónh lự thiền định mà hướng đến vắng lặng. Đắc Tam-muội thân: Như những niềm vui hướng về nhập định diệt tâm, nhờ đó nhập vào Niết-bàn khôi thân diệt trí, trí tâm diệt sạch nơi chốn nên thể diệt định sanh ra ngăn dứt tâm pháp của tâm. Như vậy gọi là Đắc Tam-muội thân. Mừng vui vắng lặng huân tập ở trong bổn Thức, vì vậy không hiểu ra biển Không Nhất địa. Như người bệnh nghiện rượu say sưa, chẳng tỉnh cho đến nhiều kiếp còn không được biết: Người hàng Tu-đà-hoàn trụ tám muôn kiếp, cả đến La-hán trụ hai muôn kiếp, hàng Phật Bích Chi trụ mười ngàn kiếp, trụ ở tại Niết-bàn mà không giác ngộ. Nay toàn bộ cùng nói là cho đến nhiều kiếp: Rượu mới tu hành này: tùy theo vui mừng đắm vào đó huân tập dày mỏng, trạng thái mê đắm mất dần và chấm dứt có thể trở lại khởi tâm, lúc tâm khởi lên thì tâm quay lại nhập vào Đại thừa, mới tu tập ba thứ quán hành như trước. Như kinh Lăng già tụng rằng: “Ví như người mê mẫn say sưa, tỉnh rượu sau đó hiểu ra, đạt được Thể vô thượng của Phật, là Pháp thân chân thật của mình” cho đến giải thích rộng. Kinh: “Như bỉ nhân giả tùng xả Xiển-đề tức nhập lục hành, ư hành địa sở nhất niệm tịnh tâm, quyết định minh bạch, Kim cương trí lực, A-bệ-bạt-trí, độ thoát chúng sanh, từ bi vô tận”. Như hạng người kia thuận theo xả bỏ Xiển-đề lập tức nhập vào sáu hành, hướng về nơi hành địa nhất niệm tịnh tâm, quyết định rõ ràng, trí lực Kim cương, A- bệ-bạt-trí, độ thoát chúng sanh, từ bi không cùng tận. Luận chép: Đây là nói về người thuộc chủng tánh Bồ-tát, thuận theo xả bỏ chướng ngại bất tín của Xiển-đề, lập tức nhập vào Thập Tín - bậc đầu tiên của sáu hành, ở tại nơi Hành Địa tu tập liền phát khởi một niệm tâm thanh tịnh, tức là Sơ phát tâm của Thâïp Trụ. Quyết định rõ ràng: Nghóa là các hành trong sáng của địa vị Thập Hạnh. Kim cương trí lực: Nghóa là trí lực vững chắc của Thập Hồi Hướng. A-bệ-bạt-trí: Nghóa là từ sơ Địa trở lên thật sự chứng đạt không còn lui sụt. Độ thoát chúng sanh từ bi vô tận: Chính là hạnh lợi tha ở tại địa vị trước, vì để phân biệt hàng Nhị thừa không thể thật hiện. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Như thị chi nhân ưng bất trì giới, ư bỉ Sa-môn ưng bất kính ngưỡng. Phật ngôn: Vị nói giới giả bất thiện mạn cố, hải ba lãng cố, như bỉ tâm địa bát thức hải trừng, cửu thức lưu tịnh phong bất năng động, ba lãng bất khởi, giới tánh đẳng không, trì giả mê đảo. Như bỉ chi nhân, thất lục bất sanh, chư tập diệt định, bất ly tam Phật nhi phát Bồ-đề, tam vô tướng trung thuận tâm huyền nhập, thâm kính tam bảo bất thất oai nghi, ư bỉ Sa-môn bất vô cung kính. Bồ-tát! Bỉ nhân giả bất trụ thế gian động bất động pháp, nhập tam nhóm không, diệt tam hữu tâm”. Đại Lực Bồ-tát chép: Người như vậy lẽ ra không trì giới, đối với Sa-môn kia cũng không nên kính mến. Đức Phật nói: Là vì người nói giới khinh mạn bất thiện, vì sóng nước biển khơi, như nơi tâm kia, biển tám thức lắng trong, dòng chín Thức sạch sẽ, gió không thể xao động, sóng nước không tung lên, giới tánh đều là không, người trì giữ mê muội trái lại. Giống như hạng người kia, mạt na - ý thức bất sanh khởi, các tập diệt định, không lìa ba Phật mà phát khởi Bồ-đề, trong ba vô tướng thuận theo tâm sâu xa nhập vào, rất tôn kính Tam bảo không làm mất oai nghi, đối vơi Sa-môn kia không thể không cung kính. Này Bồ-tát! Bậc Nhân giả kia không trụ vào pháp động, bất động của thế gian, nhập vào ba nhóm không diệt sạch tâm ba cõi. Luận chép: Đây là thắng lợi thứ ba xa lìa tai họa, nghóa là xa lìa tai họa nhân quả của phàm phu. Trong đó đầu tiên hỏi “Nên là không trì giới”: Vì như trước nói rằng “Không thể trì đầy đủ giới Ba-la-đề- mộc-xoa”. Đối với Sa-môn kia cũng nên không kính ngưỡng: Đã không trì giới cho nên không cần phải cung kính người trì giới. Trong trả lời có hai: Trước là thừa nhận câu hỏi trước đó, kế đến làm mất đi câu hỏi sau. Trong phần đầu chép: “Vì người nói giới”: Vì người nói giới chính là các vị Thanh-văn. Cậy mình trì giới coi thường những người phá giới, vì thế nói khinh mạn bất thiện, là vì người này chưa đạt được các pháp không. Trong biển cả tùy miên, sóng bảy Thức xoay chuyển, cho nên nói “Sóng nước biển khơi”, là nêu lên sai lầm của người trì giới. “Như tâm địa kia”: Nghóa là tâm của Bồ-tát chứng các pháp Không nhập vào đại địa. Hai chấp tùy miên phân biệt khởi lên bên trong Thức thứ tám đều đã diệt sạch không còn, cho nên nói “Biển tám thức lắng trong”. Trí vô phân biệt chứng nhập Bổn giác từng địa thêm lớn xa lìa các tạp nhiễm, cho nên chép: Dòng chín thức trong sạch. Bổn giác chính là thức thứ chín cho nên tâm vô phân biệt chẳng phải cảnh làm cho dao động vì thế “gió không thể dao động”, không thể dao động cho nên nhiễm bảy Thức bất sanh khởi, do đó nói “Sóng nước không tung lên”. Người này đã chứng tất cả Pháp Không, bảy chi giới tánh thông suốt đều vắng lặng, cho nên nói “Giới tánh đều không”. Nhưng người hàng Thanh-văn không đạt được pháp Không, chấp có giới tánh cậy vào tự mình có thể trì giữ, cho nên nói “Người trì giữ mê trái lại”. Đây là trả lời câu hỏi trước nói không trì giới mà lại không phải sai lầm. Từ “Như kia v.v…” trở xuống kế là trả lời câu hỏi sau để trình bày không có khinh mạn. “Thất, lục bất sanh”: Vì Mạt-na thức bốn Hoặc không hiện hành cho nên hạt giống Kiến Hoặc đã đoạn diệt. “Các tập diệt định”: Các thức sanh khởi từng tâm đã nhóm hợp đều diệt sạch không còn sau đó nhập vào Lý định. “Không lìa ba Phật mà phát Bồ-đề”: là nói từ khi phát tâm đến nay tâm cung kính rộng khắp sanh khởi, Như-lai-tạng Phật là các chúng sanh dựa vào nơi ấy phát tâm cho nên không thể khinh mạn. “Trong ba vô tướng thuận tâm sâu xa hội nhập”: Lúc đạt được Hành Nhập nhổ sạch gốc rễ vô minh, như trước đã nói thuận theo nhất tâm pháp mà đi sâu vào trong ba giải thoát. Do nghóa này cho nên rất tôn kính Tam bảo. Nghóa là hình tượng Phật, pháp thuần khiết vốn có… bốn loại Tăng v.v… chẳng có gì không tôn kính, cho nên đối với Sa-môn không thể không cung kính. Vì dựa vào ba Phật mà phát tâm cho nên nhổ sạch gốc rễ kiêu mạn trừ bỏ chủng loại vô minh. Trên đây nói về lìa bỏ các nhân tai họa đó, từ đây xuống dưới là nói về xa lìa tai họa của các quả đó. “Không trụ ở pháp động bất động của thế gian: Quả giàu có vui mừng của trời người cõi Dục gọi là pháp Động, vì quả thiện phân tán, Quả vắng lặng yên tónh của cõi sắc và vô sắc gọi là Pháp Bất động, vì quả thiện ổn định. Đối với nơi ấy không mê đắm cho nên nói là không trụ. Nhập ba nhóm không: Như trước đã nói, xoay vòng liên tục thêm vào cho nên gọi là nhóm. Không phải chỉ không mê đắm cũng làm cho bất sanh khởi, vì điều này cho nên nói là “diệt sạch tâm ba cõi”. Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Bỉ nhân giả ư quả mãn túc đức Phật, Như-lai-tạng Phật, hình tượng Phật, như thị Phật sở nhi phát Bồ-đề tâm, nhập tam tụ giới bất trụ kỳ tướng, diệt tam hữu bất cư tịch địa, bất xả khả chúng nhập bất điều địa, không thể nghó bàn”. Đại Lực Bồ-tát chép: Bậc Nhân giả ấy hướng về vị Phật đầy đủ công đức quả vị viên mãn, vị Phật trong Như-lai-tạng, vị Phật bằng hình tượng, đối với các vị Phật như vậy mà phát tâm Bồ-đề nhập vào ba nhóm giới không trụ vào tướng đó, diệt sạch tâm ba cõi không ở chỗ vắng lặng, không xả bỏ được chúng nhập vào chỗ không điều hòa, không thể nghó bàn. Luận chép: Đây là Phần thắng lợi thứ tư không có trụ lại. Trong đó có hai: Trước là lónh ngộ những điều nói ở trên, sau là nói lên không có trụ lại. Trong phần lónh ngộ có hai câu - Trước là lónh ngộ câu “Không lìa ba vị Phật”. Vị Phật đầy đủ công đức, quả vị viên mãn: Là Thỉ giác rốt ráo muôn đức tròn đầy. Như-lai-tạng Phật: Là vì tất cả chúng sanh vốn có Bổn giác. Hình tượng Phật: là vàng - đồng - bùn - gỗ có thể biểu hiện tôn tượng, cho nên, nhân quả sự lý không có điều gì rơi sót. “Nhập ba nhóm giới, không trụ vào tướng đó: Là lónh ngộ câu “Giới tánh đều không” trước đây. Bốn duyên nhập vào giới, không mê đắm tướng giới, ba nhóm bốn duyên sẽ nói trong phẩm sau. Từ đây trở xuống chính là nói về thắng lợi vô trụ. Tuy trở lại nhập vào ba Không nhóm, diệt sạch tâm ba cõi mà không dừng lại nơi vắng lặng. Sáu độ trải rộng khắp nơi cư trụ của chúng sanh nhiều vội vã gọi là nơi không điều hòa. Từ các hoặc giữ lại dựa vào nghiệp không trói buộc hướng về nơi ấy thọ sanh nên gọi là Nhập. Nói Lưu hoặc: Nghóa là không nhanh chóng diệt hết. Như người tiểu thừa ở trong thời gian ba vô số đại kiếp dần dần mà dứt trừ, lúc đạt được Bồ-đề mới dứt sạch hoàn toàn. Không thể cho rằng từ Kim cương trở xuống là hoàn toàn không dứt trừ nên gọi là Lưu! Kinh: “Nhó thời Xá Lợi Phật, tùng tòa nhi khởi tiền nói kệ ngôn: Cụ túc Bát-nhã hải, bất trụ Niết-bàn thành, như bỉ diệu liên hoa, cao nguyên phi sở xuất, chư Phật vô lượng kiếp, bất xả chư phiền não, độ thế nhiên hậu đắc, như nê hoa sơ xuất, như bỉ lục hành địa, Bồ-tát chi sở tu, như bỉ tam nhóm không, Bồ-đề chi trực đạo”. Lúc bấy giờ Xá-lợi- phất, đứng lên chỗ ngồi bước đến phía trước nói kệ: Biển Bát-nhã Vốn tràn đầy, thành Niết-bàn không dừng lại, như hoa sen tuyệt diệu kia, không sinh ra từ cao nguyên, chư Phật trong vô lượng kiếp, không bỏ các phiền não, cứu độ thế gian chứng đạt sau, như hoa mọc lên từ bùn, như địa vị sáu hành kia, là pháp tu của Bồ-tát, như ba nhóm không nơi ấy, là đường thẳng đến Bồ-đề. Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba Thân tử lónh ngộ hiểu rõ đề làm cho chúng Tiểu thừa phát tâm rộng lớn. Trong đó có hai: 1.Lónh ngộ hiểu rõ. 2. Thuật về thành tựu. Trong phần Một cũng có hai: Ba tụng ở trước tụng về những điều giảng nói trước đây, hai tụng sau đó bày tỏ tự mình phát tâm. Trong phần đầu có ba: 1. Hai tụng trước tụng về vô trụ đạo; 2. Có hai câu tụng về địa vị sáu hành; 3. Hai câu cuối cùng tụng về Tam Nhóm không. Trong phần mốt nói “Biển Bát-nhã đầy đủ” ấy là vì ba giải thoát có đủ ba Tuệ. Không trụ thành Niết-bàn: Vì diệt sạch tâm ba cõi không cư trụ vắng lặng. Bất sanh từ cao nguyên”: Như người Nhị thừa kia lìa bỏ bùn phiền não, tám muôn kiếp… không thể phát tâm. Không bỏ các phiền não”: Vì không giống như hàng Nhị thừa trong nhị nhị sanh gấp rút đoạn hết”. Như hoa mọc tử bùn: Vì từ các hoặc giữ lại nhập vào nơi không điều hòa, ở tại trong đó tu tập đầy đủ Bồ-tát hạnh. Dựa vào đây có thể chứng được quả vị Bồ-đề cho nên nói là “Hành ba nhóm”. Ở tại văn có thể biết. Kinh: “Ngã kim trụ bất trụ, như Phật chi sở nói, lai sở hoàn phục lai, cụ túc nhiên hậu xuất, phục linh chư chúng sanh, như ngã nhất vô nhị, tiền lai hậu lai giả, tất linh đăng chánh giác”. Nay con trụ nơi không trụ, như những điều Đức Phật nói, nơi đến tiếp tục đến, đầy đủ rồi mới vượt ra, trở lại khiến các chúng sanh, như con hoàn toàn không hai, người đến trước - người đến sau, đều khiến bước lên chánh giác. Luận chép: Đây là phần thứ hai nói tự mình phát tâm. Trong đó có hai: Đầu là hai câu nói về địa vị phát tâm hiện tại, sau là một tụng rưỡi nói về hạnh tu tập sau đó. Con nay trụ nơi không trụ: là hiện nay nghe Đức Phật giảng nói xong phát tâm rộng lớn chính là trụ ở tâm không trụ, vào chỗ vắng lặng. “Nơi đến tiếp tục đến”: Là nơi từ vô thỉ trôi lăn đến con lìa bỏ trước đây, nay vẫn tiếp tục đến để nhập vào ba cõi cứu độ chúng sanh, bến bờ định lực vươn dài nên sự thọ thân tùy theo những nơi thích hợp đó mà thị hiện. “Đầy đủ rồi sau ra”: Sau khi tất cả hạnh Bồ-tát đầy đủ mới vượt ra xa rồi thân này đạt được thân Phật. Nói người trước là người gốc lành đã thành thục từ quá khứ. Nói người sau là người ở đời vị lai mới thành thục gốc lành. Vì vậy cùng tận thời gian vị lai không dừng nghỉ. Kinh: “Nhó thời Phật cáo Xá-lợi-phất ngôn: Bất khả tư nghị! Nhữ đương ư hậu thành Bồ-tát đạo, vô lượng chúng sanh siêu sanh tử hải”. Lúc bấy giờ Đức Phật bảo Xá-lợi-phất biết: Không thể nghó bàn! Ông sẽ thành tựu đạo Bồ-tát về sau này, vô lượng chúng sanh vượt qua biển cả sanh tử. Luận chép: Phần thứ hai nói về thành tựu, ấn chứng những điều giảng nói đó. Kinh: “Nhó thời đại chúng giai ngộ Bồ-đề, chư tiểu chúng đẳng nhập ngũ không hải”. Lúc ấy đại chúng đều giác ngộ Bồ-đề, các chúng Tiểu thừa đều nhập vào biển năm không. Luận chép: Đây là phần lớn thứ tư nói đại chúng đương thời được lợi ích. Nói đại chúng là chúng Đại thừa. Ngộ Bồ-đề là tâm thức tỉnh nhập vào nhất địa bồ-đề. Các Tiểu chúng gọi là chúng Thanh-văn, được nhập vào ba thứ môn chân như. <篇> LUẬN KINH TAM-MUỘI KIM CƯƠNG <卷>QUYỂN HẠ Phẩm Thứ 6: CHÂN TÁNH KHÔNG Luận chép: Pháp của chân như đầy đủ các công đức, cùng với các hạnh đức mà làm bổn tánh, cho nên nói là chân tánh, như vậy chân tánh bặt dứt các danh tướng. Vì điều này cho nên nói là Chân Tánh Không. Lại, Chân Tánh này xa lìa tướng - xa lìa tánh. Xa lìa tướng là lìa tướng luống dối. Xa lìa tánh là lìa tánh chân. Xa lìa tướng luống dối cho nên tướng luống dối là Không. Xa lìa chân tánh cho nên chân tánh cũng Không. Vì điều này nên nói là Chân Tánh Không. Nay trong phẩm này nói rõ hai nghóa này, do đó dựa vào nghóa đây lập thành tên gọi của phẩm. Kinh: “Nhó thời Xá-lợi-phất nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Tu Bồ- tát đạo vô hữu danh tướng, ba cõi vô nghi, vân hà nhiếp thọ vi chúng sanh nói, nguyện Phật từ bi vị ngã giảng nói!”. Bấy giờ Xá-lợi-phất lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tu đạo Bồ-tát không có danh tướng, ba giới pháp không có nghi dung, làm sao nhiếp thọ nói cho chúng sanh, cúi xin Đức Phật từ bi nói cho chúng con nghe! Luận chép: Nói riêng về Quán Hạnh có sáu phần, trong đó phần thứ tư xả bỏ luống dối hội nhập thật tế hoàn tất. Dưới đây là phần thứ năm nói về các Thánh Hạnh đưa ra Chân tánh không. Ngay trong phẩm này có hai phần lớn: Một là Vì người lợi căn giảng nói mở rộng nhiều văn. Hai là vì người độn căn thâu nhiếp sơ lược ít văn. Trước tiên trong phần giảng nói mở rộng thì có sáu phần: 1. Nói về Tam tụ giới từ chân Tánh mà thành tựu. 2.Nói về Đạo phẩm hành từ chân tánh mà lập nên. 3. Nói về Như-lai giáo thích hợp như lý giảng nói. 4. Nói về địa vị Bồ- tát từ bổn lợi sinh ra. 5. Nói về Đại Bát-nhã bặt dứt các nhân duyên. 6. Nói về Đại thiền định vượt lên trên các danh số. Đầu tiên trong ba giới pháp văn có năm phần: 1. Thưa hỏi; 2.Trả lời; 3.Thỉnh cầu; 4.Giảng nói; 5.Lónh ngộ hiểu rõ. Đây tức là phần một thưa hỏi: Nói “Tu Bồ-tát đạo không có danh tướng”: Là nêu lên chung các hạnh. Ba cõi không có dung nghi: Là nhắc lại riêng giới hạnh, như phẩm trước nói “Nhập ba cõi không trụ ở tướng đó” vậy đứng trước ba giới pháp không có tướng trạng - không có nghi dung, làm sao tự nhiếp thọ và nói cho người khác? Lúc này Xá-lợi-phất đã bắt đầu nhập vào Đại thừa, lần đầu phát khởi tu hạnh lấy giới làm căn bản, do đó thưa hỏi hạnh đầu tiên của trong ba học. Lại, Thân Tử này từ thân mà sanh ra, nay trong phẩm này nói các hạnh - pháp từ pháp thân sanh ra, cho nên nương nhờ Thân Tử mà phát ra thưa hỏi. Kinh: “Phật ngôn Thiện nam tử! Nhữ kim đế thính vi nhữ giảng nói Thiện nam tử! Thiện bất thiện pháp tùng tâm hóa sanh, nhất thiết cảnh giới ý ngôn phân biệt, chế chi nhất xứ chúng duyên đoạn diệt, hà dó cố? Thiện nam tử! Nhất bổn bất khởi, tam dụng vô thỉ, trụ ư như lý, lục đạo môn đỗ, tứ duyên như thuận ba cõi cụ túc”. Đức Phật nói: Này người thiện nam! Nay ông lắng nghe vì ông giảng nói. Này người thiện nam! Pháp thiện và bất thiện từ tâm hóa hiện sanh ra, tất cả cảnh giới ý nghó ngôn từ phân biệt, chế ngự điều đó một nơi thì các duyên đoạn diệt, vì sao? Này người thiện nam! Một nguồn gốc không khởi lên, ba công dụng không thi hành, an trụ vào như lý, cửa sáu đường chặn kín, bốn duyên thuận theo Như thì ba giới pháp đầy đủ. Luận chép: Đây là phần thứ hai trả lời sơ lược trong đó có hai: Trước là trả lời chung cả câu hỏi. Pháp thiện, bất thiện từ tâm hóa sanh”: Vì nhân hành ba nghiệp đều do tâm dấy lên. “Tất cả cảnh giới ý, ngôn phân biệt”: Vì cảnh của sáu đứờng chẳng có gì không phải là ý thay đổi. Do tâm loạn động không thể nào chế ngự, thay đổi dấy lên nhân quả trôi lăn trong biển khổ. Vì vậy muốn vượt qua biển khổ, tu Bồ-tát đạo chế ngự tâm nhất như dứt diệt các duyên, cho nên Bồ-tát tu không có danh tướng”. Từ “Vì sao? v.v…” trở xuống kế là trả lời riêng cho câu hỏi. Tuy tiếp tục chung mà biệt hạnh chưa nghe, cho nên lại hỏi là tại vì sao? Một bổn không khởi”: Căn bản của ba giới pháp là một Bổn giác xưa nay vắng lặng cho nên nói không khởi. Ba dụng không thi hành: Đã nương vào bổn giác thành tựu cái dụng của ba giới pháp, thì dụng xa lìa oai nghi thi hành làm tướng, nên không có thi hành tạo tác. Vì thuận theo trụ vào một nguồn gốc, cho nên nói là trụ ở như lý. Đã an trụ như lý tiêu trừ nhân hữu cho nên nói cửa sáu đường khép kín. Đối với lý nhất như đầy đủ năng lực bốn duyên, có thể thuận theo Nhất Như tức là có đủ ba giới pháp, cho nên nói bốn duyên Như, thuận ba giới pháp đầy đủ. Kinh: “Xá-lợi-phất ngôn: Vân hà tứ duyên như thuận ba cõi cụ túc?”. Xá-lợi-phất chép: Thế nào là bốn duyên thuận theo Như thì ba giới pháp có đủ? Luận chép: Đây là phần thứ ba tiếp tục thỉnh cầu. Kinh: “Phật ngôn: Tứ duyên giả nhất vị tác trạch diệt lực thủ duyên nhiếp luật nghi giới, nhị giới bổn lợi tịch căn lực sở tập khởi duyên nhiếp thiện pháp, tam vị bổn tuệ đại bi lực duyên nhiếp chúng sanh giới, tứ vị nhất giác thông trí lực duyên thuận ư như trụ, thi vị tứ duyên. Thiện nam tử! Như thị tứ đại duyên lực bất trụ sự tướng, bất vô công dụng, ly ư nhất xứ tức bất khả cầu. Thiện nam tử! Như thị nhất sự thông nhiếp lục hạnh thị Phật Bồ-đề tát Bát-nhã hải”. Đức Phật nói: Bốn duyên là: Một là Tác trạch diệt lực thủ duyên nhiếp luật nghi giới, hai là Bổn lợi tịnh căn lực sở tập khởi duyên nhiếp thiện pháp giới, ba là Bổn tuệ đại bi lực duyên nhiếp chúng sanh giới, bốn là Nhất giác thông trí lực duyên thuận ở Như trụ, đây gọi là bốn duyên. Này người thiện nam! Như vậy bốn duyên lực rộng lớn không trụ vào sự tướng, chẳng thể không có công dụng, xa lìa đối với một xứ thì không thể mong cầu. Này người thiện nam! Như vậy một sự thâu nhiếp tất cả sáu hạnh là biển Tát-bà-nhã Bồ-đề Phật. Luận chép: Đây là phần thứ tư giảng nói rộng ra. Trong đó có hai: 1. Chính thức trả lời nói về nhân duyên của giới pháp; 2. Thừa dịp hiển bày thâu nhiếp tất cả các hạnh. Trong phần đầu nói bốn duyên: Nghóa là trong một tâm Bổn giác lợi đầy đủ bốn lực dụng làm duyên cho ba giới pháp: 1. Diệt y chỉ duyên; 2. Sanh y chỉ duyên; 3. Nhiếp y chỉ duyên; 4.Ly y chỉ duyên. Diệt y chỉ: Nghóa là trong bổn giác tánh vắng lặng công đức trái với tự tánh các phiền não, dùng duyên này thành tựu Nhiếp luật nghi giới. Sanh y chỉ: Nghóa là trong Bổn giác tánh thiện công đức cùng với tự tánh các gốc lành thuận nhau dùng duyên này thành tựu Nhiếp thiện pháp giới. Nhiếp y chỉ: Nghóa là trong Bổn giác tánh thành tựu tự tánh Đại bi không bỏ tất cả chúng sanh, dùng duyên này thành tựu Nhiếp chúng sanh giới. Ly y chỉ: Nghóa là trong Bổn Giác tánh thành tựu tự tánh Bát-nhã lìa bỏ tất cả sự tướng, dùng nhân duyên này làm cho ba nhóm giới lìa bỏ sự tướng thuận theo Như mà an trụ. Ba thứ trước là duyên riêng, một loại sau là Duyên chung. Lúc Bồ-tát phát tâm thọ trì, ba nhóm giới, thuận theo lợi ích bổn giác mà thọ trì, vì bốn duyên này vốn có đầy đủ ba giới pháp. Đại ý như vậy. Kế làm hiểu rõ văn đó: Một gọi là Tác trạch diệt lực thủ duyên: Bổn giác vốn lìa bỏ sự ràng buộc của phiền não, nêu lên thể mà làm trạch diệt giải thoát, có năng lực thường giữ lấy Biệt giải thoát giới, Như tựa như đá nam châm dẫn lối giữ lấy đối với kim châm, tuy không tác ý mà có lực dụng, nên biết rằng đạo lý trong này cũng như vậy. Hai là Bổn lợi tịnh căn lực sở tập khởi duyên: Nghóa là Bổn giác xưa nay tánh công đức thanh tịnh cùng với đức của các hạnh làm căn bản, từ căn lực này khởi lên các thiện pháp, làm duyên của sự nhóm họp khởi lên pháp thiện, ngay nơi duyên này thành tựu Nhiếp thiện pháp giới. Ba gọi là Bổn tuệ đại bi lực duyên nhiếp chúng sanh giới: Nghóa là tuệ soi chiếu tục trong bổn giác chính là Đại Bi thường lợi ích chúng sanh dùng duyên này thành tựu Nhiếp chúng sanh giới. Bốn gọi là Nhất giác thông trí lực duyên thuận ở Như trụ: Nghóa là trí soi chiếu thông suốt tánh trong Bổn giác khiến cho ba nhóm giới đều thuận theo Như an trụ. Như vậy thể của bốn duyên đầy khắp pháp giới do đó thâu nhiếp muôn hạnh cho nên nói là Đại Lực. Tuy có Đại Lực mà cùng một vị lìa bỏ các danh tướng sự dụng sai khác, cho nên nói là “Không trụ sự tướng”. Tuy không có sự tướng mà có được công năng thường thâu nhiếp tất cả hạnh đức xuất thế, cho nên nói là “Chẳng thể không có công dụng”. Lý do như vậy cho nên chỉ là Bổn giác. Trong pháp Tục không có nghóa như vậy, vì thế nói là “Lìa đối với một xứ thì không thể mong”. Trên đây riêng trình bày duyên của ba nhóm giới. Từ đây xuống là nói về thâu nhiếp tất cả muôn hạnh đó. Bắt đầu từ Thập Tín cho đến Đẳng Giác, sáu địa vị như vậy vốn có các hạnh, đều là sự thâu nhiếp thành tựu của Nhất giác, cho nên nói “Một sự thâu nhiếp tất cả sáu hạnh”. Chẳng những Bồ-tát quay về Bổn giác này, mà chư Phật đầy đủ trí cùng quay về biển này, cho nên nói là biển Tát-bà-nhã Bồ-đề Phật”. Kinh: “Xá-lợi-phất ngôn: Bất trụ sự tướng, bất vô công dụng, thị pháp chân không thường lạc ngã tịnh, siêu ư nhị ngã, đại bát Niết-bàn kỳ tâm bất hệ, thị đại lực quán”. Xá-lợi-phất chép: Không trụ vào sự tướng, chẳng thể không có công dụng, là pháp chân Không thường - lạc - ngã - tịnh, vượt lên trên hai ngã, nhập đại Niết-bàn tâm đó không vướng mắc, là đại lực quán. Luận chép: Đây là phần thứ năm lónh ngộ hiểu rõ. Trong đó có hai: trước là lónh ngộ vốn thuận theo Nhất Như, chính là Pháp thân có đủ bốn đức vượt hơn tướng người - pháp là Đại Niết-bàn. Sau là lónh ngộ tâm thường thuận theo Như, tùy theo Như lìa bỏ vướng mắc mà chẳng có gì không là năng lực Đại tự tại. Kinh: “Thị quán giác trung ưng cụ tam thập thất đạo phẩm pháp. Phật ngôn: Như thị! Cụ tam thập thất đạo phẩm pháp, hà dó cố? Tứ niệm xứ - tứ chánh cần - tứ như ý túc - ngũ căn - ngũ lực - thất giác - bất chánh đạo đẳng, đa danh nhất nghóa, bất nhất bất dị, dó danh số cố đản danh đản tự, pháp bất khả đắc, bất khả chi pháp nhất nghóa vô văn, vô chi tướng chân thật không tánh, không tánh chi nghóa như thật như như, như như chi lý cụ nhất thiết pháp. Thiện nam tử! Trụ như lý giả quá tam khổ hải”. Trong quán này giác ngộ nên đầy đủ pháp của ba mươi bảy đạo phẩm. Đức Phật nói: Đúng vậy! Đầy đủ pháp của ba mươi bảy đạo phẩm? Tại vì sao? Vì bốn niệm xứ - bốn chánh cần - bốn như ý túc - năm căn - năm lực - bảy giác chi - tám chánh đạo như nhau, nhiều tên gọi mà cùng một nghóa, không một không khác, vì danh số chỉ là tên chỉ là chữ, pháp không thật có. Pháp không đạt được đồng nhất nghóa không có văn tự, tướng không có văn tự chân thật tánh Không, nghóa của tánh không như thật Như như, lý của Như như đầy đủ tất cả các pháp. Này người thiện nam! Người an trụ Như lý vượt qua biển ba khổ. Luận chép: Đây là phần lớn thứ hai nói về Đạo phẩm hành từ chân tánh mà lập nên. Trong đó có hai: Trước hỏi - sau trả lời. Trong câu hỏi nói “Trong quán giác ngộ này”: Là năng thuận theo quán - sở thuận theo Bổn giác, năng sở bình đẳng trong quán giác ngộ nên đầy đủ hạnh của ba mươi bảy đạo phẩm. Trong phần trả lời có hai: Trước đồng ý - Sau giải thích. Từ “Vì sao? v.v… trở xuống là phần thứ hai giải thích. Trong đó có hai: Giải thích Trực tiếp - tiếp tục hiển bày. Trong phần đầu nói “Nhiều tên mà một”: Nghóa của từng mục về ba mươi bảy đạo phẩm chỉ một quán giác mà không có hai pháp. “Không một không khác”: Vì quán giác không một nhưng không khác, dựa theo Bất dị môn cho nên nói là Nhất nghóa. Từ “Vì danh số v.v…” trở xuống là tiếp tục hiển bày. Trong đó có bốn: 1. Xả bỏ dị nghóa. 2. Hiển bày nhất nghóa. 3. Nói về nhất nghóa có đủ tất cả các pháp. 4. Nói về nhất nghóa xa lìa các sai lầm. Trong phần Đầu nói “Vì danh số chỉ là danh, chỉ là tự pháp không thể được”: Nghóa là thế gian tu đạo phẩm hạnh pháp tùy theo danh số cho nên có ba mươi bảy phẩm, giác tuệ của Bồ-tát mưu cầu nghóa của từng mục ba mươi bảy pháp đều không thật có. Trong phần thứ hai nói “Pháp không thể được đồng nhất nghóa không có văn tự”: Nghóa là lúc mưu cầu Biệt pháp đó không được, vì pháp này đồng nhất vị bặt dứt các văn tự ngôn ngữ. Trong phần thứ ba nói “Tướng của không có văn tự, chân thật vô tánh”: Không đạt được pháp riêng là vì tâm năng quán bặt dứt các văn tự ngôn ngữ xa lìa tướng sai khác. Nghóa của tánh Không như thật Như như”: Tâm năng quán này xa lìa các tướng nghóa. Vì chẳng khác với lý Như như của Thật tướng. Như vậy lý Như như của Bổn giác chính là đầy đủ các pháp tu thành tựu đạo phẩm, giống như đúc vàng thì tượng có đủ tướng mạo đẹp đẽ, cho nên nói lý Như như đầy đủ tất cả pháp. Đã an trụ Như lý đầy đủ các công đức, tức là xa lìa tất cả sai lầm tạp nhiễm. Nói người an trụ ở như lý vượt qua biển khổ ba cõi: Đây là phần thứ tư xa lìa các sai lầm tai họa. Trong này sơ lược nói về nghóa của đạo phẩm. Trong đó chính là dùng bốn câu phân biệt: 1.Thâu nhiếp ba mươi bảy phẩm để làm mười pháp; Thâu nhiếp mười pháp để làm bốn pháp; 3. Thâu nhiếp bốn pháp để làm một nghóa; 4. Nói một nghóa có đủ ba mươi bảy phẩm. Thứ nhất Thâu nhiếp ba mươi bảy phẩm để làm mười pháp ấy là trong Trí Độ Luận chép: “ba mươi bảy phẩm mười pháp làm căn bản cho đến nói rộng ra”, nên biết rằng mở bày mười pháp lập thành ba mươi bảy phẩm. Nói về thể pháp đó chỉ có mười pháp, những gì là mười? Đó là Giới - Tư - Thọ - Niệm - Định và Tuệ, Tín, Cần, An, Xả. Thế nào là mở bày mười pháp thành ba mươi bảy phẩm? Mở bày Giới thành ba: Là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Tư kể ra lập thành một, gọi là Chánh tư duy. Thọ cũng lập thành một, gọi là Hỷ giác phần. Mở bày Niệm thành bốn: Là Niệm căn - Niệm lực - Niệm giác, Chánh niệm. Mở bày định thành tám: Gọi là Bốn Như Ý túc, Định căn, Định lực, Định giác, Chánh định. Tuệ cũng lập thành tám: Đó là Bốn Niệm xứ, Tuệ căn, Tuệ lực, Trạch pháp giác phần cùng với Chánh kiến. Cần cũng lập thành tám: Đó là Bốn Chánh cần - Tinh Tiến căn - Tinh tiến lực - Tinh tiến giác phần và Chánh tinh tiến. Trong Tín lập thành hai: Tín căn - Tín lực. An và Xả đều có một, gọi là Ỷ giác phần và Xả giác phần. Nói cách chung là có năm trường hợp đó: 1. Mở bày tám có ba, đó là Định - Tuệ - Cần, hai mươi bốn pháp kia thuộc về ba thứ này. 2. Mở bày bốn có một, gọi là Niệm, cho nên bốn pháp kia được một Niệm. Mở bày ba có một, gọi là Giới, cho nên ba pháp kia được một Giới. Mở bày hai có một, gọi là Tín, Tín hai pháp kia. 5.Lập thành một có bốn, Tư - Thọ - An - Xả đều thuộc về tự tánh. Như vậy mười pháp thuộc về ba mươi bảy phẩm. Thứ hai thâu nhiếp mười pháp thành bốn loại: 1.Giới thuộc về Sắc pháp, gọi là Biểu - Vô biểu; 2. Tư và Thọ được Biến hành tâm sở thâu nhiếp; 3.Niệm - Định - Tuệ thuộc về tâm sở Biệt cảnh; 4.Bốn pháp như Tín - Cần v.v… thuộc về tâm sở Thiện. Thứ ba Thâu nhiếp bốn pháp thành một nghóa: Giác tuệ suy xét tìm cầu bốn pháp như vậy thì một sắc pháp đầu có phương sở - không có phương sở đều không có gì đạt được, ba tâm sở sau có thời hay - không có thời đều không thật có. Vậy thì tuy chẳng phải không có pháp mà pháp bình đẳng một vị không thể nào có pháp để đạt được, nên biết rằng bốn pháp chính là một nghóa, cho nên chép: “Nhiều tên mà một nghóa” Thứ tư nói về một nghóa có đủ ba mươi bảy phẩm: Nghóa của năng sở bình đẳng đồng một vị. Quán thân đều không là bốn Niệm xứ, xa lìa biếng nhác là bốn Chánh cần, xả bỏ suy tư vắng lặng diệt sạch là Như ý túc, lìa bỏ các thứ bất tín tức là căn lực, dứt sạch các vô minh tức là bảy giác phần, xa lìa tám tà pháp tức là tám Chánh đạo, như vậy xa lìa tất cả tạp nhiễm, một nghóa có đầy đủ vô lượng công đức, cho nên nói “Trong quán giác này nên đủ pháp của ba mươi bảy đạo phẩm”. Lại nói “Lý Như như đầy đủ tất cả pháp”. Kinh: “Xá-lợi-phất ngôn: Nhất thiết muôn pháp giai tất văn ngôn, văn ngôn chi tướng tức phi vi nghóa, như thật chi nghóa bất khả ngôn nói, kim chư Như-lai vân hà nói pháp?”. Xá-lợi-phất chép: Tất cả muôn pháp đều là, tướng văn tự ngôn ngữ tức không phải nghóa, nghóa của Như thật không thể giảng nói, nay các Đức Như-lai nói pháp thế nào? Luận chép: Dưới đây là phần lớn thứ ba nói về ngôn giáo xcủa Phật là ứng Như lý nói: Trước hỏi - sau trả lời. Trong phần Hỏi nói “Tất cả muôn pháp: “Tức là các ngôn từ giảng nói của thế gian đã an lập các pháp, pháp như ngôn từ đều không có gì đạt được, chỉ có văn tự ngôn ngữ thì chẳng phải là nghóa. Thật nghóa của các pháp bặt dứt các giảng nói nay Đức Phật nói pháp nếu là văn tự ngôn ngữ thì không có thật nghóa, nếu có thật nghóa thì không phải văn tự ngôn ngữ vì thế hỏi: “Vậy Đức Phật làm thế nào nói pháp? Kinh: “Phật ngôn: Ngã nói pháp giả dó nhữ chúng sanh tại sanh nói cố, nói bất khả nói, thị cố nói chi. Ngã sở nói giả nghóa ngữ phi văn, chúng sanh nói giả văn ngữ phi nghóa, phi nghóa ngữ giả giai bất không vô, không vô chi ngôn, vô ngôn ư nghóa, bất ngôn nghóa giả giai thị nói dối, như nghóa ngữ giả thật không bất không, không thật bất thật ly ư nhị tướng, trung gian bất trung, bất trung chi pháp ly ư tam tướng, bất kiến nơi chốn, Như như như nói, như vô vô hữu, vô hữu ư vô, như vô hữu vô hữu vô ư hữu, hữu vô bất tại, nói bất tại cố bất tại ư như, như bất hữu như vô như nói”. Đức Phật nói: Ta nói pháp ấy vì ông và chúng sanh đang sanh mà nói, nói chẳng thể nói, cho nên nói điều đó. Điều Ta đã nói ấy là nói về nghóa, chẳng phải văn, điều chúng sanh nói là nói về văn chẳng phải nghóa, chẳng phải nói về nghóa ấy đều là trống rỗng không có, lời nói trống rỗng không có, không có lời nói về nghóa, không thể nói về nghóa ấy đều là nói dối, như nghóa mà nói ấy thật trống rỗng mà không thể trống rỗng, trống rỗng thật mà không thể thật xa lìa hai tướng, trung gian và không trung gian, pháp của không trung gian xa lìa ba tướng, không thấy nơi chốn, Như Như như nói, như không có - không cái có, không có chẳng còn, nói không còn cho nên không còn đối với như, như không có như chẳng thể không có như mà nói. Luận chép: Đây là phần thứ hai trả lời. Trong đó có hai: Trước là lý do của Phật nói, sau là nói lên sự khác nhau của văn nghóa. Trong phần đầu nói “Vì ông, chúng sanh tại sanh khởi mà nói”: Ông gọi là Thân tử, chúng sanh tức là tất cả phàm phu. Nói về vô vi tức là còn pháp thể, nói về hữu vi tức là sanh khởi pháp tướng. Như vậy nói về còn - sanh khởi không thể nói về thật nghóa, ta nói khác với kia, “Vì vậy nói điều đó” đây là lý do Đức Phật giảng nói giáo pháp. Kế là trong phần hiển bày tướng văn nghóa không giống nhau, trước là nêu hai chương - sau là giải thích hai chương. Trong phần nêu lên nói “Nghóa ngữ chẳng phải văn”: Vì ngôn ngữ tương xứng với thật nghóa cho nên không phải dứt khóat văn là không. Ngữ không phải nghóa: Ngôn ngữ chỉ có văn trống rỗng cho nên không liên quan gì nghóa thật. Thứ hai là trong phần giải thích - Đầu tiên giải thích về chương sau. Nói “Thảy đều là không”: Vì dứt khóat có văn không chẳng có Thật nghóa, là giải thích về văn ngữ. “Không có nói về nghóa”: Vì không có giải thích bàn luận đối với nghóa Như thật, là giải thích phi nghóa. Trở xuống là tổng kết, nói “Đều là nói dối”: Vì tuy không phải trái với suy tưởng nhưng xa cách với nghóa, giống như không thấy nói là thấy, thấy nói là không thấy v.v… Từ “Như nghóa v.v…” trở xuống là tiếp tục hiển bày. Trong phần đầu cũng có hai: Trước là giải thích về chẳng phải văn, sau là giải thích về Nghóa ngữ. Giải thích về chẳng phải văn. Nghóa là chẳng phải là không vì chẳng phải văn là không, vì chẳng phải không có nghóa: Giải thích về nghóa ngữ: Vì nghóa phù hợp với ngữ, vì ngữ giống như nghóa. Đầu tiên trong giải thích nói “Thật không bất không”: Nghóa là nói về chân như Thật tướng cũng không, vì như trước giảng nói “tướng không cũng không”. “Nói về Thật không, mà không mất đi lý thật Tướng đó cho nên nói Bất không vì tuy không phải có thật nhưng không phải không có thật, Không thật, bất thật”: Nghóa là nói về lý chân Như là Thật cho nên nói Không thật, mà không giữ lại lý Chân không đó cho nên nói Bất thật, vì tuy không phải không có Không mà không phải có Không. Lìa hai tướng trung gian, không trung gian: Ngữ Bất không xa lìa đối với Không tướng, ngữ của Bất Thật xa lìa đối với Thật tướng cho nên nói là xa lìa hai tướng. Nhưng giữa hai tướng Không - Thật không thể tồn tại cái ở giữa của không phải hai (Phi nhị), cho nên nói là Trung gian, không trung gian. Đã xa lìa hai bên cũng không rơi vào giữa, cho nên nói là lìa ba tướng. Chỗ Tâm ngôn hành không vượt qua ba tướng, nhưng ở đây đức Phật nói xa lìa ba tướng, tức là ở trong đó tâm ngôn hết cách, cho nên nói là “Không thấy nơi chốn”. Như vậy khéo hợp với nghóa của hết đường nói năng, cho nên không giống như văn không có nghóa. Đây là giải thích về chẳng phải văn vậy. Như như như nói: Là giải thích về nghóa ngữ, một Như trên là khế hợp xác đáng, hai Như dưới là nghóa lý, như trước nói “Viễn ly tam tướng” khế hợp xác đáng nghóa lý Như như mà nói. Vì lẽ đó Đức Phật nói chính là nghóa ngữ, không giống như phi nghóa của thế gian nói. Từ “Như vô” trở xuống là phần thứ hai tiếp tục hiển bày, trước là nói về chẳng phải văn, sau là nói về nghóa ngữ. Trong phần đầu nói “Như vô vô hữu vô hữu ư vô”: Nghóa là lý chân Như tuy không phải là có mà Như vốn không nên khiến cho không cái có, nghóa là khiến cho không có pháp có ở trong pháp không, Vì sao? Vì Như vốn chẳng phải có, không đối với có nào mà rơi vào không vậy? Vì vậy phù hợp với lời nói “Thật không bất không”. Như vô hữu vô hữu vô ư hữu”: Nghóa là lý chân Như tuy không phải không có mà Như vốn là không nên khiến có cái không có đó: Nghóa làm cho có pháp không ở trong pháp có, Vì sao? Vì Như vốn chẳng phải không có, có đối với không nào mà rơi vào có vậy? Vì vậy phù hợp với lời nói “Không thật bất thật”. Hữu vô bất tại: Như chẳng có cái có chẳng có cho nên có chẳng tồn tại, Như không cái không có cho nên không có tồn tại, cả hai đã không còn, sao có thể có ở giữa? Chính là hợp với lời nói “Lìa bỏ ba tướng” Như nghóa đã như vậy hợp với nghóa ngữ, vì thế cho nên lời Đức Phật nói là Thật chẳng phải văn suông. Như vậy tiếp tục hiển bày giải thích về chẳng phải văn. Đức Phật nói về danh ngôn như vậy thích hợp với lý, cho nên Hậu đắc trí có tên gọi như vậy. Tư duy chân như thì có thể tự mình quán sát Chân như lý thể cho nên còn toàn câu trong bốn câu. Trong phần thứ hai tiếp tục nói về Nghóa ngữ chép: “Nói không thể tồn tại, nên không thể tồn tại ở Như”: Vì lời Đức Phật đã nói có - không chẳng còn, không còn có - không đối với lý Chân Như, có chẳng còn ấy là vì không có Như, không có chẳng còn ấy là vì chẳng thể không có Như, thì tương xứng với chẳng thể có Như - chẳng thể không có Như mà nói, cho nên chép: “Như chẳng thể có Như Chẳng thể không có Như mà nói, vì vậy trước đó nói Như như như nói. Như vậy hiển bày giải thích lại về nghóa ngữ. Phần thứ ba trong sáu phần kết thúc. Kinh: “Xá-lợi-phất ngôn: Nhất thiết chúng sanh tùng nhất Xiển- đề chi tâm trụ hà đẳng vị đắc chí Như-lai - Như-lai thật tướng? Phật ngôn: Tùng Xiển-đề tâm nãi chí Như-lai - Như-lai thật tướng trụ ngũ đẳng vị”. Xá-lợi-phất chép: Tất cả chúng sanh từ tâm Nhất Xiển-đề trụ vào địa vị bậc nào được đến Như-lai, Như-lai thật tướng? Đức Phật nói: Từ Tâm Xiển-đề cho đến Như-lai - Như-lai thật tướng trụ vào địa vị của năm bậc. Luận chép: Dưới đây là phần lớn thứ tư nói về địa vị Bồ-tát từ Bổn lợi sinh ra. Trong đó có hai: Trước hỏi - kế đến trả lời. Trong phần trả lời có 3: 1/ Đưa ra số nêu chung lên; 2/ Giải thích riêng; 3/ Nói chung. Đây chính là nêu chung năm đẳng vị: Đẳng là nói về tầng bậc. Từ tâm Xiển-đề: Trước khi chưa phát tâm vô thượng Bồ-đề đều gọi là Xiển-đề, vì không có niềm tin quyết định đối với Đại thừa. Nhưng Nhất Xiển-đề sơ lược có hai thứ: 1/ Phát đại nguyện nhất Xiển-đề. Đó gọi là người thường không nhập Niết-bàn; 2/Vô đại tính nhất Xiển-đề: Loại này cũng có hai: Một Biệt nhất xiển để: Nghóa là người khởi lên đại tà kiến dứt mất gốc lành, Hai là Thông nhất Xiển-đề: Nghóa là người chưa phát tâm Đại thừa không có niềm tin Đại thừa cho đến quả Nhị thừa đều xếp vào vị trí Xiển-đề này. Trong văn này dựa theo loại cuối cùng này cho nên nói là từ tâm nhất Xiển-đề cho đến Như-lai có năm bậc địa vị, người chưa nhập vào Thập tín đều gọi là Xiển-đề. Trong này trước tiên nói về giới hạn thích hợp của năm địa vị: Thứ nhất địa vị Tín ở Thập tín hạnh, tuy chưa được bất thối mà phát tâm Đại thừa, kinh Bổn Nghiệp gọi là Bồ-tát Tín tướng. Thứ hai địa vị tư ở Ba mươi tâm tư duy, suy lường đạo lý duy thức của các pháp đều đủ mà chưa chân thật chứng, tu vô phân biệt. Thứ ba địa vị tu ở Thập Địa hạnh, vì được chân thật tín tu đối trị mười chướng. Thứ tư địa vị ở Đẳng giác hạnh vì nhân hạnh đã đầy đủ mà chưa đến quả địa. Thứ năm địa vị Xả ở tại Diệu giác địa, vì không giữ lấy vắng lặng mà đại bi hóa độ rôïng khắp. Lý do lập ra năm bậc địa vị ấy nghóa là biểu hiện sự sai khác về địa vị còn lui sụt và không lui sụt, sự sai khác về địa vị chứng và không chứng, sự sai khác về địa vị đồng đẳng và không đồng đẳng, sự sai khác về địa vị nhân đầy đủ, sự sai khác về địa vị về quả trọn vẹn, như thứ tự đó lập thành năm bậc địa vị. Đại ý như vậy. Kế là giải thích văn đó. Kinh: “Nhất dã tín vị, tín thử thân trung chân như hạt giống, vi vọng sở ế, xả ly vọng tâm, tịnh tâm thanh bạch, tri chư cảnh giới ý ngôn phân biệt”. Một là địa vị Tín: Tin hạt giống chân như trong thân này, bị vọng tưởng che lấp, lìa bỏ vọng tâm thì tâm tịnh thuần thiết, biết các cảnh giớitừ ý ngôn phân biệt. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai riêng giải thích: Trong phần đầu có hai: Trước là Tín - sau là Giải. Đầu tiên nói về Tín: Nói là tin có ba thứ Phật tánh: Tin thử hạt giống chân như ở trong thân này là tin trụ ở tự tánh chân như của Phật tánh, là tin hạt giống của Đệ nhất nghóa Không, tức là hạt giống Trung đạo A-nậu-Bồ-đề. Tự tánh tịnh tâm xưa nay pháp là như vậy cho nên gọi là Chân như. Cho quả của ba thân mà làm chánh nhân cho nên gọi là Hạt giống. Chưa phát tâm an trụ gọi là trụ tự tánh, chưa vượt ra các chướng vì bị vọng che lấp. Nói xả ly vọng tâm là tin tưởng dẫn lối đưa ra Phật tánh. Từ địa vị Thập Tín cho đến Đẳng Giác dần vượt ra các chướng không tin - không biết, tùy đó xả bỏ tâm thô vọng phân biệt. Nói tịnh tâm thuần khiết: Là tin tưởng đến được Phật tánh, nghóa là sau khi đến đạo lìa bỏ tất cả cấu nhiễm nên tự tánh tịnh tâm hiển hiện rõ ràng. Chữ tín ở câu trên nối liền hai câu dưới vậy. “Biết các cảnh giới ý ngôn phân biệt”: Đã tin tưởng ba thứ Phật tánh, cũng biết rõ lý Duy thức, biết tâm vốn giữ lấy tất cả cảnh giới chỉ là ý ngôn phân biệt mà tạo thành, nếu lìa bỏ phân biệt thì không hề có gì. Kinh: “Nhị giả tư vị tư giả quán chư cảnh giới duy thị ý ngôn, ý ngôn phân biệt tùy ý hiển hiện, sở kiến cảnh giới phi ngã bổn thức, tri thử bổn thức phi pháp phi nghóa phi sở thủ phi năng thủ”. Hai là địa vị Tư, Tư là quán xét các cảnh giới chỉ là ý ngôn, ý ngôn phân biệt tùy theo ý mà hiển hiện, cảnh giới nhìn thấy chẳng phải Thức vốn có (bổn thức) của Ngã, biết thức vốn có nầy không phải pháp - không phải ng- hóa, không phải sở thủ - không phải năng thủ Luận chép: Đây là nói về địa vị tư, cũng có hai câu: Trước là nói về quán vô tướng tầm tư, sau là nói về vô sanh như thật trí. Đầu tiên là nói về Quán: Là suy nghó quán sát. Chỉ là ý ngôn: Vì ngoại cảnh đã giữ lấy không hề có gì. Tùy ý hiển hiện: Tức giống như tướng phần bên ngoài không lìa bỏ cái thấy. Chẳng phải là thức vốn có của ngã. Lìa bỏ Thức rồi cảnh giới nhìn thấy bên ngoài đã không phải là thức của Ngã cho nên không hề có gì. Trong này nói Bổn Thức ấy: Gọi là Thức thứ sáu là nguồn gốc của ba cõi. Như Bồ-tát Đề Bà đã nói tụng: “Ý thức nguồn gốc của ba cõi, các trần cảnh là nhân của nó, nếu thấy trần cảnh chẳng phải có, hạt giống có tự nhiên diệt mất”. Trên đây là nói chung về không có tướng tầm tư và Như thật trí. Từ đây trở xuống là nói về đạo lý vô sanh đó. Tri bổn thức này không phải pháp, chẳng phải nghóa: Vì không phải pháp năng thuyên, không phải nghóa sở thuyên, biết danh và nghóa sở thuyên, biết danh và nghóa làm khách lẫn nhau. Không phải sở thủ không phải năng thủ: Trần cảnh vốn giữ lấy đã không có, vì thế chủ động giữ lấy không thể thành tựu. Nghóa của chủ động giữ lấy chắc chắn chờ đợi cái bị giữ lấy đã không có cái chờ đợi thì không có sự chủ động chờ đợi. Đây là nói chung về Vô sanh tầm tư và Như thật trí. Bắt đầu từ Thập Giải trở lên cho đến Thế đệ nhất pháp tu quán Tầm tư Như thật trí này. Trong đó cũng có tu tuệ quán sát, nhưng đều chưa lìa bỏ Tư quán sát phân biệt nên gọi chung là địa vị Tư. Kinh: “Tam giả tu vị, tu giả thường khởi năng khởi khởi tu, đồng thời thiên dó trí đạo bài chư chướng nạn xuất ly cái triền”. Ba là địa vị Tu, Tu-là thường phát khởi và cái bị phát khởi tu tập đồng thời, trước là dùng trí dẫn dắt loại bỏ các chướng nạn vượt khỏi sự ràng buộc của phiền não. Luận chép: Đây là nói về địa vị Tu. Cũng có hai câu: Trước nói về tướng tu, sau nói về nhân Tu. Nói Tu tướng: Nghiã là Chánh Thể trí chỉ quán vận dụng cả hai lại không có ra vào nên nói là Thường khởi. Nói năng khởi: Nghóa là Chỉ chủ động phát khởi, vì thế thường phát khởi quán. Kế là nói Khởi: Nghóa là Quán được phát khởi. Chỉ và Quán không xa lìa cho nên nói là Đồng thời, vì Chỉ tướng quán Như cần phải cùng lúc; là nói về tướng Tu. Kế là nói về Nhân đó, sở dó đạt được Tu vận dụng cả hai như vậy là vì Gia hạnh trước tiên loại bỏ các chướng nạn. Nói trí đạo: Nghóa là Gia hạnh trí - ý ngôn phân biệt không lìa bỏ danh ngôn cho nên gọi là Trí dẫn dắt. Bảy Địa trở lên trong tất cả các Địa đều có Gia hạnh trước là điều phục chướng. Loại bỏ các chướng nạn: Là vì thô trọng khuất phục giảm bớt. Xuất ly triền cái: Là vì không khởi lên ràng buộc hiện hành. Kinh: “Tứ giả Hành vị, Hành giả ly chư hành địa, tâm vô thủ xả cực tịnh lợi căn, bất động tâm như quyết định thật tánh, đại bát Niết-bàn duy tánh không đại”. Bốn là địa vị Hành, Hành là lìa bỏ các Hành địa, tâm không có lấy bỏ, lợi căn rất thanh tịnh, tâm bất động như Thật tánh quyết định, nhập Đại Niết-bàn chỉ là tánh “Không” rộng lớn. Luận chép: Đây là địa vị Đẳng Giác. Cũng có hai câu: Trước là nói về tình trạng địa vị, sau là nói về Hành đó. Trong phần đầu nói “Lìa các Hành địa”: Vì Hành vượt hơn Thập Địa. Tâm không thủ xả: Vì hiểu rõ cùng với Phật như nhau, cho nên giải thích địa vị này gọi là Đẳng Giác hành. Kế là tổng kết. Nói “Lợi căn thanh tịnh”: Nghóa là tâm Bổn giác hiển bày nhân thành tựu đầy đủ. Kế đến là nói trong Hành nói “Tâm bất động như thật tánh quyết định”: Vì địa vị này được nhập vào Tam-muội Kim Cương. Đại bát Niết-bàn chỉ là tánh Không rộng lớn. Vì vắng lặng vô vi nhất tướng Như kinh Bổn Nghiệp chép: “Nhập vào Tam-muội Kim Cương một tướng vô tướng vắng lặng vô vi gọi là Vô Cấu Địa”. Kinh: “Ngũ giả xả vị, xả giả bất trụ tánh không chánh trí lưu dịch, đại bi như tướng, tướng bất trụ như, tam miệu tam Bồ-đề hư tâm bất chứng, tâm vô biên tế, bất kiến nơi chốn, thị chí Như-lai”. Năm là địa vị xả, xả là không trụ vào tánh không chánh trí trôi lăn thay đổi, Đại bi Như tướng - tướng không trụ vào Như, Tam-miệu-tam-Bồ-đề, tâm như hư không không chứng, tâm không có giới hạn, không thấy nơi chốn, là đến Như-lai. Luận chép: Đây là nói về Phật địa. Cũng có hai câu: Trước là nói về nghóa của xả, tức là dùng ba nghóa hiển bày tướng xả đó. Không trụ ở tánh không, chánh trí chuyển dời: Vì không trụ vào Niết-bàn nguôi thân bặt trí mà trí chẳng thể diệt mất, tùy theo trí nối tiếp trôi lăn thuận theo căn thay đổi để làm Phật sự. Đại bi Như tướng tướng không trụ vào Như: Vô duyên Đại Bi không giữ lấy tướng sai khác của người - pháp, cho nên nói là Như tướng. Thường trải qua sáu đường chưa hề dừng nghó, cho nên nói là Tướng không trụ vào Như. Tam miệu Hán dịch là Chánh, Tam ấy nói là Đẳng, Bồ-đề nói là Giác tức là Viên mãn vô thượng Bồ-đề. Không trụ vào trong đó tâm như hư không không chứng. Trong ba nghóa này hai nghóa trước không trụ vào Niết-bàn cho nên xả, một nghóa sau không giữ lấy Bồ-đề cho nên xả. Kế là nói về tình trạng địa vị. Tâm không giới hạn: Quay về một nguồn tâm thì thể của tâm rộng khắp, khắp cả mười phương cho nên không giới hạn, khắp cả ba đời cho nên không thời; tuy khắp cả ba đời mà không khác nhau về xưa - nay, tuy rộng khắp mười phương mà không có nơi này nơi kia. Vì điều này cho nên nói là “Không thấy nơi chốn.” Như vậy quả cuối cùng cao nhất không chung với quả vị khác, chỉ có người vâng theo Như là đến nơi sẽ đến. Vì điều này cho nên nói “Là đến Như-lai”. Trên đây nói riêng về địa vị của năm bậc hoàn tất. Kinh: “Thiện nam tử! Ngũ vị nhất giác tùng bổn lợi nhập, nhược hóa chúng sanh tùng kỳ bổn xứ”. Này người thiện nam! Năm địa vị đồng một Giác thuận theo Bổn lợi nhập vào, nếu hóa độ chúng sanh thì thuận theo nơi căn bản đó. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai nói chung. Trong đó có hai: 1. Nói trực tiếp về thuận theo căn bản (tùng bổn). 2. Tiếp tục hiển bày lại. Đây là cửa thứ nhất (sơ môn). Các hạnh của năm địa vị không lìa bỏ Bổn giác, chẳng có gì không đều từ Bổn lợi mà thành tựu. Lúc thành tựu hạnh thuận theo trước nhập vào sau, cho nên gọi là Nhập. Nhập là tự lợi hóa là lợi tha, hai hạnh như vậy đều từ căn bản (bổn xứ). Kinh: “Xá-lợi-phất ngôn: Vân hà tùng kỳ bổn xứ? Phật ngôn: Bổn lai vô Bổn, xứ ư vô xứ, không tế nhập thật, phát Bồ-đề nhi mãn thành thánh đạo, hà dó cố? Thiện nam tử! Như thủ chấp bỉ không bất đắc phi bất đắc”. Xá-lợi-phất chép: Thế nào là thuận theo chỗ căn bản đó? Đức Phật nói: Xưa nay không có chỗ ban đầu (bổn xứ), ở nơi giới hạn rỗng không, không có nơi chốn mà nhập vào thật, phát khởi Bồ-đề mà thành tựu tựa đầy đủ Thánh đạo, tại vì sao? Này người Thiện Nam! Vì giống như tay nắm hư không kia, không được mà chẳng phải không được. Luận chép: Đây là phần hiển bày lại. Trong trả lời có hai: Trước là pháp - sau là Dụ. Bốn câu nói pháp, hai câu trước nói về Bổn xứ vô xứ, hai câu sau nói thuận theo thành tựu nhân quả. “Vì sao” là nêu lên nghi ngờ phát khởi, tại vì sao? Nếu vốn là không có nơi chốn thì phải không được nhập vào, nếu có thể nhập vào thì chẳng phải là không có nơi chốn ban đầu (bổn xứ). Để xả bỏ nghi ngờ này cho nên dẫn ra thí dụ giải thích. “Tay nắm lấy hư không”: Tay nắm dụ cho hạnh của năng nhập, hư không dụ cho căn bản của sở nhập. “Không thể được”: Là vì hư không chẳng có hình thể để nắm bắt. “Không phải không được”: Là vì bên trong nắm tay chẳng thể không có hư không. Bổn lợi cũng như vậy, xưa nay tánh không có nơi chốn ban đầu cho nên không thể được. Ban đầu của không có ban đầu chẳng thể không có cho nên chẳng phải không thể được. Kinh: “Xá-lợi-phất ngôn: Như tôn sở nói, tại sự chi tiên thủ dó bổn lợi, thị niệm vắng lặng, vắng lặng thị như, tổng trì chư đức, cai la muôn pháp, viên dung không hai, không thể nghó bàn, đương tri thị pháp tức thị Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thiï vô đẳng đẳng chú”. Xá-lợi-phất chép: Như những điều Thế Tôn đã nói, đối với sự việc trước nhận lấy vì Bổn lợi, niệm nầy vắng lặng, vắng lặng là Như, nắm giữ tất cả các đức, thu thập trọn vẹn muôn pháp, dung hợp đầy đủ không hai, không thể nghó bàn được, nên biết pháp này chính là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, là câu chú rất thần diệu, là câu chú rất sáng tỏ, là câu chú sáng tỏ cao nhất, là câu chú không có gì sánh bằng. Luận chép: Dưới đây là phần thứ năm nói về Đại Bát-nhã viên dung vô nhị. Trong đó có hai: 1.Thân Tử kính xin thưa hỏi. 2.Đức Như-lai nói về thành tựu. Trong phần đầu cũng có hai: Trước là lónh ngộ về Bổn lợi viên dung Đức Phật đã nói, sau là nói chính là Đại Bát- nhã Độ. Nói “Đối với sự việc trước tiên nhận lấy vì Bổn lợi”: Là lónh ngộ lời Đức Phật nói, hễ mỗi khi muốn phát biểu lời nói, làm Phật sự thì trước tiên giữ lấy lợi ích của Bổn giác đó, niệm sanh tử này xưa nay vắng lặng, như vậy vắng lặng tức là Như lý, trong lý thâu nhiếp toàn bộ các đức Bổn - Thỉ, cũng chính là thu thập trọn vẹn các pháp sanh tử, dung hợp hoàn toàn không hai, vì thế cho nên rất sâu xa không thể nghó bàn. Trong này tuy đầy đủ vô lượng công đức, mà Thể đó chỉ là Bổn giác và Thỉ giác bình đẳng không hai, cho nên nói Chính là Ma-ha Bát-nhã. Bát-nhã như vậy cùng tận nguồn gốc tâm tánh cho nên nói là Ba-la-mật. Nói riêng có hai thứ đạt đến: Ở địa vị Đẳng giác đến được bờ bên kia của muôn hạnh, và ở thời gian Diệu Giác đến được bờ bên kia của muôn đức. Ở địa vị Đẳng Giác sơ lược có hai đạt đến: 1.Có thần lực rộng lớn hàng phục sự oán hận của ba thứ ma, như kinh nói “Là đại thần chú”. 2. Có đại minh soi chiếu khắp nơi xét kỹ cảnh giới của bốn loại mắt, như kinh nói “Là chú rất sáng”. Trong địa vị Diệu Giác cũng có hai đạt đến: 1.Bốn trí đầy đủ năm mắt trọn vẹn, chiếu soi cùng tận pháp giới không thể nào thêm nữa, như kinh nói “Là chú rất sáng vô thượng”. 2. Ba thân vốn biểu hiện vô thượng Bồ-đề càng không có bậc nào khác với Chư Phật , như kinh nói “Là chú không gì bằng”. Chú là cầu nguyện. Như thần chú thế gian có uy lực rộng lớn, tụng chú cầu đảo thần linh không phước nào không chiêu tập - không họa nào không lùi bước. Nay Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật này cũng giống như vậy, đầy đủ bốn đức trước có thần lực rộng lớn, bên trong thì chẳng có đức nào không thể đầy đủ, bên ngoài thì không có tai họa nào không thể xa lìa. Nếu tâm chí thành tụng câu danh ngôn này kính ngưỡng cầu xin chư Phật - Bồ-tát và Thần nhân, tùy theo những sự cầu nguyện đó không có gì không thể thành tựu. Y cứ vào nghóa này cho nên gọi là Chú. Như trời Đế-thích tụng câu danh ngôn này đẩy lùi chiến sự của quân đội Tu-la, trong này sẽ nói. Kinh: “Phật ngôn: Như thị như thị! Chân như không tánh, tánh không trí hỏa thiêu diệt chư kết, bình đẳng bình đẳng, Đẳng Giác tam địa, Diệu Giác tam thân, ư cửu thức trung giảo nhiên minh tịnh vô hữu chư ảnh”. Đức Phật nói: Đúng vậy, đúng như vậy! Chân như không tánh, lửa trí của tánh Không đốt cháy diệt hết các kết sử, bình đẳng và bình đẳng, Đẳng Giác ba Địa, Diệu Giác ba Thân, ở trong chín Thức sáng ngời trong sáng không có các hình ảnh. Luận chép: Dưới đây là Như-lai thuật về thành tựu. Trong đó có ba: Trước là nói chung kế là nói riêng, sau cùng tức là tổng kết thành tựu. Nói chung về thành tựu là: “Đúng vậy đúng vậy”! Trong phần riêng cũng có hai: Trước là nói về về nghóa đạt đến nhân đầy đủ, sau là nói về về nghóa đạt đến quả tròn vẹn. Trong phần đầu tức là nói về Đẳng Giác tam Địa. Những gì gọi là Đẳng Giác tam Địa? Đó là: 1. Địa vị trăm kiếp; 2.Địa vị ngàn kiếp; 3.Địa vị muôn kiếp. Như kinh Bổn Nghiệp chép: “Phật tử Ma-ni Anh Lạc Tự là một người trong tánh Đẳng Giác, người đó tên gọi Kim Cương Tuệ Bồ-tát, trụ vào đỉnh cao tịch định dùng lực đại nguyện an trụ thọ mạng trăm kiếp, tu ngàn Tam- muội rồi nhập vào Tam-muội Kim Cương, giống như tánh của tất cả các pháp, hai đế - một đế đồng nhất phù hợp tướng; trở lại an trụ thọ mạng ngàn kiếp học theo oai nghi của Phật, cho đến nhập vào hành xứ của Phật, ngồi nơi đạo tràng của Phật, siêu độ ba thứ ma; tiếp tục an trụ thọ mạng muôn kiếp, hóa hiện thành tựu quả Phật, cho đến hiện rõ giống như chư Phật quá khứ (Cổ tích) thường hành Trung đạo, Đại Lạc vô vi mà sanh, diệt làm dị”. Nay văn này nói “Chân như Không tánh”: Tức là thứ nhất đồng nhất hợp tướng, nghóa là cùng với tất cả các pháp có - không chính là pháp của hai đế cùng dung hòa một đế, vì một đế tức là đồng một hợp tướng; như vậy gọi là chân Như không Tánh. “Lửa trí của tánh Không đốt hết các kiết sử”: Tức là thứ hai siêu độ tam ma. Diệt các kết: Là dứt trừ ma phiền não - diệt sạch phiền não, ma ấm không trói buộc - là dứt trừ hai ma, ma trời tự hàng phục, chỉ có ma sanh tử Biến dịch không thể nghó bàn mà thôi. “Bình đẳng Bình đẳng”: Tâm thức là thứ ba thường hành Trung đạo không rơi vào hai bên cho nên nói Bình đẳng, vì nói lên thường hành cho nên nói hai lần Bình đẳng. Đẳng Giác tam địa: Tổng hợp ba Địa trước. Trong này hai Địa trước là thuật về Đại thần chú, Địa thứ ba thuật về Đại minh chú. Từ “Diệu Giác v.v…” trở xuống là nói đạt đến quả tròn vẹn. Nói ba thân. Một gọi là Pháp thân, hai là Ứng thân, ba là Hóa thân. Đạo của ba thân tất cả chư Phật giống nhau, là thuật về câu “Vô đẳng đẳng chú”. Ở trong chín Thức sáng ngời trong sạch không có hình ảnh: Là thuật về câu Vô thượng minh chú: Địa vị Đẳng Giác trước còn có sanh diệt chưa đạt tới tận cùng nguồn tâm, cho nên ở tại tám Thức. Nay đạt đến Diệu Giác xa lìa hẳn sanh tử quay về cùng tận nguồn cội nhất tâm của Bổn giác, cho nên nhập vào trong Thức thứ chín trong sáng. Lại, nhân vị trước có nghóa nương nhờ theo duyên, cho nên tâm đó hiện bày tướng của ảnh tượng. Nay quay về nguồn tâm là Thể của bản chất kia, do vậy các ảnh tượng của tất cả các tướng hết sạch. Căn cứ điều này cho nên nói “Không có các ảnh”. Như kinh Bổn nghiệp chép: “Phật tử Thủy Tinh Anh Lạc trong ngoài sáng suốt thường an trụ Diệu Giác sâu thẳm trong sáng gọi là Nhất-thiết-trí Địa, thường ở nơi Trung đạo, trên tất cả các pháp vượt trên bốn loại ma, chẳng phải có - chẳng phải không - sạch sẽ tất cả các tướng, lập tức hiểu rõ Đại giác thay đổi cùng tận Thể thần, hai thân thường trụ để hóa độ người có Duyên”. Xét rằng: Kinh ấy lập ra hai thân là: 1.Thân Pháp tánh. 2. Ứng thân - hóa thân - Pháp thân, vì hợp hai thân còn lại là một thân. Nay trong kinh này mở bày thân này làm thành hai cho nên nói là ba thân, ba cùng với hai bình đẳng và bình đẳng. Trên đây nói riêng về nghóa đạt đến bờ bên kia. Kinh: “Thiện nam tử! Thị pháp phi nhân phi duyên, trí tự dụng cố, phi động phi tónh, dụng tánh Không cố, nghóa phi hữu vô, không tướng không cố. Thiện nam tử! Nhược hóa chúng sanh, linh bỉ chúng sanh quán nhập thị nghóa, nhâïp thị nghóa giả thị kiến Như-lai”. Này người thiện nam! Pháp này chẳng phải nhân chẳng phải duyên, vì trí tự sử dụng, chẳng phải động chẳng phải tónh, vì dụng của tánh là không, nghóa chẳng phải có - không, vì không cả tướng Không. Này người Thiện nam! Nếu giáo hóa chúng sanh, khiến cho chúng sanh kia quán xét nhập vào nghóa này, người nhập vào nghóa này là thấy Như-lai. Luận chép: Đây là chung về thành tựu viên dung không hai. Phía trên dựa theo môn từ đơn giản nhập vào sâu sắc để nói lên sự sai khác về nhân đầy đủ quả trọn vẹn. Nếu dựa vào môn một pháp không hai thì nhân quả không hai là tâm cảnh không khác. Nhân quả không hai cho nên nói chẳng phải nhân. Tâm cảnh không khác cho nên nói là chẳng phải duyên. Vì sao? Vì như trước đã nói, nhân quả - tâm cảnh ấy chỉ là Tự dụng của một trí trọn vẹn (Viên trí), đã chỉ là Tự dụng thì đâu nhân đâu duyên vậy? Lại, dụng của Trí này ở tại địa vị Đẳng Giác gọi là Chiếu Tịch Tuệ, vì chưa lìa bỏ tướng động của sanh diệt. Đến địa vị Diệu Giác gọi là Tuệ Tịch Chiếu, vì đã trở về sự vắng lặng rốt ráo của Thức thứ chín. Nhưng nay dựa vào môn không hai trí đó, không phải trước có động - không phải sau có tịch, vì dụng của động tónh là sử dụng tánh Không. Nếu y cứ vào nghóa này thì tánh Không là không có, vì không có động - tónh, như vậy cũng không đúng, cho nên nói là chẳng phải có, chẳng phải không. Chẳng phải có có thể như vậy, thế nào là chẳng phải không? Vì tướng Không cũng không. Như vậy nói về thành tựu viên dung không hai. Từ “Nếu hóa v.v…” trở xuống là khuyến khích hội nhập nghóa này. Kinh: “Xá-lợi-phất ngôn: Như-lai nghóa quán bất trụ chư lưu, ưng ly bốn thiền nhi siêu hữu đảnh. Phật ngôn: Như thị! Hà dó cố? Nhất thiết pháp danh số, bốn thiền diệc như thị. Nhược kiến Như-lai giả, Như-lai tâm tự tại, thường tại diệt tận xứ, bất xuất diệc bất nhập, nội ngoại bình đẳng cố”. Xá-lợi-phất chép: Quán nghóa Như-lai không trụ vào các sự trôi lăn, phải lìa bỏ bốn thiền mà vượt lên Hữu Đảnh. Đức Phật nói: Đúng như vậy! Tại vì sao? Vì tất cả các pháp đều là danh số, bốn thiền cũng như vậy. Nếu thấy Như-lai là tâm Như-lai tự tại, thường ở nơi diệt tận, không ra cũng không vào, vì trong ngoài bình đẳng. Luận chép: Dưới đây là phần lớn thứ sáu nói về Đại thiền định vượt trên các danh số. Trong đó có hai: Trước hỏi - sau trả lời. Trong phần Hỏi nói các lưu: Đó gọi là ba cõi trôi lăn qua lại không dừng nghó. Hữu Đảnh: Gọi là Phi tưởng Xứ đỉnh của ba cõi. Trong phần trả lời có hai: Chung đồng ý - thành tựu riêng. Trong phần riêng cũng có hai: Sơ lược nói giải thích rộng. Trong phần sơ lược có hai câu: Trước là nói Thiền thế gian không lìa bỏ danh số, sau là nói thiền xuất thế vượt quá danh số kia nếu thấy Như-lai: Như trước đã nói về nhập vào quán Như- lai. Như-lai tâm tự tại: Vì quán tâm Như-lai xa lìa các trói buộc. Thường ở chỗ diệt tận: Vì pháp tâm và tâm sở bất sanh khởi. Không ra cũng không vào: Vì tâm thể như lý không có khởi diệt, cho nên thường đạt được không ra vào ấy là vì quán nội tâm và ngoại cảnh bình đẳng. Văn trình bày sơ lược xong. Kinh: “Thiện nam tử! Như bỉ chư thiền quán giai vi cố tưởng định, thị như phi phục bỉ, hà dó cố? Dó như quán như thật, bất kiến quán như tướng, chư tướng dó vắng lặng, vắng lặng tức như nghóa, như bỉ tưởng thiền định, thị động phi thị thiền, hà dó cố? Thiền tánh ly chư động, phi nhiễm phi sở nhiễm, phi pháp phi ảnh, ly chư phân biệt bổn nghóa nghóa cố. Thiện nam tử! Như thị quán định nãi danh vi thiền”. Này thiện nam! Như các thiền quán kia đều là định cố Tưởng, Như này không phải trở lại các Tưởng định kia. Vì sao? Vì dùng Như quán như thật, không thấy quán tướng Như, các tướng đã vắng lặng, vắng lặng chính là nghóa Như. Như của Tưởng thiền định kia là động chẳng phải là thiền, tại vì sao? Vì tánh thiền xa lìa các động, chẳng phải nhiễm, chẳng phải bị nhiễm, không phải pháp - không phải ảnh, xa lìa các phân biệt vì nghóa vốn là nghóa. Này người thiện nam! Quán định như vậy mới gọi là thiền. Luận chép: Đây là phần thứ hai giải thích rộng. Trong đó có bốn: Đối chiếu tướng để nói về xa lìa tướng; 2.Đối chiếu động để hiển bày xa lìa động; 3. Kết luận về nghóa; 4. Kết luận về danh. Trong phần đầu tiên trước là nêu lên các thiền giữ lấy tướng. “Các thiền quán”: Là tám thứ thiền thế gian. Nói “định Cố Tưởng”: Là không thể lìa bỏ chấp trước xa xưa từ vô thỉ mà vọng tưởng giữ lấy các tướng. Trở xuống là nói về xa lìa tướng. Như này không phải trở lại các Tưởng định kia: Vì nhập vào Như-lai quán năng sở bình đẳng gọi là Như. Dùng Như quán như thật: Vì trí bình đẳng thông suốt như thật. Không thấy quán tướng Như: Không thấy tướng sai khác của trí năng quán và Như sở quán vì bình đẳng một vị. Đã quên tướng thấy năng sở không khởi dậy cho nên nói là các tướng đã vắng lặng. Vắng lặng không sai khác cho nên chính là nghóa Như. Từ “Như v.v…” là đối chiếu động hiển bày xa lìa động. Trước là nêu lên cái động đó, nghóa là thiền thế gian giữ lấy tướng tâm khởi lên tức là động niệm. Động niệm chẳng phải tónh cho nên không phải chân thật thiền. Xuống dưới là nói thiền chân thật xa lìa các tướng động niệm. Không phải nhiễm làkhông năng nhiễm, không động niệm. Không phải sở nhiễm: Vì chẳng động sở nhiễm xưa nay vốn tónh. Nói phi pháp: Vì không phải tâm pháp năng duyên. Không phải ảnh: Vì không phải ảnh tượng sở hiện. Căn cứ vào nghóa này cho nên xa lìa các động niệm. Lìa các phân biệt, vì nghóa vốn là nghóa: Là phần thứ ba kết luận về nghóa. Lìa phân biệt: Là kết luận về nghóa xa lìa tướng, vì xa lìa phân biệt không giữ lấy tướng. Vì nghóa vốn là nghóa: Là kết luận về nghóa xa lìa động, vì xưa nay tónh không khởi lên động. Quán định như vậy mới gọi là thiền: Là phần thứ tư kết luận về danh Xa lìa tướng - xa lìa động mới đạt được tên gọi là Thiền đó là thiền, vì thiền là tên gọi của Tónh lự. Thế gian kia đặt tên gọi là Thiền ấy là thiền giả hiệu chứ không phải thiền chân thật. Trong nội dung một phẩm này có hai phần, đây là chỉ người lợi căn giảng nói mở rộng nhiều văn, văn của sáu phần ở trước đã xong. Kinh: “Xá-lợi-phất ngôn: Bất khả tư nghị, Như-lai thường dó như thật nhi hóa chúng sanh, như thị thật nghóa đa văn quảng nghóa, lợi căn chúng sanh nãi khả tu chi, độn căn chúng sanh nan dó thố ý, vân hà phương tiện linh bỉ độn căn đắc nhập thị đế?”. Xá-lợi-phất chép: Không thể nghó bàn! Như-lai thường lấy Như thật mà giáo hóa chúng sanh, thật nghóa như vậy văn nhiều nghóa rộng, chúng sanh hạng lợi căn mới có thể tu tập, chúng sanh hạng độn căn khó mà dụng tâm, phương tiện thế nào làm cho hạng độn căn kia có thể nhập vào đạo lý này? Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai vì hạng độn căn mà văn ít thâu nhiếp sơ lược. Nhưng lợi - độn - rộng - lược có hai thứ môn. Nếu luận về thăm dò hiểu rõ thì lợi căn sơ lược mà độn căn mở rộng vì hạng lợi căn nghe một mà biết mười. Hạng độn căn nghe mười mới hiểu mười. Nếu như nhau nói - hiểu thì lợi căn mở rộng mà độn căn sơ lược, vì hạng lợi căn nghe nhiều mà hiểu nhiều, hạng độn căn ít đọc mà lại nắm giữ toàn bộ. Nay ý văn này dựa theo môn sau này. Trong văn có năm: 1.Hỏi; 2.Trả lời; 3.Thỉnh cầu; 4.Giảng nói; 5.Đại chúng nghe giảng nói đạt được lợi ích. Đây chính là văn phần đầu, trong đó có hai: Trước là lónh ngộ những gì giảng nói trước đây, sau là thưa hỏi những điều nghi ngờ. Thố ấy là giữ lại ý (tồn ý). Văn nhiều nghóa rộng hạng độn căn tài năng hẹp hòi khó mà giữ lại ý. Kinh: “Phật ngôn: Linh bỉ độn căn thọ trì nhất tứ cú kệ tức là nhập thật đế, nhất thiết Phật pháp nhiếp tại nhất kệ trung”. Đức Phật nói: Khiến cho hạng độn căn kia tiếp nhận ghi nhớ một bài kệ bốn câu tức thì nhập vào thật đế, tất cả Phật pháp thâu nhiếp vào trong một bài kệ. Luận chép: Đây là phần thứ hai trả lời. Như-lai có biện tài vô ngại tự tại, nói một bài kệ thâu nhiếp mọi Phật pháp, nội dung quan trọng của Phật pháp ở tại bốn câu này. Làm cho hàng độn căn đọc tụng nắm giữ một bài kệ mà thường nhớ nghó tư duy, cho đến biết khắp tất cả Phật pháp, đây gọi là phương tiện khéo léo của Như-lai. Kinh: “Xá-lợi-phất ngôn: Vân hà nhất tứ cú kệ, nguyện vi nói chi!”. Xá-lợi-phất chép: Một bài kệ bốn câu như thế nào, xin nguyện nói cho con bài kệ đó! Luận chép: Đây là phần thứ ba thỉnh cầu. Kinh: “Ư thị Tôn giả nhi nói kệ ngôn: Nhân duyên sở sanh nghóa, thị nghóa diệt phi sanh, diệt chư sanh diệt nghóa, thị nghóa sanh phi diệt”. Ngay sau đó Đức Thế Tôn bèn nói bài kệ: Nghóa do nhân duyên sanh, là nghóa diệt chẳng phải sanh, diệt hết các nghóa sanh diệt, là nghóa sanh chẳng phải diệt. Luận chép: Đây là phần thứ tư giảng nói. Nghóa bốn câu này có riêng có chung. Riêng thì trình bày nghóa về hai môn, chung tức là hiển bày pháp của một tâm. Như vậy tất cả Phật pháp trong một tâm - hai môn, không có gì không thể thâu nhiếp. Nghóa này như thế nào? Hai câu trước dung hòa Tục thành Chân hiển bày nghóa bình đẳng. Hai câu sau dung hòa Chân trở thành Tục hiển bày môn sai khác. Nói một cách chung, Chân - Tục không hai mà không giữ lấy một vì không hai chính là một tâm, không giữ lấy một cho nên đưa ra Thể là hai, như vậy gọi là một tâm - hai môn đại ý như vậy. Kế là giải thích về văn đó. “Nghóa do nhân duyên sanh,” là đưa ra tất cả các pháp Thế đế. “Là nghóa diệt”: Là dung hòa Tục thành Chân, nghóa là vì nghóa sự sanh ấy xưa nay vắng lặng. Nói không phải sanh: Hiển bày nghóa sanh ra đó là lý do của diệt, vì nghóa sanh ra đó tức là chẳng phải sanh, cầu tìm nghóa sanh ra đó thì không thành tựu được, vì thế cho nên nghóa sanh ra tức là vắng lặng. Diệt các nghóa sanh diệt: Là nêu lên pháp vắng lặng của Chân đế. Là nghóa sanh: Là dung hòa Chân trở thành Tục, nghóa là vì pháp vắng lặng từ duyên mà sanh khởi. Nói không phải diệt: Hiển bày vắng lặng đó là lý do của sanh khởi, vì vắng lặng đó không phải vắng lặng, cầu tìm nghóa vắng lặng không thể nào đạt được, vì thế cho nên vắng lặng từ duyên sanh ra. Vắng lặng là sanh ấy là sanh của Bất sanh vậy. Sanh nghóa là diệt ấy là diệt của Bất diệt. Diệt của Bất diệt cho nên diệt tức là sanh. Sanh của Bất sanh cho nên sanh chính là vắng lặng. Hợp lại mà chép: Sanh chính là vắng lặng mà không giữ lấy diệt, diệt tức là sanh mà không trụ vào sanh, sanh diệt không hai là động tịch không khác, như vậy gọi là pháp của một tâm. Tuy thật sự không hai nhưng không giữ lấy một, đưa ra thể tùy duyên sanh động, đưa ra Thể tùy duyên vắng lặng. Căn cứ vào đạo lý này sanh là vắng lặng - vắng lặng là sanh. Không ngăn cách không trở ngại - không đồng nhất, không khác nhau, đây gọi là nghóa tổng biệt của một bài kệ. Kinh: “Nhó thời đại chúng văn nói thị kệ thiêm đại vui mừng, giai đắc diệt sanh, diệt sanh Bát-nhã tánh không trí hải”. Lúc bấy giờ đại chúng nghe nói kệ này đều rất vui mừng, đều đạt được diệt sanh, diệt sanh Bát-nhã, biển trí tánh Không. Luận chép: Đây là phần thứ năm nghe giảng nói được lợi ích, tức là hiển bày đạt được hiểu rõ đạo lý tổng - biệt. Gọi là Diệt ấy vì được diệt đi nghóa sanh ở hai câu trên; kế đến nói là sanh ấy vì được sanh ra nghóa diệt ở hai cầu dưới, là nói về hai nghóa đạt được. Diệt sanh Bát- nhã: Là hiển bày hai câu hiểu biết đạt được, là dựa vào Biệt môn mà được lợi ích. Tánh Không trí hải: Là tổng hợp lại mà quán, hoặc là diệt - hoặc là sanh không giữ lấy tự tánh, trí không của tự tánh sâu rộng vô biên, như vậy gọi là Biển Trí tánh không, là dựa vào môn chung mà được lợi ích. ---------------------------------- Phẩm Thứ 7: NHƯ LAI TẠNG Luận chép: Chân và Tục không hai, pháp của Nhất thật là chỗ trở về của chư Phật gọi là Như-lai-tạng. Nay trong phẩm này nói về vô lượng pháp và tất cả hạnh chẳng có gì không quy về nhập vào Như-lai- tạng, vì thế dựa vào sự hội nhập để lập thành tên gọi. Kinh: “Nhó thời Phạm Hạnh trưởng giả tùng bổn tế khởi nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Sanh nghóa bất diệt, diệt nghóa bất sanh, như thị như nghóa, tức Phật Bồ-đề, Bồ-đề chi tánh tức vô phân biệt, vô phân biệt trí phân biệt vô cùng, vô cùng chi tướng duy phân biệt diệt, như thị nghóa tướng không thể nghó bàn, bất tư nghị trung nãi vô phân biệt”. Lúc bấy giờ trưởng giả Phạm Hạnh đứng dậy khỏi chỗ ngồi mà bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nghóa sanh không diệt mất, nghóa diệt bất sanh ra, nghóa Như như vậy, tức là Bồ-đề Phật quả, tánh của Bồ-đề thì không có phân biệt, trí không có phân biệt - phân biệt vô cùng tận, tướng của vô cùng tận chỉ là phân biệt diệt đi, nghóa - tướng như vậy không thể nghó bàn, trong không thể nghó bàn chính là không có phân biệt. Luận chép: Trong phần nói riêng về Quán hành có sáu phần, nói lên tất cả hạnh phát ra chân tánh Không ở trước đã xong. Dưới đây là phần thứ sáu nói về vô lượng pháp nhập vào Như-lai-tạng, ngay nơi văn có hai: 1.Nói về các pháp các hạnh cùng nhập vào một nơi. 2.Hiển bày Hạnh - nhập, trí nhập sai khác về nhân quả. Trong phần đầu cũng có hai: Trước là nói về các pháp nhập vào một thật nghóa, sau là nói về các hạnh nhập vào một Phật đạo.Trong phần trước có bốn: 1.Hỏi; Trả lời; 3. Lónh ngộ; 4. Nói rõ. Trong phần hỏi có hai: Trước là lónh ngộ điều giảng nói trước đây, sau là hỏi về những điều nghi ngờ. Trong này người hỏi tên là Phạm Hạnh: Hình dạng người này tuy là nghi dung phàm tục, mà tâm an trụ nhất vị, dùng nhất vị này thâu nhiếp tất cả vị, tuy trải qua trần tục cấu bẩn của các vị, nhưng không mất đi tịnh hạnh thanh tịnh của một vị. Trong này hiển bày nghóa như vậy, cho nên khiến phát ra câu hỏi đó. Từ bổn tế khởi: Nghe những đều Đức Phật giảng nói lập tức nhập vào ranh giới của mình (bổn tế), nay muốn phát ra câu hỏi nên từ chỗ ấy đứng dậy. Nghóa sanh không diệt: Là lónh ngộ nửa dưới, vì nghóa này sanh ra chẳng phải diệt mất. Nghóa diệt bất sanh ra: Là lónh ngộ nửa trên, vì nghóa này diệt đi chẳng phải sanh ra. “Nghóa Như như vậy”: Lónh ngộ chung toàn bài kệ, vì bất diệt bất sanh không có hai nghóa. Như vậy không có hai nghóa là đạo lý chư Phật đã giác ngộ cho nên chép: “Tức là Phật Bồ-đề”. Giác ngộ thuận theo không có hai là không chia ra - không khác nhau cho nên nói “Tức là vô phân biệt”. Do không có sự phân biệt đó mà năng không có gì không thể phân biệt, cho nên nói là vô phân biệt trí phân biệt vô cùng. Sở dó phân biệt vô cùng là vì chỉ do diệt trừ các phân biệt, cho nên nói tướng vô cùng chỉ là diệt đi phân biệt. Nghóa - tướng như vậy xa lìa ngôn ngữ bặt dứt suy tư nên Bất tư nghị. Vì trong Bất tư nghị bặt dứt tâm tư ngôn ngữ, chính là không có phân biệt. Như vậy lónh ngộ nghóa lý bài kệ đã nói ở trước. Kinh: “Tôn giả! Nhất thiết pháp số vô lượng vô biên, vô biên pháp tướng nhất thật nghóa tánh, duy trụ nhất tánh kỳ sự vân hà?”. Thưa Tôn giả! Tất cả pháp số nhiều vô lượng vô biên, vô biên pháp tướng một tánh Thật nghóa, chỉ trụ vào một tánh - sự việc đó như thế nào? Luận chép: Đây chính là thức hỏi về những điều nghi ngờ. Giáo Tiểu thừa có tám muôn pháp uẩn, số lượng của một uẩn kể ra là một ngàn. Nay Đại thừa giáo không chỉ là tám muôn cho nên nói số nhiều vô lượng vô biên. Vô biên giáo pháp đã giải thích nghóa tướng lại không khác nhau, hướng về chỉ một Thật nghóa. Giáo pháp rất nhiều chỉ trụ vào một tánh rất khó có thể hiểu được việc đó thế nào? Kinh: “Phật ngôn: Trưởng giả! Bất khả tư nghị, ngã nói chư pháp, vi mê giả cố, phương tiện đạo cố, nhất thiết pháp tướng nhất thật nghóa trí, hà dó cố? Thí như nhất thị khai tứ đại môn, thị tứ môn trung giai quy nhất thị, như bỉ chúng thứ tùy ý sở nhập, chủng chủng pháp vi diệc phục như thị”. Đức Phật nói: Này Trưởng giả! Không thể nghó bàn, Ta nói các pháp là vì người mê, vì vậy là đạo phương tiện, vì tất cả pháp tướng đồng một trí thật nghóa, tại vì sao? Vì thí như một ngôi thành mở ra bốn cổng lớn, trong bốn cổng này đều quy về một ngôi thành, như nhiều người kia tùy ý nhập vào, các thứ pháp vị cũng giống như thế. Luận chép: Đây là phần thứ hai trả lời. Trong đó có ba: Là pháp - Dụ - Hợp. Đầu tiên là pháp - nói rằng “Ta nói các pháp”. Nghóa là ba thừa giáo và một thừa giáo. Vì người mê muội: Là vì người chưa đạt được nhất vị ấy nói ra. Vì Phương tiện đạo: Do đều là phương tiện nhập vào một vị, cho nên lúc nhập vào Chánh quán không cần đến ngôn giáo. Nhất thiết pháp tướng nhất thật nghóa trí: Vì tướng nhập vào của các giác pháp chỉ là trí Chánh quán về môït Thật nghóa. Trong Dụ nói một thành thị: Là dụ cho một thật nghóa. “Mở ra bốn cổng”: Là dụ cho bốn thứ pháp, đó là ba thừa giáo và một thừa giáo. Trong bốn cổng này đều quy về một chợ: Vì dựa vào bốn giáo ấy đều trở về một thật. Như dân chúng tùy ý nhập vào: Là tùy theo căn cạn - sâu thuận theo nhập vào một giáo. Vì lẽ đó một ngôi thành dụ cho một thật, làm nơi nhập vào của nhân dân, là nơi quay về của các chúng sanh. Trong Hợp nói chủng chủng pháp: Là hợp với bốn cổng. Kế là nói vị: Nghóa là vị vốn hướng về hợp với một thành thị. Kinh: “Phạm Hạnh trưởng giả ngôn: Pháp nhược như thị ngã trụ nhất vị ưng nhiếp nhất thiết chư vị”. Phạm Hạnh trưởng giả chép: Pháp nếu như vậy thì con trụ vào một vị sẽ thâu nhiếp tất cả các vị. Luận chép: Đây là phần thứ ba lónh ngộ hiểu rõ. Nhiếp các vị: Là thâu nhiếp vị của các giáo quy về một thật. Kinh: “Phật ngôn: Như thị như thị! Hà dó cố? Nhất vị thật nghóa, vị như nhất đại hải, nhất thiết chúng lưu vi hữu bất nhập. Trưởng giả! Nhất thiết pháp vị do bỉ chúng lưu, danh số tuy thù kỳ thủy bất dị, nhược trụ địa hải tức quát chúng lưu, trụ ư nhất vị tức nhiếp chư vị”. Đức Phật nói: Đúng vậy, đúng vậy! Vì sao? Vì một vị thật nghóa, vị giống như một biển lớn, tất cả các dòng sông không có dòng sông nào không thể hội nhập. Này Trưởng giả! Tất cả pháp vị giống như các dòng sông kia, danh số tuy khác nhau mà nước đó không khác. Nếu trụ vào biển lớn tức là bao gồm các dòng sông, trụ vào một vị chính là thâu nhiếp các vị. Luận chép: Đây là phần thứ tư nói về thành tựu. Trong đó có hai: Nói chung về - riêng thành tựu. Trong phần riêng có ba: Đó là Pháp - Dụ - Hợp. Trong Hợp có hai: 1.Hợp cùng các dòng sông kia trước dùng pháp kết hợp - sau thì trích lại thí dụ. 2.Kết hợp bao gồm các dòng sông, trước đưa ra thí dụ đó - sau dùng pháp hợp lại. Kinh: “Phạm Hạnh trưởng giả ngôn: Chư pháp nhất vị, vân hà tam thừa đạo kỳ trí hữu dị?”. Phạm Hạnh trưởng giả chép: Các pháp đồng một vị, vì sao nói đạo ba thừa trí đó có khác nhau? Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai nói về tất cả các hạnh nhập vào một Phật đạo, trước là hỏi - sau là trả lời. Đây là hỏi về sự sai khác. Kinh: “Phật ngôn: Trưởng giả! Thí như giang hà hòai hải đại tiểu dị cố, thâm thiển thù cố, danh văn biệt cố thủy tại giang trung danh vi giang thủy, thủy tại hòai trung danh vi hòai thủy, thủy tại hà trung danh vi hà thủy, câu tại hải trung duy danh hải thủy, pháp diệc như thị câu tại chân như duy danh Phật đạo”. Đức Phật nói: Này trưởng giả ví như sông lớn - sông nhỏ - biển nhỏ - biển lớn vì lớn nhỏ khác nhau, vì sâu cạn khác nhau, nên danh văn khác nhau, nước ở trong sông lớn gọi là nước sông lớn, nước ở trong biển nhỏ gọi là nước biển nhỏ, nước ở trong sông nhỏ gọi là nước sông nhỏ, cùng ở trong biển lớn chỉ gọi là nước biển lớn, pháp cũng như vậy cùng ở tại chân như chỉ gọi là Phật đạo. Luận chép: Là phần thứ hai trả lời có Dụ có Hợp. Trong phần đầu nói Giang hà hòai: Là dụ cho hạnh ba thừa, Hải dụ cho Phật đạo. Lớn nhỏ khác: Là dụ cho tâm ba thừa rộng hẹp không giống nhau. Sâu cạn khác: Là dụ cho trí ba thừa hơn kém có khác nhau. Tùy theo hai nghóa trước nên tên gọi đó điều khác nhau. “Đều ở trong biển lớn chỉ gọi là nước biển lớn”: Là dụ cho ba thừa đó cùng nhập vào Chân như pháp Không của Thập Địa, chỉ gọi là Phật đạo không có tên gọi ba thừa. Nên biết rằng hạnh ba thừa sai khác, đều ở trong phương tiện đạo của Địa Tiền, không có gì không chung quy nhập vào Chân như chánh quán, cho nên ba thừa cuối cùng quy về không có sai khác. Như các giáo pháp cùng hòa nhập đồng nhất vị, nói về Hợp - Dụ ở nơi văn có thể thấy. Kinh: “Trưởng giả! Trụ nhất Phật đạo tức đạt tam hạnh phạm hạnh. Trưởng giả ngôn: Vân hà tam hạnh? Phật ngôn: Nhất tùy sự thủ hạnh, nhị tùy thức thủ hạnh, tam tùy như thủ hạnh”. Này Trưởng giả! Trụ vào một Phật đạo tức là đạt được ba thật hành phạm hạnh. Trưởng giả chép: Sao là ba thật hành? Đức Phật nói: Một là hành tùy theo sự giữ lấy, hai là tùy theo Thức giữ lấy, ba là hành tùy theo Như giữ lấy hạnh. Luận chép: Dưới đây là phần lớn thứ hai sự sai khác nhân quả, hành nhập vào, trí nhập vào sai khác về nhân quả. Trong đó có bốn: 1. Sự sai khác của Hạnh nhập vào; 2. Sự sai khác của Trí nhập vào; 3. Sự dụng của nhân nhập vào; 4. Thường trụ của quả nhập vào. Trong phần đầu có ba: 1. Nêu chung lên. Trụ ở một Phật đạo: Từ sơ Địa trở lên gọi là Trụ Phật đạo, vì có đủ ba thứ trí - đạt được ba hạnh. 2. Thưa hỏi; 3. Trả lời. Trong phần trả lời có hai: Riêng trình bày Chung giải thích. Trong phần riêng trình bày chép: Hành tùy theo sự mà giữ lấy nghóa là thật hành dựa vào bốn đế, mười hai duyên khởi, tùy theo sự việc của nhân quả mà giữ lấy đạo phẩm. Hành tùy theo thức giữ lấy: Nghóa là các chúng sanh chỉ là một tâm tạo tác thật hành, tùy theo lý Duy Thức mà giữ lấy bốn nhiếp. Hạnh tùy Như giữ lấy: Nghóa là tất cả các pháp thảy đều bình đẳng thật hành tùy theo bình đẳng Như mà giữ lấy sáu độ thuộc về tâm cho nên gọi là Thủ, không phải gọi là Thủ phân biệt của năng sở. Kinh: “Trưởng giả! Như thị tam hạnh tổng nhiếp chúng môn, nhất thiết pháp môn vô bất thử nhập, nhập thị hạnh giả bất sanh không tướng, như thị nhập giả khả vị nhập Như-lai, nhập Như-lai giả nhập nhập bất nhập”. Này Trưởng giả! Như vậy ba hành thâu nhiếp toàn bộ nhiều môn, tất cả pháp môn không có gì không nhập vào nơi này, nhập vào sự thật hành này là không thể sanh khởi không tướng, như vậy nhập vào là có thể nói nhập vào Như-lai, nhập vào Như-lai là nhập vào nơi nhập vào không thể nhập vào. Luận chép: Đây là chung giải thích về ba hành . Tùy sự hành: Là cùng chung Tiểu thừa môn. Tùy Thức hành: Là chỉ có Đại thừa môn hai thứ này là Sai khác môn. Loại thứ ba là Bình đẳng môn. Căn cứ vào đạo này thâu nhiếp toàn bộ nhiều môn. Lại, Đạo phẩm là hành môn, không an trụ ở sanh tử, Tứ nhiếp là hành môn không an trụ Niết-bàn, tùy theo Như - Độ hành bình đẳng không có hai môn. Tất cả pháp môn đều từ hành này nhập vào, người nhập vào hành này không thể sanh không tướng: Nghóa là tuy tùy theo Như thật hành mà thường tùy theo sự - tùy theo Thức hành, không giữ lấy tướng không mà an trụ vắng lặng vậy. Có thể nói là nhập vào Như-lai: Là tuy tùy theo Sự - Thức mà thường tùy theo Như. Giữ lấy bình đẳng thật hành cho nên có thể nói là chủ động nhập vào (năng nhập) Biển Như-lai-tạng. Nhập nhập bất nhập: Là vì nhập vào chỗ nhập vào đó mà tâm ở tại không nhập vào (bất nhập). Năng nhập - sở nhập bình đẳng không sai khác cho nên nói là Bất nhập, vì tuy không sai khác khác nhau mà cũng không phải là một. Dựa theo quán tâm mượn gọi là Nhập tâm. Như vậy tâm nhập vào không giữ lại tướng nhập vào cho nên nhập vào nơi nhập vào đó hướng về không nhập vào (nhập - nhập bất nhập) vậy. Kinh: “Phạm Hạnh trưởng giả ngôn: Bất khả tư nghị, nhập Như- lai-tạng như miêu thành thật vô hữu nhập xứ, bổn căn lợi lực lợi thành đắc bổn, đắc bổn thật tế kỳ trí kỉ hà?”. Phạm Hạnh trưởng giả chép: Không thể nghó bàn, nhập vào Như-lai-tạng giống như mầm non thành tựu quả trái, không có nơi vào, khả năng ích lợi của gốc rễ, ích lợi thành tựu đạt được nguồn gốc, đạt được nguồn gốc thật tế trí đó bao nhiêu? Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai sự sai khác của trí nhập vào, trước là hỏi - sau là trả lời. Trong phần Hỏi có hai: Trước là lónh ngộ điều nói trước đây, sau là hỏi những điều nghi ngờ. “Như mầm thành quả: Như tương tự mầm hạt lúc trở thành bông trái, không có người năng nhập - không có nơi sở nhập, nhập Như-lai-tạng nên biết cũng như vậy. Mầm hạt (miêu) dụ cho lợi ích vốn có (bổn lợi) - quả hạt (thật) dụ cho đạt được cái vốn có (đắc bổn), vì lúc nhập vào bình đẳng không hề có nơi chốn nhập vào. Kinh: “Phật ngôn: Kỳ trí vô cùng, lược nhi ngôn chi kỳ trí hữu tứ, hà giả vi tứ? Nhất giả định trí sở vị tùy như, nhị giả bất định trí sở vị phương tiện tồi phá, tam giả Niết-bàn trí sở vị trừ điện giác, tứ giả rốt ráo trí sở vị nhập thật cụ túc đạo. Trưởng giả! Như thị tứ đại sự dụng, quá khứ chư Phật sở nói, thị đại kiều lương, thị đại tân tế, nhược hóa chúng sanh ưng dụng thị trí”. Đức Phật nói: Trí đó vô cùng tận, sơ lược mà nói trí đó có bốn, những gì là bốn? Một là Định Trí đó gọi là tùy Như, hai là Bất Định Trí đó gọi là phương tiện làm cho sụp đổ, ba là Niết-bàn trí đó gọi là giác ngộ trừ bỏ như điện chớp, bốn là Rốt ráo Trí đó gọi là nhập vào thật tế có đầy đủ đạo. Này Trưởng giả! Bốn sự dụng rộng lớn như vậy chư Phật quá khứ đã giảng nói, là chiếc cầu lớn, là bến sông lớn, nếu hóa độ chúng sanh phải sử dụng trí này. Luận chép: Đây là phần thứ hai trả lời. Trong đó có ba: Đó là nêu chung lên - riêng giải thích và chung trình bày. Trong phần Nêu chung lên chép: Trí đó vô cùng: Là đã thấu suốt không giới hạn cho nên trí đó cũng không cùng tận, chỉ vì nghóa loại tương đối, chung sơ lược mà nói có bốn loại mà thôi. Trong phần hiển bày nói riêng Định Trí: Là Bình đẳng tánh Trí chỉ ở chánh quán không dấy lên phương tiện cho nên gọi là Định Trí. Đối trị cái chấp về ngã và ngã sở của mạt na thức tùy theo quán bình đẳng cho nên nói là Tùy Như. Bất định trí: Là Diệu Quán Sát Trí ở tại Thức thứ sáu phương tiện tiến tới nhận lấy cho nên gọi là Bất định. Thời gian phương tiện đạo suy xét tìm cầu làm cho sụp đổ các tướng danh - sự cho nên nói là “phá cho sụp đổ”. Trí này thật tế thông suốt phương tiện chánh quán chỉ vì khác với Định Trí cho nên sơ lược nêu lên phương tiện mà thôi. Niết-bàn trí: Là Thành Sở Tác Trí thường hiện rõ tám tướng mà làm Phật sự nêu lên tướng cuối cùng gọi là Niết-bàn Trí. Trừ diệt năm Thức mà đạt được trí này vì nghóa này cho nên gọi là “Giác ngộ trừ bỏ ánh chớp”: Nghóa là năm Thức vừa khởi lên, cũng vừa diệt đi giống như ánh chớp điện. Rốt ráo trí: Là Đại Viên Cảnh Trí, chỉ riêng địa vị rốt ráo đạt được trí này, vì thế đối với tất cả các cảnh không có cảnh nào không cùng tận. Nhập vào một thật nghóa cho nên gọi là Nhập Thật, không có cảnh nào không hiện rõ gọi là Cụ Túc Đạo. Trong phần chung trình bày nói bốn sự dụng lớn: Là vì dụng không có gì không hoàn bị. Lời chư Phật nói: Là vì đạo của chư Phật như nhau. “Chiếc cầu lớn”: Là vì dùng bốn trí này chuyên chở người ba thừa khiến cho đến được bờ bên kia của Nhất thừa. “Bến sông lớn”: Là bỏi vì sử dụng bốn trí này trải qua khắp nơi sáu đường chỉ ra đạo lý xuất thế vượt qua sông Ái. Vì thế cho nên người giáo hóa cần phải sử dụng trí này vậy. Kinh: “Trưởng giả! Dụng thị đại dụng, phục hữu tam đại sự, nhất giả ư tam Tam-muội nội ngoại bất tương đoạt, nhị giả ư đại nghóa khoa tùy đạo trạch diệt, tam giả ư như tuệ định dó bi câu lợi. Như thị tam sự thành tựu Bồ-đề, bất hành thị sự tức bất năng lưu nhập bỉ tứ trí hải, vi chư đại ma sở đắc kỳ tiện. Trưởng giả! Nhữ đẳng đại chúng nãi chí thành Phật thường đương tu tập vật linh tam thất!”. Này Trưởng giả! Dụng là công dụng rộng lớn, lại có ba việc lớn. Một là đối với ba Tam- muội trong ngoài không giành giật lẫn nhau, hai là đối với nghóa về Đại xét định thuận theo đạo chọn lựa diệt đi, ba là đối với Như tuệ định lấy Bi cùng lợi ích. Ba sự việc như vậy thành tựu Bồ-đề, không thật hành sự việc này thì không có thể trôi lăn nhập vào biển bốn trí kia, làm cho các đại ma đạt được sự thuận tiện đó. Này Trưởng giả! Đại chúng các ông cho đến thành Phật thường nên tu tập đừng làm cho tạm thời mất đi! Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba nhập vào nhân của sự dụng. Trong đó có hai: Trường hàng và Trùng tụng. Trong phần Đầu có ba: Sơ lược trình bày, tiếp tục hiển rõ, ba là lónh ngộ hiểu rõ. Trong phần thứ nhất có bốn: 1. Nêu chung lên; 2. Riêng giải thích; 3. Hợp lại trình bày; 4. Kết luận khuyến khích. Trong phần nêu chung lên nói Dụng là đại dụng: Là nêu lên đại dụng của bốn trí đã nói trước đây, địa vị đang là Địa Thượng cho đến Phật quả. Lại có ba việc lớn: Là ba việc có thể thành tựu bốn trí. Đây là còn trong bốn địa vị của Địa Tiền, Thật hành ba sự việc này là: Thứ nhất Định - kế đến Tuệ, thứ ba là Định Tuệ đều thật hành Đại Bi làm Thể. Thứ nhất nói Định: Tức là ba Tam-muội. Ở đây có nhiều môn trái phải nói khác nhau, hoặc nói là Không - vô tướng - vô nguyện, hoặc nói là Vô tác - Vô tướng - Không không, hoặc nói là Không - Vô tác - vô tướng, tùy ý sắp xếp lập ra đều không có gì chướng ngại. Hoặc gọi là ba giải thoát, vì chỉ ở tại Vô lậu. Hoặc gọi là ba Tam-muội, vì cũng có cả Hữu lậu. Nghóa riêng trong đó văn sau sẽ nói, nhưng nói “Nội ngoại không tương đoạt”: Là nội thức và ngoại cảnh cùng nhau ngay lúc đó phát ra, giữ lấy tướng nghịch thuận làm mất đi các gốc lành, nay thấu suốt đều là Không cho nên không khiến làm mất đi. “Đối với khoa Đại nghóa tùy theo đó chọn lọc”: Nghóa là đối với bốn Đại và ba pháp môn thuận theo lý mà chọn lọc, làm cho sụp đổ các tướng - điều phục diệt sạch hạt giống hý luận của bổn thức. Ba Tam-muội trước điều phục các ràng buộc hiện hành, ở đây tuệ chọn lựa, rút gọn điều phục giảm hạt giống, do vậy lúc bốn trí thành tựu thì có thể nhổ sạch hạt giống chuyển được tám Thức “Đối với như tuệ định dùng bi làm lợi”: Tuệ và định trước đây đều thuận theo Như lý, vì thế cho nên nói tên là Như Tuệ Định. Trong đó cũng tu Đại Bi tương ưng với tự lợi - lợi tha cho nên nói là đều lợi. Vì sao? Vì nếu lìa bỏ Đại Bi dứt khóat tu định tuệ, sẽ rơi vào nơi nhị thừa ngăn cách đạo Bồ-tát. Giả sử chỉ khởi lên Bi mà không tu định tuệ, thì rơi vào tai họa của phàm phu không phải Bồ-tát đạo, cho nên tu ba sự xa lìa hai bên, tu Bồ-tát đạo thành tựu Vô thượng giác, vì thế chép: Ba sự như thế thành tựu Bồ-đề. Nếu người không cùng thật hành ba sự này, thì trụ vào sanh tử và mê đắm Niết-bàn, không có thể trôi lăn nhập vào biển lớn bốn trí, tức làm cho bốn ma đạt được cơ hội thuận tiện. Đây là hợp lại trình bày, xuống dưới chính là khuyến Tu-làm môn thứ tư. Kinh: “Phạm Hạnh Trưởng giả ngôn: Vân hà tam Tam-muội? Phật ngôn: Tam Tam-muội giả, sở vị không Tam-muội - vô tác Tam- muội - vô tướng Tam-muội, như thị Tam-muội”. Phạm Hạnh Trưởng giả chép: Sao gọi là ba Tam-muội? Đức Phật nói: Ba Tam-muội ấy, đó gọi là không Tam-muội - vô tác Tam-muội - vô tướng Tam-muội Tam- muội như vậy. Luận chép: Đây là phần thứ hai tiếp tục hiển bày, có hai lần hỏi và trả lời hiển rõ hai môn trước. Đây là hiển rõ môn thứ nhất, là ba sai khác sơ lược có ba nghóa: 1. Vì Thể dụng tướng; 2. Vì tâm nhân quả; 3.Vì Thức kiến tướng. Thể dụng tướng: Là tất cả các pháp thế gian không có pháp nào vượt qua ba thứ này, pháp thể Không cho nên lập ra Không Tam-muội, không có tác dụng cho nên lập vô tác Tam-muội, không có tướng trạng cho nên lập Vô tướng Tam-muội. Tâm nhân quả: Là nhân quả vốn khởi lên hưng thịnh đối với tâm hành, tâm hành Không cho nên lập ra Không Tam-muội, các nhân không có sở hữu cho nên thiết lâïp Vô tác Tam-muội, các quả không thật có cho nên lập ra Vô tướng Tam-muội. Thức kiến tướng: Các Thức tự thể là Không cho nên lập ra Không Tam-muội, xả bỏ kiến phần cho nên lập ra Vô tác Tam-muội, xả bỏ tướng phần cho nên lập ra Vô tướng Tam-muội. Đây là môn thứ ba thuận theo văn “Nội ngoại chẳng đoạt lẫn nhau” ở trước. Kinh: “Phạm Hạnh trưởng giả ngôn: Vân hà ư đại nghóa khoa? Phật ngôn: Đại vi tứ đại, nghóa vị ấm giới nhập đẳng, khoa vị bổn thức, thị vi ư đại nghóa khoa”. Phạm Hạnh trưởng giả chép: Sao gọi là đối với đại nghóa khoa? Đức Phật nói: Đại gọi là bốn Đại, Nghóa gọi là các loại ấm - giới - nhập v.v… Khoa gọi là bổn thức, đây là đối với Đại - Nghóa - Khoa. Luận chép: Đây là hiển bày môn thứ hai. Sở dó bốn Đại mà lại biệt lập ấy là để hiển bày ban đầu tu tập trước tiên chọn thô cảnh, nghóa là trong các pháp thì sắc pháp thô nhất, những chi thể bên trong, những núi sông bên ngoài… quán các pháp này không lìa bốn Đại, quán bốn Đại này đều không thật có, vì có phương sở - không có phương đều không thành tựu. Như vậy chọn lọc giản lược xong. Kế là quán nhỏ nhiệm. Nghóa là ấm - giới - nhập, vì có sơ lược - mở rộng và trung gian, sơ lược thâu nhiếp quán năm ấm, mở rộng quán mười tám giới, giữa sơ lược và mở rộng quán mưới hai nhập, quán sát tất cả đều không thật có. Kế là nói những pháp… nghóa là pháp môn còn lại như mười hai chi v.v… Như vậy giản lược chọn lựa lực quán sát, thì có thể điều phục giảm bớt hạt giống danh ngôn hý luận từ vô thỉ bên trong Bổn thức, lúc bắt đầu điều phục giảm bớt cho đến dứt trừ diệt hết. Vì lẽ đó trước đây nói tùy đạo trạch diệt. Kinh: “Phạm Hạnh trưởng giả ngôn: Bất khả tư nghị! Như thị trí sự, tự lợi tự nhân, quá ba cõi địa, bất trụ Niết-bàn, nhập Bồ-tát đạo. Như thị pháp tướng thị sanh diệt pháp dó phân biêït cố, nhược ly phân biệt pháp ưng bất diệt”. Phạm Hạnh trưởng giả chép: Không thể nghó bàn! Trí sự như vậy, lợi mình lợi người, vượt quá địa vị phàm phu, không trụ vào Niết-bàn, nhập vào Bồ-tát đạo. Pháp tướng như vậy là pháp sanh diệt vì phân biệt. Nếu lìa bỏ phân biệt thì pháp thuận theo không diệt. Luận chép: Đây là phần thứ ba lónh ngộ hiểu rõ. Trong đó có hai: Đầu tiên lónh ngộ quán hành, sau đó hiểu rõ cảnh giới. Trí sự như vậy: Là ba thứ sự dụng như vậy có thể thành tựu bốn trí. Tự lợi lợi người: Hai sự trước là tự lợi, sự thứ ba là lợi tha. Quá ba cõi địa: Là hai định tuệ trước đây khác nhau phàm phu. Không trụ Niết-bàn: Là Đại Bi thứ ba khác nhau nhị thừa, lìa bỏ hai bên kia nhập vào Bồ-tát đạo. Từ “Như thị v.v…” trở xuống là hiểu rõ cảnh giới kia, nghóa là sự đầu tiên tức kiến tướng các thức của cảnh định. Tiếp là pháp đại nghóa của cảnh giới trí; pháp tướng như vậy đều là pháp sanh diệt. Vì sao? Vì do vọng phân biệt dao động biển tâm. môn yên lặng xưa nay nếu lìa bỏ phân biệt không có những nhân đó do đâu sanh diệt? Vì điều này cho nên nói “Pháp thuận theo không diệt”. Kinh: “Nhó thời Như-lai dục tuyên thử nghóa nhi nói kệ ngôn: Pháp tùng phân biệt sanh, hoàn tùng phân biệt diệt, diệt chư phân biệt pháp, thị pháp phi sanh diệt”. Lúc bấy giờ Đức Như-lai muốn nói ra nghóa nầy liền nói bài kệ: Pháp từ phân biệt sanh ra, cũng từ phân diệt đi, diệt đi các pháp phân biệt, pháp này không phải sanh diệt. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai dùng kệ tụng lại. Trong đó có hai: 1. Như-lai sơ lược nói ra. 2. Trưởng giả giảng nói rộng ra. Nay trong tụng này đã nói là pháp, nghóa là pháp của một tâm, vì nếu vọng phân biệt thì dao động biển tâm, hoặc là sanh - hoặc là diệt tất cả các tướng chẳng có tướng nào không đều từ phân biệt mà tạo thành. Nếu căn cứ vào Bổn Giác thì môn vắng lặng xưa nay xa lìa các phân biệt cho nên là pháp chẳng phải sanh diệt. Nghóa là từ xưa nay diệt các phân biệt, không có nhân sanh diệt, do đó chẳng phải sanh diệt. Nếu giả sử sanh và diệt đều được dấy lên từ phân biệt ấy thì trong Du-già nói. Làm sao mà hiểu được? Như suy nghó kia trong Sở Thành Địa chép: “Không diệt đi Tha dụng - không tự diệt đi dụng”. Hỏi: Như các duyên có cho nên sanh, cũng các duyên có cho nên diệt đi chăng? Đáp: Các duyên có cho nên sanh, sanh rồi tự nhiên diệt, như vậy trái ngược nhau sao nói là hòa hợp? Giải thích: Đạo lý nhân duyên như luận kia nói, đạo lý Duy thức như kinh này nói. Cho nên cả hai đều có đạo lý. Kinh: “Nhó thời Phạm Hạnh trưởng giả văn nói thị kệ tâm đại hân dịch dục tuyên kỳ nghóa nghi nói kệ ngôn: Chư pháp bổn vắng lặng, vắng lặng diệc vô sanh, thị chư sanh diệt pháp, thị pháp phi vô sanh, bỉ tức bất cọng thử, vi hữu đoạn thường cố, thử tức ly ư nhị, diệc bất tại nhất trụ”. Lúc ấy Phạm Hạnh trưởng giả nghe nói kệ này tâm vô cùng vui mừng muốn tuyên bày nghóa đó bèn nói kệ: Các pháp vốn là vắng lặng, vắng lặng cũng bất sanh ra, đều là các pháp sanh diệt, pháp này chẳng phải bất sanh, kia thì không cùng với đây, là vì có đoạn thường, đây tức là xa lìa hai, cũng không trụ vào nơi một. Luận chép: Dưới đây là Trưởng giả mở rộng bài tụng có tám hàng kệ, tức làm thành năm phần: 1.Hai tụng chính thức giảng nói nghóa trước đó; 2. Hai tụng phá các tà giải; 3. Một tụng nói rõ bản thân chính thức chọn lấy; 4.Hai tụng lễ người chánh nói; 5.Một tụng thỉnh cầu nói điều chưa nghe. Đây chính là phần thứ nhất chính thức giảng nói kệ trước. Trong đó có ba: 1. Hai câu giảng nói nữa dưới bài kệ kia; 2. Hai câu giảng nói nữa trên bài kệ kia; 3. Một tụng chung giảng nói hai nghóa. Phần đầu nói các pháp vốn vắng lặng: Nói là các pháp ấm - giới v. v… xưa nay vắng lặng. Vắng lặng vô sanh: Không những các pháp xưa nay vắng lặng, mà lý của vắng lặng cũng vô sanh. Trong phần thứ hai nói các pháp sanh diệt này: Là nói ấm giới cùng các pháp thế tục. Pháp này chẳng phải vô sanh: Là vì từ phân biệt tác động mà có sanh khởi, là dựa vào môn chân tục chẳng phải một để hiển bày nghóa động tónh không tạp loạn. Trong phần thứ ba chép: “Kia tức không cùng đây”: Là nói pháp vắng lặng vô sanh kia không cùng nhau song song với pháp sanh diệt này. “Vì có đoạn thường”: Nếu kia cùng với đây cùng chung có thì pháp này sanh diệt tức là có bên Đoạn, pháp kia thường tịch tức là có bên Thường, giống như nhị thừa sai lầm trái với Trung đạo. Nhưng nghóa một bài kệ của Đức Phật đã nói không rơi vào Đoạn - Thường. “Đây chính lìa cả hai”: Vì chẳng thể không có động tónh. “Cũng không trụ ở một”: Là vì không giữ tánh của một thật - một tâm. Lìa cả hai ấy là đưa ra Thể động - tónh chẳng phải hai pháp. Nên biết là sự việc không thể nghó bàn. Kinh: “Nhược nói pháp hữu nhất thị tướng như mao luân, như diệm thủy mê đảo, vị chư luống dối cố. Nhược kiến ư pháp vô, thị pháp đồng ư không, như manh vô nhật đảo, nói pháp như quy mao”. Nếu như nói pháp có một, tướng này giống như vành lông, như lửa - nước, mê mờ đảo ngược làm các luống dối. Nếu thấy đối với pháp không, là pháp giống trống rỗng, như mù không có mặt trời, nói pháp giống như lông rùa. Luận chép: Đây là phần thứ hai phá các tà giải. Tà giải tuy nhiều mà đại tà có hai, dựa vào giáo sâu thẳm như lời nói giữ lấy nghóa tự cho là rốt ráo khó có thể cảm hóa: 1.Nghe Phật đã nói về động - tónh không hai, liền cho là Một là một thật một tâm, do vậy phỉ báng xả bỏ đạo lý hai Đế. 2. Nghe Phật đã nói về hai môn Không - Hữu, suy nghó có hai pháp mà không có một thật, do đó phỉ báng xả bỏ Trung đạo không hai. Hai thứ tà giải này uống thuốc trở thành bệnh rất khó có thể chữa trị. Nay hiển bày sai lầm kia, trong hai tụng này lần lượt biểu hiện điều đó. Đầu tiên nói “Nếu nói pháp có một”: Nghóa là như trước nói cho rằng có một thật, vì như tự mình suy nghó nói là có một pháp. Tướng này như vòng lông luân: Nghóa là người kia vốn nghó rằng một thật pháp tướng, như người mắt quáng gà (ế) đã nhìn thấy vành lông. Như lửa nước mê đảo: Nghóa là như con hươu khát nước thấy ngọn lửa nói là nước nên chạy nhanh mà tìm cầu thì dứt khóat là mê mờ điên đảo; nghó rằng có một tâm cũng như thế. Làm các điều luống dối: Con hươu khát nước nhìn thấy nước - người mắt kém nhìn thấy vành lông; người có học nghó rằng một; các suy nghó như vậy luống dối như nhau. Kế là phá trừ thấy không có. “Nếu thấy pháp là không”: Nghóa là như trước nói nghó rằng có hai Đế, vì thế không có pháp của một tâm. “Pháp ấy giống như hư không”: Người kia nghó rằng một tâm giống như lý không, ngoài lý không vốn không có một thật. “Như người mù ngược lại nói không có mặt trời”: Nghóa là như sinh ra đui mù nghèo túng xin ăn vốn không hề thấy ánh sáng vầng mặt trời, người có mắt đó mới cho biết là có mặt trời, người mù nói là không có - không tin có mặt trời, dứt khóat là điên đảo; suy nghó kia cũng như vậy, vì người kia xưa nay chỉ học về Không - Hữu mà không hề nghe đến Trung đạo không hai, vì tuy có người giải mà không thể tin nhận. Vốn dùng vầng mặt trời dụ cho Trung đạo ấy là vầng mặt trời tròn vẹn đầy đủ có ánh sáng lớn, chỉ trừ người mù ra không có ai không nhìn thấy; một tâm cũng như vậy, tròn đầy rộng khắp không thiếu sót - có ánh sáng lớn của Bổn giác thỉ giác soi chiếu, trừ người không tin ra không có ai không thể nhập vào. Nói pháp như lông rùa: Người kia không thấy nói một tâm pháp chỉ có danh mà không có Thể giống như lông rùa, không khác gì người mù nói không có vầng mặt trời vậy. Kinh: “Ngã kim văn Phật nói, tri pháp phi nhị kiến, diệc bất y trung trụ, cố tùng vô trụ thủ”. Nay con nghe Đức Phật nói, biết pháp chẳng phải hai thấy, cũng không theo Trung an trụ, thuận theo vô trụ giữ lấy. Luận chép: Đây là phần thứ ba nói rõ bản thân chính thức giữ lấy. Biết pháp thấy chẳng có hai: Vì biết pháp Trung đạo không phải cái thấy của sự hiểu biết về có - không, tức là lìa bỏ điên đảo thứ hai về không có mặt trời. Cũng không nương Trung đạo mà trụ: Tuy lìa bỏ hai bên mà cũng không giữ Trung đạo một thật để an trụ. Tức là lìa bỏ cái vọng thứ nhất về vành lông và nước, như vậy lìa bỏ sai lầm về hai bên kia. Thuận theo sự giải thích về giáo pháp vô trụ của Đức Phật lónh ngộ hiểu rõ ý chỉ vô trụ đã giải thích, cho nên nói thuận theo vô trụ mà giữ lấy. Kinh: “Như-lai sở nói pháp, tất tùng ư vô trụ, ngã tùng vô trụ xứ, thị xứ lễ Như-lai, kính lễ Như-lai tướng, đẳng không bất đôïng trí, bất trước vô nơi chốn, kính lễ vô trụ thân”. Pháp Như-lai đã nói ra, tất cả thuận theo vô trụ, con thuận theo nơi vô trụ, nơi này đảnh lễ Như-lai, cung kính lễ tướng Như-lai, trí bất động như hư không, không vướng mắc không nơi chốn, cung kính lễ thân vô trụ. Luận chép: Đây là phần thứ tư kính lễ người năng nói. Trong đó có ba: 1.Một tụng kính lễ người năng nói; 2.Hai câu kính lễ trí năng nói; 3. Hai câu kính lễ thân năng nói. Trong phần đầu chép: Pháp của Như-lai nói giảng đều thuậ theo vô trụ: Nghóa là vì giáo pháp của Phật thuận theo vô trụ. “Con thuận theo vô trụ nơi này đảnh lễ Như-lai”: Dựa vào giáo pháp đạt được từ nơi vô trụ, càng biết Như-lai là bậc đáng tôn trọng nhất, ở tại nơi này kính lễ bậc năng nói. Trong nầy nói vô trụ: Không trụ vào hai đế cũng không ở tại Trung tuy không ở tại Trung mà lại lìa bỏ hai bên, như vậy gọi là Vô trụ xứ. Trong phần thứ hai nói Như- lai tướng: Không dùng tướng hảo làm tướng của Như-lai, dùng trí bất động làm tướng của Như-lai. Nói Đẳng Không: Nghóa là trí của Như-lai vô lượng vô biên như cõi hư không - không nơi nào không cùng khắp. Nói Bất Động: Thông suốt khắp tất cả không giới hạn bởi ba đời, vì đời kiếp có thời gian qua đi mà trí dụng không thể thay đổi. Trong phần thứ ba nói không vướng mắc: Vì Pháp thân lìa bỏ hai bên. Không nơi chốn: Vì ở trung gian không nơi an trụ, cho nên nói Kính lễ thân vô trụ. Kinh: “Ngã ư nhất thiết xứ, thường kiến chư Như-lai, duy nguyện chư Như-lai, vị ngã nói thường pháp!”. Con ở tại tất cả xứ, thường thấy các Đức Như-lai, chỉ nguyện xin các Như-lai, nói cho con về Thường Pháp! Luận chép: Đây là phần thứ năm thưa hỏi về những điều chưa nghe. Trong đó nửa trên tự nói rõ về thường đối diện, hai câu dưới cầu thỉnh nói về Thường pháp. Tự nói rõ ý là vì con lìa bỏ các bên đạt được trí vô trụ, thường trong mỗi một hạt bụi thường thấy vô lượng chư Phật ở mười phương. Mười phương thế giới trong các hạt bụi không nơi nào không thấy vô lượng chư Phật, cho nên chép: “Tất cả xứ thường thấy các Như-lai”. Như trong kinh Hoa Nghiêm chép: “Ở trong một hạt bụi, thấy hết vô lượng Phật, như trong một hạt bụi, tất cả trần cũng vậy”. Vì có lực như vậy thì có thể nghe về Thường pháp, cho nên nguyện xin nghe giảng nói về Thường pháp. Kinh - “Nhó thời Như-lai nhi tác thị ngôn: Chư thiện nam tử! Nhữ đẳng đế thính, vi nhữ chúng đẳng nói ư thường pháp”. Lúc ấy Đức Như- lai liền nói lời như vậy: Nay các người thiện nam tử! Các ông lắng nghe, Ta vì những người như các ông nói về Thường pháp. Luận chép: Dưới đây là phần thứ tư chép: Hội nhập vào quả thường pháp. Trong đó có ba: 1. Như-lai giảng nói; 2. Trưởng giả giảng nói; phần thứ ba đó là đại chúng được ích lợi. Trong phần đầu có hai: Đồng ý giảng nói - Chính thức giảng nói. Đây chính là đồng ý giảng nói. Kinh: “Thiện nam tử! Thường pháp phi Thường pháp, phi nói diệc phi tự, phi đế phi giải thoát, phi vô phi cảnh giới, ly cluống dối đoạn tế, thị pháp phi vô thường, ly chư thường đoạn kiến, liễu kiến thức vi thường, thị thức thường vắng lặng, vắng lặng diệc vắng lặng”. Này thiện nam! Thường pháp không phải Thường Pháp, không giảng nói cũng không phải chữ, không đế không giải thoát, không phải không có - không cảnh giới, xa lìa các ranh giới vọng - đoạn, là pháp không phải vô thường, xa lìa các cái thấy thường - đoạn, rõ ràng thấy Thức là thường Thức này thường vắng lặng, vắng lặng cũng vắng lặng. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai chính thức giảng nói. Trong đó có hai: Trước là nói về quả Thường, sau là chỉ ra nhân Thường. Trong phần đầu hai câu về pháp thường - Phật thường. Trong câu đầu nói Thường pháp không phải thường pháp: Nghóa là Thể Pháp thân thầy của Đức Phật xa lìa tướng sanh diệt cho nên nói là Thường pháp, lìa bỏ tánh thường trụ cho nên không phải thường pháp. Không nói cũng không phải danh tự: Vì bặt dứt danh ngôn năng thuyên. Không đế không giải thoát: Vì vượt lên trên thật nghóa sở thuyên. Chẳng phải không có không cảnh giới - lìa giới hạn vọng đoạn: Không phải rốt cuộc không có cũng không phải có cảnh, không phải có cảnh cho nên xa lìa cảnh vọng chấp, mà lại không phải không có cho nên xa lìa cảnh đoạn kiến. “Tế” (giới hạn) là tên gọi khác của cảnh giới. Pháp ấy chẳng vô thường - lìa các thường đoạn kiến: Không phải vô thường cho nên lìa bỏ các đoạn kiến, mà là pháp cho nên xa lìa các thường kiến, vì thường kiến giữ lấy không phải là pháp. Đã nói về pháp Thường - kế đến nói về Phật Thường. Thấy rõ thức là thường: Đối với Thường pháp kia cuối cùng rõ ràng nhìn thấy, lúc rõ ràng nhìn thấy thì các Thức là thường, Vì sao? Vì trước kia tùy theo vô minh dao động tâm vốn vắng lặng, nay thuận theo rõ ràng nhìn thấy quay về nguồn gốc vắng lặng. Thức ấy thường vắng lặng: Các Thức xưa bất sanh diệt, không có sanh diệt cho nên tánh thường vắng lặng. Nay vào lúc rõ ràng nhìn thấy thì vónh viễn diệt mất như vậy là Thức vắng lặng, cho nên chép: Vắng lặng cũng vắng lặng. Vì sao? Vì Thức vắng lặng kia là pháp không có thường, cho nên diệt đi cái kia mới đạt được Thường. Đến phẩm Tổng Trì dưới đây nghóa này sẽ biểu hiện. Lại, tánh này xưa nay vắng lặng không giữ lấy Thường tánh cho nên nói cũng vắng lặng. Kinh: “Thiện nam tử! Tri pháp vắng lặng giả, bất tâm vắng lặng, tâm Thường vắng lặng, đắc vắng lặng giả, tâm thường chân quán”. Này người thiện nam! Người biết pháp vắng lặng, tâm không thể vắng lặng, tâm thường vắng lặng, người đạt được vắng lặng, tâm thường chân thật quán. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai chỉ ra nhân thường đó. Trong đó có hai: Riêng trình bày - Chung kết luận. Trong phần riêng cũng có hai: Trước là chân chứng quán, sau là phương tiện quán. Trong phần đầu chép: “Người biết pháp vắng lặng”: Là từ Sơ Địa trở lên biết tất cả các pháp xưa nay vắng lặng. Đã biết không có khởi lên cho nên không diệt mất tâm. Không diệt mất tâm ấy vì thường vắng lặng là biểu hiện vắng lặng của những cái biết. “Người đắc tâm vắng lặng thường chân quán”: Là trình bày tâm thường trụ của năng chứng, tùy theo lý sở chứng lìa bỏ tướng sanh diệt, mà thường không mất chân thật soi chiếu quán. Kinh: “Tri chư danh sắc duy thị si tâm, si tâm phân biệt, phân biệt chư pháp cánh vô dị sự xuất ư danh sắc. Tri pháp như thị bất tùy văn ngữ, tâm tâm ư nghóa bất phân biệt ngã”. Biết các danh sắc chỉ là tâm si mê, tâm si mê phân biệt, phân biệt các pháp lại không sự gì khác ngoài danh sắc. Biết pháp như vậy không tùy theo văn tự ngôn ngữ, tâm tâm đối với nghóa không thể phân biệt Ngã. Luận chép: Đây là phần thứ hai nói về phương tiện quán đó. Trong đó có hai: Trước trình bày chỉ là Thức tầm tư, sau hiển bày Như thật trí đó. Trong phần đầu nói tại không sự gì khác ngoài ở danh sắc: Danh nói là bốn uẩn, sắc là sắc uẩn, các bất tương ưng đều là giả kiến lập, vì: Lìa bỏ danh sắc này lại không có biệt Thể, các sự hữu vi đều là do danh sắc thâu nhiếp. Như vậy các pháp chỉ do tâm mà thật hiện, lìa tâm không có cảnh - lìa cảnh chẳng có tâm. Như vậy gọi là Duy Thức tầm tư. Như trong kinh Hoa Nghiêm chép: “Tâm như hoạ só giỏi, hoạ các loại ngũ âm, trong tất cả thế gian, không pháp nào không làm, như tâm - Phật cũng vậy, như Phật - chúng sanh vậy, tâm - Phật và chúng sanh, là ba không sai khác”. Vì thế đã nói về tầm tư, kế là hiển bày Như thật trí. Biết pháp như thế không tùy theo văn ngữ: Là tầm tư danh này đã dẫn dắt Như thật trí. Tâm tâm đối với nghóa không phân biệt ngã: Là tâm tư nghóa này đã dẫn dắt Như thật trí. Hai Ngã về Người, Pháp đều không có nghóa, cho nên ở trong đó không phân biệt. Kinh: “Tri ngã giả danh tức đắc vắng lặng, nhược đắc vắng lặng tức đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”. Biết Ngã là giả danh thì đạt được vắng lặng, nếu đạt được vắng lặng tức là được A-nậu-đa-la- tam-miệu-tam-bồ-đề. Luận chép: Đây là phần thứ hai chung kết luận. Kết luận hai thứ trước đây phương tiện trước mà đạt được chân quán, lại kết luận chân quán đạt được Bồ-đề quả. Kinh: “Nhó thời trưởng giả Phạm Hạnh văn nói thị ngữ nhi nói kệ ngôn: Danh tướng phân biệt sự, cập pháp danh vi tam, chân như chánh diệu trí, cập bỉ thành ư ngũ; ngã kim tri thị pháp, đoạn thường chi sở hệ, nhập ư sanh diệt đạo, thị đoạn phi thị thường, Như-lai nói không pháp, viễn ly ư đoạn thường”. Lúc ấy Phạm Hạnh trưởng giả nghe nói lời này bèn nói kệ: Danh tướng phân biệt sự, và pháp gọi là ba, chân như chánh diệu trí, và kia trở thành năm, con nay biết pháp này, là hệ lụy đoạn thường, nhập vào đường sanh diệt, là đoạn không là thường, Như-lai nói Không, xa lìa nơi đoạn - thường. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai Trưởng giả giảng nói nói ra. Trong đó gồm tám tụng tức là có ba ý: Đầu tiên hai tụng rưỡi phân định ý giáo của Phật; kế đến có năm tụng phá trừ chấp trước hai bên; cuối cùng hai câu, cũng không hai quán. Trong phần đầu có hai: Trước hai tụng nói về rơi vào giáo hai bên, sau hai câu hiển bày lìa bỏ giáo hai bên. Trong phần đầu nói Danh tướng: Nghóa là danh - cú - tự. Cú (câu) là danh tạo thành Tự là tư chất của Danh, đều là năng biểu Danh hợp lại làm Danh tướng vậy. Phân biệt sự: Nghóa là các tâm hữu lậu - tâm pháp sự. Nói và pháp: Nghóa là trừ hai pháp tướng vốn có ở trước. Danh cú sở thuyên - phân biệt sở duyên: Nghóa là sắc bất tương ưng cùng các pháp tướng trong mười sắc xứ và pháp xứ. Ba cái này là một loại nói về tướng tạp nhiễm, cho nên nói riêng danh làm ba vậy. Nói Chân như: Nghóa là cảnh Chánh trí. Chánh diệu trí: Là hai trí lúc đầu và sau đó (bổn hậu). Nói và kia: Là cùng ba thứ trước kia; hai thứ này cùng ba thứ kia hợp lại thành ra năm sự, là đưa ra pháp tướng giáo môn của ba thừa. “Nay con biết pháp này là hệ lụy đoạn, thường: Là trình bày giáo môn kia đã nói năm sự không lìa bỏ sự mê đắm hai kiến Đoạn - Thường. Vì sao? Vì bốn loại pháp kia kèm theo tướng sanh diệt không lìa bỏ cảnh mê đắm của Đoạn kiến. Pháp chân như đó là tánh thường trụ không lìa bỏ cảnh đã giữ lấy của Thường kiến cho nên nhập vào đường sanh diệt. Là đoạn không phải là thường: Là riêng trình bày ba thứ trước và pháp chánh trí đều kèm theo bốn tướng nhập vào đường sanh diệt, dứt khóat là bên Đoạn khác với bên Thường; tức là hiển bày chân như nhập vào đường Thường có, dứt khóat là bên Thường khác với bên Đoạn vậy. Như-lai nói không pháp - Xa lìa ở đoạn thường: Là nói về một thừa giáo nói về ba pháp Không - xa lìa sai lầm về hai bên Đoạn Thường. Vì sao? Vì như trước đã chép: Không tướng cũng Không, Không - Không cũng không, sở không cũng không. Như vậy ba không không làm hỏng Chân - Tục không giữ lại Chân - Tục, tuy lìa bỏ động - tónh mà không trụ vào trung gian, cho nên xa lìa bên Đoạn - bên Thường. Kinh: “Nhân duyên vô bất sanh, bất sanh cố bất diệt, nhân duyên chấp vi hữu, như thái không trung hoa, do thủ thạch nữ tử, tất cánh bất khả đắc”. Nhân duyên không có bất sanh, bất sanh cho nên không diệt, nhân duyên chấp trước là có, như hái hoa giữa hư không, giống như lấy con của Thạch nữ tử, rốt cuộc không thật có. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai phá trừ chấp trước hai bên. Trong đó có hai: 1.Bốn tụng phá trừ chấp trước bên Hữu; 2. Một tụng làm mất đi mê đắm bên Không. Trong phần đầu có hai: Hai tụng rưỡi trước là phá trừ chấp Hữu đó, một tụng rưỡi sau là chỉ ra Chân Không kia. Trong phần trước cũng có hai: Một tụng rưỡi đầu trừ nhân duyên chấp, tiếp một tụng phá trừ ba duyên còn lại. Trong phần đầu nói Nhân duyên không có bất sanh: Nghóa là tất cả hạt giống cùng với dị thục Thức trong bổn Thức hoặc chính là - hoặc lìa bỏ đều không thật có. Chính là như dị thục lìa bỏ giống như sừng thỏ, không chính là - không lìa bỏ cũng không hề vốn có, như các thứ bình lọ nhà cửa v.v… vì chỉ có danh. Do đạo lý này không có sanh - không có diệt, nhưng dựa vào ngôn giáo ba thừa mà người học nhất định chấp rằng thật sự có hạt giống nhân duyên; không khác gì người ngu muốn hái hoa giữa hư không, cũng giống như muốn lấy con của Thạch nữ (phụ nữ vô sanh), cùng với nhân duyên kia mãi mãi không thật có. Trong này hoa giữa hư không dụ cho hạt giống nhiễm, vì ngắt hái diệt đi; con của Thạch nữ là dụ cho hạt giống tịnh, vì giữ lấy nuôi dưỡng. Kinh: “Ly chư nhân duyên thủ, diệc bất tùng tha diệt, cập ư kỉ nghóa đại, y như cố đắc thật”. Lìa bỏ các nhân duyên thủ, cũng không từ nơi khác diệt, và nơi nghóa Đại chính nó, theo Như cho nên được Thật. Luận chép: Đây là phá trừ ba duyên còn lại. Nếu như có lìa bỏ các hạt giống nhân duyên giữ lấy ba duyên còn lại nghó rằng thuận theo kia sanh nên dấy lên cái chấp như vậy cũng không thích ứng với lý, vì như kinh nói “Cũng không từ nơi khác”. Hán dịch nơi khác: Nghóa là Tăng thượng duyên và Sở duyên duyên. Như Nhãn Thức sanh ra dựa vào Nhãn duyên Sắc, như vậy Nhãn Sắc cùng với Thức đồng một lúc mà không phải tánh của Thức cho nên gọi là nơi khác. Đẳng vô gián duyên tuy là loại như Thức mà thể đã Diệt. Hoặc là Tha - hoặc là Diệt đều không có tự tánh, vì thế cho nên Thức sanh ra cũng không từ nơi kia. Kế đến nói và ở nghóa đại của chính nó: Lại có suy nghó nói rằng các pháp uẩn giới v.v… trong đời vị lai đều có Thể của chính nó mà chưa sanh hiện, thuận theo Thể của chính nó này mà sanh ra hiện tại, vì ngăn dứt suy nghó này cho nên nói cũng không thuậ theo nghóa đại chính nó. Câu trên nói đến Bất tùng (không thuận theo) xuyên suốt đối với câu dưới tại đây. Hán dịch Nghóa: Gọi là ấm - giới - nhập, Đại là bốn đại. Như trước đã chép: Nghó rằng các pháp này vốn có tự Thể. Vì điều này cho nên nói nghóa đại của chính nó vậy. Dựa theo Như nên được Thật: Nghóa là mình có thể phát trừ các chấp về có ấy dựa vào Như lý phá trừ cho nên đạt được thật nghóa. Kinh: “Thị cố chân như pháp, thường tự tại như như, nhất thiết chư muôn pháp, bất như thức sở hóa, ly thức pháp tức không, cố tùng không xứ nói”. Cho nên pháp chân như ấy, thường tự tại như như, tất cả các loại muôn pháp, không giống như Thức hóa hiện, lìa thức pháp liền Không, cho nên từ nơi Không mà nói. Luận chép: Đây là phần thứ hai chỉ ra pháp chân không. Nói vì thế: Là chấp có trước đây đều là luống dối, người có thể phá trừ điều đó cho nên đạt được chân thật, chân như không dao động - vọng pháp không thành tựu vậy. Do thức hóa hiện: Nghóa là suy nghó của Thức. Những suy nghó về tướng lý kia không hề có gì, dứt khóat thuận theo tình mà có cho nên gọi là Sở hóa. Vì các pháp không phải như sự hóa hiện của Thức, pháp xa lìa Thức thì trống rỗng không hề có gì, vì thế cho nên Ngã thuận theo nơi Không mà nói về Như. Kinh: “Diệt chư sanh diệt pháp, nhi trụ ư Niết-bàn, đại bi chi sở đoạt, Niết-bàn diệt bất trụ”. Diệt đi các pháp sanh diệt, mà an trụ vào Niết-bàn, Đại Bi làm cho mất đi, Niết-bàn diệt mà không trụ. Luận chép: Văn trên đã phá trừ chấp có của phàm phu, tụng này cũng làm mất đi trụ vào Không của nhị thừa. Nghóa là người hàng nhị thừa diệt đi các pháp sanh diệt của thân - trí nhập vào nơi Niết-bàn ở trong đó trụ tám muôn kiếp cho đến mười ngàn kiếp an trụ, nhưng do chư Phật đồng Thể Đại Bi làm mất đi Niết-bàn kia khiến cho trở lại khởi tâm, lúc tâm phát khởi thì Niết-bàn liền diệt đi, như chủ buôn đứng đầu diệt đi Hóa Thành đó, vì thế cho nên ở trong đó không tiếp tục an trụ. Lúc người kia không có tâm thì không có thể phá trừ chính là, trực tiếp hiển bày chư Phật làm mất đi Niết-bàn kia, căn cứ vào đây chặn lại chí hướng của người chưa nhập vào nơi kia. Trên đây đã phá trừ hai bên có - không. Kinh: “Chuyển sở thủ năng thủ, nhập ư Như-lai-tạng” chuyển đổi sở thủ năng thủ, hòa nhập Như-lai-tạng. Luận chép: Đây là phần thứ ba chỉ ra không có hai quán. Vì đã phá trừ cái chấp hai bên của phàm Thánh, nay chuyển đổi hai chúng phàm Thánh kia khiến cho nhập vào quán năng sở bình đẳng. Trên đây là tám tụng trưởng giả giảng nói vậy. Kinh: “Nhó thời đại chúng văn nói thị nghóa, giai đắc chánh mạng nhập ư Như-lai - Như-lai-tạng hải”. Lúc bấy giờ đại chúng nghe giảng giải về nghóa này, đều đạt được chánh mạng nhập vào nơi Như-lai - biển cả Như-lai-tạng. Luận chép: Đây là phần thứ ba đại chúng được lợi ích. Đắc chánh mạng: Vì lìa bỏ hai bên có - không mà đạt được Trung đạo chánh tuệ mạng. Nhập Như-lai: Vì đã nhập vào phần hạng của Như-lai trí. Vào biển Như-lai-tạng: Vì hòa nhập vào nghóa lý sâu rộng của Bổn Giác. Phẩm Thứ 8: TỔNG TRÌ Luận chép: Trong này giải quyết nghi ngờ trong các phẩm trước, nắm giữ toàn bộ nghóa lý chính yếu mà không quên mất cho nên thuận theo điều đã làm gọi là Tổng Trì. Lại, Địa Tạng Bồ-tát đã đạt được Văn nghóa Đà-la-ni, nắm giữ toàn bộ văn nghóa vốn có trong các phẩm và ghi nhớ mới khởi lên nghi của đại chúng mà lần lượt phát ra câu hỏi khéo léo giải quyết các nghi ngờ, vì thế thuận theo người chủ động thưa hỏi (năng vấn) gọi là Tổng Trì. Kinh: “Nhó thời Địa Tạng Bồ-tát tùng chúng trung khởi chí vu Phật tiền hợp chưởng hồ quỳ nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Ngã quán đại chúng tâm hữu nghi sự do vị đắc quyết tâm hữu nghi sự do vị đắc quyết, kim giả Như-lai dục vị trừ nghi, ngã kim vị chúng tùy nghi sở vấn, nguyện Phật từ bi thùy ai thích hứa! Phật ngôn: Bồ-tát ma-ha-tát! Nhữ năng thị cứu độ chúng sanh thị đại bi mẫn không thể nghó bàn, nhữ đương quảng vấn vị nhữ giảng nói”. Lúc ấy, Bồ-tát Địa Tạng từ giữa chúng hội đứng lên đến trước Đức Phật chắp tay quỳ gối mà thưa Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Con quán xét tâm đại chúng có điều nghi ngờ trừ diệt, nay con vì hội chúng tùy theo nghi ngờ chưa thưa hỏi, nguyện xin Đức Phật từ bi rũ lòng thương xót xem xét đồng ý! Đức Phật nói: Này Đại Bồ-tát! Ông có thể như vậy cứu độ chúng sanh là rất thương xót không thể nghó bàn, ông nên hỏi rộng ra Ta sẽ vì ông giảng nói. Luận chép: Nội dung Chánh nói toàn phần có hai: Nói riêng về quán hành đã xong ở trước. Từ đây về sau là phần thứ hai giải quyết toàn bộ các nghi ngờ, theo vào văn có bốn: 1. Thỉnh cầu; 2. Đồng ý; 3. Giải quyết; 4. Lónh ngộ. Ở đây thưa hỏi cùng với trả lời là phần thỉnh cầu và đồng ý. Người chủ động thỉnh cầu (năng thỉnh) này hiệu gọi Địa Tạng, là người đã đạt được Đồng Thể Đại Bi, sinh ra và nuôi lớn gốc lành cho tất cả chúng sanh, giống như mặt đất sanh ra các loại cỏ cây, dùng Đà-la-ni nắm giữ các công đức, làm thuận lợi cho tất cả mà không cùng tận, như kho báu không dùng hết. Căn cứ vào hai nghóa này gọi là Địa Tạng. Nay trong phẩm này giải quyết những nghi ngờ sanh ra tín hiểu. Nêu ra các thứ báu giải quyết dứt trừ để giúp cho mọi người cầu pháp. Nghóa thích hợp tên gọi đó cho nên chủ động thỉnh cầu thưa hỏi (năng thỉnh vấn). Kinh: “Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Nhất thiết chư pháp vân hà bất duyên sanh? Nhó thời Như-lai dục tuyên thử nghóa nhi nói kệ ngôn: Nhược pháp duyên sở sanh, ly duyên khả vô pháp, vân hà pháp tánh vô, nhi duyên khả sanh pháp?”. Địa Tạng Bồ-tát chép: Tất cả các pháp vì sao không từ duyên sanh? Lúc bấy giờ Đức Như-lai muốn nói ra nghóa này liền nói kệ: Nếu pháp từ duyên sanh, lìa duyên hẳn không có pháp vì sao pháp tánh không có, mà duyên có thể sanh pháp? Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba giải quyết nghi ngờ. Trong đó có hai: 1. Sáu phẩm sáu nghi ngờ trở lại lần lượt mà giải quyết; 2.Một phẩm ba nghi ngờ thuận theo thứ tự mà xả bỏ. Trong phần đầu cũng có hai: 1. Giải quyết riêng: Tổng hợp xác định. Đầu tiên trong phần giải quyết riêng - giải quyết riêng biệt sáu nghi ngờ, từ sau đến trước dần dần lùi lại mà giải quyết. Nay ở đây hỏi và trả lời giải quyết nghi ngờ khởi lên trong phẩm Như-lai-tạng. Phẩm kia nói “Nhân duyên không có bất sanh, bất sanh nên bất diệt”, trong đó chấp có chủ thể sanh (năng sanh) nhân duyên mà nghi ngờ quả đó sao không từ duyên sanh ra? Vì thế thừa dịp nghi ngờ kia để hỏi về duyên sanh. Như-lai nói một tụng chính là giải quyết nghi ngờ này. Trong đó nữa trên xác định cái chấp vốn có kia nữa dưới thừa dịp kia phá bỏ duyên sanh đó. Ý này chính thức lập ra duyên bất sanh ra pháp vì hướng về pháp vô giống như hướng về sừng thỏ. Căn cứ vào tỉ lượng giải quyết nghi ngờ kia. Kinh: “Nhó thời Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Pháp nhược vô sanh vân hà nói pháp pháp tùng tâm sanh? Ư thị Tôn giả nhi nói kệ ngôn: Thị tâm sở sanh pháp, thị pháp năng sở thủ, như túy nhãn không hoa thị pháp nhiên phi bỉ”. Lúc ấy Địa Tạng Bồ-tát chép: Pháp nếu bất sanh ra vì sao nói pháp, pháp từ tâm sanh ra? Ngay sau đó Đức Thế Tôn liền nói kệ: Tâm này vốn sanh ra pháp, là pháp từ năng thủ sở thủ, như mắt say thấy hoa Không, pháp này như vậy không phải kia. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai giải quyết nghi ngờ khởi lên trong phẩm chân Tánh Không. Phẩm kia chép: “Ta nói pháp ấy là vì ông, chúng sanh còn ở nơi sanh khởi mà nói, cho nên nói pháp”. Dựa theo điều này nghi ngờ: Nếu dựa vào văn kia thì Đức Phật có nói pháp, pháp đã nói đó từ tâm Phật sanh ra, vì sao lại nói pháp không có sanh ra vậy? Để xả bỏ nghi ngờ này thì có hai lần: 1. Trực tiếp xả bỏ; 2.Trở lại giải quyết. Đây chính là trực tiếp xả bỏ. Chép: Tâm này vốn sanh ra pháp là pháp từ năng sở thủ: Là nay ông vốn nghó rằng tâm đã sanh ra pháp, dứt khóat là vọng tâm năng thủ - sở thủ, như say rượu thì mắt nhìn thấy những hoa đốm. Pháp này cũng vậy, chẳng phải pháp kia: Là ông vốn nghó rằng tâm đã sanh ra pháp như hoa đốm, pháp này cũng như thế, chẳng phải pháp đã nói kia, giống như ông đã nghó rằng sanh ra. Ý này chính là nói pháp không mà ông chấp không hề vốn có là sở thủ cho nên giống như hoa giữa hư không. Pháp Ta đã nói lìa dứt danh ngôn, không còn suy nghó, sở thủ, năng thủ, đều không thể nói. Kinh: “Nhó thời Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Pháp nhược như thị, pháp tức vô đãi, vô đãi chi pháp ưng tự thành. Ư thị Tôn giả nhi nói kệ ngôn: Pháp bổn vô hữu vô, tự tha diệc phục nhó, bất thủy diệc bất chung, thành bại tức bất tại”. Bấy giờ, Bồ-tát Địa Tạng chép: “Nếu Pháp như thế thì không có đối đãi, pháp không đối đãi thì nên tự thành tựu”. Lúc ấy, Thế Tôn bèn nói kệ: “Pháp vốn không Hữu, Vô, Tự, Tha cũng như vậy, không thủy cũng không chung, thành bại liền chẳng trụ”. Luận chép: Đây là lần hai giải quyết nghi. Có hai, trước hỏi sau đáp. Ý hỏi: Nếu các pháp từ ngôn giáo của Phật nói ra không phải sở thủ nên không như hoa đốm ở hư không, cuối cùng không có thì chính tức là pháp này nên tự nhiên thành, vì không có đối đãi, cũng như chân như. Đểgiải quyết nghi này nên Phật nói kệ. Ý nói kệ: Pháp của Ta nói bặt dứt danh ngôn, vốn không hề có-Hữu-Vô-Tự -Tha-trước sau-hoặc là thành - hoặc là bại tức là không thể an trụ, vì sao có thể nói tự nhiên thành tựu vậy? Là hiển bày người kia vì có sai lầm trái ngược nhau, nói là pháp không có thành bại, vì không có đối đãi, như không có sở thủ, lại như Chân Như. Do đạo lý này người kia chất vấn không được, chất vấn không được cho nên những nghi ngờ được giải quyết. Kinh: “Nhó thời Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Nhất thiết chư pháp tướng tức bổn Niết-bàn, Niết-bàn cập không tướng diệc như thị, vô thị đẳng pháp, thị pháp ưng như. Phật ngôn: vô như thi pháp, thị pháp thị như”. Lúc ấy Địa Tạng Bồ-tát chép: tất cả các pháp tướng chính là vốn có Niết-bàn, Niết-bàn và tướng Không cũng như thế, không có các pháp này, pháp này thuận theo Như. Đức Phật nói: Không có pháp như vậy, pháp này là Như. Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba giải quyết nghi ngờ khởi lên trong phẩm Nhập Thật Tế. Phẩm kia nói “Đại Lực Bồ-tát chép: Tâm tướng chúng sanh, tướng cũng Như-lai, tâm của chúng sanh phải không có biệt cảnh. Đức Phật nói: Tâm của chúng sanh như thế, thật sự không có biệt cảnh. Vì sao? Vì tâm vốn tịnh, lý không có uế nhiễm”. Căn cứ vào văn này dấy lên ý niệm này chép: Tâm vốn thanh tịnh chính là Như lý, xưa nay thanh tịnh tự tánh là Niết-bàn, nếu giả sử Niết-bàn cũng trống rỗng không có, thì phải là tà không có (tà vô) không thể là Như lý. Để xả bỏ nghi ngờ này cho nên nói đều là Như. Ngay nơi văn có bốn: 1. Thưa hỏi; 2.Đồng ý; 3. Lónh ngộ; 4. Nói về. Đầu là thưa hỏi ý chép: Nếu theo nghóa Không, thì tất cả các pháp tướng chính là xưa nay thanh tịnh là Niết-bàn. Lại dung hợp Niết-bàn và tướng Không đó, tức là không có sai khác giữa Niết-bàn và Không, là pháp cùng một vị, là pháp thuận với Như. Trái với người kia đã chấp cho nên dấy lên câu hỏi này. Thứ hai trong phần trả lời đồng ý với Như đã hỏi. Kinh: “Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Bất khả tư nghị! Như thị như tướng phi cọng bất cọng, ý thủ nghiệp thủ tức giai vắng lặng, tâm vắng lặng pháp câu bất câu thủ diệc ưng vắng lặng”. Địa Tạng Bồ-tát chép: Không thể nghó bàn! Như vậy tướng Như không phải giống nhau - không thể giống nhau, ý giữ lấy - nghiệp giữ lấy thì đều là không vắng lặng, tâm pháp là không vắng lặng đều giữ lấy hay không đều giữ lấy cũng tùy theo vắng lặng. Luận chép: Đây là phần thứ ba lónh ngộ hiểu rõ. Để gạt chế phục chất vấn, lại nghe trước nói dấy lên chất vấn này chép: Xưa nay Niết- bàn đã là Nhất Như, nếu dung hợp Niết-bàn và tướng Không đó là Như thứ hai. Như vậy hai Như là giống nhau hay không giống nhau? Nếu nói giống nhau (cọng) thì không phải Như lý, vì có hai thứ song song. Nếu không giống nhau thì tức là không thể không nữa, vì chỉ có một Như. Để xả bỏ chất vấn này cho nên nói Phi cọng bất cộng. Phi cọng: Là vì không có hai Như. Phi bất cọng: Là vì có hai xả bỏ. Cái xả bỏ tuy là hai mà nơi xả bỏ không có hai, do đó người kia đã chất vấn đều không thuận theo lý. “Ý giữ lấy nghiệp giữ lấy tức đều vắng lặng: Là hiển bày hai cái xả bỏ, nơi xả bỏ không có hai. Nói Ý thủ: Đã gọi là Niết-bàn, vì duyên với những gì giữ lấy (sở thủ) của tâm vắng lặng. Nói Nghiệp thủ: Tức là sanh tử, vì đã giữ lấy các nghiệp của phiền não. Hai thứ này đều là không, vắng lặng không có hai. Tâm pháp vắng lặng đều hoặc không đều giữ lấy cũng tùy theo vắng lặng”: Là nói về một tâm pháp cũng không giữ lại một, sanh tử Niết-bàn là không vắng lặng không có hai, không có hai nơi là một tâm pháp, dựa vào một tâm pháp có hai thứ môn, nhưng đều giữ lấy hai môn tức là không đạt được tâm vì hai đạt được một. Nếu phế bỏ hai môn không đều mà giữ lấy cũng không đạt được tâm vì không có gì không phải tâm. Do nghóa này cho nên có hai tâm pháp đều giữ lấy hay không cùng giữ lấy lẽ ra đều vắng lặng. Kinh: “Ư thị Tôn giả nhi nói kệ ngôn: Nhất thiết vắng lặng pháp thị pháp tịch bất không, bỉ tâm bất không thời, thị đắc tâm bất hữu”. Ngay sau đó Đức Thế Tôn lại nói kệ: Tất cả các pháp Vắng lặng, là pháp tịch mà chẳng Không, lúc tâm kia không thể Không, là đạt được tâm không có. Luận chép: Đây là phần thứ tư Như-lai nói về thành tựu. Tất cả pháp vắng lặng: Pháp của Sanh tử - Niết-bàn tất cả đều là không vắng lặng. Là pháp tịch chẳng không: Tâm - pháp không có hai vì không phải hoàn toàn không có pháp, tuy không phải là không có pháp mà không thể là có. Vì thế cho nên lúc hiểu rõ tâm không thể là Không, là lúc có thể biết tâm chẳng thể có. Vì lẽ đó trước đây nói “Đều, không, đều giữ lấy, đều tùy theo vắng lặng” ấy không trái với đạo lý vậy. Kinh: “Nhó thời Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Thị pháp phi tam đế, sắc không tâm diệc diệt, thị pháp bổn diệt thời, thị pháp ưng thị diệt. Ư thị Tôn giả nhi nói kệ ngôn: Pháp bổn vô tự tánh, do bỉ chi sở sanh, bất ư như thị xứ, nhi hữu bỉ như thị”. Lúc bấy giờ Địa Tạng Bồ-tát chép: Pháp này không phải ba đế, sắc - không - tâm cũng diệt mất, lúc pháp vốn có này diệt mất, pháp này thuận theo vậy diệt đi. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Pháp vốn không có tự tánh, do kia mà được sanh ra, không ở tại nơi như vậy, mà có nơi kia như thế. Luận chép: Đây là phần thứ tư giải quyết nghi ngờ khởi lên trong phẩm Bổn Giác Lợi. Phẩm kia chép: “Bồ-tát Vô Trụ chép: Tất cả cảnh không, tất cả thân không, tất cả thức không. Giác cũng nên không. Phật dạy: Nhất giác có thể vậy, vì tánh quyết định không hủy, không hoại, không phải không, không phải chẳng thể không, chẳng có không, chẳng thể không”. Căn cứ vào văn nói về này, đối với nơi kia sanh ra nghi ngờ: Nếu một tâm này cũng không thể là có cho nên vắng lặng, thì tại vì sao trước đây nói một Giác không thể hủy hoại do đó không giống như Không của sắc tâm kia. Nay nhân tiện nghi ngờ này cho nên dấy lên câu hỏi này. Pháp này không phải ba đế: Tức là tụng trước nói, là một tâm pháp chẳng phải Sắc- tâm - Không cho nên chẳng phải ba đế. Nhưng ba Đế môn sơ lược có ba thứ: 1.Sắc đế tâm đế Đệ nhất nghóa đế; 2.Hữu đế Vô Đế và Trung đạo đệ nhất nghóa đế; 3.Như trong phẩm này văn sau đã nói. Nay ý câu hỏi này tạm thời dựa vào môn thứ nhất. Sắc, không, tâm cũng diệt: Vì pháp này đã không phải ba đế thâu nhiếp, Sắc tướng vốn không thì tâm cũng vắng lặng, lúc sắc tâm và pháp vốn có này vắng lặng thì một tâm pháp cũng thuận theo đồng vắng lặng; chính là kệ trước đây chép: “Vì tâm không có”. Tức là trước đây nói chẳng giống Không ấy, chỉ là bàn luận giả dối. Như vậy nghi ngờ ngay trong tụng đối chiếu ở đây nói về sự bất đồng đó. Pháp vốn không tự tánh: Là pháp của Sắc tâm vốn không có tự tánh. Do kia mà được sanh ra: Là do tâm của Bổn Giác kia sanh ra. Những sắc tâm sanh ra là tướng sai khác, tâm Bổn Giác kia lìa tướng lìa tánh, không thể ở nơi sai khác như thế mà có như một Giác lìa tướng kia. Vì thế cho nên lúc tướng sai khác của Sắc tâm này Không thì không thể nào cùng xả bỏ lìa tướng một Giác. Do đạo lý này nên trước đây không phải luận nói luống dối. Kinh: “Nhó thời Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Nhất thiết chư pháp vô sanh vô diệt, vân hà bất nhất? Ư thị Tôn giả nhi nói kệ ngôn: Pháp trụ xứ vô tại, tướng số không cố vô, danh nói nhị dữ pháp, thị tức năng sở thủ”. Lúc ấy Địa Tạng Bồ-tát chép: Tất cả các pháp bất sanh ra không diệt đi, vì sao không thể là một? Thế là Đức Thế Tôn liền nói kệ: Pháp trụ và xứ không còn, tướng số không nên không có, danh nói hai cùng với pháp, là chính năng thủ sở thủ. Luận chép: Đây là phần thứ năm giải quyết nghi ngờ khởi lên trong phẩm Vô sanh hạnh. Phẩm kia nói “Duyên khởi chẳng phải sanh, duyên dứt chẳng phải diệt, ở nơi có không có, không thấy chỗ sở trụ, bởi ví tánh quyết định, tánh thị quyết định này, chẳng thể là một là khác”. Có căn cứ vào văn kia mà khởi lên nghi ngờ: Các pháp Sắc tâm không có sanh ra - không có diệt đi, tức là Thật tánh quyết định bình đẳng, đây chính là về chiều ngang không có sự sai khác của Sắc tâm, về chiều dọc không có sự phân biệt của sanh diệt, không có sai khác - không có phân biệt, phải là một vị, không khác nhau có thể như thế vì sao không thể là một? Đối chiếu trong tụng bây giờ nói về nghóa “không thể là một”. Pháp trụ xứ không còn: Vì các pháp an trụ và nơi vốn an trụ đều không vốn có. Tướng số không nên không có: Những tướng Sắc tâm - những số nhất dị thảy đều trống rỗng cho nên không có. Tướng và số đã không có, sao có thể có một. Lại không có Sắc cho nên chính là không có tâm tướng. Đã không phải khác nhau, thì như thế nào là một mà lại có hai của danh nói? Cho đến có pháp đã nói ấy, đây chính là năng thủ vọng tâm sở thủ chẳng phải Như thật nghóa, có Một là hai thứ. Nói Danh thuyết Danh là giải thích về Dụng, ý thức vốn giữ lấy. Nói là âm thanh lời nói, nhó thức vốn hiểu rõ. Nếu nói là một tức là có hai thứ này, trong đó cũng có pháp của sở thuyên. Những số như vậy vọng tâm vốn giữ lấy, không phải thật nghóa kia, có số như vậy, vì sao trong đó còn một vị? Kinh: “Nhó thời Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Nhất thiết chư pháp tướng, Bất trụ ư nhị ngạn, diệc bất trụ trung lưu, tâm thức diệc như thị, vân hà chư cảnh giới, tùng thức chi sở sanh? Nhược thức năng hữu sanh, thị thức diệt tùng sanh, vân hà vô sanh thức năng sanh hữu sở sanh? Ư thị Tôn giả nhi nói kệ ngôn: Sở sanh năng sanh nhị, thị nhị năng sở duyên, câu bổn danh tự vô, thủ hữu không hoa huyễn, thức sanh ư vị thời, cảnh bất thị thời sanh, ư cảnh sanh vị thời, thị thời thức diệc diệt, bỉ tức bổn câu vô, diệc bất hữu vô hữu, vô sanh thức diệc vô, vân hà cảnh tùng hữu?”. Lúc ấy Địa Tạng Bồ-tát chép: Tướng tất cả các pháp, không trụ vào hai bờ, cũng không trụ vào giữa dòng, tâm thức cũng như vậy, vì sao các cảnh giới từ Thức sanh ra? Nếu Thức có thể sanh ra, thì Thức cũng thuận theo sanh ra, vì sao bất sanh ra thức mà lại sanh các hữu sở sanh? Ngay lúc đó Đức Thế Tôn liền nói kệ: Hai Thức năng sanh sở sanh, chính là hai duyên năng sở, đều vốn không có tên gọi, lấy có hoa đốm hư không, Thức sanh ở tại lúc sau, cảnh bất sanh ra lúc này, bởi lúc cảnh sanh chưa có, lúc này Thức cũng diệt mất, chính vốn có kia đều không, cũng chẳng thể có - không cái có. Bất sanh ra thức cũng không, vì sao cảnh thuận theo có? Luận chép: Đây là phần thứ sáu giải quyết nghi ngờ khởi lên trong phẩm Vô Tướng pháp. Phẩm kia chép: “Thế nào là tướng suy nghó sanh diệt? Phật dạy: Theo ý không có không thể. Nếu không thể tức là sanh các niệm, thì ngàn muôn nghó suy là tướng sanh diệt”. Nay dựa vào sau này nói trở lại nghi ngờ văn kia. Nếu Thức có thể sanh ra, cảnh không thể, cảnh tướng trở lại sanh ra thức của các niệm tức là tâm thức. Có sanh ra có diệt, vì sao nói không trụ vào hai bờ? Nếu các tâm thức bất sanh ra không diệt đi, vì sao các Thức có thể sanh ra cảnh giới? Thừa dịp nghi ngờ như vậy nêu lên câu hỏi như vậy. Không trụ ở hai bờ: Là vì không có sanh ra - không có diệt đi. Không trụ ở giữa dòng: Vì mà không phải là một (nhi bất thị nhất). Tâm thức đã như thế không có sanh ra không có diệt đi, vì sao những gì sanh ra có thể từ thức mà không thể là cảnh giới vậy? Nếu Thức có thể sanh ra cảnh thì Thức cũng từ cảnh sanh ra? Vì sao bất sanh thức, mà có thể sanh hữu sở sanh? Vì xả bỏ nghi ngờ này cho nên nói ra ba bài tụng. Văn của ba tụng thì phân định thành hai: Một tụng đầu chỉ ra đạo lý đó, hai tụng sau phá trừ cái chấp tướng sanh. Trong phần đầu nói “Là hai năng sở duyên”: Nghóa là ông vốn nghó rằng Thức là năng sanh, Cảnh là sở sanh, dứt khóat là vọng lấy năng duyên sở duyên đều là xưa nay chỉ có tên gọi mà không có tự Thể. Nếu giữ lấy làm có thì như giữ lấy hoa đốm hư không và giữ lấy hình tượng huyễn ảo để làm thật có. Vì thế cho nên không khác với không có sanh ra không có diệt đi. Trong phần sau phá trừ nói “Thức sanh ư vị thời - cảnh bất vị thời sanh” là nói về lúc Thức năng sanh chưa có - cảnh giới sanh lúc ấy không thể sanh. Lúc cảnh sanh chưa có, thời này thức cũng diệt: Là nói về lúc cảnh năng sanh chưa có thì Thức sở sanh đó vào lúc này cũng diệt đi. Diệt ấy là vắng lặng, nghóa là xưa nay không có vậy. Chính vốn kia đều không, cũng chẳng thể có, không cái có: Là hai năng sanh kia xưa nay đều không có, đã không có năng sanh cũng không thể làm cho có, cho nên nói chẳng thể có, không thể làm cho có vì vậy thời gian sau không có sanh ra, cho nên nói là không cái có. Không có sanh thức cũng không: Nghóa đã không có sanh ra, sao có thể có Thức? Thức không có cho nên cảnh không thuận theo mà có. Trong này chính là có hai thứ tỉ lượng: 1.Thức bất sanh, vì không có năng sanh, như đối với hạt giống cháy; 2.Cảnh bất khởi, vì không có nơi thuận theo, như thuận theo lông rùa. Sáu phần trên đây giải quyết riêng về nghi ngờ đã hoàn tất. Kinh: “Nhó thời Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Pháp tướng như thị nội ngoại câu không, cảnh trí nhị chúng bổn lai vắng lặng, Như-lai sở nói thật tướng chân không, như thị chi pháp tức phi tập dã”. Lúc bấy giờ Địa Tạng Bồ-tát chép: Pháp tướng như vậy trong ngoài đều vắng lặng cảnh-trí hai chúng xưa nay vắng lặng, thật tướng chân Không Như-lai đã nói, pháp như vậy chính là không phải Tập. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai xác định chung những điều đã nói. Xác định chung sáu phần giải quyết không phải bệnh mà là thuốc. Trong đó có hai: Trước là xác định không phải bệnh sau xác định là thuốc. Trong phần đầu cũng có hai: Xét kỹ câu hỏi - xác định đồng ý. Trong phần Hỏi nói “Pháp tướng như thị”: Chung lónh hội sáu phần pháp tướng giảng nói trước đây. Nói Nội ngoại: Là Thức bên trong - Cảnh bên ngoài. Nói Nhị chúng: Là vì cảnh -trí rất nhiều. Nói Phi tập: Vì không phải tại hoạ nhóm họp sanh tử tạp nhiễm, vì không giống như ác nghiệp giữ lấy Không trở lại nhóm họp các tai hoạ. Kinh: “Phật ngôn: Như thị! Như thật chi pháp vô sắc vô trụ, không phải sở tập phi năng tập, phi nghóa phi đại, nhất bổn khoa pháp tâm công đức tụ”. Đức Phật nói: Đúng vậy! Pháp như thật không có sắc không an trụ, không phải sở tập - không phải năng tập, không phải nghóa - không phải Đại, khoa pháp của một Bổn giác quy tụ công đức sâu thẳm. Luận chép: Đây là Như-lai xác định đồng ý. Nói vô sắc: Là vì không phát sanh căn bệnh mê đắm vào có. Vô trụ: Là vì cũng lìa bỏ tại họa tệ hại giữ lấy Không. Không phải sở tập: Vì Khổ đế là không. Chẳng phải năng tập: Vì tập đế là không. Chẳng phải năng tập: Vì Tập đế là không. Không phải nghóa: Vì lìa bỏ nghóa sai khác về các ấm giới. Không phải đại: Vì lìa bỏ tướng năng tạo của địa - thủy v.v… Khoa pháp của một bổn: Là một Bổn Giác, lấy đây làm gốc rễ thường sanh ra các hành và các công đức. Nhưng Khoa có hai thứ: 1. Khoa về tạp nhiễm, nghóa là các Thức căn bản, nghóa như trên đã nói; 2.Khoa về thuần tịnh, nghóa là một Bổn giác, như văn này nói. Trong Thức căn bản kia chứa nhóm tất cả hạt giống tạp nhiễm. Trong Bổn Giác này chỉ có tánh sâu thẳm quy tụ công đức. Lìa bỏ tướng lìa bỏ tánh nên gọi là sâu thẳm, vượt quá hằng sa số cho nên gọi là nhóm. Kinh: “Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Bất khả tư nghị, bất tư nghị tụ, thất ngũ bất sanh, bát lục vắng lặng, cửu tướng không vô, hữu không vô hữu, vô không vô hữu, như tôn sở nói pháp nghóa giai không, nhập không vô hành bất thất chư nghiệp, vô ngã ngã sở năng sở thân kiến, nội ngoại kết sử tất giai vắng lặng, cố nguyện diệc tức, như thị lý quán tuệ định chân như, tôn giả thường nói thật như không pháp tức lương dược dã”. Địa Tạng Bồ-tát chép: Không thể nghó bàn, không nghó bàn được Tụ, Thức thứ bảy và năm Thức bất sanh khởi, Thức thứ tám và Thức thứ sáu vắng lặng, tướng Thức thứ chín vắng lặng không có, có là không mà không còn có, không có là không lại không còn có nữa, như Đức Thế Tôn đã nói pháp nghóa đều vắng lặng, nhập vào vắng lặng không có hành không mất các nghiệp, không có Ngã và Ngã sở - năng sở thân kiến, kết sử trong ngoài thảy đều vắng lặng, nguyện trước đây cũng dứt bặt, chân như tuệ định lý quán như vậy, Đức Thế Tôn thường nói Như Không pháp này chính là thuốc hay. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai xác định là Thuốc. Trong đó cũng có hai: Trước là Bồ-tát kỹ lưỡng thưa hỏi, trong thưa hỏi có ba: 1. Lónh ngộ gom nhóm công đức sâu thẳm ở trước; 2. Thừa dịp hiển bày đi sâu vào lý quán; 3.Thưa hỏi Kỹ lưỡng về thắng đức của vị thuốc hay. Trong phần đầu cũng có ba: Tổng hợp nêu lên - Hiển bày riêng Sau trở lại kết luận chung. Bất tư nghị tụ: Là nêu chung công đức lìa bỏ tướng - lìa bỏ tánh. Trong phần hiển bày riêng trước là nói về lìa bỏ tướng - sau là hiển rõ về lìa bỏ tánh. Trong đầu tiên nói Thất ngũ bất sanh: Là hợp lại nói về Không của hai thứ Mạt Thức thường trong Hành thức thì Thức thứ bảy là cuối cùng, không thường trong Hành thức thì năm Thức là cuối cùng. Bát lục vắng lặng: Là hợp lại nói về Tịch của hai thứ Bổn Thức. Thường trong Hành thức thì Thức thứ tám là căn bản, không thường trong Hành thức thì Thức thứ sáu là căn bản. Kế đến hiển rõ về lìa bỏ tánh. Cửu tướng không vô: Vì tướng Thức thứ chín cũng không giữ theo tánh. Hữu không vô hữu: Là tiếp tục thành tựu lìa bỏ tướng, pháp có tướng của tám Thức không hề có gì. Vô không hề có gì: Là tiếp tục thành tựu lìa bỏ tánh, tánh vô tướng của chín Thức không hề có gì cho nên một tâm như vậy lìa bỏ tướng- lìa bỏ tánh, tức là quy tụ vô lượng vô đức, như vậy gọi là Bất tư nghị tụ. Như Thế Tôn nói pháp nghóa đều không: Là phần thứ ba tổng kết về lìa tướng lìa tánh vậy. Kế đến nói về lý quán, trong đó có hai: Riêng trình bày - Tổng kết. Trong phần riêng trình bày thì có ba câu: Nhập không vô hành không mất các nghiệp ấy là Không Tam-muội, nghóa là lý quán nhập vào Không mà không có hành của năng sở, tuy không có năng sở mà không mất đi các nghiệp về sáu độ. Kế là nói về Vô tướng Tam-muội. Không có ngã, ngã sở năng sở thân kiến: Là lìa bỏ các tướng phiền não thuộc về Kiến, vì lìa bỏ tướng Ngã - Ngã sở và tướng năng kiến- sở kiến. Nội ngoại kết sử thảy đều vắng lặng: Là lìa bỏ các tướng kết sử thuộc về Ái, vì các kết phần bên trong (nội môn) - các sử phần bên ngoài (ngoại môn)- phiền não ba cõi trống rỗng các tướng; như vậy gọi là Vô tướng Tam-muội. Cho nên, nguyện cũng dứt: Là nói về Vô nguyện Tam-muội. Vì pháp trong ba cõi đều là vắng lặng, cho nên tâm nguyện cầu tự nhiên vónh viễn bặt dứt; như vậy gọi là Vô nguyện Tam-muội. Như thị lý quán tuệ định chân như: Là câu tổng kết. Ba thứ như trước đều là lý quán vì không nghiêng vê Chỉ quán - năng sở không có hai. Tôn giả thường nói pháp Như Không chân thật tức là thuốc hay: Là phần thứ ba kỹ lưỡng thưa hỏi. Pháp Không như vậy có đủ các công đức chữa trị các kết sử, vì thế cho nên thích ứng chính là thuốc hay. Kinh: “Phật ngôn: Như thị! Hà dó cố? Không cố không tánh vô sanh tâm thường vô sanh, không tánh vô diệt tâm thường vô diệt, không tánh vô trụ tâm diệc vô trụ, không tánh vô vi tâm diệc vô vi, không vô xuất nhập ly chư đắc thất, ấm giới nhập đẳng giai tất diệc vô, tâm như bất trước diệc phục như thị. Bồ-tát! Ngã nói chư không phá chư hữu cố”. Đức Phật nói: Đúng như vậy! Tại vì sao? Vì Không cho nên tánh Không không có sanh ra nên tâm thường bất sanh ra, tánh Không chẳng có diệt đi nên tâm thường không diệt đi, tánh Không, chẳng có an trụ nên tâm cũng không an trụ, tánh Không, không có hành động vô vi cũng không là vô vi không không có ra vào lìa bỏ được mất, các ấm giới nhập thảy đều cũng không có, Tâm Như không vướng mắc cũng giống như vậy. Này Bồ-tát! Ta nói các Không vì phá trừ các cái có. Luận chép: Đây là Như-lai xác định đồng ý. Trong đó có ba: 1. Chung đồng ý. Nói không cố ý là nguyên nhân là vị thuốc hay, chỉ y cứ vào Không cho nên Có lập tức sanh bệnh. Từ “Không tánh v.v… ” trở xuống là phần thứ hai đồng ý riêng. Trong đó có hai: trước là nói về uống thuốc Không do đó lìa bỏ tại hoạ về quả trôi lăn, sau là nói về uống thuốc Không cho nên chữa trị nhân của bệnh thủ trước. Trong phần đầu nói “Không tánh vô sanh tâm thường vô sanh”: Là vì tâm nhập vào Không giống như Không không có sanh ra. Lại tùy theo không có diệt đi nên tâm thường không diệt đi. Sanh diệt chính là nghóa của Vô thường cho nên đảo lại hai tên gọi kia làm Thường vậy. Tâm cũng không trụ: Không những không có tướng đầu và sau mà cũng không có tướng trụ vào trung gian; đây là nói riêng về lìa bỏ ba tướng. Tâm cũng vô vi: Là chung hiển bày lìa bỏ ba tướng hữu vi kia, là nói về uống thuốc Không xa lìa căn bệnh Vô thường. Kế đến nói về cũng xa lìa căn bệnh của Thủ trước. Vô xuất nhập: Là không có sự khác nhau của vượt ra quán - nhập vào quán. Ly đắc thất: Là cũng xa lìa tướng của được mới- mất cũ. Tâm như không chấp mắc cũng giống như thế, Tâm của năng quán cũng như lý Không, không giữ lấy tướng ra-vào - được - mất, không vướng vào pháp của các ấm - giới - nhập, là nói về uống thuốc Không xa lìa căn bệnh chấp trước. Ta nói các Không vì phá các hữu: Là phần thứ ba kết thúc xác định. Chính nơi thật tế lý Không không có hai, nhưng nói các Không là năm - ba hạng, vì để phá trừ căn bệnh của những người mê đắm vào có, tùy theo bệnh rất nhiều cho nên nói về Không cũng như thế. Lại, lý thật chẳng phải Không chẳng thể Không, chỉ vì phá trừ Có nên gượng nói là Không, không phải Không nói về tánh Không còn lại. Dùng hai ý này kết luận giáo pháp về các Không. Kinh: “Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Tôn giả! Tri hữu phi thật như dương diệm thủy, tri thật phi vô như hoả tánh vương, như thị quán giả thị nhân trí da”. Bồ-tát Địa Tạng nói: Bạch Đức Thế Tôn! Biết có chẳng phải thật như ngọn lửa nổi lên nước (dương diệm thủy), biết thật chẳng phải không có như tánh lửa lớn, người quán như vậy là người trí chăng? Luận chép: Sáu phẩm sáu nghi ngờ lùi lại lần lượt mà giải quyết, giải quyết riêng - chung xác định đã hoàn tất ở trước. Dưới đây là phần thứ hai trong một phẩm ba nghi ngờ theo thứ tự mà xả bỏ, trong đó có ba, nghóa là trong một phẩm Như-lai-tạng lại khởi lên ba nghi ngờ lần lượt xả bỏ. Nghi ngờ thứ nhất: Nói về trưởng giả Phạm Hạnh kia tụng chép: “Nếu nói pháp có một, như mê muội trái ngược nước lửa”. Lại nói “Nếu thấy pháp không có như người mù đảo điên nói không có mặt trời”. Có khi căn cứ vào tụng kia nói mà sanh khởi nghi ngờ: Trưởng giả là người phàm tục phân định nói ra như vậy, là vọng kiến chăng, hay là chân trí vậy? Dấy lên nghi ngờ như vậy không bằng lòng tin nhận. Để xả bỏ nghi ngờ kia nên đưa ra việc kia hỏi, dụ về ngọn lửa và nước như trước đã nói. Biết thật chẳng phải vô: Là có thể biết một thật nghóa -tánh chẳng phải không có. Người kia nói cho rằng không có thật, vì như người mù mê đảo nói là không có mặt trời, thì biết Trưởng giả, biết rõ thật chẳng phải không có. Nghóa của chẳng phải không có giống như tánh đứng đầu của lửa, nghóa là như trong gỗ có tánh hoả đại, phân tích tìm cầu mà không đạt được tánh lửa, nhưng thật thì chẳng thể không có tánh lửa trong gỗ, đi sâu vào mà tìm cầu thì lửa nhất định hiện rõ, một tâm cũng như vậy, phân tích các tướng không thật có tánh của tâm, mà thật thì chẳng thể không có tâm trong các pháp, tu đạo tìm cầu thì một tâm hiển hiện. Như vậy tướng của tánh lửa ẩn kín mà thế lực rộng lớn tựa như vua chúa, cho nên gọi là đứng đầu. Trưởng giả như vậy xa lìa quán hai bên, là người trí chăng? Thưa hỏi như vậy. Kinh: “Phật ngôn: Như thị! Hà dó cố? Thị nhân chân quán, quán nhất vắng lặng, tướng dữ bất tướng đẳng dó không thủ, dó tu không cố bất thất kiến Phật, dó kiến Phật cố bất thuận tam lưu”. Đức Phật nói: Đúng vậy! Tại vì sao? Vì là người chân thật quán, quán một vắng lặng, tướng và chẳng phải tướng đều dùng Không mà giữ lấy, vì tu Không cho nên không mất đi sự thấy Phật, vì thấy Phật cho nên không thuận theo ba Lưu. Luận chép: Dưới đây là Như-lai giải quyết nghi ngờ. Trong đó có hai: Giải quyết Trực tiếp và giải thích về giải quyết. Nói Như Thị: Là xác định đúng là người trí. Từ “Vì sao v.v… ” trở xuống giải thích đúng là trí đó. Trong đó có hai: Sơ lược giải thích và giảng nói rộng. Trong phần đầu nói Quán một vắng lặng: Là quán về nghóa vắng lặng của một tâm pháp. Tướng cùng bất tướng đều giữ lấy không: Là quán có tướng Tục và không có tướng Chân đều không còn, dung hòa làm một, vì tu Không như vậy chính là thuận với tâm Phật. Thường thấy thân Phật, lúc này từng mất đi cho nên nói Không mất sự thấy Phật. Vì thường thấy Phật càng thêm quán Không, quán Không thêm thêm lên thì xa cách ngược lại các cái có, cho nên nói không thuận theo ba. Ba Lưu thâu nhiếp đầy đủ các phiền não của ba cõi, gọi là Dục lưu - Hữu lưu và Vô minh lưu. Đây gọi là ba lưu nghóa như thường lệ giải thích. Kinh: “Ư đại thừa trung tâm giải thoát đạo nhất thể vô tánh, dó kỳ vô tánh cố không, không cố vô tướng, vô tướng cố vô tác, vô tác cố vô cầu, vô cầu cố vô nguyện, dó thị nghiệp cố tịnh tâm, dó tâm tịnh cố kiến Phật, dó kiến Phật cố đương sanh tịnh độ. Bồ-tát ư thị thâm pháp tam hóa cần tu tuệ định viên thành tức siêu ba cõi”. Ở trong đại thừa ba giải thoát đạo một Thể vô tánh, vì vô tánh cho nên Không, Không cho nên Vô tướng, Vô tướng cho nên Vô tác, Vô tác cho nên Vô Cầu, vì Vô Cầu cho nên Vô Nguyện, theo nghiệp này cho nên tâm thanh tịnh, vì tâm thanh tịnh cho nên thấy Phật, vì thấy Phật cho nên sẽ sanh về Tịnh độ. Bồ-tát đối với pháp sâu xa này siêng năng tu ba Không (tam hóa) thành tựu trọn vẹn định tuệ thì vượt ra ba cõi. Luận chép: Đây là phần thứ hai giảng nói rộng ra. Trong đó có hai: Trước là nói về thắng lợi của ba giải thoát đạo, sau là hiển rõ về thắng lợi của ba hóa cần tu. Trong phần đầu nói Nhất thể vô tánh: Là đối chiếu ba giải thoát môn có tánh nhưng Thể khác nhau của hàng Tiểu thừa kia, hiển bày rõ quán hành đồng nhất Thể của hàng Đại thừa Bồ-tát. Lúc quán tâm chứng được vô tánh thuận theo nghóa giả định nói ra lập nên ba giải thoát. Dựa theo nghóa quên đi Thể tánh đó lập nên Không giải thoát, quên ngay phần nghóa (nghóa môn) về thể tướng lập nên Vô tướng giải thoát, quên ngay phần nghóa (nghóa môn) về Thể dụng lập nên Vô tác giải thoát, cũng gọi là Vô nguyện giải thoát, vì hiển bày rõ chỉ có một quán không hề sai khác, đối với Thể tánh tướng - dụng của tất cả các pháp, không có gì không xả bỏ - không có gì không dung hòa. Vì thế cho nên lập ra ba giải thoát môn. Theo nghiệp này nên tâm tịnh: Là vì quên đi tất cả thể - tướng dụng, tâm thường thanh tịnh vượt ra quán trải qua Tục pháp xa lìa các đắm nhiễm, tâm xa lìa đắm nhiễm có thể thấy Báo thân Phật, thấy Báo thân Phật cho nên được sanh đến Tịnh độ. Đây là thắng lợi của ba giải thoát đạo. Bồ-tát đối với pháp sâu xa này, siêng tu ba hóa: Nghóa là ở nơi pháp Không siêng năng tu tập ba Không. Ba Không là gì? Không tướng cũng Không là Hóa tu thứ nhất, Không Không cũng Không là Hóa tu thứ hai, sở Không cũng Không là Hóa tu thứ ba; nghóa như trước nói cho nên không phân tách bàn luận. Siêng năng tu tập ba Hóa thì thông suốt một tâm, thông suốt một tâm cho nên tuệ - định thành tựu trọn vẹn, địa vị thành tựu trọn vẹn thì vượt ngoài ba cõi. Đây là thắng lợi của siêng năng tu tập ba hóa. Kinh: “Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Như-lai sở nói vô sanh vô diệt tức thị vô thường, diệt thị sanh diệt, sanh diệt diệt dó, vắng lặng vi thường, thường cố bất đoạn, thị bất đoạn pháp ly chư ba cõi động bất động pháp, ư hữu vi pháp như tị hoả khanh, y hà đẳng pháp nhi tự kha trách nhập bỉ nhất môn?” Địa Tạng Bồ-tát chép: Như-lai đã nói vô sanh vô diệt tức là vô thường, diệt đi sanh diệt này, sanh diệt đã diệt đi, vắng lặng là thường, thường cho nên không dứt, pháp không dứt này xa lìa các pháp động và bất động trong ba cõi, đối với pháp hữu vi giống như tránh hầm lửa, dựa vào pháp như thế nào mà tự trách mắng nhập vào một môn kia? Luận chép: Dưới đây là xả bỏ nghi ngờ thứ hai trong phẩm Như- Lai-Tạng đó. Phẩm kia nói “Thấy rõ thức là thường, Thức này thường vắng lặng, vắng lặng cũng vắng lặng”. Có căn cứ vào văn kia mà sanh ra nghi ngờ: Như vậy pháp vắng lặng thường trụ tuy có thể vui mừng nhưng quả là phẳng lặng ít thấy. Tâm của chúng sanh thô thiển khó điều hòa, như thế nào điều hòa tâm có thể hướng đến môn kia? Thừa dịp nghi ngờ như vậy dấy lên câu hỏi như vậy. Trong câu hỏi có hai: Đầu tiên nêu lên quả xa, sau là hỏi về nhân nhập vào. Trong phần đầu nói “Vô sanh vô diệt -tức là vô thường”: Tức là lónh ngộ lời nói ở trước: Thức này thường vắng lặng, vì xưa nay vắng lặng, là vô sanh vô diệt, mà vốn chẳng phải thường cho nên là vô thường. Diệt sanh diệt này - sanh diệt diệt rồi - vắng lặng thường: Tức là lónh ngộ lời nói trước đây: Vắng lặng cũng vắng lặng. Lại chép: Rõ ràng thấy Thức là thường. Từ “Đối với hữu vi pháp v.v… ” trở xuống là phần thứ hai chính là hỏi: Hướng về nhập vào môn kia phương tiện trước đây tuy có nói, phương tiện chánh quán mà lại nói sơ lược cho nên lại thỉnh cầu giảng nói rộng ra. Kinh: “Phật ngôn: Bồ-tát ư tam đại sự kha trách kỳ tâm, ư tam đại đế nhi nhập kỳ hạnh, Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Vân hà tam sự nhi trách kỳ tâm, vân hà tam đế nhi nhập nhất hạnh? Phật ngôn: Tam sự giả nhất vị nhân, nhị vị quả, tam vị thức. Như thị tam sự tùng bổn không vô, phi ngã chân ngã vân hà ư thị nhi sanh ái nhiễm? Quán thị tam sự vi hệ sở phiêu, phiêu lưu khổ hải, dó như thị sự thường tự kha trách. Tam đế giả nhất vị Bồ-đề chi đạo thị bình đẳng đế phi bất đẳng đế, nhị vị đại giác chánh trí đắc đế tam vị tuệ định môn nhị hành nhập đế phi tạp hạnh nhập đế. Dó thị tam đế nhi tu Phật đạo, thị nhân ư thị pháp vô bất đắc chánh giác, đắc chánh giác trí lưu đại cực từ, kỉ tha câu lợi, thành Phật Bồ-đề”. Đức Phật nói: Bồ-tát đối với ba việc lớn trách mắng tâm đó, đối với ba đế lớn mà nhập vào hạnh đó. Bồ-tát Địa Tạng chép: Thế nào là ba việc mà trách tâm thế nào là ba đế mà nhập vào một hạnh? Đức Phật nói: Ba sự việc ấy một gọi là Nhân, hai gọi là Quả, ba gọi là Thức. Ba việc như vậy thuận theo căn bản là không có, không phải Ngã hay chân Ngã làm sao đối với nơi này mà sanh ra ái nhiễm? Quán xét ba việc này bị trói buộc làm cho dao động, trôi nổi trong biển khổ, vì ba việc như vậy mà thường tự mình trách mắng. Ba đế ấy, một gọi là đạo Bồ-đề là Bình đẳng đế chẳng phải không đế bình đẳng, hai gọi là Đại giác chánh trí đạt được đế không phải tà trí đạt được đế, ba gọi là tuệ định không khác nhau thật hành nhập vào đế chẳng phải lẫn lộn thật hành nhập vào đế. Dùng ba đế này mà tu Phật đạo, là người đối với pháp này không ai không thật có chánh giác, đạt được chánh giác trí trôi lăn vô duyên Từ hết sức rộng lớn, mình và người đều lợi ích, thành tựu Bồ-đề quả Phật. Luận chép: Văn này có bốn: 1.Thưa hỏi; 2.Trả lời; 3.Thỉnh cầu; 4. Giảng nói. Trong phần giảng nói có hai: Trước là nói về phương tiện trách mắng chán ghét (kha yếm), sau là chỉ ra phương tiện hướng nhập. Trong phần đầu nói Nhân là nhân của năm Giới - mười điều Thiện. Quả là quả giàu có vui sướng của trời người. Thức ấy là chủ động nắm giữ nhân quả chính là căn bản Thức. Chúng sanh nghó rằng đây là nội ngã của mình, nhưng là tánh Không cho nên chẳng phải là Ngã, lý của Vô Ngã mới là Chân Ngã, do đó đối với cái chẳng phải Ngã không nên ái nhiễm. Quán tâm nổi trôi bởi các sự hệ lụy: Nghóa là vì bốn ràng buộc che chắn lý định tâm, khiến cho ba sự việc này nổi trôi trong biển khổ. Bốn ràng buộc là? Như trong phẩm Đối Pháp Luận Đế chép: “Hệ có bốn thứ là Tham dục thân hệ, sân nhuế thân hệ, giới cấm thủ thân hệ, ở đây thật chấp thủ thân hệ, vì thường chướng ngại định ý tánh thân cho nên gọi là Hệ. Vì sao? Vì từ thân này có thể ngăn cách định tâm tự tánh cho nên gọi là Hệ. Không ngăn cách Sắc thân tại vì sao thường làm nhân cho bốn loại tâm hỗn loạn? Nghóa là vì tham ái các loại tài vật làm nhân khiến cho tâm tán loạn. Đối với sự đấu tranh không chánh hạnh làm nhân khiến cho tâm tán loạn. Đối với khó thật hành giới cấm khổ não làm nhân khiến tâm tán loạn. Không thể như chánh lý suy xét tìm tòi cảnh giới làm nhân khiến cho tâm tán loạn. Vì y chỉ kia đều kiến chấp khác nhau, đối với những cảnh đã biết không thể như chánh lý ước đoán nhiều loại vọng sanh chấp trước, nói là chỉ có nơi này là chân - còn lại đều là ngu vọng, từ đây là nhân khiến cho tâm phân tán dao động. Phân tán dao động ở đâu? Nghóa là đối với định tâm như thật tri kiến. “Vì các sự việc ấy, luôn tự trách mình”: Vì trách mắng bốn ràng buộc thường dao động mà chán ghét làm cho trôi lăn ba việc. Đã nói phương tiện trách mắng chán ghét, thế nào là phương tiện hướng vào? Đó gọi là xem xét tỉ mỉ đối với ba đế. Một gọi là Đạo Bồ-đề là bình đẳng đế chẳng phải không bình đẳng đế, nghóa là Đức Phật đã chứng tánh Bồ-đề thanh tịnh không có gì không thông suốt yên ổn cho nên gọi là Đạo. Tất cả hữu tình đều cùng tánh này không một ai không thể quay về, là Đạo rốt ráo cho nên nói Bình đẳng không phải bất bình đẳng, đây chính là đối trị phân biệt hướng về của hàng nhị thừa. Hai gọi là Đại giác chánh trí đạt được đế không phải từ trí đạt đước đế, nghóa là quả Nhất-thiết-trí của bậc Đại Giác chỉ chứng đạt Bình đẳng chánh trí đã đạt được, không phải duyên sâu kín đế rộng lớn có các cảnh tà trí đã đạt được, đây chính là đối trị cái chấp của các ngoại đạo. Ba gọi là tuệ định không khác nhau thật hành nhập vào đế chẳng phải lẫn lộn thật hành nhập vào đế, nghóa là lúc đạt được chánh trí nhập vào bình đẳng, tuệ định dung hợp trọn vẹn không có tướng thật hành riêng biệt, mới là chân thật nhập vào bình đẳng đế, không phải giống như tâm phân biệt của thế gian, vương - sở Thể sai khác Tuệ - Định hành khác nhau, vì lẫn lộn thật hành như vậy không phải chân thật nhập vào, đây chính là đối trị hạng tăng thượng mạn của thế gian quán hành chưa chứng nói là chứng. Ba thứ như vậy gọi chung là Đế. Quán sát xem xét tỉ mỉ cảnh sở quán. Lần lượt đối trị ba thứ chấp khác nhau như vậy, mới có thể chính là tu tập một Phật đạo cho nên chép: “Dùng ba đế này mà tu Phật đạo”. Kế là nói về quả đã đạt được của tu đạo. Người đối với pháp này không ai đắc chánh giác: Là nói lên quả Trí đức của tự lợi, đối với ba pháp mà tu Phật đạo, chẳng có ai không đạt được quả Chánh giác. Đắc chánh giác trí trôi lăn từ tâm rất lớn: Là nói lên quả Ân đức của lợi tha, trôi lăn rộng khắp vô duyên. Từ rộng lớn cùng cực, vì khắp nơi tất cả pháp giới không đâu không được lợi ích. Mình người đều lợi thành Phật Bồ-đề: Là tổng kết hai đức trước, hai lợi đầy đủ trọn vẹn, thành tựu quả vị Đẳng Giác. Kinh: “Địa Tạng Bồ-tát ngôn: Tôn giả! Như thị chi pháp tức vô nhân duyên, nhược vô duyên pháp nhân tức bất khởi, vân hà bất động pháp nhập Như-lai?”. Bồ-tát Địa Tạng nói: Bạch Đức Thế Tôn! Pháp như vậy tức là không có nhân duyên, nếu pháp không có duyên thì nhân sẽ không khởi lên, thế nào là pháp bất động nhập vào Như-lai? Luận chép: Dưới đây là xả bỏ nghi ngờ thứ ba trong phẩm Như- lai-tạng kia. Như phẩm kia tụng cuối cùng nói “Chuyển sở thủ năng thủ - nhập vào Như-lai-tạng”. Có căn cứ vào giảng nói ở đây mà nghi ngờ nơi kia: Đế bình đẳng của Đạo Bồ-đề trong phẩm này chính là năng lực nhân duyên không đối đãi trong phẩm Như-lai-tạng, vì sao phẩm kia chuyển đổi nhân của năng sở mà có thể được nhập vào pháp Như-lai- tạng? Có dấy lên nghi ngờ này cho nên thừa dịp hỏi về nơi kia không có vô nhân duyên: Là do bình đẳng cho nên không thuận theo nhân duyên. Lại, bình đẳng cho nên lập tức không có duyên nào khác, duyên khác không có cho nên nhân không thể khởi lên, vì sao đối với kia không có pháp khởi động, mà sử dụng nhân duyên được nhập vào Như-lai? Nếu sử dụng năng lực của nhân để nhập vào, thì chính là đối đãi vì nhân duyên không phải là bất động. Kinh: “Nhó thời Như-lai dục tuyên thử nghóa nhi nói kệ ngôn: Nhất thiết chư pháp tướng, tánh không vô bất động, thị pháp ư thị thời, bất ư thị thời khởi, pháp vô hữu dị thời, bất ư dị thời khởi, pháp vô động bất động, tánh không cố vắng lặng, tánh không vắng lặng thời, thị pháp thị thời hiện, ly tướng cố tịch trụ, tịch trụ cố bất duyên”. Lúc bấy giờ Đức Như-lai muốn nói ra nghóa này nên nói kệ: Tướng của tất cả các pháp, tánh Không không có bất động, pháp này ở tại lúc này, không khởi lên vào lúc này, pháp không có lúc khác nhau, không khởi lên vào lúc khác, pháp không có động - bất động, tánh Không cho nên vắng lặng, vào lúc tánh Không vắng lặng, pháp này lúc này hiện rõ, lìa tướng cho nên tịch trụ, tịch trụ vì thế không duyên. Luận chép: Dưới đây chính là Như-lai thức giải quyết những nghi ngờ. Nói ra sự bình đẳng bất động đó mà có nghóa được nhập vào. Trong tám bài tụng thì có hai phần: Ba hàng trước giảng nói sơ lược, năm hàng sau giảng nói rộng ra. Trong phần sơ lược có hai: Hai hàng trước nói về nghóa Bất động, một hàng tụng sau nói về nghóa Đắc nhập. Hai hàng trước có ba: Đó là nêu lên - giải thích - kết luận. Hai câu đầu tiên nêu lên nghóa Bất động. Bốn câu tiếp giải thích về nghóa Bất động. “Pháp này ở lúc này, ở lúc này không khởi”: Thị thời là nói đến đời này (thử thể), đời này tức là hiện tại bây giờ. Thời gian hiện tại không bao giờ có tạm trụ, tinh tế trừ bỏ dó vãng và vị lai thì không có phần giữa, như trừ bỏ thời gian không có nơi trung gian, cho nên ở tại lúc này không thể nào có khởi lên. Pháp không có lúc khác, ở lúc khác không khởi: Nói lúc kháclà điều mà người ta gọi là quá khứ - vị lai. Vị lai chưa có cho nên không có nghóa của Khởi. Quá khứ đã không còn cũng không có nghóa của Khởi. Căn cứ vào đạo lý này nên pháp không có khởi động. Đã không có cái động của sanh khởi thì cũng không vónh cữu trụ vào bất động, cho nên nói “Pháp không có động, bất động - tánh không nên vắng lặng”, hai câu này là kết luận nghóa Bất động. Kế đến một hàng tụng sau nói về nghóa Đắc nhập. “Tánh không khi vắng lặng”: Lúc rõ ràng thấy tánh Không vắng lặng, pháp bất động lúc này hiển hiện. Hiển hiện nơi tâm cho nên nói là đắc nhập. Như vậy nữa trên nói về nghóa Đắc nhập. Nhưng ở đây nói về pháp xa lìa tất cả các tướng, xa lìa các tướng cho nên vắng lặng mà an trụ, an trụ vắng lặng cho nên không bao giờ thuận theo duyên. Vì thế cho nên tuy có nhập vào mà không phế bỏ nghóa Ly duyên. Như vậy nữa dưới hiển bày nghóa Ly duyên vậy. Kinh: “Thị chư duyên khởi pháp, thị pháp duyên bất sanh, nhân duyên sanh diệt vô, sanh diệt tánh vắng lặng, duyên tánh năng sở duyên, thị duyên bổn duyên khởi, cố pháp khởi phi duyên, duyên vô khởi diệc nhó, nhân duyên sở sanh pháp, thị pháp thị nhân duyên, nhân duyên sanh diệt tướng, bỉ tức vô sanh diệt”. Đều là các pháp duyên khởi, pháp này duyên với bất sanh, nhân duyên sanh diệt không có, sanh diệt tánh không vắng lặng, duyên tánh năng duyên sở duyên, duyên này vốn là duyên khởi, cho nên pháp khởi không duyên, duyên không khởi cũng vậy, nhân duyên vốn sanh ra pháp, pháp này đều là nhân duyên, tướng sanh diệt của nhân duyên, kia chính là bất sanh diệt. Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai giảng nói rộng ra. Trong đó có hai: Ba tụng trước này mở rộng về nghóa Bất động, hai tụng sau đó giảng nói về nghóa Đắc nhập. Trong phần đầu cũng có hai: Đó là hai tụng trước mở rộng vốn không đạt được để nói về Bất động, một tụng sau đuổi theo cuối cùng không đạt được nói về Bất động. Trong phần trước có ba: Đó là nêu lên - giải thích về kết luận. Đầu tiên chép: “Đều là các pháp duyên khởi, pháp này duyên với bất sanh”: Là nêu lên các quả pháp duyên đó bất sanh khởi. Kế là có bốn câu giải thích về nghóa Bất sanh. “Nhân duyên sanh diệt không có”: Là nói về các nhân duyên sanh diệt không dừng lại (trụ) cho nên không có công năng sanh ra quả. “Sanh diệt tánh Không vắng lặng: Vì không dừng lại cho nên không có sanh diệt, tánh Không vắng lặng do đó cũng bất sanh ra quả. “Duyên tánh năng, sở duyên”: Hạt giống nhân duyên ẩn nấp sâu xa gọi là Tánh, gốc rễ tăng thượng duyên thường đối diện cảnh giới cho nên gọi là năng duyên, gốc rễ vốn duyên với cảnh giới đã đối diện cho nên gọi là Sở duyên. Lần lượt duyên pháp diệt cho nên không luận đến. Như vậy hạt giống tánh duyên cùng hai duyên năng sở đó đều là sự phát khởi của bổn duyên, cho nên chép: “Duyên này vốn là duyên khởi”. Duyên này chính là nguồn gốc đó, các duyên cũng giống như trước nói. Sanh diệt tánh là không cho nên không có công dụng sanh ra. Căn cứ vào ba nghóa này nên duyên không có nghóa sanh ra. Nên pháp khởi không phải duyên”: Là kết luận quả pháp khởi lên không phải sanh ra từ duyên: “Duyên không khởi cũng vậy”: Kết luận về duyên không có khởi lên cũng giống như quả đó. Kế là có một tụng đuổi theo rốt ráo không đạt được, để nói về Bất động. Pháp do nhân duyên sanh - pháp ấy là nhân duyên”: Là nói về các quả pháp cũng là nhân duyên, vì hướng về pháp sanh sau mà làm duyên. Các quả pháp này đã là nhân duyên tức là giống như trước chép: Sanh diệt tánh là không cho nên chép: “Tướng sanh diệt của nhân duyên kia chính là vô sanh diệt. Lúc trước sơ lược nói vì trực tiếp nói về quả Không, lúc này mở rộng dựa sát vào nhân duyên mà nói là muốn hiển bày nhân quả bất động của các pháp tức là đạo Bồ-đề bình đẳng, không phải ngoài pháp này cầu tìm Bồ-đề khác, là nói về đại ý của kệ này. Như pháp sư Tăng Triệu nói: Đạo xa vời quá chăng, xúc sự mà chân thật; Thánh xa vời quá chăng, Thể đó chính là thần rồi!” Kinh: “Bỉ như chân thật tướng, bổn bất ư xuất một, chư pháp thị thời, tự sanh ư xuất một, thị cố cực tịnh bổn, bổn bất nhân chúng lực, tức ư hậu đắc xứ, đắc đắc ư bổn đắc”. Như kia là tướng chân thật, vốn không quay về ẩn hiện, các pháp ở tại lúc này, tự sanh ra từ ẩn hiện, vì thế vốn là cực tịnh, vốn không nhờ vào các lực, thì đối với nơi hậu đắc, đạt được cái được vốn được. Luận chép: Hai tụng này là giảng nói về nghóa Đắc nhập. Trong đó có hai: 1.Một tụng đối với các pháp có biến động nói về Như bất động. 2. Hai câu nói về xa lìa duyên pháp có nghóa Đắc nhập. Hậu đắc xứ: Gọi là Đạo hậu xứ. Trong phần sơ lược giảng nói trước đây nói “Vắng lặng thời” chính là Hán dịch xứ của hậu đắc. Đã là vắng lặng sao có xứ thời, nhưng xa lìa Thời xứ cho nên gởi gắm vào Thời Xứ mà thôi. Đắc đắc ư bổn đắc: Rốt ráo Thỉ Giác cho nên gọi là Đắc, đây là Năng đắc. Rốt ráo Thỉ Giác cũng đồng với Bổn Giác. Vì điều này cho nên nói là Đắc ở đắc vốn có. Trên đây là phần thứ ba giải quyết nghi ngờ xong. Kinh: “Nhó thời Địa Tạng Bồ-tát văn Phật sở nói, tâm địa khóai nhiên, thời chư chúng đẳng vô hữu nghi giả, tri chúng tâm dó nhi nói kệ ngôn: Ngã tri chúng tâm nghi, sở dó ân cố vấn, Như-lai đại từ thiện, phân biệt vô hữu dư, thị chư nhị chúng đẳng, giai tất đắc minh liễu, ngã kim ư liễu xứ, phổ hóa chư chúng sanh, như Phật chi đại bi, bất xả ư bổn nguyện, cố ư nhất tử địa, nhi trụ ư phiền não”. Bấy giờ, Bồ-tát Địa Tạng nghe những điều Đức Phật đã nói, tâm địa thư thái, lúc ấy các chúng đều không có người nghi ngờ, biết rõ tâm chúng rồi bèn nói kệ: Con biết tâm mọi người nghi, cho nên tha thiết thưa hỏi, Như-lai hết sức yêu thương, phân tích không có gì còn, các hàng trong hai chúng này, thảy đều hiểu được rõ ràng, con nay ở nơi hiểu rõ, hóa độ khắp mọi chúng sanh, như đại bi của Đức Phật, không xả bỏ nơi bổn nguyện, nên đối với nơi con đỏ, mà trụ trong phiền não. Luận chép: Đây là phần thứ tư lónh ngộ hiểu rõ. Trong ba bài tụng này thì có hai phần: Một bài tụng rưỡi trước là kết luận về lời ích giải quyết nghi ngờ ở trước, một tụng rưỡi sau là trình thưa về hạnh hóa độ rộng khắp sau này. Nhất tử địa: Là từ Sơ Địa trở lên, đã chứng tất cả chúng sanh bình đẳng nhìn các chúng sanh như nhìn con một; đây gọi là Thanh tịnh tăng thượng ý lạc, nương vào dụ bày tỏ gọi là Nhất tử địa. Mà trụ ở phiền não: Bồ-tát tuy đạt được các pháp bình đẳng, mà dùng lực phương tiện không xả bỏ phiền não, nếu xả bỏ tất cả phiền não tùy miên nhân tiện vào Niết-bàn là trái với bổn nguyện. Như trong Du-già Luận Tam Ma Sất Đa Quyết Trạch chép: “Diệt tận Đẳng chí nen nói là vô lậu, vì cùng với phiền não không tương ưng, vì không phải tương ưng, vì không có sở duyên, vì không phải sanh ra từ các phiền não, là xuất thế gian tất cả phàm phu không có thể thật hành, chỉ ngoại trừ đã nhập vào Viễn Địa Bồ-tát. Bồ-tát tuy có thể khởi lên pháp xuất thế làm cho hiện rõ ở phía trước, nhưng bởi lực phương tiện thiện xảo cho nên không xả bỏ phiền não”. Xét rằng: Trong này nói Bất xả: Là không phải rốt ráo xả, như hàng La-hán, cho nên nói là Bất xả không phải hoàn toàn bất xả, cho nên nói là Bất xả. Trong này thảy đều nói rõ, như chương Nhị Chướng giải thích, vì Bất xả cho nên nói là Trụ phiền não, do vậy không nhập vào Niết-bàn mà hóa độ rộng khắp mười phương giới. Trong một quyển kinh này nói có ba phần, phần thứ hai là chánh Nói hoàn tất ở tại nơi trước vậy. Kinh: “Nhó thời Như-lai nhi cáo chúng ngôn: Thị Bồ-tát giả không thể nghó bàn, hằng dó đại bi bạt chúng sanh khổ; nhược hữu chúng sanh trì thị kinh pháp, trì thị Bồ-tát danh, tức bất đoạ ư ác thú, nhất thiết chướng nạn giai tất trừ diệt; nhược hữu chúng sanh vô dư tạp niệm chuyên niệm thị kinh như pháp tu tập, nhó thời Bồ-tát thường tác hóa thân nhi vị nói pháp, ủng hộ thị nhân chung bất tạm xả, linh thị nhân đẳng tốc đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”. Lúc ấy, Đức Như-lai liền nói cho mọi người biết: Vị Bồ-tát này không thể nghó bàn, thường dùng Đại bi bạt trừ khổ đau cho chúng sanh; nếu có chúng sanh trì kinh pháp này, trì danh hiệu Bồ-tát này, thì không đoạ vào đường ác, tất cả chướng nạn thảy đều trừ diệt; nếu có chúng sanh không còn lại những ý niệm tạp loạn chuyên chú niệm tụng kinh này như pháp tu tập, lúc ấy Bồ-tát thường hiện Hóa thân mà vì họ nói pháp, ủng hộ người này thường không lúc nào lìa bỏ, khiến cho người này cùng mau chóng đạt được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba gọi là phần Lưu Thông. Trong đó có sáu: 1.Khen ngợi người lưu thông; 2.Khuyến khích chúng hội lưu thông; 3. Lập thành tên gọi lưu thông; 4. Thọ trì lưu thông; 5. Sám hối lưu thông; 6.Vâng hành lưu thông. Đây chính là phần thứ nhất khen ngợi người lưu thông. Khen ngợi chủ thể (năng) lưu thông kinh này là vị Bồ-tát có bốn loại thắng đức: 1. Công đức Đại bi hóa độ rộng khắp tất cả; 2.Công đức riêng lợi ích cho người trì kinh này; 3.Công đức hóa thân nói pháp; 4.Công đức làm cho đạt được cực quả. Kinh: “Nhữ đẳng Bồ-tát nhược hóa chúng sanh giai linh tu tập như thị Đại thừa quyết định liễu nghóa”. Bồ-tát các ông nếu hóa độ chúng sanh đều khiến cho tu tập Đại thừa quyết định liễu nghóa như vậy. Luận chép: Đây là phần thứ hai khuyến khích chúng hội lưu thông. Quyết định liễu nghóa: Là nói về sâu xa nhất cùng cực nhất, không có thể hơn được nữa. Kinh: “Nhó thời A-nan tùng toà nhi khởi tiền bạch Phật ngôn: Như- lai sở nói Đại thừa phước tụ quyết định đoạn kết vô sanh giác lợi không thể nghó bàn, như thị chi pháp danh vị hà kinh, thọ trì thị kinh đắc kỉ sở phước, nguyện Phật từ bi vi ngã giảng nói!” Lúc ấy A-nan từ chỗ ngồi mà đứng lên về phía trước thưa với Đức Phật: Như-lai đã nói về Đại thừa phước tụ - quyết định đoạn kết - vô sanh giác lợi không thể nghó bàn, pháp như vậy gọi là kinh gì, thọ trì kinh này được bao nhiêu phước, nguyện xin Đức Phật từ bi giảng giải nói ra cho con! Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba lập thành tên gọi lưu thông. Trước là thưa hỏi - sau là trả lời. Trong phần thưa hỏi cũng có hai: Trước lónh ngộ - sau thưa hỏi. Trong phần lónh ngộ thì nói về bốn loại công năng thù thắng của kinh này: 1.Thường khiến cho người thọ trì đạt được vô lượng phước, như kinh nói “Đại thừa phước tụ”. 2. Thường làm cho người thọ trì vónh viễn dứt trừ các kết sử, như kinh nói “Quyết định đoạn kết”. 3.Tông chỉ đã giải thích là Bổn giác lợi, như kinh nói “vô sanh giác lợi”. 4. Giáo thường giải thích khó có thể suy lường, như kinh nói “Bất khả tư nghị”. Kế là trong phần thưa hỏi - hỏi về hai sự việc: Trước là hỏi về tên kinh, vì biết nội dung quan trọng của kinh; sau là hỏi về phước thọ trì, vì trì kinh cầu phước. Kinh: “Phật ngôn: Thiện nam tử, thị kinh danh giả không thể nghó bàn, quá khứ chư Phật chi sở hộ niệm, năng nhập Như-lai Nhất-thiết-trí hải, nhược hữu chúng sanh trì thị kinh giả tức ư nhất thiết kinh trung vô sở hy cầu, thị kinh điển pháp tổng trì chúng pháp, nhiếp chư kinh yếu, thị chư kinh pháp pháp chi hệ tông, thị kinh danh giả danh nhiếp Đại thừa kinh, hựu danh Tam-muội Kim Cương, hựu danh vô lượng nghóa tông”. Đức Phật nói: Này người thiện nam, tên gọi kinh này là không thể nghó bàn, được chư Phật quá khứ hộ niệm, có thể hòa vào biển Nhất-thiết-trí của Như-lai; nếu có chúng sanh thọ trì kinh này thì tức là ở trong tất cả các kinh không có gì cầu tìm mong mỏi, kinh này là pháp chuẩn mực nắm giữ toàn bộ các pháp, thâu nhiếp các kinh quan trọng, là tông chỉ gắn liền với các kinh pháp, tên kinh này gọi là Nhiếp Đại thừa Kinh, còn gọi là Tam-muội Kim Cương, lại gọi là Vô Lượng Nghóa Tông. Luận chép: Dưới đây là trong phần trả lời có hai, vì như thứ tự đó trả lời hai câu hỏi. Trong phần đầu cũng có hai: Trước là khen ngợi danh nghóa, sau là chính thức lập nên tên gọi. Trong phần trước cũng có hai: Đầu là chung khen ngợi tên gọi, sau là hiển bày riêng về nghóa. Từ “Năng nhập v.v… ” trở xuống là hiển bày riêng nghóa, tức là hiển rõ ba nghóa. Từ “Năng nhập Như-lai trí hải” cho đến “Vô sở hy cầu”: Là nói về nghóa của tên gọi Tam-muội Kim Cương, không có pháp nào không thể làm hỏng - không có lý nào không thể cùng tận, do vậy khiến cho hòa vào biển trí của Như-lai, vượt qua đây càng không có gì hy vọng. “Kinh này… các kinh quan trọng”: Là hiển bày nghóa của tên gọi Nhiếp Đại thừa Kinh. Là tông chỉ các kinh pháp: Là hiển bày nghóa của tên gọi Vô Lượng Nghóa Tông. Nghóa hai tên gọi này có gì sai khác? Ấy là trước nói về nghóa thâu nhiếp rộng các kinh, sau nói về tông chỉ cao nhất của các kinh. Kế đến lập thành ba tên gọi trong đó thảy đều biết rõ, trong hai môn ở văn trước đã nói rộng ra. Kinh: “Nhược hữu nhân thọ trì kinh điển giả tức danh thọ trì bách thiên chư Phật, như thị công đức thí như hư không vô hữu biên tế, không thể nghó bàn, ngã sở chúc luỹ duy thị kinh điển”. Nếu có người thọ trì kinh điển này ấy chính gọi là thọ trì trăm ngàn chư Phật, công đức như vậy ví như hư không không có giới hạn, không thể nghó bàn được, Ta đã nhiều lần dặn dò chỉ có kinh điển này. Luận chép: Đây là trả lời câu hỏi thứ hai. Trong đó chính là hiển bày bốn loại thắng đức: 1. Trì Phật thắng đức, vì kinh này thường thâu nhiếp tâm của chư Phật, như kinh nói “Thọ trì bách thiên chư Phật”. 2. Quảng đại thắng đức, như kinh nói “Vô hữu biên tế”. 3.Sâu xa thắng đức, như kinh nói “Bất khả tư nghị”. 4.Vô tỉ thắng đức, như kinh nói “Chỉ có kinh điển này”. Kinh: “A-nan ngôn: Vân hà tâm hành, vân hà nhân giả thọ trì thị kinh? Phật ngôn: Thiện nam tử! Thọ trì thị kinh giả thị nhân tâm vô đắc thất, thường tu phạm hạnh, nhược ư hý luận, thường lạc tịnh tâm, nhập ư tụ lạc, tâm thường tại định, nhược xứ cư gia, bất trước tam hữu”. A- nan chép: Tâm hành thế nào, người ấy thọ trì kinh nầy thế nào? Đức Phật nói: Này người thiện nam! Người thọ trì kinh này là người mà tâm không có được - mất, thường xuyên tu các phạm hạnh, nếu ở nơi hý luận, tâm thường thanh tịnh yên vui, nhập vào chốn Tu-lạc, tâm thường đang định; nếu chung sống ở nhà không đắm vào ba cõi. Luận chép: Dưới đây là phần thứ tư thọ trì lưu thông. Trong đó có hai: 1. Chính thức nói về thọ trì; 2. Lặp đi lặp lại tiếp tục hiển bày. Trong phần đầu cũng có hai: Trước hỏi - sau trả lời. Trong phần hỏi cũng có hai: Trước là hỏi về tâm hạnh của người thọ trì kinh sau hỏi về phước lợi của người thọ trì kinh. Trong phần trả lời lần lượt trả lời hai câu hỏi này. Trong phần đầu chính là nói về năm loại tâm hạnh: 1.Tâm vô đắc thất: Là vì không quán sát đúng sai tốt xấu của người khác. 2. Thường tu phạm hạnh: Vì bên trong tu hạnh thanh tịnh của xa lìa tướng. 3.Thường lạc tịnh tâm: Vì quyết định bởi động hay bất động. 4.Tâm thường tại định: Vì nơi ở nhiễm tạp mà không thể nhiễm tạp. Kinh: “Thị nhân hiện thế hữu ngũ chủng phước: Nhất giả chúng sở tôn kính, nhị giả thân bất hạnh yểu, tam giả biện đáp tà luận, tứ giả lạc độ chúng sanh, ngũ giả năng nhập Thánh đạo. Như thị nhân giả thọ trì thị kinh”. Người này đời hiện tại có năm loại phước: 1.Được mọi người tôn kính; 2.Thân không bất ngờ chết non; 3.Giải thích đối tà luận; 4. Vui mừng hóa độ chúng sanh; 5. Có thể nhập vào Thánh đạo. Như vậy người ấy thọ trì kinh này. Luận chép: Đây là trả lời câu hỏi thứ hai, tùy theo năm hạnh trước đạt được năm phước này. Được mọi người tôn kính: Là vì người đó không quan sát sự đúng sai tốt xấu của mọi người. Thân không bất ngờ yểu: Là vì người đó thường tu hạnh xa lìa tướng. Giải thích tà luận: Là vì tâm vui với yên tónh. Vui độ chúng sanh: Là vì nhập vào - tản ra thường an định. Năng nhập Thánh đạo: Là vì không mê đắm ba cõi. Kinh: “A-nan ngôn: Như bỉ nhân giả độ chúng sanh đắc thọ cúng bất? Phật ngôn: Như thị nhân giả năng vị chúng sanh tác đại phước điền, thường hành đại trí quyền thật câu diễn thị tứ y tăng, ư chư cúng dường mãi chí đầu mục tủy não diệc giai đắc thọ hà huống y thật nhi bất đắc thọ? Thiện nam tử! Như thị nhân giả thị nhữ tri thức, thị nhữ kiều lương, hà huống phàm phu nhi bất cúng dường?”. A-nan chép: Như điều kia người ấy độ các chúng sanh được thọ nhận cúng dường hay không? Đức Phật nói: Người như vậy có thể vì chúng sanh làm ruộng phước lớn, thường thật hành đại trí quyền thật cùng giảng nói về Tứ y Tăng, đối với các thứ cúng dường cho đến đầu mắt tủy não cũng đều có thể thọ nhận huống chi y phục thật phẩm mà không có thể thọ nhân? Này người thiện nam! Người như vậy là tri thức của ông, là chiếc cầu của ông, huống chi phàm phu mà không cúng dường? Luận chép: Dưới đây là lặp đi lặp lại tiếp tục hiển bày. Trong đó có hai: Trước là nói về Thể của ruộng phước, sau là nói về công năng sanh khởi phước. Đây chính là phần đầu vậy. Tứ y Tăng: Y thứ nhất là có đủ tánh phiền não, địa vị ở tại Địa Tiền, ba Y còn lại địa vị ở tại Địa Thượng. Như kinh Niết-bàn đã nói nhiều về điều đó. Kinh: “A-nan ngôn: Ư bỉ nhân sở thọ trì thị kinh, cúng dường thị nhân đắc kỉ sở phước? Phật ngôn: Nhược phục hữu nhân trì dó mãn thành kim ngân nhi dó bố thí, bất như ư thị nhân sở thọ trì thị kinh nhất tứ cú kệ, cúng dường thị thân”. A-nan chép: Đối với người ấy đã thọ trì kinh này, cúng dường người này đạt được bao nhiêu phước? Đức Phật nói: Nếu có người cầm theo vàng bạc đầy thành để mà bố thí, không bằng đối với sự thọ trì một bài kệ bốn câu trong kinh này mà, cúng dường người này. Luận chép: Đây là thứ hai nói về người trì kinh thường sanh ra nhiều phước. Dùng vàng bạc đầy thành giúp cho người không trì kinh thì phước đạt được không bằng phước đạt được từ sự cúng dường một bữa ăn một tấm áo cho người trì một bài kệ bốn câu trong kinh này. Kinh: “Thiện nam tử! Linh chư chúng sanh trì thị kinh giả tâm thường tại định bất thất bổn tâm, nhược thất bổn tâm tức đương sám hối, sám hối chi pháp thị vi thanh lương”. Này người thiện nam! Người khiến cho các chúng sanh trì kinh này tâm thường ở trong định không mất đi tâm vốn có, nếu mất đi tâm vốn có thì nên sám hối, pháp sám hối thật là mát mẻ. Luận chép: Dưới đây là phần thứ năm sám hối lưu thông. Trong đó có hai: Trước là khen ngợi công đức sám hối, hai là hiển bày lại. Trong phần đầu nói mát mẻ: Dứt trừ nhân bất thiện vẫn đục nên trong trẻo, xa lìa quả sanh tử nóng bức phiền muộn cho nên mát mẻ. Kinh: “A-nan ngôn: Sám hối tiên tội bất nhập ư quá khứ dã Phật ngôn: Như thị! Do như ám thất nhược ngộ minh đăng ám tức diệt hó. Thiện nam tử! Vô nói hối tiên sở hữu chư tội nhi dó vi nói nhập ư quá khứ?”. A-nan chép: Sám hối tội trước không nhập vào quá khứ. Đức Phật nói: Đúng vậy! Giống như căn phòng tối nếu gặp đèn sáng thì bóng tối lập tức tan biến. Này người thiện nam! Không nói sám hối các tội lỗi vốn có trước kia mà lại cho là nói nhập vào quá khứ? Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai tục hiển bày lại. Trong đó có hai lần hỏi - đáp. Lần đầu nói về đạo lý sám hối đó, lần sau nói về hành pháp sám hối đó. Trong lần hỏi này ý chép: Sám hối tội lỗi trước kia gọi là sám hối, thì tội lỗi trước kia không nhập vào quá khứ hay chăng? Nếu trước kia không phải bây giờ do đó nhập vào quá khứ ấy, vì sao đối với tội lỗi không có mà lại có sám hối vậy? Trong phần trả lời nói như vậy: Vì như vậy tội lỗi trước kia không nhập vào quá khứ, không thể đối với không có mà lại có sám hối. Vì sao? Vì những tội lỗi đã gây ra trước kia hun đúc ở tại bổn Thức, hạt giống thường trôi lăn tùy ở hiện tại, do lý này mà không nhập vào quá khứ. Tạm thời bây giờ sám hối, có thể chữa trị lúc sanh ra khiến cho hạt giống tội lỗi kia không thể trôi lăn hiện tại, như đèn vào lúc phát sanh thì bóng tối trong căn phòng mới diệt mất. Vì hạt giống tội lỗi không đến từ hiện tại này, lúc này mới nói làm cho nhập vào quá khứ, mà không nói sám hối tội lỗi đã gây ra trước kia vậy. Tội lỗi vốn có trước kia không phải sám hối mà dứt trừ được, vì không có thể khiến cho tội lỗi kia không phải có ở trước, nhưng tội lỗi đó có trước kia làm cho không đến được hiện tại, không đến được hiện tại là do sự thật hành của sám hối. Điểm này cùng với nghóa của dứt trừ kết sử khác nhau là vì nghóa kia dựa theo đạo lý sanh diệt, làm cho điều chưa phát sanh không đến được hiện tại, vì ở đây dựa sát vào lý tương tục, làm cho điều có trước kia không đến được hiện tại. Lại, dứt trừ kết sử ấy là dứt trừ hẳn hạt giống; sám hối tội lỗi trước kia ấy làm cho khuất phục giảm bớt hạt giống, vì dụng tăng cường không đến được hiện tại. Dựa theo nghóa này nói là nhập vào quá khứ vậy. Kinh: “A-nan ngôn: Vân hà danh vi sám hối? Phật ngôn: Y thử kinh giáo nhập chân thật quán, nhất nhập quán thời chư tội tất diệt, ly chư ác thú, đương sanh tịnh độ, tốc thành A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam- bồ-đề”. A-nan chép: Thế nào gọi là sám hối? Đức Phật nói: Dựa vào kinh giáo này nhập vào chân thật quán, lúc chuyên nhất nhập vào quán thì các tội lỗi đều dứt trừ, xa lìa các đường ác sanh về Tịnh độ, mau thành tựu quả vị A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Luận chép: Đây là phần thứ hai thực hành pháp sám hối. Trong phần trả lời có hai: Trước nói về hành pháp, sau chỉ ra thắng lợi. Trong phần đầu nói “Dựa vào kinh giáo này nhập chân thật quán”: Nghóa là dựa vào giáo chỉ của kinh Tam-muội Kim Cương phá bỏ tướng các pháp gọi là nhập vào chân thật. Đây là tương tự chân quán của Địa Tiền. Lúc chuyên nhất nhập quán này, các tội đều diệt: Tất cả tội chướng đều từ vọng tưởng sanh ra, nay phá bỏ các tướng nhập vào quán sát chân thật, lập tức phá bỏ tất cả cảnh giới vọng tưởng, cho nên các tội lỗi cùng lúc diệt sạch không còn. Kế là nói về thắng lợi thì có hai câu: Lìa các đường ác sẽ sanh về Tịnh độ: Là nói về Hoa báo, Chóng thành A-nậu- đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề: Là nói về quả báo. Kinh: “Phật nói thị kinh dó, nhó thời A-nan cập chư Bồ-tát tứ bộ đại chúng giai đại vui mừng, tâm đắc quyết định, đảnh lễ Phật túc, vui mừng phụng hành”. Đức Phật nói kinh này xong, lúc ấy A-nan và các Bồ-tát cùng bốn bộ đại chúng đều rất vui sướng, tâm được quyết định, đầu lạy dưới chân Phật, vui vẻ vâng hành. Luận chép: Đây là phần thứ sáu vâng hành lưu thông. Trong đó có bốn câu: “Đều rất vui mừng” là vì nghe pháp nên vui mừng. Tâm đắc quyết định là vì xa lìa các nghi hoặc. Đảnh lễ chân Phật, trọng pháp kính người. Vui mừng vâng hành: Lúc thật hành càng vui thích. Giáo Kim Cương sâu thẳm mà lại tinh vi, nay kế thừa niềm tin sơ lược ghi lại, nguyện cầu gốc lành này rộng khắp pháp giới, lợi ích cho tất cả không ai thiếu sót!. ----------------------- Kính vì phúc đức không bờ mé, cung thất ngưng khánh chúc, không khí trần ai mãi mãi dừng, chính quyền dân chúng được thái bình, mặt trời soi phúc hưởng công bằng, bốn biển cùng khơi thông tuổi thọ, núi cao to cùng nhau cao mãi. Lại nguyện, nước mắt mẹ goá đạt tới tôi tớ cửa Phật, biến đối rên rỉ trở thành tiếng ca hướng về, hằng năm có khắc chạm lâu dài, bản in làm ý niệm coi trọng, kinh này trích từ Cù Cung, phát khởi nguyện nhân trừ tật bệnh. Lại nguyện, phổ biến rộng khắp pháp giới hàm sinh, đời đời không nghe âm thanh bệnh tật, không ở trong bào thai, thường dạo chơi nơi cõi nước thanh tịnh tuyệt diệu của Chư Phật. Ngày mồng 5 tháng 8 năm Giáp Thìn - Ưu-bà-tắc Trịnh Án ghi.