<經 id="n1723a">HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1723 HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA Sa-môn Khuy Cơ soạn tại chùa Đại Từ Ân <卷>QUYỂN 6 (PHẦN ĐẦU) Kinh: “Bấy giờ Phật muốn nói lại nghóa này cho đến có một ngôi nhà lớn.” Tán: Đây là phần tụng, gồm một trăm sáu mươi lăm hàng tụng, chia làm hai: Tám mươi bốn hàng tụng rưỡi, tụng lại pháp dụ ở trước. Phật bảo Xá-lợi-phất: “Các thầy đều là con của ta, ta là cha của các thầy”. Tám mươi hàng rưỡi tụng này là đoạn lớn thứ ba, khuyên tin hiểu kinh này, vui mừng sẽ thành tựu được trí Phật. Phần đầu có ba: Sáu mươi lăm hàng rưỡi, tụng lời thí dụ trên. Mười tám hàng tụng phần hợp nói trên. Một hàng tụng kết nói trước. Đó là nhân duyên thật cầu trong mười phương, chẳng có thừa nào khác trừ Phật phương tiện. Trong sáu mươi lăm hàng rưỡi đầu, tụng phần dụ nói lại chia làm hai: Năm mươi ba hàng rưỡi tụng về thí dụ quyền trước kia. Mười hai hàng tụng về pháp thật ngày nay. Trong năm mươi ba hàng rưỡi lại chia làm bốn: Nửa hàng tụng về dụ ba cõi Phật có. Ba mươi hai hàng rưỡi, là tụng dụ nguy ách của năm đường. Mười bốn hàng là tụng về dụ: Thấy lập quyền phương tiện. Sáu hàng tụng: Dụ y theo lời dạy mà thoát nạn. Nữa hàng tụng dụ ở văn xuôi có sáu ý nay chỉ có hai ý là chủ nhà và tướng nhà: Trước nói có nhiều nhà ruộng, trong đây có một nhà lớn, là ba giải thích ở trên. Kinh: “Nhà đó đã lâu cho đến nền móng đều mục nát.” Tán: Đây là phần thứ hai có ba mươi hai hàng rưỡi tụng, về thí dụ sự nguy ách trong năm đường. Trong Văn xuôi có bốn, đây chia ra làm ba: Ba hàng tụng về sự hư nát của ngôi nhà. Nửa hàng tụng nói các rất nhiều người . Hai mươi chín hàng, tụng tai ách xảy ra khắp nơi. Đây không tụng phần thứ tư nói các việc các con vui chơi. Trong phần một nói nhà cửa hư mục lại chia làm hai: Bảy câu tụng nói chung về ngũ ấm vô thường trong ba cõi. Năm câu nói riêng về nghóa sắc thân vô thường, vô ngã bất tịnh. Nói nhà đã lâu cũ, nói theo chiều dọc thì thức uẩn từ vô thỉ niệm niệm đều sanh diệt, cũng như sự huyễn gọi là lâu cũ. Nếu nói theo chiều ngang cũng thành tệ hại, chẳng phải dần dần mất. Xấu xa là mục nát, Tệ là hủ bại. Nhà phòng cao nguy là chỉ cho sắc uẩn vô thường. Vì lầu gác cao thì dễ sụp đổ. Nguy tất là không an, cũng như bọt nước không lấy gì làm chắc chắn. Các cột trụ đều gãy mục là chỉ cho hành uẩn vô thường, niệm niệm đều dời đổi hư hoại, khi nghiệp dứt thì chết là gọi là gãy mục, như cây chuối. Kèo cột nghiêng ngã: Là thọ uẩn vô thường, đã mất sự chánh thọ thì làm sao an ổn, giống như bọt nước. Nền móng nát rã: Cũng tức là hành uẩn nghiệp tư gọi là nền móng, vì để an trụ mạng căn . Hành nhiếp gồm nhiều pháp. Nghiệp quả cả hai đều khác nhau nên chia làm hai câu. Kinh: “Tường vách sụp đổ cho đến tạp uế rơi đầy khắp.” Tán: Đây là nói về tường vách sụp đổ là chỉ cho tưởng uẩn vô thường. Bảy câu trên nói chung về năm uẩn vô thường ở ba cõi tùy theo nơi có mà đều như thế. Năm câu dưới là nói riêng về nghóa sắc thân vô thường. Ba câu nói về vô thường, một câu nói vô ngã, một câu nói về bất tịnh. Do đó mà thành ra không. Bùn trát là dụ cho thịt. Trong Du-già quyển mười chín trích dẫn bài tụng kinh chép: Có thành lấy xương cốt làm thành. Lấy gân cốt làm đồ tô điểm. Trong đó có tham nhuế, mạn phú, được nhậm trì. Từ Thị giải thích: Thành gọi là bát thức, đầy xương cốt gạch đá. Gân cốt là dây, thịt làm đồ tô điểm hình hài làm thành, có rào vây quanh. Trong thành này có bốn thứ ác pháp được gìn giữ, hai pháp do chúng tại gia khởi và tham, sân. Hai pháp do chúng ngoại đạo khởi là Mạn (kiêu mạn) và phú (che). Tại gia thì do tham đắm dục tương ưng với hành ác. Ở trong chánh pháp còn không tin thọ, huống chi là có thể tu thiện. Nếu có người khuyên can liền sanh sân giận, ngoại đạo cậy theo ác nói pháp mà sanh kiêu mạn, không thể tự nhiên hướng về ngôi Tam bảo. Do che giấu không phát lộ ra các ác pháp, huống là có thể tin hiểu mà tu các pháp thiện. Hai thứ tâm này thành còn không thể vào huống là giữ lấy. Kinh Niết-bàn cũng nói: Thân như là thành, có các thứ máu thịt xương cốt da ở trong đó, tay chân dùng để cầm dao mộc đối địch. Mắt là các lỗ khiếu. Đầu là giảng đường, tâm vương ở giữa cho nên lấy thịt làm đất bùn trét thành, da làm mái tranh, gân cốt làm cột xà. Trên là nói các pháp sắc thân vô thường. “Bốn bề đầu cong gãy” câu này dụ nói vô ngã. Trong nhà chung quanh có chướng ngại, uốn khúc khó vượt qua. Biết rõ là vô ngã. Nếu có ngã thì thuân nhất không có uốn khúc, cũng không có chướng ngại. Tạp uế khắp nơi là dụ cho bất tịnh. Như ba mươi sáu vật đầy khắp trong thân Cõi Dục. Do ba nghóa này, nên cũng thành không. Kinh: “Có năm trăm người ở trong nhà đó.” Tán: Tụng nói mọi người rất nhiều. Kinh: “Chim xí, hiu, điêu, thú… cho đến… cùng bay nhanh đi.” Tán: Đoạn thứ ba có hai mươi chín hàng tụng. Tai nạn nổi lên các nơi, chia ra làm ba: Mười bảy hàng rưỡi tụng nói chung về tướng các loài quỷ trùng cùng biến hóa ra. Mười hàng rưỡi tụng nguyên nhân trùng quỷ tạp uế khởi lên. Một hàng tụng kết thành các nạn trên. Nói chung các biến quái là tổng tướng của mười phiền não. Riêng nói khởi lên tức tướng hoặc trong Ba cõi. Văn xuôi nói tai họa nổi lên chỉ nói lửa đốt. Nay thêm loại trùng quỷ để nói các điều ác, muốn khiến cho chúng sanh nhàm chán sâu xa, như tam độc cho đến chê trách nên lập các thứ trên. Trong mười bảy hàng rưỡi lại chia làm ba: Sáu hàng tụng về các thứ trùng độc chim quái. Có sự trì độn cho nên lấy làm dụ cho năm sử như tham v.v… Mười hàng tụng nói về linh thần dị quỷ: Hơi nhanh nhẹn nên dụ cho ngũ kiến. Một hàng tụng rưỡi là kết lại hai phần này. Trong phần một này lại chia làm hai: Năm hàng rưỡi nêu riêng, nửa hàng kết ý nêu ra. Năm hàng rưỡi có năm ý: Nửa hàng dụ cho tham. Một hàng rưỡi dụ cho sân. Một hàng tụng dụ cho si. Một hàng tụng dụ cho nghi. Một hàng rưỡi tụng dụ cho mạn. Đây là nói hai phần đầu. Trong đây không phụ thuộc vào văn biệt giáo, chỉ có tương ưng các hành tướng tức là nghóa phối hợp nhau. Thuận theo kinh xưa thì như vậy. Trong luận bổn không giải thích, vì lý chưa hẳn vậy, nghóa phù hợp thì chưa hẳn là không đúng. Tham ái có bốn: Hiện hữu ái. Hậu hữu ái. Tham hỷ câu hành ái. Hỷ, lạc mỗi thứ đều ái. Ở đây đều căn cứ vào hành tướng riêng. Vì hiện có thể thấy. Chim xí, hiêu, điêu, thứu, như thứ lớp là bốn ái phẩm thượng: Các thứ quạ, chim thước, cưu, cáp như thứ lớp là bốn ái phẩm hạ. Hoặc tham tánh độn, tham hiện quái, tham đại lực, tham động thân, tham phi pháp, tham phát ngữ, tham thấp hèn, tham nặng về dâm, lần lượt hiện ra như thế. Tám thứ chim này lần lượt hiện ra các tham này, cho nên nêu ra làm thí dụ. Dụ cho sân có mười một loại: 1. Ngoan: Âm là ngoan. Kinh Di Giáo giải thích là loại rắn ngắn màu đen. Trong Hán thư gọi là Huyền ngoan. Vó Chiêu giải thích là Huyền hắc, là loại rắn làm thuốc, là kỳ nhông, thằn lằn. Con lớn dài ba thước. Sắc màu đen tía, khéo mê hoặc người. Gồm có bốn tên khác là: Vinh nguyên (kỳ nhông), Tích dịch (thằn lằn), Yển diên (tắc-kè), Thủ cung. Trong Ngọc thiên đều gọi là xà y (rắn thuốc), ở trong nhà là thủ cung. Ở dưới đầm trạch thì gọi là yển diên… Theo đây thì trong kinh Di giáo gọi là Hắc ngoan, mượn làm chữ xà. Nay giải chữ Ngoan có hai nghóa: Tích dịch. Hắc đoản xà. Thế nên trong kinh Di giáo nói: Rắn ngủ đã ra, mới có thể ngủ yên. Do đó kia nói không lầm, chỉ gọi là Hắc ngoan mà không gọi là Vinh ngoan. Có người nói loài trùng nước ác tánh, hoặc nói là long (rồng), thật ra thì không đúng. Kia vốn là chữ long chứ không phải là chữ ngoan. Xà: Ngoài trên ra là bao gồm các loài rắn. Phúc: Phúc xà: Loại rắn này dài ba tấc, đầu lớn bằng cánh tay, vùng Giang nam gọi trùng là phúc, có răng rất độc, trên mũi có kim. Còn gọi là phản tỷ xà, màu sắc như lụa hoa, dài khoảng bảy tám thước. Nếu cắn tay thì phải chặt tay. Loại này có nhiều ở vùng Lãnh nam. Yết: Bò cạp. Ngô công: Rít, có khi bắt rắn, thân sanh chân đỏ là loại lành. Do diên: Một loài côn trùng chân dài có sừng. Ở Giang Nam thường gọi là Ngô công. Thủ công: Thiểm Tây gọi là Bích cung. Trét máu vào tay của người nữ có tư tình, thì rửa không sạch, có thể dùng giữ cung nữ, nên đặt tên. Cũng có khi nói loài ở đá thì gọi là Tích dịch, ở đầm thì gọi là Yển diên, ở trong nhà thì gọi là Thủ cung. Gọi chung là Vinh nguyên. Bách túc: Trăm chân. Dứu: Chồn sóc (như loài chuột) cũng gọi là Sanh thử. Ly: Là loài giả mèo: chồn, mèo hoang. Hề thử: Trong Nói văn gọi là Tiểu thử (chuột nhắt). Trong Ngọc thiên nói có loài Thích độc ăn thịt người và các loài chim thú. Tuy đến chết mà vẫn không biết không đau. Trong Xuân thu gọi là loài ăn ngoài sừng trâu. Nay gọi là Cam khẩu thử. Các loài này phần nhiều độc hại, nên lấy đó để dụ cho sân. Tướng chung của sân duyên với mười việc mà được sanh: Thân mình. Sở ái hữu tình. Phi ái hữu tình. Oán thân ở Quá khứ. Oán thân ở Vị lai. Ở oán thân hiện tại. Cảnh không vừa ý. Ganh ghét. Thói quen trước kia. Người thấy. Tóm lại thì có một sân, mà biệt hành nêu ra có mười, phối hợp thành mười một. Năm thứ như phẫn hận v.v… trong tùy phiền não gọi là các thứ ác trùng. Gặp duyên sanh khởi thì gọi là ngang dọc xen đuổi chạy. Lại có các thứ: Mảnh lợi sân, Bỉ não sân, Báo oán sân, Hiện tướng sân, Sân độc hại, Sân bất đoạn, Sân ganh ghét, Sân phiền não, Sân tư thiết, Sân tổn sát, Sân tiềm kế. Như thứ lớp phối hợp, ngang dọc đuổi chạy là kết thúc phần sân ở trên. Kinh: “Nơi phân tiểu nhờm gớm cho đến mà nhóm họp trên đó.” Tán: Đây là dụ cho Si. Có ba mươi sáu thứ như phẩn uế v.v… Si tăng thượng nên các báu vật mặc vào thân như các loài bọ hung cùng bu lại chỗ hôi thối mà không biết đó là bất tịnh. Đam mê ngu si sanh tử ở trong ba cõi mà khởi ra bảy mươi chín thứ gọi là trùng. Các loài này chẳng phải một, cho nên trong Luận Du-già quyển chín chép: Nơi hôi thối đó không thể ưa thích, đáng nhàm chán ghê tởm. Xú nghóa là ác khí, nghóa là hơi thở, mùi hôi. Kinh: “Cáo, sói cùng dã can cho đến Xương thịt văng bừa bãi.” Tán: Đây là dụ cho nghi. Hồ (cáo): Trong Ngọc Thiên nói là loài quỷ tà, yêu thú nương vào cáo có ba đức. Màu sắc nó trung hòa. Trước nhỏ sau lớn. Khi chết sẽ giữ lấy đất. Dã can có màu vàng sanh như loài chó, chúng đi cả bầy cất tiếng kêu vang trong đêm, âm thanh như chó sói, ở trong hang động nơi núi sâu, hoặc cây cao lớn, thân hình loài cáo thì hơi lớn, dã can thì nhỏ. Hai hình thù lớn nhỏ khác nhau, cho nên trong Thiền kinh có nói: Thấy con dã hồ, lại thấy dã can, loài sói có thể phân biệt lo. Đây là vì những người nghi Tam bảo, Ba đời, Ba cõi, cho nên nêu ba đường này để thí dụ. Cắn thì gọi là tước. Dùng chân đạp thì gọi là tiễn đạp. Gân cốt thì gọi là tề, làm tổn thương da thịt thì gọi là thiết… Do đây mà xương cốt rời rã nát tan. Nghi phát ra ở miệng cũng như là liếm nhai. Tâm nghi đế lý như chân đạp. Nghi vào nhuyễn pháp của khổ tập như cắn chỉ đến răng. Nghi kiến pháp diệt đạo như cắn bị thương da thịt. Do đây mà cửa sanh tử nhiễu nhương đầy dẫy. Kinh: “Do đó mà bầy chó cho đến biến trạng như thế.” Tán: Một hàng rưỡi tụng về kết thúc. Mạn có bảy thứ chín thứ gọi là bầy chó, thường do nghi sanh ra nên gọi là “Do đó. Chữ phược có nghóa là đánh. Toát là nắm giữ. Bác là dùng tay đánh. Ngọc thiên gọi là phạ, là phủ. Toát là dùng tay nắm giữ, giải thích là toát tốt, nghóa là tạm nắm giữ hết. Trong Ngọc thiên và Tứ khuê đều gọi là toát. Nghóa là ba ngón tay chụm lại, ở đây không phải nghóa đó. Giơ tay lên cao đánh người thì gọi là bác. Mong người thuận theo mình thì gọi là toát. Ty liệt mạn là cho mình không bằng người như là gầy yếu đói khát. Tâm tuy cao ngạo mà run sợ thì gọi là sợ sệt, tiếp xúc đủ các việc sanh ra gọi là “nơi nơi”. Tâm thường không thấy đủ như tìm thức ăn uống, đều là tướng ty mạn. Tâm khinh mạn người thì gọi là cấu xé. Thân khởi khinh mạn thì gọi là giành giựt. Nghóa là năm ngón tay xòe ra chụp lấy. Ngọc thiên nói năm ngón giựt lấy. Kinh: “Nơi nơi đều có cho đến ăn thịt người..”. Tán: Gồm mười hàng tụng nói về các thứ linh thần dị quỷ, dụ cho năm kiến, ở đây chia ra làm năm: Ba hàng rưỡi dụ cho tà kiến. Hai hàng tụng rưỡi dụ cho giới thủ. Một hàng rưỡi dụ cho thân kiến. Nửa hàng dụ cho kiến thủ. Hai hàng dụ cho biên kiến. Trong phần đầu lại chia làm hai: Một hàng dụ chung về tự thể của tà kiến. Hai hàng rưỡi dụ về hành tướng sai khác. Ly, mị trong Ngọc thiên gọi là lão vật tinh (loài vật tinh khôn). Thông tục thì cho các loài tinh quái, ở sơn trạch thì gọi là ly mị. Trương Bình Tử ở Tây kinh có bài phú: Loài sơn thần hình cọp thì gọi là ly. Thần trư ở ao đầm có đầu như người, có đuôi thì gọi là mị. Võng, lượng là loại biến quái ở trong cây đá. Trong Xuân thu và Ngọc thiên đều gọi là thần. Thêm Dạ-xoa, ác quỷ thì có năm thứ. Dụ cho tà kiến duyên bác bỏ ngũ môn. Duyên bát bỏ năm pháp, tâm tâm sở v.v… thì có năm hành tướng: nghóa là chê bai nhân quả, tác dụng, thực sự và phi tứ kiến, các tà kiến khác làm tổn thương thiện pháp. Hủy hoại ruộng tốt không thể sanh trưởng, thì gọi là nơi nơi có tổn hại như ăn thịt người. Kinh: “Thuộc loại trùng độc… đều tự giấu gìn giữ.” Tán: Hai hàng rưỡi tụng về hành tướng khác nhau. Trong đó chia làm hai: Một hàng do tà kiến sanh ra độn phiền não, lại do phiền não sanh ra tà kiến. Một hàng rưỡi tụng: Do tà kiến sanh ra các ác kiến và các pháp bất thiện. Các thứ phiền não khác gọi là trùng thú phu nghóa là tín. Trong Ngọc thiên gọi là lão phục, là trứng nứt ra, là sanh, là loại trứng hóa ra gọi là phu. Trong Quảng nhã gọi là phu sanh. Có nơi gọi là trứng gà ấp mà chưa nở. Nhũ: nghóa là nuôi con. Ngọc thiên gọi là sanh sản tăng tiến, sanh dưỡng tạo nên. Do vật biến hóa ra thì gọi là sanh, sản cũng gọi là sanh. Chim ấp trứng thì gọi là phu, thú nuôi con thì gọi là nhũ. Do tà kiến nên thêm lớn phiền não như bú mớm. Sanh ra các phiền não thì cũng như là sanh sản tà kiến bác bỏ ngũ môn. Phiền não nên sanh trưởng riêng thì gọi là mỗi mỗi gìn giữ nghóa là tư dưỡng. Hoặc thuộc các thứ trùng thú tà kiến, sanh trưởng phiền não thì gọi là tự giấu gìn giữ. Kinh: “Dạ-xoa đua nhau đến cho đến thật đáng sợ.” Tán: Nói rõ do tà kiến sanh ra các ác kiến và hành bất thiện. Các thứ ác kiến như là Dạ-xoa, ngày ngày thêm lớn gọi là đua nhau đến. Do khởi ra phiền não sanh ra các hành ác gọi là tranh giành nhau. Ăn nghóa là nuôi lớn, cho nên thân hành ác đầy khắp thì gọi là ăn đã no. Tà kiến càng nhiều thì gọi là tâm ác càng mạnh, phát ra lời nói thành ra đấu tranh cãi vã. Ba nghiệp tà kiến hành ác, thêm lớn làm tổn hại nhiều thì gọi là thật đáng sợ. Cho nên do tà kiến mà sanh ra ba hành ác. Chẳng phải do tà kiến mà sanh ra thân ngữ. Nhân nơi thế lực sanh ra từ xa, cho nên gọi là nói. Kinh: “Quỷ Cưu-bàn-trà cho đến chơi đùa phóng dật.” Tán: Đây gồm hai hàng rưỡi, tụng về giới thủ. Trong đây chia làm hai: Một hàng rưỡi dụ hành tướng cho chung. Một hàng tụng dụ cho hành tướng riêng. Nhưng các vị cổ sư trước không theo chánh văn, phần nhiều lấy theo Tiểu thừa để giải thích giới tướng. Nay theo nghóa Đại thừa tân văn mà giải thích. Cưu-bàn-trà nghóa là đáng sợ. Quỷ là chỉ cho giới thủ, là chấp nặng thuận theo vào các kiến giới, sanh ra không duyên các pháp khác. Như ngồi trên đất cứng. Nếu chỉ chấp vào giới làm nhân trên hết, mà sanh ra thủ gọi là cách đất một thước. Hoặc chấp thuận theo giới cấm là nhân tốt như một thước. Lại chấp làm nhân như hai thước. Giới thủ phải có đủ hai tướng này. Nếu không thì thuộc về tà kiến. Không cần riêng phối hai thủ ở thượng giới, mà không nói các hoặc khác chung cả thượng giới. Tuy chấp vào ham Thích Cầu diệt quả xuất thế mà trở lại sanh vào trời người thì gọi là “qua”. Lại rơi vào đường ác thì gọi là “lại”. Thường đắm chìm trong sanh tử hư công khổ hạnh thì gọi là “dạo đi”. Chấp cho đó là trên hết trái với chánh đạo thì gọi là “buông lung”. Chấp làm chánh nhân nhiễm đắm sanh tử thì gọi là đùa giỡn. Kinh: “Nắm hai chân của chó cho đến làm cho chó để vui.” Tán: Đây nói riêng hành tướng. Hàng ngoại đạo cầu Niết-bàn giải thoát, chẳng phải pháp thật thù thắng. Sanh tử đáng ghét, dụ như là loài chó. Đắc giới cấm kia thì dụ như hai chân, Niết-bàn, như chân chó, giới cấm khác nhau nên có hai. Hoặc chấp là thắng là nhân nên gọi là hai. Chấp vào giới cấm như nắm chân chó, chấp hành thuận với mình như nắm chân chó dốc ngược. Tuyên dương khổ hạnh về Niết-bàn kia để khai thị chúng sanh cũng như đánh chó kêu thất thanh. Mê đắm hoặc là giới hoặc là cấm có thể đưa đến Niết-bàn, như lấy chân chèn cổ chó vậy, lấy sự an xứ này mà tu khổ hạnh để cầu Niết-bàn, nghóa cũng giống như mê đắm vui chơi không xả bỏ. Tuy khổ mà cho là vui, lấy đó mà tự vui chơi nên gọi tự lạc. Kinh: “Lại có các quỷ cho đến kêu gào đòi ăn.” Tán: Đây là dụ cho thân kiến. Thân kiến câu sanh thường hành từ vô thỉ, nên gọi là “cao lớn”. Phân biệt khởi lên cùng với tánh bất thiện vô tàm vô quý. Dụ như lõa hình. Chữ khỏa có nghóa là lộ, là không có xấu hổ. Bị vô minh che lấp thì gọi là đen xấu. Cố chấp vào năm uẩn không hề tạm lìa thì gọi là “thường ở trong đó.” Các phiền não nhân đó mà khởi ngã ngữ thủ nhân đây mà sanh thì gọi là “phát hung ác”. Nơi nơi rộng khởi ngã kiến thấm nhuần thêm lớn gọi là “Kêu la tìm thức ăn”. Kinh: “Lại có các loài quỷ cho đến cổ họng nhỏ như kim.” Tán: Dụ cho kiến thủ. Đầu nó to như núi, cổ họng lại nhỏ như kim nên không thể ăn uống. Kiến thủ cũng vậy, chấp vào các tự kiến là nhân là trên hết nên gọi là lớn như núi, không chấp nhận ý kiến người khác dụ như kim cực nhỏ. Kinh: “Lại có loài quỷ cho đến hoặc lại ăn thị chó ” Tán: Hai hàng tụng dưới dụ cho biên kiến. Ở đây chia làm hai: Một hàng tụng dụ cho hành tướng chung. Một hàng tụng dụ cho hành tướng riêng. Đầu nó như đầu trâu, đầu có hai sừng. Tức trong biên kiến bao gồm cả thường kiến, chấp đoạn. Thường đoạn này nương vào ngã kiến mà khởi sau. Như y theo đầu trâu có hai sừng. Hoặc ăn thịt người là dụ cho chấp đoạn; tổn hoại gốc lành, do chấp đoạn hoàn toàn không chịu tu như ăn thịt người. Hoặc lại ăn chó là dụ cho thường kiến, không ngăn ngại sanh thiện, mà tổn hại ít nên dụ như ăn thịt chó. Kinh: “Đầu tóc rối loạn cho đến kêu gào bỏ chạy.” Tán: Dụ cho hành tướng riêng. Do biên kiến này mà sanh ra bốn mươi bảy kiến trong sáu mươi hai kiến như tóc rối loạn. Do nơi kiến này mà làm điều trái pháp như ngoại đạo làm các việc tàn hại hung hiểm. Vọng kiến của ngoại đạo gọi là hung hiểm, là hung ác hiểm trở. Không lấy việc ăn chánh giáo và uống chánh lý để nuôi dưỡng tâm trí, như kẻ đói khát ép ngặt. Nội tâm đã vậy, ngoài phát ra lời chấp đắm như kêu la, thân gấp rút hành như “rong chạy”. Kinh: “Dạ-xoa ngạ quỷ cho đến sợ hãi vô lượng.” Tán: Đây là kết thúc hoàn thành. Ngoại đạo khởi lên các thứ phiền não luống dối điên đảo, như loại Dạ-xoa ngạ quỷ, ở chỗ thế tục khởi lên phiền não mê đắm vào vô trí như các loài ác điểu đường ác. Đây nói lại phần ở trên. Do khởi phiền não không đạt đến chánh lý, bần cùng không có trí tuệ, như đói khát bức ngặt. Tại thế tục khắp sanh bốn vị: sanh, già, bệnh chết. Nơi nơi đều gặp ác duyên vì đó mà hoặc sanh ra, như đói chạy gấp trong bốn hướng. Ngoại đạo không thể nhìn đúng cửa chánh nhân Niết-bàn, vọng hành trì khổ hạnh mà quán xét chánh lý, như nhìn qua song cửa không thể hành đúng. Các ác nạn sợ hãi như thế có vô lượng. Đây là nói lược về khổ hoặc. Các nạn còn như vậy, huống chi các nghiệp ác, theo lý thì thí dụ đâu thể hết. Chữ khuy là nhìn là thấy chút ít. Kinh: “Nhà đó hư mục cho đến lửa phát cháy hừng hực”. Tán: Mười hàng tụng rưỡi nói lý do tạp nghiệp khởi dậy của loài quỷ trùng. Đây có ba: Hai hàng tụng nói chủ ở nhà đó không xảy ra tại họa. Một bài nói lý do lửa phát cháy, nhà cửa hư sụp. Bảy hàng tụng rưỡi nói sự nhiễu nhương phát tán của loài trùng quỷ. Phần đầu. Ý nói nhân vị của Bồ-tát tại nhà và thành Phật tại thế gian, làm lợi vật thì phiền não sanh tử tai nạn đều dứt, Phật nhập Niết- bàn, Bồ-tát ẩn mất. Từ đó các tai nạn phiền não sanh ra, cũng do chủ ở tại nhà mà nghiêm trị khuyên bảo con cái để cho tai nạn không sanh ra. Chủ nếu rời nhà thì không có người tu bổ nhà cửa, không dạy bảo khiến con cái buông lung nên tai nạn khởi lên làm cho nhà cửa sụp đỗ. Nhà Ba cõi khi Phật còn hiện tiền thì tai nạn không sanh ra. Do Phật không có ở đời nên tai họa dấy khởi, tức phụ thuộc ở một người. Đấy chính là dụ Phật, Bồ-tát vậy. Không do ngoại đạo mà chỉ do có Phật pháp nên nói một người. Lại thuộc có nghóa là nhiếp thuộc, Ba cõi đều là sở hữu của Phật. Nói Phật là Giáo chủ, tất cả đều thuộc về Phật, Phật sắp nhập Niết-bàn, ẩn lìa cõi Ba cõi, nên gọi là vừa mới ra như ngôi nhà không có chủ. Hốt nhiên lửa nổi lên. Đây dụ cho các thứ phiền não làm tổn hại thân khí thế gian. Như lửa phá nhà, nên dùng chữ thuộc. Không có nguyên nhân mà có, tức là hốt nhiên lửa nổi lên. Từ sanh cho đến chết đều khởi các xúc nên gọi là bốn phía nhất thời. Do đây mà phát sanh ra vô lượng ác nghiệp, nên gọi là “Lửa phát cháy hừng hực). Kinh: “Rui mèn cây cột… tường vách đều nghiêng đổ.” Tán: Do lửa nổi lên thiêu đốt mà nhà cửa cháy rụi. Đòn tay là thọ uẩn rui mè là sắc uẩn. Bộc thanh (tiếng nổ) là dụ cho sanh khổ, chữ bộc là cháy dữ dội. Rung chuyển rã nát là dụ cho lão khổ. Chấn là rung chuyển lão khổ ở tại thân như sấm sét làm cho kinh động, thật là đáng sợ. Nát gãy là dụ cho bệnh khổ. Gãy tàn phá thân mạng, làm suy tàn sức lực trẻ trung. Rơi rớt là dụ cho tử khổ, phá hoại sự tuổi thọ. Sanh già bệnh chết và cột trụ hợp là hành uẩn vô thường, nó ở sau ba uẩn và trước tưởng uẩn. Nói bốn tướng đó là ý nói sanh già bệnh chết biến khắp năm uẩn. Tường vách xiêu đổ dụ cho tưởng uẩn trong ngoài vô thường. Trên là bốn uẩn vô thường: Thọ, sắc, hành, tưởng, Thức uẩn tức ở nhà. Trong văn trước đã nói trong nhà có lửa phát lên là nói chung năm uẩn có sanh già bệnh chết vô thường bại hoại, thật sâu xa có thể nhàm chán. Hỏi: Trong nhà có nạn lửa, đều là phiền não. Vì sao có lúc nói là lửa, lúc nói là trùng quỷ? Đáp: Ép ngặt thiêu đốt thân tâm nên dụ là lửa. Không biết được sự tổn hại nên thí dụ là trùng quỷ. Đều muốn kinh sợ nhàm chán, nên nêu ra các thí dụ. Thức là sở y, dụ đó là nhà. Phiền não y theo đó mà khởi lên dụ là lửa trùng, bốn uẩn đều là năng y nên nói do lửa đốt mà gãy đổ rơi rớt, không thể nói trùng quỷ cũng y theo lửa mà chơi. Kinh: “Các thứ quỷ thần cho đến không thể tự đi ra cho đến” Tán: Bảy hàng rưỡi tụng về sự nhiễu nhương của trùng quỷ. Có ba: Một hàng rưỡi dụ cho tai họa trong Cõi Dục. Ba hàng rưỡi dụ cho tai họa ở Cõi Sắc. Hai hàng tụng rưỡi dụ cho tai họa ở Vô sắc. Phần đầu nơi các quỷ thần đó là dụ cho các chúng ngoại đạo, xuất gia. Tại gia người thế tục ở Cõi Dục bị các khổ ép ngặt bèn cất tiếng kêu lớn cũng như các loài trùng thú. Cho nên trong Luận Thập Địa chép: Ngoại đạo biết sanh già bệnh chết mà sanh nhàm chán, cho nên cất tiếng kêu lớn. Nay có cả tại gia. Lại ở tại gia mà khởi lên tham, sân, si… tranh đấu. Ngoại đạo khởi lên các tà kiến rồi tranh đấu, cất tiếng kêu lớn. Đây là câu tổng kết. Do đó mà khởi ra các độn phiền não như tham… như các loài chim điêu, chim thứu v.v… Do khởi ra tà kiến mà phát ra lợi sử phiền não như Cưu-bàn-trà… đây là câu biệt. Tuy bị khổ ép ngặt kêu to, mà tục nhân tại gia do si ái mà sanh ra phiền não. Hàng xuất gia ngoại đạo lấy khổ muốn xả khổ. Đây đều gọi là bị bao vây trong vòng lo lắng sợ hãi không thể ra được. “Sảng sốt” có nghóa là hoảng hốt bất an. Có lo sợ nên lo lắng, có lo lắng nên muộn phiền. Bố có nghóa là kinh sợ, là kinh sợ ép ngặt vậy. Đây là y theo câu “Cất tiếng kêu to” mà giải thích. Nếu y theo cách giải thích sau giải thích thì thế tục và ngoại đạo khởi ra hoặc lợi độn đấu tranh. Vì đây mà vội vàng đến nơi sanh tử này mà lo sợ ngày đêm. Đâu biết là do lửa hoặc thiêu đốt, các loài trùng đáng làm thương hại, mà cầu mong ra khỏi. Nếu có muốn ra cũng không thể được. Kinh: “Đường ác độc trùng cho đến cũng ở trong hang đó. Tán: Ba hàng tụng rưỡi dụ cho tai họa Cõi Sắc. Ở đây có ba: Một hàng tụng dụ cho người tục ngoại đạo cùng sanh về cõi kia. Một hàng tụng dụ: Tuy là có cõi Tịnh định chiết phục phiền não mà phiền não cũng khởi trở lại. Một hàng tụng rưỡi dụ: Cầu lìA-dục mà chấp vào cõi kia là trên hết, mà phiền não lại sanh . Đây là phần đầu: Định sâu trong cõi Sắc dụ như hang sâu. Người thế tục sanh về cõi kia như trùng. Hàng ngoại đạo, quỷ cũng sanh vào đó, nên nói là cũng trụ, Kinh: “Bạc phước đức cho đến uống máu ăn thịt.” Tán: Đây là dụ: Tuy có tịnh định chiết phục phiền não, nhưng phiền não lại khởi. Bậc Thánh có tịnh định nên phiền não không sanh. Kia tuy có tịnh định mà không có phước tuệ chân thật nên gọi là phước đức kém. Lại bị các phiền não tham, sân, si, mạn, thân, kiến, biên kiến thiêu đốt, nên gọi là bị lửa đốt ép ngặt. Vì không thể diệt trừ các phiền não này, nên kiến thủ, phiền não vẫn đều khởi lên trái khuấy bài xích nhau nên gọi là tàn hại lẫn nhau. Chấp cho là đạo mình hơn như là uống máu duyên vào các kiến nhỏ nhiệm. Khởi ra giới thủ chấp chặt như là ăn thịt, duyên vào các sự thô. Kinh: “Thuộc loại dã can… bốn mặt đầy khắp.” Tán: Tuy cầu lìA-dục mà chấp kia cho là thù thắng, nên phiền não lại sanh ra. Loài dã can là thuộc phiền não nghi ở cõi Dục. Đều đã chết đó: Trước tiên là phục đoạn, do lấy định là cao quý, mà ở trong Cõi Sắc khởi ra các thứ phiền não là ái, kiến mạn nghi… gọi là đại đường ác. Các loài này lần lượt thêm lớn như tranh nhau đến ăn. Hoặc do lửa đã phát cháy cùng khắp. Từ định sanh ra hoặc nên không thể yêu thích như khói tanh. Biến sanh trong tứ định, không chỗ nào không có, nên nói phủ biét bốn bề. Kinh: “Loài ngô công do diên… liền bắt lấy mà ăn.” Tán: Hai hàng tụng rưỡi dụ tai họa Cõi vô Sắc. Một hàng tụng rưỡi tụng về hoặc trong ba địa. Một hàng tụng dụ sanh hoặc của địa Hữu đảnh. Các thứ Ngô công là dụ cho hàng phàm phubị lửa hoặc Cõi Sắc thiêu đốt, cầu sanh về Vô sắc như ra khỏi hang huyệt. Chúng sanh trong ba cõi dưới… như quỷ Cưu-bàn-trà là dụ cho chúng ngoại đạo kia. Ngoại đạo phần nhiều chấp vào hai địa trên cho đó là cảnh Niết-bàn, bác bỏ phàm phu không chấp làm Niết-bàn diệu thắng, do như phàm phu khởi ra tà hoặc như quỷ trông thấy loài trùng liền tùy ý bắt ăn. Ăn đây có nghóa là nuôi lớn, đuổi theo kia sanh nghiệp thêm lớn. Kinh: “Lại có các ngạ quỷ… sảng sốt chạy quàng lên.” Tán: Đây là dụ cho phiền não Hữu đảnh. Sanh vào ngoại đạo kia thì gọi là ngạ quỷ, Tam hữu đảnh thì gọi là “trên đầu”. Phiền não sanh lại gọi là lửa cháy. Không ăn theo chánh giáo, pháp nước… thì gọi là đói khát. Phiền não ép ngặt như là nóng bức. Thường không được an ổn gọi là sảng sốt. Chu chương có nghóa là trôi khắp, chìm vào năm cõi thú gọi là chạy quàng lên, buồn bã. Kinh: “Nhà lửa như thế… các nạn chẳng là một”. Tán: Văn này kết nói các nạn ba ở trên. Kinh: “Chủ nhà lúc đó, đang đứng ngoài cửa.” Tán: Đoạn lớn thứ ba có mười bốn hàng tụng, là dụ thấy thiết lập quyền phương tiện. Văn xuôi có bốn: Trong đây cũng vậy. Ba hàng tụng đầu là dụ thấy khổ sanh lòng bi. Năm hàng tụng kế dụ không cầu Đại thừa. Ba hàng tụng tiếp suy nghó tìm cách cứu khổ. Ba hàng tụng sau là chánh nói về Ba thừa. Văn đầu có hai: Hai hàng tụng thấy khổ. Một hàng tụng sanh lòng bi. Trong phần thấy khổ, hai cầu đầu là dụ cho Phật ra đời trong ba cõi. Một hàng tụng rưỡi nói lại nghe chúng sanh có nạn khổ càng khởi lòng từ bi. Chủ đó nghóa là thân vậy, là thượng là điển, là cảnh là thủ. Môn có hai thứ: Một là giáo môn, hai là hành môn. Phật trụ trong quả đã ra ngoài nhân môn. Tức là vị ở diệu lý, cũng là lý ra ngoài giáo môn, tức môn Nhất thừa. Cho nên nói ngoài cửa. Do trong Văn xuôi nói: “Ta tuy có thể từ cửa của nhà bị cháy mà ra an ổn…”. Nay nói đứng ở ngoài có bốn nghóa: Đứng đó tự như đợi con ra khỏi nhà. Tựa như sắp đi. Sắp đi vào cứu con nên gọi là đứng ở ngoài cửa. Đứng: Là tướng không đi, tức đợi căn cơ thuần thục mà vì cứu giúp nên chưa đi ngay. Đứng: Có nghóa là khởi thành tựu chúng sanh ở trong sanh tử chưa khởi chưa thành Phật nên như là ngồi. Phật đã khởi mà lại thành, cho nên nói đứng. Kinh: “Nghe có người nói… ưa thích mê đắm.” Tán: Đây là nghe chúng sanh ở nơi các nạn. Phần Văn xuôi nói: “Trưởng giả thấy lửa cháy lớn.” Trong phẩm phương tiện nói: Ta dùng Phật nhãn quán xét. Nay, nói nghe người nói có hai nghóa: Một là: Nói rõ về tự tha ảnh hưởng không chỉ thấy chúng sanh chìm trong cảnh khổ, mà cũng nghe Chư Phật ba đời đều truyền nói về các tướng thân sơ. Hai là: Mắt thấy khổ sanh gần gũi, cho nên gọi kiến pháp đợi căn cơ. Vì cứu giúp xa nên gọi là “nghe nói”. Từ vô thỉ, đến nay do buông lung buông lung mà khởi ra phiền não phân biệt nên nói: Trước đây vì dạo chơi mà chịu khổ quả trong Ba cõi, gọi là: “Lại trở vào nhà lửa này.” Do hoặc nghiệp từ vô thỉ đến nay, cảm nơi thức v.v… Trái với lý chân thật gọi là “vào đến”. Nhập có nghóa là xứ, chẳng phải trước đã ra, nay mới gọi là vào, kia đã tu giải thoát phần tức là ra do vì không tu nên gọi là vào. Chủng tánh Ba thừa chưa phát ra hiện hành. Nếu có phát đại tâm mà thoái cầu tiểu quả gọi là thơ bé là ấu tró là ấu nhược (nhỏ bé). Ngu si che lấp thì gọi là vô trí. Khổ quả ở đây là do phóng dật lục tình, gọi là ham vui, tham nhiễm các cảnh thì gọi là ưa đắm. Kinh: “Trưởng giả nghe rồi… khiến không bị thiêu hại.” Tán: Tụng này là dụ sanh lòng bi. Vì khởi lờng từ bi vào nhà cứu thì gọi là kinh. Thuận theo sanh tử gọi là vào nhà lửa. Do vào trong nhà này nên sau đó cùng con tìm cách thoát ra. Ra vào cứu khổ không nghó khó khăn thì gọi tùy nghi cứu tế, ứng thời cứu khổ. Kinh: “Dụ bảo các con… nối tiếp không dứt.” Tán: Năm hàng tụng: không cầu pháp Đại thừa. Đây có hai: Bốn hàng tụng, thầm nói về các sự khổ để trao pháp Đại thừa. -. Một hàng tụng không sợ giữ Đại thừa. Bốn hàng lại chia ra hai: Một hàng rưỡi tụng: Nói chung: hoặc khổ hoàn sanh lại. Hai hàng rưỡi tụng về ác xứ khiến cho nhàm chán. Phần đầu nói các thứ hoạn nạn là: nhà hư nát bị lửa cháy. Các thứ trùng quỷ nhiễu nhương bấn loạn. Ác quỷ là chỉ các kiến hoặc của ngoại đạo. Độc trùng là chỉ các dư hoặc của bạch y. Hai thứ này là duyên vào tất cả phiền não sanh ra họa lửa cháy mãi không dứt. Man diên là chỉ cho dáng mạo liên tục cũng như cỏ man kéo dài liên tục không dứt. Do từ nhà lửa sanh ra nên gọi là man diên. Nhân nơi nhà lửa bị hủy hoại nên gọi là khổ. Thứ lớp liên tục không dứt. Ý này nói rõ nhân nơi hoặc sanh ra khổ. Trong duyên sanh vô minh duyên hành mà sau có năm thức… ái, thủ, hữu duyên mà saucó sanh lão tử. Nhân khổ mà sanh ra hoặc, sanh tử nối tiếp không đoạn tuyệt. Do xúc thọ mà sau có ái thủ. Do lão tử mà sau lại hoàn có vô minh. Cho nên gọi sanh tử là luân chuyển. Kinh: “Loại độc xà nguyên phức… huống chi là lửa lớn.” Tán: Đây là nói riêng. Độc xà là chỉ cho sân, Dạ-xoa là ác nghiệp. Cưu-bàn-trà là giới thủ vậy. Dã can là chỉ cho nghi. Cẩu chỉ cho mạn. Điêu thứ là tham ái. Các thứ trăm chân như thế là chỉ cho các thứ phiền não. Đã thiếu pháp thực, đói khát nên sanh phiền não. Não đưa đến phân loạn thật là đáng sợ, đều là do hoặc tướng này. Đây là xứ sở khổ nạn cực ác. Đã không có gì là vui. Huống chi nhân của đại hỏa cảm lấy quả cháy nhà, ngày đêm ép ngặt, thì sao còn tham muốn. Hoặc lại có các phiền não như thế, các loài trùng quỷ nhiễu nhương. Khổ về tướng ác đã là nạn xứ. Huống chi đây là tổn hại về thiêu đốt. Trùng quỷ tức là lửa, sao lại khác nhau. Nạn xứ có hai nghóa: Nơi khó có thể an, Kinh Thi nói: Chẳng phải nơi ta ở nhàn cư là an ổn vậy. Xứ sở khổ nạn. Kinh: “Các con không biết… vui chơi mãi không thôi.” Tán: Bài tụng này nói không mong cầu Đại thừa. Kinh: “Bấy giờ, trưởng giả… ta cùng sầu não cho đến” Tán: Đoạn thứ ba có ba hàng tụng. Nghó đến phương cách cứu khổ có hai: Một hàng tụng: Tâm từ bi càng chuyển sanh. Hai hàng tụng sau là chánh suy nghó cứu khổ. Hàng đầu: Chúng sanh do chịu khổ mà phiền não thêm lớn, Bồ-tát càng chuyển tâm từ bi. Kinh: “Nay nhà này… lập ra các phương tiện.” Tán: Chánh suy nghó cứu khổ. Đạm có nghóa là đam mê vui chơi. Miến là say loạn. Hỷ hý là buông thả. Các điều khác có thể biết. Kinh: “Bảo với các con rằng… các thứ xe diệu báu.” Tán; Ba hàng tụng của đoạn thứ tư, chánh nói về Ba thừa. Dụ chia làm ba: Một hàng tụng nói chung về việc cho xe. Một hàng tụng nêu các thứ xe ở ngoài. Một hàng tụng nói tùy theo xe cho. Kinh: “Xe dê xe hươu… các con mau ra.” Tán: Nêu các thứ xe đang ở ngoài. Quả ở ngoài cửa nhân, lý vượt ngoài giáo. Cho nên nói: Ra ngoài cửa. Thể xe vô lậu không ràng buộc gọi là ngoài. Hoặc lìa Ba cõi không có chỗ thi hóa, ở ngoài môn Ba thừa. Phật đang trụ ở ngoài nhà, nên gọi con ra, nghóa như trước đã giải thích. Kinh: “Cha chính vì các con… có thể dạo chơi. Tán: nói chỗ tùy theo của xe. Đảo châu báu Niết-bàn là vô vi. Trước đã có, không nói là ta làm, xe là Bồ-đề, thể là hữu vi cho nên nói làm. Làm có nghóa là khởi, xe trâu là chủng trí, do giáo hạnh sanh nên nói là làm. Hai xe trâu dê là giáo phương tiện lập ra. cũng nói là ta làm. Tuy đều cùng làm mà xe trâu là Thể, xe dê nai là danh. Cho nên đều là làm. Tùy căn cơ mà cứu gọi là “Tùy ý các con ưa thích.” Kinh: “Các con nghe nói… lìa hết khổ nạn.” Tán: Đoạn thứ tư có sáu hàng tụng rưỡi. Tụng y theo cha nói mà tránh nạn chia ra hai: Một hàng tụng rưỡi nói các con tránh nạn. Năm hàng nói tâm cha an ổn. Phần đầu, liền tranh nhau chạy ra. Đây là khuyến khích nỗ lực. Chạy mau ra là tinh tấn dũng mãnh. Đến chỗ đất trống đó là tùy theo sở ứng, lìa tam chướng, ở nơi đất nhị không. Tức là người Nhị thừa vô học và nhập Sơ địa, ra khỏi khổ nạn phần đoạn sanh tử vậy, là không sanh lại. Ác quả gọi là khổ, ác nhân gọi là nạn. Kinh: “Trưởng giả thấy con… ta nay rất vui mừng.” Tán: Năm hàng tụng. Tâm cha an ổn. Chia ra có hai: Một hàng tụng rưỡi thấy rồi thì tự vui mừng. Ba hàng tụng rưỡi: Lòng cha vui mừng bảo với mọi người. Ngã tư đường là dụ cho lý là chỉ cho tứ đế. Con đã ra khỏi đang trụ ngã tư đường, cha bèn ngồi vào tòa Sư tử, đắc vô úy. Đây là tiêu biểu cho tâm an. Do đây mà tiếp nói: Các con biết cha an tọa tòa Sư tử. Cho nên biết tòa Sư tử là chỗ cha ngồi. Cha rất thích ý nên nói rất vui mừng. Tức nói xưa đã đắc quả Bồ-đề. Sau sanh ra vẫn còn ở trong nhân nói pháp độ sanh. Nói về sắp cứu giúp. Nghóa này cũng đồng với việc sắp cứu độ mà đợi các con. Cho nên nói đứng. Nay quả con đầy đủ đã ra khỏi nhà lửa. Cha không đứng đợi, tâm an ổn ngồi vào tòa. Kinh: “Các người con này… bốn phía cùng khởi lên.” Tán: Ba hàng tụng rưỡi vui mừng bảo với mọi người. Chia làm hai: Hai hàng tụng nói các con xưa ở trong khó khăn. Một hàng tụng rưỡi, Ta nay cứu xong nên được an tâm. Gốc lành khó khởi thì gọi là sanh nuôi khó. Nuôi là nuôi lớn, vô minh lớn che mà thì gốc lành không có Đại thừa nên gọi là nhỏ dại không hiểu, chìm đắm trong Ba cõi thì gọi là vào nhà hiểm nạn. Hoặc xưa từng được giáo hóa mà nay đã quên, nên gọi là Tiểu thừa vào nhà lửa. Bôn ba trong thế tục như nhiều loài trùng độc. Bọn ngoại đạo tà học như ly mị đáng sợ. Phiền não xí thạnh như lửa dữ gặp duyên thì phát cháy, bốn phía đều cùng khởi. Kinh: “Mà các con này… ta nay vui mừng.” Tán: đây nói: Ta nay cứu được các con nên được xứng tâm, vui mừng. Lại bảo mọi người biết ý mình rất vui. Kinh: “Bấy giờ các con… ba thứ xe báu lạ. Tán: Trên có năm mươi ba hàng rưỡi tụng ở trên. Xưa nói quyền phương tiện, từ đây trở xuống. Mười hai hàng tụng nay nói thật. Phần Văn xuôi có bốn: Nay đây cũng như vậy. Ba hàng tụng đầu nói các con xin ba xe. Một hàng rưỡi tụng giải thích chí của cha thành tựu. Sáu hàng tụng: Cha chỉ cho một xe. Một hàng rưỡi cuối: Vượt hơn ý của con. Trước sau đều khác nhau. tọa. Ba hàng đầu lại chia làm hai: Một hàng tụng rưỡi nêu việc xin ba xe. Một hàng tụng rưỡi nói lại cha trước đã hứa cho. Hiểu được ý của cha không còn lo lắng. Cho nên nói: Biết cha an Kinh: “Như trước cha đã hứa… xin nguyện cấp cho.” Tán: Nói lại lời hứa của cha, nên dám trông mong cha. Người học đương cơ nguyện Phật ban cho. Chữ Duy là cúi mong. Cúi mong lời cha, dùng cầu Ba thừa. Kinh: “Trưởng giả giàu có lớn… tạo ra các xe lớn.” Tán: Phần thứ hai: giải thích thành tựu chí của cha, trưởng giả giàu có rất nhiều của báu hữu vi vô vi, chu cấp cho một nước dùng cũng không hết, huống chi là các con, cho nên lấy trân báu làm thành một xe lớn. Dạy các con tu tập quả đầy đủ cả đời. Tóm lại: Tất cả vô lậu chủng trí năm uẩn là tướng của xe này. Bỏ sắc uẩn vô thường thì đắc được thường sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Nếu nói chân như là thể của xe này thì đó chính là đảo châu báu. Vì sao lại nói làm. Hóa thành lập ra cũng có thể nói là ta hóa làm. Há nói đảo châu báu cũng là làm? Xe trâu đã làm là nói rõ thể Bồ-đề. Kinh: “Tu sức trang nghiêm… các nơi đều rủ xuống.” Tán: Đoạn thứ hai có sáu hàng tụng: Cha chỉ cho một xe. Đây chia làm bốn: Bốn hàng tụng các tô điểm. Một hàng rưỡi tụng tướng trâu. Nửa hàng tụng người tùy theo. Nửa hàng tụng nêu chung cho xe. Phần một có chín món trang nghiêm. Trong đây có sáu: Tổng nghiêm. Lan thuẫn: Chấn song, lan can. Phong đạc (phong linh). Giao lạc (dây vàng xen thắt lại). Man cái (lưới mành kết châu báu) Hoa anh: Dùng hoa vàng làm tua để tô điểm, nên gọi là hoa vàng các chuỗi… Kinh: “Các màu tô điểm đẹp… để che ở trên.” Tán: Đây có ba thứ trang nghiêm. Các lụa mền mại, đệm cỏ lấy cỏ đệm thành hoa hoặc lấy cỏ làm đệm. Trong Ngọc thiên gọi là y thân (thân áo). Và lót ngồi tức thay thế gối đỏ. Văn xuôi lấy diệt định làm chỗ dựa nghỉ mệt, đây dùng khéo léo trí dụng khắp mạng trên đệm cỏ, nên dụ là lót ngồi, nghóa tùy chỗ đối đãi có khác mà cũng không mâu thuẫn nhau. Các thứ này có sáu đức: Thần dụng vô phương nên gọi là thượng diệu. Nhỏ nhiệm thâm mật khó biết thì gọi là tế. Tích công chứa hạnh dùng làm nhân hoa tu tập thành tựu thì gọi là điệp. Điệp là loại vải dệt bằng lông nhỏ. Nay thì lấy điệp hoa dệt làm vải. Vượt xa tất cả thần đức khó nghó bàn gọi là giá trị nghìn ức. Tự tánh lắng đọng rõ ràng thì gọi là trắng mới. Thể lìa hai chướng gọi là tịnh khiết. Dùng sáu đức trên làm trí diệu dụng ở sau, trùm khắp trong tịnh mạng gọi là trải trùm trên nệm. Kinh: “Có trâu trắng to lớn cho đến để kéo xe báu. Tán: Tướng trâu có bốn đức. Trâu trắng. Mập khỏe tức da dẻ sung mãn. Sức lực. Đẽp đẽ. Kinh: “Nhiều người đi theo cho đến đồng ban cho các con.” Tán: Nửa hàng trên tụng về khách theo. Nửa hàng dưới là nói cho. Trong Ngọc thiên nói là dẫn đường. Ra tiếp khách thì gọi là tân. Vào tán lễ thì gọi là tướng. Lại nói là tân tiến (tiếp khách) là trần (trình bày). Nay dẫn đầu gọi là tân, tùy theo sau thì gọi là tùng, tướng mạo của xe này cũng đồng như Văn xuôi. Kinh: “Các con lúc ấy… tự tại vô ngại.” Tán: Đoạn thứ tư nói vượt xa ý muốn các con. Dạo chơi bốn phương là dụ cho việc hóa độ tứ sanh, đắc trí giác, cho nên hớn hở, đắc diệt lý cho nên rất vui, đắc thần thông cho nên tự tại, lìa các chướng nên không ngăn ngại. Hoặc tự tại có mười: 1. Tài; Tâm; 3. Thọ; 4. Nghiệp; 5. Sanh; 6. Thắng giải; 7. Nguyện; 8.Thần lực; 9. Pháp; 10. trí. Như các chỗ khác nói thì có bốn tự tại: 1. Tướng; 2. Độ (cõi, đất); Trí; 4. Nghiệp. Các nghóa này đều giải thích được. Kinh: “Bảo với Xá-lợi-phất cho đến là cha của thế gian.” Tán: Sáu mươi lăm hàng rưỡi ở trên là tụng về phần dụ nói. Từ đây trở xuống mười tám hàng tụng là hợp nói. Y theo trước thì có hai: Mười một hàng tụng hợp với quyền trước. Bảy hàng tụng hợp với thật pháp nay. Hợp quyền xưa có bốn phần: Một hàng tụng, hợp nói Ba cõi, Phật có. Ba hàng tụng năm đường nguy vọng. Năm hàng tụng rưỡi là hợp nói : Thấy khổ thiết lập phương tiện. Một hàng rưỡi tụng hợp theo lời cha nói mà thoát. Kinh: “Tất cả chúng sanh… không có tuệ tâm.” Tán: Phần hai có ba hàng tụng. Hợp năm đường nguy vong. Lại chia làm ba: Một hàng tụng hợp nói mọi người rất nhiều, các con chơi giỡn trong đó. Vô chủng tánh: Tuy không phải là con thật thì cũng là con nuôi. Một hàng tụng nói nhà có nguy cơ sụp đổ. Một hàng tụng nói tai họa xảy ra khắp nơi. Phần đấu nói: Tham đắm vui thế gian rất sâu dày, khởi ra nghiệp ác cũng sâu dầy. Cũng có bổn ghi là đắm sâu năm dục nhưng đây dùng nghóa đầu làm chánh, chung cả ba cõi, thì không có tuệ tâm, không có thiện ý. Kinh: “Ba cõi không an… lửa cháy không dứt.” Tán: Một hàng đầu tụng nhà lửa nguy cơ sụp đổ. Năm uẩn đều bị ép ngặt bởi bốn khổ, thay đổi biến dời. Một hàng sau tụng tai nạn nổi lên khắp nơi, trong sanh già bệnh chết, đều có lửa phiền não thiêu đốt dữ dội. Kinh: “Như-lai đã lìa xa… an ổn ở trong rừng.” Tán: Năm hàng tụng rưỡi, hợp nói “Thấy khổ mà lập phương tiện”. Đây lại chia làm ba: Ba hàng tụng đầu hợp thấy khổ lòng bi sanh khởi. Một hàng tụng khai thị pháp Đại thừa mà chúng chẳng mong. Một hàng tụng rưỡi hợp chánh nói về pháp Ba thừa, không còn suy nghó phương cách cứu giúp. Ba hàng đầu có ba ý: Một hàng tụng nói tự ra khỏi nhà lửa. Một hàng tụng nói nhà phụ thuộc mình ta. Một hàng tụng nói: Đã có năng lực. Hàng đầu nói: Chứng Niết-bàn cho nên được vắng lặng. Ra khỏi sanh tử cho nên thong thả an ổn. Thường ở trong định, yên tịnh an xứ trong rừng. Định là rừng công đức, như có bài tụng: “Voi đầu đàn chỗ vắng vẻ Tâm phóng khóang vô ưu Người trí ở núi rừng Tiêu diêu vui vắng lặng. Kinh: “Nay Ba cõi này cho đến đều là con ta.” Tán: Nhà thuộc nơi ta, chúng sanh đều là con ta. Kinh: “Mà nay nơi chỗ này cho đến có thể cứu hộ.” Tán: Đã có năng lực, chẳng phải khả năng khác. Kinh: “Tuy lại dạy bảo cho đến tham đắm sâu xa.” Tán: Một hàng tụng hợp nói không cầu Đại thừa. Giáo có nghóa dạy bảo. Tuy có dạy bảo mà không tin Đại thừa, tham đắm sâu xa. Hoặc nói là giáo chiếu. Chiếu có nghóa là Huấn dụ. Đây là nói rõ sự dẫn dụ. Kinh: “Bởi thế nên phương tiện cho đến các đạo xuất thế. Tán: Hợp chánh nói về Ba thừa. Kinh: “Các người con đó thảy… hoặc bất thoái Bồ-tát. Tán: Hợp nói nghe lời cha mà tránh nạn. Tâm chắc chắn đó là không nghi tứ đế, được chứng chân đế. Đầy đủ lục thông thì đắc quả A- la-hán. Hai quả khác cũng có thể biết. Luận nói bất thoái là trụ Sơ địa trở lên, vượt ngoài phần đoạn sanh tử. Ba minh là Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Theo thứ lớp đây có thể biết việc quá khứ, hiện tại, vị lai một cách thù thắng, không ngu ở ba đời. Kinh: “Xá-lợi-phất… đắc thành Phật đạo.” Tán: Bảy hàng tụng hợp nói thật pháp ngày nay. Chia ra hai: Hai hàng tụng hợp nói cha chỉ cho một xe. Năm hàng tụng sau khen ngợi công đức cao quý của Phật thừa. Kinh: “Thừa này mầu nhiệm cho đến không còn pháp nào trên.” Tán: Tức năm hàng tụng khen ngợi công đức cao quý của thừa. Ở đây chia làm bốn: Một hàng tụng khen ngợi bốn đức của thừa. Một hàng tụng nói bậc Thánh khen ngởi thừa này. Một hàng tụng là nói công cụ để vui chơi. Hai hàng tụng nói vui nhất thừa. Hàng đầu nói bốn đức: Thanh tịnh lìa chướng. Đệ nhất trên hết. Vô thượng chẳng pháp nào hơn. Kinh: “Thừa ấy, Phật vui ưa… lễ bái cúng dường.” Tán: Là pháp mà các Thánh khen ngợi. Không chỉ Phật vui mừng mà còn đáng được khen ngợi. Cũng để cho ba nghiệp của chúng sanh đều quy kính. Kinh: “Vô lượng ức ngàn cho đến và pháp khác của Phật.” Tán: Tụng về các điều ưa thích của Phật. Kinh: “Chứng được thừa như thế cho đến mà thẳng đến đạo tràng” Tán: Tụng vui bậc Nhất ngày đêm kiếp số thường được dạo chơi Ba thừa đều lên ngôi vị từ Sơ địa trở lên, nương theo chủng trí Nhất thừa này, trải qua hai A-tăng-kỳ kiếp mới đến quả vị Phật. Nếu Nhị thừa nương vào giáo vô lậu và thừa hữu lậu. Trải qua một đại a-tăng-kỳ kiếp mới nhập vào Sơ địa. Như vậy thì gọi là ngày đêm kiếp số, ba thứ ý sanh thân. Nương theo xe vô lậu Nhất thừa, thẳng đến Đạo tràng quả vị Phật. Bồ-đề, Niết-bàn là nơi sanh đạo gọi là Đạo tràng. Hoặc nương theo nhân thừa của chủng trí, thì đến quả Đạo tràng Đại Niết-bàn của quả Phật vậy. Hoặc đến Đạo tràng chân như của Phật quả. Đây là nhân thừa, mới đến được quả thừa. Do đó mà ở trên nói chung về Giáo, Lý, Hạnh, Quả đều là thể của thừa. Kinh: “Vì nhân duyên cho đến trừ Phật dùng phương tiện.” Tán: Tụng lại đoạn lớn thứ ba trong phần Văn xuôi, kết lại lời văn đáp. Nên biết chư Phật dùng năng lực phương tiện , đối với một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Ở trên nói theo lí , trong mười phương mà cầu đế lý lại không có tự thể của Nhị thừa, trừ khi Phật dùng phương tiện giáo nói có ba, càng không có ba thể cực quả, trừ khi nói đó là nhân phương tiện có ba. Kinh: “Bảo với Xá-lợi-phất cho đến khiến ra khỏi Ba cõi.” Tán: Chính là dụ về hóa độ. Trong đoạn văn lớn có ba: Trên là tổng lược yếu chỉ, đáp về lý do hứa cho, và chánh nói về pháp dụ khiến cho người khai tỏ. Từ đây trở xuống có tám mươi hàng tụng rưỡi, khuyên tin hiểu kinh này, ưa thích trí Phậtở đương lai. Đây chia làm hai phần: Mười bốn hàng tụng rưỡi, nói pháp có quyền thật, khiến xả quyền mà giữ thật. Sáu mươi sáu hàng tụng nói về thị phi của người, khiến cho người học trừ lỗi. Trong phần đầu lại có hai: Hai hàng tụng nói cha con tình sâu thấy khổ liền cứu nạn. Mười hai hàng tụng rưỡi chính là nói quyền thật, để cho người giữ và bỏ. Kinh: “Ta tuy trước đã nói cho đến chỉ có trí tuệ Phật.” Tán: Mười hai hàng tụng rưỡi chính là nói về quyền thật, khiến cho bỏ quyền giữ thật. Trong đây lại có hai: Một hàng tụng rưỡi, nói chung về xưa quyền nay thật. Mười một hàng tụng riêng về nay thật xưa quyền. Hàng rưỡi đầu: Ta tuy trước nói các thầy tuy diệt độ nhưng chỉ diệt phần đoạn sanh tử. Vì đắc quả Niết-bàn, hữu sau vì không có nối tiếp, nên Biến dịch sanh tử không thể chiêu biệt nghiệp, không chướng ngại vô học nhập vào vô dư. Đây Phật ẩn ý không nói ra là: Các thầy tuy đã diệt độ mà thật là chưa phải cảnh thật đại Niết-bàn diệt độ. Các thầy phải tu tập thêm, chỉ có tánh trí tuệ Phật làm pháp thân. Tướng là đại tuệ, là trí chứng lý. Hai chướng không sanh ra, liền được giải thoát, gọi là Đại Niết-bàn, ba việc đều đầy đủ. Kinh: “Nếu có Bồ-tát cho đến đều là Bồ-tát.” Tán: Mười một hàng tụng nói. Nay thật mà xưa quyền. Trong đây có hai: Chín hàng tụng rưỡi tụng về: Nay thật xưa quyền. Một hàng rưỡi là: Kết luận. Chín hàng rưỡi đầu lại chia hai: Hai hàng tụng nói về thật pháp ngày nay. Bảy hàng tụng rưỡi nêu xưa quyền phương tiện. Kinh: “Nếu người tiểu trí cho đến chân thật không khác nhau” Tán: Bảy hàng tụng rưỡi nêu xưa thật. Trong đây lại có hai: Sáu hàng tụng nói quyền pháp Tứ đế. Một hàng tụng rưỡi giải thích được được quyền xứ. Sáu hàng trên lại chia làm bốn phần nhỏ: Hai hàng tụng nói về khổ đế. Một hàng rưỡi tụng nói tập đế. Một hàng rưỡi tụng nói diệt đế. Một hàng tụng nói về đạo đế. Đầu tiên là nói: Mê đắm sâu ái dục tức ái nhiễm nội thân, ham muốn cảnh ngoài đều là khổ đế. Hàng tụng đầu nói khổ đế mà ý không bỏ thế đế để vào chân đế. Hàng tụng sau nói chúng sanh vui mừng, nên nhập vào quả Thánh được pháp chưa hề có. Sự chân thật không khác giải thích là đế. Đế nghóa là thật. Trong kinh Di giáo nói: Phật nói khổ đế là nói rõ sự thật về khổ không có gì là vui. Kinh: “Nếu có chúng sanh cho đến phương tiện nói đạo.” Tán: Đây là tập đế. Nhân khổ là nghiệp phiền não tập đế. Đạo là nghóa nhân, tức là thể của tập đế, là nhân của khổ đế. Lại nói đạo đế là đoạn ở nơi tập. Kinh: “Nguyên nhân có các khổ… gọi là đế thứ ba. Tán: Đây là diệt đế. Tham là gốc khổ. Gốc còn thì khổ sanh. Nếu diệt gốc tham thì quả khổ liền diệt. Chỗ sở y đó là thân là khổ quả, vì diệt tập khổ mà nói diệt đế. Kinh: “Vì diệt đế cho đến gọi là đắc giải thoát.” Tán: Đây Trung đạo đế vậy. Do đạo đế mà chứng diệt lìa hết khổ phược gọi là chứng Niết-bàn được giải thoát. Kinh: “Người đó nơi pháp gì… tất cả được giải thoát.” Tán: Giải thích được được quyền xứ. Hai câu đầu là hỏi, bốn câu sau là đáp. Chỉ lìa mọi phiền não luống dối, nghiệp khổ của phần đoạn sanh tử thì gọi là đắc giải thoát. Chứng đắc hữu tác tứ Thánh đế. Chưa diệt tận nhị chướng, nhị nghiệp, nhị tử, tất cả pháp Không, giải thoát, vô tác tứ Thánh đế cho đến. Hữu tác Tứ đế là: Sanh tử phần đoạn là khổ đế. Nghiệp phiền não là tập đế. Hữu dư y Niết-bàn là diệt đế, phẩm Trí sanh không là Đạo đế. Vô tác Tứ đế: Biến dịch sanh tử là khổ đế. Sở tri chướng là tập đế. Vô trụ Niết-bàn là diệt đế, phẩm Trí Pháp không là đạo đế. Cho nên trong kinh Thắng-man chép: Tám Thánh đế như thế, chẳng phải là pháp mà Thanh-văn, Duyên-giác chẳng thể biết được. Kinh: “Phật nói người này… khiến cho đến diệt độ.” Tán: Nói nay thật xưa quyền v.v… là một hàng rưỡi sau, kết luận có hai ý: Phật nói Nhị thừa trụ ở pháp quyền, nên chưa thật điệt độ. Người này chưa đắc Vô thượng đạo. Ý ta cũng không muốn khiến cho Nhị thừa trụ vào quyền đó tức phải đạt đến chỗ diệt độ vô dư. Ý là muốn giữ đạo Vô thượng Đại nhập Niết-bàn, không cho trụ ở phương tiện mà rốt ráo diệt. Kinh: “Ta là pháp vương… hiện ở nơi đời.” Tán: Trên nêu mười bốn hàng tụng rưỡi về pháp quyền thật, cho chúng sanh bỏ quyền giữ thật. Đây trở xuống sáu mươi sáu hàng tụng. Nói việc phải trái của người để tu học trừ điều lỗi. Đây chia làm bốn: Hai hàng tụng rưỡi: Phật nói ta biết căn khí chúng sanh nên nói ra. Các thầy không biết chớ giảng nói truyền bá bừa bãi. Tám hàng tụng nói tín là quả vị cao, đều trồng công đức căn bản đã lâu. Ba mươi sáu hàng tụng rưỡi nói người vô trí không tin tội tướng. Mười chín tụng: Vì người có trí nên nói ra. Hai hàng tụng rưỡi đầu lại chia làm hai: Một hàng đầu tụng: Ta biết căn khí cho nên nói. Một hàng rưỡi tụng “Các thầy không biết chớ giảng nói truyền”. Hàng đầu nói: Là pháp vương nên biết bệnh cho thuốc. Pháp thì tự tại phân biệt pháp dược, khiến cho chúng sanh an ổn, phân biệt biết căn khí mà có thể ứng cơ nói cho nên hiện ở thế gian. Kinh: “Các thầy Xá-lợi-phất… chớ giảng nói truyền bá bừa bãi. Tán: Pháp ấn tức là diệu lý Nhất thừa. Tức là dạy Đại thừa khiến cho chắc chắn. Ta vì lợi ích chúng sanh nên nói pháp ấn này. Các thầy không biết bệnh cho thuốc, chớ giảng nói truyền bá bừa bãi sợ họa phát sanh.” Kinh: “Nếu có người nghe cho đến A-bệ-bạt-trí.” Tán: Phần hai có tám hàng. Tín là quả vị cao, đều gieo trồng cội gốc công đức đã lâu. Trong đây có sáu hàng tụng. Một hàng tụng nói quả vị cao có thể tin. Một hàng tụng rưỡi đời trước có duyên gặp Phật, từng nghe rồi mới tin. Một hàng tụng rưỡi nói: Nếu có thể tin lời nói của các thầy tức là thấy Ta. - Một hàng tụng về trí sâu xa có thể tin, thức cạn thì không thể tin. tín. - Một hàng tụng nói Nhị thừa tánh chắc chắn không thể tin đây. - Hai hàng tụng sau nói về Nhị thừa bất định tánh mới thuận sanh Phần đầu nói. Nếu có người nghe kinh này mà tâm sanh tùy hỷ, cả thân tâm đều đảnh lễ cung kính mà tin thì biết người đó trụ vào bất thối địa. A-bệ-bạt-trí: Hán dịch là Bất thoái. Cũng có bổn ghi A-duy-việt- trí. Là sai. Trong tứ bất thối thì tín, vị, chứng, hạnh đều có thể như vậy nên nói căn tánh thuần thục. - Kinh: “Nếu có người tin nhận cho đến cũng nghe pháp này.” - Tán: Một hàng rưỡi tụng nói xưa gặp được duyên Phật, từng nghe mới tin có nhân đời trước. - Kinh: “Nếu người có thể tin cho đến cùng các Bồ-tát.” - Tán: Một hàng rưỡi tụng rằng: Nếu tin lời ông nói thì thấy được thân ta, Tỳ-kheo, Bồ-tát, Tam bảo đều không khác, vì đồng thể Tam bảo. Nếu biệt thể thì sẽ thấy được, mà là nhận thấy. Chúng ta đều muốn nghe pháp này, về lý không khác. - Kinh: “Nói Kinh Pháp Hoa này cho đến mê hoặc không hiểu được.” - Tán: Một hàng tụng nói về trí sâu có thể tin được lý sâu mầu. hiểu biết cạn thì không thể, vì là phàm phu ngu. - Kinh: “Tất cả Thanh-văn cho đến sức kia không hiểu kịp.” - Tán: Một hàng tụng chắc chắn Nhị thừa, không thể ngộ vì trái với bổn tâm. Người không ngu pháp: Có thể tin nghóa mà không thuận theo tu hành. - Kinh: “Ông Xá-lợi-phất… chẳng phải trí của mình. - Tán: Một hàng tụng sau nói bất định tánh Nhị thừa, mới thuận sanh tín. Ông là tối thượng căn, còn phải tin lời của ta thì mới dần được chứng nhập. Huống chi là hàng Thanh-văn bất định khác. Bồ-tát nghe ta nói còn suy nghó lựa chọn để thể nhập. Nghóa “còn” cũng là thường. Theo ngọc thiên là nghóa “ngõ hầu”. - Kinh: “Lại Xá-lợi-phất!… chớ nói kinh này cho đến” - Tán: Phần ba lớn có ba mươi sáu hàng tụng rưỡi: Người vô trí không thể tin tội tướng. Đây có hai: Hai hàng đầu tụng ngoại đạo phàm phu. Nếu người có thất ác thì chớ vì họ mà nói. - Ba mươi bốn hàng tụng rưỡi: Nếu vì họ mà nói thì họ sẽ không tin, gieo tướng nhân quả ác. Hai hàng đầu lại chia hai: - Một hàng tụng: Người đầy đủ bốn ác thì chớ nói. - Một hàng tụng người có ba ác cũng chớ nói. Đầu tiên nói hạng người bốn ác là: Kiêu: Cây theo dòng họ sắc lực thông minh tài phú mà buông lung. Mạn: Đầy đủ cả bảy lấn hiếp mạn, chê khinh người. Mình ít đức mà cho là nhiều, như năm ngàn người rời hội Pháp Hoa đây. Lười biếng: Phóng dật túng tình không biết nhàm chán. Ngã kiến: Bọn ngoại đạo. Nếu nhàm chán sanh tử sâu xa mong cầu đạo xuất thế, hạ mình tôn trọng người, nhẫn tâm thọ pháp siêng năng không phóng dật, quán vô ngã diệt hết hoặc chướng, tin thuận kinh này thì mới vì họ mà nói. Thế nên Phật nói người có đầy đủ bốn ác thì không nói pháp. - Kinh: “Hàng phàm phu biết cạn… cũng chớ vì họ mà nói.” - Tán: Hai hàng tụng nói người có ba ác. Người hiểu nông cạn trá hiện thông minh, sự hiểu biết không sâu xa. Người phiền não sâu nặng thân tâm buông lung ở ngũ dục thế gian, tham đắm rất sâu. Người phàm phu ngu độn không có chủng tánh, không thể nghe nghe diệu pháp. người nghe pháp là thuộc Nhị thừa định tánh, cũng chớ họ nói. - Kinh: “Nếu người không tin… Hạt giống Phật ở thế gian.” - Tán: Trở xưống ba mươi bốn hàng tụng rưỡi: Nếu nói ra thì chúng sẽ không tin, tướng nhân quả ác. đây chia làm hai: Bốn hàng tụng rưỡi nói không tin tức gieo nhân ác. Ba mươi hàng tụng sau nói không tin nên thọ quả ác. bốn hàng rưỡi đầu lại có hai: Một hàng tụng nói không tin, diệt hết gốc lành. Ba hàng tụng rưỡi vì không tin nên ác sanh. Hàng đầu nói: Diệt nhân hữu lậu gọi là đoạn thế gian chủng. Diệt nhân vô lậu thì gọi đoạn Hạt giống Phật. Do tin kinh này, đầu tiên huân tập hạt giống hữu lậu thiện. Cho nên sanh vào trời người thọ sự diệu lạc thù thắng, mà nuôi lớn hạt giống pháp vô lậu như thế, rồi dần dần nhập vào Thánh, mới sanh vào vô lậu, lần lượt đắc quả thành Phật. Cho nên tin kinh này có thể làm nhân gần là trời người ở thế gian. Xa thì là nhân thành quả Phật, tương lai thành Phật được lợi lạc vô biên. Nếu tự mình không tin, chê bai chướng ngại, không cho lưu hành làm cho người khác không tin. Há chẳng phải là đoạn hai hạt giống đó sao? Mà chính hủy hoại mắt của trời người. Hoặc đoạn tất cả Hạt giống Phật của thế gian, tổn phá pháp hạt giống vô lậu. Cho nên kinh này nói: Nếu khuyên người phát Bồ-đề tâm thì Hạt giống Phật không đoạn. Cho nên nếu chê bai kinh này là đoạn tâm Bồ-đề tức đoạn Hạt giống Phật. Pháp mà không hành trì thì cũng đoạn pháp chủng. Đã không phát tâm không chứng Thánh đạo, cũng đoạn luôn tăng chủng. Nay lấy điều hơn hết mà nói thì chỉ là đoạn Hạt giống Phật. - Kinh: “Hoặc có người xịu mặt… kinh điển như thế này.” - Tán: Ba hàng rưỡi tụng không tin nơi ác sanh. Có hai phần: - Hai hàng tụng đối với pháp không tin nên khởi ra ba ác nghiệp. - Một hàng tụng rưỡi, với người không tin thì khởi ra bốn hành ác. Đây là phần đầu. Xịu mặt có nghóa là thân tướng không tin, hoặc nhăn mày. Người nghi hoặc là tướng tâm không tin. Người chê bai thì lời nói không có tướng tin. Trong đây nên nói: Nếu Phật còn tại thế hoặc đã diệt độ, có người chê bai như kinh điển này, hoặc lại nhăn mày, xịu mặt ôm lòng nghi hoặc, ông nên lóng nghe nói tội báo của người này trong văn trái ngược. - Kinh: “Thấy có người đọc tụng cho đến nay ông lại nghe…” - Tán: Đối với người không tin sẽ khởi lên bốn hành ác. Có bốn thứ mà người không tin: 1.Đọc; 2.Tụng; 3.Viết; 4.Trì. Theo lý thì hành chung mười thứ pháp hạnh, ở bên người đều khởi lên không tin. Trong đây lược nên chỉ nêu ra bốn thứ người khởi lên bốn hành vi ác. Bốn hành vi ác : 1. Khinh tiện; 2. Oán hiềm; 3. Ganh ghét; 4.Kết hận. Lược nói bốn nhân tội rất nhẹ này. Sự thật thì các tội ác như: Đánh mắng, giết, trói, trộm cướp, chê bai, nói lỗi… đều là nhân của trọng tội, lược không nêu ra, mà lóng nghe quả đó. - Kinh: “Người này chết cho đến vô số kiếp.” - Tán: Ba mươi hàng tụng nói do không tin mà thọ tướng quả ác. Chia ra làm hai: Hai mươi tám hàng tụng nói về quả của sự không tin. Hai bài kết lại. Trong phần một lại có hai: Hai mươi hai hàng tụng riêng ba đường, thọ tướng dị thục quả. Sáu hàng tụng sau nêu chung ở bốn đường, thọ tướng hai quả đẳng lưu và tăng thượng. Phần đầu này lại có ba phần: Một hàng rưỡi tụng về thọ quả tướng địa ngục. Mười hàng rưỡi thọ quả tướng súc sanh. Mười hàng thọ quả tướng trong loài người. Đây không nói tướng ngạ quỷ. Ngạ quỷ phần nhiều do tham mà sanh ra. Không tin kinh này còn thiếu người sanh tham vì lược không nói chứ chẳng phải là không có. Trong quyển thứ nhất nói về năm đường, lấy sáu môn để phân biệt. Ở trên đã giải thích về ba môn là: một là danh, hai là thể, ba là khai hợp xong. Nay nói về ba môn còn lại: 1.Xứ sở; 2.Quả tướng; 3.Thọ lượng. Xứ sở trong Nại-lạc-ca có ba: Căn bản. Cận biên. Cô độc. Căn bản là tám địa ngục nóng, tám địa ngục lạnh. - Tám địa ngục nóng là: Đẳng hoạt. Hắc-thằng. Chúng hợp. Hào khiếu. Đại hào khiếu. Thiêu nhiên. Cực thiêu nhiên. Vô gián. Tám ngục khổ khí này mỗi ngục đều rộng mỗi bề mười ngàn do tuần. Tám địa ngục lạnh là: Át-phù-đà dịch là pháo: Da thịt phóng lên vì rét. Pháo liệt: Da thịt nứt nẻ vì rét. Yết triết chiêm: A-tra-tra: Bị rét buốt cùng cực. Hổ hổ bà. Hoa sen sanh (ốt-bát-la). Hoa sen hồng. Hoa sen hồng lớn. Dưới đây khoảng ba muôn hai ngàn du-thiện-na có Đẳng hoạt. Dưới Đẳng hoạt khoảng bốn ngàn du-thiện-na thì có bảy ngục Hắc- thằng cho đến Như thế sáu ngục Nại-lạc-ca đều cách nhau hai ngàn do-tuần. Tám địa ngục lạnh này so ra nhỏ hơn địa ngục nóng. Trên đây là nói về địa ngục căn bản. Có nghóa là địa ngục trên dưới lớp lớp chồng lên nhau. Lược tính thì ở tận đáy ngục Vô gián cách mặt đất này là mười hai muôn tám ngàn do-tuần. Giải thích đây không đúng. Vì núi Diệu cao cách mặt nước chỉ nói có tám muôn. Tức lớp vàng thấp xuống nhất định không thể như vậy. Cho nên có giải thích: Cách mặt đất này ba muôn hai ngàn do-tuần có ngục Đẳng hoạt. Dưới Đẳng Hoạt cách bốn ngàn do-tuần có bảy ngục khác, cách ngang nhau có mười ngàn do- tuần, không nói trên dưới. Trong Du-già chỉ nói cách đây ba muôn hai ngàn do tuần có Đẳng hoạt. Dưới Đẳng hoạt cách bốn ngàn do-tuần có các địa ngục khác. Sơ hàn thì ở một bên Đẳng hoạt. Dưới đây hai ngàn thì có ngục lạnh Na-lại-ca. Ngục này rộng mười ngàn. Không nói riêng trên dưới đều cách bốn ngàn do-tuần, và mỗi mỗi địa ngục đều là mười ngàn. Theo luận Bà-sa thì có hai nói. Trong Câu-xá thì cách hai muôn là đến đáy ngục Vô gián. Như vậy là rất gần. Gần biên tức là ngoài cửa tám địa ngục nóng, mỗi mặt đều có bốn cửa. Câu-xá nói là mười sáu tăng. Đó là: tro nóng, thây phân, dao nhọn, sông nóng. Cô độc: Ở dưới gốc cây vắng vẻ chốn núi non. Hoặc một hoặc nhiều nhiều nơi thọ tội. Loài bàng sanh vốn ở nơi biển lớn, chảy đến ở nơi khác. Chánh pháp niệm nói: Dưới đây cách năm trăm do-tuần có nước Diêm ma vương. Sau dời qua chỗ khác. Người trụ tám châu trong bốn đại châu. Mỗi mỗi đều có năm trăm tiểu châu, lấy đó làm quyến thuộc. Trời trụ ở cõi lục dục sắc vô sắc. Chư Thiên của Bốn đại vương ở tầng thứ tư khoảng lưng chừng núi Diệu cao. Trong Câu-xa nói trụ trên đỉnh Kim sơn. Trời Đao-lợi trụ ở đỉnh Diệu cao. Các cõi trời khác đều lần lượt trụ ở trên không. Từ đỉnh núi Tu-di cách dưới tám muôn du- thiện-na trở lên mỗi tầng trời cách nhau gấp bội. Cõi trời Dạ-ma cách mặt đất mười sáu muôn. Trời Tri túc cách đất ba mươi hai muôn. Trừ cõi trời Vô Vân cho đến trở lên đều y cứ theo đây nên biết. Các tầng trời cõi vô Sắc ở tại cõi Dục sắc, tùy theo trước nhập định mà liền thọ quả. Chẳng phải trời căn bản phía bắc tại núi Diệu cao là Bắc hải trở xuống có các loài bàng sanh nhỏ, tùy theo ở nơi bốn châu, như trước đã nói. Tướng thọ quả là: Nghóa là hữu tình Na-lặc-ca. Ở đây phần nhiều thọ dụng sự trị phạt cực khổ. Hữu tình bàng sanh phần nhiều là thọ dụng sự ăn nuốt cực khổ. Hữu tình ngạ quỷ phần nhiều là thọ dụng sự đói khát cực khổ. Hữu tình nhân thú: phần nhiều thọ dụng thiếu thốn nên truy cầu đủ loại cực khổ. Hữu tình cõi trời phần nhiều thọ dụng sự xuy não đọa lạc khổ. Tướng chịu khổ của tám địa ngục nóng là: Tướng khổ Đẳng hoạt: Hữu tình ở đây phần nhiều cùng nhóm họp. Do nghiệp tăng thượng sanh ra các thứ khổ cụ, lần lượt xuất hiện, lại tương tàn lẫn nhau, ngất xỉu ra đất. Kế là trên không trung có tiếng nói lớn: Chúng hữu tình này trở về ngục Đẳng hoạt, trở về Đẳng hoạt, như thế các khổ cụ lần lượt hiện ra, tiếp tục tàn hại lẫn nhau. Do nhân duyên này mà chịu khổ lâu dài. Nhẫn đến ở trong đời trước tạo ra các ác nghiệp chưa chưa thể ra. Tướng khổ Hắc-thằng: Nghóa là chúng hữu tình kia phần nhiều bị ngục tốt dùng dây đen trói lại, hoặc làm bốn phần hoặc làm tám phần. Hoặc làm thành các thứ đồ hoa văn tượng. Hoặc bị cưa bị chặt. Vì nhân duyên đó chịu khổ rất lâu. Nghiệp hết mới ra khỏi. Tướng khổ chúng hợp: Nghóa là chúng hữu tình kia hoặc lần lượt hòa hợp nhóm họp lại. Bấy giờ ngục tốt rượt đuổi ép ngặt vào giữa hai ngọn núi Thiết lớn ép lại, làm cho các cửa máu tuôn ra. Như thế núi Thiết đầu dê đầu ngựa sư tử, đầu hổ… lại chúng hòa hợp nghóa như đặt, các hữu tình có tôi vào trong máng sắt lớn, ép như ép mía, khiến máu tuông ra. Lại có nghóa từ trên núi thiếc lớn rơi xuống đất bằng thiếc bén, bị đâm, cắt, chặt, chém, cho đếnmáu tuôn xối xả. Chịu khổ như thế rất lâu, đến khi nghiệp hết mới ra. Các khổ này có ba: Bị hai núi bức ép lại. Bị ép. Rơi từ núi Thiết. Tướng khổ ngục Hào khiếu (kêu gào). Nghóa là hữu tình tự tìm đến nhà kia, liền rơi vào nhà Đại thiết. Vừa rơi vào đó thì lửa liền bốc cháy thiêu đốt khắp nơi, thật là ép ngặt khổ sở, phát lên kêu gào đau đớn. Chịu khổ lâu ngày, nghiệp hết mới ra khỏi. Tướng khổ ngục Đại Hào khiếu: Khác nhau với đây: Nghóa là vào nhà kia như rơi vào thai tạng, khổ hơn trước kia, bèn phát ra tiếng kêu lớn. Tướng khổ ngục Thiêu nhiên: Nghóa là ngục tốt đem các chúng hữu tình này đặt vào vô lượng chảo nướng, dời chuyển qua lại tựa như là nướng cá trên cây xuyên bằng sắt làm cho hữu tình kia các lỗ chân lông lửa đều phát cháy lên. Sau đó đem hữu tình đó đặt vào lò thiếc đốt như trước. Chịu khổ lâu dài cho đến nghiệp hết mới ra. Ở đây có ba điều khổ: a. Phải trái đều bị thiêu đốt; b. Xuyên vào cây sắt nướng; c. Bị đánh bằng cây thiết. Tướng khổ ngục Cực Thiêu nhiên: Đây có khác với trước. Nghóa là dùng ba cây sắt nóng lớn xuyên xuống dưới lên hai vai và ra tới đỉnh đầu. Do đó mà các lỗ chân lông từ mắt tai mũi miệng đều phát ra lửa cháy. Lại quăng ném, dộc ngược tội nhân, hoặc bỏ vào chảo đầy tro nóng sôi sùng sục, khiến hữu tình nổi lên chìm xuống máu thịt da mạch thảy đều tiêu tan, chỉ còn là xương lại rớt ra đặt trên đất thiết nóng, tất cả lại hoàn như cũ, tiếp tục bị hành tội như trước. Các sự khổ như thế liên tục không dứt, trải qua thời gian lâu xa chịu khổ cho đến khi hết nghiệp mới ra khỏi. Khổ này có ba: a. Bị cây xuyên qua; b. Bị trói bằng dây sắt; c. Nướng trên lửa. Là ở ngục Vô gián đại Na-lạc-ca, thọ các tướng khổ. Nghóa là ở phương Đông có ba thứ đại thiết nóng bức cả trăm du-thiện-na. Có ngọn lửa đỏ rực bay đến đốt hữu tình đó, xuyên vào da thịt xương cốt, cho đến cháy đến tủy não như là đuốc mỡ. Như thế cả thân đều thành như bó đuốc. Thân và lửa hòa hợp lại chỉ còn nhìn thấy lửa, lửa từ bốn phương tụ lại không có gián đoạn, chỉ nghe tiếng kêu gào khổ sở, nên biết là có chúng sanh trong đó. Quỷ sứ lại lấy nia sắt bỏ đầy than trong đó thiêu đốt thân tội nhân. Sau đó đặt vào núi thiếc. Trên đưa xuống dưới lại đưa lên trên núi từ miệng lưỡi bị kéo ra, dùng trăm đinh thiếc đóng vào. Đóng rồi căng ra như căng da trâu. Lại dùng các hòn sắt nóng đốt vào miệng. Dùng lửa đồng rót vào miệng thiêu cháy cả yết hầu, triệt hết phủ tạng. Chịu khổ dài lâu như thế, cho đến khi nghiệp hết mới ra. Khổ này có sáu: Bốn phương lửa cháy lên. Bị tro sắt, nia đâm. Lên xuống núi sắt. Đinh sắt đóng vào lưỡi. Nuốt sắt nóng. Nước đồng rót vào miệng. Trên đây đã nói các tướng khổ của Tám địa ngục nóng. Tướng khổ cận biên là: Mỗi đại địa ngục đều có bốn phương, bốn bờ, bốn cửa. Có tường sắt bao quanh. Từ bốn cửa trở ra thì hai cửa ngoài đều có bốn khu vườn: Cháy khét: Đầy khắp tới chân. Hữu tình chạy ra tìm nhà ở, rảo chạy đến đây, thì ở dưới chân thịt xương cốt đều bị cháy tiêu, khi giở chân lên thì da thịt hoàn lại như cũ. Phẩn thỉ: là phân cứt. Các hữu tình trước đã cầu ra khỏi nhà này rồi, dần dần chạy đến đây rơi vào trong hầm phân cứt này phần nhiều có các thứ trùng củ tra thân dài một thước, mỏ trắng, đầu đen, xuyên vào trong da thịt người rút tỉa gân cốt, lấy hết tủy để ăn. Vườn đao nhọn: Trong đây có ba: Một là: Đường đi có dao bén, để ngữa dao lên làm đường đi. Chúng hữu tình kia trước đã ra rồi nay lại đến đây. Khi chân bước xuống da thịt gân cốt thảy đều nát bấy, nhấc chân lên lại hoàn như cũ. Hai là vườn lá đao: Các hữu tình ra rồi, đến đây định ở dưới cây râm mát. Nhưng vừa ngồi xuống thì cơn gió nhẹ thổi đến lá kiếm rơi xuống, chặt bửa vào tứ chi thân thể, rơi nhào xuống đất, bị chó đen nhào tới giành ăn. Ba là: Rừng đao kiếm: Bị chó đuổi nên chạy theo đây, leo lên cây bị đao kiếm chém, định nhảy xuống thì đao kiếm hướng lên đâm. Sông nóng: Trong vườn có con sông lớn nước sôi sùng sục đầy khắp trong đó, các hữu tình tìm cầu nhà cửa. Từ ngục trên bước ra rồi thì rơi vào đây, cũng như bỏ hạt đậu vào trong chảo lớn, bị lửa thiêu đốt hầm nhừ. Tùy theo ngọn lửa đó tung lên rồi rớt xuống. Ở hai bên bờ sông có đầy ngục tốt tay cầm đao trượng và lưới lớn, vây quanh không cho tội nhân ra khỏi. Hoặc dùng dây hoặc dùng lưới trói lại rồi đem bỏ vào núi sắt nóng. Quỷ tốt lại hỏi: Các ngươi cần gì? Người tội đáp: Tôi chẳng còn biết gì nữa, chỉ bị đói khát ép ngặt khổ đau. Quỷ tốt liền lấy nước đồng rót vào miệng và lấy các viên sắt nóng đặt vào trong đó. Nếu người kia đáp: Tôi khát nước thì quỷ tốt lấy nước đồng rót vào miệng, chịu khổ lâu dài như thế đến khi hết nghiệp rồi mới ra. Ở trong địa ngục chịu khổ vô lượng. Xứ sở tuy nhỏ mà có nhiều thứ khổ cụ, chẳng thứ nào không đầy đủ. Tám địa ngục lạnh là: Địa ngục Pháo: Hữu tình thọ sanh ở đây thật là rộng lớn. Vì quá lạnh nên thân thể nổi ốc như ghẻ pháo. Địa ngục Pháo liệt : Cũng như pháo vỡ, lạnh làm vết thương lở loét máu mủ chảy ra. Hám triết cô. Hác hác phàm. Hổ hổ phàm. Ba địa ngục này, khi hữu tình thọ tội tiếng kêu khác nhau nên lấy đó gọi tên. Địa ngục Thanh liên hoa : Bị lạnh quá nên thân thể tách ra như hoa sen sanh. Địa ngục Hồng liên : Lạnh quá nên thân thể tách ra như hoa sen đỏ. Địa ngục Đại hồng liên : Thân thể tách ra như hoa sen đỏ lớn. Hoặc trăm hoặc nhiều loại bàng sanh cùng tàn hại nhau, thọ muôn thứ khổ, như kẻ yếu bị kẻ mạnh hơn sát hại. Vì không được tự tại nên bị kẻ khác xua đuổi. Phần nhiều là bị roi vọt và làm vật tư sanh (nuôi dưỡng) cho hàng trời người. Do nhân duyên này mà sự khổ não đến cùng cực. Cõi ngạ quỷ lược có ba thứ: Do chướng bên ngoài mà ngăn ngại sự uống ăn. Do nội chướng mà ngăn ngại sự uống ăn. Uống ăn không có chướng ngại. Do bên ngoài chướng uống ăn đó là do keo kiệt san tham mà sanh vào trong loài ngạ quỷ, thường bị đói khát, da thịt máu mủ huyết đều khô khan, như là tro than, đầu tóc rối loạn, mặt mày đen tối. Môi miệng khô khan, thường dùng lưỡi liếm vào mặt, sợ hãi đói khát đến đâu cũng bị xua đuổi. Nếu đến ao suối thì bị các loài hữu tình khác cầm dao gậy đuổi bắt không cho tới gần. Hoặc nếu có đến được thì thấy nước trong sông đó chỉ là máu mủ, nên không muốn uống. Đó là do ngoại chướng mà làm trở ngại việc ăn uống. Do nội chướng mà ngăn ngại việc ăn uống là: Hoặc do họng của hữu tình kia nhỏ như kim. Hoặc miệng như đuốc. Hoặc cổ nhỏ mà bụng quá to. Do nhân duyên này, nếu có đồ ăn uống không bị chướng ngại từ bên ngoài thì cũng không thể tự mình ăn uống được. Đó là do nội chướng làm trở ngại uống ăn. Uống ăn không có chướng ngại đó: Nghóa là có ngạ quỷ tên là Mãnh-diệm-man, mỗi khi ăn uống đều bị lửa thiêu đốt. Do đấy mà thường bị đói khát khổ sở. Lại có ngạ quỷ gọi là ăn phẩn uế. Hoặc có một phần thì ăn phân nước tiểu. Hoặc một phần ăn các thứ nhàm ác, nhờm gớm, sống chín. Nếu có đồ mỹ vị thì không thể ăn được. Hoặc có một phần tự cắt thân thịt của mình mà ăn. Nếu có thức ăn khác thì không thể ăn được. Như thế thì gọi là uống ăn không có chướng ngại. Ở trong cõi người phần nhiều là chịu khổ. Nghóa là sanh ra những nơi đói khát thiếu thốn bần cùng khốn khó. Chỗ mong muốn không đầy đủ, ăn uống khổ sở thiếu thốn. Nếu như thời gian thay đổi, hoặc nóng hoặc lạnh thì ở nơi tối tăm cực khổ túng thiếu, làm việc gì cũng bị chướng ngại hư hao thiếu thốn lại bị biến hoại của già bệnh chết. Do khổ này mà ở trong Na-lạc-ca gọi chết là vui, cho nên ở cõi đó không lập là khổ. Ở trong cõi Trời không giải thích chi tiết khổ có khổ bị đọa chết. Như trong kinh nói: Có chư Thiên khi sắp chết, thì trước tiên năm tướng suy hiện ra: Áo hiện ra dơ bẩn. Hoa trên đầu héo rụng. Hai nách ra mồ hôi. Thân bị nhờm gớm. Trời và Thiên tử không thích ngồi tòa của mình. Lúc ấy chư Thiên này theo ngủ trong rừng, có các chư Thiên và thể nữ cùng đến vui chơi. Vị kia thấy vậy càng sanh ưu não, lại chịu khổ bị khinh thường. Do họ có phước đức rộng lớn thành tựu và lúc sanh thời Thiên tử ở trong ngũ dục rộng lớn. Vị Thiên tử cũ do phước đã cạn nên trông thấy liền sợ hãi mà chịu ưu khổ. Trên đây nói là chung cả lục dục thiên, phần dưới nói hai cõi Trời lại chịu sự khổ tàn hại chém giết xua đuổi. Do cùng với Phi thiên đấu chiến lẫn nhau. Thiên cùng Phi thiên trái ngược nhau. Tức cầm tứ trượng là kim ngân, pha lê, lưu ly, cùng đánh nhau chí tử. Bấy giờ chư Thiên và Phi thiên hoặc bị đứt tay chân, hoặc tàn phá thân thể, hoặc bị chết. Nếu thân bị thương hay đứt tay chân thì hoàn lại như cũ. Nếu bị đứt đầu thì chết. Thiên cùng Phi thiên đều có lực mạnh. Nhưng Thiên phần nhiều có thế lực mạnh hơn. Nhưng hai cõi này nếu bên nào bị thua, liền lui nhập vào tự cung, không được an ủi từ đồng loại. Do nhân duyên này liền ôm lòng ưu não. Nếu Thiên thắng liền vào của Phi thiên cướp lấy, gái đẹp, khởi đánh. Nếu Phi thiên đánh thắng liền vào thiên cung mong cầu bốn thứ Tô-đà vị mới sanh ra tranh chấp đánh nhau. Lại có một Thiên tử có lực mạnh, vừa mới phát phẫn nộ, các trời yếu kém hơn liền bị đuổi ra khỏi tự cung. Thế nên nói chư Thiên thọ ba điều khổ là: Khổ vì chết bị đọa, khổ bị lăng nhục, khổ vì bị tàn hại xua đuổi. Trên là nói khổ ở Cõi Dục. Hữu tình cõi Sắc, Vô sắc không có những khổ như thế. Do hữu tình này chẳng phải chịu khổ khí. Nhưng do các khổ thô nặng. Nói kia khổ là có phiền não có định chướng. Đối với việc chết và ở không được tự tại. Do đây mà Ba cõi đều có khổ, không có gì ưa thích. Chỉ có cõi vô lậu thì vónh viễn dứt trừ các khổ thô nặng. Thế nên chỉ tu kinh này mới có được sự an lạc thắng nghóa. Trên là nói về quả tướng, tiếp nói thọ lượng: Người ở Thiệm-bộ châu tuổi thọ không nhất định. Cõi người lấy ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm. Hoặc có lúc tuổi thọ vô lượng tuổi, chính là kiếp thành hoại. Hoặc có một thời thọ tám muôn tuổi, là kiếp trụ, bắt đầu giảm; hoặc ở vào một thời, tuổi thọ dần dần giảm chỉ còn mười tuổi. Đây là thời tam tai nổi lên. Người ở Đông-tỳ-đề-ha, tuổi thọ tăng nhất định hai trăm năm mươi tuổi. Người Tây-cù-đà-ni tuổi thọ tăng nhất định lên năm trăm tuổi. Bắc Câu lô châu thọ nhất định một ngàn tuổi. Lại ở nhân gian năm mươi năm là một ngày một đêm ở Tứ Thiên vương, chư Thiên lấy số năm này làm tháng. Các tháng này tích tụ thành năm. Cõi kia tuổi thọ năm trăm tuổi. Ở nhân gian một trăm tuổi là một ngày một đêm ở cõi Tam thập tam thiên, lấy số này làm năm tháng thì Trời kia tuổi thọ ngàn tuổi. Như thế cho đến cõi Tha hóa tự tại thiên một ngày một đêm, và tuổi thọ tăng hơn trước gấp bội. Lại chư Thiên ở cõi Tứ Thiên vương đầy đủ năm trăm tuổi, bằng một ngày một đêm ở địa ngục Đẳng hoạt đại Na-lạc-ca. Lấy đây tích tụ làm năm tháng mà địa ngục tuổi thọ tới năm trăm tuổi. Như thế lấy thọ lượng của trời Đao-lợi tích ra tuổi thọ của địa ngục Hắc-thằng. Lấy thọ lượng của cõi trời Thời phần tích thành thọ lượng của chúng hợp. Lấy thọ lượng của cõi trời Tri túc tích thành thọ lượng của địa ngục Hào khiếu (kêu gào). Lấy thọ lượng của cõi trời Lạc biến hóa tích thành thọ lượng của địa ngục Đại hào khiếu. Lấy thọ lượng của trời Tha hóa tự tại thiên tích thành thọ lượng của ngục Thiêu nhiên (lửa cháy), thọ lượng của ngục Cực Thiêu nhiên bằng nửa trung kiếp. Tuổi thọ của Vô gián địa ngục là một trung kiếp. Nghóa là như từ tám muôn tuổi giảm đến mười tuổi. Từ mười tuổi lại tăng lên tám muôn tuổi thì gọi là một trung kiếp. Đó là kiếp lượng của Vô gián địa ngục, Thọ lượng của phi thiên như trời Tam thập tam thiên. Thọ lượng của loài bàng sanh, ngạ quỷ thì không nhất định. Lại tám địa ngục lạnh bằng tám đại địa ngục nhiệt, thứ lớp đối nhau, thọ lượng gần một nửa. Trong hai địa ngục Cận biên và Cô độc về thọ lượng thì không nhất định. Trên đây đã nói về thọ lượng trong năm đường ở Cõi Dục. Thọ lượng của trời Phạm chúng là hai mươi trung kiếp của một kiếp. Trời Phạm phụ thọ đến bốn mươi trung kiếp trong một kiếp. Đại Phạm thiên thọ sáu mươi trung kiếp trong một kiếp. Trời Thiểu quang thọ tám mươi trung kiếp trong hai kiếp. Thọ lượng của chư Thiên trở lên dần tăng lên gấp bội, chỉ trừ cõi Vô vân nên biết cõi trời kia thọ lượng giảm ba kiếp. Cõi trời Không vô biên xứ thọ hai muôn kiếp. Thức vô biên xứ thọ bốn muôn kiếp. Vô sở hữu xứ thọ sáu muôn kiếp. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thọ tám muôn kiếp. Trừ Bắc Cu lô châu thì tất cả cõi đều có trung yểu (chết yểu). Tuy tất cả đều là hóa sanh thân chết mà không bị nhơ uế. Nhưng thời nay, người quỷ đều có thân và có nhơ uế. Trời và địa ngục cùng thức đều mất mà không có thân nhơ uế. Nhưng khinh Chánh pháp niệm nói: Một trăm ba mươi sáu địa ngục đó: Tám đại địa ngục mỗi mỗi đều có mười sáu cận biên, bốn cửa viên quán. Tính có một trăm hai mươi tám chỗ, cùng tám ngục căn bản, hợp thành một trăm ba mươi sáu, không tính Bát hàn và Cô độc. Nếu tính ở đây thì địa ngục rất nhiều. Trong luận Du-già nói: Cách đây khoảng ba muôn hai ngàn do- tuần có địa ngục Đẳng hoạt, thì biết địa ngục ở dưới châu đây. Các nói Tiểu thừa nói khác nhau. Nếu y theo kinh Chánh pháp niệm thì đại địa ngục ở dưới núi Tu-di. Ở trên là nói tuổi thọ, về lượng của thân thì người ở Thiệm-bộ châu thân lượng không nhất định. Hoặc là cao lớn. Hoặc là nhỏ hẹp, nhưng đều tùy từ một tay, đến ba khủyu rưỡi. Người ở ba châu khác cũng tính như vậy. Thân hoặc cao lớn như trời Tứ Thiên vương thân lượng bằng một phần tư Câu-lư-xá. Thân ở tầng trời Ba mươi ba lại tăng lên một túc. Một túc là một phần tám của Câu-lư-xá. Thân của Đế Thích bằng nửa Câu-lư-xá. Thân lượng của Thời phần thiên cũng bằng nửa Câu-lư-xá. Trên đây là thân lượng củA-dục thiên, dần dần tăng lên một túc. Trời Phạm chúng bằng nửa du-thiện-na. Trời Phạm phụ bằng một du-thiện-na. Trời Đại phạm bằng một rưỡi du-thiện-na. Trời Thiểu quang bằng hai du-thiện-na. Các cõi trời trở lên dần tăng lên gấp bội. Trừ Vô vân thì nên biết cõi trời kia dần giảm ba thiện-na. Cõi Vô sắc vô hình thì không nói về thân lượng. Nhưng trong luận lại nói trời Sắc, Vô sắc biến thân khắp cả muôn ức. Kinh Nhân Vương liệt kệ chúng cõi Vô sắc. Kinh A-hàm thì nói cõi trời Vô sắc khi khóc rơi xuống như là hạt mưa mùa xuân (mưa bụi), đứng ở bên Phật đều là hóa làm. tùy thời lớn nhỏ mà chẳng phải thân nghiệp quả. Trong đại địa ngục thân lượng không nhất định. Hoặc do thêm lớn nghiệp bất thiện rất năng mà cảm thân rộng lớn. Các nơi khác thì không như vậy. Địa ngục lạnh chỉ có một lượng gần gũi biên, Bàng sanh, Ngạ quỷ cũng vậy. Thân của chúng Phi thiên bằng thân cõi trời Đao-lợi: Đây là nói về thân căn bản Phi thiên. Như ở cõi này thân lượng liền nhỏ không nhất định. Dựa lược dựa theo nghóa chính mà phân biệt các đường, tất cả nghóa khác như lý nên biết. giải thích như kinh văn thì Tiếng Phạn gọi là A-tỳ chí, đây gọi là Vô gián. Du-già giải thích là chịu khổ không gián đoạn, lửa đốt không gián đoạn, do chê bai kinh này. Thọ đầy đủ một kiếp là trung một kiếp. Mạng tận cùng đến hết kiếp này lại như thế lần lượt đến vô số kiếp. Trong kinh Bát-nhã nói: Chê bai Đại thừa thọ tội địa ngục ở phương này hết thì sanh về Đông phương. Như thế trải qua lần lượt cả mười phương địa ngục. Hết mười phương địa ngục thì sanh lại đây. Cho nên kinh đây nói: “Như thế lần lượt đến vô lượng kiếp” không phải chỉ đọa vào ngục Vô gián, mà còn đọa vào ngục khác. Trong đây chỉ riêng nêu một chỗ rất ngặng. Đây tuy chỉ có một nghiệp mà từ khi mới thọ mà gọi là sanh báo. Ba thừa thông nghịch: Nghóa là giết cha, hại mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng. Trong kinh Tát-giá-ni-càn-tử nói tội ngũ nghịch của Đại thừa là: Phá tháp hoại chùa, thiêu đốt kinh tượng, trộm tài vật của Tam bảo. Chê bai pháp Ba thừa, nói chẳng phải là Thánh pháp, làm chướng ngại lưu nạn, ẩn che tội lỗi. Đối với tất cả người xuất gia, có giới hay không giới, trì giới hay phá giới, đều đánh mắng quở trách, nói lỗi của người, đẩy họ vào lao ngục. Hoặc cởi cà sa bắt phải hoàn tục. Hoặc bắt bớ xua đuổi đánh đập. Giết cha hại mẹ, làm thân Phật ra máu, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng. Khởi đại tà kiến, chê bai cho là không có nhân quả. Trải qua thời gian lâu dài làm các nghiệp bất thiện. Nay không tin kinh này, đọa vào ngục Vô gián lần lượt cho đến vô số kiếp. Câu-xá Luận chép: Trong tội ngũ nghịch phá hòa hợp tăng là nặng nhất. Nhất định phải chịu khổ trong ngục Vô gián một kiếp. Nay tội còn hơn đây, nên nói hết kiếp sanh lại… Kinh: “Từ địa ngục ra… thọ tội báo này.” Tán: Đoạn thứ hai có mười hàng tụng rưỡi. Thọ báo súc sanh có bốn phần: Ba hàng rưỡi thọ quả làm chó giả-can. Hai hàng tụng thọ quả làm lừa, lạc-đà. Hai hàng tụng thọ quả Dã can. Ba hàng tụng làm thân rắn. Chữ Súc có nghóa là lục súc. Nay từ đầu nói: Một nghiệp Đại thừa có thể cảm nhiều quả. Từ đầu đặt tên đều là do quả kia. Trong đây nói từ địa ngục ra thì đọa vào súc sanh. Phần dưới y theo đây nên biết. Kinh: Như làm Lạc-đà… mắc tội như thế. Tán: Hai hàng tụng nói làm lạc-đà, làm lừa. Đây có bốn quả: Mang nặng. Bị roi vọt. Nghó đến ăn uống. Vô tri. Kinh: “Có khi làm Dã can… hoặc có lúc phải chết. Tán: Thọ quả Dã can có bốn quả: Ghẻ lở. Chột mắt cũng không có hai. Nếu tin Tiểu thừa thì sẽ không tin Đại thừa, cho nên nói chột mắt. Bị đánh ném. Đến chết. Kinh: Chết ở đây rồi cho đến đắc tội như thế. Tán: Thọ quả thân mãng xà (trăn). Có năm: Thân to lớn. Điếc. Ngu xuẩn. Không chân. Ăn trùng nhỏ. Kinh: “Nếu được làm người chẳng đến chỗ nương tựa.” Tán: Có mười hàng tụng. Nói quả làm người xấu xí. Có hai phần: Bảy hàng tụng nói có ác báo. Ba hàng tụng sau nói không có quả thiện. Bảy hàng đầu lại chia làm bốn phần: Ba hàng tụng về hình hình dung xấu ác. Một hàng tụng nói không nơi nương tựa. Hai hàng tụng nói không có phước đức. Một hàng tụng nói bị tai ương. Có mười bảy hình dung xấu ác: Ám độn. Thấp, lùn. Hôi hám. Bệnh hoạn yếu đuối. Tật nguyền. Mù. Điếc. Lưng gù. Người không tin. Miệng hôi. Quỷ dựa nhập. Nghèo cùng. Hạ tiện (thấp hèn). Bị người sai xử. Thường bệnh. Gầy ốm. Không nơi nương tựa. Một hàng tụng đầu là quả của ý nghiệp. Một hàng tụng về quả của ngữ nghiệp. Một hàng tụng quả của thân nghiệp. Đều do ý dẫn đầu mà gây ra các tệ lậu. Kinh: “Tuy gần gũi người cho đến nhưng lại quên mất.” Tán: Không nơi nương tựa. Kinh: “Nếu học theo ngành thuốc cho đến mà bệnh càng thêm nặng”. Tán: Nói về bạc phước, có hai quả có thể biết. Kinh: Hoặc người kia phản nghịch cho đến bất chợt phải tai ương. Tán: Nói bất chợt gặp tai ương. Tức người khác cưỡng lấy vật, trộm cắp, lấy vật phi lý. Là mắc tội phi lý vậy. Kinh: “Như người tội này cho đến không bao giờ được nghe pháp.” Tán: Ba hàng tụng về không có thiện quả. Có ba ý: Một hàng tụng nói không thấy Phật. Một hàng tụng nói không nghe pháp. Một hàng tụng nói về căn thường thiếut. Kinh: Trải qua vô lượng kiếp cho đến các căn chẳng đầy đủ”. Tụng đầu nói một nạn sanh vào thời trước sau Phật. Tụng thứ hai nêu sáu nạn: Địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, Bắc châu, trời trường thọ sanh ở chỗ có nan. Thế trí biện thông là nạn vì tâm cuồng loạn không bao giờ được nghe pháp. Tụng thứ ba có một nạn là các căn không đầy đủ. Gồm có tám nạn, nên không có thiện. Kinh: “Thường ở địa ngục cho đến đắc tội như thế ấy”. Tán: Có sáu hàng tụng. Nói chung, trải qua bốn đường; chịu quả tăng thượng, đẳng lưu. Chia làm bốn: Nửa hàng đầu tụng về địa ngục. Nửa hàng tụng ngạ quỷ. Một hàng tụng súc sanh. Bốn hàng tụng người ác. Đây nêu ba phần đầu. Viên quán: Là lầu quán (quán trên lầu). Như nhà gọi là quán. Đường ác khác là ngạ quỷ v.v…. Vì chê bai chánh pháp nên ở nơi không thuận việc tu học, sanh vào cõi quỷ. Kinh: “Nếu được làm người cho đến lấy làm y phục.” Tán: Bốn hàng tụng của quả người ác. Có bốn: Một hàng tụng các nghiêm ác. Một hàng tụng các y phục xấu. Nửa hàng tụng về hình trạng xấu. Một hàng rưỡi tụng hành vi ác. Đây nói hai phần đầu. Á là câm không thể nói, âm là ngọng. Kinh: Thân thể thường hôi hám cho đến đắc tội như thế. Tán: Đây nói về hình trạng và việc làm xấu. Vì tham đắm ngã kiến sâu xa mà si mê tăng thượng. Tham sân cũng vậy. Kinh: “Bảo Xá-lợi-phất cho đến chớ nói kinh này.” Tán: Trên là hai mươi tám hàng tụng nói về quả của sự không tin. Đây là hai hàng tụng kết lại. Kinh: “Nếu có người lợi căn cho đến thì có thể nói kinh này cho đến” Tán: Có mười chín hàng tụng. Đã chỉ cho biết sự phải trái xong, để cho người học biết mà tránh ác làm lành. Trên đã nói ba đoạn, nay là đoạn thứ tư mười chín hàng tụng nói: Ở chỗ có người hiểu biết thì nên nói pháp. Có hai phần: Mười bảy hàng tụng: Nên nói tướng cho họ nghe. Hai hàng sau kết lại. Mười bảy hàng đầu lại chia làm ba: Một hàng tụng rưỡi: Từ lúc chưa phát tâm, đến nay, nhưng ng- hiệm đã có chủng tánh. Nên Phật nói kinh Pháp Hoa cho nghe. Mười hàng tụng rưỡi: Tuy đã phát tâm có tu tập lục độ mà có thể nói pháp cho nghe. Năm hàng tụng tuy có tánh tu tập lại có tâm trọng pháp cầu pháp mới có thể nói cho họ nghe pháp cho nghe. Phần đầu nghiệm có sáu đức: Lợi căn nghe thì mau hiểu. Trí tuệ phân biệt phải trái. Sáng suốt không có mê muội. Học rộng trước đã có học. Trí thức mạnh mẽ, tinh thần sảng khóai. Nói kinh Pháp Hoa, Thích Cầu Phật đạo chẳng phải cầu đạo khác. Người thích vượt ra thế tục. Hoặc mong cầu giác ngộ, không thích ngu mê thì mới nói pháp. Kinh: Nếu lại từng thấy cho đến mới có thể nói pháp. Tán: Tuy đã phát tâm, mà có tu tập lục độ. Một hàng tụng rưỡi từng tu tập pháp thí. Một hàng tụng huân tập tinh tấn. Một hàng rưỡi tụng huân tập thiền định. Ba hàng tụng huân tập về giới. Một hàng rưỡi tụng huân tập về nhẫn. Hai hàng tụng huân tập về Tuệ. Một hàng đầu nói: Từng đã gặp Phật huân tập pháp thí đã lâu xa, nên có thể vì họ mà nói. Phần dưới đây cũng nghiêm xét tùy theo sự việc như Bồ-tát địa thì mới kham nói. Kinh: “Nếu người tinh tấn cho đến mới nên nói cho họ nghe.” Tán: Một hàng tụng về cần, một hàng rưỡi tụng về định. Kinh: “Lại Xá-lợi-phất cho đến mới nên nói cho họ nghe.” Tán: Đây là ba hàng tụng về tu tập giới. Một hàng tụng rưỡi nói về bỏ ác gần gũi duyên lành. Trong phẩm An Lạc Hạnh sẽ nói về tướng. Một hàng rưỡi sau tụng giữ tịnh giới vững chắc. Kinh: “Nếu người không sân cho đến có thể nói cho họ nghe.” Tán: Một hàng tụng rưỡi tu tập pháp nhẫn. Hai hàng tụng về tuệ, an thọ ngay thẳng trong khổ nhẫn, nhẫn chịu sự oán hại nhẫn. Kính Phật và quán sát thật rõ pháp nhẫn. Kinh: “Nếu có Tỳ-kheo cho đến có thể vì họ mà nói.” Tán: Năm hàng tụng về cầu trọng pháp. Chia ra hai: Hai hàng tụng rưỡi chuyên cầu Đại thừa. Hai hàng rưỡi chân thật cầu Đại thừa. Phần đầu lại có hai: Một hàng tụng về cầu pháp mà cung kính thọ. Một hàng tụng rưỡi không cầu kinh khác. Kinh khác là các kinh Tiểu thừa. Kinh Thiện Giới nói: Học nội điển Đại thừa chưa rốt ráo, thì không nên học các thừa khác. Còn đối với Tứ minh luận, nếu nội học đã rốt ráo, hằng ngày thường trong đó hai phần học Đại thừa nội minh, một phần các kinh khác. Còn trong kinh này hoàn toàn không cho học một bài kệ trong kinh khác. Y theo sơ học để thường chuyên cầu. Học lâu gồm cả tu. Kinh: Như người dốc lòng cho đến có thể nói cho họ nghe. Tán: Đây là nói chân thật cầu. Có hai: Một hàng tụng về cầu pháp. Một hàng rưỡi nói không cầu. Dốc lòng đối với ngoại điển không xem nhẹ. Bỏ giáo pháp ngoại đạo, nên có thể nói cho họ nghe, lòng chí thành cảm thần, thì chắc chắn thành Thánh. Kinh: “Bảo với Xá-lợi-phất! cho đến Diệu Pháp Liên Hoa.” Tán: Đối với người hiểu biết thì nên nói cho họ nghe. Trong có hai: Trên là ứng vì nói tướng, ở đây là phần kết. Tăng Viên Như Phòng viết xong tại chùa Hưng phước vào ngày 04 tháng 12 niên hiệu Bảo An năm thứ ba. Chùa Pháp long, Tăng Giác Ấn, muốn chánh pháp tồn tại lâu dài, vãng sanh Cực lạc.  HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 6 (PHẦN CUỐI) PHẨM TÍN HIỂU Chia làm ba môn : Lý do có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải thích chướng ngại Phần đầu có hai ý: Nói ngài Thu Tử là bậc thượng căn nghe pháp nói liền vui mừng lãnh thọ. Bốn hạng người trung căn, nương theo dụ nói mà tỏ hiểu, nên sau phẩm Thí dụ thì có phẩm Tín hiểu. Luận giải thích chúng sanh có đủ bảy thứ phiền não tăng thượng mạn. Vì để đối trừ nên nói bảy thí dụ. Trong phẩm trước vì người Tăng thượng mạn thứ nhất, cầu thế lực, khởi điên đảo cầu công đức, cầu quả báo mầu nhiệm ở cảnh giới trời người. vì những người này mà Phật nói ví dụ nhà lửa. Phẩm này vì người Tăng thượng mạn thứ hai cầu Thanh-văn giải thoát, đều là tăng thượng mạn. Cho rằng: Thừa của ta không khác với thừa cùa Như-lai. Vì thủ chấp điên đảo như thế, mà cầu pháp Thanh-văn giải thoát, để đối trị hạng này nên nói thí dụ Cùng tử. Trước nói thừa vô vi, sau nói thừa không khác chỉ là một. Phật khuyên tin nhập Đại thừa, kia liền mê chấp. Nay so sánh đứa con cùng tử với Trưởng giả, thừa hữu vi khác với thừa trước để khuyên bỏ mê đắm. Cho nên kế phẩm trước lại phát sanh phẩm này. Giải thích danh: Lược có bốn môn: Trừ nghi gọi là Tin, phá mê gọi là Giải. Bốn hạng người xưa nghi ngờ là mình không thể thành Phật, nên tâm không ưa thích Bồ-đề. Đối với chánh giác cũng không thể ngộ, do đó mà ngồi trong pháp tòa thân thể mỏi mệt. Đã nghe dụ nói cũng đồng như Thu Tử ở trước, tâm nghi hối liền dứt, cho nên gọi là tín hiểu. Tín tức là tịnh tâm nhẫn dục. Giải là diệu trí ấn chứng điều mong. Tin đã thành Phật hiểu ý Phật nói. Tín dứt trừ bất tín. Giải là để phá sự bất giải, xưa hiểu liền ba thừa mà không tin một thừa. Hoặc tin ba mà không hiểu một. Nay thì hiểu một mà tin cả ba, hiểu ba mà cũng tin một. Vì tâm thanh tịnh lại biết nên gọi làø Tín hiểu. Tín tức là tâm tịnh có thể hiểu. Giải là lý rõ ràng có thể đạt được. Giải sâu mà tin cạn, nên trước sau đều nói: Do tín mà thể nhập vào nền tảng Đại thừa. Do giải cho nên tác chứng căn bản của chân tông. Cả hai đều có thể, cả hai nêu ra nên gọi là tín hiểu. Tin tức là ấn thuận lại chỗ nghe mà đặt tên. Giải là ngộ hướng đến quyền thật mà gọi. Với quyền với thực thảy đều tín hiểu. Tin thấy rõ là do người khác, giải là do tự ngộ. Trước đã nói Thanh-văn tin lời Phật nói, cho nên thuận theo kinh này, chẳng phải trí phân của mình nên hiển bày do nhờ Phật mà bốn người mới tin. Đã có tin rồi, tự so sánh mà giải sanh thì sẽ tự hiểu, nên gọi là tín hiểu. Tin là thuận với người dùng tâm tịnh, hiểu là rõ được mình mà có thể biết người. Đối với người và pháp cùng tin cùng hiểu. Tín, giải cả hai đều có phân biệt: Hàng độn căn chánh kiến tin mà không hiểu. Người lợi căn tà kiến hiểu mà không tin. Người lợi căn chánh kiến cũng tin cũng hiểu. Độn căn tà kiến thì không tin không hiểu. Lại phàm phu sơ tâm tin mà chưa hiểu. Hàng Bồ-tát Thập địa chứng giải nên đã tin. Hàng Địa tiền nhập đạo do tin mà hiểu. Nhất Xiển-đề không tin không hiểu. Nay tóm lược cả hai là giải của tín là chẳng phải tín mà không giải, chẳng phải giải mà không tín. Tín mà hiểu đó gọi là tín hiểu. Đều giữ theo câu thứ ba. Tín là tâm tịnh định hướng, hiểu là trí sâu giác ngộ. Đối và giáo với lý đều tin đều hiểu. Đó là so sánh mà giải thích. Tùy theo nghóa tăng đó mà hiểu được giáo ý thật quyền. Tín là trở về yếu chỉ của Nhất thừa, đối với lý chưa chứng nên không nói hiểu, dùng nghóa luận chung nên đều duyên vào giáo lý, vừa tín vừa tức là trì nghiệp thích. Giải thích chướng nạn: Y theo Tỳ-bà-sa mà nói Thanh-văn có ba phẩm. Thượng căn chỉ có một, tức ngài Xá-lợi-phất, tự trong sáu mươi kiếp từng luyện căn. Hạng trung căn cũng một, như ngài Mục- kiền-liên. Còn lại các Thanh-văn khác đều thuộc về hạ tánh. Vì sao hôm nay bốn hạng người lãnh hội đều là người trung căn? Đáp: Ngài Thu Tử trước khi giác ngộ, chưa thấu hiểu được tông kia. Bốn người là trung căn đâu trái với lý này, chỉ là đối với các Thanh- văn mà so sánh. Như nói trung phẩm chỉ có Mục-kiền-liên là để các Thanh-văn khác phát hướng về đại tánh quy tâm, bao gồm cả bốn người thì có gì sai! Vả lại, như sự ngộ không của Thiện Hiện, tài biện nói của Mẫn Từ, trì luật của Ba-ly, Đầu-đà như Ca-diếp. Mỗi vị đều có một hạnh cao quý đâu cần khả năng bằng nhau. Cho nên nói cả bốn vị đều là trung căn trung đâu trái với ý thú chân thật. Hỏi: Vì sao trong luận bảy dụ gọi là cùng tử, mà trong kinh phẩm đề là tín hiểu? Đáp: Tin hiểu là gốc mới có thể nói thí dụ, luận vì phá bệnh của cùng tử nên lấy đó đặt tên. Kinh là từ nơi pháp căn bản mà gọi là tín hiểu căn cứ ở nghóa mạnh mà đặt tên, đâu mệt làm so sánh. Kinh: “Bấy giờ Tuệ mạng cho đến vui mừng hớn hở.” Tán: Phẩm này trong văn chính có ba phần: Nêu sự vui mừng kính tín của bốn vị. Thuật lại sự lãnh hội của bốn vị. Trình bày sự mang ân của bốn vị. Như kệ tụng dứơi nói: “Ân lớn của Thế tôn” Phần một nói hai ý: Vui mừng và Kính ngưỡng. Tuệ Mạng nên gọi là Cụ thọ theo thế tục, đều là yêu thích thân mạng lâu dài. Bậc Thánh dùng trí tuệ quý giá làm tuổi thọ. Cả hai ước nguyện đều thành tựu nên nói Cụ thọ, chỉ nói tuệ mạng không thì chưa đủ. Lại trong kinh Bát-nhã, ngài Chân đế gọi tịnh mạng là y cứ vào đoạn đức. Tuệ mạng là y cứ vào trí đức, nay nói Cụ thọ là đầy đủ hai đức trí và đoạn . Nếu chỉ nói tuệ mạng thì nghóa còn thiếu. Ba vị kia thì dùng tánh mà gọi, lược Tiểu lấy Đại để nêu tên. Thiện Hiện dùng đức để rõ đề, chỉ dùng tuệ mạng là nêu đức. Gần nghe dụ nói được điều chưa hề có, xa nghe thọ ký thì sanh vui mừng. Nghóa của chữ Dũng dược (hớn hở) thì xa gần đều nói, hoặc pháp chưa hề có tức là được thọ ký thành Phật. Kinh: “Liền từ chỗ ngồi đứng dậy cho đến mà bạch Phật rằng:” Tán: Là nói về sự kính ngưỡng, tiêu biểu có chín nghóa: Đứng dậy khỏi chỗ ngồi là tiêu biểu Nhị thừa phát đại tâm. Sửa y phục ngây ngắn, tiêu biểu thọ trì đầy đủ giới Bồ-tát. Vén y bày vai phải: tiêu biểu Nhất thừa là việc tốt lành. Quỳ gối phải xuống đất là tiêu biểu hàng phục tâm chấp Nhị thừa xưa kia. Nhất tâm là tiêu biểu chuyên cầu Đại thừa không thọ một câu kệ kinh khác. thật. Chấp tay biểu thị tâm mê nghe Phật nói mà biết rõ pháp quyền Cúi mình cung kính là tự thân tâm đều cúi mình thuận theo. Chiêm ngưỡng tôn nhan là biểu thị tâm quán giáo lý, thấy hai thân pháp thân và hóa thân. Bạch với Phật là thể hiện sự tín hiểu. Kinh: “Chúng con là bậc thượng thủ ở trong tăng cho đến Tam- miệu Tam-bồ-đề.” Tán: Đoạn thứ hai nêu thuật lại sự lãnh hội của bốn người. Đầu tiên là phần Văn xuôi sau là kệ tụng. Văn xuôi nói ba phần. Lãnh hội pháp, lãnh hội thí dụ và lãnh hội hợp nói. Lãnh hội pháp có hai ý: Xưa chúng con không mong, nay nói chúng con đều được. từ câu: “Chúng con hôm nay ở trước Phật v.v…” Là nói rõ xưa không mong. Phật xưa nói quyền nên con học theo pháp quyền. Trước khi có hội Pháp Hoa chưa mong cầu chứng được pháp thật của Nhất thừa, mà sẽ thành Phật. Nay đều được tức là nay nghe pháp Nhất thừa sẽ được thành Phật. lãnh hội được ý Phật trước nói quyền, sau giáo hóa thật. Ý đầu tiên văn có lược, rộng. Lược có bốn ý: Đứng đầu trong tăng, đức cao vọng trọng. Tuổi đều già lụn, răng long sức yếu. Tự cho đã đắc Niết-bàn, khổ dứt tâm thư thái. Không còn đảm đương việc gì nữa, tánh tình an phận. Do bốn nghóa này mà không có chí mong cầu, không có ý thắng tiến, cho nên xưa không mong cầu Đại thừa. Kinh: “Thế tôn xưa kia cho đến tâm không hỷ lạc.” Tán: Nói rộng về không mong cầu. Trước tiên là nói việc xưa, sau giải thích lý do. Phần đầu lại có hai: Phần đầu: Chỉ tu tự hành. Khi Phật nói các kinh Bát-nhã, chỉ niệm không, vô tướng, vô tác. Về sau không thích Đại thừa. Đức Thế tôn xưa kia đã nói kinh Bát-nhã cho các Bồ-tát. Vì không thích ngộ nên thân tâm chúng con mệt mỏi, bèn tu tam quán. Dùng không mà nhiếp nhị hành. Nghóa là không, vô ngã quán chúng sanh là Không, Vô tướng nhiếp bốn hành của bốn diệt đế. Quán Niết-bàn vô tướng, vô tác tức là Vô nguyện nhiếp mười hành khác. Khổ đế bên dưới có hai hành. Tập đế, Khổ đế mỗi đế có bốn. Quán các pháp hữu vi là tất cả Vô nguyện, các đế này có cả hữu lậu vô lậu, thuộc về ba tuệ, không nói Tam-muội. Các nghóa khác đều như trong Du-già quyển mười hai có giải thích. Đây là y theo ba thứ quán của Thanh-văn. Nói không trình bày về Bồ-tát quán. Đối với pháp Bồ-tát là ba mươi bảy pháp phần Bồ- đề, lược làm bảy vị: Tứ niệm trụ: Thân, thọ, tâm, pháp lấy tuệ làm tự thể. Nghóa là do niệm lực mà tuệ ở nơi cảnh trụ. Tứ chánh đoạn: Là luật dứt đoạn, đoạn đoạn, phòng hộ đoạn, tu tập đoạn. Lấy tinh tấn làm thể. Tinh tấn khởi dụng có thể tu đoạn. Tứ thần túc: Là dục, cần, tâm, quán. Dùng định làm thể. Vì bốn thứ này mà tu định. Ngũ căn: Tín, cần, niệm, định, tuệ. Theo tên gọi lấy năm căn làm thể, sanh ra thiện pháp. Ngũ lực: Thể là ngũ căn. Vì khó khuất phục, cho nên lìa căn mà lập riêng. Thất giác chi: Là trạch pháp, tinh tấn, hỷ, niệm, định, xả, khinh an. hỷ. Ba của biệt cảnh: Trạch pháp, niệm, định. Ba của thiện số: Cần, xả, khinh an. Một là biến hành nghóa là Bát thánh đạo: Là chánh kiến, chánh suy nghó, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh niệm, chánh định và chánh tinh tấn. Chánh suy nghó là lấy tuệ làm tánh, có thể phát ra ngôn ngữ chung cả Phật có. Chánh ngữ, chánh nghiệp là lấy không sân si phát ở thân, ngữ làm thể, phát ra từ không tham gọi là chánh mạng. Lìa năm tà mạng đều lấy sắc tư vô biểu làm thể. Các pháp khác như chính tên gọi Ba mươi bảy thứ hợp với thể thì có chín: 1. Tuệ; 2. Tinh tấn; 3. định; 4. Tín; 5. Niệm; 6. Hỷ; 7. Xả; 8. Khinh an; 9. sắc Vô biểu. Biến hành có một: Là hỷ. Biệt cảnh có ba: Là niệm, định, tuệ. Thiện có bốn là: tín, cần, xả, khinh an. Sắc pháp có một là vô biểu. Như trong Sớ Vô Cấu Xứng, nói sở tu của Bồ-tát và Thanh-văn khác nhau, nên Bồ-đề phần gọi là pháp Bồ-tát. Thứ hai là du hý thần thông: Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ-tát có mười pháp gọi là du hý thần thông: Hiện xả bỏ tuổi thọ cõi trời. Là hiện thọ sanh. Hiện là đồng tử đùa giỡn nhiều cách. Hiện làm người xuất gia. Hiện làm khổ hạnh. Hiện hướng về cây Bồ-đề. Hiện hàng phục ma quân. Hiện ưa thích vắng lặng, thành đạo Vô thượng. Hiện xoay bánh xe. Hiện nhập Niết-bàn. Có khác với tám tướng mà trong luận nói. Thứ ba là thanh Tịnh Cõi nước Phật: Trong kinh Vô Cấu Xứng thứ nhất có mười tám loại nhân, hợp thành tám loại. Nghóa là phát khởi tâm Vô thượng Bồ-đề, độn ý lạc, thiện gia hạnh, tăng thượng ý lạc, bốn thứ này đều như chính tên gọi. Lục độ là sáu đều gọi là chỉ tức. Tứ vô lượng, tứ nhiếp sự, xảo phương tiện, Bồ-đề phần. Bốn phần này hợp gọi là phát khởi, gồm có tu thiện đều tu hồi hướng. Đây nói dứt là không rảnh, tự giữ, giới hạnh, mười nghiệp đạo thiện ba thứ này gọi là vắng lặng. Trong phẩm Hương đài của kinh ấy nói có tám: Suy nghó đối với hữu tình làm các nghiệp thiện mà không mong cầu thiện báo. Suy nghó thay thế chịu khổ cho người. Gốc lành của mình đều hồi hướng hết cho người. Suy nghó đối với hữu tình tâm đều bình đẳng, tâm không vướng ngại. Suy nghó đối với hữu tình, và điều phục tâm kiêu mạn của mình, yêu kính như Phật. Tín hiểu tăng thượng: Đối với các kinh chưa nghe đều không nghi ngờ không chê bai. Đối với việc lợi dưỡng của người mà không có tâm ganh ghét. Việc lợi dưỡng của mình không sanh kiêu mạn. Điều phục tự tâm: Thường tự xét lỗi của mình, không chê bai lỗi người. Thường không phóng dật, luôn tu thiện pháp Tám pháp này nếu không hủy phạm, từ đây cho đến khi chết sanh về Tịnh độ khác. Điều này trong chương Tịnh độ có nói. Thứ tư là thành tựu chúng sanh: Bên ngoài hóa độ làm lợi ích muôn vật. Chành ác lợi tha, trong đây tức là bốn hạnh Bồ-tát Thất địa, là hạnh Bồ-đề phần. Đây là pháp Bồ-tát. Các thần thông hạnh, Ba-la- mật hạnh, đây gọi là thanh tịnh Cõi nước Phật, thành tựu hữu tình hạnh. Đối với bốn thứ Đại thừa này, không sanh một ý niệm ưa thích thì không thể hướng đến mong cầu. Kinh: “Vì sao cho đến tâm ưa thích.” Tán: Đây là giải thích về lý do có hai: Đạo đã tròn đầy, tâm an ổn không lo khổ. Tuổi đã già suy, sức lực yếu kém cho nên đối với Đại pháp không tâm mong cầu ưa thích. Kinh: “Chúng con nay ở trước Phật… cho đến không cầu mà tự được…” Tán: Nói lên pháp đạt được ngày nay. Đắc pháp Đại thừa thì sẽ thành Phật. Đây có ba phần: Được thọ ký, tâm lãnh hội chung ở châu đầu tiên. Nghe pháp sanh vui mừng: Riêng lãnh thọ dụ nói, lãnh ngộ được hai điều này. Vui đạt được thiện lợi. Vô lượng châu báu tức là Đại thừa. Kinh: “Bạch Đức Thế tôn chúng con ngày nay cho đến vì rõ được nghóa này.” Tán: Biệt trình bày về thí dụ có hai: Nói chung về nói dụ. Trình bày lời thí dụ. Phật trước có nói: Những người hiểu biết, nhờ thí dụ mà được hiểu, cho nên nay cũng dùng dụ để lãnh hội ý Phật. Kinh: “Thí như có người tuổi còn thơ bé cho đến Tán: Trình bày lời thí dụ có hai: Dụ trước kia không mong cầu Đại thừa. Dụ bây giờ đã được. Lại trong kinh nói: Trải qua ít lâu sau, cha biết ý con dần dần đã thông thái.” Tức là trước thì dụ trụ vào quyền mà không mong cầu Đại thừa. Sau dụ nghe thật pháp mà đắc được. Văn đầu lại có sáu: Dụ lúc phát tâm đầu tiên. Bỏ cha trốn đi, trở lại nơi dòng sanh tử. Dụ tuổi đã lớn trở về gặp Phật. Dụ cha mẹ nhớ con không chịu tu Đại thừa. Dụ cha từ xa nhìn thấy, bảo sứ giả rằng v.v… ” là hóa độ bằng pháp Nhị thừa. “Thế tôn! Lúc ấy trưởng giả bị bệnh v.v…” là dụ chỉ cho Đại thừa mà không mong cầu. Đây là nói phần đầu. Bốn đoạn đầu đồng như trước đã nói. Hai muôn Phật đều dùng Đại thừa mà hóa độ. Đoạn thứ năm như trước nói: Dùng phương tiện dẫn dắt chúng sanh vào trong pháp của ta. Đoạn thứ sáu, như trước hội Pháp Hoa đã từng nói Bát-nhã, chỉ nghó đến pháp không mà chẳng sanh ưa thích. Nay đạt được trong đây mới khiến nhớ đến đạo thực hành thuở xưa, mà chỉ nói Pháp Hoa. Ấu nghóa là yếu. Tró là nhỏ là tiểu. Đầu tiên là mười sáu vị vương tử, dạy cho họ phát đại tâm, lại còn thầm nói. Chưa tu hành rộng gọi là thơ bé. Kinh: “Bỏ cha trốn đi cho đến năm mươi năm”. Tán: Phần hai dụ cho việc lui sụt dòng sanh tử. Đối pháp dẫn kinh rằng: Nếu có chánh kiến Tăng thượng phẩm ở thế gian, tuy trải qua ngàn lần sanh cuối cùng cũng không đọa vào đường ác. Kia căn cứ vào hạng tăng thượng bắt đầu phát tâm. Nay nói phẩm hạ phát tâm lui sụt vào dòng sanh tử, tâm chưa vững chắc nên không chuyên ưa thích Phật gọi là bỏ cha. Trái với giáo lý thường thực hành hành vi ác, thì dụ như trốn đi. Đào thệ là nói xưa trốn đi (thệ là là: xưa), hành cũng có nghóa là đi. Nước khác là chỉ cho sanh tử. Lâu ngày không được an vui. Phật pháp chính là nước cũ, lâu xa có thể khiến cho an vui. Trong kinh Niết- bàn, nói Phật pháp là nước khác, chẳng phải phần của mình, sanh tử là nước cũ là phần mình. Kia Đây, đối nhau đều khác nhau. Ở đây dùng hữu tánh và phát tâm về sau làm tự tha. Kia lấy vô tánh và trước khi chưa phát tâm làm tha tự, cũng không trái. Trước tuy dùng Ba cõi làm ngôi nhà lớn của Phật, mà nay cho là nước khác là vì thể nhiễm tịnh có khác nên nước chia ra có tha, tự. Lại y theo phàm tình thì cũng không trái ngược. Lại y theo đại bị, sanh tử làm nhà, nếu nói theo đại trí thì gọi là tha quốc. Trong dụ dưới nói thì gồm có năm nước: Ở lâu tại nước khác. Trở về nước mình. Đi khắp nước khác. Trải qua các làng ấp cõi nước. Cùng hội thân tộc quốc vương đại thần. Phần đầu và phần thứ ba lấy sanh tử làm tha quốc, phần thứ hai lấy Phật pháp làm nước mình. Phần thứ tư cũng nói chung về Phật pháp. Nói pháp lợi ích rộng lớn như nước. Thứ năm tức là nước của nhân vương. Hoặc dụ bốn chúng của nước Phật pháp. Hoặc mười cho đến năm mươi năm đó là trôi lăn trong năm đường. Gọi là hạt giống là tư dưỡng trong mười nghiệp đạo. Kinh: “Tuổi đã lớn… trở về nước mình.” Tán: Trong đoạn thứ ba là dụ trở về thấy Phật, tức là chưa tâm lui sụt Bồ-đề. Trước đã từng thấy Phật, đời đời đã từng được Phật hóa độ. Trước đây gặp Phật được hóa độ pháp Đại thừa. Văn có ba phần: Con lớn tuổi rồi trở về nước. Cha trước đây đi tìm kiếm. Gặp con đến thành. Đây là nói phần một, trong đây có sáu: Căn tánh dần dần trưởng thành, là tập chủng tánh. Chưa tu phước tuệ, lại thêm sự khốn cùng. Trôi lăn trong bốn sanh khắp cả bốn phương. Mưu tính ra khỏi đường khổ, vì cầu cơm áo. Tâm văn tư tuệ, do chủng tánh ép ngặt, ngày ngày sanh thiện mà dần dần dạo đi. May gặp được Phật pháp, hướng về nước mình. Đầu tiên là dạy phát đại tâm, tuy lui sụt vào dòng sanh tử, mà nay trở về gặp Phật pháp, trụ ở trong đó thuận với sở tu trước kia nên gọi là nước mình. Kinh: “Người cha từ trước đến nay cho đến dừng lại ở một thành.” Tán: Nói cha trước đã mong tìm gặp. Lại có ba phần: Tìm con mà dừng lại thành. Của cải và rất đông người. Người đi buôn làm lợi rất nhiều. Đây nói phần đầu. Cha đó là hóa thân, Phật từ trước đến nay, tuy đã trải qua bao lần hóa độ dẫn dắt, chúng sanh tự thối lui. Cho nên nói trước nay tìm gặp con mà không được. Giữa đường dừng ở một ngôi thành là chỉ trong đường sanh tử. Thành là chỉ cho Đại thừa. Kinh Vô Cấu Xưng chép: Lấy thành làm hộ pháp, nay dùng pháp Đại thừa làm thành, sắp nói pháp Đại thừa để dạy chúng sanh phát tâm. Thành là dụ cho pháp Đại thừa. Kinh: “Nhà này rất giàu có cho đến đều đầy ắp.” Tán: Của cải rất nhiều. Có tám phần: Trong đây nói có hai: Bảy báu là dụ cho bảy Thánh tài đầy đủ. Có kho vô vi và kho hữu vi, các đức đều đầy đủ. Trong Bác Vật Chí chép: Cây Tùng chỉ trồng xuống đất ngàn năm hóa thành phục linh. Phục linh ngàn năm hóa thành hổ phách, còn gọi là hồng châu. Quảng Chí chép: Chỗ sanh vật này ở bên và ở trên hư không sanh ra cỏ cây. Sâu cỡ tám, chín thước, lớn như cái đấu, lột phần võ trên, chính giữa thành hổ phách có nước lõng sánh như nhựa quả táo, rồi đọng cứng mới thành hổ phách; người xứ đó xứ dụng làm bát đựng. Kinh: Có nhiều tôi tớ cho đến trâu dê vô số. Tán: Đây có sáu loại: Điều phục phiền não làm tôi tớ, sai khiến tùy ý. Dùng phương tiện khéo léo làm các quan giúp đỡ. Dùng diệu nguyện và năng lực làm nhân dân. Lấy năm thông làm voi, ngựa. Ngũ thừa làm xe cô. Tám muôn bốn ngàn chúng hành làm vô số trâu dê. Kinh: Xuất ra thu vào làm lãi cho đến cũng đông nhiều”. Tán: Đây nói về việc khách làm lợi rất nhiều. Giáo chân đế tục đế là lời ích nhập xuất. Nhập vào Phật pháp xuất ra sanh tử. Hoặc dạy Ba thừa thì gọi là “xuất xuất sanh tử”. Giáo trời người thì gọi là nhập nhập sanh tử. Khiến cho pháp thiện dần dần sanh trưởng thì gọi là lời. Lời nghóa là nuôi lớn mạng sống. Vì thương chúng sanh mà giáo hóa đến những nơi sanh tử nên nói: Lời lãi đến khắp nước khác. Đến các nơi Thánh chúng Ba thừa , giảng nói chánh pháp của Phật. Tuyên Ni nói: Tìm giá tốt để địmh giá tức là đồng với đây. Loại này chẳng phải một nên gọi là rất nhiều, chữ Thương trong Nói văn nói là đi buôn bán. Ngọc thiên nói chung cho các thứ châu báu khác lạ trong bốn phương thì gọi là người đi buôn, có khi gọi là thương lượng, chẳng phải nghóa ở đây. Thương là đem vật xa gần từ bốn phương nhóm lại. Mai là cố định, là vật cố định đợi người đến mua để cầu lợi. Mại cũng là tiếng nói phổ thông. Kinh: “Bấy giờ người con nghèo khổ cho đến dừng lại ở thành này.” Tán: Người con đi đến thành. Ba thừa nội đạo gọi là xóm làng. Đây là câu tổng. Các pháp nói, các việc thần thông hiện có gọi là xóm ấp. Ý đây nói là: Đi dạo khắp nội đạo để cầu xuất ly, thì gọi là đến xóm làng. Văn trước đã nói con đã lớn tuổi trở về nước, tức đã trở về Phật pháp, cho nên biết, xóm làng không chung với ngoại đạo. Hoặc nghe nói pháp cạn sâu. Hoặc quán các thần thông có hơn kém gọi là trải qua các xóm ấp. Xóm rộng lớn thì dụ cho pháp sự nói. Ấp nhỏ dụ cho thần thông. Biết chư Thánh vì không ẩn tàng, trở về giáo nội Phật pháp Đại thừa thì gọi là đến thành của cha. theo ở sau giải thích: May mắn gặp được Phật pháp. Đầu tiên nghe Đại thừa gọi là đến thành cha. Phật tự trú trong Đại thừa, tức giữa đường trở về gặp được Đại thừa. Kinh: “Cha thường nghó đến con cho đến ôm lòng hối hận.” Tán: Thí dụ về con không chịu tu Đại thừa. Có bốn: Cha thường nghó đến con. Con nhìn thấy kinh sợ bỏ chạy. Cha cho người đuổi theo bắt lại. Con lo lắng sợ hãi. Đoạn văn đầu có hai: Trước nói chung về suy nghó. Sau nói riêng về suy nghó. Đây nói về phần đầu: Năm mươi năm là nói việc trôi lăn trong năm đường. Chưa hề nói cho ai nghe việc này nghóa là: Ta từ xưa đến nay chưa hề đối với chúng nói ta có dạy phát tâm Đại thừa. Nay thì thường nghó mong muốn cho chúng về của báu Đại thừa và ưa thích Nhất thừa. Chỉ thầm nghó mà chưa hề nói ra. Hối vì không sớm gặp con để dạy bảo, hận vì con không mau tìm ta nên gọi là hối hận. Kinh: “Tự nghó ta đã già yếu cho đến mỗi khi nhớ đến con.” Tán: Đây là suy nghó riêng. Có hai: Đầu tiên nghó giao phó tài sản, sau đó nghó mình sẽ an vui. Đây nói phần một. Việc tu hành đã lâu dài, đạo trước đã tròn đầy thì gọi là già cả. Phước tuệ vô cùng là nói nhiều tài vật. Tuy đã có Bồ-tát mà chưa hóa độ được Thanh-văn để kế thừa quả Phật, nên nói là không có con. Hoặc con còn nhỏ thì cũng gọi là không có con. Một mai chết đi là nói Phật nhập Niết-bàn, tài bảo Đại thừa sẽ tiêu tán hết. Căn cơ của bọn kia chưa thuần thục nên không thể gửi gắm, vì thế nên thương xót sâu xa thường nghó nhớ đến con. Kinh: “Lại khởi niệm nghó cho đến không còn lo lắng.” Tán: Đây nghó cha đã an vui. Không có con giao phó của cải, cho nên lo lắng. Con nay đã thoát khổ, thuận theo lãnh thọ há không vui sao? Kinh: “Thưa Thế tôn! cho đến Bấy giờ, đứng một bên cửa. Tán: Nói con thấy cha, kinh hãi bỏ chạy. Đây có ba việc: Đến cửa cha. Thấy cha. Bỏ chạy. Ở đây là nói phần đầu. Thân tâm tinh tấn vì cầu xuất ly. Tâm như người làm thuê lần hồi chẳng phải là bổn tâm nên cầu Đại thừa. Do chủng tánh an bày mà may mắn đến với Đại thừa, nên gọi là đến nhà cha. Vì hạt giống Đại thừa gần sanh mà xa thuần thục nên nói may mắn mới gặp. Lại ở trong đây gặp được liễu nghóa Đại thừa gọi là đến nhà cha. Giáo hạnh của Đại thừa có công năng giải thích lý, năng chứng các quả, gọi đó là cửa. Cùng tử lúc ấy, chưa thể chuyên cầu khắp tu hành hạnh chứng quả. Chỉ biết tướng chung có nghe chút ít, giáo, tu nhân nhỏ yếu gọi là dựa cửa. Bấy giờ, chưa hoàn toàn có thể nghe tu tập đại giáo, hành hạnh Đại thừa, chỉ cho biết cũng sẽ được, nghe Đại thừa nên gọi là lập, an xứ một lúc thì gọi là trụ. Lại người tiểu cơ chưa hề biết đại pháp thì không thể gọi là thẳng vào cửa. Tuy trong căn cơ nhỏ yếu nhưng cũng tin và tu tập nên gọi là đứng bên cửa. Ở trên lấy Phật pháp làm nước, tất cả pháp Đại thừa là thành. Trong Đại thừa liễu nghóa chân thật, Trung đạo Đại thừa gọi là nhà của cha, tức gọi giáo hạnh là cửa. Kinh: “Từ xa thấy người cha cho đến cung kính vây quanh.” Tán: Nói cùng tử thấy cha, có bảy phần, ở đây có hai: Thấy cha ngồi. Kẻ sang người hèn đều hầu hạ. Do cách Đại thừa, vị bất thoái còn xa, vá cách chân lí còn xa, nên gọi là xa thấy. Phật dùng bốn vô úy làm giường, cũng lấy bốn tónh lự làm giường, lấy vô tham, vô sân làm ghế báu, để nâng chân giới, Giới học là chân đi. Người đầy đủ giới học là Bà-la-môn. Tuệ học là Sát-lợi. Định học là Cư só. Lại có các chúng Ba thừa, Đại thừa, Độc giác, Thanh-văn đều cung kính vây quanh. Kinh: “Lấy châu báu anh lạc cho đến đứng hầu hai bên.” Tán: Văn có hai: Tô điểm thân thể, lấy tam niệm trụ làm chuỗi anh lạc. Người giúp đỡ cung kính hộ vệ, diệu nguyện và năng lực làm nhân dân, nói về điều phục phiền não làm tôi tớ. Tâm trì tứ nhiếp là cần, phất trần trắng. Thể thanh khiết trừ hết cấu uế, không lìa thân tâm, gọi là đứng hầu hai bên. Kinh: “Dùng màn báu che cho đến uy đức rất tôn quý đặc biệt.” Tán: Ở đây có ba: 1. Các vật bên ngoài trang nghiêm. 2.Nêu tài sản. 3. Kết luận cao quý, tôn trọng. Bốn vô lượng tâm và màn báu, bảy tịnh là Hoa, tổng trì là phướn. Năm phần Pháp thân và diệu định nhuần ở thân tâm, như nước thơm rưới đất. Dạy người dùng bảy giác như rải các hoa. Ngoài dùng muôn hạnh, lấy đó tô điểm như chưng bày các vật báu. Trên gọi là trang nghiêm, ngoài thí pháp tài gọi là xuất ra. Thân tự chứa đức thì gọi là thu vào thủ để giải thích trong trong tự lấy, cho để giải thích ngoài, ngoài cho người khác. Lại xuất ra thu vào, như trước, chúng. Chúng sanh căn cơ thuần thục gọi là lấy. Phật ứng thời hóa độ gọi là cho, trên là xuất ra thu vào. “Có các sự tô điểm dường ấy cho đến” Là kết luận tôn trọng cao quí. Đây là ban đầu hiện tướng hóa thân, tịnh độ là tướng đẹp mầu, nên con thấy, chạy đến chưa thấy báo thân cũng chẳng phải cõi uế. Kinh: “Cùng tử thấy cha cho đến hối hận vì đã đến đây.” Tán: Đây nói người con bỏ chạy. Có ba phần: Hối hận vì đến đây. Khởi ý nghó. Chạy mau. Đây là phần đầu. Thấy ví như biết chẳng phải mắt thấy, chẳng phải trí chứng. Vì nghe, suy nghó ví như biết. Mười lực vô úy gọi là có thế lực lớn. Hoặc dùng mắt thấy thần thông lớn của Phật thì gọi là thấy thế lực lớn. Chẳng phải khả năng mình tu, chẳng phải khả năng mình chứng, nên ôm lòng hoảng sợ. Ở đây thấy hóa thân, Tịnh độ. Do khuyên tu thành Phật nên suy nghó mình không thể hành trì, cầu sẽ chứng nên gọi là hối hận vì đã đến đây. Kinh: “Trộm nghó rằng cho đến bắt buộc ta làm.” Tán: Đây là khởi lên ý nghó. Vua là vua Pháp thân, bậc đồng vua là Báo thân đồng nghóa là tương tợ. Hoặc vua là vua của pháp, bằng vua như vua thế gian. Chẳng phải ta tinh cần mà có thể chứng. Gọi là chẳng phải chỗ ta ra sức làm thuê mà được vật. Xóm nghèo là chỉ người Nhị thừa. Không bằng xưa kia thân tâm siêng năng nhọc khổ, tha hồ có đất làm ăn, tức là nơi nương tựa để nuôi lớn đạo. Phước tuệ có thể cầu gọi là dễ được cơm áo. Hoặc Đại thừa trụ lâu, Phật gượng ép khuyên ta tu pháp mà không phải là pháp ta thích. Đây là trước kia chưa tâm lui sụt Đại thừa nên suy nghó như thế. Kinh: “Nghó như thế rồi vội bỏ đi.” Tán: Ở đây nói vội bỏ đi. Tự mình suy ra không thể tu hành đại hành liền lui sụt tâm Đại thừa tìm nơi khác làm gọi là vội bỏ đi. Đây là lúc còn chưa trụ vào Nhị thừa. Kinh: “Bấy giờ trưởng giả cho đến tâm rất vui mừng.” Tán: Cha cho người theo bắt về. Đoạn này có ba phần: Thấy con nên vui mừng. Khởi lên ý nghó. Sai người bắt về. Ở đây nói phần đầu, biết căn tánh Đại thừa của chúng sanh duyên đã gần thành thục cho nên thấy liền vui. Kinh: “Liền nghó rằng cho đến vẫn cố tham tiếc.” Tán: Khởi lên ý nghó: Mà chợt tự đến là vì căn tánh thuần thục. Thật là vừa thuận với bản tâm nguyện ý của Phật. Ta tuy tuổi đã già, thành tựu đạo đã lâu xa mà tâm đại bi vẫn còn tham tiếc sâu xa. Vì tình luyến thương con nên tâm đại bi rất thâm trọng. Cho nên nói là tham tiếc. Kinh: “ức liền sai người… mau đuổi bắt về.” Tán: Sai người đuổi bắt. Có hai: Trước đuổi sau bắt. Lý vốn bặt cả nói năng. Dùng lời mà hiển bày ra thì không gọi là chánh lý. Giáo gọi là dạy người hầu, là Nhất thừa giáo. Hoặc hành có thể tu gọi là chánh chủ. Giáo tạm khai ngộ gọi là người bên cạnh. Bi tâm khởi lên nhanh chóng gọi là đuổi gấp. Nay khiến cho con nhập vào Đại thừa thuận theo sở tập trước kia gọi là bắt đem về. Tâm từ bi muốn hóa độ ngay nên gọi sử giả mau đuổi theo bắt về. Kinh: “Cùng tử kinh ngạc cho đến vì sao lại bắt tôi” Tán: Nói con sợ hãi lo lắng. Có ba: Con kinh ngạc. Sứ giả càng gấp rút bắt. Con hôn mê. Ở đây nói phần đầu. Tâm không mong cầu đại hạnh thì gọi là kinh ngạc. Tâm và miệng không chịu tiến tu mà lui sụt nên cất tiếng kêu oan. Thật tình tôi không mong muốn đại pháp gọi là không hề xúc phạm, vô cớ trao cho tôi pháp Đại thừa gọi là vì sao thấy liền bắt. Kinh: Sai người mau đuổi bắt đem về. Tán: Đây là nói sứ giả càng gấp bắt. Tâm bi kích động nên giáo mang đến càng cấp thiết, khiến cho tu tập gọi là cưỡng bức đem về. Dùng làm nhân cho ngày nay nhập Đại thừa, cho nên ép ngặt. Chẳng phải khi ấy Phật không biết căn khí mà ép mang về. Kinh: “Bấy giờ gã cùng tử cho đến mê ngất ngã dưới đất.” Tán: Nói con hôn mê. Thực tình trong tâm không ưa thích Đại thừa gọi là không có tâm xúc phạm nên nghó là vô tội. Không muốn con mình học Tiểu thừa, bắt phải học đại nên gọi là “bị bắt tù”. Pháp tu khổ hạnh của Bồ-tát thật khó hành, quá sức mình sợ sẽ khổ nên nói chắc chắn phải chết. Tâm không an vui nên lại càng sợ sệt, thoái tâm không học Đại thừa lui vào sanh tử gọi là mê ngất té dưới đất, đất là chỉ cho nơi sanh tử. Kinh: “Cha từ xa đã nhìn thấy cho đến đừng nói với nó”. Tán: Dùng Nhị thừa hóa độ. Có sáu phần: Dạy phát quyền tâm. “Cùng tử vui mừng cho đến” khởi ý thích Tiểu thừa. “Bấy giờ trưởng giả muốn dẫn dụ..” khiến cho tu phần giải thoát . Cùng tử trước chịu lấy giá cả, bèn y theo đó mà làm. “Cha thấy con thương xót và lấy làm la..”, khuyên vào gốc lành. Bấy giờ trưởng giả dạy bảo làm việc sau đó thành tựu Thánh vị. Văn đầu có hai: Trước sai thả, sau sứ giả thả đi. Trước sai thả lại chia làm hai: Một là ngưng dùng Đại thừa hóa độ, mà dạy nên phát tâm quyền, hai là giải thích lý do ở đây là nói phần đầu. Con còn ở xa nên nói cha từ xa nhìn thấy. Lại ngưng giáo hóa bằng Đại thừa, tạm thời khai thị chớ mang giáo hóa nên nói không cần đừng ép trao Đại thừa khiến tu đại hạnh gọi là chớ cưỡng bức đem đến. Dùng quyền giáo xảo Nhị thừa, tam quy y, ngũ giới cấm để thuận với tâm kia, như rưới nước lạnh vào mặt là để diệt trừ hối hận của cùng tử, điều phục mười triền, hoặc tạm dứt khổ tám nạn, được sanh về trời người hơi dần chán khổ, lại làm vui với bổn ý nên gọi là được tỉnh lại. Ngưng trao Đại thừa chớ nói với nó nữa, tức mê ngất đã hết. Lúc ấy giống như thức tỉnh nhập Thánh ngộ chân. Kinh: “Vì sao? Vì sao nói là con ta.” Tán: Giải thích ý sai thả. Biết tánh Thanh-văn từ lâu sanh gần thuần thục gọi là biết ý con kém cõi. Đức của cha quá lớn làm cho con khiếp sợ nên nói nạn của con. Hào là mạnh khoẻ. Theo Nam Tử Trí thì nói thống lãnh ngàn muôn người gọi là Hào. Biết có đại tánh, gọi là biết rõ con mình; có thể kế vị mà ẩn mật ngầm giáo hóa gọi là các phương tiện, chưa bảo đại chúng rằng: Trước ta hóa đạo có nhân Đại thừa, nên nói đó là con ta. Kinh: “Sứ giả nói cho đến đi đâu tùy ý.” Tán: Đây là sứ giả thả đi. Ngưng giáo hóa bằng đại giáo, kham học Nhị thừa, gọi là tùy ý đi. Kinh: “Gã cùng tử vui mừng cho đến vì cầu cơm áo.” Tán: Phần thứ hai nói con khởi ý thích Tiểu thừa. Thích hợp cơ nghi vốn có nên vui mừng. Đầu tiên phát tiểu tâm, gọi là được điều chưa hề có. Từ trong sanh tử phát ý tu Nhị thừa gọi là từ dưới đất đứng dậy. Đến xóm nghèo để tìm cơm áo. Công đức Nhị thừa ít gọi là xóm nghèo, mưu toan pháp vô lậu gọi là cầu y thực. Kinh: “Bấy giờ trưởng giả cho đến không có uy đức.” Tán: Khiến tu giải thoát phần. Nói pháp năm phép quán dừng tâm niệm xứ cho đến Văn có hai phần: Thầm sai hai người. Hai người y lời dạy. Phần một lại có ba: Sai hai người. Khiến truyền lời nói. Hỏi đáp. Ở đây là nói phần đầu. Thật không có hai thể, lập giáo thì có hai thừa, nên nói thầm sai. Giáo phương tiện dạy Nhị thừa nên sai hai người. Trí tuệ thấp kém nên sắc lực tiều tụy. Thần thông không lớn thì gọi là không có uy đức, hoặc giáo nghiêng lệch nên sắc tiều tụy, lý thiếu nên không có uy. Hoặc đức của mình kém gọi là tiều tụy, lợi tha ít mà không có uy đức, đây dều là phát tâm Tiểu thừa. Đầu tiên dạy hành pháp Nhị thừa. Trong Quảng Nhã chép là tiều tụy, đây là chỉ sự âu sầu bệnh hoạn . Kinh: “Hai người hãy đến chỗ kia cho đến dắt về đây khiến làm.” Tán: Khiến cho truyền lời nói. Dạy khiến người kia nghe, gọi hai người nên đến kia, dùng phương tiện dần hóa gọi là từ từ nói. Học địa của Nhị thừa gọi là chỗ làm. Pháp vô lậu cao siêu, hơn cả giáo pháp lành trời người. Gọi là giá cả gấp bội, tâm cùng tử có thể theo đó mà tu học tức là khuyên đến tu học, gọi là khuyến làm. Kinh: “Như nói muốn gì? Cho đến cũng cùng ông làm.” Tán: Đây là nói về hỏi đáp. Nếu kia như hỏi tu hành pháp gì? Đáp: Đổ phân tức là dứt phiền não! Tu pháp Đại thừa như giũa mài vật báu. Học Tiểu thừa cũng như nghề đổ phân. Chẳng những hành trì mà cũng có thể dứt hoặc. Vì giáo cũng giúp cho dứt. Phải nhờ uy thế nên nói là cùng nhau làm. Kinh: “Bây giờ hai người… trình bày đầy đủ các việc trên.” Tán: Hai người y theo giáo. Đem giáo pháp phù hợp căn cơ như cầu cùng tử. Dùng pháp xứng khí, khiến kia nghe biết. Cho nên nói được. Cách dứt phiền não thì gọi là trình bày việc trên. Kinh: “Bấy giờ cùng tử cho đến cho làm nghề hốt phân.” Tán: Đây là nói cùng tử y theo đó làm việc. Trước hỏi giá cả là ý nói đầu tiên phát tâm tu Bồ-đề Nhị thừa học văn tư tuệ, công đức thù thắng chân thật của Nhị thừa gọi là lấy giá cả. Sau đó mới hành trì năm pháp quán dừng tâm, niệm xứ quán v.v… dần dần chiết phục phiền não nên gọi là “tìm người đổ phân”. Chữ dữ là cho, là làm. Thuận dùng theo lời Phật nói nên gọi là “tìm vào giao cho”. Kinh: “Cha thấy con thương xót mà lấy làm lạ.” Tán: Từ đây trở xuống là khuyên vào gốc lành. Có ba phần: Tâm thương xót. Thân gần gũi. Cùng nói chuyện. Đây là phần đầu. Thương xót không có tướng tốt, trí tuệ, lấy làm lạ vì tâm không cầu đại pháp. Kinh: “Lại một ngày khác cho đến dơ bẩn bất tịnh.” Tán: Thân gần gũi có hai ý: Thấy con. Thân đồng với con. Đồng với: Từ câu “liền đến hốt phân” trở lên là Phật xa thế gian mà hóa độ phần giải thoát đầy đủ quả vị. Từ câu “thấy con thương xót” trở xuống là Phật gần gũi thế gian hóa độ, khai thị giáo cho chứng quả vị tbốn thiện căn. Khác với phần giải thoát trước gọi là ngày khác. Huống chi đây đều do nhiều kiếp tu hành. Phần vị đã khác nên nói riêng thời khác; biết căn chưa thuần thục, nên ngầm mật hóa. Lại không dùng Đại thừa giáo hóa có buộc, chỉ dùng Nhị thừa sanh không giáo hóa. Cho nên nói trong cửa sổ nhìn ra mà không nhìn thẳng. Cửa sổ đó là chỉ đạo, là hướng là lúc mới thành đạo sắp hướng về vườn nai, gặp nhau. Đây vẫn chưa phải là việc ngày nay sanh ra, cho nên nói là xa thấy, hoặc do cách Thánh vị còn xa cũng là xa thấy. Chưa được phước cao quý nên gọi là già yếu, suy kém. Không được trí thù thắng nên gọi là tiều tụy. Phiền não gọi là phân đất. Ác nghiệp gọi là bụi bặm. Khổ quả gọi là ô uế, hợp ba thứ này gọi là bất tịnh. Kinh: “Ông liền cởi châu anh lạc cho đến đồ hốt phân.” Tán: Đây là nói thân đồng. Hóa thân đầy đủ công đức tướng tốt, tròn sángở trong cõi Tịnh. Con trông thấy kinh hãi bỏ chạy. Nay hiện ra thân thế gian ở cõi uế nhơ bẩn, hóa tướng ẩn giấu, như cởi chuỗi anh lạc tô điểm trên thân. Cũng như Phật dùng thần lực ẩn thân, thường phát ra ánh sáng nhưng chỉ phát ra một tầm. Đó chẳng phải thân đẹp tướng tốt nên gọi là cởi áo tốt. Tướng đồng với hữu lậu thì gọi là mặc y phục rách rưới nhơ bẩn. Nói về có hữu lậu, phiền não nghiệp ác như thân lấm bụi. Trước nói quyền giáo gọi là tay phải, dùng đó trước tiên. Cầm đồ hốt phân đó là nhân hạnh Nhị thừa hàng phục phiền não. Dùng giáo thuyên hiển bày nghóa cũng đồng như dùng tay cầm. Phật tự nói về đồng hành trì dứt trừ phiền não, để nói về quyền giáo. Kinh: “Bộ dạng đáng nể sợ cho đến để được gần con.” Tán: Đây là phần cùng nói chuyện. Có hai: Nói chung là siêng làm. Nói riêng là dạy bảo. Ở đây là nói phần đầu. Nói về các tướng khổ đáng sợ, tâm từ bi dắt dẫn như hình dạng đáng nể sợ. Nói về chỉ dạy, khen ngợi, khuyến khích, vui mừng an ủi, khuyên hành tinh tấn gọi là khuyên siêng làm. Đây là đời đời được Phật giáo hóa nên nói được gần con. Kinh: “Sau đó lại bảo rằng cho đến trả thêm giá cho ngươi”. Tán: Dùng lời dạy bảo riêng. Có ba phần: Không để cho đi nơi khác. Thuận theo liền cho. Tam gọi là cha con. Đây là phần đầu. Phật khuyên chúng sanh chớ lui sụt rơi vào sanh tử tu theo ngoại đạo, nên bảo “chớ bỏ đi nơi khác”. Trả thêm giá là: Cho các người tu tuệ, tứ gốc lành, tức gia hạnh thêm văn, tư, tuệ ở giai vị trước. Kinh: “Các vật cần dùng cho đến ý thích an ổn.” Tán: Đây là tùy vật con cần dùng mà cha ban cho. Các vật dùng là thiền định. Gạo bột là giải thoát, thắng xứ, tứ vô lượng v.v… Do định mà phát sanh các công đức. Vị này cũng là tu tập học phần. Muối dấm là bổn của sanh không phải hai trí hữu lậu sau. Cũng như muối làm điều hòa các vị. Trí này cũng như vậy, có thể điều hòa công đức. Tâm vui mừng quyết hướng tới chớ sanh nghi ngờ. Người tớ già thấp kém là năm thần thông của Nhị thừa, tác dụng của bốn thứ thần túc rất yếu, nên gọi già hèn, để cho các con, các con nên siêng năng học đạo để ý tự an. Đây là nói người lợi căn vượt lên đắc quả, còn người theo thứ lớp đắc quả thì có vật dụng thau chậu là chưa đến gạo định bột mì là tứ đế, ngũ căn, ngũ lực v.v… Muối giấm là hành tướng sanh không vô ngã người tớ già yếu là tứ thần túc. Từng tu các pháp giải thoát phần vị. Kinh: Ta như là cha ngươi cho đến như con đẻ của ta. Tán: Tạm gọi cha con… Phần đầu là nêu. Phần sau giải thích. Đạo ta đã tròn đầy gọi là già. Đạo ngươi nhuần nhuyễn nên gọi là trẻ. Tình cha con đã thắm thiết. Ý niệm quyến thuộc càng sâu. Đã nói như là cha con, thì đâu có lo thiếu thốn, cũng không tự khinh mình. Chuyên cầu xuất ly gọi là không lừa dối. Thân thường tính tấn gọi là không biếng trễ. Tâm không phiền não sân hận lời không oán ghét, tức là chiết phục ba nghiệp ác. Ngươi đã có thể dùng phương tiện đế quán chiết phục phiền não, gọi là không thấy ngươi có các việc xấu như thế, cũng đều không thấy ngươi có các lỗi xấu như người tu hành của các ngoại đạo khác, hay như là người lừa dối, lười biếng trong Phật pháp. Từ nay về sau, con đã gần gũi Thánh đạo, như các Thánh nhân, là con do ta sanh ra, không khác, chưa đắc kiến đế vẫn không phải là con thật, ở đây tạm gọi như con. Kinh: Tức thời trưởng giả cho đến gọi đó là con cho đến. Tán: Nói thành tựu Thánh vị. Có ba phần: Bắt đầu nhập Thánh. Trụ vào Tu đạo. Thành tựu Vô học. Đây là phần đầu. Trụ ở phàm vị như con nuôi, vẫn chẳng phải con. Nhập Thánh rồi mới là con thật, nên gọi là con. Chuyển dần gần gũi nên trụ vào sơ quả. Kinh: “Bấy giờ cùng tử cho đến thường sai hốt phân.” Tán: Trụ Ở Tu đạo. Đây là nói đạo trước Kim cương. Tuy đã nhập vào Thánh, rất vui ở sự tình cờ gặp đó nhưng tự biết mình không bằng các Bồ-tát, còn tự cho mình là khách là người làm công thấp kém. Trải qua hơn hai mươi năm là dụ cho quả vị Nhị thừa mỗi mỗi đều đủ vô lậu mười pháp hạnh, mười nghiệp đạo nên thường sai khiến đổ phân, thường dứt trừ phiền não. Hoặc trong hai mươi năm đó là ở trong hai quả vị Gia hạnh, Vô Gián hàng phục dứt trừ nghi ngờ. Hoặc trụ ở tu đạo, đoạn câu sanh hoặc ở cõi trên dưới, năm hạ phần kiết, năm thượng phần kiết, hai thứ đều dứt, hoặc trong đạo giải thoát, Vô gián đoạn hai vị thô nặng hạt giống khác nhau. Kinh: “Sau khi trải qua đó rồi cho đến vẫn còn ở chỗ cũ.” Tán: Đây nói đạo sau Kim cương. Thành tựu vô học rồi được gần gũi Phật. Thức đạt sanh không, đồng đắc giải thoát nên gọi cùng thể tin. Vào học Phật pháp, lợi ích chúng sanh, không sợ, không nhiễm gọi là không ngại sợ. Lại tâm thể tin nhau hai lợi vào ra cũng không ngại khó, vẫn còn trụ lý sanh không Nhị thừa không mong cầu đại quả thì gọi là ở chỗ cũ. Đó là nơi sở cầu sở học. Kinh: “Bạch Đức Thế tôn! Bấy giờ, cho đến nên thấu rõ ý ta”. Tán: Dụ không mong cầu Đại thừa. Có hai: Đầu tiên nêu Đại, sau nói không mong cầu. Phần đầu văn lại có hai: 1. Nêu; 2. Giải thích. Phần nêu này lại có hai: Biết thời và chánh bảo. Bị bệnh là nói: Sau mười hai năm, phiền não của chúng sanh dần dần thêm lớn. Vì chúng sanh bệnh nên Phật cũng bị bệnh. Đây ở trước hội Pháp Hoa, biết thời nhập Niết-bàn, gần đến ngừơi được độ đó đều đã độ xong, thì gọi là biết giờ chết không bao lâu nữa pháp hữu vi vô vi, tất cả các công đức của Bồ-tát, Như-lai đều gọi là kho báu đầy tràn. Ở trong đó Đại thừa cho nhiều Nhị thừa cho ít. Như-lai cho nhiều Bồ-tát cho ít. Vô vi cho nhiều, hữu vi cho ít, chỗ đáng lấy là muôn đức tự lợi, chỗ đáng cho là muôn đức lợi tha. Các thầy nên biết rõ thảy đều nên biết. Thuật lại tâm trước của mình, gọi là nên thể theo ý này. Tức khiến cho hiểu được nghóa yếu chỉ Muôn đức nhị lợi của Đại thừa v.v… khiến họ thấu đạt đạo lý của Đại thừa, mà chưa dạy cho phát đại tâm. Cho nên đây nói bao gồm nên thể theo ý này. Kinh: Vì sao? cho đến chớ để quên mất.” Tán: Đây giải thích khai thị pháp Đại thừa. Như cha con thế gian tuy có tâm khác mà sự không khác. Phật không khác với Nhị thừa: Giải thoát bình đẳng. Sanh không chân như bình đẳng. Ý lạc bình đẳng. Phật đắc quả chúng sanh bình đẳng ý, nên dụng tâm thêm cầu pháp Đại thừa giải thoát, không để quên mất, là chớ quên không học. Kinh: “Bấy giờ cùng tử cho đến ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn” - Tán: Nói không cầu pháp Đại thừa. Có hai phần: Nói thọ lãnh mà không mong cầu. Vẫn còn ở chỗ cũ. Đây là phần một. Tu-bồ-đề trước khi có hội Pháp Hoa, lãnh hội được nghóa Không, giữ gìn, che chở pháp Đại thừa, không ngu nơi pháp, biết lý Đại thừa nhưng không có một niệm phát tâm Đại thừa. Không có ý mong cầu pháp quả Phật Đại thừa, như nói đáng chừng một bữa ăn. Cho nên trước nói không sanh tâm một niệm ưa thích. Kinh: “Nhưng chỗ ở đó cho đến cũng chưa thể bỏ. Tán: Đây còn trụ ở bổn vị. Nhưng chỗ trụ còn ở Nhị thừa. Tâm Nhị thừa yếu kémcũng chưa thể bỏ. Kinh: “Lại trải qua một ít thời cho đến tự chê trách tâm trước cho đến” Tán: Dụ nay đắc được, có hai phần: Cha giao phó. Con đạt được. Cha giao phó có hai: Biết thời đến. Nhóm họp mọi người để giao phó cho con. Ở đây là nói phần đầu. Trải qua một lít lâu sau: Sau hội Bát-nhã là hội Pháp Hoa, thời gian này có chút ít tiến triển, gọi là “dần dần đã”. Hiểu ý hai không này, rộng xả gọi là thông thái. Thông nghóa là khai đạt, thái là an thái. Thành tựu đại chí là: Xưa phát đại tâm, gần sanh, mà thuần thục còn xa nên tự chê tâm trước, hối hận vì xưa trụ trong tiểu pháp. Bỉ là khinh chê hiềm trách tâm trước kia tu Tiểu thừa. Cho nên ngài Thu Tử trước nói chúng ta đồng nhập vào pháp tánh. Vì sao Như-lai dùng pháp Tiểu thừa ra cứu độ. Đây là lỗi của chúng ta chứ không phải Phật, mỗi khi tự trách, chính là đồng với đây. Kinh: “Lúc gần qua đời cho đến thảy đều đã nhóm hợp.” Tán: Nhóm họp chúng để giao phó. Có hai phần: Mệnh lệnh nhóm hợp. Chánh bảo cho biết. Ở đây là nói phần một. Hội Pháp Hoa cách lúc Phật Niết-bàn chỉ có năm năm, nên nói lúc sắp qua đời. Xưa thoái Đại thừa làm con nuôi tức Thanh-văn, hợp cùng thân thuộc của Bồ-tát, bốn hàng như vua v.v… là chỉ cho bốn chúng, hoặc đúng tên gọi hạng đó. Kinh: “Tức tự giảng nói cho đến là của ta sanh ra.” Tán: Là phần chánh nói: Có hai: Nhắc lại xưa kia. Nay nói cho biết từ câu “bỗng ở đây gặp nó v.v…” Nhắc lại lại xưa có ba: Nêu lúc phát tâm ban đầu. Lui sụt vào sanh tử. Nêu lại pháp quyền. Có bốn việc lâu xa: Nghóa là giữa đường gặp Phật không chịu tu Đại pháp, dùng pháp Nhị thừa giáo hóa, không mong cầu Đại thừa. Đây nói phần một. Nhị thừa thành Phật, việc đó rất khó, cho nên tự Đức Phật giảng nói không để lại việc khác. Đầu tiên Ta vì mười sáu vị vương tử, dạy phát đại tâm, gốc lành của họ do từ miệng ta sanh ra, từ pháp âm của Phật sanh ra. Cho nên nói từ Phật pháp sanh ra, như thế mới là thật sanh. Kinh: “Trong thành đó cho đến hơn năm mươi năm.” Tán: Nói lại việc lui sụt vào sanh tử. Thành đó tức là Đại thừa. Một lần gặp đầu tiên đã dạy phát tâm hướng Đại thừa. Nếu Đại thừa định tánh và phát tâm ở thượng phẩm, thì chưa hẳn lui mất. Nay nói bất định tánh và phát tâm ở hạ phẩm. Kia đã lui sụt vào sanh tử nên gọi là thành đó. “Bỏ ta trốn đi:” Chữ linh là chỉ cho hình dáng lẻ loi cô độc. Linh đinh: Là chỉ cho sự đi đứng không ngay ngắn, như bước vào chỗ nguy hiểm. Đây hoặc là nhiếp nói sự nguy hiểm khó khăn trong năm đường. Hoặc do đau khổ cô đơn mà rong ruỗi vào năm đường, bỏ cha mẹ, bỏ Phật, nên gọi đó là cô đơn. Nghóa tuy vậy mà không biết y cứ vào đâu. Trong đây ý nói là bỏ cha mẹ đi thường không an ổn, cô độc nguy nan hành động không đúng, sợ hãi, khổ sở. Kinh: “Xưa nó vốn là tên đó cho đến lo lắng, tìm kiếm.” Tán: Ở đây nhắc lại trong quyền có bốn việc lâu xa khác. Giữa đường gặp Phật, Phật biết rõ nguồn gốc. Đời đời theo Phật được giáo hóa, do đây nhớ rõ “tên ta, tên nó”. Xưa ở tại thành này gặp ở giữa đường lại dạy Đại thừa. Cho nên ngài Xá-lợi-phất tu hành, trải qua sáu mươi kiếp mới lui sụt lại Tiểu thừa. Giữa đường được Phật giáo hóa tu Đại thừa. Vì thế, nói ta ở chỗ thành này. Lo lắng tìm kiếm: Từ bi sâu xa tựa như lo lắng. Gặp mà không tu Đại thừa, dùng pháp Nhị thừa làm phương tiện hóa độ. Kia tuy đắc quả, mà vì lòng từ bi sâu xa, nên lại nói về Đại thừa, nhưng chúng sanh không mong cầu. Các việc như thế gọi là tìm kiếm. Kinh: “Bỗng ở nơi đây cho đến con ta đã biết. Tán: Ở đây là nói việc này. Luận Phật địa chép: Trong hội Pháp Hoa, căn cơ chủng tánh bất định, đã thành thục, nên xả bỏ phân đoạn mà thọ thân biến dị, hồi tâm hướng đại. Cho nên nói “Bỗng ở đây được gặp” vì cảm ứng phù hợp nhau. Xưa Phật từng giáo hóa pháp Đại thừa. Cho nên nói “đây thật là con ta”. Quả Bồ-đề của ta, của cải ta lẽ ra con nên được, đều thuộc về của con. Công đức của thâu vào tự lợi và xuất ra lợi tha trước kia con ta đều biết cả, ta nay đều giao phó. Kinh: “Thế tôn! cho đến Khi đó tự nhiên đến.” Tán: Ở đây là nói con đạt được. Biết mình từ trước đến nay không có tâm dự định thành Phật, đâu có mong cầu căn thuần thục tùy ý nghe kinh sẽ được thành Phật? Gọi là: Vốn không có tâm mong cầu, mà kho tàng quả Phật chân thật tự nhiên đến. Kinh: “Thế tôn! Trưởng giả cho đến chúng con là con.” Tán: Đều nói lãnh thọ. Có hai phần: Xưa không mong cầu. Nay được, tức từ câu: “Nay chúng con mới biết Thế tôn, đối với trí tuệ của Phật” trở xuống, văn đầu lại có năm phần: Hợp nói sơ phát tâm. “Thế tôn!… Chúng con vì ba khổ” đều nói lui sụt trong sanh tử. “Mê hoặc vô tri v.v…”. Đều nói không chịu tu Đại thừa. “Ngày nay Đức Thế tôn khiến chúng con suy nghó”, là nói dùng Nhị thừa hóa độ. “Nhưng Đức Thế tôn trước biết chúng con v.v…” là nói việc khai thị không cầu Đại thừa. Không hợp với phần thứ ba trở về gặp Phật. Giữa đường gặp Phật thì cũng là Phật tử, đầu tiên gặp cũng là con. Điều này trước đã dẫn dụ đầy đủ nên lược qua không nói. Đời đời đã theo Phật được Phật hóa độ từ trước. Đây là phần đầu. Nghóa chữ con như trước. Đầu tiên dạy phát tâm thật ra trụ ở phàm vị. Cho nên nói giống như con, như con thật của bậc Thánh. Hoặc đây là tướng chung. Nói các Nhị thừa tợ như con Bồ-tát. Phật thường nói Nhị thừa cũng là con Phật. Cho nên ngài Thu Tử trước nói: Nay nghe kinh Pháp Hoa mới biết là thật là con Phật. Kinh: “Thế tôn cho đến chịu các khổ não.” Tán: Phần hai là nói lui sụt vào sanh tử. Ba khổ là: Khổ khổ. Hoại khổ. Hành khổ. Là tự tướng của khổ thọ và thuận với khổ thọ, gốc khổ, khổ cảnh, tương ưng với pháp . Một phần năm uẩn là tánh khổ khổ. Trái duyên ép ngặt thì gọi là khổ. Khổ này gọi là khổ khổ, tức năm khổ trước ở trong bát khổ, đều gọi là khổ khổ. Tự tướng lạc thọ và thuận với lạc thọ, gốc khổ, khổ cảnh, cùng pháp tương ưng, ở vị biến hoại có thể sanh ra ưu não, nên gọi là hoại khổ. Lại do ái mà làm cho tâm biến hoại cũng gọi là hoại khổ. Một phần năm uẩn là tánh hoại khổ, tức, ái biệt ly khổ, cầu bắt đắc trong bát khổ, đều là hoại khổ. Tự tướng của xả thọ, và thuận xả thọ, như là căn, là cảnh, với pháp tương ưng. Hoặc đồng thời đều do hai khổ thô nặng tùy thuộc trước. Không lìa hai khổ này, mà vô thường, biến đổi tùy thuộc theo nên gọi là hành khổ. Không chỉ xả thọ gọi là hành khổ mà năm uẩn hữu lậu hoàn toàn là hành khổ. tức trong bát khổ lượt nhiếp tất cả năm thủ uẩn, khổ đều gọi là hành khổ. Như trong Duyên sanh thứ tám của Duy thức, các văn đều khác nhau. Do thối lui nên thọ sanh tử này. Hoặc đây không nói ra việc thối lui trước kia, mà chỉ nói tổng tướng ép ngặt chung của ba khổ chịu các nóng bức. Kinh: “Mê lầm biết ưa thích pháp Tiểu thừa.” Tán: Là nói không chịu tu Đại thừa. Ngu si gọi là mê, do dự là hoặc. Thích theo pháp Tiểu thừa nên không chịu tu Đại thừa. Kinh: “Ngày nay Đức Thế tôn… giá của một ngày.” Tán: Là nói dùng Nhị thừa hóa độ. Có hai phần: Y theo lời Phật thì được không nhiều. Nêu bày: Được tiểu quả bèn cho là đủ. Đây nói phần một. Suy nghó là: Suy tư tu đế quán. Dực là trừ. Trừ bỏ phân hí luận, dứt chướng phiền não. Siêng tu tinh tấn nhiều kiếp chuyên tâm, được đến Niết-bàn. Giá một ngày là đạt được không nhiều. Thể của Đại Niết-bàn, trải qua ba đại kiếp mới đắc được, gọi là vô số giá. Nay trong sáu mươi kiếp liền được giải thoát. Há chẳng phải giá Niết-bàn một ngày hay sao? Lại ba việc Đại Niết-bàn đều tròn đầy thì gọi là vô số giá. Nay chỉ được giải thoát, không đắc pháp thân, đại tuệ. Trong giải thoát chỉ đắc hoặc chướng giải thoát, không đắc trí chướng giải thoát. Chỉ được lìa phần đoạn sanh tử giải thoát, không phải được lìa tri chướng và Biến dịch giải thoát. Há chẳng phải cái giá Niết-bàn một ngày! Thể của Niết-bàn tức là giải thoát! Kinh: “Đã đắc pháp này rồi cho đến chỗ đắc rộng nhiều.” Tán: Đây nói tiểu tình bèn cho là đủ, vì tâm quá thấp hèn. Kinh: “Nhưng Thế tôn cho đến phần Bảo Tạng.” Tán: Khai thị Đại thừa mà không mong cầu: Ở đây có ba phần: Biết ta ưa Tiểu thừa. Phật không nói ta được, nên không mong cầu. Tự đắc Niết-bàn, cho là mình đã đầy đủ, nên không mong cầu gì hơn. Chỉ vì nói cho chúng Bồ-tát, không phải vì ta mà nói, cho nên không mong cầu. Đây là nói phần đầu. Mê đắm lòng ưa muốn hèn tệ, tức ưa điều xấu, mong cầu Tiểu thừa. Phật biết căn cơ chưa thuần thục nên buông bỏ con, không vì con mà nói rõ ràng con cũng có phần của Phật, cho nên chúng con không mong cầu. Phật đều chọn bỏ, nên chọn mà bỏ chúng con. Kinh: “Thế tôn! cho đến không có chí mong cầu.” Tán: Tự đắc Niết-bàn cho là đã đủ, nên không còn mong cầu. Dùng năng lực phương tiện mà nói trí tuệ của Như-lai tức là đầu tiên nói quyền giáo phương tiện, ý hiển bày trí tuệ Phật Nhất thừa chân thật. Do ta đã được Niết-bàn, nên tự cho đã đầy đủ là được nhiều, mà không biết trí tuệ thật sự của Phật. Cho nên không mong cầu. Kinh: “Chúng ta lại do cho đến không có chí nguyện.” Tán: Chỉ vì Bồ-tát mà nói, không vì ta mà nói. Cho nên không mong cầu. Đây có hai: 1. Nêu ra; 2. Giải thích. Nêu ra nói Bát-nhã là do lực trí tuệ gia trì của Phật, tùy theo chúng con nhưng vì nói cho Bồ-tát , không nói cho chúng con, nên chúng con không có chí nguyện đối với pháp này. Vì thế luận Du-già chép: Chỉ vì người phát hướng cầu Đại thừa nói các pháp Không, chánh là đồng với ý này. Kinh: “Vì sao? cho đến thật là Phật tử.” Tán: Giải thích ý không mong cầu. Biết con ưa thích Tiểu thừa nên Phật dùng năng lựa phương tiện rõ ràng nói cho chúng con, pháp Nhị thừa, không chánh rõ ràng nói cho bọn chúng con nói, cũng nên thích nghi nghe pháp Bát-nhã thậm thâm. Phật chỉ nêu tướng chung tùy theo con mà nói các kinh Bát-nhã cho đến Chúng con không biết thân có phần của Phật, có Hạt giống Phật thật là Phật tử tu học Bát-nhã. Do ngu ý này nên không cầu pháp Đại thừa. Kinh: “Nay chúng con mới biết cho đến nói pháp Đại thừa.” Tán: Là nói nay được. Có ba phần: Biết Phật không tiếc pháp Đại thừa, nên nay được. Biết Phật chỉ dùng Đại thừa hóa độ, nên nay được. Kết lãnh thọ nay được. Đây là nói phần đầu, gồm có: Nêu ra và giải thích, văn ý có thể biết. Phẩm Phương Tiện nói: “Nếu người tin về Phật, biết Như-lai không dối, cũng không có ý tham ganh, dứt trừ các pháp ác.” Nay biết Phật không sẻn pháp, chỉ vì con tự ưa theo Tiểu thừa, không thể học Đại thừa. Nếu có tâm ưa thích Đại thừa, Phật sẽ nói cho ta nghe. Kinh: “Nay trong kinh này cho đến Đại thừa giáo hóa.” Tán: Đây biết Phật chỉ dùng Đại thừa hóa độ. Nay trong kinh này, chỉ nói Nhất thừa. Cho nên biết chỉ lấy Nhất thừa làm tông. Không nói một thân để làm tông chỉ. Phật trước trách mắng Thanh-văn chỉ vì hóa độ Bồ-tát, khiến cho học Nhất thừa. Ý Phật đã rõ ràng, nên nay con được lãnh hội ý trước. Như thế đều vì đắc Nhất-thiết-chủng-trí của Phật thừa trong kinh này. Kinh: “Thế cho nên chúng con cho đến đều đã được.” Tán: Đây là phần kết sự lãnh thọ ngày nay Phật tử đã được: Sở đắc nhân quả Nhất thừa của Bồ-tát. Nay con nghe kinh, phát tâm cầu hướng đến như sở đắc của Bồ-tát đều đã được, chắc chắn được nên gọi là đều đã được. Bồ-tát ngày trước lúc mới phát tâm, cũng như con ngày nay. Phật đã đắc pháp rốt ráo, thì con cũng được như vậy, nên gọi là “đều đã được”, lý thật không khác. Tăng Pháp Ấn ở chùa Pháp Long. Viết xong ngày 21 tháng 05 niên hiệu Bảo An năm thứ ba. <篇> HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 7 (PHẦN ĐẦU) Kinh: “Bấy giờ ngài Ma-ha Ca-diếp cho đến không mong cầu mà tự được”. Tán: Phần Văn xuôi: Bốn người cùng lãnh hội. Tụng: Chỉ có ngài Ca-diếp lãnh hội là chỉ bậc cao tuổi nhất. Trình bày các ý rõ ràng và ảnh hưởng, người khác cũng tụng nói. Dưới có tám mươi sáu hàng tụng rưỡi. Chia làm hai: Bảy mươi ba hàng rưỡi tụng ba văn ở trên, kế mười ba hàng tụng từ câu “Đại ân của Thế tôn”. Tức thuộc đoạn thứ ba của phẩm, nói mang ân sâu của Phật. Phần đầu chia ba: Hai hàng tụng về pháp nói. Bốn mươi mốt hàng kế tụng về dụ nói. Ba mươi hàng rưỡi tụng về hợp nói. Đây là phần đầu không tụng lại sự không mong cầu trước kia, chỉ tụng việc đạt được hôm nay. Tụng có hai ý: Một hàng tụng rưỡi tụng về hai việc nghe pháp và nghe thọ ký. Nửa hàng tụng sau nói đạt được. Kinh: “Ví như gã đồng tử thơ dại không hiểu biết cho đến” Tán: Đây trở xuống, là đoạn thứ hai bốn mươi mốt hàng tụng, về Dụ nói, trong đó lại có hai: Ba mươi bốn hàng tụng, xưa không mong cầu. Bảy hàng tụng nói nay được. Ba mươi bốn hàng lại chia làm sáu: Nửa hàng tụng dụ lúc mới phát tâm. Một hàng tụng dụ: cho lui sụt vào sanh tử. Bảy hàng tụng dụ nói giữa đường trở về thấy Phật. Mười bốn hàng tụng nói không chịu tu Đại thừa. Chín hàng rưỡi tụng nói dùng pháp Nhị thừa hóa độ. Hai hàng tụng sau dụ: Chỉ cho Đại thừa mà không mong cầu. Kinh: “Bỏ cha trốn đi hơn năm mươi năm.” Tán: Một hàng tụng nói lui sụt vào sanh tử. Khắp nơi trôi nổi nghóa là trải qua, các nước là năm đường, gọi chung là nước khác. Kinh: “Cha gã lòng buồn nhớ cho đến liền ở lại một thành”. Tán: Đây trở xuống bảy hàng tụng, dụ giữa đường trở về gặp Phật. Văn xuôi có ba phần: Con lớn lên trở về nước. Cha trước đã cho tìm kiếm, khi con về thành thì gặp. Ở đây chỉ tụng về: Cha trước tìm con không tụng hai phần văn kia. Hai phần này sẽ nhập vào đoạn tụng thứ tư ở sau. Văn ẩn cho nên ở đây chia làm bốn phần: Một hàng tụng về tìm con nên dừng lại một thành. Hai hàng rưỡi nói của cải của cha rất nhiều. Một hàng tụng nói khách làm lợi rất nhiều. Hai hàng rưỡi tụng người tới lui rất đông. Bốn phương tìm cầu là tùy nhập vào bốn loài sanh mà tìm. Mỏi mệt như nghóa vất vả, chỉ rõ tướng tìm kiếm con. Liền dừng là dừng ở thành lớn. Kinh: “Tạo lập nhà cửa cho đến nhân dân rất nhiều.” Tán: Nói của cải rất nhiều. Tạo lập nhà là khởi tâm từ bi, là nói lên thắng nghóa không. Ngũ dục: Là năm thứ vui, hoặc năm pháp tịnh pháp giới cho đến Ngu nghóa là tự vui. Liễn (xe kéo) là chân đế, là xe của đấng Pháp vương, là tục đế, xe thường của mọi người. Vì sự hơn kém khác nhau nên có năm thừa. Ruộng nghiệp là trí đoạn, ngoài ra theo văn có thể biết. Kinh: “Lợi tức xuất nhập cho đến chẳng chỗ nào không có.” Tán: Nói lợi tức dồi dào, buôn bán, thông thương các loại châu báu khác lạ ở bốn phương là thương, ngồi bán gọi là giá. Đi buôn, ngồi bán. Qua lại sáu đường để làm lợi lạc chúng sanh thì gọi là buôn. Trụ ở Tịnh độ trời người để giáo hóa chúng sanh thì gọi là bán. Đi khắp ba cõi thâu lợi tức thì gọi lợi tức dồi dào. Cho nên khắp ba cõi đều có Phật pháp. Kinh: “Ngàn muôn ức chúng cho đến có thế lực lớn.” Tán: Nói người đến lui rất đông. Vua thì mấn yêu nhớ tưởng, cung kính. Bậc hào tộc tôn trọng, thứ dân tôn kính. Do nhân duyên này mà bốn chúng tám bộ qua lại rất nhiều. Kinh: “Mà tuổi đã già nua… nên làm thế nào?” Tán: Mười bốn hàng tụng, không tu Đại thừa, đây lại bốn phần: Hai hàng tụng nói cha vẫn thường nhớ con. Chín hàng tụng: Con thấy cha kinh sợ bỏ chạy. Một hàng rưỡi: Cha cho người gấp dẫu về. Một hàng rưỡi: Con lo lắng sợ hãi. Tuổi già suy yếu, nghó đến đạo từ lâu càng thương sâu đậm, mà chỉ nghó đến chúng sanh trong sáu đường. Kinh: “Bấy giờ cùng tử cho đến hoặc không có sở đắc.” Tán: Chín hàng tụng. Con thấy cha kinh hãi bỏ chạy, trong đây có ba: Ba hàng tụng tình cờ đến nhà cha. Hai hàng tụng rưỡi thấy được tướng cha. Ba hàng tụng rưỡi, thấy rồi thì kinh hãi bỏ chạy. Trong phần đầu có hai: Một hàng rưỡi đi khắp nơi tìm. Một hàng tụng rưỡi khó khăn đến thành. Đòi cũng có nghóa là xin, mong cầu. Nghóa nước, ấp ở văn xuôi đã giải thích. Có sở đắc là trong Phật pháp gặp được bạn lành chân thật. Vô sở đắc là tri thức không thật. Kinh: “Đói khát gầy yếu cho đến bèn đến nhà người cha.” Tán: Khó khăn đi đến thành. Pháp thật không đủ gọi là đói. Hạnh mầu không tròn đầy nên gầy xấu. Hoặc khởi ra ác kiến làm tổn hại nặng sanh ghẻ chốc, không giữ giới, tổn hại ít nên sanh ra lác. Vọng sanh kiến giải không chuyên giữ giới. Đến thành cha làm thuê tức gặp được pháp Đại thừa. Lần lữa làm là cố gắng cầu pháp, đến nhà cha là vào Đại thừa Trung đạo. Kinh: “Bấy giờ trưởng giả cho đến ghi chép giấy tờ.” Tán: Thấy được tướng cha là: Gặp được cha. Trong cửa là lý ở giáo, quả ở trong nhân. Xưa tướng sanh tử gọi là ở ngoài cửa, nay so với Niết-bàn nên ở trong cửa. “Tính toán vàng bạc:” Các bậc Thánh soạn luận phân biệt nói pháp Thánh tài. Xuất nội tài sản là hành dụng hai lợi. “Tính toán sổ sách”: Các sư soạn sớ giải soạn thảo văn ký v.v… Chú nghóa là ghi chú, chú sớ: Là hiểu biết tỏ rõ . Kinh: “Cùng tử thấy cha… làm sao đến nơi này.” Tán: Ba: Bậc Thấy rồi lo sợ bỏ chạy, chia ra làm hai: Một hàng tụng rưỡi: Con hối hận đến đây. Hai hàng tụng bỏ chạy. Kinh: “Lại thầm tự nghó rằng cho đến muốn đến làm thuê mướn.” Tán: Nói con bỏ chạy. Kinh: “Trưởng giả lúc này cho đến đuổi bắt đem về.” Tán: Cha sai người mau đuổi bắt con về, im lặng mà nhận biết. Chưa hề đối với chúng mà nói người Thanh-văn thời quá khứ đã từng gặp Phật, là con của ta. Đó gọi là im lặng mà hiểu biết. Kinh: “Cùng tử kinh hãi kêu cho đến khiến tôi đến thế này”. Tán: Con lo lắng sợ hãi. Lui sụt trong sanh tử không tu Đại thừa gọi là nên ngất té xuống đất. Hoặc hành đại hạnh trái với bổn ý thì chẳng khác gì chết, nên nói “sẽ bị giết”. Tôi đâu có dùng cơm áo vô lậu Đại thừa, bỗng nhiên sao đến nổi này! Kinh: “Trưởng giả biết con cho đến không có uy đức.” Tán: Trở xuống chín hàng tụng rưỡi. Là Dụ cho việc dùng pháp Nhị thừa hóa độ. Phần Văn xuôi có sáu: Đây có bốn, không tụng hai phần đầu. Ba hàng đầu là khiến cho tu phần giải thoát . Một hàng tụng nói “con y theo đó hành trì”. Bốn hàng rưỡi, là khuyên nhập vào gốc lành. Một hàng tụng nói về: Thành tựu Thánh vị. Ba hàng đầu lại chia làm hai: Hai hàng tụng sai sứ. Một hàng truyền lại lời nói. Ngu si là vô minh. Hèn hẹp là ý kém thiếu. Chột mắt thì nhìn bất chánh. Vì Nhị thừa nói an lập đế, giáo năng thuyên hiển nghóa. Không đầy đủ gọi là chột mắt. Lý sanh không sở thuyên ngắn nên gọi là tỏa. Không có công đức pháp thân xấu xí nên gọi là lậu, thần dụng không rộng nên không có uy đức. Kinh: “Các ngươi nên nói nó cho đến trả giá nó gấp bội” Tán: Truyền nói lại cho cùng tử. Kinh: “Cùng tử nghe cho đến phòng xá đều thanh tịnh.” Tán: Một hàng tụng nói con theo đó mà làm. Đổ phân phiền não để sạch nhà ngũ uẩn. Kinh: “Trưởng giả trong cửa sổ cho đến ưa thích làm việc hèn”. Tán: Trở xuống bốn hàng tụng rưỡi, khuyên nhập vào gốc lành. Phần Văn xuôi có ba. Ở đây cũng có ba: Một hàng tụng nói tâm thương xót. Một hàng tụng nói gần gũi. Hai hàng rưỡi nói chuyện với nhau. Kinh: “Lúc ấy trưởng giả cho đến đi đến chỗ của con.” Tán: Ở đây nói gần gũi. Kinh: “Dùng phương tiện gần gũi cho đến như là con của ta.” Tán: Nói chuyện với. Văn xuôi có hai phần. Đây cũng có hai: Nửa hàng tụng đều nói khuyên cố gắng. Hai hàng tụng chỉ bảo riêng nói với cùng tử. Hai hàng sau lại có hai: Một hàng rưỡi: hễ cần liền cho. Nửa hàng tụng tạm xưng là cha con. Dầu thoa chân: Người phương Tây dùng các loại dầu thoa rất nhiều. Nay nói là chân. Tức bốn thần túc: Tâm, quán dục, cần. Du (dầu) là tám đoạn hành. Tức là dục tinh tấn, tín, khinh an, chánh niệm, chánh tri tư, xả. Ba hành đầu là Gia hạnh. Khinh an nhiếp thọ thân tâm. Chánh niệm, chánh trì là thuộc kế tiếp. Không quên sở duyên an tâm vào một cảnh, có buông lung mới sanh ra sự rõ biết như thật. Cho nên tư xả là đối trị, đó là hai thứ lực để giữ tâm. Đã sanh hôn trầm trạo hối để có thể xa lìa nên nói dầu xoa chân, như trị phong thấp chướng nhiễm. Hoặc chân là giới. Dầu là sáu chi. Học xứ thọ học thiện thì dùng luật nghi biệt giải thoát mà giữ gìn. Các sở hành quy tắc đều tròn đủ. Thấy những tội nhỏ sanh sợ hãi lớn. Giới đức thấm nhuần tức gọi là pháp thật sung mãn. Không tham sân si như thêm giường cỏ dây. Kinh Vô Cấu Xưng chép: Bốn tónh lự làm giường, tịnh mang làm đệm cỏ. Tịnh mạng tức là vô tham, khởi ra hai nghiệp thân ngữ, lấy vô tham làm giường cỏ . Tạm gọi là cha con, lại dùng lời mềm mỏng, nói như là con ta, như là con thật của bậc Thánh. Đây là quả vị Kiến đạo trở xuống. Kinh: “Bậc trưởng giả hiểu biết cho đến làm việc nhà.” Tán: Thành tựu Thánh vị. Chỉ có bậc Vô học dần khiến cho nhập xuất cùng hiển tỏ ở sự tu đạo. Trong hai mươi năm thường làm việc hốt phân nên gọi là coi sóc việc nhà. Sau đó tâm tướng thể tín ra vào không trở ngại. Nhưng chỗ ở vẫn ở chỗ cũ, rõ ràng đây chỉ kiến đạo, gọi đó là con nhỏ. Trong văn này lược nói. Kinh: “chỉ cho biết vàng bạc cho đến ta không có vật này.” Tán: Chỉ bày pháp Đại thừa mà không mong cầu nhị lợi của Đại thừa tuy khiến cho biết gọi là “các vật ra hoặc vào” mà còn ở ngoài cửa là nhân môn bên ngoài của giáo hạnh Đại thừa. Nương nấu ở am tranh đó là còn ở quả Nhị thừa. Lều cỏ này chẳng phải nhà. Tự nghó: Vì sự nghiệp nghèo hèn, mình không có một phần sự nghiệp Đại thừa, nên không chút ý mong cầu Đại thừa. Kinh: “Cha biết tâm con cho đến hàng cư só Sát-lợi.” Tán: Trở xuống bảy hàng tụng là nói pháp nay được, trong đây lại có hai phần: Năm hàng tụng nói cha giao phó cho con. Hai hàng nói con đạt được. Phần a lại có hai: Một hàng tụng rưỡi nói: Biết đến thời cơ nhóm họp thân tộc. Ba hàng tụng rưỡi chính là giao phó gia sản. Kinh: “Ở nơi đại chúng cho đến mặc ý mà thọ dụng.” Tán: Ba hàng tụng rưỡi là, chính giáo phó gia sản. Có năm: Nửa hàng tụng nói bắt đầu dạy phát tâm. Nửa hàng lui sụt vào sanh tử. Nửa hàng tụng hóa độ pháp Nhị thừa. Hoặc căn tánh trời người mới thuần thục. Hoặc ở hai đạo Gia hạnh, Vô gián. Hoặc dứt năm kiết phần dưới, và trên. Cho nên nói gặp con đã hai mươi năm rồi. Hoặc nói đắc quả Hữu học Vô học. Một hàng tụng nói trước lui sụt pháp Đại thừa, nay được gặp nhau, căn cơ đã thuần thục. Một hàng tụng là chính thức giao phó. Kinh: “Con nhớ xưa nghèo khổ cho đến được điều chưa hề có.” Tán: Nói về việc con đã đạt được. Công đức hữu vi gọi là châu báu. Chân như vô vi, tâm từ bi v.v… gọi là nhà cửa. Lại biết đạt bổn thức sẽ thành tựu cảnh trí. Cũng biết tất cả chúng sanh trong Ba cõi đều là nhà của mình và đạt được châu báu của cải nên sanh tâm vui mừng. Kinh: “Phật cũng như thế cho đến đệ tử Thanh-văn.” Tán: Đoạn lớn thứ ba có ba mươi hàng tụng rưỡi, là tụng hợp nói, trong đây chia làm hai: Hai mươi hàng rưỡi tụng về hợp nói xưa không mong cầu. Mười hàng, tụng về nay đắc pháp. Phần hợp đầu ở văn xuôi có năm, không hợp giữa đường trở về gặp Phật. Nay trong tụng này chỉ tụng chỉ bày mà con không mong cầu Đại thừa. Những phần khác lược không tụng. Trong Văn xuôi trước chỉ bày Đại thừa con không mong cầu có ba phần, nay tụng đây cũng vậy. Hai hàng tụng, nói biết con ưa học Tiểu thừa, Phật không nói con đắc cho nên con không mong cầu. Tám hàng tụng, tụng phần thứ ba của văn xuôi ở trên. Phật nói cho Bồ-tát , chứ không phải nói cho con mà, vì thế không mong cầu. Mười hàng rưỡi tụng về phần thứ hai ở trên, tự đắc Niết-bàn cho là đã đầy đủ, cho nên không mong cầu. Phật chưa hề nói các con sẽ thành Phật, đối với diệu trí của Phật con cũng có phần. Phật chỉ nói các con đắc các pháp Vô lậu là Thanh- văn, cho nên chúng con không mong cầu. Kinh: “Phật dạy chúng con cho đến sẽ được thành Phật.” Tán: Tám hàng tụng nói Phật chỉ nói cho Bồ-tát, không nói cho chúng con , nên chúng con không mong cầu, trong đây chia làm sáu: Một hàng tụng về: Phật dạy. Một hàng tụng rưỡi nói: Con theo lời Phật dạy. Một hàng tụng nói: Chúng khác cũng theo lời Phật nói chúng con. Một hàng tụng là: Phật thọ ký cho chúng con. Một hàng tụng rưỡi là: Phật vì Bồ-tát chứ không vì con. Hai hàng tụng là: Pháp dụ cùng kết. Phật thêm tam nghiệp. Thầm dạy khiến cho nói các kinh như Bát- nhã v.v… Kinh: “Con vâng lời Phật dạy cho đến nói đạo Vô thượng cho đến” Tán: Con Nương lời Phật dạy. Kinh: “Các Phật tử cho đến siêng năng tu tập.” Tán: Người khác nương theo lời Phật nói chúng con. Kinh: “Lúc ấy Chư Phật cho đến sẽ được thành Phật.” Tán: Phật thọ ký cho người khác. Nói Chư Phật là nói lên tất cả Phật pháp đều đồng, cho nên chẳng phải chỉ một vị Phật. Cũng là trong quá khứ từng thường thọ hóa các Đức Phật khác. Từng theo Chư Phật nghe nói pháp phương tiện. Kinh: “Tất cả Chư Phật cho đến nói chân yếu này.” Tán: Chính vì Bồ-tát chứ không vì con, nên chúng con không mong cầu. Kinh: “Như gã cùng tử kia cho đến cũng giống như thế.” Tán: Đây là kết thúc cả pháp và dụ, ý văn có thể biết. Kinh: “Chúng con bên trong đã diệt cho đến đều không ưa thích cho đến” Tán: Trở xuống mười hàng tụng rưỡi nói, tự được Niết-bàn cho là đã đầy đủ nên không mong cầu. Trong đây chia làm hai: Hai hàng tụng nêu sự tự mãn không mong cầu. Tám hàng tụng rưỡi là giải thích. Nội diệt nghóa trong tự thân đã dứt hết các phiền não, chứng đắc Niết-bàn. Chỉ có thể biết đây là rốt ráo, mà không có làm các việc lợi tha khác, nên không thích Đại thừa. Kinh: “Vì sao? cho đến là rốt ráo.” Tán: Tám hàng tụng rưỡi giải thích. Trong đây chia làm ba: Ba hàng tụng rưỡi, đối với cảnh trí của Phật khởi lên ba môn giải thoát , tự cho là đã đủ, nên không mong cầu. Bốn hàng tụng tự cho là đã đắc đạo đã báo ân Phật. Tuy vì người nói mà không mong cầu. Một hàng kết luận vì Phật không nói nên không mong cầu. Ba hàng đầu tụng quán không Vô tướng. Một hàng rưỡi là quán Vô nguyện. Các pháp đều là không, không quán . Hai ngã đã không thì làm gì có sanh v.v…. Phần dưới nói sáu thứ không như vô sanh diệt v.v… cùng quán vô tướng mà xa lìa tham trước. không tham tất cả bèn đối với trí Phật cũng không tham cầu là quán vô nguyện. Do nghe Bát-nhã nói mật ý về không, vô tướng, nguyện lầm ngộ giải ba quán này đã đắc Niết-bàn, cho là rốt ráo nên không cầu pháp Đại thừa. Kinh: “Chúng con trong đêm dài… báo được ân của Phật .” Tán: Bốn hàng tụng, tự cho đã đắc đạo, báo ân Phật. Tuy vì người nói mà không mong cầu đại pháp. Trong đây chia làm hai: Hai hàng tụng rưỡi là báo ân Phật. Một bài rưỡi: Dù vì người nói mà tự mình không mong cầu. Nghiệm trong văn này ý nói trụ ở hữu dư y Niết-bàn mà hồi tâm hướng đại, chẳng trụ vào cảnh giới vô dư y Niết-bàn. Kinh: “Chúng con tuy vì cho đến không bao giờ mong muốn.” Tán: Tuy vì người nói mà tự mình không mong cầu. Kinh: “Đạo sư thấy xả cho đến nói là có thật lợi.” Tán: Phật không nói cho con, nên con không mong cầu. Phật quán chúng sanh căn tánh chưa thuần thục nên không nói đại pháp. Chưa hề khuyên ta tiến tu Đại thừa nói là có thật lợi, nên ta không mong cầu. Đầu tiên không khuyên răn là y cứ vào đời nay sanh ra. chẳng phải không hề khuyên mà từ lâu đã khuyên. Kinh: “Như trưởng giả giàu có… bèn dạy pháp đại trí.” Tán: Ở Trên có hai mươi hàng rưỡi, tụng về việc xưa mong cầu. Dưới đây mười hàng tụng nói nay được. Có hai: Ba hàng tụng pháp dụ đối chiếu đầu tiên dạy phương tiện, sau nói về chân thật. Bảy hàng tụng nói về: Con nay được. Ba hàng đầu thì một hàng rưỡi là dụ, một hàng rưỡi là pháp . Kinh: “Chúng con ngày nay cho đến được vô lượng của báu.” Tán: Bảy hàng tụng nói về nay được, chia ra ba phần: Một bài rưỡi nói chung rõ về sự đắc chẳng phải là điều mong cầu từ trước. Ba hàng tụng: Nay mới gọi là đắc quả thể. Hai hàng tụng rưỡi: Mới gọi là đắc quả dụng, đây là phần đầu. Kinh: “Thế tôn! Chúng con ngày nay… Vô thượng đại quả.” Tán: Cho đến ngày nay mới đắc quả thể. Lại có hai phần: Một bài tụng: Nói chung quả trước kia chẳng phải thật, nay mới là quả thật. Đạo là chứng trí, quả là vô vi. Hai hàng tụng nói nay đắc quả, thật là do nhân trước kia. Chứng minh trong tụng đầu nói do trì giới mà được quả báo, nên tụng sau nói: Tụng phạm hạnh đầy đủ mà đắc đại quả, đều là hơn trước. Kinh: “Chúng con ngày nay cho đến nên thọ cúng dường.” Tán: Mới gọi là đắc quả dụng. Một hàng tụng: Được gọi là Thanh-văn chân thật, dụng lợi tha. Một hàng tụng rưỡi đắc A-la-hán chân thật, gọi là ruộng phước. Tức nói rõ trụ ở Tiểu thừa chẳng phải Thanh-văn chân thật, chẳng phải là chân thật A-la-hán. Kinh: “Đại ân của Thế tôn cho đến ai có thể báo đáp.” Tán: Trên đây là bảy mươi ba hàng rưỡi tụng phần Văn xuôi ở trước. Từ đây trở xuống là đoạn thứ ba của phẩm có mười ba hàng tụng, nói mong ân rất sâu của Phật, chia làm hai: Sáu hàng rưỡi nói chung về ân sâu khó báo đáp. Sáu hàng rưỡi biệt minh về sự khó báo. Trong phần đầu lại có hai: Một hàng tụng rưỡi nói tâm từ bi sâu xa của Phật khó đáp. Năm hàng tụng là nói: Hành pháp cúng dường mà không thể báo đáp đây là phần đầu. Trải qua thời gian rất lâu, hạnh đầy đủ tâm siêng năng , Phật vì khổ mình lợi người, tình sâu thật khó đáp, ân đức sâu dày che chở chúng con Kinh: “Tay chân cung cấp cho đến hết lòng cung kính.” Tán: Trở xuống năm hàng tụng nói về sự cúng dường. Trong đây chia làm hai: Hai hàng tụng về sáu thứ nội tài không thể báo đáp. Ba hàng tụng: Dùng tứ sự ngoại tài cùng xây tháp, cũng không thể báo đáp ân này. Kinh: “Lại đem thức ăn ngon quý… cũng không thể báo đáp.” Tán: Đem tứ sự ngoại vật cúng dường cũng không thể báo đáp. Đây hai hàng tụng tứ sự, một hàng tụng kết. Kinh: “Chư Phật ít có cho đến tùy nghi mà nói.” Tán: Sáu hàng tụng rưỡi nói việc khó báo. Trong đây có ba: Hai hàng tụng rưỡi: Nói chung Phật vì những việc thấp kém, hiện lấy tướng phàm phu có thể tùy nghi nói pháp cho nghe. Hai hàng tụng có thể biết ưa muốn và thắng giải của chúng sanh mà nói pháp cho nghe. Hai hàng tụng: Biết căn tánh thuần thục hay chưa mà nói Tam thừa. Ẩn thật đức của báo thân, nói lên quyền hình hóa tướng. Ẩn huyền tông của diệu lý nêu lên giáo nghóa thô sơ. Không về Tịnh độ mà ở cõi uế này, tùy theo phàm phu. Há ân này chẳng khó báo sao? Kinh: “Chư Phật đối với pháp cho đến nói pháp cho nghe.” Tán: Có thể biết ưa muốn, thắng giải của chúng sanh mà nói pháp cho nghe. Với người chí lực là thắng giải, Phật không tùy tự ý nói rộng lên huyền vi, mà tùy theo tâm tình của người tuyên bố phương tiện này, há ân này chẳng khó báo hay sao? Kinh: “Tùy theo các chúng sanh… tùy nghi nói có ba thừa.” Tán: Có thể biết căn cơ thuần thục hay không mà nói Tam thừa. Hoặc thô, hoặc tế, hoặc thật hoặc quyền. Quán căn trước sau thí pháp, há chẳng là ân sâu khó báo đáp hay sao? ------------------------- PHẨM DƯỢC THẢO DỤ Chia ra làm ba môn. Vì sao có phẩm này. Giải thích tên gọi. Giải Thích Các chướng nạn. Về lý do: Có bốn: Châu đầu tiên pháp nói vì thượng căn, ngài Thu Tử lãnh thọ pháp. Phật vì pháp thuật sự thành tựu, sau mới thọ ký. Nay, châu thứ hai Phật vì người trung căn mà nói dụ , bốn người lãnh hội Thí dụ. Nay Phật lại dùng thí dụ mà thuật lại việc thành tựu, sau đó mới thọ ký, cho nên có phẩm này. Luận chép: Để đối trị hạng người thứ ba trong bảy mạn, có người Đại thừa hoàn toàn Tăng thượng mạn, cho rằng không có Thanh- văn, Duyên-giác, Phật thừa khác nhau. Vì đối trị này mà Phật nói hai thí dụ. Phẩm Thí dụ trước để đối trị hàng phàm phu cầu diệu quả trời người, kế phẩm Tín hiểu đối trị hạng Nhị thừa Hữu học chấp thừa của ta và Như-lai bình đẳng mà không cầu Phật thừa. Nay trong phẩm này đối trị người hoàn toàn ở Đại thừa, khinh mạn nói không có hai thừa, chỉ có nhất thừa. Cho nên luận kia nói: Người thứ ba đó là khiến cho biết đủ loại thừa khác nhau, Chư Phật Như-lai bình đẳng nói pháp, tùy theo hạt giống gốc lành của chúng sanh mà sanh ra. Ý nói là một cơn mưa tuy đồng mà ba cỏ, hai cây lớn lên có khác. Phật giáo tuy đồng cả ba thừa mà hai Thánh phát tu cũng khác. Căn hữu vi khí mỗi mỗi đều khác, cũng có hàng Nhị thừa quyết định. Cho nên, bởi cơ tánh khác mà bẩm nhận cũng khác. Kinh Thắng-man chép: người Thiện nam nhiếp thọ chánh pháp có thể kham lãnh bốn gánh nặng. Kinh Niết-bàn cũng nói: “Ta ở trong một thời nói Nhất thừa nhất đạo. Cho đến đệ tử không hiểu được ý ta. Nói Tu-đà-hoàn đều đắc Quả Phật”. Y vào sự vận chuyển của người mà giáo pháp gọi là thừa. Phật pháp tuy đồng mà căn cơ tu tập có khác, cho nên nói phẩm này. Đầu phẩm Phương tiện nêu hai pháp: Trí và trí tuệ môn đều rất sâu nên gọi là Nhất thừa. Phẩm Thí dụ trước nói thừa có ba, thể duy có một. Bốn người lãnh hội một là thật, ba là giả tạm, hội nhập trí tuệ sâu, nay đây là hội môn. Môn tức là A-hàm. Giáo đồng mà cơ khác thì gọi là lãnh hội môn đó. Như nói Tứ đế, ba căn đều nghe được. Y vào uẩn, xứ, giới, duyên khởi, tam tánh, dựa vào đó tu hành có khác nên gọi là Tam thừa. Cho nên giáo đồng mà căn cơ khác, do đó có phẩm này. Trong mười nghóa Vô thượng thì thứ nhất là hạt giống Vô thượng. Cho nên nói mưa làm thí dụ. Mười Vô thượng đều là bảy dụ, ba bình đẳng còn lại. Nhưng trong đó có văn còn lại, có nghóa còn lại. Ở đây là nghóa còn lại mà không phải văn còn lại. Trong bảy dụ đã có dụ về mưa. Trong mười Vô thượng có nói lại nhưng gọi là còn lại ở nói trước. Thí dụ mưa nhuần thấm cả ba thứ cỏ. Ba thứ đã khác khiến cho biết thừa cũng khác. Nay nói Thí dụ mưa, tuy thấm nhuần ba thứ cỏ, mà hình tưởng căn cứ nói hai (cỏ thường và có thuốc). Phật chủng là giống cỏ lớn, từ nơi vị tưởng hình mà gọi thêm hai thứ cây, căn cứ theo nghóa khác gọi là nghóa còn lại. Hoặc nói là văn còn lại, tức văn nói cỏ lớn, vừa và nhỏ, thí dụ mưa là phá bệnh chấp thừa khác nhau, các cây lớn nhỏ tùy theo các bậc thượng, trung, hạ. mỗi thứ đều có thọ nhận khác. Dụ mưa đây là hạt giống Vô thượng. Văn trước sau khác nhau, nên gọi là văn còn lại. Hại giống lớn này gặp mưa nhuần thấm thể dụng rất rộng lớn. Sau đó đắc quả cao siêu nên gọi là Vô thượng. Luận dẫn kinh nói không lìa thân ta là nghóa Vô thượng. Chỉ Đại thừa mới có gọi là không lìa. Hoặc chủng, hoặc hiện, hoặc nhân, hoặc quả, tuy đều không lìa Đại thừa, mà nay nói rõ hạt giống vô lậu Đại thừa. Vì lấy nhân bổn mà thành tựu được Phật thân. Cho nên vì nói lên hạt giống Vô thượng, do đó mà có phẩm này. Giải thích tên gọi: Có công năng như thần là trừ bệnh gọi là thuốc. Hình tướng thấm thuần gọi là cỏ. Có thuốc chẳng phải cỏ. Có khi cỏ chẳng phải thuốc. Có cỏ có thuốc, không thuốc không cỏ. Thí dụ cũng vậy. Giáo, lý, hạnh, quả đều gọi là thuốc. Nay lấy thuốc hành theo giáo mà tu sanh, không lấy các loại thuốc đá khác. Vì không thể lớn lên. Hạt giống thế, ra đời có thể lớn lên, đều gọi là cỏ. Nay lấy hạt giống thiện của trời người và nhân trí Tam thừa, làm cỏ thuốc, vì trái với hại ác. Không lấy hạt giống của cỏ sanh tử đường ác, vì không thấm nhuần chánh pháp ý nay nói rõ hạt giống về ba thừa khác nhau, lãnh thọ giáo mà thành thừa khác nhau. Không muốn nói đều hết các hạt giống, nên dùng cỏ thuốc làm nhân. Thuốc đó tức là cỏ tức giải thích tên theo cách trì nghiệp. Để phân biệt chung là cỏ thuốc, tức giải thích tên theo cách y chủ. Lấy đây làm dụ đặt tên là dược thảo dụ. Hoặc nói phẩm này cũng lấy thuốc và cỏ làm dụ nên gọi là dược thảo dụ. Không phải thuốc đều tức có cỏ, há tất cả các loại cỏ đều lấy làm dụ sao? Do đây cho nên biết nói này nói là khéo. Đây dùng hai nghóa làm dụ. 1. Như tánh cỏ khác, mưa thấm nhuần thành loại cỏ khác. Ba căn chúng sanh vốn khác lãnh thọ giáo pháp thành ra có Tam thừa. 2. Như bẩm tánh của cỏ, mỗi mỗi đều không biết nhau. Ba căn cũng vậy, không thể biếtnăm thừa khác nhau, cho rằng thừa không khác nhau. Do đó lấy cỏ thuốc làm thí dụ. Giải đáp các chướng nạn. Hỏi: Luận giải bảy dụ và mười Vô thượng, đều nói thí dụ mưa. Vì sao tiêu đề gọi là Dược thảo dụ, sao không gọi phẩm Vũ dụ? Đáp: Luận nói pháp năng thấm nhuần đó là để nói lên sở dụ, nên lấy dụ mưa đặt tên. Kinh lấy thể năng dụ để phá nghi kia, nên nêu dược thảo. Điên đảo chấp thừa không khác bệnh, phá trừ bệnh dùng căn cơ có khác nhau để phá, nên nhờ sự nhuần thấm của cỏ thuốc để so sánh các căn tánh nhuần thấm, do đấy mà không nêu mưa ra làm thí dụ, cũng không nêu hai tánh mưa và cỏ làm phẩm. Hỏi: Phẩm này cũng nói đến hai cây, vì sao không gọi là phẩm thảo mộc? Đáp: Thật sự theo lý nói thì nên cả hai cùng nêu ra. Chỉ vì lập ra chánh pháp vốn để phá bệnh phát sanh, tức sanh bệnh chấp thừa giống nhau, nên dùng cỏ khác nhau để phá. Pháp Vô thượng nói lên thể tôn cao chưa là phá ở bệnh sanh, nên lấy cỏ thuốc làm phẩm, không dùng cây v.v… mà nêu tên. Thảo rộng mà cây hẹp, cỏ nhỏ mà cây lớn, là chung cả Tam thừa không chỉ có đại. Nói rõ sự lớn lên nhuần thấm không chỉ có thành thục. Thế nên có lời giải: Thuốc là mưa pháp thuốc năng thấm cỏ là căn cơ, là tánh của sở sanh. Dùng thuốc dụ pháp, dùng cỏ dụ cho căn cơ. Cả hai rõ ràng thì không còn chướng ngại. Văn tuy không rõ mà lý cũng đâu sáng! Lại ở phẩm Thí dụ trước có nhà lửa nhàm chán, ba xe để ưa thích, cả hai hợp lực tên Thí dụ chỉ có thể nói chung, đây dùng căn cơ khác nhau để thấm nhuần phá bệnh chấp nhất thừa kia, do đó mà lấy dược thảo làm dụ. Kinh: “Bấy giờ Thế tôn cho đến nói không thể hết.” Tán: Phẩm này đại văn chia ra làm ba: Khen ngợi ấn khả. Từ “Ca-diếp nên biết.” cho đến trở xuống là Đức Phật trình bày nói: Hai hàng tụng kết thành thành tựu nói thật để dần được thọ ký đây là phần đầu. Trước khen ngợi ấn khả, sau càng khen ngợi vì nói hợp lý, nên nghóa khế hợp chân như mà ấn khả. Nêu rõ ngài Ca-diếp trình bày phần trước, chưa nói hết được công đức của Phật. Lại tự khen ngợi Phật giống như trưởng giả. Lấy tiểu có thể dụ nơi đại. Ông đồng Thánh đức với cùng tử, dù kém cũng là đồng. Khen ngợi ấn khả, là thành tín là kinh vậy. Tin như đã nói, kính như chỗ nói. Đức Phật khó nghó bàn, lại không thể nói hết. Kinh: “Ca-diếp nên biết… không dối.” Tán: Trình bày tự thuật. Chia làm hai phần: Văn xuôi và Kệ tụng. Văn xuôi lại có hai phần: Văn đầu lại có hai: Trần nói và Kết thành. Kệ nói là: Như-lai biết là một tướng, một vị. Trong phần trình bày lại chia làm ba: Trình bày pháp. Trình bày thí dụ. Hợp trình bày. Trình bày pháp bốn : Phật truyền pháp ở đời. Pháp lợi ích chúng sanh. Thọ đạo có khác nhau. Không thể tự đạt được. Đây là phần đầu. Đối với pháp Phật được tự tại, là Ngài nói không luống dối, truyền bá ở đời dẫn dắt lợi ích chúng sanh. Kinh: “Đối với tất cả pháp cho đến Nhất-thiết-trí địa.” Tán: Nói về pháp lợi khắp cả chúng sanh. Dùng đại bi, trí lực, phương tiện thịên xảo, lìa pháp danh tướng. Khéo nói pháp làm lợi ích chúng sanh. Lý của giáo nói cũng khế hợp đến tận cảnh địa trí Phật, vì nói hợp với chứng, nghóa rốt ráo hợp. Hoặc giáo thuận nơi lý, lý thuận nơi hành. Hành thuận nơi quả. Cho nên nói đến quả địa Phật, lấy đây khắp thấm nhuần mà ứng hóa. Kinh: “Như-lai quán biết… thông đạt vô ngại.” Tán: Thọ đạo có sai khác. Do Phật biết chỗ trở về của các pháp Không, Hữu là chân tánh rốt ráo, và biết tâm sở hành hướng đến của chúng sanh, nên có thể khiến chúng sanh đều được lớn lên. Kinh Vô Cấu Xưng nói: Chỗ hướng về của các pháp Không, Hữu ý chỉ rõ chỗ quay về. Quy về hướng đến Tam tánh làm rốt ráo tức chân như. Tâm sở hướng đến tức là hành khắp hướng đã ưa thích. Ở trong lý trí đạt đến vô ngại. Hoặc do Phật đạt được pháp và tâm chúng sanh, thật hành. Cho nên có thể thọ đạo, khiến cho ba thừa đều khác nhau. Kinh: “Lại đối với các pháp cho đến tất cả trí tuệ.” Tán: Đây nói pháp không thể tự đạt. Phật đối với các pháp, có thể đạt tận rốt ráo, nên biết tất cả căn tánh. Đầu tiên là nói pháp Tam thừa, sau chỉ cho chúng sanh trí tuệ của Phật. Chúng sanh không như vậy thì làm sao biết được tự tánh tha tánh. Dụ và hợp ở dưới đều có thế văn này, nên chia thành bốn khoa. Lại có giải thích rằng: Trình bày pháp có hai: Đối với pháp tự tại, nói không luống dối. “Đối với tất cả pháp, dùng trí phương tiện” trở xuống là hiển bày riêng nghóa Phật không luống dối. Trong đây lại có bốn ý: Có thể khai hai thể Bồ-đề Niết-bàn. Khai tỏ tâm của chúng sanh. Tức câu: “Dùng trí phương tiện mà giảng nói v.v…” Năng hiển chân như để chỉ bày cho chúng sanh. Tức là câu: “hướng về của các pháp” Năng ngộ trí Bồ-đề. Vì tỏ ngộ chúng sanh. Tức câu: “thông đạt vô ngại. Tự mình đã thể nhập lại khiến cho người cùng nhập. Tức câu: “chỉ bày tất cả trí tuệ”. Tuy lời giải này thuận theo Nhất thừa ở trên mà quán văn dưới đây thì trở thành ý riêng. Lại hiển bày riêng nghóa không luống dối có bốn: Tận cùng thật tánh của pháp. Biết được Không, Hữu. Biết tâm ưa thích của chúng sanh. Chỉ bày quyền thật. Dùng các trí phương tiện là Thật pháp quên lời, dùng ngôn từ nói. Dùng lời nói thì gọi là trí phương tiện. Pháp từ trí phương tiện này nói ra, tuy chẳng phải chân thật, nhưng cũng không khác với pháp sở chứng của trí Phật. Địa (đất) là y chỉ, là nơi y chỉ của trí Phật quán cảnh chân thật gọi là địa. Ý nói Phật nói lí chân, tục để khế hợp rốt ráo đến cảnh trí Phật. Thể không khác cho nên hợp với thật pháp. Hoặc giáo có thể thuận, lý, lý có thể thuận hành. Hành có thể thuận với quả, cho nên đến Phật địa. Nhất-thiết-trí là trí Phật. “Như-lai xem biết” là có khả năng biết nơi hướng về của các pháp Không, Hữu. Nghóa là biến kế sở chấp, y, tha viên thành ba tánh pháp. Hoặc chỗ hướng về đó tức là lý chân như, nơi hướng về rốt ráo của tất cả pháp. “Cũng biết rõ thâm tâm sở hành của chúng sanh”, tức là biết tâm hành và chỗ hành ưa thích của thâm tâm các chúng sanh, tức là biết tâm chúng sanh, và chỗ hành khắp đến một cách thông đạt vô ngại đối với các pháp đã đạt được, rốt ráo rõ ràng, thế nên có thể hiển thị trí tuệ cho chúng sanh nói tam quyền nhất thật khiến chúng sanh ưa thích chứng. Trên đây ý nói Phật nói giáo khế hợp với trí cảnh, biết rõ tánh không, hữu của các pháp, hiểu được tâm hành thích ứng học đạo của chúng sanh. Cho nên Phật có thể khai bày trí tuệ Phật cho chúng sanh, để họ trở về hội nhập. Do bốn nghóa này những gì Phật nói đều không luống dối. Nói không luống dối nên trí Phật vô biên. Ông làm sao có thể nói? Phật biết các pháp, rõ tâm chúng sanh nên đầu tiên nói quyền sau lại nói thật, chúng sanh lãnh thọ quyền giáo, trở thành năm thừa khác nhau. Chúng sanh không có công đức trí tuệ ấy, không biết pháp thể và tâm chúng sanh, thì làm sao có thể biết pháp thật quyền, mà chấp Tam thừa không có sai khác. Kinh: “Ca-diếp! cho đến Thí như danh sắc đều khác.” Tán: Phần dưới là dụ nói. Có hai: Dụ chung. Dụ riêng. Ở đây nêu phần một. Đất đai về trước là dụ cho nơi sanh ra. Từ đất đai trở xuống dụ cho tất cả Tam thiên đại thiên nêu rõ khí thế gian sở y. Cảnh hóa độ của một Đức Phật có bốn thứ: Núi: là nơi tuyên khí tán sanh muôn vật. Sông: là nơi xuyên suốt lưu thông các dòng. Khe: Theo Nhó Nhã nói nước chảy vào sông gọi là khe. Hang: Nước chảy vào khe gọi là nước ở hang. Trong thuyết văn nói dòng suối là ở hang thì sông núi đều gọi là cốc. Dụ cho trong đại thiên có bốn loài sanh. Các loại này trong đất đai đều có. Cỏ là ba thứ cỏ, cây là hai thứ cây. trăm cỏ gọi chung là nhiều cỏ. Cỏ và cây đều có bùn, rừng. Ý nói cỏ cây đều có rất nhiều. Cỏ cây tuy nhiều mà trong đó thành tựu các hạt giống thiện pháp thế xuất gian, thế gian là dụ cho cỏ thuốc. Hạt giống của ngũ thừa thể loại đều khác nhau như bao nhiêu chủng loại, tướng dụng có sai khác như tên dọi, màu sắc đều khác nhau. Sắc là hình mạo, cũng có nghóa là sắc loại. Kinh: “Mây dày bao phủ khắp nơi cho đến thế giới đại thiên.” Tán: Là phần biệt dụ. Có bốn ý thí dụ: Pháp Vương ra đời. Nói giáo nhuận khắp. Các loại thọ nhuận khác nhau. Không tự hay biết. Mây dày là dụ cho Pháp vương ra đời. Che phủ khắp là dụ nói giáothứ hai. Hóa thân ẩn thật tám tướng dần dần hiển lộ ngầm vì rộng làm lợi ích như mây dày giăng phủ khắp nơi, chẳng phải là mây bộc phát không làm lợi ích. Mây có mười đức trong tụng có giải thích rõ. Một vị Phật hóa độ Tam thiên đại thiên, đồng thời xuất hiện ra. Âm thanh cũng cùng khắp, cho nên nói trùm khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Kinh: “Đồng thời mưa tuôn xuống cho đến và các loại cỏ thuốc.” Tán: Dụ cho các loại thấm thuần khác nhau. Có hai ý: Mưa thấm nhuần khắp. Sự thấm thuần các loài đều khác. Mưa thấm nhuần khắp có ba phần: Nói chung. Sự thấm nhuần theo chiều rộng. Sự thêm lớn theo bề dọc. Nói chung: Đồng thời là ứng với căn cơ thuần thục. Mưa tuôn xuống là dùng một âm giảng pháp, tùy theo mỗi loại mà hiểu. Đây ý nói mưa pháp lợi lạc khắp nơi đều đồng. Mưa điều hòa thấm hết cỏ cây, mà có cỏ là dụ cho gốc lành. Kinh: “Gốc nhỏ, thân nhỏ… cành lớn lá lớn.” Tán: Đây nói thấm nhuần về mặt rộng. Thể tánh Tam thừa đều khác, để phá bệnh chấp thừa đồng nhau. Căn tánh có ba, nên chia làm ba thứ. Kinh Niết-bàn chép: Ví như người bệnh có ba thứ: Hoặc gặp thầy thuốc hay cho đến không gặp mà tự quyết định có thể chữa khỏi. Đây là loại cỏ thơm. Nếu gặp liền khỏi, không gặp thầy thuốc hay thì, không khỏi bệnh, tức loại cỏ vừa. Hoặc gặp hay không gặp thầy thuốc hay cũng đều không khỏi bệnh, là loại cỏ nhỏ. Trong ba thừa đều có thọ lãnh, bốn pháp giáo, lý, hạnh, quả mà lớn lên, nên đều nói có rễ, thân, cành, lá. Y theo giáo mà chứng lý, y vào lý mà khởi hạnh, y vào hạnh mà đắc quả, như thân, rễ cùng thứ tự lớn lên, lại y vào sự giáo, lý, hạnh, quả, mà có hơn kém như thứ tự phối hợp. Lại giải thích trong ba hạng này đều có bốn pháp: Chủng tánh, phát tâm, tu hành và đắc quả. Bốn pháp này có cả ba. Ngang thì gọi là Tam thừa. Dọc gọi là bốn loài, loài y vào tánh mà có nên nói là ngang. Cũng có nói nói bốn. Tức là thắng giải, kiến, tu, Vô học. Nghóa này không có trong các loại cỏ nhỏ cho nên không dùng. Kinh: “Các cây lớn nhỏ cho đến mỗi thứ đều lãnh thọ.” Tán: Đây nói sự lớn lên theo chiều dọc. Luận chỉ nói cây lớn mà không lìa thân ta. nghóa là hạt giống Vô thượng. Trong nghóa có lớn lại chia ra có cây lớn, nhỏ. Trước Bất thoái vị là cây nhỏ. Sau Bất thoái vị là cây lớn. Đây có hai nghóa: Thất địa trở về trước gọi là cây nhỏ. Bát địa trở lên gọi là cây lớn. Đầy đủ thì có bốn bất thối. Y theo văn tụng dưới thì chỉ hai cây chia làm thượng, trung, hạ, nên hợp hai cây để chia làm ba phẩm. Nghóa là từ Ngũ địa trở lên thì gọi là hạ, đắc quả Tam-ma-địa bạt-đề, lạc ý sanh thân. Lục, Thất, Bát địa là hạng trung đắc giáo pháp tự tánh ý sanh thân. Cửu địa, Thập địa gọi là người thượng, đắc chủng loại câu sanh vô tác hành ý sanh thân. Có nghóa không đúng. Từ sơ địa trở về trước thì thuộc hạng gì? Há không là cỏ nhỏ ư! Nếu theo nghóa này thì sơ địa trở xuống tức là hạ độn tu hữu lậu pháp. Bảy địa đầu gọi là hạng trung tạp tu hai thứ hữu lậu, vô lậu. Từ Bát địa trở lên thì tu thuần vô lậu. Từ Sơ địa trở xuống gọi là cây nhỏ. Sơ địa trở lên thì gọi là cây lớn chứng được không lui sụt. Hai cây lớn nhỏ đều có thượng trung hạ. Thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng là ba hạng của cây nhỏ. Thập tín tức thuộc sơ phát tâm của Thập trụ. Bốn gốc lành quyết trạch phần là thuộc về hồi hướng. Do đây mà kinh Hoa Nghiêm chỉ nói ba mươi quả vị mà không nói Thập tín. Phát tâm trong Thập trụ thành ra tám tướng, cũng không nói bốn gốc lành. Vô lượng pháp giới trong vị Thập Hồi hướng mà thật hành bốn quán. Nhưng chỉ nói ngài Xá-lợi-phất tu đạo trải qua sáu mươi kiếp rồi thoái vị, tức là đến trụ thứ sáu thì mãn tức chưa vào trụ vào Bất thoái vị thứ bảy. Cho nên biết thập tín càng không có Vị riêng biệt. Do đây mà chỉ nói ba mươi ba a-tăng-kỳ kiếp. Địa tiền là ba mà không nói là bốn. Đối pháp v.v… nói thì sơ kiếp mãn đã tu bốn gốc lành, không nói có kiếp Tu-lâu dài riêng. Cho nên bốn gốc lành thuộc về, Thập Hồi hướng. Ba hạng của cây lớn: Sơ, Nhị, Tam địa là hạng hạ đồng với thế gian. Tứ, Ngũ, Lục địa là hạng trung mới đồng với ra đời. Thất, Bát, Cửu, Thập địa là người thượng, vượt qua đạo Nhị thừa thế gian. Hoặc nói ba hạng của cỏ đều có hạ trung thượng. Trong loại cỏ nhỏ, nói cõi người là bậc hạ, các tầng trời cõi Dục là trung, trời cõi Sắc là thượng. Cỏ vừa có ba: Bảy phương tiện là bậc hạ, Thánh Hữu học là trung, Vô học là thượng. Trước là chiều rộng suốt cả Tam thừa, nay là dọc chung cả ba vị. Kinh: “Một đám mây tuôn mưa… hoa quả đều thấm nhuần, nở ra hoa trái.” Tán: Các loại thấm nhuần đều khác. Mưa giáo pháp tuôn xuống chỉ có một, mà chỗ thấm nhuần câu cỏ đều khác nhau. Sanh là dụ cho sơ tâm, trưởng là dụ cho sau khi đã tu tập. Hoa nở là dụ nghe giáo tu hành. Quả trái là dụ sự chứng lý đắc quả, phu có nghóa là mở ra. Do sự thấm thuần, tùy theo chủng tánh mà hoa quả lớn lên, mỗi mỗi đều khác nhau, lấy giáo đối lý mà quên căn cơ đó. Hoặc dùng giáo đối, các căn thành thục tánh bất định sau gọi là một trận mưa. Cũng gọi là một âm giảng nói lý pháp chỉ có một tướng. Thoái tánh rốt ráo đều thành Phật, lấy giáo đối cơ quên hết lý pháp. Hoặc đối với vị sơ cơ chưa thuần thục, mà có vận dụng gọi là Tam thừa, cũng gọi là ba xe. Tùy theo cơ nghi kia, mà đầu tiên nói pháp nói có ba thừa. Lấy giáo bao gồm cả hành gọi là Tam tạng. Giảng nói giới định tuệ, các hành đều sai khác. Nếu dùng giáo bao gồm lý đối cơ mà nói thì gọi là hai tạng, là tạng Thanh-văn, Bồ-tát. Kinh A-xà-thế Vương cũng gọi tam tạng tức Bồ-tát, Độc giác, Thanh-văn. Nay đem giáo đối lý và một căn cơ sau gọi là một trận mây mưa. Thấm nhuần ba căn cơ tương xứng chủng tánh của nó gọi là ba thừa. Hiện lý có căn cơ sở đối nói thừa có khác. Giáo đối lý cơ để nhiếp nghóa mà lập ra tên tạng, đem tạng này hiển giáo của lý để vận tải căn cơ, lập ra thừa, gọi là hai sai khác. Kinh: “Tuy cùng một đất sanh ra cho đến mỗi thứ đều khác nhau.” Tán: Không tự hay biết, chủng tánh tam thừa nương vào một chân lý, một đất sanh ra, cũng đều thấm nhuần từ một trận mưa giáo pháp, một Phật. Như các cỏ cây thấm nhuần tuy khác, mà không tự hay biết, cũng không biết loại khác thấm nhuần lớn lên thế nào. Đây chỉ giải thích sơ lược, tìm trong phần hợp thuyết ở dưới sẽ nói đủ. Kinh: “Ca-diếp nên biết cho đến như vầng mây lớn nổi lên.” Tán: Trình bày hợp nói. Cũng có bốn, mỗi nghóa này cũng có hai: Đều nêu pháp. Đều dụ hợp. Đây hợp với Pháp vương ra đời. Kinh: “Dùng đại âm thanh cho đến cõi nước đại thiên.” Tán: Phần thứ hai này là hợp nói giáo pháp trùm khắp. Không chỉ có thân trùm khắp mà âm thanh cũng trùm khắp. Kinh: “Ở trong đại chúng… Phật Thế tôn.” Tán: Phần thứ ba hợp nói thấm nhuần mỗi loại đều có khác. Đây có hai: Pháp nói và Dụ hợp. Trong pháp nói có bốn: Phật tự nêu nhóm họp. Người nghe đều đến. Phật dắt dẫn làm lợi lạc chúng sanh. Chúng sanh nghe được lợi ích. Phần một có hai: Tự tuyên bố. Nhóm họp mọi người. Nêu tuyên bố có ba: Tuyên bố đức hiệu. Tuyên bố lợi dụng. Tuyên bố tri kiến. Kinh: “Người chưa được độ cho đến khiến đắc quả Niết-bàn.” Tán: Đây nói lợi ích dụng có đầy đủ trong tứ nguyện. Độ là xa lìa vượt lên. Giải nghóa là tu đoạn. Người chưa lìa khổ thì khiến cho lìa khổ. Người chưa dứt ác tu thiện thì nguyện dứt ác tu thiện. Chưa được an vui thì nguyện cho được an vui. Người chưa thành Phật đắc Niết-bàn, thì nguyện thành Phật đắc Niết-bàn. Kinh Anh Lạc chép: biết khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo là bốn thệ nguyện rộng lớn. Bốn đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo trong đây cũng thứ lớp phối hợp như thế. Kinh: “Đời nay đời sau cho đến nói đạo.” Tán: Đây là tuyên bố về tri kiến. Có ba: Ba minh. Hai trí. Ba pháp. Biết việc đời nay đời sau mà xướng ba minh vậy. Đã thấy thì gọi là nay. Hiện tại quá khứ đều biết như nay. Nhất thiết kiến là tục trí. Hoặc đầu tiên gọi là hai trí, sau là ngũ nhãn. Biết khai nói là biết các cảnh, khai chành vi ác, nói các quả. Biết chánh tà, khai thiện ác, nói đoạn tu. Lại biết Đại thừa, khai Độc giác, nói Thanh-văn. Lại dị sanh Hữu học, Vô học. Tà chánh bất định, ba tụ, ba căn, ba khoa, ba thế, ba bảo, ba độc, ba đức, ba lậu v.v… Lại biết sanh tử chỉ rõ tà chánh mà nói có thông, bítt. Lại ngộ biết các đạo có thể lược khai và nói rộng. Như thứ tự đó phối hợp với một loại đạo là Nhất thừa, nhất đạo, thì có hai đạo thiện ác hướng về thế gian và xuất thế gian, cho đến mười nghiệp đạo v.v… đều như lý mà biết. Kinh: “Các ngươi hàng trời, người cho đến vì nghe pháp.” Tán: Trên là tuyên bố, đây là nhóm họp. Kinh: “Bấy giờ có vô số cho đến mà nghe pháp”. Tán: Người nghe đều đến. Kinh: “Như-lai lúc ấy cho đến mau đắc thiện lợi.” Tán: Phật sẽ dắt dẫn ợi ích vì lợi căn mà nói pháp Đại thừa, vì độn căn mà nói pháp Nhị thừa. Vì lợi căn mà nói hai thứ cỏ, độn căn thì nói cỏ nhỏ. Vì người tinh tấn mà nói tu hành, vì người biếng nhác mà nói mười niệm vãng sanh phương Tây v.v… Kinh: “Các chúng sanh này cho đến dần dần vào đạo.” Tán: Nói chúng sanh, đạt lợi ích có hai quả: Quả thế gian: Hiện đời được an ổn, đời sau sanh về đường lành. Như pháp do lý mà thọ quả báo, không hành phi pháp gọi là “do đạo được thọ vui. Quả ra đời: Lìa chướng nhập đạo. Hoặc không có chủng tánh khiến đắc quả trước. Người có chủng tánh khiến cho đắc quả sau. Lại Bồ-tát đạo có hai: Tăng thượng sanh đạo. Quyết định thắng đạo. Tùy thứ tự nên biết, dứt hai chướng cho nên có năng lực đắc đạo. Kinh: “Như mây lớn kia cho đến đều được lớn lên.” Tán: Đây hợp với pháp trước, sự thọ nhận mỗi pháp đều khác. Kinh: “Như-lai nói pháp cho đến không tự hay biết.” Tán: Phần thứ tự hợp có hai: Pháp và Dụ. Trong pháp thì đầu tiên nêu ra sau giải thích, đây là phần nêu trước Phật nói pháp sau đó chúng sanh nghe. Một tướng là không có tướng khác cho nên tướng vô tướng. Kinh Đại Bát-nhã quyển bảy mươi ba chép: Các pháp đều đồng một tướng, nên gọi là vô tướng. Kinh Vô Lượng Nghóa chép: Thường nói các pháp không sanh không diệt, không đây không kia, một tướng vô tướng. Một vị đó là một vị vô lậu, là vì lợi ích trên hết, không có tự thể riêng. Kinh Thắng-man chép: Một tướng một vị. Là vị minh, giải thoát. Tuy nói các pháp khác nhau, cuối cùng đều trở về một tướng chân như, một vị vô lậu trở về thật tánh. Thể của một vị, một tướng là gì? Là giải thoát tướng Hoặc, Nghiệp, Khổ, lìa tướng phân biệt của sở tri chướng. Khác nhau với vô lậu hữu vi khởi tận thể tướng vắng lặng. Tức như nói cứu cánh của pháp không lìa trí tánh. Có thể thông suốt lí này, thì rốt ráo đến Nhất-thiết-chủng-trí, đắc quả Bồ-đề. Lại Phật nói lý chỉ có một tướng, rốt ráo thuận với trí Trung đạo. Chúng sanh nghe pháp thuận theo mà thọ trì, đọc tụng tu hành, thành có sai khác như ba cỏ, hai cấy, không tự biết được. Kinh: “Vì sao? Cho đến Thể tánh của chủng tướng.” Tán: Giải thích phần nêu ra ở trước. Có ba ý: Phật biết tướng chung. Phật biết tướng riêng. Phật biết chúng sanh không biết. Đây là nói phần một. Chủng tướng hữu vi các loại đều khác. Thể tánh vô vi là căn bản lý. Lại tác dụng của tâm hành là chủng tướng. Thể tánh của tâm pháp là thể tánh. Kinh: “Nhớ việc gì?… dùng pháp gì mà được.” Tán: Đây nói Phật biết tướng riêng. Có bốn điều: Sở duyên của ba tuệ. Hành tướng của ba tuệ. Thể của ba tuệ. Hành pháp gì, đắc quả gì? Dùng giáo gì, đắc lý gì? Bốn điều Phật đều biết rõ. Chỉ nói về cỏ thuốc, nên chỉ nói loại này mà không nói biết thứ khác. Kinh: “Chúng sanh trụ ở cho đến rõ ràng không chướng ngại.” Tán: Đây là phần kết: Phật biết, chúng sanh không biết, địa là hạt giống. Hoặc là các thể tánh hành tướng tâm bình đẳng gọi chung là địa, khác nhau với nghóa đất ở trước. Kia gọi là một chân thật, nói giáo pháp của Phật như một cơn mưa. Nhất chân pháp giới gọi là nhất địa. Trong đó bốn loài sanh gọi là cây cỏ cho đến Tam thừa ngũ thừa, hữu tánh vô tánh, Phật đều biết mà chúng sanh không biết. Kinh: “Như cây cỏ lùm rừng cho đến có tánh thượng trung hạ”. Tán: Nêu dụ thứ tư hợp thành pháp nói trước. Kinh: “Như-lai biết cho đến Nhất-thiết-chủng-trí”. Tán: Trên là trình bày nói, đây là kết thành tựu ở trước. Có hai ý: Phật biết sâu mà vì chúng sanh nên nói pháp cạn. Khen ngợi Tôn giả Ca-diếp có thể hiểu nghóa pháp sâu, đây là phần đầu. Từ câu: “Cuối cùng trở về không”. Về trước là nói Phật biết tánh không sâu xa, thể tức là chân như phi không bất không. Từ câu: “Quán tâm chúng sanh” về sau, là vì chúng sanh trí cạn mà nói khiến khế hợp vào lý sâu. Cả hai chướng ngại đều viên mãn mà thành chủng trí, dùng ý này giữ gìn tâm ý chúng không liền vội nói Nhất-thiết-chủng-trí, mà tạm nói giáo Nhị thừa. Cho nên Phật và Thanh-văn do đây thành khác nhau. Kinh: “Các vị Ca-diếp cho đến khó hiểu khó biết.” Tán: Đây là Phật khen Tôn giả Ca-diếp có thể hiểu được nghóa sâu. Đầu tiên nêu ra, sau giải thích. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến nói các loại pháp.” Tán: Tụng hợp có năm mươi bốn hàng tụng rưỡi. Năm mươi hai hàng rưỡi đầu tụng lại nghóa trước. Hai hàng tụng sau nhập vào phẩm đoạn thứ ba kết thành tựu nói thật để dần dần thọ ký. Phần một chia làm hai: Năm mươi mốt hàng tụng nói lại việc trước. Một hàng rưỡi tụng kết lại phần trước. Lại chia làm ba: Bốn hàng tụng, lại pháp đã nói ở trước. Mười hàng rưỡi tụng phần dụ nói ở trước. Ba mươi sáu hàng tụng rưỡi là nói phần hợp thuật ở trước. Trong bốn hàng tụng đầu lại chia làm hai: Ba hàng tụng nói, Phật xuất hiện ở đời. Vua trong các pháp nói pháp không luống dối. Một hàng tụng sau, là tụng nói không thể tự đạt được. Ba hàng đầu lại có ba: Nêu pháp do Pháp vương nói là không luống dối. Như-lai nói pháp ít có. Thành tựu nói trước. Phá hữu là có thể phá nhất hữu. Nghóa là Ba cõi, là sở hữu của một nghiệp hữu. Hoặc phá nhị hữu, là bổn hữu, trung hữu. Hoặc là phá tam hữu, tức là Ba cõi. Hoặc phá tứ hữu. Nghóa là sanh hữu, tử hữu, trung hữu, bổn hữu. Kinh luận tân dịch là tiền thời hữu. Hoặc phá ngũ hữu, tức là năm đường. Hoặc phá thất hữu, là năm đường, nghiệp hữu, trung hữu. Hoặc phá chín hữu, tức là chín nơi, chín loại hữu tình ở. Hoặc phá hai mươi lăm hữu. Tụng: Bốn cõi, bốn đường ác Phạm vương sáu trời Dục. Trời Vô tưởng, Tịnh cư. Tứ không và tứ thiền. Hoặc phá hữu là chấp có Tam thừa, không có tâm biệt thể. Hoặc trong hàng tụng của kinh, câu đầu là pháp thân, câu kế là báo thân, nửa hàng sau là nói hóa thân. Kinh: “Như-lai tôn trọng cho đến chẳng liền chuyên vội nói.” Tán: Đây nói sự nói pháp của Như-lai là ít có. Giữ lâu sự màu nhiệm của ba thừa quyền, nhất thừa thật, Phật không nhanh vì nói thật pháp gấp rút nói, chính là sẽ nói lại, tất phải đợi sanh cơ mới có thể nói. Kinh: “Nếu người hiểu biết nghe cho đến thì là mất hẳn.” Tán: Đây thành tựu lời nói trước. Sợ có nghi hối, là mất hẳn, không thích nói việc tốt mau lẹ. Kinh: “Thế nên ngài Ca-diếp cho đến khiến đắc chánh kiến.” Tán: Đây là hàng tụng thứ tư nói không thể tự đạt. Do Phật thấy rõ cùng tận các pháp, biết rõ căn tánh chúng sanh mà tùy theo thắng giải dục lạc của chúng sanh. Vì người mà nói pháp khiến được chánh kiến, mà chúng sanh không thể tự biết các căn tánh thượng trung hạ. Kinh: “Ca-diếp nên biết cho đến như có thể nắm tới.” Tán: Đoạn thứ hai có mười hàng tụng rưỡi, tụng lại phần dụ thuật ở trước. Ba hàng tụng hợp nói hai dụ ở trước, tức là dụ Pháp vương ra đời, dụ nói giáo nhuần khắp Sáu hàng tụng rưỡi, tụng dụ thứ ba là sự thấm nhuần khác nhau. Một hàng tụng nói: Dụ không tự hay biết. Ba hàng đầu lại có hai: Một hàng đầu tụng chung hai dụ trước. Hai hàng sau là: Nói riêng về công đức của mây. “Cũng như vầng mây lớn nổi lên ở thế gian.” Đây là dụ đầu tiên. “Che phủ khắp cả” là dụ thứ hai. Tụng mây có bảy đức. Mây trí tuệ chứa nhuần, như rồng có tâm từ khởi mây ngậm mưa, suốt trong bảy ngày, đợi nông phu làm xong rồi mới đổ mưa. Đây là dụ mây từ của Phật chứa đựng muôn đức, đợi sanh cơ mà hàng phục, thị hiện tương ưng căn khí thuần thục mà tuyên dương pháp. Chớp nhóang sáng chói lòa nói thân quang trí quang soi chiếu khắp nơi, dụ cho Phật hóa độ dẫn dắt chúng sanh. “Tiếng sấm xa vang động”: Làm kinh động chúng sanh, dụ cho Phật ra đời, ma vương chúng ma đều sợ hãi. “Khiến mọi loài vui mừng”: Mọi loài vui vì mây giăng khắp, mừng là sẽ che phủ. Đây dụ cho Phật ra đời nói pháp như thuyền bè qua năm đường. “Ánh mặt trời che khuất”. Dụ dứt trừ phiền não. Kinh hoa Nghiêm nói che mặt trời tà kiến. “Trên mặt đất mát mẽ”: Khiến chúng hữu tình ở trên đất sanh tử đắc quả Niết-bàn. “Mây mù giăng bủa gần, dường như nắm tới được”: Như thừa hành giáo pháp. Có khi giải thích chữ mây mù là tối tăm. Còn đây là dụ cho Phật dũ lòng từ bi rộng lớn, làm bậc khuôn phép, khiến chúng sanh vui thích sẽ được thành Phật. Ví như tay nắm tới, chính là trạng thái có thể được qua Bồ-đề không thể dùng thân tâm để đắc mà dường như đắc nhân chẳng phải là chánh đắc. Dùng trí chứng nay lại nêu thêm ba ý: Văn trước nói Phật ra đời vì lòng từ bi thương xót bốn loài sanh. Rồng khởi mây mưa. Hai thân pháp báo hiện ra hóa độ ở đây. Mưa cam lồ nhuần thắm khắp cả mầm cây. Đây là dụ cho năng nói pháp ích lợi cho tất cả chúng sanh. Kinh: “Mưa tưới thắm khắp nơi cho đến mặt đất đều nhuần thắm.” Tán: Trở xuống sáu hàng tụng rưỡi là nói. Sự thấm ướt mỗi loài có khác. Có ba phần: Một tụng về công năng của mưa. Hai hàng rưỡi nói thể (các loài) thêm lớn thấm nhuần. Ba hàng tụng nói về dụng giúp ích thêm lớn. Kinh Niết-bàn chép: Phật đối với chúng sanh không phân biệt thấp hèn sang cả, mà chỉ quán những chúng sanh có thiện tâm hay không. Chẳng sanh tâm khinh thường nên gọi là đều khắp. “Bốn phương đều rơi xuống” tức khắp bốn loài sanh thấm nhuần cùng khắp. Kinh: “Núi sông hang hiểm… cây cỏ đều tốt tươi.” Tán: Đây là nói thể thấm nhuần của muôn vật. Một hàng tụng chung. Một hàng rưỡi tụng riêng, chủng tánh nẩy mầm, trăm loại ngũ cốc tốt tươi. Đây là dụ hai thứ cỏ lớn và vừa. Tam thừa đều có chủng tánh. Mía, nho có loại trắng, vàng, đen đâu là loại cây nhỏ không có chủng tánh. Lại được sanh người trời như đất khô thấm khắp, không có hạt giống ra đời. Cho nên, tổng kết trên nói cỏ thuốc Tam thừa, hai cây lớn, nhỏ đều có chủng tánh. Nhân mưa này mà cây cỏ xanh tươi màu mỡ. Đây là y vào nghóa riêng, để hợp với thí dụ. Cũng có bổn nói: Sông núi hang, hiểm, mộng mạ là chỉ trăm giống lúa. Trong Nói văn nói cỏ sanh ra ở ruộng gọi là miêu (mầm non lúa non). Lúa này chưa trổ bông. Đã trổ bông thì gọi là mạ. Lại nói lúa còn ở ngoài đồng thì gọi là mạ. Trước giải thích mộng mạ là khác nhau. Đây dụ cho nhân quả khác nhau. Sau đó giải thích mộng cũng là mạ là chỉ dụ chung cho các loại thóc lúa. Kinh: “Vần mây kia mưa xuống cho đến đều được tươi tốt cả.” Tán: Đây nói về dụng thêm lớn. Có hai: Hai hàng tụng đầu bẩm nhuận lớn lên. Một hàng tụng sau nói sự thấm nhuần tươi tốt. Ba phẩm thượng trung hạ khác nhau chỉ ở trong cây. Gọi là cây lớn, nhỏ tất cả hai đều có ba hạng còn bốn thứ: Thân, rễ, nhành, lá thì như trước. Các loài này đều có hoa cùng với quả đều có sắc tươi sáng, là tác dụng ngoài. Hoa dụ chung cho nhân, trái dụ quả v.v… Còn lại theo văn có thể biết. Kinh: “Như thể tướng đó cho đến mà đều được sum suê.” Tán: Đây là tụng dụ thứ tư nói không thể tự biết. Sự thấm nhuần của muôn vật có khác nhau, mặc dù đồng nhận một cơn mưa giáo pháp. Chúng sanh Tam thừa cuối cùng đều không thể tự biết công đức sở đắc của mình. Cho nên biết Tam thừa có sai khác. Trí tuệ sai khác, như ba cỏ, hai cây hấp thụ cơn mưa khác nhau. Kinh: “Phật cũng vậy cho đến sự chân thật của các pháp.” Tán: Trở xuống ba mươi sáu hàng rưỡi là tụng, về phần hợp nói trước. Văn chia làm hai: Hai hàng tụng đầu tụng hai hợp, kế là ba mươi hàng rưỡi tụng thọ lãnh mưa pháp của Tam thừa đều có khác nhau. Không tụng phần hợp thứ tư là không tự hay biết. Kinh: “Đức Đại thánh Thế tôn cho đến và Niết-bàn an vui.” Tán: Trở xuống ba mươi bốn hàng rưỡi tụng sự thấm nhuần đều khác. Phần Văn xuôi có bốn: Tụng nay chỉ nói ba: Bốn hàng tụng rưỡi Phật tự tuyên bố nhóm họp. Chín hàng tụng, Phật ứng dẫn dắt lợi ích chúng sanh. Hai mươi mốt hàng tụng: Chúng sanh nghe được lợi ích. Chỉ không tụng phần người nghe pháp cùng đến. Trong bốn hàng đầu có hai: Ba hàng rưỡi tụng nêu ra. Một hàng tụng nhóm họp. Tuy có chủng tánh mà chưa hề nghe pháp. Sự thiếu thốn pháp là gọi là khô héo. Kinh: “Các chúng trời người… ra mắt đấng Vô thượng”… Tán: Đây là lời nhóm họp. Kinh: “Ta là đấng Thế tôn cho đến giải thoát Niết-bàn.” Tán: Trở xuống chín hàng tụng. Phật ứng hiện dẫn dắt lợi ích chúng sanh. Trong đây có năm ý: Hai hàng tụng Phật nói về thắng pháp. Một hàng tụng vì nhân Đại thừa. Hai hàng rưỡi tụng bình đẳng nói pháp. Một hàng rưỡi tụng chuyên làm lợi ích. Hai hàng tụng không lựa chọn tốt xấu. Vị cam lộ chánh pháp, chữa hết mọi căn bệnh phiền não, nên dụ là cam lộ. Kinh: “Dùng một âm tiếng mầu… mà làm nhân duyên.” Tán: Làm nhân Đại thừa. Giả như nói nhị quyền cũng đều vì Nhất-thiết-chủng-trí của Đại thừa. Kinh: “Ta xem tất cả… lúc chúng đông cũng vậy.” Tán: Nói pháp bình đẳng. Vật ngã đã dứt nên không có kia đây. Yêu ghét đã dứt nên không có tâm oán thân. Không sẻn pháp nên ta không tham trước. Không ganh ghét nên cũng không chướng ngại. Cho nên dù một nhiều đều bình đẳng nói pháp. Đây cũng như ý kệ trước nói: “Nếu người tin về Phật”. Kinh: “Thường giảng nói pháp mầu cho đến như mưa thấm nhuần khắp.” Tán: Chuyên làm lợi ích. Đến đi, đứng, ngồi ba uy nghi của Phật là thị hiện. Đây lược không nói uy nghi nằm, là vì lúc làm lợi lạc. Hoặc đi là thị hiện nhập Niết-bàn, đến là thị hiện thành chánh giác. Ngồi có nghóa là nói pháp lợi sanh. Đứng là đợi chúng sanh thuần thục căn cơ, quyết không sanh mỏi mệt lười biếng vì lòng từ bi thâm sâu. Kinh: “Sang hèn trên dưới cho đến mà không lười mỏi.” Tán: Không phân biệt tốt xấu. Không chọn chủng tánh giàu nghèo sang hèn, chỉ xem có gốc lành mà nói giáo. Kinh: “Tất cả chúng sanh cho đến trụ vào các địa.” Tán: Trở xuống hai mươi mốt hàng tụng nói về. Chúng sanh nghe pháp được lợi ích. Chia ra làm ba: Chín hàng tụng rưỡi, tụng pháp dụ hợp nói, sự thấm nhuần có khác, tánh có sai khác. Ba hàng rưỡi là tụng, pháp dụ hợp nói, sự thấm nhuận tốt tươi có khác nhau. Tám hàng rưỡi tụng pháp dụ hợp nói, sự thấm nhuần thành ra hoa trái có khác nhau. Chín hàng rưỡi đầu có hai phần: Tám hàng tụng pháp. Một hàng rưỡi tụng dụ, có hai phần: Trong tám hàng lại chia làm hai: Một hàng tụng nói chung. Bảy hàng tụng nói riêng. Trụ ở các địa là Tam thừa, Thập địa, là Càn tuệ địa, Chủng tánh địa, Bát nhân dịa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dó biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như-lai địa. Tụng dưới là nói riêng về ba thứ cỏ. Trước đây nói Tam thừa cùng hành Thập địa. Hoặc phàm phu địa, Hữu học địa, Vô học địa, Bồ-tát địa, Như-lai địa. Hoặc nói địa trong Tam thừa. Tức là vô tánh, chủng tánh Nhị thừa và Đại thừa tánh, tùy theo kia mà phân lập ngôi vị, tức gọi là địa. Kinh: “Hoặc là chỗ trời người cho đến là cỏ thuốc bậc thượng” cho đến Tán: Trở xuống bảy hàng tụng riêng nêu. Có hai phần: Bốn hàng tụng về ba thứ cỏ. Ba hàng tụng hai thứ cây. Bốn hàng đầu lại chia ba phần: Một hàng tụng về cỏ nhỏ. Hai hàng tụng về cỏ vừa. Một hàng tụng về cỏ lớn. Người không có chủng tánh cùng ưa vui với trời người thì gọi là cỏ nhỏ. Kinh Thiện giới nói: Người không có chủng tánh, chỉ lấy gốc lành cõi trời người mà thành thục. Hoặc bảy phương tiện cũng gọi là cỏ nhỏ. Nhị thừa gọi là cỏ vừa. Bồ-tát gọi là cỏ vừa, tức trong kinh Thắng-man gọi là hoa sen. Chúng sanh không nghe điều phi pháp tức là cỏ thuốc nhỏ. Người Nhị thừa trung gian là cỏ thuốc vừa. Bồ-tát tức là cỏ thuốc lớn, đây là ba bệnh nhân theo nói trong kinh Niết-bàn. Kinh: “Lại có các Phật tử cho đến gọi đó là cây lớn.” Tán: Đây nói hai thứ cây. Một hàng rưỡi tụng nói cây nhỏ. Một hàng rưỡi tụng nói cây lớn. Tức đối với cỏ lớn chia làm hai cây này. Địa tiền là cây nhỏ, đã dứt nghi, quyết định biết là sẽ thành Phật. Thập địa là cây lớn đắc hai lợi chứng Bất thối, cho nên không phải hạnh bất thối. Nghóa y theo đây thì Nhị thừa chưa thành tựu quả Vô học cũng gọi là cỏ vừa. Ba ý sanh thân căn cứ vào quyết định thì chỉ nói bậc Vô học hồi tâm về sau thọ sanh tử Biến dịch, ở ngôi vị quyết định, khác nhau như người Hữu học, nên ở đây không nói. Người chưa nhập Thánh vị, và người không có chủng tánh gọi là cỏ nhỏ. Y theo đây thì địa tiền không gọi là cây nhỏ. Nếu vậy thì lấy thuộc loại gì? Cho nên giải thích trước là tốt. Hoặc trước Thất địa gọi là cây nhỏ. Bát địa về sau gọi là cây lớn. Đây nói Bất thoái, hành Bất thoái. Tất cả các Bồ-tát gọi là cỏ lớn. Luận Trí độ nói: Như sấm chớp loài chim nhỏ nghe thảy đều kinh hãi, khổng tước nghe thì nhảy múa, nên gọi là cỏ lớn. Nhân giải thích phần vị của hai cây khác nhau mà trong kinh luận nói lý Bồ-đề chẳng phải y cứ một. Kinh Đại Bát-nhã quyển bảy mươi bốn nói có năm thứ Bồ-đề. Kinh Kim cương Bát-nhã nói: Thật sự không có tiểu pháp đắc quả Bồ- đề Phật. Nếu có tiểu pháp đắc quả Bồ-đề thì Phật Nhiên Đăng khi thọ ký cho ta đã có lời dạy: Mới phát tâm liền thành Chánh giác. Kinh này nói tám trời cho đến một đời sẽ đắc Bồ-đề. Cũng có nói nói: Trải qua ba đại kiếp mới lên quả Chánh giác. Các luận Sư đối với nghóa này điều nói khác nhau. Luận Du-già chép: Kiếp có hai thứ: 1. Tính theo số ngày tháng năm tức luận này nói ngày đêm tháng năm; 2. A-tăng-kỳ kiếp. Các Bồ-tát có thể vượt là chỉ vượt ở kiếp trước mà không vượt kiếp sau. Y vào nghóa này, nếu căn cứ ở vô vi chân như, vô tướng, thì thật sự không có tiểu pháp có thể đắc Bồ-đề. Vì tông chỉ Kinh Bát-nhã gọi là vô vi. Người Sơ địa phát tâm Bồ-đề liền chứng. Chứng phát tâm này chẳng phải như phát tâm chủng tánh, cũng đồng với kinh này. Bát sanh cho đến nhất sanh sẽ đắc. Hoặc trong kinh này căn cứ vào chứng phát tâm, luận giải là chứng đắc Sơ địa Bồ-đề, cho nên người mới phát tâm liền lên ngôi Chánh giác, đó là nhân chủng tánh phát tâm Bồ-đề. Ba đại kiếp tu đắc Bồ-đề đó là Vô thượng Bồ-đề, quả mãn Bồ-đề trải qua đại kiếp tu hành, cũng không trái nhau. Quả Phật rộng lớn nhân nhỏ chẳng thể mà thành tựu. Hoặc còn tư duy khác trái với chánh đạo. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Phật khó thành tựu cho thọ ký mau. Nói Phật dễ thành, thì thọ ký cho chậm. Kinh: “Phật bình đẳng nói cho đến mà lãnh thọ đều khác.” Tán: Dụ này nói sự thấm nhuần có khác vì tánh khác. Kinh: “Phật dùng thí dụ này cho đến dần dần thêm sum suê”. Tán: Ba hàng tụng rưỡi nói pháp dụ hợp nói, nhân thấm thuần sung túc đều khác. Gồm có: Một hàng tụng rưỡi dụ những điều Phật đã nói ít như một giọt nước của biển cả. Hai hàng tụng pháp dụ hợp nói nói nhân thấm nhuần tươi tốt khác nhau. Kinh: “Pháp của Chư Phật cho đến đều khắp được đầy đủ.” Tán: Có tám hàng tụng, hợp nói về pháp dụ nói sự thấm thuần thành trái quả có khác. Đây có hai: Sáu hàng rưỡi tụng về pháp nói. Một hàng tụng rưỡi dụ nói. Sáu hàng rưỡi đầu lại chia làm ba: Một hàng tụng nói chung khiến đắc quả viên mãn. Cũng là tụng riêng khiến quả của cỏ nhỏ viên mãn. Hai hàng tụng nói về cỏ vừa. Ba bài rưỡi nói cỏ lớn. Thế gian được đầy đủ nghóa là nói trời người đầy đủ. Kinh: “Dần dần tu hành cho đến mỗi mỗi đều thêm lớn.” Tán: Nói về cỏ trung. Nhân từ cõi trời người, dần dần đắc đạo quả, nhị thừa viên mãn. Kinh: “Nếu các Bồ-tát cho đến mà được thêm lớn.” Tán: Nói cỏ lớn. Cỏ lớn tức là hai cây. Một hàng tụng rưỡi nói về cây nhỏ. Hai bài sau nói về cây lớn. Kinh: “Như thế Ca-diếp cho đến đều được kết thành quả.” Tán: Dụ đây hợp với thấm nhuần kết trái sung mãn ở trên. Kinh: “Ca-diếp nên biết cho đến Chư Phật cũng như vậy.” Tán: Đây đoạn thứ hai tụng kết thành ở trước. Ta cũng như Chư Phật, đầu tiên nêu quyền sau mới nói pháp thật. Các thầy tín thọ thật là ít có. Kinh: “Nay vì các thầy cho đến đều sẽ thành Phật.” Tán: Đoạn thứ ba là kết thành tựu, Thế tôn nói thật pháp để dần dần thọ ký cho chúng Thanh-văn. Nhân sở hành của Thanh-văn thành Phật còn rất xa, cho nên là đạo phương tiện sở hành của Bồ-tát. Luận chép: Sở hành của các thầy là Bồ-tát đạo. Nghóa là phát tâm Bồ-đề, thoái rồi trở lại phát tâm. Việc tu hành trước kia, gốc lành không mất cũng đồng như sau đó đắc quả. Cho nên tu theo Nhị thừa là nhân phương tiện xa của Đại thừa, đó gọi là Bồ-tát đạo. PHẨM THỌ KÝ Chia làm ba môn. Vì sao của phẩm này. Sự khác nhau. Giải thích tên phẩm. Vì sao có hai: Thượng căn như ngài Thu Tử nghe pháp thuyết mà được ngộ giải. Phật liền thọ ký cho. Bốn người căn tánh hạng trung nghe dụ nói thì mới hiểu. Cho nên Phật thọ ký. Luận chép: Về ba thứ người không phiền não, nhiễm mạn cho nên nói ba bình đẳng. Đầu tiên là nói thừa bình đẳng nên được thọ ký. Trên đây Phật nói thể của thừa có sai khác. Do đó mà có hạng Vô học chấp thừa chắc chắn có khác, vì những người này mà Đức Phật cho thọ ký riêng, nên Phật nói các thừa đều bình đẳng. Do đó mà có phẩm này. Như phẩm thí dụ đã giải thích. Sai khác là: Pháp có thể thọ ký có ba thứ: Thể tánh là có. Thù thắng có quả đương lai. Người và lý đều cao quý nhân và quả đều lớn. Thể tánh có là có thể được thọ ký, thể tánh không có thì không được thọ ký. Như mười bốn hạng người không được thọ ký. Lý sự vốn không có, nên không thể thọ ký. Hỏi: Người có thể mới thọ ký cho họ. Kinh Hoa Nghiêm nói: Có thọ ký, không thọ ký thế nào? Đáp: Phật không ghi nhận, cũng không trả lời. Phật nói: “Có” một Tỳ-kheo hỏi về tự tác tha tác của mười hai nhân duyên. Vô minh tự khởi là nghóa từ vô thỉ gọi là tự tác. Lại từ tha khởi là nghóa hữu thỉ, đó gọi là tha tác, Phật thường quở trách vị Tỳ-kheo này. Như người bị tên độc bắn thì chỉ nên tìm thầy thuốc nhổ ra, không nên chần chừ hỏi tên đó từ đâu bắn đến. Cho nên, người có thể tánh thì sẽ được thọ ký, người không có thể tánh không được thọ ký. Như các nhân cao siêu có quả đương lai, người này được thọ ký, không có nhân thù thắng thì không được, cũng như pháp thiện và pháp bất thiện. Thành Duy Thức chép: Thọ ký là thiện ác. Có tự thể tốt đẹp và đương quả có thể thọ ký thì gọi là ký. Vô ký thì không như vậy, cho nên không thọ ký. Người và lý tốt đẹp, nhân và quả đều lớn, được thọ ký. Ngược lại thì không được thọ ký. Tức các kinh Ký biệt ghi việc sanh tử của đệ tử đó là nhân tốt, ghi nhận nghóa sâu kín đó là lý cao siêu. Thọ ký sẽ thành Phật là đại nhân, đại quả. Cho nên, người và lý yếu kém, nhân và quả nhỏ bé không được thọ ký. Pháp này là Phật thọ ký cho loại thứ ba nhân và quả đều lớn, chẳng phải hoàn toàn ở hai thứ trước mà có một ít loại sau. Lại việc thọ ký này có nhiều sai khác. Hoặc thọ ký một loại, là kinh Thọ ký trong mười hai phần giáo. Hoặc nói hai thứ như kinh Niết- bàn chép: Nếu có người nghe nói mà thuận theo ưa thích hội nhập mau được thành Phật. Hoặc người tâm sanh khinh thường thì Phật chậm thọ ký cho. Hoặc cho rằng Phật đạo khó đắc, thọ học siêng khổ lâu dài rồi sau đó mới thành. Hạng người Phật thọ ký cho mau. Lại người có gốc lành thuần thục Phật thọ ký cho mau. Người gốc lành chưa thuần thục Phật thọ ký cho chậm, để nhàm chán sanh tử, muốn mau chứng quả Bồ-đề. Người trí tăng thượng Phật thọ ký cho mau. Người thích vào ra sanh tử hóa độ chúng sanh, lòng từ bi thêm lớn, Phật thọ ký cho chậm. Lại có hai thứ: Thọ ký chung và thọ ký riêng. Trong luận Trí độ có ba thứ: Tự mình biết, người khác không biết là tự lợi không phải lợi tha. Người khác biết tự mình không biết là lợi tha. Tự tha đều biết là thật hành nhị lợi. Lại có bốn thứ như trên nói: Hoặc nói năm thứ như phần tự ký của Như-lai trong kinh này. Hoặc có sáu thứ như phẩm Thí dụ đã nói. Giải thích tên gọi: Thọ nghóa là nương theo, là cho, là giao phó. Ký là quyết định, là phân biệt, là nghiệm, là biết. Vì quyết rõ ràng sẽ có quả là phân tướng riêng của quả đương lai, cùng chứng nghiệm nhân đó được ghi nhận biết có quả đương lai, nên gọi là thọ ký. Phẩm này nêu lại các việc kia nên gọi là phẩm Thọ Ký. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến vô lượng đại pháp.” Tán: Phẩm này, văn lớn chia ra làm hai: Vì bốn người hiện tiền Phật thọ ký cho riêng. Cuối phẩm có hai hàng tụng rưỡi nêu sẽ thọ ký, làm lý do cho châu thứ ba. Phật nói phần đầu lại có hai: Trước thọ ký cho ngài Đại Ca-diếp, tiếp thọ ký cho ba Đại Thanh-văn cón lại. Thọ ký cho ngài Đại Ca-diếp, văn lại chia làm hai: Văn xuôi và Kệ tụng. Trong phần Trướng hàng lại có hai phần: Thọ ký nhân và Thọ ký quả. Thọ ký nhân: Ngoài gặp duyên tốt, trong tu hạnh mầu, là ra mắt Đức Thế tôn. Như văn có thể biết vậy. Xét người thọ ký thượng hạ nên có bốn câu luận như sau. Tiểu thừa thì không có hơn kém, còn Đại thừa thì có. Như ngũ bá đệ tử đồng là Vô học. Cho nên trong Tiểu thừa không có hơn kém. Trước sau thành Phật, chuyển dần được thọ ký, nên nói trong Đại thừa có hơn kém. Trong Tiểu thừa có hơn kém, trong Đại thừa thì không. Như bậc học Vô học, thì Tiểu thừa học Vô học có khác. Đồng thời thành Phật cho nên Đại thừa không có hơn kém. Tiểu thừa kém mà Đại thừa hơn. Như A-nan lúc tại học địa đắc quả Dự lưu, thành Phật trước La-hầu-la. Tiểu thừa hơn mà Đại thừa kém: Như La-hầu-la là Vô học mà thành Phật sau A-nan. Nay bốn hạng người này không y vào căn tánh, luận theo vị thứ thì Tiểu thừa không có hơn kém. Đồng là Vô học nên ở Đại thừa có hơn kém. Ngài Ca-diếp siêng tu trong ba trăm muôn ức Phật. Tu-bồ-đề kính thờ ba trăm muôn ức na-do-tha Phật. Ca-chiên-diên kính thờ tám ngàn ức Phật, sau kế hai muôn ức Phật. Ngài Đại Mục-kiền-liên kính thờ tám ngàn Chư Phật, sau gặp hai trăm muôn ức Phật. Các vị trên cúng dường Chư Phật nhiều ít khác nhau, nên biết thành Phật cũng có trước sau. Kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát y vào hạnh thứ tư cúng dường tám Hằng hà sa Phật. Nay nói Tiểu thừa là người tâm lui sụt không thích tu đại hạnh. Vả lại, xét ở một vị địa, gặp Phật nhiều ít mà được thọ ký, chẳng phải chỉ từng ấy, cũng không là sai. Nay y theo kinh Niết-bàn chép: Quả Tu-đà-hoàn tu tám muôn ức mới đến. Cho đến quả A-la-hán hai muôn kiếp mới đến. Dùng căn tánh đều nhau sự tu hành mau lâu tương tợ mà nói chứ không nói theo căn, hành khác nhau mà nói. Nay lấy căn, hành lợi độn mau chậm mà thành bốn câu luận trên. Nghóa không như vậy thì thật là trái nhau. Kinh: “Nơi thân rốt sau cho đến Phật Thế tôn.” Tán: Thọ kí quả, có bảy. Đây là nói tự thể thọ ký. Thấy ánh sáng mà sanh trí tuệ, nghe pháp nghóa mà đạt được kim quang. Huống chi do nhân Tu-lâu mà kim quang tự trang sức. Cho nên gọi là Quang minh. Kinh: “Nước tên là Quang đức… hai mươi tiểu kiếp.” Tán: Đây có ba: Tên nước: Lấy ánh sáng làm đức. Tên kiếp: Hành vi ác trang nghiêm. Tuổi thọ tuổi thọ. Kinh: “Cõi nước trang nghiêm cho đến khắp nơi thanh tịnh.” Tán: Trong nói bảy tướng của cõi nước: Các thứ tô điểm đủ loại, không dơ xấu, bằng phẳng, đất bằng báu, cây báu, dây vàng, rải hoa tốt đẹp. Kinh: “Các Bồ-tát ở đây cho đến đều che chở Phật pháp”. Tán: Trong đây có hai: Quyến thuộc và không có ma. Tánh và hạnh của ngài Ca-diếp rất điều thuận, hạnh Đầu-đà, học giới, không kiêu mạn với người, không hoại điều thiện. Do đó dù cõi nước có ma cũng che chở Phật pháp. Kinh: “Bấy giờ Thế tôn cho đến sẽ được thành Phật”. Tán: Mười hai hàng tụng rưỡi, chia làm ba: Một hàng rưỡi tụng Phật bảo đại chúng. Mười hàng rưỡi tụng việc thọ ký. 3.. Nửa hàng tụng là kết. Đây là phần đầu Kinh: “Mà ở đời sau cho đến tuệ Vô thượng.” Tán: Ở đây trở xuống mười hàng rưỡi tụng thọ ký, chia làm hai: Hai hàng rưỡi tụng về thọ ký nhân. Tám hàng, tụng thọ ký quả. Kinh: “Ở nơi thân rốt sâu… không có những gò hầm cho đến” Tán: Đây thọ ký quả có bốn ý: Gồm tám hàng Nửa hàng tụng về tự thể. Ba hàng tụng về tướng đất. Ba hàng tụng quyến thuộc. Một hàng rưỡi tụng về tuổi thọ. Ba hàng rưỡi này nêu tự thể và tướng cõi nước. Tướng cõi nước ở tụng này lại có tám: Không có điều ác, đất báu, cây báu, dây vàng, hương thơm, hoa đẹp, báu trang nghiêm, đất bằng phẳng. Tướng hương trong Văn xuôi không có. Nhân giới hương đầy đủ, nên quả có nhiều hương, muôn hạnh đầy đủ, tu hành trang nghiêm cũng đủ. Đây khác với văn xuôi . Kinh: “Các Bồ-tát cho đến không thể tính kể hết.” Tán: Ba hàng tụng về quyến thuộc, gồm có: + Một hàng rưỡi tụng về Bồ-tát. + Một hàng rưỡi tụng về Thanh-văn. Kinh: “Tuổi thọ của Phật này cho đến việc của Ngài như thế.” Tán: Một hàng rưỡi tụng về tuổi thọ của Phật. + Một hàng tụng nói về tuổi thọ. + Nửa hàng là kết thúc. Kinh: “Bấy giờ cho đến mắt không tạm rời.” Tán: Là phần hai thọ ký cho ba vị đại Thanh-văn còn lại. Phần đầu thỉnh, phần sau là thọ ký. Phần thỉnh trước là Văn xuôi nói nghi thức thỉnh, sau kệ tụng mới là chánh thỉnh, đây là phần đầu. Chữ lật nghóa là sợ hãi, là kính sợ. Vì tâm cầu quả thọ ký mà không dám chuyên y, lại sợ uy Phật, cho nên run sợ. Kinh: “Liền cùng đồng thanh cho đến trừ nóng được mát mẻ.” Tán: Trở xuống là bảy hàng tụng, chia làm ba: Hai hàng tụng khen ngợi thỉnh Phật. Bốn hàng tụng thí dụ thỉnh Phật. Một hàng tụng kết thúc việc thỉnh Phật. Đây là một hàng tán, một hàng thỉnh Phật. Kinh: “Như từ nước đói đến cho đến rồi mới dám ăn”. Tán: Nói về thí dụ thỉnh, bốn hàng chia làm hai: Một hàng rưỡi tụng về thí dụ, hai hàng rưỡi tụng thỉnh. Tiểu thừa thiếu pháp Đại thừa cho nên nói từ nước đói đến. Nhất thừa của Phật gọi là cỗ tiệc của vua. Nay được nghe nên gọi là chợt gặp. Nghi mình không có phần, không dám tu hành nên nói là chưa dám ăn. Phật thọ ký cho gọi là được vua bảo ăn. Do được thọ ký mà sau đó lãnh nạp Đại thừa, tu đại hạnh, ưa thích được quả Phật gọi là mới dám ăn. Kinh: “Chúng con cũng như vậy cho đến mới là thật an vui.” Tán: Hai hàng rưỡi tụng nói về thỉnh Nghe giọng Phật nói lý Nhất thừa, nói chung rằng: Con sẽ thành Phật, như gặp bữa tiệc vua, chưa hề cầu mong được thọ ký, mặc dù được thọ lãnh việc tu hành rất vui sẽ thành Quả Phật. Đó gọi là chưa dám ăn. Mong được thọ ký riêng như mong được vua bảo ăn. Tức trông chờ tu hành, vui mừng sẽ thành Phật gọi là được ăn. Kinh: “Thế tôn đại hùng mạnh cho đến như đói được cho ăn.” Tán: Một hàng kết thỉnh. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến đầy đủ đạo Bồ-tát.” Tán: Thọ ký riêng cho ba người. Văn này có hai: Văn xuôi và kệ tụng. Văn xuôi có hai: Thọ kí nhân và Thọ kí quả. Đây là thọ ký nhân. Kinh: “Thân sau cùng cho đến Thế tôn.” Tán: Đây thọ ký quả có chín: Đây là tự thể thọ ký, hiểu rõ thể tướng pháp là không chỉ có giả danh nên gọi là danh tướng. Hoặc hai nghóa danh và tướng đều không gọi là Danh tướng. Danh là danh giả , tướng là hai thứ thọ, pháp là tướng giả. Kinh: “Kiếp tên là Hữu bảo cho đến thanh tịnh cùng khắp.” Tán: Trong đây có ba: 1. Kiếp lấy lý không làm báu; 2.nước; 3. Tướng cõi. Tướng cõi có năm: Mặt đất bằng phẳng, đất báu, cây báu, không dơ xấu, hoa sạch. Kinh: Nhân dân trong nước đó cho đến na-do-tha. Tán: Ở đây có hai ý: Một là người dân ở đó, do bên trong đạt lý, ngoài cảm được các thứ châu báu, hai là quyến thuộc. Kinh: “Phật thọ… và chúng Thanh-văn.” Tán: Đây có ba ý: Tuổi thọ Phật, Phật trụ hư không để giải thích không, lợi ích cho chúng. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến lắng nghe lời ta nói”. Tán: Trở xuống mười hai hàng tụng, gồm có hai phần: Một hàng đầu tụng Phật bảo chúng Tỳ-kheo, mười một hàng sau tụng chánh lời Phật bảo. Trên là hàng tụng đầu. Kinh: “Đại đệ tử của ta cho đến giống như núi báu lớn” cho đến. Tán: Đây là phần chánh bảo, mười một hàng chia làm sáu: Ba hàng tụng quả, nhân hợp lại thọ ký. Một hàng rưỡi tụng về tướng cõi nước. Ba hàng tụng về quyến thuộc. Một hàng tụng về sự hóa độ của Phật. Một hàng tụng về thính chúng. Một hàng rưỡi tụng tuổi thọ. Ba hàng đầu: Một hàng tụng danh hiệu, một hàng tụng về nhân và một hàng tụng về hình dáng. Kinh: “Cõi nước Phật đó cho đến độ vô lượng chúng.” Tán: Một hàng rưỡi tụng về tướng cõi nước Kinh: “Trong pháp hội của Phật cho đến có uy đức lớn.” Tán: Ba hàng tụng về quyến thuộc. Chia làm hai: Một hàng rưỡi tụng về Bồ-tát, một hàng rưỡi tụng về Thanh-văn. Kinh: “Đức Phật đó nói pháp cho đến nghe nhận lời Phật dạy.” Tán: Một hàng tụng Phật hóa cho đến một hàng tụng thính chúng. Kinh: “Tuổi thọ của Phật đó cho đến hai mươi tiểu kiếp.” Tán: Ở đây nói về tuổi thọ. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến cung kính tôn trọng.” Tán: Đây là phần thọ ký cho ngài Ca-chiên-diên. Văn xuôi có hai. Y theo trước, đầu tiên là thọ ký nhân, trong đây chia làm hai phần: Sơ thời và hậu thời. Sơ thời có hai: Phật tại thế và Phật diệt độ. Đây là nói Phật tại thế. Kinh: “Sau khi Phật diệt độ cho đến cúng dường tháp miếu cho đến” Tán: Diệt độ có hai: Hợp thành, trước xây tháp dâng hoa, sau đó cúng dường. Mai khôi là hỏa tề châu. Mạt hương như lấy tay chà sát thành mạt, đất nhuyễn thành mạt. Nay đã có dầu hương xoa thay thế. Kinh: “Sau thời kì đó cho đến đầy đủ Bồ-tát đạo.” Tán: Đây nói thời sau cúng dường Phật gặp được duyên lành rồi, mới đầy đủ đạo sở hành của Bồ-tát, tu hành tự bên trong. Kinh: “Sẽ được thành Phật cho đến Phật Thế tôn”. Tán: Thọ ký quả. Có sáu, đây là phần tự thể. Ngài Ca-chiên-diên, ở thời quá khứ từng làm vị tăng quét sân. Nay thân thường tỏa ra sắc vàng, dung nghi khoan thai, mắt nhìn có ánh sáng, tai nghe pháp ánh sáng nên hiệu là Diêm phù Kim Quang. Thiệm- bộ Na-đề là tên cây. Cây này nằm bên bờ ao Vô Nhiệt của châu này. Có kinh nói ở bờ Bắc của châu này. Gần dưới cây có ánh sáng màu sắc tía tỏa sáng lấn át cả mặt trời, mặt trăng. Kinh: “Mặt đất bằng phẳng cho đến người thấy đều vui mừng.” Tán: Đây chỉ tướng một cõi nước. Có năm thứ: Bằng phẳng,đất báu, cây báu, dây vàng và hoa đẹp. Ngài Ca-chiên-diên đoan chánh chúng sanh thấy đều vui mừng. Do nhân duyên quét đất, tướng cõi đất bên ngoài người thấy cũng vui mừng. Kinh: “Không có bốn đường ác cho đến hai mươi tiểu kiếp.” Tán: Trong đây có bốn ý: Không có đường ác, nhiều trời người, quyến thuộc và tuổi thọ của Phật. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến chân thật không khác cho đến” Tán: Trở xuống bảy hàng tụng chia làm hai: Một hàng tụng là nêu bảo, sáu hàng là chánh bảo. đến” Đây là nêu bảo. Kinh: “Ngài Ca-chiên-diên cho đến cúng dường xá-lợi cho Tán: Thọ ký có hai: Hai hàng đầu tụng nói về thọ ký nhân, bốn hàng sau tụng nói về thọ ký quả. Đây là tụng về thọ ký nhân. Kinh: “Thân rốt sau của ông cho đến thường đến kính cúng dường. Tán: Bốn hàng tụng về thọ ký quả. Một hàng tụng đầu về tướng cõi. Một hàng kế tụng về ruộng phước. Kinh: “Ánh quang của Phật cho đến trang nghiêm cõi nước.” Tán: Hai hàng tụng nói trong phần thọ ký quả: Một hàng tụng nói về tự thể. Một hàng tụng nói về quyến thuộc. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến cung kính tôn trọng.” Tán: Phần thọ ký cho ngài Mục-kiền-liên. Đoạn này trong văn cũng đồng như trước. Thọ ký nhân cũng có hai: Sơ thời và Hậu thời. Sơ thời có hai: Phật tại thế và sau khi Phật diệt độ. Trên là phần nói về Phật tại thế. Kinh: “Chư Phật sau khi diệt độ cho đến dùng để cúng dường.” Tán: Sau khi diệt độ có hai: Xây tháp và cúng dường. Kinh: “Sau lúc ấy cho đến cũng như trước”. Tán: Đây nói nhân hậu thời. Kinh: “Sẽ được thành Phật cho đến Thế tôn.” Tán: Đây là phần thọ ký quả có bảy. Đây là phần tự thể. Đa-ma-la-bạt chiên-đàn hương: Đa nghóa là tánh. A-ma-la nghóa là Vô cấu. Đây lược bỏ chữ A. Bạt-đà-la nghóa là Hiền. Lược gọi chung là: Phật Tánh vô cấu hiền chiên-đàn hương vì ngài Mục-kiền-liên phiền não nhẹ nhàng nên gọi là Vô cấu, nhân đức như hương có thể huân tập nên gọi là Phật hiền chiên-đàn hương. Kinh: “Kiếp tên là Hỷ mãn cho đến người thấy đều vui mừng.” Tán: Trong đây có ba phần: Tên kiếp, tên nước và tướng cõi nước. báu. Tướng cõi nước có bốn: Bằng phẳng, đất báu, cây báu, hoa châu Kinh: “Nhiều chúng trời người cho đến bốn mươi tiểu kiếp.” Tán: Trong đây nói ba ý: Nhiều đường lành, quyến thuộc và tuổi thọ. đến Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến vâng giữ Phật pháp.” cho Tán: Tụng thọ ký trở xuống mười hàng chia làm hai: Năm hàng tụng về thọ ký nhân. Năm hàng tụng về thọ ký quả. Trong phần thọ ký nhân lại chia làm hai: Ba hàng đầu tụng Phật tại thế. Hai hàng kế tụng về sau khi Phật diệt độ. Đây là nói phần đầu, gồm có: Một hàng rưỡi tụng gặp duyên lành. Một hàng rưỡi tụng về tu pháp Hạnh mầu. Kinh: “Chư Phật sau khi diệt độ cho đến Bồ-tát đạo đã xong.” Trường là tiêu biểu cho cõi vàng, dùng vàng làm cõi. Tiếng Phạm là Chế-đa-la. Ở nước kia không phân biệt là tràng phan và sao. Tức ở nơi bát che bát, đầu trụ treo phan. Nay dịch chữ sát là âm thanh là sai. Vì có sự tiêu biểu nên gọi là trường biểu. Kinh: “Ở cõi nước Ý lạc cho đến giảng nói Phật đạo.” Tán: Năm hàng tụng thọ ký quả. Tụng sáu ý ở đây có bốn: Tên nước, tuổi thọ của Phật và đường lành. Kinh: “Thanh-văn vô lượng cho đến tượng pháp cũng vậy.” Tán: Đây nói hai ý: Quyến thuộc và thời gian pháp trụ. Kinh: “Chúng đệ tử của ta cho đến đều được thành Phật.” cho đến Tán: Đoạn thứ hai cuối phẩm nói sẽ được thọ ký là lý do dẫn đến châu thứ ba nói pháp. Trong đây chia hai: Một hàng rưỡi nói sẽ được thọ ký. Một hàng tụng về Phật hứa nói pháp. Đây là phần đầu. Kinh: “Ta và các thầy cho đến các thầy khéo lắng nghe.” Tán: Đây là Phật hứa nói pháp, khuyên bảo tâm chúng đệ tử, nên lắng nghe pháp.  HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 7 (PHẦN CUỐI) PHẨM HÓA THÀNH DỤ Chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này Giải thích tên phẩm. Giải Thích-các chướng nạn. Vì sao có phẩm này có bốn: Hàng thượng căn, trung căn nghe pháp mà được thọ ký, người hạ căn chưa hiểu rõ, nên Phật kế nói họ ở đời quá khứ đã có kết duyên với Đại thừa, và nói về thí dụ hóa thành như tiểu quả ở hiện tại. Nêu lại nhân duyên đã qua giúp cho chứng thật, thuật lại quả đời nay khiến cho bỏ pháp quyền. Khi đã tỏ ngộ hiểu biết mới có thể thọ ký. Do đó mà có phẩm này. Luận giải để đối trị hạng chúng sanh có đủ bảy thứ tánh phiền não. Trong bảy thứ Tăng thượng mạn, loại thứ tư là người có định chấp. Tức là Tăng thượng mạn thật không có mà cho là có. Vì có pháp Tam- muội Tam-bạt-đà ở thế gian. Thật không có Niết-bàn mà nghó gì có Niết-bàn. Để đối trị hạng này, nên Phật nói Hóa thành dụ. Lại nói loại người thứ tư phương tiện vào thành Niết-bàn. Thành Niết-bàn đó là thành của các thiền Tam-muội. Vượt qua thành kia rồi khiến cho vào thành đại Niết-bàn. Cho nên người có định là kia đã đắc định, là người phàm phu Hữu học. Nay nói việc quá khứ là để cho nhớ lại. Mạn được khởi đây hoặc là phân biệt của Cõi Dục, hoặc phiền não ở cõi trên. Thành Tam-muội la nơi mà phàm phu Hữu học chuyên tâm mong cầu tức mong được thân Vô học Tận Vô sanh trí. Sau khi thiền định thế gian đã chuyển biến thành giải thoát, lìa năng biến thì không gọi là Tam-muội. Định hữu lậu này gọi là thế gian định. Ý trong đây nói Phật nói ba việc gọi là Đại bát Niết-bàn. 1.Tam thừa đồng được trạch diệt giải thoát, tức là đối với đạo Vô học giải thoát chứng được lý sanh không. Do đây mà sau đó hoặc khổ không còn sanh ra nữa thì gọi là giải thoát. Phật gọi giải thoát này là hóa thành. 2.Chứng trí sanh không là gọi là tam nhập. Vì để dứt hết các khổ hoặc nên nói phương tiện vào thành Niết-bàn. Sau đó đi tiếp đến Đảo châu báu mới thật đến thành Đại Niết-bàn. 3.Trí gia hạnh của Nhị thừa cầu biến chuyển tướng này, chánh chứng giải thoát đạo Vô học đều không có các tưởng phân biệt. Sau khi xuất đạo giải thoát, tâm định thế gian duyên lại để đắc, vì tâm thô nên không biết pháp sở chứng, chỉ thấy có tướng trạng Niết-bàn giải thoát mà trí gia hạnh đã cầu. Đó gọi là Niết-bàn, cho rằng có thật diệt. Há đây chẳng phải là tạm giải thoát, là thế gian định hay sao Cho nên nói vì có Tam-muội thế gian, thật không có Niết-bàn mà nghó bà có Niết-bàn. Phàm phu Hữu học nghe giải thoát giả này, không biết cho là thật Niết-bàn, khởi tâm chấp chặc, tác ý mong đến, cho nên nay phá trừ. Nói sở chứng của họ cũng như hóa thành không có thật, không nên mong cầu, huống chi chỉ là tạm biến chuyển của Vô học. Như người Nhị thừa khởi ra bốn điên đảo: Chánh trí chứng sanh không còn chưa khởi chấp, sau khi quán các hành tướng chánh trí trước. Không tự thân đắc, do thấy các hành tướng mong cầu của gia hạnh , bèn cho là thật, khởi lên bốn đảo. Đây cũng như vậy. Chẳng phải tâm vô lậu và định thế gian đều là pháp chấp, mà khi vượt khỏi tâm kia mới khởi chấp. Đây là nghóa của ngài Hộ pháp, hoặc Sư An Tuệ. Tức ở vị Vô học giải thoát các tâm vô lậu, định tâm thế gian, đều có pháp chấp. Sở chứng trạch diệt đều gọi là hóa thành, người khác mong cầu theo lí đều là Tăng thượng mạn. Luận nói đó là do chúng sanh có tánh phiền não đầy đủ khởi tưởng, nên chẳng phải là Vô học. Lại có giải thích: Đây là chỗ chấp của phàm phu thế gian và chứng đắc Tam-ma-bạt-đề, của thế gian. Sở đắc sáu hạnh giả phi trạch diệt cho là chân Niết-bàn. Phật nói Nhị thừa, Vô học đắc trạch diệt Niết-bàn chỉ là phương tiện khiến vào. Cũng như hóa thành giữa đường dứt khổ, mong hướng đến Đảo châu báu, còn chẳng phải thật diệt độ. Huống chi phàm phu các thầy chỉ đắc pháp Tam-muội thế gian mà chấp là thật diệt độ hay sao? Người Hữu học không khởi lên chấp này, phàm phu thì có. Như dưới nói: Đấng đạo sư, biết không mỏi mệt liền diệt mất hóa thành. Nói trước đó là thành do ta hóa ra. Nói hóa ra thành, diệt mất thành là để phá Nhị thừa chấp Niết-bàn như ngôi thành thật có vì diệt phàm phu, chấp thành là thật. Cho nên trong đây cũng nên như giải thích của ngài hộ pháp. Trong mười nghóa Vô thượng, thứ hai là hiện hạnh Vô thượng. Cho nên nói “Bổn sự của Đức Đại Thông Trí Thắng Như-lai”. Bồ-đề Đại thừa khó đắc, hạnh cũng khó thành, chẳng phải như Bồ-đề Nhị thừa mau đắc quả, hạnh cũng dễ tu. Cho nên nói Đức Đại Thông Trí Thắng Như-lai mười kiếp ngồi Đạo tràng, mới đắc Bồ-đề sự. Đây trong văn còn lại nói về việc xưa. Hoặc nói việc của Phật Đại Thông. Nói tự thân của Phật lúc ấy tu hành vì mười sáu vị vương tử rồi mới đắc Bồ-đề. Lại các Thanh-văn lúc ấy phát tâm đến nay mới thành thục nhân, hạnh lớn chẳng phải là bất chợt tu mà thành, đó là hạnh Vô thượng. Không nói hạnh của Phật Đại thông, tức sắc nói nay phải nói xưa. Tuy lấy quả đời nay làm tên phẩm, mà nhân cũng ở trong đó, cho nên có phẩm này. Trong mười Vô thượng, thứ ba là thị hiện lực thêm lớn Vô thượng. Cho nên nói thí dụ người dẫn đầu đoàn người đi buôn. Trước nói hóa thành biết không có thật diệt chưa nói thương chủ có thể dẫn thương nhân đến Quả Phật Đảo châu báu. Nay đây nói việc đó nên có phẩm này. Đây chính là nghóa còn lại, không phải văn còn lại. Giải thích danh: An thần chế ngự giặc thì gọi là thành. Vốn không mà có gọi là hóa. Chế ngự giặc là dứt mỏi mệt sanh tử. An thần là chứng vui vắng lặng. Cho nên dụ ở thành. Phật giả quyền lập bày gọi là hóa. Thành tức là hóa nên gọi là hóa thành, nay là dụ và pháp. Phẩm này nói rộng dụ này gọi là Phẩm Hóa Thành dụ. Giải đáp chướng nạn. Hỏi: Đều phẩm này nói có hai nghóa: Nói việc đời trước của Đức Đại Thông tức là hành Vô thượng. Nói sự hóa thành bây giờ, tức là lực thêm lớn Vô thượng. Vì sao chỉ lấy hóa thành làm tên, không lấy Phật sự làm tên? Đáp: Phật nói giáo vốn là trừ bệnh cho chúng sanh, bệnh sanh có, vốn không có mà có là do tăng thượng mạn, chấp phi trạch diệt là thật. Nay nói trạch diệt là hóa là để trừ tâm đó, xả trừ quyền tạm mà tiến đến đảo châu báu, cho nên lấy hóa thành làm tên phẩm, không lấy Phật sự làm phẩm. Như chánh Pháp Hoa gọi là phẩm Vãng cổ, nghóa là nói lên Phật quá khứ đã giáo hóa chúng sanh phát tâm Đại thừa. Khiến cho họ nhớ lại, để làm nhân thành thục cho hiện tại, mà nay so với ý đó là dẫn nhập Đại thừa chẳng phải là phá bệnh, cho nên kinh này không lấy vãng cổ làm tên phẩm. Lại quả hóa thành nay hiện được. Việc của Phật Đại Thông ở nhân xưa. Vì hiển quả làm tên phẩm mà không dùng ẩn nhân làm tên phẩm, cũng không sai. Kinh: “Phật bảo các Tỳ-kheo cho đến A-tăng-kỳ kiếp. Tán: Châu thứ ba nói cho chúng hạ căn. Y theo như hai chu trước, ở đây cũng chia làm bốn đoạn: Phẩm này, Phật dùng thí dụ làm chánh hóa. Phẩm cuối này, tức đầu phẩm sau (Ngũ bách đệ tử thọ ký) nói ngài Mãn Từ Tử lãnh ngộ. Túc trong phẩm Ngũ bách đệ tử thọ ký, từ câu “Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy thấy Mãn Từ Tử đây chăng?.v…” trở xuống là Phật thuật lại sự thành tựu. Từ câu: “Các Tỳ-kheo! Phú-lâu-na này cũng là bậc nhất trong các vị nói pháp thuở bảy Đức Phật” trở xuống: Phật thọ ký cho. Đoạn văn đầu chia làm hai phần: Đầu tiên nói nhân duyên đời trước, khiến nhớ lại đã lui sụt Đại thừa, thành tựu Tiểu thừa. Sau từ câu: “Các Tỳ-kheo! Nếu đức Như-lai tự biết giờ Niết-bàn sắp đến, chúng lại thanh tịnh” v.v… trở xuống là nói lên quả nay, để biết bỏ quyền, lấy thật. quả. Nói về túc nhân. Khiến cho nhớ lại lui sụt Đại thừa mà tu tiểu Các Tỳ-kheo! Như-lai tự biết đã đến lúc nhập Niết-bàn cho đến. Đầu tiên là nói nhân duyên xưa, để đại chúng thấu đạt việc đã tu đại trước kia lui sụt trụ ở tiểu quả. Nói theo quả thì gọi là hành Vô thượng, nói về bổn sự của Đại Thông Như-lai, sau đó thuật lại quả đắc hiện nay. Luận gọi là phá người có định. Tăng thượng mạn chấp không là có. Lại vì thị hiện lực thêm lớn Vô thượng, cho nên có dụ người đi buôn. Nói đầu tiên đã phát đại tâm khiến nay giữ lấy đại quả. Kế nói quả sau là hóa khiến cho bỏ tiểu qua, do đây mà chia làm hai: Văn đầu có hai: Nói nhân duyên quá khứ kết hội ở việc tự thân của Phật. “Các Tỳ-kheo… Lúc chúng ta làm Sa-di, mỗi người giáo hóa v.v…” là quá khứ kết duyên, hội việc của đệ tử. Ý này nói chung về quá khứ từng hóa độ kết duyên Đại thừa khiến cho sanh tín hiểu. Văn nói nhân duyên quá khứ lại chia làm hai: Văn xuôi, một kệ tụng nói Đức Đại Thông Phật xưa nay, xa gần. Phật bảo các Tỳ-kheo: “Tuổi thọ của Phật Đại Thông Trí Thắng …” trở xuống việc là nói về việc ấy. Phần văn xuôi có hai: Nói việc lâu xa của Đức Phật kia. trên. Nói những việc đã thấy. Phần một lại có hai: Bảo chúng và hỏi đáp. Phần bảo chúng có bốn điều: Thời, Danh, Nước và Kiếp. Ở đây nói phần đầu. Kinh: “Bấy giờ có Phật cho đến kiếp tên là Đại Tướng.” Tán: Đây là nói ba việc sau. Kinh: “Các Tỳ-kheo cho đến chấm hết mực bằng địa chủng ở Tán: Đây trở xuống là hỏi đáp có ba phần hỏi, đáp và nói việc rất lâu xa. Trong hỏi có hai phần: So sánh lượng và hỏi. Đây là phần một. Kinh: “Ý các thầy nghó sao? Cho đến thưa Thế tôn! Không thể biết”. Tán: Đây là hỏi và đáp. Kinh: “Các Tỳ-kheo cho đến a-tăng-kỳ kiếp.” Tán: Đây nói việc lâu mau. Với tất cả cõi nước nhiều như cát bụi, lấy những cõi đã qua như cát bụi đều có chấm mực, hoặc không có chấm mực, nghiền thành bụi nhỏ. cứ một hạt bụi tính là một kiếp. Từ khi Phật đó diệt độ đến nay còn nhiều hơn số kiếp đó. nghiền nát là lấy tay mài thành. Kinh: “Ta dùng sức tri kiến của Như-lai cho đến giống như ngày nay.” Tán: Đây là nói Phật đã có thể thấy, tức dùng túc mạng trí, tuệ nhãn thấy. Hỏi: Đức Thích-ca tu hành không vượt qua ba tăng-kỳ. Vì sao trần kiếp lại quá nhiều, lúc ấy Phật còn xưng là Vương tử. Đáp: Có bốn vì sao: Vì sao bình đẳng: Nghóa là Phật bảo: Ta lúc ấy từng gọi là Thắng Quan, tức pháp thân bình đẳng. Vì sao Biệt thời: Nghóa là nguyện sanh Cực Lạc đều được vãng sanh. Tạm nghe danh hiệu của Phật Vô Cấu Nguyệt Quang thì chắc chắn đối với pháp Bồ-đề không lui sụt. Biệt nghóa: Nói các pháp đều không có tự tánh, không có sanh diệt, xưa nay Niết-bàn. Ý chúng sanh ưa thích: Nghóa là một gốc lành hoặc khen hoặc chê đều giúp cho tăng tiến. Nay nương vào ý thú bình đẳng mà nói các Phật sự khác. Tức thân ta bình đẳng với tất cả. Nếu không như vậy thì sao nói từng ấy kiếp số? Lại thiện tâm nối tiếp đầy đủ ba kỳ kiếp các tâm nói chung này có chướng ngại? Kiếp số từng ấy là ở thời Đức Phật kia còn làm vương tử. Lại y vào năm tháng thời gian tức đâu có chướng ngại tự thân của Phật Thích-ca trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp? Kinh “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến hiệu Đại Thông Trí Thắng.” Tán: Trở xuống bảy hàng tụng chia làm hai: Năm hàng đầu tụng thời gian rất lâu xa. Hai hàng sau tụng Phật năng thấy. Năm hàng lại chia làm hai: Một hàng tụng danh hiệu Phật. Bốn hàng tụng nói về kiếp số. Đây là phần một. Kinh: “Như người dùng sức mài cho đến vô lượng kiếp như thế”. Tán: Đây là nói về kiếp số. Kinh: “Trí Như-lai vô ngại cho đến thông đạt vô lượng kiếp.” Tán: Tụng Phật năng thấy. Kinh: “Phật bảo các Tỳ-kheo cho đến na-do-tha kiếp.” Tán: Đoạn thứ hai chánh nói về việc Đức Phật kia. Trở xuống dưới là văn xuôi rồi tụng. Đầu tiên hội các việc của tự thân. Văn này nói bốn ý lớn Phật thành đạo, tuổi thọ. Khi Phật chưa xuất gia có mười sáu vị vương tử cho đến nói Phật xoay bánh xe pháp. “Bấy giờ mười sáu vương tử đều là đồng tử xuất gia” cho đến, nói các vương tử nối tiếp đèn pháp Các Tỳ-kheo! Nay Ta nói với các thầy: Mười sáu Sa-di đệ tử của Đức Phật kia” cho đến hội thành Phật nay Văn đầu có ba: Nói tuổi thọ của Phật. Pháp khó đắc. Nói việc đắc đạo. Đây là phần đầu. Kinh: “Phật xưa ngồi đại Đạo tràng cho đến chẳng hiện ra trước.” Tán: Nói pháp khó đắc. Có bốn: Không hiện tiền. Các vị trời trải tòa. Rải hoa đẹp. Tấu nhạc. Ở đây là phần đầu. Báo thân thành đạo theo lí là rất khó, hóa thân thành đạo đâu ngại gì hiện hóa? Nay báo thân Phật kia lại cùng thị hiện tướng khởi. Luận chép: Ở đây muốn nói đạo Bồ-đề khó đắc. Theo kinh Hoa Nghiêm nói mười việc, cho nên nói ngồi ở đạo tràng, bắt đầu rung chuyển tất cả cõi Phật, cho đến gốc lành của mình đều thọ trì tất cả chúng sanh. Cho nên ngồi Đạo tràng, phá trừ ma quân cũng có mười nghóa. Bắt đầu từ cõi đời có năm thứ vẩn đục, chúng sanh tương phạt lẫn nhau là muốn hiển rõ công đức lực của Bồ-tát. Cho đếm thuận theo chúng sanh ở cõi đời năm thứ vẩn đục, mà thị hiện ra để hàng phục ma. Không như vậy. Vì sao? Vì ma oán làm sao có thắng lực để cạnh tranh với Phật, Bồ-tát? Lại Phật Thích-ca khi phá trừ ma quân các bộ nói khác nhau. Có nói nói đạo rồi mới phá ma quân. Kinh Niết-bàn cũng nói như vậy. Có nói nói phá ma quân mới thành đạo. Văn kinh hiện có hai nói này. Ở đây nói Phật phá ma quân rồi mới thành đạo. Việc này không chắc chắn, tùy theo sự thị hiện. Lại nói Phật Di-lặc trong ngày xuất gia liền thành Phật. Kinh nói: Phật Thích-ca trước khổ hạnh sáu năm, nay Phật này thành đạo ngồi suốt mười kiếp. Đều là thị hiện tướng khác nhau, không thể một lí do nào chắc chắn. - Kinh: “Bấy giờ ở cung trời Đao-lợi cho đến Tam-miệu Tam-bồ- đề.” - Tán: Nói về trải tòa. Kinh Bát-nhã Thắng Thiên Vương chép: Mỗi vị trời đều dâng Phật một tòa. Phật đều thọ nhận để ngồi tu chứng đạo Bồ-đề nên dùng thần lực hợp lại thành một tòa khiến các vị trời đều chỉ thấy Phật ngồi vào tòa mình để tu chứng quả Bồ-đề phát tâm vui mừng, không thấy các tòa ngồi khác. Cho nên đây cũng nói các vị trời làm tòa, chẳng phải cùng làm ra một tòa. - Kinh: “Lúc ngồi vào tòa này cho đến thường rải hoa này như mưa.” - Tán: Nói rải hoa, hoa nhiều như núi Tu-di: Nên biết đó là thân Tha thọ dụng. - Kinh: Các trời tứ thiên vương cho đến cũng giống như vậy.” - Tán: Nói tấu nhạc. Trong văn kính thường nói trổi âm nhạc để cúng dường. - Kinh: “Các Tỳ-kheo cho đến Tam-bồ-đề.” - Tán: Nói Phật đắc đạo. - Kinh: “Phật lúc chưa xuất gia… gọi là Tri Tích.” - Tán: Ý lớn thứ hai Phật xoay bánh xe pháp. Ở đây có hai: - Cúng dường thỉnh chuyển. - “Bấy giờ Đại Thông Trí Thắng Như-lai,”… thọ lơi thỉnh của các Phạm Thiên mười phương cúng dường. Trở xuống là nói Phật hứa vì xoay bánh xe pháp. Thỉnh chuyển có hai phần: một là mười sáu vị vương tử cúng dường Phật thỉnh xoay bánh xe pháp. Hai là Phạm Thiên vương thỉnh. Thân tộc thì hiện tiền, không thân tộc thì không hiện tiền. Văn đầu nói hai ý: Đến chỗ Phật và lễ tán. Đến chỗ Phật có năm ý: Là con Phật, đến lễ Phật, mẹ tiễn đưa, nội tiễn đưa. Đây là phần đầu. Thân Tha thọ dụng thì có cha mẹ v.v… Kinh Cổ Âm Vương chép: Phật A-di-đà có cha tên là Nguyệt Thượng, mẹ là Thù Thắng, dung mạo rất tốt đẹp có con, có ma, hóa thất địa trở xuống có sanh tử phần đoạn, có cha mẹ. Hóa Bát địa trở lên có sanh tử Biến dịch , theo lý không có pháp này. Thân Tha thọ dụng cùng xuất hiện với kim luân. Đây là nội tổ của Phật làm vua Chuyển luân. Kinh: “Các con đều có cho đến đi đến chỗ Phật.” Tán: Đến chỗ Phật. Kinh: “Các người mẹ khóc lóc cho đến đi theo đến Đạo tràng.” Tán: Phần ba: Mẹ đưa và nội tiễn đi. Khóc lóc là mắt ra nước mắt gọi là thế, khóc không ra tiếng gọi là khấp. Kinh: “Đều muốn gần gũi cho đến tôn trọng khen ngợi.” Tán: Ý đến Phật. Kinh: “Đến rồi đầu mặt đảnh lễ cho đến Thiện tai! Bậc Vô thượng tốt lành”. Tán: Nói lễ tán. Có hai phần: Thân lễ. Miệng khen. Tám hàng tụng dưới chia làm ba: Một hàng tụng rưỡi: Khen ngợi Chư Phật, nguyện đầy đủ thắng đức. Hai hàng tụng khen ngợi Phật tu nhân thắng đức. Bốn hàng tụng rưỡi: Giải bày ý quy y, lễ bái. Đây là phần một. Cát là cát tường, là đầy đủ việc lành. Kinh: “Thế tôn thật ít có cho đến an trú pháp vô lậu.” Tán: Khen ngợi Phật tu nhân thắng đức. Một phen ngồi mười tiểu kiếp, theo: Kinh Hoa Nghiêm nói có mười thứ ngồi. Vua Chuyển luân ngồi cùng thập thiện. Tứ Thiên vương, ngồi muốn trong tất cả thế giới chánh pháp Chư Phật tu hành tự tại. Đế Thích: Ngồi tự tại đối với tất cả hành của chúng sanh. Phạm thiên vương ngồi mà tâm mình tâm người đều được tự tại. tài. Sư tử ngồi: Phân biệt giảng nói nghóa sâu xa. Chánh pháp ngồi: Muốn nói pháp tổng trì, các năng lực biện Vững chắc Tam-muội ngồi: Rốt ráo Đại Bồ-đề. Đại từ ngồi: Khiến cho người tâm ác vui mừng. Đại bi ngồi: Có thể nhẫn tất cả các khổ não. Kim cương ngồi: Hàng phục chúng ma, ngoại đạo. Ở đây là nói Tam-muội vững chắc, ngồi kim cương. Yên tónh là thân định. Tâm đạm bạc là chỉ cho tâm định. Đạm bạc trong Nói văn là chỉ sự an tịnh. Nghóa là đạm bạc an vui. Kinh: “Nay thấy Đức Thế tôn cho đến vui mừng đại vui mừng.” Tán: Bốn hàng tụng rưỡi: Ý giải bày quy y, lễ Phật. Có hai: Một hàng tụng nói Phật đắc đạo, chúng con được lợi ích. Ba hàng tụng rưỡi là: Giải thích lý do. Trên là nói Phật đắc đạo. Kinh: “Chúng sanh thường khổ não cho đến mãi chẳng nghe danh hiệu Phật.” Tán: Giải thích lý do. Có hai: Hai hàng tụng đầu nói các chúng sanh không gần gũi bạn lành, luân hồi chịu khổ. Một hàng rưỡi tụng được lợi ích nên quy y đảnh lễ. Hai hàng đầu: “Thường khổ là khổ đế, mê mờ là tập đế. Không biết khổ hết là đạo đế, không cầu giải thoát là diệt đế. Đối với bốn đế này đều không thể biết. Chúng trời bị tổn giảm, từ tối vào tối không nghe danh hiệu Phật.” Minh là tối, minh là ban đêm, là tối tăm, tối tăm che mắt người, làm cho không thể thấy. Kinh: “Nay Phật đắc tối thượng cho đến quy mạng đấng Vô thượng”. Tán: Được lợi ích nên quy y, lễ kính. Kinh: “Bấy giờ mười sáu vị vương tử cho đến các trời và người thế gian.” Tán: Đây là phần hai: Thỉnh xoay bánh xe pháp. Gồm có: Văn xuôi và Kế tụng. Văn xuôi. Nói về sự an ổn và tâm thương xót cứu khổ của Phật. Kinh: Giảng nói lại kệ rằng “cho đến nguyện vì thế gian nói.” Tán: Trở xuống bốn hàng tụng rưỡi chia làm ba: Một hàng tụng: Nói đức trong ngoài của Phật đều đầy đủ, nên cầu thỉnh. Một hàng rưỡi tụng: Có lợi ích lớn nên thỉnh. Hai hàng tụng sau: Nói Phật biết thông suốt nên cầu thỉnh. Đây là phần đầu. Kinh: “Độ thoát cho chúng con cho đến chúng sanh cũng như vậy.” Tán: Có lợi ích lớn nên thỉnh. Kinh: “Thế tôn biết chúng sanh cho đến thường chuyển luân Vô thượng.” Tán: Vì Phật biết thông suốt cho nên thỉnh. Biết này có năm thứ: Sở niệm tức là Dục lạc, thắng giải. Sở hành đạo tức Biến thú hành. Lực trí tuệ tức là căn thắng liệt. Túc mạng tức là Túc trú lực. Nghiệp tức tự nghiệp trí lực. Dục lạc tức là sở niệm. Tu phước tức là nghiệp, đây lược nêu ở đây nhiếp cả ngũ lực còn lại. Kinh: “Phật bảo các Tỳ-kheo cho đến sáu thứ rung chuyển.” Tán: Phạm thiên cúng dường, thỉnh Xoay bánh xe pháp. Có hai: Thần quang động chiếu. Cúng dường thỉnh chuyển. Văn đầu có ba ý: Rung chuyển thế giới mười phương . Ánh sáng chiếu sáng chốn tối tăm. Ánh sáng chiếu động cõi Phạm cung. Đây là phần đầu. Kinh: “Trong cõi nước đó v bỗng sanh ra chúng sanh.” Tán: Chiếu sáng nơi tối tăm. Tức trong núi thiết vi giữa hai thế giới, núi Thiết vi. Kinh: “Lại trong cõi nước đó cho đến sáng hơn ánh sáng của trời”. thỉnh. Tán: Chiếu sáng rung chuyển cả Phạm cung, dần dần cung Kinh: “Bấy giờ ở phương Đông… cùng bàn luận việc này.” Tán: Thỉnh chuyển cúng dường. Văn lớn dưới đây chia làm năm phần: Phương Đông. Phương Đông nam. Phương Nam. Sáu phương tương tự trước. Phương trên. Ngoài trừ hai phần bốn và năm, còn lại mỗi phương đều có phương đều có văn nói và đều có bốn ý. Thấy ánh sáng kinh ngạc, bàn tán. Theo ánh sáng tìm đến chỗ Phật. Lễ bái thỉnh xoay bánh xe pháp. Phật im lặng hứa khả. Ý đầu, văn chia làm hai: Phạm chúng kinh ngạc thưa hỏi. Một vị trời thỉnh Phật. Phần đầu: Đây đều chung cả tứ thiền Phạm vương. Hoặc chỉ Sơ thiền thỉnh Xoay bánh xe pháp, lượng bằng Phước cõi trời Phạm. Văn này lại nêu ba ý: Ánh sáng, suy nghó, và bàn bạc. Kinh: “Bấy giờ trong chúng kia cho đến biến chiếu khắp trong mười phương.” Tán: Một vị trời thỉnh Phật. Các người có đủ uy đức ở trong cõi Trời, lúc gần sanh ánh sáng chiếu rõ trước. Cho nên ở đây nghi rằng: Là trời có uy đức lớn sanh ư. Kinh: “Bấy giờ năm trăm cho đến suy tìm tướng đó”. Tán: Tìm ánh sáng mà đến chỗ Phật. Có hai ý: Cầm đãy đựng hoa trời đi đến chỗ Phật. Thấy Phật, đại chúng vui mừng. Đây là phần một. Kinh: “Thấy Đại Thông Trí Thắng cho thỉnh Phật Xoay bánh xe pháp.” Tán: Thấy Phật, đại chúng vui mừng . Kinh: “Tức thời các Phạm thiên, Thiên vương… cao mười do- tuần.” Tán: Lễ tán thỉnh chuyển. Có hai: Cúng dường và thỉnh chuyển. Văn xuôi có hai: Đến lễ Phật, rải hoa. Và Dâng cúng xin Phật thọ nhận. Đây là phần đầu. Kinh: “Dâng hoa cúng dường rồi cho đến nguyện xin Phật thọ nhận”. Tán: Đây là nói thỉnh Phật thọ nhận an xứ. Kinh: “Bấy giờ các Phạm thiên vương cho đến đều được lợi ích.” Tán: Trở xuống bốn hàng tụng chia làm ba: Hai hàng tụng khen ngợi năm đức. Một hàng tụng nêu ra lý do đến Phật. Một hàng tụng thỉnh Phật thọ nhận. Đây là phần đầu. Kinh: “Chúng con cùng theo đến cho đến cúi xin thương xót nhận.” Tán: Đầu tiên nêu lý do. Sau tụng là lời nạp thọ. Kinh: “Bấy giờ các Phạm thiên vương cho đến độ chúng sanh khổ não.” Tán: Đây là thỉnh Phật xoay bánh xe pháp. Kinh: “Bấy giờ Đức Đại Thông… im lặng hứa khả.” Hỏi: Vì sao lúc sắp Niết-bàn, Phật im lặng là không thọ sự cung thỉnh của người. Nay im lặng là hứa nói cho người nghe? Đáp: Xưa giải thích, nhan sắc Phật có thay đổi mà người thỉnh biết Phật hứa hay không hứa. Lại nói: Vì thân Phật tỏa ra ánh sáng biểu hiện nên biết Phật thọ hay không thọ. Lại nói Phật lúc mới thành đạo, tự tuyên bố nói, thông thường Phật mặc nhiên là thọ thỉnh. Khi sắp Niết-bàn im lặng là không thọ thỉnh. Lại khi thọ thật theo lý phải chú nguyện, im lặng là biết Phật không chấp thuận. Hứa nói im lặng đã là thuận thỉnh, không cần nói ra mới hứa. Kinh: “Lại các Tỳ-kheo cho đến cùng bàn việc này.” Tán: Nói phương Đông nam. Văn lớn cũng có bốn. Đầu tiên là chúng Phạm thiên kinh ngạc bàn luận. khổ.” Kinh: “Bấy giờ trong chúng kia cho đến độ thoát chúng sanh Tán: Đây nói một vị trời cầu thỉnh Phật. Kinh: Bấy giờ, năm trăm cho đến thỉnh Phật xoay bánh xe pháp cho đến” Tán: Tìm ánh sáng đi đến chỗ Phật. Là phần hai, có hai ý: Cầm đãy đựng, hoa tìm đến chỗ Phật. Thấy Phật ai cũng vui mừng. Kinh: “Bấy giờ các Phạm thiên vương cho đến cúi mong Phật thọ nhận”.” Tán: Phần ba lễ tán thỉnh chuyển. Có hai: Cúng dường và thỉnh chuyển. Đây là phần Văn xuôi nêu sự cúng dường. Kinh: “Bấy giờ các Phạm thiên vương… chúng con nay kính lễ.” Tán: Bốn hàng tụng rưỡi khen ngợi chia làm bốn: Một bài thỉnh lễ. Một hàng tụng rưỡi khen ngợi ít có. Một hàng tụng khen ngợi làm mắt cho chúng sanh. Một hàng tụng khen ngợi đấng cha lành. Đây là phần đầu. Ca-lăng-tần-già là loài chim có tiếng hót rất hay, dùng âm thanh mầu nhiệm mềm mỏng trong trẻo, hòa nhã… cho nên Phật lấy đây làm ví dụ. Kinh: “Thế tôn thật ít có cho đến các vị trời chúng giảm thiểu.” Tán: Khen ngợi ít có. Kinh: “Nay Phật hiện ở đời cho đến được gặp Thế tôn…” Tán: Một hàng tụng đầu khen ngợi làm mắt cho chúng sanh, một hàng sau tụng về đấng cha lành. Kinh: “Bấy giờ các Phạm thiên vương cho đến nhẫn thiện càng thêm lớn.” Tán: Đây là phần thỉnh chuyển. Khen ngợi Chư Phật sanh lợi ích. Bậc Nhẫn thiện tăng ích là nhập vào Thánh đạo. Kinh: “Bấy giờ Đại Thông cho đến im lặng hứa khả.” Tán: Phần bốn Phật im lặng nhận lời. Kinh: “Lại các Tỳ-kheo cho đến là Phật xuất hiện ở đời.” Tán: Nói về phương Nam. Y theo trước cũng có bốn phần: Đây là đoạn các vị trời thấy ánh sáng kinh ngạc bàn luận. Có hai: Chúng Phạm thiên kinh ngạc bàn luận. Các vị trời thỉnh cầu. Kinh: “Bấy giờ năm trăm cho đến Xoay bánh xe pháp.” Tán: Phần hai là tìm ánh sáng đến chỗ Phật. Có hai: Cầm đãy đựng hoa tìm đến chỗ Phật. Thấy Phật vui mừng. Kinh: “Khi đó, các Phạm thiên vương cho đến cúi xin Phật thọ nhận.” Tán: Phần ba: Cúng dường và thỉnh chuyển. Đây là phần đầu. Kinh: “Bấy giờ, các Đại phạm cho đến nên nói tiếng sâu xa.” Tán: Thỉnh chuyển. Trước là Văn xuôi, sau là kệ tụng. Văn ý có thể biết. Kinh: “Bấy giờ cho đến im lặng nhận lời”. Tán: Phần bốn: Phật im lặng nhận lời. Kinh: “Phương Tây nam cho đến cũng giống như vậy.” Tán: Nói sáu phương khác. Sự ý giống các phương trước. Sợ văn dài dòng, nên nói cũng giống như vậy. Kinh: “Bấy giờ ở phương trên cho đến là Phật xuất hiện ở thế gian.” Tán: Nói ở phương trên có ba phần thứ tư là hứa. Đây là các vị trời thấy ánh sáng kinh hãi bàn luận. Có hai: Các vị trời kinh ngạc bàn luận. Một vị thỉnh cầu. Kinh: “Bấy giờ năm trăm… xoay bánh xe pháp.” Tán: Nương ánh sáng tìm đến Phật. Có hai: Cầm đãy đựng hoa tìm đến chỗ Phật. Thấy Phật vui mừng. Kinh: “Bấy giờ các Phạm thiên vương cho đến cúi xin thọ nhận.” Tán: Phần ba cúng dường thỉnh chuyển. Có hai: Cúng dường. Thỉnh chuyển. Phần đầu lại có hai, đây là Văn xuôi. Kinh: “Lúc đó, các Phạm thiên vương cho đến rộng độ tất cả cho đến” Tán: Trở xuống mười hàng rưỡi tụng chia làm bốn: Bảy hàng tụng rưỡi, khen ngợi đức của Phật. Một hàng thấy Phật sanh vui mừng. Một hàng tụng xin Phật thọ nhận. Một hàng tụng hồi hướng. Bảy hàng rưỡi đầu lại chia làm hai: a.Hai hàng tụng là nêu ra. Năm hàng tụng rưỡi giải thích. Hai hàng đầu: Một hàng tụng đầu khen ngợi nhổ gốc. Một hàng tụng sau khen ngợi ban vui. Chữ Miễn cũng là cứu khỏi. Như nói cha cứu con, anh cứu em. Kinh Niết-bàn gọi là môn Cam lồ. Nghóa là lý Thánh đạo gọi là Cam lồ, giáo gọi là môn. Kinh: “Xưa vô lượng kiếp cho đến chết nhiều đọa đường ác” cho đến Tán: Năm hàng tụng rưỡi giải thích. Trong đây có hai: Bốn hàng rưỡi tụng về sanh tử luân hồi. Một hàng tụng giải thích việc Phật cứu khổ. Bốn hàng rưỡi: Hai hàng tụng nói chịu quả khổ . Hai hàng tụng rưỡi, tụng hành nhân ác. Đây là phần một. Kinh: “Không theo Phật nghe pháp cho đến thường đọa vào đường ác.” Tán: Đây là hành nhân ác. Văn có hai: Một hàng tụng rưỡi nói: Người tại gia có hành vi ác. Một hàng tụng ngoại đạo hành hành vi ác. Lạc là vui quả trời người. Lạc tưởng là nhân của lạc. Lại lạc có nghóa là lạc cảnh sở thủ. Lạc tưởng là lạc năng thủ. Lại lạc là tự thể của lạc thọ, lạc tưởng là lạc của đối trị khổ. Nghóa là lúc nóng lạnh tạm dứt tạm gọi là vui. Kinh: “Phật là mắt thế gian cho đến cho nên hiện ra ở đời.” Tán: Một hàng tụng giải thích Phật năng cứu khổ. Kinh: “Siêu việt thành Chánh giác cho đến vui mừng chưa hề có.” đạo.” Tán: Thấy Phật sanh lòng vui mừng. Kinh: “Cung điện của chúng con cho đến đều cùng thành Phật Tán: Hai hàng tụng: Một bài tụng Phật thỉnh nạp, một hàng sau hồi hướng. Kinh: “Bấy giờ năm trăm cho đến pháp tu vô lượng kiếp.” Tán: Đây là phần thỉnh chuyển. Một hàng tụng tán, một bài tụng thỉnh. Kinh: “Bấy giờ Đức Đại Thông Trí Thắng Như-lai… xoay bánh xe pháp mười hai hành”. Tán: Trên là cúng dường thỉnh chuyển, đây trở xuống là Phật chấp thuận Xoay bánh xe pháp. Có bốn phần: Phật chấp thuận chuyển pháp. Chỗ khác không thể. Nói pháp được chuyển. Chúng sanh nghe được lợi ích. Ba phen chuyển có hai ý: Tự chuyền và tha chuyển. Nay vì người chuyển mà chẳng phải Phật tự chuyển. Nói rằng: “Đây là Khổ Thánh đế” gọi là Thị tướng chuyển. “Thánh đế này nên biết khắp là khuyến tu chuyển. “Đã biết khắp Thánh đế này” là tác chứng chuyển. Thực Hành pháp luân này để di động thì gọi đó là nghóa chuyển. Mỗi lần chuyển đó khiến cho người nghe pháp phát sanh mắt tuệ chân Thánh vô lậu, tùy theo thứ tự đó. Đối với khổ đế của quá khứ, hiện tại, vị lai, sanh ra trí, minh, giác. Như thế một lần chuyển có bốn hành chung riêng. Ba lần chuyển đế đều có mười hai hành tướng. Nhưng trong các pháp số chỉ nói ba lần chuyển mười hai hành tướng. Ba lần chuyển hiển bày giúp cho nhập vào ba pháp: kiến đạo, tu đạo và Vô học. Như trong quyển thứ tư trước có giải thích. Kinh: “Hoặc như Sa-môn cho đến không thể chuyển được.” Tán: Phần hai: Chỗ khác không thể chuyển, vì chưa thật chứng. Chỉ có Phật có thể làm Thầy tất cả, biết tất cả. Kinh: Đây là khổ cho đến là khổ diệt đạo. Tán: Nói cảnh pháp sở chuyển đối với khổ này cho đến sanh trí tuệ gọi là hành pháp luân. Cảnh pháp luân có hai: Tứ đế và mười hai nhân duyên. Đây là phần đầu. Tạm nêu Thị tướng, còn hai chuyển y theo đó mà biết. Tứ đế lược chia làm năm môn. Nêu thể. Giải thích tên. Phế lập. Giải đáp chướng nạn. Các môn. Nêu ra thể: Các luận đối pháp nói: Hữu tình thế gian và khí thế gian, các pháp tánh hữu lậu ép ngặt thì gọi là Khổ đế. Tập đế có hai nghóa: Chiêu cảm nghóa quả dị thục vô ký. Đối pháp nói: Nghóa là các phiền não, và chỗ khởi nghóa gọi Tập đế. Duy thức nói năm chi trong mười hai chi cũng thuộc về tập đế, vì nghiệp tánh phiền não. Các pháp vô ký khác đều chẳng phải là tập đế. Nhưng trong Duy thức ái là tập đế, do tánh mạnh nhất. Làm nhân có thể đắc quả hữu lậu. Tức các pháp hữu lậu ở trong thân. Các pháp tam tánh có thể làm nhân nương tựa. Có dị thục thì đều là tập đế. Luận Du-già nói trong mười hai chi, quán ngược già chết có hai thứ nhân. Là thô sanh: nghóa là liền sanh ra chi. Tế sanh: là ái thủ hữu, cho đến quán các thức trước ngược trở về. Những chi này đều gọi là tập của già chết. Cho nên biết dựa vào nhân pháp vô ký cũng gọi là tập, mà không thể nói không phải là các chi cũng gọi là tập. Các pháp vô vi nhân như, trạch diệt, bất động tưởng thọ diệt gọi là Diệt đế. Đối pháp luận chép: Chân như, Thánh đạo, phiền não không sanh thì gọi là diệt đế. Đây nói diệt nương tựa năng diệt, diệt tánh, là cảnh chân như sở chứng của chánh trí, pháp hữu lậu diệt, giả thật hợp lại là tướng Diệt đế. Ngũ uẩn vô lậu gọi là Đạo đế. Đối pháp nói: Tư lương đạo, gia hạnh đạo, kiến đạo, tu đạo, rốt ráo đạo đều gọi là Đạo đế. Tức dựa vào tự tánh đạo, quyến thuộc đạo để nói lên Đạo đế. Do tứ đế này mà nhiếp hết hết các pháp. Thế nên kinh Niết-bàn ngài Ca-diếp hỏi: “Như Phật một lần vào trong rừng Thân thủ, nắm một ít lá cây rồi bảo các Tỳ-kheo: Những pháp Ta nói thì như nắm lá trong bàn tay này, còn những gì Ta chưa nói thì như lá trong khu rừng. Nói tứ đế nhiếp hết các pháp. Nếu nhiếp hết thì đã nói tất cả pháp đều hết. Vì sao lại nói pháp chưa nói ra nhiều như lá trong rừng. Nếu không nhiếp hết thì lẽ ra nên có ngũ đế”? Thế tôn dạy: “Tứ đế đều nhiếp hết, nhưng ở đây nói chung là khổ đế. Nhị thừa không thể biết phân biệt các tướng khổ vô lượng. Điều này người Thanh-văn, Duyên-giác không thể biết. Cho đến Đạo đế cũng giống như vậy.” Trong đây ý nói: Tuy tứ đế nhiếp hết các pháp mà Nhị thừa phân biệt thô tế không rõ nên cho là Phật chưa nói chứ không phải là có ngũ đế. Y vào giáo thuyên hiển thật chân như cũng thuộc về diệt đế. Cho nên, Đối pháp mà nói: Diệt tánh cũng thuộc về Diệt đế. Kinh Niết-bàn cũng nói thuộc về Tứ đế. Cho nên nói Nhị thừa có Khổ có đế mà không có thật. Bồ-tát thì có đầy đủ. Ba đế khác cũng vậy. Phế bỏ sự bàn luận ý chỉ thì chẳng phải là diệt đế. Thế nên trong Du-già nói: Nói ngoài Tứ đế, tức chẳng phải đế được an lập. Trên đây là y vào chủng loại mà nói chung tứ đế. Nếu y vào pháp thể thì có thô có diệu, có thể biết được. Nhưng trí có thượng hạ, y vào Tứ đế nên Kinh Thắng-man nói có tám đế là hữu tác bốn Thánh đế và vô tác bốn Thánh đế. Tám Thánh đế này hàng Nhị thừa không thể biết. Các bản tân dịch gọi là an lập đế, phi an lập đế. Hữu tác Tứ Thánh đế là: Phần đoạn sanh tử, mười hai nhân duyên gọi là khổ. Phiền não và nghiệp gọi là tập, trạch diệt là diệt. Phẩm trí sanh không gọi là đạo. Vô tác Tứ Thánh đế: Ngũ uẩn Biến dịch sanh tử gọi là khổ. Sở tri chướng gọi là tập. Vô trụ Niết-bàn gọi là diệt. Phẩm trí pháp không gọi là đạo. Như trước đã nói qua. Nay y vào tướng chung hoặc y vào phân đoạn mà chuyển Tứ đế luân để làm Nhị thừa. Giải thích danh là: Bốn là số đếm, đế là nghóa thật. Chỉ có Thánh mới biết thật cho nên gọi là bốn Thánh đế. Khổ thật là khổ, lại không có các khổ khác. Luận quyển năm mươi nói: Đế nghóa là sao? Như nói là tướng, không thể lìa bỏ. Do quán tướng khổ này đạt đến nghóa rốt ráo thanh tịnh là nghóa đế. Đó là giải thích theo số vậy. Khổ là nghóa bị ép ngặt, từ phiền não sanh ra. Tập là nghóa chiêu cảm năng sanh ra khổ đế. Diệt có nghóa là tịch tónh, các pháp kia đều tịch tónh. Đạo nghóa là nhân thông suốt có thể thành ba nghóa. Ba nghóa đó là khổ sự khổ lý, khổ như thế. Cho đến Đạo đế cũng có ba nghóa như vậy. Khổ sự là trì nghiệp giải thích. Hai khổ khác gọi là đế tức y chủ giải thích. Hai thứ khổ lý, khổ như thế và khổ sự tuy chẳng phải là một, là khác, nhưng ở đây đều chẳng phải có nghóa ép ngặt bằng nhau. Phế lập: Luận quyển chín mươi lăm nói: Khổ đế như là thể của các bệnh. Tập đế như nguyên nhân của các bệnh. Diệt đế như bệnh sanh ra rồi mà trị khỏi. Đạo đế như bệnh hết rồi dứt hẳn không còn phát sanh. Các người có bệnh đó đi đến chỗ thầy thuốc, chỉ nên tìm cầu từng ấy chánh pháp. Các vị thầy thuốc cũng nên trao cho từng nấy chánh pháp. Vậy nên không thể có đế thứ năm. Chư Phật Như-lai là vị thầy thuốc Vô thượng nhổ mũi tên độc lớn, cũng chỉ giảng nói từng ấy chánh pháp. Lại như người trị bệnh phải biết bệnh nguyên nhân bệnh trừ bệnh, phương pháp trừ bệnh. Cũng như quán khổ sanh tử, biết nguyên nhân dẫn đến khổ, diệt khổ, và phương pháp diệt khổ. Do đó mà nói hướng đến hành diệt khổ. Giải đáp chướng nạn: Luận quyển năm mươi lăm nói: Nhân gì nói biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, cả bốn điều này đều sai khác sao? Đáp: Do khổ đế kia là sở y của bốn điên đảo, cho nên muốn trừ điên đảo phải biết rõ các khổ. Đã biết rõ rồi thì cũng biết rõ tập. Do đó mà tập đế khổ đế đều nhiếp cả. Tuy là biết rõ cả nhưng Tập đế chỉ là tùy thuộc theo nên cần phải nói tiến đoạn tập. Nói xúc chứng đó là nghóa hiện kiến, do nơi diệt đế hiện tiền thấy được. Không sanh sợ hãi là thọ thuộc ái lạc, nên cần phải nói xúc chứng diệt đế. Tiếp đến nếu chuyên tu đạo thì mới thành tựu ba nghóa này, nên cuối cùng nói tu Đạo đế. Hỏi: Vì sao lần lượt nói bốn đế như thế? Đáp: Nói khổ là đầu tiên, kế đến là tập. Cả hai đế này nhiếp cả trong phẩm đen. Cũng do đây lạc nêu ra là thứ ba, thứ tư. Hai pháp này nhiếp trong Bạch phẩm rốt ráo. Ví như nói bệnh nặng, nguyên nhân bệnh, khỏi bệnh, thầy thuốc. Lại do vì gặp khổ mà thứ tự kiến lập Thánh đế. Như ở thế gian những nơi từng chịu khổ, tức là thứ tư này. Trước phát ra tác ý, kế đến là nhân gặp khổ, từ khổ mà tìm cầu giải thoát, sau đó là phương tiện giải thoát, phát khởi tác ý. Các môn khác phân biệt là dùng mười môn để phân biệt. Thuộc về các uẩn: Ba đế năm uẩn cùng tương nhiếp. Diệt đế không như vậy thỉ tịch tónh. Mỗi đế hành thế nào? Đáp bốn đế như thứ tự. Nghóa là vô thường, khổ, không, vô ngã, nhân, nơi tập, sanh, duyên. Diệt, tónh, diệu li. Đạo Như Hành Xuất. Tổng thành mười sáu hành tướng. Vì sao nói khổ đế làm tứ hành quán trừ bốn điên đảo? Vì vô thường trừ thường, khổ trừ hai pháp lạc và tịnh điên đảo. Không vô ngã trừ ngã đảo. Bốn tập đế, quán trừ bốn ái, do y vào thường đảo khởi ái hữu sau. Kế đến y vào hai đảo lạc tịnh mà khởi ra tham hỷ câu hành ái và nơi nơi mong cầu lạc ái. Tiếp theo y vào ngã đảo mà khởi ra duy nhất ái. Diệt làm bốn quán là diệt bốn thứ ái đã nêu trên. Đạo làm bốn quán là vì năng chứng bốn ái diệt kia. Giải thoát môn nào nhiếp cơ hành. Nhập đế hiện quán có các loại. Tam thừa quán đế có sai khác gì? Bốn đế này là, thế tục hay thắng nghóa. Luận quyển năm mươi lăm và kinh Niết-bàn chỉ nói Thắng nghóa. Quyển sáu mươi bốn nói phi an lập chỉ thuộc Tục đế… Thật ra thì chung cả hai thứ. Các đế cùng nhiếp. Khổ có mấy loại. Ba đế cũng khác vậy. Hư không, phi trạch diệt. Đế nào thủ nhiếp. Đều như trong Du- già, Đối pháp, Duy thức, luận Hiển dương đã có giải thích. Kinh: “Và nói rộng… ưu bi khổ não.” Tán: Mười hai duyên khởi này, đây có tạp nhiễm, thanh tịnh. Tạp nhiễm, thanh tịnh đều có quán thuận nghịch. Trong đây có hai: Nêu thanh tịnh thuận quán và tạp nhiễm thuận quán. Trình bày tạp nhiễm nghịch quán và thanh tịnh nghịch quán. Đây tức nhiễm thuận quán. Vì sinh tư tưởng sanh nên làm theo nhiễm nghịch quán. Kinh: “Vô minh diệt… ưu bi khổ não diệt.” Tán: Đây là thanh tịnh thuận quán. Đầu tiên là đoạn sanh tử nên giống như ra nghịch quán. Mười hai duyên khởi dùng sáu môn để phân biệt. Nêu thể. Giải thích danh. Tướng duyên. Y theo đời. Thuộc các duyên sanh. Thuận nghịch nhiễm tịnh. Thể: Thể của vô minh chình là lấy phân biệt trong phiền não chướng, và tùy ý lấy ngu si làm thể. Thành Duy thức nói: Vô minh trong đây, chỉ lấy nghóa năng phát làm chánh để cảm các ác, thiện nghiệp đời sau. Lại nói: Chánh phát nghiệp là chỉ kiến sở đoạn. Trợ giúp vô minh thì bất định. Năng phát hành mới là chi này. chung cả tương ưng bất cộng, triền và tùy miên. Thể của chi hành chung cho cả thân ngữ, ý nghiệp thiện và bất thiện, chỉ cảm tổng báo và cảm chung hai tổng, biệt nghiệp làm tánh. Chỉ có biệt báo nghiệp thì không phải hành chi. Cho nên trong Duy thức nói: Liền chỗ kia phát ra gọi là hành. Do đây mà tất cả thọ nghiệp thuận hiện, bệt trợ đương nghiệp đều chẳng phải là chi hành. Cũng chung cả hiện, chủng sắc, tư làm thể. Thể của chi thức thứ tám, dị thục do hành sở tập. Vì là đều liên kết sanh nên gọi chung là di thục, và chỉ ở hạt giống mà không lấy hiện hành. Có chỗ nói thông với sáu thức thân ở trước còn luận rộng ra tất cả thức thân và dựa vào phân vị hiện khởi ở tương lai mà nói có hiện hành. Cho đến chi thọ cũng vậy. Thể của chi danh sắc: Thành Duy thức nói: Trừ ba nhân sau, các nhân khác đều thuộc chủng danh sắc. Ba nhân sau, tức ba thứ sau: Lục xứ, xúc và thọ. Ở đây nói năm chi không có tạp loạn nhau. Ở trong một sát-na là được hành sở tập duyên khởi các chi. Nghóa là loại sáu căn dị thục là chi lục xứ (nhập). Dị thục xúc thọ là chi xúc thọ. Trừ chủng bổn thức và ba thứ này. Các uẩn dị thục khác đều là sắc. Trong Khế kinh lại nói: Danh là bốn uẩn phi sắc. Sắc là Yết thứ lặc lam cho đến. Dựa vào các phần vị lúc đương khởi mà ở trong nhân nói do duyên tạp nhiễm khởi ra các chi. Nếu không như vậy thì làm sao chung cả ngũ uẩn. Hoặc nói rộng tất cả thuộc danh sắc. Trong Duy thức lại y vào Tạp thể mà nói: Danh sắc nhiếp chung cả năm nhân. Ở trong đó tùy theo nhân nào mạnh mà lập, còn lại bốn nhân. Lục xứ và thức tổng biệt cũng như thế. Chi ái chỉ là tham trung phẩm. Đây tuy duyên chung hai quả trong ngoài mà các luận phần nhiều lấy duyên cảnh ngoài làm quả tăng thượng ái sanh. Chi thủ dùng chung với tất cả phiền não để làm tự thể. Toàn phiền não cõi đều kết sanh ra. hoặc là năng thủ, hoặc là sở thủ, thủ làm ra, trong đó đều thuận theo phiền não, không giữ pháp khác. Có nói nói chỉ là ái tăng thượng. Trong Thùy thức hội nói: Tuy trong chi thủ nhiếp các phiền não khác, mà ái nhuận thắng hơn, nên gọi là ái tăng. Lại y vào trước sau mà phân ái thủ làm hai, sự thật thì nhiếp các hoặc khác hai chi ái thủ, chung cả hiện và chủng. Thể của chi hữu tức là sáu chi hành cho đến, được thấm nhuận ái thủ mà chuyển biến gọi là hữu. Có nói nói chỉ có nghiệp. Duy thức lại nói: Hữu này chính là sanh vị già, tử tương lai, còn năm chi như thức v.v… sanh chỉ là hạt giống. Hữu này năng có quả. Thể của chi sanh ra: Thành Duy thức chép: Bắt đầu từ trung hữu, đến sanh hữu, bản hữu từ lúc chưa suy biến đến vị lai, đều thuộc về chi sanh. Các vị suy biến gọi chung là già. Khi thân hoại mạng chung gọi là chết. Thể hai chi này đều chung cả ngũ uẩn, chỉ thuộc quả dị thục hiện hành. Có chỗ nói chung cả hạt giống như kinh Duyên khởi nói: Một thời sanh ra năng, sở dẫn sanh đồng thời mà có. Thứ tự giảng nói nghóa loại không khác nhau, nhưng chẳng phải hai chi này cũng thông hạt giống. Ưu bi khổ não nhân ra già chết mà khởi, nhân chẳng thuộc về chi. Kinh Thập địa chép: Khi chết chia lìa, ý căn tương đối gọi là ưu. Năm căn tương đối gọi là khổ, phát ra âm thanh kêu khóc gọi là bi. Người ngu tâm nóng bức gọi là não. Ở hai cõi dưới đầy đủ các chi sắc. Cõi Vô sắc thì không như vậy, tùy chúng thích ứng mà có. Giải thích danh là: Luận Du-già có năm giải thích: Do phiền não trói buộc mà trải qua các đường, thường sanh khởi nên gọi là Duyên khởi. Y vào chữ duyên chữ khởi mà giải thích. Dựa vào các duyên mà mau chóng diệt đi, tiếp tục hòa hợp lại sanh ra thì gọi là duyên khởi. Ở đây dựa vào nghóa sát-na mà giải thích tên gọi. So sánh trong Đại chúng bộ nói mười hai duyên khởi là pháp vô vi. Cũng so với chánh lượng bộ nói về bốn tướng một kỳ. Các duyên quá khứ mà không lìa bỏ. Nương vào tự nối tiếp mà sanh khởi gọi là Duyên khởi. Như nói đây có thì kia có. Đây sanh cho nên kia sanh. Chẳng phải là khác. Nay y vào nghóa này để giải thích duyên khởi: Đây có thì kia có đó là nói rõ nghóa vô tác duyên sanh. Đây sanh nên kia sanh là nghóa vô thường duyên sanh. Chẳng phải khác đó là do hữu duyên mà pháp quả có. Chẳng phải duyên có tác dụng thật năng sanh ra quả pháp. Cũng chẳng phải pháp vô sanh là nhân, hay một ít pháp sanh ra mà được thành lập. Thường diệt mất, lại nối tiếp khởi gọi là Duyên khởi. Đây y vào nghóa thường hoại thường diệt mà giải thích. Ở trong đời quá khứ giác tánh đã duyên cùng khởi nối tiếp thì gọi là Duyên khởi. Như Thế tôn dạy: “Đã đã giác ngộ cùng khởi, nói tức do đây gọi là lần lượt truyền dạy nên gọi là Duyên khởi.” Lại nói lìa nghóa hữu ìtnh không có ngã tự nhiên. Cho đến nghóa nghiệp tự chính mình tạo tác cũng là nghóa duyên khởi, mà ở các sự nối tiếp khác thì không thọ quả. Lại Đối pháp và kinh Duyên khởi giải thích mười một nghóa. Đối pháp lại gọi là vô tác duyên sanh, là vô thường duyên sanh, là thế dụng duyên sanh. Hai thứ đầu như trước giải thích. Vô minh duyên hành cho đến là chỉ rõ thể dụng duyên sanh. Tuy các pháp là vô tác vô thường nhưng không tùy theo một pháp nào, làm duyên cho nên tất cả quả đều sanh. Công năng của các pháp mỗi mỗi đều sai khác. 3.Tướng duyên: Vô minh có hai tướng: Ngu nghóa chân thật, chung cả hai phẩm trung hạ. Ngu quả dị thục, chỉ ở phẩm thượng. Hai ngu này đều duyên với quả dị thục của nội thân mà khởi. Hành có hai thứ: Thiện và Bất thiện. Hoặc chia ra làm ba: Bất động, Phước và Phi phước. Đây vì thuộc về huân tập hữu phần. Năm thứ thức gọi là huân tập. Năm thứ này là vô ký nên thế lực suy yếu, xứ sở chưa định nên không thể tự sanh. Đây phải đợi hữu phần huân tập mới khởi. Do hạ phẩm ngu mà phát ra nghiệp bất động. Do trung phẩm ngu mà phát ra phước nghiệp. Do thượng phẩm ngu mà phát ra phi phước nghiệp. Tùy theo nghiệp đã phát, mà huân tập hạt giống của năm chi thức cho đến Nhiếp thuộc ở nơi hành mà có nơi sẽ sanh. Tức là các vị chắc chắn sanh già chết. Không có tướng sai khác trước sau của năm chi thể mà dựa vào. Vị đương khởi nói nhân là năm. Cho nên trong Duy thức nói: Duyên mê, ngu quả nội dị thục, phát công năng chính chiêu lấy các nghiệp hữu sau làm duyên, dẫn phát chính sanh năm quả vị tương lai sanh già chết, lần lượt nương vào quả tăng thượng bên ngoài, ngu duyên cảnh giới thọ, phát khởi ra tham ái, lại sanh ra bốn thủ như dục v.v… Ái thủ hợp nhuận với chủng nghiệp năng dẫn, và nhân sở dẫn chuyển gọi là hữu. Từ trung hữu dẫn đến sanh bổn hữu, chưa suy biến đến vị lai, tức thể của chi sanh được khởi. Khi suy biến thì chi già chết hiện ra. các thứ lo buồn khổ não liền sanh theo. Đây nói là do vô minh mê nội thân, duyên lấy dị thục thọ mà sanh ra các nghiệp, bèn làm nhân cho các hạt giống năm chi sanh già chết đương lai. Hữu là nơi sẽ sanh. Lại do mê cảnh giới ngoài. Vô minh duyên cảnh giới thọ khởi ra ái và thủ, lại thấm nhuận hạt giống của sáu chi như hành v.v… trước. Gần thì có quả sau chuyển lập tên hữu. Từ đây về sau năm chi hiện hành bèn khởi ra gọi là sanh già chết, đó là tướng duyên khởi làm duyên. Trong Du-già lại có ba cách giải thích: Thứ tự sanh nhau như trong Du-già nói. Theo đời Duy thức nói: Mười nhân, hai quả chắc chắn mà đời khác nhau, chủ yếu có sanh hậu báo mới gọi là chi, hiện báo thì chẳng phải. Nghóa là mười chi nhân của quá khứ, hai chi quả của hiện tại. Mười chi nhân của hiện tại, hai chi quả của vị lai. Trong bảy nhân trước cùng ái, thủ, hữu hoặc khác hoặc đồng. Sanh báo thì chắc chắn đồng, hậu báo thì khác. Nghóa là quá khứ có bảy, hiện tại ba và vị lai là hai. Hoặc như các duyên của bảy ba hai chắc chắn cùng đời. Tức là hai chi sanh, già, tử, ba chi ái, thủ, hữu và bảy chi trước chắc chắn đồng một đời. Vì thế tưởng sanh cho nên năng lực tương tợ. Thuộc về các Duyên sanh: Nhiếp luận quyển hai chép: Nếu lược nói duyên khởi thì có hai thứ: Một là tự tánh phân biệt duyên khởi. Nghóa là y vào thức A-lại- da mà các pháp sanh khởi. Hai là phiền não ái, phi ái duyên khởi. Nghóa là mười hai duyên khởi nghiệp thiện ác, năng phân biệt tự thể của ái phi ái làm tánh của duyên . Nay đây chính nói loại duyên khởi này. Nghóa cũng thu nhiếp loại trước mà không chính nói. Lại nói có ba thứ. Tức hai thứ này lại thêm Thọ dụng duyên sanh. Luận Biện Trung Biên chép: Loại đầu là duyên thức. Loại hai là thọ giả là trong đây có thể thọ dụng, phân biệt, suy ra tâm sở. Thọ dụng duyên sanh tức sáu thức chuyển, tức cũng thuộc nghóa duyên thức mà không phải chánh biện luậnở đây. Luận Du-già lại nói có bốn thứ duyên sanh: Năng dẫn: Nghóa là vô minh, hành. Sở dẫn: Năm thức cho đến Năng sanh: Ái, thủ, hữu. Sở sanh: Sanh, già, tử. Trong Tập luận nói thức cũng là năng dẫn. Nghiệp chủng trong thức gọi là chi thức. Chủng dị thục thức gọi là danh sắc. Kinh Duyên khởi chép: Chi thức có cả năng dẫn sở dẫn. Nghiệp chủng, thức chủng đều gọi là thức, là nương vào danh sắc mà chẳng thuộc là danh sắc. Luận Câu-xá quyển chín lại nói bốn thứ: Sát-na. Liên phược. Phân vị. Viễn tục. Vì sao gọi là sát-na? Trong khoảnh khắc sát-na do tham mà thực hành sát, có đủ cả mười hai chi. Si là vô minh. Tư là hành tướng các sự cảnh, rõ biết phân biệt gọi là thức. Thức đều có ba uẩn gọi chung là danh sắc. Trụ ở căn danh sắc, nói là lục xứ. Lục xứ đối với các hòa hợp khác mà có xúc, lãnh nhận xúc là thọ. Tham thọ tức là ái, tương ưng với triền phược này thì gọi là Thủ. Hai nghiệp thân ngữ khởi lên thì gọi là Hữu. Các pháp khởi lên như thế gọi là sanh, thành thục biến đổi là già, diệt hoại gọi là tử. Nay theo Đại thừa thì tám thức cùng khởi, phiền não đều sanh cùng với kia khác nhau. Lại có nói nói: Sát-na, liên phược như trong Phẩm loại Túc luận nói. Đều có ở khắp hữu vi, khác nhau với nghóa trước. Trong mười hai chi có ngũ uẩn đều nhiếp cả phân vị. Đây chính là sự nối tiếp xa từ vô thỉ nên gọi là viễn tục, đồng với Đại thừa mà mà lý chung chưa rõ ràng. 6.Nhiễm tịnh thuận nghịch. Đối pháp quyển thứ tư nói: Tạp nhiễm thuận nghịch, thanh tịnh thuận nghịch. Tạp nhiễm thuận nghịch hoặc y vào thứ tự lưu chuyển mà nói. Nghóa là vô minh duyên hành cho đến sanh duyên già chết. Thuận theo thứ tự mà nói. Đây nói sanh tử lần lượt sanh nhau. Hoặc y vào an lập đế mà nói. Nghóa là già chết, già chết tập, già chết diệt, già chết hướng diệt hành. Như thế cho đến thành, hành tập, hành diệt, hành hướng diệt hành, bốn mươi bốn trí, vô minh không có nhân nên không phải bốn mươi tám trí. Đây là quán sau: Ở gia hạnh trước, cũng làm bảy mươi bảy trí. Nghóa là duyên với đời hiện tại mà có già chết. Chẳng phải không duyên với đời hiện tại mà có già chết. Tự thân của hiện tại đã tự làm bèn thành hai trí. Duyênđời quá khứ, duyên đời vị lai cũng có hai trí, hợp lại thành sáu. Quán vô thỉ đến nay thì tất cả già chết đều duyên ở nơi sanh. Vị lai tuy chưa khởi mà vẫn có nghóa tạp nhiễm hoàn diệt. Nay quán tạp nhiễm nên thành hai trí. Trong ba đời này trí đầu tiên quán trong quả có nhân, nêu rõ lý do. Trí thứ hai quán trong quả có nhân, chẳng phải là không có quyết định. Phá ngoại đạo vọng chấp sanh không có nhân. Trí thứ bảy tức là quán pháp không thuộc về chi. Các tuệ hữu lậu đều là nghóa biết khắp. Tức là pháp trụ trí biết khắp cả ba đời, duyên khởi giáo pháp, gọi pháp không nhiếp trước là trí thứ bảy. Sáu quán trước là trí chân thật. Một quán này là pháp trụ trí, hợp lại thành ra bảy trí. Các bậc Thánh dị sanh đều có trí này. Nay từ kiến đạo trở về trước là quán hạnh của vị phàm sau này mới nhập vào bốn mươi bốn trí. Bốn mươi bốn trí này gần với tứ đế. Trụ vào các giáo pháp là văn tuệ nên gọi là pháp trụ trí. Như thật nghóa mà biết, là tư, tu tuệ gọi là trí chân thật. Ở đây có lậu quán cho nên gọi là tạp nhiễm. Văn này chỉ có quán thuận mà không có nghịch. Thanh tịnh thuận nghịch là vô minh diệt cho nên hành diệt… cho đến sanh diệt… già chết diệt. Thuận thì theo thứ tự mà nói: Đây y vào thứ tự đoạn vị mà nói. Do đâu không có mà già chết không có, do đâu diệt mà già chết diệt. Cho đến do gì không mà hành không có, do gì diệt mà hành diệt cho đến. Đây là dựa vào vị quả đắc rốt ráo mà quán. Trong văn này chỉ có thuận mà không có nghịch quán. Nói rộng như phẩm dưới sẽ tán sau. Tuy không hiện tiền mà thành ra Độc giác, khiến cho chứng Thanh-văn, thì cũng nói duyên này. Y vào nói đế cũng thành ra ba chu mười hai hành tướng. Kinh: “Phật ở trong hàng trời người cho đến đầy đủ tám giải thoát cho đến” Tán: Phần bốn: Chúng sanh được lợi ích. Có hai phần: được lợi ích và nói về rất nhiều. Được lợi ích chia làm hai: Pháp hội đầu, lần hai, ba, bốn. Hội đầu. Thọ là chấp trước. Không tham đắm tất cả pháp, cho nên được tâm giải thoát. Tâm giải thoát là do giải thoát vô minh phiền não, thành tựu tâm tương ưng, tuệ giải thoát, không còn duyên cảnh khởi phiền não thì gọi là tâm giải thoát. Hoặc thiền định gọi là tâm giải thoát, là tâm năng trụ . Đắc câu giải thoát gọi là tâm giải thoát. Kinh: “Lúc nói pháp lần hai cho đến đắc giải thoát.” Tán: Đây nói về hội thứ hai, thứ ba, thứ tư. Ngài Di-lặc nói ba hội, Phật Thích-ca không nói hội nào, căn cơ chúng sanh lợi ích mỗi người đều khác nhau. Kinh: “Từ đó trở về sau cho đến không thể tính biết.” Tán: Đây là nói chúng nhiều. Trên đây nói pháp luân của Thanh- văn nên không có Bồ-tát. Kinh: “Bấy giờ mười sáu vị vương tử cho đến Tam-bồ-đề.” Tán: Ý lớn thứ ba. Nói việc nối tiếp truyền đèn có năm phần: Mười sáu vương tử xuất gia rồi, thỉnh Phật. “Bấy giờ Đức Phật kia thọ nhận lời thỉnh của Sa-di v.v…” hứa nói chánh đạo. Nói kinh này rồi liền nhập vào tónh thất cho đến” Nói các vương tử nối đèn pháp. Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, trải qua tám muôn bốn ngàn kiếp” cho đến: Phật khen ngợi. Phật bảo các Tỳ-kheo là mười sáu vị Bồ-tát “cho đến chúng sanh được lợi ích hóa độ. Phần đầu có hai: Các con xuất gia xong thỉnh Phật. Quan phụ thần cùng theo xuất gia. Phần một lại có ba: Nêu tính tốt của các vương tử. Thỉnh Phật. Thỉnh ý. Gồm có sáu đức: Vượt qua các ràng buộc, xuất gia làm Sa-di. Nghe pháp mau giác ngộ, các căn đều lanh lợi. Trí tuệ tỏ sáng, tánh tình thông minh. Từ lâu đã gặp duyên lành, từng cúng dường Phật. Giữ vững thắng giới, tịnh tu phạm hạnh. Chí mong cầu quả Chánh đẳng chánh giác. Kinh: “Cùng bạch Phật rằng cho đến Phật tự chứng biết.” Tán: Thỉnh Phật. Xưa Phật nói pháp luân Tiểu thừa lợi ích người Thanh-văn thừa xong mà ý chúng con mong cầu Đại thừa, xin Phật nói. Thỉnh ý: “Chúng con chí nguyện Đại thừa chánh pháp tri kiến của Như-lai”. Phật đã tự chứng hết, Phật đã tự chứng rõ. Nguyện vì con mà nói pháp. Hỏi: Vì sao trước thỉnh Phật vương tử ở trước. Nay vì nói pháp vương tử ở sau? Đáp: Trước là căn cứ vào thân sơ. Sau nói rõ quyền thật. Kinh: “Bấy giờ Vua Chuyển Luân… vua liền nghe theo.” Tán: Đây nói các quan phụ thần xin theo xuất gia. Đầu tiên thỉnh, sau hứa cho. Kinh: “Bấy giờ Đức Phật kia… Phật sở giữ gìn.” Tán: Phần hai, Phật hứa nói pháp. Có năm. Trong đây có hai: Khi muốn nói pháp phải đợi căn cơ thuần thục. Trải qua hai muôn kiếp. Trình bày pháp sẽ nói là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Diệu Pháp Liên Hoa chính vì Thanh-văn. Kinh Vô lượng nghóa chính vì Bồ-tát. Vì sao trong đây nói kinh Pháp Hoa là vì Bồ-tát mà nói. Như trước Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, nhân nơi Pháp sư Diệu Quang mà hai mươi muôn ức Bồ-tát ưa muốn nghe pháp. Hỏi: Vì sao Xoay bánh xe pháp Nhị thừa thì gọi là Tam chuyển mười hai hành tướng. Đại thừa thì không như vậy? Đáp: Lý thì nên như thế. Nhưng vì Thanh-văn ở trong một tòa có thể thành tựu nghóa cả Kiến, Tu, Vô học đạo. Bồ-tát thì không như vậy. Do đó mà khác nhau. Đây nói mười hai nhân duyên cũng y vào tứ đế. Kinh: “Nói kinh này rồi… đọc tụng thông suốt.” Tán: Thứ ba nói Sa-di lãnh ngộ. Kinh: “Lúc nói kinh này… chưa hề thôi bỏ…” Tán: Trong đây có hai. Thứ tư nói ba căn lãnh ngộ. Thứ năm thời gian nói pháp. Hàng Bồ-tát thượng căn nghe liền tin thọ. Hạng Thanh- văn trung căn cũng có tín hiểu. Các loại hạ căn đều sanh nghi ngờ. Vì kinh Pháp Hoa khó tin hiểu. Chúng sanh hạ căn chưa thuần thục. Vì gần đến thời nay cho nên nói thời kia có người nghi ngờ. Kinh: “Nói kinh này rồi… tám muôn bốn ngàn kiếp.” Tán: Phần ba: Các vương tử nối tiếp đèn pháp. Có ba: Phật nhập định vắng lặng. Các con nói pháp. Chúng sanh độ được nhiều ít cho đến Đây là phần một. Biết con căn tánh thuần thục khiến các con tiếp nối đèn pháp nên Phật nhập tịch định. Kinh: “Bấy giờ mười sáu vị Bồ-tát… kinh Diệu Pháp Liên Hoa.” Tán: Các con thỉnh pháp lợi ích đã nhiều, mà thời nói pháp lại dài. Kinh: “Mỗi người đều độ… Tam-bồ-đề”. Tán: Độ được nhiều ít… chỉ bày giáo pháp lợi ích vui mừng. Các bản tân dịch nói là thị hiện giáo đạo, khen ngợi khuyến thỉnh, vui mừng. Luận Hiển dương quyển mười lại thêm: “Khiến cho lìA-dục.” Nghóa là quở trách các hành giả để cho lìa hết ái nhiễm, gọi là li nhiễm. Thị hiện ra bốn đạo lý chân thật, gọi là thị hiện. Đã đắc tín hiểu, khiến chánh thọ hành thì gọi là chỉ dẫn. Nếu người giải đã lui sụt thì khuyến khích sách tấn thì gọi là vui mừng. Kinh: “Đại Thông Trí Thắng Phật… khiến thể nhập vào đó.” Tán: Phần bốn: Phật khởi khen ngợi. Có hai: Thăng tòa khen ngợi. Khuyên người gần gũi tin. Đây là phần đầu. Phật khen ngợi bảy ý: Ít có. Lợi căn. Trí sáng. Gần gũi Thánh. Tu hành. Thọ trì trí Phật. Chỉ bày chúng sanh. Kinh: “Các thầy đều nên cho đến trí tuệ của Như-lai.” Tán: Đây là khuyên người nên gần gũi và tin. Trước nêu khuyên nên gần gũi, sau khiến tin nhận. Kinh: “Phật bảo các Tỳ-kheo cho đến thảy đều tín hiểu.” Tán: Phần năm nói về sở hóa lợi ích. Có ba. Trong đây có hai: Thường nói kinh Pháp Hoa. Sở hóa thường lợi ích. Có hai: Cùng với Bồ-tát . Nghe pháp tín hiểu. Kinh: “Nhờ nhân duyên đó cho đến đến nay không hết.” Tán: Thứ ba là giải thích nghóa thành tựu. Nay nói lên trong hội Pháp Hoa, là thường làm lợi ích cho chúng sanh. Kinh: “Các Tỳ-kheo cho đến để làm quyến thuộc.” Tán: Ý lớn thứ tư: Hội thành với Đức Phật ngày nay có hai: Nêu việc thành Phật lợi lạc chúng sanh. Nêu danh hiệu khác và xứ sở thành Phật. Đây là phần một. Kinh: “Hai vị Sa-di đó cho đến hai là tên Sư tử tướng.” Tán: Đây nói lên tên khác và xứ sở thành Phật. A Súc có nghóa là Vô động. Cho nên tất cả tướng dụng phiền não đều bất động. Chữ Súc không biết xuất xứ từ đâu. Đỉnh núi Tu-di rất cao. Nói Sư tử là thị hiện hàng phục ma oán. Kinh: “Hai vị Phật ở phương Nam cho đến vị thứ hai tên là Phạm Tướng. Tán: Thường chứng pháp tánh thì gọi là Hư không trụ. Sanh tử thường vắng lặng gọi là Thường diệt. Được tự tại hoàn toàn gọi là Đế tướng. Hay sanh ra chư Thánh thì gọi là Phạm tướng. Kinh: “Hai vị Phật ở phương Tây cho đến vị thứ hai tên là Tu-di Tướng.” Tán: A-di-đà dịch là Vô Lượng Thọ. Vì tuệ mạng dài lâu. “Độ nhất thiết thế gian khổ não”. Vì Phật thường khởi bi nguyện. Đa-ma-la-bạt chiên-đàn hương gọi là Vô cấu hiền hương. Chúng Đức trang nghiêm gọi là Tu-di Tướng. Kinh: “Hai vị Phật ở Bắc phương… Tam-bồ-đề.” Tán: Hay thí pháp vũ, gọi là Vân tự tại. Che phủ rộng lớn thì gọi là Vân tự tại vương. Hay phá sanh tử thì gọi là Hoại bố úy. Có khả năng vắng lặng ba nghiệp, dứt sạch phiền não sanh tử, chứng lý tịch mặc thì gọi là Thích-ca Mâu-ni. Hán dịch là Năng Tịch. Thế giới Ta-bà này gọi là Kham Nhẫn. Vì chúng sanh ở cõi này không hiếu thuận với cha mẹ, không kính Sa-môn, làm mười điều ác. Ngày đêm thêm lớn vô lượng khổ sở trong ba đường tám nạn, Bồ-tát ở trong đó khổ não, mà thực hành lợi ích, gọi là Kham Nhẫn. Kinh: “Các Tỳ-kheo… Tam-bồ-đề.” Tán: Trên hội việc Phật, dưới hội việc đệ tử. Có hai: Chánh nói việc của đệ tử. “Sau khi Phật diệt độ” v.v… Đây là giải thích về nghi nạn. Văn đầu lại có hai: Nói việc hóa đạo ngày trước. Chúng sanh được hóa độ lúc đó cho đến chánh kết việc hội chúng. Văn đầu lại có hai: Việc giáo hóa xưa. Nguyên nhân các người trụ vào tiểu quả. Đây là phần một. Xưa giáo hóa Đại thừa, mà nay có người trụ vào Thanh-văn địa. Nhưng ở trước hội Pháp Hoa đã từng nói các kinh như Bát-nhã v.v… để phương tiện thầm hóa Đại thừa. Nhưng các người không biết việc sở hóa của Phật. Kinh: “Những bọn người này… khó tín.” Tán: Đây nói lý do trụ vào tiểu quả, là thuộc người tánh bất định lui sụt, nên dùng quyền hóa để lần vào đạo. Vì trí tuệ Phật khó tin khó hiểu không phải chợt nhiên có thể học. Cho nên Phật đầu tiên nói quyền sau đó mới đem thật pháp giáo hóa. Kinh: “Các chúng sanh được hóa độ thuở đó cho đến là đệ tử.” Tán: Chánh kết hội việc này. Kinh: “Sau khi Ta diệt độ… sẽ nhập Niết-bàn” Tán: Giải thích nghi nạn: Như các Thanh-văn đều sã thành Phật. Các vị ấy gặp Phật nhờ Phật giáo hóa, có thể sẽ trụ quả Phật. Sau khi Phật diệt độ, có người cầu quả Thanh-văn mà không nghe kinh này, không biết, không hay hạnh của Bồ-tát rộïng lớn sâu xa. Đối với hai công đức hữu vi vô vi, tự chứng tưởng cho là diệt độ Niết-bàn hữu dư, cầu nhập Vô dư Niết-bàn. Người ấy làm sao sẽ được thành Phật. Văn giải thích có ba: Nhắc lại người nghi. Giải Thích-các vị kia cũng thành Phật. Sau đó giải thích lý do. Ở đây nhắc lại điều nghi của Thanh-văn. Kinh: “Ta ở nước khác cho đến được nghe kinh này.” Tán: Đây giải thích Thanh-văn kia cũng thành Phật. Ta ở nơi nước khác thành Phật. Lại có tên khác đó: Kinh Bồ-tát Xử Thai chép: Từ cõi này diệt độ, ở trong mười phương trải qua ba mươi hai cõi nước Chư Phật , lại thành Phật giáo hóa chúng sanh. Trong thí dụ Y sư ở dưới sẽ nói đầy đủ nghóa này. Người ấy tuy nghó gì diệt độ cầu nhập Vô dư Niết-bàn, mà đối với ta có duyên. Ta dùng thần thông dắt dẫn ho, ở cõi kia gặp ta được nghe kinh này. Hoặc là phàm phu, hoặc là Hữu học. Cầu hữu vô dư Niết-bàn. Đối với Niết-bàn nay, cho là thật diệt độ, nghó cầu nhập chứng hai thứ Niết-bàn này. Tu hạnh Nhị thừa, chủng tánh đã an bày, Ta vì lòng từ bi dắt dẫn sanh nước kia gặp Ta cầu đắc trí tuệ Phật. Hoặc ta thành Phật ở nước khác. Chúng sanh nghó là ta diệt độ, cho là ta nhập vô dư. Ta dắt dẫn đến nước kia khiến cho cầu trí Phật. Đây là nói người có duyên gặp ta. Hoặc đối với ta không có nhân duyên này, cũng được Phật khác và Bồ-tát dắt dẫn giáo hóa, nghe kinh này mà được thành Phật. Cũng khi có ngầm nói pháp hóa đạo thành tựu người này, khiến cho hướng cầu Đại thừa. Nay nói hiển hóa đối với Phật có duyên. Cho nên nói ở cõi kia cầu trí tuệ Phật. Hoặc tuy có duyên với Phật khác mà vãng sanh về đó, trên vì sao bình đẳng thì cũng nói là có duyên với Ta. Kinh: “Chỉ dùng Phật thừa cho đến phương tiện nói pháp.” Tán: Đây là giải thích lý do. Vì một Phật thừa rốt ráo diệt độ, không khác với thể Nhị thừa rốt ráo. Phương tiện nói giáo thì có Tam thừa. Hoặc chỉ một thể cực quả phương tiện nói có ba nhân, nhân đó mà nói dặm đường dài Trong kinh Niết-bàn phẩm Cao quý đức vương nói: Sao gọi là Niết-bàn, sao là đại Niết-bàn? Là nơi Thanh-văn, Duyên-giác, tám muôn kiếp, sáu muôn kiếp, bốn muôn kiếp, hai muôn kiếp, một muôn kiếp trụ gọi đó là Niết- bàn. Là trụ xứ của bậc Vô thượng Pháp vương Thánh chủ gọi là Đại Niết-bàn. Người xưa giải thích: Các quả của Nhị thừa trải qua thời gian như thế nhập vào Vô dư Niết-bàn. Sau đó khởi hồi tâm được Chư Phật, Bồ-tát dắt dẫn hóa giáo. Hàng Nhị thừa trải qua thời gian tu hành hướng cầu Đại thừa. Chư vị trước kia chưa hồi tâm. Hữu dư y Niết-bàn gọi là Niết-bàn. Pháp vương sở đắc gọi là Đại Niết-bàn. Người không phải Nhị thừa tức các quả vị Hữu học đã trải qua tám muôn kiếp, cho đến bốn muôn kiếp đã nhập Niết-bàn. Cũng chẳng phải Vô học, nhập vào vô dư y, thân trí đều không. Nhập Niết-bàn rồi liền khởi thân trí trải qua hai muôn kiếp tu hành đại hạnh. Phẩm Tín hiểu chép: Chúng con đêm dài tu tập pháp không. Cho đến trụ vào thân rốt sau hữu dư Niết-bàn, như vậy đã đắc được báo ân Phật. Luận Trang nghiêm nói: Người gốc lành khi Niết-bàn thì hết, Bồ- tát thì không như vậy. Người Nhị thừa đó nhập vào Vô dư Niết-bàn, gốc lành đã hết. Cũng như trong luận Trang nghiêm nói vì sao trải qua một muôn kiếp v.v… tu hành mới nhập vào Thập tín. Sau đó trải qua ba vô số kiếp, mới đắc quả Bồ-đề, bổn thức đã không, không có thức trì chủng, thân đó đều hết thì dùng pháp gì tu hành sao đắc Bồ-đề? Nhập vào vô dư rồi, nếu có gốc lành, chẳng những trái với giáo mà cũng trái với chánh lý. Thân trí vẫn còn tồn tại vì sao nói là Vô dư Niết-bàn, khác nhau với vô lậu của Như-lai. Vì sở y tồn tại nên gọi là hữu dư y. Hữu dư y hết thì gọi là vô dư y. Kinh Thắng-man cũng chép: Nhị thừa đắc Niết- bàn đó là phương tiện của Phật. Thành Duy thức chép: Không đắc vô trụ nên gọi là phương tiện. Hoặc trụ vào hữu dư, hồi tâm hướng đại không đắc vô dư, gọi là đắc phương tiện. Phẩm bịnh hạnh trong Kinh Niết-bàn: Quả Tu-đà-hoàn, trải qua bảy lần sanh vào cõi trời, cõi người mới đoạn kiết mà nhập vào Niết- bàn. Vào đời vị lai trải qua tám muôn kiếp mới đắc quả Vô thượng Bồ- đề. Quả Tư-đà-hàm qua một lần vãng sanh, mới dứt kiết nhập Niết-bàn, trải qua sáu muôn kiếp đắc quả Bồ-đề. Quả A-na-hàm không còn sanh vào cõi người, vị lai trải qua bốn muôn kiếp sẽ đắc quả Bồ-đề. A-la-hán trải qua hai muôn kiếp sẽ đắc quả Bồ-đề. Bích-chi-phật trong mười ngàn kiếp sẽ đắc quả Bồ-đề. Kinh này lại nói: Trải qua tám muôn kiếp sẽ đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, chẳng thành Chánh giác thì gọi là đắc Bồ-đề. Sư xưa giải thích: A-la-hán trải qua bảy lần sanh tử lấy quả Tu-đà-hoàn mà nói. Trải quả hai lần sanh tử lấy quả Tư-đà-hàm mà nói. Từng sanh về cõi trên lấy quả A-na-hàm mà nói. Không còn sanh tử mà chỉ nhờ giáo pháp là quả A-la-hán. Không trải qua sanh tử mà đắc quả Độc giác là lấy quả Bích-chi-phật mà nói. Ba quả vị trước này là phàm thân đắc quả, Thánh thân đắc Niết-bàn, hai quả vị sau là phàm thân đắc quả phàm thân Niết-bàn. Trải qua nhiều lần sanh thì gọi là độn, nên thời gian trải qua vắng lặng nhiều, ít lần sanh tử đó là lợi, nên thời gian trải qua vắng lặng ít. Trải qua tám muôn kiếp tu hành theo ngài Bồ-đề Lưu- chi. Giải thích thì vẫn đem dùng tâm từ bi tưởng tám muôn kiếp làm một ngày đêm, chứa nhóm năm tháng mà thành ra đại kiếp. Quả vị kia thọ vô lượng đại kiếp. Từ đây về sau thì mới phát tâm. Nghiệm xét sự giải thích này chưa y cứ vào kinh điển. Kinh giải thích: Tu-đà-hoàn qua bảy lần sanh tử dứt kiết phược mới nhập Niết-bàn. Tu-đà-hoàn, trải qua tám muôn kiếp mới đắc tâm Đại Bồ-đề, Sơ quả Thập tín. Sao lại nói tám muôn kiếp mới trụ Niết- bàn. Đây nói A-la-hán gọi là Tu-đà-hoàn phải trải qua tám muôn kiếp mới được phát tâm. Thật là đáng cười! Lại nếu nhập vào vô dư y thân biết mất hẳn. Vì sao không nhân mà lại khởi thân nữa ư! Không như vậy thì nghóa Vô dư là gì? Nếu như Phật nhập Vô dư Niết-bàn. Hữu lậu đã hết thì đắc vô lậu. Vô lậu đã viên mãn thì sao không gọi là Phật. Nếu triền phược đã dứt hết thì gọi là nhập vô dư. Thân trí không mất thì vô dư đâu tồn tại? Có thân sở y nên hai thứ vô dư, hữu dư đâu có khác nhau. Nhưng kinh Niết-bàn chép: Tu-đà-hoàn trải qua tám muôn kiếp v.v… như trước đã nói. Thật thì quả kia chẳng phải A-la-hán. Lấy kia mà nói cũng chẳng phải A-la-hán còn trải qua một lần sanh nữa. Như kinh kia ý chỉ nói chung A-la-hán, người thật Hữu học phát tâm hướng Đại thừa phải trải qua từng ấy thời gian. Do đây, nên dùng các kinh Niết-bàn, Du-già, để giải thích là nói tốt nhất. Tăng Giác Ấn ghi tại chùa Pháp long Ngày 30 tháng 05 niên hiệu An Bảo năm thứ ba <篇> HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 8 (PHẦN ĐẦU) Kinh: “Các Tỳ kheo cho đến sâu nhập thiền định”. Tán: Trên nói nhân đời trước, khiến cho nhớ đã lui sụt nhớ Đại thừa trở lại Tiểu thừa, dưới nói lên quả đời nay khiến biết bỏ quyền chọn thật. Văn chia làm ba: Đầu pháp, kế dụ, sau hợp nói. Văn đầu có hai: Nêu nay thật và giải thích lý do trước quyền. “Tỳ kheo nên biết cho đến” là đầu văn lại có hai: Biết căn cơ thuần thục, và nói Nhất thừa. Ở đây nói căn cơ thuần thục có năm: Thời Niết-bàn đến, chúng sanh căn cơ thuần thục. Sợ Phật Niết- bàn nghe liền tin sâu. Chúng lại thanh tịnh, phiền não nhẹ bớt, dần dần lìa nhiễm. Ban đầu nói tam thừa vượt ra đời ác, chúng sanh cấu trọng lâu nay, giáo hóa dần dần khiến lìa cấu nên gọi là thanh tịnh. Tín hiểu vững chắc, chứng giải chứng tín, cả hai đều vững chắc, chẳng thể ngăn cản hủy hoại. Thấu đạt không pháp, không pháp có hai: Sanh không và pháp không. Sanh Không là sở chứng, pháp không là sở tri. Đã chứng sanh không sau nghe Bát-nhã liền biết pháp không. Nhập sâu vào thiền định, tứ thiền chín định năng nhập xuất nên ở đây dựa vào người Thanh-văn lui sụt rồi trở lại phát đại tâm mà nói. Chủ yếu đầy đủ năm thứ này mới hội hai quyền mà qui một thật, khác thì không như vậy. Kinh: “Liền nhóm các Bồ-tát cho đến được diệt độ thôi”. Tán: Đây nói Nhất thừa, thừa đã nói bốn mà làm liễu nghóa nói một mà làm phương tiện. Kinh Giải Thâm Mật chép: Tướng sanh, thắng nghóa không tự tánh, như vậy ta đều đã nói lên, nếu không biết mật ý của Đức Phật thì đây là hoại mất chánh đạo không thể đến được. Ở trong đó lập Nhất thừa, chẳng phải hữu tình tánh không có sai khác. Kinh Thắng-man cũng nói: Nhiếp thọ chánh pháp người thiện nam v.v… có thể gánh vác bốn thứ trọng trách vượt qua đại địa kia, nghóa là không nghe phi pháp, chúng sanh do gốc lành trời người mà thành thục, tức là trong đây nói y tiểu thảo. Người cầu Thanh-văn trao Thanh-văn thừa, người cầu Duyên-giác trao cho Duyên-giác thừa, hợp là cỏ vừa, người cầu Đại thừa dùng Đại thừa trao tức là đại thảo. Lại nói: Nếu Như-lai tùy ý muốn chúng sanh mà phương tiện nói chỉ có Nhất thừa không có các thừa khác. Cho nên biết căn cứ lý nói một là quyền bốn là thật. Kinh Giải Thâm Mật chép: Chẳng phải tánh hữu tình, không có sai khác. Nay trong kinh này vì hóa độ người lui sụt rồi lại phát đại tâm, cho nên nói nhất thật mà hai là quyền. Đợi căn cơ thuần thục năm duyên đầy đủ mới nói không có nhị thừa mà được diệt độ, chỉ có Nhất thừa mới được diệt độ thôi! Trong Kinh Niết-bàn chép: Các Thanh-văn đều sẽ thành Phật đều không thành Phật, Đức Thế tôn đều nói không hiểu ý ta nên có thể hiểu biết ý kinh như vậy, cũng nên khéo thuận tâm Phật Bồ-tát, nhưng nay đây hợp phần nhiều lui sụt cho nên nói nhất thật mà hai là quyền. Kinh:“Tỳ kheo nên biết cho đến thì liền tin nhận”. Tán: Đây giải thích lý do trước quyền. Dùng trí phương tiện chứng nhập căn tánh thắng giải của chúng sanh. Do ý ưa Tiểu thừa vốn đắm ngũ dục, ta tạm cứu giúp khổ sanh tử trao pháp Tiểu thừa cho khiến lìa ngũ dục. Ngũ dục là duyên năm cảnh như tham v.v…, cho nên trước nói Niết-bàn lập ra hóa thành để dứt khổ. Đã đắc Niết-bàn rồi, người ấy hoặc nghe nay nói Nhất thừa dẫn đến đảo châu báu thì liền tin nhận. Kinh:“Thí như đường hiểm dài năm trăm do tuần cho đến chỗ châu báu”. Tán: Dưới là dụ nói. Có hai: Trước dụ xưa quyền, sau dụ nay thật. “Lúc ấy đạo sư biết những người đó cho đến” Là văn dụ xưa quyền. Có bốn: dụ. Dụ sắp lìa đường hiểm. Mọi người được dắt đi cho đến giữa đường mới lui sụt dụ. Đạo Sư dùng nhiều phương tiện cho đến vì lập ra hóa thành Lúc ấy chúng mệt nhọc cho đến chúng mệt nhọc đều dừng nghỉ dụ. Trước phẩm Tín hiểu dụ xưa quyền có sáu, nay đây tức là kia, nhưng không có hai thứ đầu. Do lúc đầu thoái còn chưa hướng Tiểu thừa nên chưa lập ra hóa thành, do đó lược chỉ đồng bốn sau; hoặc đây thứ một sắp lìa đường hiểm thì thuộc kia thứ nhất, thứ ba, trong đây thứ hai tức thuộc kia thứ hai thứ tư. Đây hai dụ sau tức thuộc kia hai sau. Khai hợp có khác, nghóa cũng không khác nhau. Dụ thứ nhất có bốn: 1.Muốn vượt qua chỗ ác. 2.Sắp đến chỗ châu báu. 3.Thương chủ am hiểu đường. 4.Mới dẫn dắt. Đây nói hai dụ đầu. năm trăm do tuần: Kinh Chánh Pháp Hoa chép: Năm đường sanh tử gọi là đường ác hiểm nạn. Khóang là trống vắng-lâu-xa, tuyệt là xa xôi. Trong sanh tử vốn không có Thánh trí như hoang vắng lâu dài, hoang vắng không có người rất đáng kinh sợ, năm sự sợ hãi v.v… đó là chỗ kinh sợ. Nay lại giải thích: Trong chánh Pháp Hoa nói vượt ngoài đường hiểm thể chẳng phải giải thích số kia. Nói năm trăm: là sanh tử phần đoạn có hoặc nghiệp khổ là ba trăm, sanh tử Biến dịch có vô minh khổ là hai trăm, mười phiền não mười nghiệp đạo sở cảm thập phẩm loại quả đều giúp đỡ lẫn nhau. Hợp nói năm trăm, dưới nói qua ba trăm do tuần lập ra hóa thành, nếu dùng số năm đường ác tức là năm, qua ba đường ác mới nhập kiến đế chưa thấy hóa thành, vì sao nói nhập nên y sau giải thích. Chỗ châu báu: là địa vị Quả Phật Đại Bát Niết-bàn, dụ siêu vượt đường hiểm sanh tử mới đến địa vị Phật . Kinh: “Có một vị đạo Sư cho đến muốn vượt qua nạn đó”. Tán: Trong đây hai: Người dẫn đầu đi trên biết đường mới dẫn dắt. Đạo sư là Phật có đủ năm đức này: Thông tánh lợi căn. Trí tuệ lựa chọn phải trái. Hiểu rõ chân tục. Thông đạt thấu suốt chẳng có gì là không biết. Khéo biết đường hiểm tướng thông bít. Đạo là các đường, thông là dứt năm đường, bít là khởi hai chướng hoặc nghiệp hữu mà gọi là bít, nhân khổ hết gọi là thông. Mới dẫn dắt ý văn có thể biết. Kinh:“Mọi người được dắt đi cho đến nay muốn lui về”. Tán: Đây là dụ thứ hai, giữa đường muốn lui về. Tu nhân Đại thừa chưa quá sáu mươi kiếp, mệt mỏi tu Bồ-tát hạnh gọi là giữa đường mệt mỏi; Đại hạnh khó tu gian khổ đầy dẫy, do mệt vì thời gian dài nên gọi là mệt mỏi, sợ biển tánh hạnh, sợ có tiến tu nên gọi là sợ sệt, hoặc do sợ đại hạnh Đại thừa, không thể tiến cầu đại quả Bồ-đề, trải qua ba đại kiếp đường trước còn xa, lui sụt Đại thừa không học mà trú lại sanh tử gọi là nay muốn lui về. Đây chính nghóa nói: Chẳng thật nhị thừa thời xưa bạch Phật rồi mới lui sụt trú Tiểu thừa. Kinh:“Vị Đạo sư dùng nhiều phương tiện cho đến hóa làm một thành”. Tán: Thứ ba vì lập ra hóa thành dụ có bốn: Tạm suy nghó. Lập hóa thành. Khuyên trú ở chớ sợ. Nói vào thành có lợi ích. Đây là hai dụ đầu. Nhiếp Đại thừa nói: Như Mạt ny đánh trống trời không tư duy thành việc mình, dù không cố gắng tư duy cũng có sự tư duy, tuy không thật tư duy mà giả gọi là tư duy. Chư Phật thường sáu phen đêm ngày xem xét chúng sanh, nghóa như tư duy. Quá ba trăm do tuần: Hoặc nói năm đường làm năm trăm, đây vượt qua phần đoạn sanh tử vượt xuất ba cõi hoặc khiến vónh viễn ra khỏi ba đường ác làm ba trăm. Như ngũ hạ phần kết thân kiến cho đến ba thứ thời sau nói, Thật ra đầu đã đoạn phân đoạn tuy cũng ra ngoài trời người, nhưng Biến dịch còn thuộc trời người thú không gọi là xuất. Nếu y chánh nói phần đoạn sanh tử có hoặc nghiệp khổ, lìa ba thứ này gọi là vượt qua ba trăm do tuần. Niết-bàn ở vị Vô học nên hóa làm một thành. Luận này chép: Thành của các thiền Tam-muội vượt quá thành kia rồi khiến nhập thành Đại Niết-bàn. Cho nên Đức Phật nói lập ra vốn không có thật thể nên nói hóa làm. Kia chứng diệt tâm tương ưng thiền định nhẹ nhàng an vui năng dứt thô trọng, Phật dạy đó được gọi là hóa làm, diệt lý không hai, đối xe chủng trí nên gọi là một. Lại tuy là giả người người đều có sai khác, do giả nghóa đồng nên gọi là một, lại do căn cơ người học nhị thừa sở chứng sai khác. Dưới kệ nói: Vì nghó nên nói hai, dùng giả đối chân chân đã không hai, giả đâu chẳng một. Đây dụ cho hữu dư Niết- bàn, hoặc nghiệp dứt nên đương khổ không sanh, thật đắc vô dư, còn lại thân trí lại chưa cùng gọi chứng, sau thân trí mất mới gọi là chứng, như tưởng - thọ - diệt - vô vi y cứ nơi cuối cùng viên mãn nói. Kinh:“Bảo mọi người rằng cho đến cũng đi được”. Tán: Trong đây có hai: Khuyên ở chớ sợ, nói vào thành được lợi ích. “Nếu vào thành này cho đến” không cần sợ Đại thừa mà không chịu tu, lại vào thành này tùy ý làm, tùy sức tu, nghỉ chân thật nói lên ý, thầm lập ra quyền vào, lợi ích có hai: Được vui an ổn mà dứt các khổ. Hướng Phật vị sau dần dần có thể tu. Kinh: “Bấy giờ chúng mỏi mệt cho đến sanh lòng tưởng cho là được an ổn”. Tán: Đây thứ tư chúng mỏi mệt đều nghỉ dụ có hai: Hữu học xứng tâm vui mừng, nói khen ngợi, tâm vui mừng tránh khỏi đường hiểm. Đã thành Vô học giải thoát đạo vị, trước vào hóa thành đắc hữu dư diệt, nghó gì diệt độ vượt sanh tử nên lìa khổ tập, Biến dịch sanh tử thật chưa lìa nên nói nghó gì đã diệt độ nghó gì an ổn. Đắc Vô học nên chứng diệt đạo, chưa đắc đại Niết-bàn chân thật an ổn nên nói nghó gì an ổn, liền sanh tứ trí: Ta sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ đời sau. Kinh Thắng-man chép: A-la-hán không thành tựu tất cả vô lượng công đức nên nói đắc Niết-bàn. Lại nói tứ trí rốt ráo đắc chỗ nghỉ ngơi là Đức Phật phương tiện hữu dư không liễu nghóa nói, nên đây làm hóa thành là Đức Phật quyền lập ra. Chính khởi trí sanh không chứng lý sanh không, hoặc sau không còn sanh gọi là nhập thành. Đương lúc ấy không có hai tưởng này, sau nhập thế tục định trở lại quán vị trước liền nghó gì đây. Niết-bàn giả diêït nhị thừa chứng; nói trước vào nơi hóa thành, hai xe chủng trí xưa nay không có, hai con ra khỏi nhà. Xe ấy không buộc ra khỏi nhà mà cầu, xin thành ở giữa đường lập ra cho nên nói trước vào cho đến Các chướng nạn đều như trước đã nói. Kinh: “Lúc ấy đạo Sư cho đến để nghỉ ngơi thôi”. Tán: Đoạn thứ hai dụ nay nói thật, có hai: Nêu diệt hóa, và chính nói về chân. Diệt hóa là dẫn đến Đại thừa, nói Nhị thừa Niết-bàn là giả trạch diệt nên nói là diệt hóa, chẳng phải thật dùng thần lực diệt hóa thành kia. Trong đây nói hướng là đại thành ta hóa làm, chỉ nói hóa thành tức là diệt, cách chỗ báu gần tức là nói về chân. Tuy Vô học loanh quanh tu hành Đại thừa chậm nơi đốn ngộ, mà so với Hữu học hồi tâm thì rất nhanh cho nên nói gần đây. Kinh: “Các Tỳ-kheo cho đến nên bỏ nên vượt qua”. Tán: Dưới hợp nói: Trong đây có hai: Hợp xưa quyền, và “Nếu chúng sanh trú nơi Nhị địa cho đến” mới hợp nay thật. Hợp xưa quyền có ba: Đầu hợp sắp lìa hiểm, tiếp “Nếu chúng sanh chỉ nghe cho đến” hợp giữa đường mới lui sụt, sau “Phật biết tâm ấy cho đến” hợp vì nói hóa thành, không hợp thứ tư chúng mỏi mệt đều nghỉ. Muốn nêu rõ hai đạo quyền thật không muốn chánh nêu rõ việc dứt khổ. Đây là đầu. Khứ là hướng Niết-bàn, độ là vượt sanh tử. Kinh: “Nếu chúng sanh cho đến mới có thể được thành”. Tán: Đây hợp giữa đường mới lui sụt. Nếu chỉ khen ngợi Phật thừa chúng sanh không thể do đó được độ, từ lâu chịu khổ nhọc nên liền lui sụt. Phật đạo lâu dài, mỏi mệt lâu dài, lâu chịu khổ nhọc sợ hành Đại thừa. Kinh: “Phật biết tâm chúng đó cho đến nói hai thứ Niết-bàn”. Tán: Đây hợp vì nói hóa thành. Sợ hãi Đại thừa mà thấp kém ưa Tiểu thừa, cho nên giữa đường nói hai thứ Niết-bàn. Hai cơ sở học hai trí sở chứng gọi là hai thứ Niết-bàn, hai thứ Niết-bàn thể chỉ là hữu dư, chẳng nói hữu dư vô dư là hai, trước nói một thành dùng giả đối chân, hóa làm một nên dùng lý đối sự thật ra lý không khác. Nay đối căn cơ tu nhân chứng trí gọi là hai thứ Niết-bàn cũng không trái nhau. Kinh: “Nếu chúng sanh cho đến phân biệt nói ba”. Tán: Hợp nay thật, có hai: Đầu pháp nói diệt hóa bảo chân, sau hợp nói diệt hóa bảo chân. Đây là đầu, chia làm hai: Trước nói kia chẳng chân, sau nói ý Nhị thừa. “Chỗ tu của các thầy chưa xong:” Kinh Thắng-man nói: A-la-hán Bích Chi Phật hữu dư sanh pháp không hết nên có sanh, hữu dư phạm hạnh không thành nên không thuần, sự không rốt ráo nên phải có tạo tác, không vượt qua kia nên phải có sở đoạn, do không dứt nên cách cõi Niết-bàn xa, việc làm chưa xong tức sẽ có tạo tác Đại Thánh đế. Còn có pháp không trí đạo đế sẽ tạo tác. Nêu ở đây nhiếp các thứ khác cũng nên học, ông phạm hạnh đã lập trí diệt đế chứng địa vị hữu dư Niết-bàn còn ở tuệ Phật, sở đắc chẳng chân phạm hạnh không thành nên không thuần. Nghóa là sở tri chướng chưa diệt, Niết-bàn vô trụ còn chưa đắc cho nên phải quán sát so lường tính toán khổ tập, hai trí cũng chẳng phải chân, cho nên Niết-bàn sở đắc chẳng chân thật, huống chi đầu tiên nói Nhị thừa ý nói chỉ là Như-lai dùng năng lực phương tiện! Kinh: “Như vị đạo sư kia cho đến của ta biến hóa làm ra đó thôi”. Tán: Ở đây hợp nói diệt hóa bảo chân. Kinh: “Bây giờ Đức Thế tôn cho đến lại rải hoa tốt mới như mưa”… Tán: Trở xuống kệ có bốn mươi chín hàng rưỡi tụng chia làm hai: Ba mươi hàng rưỡi tụng văn xuôi đầu nói nhân đời trước, khiến nhớ thoái đại đến Tiểu thừa, việc của đức Đại Thông Trí Thắng Như- lai. Mười chín hàng tụng hiển quả nay khiến biết bỏ quyền chọn thật việc dụ hóa thành. Văn đầu lại có hai: hai mươi tám hàng rưỡi tụng nhân duyên xưa, sau hai bài tụng kết duyên chớ sợ. Đầu lại có hai: Đầu hai mươi bảy rưỡi tụng hợp việc tự thân; một hàng tụng sau hợp việc đệ tử. Văn đầu văn xuôi có hai: Nói sau khi Phật diệt độ xa lâu, sau chánh nêu rõ việc kia, nay chỉ tụng sau. Đầu đã tụng xong, việc kia văn xuôi có bốn, nay đây cũng vậy. 1.bốn hàng tụng đầu nêu tuổi thọ Phật thành đạo. 2.mười ba hàng tụng chuyển chánh pháp luân. 3.chín hàng rưỡi tụng con nối tiếp đèn chánh pháp. 4. một hàng tụng hợp thành Phật nay. Bốn hàng đầu có hai: ba hàng tụng pháp không hiện tiền; một hàng tụng Phật thành đạo. Không tụng tuổi thọ Phật. Trong ba hàng đầu lại có hai: một hàng tụng pháp không hiện tiền, hai hàng tụng hoa nhạc cúng dường, tức là tụng này, Không tụng trải toà. Văn xuôi chỉ có cõi Phạm thiên mưa hoa, đây thêm tám bộ. Kinh: “Quá mười tiểu kiếp rồi cho đến lòng đều sanh hớn hở”. Tán: Nêu Phật thành đạo. Kinh: “Mười sáu người con Phật cho đến mà rung chuyển tất cả”. Tán: Mười ba hàng tụng chuyển chánh pháp luân, có hai: Tám hàng tụng thỉnh. Năm hàng tụng chánh chuyển. Tám hàng thỉnh có hai: Ba hàng tụng mười sáu vương tử thỉnh, không có cúng dường, Năm hàng tụng các Phạm vương thỉnh. Đây là ba hàng tụng mười sáu vương tử thỉnh. Kinh: “Các thế giới phương Đông cho đến nhận thỉnh yên lặng ngồi”. Tán: năm hàng tụng Phạm vương thỉnh. Gồm ba hàng đầu tụng phương đông, hai hàng sau tụng các phương. Đây là ba hàng đầu. Văn cũng có bốn, căn cứ trước có thể biết. Kinh: “ba phương cùng bốn phía cho đến chuyển vô thượng pháp luân”. Tán: Hai hàng tụng các phương thỉnh. Kinh: “Thế tôn tuệ Vô lượng cho đến các thầy cần phải biết”. Tán: Năm hàng tụng chánh chuyển, có hai: Hai hàng đầu tụng như hứa khả chánh nói. Ba hàng sau tụng chúng sanh được lợi ích. Đây là hai hàng đầu: Vô minh đến già chết đều từ sanh duyên hữu, đây giải thích văn xuôi vô minh duyên hành, hành duyên thức, cho đến sanh duyên già chết. Đây nói sanh ấy không phải là chi sanh, mà là năng sanh sanh. Đây nói hữu không phải là chi hữu mà là hữu vô hữu, nghóa là như chi hành từ chi vô minh năng sanh duyên cho nên mới có. Thể của chi sau từ chi sanh trước duyên năng sanh nên có, không phải vô nhân, không có nhân bình đẳng sanh khởi, mà đều từ duyên sanh, tức nói lên vô minh từ duyên già chết năng sanh cho nên có luân chuyển vô cùng gọi là duyên khởi. Kinh: “Tuyên xướng pháp đó rồi cho đến không thể được ngằn mé”. Tán: Chúng sanh được lợi ích. Đầu tụng hội thứ nhất, kế tụng hội thứ hai, sau tụng hội thứ ba hội thứ tư. Phong tục thông mười ngàn gọi là muôn, mười ức gọi là triệu, gọi mười triệu là kinh, mười kinh gọi là cai, cũng là số lớn. Tức trước văn xuôi nói sáu trăm muôn ức na do tha cai (một cai là một trăm triệu). Kinh: “Bấy giờ mười sáu vị cho đến tuệ nhãn sạch bậc nhất”. Tán: Chín hàng rưỡi tụng vương tử nối tiếp truyền đèn. Văn xuôi có năm, trong đây có bốn: Hai hàng tụng xuất gia khải thỉnh. Hai hàng rưỡi tụng Đức Phật hứa chánh nói. Bốn hàng tụng các con truyền đèn. Một hàng tụng giáo hóa thường lợi ích. Đây là hai hàng đầu. Chỉ không có thứ tư của Văn xuôi Phật xuất định ra khen ngợi. Kinh: “Phật biết lòng đồng tử cho đến kệ nhiều như hằng sa”. Tán: Hai hàng rưỡi tụng Phật hứa chánh nói. Kinh: “Phật kia nói kinh rồi cho đến hằng hà sa các chúng”. Tán: Bốn hàng các con truyền đèn có ba: một hàng tụng Phật nhập định, kế hai hàng tụng các con truyền đèn, sau một hàng tụng độ nhiều ít. Kinh: “Sau khi Phật diệt độ cho đến thường sanh chung với thầy”. Tán: Một hàng tụng giáo hóa thường lợi ích. Kinh: “Mười sáu Sa di đó cho đến đều được thành chánh giác”. Tán: Một hàng rưỡi tụng hợp thành Phật nay. Tóm lại hai mươi bảy hàng rưỡi trên là hợp với hội thứ nhất việc về tự thân. Kinh: “Người nghe pháp thuở đó cho đến dần dạy đến Phật đạo”. Tán: một hàng sau đây là tụng hợp việc đệ tử, tổng thành mươi tám hàng rưỡi tụng nhân duyên xưa thối Đại thừa đến Tiểu thừa. Kinh: “Ta thuộc số mười sáu cho đến chớ có sanh kinh sợ”. Tán: Phần tụng, kết thành nay nói cẩn thận chớ có kinh sợ. Có hai hàng với hợp hai mươi tám hàng rưỡi trên thành ba mươi hàng tụng nói nhân đời trước khiến nhớ lại đã lui sụt Đại thừa theo Tiểu thừa, việc của Đức Phật Đại Thông. Kinh: “Thí như đường hiểm dữ cho đến đường hiểm cứu các nạn”. Tán: Phần hai lớn có mười chín hàng tụng hiển quả nay khiến biết xả quyền chọn thật việc dụ Hóa thành, chia làm hai: mười một hàng rưỡi tụng dụ nói, bảy hàng rưỡi tụng hợp nói, không tụng pháp nói. mười một hàng rưỡi lại có hai: chín hàng tụng xưa nói quyền dụ, hai hàng rưỡi tụng nay nói thật dụ. chín hàng đầu văn có bốn: Ba hàng tụng dẫn lìa đường hiểm dụ. Một hàng tụng giữa dường lui sụt dụ. Bốn hàng tụng vì lập ra hóa thành dụ. Một hàng tụng chúng mỏi mệt đều nghỉ dụ. Đây là ba hàng đầu. có ba: Một hàng tụng đường nguy hiểm nhiều nạn. Một hàng tụng muốn vượt qua đường còn xa. Một hàng tụng đạo Sư cứu nạn. Nhiều độc thú là quả phiền não ác nghiệp; không có nước là không có Phật pháp giáo hóa, không có cỏ là không có nghóa lý Phật. Đức Phật là bậc đại đạo Sư ở trong đường hiểm sanh tử cứu chúng sanh gặp nạn. Kinh: “Mọi người đều mệt nhọc cho đến nơi đây muốn trở về”. Tán: Một hàng tụng giữa đường mới lui sụt. Kinh: “Đạo Sư nghó thế này cho đến cam mất châu báu lớn”. Tán: Bốn hàng tụng về dụ vì lập ra hóa thành, chia làm ba: Một hàng tụng khởi niệm. Hai hàng tụng hóa làm. Một hàng tụng khuyên vào, đây là một hàng đầu. Kinh: “Liền lại nghó phương tiện cho đến nam nữ đều đông đảo”. Tán: Hai hàng tụng hóa làm. Thành quách là hữu dư Niết-bàn, thành tức là quách, chúng sanh trong đó lấy rốt ráo Không làm nhà cửa. Kinh Vô Cấu Xứng chép: Tư duy thắng nghóa Không làm nhà, hoa giác phẩm trang nghiêm, Tổng trì làm vườn, đại pháp làm rừng cây, Cửu định làm sông ngòi, tám giải làm ao tắm, Tam môn giải thoát làm cửa lớn, trùng môn tức lầu gác cao, cao vượt trong ngoại đạo sanh tử cho nên vào nhà Không. Đế pháp chân thật làm nam, sanh không chân trí, từ bi tâm làm nữ an ủi vỗ về chúng sanh, y Kinh Vô Cấu Xứng để giải thích nghóa này. Kinh: “Hóa ra thành đó rồi cho đến đều được vừa ý muốn”. Tán: Một hàng tụng là khuyên vào. Kinh: “Các người đã vào thành cho đến tự nói đã được độ”. Tán: Phần tụng chúng mỏi mệt đều nghỉ. Kinh: “Đạo Sư biết nghó xong cho đến nên đồng đến chỗ báu”. Tán: Hai hàng rưỡi tụng nay nói thật dụ: Một hàng nêu diệt hóa, một hàng rưỡi chánh bảo chân. Kinh: “Ta cũng giống như vậy cho đến việc làm đều đã xong”. Tán: Phần hai: bảy hàng rưỡi tụng hợp nói. Trong đó có hai: hai hàng rưỡi tụng hợp xưa quyền, năm hàng tụng hợp nay nói thật. Đây là hai hàng rưỡi đầu: Nửa hàng tụng lìa đường hiểm, tiếp một hàng tụng giữa đường mới lui sụt, sau một hàng tụng lập ra hóa thành. Kinh: “Đã biết đến Niết-bàn cho đến vì nói pháp chân thật”. Tán: Năm hàng tụng hợp nay nói thật, có ba: Một hàng tụng nêu nay nói thật. Ba hàng tụng khuyên bỏ quyền lấy thật. Một hàng tụng kết. Đây là một hàng đầu. Kinh: “Chư Phật dùng phương tiện cho đến mới là chân thật diệt”. Tán: Đây khuyên bỏ quyền đến thật. Một hàng rưỡi tụng khuyên bỏ quyền, một hàng rưỡi khuyên lấy thật. Kinh: “Chư Phật là đạo Sư cho đếndẫn vào tuệ Phật”. Tán: Một hàng tụng cuối kết thành ở trước. --------------------------------- PHẨM NGŨ BÁCH ĐỆ TỬ THỌ KÝ Chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp chướng ngại. Lý do có phẩm có bốn: Người thượng căn một phen nghe pháp liền thọ ký. Người trung căn nghe thêm lần thứ hai mà được thọ ký, nay người hạ căn so sánh ba châu nghe pháp đã có thể ngộ giải, do dó được thọ ký cho nên có phẩm này. Luận chép: Vì trừ chúng sanh có bảy loại tánh phiền não đầy đủ, trong bảy loại tăng thượng mạn, đây là loại thứ năm không có định, tâm thấp kém khởi tăng thượng mạn, sanh hiểu biết hi vọng, vì đây mà nói buộc châu báu dụ. Nghóa là tâm chúng sanh kia tán loạn bất định, quá khứ tuy có gốc lành Đại thừa mà không tự hay biết, không cầu Đại thừa mà ở tâm thấp kém sanh hiểu biết giả dối. Vì nói bậc nhất thừa, đối trị hạng người này nên nói thí dụ buộc châu nơi chéo áo. Cho nên luận lại nói người thứ năm, chỉ cho biết có gốc lành quá khứ khiến nhớ nghó dạy nhập Tam-muội. Đây là hạng Hữu học và phàm phu tâm chưa đắc định, chấp đạo Nhị thừa lấy làm rốt ráo, không biết gốc lành Đại thừa trong quá khứ, nay khiến nhập định nhớ nghó gốc lành Đại thừa thời kia. Như người say rượu nằm, bạn thân bí mật buộc châu vào chéo áo nên có phẩm này. Trong mười nghóa vô thượng, nghóa thứ tư khiến giải thoát vô thượng. Nói dụ buộc châu nghóa là nói duyên xưa khiến sanh hiểu biết có gốc lành Đại thừa diệu bảo cho nên có phẩm này, là nghóa còn lại. Luận giải thọ ký có sáu chỗ thị hiện: Ký biệt: Xá-lợi phất và bốn đại Thanh-văn. Đồng ký: Phú-lâu-na cho đến năm trăm vị và một ngàn hai trăm vị, đồng một hiêïu chẳng phải các vị mà mọi người đều biết, đồng thời được thọ ký cho nên có phẩm này. Nhưng Mãn Từ tên là Pháp Minh, Kiều-trần-như Phổ Minh, tức nghóa Minh đồng nên phần nhiều đồng, đồng được thọ ký. Giải thích tên phẩm: Năm trăm là số, đệ tử là người. thọ ký là sự, từ ba thứ đặt tên. Năm trăm đệ tử thọ nhận Đức Phật thọ ký là: Ý chủ thích. Giải đáp chướng nạn: Hỏi: Trong bảy dụ của mười vô thượng đều nói buộc châu báu, vì sao không lấy đó đặt tên mà gọi là thọ ký ư? Đáp: Căn cơ thuần thục phát tâm tức là thọ ký , sau mới nói dụ buôïc châu báu, từ đầu đặt tên nên gọi là thọ ký. Hỏi: Người thượng căn v.v… lãnh giải trước khi thọ ký, vì sao năm trăm vị lãnh ngộ sau khi thọ kvì sao là dụ buộc châu báu là sự lãnh ngộ của năm trăm vị ư? Đáp: Người thượng, trung căn không đợi thọ ký, nghe nói mà liền lãnh giải, người hạ căn bẩm tánh đã chậm nhân được thọ ký mới sanh vui mừng, ý hỷ đã phát mới trình bày lãnh ngộ. Cho nên không đồng với hai việc lãnh giải ở trước . Lại nữa hạ căn Mãn từ đã trước lãnh giải, năm trăm hạ phẩm thọ ký xong lại trình bày rõ bổn ý, lãnh ngộ sâu nặng chẳng phải mới lãnh ngộ mà trước đã lãnh ngộ rồi. Hỏi: Trong phẩm này Mãn Từ và một ngàn hai trăm vị đều được thọ ký vì sao chỉ đặt tên thọ ký năm trăm? Đáp: Có bốn giải thích: năm trăm vị tại hội hiện tiền được thọ ký. một ngàn hai trăm người có hoặc không có tại hội, không hiện tiền. năm trăm vị được Đức Phật tự thọ ký, một ngàn hai trăm người Đức Phật nói ở trong kệ khiến truyền thọ ký. năm trăm vị Đức Phật biệt kvì sao là chuyển tiếp thọ ký cho đến nói tướng mạo riêng, một ngàn hai trăm người Đức Phật chỉ tổng ký không hiển tướng riêng. năm trăm vị kia năng sanh lãnh giải nên nói buộc châu dụ, một ngàn hai trăm người không riêng lãnh giải. Mãn Từ một người ít nên không nói nên chỉ lấy năm trăm đặt tên phẩm dùng tròn số, không lấy một ngàn hai trăm làm phẩm hiệu vì số không tròn. Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Phú-lâu-na cho đến sức thần thông lớn”. Tán: Phẩm này văn chia làm ba. Châu thứ ba nói pháp có bốn. Trên Đức Phật nói nên nói có ba: 1. Mãn Từ tâm niệm lãnh giải. 2.“Bấy giờ Đức Phật bảo” cho đến là Thế tôn phát lời ấn thuật. Các Tỳ-kheo! Tôn giả Phú-lâu-na cũng được bậc nhất trong hàng người nói pháp thuở bảy Đức Phật cho đến chính là thọ ký. Một người làm đầu, còn lại cũng theo lý đồng, lược nêu một góc (ngung) ba góc đều hợp. Văn đầu có hai: Nêu lãnh giải. Sau nêu cung kính. Lãnh giải có bốn: Lãnh nói pháp, gần là lãnh hóa thành đảo châu báu, xa là lãnh phẩm Phương tiện, đầu quyền sau thật. Lãnh thọ ký: Gần lãnh. Cuối phẩm Thọ ký nói các đệ tử ta oai đức đầy đủ, số năm trăm vị kia đều được thọ ký ở đời vị lai đều sẽ thành Phật. Xa lãnh Thu Tử về sau cho đến thọ ký. Lãnh nhân duyên đời trước. Gần lãnh việc gần mười sáu vương tử. Xa lãnh Thu Tử phẩm Phương tiện nói: Đời đời đã từng theo Phật thọ hóa; Phẩm Thí Dụ nói: Ta xưa dạy ông chí nguyện Phật đạo. Lãnh thần thông. Gần lãnh trong phẩm trước lập ra hóa thành là thần cảnh trí, tác chứng thông, giữa đường năng giáo hóa lập ra. Đức Đại Thông Phật trải qua mười kiếp ngồi đạo tràng, làm rung chuyển mười phương phát ra ánh sáng xa chiếu khắp mười phương, việc chúng phạm vương thấy ánh sáng liền đến tụ tập. Xa lãnh đức Thích-ca sơ thời nhóm họp - đất rung chuyển - mưa hoa - phát ra ánh sáng chiếu xa. Cho đến phẩm Phương Tiện nói: Lúc suy nghó như vậy, Phạm âm ủy dụ ta. Lành thay! Đức Thích-ca v.v… đều là do thần thông Chư Phật. Kinh: “Được điều chưa hề có cho đến mắt không tạm rời”. Tán: Đây là nói về cung kính, có tám: Được pháp chưa hề có. Tâm thanh tịnh. Hớn hở. Từ chỗ ngồi đứng dậy. Đến trước Phật. Lễ dưới chân Phật. Đứng qua một bên. Chiêm ngưỡng dung nhan Phật. Kinh: “Mà nghó thế này cho đến bổn nguyện trong thâm tâm của chúng con”. Tán: Đây là nói tâm niệm lãnh giải. Trước khen ngợi đức của Phật trên hết, sau trình bày nhất tâm lãnh giải. Tình lãnh giải là biết và muốn, việc đã chẳng phải một có thể sâu lại rộng, ngôn từ không thể nói bày, Đức Phật biết tâm ta đâu cần nói đủ. Kinh: “Bấy giờ Đức Phật bảo cho đến các thầy thấy Di Đa-la ni tử này không?”. Tán: Châu thứ ba, đoạn thứ ba Đức Thế tôn phát lời nói ấn thuật, có ba phần: Hỏi chúng thấy không? Kế ta thường khen cho đến công đức của ông. Sau các thầy chớ tưởng v.v… là nói về đức xưa của ông. Phần đầu: Thấy là nghóa hiểu biết chẳng phải là mắt mọi người trong chúng không thấy mà ý là không hiểu biết đức hạnh như thế nào! Lại thấy là nghóa xem, đứng ở trước đây các thầy thấy không? Lại tuy chúng thấy chưa hẳn để ý, nay muốn nói đức hạnh kia hỏi chúng thấy không, là muốn khiến cho chúng sanh thấy nghe nhìn kỹ đức hạnh của Mãn Từ tử nên Phật nói thấy không? Kinh: “Ta thường khen cho đến các thứ công đức”. Tán: Khen ngợi đức nay, có hai: Khen ngợi người và khen ngợi đức. Khen ngợi đức có hai: Trước chung sau riêng. Đây khen ngợi người và tổng khen ngợi đức. Kinh: “Siêng năng hộ trì cho đến biện bác các ngôn luận”. Tán: Đây biệt khen ngợi đức có năm: Giúp giảng nói chánh pháp. Năng đối bốn chúng chỉ dạy lợi mừng. Năng giải thích Phật pháp. Lợi ích đồng hành. Biện bác ngôn luận cao. Làm lợi ích nhiều cho chúng sanh. Kinh: “Các thầy chớ tưởng cho đến cũng là bực nhất”. Tán: Dưới luận bàn về đức xưa, có mười, trong đây có hai: Hộ trì giúp giảng nói pháp, hộ trì thành pháp, thọ trì chánh pháp nhiếp thọ chánh pháp. Thành người thù thắng. Kinh: “Ông lại ở pháp không của Phật nói cho đến không có nghi ngờ”. Tán: Đây có bốn đức: Giải. Không, tức không quán hữu. Đắc tứ biện trú thiện tuệ địa. Thường xét kỹ giảng nói thuận theo sở chứng nên lìa sở thuyên. Không có nghi ngờ. Lý sự hai nghi đều đã dứt hết. Kinh: “Đầy đủ sức thần thông của Bồ-tát cho đến trăm ngàn chúng sanh”. Tán: Đây có ba đức: Đầy dủ thần thông, sự nghiệp lớn trong Pháp Vân địa. Tu phạm hạnh thường trì ba nhóm tịnh giới Bồ-tát. Ẩn hành đại lợi dùng pháp Tiểu thừa lợi ích chúng sanh. Kinh: “Lại giáo hóa vô lượng cho đến giáo hóa chúng sanh”. Tán: Trong đây nói một đức. Cho nên Nhiếp luận chép: Hóa nên nói nhất thừa, tức Phật, Bồ-tát hóa làm Thanh-văn để dẫn dắt đồng loại khiến phát tâm Đại thừa. Cũng tức Kinh lăng già nói: Nhiều kiếp đắm say Tam-muội, sau đó từ Tam-muội này mới phát tâm Đại thừa khuyên các người Thanh-văn: Ta từ vô lượng kiếp hàng trăm phen từng ở trong người vô dư y Niết-bàn Thanh-văn mà bát Niết-bàn, do kia chẳng chân thật diệt, ta từ Niết-bàn khởi cho nên đối với nay trở lại phát tâm Đại thừa, vì sao các ông nay vẫn còn trú trong Tiểu thừa như vậy, cũng như chương Nhất thừa trước nói. Đức này có hai: 1.Lợi tha hành hóa tha khiến lập vô thượng Bồ-đề. 2. Tức do lợi tha thành tựu hành tự lợi, vì muốn thanh tịnh cõi Phật nên thường thành Phật sự. Kinh: “Các Tỳ-kheo cho đến cũng giống là có sáu bậc nhất”. Tán: Châu thứ ba, đoạn thứ tư chánh vì thọ ký, có hai: Trước thọ ký cho Mãn Từ, sau thọ ký cho năm trăm đệ tử. Trước thọ ký chia làm hai: Thọ ký nhân, và thọ ký quả. Thọ ký nhân có sáu. Nhân đầu thọ ký thành người trên hết. Bảy Đức Phật: tức bảy Đức Phật quá khứ. Kiếp trước có ba: Tỳ bà thi Phật - Thi Khí Phật - Tỳ Thấp Phược Phù Phật. Hiền kiếp có bốn: Ca Lộ Ca Thôn Đà Phật - Ca Lộ Ca Mâu-ni Phật - Ca Diếp Ba Phật. Thích-ca Mâu-ni Phật. Biện rõ hiền kiếp cho đến nghóa như sớ Di lạc Thượng sanh nói, đây là tổng trình bày quá khứ bảy đức Phật. Nay ở nơi chỗ ta là biệt trình bày hiện tại. Kinh: “Mà đều hộ trì cho đến chánh đẳng giác”. Tán: Đây có hai nhân thọ ký: Hỗ giúp giảng nói nói pháp. Hóa lập Bồ-đề. Kinh: “Vì tịnh cõi Phật cho đến đầy đủ đạo Bồ-tát”. Tán: Ở đây có ba nhân thọ ký: Thường siêng năng. Lợi sanh. Đầy đủ đạo Bồ-tát. Kinh: “Quá vô lượng cho đến Phật Thế tôn”. Tán: Dưới là thọ ký quả, có sáu: Đây là danh hiệu, giải rõ nghóa pháp gọi là Pháp Minh. Kinh: “Đức Phật đó cho đến đầy dẫy trong đó”. Tán: Thọ ký quả tướng cõi, có hai: Nêu ra và kết. Nêu ra 6, trong đây có hai: Rộng hẹp. Tướng trạng: Có ba: Đất báu, đất bằng và đài quán. Kinh: “Cung điện của các vị trời cho đến không có dâm dục”. Tán: Trong đây có một quả. Có thiện không ác có bốn: Trời gần. Thấy nhau. Không có đường ác người nữ. Không có dâm dục do biến hóa sanh. Kinh: “Được pháp thần thông cho đến mà tự trang nghiêm”. Tán: Trong đây cũng một quả, tướng người, trời có 7: Đắc thần thông. Thân phát ra ánh sáng. Bay đi. Chí vững chắc. Tinh tấn. Trí tuệ. Tướng tốt. Kinh: “Nhân dân nước đó cho đến thiền duyệt thật”. Tán: Đây chỉ có một quả, nghóa là thật nhậm trì. Đây nói hai thật Kinh Phật Địa nói có hai: Pháp vị rộng lớn do hỷ lạc trì. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Đã ăn pháp bất tử lại uống vị giải thoát. Các kinh khác nói bốn, nghóa là đoạn, xúc, tư, thức thật. Nhiếp luận nói bốn: Bất tịnh. Thanh tịnh. Tịnh bất tịnh. Thị hiện y chỉ trú thật. Kinh Tăng Nhất A-hàmnói chín thật: Thế gian có bốn thật, ra đời gian có năm thật, những gì là bốn thật thế gian: Đoạn thật, xúc thật, tư thật, thức thật, nói rộng tướng kia. Thế nào là năm thật ra đời gian: Thiền thật, nguyện thật, niệm thật, bát giải thoát thật và hỷ thật. Thường cùng chuyên niệm trừ bỏ bốn thứ thật thế gian cầu năm thứ thật ra đời gian. Pháp vô lậu phá bỏ hữu lậu chẳng phải hữu lậu thật. Pháp hữu lậu trái hại vô lậu chẳng phải vô lậu thật, sự thật đều gọi là thật, tạm thời giúp đỡ giữ gìn có thể giả gọi là thật, rốt ráo tác không phải. Kinh Phật địa và Vô Cấu Xứng chỉ nói vô lậu chẳng phải hữu lậu thật, các kinh khác nói bốn chỉ hữu lậu thật chẳng phải vô lậu thật. A-hàmnói chín chung cả hai thứ thật. Nhiếp luận nói bốn y nhân biêïn rõ thật chẳng phải là pháp thật, khác với Phật địa pháp vị sanh hỷ lạc tức đây là pháp hỷ. Đây căn cứ mới đắc chỉ tại ý thức, cõi Dục duyên giáo chỉ nói hỷ thật kia y thời sau cũng chung cả sáu thức, thông cõi cõi Sắc cho nên khai hỷ lạc. Đây hợp gọi là hỷ thích duyệt đồng, kia chỉ căn cứ ngoại duyên không nói thiền duyệt, thiền duyệt tức là khinh an lạc thật, đây thông nói nội duyên cho nên gồm có thiền duyệt, đây y sơ đắc chỉ tại ý thức, hỷ gọi là thật. Kia Kinh Vô Cấu Xứng nói: hữu vi vô vi hai thắng làm thật. Giải thoát khổ nên gọi là giải thoát thật, chân như lý tánh gọi là bất tử thật, hai thứ vónh viễn giúp ích cho nên thiên nói. Các kinh nói bốn nghóa là đoạn cho đến chỉ nói hữu lậu năng lớn lên khí lực năng lớn lên hỷ lạc năng lớn lên hy vọng, năng nhiếp các căn đại chủng tạo sắc, và thọ noãn liên tục không hoại. Lại thân, thọ, pháp, tâm, bốn thứ này như thứ lớp thêm lớn hữu lậu thân, quán nhập niệm trú, cho nên chỉ có bốn. A-hàmnói chín hữu lậu, vô lậu hai hợp nói, trong năm thứ sau, thiền hỷ hai thứ tức hai thật đây năng lớn lên pháp thân, giúp ích thù thắng do đó thiên nói. Nguyện, niệm, giải thoát, thật tuy cũng thật có nghóa giúp ích kia thêm lớn gọi là thật, do chẳng phải thù thắng chung tất cả cõi, duyên trong ngoài sanh yếu đối với pháp. Thiền cho nên các kinh này lược không nói. Kinh: “Có vô lượng cho đến và tám giải thoát”. Tán: Trong đây chỉ một quả, nghóa là tam thừa quyến thuộc Bồ- tát tam đức, Thanh-văn, tam đức. Kinh: “Nhân dân nước đó cho đến trang nghiêm thành tựu”. Tán: Đây là kết thúc tường cõi. Kinh: “Kiếp tên Bảo Minh cho đến khắp cả nước đó”. Tán: Đây có bốn thứ thọ ký: Kiếp. cõi nước. Tuổi thọ. Tháp. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến hóa các loài chúng sanh”. Tán: Có hai mươi mốt hàng rưỡi tụng chia làm hai: mười hai hàng tụng trên Phật ấn, chín hàng rưỡi sau tụng chánh vì thọ ký. Phần đầu lại có hai: bảy hàng tụng khen ngợi đức nay, năm hàng tụng khen ngợi đức xưa, không tụng hỏi chúng. Lý tuy chỉ tụng đức nay mà thế văn tợ như tụng tất cả ứng hóa đệ tử. Bảy hàng đầu lại có ba: 1.hai hàng rưỡi tụng nêu. 2. ba hàng tụng giải thích thành. 3.một hàng rưỡi tụng kết lược. Đây là đầu. Kinh: “Tự nói là Thanh-văn cho đến lại hiện tướng tà kiến”. Tán: Ba hàng tụng giải thích thành, có hai: một hàng rưỡi tụng thị hiện trú Thanh-văn cách Phật đạo xa - hóa các chúng sanh, một hàng rưỡi tụng thị hiện Tiểu thừa thật tịnh cõi Phật. Kinh: “Đệ tử ta như vậy cho đến thời tâm sanh nghi ngờ”. Tán: Đây là kết lược. Kinh: “Nay Phú-lâu-na này cho đến học rộng có trí tuệ”. Tán: Dưới năm hàng tụng đức xưa có mười thứ, trong đây có ba: Hộ pháp. Nhân tốt. Học rộng có trí tuệ, văn xuôi không có. Kinh: “Nói pháp không sợ sệt cho đến mà tự tịnh cõi Phật”. Tán: Trong đây có bảy đức: Năng nói. Đắc thần thông. Đầy đủ vô ngại giải. Biết rõ căn cơ. Nói pháp thanh tịnh. Làm lợi ích lớn. Thanh tịnh cõi Phật. Kinh: “Đời sau cũng cúng dường cho đếnHộ trì tạng pháp bảo”. Tán: Dưới chín hàng rưỡi tụng thọ ký trong đó có hai: hai hàng đầu tụng thọ ký nhân, bảy hàng tụng thọ ký quả. Hai hàng đầu có sáu thứ: dữ”. Cúng Phật. Tuyên phát. Tịnh cõi Phật. Nói pháp. Lợi sanh. Hộ pháp. Kinh: “Sau đó được thành Phật cho đến cũng không các đường Tán: Dưới thọ ký quả có hai: năm hàng rưỡi tụng thọ ký. một hàng rưỡi tụng kết lược. Năm hàng rưỡi có bốn: Tự thể. Tên nước. Tên kiếp. Tướng cõi. “Chúng Bồ-tát rất đông cho đến” đều là tướng cõi, căn cứ trước đã nói. Kinh: “Phú-lâu-nA-tỳ-kheo cho đến ta nay chỉ lược nói”. Tán: Đây là kết lược. Xem văn ý đây thọ ký cho Bồ-tát bát địa trở lên cõi báo thân Phật. Kinh: “Bấy giờ một ngàn hai trăm cho đến thời sung sướng lắm”. Tán: Phần thọ ký cho năm trăm vị, có bốn: Tâm mong cầu. Hứa khả. Thọ ký. Hối hận lãnh giải. Đây là phần đầu. Kinh: “Đức Phật biết điều đó cho đến thọ ký Chánh Đẳng Giác”. Tán: Đây là hứa khả. Kinh: “Trong chúng đó cho đến.Phật Thế tôn”. Tán: Đây là chánh vì thọ ký có hai: Hiện tiền thọ ký, và cuối tụng tức một hàng rưỡi tụng không hiện tiền thọ ký. Đầu văn có hai: Văn xuôi, tiếp kệ tụng. Văn xuôi có hai: Kiều-trần-như và năm trăm vị. Đây nói phần Văn xuôi đầu. Kinh: “Năm trăm vị A-la-hán cho đến hiệu là Phổ Minh”. Tán: Đây thọ ký năm trăm có hai giải thích: Năm trăm vị tức trong một ngàn hai trăm người. Riêng. Nay lấy giải thích trước làm chánh. Ca lưu đà di Hán dịch Hắc Quang. Ưu đà di đây gọi Xuất Hiện, Châu-đà Hán âm Xà nô, Sa dà đà chánh gọi Sa bà yết đa Hán dịch là Thiện Lai còn lại như trước đã giải thích. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến nên hiệu là Phổ Minh”. Tán: Dưới mười một hàng tụng chia làm hai: chín hàng rưỡi tụng hiện tiền thọ ký, một hàng rưỡi tụng không hiện tiền thọ ký. chín hàng rưỡi tụng trước thọ ký, trong đó có sáu hàng tụng Kiều-trần-như, ba hàng rưỡi tụng năm trăm vị được thọ ký. Trong phần đầu văn này có hai: Đầu tụng thời, sau tụng tự thể. Kinh: “Cõi nước đó thanh tịnh cho đến pháp diệt trời, người lo”. Tán: Trong phần đầu có ba: một câu tụng cõi nước. hai hàng một câu tụng quyến thuộc. một hàng tụng trụ bội tuổi thọ. Kinh: “Năm trăm Tỳ-kheo kia cho đến đều như trên đã nói”. Tán: Ba hàng rưỡi tụng năm trăm vị thọ ký có ba: ba câu tự thể, một hàng một câu truyền thọ ký, một hàng rưỡi tụng kết loại. Kinh: “Ca Diếp! Ông đã biết cho đến ông nên nói cho họ nghe”. Tán: Một hàng rưỡi cuối tụng, không hiện tiền thọ ký, một ngàn hai trăm người không ở trong hội. Kinh: “Bấy giờ năm trăm vị cho đến hối lỗi tự trách”. Tán: Thứ tư, hối hận lãnh giải, có hai: Nêu vui mừng hối lỗi tự trách, sau trình bày nói hối lỗi tự trách. Đây là phần đầu. Kinh: “Thế tôn cho đến trí nhỏ cho là đủ”. Tán: Trình bày nói hối lỗi trách có hai: Văn xuôi kệ tụng. Văn xuôi có hai: Tự trách, và lãnh giải. Đây là tự trách, trước nêu sau giải thích. Kinh: “Thế tôn cho đếncho nó rồi đi”. Tán: Lãnh giải có hai: Trước dụ sau hợp. Trong dụ có hai: Trước lãnh xưa quyền, sau lãnh nay thật: “Lúc sau người bạn thân gặp gỡ thấy gã cho đến”. Văn đầu có ba: Lãnh giải sắp lìa đường hiểm. “Gã say đó nằm” cho đến lãnh giải giữa đường lui sụt. “Sau khi dậy bèn đi”. Lãnh giải vì lập hóa thành, không lãnh chúng mệt mỏi, tức mười sáu vương tử cho đến đầu tiên gặp nhau. “Có người cho đến” là dụ cho thân mình, nhà bạn thân là dụ cho trước vương tử là bạn lành chân. Bạn đồng chí hướng gọi là thân. Trước dùng Phật pháp làm nước, Đại thừa làm thành, Trung đạo Đại thừa làm nhà, nay nhà này tức là nhà kia, từ trong sanh tử đến Pháp khi còn phàm phu phiền não chưa đoạn vô minh trói buộc, hôn mê say sưa tâm đắm chìm trong sanh tử; tuy gặp pháp Phật còn gọi là say nằm. Như lúc ấy còn làm vương tử: đây là hóa duyên dứt. Các chỗ khác hành hóa gọi là việc quan phải đi, cũng như thuyền rộng mà đi xa về đông, ngắm nhìn ao mà dòng chảy về Tây, nhưng thật ra không đi. Tự đi trái với chân liền cho là Phật đi. Kinh Hoa Nghiêm nói: có mười thứ hành (đi): 1. Đi nghe pháp. 2. Đi nói pháp. 3. Đi không thuận theo tham sân si. 4. Đi vào cõi Dục. 5. Đi vào sắc cõi Vô sắc Tam-muội. 6.Đi tìm pháp nghóa. 7.Đi tất cả thú. 8. Đi khắp các cõi Phật. 9. Đi vào Niết-bàn. 10. Đi thành tựu pháp của Chư Phật. Thuận theo nên phải giải thích. Đây là vì mười phương pháp vương Phật pháp mà đến kia hóa độ, nên nói việc quan phải đi. Dùng châu báu vô giá, nghóa là tâm đai Bồ-đề. Châu báu có ba: 1.Nước trong. 2.Như ý. 3.Nhổ ra vàng. Nhổ ra vàng có ba: 1.Hạ phẩm nhổ một lần được bội ngàn. 2.Trung phẩm nhổ một lần được bội muôn. Thượng phẩm nhổ một lần được bội vô lượng, dụ cho Nhất thừa năng xuất tam thừa. Từ tiểu đến đại như thứ lớp phối hợp. Nước trong dụ chung cho Phật pháp trong sáng hơn phiền não, như ý dụ cho tâm đại Bồ-đề , tùy ý cầu chi đều đầy đủ, nay lấy đây làm dụ, áo là ý thức, buộc là huân tập. Dạy phát tâm rồi đến phương khác hành hóa gọi là cho rồi đi. Kinh: “Gã đó say nằm đều không hay biết”. Tán: Lãnh giải giữa đường lui sụt. Lúc bấy giờ còn bị phiền não làm hôn mê, tuy nằm trong nhà Đại thừa bạn thân mà không biết có tâm Bồ-đề quý giá. Duy thức dẫn kinh nói say sưa trói buộc tâm không hề tỉnh giác. Kia gọi Mạt na tương ưng vô minh là thể say, nay do thức thứ sáu bất cọng vô minh chánh làm thể say, ở địa vị phàm phu chúng sanh nên sau khi dậy liền đi. Kinh: “Sau khi dậy liền đi cho đến liền cho là đủ”. Tán: Lãnh giải vì lập ra hóa thành: Đã tâm lui sụt Đại thừa khởi nơi thắng pháp gọi là dạo đi, liền đến trong Phật pháp Đại thừa gọi là nước khác chẳng hề lớn lên. Xưa ở trong sanh tử gọi là nước mình, ở trong Đại thừa gọi là nhà bạn. Nếu người phát tâm rồi ở trong Phật pháp lấy Phật pháp làm nước mình, sanh tử làm nước khác, tức văn này lâu ở nước khác hơn năm mươi năm. Người chưa phát tâm trước ở ngoài Phật pháp lấy sanh tử làm nước mình, Phật pháp làm nước khác, tức là văn này cũng đồng Kinh Niết-bàn nói. Hoặc dùng Đại thừa làm nhà cha, Tiểu thừa làm nước khác; cầu vị chánh pháp gọi là y thật, tự sách tấn mình làm khuôn mẫu cho chánh pháp gọi là cố gắng tìm cầu rất là khổ nhọc. Đây là ở nhân vị Nhị thừa xả bỏ ngũ dục lạc buông lung. Có ít sở đắc Nhị thừa Niết-bàn lại không tiến cầu mà cho là đã đủ, nghó gì đã được độ nghó là đã an ổn. Kinh: “Lúc sau người bạn thân cho đến mà đến nỗi này”. Tán: Lãnh giải nay nói thật có hai: Trước lãnh giải diệt hóa, sau lãnh giải nói thật. Đây là phần đầu. Vì sao lại cầu cơm áo vô lậu mà uổng đến nơi địa vị Nhị thừa ư! Gian nan như vậy mà được lợi ích tiểu quả, đây chẳng phải thật! Kinh: “Ta lúc trước muốn cho ông cho đến thật là khờ lắm”. Tán: Dưới lãnh giải chánh nói thật có ba: Trước nói tình cờ gặp, tiếp nói trú nơi quyền, sau khiến chọn thật. Đây nói phần đầu. Ngũ dục lạc tức năm thứ an vui: Tự tánh lạc. Nhân vui. Thọ đoạn vui. Khổ đối trị vui. Vô não hại vui. Hoặc Quả Phật năm pháp thanh tịnh pháp giới và bốn trí phẩm; hoặc là Đại thừa vô lậu ngũ uẩn, là giới thân cho đến”Ta xưa vì muốn ông được vui năm thứ này nên buộc châu vô giá là nhân mầu Bồ-tát, huân tập ở tâm ông trong áo thức hiện tại, mà ông không biết, tự lo buồn để cầu tự lợi, pháp chấp bất diệt không cầu năm lạc, rất là ngu si. Kinh: “Nay ông nên đem ngọc cho đến không hề thiếu thốn”. Tán: Nay khiến chọn thật. Mậu dịch là đổi chác. Dùng sơ tâm Tiểu thừa châu báu gần gũi Chư Phật, nghe huân chánh pháp lại tăng thâm gốc lành, đổi chọn Đại thừa thượng vị phước trí, đại như ý châu quí châu báu, một phen đắc rồi sau thừờng có thể như ý không hề thiếu thốn các đức đầy đủ. Kinh: “Đức Phật cũng như vậy cho đến tâm cầu Nhất-thiết-trí”. Tán: Dưới hợp, trong đó có hai: Trước hợp lãnh xưa quyền, sau “Ngày nay Thế tôn cho đến” hợp lãnh nay thật. Văn đầu cũng có ba, đây hợp đầu sẽ lìa hiểm nạn. Kinh: “Mà chúng con liền bỏ quên không hay biết”. Tán: Hợp lãnh giữa đường lui sụt. Kinh: “Đã đắc đạo A-la-hán cho đến vẫn còn chẳng mất”. Tán: Hợp lãnh vì lập ra hóa thành tu hành đúng phép tắc khi tìm báu thánh pháp tài, uổng phí công lực gọi là khổ nhọc nuôi sống, gian độ nan trị, giải thích gọi là gian căn, như vật căn nhọc nhằn người rất kiêng sợ. Đắc A-la-hán nghóa là đắc đạo viên mãn, chút ít cho là đủ. Xưa nhân bổn nguyện ngày nay vẫn còn nay thời thuần thục. Kinh: “Ngày nay Đức Phật Thế tôn cho đến thật được diệt độ”. Tán: Hợp lãnh nay nói thật, có hai: Trước hợp lãnh diệt hóa, sau hợp lãnh nói thật. Ở đây nói phần đầu. Chỉ rõ hai thứ Niết-bàn làm nhân Phật cho nên nói khiến ông gieo trồng gốc lành Phật, chỉ tướng Niết-bàn. Kinh: “Thế tôn cho đến được điều chưa hề có”. có. đủ”. Tán: Ở đây hợp lãnh nay nói thật, vui mừng được điều chưa hề Kinh: “Bấy giờ A Nhã Kiều-trần-như cho đến liền tự cho là Tán: Dưới mười hai hàng rưỡi tụng chia làm hai: hai hàng rưỡi tụng hối hận tự trách; mười hàng tụng sau lãnh giải. Hai hàng rưỡi đầu: một hàng nêu lễ, một hàng rưỡi tụng tự trách. Kinh: “Thí như người nghèo cùng cho đến say nằm không hay biết”. Tán: Mười hàng tụng lãnh giải có hai: sáu hàng đầu tụng lãnh dụ, bốn hàng sau tụng hợp lãnh sáu hàng lại có hai: bốn hàng đầu tụng xưa quyền dụ, hai hàng sau tụng hợp lãnh nay nói thật dụ. Lãnh quyền có ba, văn này có hai: bảy câu đầu tụng sơ giáo phát tâm dụ, tiếp một câu lãnh giữa đường lui sụt dụ. Từ trong sanh tử đến nhà Đại thừa cho nên gọi là đến, pháp tài vô lượng nên gọi là giàu lớn, dùng giáo pháp làm tiệc ngon, Bồ-đề tâm làm châu báu, tuy gặp Đại thừa cũng còn say vô minh nên nói nằm không biết. Kinh: “Sau khi gã đó dậy cho đến có châu báu vô giá”. Tán: Lãnh vì lập ra hóa thành dụ, thối Đại thừa rồi sau từ sanh tử dậy đến nước Nhị thừa. Kinh: “Người bạn thân cho châu cho đến tha hồ hưởng ngũ dục”. Tán: Lãnh nay nói thật dụ. Đầu tụng chỉ bày nhân xưa diệt hóa nói lên chân, sau tụng sanh vui mừng, tuy hiện chưa giàu nhưng sẽ giàu nhiều tài vật, chưa đắc ngũ dục không khác như đắc, như thấy bạch thứu ở cây tiêu biểu nước chẳng phải không có. Kinh: “Chúng con cũng như vậy cho đến cho đủ chẳng cầu nữa”. Tán: Dưới bốn hàng tụng hợp lãnh, có hai: hai hàng tụng hợp lãnh xưa quyền, hai hàng tụng hợp lãnh nay nói thâït. Đây là hai hàng đầu: một hàng tụng hợp lãnh sẽ lìa hiểm nạn, tiếp nửa hàng tụng hợp lãnh giữa đường lui sụt, sau nửa hàng tụng hợp lãnh vì lập ra hóa thành. Kinh: “Nay Phật giác ngộ con cho đến thân tâm khắp vui mừng”. Tán: Đây hai hàng tụng hợp lãnh nay nói thật có hai: một hàng tụng hợp lãnh diệt hóa nói lên chân, hàng sau tụng về do đó sanh vui mừng. ------------------------------- PHẨM THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ Chia làm ba môn : Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải thích chướng nạn. Vì sao có phẩm này có hai: Người hạ căn lược có hai loại: người cao danh phẩm thọ ký trước , hàng chẳng cao danh, phẩm này thọ ký cho nên có phẩm này. 2. Trong Phật thọ ký ở trên cùng đồng thọ ký đây cùng sau thọ ký, cho nên có phẩm này. Giải thích tên gọi: Hướng cầu tiến tập gọi là học, tiến tập ngưng đủ gọi là Vô học, nay Đức Phật thọ ký cho họ gọi là thọ ký cho hữu học Vô học. Giải đáp chướng nạn: Hỏi: Vì sao vì hàng trung căn thọ ký hợp làm một phẩm, thọ ký cho người hạ căn chia hai phẩm phải không? Đáp: Thọ ký cho hàng cao danh một khác hai đồng. Mãn Từ Tử và Kiều-trần-như hai loại khác, không phải hàng cao danh tuy một đồng mà hai khác, như hai ngàn người và A-nan là hai thứ khác, do đó hai loại chia thành hai phẩm. Trung tánh không như vậy. Trong cao danh, Mãn Từ Tử vì hóa, trong hạ danh A-nan vì hóa. Kinh: “Bấy giờ ngài A-nan cho đến thì sung sướng lắm”. Tán: Phẩm này có hai đoạn: Trước chúng tự hy vọng, sau Phật thọ ký. Cho Văn đầu có hai: Đầu tiên hai vị cầu thỉnh, sau hai ngàn vị cầu thỉnh. Trong phần đầu lại có hai: Tâm niệm. Trình bày. Đây là phần nói tâm niệm. Kinh: “Liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi cho đến chỗ nương về của chúng con”. Tán: Dưới nói trình bày, có ba: Trình bày mình có phần để qui về Phật. Nói về lý do hai vị hợp thọ ký. Chính là trình bày thỉnh, đây là phần trình bày. Kinh: “Lại chúng con cho đến là con của Phật”. Tán: Đây nói lý do hai người hợp thọ ký. Kinh: “Nếu Phật thọ ký cho đến lòng trông mong của chúng cũng được đủ”. bên”. Tán: Đây chính trình bày thỉnh thọ ký. Kinh: “Bấy giờ các bậc Hữu học Vô học cho đến đứng sang một Tán: Đây hai ngàn người cầu thỉnh. Kinh: “Bấy giờ Đức Phật bảo cho đếnThế tôn”. Tán: Đoạn thứ hai Đức Phật vì thọ ký biệt, có ba: Trước thọ ký nan, tiếp thọ ký La-hầu-la, sau thọ ký hai ngàn người. Thọ ký A-nan có bốn: Phật thọ ký. Chúng nghi. Đức Phật biết bảo. A-nan chứng nói Phật thọ ký. Đầu tiên là văn xuôi có tám: 1.Tên Phật. 2.Nhân hạnh. 3.Lợi ích. 4.Tên nước. 5.Tướng cõi. 6.Tên kiếp. 7.Trú thọ. 8.Khen ngợi. Đây là đầu, do trì pháp tạng trí như biển sâu rộng không gì sánh bằng như núi cao khó ngưỡng mặt nhìn thấu gọi là Nói Hải Tuệ, chứng đắc thần thông siêu vượt gọi là Tự tại, không gì làm chướng ngại gọi là Thông vương. Kinh: “Sẽ cúng dường cho đến chánh Đẳng Giác”. Tán: Đây là thọ ký nhân hạnh. Kinh: “Giáo hóa hai mươi ngàn cho đến Diệu Âm đầy khắp”. Tán: Đây có bốn thọ ký: Lợi ích. Tên nước. Tướng cõi. Tên kiếp. Kinh: “Đức Phật đó tuổi thọ cho đến gấp bội chánh pháp”. Tán: Đây thọ ký trú bội tuổi thọ. Kinh: “A-nan cho đến ngợi khen công đức của ngài”. Tán: Đây thọ ký khen ngợi. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến vậy sau thành chánh giác”. Tán: Đây một hàng tụng thọ ký nhân, bốn hàng sau tụng thọ ký quả. đạo”. Kinh: “Hiệu là Nói Hải Tuệ cho đến gieo nhân duyên Phật Tán: Bốn hàng tụng thọ ký quả có sáu: 1. Nửa hàng tụng tên. 2. một câu nêu tướng cõi. 3.Một câu tên nước 4.Nửa hàng tụng lợi ích. 5. Nửa bài khen ngợi. 6.Hai hàng tụng trú gấp bội tuổi thọ. Lợi ích chúng sanh tu nhân hạnh Phật . Kinh: “Bấy giờ trong hội cho đến được thọ ký như thế”. Tán: Thứ hai chúng nghi. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến tâm chánh đẳng giác”. Tán: Thứ ba: Đức Phật biết bảo, có ba: Trước nói nhân ban đầu, kế trình bày hạnh sau, sau kết được thọ ký. Đây nói nhân ban đầu. Câu Xá luận chép: Đức Thích-ca sơ gặp Thích-ca phát tâm, như kia tụng chép: “Ở ba vô số kiếp, ngược dần gặp Thắng Quán. Phật Nhiên Đăng Bảo Kế sơ Thích-ca Mâu-ni.” Nay nói giữa đường tùy một chỗ gặp Phật, chẳng phải đầu tiên. Kinh: “A-nan thường ưa học rộng cho đến thọ ký dường ấy”. Tán: Đây là trình bày hạnh sau của A-nan và kết thúc được thọ ký. Cho nên Hoa Nghiêm chép: Thí như người nghèo cùng ngày đêm thường đếm vật báu cho người mà tự mình chẳng được nữa đồng, học rộng cũng như vậy cho đến cho nên không chỉ học rộng có thể siêu việt ngay mà phải thực hành để giúp. Tức Kinh kia nói: Nếu muốn cầu trừ diệt vô lượng các lỗi ác, cần phải tất cả thời phát tinh tấn mạnh mẽ, cũng không chỉ kia hành liền đắc Bồ-đề, cần nhờ học rộng là dẫn dắt, nên lại như Kinh nói: Học rộng năng dẫn lạc, học rộng nhiếp các thiện, học rộng xả vô nghóa, học rộng đắc Niết-bàn, cho nên biết văn này căn cứ 1 tướng luận. Đối với một gốc lành hoặc khen hoặc chê thì sự hóa bất định, nhưng nhân hạnh của Chư Phật, sơ địa về trước đức, lực bằng nhau, tướng thành Phật cũng như vậy, chỉ do bổn nguyện có khác, nên thấy khác nhau cho nên có sai khác, nên đây kết nói bổn nguyện như vậy. Kinh: “A-nan cho đến cũng biết bổn nguyện”. Tán: Thứ tư: A-nan chứng nói có hai: Đầu tiên Kinh gia trình bày chứng, sau A-nan tự trình bày nói. Đây là phần đầu. Kinh: “Bấy giờ A-nan cho đến hộ trì pháp Chư Phật”. Tán: A-nan tự trình bày nói vị mình cao, thị hiện hóa thành thị giả nên nói phương tiện. Kinh: “Bấy giờ Đức Phật bảo cho đến cũng như nay”. Tán: Phần Phật thọ ký cho La-hầu-la. Văn xuôi có bốn: Danh. Nhân. So với trước. Nối dõi. đến” Đây nói danh và hạnh. Kinh: “Đức Phật Đao Thất Bảo Hoa cho đến, Chánh giác cho Tán: Thọ ký giống như Phật Nói Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương ở trên và thọ ký nối dõi. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến nhất tâm cầu Phật đạo”. Tán: bốn hàng tụng chia làm bốn: Thường làm con ta. Làm trưởng tử của Chư Phật. Trình bày mật hạnh. Nói nhân thù thắng. Đây nói hai hàng đầu, Đức Phật có ba người con, vị này là trưởng tử. Kinh: “La-hầu-la mật hạnh cho đến để cầu đạo vô thượng”. Tán: Hai hàng sau hai: Tôn giả giữ lại thân ở cõi Thiệm-bộ châu không nhập Niết-bàn. Tức nay phương tây có người thấy. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến hai ngàn người đây chăng”. Tán: Phần Phật thọ ký cho hai ngàn người. Có bốn ý: Phật thấy hỏi. A-nan đáp. Chánh thọ ký. hai ngàn người vui mừng lãnh thọ. Đây nói ý đầu. Mềm mỏng là điều tánh thuận căn thuần thục, tịch nhiên là tâm vắng lặng diệu lý, thanh tịnh là chẳng mê hoặc phiền não, nhất tâm không suy tư gì khác. Kinh: “Vâng! Con đã thấy”. Tán: Đây là A-nan đáp. Kinh: “A-nan cho đến hộ trì pháp tạng”. Tán: Chánh biệt ký. Văn xuôi có hai: Thọ ký nhân và thọ ký quả. Đây nói Thọ ký nhân. Kinh: “Rốt sau đồng thời cho đến thảy đều đồng nhau”. Tán: Thọ ký quả có hai: Danh đồng. Các thứ khác đồng. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến sau sẽ thành chánh giác”. Tán: năm hàng tụng chia làm năm. Đây là hai hàng đầu: một hàng nêu ra, hàng tụng nhân. bàn”. Kinh: “Đều ở mười phương cõi cho đến dần nhập vào Niết- Tán: ba hàng: một hàng tụng hiệu danh đồng, một hàng tụng nêu danh đồng, một hàng tụng nêu danh cõi v.v… đồng một bài tụng nêu thần dụng, danh đồng văn xuôi không có. Kinh: “Bấy giờ bực Hữu học Vô học cho đến như được rưới cam lồ”. Tán: Hai ngàn người vui mừng lãnh thọ. Niên hiệu Bảo An năm thứ ba ngày 16 tháng 12, để tại chùa Hưng Phước Viên Như phòng, tăng Giác Ấn chùa Pháp Long đã kiểm duyệt xong, vì muốn chánh pháp tồn tại lâu dài nên lưu hành. <篇> KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 8 (PHẦN CUỐI) PHẨM PHÁP SƯ Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này Giải thích tên phẩm. Giải đáp chướng nạn. Vì sao có phẩm này có ba: Trên một phẩm Tựa đầu nói về lý do, kế có tám phẩm gọi là chánh tông. Trước dẫn phẩm Tín hiểu nói: Nay trong kinh này chỉ nói Nhất thừa. Phẩm này lại nói mở cửa phương tiện bày tướng chân thật, tức dùng Nhất thừa chánh làm tông kinh, phù hợp với người Nhị thừa tánh bất định kia đều đã thọ ký xong, mười chín phẩm sau đây gọi là lưu thông. Lưu thông kinh này chẳng chánh phù hợp Nhị thừa thối tâm Đại thừa, lại không bỏ quyền bày thật chánh nói nơi Nhất thừa. Tuy phẩm này và phẩm Trì dần có thọ ký tám bộ Tỳ- kheo cho đến, nhân nói tổng ký, nhưng chẳng nói Nhất thừa phù hợp khiến tu học mà thọ ký, cho nên đều là lưu thông. Trong phần lưu thông chia làm ba: bốn phẩm đầu khen ngợi tôn trọng lưu thông, khen ngợi pháp, khen ngợi người đáng tôn trọng khiến sanh vui mừng ngưỡng mộ, kế bảy phẩm học hành lưu thông học chánh hành trợ hành mở mang truyền bá kinh này khiến không thương tổn hủy hoại, tám phẩm sau phó thọ lưu thông, chỉ bày tướng phó chúc vâng lệnh hành, cũng tức là ba châu nói lưu thông. Hỏi: Các kinh lưu thông văn ít nghóa lược, nay trong kinh này do đâu mà rộng như thế? Đáp: Cuối phẩm này nói: Ta nói vô lượng ngàn ức kinh điển, trong số đó chỉ có kinh này rất là khó tin khó hiểu, bí yếu Chư Phật thường tự giữ gìn, từ xưa đến nay chưa hề bày nói, vì sao sâu xa khiến người sanh lòng tin rất ít, cho nên phần lưu thông này thường nói ở các kinh khác. Lại hóa Đại căn cơ dễ có thể thành thục giáo hóa chúng sanh hồi tâm khó tin hiểu, nên có nhiều các thứ lưu thông các thứ khuyên cố gắng. Bốn phẩm đầu khen ngợi tôn trọng lưu thông, thì ba phẩm khen ngợi tôn trọng, một phẩm Trì sau là lưu thông. Trong ba phẩm đầu, một phẩm Pháp sư hiển trong kinh nói hoặc người hoặc pháp đều đáng tôn trọng đáng làm khuôn phép phép tắc, một phẩm Bảo Tháp nói pháp này đáng tôn trọng, nói kinh này từ trong tháp vọt hiện ra nghe pháp, một phẩm Thiên thọ tuy cũng nêu rõ pháp mà ý nêu rõ người năng hoằng kinh, người đây đáng tôn trọng vì trọng pháp, người ấy không lẫn tiếc thân mạng dùng thân mình làm giường ghế. Phẩm Trì kia đã quán suốt ba phẩm này, khen ngợi tôn trọng nghóa rộng liền nguyện mở rộng cho nên bốn phẩm này gọi là khen ngợi tôn trọng lưu thông. Còn lại hai lưu thông văn sẽ giải thích, đây là ý của phẩm đầu. Mười chín phẩm gọi là chánh tông: mười hai phẩm đầu nêu rõ cảnh Nhất thừa trong đó chia làm hai: Trên tám phẩm chánh nêu rõ quyền thật ba căn được thọ ký, tiếp đây bốn phẩm khen ngợi người pháp khuyên ngưỡng mộ hành trì, tổng quát bốn phẩm không khác lưu thông cho nên có phẩm này. Trong luận có bảy thí dụ - ba bình đẳng - mười vô thượng - thứ mười là thị hiện lực thù thắng mầu nhiệm vô thượng, còn lại Tu-đa-la nói, tức là luận nói về sau thị hiện hai thứ lực Pháp lực và tu hành lực. Pháp lực có năm: Chứng. Tín. Cúng dường. Nghe pháp. Đọc tụng trì nói. Bốn phẩm đầu đều có Di-lặc Phẩm, tức là phẩm Phân biệt, công đức và tùy hỷ công đức, đều bảo với Di-lặc. Một phẩm Thường Tinh Tấn sau tức phẩm Pháp Sư Công Đức, bảo với Thường Tinh Tấn. Năng lực tu hành có bảy: Năng Lực trì. Năng nói. Năng Lực hành khổ hạnh. Năng hộ các nạn cho chúng sanh. Lực công đức thù thắng. Lực hộ pháp. Năng Lực trì có ba phẩm. Phẩm Pháp Sư - An Lạc hạnh và Phẩm Trì. Phẩm Pháp Sư nói chung pháp và người năng trì sở trì, kế phẩm An Lạc Hạnh nêu người trì Kinh và pháp tu hành, sau phẩm Trì nêu người năng trì, cho nên ba phẩm đều gọi là lực trì. Trên biện rõ quyền thật chánh hợp căn cơ Nhị thừa, chưa nói năng trì sở trì đáng tôn trọng, nay nói nghóa này nên có phẩm này. Giải thích tên gọi: Đáng làm khuôn phép đáng trọng giữ gìn gọi là pháp, đáng huân tập làm khuôn mẫu gọi là Sư, giáo đây đáng làm khuôn phép lý đây đáng giữ gìn cả hai gọi là pháp, pháp đây đáng huân tập gọi là Pháp Sư. Cho nên Kinh Niết-bàn chép: Chư Phật là thầy, có chỗ gọi là pháp. Kinh Di Giáo nói: Ba la đề mộc xoa là đại sư của các thầy. Trong phẩm này khen ngợi kinh đáng tôn trọng, pháp tức là Thầy nên gọi là Pháp Sư, pháp này làm pháp sư. Người năng học pháp có thể làm thầy khuôn phép dạy bảo chúng sanh, vì thầy có pháp nên gọi là Pháp Sư. Phẩm này nói rộng người và pháp đáng làm Thầy, nên gọi là phẩm Pháp Sư. Ở cuối phẩm đều nói pháp và người học đều gọi là pháp sư, nghóa đều là thù thắng. Giải thích chướng nạn: Hỏi: Người hoằng trì kinh này ở thời trước Phật, sau Phật đều gọi là Pháp Sư hay chỉ sau khi Phật diệt độ ư? Đáp: Đều gọi là pháp Sư. Trong đây phần nhiều chỉ sau khi diệt độ gọi là pháp Sư. Người này hiện tại được gọi là đệ tử, nhưng hiện được thọ ký trong đó cũng gọi là pháp Sư. Lại do hiện tại người thọ trì dễ nên lược qua không nói, sau khi Đức Phật diệt độ người trì rất khó, do đó mới được gọi riêng là Pháp Sư. Lại hiện tập học gọi là đệ tử, tám bộ kia cũng gọi là pháp Sư. Hỏi: Phẩm Trì cũng nói trì kinh này có thể làm khuôn phép vì sao chỉ có phẩm này được gọi là Pháp Sư? Đáp: Tuy nói gọi chung tức là tên riêng, không có khả năng riêng, nhưng các phẩm khác lại có nghóa riêng biệt có thể gọi, huống chi trong đây khen ngợi cả người và pháp đều đáng làm thầy. Lại phẩm Trì hiện tại nói pháp gọi là trì, đây nói sau khi diệt độ khuyên khen ngợi có khả năng cao siêu gọi là phẩm pháp Sư. Hỏi: Phẩm này cũng có thọ ký vì sao không gọi là phẩm Thọ Ký? Đáp: Do ít lược nên theo nhiều làm tên phẩm. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến chánh đẳng giác”. Tán: Trong phẩm này văn chia làm hai: Một đoạn đầu văn xuôi và tụng nêu nhân pháp Sư, một đoạn văn sau văn xuôi và tụng nêu pháp pháp Sư. Đoạn đầu, văn có hai: Trước nêu Pháp sư đối trước Phật, sau nêu Pháp sư không đối trước Phật. Đây là phần đầu. Do đức Dược vương từ lâu đã trì kinh này đốt thân cúng dường nên gọi là Dược vương. Nói “nhân Dược vương mà nói với tám muôn cho đến” là ý chánh nói thọ ký cho kia. Trong chúng được thọ ký có tám bộ bốn chúng tam thừa các loại sai khác. Biện Trung Biên luận có mười pháp hành, trong mỗi một hành đều có bốn hành: Tự làm. Khuyên người khác làm. Khen ngợi. Vui mừng an ủi. Nay tùy hỷ tức là vui mừng khen ngợi, nêu một giống như nhiều. Do tiểu gốc lành đắc Bồ-đề, cũng như mặt trời mới lên liền có công năng trừ bỏ bóng tối, trí sán lạn liền có thế lực dứt trừ si, cũng như ráng mây mới trải đã có công năng thấm nhuần muôn có cây, tâm từ bi khởi phát đã mang khí ấm áp đến chúng sanh. Một câu tùy hỷ sẽ đắc Bồ-đề, tin học kinh này chắc chắn sẽ chứng quả, còn gì nghi ngờ! Kinh: “Đức Phật bảo Dược vương cho đến thọ ký thành Chánh Đẳng Giác”. Tán: Dưới nói Pháp Sư không đối trước Phật, có hai phần: Trước nêu nghe rồi còn tùy hỷ, sau nêu sáu hạng Pháp Sư chánh hạnh. Đây là đầu, chánh ưa nghe công đức vô lượng, nay chỉ nêu một phen nghe tùy hỷ, theo lệ còn lại là tự tạo tác, khuyên người vui vẻ an ủi công đức đâu cùng. Lại trên giải thích Pháp Sư sơ học, dưới giải thích pháp Sư đã học lâu, là Đại Bồ-tát. Kinh: “Nếu lại có người cho đến chắp tay cung kính”. Tán: Dưới nói sáu hạng pháp Sư chánh hạnh, có hai: Trước nêu chánh hạnh sáu hạng Pháp Sư bi nguyện đến cõi này. “Sau khi ta diệt độ, có thể riêng vì một người nói kinh Pháp Hoa v.v…” là nói sáu hạng Pháp Sư đáng tôn trọng. Trong phần đầu lại có hai: Trước nêu “cho đến một câu kệ cho đến” là hành pháp, sau nêu “huống chi là người có khả năng thọ trì v.v…” là nói hành nhiều pháp. Trong phần hành pháp lại có hai: Đầu nêu hành sáu hạnh ở chỗ Chư Phật thành tựu bi nguyện sanh trong nhân gian, sau nói “Nếu có người hỏi những chúng sanh nào cho đến” là nói lên nhân thù thắng đời sau thành Phật. Trong phần đầu lại có hai: Trước nói sáu hạng pháp Sư, sau nói bi nguyện đời sau. Đây là phần đầu sáu hạng pháp Sư : Thọ trì. Đọc. Tụng. Giải nói. Viết chép. Cúng dường. Đây là nói năm hạng pháp Sư đầu thực hành một câu kệ trong kinh, một pháp Sư sau thực hành hạnh cúng dường. một câu kệ trong kinh và một quyển đều hành cúng dường. Các thứ cho đến là tài vật cúng dường. Bắt đầu từ “cung kính xem như Phật” cho đến “chắp tay cung kính” hợp có mười ba thứ. Kia tôn trọng kính xem như Phật là ý nghiệp, chắp tay cung kính là thân nghiệp, hai thứ nội tài, trước tùy hỷ là ngữ nghiệp, còn lại thuộc ngoại tài. Mười pháp hành: Viết chép, cúng dường, thí cho người, lắng nghe, cầm đọc, thọ trì, giảng bày, phúng tụng, tư duy và tu tập ở đây nói dễ hành. Vả lại nói sáu còn lại bốn thứ: Thí cho người, lắng nghe, tư duy, tu tập, đây đều khó hành nên không nói. Trong Kinh quyển nói cúng dường, còn năm hạng kia đối với một câu kệ tức là hiển rõ lẫn nhau, khinh trọng sai khác nên khó dễ sai khác. Kinh: “Dược vương! Nên biết cho đến sanh vào nhân gian”. Tán: Ở đây nói bi nguyện đời sau. Nếu chấp địa vị, quán nhân thì không nên đến. Kinh: “Dược vương! Nếu có người hỏi cho đến ắt được thành Phật”. Tán: Dưới nói lên nhân thù thắng đời sau thành Phật, có hai: Nêu ra và giải thích. Đây là nêu ra. Kinh: “Vì sao? cho đến mà cúng dường”. Tán: Dưới giải thích có hai: Trước nói người tôn trọng đáng cúng dường, sau nói địa vị cao bi nguyện sanh đến cõi này. Đây nói phần đầu. Chiêm ngưỡng sùng bái tôn kính, khế hợp tâm Phật thấu đạt lý mầu nhiệm, do nhân thù thắng đó sẽ được thành Phật lợi ích lớn. Kinh: “Nên biết người đó là cho đến kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. Tán: Đây hiển vị cao, bi nguyện sanh đây. Năng nói kinh này là bực Thánh, nếu không như vậy thì đâu được gọi là đại Bồ-tát! Hoặc tức phàm phu tu học lâu ngày phân chọn khác với Nhị thừa cho đến sơ học gọi là đại Bồ-tát. Bồ-tát danh chung cho người Nhị thừa và Sơ học, hoặc thành tựu phát Bồ-đề tâm sẽ đắc quả cao siêu, đã thành tựu nhân nên năng nói kinh này. Kinh: “Huống lại là người có khả năng thọ trì cho đến. Giảng nói rộng kinh này”. Tán: đây nêu hành nhiều pháp, xả tịnh nghiệp quả tịnh độ, trên trời và hai cõi trên không vãng sanh mà sanh ở cõi này. Luận Trí độ nói: Bất thối Bồ-tát, thâm ái pháp nên nghe thì tâm sâu xa, khắp mình nổi ốc, nghó đến lòng từ bi của Phật thì cảm thương khóc lóc, hoặc nghe pháp sâu xa thì rất vui mừng. Thí như quân bại sợ hãi lăn xuống đất chết ngất thân tộc thấy muốn biết sống, chết thì dùng roi quất liền đứng dậy chạy trốn, nếu không dậy chạy trốn tức biết đã chết. Bồ-tát cũng như vậy, nếu nghe nói diệu lý công Đức Phật vui mừng nỗi ốc sắc diện thay đổi cảm thương khóc lóc, nên biết hạng người này sẽ đắc Bồ-đề. Khác với nghe kinh đều không có tướng khác là nên biết hạng người này không có Bồ-đề phần. Luận Bát-nhã nói: Phước không hướng Bồ-đề Nhị thừa có khả năng hướng Bồ-đề. Huống chi người đây tronày có khả năng thọ trì chẳng phải đại Bồ-tát không thương xót chúng sanh ư! Kinh: “Nếu người thiện nam cho đến riêng vì một người nói” cho đến Tán: Dưới nêu rõ sáu hạng pháp Sư đáng tôn trọng. Văn chia làm hai: Trước nêu năm hạng Pháp sư đáng tôn trọng, sau giải thích lý do: Năm hạng đáng tôn trọng: Làm sứ giả của Như-lai. Tội lỗi chê bai Phật. Đọc tụng trang nghiêm Phật. Lễ bái khen ngợi. Bốn việc cúng dường. Đây là nói hạng đầu. Tam nghiệp thuận Phật thành sứ giả Phật cho đến là ý nghiệp, sai là ngữ nghiệp, làm việc là thân nghiệp. Lại truyền Phật giáo gọi là sứ giả của Như-lai dùng lời nói Phật là sai bảo, đồng làm việc Phật gọi là sự. Thế tôn tam nghiệp tạo tác đều dùng pháp này lợi ích chúng sanh, riêng vì nói một câu sẽ đồng nghiệp Phật, rõ ràng nói nhiều lời, lý hợp hạnh Phật. Kinh: “Dược vương! Nếu có người ác cho đến tội kia rất nặng”. Tán: Tội chê bai Phật, đời ác tổn hại nhiều. Kinh Đại Tập chép: Chê bai Tỳ-kheo phạm giới, tội nặng hơn muôn ức lần làm thân Phật chảy máu. Đại Bát-nhã Thắng Thiên Vương hội nói: Nếu giết hại Chư Phật khắp thế giới đại thiên như vi trần tội còn nhẹ, chê bai kinh này tội còn nặng hơn, mãi mãi đoạ vào địa ngục không lúc nào ra khỏi, nay chê bai người đọc tụng cũng giống như vậy. Nếu tổn hại Phật không tổn hại hành hai lợi, Phật không sanh não, tổn hại người đọc tụng tổn hại hai lợi hành sanh phiền não. Lại tuy chê bai Phật, mà Phật không còn thương ghét, không phế bỏ sự nói kinh lợi ích càng rộng, nếu chê bai người đọc tụng là có oán thân phế bỏ sự tu tập kia. Lại hủy mạ Phật rất khó, chê mắng người đọc tụng rất dễ. Khuyên họ chớ làm như vậy, cho nên đây nói. Lại vào thời Phật trú thế chúng sanh căn tánh cao đẹp tuy có chê mắng Phật, cũng không thoái thiện tâm, tuy tự tổn hại mình sâu mà tổn hại người ít. Sau khi Phật diệt độ chúng sanh cấu nặng, chê bai người trì kinh làm tất cả người nghe phần nhiều lui sụt Bồ-đề tâm; mình và người đều tổn hại nặng, cho nên đây nói. Kinh Hoa Thứ nói: Nếu người làm hoại loạn người phát Bồ-đề tâm chính là hủy diệt tất cả đại pháp quang minh của chúng sanh tội đọa vào năm Vô Gián, ngũ Vô Gián nghịch không hủy hoại tất cả Phật pháp, hủy Bồ-đề tâm chính là hủy hoại tất cả Phật pháp. Lại sau khi Phật diệt độ người y pháp đọc tụng rất là khó có, năng làm bạn lành của chúng sanh đời ác. Cho nên chê bai người đọc tụng nặng hơn chê bai Phật. Kinh: “Dược Vương! Được Như-lai dùng vai mang vác”. Tán: Hạng thứ ba: Đọc tụng Phật trang nghiêm, đầy đủ các đức của Phật, cho nên đọc tụng kinh này sẽ đầy đủ tướng tốt cho đến trang nghiêm tất cả. Nên Kinh Hoa Nghiêm chép: Bồ-tát có mười thứ trang nghiêm: Đại từ trang nghiêm cứu hộ tất cả chúng sanh. Đại bi trang nghiêm chịu đựng tất cả khổ. Đại nguyện trang nghiêm có thể phát nguyện đều rốt ráo. Hồi hướng trang nghiêm kiến lập tất cả công đức Chư Phật trang nghiêm mầu nhiệm. Công đức trang nghiêm lợi lạc tất cả chúng sanh. Ba-la-mật trang nghiêm độ thoát tất cả chúng sanh. Trí tuệ trang nghiêm trừ diệt tất cả phiền não ngu si cho tất cả chúng sanh. Phương tiện trang nghiêm xuất sanh thiện môn các gốc lành. Tâm Nhất-thiết-trí vững chắc bất loạn trang nghiêm không thích thừa khác. Quyết định trang nghiêm trong chánh pháp dứt nghi ngờ. Nên Kinh Thắng-man nói: Nhiếp thọ chánh pháp Người thiện nam, dùng vai mang vác gánh nặng không chỉ người trì kinh có thể gánh vác bốn loài sanh mà cũng chính là được Như-lai dùng vai mang vác, được Đức Phật quí trọng nên xứng Phật tâm, có hai nghóa: 1.Tác. Bị. Trên là nghóa bị. Đây nói nghóa tác: Tức là tự vai mang vác, cũng là dùng vai mang vác đại Bồ-đề mà Như-lai đã mang vác, tức là mang vác đại Bồ-đề, tức là mang vác Vô thượng Chánh đẳng giác. Kinh: “Người đó đến đâu cho đến nên đem báu cõi trời dâng cho người đó”. Tán: Hạng thứ tư nên khen ngợi lễ bái tôn trọng người ấy. Hạng thứ năm nên bốn việc cúng dường người ấy vì có ruộng phước chân thật, có khả năng thọ sự cúng dường mầu nhiệm. Thức ăn uống ngon, là đầy đủ sự ăn uống. Kinh: Vì sao cho đến Chánh Đẳng Giác”. Tán: đây là giải thích lý do. Do kinh Pháp Hoa rất sâu xa bí mật nên Phật không giao phó cho ngài A-nan, chỉ giao phó cho Dược Vương, rất bí mật như dùng độc làm thuốc chỉ có Đại thầy thuốc giỏi mới có khả năng, tiểu thầy thuốc bình thường không thể làm được; cho nên Đức Phật giao phó cho Bồ-tát mà không giao phó cho Thanh-văn. Chẳng phải vì Thanh-văn nói giây lát được nghe pháp liền chứng được rốt ráo vô thượng chánh đẳng giác. Lời nói khế hợp chân thật nên tự đắc quả cũng khiến cho người khác đắc. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến và cúng dường người trì”. Tán: Dưới mười sáu hàng kệ chia làm ba: Hai hàng đầu tụng về trình bày chung lý do Pháp sư đáng tôn trọng nên cúng dường, kế mười ba hàng tụng đức của Pháp Sư, sau một hàng tụng kết thành pháp thù thắng nên người đáng tôn trọng. Đây là hai hàng đầu. Lại có hai: một hàng tụng được trí nhậm vận, tức trí tánh chân thật lí hai không chân thật, sau một hàng tụng đắc trí tướng chân thật, nhất thiết chủng tức hậu đắc trí, và trí tuệ tức căn bản trí, chia làm hai: khuyên tự thọ trì và cúng dường người trì kinh, tự nhiên trí chỉ khuyên cúng dường, nêu rõ tự thọ trì được trí này có gì nghi nữa! Kinh: “Nếu người năng thọ trì cho đến nói rộng pháp vô thượng”. Tán: Mười ba hàng tụng dưới đức của Pháp Sư trước, có hai: ba hàng đầu tụng về khen ngợi pháp Sư thù thắng, mười hàng sau tụng đáng tôn trọng. Đây là ba hàng đầu: Một hàng tụng làm sứ giả Phật, một hàng kế tụng bỏ tịnh độ, một hàng sau tụng tùy nguyện tự tại. Kinh: “Nên dùng hoa hương trời cho đến cúng dường người nói pháp”. Tán: Mười hàng tụng đáng tôn trọng, có hai: bốn hàng chánh tụng khen ngợi Pháp sư đáng tôn trọng, sáu hàng sau tụng so sánh sai khác tội phước khuyên sanh tôn trọng. bốn hàng tụng đầu lại chia làm hai: một hàng tụng trọng người nói pháp, ba hàng tụng trọng người thọ trì. Đây là một hàng đầu: Do người nói pháp tự nhiên sẽ đắc quả báo mầu nhiệm thù thắng cho nên lược khen ngợi. Như Khế Kinh nói: Nếu có giới đầy đủ tuy yếu xấu mà có thể giảng nói lợi ích nhiều người, như Phật Đại Sư nên cúng dường, ưa kia khéo nói nên tương tợ. Luận Câu- xá cũng chép: Cha mẹ, Pháp Sư bệnh, thân Bồ-tát sau cùng dù chẳng đắc thánh mà bố thí pháp quả cũng vô lượng. Kinh: “Đời ác sau ta diệt cho đến làm việc của Như-lai”. Tán: Đây ba hàng kế tụng tôn trọng người thọ trì: một hàng tụng khuyên cung kính, một hàng tụng cúng dường, một hàng tụng làm sứ giả Phật. Giảng nói đọc tụng đều là thọ trì. Kinh: “Nếu ở trong một kiếp cho đến tội đây lại hơn kia”. Tán: sáu hàng tụng so sánh tội phước khuyên sanh tôn trọng chia làm hai: hai hàng đầu tụng so sánh tội, bốn hàng sau tụng so sánh phước. Đây là hai hàng đầu. Kinh: “Có người cầu Phật đạo cho đến phước đây lại hơn kia”. Tán: bốn hàng tụng chia làm hai: hai hàng đầu tụng đối Phật so sánh, hai hàng sau tụng nghe pháp so sánh cúng dường. Đây là hai hàng đầu. Khen ngợi Phật dễ, nên tâm, khinh lợi ít, khen ngợi người trì kinh khó, nên tâm trọng lợi nhiều, mình và người có nhiều ít như trước giải. Kinh: “Trong tám mươi ức kiếp cho đến nay ta được lợi lớn”. Tán: Đây do nghe pháp so sánh cúng dường, cúng tài cúng pháp đều có hơn kém, pháp cúng dường nghóa là nghe pháp. Kinh: “Dược Vương! Nay ta bảo ông cho đến Pháp Hoa là bậc nhất”. Tán: Một hàng tụng hiển pháp thù thắng. Người thành đáng tôn trọng. Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật lại bảo cho đến khó tin khó hiểu”. Tán: Đoạn thứ hai nói pháp Pháp Sư. Trong đây trước văn xuôi sau kệ tụng. Văn xuôi có ba: Đầu nêu pháp khó tin hiểu chớ giảng nói truyền bá bừa bãi “bất cứ ở đâu hoặc nói hoặc nghe v.v… là nói pháp thân Xá-lợi đáng được cúng dường, sau “nếu có người thiện nam người thiện nữ sau khi Như-lai diệt độ vì bốn chúng v.v…” là nói nghi thức phép tắc nói pháp. Trong phần đầu lại có hai: Đầu là nói pháp của Pháp Sư sâu xa mầu nhiệm, sau nói do người Pháp sư này lại thành đức cao quý. Nói pháp của Pháp sư lại có hai: Trước nêu pháp khó tin hiểu, sau chớ truyền bá bừa bãi. Đây là phần trước. Kinh này trong ba đời khó tin khó hiểu khiến bỏ quyền theo thật, vô sanh mà hữu sanh cho nên biết khó tin, đạo lý nhiệm mầu cao xa mới chứng nên biết khó hiểu. Kinh: “Dược Vương! Kinh này cho đến huống chi sau khi Phật diệt độ”. Tán: Dưới nói chớ truyền bá bừa bãi trao đại cho người cho đến là răn khuyên chớ truyền, “Chư Phật cho đến” là giải thích lý do kia. Đức Phật thường tự giữ gìn chưa hề khuyên nói, nay mới nói, Đức Phật hiện tại nói mà trong người Thanh-văn còn nhiều người oán ghét người tăng thượng mạn còn đứng dậy bỏ chỗ ngồi mà đi huống chi sau khi Phật diệt độ chê bai không tin. Kinh: “Dược Vương nên biết cho đến được đức Như-lai dùng tay xoa đầu”. Tán: Đây nêu do pháp. Người pháp Sư kia lại thành tựu đức thù thắng, có bảy thứ: Như-lai dùng y trùm đầu, nhu hòa nhẫn nhục đầy đủ hổ thẹn được Phật từ bi che chở. Đức Phật giữ gìn, do đây căn thuần thục Phật khéo giữ gìn các Bồ-tát. Có đại tín. Có chí nguyện lấy dục thắng giải mà làm tự thể. Có gốc lành. Ở chung với Như-lai, cùng ở chung nhà từ bi tâm tư duy thắng nghóa không. Đức Phật dùng tay xoa đầu: Phật giáo để tâm được Phật thọ ký, Phật nhiếp thọ. Kinh: “Dược Vương! Nơi nơi chỗ chỗ cho đến tôn trọng khen ngợi”. Tán: Dưới nói pháp thân Xá-lợi, nên đáng cúng dường có hai phần: Trước nói pháp thân Xá-lợi, sau nêu dùng người này thành pháp Sư cũng là đức thù thắng. Trong phần đầu có hai: Nêu ra và giải thích. Trong nêu có năm chỗ: 1. Nơi nói. 2. Nơi đọc. 3. Nơi tụng. 4.Nơi viết. 5.Nơi để quyển kinh. Cúng dường, bố thí người, lắng nghe, thọ trì, tư duy, tu tập trong mười pháp hành, không ngoài bốn nơi này. “Vì sao? cho đến”. Dưới giải thích có hai: Đầu nói lên toàn thân Xá-lợi, sau nên vì cúng dường. Nêu rõ hai thứ lý trí đều viên mãn, tức là đầy đủ pháp thân, hóa thân, do đây phản chiếu chỉ bày ngộ nhập tri kiến Phật, chung đến Bồ-đề Niết-bàn sự lý cả hai cùng tận, vì vậy Phật dạy tạo tượng biên chép pháp thân Xá-lợi an trong tượng đó nói: Các pháp từ nhân sanh, Như-lai nói là nhân, pháp ấy từ duyên diệt đại Sa-môn nói đó là pháp thân Xá-lợi. Nên Kinh Vô Lượng Nghóa chép: Cũng gọi là vững chắc Xá-lợi. Căn cứ kinh Kim Quang Minh nói: Như như trí gọi là pháp thân, cho nên kinh có chỗ cho đến tức có toàn thân. Kinh: “Nếu có người cho đến chánh đẳng giác”. Tán: Dưới là nói người này thành pháp thân cũng là đức thù thắng có bốn: Lễ bái cúng dường tháp này được gần Bồ-đề. Thấy nghe kinh này khéo hành đạo thù thắng. Thấy nghe kinh này được gần chánh giác. Nghe kinh mà kinh nghi sợ sệt là Bồ-tát mới phát tâm hạng tăng thượng mạn. Đây loại đầu, hướng phát tâm, là gần sơ phát tâm Bồ-đề. Kinh: “Dược Vương có rất nhiều người cho đến gần đạo chánh đẳng chánh giác”. Tán: Loại hai thấy nghe kinh này khéo hành đạo thù thắng, chính là chánh nhân nên đã nhập kiếp số gọi là hành thiện hạnh. Văn có bảy hạnh: Thấy, nghe, đọc, tụng chép, trì, cúng dường, cho nên biết nói tư duy, tu tập, thật là hạnh lành. Kinh: “Có chúng sanh nào cho đến chánh đẳng chánh giác”. Tán: Thấy nghe kinh này được gần sơ địa chánh giác, có ba: Pháp. Dụ. Hợp. Đây là đầu, hoặc nghe là văn tuệ, tin hiểu là tư tuệ, thọ trì là tu tuệ. Kinh: “Dược Vương thí như cho đến biết được sẽ gần”. Tán: Đây là dụ, có người là dụ học xuất ly, dụ người khát tìm nước là dụ tại sanh tử không có nước chánh pháp: Tìm nước theo luận nói nước Phật tánh thành đại Bồ-đề tức giáo sở thuyên lý tánh, sơ địa Bồ-đề chẳng cần tìm cầu; ở cao nguyên: đất rộng bằng phẳng gọi là nguyên dụ cho chánh pháp Phật bao phủ bốn loài, bày khắp muôn tượng vượt qua các đường, khó có thể leo lên được gọi là cao nguyên, tức dùng giáo của ngoại đạo sanh tử gọi là sông bằng, trong sông bằng có cao nguyên. Soi đào tìm cầu: xuyên tạc là xoi đào, dùng diệu tuệ làm trước, ba nghiệp làm dụng cụ lựa chọn suy tìm cầu Bồ-đề, vẫn thấy đất khô, tức là ngày xưa quyền Nhị thừa giáo tích hoàn toàn không có tướng Đại thừa gọi là biết nước còn xa, ra công không thôi: là hai lợi không dứt, lần thấy đất ướt: là gặp Bát-nhã Đại thừa Không giáo có thế lực Bồ-đề cùng đất ướt, rồi lần thấy đất bùn: dụ nghe kinh giáo này, biết nước đã gần: luận nói thọ trì kinh này được nước Phật tánh thành Chánh Đẳng Giác hai thứ Bồ-đề cho nên gần nơi sở thuyên trí tuệ Phật, tức nói rõ Nhị thừa giáo là xa, Đại thừa giáo là gần, không giáo là sơ, giáo Trung đạo là gần. Kinh: “Bồ-tát cũng giống như thế cho đến Chánh Đẳng Giác”. Tán: Dưới hợp có hai: Nêu ra và giải thích. Đây là nêu. Ba thứ nghe - hiểu - tu - tập như thứ lớp ba tuệ. Tám loại đầu trong mười pháp hành là văn tuệ, kế một là Tư tuệ, một cuối là Tu tuệ. Kinh: “Vì sao cho đến mà chỉ bày cho”. Tán: Đây giải thích lý do. Pháp đại Bồ-đề có nhân có quả, có nhân chánh gần có nhân bên xa, giáo lý hạnh quả trí tánh trí tướng, năm thứ trí tuệ đều thuộc kinh này, do kinh mà đắc nên thuộc về kinh này. Mở cửa tiện môn tức nhiếp nhân bên xa. Xưa nói Nhị thừa giáo lý hạnh quả hiển tướng chân thật nhiếp nhân chánh gần, nay nói Nhất thừa giáo lý hạnh tất cả cùng tận, đều thuộc kinh này. Lại sâu xa vững chắc: Sâu là diệu mà khó lường, cố là vững chắc không thể phá hoại, là chỗ Phật nhiếp thọ Phật, tạng bí yếu của Phật như tỉ ấn của vua chẳng phải người vật nào khác. Mầu nhiệm sâu xa do đại kiếp tu nhân chứng diệu trí chẳng phải Đức Phật không đảm đang thì không có người nào có thể đạt đến cùng nguồn gốc chân thật ấy được. Nay giáo hóa Bồ-tát nên gọi là chỉ bày. Kinh: “Dược Vương! Nếu có cho đến người tăng thượng mạn”. Tán: Bốn loại Nghe kinh kinh nghi sợ sệt là người mới học tăng thượng mạn, sơ học Bồ-tát chẳng phải Thanh-văn. Mới đầu nghe liền kinh sợ tư duy sanh khởi nghi ngờ, tu hành sợ hãi gọi là tân học và tăng thượng mạn chưa nhập tam vị. Kinh: “Dược Vương! Nếu có người cho đến phải nói thế nào”. Tán: Đoạn thứ ba nói nghi thức thuyết pháp , có hai: Đầu chỉ nghi thức phép tắc, sau nếu y phép tắc của ta Phật liền thuận theo. Đầu văn có ba: Hỏi. Chỉ. Kết. Đây là hỏi. Kinh: “Người người thiện nam đó cho đến nói rộng kinh này”. Tán: Dưới chỉ bày có hai: Nêu và giải thích. Đây là nêu ra. Kinh: “Vào nhà Như-lai cho đến là tất cả pháp không”. Tán: Đây là giải thích. Thân thường an ổn ở yên ngủ nghỉ, tâm từ bi nên gọi là nhà kinh. Duy ma dùng không làm nhà, lý rốt ráo tự lợi là nhà, đây nêu rõ sự, nói pháp lợi tha gọi là nhà. Trong phẩm Tín giải chép: Dần đi đến nhà cha tức lấy Trung đạo Đại thừa làm nhà, do hình tướng trong ngoài gọi là nhà, kia lấy giáo làm nhà đây dùng hành làm nhà cũng không trái nhau. Tâm hạnh thu- ận theo kham nhẫn, tâm lao khổ gọi là áo nhu hòa nhẫn nhục, vật bên ngoài không thể xâm tổn, chịu đựng oán hại cố gắng thọ khổ như thứ lớp phối hợp, các tôn sùng hiền thánh khéo chống các pháp ác. Tam thừa thông hành dùng hổ thẹn làm y phục tốt. Nay nói người ác cảnh khổ chẳng quấy nhiễu riêng hành Đại thừa cho nên nói hòa nhẫn làm áo cũng không trái. Lại thể nhu hòa tức là hổ thẹn, an thân tâm nơi cảnh không, ba việc rõ ràng lấy không làm tòa. Kinh Duy ma lấy bốn tónh lự làm sàng (giường), kia căn cứ ở nương tựa sanh trí lấy tịch lự định làm giường. Nay căn cứ trí sở duyên y dùng pháp không làm sàng cũng không trái nhau. Đại từ bi là quán hữu, áo và ghế cả hai quán không. Pháp Không như thứ tư. Luận Thập trú Tỳ bà sa chép: Nói pháp ở tòa Sư tử có bốn pháp: Trước nên cung kính lễ bái đại chúng rồi sau mới lên tòa. Chúng có người nữ nên thực hành quán bất tịnh. Oai nghi nhìn ngắm có tướng Đại nhân, nhan sắc hòa vui mọi người đều tin nhận, không nói kinh sách ngoại đạo tâm không sợ hãi. Đối với lời nạn vấn ác nên thực hành nhẫn nhục. Lại có bốn pháp: Không khinh tự thân. Không khinh người nghe. Không khinh nói. Không vì lợi dưỡng bản thân. Trong Đối Pháp Hiển Dương - Du-già cho đến đều có các câu hỏi về pháp, nên rộng như kia. Kinh: “An trú trong đây cho đến là kinh pháp Hoa này”. Tán: là ba kiết Kinh: “Dược Vương! Bấy giờ, ta ở cho đến nghe người đó nói pháp”. Tán: Dưới nếu y phép tắc ta Chư Phật liền thuận theo, có ba: Khiến nghe. Được thấy. Khiến không quên. Đây là khiến nghe, có ba: Khiến hóa nhận nhóm hợp chúng. Hóa bốn chúng khiến lắng nghe. Khiến tám bộ đến nghe. Kinh: “Ta tuy ở nước khác cho đến khiến được đầy đủ”. Tán: Đây nêu khiến được thấy và không quên nhớ nghó. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến người tin nhận cũng khó”. Tán: Dưới mười tám hàng rưỡi tụng chia làm hai: mười sáu hàng rưỡi tụng trước nói hai hàng nêu năng nói năng thọ nhận hai thứ đều có sự ích lợi. mười sáu hàng rưỡi đầu lại chia ba: một hàng đầu tụng khó tin hiểu chớ vọng tuyên truyền, kế bốn hàng tụng trong pháp thân Xá-lợi người đến gần Bồ-đề, sau mười một hàng rưỡi tụng nghi thức nói pháp. Đây là một hàng đầu. Kinh: “Như người khát cần nước cho đến quyết chắc biết gần nước”. Tán: bốn hàng tụng pháp thân Xá-lợi gần Bồ-đề, có hai: một hàng rưỡi là dụ, sau hai hàng rưỡi tụng hợp. Đây là dụ. Kinh: “Dược Vương! Ông nên biết cho đến gần nơi trí tuệ Phật”. Tán: Dưới hai hàng rưỡi tụng hợp. Kinh: “Nếu người nói kinh này cho đến ở đó vì người nói”. Tán: Dưới mười một hàng rưỡi tụng nghi thức nói pháp có hai: hai hàng rưỡi đầu tụng về nghi thức, sau chín hàng tụng Phật thuận theo. Đây là đầu, có hai: 1. Một hàng rưỡi tụng nêu giáo. 2. Một hàng tụng giải thích. Kinh: “Nếu lúc nói kinh này cho đến nhóm đó khiến nghe pháp”. Tán: Dưới chín hàng tụng Phật thuận theo chia làm sáu: Một hàng tụng nêu hành hạnh nhẫn. Ba hàng nêu ta ở nước khác, khiến hóa bốn chúng cúng dường và khuyên nghe pháp. Một hàng tụng làm hộ vệ giữ gìn. Hai hàng tụng hiện thân khiến nhớ nghó. Hai hàng tụng đầy đủ đức mới thấy Phật. Một hàng tụng khiến tám bộ nghe pháp. Đây là đầu và hai. Kinh: “Nếu người muốn làm hại cho đến vì làm chúng nghe pháp”. Tán: Một hàng tụng giữ gìn, hai hàng khiến nhớ nghó. Tịch mịch là không tướng mạo, một hàng tụng đủ đức mới thấy Phật tức là nhẫn nhục, ở nơi vắng lặng đọc tụng, một hàng tụng bát bộ nghe kinh. Kinh: “Người đó ưa nói pháp cho đến được thấy hằng sa Phật”. Tán: Đây đoạn thứ hai nói năng nói năng thọ đều có sự lợi ích. Một hàng tụng là năng nói lợi ích, một hàng tụng là năng nghe lợi ích. -------------------------- PHẨM HIỆN BẢO THÁP Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp chướng nạn. Vì sao có phẩm này có bốn: Luận chép: Vì người trừ ba thứ không còn phiền não nhiễm mạn mà nói ba thứ bình đẳng. Ba mạn: Tin các thừa sai khác. Tin sanh tử Niết-bàn khác nhau và Tin thân kia đây sai khác. Ba thứ bình đẳng: Thừa bình đẳng như trước đã nói. Vì trừ tin sanh tử Niết-bàn sai khác cho nên hiện tháp Đa-bảo Như-lai, nhập Niết-bàn rồi mới hiện thân. Vì phá thân kia đây khác nhau, nói lê Phật Đa-bảo nhiếp tất cả thân Phật. Luận nói lược, Đa-bảo Như-lai một thân, thể thị hiện nhiếp lấy tất cả thân Phật, do thân bình đẳng nên chỉ nói một thân nhiếp thân Chư Phật. Lại nói lên thân tự tha không sai khác. Mười phương Phật phân thân nhóm họp không khác, thân kia tức là thân ta. Do hai nghóa sau nên có phẩm này. Luận nói trong mười vô thượng, thứ năm là thị hiện cõi nước thanh tịnh vô thượng, thị hiện tháp Đa-bảo Như-lai, tháp Đa-bảo từ đất vọt lên phân thân Phật nhóm họp, Đức Phật phát ra một luồng ánh sáng, thấy ở năm trăm muôn ức na do tha hằng hà sa cõi nước ở phương đông đất đều bằng pha lê. Lại Đức Phật biến tám phương mỗi phương đều có bốn trăm muôn ức na do tha cõi nước làm tịnh sạch, thị hiện cõi Phật thanh tịnh, nêu bày nay pháp thù thắng không chỉ cõi uế để hóa sanh, cũng ở trong cõi Phật thanh tịnh để thi thiết lập bày giáo hóa, vì lý do cõi Phật thanh tịnh nên có phẩm này đây là nghóa còn lại. Bốn phẩm đầu khen ngợi tôn trọng lưu thông, trong phẩm Pháp Sư nói lên nơi kinh này hoặc người hoặc pháp đều đáng tôn trọng. Nay một phẩm này nói lên pháp đáng tôn trọng, chỉ nói nơi nói kinh Phật Đa-bảo ắt nghe hiện làm linh chứng, khuyên phát tín tâm cho nên có phẩm này. Luận Trí độ nói: Có Phật ra đời không có người thỉnh nói liền nhập Niết-bàn. Như Kinh Pháp Hoa Đa-bảo Thế tôn không có người thỉnh nên liền nhập Niết-bàn, sau Phật hóa thân và tháp bảy báu, chứng Pháp Hoa nên đồng thời xuất hiện. A-nan truyền kinh lấy sự đồng nghe làm chứng, Phật nói kinh này lấy Phật làm chứng nên có phẩm này. Tuy có truyền giải thích này mà ý chỉ khó hiểu, Phật Đa-bảo đã diệt làm tháp, không có người thỉnh làm gì có chúng ư!. Giải thích danh: Nơi thể của Phật nương ở gọi là tháp, có các báu tạo thành gọi là bảo tháp, do báu thành nên gọi là bảo tháp, hoặc tháp như trước nói, bảo là Đa-bảo, tháp Phật Đa-bảo, hoặc Đa-bảo là tháp hai tên đều nêu, cho nên gọi là bảo tháp. Sở hiện tức bảo tháp gọi là hiện bảo tháp. Lại tháp Phật, hiện lên không mọi người đều thấy, sở kiến tức là bảo tháp (kiến) thấy bảo tháp nên gọi là phẩm Kiến bảo tháp. Giải đáp chướng: Y luận phẩm này đã nêu rõ cõi tịnh độ mười phương Phật nhóm họp, vì sao không dùng làm tên phẩm? Đáp: Nhân tháp bay lên hư không, mong muốn mở ra ắt mời Chư Phật chuẩn bị sắp xếp cho Chư Phật nhóm họp, do đó biến thành cõi tịnh, tháp hiện làm nhân mới do Phật nhóm họp biến làm tịnh độ, chứng minh kinh làm hiệu nghiệm, chỉ hiện thấy tháp nên lấy đặt tên. Hỏi: Vì sao không ở Tịnh độ vì hàng Nhị thừa nói rồi chứng pháp mới có tịnh độ? Đáp: Muốn hiển Nhị thừa sau hướng đến Đại thừa, trước tại cõi uế sau ở tịnh độ. Kinh: “Lúc bấy giờ trước Phật có cho đến trú ở giữa hư không”. Tán: Dưới văn đầu tiên là văn xuôi có hai: Tháp nổi lên nghe pháp chứng kinh cao siêu mầu nhiệm. Sắp đến tụng nói: “Bấy giờ Đức Phật Đa-bảo ở trong tháp chia nửa tòa cho đến” là mộ chúng nói kinh mới trình bày phó chúc. Văn đầu lại có hai: Tháp nổi lên ấn nói chứng minh kinh đáng tin nên tháp chưa mở cửa, đức Đa-bảo liền khen ngợi như trước nói đều là chân thật. Tháp mở cửa nghe nói chứng minh kinh đáng trọng. “Bấy giờ bốn bộ chúng thấy tháp Đa-bảo trụ giữa hư không, lại nghe trong tháp vang ra tiếng v.v…”. Đầu tiên tháp làm chứng, sau thân làm chứng, chứng giáo chứng lý như thứ lớp chứng minh. Văn đầu lại có ba: Chi đề ứng hiện. Linh kỳ kính phụng. Khen ngợi công lực thần thông của Phật ấn kinh diệu đức. “Bấy giờ trong tháp báu lớn phát ra âm thanh lớn cho đến” Văn đầu có năm: 1.Nêu có tháp. 2.Nêu phần lượng. 3.Vọt lên trú. 4.Tướng trang nghiêm. 5. Chỗ đến. Nay đây có ba thứ đầu. Nhưng luận giải thích trong mười vô thượng, thứ năm thị hiện cõi nước thanh tịnh vô thượng cho nên thị hiện tháp Đa-bảo Như-lai, trong đó có chín: Tất cả cõi Phật thanh tịnh. Tháp. Lượng. Lược. Trú trì. Thị hiện vô lượng Phật. Xa lìa uế bất tịnh. Đa-bảo. Đồng ngồi. Đây nói chín thứ lý do trong phẩm Đa-bảo đều có tiêu biểu. Cõi Chư Phật thanh tịnh: Dưới giải thích ánh sáng chiếu sáng thấy khắp mười phương thấy năm trăm muôn ức na do tha hằng hà sa cõi nước Chư Phật đất đều bằng pha lê cõi nước thanh tịnh. Tháp: Giải thích lý do tháp này hiện. Lượng: Giải thích kích thước tháp rộng dài cao thấp, hoặc chỗ thấy lượng tịnh độ và mười phương đều biến lượng. Lược: Đây giải thích vì sao lược chỉ một Đức Phật Đa-bảo chứng minh, lại không có Đức Phật khác chứng minh ư! Trú trì: Dưới giải thích Đức Phật đáp Đại Nhạo nói, lý do tháp này có toàn thân Xá-lợi của Đa-bảo trú trì. Vô lượng Phật: Dưới giải thích lý do đức Thích-ca đều phân thân vô lượng khắp mười phương nhóm họp. Xa lìa uế bất tịnh: Dưới giải thích đức Thích-ca biến thế giới ta bà này làm thanh tịnh, lại có hai lớp tám phương đều biến hai trăm muôn ức na do tha cõi nước đều làm cho thanh tịnh, cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn. Đa-bảo: Giải thích lý do Đức Phật tên Đa-bảo. Đồng tòa ngồi: Dưới giải thích đức Thích-ca đức Đa Đảo châu báu dó hai Đức Phật đồng ngồi tòa, nói lên đều có tiêu biểu. Luận trình bày không y kinh thứ lớp tùy nghóa tổng giải thích. Luận chép: tháp là thị hiện Xá-lợi Như-lai trú trì, nghóa là Xá-lợi Phật toàn trú ở trong tháp, tiêu biểu pháp thân Phật toàn ở trong kinh này. Cho nên tháp cần phải nổi lên, nếu không như vậy chỉ Đức Phật hiện đâu cần tháp hiện ra! Cao năm trăm do tuần: Luận nói lượng ấy thị hiện tất cả cõi Phật thanh tịnh, do gốc lành ra đời gian thù thắng sanh ra cho nên lớn mà lại tịnh, thiên căn thế gian sanh chẳng tịnh mà nhỏ. Cho nên kinh Phật Địa nói gốc lành ra đời gian thù thắng sanh khởi, năm là năm căn, trăm là trăm hạnh, trăm hạnh nghiệp đạo đều phụ giúp năm căn mới bắt đầu chứng đắc. Cao vượt năm đường, rộng mỗi bề hai trăm năm mươi do tuần, xuất ra hai mươi lăm cõi. Từ dưới đất nổi lên trụ giữa hư không: Tháp ở phương đông nói nổi lên trụ hư không là tiêu biểu Phật Niết-bàn rồi vượt ra sanh tử, nay lại ra đời để cứu giúp chúng sanh, hai thứ sanh tử Niết-bàn không sai khác. Lại nói nổi lên tiêu biểu nói Nhất thừa siêu vượt Nhị thừa, trú giữa hư không là tiêu biểu giáo thích chân lý không . Kinh: “Các món báu vật trau dồi cho đến cùng khắp cả thế giới”. Tán: Dưới nói tướng trang nghiêm có hai: Đầu nói tám tướng trang nghiêm, sau nói lại tướng phướn lọng trang nghiêm. Đây là đầu. Ngoài trang nghiêm tháp báu tiêu biểu trong thân Phật và Kinh Pháp Hoa nói đều có công đức dùng làm nghiêm sức. Các thứ trau dồi dụ cho muôn đức đầy đủ. Năm ngàn bao lơn (lan thuẩn) dụ tín, tiến, niệm, định, tuệ lực, đều dùng trăm hành nghiệp đạo nuôi dưỡng mới thành năm trăm, mỗi thứ đều trừ mười ác nên thành năm ngàn. Ngàn muôn phòng nhà tiêu biểu thiền định rất nhiều. Tràng tiểu biểu trí đức cao vợi. Phan tiêu biểu các tổng trì chuyển diệt các ác. Anh lạc tiêu biểu ba niệm trú. Linh báu tiêu biểu bốn biện tài. Xuất ra mùi thơm tiêu biểu tu ngũ phần pháp thân. Chứng chân diệt hoặc tức là vô cấu hiền chiên đàn hương toả khắp trong bốn loài diệt các phiền não năng chứng chân như. Kinh: “Các thứ phước lọng cho đến bảy báu hợp thành”. Tán: Đây lập lại nêu tướng phước lọng tô điểm, tiêu biểu đầy đủ bảy Thánh tài. Kinh: “Cao đến cung bốn vị thiên vương”. Tán: Đây chỉ chỗ đến tiêu biểu cao vượt trên bốn loài thị hiện xuống hóa độ. Kinh: “Trời Đao lợi cho đến tôn trọng khen ngợi”. Tán: Đây nêu linh kỳ kính phụng có hai: Đầu nêu cõi trời Đao lợi mưa hoa, sau bát bộ cùng khen ngợi. Kinh: “Bấy giờ trong tháp báu cho đến đều là chân thật”. Tán: Đây khen ngợi công lực thần thông của Phật ấn kinh đức mầu nhiệm có hai: Đầu khen ngợi sau ấn, như văn có thể biết. Kinh: “Bấy giờ bốn chúng cho đến chắp tay đứng một bên”. Tán: Dưới đoạn thứ hai tháp mở nghe nói chứng minh kinh đáng tôn trọng có ba: Trước biện do nhân; kế nói mở tháp, “lúc bấy giờ Bồ- tát Đại Nhạo nói do sức thần lực của Như-lai mà bạch Phật rằng: cho đến” sau nêu thấy khen ngợi, “tức thời tất cả chúng hội đều thấy đức Đa-bảo Như-lai ngồi trong bảo tháp v.v…” là nói nhân có hai: Thỉnh và đáp. Trong thỉnh có hai: Mọi người nhất tâm thỉnh, và Đại Nhạo Nói thỉnh. thế”. Kinh: “Lúc đó có vị đại Bồ-tát cho đến vang ra âm thanh như Tán: Đại Nhạo Nói thỉnh. Kinh: “Bấy giờ Đức Phật bảo cho đến có toàn thân Như-lai”. Tán: Đáp, có ba: Đầu là nêu, kế giải thích, sau kết. Đây là nêu. Luận nói trú trì là thị hiện pháp thân Như-lai thân lực tự tại, hóa tướng pháp thân Chư Phật lực tự tại, toàn thân trú ở trong tháp tiêu biểu lực pháp thân Phật tự tại, trong kinh này dạy hoàn toàn thân trú trì. Kinh: “Về Thời quá khứ cho đến hiệu là Đa-bảo”. Tán: Tiếp giải thích có bốn: Thân Phật. Bổn nguyện. Khuyên dạy. Toại nguyện. Đây là đầu, vì sao một Đức Phật Đa-bảo làm chứng chẳng phải nhiều Đức Phật ư! Luận chép: Lược nói thân Đa-bảo Như-lai đồng nhất thể thị hiện nhiếp lấy tất cả thân Phật, tức là một thân nhiếp tất cả thân Phật, thân bình đẳng, cũng nói lên Nhất thừa nhiếp hết các nghóa. Vì sao Đa-bảo làm chứng, chẳng phải các Đức Phật khác làm chứng? Lu- ận chép: Đa-bảo thị hiện tất cả cõi Phật đồng bảo tánh muốn nêu rõ sự trong cõi báo hóa thân Phật cho đến đồng là bảo tánh, cũng tiêu biểu lý sở thuyên mầu nhiệm thanh tịnh không khác nhau. Kinh: “Đức Phật đó tu hành đạo Bồ-tát cho đến khen rằng! Lành thay”. Tán là trình bày bổn nguyện. Kinh: “Đức Phật đó thành Phật rồi cho đến xây một tháp lớn”. Tán: Nêu rõ răn dạy. Kinh: “Đức Phật đó dùng sức nguyện thần thông cho đến lành thay lành thay”. Tán: Bốn nguyện đã toại!”. Kinh: “Đại Nhạo Thuyết cho đến lành thay! Lành thay”! Tán: Ba là Kết bảo… Kinh: “Lúc bấy giờ Đại Nhạo nói…” thấy thân của Đức Phật đó”. Tán: Trên nói do nhân, dưới nêu mở tháp, có bốn: Thỉnh. Đáp. Lại thỉnh. Hứa mở. Đây là thỉnh. Kinh: “Phật bảo ngài Đại Nhạo Nói cho đến” mới xuất hiện”. Tán: Kế đáp có hai: Đầu tiên trình bày bổn nguyện của Đa-bảo, sau nhóm họp hóa Phật. Đây là bổn nguyện Phật kia nói kinh tháp nổi lên làm chứng, tháp mở Phật hiện ra hóa Phật làm chứng. Lại ta khai mở tháp nhờ phân thân để thỉnh lại, nay ta chứng nói kinh này đáng tin, mong Đức Phật kia nhóm họp phân thân Chư Phật mới có thể mở tháp. Kinh: “Đại Nhạo Nói cho đến nay nên nhóm họp lại”. Tán: Đây là nhóm họp hóa Phật. Hỏi: Một Đức Phật sở hóa không vượt qua ba ngàn, vì sao phân thân Phật trùm khắp mười phương cõi ư! Đáp: Thuận theo ban đầu thấy tạm nói ba ngàn sở hóa, vị trên khác nhau đâu được phân thân không rộng ư! Lại thân không sai khác thân người khác tức là thân ta. Kinh: “Đại Nhạo Nói cho đến lễ bái cúng dường”. Tán: Đây là thỉnh lại. Kinh: “Bấy giờ Đức Phật phát ra ánh sáng cho đến cõi nước Chư Phật”. Tán: Dưới hứa mở tháp có hai: Đầu trên nhóm họp phân thân, sau chánh mở tháp. “Bấy giờ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thấy phân thân Phật đều đã thấy nhóm họp cho đến” Nhóm họp phân thân có bốn: Ánh sáng này chiếu đi. Đức Phật kia nói đến. Biến cõi đón khách. Đem hoa đến dâng Phật chủ tức từ câu: “Bấy giờ Chư Phật đều ở dưới gốc cây báu.” Trở xuống. Hỏi: Đức Phật phân thân tâm Thánh rất sáng suốt đâu cần phải phát ra ánh sáng chiếu soi mới nói đến ư? Đáp: Phân thân Phật không nhờ ánh sáng mà đến nhóm họp, chỉ vì muốn chúng sanh cõi này xa thấy nên phát ra ánh sáng để chiếu. Lại nếu không nhóm họp mà đến thì chúng sanh không biết thần lực của Phật và Đức Phật nói mà tôn trọng, nên phát ra ánh sáng chiếu. Nói một luồng sáng là tiêu biểu nói Nhất thừa không có hai thừa khác. Văn nói phát ra ánh sáng đi có hai: 1.Phương đông. 2.Các phương khác cũng giống như vậy. Nói phương Đông có sáu ý, đây là ý đầu thấy Phật. Hỏi: Vì sao phải hiện vô lượng Phật? Đáp: Luận nói thị hiện kia đây chỗ tạo nghiệp không sai khác, kia đây Phật nghiệp giáo hóa chúng sanh, trước quyền sau thật việc làm giống nhau. Kinh: “Các cõi nước đó cho đến lưới báu phủ lên”. Tán: Đây văn có ba: Một tướng cõi. 2.Quyến thuộc. 3.Giăng che phủ. Vì sao phải chiếu tất cả cõi Phật thanh tịnh? Luận nói thị hiện trong cảnh giới thật tướng của Chư Phật, các thứ báu dùng để trang sức là tiêu biểu trong Nhất thừa đầy đủ muôn đức. Kinh: “Đức Phật trong nước đó cho đến vì chúng nói pháp”. Tán: Văn này có hai: Nói pháp. Trợ hóa. Kinh: “Nam tây bắc phương cho đến cũng giống như vậy”. Tán: Nêu các phương khác cũng giống vậy. Kinh: “Lúc đó Chư Phật ở mười phương cho đến cúng dường tháp báu của Đa-bảo Như-lai”. Tán: Thứ hai Đức Phật kia nói đến. Kinh: “Lúc bấy giờ cõi ta bà cho đến treo những linh báu”. Tán: Biến cõi đón khách, có bốn: Biến đại thiên. Đức Phật liền ngồi. Lại rộng biến. Đức Phật các phương an tọa. Đầu lại có hai: Trước biến cõi sau dời người. Biến cõi có ba: Trước hiện tịnh tiếp diệt uế, sau rừng hoa thơm. Tẩu là tán cây làm rừng, đầm không có nước gọi là tẩu (chằm). Vì sao biến uế làm tịnh ư? Luận nói thị hiện tất cả cõi Phật bình đẳng thanh tịnh, Đức Phật Thích-ca vì chúng sanh ác mà hiện nên có sự bất tịnh đây như Kinh Vô Cấu Xứng nói. Hỏi: Vì sao tháp Đa-bảo bay lên hư không, không biến thành tịnh độ, phân thân Phật nhóm họp mới biến tịnh độ ư! Đáp: Đa-bảo rõ thuận theo Nhị thừa hiện tướng ở cõi uế, phân thân Phật là thuận Bồ-tát do đó mới biến tịnh độ. Lại Đa-bảo thuận trú vị Nhị thừa nên ở cõi uế. Phân thân thuận Nhị thừa sau thành nên ở cõi tịnh. Chủ biến có ba thời khách ngồi có hai vị. Hỏi: Vì sao chủ nhân phải ba phen biến cõi ư? Đáp: Muốn hiển phân thân Phật số nhiều. Lại hiển thứ lớp ba phen cùng tột hiển Nhất thừa tam thừa đây cùng tột, lại hiển phàm phu vị vốn uế. Trước biến Đại thiên tiêu biểu đến Thanh-văn, tiếp biến hai trăm muôn ức na do tha nước tiêu biểu đến Độc giác, sau lại biến hai trăm tiêu biểu vượt địa vị Nhị thừa đến Nhất thừa vị cùng tột đầy đủ. Hỏi: Các Phật Thế tôn khách sao lại cần ngồi ư! Đáp: Muốn cho ba phen biến, tột cùng ở đạo. Hỏi: Nếu vậy, sao Phật khách không ba phen ngồi? Đáp: Vì chứng lại nghóa Pháp Hoa sâu mầu, lại để mở tháp Đa- bảo tức ba phen ngồi, ba lần chứng, ba lần biến. Kinh: “Chỉ giữ lại chừng trong hội này cho đến để ở cõi khác”. Tán: Đây là dời người. Căn cơ thuần thục có khả năng nghe cho nên giữ lại, vô duyên không có khả năng nghe nên dời đi. Kinh: “Lúc đó các Đức Phật cho đến mà trau dồi đó”. Tán: Thứ hai hóa Phật bèn ngồi, có ba: Trước nói Phật và thị giả đều đến, kế tướng cây tòa, sau tòa Phật không đủ. Đây là nói hai ý đầu. Hỏi: Vì sao Chư Phật mỗi vị đều đem theo một vị thị giả? Đáp: Chứng kinh mở tháp không nhờ thị giả, truyền hỏi nói nghi thức phép tắc một người đủ nói rõ. Hỏi: Thị giả ngồi chỗ nào? Đáp: Đâu cần ngồi. Hỏi: Vì sao Tịnh Danh đãi khách mượn tòa Đăng Vương”. Đức Thích-ca đón thị giả không có tòa ngồi? Đáp: Vì kia là thế tục, còn đây là Phật nên việc khác nhau. Kinh: “Bấy giờ Chư Phật cho đến vẫn còn chưa hết”. Tán: Đây nói tòa Phật không đủ. Kinh: “Bấy giờ đức Thích-ca Mâu-ni Phật cho đến đều làm cho thanh tịnh”. Tán: Dưới thứ ba, lại rộng biến có hai: Trước một phen biến hai trăm, sau một phen biến hai trăm, vì đã đến chưa đến có sai khác. Lần đầu biến có năm: Biến lượng cõi. Biến chúng sanh ác. Biến tướng tịnh. Biển cõi ác. Biến cõi tịnh trang nghiêm. Biến lượng cõi: Phát ra ánh sáng báo hiệu có duyên mời Phật, chiếu khắp mười phương, Đức Phật ngồi cõi đất phải bằng phẳng, lập ra tòa chỉ ở tám phương. Kinh: “Không có địa ngục cho đến để ở cõi khác”. Tán: Đây biến chúng sanh ác. Kinh: “Người nước của Phật biến cho đến các thứ báu trau dồi”. Tán: Đây biến tướng tịnh. Kinh: “Các nước đó cũng không có biển cả sông ngòi cho đến và các núi lớn”. Tán: Đây biến cõi ác. Cũng có giải thích: Dưới nói khiến Bồ-tát ở núi Linh Thứu rải hoa, không biến ở hội, do đó trên nói chỉ giữ lại hội này. Lý này không đúng. Trên nói chỉ giữ lại hội này vì chúng có khả năng nghe pháp, chúng sanh năm đường đều dời đổi, đâu lại đãi khách biến cõi thành tịnh, riêng giữ lại ở núi tạp uế để chỉ cho khách biết, thì không có việc này. Y cứ thật ở núi cũng biến khiến không có. Dưới nói khiến ở trong núi rải hoa tức chỉ núi cũ dùng tịnh che uế gọi là dời chưa phát tâm thấy uế đã phát tâm thấy tịnh, ẩn uế hiển tịnh gọi là dời, dời tướng dời tâm. Chỉ nói dời các trời người để ở cõi khác, không nói dời ác để ở nước khác sắp đặt các trời người cũng giống như dời. Lại văn dưới Văn-thù ở Cung rồng hiện lên, hoa hiện trong núi thì nơi nào có núi đã dời? Nên Kinh Đại Bát-nhã quyển ba nói: Tam thiên đại thiên thế giới Tô mê lô nói Đại lô mê lô nói, Luân vi nói, Đại luân vi nói, Đại Tô mê lô tức thành vị trên ở trong cõi Phật. Kinh: “Thông làm một cõi nước Phật cho đến trùm khắp ở trên đất”. Tán: Đây biến cõi nghiêm tịnh. Các báu lẫn nhau nhau làm màn trùm trên, dùng báu lẫn nhau trang sức, lại dùng báu trang sức hoặc hiển lộ hoặc làm màn che, lại dùng báu lẫn nhau che phủ ở trên đều gọi là trùm lên. Kinh: “ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cho đến trải khắp trên đất”. Tán: Đây lần thứ hai biến hai trăm. Văn cũng như trước. Kinh: “Bấy giờ phương Đông cho đến đến nhóm ở cõi này”. Tán: Phật các phương an ngồi, có ba: Trước một phương an ngồi, kế đến các phương ngồi, sau khắp nơi ngồi. Đây là một phương ngồi. Kinh: “Thứ lớp như vậy cho đến đầy khắp trong đó”. Tán: Các phương ngồi và khắp nơi đều vậy. Kinh: “Lúc đó các Đức Phật cho đến cũng giống như vậy”. Tán: Nhóm họp phân thân trong đó có bốn, đây là thứ tư dâng hoa Phật chủ, có hai: Trước tiên sai thị giả, sau sai y theo lệ, sợ văn khác nhau nên nêu lập lại. Đầu nêu Chư Phật một phương, sau Phật bảy phương cũng vậy. Đầu văn có ba: Đầu bảo chỗ đi, tiếp sai truyền nói, sau dạy rải hoa cúng. Kinh: “Bấy giờ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cho đến trú trên hư không “. Tán: Phần chánh mở tháp, có ba: Đầu tiên xong việc trú trên hư không, tiếp chúng đứng dậy thấy, sau Đức Phật Thích-ca chính mở tháp. Đây là phần đầu. Tháp nổi lên hư không nên tùy tháp trú. Kinh: “Tất cả bốn chúng cho đến một lòng nhìn Phật”. Tán: Đây chúng đứng dậy thấy. Kinh: “Khi ấy Đức Thích-ca cho đến mở cửa thành lớn”. Tán: Phật chánh mở. Làm điềm lành nên dụng tay phải. Kinh: “Tức thời tất cả chúng trong hội cho đến mà đến cõi này”. Tán: Đoạn thứ hai mở tháp nghe nói, chứng minh kinh đáng trọng. Dưới đoạn thứ ba nêu thấy khen ngợi, có hai: Đầu tiên thấy thân nghe nói sau khen ngợi rải hoa. Đây là phần đầu. Kinh: “Bấy giờ bốn chúng cho đến và Phật Thích-ca Mâu-ni”. Tán: Đây khen ngợi rải hoa. Kinh: “Lúc đó đức Đa-bảo cho đến có hãy ngồi trên tòa này”. Tán: Trong văn xuôi, tức đoạn thứ hai mộ chúng nói kinh trình bày Phật mới phó chúc có ba: Đồng ngồi trong tháp. Chúng ở giữa hư không. Khuyên nói phó chúc. Văn đầu có hai: Trước sai, sau ngồi. Đây là sai bảo. Kinh: “Tức thời đức Phật Thích-ca Mâu-ni cho đến ngồi xếp bằng trên nửa tòa đó”. Tán: Đây là ngồi. Hỏi: Vì sao hai Đức Phật đồng ngồi một toà? Luận nói thị hiện hóa Phật - phi hóa Phật - pháp Phật - báo Phật cho đến đều làm thành đại sự, tức là thành một đại nhân duyên. Lại tiêu biểu Tam thừa đồng sàng với Nhất thừa, chúng sanh cũng đồng tòa Nhất thừa. Kinh: “Bấy giờ đại chúng cho đến đều được ở trên hư không”. Tán: Dưới nêu rõ chúng ở trên không có hai: Trước thỉnh sau dẫn. Đây là thỉnh. Kinh: “Tức thời đức Thích-ca Mâu-ni Phật cho đến đều ở trên không”. Tán: Đây dẫn trú trên không, tiêu biểu nghe Nhất thừa trú Quả Phật. Kinh: “Dùng âm thanh lớn cho đến phó chúc có người”. Tán: Khuyên nói phó chúc. Đây chính đức Thích-ca chiêu mộ khuyên, căn cứ kệ nên biết. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến há chẳng riêng vì pháp”. Tán: Dưới có bốn mươi tám hàng kệ chia làm hai: mười hai hàng đầu tụng trước tháp nổi lên, nghe pháp chứng minh kinh thù thắng mầu nhiệm, ba mươi sáu hàng sau tụng trước chiêu mộ chúng nói kinh, trình bày mới phó chúc. Trong phần đầu lại có hai: một hàng rưỡi đầu tụng tháp nổi lên ấn chứng nói, khuyến khích mọi người, mười hàng rưỡi sau tụng mở tháp nghe nói để khuyên mọi người. Đây là phần đầu. Kinh: “Phật Đa-bảo diệt độ cho đến thường vì nghe Pháp Hoa”. Tán: Dưới tụng mở tháp nghe nói để khuyên mọi người, có hai: hai hàng đầu tụng về nhân duyên, tám hàng rưỡi sau tụng mở tháp, không tụng thấy khen ngợi ở trước văn xuôi. Đây là phần đầu. Tiếng Phạm gọi A-tăng-kỳ-da hán dịch là vô ương số. Bổn đây nói nơi nơi tháp ta qua, có chỗ nói nơi nơi tháp ta ở, nơi nơi ta đã ở; lại nói chỗ ở văn nghóa liền trùng, nên theo đây nói nơi nơi tháp ta qua cho đến là chỗ đến và nơi ở Kinh: “Lại vô lượng Chư Phật cho đến làm cho nước thanh tịnh”. Tán: Dưới tụng mở tháp, có bốn: Ba hàng đầu tụng ý phân thân nhóm họp. Một hàng tụng biến cõi. Hai hàng rưỡi tụng Phật ngồi. Hai hàng tụng hiển thân xuất ra mùi hương lợi sanh nói pháp. Đây là hai phần đầu. Kinh: “Các Đức Phật mỗi vị cho đến đốt sáng đuốc bừng lên”. Tán: Đây là Phật ngồi. lâu”. Kinh: “Thân Phật toả hương thơm cho đến làm cho pháp ở Tán: Hiển thân phát hương thơm nói pháp lợi sanh, hoặc đức Thích-ca tự xuất, hoặc phân thân ra mùi thơm. Văn xuôi nói chỉ có đức Thích-ca đốt hương để đãi khách, chẳng phải khách xuất ra mùi hương để cúng chủ, cho nên đây chẳng phải khách xuất, như gió gảy cành hóa nhân từ đây như gió ùa theo cỏ có thể thành. Kinh: “Bảo với các đại chúng cho đến phải nên biết ý này”. Tán: Dưới ba mươi sáu hàng tụng mộ chúng nói Kinh, trình bày, Phật mới phó chúc. Trong đây có ba: chín hàng rưỡi đầu tụng trình bày về mộ nói kinh, kế mười chín hàng tụng đối so sánh hơn kém, bảy hàng rưỡi sau tụng lần nữa chiêu mộ các người, kết thành hạnh thù thắng. chín hàng rưỡi đầu có ba: ba hàng rưỡi tụng chiêu mộ người trì, đọc, tụng kinh khiến họ tự thệ, nói lên hiện tại Phật biết rõ tâm người ấy. Kế bốn hàng tụng chiêu mộ người hộ pháp khiến họ tự nguyện… hai hàng tụng sau chiêu mộ người nói pháp tức là thấy Ta và Chư Phật khuyên khiến phát nguyện. Đây là ba hàng rưỡi đầu. Kinh: “Các hàng Phật tử thảy cho đến các thế giới vô lượng”. Tán: Bốn hàng tụng chiêu mộ người hộ pháp khiến họ tự thệ, có bốn: một hàng tụng chiêu mộ người hộ pháp. một hàng tụng hộ pháp tức là cúng dường ta và Đa-bảo. một hàng tụng nói Đa-bảo hộ pháp, một hàng tụng hộ Pháp tức cúng dường hóa Phật. Kinh: “Nếu người nói kinh này cho đến nên phát nguyện rộng lớn”. Tán: Đây hai hàng: một hàng tụng mộ người nói pháp tức là thấy ta cùng thân Đa-bảo và hóa Phật. một hàng tụng khuyên khiến phát nguyện. Kinh: “Bao nhiêu kinh điển khác cho đến đây là rất khó”. Tán: Dưới có mười chín hàng tụng đối so sánh hơn kém, có sáu: Năm hàng tụng đối so sánh nói kinh này là khó. Hai hàng tụng đối so sánh viết chép khó. Hai hàng tụng đối so đọc tụng khó. Hai hàng tụng đối so sánh vì một người nói khó. Ba hàng tụng đối so sánh người nghe khó. Năm hàng tụng đối so sánh người trì khó. Năm hàng đầu: bốn hàng nêu dễ, một hàng sau đối so sánh kinh này khó tin khó hiểu khó nhập, lý trí sâu diệu nên rèn luyện khó thành, khác nhau trước thần thông có thể đắc. Kinh: “Giả sử lại có người cho đến đây mới chính là khó”. Tán: Hai hàng tụng so sánh với chép khó. Kinh: “Hoặc đem cả cõi đất cho đến. đây mới chính là khó”. Tán: Hai hàng tụng so sánh với đọc tụng khó. Kinh: “Giả sử gặp kiếp đốt cho đến đây mới chính là khó”. Tán: Hai hàng tụng so sánh vì một người nói khó. Kinh: “Nếu người trì tám muôn cho đến đây mới chính là khó”. Tán: Ba hàng tụng so sánh nghe khó. Kinh: “Hoặc có người nói pháp đây mới chính là khó”. Tán: năm hàng tụng đối so sánh trì khó, có hai: ba hàng tụng đối so sánh, sau hai hàng tụng kết thành trì thù thắng. Đây là ba hàng đầu. Kinh: “Ta vì hộ Phật đạo cho đến thời là trì thân Phật”. Tán: Đây hai hàng kết thành trì kinh thù thắng. Kinh: “Các người thiện nam này cho đến nên tự nói lời thệ”. Tán: bảy hàng rưỡi cuối, tụng lại chiêu mộ các người kết thành thắng hạnh có năm: Một hàng rưỡi tụng chiêu mộ người trì kinh khuyên nguyện. Một hàng rưỡi tụng thuận tâm Phật. Một hàng rưỡi thuận chánh hạnh. Một hàng nối dõi vị Phật. Hai hàng tụng lợi thế gian. Đây là một hàng rưỡi đầu. Kinh: “Kinh pháp đây khó trì cho đến các Đức Phật thường khen”. Tán: Một hàng rưỡi tụng khen ngợi thuận tâm Phật. Kinh: “Đó là rất mạnh mẽ cho đến quả vô thượng Phật đạo”. Tán: Một hàng rưỡi tụng thuận chánh hạnh. Tiếng Phạm Đổ đa đây gọi trừ khí, lầm gọi là đầu đà. Đây có mười hai như Du-già Thanh- văn Địa nói. Kinh: “Có thể ở đời sau cho đến trú ở bậc thuần thiện”. Tán: Một hàng tụng nối dõi vị Phật, quyết định tin chắc gọi là thuần thiện, có bản viết chữ thuần chỉ là thiện. Kinh: “Sau khi Phật diệt độ cho đến đều nên cúng dường”. Tán: Hai hàng cuối tụng về lợi ích thế gian. Đầu một hàng nêu trí nhãn về sau, một hàng nói nên cúng dường. Kinh Hoa Nghiêm chép: Nếu đem tam thiên đại thiên thế giới đội trên đầu trong một kiếp bất động, việc làm ấy chưa phải là khó, người tin pháp này mới gọi là khó, chúng sanh trong cõi đại thiên số như cát bụi cúng dường ưa thích đầy đủ, công đức kia chưa gọi là khó, người tin pháp này mới gọi là thù thắng, nếu để các cõi mười phương trong lòng bàn tay trú giữa hư không một kiếp, làm việc kia chưa gọi là khó, người tin pháp này rất là khó, cúng dường đầy đủ tất cả chúng sanh trong các cõi ở mười phương cõi số như các bụi, công đức ấy chưa gọi là khó người tin pháp này mới là thù thắng. Ngày 24 Tháng 4 Đầu niên hiệu Thiên Thừa “Năm Tân Hợi” ở chùa Pháp Long ba nhà giảng kinh, chùa Dược Sư Thiện Minh Phòng đắc nghiệp nhân phụng đọc thọ hiểu. Tăng Giác Ấn và Nhiếp Thích cùng ghi chép. Niên hiệu bảo An Năm Thứ Ba Ngày 9 Tháng 6 viết xong tại Chùa Pháp Long Tăng Giác Ấn đồng năm ấy ngày 19 tháng 12 để ở chùa Hưng Phước Viên như phòng kiểm duyệt xong, Tăng Giác Ấn vì muốn chánh pháp tồn tại lâu dài vãng sanh Cực Lạc.  HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 9 (PHẦN ĐẦU) PHẨM ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA Chia làm ba môn : Vì sao có phẩm này Giải thích tên phẩm Giải đáp các chướng nạn. Vì sao có Phẩm này có ba: Luận giải là một trong sáu thứ thọ ký, tức loại thứ tư vô oán ký, nói: Thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa điều đó nói lên Đức Thế tôn không có oán ác nên có phẩm này. Trong bốn phẩm khen ngợi tôn trọng lưu thông đây là phẩm thứ ba nói lên người trì kinh này đáng tôn trọng. Không tiếc thân mạng để cầu pháp này; đối với kẻ thù dùng thân làm giường nên có phẩm này. Nói lên diệu dụng kinh này lợi ích vô biên thành đạo cũng mau tức là đại chúng trong biển hội Long Nữ thành đạo, cho nên có phẩm này. Giải thích tên Phẩm: Gọi là Đề Bà Thiên, Đạt-Đa Thọ, là em họ của Phật con của Hộc Phạn, từ cầu trời mà được, trời trao cho nên gọi là Thiên Thọ. Giải đáp các chướng nạn: Phẩm này cũng nêu rõ từ Cung rồng vọt hiện lên, Long nữ thành đạo. Vì sao chỉ đặt tên Thiên Thọ? Đáp: Vì Thiên Thọ có duyên tốt chính Đức Thích-ca truyền, các tên khác tuy nói lên đức thù thắng chẳng phải việc của Phật nên không dùng làm tên phẩm, lại từ đầu đặt tên Thiên Thọ là việc xưa, Long nữ xưa vọt hiện lên v.v… hiện việc. Hỏi: Vì sao cung rồng xuất hiện Long nữ thành đạo không riêng làm phẩm mà hợp chung Thiên Thọ? Đáp: Văn-thù thuận duyên bạn lành chẳng trái với duyên lành của mình Thiên Thọ không như vậy, nói lên kinh đáng trọng, nên dùng thuận duyên đặt tên phẩm khuyên người trì kinh không dùng nghịch duyên đặt tên phẩm, đều là bạn lành trì kinh nên hợp làm phẩm. Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật bảo cho đến không có lười mỏi”. Tán: Phẩm này văn chia làm hai phần: Nêu Thiên Thọ tự thân Phật trái duyên bạn lành, muốn hiển bày chỉ nên trì kinh bất luận oán thân đều là bạn lành. Nêu Văn-thù và tất cả chúng sanh thuận duyên bạn lành, nói kinh lợi ích nhiều năng lực nhanh chóng. Phần đầu lại có ba: Trước nêu Phật xưa trọng pháp để cầu kinh, kế nói Thiên Thọ do trải qua đời sau thành Phật: “Bảo bốn chúng như Đề-bà-đạt-đa v.v…” sau kết nghe kinh đạt được lợi ích v.v… “Đức Phật bảo các Tỳ-kheo trong đời sau cho đến” Văn đầu văn có hai: Trước nêu xưa cầu pháp, sau nêu kết hợp xưa nay; tức phần văn sau kệ. Phần đầu lại có hai: 1. Văn xuôi và kệ nêu cầu pháp. 2. hai hàng tụng lý do cầu pháp Văn xuôi chia làm ba: Đầu nêu cầu pháp, kế nói vị vị tiên hứa, sau nói thuận theo. Cầu pháp có ba: Trước nói cầu pháp, kế nói tu hành, sau nêu tìm cầu: Đánh trống ra lệnh cho đến Đây là phần đầu. Kinh: “Trong nhiều kiếp cho đến tâm không lui sụt”. Tán: Nêu tu hành có bốn: Địa vị cao có khả năng. Hạ tâm năng thắng. Tài vật khó cho có thể cho năng bố thí. Địa vị khó bỏ có thể bỏ. Đây là hai phần đầu. Kinh: “Vì muốn đầy đủ cho đến giao việc trị nước cho Thái tử”. Tán: Đây là hai thứ sau. Thuở ấy nhân dân cho đến. Ở đây nêu địa vị khó bỏ có thể bỏ tài vật khó cho có thể cho. Trước nói ý bố thí, sau nói sự bố thí. Trong sở thí thì đầu là ngoại tài, sau nội tài, tổn khí là phế bỏ, quân (vua) là chính, quen là sự, nay bỏ quân chính chẳng phải mình gánh vác. Kinh: “Đánh trống rao lệnh cho đến cung cấp hầu hạ”. Đây nêu tìm cầu. Kinh: “Bấy giờ có vị tiên cho đến sẽ nói cho Đại vương nghe”. Tán: Đây là nói tiên hứa. Kinh: “Vua nghe vị tiên nói cho đến thân tâm không mỏi mệt”. Tán: Dưới nêu thuận theo cung phụng có hai: Đầu là nóiviệc khó có thể làm, sau việc khó có thể làm lâu. Đây là phần đầu. Cho đến: Tức nói thời gian này trải qua vô lượng sự nghiệp, nghóa là bị đánh mắng cũng chưa hề lui sụt. Kinh: “Thuở đó theo phụng thờ cho đến hầu hạ vị tiên không thiếu thốn”. Tán: Việc khó làm có thể làm lâu dài. Kinh: “Lúc ấy Đức Thế tôn cho đến thân sẽ làm tôi tớ”. Tán: năm hàng rưỡi tụng chia làm ba: Hai hàng tụng cầu pháp. Một hàng rưỡi tụng vị tiên hứa. Hai hàng tụng thuận theo. Đây là hai hàng đầu. Kinh: “Giờ có tiên Trường Thọ cho đến Ta sẽ nói cho ông nghe”. Tán: Đây là vị tiên hứa. Tiên A tư Hán dịch là vô tỷ. Kinh: “Khi vua nghe tiên nói cho đến thân tâm không lười mỏi”. Tán: Ở đây nói thuận theo. Kinh: “Khắp vì các chúng sanh cho đến nay vẫn nói cho ông nghe”. Tán: Đây hai hàng tụng lý do cầu pháp. Khuyên bày siêng năng học. Kinh: “Đức Phật bảo các Tỳ-kheo cho đến là nhân thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa” Tán: Đây là nói kết hợp xưa nay có hai: Trước kết hợp, sau lãnh nhận gánh vác. Lãnh nhận gánh vác có hai: Đầu lãnh mười một biệt đức, sau lãnh hai thứ biệt đức, nghóa là thành chánh giác độ chúng sanh. Kinh: “Phật bảo bốn chúng cho đến trú vị không lui sụt”. Tán: Dưới nêu Thiên Thọ do trải qua đời sau thành Phật. Hành tổn hại nên cận tuy đắm chìm, do năng lực kinh nên sẽ thành quả thù thắng. Kinh Vô Cấu Xứng nói thị hiện làm ma vương phần nhiều là Bồ-tát giải thoát bất khả tư nghì, chỉ có Hương Tượng mới có khả năng đấu sức sừng Hương Tượng đánh đấu chẳng phải lừa có khả năng đánh được, cho nên biết Thiên Thọ thị hiện làm. Thọ ký có hai: Đầu là thọ ký hiện tại, sau thọ ký sau khi diệt độ. Hiện tại có bốn: 1.Tự thể. 2.Tên cõi. 3. Trú tuổi thọ. 4. Lợi ích. Kinh: “Sau khi Đức Phật Thiên Vương Niết-bàn cho đến đến bực không lui sụt”. Tán: Đây thọ ký sau khi diệt độ có bốn: 1.Pháp trú. 2.Xây tháp. Cúng dường. 4. Lợi ích. Kinh: “Phật bảo các Tỳ-kheo cho đến từ hoa sen hóa sanh”. Tán: Dưới đoạn thứ ba kết nghe kinh được lợi ích. Tín tâm không nghi ngờ có đủ năm đức: Không đoạ vào ba đường ác. Sanh gặp Phật hiện tiền. Thường nghe kinh này. Sanh trong trời người thọ lạc. Ở trước Phật hóa sanh. Nói về nạn có tám: Nghóa là ba đường ác là ba. 4.Sanh trước Phật sau Phật. 5.Các căn không đủ. 6.Tà kiến thế trí biện thông. 7.Biên địa tức thuộc Bắc châu. 8. Trời trường thọ : Thành Thật luận nói bốn luân bẻ gãy tám nạn: 1.Trú thiện xứ sanh giữa nước trừ năm nạn nghóa là ba đường ác biên địa và trời trường thọ. 2. Nương theo bạn lành nghóa là gặp Phật, trừ sanh trước Phật sau Phật. 3. Phát chánh nguyện nghóa là chánh kiến, trừ tà kiến thế trí biện thông. 4. Gieo trồng gốc lành đời trước trừ các căn không đủ. Nay nói không đoạ địa ngục v.v… là lìa ba đường hiểm nạn, sanh trước Phật là trừ sanh trước Phật sau Phật, thường nghe kinh này trừ tà kiến thế trí biện thông, sanh trời người thọ lạc trừ các căn không đủ, Phật tiền hóa sanh trừ biên địa, Bắc châu và Trường thọ thiên. Kinh: “Bấy giờ hạ phương cho đến nên trở về bổn quốc”. Tán: Phẩm Dưới đoạn thứ hai nói Văn-thù thuận duyên bạn lành nói kinh, ích lợi nhiều nhanh chóng, trong đây chia làm bốn: Trí Tích thỉnh trở về. Đức Thích-ca giữ lại. Văn-thù hiện ra. Trí Tích luận bàn. Đây nói phần đầu. Nghiệm ý văn này, Trí Tích thỉnh trở về nêu rõ nói kinh xong cho nên biết tám phẩm chánh tông là tốt nhất. Hỏi: Vì sao bạch Đa-bảo mà Phật Thích-ca giữ lại đợi? Đáp: Thị giả thỉnh trở lại nên bạch Đa-bảo vì đạo chủ khách nên Thích-ca giữ lại. Kinh: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cho đến có thể trở về bổn quốc”. Tán: Đây nói đức Thích-ca giữ lại. Kinh: “Lúc đó ngài Văn-thù -sư -lợi cho đến đến núi Linh Thứu”. Tán: Đây nói Văn-thù hiện ra có hai: Vọt lên rồi đến núi, sau từ hoa sen xuống cung kính làm lễ. Đây là đầu. Hỏi: Ngài Văn-thù nêu đầu kinh và đáp Di-lặc đều ở trong hội, vì sao ở đây nói từ Cung rồng xuất hiện? Đáp: Lợi ích nhiều nguyên nhân đi ở đều lợi ích, Phật mở đầu nói Nhất thừa liền ẩn mà không hiện, nay vì chứng nghiệm mới từ cung rồng hiện lên, cũng đâu có sai. Từ biển vọt lên bèn đến linh nói. Kinh: “Từ hoa sen xuống cho đến rồi ngồi một phía”. Tán: Đây từ hoa sen xuống làm lễ cung kính, đã đến lễ Thế tôn cũng an ủy hỏi Bồ-tát. Hỏi: Phân thân đã còn không riêng gì hai Thế tôn, vì sao Văn-thù lễ riêng hai bậc Thánh? Đáp: Hợp gần nghiêng qui về, chưa hẳn cần phải lễ khắp, gần gũi đến cung kính không hẳn lễ khắp phân thân. Lại hiện tiền dễ lễ, chỗ xa khó trở về, cho nên biết đông độ bực thượng nhân riêng lễ hai bực thánh. Quan Âm nhận châu nhưng chia làm hai phần, phân thân còn ở cũng giống có gì sai lầm. Kinh: “Bồ-tát Trí Tích cho đến số được bao nhiêu”. Tán: Nêu Bồ-tát Trí Tích bàn luận, có hai: Trước nói số sở hóa nhiều ít, sau biện rõ sở hóa nhanh chậm. Kệ sau Trí Tích hỏi v.v… Đầu hiển hai lợi ích: Chúng Sở độ. Sở hóa khó, đều từ Thanh-văn để nhập Đại thừa, sau cùng có hai lợi ích: 1.Đạo thành nhanh chóng. 2.Chuyển thân ác. Bỏ tướng mạo súc sanh chuyển chất người nữ đều do lực kinh mà được như vậy. Văn đầu có sáu: Hỏi hóa nhiều ít. Đáp: Số vô ương. Cung rồng vọt lên. Văn-thù chỉ bày. Trí Tích tán dương. Văn-thù nói hóa độ. Đây là phần đầu. Nhân giả: Chu lễ nói nhân giả có sáu đức: Nhân là trịnh huyền thương người và vật gọi là nhân. Trên dưới gần gũi gọi là nhân. Quí hiền thân nhân gọi là nhân. Giết thân thành người gọi là nhân. Nhân là nhẫn. Tốt sống ác chết gọi là nhân. Thiện ác đều nhẫn gọi là nhân. Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến sẽ tự chứng biết”. Tán: Đáp số vô ương. Tu du là chốc lát. Có chỗ nói tự sẽ chứng biết người Thanh-văn không sánh với đây được. Kinh: “Ngài Văn-thù chưa dứt lời cho đến nghóa không của Đại thừa”. Tán: Cung rồng hiện ra có hai: Trước hiện ra đến núi, sau nói đức hóa độ của Văn-thù. Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến việc đó như vậy”. Tán: Văn-thù chỉ bày. Kinh: “Bây giờ Bồ-tát Trí Tích cho đến khiến mau thành Bồ- đề”. - Tán: Trí Tích tán dương. - Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. - Tán: Văn-thù bảo hóa. - Kinh: “Bồ-tát Trí Tích cho đến mau được thành Phật chăng”. - Tán: Dưới nói về sở hóa nhanh chậm, có bốn: Trí Tích hỏi. Văn-thù đáp. Trí Tích nghe. Long nữ hiện. Đây là hỏi. - Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến có thể đạt đến Bồ-đề”. - Tán: Văn-thù đáp có mười sáu đức: Long. Nữ. Tiểu. Tuệ lợi. Trí căn. Đắc pháp tổng trì tức văn trì. Đắc định. Hiểu rõ pháp. Đắc không lui sụt. Biện tài. Từ niệm. Đầy đủ đức. Nhanh biện luận. Lời nói nghóa xâu xa. Nhân từ khiêm nhượng. Hòa nhã. Như trên đây đã nói người nữ nhanh chóng đắc Bồ-đề. Khoảnh Sát-na là thời gian rất ngắn. Luận Câu Xá chép: Một trăm hai mươi sát- na là đát sát-na lượng, sáu mươi đát sát-na là một lạp phược, ba mươi lạp phược là một tu du, ba mươi tu du là một ngày đêm, ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm, ở trong đó phân nửa giảm đêm. Kinh Hoa Nghiêm chép: Thập Tín Bồ-tát tám tướng thành đạo, nay hoặc nói đây khuyên bày mọi người. Kinh Già-da Thiên Đỉnh Thiên tử Tịnh Quang hỏi có bao nhiêu loại phát tâm? Văn-thù Đáp có bốn: 1. Chứng phát tâm là nhập sơ địa. 2. Hành phát tâm là sáu địa kế. Bất thối phát tâm là Bát địa, Cửu địa. 4. Nhất sanh bổ xứ phát tâm nghóa là Thập địa. Nay đây Long nữ hoặc loại thứ tư phát tâm hóa làm Long nữ, tiểu mà năng học Pháp Hoa, mau đắc Bồ-đề, khuyến khích mọi người chẳng phải là thật như vậy. Văn kinh Thù Vấn Bồ-tát nói: Loại đầu trong bốn hạng này đã hơn Thanh-văn, kế hơn Độc giác, kế hơn Bất định địa, sau an trú định địa. Căn cứ tăng hơn làm luận không trái với kinh trước. Kinh Pháp Ấn nói Bồ-đề tâm có bảy. Luận phát Bồ- đề tâm có mười phát tâm. Bồ-tát địa có bốn duyên mười thứ phát tâm, sợ văn rườm rà nên thôi. Kinh: “Bồ-tát Trí Tích cho đến liền thành chánh giác”. Tán: Trí Tích nghi có bốn: 1.Thời gian dài. 2.Hành sâu rộng. 3.Trùm khắp các nơi. 4. Ý rộng lớn mới đắc Bồ-đề. Cho nên sanh nghi. Kinh: “Nói luận chưa xong cho đến độ thoát khổ chúng sanh”. Tán: Long nữ hiện, có bốn: 1.Long nữ hiện khen ngợi. 2.Thu Tử trình bày nghi. 3. Long nữ thành đạo. 4. Chúng đương thời được lợi ích. Đây là phần đầu có hai: Trước hiện rồi trở về chỗ cung kính, sau dùng tụng khen ngợi. Trong ba hàng rưỡi kệ tụng có hai: hai hàng rưỡi khen ngợi, một hàng sau trình bày thành thật. Đây là phần tụng kệ. Kinh: “Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất cho đến việc ấy khó tin”. Tán: Ngài Thu Tử ban đầu, nêu sau giải thích. Kinh: “Vì sao cho đến mau được thành Phật.” Tán: Ở đây giải thích ba điều: Thân uế không đắc, sao có thể nương thắng pháp, thắng nhân. Thời gian ngắn không đắc quả Đại thừa mầu nhiệm. Chướng ngại không đắc, lìa chướng không ngăn ngại mới viên mãn giác ngộ. Kinh Siêu Nhật Nguyệt Tam-muội nói: Thượng tòA-tỳ- kheo nói với Tuệ Thí rằng: Thân người nữ không thể được thành Phật đạo, có ba việc ngăn năm việc ngại. Sao gọi là ba: Tại gia tùy theo sự kềm chế của cha mẹ, xuất giá theo sự kềm chế của chồng, chồng chết theo con, cũng đồng nghóa ba tòng của sách thế tục. năm thứ ngại đồng với đây. Tức Kinh kia nói: Không được làm Phạm thiên, vâng giữ hạnh thanh tịnh không có hạnh dơ cấu, tu tứ đẳng tâm khéo đạt tứ thiền và thăng Phạm thiên, dâm túng vô độ chính vì người nữ, cho nên không được làm Phạm thiên. Không được làm Đế thích: Mạnh mẽ ít dục mới làm Đế thích tạp ác quá độ cũng vì người nữ. Không được làm Ma vương, Thập thiện đầy đủ tôn kính tam bảo, kính thờ cha mẹ, khiêm cung, kính thuận trưởng già mới làm Ma vương, khinh mạn không thuận theo mất chánh giáo cũng vì người nữ. Không được làm Luân vương: Hành Bồ-tát đạo từ mẫn với các loài cúng dường tam tôn, Tiên Thánh cha mẹ mới làm Luân vương, chủ bốn thiên hạ, hóa hành thập thiện, tôn sùng đạo đức, mới làm Luân vương không có hạnh thanh tịnh cũng vì người nữ. Không được thành Phật: Tâm hành Bồ-tát thương xót tất cả chúng sanh đại từ bi dẫn đến Đại thừa, tiêu năm ấm hóa sáu suy, hành tam Tam-muội giải hai vô ngã chứng vô sanh nhẫn thông đạt tất cả, mới được thành Phật, người nữ không có việc này nên không được thành Phật. Bồ-tát Địa chép: Tất cả người nữ thành tựu phiền não các trí ô nhiễm, Chư Phật không dùng thân xấu năng chứng đại Bồ-đề vô thượng cho nên nói người nữ không được thành Phật. Kinh: “Bấy giờ Long nữ cho đến lại mau hơn việc đó”. Tán: Long nữ thành đạo có hai: Trước dâng châu khởi thí dụ, sau thị hiện thành đạo. Đây nói phần đầu có bốn: Dâng châu. Hỏi ngược lại. Thẳng đáp. Kết dụ. Kinh: “Đang lúc đó cả chúng hội cho đến giảng nói pháp mầu”. Tán: Thị hiện đạo thành, có hai: Thấy nhân. Thấy quả. Kinh: “Khi ấy trong cõi Ta bà cho đến đều xa kính lạy”. Tán: Chúng đương thời được lợi ích có bốn: Vui mừng kính lễ. Được lợi ích. Cõi Vô cấu rung chuyển. Chúng hội tin nhận. Đây nói phần đầu. Kinh: “Vô lượng chúng sanh được lãnh lời thọ ký”. Tán: Thế giới vô cấu rung chuyển, có hai: Trước nêu thấy động, sau nói lợi ích này. Do thấy cõi kia rung chuyển liền chứng đạo quả. Kinh: “Bồ-tát Trí Tích cho đến im lặng mà tin nhận”. Tán: Chúng hội tin nhận. ---------------------- PHẨM TRÌ Phẩm này chia làm hai môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Vì sao có phẩm này lại có ba: Sơ lược bốn phẩm nói trong khen ngợi tôn trọng lưu thông, ba phẩm đầu khen ngợi người, pháp khuyên người lưu thông, một phẩm sau này là thời chúng vâng giữ. Nương mười hai phẩm nêu cảnh Nhất thừa, chia làm hai: Trên tám phẩm đầu chánh nêu quyền thật ba căn được thọ ký. Ba phẩm kế khen ngợi người khen pháp khuyên nên kính mến hành trì. một phẩm Trì đây vâng mệnh xả quyền, trì hành thật pháp nên có phẩm này. Luận nói lực trì có ba: Phẩm Pháp Sư, An Lạc hạnh, Khuyến trì. Pháp Sư thông năng trì sở trì, An Lạc Hạnh chỉ có sở trì, phẩm này chỉ nói năng trì. Cho nên có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Trì là giữ gìn không để hoại mất, viết chép cúng dường cho đến tu hành đều gọi là trì, chẳng phải thọ trì trong mười pháp hành. Trước chiêu mộ người nói kinh cũng là khen ngợi người viết chép đọc tụng cho đến nay đây nói trì, cho nên biết trì chung cả mười hạnh khiến pháp trú lâu, làm lợi ích cho chúng sanh nói chung là trì. Cũng có đề Kinh gọi là phẩm Khuyến trì. Luận này cũng nói: Nhân trước Phật khuyên mà khiến trì, hoặc trong phẩm này Phật lại nghó đến các Bồ-tát cũng tức là Khuyến trì. Lý tuy chưa rõ nhân kinh phần nhiều gọi là phẩm Trì. Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Dược Vương cho đến nói kinh điển này”. Tán: Phẩm này phần lớn chia làm ba: Hai muôn Bồ-tát ở cõi này trì, do các chúng sanh gây ra nhiều nghiệp ác. Bốn loại Thanh-văn thỉnh ở phương khác trì, ở đây khó hóa không thể kham nổi. Nhìn lại tám muôn ức na do tha Bồ-tát, kia đây đều trì thế lực lớn mạnh. Đầu văn có ba: Trước thỉnh hộ trì, kế nêu người ác, sau nêu không sợ bỏ thân để trì kinh, đây là phần đầu. Kinh: “Đời ác sau cho đến xa lìa đạo giải thoát”. Tán: Ở đây nói người ác có sáu: Đời ác, chúng sanh ác, căn tánh ác, phiền não nhiều ác, tham danh lợi ác, không muốn giải thoát. Thêm lớn bất gốc lành tức nhiều phiền não. Kinh: “Dù khó có thể giáo hóa cho đến không tiếc thân mạng”. Tán: Ở đây nói không sợ bỏ thân mạng để trì kinh. Do đầy đủ sáu ác tuy khó có thể giáo hóa con cũng không sợ người cần đáng nhiếp thọ thì nhiếp thọ cho họ, người nên chiết phục thì chiết phục, bỏ thân mạng trì pháp. Kinh: “Bấy giờ trong chúng cho đến nói rộng kinh này”. Tán: Dưới đoạn thứ hai nêu bốn hạng Thanh-văn thỉnh ở phương khác trì, có ba: Trước nói năm trăm, tiếp nói tám ngàn, sau ni chúng. Đây là đầu. Kinh: “Lại có bậc Hữu học và Vô học cho đến tâm không chân thật”. Tán đây nói tám ngàn người thỉnh. Trước nêu sau giải thích. Nước đây có tám việc ác nên mong ở nước khác trì kinh: Chỗ ác. Người ác, tệ ác khốn cùng; tướng khinh bạc dễ phẫn nộ. Mạn ác. Đức ác. Sân ác. Trược ác, do gần ngoại đạo nên khởi các kiến. Siểm ác là dua nịnh dối trá, thân cúi thấp hèn ý ưa nịnh hót gọi là siểm, thân ngữ nịnh hót. Tâm không chân thật, miệng nói có tâm không có. Luận Trí độ chép: Chúng sanh thế gian thiện hảo (tốt lành) ít, người tệ ác nhiều, hoặc tuy hành thiện mà thấp hèn xấu xa, hoặc tuy giàu sang xinh đẹp mà hành bất thiện hoặc ưa bố thí mà thiếu tài vật, hoặc giàu nhiều tài vật mà tự keo kiết tham lam, hoặc thấy yên lặng không nói liền cho là kiêu căng cao ngạo không vì thấp kém tiếp nhận vật, hoặc thấy thấp kém mà dẫn tiếp ân tuệ thấm nhuần khắp, liền cho là lừa dối nịnh hót, hoặc thấy có khả năng khéo ngôn luận liền cho là ỷ lại chút trí tuệ đầy kiêu mạn, hoặc thấy ngay thẳng không dối, liền cùng nhau dối trá lộng quyền sắp bị si độn lăng nhục, hoặc thấy điều hòa khéo nhã nhặn mềm mỏng liền cùng nhau chà đạp chê bai, nếu thấy người trì giới tu hành liền cho là sở hành giả bộ lập dị khinh thường bất kính. Mười thứ tệ ác như vậy chúng sanh thật khó giáo hóa nên nguyện ở nước khác trì. Trong Kinh Pháp Cổ chép: Ca-diếp bạch Phật: bạch Đức Thế tôn! Con không thể nào nhiếp thọ người ác, thà dùng hai vai gánh vác núi Tu-di đến trăm ngàn kiếp, cũng không thể kham nhẫn nghe người ác phạm giới diệt pháp, chê bai pháp, ô nhiễm pháp, âm thanh phi pháp. Thế tôn! Con thà làm tôi tớ phụ thuộc người khác chứ không thể chịu nghe cho người ác phạm giới, bội pháp, trái pháp, hoại pháp, âm thanh phi pháp. Thế tôn! Con thà đầu đội mặt đất sông núi trải qua trăm ngàn kiếp, không thể chịu nổi nghe người ác phạm giới diệt pháp tự cao hủy hoại người khác, âm thanh phi pháp: Thế tôn! Con thà thường chịu đui mù câm ngọng chứ không thể nào chịu nghe người ác hủy phạm tịnh giới, vì lợi xuất gia thọ nhận vật của tín thí, âm thanh phi pháp. Thế tôn! Con thà xả thân mạng mau nhập Niết-bàn chứ không thể chịu đựng người ác hủy phạm tịnh giới, theo tiếng ốc, mà thân hành siểm khúc, miệng nói luống dối, các ác âm thanh phi pháp như vậy. Cho nên các Thanh-văn này không nguyện ở cõi này trì kinh Pháp Hoa. Kinh: “Khi đó Di Mẫu của Phật cho đến mắt không tạm rời”. Tán: Đoạn thứ ba ni chúng thỉnh trì, có hai: Trước thọ ký sau trì kinh. Văn đầu có hai: Trước hai hạng được thọ ký, sau hai hạng vui mừng lãnh thọ. Đầu văn lại có hai: Mẹ và vợ. Nói về mẹ lại có hai: Thỉnh và thọ ký. Đây là thỉnh. Dì của Phật, chị em một nhà gọi là Dì. Kinh: “Bấy giờ Thế tôn bảo cho đến chánh đẳng chánh giác ư?” Tán: Dưới thọ ký có hai: Trước hỏi sau thọ ký. Đây là hỏi. Tiếng phạm là Kiều đáp Ma-hán dịch là Nhật Viêm chủng cũng gọi Cam giá chủng, là mẹ của Phật nên dùng tiếng Di để gọi, gọi lầm là Kiều Đàm Di, hoặc loại bùn đất nát loại phân trâu nên nói Di cho đến Cù đàm là họ. Nguyên nhân nói rộng kinh đây như Tây-vức ký. Kinh: “Kiều Đàm Di cho đến đều làm pháp Sư”. Tán: Trong phần Thọ ký: Trước nêu Phật đã nói cùng thọ kí nhân, sau thọ kí quả. Đây là thọ kí nhân. Kinh: “Ngươi dần dần đủ đạo hạnh cho đến chánh đẳng chánh giác”. Tán: Đây chính thọ ký quả, trước thọ kí Di mẫu sau chuyển ký. Kinh: “Bây giờ mẹ của La-hầu-la cho đến riêng chẳng nói đến tên tôi”. Tán: Dưới nói vợ có hai: Suy nghó và thọ ký. Đây là suy nghó . Kinh: “Đức Phật bảo cho đến A-tăng-kỳ kiếp”. Tán: Đây thọ ký. Trước thọ kí nhân sau thọ ký quả, trong quả đầu tiên nói về thể sau tuổi thọ. Kinh: “Lúc đó bà Đại Ái Đạo cho đến lòng an vui đầy đủ”. tụng. Tán: Đây là hai loại vui mừng lãnh nhận. Trước văn xuôi sau kệ Kinh: “Các vị Tỳ-kheo ni cho đến giảng nói pháp này”. Tán: Thứ hai trì kinh. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến đại Bồ-tát”. Tán: Đoạn thứ ba, nhìn tám mươi muôn ức na do tha Bồ-tát trì, trong đó có hai: Phật nhìn thấy và thỉnh trì. Đây là phần đầu, dùng thân gia hạnh phát khởi tâm chúng khiến trì kinh do đó nhìn các Bồ-tát. Cho nên, trong luận này gọi phẩm Khuyến Trì là dùng thân khuyên. Kinh: “Các vị Bồ-tát đó cho đếnphải làm thế nào?” Tán: Dưới thỉnh trì, Văn xuôi có ba: Khen ngợi đức. Niệm thỉnh. Nói thỉnh. Đây nói hai phần đầu. Trong đức đầu tiên nói vị thứ. A-duy-việt- trí Hán dịch là Bất thối Bát địa trở lên. Từ câu: “Xoay bánh xe pháp cho đến” trở xuống là nói thành tựu đức. Tâm niệm có hai, như văn có thể biết. Kinh: “Lúc đó các vị Bồ-tát cho đến xa giữ gìn cho” Tán: Đây là nói thỉnh. Đầu tiên là thỉnh trì lược có bày hành, không có ba hành thí cho người , lắng nghe, cúng dường vì dễ nên lược. Sau thỉnh hộ trì. Kinh: “Tức thời Bồ-tát cho đến chúng con sẽ nói rộng” Tán: Dưới có hai mươi hàng chia làm hai: một hàng đầu nêu sẽ nói, kế mười tám hàng tụng giải thích sẽ nhẫn thọ, sau một hàng tụng kết thệ. Đây là một hàng đầu. Kinh: “Có những người vô trí cho đến chúng con đều phải nhẫn”. Tán: Dưới mười tám hàng giải thích sẽ nhẫn thọ chia làm hai: mười sáu hàng tụng nhẫn trì. hai hàng tụng khuyên nói trì. Văn đầu có bốn: đầu. Một hàng tụng hủy mắng đánh đập nhẫn. Chín hàng rưỡi tụng ngã mạn chê bai nhẫn. Ba hàng tụng hủy mắng nhẫn nhục. Hai hàng rưỡi tụng xua đuổi im lặng nhẫn. Đây là một hàng - Kinh: “Tỳ-kheo trong đời ác… lòng ngã mạn dẫy đầy.” - Tán: chín hàng rưỡi tụng ngã mạn chê bai nhẫn có ba: Một hàng tụng tướng ngã mạn. Bảy hàng tụng chê bai nhẫn. Một hàng rưỡi tụng kết thành nhẫn. Đây là phần đầu. Tà trí nên thế trí biện thông, siểm khúc nên khen ngợi việc làm của bạn, còn tướng hai thứ mạn kia có thể biết. - Kinh: “Hoặc người mặc áo nạp cho đến như La-hán sáu thông “. - Tán: bảy hàng tụng chê bai nhẫn, trong đó có bốn: hai hàng tụng hiển người ác, một hàng tụng nêu giả tu hành, hai hàng tụng chê bai sự tu hành, hai hàng tụng nói hành vi ác. Đây là hai hàng đầu. Tiếng phạn A luyện nhã đây gọi nhàn tịch xứ, lìa xa thôn một câu lô xá hơn sáu trăm bước. - Kinh: “Người đó ôm lòng ác cho đến ưa nói lỗi chúng con”. - Tán: Đây là nói giả tu hành. - Kinh: “Mà nói như thế này cho đến mà giải nói kinh đó”. - Tán: Đây là chê bai sự tu hành. - Kinh: “Thường ở trong Đại chúng cho đến nói luận nghóa ngoại đạo”. nghe. Tán: Đây nói hành vi ác, nói lỗi xấu của họ cho người khác Kinh: “Chúng con vì kính Phật cho đến đều sẽ nhẫn chịu”. Tán: Kết thành nhẫn. Kinh: “Trong cõi đời vẩn đục cho đến hộ trì lời Phật dặn”. Tán: Ba hàng chê bai nhẫn nhục chia làm ba: một hàng tụng việc nhẫn, một hàng tụng ý nhẫn, một hàng kết hộ trì. Kinh: “Thế tôn tự nên biết cho đến đều sẽ nhẫn việc đó”. Tán: Đây là xua đuổi nhẫn. Vì kinh này nên xua đuổi con con sẽ nhẫn. Tẩn là bài xích xua đuổi. Kinh: “Các thành ấp xóm làng cho đến xin Phật an lòng ở”. Tán: Đây hai hàng tụng khuyên nói trì. Kinh: “Con ở trước Thế tôn cho đến Phật tự rõ tâm con”. Tán: Đây là kết thệ. --------------------- PHẨM AN LẠC HẠNH Chia làm ba môn : Vì sao có phẩm này Giải thích tên phẩm. Giải đáp chướng nạn. Vì sao có phẩm này có năm: Là khoa đầu trong ba lưu thông. Bốn phẩm trên khen ngợi tôn trọng lưu thông, từ dưới bảy phẩm học hạnh lưu thông, học mở rộng kinh này chánh hạnh trợ hạnh không để bị tổn thương. Dù đã khen ngợi tôn trọng nếu không nói sở học năng hành chành vi ác hoằng kinh, đời mạt pháp phần nhiều khó khăn thường sanh tổn hoại, không thể mở mang, cho nên nói bảy phẩm học hạnh lưu thông: An lạc hạnh. Dũng xuất. Tuổi thọ. Phân biệt công đức. Tùy hỷ công đức. Pháp Sư công đức. Thường Bất Khinh. Một phẩm An Lạc Hạnh là học hạnh mở rộng kinh, sáu phẩm Dũng xuất cho đến nói người năng hành trì kinh. Người do pháp để thành đức, pháp nhờ người để hoằng tuyên, nếu không hành theo sở học, người kia do đâu mà kiến lập đức, nên phẩm An Lạc hạnh hành để học. Nếu không có người năng hành thì pháp kia không do đâu mà lưu bố rộng cho nên Dũng xuất cho đến là nói người năng hành, nên sau phẩm trước có phẩm này. Khoa sau mười chín phẩm làm chánh tông, trong đó có ba: Trên mười hai phẩm nêu cảnh Nhất thừa xong, kế ở dưới hai phẩm nêu hạnh Nhất thừa. Phẩm An lạc hạnh nêu hạnh sở hành, sau phẩm Dũng xuất nêu người năng hành cho nên tiếp có hai phẩm này. Vì trừ trong bảy nhiễm mạn, thứ sáu là người tập công đức, nghóa là người có công đức nói pháp Đại thừa mà chấp phi Đại thừa tăng thượng mạn vì đây nói hạt châu trong búi tóc. Cầu quả tam thừa là hạng người nhóm họp công đức. Xưa tuy tướng chung vì nói Đại thừa, tâm kia chưa quyết định lui sụt hay hướng về Nhất thừa mà sẽ vì thắng chấp phi Đại thừa, nói công huân nhỏ ít nên chỉ ban cho các vật khác. Như nay đã phát tâm định ưa thích Đại thừa lập công đã lớn nên cởi viên ngọc mà cho. Luận nói người thứ sáu nói pháp Đại thừa dùng pháp môn Nhất thừa này ban cho, khiến hàng Nhị thừa đồng thập địa hạnh mãn. Nay đức Như-lai thầm giải thích như cởi viên ngọc mà cho, nên có phẩm này. Luận giải đệ thập vô thượng, lực trì trong bảy lực nghóa là phẩm pháp Sư, An lạc hạnh, Phẩm trì. Phẩm An lạc hạnh nói hạnh sở trì, trước phẩm Trì đã nêu năng trì thì sẽ có hành sở Trì, cho nên có phẩm này. Tức văn bốn hạnh An lạc, đây là văn còn lại. Trước nói viên ngọc là văn sau. Luận chép: Sáu là thị hiện nói vô thượng cho nên nói chỉ cho viên ngọc trong búi tóc cho, dùng pháp này ban cho như cởi viên ngọc cho, pháp sở nói lại vô thượng. Tuy văn có khác nhưng đều nói châu, là phần còn lại của phẩm trước, nên có phẩm này. Giải thích tên gọi: Lìa nguy nan sợ hãi gọi là an, thân tâm ưa thích gọi là lạc, oai nghi đáng làm khuôn mẫu lời nói có phép tắc, tâm trừ dòng siểm mạn, ý chí chứa từ bi, duyên từng trải không dừng lại gọi là hạnh. An lạc là quả, hạnh là nhân. An lạc hạnh là y chủ thích. Nếu khi tu nhân lìa các nguy hiểm sợ hãi, thích hợp thân tâm gọi là An lạc hạnh, tức trì nghiệp giải thích. Hành thông suốt đi ngay thẳng, hành kinh này thì thâu hoạch an lạc. Giải đáp chướng nạn: Hỏi: Phẩm này cũng nêu việc cởi viên ngọc vì sao không lấy đó đặt tên phẩm? Đáp: Vì nêu thắng hạnh khen ngợi kinh thắng đức chẳng muốn đối cơ chính nêu việc viên ngọc cho nên chỉ lấy tên An Lạc Hạnh đặt tên. Kinh: “Lúc bấy giờ cho đến năng nói kinh này”. Tán: Trong phẩm này phần lớn văn chia làm hai: Trước khải thỉnh sau chỉ bày. Đây là phần đầu có hai: Trước tán dương việc ít có sau thỉnh nói nghi thức. Vì sao nói đời sau không có tổn thương. Kinh: “Đức Phật bảo ngài Văn-thù cho đến an trú trong bốn pháp”. Tán: Dưới chỉ bày có hai: Trước nhân hỏi Phật bảo bốn hạnh an lạc, sau cuối phẩm tụng, trong đó có hai hàng rưỡi tụng nhân tiên tổng bảo tướng quả an lạc. Tức câu “Người đọc kinh này thường không ưu não cho đến” Phần đầu bảo có ba: 1.Nêu đáp. 2.Hiển đáp. 3.Kết đáp. Sau kia hiển quả an lạc, tụng tiếp trước một rưỡi “sau khi ta diệt độ cho đến” đây tức là văn đầu, bốn pháp: Dưới bốn đoạn văn, đều có văn xuôi và kệ tụng mỗi mỗi là một hành: 1.Chánh thân hành. 2.Chánh ngữ hành. 3.Ý lìa hành vi các ác tự lợi. 4.Tâm tu các thiện lợi tha hành. Do bốn hạnh này nhiếp hết các hành. Do ngay thẳng nên không có ác nào không lìa, tự lợi hạnh mãn, do từ bi nên không có thiện nào không sanh, lợi tha hạnh mãn. Kinh từ nghóa thù thắng nói thứ ba là ngay thẳng, thứ tư từ bi, thật sự đều thông. Căn cứ văn kinh ở dưới, trong phần đầu nói thân hành cũng nêu rõ tâm hành là thời giáo hành. Tâm kia an trú môn không hữu, do trú hai môn lấy làm căn bản dẫn các hành khác sanh; chẳng phải hạnh đầu cũng thông nơi tâm, hạnh đầu chỉ nêu lìa thân hành ác tu thân hành thiện, cho nên ở trong bốn hạnh đều nên nói có không hữu hai thứ, chỉ ở trong hạnh đầu nói hành không hữu, theo lệ ba hạnh còn lại đều có đầy đủ. Cho nên trú không hữu hai thứ là tu bốn hạnh, thông vận thân tâm. Bốn tên pháp: Pháp nghóa là chấp trì, pháp là sở y, ba nghiệp là năng y, hai thứ này đều là hành sở hạnh. An là an xứ, trú là y chỉ, năng hành hạnh là an ở ba nghiệp, y trong bốn hạnh gọi là an trú bốn pháp. Hoặc pháp là nghóa nhân, chủ yếu các Bồ-tát trước quán nhân pháp hai sự, thể không, tùy theo khả năng thân lìa tà ác, nói hợp phép tắc chánh thiện, diệt tướng dối gạt khởi tâm từ bi như dứt tự ung nhọt lìa chê bai hủy báng mở mang đại giáo mà chưa thôi, nhiều đời lợi ích mà không thoái mất là đại ý trong đây. Lại trước Phẩm Pháp Sư nói vào nhà Như-lai, tức là thứ tư đại từ bi tâm, mặc áo nhu hòa nhẫn nhục của Như-lai, ngồi tòa pháp không của Như-lai, đây là thứ nhất thông hành, diệt vọng tưởng nơi không môn, khởi chân tâm nơi của hữu, cho nên có thể dùng thân ngữ điều (hòa) mà lợi cứu giúp tâm ý thuận mà đạo viên mãn. Đây là lý do. Kinh: “Một là cho đến giảng nói kinh này”. Tán: Giải thích thân hành trong đó có ba: Nêu hành xứ, gần gũi xứ. Giải thích riêng. Kết cuối sau năm câu tụng, hoặc có bổn văn kinh văn xuôi, nay chọn là tụng làm chánh nêu đây. Xứ là xứ sở tức pháp trước, là nơi các hành tam nghiệp nương tựa thật hành, nơi đáng gần gũi, hành là du hành, an nghỉ hoặc trở lại đạo lý. Như thế gian nói: Ông làm ở đâu? Ý nói thuộc hành ở đạo lý nào! Kia nói bất cứ lúc nào tâm cũng thường du hành, an nghỉ trong xứ sở này, hoặc an tâm thần ở trong xứ sở đạo lý nên gọi là hành xứ. Thân là gần gũi phụ giúp, cận là huân tập gần gũi, xứ nghóa đồng trước. Hành là thân tâm sở ứng gần gũi phụ giúp huân tập cận xứ gọi là gần gũi xứ. Hành nghóa là bên trong thật hành chành vi ác an nghỉ thân tâm, gần gũi nghóa là cảnh bên ngoài, ngoài duyên thân gần huân tập, đây hai thứ thô tướng sai khác, thân hành có thân sơ, có chung riêng gọi là gần gũi xứ, ba thứ còn lại không như vậy. Chỉ gọi chung An lạc hạnh. Kinh: “Văn-thù-sự-lợi cho đến là chỗ hành xứ của đại Bồ-tát”. Tán: Trong biệt giải thích chia làm hai: Trước nêu hành xứ sau gần gũi xứ. Hành xứ tức là nhân chung của bốn hành, khi khởi bốn hành phải y môn đây mới sanh khởi. Hành xứ có ba: 1. Hỏi. 2. Giải thích. 3. Kết. Đây là hỏi. Kinh: “Nếu vị Đại Bồ-tát cho đến lòng chẳng kinh sợ”. Tán: Dưới giải thích có ba: Trước tu hạnh hữu, kế tu hữu không, sau cả hai hữu đều trừ bỏ. Đây là phần đầu, chỉ tu hạnh hữu, vì phi không nên chấp trước sanh tử không có chứng đắc. Chỉ tu hạnh không, vì phi hữu nên chấp trụ Niết-bàn. Không có lợi tha. Muốn nói rõ quán cả hai Không Hữu mà không chấp trước, khác nhau phàm phu và Nhị thừa. Như Kinh Vô Cấu Xứng nói: Hành không trú đạo. Lại chỉ tu ha- ïnh hữu do phi không nên vọng tưởng càng thêm lớn, chỉ huân tu hạnh không vì phi hữu nên chân tâm không có nhân mà không sanh. Cho nên để diệt vọng tưởng nơi không môn, khởi chân tâm nơi cửa hữu, hữu không song quán mới thành Trung đạo tức là hành xứ đây. Tu hạnh hữu có bốn: Trú nhẫn địa, lại như khi nói pháp có oán hại, năng nhẫn, khổ ép ngặt năng chịu, đế pháp năng ấn. Nhu hòa khéo thuận: Thân tùy hạnh mầu nói lời hay khéo, tâm không nghó ác, ngoài lìa thô thiển gọi là nhu hòa, trong khế hợp huyền tôn gọi là khéo thuận. Mà không vụt chạc: Nghóa là không bộc phát cử chỉ thiếu kềm chế, suy nghó, với ba nghiệp phi lý đã chưa khéo đủ thì mỗi khi khởi đều phải xét kỹ, thong thả tư duy, trí là dẫn dắt trước, rồi sau động phát chánh kiến tiến lên, biết khó dễ, tiến lùi hợp thời, dù tư duy có khởi cũng không phi lý gọi là không vụt chạc (hấp tập). Tâm cũng không kinh sợ: Dù đối với Đại nghóa từng chưa nghe người khác cật vấn trái với tông, ngược với mình, hoặc họ cúng dường, gần gũi, đánh mắng, hơi trái nghịch, danh lợi, oai thế, hủy nhục, xua đuổi, lợi suy, hủy dự, xưng cơ hiềm, khổ lạc, với tất cả các thứ này đều an ổn vững chắc bất động, tâm cũng không sợ. Nên có tụng nói: “Chư Phật thường dạo khắp thế gian, lợi lạc tất cả loài hữu tình, tám pháp nhiệt phong tà phân biệt, không thể khuynh động không chấp ngại. ” Hoặc trú nơi nhẫn nhục địa là câu tổng, là biệt nói thường nhu hòa, thân khéo thuận an mà không kinh sợ, trong tâm thường cũng không sợ, ba nghiệp thuận lý đây mà hành nơi hữu, thì có kinh nào mở mang truyền bá mà gặp chướng ngại! Nhẫn nhục gọi là địa, địa là nghóa sở y lớn lên, lấy nhẫn làm nương tựa lớn lên thiện, dụ cho địa. Lại nói từ dụ đặt tên, khi hành nhẫn như đất mà nhẫn chịu thuận, trái bất động, cho nên đào hang sâu mà đất không giận, dựng nhà cao mà đất chẳng thích, gặp muôn vật mà đều chuyển tải, nhậm trì đức dụng càng lớn, đào bới bó quấy nhiễu mà phát ra suối ngọt, gieo trồng xong đất chẳng mong mỏi ban cho. Cho nên hành ba nhẫn nêu đất đặt tên đáng nên suy nghó kó, đáng gọi là Đại Bồ-tát. Hoặc địa nghóa là vị, ở trong tất cả địa vị thường hành nhẫn. Kinh: “Lại ở nơi pháp không cho đến tướng như thật”. Tán: Đây là nói tu hạnh không. Hành là nghóa phân biệt chấp trước. Đối với pháp không phân biệt: Ở trong tất cả pháp chỉ thấy chúng sanh và pháp đều không mà không phân biệt chấp trước là có, mà quán các pháp tướng như thật, tức là đã quán ngã pháp hai không làm môn, lại quán tánh Như-lai tạng của các pháp. Chân lý pháp thể tướng như thật, thể pháp, ngã không có gọi là Không, Như-lai tạng kia gọi là tánh không. Chẳng quán hai môn không chẳng thấy tánh chân không, cho nên hai thứ này đồng gọi là quán không. Kinh: “Cũng chẳng thực hành không phân biệt. Tán: Trên nói quán không, hữu, sợ đắm trong không hữu cho nên nay quán bỏ cả hai, nghóa là tuy quán không mà cũng không vin theo chấp đắm vào không, tuy quán hữu mà không phân biệt chấp đắm trong hữu, tương ứng đều vô trú mà nêu pháp quán. Nếu có sở trụ thì là phi trú, cho nên dưới có tụng rằng: Tuy y theo người không pháp không giải mà hai thứ này gọi chung nơi pháp mà không phân biệt vin theo, nhiếp theo lý không trái. Lại nữa đối với pháp, không phân biệt quán các pháp không. Tụng nói: Không hành thượng, trung, hạ, pháp hữu vi vô vi, cũng không hành, không phân biệt. Như thứ lớp tức không hành phân biệt ngã, ngã sở, quán chúng sanh là không. Tụng nói: Cũng không phân biệt là nam hay nữ. Do quán hai ngã, pháp này là không liền chứng tánh như thật của nhị không. Lại đối với pháp không phân biệt, nghóa là không phân biệt nói pháp chỉ quán nghóa chân như thật tướng, cũng không phân biệt là người được thọ hóa. tức quán ba sự hai thứ người, pháp thể tánh là không, mà quán chân như thật tướng là hữu. Lại tất cả pháp có hai: Vọng và chân, đối các pháp vọng nên không phân biệt chấp trước để xả bỏ các vọng, đối pháp tánh chân nên thường quán sát cầu chứng đắt. Tuy gây ra hành vi này cũng không tạo hạnh chân trí đối với thật tướng chấp là hữu, cũng không tạo Tục trí, hành phân biệt chấp là không. Cho nên Bát-nhã chép: Nên vô sở hành mà hành đó gọi là hành, không hành nên chẳng có chỗ nào, không hành, không phân biệt nên chẳng có chỗ nào không phân biệt. Không hành không phân biệt nên vọng huyễn đều trừ, không chỗ nào, chẳng hành, chẳng phân biệt nên chân tế đều đạt. Do đó, song tu chiếu rõ tất cả, nơi sự y tha trú nhẫn địa cho đến nơi lý thành thật quán như thật tướng, người pháp sở chấp đều soi chiếu là không. Kinh: “Đó gọi là Bồ-tát cho đến hành xứ”. Tán: Đây kết. Kinh: “Thế nào gọi là Đại Bồ-tát cho đến thân cận”. Tán: Dưới nói chỗ gần gũi có hai: Hỏi và giải thích. Đây là hỏi. Kinh: “Vị Đại Bồ-tát cho đến cuộc chơi biến hiện”. Tán: Dưới giải thích có hai: Lìa duyên ác bên ngoại không thể gần gũi xứ, ngược lại nói lên không lìa duyên lành bên ngoài, có thể gần gũi xứ tức là cảnh ở cõi người. Ngoại quán chân pháp có thể gần gũi xứ ngược lại hiển ngoại quán vọng pháp không thể gần gũi xứ, tức là cảnh pháp, lẫn nhau nói lên tức chia làm hai. Nhưng quán chân pháp nên có cả các hành khác, dẫn chung cả bốn hạnh. Dựa vào theo hạnh đầu mà rõ ràng không chỉ hành này. Văn đầu lại có hai: Giải thích và kết. Lìa các duyên ác bắt đầu tu giới hạnh, thường ưa ngồi thiền, kế tu định hạnh, sau gần gũi xứ quán cảnh không cho đến mới tu tuệ hành. Đầu văn chia làm ba: Bốn phần đầu là một đoạn, kế một là một đoạn, sau năm là một. Trong phần đầu lại có hai: Nói lìa bốn và nêu không lìa. Trong đây có ba lìa: Tổn hại duyên. Ác kiến duyên. Hoại loạn duyên. Bồ-tát tuy lại giáo hóa khắp chúng sanh nhưng mới tu hành thì phải phân biệt, người học không lâu cũng giống như vậy. Lại ở đây chấp nhận cho nói pháp dẫn dắt chúng sanh lợi lạc, mà chỉ hòa quang nhưng không được thuận theo đồng trần giao hảo, do đó lìa, ngăn đầu không ngăn sau, ngăn đồng không ngăn khác, ngăn thuận không ngăn trái, cho hóa độ mà không giao hảo nên không trái nhau. Nếu gần gũi vua cho đến hoặc chỉ tăng thêm sự tổn hại như trong luật nói. Nếu vào cung vua thì có mười lỗi. Ngô Vương đồng kéo xe để một đời vinh hiển Tần chúa nhường vợ chịu só nhục ngàn năm, ngoại đạo tà nhân thường dò xét pháp thiếu sót lầm lỗi, cho nên luật không cho tự tay trao thức ăn huống chi là gần gũi. Ni-kiền-tử: Là ngoại đạo ly hệ. Viết sách thế tục: Là các loại thi ca làm văn, văn khắc trên bi thuộc bút viết. Thư theo Chu lễ có sáu nghề, năm gọi là lục thư nghóa là hình tượng, biên chép nơi tre lụa cho đến như trong âm giải, nay nêu loại kia bốn phương Tây khác với ở đây. Lộ-già-da-dà: trước nói ác đáp đối với người, chánh nói lộ ca cũng là để ca dịch là ngoại đạo thuận thế. Nghịch lộ-đà-da-đà: Trước nói ác trưng cầu hỏi người, chánh nói phược ma lô ca cũng là để ca, nói ngoại đạo Tả Thuận Thế chấp trái với trước nên gọi là tả (trái) thuận thế tục. Dưới một là nói xuyên suốt cả hai xứ trên. Na la cho đến là thân múa vẽ văn hoa. Biến hiện vui chơi là làm trò huyễn thuật thế gian. Hung là ác. Nay đây từ đầu có gây ra lỗi hung ác nguy hiểm. Kinh A-hàm nói bậc trí trong lòng thường lo lắng tợ như trong ngục tù, kẻ ngu thường vui vẻ hớn hở như ở cõi trời Quang âm. Người trạo hý như voi trâu lừa không bị buộc móc câu vào mũi nên khó có thể cấm chế. Lại kệ nói: Ông đã cắt tóc mặc áo hoại sắc cầm bát đất đi khất thật vì sao ưa đắm pháp chơi đùa, đã không có pháp lợi ích mất công đức do đó không nên đâm nhau đánh nhau. Kinh: “Lại không gần gũi cho đến các luật nghi ác”. Tán: Nói nghiệp duyên ác. Chiên-đà-la dịch là người giết mổ không có luật nghi, nói đúng là Chiên-đồ-la, hán dịch là nghiêm sí, nghiệp ác tự hành trì nêu cờ, lay chuông linh đồng cầm cây trúc gọi là tự nêu, trong đây nêu ra sáu thứ, tạp tâm có mười hai, nghóa là người mổ dê, nuôi heo - gà, bắt cá - chim, thợ săn, trộm cướp, kẻ đầu cơ, người giữ ngục, chú rồng, giết chó, rình săn. Kinh Niết-bàn có mười sáu thứ: Trâu dê heo gà làm lợi nên mua, nuôi cho béo rồi đem bán, vì lợi nên mua, mua rồi giết mổ, tức là tám thứ trước. 9. là câu cá. 1 0. Thợ săn. 11. Cướp đoạt. 12. Kẻ đầu cơ. 1 3. Bắt chim. 14. Nói hai lưỡi. 1 5. Ngục tốt. 16. Chú rồng. Đối pháp quyển tám nói có mười bốn: Giết dê, nuôi heo, bắt chim, bắt cá, săn hưu, đặt bẩy, trộm cướp, đầu sỏ, hại trâu, trói voi, lập đàn, chú rồng, giữ ngục, gây chuyện, ưa làm tổn hại cho đến ý văn này nói, ý suy diễn rộng lại tổn hại sâu, đấm chắp lợi chướng khi sắp qua đời thân vẫn không dừng đều gọi là không có luật nghi cho nên nói ưa làm tổn hại cho đến Nên Kinh này nói các luật nghi ác. Lược âm ngư lại là bắt. Lại điền lạp là săn bắn, ngư bộ là chài lưới. Kinh: “Những người như thế cho đến không có tâm mong cầu”. Tán: Đây là nói không lìa, cho hòa quang hóa độ ma không cho đồng trần nên không gần gũi. Kinh: “Lại không gần gũi cho đến không có tâm mong cầu”. Tán: Đây là đoạn thứ hai, trước lìa sau không lìa. Nói người có duyên. Kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát sợ Nhị thừa như tiếc thân mạng người. Tịch Điều Âm Thiên tử Sở Vấn kinh chép: Đức Phật bảo Văn- thù-sư-lợi thí như có người đói khát tiều tụy, chịu đói khát chứ không hề ăn thức ăn có độc trộn lẫn, Bồ-tát cũng như vậy, thà sẻn tiếc ganh ghét phá giới ác khẩu đọa lạc vong niệm vô trí chứ không bao giờ hy vọng mong cầu quả vị Nhị thừa. Phật bảo Thiên tử, như người tham ăn là chất độc của Luân vương; cho nên người Nhị thừa trì giới tinh tấn tức là Bồ-tát phá giới đọa lạc nên không được gần gũi, cho đến vì nói pháp không mong cầu gần gũi lợi dưỡng cung kính. Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến, để làm thân hậu”. Tán: Đoạn thứ ba, đầu lìa thứ sáu nhiễm duyên lâu dài, thứ bảy duyên vô dụng, thứ tám duyên hiềm trách, thứ chín duyên không phép tắc, thứ mười tán loạn duyên. Sau nêu tự hành. Trong năm thứ lìa văn này có hai: Là duyên thứ sáu, thứ bảy. Thập tụng luật nói: Thí như người ăn thức ăn chín tất cả người nữ cũng giống như vậy khiến người ưa đắm không thể lìa bỏ. Luận Trí độ nói: gió mát không có hình còn có thể bắt được, rắn độc còn có thể xúc chạm nhưng tâm người nữ khó có thể chạm được. Cầm đao kiếm chiến đấu giặc địch còn có thể đánh thắng, giặc nữ hại người khó có thể ngăn cấm. Luật Tứ Phần nói: Thường đến nhà người tại gia có năm lỗi: Thường thấy người nữ. Thấy thường gần gũi. Chuyển dần thân hơn. Liền nghó việc dâm dục. Hoặc khi đến chết gần chết khổ não, cho nên phải xa lìa. Năm hạng người bất nam: sanh tiện, trừ khứ, ganh ghét, bán nguyệt, quán sái. Do có hai lỗi nam nữ phiền não thường cùng hành, người tốt khó được, không phải pháp khí, cho nên không được thân gần. Kinh: “Chẳng một mình vào nhà người cho đến cũng chẳng thích đồng thầy với chúng nó”. Tán: Trong đây có ba: Duyên thứ tám, chín và mười. Luận Du- già nói: Nên lìa mười bốn cấu nghiệp tàn ẩn sáu phương, lìa xa bốn bạn ác nhiếp bốn bạn lành. Lìa mười bốn cấu nghiệp. Trường A-hàm nói: Thân ngữ ý nghiệp có bốn: Sát, đạo, tà, dâm, vọng ngữ, không y các thứ này làm các việc ác. Nhân ác có bốn: Tham, sân, si, mạn, không y bốn thứ này khởi ác nghiệp. Lìa sáu thứ làm tổn hại tài pháp: Mê uống rượu. Đùa giỡn. Phóng đãng. Mê chấp kỹ nhạc. Bạn Ác tổn hại nhau. Thuận theo kia nói. Trong sáu thứ này đều có sáu thứ như vậy hợp thành mười bốn cấu nghiệp. Tàng ẩn sáu phương. Trường A-hàm nói trong thành La-duyệt có con trưởng giả tên là Thiện Sanh, tương truyền thời xưa vào mỗi buổi sáng thường lễ sáu phương, khiến thần trong sáu phương thường hộ gia nghiệp. Một hôm tình cờ bỗng nhiên gặp Phật có phương pháp gì không: Đức Phật đáp có cùng ông khác nhau. Cha mẹ là phương Đông, Sư trưởng là phương Nam, vợ con là phương Tây, bạn thân là phương Bắc, nô bộc sai sử là Hạ phương, Sa-môn cao đức là Thượng phương. Trong sáu phương mỗi phương đều có năm việc, thường tàng ẩn trong sáu phương này, không sanh kiêu học, mà tùy kia thích ứng, hoặc năng trú trong sáu phương này nên nói tàng ẩn. Xa lìa bốn bạn ác: Trường A-hàm nói: Như gần gũi bạn ác sợ mà phục, thật không có ý gần gũi. Nói tốt với bạn ác, thuận lời trái ý. Kính thuận bạn ác, tâm tuy kính thuận nhưng việc làm thiện ác đều từ vô tướng can ngăn tâm. Đồng sự bạn ác. Làm bạn với việc ác hoặc đồng uống rượu đùa giỡn dâm dật phóng đản cho đến ca vũ cho đến Trong bốn thứ này mỗi thứ có bốn, nói bốn việc đáng ác thường nên xa lìa. Nhiếp bốn bạn lành: Trường A-hàm nói: Ngăn bạn không tốt, ngăn các việc ác. Thương xót bạn lành linh đinh khổ sở. Lợi người bạn lành việc vui cùng nhau vui. Đồng sự bạn lành việc thiện đồng nhau. Trong mỗi hứ đều có bốn, đều rộng như kia không cần nói nhiều. Kinh: “Thường ưa ngồi thiền cho đến đó gọi là chỗ gần gũi ban đầu”. Tán: Đây nêu tu định hạnh và kết. Thường xa lìa nơi ồn ào ưa ở chỗ vắng khuyên người sơ học nên tự tónh trú, khuyên người học lâu thân tuy ở chỗ ổn ào mà tâm thường vằng lặng. Lý thật bốn hành các ác đều lìa, các thiện đều tu, lại bàn luận nói, kinh phần nhiều phát khởi, cho nên văn trên dưới chỉ nói hành vi ác để khuyên tu tập, trên nói cảnh người, dưới nêu cảnh pháp. Kinh: “Lại nữa cho đến chẳng chuyển”. Tán: Thứ hai gần gũi xứ. Trong học Tuệ hạnh có hai: Trước dạy quán sau kết. Dạy quán đầu tiên không quán sau hữu quán là quán chân tục hai đế. Không quán có mười tám câu làm ba giải thích. Trong đây chỉ quán biến kế sở chấp không, nói lên pháp chân như vô tướng nhất thể, dưới hữu quán mới dạy quán việc thế tục. Trong mười tám câu chia làm tám loại, đây có hai loại: ba câu đầu y ba tánh để hiển chân, do chân thể mầu nhiệm tự tánh khó biết nên y thuyên hiển. Cầu đầu y Biến kế sở chấp không để nói lên hiển người pháp đều không. Câu thứ hai Viên thành thật tánh. Câu thứ ba tánh Y tha khởi nhiễm pháp điên đảo, chân như tịnh pháp không điên đảo, kế ba câu y thường trú để hiển chân, hữu vi có ba phẩm: trung phẩm có thể biến động, có thể tùy hạ phẩm thối bại, có thể tùy thượng phẩm tiến chuyển, vô vi thì không như vậy. Kinh: “Như hư không ch có tánh thật cho đến chẳng khởi”. Tán: Ở đây có ba loại: Một câu đầu lìa hai thứ đắc để hiển chân như, hư không chẳng có tánh năng đắc sở đắc. Kế một câu nêu nội chứng để hiển chơn như, danh ngôn không sánh bằng, chỉ có trí chứng. Ba câu sau phi hữu vi để hiển bày chân như. Kinh Niết-bàn nói không có nhân duyên nên gọi không sanh do vô vi đây gọi là không xuất, không tạo nghiệp nên gọi là vô tác, đây gọi là chẳng khởi, thể không phải nhân duyên sanh, chẳng phải thể trước có từ nơi khác mới xuất, cũng chẳng phải từ nghiệp mới tác khởi. Kinh: “Không danh cho đến không chướng”. Tán: Ở đây có ba loại: Hai câu đầu lìa tướng thuyên chỉ để hiển bày chân, không danh không tướng. Kế một câu lìa vọng pháp để hiển chân, không vọng tướng năng thủ sở thủ. Bốn câu sau nêu thể mầu nhiệm để hiển chân. Kinh Đại Phẩm nói vượt cả ba đời nên vô lượng, vượt cả mười phương nên không biên, lìa hoặc chướng phẩm gọi là vô ngại, lìa sở trì chướng phẩm gọi là không chướng. Trong đây tổng hiển pháp tánh chân như, là như thật tướng không cõi chấp nhân pháp, cũng chẳng phải thể y tha điên đảo, thể tánh thường trú chẳng phải đắc hai thứ đắc. Cho nên, chỉ nội trí chứng chẳng phải nhân duyên tạo, lìa danh lìa nghóa lìa năng sở chấp, chẳng phải ba đời mười phương nhiếp không có hoặc trí hai chướng, nên dùng lý này mà quán chân tánh, Tức trước nói: Ở nơi pháp không phân biệt mà quán các pháp như thật tướng. Hoặc ba câu đầu hiển Ngã như thật tánh cho nên Đại tự tại, kế ba câu hiển bày Thường không tiến thối; kế bảy câu hiển lạc vô sanh, kế năm câu hiển Tịnh ly vọng ba đời mười phương cho đến Do đối hai tánh nên thành bốn đức. Hoặc sáu câu đầu nêu cảnh Không hành, kế năm câu cảnh Vô tướng hành, bảy câu sau là cảnh Vô nguyện hành. Đồng quán chân như khởi ba quán. Kinh: “Chỉ do nhân duyên mà có cho đến cho nên nói” Tán: Đây là Hữu quán. Trên quán tất cả pháp chân không để khởi ưa thích, đây quán tất cả pháp vọng có mà sanh nhàm chán, chỉ quán ba cõi năm đường từ sanh tất cả pháp cảnh đều tác quán do nhân duyên mà có, từ hai chướng đảo hoặc bốn, bảy đảo hoặc tâm loạn đảo cho nên nói là hữu quán vi, chẳng phải chân thật có mà sanh tâm nhàm chán lìa bỏ. Kinh Nhân Vương chép: Thế giới hư huyễn khởi, thí như hoa đốm giữa hư không, như ảnh thật ra đều không có, vì nhân duyên nên giả dối có. Nhiếp luận cũng nói loạn tướng với loạn thể tương ưng, chấp nhận đó là sắc thức và cùng phi sắc thức, hoặc vô dư cũng không. Tâm gặp cảnh tục nên khởi quán này, hoặc đây giải thích phục nạn ng- hóa là có người nạn vấn rằng: Nếu tánh không đây ngôn ngữ đạo đoạn vì sao lại nói là không? Do đối đãi từ kia điên đảo sanh, luống dối cho rằng có pháp nói là tánh không, chẳng phải thể của không là có hữu không cũng không. Vì thế Trung luận chép: “Nếu có đối tượng “bất không” tương ứng thì phải có đối tượng “không”. Đối tượng “Không” không thể đắc huống chi đắc ở “không”. Do đó, tức trả lời không cũng chẳng có thể, đây là dựa theo ba luận chẳng phải Trung đạo tông. Lại có chỗ giải rằng: Đây do đối đãi vọng chấp có pháp từ điên đảo sanh cho nên nói là không, chẳng phải không nhất định không. Nói nhân duyên: Là nhân do dựa vào duyên mà có. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Nói pháp phi hữu cũng phi vô tất cả đều đối đãi nhân duyên lập, ý đây nói chân không phải thể thật không có, nhưng chẳng phải thể nhất định không, chỉ vì trừ bệnh kia mà chẳng trừ pháp này. Kinh: “Thường ưa quán sát pháp tướng như thế cho đến chỗ gần gũi thứ hai”. Tán: Đây là kết. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến và trụ gần gũi xứ”. Tán: hai mươi bảy hàng rưỡi tụng, chia làm có hai: hai mươi ba hàngđầu tụng hai xứ trước, bốn hàng rưỡi sau tụng đắc quả an lạc. Phần đầu lại có hai: hai mươi mốt hàng rưỡi tụng khuyến thị, hai hàng rưỡi tụng hai xứ trước. Đây là một hàng rưỡi đầu. Kinh: “Thường xa rời vua chúa cho đến đều chớ có thân gần”. Tán: hai mươi mốt hàng rưỡi tụng hai xứ chia làm ba: mười ba hàng rưỡi tụng về hai xứ thuộc pháp hữu của cảnh ngoài người, kế hai hàng rưỡi tụng về hành xứ thuộc pháp nội hữu và không, năm hàng rưỡi sau tụng chân pháp cảnh ngoài gần gũi xứ. Trong văn xuôi đầu tiền lìa vọng hữu, bên ngoài sau quán chân không bên ngoài. Đây tụng đầu lìa ngoại vọng gần gũi xứ, tiếp mới nêu nội hành xứ, sau tụng cảnh ngoài chân pháp gần gũi xứ. Tạm xem thế văn thấy hai hàng đầu tụng hành xứ cận xứ, và văn cùng kết cả hai. Nhưng phần đầu văn tụng không thấy văn nói hành xứ, chỉ dùng tụng nói ở đây ác duyên không có tâm sợ hãi, không có tâm mong cầu mà vì nói pháp, nghóa do nhu hòa và thiện thuận cho đến mới không sợ hãi không mong cầu gọi là hành xứ. Cho nên văn song nêu, thật ra chỉ cận xứ. Mười ba hàng rưỡi tụng ngoại gần gũi xứ trong đó có hai: Mười hai hàng rưỡi tụng cận xứ, một hàng tụng kết. Mười hai hàng rưỡi lại chia có hai: sáu hàng rưỡi tụng lìa năm duyên, sáu hàng tụng lìa bốn duyên, không tụng tán loạn duyên. Sáu hàng rưỡi đầu lại chia làm hai, bốn hàng rưỡi tụng lìa, hai hàng sau tụng không lìa. Bốn hàng rưỡi một hàng rưỡi tụng lìa bốn duyên: Tổn hại, Hoại loạn, Ác duyên. Ác kiến. ba hàng tụng lìa một duyên, nghóa là bạn xấu kém. Trước khai sau hợp cũng chẳng thứ lớp tụng. Kinh: “Nếu những hạng người đó cho đến mà vì chúng nói pháp”. Tán: Tụng không lìa. Do quán không hữu để tâm du hành nghỉ ngơi nên không còn sợ cho đến gọi là hành xứ. Kinh: “Những gái góa gái trinh cho đến phải một lòng niệm Phật”. Tán: Đây sáu hàng tụng lìa bốn chỗ: Nhiễm lâu. không phải pháp khí. Không phải phép tắc. Hiềm trách. Văn chia làm năm: một hàng tụng hai duyên: Nhiễm lâu và không phải pháp khí. hai hàng tụng lại ác nghiệp. một hàng tụng lại duyên hoại loạn nhiễm lâu; một hàng tụng duyên không phép tắc. một hàng tụng hiềm trách. Làm: năm nhà là xóm, năm xóm là làng, tức hai mươi lăm nhà ở. Phương ở trong một làng. Pháp khất thực có mười ba thứ: Trụ chánh giới. Trụ chánh oai nghi. Trụ chánh niệm. Trụ chánh kiến. Y pháp. Y thời. Y xứ. Y thứ. Lìa tham. Lìa chấp trước. Lìa sân não. Lìa thô tháo. Lìa tâm kiêu mạn. Trong đây bốn trụ đầu chánh khất thật, kế bốn trụ phép tắc, năm trụ sau xả phiền não. Như Kinh nói rộng: khất thật làm hai việc: Vì tự giúp mình hành chánh đạo. Vì lợi sanh đầy đủ pháp bố thí xả. Người nhận, người cho đều thành lục độ do đó hành khất thật. Kinh Anh lạc nói khất thật làm mười hai việc Kinh Bảo Vân nói: Hễ xin được gì đầu chia làm bốn phần: một phần như cho người đồng phạm hạnh, một phần như thí cho kẻ ăn xin nghèo một phần đem thí cho chúng sanh dưới nước trên đất liền, còn một phần tự ăn. Nhưng dùng một phần ăn cúng dường Chư Phật và các hiền thánh, song sau tự ăn phải nhớ tưởng ăn, như ăn thịt trứng ở đồng hoang v. v… nguyện được pháp thân lìa các lỗi lầm, nhớ Báo ân thí chủ tưởng ăn như vậy. Lại như Kinh Vô Cấu Xứng nói Đại Ca-Diếp hỏi bệnh tật Vô cấu chỉ bày. Kinh: “Đây gọi tên là cho đến có thể an vui nói”. Tán: Đây kết không sợ hãi gọi là hành xứ, lìa duyên ác bên ngoài gọi là cận xứ. Kinh: “Lại cũng chẳng vin theo cho đến hành xử của Bồ-tát”. Tán: Ở đây tụng hữu không pháp hành xứ, trước tụng pháp không, sau một hàng rưỡi tụng sanh không. Trước nói hai xứ tức hữu quán, tụng lại không tụng trụ nhẫn nhục cho đến. Kinh: “Tất cả các pháp cho đến đó gọi là cận xứ”. Tán: Ở đây năm hàng rưỡi tụng chân pháp gần gũi xứ bên ngoài chia làm ba: một hàng rưỡi đầu tụng trong mười tám câu: Sanh pháp hai không lìa hữu vi vô vi, kế hai hàng tụng như núi Tu-di tâm định; sau hai hàng tụng lẫn lộn các câu, tùy thích ứng như nghóa nên biết. Kinh: “Nếu có vị Tỳ-kheo cho đến không có lòng e sợ”. Tán: Đây bốn hàng rưỡi tụng nêu quả an lạc chia làm hai: một hàng rưỡi nêu, ba hàng sau tụng giải thích. Lìa lỗi lầm sai trái do đó không e sợ. Kinh: “Văn-thù -sư -lợi này cho đến giảng nói Kinh Pháp Hoa”. Tán: Đây là kết. Kinh: “Lại Văn-thù-sư -lợi cho đến hạnh an lạc”. Tán: Thứ hai chánh ngữ có ba phần: 1. Nêu khuyên. 2. chỉ bày riêng, sau năm hàng tụng hiển bày quả an vui, đây là phần đầu. Kinh: “Hoặc miệng giảng nói cho đến tốt xấu hay dở của người khác”. Tán: Dưới chỉ bày riêng, Văn xuôi có hai: Trước lìa ác sau tu thiện: “Khéo tu tâm an lạc như thế cho đến” Trước lìa bảy ác đây tức bốn ác đầu. Luận Trí độ nói: tướng Thiện nhân không tự khen chê mình không khen chê người. Hoặc người chê pháp như: Kinh Bách Dụ nói: Có hai người con rửa chân cho cha v.v… mà chê bai lẫn nhau khiến chân cha bị gãy. Kinh: “Đối với Thanh-văn cho đến chẳng sanh tâm oán hiềm”. Tán: Đây lìa ba lỗi. Chẳng những chỉ lìa lời nói ác như vậy mà phải thuận theo nói kinh. Dưới đều y cứ theo đây biết nói thiện cũng vậy. Kinh: “Vì khéo tu như thế cho đến đắc nhất thiết chủng trí”. Tán: Đây tu thiện có ba: Thuận ý vì nói. Đều dùng Đại thừa. Khiến đắc chủng trí. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến tùy chỗ hỏi mà nói”. Tán: Dưới mười sáu hàng rưỡi tụng chia làm hai: mười một hàng rưỡi tụng văn trước, năm hàng tụng quả an lạc. Tụng trước chia làm tám văn có hai: một hàng tụng chỗ ngồi, một hàng rưỡi tụng nghi thức phép tắc. Mặc y mới sạch sẽ, tắm gội nên gọi là tịnh. Chánh Pháp Hoa nói mặc y phục sạch sẽ. Đây dưới lại nói trong ngoài đều sạch thơm. Có nói nói: Y mới nhuộm là sai. Kinh: “Nếu có vị Tỳ-kheo cho đến hòa nhã vì đó nói”. Tán: Nếu gặp duyên đến dung mạo hòa nhã vì đó nói. Kinh: “Nếu có người gạn hỏi cho đến vào ở trong Phật đạo”. Tán: Tụng hỏi đáp. Dùng chứng đắc của mình khiến người khác được lợi ích. Kinh: “Trừ lòng người biếng trễ cho đến đều khiến chúng vui mừng”. Tán: Một hàng đầu tụng tự trừ ác nhiễm. Sau một hàng rưỡi chỉ bày lời đã nói, biếng khác là buông lung với biếng trễ. Kinh: “Y phục và đồ nằm cho đến là an vui cúng dường”. Tán: Một hàng tụng tự không mong cầu, sau một hàng rưỡi tụng dạy an tâm tưởng. Luận Trí độ nói: Đại từ thương xót vì chúng nói pháp. Không cơm áo, danh tiếng thế lực, vì đại từ bi nên tâm thanh tịnh đắc vô sanh nhẫn. Như có tụng rằng: Học rộng biện trí khéo nói năng, khéo nói các pháp chuyển tâm người, tự không như pháp làm điều bất chánh, thí như mây sấm mà không mưa, học rộng học rộng có trí tuệ, vụng về chậm chạp không khéo nói, không thể hiển phát pháp bảo tàng, thí như không sấm mà không mưa, không học vấn rộng không trí tuệ, không thể nói pháp không hạnh mầu, là pháp Sư tệ không hổ thẹn, thí như mây nhỏ không sấm mưa, học rộng trí lớn khéo nói năng, khéo nói các pháp chuyển tâm người, hành pháp tâm chánh không sợ hãi, như mây sấm lớn tuôn mưa khắp. Pháp Phật rộng lớn soi chiếu khắp, chiếu sáng Phật pháp kho trí tuệ, trì tụng giảng rộng rung chuông pháp, như thuyền Bát- nhã vượt biển khổ, cũng như ong chúa hút các vị, nói như Phật nói tùy ý Phật, giúp Phật bày pháp độ chúng sanh, Pháp Sư như thế rất khó gặp. Được vào rừng chiên đàn mà chỉ chọn lấy lá xanh, đã vào núi báu mà lại lấy thủy tinh, có người vào trong Phật pháp mà không cầu Niết-bàn an vui, lại cầu lợi dưỡng cúng dường thì đều gọi là tự lừa dối, cho nên khiến không mong cầu mà nói pháp cho nghe. Kinh: “Sau khi ta diệt độ cho đến nói chẳng thể hết được”. Tán: Đây năm hàng tụng quả an vui chia làm ba: một hàng tụng là nêu, hai hàng tụng nói lìa ác, hai hàng tụng nói được pháp thiện. Kinh: “Lại Văn-thù -sư -lợi cho đến vạch tìm chỗ hay dỡ”. Tán: Thứ ba ý lìa các ác, tự lợi hành. Trong văn xuôi có hai: Nêu hành. Nêu quả. Nêu hành có hai: Trước dạy lìa ác, sau dạy tu thiện: “Phải ở nơi tất cả chúng sanh cho đến” Lìa ác có bốn, đây là hai phần đầu. Hành đầu có ba đều là ý nghiệp: 1.Lìa ganh ghét. 2.Lìa siểm khúc. 3.Lìa cuồng trá. Đây là thứ hai, hành không sai trái nhau, dưới đều thuộc ngữ nghiệp. Kinh: “Nếu hàng Tỳ-kheo cho đến có sự tranh cãi”. Tán: Hai thứ lìa ác sau: Không xúc não người. Không hý luận. Kinh: “Phải ở nơi tất cả chúng sanh cho đến cũng chẳng vì nói nhiều”. Tán: Tu thiện có ba: Tu ý nghiệp trụ trong ba tưởng. Tu thân nghiệp cung kính lễ bái. Tu ngữ nghiệp bình đẳng nói pháp ít nói quí lời nói. Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến tôn trọng khen ngợi”. Tán: Trong quả an lạc có bốn: Không não loạn. được bạn lành. Được chúng lắng nghe. Chuyển nhập pháp cho người. Năm quả đây đều tương ưng với hành trước. Sợ văn phiền rộng nên không nói. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến rằng ngươi chẳng thành Phật”. Tán: Đây sáu hàng tụng chia làm ba: hai hàng đầu tụng lìa ác, kế ba hàng tu thiện, một hàng sau khuyên tu. Đây là hai hàng đầu. Đầu tụng lìa bảy ác, do ngay thẳng, sau tụng lìa ba lỗi để truyền trao. Ngụy trá tức là không thật. Kinh: “Phật tử đó nói pháp cho đến nói pháp không chướng ngại”. Tán: Đây nêu tu thiện chia làm ba: một hàng tụng chúng sanh tu bốn hành, tiếp một hàng kính Bồ-tát, sau một hàng khởi tưởng Phật như cha. Kinh: “Pháp thứ ba như thế cho đến vô lượng chúng cung kính”. Tán: Đây khuyên tu. Kinh: “Lại Văn-thù -sư -lợi cho đến sanh đại bi tâm”. Tán: Tâm tu các thiện hành lợi tha. Trong văn xuôi chia làm ba: Trước nêu hành pháp, tiếp “Văn-thù -sư -lợi vị đại Bồ-tát đó cho đến” nêu quả an lạc, sau “ở trong vô lượng cõi…” khen ngợi kinh thù thắng mầu nhiệm. Văn đầu có hai: Trước dạy từ bi, sau dạy suy nghó. Đây là phần đầu. Hành pháp duyên từ muốn cho pháp lạc, cho nên đối với hàng tại gia xuất gia khởi từ tâm, đây ở trong chủng tánh Bồ-tát khởi tâm không sợ sanh tử khổ, cho nên ở trong hàng không phải Bồ-tát, nghóa là hạng nhất Xiển-đề Nhị thừa cho đến đối với hạng nhiều sợ các khổ nên khởi bi tâm, hạnh chúng sanh duyên bi và pháp duyên bi, sự thật từ bi hai loại đều vận. Nay căn cứ tăng thượng cũng không trái nhau. Kinh Hoa Nghiêm nói: Phật tử Bồ-tát có mười thứ đại bi thường quán sát chúng sanh: Quán không chỗ qui y. Chạy theo tà đạo. Nghèo không gốc lành. Ngủ lâu trong sanh tử. Hành pháp bất thiện. Trói buộc ở Dục. Ở trong biển sanh tử. Bệnh tật lâu dài. Không ưa pháp thiện. Mất pháp Chư Phật. Kinh: “Phải nghó thế này cho đến không tín không hiểu”. Tán: Dưới dạy phải suy nghó có hai: Trước nghó hôn mê, sau nghó hóa đạo. Đây là nghó, người mất lợi được Như-lai phương tiện tùy nghi nói pháp, tức Kinh Pháp Hoa khai xưa hợp Tiểu thừa nói tam thừa, chỉ bày nay hợp Đại thừa nêu nhất thật, không gần gũi bạn lành nên chưa hề nghe, tâm không hiểu biết không tự giác ngộ, lại không hỏi người dù có nghe cũng không tin, dù có tin cũng không hiểu đó là tướng hôn mê. Kinh: “Người đó dù chẳng hỏi cho đến trú trong pháp này”. Tán: Đây nghó phải hóa đạo. Nghóa là người được hóa độ nay dầu không nghe cho đến, sau kia trú nơi cửu địa hoặc là thất địa hoặc địa phàm thánh hoặc từ địa phương nào ta thành Phật rồi sẽ dẫn dắt đó trú trong pháp Đại thừa. Kinh: “Văn-thù-sư -lợi cho đến không có lỗi lầm”. Tán: Dưới nêu quả an lạc, có hai: Đầu nói chung không lỗi lìa các nguy sợ, sau nêu đắc quả an lạc thù thắng. Đây nói phần đầu. Kinh: “Thường được hàng Tỳ-kheo cho đến đều được vui mừng”. Tán: Dưới nêu đắc quả an lạc thù thắng có hai: Đầu tiên nói đắc ba đức, sau giải thích lý do. Đây là phần đầu. Đắc danh lợi. Các vị trời hộ vệ. Vấn nạn vui mừng. Kinh: “Vì sao? cho đến nghe mà ủng hộ”. Tán: Đây là giải thích lý do. Nghóa sâu nên Phật ủng hộ, được Phật ủng hộ nên có đắc. Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến thọ trì đọc tụng”. Tán: Dưới khen ngợi kinh thắng diệu có hai: Đầu tiên nói thắng diệu, sau là dụ hợp thành. Đây là phần đầu. Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến hàng phục các nước”. Tán: Dưới nêu dụ hợp thành có hai: Đầu dụ pháp hợp xưa trao cho quyền phương tiện, sau dụ pháp hợp nay cho thật giáo. “Như vua Chuyển Luân thấy các binh tướng có công lớn v.v…” Văn đầu lại có hai: Dụ và hợp. Trong dụ có năm: Pháp vương thi hóa. Dụ Chúng ma phản nghịch. Dụ Bậc Thánh phục trừ. Dụ Tùy công trao đạo. Cuối cùng ban cho kinh này. Đấy là phần đầu, sức mạnh là thắng sanh tử. Luân vương có bốn như Du-già nói: Kim luân mong gió thuận hóa, Ngân luân sai khiến mới hàng, Đồng luân chấn oai mới phục, Thiết luân gắng sức đánh mới định. Pháp thân tự thọ dụng tha thọ dụng, hóa thân như thứ lớp phối hợp dụ. Nay hóa Nhị thừa đã là hóa Phật, tức chọn Thiết luân vương làm dụ, khởi binh chiến; oai thế gọi là thần thông trí tuệ, các nước là sanh tử hoặc nghiệp, hàng phục là nghóa đoạn diệt. Kinh: “Mà các vua nhỏ chẳng thuận mạng lệnh”. Tán: Dụ Chúng ma phản nghịch. Sanh tử Phần đoạn, Biến dịch và phiền não sở tri chướng phẩm, ba thứ ma đều thị hiện thiên ma cho đến gọi là các vua nhỏ phản nghịch Phật giáo hóa khó có thể dứt trừ gọi là không thuận mạng lệnh. Kinh: “Bấy giờ Vua Chuyển luân cho đến đem các đạo binh qua đánh dẹp”. Tán: Dụ Bậc Thánh phục trừ. Voi, ngựa, xe bộ bốn thứ gọi là các đạo binh, dụ cho Thanh-văn Duyên-giác đều có học - phàm - Thánh khiến kia phục đoạn gọi là đem binh qua đánh. Kinh: “Vua thấy binh chúng cho đến liền rất vui mừng”. Tán: Tùy công trao đạo dụ có hai: Trước mừng vui sau ban thưởng. Đây là phần đầu, trừ đoạn hoặc chướng và phần đoạn sanh tử ba loại ma, chẳng bị khuất phục thiên ma và sở tri chướng phẩm ba thứ ma quân gọi là chiến có công, thuận khế hợp tâm Phật nên rất vui mừng. Kinh: “Tùy công ban thưởng cho đến tôi tớ nhân dân”. Tán: Ban thưởng có ba: Nêu vô vi công đức. Trong hợp nói ban cho thành Niết-bàn. Dụ nội hữu vi hành đức ngũ căn ngũ lực cho đến. Dụ quả sai khác đức thiền định giải thoát cho đến như thứ lớp phối hợp kinh. Tướng chung phối hợp dụ, hoặc đoạn đức sanh không lý như ruộng vườn, chúng sanh rốt ráo không là nhà, nhân trạch diệt như tụ lạc, Vô học quả mãn trạch diệt Niết-bàn như thành ấp, hổ thẹn nhẫn nhục là y phục, ngũ phần pháp thân, lục hằng tức là trang nghiêm thiền định giải thoát cho đến làm các thứ châu báu, thất thánh tài làm vàng bạc v.v… lục thông làm voi ngựa xe, trí sanh không làm tôi tớ sai sử hiện tiền, bát thắng xứ làm nô tỳ thắng phục sở duyên, mười biến xứ cho đến làm nhân dân ở cùng khắp mọi nơi. Kinh: “Chỉ có viên ngọc trong búi tóc cho đến sẽ rất kinh lạ”. Tán: Dụ cuối cùng ban cho Đại thừa. Viên ngọc tức Đại thừa Pháp Hoa là tâm Phật đứng đầu gìn giữ nên nói trong búi tóc. Thấy công còn kém nhỏ không dứt bốn ma của phẩm trí chướng. Trước hội Pháp Hoa còn trụ, nơi quyền trí chưa vì nói đây. Quyến thuộc của vua là đại Bồ-tát, sẽ kinh lạ là thấy không thuận căn cơ mà nói pháp mầu nhiệm cho nên sanh kinh lạ. Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến vua của ba cõi”. Tán: Dưới hợp cũng có năm. Đây hợp pháp vương thí hóa. Kinh: “Mà các ma vương cho đến không chịu thuận phục”. Tán: Đây hợp chúng ma phản nghịch. Kinh: “Các tướng hiền Thánh của Như-lai đánh nhau với ma “. Tán: Đây hợp Bậc Thánh phục trừ. Kinh: “Những người có công cho đến khiến đều vui mừng”. Tán: Đây hợp tùy công trao đạo. Đầu vui mừng sau ban thưởng, Thiền định cho đến hợp dụ trung hạ hoặc tự (chữ). Thành Niết-bàn: hợp đầu hoặc tự, căn cứ trước dụ phối hợp nghóa có thể biết. Kinh: “Mà chẳng nói cho nghe kinh Pháp Hoa”. Tán: Đây hợp cuối cùng ban cho Kinh này. Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến mà nay cho đó”. Tán: Dưới dụ pháp hợp nay thí thật giáo, có hai: Dụ đầu là pháp hợp nay ban cho thật, tức trị hạng người thứ sáu nhóm họp công đức tăng thượng mạn, sau dụ hợp ban cho bậc nhất. Tức trong Thập Vô thượng là nói vô thượng. Văn đầu có hai: Đầu dụ sau hợp. Đây là phần đầu, các binh chúng là Thập địa Bồ-tát, thật phá bốn ma, phá phân đoạn, đã có khả năng phá bốn ma Biến dịch vì nói. Kinh Vô lượng Nghóa cũng gọi là Diệu Pháp Liên Hoa. Bậc Thánh Nhị thừa: Tùy thích ứng, toàn phá từng phần phá phân đoạn ba ma ắt sẽ năng phá Biến dịch bốn ma, phát tâm mong cầu Đại thừa ắt sẽ phá, như quân tướng thế gian công huân nhỏ đợi thi công mà thương thưởng, ý chí anh hùng nên ban tặng thưởng cho người có ý chỉ hèn kém, để khuyến khích họ tiến tâm cho nên nói vì ban cho đây còn chưa nhập vị thập địa, lại giáo ban cho viên ngọc, nhập thập địa rồi phần phá Biến dịch bốn ma bèn ban cho thể viên ngọc. Kinh: “Đức Như-lai cũng giống như vậy cho đến cũng rất vui mừng”. Tán: Dưới hợp có hai: Trước vui sau ban cho. Đây là phần đầu, rõ ràng đã phá phân đoạn bốn ma lại khởi tâm Đại thừa sẽ phá Biến dịch, có công huân lớn cho nên Đức Phật hoan kỷ trao cho kinh Pháp Hoa này; chẳng phải tất cả chỉ phá phân đoạn bốn ma, không phát đại tâm sẽ phá Biến dịch bốn ma gọi là công huân lớn mà đều ban cho kinh này, hàng thú tịch Thanh-văn hướng vắng lặng không ban cho, hàng thối tâm Hữu học cũng ban cho. Hoặc nay lại: Là căn cứ hàng thối tâm Nhị thừa Vô học đã phá phân đoạn bốn ma gọi là công huân lớn, không nói hướng vắng lặng. Bốn ma có hai: Phân đoạn. Biến dịch. Như chương phá ma nói: Nay tùy cốt yếu, thể tánh của ba ma, phân đoạn có thể tất cả. Cõi Dục đệ lục tha hóa Thiên tử, gọi là Thiên ma, Biến dịch ba ma lý cũng có thể biết. Bát địa trở lên chư đại Bồ- tát thị hiện làm thiên ma. Nên Kinh Vô Cấu Xứng nói: Thị hiện làm ma vương, phần nhiều là Bồ-tát giải thoát bất khả tư nghì, chỉ có long tượng mới có thể đánh nhau với long tượng, như trước đã nói. Nhưng kia vị hàng phục, thời hàng phục khác nhau như lý thú sớ. Nay y Kinh Đại Tập nói: biết khổ đoạn tập chứng diệt tu đạo, như thứ lớp năng hoại uẩn. Phiền não, tử, và cùng thiên ma. Lại nữa quán hữu lậu, đều là khổ các hành vô thường, các hành vô ngã Niết-bàn tịch tónh, như thứ lớp phá uẩn, phiền não, tử và thiên ma. Lại nữa, quán không, vô tướng, vô nguyện, đủ ba thứ này rồi hồi hướng Bồ-đề, như thứ lớp hoại bốn thứ. Lại nữa quán thân thọ tâm pháp như thứ lớp hoại bốn thứ. Luận Trí độ nói: Bồ-tát đắc đạo nên phá ma phiền não, được thân pháp tánh, nên phá uẩn ma, đắc đạo và thân pháp tánh nên phá tử ma, thường nhất tâm nhập Tam-muội bất động nên phá thiên ma. Kinh: “Kinh Pháp Hoa này cho đến mà nay nói đó”. Tán: Đây là nói ban cho. Kinh này là nhân Phật, bị nhiều người oán ghét chê bai mà nay ban cho như cởi viên ngọc ban cho. Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến mà nay mới cho đó”. Tán: Đây dụ hợp với đệ nhất, tức nói vô thượng, có hai: Một là: Lý Sở thuyên đầu tiên nên đắc vô thượng. Kinh: “Văn-thù-sư-lợi cho đến mà bày nói”. Tán: Hai là giáo năng thuyên đầu tiên cho nên vô thượng. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến kinh của Phật khen ngợi”. Tán: Hợp đầu mười bốn hàng rưỡi tụng hành thứ tư, trong đó chia làm hai: bốn hàng đầu tụng hạnh an lạc, mười hàng rưỡi tụng kinh Thắng đức. Bốn hàng đầu có hai: một hàng tụng nói chung, sau ba hàng tụng riêng. Đây là một hàng đầu. Ai là từ, mẫn là bi. Kinh: “Đời mạt pháp về sau cho đến làm cho trí trong đó”. Tán: Đây ba hàng tụng riêng: một hàng một câu tụng khởi từ bi, một hàng ba câu khởi tư niệm. Kinh: “Thí như vua sức mạnh cho đến lấy viên ngọc ban cho”. Tán: Dưới mười hàng rưỡi tụng kinh Thắng diệu trong đó có hai: bốn hàng đầu tụng dụ, sáu hàng rưỡi sau tụng về hợp. Đây là hàng đầu. Trước ba hàng tụng dụ cho quyền, sau một hàng tụng dụ cho thật. Quyền có ba dụ: 1. Vua. 2. Công. 3. Ban cho. Kinh: “Như-lai cũng như vậy cho đến nói các kinh điển đó”. Tán: Dưới sáu hàng rưỡi tụng hợp trong đó có hai: ba hàng rưỡi tụng hợp trước quyền, sau ba hàng tụng nay thật. ba hàng rưỡi đầu, nay cũng chỉ có ba: một hàng rưỡi tụng về pháp vương, một hàng tụng về công, một hàng tụng ban cho. Nói các kinh điển đó, là nói kinh này hợp với trước đã nói. Kinh: “Đã biết loài chúng sanh cho đến vì các thầy mà nói”. Tán: Nay hợp đây thật, có hai: một hàng rưỡi tụng hợp nay thật, một hàng rưỡi tụng hợp cho bậc nhất. Kinh: “Sau khi ta diệt độ cho đến bốn pháp trên như thế”. Tán: Đây đoạn thứ ba kết thành bốn hạnh. Kinh: “Người đọc tụng kinh này cho đến như mặt trời chói sáng”. Tán: Dưới hai mươi mốt hàng rưỡi tụng đoạn thứ hai nêu thông quả an lạc, trong đó có ba: bốn hàng rưỡi đầu tụng nêu quả thức tỉnh, kế mười sáu hàng tụng nêu quả trong mộng, sau một hàng kết quả trước. Đây là phần đầu: một hàng rưỡi tụng tự thể không có sáu điều ác, một hàng tụng chúng sanh kính mộ các vị trời nên làm tôi tớ, một hàng tụng ba ác bên ngoài không xâm tổn, một hàng tụng trí tuệ thông minh không sợ sệt. Kinh: “Nếu ở trong chiêm bao cho đến mà vì chúng nói pháp”. Tán: Dưới nêu quả trong mộng có năm, đây là hai văn đầu. một hàng rưỡi tụng thấy Phật, một hàng rưỡi tụng thấy tự nói pháp. Kinh: “Lại thấy các Đức Phật cho đến chắp tay nghe nói pháp”. Tán: Đây sáu hàng rưỡi tụng thấy Phật thọ ký chia làm bốn: một hàng rưỡi tụng thấy Phật nói pháp. hai hàng tụng thân xứ chứng ngộ, một hàng tụng nêu thọ ký, hai hàng tụng chánh thọ ký. Kinh: “Lại thấy tự thân mình cho đến thường có mộng tốt đó”. Tán: Đây hai hàng rưỡi tụng thấy thân tịch tính tu hành thấy Phật. Kinh: “Lại mộng làm vua chúa cho đến như khói hết đèn tắt”. Tán: Đây bốn hàng tụng thấy thân xả tục thành đạo phân bốn: một hàng tụng thấy tu hành, một hàng tụng thành đạo, một hàng rưỡi tụng nói về lợi sanh, nửa hàng tụng nói về nhập diệt. Kinh: “Nếu trong đời ác sau cho đến các công đức như trên” cho đến. Tán: Đây kết quả trước. Ngày 21 tháng 12 Niên hiệu Bảo An năm thứ 3 ở chùa Hưng Phước Viên Như Phòng kiểm duyệt xong, tăng Giác Ấn ở chùa Pháp Long vì muốn chánh pháp tồn tại lâu dài vãng sanh Cực Lạc. <篇> KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 9 (PHẦN CUỐI) PHẨM TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp chướng nạn. Vì sao có phẩm này có ba: Bảy phẩm nói về học hành lưu thông, một phẩm trước nói các hạnh phải học, sáu phẩm dưới nêu người năng hành. Nói người năng hành chia làm bốn: một phẩm này chánh nêu người hiện tại đầy đủ an lạc hạnh lưu thông. Phẩm Tuổi thọ và Phân biệt công đức, nhân giải thích nghi đây mà lần lượt có. Phẩm Tùy Hỷ và Pháp Sư công đức nói rõ trợ giúp cho người chánh nương an lạc hạnh lưu thông, chứng đắc công đức; Phẩm Thường Bất Khinh nói tự thân Phật đến ở vị trụ nhân xa thực hành hạnh an lạc , hành nhẫn nhục v.v… lưu thông kinh này. Nay đắc Quả Phật khuyên các chúng sanh nên siêng năng tu học cho nên có phẩm này. hai phẩm nói hành Nhất thừa, trong phẩm trước nói hạnh sở hành, phẩm này nêu nhân năng hành, cho nên có phẩm này. Luận nói bảy thứ là thị hiện giáo hóa chúng sanh vô thượng cho nên từ đất vọt hiện ra vô lượng vị đại Bồ-tát. Trong đây nói rõ Đức Phật đã từng giáo hóa vô lượng Bồ-tát thực hành bốn hạnh này. Từ đất hiện lên trì kinh khuyên các chúng sanh vì sao không học, nên có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Dũng là vọt lên, xuất là hiển hiện, từ đất vọt lên mà hiển hiện gọi là phẩm Tùng địa Dũng xuất. Dũng là như nước vọt lên nên gọi là dũng là vọt nhảy. Giải đáp chướng nạn: Vì sao không nói từ bên đến mà nói từ đất vọt lên? Đáp: Y bốn hạnh để trì kinh, vượt ngoài đất sanh tử. Lại nêu rõ không lìa cõi này Phật từng hóa đã đã vượt địa vị sanh tử nên không nói từ bên đến mà nói từ đất vọt lên. Kinh: “Bấy giờ các Bồ-tát ở phương khác cho đến mà nói rộng”. Tán: Trong phẩm này văn có bốn: Phương khác thỉnh trì. Như-lai không hứa. Phương khác vọt lên. Bồ-tát sanh nghi. Đây là phần đầu. Kinh: “Bấy giờ Đức Phật bảo cho đến nói rộng kinh này”. Tán: Như-lai không hứa có hai: Trước Phật ngăn thôi, sau nói rõ. Lại nói rất nhiều nên nói sáu muôn, thật chẳng phải chỉ như vậy, hiển Phật hóa công. Ngăn thôi người khác, không hứa, dù khiến người khác hộ cũng có lỗi gì! Kinh: “Lúc Phật nói lời đó cho đến đồng thời vọt ra. Tán: Đây từ đất vọt ra có tám thứ: Từ đất vọt ra. Bay lên hư không khen ngợi lễ bái. Nêu thần lực. Chúng cùng thấy. Đạo Sư thăm hỏi. Thế tôn ủy dụ đáp. bốn vị tùy hỷ. Như-lai khen ngợi. Văn đầu chia làm năm: Đất nứt. Thánh vọt hiện. Tướng tốt. Trụ xứ. Chúng quyến thuộc. Đây là hai phần đầu tiêu biểu phá sanh tử. Đất nứt hiển đến Bồ- đề nên vọt hiện ra. Kinh: “Các vị Bồ-tát đó cho đến trụ giữa hư không”. Tán: Đây là tướng tốt và trú xứ, hành an lạc hạnh đắc quả, tượng hảo chứng chân tánh mà đắc Nhất thừa nên trụ giữa hư không. Kết. Kinh: “Các vị Bồ-tát đó cho đến chẳng có thể biết được”. Tán: Đây nêu chúng quyến thuộc có ba: 1. Lý do. 2. Liệt số. 3. Liệt số có tám: 1.Hằng hà sa. 2.Phần hằng sa. 3.Na do tha. 4. Muôn. 5.Ngàn. 6. Trăm. 7. Chục. 8. Một. Kinh: “Các vị Bồ-tát đó cho đến hai đấng Thế tôn”. Tán: Bay lên hư không khen ngợi lễ bái có ba: Đến tháp. Lễ dưới chân. Cung kính khen ngợi. Kinh: “Các vị Bồ-tát đó cho đến cho là như nửa ngày”. Tán: Thần lực của Phật có ba: Khen ngợi thời gian dài. Thọ nhận cũng lâu. Rút ngắn thời gian. Luận này nói Kinh này nói kiếp thời gian ngày đêm năm tháng; nay dùng ngày đêm hợp số không phế bỏ hai mươi lăm ngày thành năm mươi tiểu kiếp, hoặc lại năm mươi ngày, năm mươi tháng và năm, khen ngợi đức càng sâu thời gian dài có thể rút ngắn hết, thọ nhận khen ngợi thần lực cũng đồng, khen ngợi thời gian thần lực biến bổn tâm kia, thần thông của bậc Thánh có thể kéo dài, rút ngắn quang cảnh, chúng sanh ái pháp rồi thì quên mệt nhọc, huống chi có bậc Thánh ngầm giúp sao có thể liền sanh chán mỏi. Cho nên, bốn chúng cho là như bữa ăn, pháp thật nuôi dưỡng giữ gìn, thần thông chế ngự cho nên trải qua nhiều kiếp năm tháng mạng không thiếu. Kinh: “Bấy giờ bốn chúng cho đến cõi nước hư không”. Tán: Bốn chúng mọi người đều thấy. Kinh: “Trong chúng Bồ-tát đó cho đến xướng đạo Sư”. Tán: Năm đạo Sư thăm hỏi có bốn: Liệt danh. Đức hạnh. Hỏi thẳng. Kệ hỏi. Đây là hai phần đầu. Hạnh cao đức rộng lớn lìa ác tiến thiện nên tên gọi có bốn loại. Kinh: “Ở trước đại chúng cho đến sanh mỏi nhọc chăng?”. Tán: Ba là hỏi thẳng, bốn là kệ hỏi. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến vào trong trí tuệ Phật”. Tán: Thế tôn an ủi đáp, có hai: Nêu và giải thích. Trong giải thích có ba: Thấy đối với các Đức Phật gieo trồng cội lành. Tức liền thọ hóa. Còn xa sự hội nhập cũng được theo ban đầu, tuy không theo cũng theo. Hai phần đầu hai là khen ngợi Bồ-tát, một phần sau là nói Thanh- văn, hoặc hai phần đầu nói hội xa, một sau nói hướng về vắng lặng. Do không ngu đối với pháp nên nhập hiểu trí tuệ Phật chẳng phải nhập chứng. Kinh: “Bấy giờ các Đại Bồ-tát cho đến chúng con đều tùy hỷ”. Tán: Nêu bốn người tùy hỷ. Kinh: “Khi đó Đức Thế tôn cho đến phát tâm tùy hỷ” Tán: Nêu Như-lai khen ngợi. Kinh: “Bấy giờ ngài Di-lặc cho đến thăm hỏi đức Như-lai. Tán: Đoạn thứ tư nói Bồ-tát sanh nghi có tám: Tâm niệm. Giảng nói. Người khác hỏi. Phụ đáp. Khen ngợi hứa. Chính đáp. Chúng suy nghó. Trình bày thỉnh. Đây là phần đầu. Kinh: “Lúc đó ngài Di-lặc cho đến nguyện Đấng Lưỡng Túc nói”. ba: Tán: Thứ hai: Giảng nói có mười chín hàng rưỡi tụng chia làm một hàng tụng tổng trình bày nghi thỉnh. mười sáu hàng rưỡi tụng thỉnh việc nghi. hai hàng trình bày ý chúng nghi. Đây là một hàng đầu. Kinh: “Là từ nơi nào đến cho đến là từ chốn nào đến”. Tán: Mười sáu hàng rưỡi tụng việc nghi chia làm năm: hai hàng tụng nơi đến, chín hàng tụng số đến, hai hàng tụng hạnh hóa, hai hàng rưỡi tụng tên nước, một hàng tụng không biết. Đây là hai hàng đầu có ba: Lý do. Khen ngợi đức. Nơi đến. Kinh: “Mỗi mỗi các Bồ-tát cho đến còn chẳng thể biết hết”. Tán: Chín hàng tụng số đến, có ba: một hàng tụng chung, bảy hàng tụng riêng, một hàng tụng kết. Kinh: “Các vị oai đức lớn cho đến tụ tập Phật đạo nào”. Tán: Hai hàng tụng hạnh hóa, có năm câu hỏi. Kinh: “Các Bồ-tát như thế cho đến chưa hề thấy việc này”. Tán: Hai hàng rưỡi tụng về tên nước. Kinh: “Con ở trong chúng này… mong nói nhân duyên đó”. Tán: Một hàng tụng nói về không biết. Kinh: “Nay trong đại hội này cho đến cúi mong quyết tâm nghi.” Tán: Hai hàng tụng trình bày ý chúng nghi. Kinh: “Bấy giờ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cho đến từ chỗ nào mà đến”. Tán: Thứ ba: Là chúng khác hỏi. Kinh: “Lúc ấy các Đức Phật cho đến do đây mà được nghe”. Tán: Đây thứ tư là phụ đáp. Kinh: “Bấy giờ đức Thích-ca việc lớn như thế”. Tán: Đây là thứ năm khen ngợi hứa. Có hai: Trước khen sau hứa. Đây là khen. A-thị-đa Hán dịch là Vô-năng-thắng là tên ngài Di-lặc, A-dật-đa-là lầm. Kinh: “Các thầy nên chung lòng cho đến thế mạnh lớn của các Đức Phật”. Tán: Dưới hứa có hai: Một là: Văn xuôi nói mặc giáp tinh tấn, khải là binh giáp, khiếp tâm mạnh mẽ vui ưa nghe pháp, tâm không lui sụt gọi là ý vững chắc, vì nghóa sâu xa sợ kia nghi lui sụt. Đây nói bốn lực: Tuệ lực: Phẩm Tuổi thọ Như-lai bí mật pháp báo hai thân và trí tánh tướng. Thần thông lực: Tức thần thông Phật hóa thân. Phấn tấn lực: là quyết định tạo tác, sư tử sắp làm việc gì thì, trước thu lông mình lại, thoắt duỗi thân ra nhanh chóng, quyết định làm nay ta quyết định nói tự sở tác việc mầu nhiệm của ba thân. Oai mãnh lực: Chánh tác sở tác chỉ bày có uy chế phục dẹp phá, dẹp phá những người không có lòng tin, hoặc do trí tuệ nên mạnh nhanh, do thần thông nên oai mãnh; hoặc trí tuệ là pháp báo hai thân. Dưới hóa thân là thần biến, ký tâm, giáo giới. Ba luân công dụng như thứ lớp. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến các thầy một lòng nghe”. Tán: hai là: Kệ tụng. Gồm hai hàng tụng đầu khuyên chớ sanh nghi hứa sẽ nói, hai hàng sau tụng Đức Phật răn dạy lắng lòng nghe lời dạy thật. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến khiến phát đạo tâm”. Tán: Dưới thứ sáu chánh đáp có ba: Trước bảo ta hóa, kế nói trụ hạnh, sau cuối một hàng tụng kết khuyên sanh tin. Đây là phần đầu. Kinh: “Các vị Bồ-tát đó cho đến nghó tưởng chân chánh”. Tán: Dưới là nói trụ hạnh, có sáu, đây có hai: Trú xứ. Giải kinh. Thông minh văn tuệ, tư duy tư tuệ, tức niệm tu tuệ. Kinh: “A-dật-đa cho đến cầu tuệ vô thượng”. Tán: Đây có bốn: Ưa vắng lặng. Tinh tấn. Ưa trí sâu. Cầu tuệ vô thượng. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến khiến phát đại đạo tâm”. Tán: Kệ tụng khuyên sanh tin bảy hàng rưỡi tụng trước chia làm năm. Đây là một hàng rưỡi tụng nói về Phật hóa. Kinh: “Chúng đó là con ta cho đến vì để cầu Phật đạo”. Tán: một hàng rưỡi tụng ưa vằng lặng, một hàng sau tụng tinh tấn. Không vằng lặng là ồn ào. Kinh: “Tại thế giới ta bà… đều sẽ được thành Phật. Tán: một hàng rưỡi tụng trú xứ và trí tuệ sâu, hai hàng sau tụng kết thành ta hóa. Ở nơi thành Già-da này, xưa đến hóa, chẳng phải nay hiện tại Già-da, như nói thường ở núi Linh nói, chẳng phải nói luôn ở núi, mà là nói núi ấy thường ở thành đây cũng vậy. Kinh: “Ta nay nói lời thật cho đến giáo hóa các chúng đó”. Tán: Kết khuyên sanh tin. Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Di-lặc cho đến chánh đẳng giác”. Tán: Đây thứ bảy chúng nghó. Kinh: “Liền bạch Phật rằng cho đến hơn bốn mươi năm”. Tán: Thứ tám trình bày thỉnh, có hai: Một là văn xuôi có ba: Nêu sự khó. Nêu dụ khó. Chánh trình bày khó tin. Nêu sự khó có hai: Nêu nơi chốn năm tháng thành đạo. Chánh trình bày việc khó. Đây là phần đầu. Thành Già-da rất nguy hiểm vững chắc ít người ở, chỉ có Bà-la-môn đều có ngàn nhà, đây đều là dòng họ vị tiên, chẳng có việc tai biến, vua chúa quí trọng tôn kính, dân trong thành rất giỏi mọi người các nước đều biết, tức là cảnh trong nước Ma-kiệt-đa. Đức Phật ngồi dưới gốc cây Bồ-đề tiếp cận rất gần phía nam cho nên nói không xa. Lại nói Già-da là nơi Phật đản sanh là thủ đô của nước Ca- duy-la, Đức Phật thành đạo dưới gốc cây Bồ-đề nước Ma-kiệt-đà mà, đều ở giữa Thiên-trúc cách nhau rất gần cho nên nói không xa. Từ khi đắc đạo Bồ-đề đến nay mới hơn bốn mươi năm: Trong nghóa đây lược có hai nói: Có các bộ nói: Mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo. Kinh Bổn khởi Nhân Quả nói: mười chín tuổi xuất gia, Kinh Tư Duy vô tướng Tam-muội nói: ba mươi tuổi thành đạo. Luận Trí độ nói: Khi Đức Phật sắp Niết-bàn bảo Tri-bạt-đà-la: Năm ta mười chín tuổi xuất gia rồi cầu Phật đạo, xuất gia đến nay hơn năm mươi năm, không nói lúc thành đạo, thật Phật thọ tám mươi năm. Đây có nói giải: mười chín tuổi xuất gia sau năm năm theo vị tiên hành lạc hạnh, sáu năm hành khổ hạnh, ba mươi tuổi thành đạo. Cho nên bảo Tu-bạt-đà-la là hơn năm mươi năm. Trong Luận Trí độ dùng nghóa đây tức y đây nói. Nay nói thành đạo hơn bốn mươi năm là vừa bảy mươi năm. Cũng có các bộ và trong Đại thừa nói: hai mươi chín tuổi xuất gia ba mươi lăm tuổi thành đạo. Tăng Nhất A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm, Kinh Xuất Diệu, Luận Hòa-tu-mật đều nói hai mươi chín tuổi xuất gia. Kinh Bi Hoa. Luận Thiện Kiến đều nói ba mươi lăm tuổi thành đạo. Kinh Bổn khởi nói: Đức Phật muốn xuất gia nên chỉ trong bụng Da-du nói: sau sáu năm ngươi sẽ sanh con trai, liền sau sanh ra La-hầu- la. Đức Phật xuất gia sáu năm khổ hạnh đêm Thành đạo La-hầu-la mới sanh. Chỉ nói La-hầu-la sáu năm ở trong thai không nói mười một năm ở trong bụng mẹ, cho nên biết hai mươi chín tuổi xuất gia ba mươi lăm tuổi thành đạo, trong sáu năm gồm cả Tu-lạc hạnh. Nơi chỗ A-lam-ca- lam ngồi tu đắc Vô sở hữu xứ định, nơi chỗ Uất-đầu-lam-tử học đắc Phi tưởng xứ định. Pháp Sư Bồ-đề-lưu-chi dẫn Kinh Kệ nói: tám năm làm trẻ con, bảy năm làm đồng tử, bốn năm học ngũ minh, mười năm thọ ngũ dục, sáu năm hành khổ hạnh là ba mươi lăm tuổi thành đạo. Trong bốn mươi lăm năm giáo hóa chúng sanh. Chân Đế Tam Tạng và Hòa- thượng Tây-vức ký đều nói hai mươi chín tuổi xuất gia ba mươi lăm tuổi thành đạo. Kinh Kim Quang Minh nói: Phật tuổi thọ tám mươi năm. Nay nói thành đạo hơn bốn mươi năm tức năm bảy mươi tuổi hoặc bảy mươi lăm đều tính. Năm đầu thành đạo hợp thành bốn mươi mốt năm gọi là hơn bốn mươi năm. Kinh: “Thế tôn! Thế nào cho đến chánh đẳng giác”. Tán: Dưới chánh trình bày việc khó, có hai: Trước trình bày ba việc, sau kết khó tin. Trình bày ba việc: Thời gian ngắn làm việc lớn. Thời gian ngắn chúng nhiều. Thời gian ngắn đức cao siêu. Đây là nói việc đầu, đã đến địa vị cao thượng sẽ thành Bồ-đề gọi là việc lớn. Kinh: “Thế tôn cho đến chẳng đặng ngắn mé”. Tán: Thời gian ngắn mà chúng nhiều. Trước nói thời gian ngắn, xuyên suốt cả hai văn dưới. Kinh: “Chúng đó từ đâu nhẫn lại cho đến thường tu phạm hạnh”. Tán: Thời gian ngắn đức thù thắng. Quán từ lâu đến nay gặp duyên trồng cội lành, chẳng phải thời gian ngắn tu hành. Kinh: “Thế tôn cho đến đời rất khó tin”. Tán: Kết thành khó tin, do ba việc này nên khó tin Phật hóa. Kinh: “Thí như có người cho đến việc đó khó tin”. Tán: Thứ hai nêu dụ khó. Sắc đẹp dụ tướng tốt Phật trang ng- hiêm, tóc đen tiêu biểu Đức Phật dù tám mươi tuổi mà không có tướng già, trong tất cả thời ưa quán sát tất cả nơi chốn xưa. Đại Bát-nhã nói tám mươi tướng tốt trong đó nói: thường trẻ không già ưa xem xét nơi chốn cũ. Hai mươi lăm tuổi là tiêu biểu Đức Phật tuy xuất vượt sanh tử mà thị hiện nơi hai mươi lăm cõi. Vì trên tiêu biểu Phật thành đạo rất gần. Giả như tám mươi tuổi chỉ bằng hai mươi lăm tuổi, chỉ người một trăm tuổi tiêu biểu các Bồ-tát được hóa độ có đức cao địa vị xa trăm phước trang nghiêm, nói ta sanh ta nuôi dưỡng khiến cho họ đạo thêm lớn thì việc ấy khó tin. Kinh: “Đức Phật cũng như vậy cho đến rất là ít có”. Tán: Thứ ba chính trình bày nghi có ba: Trước nêu việc nghi, tiếp “Ngày nay cho đến” chánh nêu ý nghi. Sau “Chúng con dù cho đến” trình bày lý do nghi. Đây là phần đầu có hai: Nêu thời gian ngắn thành Phật, và nêu lại Bồ-tát có bảy đức rất lớn, bảy đức của Bồ-tát: 1. Tu thời gian dài. 2. Hết lòng tinh tấn. 3. Định tự tại. 4. Đắc thần thông. Tu phạm hạnh lâu dài. 6. Năng huân tập pháp. 7. Khéo hỏi đáp. Cho nên là báu quí trong loài người. Kinh: “Ngày nay Đức Thế tôn cho đến việc công đức lớn này”. Tán: Đây chính trình bày ý nghi. Kinh: “Chúng con dù là tin cho đến cũng không sanh nghi”. Tán: Đây là trình bày lý do nghi, có ba: Trước nói tự có thể thông suốt, kế là trình người khác còn mê hoặc, sau chính thỉnh dứt trừ lòng nghi. Dù tự không nghi mà thị hiện tướng không hiểu, để thỉnh trừ lòng nghi của chúng con. Tin tùy nghi Phật nói tin thành tựu thông suốt, Đức Phật biết, chứng thành tựu, nên lời Phật nói không luống dối không lầm lẫn. Kinh: “Bấy giờ ngài Di-lặc cho đến phân biệt nói như thật”. Tán: Hai là kệ tụng: Mười bốn hàng tụng chia làm ba: năm hàng đầu tụng nêu việc khó, kế hai hàng tụng dụ khó tin, bảy hàng sau tụng trình bày nghi thỉnh. Năm hàng đầu có ba: một hàng tụng xuất gia thời gian gần, ba hàng tụng Bồ-tát đức cao khó tin. Một hàng tụng đại chúng thỉnh trừ nghi. Kinh: “Thí như người trẻ mạnh cho đến mọi người đều chẳng tin”. Tán: Hai hàng tụng dụ khó tin. Tóc bạc mặt nhăn: Đây cùng văn xuôi xen nhau làm rõ, nói cha sắc đẹp tóc đen là nêu đủ tướng xem xét xưa, nói con tóc bạc mặt nhăn là Tu-lâu tướng trạng có thiếu sót. Tóc bạc là tiêu biểu có thánh đạo tu đã lâu, mặt nhăn là hình tượng tướng tốt chưa đủ. Kinh: “Thế tôn cũng như vậy cho đến trụ hư không phương dưới”. Tán: Bảy hàng tụng trình bày nghi thỉnh chia làm hai: bốn hàng tụng nêu việc nghi, sau ba hàng tụng chánh trình bày nghi thỉnh. Bốn hàng đầu có ba: Nửa hàng tụng Phật thành đạo gần, kế ba hàng tụng khen ngợi Phật thành đạo có mười đức, sau nửa hàng tụng nói về trú xứ. Kinh: “Chúng con từ Phật nghe cho đến mà trụ bậc bất thối”. Tán: Ba hàng sau chánh trình bày nghi thỉnh, có bốn: Nửa hàng tụng tự không nghi, kế nửa hàng tụng người khác còn mê hoặc, kế một hàng tụng lỗi lầm nghi, sau một hàng tụng chính trình là bày thỉnh. ------------------- PHẨM TUỔI THỌ Phẩm này chia làm ba môn : Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp các vấn nạn. Vì sao có phẩm này có năm: Trong bảy phẩm học hạnh lưu thông, từ phẩm Dũng Xuất trở xuống sáu phẩm là nói người năng học hạnh, trong đây chia làm bốn đoạn, đoạn thứ hai là Tuổi thọ và Phân biệt công đức, nhân giải thích nghi trước mà lần lượt sanh khởi. Trước nói Bồ-tát từ đất vọt lên, đều do Phật hóa độ, vị cao, chúng nhiều, thời hội sanh nghi. Nay nói pháp thân vốn không sanh diệt, hóa Phật gần thành, báo thân chứng từ lâu hóa nơi chúng đây đâu có nghi gì ư! Cho nên từ Dũng xuất về sau là nói phẩm Thọ Lượng. Trong mười chín phẩm làm chánh tông, năm phẩm dưới nói về quả Nhất thừa. Trong đây chia làm hai: Hai phẩm đầu nói quả đã mãn, ba phẩm sau nói quả chưa mãn. Hai phẩm đầu lại có hai: Trước chánh là nói quả đã mãn, sau nói về thời chúng do đây chứng đắc khác nhau, nên có phẩm này. Luận nói đối trị trong bảy mạn, nói hạng người thứ bảy không có công đức, đối với bậc nhất thừa không nhóm họp gốc lành mà tăng thượng mạn không chấp làm bậc nhất, vì đối trị đây nói dụ thầy thuốc, luận lại nói: Người thứ bảy căn chưa thuần thục vì muốn họ thuần thục nên thị hiện Niết-bàn lượng, hiện tại chưa tụ tập gốc lành nên gọi là căn chưa thuần thục, khiến họ chứa nhóm gốc lành hy vọng bậc nhất thừa thị hiện Phật nhập Niết-bàn có phần hạn gọi là lượng, khiến tụ tập gốc lành sau mới điều hóa. Thầy thuốc đã ở phẩm này nên có phẩm này. Luận chép: Thứ tám thị hiện thành đại Bồ-đề vô thượng thị hiện ba thứ Phật Bồ-đề, ba thân Phật ở đây cho nên có phẩm này, đây là văn còn lại. Vì trong bảy dụ chỉ nói dụ thầy thuốc ở văn sau, không nói ba thân Phật ở văn đầu. Thứ chín thị hiện Niết-bàn vô thượng nên nói dụ thầy thuốc, trừ trong bảy mạn nói thầy thuốc, tức là hóa căn cơ chưa thuần thục, thị hiện nhập diệt khiến kia căn thuần thục, nay nói thầy thuốc hiện Phật nhập Niết-bàn, hóa diệt thật không diệt, chẳng phải như Nhị thừa diệt mà làm diệt cho nên gọi là vô thượng đây chính là nghóa còn lại trong bảy dụ. Giải thích tên phẩm: Như-lai là tên gọi chung pháp thân, báo thân, hóa thân, thọ là tuổi thọ, lượng là hạn lượng. Phẩm này nói ba thứ thân mạng Phật thể đồng hạn lượng, giữ gìn pháp tánh tùy nguyện duyên, ứng căn cơ chúng sanh mà thọ nhận tự thể, nay nói ba thân Phật này thọ mang đồng hạn lượng nên gọi là phẩm Như-lai tuổi thọ. Giải đáp chướng nạn: Vì sao không lấy hai chữ thầy thuốc làm tên phẩm mà lấy tuổi thọ làm tên phẩm? Đáp: Do tuổi thọ ba thân mới mượn thí dụ thầy thuốc cho nên từ gốc Tuổi thọ đặt tên không dùng Y Sư đặt hiệu Phẩm. Lại hỏi: Khoa đầu phẩm chép: Trước trình bày tuổi thọ trừ căn chưa thuần thục người tăng thượng mạn không nhóm họp công đức, vì sao chẳng phải là chánh tông Pháp Hoa mà chính là thuộc phần lưu thông? Đáp: Đương cơ ứng thời tức thuần thục Nhất thừa chính hợp Thanh- văn nên làm chánh tông, thị hiện diệt, sau hóa sơ căn chưa thuần thục nên chẳng phải chánh nói. Cho nên, tuy nói nơi tuổi thọ mà không thọ ký cho Thanh-văn; tuy nói nơi Y Sư cũng không có Thanh-văn thọ ký, vì đây mà Trí Tích trước thỉnh trở về, nếu không vậy thì giữa đường thỉnh trở lại làm sao mau được. Do đó phẩm này chỉ là lưu thông, nói là chánh tông thì không có chướng ngại ấy. Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật bảo cho đến lời nói chắc thật của Như-lai”. Tán: Phẩm này có ba: Trước Đức Thích-ca ba phen bảo, tiếp Di-lặc bốn phen thỉnh, sau Như-lai chánh bảo. Đây là phần đầu. Ba thân quả mầu nhiệm địa vị ở quả cùng tột, bậc thượng trí còn không thể lường biết phàm phu ngu muội do đâu mà hiểu được. Sợ tâm kia nghi miệng chê bai nhân pháp mà có tổn thương, cho nên bảo tin chắc chắn rồi mới trình bày chánh nói, cũng sợ tại không chuyên nghe pháp giáo, ý không chú trọng huyền tông. Lại chúng sanh tánh độn nghe không thể hiểu khiến pháp nhập tâm nên ba phen bảo dạy nói ba thân làm ba phen bảo. Kinh: “Lúc đó đại chúng Bồ-tát cho đến tin nhận lời Phật”. Tán: Đây Di-lặc bốn phen thỉnh. Đức Phật đã từ bi ba phen bảo Đại chúng đâu được coi thường, cho nên thêm bốn phen thỉnh là là tiêu biểu tâm mong cầu xem trọng pháp, ba phen bảo là chỉ bày nói ba thân, bốn phen thỉnh, ba thân đều có bốn, cầu bốn đức, mong bốn trí, cứu giúp bốn loài là ý đây vậy. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến sức bí mật thần thông của Như-lai”. Tán: Dưới Như-lai chánh bảo. Đầu tiên văn xuôi chia làm hai: Trước dạy bảo nghe chỉ bày, sau chánh nói tuổi thọ. Đây là phần đầu. ba phen thỉnh từ đầu, bí mật là pháp báo hai thân thể sâu xa mầu nhiệm, Thần thông là hóa thân ứng vật hiện, được Đức Phật thầm hộ trì gọi là bí, nghóa sâu khó hiểu gọi là mật, diệu dụng vô phương gọi là thần thể không chướng ngăn gọi là thông, hai thể đây uy thế khó có gì khuất phục nên gọi là lực. Lại Đối Pháp cho đến nói: Có bốn bí mật, trong Phương Quảng Đức Phật bí mật đều nên hiểu rõ. Khiến nhập bí mật: nghóa là vì người Thanh-văn nói hữu sắc cho đến, vì muốn họ không sợ hãi dần dần nhập Thánh giáo chẳng phải tất cả hữu; Tướng bí mật: Nghóa là y tam tự tánh nói tất cả pháp đều không tự tánh không sanh diệt cho đến phá chấp hữu tướng nói là không, chẳng phải tất cả không; Đối trừ bí mật: Đức Phật vì đối trừ các lỗi nên nói các giáo, lại trừ tám chướng nên nói tối thượng thừa: Trừ khinh Phật. Trừ khinh pháp: Nên nói ta từng tên là Thắng Quán Như-lai pháp thân không sai khác. Trừ biếng nhác: Như nói nguyện sanh thế giới cực lạc đều được vãng sanh cho đến Trừ tiểu thiện sanh hỷ túc, nơi một gốc lành, hoặc hủy hoại hoặc khen ngợi. Trừ tham hành xưng tán cõi Phật phú lạc trang nghiêm. Trừ mạn hành xưng tán Chư Phật hoặc có tăng hơn. Trừ ố tác hối hận chướng ngại tu thiện, nói đối với Phật bình đẳng tuy hành khinh chê, nhưng loài hữu tình kia cũng sanh lên cõi trời. Trừ bất định tánh chướng, khiến xả Thanh-văn thấp kém, ý ưa thích đại, thọ ký đại Thanh-văn sẽ được thành Phật. Lại nói Nhất thừa lại không có hai. Chuyển biến bí mật: Như nói giác ngộ không vững chắc hay là kiên, cố khéo trú nơi điên đảo cực phiền não quấy nhiễu, đắc Bồ-đề tối thượng. Ẩn mật như vậy danhø ngôn giải thích khiến có sai khác, trong đây bí mật tức là loại thứ ba đối trừ bí mật. Do khinh của đức Phật và tham mạn hành nói thân Phật khác lấy làm tự thể xưng tán Phật. Như dưới Kinh nói “Trong đây nói Đức Phật Nhiên Đăng”, như vậy đều dùng phương tiện phân biệt. Nói thần thông là giáo hóa nhiều chúng dùng thần lực hóa khiến sanh phát ý. Kinh: “Tất cả thế gian cho đến chánh đẳng giác”. Tán: Dưới chánh là nói về tuổi thọ. Căn cứ luận chia làm hai đoạn: Nêu Bồ-đề vô thượng. “Các người thiện nam ta xưa hành Bồ-tát đạo cảm thành tuổi thọ cho đến” là nêu lại tướng Niết-bàn vô thượng sai khác của hai thân báo hóa. Trong văn đầu luận chia làm ba đoạn, thị hiện ba Đức Phật Bồ- đề: 1.Ứng hóa Bồ-đề thích ứng gặp mà vì thị hiện, cho nên như Kinh đều nói Như-lai xuất cung dòng họ Thích-cách thành Già-da không xa ngồi nơi đạo tràng đắc vô thượng chánh đẳng giác, tức là văn này. Báo Phật Bồ-đề: Thập địa hạnh mãn đắc thường Niết-bàn, như Kinh chép: Này người Thiện nam! Ta thật thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp, tiếp văn dưới. 3. Pháp Phật Bồ-đề: Nghóa là Như-lai tạng tánh tịnh Niết-bàn thường thanh tịnh bất biến, cho nên như Kinh nói: “Như-lai như thật biết thấy rõ tướng của ba cõi cho đến, chẳng như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Vì sao vậy?.”… Đây y nghóa vô thượng đầu đầy đủ có ba thân dùng làm ba nghóa, Phật thân thêm bớt các giáo nói khác nhau, hoặc gọi chung một Phật bảo, hoặc phân biệt làm hai. Phật Địa luận chép: 1.Sanh thân. 2.Pháp thân, Pháp thân, thật báo đều gọi là pháp thân, thật công đức. Tha báo, hóa thân đều gọi là sanh thân. Lại Bát-nhã luận nói hai: 1.Chân Phật. 2.Phi chân Phật. Chân Phật là pháp thân, phi chân Phật là báo, hóa thân. Hoặc chia làm ba: Tức đây nói tam Phật Bồ-đề; hoặc nói bốn thứ: Kinh lăng già nói: 1. Ứng hóa Phật. 2. Công Đức Phật. 3. Trí tuệ Phật. 4. Như như Phật. Một là hóa thân. Hai, ba là báo thân; sau là pháp thân. Kinh Kim Quang Minh lại nói bốn thứ: 1. Hóa phi ứng: Đức Phật vì chúng sanh hiện các hình rồng quỉ cho đến không làm thân Phật gọi là hóa phi ứng. 2.Ứng thân phi hóa: Là Địa tiền Bồ-tát thấy thân Phật y định mà hiện chẳng phải thuộc năm đường gọi là ứng phi hóa, tức bốn gốc lành thấy một đại thiên một ứng thân. 3. Vừa ứng vừa hóa: Nghóa là các Thanh-văn thấy thân Phật hiện thấy tu thành nên gọi là ứng, thấy người đồng loại nên gọi là hóa. 4. Phi ứng phi hóa: Nghóa là chân thân Phật, ba loại trước hóa sau là pháp báo. Phật Địa luận cũng nói bốn: 1. Thọ dụng phi biến hóa: Nghóa là tự thọ dụng thân. 2. Biến hóa phi thọ dụng: Nghóa là biến hóa thân hóa, giống Địa tiền. 3.Cũng thọ dụng cũng biến hóa: Nghóa là tha thọ dụng thân hóa thập địa Bồ-tát. 4.Phi thọ dụng phi biến hóa: Nghóa là pháp thân. Kinh Hoa Nghiêm nói có mười Đức Phật: Vô Trước Phật an trú thế gian thành chánh giác, Phật Địa luận gọi Hiện Đẳng giác Phật. Nguyện Phật nguyện xuất sanh, kia gọi là Hoằng thệ nguyện Phật. Nghiệp báo Phật tín thành tựu nên các hành đều là nhân, lại nói nhất tín, kia gọi là Nghiệp dị thục Phật. trí Phật thuận theo thế gian không đoạn tuyệt, kia gọi trú trì Phật. Phật Niết-bàn thị hiện diệt độ, kia gọi là biến hóa Phật. Pháp giới Phật ở tất cả chỗ không nơi nào là không hiện. Tâm Phật hiện an trú hai thứ trên tên đồng với kia. Tam-muội Phật thành tựu vô lượng công đức vô sở trước, đó gọi là định Phật. Tánh Phật khéo quyết định, đó gọi là bổn tánh Phật. Như ý Phật bao phủ khắp kia gọi là Tùy lạc Phật. năm vị trước là Thế Tục Phật, năm vị sau là Thắng Nghóa Phật, tùy thích ứng ba thân nhiếp năm vị trước là hóa thân nhiếp dùng tên thế tục, một loại pháp giới là pháp thân, nhiếp bổn tánh một thứ chung pháp và thọ dụng, còn lại ba, hoàn toàn là thọ dụng. Luận nói năm thứ này là thắng nghóa, tuy pháp và thọ dụng khác nhau hình trước biến hóa mà đều là thắng nghóa. Xét thấy Vô Cấu Xứng Phẩm Quán Như-lai và Sớ Kinh Lăng Già Sớ chép: Đại Tuệ! Pháp thân Phật nói pháp lìa phan duyên, lìa năng quán sở quán, lìa sở tác tướng lượng cho đến Đại Tuệ! Báo Phật nói tất cả pháp tự tướng đồng tướng, nhân tự tâm hiện huân tập tướng, Cũng nói thí như nhà ảo thuật huyễn tạo các hình tượng, những người ngu chấp cho đó là thật, mà các hình tượng kia không thể được, đó gọi là phân biệt luống dối pháp thể. Đại Tuệ, Hóa Phật nói các pháp thí, giới, nhẫn tinh tấn, thiền định, trí tuệ, âm giới, nhập v.v… Luận Bát-nhã nói ứng hóa chẳng phải Phật chân thật cũng chẳng phải nói pháp bằng nhau Suy tìm suy công về gốc chỉ có Pháp thân, tông chỉ kinh kia tông linh nói chân pháp thân, nương văn tiện nên lược nêu nghóa Phật. Tam Thân thành Phật như Di-lặc Sớ, biệt nghóa như Phật Địa và Duy thức cùng Pháp uyển nói. Tuy nói thân Phật có thêm bớt khác nhau mà nay dùng loại để luận chẳng quá hai thứ: 1.Hóa. 2.Chân. Địa tiền Bồ-tát và Nhị thừa thấy gọi là hóa thân, báo pháp hai thân gọi là chân thân, do lý này nên nói rõ tam Phật Bồ-đề. Trong đây chia làm hai: 1.Nói tam thừa thấy thân Phật kiến sanh nghi, 2. Nói tam thừa không biết chân thân. Đây là phần đầu. Kinh: “Nhưng, người thiện nam na do tha kiếp”. Tán: Dưới nêu tam thừa không biết chân thân chia làm ba: Trước nói thành Phật từ lâu đến nay, kế giải thích thời gian thành đạo đến nay, sau kết luận nói trước. Như vậy từ khi ta thành Phật đến nay rất là lâu xa cho đến Đây là đầu, luận giải thích chỉ nói báo thân thành đạo, căn cứ thật báo thân tu, sanh giác mãn gọi là thành, pháp thân tu, hiển chứng viên gọi là thành, cũng đâu có lỗi gì. Trong đây tuy nêu báo thân thành đã lâu, mà sau giải thích cũng hiển nghóa thể pháp thân. Kinh: “Ví như năm trăm ngàn cho đến biết được số đó chăng”. Tán: Dưới giải thích thời gian thành đạo đã lâu, có hai: Trước nói rõ báo thân Phật Bồ-đề, thành đạo đã lâu, vì chúng sanh nói gần. Sau “các người thiện nam Như-lai giảng nói Kinh điển…”. thầm nói pháp thân. Do chứng đây nên thành đạo thật đã từ lâu, ứng vật mà quyền hiện. Trước là trí năng chứng, sau là lý sở chứng, trí đoạn hai đức trí, và trí như thứ lớp nói. Văn đầu có ba: Trước nêu dụ hỏi, kế Di-lặc v.v… đáp, sau Phật giải thích rộng . Đây là phần đầu. Kinh: “Di-lặc Bồ-tát cho đến vô lượng bô biên”. Tán: Đây Di-lặc cho đến đáp có ba: 1.Trình bày chung về vô lượng. Nói Nhị thừa không biết. Kết luận là vô biên. Có nói nói A-duy-việt-trí, nên từ A-bệ-bạt-trí là địa vị không lui sụt. Kinh: “Bấy giờ Đức Phật bảo cho đến A-tăng-kỳ kiếp”. Tán: Dưới Đức Phật rộng giải thích chia làm hai: Trước bảo báo thân thành đạo thật lâu, sau “các người thiện nam nơi chặn giữa đó cho đến” là bảo hóa thân giải thích sự nghi nạn kia. Văn đầu có hai: Nêu thành đạo đã lâu xa nhiều kiếp, sau nêu thường trú xứ. Đây là phần đầu có hai: Trước nêu rõ sau bảo giải thích kiếp nhiều. Kinh: “Từ đó đến nay cho đến dẫn dắt lợi ích chúng sanh”. Tán: Ở đây nói thường ở trú xứ. thân Tự thọ dụng thật cùng khắp pháp giới tướng trạng khó thấy vẫn tùy theo tiểu tình để giải thích tự thể, nêu dụng hiển thể nói chỗ riêng ở, có chỗ khởi dụng tức ngay ở thân, cũng như hư không rộng lớn trùm khắp mọi nơi hiện tướng rõ ràng không ngăn ngại, thể thật báo pháp đều viên chứng xứ liền nói lên, cho nên từ báo thân nêu dụng hiển bày riêng. Lại nói dẫn dắt lợi lạc thập địa Bồ-tát là thân tha thọ dụng là nêu người hiểu biết để hiển rõ thành đã lâu chẳng phải tự báo. Kinh: “Các người thiện nam cho đến phương tiện phân biệt”. Tán: Dưới bảo hóa thân giải thích nghi nan kia, có ba: Trước nói về giải thích, kế giải thích, sau “các người thiện nam Như-lai thấy các chúng sanh cho đến” là kết giải thích. Đây là phần đầu. Chúng khác có nghi nói: Thành đạo đã lâu thường giáo hóa đây, khoảng giữa thời gian đó có Phật Nhiên Đăng, Tỳ-bà-thi v.v… thành đạo nhập diệt nói pháp độ sanh, lại là ai ư? Nay nêu giải thích nói: Trong khoảng thời gian đó nói Phật Nhiên Đăng cho đến thành đạo nhập diệt, như vậy đều dùng trí tuệ phương tiện, khéo léo phân biệt nói nơi Đức Phật khác chẳng phải lìa thân ta mà có riêng Đức Phật kia. Kinh: “Các người thiện nam cho đến các căn lợi độn”. Tán: Dưới giải thích riêng nghi có hai: Trước nói lý do, sau tùy thích ứng mà độ v.v… là nói lên sai khác. Đây là phần đầu. Do các chúng sanh phát tâm tu hành nguyện thấy Phật gọi là đến chỗ ta. Quán năm căn lợi độn sai khác, vì người lợi căn nói thành đạo đã lâu, vì người độn căn nói hiện thành đạo gần, vì người lợi căn nói thành chánh giác, vì người độn căn nói nhập Niết-bàn, vì người lợi căn hiện thân lớn, vì người độn căn hiện thân nhỏ, vì hàng lợi căn nói pháp sâu, vì hàng độn căn nói pháp cạn, mỗi nơi tùy ứng, cảm hiện sai khác. Kinh: “Tùy theo chỗ đáng độ cho đến phát tâm vui mừng”. Tán: Đây là hiển bày sai khác. Do các chúng sanh căn tánh sai khác, Đức Thế tôn tự nói danh tự khác nhau, thành đạo đến nay đã lâu mau mà thân lượng lớn nhỏ khác nhau, đây là thành đạo và hiện nhập diệt thị hiện tướng khác nhau, nói nhất thừa Nhị thừa, Ba thừa, bốn thừa pháp phương tiện khác nhau, ứng khả tâm kia đều khiến vui mừng. Như ngọc để trên không vân đẹp rỗng suốt chiếu sáng nhìn rõ, quầng sáng, hoa văn đẹp, tầm nhìn có hạn. Bóng trăng đáy nước dễ hiện rõ, nước đục bóng trăng liền biến mất hoàn toàn. Vật khí nguyên vẹn, nát vụn thể hiện khác nhau, tối sáng chiếu đến còn có sai khác, đây chính là báo hóa thân sai khác. Văn này có hai giải thích: 1. Không phế bỏ đức Thích-ca thật thành đạo từ lâu, hóa, thân hiện mới thành. 2.Đâu có phế bỏ ý thú bình đẳng trong bốn ý thú bình đẳng là đối trị bí mật trong bốn bí mật, trừ chướng khinh Phật pháp và phát nạn hành nói Phật khác để tự xưng tán Chư Phật; hoặc có tăng hơn. Nếu không như vậy thì Đức Phật Nhiên Đăng trước đâu có thọ ký, đây cũng hóa hiện đâu có sai trái nhau. Kinh: “Các người thiện nam cho đến nên nói như thế”. Tán: Đây là kết giải thích. Thiện ít đức mỏng tội nhiều cấu trọng tương ưng khí nhỏ mà nói mới lên chánh giác, đối đại căn nói thật thành đạo đã lâu, phương tiện hóa sanh khiến nhập đạo, thời thời hiện xuất khiến khát ngưỡng. Kinh: “Các người thiện nam cho đến đền thật chẳng dối”. Tán: Dưới thứ hai thầm nói pháp thân, do chứng đây nên thành đạo thật lâu ứng vật hiện quyền, có ba: Đầu tiên nêu ứng vật nói chỉ bày khác nhau mà đều nói thật chẳng dối, tiếp giải thích do chứng pháp thân nên năng hiện đây căn cứ thật chân lý vốn không có việcï này, sau “Bởi các chúng sanh cho đến” là giải thích lý do ứng vật hiện quyền. Đây là phần đầu có ba: 1. Nêu. 2. Hiển. 3. Kết chẳng dối. Nói là ngôn nói, chỉ là thị hiện, thân thì thể bên trong, sự là sự nghiệp. Nói thân mình nghóa là nói thân ta từng làm vua Tát-đỏa-vương, vua Thi-tỳ v.v… Nói thân người khác, là như nói Di-lặc xưa làm vị tiên Nhất-thiết-trí quang, Đức Phật A-di-đà làm Tỳ-kheo Pháp Tạng v.v… Chỉ thân mình là hiện làm thân Thích-ca tự ra đời, Thắng-man xa thỉnh Phật hiện giữa hư không cho đến Chỉ thân người khác là hiện làm Tỳ-bát-thi Phật ra đời hiện thế gian mở tháp hiện Đa-bảo cho đến chỉ việc mình là hiện làm Thích-ca với các sự nghiệphàng phục ma thành đạo nói pháp hiện thần thông cho đến. Chỉ việc người là thị hiện các sự nghiệp làm Đại Thông Trí Thắng hiện thần thông rung chuyển một đất phát ra ánh sáng thành đạo v.v… vì độ chúng sanh năng hiện việc đây đều thật không dối. Kinh: “Vì sao? cho đến không có sai lầm”. Tán: Do chứng pháp thân, nhưng chân lý vốn không có việc này, có lý do gì năng vì nói chỉ bày đều không luống dối, do thấy như thật chân lý này, đây có năm câu: Như thật thấy nói thấy thông suốt năm chỗ (xứ). Câu đầu y theo vọng xứ để hiển bày pháp thân. Luận nói tướng ba cõi, nói cõi chúng sanh tức cõi Niết-bàn, không lìa cõi chúng sanh có Như-lai tạng tánh tướng. Phẩm Phương Tiện chép: tướng thế gian thường trú tức là đây vậy. Câu thứ hai y thường tịnh để hiển bày pháp thân. Luận nói không có sanh tử hoặc thối hoặc xuất, nghóa là thường thanh tịnh bất biến, thối là đắm chìm, xuất là lìa trói buộc; hoặc tức sanh diệt, nghóa là pháp sanh tử có thối có xuất, chân thật không có việc này nên nói thường thanh tịnh. Câu thứ ba y theo bất tức bất ly để hiển bày pháp thân. Luận nói cũng không tại thế và diệt độ, nghóa là thể Như-lai tạng chân như, bất tức cõi chúng sanh bất ly cõi chúng sanh, không tại thế nên bất tức cõi chúng sanh, không diệt độ nên bất ly cõi chúng sanh. Câu thứ tư y lìa bốn tướng để hiển pháp thân luận nói chẳng thật chẳng hư chẳng như chẳng dị, nghóa là lìa bốn thứ tướng, bốn thứ tướng là vô thường sanh tướng thật có, diệt tướng là giả, trú tướng là như, biến tướng là dị, pháp thân không có các tướng kia nên bốn đều phi. Câu thứ năm ý Phật nội chứng chẳng phải phàm phu sở đắc để hiển bày pháp thân. Luận nói chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi, Như-lai năng thấy năng chứng pháp thân như thật mà phàm phu không thấy, cho nên kinh nói Như-lai thấy rõ không có sai lầm. Luận giải thích đây chỉ thuộc câu thứ năm, tợ như tổng kết các câu trên. Câu này nói chánh trí của Như-lai năng phân biệt rõ ràng, không nluống dối tướng ba cõi mà năng chứng thể tánh chân như pháp thân ba cõi, cho nên nói Như-lai thấy rõ không có sai lầm. Kinh: “Do các chúng sanh cho đến chưa hề tạm bỏ”. Tán: Dưới giải thích lý do ứng vật hiện quyền. Các món tánh là giới, dục là thắng giải, hành là tâm hành, nhớ tưởng là biến thú hành, do đó nên Phật sự không phế bỏ các lời nói chỉ bày. Trước nói báo thân thật thành đạo từ lâu, mắt Phật nhìn thấy chúng sanh các căn lợi độn nên nói khác nhau. Kinh: “Cũng thế, từ khi ta thành Phật đến nay cho đến thường trú bất diệt”. Tán: Đây là nói rõ tam thừa không biết trong thân chân thật, thứ ba kết thành trước nói. Kinh: “Các người thiện nam cho đến lại còn hơn số trên”. Tán: Ở trên nêu Bồ-đề vô thượng, dưới đoạn thứ hai lập lại hiển báo hóa hai thân tướng Niết-bàn vô thượng sai khác. Trong đây có hai: Trước nói pháp hai thân thường trụ sanh diệt, sau dụ nói hai thân thường trụ sanh diệt. Văn đầu lại có hai: Trước nêu hai thân thường trụ sanh diệt, sau “Lại người thiện nam! Chư Phật Như-lai pháp đều như vậy cho đến” là giải thích thành trước nói pháp chân thật không luống dối. Phần đầu lại có hai: Trước nêu báo thân tùy cõi chúng sanh và bổn nguyện lực đều vô tận, nên tuổi thọ thường trú. Sau nêu hóa thân tùy chúng sanh thân và ý lạc cho nên hiện có khởi diệt. Đây là phần đầu. Ta khi xưa tu hành Bồ-tát đạo nguyện độ chúng sanh tận mới nhập vô dư, do cõi chúng sanh vô tận kỳ hạn nên nay đắc quả viên mãn hạnh nguyện không mất, nên tuổi thọ bất tận lại gấp bội số trên. Kinh: “Nhưng nay chẳng phải thiệt diệt độ cho đến giáo hóa chúng sanh”. Tán: Dưới nêu hóa thân tùy chúng sanh thân, và ý lạc nên hiện có khởi diệt, có ba: 1.Nêu. 2.Giải thích. 3.Thành. “Vì vậy nên Như-lai dùng phương tiện nói v.v…” Đây là nêu ra. Nhưng nay báo thân chẳng phải thật diệt độ mà liền giả tuyên bố sẽ diệt độ, đây chính là hóa tướng phương tiện thị hiện hóa chúng sanh. Kinh: “Vì sao cho đến sa vào trong lưới nhớ tướng vọng kiến”. Tán: Dưới giải thích có hai: Trước nói bổn tánh ác, sau nói lại sanh ác. Đây là phần đầu, Bản tánh ác có sáu: Người đức mỏng không thể cảm được thắng nhân thắng pháp. Không trồng gốc lành thì không có nhân để sanh quả. Nghèo cùng không có tài pháp ý chỉ theo Tiểu thừa thấp kém. Thấp hèn tự khinh thân mình. Đắm dục phiền não hôn mê. Sa vào trong lưới nhớ tưởng vọng kiến, tà kiến dối trá thông minh lầm hành loạn học. Kinh: “Nếu thấy Đức Như-lai cho đến tâm cung kính”. Tán: Ở đây nói lại sanh ác, có năm: Kiêu tứ buông lung. Ôm lòng chán nản không ưa thân gần nhiếp thọ. Có tâm biếng nhác, bị trói buộc không thể tự quán xét. Không nghó gì khó gặp thấy Phật không sanh tâm mong gặp. Không sanh tâm cung kính, không khởi khát ngưỡng tu thuận theo nghiệp, đây nói do kia bổn tánh ác nên thấy Phật lại sanh ba thứ ác đầu, nên không nghó gì khó gặp và tâm cung kính. Kinh: “Cho nên đức Như-lai cho đến mà nói diệt độ”. Tán: Dưới thành có ba. Đầu tiên là nêu, kế là giải thích, sau là kết. Kinh: “Lại Người thiện nam cho đến đều chân thật chẳng dối”. Tán: Giải thích thành trước nói pháp nhó chẳng dối, ý ở đây nói báo thân pháp thân nguyện độ tất cả chúng sanh đều hết, thường trú bất diệt, pháp vốn như vậy, hóa thân thuận theo chúng sanh thương ghét vui chán mà thị hiện có sanh tử. Kinh Niết-bàn chép: Như-lai không nhập Niết-bàn. Kệ nói: Giả sử quạ và chim, đồng đậu trên một cây, cũng như thân huynh đệ, chính vậy nhập Niết-bàn, giả sử rắn chuột sói, đồng ở trong một hạng, thương nhau như anh em chính vậy nhập Niết-bàn, giả sử nhất Xiển-đề, hiện thân thành Phật đạo, mãi thọ vui bậc nhất, chính vậy nhập Niết-bàn, Như-lai thấy tất cả, cũng như La-hầu-la, tại sao xả từ bi, mãi mãi nhập Niết-bàn. Đối với ba dụ trước mỗi dụ lẽ ra nói một hàng tụng sau, sợ văn rườm rà nên nói chung một. Thế thì nhập Đại Niết-bàn ba việc viên mãn, người Nhị thừa chưa đắc, hóa tướng nhập diệt từ đây diệt rồi đến phương khác lại hóa, ở đây lại sanh, thân trí đã không mãi mãi không có, đâu đồng Nhị thừa nhập diệt! Do đây nên nói Niết-bàn vô thượng. Kinh: “Thí như vị thầy thuốc cho đến khéo trị các thứ bệnh”. Tán: Dưới đoạn thứ hai dụ nói hai thân thường trụ sanh diệt, có hai: Trước dụ nói thường trụ sanh diệt, sau dụ vấn đáp biện rõ đây không luống dối. Dụ có mười hai: Khéo đạt cơ nghi dụ. Bi thương khởi hóa dụ. Quán cơ đạo ẩn dụ. Gặp duyên hoặc khởi dụ. Cứu sanh thành đạo dụ. Thấy Phật đều vui dụ. Ứng cơ nói pháp dụ. Cơ thuần thục đạo thành dụ. Cơ chưa thuần thục nhàm chán pháp dụ. Khiến mong cầu thị hiện diệt dụ. Luyến Phật ái pháp dụ. Đắc Thánh thấy Phật dụ. Đây là dụ đầu. Chỉ như Nhị thừa luyện căn tương đối, chúng sanh ít đắc là độn, chúng sanh đắc nhiều là lợi, siêng đối lại với nhau, sanh đắc ít là lợi, sanh đắc nhiều là độn, nay nói đối sau. Đây là hai dụ đầu. Hợp đầu chúng sanh thấy Phật đều dạy phát tâm. Dụ thứ ba thứ tư, hợp là thứ hai chúng sanh căn thuần thục siêng tu, không mất bổn tâm mà dần tu chưa thuần thục, biếng trễ là mất bổn tâm mà lại lui sụt. Dụ thứ năm, sáu, bảy, tám, chín hợp là thứ ba chúng sanh căn cơ thuần thục siêng tu, thấy Đức Phật Thích-ca mà Vô học viên mãn, liền phát đại tâm thọ sanh tử Biến dịch, chưa thuần thục biếng trễ, tuy nay thấy Phật mà còn chưa chứng trú nơi địa vị phàm phu. Thứ mười, mười một, mười hai hợp là thứ tư chúng sanh xưa căn chưa thuần thục, biếng trễ gặp Phật Di-lặc thảy đều đắc đạo, cũng phát đại tâm trước thọ Biến dịch sanh, căn thuần thục siêng tu đắc đạo cũng được thấy Đức Phật kia, cho nên nói đều khiến được thấy Di-lặc tức là tên khác của ta. Hoặc nói ba sanh. Bốn dụ đầu là sanh thứ nhất. Phật bắt đầu thị hiện Niết-bàn, kia không thấy Phật liền khởi phiền não, kế năm dụ là thứ hai sanh, là Phật Thích-ca trung hiện Niết-bàn. Căn thuần thục siêng tu đạo trú nơi vị Hữu học, dần đoạn phiền não gọi là khỏi bệnh, chẳng phải đều đoạn tận thành đạo Vô học. Kia căn chưa thuần thục đoạ nên còn trú nơi vị phàm phu mà còn chưa chứng. ba dụ sau là sanh thứ ba căn thuần thục siêng thì đều được Vô học, chưa thuần thục đọa cũng đắc Hữu học, hai hạng này cuối cùng đều thấy Đức Phật Thích-ca đều phát đại tâm, cho nên trong thọ ký Hữu học Vô học thảy đều có, vì các loại đây chỉ bày có Niết-bàn, tức đại ý dụ trong phẩm này. Thầy thuốc có đầy đủ bốn đức: Biết thể bệnh. Biết nhân bệnh. Biết bệnh diệt rồi không sanh. Biết bệnh diệt rồi lại sanh. Kinh Niết-bàn chép: “Đại từ thương chúng sanh nên nay ta qui y, khéo nhổ các tên độc, nên xưng đại y vương, y thế gian trị bệnh, tuy lành rồi lại sanh, bệnh do Như-lai trị, rốt ráo không còn sanh, thuốc cam lồ của Phật, bố thí cho chúng sanh, chúng sanh đã uống rồi, không chết cũng không sống.” Cho nên, dùng thầy thuốc dụ trí tuệ Phật hiểu biết suốt sanh tử, thông đạt là ứng căn cơ cứu giúp, nêu rõ luyện phương thuốc là năng am hiểu giáo và lý khéo trị các bệnh nghóa không còn tái phát, đồng bốn đức của thầy thuốc. Kinh: “Người ấy nhiều con cái cho đến cho đến số trăm”. Tán: Từ thương xót khởi hóa dụ, có hạt giống Nhị thừa mới gọi là con cho nên nói mười, hai mươi bao gồm tánh Bồ-tát làm bất định, nói đến số một trăm là tu một trăm hạnh, đầu giáo vị phát tâm. Kinh: “Do có việc nêu đến nước xa khác”. Tán: Đây là Quán căn cơ đạo ẩn dụ. Khi căn cơ chúng sanh còn chưa thuần thục mà chúng sanh phương khác căn cơ hợp, hóa thân liền ẩn đến phương khác hóa, hoặc đến tịnh độ uế độ hành hóa gọi là nước khác. Kinh: “Sau lúc đó các người con cho đến lăn lộn trên đất”. Tán: Gặp duyên hoặc khởi dụ. Không có Phật về sau, do tri thức ác phiền não liền khởi mê say tâm kia gọi là uống thuốc độc lăn lộn trên đất sanh tử. Kinh Niết-bàn chép: Nghèo cùng không cứu giúp cũng như người bệnh khổ, không thuốc tùy tự tâm, ăn chỗ không đáng ăn, chúng sanh phiền não bệnh, thường bị các kiến hại, xa lìa pháp y sư, ăn uống thuốc độc tà. Người căn thuần thục hoặc chưa thuần thục tuy đều khởi hoặc, mà người căn thuần thục thì mê hoặc nặng liền lui sụt, căn cơ đã thuần thục mê hoặc nhẹ vẫn tu hành. Kinh: “Bấy giờ người cha từ nước xa trở về nhà”. Tán: Dụ Cứu giúp chúng sanh thành đạo dụ. Ngày xưa hóa độ thị hiện ở nơi nhà sanh tử, đây duyên mới thuần thục nên vì hiện thân, hoặc xưa hóa cảnh vốn ở gọi là Nhà. Kinh: “Các con uống thuốc độc cho đến lại ban tuổi thọ cho chúng con”. Tán: Thấy Phật đều vui mừng dụ. Trước vui mừng sau thỉnh. Người mất bổn tâm là người căn cơ chưa thuần thục mất thanh tịnh khởi nhiễm. Người không mất bổn tâm là người tâm vốn thanh tịnh các căn thuần thục; vui mừng ý nghiệp, lễ bái thân nghiệp, hỏi thăm là ngữ nghiệp, ba nghiệp qui y thỉnh nói pháp yếu. Lại ban cho tuổi thọ nay xin tuệ mạng. Kinh: “Cha thấy các con cho đến không có có các bệnh hoạn”. Tán: Ứng theo căn cơ nói pháp dụ có hai: Trước cầu phương tiện khéo léo mầu nhiệm, sau thí giáo thiện quyền. Y theo các kinh phương tức giáo pháp Chư Phật ba đời, cầu thuốc lý tốt, như tìm cỏ hảo hạng, kia học giới định tuệ gọi là sắc hương mỹ vị, hoặc dứt ác, hành thiện, lợi sanh ba pháp, không gì thiếu sót gọi là đều đầy đủ, như thứ lớp phối hợp, trí tuệ phân biệt nghóa đồng với đâm nghiền, truyền bá thô diệu nghóa đồng với giả xay. Nay trước ba học ba hành tùy theo thuận hành gọi là hòa hợp, người tu học hoặc diệt thì khuyên uống thuốc. Kinh: “Trong các con cho đến bệnh trừ hết được lành mạnh”. Tán: Căn cơ thuần thục đạo thành dụ, nghóa là hạng người căn đã thuần thục đắc đạo, sắc hương hai thứ dụ cho phước tuệ, hai thứ đắc đạo giải thích như trước đã giải. Dũ là bệnh lành. Kinh: “Ngoài ra những người thất tâm cho đến mà cho là không ngon. Tán: Người căn chưa thuần thục nhàm chán pháp dụ, có hai: Không chịu uống, và giải thích lý do. Người căn chưa thuần thục tuy ban đầu ít cầu pháp, sau không chịu tu hành mà phiền não quá sâu dày nên nhàm chán pháp. Kinh: “Người cha nghó rằng cho đến khiến chúng uống thuốc này”. Tán: Khiến mong cầu thị hiện diệt dụ, có ba: Trước nghó lập quyền phương, kế giáo pháp giữ lại, sau chỉ bày nói nhập diệt. Đây là phần đầu. Vì phiền não sâu dày, giáo pháp mầu nhiệm không vâng theo nên lập ra quyền phương khiến các con chịu theo tu. Kinh: “Nghó thế rồi liền bảo cho đến chớ lo không lành”. Tán: Đây là giáo pháp giữ lại. Đạo thành đã lâu giả nói là già suy, lúc nhập diệt đã gần nay lưu giáo lại. Các thầy hãy y theo đây tu hành, phiền não ắt diệt cho nên chớ lo. Kinh: “Bảo thế rồi cho đến cha các ngươi đã chết”. Tán: Bày nói nhập diệt lại ẩn trước hóa gọi là đến nước khác; sai người về nói nhập diệt, nói cha các thầy đã chết, cha thật không diệt chỉ tạm thôi giáo hóa ở đây. Kinh: “Bấy giờ các con cho đến không chỗ cậy nhờ”. Tán: Luyến Phật ái pháp dụ, có hai: Trước nghó Phật từ bi thương xót, nghó mình côi cút, sau bi cảm y giáo mà hoặc khổ đều dứt. Đây là phần đầu. Đầu tin nghó đến Phật, sau là luyến mến pháp, Đức Phật hiện đời từ bi cứu giúp che chở khiến không còn hoặc khổ, nay Đức Phật đã diệt độ không còn chỗ nương tựa khiến con côi cút. Kinh: “Lòng thương bi cảm cho đến bệnh độc đều lành”. Tán: Ở đây nêu bi cảm y giáo mà hoặc khổ dứt trừ. Gia hạnh đế quán gọi là tỉnh ngộ, nhập thánh như nương theo uống thuốc thì hoặc khổ đều dứt. Độc dụ cho phiền não, bệnh dụ cho các khổ. Kinh: “Người cha nghe các con cho đến các con đều thấy”. Tán: Đắc Thánh thấy Phật dụ. Nếu khiến đắc Thánh Nhị thừa Vô học mà thấy Phật, nhập Biến dịch sanh tử thấy Phật hóa thân tịnh độ an trú từ lâu, nghóa đồng trở về mà khiến kia thấy; hoặc Địa tiền đắc nhập Thập địa báo độ thấy Phật. Đây tuy hóa Phật thượng vị lên dần, mà lý y cứ ở đây cũng vậy. Kinh: “Các người thiện nam cho đến có lỗi luống dối”. Tán: Đây dụ vấn đáp biện rõ đây không luống dối: 1.Hỏi. 2.Đáp. 3.Thành. Đây nói hóa thân như thầy thuốc thị hiện chết, báo thân như cha thật thể thường tồn, nghóa Niết-bàn như nói chương khác. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến thường trụ đây nói pháp”. Tán: Đây có hai năm hàng rưỡi tụng chia làm hai: hai mươi hàng rưỡi tụng Bồ-đề vô thượng, năm hàng sau tụng Niết-bàn vô thượng. Văn đầu có ba: mười sau rưỡi tụng nêu hai thân báo hóa, tiếp tám hàng tụng nêu báo hóa hai cõi, sau hai hàng tụng kết khuyến không nghi. mười hàng rưỡi đầu lại có ba: ba hàng đầu tụng báo hóa hai thân, kế sáu hàng tụng báo thân Phật người vô duyên không thấy, người có duyên được thấy, một hàng rưỡi sau tụng kết lý do báo thân Phật thấy và không thấy, đây là ba hàng đầu: hai hàng tụng nói báo thân, sau một hàng tụng nói về hóa thân. Kinh: “Ta thường ở nơi đây cho đến dầu gần mà chẳng thấy”. Tán: Dưới sáu hàng tụng nói báo thân Phật. Vô duyên không thấy, có duyên được thấy. Trong đây có hai: một hàng tụng vô duyên không thấy, năm hàng tụng có duyên được thấy. Đây là một hàng đầu. Chúng sanh điên đảo tự không thấy Phật, huống chi gia thêm thần thông ẩn, khiến không thấy, sợ thấy sanh lỗi nên thần thông che lấp, cũng như mặt trăng mặt trời tự sáng, người mù không thấy là lỗi của người mù chứ chẳng phải lỗi của mặt trăng mặt trời. Kinh: “Chúng thấy ta diệt độ cho đến chẳng tự tiếc thân mạng”. Tán: Dưới năm hàng tụng có duyên được thấy Phật chia làm hai: hai hàng đầu tụng đối đãi chúng sanh căn cơ thuần thục có duyên, ba hàng sau tụng hiện thân nói pháp. Đây là hai hàng đầu. Có bảy duyên căn cơ thuần thục: 1. Tu hành cúng dường. 2. Sanh tâm khát ngưỡng. 3.Tin phục không chê bai thuận hành. 4.Ngay thẳng chân thật lìa kiêu mạn cho đến 5.Mền mõng từ bi chịu đựng. 6.Một lòng muốn thấy chuyên nghó mong gặp. 7. Không tiếc thân mạng khinh thân trọng đạo. Kinh: “Giờ ta cùng chúng tăng cho đến chỉ nói ta diệt độ”. Tán: Hiện thân nói pháp có hai: Nửa hàng đầu tụng hiện thân, hai hàng rưỡi sau tụng nói pháp. Nói pháp có hai: Đầu một hàng nói thân tại đây hiện có Niết-bàn, sau một hàng rưỡi tụng hóa nhập Niết- bàn phương khác lợi ích, ở núi Linh nói hiện tại, hoặc hiện có ở Linh nói. đúc”. Kinh: “Ta thấy các chúng sanh cho đến hiện ra vì nói pháp”. Tán: Đây là kết báo thân Phật lý do thấy và không thấy. Kinh: “Sức thần thông như vậy cho đến trời người thường đông Tán: Dưới tám hàng nói về báo hóa hai cõi, có hai: năm hàng đầu tụng tướng cõi báo hóa, ba hàng sau tụng lý do vô duyên không thấy, có duyên được thấy tịnh độ. Đây là hàng đầu. Trứơc tụng trú xứ, kế tụng quyến thuộc. Kiếp tận là cõi an ổn là tịnh độ, Bồ-tát trời người thường ở trong hội. Kinh: “Vườn rừng các nhà gác cho đến như thế đều đầy dẫy”. Tán: Trong đây có ba: Tướng cõi. Cúng dường. Lìa sợ hãi. Cõi hóa độ lo sợ khổ não đầy dẫy, tịnh độ lìa các thứ đó. Trong tướng cõi có sự có công đức. Như Kinh Vô Cấu Xứng nói tổng trì là vườn rừng, rừng cây đại pháp cho đến đều nên nói theo đó, nghóa Tịnh Độ kia như nói ở chương khác. Luận chép: Cõi tịnh của ta không hủy hoại mà chúng thấy đốt cháy hết, là báo Phật Như-lai chân thật tịnh độ thuộc bậc nhất nghóa đế không như cõi hóa thế gian thuộc về tục đế. Nhạc âm có hai: 1.Lư các trái lại là thô tháo thưởng thức. 2. Năm giáo trái lại với thỏa thích, chỗ tốt đẹp đáng sanh vui mừng. Kinh: “Các chúng sanh tội ác cho đến không nghe tên tam bảo”. Tán: Dưới ba hàng tụng vô duyên không thấy có duyên được thấy chia làm hai: một hàng đầu tụng vô duyên không thấy, sau hai hàng tụng nói có duyên được thấy. Đây là một hàng đầu, có bốn chướng hoặc nghiệp, báo, pháp, không nghe tên Tam bảo có ba chướng gọi là chúng sanh tội, nghiệp chướng gọi là nghiệp ác. Kinh: “Người tu các công đức cho đến vì nói Phật khó gặp”. Tán: hai hàng tụng có duyên được thấy chia làm hai: một hàng tụng tu ba nhân thấy Phật ở Tịnh độ, một hàng tụng thấy Phật tuổi thọ có ngắn dài. Tu ba nhân: 1.Công đức. 2.Nhu hòa. 3.Ngay thẳng. Thân ngữ ý ba nghiệp tu thiện, lợi sanh, diệt ác ba thứ; hoặc giới định tuệ học, hoặc thi giới tu như thứ lớp nên biết, vì ứng thường thấy nói tuổi thọ vô lượng, vì không ứng thường thấy nói Phật khó gặp. Kinh: “Trí lực ta như thế cho đến lời Phật thật không dối”. Tán: Kết khuyên không nghi ngờ. Ánh sáng trí tuệ chiếu soi không còn nghi ngờ độ tất cả chúng sanh cho nên tu nghiệp lâu chứng đắc, do bi nguyện này nên tuổi thọ lâu dài. Kinh: “Như thầy thuốc khéo léo cho đến không thể nói luống dối”. Tán: Dưới năm hàng tụng nói về Niết-bàn vô thượng, có hai: một hàng đầu là dụ, bốn hàng sau hợp. Đây là một hàng đầu, cuồng tử là người căn cơ chưa thuần thục. Kinh: “Ta là cha trong đời cho đến mau thành tựu thân Phật”. Tán: Đây bốn hàng tụng hợp chia làm bốn: một hàng tụng hiện thân sai khác, một hàng tụng vì ác sanh, một hàng tụng nói pháp sai khác, một hàng tụng nguyện thành Phật. ------------------- PHẨM PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC Phẩm này có chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp các nạn vấn. Vì sao có phẩm này có ba: Bên cạnh hai phẩm giải thích nghi các Bồ-tát từ đất vọt hiện lên, tức là trước nói quyền thật hai Phật, lý trí hai thân, nhiếp chung nền tảng muôn đức, tóm thâu rốt ráo Ba minh, thần thông tột bậc, màu nhiệm tận cùng, người nghe tâm trí khế, ngộ, hợp, chân, hoặc thông suốt ắt nên chứng đạo. Nay nêu rõ các cấp bậc tiến tu nên có phẩm này. Trong năm nói quả Nhất thừa, hai phẩm đầu hai nêu rõ quả đã mãn, nhân nơi phẩm trước chánh đã nêu rõ quả mãn, nên phẩm này biện rõ thời chúng nhân đây chứng đắc khác nhau cho nên có phẩm này. Luận giải trong thập vô thượng, thứ mười là lực thắng diệu vô thượng, là phần Tu đà còn lại nói: Luận lại tự nói: Từ đây sắp xuống thị hiện pháp lực và lực tu hành, pháp lực tức oai thần của kinh lực tu hành tức công đức cao quý do năng sở hành. Pháp lực có năm môn: Chứng. Tín. Cúng dường. Nghe pháp. Đọc tụng trì nói. Chứng là chúng Thanh-văn nghe Phật tuổi thọ, có mười một ngôi vị chứng Thánh. Tín nghóa là tám thế giới cát bụi số Bồ-tát phát tâm tin hiểu. Cúng dường nghóa là trời mưa hoa cho đến ba môn trên đây đều ở đầu phẩm này. Nghe pháp nghóa là giữa và sau phẩm bao gồm nghe pháp tùy hỷ. Trong phẩm Tùy hỷ. Đọc tụng trì nói nghóa là phẩm Pháp Sư công đức nói người đọc tụng trì nói được công đức, đến văn sẽ giải. Luận tự giải rằng: Ở bốn môn đầu, Bồ-tát Di-lặc thị hiện, đều bảo với Di-lặc, một phẩm sau hàng Bồ-tát Thường Tinh Tấn thi hiện, nên chỉ bảo với Thường Tinh tấn. Do pháp lực này chỉ nhiếp ba phẩm, tu hành lực kia nhiếp mười một phẩm: 1.Pháp Sư. 2.An lạc hạnh. 3.Trì. 4.Thần lực. 5.Dược vương. 6.Diệu âm. 7.Quán âm. 8.Đà-la-ni. 9.Diệu trang. 1 0.Phổ Hiền. 11. Chúc Lụy. Hợp mười bốn phẩm đều là nghóa thứ mười thắng diệu lực vô thượng. Do nêu rõ chứng, tín, cúng dường ba thứ nên sau phẩm Tuổi thọ có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Công là công lao lực dụng nghe pháp, đức là đạo công lực thể tức phước tuệ, đức do nghe pháp mầu mà đắc gọi là công đức. Đây là nói về giải thích nghóa, phân biệt các sự công đức, phẩm này nói về giải thích phân biệt sự công đức kia cho nên gọi là phẩm Phân Biệt Công Đức. Giải đáp các vấn nạn: Hỏi: Do đâu Thanh-văn nghe thật quyền mà ngộ lãnh bèn được thọ ký, Bồ-tát nghe chân thật hóa mà lãnh giải biết không thọ ký ư? Đáp: Bồ-tát được thọ ký Đức Phật đã nói số, chỉ nói chứng nhân không nói quả đương lai. Thanh-văn sơ ngộ thành Phật sự khó, nhân chứng chưa thành tạm thọ ký quả đương lai. Hỏi: Do đâu nói thừa quyền thật Bồ-tát ký chứng đều thiếu? Đáp: Bồ-tát đã biết trước quyền thật chỉ nghe thân mà đạo chứng, Thanh-văn chưa chứng hóa chân chỉ nghe thừa để được thọ ký, Bồ-tát không lấy bỏ còn Thanh-văn chưa chứng. Hỏi: Khoa đầu nói: Vì sao nói quyền thật để thọ ký cho Thanh-văn mới là tông chỉ? Nói chân hóa để chứng Bồ-tát mà thuộc lưu thông? Đáp: Pháp Hoa khai dụ dẫn chánh là đối quyền thật để trình bày tông chỉ không nói ứng chân đâu thể nói thân làm tông chỉ! Chỉ là nhân trước dũng xuất giải Thích-các nghi kia, mà chẳng phải nêu khai dẫn dụ cho nên chẳng phải tông chỉ. Kinh: “Lúc bấy giờ trong Đại hội cho đến được lợi ích lớn”. Tán: Phẩm này chia làm hai: 1.Văn xuôi và tụng nói chúng đương thời trong hội đạt được lợi ích hiện tiền dần tiến lên, 2.Văn xuôi và tụng nêu so sánh lượng hơn kém lợi ích thời sau. Đầu văn có bốn: 1.Nêu thời lợi ích. 2.Phật nói về lợi ích. 3.Cúng dường lợi ích. 4.Tụng thọ lợi ích. Đây là phần đầu. Kinh: “Khi đó Đức Thế tôn cho đến pháp luân thanh tịnh”. Tán: Dưới Đức Phật bảo lợi ích có hai: Trước nói chứng đắc, sau nói tín phát. Văn đầu có hai: Sáu môn đầu dựa theo ngôi chứng đắc. Năm môn dựa theo sanh chứng đắc. Đây là phần đầu. Căn cứ theo luận, trong năm môn pháp lực ở phẩm này có ba: 1.Chứng: Mười một vị đầu. 2.Tín: Tám thế giới Bồ-tát phát tâm. 3. Cúng dường là trời mưa hoa cho đến y nghóa cao quý luận làm giải thích, tâm không lãnh thọ. Vô sanh pháp nhẫn luận này nói sơ địa, tức căn cứ đắc vị đầu tiên, thời gian dài ở Thất địa, liên tục kế tiếp Bát địa, viên mãn nói Phật địa. Vô sanh là cảnh vô sở chấp, sanh pháp là giáo giải thích vô sanh giáo, Địa tiền xưa nghe chưa thể trí chứng, nay trí chứng ấn gọi là vô sanh, biến kế sở chấp gọi là tướng vô sanh, y tha khởi tánh là tự nhiên vô sanh, viên thành thật tánh hoặc khổ vô sanh. Văn trì nơi Tam địa Phật địa cho đến nói. Thập Địa luận nói ở nơi Ngũ địa. Tam địa ly định chướng, Ngũ địa định tự tại, Nhạo nói biện tài ở ngũ địa, giải năm minh luận biện tài đầy đủ. Duy Thức chép: Tại địa thứ chín căn cứ thành mãn. Triền-đà-la-ni tại thất địa. Nay tùy theo xoay vần trở lại không và tu hành che chở trong hữu tình. Thất địa thời gian dài vô tướng và quán hữu tình. Di-lặc Thượng Sanh nói: Di-lặc đắc Thập địa là căn cứ thành mãn, bất thối pháp luân tại Bát địa đủ bốn bất thối. Thanh tịnh pháp luân ở Thập địa, vô tướng lìa chướng làm thể thanh tịnh. Lại đây là công đức pháp chỉ tùy nghóa nói chúng không cần thứ lớp phối hợp các địa. Kinh: “Lại có cõi nước tiểu thiên cho đến chánh đẳng giác”. Tán: năm vị này dựa vào sanh chứng đắc. Luận nói đây đắc sơ địa Bồ-đề lìa sanh tử phần đoạn, tùy phần chứng đắc thấy chân như Phật tánh gọi là đắc Bồ-đề, chẳng đắc quả mãn Phật vị Bồ-đề. Cũng có giải thích nói: y Kinh Niết-bàn nói tám đời là người bốn hằng sa giải một phần mười sáu nghóa. Bốn đời là người năm hằng sa giải tám phần nghóa. Ba đời là người sáu hằng sa giải mười hai phần nghóa. Hai đời là người bảy hằng sa giải mười bốn phần nghóa, một đời là người tám hằng sa giải mười sáu phần nghóa. Tuy có đây giải thích nói tám hằng sa là Đệ thập địa mà nay y luận này đắc sơ địa Bồ-đề, không nói đắc Phật địa nên không theo giải thích này. Kinh: “Lại có tám thế giới cho đến tâm chánh đẳng giác”. Tán: Đây là nói tín phát. Kinh: “Lúc Đức Phật nói cho đến khen ngợi Chư Phật”. Tán: Thứ ba cúng dường có bảy: Mưa hoa. Mưa hương. Tấu nhạc. Mưa trang sức. Đốt hương. Bồ-tát lên cõi trời. Ca tụng của đức Phật. Chuỗi châu ma-ni tuy vừa ý mà chưa thù thắng, châu như ý mới trên hết, hương không bay xuống phương dưới nên nói chín phương. Kinh: “Khi ấy ngài Di-lặc cho đến vui mừng đầy khắp thân”. Tán: Thứ tư lãnh thọ lợi ích có mười chín hàng tụng chia làm ba: hai hàng đầu nghe pháp vui mừng, tiếp mười lăm hàng tụng lý do lợi ích, sau hai hàng tụng kết thành vui mừng. Đây là hai hàng đầu. Kinh: “Hoặc trụ vị bất thối cho đến được quả báo thanh tịnh”. Tán: Dưới mười lăm hàng tụng nguyên nhân lợi ích, chia làm ba: bảy hàng tụng chứng, một hàng tụng tín, bảy hàng tụng cúng dường. Đây là phần đầu có ba: ba hàng tụng vị chứng, ba hàng tụng sanh chứng, một hàng tụng kết. Kinh: “Lại có tám thế giới cho đến đều phát tâm vô thượng”. Tán: Đây tụng tín. Kinh: “Thế tôn nói vô lượng cho đến ca vịnh các Như-lai”. Tán: Bảy hàng đầu tụng cúng dường có hai: một hàng đầu tụng nêu khen ngợi, sau sáu hàng tụng cúng dường. Cúng dường có bảy: Nửa hàng tụng mưa hoa, một hàng rưỡi tụng mưa hương, nửa hàng tụng trổi nhạc, nửa hàng tụng mưa y, một hàng tụng đốt hương, một hàng rưỡi tụng lên trời, nửa hàng ca tán. Kinh: “Như thế các việc cho đến để giúp tâm vô thượng”. Tán: Đây kết thành khen ngợi vui mừng. Người gốc lành đầy đủ được nghe danh hiệu Phật, để trợ tâm vô thượng của Phật, tu hành thuận theo tâm Phật, hoặc khiến kia đầy đủ gốc lành, trợ giúp chúng sanh kia sanh vô thượng tâm gọi là trợ. Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật bảo cho đến không có hạn lượng”. Tán: Dưới đoạn thứ hai so sánh công đức hơn kém nói về thời sau lợi ích; chia làm hai: Trước văn xuôi và tụng nghe tuổi thọ của Phật sanh tùy hỷ tín hiểu lợi ích, cùng với phẩm Tùy hỉ công đức thành đồng bộ, sau văn xuôi, tụng nghe tuổi thọ của Phật giải trì đọc tụng lợi ích, cùng với phẩm Pháp Sư công đức bên dưới làm đồng bộ. Trước lãnh giải tùy hỷ sau chánh tu hành. Văn trường đầu hàng có ba: Nói chung tín hiểu, tiếp so sánh hơn kém, sau hiển bày nghóa không lui sụt. Đây là phần đầu, tùy hỷ công đức sau, đắc Bồ-đề đâu có lường được. Kinh: “Nếu có người thiện nam cho đến không thể biết được”. Tán: Đây so sánh hơn kém, Nhất thừa thể kia tức tuệ hữu vi và trí vô vi do đó trừ Bát-nhã là nghóa trên hết. Kinh này tuy nói xuất sanh Nhất thừa mà thể tánh rộng lớn đầy đủ. Kinh Thắng-man nói Nhất thừa, tuy không nhiếp nhập mà chỉ lấy vô vi tuệ làm Nhất thừa kia dù đã Hằng hà sa kiếp hành sáu Ba-la-mật không bằng có người tay cầm quyển kinh, rồi nói trừ Bát-nhã cho nên biết kinh này lấy chung cả lý trí làm Nhất thừa, lý trí Nhị thừa hội nhập về Nhất thừa. Nếu chỉ lấy chân lý thì đồng kinh Thắng-man lấy làm Nhất thừa, cũng nên dùng chung lục độ so sánh, đều xuất ra sanh nghóa, vì sao trừ tuệ. Thân Kim Cương Bát-nhã luận của Thiên chép: Số, lực, không tương tợ, thắng, cũng vậy. Số thắng; 2.Lực thắng thắng thời; 3.Không tương tợ thắng và dụ thắng; 4.Nhân thắng là nhân quả thù thắng. Văn này có hai: Tính đếm, thí dụ cho đến hai thứ còn lại cũng không sánh bằng nên nói cho đến. Kinh: “Nếu người thiện nam cho đến không có lẽ đó”. Tán: Đây là hiển nghóa bất thối, tín, vị, chứng, hành tùy ứng bất thối. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến hành năm Ba-la-mật”. Tán: Dưới mười chín hàng rưỡi tụng chia làm hai: mười bốn hàng đầu tụng so sánh, năm hàng rưỡi sau tụng năng tín, không tụng phần Văn xuôi đầu. Mười bốn hàng đầu lại có hai: Mười hai hàng tụng hành năm độ, sau hai hàng tụng so sánh một tín. Trong mười hai đầu lại có ba: một hàng nói chung, mười hàng tụng năm độ, một hàng tụng kết thành. Đây là nói chung đầu. Kinh: “Ở trong các kiếp đó cho đến để hồi hướng Phật đạo”. Tán: Dưới mười hàng tụng năm độ chia làm năm, đây ba hàng tụng bố thí đệ tử Thanh-văn, ruộng có ba thứ: Tôn thắng. Bần khổ. Trung dung. Ân cha mẹ thuộc ruộng tôn thắng, nay cúng dường ruộng này. Ruộng ân hai thứ đều trên hết, thâu nhiếp cả y dược cho đến trong đó, nên tứ sự đều đủ. Kinh: “Nếu giữ gìn cấm giới cho đến một lòng không biếng trễ”. Tán: một hàng tụng giới. Hai hàng tụng nhẫn, một hàng tụng cần (tinh tấn). Kinh: “Trong vô lượng ức kiếp cho đến tận nguồn các thiền định”. Tán: Đây ba hàng tụng định. Kinh: “Người ấy trăm ngàn kiếp cho đến như trên đã nói rõ”. Tán: Đây một hàng tụng kết thành. Kinh: “Có thiện nam tín nữ cho đến phước đó nhiều như thế”. Tán: Đây hai hàng tụng so sánh một tín. Kinh: “Nếu có các Bồ-tát cho đến nói tuổi thọ cũng thế”. Tán: Dưới năm rưỡi tụng nêu người năng tín chia làm ba: một hàng tụng tín, ba hàng tụng phát nguyện, một hàng rưỡi hàng tụng kết thành. Phát nguyện có hai: Tổng và biệt. Đây là hai phần đầu . Kinh: “Nếu có người thân tâm cho đến nơi đây không có nghi”. Tán: Đây là kết thành, đủ có sáu đức: Thâm tâm hết lòng ưa pháp. Thanh tịnh không cầu danh lợi. Ngay thẳng. Học rộng. Tổng trì. Giải lời Phật mới tin không nghi. Kinh: “Lại A-dật-đa cho đến nhất thiết chủng trí”. Tán: Dưới đoạn thứ hai giải trì đọc tụng lợi ích, trong văn xuôi có bảy: Hành giả công đức vô biên năng sanh chủng trí. Hành giả thấy báo thân tịnh độ. Hành giả đầu đội đức Như-lai. Hành giả tự mình xây tháp Phật tăng phòng cúng dường. Hành giả thực hành lục độ tự lợi chóng đắc chủng trí đến đạo tràng. Hành giả thực hành lục độ lợi tha hướng đến đạo tràng. Chỗ của hành giả ở nên xây tháp cúng dường. Đây là văn đầu có hai: Trước nghe tuổi thọ Phật khởi tuệ vô thượng, sau đối với một bộ kinh này khởi văn trì năng sanh chủng trí sẽ chứng đắc. Kinh: “A-dật-đa cho đến nuôi lớn tin hiểu sâu chắc”. Tán: Hành giả thấy báo thân tịnh độ có bốn: Thấy báo thân Phật. Thấy Tịnh độ. Thấy Bồ-tát chúng. Kết thành trước ắt sẽ thấy. Kiến giải trí Phật như báo Phật, đây dùng trí thấy chẳng phải dùng mắt thấy. Kinh: “Và lại sau khi Như-lai diệt độ cho đến đầu đội đức Như- lai”. Tán: Hành giả đầu đội Phật, nghe kinh tùy hỷ rồi tin hiểu sâu, huống chi đọc tụng thọ trì. Kính trọng Phật cho nên gọi là đầu đội. Kinh: “A-dật-đa… cúng dường chúng tăng”. Tán: Hành giả tự xây tháp Phật tăng phòng cúng dường có ba đầu tiên là: Nêu, tiếp giải thích, sau là kết. Đây là nêu. Kinh: “Vì sao? Cho đến cúng dường chúng tăng”. Tán: Giải thích có hai: Lược, và rộng. Đây là lược. Toàn thân Xá-lợi ở đây tức là xây tháp nơi chúng học tức là Tăng phườøng, thọ trì đọc tụng chân thật hành cúng dường, cho nên nói tức là hai thứ cúng dường đây. Kinh: “Thời đem Xá-lợi Phật cho đến làm việc cúng dường đó rồi”. Tán: Dưới đây rộng giải thích, có hai: Trước giải thích tức là xây tháp cúng dường, sau giải thích tức là xây cất Tăng phòng cúng dường. Đây là phần đầu, có ba: Lượng. Vật cụ Thời. Người này chắc chắn nêu vượt cõi cõi Dục. Lại tạm nêu rất nhỏ là đến cõi Phạm thiên, nhỏ dần là có thể thực hành căn lành nhỏ, nêu tiểu làm dụ, nội pháp cúng dường hơn ngoại tài. Kinh: “A-dật-đa cho đến và Tỳ-kheo tăng”. Tán: Đây giải thích là xây tăng phường cúng dường có hai: Trước chỉ ít sau chỉ nhiều. Chỉ ít có bốn: Số. Lượng. Tăng trú. Tư cụ. Đầy đủ ba mươi hai sở là chỗ an trú của tứ phương Tăng sanh trong tám đường. Bát-đa-la là tu bát giải thoát. Một cây đa-la cao bảy nhận, tương truyền giải một nhận là bảy thước, tám cây đa-la tính có thể biết. Ngoài ra các thứ khác đều có tiêu biểu tùy nghóa nên biết cho đến “Như vậy Tăng phường lầu gác v.v…” là chỉ nhiều, tức là tạo lập Tăng phường v.v… như trước mà hiển số nhiều. Kinh: “Cho nên ta nói cho đến cúng dường chúng Tăng”. Tán: Hành giả thực hành lục độ tự lợi mau đắc chủng trí có ba: Trước pháp, tiếp dụ, sau hợp, mau thành chủng trí. Kinh: “Nếu người đọc tụng cho đến giỏi gạn hỏi đáp”. Tán: Hành thực thực hành cả lục độ lợi tha vì hướng đạo tràng. Đạo tràng là chánh đẳng giác tánh, trước là Bồ-đề đây là Niết-bàn, có hai: Trước nêu lục độ lợi tha, sâu kết đã đến đạo tràng. Đây là phần đầu, xây tháp Tăng phường cúng dường là tài thí, khen ngợi tam thừa là vô úy thí, nói kinh Pháp Hoa này là pháp thí. Ngoài ra, giới, nhẫn, an, cần, tuệ như thứ lớp lợi tha. Trong nhẫn đồng chỉ nại, oán hại nhẫn, nhẫn nhục không sân là an chịu khổ nhẫn, chí niệm vững chắc quán sát rõ là pháp nhẫn, đắc định sâu cần nhiếp thiện đều là lợi tha. Kinh: “A-dật-đa cho đến ngồi dưới cội đạo thọ”. Tán: Kết rồi đến đạo tràng, hướng chân và hóa hai đạo tràng, giác thọ tự vinh như sanh thọ. Kinh: “A-dật-đa cho đến như tháp của Phật”. Tán: Chỗ hành giả ở nên xây tháp cúng dường. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến như trên đã nói”. Tán: Đây kệ có mười chín hàng rưỡi tụng chia làm năm: một hàng đầu nêu chỉ ba thứ trước, kế bảy hàng rưỡi tụng loại thứ tư tức mình xây tháp tăng phòng cúng dường, kế ba hàng tụng loại thứ năm hành giả thực hành lục độ tự lợi mau đắc chủng trí, kế ba hàng tụng loại thứ sáu hành kiêm lục độ lợi tha vì hướng đến đạo tràng, sau năm hàng tụng loại thứ bảy nơi hành giả ở nên xây tháp cúng dường. Đây là phần đầu. Kinh: “Đó thời là đầy đủ cho đến đầy đủ các cúng dường”. Tán: Dưới bảy hàng rưỡi tụng loại thứ tư chia làm hai: bốn hàng rưỡi tụng tức xây tháp cúng dường, ba hàng sau tụng xây Tăng phường cúng dường. Đây là phần đầu có ba: hai hàng tụng xây tháp, một hàng rưỡi tụng cúng dường, một hàng tụng kết. Kinh: “Nếu hay trì kinh này cho đến các thứ đều nghiêm tốt”. Tán: Đây là xây Tăng phường cúng dường. Kinh: “Nếu có tâm tin hiểu cho đến phước ấy cũng như thế”. Tán: Tụng loại thứ năm kiêm hành lục độ tự lợi mau đắc chủng trí, chỉ luận 1 thí không nói năm độ. Kinh: “Huống nữa trì kinh này cho đến công đức không thể lường”. Tán: Tụng loại thứ sáu kiêm hành lục độ lợi tha vì hướng đến đạo tràng, cúng dường tháp miếu, “khiêm hạ các Tỳ-kheo…” đều thuộc tinh tấn độ. Kinh: “Nếu thấy pháp sư đây cho đến kinh hành và ngồi nằm”. Tán: Tụng loại thứ bảy nơi hành giả ở nên xây tháp cúng dường chia làm bốn: Nửa hàng tụng kính như Phật, một hàng rưỡi tụng biết đạo thành, một hàng rưỡi tụng nên xây tháp, một hàng tụng nơi Phật thường ở cho đến. Ngày 21 tháng 6 Niên hiệu Bảo An năm thứ ba Tăng Giác Ấn ở chùa Pháp Long viết xong . Cùng năm ngày 24 tháng 12 để ở chùa Hưng Phước Viên Như phòng kiểm duyệt xong, Tăng Giác Ấn vì muốn chánh pháp tồn tại lâu dài vãng sanh cực lạc. Ngày 21 tháng 5 năm Tân hợi niên hiệu Thiên thừa năm đầu phụng truyền thọ ở chùa Dược Sư Thiện Minh phòng đắc nghiệp rồi nhiếp giải thích và sao xuất, truyền thọ đã xong Tăng Giác Ấn.  HUYỀN TÁN KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA <卷>QUYỂN 10 (PHẦN ĐẦU) PHẨM TÙY HỶ CÔNG ĐỨC Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp nạn vấn. Vì sao có phẩm này có ba: Bảy phẩm trong học hạnh lưu thông, sáu phẩm sau nói người năng hành, chia làm bốn, phần từ đây trở xuống hai phẩm là phần thứ ba nêu rõ bên tu hành và chánh y hành công đức nhiều ít. Phẩm này nói phước bên tu hành, cho nên có phẩm này. Quả Nhất thừa, hai phẩm trên nói quả đã mãn, từ đây trở xuống ba phẩm nói quả chưa mãn chia làm hai, phẩm này nói bên tu tùy hỷ phước quả nhiều ít, sau hai phẩm nêu rõ chánh y hành phước quả nhiều ít cho nên có phẩm này. Luận nói pháp lực có năm, trước đã nêu rõ ba đây là thứ tư nghe pháp, chỉ như phẩm tùy Hỷ công đức nói, do từ người khác nghe năng sanh tùy hỷ nên gọi là nghe pháp, phẩm này nói rộng điều đó nên có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Tùy là thuận theo, hỷ là xứng hợp ưa thích, thân tâm thuận theo sanh lòng ưa thích, lấy đây làm nhân sanh quả công đức. Phẩm này nói rộng nên đặt tên phẩm. Tùy chỗ nghe tư duy tu tập đều sanh tâm vui mừng. Luận kinh từ đầu chỉ nói nghe (văn). Giải đáp vấn nạn: Phẩm này không những tự sanh tùy hỷ mà còn khuyên dạy người khác, vì sao không gọi phẩm là khuyến nhân? Đáp: Từ gốc đặt tên nhân tự tùy hỷ mới khuyên người, lại cả hai đều thuộc về tùy hỷ nên hợp đặt tên. Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Di-lặc cho đến lại được bao nhiều phước”. Tán: Phẩm văn chia làm hai: Di-lặc thỉnh. Thế tôn đáp. Di-lặc thỉnh có hai: Văn xuôi và kệ. Kinh: “Khi đó Đức Phật bảo cho đến ông phải lóng nghe”. Tán: Dưới Thế tôn đáp chia làm ba: Trước so sánh để hỏi, tiếp Di-lặc đáp, sau Phật bảo thành. Văn đầu lại chia ba: Trước nêu năng tùy hỷ, tiếp nêu cảnh so sánh, sau “Ý ông nghó sao cho đến” chánh lấy làm hỏi: Văn đầu có hai: Trước nêu người đầu tiên tùy hỷ, sau chỉ so sánh người sau cùng tùy hỷ. Văn đầu lại có ba: Trước nêu người đầu tiếp nêu chỗ đến, sau nêu xoay chuyển dần. Kinh: “Nếu bốn trăm muôn ức cho đến đủ tám mươi năm rồi”. Tán: Cảnh so sánh trong đây có bốn: Số loại chúng sanh. Vật cụ bố thí. Số tuổi. Đắc đạo. Đây là đầu và ba. Chúng sanh loại có hai: Biệt nêu ra năm loại: Lục thú. Bốn loài sanh. Hình loại. Tưởng khác. Chân khác. Những nghóa này như nói ở chương khác. Vàng Diêm-phù-đề là tên cây Thiệm-bộ, cây mọc ở mé châu Bắc này gần cây có nước bên dưới đáy có vàng tử kim, ánh sáng chiếu che phủ mặt trời mặt trăng cho nên lấy làm tên. “Kết Như vậy v.v…”. Kinh: “Mà nghó rằng cho đến đủ tám món giải thoát. Tán: Đây khiến đắc đạo có hai: Trước khởi niệm, sau giáo hóa dẫn dắt. Kinh: “Ý ông nghó sao cho đến có nhiều chẳng?”. Tán: Đây chánh làm câu hỏi. Kinh: “Di-lặc bạch Phật cho đến quả A-la-hán”. Tán: Đây là Di-lặc đáp, quả thế gian đã nhiều huống chi khiến đắc Thánh quả. Kinh: “Phật bảo Di-lặc cho đến không thể biết được”. Tán: Dưới Phật bảo thành có hai: Trước thành thứ năm mươi sau thành người thứ nhất. Đây là phần đầu. Tùy hỷ một niệm sẽ đắc Bồ-đề, giáo hóa chúng sanh gấp bội số trên cho nên phước rất nhiều; khiến đắc quả A-la-hán không thể thành Phật rộng độ chúng sanh cho nên phước kém, như so sánh tiếng phạm âm Phật. Kinh: “A-dật-đa… không thể sánh được”. Tán: Dưới thành người thứ nhất. Văn chia làm năm: Nói chung người đầu tùy hỷ công đức hơn trước, không sánh bằng. Quả đến nghe tùy hỷ. Khuyên nghe phân chia tòa đắc quả tùy hỷ. Thọ giáo đến nghe đắc quả tùy hỷ. Nêu kém thành thắng hơn. Đây là phần đầu. Kinh: “Lại A-dật-đa cho đến hoặc chỗ ngồi của Vua Thánh Chuyển Luân”. Tán: Đây thứ hai lắng nghe được quả tùy hỷ, thứ ba khuyên lắng nghe được quả tùy hỷ. Cũng đắc lục thông tòa báu Kim Cương, đây căn cứ quả thế gian chẳng phải ra đời gian. Bệnh được nằm nghe. Đây căn cứ chẳng phải bệnh, chỗ rộng chỉ khuyên ngồi, chỗ hẹp chia tọa khuyên ngồi. Kinh: “A-dật-đa cho đến cùng sanh một chỗ”. Tán: Dưới thứ tư thọ giáo đến nghe đắc quả tùy hỷ có ba: Trước nói được bạn lành tốt, kế nêu phước tuệ trang nghiêm, sau thấy Phật nghe pháp. Đây là phần đầu, được bạn giải thích pháp, tức là bạn lành. Kinh: “Căn tánh lanh lợi trí tuệ cho đến không có các tướng đáng chê”. Tán: Phước tuệ trang nghiêm lợi căn trí tuệ, ngoài ra đều là phước. Trong phước có năm: Tướng tiếng. Tướng miệng. Tướng mũi. Tướng mặt. Các tướng. “Trăm ngàn muôn đời cho đến” các quả. Tướng miệng có năm: Khí. 2.Lưỡi. 3.Chân răng cho đến không bệnh. 4.Răng không có sáu điều xấu. 5. Môi không có mười điều xấu, không bị rút túm chẳng ngắn, chẳng thô rít có mềm trơn, không ghẻ mục là ghẻ trên môi, miệng không dày không nám đen. Kinh: “Mũi chẳng xẹp lép cho đến không có các tướng chẳng đáng ưa”. Tán: Đây là tướng mũi mặt không bị lõm gãy. Kinh: “Môi lưỡi răng nướu cho đến tướng người đầy đủ”. Tán: Đây nói các tướng có sáu. Kinh: “Đời đời sanh ra thấy Phật cho đến tin nhận lời dạy bảo”. Tán: Đây nói thấy Phật nghe pháp. Kinh: “A-dật-đa cho đến đúng như lời dạy mà tu hành”. Tán: Thứ năm nêu kém thành hơn. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến không thể thí dụ được”. Tán: Dưới mười tám hàng kệ tụng chia làm hai: tám hàng đầu tụng bên tùy hỷ, mười hàng sau tụng chánh tùy hỷ. Đây là phần đầu có ba: hai hàng tụng nêu tùy hỷ, tiếp năm hàng tụng so sánh, sau một hàng tụng kết thành. Kinh: “Xoay vần nghe như thế cho đến thường từ trong miệng ra”. Tán: Dưới mười hàng tụng chánh tùy hỷ chia làm năm, đây có hai: Một hàng tụng nói chung người đầu tùy hỷ, năm hàng tụng thọ giáo đến nghe tùy hỷ. Kinh: “Nếu cố đến tăng phường cho đến phước đó chẳng lường được”. Tán: Đây có ba: hai hàng tụng lắng nghe tùy hỷ, một hàng tụng khuyến lắng nghe chia chỗ ngồi tùy hỷ, một hàng cuối tụng nêu kém thành hơn. ---------------------------- PHẨM PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC Phẩm này chia thành ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp các vấn nạn. Vì sao có ba: Sáu phẩm nêu người năng hành, trong đó trước nêu phước của người bên năng tu hành, chưa nêu phước pháp Sư chánh năng hành. Nay chính nêu cho nên có phẩm này. Dưới hai phẩm nêu rõ chánh y hành phước quả nhiều ít. Trong đây phẩm đầu nói chung đắc nhiều ít, phẩm sau dẫn đã chứng thành đắc cho nên có phẩm này. Luận giải pháp lực có năm: thứ năm đọc tụng trì nói hạng Bồ- tát Thường Tinh tấn thị hiện, phẩm này Phật bảo Thường Tinh Tấn cho đến công đức của người trì nói cho đến nên có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Y pháp tu hành đáng làm khuôn phép nên gọi là Pháp Sư, chỉ người năng hành chẳng phải pháp sở hành, phẩm này nêu rõ công đức pháp Sư cho nên gọi là phẩm Pháp Sư công đức. Giải đáp các vấn nạn: Hỏi: Vì sao phẩm Pháp Sư trước Đức Phật bảo Dược vương, phẩm Hiện bảo tháp, Thiên Thọ bảo các Bồ-tát và trời người bốn chúng, phẩm An lạc Hạnh bảo riêng Văn-thù, phẩm Như-lai Tuổi thọ, Phân biệt công đức, Tùy hỷ công đức bảo riêng Di- lặc, phẩm Pháp Sư công đức lại bảo riêng Thường Tinh Tấn, mà không bảo các vị khác? Đáp: Phẩm Pháp Sư nêu rõ nhân pháp hai Sư, phẩm Dược vương quá khứ không tiếc thân mạng để mở rộng kinh này, dùng pháp làm thầy thân làm pháp Sư, vì vậy nên bảo riêng, Bảo tháp pháp chứng, Thiên Thọ nhân chứng khuyên bày mọi người, là bảo chung. Phẩm An lạc hạnh nói lìa thương tổn ba nghiệp hành thiện, Văn-thù thường khuyên tu hành phần nhiều làm bạn lành của vì chúng sanh, tự mình cũng lấy hạnh làm đầu nên bảo riêng Văn-thù. Phẩm Tuổi thọ nêu rõ tam Phật Bồ-đề, phẩm Phân biệt công đức nêu rõ đạo chứng tiến dần, phẩm tùy Hỷ công đức so sánh khuyên bày mong cầu Quả Phật, tự mình địa vị chẳng ngang bằng chánh giác trí dần lên đại thánh, do đâu biết chân thật hóa mầu nhiệm sâu xa quán sát viên chứng đạo đức cho nên ba phẩm này bảo riêng Di-lặc, một phẩm này cũng hợp bảo lấy Thường Tinh tấn đặt tên danh hạnh phù hợp nên chỉ bảo riêng. Thật hành hạnh mầu của năm thứ Pháp Sư đạt được sáu ngàn thắng đức, chẳng phải tự mình hành tu thành trọn kiếp, cũng chẳng phải thường tinh tấn mà không thể chứng. Há do biếng nhác buông lung mà được thành! Vì vậy bảo riêng Bồ-tát Thường Tinh Tấn. Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật bảo cho đến hoặc biên chép”. Tán: Văn chia làm ba: 1. Bảo tu hành Pháp Sư sai khác, kế hiển sở đắc công đức nhiều ít, sau hiển quả dụng thù thắng của sáu căn. Đây là phần đầu. Căn cứ thật pháp Sư tổng có mười hạng, đây nói lược năm: Trì. 2. Đọc. 3. Tụng. 4. Nói. 5. Viết chép. Ngoài ra cúng dường, thí cho người, lắng nghe, tư duy, tu tập, cũng đều là Pháp Sư. Ba hạng đầu dễ nên không luận, hai hạng sau cùng khó nên không nói. Năm hạng giữa khó, dễ nên nói. Kinh: “Người ấy sẽ được cho đến đều được thanh tịnh” Tán: Đây là nói lên sở đắc công đức nhiều ít. Trước biện rõ sau kết. Xưa có hai giải thích: Nói thập thiện làm gốc, một thiện đều có chín thiện trợ giúp thành, đều thành mười hạnh, mười hạnh đều có tự tác, giáo tha, khen ngợi pháp thù thắng và khen ngợi người hành thập thiện, hợp thành bốn trăm. bốn thứ này đều có thượng trung hạ tu hợp thành một ngàn hai trăm. Nhó, thiệt, ý ba thứ: Lắng nghe, đàm nói, tâm đắc pháp nghóa, lực tu hành thù thắng đầy đủ ba phẩm đều có một ngàn hai trăm. Còn ba căn kia kém đều không có thượng phẩm nên chỉ có tám trăm. Nếu y thập thiện làm đầu tu thành đức này, các kinh khác cũng vậy, công đức sáu căn cũng nên như vậy đâu chỉ riêng kinh này. Nói lục căn đều có một ngàn phước, mỗi phước đều dùng mười thiện trang nghiêm, hợp thành một ngàn cùng với sáu căn hợp đây tổng có sáu ngàn, ba căn thù thắng hơn nên tăng được hai trăm, ba căn yếu nên đều giảm hai trăm. Xưa giải thích dẫn chánh Pháp Hoa và luận Trang Nghiêm sáu phẩm đều có một ngàn thì ba thứ nhãn, tỷ, thân đều cùng hai trăm thì số đó giải thích thế nào? Lại nói hai trăm phước: Là quả từ nhân Thập thiện cảm, nay lấy nhân trợ giúp mà chưa thấy lý do. Nay chánh giải: Trong luận này chỉ nói ba căn đều là một ngàn hai trăm, còn lại ba thứ đều có tám trăm không được đem luận Trang nghiêm sánh giống kinh này. Lại chưa xét kỹ hai văn kia nay tạm làm bốn giải thích: Ở trong kinh này tu mười hành pháp: 1.Viết chép. 2.Cúng dường. Thí cho người khác. 4.Lắng nghe. 5.Đọc tụng. 6.Thọ trì. 7.Khai diễn. 8.Phúng tụng. 9.Tư duy. 1 0.Tu tập. Trong mười thứ này mỗi mỗi tương tợ nhau chuyển thành một trăm hành. một trăm hành đều có bốn, tự tác, giáo tha, khen khuyên, vui an ổn, hợp thành bốn trăm, mỗi trăm có ba phẩm mà tu tập thành một ngàn hai trăm, ba căn thù thắng đầy đủ một ngàn hai trăm, ba căn yếu kém nên không có thượng phẩm đều chỉ tám trăm. Nhân mười hành pháp trong kinh này, mỗi mỗi đều dùng mười thiện trợ giúp nhau như vậy mười lần mười thành một trăm, tự tác, giáo tha, khen khuyên, vui an ủi hợp thành bốn trăm, ba phẩm tu tập nhân thành một ngàn hai trăm ba căn hơn kém, tăng, giảm giống như trước nói. Kinh này vì thắng diệu nên thành công đức khác không như vậy cho nên không có đức đây, các kinh khác không như vậy cho nên không có đức đây. Văn này lược nên nói năm hạng pháp Sư, sự thật có mười: Mỗi mỗi làm đầu, hành vi ác còn lại trợ giúp thành đều thâu hoạch đức. Lại y kinh này lục căn đều chỉ nói năm pháp Sư chẳng phải mười hạng, nay có hai giải thích: Nói năm vị Pháp Sư đây mỗi một vị gồm tu mười thiện tức thành năm mươi hợp với tự tác, giáo tha khen khuyên, vui an ủi, tức thành hai trăm, mỗi mỗi căn môn tuy đều là hai trăm mà nhãn, tỷ, thân kém đều có ba căn nhó, thiệt, ý này trợ giúp vì tự loại không giúp nhau nên căn bản thành tám trăm, nhó thiệt ý hơn vì năng dẫn ba căn trợ giúp, cho nên nhó thiệt ý thành một ngàn hai trăm. Nói chưa thấy văn nói không thể hư bói: Kinh nói: Do công đức ấy trang nghiêm lục căn đều khiến thanh tịnh. Luận chép: Các phàm phu nhờ lực kinh mà được căn dụng thù thắng chưa nhập vị sơ địa. Như Kinh nói dùng mắt thịt do cha mẹ sanh ra, thấy nơi tam thiên đại thiên thế giới như vậy cho đến cho nên có giải thích ở Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, chẳng phải như thập tín lực còn yếu. Nay giải thích chỉ ở tứ gốc lành, dùng mắt thịt kia thấy đại thiên, ở phần vị giải thoát chưa thể như vậy. Phần vị giải thoát thấy hóa Phật ở một châu. Quyết trạch phần vị thấy hóa Phật ở đại thiên. Tức như Kinh nói: Tam thiên đại thiên một cảnh hóa Phật. Cho nên biết Quyết trạch phần mới thấy đại thiên giới. Nếu không vậy thì một cảnh hóa Phật nói phần vị nào thấy? Luận chép: Lại lục căn thanh tịnh ở trong mỗi một căn thảy đều đầy đủ thấy sắc, nghe tiếng, biết hương vị xúc cho đến các căn xử dụng lẫn nhau. Mắt thấy là nghe hương có thể biết. Như Kinh nói Thích-đề- hoàn-nhân ở trên thắng điện ngồi ở trên điện này vui đùa ngũ dục, như sắc đáng lẻ mắt thấy mà mũi có thể biết được, cho đến nói pháp nghe hương đều biết, đây là cảnh trí mà tỷ căn biết. Nói pháp lẻ ra trí biết mà tỷ căn biết, đây có hai nghóa: Các căn dùng lẫn nhau chỉ tại ở Thập địa. Duy Thức cho đến nói: Đắc vị tự tại các căn dùng lẫn nhau, một căn phát thức duyên tất cả cảnh, cho nên chẳng phải địa tiền có thể gọi là tự tại các căn dùng lẫn nhau. Trước kia nói thấy nghe đại thiên là chung cả Địa tiền vị, Sơ địa trở lên thấy trăm thế giới, không phải chỉ có Tam thiên. Lại sơ địa trở lên rộng thấy một trăm Tam thiên đại thiên, căn cứ một cảnh hóa Phật tạm nói thấy đại thiên đối lý không sai. Các căn dùng lẫn nhau đắc đại tự tại chỉ ở Thập địa đó là Duy Thức nói. Nếu năng lực gia hạnh phần cũng được, Địa tiền cũng được. Cho nên luận này đây nói địa tiền được thì nói ở, phàm phu vị. Nếu chung nói dùng lẫn nhau như văn dưới thì phàm phu trước đắc các công đức trước, nay sơ địa trở lên các căn dùng lẫn nhau cho nên chẳng phải Địa tiền mà các căn được xử dụng hổ tương lẫn nhau . Kinh: “Người thiện nam cho đến thảy đều thấy biết”. Tán: Dưới đoạn thứ ba biệt hiển tác dụng thù thắng của sáu căn. Trước nói về mặt văn xuôi có ba: “Mắt thịt chẳng thông v.v…” đều y theo đây mà biết. Sở kiến xa gần. Thấy nghiệp báo. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến sức mắt thịt như thế”. Tán: Đây có năm hàng tụng chia làm bốn: Một hàng bảo lắng nghe, hai hàng nói gần xa, một hàng nó số, một hàng nêu chúng sanh và kết. Giáo Tiểu thừa nói Nhị thừa mắt trời thấy đại thiên, nay nói lực trì kinh, mắt phàm phu thấy đại thiên, sơ địa Bồ-tát thấy một trăm đại thiên thế giới, công đức của sáu căn nhiều ít khác nhau, mà sở đắc cảnh giới đại thiên không sai khác, tu nhân hơn kém quả đức khác nhau, thức dụng không sai đại thiên đều đồng. Lại đức là bên trong thành do nhân thêm bớt, cảnh là một hóa ngoài chấp lượng đồng, chỉ như Nhị thừa bên chấp liền có hai ngàn ba ngàn, túc mạng mắt trời biết quá vị đều thành tám muôn. Lại như sơ địa mắt trời thấy trăm đại thiên, hơn Nhị thừa. Túc mạng sanh tử chỉ biết trăm kiếp kém thua Nhị thừa cho đến không thể theo lệ chắc chắn. Kinh: “Lại nữa Thường Tinh Tấn cho đến mà không hoại nhó căn”. Tán: Nhó căn, văn xuôi có bốn: Đức lượng. Cảnh lượng. Nghe sai khác. Kết nghóa thù thắng. Sai khác có bảy loại: 1. Mười hai âm thanh, tạp, 2. mười hai âm thanh tức sáu cặp đối, 3. Tiếng tam tai, 4. ba tiếng đường ác, 5. tám âm thanh Bát bộ, 6. hai âm thanh xuất gia, 7. Tiếng bốn Thánh nhân. Bồ- tát Địa nói: Thắng giải hành vị, vì là Bồ-tát Tu-lâu, không linh nghiệm, dùng chú thuật đều linh nghiệm, lục căn thanh tịnh ắt tại Địa tiền trên vị phàm phu, chẳng phải hạ trung. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến cả tiếng cõi tam thiên”. Tán: Đây có mười tám hàng kệ chia làm ba: một hàng nêu, tiếp mười bốn hàng tụng trên, sau ba hàng kết thắng. Đây là phần đầu. Kinh: “Tiếng voi ngựa trâu xe cho đến nghe đều hiểu rõ được”. Tán: Tụng trên có mười bốn hàng chia làm bốn: Đầu tám hàng tụng tiếng cõi Dục, tiếp một hàng rưỡi tụng tiếng cõi Sắc, tiếp một rưỡi tụng tiếng người xuất gia, sau ba hàng tụng tiếng Hiền Thánh. Trong mười phương thế giới âm thanh loài cầm thú, là căn cứ mười phương tứ thiên hạ thế giới trong một cõi Tam thiên chẳng phải số đại thiên giới làm mười phương. Lại đắc tam thiên là tai phàm phu, đây là Thập địa cho đến Phật vị cho nên đắc mười phương cũng không trái nhau. Kinh: “Cõi Tam thiên đại thiên cho đến công đức đã như vậy”. Tán: Đây là kết thúc nghóa cao siêu. Kinh: “Lại Thường Tinh Tấn cho đến các thứ mùi”. Tán: Nói về Tỷ căn. Văn xuôi có bốn, trong đây có hai: Đức lượng và cảnh lượng, trên dưới đã xa làm sao có thể biết! Nếu căn xa biết không đến lấy thì hoại căn không hoại cảnh, nếu đến năng lấy đâu phải tất cả hương đều đến nơi căn ư! Luận nói đây là trí cảnh tỷ căn biết. Định trí xa biết nương theo tỷ căn thọ nhận nên gọi là nghe hương, chẳng phải tỷ thật năng lìa mà thọ nhận cảnh lại các căn dùng lẫn nhau tỷ còn thấy sắc, huống chi y trí nhãn nhó không nhận được hương đại thiên ư! Được mùi tương tợ, chẳng phải được thể thật, chấp nhận lìa căn mà nhận thì tánh cảnh thể hoại. Kinh: “Mùi bông Tu-mạn-na cho đến ghi nhớ không lầm”. Tán: Trong đây có hai: Thứ ba sai khác và thứ tư kết thành. “Tuy nghe mùi này cho đến” là sai khác có hai: Phàm và Thánh. Trong phàm lại có hai: Trước cõi Dục, sau cõi Sắc. Lục giới lại có hai: Trước phi thiên sau thiên. Phi thiên có hai: 1. Cảnh vật. 2.Sanh thân. Thiên cũng có hai: Cảnh vật và thân các vị trời. Cõi Sắc làm sao có hương, đây thông quả hương chẳng phải nghiệp quả. Kinh Hoa Nghiêm nói: Tỷ căn Bồ-tát nghe hương cung điện Cõi Vô sắc, đây căn cứ y hình thông lực biến ra, kia căn cứ tợ hình định lực biến ra cho nên không trái nhau. Nhưng Du-già nói: Thắng định quả sắc phải biết chỉ có các tướng hiển sắc, do mùi hương kia sanh nhân thiếu khuyết. Lại vô dụng ấy là nương gá cõi Sắc làm bổn chất của định, biến định cảnh tức không có hương vị, y cảnh dục có. Lại gia hạnh tâm kém sanh nhân thiếu sót không có, nhân mạnh thì có, Bồ-tát có Nhị thừa không có, Thánh nhân có phàm phu không có, đệ tử Phật có, ngoại đạo không có vì yếu kém. Nhưng Du-già nói: Thắng định quả sắc đối tất cả sắc đều được tự tại, cho nên biết định quả thông biến tất cả. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến trước đắc tướng tỷ này”. Tán: Đây ba mươi hàng tụng chia làm ba: một hàng đầu là nêu, kế hai mươi tám hàng tụng trên, sau một hàng tụng kết. Hai mươi tám hàng tụng trên chia làm hai: Hai mươi ba hàng tụng mùi phàm, sau năm hàng tụng mùi Thánh. Phàm lại có hai: hai mươi mốt hàng tụng mùi Cõi Dục, sau hai hàng tụng mùi cõi Sắc. Mùi Cõi Dục chia làm hai: bảy hàng lược nêu mùi trời người, sau mười bốn hàng rộng nêu mùi trời người. bảy hàng đầu lại có hai: năm hàng lược tụng cảnh vật trong loài người và mùi chúng sanh, sau hai hàng lược tụng chúng sanh trong cảnh trời và mùi cảnh vật. mười bốn hàng rộng tụng các mùi chia làm hai: chín hàng tụng mùi trong loài người, năm hàng sau tụng mùi trong loài trời. Mùi trong loài người có ba: hai hàng đầu tụng mùi cảnh vật, tiếp năm hàng tụng mùi chúng sanh, sau hai hàng tụng mùi ẩn dấu. Trong năm hàng tụng mùi chúng sanh. Hai hàng đầu tụng mùi hiện sanh, sau ba hàng tụng mùi ẩn sanh. Trong năm hàng tụng mùi ở cõi trời chia làm bốn: một hàng Hoa hai hàng cung điện, một hàng tụng trời, một hàng tụng hý. Trong năm hàng tụng Thánh chia làm bốn: hai hàng tụng Tỳ- kheo, một hàng tụng Bồ-tát, một hàng tụng Phật, một hàng tụng chúng sanh. Kinh: “Lại Thường Tinh Tấn cho đến không món nào chẳng ngon”. Tán: Nói về căn lưỡi. Văn xuôi có ba: Đức lượng. Căn dụng. Công dụng đầy đủ lưỡi. Đây là hai phần đầu, đây không có cảnh lượng, vì sao khác nhau tỷ căn mà có thể biết tam thiên? Đã không năng biết làm sao công đức thành một ngàn hai trăm! Thiệt căn cũng được nếm vị tam thiên giới, chỉ vì tụng văn nói công dụng đầy đủ lưỡi, âm thanh trùm khắp đại thiên cho nên không nói nếm vị, hương lìa chất mà có thể có, vị lìa chất mà lại không, cho nên không nói đắc vị tam thiên giới. Trong kinh cũng nói Phật có tỷ thiệt thông quá mắt tai. Kinh: “Nếu dùng thiệt căn cho đến tiếng pháp sâu mầu”. Tán: Công dụng đầy đủ lưỡi chia làm năm: Khéo nói pháp. Nhiều chúng đến nghe. Được cúng dường. Thân gần Hiền Thánh. Ủng hộ nói pháp. Nhiều chúng đến nghe có ba: 1. Trời. 2. Rồng v.v… 3. Bốn chúng đến nghe. Kinh: “Khi đó Đức Thế tôn cho đến hoặc lúc vì hiện thân”. Tán: Dưới tám hàng rưỡi tụng chia làm hai: một hàng tụng thiệt căn dụng, bảy hàng rưỡi tụng cụ dụng đầy đủ của lưỡi. Đây chia làm bốn: một hàng rưỡi tụng khéo nói pháp, ba hàng tụng chúng đến nghe, một hàng tụng cúng dường, hai hàng tụng thánh hiền che chở. Kinh: “Lãi nữa Thường Tinh Tấn cho đến hiện sắc tượng ở trong thân”. Tán: Nói về thân căn. Văn xuôi có bốn: Đức lượng. Hỷ lượng. Cảnh lượng. Sai khác. Sai khác có ba: 1. Khí thế giới. 2. Thượng hạ. 3. Hiền thánh. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến tất cả hiện trong đó”. Tán: bảy hàng rưỡi tụng chia làm năm: một hàng tụng ưa thấy, một hàng rưỡi tụng riêng thấy, một hàng rưỡi tụng cảnh lượng, hai hàng rưỡi hàng tụng sai khác, sau một hàng tụng kết nghóa thù thắng. Sai khác có hai: Một hàng rưỡi tụng cảnh, một hàng tụng Hiền Thánh. Kinh: “Lại nữa Thường Tinh Tấn cho đến Đức Phật nói trong kinh”. Tán: Nói về ý căn. Văn truyền hàng có bảy: Đức lượng. Xa rộng. Vô cùng. Thuận lý. Cảnh lượng. Hiển thắng. Chân thật. Trong vô cùng nói một tháng bốn tháng cho đến lại nêu thời gian tháng, các cảnh giới sở thủ, sở hành của tâm sai khác, các hành tướng tam tánh động tác tâm sở, tâm sở hý luận ngôn nói phân biệt các pháp tánh, hoặc thân ngữ ý như thứ lớp phối hợp. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến đồng thời thảy đều biết”. Tán: Dưới mười một hàng tụng chia làm năm, trong đây có ba: một hàng rưỡi đầu tụng xa rộng, nửa hàng tụng vô cùng, hai hàng tụng sai khác. Kinh: “Vô số Phật mười phương cho đến ở trong chúng không sợ”. Tán: Thứ tư, có bốn hàng tụng, tụng chân thật chia làm bốn: một hàng tụng năng trì, một hàng tụng không quên, một hàng tụng như nói, một hàng tụng không sợ. Kinh: “Người trì kinh Pháp Hoa cho đến bởi trì kinh Pháp Hoa”. Tán: Thứ năm, có ba hàng tụng hiển thắng chia làm ba: một hàng tụng hiển thắng, một hàng tụng hỷ kính, một hàng tụng về khéo nói. Sợ văn rườm rà, phần lớn chọn lọc, phán xét, cùng với Văn xuôi biệt ứng đều phối hợp biết rõ. --------------------- PHẨM THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp vấn nạn. Vì sao có bốn: Người năng học hạnh tuy có sáu phẩm chia làm bốn đoạn, mà đây là thứ tư nêu rõ tự thân Phật ở nhân vị xưa hành an lạc hạnh, tu nhẫn nhục cho đến lưu thông kinh này, sẽ được an lạc, nay nói kinh này khuyến khích thời hội cho nên có phẩm này. Trong ba phẩm nêu rõ trong quả chưa mãn, trước nói hành đắc lục căn thanh tịnh chưa biết đắc thật là ai? Nay nói tự thân xưa hành hạnh kia đắc sáu căn thanh tịnh, để khuyến khích đương thời chúng hội cho nên có phẩm này. Muốn nói lên thực hành hạnh an lạc uy thế không gì sánh, ta làm Bất khinh thực hành hạnh an vui chúng sanh lúc bấy giờ làm tổn hại ta, ban đầu tuy chịu khổ, ngược lại do sức ta họ đều đắc Phật đạo, huống chi tự thân thực hành mà không thành Phật ư! Nay nói lý đây do lợi ích cho chúng hội đường thời nên có phẩm này. Luận nói trong sáu thứ thọ ký, ở đây nói đầy đủ về nhân Bồ-tát thọ ký cho có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Thường là hằng, Bất Khinh là cung kính, xem bốn chúng khác đầy đủ nhân Phật tánh, khuyên người khác tu hành sẽ được thành Phật, ba nghiệp thường cung kính nên gọi là Thường Bất Khinh. Giải đáp vấn nạn: Hỏi: Vì sao phẩm này bảo riêng Đắc Đại Thế! Vì muốn hiển rõ oai thần của Kinh năng khiến thuận tu hành sau được thành Phật, người ác trái nghịch kinh cùng có thể mau bạt trừ khổ kia cho nên chỉ bảo Đắc Đại Thế mà không bảo các vị khác. Hỏi: Phẩm này cũng nói Đức Phật Oai Âm vương vì sao chỉ đặt tên Bất Khinh ư? Đáp: Đức Phật nhân Bất Khinh mà nói chứ chẳng phải chánh nêu. Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật bảo cho đến Thân ý thanh tịnh”. Tán: Phẩm văn chia làm bốn: Trình bày trước trái thuận sanh tội phước để chỉ bày mọi người. Hiển bày riêng đối tướng người nói kinh trì kinh người trái thuận. Kết hợp xưa nay để chỉ bày tướng trái thuận của mọi người. Kết khuyên mọi người trừ trái hành thuận. Đây là phần đầu. Tội như phẩm Thí dụ ở trước nói, công đức như thứ lớp phẩm trước. Kinh: “Đắc Đại Thế cho đến đều đồng một hiệu”. Tán: Thứ hai là hiển bày riêng đối với người nói kinh, người trái thuận có ba: Trước nêu thời gian. Kế nêu gặp Phật, sau hiển tướng trái thuận của người năng hành. Đây là hai phần đầu. Trong gặp Phật có hai: Sơ Phật. Hậu Phật. Sơ Phật có sáu: a. Danh. b. Kiếp. c. Quốc. d. Nói pháp. e. Trú tuổi thọ. f. Niết-bàn. Chư Phật đồng tên Oai Âm Vương hiển nói Pháp Hoa âm thanh như vương tôn quí thù thắng, có uy lực lớn năng khiến chúng sanh đạt được lợi lạc, tức Thường sở đắc của Bất Khinh khi qua đời, Kinh Pháp Hoa này rộng làm lợi ích. Kinh: “Đức Phật Oai âm vương đầu hết cho đến có thế lực lớn”. tám: Tán: Dưới hiển tướng người năng hành trái, thuận, trong đó có Người ác thế lực mạnh lớn. Thiện só thêm siêng năng. Nói năng thêm năng nhẫn. Thân hại năng nhẫn. Danh tốt đã sanh khởi. Thắng quả liền sanh. Người ác nghe theo sự giáo hóa. Thiện só tăng đạo. Đây là phần đầu. Kinh: “Bấy giờ có vị Bồ-tát cho đến sẽ được thành Phật”. Tán: Thiện só thêm siêng năng có ba: Nêu danh. Giải thích danh. Nói về hành. “Mà vị Tỳ-kheo đó cho đến” Bồ-tát Tỳ-kheo hiển bày Bồ-tát mà chẳng phải Tỳ-kheo, hoặc Tỳ-kheo chẳng phải Bồ-tát, đều không phải hạnh này, đầu không thể quái lạ sau không thể phạm giới. Tôi rất kính quí ngài chẳng dám khinh mạn, là do có Bổn tánh Phật trú nơi chủng tánh, đây là kính báo thân Như-lai tạng, đều tu hành đạo Bồ-tát sẽ được thành Phật, là do có chủng tánh, hoặc khởi tập tánh phát tâm tu hành ắt sẽ thành Phật. Lại y pháp thân Như-lai tạng nên tất cả đều có “tôi rất kính ngài”. Nếu hành Bồ-tát đạo phát khởi tu tập báo thân Như- lai tạng sẽ được thành Phật. Kinh Vô úy Đức Nữ nói: Bồ-tát vì độ các chúng sanh kiêu mạn sân não v.v… khiến họ sanh khởi tâm hồi hướng, lại vì gốc lành của chúng sanh nên Bồ-tát lễ bái chúng sanh. Hỏi: Đây là phần đầu bốn chúng phàm gặp đều lễ bái, lễ bái Tỳ- kheo ni và người tại gia có phạm hay không? Đáp: Tỳ-kheo Bồ-tát không làm lễ như vậy, lễ thì phạm nay làm lễ sở dó không phạm là do Bồ-tát đối với tánh tội thì trì, già tội thì phạm, khuyên lợi ích lớn. Nếu chỉ Tỳ-kheo chẳng phải Bồ-tát lễ thì phạm không lễ không phạm. Lại lễ bốn chúng mà không phạm, lễ riêng một vị thì thiếu sót. Lại kính Phật tánh chẳng lễ bái thân, đã không chuyên đọc tụng cũng không chuyên lễ bái bao gồm hai việc. Tỳ-kheo tân học lễ dưới chân Duy Ma, chưa có hiểu biết nên chẳng phải cựu học. Nhưng có chỗ giải thích Tỳ-kheo này không hành đọc tụng chỉ làm lễ bái, nếu vậy nên nói không đọc tụng kinh đâu dùng chữ chuyên, cho nên biết không chuyên đọc tụng cũng không chỉ hành lễ bái là ý ở đây. Kinh: “Trong bốn chúng cho đến ông sẽ thành Phật”. Tán: Lời nói thêm năng nhẫn, đầu nói thêm sau năng nhẫn. Kinh: “Lúc nói lời đó cho đến vì Thường Bất Khinh”. Tán: Thứ tư: Thân hại năng thọ, thứ năm, thiện danh đã sanh khởi, trên đây chính là vị Bốn mươi tâm. Kinh: “Vị Tỳ-kheo đó cho đến nói Kinh Pháp Hoa”. Tán: Thứ sáu: Thắng quả liền sanh có ba: Nghe pháp năng trì. Sáu căn thanh tịnh. Tăng tuổi thọ nói pháp. Nếu Thường Bất Khinh không trước ở trong đời tượng pháp đọc Kinh Pháp Hoa thì đâu được khi qua đời liền có nghe năng trì trước không tu nhân quả thì làm sao sanh khởi, đã trước từng lễ bái là vị bốn mươi tâm, nghe pháp căn tịnh địa vị tứ gốc lành, tăng tuổi thọ nên đắc đại thiện tịch dần dần thực hành lý quán quán chân lý. Kinh: “Lúc đó các vị tăng thượng mạn cho đến chánh đẳng chánh giác”. Tán: Thứ bảy:Người ác được hóa độ, có hai: Người ác theo hóa. Sở hóa chuyển nhiều. Năng lực thần thông lực tăng thọ căn tịnh, nhạo nói biện lực nhớ kệ nói pháp năng lực, đại thiện tịch dần thành đế quán nghe pháp hiểu giải lý. Kinh: “Sau khi mạng chung cho đến tâm không sợ sệt”. Tán: Thứ tám: Thiện só tăng đạo có năm, văn này có bốn: Gặp Phật nói pháp. Gặp Phật trì tụng - hai hạng này tại phàm vị tứ thập tâm, do như đây. Đắc lục căn thường tịnh, liền nhập sơ địa. Trừ năm sự sợ hãi đắc bốn vô úy, cho nên biết thường được sáu căn thanh tịnh. Trong nhập sơ địa Bồ-tát đúng lý nên trú trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh. Thường gặp Phật chưa nhập Thập địa, không gặp Chư Phật như thuyền bị phá lủng, tự không thể vượt qua đâu có thể độ người. Như đổ ít nước nóng xuống ao lớn bị đóng tuyết lớn dù có tan chảy chút ít mà sau lại tích thành băng, phiền não chưa lìa không gặp Phật lợi sanh cũng vậy, cho nên tăng tự hành ắt sẽ gặp Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói trong Thập địa: Bồ-tát ấy đắc vui mừng địa, chỗ có sợ hãi ắt đều xa lìa, tức là: Sợ không sống, sợ danh tiếng xấu, sợ chết, sợ đọa đường ác, sợ uy đức đại chúng Vì sao? Bồ-tát ấy lìa ngã tướng nên không tham tiếc thân huống chi dụng vật cho nên Bồ-tát không sợ không sống. Tâm không hy vọng cung kính cúng dường, Ta nên cúng dường tất cả chúng sanh cung cấp vật cần dùng, vì vậy cho nên Bồ-tát không sợ tên xấu. Xa lìa ngã kiến không có ngã tướng cho nên không có sợ chết. Lại suy nghó rằng ta nếu chết rồi sanh sẽ thấy Chư Phật Bồ-tát cho nên không có sợ đọa đường ác, chí nguyện với ta không bằng huống chi có hơn vì vậy cho nên không sợ đại chúng uy đức. Nếu y luận giải thích vô úy có hai: 1. Bồ-tát vô sở úy. 2.Phật vô sở úy. Phật vô sở úy là chánh đẳng giác đẳng, nay là Bồ-tát vô sở úy. Không sợ đầu là một vì chúng sanh nói pháp vô sở úy, tất cả người nghe năng trì đắc Đà-la-ni thường nhớ nghó không quên, ba không sợ sau đều gọi là ở trong đại chúng nói pháp vô sở úy. 1.Biết tất cả chúng sanh dục giải. Nhân duyên, các căn lợi độn tùy theo sự thích ứng mà vì nói pháp. Không thấy mười phương có đến hỏi nạn vấn khiến ta không thể như pháp đáp, không thấy có chút ít tùy theo như vậy. 3. Tất cả chúng sanh nghe thọ vấn nạn, tùy ý như pháp khéo léo giải quyết đoán tất cả nghi, lìa năm sự sợ hãi trước được bốn món vô úy nhập sơ địa, sau nhập bát địa mới lìa nhân sợ hãi. Kinh: “Đắc Đại Thế cho đến sẽ được thành Phật”. Tán: Thứ năm duyên tu đạo mãn nhập các địa, sau lại được thấy Phật nói kinh điển này. Kinh: “Đắc Đại Thế cho đến chánh đẳng chánh giác”. Tán: Dưới đoạn thứ ba kết hợp xưa nay để chỉ bày tướng trái thu- ận của mọi người chia làm hai: Đầu hội Bất Khinh, sau hội bốn chúng. Đây là phần đầu có hai: Đầu hợp thân sau hợp pháp. Kinh: “Đắc Đại Thế cho đến đều bất lui sụt”. Tán: Đây hợp bốn chúng có ba: Trước hợp quả đầu tiên hành hành vi ác, sau hợp quả giữa đường theo hóa. “Hết tội đó rồi cho đến,” sau hợp chúng xưa nay. Hỏi: Thiện hiện Thanh-văn còn trụ hạnh vô tránh muốn hộ chúng sanh mà làm lợi ích vì sao Bồ-tát mạnh thọ ký bốn chúng khiến kia đánh mắng chiêu cảm tội báo? Đáp: Bồ-tát địa nói: Bồ-tát thường dùng sự an ổn giáo hóa chúng sanh, chẳng phải vui an ổn như thật biết, mà tùy lực phương tiện giáo khiến đoạn, trừ. Nếu đầu khổ sau vui an, thì kia tuy ưu phiền khổ não cũng vì làm lợi ích, tức là Bồ-tát y khéo léo phương tiện, hoặc đầu tuy vui mà sau không an, kia tuy khổ não cũng không muốn bỏ, dùng sức phương tiện làm cho dứt trừ. Vì sao? Vì sau ắt vui. Nay Bất Khinh quán xét ban đầu tuy khổ sau lại giáo hóa dẫn dắt khiến nhập đạo. Cho nên đại thầy thuốc xem người bệnh nặng phải trước phát hiện bệnh sau mới cho thuốc khiến lành cũng như người bắt cá khéo nơm cá, người thợ săn khéo săn gấu, biết nhân sân có lợi ích nên làm cho gấu kia sân để độ, biết nhân tham có ích nên làm cho gấu tham mà độ. Như hóa dâm nữ phóng túng rồi sau độ, hàng Nhị thừa không thể vậy cho nên trú vô tránh hiện tuy trừ tránh mà không thể rốt ráo trừ, sự tránh của người một cách. Bồ-tát tự chứng vô tránh chân như dứt trừ nguồn gốc tránh kia, rốt ráo khiến cũng chứng chân lý vô tránh. Trước tuy khởi tránh sau khiến diệt tránh, đó là hành đại vô tránh, khác nhau Nhị thừa hiện tiểu vô tránh, nên không chướng ngại. Kinh: “Đắc Đại Thế cho đến biên chép kinh này”. Tán: Đoạn thứ tư kết khuyên mọi người bỏ trái hành thuận có hai: Lợi ích lớn, của kinh và khuyên lưu thông. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến mau thành Phật đạo”. Tán: Dưới có mười chín hàng rưỡi kệ tụng ba đoạn sau chia làm ba: mười hàng đầu tụng nói tướng trái thuận người nói kinh, kế ba hàng rưỡi kết hợp xưa nay để chỉ bày tướng mọi người trái thuận, sáu hàng sau tụng kết khuyên mọi người bỏ trái hành thuận. Đây là phần đầu có hai: một hàng rưỡi tụng gặp Phật, tám hàng rưỡi tụng hành trái thuận. Trong hành trái thuận chia làm năm: ba hàng tụng người ác mạnh thế lực, thiện só tăng siêng năng, tiếp một hàng nói thêm năng nhẫn thân hại năng thọ, kế hai hàng tụng thắng quả liền sanh, tiếp một hàng tụng người ác được hóa độ, sau một hàng rưỡi sau tụng về thiện só tăng đạo, không tụng thiện danh đã sanh khởi. Tội hết rồi: là ác mắng, gia hại càng nặng khiến nhẹ tội nghiệp trước. Kinh: “Thuở ấy Thường Bất Khinh cho đến nghe Kinh Pháp Hoa đó”. Tán: Kết hợp xưa nay chia làm hai: Nửa hàng hợp thân, ba hàng sau hợp chúng. Kinh: “Ta ở đời trước cho đến mau chứng thành Phật đạo”. Tán: Kết khuyên mọi người bỏ trái hành thuận có bốn: hai hàng đầu tụng trước hóa các người, một hàng tụng kinh này khó nghe được, một hàng tụng kinh này ít hiềm khi nói, hai hàng tụng khuyên chớ sanh nghi. ---------------------------- PHẨM NHƯ-LAI THẦN LỰC Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp các vấn nạn. Vì sao có ba: Trong ba lưu thông, dưới đây tám phẩm là phó thọ lưu thông, chỉ bày tướng phó chúc vâng mệnh hành, cho nên Thần lực, Chúc Lụy, Phó chúc khiến hành, sáu phẩm còn lại tuổi thọ lưu thông phó chúc chia làm hai: Thực hành thần thông khiến tin phó chúc. Dùng tay xoa đầu khiến hành phó chúc. Nay đây là phần đầu, Phó chúc cho người khác sợ không sanh tín, cho nên tác thần thông phát ra ánh sáng cho đến chỉ bày khiến biết Thế tôn có thần thông rộng lớn, từ lâu không vọng ngữ, phát ra lời nói chắc thật khiến sanh tin hiểu mới dùng lời phó chúc, cho nên có phẩm này. Y trong khoa thứ hai, trên một phẩm đầu là phần tựa, kế mười chín phẩm làm chánh tông xong, từ dưới còn tám phẩm thuộc phần lưu thông. Thần lực, Chúc Lụy, Khuyên tin, Phó trao, sáu phẩm sau vâng mạng lưu thông, thế đồng với trước, dưới không nói lại. Luận nói năng lực tu hành có bảy, thứ hai nói lực có ba thứ pháp môn, trong phẩm thần lực thị hiện nói lên Đức Thế tôn có Thần lực này, năng nói pháp đều là thật không luống dối, khuyên bày chúng sanh nên có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Phân thân năng tịch đều gọi là Như-lai, diệu dụng vô phương gọi là thần, uy thế năng dẹp trừ gọi là lực. Phân thân đồng Phật đều hiện diệu dụng chẳng thể sánh bằng, uy thế năng trừ dẹp tà kiến không tin để khuyên sanh tin. Phẩm Như-lai Thần lực này rộng nêu rõ nên gọi là Như-lai Thần lực. Giải đáp các vấn nạn: Hỏi: Các Bồ-tát từ đất vọt hiện, Phật từng hóa độ, đâu cần hiện thần thông tin sanh ư? Đáp: Dũng xuất tin từ lâu không cần thần thông, khuyến phát sơ cơ phải hiện thần lực. Lại tin có cạn sâu giao phó có ngặn nhẹ, nếu không hiện thần thông để trao, sợ sự trao còn nhẹ, nếu không lại khiến tin sâu thì kia tin còn cạn, pháp khó mà dễ hành cho nên hiện thần lực. Hỏi: Vì sao kinh này phó chúc cần phải hiện thần lực, các kinh khác phó chúc không có việc này ư? Đáp: Kinh này bí mật hội hai thừa về tông, các kinh khác không như vậy nên hiện thần lực. Kinh: “Bấy giờ các vị Bồ-tát trong ngàn thế giới cho đến mà cúng dường đó”. Tán: Phẩm văn chia làm hai: Bồ-tát từ đất hiện lên thỉnh. Như-lai giao phó. Đây là phần đầu có hai: Nêu và giải thích. Chẳng những muốn cứu giúp người mà còn tự hành, vì thế thỉnh nên nói, không vậy cũng nói lại là vô dụng. Chân là chân thật, tịnh là ly nhiễm, đại pháp gọi là Nhất thừa thân cung kính, lời giảng nói, thuật tâm ba phen thỉnh. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến hiện đại thần lực”. Tán: Văn dưới có hai: Văn xuôi và kệ tụng. Trong Văn xuôi lại có hai: Trước hiện thần lực sau nói phó chúc. Văn đầu có bảy: Nêu hiện thần lực. Xuất tướng lưỡi phát ra ánh sáng. Tằng hắng búng ngón tay. Đất đều rung chuyển. Kia thấy qui y. Hiệp lọng thành trướng. Thế giới thông làm một. Đây là phần đầu. Lược làm ba nghóa cho nên hiện thần lực: Vì nói lên thắng đức của kinh để khuyên lưu thông, dưới văn xuôi nói Phật bảo Bồ-tát Thượng Hạnh cho đến. Vì vui chúng sanh khiến sanh tín, tức một hàng tụng đầu. Thấy các Bồ-tát phát nguyện lưu thông thuận tâm Chư Phật cho nên hiện thần lực, là tụng thứ tư. Kinh: “Xuất bày tướng lưỡi rộng dài cho đến phát ra vô lượng ánh sáng”. Tán: Dưới đoạn thứ hai, xuất tướng lưỡi phát ra ánh sáng có ba: Đức Thích-ca xuất tướng lưỡi phóng hào quan. Phân thân Phật xuất tướng phát ra ánh sáng. Nêu thời gian. Đây là hai phần đầu. Cổ đức tướng truyền có bảy thần lực: Xuất tướng lưỡi. Phát ra ánh sáng. Tắng hắng. Búng ngón tay. Đất rung chuyển. Hợp phướn lọng. Biến cõi. Nay gia thêm thành tám, nghóa là thị hiện, tức khiến phương khác xa thấy nơi đây. Trong sáu thông ban đầu là thần cảnh thông có hai: Năng biến và năng hóa. Năng hóa nghóa là không mà bỗng nhiên có, nghóa là hóa thân hóa ngữ hóa cảnh. Năng biến nghóa là chuyển đổi chất cũ xưa, đây gọi là mười tám biến: Sấm động, đất sáu thứ động cho đến Xí nhiên: Thân trên xuất nước dưới xuất lửa cho đến Lưu bố: Phát ra ánh sáng dần chiếu khắp xoay chuyển v.v… Thị hiện: Thị hiện các thứ sự vật của các thế giới phương khác đến v.v… khiến các chúng hội thẩy đều xa thấy. Chuyển biến: Chuyển đất thành vàng, nước thành sữa cho đến Vãng lai: Ở tất cả mọi nơi chuyển thân qua lại tự tại không ngăn ngại. có vào. Duỗi ra. Có khả năng co lớn vào nhỏ, duỗi nhỏ thành lớn, nhét một hạt cải núi Tu-di, triển chuyển một sợi lông khắp nơi pháp giới v.v… Muôn tượng nhập thân, năng dùng các thế giới nhập vào trong sợi lỗ chân lông của thân cho đến Đồng loại cùng đến, ứng vật hiện hình vì nói diệu pháp, xong việc lại ẩn mất khiến không thấy biết. Hiển. Ẩn: Trong đại chúng ẩn mất tự thân lại khiến hiển hiện. Sở tác tự tại: Nghóa là chuyển hữu tình khiến kia qua lại và tự thân cho đến nói năng im lặng, tất cả đều được tự tại. Chế ngự thần thông khác: Nghóa là Phật, Nhị thừa, Bồ-tát Thánh phàm, theo thứ bậc dần đều năng chế hục các hiện thần thông ở vị dưới. Năng thí biện tài thí bảy, bốn biện tài. Năng thí ức niệm: Đối với pháp thất niệm năng thí ức niệm. Năng thí an lạc: Vì nói pháp cho đến cứu trừ nguy hiểm tật dịch tai hoạ, được các sự an lạc. Phát ra ánh sáng minh lớn: Năng phóng một luồng ánh sáng chiếu sáng vô lượng cõi nước làm sự lợi lớn. Phẩm này có tám thần lực: Xuất tướng lưỡi là thứ tám duỗi ra. Phát ra ánh sáng là thứ mười tám phát ra ánh sáng rực rỡ. Tằng hắng đây tức năng hóa, không mà bỗng có cho nên chẳng phải mười tám biến; hoặc đây. Búng ngón tay là thứ mười ba sở tác tự lại. Đất động là thứ một rung chuyển, Khiến phương khác xa thấy là thứ tư thị hiện. Hợp phướn lọng là thứ bảy thu vào. Thông làm một cõi là thứ năm chuyển biến, chuyển nhiều làm một, chuyển uế thành tịnh. Nay Phật xuất bày tướng lưỡi: Luận nói khiến nhớ nghó tin lời Phật nói. Như Phật vào thành Bà la khất thật không được, sau ra thành rồi gặp một người nữ cúng thí Đức Phật bát cháo gạo hẩm, Đức Phật liền thọ ký cho bà sẽ đắc quả, bấy giờ có Bà-la-môn sanh lòng không tin sâu, Đức Phật liền xuất bày tướng lưỡi chỉ cho họ mới tin Phật thọ ký không luống dối. Phàm lưỡi đến mũi đều còn không vọng ngữ huống chi lại che phủ cả mặt, như Kinh nói rộng. Đến trời Phạm Thế: Là có ngữ biểu, cõi trên nữa không có ngữ nên lại không đến trên. Phát ra ánh sáng: Là cảnh báo người có duyên phá trừ chỗ tối tăm si ám. Mỗi một lỗ chân lông: là tiêu biểu kinh này từ bi Nhất thừa bình đẳng nói lên đều đầy đủ. Vô số ánh sáng: Đầy đủ muôn đức, trùm khắp mười phương. Do Đa-bảo Phật đã chứng kinh xong, lại không hiện thông, chỉ hóa Phật thị hiện. Kinh: “Lúc Đức Phật Thích-ca cho đến hoàn nhiếp tướng lưới”. Tán: Đây nói về thời gian. Người ngu tâm mê cho là thời ít, người trí tình hiểu đủ trăm ngàn năm, chuyển đổi tâm kia khiến kia không biết, lại báo hóa lợi ích có sai khác, Thánh phàm thấy có sai khác. Lại Phật hiện thần lực thật sự cả trăm ngàn năm, mà thần lực khiến cho chúng sanh không biết, chỉ vì rút ngắn không kéo dài thời gian làm luận, chỉ nói Thế tôn tám mươi tuổi nhập diệt, lại chúng Thánh phàm nghe tuy đồng, mà trải qua thời gian chứng đạo được ngộ hoàn toàn sai khác tức cũng không trái nhau. Kinh: “Đồng thời tằng hắng cho đến đất đều sáu điệu vang động”. Tán: Đoạn thứ ba tằng hắng búng ngón tay, và đoạn thứ tư động đất. Luận chép: Tằng hắng là nói kệ khiến người nghe, đã nghe tiếng rồi tu hành như thật không buông lung. Luận nói búng ngón tay khiến người giác ngộ khiến người tu hành giác ngộ, tiến tu. Đất động: Là cảnh tỉnh chúng sanh trong mười phương chưa phát tâm khiến họ phát tâm cầu đạo. Kinh: “Chúng sanh trong đó cho đến Mâu-ni Phật”. Tán: Thứ năm, kia thấy qui y, có ba: Tự thân thấy sanh vui. Âm thanh giữa hư không dạy bảo. Y lời dạy kính lễ. Kinh: “Dùng các thứ hoa hương cho đến như một cõi Phật”. Tán: Thứ sáu, hợp phướn lọng thành màn trướng và thứ bảy, thế giới thông làm một. Trước rải hoa sau thành màn trướng. Tán: Hoa là nghe Kinh Pháp Hoa. Hợp thành phướn lọng: Là tam thừa đầu sai khác sau thành một, che chở tất cả chúng sanh thế giới này, thế giới thông làm một: Là tâm trí vô ngại tịnh độ không sai khác chỉ có Nhất thừa không có thừa nào khác. Trên tiêu biểu thứ tám thần lực khác nhau luận chỉ giải ba: là xuất tướng lưỡi, búng ngón tay, và tằng hắng, Kinh còn lại năm tướng mà chẳng thù thắng hơn nên không giải thích, ba thứ phần nhiều các kinh không theo nghóa thú thắng giải thích. Lại ba thứ này chính là dụng phó chúc, do đó riêng giải thích, các thứ khác chung chẳng phải chánh nên không nói. Kinh: “Bấy giờ Đức Phật bảo cho đến như lời nói mà tu hành”. Tán: Dưới nói phó chúc có năm, trong đây có bốn: Kết thúc thần lực vô lượng khó nghó bàn. Vì chúc Lụy nói đức khó cùng tận. Hiển bốn thứ đều là kinh này nói: Đạo quyền thật. Thần thông lực. Lý tạng của Như-lai. Trí tuệ sự sâu. Kết thành khuyến thọ. Kinh: “Ở cõi nước nào cho đến mà nhập Niết-bàn”. Tán: Thứ năm, khuyên tùy hỷ cúng dường. Trước nêu sau giải thích. Giải thích do bốn nghóa cho nên phải cúng dường. Pháp thân diệu lý trong kinh này đầy đủ, nên chỗ tích chứa Đạo gọi là đạo tràng. Nơi chứng đắc Bồ-đề, nơi nói pháp, nơi Niết-bàn là gọi chung Đạo tràng. Dưới là ba giải thích riêng. Kinh: “Bấy giờ Đức Thế tôn cho đến hiện vô lượng thần lực”. Tán: Dưới có mười sáu hàng tụng chia làm hai: bốn hàng đầu tụng thần lực, mười hai hàng sau tụng phó chúc. bốn hàng đầu có ba: một hàng tụng nêu ý hiện, hai hàng tụng năm thần lực, một hàng tụng thuận tâm Phật. Kinh: “Vì chúc Lụy kinh này cho đến chẳng thể đặng ngằn mé”. Tán: Dưới mười hai hàng tụng chúc Lụy chia làm ba: hai hàng nêu vô cùng, tám hàng rưỡi riêng khen ngợi, một hàng rưỡi tụng kết khuyến. Đây là hai hàng đầu. Khen ngợi phước của người trì kinh để khuyên mọi người. Kinh: “Người hay trì Kinh này cho đến rốt ráo trú Nhất thừa”. Tán: Đây riêng khen ngợi chia làm năm: một hàng rưỡi tụng thấy Phật, hai hàng khen ngợi vui mừng, một hàng đắc pháp, một hàng rưỡi tụng năng giảng nói, hai hàng rưỡi tụng năng làm lợi ích. Nói nghóa các pháp là nghóa vô ngại, danh tự là pháp vô ngại. ngôn từ là từ vô ngại. nhạo nói là biện tài vô ngại. Tứ vô ngại đầy đủ như gió không gì ngăn ngại. Kinh: “Cho nên người có trí cho đến quyết định không có nghi”. Tán: Dưới kết khuyên. -------------------------- PHẨM CHÚC LỤY Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp các vấn nạn. Vì sao có phẩm này có hai: Theo thứ tự phẩm kinh thời nay thì phó chúc có hai: Trên đã dùng thần lực khiến tín phó chúc, đây là dùng tay xoa đầu khiến hành phó chúc, cho nên có phẩm này. Y luận này phẩm này nói sau phẩm Phổ Hiền nói, cho nên luận nói hộ pháp lực nghóa là Phẩm Phổ Hiền và phẩm thị hiện ở sau. Đây dùng tay xoa đầu Phật tự hộ pháp khiến kia lưu thông nên có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Chúc là giao gửi, Lụy là chồng chất, lần thứ hai thứ ba giao giữ khiến cho kia hộ trì nên gọi là phẩm Chúc Lụy. Giải đáp các vấn nạn: Hỏi: Phật dùng một tay xoa đầu chung các Bồ-tát, hay một tay xoa đều từng vị Bồ-tát? Đáp: Một tay xoa một lúc, vì thần lực lớn, đều dùng một tay xoa mà diệu dụng cùng khắp, nhưng các Bồ-tát đồng thấy riêng xoa, do đó thâm tâm y lời nói lãnh thọ. Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật Thích-ca cho đến làm cho lợi ích rộng lớn”. Tán: Phẩm văn chia làm bốn: Như-lai phó chúc. Bồ-tát kính nhận. Khiến tháp hoàn trở lại như cũ. Chúng đều vui mừng. Trong phần đầu có ba: Ba nghiệp gia trì phó chúc khiến hành kinh này. “Nếu có chúng sanh không tin thọ cho đến” nếu không tin thọ kinh này khiến hành các kinh. Nếu Các thầy có thể như vậy cho đến kết thành khuyên ý vì báo ân Phật. Văn đầu lại có ba: Trước dùng tay xoa đầu phó chúc khiến lưu hành rộng làm lợi ích, kế lại xoa đầu phó chúc khiến thọ trì, khiến khắp nghe biết, sau giải thích lý do khuyên khiến giảng nói. Đây là phần đầu. Hai đoạn đầu dùng thân ngữ gia trì, một đoạn sau ý nghiệp gia trì. Đầu tiên dùng tay phải. Xoa là thị hiện điềm rất tốt lành. Ngài Long Thọ giải thích rằng: Các kinh chẳng bí mật, chỉ có Pháp Hoa mới bí mật nói Nhị thừa thành Phật. Chỉ có đại Bồ-tát mới có khả năng dụng hành bí mật đó, như vị thấy thầy thuốc mới có khả năng dùng độc. Kinh: “Đức Phật ba phen xoa đảnh như vậy cho đến khắp đều được nghe biết”. Tán: Đây lại dùng tay xoa đầu phó chúc khiến thọ trì khiến khắp nơi đều nghe biết. Đến ba phen xoa tức khiến họ ân cần thọ pháp đều ba phen, pháp truyền đèn ắt là trọng trách. Kinh: “Vì sao! cho đến trí tuệ tự nhiên”. Tán: Dưới giải thích lý do khuyên khiến giảng nói. Ý nghiệp gia trì có ba: Nêu rõ đã là ba hạng bất gốc lành đã hết thì năng thí trí tuệ. Nói lên Phật có khả năng làm đại thí chủ khuyên tùy theo chớ sẻn tiếc. Dạy dùng thí hóa khiến đắc Phật tuệ. Đây là phần đầu. Từ bi nên không sân, ban vui nên cứu khổ, không sẻn tiếc nên không tham, đâu từng tiếc pháp, không còn sợ sệt, không si nên quyết định nói, năng cùng trí Phật chủng trí, Như-lai trí Nhất-thiết-trí. Hai trí này nhậm vận vô Sư mà đắc gọi là tự nhiên trí, hoặc hai trí trước là hữu vi trí, một trí sau là vô vi trí nên gọi là tự nhiên trí. Kinh: “Như-lai là vị đại thí chủ cho đến chớ sanh lòng bỏn sẻn”. Tán: Đây nói lên Đức Phật năng làm đại thí chủ khuyên tùy theo chớ sẻn tiếc. Thành Thật luận chép: Sẻn có năm thứ: Trú xứ. Nhà. Thí. Xưng tán. Pháp. Sẻn trú xứ là: Ở nơi trú xứ mình sanh bỏn sẻn nghó rằng: Ta riêng ở đây khiến ta tự tại không dùng của người khác. Đây lại có năm thứ: 1. Ở đời vị lai các Tỳ-kheo thiện không muốn người khác đến. 2. Ở đời vị lai các thiện Tỳ-kheo sân nhuế không vui. 3.Muốn khiến sớm đi. 4.Cất giữ tăng thí vật không muốn cho. 5. Đối với tăng thí vật sanh tâm ngã sở chấp làm ân đức. Người ấy đối với người khác đồng có trong pháp còn không thể bỏ, huống chi tự thân có các vật, cho nên đối với sự giải thoát trọn không có phần. Bỏn sẻn nhà: Trở về nhà nghó gì bỏn sẻn rằng ta ở nhà đây thường hay ra vào một mình không dụng của các người khác, dù có các người khác khiến ta trên hết, đây cũng có năm: 1. Người tại gia có việc không lành cùng đồng lo. 2. Kia có việc lợi cùng đồng vui. 3.Vui người tại gia có sự thù thắng giàu sang. 4. Dứt trừ thọ khiến không được thí. 5.Sanh trong nhà kia làm quỉ trong hầm xí và các chỗ ác. Sẻn tiếc thí cho: Đối với người khác thí vật sanh tướng sẻn tiếc rằng: Khiến ta ở đây một mình được thí vật các người khác không được, dù khiến cho chớ lại hơn ta, đây cũng có năm: 1.Vật tư Sanh thường thiếu thốn. 2.Khiến người thí không được phước. 3.Khiến người thọ nhận không được tài lợi. 4.Chê mắng người hiền thiện. 5. Tâm thường lo buồn nên sẽ đọa địa ngục, dù sanh cõi trời cõi người cũng thường ở chỗ nghèo hèn. Sẻn tiếc khen ngợi: Đối với khen ngợi người khác sanh tâm sẻn tiếc khiến riêng khen ngợi ta chớ hơn ta, đây cũng có năm: 1.Nghe khen ngợi người khác tâm thường lo lắng xao động. 2. Mắng nhiếc người tốt. Tự cao khinh người. 4. Thường mang tiếng xấu. 5. Ở đời vị lai trong trăm ngàn đời không có tịnh tâm. Sẻn tiếc pháp: Ở trong chánh pháp nghó gì sẻn tiếc rằng: Khiến ta riêng biết mười hai bộ kinh đừng để cho người khác biết giả như có họ biết cũng đồng hơn ta. Lại tự biết nghóa bí mật mà không nói, đây lỗi có bảy: 1. Lúc sanh thường bị mù. 2. Thường ngu si. 3. Sống gặp nhiều oán thù không được tự tại. 4.Lui sụt mất mầu Thánh. 5.Kẻ thù của Chư Phật. 6.Người tốt xa lìa. 7.Không việc ác nào không làm. Do có các lỗi lầm như vậy nên Phật khuyên chớ có sẻn tiếc. Đức Thế tôn năng hành ba thứ xả, ban cho chúng sanh làm Đại thí chủ cho nên phải học theo ta. Kinh: “Ở đời vị lai cho đến đắc trí tuệ Phật”. Tán: Dạy dùng thí giáo hóa khiến được trí tuệ Phật”. Kinh: “Nếu có chúng sanh nào cho đến chỉ dạy cho được lợi ích vui mừng”. Tán: Nếu không tin Kinh này khiến thực hành các kinh khác, nghóa là gặp Nhị thừa giáo hóa pháp mầu này, nếu họ không tin lại nói Bát-nhã pháp Đại thừa thâm diệu để điều phục tâm kia, sau giáo hóa pháp này. Kinh: “Nếu Các thầy được như thế cho đến là đã báo đáp được ân Phật”. Tán: Kết thành ý khuyên, ý Phật muốn cho người thành Phật nên lập ra các môn. Kinh: “Lúc ấy các vị đại Bồ-tát cho đến xin Thế tôn chớ có lo”. Tán: Đây đoạn thứ hai Bồ-tát kính thọ chia làm hai đoạn, ba nghiệp kính lãnh. Kinh: “Khi ấy cho đến được hoàn như cũ”. Tán: Đoạn lớn thứ ba khiến tháp trở lại như cũ. Từ đây về sau không còn trở lại cho nên biết phẩm này nên ở cuối kinh. Kinh: “Phật nói lời đó xong cho đến đều rất vui mừng”. Tán: Đoạn lớn thứ tư: Chúng đều vui mừng nghe khen ngợi pháp thù thắng, giao phó dặn dò do đó vui mừng, không phải thấy bảo các hóa Phật trở lại mà vui mừng. Y theo đây cho nên hội tòa giải tán. Bồ- tát Thiên Thân Giải thích kinh Già-da nói đảnh, nói vui mừng vâng hành có ba nghóa: 1. Chủ nói thanh tịnh, do đối các pháp được tự tại. 2.Sở pháp nói thanh tịnh, do như thật chứng biết thanh tịnh pháp thể. 3.Nương theo nói pháp được quả thanh tịnh, do đắc cảnh giới thanh tịnh mầu nhiệm. Như kinh đều rất vui mừng tín nhận vâng hành. ------------------------ PHẨM DƯỢC VƯƠNG BỒ-TÁT BỔN SỰ Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp các vấn nạn. Vì sao có phẩm này: hai phẩm trên đã nêu rõ trao phó, sáu phẩm dưới đây vâng lệnh lưu thông. Căn cứ luận này văn chia làm năm. Dược vương năng lực tự hành khổ hạnh để lưu thông, Quán Âm, Đà-la- ni hộ chúng sanh các nạn lực để lưu thông, Diệu trang nghiêm vương công đức thắng lực để lưu thông, Phổ Hiền dùng năng lực chúc Lụy hộ pháp để lưu thông. Chúc Lụy đã trình bày ở trước, hộ pháp chỉ có một, Dược vương lúc này tuy tại hội, mà nói quá khứ của ngài từng đốt thân đốt cánh tay tự hành khổ hạnh để lưu thông chánh pháp, lợi ích cho hội chúng nên có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Dược có công năng trừ bệnh tật, vương có uy lực tự tại, bổn là do nhân xưa, sự là thể nghiệp. Nay đây Bồ-tát nguyện làm cây thuốc chữa bệnh tật bát trần, dứt bệnh thất lậu trầm kha thế lực vô song uy thần hiếm thấy cho nên gọi là Dược vương Bồ-tát. Nay trong phẩm này trình bày nhân việc tu hành xưa để lợi ích chúng hội bấy giờ, gọi là Phẩm Dược vương Bồ-tát bổn sự. Giải đáp chướng nạn: Hỏi: Các Bồ-tát đều có nguyện lực thần công đồng nhau, vì sao chỉ riêng đây gọi là Dược vương? Đáp: Luận nói công căn cứ hành quả thật không sai khác, nguyện lợi tu nhân xưa cũng ít khác, chỉ như cứu chúng sanh nhổ trừ khổ hạnh nguyện Bồ-tát đều đồng. Chỉ có Quán Âm được gọi là “cứu khổ” là Dược Vương đâu ngăn ngại hạnh nguyện thù thắng mà có tên riêng. Kinh: “Lúc bấy giờ ngài tú vương Hoa cho đến nghe đều vui mừng”. Trong phẩm này văn chia làm sáu: Tú Vương Hoa hỏi. Như-lai đáp. “Nếu lại có người dùng bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên cho đến” là khen ngợi công đức mầu nhiệm của Kinh. “Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe Phẩm Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự này cho đến” là khen ngợi trao phó thù thắng. Chúng đương thời được lợi ích. Đa-bảo khen ngợi. Hai đoạn này đều ở cuối phẩm. Đây đầu văn có ba: Hỏi, tiếp thỉnh, sau biện rõ ý thỉnh. Tú Vương Hoa hỏi: là đời trước đến nay trì Kinh Pháp Hoa như Vương tự tại. Cho nên Kinh Bảo Vân nói: Bồ-tát có mười pháp gọi là đại Dược thọ. Thí như Dược thọ tên gọi là Thiện Kiến. Nếu có chúng sanh được gốc rễ cành lá hoa quả cây kia, cũng có thấy sắc nghe hương nếm vị được xúc chạm, gặp mười pháp này bệnh đều trừ khỏi. Bồ-tát cũng vậy. Từ sơ phát tâm vì các chúng sanh có các bệnh phiền não, có nương thí giới nhẫn cần định tuệ mà được nuôi sống, có nương thấy pháp, có nghe tiếng có biết vị có đồng sự mà được nuôi sống. Bồ-tát thuận theo nơi đáng dẫn dắt lợi lạc nên nói Bồ-tát tên là Dược Thọ, năng trừ bệnh phiền não được nuôi sống tuệ mạng. Du hóa là phương pháp thí hóa lợi ích giúp lợi chúng sanh. Có bao nhiêu: là hỏi khổ hạnh sai khác, đốt thân đốt tay là cúng dường chánh pháp. Kinh: “Lúc đó Đức Phật bảo cho đến nói Kinh Pháp Hoa”. Tán: Dưới Như-lai đáp có bốn: Trình bày thời gian. Nêu rõ Phật. Hiển tu hành. Hợp xưa nay. Đây là hai phần đầu. Trong nêu rõ Phật có bảy: 1. Danh hiệu. 2. Quyến thuộc. 3.Trí tuổi thọ. 4.Không có ác. 5.Cõi tướng. 6.Đài thọ trang nghiêm. 7. Kinh pháp Phật nói. Kinh: “Ngài Nhất thiết chúng sanh cho đến sắc thân Tam- muội”. Tán: Tu hành có ba: Tinh Tấn đắc định. Cúng dường Phật pháp. Cúng dường Xá-lợi. Đây là phần đầu. Đắc định đây rồi năng tùy lạc ưa hiện thân, sơ địa liền chứng đắc, bát địa tự tại; trong thập bình đẳng năng tùy sở thích của chúng sanh mà thị hiện, sơ địa liền đắc. Kinh Vô Cấu Xứng cũng có nói Bồ-tát này. Kinh: “Đắc Tam-muội đó rồi cho đến và Kinh Pháp Hoa”. Tán: Cúng dường Phật pháp có bảy: Hỷ niệm cúng dường. Nhập định khởi thần thông. Lại tư duy không đủ. Đốt thân cúng dường. Phát ra ánh sáng chiếu xa. Chư Phật đồng khen ngợi. Thời gian đốt thân. Đây là phần đầu. Kinh: “Tức thời nhập Tam-muội đó cho đến để cúng dường Phật”. Tán: Hai là người nhập định khởi thần thông có ba: Nhập định mưa hoa, tiếp mưa chiên đàn, sau mưa hương Hải thử ngạn chiên đàn. Kinh: “Cúng dường thế đó rồi cho đến dùng thân cúng dường”. Lại tư duy không đủ. Kinh: “Liền uống các chất thơm cho đến mà tự đốt thân”. Tán: Đốt thân cúng dường có ba: Uống dầu thơm. Nêu năm tháng. Chánh đốt thân. Kinh: “Ánh sáng chiếu khắp cho đến các đức Như-lai”. Tán: Trong đây có hai: Thứ năm ánh sáng chiếu xa, thứ sáu Chư Phật đồng khen. Trong đồng khen có ba: Trước nêu chân thật, tiếp so sánh khen ngợi, sau kết thành khen ngợi. Kinh: “Các Đức Phật nói lời đó rồi cho đến qua lúc sau đó thân Bồ-tát mới hết”. Tán: Thứ bảy thời gian có hai: Trước im lặng sau nêu thời gian. Kinh: “Ngài Nhất thiết chúng sanh cho đến bỗng nhiên ngồi xếp bằng hóa sanh ra”. Tán: Nêu rõ trong tu hành. Nói cúng dường Xá-lợi có mười bốn: Nơi sanh. Nói pháp. Khải bạch. Đến chỗ Phật. Phó chúc. Nhập diệt. Xây tháp. Tư duy bảo. Đốt cánh tay. Lợi ích. Chúng sanh bi não. Tự thệ. Nguyện mãn. Cảm sanh ứng hiện điềm lành. Đây là phần một. Kinh: “Liền vì vua cha cho đến bỏ thân thể đáng yêu”. Tán: Thứ hai: Là nói pháp. Kinh: “Nói kệ đó rồi cho đến cúng dường Phật rồi”. Tán: Thứ ba: Khải bạch: Đầu bạch việc trước, sau bạch đến thỉnh. Đầu văn có ba: 1.Luận Phật hiện tại. 2.Đắc tổng trì. 3.Nghe thắng pháp. Chân Ca la: Câu xá luận quyển mười hai nói: Số có sáu mươi bỏ mất còn lại tám, lấy mười dần dần tích chứa đến mười sáu gọi là căng yết la, đến mười bảy gọi là Đại căng yết la, mười tám gọi là A- súc-bà, hai mươi mốt gọi là Đại-a-súc-bàø. Đây tổng ba thứ: tức là mười sáu, mười tám hai mươi vậy. Kinh: “Thưa xong liền ngồi cho đến vẫn còn ở đời”. Tán: Thứ tư: Đến chỗ Phật có ba: Trước đến, tiếp khen ngợi, sau bạch. Kinh: “Bấy giờ, đức Nhật Nguyệt cho đếnbao nhiêu ngàn tháp”. Tán: Thứ năm: Phó chúc có bốn: Xướng diệt. Trao pháp. Trao cõi. Trao thể. Y Tăng kỳ luật nói: Có Xá-lợi gọi là Tháp bà, không có Xá-lợi gọi là Chi đề. Trong Du-già nói: Hoặc có Xá-lợi gọi là Tốt đổ ba, nếu không có Xá-lợi chỉ gọi là Chế đa. Kinh: “Đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh cho đến nhập Niết-bàn”. Tán: Thứ sáu: Nhập diệt. Kinh Hoa Nghiêm nói: Rốt ráo Phật sự rồi thị hiện nhập đại Niết-bàn có mười nghóa: Nêu tất cả hành đều vô thường. Nêu tất cả pháp hữu vi chẳng an ổn. Niết-bàn hướng về chỗ an ổn nhất. Nêu rõ bát Niết-bàn xa lìa tất cả sự sợ hãi. Do các trời người ưa đắm sắc thân, nêu rõ sắc thân vô thường là pháp hoại diệt, khiến kia cầu trụ pháp thân thanh tịnh. Nêu vô thường sức mạnh không thể chuyển. Nêu pháp hữu vi không tự tại. Pháp ba cõi thảy đều như vật bằng đất không vững chắc. Bát Niết-bàn là chân thật nhất không thể hoại. Bát Niết-bàn xa lìa sanh tử chẳng phải khởi diệt. Dùng mười nghóa này thị hiện Niết-bàn. Kinh: “Lúc đó ngài Nhất Thiết cho đến treo các linh báu” Tán: Xây tháp có ba phần: Trước nói thương cãm luyến tiếc, kế nói đốt thân, sau nói xây tháp. Kinh: “Bấy giờ ngài Nhất Thiết cho đến Xá-lợi của đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh tức Phật”. Tán: Tư duy bảo có hai: Trước tư duy sau bảo. Kinh: “Nói xong liền ở trước cho đến hai tay tự nhiên hoàn phục”. Tán: Trong đây có năm: Đốt tay. Lợi ích. Chúng sanh bi não. Tự thệ. Nguyện mãn. Kinh: “Đó là do Bồ-tát cho đến được việc chưa hề có”. Tán: Thứ mười bốn Cảm sanh thoại ứng có ba: Lý do. Thoại ứng. Được việc chưa hề có. Kinh: “Đức Phật bảo ngài Tú Vương Hoa cho đến mà cúng dường”. Tán: Đoạn lớn thứ hai trong Như-lai đáp phần, thứ tư hợp xưa nay có ba: Trước hợp, kế khen ngợi, sau kết. Kinh: “Nếu lại có người cho đến phước đó rất nhiều”. Tán: Đoạn lớn thứ ba khen ngợi công đức mầu nhiệm ưa kinh có bốn: So sánh hơn. “Thí như nói” so sánh dụ hơn (thắng). “Kinh này năng cứu hộ cho đến” tác dụng thù thắng. “Nếu người nào được nghe kinh Pháp Hoa này hoặc tự biên chép cho đến” vô biên thù thắng. Đây là phần đầu. Kinh: “Tú Vương Hoa cho đến là vua trong các kinh”. Tán: So sánh dụ thắng, văn có mười: Sâu rộng thù thắng. Cao hiển thù thắng. Liễu đạt thù thắng. Trừ hoặc thù thắng. Uy thế thù thắng. Tự tại thù thắng. Xuất sanh thù thắng. Khế lý thù thắng, hoặc gọi nhân pháp thù thắng. Hai lợi thù thắng. Đức viên mãn thù thắng. Khế lý thù thắng, trong đó có pháp và người, chấp người này văn nên sau cùng nói, vì tiện nên đây nói. Tu-đà-hoàn gọi là dự lưu, là dự vào dòng Thánh. Tư-đà-hàm gọi là Nhất vãng lai, chỉ có một phen sanh trở lại sanh tử liền thành ứng quả gọi là Nhất-lai. A-na-hàm gọi là Bất hoàn, cõi nghiệp Dục hết thì không còn lại sanh trong cõi Dục nên gọi là Bất hoàn. Kinh: “Tú Vương Hoa cho đến đầy đủ chỗ mong cầu”. Tán: Tác dụng thù thắng có ba: Pháp, Dụ và Hiệïp. Đây là phần đầu có ba câu: Câu đầu năng trừ hoặc nghiệp, tiếp năng trừ quả khổ, sau năng mãn thiện nguyện, lại phát tâm tu hành đắc quả chia làm ba, lại tổng biệt ly ác nhiếp thiện chia làm ba. Kinh: “Như ao nước trong mát cho đến như đuốc xua tan bóng tối”. - Tán: Đây dụ nói có mười hai: Nguyện mãn. Thành đạo. Biết hổ thẹn. Có được đạo sư. Đắc trở về. Vượt sanh tử. Trừ phiền não. Đắc trí tuệ. Đạt được Thánh tài. Có vây theo. Biết đảo châu báu. Phá si tới. Tùy nghóa ứng phối hợp ba câu trước. - Kinh: “Kinh Pháp Hoa này cho đến có thể mở trói sanh tử”. - Tán: Đây hợp nói lìa bệnh đâu trừ các khổ làm câu đầu, mở trói sanh tử là trừ hoặc nghiệp làm câu thứ hai, không hợp đầy đủ nguyện. Hoặc trừ khổ đương lai, hiện khổ, khổ nhân như thứ lớp phối hợp. - Kinh: “Nếu người được nghe cho đến cũng giống vô lượng”. - Tán: Vô biên thù thắng có hai: Nghe biên chép công đức vô biên. Cúng dường công đức vô biên. Đắc vô biên biên, không đắc hữu biên cho nên gọi Phật không đắc. - Kinh: “Tú Vương Hoa cho đến không còn thọ lại nữa”. ông”. Tán: Đoạn lớn thứ tư, khen ngợi thù thắng phó chúc có bảy: Nêu nghe thù thắng. Chuyển thân nữ. Sanh tịnh độ. Tùy hỷ thâu hoạch phước. Chính nêu phó chúc. Khiến giữ gìn. Khuyên cúng trì. Đây là hai phần đầu. Kinh: “Nếu sau khi Như-lai diệt độ cho đến không có ai bằng Tán: Sanh tịnh độ có năm: Sanh tịnh độ. Lìa phiền não. Đắc thần thông. Thấy nhiều Phật. Phật xa khen ngợi. Trong Phật xa khen ngợi có năm: Khen ngợi phước vô biên. Khen ngợi đức vô biên. Năng phá phiền não. Cùng chung bảo hộ. Nêu phương tiện trên hết nhiếp dẫn. Nói trí tuệ Bồ-tát không ai bằng ông. Kinh: “Tú Vương Hoa cho đến như trên đã nói”. Tán: Tùy hỷ thâu hoạch phước. Kinh: “Tú Vương Hoa! Vì thế cho đến không già không chết”. Tán: Trong đây có hai: Chánh nêu phó chúc và Khiến giữ gìn. Trong giữ gìn: Trước nêu sau giải thích. Năm trăm năm sau: Kinh Đại Tập nói: Sau khi Phật diệt độ, năm trăm năm đầu giải thoát vững chắc, năm trăm năm tiếp thiền định vững chắc, năm trăm năm tiếp học rộng vững chắc, năm trăm năm tiếp phước đức vững chắc, năm trăm năm tiếp đấu tranh vững chắc. Đều dùng năm trăm năm làm loại ký, cho nên nói sau khi ta diệt độ năm trăm năm, hoặc chánh pháp năm trăm năm tượng pháp một ngàn năm, hoặc sau thời tượng pháp, thì năm trăm năm mạt pháp. Kinh: “Tú Vương Hoa cho đến tâm cung kính”. Tán: Khuyên cúng trì có ba: Rãi hoa. Tâm niệm. Kết thành. Kinh: “Lúc đức Phật nói Phẩm Dược Vương cho đến tất cả chúng sanh”. Tán: Đoạn thứ năm, chúng đương thời được lợi ích và đoạn lớn thứ sáu Phật Đa-bảo khen ngợi. Ngày 12 tháng 12 Niên hiệu Bảo An năm thứ ba ở chùa Hưng Phước Viên Như Phòng, tăng Giác Ấn vốn ở chùa Pháp Long đã kiểm duyệt xong. Vì muốn chánh pháp tồn tại lâu dài vãng sanh cực lạc. <篇> <卷>QUYỂN 10 (PHẦN CUỐI) PHẨM DIỆU ÂM BỒ TÁT Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp các vấn nạn. Vì sao có phẩm này: Luận nói năng lực giáo hóa chúng sanh hành khổ hạnh lực, là phẩm Diệu Âm thị hiện, Diệu Âm hiện ở Đông độ thầm ở phương này, bổn truyền Pháp Hoa dạy hành khổ hạnh, nay phát ra ánh sáng nhóm họp chỉ dạy mọi người khuyến phát thắng tâm mở rộng kinh pháp cho nên có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Âm là âm thanh, Diệu là thù diệu xưa trú trong nhân ưa lập ra nhạc để cúng dường, nay ở địa vị quả khéo nói pháp làm lợi sanh, cùng nêu nghiệp đức để tiêu biểu danh kia nên gọi là Bồ-tát Diệu Âm. Phẩm này nói việc kia nên gọi là Bồ-tát Diệu Âm phẩm. Giải đáp các vấn nạn: Vì sao phải lấy Diệu Âm làm tên phẩm này? Đáp: Dược Vương ở phương này tu khổ hạnh tự khuyên chúng sanh, chưa có bậc thượng thượng nhân nào ở phương khác khuyên nói, cho nên gọi Diệu Âm phương xa hành pháp, khuyên người khác khổ hạnh cho nên phải nhóm họp. Kinh: “Lúc bấy giờ đức Thích-ca cho đến ánh sáng của sợi lông trắng”. Tán: Phẩm văn chia làm bốn: 1.Thần quang đến gọi. Diệu Âm đến. Xong việc trở về nước. Thời chúng đắc đạo. Văn đầu có hai: Trước phát ra ánh sáng, sau chỗ đến. Đây là phần đầu. Từ nhục kế phát ra ánh sáng là tướng nhóm họp đại nhân ánh sáng nơi lông trắng giữa hai đầu chân mày là tiêu biểu Kinh này cho nên là bảo đến. Kinh: “Chiếu khắp các cõi Phật ở phương đông cho đến chiếu soi khắp cõi nước đó”. Tán: Đây chỗ đến có ba: Phương xứ. Cõi Phật. Kết chiếu. Cõi Phật có ba: 1.Tên nước. 2. Hiệu Phật. 3. Hóa độ lợi lạc. Kinh: “Bấy giờ trong nước Nhất Thiết cho đến trí tuệ rất sâu”. Tán: Đoạn lớn thứ hai nói Diệu Âm đến có ba: Kia đến. “Lúc đó Diệu Âm Bồ-tát chẳng rời khỏi tòa cho đến” đến đây. “Bấy giờ Hoa Đức Bồ-tát Bạch Phật cho đến” hóa thành. Văn đầu lại có bốn: 1.Trình bày đức. 2.Thỉnh đến. 3.Phật răn dạy. 4. Thừa lệnh Phật. Trình bày đức lại có bốn: 1. Thắng nhân sớm gieo trồng. 2.Bạn lành sớm gặp. 3.Bát-nhã trước viên mãn. 4. Đẳng trì đã mãn. Đây là ba phần đầu. Kinh: “Đắc Diệu Tràng tướng Tam-muội cho đến các đại Tam- muội”. Tán: Đẳng trì đã mãn có hai: Trước nên mười sáu đẳng trì, sau kết vô lượng. Diệu tràng tướng: Như tràng cao hiển các đức trang nghiêm. Pháp Hoa: thông đạt lý Nhất thừa. Tịnh Đức: Đoạn chướng nhiễm đắc công đức thù thắng. Tú Vương Hý: Tú là tinh tượng, Vương là tự tại, Hý là du lạc, nghóa là được tự tại năng hiện các tượng cũng như tinh tú thường nhập du hý để lợi lạc chúng sanh. Vô duyên: Là Diệt tận định hoặc Vô sở duyên định lìa phan duyên. Trí ấn: Là chân như không lý làm trí ấn, hoặc dùng trí làm ấn phán định thị phi chân vọng v.v… Giải chúng sanh ngữ ngôn: Phát Từ vô ngại giải định. Tập tất cả công đức: Là nhóm họp phước vương định cho đến Thanh tịnh: Là năng sanh 7, 9, 4 tịnh: Sở y tịnh, sở duyên tịnh, tâm tịnh, trí tịnh. Thần thông du hý: Năng khởi đại thần thông. Tuệ cự: Chiếu sáng chân tục các cảnh giới. Trang nghiêm vương: Năng đầy đủ trong ngoài hai thứ trang nghiêm. Tịnh Quang minh: là phát ra ánh sáng thần. Tịnh tạng: Bao gồm các đức. Bất cộng Tam-muội: Không cùng Nhị thừa đắc. Nhật triền: Như ánh sáng mặt trời chiếu soi bốn loài. Đây đều là chỗ dạo chơi của Bồ-tát Địa thứ mười, phần nhiều thuộc đệ tứ định do thù thắng. Kinh: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cho đến Bồ-tát Dược Thượng”. Tán: Thỉnh đến. Kinh: “Khi ấy đức Tịnh Hoa cho đến sanh lòng tưởng thấp kém”. Tán: Đức Phật răn dạy có bốn: Răn dạy chung. Trình bày cõi khác thấp kém. Nêu mình hơn. Kết lời răn dạy. Trong đây chỉ cho tự mình hơn, người khác kém, dùng làm răn dạy. Trong Kinh Tư Ích chép: Bồ-tát Tư Ích Phạm thiên muốn đến thế giới Ta bà, Đức Phật Nhật Nguyệt Quang bảo Tư Ích rằng: Ông nên dùng mười pháp sau đây để đến cõi ấy: 1. Đối sự khen chê tâm không thêm bớt. 2.Nghe thiện ác tâm không phân biệt. 3.Đối với kẻ ngu người trí nên dùng bi tâm. 4. Đối chúng sanh thượng hạ ý thường bình đẳng. 5.Đối sự cúng dường khinh rẻ tâm không có hai. 6.Đối với người có lỗi không thấy lỗi của họ. 7.Thấy các thừa đều là Nhất thừa. 8.Nghe ba đường ác cũng chớ kinh sợ. 9. Đối các Bồ-tát nghó gì tôn trọng. 10. Phật xuất hiện ở cõi đời có năm thứ vẩn đục sanh trưởng ít có. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Phật Đài Hương răn dạy văn đại khái đồng. Kinh: “Diệu Âm Bồ-tát cho đến trí tuệ trang nghiêm”. Tán: Thừa lệnh có ba: Trước nói năng lực chung của Như-lai, sau hai chi tiết. Kinh: “Lúc ấy ngài Diệu Âm cho đến Chân thúc ca đài bằng báu”. Tán: Dưới thứ hai đến đây, văn có mười một: Từ chuẩn bị đến hoa hiện cho đến Kinh: “Bấy giờ ngài Văn-thù cho đến làm đài”. Tán: Thứ hai, Văn-thù hỏi lý do. Kinh: “Bấy giờ Đức Phật Thích-ca cho đến nghe Kinh Pháp Hoa”. Tán: Thứ ba, Đức Phật nói lý do. Kinh: “Văn-thù -sư -lợi cho đến khiến chúng con được thấy”. Tán: Thứ tư, Văn-thù hỏi hành có ba: Hỏi phước tuệ. Hỏi nhập định nào. Tu theo định nào mới năng thấy. Thỉnh thông lực che chở đến khiến chúng con được thấy, chỉ bày tướng không biết, thật định từ lâu đã biết. Kinh: “Khi ấy Đức Phật Thích-ca cho đến mà hiện bày thân tướng của Bồ-tát đó. Tán: Thứ năm, đức Thích-ca thùyđáp. Kinh: “Tức thời Đức Phật Đa-bảo cho đến muốn thấy thân của ông”. Tán: Thứ sáu, Đa-bảo gọi bảo. Kinh: “Bấy giờ ngài Diệu Âm cho đến chẳng đánh mà tự kêu”. Tán: Thứ bảy, Diệu Âm đến đây có bốn: Số đến. Mới đi qua. Thân tướng. Đến đây. Đây là phần đầu. Kinh: “Mắt của vị Bồ-tát đó cho đến như thân Na la diên bền chắc”. Tán: Thứ ba, thân tướng có tám đức: Mắt trong xanh: Kinh Vô Cấu Xứng nói: Mắt trong xanh do rộng tịnh tu mầu nhiệm đoan nghiêm, sáng như cành lá hoa sen xanh. Diện mạo sáng tròn đẹp. Thân sắc vàng. Trang nghiêm. Oai đức. Quang minh. Tướng đầy đủ. Vững chắc. Kinh: “Ngài vào trong đài bảy báu cho đến núi Kỳ-xà-quật”. Tán: Thứ tư, đến đây. Kinh: “Đến rối xuống đài bảy báu cho đến kham nhẫn ở lâu được chăng”. Tán: Thứ tám, xuống đài lễ bái hỏi có hai: 1. Lễ bái dâng cúng. Thỉnh hỏi. Thỉnh hỏi có bốn: 1.Hỏi thân Phật có năm câu. 2.Hỏi chúng sanh có bảy câu. 3.Hỏi ma tùy hóa có một câu. 4.Hỏi Đa-bảo có hai câu. Hỏi đến và ở lâu. Kinh: “Thế tôn! Nay Con cho đến chỉ bày cho con được thấy”. Tán: Thứ chín, thỉnh thấy Đa-bảo, Đa-bảo. Thích-ca tuy đồng ngồi trên tháp nhưng do thần lực che phủ khiến kia không thấy, cho nên xin được thấy. Kinh: “Lúc đó Đức Phật Thích-ca cho đến nên qua đến cõi này”. Tán: Thứ mười, đức Thích-ca vì thỉnh, thứ mười một, Đa-bảo tán dương. Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Hoa Đức cho đến có sức thần thông như thế”. Tán: Đoạn lớn thứ ba là nói hóa hành có năm: Hoa Đức hỏi nhân. Như-lai bảo đủ. Khen ngợi hỏi tu định. Đức Phật sau đáp. Chúng đương thời được lợi ích. Đây là phần một. Kinh: “Đức Phật bảo ngài Hoa Đức cho đến có sức thần thông như thế”. Tán: Như-lai bảo đủ có năm: Chỉ bày nhân xưa. Hợp quả nay. Từ lâu đã gặp Chư Phật. Rộng thực hành lợi hạnh. Kết đáp lý do. Đây là phần đầu có ba: 1. Phật. 2. Hành. 3. Kết. Kinh: “Hoa Đức! Ý ông nghó sao cho đến đại Bồ-tát này”. Tán: Hợp quả nay. Kinh: “Hoa Đức! Bồ-tát Diệu Âm này cho đến na do tha Đức Phật”. Tán: Từ lâu đã gặp Phật. Kinh: “Hoa Đức! Ông chỉ thấy cho đến không hề tổn giảm”. Tán: Rộng thực hành lợi hạnh có hai: Ở phương này và sau ở mười phương. Phương này có bốn: Nêu hiện thân nói pháp. Riêng hiển hiện thân nói pháp. Kết thành hóa. Trí tuệ không tổn hại. Trong riêng hiển hiện thân nói pháp có hai: 1.Tùy nghi hiện mười tám loại thân nói pháp. 2. Vì cứu khổ nạn hiện thân nói pháp. Kinh: “Vì Bồ-tát này dùng ngần ấy trí tuệ cho đến thị hiện diệt độ”. Tán: Đây tại mười phương hiện thân nói pháp có ba: 1. Đầu nêu ở mười phương lợi ích. 2. Tùy căn ứng nghi hiện thân nói pháp. 3.Kết thành thân nói. Kinh: “Hoa Đức! Diệu Âm cho đến việc đó như thế”. Tán: Kết đáp lý do Kinh: “Hoa Đức! Diệu Âm cho đến vô lượng chúng sanh”. Tán: Khen ngợi hỏi tu định và Phật lại đáp. Kinh: “Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát này cho đến và Đà-la- ni”. Tán: Nêu rõ trong hóa hành. Chúng đương thời được lợi ích. Do nghe hóa hành thâu hoạch lợi thù thắng. Kinh: “Khi ngài Diệu Âm cho đến sắc thân Tam-muội”. Tán: Đoạn thứ ba việc xong trở về nước có ba: 1.Nêu trở về nước. 2. Tướng các nơi đi qua. 3. Đến rồi bạch. Kinh: “Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ-tát cho đến Pháp Hoa Tam- muội”. Tán: Đoạn thứ tư, thời chúng đắc đạo, đều nghe một phẩm liền được lợi ích thù thắng. -------------------- PHẨM QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp các vấn nạn. Vì sao: Luận chép: năng Lực cứu chúng sanh khỏi các nạn chính là Quan Thế Âm. Phẩm Đà-la-ni nói thị hiện, Quán Âm cứu nạn cho các chúng sanh chưa phát tâm khiến họ lìa các khổ phát tâm trì kinh. Đà-la-ni nói cứu nạn cho người đã phát tâm trì kinh, khiến họ lìa khổ trì kinh. Lại Quán Âm dùng mắt trời, thiên nhó, tha tâm thông che chở người trì kinh. Đà-la-ni nói hai Thánh, hai trời, mười thần dùng minh chú hộ vệ người trì kinh. Lại Quán Âm niệm người cứu nạn, Đà-la-ni tụng pháp cứu nạn, lực trì Kinh đã lìa các khổ nạn; nếu không gia tăng dùng phương pháp dễ cứu, sợ khó tu nghiệp trì kinh, cho nên dùng công dễ giúp thành nghiệp khó, do khuyên trì kinh nên có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Quán là quán sát cứu giúp từ bi, Thế nghóa là có khả năng phá hoại, thể tức sanh tử hữu tình thế gian, Âm là âm thanh ngữ nghiệp của hữu tình. Thế gian hữu tình khởi âm thanh để nhớ nghó về. Bồ-tát dùng đại từ bi rũ lòng xem xét thuận theo cứu giúp gọi là Quán Thế Âm, chánh nghóa nên gọi là Quán tự tại. Ba nghiệp qui y thì sáu thông thùyhóa, không bị nguy hại phi luân dẹp trừ, làm người bạn không mời, ứng bệnh cho thuốc, nhiếp lợi khó nghó bàn gọi là Quán tự tại. Bồ-tát như trước nói. Phổ: Là nghóa bình đẳng trùm khắp. Môn: Là lý do nơi chốn ra vào, nơi tam nghiệp qui y ắt lục thông thùy cứu bình đẳng. Đây chỉ bày lý do nơi chốn xuất khổ nhập lạc cho nên gọi là Phổ Môn. Thần thông, ký nói, giáo giới tam luân là nơi chốn lìa khổ, do tạo nhân nhập tịch tịnh là thể Phổ Môn. Nhưng có người khổ nhiều phát ra tiếng để nhớ nghó, đại bi ắt ứng niệm để đến cứu vớt nên gọi là Quán Âm. Phẩm này nói rộng nghóa nên gọi là Phẩm Quán Thế Âm Phổ Môn. Giải đáp các vấn nạn: Hỏi: Bồ-tát đại bi quán thấy khổ liền cứu, vì sao đợi niệm sau mới rủ lòng thương cứu? Đáp: Chúng sanh vô tâm mà Phật cứu, Đại Thánh không thông tự phát ý mà hy vọng duyên, các Thánh đồng phép tắc, trước nhân nơi tự nghiệp mình sau mới nhờ duyên. Tự đã không tu, duyên đâu có tạo tác cho nên phải đợi nhớ nghó mới cứu giúp. Dù có tự tu mà chưa giải phương tiện, cần phải nhờ bạn lành chỉ bày khổ mới diệt. Hỏi: Tất cả Bồ-tát đều có khả năng này, vì sao Quán Âm riêng bao trùm hiệu này ư? Đáp: Bổn nguyện khác nhau việc lợi sai khác, nối dõi Phật Vô lượng thọ sẽ làm Bảo Quang Công Đức Nói Vương Phật, cho nên riêng nêu. Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Vô tận ý Bồ-tát cho đến tên là Quán Thế Âm”. Tán: Phẩm văn chia làm bốn: Hỏi đáp nhân có tên đó. Hỏi đáp hóa hành. Trì Địa khen ngợi. Kết thành thời ích lợi. Hai văn đầu có tụng. Văn đầu có ba: 1. Hỏi nguyên nhân gọi tên. Đáp tự nghóa. 3.So sánh trì danh công đức hơn kém. Đây là phần đầu. Vô tận ý: Kinh A-sai-mạt nói: Hành lục độ tứ nhiếp cho đến các hành thệ độ chúng sanh, cõi chúng sanh tận, Bồ-tát ý mới tận, chúng sanh chưa tận thì Bồ-tát ý cũng không tận cho nên gọi là Vô tận ý. Trong Kinh Thập Địa nói dùng câu mười cùng giới thành các đại nguyện: 1.Nhất thiết cõi chúng sanh tận. 2.Thế cùng giới. 3.Hư không tận. 4.Pháp cùng giới. 5.Niết-bàn cùng giới. 6.Phật ra đời cùng giới. 7. Như-lai trí cùng giới. 8. Tâm sở duyên cùng giới. 9. Phật cảnh trí nhập cùng giới. 1 0.Thế giới xoay bánh xe pháp trí chuyển cùng giới. Lại như cõi chúng sanh tận nguyện ta cũng không tận, như thế cõi chúng sanh không tận, nguyện của ta cũng không tận. Cho đến trí Phật chứng nhập nhất thiết cùng giới, xoay bánh xe pháp trí chuyển các pháp tận, nguyện của ta cũng không tận. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Tuy đắc Phật đạo xoay bánh xe pháp mà không bỏ Bồ-tát đạo đó gọi là Bồ-tát hạnh, cho nên Bồ-tát này hiệu là Vô tận ý. Tuy các Bồ-tát nguyện hành đều đồng, mà các hiệu có sai khác nguyện đều sai khác, muốn nêu rõ kinh này năng khiến hạnh nguyện đều cũng vô tận. Hỏi tên là muốn khiến nương niệm danh hiệu để dứt khổ, hỏi hành là muốn cho tu hành để mong an lạc. Kinh: “Phật bảo ngài Vô tận ý cho đến đều được giải thoát”. Tán: Dưới đáp tự nghóa có ba: Đầu ngữ nghiệp qui y, dùng thiên nhó thông tìm tiếng cứu giúp. Kế là “nếu có chúng sanh năng về dâm dục v.v…” là y nghiệp qui y, dùng tha tâm thông quán tâm cứu giúp. Sau nếu có người nữ muốn cầu con trai v.v… là thân nghiệp qui y, dùng mắt trời thông quán sắc cứu giúp. Văn đầu có ba: Trước nói chung có khổ xưng danh liền thoát khổ. Tiếp riêng hiển có nguy xưng danh đều được thoát; sau kết bảo uy thần cao lớn như vậy. Đây là phần đầu. Tức là ba đường tám nạn tất cả khổ nạn, chỉ như Pháp lâm qui mạng thoát khỏi hình phạt bảy ngày, cứu giúp qui y thoát khỏi hại ba đường. Du- già quyển chín nói nghiệp có hai. 1. Định dị thục nghiệp, nghóa là cố tư nghiệp, hoặc tạo tác hoặc thêm lớn nghiệp. 2. Bất định dị thục nghiệp, nghóa là cố tư duy việc đã làm mà không thêm lớn nghiệp, hoặc không truy hối không tu đối trị còn có thể thọ quả gọi là thêm lớn nghiệp, nếu truy hối cho đến gọi là không thêm lớn nghiệp; hoặc trước thêm lớn nghiệp do truy hối cho đến gọi là không thêm lớn nghiệp. Như Vị Sanh Oán chưa truy hối trước gọi là thêm lớn nghiệp, truy hối rồi sau gọi là không thêm lớn nghiệp. Quyển thứ sáu mươi nói căn cứ người chưa giải thoát kiến lập định thọ nghiệp. Nói giải thoát: Nghóa là thế đạo phục đoạn, cho đến đắc Thánh thành Vô học cho đến tức đồng kinh Niết-bàn chưa nhập Phật pháp gọi là quyết nghiệp, nếu nhập Phật pháp gọi là bất định nghiệp. Đối Pháp quyển thứ bảy nói có năm, cố tư (duy) tạo tác: 1.Người khác dạy bảo. 2.Người khác khuyên thỉnh. 3.Không rõ biết. 4.Căn bản chấp trước nghóa là ba độc che lấp tâm mãnh liệt chấp trước sanh khởi các nghiệp. 5. Điên đảo phân biệt, cho rằng hơn tốt, không có tội hành ác nghiệp. Đối trong năm điều này, hai điều sau hoặc tạo tác hoặc thêm lớn, chẳng phải không thọ dị thục vì tư nặng, ba điều tuy tạo tác mà không thêm lớn, không hẳn thọ dị thục vì tư nhẹ. Đây nói tác: Nghóa là khởi tác các nghiệp khiến cho nó hiện hành. Thêm lớn: Nghóa là khiến tập khí lần chuyển thêm lớn, do đó chỉ nói cố tư nghiệp chỉ có năm. Du-già quyển chín nói: Trừ mười thứ, ngoài ra gọi là cố tư: 1.Mộng. 2.Vô tri. 3.Không cố tư. 4.Không mãnh liệt, không thường. 5.Cuồng loạn. 6.Thất niệm. 7.Không ưa muốn. Tự tánh vô ký. 9. Hối hận đã tổn thương. 10. Đối trị thương tổn. Trừ ngoài mười thứ ngoài ra đều là thêm lớn. Tức Du-già quyển chín chép: Thêm lớn nghiệp có sáu, kia có mười thứ không tăng và sáu thứ thêm lớn, không vượt qua Đối pháp, ba không tăng hai tăng, ly hợp y địa vi phân chia nhiều ít. Đối Pháp lại nói quyết định có ba: 1.Tác nghiệp quyết định, do nghiệp lực đời trước cảm thân quyết định, sanh ở trong đời này ắt tạo nghiệp đây, sớm kỳ hạn quyết định trọn không trái vượt, thần lực của Phật cũng không thể cứu. 2.Thọ dị thục định tức thuận định thọ nghiệp, quả định đương thọ thời chưa định. Nếu không vậy, Đức Phật xuất ứng không có đường ác chúng sanh tạo ác. 3.Phần vị định, nghóa là thuận ba thời phần vị định nghiệp. Nếu nghiệp đạo nhiếp: Thì gọi là thuận định nghiệp, gia hạnh, hậu khởi thông định bất định, lại chưa hối, chưa đối trị v.v… gọi là quyết định nghiệp; đã hối đã đối trị cho đến gọi là bất định nghiệp. Du-già quyển mười nói ba nghiệp: Thuận hiện, thuận sanh, thuận hậu thọ nghiệp. Quyển sáu mươi nói bốn nghiệp: 1.Dị thục định. 2.Thời phần định. 3.Nhị câu định. 4.Nhị câu bất định Duy Thức cũng nói bốn: Nghóa là ba thời và bất định. Luận Hiển Dương quyển chín nói năm loại nghóa là ba thời và thọ báo định, tác nghiệp quyết định, đều như Du- già quyển chín, lược nói sợ rườm rà nên lại thôi. Cho nên niệm Quán Âm, duyên lành thấm nhuần, tự tâm hối thẹn khổ não đều thoát. Cũng có giải thích nói: Kia không thêm lớn và bất định nghiệp có thể được chuyển diệt, kia ba thời quyết định nghiệp và báo định thời bất định chỉ nhẹ bớt chẳng hoàn toàn làm cho dứt hết. Kim Cương Bát-nhã chép: Tội nghiệp đời trước đáng đọa vào đường ác, do trì Kinh nên làm người khinh thường, tội nghiệp đời trước liền bị diệt sẽ đắc Bồ-đề, không nói hoàn toàn diệt. Lại Kinh Hiền Ngu nói: Ương-quật-ma-la tuy đắc A-la- hán, vì hiện nghiệp có quả nên bị lửa đốt đốt. Lại nói thành Ca-tỳ-la trừ một đồng tử, còn lại nam nữ đều đắc sơ quả thánh nhân không nên bị lưu ly sát hại, kia quyết định tạo nghiệp Đức Phật còn không bát bỏ được huống chi thọ quả ư! Tại giải thoát lại gọi là bất định, y bất định nghiệp nói đây cũng không đúng. Nếu đắc A-la-hán tất cả bất thiện tận, nghiệp nào thọ quả ư? Tại sơ quả nhị quả bất thiện chưa tận, không chướng nơi quả kia đâu ngăn ngại cũng thọ! Trong Kinh Bát-nhã không nói diệt hết nêu tâm vi tế, chí thành khẩn thiết thọ trì kinh kia tất cả không thọ. Nếu không vậy thì năm vô gián tội đều quyết định nghiệp. Vị Sanh Oán vương làm sao hối rồi tất cả không thọ chịu. Thập Địa luận chép: 1.Cảm báo định. 2.Tác nghiệp định. Chư Phật uy thần không thể chuyển, nói tự mình không phát sanh hối hận hổ thẹn, không nhập Thánh đạo là nghiệp quả quyết định, không phải hối hận hổ thẹn rồi có thể gọi là định nghiệp. Kinh Pháp Cú nói: “Chẳng phải giữa hư không chẳng phải trong biển, chẳng vào trong núi sâu, không có nơi chốn thoát ra mà không thọ nạn”. Cũng căn cứ người không gặp Phật Bồ-tát cho đến khởi tâm hối hận hổ thẹn mà nhập đạo, tức quyết định nghiệp báo. Do đây, Kinh nghiệp báo sai khác nói: Nếu nghiệp tăng thượng tâm, làm không hổ thẹn, làm rồi, làm nữa, không có tâm cải hối đó là nghiệp quyết định; hoặc nghiệp không phải tâm tăng thượng, tuy tạo ác nghiệp mà lòng thường hổ thẹn đó là nghiệp bất định. Chỉ biết các nghiệp chẳng hối hận, phi đạo làm tổn Phật có thể có thọ lãnh quả bị tổn hại liền không có nghóa thọ quả. Nhưng Kinh nói Chỉ- man cho đến A-la-hán còn thọ nghiệp quả. Khi còn trú trong phàm phu hoặc sơ quả nhị quả, nay thân quyết định đắc A-la-hán từ đó đặt tên, chẳng phải khi thọ quả gọi là A-la-hán. Lại gặp duyên tốt cần phải phát tâm hối lỗi tàm quý nhập Thánh đạo tội nghiệp mới trừ, tuy gặp duyên tốt mà không có tâm hối cải tám quí thì cũng không thể nhập Thánh đạo, cho đến Chư Phật cũng không thể chuyển. Dòng họ Thích ở thành Ca-tỳ-la bị sát hại, tuy đắc sơ quả nhưng biệt báo nghiệp ở sơ quả không thể trừ. Lại chẳng chịu lắng nghe Đại thừa hối hận hổ thẹn thâm tâm khẩn thiết cho nên thọ nghiệp trước. Chỉ nghe qua Đại thừa mà siêng năng tha thiết hối hận thì cũng không bị sát hại, đắc A-la-hán không thọ các khổ, cho dù có bị sát hại cũng chẳng phải nghiệp quả; không vậy thì Chỉ-man giết người cả ngàn chỉ thiếu một người vì sao đắc Thánh quả! Lại nữa nếu không có tâm hối hận hổ thẹn và phục đoạn diệt các tội nghiệp, thì hữu tình bèn không có kỳ hạn được thọ Thánh vị, do đó nên biết nói đầu nói là tốt ứng đồng Niết-bàn Du-già làm chánh. Kinh: “Nếu có người trì danh hiệu cho đến tên là Quán Thế Âm”. Dưới thứ hai riêng hiển có nguy ách xưng danh đều được thoát, có bảy đoạn chia làm hai: Ba đoạn đầu nói thủy, hoả, phong, tam tai, bốn đoạn sau tạp tai. Đây là đoạn đầu, Hỏa tai lớn nhỏ đều có thể tổn thương, niệm danh hiệu Quán Âm thì tất cả không bị đốt, nước sâu mới có thể tổn hại cho nên được ở nơi cạn. Gió nhẹ không tổn, gió nặng mới tổn thương, hắc phong chắc tổn thương người, do đó riêng nói gặp gió, dù chẳng phải hắc phong cũng đâu bị tổn hại! Đoạn nói gió có bốn: 1. Cầu báu gặp gió. 2.Người thiện dạy niệm. 3. Khỏi tai nạn. 4. Kết danh nhân. Kinh: “Nếu lại có người cho đến liền được giải thoát”. Tán: Đây bốn thứ tạp tai: Hình phạt không tổn thương. Phi nhân không hại. Trói buộc được giải thoát. Oán tặc không tổn hại. Trói tay gọi là gông cùm, trói chân gọi là xiềng xích tức là gông cùm nói chung là bị lao tù trói buộc. Luận Trí độ nói: Như gió không vào được, như nước không chảy ngược lên hư không không bị hại, không có nghiệp cũng như vậy. Vì sao vô tội bỗng bị tù đày tai ương. Đây căn cứ hiện tại không làm gọi là vô tội, chẳng phải trước không làm. Làm tụng nhà lửa nói: Người chê bai kinh, hoặc bị người khác phản nghịch đoạt cướp trộm cắp như vậy các tội bao trùm rộng lớn tai ương, do trước chê bai kinh cho nên biết có tội. Trong oán tặc không hại có bốn: 1.Trải qua các nạn xứ. 2. Khuyên niệm danh. 3. Y mạng. 4. Giải thoát. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói Đức Phật bảo Kiên ý có 1 cây Dược Thọ tên là Diệt trừ, khi Đại quân đánh nhau có vô lượng người bị trúng tên độc, lúc ấy thầy thuốc đem cây Dược vương xoa bôi vào mặt trống ở trong chúng đánh phát ra âm thanh làm vô lượng tên độc đồng thời tự mất Chư Phật Bồ-tát trú trong Thủ lăng Nghiêm Tam-muội lực, có người xưng danh nhớ nghó thì vô lượng tội cấu tự nhiên diệt trừ, như một vị đề hồ có khả năng lành các thứ bệnh. Kinh: “Vô tận ý cho đến cao lớn như thế”. Tán: Kết bảo uy thần tướng mạo cao lớn. Kinh: “Nếu có chúng sanh cho đến thường phải một lòng nhớ tưởng”. Tán: Đây ý nghiệp qui y, dùng tha tâm thông quán tâm cứu giúp có hai: Trước nói quán ba ý, sau kết uy thần. Lại nêu ba độc không phải chỉ vậy, tất cả phiền não niệm đều diệt. Kinh: “Nếu có người nữ cho đến danh hiệu Bồ-tát”. Tán: Đây thân nghiệp qui y. Dùng mắt trời thông quán sắc. Cứu giúp, cứu giúp có hai: Trước nói quán hai thân nghiệp, sau kết phước khuyên trì, không phải chỉ từng ấy nghiệp, mà lại theo tình nêu lên. Kinh: “Vô tận ý cho đến phước đức lợi ích như thế”. Tán: So sánh công đức trì danh hơn kém có bốn: Vấn. Đáp. Thành. Kết. Luận này nói so sánh sáu mươi hai hằng hà sa Phật. Kinh đây lại nói sáu mươi hai hằng hà sa Bồ-tát. Đây có hai giải thích: 1. Nói Kinh đúng luận lầm, Bồ-tát đem so sánh, đâu được dùng Phật so sánh với số Bồ-tát? Chỉ như trong kinh Thập Luân chỉ dùng Địa Tạng so sánh với Di-lặc, Văn-thù, Quán Âm, cũng không so sánh với Chư Phật. Nếu không vậy, lẽ ra Đức Phật công đức ít hơn Bồ-tát! 2. Nói y luận cũng không lầm, Quán Âm từ lâu đã thành Phật không xả bỏ Bồ-tát hạnh nên thị hiện làm Bồ-tát, đâu được không sánh với Như-lai ư! Chỉ như Quán Âm thành Phật công đức cõi nước hơn Vô lượng thọ, tất cả Phật thân đâu có hơn kém ư! Cho nên biết chỉ là lời khuyên tín. Tuy Kinh so sánh Bồ-tát, luận giải sánh với Chư Phật cũng không lỗi lầm, cả hai đều không sai. Trong luận giải thành có hai giải thích: 1. Tín lực 2.Rốt ráo biết. Tín lực có hai: 1. Cầu ngã thân như Quán Âm rốt ráo tin nghóa là cầu ngã và sáu mươi hai hằng hà sa Phật thân cùng Quán Âm, tín tâm không sai khác, sư cầu Thánh số nhiều ít dù sai khác, nhưng công đức không sai khác, nhân tâm bình đẳng cho đến. 2.Sanh tâm cung kính, như công đức kia Ta cũng đắc rốt ráo, nghóa là như thân Quán Thế Âm từ lâu đã thành Phật cho nên có trí tuệ công đức, Ta niệm sáu mươi hai hằng hà sa Phật cũng rốt ráo đắc công đức của Chư Phật đây, tin Phật Bồ-tát công đức không sai khác. Hai thứ này là tín lực. Trước là không quán cảnh nhiều ít hơn kém chỉ có tín tâm bình đẳng cho đến sau quán cảnh nhiều ít tuy sai khác nhưng công đức không sai khác, tín tâm cung kính cũng không có hai, cho nên phước không sai khác. Thứ hai rốt ráo biết là quyết định biết pháp giới, đây do Quán Âm đã đắc rốt ráo biết pháp giới cho nên cùng Phật không khác, năng chứng pháp giới bình đẳng không hai, cho nên thành phước bắng nhau cho đến Pháp giới tức pháp tánh nhập Sơ địa Bồ-tát năng chứng thân bình đẳng của tất cả Phật Bồ-tát cho đến Thân bình đẳng: Nghóa là chân như pháp thân, huống chi Thập địa mãn. Cho nên, thọ trì danh Quán Thế Âm cùng sáu mươi hai hằng hà sa Phật công đức không khác, nếu không như vậy thì Bồ-tát đâu có thể hơn Phật ư! Lại đem số Phật tứng ấy để khen ngợi khuyên phát tâm, Kinh Thập Luân quyển một nói: Giả sử đối với các ngài Di- lặc. Diệu Cát Tường - Quán Tự Tại. Phổ Hiền mà làm thượng thủ, hằng hà sa đẳng các đại Bồ-tát ở trong một trăm kiếp dốc lòng qui y xưng danh, niệm tụng lễ bái cúng dường cầu các sở nguyện, không bằng có người chỉ khoảng một niệm dốc lòng qui y xưng danh niệm tụng, lễ bái cúng dường Địa tạng Bồ-tát cầu các sở nguyện, mau được đầy đủ. Lại nữa, như vậy chúng sanh đời mạt pháp có duyên nên nghe, do đó riêng khen ngợi, nếu không như vậy Bồ-tát cũng lẽ ra hơn Phật, các vị Bồ-tát lẽ ra có hơn kém. Kinh: “Vô tận ý cho đến việc đó thế nào”. Tán: Dưới đoạn lớn thứ hai vấn đáp hành hóa có bốn: Vấn. Đáp. Dâng cúng. Kết bảo. Đây là phần đầu. Du là dạo đi tự lợi tức là thần thông; vì nói pháp là giáo hóa lợi tha, lực phương tiện nghóa là hai thứ trên, trí tuệ khéo léo dụng ứng vật tâm để cứu giúp. Kinh: “Phật bảo cho đến mà vì đó nói pháp”. Tán: Đáp có ba: Hóa thân nói pháp. Kết trước khuyên bày. Năng cứu nạn gấp. Đây là phần đầu, hợp mười chín thứ chia làm tám loại ứng thân Thánh có ba, ứng thân trời có sáu, ứng quân thần có năm. Tâm bình, tánh trực, lời nói thật hành đầy đủ, tuổi già tài vật dư thừa gọi là trưởng giả, giữ đạo tự yên, ít dục, chứa đức gọi là cư só, ở địa vị đến gần tột gọi là tể quan. Ứng bốn chúng có một, ứng phụ nữ có một, ứng đồng nam nữ có một, ứng bát bộ có một, ứng thần cầm chày kim cương có một, tay cầm Kim cương Quán Âm khác tượng. Kinh: “Vô tận ý cho đến là vị Thí Vô úy”. Tán: Trong đây có hai: Kết trước khuyến bày. Năng cứu giúp gấp nạn. Thí độ có ba: 1. Tài. 2. Vô úy. 3.Nói pháp. Nói pháp là pháp thí, cứu nạn là vô úy thí, khiến được châu báu là tài thí. Kinh: “Vô tận ý cho đến Tháp Phật Đa-bảo”. Tán: Dâng cúng có bảy: Bạch Phật. Dâng cúng. Quán Âm không nhận. Trình bày bạch thỉnh nhận. Phật dạy khiến nhận. Quán Âm nhận. Chuyển thí cúng dường Ruộng phước khó gặp nên thí thuận đạo lý nên chân chánh hành nên cầu Bồ-đề nên gọi là pháp thí. Không thọ có ba: 1.Thiểu dục. 2.Pháp nhó. 3.Chuyển thí. Sợ trái với tâm kia do đó không nhận. Bài kệ trong Luận Đại Trang Nghiêm chép: Nếu chuyền tay bố thí Tay ấy gọi “Nghiêm thắng” Người nhận co tay lấy Nghiêm thắng lại hơn kia Nếu nói Ta thí cho Lời ấy giá khó lường Người nhận nói ta đủ Khó lường lại hơn kia. Trong kinh Thiên Thỉnh Vấn Đức Phật cũng nói: Người thí gọi là được lợi, người nhận gọi là mất lợi, cho nên Bồ-tát không chịu thọ nhận. Vì thương bốn chúng nên mới thọ nhận: 1.Là khiến tùy hỷ. 2.Là muốn học hạnh cứu khổ nạn nên gọi là Thương. Kinh: “Vô tận ý cho đến thế giới Ta bà”. Tán: Kết bảo. Kinh: “Lúc bấy giờ cho đến gọi là Quán Thế Âm”. Tán: Dưới tụng lại hai nghóa Danh và Hạnh ở Văn xuôi nói. Chia làm hai: một hàng tụng hỏi, hai mươi lăm năm hàng sau tụng đáp. Một hàng đầu, chỉ hỏi nguyên nhân tên gọi gồm đáp hành hóa. Kinh: “Đấng đầy đủ tướng tốt cho đến hay diệt khổ các cõi”. Tán: Dưới Phật bảo chia làm bốn: Ba hàng tụng nói chung hứa nói. Mười hai hàng tụng chánh đáp nguyên nhân tên gọi. Ba hàng tụng đáp hành hóa. Bảy hàng tụng khen ngợi công đức khuyên qui y. Đây là phần một. Chia làm ba: Một hàng tụng tổng đáp ứng các phương, danh hạnh cùng nói, tiếp một hàng tụng bàn luận nhân hạnh xưa, phát nguyện gặp duyên nhiều kiếp tu hành hạnh không thể nghó bàn, sau một hàng tụng trình bày danh hạnh, tai mắt từng nghe thấy, để tâm niệm không lầm lẫn, định năng diệt khổ. Kinh: “Nếu như sanh lòng hại cho đến liền đặng tiêu tan hết”. Tán: Đây mười hai hàng tụng chánh đáp nhân nơi tên gọi chia làm chín: một hàng trừ nạn lửa, một hàng trừ nạn nước, hai hàng trừ nạn núi, hai hàng trừ nạn đao, một hàng trừ nạn giam cầm, một hàng trừ nạn nguyền rủa, là chú thuật vậy. Dùng lời thiện ác chúc nhau gọi là chú, trớ là trở, khiến người hành sự cản trở đối với lời nói có châm biếm, chẳng phải nghóa đây. Như Thầy thuốc giỏi ban đầu động đến người bệnh xem sau khiến cho thuốc lành, cho nên ban đầu bám lấy bổn nhân sau khiến phát sanh ý thù thắng. một hàng là trừ nạn phi nhân hai hàng trừ nạn đường ác. một hàng Trừ nạn thiên tai. Mây kéo sấm nổ, Tây vức gọi là tiếng mây, sét đánh phương đây gọi là âm dương chạm nhau lóe sáng. Kinh: “Chúng sanh bị khổ ách cho đến dần đều khiến dứt hết”. Tán: Đây đáp hạnh hóa. một hàng tụng nói chung trừ khổ, một hàng tụng năng hiện các thân, một hàng tụng biệt chỉ bày trừ khổ. lễ”. Kinh: “Chân quán tanh tịnh quán cho đến cho nên phải đảnh Tán: Đây sau bảy hàng tụng khen ngợi công đức khuyên qui y chia làm sáu, một hàng nêu năm quán khuyên nguyện thường chiêm ngưỡng. Có bản dùng chữ “sẽ” không đúng. Hiện thường nguyện chẳng phải đang mới bắt đầu nguyện; một hàng nêu đại trí năng diệt tai nạn; một hàng nêu pháp thí năng trừ phiền não. Đại bi thế giới tợ như sấm động, nói răn khuyên mới nói giới đầy đủ. Văn xưa dùng chữ răn bảo. Ýù từ che phủ như diệu đại vân. Có bản dùng Từ âm đây là chép lầm. Tiếng phạn gọi là Mai dát lợi mạt na; một hàng tụng vô úy thí năng trừ sự sợ hãi; một hàng nêu tài thí năng trừ nghèo khổ cũng như sóng biển chắc chắn ứng thời năng diệt các khổ. Nhân Kinh khởi niệm đây có năm âm: Diệu âm ban vui, Quán Âm cứu khổ, Phạm âm tịnh sâu, Triều âm ứng thời, Thắng âm ra đời. Hai hàng sau khuyên niệm. Kinh: “Bấy giờ ngài Trì Địa Bồ-tát cho đến công đức không ít”. Tán: Bồ-tát Trì Địa khen ngợi. Kinh Bảo Vân nói Bồ-tát có mười pháp gọi là Trì Địa Tam-muội: Như đất rộng lớn vô lượng vô biên, Bồ-tát cũng vậy công đức trí tuệ trang nghiêm nguyện hạnh vô lượng vô biên. Như đất cho chúng sanh nương ở, đều thuận theo ý muốn hợp xứng ý cung cấp đầy đủ cứu giúp không ngăn ngại, Bồ-tát cũng vậy, lục độ hành đủ thảy đều ban cho tâm không ngăn ngại. Như đất không tốt xấu có báo hơn cũng không vui buồn, Bồ-tát cũng vậy nuôi dưỡng chúng sanh không mong báo đáp. Như đất mây mưa rót khắp thảy đều dung nạp kham nổi tất cả, Bồ-tát cũng vậy, tất cả Chư Phật hưng khởi mây đại bi mưa pháp thấm khắp như các pháp ấy thảy đều thọ trì. Như đất tất cả cỏ cây lùm rừng và cùng chúng sanh đi đứng nằm ngồi thảy đều y đó, Bồ-tát cũng vậy, tất cả chúng sanh tu hành đường lành, Nhị thừa học pháp Niết-bàn đều nhân Bồ-tát mà có. Như đất tất cả hạt giống nương sanh, Bồ-tát cũng vậy tất cả thiện nghiệp hạt giống trời người đều y Bồ-tát mà được lớn lên. Như đất năng xuất tất cả các báu, Bồ-tát cũng vậy công đức thiện bảo tất cả sự an vui đầy đủ đều xuất từ Bồ-tát. Như đất xuất các thuốc hay năng trị các bệnh, Bồ-tát cũng vậy, năng xuất tất cả pháp dược, năng trừ tất cả các bệnh phiền não. Như đất gió nhổi không năng động, ve ong bọ hung không thể làm tổn hại, Bồ-tát cũng vậy, tất cả các duyên trong ngoài bức não không thể nhiễu động. Như đất Sư tử hống rồng voi sấm chớp không thể làm kinh sợ, Bồ-tát cũng vậy, tất cả chín mươi lăm thứ ngoại đạo không thể lay động. Có đủ mười việc này Bồ-tát gọi là Trì địa Tam-muội, đắc Trì địa Tam-muội nên gọi là Trì địa, hoặc tu trì mười địa gọi là trì địa. Nói tự tại: Nhiếp luận, Hoa Nghiêm đều nói mười thứ. Hoa Nghiêm nói: 1.Tuổi thọ tự tại vô biên kiếp trú. 2.Tâm tự tại xuất vô số định nhập thâm trí. 3.Trang nghiêm tự tại năng trang nghiêm tất cả cõi nước, cho nên Nhiếp luận gọi là Chúng cụ tự tại. 4.Nghiệp tự tại tùy thời thọ báo. 5.Sanh tự tại ở trong các cõi thị hiện sanh. 6. Giải thoát tự tại thấy tất cả cõi, Chư Phật đầy đủ nên Nhiếp luận gọi là Thắng giải tự tại. 7. Dục tự tại tùy thời cõi nước thành Bồ-đề. 8.Thần lực tự tại thị hiện tất cả thần biến. 9.Pháp tự tại thị hiện vô lượng vô biên pháp môn. 1 0. Trí tự tại trong mỗi niệm thị hiện giác ngộ Như-lai thần lực vô sở úy, Nhưng cùng Nhiếp luận giải thích có chút ít sai khác, hành lục độ đắc rộng như Nhiếp luận, nay đây tức thần lực tự tại, hiện khắp các môn. Kinh: “Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này cho đến tâm chánh đẳng chánh giác”. Tán: Kết thành lợi ích đường thời. ------------------------- PHẨM ĐÀ LA NI Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp các vấn nạn. Vì sao có phẩm này: Luận nói vì che chở chúng sanh bị các nạn như trước đã giải thích. Giải thích tên phẩm: Tiếng phạm Đà-la-ni Hán dịch là Tổng trì, lấy niệm tuệ làm thể, do tóm lược một số bí mật không có nghóa văn tự, thần lực gia trì uy linh chẳng thể lường dẹp tà trấn ác, dưng chánh dương thiện gọi là Đà-la-ni, phẩm này nêu rõ nghóa này nên gọi tên Phẩm Đà-la-ni. Giải đáp chướng nạn: Hỏi: Tổng trì có bốn: Đắc Pháp. Nghóa, Biện Tài, Từ vô ngại giải, như thứ lớp phối hợp nói bốn. Đây nói gì? Đáp: Trong văn xuôi nói Pháp, Nghóa trì, nay đây chú trì, vì hộ hai pháp trước, do đó nêu rõ, không đắc vô sanh pháp nhẫn tổng trì. Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Dược Vương cho đến công đức rất nhiều”. Tán: Phẩm văn chia làm ba: Nói phước trì Kinh. Nêu phương thần lực. Nêu chúng đương thời được lợi ích. Đây là phần đầu có hai: Trước hỏi sau đáp. Trong đáp có ba: 1. Hỏi ngược. 2. Đáp thẳng. Phật nói. Kinh: “Lúc ấy ngài Dược Vương cho đến được nhiều lợi ích”. Tán: Dưới là nói phương thần chú có năm, hợp làm ba loại: Đầu hai Thánh, tiếp hai Thiên, sau mười Thần. Đây Thánh có bốn: Nêu. Nói. Kết thắng. Phật khen ngợi. Kinh: “Bấy giờ ngài Dũng Thí cho đến xâm hủy các Đức Phật đó rồi”. Tán: Đây hai Thánh có bốn: Nêu. Công đức. Chánh nói. Kết thắng. Kinh: “Bấy giờ Tỳ Sa-môn cho đến không có các điều tai hoạn”. Tán: Nêu hai trời, trong đây văn có ba: Trước nêu, kế nói, sau kết thắng. Tỳ Sa-môn đây gọi Học rộng, là vua ở phương Bắc trong Tứ thiên vương, thường khen ngợi Phật pháp. Kinh: “Bấy giờ Trì Quốc Thiên vương cho đến các Đức Phật đó rồi”. Tán: Văn sau nói Thiên vương, có ba: Trước nêu, tiếp nói, sau kết thắng. Đây tức Đông diện thiên vương. Kinh: “Bấy giờ có những La-sát nữ cho đến pháp sư như thế”. Tán: Đây mười thần, có bảy: Nêu danh. Thỉnh nói. Chánh nói. Khuyên chớ não hại Pháp Sư. Lại nói kệ dụ tội. Thỉnh thân hộ. Phật tán dương, có ba: Tổng khen ngợi. Biệt khen ngợi. Khuyên khen ngợi. Kinh: “Lúc nói phẩm Đà-la-ni này cho đến đắc vô sanh pháp nhẫn”. Tán: Đoạn nói chúng đương thời được lợi ích. ------------------------ PHẨM DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp các vấn nạn. Vì sao có phẩm này có hai: Luận nói công đức thắng lực, phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương thị hiện, đây là nói Tịnh Tạng, Tịnh Nhẫn trì Kinh Pháp Hoa nhân, viên đạo hiển, công đức thắng lực dẫn dắt vua cha hồi tà kiến được thọ ký đương lai thành Phật, đây đều do lực công đức của Kinh Pháp Hoa, nói duyên xưa kia lợi ích thời hội nên có phẩm này. Trước phẩm Diệu Âm nêu rõ Hoa Đức Bồ-tát thưa hỏi Diệu Âm sở đắc Tam-muội, nhân đây tự đắc Pháp Hoa Tam-muội, nay Diệu Trang Nghiêm Vương tức là Hoa Đức, chưa đắc Tam-muội, trở về trước làm Diệu Trang Nghiêm vốn chấp tà kiến. Nay nói hai con khuyên nói vua cha làm thiện tri thức không phân biệt oán thân, để chỉ bày cho mọi người khiến mở mang kinh này, cho nên có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Vua thế tục quý châu báu dùng để tô điểm dung mạo, bỏ tà về chánh, thắng pháp bảo mà làm thể của ngọc cho nên gọi là Diệu Trang Nghiêm vương, do nhân duyên đời trước nên gọi là bổn sự. Giải đáp các vấn nạn: Hỏi: Phẩm này chính là nói Tịnh Tạng Tịnh Nhãn làm thiện tri thức, vì sao không lấy đó đặt tên phẩm? Đáp: Do công đức thì thắng bỏ tà về chánh chính là thân vua Diệu Trang Nghiêm, chẳng phải hai người con, tuy là bạn lành của cha nhờ công đức ấy mà thân nhập chánh, lại trước Hoa Đức tức là Diệu Trang Nghiêm, muốn hợp thân kia nên lấy đặt tên, lại Tịnh tạng Tịnh Nhãn tức Dược vương Dược Thượng, trước đã nêu rõ Dược vương, sợ đề danh lạm nên không nói. Kinh: “Lúc bấy giờ Đức Phật bảo cho đến Kiếp tên Hỷ Kiến”. Tán: Phẩm văn chia làm bốn: Trình bày bổn duyên. Hợp xưa nay. Khuyên người qui lễ. Kết thành chúng lợi ích. Văn đầu lại có bốn: 1. Trình bày thời. 2. Nêu Phật. 3. Nêu Bồ-tát cha con. 4. Nói rộng lên lý do. Đây là hai phần nêu thời và Phật. Kinh: “Trong pháp hội của Phật cho đến hai tên là Tịnh Nhãn”. Tán: Nêu Bồ-tát cha con. Kinh: “hai người con đó cho đến cũng đều thấu suốt”. Tán: Rộng nêu rõ lý do có bốn: Khen ngợi đức của hai con. Nêu thời Phật nói pháp. “Lúc bấy giờ Tịnh Tạng Tịnh Nhãn” cho đến nêu hai con giáo hóa cha. “Vua Diệu Trang Nghiêm liền đem nước giao cho em” cho đến xuất gia thu hoạch lợi ích. Đây là phần đầu, chia làm ba: 1.Nêu thành phước trì. 2.Riêng nêu bốn đức. 3.Nêu bảy định. bốn đức: 1.Lục độ. 2.Phương tiện khéo léo có mười hai: Bi tâm, cố luyến, hiểu biết các hành, ưa diệu trí Phật, thường ở trong sanh tử, luân hồi không nhiễm, tinh tấn mạnh mẽ, sáu thứ này là bên trong. Khiến dùng ít thiện cảm quả vô lượng, khiến dùng chút sức nhiếp đại gốc lành, người ghét Thánh giáo thì trừ nhuế não người, trú ở giữa đó khiến kia hướng vào, đã vào rồi khiến cho thành thục, đã thành thục rồi khiến được giải thoát, sáu thứ này là ngoài. 3.Tứ vô lượng. 4.Ba mươi bảy đạo phẩm. Trong các Tam- muội tịnh là đoạn chướng chứng chân. Nhật tinh tú: là mặt trời rộng lớn phá như các ngôi sao phá tan sự tối tăm, cho nên Tịnh quang là phát ra ánh sáng lớn, Tịnh sắc là hiện các sắc mầu nhiệm, Tịnh Chiếu Minh là chiếu sáng Phật pháp, Trường trang nghiêm là chứng đắc công đức không khô héo, Đại uy đức là khởi thần thông. Lúc ấy Đức Phật kia… nói kinh Pháp Hoa này. Tán: Nói về Phật đương thời nói pháp. Kinh: “Bấy giờ Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn cho đến nên nghe và tin nhận”. Tán: Hai con giáo hóa vua cha có năm: Thưa mẹ đến chỗ Phật. Mẹ sai con giáo hóa cha. Theo lời dạy hành hóa. “Lúc đó nơi hậu cung của vua Diệu Trang nghiêm vương có tám muôn bốn ngàn người” cho đến tín tâm qui y Phật. “Lúc đó Đức Phật kia nói pháp cho vua nghe” Đức Phật ứng dẫn dắt lợi ích. Đây là phần đầu có hai: Nêu và giải thích. Kinh: “Mẹ liền bảo con rằng” cho đến cùng nhau đồng đi”. này”. Tán: Mẹ khiến con giáo hóa cha. Kinh: “Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn cho đến sanh vào nhà tà kiến Tán: Theo lời dạy thực hành giáo hóa có chín: Hai con hận sanh. Mẹ khiến nhớ đến cha. Thuận lời liền hóa. Cha thấy vui mừng hỏi. Hai con đều đáp. Cha trình bày muốn đến. Báo mẹ thỉnh xuất gia. Mẹ liền hứa. Thưa cha mẹ đến chỗ Phật. Đây là phần đầu. Kinh: “Mẹ bảo con rằng cho đến qua đến chỗ Phật”. Tán: Mẹ khiến nghó đến cha. Kinh: “Lúc ấy hai người con cho đến tâm thanh tịnh tin hiểu”. Tán: Thứ ba, là thuận theo lời nói hành giáo hóa. Trước nêu kế giải thích sau là kết. Kinh: “Bấy giờ cha thấy con cho đến con là đệ tử” Tán: Cha thấy vui mừng hỏi và hai con đều đáp. Kinh: “Cha nói với con rằng cho đến xin cho chúng con xuất gia”. Tán: Cha trình bày muốn đến. Thưa mẹ xin xuất gia. Thưa mẹ xin xuất gia có hai: Trước nói cha tín tâm, sau xin mẹ xuất gia. Xuất gia rộng lớn dụ hư không. Như Khế Kinh nói: Chim công tuy có màu sắc tô điểm thân mình không bằng hồng hạc năng bay xa, người tại gia tuy có sức giàu sang mà không bằng công đức xuất gia thù thắng. Kinh Thập Luân nói: Hoa Chiêm bác ca tuy héo còn hơn các hoa tươi tinh kiết, các Tỳ-kheo phá giới hành vi ác còn hơn các ngoại đạo tinh tấn, do đó hai con thỉnh xin mẹ cho xuất gia. Kinh: “Mẹ liền bảo con rằng cho đến thời gặp Phật cũng khó”. Tán: Mẹ liền chấp nhận. Bạch song thân đến chỗ Phật, có ba: Trước nêu thỉnh, kế là giải thích thỉnh, sau kết thỉnh. Kinh: “Lúc đó nơi hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm cho đến ưa mến Phật pháp”. Tán: Phần Trong con giáo hóa cha thứ tư. Tín tâm qui y Phật có ba: Trước nêu đạo khí kham thành, tiếp hai con khéo hóa, sau mọi người đến chỗ Phật. Đây là hai phần đầu. Trong đạo khí thành có bốn: 1.Hậu cung. 2. Tịnh Nhãn. 3. Tịnh Tạng. 4. Phu nhân. Kinh: “Bây giờ, vua Diệu Trang Nghiêm vương cho đến đứng qua một bên”. Tán: Đây mọi người đến chỗ Phật. Kinh: “Lúc đó Đức Phật kia cho đến phát ra ánh sáng”. Tán: Hai con giáo hóa cha và Phật nên dẫn dắt lợi ích có bốn: Phật khéo nói pháp. Vua mở chuỗi chơn châu cúng thí. Vua nghó sắc thân Phật. Đức Phật hỏi thọ ký thành. Đây là hai phần đầu. Kinh: “Bấy giờ vua Diệu Trang Nghiêm cho đến công đức như thế”. Tán: Vua nghó sắc thân Phật và Phật hỏi thọ ký thành. Trong Phật hỏi thọ ký thành, gồm hỏi và thọ ký. Trong thọ ký có sáu: Nhân. Thể. Nước. Kiếp. Chúng. Cõi. Kinh: “Vua Diệu Trang Nghiêm liền đem nước cho đến trang nghiêm Tam-muội”. Tán: Đây rộng nêu lý do, thứ tư xuất gia được lợi ích có sáu: Xuất gia. Tu hành đắc định. Bay lên hư không bạch Phật. Khen ngợi ấn rộng trình bày. Từ hư không xuống tán nguyện. Nói rồi lạy Phật mà ra. Đây là hai phần đầu. Kinh: “Liền bay lên hư không cho đến đến sanh vào nhà con”. Tán: Bay lên hư không bạch Phật có ba: Trước bay lên hư không, tiếp chánh bạch, sau kết khen ngợi. Kinh: “Lúc đó đức Vân lôi Âm vương cho đến được gặp thiện tri thức”. Tán: Khen ngợi ấn rộng trình bày có ba: Trước nêu nhân xưa mới gặp bạn lành, tiếp giải thích nghóa bạn lành lợi ích, sau nêu nhân hai con là bạn lành. Đây là phần đầu. Kinh: “Vị thiện tri thức cho đến tâm chánh đẳng giác”. Tán: Đây giải thích nghóa bạn lành lợi ích có hai: Trước nêu chỉ dạy cho lợi ích vui mừng khiến chứng quả đại Bồ-đề, sau hiển khiến được thấy Phật nhân phát Bồ-đề tâm. Kinh Thiện giới và Bồ-tát Địa nói: Thân gần bạn lành là giới không thiếu khuyết, học rộng tu chứng, ai mẫn, vô úy, kham nhẫn, không lười mỏi, nguyện, ngôn từ biện rõ, gọi là tướng bạn lành, cầu thí lợi lạc ở đây chánh tri, có lực, thiện quyền, nhiêu ích, không xả, đại bi không bè phái, gọi là bạn lành, tạo tác không luống dối, oai nghi viên mãn ngôn hành thuần hậu, không biếng nhác, không ganh ghét, tiết kiệm, tùy xả, can gián, khen ngợi, khiến nhớ, giáo thọ, giáo giới năng vì nói pháp, đó gọi là bạn lành. Có thể làm chổ nương tin, có bệnh không bệnh ái kính, cung cấp, phụng dưỡng, thăm hỏi, nghinh lễ, tu hòa kính nghiệp, bốn việc đầy đủ vật không thiếu, ứng thời, cẩn kính thừa sự vấn hỏi lắng nghe không động gọi là gần gũi. Kinh Niết-bàn chép: Thiện tri thức nghóa là Phật, Bồ-tát, Bích Chi Phật, Thanh-văn trú trong loài người. Kinh Phương Đẳng nói: Vì sao gọi là Thiện tri thức ư? Vì thiện tri thức năng dạy mọi người xa lìa mười ác tu hành mười thiện nên gọi là thiện tri thức. Lại nữa Thiện tri thức như pháp mà nói, như lời nói mà tu hành. Vì sao gọi là như pháp mà nói, như lời nói mà tu hành? Vì tự mình không sát sanh dạy người không sát sanh, cho đến tự hành chánh kiến dạy người hành chánh kiến, nếu có thể như vậy thì được gọi là thiện tri thức. Người thiện nam! Trăng giữa hư không từ đầu tháng ngày một đến ngày mười lăm dần dần thêm lớn, thiện tri thức cũng giống như vậy khiến người học đạo xa dần ác pháp thêm lớn thiện pháp. Theo Kinh Hoa Nghiêm Bồ-tát có mười hạng thiện tri thức. Những gì là mười: 1.Năng khiến an trú tâm Bồ-đề. 2. Năng khiến tu tập gốc lành. 3.Năng khiến rốt ráo các Ba-la-mật. 4.Năng khiến phân biệt giải nói tất cả pháp. 5. Năng khiến an trú thành tựu tất cả chúng sanh. Năng khiến đầy đủ biện tài hỏi năng đáp. 7. Năng khiến không đắm trong tất cả sanh tử. 8.Năng khiến ở trong tất cả kiếp hành Bồ-tát hạnh tâm không biếng nhác. 9. Năng khiến an trú hạnh Phổ Hiền. 1 0.Năng khiến thâm nhập trí Phật. Lại thiện tri thức là cha mẹ lớn lên tất cả gốc lành cho ta, lại là vị thuốc hay cứu trị các bệnh, lại làm mắt sáng dắt đường cho chúng ta, lại làm nhật nguyệt khai chiếu mở đường chánh giác ra đời, cho đến nói rộng. Thiện tri thức ấy phạm hạnh hoàn toàn giáo hóa khiến ta thấy Phật gọi là đại duyên, khiến phát vô thượng đại Bồ-đề tâm gọi là đại nhân, do nhân duyên đây khiến chứng Quả Phật gọi là thành Phật sự. Kinh: “Đại vương! Ông thấy hai người con này chăng cho đến làm cho trú trong chánh kiến”. Tán: Đây nêu rõ nhân hai con làm bạn lành. Kinh: “Vua Diệu Trang Nghiêm cho đến như quả tần bà”. Tán: Từ hư không xuống tán nguyện có hai: Trước khen ngợi năm đức, sau phát sáu nguyện. Đây là phần đầu. Quả tần bà màu sắc đỏ lại ướt nên lấy làm dụ. Kinh: “Bấy giờ vua Diệu Trang Nghiêm vương cho đến chẳng sanh tâm ác”. Tán: Dưới phát sáu nguyện: Trước nêu khen ngợi Phật pháp, sau riêng phát sáu nguyện. Hoặc giáo hoặc giới hành các nơi chốn, thảy đền an ổn, chúng sanh lìa ác mà nhiếp thiện. Kinh: “Vua thưa lời đó rồi lạy Phật mà lui”. Tán: Nói rồi mà lui ra. Kinh: “Phật bảo Đại chúng cho đến Bồ-tát” Tán: Đoạn thứ hai, hợp xưa nay. Kinh: “Dược Vương và Dược Thượng Bồ-tát đây cho đến cũng nên lễ lạy”. Tán: Đoạn thứ ba khuyên người qui lễ, gồm khen ngợi và khuyên. Kinh: “Lúc Phật nói phẩm này cho đến đắc pháp nhãn tịnh”. Tán: Đoạn thứ tư kết thành thắng ích. Đối Pháp Quyển chín chép: Đạo Vô gián năng lìa trần, đạo giải thoát năng lìa cấu, do hai thứ đầy đủ nên gọi là đắc pháp nhãn tịnh chứng sơ quả. ------------------------- PHẨM PHỔ HIỀN BỒ TÁT KHUYẾN PHÁT Phẩm này chia làm ba môn: Vì sao có phẩm này. Giải thích tên phẩm. Giải đáp các vấn nạn. Vì sao có phẩm này: Luận nói sức hộ pháp, phẩm Phổ Hiền và phẩm sau thị hiện. Phẩm Chúc lụy Phật tự ba phen (tam chu) phó chúc hộ pháp. Phẩm này Bồ-tát khuyên phát mọi người hộ pháp nên có phẩm này. Giải thích tên phẩm: Nhân từ tuệ ngộ gọi là Hiền, đức lợi đủ khắp gọi là Phổ, đây do trong chứng nhất chân, ngoài thành tựu muôn đức, do đó đức lợi đầy khắp nhân từ tuệ ngộ nên gọi Phổ Hiền. Lý thú Bát-nhã nói: Tất cả hữu tình đều là Như-lai tạng, Phổ Hiền Bồ-tát biến tự thể, do chứng lý trùm khắp hiền thiện, năng chứng đạo ấy gọi là Phổ Hiền. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói: Phổ Hiền thân tướng nương nơi như như, không nương cõi Phật; hoặc do trong chứng lý hiền phổ biến đây, ngoài hiển ba nghiệp không chỗ nào không hiền, nên gọi là Phổ Hiền. Đây chính là đức tự lợi đặt tên. Dỗ dành, khích lệ gọi là khuyên, dẫn dắt chúng sanh gọi là phát, dạy bảo dẫn dắt khiến tin gọi là khuyên phát. Đây chính là đức lợi tha. Trong phẩm này nêu rõ Phổ Hiền Bồ-tát khuyên phát tín tâm trì kinh nhập đạo cho nên gọi là Phẩm Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát. III. Giải đáp các vấn nạn: Vì sao Phổ Hiền đến khuyên, mà chẳng phải ai khác đến? Đáp: Muốn nêu rõ Tín thuận đạo chứng Nhất thừa ba nghiệp cử chỉ không gì không hiền. Kinh: “Lúc bấy giờ ngài Phổ Hiền cho đến đi quanh bên phải bảy vòng”. Tán: Phẩm văn chia làm sáu: Phổ Hiền đến. Khải bạch nghe kinh. Phật bảo bốn pháp. Phổ Hiền khuyến phát. Phật Thích-ca khen ngợi và khuyên. Chúng đương thời được lợi ích. Đây là phần đầu, có bốn: 1. Từ phương đông đến. 2. Tướng các nơi đi qua. 3. Chúng tùy thuộc theo. 4. Đến rồi qui y đảnh lễ. Kinh Hoa Nghiêm nói: Thân tướng Phổ Hiền nương nơi như như, không nương nơi Phật quốc. Luận Trí độ nói: Mỗi một lỗ chân lông của Bồ-tát Phổ Hiền thường xuất ra thế giới Chư Phật và Bồ-tát trùm khắp mười phương để giáo hóa chúng sanh không dựa vào trú xứ, nay nói từ phương đông đến, là căn cứ một hóa thân ứng cho chúng sanh thấy nghe làm luận. Kinh Bảo Vân nói: Đại Bồ-tát có mười pháp thiện năng biến hóa: 1.Ở nơi 1 cõi Phật thân bất động, mà năng trùm khắp các cõi Phật thỉnh hỏi nói pháp. 2. Ở nơi một cõi Phật bất động năng trùm khắp các cõi Phật nghe nhận lý sâu xa. 3.Ở nơi một cõi Phật bất động năng trùm khắp các cõi Phật cúng dường Chư Phật mười phương. 4. Ở trong một cõi Phật bất động năng trùm khắp các cõi Phật trang nghiêm Bồ-tát thảy đều đầy đủ. 5.Ở trong một cõi Phật bất động mà cúng dường cung kính khen ngợi ở tất cả cõi Phật, khi mới thành Phật ngồi nơi đạo tràng dưới cây Bồ-đề. 6. Ở nơi một cõi Phật bất động năng dùng tự thân hiện tất cả cõi Phật ngồi nơi đạo tràng hiện thành Phật đạo. 7.Ở nơi một cõi Phật bất động năng hiện khắp các cõi Phật xoay bánh xe pháp. 8.Ở nơi một cõi Phật bất động năng hiện tất cả cõi Phật nhập Niết-bàn. 9.Ở nơi một cõi Phật bất động mà năng ứng thọ hóa ở tất cả cõi Phật, thảy đều hiện thân. 1 0.Bồ-tát đắc vô tác thần thông ở nơi tất cả mười phương cõi Phật không tác tưởng biến hóa không tác tưởng thần thông, tùy các chúng sanh thích ứng hiện, thảy đều hiện. Xét thấy ngài Phổ Hiền đây từ lâu đã thành Phật nay thị hiện làm Bồ-tát khuyên tu hạnh mầu. Kinh Vô Cấu Xứng nói: Tuy đắc Phật đạo xoay bánh xe pháp mà không bỏ Bồ-tát đạo đó gọi là Bồ-tát hạnh. Kinh: “Bạch Phật rằng cho đến Kinh Pháp Hoa này”. Tán: Khải bạch nghe kinh, có hai: Trước trình bày ý đến, sau nghi thỉnh. Nghóa là Phật tại thế, pháp còn khó đắc huống chi sau này Phật diệt độ không có chủ làm sao được nghe kinh đắc văn tư tu sanh tín thuận? Lại Phật còn tại thế thì chúng sanh mê hoặc nhẹ, nghiệp mỏng có thể được nghe Kinh này, sau khi Phật diệt độ chúng sanh nghiệp dày hoặc nặng làm sao được nghe Kinh? Do khó tin khó nghe khó tư khó tu. Kinh: “Phật bảo Phổ Hiền cho đến đắc kinh này”. Tán: Phật bảo bốn pháp chia làm ba: Trước nêu, tiếp hiển, sau kết. Bốn pháp là: Chư Phật giữ gìn, nghóa là căn cần thuần thục. Luận Bát-nhã nói: Khéo giữ gìn các Bồ-tát vì các Bồ-tát căn thuần thục, mà nói người căn chưa thuần thục nghe danh còn chưa đắc, căn đã thuần thục nghe liền có thể đắc giáo và lý. Trồng các cội công đức, cần trước phải song tu hai nhân phước tuệ, khởi các căn Tin cho đến mới được nghe kinh cho đến. Nhập chánh định tụ là chánh kiến quyết định. Phát tâm đại bi cứu độ tất cả chúng sanh. Trước là đạo tư lương năng nghe năng tư duy, tiếp là gia hạnh đạo năng tu định quán, tiếp là kiến đạo năng chứng lýsau, sau là tu đạo năng tập năng chứng. Y bốn vị này đều tăng thượng. Lại ngoài gặp Phật hộ, trong tu gốc thiện, quyết định không chê bai, từ bi rộng lớn, tức đều ở Địa tiền mới có thể đắc ngộ giáo lý của Kinh. Nhưng y Du-già chánh định tụ chủ yếu nhập sơ địa, đây nói không như vậy. Kinh: “Lúc đó ngài Phổ Hiền Bồ-tát cho đến trong đời ác trược”. Tán: Phổ Hiền khuyến phát có bốn: Nêu hộ trì. Cho hiện đời lợi ích. “Hoặc chỉ viết chép người ấy mạng chung sẽ sanh lên cõi trời Đao lợi” cho đến là đời sau được lợi ích. “Có công đức lợi ích như vậy” cho đến kết chuyển phát tâm. Đây là phần đầu. Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng phần nói: Sau khi Phật diệt độ cho đến năm trăm năm đầu giải thoát vững chắc, năm trăm năm tiếp thiền định vững chắc, năm trăm năm tiếp học rộng vững chắc, năm trăm năm tiếp tạo tháp chùa cho đến phước đức vững chắc, năm trăm năm tiếp đấu tranh vững chắc. Đây có ba giải thích: 1.Nói nay đang ở thời kỳ pháp một ngàn năm, sau chánh pháp cho nên nói au năm trăm năm. 2. Nói nay đang thời kỳ thứ năm - năm trăm năm, trong đây nói sau năm trăm năm tức sau cùng. Theo hai giải thích trên trước sau có thọ trì Kinh, tuy chẳng phải không có hộ trì, mà trong thời sau người nhiều tệ ác, người tin khó nên cần phải ửng hộ. 3. Nói Thế tôn ký biệt thời phần, mỗi một chủng loại đều năm trăm năm đều gọi là sau khi diệt độ năm trăm năm các thời này Bồ-tát đều gia hộ. Do ủng hộ trong Thập Địa luận nói có ba hộ pháp: 1.Hộ giáo pháp, là viết chép đọc tụng vì người khác nói. 2.Hộ hành pháp là tư duy tu tập trong lúc tu hành có các chướng nạn mà nhiếp thọ cứu hộ. 3. Hộ chứng pháp tam Phật Bồ- đề, nhiếp chứng pháp đây giáo hóa chuyển thọ. Tức nói rõ Bồ-tát thời chánh pháp hộ ba pháp này vì còn có người chứng, thời tượng pháp hộ giáo hành pháp lại không có chứng, sau thời mạt pháp chỉ hộ giáo pháp lại không có hành. Bí yếu của thiền pháp chẳng phải. Đại thừa tông không cần hòa hợp. Kinh Bi Hoa và Chân Đế nói sau khi Như-lai diệt độ sau năm mươi năm, theo lý sợ văn lầm. Có nói nói sau người diệt độ năm mươi năm cho nên không trái nhau. Kinh: “Nếu có người thọ trì cho đến đều chẳng được tiện lợi”. Tán: Cho hiện đời lợi ích có ba: Nêu ba phẩm tu cho lợi ích sai khác. “Nếu Kinh Pháp Hoa lưu hành trong cõi Diêm-phù-đề” cho đến nêu rõ kinh lưu hành ở đời là Phổ Hiền lực. “Nếu có người thọ trì đọc tụng” cho đến là người năng hành cùng hợp với hạnh Phổ Hợp. Trong văn đầu hạng hạ phẩm thọ trì được gia hộ, tiếp “Người đó hoặc đi cho đến” là trung phẩm thọ trì được gia hộ. Sau: “Thế tôn! Nếu đời sau cho đến.” là người thượng phẩm thọ trì được gia hộ. Đây nói hạng hạ phần có hai: Trước nêu tất cả pháp, ác nhân không tiện lợi, sau riêng nói mười hai thứ phi nhân cũng không được tiện lợi. Kinh: “Người đó hoặc đi cho đến Đà-la-ni”. Tán: Hạ trung phẩm thọ trì được gia hộ. Có bốn: Khi đọc kinh được gia hộ. Khi suy nghó kinh được gia hộ. Khi quên khiến cho được nhớ. Cho thấy thân Bồ-tát để tăng tiến. Tăng tiến có ba: 1. Thấy để vui tiến tu. 2. Đắc định. 3. Đắc tổng trì. Pháp âm phương tiện là gia hạnh trí định của nói pháp. Kinh: “Thế tôn cho đến thần thông lực”. Tán: Người thượng phẩm thọ trì được che chở có năm: Dạy quy tắc hai mươi mốt ngày tu đựơc tinh thông. Khiến cho thấy thân Bồ-tát trao cho đạo nghe pháp đắc tổng trì. Người ác không làm tổn hại. Chánh nói thần chú. Kết năng lực mình. Người cầu xin là người cần kinh Pháp Hoa, hoặc phàm là người có mong cầu tốt, có phép tắc cầu, trong ba tuần một lòng siêng năng. Kinh Phổ Hiền Quán nêu hành pháp có năm: 1.Ba tuần liền thấy. 2. Bảy tuần được thấy. 3. Một đời được thấy. 4. Hai đời được thấy. 5. Ba đời được thấy. Trong đây xưa nói thượng phẩm tinh tấn, ba tuần thấy, cho đến phẩm thứ năm tu ba đời mới được thấy. Lại đây bất định. Mới thấy thân chỉ thô sơ có thể một tuần, cho đến ba đời được thấy thân thù thắng. Tu sai khác thời dài mới thấy thù thắng. Tinh tấn: Kinh kia nói sáu pháp: 1.Trang nghiêm đạo tràng. 2.Tẩy thân sạch sẽ. 3.Sáu thời lễ bái. 4. Khải thỉnh lục sư. 5. Ngày đêm đọc tụng kinh điển Đại thừa. 6. Tư duy đạo lý pháp không sâu xa. Khi tác quán liền thấy Phổ Hiền năng diệt trừ trăm muôn ức na do tha A-tăng-kỳ trọng tội sanh tử, chưa thấy văn nói lục sư. Nay tạm giải thích. Lục sư là: Đức Phật Thích-ca làm Hòa-thượng. Văn-thù-sư -lợi làm A-xà-lê. Di-lặc Bồ-tát làm giáo thọ sư, mười phương Phật làm chứng, mười phương Bồ-tát làm đồng pháp lữ, Phổ Hiền Bồ-tát giới chủ sám hối mới có thể sám hối thọ tam tụ giới cho đến Như vậy khải thỉnh mới thấy Phổ Hiền. Kinh: “Nếu Kinh Pháp Hoa cho đến sức uy thần của Phổ Hiền”. Tán: Kinh lưu hành ở đời là lực của Bồ-tát Phổ Hiền. Kinh: “Nếu có người thọ trì cho đến lấy tay xoa đầu. Tán: Người năng hành cùng hợp với hạnh Phổ Hiền cho nên Phật xoa đầu. Kinh: “Nếu chỉ biên chép cho đến vui chơi khóai lạc”. Tán: Đời sau được lợi ích có ba: Hạ phẩm tu sanh cõi Đao Lợi. Trung phẩm tu thọ trì sanh cõi trời Dạ-ma v.v… Thượng phẩm tu ngàn Đức Phật trao tay cho đến đây là phần đầu có ba: Chỉ biên chép nơi sanh. Tướng đón rước. Thân trạng. Sanh bốn tầng trời dưới cũng là hạ phẩm sanh, lược qua không nêu. Kinh: “Huống là thọ trì cho đến đúng như lời dạy tu hành”. Tán: Trong đây phẩm tu thọ trì cho đến sanh trời Dạ Ma và hai cõi trời trên không thấy Phật, văn lược vì không có quả. Kinh: “Nếu có người cho đến mà ở trong đó sanh”. Tán: Đây thượng phẩm tu ngàn Đức Phật trao tay cho đến có bốn: Được ngàn Đức Phật trao tay. Khiến không sợ hãi. Chỗ vãng sanh. Thấy Bồ-tát. Trước nói ba phẩm tu sanh, tạm nêu một tướng mà chẳng phải là cùng tận thật lý, thật lý mười pháp hành mỗi mỗi đều có ba phẩm. Chỉ như trung phẩm đã có thọ trì cho đến giải nghóa, thượng phẩm cũng có tùy theo tự tu tập có thượng hạ. Như lời nói mà tu hành đều có hạ thượng nay chỉ ở trung phẩm nói có, thượng phẩm liền không. Căn cứ một tướng nói mười pháp hành, trên luận Biên trung Biên nói: Tám pháp hành trước là Văn tuệ làm hạ phẩm, thứ chín, là Tu tuệ làm trung phẩm, thứ mười, là Tu tuệ làm thượng phẩm. Trong Văn tuệ: Viết chép, cúng dường, thí cho người, là hạ dễ, lắng nghe, đọc, phương tụng làm trung, thọ trì, khai diễn làm thượng khó. Lại tu pháp hành thứ một, hai, ba là hạ. Thứ hai, bốn, sáu hành là trung. Thứ ba, bảy, tám, chín, mười hành là thượng, tuy có pháp hành giống nhau mà hướng tu đến có khác. Kinh: “Có công đức lợi ích như thế cho đến khiến chẳng đoạn dứt”. Tán: Bồ-tát Phổ Hiền kết khuyên phát tâm có hai: Trước hiển bày thù thắng khuyên hành, sau hộ pháp khiến hành. Kinh: “Lúc bấy giờ đức Thích-ca cho đến danh hiệu Phổ Hiền Bồ-tát”. Tán: Đức Thích-ca tán khuyên có ba: Trước khen Phổ Hiền, kế khen ngợi người trì Kinh, sau đối với các tướng trái thuận của hành giả. Đây là phần đầu có ba: 1.Khen ngợi hộ trợ kinh. 2.Khen ngợi nguyện hạnh. 3.Hộ người trì danh. Khen ngợi nguyện hạnh có ba nhân: Tự lợi. 2. Lợi tha. 3. Khen ngợi người. Kinh: “Phổ Hiền! Nếu có người cho đến lấy y trùm cho”. Tán: Dưới khen ngợi người trì kinh có bốn: Thuận theo Phật thực hành. Lìa các điều ác. Sẽ được ra đời. Nhất Định nhàm chán sanh tử. Đây là phần đầu có sáu: Được thấy Phật biết ba thứ thân lý, trí, hóa. 2.Được tự thân nghe pháp hiểu ý giáo. 3.Vì cúng dường Phật cúng dường pháp. 4.Vì Phật khen ngợi khế hợp bổn tâm Phật tùy hỷ. 5.Được Phật dùng tay xoa dạy bảo và được thọ ký. 6. Được Phật lấy y trùm tức được đầy đủ hổ thẹn nhu hòa nhẫn nhục! cho đến Kinh: “Người như thế cho đến hạnh Phổ Hiền”. Tán: Lìa các điều ác có năm: Nhàm Chán vinh hoa thế gian. Không ưa duyên ác. Tâm khéo điều tịnh. Diệt trừ phiền não. Thiểu dục tu hành. Không ưa ác duyên trong đó có ba: 1. Tà hạnh. 2. Nghiện Ác. 3. Ngoại đạo tay biên chép kỹ nghệ. Tâm khéo điều tịnh có ba: 1.Ngay thẳng. 2.Chánh niệm. 3.Phước đức. Dứt trừ phiền não có ba: 1. Trừ ba độc. 2. Diệt ganh ghét. 3. Bỏ ba mạn. Trong thiểu dục tu hành cũng có ba: 1.Thiểu dục. 2.Tri túc. 3.Tu hạnh Phổ Hiền hạnh. - Kinh: “Phổ Hiền sau khi Như-lai diệt độ cho đến trên pháp tòa”. Tán: Sẽ được ra đời có năm: Hướng đạo tràng. Phá chúng ma. Đăng chánh giác. Xoay bánh xe pháp. Lên pháp tòa. Kinh: “Phổ Hiền! Nếu ở đời sau cho đến được phước báo đó”. Tán: Định nhàm chán sanh tử có hai: Không tham vật dụng nuôi sống. Được hiện quả báo. Kinh: “Nếu có người cho đến quả báo hiện tại”. Tán: Trong phần nói đức Thích-ca khuyên khen ngợi. Đây đoạn thứ ba, đối với tướng thuận nghịch của hành giả có năm, trong đây có hai: Người hủy không có mắt do hủy pháp nhãn tịnh. Người khen ngợi hiện tại thọ báo ruộng tâm đều thù thắng. Kinh: “Nếu lại thấy người thọ trì cho đến phải như kính Phật”. Tán: Trong đây có hai: Nói lỗi người mắc bệnh bạch lại. Khinh cười mắc tội. Khuyên sanh tâm cung kính. Khinh cười mắc tội có mười bệnh, như văn có thể biết. Liệu lệ là cong quẹo cho đến. đi”. Kinh: “Lúc Phật nói phẩm Phổ Hiền Bồ-tát cho đến làm lễ mà Tán: Chúng đương thời được lợi ích có hai: Trước được lợi ích, sau vâng hành. Nguyên nhân luận bàn giao tiếp khiến dần thông suốt vượt lên, đạo tục khóa hư mệnh khiến giảng giải kinh điển này không thể tu các nghóa, liền tự biên tập văn mới, sớm chế tác chiều luận bàn cuối cùng sớ đã xong. Than ôi người ít học hiểu biết nông cạn lý mà ghi chép các lời nói. Kinh điển nghóa lý sâu xa vụng thành sáng tỏ, lo sợ y nơi thành giáo nhanh nhẹn phân biệt nơi huyền tông còn sợ ý chỉ sai lầm lời nói sơ xuất, đâu uổng chịu viện cứ làm dẫn chứng. Kinh này chính đáng làm quan trọng, ai lại không khen ngợi văn nghóa u mầu, đã không thể lặng lẽ như vô vi, tạm nương theo dụng trình bày phân biệt, quân tử thông đạt may mắn vì tôi nói lược, vẫn làm kệ tụng: Đã chọn các kinh làm hạnh lý Lược khen Nhất thừa chân pháp nghóa Nói rộng khế thật thí chúng sanh Nguyện cùng mau thành quả vô thượng. Tháng 9 niên hiệu điều lộ năm thứ hai, ở chùa Đại Từ Ân ở Tây Kinh dịch Kinh viện trí luận Sư phòng, viết chép lạc hậu, rộng suy cứu trình bày việc thường xưa cũ, thế lúc ý chí cao quí của Đại vương, khen ngợi nét đẹp của tiểu vương, tại sách số đã định vẫn không ở tâm phân biệt, trong khoảng thời gian đó bỗng nhiên biến hóa, thần tuy mất mà phong cách vẫn còn, thường giảng giải sơ cấp luôn lo nghó nhớ tưởng, xin nguyện nương phước thiện ba hội sơ đăng, nhờ đây huân tu mới chứng nhập thượng phẩm trong biển chân như rộng lớn, dạo thuyền Bát- nhã dứt bị khổ hữu tình được trí vui Niết-bàn, cùng vô cùng cùng giới vô tận sanh, đều diệt nhân khổ đều đăng quả lạc. Ngày 11 tháng 7 năm Đinh Mão thuộc Niên hiệu Bảo An Năm thứ ba đã khắc chép xong. Tăng Giác Ấn ở chùa Pháp Long. Nguyện xin viết chép Kinh Pháp Hoa Giải thích Đại thừa từ ân ký Đại Sư cha mẹ đến bảy đời Cho đến pháp giới mau thành Phật. Ngày 11 tháng 2 năm Bính Tuất Thiên thừa nguyên niêm nhiếp kiến. Bắt đầu từ cuối tháng giêng năm ngoái ở chùa Dược Sư thiện minh phòng đắc nghiệp rồi ví lợi ích vãng sanh tịnh độ. Ngày 13 tháng chạp Niên hiệu Bảo An năm thứ ba ở chùa Hưng Phước viên như Phòng kiểm duyệt xong, vì muốn pháp trú thế lâu dài lợi ích hàng trời người. Ngày 12 tháng 7 Niên hiệu Đại chánh thứ mười lăm, đối chiếu Giác Ấn năm Sư kiểm duyệt bổn thêm một phen giao rồi, ngày nay đã giảng xong phẩm Tuổi thọ. Hạ an cứ giảng ba kinh, cuốn phần học ở chùa Pháp Long để mong nối nghiệp cho con cháu.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 122